Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên

Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 70: A cữu



Thi thể của Tiêu Thừa Sách được đưa về Lan Lăng, Tiêu gia chọn ngày lành tháng tốt để hạ táng.

Thái hoàng thái hậu vì muốn an ủi con gái duy nhất, đã thỉnh cầu Tống Hành ban thêm thực ấp cho hoàng cô Đại trưởng công chúa Tống Vi Lan, đồng thời thăng chức cho thứ tử của nàng, Tiêu Thừa Cảnh, thành quan tứ phẩm ở kinh thành.

Tống Hành thuở nhỏ từng được vị hoàng cô này che chở, giữa hai người vốn có chút tình thân. Lại thêm Thái hoàng thái hậu nhiều ngày qua vì chuyện này mà phiền muộn, hắn bất đắc dĩ phải đồng ý. Tuy nhiên, vì Tiêu Thừa Cảnh tư chất tầm thường nên chỉ được ban một chức quan nhàn tản.

Tống Vi Lan chỉ còn duy nhất người con trai này, không dám mơ ước xa vời. Nàng chỉ mong con mình có thể bình an sống đến cuối đời. Một chức quan tứ phẩm an nhàn, vừa có không ít bổng lộc, vừa tránh xa vòng xoáy quyền lực, đủ để bảo toàn cho hắn, sao nàng có thể không hài lòng?

Tiêu Thừa Cảnh từ Lan Lăng lên đường đến Lạc Dương nhậm chức. Tống Vi Lan nhận được ý chỉ của Thái hoàng thái hậu, theo hắn cùng đến Lạc Dương, tạm thời trú tại cung của Thái hoàng thái hậu.

Tình hình chiến sự ở tiền tuyến ngày càng căng thẳng, Tống Hành không có tâm tư để ý đến những chuyện khác. Ngay cả yến tiệc tiếp đón cũng bỏ qua, chỉ gặp Tống Vi Lan và Tiêu Thừa Cảnh mỗi một lần tại cung Thái hoàng thái hậu.

Đêm ấy, hai mẹ con họ nhắc đến Tiêu Thừa Sách, không khỏi đau đớn khôn cùng, khóc đến nước mắt giàn giụa.

Giờ khắc này, họ dường như không phải là Thái hoàng thái hậu và Đại trưởng công chúa cao quý, mà chỉ là người bà, người mẹ mất đi người cháu, người con của mình.

Sơ Vũ nhìn cảnh tượng này, mắt cũng đỏ hoe. Nàng kìm nén nước mắt, cẩn thận mang khăn đến cho hai người lau mặt, nhẫn nại khuyên nhủ hồi lâu. Mãi đến lúc ấy, họ mới ngừng khóc.

Gần đây, ngoài nỗi lo vì chiến sự và thiên tai, trong lòng Tống Hành bỗng dâng lên một dự cảm không mấy rõ ràng, những cảm xúc khó tả đó khiến hắn ăn không ngon, ngủ không yên. Chỉ khi được gặp được nàng, giai nhân hắn luôn đặt nơi đầu trái tim, hắn mới cảm thấy nhẹ nhõm phần nào.

Thế nhưng, từ đầu xuân đến nay, nàng không chỉ cố ý tránh hắn mỗi ngày mà còn không thèm nói chuyện với hắn. Dù là trên giường, hắn hành xử khép nép, trăm phương ngàn kế lấy lòng, nàng vẫn chẳng dành cho hắn sắc mặt cùng nụ cười dễ coi.

Nàng vốn là người dịu dàng, tính tình mềm mại, nhưng nếu bị hắn ép quá, nàng cũng sẽ tức giận, đấm thình thịch vào ngực, vào vai hắn, mở miệng mắng hắn không phải người.

Tống Hành lại vô cùng thích bộ dạng nàng như vậy, khi không còn là tảng đá vô tri trước mặt hắn. Mỗi lần như thế, hắn đều mặt dày đưa mặt lại gần, để nàng đánh vào mặt cũng không sao, chỉ cần nàng chú ý nhẹ tay, đừng để ai nhận ra là được.

Nếu có người để ý, chắc hẳn họ sẽ nhận thấy rằng, tuy mỗi ngày Dương Thượng nghi đều bận rộn công vụ nhưng phần lớn thời gian vẫn giữ được tâm trạng khá tốt. Thân hình vốn gầy guộc của nàng giờ đã có phần đầy đặn hơn, khuôn mặt cũng tròn trịa hẳn ra.

Ngược lại, vị Thánh thượng cường tráng khôi ngô, có lẽ vì lao tâm quốc sự, thường xuyên cau mày trước mặt quần thần, thân hình dường như gầy đi vài phần.

Mãi đến khi sứ giả nước Ngụy đến cầu hòa, hàng chân mày của Tống Hành mới tạm giãn ra, tiếp sứ giả nước Ngụy tại Minh Đường.

Vị Võ An hầu Thẩm Kính An, người đã công phá hai trấn Trấn Hải và Tuyên Hấp, một tướng tài thành danh khá muộn, cũng là người hắn rất muốn gặp. Hắn bèn đặt điều kiện gặp người này để đồng ý hòa đàm.

Sứ giả lập tức phi ngựa hồi báo về Biện Châu.

Ngay đêm hôm đó, Giang Tiều triệu Thẩm Kính An vào cung.

Đã hơn năm mươi tuổi mới có được một vị tướng kiệt xuất như vậy, nếu lần này y gặp bất trắc, Giang Tiều biết đi đâu để tìm một người thay thế y nữa đây?

Thẩm Kính An nhìn ra vẻ khó xử của Giang Tiều, liền mở lời trước: “Thánh thượng có điều gì xin cứ nói thẳng.”

Giang Tiều nghe vậy, hàng mày đang nhíu lại càng siết chặt hơn: “Tống Hành muốn khanh đến Lạc Dương hòa đàm.”

Lạc Dương. Đúng lúc y cũng dự định đến nơi ấy, vừa hay nhân cơ hội đưa Nhị nương sớm trở về nước Ngụy, để y có thể bảo vệ nàng chu toàn.

Thẩm Kính An đoán được Giang Triều e ngại điều gì, lập tức ôm quyền trần tình:

“Thánh thượng không cần lo lắng cho thần. Cổ nhân có câu: “Lưỡng quốc giao binh bất trảm lai sứ”. Cho dù quốc quân nước Triệu có hận thần vì đã lấy mạng Tiêu Thừa Sách, phế đi một cánh tay của Tiết Phụng, thì cũng chỉ có thể đường đường chính chính lấy mạng thần trên chiến trường. Chẳng nhẽ hắn lại hạ mình thực hiện những hành động ti tiện ngay trong địa giới nước Triệu?”

Dứt lời, Giang Tiều vẫn còn do dự. Ông ta từng có giao tình sâu đậm với Tống Lâm, nhưng lại không mấy quen thuộc với tính cách của con trai ông ta, vị quốc quân hiện tại. Nếu người đang tại vị là Tống Lâm, ông ta sẽ không ngần ngại phái Thẩm Kính An đi hòa đàm. Nhưng với một Tống Hành có tiếng là ngoan độc, nhẫn tâm, ông ta khó mà yên lòng được.

Thẩm Kính An nhìn thấy trên mặt ông ta vẫn còn nét lưỡng lự và kiêng dè, nhưng cuối cùng vẫn quỳ gối xuống, chân thành nói: “Vị quốc quân nước Triệu kia tuy thủ đoạn tàn nhẫn, nhưng cũng không phải hạng tiểu nhân đê hèn. Dân chúng Bắc địa đã hết lòng ủng hộ phụ tử bọn họ, trong tay hắn cũng có không ít lương tướng trung thành quy thuận, hẳn là phẩm tính cũng có chỗ tương đồng. Thánh thượng cứ an tâm, thần đi chuyến này nhất định không phụ sự ủy thác, mang theo hòa ước trở về Biện Châu bình an vô sự.”

Giang Tiều thấy y đã quyết ý ra đi, cuối cùng cũng hạ quyết tâm, cúi người đỡ y đứng dậy, cao giọng nói:

“Tri Dật chưa bao giờ khiến trẫm thất vọng, trẫm tự nhiên tin tưởng khanh. Chỉ là, ngoại nhân đều nói tiểu tử Tống Hành lòng dạ thâm sâu, không giống như phụ thân hắn, hào sảng cương trực. Chuyến đi này, khanh nhất định phải thật cẩn thận.”

Thẩm Kính An lại dập đầu cảm tạ ba lần, lúc này mới chịu đứng lên.

Ngoài cửa sổ, ánh trăng đã lên đến đỉnh trời, còn chưa đến giờ cài then đóng cửa. Giang Tiều liền gọi y ngồi xuống, tự tay rót một chén trà, lại hỏi thăm về đứa cháu gái lưu lạc bên ngoài của y.

Chuyện đưa người từ cung Triệu quốc về hẳn nhiên không thể giấu giếm. Nếu giờ vì chỉ vì tránh nghi ngờ mà che đậy, sau này có lời đồn không hay, ngược lại khó bề biện giải, chỉ làm mối quan hệ quân thần thêm xa cách.

Nghĩ vậy, Thẩm Kính An đặt chén trà xuống, nói thật: “Thần thay mặt cháu gái Nhị nương của thần cảm tạ Thánh thượng đã quan tâm. Thú thật với Thánh thượng, cháu gái thần hiện đang làm nữ quan trong cung Triệu quốc. Chuyến này thần cũng muốn đón nàng về Ngụy quốc. Nếu Thánh thượng không yên tâm, thần có thể an trí nàng nơi khác, không để nàng ở lại phủ của thần.”

Giang Tiều nghe vậy, có ý ban ơn để hắn một lòng trung thành với Ngụy quốc, bèn nói: “Cháu gái khanh lưu lạc bên ngoài bao năm, hẳn chịu không ít khổ sở. Trẫm sao nhẫn tâm để các khanh chia cắt thân nhân? Nếu Tri Dật tin tưởng nàng, tất nhiên có thể để nàng ở lại phủ chăm sóc.”

Thẩm Kính An vừa nghe xong, lập tức lại muốn quỳ xuống tạ ơn, nhưng Giang Tiều nhanh chóng khoát tay ngăn lại, ra hiệu không cần đa lễ. Sau khi cùng y uống trà, trò chuyện đôi câu, ông ta mới sai nội thị tiễn Thẩm Kính An xuất cung.

Thẩm Kính An ra khỏi hoàng cung, lên ngựa trở về phủ.

Gió xuân về đêm mát lành sảng khoái, Thẩm Kính An thuận tay mở cửa sổ, lấy ra miếng đệm đầu gối do chính tay Lý Lệnh Nghi may, nhìn về hướng núi Kính Đình, ôm chiếc đệm trong tay, v**t v* hết lần này đến lần khác.

Không hiểu sao, lòng y bỗng bình yên lạ thường. Thậm chí y có một linh cảm rằng, chuyến này trở về từ Triệu quốc, chẳng bao lâu nữa y sẽ gặp được nàng.

Tối đó thu xếp hành trang xong xuôi, sáng sớm hôm sau, trong buổi thiết triều, Giang Tiều ban cho Thẩm Kính An một ngàn tinh binh tháp tùng, hẹn giờ Thìn ngày kế tiếp sẽ cùng khởi hành từ Biện Châu, lên đường đến Lạc Dương bàn chuyện hòa đàm.

Ba ngày sau khi Thẩm Kính An xuất phát, Tống Hành nhận được một phong mật báo.

Mọi thông tin về cuộc đời của Thẩm Kính An, dù nhỏ nhặt đến đâu, đều bị ẩn sĩ đào bới đến tận gốc rễ. So với con đường công danh của hắn, Tống Hành lại quan tâm hơn đến quãng thời gian Thẩm Kính An sống tại Tấn Châu.

Không ngờ, hắn lại chính là cậu của Dương Sở Âm.

Hai người họ tuy không có quan hệ máu mủ, nhưng tình cảm giữa hắn và mẫu thân nàng lại thân thiết như chị em ruột thịt cùng mẹ sinh ra.

Tống Hành không sao dùng lời để diễn tả tâm trạng của mình lúc này.

Bên tai hắn dường như lại vang vọng những lời cay nghiệt mà nàng thốt ra ngày hôm đó: Anh trai nàng từng cứu em trai hắn, còn hắn thì lấy oán trả ân, lại còn cưỡng đoạt nàng.

Còn giờ thì a cữu nàng lại đoạt mạng trưởng tử của hoàng cô hắn…

Đây có tính là báo ứng không?

Tống Hành lặng lẽ đốt tờ thư ấy trên giá nến, vị trí hai bên thái dương bắt đầu co giật.

Nếu nàng biết chuyện này, nhớ lại trên đời mình còn có một người cậu, liệu nàng có bất chấp tất cả mà rời bỏ hắn, rời xa nơi này?

Cơn đau ở trán ngày càng lan rộng. Tống Hành khép mắt đầy thống khổ.

Đây là hoàng thành nước Triệu. Chỉ cần hắn không thả nàng đi, cả đời nàng đừng mong bước ra khỏi thành Tử Vi dù chỉ nửa bước. Hắn thực sự không cần phải lo lắng đến vậy. Nhưng, hắn lại chẳng khống chế được bản thân, không thể ngừng nghĩ đến điều này.

Trên đời này, ngoài nàng ra, không còn ai có thể xoa dịu nỗi đau cùng cảm xúc hỗn loạn trong lòng hắn lúc này.

Cục Thượng nghi.

Thi Yến Vi dùng xong bữa tối, mang một ít công việc còn dang dở trở về phòng xử lý.

Ngòi bút trong tay không ngừng di chuyển, bỗng nghe ngoài bậu cửa sổ truyền đến tiếng mèo kêu.

Nghe tiếng ấy, nàng liền nhận ra đó là con mèo mướp lông vàng hôm nọ.

Nàng liền đặt cây bút lông sói xuống, lấy ra mấy miếng cá khô đã nhờ người ở ngự thiện phòng làm riêng, nhoẻn cười bước ra ngoài.

Dưới ánh trăng, bóng dáng một người một mèo đổ dài trên nền đất.

Thi Yến Vi v**t v* bộ lông mềm mại của nó, rồi khẽ gãi gãi vùng đầu và phần lông mềm nơi cổ. Con mèo sau khi ăn no liền ở lại lâu hơn thường lệ, để nàng thỏa thích vỗ về.

Phía sau, từ lúc nào đã xuất hiện một bóng người cao lớn. Thi Yến Vi hoàn toàn không hay biết, đợi đến lúc con mèo mướp rời đi, nàng quay người định về, lúc này mới bắt gặp hắn.

Ý cười trên mặt lập tức đông cứng chỉ trong nháy mắt. Thi Yến Vi làm như không thấy, đi thẳng vào phòng.

Tống Hành theo sau nàng bước vào, còn chưa kịp khép cửa, hắn đã nôn nóng ôm chầm lấy nàng từ đằng sau.

Thi Yến Vi vốn cho rằng hắn tìm đến là để phát tiết, tự biết chống cự cũng vô ích, nên chẳng buồn phản kháng, chỉ xem bản thân như một khối gỗ, giọng điệu lạnh lùng: “Thánh thượng làm nhanh cho xong, thần còn công vụ còn chưa xử lý hết.”

“Âm Nương, chỉ cần kỳ hạn năm năm chưa trọn, nàng sẽ không rời khỏi trẫm, đúng không?”

Thi Yến Vi không hiểu tại sao hắn đột nhiên hỏi như vậy. Dù nàng muốn rời đi, nhưng đất dưới chân này chẳng phải vẫn là đất của vương triều hay sao? Không có sự cho phép của hắn, nàng làm sao thoát ra được?

Có lẽ hắn lại phát điên, thay đổi cách thăm dò ý nghĩ chân thật trong lòng nàng. Nàng đành phải tùy tiện đối đáp cho qua, miễn cưỡng thốt ra hai chữ: “Sẽ không.”

“Trẫm đã biết Âm Nương nhất định là người giữ lời, không nỡ đối xử tàn nhẫn với trẫm như thế.” Từng lời của Tống Hành như lời tự nhủ, vừa nói vừa xoay người nàng lại, bế bổng nàng lên, nâng nàng ngang tầm rồi cúi xuống, chiếm lấy phiến môi mềm mại, đỏ như chu sa.

Suốt bốn tháng qua, hắn chịu khó học hỏi, tham khảo không ít sách vở tạp thư, không còn giống như trước đây, chỉ biết dùng sức mà chẳng quan tâm đến cảm nhận của nàng. Giờ đây, hắn làm mọi thứ bài bản hơn, hiếm khi khiến nàng bộc lộ vẻ đau đớn.

Nếu hắn có thể khiến nàng thỏa mãn, thỉnh thoảng nàng cũng sẽ mở lòng từ bi, thưởng cho hắn vài tiếng ngâm khẽ.

Tống Hành đặt nàng lên bàn, rời khỏi đôi môi nàng, rồi cúi người xuống. Sự khô rát trong miệng hắn dịu lại, cơn đau đầu cũng dần thuyên giảm.

Không biết tự lúc nào, cả hai đã nằm trên giường La Hán. Tống Hành ôm lấy nàng, hỏi: “Nếu nàng thích con mèo đó, sao không giữ nó ở viện của mình, như vậy sẽ được gặp nó thường xuyên hơn?”

Đôi mắt Thi Yến Vi phủ một màn sương mờ, hơi thở ngắt quãng, đáp lời từng chút một: “Nó quen tự do ngoài kia rồi. Nếu thực sự muốn ở lại đây, nó tự khắc sẽ không rời đi. Nó không chịu ở, tức là nó không muốn. Ta mà ép buộc, dù lấy danh nghĩa vì nó, cũng chỉ là mặc kệ ý nguyện của nó, thế thì khác nào nhốt nó vào một cái lồng lớn hơn.”

Tống Hành thừa hiểu ý tứ trong lời nói của nàng. Hôm nay nàng chịu nói với hắn nhiều như thế, chẳng qua là mượn chuyện mèo để bóng gió, chỉ trích hành động của hắn mà thôi.

“Âm Nương, trẫm thật lòng thích nàng. Chỉ cần nàng muốn, trẫm có thể lập nàng…”

Nhưng chưa đợi hắn nói hết, Thi Yến Vi đã dứt khoát ngắt lời: “Ta không muốn. Mong Thánh thượng đừng quên giao ước giữa hai ta.”

Hắn cố gắng níu giữ, nhưng thứ muốn giữ lại lại không cách nào giữ được. Ngay nơi lồng ngực, vết sẹo nàng để lại bỗng trở nên ngứa ngáy, đau rát. Tống Hành đặt tay nàng lên vết sẹo ấy, siết chặt eo nàng, nói khẽ: “Được, trẫm giữ lời. Trẫm sẽ không hỏi nữa.”

Bàn tay nàng cảm nhận được từng nhịp tim hắn, bình ổn, vững vàng. Thi Yến Vi thấy phiền, muốn rút tay lại, nhưng Tống Hành cố chấp không cho, còn dùng một tay áp chặt bàn tay mềm mại của nàng, ánh mắt lộ rõ vẻ cầu xin.

“Âm Nương, tin trẫm lần này được không? Trẫm sẽ thay đổi vì nàng. Trẫm sẽ không thua kém Trần Nhượng, mọi điều nàng muốn, trẫm đều sẽ dâng lên bằng cả hai tay.”

Nhịp tim hắn không hề tăng lên, chứng tỏ hắn không hề nói dối. Nhưng điều nàng muốn không phải kỳ trân dị bảo, cũng chẳng phải quyền thế hay danh lợi, mà là tự do, vừa vặn lại thứ hắn không thể cho nàng.

Thi Yến Vi đờ đẫn để hắn giữ tay mình, không đáp một lời.

Khoảnh khắc đó, nàng thoáng thấy trong ánh mắt Tống Hành là vẻ thống thiết, bi thương.

Chỉ là thoáng qua rất nhanh, nhưng nàng biết mình không nhìn nhầm.

Biểu cảm ấy, trước đây nàng từng có vô số lần. Hắn cũng từng thấy, nhưng lại chọn cách ngó lơ, vì thế, điều nàng đáp lại hắn cũng chỉ là sự phớt lờ.

Tống Hành suy nghĩ rối bời, tâm sự nặng nề, nhất thời lơ đãng, phản ứng chậm mất nửa nhịp.

Thi Yến Vi dường như cũng không nhận ra, chỉ đẩy vai hắn, giục hắn mau rời đi.

Tống Hành mặt dày quấn lấy nàng, lại vòng tay ôm lấy lưng nàng, dò hỏi: “Âm Nương, ngày mai không cần thượng triều, trẫm ở lại đây canh giấc cho nàng có được không?”

Thi Yến Vi dần mất kiên nhẫn, đưa tay vỗ nhẹ lên mặt hắn, nuốt lại lời muốn đuổi cổ hắn đi, chỉ nói: “Thánh thượng nếu còn muốn có lần sau, thì tốt nhất đừng nói thêm gì nữa.”

Nói xong, nàng bày ra vẻ ghét bỏ kéo tay áo hắn ra, đứng dậy rời khỏi người hắn.

Tống Hành muốn nói lại thôi, sợ làm nàng phật ý. Mấy ngày nay, khó khăn lắm mới khiến nàng chịu nói nhiều hơn với hắn một chút. Nếu lần sau nàng lại không thèm đoái hoài gì đến hắn, chẳng phải bao công sức đều sẽ đổ sông đổ biển hay sao?

Nghĩ vậy, Tống Hành đành nén lại cơn bực còn chưa kịp bùng phát, quay về điện Triều Nguyên đi thẳng vào phòng tắm, ngâm mình trong nước lạnh, tự tìm cách giải tỏa.

Mấy ngày sau, sứ đoàn nước Ngụy đặt chân đến Lạc Dương.

Lưu Thượng cung vốn có ấn tượng tốt về Thi Yến Vi, nhận xét nàng vừa chịu khó vừa chu đáo, nên việc tiếp đãi sứ đoàn vẫn giao cho nàng cùng Dao Tư tán đồng phụ trách, thêm Dư Tư khách hỗ trợ quản lý và đối chiếu thông tin quan khách.

Hôm sau, dạ yến được tổ chức tại điện Cam Lộ trong cung Thượng Dương.

Cuộc hòa đàm diễn ra khá suôn sẻ. Ước chừng thêm một, hai ngày nữa là hiệp ước có thể ký kết, sơ bộ đề ra là hai bên đình chiến mười năm, mở rộng giao thương.

Thẩm Kính An tự biết công tư không thể lẫn lộn, vì vậy tại Minh Đường, y không nhắc đến Nhị nương trước mặt Tống Hành.

Tuy nhiên, yến tiệc đêm nay không bàn chính sự, lại có quan viên hai nước làm chứng, đây hẳn là thời cơ tốt để đề cập đến chuyện đó.

Từ lời nói đến sinh hoạt hàng ngày của Tống Hành đều được Ký Cư lang ghi chép lại, còn của Thái hoàng thái hậu thì do nữ quan thuộc cục Thượng nghi phụ trách. Theo lý, việc này không cần đến tay Thượng nghi làm. Chẳng qua Nguyễn Tư tịch gặp kỳ nguyệt sự, thân thể không khỏe. Thi Yến Vi thấy vậy liền giúp nàng đảm nhận công việc này.

Nhân lúc Thái hoàng thái hậu chưa lên tiếng, Thi Yến Vi thò nhẹ nửa cái đầu ra từ sau tấm bình phong, nhanh chóng quan sát mọi người trong phòng một lượt, cuối cùng ánh mắt dừng lại trên người Tống Hành.

Hắn vận một bộ cổn phục màu đen tuyền mười hai chương văn, trên đầu đội mũ miện có rèm châu bằng bạch ngọc che khuất nửa khuôn mặt, khiến người ta không nhìn rõ biểu cảm hay dung mạo của hắn. Bộ y phục trang trọng ấy càng tôn thêm vẻ uy nghiêm, không giận tự uy, chỉ cần nhìn thoáng qua cũng khiến người ta sinh lòng áp lực.

Tống Hành chưa bao giờ ăn mặc như vậy trước mặt Thi Yến Vi. Mỗi lần đến tìm, hắn đều thay thường phục và búi tóc gọn gàng, có lẽ vì sợ nàng sẽ thêm phần sợ hãi và kháng cự, khó lòng thích ứng được.

Đôi mắt trong veo của Thi Yến Vi chỉ lướt qua người hắn, dừng lại trên bộ cổn miện đế vương mới tinh, rồi chẳng còn hứng thú nhìn thêm. [1]

[1][1] Cổn Miện (袞冕), hay Miện phục (冕服) là lễ phục cao cấp nhất dành cho nam giới ở Đông Á cổ đại. Nó chủ yếu bao gồm “quan” (冠, vương miện), “thượng y” (上衣, áo khoác, thường là màu đen), “hạ thường”(下裳, váy dưới, màu đỏ nhạt), cũng như các thành phần pha phụ kiện khác. Nguồn
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 71: Rời đi



Mọi người lục tục rời đi, trong điện chỉ còn lại vài người bọn họ.

Dù có Thái hoàng thái hậu ở bên, Tống Hành cũng không thể kiềm chế cơn giận trong lòng. Hắn hất mạnh tay của Trương nội thị ra, gầm lên một tiếng, quát y cút đi.

Trương nội thị chưa từng thấy Tống Hành nổi giận đến mức này, sợ đến mức hai chân mềm oặt. Thái hoàng thái hậu thấy vậy, lập tức ra hiệu cho hắn lui xuống.

Nhưng chưa kịp bước được mấy bước, Tống Hành đã từ trên đài lao xuống, ba bước gộp thành hai, tiến thẳng về phía Thẩm Kính An và Thi Yến Vi.

“Nhị lang! Dừng tay! Cháu thật sự muốn vì một nữ nhân mà mê muội đến vậy sao?!” Thái hoàng thái hậu hốt hoảng kêu lên. Đúng lúc hai nước đang đàm phán hòa bình, sao có thể giết sứ giả nước Ngụy? Bà sốt ruột can ngăn, đến mức quên gọi hắn là “Thánh thượng”, chỉ biết dùng cách xưng hô như khi còn ở Thái Nguyên, hy vọng có thể kéo hắn tỉnh lại.

Nhưng trong đầu Tống Hành chỉ có ý niệm g**t ch*t Thẩm Kính An, không để Thi Yến Vi rời khỏi hắn. Lời của Thái hoàng thái hậu toàn toàn bị hắn phớt lờ.

Thi Yến Vi thấy hắn càng lúc càng gần, không kịp nghĩ ngợi nhiều, nàng chỉ biết rằng nàng không thể chịu đựng thêm một giây phút nào ở lại Tử Vi Thành này hay bên cạnh Tống Hành nữa. Nàng dồn hết can đảm, bất chấp tất cả, chắn trước Thẩm Kính An.

“Tống Hành, nếu ngươi muốn giết a cữu của ta, thì hãy giết ta trước! A cữu là người thân duy nhất trên đời này đối xử tốt với ta. Nếu hôm nay người chết dưới tay ngươi, ta nhất định sẽ không sống một mình!” Vừa nói, nàng vừa rút chiếc trâm vàng trên tóc, không chút do dự kề sát vào cổ mình.

Tống Hành hai mắt đỏ ngầu, vẻ mặt mất kiểm soát. Dù thấy Thi Yến Vi lấy mạng uy h**p, hắn vẫn không lùi bước, tay siết chặt thanh kiếm, cất giọng khàn đặc: “Âm Nương, tránh ra! Trẫm không muốn làm tổn thương nàng, đừng ép trẫm!”

Đã bước đến nước này, không thể quay đầu lại. Nếu Vũ An hầu thực sự chết, Tống Hành nhất định sẽ nổi giận với nàng vì đã nhận Thẩm Kính An, chứ đừng nói đến việc tuân thủ ước hẹn năm năm. Thay vì chết mòn trong thâm cung, chết ngay bây giờ có lẽ chính là sự giải thoát.

Đầu trâm đã đâm vào da thịt, máu rỉ ra từng giọt. Thi Yến Vi kiên quyết nói: “Cậu ấy chết, ta cũng chết! Tống Hành, ta nói được làm được!”

Máu đỏ tươi k*ch th*ch thị giác của Tống Hành, lý trí của hắn dần quay lại. Trái tim như bị siết chặt, hắn nghiến răng nhịn đau, cao giọng chất vấn nàng: “Nàng hận trẫm đến vậy sao, chỉ muốn rời xa trẫm?”

Thi Yến Vi nhìn thẳng vào mắt hắn, lạnh lùng đáp: “Đúng! Ta hận ngươi, hận đến mức không muốn nhìn thêm một lần nào nữa!”

Lời nói như lưỡi dao vô hình, từng nhát cứa rách lòng hắn, khiến hắn đau đớn khôn nguôi.

Kiếm trong tay rơi xuống đất, phát ra âm thanh vang dội.

Cơ thể Tống Hành như mất hết sức lực, mắt ánh lên vẻ u ám, gần như dốc toàn bộ sinh lực để cầu xin: “Âm Nương, đừng tự làm tổn thương mình. Trẫm không giết hắn, không giết hắn nữa.”

Tống Hành khàn giọng, đôi mắt ánh lệ. Thi Yến Vi nhìn thấy sự đau đớn trong mắt hắn, từ từ buông trâm, lùi lại đứng cạnh Thẩm Kính An.

Thái hoàng thái hậu đau lòng nhìn đứa cháu mà bà luôn tự hào nay phủ phục trước gấu váy của một nữ nhân. Bà thầm hối hận, giá như biết trước thế này, bà đã không giữ nữ nhân họ Dương ấy lại phủ, chỉ đưa chút bạc rồi tiễn đi là xong.

Giờ hối thì cũng đã muộn, chỉ còn cách khuyên nhủ Nhị lang buông tay.

“Nhị lang, nàng ta không còn ý với con. Dù con có cưỡng cầu thế nào cũng vô ích. Chi bằng để nàng theo Võ An hầu rời đi.”

Lời vừa dứt, Tống Hành im lặng hồi lâu, mãi sau mới lên tiếng, yêu cầu Thái hoàng thái hậu và Thẩm Kính An rời khỏi điện.

Thẩm Kính An lo lắng, dù thể nào cũng không thể yên tâm khi nàng ở lại với một kẻ đang phát cuồng, dùng ngữ khí kiên định nói: “Nhị nương, a cữu sẽ không để cháu ở đây một mình.”

Có lẽ vì mối dây thân tình còn sót lại từ tiền kiếp, chỉ mới gặp một lần mà nàng đã cảm thấy thân thiết, không rõ vì sao lại tin tưởng y. Thi Yến Vi bình thản trấn an y: “A cữu yên tâm. Nếu hắn thực sự muốn hại cháu, vừa rồi đã không buông kiếm. Cháu sẽ nói chuyện với hắn rồi ra ngay, sẽ không sao đâu.”

Thẩm Kính An nghe vậy nhưng vẫn không yên tâm, đứng lặng tại chỗ, ngập ngừng.

Thi Yến Vi ngoảnh lại nhìn y, khẽ mỉm cười, giọng điệu điềm tĩnh: “A cữu yên tâm, cháu sẽ không sao đâu. Lần này người hãy tin cháu.”

Biết không lay chuyển được nàng, Thẩm Kính An đành thở dài nhượng bộ, dịu giọng: “Được, a cữu sẽ chờ ở ngoài điện. Nếu có chuyện gì, cứ lớn tiếng gọi, ta sẽ lập tức vào. A cữu từng vào sinh ra tử, không phải người dễ dàng khuất phục.”

Thi Yến Vi gật đầu, rồi quay lại nhìn Tống Hành.

Hắn có vẻ như đã chờ quá lâu, không còn kiên nhẫn nữa. Vừa thấy Thẩm Kính An và Thái hoàng thái hậu rời khỏi, hắn liền kéo Thi Yến Vi vào lòng, tựa cằm lên mái tóc mềm mại của nàng.

“Âm Nương, đêm đó nàng đã hứa với trẫm, rằng khi chưa đủ năm năm, nàng sẽ không rời xa trẫm. Trẫm giữ lời, không còn giam cầm nàng trong cung, để nàng làm nữ quan, tự dùng đôi tay mình kiếm sống, không để ai biết quan hệ giữa nàng và trẫm, cũng chưa từng ép nàng phải sinh con. Vậy mà sao nàng nỡ bội ước, chưa tròn năm năm đã muốn rời bỏ trẫm? Nàng không thể làm tổn thương trẫm như vậy.”

Thi Yến Vi không vùng vẫy, chỉ khẽ nghiêng đầu, tránh khỏi cằm hắn, ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt hắn, lời lẽ sắc bén:

“Muốn nói đến bội ước, chẳng phải chính Thánh thượng là người đã phá vỡ ước định ba năm giữa chúng ta trước sao? Ta làm vậy, cũng chỉ là đáp trả lại mà thôi.”

“Đừng nói là năm năm, dù là mười năm, hai mươi năm hay ba mươi năm, ta cũng không bao giờ tha thứ cho người, càng không thể yêu người. Trong lòng ta, người mãi mãi không thể sánh bằng dù chỉ một góc của Trần Nhượng!”

Nghe những lời này, lòng Tống Hành đau như dao cắt. Không biết từ bao giờ, nàng đã chiếm trọn trái tim hắn, chi phối cảm xúc hắn dễ như trở bàn tay. Điều đó không đơn thuần chỉ vì hắn thích nàng mà có thể giải thích được.

Trong thoáng chốc, chữ “yêu” hiện lên trong tâm trí hắn.

Hắn đã yêu nàng rồi sao? Không, hắn không thể có thứ tình cảm đó. Không, hắn không thể có thứ tình cảm đó. Đó là điều mà kẻ phàm tục và ngu muội mới theo đuổi. Hắn là quân vương của một nước, tuyệt đối không thể chứa chấp thứ tình cảm yếu mềm và phiền toái này.

Không thể thừa nhận, không dám thừa nhận. Tống Hành đau đớn nhắm chặt mắt, lông mày nhíu chặt như bị một cơn đau quặn thắt bao trùm.

Thi Yến Vi nhìn ra nguồn cơn đau khổ của hắn, không chút mềm lòng, lạnh lùng đâm thêm nhát dao: “Tống Hành, người lộ ra vẻ mặt đau khổ như vậy, chẳng lẽ là vì người đã yêu ta rồi sao? Người yêu chính con chim nhỏ mà người từng nuôi dưỡng, yêu người đàn bà mà người vẫn coi là nữ gian chuyên lừa đảo!”

“Nhưng phải làm sao đây? Nàng ấy không chỉ là em ruột ân nhân cứu mạng của em trai người, lại là cháu ngoại của kẻ thù giết con của hoàng cô người…”

Nàng còn chưa dứt lời, Tống Hành không thể kìm nén nỗi đau trong lòng, hai tay siết chặt thành nắm đấm, gân xanh nổi lên, giận dữ gầm lên: “Dương Sở Âm, nàng câm miệng cho trẫm!”

Thi Yến Vi hoàn toàn thờ ơ trước cơn thịnh nộ và sự bất lực của hắn, đưa tay vỗ nhẹ vào mặt hắn đầy khinh bỉ, ánh mắt như đang nhìn một vật thể nực cười, liên tục truy hỏi hắn: “Người là hoàng đế nước Triệu, còn a cữu của nàng ấy là Vũ An hầu nước Ngụy. Giữa hai người là thù nước hận nhà. Đến bước này rồi, người vẫn còn vọng tưởng giữ nàng ấy lại, mong nàng ấy cũng sẽ yêu người sao?”

Từng câu từng chữ của nàng đều chạm vào nỗi đau của hắn, buộc hắn đối diện với chữ “yêu” mà hắn luôn né tránh.

Nàng sẽ không thích hắn, càng không yêu hắn. Vậy thì tại sao hắn phải quỵ lụy như một con chó vẫy đuôi cầu xin nàng? Dù thế nào đi nữa, khi năm năm kết thúc, nàng cũng sẽ rời xa hắn.

Chi bằng thả nàng ra, cũng là giải thoát cho chính mình.

Là vua một nước, sao có thể vướng bận vào tình ái nam nữ? Hắn nên cưới một hoàng hậu hiền lương thục đức, chiêu nạp các quý nữ thế tộc làm phi, con cháu đầy đàn.

Hắn nhất định sẽ làm tốt.

Sợ bản thân hối hận, Tống Hành không dám nhìn nàng thêm dù chỉ một cái. Khuôn mặt u ám, giọng điệu khàn khàn: “Cút đi. Từ nay về sau, trẫm không muốn gặp lại nàng nữa.”

Không gặp lại nàng nữa. Thi Yến Vi trong lòng phấn khởi nhưng lại nghi ngờ mình nghe lầm, không dám lộ chút vui mừng nào, chỉ khẽ hỏi lại: “Người bằng lòng để ta rời khỏi nước Triệu rồi sao?”

Tống Hành quay lưng, không nói thêm lời nào.

Không phủ nhận chính là ngầm đồng ý. Thi Yến Vi lo sợ hắn sẽ đổi ý, không dám dây dưa mà cố gắng giữ bình tĩnh, nhẹ bước rời khỏi.

Bên ngoài, màn đêm đã buông sâu. Thẩm Kính An đứng khoanh tay dưới mái hiên.

Nghe tiếng cửa điện mở, y lập tức quay lại nhìn.

“A cữu.” Thi Yến Vi khẽ gọi y.

Nhìn nữ lang trước mắt với dung nhan rực rỡ mà đoan trang, y cảm thấy nàng đã khác đi so với khi còn nhỏ. Dù nét mặt không thay đổi nhiều nhưng thần thái đã trưởng thành hơn, càng giống a tỷ khi ở ngưỡng đôi mươi.

Thẩm Kính An bước đi bên nàng, chờ khi rời khỏi Điện Cam Lộ một đoạn mới mở miệng hỏi: “Hắn có đồng ý để cháu rời đi không?”

Thi Yến Vi khẽ gật đầu: “Dạ, hắn đồng ý rồi.”

Thẩm Kính An cuối cùng cũng buông được tảng đá trong lòng, thở ra một hơi nhẹ nhõm, trầm ngâm một lát rồi nói tiếp: “Chỉ cần hắn đồng ý là tốt rồi. A cữu vốn nghĩ sự tình không dễ dàng như vậy. Lũ ở Đại Vận Hà đã rút, để tránh đêm dài lắm mộng, khi hòa đàm kết thúc, ta sẽ không ghé Văn Thủy thăm a nương và a huynh của cháu nữa mà trực tiếp lên thuyền ở bến tàu phía nam, theo đường thủy để đến Biện Châu.”

Thi Yến Vi nhẹ nhàng đáp: “Mọi chuyện đã có nguyên do, a nương và a huynh ở dưới suối vàng biết rõ chắc chắn sẽ không trách cháu và a cữu.”

Thẩm Kính An khẽ gật đầu: “Ta đã lập bài vị của họ tại Biện Châu. Đến nơi, ta sẽ dẫn Nhị nương đi thắp hương bái tế.”

Thi Yến Vi nghe vậy, lại càng chân thành cảm tạ: “Đa tạ a cữu. Nếu không nhờ a cữu cứu thoát, Nhị nương thực sự không biết phải thoát khỏi hắn thế nào.”

Chữ “hắn” nàng vừa nhắc đến, không cần nói cũng rõ là ai.

Thẩm Kính An cảm thấy đau lòng, giọng hạ thấp: “Hắn đối xử với cháu…” Vừa thốt ra ba chữ liền cảm thấy không ổn, như thể xát muối vào vết thương của Nhị nương, bèn nuốt lời lại, đổi giọng an ủi: “Mọi chuyện đều đã qua. Những điều không vui trong quá khứ không cần nhắc lại. Sau này, a cữu nhất định bảo vệ Nhị nương, để cháu một đời yên ổn, năm tháng vô lo.”

Thi Yến Vi lặng người. Đã bao lâu rồi nàng chưa cảm nhận được sự ấm áp từ người thân? Nghĩ lại, dường như đã quá lâu rồi. Đến nơi này, bất giác đã ba năm, thân thể này cùng linh hồn nàng trải qua hơn một ngàn đêm ngày.

Từ mười tám đến hai mốt tuổi, vì người đàn ông đó, nàng đã bỏ lỡ và đánh mất quá nhiều.

Ánh trăng thanh lạnh chiếu lên con đường nhỏ bằng đá. Thi Yến Vi ngước mắt nhìn vầng trăng sáng vằng vặc trên cao, chợt nhớ tới công chúa Tuyên Thành Lý Lệnh Nghi đang ẩn cư ở núi Kính Đình, bèn hỏi: “A cữu, từ Biện Châu đến Tuyên Châu phải mất bao lâu?”

Nghe đến hai chữ “Tuyên Châu”, Thẩm Kính An thoáng nghĩ đến nữ tử khí chất thanh tao như trúc ấy, trong lòng hơi xao động, chậm rãi đáp: “Nếu cưỡi ngựa hết sức thì mất khoảng mười ngày; nếu đi xe ngựa, phải mất gần hai mươi ngày.”

“Nhị nương hỏi vậy, có phải muốn đến Tuyên Châu?”

Thi Yến Vi không trả lời ngay, chỉ thành thật nói: “Cháu muốn gặp công chúa Tuyên Thành ở núi Kính Đình.”

Nghe vậy, Thẩm Kính An không khỏi nghi hoặc. Công chúa đồng tuổi với hắn, lớn hơn Nhị nương mười một tuổi, chỉ từng tu đạo ở Trường An và Tuyên Châu, trong khi Nhị nương lớn lên ở Văn Thủy, sau lại được đưa đến Thái Nguyên. Sao nàng có thể biết công chúa?

“Nhị nương quen biết công chúa ư?” Thẩm Kính An hỏi.

Thi Yến Vi lắc đầu: “Không phải quen, mà là cháu muốn kết giao.”

Thẩm Kính An nghe vậy, lòng chợt dâng lên một cơn phẫn nộ. Nàng bị kẻ đó bức đến tuyệt vọng, liệu có ý định noi gương công chúa, ẩn cư tu đạo để tránh thế sự?

Cảm giác ấy khiến y hận không thể lập tức g**t ch*t Tống Hành để đòi lại công bằng cho Nhị nương.

Thấy a cữu trầm mặc, Thi Yến Vi lo rằng y hiểu nhầm, vội giải thích: “A cữu, cháu không có ý lên núi tu hành, chỉ là nghe được câu chuyện về công chúa Tuyên Thành, một nữ tử kỳ tài khiến người người kính phục, cháu ngưỡng mộ nàng nên mới muốn kết giao thôi.”

“Thì ra là vậy. Chuyện này không khó, ta và công chúa Tuyên Thành có chút giao tình. Nếu Nhị nương muốn gặp, đến Biện Châu, ta sẽ viết thư giới thiệu và cho người đưa cháu đến Tuyên Châu. Công chúa thấy thư, tất sẽ gặp cháu.”

Thi Yến Vi chân thành cảm tạ, định nói lời cảm ơn thì Thẩm Kính An đã ngắt lời: “Nhị nương hà tất phải khách sáo như thế. Trưởng bối quan tâm hậu bối vốn là lẽ thường tình. Cháu không cần đa lễ, nói nhiều lại khiến hai ta như người xa lạ.”

Thi Yến Vi nghe xong chỉ khẽ mỉm cười, gật đầu đáp lại.

Bất tri bất giác, đã tới bên ngoài cục Thượng nghi, nàng nghĩ trong này là nơi ở của các nữ quan, không tiện mời y vào ngồi một lát, bèn nói: “Cháu đến rồi, trời cũng không còn sớm, a cữu cũng nên mau chóng quay về nghỉ ngơi đi.”

Thẩm Kính An đáp: “Được, ta nhìn cháu vào rồi sẽ đi.”

Thi Yến Vi chắp tay hành lễ từ biệt, quay người bước vào cục Thượng nghi. Vừa đi nàng vừa nghĩ, ngày khác nhất định phải hỏi xem liệu a cữu đã thành thân chưa, trong nhà có đứa em họ nào đáng yêu như Lâm Doanh không để nàng chơi cùng.

Đêm ấy, tâm trạng nàng khoan khoái nhưng vẫn thấp thỏm lo rằng Tống Hành liệu có rút lại ý định hay không. Hai loại cảm xúc đan xen khiến nàng trằn trọc khó ngủ, mãi đến giờ Tý (~23h) mới mơ màng chìm vào giấc mộng.

Sáng hôm sau, vì tinh thần trách nhiệm, nàng vẫn dậy thật sớm xử lý những công vụ cần thiết. Đến chiều tối, cơm nước xong xuôi, nàng lại chong đèn thức khuya, biên soạn một quyển tập để hướng dẫn công việc từ những kinh nghiệm đã tích lũy trong mấy tháng qua, giúp người kế nhiệm thuận tiện nắm bắt.

Ba ngày sau, hai nước Triệu và Ngụy đạt được thỏa thuận, ký kết hiệp ước.

Buổi chiều hôm ấy, Thẩm Kính An cho người báo tin nàng rằng sáng mai giờ Thìn (~7h) sẽ rời thành Tử Vi để quay về Biện Châu.

Trong ba ngày ấy, Tống Hành chưa từng xuất hiện trước mặt nàng, khiến nỗi bất an trong lòng nàng cũng dần tan biến. Khi nhận được tin chắc chắn sẽ rời đi vào ngày mai, nàng vui mừng khôn xiết, gần như không giấu nổi nét hoan hỷ trên mặt.

Diêu Tư tán biết tin Thi Yến Vi tìm được thân nhân, sắp rời đi, bèn tới chúc mừng. Thi Yến Vi tặng nàng một số vật dụng, cùng uống hai chén trà rồi tiễn nàng ra đến ngoài viện.

Bên gốc quế nơi bức tường phía tây, một bóng dáng cao lớn chầm chậm bước ra dưới ánh trăng. Khi Thi Yến Vi vừa khép cửa liền bị hắn ôm chặt ngang lưng.

Lưng nàng áp sát vào lồng ngực hắn, không cần quay đầu cũng biết người tới là ai.

Không phải là hắn thay đổi quyết định rồi đấy chứ? Một ý nghĩ như sét đánh ngang tai, nàng kinh hãi mở to mắt, định vùng vẫy thoát khỏi vòng tay hắn để tranh luận.

Đối phương như đoán được ý định của nàng, bàn tay to lớn ôm chặt lấy nàng, cúi đầu sát tai, giọng trầm thấp: “Âm Nương, nếu muốn ngày mai thuận lợi rời khỏi cổng cung, đêm nay ngoan ngoãn nghe lời, đừng chọc giận trẫm.”

Dứt lời, không để nàng phản ứng, hắn bế ngang nàng lên, đạp cửa bước vào, đi thẳng tới điện Triều Nguyên.

Thi Yến Vi hiểu rõ tính tình hắn, dù trong lòng tràn ngập oán hận nhưng vì ngày mai được rời đi, nàng đành cắn răng nhẫn nhịn, không dám kêu la.

Đây là Triệu cung của hắn, dù có gọi người tới thì nhục nhã cũng chỉ thuộc về nàng.

Tống Hành không kiên nhẫn bế nàng vào nội điện, vừa nhìn thấy Trương nội thị và những người khác, hắn bước nhanh vào tiền điện nơi phê tấu chương và bàn chuyện quốc sự, lớn tiếng quát: “Cút hết ra ngoài điện!”

Trương nội thị vội vàng đáp lời, cúi người thận trọng khép cửa lại, dẫn theo mọi người rời ra ngoài cổng cung.

Thi Yến Vi biết rõ hắn muốn làm gì, chỉ nằm bất động như một con cá chết, mặc hắn định đoạt.

Tống Hành quét sạch đồ trên bàn xuống đất, đặt nàng ngồi lên mép bàn.

Mặc dù gấp gáp nhưng hắn vẫn cúi xuống để thỏa cơn khát trước.

Thân thể Thi Yến Vi mềm nhũn, hai tay nhỏ bé níu chặt lấy vạt áo trên vai hắn, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi.

Đôi mắt từ khi nào đã phủ lên một làn sương mờ, nàng c*n m** d***, không nói một lời.

Tống Hành dường như không bận tâm nàng có nói hay không, sắc mặt lạnh nhạt, cúi đầu c** th*t l*ng vàng điệp tiệp, áo bào rộng thùng thình rơi xuống đất, áp sát nàng, ghim chặt nàng lại.

Giữa đầu hạ, không khí có phần oi bức.

Mồ hôi trên người hắn như hơi nước bốc lên, nóng bức khó chịu.

Thi Yến Vi cũng toát nhẹ mồ hôi.

Lớp áo lụa mỏng manh thấm ướt mồ hôi, bám sát vào làn da, càng tôn lên vóc dáng yêu kiều lả lướt của nàng.

Tống Hành nhìn nàng chăm chú, vài hơi sau, lớp vải mềm rơi xuống như cánh hoa, yên lặng nằm trên nền gạch xanh thẫm.

Mép bàn nơi bàn tay nàng áp lên, nhờ nhiệt độ cơ thể mà ấm dần.

Tâm trí trống rỗng, không nghĩ nổi gì nữa.

Ngay cả hàng mi dài cong vút cũng run run.

Hai người đều bướng bỉnh, không để phát ra bất kỳ tiếng động nào.

Chỉ còn tiếng gió và tiếng nước ngoài khung cửa sổ.

Tống Hành ôm chặt nàng, đắm mình trong sự quyến luyến, rồi bất ngờ bế nàng lên, đi tới bên cửa sổ, nhìn ánh trăng cùng hai bóng hình in trên đó.

Đầu óc Thi Yến Vi dần tỉnh táo, lại bắt đầu hoài nghi không biết Tống Hành có hối hận hay không. Tuy nhiên, hắn chẳng để nàng có quá nhiều thời gian suy nghĩ, cảm giác mệt mỏi khiến đầu óc trống rỗng lại một lần nữa ùa về.

Khi trước tới đây để đóng ngọc tỷ, Thi Yến Vi chưa từng cảm thấy tiền điện của điện Triều Nguyên lớn đến vậy. Giờ đây, từng bước chân Tống Hành đo lường, chỉ cảm thấy đi hết một vòng sao lại dài đến thế.

Nàng không biết hắn đã đi bao lâu, cũng không rõ bản thân trải qua bao lần từ tỉnh táo đến mơ hồ, rồi từ mơ hồ lại tỉnh táo.

Chiếc áo hoàng bào dài màu vàng sáng đã bị hắn ném xuống thảm, ép nàng phải quỳ lên đó.

Tống Hành không thể thấy rõ mặt nàng, chỉ cảm nhận nàng tựa như viên nam châu thuần khiết hiếm có, chói lọi đến mức khiến hắn mặc cảm, tự ti.

Nàng là nữ lang kiên cường, thiện lương nhất hắn từng gặp, nhưng sự kiên cường ấy chỉ dành để đối đầu hắn, còn sự thiện lương kia lại chỉ dành cho người khác. Ngay cả con mèo nhỏ nàng chỉ mới gặp một lần, nàng cũng có thể nở nụ cười dịu dàng, kiên nhẫn đối xử.

Nàng có thể nhân từ với vạn vật trên thế gian, nhưng lại chẳng dành nổi chút từ bi nào cho hắn.

Dù tấm thảm mềm mại đến đâu, hắn vẫn sợ làm đau đầu gối nàng, không bao lâu sau, hắn bế nàng lên, đặt nàng ngồi xuống giường La Hán trước bình phong.

Thi Yến Vi đã mệt lả, tựa cằm vào hõm vai hắn. Tống Hành cúi đầu nhìn đầu gối nàng, quả nhiên đỏ ửng, nổi bật trên làn da trắng muốt.

Đến tận canh ba, (~23h) Tống Hành mới buông tha nàng. Sau khi chỉnh trang y phục, hắn bế nàng đến phòng tắm, đặt nàng vào thùng nước ấm.

Hắn đã sai lão tự nhân Trương chuẩn bị sẵn y phục từ sớm. Tống Hành đích thân giúp nàng rửa sạch, lấy cao dưỡng bôi lên làn da nàng. Dù hiện tại ít khi hắn làm nàng đau, nhưng vì muốn nàng thoải mái nên hắn vẫn có thói quen làm vậy.

Mát lạnh và dễ chịu. Thi Yến Vi vốn quen với việc bôi thuốc từ trước nên cũng không từ chối.

Đến khi hắn giúp nàng mặc đồ xong, trời đã gần sang giờ Tý. (~23h)

Biết nàng khó có thể tự đi về, hắn định cõng nàng, cúi người xuống trước mặt nàng.

Đôi chân Thi Yến Vi như nhũn ra, không muốn động đậy.

Người phía sau chờ mãi không thấy động tĩnh, Tống Hành hiểu ý, bế nàng về thẳng nơi ở trong cục Thượng Nghi.

Đêm đã khuya, bốn bề tĩnh lặng, chỉ còn tiếng bước chân của hắn và tiếng côn trùng rả rích.

Thi Yến Vi buồn ngủ, hai mí mắt cứ dính chặt vào nhau.

Nàng ngủ chập chờn được chừng nửa khắc, sau đó cảm nhận được mình được đặt vào trong chăn gấm. Nàng bỗng tỉnh giấc, hé mắt ra liền nghe tiếng Tống Hành thì thầm: “Trẫm sẽ quên nàng.”

Đây là câu thứ hai hắn nói với nàng tối nay.

Thi Yến Vi hy vọng đó là câu cuối cùng, bèn đáp gọn một chữ: “Được.”

Tống Hành sẽ buông tha nàng.

Lòng nàng nhẹ bẫng, không còn nặng nề phiền muộn nữa. Cộng thêm việc vừa hao tổn thể lực, vừa đặt lưng xuống giường Thi Yến Vi đã chìm luôn vào giấc ngủ sâu.

Trăng lặn biển xanh, mặt trời mọc từ hướng đông.

Ánh bình minh dát lên chân trời một màu hoàng kim rực rỡ.

Thi Yến Vi chỉnh lại y phục, dù đôi chân còn đau nhức, nàng vẫn cố giữ dáng đi bình thường, nên chẳng bao lâu mồ hôi đã rịn đầy sau lưng.

Thẩm Kính An phái tỳ nữ đến đón nàng.

Ngoài thành Tử Vi, Thẩm Kính An ngồi trên lưng ngựa cao lớn, tỳ nữ đỡ nàng lên xe, ngăn cách hoàn toàn với thế giới bên ngoài.

Tống Hành cùng thái hoàng thái hậu đến tiễn. Khi Thi Yến Vi lướt qua Thẩm Kính An, nàng nhận ra Tống Hành không hề liếc nhìn mình lấy một lần.

Không quan tâm họ nói gì bên ngoài, nàng chỉ mong mau chóng rời khỏi chiếc lồng giam khổng lồ này.

Chỉ một khắc sau, bánh xe bắt đầu lăn, đoàn người rầm rộn hướng về phía bến tàu nam thị.

Thái hoàng thái hậu vốn nghĩ Tống Hành sẽ đợi xe đi xa mới rời đi, không ngờ chỉ vài nhịp thở sau, hắn đã quay lưng bước đi, không ngoái lại, tựa như không hề lưu luyến nữ lang ngồi trên cỗ xe đó.

Thái hoàng thái hậu nghĩ, vậy là tốt nhất. Nếu Nhị lang không còn vướng bận gì nàng, có thể sớm ngày thành thân, lập hậu, kéo dài dòng dõi.

Nghĩ tới đây, những khúc mắc trong lòng Thái hoàng thái hậu dần được cởi bỏ, bà lên bộ liễn, khởi hành về cung.

Bến tàu phía nam.

Thi Yến Vi bước xuống xe ngựa, vén nhẹ tấm rèm của mũ che, nhìn ra ngoài. Hàng trăm con thuyền lớn nhỏ khác nhau neo đậu trên lòng sông rộng lớn của kênh đào. Con thuyền họ sắp lên có sức chứa đến hơn một trăm người.

Gió hè nhẹ nhàng thổi qua, làm tà áo lụa của nàng bay phất phơ. Thẩm Kính An xoay người xuống ngựa, bước lại gần nàng, ân cần hỏi liệu nàng có say sóng không.

Thi Yến Vi đáp: “Làm phiền a cữu bận tâm. Cháu không bị say sóng. Hai năm trước, cháu từng đi thuyền từ Đồng Quan đến Lạc Dương rồi.”

“Không say thì tốt.” Nói đến đây, y chợt nghĩ đến công chúa. Nàng hiếm khi ra ngoài, hầu như chỉ cưỡi ngựa hoặc ngồi xe, vì chính nàng đã nói rằng mình say sóng nặng. Lần đầu từ Đồng Quan đi thuyền đến Dương Châu, suýt chút nữa ói đến gầy sọp.

Đang suy nghĩ, thuyền phu bước tới báo rằng mọi thứ đã sẵn sàng, có thể lên thuyền.

Thẩm Kính An nhường Thi Yến Vi đi trước.

Nàng bước qua cầu thuyền lên boong, theo người dẫn đường vào trong khoang thuyền xem xét, sau đó ra đứng trên boong ngắm nhìn những ngọn núi xanh biếc nối dài ở đằng xa. Thi Yến Vi bỗng cảm thấy mọi thứ thật không chân thực.

Cuối cùng, nàng đã thoát khỏi tầm kiểm soát của Tống Hành, tìm lại tự do.

Sau khi sắp xếp xong xuôi mọi chuyện trên thuyền, Thẩm Kính An bước đến bên nàng, kể về cảnh sắc của thành Biện Châu.

Thi Yến Vi chỉ biết thành Biện Châu qua phim ảnh. Nghe Thẩm Kính An mô tả, lòng không khỏi trào dâng niềm mong chờ. Khi đến Biện Châu nghỉ ngơi vài hôm, nàng dự định sẽ đi tiếp đến Tuyên Châu.

Hai người đứng trò chuyện một lúc, thấy nắng càng lúc càng gay gắt, Thẩm Kính An khuyên nàng vào khoang thuyền nghỉ ngơi. Nếu muốn ngắm cảnh, đợi hoàng hôn rồi ra ngoài cũng không muộn.

Lúc ấy có thể ngắm mây đỏ rực trời, mặt trời lặn nhường chỗ cho vầng trăng lên cao, cảnh sắc ấy sẽ thật thú vị.

Bảy ngày sau, thuyền cập bến Biện Châu.

Thi Yến Vi đội mũ che, bước xuống thuyền, rồi lên xe ngựa đến Thẩm phủ.

Quý phủ của Thẩm Kính An là do Giang Tiều ban tặng, tuy diện tích không rộng bằng Tống phủ nhưng bởi vì Thẩm Kính An không thê không thiếp, cũng không có con cái, sống một mình nên dù rộng rãi thì vẫn mang cảm giác trống trải.

Dẫu có thêm Thi Yến Vi, phủ vẫn nhuốm một màu tịch mịch, quạnh hiu.

Thẩm Kính An không về phủ cùng nàng mà vào cung diện kiến Giang Tiều.

Tối đó, Giang Tiều mở yến tiệc đón gió tẩy trần trong cung, mừng Thẩm Kính An và đoàn sứ giả.

Giang Tiều có bốn con trai và hai con gái còn sống đến tuổi trưởng thành. Trưởng tử Giang Thịnh do nguyên phối Từ Hoàng hậu sinh ra nhưng yểu mệnh, đã qua đời từ sớm. Thứ tử Giang Hoằng là con của kế thất, Hoàng hậu Trịnh thị. Tam tử Giang Tầm và tứ tử Giang Hiên đều do sủng phi Hứa Quý phi hạ sinh.

Trưởng nữ Giang Viên và thứ nữ Giang Linh lại do Trịnh hoàng hậu và thiếp thất Vi Lệ phi sinh ra.

Dẫu Giang Tiêu có tài mưu lược, giỏi thu phục nhân tài nhưng lại có bản tính háo sắc. Trong những năm Thẩm Kính An theo ông ta, đã chứng kiến không dưới mười thiếp thất vẻ ngoài mạo mỹ được nạp vào phủ, bất kể là khuê nữ, nữ tử từng hòa ly hay góa bụa.

Diện mạo của Nhị nương giống mẹ nàng, vốn đã nổi bật giữa đám mỹ nhân thông thường, huống chi trong buổi dạ yến hôm nay, sự chú ý sẽ là khó tránh khỏi. Do đó, khi Giang Tiều hỏi sao cháu gái không đến, Thẩm Kính An viện cớ rằng nàng lưu lạc ở bên ngoài nhiều năm, ngại giao tiếp, chỉ thích ở một mình, không thích ra ngoài.

Giang Tiều lại hỏi nàng đã từng gả chồng chưa.

Thẩm Kính An đáp rằng nhan sắc nàng không nổi trội, lại không nơi nương tựa, nên chưa có mối mai, đến hai mươi vẫn chưa xuất giá.

Nghe vậy, Giang Tiều không gặng hỏi thêm, quay sang uống rượu với Vi Lệ phi.

Bốn con trai Giang Tiều theo thứ tự ngồi dưới tay trái ông ta, thái tử Giang Thịnh, Khang vương Giang Hoằng, và Ngô vương Giang Hiên đều mang theo chính thất. Chỉ Hạ vương Giang Tầm dẫn theo vương phi họ Vương và nhũ nhân Phùng thị.

Phùng thị hoa dung nguyệt mạo, vóc dáng thướt tha, rất được Giang Tầm yêu mến. Chưa đầy nửa năm vào vương phủ, nàng gần như chiếm trọn sự sủng ái, ngay cả Hạ Vương phi cũng không làm gì được.

Thẩm Kính An không mấy hứng thú với yến tiệc, uống vài ly rượu rồi cáo lui, mãi đến khi yến tiệc sắp kết thúc mới quay lại.

Sau khi xuất cung, y cưỡi ngựa trở về phủ, gọi bà mụ đến hỏi thăm thì được biết Nhị nương mệt mỏi sau chuyến đi, đã nghỉ ngơi từ sớm.

Y thưởng bạc, dặn phải chăm sóc nàng chu đáo. Đêm đó viết thư, sáng hôm sau cử người đến đô đốc phủ lo giấy tờ cho chuyến đi Tuyên Châu.

Vì vắng mặt ở Biện Châu hơn hai mươi ngày, công vụ tích tụ khá nhiều. Bận rộn xử lý suốt đêm, khi tiếng trống canh vang lên thì đã là canh hai. (~21h)

Thi Yến Vi ở quý phủ nhàn nhã không việc gì làm, nên thường trò chuyện cùng các bà mụ, tỳ nữ hoặc lấy cờ song lục ra, tỉ thí cùng người khác.

Lại một ngày nữa trôi qua, công vụ giảm bớt, Thẩm Kính An về sớm, hỏi nàng đã quen với cuộc sống mới ở phủ chưa.

Thi Yến Vi đáp rằng mọi thứ đều tốt, chỉ là cả ngày quanh quẩn trong phủ nên có chút buồn chán.

“Nhị nương có biết cưỡi ngựa không?” Thẩm Kính An hỏi.

“Ngày trước, cháu từng học cưỡi ngựa ở Tống phủ.”

“Biết cưỡi ngựa thì dễ rồi. Ra ngoại thành dạo chơi một ngày cũng tốt. Dạo gần đây bận rộn nhiều việc, chưa kịp chăm lo cho cháu, mai ta sẽ cử vài thị vệ võ nghệ cao cường theo cháu ra ngoài, ta cũng yên tâm hơn. Còn nữa, trong thành Biện Châu lắm kẻ ăn chơi ph*ng đ*ng, ta sợ chúng làm cháu kinh động. Khi ra ngoài, Nhị nương nhớ đội mũ che.”

Thi Yến Vi liền gật đầu, đáp: “Làm phiền a cữu nhọc lòng, Nhị nương biết rồi ạ.”

Thẩm Kính An nhấp một ngụm trà, rồi nói đến chuyện thông hành, dặn nàng kiên nhẫn chờ thêm ba đến năm ngày.

Thi Yến Vi cảm động trước sự tận tình của y, trong lòng càng thêm kính trọng, xem y như người thân thực sự.

“A cữu đã dùng bữa tối chưa?”

Thẩm Kính An đáp: “Chưa. Nếu Nhị nương cũng chưa ăn, thì cùng nhau dùng bữa đi.”

Thi Yến Vi không từ chối, Thẩm Kính An liền sai người tới phòng bếp truyền thiện.

Bốn ngày sau, Thi Yến Vi đã dạo quanh những nơi nhộn nhịp nhất trong thành Biện Châu. Đi cùng nàng là hai, ba tỳ nữ và bà mụ, phía sau còn có thị vệ giữ khoảng cách phù hợp, nên cũng không xảy ra sự cố hay nguy hiểm nào.

Chiều hôm ấy, Thẩm Kính An mang theo giấy thông hành đến gặp nàng.

Thi Yến Vi cầm tờ giấy trong tay, tim đập nhanh hơn. Nỗi mong chờ được gặp Lý Lệnh Nghi càng mãnh liệt, nàng không muốn chậm trễ thêm ngày nào nữa. Nàng nói rõ ý định sẽ rời Biện Châu vào sáng sớm hôm sau để đến Tuyên Châu.

Sự sốt sắng và nhiệt tình của nàng đối với công chúa dường như có phần quá mức. Mặc dù Thẩm Kính An không hiểu tại sao nàng lại vội vã như vậy, nhưng y cũng không hỏi thêm. Sau khi ngồi lại đôi chút, y rời khỏi viện của nàng.

Y gọi quản sự đến, sai chuẩn bị xe ngựa và tìm một phu xe đáng tin, dặn rằng sáng sớm hôm sau sẽ hộ tống nương tử đến Tuyên Châu.

Đêm đó, Thi Yến Vi thu dọn hành lý rồi đi nghỉ sớm.

Đúng giờ Mão hai khắc (~5h30), nàng dậy rửa mặt chải đầu.

Trịnh mụ trong viện tuổi đã cao, nên Thi Yến Vi không muốn phiền bà. Vì Thẩm Kính An kiên quyết yêu cầu nàng mang theo một người hầu cận, nàng chọn một tỳ nữ đồng niên tên là Úc Kim.

Trong lúc trò chuyện, nàng biết tên của Úc Kim là do Trịnh mụ đặt, lấy từ loài hoa có mùi hương thơm ngát là uất kim hương (hoa oải hương/lavender)

Tuyên Châu cách Biện Châu hơn một ngàn hai trăm dặm. Thi Yến Vi đi đường ban ngày, nghỉ ngơi ban đêm, lại phải để ngựa thư giãn giữa chặng, theo đúng nguyên tắc làm việc nghỉ ngơi kết hợp. Dù Thẩm Kính An dự tính hai mươi ngày, nàng vẫn mất đến hai mươi lăm, hai mươi sáu ngày mới tới nơi.

Hôm ấy, nàng nghỉ ngơi trong thành Tuyên Châu một ngày, hôm sau chuyển sang cưỡi ngựa tiến về núi Kính Đình ở ngoại thành.

Kể từ sau khi triều đại trước diệt vong, đạo quán nơi Lý Lệnh Nghi ở hiếm khi có người lui tới dâng hương. Tuy nhiên, nàng vẫn còn đủ tiền bạc nên không quá lo lắng về chuyện sinh kế.

Dùng xong bữa trưa, Lý Lệnh Nghi ngồi dưới giàn nho, vừa pha vừa thưởng trà. Bên cạnh nàng chỉ có một cung nhân đi theo từ khi xuất cung, tên là Vọng Tình.

“Thưa công chúa, có người ở ngoài đạo quán đưa thư tới.”

Lý Lệnh Nghi đưa tay nhận lấy phong thư, nhìn nét chữ trên phong bì, nàng nhận ra ngay đó là bút tích của Thẩm Kính An.

Mở thư ra xem, y đã tìm thấy cháu gái bị thất lạc. Nàng ấy đặc biệt từ Biện Châu ngàn dặm xa xôi tới đây, mong muốn gặp mặt công chúa. Đồng thời, y còn khẩn cầu nàng “thu nhận” cháu gái, xin phép để nàng được ở lại đạo quán thêm vài ngày.

Lý Lệnh Nghi khẽ mỉm cười, gấp lá thư lại cho vào phong bì, lấy chén trà đè lên. Sau đó, nàng đứng dậy, bước ra khỏi đạo quán…
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 72: Đáp án



Mùa hạ, tháng sáu, trời nóng bức, bầu trời xanh thẳm như được gột rửa, làn gió nhẹ thổi qua người, mang theo chút hơi nóng.

Thi Yến Vi đứng dưới gốc cây quế bên ngoài đạo quán tránh nắng. Đám thị vệ thì giữ khoảng cách xa gần, đứng chờ dưới bóng cây.

Cánh cửa gỗ “két” một tiếng mở ra, Thi Yến Vi nghe thấy liền bung chiếc ô giấy dầu, đứng chờ ngoài cửa.

Lý Lệnh Nghi bước ra, đập vào mắt là hình ảnh một nữ lang đang che ô hoa.

Trên chiếc ô vẽ vài nhành sen lá thanh tao, nét vẽ trong trẻo mà trang nhã.

Nữ lang dưới ô có gương mặt hồng hào, đôi môi đỏ thắm, dung nhan tú lệ, tựa như tiên nữ lạc trần, khiến người nhìn chẳng thể rời mắt.

Lúc này, nàng cũng đang tĩnh lặng quan sát Lý Lệnh Nghi.

Lý Lệnh Nghi đã ngoài ba mươi, song nhờ tâm tư tĩnh tại, ăn uống điều độ, sinh hoạt nề nếp, bảo dưỡng kỹ lưỡng nên thoạt nhìn chỉ như nữ tử đôi mươi. Gương mặt nàng tựa hoa hải đường chớm nở, đôi mày thanh thoát như ngọn núi xa, khí chất ôn hòa như lan, tao nhã như trúc, mang theo vẻ xuất trần thoát tục.

Ánh mắt hai người chạm nhau, Lý Lệnh Nghi mỉm cười dịu dàng, cất giọng ôn hòa:

“Nếu đã là cháu gái của Thẩm lang quân, cứ gọi ta là Lệnh Nghi.”

Nói xong, nàng mời Thi Yến Vi vào trong đạo quan.

Thi Yến Vi thoáng căng thẳng, nghe nàng nói, vội đáp một tiếng “được,” rồi quên cả việc hành lễ, lặng lẽ theo sau nàng tiến vào trong.

“Công… Lệnh Nghi, ta có chuyện muốn nói riêng với cô.” Thi Yến Vi liếc nhìn thị nữ Vọng Tình đứng bên cạnh nàng, rồi ra hiệu cho Úc Kim phía sau mình ngồi lại dưới giàn nho hóng mát.

Lý Lệnh Nghi sống ở đây nhiều năm, từng gặp không ít người. Nhưng dáng vẻ vừa hồi hộp vừa mong chờ như của Thi Yến Vi lại rất hiếm gặp, nụ cười trên môi càng thêm dịu dàng: “Được.”

Nói xong, nàng bảo Vọng Tình lui xuống rồi dẫn Thi Yến Vi vào phòng.

Sau khi khép cửa, Thi Yến Vi nghe rõ từng nhịp tim mình vang dội trong lồng ngực.

Nàng vừa xúc động vừa bối rối, ngồi xuống bên cạnh Lý Lệnh Nghi, khó nhọc thốt ra một câu: “Lệnh Nghi có biết câu “kỳ biến ngẫu bất biến” không?” [1]

[1]

[1] Phần này hình như là câu thường dùng để ghi nhớ công thức lượng giác. Đầy đủ là: “Kỳ biến ngẫu bất biến, dấu cách tử giai hoán”.

Lời vừa dứt, nụ cười trên mặt Lý Lệnh Nghi thoáng ngưng đọng, vẻ mặt trở nên nghiêm túc. Sau một lúc im lặng, nàng hỏi lại:

“Là một công thức lượng giác?”

Thi Yến Vi nghe thế, gần như chắc chắn rằng nàng cũng giống như mình, đều từ hiện đại xuyên không đến.

Cảm giác vui mừng khôn xiết khiến mắt nàng cay cay. Thi Yến Vi kìm nén cảm xúc, ánh mắt ngấn lệ: “Dù không nhớ rõ cách dùng, nhưng nhớ mang máng đó là công thức bổ trợ trong lượng giác.”

Lý Lệnh Nghi cũng chìm trong niềm vui bất ngờ, dù vậy nàng vẫn giữ vẻ điềm tĩnh, nhẹ giọng hỏi: “Mình vẫn chưa biết tên của bạn.”

Cách nàng hỏi không giống với người cổ đại, thay vì hỏi “Không biết nữ lang đây họ gì tên gì?”, nàng lại dùng cách hỏi của người hiện đại.

Thi Yến Vi cũng không dùng lối nói của người xưa nữa, sau một hồi chậm rãi đáp: “Trước kia là Thi Yến Vi, giờ gọi là Dương Sở Âm. Trước khi đến đây, Lệnh Nghi chắc cũng có tên khác nhỉ?”

Đã bao lâu rồi nàng chưa xưng tên ở thời hiện đại trước mặt người khác. Giật mình nhận ra, điều đó đã xảy ra từ rất lâu trước đây, lâu đến mức nàng gần như không còn nhớ nổi nữa.

Sau một thoáng ngẩn ngơ, Lý Lệnh Nghi gật đầu, chậm rãi đáp: “Trước đây, mình là Lương Thiển, giờ là Lý Lệnh Nghi.”

Lương Thiển. Một cái tên vừa đơn giản lại vừa dễ nghe.

Khi mới đến thế giới này, hẳn nàng ấy cũng giống như mình, mang trong lòng những cảm xúc cô độc, hoang mang và lạc lõng. Nghĩ đến đây, lòng Thi Yến Vi dấy lên cảm giác đồng điệu sâu sắc.

Dù quê quán, tỉnh thành có khác nhau, nhưng mối quan hệ giữa họ lúc này đã vượt qua cái gọi là đồng hương.

Trong xã hội phong kiến “ăn thịt người không nhả xương” này, việc gặp được một người giống mình, từng được giáo dục hiện đại, hơn nữa lại cùng giới tính, quả là niềm vui khó diễn tả bằng lời.

“Lương Thiển, sau này mình có thể gọi bạn là Thiển Thiển được không?”

Không hiểu sao, Thi Yến Vi không muốn gọi nàng là Lệnh Nghi. Nàng mơ hồ cảm thấy, nếu Lý Lệnh Nghi thực sự yêu thích thân phận công chúa, thì đã chẳng tu đạo lánh đời.

Đã nhiều năm Lý Lệnh Nghi không nghe ai gọi mình như thế, bất giác nhớ đến những người bạn thời hiện đại, từ bạn thân đến bạn cùng phòng đều thích gọi nàng bằng cái tên ấy. Vì thế, nàng không chút do dự mà đồng ý, giọng nói mang theo ý cười:

“Nếu bạn gọi mình như vậy, mình cũng sẽ gọi bạn là Vi Vi.”

Cảm giác chua xót vì những ký ức cũ theo cuộc trò chuyện nhẹ nhàng dần phai đi, Thi Yến Vi cũng bật cười: “Cũng được, nếu có ai hỏi thì cứ bảo là tên thân mật chúng mình đặt cho nhau.”

Đang nói chuyện, nàng bỗng nhớ đến những chuyện đã trải qua trước khi xuyên không, liền hỏi Lý Lệnh Nghi làm sao lại đến được nơi này.

Lý Lệnh Nghi đáp: “Mình mắc bệnh tim bẩm sinh phức tạp, năm hai mươi lăm tuổi đã không qua nổi lần phẫu thuật thứ hai. Sau khi đến đây, mình từng gặp một đạo trưởng bị què chân. Ông ấy nói với mình rằng mạng này là nhờ cha mẹ mình thành tâm hành thiện suốt hơn hai mươi năm mà có được. Thân phận công chúa trong mắt người nơi đây có lẽ là mệnh phú quý trời sinh, nhưng với người đến từ thời đại kinh tế tri thức như mình, thực ra mình chẳng ưa gì những lễ nghi ràng buộc, nam tôn nữ ti, tam cương ngũ thường… Dẫu có là công chúa cao quý, cũng chỉ là con chim bị nhốt trong lồng son dưới chế độ phụ quyền và phu quyền mà thôi.”

Câu chuyện dần trở nên nặng nề, Thi Yến Vi không ngờ nàng lại thổ lộ nhiều như thế. Ngực nàng thoáng nghẹn lại, không biết phải an ủi thế nào.

Thi Yến Vi còn đang lưỡng lự, lại nghe Lý Lệnh Nghi khẽ nói: “Mình đã đấu tranh với chính mình đủ lâu rồi. Mình thà sống thật với bản thân.”

“Câu nói này là điều mà mình đã nhận ra trước khi quyết định tu đạo, chọn lánh đời. Khi đó, mình từng nghĩ, có lẽ mình nên thuận theo số mệnh, gả cho người mà hoàng đế chỉ định, từ đó sống những ngày tháng phú quý, an nhàn nhưng vô nghĩa, để rồi kết thúc cuộc đời như vậy cũng được.”

“Dù cuộc sống hiện tại dù có phần thanh đạm, vẫn có thể xem là tự tại. Mình mệt thì có thể ngủ, đói thì ăn, buồn chán thì xuống núi dạo chợ, không còn như ngày xưa trong cung bị người ta kè kè suốt ngày, kiềm chế cả tính tình lẫn cử chỉ. Thỉnh thoảng nhớ đến người và chuyện ở hiện đại, không cần gò ép bản thân nữa, cứ thoải mái mà khóc một trận cho thỏa.”

Lý Lệnh Nghi nói xong, Thi Yến Vi dường như vẫn chìm đắm trong những lời ấy, chưa thể bừng tỉnh. Lý Lệnh Nghi nhẹ nhàng vỗ mu bàn tay nàng, hỏi nàng làm sao lại đến nơi này.

Thi Yến Vi kể lại rằng sau khi gặp tai nạn giao thông, vừa mở mắt đã thấy mình nằm trong một căn nhà gỗ cổ xưa, thanh tịnh. Sau đó, nàng gặp Tống Hành, bị hắn ép buộc làm ngoại thất của hắn. Trong thời gian đó, nàng đã hai lần tìm cách bỏ trốn nhưng đều bị hắn bắt về. Mãi cho đến khi a cữu của nguyên thân là Thẩm Kính An đến Triệu quốc, nàng mới có cơ hội thoát khỏi lòng bàn tay hắn.

Trong thời đại này, chỉ có nhan sắc mà không có gia thế, há chẳng phải là một loại khổ nạn sao?

Lý Lệnh Nghi nghe xong, khẽ thở dài một tiếng, trở lại phong thái cổ nhân, an ủi nàng: “May mà tất cả đã qua rồi. Vô cớ phải chịu kiếp nạn này, về sau ắt sẽ khổ tận cam lai, bình an hỉ nhạc.”

Thi Yến Vi đã lâu không dùng cách nói chuyện của người hiện đại, trong phút chốc khó mà chuyển đổi kịp, huống chi sau này còn phải dùng ngôn từ cổ nhiều, sợ rằng sẽ lộ sơ hở trước người khác. Nàng bèn thuận theo, nói theo kiểu cách cổ nhân: “Ta còn nhiều chuyện muốn nói với cô, e rằng phải ở lại đây một thời gian. Nếu cô không chê, cho ta một gian phòng ở lại nhé? Lễ nghĩa qua lại, đợi ít hôm nữa, cô cũng theo ta đến Biện Châu vài ngày được không? Chúng ta ở cùng nhau trò chuyện, nói nói cười cười, ngày tháng trôi qua cũng đỡ buồn chán hơn.”

Lý Lệnh Nghi không bài xích gì với Biện Châu, cũng không có ác cảm với Thẩm Kính An. Lần trước khi đến Biện Châu, Thẩm Kính An sắp xếp chu toàn, để tránh dị nghị, đã đặc biệt bố trí nàng ở biệt phủ ngoài thành. Lần này có Thi Yến Vi đi cùng, nàng có thể ở cùng nàng ấy trong Thẩm phủ, không lo lời ra tiếng vào.

“Được, đợi khi nào cô chán ở đây rồi, ta sẽ cùng cô về Biện Châu một thời gian.”

Đêm đó, hai người dùng xong bữa tối, ngồi dưới giàn nho uống trà, ngắm trăng sao.

Úc Kim sai những thị vệ khỏe mạnh mang đầy nước vào, rồi Vọng Tình dẫn họ tới phòng phía bên để nghỉ ngơi.

Đạo quán này do Ai Đế sai người trùng tu sửa chữa, tuy không quá lớn nhưng cũng không nhỏ, có đủ vài gian phòng, cả phòng thay đồ cũng có hai ba gian, vì vậy nghỉ lại đây cũng khá thuận tiện.

Thi Yến Vi tự mình rửa mặt chải đầu xong, Úc Kim khăng khăng muốn ngủ cùng phòng với nàng. Ban đầu, nàng định ra ngoài nằm trên chiếc sạp thấp để trực đêm, nhưng thấy Úc Kim ngủ như vậy e không thoải mái, Thi Yến Vi đành gọi nàng lên giường ngủ cùng.

Úc Kim nghĩ nàng lần đầu ngủ ở đạo quán trên núi nên có chút không quen, cần có người bên cạnh, liền vui vẻ đồng ý ngay.

Có người để trút bầu tâm sự, tâm trạng Thi Yến Vi trở nên nhẹ nhõm. Nàng không còn nghĩ về những đêm bị Tống Hành áp bức, nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.

Không ngờ rằng, đêm đó nàng lại mơ thấy ba mẹ và Trần Nhượng. Họ cứu trợ động vật hoang dã, triệt sản và xây tổ cho chúng; đến tận vùng núi hẻo lánh giúp đỡ những cô bé không có điều kiện học hành; nhiều lần thành tâm quỳ trước tượng thần, cầu nguyện cho nàng có cơ hội sống lại.

Giấc mơ hiện lên như một cuốn phim quay nhanh, thời gian trôi vùn vụt, chỉ trong chốc lát, tóc ba mẹ đã hoa râm, còn Trần Nhượng cũng bước vào tuổi trung niên.

Dường như anh vẫn chưa kết hôn, vẫn sống một mình. Trong phòng đặt một khung ảnh chụp chung của nàng và Trần Nhượng khi đi biển. Trần Nhượng bước vào phòng, cầm lấy khung ảnh, thì thầm gì đó với người trong ảnh. Thi Yến Vi muốn tiến lại gần để nghe rõ nhưng bất luận cố gắng thế nào, nàng vẫn không thể di chuyển. Nàng như một làn khí vô hình, không hề có thực thể.

Thi Yến Vi nằm trên giường, khóe mắt ướt đẫm, đôi mày nhíu chặt, nắm chặt chăn.

Bỗng nhiên, khung cảnh trong mơ tối sầm lại.

Khi ánh sáng trở lại, căn phòng trước mắt đã biến thành nội điện Triều Nguyên.

Trong khoảnh khắc, Thi Yến Vi kinh hãi đến mất hồn, vội bật dậy khỏi giường, không kịp xỏ giày, gần như dốc hết sức chạy về phía cửa.

Nhưng chưa kịp tới cửa, nàng đã nghe tiếng cánh cửa bị đẩy mở ra.

Tống Hành bước vào, bóng dáng hắn bị ánh sáng phía sau kéo dài, đổ tràn khắp nền.

Tim Thi Yến Vi đập thình thịch, hai chân run rẩy, mềm nhũn, bị hắn từng bước ép về phía giường La Hán sau lưng.

“Âm Nương, nàng định đi đâu?” Giọng nói trầm thấp của hắn vang lên khiến nàng sợ hãi tới nỗi nghẹt thở, da đầu tê dại.

“Đừng lại đây, đừng lại đây!” Thi Yến Vi tuyệt vọng gào lên, vớ lấy chén trà trên bàn nhỏ ném về phía hắn.

Hắn không tránh, mặc chén trà đập vào người, nước trà lạnh thấm ướt y phục nhưng vẫn thản nhiên như không.

“Hôm nay sao Âm Nương lại giận dữ như vậy? Trẫm đến giúp nàng hạ hỏa, được chứ?” Tống Hành vừa nói, vừa cởi đai lưng, dễ dàng trói chặt cổ tay nàng.

Sau đó, hắn thản nhiên cởi bỏ áo bào đen tuyền ngay trước mặt nàng.

Thi Yến Vi hoảng sợ tột độ, nhưng không còn đường lui, chỉ biết nhắm chặt mắt, không dám mở ra nhìn thân hình cao lớn, rắn rỏi như thành đồng vách sắt của hắn.

Tống Hành cúi xuống, bàn tay to lớn kéo váy nàng.

Trên thảm bên cửa sổ, giữa giường, hắn giam cầm nàng, khống chế nàng như muốn đóng đinh nàng xuống đất.

Kiệt sức, nàng không thể kháng cự, chỉ một tay hắn cũng đủ khiến nàng bất lực.

Sợ hãi theo bản năng, nàng lắc đầu liên tục, từ chối chén canh sâm.

“Không, ta không uống…” Thi Yến Vi bật thành tiếng, bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng.

Mồ hôi ướt đẫm áo ngủ, khóe mắt nàng còn đọng lại những giọt nước mắt từ giấc mộng.

Bên cạnh, Úc Kim bị tiếng động đánh thức, lập tức tỉnh táo. Thấy nương tử nhà mình ngồi dậy, tay đặt lên ngực, thở hổn hển, nàng vội vàng xoa lưng trấn an: “Tiểu nương tử gặp ác mộng sao?”

Thi Yến Vi khẽ gật đầu, nhìn ra cửa sổ. Trời vẫn chưa sáng hẳn, nhưng ánh sáng mờ nhạt đã le lói, chắc cũng sắp bình minh.

Úc Kim xuống giường, rót một ly nước lạnh mang tới. Thi Yến Vi đón lấy, cảm ơn rồi nhấp từng ngụm nhỏ. Nàng không còn sợ hãi như lúc nãy nhưng cũng chẳng còn buồn ngủ nữa.

Suốt cả ngày hôm đó, giấc mơ ấy cứ bám lấy nàng, khiến nàng lo lắng Tống Hành sẽ đổi ý, phái người tới bắt nàng về cung.

Dù muốn nói chuyện cùng Lý Lệnh Nghi, nàng lại chẳng thể tập trung, chỉ ngồi im lặng, ánh mắt thẫn thờ.

Thấy bộ dáng thất thần của Thi Yến Vi, Lý Lệnh Nghi không khỏi lên tiếng dò hỏi.

Thi Yến Vi chỉ đáp rằng đêm qua gặp ác mộng, ngoài ra không có gì đáng ngại.

Lý Lệnh Nghi trầm ngâm giây lát, thầm nghĩ có thể khiến nàng bồn chồn lo lắng đến vậy, trên đời này e rằng chỉ có tên quân vương cầm thú kia thôi.

“Người ta thường nói, ngày nghĩ nhiều, đêm mộng mị. Có lẽ Vi Vi vẫn còn mắc kẹt trong những chuyện xưa, tâm không thể yên ổn. Ở đây ta có sẵn giấy bút, nếu không có việc gì, chi bằng chép vài lần kinh tĩnh tâm để lòng tĩnh lặng hơn.”

Không tìm được cách nào khác để khiến lòng mình dịu lại, Thi Yến Vi nghe vậy không dám trái lời. Nàng liền lấy bút mực, thêm nước vào nghiên, rồi cầm bút bắt đầu chép kinh.

Lý Lệnh Nghi đứng bên cạnh nhìn một lát, thấy nàng dần dần bình tâm lại, tập trung vào từng nét chữ, lúc này mới yên lòng rời đi làm việc khác.

Thành Tử Vi, điện Triều Nguyên.

Tống Hành đã phê sổ con suốt cả buổi trưa, đôi mắt không khỏi nhức mỏi, không khỏi cảm thấy nhức mắt, tê tay, bèn đặt bút, bước đến bên cửa sổ.

Đưa tay chạm vào gỗ nơi bệ cửa, hơi nóng truyền đến lòng bàn tay, hẳn là bị ánh nắng gay gắt cả chiều nay nung nóng.

Không biết vì sao, hắn chợt nhớ đến điều gì đó, hình ảnh ngón tay thanh mảnh, búi tóc buông lơi, khuyên tai khẽ lay động, tấm lưng trắng ngần tựa tuyết, tất cả đều tương phản rõ rệt với làn da rám nắng thô ráp của hắn.

Hắn nhớ lại đêm hôm đó, trong chính gian điện này, hắn và nàng thân mật gắn bó, từ trên bàn, giường La Hán cho đến cả tấm thảm. Khắp nơi dường như vẫn còn vương lại hơi thở của nàng.

Nàng mềm mại, thơm hương, hoàn toàn khác biệt với hắn, một kẻ vai u thịt bắp, nhất là khi ở bên cạnh nàng, sự vạm vỡ của hắn càng trở nên dữ tợn đến đáng sợ. Khó trách nàng chưa bao giờ dám nhìn thẳng vào thân hình hắn.

Hắn tự nhủ, lẽ ra không nên tiếp tục nghĩ về nàng. Dù d*c v*ng có sâu đến mấy, cũng chỉ cần nhẫn nhịn thêm ít lâu. Chờ a bà tìm cho hắn một nữ nhi thế gia tài sắc song toàn, tự nhiên sẽ có người hợp ý hắn hơn nàng, có gì đâu mà hắn phải bận lòng như thế nữa.

Nghĩ đến đây, Tống Hành rút tay khỏi bệ cửa, ngồi xuống giường La Hán. Trên bàn nhỏ bên cạnh có đặt một khay đá băng, tỏa ra từng làn khí mát lạnh, đáng lý ra có thể xua đi sự bức bối trong lòng, nhưng không ngờ, ký ức về nàng lại một lần nữa xâm chiếm tâm trí hắn.

Hắn ngồi không yên, do dự hồi lâu, cuối cùng cất giọng ra lệnh cho Trương nội thị chuẩn bị nước lạnh.

Từ khi Dương thượng nghi rời đi đến nay đã hơn một tháng, không biết bao nhiêu lần như thế rồi. Thánh thượng cấm bất kỳ ai nhắc đến chữ “Dương,” còn cố ý tránh mọi thứ liên quan đến cục Thượng Nghi. Bề ngoài tỏ vẻ không bận tâm, nhưng thực chất lại chỉ là tự dối lòng.

Thánh thượng đã bước vào tuổi tam thập nhi lập, Trương nội thị thực lòng mong người sớm thoát khỏi quá khứ, cưới hoàng hậu, nạp phi tần, để con cháu đầy đàn, củng cố quốc bản.

Khi nước đã chuẩn bị xong, Tống Hành không cho ai hầu hạ, tự mình cởi bỏ long bào vàng rực. Y phục hôm nay không phải bộ y phục đêm đó, nhưng khi thoáng nhìn qua, hình ảnh cũ lại hiện rõ mồn một, thôi thúc hắn quỳ xuống đất.

Hắn hồi tưởng tấm lưng trần trắng muốt như nam châu, thở trở nên gấp gáp, không sao dập tắt nổi ngọn lửa đang bùng cháy trong lòng. Cuối cùng vì không thể đè nén, hắn sa vào những ảo tưởng trụy lạc, khép dần ngón tay.

Tuy nhiên, bàn tay ấy vẫn không thể nào ngừng lại.

Cũng khó trách, lúc ở Thái Nguyên, nàng luôn chỉ biết khóc.

Hắn thật đáng chết, chưa từng một lần nghĩ tới nàng, lúc đó, nàng hẳn là rất sợ hắn, phải không?

Tống Hành khẽ nhắm mắt, lẩm bẩm với không trung: “Trước đây là trẫm không tốt, Âm Nương đánh trẫm chút để xả giận, được không?”

Qua một lúc lâu, Tống Hành mới cắn răng, phát ra một tiếng gầm thấp.

Hoàng bào vàng thắm, đã dính đầy sương trắng.

Sau cơn cuồng vọng, Tống Hành lại tự giận bản thân vì đã không kiểm soát được mình.

Một nữ gian dối trá như nàng, đâu đáng để hắn day dứt như vậy?

Nàng coi thường hắn, nhưng bên ngoài có vô số nữ nhân nguyện làm phi tần của hắn, sinh con nối dõi cho hắn.

Hắn nghĩ đến nước Ngụy lẫn nước Sở phía nam, quốc chủ đều đã quá tuổi ngũ tuần, làm sao có thể so với hắn, một vị hoàng đế đang tuổi tráng niên?

Nàng rời bỏ hắn, tuyệt đối không thể tìm được nam lang nào tốt hơn hắn.

Ngoài hắn ra, cũng chẳng ai có thể mang đến cho nàng quyền thế tối thượng.

Hắn sẽ khiến nàng hiểu rõ quyết định rời bỏ hắn ngày ấy ngu xuẩn đến nhường nào.

Hắn nhất định sẽ quên nàng triệt để, dù cho nàng có khóc lóc, quỳ gối cầu xin trước mặt hắn, hắn cũng sẽ không mảy may dao động.

Nghĩ vậy, Tống Hành bước vào bồn tắm, dòng nước mát lạnh ngập đến eo, cơn bực bội dần tan biến.

Trương nội thị rất tinh ý, đã chuẩn bị sẵn bộ áo lót do chính tay Thi Yến Vi khâu.

Dù bề ngoài Thánh thượng tỏ ra chê bai, nhưng lần nào tắm xong cũng chỉ mặc chúng mới có thể bình tâm lại. Nếu không, ban đêm người khó lòng yên giấc.

Y phục Dương thượng nghi để lại, Thánh thượng không cho cung nhân đụng vào, đích thân thu dọn mang về điện Triều Nguyên, giờ đang nằm im lìm trong tủ áo.

Trương nội thị chờ bên ngoài phòng tắm, đợi Tống Hành ra, hỏi hắn muốn về tiền điện hay nội điện.

Tống Hành vẫn còn công vụ chưa xử lý xong nên đi về phía tiền điện.

Đến gần canh ba, (~23h) Tống Hành mới quay lại nội điện nghỉ ngơi.

Bảo Sênh đã quan sát mấy ngày nay, thấy cảm xúc của Thánh thượng ổn định, hàng ngày hoặc gặp đại thần, hoặc phê duyệt tấu chương, nghĩ rằng hẳn đã quên Dương nương tử, liền đi đường tắt đến cung Thái hoàng thái hậu.

Thái hoàng thái hậu nghe xong, tâm trạng thoải mái hơn, liền chỉnh lý danh sách đã chọn, để Tống Vi Lan xem qua một lượt. Trước bữa tối, bà sai Sơ Vũ tới điện Triều Nguyên, mời Thánh thượng tới dùng bữa.

Tống Hành đã hai, ba ngày không đến vấn an Thái hoàng thái hậu, nên khi Sơ Vũ đến mời, hắn không từ chối, xử lý xong tấu chương liền lên kiệu đến điện Huy Du.

Nghe nội thị truyền báo, Thái hoàng thái hậu vẫn ngồi yên, Tống Vi Lan đứng dậy.

Tống Hành trước tiên vấn an Thái hoàng thái hậu, rồi gọi Tống Vi Lan một tiếng “hoàng cô”, bảo nàng không cần đa lễ.

Sau bữa tối, ba người súc miệng rửa tay, Thái hoàng thái hậu bảo Sơ Vũ lấy bức họa ra, lần lượt giới thiệu những người bà đã chọn kỹ càng.

So với lần đầu tiên giới thiệu, số lượng lần này giảm hơn một nửa, đều là con gái nhà thế gia vọng tộc, tài sắc, phẩm hạnh không thiếu thứ gì.

Tống Hành xem qua, chỉ thấy họ như cùng một khuôn mặt, liền tùy ý chỉ năm, sáu người, rồi viện cớ còn việc triều chính còn tồn đọng, để rời điện Huy Du.

Mấy ngày nay, Thi Yến Vi chép kinh tĩnh tâm, quả nhiên lòng dạ thư thái hơn, không còn gặp những cơn ác mộng kinh hoàng nữa. Mỗi ngày nàng trò chuyện, uống trà với Lý Lệnh Nghi, cùng nàng xuống núi dạo chợ, thưởng thức các món ăn và đặc sản ở Tuyên Châu.

Chiều hôm ấy, Thi Yến Vi đội mũ sa xuống núi, thấy dưới lều mát có người b*n n**c ngọt ướp lạnh và dưa ướp đá, nhìn rất hấp dẫn. Sau khi hỏi giá, nàng nhoẻn miệng cười, bảo Úc Kim cùng vài thị vệ tìm chỗ ngồi, mọi người cùng nếm thử.

Úc Kim vốn là người cẩn thận, thấy Thi Yến Vi từ ngày vào phủ đến nay không hề thấy nguyệt tín ghé qua, nghi ngờ cơ thể nàng không tốt, liền khuyên nên bớt ăn đồ lạnh. Đợi về Biện Châu, nhất định phải mời một y công giỏi về phụ khoa đến khám.

Thi Yến Vi do uống nhiều thuốc, thêm vào hàn khí nhập thể, vì lo ngại mang thai nên không dám uống thuốc điều hòa, kỳ kinh nguyệt rối loạn cũng đã lâu, chưa khi nào đến đúng ngày cả. Sau đó nàng vào cung nước Triệu làm Thượng nghi, tần suất hành phòng cũng không nhiều như trước, chưa kể Tống Hành chưa khi nào dám để lọt vào trong, nên cũng không lo chuyện có thai.

Tuy nhiên, hiện tại nàng đã có a cữu che chở, lại đang ở trong địa phận nước Ngụy, cũng có thể xem xét việc điều dưỡng cơ thể. Nếu cứ kéo dài tình trạng này, mỗi khi đến kỳ kinh nguyệt không chỉ đau bụng khó chịu mà e rằng còn ảnh hưởng đến sức khỏe.

Thi Yến Vi đã có chủ ý, không dám tham ăn, chỉ nhấp nhẹ nửa bát rồi dừng lại, sau đó mua một miếng dưa ướp đá nhỏ. Nàng cảm thấy loại quả này tuy không đỏ mọng như thời hiện đại, vị cũng chẳng ngọt ngon bằng, nhưng ở thời đại này có thể thưởng thức được như thế đã là hiếm có. Trả tiền xong, nàng không đi đâu thêm, chỉ ghé qua chợ mua cả một quả lớn, mang về cho Lý Lệnh Nghi và Vọng Tình cùng thưởng thức.

Mùa hạ nóng nực, Thái hoàng thái hậu cho gọi Lưu thượng cung, dặn bà nghĩ ra một cái cớ để mời các quý nữ vào hưu mộc giữa tháng này đến cung dự yến.

Lưu Thượng cung đề xuất rằng tháng sáu là mùa thưởng sen, không cần dùng món chính mà thay bằng chè đậu xanh, núi hạt dẻ, dưa lạnh và nước mơ chua.

Thái hoàng thái hậu nghe xong rất hài lòng, liền giao cho Lưu Thượng cung sắp xếp người lo liệu.

Sau khi Thi Yến Vi rời đi, vị trí Thượng nghi cũng để trống, Lưu thượng cung có ý nâng đỡ Dao Tư tán, liền giao việc này cho nàng cùng với Vương Thượng nghi phụ trách.

Ngày hai mươi tháng sau, hưu mộc.

Từ sáng sớm, Tống Hành đã nhận được lời mời của Thái hoàng thái hậu, dặn hắn trưa nay đến hồ Cửu Châu ngắm sen.

Hắn vì nhiều năm hành quân đánh trận bên ngoài nên không sợ nóng, nhưng nghĩ tới việc gặp nhiều nữ lang cùng một lúc lại cảm thấy lười nhác, nấn ná cạnh thùng băng mãi đến gần giờ mới ngồi lên bộ liễn, hướng về hồ Cửu Châu.

Khi Tống Hành tới nơi, các quý nữ đã chờ trong thủy tạ từ lâu. Thấy hắn xuống kiệu, họ đồng loạt đứng dậy, tiến tới bậc thềm hành lễ.

Một cơn gió thoảng qua, mang theo hương sen nhè nhẹ, hòa lẫn với mùi hương phấn thoảng trên người các quý nữ. Tống Hành vốn không thích mùi hương nồng, khẽ nhíu mày khó nhận ra, ánh mắt lướt nhanh qua mà không dừng lại ở ai. Hắn thản nhiên nói:

“Đã là Thái hoàng thái hậu cho gọi các ngươi đến đây, không cần quá câu nệ phép tắc.”

Dứt lời, hắn bước chân dài, đi thẳng vào thủy tạ, thong thả ngồi xuống ghế cao chính giữa.

Thái hoàng thái hậu thấy hắn chỉ chăm chú uống trà, chẳng buồn trò chuyện, sắc mặt thoáng trầm, liền sai người mang bánh tô sơn lên. [2]

[2][2] tô sơn: là loại kem của thời nhà Đường.

Cung nhân trước tiên dâng bánh cho Tống Hành và Thái hoàng thái hậu. Nhìn lướt qua các nữ nhân bên dưới, bà mỉm cười nói với hắn: “Bánh tô sơn này làm từ sữa tươi và quả tươi rưới lên đá bào, ngọt mát thanh tao, rất hợp giải nhiệt. Thánh thượng dùng thử một chút xem sao.”

Tống Hành vốn không thích đồ ngọt, nhưng cũng chẳng tiện làm mất lòng Thái hoàng thái hậu, chỉ nhẹ nhàng “ừ” một tiếng, cầm thìa nếm qua.

Lần gần đây nhất hắn ăn đồ ngọt, là tết Thượng Nguyên, cùng nữ gian kia ăn đường viên.

Lời nàng khi ấy vẫn còn văng vẳng bên tai: Phải cho thêm chút rượu nếp, ăn mới không ngấy.

Nghĩ đến đây, động tác cầm thìa của hắn khẽ khựng lại. Ngước mắt lên nhìn các quý nữ, thấy họ dù ăn uống đoan trang, nhưng dáng vẻ lại có phần thích thú. Hắn bất giác tự hỏi: Nàng liệu có thích bánh tô sơn? Ba năm qua, mỗi dịp hè nàng không ở bên hắn, liệu nàng có tự mình đi mua tô sơn không?

Ánh mắt hắn dừng lại ở bát bánh trước mặt một quý nữ, nhưng không phải nhìn nàng mà là nhìn chằm chằm vào món bánh.

Sữa tươi rưới trên đá bào sao sánh được làn da trắng như tuyết của nàng? Nghĩ đến dáng vẻ nàng ăn bánh, hẳn là đôi môi hồng khẽ mở, từng miếng nhỏ nhắn chậm rãi đưa vào miệng. Đôi môi ấy mềm mại, nhỏ xinh, ăn nhiều chắc chẳng nổi, nhưng những món ăn nhẹ như thế lại rất hợp với nàng.

Thái hoàng thái hậu nhận thấy ánh mắt Tống Hành đang dừng ở đâu đó, liền nhìn theo. Bà trông thấy một gương mặt quả hạnh bầu bĩnh, tuy không mạo mỹ thoát tục như nữ tử họ Dương kia nhưng vẫn là một nữ lang thanh tú động lòng người. Nhìn nàng có vẻ nhỏ tuổi hơn, lớn lên ắt sẽ càng thêm phần xinh đẹp.

Nàng là nữ lang nhà ai? Thái hoàng thái hậu đã có tuổi, trí nhớ không còn được như trước, bà thoáng nghĩ, rồi nghiêng đầu hỏi nhỏ Tống Vi Lan bên cạnh.

Tống Vi Lan mỉm cười, đáp khẽ: “A nương, đó là tiểu nữ nhi của Hiển Quốc công, ở nhà xếp hàng thứ tư.”

Thái hoàng thái hậu gật gù: “Ồ,” một tiếng, lại dùng ánh mắt lại dò xét dáng vóc nàng, cảm thấy nàng khỏe mạnh hơn hẳn so với Dương thị, sắc mặt hồng hào, vóc dáng đầy đặn.

Trần Thư Ngưng cảm giác có người đang nhìn mình, liền ngẩng đầu lên. Nàng phát hiện đó là Thái hoàng thái hậu, còn Thánh thượng dường như cũng nhìn về phía nàng, nhưng ánh mắt lại như đang chăm chú nhìn vào bát tô sơn ở trên bàn chứ không phải nhìn nàng.

Chẳng phải Thánh thượng cũng có một bát đó sao, sao lại nhìn bát của nàng? Hay là người thấy bát của nàng có vẻ ngon hơn?

Thái hoàng thái hậu thấy mình bị bắt gặp, bèn thản nhiên quay đi, ánh mắt dừng ở đóa mẫu đơn tịnh đế thêu trên bức bình phong gần đó.

Trương nội thị lặng lẽ đứng sau lưng Tống Hành, ánh mắt thoáng lo lắng khi thấy bát bánh sơn trên bàn chỉ mới động một chút, còn người thì lại đăm chiêu, nhìn về xa xăm. Hắn liền khẽ ho một tiếng, che miệng nhắc nhở:

“Thánh thượng, bánh của người sắp tan rồi.”

Tống Hành giật mình bừng tỉnh, nhớ ra hôm nay là dịp chọn phi tần, nhưng lòng lại tràn ngập hình bóng nàng. Chẳng lẽ nàng là nữ tử Miêu Cương, trước đây đã hạ cổ độc lên người hắn?

Nghĩ lại thấy buồn cười, nếu nàng thật sự hạ cổ, chắc hẳn cũng phải là loại cổ chí mạng, có thể lấy mạng hắn chứ không thể nào lại hạ cổ tình.

Tống Hành khẽ cười tự giễu, không chạm thêm vào bát bánh, rót cho mình chén trà nhạt, chậm rãi thưởng thức.

Thái hoàng thái hậu, sau khi quan sát kỹ Trần Thư Ngưng, lại chuyển mắt nhìn Tống Hành. Thấy hắn từ đầu đến cuối chẳng buồn liếc qua bất kỳ nữ lang nào khác, bà ngầm hiểu rằng tâm tư hắn đã đặt vào tiểu nữ nhi của Hiển Quốc công.

Tiệc tàn, Thái hoàng thái hậu giữ Tống Hành lại nói chuyện.

“Có phải đã Thánh thượng để mắt đến Trần Tứ nương của phủ Hiển Quốc công rồi không?” Vừa hỏi, ánh mắt bà vừa hướng về chỗ Trần Thư Ngưng từng ngồi.

Tống Hành không nhớ rõ diện mạo nàng, thậm chí cũng chẳng để tâm. Nhưng bốn chữ “Hiển Quốc công phủ” lại để lại ấn tượng khá tốt.

Hiển Quốc công Trần Khiên, từng giữ chức tể tướng triều trước, nổi danh cương trực, không kết bè kéo cánh, là bậc thanh lưu trong triều. Chính các mưu thần dưới trướng hắn phải tốn không ít công sức mới thuyết phục được Trần Khiên quy thuận Triệu quốc.

Một người như Trần Khiên, chính trực liêm khiết, hẳn không thể dạy ra một nữ nhi kiêu căng, ngạo mạn, tâm địa bất chính.

Hậu cung, chỉ cần một nữ nhân hiền lương, đủ khả năng quản lý chu toàn, giúp hắn bớt đi lo nghĩ, là ai cũng không khác biệt.

Nếu a bà đã hỏi vậy tức cũng cảm thấy nàng là người thích hợp.

Tống Hành nghĩ như thế, nhưng vẫn không thể thuận miệng nói rằng mình có cảm tình với nàng. Hắn cân nhắc một hồi, cuối cùng hời hợt đáp: “Nếu a bà cảm thấy nàng phù hợp, hưu mộc lần tới, cứ mời nàng đến điện Huy Du uống trà là được.”

Thái độ tuy có chút lãnh đạm, nhưng cũng không đến mức dửng dưng như trước. Thái hoàng thái hậu nghe xong, lòng tràn đầy hy vọng, vội vàng gật đầu đồng ý. Sau khi Tống Hành rời đi, bà liền sai người điều tra cặn kẽ tính tình của Trần Tứ nương.

Từ khi Thi Yến Vi rời khỏi Triệu quốc, Tống Hành hiếm khi bước chân ra khỏi điện Triều Nguyên, ngoài việc đi tuần tra quân doanh và đích thân huấn luyện binh sĩ, hắn đều vùi mình trong công vụ.

Như hôm nay, tuy mười ngày mới đến một ngày hưu mộc, hắn cũng chỉ sáng sớm luyện kiếm, dùng qua bữa rồi lại quay về nội điện phê duyệt tấu chương.

Kể từ lúc trở về từ hồ Cửu Châu Trì, sắc mặt người vẫn chẳng chút vui vẻ, tựa hồ từ ngày Dương Thượng Nghi theo Vũ An Hầu rời đi, chưa khi nào Thánh thượng nở nụ cười lần nữa.

Trương nội thị nhìn thấy cảnh ấy mà lo lắng không yên, trong lòng thầm nghĩ nếu cứ kéo dài như vậy, e rằng Thánh thượng sẽ sinh bệnh mất thôi. Vốn hy vọng hôm nay gặp vài tiểu thư xinh đẹp sẽ giúp người khuây khỏa, nào ngờ về rồi tâm trạng lại càng ủ dột hơn.

Thấm thoắt đã mười ngày trôi qua.

Ngày mùng một tháng bảy.

Thái hoàng thái hậu đặc biệt triệu Trần Tứ nương đến điện Huy Du uống trà.

Trước đó, lời đồn về việc Thánh thượng chọn phi đã lan truyền khắp nơi. Nay Thái hoàng thái hậu lại đích thân triệu kiến một mình nàng, cho dù là kẻ ngốc cũng có thể hiểu rõ hàm ý trong chuyện này.

Hiển Quốc công gia, Trần Khiên, vốn nghe danh Tống Hành không gần nữ sắc, tâm tư khó lường, không hề có ý định kết thân với hoàng thất. Nay hay tin tiểu nữ được triệu vào cung, ông chẳng xem đó là điều đáng mừng, trái lại càng thêm lo lắng. Khi Trần Thư Ngưng sửa soạn lên đường, ông đã dặn dò không dưới ba lần, rằng nàng phải ăn nói cẩn trọng, tuyệt đối không được đắc tội với những bậc quý nhân trong cung.

Trần Thư Ngưng vốn là người lanh lợi tùy hứng, không mấy ưa thích những quy củ ràng buộc trong cung. Nhớ lại lần trước dự yến, nàng chẳng buồn hé lời với bất kỳ ai quen biết ngồi cạnh, bởi thế càng thêm chán ngán nơi này.

Nàng vốn nghĩ bản thân không phải người nổi bật nhất trong số các quý nữ kia, Thái hoàng thái hậu và Thánh thượng hẳn sẽ không để ý đến mình. Nào ngờ, lần này Thái hoàng thái hậu lại chỉ đích danh nàng, mời một mình nàng đến uống trà.

Không có ai quen biết, chỉ nghĩ đến điều này thôi nàng đã cảm thấy bất an, không biết phải làm thế nào cho phải.

Khi vào cung, cung nhân tại điện Huy Du mở cửa mời nàng vào. Trần Thư Ngưng bước đến, chắp tay trước ngực quỳ gối, cung kính hành lễ.

Thái hoàng thái hậu vẫn giữ vẻ hòa nhã, còn vị Thánh thượng bên cạnh bà, sắc mặt tựa băng tuyết, lạnh lẽo đủ khiến người ta đông cứng.

Lần đầu đối diện áp lực lớn như vậy, Trần Thư Ngưng từ một người có tính cách hoạt bát bỗng trở nên rụt rè, thận trọng, không dám nhiều lời.

Mãi cho đến khi Thái hoàng thái hậu khẽ mỉm cười, hỏi nàng có biết pha trà hay không, nàng mới hoàn hồn, cung kính trả lời.

Thái hoàng thái hậu bèn sai người mang đủ bộ dụng cụ pha trà đến, bảo nàng pha một ấm trà để mọi người cùng thưởng thức.

Trần Thư Ngưng lập tức làm theo, cẩn thận pha trà rồi rót vào ba chén. Nàng dâng chén đầu tiên cho Thái hoàng thái hậu, kế đến là Thánh thượng và Tống Vi Lan.

Thái hoàng thái hậu liền hỏi sao không dâng Thánh thượng trước. Trần Thư Ngưng liền đáp các triều đại Trung Nguyên lấy xưa nay đều dùng hiếu đạo trị quốc. Thánh thượng kính trọng Thái hoàng thái hậu, triều thần đều đa tỏ tường. Hơn nữa, Thánh thượng vừa dùng trà lạnh, hẳn cũng không vội dùng trà nóng ngay.

“Thật là đứa trẻ tinh tế.” Thái hoàng thái hậu khen ngợi, rồi quay nhìn Tống Hành và Tống Vi Lan, thì thấy sắc mặt Tống Hành vẫn bình thản, trong khi Tống Vi Lan khẽ gật đầu tán thưởng, rõ ràng cũng cảm thấy nàng không tệ.

Thái hoàng thái hậu rất hài lòng, bèn giữ nàng lại dùng bữa tối trong cung, rồi bảo Tống Hành đưa nàng đi dạo, ngắm hoa tử vi đang nở rộ trong ngự hoa viên.

Tống Hành chẳng hề có ấn tượng đặc biệt nào với nàng, hắn chỉ làm theo ý Thái hoàng thái hậu, không chút để tâm.

Về phía Trần Thư Ngưng, phải ở cùng hắn khiến nàng cảm thấy vô cùng gò bó. Sau khi dạo một vòng quanh hoa viên, hai người trở lại điện Huy Du, trước khi trời tối, Thái hoàng thái hậu sai người tiễn nàng xuất cung.

Khi ấy, Tống Vi Lan vẫn ngồi trong điện, Thái hoàng thái hậu không kiêng dè gì, trực tiếp hỏi Tống Hành thấy vị Trần tứ nương này thế nào.

Tống Hành trầm tư hồi lâu, không thể đưa ra quyết định.

Thái hoàng thái hậu có chút mất kiên nhẫn, khẽ nhíu đôi mày bạc: “Nhị lang, chẳng lẽ cháu vẫn còn nhớ đến nữ tử họ Dương kia?”

Nữ tử họ Dương mà a nương vừa nhắc đến chính là cháu hái kẻ đã hại chết Đại lang.

Tống Vi Lan nhớ đến trưởng tử chết dưới đao Thẩm Kính An khi còn chưa tròn hai mươi lăm tuổi, không khỏi nghiến răng căm phẫn. Ngón tay nàng siết chặt lấy chén trà trong tay, hơi thở gấp gáp, lời nói bật ra khỏi miệng mà không kịp giữ ý, thậm chí quên cả quy củ, gọi thẳng Tống Hành là “Nhị lang”.

“Nhị lang vẫn còn nhớ đến cháu gái của tướng quân nước Ngụy sao?! Khi xưa, Thừa Sách từng cùng Nhị lang đọc sách, luyện võ. Nó luôn kính trọng biểu huynh của mình nhất…”

Lời chưa dứt, ánh mắt nghiêm nghị của Thái hoàng thái hậu đã lạnh lùng liếc qua, ra hiệu cho nàng im lặng, chớ buông lời hồ đồ thêm nữa.

Sắc mặt Tống Hành càng thêm âm trầm. Sau một hồi tĩnh lặng kéo dài, giọng nói trầm thấp của nam lang chợt vang lên: “Trẫm sẽ lập nàng làm hoàng hậu. Đồng thời, xin nhờ a bà chọn thêm bốn nữ lang để lấp đầy vị trí tứ phi.”

Đêm ấy, Tống Hành thức đến khuya để tự tay viết thánh chỉ, nhưng khi đến bước đóng ngọc tỷ, hắn lại chần chừ mãi, không hạ tay.

Bất giác, trong tâm trí hắn hiện lên hình ảnh nữ lang từng cầm ngọc tỷ với đôi tay thon dài, trắng ngần. Nàng ngồi trong lòng hắn, ánh mắt tập trung như đang nghĩ ngợi điều gì đó.

Hắn từng nói sẽ tặng nàng ngọc tỷ truyền quốc để nàng tùy ý chơi đùa. Nàng khi ấy đã quay đầu nhìn hắn, ánh mắt như sao trời rực sáng, soi thẳng tận đáy lòng hắn.

Cơn đau âm ỉ nơi thái dương khiến Tống Hành khẽ cau mày. Hắn đóng nắp hộp cất ngọc tỷ lại, đặt thánh chỉ sang một bên chờ mực khô.

Đêm đó, hắn tiếp tục phê duyệt tấu chương đến tận canh ba mới đi nghỉ.

Sáng hôm sau, Tống Hành sai Khâm Thiên Giám tính toán ngày lành để lập hậu.

Ba ngày sau, Khâm Thiên Giám đưa ra dự báo. Tin này cũng lập tức truyền đến tai Thái hoàng thái hậu.

Tống Vi Lan nói: “Lần này Nhị lang chắc chắn sẽ đưa ra quyết định. Sáng mai thánh chỉ nhất định sẽ được ban xuống.”

Thái hoàng thái hậu dù vẻ ngoài điềm tĩnh, nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm không yên, chỉ khẽ đáp: “Hy vọng là vậy.”

Tại điện Triều Nguyên.

Tống Hành đã điền ngày tháng vào thánh chỉ, nhưng lại chưa đóng ngọc tỷ.

Hắn nghĩ: “Đợi đến sáng mai rồi đóng cũng chưa muộn.”

Nghĩ xong, hắn đắt thánh chỉ sang một bên, hoàn tất công việc còn lại rồi lên giường đi ngủ.

Những ngày gần đây, hắn ép bản thân không được nghĩ đến nữ gian chuyên lừa gạt kia, bận rộn với quốc sự, chẳng để tâm đến bất kỳ chuyện nào khác.

Trong giấc mơ, điện Triều Nguyên hiện lên tràn ngập đèn hoa, không khí rộn ràng náo nhiệt.

Tống Hành đẩy cửa bước vào, cảnh tượng trước mắt khiến hắn lặng người.

Trên chiếc giường lớn, một nữ lang vận hôn phục màu xanh lục đang an tĩnh ngồi đó.

Tim hắn bỗng đập mạnh, lòng bàn tay rịn mồ hôi.

Nữ lang ngồi trên giường dường như cảm nhận được có người đang tới gần, khẽ nghiêng mình, nhẹ nhàng gạt chiếc quạt che mặt ra, nở nụ cười nhàn nhạt.

Khuôn mặt xa lạ của nàng hiện lên khiến Tống Hành kinh hãi, cả người như rơi vào hố băng.

Nàng là ai?

Hắn cố gắng nhớ lại. Đúng rồi, nàng là con gái của Trần Khiên, nhưng hắn không tài nào nhớ được dung mạo hay tên tuổi của nàng.

Thực sự phải cưới nàng sao? Hắn tự hỏi đi hỏi lại trong lòng.

Chỉ sau một thoáng, hắn đã tìm ra câu trả lời.

Không phải nàng. Người hắn muốn cưới không phải là nàng, người hắn muốn gặp cũng không phải là nàng.

Bất chợt, mộng cảnh chuyển về biệt viện trước khi hắn đăng cơ.

“Quỳ Ngưu Nô.”

Thanh âm trong trẻo của một nữ lang vang lên bên tai, khiến đôi mắt Tống Hành sáng rõ. Hắn quay đầu tìm kiếm nơi phát ra giọng nói.

Dưới ánh nến lung linh, người con gái mà hắn ngày đêm mong nhớ đang ngồi trên ghế nguyệt nha. Nàng vận váy lụa quế hoa, đôi mắt hoa đào long lanh nhìn hắn, ánh lên tình ý dạt dào.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 73: Quyết tâm



Ánh trăng lan tràn qua song cửa, hòa quyện cùng ánh nến cam vàng, nhưng tất cả ánh sáng ấy đều không thể sánh bằng dung nhan rực rỡ của nàng.

Phải rồi, người mà hắn muốn gặp là nàng. Hắn muốn nhìn thấy nàng mặc lục y gả cho hắn, trở thành tân nương của hắn.

Ngoài nàng ra, chẳng có bất kỳ nữ lang nào có thể khiến ánh mắt hắn lưu luyến.

Phản ứng từ sâu thẳm bản năng không thể lừa dối, Tống Hành chẳng cách nào tự lừa mình dối người.

Hắn không muốn cùng bất kỳ ai khác làm chuyện thân mật, cơ thể không hề khơi dậy chút hứng thú nào, chỉ duy nhất với Âm Nương, hắn mới khát khao điều đó.

Lẽ ra hắn nên nhận ra điều này từ sớm. Ba năm qua, rõ ràng hắn chưa từng chạm vào nữ lang nào khác ngoài nàng. Dù khi xuất chinh bên ngoài, nghe các tướng sĩ thường tụ họp đàm luận về thú vui x*c th*t, hay những lần hành quân ngang qua các thành trấn, không ít người tìm đến chốn phong nguyệt để giải tỏa nhu cầu, nhưng hắn chưa bao giờ nghĩ đến việc tìm ai khác.

Trước khi gặp Âm Nương, hắn vốn không ưa thích những chuyện như vậy, thậm chí xem đó là sự lãng phí thời gian. Nhưng từ lúc hắn động lòng với nàng, từ khi cơ thể hắn được nàng chạm tới, hắn mới hiểu được niềm vui của chuyện ** *n. Kể từ đó, cả thân thể lẫn trái tim hắn đều chỉ mong có nàng, không dung nạp nổi bất kỳ ai.

Nếu nàng muốn, hắn nguyện dâng cả hậu vị cho nàng.

“Âm Nương…” Tống Hành cất tiếng gọi đầy trìu mến, chưa đợi nàng phản ứng, hắn đã sải bước đến gần.

Nữ nhân ngày đêm mong nhớ nay đứng ngay trước mắt, Tống Hành chẳng thể nào đè nén nỗi nhớ nhung. Đôi cánh tay rắn rỏi vòng qua eo nàng, siết chặt.

Hắn cúi người, ghé sát bên tai nàng, thì thầm hắn thích nàng đến mức nào, rồi cầu xin nàng cũng thích hắn dù chỉ một chút.

Nàng lặng lẽ nghe hắn nói hết, rất lâu sau vẫn không đáp lại chữ “được” mà hắn hằng mong đợi.

Dẫu là trong mộng, nàng cũng không chịu đồng ý.

Tim hắn nặng trĩu, sống mũi cay xè.

“Ta… thật có lỗi, ngày trước là ta đã làm nàng đau, khiến nàng tổn thương, buồn khổ. Ta thật sự có lỗi… về sau tuyệt đối sẽ không như vậy nữa… Âm Nương, tha thứ cho ta được không?”

Lời vừa dứt, gian phòng tĩnh lặng như tờ. Một hồi lâu sau, nàng vẫn im lặng, như con rối vô hồn để mặc hắn điều khiển.

Hắn đã từng phạm không ít sai lầm, gây cho nàng biết bao tổn thương. Nàng làm sao có thể dễ dàng tha thứ? Hắn vẫn nghĩ rằng ngày tháng phía trước còn dài, chỉ cần hắn hết lòng bù đắp, nàng nhất định sẽ nguôi ngoai mà ở lại bên hắn. Nhưng không ngờ, nàng lại căm ghét hắn đến vậy, hằng ngày chỉ mong thoát khỏi hắn, ra đi dứt khoát không lời từ biệt.

Nàng chỉ để lại cho hắn vẻn vẹn một chữ “được”.

Tống Hành không muốn nghĩ thêm về những điều đau lòng ấy nữa.

“Âm Nương…” Tống Hành khẽ gọi, tay vuốt nhẹ lên mái tóc đen nhánh của nàng, rồi lướt xuống gò má.

Thấy nàng không đẩy hắn ra, trái tim hắn thoáng trở nên nhẹ nhõm. Hắn nhẹ nhàng bế nàng lên, đôi môi mỏng áp lên đôi môi nàng, từ tốn tách ra, đưa lưỡi vào khẽ chạm đến đầu lưỡi nàng, nụ hôn tràn đầy yêu thương và quấn quýt.

Không biết từ lúc nào, nàng đã bị hắn đặt lên bàn trang điểm, tà váy bị hắn kéo cao đến tận eo.

Tống Hành rời môi nàng, cúi mình trước mặt nàng, giúp nàng gợi lên cảm xúc.

Chẳng bao lâu sau, đôi mắt nàng vì sự chăm sóc dịu dàng của hắn mà ngấn nước, rơi xuống những giọt sương ngọc.

Hắn tháo đai ngọc, chống hai tay lên bàn, chậm rãi tiến tới, cho nàng thời gian thích nghi, không còn sợ hãi hay kháng cự như trước.

Đôi mắt ngập nước của nàng đối diện với ánh nhìn cháy bỏng của hắn.

“Âm Nương…” Hắn tiến lại gần, rời khỏi án thư, bàn tay rắn rỏi nắm lấy mười ngón tay nàng, đôi môi mỏng đặt lên mi tâm nàng, cố gắng kiềm chế h*m m**n cùng lực đạo.

Nhưng sự kìm nén ấy không làm dịu đi cảm giác nóng bức trong người hắn, khó chịu như con kiến bò trên chảo nóng.

Nước mắt nàng bắt đầu rơi, như những hạt mưa nhỏ từng chút đập thẳng vào trái tim hắn.

Tống Hành nhẫn nhịn đến mức đôi mắt cũng muốn đỏ lên, làn da rám nắng tỏa ra hơi nóng, dòng máu trong người sôi sục, thôi thúc hắn tìm ra lối thoát.

Cảm giác lơ lửng giữa chừng này khiến nàng cũng khổ sở, không biết bản thân mình muốn gì, chỉ thấy cơ thể nóng bức vô cùng. Rõ ràng hắn cũng đang tỏa nhiệt, nhưng nàng lại cảm thấy hơi thở của hắn mang theo chút cảm giác lành lạnh, như có thể xoa dịu cơn khô nóng, liền vô thức nép sát vào hắn. Không biết từ khi nào, nàng đã quấn chặt lấy hắn như dây leo ôm lấy thân cây.

Nàng cần hắn. Tống Hành vô cùng kinh ngạc lẫn vui mừng. Trong đôi mắt phượng như lóe lên ánh sáng, hắn thành kính hôn lên giữa đôi mày nàng, siết chặt mười ngón tay đan vào nhau, từng bước dẫn dắt.

Chợt, nàng phát ra tiếng rên khẽ…

Tống Hành lau nước mắt nơi đuôi mắt nàng, dịu giọng dỗ dành: “Ta sẽ khiến nàng vui sướng. Gọi ta đi, Âm Nương.”

Ý thức dần mờ nhạt, đầu óc trở nên hỗn loạn, hắn nghe thấy nàng gọi hắn là “Thánh thượng.”

Tống Hành khẽ lắc đầu, một tay nắm chặt lấy nàng, giọng nói tựa gió cuốn, sửa lại lời nàng: “Âm Nương ngoan, không phải gọi như vậy. Nàng phải gọi ta là Quỳ Ngưu Nô.”

Quỳ Ngưu Nô. Ba chữ ấy xoay quanh trong đầu nàng, khiến tâm trí nàng chẳng thể cưỡng lại sức ép của hắn.

Ngón chân trắng hồng khẽ co lại, nàng ngước mắt lên nhìn hắn, ánh mắt mờ mịt ngấn lệ. Nàng mở miệng, lần này lớn tiếng hơn chút: “Quỳ Ngưu Nô…”

Tống Hành không thể diễn tả sự thỏa mãn của mình lúc này. Hắn dịu dàng v**t v* lưng nàng, khen ngợi: “Âm Nương ngoan, ngoài nàng ra, không ai được phép gọi ta như vậy.”

“Ta chỉ thuộc về mình Âm Nương, và Âm Nương cũng chỉ có thể là của ta. Ta nhất định sẽ đưa nàng ra khỏi nước Ngụy, để chúng ta đều có thể gặp nhau mỗi ngày.”

Chẳng phải nàng vẫn đang ở bên hắn đó sao? Nhưng không hiểu sao khi hắn nói những lời này, nàng lại quay đầu đi, nhắm mắt lại, không thèm để ý đến hắn nữa.

Tuy nhiên, điều này không làm giảm đi hứng thú của Tống Hành.

Tống Hành bế nàng bước tới trước bức bình phong hoa điểu gập làm ba, vẫn không mệt mỏi nâng niu nàng. Hơi thở ấm áp thì thầm bên tai nàng: “Âm Nương, nàng cũng phải thích ta, nhất định phải thích ta. Trên đời này, chỉ có ta mới xứng với nàng. Nếu là người khác, làm sao có thể nuôi được nàng, thỏ ngọc tham ăn này, làm sao có thể khiến nàng thỏa mãn như vậy?”

Sau một lúc lâu, cuối cùng nữ lang cũng không còn sức để nói, chỉ có thể yếu ớt quàng tay quanh cổ hắn, ôm lấy hắn.

Tống Hành cắn nhẹ vành tai nàng, từng bước một, vững vàng và nhanh chóng, hắn tiến về phía giường.

Cơ thể mềm mại của nàng dần kiệt sức, nước mắt và mồ hôi hòa quyện, giọng khản đặc cầu xin để nàng được nghỉ ngơi trên giường.

Cảm nhận được sự thay đổi của nàng, Tống Hành dừng lại đúng lúc, ôm nàng bước thêm một đoạn, rồi mới chịu buông nàng xuống lớp chăn êm ái.

Trong mộng, mọi thứ đều chân thật đến mức khiến người ta khó lòng phân biệt. Hắn không nhớ đã bao nhiêu lần, chỉ biết đến khi bên ngoài truyền đến tiếng gõ cửa của Trương nội thị, thúc giục hắn thức dậy, giấc mộng mới chấm dứt.

Tống Hành xoa nhẹ sống mũi cao thẳng của mình, từ từ mở đôi mắt vẫn còn nhập nhèm buồn ngủ, vén chăn bước xuống giường. Đến lúc ấy, hắn mới nhận ra chiếc q**n l*t của mình đã không còn nguyên vẹn.

Đến cả đệm giường cũng chẳng khá hơn là bao.

Nếu đã khát vọng đến mức này, không thể quên nổi nàng, thì cớ sao không thuận theo trái tim mà hành động?

Hắn từng để nàng rời đi, đương nhiên cũng có thể lần nữa mang nàng trở về.

Hãy để nàng an ổn thêm một thời gian ở đất Ngụy.

Tống Hành thay bộ q**n l*t sạch, ra lệnh mang nước vào. Sau khi rửa mặt, mặc phục sức chỉnh tề, hắn để nội thị giúp mình vấn tóc gọn gàng.

Nếu không tận mắt thấy Thánh thượng vì Dương thị nữ mà lưu luyến đến tận khuya mới hồi cung, Bảo Sênh suýt nữa đã tin rằng hắn thực sự là Thánh nhân thanh tâm quả dục, không gần nữ sắc.

Trương nội thị lại đặc biệt chú ý đến việc lập hậu của hắn, âm thầm theo dõi đến từng nhất cử nhất động. Nhìn thấy tinh thần của Thánh thượng dường như phấn chấn hơn, không còn u sầu như những ngày trước, liền đoán rằng có lẽ người đã nhận được tin vui nào đó.

Có lẽ Thánh thượng đã nghĩ thông, quyết định sống những ngày yên ổn với tân hậu.

Trương nội thị thầm nghĩ như vậy, theo sát Tống Hành rời khỏi điện Triều Nguyên, cung kính đi phía sau long liễn.

Trên triều đường, quần thần đều ngầm hiểu ý chỉ Tống Hành đưa ra mấy ngày trước về việc lập hậu. Lại thêm Thái sử lệnh [1] vừa yết kiến Thánh thượng hôm qua, hẳn rằng hôm nay chính là ngày Thánh thượng ban chiếu lập hậu.

[1]

Thế nhưng, suốt buổi lâm triều, chẳng những không có chiếu lập hậu, mà Thánh thượng lại nói đến thiên tượng, bảo rằng đêm qua khi rảnh rỗi, người nhận thấy thiên tượng có điểm khác thường, ra lệnh cho Thái Thường tự [2] điều tra nguyên nhân.

[2]

Thái Sử lệnh vốn mỗi đêm đều quan sát thiên tượng, nhưng chưa từng phát hiện điều gì bất thường. Dẫu vậy, nếu Thánh thượng đã nói, hẳn là có lý do riêng, ông đành bước ra, khom mình tiếp chỉ một cách kính cẩn.

Sau triều, ông liền bước đến ngoài điện Triều Nguyên, xin cầu kiến Thánh thượng.

Tống Hành không vòng vo mà thẳng thắn ra lệnh cho Thái Sử lệnh nghĩ ra một lý do để biện minh rằng hiện tại quốc quân không thể lập hậu hay nạp phi.

Mới mấy ngày trước còn yêu cầu ông chọn ngày lành tháng tốt để sách lập hoàng hậu, nay lại bắt ông bịa ra một thiên tượng không hề tồn tại. Thái Sử lệnh chỉ cảm thấy vị quân vương trẻ tuổi này thực sự có phần làm khó người khác, hành vi cũng hết sức kỳ lạ.

Từ cổ chí kim, làm gì có vị hoàng đế nào gần ba mươi tuổi mà vẫn chưa lập hậu, nạp phi, để lục cung trống không như vậy kia chứ?

Việc này quả thật hoang đường, nhưng mệnh vua khó cãi, vì mạng sống của chính mình, Thái Sử lệnh đành cắn răng chấp nhận.

Ngày ấy, Thái hoàng thái hậu chờ mãi mà vẫn không nhận được tin tức lập hậu của Tống Hành. Ba ngày sau, bà lại nghe được tin rằng Thái Thường tự báo cáo thiên tượng cho thấy có điềm lạ. Thánh nhân phán rằng trước khi thiên tượng thay đổi, không nên lập hậu hay nạp phi, nếu không sẽ ảnh hưởng đến quốc vận.

Lời lẽ hoang đường này có thể ngăn chặn miệng lưỡi của những kẻ khác, nhưng không qua mắt được Thái hoàng thái hậu. Bà thầm nghĩ: Nhị lang thật sự vì nữ nhân họ Dương ấy mà mất trí rồi sao? Không lập hậu, không nạp phi? Chẳng lẽ ngày sau đánh bại Ngụy quốc, hắn còn định đón nữ nhân ấy về cung, sắc lập làm hoàng hậu?

Hoặc là, ngay lúc này hắn sẽ nghĩ cách đưa nữ tử họ Dương ra khỏi nước Ngụy?

Trong lòng bất an, đầu đau như búa bổ, thêm tiết trời tháng bảy chuyển thu, ban đêm lại chịu vài cơn gió lạnh, không bao lâu bà liền nhiễm phong hàn. Tống Hành nghe tin, lúc này mới đến điện Huy Du để thỉnh an Thái hoàng thái hậu.

“Nếu lão thân không lâm bệnh, có phải Nhị lang sẽ mãi trốn tránh, không chịu đến gặp ta nữa không?”

Thái hoàng thái hậu vừa uống thuốc xong, trong miệng vẫn còn dư vị đắng chát, nhưng lòng bà lúc này còn đắng hơn. Chân mày bà cau chặt, trầm giọng hỏi Tống Hành.

Tống Hành vẫn giữ nét mặt ung dung, đáp: “Trẫm không có ý đó. Chỉ là gần đây quốc sự bận rộn, nhất thời quên mất việc đến thăm a bà.”

Quốc sự bận rộn? Nếu hắn thật sự lấy quốc sự làm trọng thì sẽ không vì một nữ tử họ Dương mà trì hoãn việc lập hậu, nạp phi, kéo dài dòng dõi hoàng tộc?

Thái hoàng thái hậu tức giận đến mức không thể giữ vẻ ôn hòa được nữa. Vị đắng trong miệng và trong lòng dường như càng thêm nồng, bà chỉ biết ôm ngực, giọng run run: “Chỉ vài tháng nữa, Nhị lang sẽ tròn ba mươi tuổi. Các đời đế vương từ xưa đến nay, làm gì có ai không lập hậu, không nạp phi? Hơn nữa, dưới gối người lại chưa có con cái, giang sơn cơ nghiệp của Triệu quốc này, tương lai người muốn giao cho ai kế thừa?”

Tống Hành im lặng giây lát, đôi mày giãn ra, giọng điềm tĩnh: “Không quá vài năm nữa, trẫm sẽ tự mình đưa Dương thị về. Hoàng hậu của trẫm, chỉ có thể là nàng. Đích tử của trẫm, cũng chỉ có thể là con của nàng.”

Thái hoàng thái hậu gần như không thể tin nổi những gì mình vừa nghe. Bà tức đến mức mắt tối sầm, cố gắng nuốt cơn khó chịu xuống, trừng mắt nhìn hắn, quát lớn: “Nhị lang, cháu điên rồi! Dương thị chỉ là một cô nhi, lại là cháu gái của Vũ An hầu, làm sao có thể xứng làm hoàng hậu? Nhị lang, chẳng lẽ cháu bị nàng ta chuốc mê hồn dược rồi sao?”

Mắng xong, bà ho sặc sụa không ngừng.

Lúc này, ý định của Tống Hành đã như đinh đóng cột. Dù Thái hoàng thái hậu lấy gia pháp tổ tông ra ép buộc, hắn cũng không đời nào thay đổi quyết định.

Thấy Thái hoàng thái hậu tức giận đến mức này, để tránh bà nổi giận làm tổn hại sức khỏe, Tống Hành không ở lại lâu, liền đứng dậy cáo từ: “Trẫm đã nói nàng làm được thì nhất định sẽ làm được. A bà đang bệnh, việc triều chính và hậu cung không cần xen vào, hãy an tâm dưỡng bệnh. Trẫm còn nhiều tấu chương chưa phê, khi nào rảnh sẽ lại đến thăm người sau.”

Nói xong, hắn sải bước rời khỏi điện Huy Du.

Trương nội thị thấy Tống Hành bước vào điện Huy Du với sắc mặt bình thường, nhưng lúc đi ra lại mang theo vẻ trầm lặng, liền hiểu ngay có chuyện bất hòa với Thái hoàng thái hậu. Hăn không dám nhiều lời, chỉ lặng lẽ theo người về điện Triều Nguyên, rồi dặn dò cung nhân trong điện cẩn thận hầu hạ, tránh làm Thánh thượng phật ý.

Tuyên Châu.

Thi Yến Vi đã ở lại nơi này hơn hai mươi ngày, thăm thú hết các danh lam thắng cảnh xung quanh. Sau khi hoàn thành bản du ký, nàng bắt đầu thu xếp hành lý, ngỏ ý mời Lý Lệnh Nghi cùng về Biện Châu.

Hai người đã sớm hẹn trước, nên Lý Lệnh Nghi đương nhiên không từ chối. Nàng cùng Vọng Tình sắp xếp mọi đồ đạc gọn gàng, không khóa cửa đạo quán, để mặc cửa lớn cửa nhỏ đều mở toang.

Úc Kim thấy vậy không khỏi khó hiểu, liền lên tiếng hỏi.

Lý Lệnh Nghi cười nhẹ đáp: “Phúc sinh vô lượng thiên tôn, nếu có ai qua đường cần chỗ trú chân, có thể nghỉ lại trong đạo quán một đêm.”

Thi Yến Vi nghe thế liền mỉm cười nói: “Mấy hôm trước chẳng phải có lão bà và nữ lang đến tránh mưa trong đạo quán sao? Cách đây vài ngày lại có một nam lang du ngoạn ở xa xin nghỉ nhờ một đêm, chẳng lẽ Úc Kim đã quên rồi?”

Úc Kim nghe xong, mặt thoáng đỏ bừng, ngượng ngùng nói: “Hai vị nữ quan có lòng nhân hậu, giúp người khi cần, là do em hẹp hòi rồi.”

Lý Lệnh Nghi nghe vậy, khẽ mỉm cười, nói: “Mỗi khi ra ngoài, khóa cửa cẩn thận là lẽ đương nhiên, đâu có gì hẹp hòi đâu.”

Bốn người cười nói vui vẻ, cùng nhau xuống núi. Khi đến nơi, Úc Kim thấy xe ngựa đã có thêm một con ngựa kéo, so với lúc đến chỉ có một, có lẽ tiểu nương tử thấy một con ngựa kéo bốn người là quá sức, nên đã mua thêm một con.

Trên đường trở về Biện Châu, Thi Yến Vi lo lắng ngựa quá sức mà sinh bệnh, nên dọc đường nghỉ ngơi nhiều hơn lúc đi. Phải mất tròn ba mươi ngày, cả đoàn mới tới được Biện Châu.

Thi Yến Vi viết thư báo trước cho Biện Châu, Thẩm Kính An biết Lý Lệnh Nghi sẽ về cùng nàng nên vô cùng mừng rỡ. Y sai người dọn dẹp một viện tử cổ kính, chuẩn bị sẵn bồ đoàn và hương án, chờ hai người đến nơi. Bà mụ quản sự dẫn Lý Lệnh Nghi về viện của nàng.

Giờ Dậu nhị khắc, Thẩm Kính An cưỡi ngựa về phủ.

Tiểu tư báo rằng tiểu nương tử đã về phủ, còn dẫn theo một nữ quan.

Thẩm Kính An nghe vậy mừng rỡ, bước nhanh vào phủ. Nhưng để tránh mạo phạm Lý Lệnh Nghi, y quyết định tìm gặp cháu gái trước.

Vào đến viện, y thấy Thi Yến Vi đang cùng Lý Lệnh Nghi đánh cờ dưới tàng hoa quế.

Trung thu sắp tới, cành cây đã đầy nụ, hương quế thoang thoảng theo làn gió mát.

“Gia chủ.” Úc Kim là người đầu tiên nhìn thấy y, vội đứng dậy khỏi ghế đá, chắp tay trước ngực thi lễ.

Thi Yến Vi và Lý Lệnh Nghi cũng đứng lên, hành lễ.

Khác với những lần gặp riêng Thi Yến Vi, hôm nay Thẩm Kính An có vẻ hơi lúng túng. Tay phải y buông lỏng, nhưng tay trái lại siết thành nắm đấm nhỏ, đôi môi mỏng hơi nhếch lên, có vẻ như tai y cũng hơi đỏ.

Người trong cuộc thường u mê, kẻ bên ngoài sáng tỏ. Lý Lệnh Nghi không nhận ra điều gì, nhưng Thi Yến Vi lại nhạy bén nhận ra ngay.

Thẩm Kính An chuyển ánh mắt từ Lý Lệnh Nghi sang Thi Yến Vi, nửa đùa nửa thật: “Dạo này Nhị nương trông có vẻ tròn trịa hơn, chắc hẳn đồ ăn ở Tuyên Châu hợp khẩu vị, ngày nào cũng ăn thỏa thích nhỉ?”

Vừa nói, y vừa quay sang nhìn Lý Lệnh Nghi, như chỉ đang đơn thuần cảm ơn: “Cũng phải cảm tạ công chúa đã chiếu cố cháu gái ta suốt thời gian qua.”

Lý Lệnh Nghi mỉm cười: “Thẩm lang quân không cần khách sáo. Năm ngoái ở Biện Châu, lang quân đã giúp đỡ ta rất nhiều, đây chẳng qua là lễ đáp lại.”

Thi Yến Vi nghe hai người đối đáp, không khỏi tò mò về mối quan hệ của họ, liền hỏi: “Không biết a cữu và Lệnh Nghi gặp nhau thế nào?”

Thẩm Kính An ra hiệu cho hai nàng ngồi xuống tiếp tục chơi cờ, mình thì ngồi xuống một chiếc ghế đá gần đó, ra lệnh cho Úc Kim pha trà, rồi mới chậm rãi mở lời: “Hồi đó, a cữu tòng quân ở Tấn Châu đã nhiều năm, nhưng không ít lần bị những kẻ có bối cảnh thế gia cướp công, mãi chẳng lập được chiến công nào đáng kể, càng không nói đến việc được trọng dụng. Sau này, a nương của cháu mang theo cháu và Tam lang rời khỏi Tấn Châu. Mẹ cháu gửi thư về mẫu tộc, nhưng thư chưa mở đã bị đốt. A cữu không hay biết các người đi đâu, thêm vào tiền đồ mờ mịt, lòng tự nhiên nguội lạnh, nên mới rời Tấn Châu đến Trường An tìm cơ hội. Khi ấy, nghe nói công chúa Tuyên Thành được hoàng đế sủng ái, thường cứu giúp người khốn khó, a cữu liền mong được diện kiến. Nhưng mỗi ngày có hàng chục người cầu kiến, nên phải mười lần lui tới bên ngoài Diên Sinh quan mới được gặp. Công chúa nhẫn nại khuyên giải, giúp a cữu vực dậy tinh thần, còn ban cho ba quan tiền. Dựa vào số bạc ấy, a cữu từ Trường An đi đến Hứa Châu, gia nhập Võ quân, rồi nhờ chiến công mà được đương kim Thánh nhân chú ý, sau đó chuyển vào làm quân tiên phong Tuyên Võ, từng bước đạt tới vị trí hôm nay.”

“Những năm qua, a cữu luôn ghi nhớ ân đức của công chúa, mỗi năm đều đến núi Kính Đình thăm nàng. Năm ngoái, khi Thánh thượng mới đăng cơ, hai trấn Trấn Hải và Tuyên Hấp toan lợi dụng danh nghĩa triều trước để chiêu binh mãi mã, chiêu dụ cựu thần. A cữu kịp thời sai người đón công chúa về thành Biện Châu lánh nạn. Nhờ vậy mới có chuyện công chúa nhắc đến ân tình của a cữu vừa rồi.”

Thi Yến Vi chăm chú lắng nghe, đến mức không để ý quân cờ của mình đặt ở đâu. Lý Lệnh Nghi ngồi đối diện thấy vậy liền trêu chọc: “Âm Nương nghe đến nhập thần rồi, quên mất mình đang cầm quân trắng sao?”

Vừa nói, nàng vừa đặt xuống một quân đen, ăn được cả mảng lớn quân trắng.

Chừng một khắc sau, quân đen thắng.

Thi Yến Vi nhìn sâu vào mắt Thẩm Kính An, mỉm cười nhẹ nhàng: “Cháu không địch nổi Lệnh Nghi, a cữu giúp cháu gỡ lại có được không?”

Thẩm Kính An đón lấy ánh mắt nàng, nhận thấy dường như nàng đã nhận ra điều gì, liền không từ chối ý tốt của nàng.

Hai người giao đấu một hồi, trời đã chập choạng tối.

Thi Yến Vi tiễn họ ra đến cổng viện, thấy Thẩm Kính An và Lý Lệnh Nghi sóng vai rời đi, lòng thầm hiểu hắn đang tiễn nàng về.

Vài ngày sau, Thi Yến Vi quan sát hai người nhiều lần, càng thêm chắc chắn suy đoán trong lòng.

Ngày hưu mộc, Thẩm Kính An dậy sớm luyện công, Thi Yến Vi dùng xong bữa sáng liền đến thỉnh an.

Khi tỳ nữ lui ra pha trà, nàng thẳng thắn hỏi: “Có phải a cữu đã có tình cảm với Lệnh Nghi không?”

Thẩm Kính An vịn tay vào ghế thiền, không phủ nhận.

“Công chúa tâm đ*o kiên định, không muốn hoàn tục. A cữu tôn trọng tâm ý của nàng, không muốn nàng phiền muộn. Chỉ cần mỗi năm gặp được vài ngày như hiện tại, a cữu đã mãn nguyện. Huống chi, nay a cữu đã tìm lại được cháu. Nếu sau này cháu gặp được ý trung nhân, sinh vài ba đứa nhỏ, chỉ sợ a cữu sẽ bận rộn luôn tay.”

Thời thế hiện tại, người có quyền thế đa phần đều thê thiếp đầy nhà, thật hiếm ai như a cữu.

Thi Yến Vi cảm thán trong lòng. Nàng và Lương Thiển đều là linh hồn đến từ hiện đại, tự nhiên không muốn cưới gả làm thê tử ở nơi này. Chỉ là tiếc thay cho tấm chân tình của a cữu.

“A cữu chớ nói bừa. Cháu nào muốn cưới gả sinh con gì! A cữu chẳng hay biết sao? Nữ nhân khi sinh nở tựa như bước một chân vào quỷ môn quan. Khi xưa a nương mang thai con đã thân thể yếu nhược. Sau đó chỉ vừa quá ba mươi đã sớm lìa trần. Ai biết liệu có phải do việc sinh nở làm hao tổn nguyên khí không? Nếu a cữu thích trẻ con, sao không đến phường tế bần nhận nuôi vài đứa bé không còn cha mẹ?”

Khi xưa, lúc a nương mang thai Dương Duyên và nguyên thân, Thẩm Kính An đều không ở bên cạnh bà, nên y không thể biết rõ những hiểm nguy ấy. Dẫu vậy, trong số những nam nhân, y lại là người hiếm hoi biết lắng nghe và cảm thông. Nghe xong lời này của nàng, hồi tưởng lại dáng vẻ gầy yếu bệnh tật của a tỷ sau khi trở về nhà mẹ đẻ, y không khỏi tự trách mình vì đã lỡ lời.

“Quả thực là a cữu không hiểu nỗi khổ của nữ lang khi sinh nở. Hôm nay nghe Nhị nương nói thế, a cữu đã được khai sáng. Từ nay sẽ không hỏi đến chuyện hôn nhân của Nhị nương nữa. Nếu sau này Nhị nương muốn lập nữ hộ, a cữu cũng sẽ tôn trọng ý nguyện của Nhị nương.”

Thi Yến Vi nhìn y đối xử tốt với mình như thế, trong lòng chẳng khỏi dâng lên cảm giác áy náy. Bởi nàng nào phải Dương Sở Âm, mà chỉ là một linh hồn từ hiện đại, hoàn toàn không liên can gì đến y.

Nhưng rồi nàng tự nhủ, nếu nói ra sự thật chẳng phải chỉ khiến y thêm đau lòng? Nếu lỡ làm y kinh hãi, e rằng còn bị coi là yêu quái… Nghĩ kỹ lại, cuối cùng vẫn không nên nói thì hơn.

Một lúc sau, tỳ nữ mang trà nóng vào. Thi Yến Vi nhấp nhẹ một ngụm, rồi khẽ cười:

“A cữu này, hôm nay trời đẹp thế này, bờ sông Biện chắc hẳn rất náo nhiệt. Hay là người cùng cháu và Lệnh Nghi ra bờ sông dạo một vòng? Lệnh Nghi bảo năm ngoái ở Biện Châu có loại bánh hoa quế thơm ngọt vô cùng. Cháu cũng muốn thử xem sao.”

Được cùng người trong lòng tản bộ ngắm cảnh, Thẩm Kính An nào có thể từ chối.

Ba năm sau.

Thành Tuyên Châu.

Thi Yến Vi ôm một bé gái chừng hai tuổi bước lên xe ngựa trở về Biện Châu. Bên cạnh nàng vẫn là Úc Kim như thuở nào.

Lý Lệnh Nghi cũng đồng hành cùng nàng đến Biện Châu. Sau khi lưu lại đó vài ngày, nàng sẽ lên đường đến Yên Châu để gặp một cố nhân.

Gần đây, triều đình nước Ngụy không được yên ổn. Thế lực Đông Cung dần thất sủng, ngược lại, Khang vương ngày càng được thánh ân sủng ái. Hai phe thế lực tranh đấu quyết liệt, các đại thần trong triều buộc phải chọn đứng về một phía.

Thời gian dài, trong giới sĩ tộc quyền quý bắt đầu lan truyền tin đồn: Nhũ nhân họ Vương của Khang vương rất được lòng Thánh thượng, chính nhờ nàng mà Khang vương mới có được ân sủng.

Chuyện chốn thâm cung thế này, vốn dĩ không thể vô căn cứ mà truyền ra.

Ba năm qua, Thánh thượng đắm chìm trong tửu sắc, sa đọa trong hưởng lạc. Dù quốc khố có phần khởi sắc, nhưng so với sự cần kiệm và chuyên cần của quốc quân nước Triệu, quốc khố Triệu quốc ngày càng thịnh vượng, khiến khoảng cách giữa hai nước càng thêm rộng lớn.

Ban đầu, Thẩm Kính An cùng một nhóm lão thần hết lòng can gián, tuy nhiên, sau nhiều lần nghe phải lời không lọt tai, Giang Tiều bắt đầu không còn nhẫn nại, hoặc là tảng lờ cho qua, hoặc là viện cớ bệnh không tiếp.

Ngày Thi Yến Vi đặt chân đến Biện Châu, đúng lúc cuối hạ đầu thu. Nắng trưa gay gắt, Úc Kim xuống xe trước, giương ô che nắng. Thi Yến Vi bế Dương Quân trong lòng, chậm rãi tiến vào phủ.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 74: Trân Trân



Buổi chiều đầu thu vẫn còn chút oi bức. Dương Quân ngồi trên xe ngựa suốt mấy ngày liền, giờ trở về căn phòng quen thuộc, chẳng mấy chốc đã nằm dài trên giường ngủ say.

Lý Lệnh Nghi và Thi Yến Vi ngồi sát bên nhau, cùng chăm chú ngắm nhìn Dương Quân. Cả hai ngày càng tin rằng quyết định giữ cô bé lại thay vì đưa đến phường tế bần, là điều hoàn toàn đúng đắn.

Dẫu việc chăm sóc cô bé đôi khi rất vất vả, nhưng bé cũng mang đến không ít tiếng cười. Tương lai có bé bên cạnh, dù hai người không ở cùng nhau, Thi Yến Vi vẫn xem như có chỗ dựa tinh thần.

Huống chi, a cữu của nàng mới ba mươi lăm tuổi, nếu một ngày nào đó, người để ý đến một nữ lang khác và cưới làm chính thê, Thi Yến Vi ra riêng tự lập môn hộ, có Dương Quân làm bạn, tương lai cũng có người thừa kế gia sản.

“Trân Trân trông có vẻ cao hơn rồi, xem ra chúng ta lại có việc để làm đây.”

Trân Trân là cái tên họ đặt cho cô bé khi quyết định nhận nuôi bé, sau lần tình cờ phát hiện bé nằm trong tã lót ngoài đạo quán hai năm trước.

Vì Lý Lệnh Nghi là người tu hành, không tiện dùng họ của nàng, nên lấy họ Dương của Thi Yến Vi để đặt tên cho cô bé.

Suốt hai năm qua, Thi Yến Vi thường xuyên đưa cô bé qua lại giữa Biện Châu và Tuyên Châu, nhờ vậy mà bé không bị say xe ngựa hay thuyền. Thi Yến Vi thậm chí còn ôm cô bé du thuyền trên sông Biện nhiều lần.

Lúc Dương Quân tỉnh giấc, mặt trời bên ngoài đã ngả về tây. Thi Yến Vi đưa tay sờ lên sau gáy bé, quả nhiên mồ hôi đã thấm ướt áo trong.

Nàng lấy từ tủ ra một miếng vải mềm sạch sẽ, nhẹ nhàng đặt vào sau lưng Dương Quân, khiến phần vải trên cổ áo lộ ra một mảnh màu sắc khác biệt.

Lý Lệnh Nghi lần đầu thấy nàng làm vậy liền cảm thán là đã không nhìn lầm, họ đều là những người từng làm dì nhỏ ở thời hiện đại.

Dương Quân chỉ hơn hai tuổi, đang ở độ tuổi hiếu động. Vừa tỉnh dậy, bé liền khụt khịt mũi kêu đói, ăn no rồi lại leo trèo khắp giường La Hán và bàn nhỏ.

Khi Thẩm Kính An đến, trời đã vào giữa giờ Dậu.

Hoàng hôn đỏ rực cả nửa bầu trời, vầng trăng non ẩn sau lớp mây.

Thẩm Kính An đến mà không thông báo, bước thẳng vào cửa, thấy Dương Quân đang đứng trên bàn nhỏ tập nói với cháu gái. Ánh mắt Thẩm Kính An liếc qua Lý Lệnh Nghi, chỉ chốc lát rồi bước tới, mỉm cười nói: “Đã lâu không gặp, Trân Trân có nhớ cữu ông không?”

Dương Quân tuy nhỏ nhưng trí nhớ cũng khá, lần trước khi rời Biện Châu chưa đầy vài tháng, gặp lại Thẩm Kính An, cô bé sợ hãi trốn sau lưng Thi Yến Vi, nhất quyết không chịu gần gũi.

Lần này, bé không còn sợ, cái đầu nhỏ lắc lư rồi chăm chú gật đầu, đôi mắt to tròn chớp chớp: “Nhớ, nhớ ạ.”

Thẩm Kính An đưa tay xoa nhẹ lên mái tóc bé, sau đó quang minh chính đại chuyển ánh nhìn sang Lý Lệnh Nghi, tỏ ý cảm tạ vì nàng đã chăm sóc mẹ con họ trong thời gian qua.

Lý Lệnh Nghi cười khẽ, trêu y học đâu ra những lời khách sáo ấy.

Thẩm Kính An đón ánh mắt của hai người, liền cúi người bế Dương Quân lên, nhẹ nhàng ước chừng trọng lượng rồi cảm thán: “Trân Trân lại lớn thêm rồi.” Y khẽ cười, hỏi ý cô bé: “Trân Trân ngoan, cữu ông dẫn con ra vườn hái hoa có được không?”

Dương Quân nghe xong, đôi mắt to tròn như quả nho căng mọng sáng bừng lên, gật đầu liên hồi như giã thuốc, miệng cười toe: “Con muốn hái, hái hoa đỏ tươi, hoa lớn… lớn… thật lớn!”

Thẩm Kính An dịu giọng giải thích: “Trân Trân muốn nói đến mẫu đơn mùa xuân à? Nhưng giờ không có mẫu đơn cho con hái đâu, đành để con chọn hoa khác vậy.”

Dương Quân dường như không hiểu rõ lời y nói, chỉ biết đại khái rằng giờ không thể hái loại hoa bé yêu thích, bĩu môi hồng nhìn hết sức đáng yêu, phụng phịu đáp: “Thôi được, vậy… con hái hoa khác cũng được.”

Nói rồi, bé thúc giục Thẩm Kính An mau đưa mình ra vườn.

Thi Yến Vi và Lý Lệnh Nghi không có việc gì làm, nhấp ngụm trà rồi cũng theo sau bước vào vườn.

Lý Lệnh Nghi hiểu biết nhiều về thảo mộc, liền chủ động dạy Dương Quân nhận biết hoa cỏ cây cối trong vườn. Các tỳ nữ cũng không ngơi nghỉ, theo sát bước chân hai người.

Thẩm Kính An đứng dưới gốc cây quế, thu lại nụ cười, ánh mắt thoáng nét trầm tư dưới ánh chiều tà dịu nhẹ. Y chăm chú nhìn Thi Yến Vi, khẽ nói: “Ba năm qua đi, dung nhan của Nhị nương vẫn như trước, dường như càng thêm viên mãn, khí sắc cũng tốt hơn nhiều.”

Ý tại ngôn ngoại: Giờ nàng vẫn đẹp đến mê hoặc lòng người.

Thi Yến Vi nhận thấy tâm tình y hôm nay không còn vẻ bình thản như trước, dường như mang theo ưu tư, liền thu lại nụ cười.

“Thời cuộc hiện nay không ổn, lòng ta luôn cảm thấy bất an. Nhị nương gần đây nên hạn chế ra ngoài, có thiếu thứ gì, cứ để hạ nhân lo liệu là được.”

Thời cuộc bất ổn. Thi Yến Vi ngẫm nghĩ lời này, đoán rằng vị thế của Đông Cung có lẽ không còn vững vàng như trước.

Đông Cung nhận thấy nguy cơ, tất nhiên phản kích. Vài ngày trước vừa tra ra một vụ án muối lậu, có dấu hiệu liên quan đến phe Khương vương.

Giang Tiều vốn đa nghi, cán cân vốn đã nghiêng về phía Đông Cung nay lại cân bằng trở lại đôi chút.

Khương vương không cam tâm để cục diện khó khăn này phá vỡ tâm huyết mình gây dựng, lại sai Vương thị đến bên gối Giang Tiều thổi gió.

Khang Vương không cam lòng để thế cục mà mình dày công gây dựng bị phá hủy, lại sai Vương thị đến bên gối Giang Tiều rỉ tai.

Các triều đại qua đi, hễ hoàng đế có nhiều con trai thì việc tranh đoạt ngôi vị thái tử luôn đẫm máu và tàn khốc.

Giang Tiều đã cao tuổi, bốn người con trai đều tráng kiện. Hai năm trước, Quý phi họ Phòng vừa được phong đã hạ sinh thêm một hoàng tử. Đứa trẻ chưa đầy một tuổi đã được phong làm Duyện vương, đủ thấy Giang Tiều sủng ái thế nào.

Thi Yến Vi trầm ngâm hồi lâu, gật đầu, nhớ đến Lương Thiển từng nói muốn đến Duyện Châu thăm cố nhân, trong lòng không khỏi lo lắng, bèn hỏi: “Lệnh Nghi còn định đi Duyện Châu một chuyến, a cữu thấy bây giờ đi, có ổn không?”

Thẩm Kính An cân nhắc hồi lâu, nhíu mày đáp: “Khoảng bốn năm trăm dặm đường, nếu cưỡi ngựa, chừng năm sáu ngày là tới. Nếu công chúa nhất quyết đi, tốt nhất nên đi nhanh về nhanh.”

“Dạ, cháu sẽ nói chuyện với Lệnh Nghi. Nếu nàng còn muốn đi, e rằng lại phải phiền a cữu chuẩn bị giấy thông hành.”

Thẩm Kính An chỉ hận không thể làm thêm điều gì cho nàng, nào nề hà gì chuyện nhỏ nhặt ấy, không chút do dự mà đáp ứng ngay.

Đêm đó, Thi Yến Vi trò chuyện với Lý Lệnh Nghi, biết nàng đã quyết, liền sai người tiễn về. Sáng hôm sau, nàng dỗ Dương Quân ngủ yên rồi báo lại cho Thẩm Kính An.

Thẩm Kính An thay nàng sắp xếp giấy tờ, cử thêm vài thị vệ thân thủ tốt đi theo tháp tùng. Lúc này y mới tạm yên lòng, để nàng lên đường tới Duyện Châu.

Trời đất chuyển vần, tháng bảy trôi qua, sắc thu càng thêm đậm.

Lạc Dương, điện Triều Nguyên.

Tống Hành nhận được mật báo, mở ra xem qua, đoạn ném vào ngọn lửa trên giá nến, để cháy thành tro tàn.

Mặc dù biết rõ người của Thẩm Kính An nhất định sẽ bảo vệ nàng chu toàn, nhưng trong lòng hắn vẫn không yên.

Cứ xem như hắn lại hèn mọn thêm một lần.

“Hãy cử thêm tử sĩ thân thủ xuất chúng đến Thẩm phủ ở Biện Châu, tập trung bảo vệ nàng.”

Nam nhân đứng trước án thư, chắp tay trước ngực, cung kính đáp lại: “Ti hạ tuân lệnh.”

Tống Hành căn dặn thêm vài chuyện rồi khoát tay, ra hiệu cho lui. Chẳng bao lâu sau, trong điện chỉ còn lại một mình hắn.

Đêm mỗi lúc một sâu, bên ngoài điện vắng lặng không tiếng động.

Ba năm qua, quốc khố ngày một dồi dào, trong tay Tống Hành tích trữ không ít báu vật được nữ lang yêu thích: Từ lông thú quý do Bột Hải tiến cống, trân châu lớn như dạ minh châu, đến đồ sứ thượng phẩm của Củng huyện, hay những món đồ trang trí chạm khắc từ san hô lớn dọc bờ biển Lư Long, và cả châu báu, ngọc thạch từ các nước hải ngoại…

Từ khi hạ quyết tâm lập nàng làm hậu, Đại trưởng công chúa Tống Vi Lan đã năm lần bảy lượt tìm cách gây khó dễ, lớn tiếng cho rằng nữ tử họ Dương là họa quốc yêu cơ, trách hắn không màng đến nỗi đau mất con của nàng ta. Tống Hành không để tâm, chỉ hạ lệnh đưa nàng ra khỏi cung.

Thái hoàng thái hậu vì thế tranh cãi với hắn không ngừng, nhưng Tống Hành vẫn không động lòng, viện cớ bà tuổi cao, nên giao toàn bộ hậu cung cho lục cục nhị thập ty xử lý. Tương lai lập hậu, mọi sự sẽ giao cho hoàng hậu định đoạt.

Biện Châu, Khang vương phủ.

Khang vương và Hạ vương đang bí mật thương nghị.

Hạ vương hỏi một viên quan mặc quan phục đỏ thẫm: “Chuyện muối lậu ở Dương Châu đã xử lý ổn thỏa chưa?”

Hóa ra vụ án muối lậu này là do Đông Cung phát hiện, sau khi nhận thấy nguy cơ, điều tra sâu mới lôi ra được mối liên hệ với phe của Khang vương. Hiện giờ vụ án này đã được giao cho Đại lý tự và Hình bộ đồng xử lý.

Giang Tiều bản tính đa nghi, từng có ý định phế Đông Cung để lập Khang vương. Nay xảy ra chuyện này, lòng tin lung lay, tạm gác lại suy nghĩ.

Khang vương không cam lòng để công sức xây dựng bao năm sụp đổ, liền sai Vương thị thổi gió vào tai Giang Tiều.

Nhưng gần đây, Giang Tiều dường như không còn sủng ái Vương thị như trước, hiếm khi lưu nàng ngủ lại. Trái ngược, gần đây lại có quan hệ với một thừa huy (thị thiếp) của Đông Cung.

Viên quan cung kính đáp: “Hai vị vương gia yên tâm, mọi sự đã thu xếp ổn thỏa, tuyệt không ai tra ra được vết tích nào liên quan đến vương gia. Chỉ cần đẩy kẻ dưới ra làm vật thí nữa là được.”

Sau một hồi cân nhắc, hắn nói tiếp: “Ti hạ cho rằng nếu muốn khởi sự, không bằng lợi dụng vụ án này, khiến Vũ An hầu rời khỏi Biện Châu. Chủ tướng không có mặt, quân đội tất sẽ không đáng lo ngại.”

Hạ vương cũng có ý này, phụ họa nói: “Vũ An hầu trung thành với Thánh thượng, lại có ý thiên vị Đông Cung. Ta từng nhiều lần lôi kéo hắn, từ vàng bạc châu báu đến mỹ nhân, nhưng hắn không hề lay động. Không làm đồng minh được thì chỉ có thể là kẻ địch.”

Khang vương suy nghĩ hồi lâu, cảm thấy lời ấy có lý, liền định kế hoạch. Hắn hỏi tiếp về tình hình các tướng canh giữ các cổng thành, bàn bạc đến lúc trời khuya dần…

Hạ vương ra cửa hông của phủ, tình cờ gặp một chiếc kiệu nhỏ tiến vào. Người ngồi trong kiệu chẳng phải ai xa lạ, chính là Vương nhũ nhân, người đang là tâm điểm của những lời dị nghị khắp kinh thành dạo gần đây.

Nhị huynh là người ngay cả mỹ nhân từng được cưng chiều bấy lâu cũng có thể hai tay dâng lên. Nếu đổi lại là hắn, tuyệt không làm được trò đó.

Hạ vương ghìm ngựa quay về phủ, giao ngựa cho tiểu đồng dắt vào chuồng, rồi thẳng bước đến một viện trống trải. Nơi đây từng là chỗ ở của Phùng nhũ nhân, ái thiếp mà hắn trân trọng nhất.

Hôm ấy, Phùng thị lao vào lòng hắn, khóc lóc kể tội Thánh thượng đã phạm phải hành vi bất luân đối với nàng.

Hạ vương như bị sét đánh giữa trời quang, toàn thân chấn động, nhất thời chưa thể hồi thần. Chưa kịp hỏi thêm để xác minh sự tình, Phùng thị đã rút trâm bạc cài trên đầu, đâm thẳng vào cổ mình. Máu tươi phun trào, hắn cố sức thế nào cũng không thể cầm lại được.

Từ hôm đó, hắn âm thầm quyết tâm phải đòi lại công đạo từ phụ hoàng.

Nhưng hắn chỉ là một hoàng tử không được sủng ái, đã khi nào phụ hoàng chịu để mắt đến hắn? Muốn đòi lại công đạo, muốn phụ hoàng cũng nếm trải nỗi đau, hắn chỉ có thể nhờ cậy người khác.

Nhị huynh Khang vương, con trai của kế thất Trịnh hoàng hậu, là lựa chọn tốt nhất. Tuy hắn không màng chính sự, nhưng hắn thừa hiểu dã tâm đoạt ngôi Đông cung của Nhị huynh. Hơn nữa, Nhị huynh còn là kẻ lòng muông dạ thú, tâm tư thâm hiểm khó lường.

Mấy ngày sau, tin Phùng nhũ nhân qua đời lan truyền khắp nơi. Giang Tiều không khỏi áy náy với Hạ vương, vì Hạ vương đã cố ý lấy lòng ông ta, nói rằng Phùng thị được Thánh thượng sủng ái vốn là phúc phần của nàng ta, không ngờ nàng ta quá cao ngạo, tự mình tìm cách tự vẫn. Người như thế, thật không xứng hưởng thụ hoàng ân.

Giang Tiều nghe xong cảm thán trước tấm lòng hiếu thảo của Hạ vương, có ý muốn bù đắp nên phong Hạ vương làm Trung thư Thị lang.

Sáng hôm sau, tại triều, các đại thần thuộc phe Khang vương đột nhiên đề nghị phái Thẩm Kính An đi tuần tra án muối lậu ở Giang Hoài.

Việc muối sắt quan hệ đến dân sinh và thu thuế, tuyệt đối không phải chuyện nhỏ. Thẩm Kính An là tâm phúc của Giang Tiều, lại là người đoan chính ngay thẳng, Giang Tiều đương nhiên hoàn toàn tin tưởng y. Đổi lại người khác, chỉ sợ lợi ích chồng chất, chẳng ai dám gánh vác.

Giang Tiều suy nghĩ kỹ càng rồi hạ khẩu dụ, lệnh Trung thư tỉnh thảo chiếu thư.

Ngày hôm đó sau buổi triều, Thẩm Kính An hồi phủ.

Lý Lệnh Nghi đã rời đi hơn mười ngày, hẳn giờ đang ở Duyện Châu, vài ngày nữa sẽ quay lại Biện Châu.

Khi Thẩm Kính An đến, Thi Yến Vi đang ôm Dương Quân kể chuyện cổ tích cho cô bé.

Hôm nay, Thi Yến Vi kể câu chuyện “Cá con tìmmẹ” nhưng đã cải biên lại theo cách riêng của nàng.

Úc Kim ngồi bên ghế nguyệt nha, khâu vá quần áo.

Thẩm Kính An cho nàng lui ra.

“Vài ngày tới, a cữu phải rời Biện Châu đến Dương Châu tuần muối. Công chúa còn chưa về, chỉ có con và Trân Trân ở lại trong thành, lòng a cữu không yên tâm chút nào.”

Thi Yến Vi đưa khóa Khổng Minh cho Dương Quân chơi, đôi mày liễu khẽ chau lại.

“A cữu lo rằng sẽ có kẻ nhắm vào Thẩm phủ sao?”

Không nói rõ được đang lo điều gì, chỉ cảm thấy có chuyện lớn sắp xảy ra. Nếu nói là nhắm vào Thẩm phủ, y không có con nối dõi, cũng không có thân thích nam giới nào đủ khiến phe Khang vương để mắt tới, đâu đáng để bọn họ hao tâm tổn sức như vậy.

Thẩm Kính An lắc đầu, “Khó nói, chỉ thấy thời điểm này có điều bất ổn. Nhị nương phải cẩn thận, tích trữ thêm lương thực cũng không thừa. Nếu không có việc gì cần kíp, hãy hạn chế người trong phủ ra ngoài.”

Thi Yến Vi thoáng trầm tư, rồi khẽ gật đầu: “Cháu hiểu rồi, a cữu cứ an tâm mà đi.”

Đúng như Thẩm Kính An dự liệu, sáng sớm hôm sau thánh chỉ hạ xuống, lệnh y ngày mai giờ Thìn khởi hành đi Dương Châu.

Buổi chiều, Thẩm Kính An tới Đông Cung yết kiến Thái tử.

Trước khi đi, y giao lệnh bài điều động thị vệ trong phủ cho Thi Yến Vi giữ, dặn dò kỹ lưỡng, sau đó mang tâm sự nặng nề cưỡi ngựa rời khỏi thành.

Mấy ngày sau.

Đến giờ thắp đèn, phường chợ bắt đầu đóng cửa.

Thi Yến Vi ngồi cùng Dương Quân trên giường La Hán, chơi một lúc những món đồ nhỏ để dỗ trẻ con, lại vẽ một lúc những bức họa đơn giản cho cô bé, chẳng mấy chốc đã gần sang canh hai.

Tỳ nữ mang nước ấm đến rửa mặt, Thi Yến Vi tự tay lau gương mặt nhỏ nhắn trắng hồng của Dương Quân.

Đột nhiên, bên ngoài vang lên tiếng đánh nhau.

Nghe âm thanh, dường như có hai nhóm người đang giao chiến.

Tiếng binh khí va chạm sắc bén khiến Dương Quân sợ hãi òa khóc.

Thi Yến Vi vội ôm chặt cô bé vào lòng, bịt kín tai bé lại.

Thị vệ của quý phủ nhanh chóng vây quanh, đứng ngoài cửa trấn an nàng không cần lo sợ.

Một khắc sau, tiếng đánh nhau bên ngoài dần lắng xuống, nhưng tiếng bước chân lại dồn dập áp sát vào Thẩm phủ.

Bọn chúng dường như muốn phá cửa xông vào, có ý đồ giết sạch người trong phủ.

Thị vệ trong phủ đều là những người do Thẩm Kính An đích thân tuyển chọn và huấn luyện, ai nấy đều tinh nhuệ, thân thủ phi phàm. Tuy nhiên, đám binh lính xông vào lại đông như kiến cỏ, khiến tình thế dần trở nên căng thẳng.

Mặc dù chống cự quyết liệt, nhưng sau một khắc giằng co, thị vệ Thẩm phủ dần tỏ ra yếu thế, vài binh lính cầm đao đã xông vào được, thấy người liền chém.

Phủ đệ chìm trong cơn hỗn loạn.

Bất thình lình, từ trong bóng tối lao ra mười mấy bóng đen. Người nào người nấy võ nghệ cao cường, hơn hẳn đám thị vệ trong phủ, mỗi kẻ một địch mười. Chẳng bao lâu đã trợ giúp thị vệ Thẩm phủ đẩy lui binh lính địch ra ngoài phủ.

Những kẻ đó là đến để giết nàng sao?

Thi Yến Vi cố gắng hồi tưởng, nhưng nhớ rằng a cữu chưa từng kết oán với Đông cung, ngược lại còn giữ thái độ giao hảo. Chỉ là vị Khang vương dạo gần đây danh tiếng lẫy lừng kia, a cữu lại không hề đánh giá cao.

Chẳng lẽ đêm nay Khang vương làm phản, sai đám binh lính đó tới giết người trong Thẩm phủ?

Nếu quả là như vậy, a cữu chắc chắn đã bị bọn chúng điệu hổ ly sơn. Tình thế trong cung hiện giờ nguy cấp, chỉ e a cữu cũng lành ít dữ nhiều.

Lòng Thi Yến Vi rối bời, chưa kịp nghĩ xem phải làm gì thì binh mã dưới trướng Thẩm Kính An từ Đông Cung tới.

Bên trong quý phủ, thị vệ trưởng thầm nghĩ: Tiểu nương tử chẳng qua chỉ là nữ nhân nơi khuê phòng, hà tất phải bận tâm đến chuyện bên ngoài. Bởi vậy, chuyện có người âm thầm tương trợ vừa rồi, hắn cũng không định nói cho Thi Yến Vi hay, tính toán đợi khi gia chủ hồi phủ sẽ bẩm báo để người quyết định.

Thi Yến Vi giao Dương Quân cho Úc Kim chăm sóc, rồi bước ra ngoài, cúi người cảm tạ các tướng sĩ đã đến cứu giúp.

Tiểu võ quan theo Thẩm Kính An nhiều năm, biết rõ tướng quân có một cháu gái lưu lạc bên ngoài, ba năm trước mới tìm về được. Giờ thấy nàng cúi đầu cảm tạ, vội vàng xua tay: “Nương tử không cần đa lễ.”

Suốt đêm, Thi Yến Vi chẳng thể chợp mắt. Khó khăn lắm mới dỗ Dương Quân ngủ được, nàng rời giường, ngồi thu mình trên giường La Hán.

A cữu sống chết chưa rõ, Lương Thiển cũng chưa trở về. Nàng sao có thể an lòng?

Khi tia sáng đầu tiên của buổi bình minh rọi xuống chính điện, ngôi vị quốc quân nước Ngụy sẽ chính thức truyền lại cho thái tử Giang Thịnh.

Theo sử quan ghi chép, cái chết của Giang Tiều là do Khang vương và Hạ vương tạo phản, đích thân Hạ vương ra tay sát hại. Khi Giang Tiều bị giết, ông ta đang vui thú cùng Lưu thừa huy trên giường. Thái tử kịp thời đến cứu giá, bắn chết Khang vương và Hạ vương ngay trước cửa tẩm cung.

Chỉ trong một đêm ngắn ngủi, Thánh thượng cùng hai vị vương gia đều bỏ mạng.

Ba ngày sau, Lý Lệnh Nghi trở về Tuyên Châu.

Thẩm Kính An sau khi tuần tra vùng Giang Hoài, không chỉ giải quyết vụ án buôn lậu muối, mà còn phát hiện nhiều vấn đề khác. Đợi thu thập đủ chứng cứ, y lập tức hồi kinh, trở về Biện Châu.

Thời gian y rời đi đã gần hai tháng, nhưng triều đình nay khác xưa. Một triều vua, một triều thần. Khi Thẩm Kính An quay lại, triều cục đã thay đổi nghiêng trời lệch đất.

Thẩm Kính An yết kiến tân đế Giang Thịnh, bẩm báo những vụ án mới tra được.

Giang Thịnh vốn được thế tộc quyền quý ủng hộ, mối quan hệ đan xen chằng chịt. Do đó, hắn chỉ lệnh thanh trừng phe Khang vương và Hạ vương, còn những người khác thì được bỏ qua.

“Có câu “nước trong quá thì không có cá”, chẳng lẽ Thẩm hầu gia không hiểu đạo lý này?”

“Nay thiên hạ thái bình, biên cương không có chiến sự lớn. Nước Sở chỉ là đất man di ở Lĩnh Nam, binh lực chưa bằng một nửa triều ta, hoàn toàn không đáng lo ngại. Thẩm hầu nắm giữ mười vạn binh mã trấn giữ kinh thành đã gần bốn năm, triều đình sớm có lời dị nghị. Lâu dần, khó tránh khỏi dèm pha. Chi bằng giao lại binh quyền. Nếu sau này có chiến sự, trẫm tự nhiên sẽ trả lại binh phù cho hầu gia. Nghe danh hầu gia trung thành phụng chủ, chẳng lẽ chỉ vì trẫm tuổi trẻ mà sinh lòng khinh nhờn?”

Lời này rõ ràng là không muốn hoàn trả binh phù.

Tâm địa nghi kỵ, độc đoán của hắn đã ra đến nông nỗi này sao? Nghĩ đến Thánh thượng một đời chinh chiến mới dựng nên cơ nghiệp nước Ngụy, nay giao vào tay người như vậy, chẳng biết tương lai sẽ ra sao.

Thẩm Kính An nghĩ đến đây, lòng lạnh đi nửa phần. Giờ đây Giang Thịnh là quân, y là thần, thưởng hay phạt đều không thể chối từ. Dù trong lòng không cam, y cũng đành cúi đầu, tạ ơn lĩnh chỉ.

Rời cung về phủ, thị vệ trưởng bẩm báo chuyện các hắc y nhân giúp họ đẩy lùi thủ hạ Khang vương.

Nghe xong, trong đầu Thẩm Kính An lập tức hiện lên hai chữ: Tống Hành.

Dám liều chết dùng sát chiêu như vậy, ngoài những tử sĩ được nuôi dưỡng từ nhỏ bò ra từ xác chết chất thành đống, y thật sự không nghĩ ra ai khác.

Người có khả năng nuôi tử sĩ vốn không nhiều, huống hồ đám tử sĩ này lại đến để bảo vệ Nhị nương.

Hắn vẫn chưa buông bỏ Nhị nương sao? Thẩm Kính An thấy lòng rối bời. Sợ nàng và công chúa phát hiện điều gì, y quyết định quay về viện của mình, tạm thời không gặp họ.

Nước Triệu.

Tống Hành đứng trước dư đồ.

Trương nội thị đứng bên ngoài đại điện, khẽ thưa: “Hồi bẩm Thánh thượng, Bất Lương Soái cầu kiến.”

Tống Hành ra lệnh cho người đưa vào.

Bất Lương soái bước vào, cúi người cung kính: “Hồi bẩm Thánh thượng, có tin từ nước Ngụy truyền tới.”

Tống Hành khẽ nhíu mày: “Nói.”

“Ngày nhị vương Khang và Hạ bức cung, người mà Thánh thượng phái đi đã cứu được Dương nương tử cùng… cùng…”

Bất Lương Soái thoáng lưỡng lự, không chắc nữ hài kia cùng Thánh thượng có quan hệ gì, càng không biết phải xưng hô thế nào.

“Cùng ai? Chẳng lẽ lại là Vũ An hầu Thẩm Kính An? Theo trẫm biết, lúc đó hắn đang ở Dương Châu.”

Bất Lương Soái do dự một lát, cau mày cẩn trọng thưa: “Hồi bẩm Thánh thượng, bên cạnh Dương nương tử còn có một đứa trẻ gọi nàng là a nương, gọi Vũ An hầu là cữu ông, chừng hai tuổi.”

Một đứa bé gọi nàng là “a nương”…

Tống Hành nghe vậy, lửa giận lập tức bùng lên, khó kiềm chế được cảm xúc. Nàng sao có thể? Sao nàng dám sinh con cho người khác?!

“Trả lời trẫm, bên cạnh nàng còn có nam nhân nào khác không?”

Bất Lương Soái lắc đầu: “Chưa từng có ai thấy Dương nương tử đi cùng nam lang nào khác, chỉ có công chúa Tuyên Thành của tiền triều ở cùng nàng.”

Không có nam lang khác… Vậy cha của đứa trẻ rất có thể là hắn?

Nhưng không đúng! Tính theo thời gian, nếu đứa bé là con của hắn, thì chỉ có thể là vào thời điểm sau khi nàng trở thành Thượng nghi. Nhưng khi đó, hắn chưa từng ở bên trong…

Khoan đã!

Tống Hành đột nhiên nhớ lại một đêm… Hôm đó, hắn cầu nàng, nàng lại từ chối. Trong khoảnh khắc thất vọng, tâm trí hắn mơ hồ, chẳng lẽ khi ấy vô tình để lại chút mầm mống?

Phải, chính là khi ấy.

Nghĩ đến đây, lòng hắn tràn ngập vui sướng.

Tống Hành lập tức triệu gọi người của cục Thượng y, hỏi rõ tháng cuối cùng trước khi nàng rời cung có lãnh vật dụng dành cho kỳ nguyệt sự hay không.

Nghĩ đến việc nàng thường đau bụng khi đến kỳ nguyệt sự, hắn tiếp tục gọi Lưu Thượng cung đến hỏi xem nàng có xin nghỉ phép vì lý do đó không.

Cả hai nơi đều khẳng định là không.

Phải rồi, chính là khi ấy. Nàng đã mang thai con của hắn!

Đứa trẻ đó là cốt nhục của hắn và nàng.

Hắn sẽ phong đứa bé làm công chúa, sẽ làm một phu quân và một người cha tốt. Nàng sẽ trở thành tiểu nương tử hạnh phúc nhất thiên hạ, và con của họ sẽ là tiểu hài tử hạnh phúc nhất trên đời.

Tống Hành đắm chìm trong những suy nghĩ ấy, vui sướng đến phát cuồng, khó lòng che giấu niềm hân hoan trên gương mặt, lập tức ban thưởng cho Lưu Thượng cung và Triệu Thượng y mỗi người hai mươi quan tiền.

Lưu Thượng cung và Triệu Thượng y đều là những người tinh ý, vừa thấy thái độ của Thánh thượng liền đoán được nguyên do. Họ hiểu rằng những tin đồn về Dương Thượng nghi trước và sau khi rời cung có lẽ không phải là giả.

Tối hôm đó, Tống Hành phấn khích đến mức phê duyệt tấu chương suốt đêm. Qua giờ Tý, nằm trên giường, hắn vẫn nghe rõ nhịp tim mạnh mẽ của mình, mãi không thể bình tâm, càng không tài nào chợp mắt. Hắn chỉ nghĩ đến nàng, nhớ nàng, lòng ngọt ngào như được tẩm mật.

May rằng ngày mai không cần thượng triều sớm, hắn quyết định buông thả bản thân, cho phép mình ngủ thêm một chút.

Mãi đến khi đêm đã về khuya, hắn mới thiếp đi.

Trong mơ, hắn lại biến thành con mèo nhỏ, nhảy lên lòng nữ lang.

Nữ lang ôm hắn vào lòng, nhẹ nhàng v**t v* bộ lông mềm mại.

Đột nhiên, trọng lượng trong lòng tăng lên đáng kể, chưa kịp phản ứng, chú mèo nhỏ đã biến thành một lang quân cao lớn, dùng hai cánh tay rắn chắc giam cầm nàng trong lòng dễ như trở bàn tay.

Chỉ trong chốc lát, y phục trên người nàng rơi xuống đất.

Làn gió nóng ẩm của đêm hè thổi qua da thịt, khiến Tống Hành càng khó kiềm chế hơn. Đôi mắt phượng sâu thẳm của hắn như muốn lột bỏ cả lớp kha tử cuối cùng.

Nàng đáng thương và bất lực, gắng sức bảo vệ mảnh áo lót mỏng manh, càng chống cự càng kịch liệt. Nhưng vừa mới nhấc chân khỏi mép giường, đã bị hắn mạnh mẽ kéo lại.

Trong giấc mơ, ký ức dường như vẫn dừng lại ở Tống phủ, đôi mắt nàng đỏ hoe, giọng nói yếu ớt van xin: “Gia chủ không thể như vậy… cầu ngài, xin đừng đối xử với ta như thế… tha cho ta…”
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 75: Hải Châu



Trong giấc mộng, ký ức của nàng dường như chỉ dừng lại ở những ngày còn ở trong Tống phủ.

Động tác trên tay của Tống Hành bỗng ngừng lại, giọng hắn dịu dàng an ủi: “Âm Nương, đừng sợ. Ta sẽ không làm đau nàng, ta sẽ đưa nàng lên tiên cảnh, khiến nàng thư thái dễ chịu.”

Nàng chỉ đang sống nhờ ở Tống phủ, chẳng hề có liên hệ gì với hắn, làm sao có thể để xảy ra chuyện như vậy? Huống hồ, nàng cũng chẳng hiểu vì sao hắn lại xuất hiện ở đây, lại còn thân mật gọi nàng là Âm Nương.

Nhưng, nàng còn chưa kịp nghĩ thông suốt, bên ngoài chợt vang lên tiếng gõ cửa dồn dập. Một giọng nữ ôn hòa cất lên ngoài cánh cửa: “A Âm, vừa rồi cô đang nói chuyện với ai vậy? Có chuyện gì không?”

Nghe giọng, nàng nhận ra đó là Ngân Chúc. Với bộ dạng này cùng gia chủ, nàng làm sao có thể gặp người được?

Tống Hành dường như cố ý trêu chọc nàng, động tác cởi áo trên tay chẳng chút dừng lại.

Chỉ trong thoáng chốc, lớp áo mỏng màu trắng từ vai phải nàng trượt xuống, để lộ ra một khoảng da thịt trắng như tuyết. Trâm lưu tô mạ vàng cài trên tóc vô tình vướng vào tóc nàng, ánh vàng lấp lánh phản chiếu những giọt lệ còn vương trên khóe mắt, khiến ai nhìn vào cũng không khỏi thương cảm.

Khác hẳn với dáng vẻ mảnh mai yếu đuối của nàng, Tống Hành lại cao lớn cường tráng, tựa như một dã thú hung dữ trong rừng sâu. Hắn tựa hồ lớn gấp đôi nàng, khiến nỗi sợ hãi của nàng cũng trở nên dễ hiểu.

Nhận thấy nàng khẽ rụt người lại, Tống Hành lập tức ngừng động tác, cúi người, dùng ánh mắt cháy bỏng nhìn xuống làn da trắng nõn mềm mại trước mắt, hơi thở nóng rực kề sát tai nàng, thì thầm: “Âm Nương không muốn để người khác thấy nàng trong bộ dạng này, phải không? Nàng muốn tự bảo nàng ta đi hay để ta đuổi?”

“Xin ngài đừng như vậy, không được đâu…” Đôi mắt nàng đỏ hoe, hốt hoảng đến mức suýt bật khóc. Đôi mắt đào hoa long lanh, chan chứa tình ý, lại thêm màn sương mờ ảo khiến nàng vừa yểu điệu vô tội vừa cuốn hút đến tận cùng.

Tống Hành nhìn nàng như vậy, làm sao còn có thể kìm chế thêm chút nào. Một cơn nhiệt hỏa từ h* th*n bốc l*n đ*nh đầu, tựa như thiêu đốt cả sống lưng hắn.

Ngón tay khẽ móc vào vạt áo nàng, làn da thuần khiết càng thêm lộ rõ. Hắn như thể đã mất hết kiên nhẫn, ghé sát tai nàng thủ thỉ: “Âm Nương ngoan, bảo nàng ta đi đi. Bằng không, ta cũng chẳng ngại để nàng ta biết bây giờ nàng đang ở dưới thân ta, chỉ sợ nàng ngượng ngùng không chịu nổi mà thôi.”

Nói xong, ánh mắt hắn hướng về cánh cửa gỗ, định lên tiếng. Nữ lang hoảng hốt, vội lấy tay che miệng hắn, mắt đỏ hoe, gạt bỏ mọi xấu hổ, cất giọng: “Không có gì, ta chỉ muốn nghỉ ngơi, ngày mai hãy đến nha.”

Một lát sau, bóng dáng ngoài cửa biến mất.

Bàn tay mềm mại của nàng vẫn phủ trên môi hắn. Tống Hành nắm lấy tay nàng, áp lên môi mình mà hôn, lưu luyến chẳng muốn buông ra.

“Âm Nương ngoan lắm.” Hắn khẽ bật cười, ánh mắt nóng rực lại dán lên gương mặt như đóa phù dung của nàng. Hắn thuần thục tháo dây buộc kha tử trên người nàng.

Làn gió đêm mát lạnh thoáng qua, áp vào làn da trần.

Thi Yến Vi gần như theo phản xạ mà đưa tay che lại, nhưng hành động quá đỗi vô dụng, nàng thậm chí không biết nên che chỗ nào trước.

“Che làm gì? Có nơi nào mà ta chưa từng thấy qua đâu? Ngoan, để ta nhìn cho rõ. Rồi nàng sẽ nhận được phần thưởng của mình.” Tống Hành vừa nói vừa ngăn bàn tay nàng đang cố gắng che chắn.

Nàng cho hắn xem hồi nào chứ? Vừa bực lại vừa sợ, đôi mắt ướt át đầy kinh hoàng, nàng lại bắt đầu giãy dụa: “Ngài không thể như vậy! Ta không muốn… Buông ta ra!”

Tống Hành hoàn toàn phớt lờ sự phản kháng của nàng, nắm lấy cổ chân nàng, chặn đứng lời nàng muốn nói. Hắn khẽ nhếch môi cười ngạo nghễ, giọng nói lộ rõ vẻ khiêu khích: “Vì sao lại không thể như vậy? Rõ ràng giữa chúng ta đã từng có vô số lần, ta sẽ khiến nàng nhớ lại.”

Nói dứt lời, hắn cúi xuống, nét mặt hiện lên sự mê đắm điên cuồng.

Dẫu chỉ là trong mộng, nàng vẫn nhỏ bé đến thế.

Tống Hành thoáng có chút hối hận, nhưng lại cố gắng tập trung tinh thần, dốc sức làm mọi cách để khiến nàng vui lòng.

Thi Yến Vi bất giác ngửa đầu, cần cổ trắng ngần như càng thêm nổi bật. Tay nàng bấu chặt lấy lớp áo trên vai hắn, đôi mắt hoe đỏ, dáng vẻ yếu ớt giống hệt những gì hắn từng thấy trước đây.

“Âm Nương, gọi ta là Quỳ Ngưu Nô đi.” Giọng hắn trầm thấp, từng lời như rót mật, ngón tay trêu chọc lướt nhẹ.

Trên mái tóc nàng là viên nam châu trắng không tỳ vết, tròn trịa mượt mà.

Đôi mắt nàng ngập nước, mỗi lúc một đầy, bất lực dùng móng tay cào vào vai hắn, giọng nói khẩn cầu: “Đừng như vậy, xin ngài tha cho ta…”

Nhưng những lời nói như thế chẳng khác nào lửa đổ thêm dầu, càng khiến bản năng hủy hoại điên cuồng trong người hắn dâng cao.

Tống Hành nhẫn nại đến cùng cực, cuối cùng nghiến răng, chặt đứt hy vọng cuối cùng của nàng: “Tha cho nàng? Cả đời này, cả kiếp này, vĩnh viễn không thể.”

Vừa nói, bàn tay mạnh mẽ của hắn dễ dàng khống chế thân hình mảnh mai của nàng, chạm đến chiếc thắt lưng vàng trên hông.

Nữ lang không dám tin vào mắt mình, đôi đồng tử tràn đầy vẻ bàng hoàng, toàn thân run rẩy trốn tránh, nhưng làm sao thoát được. Khắp nơi đều là hơi thở của hắn, nàng bị giam cầm trong một không gian chật hẹp, không cách nào chạy thoát.

Tống Hành nâng khuôn mặt nàng lên, ánh mắt như nhìn một món bảo vật, dịu giọng vỗ về: “Không sao đâu, Âm Nương. Ta và nàng đã bao lần như thế, lần nào nàng cũng chịu được cả.”

Thi Yến Vi nhíu mày, tựa hồ không hiểu hắn đang nói gì. “Bao lần” là ý gì? Trong đầu nàng chỉ tràn ngập sự kinh hoàng, cố quay mặt né tránh ánh mắt hắn, một lòng một dạ vùng vẫy mong thoát khỏi sự kìm kẹp.

Thế nhưng sức lực của nàng quá yếu, yếu đến nỗi không khác gì gãi ngứa cho hắn.

Nước mắt Thi Yến Vi tuôn trào, như những chuỗi ngọc lăn dài trên má. Nàng bấu chặt vai hắn, ngón tay như muốn khảm vào da thịt, nghẹn ngào van xin: “Xin ngài đừng như vậy với ta, không được đâu… thả ta ra, ta xin ngài…”

Hắn còn chưa làm gì, nàng đã khóc thành một người đầy nước mắt như vậy rồi.

Tống Hành không dám hành động liều lĩnh thêm, nghiêng người nhặt lấy y phục vương vãi trên sàn, vo tròn lại đặt dưới lưng nàng làm điểm tựa.

“Âm Nương, thả lỏng một chút, đừng sợ hãi.” Tống Hành cúi đầu hôn đi những giọt lệ trên má nàng, từng chút một nuốt trọn, bàn tay nhẹ nhàng v**t v* trấn an.

Dần dần, nàng không còn hoảng sợ như lúc đầu nữa.

Lúc này, hắn mới dám mạnh dạn hơn.

Dù vẫn chưa đủ, nhưng nàng lại khóc càng dữ dội hơn.

“Âm Nương, hay nàng cắn ta một cái cho bớt giận nhé?” Hắn không thể chịu được khi thấy nàng buồn bã như vậy, trong lòng cảm thấy bức bối. Nhưng bảo hắn buông tha nàng, hắn lại không làm được, đành cúi sát xuống, đưa bờ vai trái của mình đến trước môi nàng.

Thi Yến Vi không còn đường trốn, đành trừng mắt nhìn hắn, rồi không chút do dự, cắn mạnh lên bả vai hắn.

Tống Hành như thể vừa nhận được phần thưởng quý giá, không giấu nổi sự kích động, nói: “Âm Nương ngoan, tất cả những gì của ta đều là của nàng. Nếu muốn, cứ cắn thêm ở chỗ khác đi.”

Lời vừa dứt, đến lượt Thi Yến Vi ngây ra. Hiển nhiên, nàng không ngờ hắn có thể thốt ra những lời điên cuồng như vậy, kinh ngạc đến mức quên cả khóc.

Tống Hành vẫn không chịu buông tha nàng.

Một lát sau, sức lực giữa môi và răng nàng cũng yếu đi, không thể không rời khỏi vai hắn, giọng đứt quãng pha chút tức tưởi, thổn thức trong lòng hắn.

Thấy nàng khóc đến đáng thương như vậy, cuối cùng Tống Hành cũng động lòng, bế nàng rời khỏi chiếc sạp thấp, bước vào trong.

“Âm Nương, nàng chờ ta, chẳng mấy chốc nữa, ta sẽ đưa nàng và con của chúng ta trở về Triệu quốc. Khi ấy, gia đình ba người chúng ta sẽ cùng nhau sống vui vẻ, không ai có thể chia lìa chúng ta nữa.” Vừa nói, Tống Hành vừa cố gắng kiềm chế bản thân, để mọi chuyện nhanh chóng kết thúc.

Nữ lang hơi sững lại, rõ ràng là không hiểu hắn đang nói gì. Nàng và hắn, làm gì có đứa con nào? Nhưng chỉ sau một khoảnh khắc, nàng đã không còn tâm trí để suy nghĩ, trong lòng âm thầm mắng người trước mặt sao lại có sức lực trâu bò đến thế.

Khi tất cả đã kết thúc, Tống Hành vùi cằm vào mái tóc đen rối bời của nàng, hạ giọng nói: “Ngôi vị hoàng hậu chỉ có thể thuộc về Âm Nương, và Âm Nương cũng chỉ có thể là của ta. Các con của chúng ta chắc chắn sẽ có một cuộc sống hạnh phúc. Ta sẽ biến cô bé trở thành nàng công chúa tôn quý nhất thiên hạ.”

Nữ lang trong lòng hắn dường như đã bị kiệt sức, lặng yên để hắn ôm lấy, Tống Hành cũng an tâm nhắm mắt chìm vào giấc mộng.

Trong mộng, hắn lại thấy người con gái hắn ngày đêm mong nhớ đang chơi đùa với một bé gái giữa trời tuyết. Tuy không thấy rõ khuôn mặt đứa trẻ ấy, nhưng hắn tin chắc rằng cô bé cũng sẽ có đôi mắt hoa đào tuyệt đẹp giống như nàng.

Tống Hành bước nhanh về phía hai bóng hình trước mắt, định tham gia cùng họ. Thế nhưng, khi hắn vừa tiến lại gần, cả hai lại đột ngột biến mất, không để lại dấu vết nào.

Cảnh tượng xung quanh dần trở nên hoang vắng, trước mắt chỉ còn một màu trắng xóa. Lòng hắn tràn đầy hoảng hốt, bất giác choàng tỉnh từ giấc mộng.

Tay hắn siết chặt, từng giọt mồ hôi trên trán lớn bằng hạt đậu, y phục ngủ cũng ướt đẫm. Tống Hành mệt mỏi áp tay lên ngực, há miệng th* d*c.

Bên ngoài trời đã hửng sáng, nhưng giờ vẫn đang còn sớm.

Tống Hành xuống giường, đi giày, bước đến bên cửa sổ, mở ra. Làn gió thu se lạnh thổi qua, xua đi hơi nóng còn sót lại trên người hắn.

Hắn bước đến cửa sổ, chống tay đẩy ra. Bên ngoài, hoa mộc phù dung đã nở rộ.

Hắn bất giác nhớ đến sáng sớm hôm nàng rời khỏi Lạc Dương để đến Thái Nguyên ở biệt viện. Khi ấy, ngoài cửa sổ cũng đầy những đóa mộc phù dung rực rỡ. Nàng đứng bên cửa sổ ngắm hoa, nghĩ lại, chuyện đó đã là năm năm trước.

Khi ấy, nàng mới mười chín tuổi, giờ đây chỉ vừa hai mươi tư, còn hắn hơn nàng tám tuổi, nay đã ba mươi hai, không còn là lang quân tuổi đôi mươi năm đó.

Nàng vẫn trẻ trung mạo mỹ, còn hắn, so về tuổi tác, dường như không xứng với nàng nữa.

Nghĩ đến đây, lòng hắn càng thêm bất an. Tay siết chặt lấy gỗ cửa sổ, hắn hạ quyết tâm, phải nhanh chóng đưa nàng và con của họ trở về bên mình.

Trung thu vừa qua, Trùng Dương lại đến.

Tin tức sứ thần nước Triệu chuẩn bị đến nước Sở truyền đến nước Ngụy khiến triều đình xôn xao.

Giang Thịnh nghe tin này liền lập tức đưa ra nhận định: Tống Hành có ý muốn “xa giao gần công” (kết giao xa, tấn công gần), hoặc kết đồng minh với nước Sở chung sức bàn đại kế phạt Ngụy.

Đêm ấy, hắn vội triệu tập quần thần vào điện bàn bạc, quyết định tiên phát chế nhân, [1] tấn công nước Sở, phá vỡ liên minh giữa hai nước.

[1]

Thẩm Kính An cảm thấy chuyện này có điểm đáng ngờ, bèn khuyên Giang Thịnh chớ nóng vội, tránh hành động theo cảm tính.

Nhưng Giang Thịnh vốn là người ham công danh, lại thêm tài trí tầm thường, chẳng có chiến công gì nổi bật. Nay đăng cơ, thiên hạ vẫn chỉ tôn xưng phụ hoàng hắn là hùng chủ nước Ngụy. Giang Thịnh ôm mộng đánh bại nước Sở để xây dựng uy vọng, vượt qua thành tựu của tiên đế. Nhân cớ này, hắn quyết định xuất binh, lớn tiếng nói: “Nguyện vọng cả đời của tiên đế là thống nhất thiên hạ. Nay nước Ngụy ta ngày càng hùng mạnh, còn nước Sở chỉ là tiểu quốc ba trấn, có gì đáng sợ. Đợi sau khi chiếm được nước Sở, thống nhất miền Nam, tự khắc có thể Bắc phạt nước Triệu.”

Thẩm Kính An nghe vậy cảm thấy không ổn, định khuyên thêm lần nữa, nhưng Tể tướng Trình Cảnh đã lên tiếng trước: “Nếu lúc này tấn công nước Sở, chẳng phải lo sợ nước Triệu nhân cơ hội đánh úp chúng ta, khiến ta rơi vào tình thế lưỡng đầu thọ địch [2] hay sao?”

[2]

Giang Thịnh lòng đã quyết, không muốn nghe những lời trái ý, sắc mặt lập tức sa sầm: “Nước Triệu và nước Ngụy đã nghị hòa mười năm, đến nay mới qua ba năm. Nếu bọn chúng lúc này tấn công ta, chẳng phải là bội tín bội nghĩa, không sợ bị thiên hạ cười chê hay sao? Huống chi, chúng muốn lôi kéo nước Sở, đủ thấy rằng với sức của nước Triệu hiện tại vẫn chưa thể một mình đánh bại nước Ngụy. Nếu không nhân lúc này diệt Sở, chẳng phải để lại mối họa về sau?”

Dẫu Giang Thịnh đã quyết ý, Thẩm Kính An vẫn không quên bổn phận của bề tôi, bước lên trước khuyên nhủ: “Ti hạ cho rằng lời Trình công rất có lý. Kính mong Thánh thượng nghĩ kỹ trước khi hành động.”

Nghe vậy, sắc mặt Giang Thịnh càng thêm khó coi. Trong lòng hắn chỉ cảm thấy hai tâm phúc này của tiên đế luôn luôn đối đầu với mình, chẳng qua là không muốn thấy hắn làm tốt hơn tiên đế mà thôi.

Giữa lúc bầu không khí căng thẳng, Tể tướng Chu Bành bỗng nói: “Thần cho rằng, lời Thánh thượng không phải không có lý. Huống chi nước Sở nhiều lần quấy nhiễu biên cương ta, cướp bóc sinh sự. Nay xuất binh thảo phạt là điều đúng đắn. Thẩm công liên tiếp làm trái ý Thánh thượng, chẳng lẽ vì dựa vào quân công và sự trọng dụng của tiên đế, được phong hầu mà coi thường đương kim Thánh thượng hay sao?”

Thẩm Kính An nghe vậy, trong lòng không khỏi lạnh lẽo. Y nhớ lại khi xưa từng tín nhiệm Đông cung, khi rời khỏi Biện Châu còn giao binh phù cho hắn để bảo vệ tiên đế. Nhưng không ngờ tiên đế vẫn băng hà, trong lòng không khỏi hoài nghi liệu có phải Đông cung cố ý làm ngơ không.

Hai vị vương gia Khang Vương và Hạ Vương cũng lần lượt chết trong tay hắn.

Người xưa nay trông có vẻ trung hậu như Đông cung, giờ nhìn lại, đâu phải chỉ đơn giản như vậy.

Hiện nay, y không nắm binh quyền, lại không được lòng vua, còn có thể làm gì nữa? Nghĩ đến công chúa, cháu gái và Trân Trân trong phủ, Thẩm Kính An âm thầm nắm chặt tay, trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng cúi đầu ôm quyền thi lễ, dùng giọng điệu bình tĩnh đáp: “Ti hạ tuyệt không dám có ý này.”

Giang Thịnh không thèm nhìn hắn, chỉ nhíu mày, lạnh lùng nói: “Trẫm đã quyết, chư khanh không cần khuyên thêm. Nếu có kế sách gì thắng địch, cứ việc trình bày.”

Những lời sau đó, Thẩm Kính An không còn nghe lọt tai. Trong lòng y chỉ thầm tính, e rằng đã đến lúc phải để các nàng rời khỏi Biện Châu rồi.

Hôm sau, lúc lâm triều, Giang Thịnh ban chiếu chỉ, phong Quách Thừa, huynh trưởng của Hoàng hậu Quách thị, làm Nguyên soái, đồng thời cử thêm ba vị tướng quân khác, nhưng lại chỉ để Thẩm Kính An làm Phó tướng.

Chiếu chỉ này rõ ràng nhằm áp chế tâm phúc cùng cựu thần của Tiên đế, cũng như nâng đỡ bè phái thân cận với tân đế. Phía ủng hộ tân đế thì tự hả hê, mừng rỡ vô cùng.

Sau buổi triều, Giang Thịnh giữ Thẩm Kính An lại để nghị sự.

“Trẫm nghe nói, cháu gái của Thẩm công dung mạo xuất chúng, khí chất phi phàm. Nay Thẩm công sắp thân chinh nước Sở, dù muốn quan tâm cũng e rằng lực bất tòng tâm. Chi bằng để trẫm thay ngươi gánh vác trách nhiệm ấy.”

Nhị nương trước nay ít khi rời phủ, chẳng rõ từ khi nào đã lọt vào mắt xanh của hắn. Nghe đến đây, trong lòng Thẩm Kính An thảng thốt, vội vã phủ nhận: “Ti hạ không rõ Thánh thượng nghe từ đâu ra lời đồn ấy, nhưng cháu gái của ti hạ dung mạo tầm thường, đã quá hai mươi bốn tuổi, hơn nữa còn có một nữ nhi bên gối. Làm sao dám làm phiền Thánh thượng hạ cố?”

Giang Thịnh nghe vậy chỉ cười nhạt: “Thẩm công, ngày trước ngươi lừa Tiên đế, phạm tội khi quân, giờ lại muốn dối gạt trẫm sao? Thẩm công đừng quên, đêm Khang vương tạo phản, chính trẫm đã phái người đến Thẩm phủ cứu ngươi. Khi đó cháu gái của ngươi đã đích thân cảm tạ, dung mạo nàng ta đã hiện rõ trước mắt mọi người, chẳng lẽ lại không đến tai trẫm? Dù nàng chẳng phải hoàn bích cũng không sao, Tiên đế khi nạp thiếp cũng từng có người tái giá hay quả phụ. Huống hồ, loại phong tình ấy e rằng còn độc đáo hơn nữa.”

Cơn giận trong lòng Thẩm Kính An suýt không kìm được, đầu ngón tay bấm chặt lòng bàn tay đến đau nhói. Sau mười mấy nhịp thở, y chậm rãi lên tiếng: “Thánh thượng đã nói vậy, ti hạ cũng không dám nhiều lời. Chuyện này nên thuận theo ý nguyện cả hai bên mới thỏa đáng. Xin Thánh thượng cho phép ti hạ về phủ bàn kỹ với cháu gái, để nàng ấy chuẩn bị tâm lý.”

Ngày trước ở bên phụ hoàng, hắn luôn là kẻ hiên ngang mạnh mẽ, chưa từng phải nhún nhường, hạ mình như hôm nay. Nghĩ thế nên Giang Thịnh càng cảm thấy đắc ý, quyết định ban ơn: “Cũng được. Đợi khi ngươi rời Biện Châu, trẫm sẽ phái người đưa nàng vào cung. Ngươi nhất định phải nói rõ tấm chân tình trẫm dành cho nàng, dặn nàng nhất định phải ăn vận chỉnh chu.”

Thẩm Kính An cố nén nỗi uất hận, khom người cung kính đáp: “Ti hạ tạ ơn Thánh thượng, thay mặt cháu gái cảm tạ thánh ân.”

Giang Thịnh thấy sự đã thành, liền vui vẻ cho lui. Hắn nghĩ, chỉ hai ngày nữa thôi, giai nhân ngoan ngoãn nhập cung, hắn sẽ kiên nhẫn chờ đợi.

Ra khỏi cung, Thẩm Kính An lập tức đến Đô đốc phủ, dựa vào giao tình mà lần đầu phá lệ xin một tờ giấy thông hành trống.

Trở về phủ, y cầm giấy thông hành đến gặp Thi Yến Vi, đồng thời sai người chuẩn bị cả bạc và vàng nén.

“A cữu, đây là ý gì?” Thi Yến Vi nghi hoặc hỏi.

Thẩm Kính An khẽ thở dài: “Kim thượng vừa thiếu đức vừa độc đoán, sợ rằng vận số nước Ngụy chẳng còn kéo dài được bao lâu. Sáng mai điểm binh xong, a cữu sẽ xuất chinh đánh Sở. Người kia sớm muộn cũng sẽ đem quân đánh nước Nguỵ, cháu cùng công chúa hãy mang theo Trân Trân đến Hải Châu trước. Nếu Ngụy bại trận, không cần bận tâm tới a cữu, cứ theo thương đoàn vượt biển mà đi. A cữu đã sắp xếp thị vệ đi cùng bảo vệ mọi người an toàn đến hải ngoại. Hắn dù có bản lĩnh lớn cũng không nghĩ ra cháu đã rời khỏi Trung Nguyên.”

Người kia… trong đầu Thi Yến Vi mơ hồ đoán được, chính là Tống Hành. Ba năm qua, nàng cố tình né tránh mọi chuyện liên quan đến hắn, chỉ nghe phong thanh rằng hắn cai quản nước Triệu rất tốt. Nhưng nàng chưa từng ngờ rằng, dù hắn từng nói sẽ quên nàng, ba năm trôi qua, hắn vẫn ghi nhớ nàng, thậm chí có ý truy đuổi mãi không buông?

“A cữu, cháu chưa hiểu.” Thi Yến Vi lên tiếng.

Thẩm Kính An khẽ cười chua xót: “Ta chưa từng nói với cháu, vì sợ cháu lo lắng. Nhị nương còn nhớ đêm Khang vương tạo phản, phủ ta vốn đã không chống đỡ nổi, vì sao lại giữ được cho đến khi quân Đông cung đến cứu không?”

Thi Yến Vi chẳng biết chút võ nghệ, cũng không có giác quan nhạy bén, nên hoàn toàn không nhận ra sự hiện diện của những tử sĩ. Nàng suy nghĩ mãi vẫn không hiểu, chỉ đành ngơ ngác lắc đầu.

Thẩm Kính An mặt mày ngưng trọng, rồi nói: “Chính là người kia phái tử sĩ âm thầm bảo vệ cháu, lúc này sợ rằng họ đang ở quanh Thẩm phủ. Ba năm nay, hắn không lập hậu cũng chẳng nạp phi. Có thể thấy, hắn chưa từng quên cháu.”

“A cữu biết cháu từng bị hắn làm tổn thương, trong lòng chẳng còn chút tình ý nào, chắc chắn không muốn quay lại bên hắn sống khổ sở. Nhưng a cữu chỉ mong cháu và công chúa sống tốt, sống vui vẻ. Chính vì thế mới nghĩ ra cách này.”

Lời vừa dứt, căn phòng chìm vào tĩnh lặng. Nàng không muốn tin sự việc lại thành ra như vậy, nhưng dù không muốn tin thì thực tế cũng đã rành rành, không thể không chấp nhận.

Nàng lẽ ra phải nghe theo sắp đặt của a cữu mà rời đi, nhưng ba năm sống chung, nàng đã coi y như người thân. Thi Yến Vi thấy lòng đau xót, nước mắt tràn mi: “Nhưng a cữu, nếu chúng ta đi rồi, người phải làm sao?”

“A cữu đã nói rồi, nếu quân Ngụy bại trận, mọi người hãy rời ra hải ngoại. Còn nếu Ngụy thắng, ta sẽ thu xếp cho mọi người đến nơi khác. Hải ngoại dù sao cũng chẳng phải quê nhà, nếu không đường cùng ta cũng không muốn ba người liều lĩnh đến đất khách.”

Thi Yến Vi càng thấy khó hiểu, vì sao Ngụy thắng rồi mà họ vẫn phải rời đi, vì sao không thể tiếp tục ở Biện Châu cùng a cữu? Trân Trân cũng rất yêu mến vị cữu công này.

Thẩm Kính An nhận ra nỗi băn khoăn trong mắt nàng, bèn giải thích: “Thánh thượng nghe từ miệng người cứu viện hôm ấy rằng nhan sắc của Nhị nương hơn người, nên muốn đưa cháu vào cung để thỏa mãn tư dục. Ta không thể cháu nàng vừa thoát khỏi hang hổ lại sa vào miệng sói, nên chỉ có thể đến dùng hạ sách này.”

“Nhưng may thay, Thánh thượng vốn là kẻ ham mê sắc đẹp, nay thế này mai thế khác, sẽ không bận tâm đến một nữ lang quá lâu. Nghĩ đến vài năm nữa, khi Nhị nương lớn tuổi, hắn sẽ không còn nhớ đến Nhị nương. Đến khi đó, cữu cháu ta sẽ có ngày tái ngộ.”

Đến lúc này, Thi Yến Vi cuối cùng cũng thấm thía lời Tống Hành từng nói với nàng lúc ở biệt viện hành sơn. Nàng chỉ có nhan sắc, nhưng không có năng lực tự bảo vệ, nếu rời xa hắn, sẽ chỉ chuốc họa bởi hạng người lang sói.

Giờ đây, nàng chẳng những không thể tự bảo vệ mình mà còn làm liên lụy đến cậu của nguyên thân.

Thi Yến Vi lòng tràn đầy tự trách, song cũng hiểu rõ thời khắc này không phải lúc do dự. A cữu sắp đặt như vậy, tất nhiên có lý lẽ của người. Huống hồ, nước Ngụy đang lúc cần người tài, Thánh thượng cũng không mất trí đến mức vì muốn có nàng mà lấy mạng của a cữu.

“Được, cháu sẽ nghe theo sự sắp xếp của a cữu.” Thi Yến Vi quyết ý, gật đầu thật mạnh.

Thẩm Kính An cố gắng giữ bình tĩnh, giọng điềm nhiên: “Sáng sớm mai, ta sẽ sai người cải trang thành cháu để đánh lạc hướng đám tử sĩ mà Tống Hành phái tới. Cháu và công chúa cải trang, dắt theo Trân Trân rồi đi qua cửa hông, sẽ có xe ngựa đến đón.”

Kế hoạch đã định, Thi Yến Vi thu dọn hành lý gọn ghẽ, lòng thấp thỏm đợi ngày mai đến.

Mọi chuyện diễn ra suôn sẻ, cả đoàn người ra khỏi thành, thẳng tiến về Hải Châu cách gần ngàn dặm.

Thêm một ngày nữa trôi qua, Thẩm Kính An đã theo quân xuất chinh. Giang Thịnh sai nội thị trong cung đến đón người, nhưng trong Thẩm phủ giờ đây đâu còn vị cháu gái xinh đẹp như hoa như ngọc của Thẩm hầu nữa.

Biết tin, Giang Thịnh giận đến tím mặt, song việc này vốn kín đáo, không tiện công khai. Thẩm Kính An đã rời Biện Châu theo quân chinh chiến, hắn không có lý do chính đáng để làm khó người Thẩm phủ. Huống chi hắn vừa lên ngôi không lâu, e rằng sẽ bị người ta nắm thóp. Tạm thời, hắn đành nén cơn giận, chờ Thẩm Kính An hồi triều rồi mới tính sổ.

Quách Trừng tuy kinh nghiệm chiến trận không bằng Thẩm Kính An, nhưng vì hắn là chủ soái, dù quyết sách sai lầm, kẻ khác cũng không dám không nghe. Thành ra, quân đội kéo đến biên giới nước Sở đã nửa tháng mà chưa chiếm nổi thành trì nào.

Phía tiền tuyến còn đang giằng co, hậu phương lại gặp biến cố. Triệu quốc, dưới sự chỉ huy của đại tướng quân Vệ Trạm, đã dẫn năm vạn binh từ Kim Châu tiến đánh Quân Châu. Chỉ trong hơn mười ngày ngắn ngủi, quân Triệu liên tiếp chiếm được ba thành, áp sát Đường Châu.

Giang Thịnh nhận được chiến báo, long nhan đại nộ. Triều đình lúc này không còn binh để dùng, đành phải gấp rút điều quân từ Hoài Nam tiếp viện bằng lệnh tám trăm dặm hỏa tốc.

Điện Triều Nguyên.

Mọi chuyện dường như đều diễn ra theo kế hoạch của hắn, chỉ trừ một điều ngoài dự liệu.

Nàng lại một lần nữa biến mất ngay trước mắt những kẻ mà hắn phái đi.

Ngụy quốc chưa nằm trọn trong tay hắn, không thể huy động quy mô lớn để truy tìm nàng.

Muốn biết tung tích của mẹ con nàng, chỉ e vẫn phải bắt đầu từ Thẩm Kính An.

Thẩm Kính An vốn cẩn trọng, chắc chắn đã sắp đặt kỹ lưỡng cho nàng. Nơi nàng đi đến, nhất định là do Thẩm Kính An đích thân lựa chọn.

Tống Hành chăm chú nhìn tấm dư đồ trước mặt. Chiến báo hôm qua vừa đến, việc chiếm được Đường Châu chỉ là vấn đề sớm muộn. Khi quân Vệ Trạm áp sát trấn Trung Võ, hắn sẽ thân chinh dẫn quân hội ngộ tại Hứa Châu, rồi thẳng tiến Biện Châu.

Dù không thể nhất cử đoạt lấy Ngụy quốc, chỉ cần đẩy lùi bọn chúng xuống phía nam Trường Giang, đến Hàng Châu là đủ.

Đất nước mất đi một nửa, dù vẫn còn tồn tại, cũng chỉ là cầm cự trong cảnh suy vong.

Ngón tay trỏ của Tống Hành dừng lại ở vị trí Hàng Châu, nhưng ánh mắt lại vô tình lướt qua Hải Châu phía trên. Dù vậy, hắn cũng không để tâm quá nhiều, chỉ thu tay lại, xoa nhẹ sống mũi để giảm bớt sự nhức mỏi trong đôi mắt và cơn đau âm ỉ nơi trán.

Mùa đông sắp tới, không biết nàng ngoài kia sống ra sao, liệu có cơm no áo ấm. Đứa trẻ của họ có biết đến sự tồn tại của người cha này, có biết hắn đang ngày đêm nhớ mong mẹ con họ hay không?

Là hoàng hậu, là công chúa, nào có thể chịu cảnh bôn ba phiêu dạt. Tống Hành nghĩ đến đây, chỉ hận không thể ngay lập tức tấn công nước Ngụy, lật tung cả nước lên, đem mẹ con nàng bình an vô sự trở về Triệu quốc.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 76: Gặp nhau



Chớp mắt đã sang tháng mười, giữa mùa đông giá rét.

Mùa đông ở Hải Châu vừa khô vừa buốt. Sáng sớm, Thi Yến Vi rửa mặt, trước tiên nhóm một chậu than đỏ bên giường. Sau khi Dương Quân tỉnh giấc, nàng mang đến bộ y phục đã sưởi ấm, giúp bé mặc vào, rồi dạy bé tự mình mang giày.

Dương Quân còn nhỏ, việc mang giày tất vẫn chưa thạo. Bé ngồi ở mép giường, loay hoay thử một lúc, cất giọng ngọng nghịu hỏi: “A nương ơi, mùa đông ở Hải Châu có tuyết rơi không ạ?”

Thi Yến Vi lần đầu trải qua mùa đông tại Hải Châu. Khi còn ở hiện đại, thời thơ ấu nàng lớn lên tại vùng duyên hải phía nam, chưa từng được thấy cảnh tuyết rơi. Song, Hải Châu nằm gần phương Bắc, có lẽ sẽ có tuyết chăng?

Dù không chắc chắn, nàng không muốn để bé thất vọng, bèn mỉm cười đáp: “Đợi trời lạnh thêm chút nữa, có lẽ sẽ có tuyết rơi.”

Tiết trời khô lạnh dễ làm da nứt nẻ. Làn da của Dương Quân non nớt, càng không chịu nổi gió rét. Thi Yến Vi trông chừng bé rửa mặt, đánh răng xong xuôi, rồi lấy hộp cao dưỡng da, cẩn thận thoa lên tay và má bé.

Khi ấy, Lý Lệnh Nghi vừa làm xong công khóa. Nàng bước vào thì thấy Dương Quân đang lấy loại cao dưỡng da thơm lừng màu trắng trên mu bàn tay Thi Yến Vi xoa cho nàng ấy, vừa xoa vừa nhỏ nhẹ nói: “A nương cũng thoa vào đi.”

Lý Lệnh Nghi không quấy rầy hai mẹ con, chỉ lặng lẽ ngồi xuống bàn bên cạnh.

Thi Yến Vi quay lại nhìn, hỏi nàng đã ăn sáng chưa. Lý Lệnh Nghi đáp rằng nàng đã cùng Vọng Tình ăn mì rồi.

“Ta và Trân Trân còn chưa ăn. Ta định ra chợ dạo một vòng, Lệnh Nghi có muốn cùng đi không?”

Lý Lệnh Nghi nhàn rỗi không có việc gì làm, bèn gật đầu đồng ý.

Thi Yến Vi sửa soạn một chút, đội lên chiếc mũ có rèm che, nắm tay nhỏ của Dương Quân, cùng bước ra ngoài.

Gần căn nhà các nàng thuê có một khu chợ, không cần đi xe ngựa, chỉ cần đi bộ là tới.

Hải Châu là vùng ven biển, dân cư phần lớn sống bằng nghề đánh bắt cá. Trong thành, khắp nơi đều bày bán hải sản tươi ngon.

Đi ngang qua một quán nhỏ, mùi thơm từ nồi nước sôi nghi ngút khiến Dương Quân dừng chân, đôi mắt sáng lên, tay kéo nhẹ tay áo của Thi Yến Vi làm nũng: “A nương, Trân Trân muốn, muốn ăn món trắng trắng kia.”

Thi Yến Vi nhìn nam lang đang giã thịt cá chăm chỉ, rồi nhìn nữ lang đang dùng đũa gắp viên cá cho vào nồi. Nàng thầm nghĩ món cá viên này chắc hẳn ngon lành, lại nguyên chất tự nhiên. “Được, Trân Trân muốn ăn cá viên, a nương sẽ ăn với con.”

Sau đó nàng quay sang hỏi Lý Lệnh Nghi và Úc Kim có muốn ăn cùng không. Cả hai người đều lắc đầu bảo không đói. Vì vậy, nàng chỉ gọi hai bát mì cá viên.

Chủ quán mời các nàng ngồi xuống. Sợ Dương Quân bị lạnh, Thi Yến Vi bế bé ngồi lên đùi mình, hà hơi, thổi nhẹ vào đôi tay nhỏ để sưởi ấm.

Mì cá viên nhanh chóng được mang lên. Lý Lệnh Nghi bảo Thi Yến Vi đặt Dương Quân vào lòng nàng. Bé rất thân thiết với người dì này, liền ngoan ngoãn để nàng bế.

Dương Quân mới hơn hai tuổi, cầm đũa còn chưa vững, thấy bé xoay sở một hồi vẫn không gắp được viên cá, Lý Lệnh Nghi vừa thấy đáng yêu, vừa thấy đáng thương. Nàng dịu dàng hỏi: “Để a di đút cho Trân Trân ăn nhé?”

Thi Yến Vi nghe chữ “a di”, đột nhiên nhớ ra dì và cậu thuộc hai thế hệ khác nhau. Cậu nàng mới ba mươi lăm tuổi mà đã lên hàng ông cậu rồi.

“Được ạ.” Dương Quân nghiêm túc gật đầu, đưa đũa cho Lý Lệnh Nghi. Nàng mỉm cười nhận lấy, đút cho bé ăn vài sợi mì, rồi gắp thêm một miếng cá viên nhỏ.

Trong lúc đang đút ăn, họ bỗng thấy bên quầy xuất hiện hai mẹ con dáng người gầy gò. Quần áo của hai người cũ kỹ, mỏng manh, tóc búi đơn giản, cài bằng trâm gỗ và buộc bằng vải thô. Cô bé kia nhìn chỉ chừng năm sáu tuổi, âm thầm nuốt nước bọt khi nhìn vào những bát mì nóng hổi.

Người mẹ mang theo một giỏ tre cũ kỹ đựng rau tươi theo mùa, có vẻ định vào chợ bán.

Thi Yến Vi và Lý Lệnh Nghi nhìn thấy đôi mẹ con với dáng vẻ tiều tụy, sinh lòng cảm thương. Nàng trao đổi ánh mắt với Lý Lệnh Nghi, đứng dậy mời hai người vào, nói muốn mua ít rau củ của họ.

Trong lúc nói chuyện, Thi Yến Vi quay sang dặn chủ quán nấu thêm hai bát canh cá viên.

Cô bé núp sau lưng mẹ, rụt rè nhìn hai nữ lang trước mắt, chỉ thấy các nàng đẹp như tiên tử bước ra từ bức họa.

Người lớn tuổi hơn bế trong lòng một tiểu cô nương, khuôn mặt tròn xoe trắng hồng, mái tóc cài đầy hoa vải và dây lụa, cổ đeo khóa bạc, cổ tay lại có thêm vòng bạc kèm chuông nhỏ, tất cả đều lấp lánh rực rỡ.

Cô bé thầm nghĩ, hai người này hẳn đến từ gia đình phú quý hiển hách. Đúng lúc này, chủ quán bưng hai bát mì ra bàn.

Thi Yến Vi nhẹ giọng nói: “Thời tiết giá lạnh, không bằng ngồi xuống ăn bát mì nóng. Rau cải trắng và rau dền gai của hai người, ta sẽ mua hết.”

Vừa nói, nàng vừa lấy túi tiền từ tay Úc kim, rút ra hai lượng bạc đưa cho phụ nhân kia.

Phụ nhân nắm lấy bạc, chỉ thấy bàn tay nặng trĩu, tim đập thình thịch, vội vã lắc đầu từ chối: “Số rau này làm sao đáng giá đến vậy…”

Lời còn chưa dứt, Thi Yến Vi đã vỗ nhẹ lên mu bàn tay nàng, nhoẻn cười ý nhị: “Mấy loại rau này ta đều rất thích. Thân là nữ tử, sức khỏe không thể qua loa. Trời rét thế này, nương tử hãy cầm số bạc này đi mua vài món y phục ấm áp mà mặc.”

Phụ nhân nghe vậy, nước mắt rưng rưng cảm kích, toan quỳ xuống tạ ơn. Nhưng Thi Yến Vi liền xua tay cười nói: “Đây chỉ là tích đức hành thiện, nương tử không cần đa lễ. Hãy giữ số bạc này cẩn thận.”

Nói rồi, nàng tháo một đóa hoa lụa từ trên đầu Dương Quân, cài lên mái tóc tiểu cô nương đang đứng bên cạnh, nhẹ giọng hỏi cá viên có ngon không.

Đứa bé ngây thơ đưa tay chạm lên đóa hoa lụa, đôi mắt ánh lên niềm vui sướng, gật đầu thật mạnh rồi ngập ngừng khen Thi Yến Vi và Lý Lệnh Nghi giống tiên nữ trong tranh.

Thi Yến Vi không nhịn được cười, yêu thương xoa nhẹ đỉnh đầu cô bé. Nàng quay sang hỏi chủ quán cá viên có bán theo cân không.

Chủ quán nói rằng bán, Thi Yến Vi liền mua thêm hai cân, gói lại rồi tặng mẹ con họ, tất cả đều do nàng chi trả.

Cá viên đưa vào miệng, quả nhiên thơm ngon, vị tươi đậm đà. Thi Yến Vi nhân tiện mua thêm một ít, bảo chủ quán gói trong giấy vàng để đem về nhà.

Trên đường trở về, Úc Kim xách một giỏ nhỏ, bên trong chất đầy đồ ăn thức uống. Cả Lý Lệnh Nghi và Thi Yến Vi cũng không rảnh rỗi, thay phiên nhau xách đồ và bế Dương Quân.

Khi về đến nhà, cũng gần đến giờ Ngọ. Thi Yến Vi dặn Úc Kim ôm Dương Quân vào phòng sưởi ấm, còn nàng thì tự mình chuẩn bị bữa trưa.

Thẩm Kính đã sắp xếp bốn thị vệ võ công cao cường, đi theo bảo vệ các nàng. Hai người luôn theo sát Thi Yến Vi mỗi lần ra ngoài, còn hai người kia trông coi hậu viện, mọi việc được an bài chu đáo, không chút sơ suất.

Tại Biện Châu cách đó ngàn dặm, Giang Thịnh thấp thỏm không yên, nhiều ngày không chợp mắt.

Tống Hành ngự giá thân chinh, hội quân với Vệ Trạm tại Đường Châu, áp sát Trung Võ. Nếu chiếm được Hứa Châu, thì Tuyên Võ ắt sẽ gặp nguy.

Trình Cảnh thấy thế cuộc nguy cấp, bất chấp an nguy bản thân, quỳ ngoài điện cầu kiến Giang Thịnh.

Quân nước Triệu thế như chẻ tre. Đến lúc này, Giang Thịnh mới bình tĩnh lại đôi chút, không làm khó Trình Cảnh, mà ra lệnh mời ông tiến vào.

Vừa gặp Giang Thịnh, Trình Cảnh liền quỳ trên nền gạch lạnh băng, khẩn thiết thưa chuyện: “Lão thần khẩn cầu Thánh thượng triệu hồi Vũ An hầu trở lại Biện Châu. Hầu gia từng theo tiên đế chinh chiến khắp nơi, thắng nhiều hơn bại, là một tài năng hiếm có. Nếu ngài ấy thống lĩnh binh mã đến Trung Võ có lẽ sẽ xoay chuyển được cục diện nguy nan.”

Giang Thịnh từng cân nhắc việc triệu hồi Thẩm Kính An, nhưng hắn từng chèn ép y quá đà, sợ trong lòng y nảy sinh oán hận. Huống hồ, thân là quốc quân một nước, hắn cũng khó mà cúi mình, để hạ chỉ triệu người về nắm giữ ấn soái.

“Nếu Thánh thượng không chê, lão thần nguyện dùng chút hơi tàn, đích thân đến Giang Tây mời Võ An hầu hồi triều.”

Có người đã xây bậc thang cho hắn bước xuống, Giang Thịnh cũng không làm cao nữa, lập tức chuẩn lệnh. Nhưng xét đến tuổi tác và sức khỏe của Trình Cảnh, khó lòng chịu đựng được hành trình gấp gáp, hắn bèn hạ lệnh tám trăm dặm truyền chỉ khẩn cấp.

Thẩm Kính An tiếp chỉ hồi triều. Hôm y trở lại Biện Châu, Trình Cảnh đích thân đến cổng thành nghênh đón, còn Giang Thịnh tuy đến trễ, nhưng vẫn trả lại binh phù cho y.

Giang Thịnh không nói nhiều, chỉ bảo y hãy nghỉ ngơi trong phủ một hôm, hôm sau vào giờ Mão dẫn binh đến Trung Võ, chống lại đại quân Triệu quốc.

Mười ngày sau, chiến sự tại Hứa Châu trở nên căng thẳng. Thẩm Kính An dẫn quân đến cứu viện.

Đêm đông lạnh giá, Tống Hành khoác một chiếc áo choàng lông hạc, đứng lặng trước doanh trướng, chăm chú nhìn về phía thành Hứa Châu.

Thẩm Kính An đã đến, nếu có thể bắt sống y, liệu có tìm được tung tích Âm Nương?

Âm Nương là người từ bi lương thiện, như thần nữ mang trong mình lòng trắc ẩn với vạn vật. Nàng nhất định không đành lòng nhìn Thẩm Kính An chết trước mắt mình. Vì cứu tính mạng cữu phụ, nàng nhất định sẽ ở lại bên hắn.

Hắn muốn giam giữ Thẩm Kính An bên ngoài cung, chỉ cần Thẩm Kính An còn trong tay hắn một ngày, Âm Nương ắt sẽ ngoan ngoãn ở lại bên cạnh hắn, không dám nghĩ đến chuyện rời xa hắn nữa.

Ngày hôm sau, quân Triệu đến dưới thành khiêu chiến.

Thẩm Kính An bình chân như vại, suốt ba ngày liền đều không ra khỏi thành nghênh địch.

Quân Triệu định vây khốn quân Ngụy, nhưng cũng là giết địch một nghìn, tổn hại tám trăm. Gió đêm ngoài thành lạnh thấu xương, tất càng thêm khó nhịn.

Chờ đến khi quân Triệu vì lạnh mà sinh bệnh, sức chiến đấu ắt suy giảm.

Trình Diễm nhìn ra ý đồ của Thẩm Kính An, lòng dạ lo âu, vội tìm Tống Hành thương nghị.

Tống Hành nói: “Nhữ Châu cách Hứa Châu không quá trăm dặm, có thể vận than củi và chăn bông chống rét từ Nhữ Châu đến. Huống hồ, thủ thành Hứa Châu là Viên Chử và Thẩm Kính An xưa nay chẳng có giao tình sâu sắc, hai người đó chưa chắc đã đồng lòng. Sao không nghĩ cách kích động Viên Chử?”

Trình Diễm nghe xong, nhanh chóng điểm lại những chuyện liên quan đến Viên Chử, chậm rãi nói: “Viên Sở về già chỉ có một đứa con trai độc nhất, hiện tại đang làm quan tại huyện Mật, thuộc quản hạt Trịnh Châu. Nếu bắt được con trai ông ta, ắt sẽ ép được ông ta xuất thành nghênh chiến.”

Huyện Mật cách Hứa Châu chưa đầy hai trăm dặm, phi ngựa nhanh thì chỉ mất hai canh giờ.

Ánh mắt Tống Hành thoáng u ám, quyết định chỉ trong chớp mắt. Hắn khoác áo choàng, dẫn theo hai ngàn kỵ binh tinh nhuệ, men theo đường nhỏ, thẳng tiến đến huyện Mật ngay trong đêm.

Khi đến huyện Mật, đã qua giờ Tý. Trong thành, quân dân đều đã ngủ say. Tống Hành dẫn binh công thành, trời chưa sáng đã chiếm được huyện Mật. Hắn ra lệnh quân Triệu thu thập binh khí, chiến mã trong thành, sau đó đích thân bắt giữ Viên Dụ, con trai của Viên Chử.

Bình minh vừa lên, quân Triệu vẫn không đến khiêu chiến. Viên Chử không khỏi sinh nghi, đứng trên tường thành nhìn về phía quân doanh nước Triệu.

Đến trưa, bất chợt thấy một đội quân đông đảo từ rừng cây phi tới, khói bụi mịt mờ.

Tống Hành giao Viên Dụ cho tiền phong, đến dưới thành kêu gọi.

Viên Chử đứng trên cao, trông thấy rõ ràng kẻ bị trói chặt không ai khác ngoài con trai mình.

“Thằng nhãi Tống Hành kia, ngươi đừngkhinh người quá đáng!” Viên Chử thét lớn, không màng đến lời khuyên can của thuộc hạ, vội vã xuống thành, lên ngựa xuất thành nghênh chiến.

Trong doanh trướng, khi Thẩm Kính An nghe tin, lập tức ra ngoài, không nói lời nào đã tự mình đánh trống lệnh thu binh.

Con trai ở ngay trước mắt, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc, Viên Chử nào chịu nghe theo, chỉ dẫn theo thân tín liều chết xông pha.

Viên Chử không địch lại Vệ Trạm. Hai bên giao chiến không lâu, quân Viên Chử đã rơi vào thế yếu. Đội quân dưới tay Viên Chử không phải binh sĩ được Thẩm Kính An huấn luyện, thực lực kém xa quân Triệu. Chưa đầy hai khắc, thắng bại đã rõ.

Tống Hành dẫn binh truy kích, Viên Chử được thuộc hạ bảo vệ quay về thành. Trong khi đó, Thẩm Kính An chỉ huy vài trăm quân ngăn cản, Tống Hành một ngựa xông lên, nhắm thẳng vào Thẩm Kính An mà đến.

Trong lúc giao chiến, Thẩm Kính An nhận ra kiếm pháp của Tống Hành sắc bén nhưng không phải sát chiêu, rõ ràng không muốn lấy mạng y.

Nghĩ đến chắc là do tìm không thấy Nhị nương, muốn bắt sống y, hòng ép y khai ra tung tích của nàng ấy.

Qua mười chiêu, Tống Hành phát giác Thẩm Kính An quả nhiên võ nghệ bất phàm, có thể giao thủ với hắn nhiều chiêu mà vẫn giữ được thế cân bằng, đây là lần đầu tiên hắn gặp đối thủ như vậy.

Nhưng nếu so về thể lực và sức lực, đối phương rõ ràng vẫn kém hơn.

Tống Hành tăng thêm lực đạo vào đường kiếm. Thẩm Kính An khó lòng chống đỡ, hai tay nắm chặt trường thương trong tay, liều mạng đỡ đòn. Tống Hành không có ý đoạt mạng, lập tức nương tay, chuyển mũi kiếm đâm xuống chân đối phương.

Thẩm Kính An vội vã xoay ngựa tránh né, nhưng Tống Hành không chịu bỏ qua, thúc quân Triệu quốc truy sát không ngừng.

Quân Nguỵ kịp thời đóng cổng thành, cắt đứt đường tiến của quân Triệu.

Viên Chử tuy may mắn giữ được mạng, nhưng lại trọng thương, còn Thẩm Kính An cũng bị một kiếm của Tống Hành đâm trúng.

Trong lòng y càng cảm thấy bất an, dù hận Tống Hành đã làm nhục Nhị nương, càng hận hắn đoạt đi sinh mạng của không biết bao nhiêu tướng sĩ Nguỵ quốc, nhưng không thể phủ nhận rằng Tống Hành chính là bá chủ không thể bỏ qua trong thời loạn thế này, là người có khả năng lớn nhất để thống nhất thiên hạ trong tương lai.

Nếu Nhị nương muốn thoát khỏi ma trảo của hắn, e chỉ còn cách rời khỏi nơi này, lánh nạn ở hải ngoại.

Trận chiến lần này, quân Nguỵ rõ ràng rơi vào thế hạ phong, sĩ khí không khỏi suy sụp.

Tống Hành thừa thắng xông lên, liên tục tấn công Hứa Châu trong nhiều ngày. Cuối cùng, đến ngày thứ mười, thành Hứa Châu bị phá.

Khi ấy, tướng thủ Trịnh Châu vì nghe tin huyện Mật bị quân Triệu công phá chỉ trong một đêm, đành phải tăng cường cảnh giác, đồng thời cấp báo đến Biện Châu.

Mấy ngày trước, Giang Thịnh vừa nhận được tin tức từ Trịnh Châu, nay lại nghe chiến báo Hứa Châu thất thủ, trong lòng nóng như lửa đốt. Để bảo toàn binh lực, hắn buộc phải ra lệnh tám trăm dặm hỏa tốc, yêu cầu Quách Trừng lập tức rút quân về Biện Châu.

Tin tức Hứa Châu thất thủ lan truyền khắp dân gian, cả thành Biện Châu chìm trong bàng hoàng.

Thẩm Kính An dẫn quân rút về Tuyên Võ, chờ quân của Quách Trừng đến Bạc Châu, hai bên hội quân rồi cùng nhau trở về Lạc Dương.

Thành Tuyên Võ được trấn giữ bởi những tướng sĩ từng theo Giang Tiều chinh chiến khi xưa, không dễ công phá như thành Trung Võ. Tống Hành bày kế, giả vờ công thành ở biên giới Tuyên Võ suốt mười mấy ngày, rồi đột nhiên chuyển hướng, toàn lực đánh vào Trịnh Châu ở tây bắc.

Tướng thủ Trịnh Châu tuy đã có chuẩn bị từ trước, nhưng vẫn bị đánh úp đến không kịp trở tay. Chưa đầy nửa tháng, tình hình Trịnh Châu đã vô cùng nguy cấp. Trịnh Châu cách Biện Châu hơn trăm dặm, nếu Trịnh Châu thất thủ, quân Triệu có thể thẳng tiến về Biện Châu.

Trên Minh Đường, bá quan văn võ tranh luận không ngớt về việc có nên từ bỏ Biện Châu để lui xuống phía nam hay không.

Thẩm Kính An cau mày, đề nghị: “Ti hạ cùng Quách Nguyên soái mỗi người đều nắm trong tay hàng vạn binh lực, Tuyên Võ lại có thêm năm vạn quân, chưa hẳn không giữ được Biện Châu. Nếu giờ Thánh thượng rời thành xuôi nam, chẳng phải là dâng nửa nước Nguỵ cho quân Triệu sao?”

Chu Bành vặn mày, nhìn hắn chằm chằm, nói: “Nếu Vũ An hầu thật sự có thể chống lại quân Triệu, thì đã không để Hứa Châu thất thủ, khiến quân Triệu liên tiếp công phá thành trì của Ngụy quốc. Nay quốc khố hao hụt, lại có nước Sở ở Lĩnh Nam dòm ngó, nếu không bảo toàn binh lực và tài lực rồi nam hạ, e rằng không chỉ nửa nước Ngụy, mà cả Ngụy quốc sẽ không còn.”

Hoài Nam hầu tiếp lời: “Trịnh Châu lâm nguy, nếu Thánh thượng còn do dự không quyết, đợi đến khi quân Triệu công đến Biện Châu, sự an nguy của Thánh thượng và tông thất Ngụy quốc, ai có thể đảm bảo?”



Trên triều, tiếng tranh cãi dần lắng xuống. Ngoại trừ một số võ tướng và các văn thần im lặng không tỏ thái độ, phần lớn quan viên ủng hộ từ bỏ Biện Châu, lui về phía nam.

Giang Thịnh day trán, đưa ra quyết định: Đêm nay sẽ rời Biện Châu.

Thẩm Kính An không đành lòng bỏ mặc Ngụy quốc và quốc quân, nhưng cũng không thể trơ mắt nhìn Nhị nương rơi vào tay Tống Hành hoặc Giang Thịnh. Ngay lập tức, y viết một phong thư, giao cho tâm phúc cưỡi hãn huyết bảo mã của y ngày đêm không nghỉ chạy tới Hải Châu.

Người ấy nhận lệnh, lên ngựa lao đi, hoàn toàn không hay biết hành tung của mình đã bị lộ.

Bảy ngày sau, ở Hải Châu.

Năm mới gần kề, ngày ngắn đêm dài. Trời vừa mờ sáng, Thi Yến Vi ra mái hiên thắp đèn lồng, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng gõ dồn dập.

Dương Quân trèo lên ghế, ghé mắt qua ô cửa sổ nhìn ánh sáng từ chiếc đèn lồng, há miệng nhỏ giọng giục nàng mau vào nhà sưởi ấm, kẻo bên ngoài lạnh lắm.

Lý Lệnh Nghi lo bé té ngã, vội đặt cây phất trần trong tay xuống, bế bé xuống đất.

Ngoài cửa vang lên giọng nói trong trẻo của Thi Yến Vi: “Trân Trân ngoan nào, bên ngoài có người gõ cửa, a nương ra xem thử.”

Nói rồi, nàng bước xuống bậc đá, tiến về cổng lớn, cao giọng hỏi bên ngoài là ai.

Ngoài cửa không có ai hồi đáp. Nàng hơi nghi hoặc, lại hỏi một lần nữa nhưng vẫn không có tiếng trả lời.

Có lẽ người gõ cửa đã nhầm chỗ, nhận ra sai lầm mà rời đi. Nghĩ vậy, nàng không để tâm, quay người trở lại phòng.

Dương Quân vừa thấy nàng bước vào, chớp đôi mắt to tròn sáng rỡ, ngọt ngào hỏi: “A nương, ai gõ cửa vậy ạ?”

Thi Yến Vi bị vẻ đáng yêu nghiêm túc của bé làm rung động, mỉm cười đáp: “Không có ai cả, chắc là nhầm nhà rồi.”

“Làm sao có người lại không nhận ra nhà mình cơ chứ?” Dương Quân vẫn thắc mắc, dang đôi tay nhỏ xíu đòi nàng bế.

Lý Lệnh Nghi cười theo, bế Dương Quân đặt vào lòng Thi Yến Vi, giọng dịu dàng bảo: “Trân Trân chỉ cần thấy cô là dính chặt, đủ biết a nương như cô là người bé yêu quý nhất.”

Thi Yến Vi ôm Dương Quân, ngồi xuống ghế bành, lấy ra một con hổ vải cho bé chơi.

Dương Quân nhìn con hổ có vẻ hung dữ, liền nói: “A nương có biết làm thỏ nhỏ không? Trân Trân thích thỏ cơ.”

Con hổ vải ấy vốn là thứ nàng mua ở chợ với giá một quan bạc từ tay một bà lão, không phải do nàng tự may. Bị câu hỏi bất ngờ làm khó, hồi lâu nàng mới đáp là đợi qua Nguyên Nhật, thời tiết ấm lên, tay không bị cóng nữa, lúc đó a nương sẽ thử may sau.

Dương Quân liền đưa ngón út nhỏ nhắn, đòi cùng a nương ngoắc tay.

Đây là thói quen mà cữu ông của bé đã dạy.

Khi tin tức Thánh thượng mang theo hậu phi, tông thất và triều thần xuôi nam lánh nạn truyền đến Hải Châu, đã là ngày hai mươi tám tháng Chạp.

Trong thành Hải Châu, bá tánh vẫn chìm trong không khí náo nức đón ngày đầu năm mới, chỉ xem chuyện này như đề tài lúc trà dư tửu hậu.

Tựa hồ việc triều đại đổi thay, giang sơn đổi chủ chẳng liên quan gì đến họ. Chỉ cần chiến sự không lan đến Hải Châu thì không việc gì phải lo lắng.

Ngụy quốc bại trận, Thánh thượng xuôi nam lánh nạn. A cữu vẫn chưa gửi tin tức, không biết hiện giờ người có được bình an không?

Nàng có nên rời Hải Châu, lên thuyền theo thương đội ngoại quốc vượt biển không?

Lúc Thi Yến Vi đang hoang mang suy nghĩ, thì một thị vệ bỗng gõ cửa phòng nàng.

“Nương tử.” Thị vệ cung kính gọi một tiếng, đợi nghe thấy tiếng nàng đáp lời mới nói tiếp: “Tuy gia chủ không gửi thư đến, nhưng mỗ không dám quên lệnh của gia chủ. Nay Ngụy quốc thất bại, mỗ cùng đồng liêu sẽ hộ tống nương tử và nữ quan rời Hải Châu.”

Thi Yến Vi im lặng một lát, cuối cùng cắn răng gật đầu: “Được, ta sẽ thu dọn đồ đạc ngay trong đêm. Sáng mai, chúng ta sẽ đến bến cảng tìm thuyền vượt biển.”

Thị vệ đáp: “Mỗ đã rõ, nương tử cũng nên nghỉ ngơi sớm.”

Thi Yến Vi đứng đó, trong lòng nôn nao khó hiểu. Nàng lo lắng cho ngày mai, chẳng biết mọi việc có thể thuận lợi hay không. Không biết a cữu có bình an hay không, có cùng Thánh thượng xuôi nam lánh nạn hay không.

Nửa đêm ấy, Dương Quân dường như cảm nhận được sự bất thường của nàng, liền kéo tay áo nàng, dụi vào lòng, ngẩng đầu lên nhìn: “A nương, người không vui sao? Hôm nay Trân Trân… Trân Trân có phải không ngoan không?”

Thi Yến Vi cúi xuống bế cô bé, miễn cưỡng nở nụ cười, phủ nhận: “Không phải a nương không vui. Ngày mai a nương và a di sẽ dẫn Trân Trân đi thuyền lớn đến một nơi mà con chưa từng đến. Trên thuyền lớn có thể thấy biển xanh, hải âu trắng, có lẽ còn thấy cả cá heo nữa.”

Úc Kim cũng không hiểu “hải âu” hay “cá heo” mà nàng vừa nhắc tới là gì. Chỉ biết đôi khi Thi Yến Vi và công chúa Tuyên Thành sẽ thốt ra những lời mà nàng cùng Vọng Tình chẳng tài nào hiểu nổi.

Nghe vậy, Dương Quân tròn mắt, không giấu nổi vẻ tò mò: “Hải âu là gì vậy ạ?”

“Ừm, hải âu là một loài chim có bộ lông toàn màu trắng, thường bay lượn trên mặt biển.”

“Vậy còn cá heo? Cá heo là gì ạ?”

“Cá heo là loài cá có bụng trắng, thân xanh, trên lưng có một chiếc vây cong cong. Chúng thường nhảy lên khỏi mặt nước, trông rất linh hoạt.”

Nói đến đây, nàng chợt nhớ ra, chữ “động vật có vú” e rằng Dương Quân không hiểu, bèn đơn giản gọi đó là “cá”.

Đêm ấy, Dương Quân quấn lấy nàng, hỏi không ngừng về biển cả, cho đến khi cả hai đều thấm mệt mà thiếp đi.

Sáng hôm sau, xe ngựa đã chuẩn bị xong xuôi, thị vệ đến thỉnh các nàng lên đường.

Thi Yến Vi gật đầu đáp ứng, nắm tay nhỏ của Dương Quân bước ra cửa. Chưa kịp bước xuống bậc thềm, từ hậu viện vọng lại tiếng binh khí chạm nhau. Còn chưa hiểu sự tình, đã thấy một nhóm người quỳ rạp trước mặt mẹ con nàng.

“Ti hạ phụng mệnh Thánh thượng, đặc biệt đến bảo hộ Hoàng hậu điện hạ và công chúa được bình an.”

Hoàng hậu? Công chúa? Nàng đồng ý làm hoàng hậu của hắn khi nào chứ? Trân Trân lại càng không liên quan gì đến hắn!

Tên điên này! Vì sao đã gần bốn năm qua, hắn vẫn không chịu buông tha nàng?

Năm xưa hắn từng thề sẽ quên nàng. Nhưng nghĩ kỹ mà xem, có khi nào hắn chịu giữ lời với nàng đâu?

Lần này, nàng không nổi giận, cũng không run sợ như những lần trước. Chỉ còn lại cảm giác mỏi mệt và bất lực sâu sắc.

Đấu không lại, thoát không xong. Dù nàng có cố gắng thế nào, hắn vẫn như miếng cao dán dai dẳng, bám chặt lấy nàng, không cách nào gỡ ra được.

Nàng cố lấy lại bình tĩnh, hỏi: “Hắn đang ở đâu?”

“Duyện Châu. Chờ công phá được Thái Ninh, người sẽ tự mình đến gặp điện hạ cùng công chúa.”

Duyện Châu. Thi Yến Vi cẩn thận nhớ lại tấm bản đồ nàng đã xem không dưới ngàn lần, ước tính từ đây đến đó chừng năm trăm dặm.

Hải Châu là trấn quản hạt của Thái Ninh, binh lực chủ yếu tập trung ở Duyện Châu. Một khi hắn chiếm được Duyện Châu, toàn bộ Thái Ninh sẽ quy phục dưới chân Triệu quốc, trở thành quốc thổ của hắn.

Thi Yến Vi khẽ nhắm mắt, hạ giọng ra lệnh: “Bảo bọn họ dừng tay, không được làm hại bất kỳ ai bên cạnh ta.”

Người nọ cung kính ôm quyền nói: “Ti hạ tuân mệnh.”

Từ hôm ấy, phủ của Thi Yến Vi bị vây kín bởi binh sĩ Triệu quốc. Cả dịp Nguyên Nhật đến Thượng Nguyên cũng trôi qua trong cảnh tẻ nhạt vô vị.

Ngoài phòng tắm, phòng thay đồ và phòng ngủ, bọn họ kiên quyết không để nàng ra khỏi tầm mắt. Dù nàng muốn ra chợ cũng bị một đám thị vệ mặt mày nghiêm nghị theo sát, khiến người dân phải chủ động nhường đường. Điều này khiến nàng cảm thấy mình đang làm phiền đến người khác, nên chẳng mấy khi ra ngoài nữa. Mỗi ngày, nàng chỉ sai người mua đồ ít mang vào.

Qua Thượng Nguyên, tiết trời ấm dần, sắp đến ngày Hoa Triêu.

Một buổi chiều nắng đẹp, Tống Hành khoác chiến bào đến gặp nàng.

Khác với hai lần trước, nàng toàn bị áp giải để về diện kiến hắn.

Lần này, là hắn tìm đến nàng.

“Âm Nương.” Tống Hành không màng đến thị vệ và binh sĩ đứng xung quanh, sự vui sướng và kích động trong lòng không thể che giấu, cất tiếng gọi nàng.

Tiếng gọi ấy mang theo nỗi nhớ của hơn một ngàn ngày đêm, tình ý và yêu thương dành cho nàng đều hiện rõ trong ánh mắt, không chút che đậy.

Trình Diễm biết ý, liền dẫn mọi người lui ra xa.

Tống Hành đứng yên, lặng lẽ ngắm nữ lang đang lặng thinh trước mắt. Một lúc lâu sau, ánh mắt hắn mới chuyển sang bé gái chừng ba tuổi bên cạnh nàng.

Sợ cô bé thấy lạ mặt, hắn không dám tùy tiện đến gần, chỉ nghiêm cẩn đứng trước mặt hai mẹ con họ.

“Con bé tên Trân Trân, đúng không? Đây là con của trẫm và nàng.”

Giọng nói của Tống Hành nhẹ nhàng đến lạ, như một người cha đầy yêu thương, sợ rằng âm điệu hơi lớn sẽ khiến nàng hoặc cô bé giật mình.

Thi Yến Vi lãnh đạm liếc nhìn hắn, giọng nói hờ hững: “Trân Trân không phải là con của người.”
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 77: A gia*



*Vì xưng hô cha – mẹ trong bản gốc là a gia, a nương nên mình quyết định giữ nguyên mọi người nhé.

Lời vừa dứt, nụ cười trên môi Tống Hành như đông cứng lại, niềm vui trong lòng như bị một tảng đá lớn đè nặng, hơi thở cũng trở nên khó khăn

Ánh mắt hắn rơi vào khuôn mặt hồng hào phúng phính của Dương Quân, cẩn thận quan sát từng đường nét. Sau hồi lâu suy nghĩ, lòng hắn dậy lên nỗi nghi hoặc: Nếu Trân Trân không phải con hắn, thì là con ai?

Âm Nương của hắn luôn thanh cao thoát tục, đâu phải là người sẽ tùy tiện tìm một kẻ lạ sinh con.

Nghĩ đến đây, Tống Hành như trút được gánh nặng, thần sắc cũng dịu đi một chút. Hắn tiến lên hai bước, lại gần hai mẹ con, càng nhìn càng thấy đôi mắt phượng đặc trưng, chẳng khác nào được khắc ra từ cùng một khuôn với hắn.

Hắn kiềm chế không để ôm chầm lấy cô bé, miệng lẩm bẩm với giọng điệu gần như cầu xin: “Âm Nương đừng nói những lời nóng giận, không phải con của trẫm, vậy đó là con ai?”

“Âm Nương đừng nói là Trần Nhượng. Trẫm đã sai người điều tra bấy lâu nay, trên đời này có rất nhiều người tên là Trần Nhượng, nhưng làm gì có ai từng ở bên Âm Nương. Có lẽ hắn chỉ là người mà Âm Nương tự tưởng tượng ra thôi. Ta cũng đã hỏi qua thái y, nếu có chấn thương đầu óc hoặc chịu kích động quá lớn, có thể sinh ra chứng bệnh trầm cảm. Những điều này trong dân gian và y thư đều có ghi chép.”

Tưởng tượng ư? Nàng thật sự mong những ngày tháng bên hắn đều là ảo tưởng. Nhưng trớ trêu thay, hắn lại đứng ngay trước mặt nàng, những nỗi đau, nỗi buồn, và những ký ức không thể nào quên lại lại như đèn kéo quân, ồ ạt hiện lên.Nếu không phải vì ba năm nay nàng kiên trì tụng kinh tĩnh tâm, có lẽ lúc này nàng không thể bình tĩnh đối diện hắn, mà đã phẫn uất đến phát điên.

“Nghĩ thế nào tùy người, nhưng người đó là thật, không phải do ta tưởng tượng. Còn Trân Trân… là đứa trẻ mà ta và Lệnh Nghi nhặt được ngoài đạo quán, không liên quan gì đến người.”

Giọng Thi Yến Vi rất bình tĩnh, bình tĩnh đến mức không có chút cảm xúc nào, thật sự không muốn tốn thêm chút tinh thần hay khí lực vào chuyện của hắn.

Dáng vẻ của nàng không giống như đang nói lời giận dỗi, cũng không giống như đang lừa dối hắn. Ba năm qua, Tống Hành đã hiểu ra, dù cho trong lòng nàng có nghĩ đến ai, yêu ai, thì cả đời này, hắn vẫn sẽ gắn bó với nàng.

Đứa bé mong đợi từ lâu lại không phải là con của hai người, lẽ ra hắn phải cảm thấy thất vọng, nhưng giờ nhìn nàng, trong lòng hắn chỉ thấy sự an tâm, nhẹ nhõm.

Dù là đứa trẻ nhặt về, cũng còn tốt hơn là con của người khác, miễn là Âm Nương yêu thương đứa trẻ này, hắn cũng sẽ yêu quý nó.

Tống Hành đưa tay xoa gương mặt nhỏ nhắn của Dương Quân, giọng nói dịu dàng: “Nếu không phải con của Âm Nương và trẫm cũng không sao, nhìn nàng yêu quý đứa trẻ này, chắc hẳn trong hai năm qua nó đã mang lại cho nàng rất nhiều niềm vui. Nàng nuôi dạy nó lớn lên như vậy, sau này khi chúng ta có con, nàng cũng có kinh nghiệm, chăm sóc con dễ dàng hơn.”

Bàn tay hắn không mềm mại như của Thi Yến Vi hay Lý Lệnh Nghi, đầy vết chai sạn, lướt qua khiến Dương Quân cảm thấy không thoải mái. Hơn nữa hắn đã lâu không tắm rửa, quai hàm đầy râu chưa cạo khiến bé sợ hãi mà khóc ầm lên.

Dương Quân rụt cổ lại, quay mặt đi, đôi mắt ngập nước nhìn Thi Yến Vi, ngập ngừng nói: “A nương, a nương, người này lạ lắm, Trân Trân sợ, sợ lắm.”

Tống Hành bây giờ mới nhận ra, hôm nay bộ dạng của hắn thật sự không đẹp, không dám tiếp tục chạm vào Dương Quân nữa, chỉ nhẹ nhàng dỗ dành: “Trân Trân ngoan, a gia không phải người lạ. Trên đời này trừ a nương ra, a gia là người yêu Trân Trân nhất. Khắp thiên hạ này, ai cũng có cha và mẹ, Từ nay về sau, không chỉ a nương ở bên Trân Trân, mà a gia cũng sẽ ở bên Trân Trân. A gia sẽ khiến Trân Trân trở thành tiểu nữ lang hạnh phúc nhất trên đời. Nếu Trân Trân muốn lấy mặt trăng trên trời, a gia cũng sẽ tìm cách hái cho Trân Trân.”

Thi Yến Vi chưa từng thấy Tống Hành dịu dàng với trẻ con như vậy, trong lòng chỉ thấy hắn có chút lạ lẫm, xem ra hắn đã mê muội đứa trẻ này, nếu thật sự yêu thích, sao không lập hậu, nạp phi sinh thêm một đám con cái, sao lại tự tìm đến đây, lôi kéo một đứa trẻ không hề có quan hệ huyết thống với mình.

Nghe vậy, Dương Quân ngừng khóc, nhớ lại lời hắn vừa nói: Mỗi đứa trẻ đều có cha và mẹ, Trân Trân cũng có cha, cha bé muốn hái trăng cho bé.

Đôi mắt đẫm lệ đầy tò mò, bé ngước lên hỏi: “Người hái được mặt trăng thật sao? A nương nói, mặt trăng rất lớn, rất lớn, ở rất cao, rất cao trên trời…”

Thi Yến Vi không ngờ Trân Trân lại dễ dàng tin vào những lời hắn nói, vội vàng lên tiếng: “Ngoan, Trân Trân, hắn không phải a gia của con, hắn cũng không thể hái được mặt trăng, hắn…”

Tống Hành vội vàng ngắt lời, không để cho những lời của Thi Yến Vi phá hủy chút ít ấn tượng tốt đẹp hắn vừa gây dựng trong lòng Trân Trân, hắn sốt sắng nói: “Trân Trân, đừng nghe a nương nói bậy, ta chính là a gia của con, nếu ta không phải a gia của con, sao lại có thể vào nhà a nương? Vừa rồi a nương cũng không nói chuyện với a gia.”

“Nhà mà Trân Trân và a nương đang ở tất nhiên là tốt, nhưng nhà của a gia còn tốt hơn nhiều. Có nhiều phòng đẹp, bên ngoài trồng đủ loại hoa, còn có rất nhiều món ăn ngon và đồ chơi, ngoài ra còn có nhiều người chơi cùng Trân Trân. À, Trân Trân đã chơi trốn tìm chưa?”

Dương Quân chăm chú lắng nghe, gật đầu, nghiêm túc nói: “A nương nói trò trốn tìm còn gọi là chơi mèo bắt chuột. Chỉ là sân ở đây hơi nhỏ, Trân Trân đã trốn qua hết rồi.”

Tống Hành càng lúc càng thích bé, thầm nghĩ chỉ cần dỗ bé vui vẻ thì Âm Nương sẽ không lạnh nhạt với hắn nữa.

Nghĩ đến đây, liền nhếch môi cười khẽ: “Cái này không khó. Nhà a gia có một khu vườn cực kỳ, cực kỳ rộng. Trân Trân chơi cả ngày cũng không hết, chỉ cần Trân Trân và a nương theo a gia về, a gia sẽ chơi trốn tìm với con, có được không?”

Dương Quân đang trong giai đoạn hiếu động, không suy nghĩ nhiều, liền đồng ý ngay lập tức: “Được ạ, con và a nương sẽ về cùng a gia.”

Thi Yến Vi thật sự mệt mỏi, không thèm để ý đến những lời hoa ngôn xảo ngữ của Tống Hành, chỉ ôm Dương Quân vào nhà, vừa đi vừa nhấn mạnh: “Đó không phải a gia của con.”

Dương Quân liếc nhìn người lạ đi theo phía sau, nhất thời không biết nên tin ai: “Đó không phải a gia của Trân Trân, vậy a gia của Trân Trân đi đâu rồi?”

“Hắn…” Thi Yến Vi nhất thời không nghĩ ra nên trả lời thế nào, không khỏi có chút lưỡng lự. Nhưng Tống Hành lại không bỏ lỡ cơ hội, ngay lập tức nhận thân: “Ta là a gia của Trân Trân. Trân Trân đừng nghe a nương nói bậy. Hồi trước a gia xấu tính làm a nương con tức giận, nên nàng mới mang theo con rời khỏi a gia. A gia tìm hai người đã lâu lắm rồi.”

Dương Quân còn nhỏ, không hiểu rõ hết lời hắn nói, nhưng riêng câu “Ta là a gia của Trân Trân” lại được bé nhớ kỹ trong lòng.

Câu “chọc a nương tức giận”, bé cũng hiểu được, liền quay sang nhìn Thi Yến Vi, tò mò hỏi: “A gia làm gì mà a nương lại giận thế ạ?”

Tống Hành nghe thấy trong miệng Dương Quân thốt lên hai chữ “a gia”, lòng hắn vui như nở hoa, ánh mắt chăm chú nhìn Thi Yến Vi, đợi nàng thừa nhận thân phận của hắn.

Thế nhưng, điều khiến hắn thất vọng là Thi Yến Vi chẳng buồn đáp lời Dương Quân, mà lần nữa không chút nể nang phủ nhận hết thảy: “A nương nói rồi, hắn không phải là a gia của con.”

A nương nói đó không phải là a gia của mình, lại chẳng nói rõ a gia rốt cuộc đi đâu. Chắc chắn là người đã làm a nương tức giận, a nương vẫn chưa nguôi giận nên mới nói như vậy.

Dương Quân ngẫm nghĩ trong lòng, tự khẳng định thân phận của hắn, nhưng vì đây là lần đầu tiên gặp mặt, nên không dám thân cận. Bé chẳng buồn nhìn hắn, chứ đừng nói chi là để hắn bế mình.

Tống Hành tuy không được nàng công nhận, nhưng chẳng vì thế mà nản lòng. Hắn tin tưởng rằng, một khi trở về Lạc Dương, nàng thành hoàng hậu độc nhất vô nhị của hắn, Trân Trân trở thành công chúa cao quý, sớm muộn gì nàng cũng sẽ phải chấp nhận.

Căn nhà này thực sự quá nhỏ, không tiện cho hắn hành sự.

Tống Hành đích thân đi đến phòng bên, gọi tỳ nữ thân cận của nàng đến.

Đây là lần đầu tiên Úc Kim nhìn thấy Tống Hành, chỉ cảm thấy hắn cao lớn như núi, từng cử chỉ đều toát lên vẻ uy nghiêm, áp lực khiến người khác khó mà thở nổi. So với nàng, nương tử chỉ cao hơn một chút, chắc cũng cảm thấy tương tự.

“Ngươi bế Trân Trân đi chơi. Trẫm cùng Âm Nương ra ngoài một lát, sẽ về sau.”

Tống Hành nói câu này vô cùng tự nhiên, như thể bọn họ thực sự là một gia đình ba người.

Thi Yến Vi không muốn đi cùng hắn, nàng chỉ muốn ở bên Trân Trân và Lý Lệnh Nghi. Vì vậy, nàng không chịu giao Trân Trân cho Úc Kim.

Thấy nàng như vậy, Tống Hành bước đến, cúi người thì thầm vào tai nàng: “Trân Trân còn nhỏ, tỳ nữ của nàng còn chưa xuất giá, trong phòng bên lại có một nữ quan. Nàng muốn để bọn họ nghe thấy hai ta yến hảo?”

Tên điên toàn những suy nghĩ dâm loạn này.

Rơi vào tay hắn rồi, sợ rằng cả đời cũng khó lòng thoát được. Nàng lại có Trân Trân, Lệnh Nghi, và cả a cữu, không thể không vì bọn họ mà nhẫn nhịn.

Dù sao cũng chỉ là nằm dưới thân hắn, cứ xem mình như vật chết vô tri. Thi Yến Vi tự an ủi mình, bất đắc dĩ thỏa hiệp: “Ta vừa hay có chuyện muốn nói riêng với người.”

Dứt lời, nàng giao Dương Quân cho Úc Kim chăm sóc, vuốt mái tóc mềm mại của bé, gượng cười: “A nương có việc phải ra ngoài một chút. Trân Trân ở đây chơi với Úc Kim và dì Lệnh Nghi có được không?”

Không hiểu sao, trong lòng Dương Quân lại cảm thấy a nương sẽ đi cùng a gia. Bé rất hiểu chuyện, gật gật đầu: “Được ạ, a nương, a gia phải về nhanh đấy nhé.”

Úc Kim bế Dương Quân, tim đập thình thịch. Trân Trân vốn là đứa trẻ nương tử nhặt được, từ khi nào lại trở thành con gái của hoàng đế Triệu quốc?

Hoàng đế Triệu quốc xem ra rất thích Trân Trân. Nghĩ kỹ lại, Trân Trân đáng yêu như vậy, ai mà không thích kia chứ?

Thi Yến Vi dặn dò Úc Kim vài câu, đứng dậy khỏi ghế gỗ. Chưa kịp bước ra ngoài, Tống Hành đã nhấc bổng nàng lên.

“Người làm cái gì vậy?” Thi Yến Vi giật mình kêu lên.

Tống Hành cười vô lại, không biết xấu hổ mà đáp: “Trẫm bế hoàng hậu của mình, có gì không ổn?”

Úc Kim thấy hắn đối với cư xử thân mật nương tử, đã vậy còn nói những lời kia, mặt mũi đỏ bừng, vội ôm Dương Quân quay người ra ngoài.

Khi Tống Hành bước qua cửa, Thi Yến Vi vẫn loáng thoáng nghe tiếng Dương Quân hỏi Úc Kim: “Hoàng hậu là gì vậy ạ?”

Nhưng câu trả lời của Úc Kim, nàng không nghe thấy.

Thi Yến Vi nhíu mày, nghĩ xem sau này phải giải thích thế nào về mối quan hệ giữa nàng và Tống Hành cho Trân Trân.

“Âm Nương đang nghĩ gì thế?” Tống Hành nhận ra nàng có tâm sự, cúi xuống nhìn, ân cần hỏi.

Thi Yến Vi lắc đầu, lạnh lùng đáp: “Không có gì.”

Bên ngoài, xe ngựa đã được chuẩn bị sẵn. Tống Hành cứ thế, bế nàng lên xe trước ánh mắt trợn trừng của đám người xung quanh.

Bánh xe bắt đầu lăn trên đường lát đá xanh, phát ra những âm thanh lộc cộc.

Tống Hành vẫn không buông nàng ra, cứ thế ôm trong lòng như thể nâng niu bảo vật, không chút ngượng ngùng nói: “Âm Nương không còn nhẹ như lúc rời cung nữa, chắc hẳn đã tròn trịa hơn. Lát nữa, trẫm phải nhìn kỹ mới được.”

Lời hắn nói tuy không quá trắng trợn, nhưng cũng đủ khiến người khác đỏ mặt tía tai. Thi Yến Vi chẳng muốn đọ tài khua môi múa mép với hắn, chỉ thầm niệm vài câu kinh tĩnh tâm trong lòng, cố giữ bình tĩnh.

Chừng hai khắc sau, xe ngựa dừng lại. Tống Hành bế nàng xuống, trước mặt là tòa phủ đệ, vốn là nơi ở của Tiết độ sứ Thái Ninh vừa bị kê biên tài sản.

Tống Hành ôm nàng bước xuống xe, được người dẫn đường vào gian thượng phòng đã được chuẩn bị sẵn. Trên đường, hắn chủ động kể về tình hình hiện tại: “Ta còn nhiều việc phải xử lý ở Hải Châu, chắc sẽ lưu lại đây vài ngày. Tướng thủ thành đã hàng Triệu, nhưng ta và Vệ Trạm vẫn phải xuôi nam, đánh dẹp Hoài Nam. Ngụy quốc có lẽ chỉ còn đủ sức co cụm ở phía nam Trường Giang, kéo dài hơi tàn.”

Nghe hắn nhắc đến nước Ngụy, Thi Yến Vi lập tức nghĩ tới Thẩm Kính An, vội vàng hỏi: “A cữu của ta vẫn ổn chứ?”

Tống Hành vừa đặt nàng lên chiếc giường gấm mềm mại, vừa cởi bộ khôi giáp trên người, để lộ ra thường phục bên trong. Hắn cúi người, tấm thân cao lớn tạo thành một cái bóng khổng lồ, che kín ánh sáng.

Tống Hành tháo giày cho nàng, tiến về phía cuối giường, ánh mắt lướt qua chiếc váy tay lửng nàng đang mặc. Ánh mắt hắn lướt từ trên xuống, rồi vén nhẹ tà váy nhạt màu lên, giọng đầy ẩn ý: “Âm Nương ngoan, nếu muốn biết tin tức của a cữu, thì thưởng ta ít ngon ngọt nào.”

Thi Yến Vi mím chặt môi, giả vờ như không hiểu lời hắn nói, hoàn toàn không để ý đến hắn.

Y phục chỉ còn lại một mớ hỗn độn, Tống Hành dồn hết sức kiềm chế, cúi sát xuống người nữ lang mà hắn ngày đêm mong nhớ, áp môi hôn lên, nhẹ nhàng ve vuốt, như muốn làm tan đi giá lạnh.

Bên tai nàng vang lên tiếng nước róc rách, tựa như có người đang uống dòng suối ngọt mát từ một nguồn nước trong lành.

Thi Yến Vi nhắm mắt, không muốn nhìn thấy búi tóc và bờ vai của hắn, chỉ nắm chặt chiếc gối mềm dưới đầu mình.

Hắn dốc sức làm nàng vui lòng, hoàn toàn không còn vẻ kiêu ngạo ngang tàng khi ở Thái Nguyên.

Ý thức thoáng chốc trở nên trống rỗng, thân thể mềm mại vô lực.

Tống Hành ngẩng đầu nhìn nàng, vẫn giữ tư thế quỳ, đôi môi mỏng phủ ánh sáng lấp lánh.

Nếu không phải chính mắt nhìn thấy nhiều lần, nàng thật khó mà tưởng tượng được hắn cũng có một mặt thế này.

“Ngọt ngào mà Âm Nương trao, ta rất thích.” Tống Hành vừa cười nói, vừa vươn tay tháo chiếc đai vàng trên eo, đáp lại câu hỏi của nàng khi nãy: “A cữu của nàng mọi thứ đều ổn, giờ hẳn đã cùng Giang Thịnh vượt sông. Lúc ở Hứa Châu, ta nể tình nàng nên đã tha cho y một mạng.”

Thi Yến Vi thực sự không chịu nổi khi hắn cứ áp sát lại gần, liền không khách khí mà đập vào cánh tay hắn, ánh mắt đầy vẻ chán ghét nhìn hắn ra lệnh: “Mau đi tắm đi!”

Tống Hành lúc này gấp gáp như kiến bò trên chảo nóng, tựa như bị trăm ngàn loại côn trùng gặm nhấm, trong lòng sốt ruột, trên người cũng khó chịu không kém. Nhưng khi thấy nàng kiên quyết không chịu nhượng bộ, hắn đành ngoan ngoãn xuống giường, xỏ giày, hối hả gọi người chuẩn bị nước lạnh đưa đến phòng tắm.

Rửa sạch thân mình, cạo bỏ râu ria, hắn vội vàng quay lại phòng, bước chân như gió cuốn.

Thi Yến Vi nằm trên giường, trong lòng đang nghĩ ngợi chuyện gì đó. Mùa xuân dễ khiến người ta buồn ngủ, không lâu sau, nàng bắt đầu cảm thấy mơ màng. Mí mắt cứ chực sụp xuống, thì Tống Hành đã hấp tấp trèo lên giường, bắt đầu lần mò trên người nàng.

Chẳng mấy chốc, từng lớp y phục rơi rụng xuống đất, chồng chất lộn xộn.

Động tác của hắn rất nhẹ nhàng, hơi thở của Thi Yến Vi vẫn đều đặn, ánh mắt rơi vào đôi mắt phượng của hắn. Nàng cất lời, giọng điềm tĩnh: “Tống Hành, người thực sự không thể buông tha cho ta sao?”

Trán Tống Hành đẫm mồ hôi, còn chưa kịp lau khô.

Thi Yến Vi ngẩng cao cằm, cào nhẹ lên người hắn.

Những giọt mồ hôi lăn dài từ trán, rơi xuống cần cổ trắng ngần của nàng, hòa thành một vệt nước.

Tống Hành chấp nhất mà kiên định nói: “Không thể. Dù nàng có muốn hay không, nàng cũng chỉ có thể ở bên ta. Trừ khi ta chết, cả đời này không bao giờ buông tay nàng. Chỉ cần Âm Nương đồng ý ở lại bên ta, dù là mười điều kiện, trăm điều kiện, chỉ cần ta làm được, tuyệt đối sẽ không từ chối.”

Nàng bị hắn ép buộc đến mức hai hàng lệ nóng chảy dài. Cố gắng hít thở, phải qua vài chục nhịp thở nàng mới dễ chịu hơn đôi chút.

Phần bụng nhỏ bé không chưa nổi hắn. Vì hắn quá lớn, quá dọa người.

Tống Hành có phần hối hận, ánh mắt dịu xuống, không nỡ nhìn nàng đau đớn. Hắn đổi tư thế, để nàng nằm trên người mình, bàn tay kiên nhẫn vuốt dọc sống lưng, khẽ khàng an ủi.

Một lát sau, Thi Yến Vi mới quen dần, nghẹn ngào đưa ra yêu cầu: “Ta muốn người hứa… không được tổn hại bất kỳ ai bên cạnh ta.”

Tống Hành nghe ra ý nàng đồng ý ở lại, không chút do dự mà gật đầu đáp: “Được, ta hứa với nàng. Không những không tổn hại họ, mà còn ban cho họ vinh hoa phú quý. Ngay cả cậu của nàng, chỉ cần y quy thuận nước Triệu, trẫm sẽ phong y làm quốc công.”

“Người muốn ta làm hoàng hậu của người, thì không được nạp phi. Nếu người có ý ấy, hãy để ta và Trân Trân rời đi.”

Tống Hành nghe vậy, lập tức kích động, hỏi một đằng, trả lời một nẻo, bật dậy thề: “Nếu ta có ý đó, thì sẽ thân bại danh liệt, chết không toàn thây, vĩnh viễn không được siêu thoát.”

Thi Yến Vi nghe hắn thề thốt, không hề cảm động, chỉ lạnh lùng trừng mắt nhìn, ánh mắt như đang hỏi hắn có đồng ý không.

Tống Hành sợ nàng nổi giận, không dám nói thêm, chỉ gật đầu thật mạnh: “Ta đồng ý. Còn Trân Trân, ta sẽ phong con bé làm công chúa, thương yêu che chở như con ruột.”

Hắn đáp xong, vẫn không quên dùng ánh mắt ám hiệu nàng tiếp tục đưa ra yêu cầu.

“Nếu ta là hoàng hậu, lục cục hai mươi bốn ty trong hậu cung đều phải do ta chưởng quản. Dù là người, cũng không được can thiệp.”

Tống Hành lại gật đầu, ôm nàng chặt hơn, giọng đùa cợt: “Được, chuyện hậu cung ta không hỏi tới. Còn chuyện triều chính, nếu Âm Nương muốn can dự, ta cũng có thể nghe ý kiến của nàng. Những gì nàng nói về coi trọng nông thương, hạn chế chiếm dụng quỹ đất, ta cũng có chung ý nghĩ. Vì hoàng hậu Văn Hiến mà Tùy Văn Đế để trống hậu cung, hai người cùng được xưng Nhị thánh. Ta với nàng, cũng có thể như vậy.”

Hắn nói xong, cảm giác nàng trong lòng mình run rẩy, hơi thở loạn nhịp. Tống Hành bèn dừng lại, nhìn nàng đầy thâm tình. Chờ nàng lấy lại nhịp thở, hắn trêu đùa bằng giọng điệu nửa đùa nửa thật: “Nếu nàng còn điều kiện gì, hiện tại cứ nói ra đi. Xuống giường rồi, trẫm sẽ không nhận nữa.”

“Ta sợ mục rữa trong bóng tối, sợ bị côn trùng gặm nhấm. Nếu ta chết trước người, hãy thiêu ta thành tro, rải xuống biển, để ta tự do cảm nhận nắng gió mưa sương.”

Tống Hành nghe vậy, lòng bỗng chùng xuống, nỗi sợ hãi dâng lên. Hắn cúi đầu ôm chặt lấy nàng, như muốn xác nhận nàng vẫn an toàn ở bên cạnh mình. Giọng hắn khàn đi, nhíu mày nói: “Đang yên đang lành, sao lại nhắc tới chuyện sống chết? Nàng còn trẻ, nếu phải chết, cũng phải là ta chết trước nàng.”

Thi Yến Vi nghiêm mặt, nâng khuôn mặt hắn lên, ép hắn nhìn thẳng vào mắt mình: “Người chỉ cần trả lời ta, đồng ý hay không.”

Tống Hành thấy sợ khi nghe nàng nhắc đến chữ “chết”, đặc biệt là khi chữ ấy liên quan đến nàng. Hắn nhìn nàng, ánh mắt thoáng nét hoảng loạn, vành mắt đã ửng đỏ. Tựa như gom hết dũng khí trong người, hắn khẽ thốt lên một chữ: “Được.”

Hắn không dám nhìn nàng nữa. May thay, Thi Yến Vi vừa nghe được đáp án mình muốn thì cũng buông tay khỏi khuôn mặt hắn. Tống Hành nhắm mắt, vùi đầu vào hõm cổ nàng, toàn tâm toàn ý cảm nhận hơi thở của nàng, khẽ nói: “Âm Nương, trẫm sẽ khiến nàng trường mệnh vô ưu.”

Thi Yến Vi không chợp mắt nghỉ trưa, lúc này đã mỏi mệt, dần dần thiếp đi trên người hắn.

Tống Hành ôm nàng thật chặt, sợ nàng tỉnh giấc, cố kìm nén không làm phiền. Khi nàng tỉnh lại, hắn vẫn chăm chú nhìn nàng.

Hắn năm nay đã ba mươi ba, Thi Yến Vi lo lắng, sợ hắn cứ như vậy rồi có ngày chết trên giường, khiến nàng mang tiếng là yêu hậu, bị sử quan thóa mạ trong sử sách. Nàng lập tức khuyên hắn: “Như thế này mãi, Nhị lang liệu có chịu nổi không?”

Tống Hành nghe vậy, cảm thấy như bị xúc phạm, cố chứng minh bản thân. Hắn như trở lại dáng vẻ khi hai mươi mấy tuổi, bế nàng xuống giường, sải bước đo kích thước căn phòng, kiêu ngạo nói: “Thân thể ta thế nào, người ngoài không biết, chẳng lẽ Âm Nương không rõ?”

Thi Yến Vi chẳng bao lâu đã rưng rưng nước mắt, trong lòng hối hận vì đã nói lời châm chọc người vừa xa nàng gần bốn năm.

Tống Hành lại thích nhìn nàng khóc, ánh lệ trên khuôn mặt nàng tựa ngọc đẫm sương mai. Hắn cúi xuống hôn nhẹ nơi đuôi mắt, dịu dàng lau đi từng giọt lệ lăn dài.

Mặt trời đã lặn ngoài cửa sổ, hoàng hôn như lửa đốt, chẳng mấy chốc trời sẽ chạng vạng tối. Thi Yến Vi nhớ đến Trân Trân sợ con khóc đòi mẹ, bèn đưa tay vỗ nhẹ má hắn, giục hắn nhanh hơn.

Tống Hành cũng không muốn khiến nàng quá mệt, liền nhanh chóng kết thúc. Sau khi giúp nàng chỉnh trang, hắn bế nàng rời khỏi phòng, tiến thẳng ra ngoài phủ.

“Đêm nay, cả nhà ba người chúng ta cứ tạm ở chỗ kia. Ngày mai lại dọn hẳn đến đây.” Nói đoạn, Tống Hành ôm nàng bước lên xe ngựa, dáng vẻ khoan thai, mỗi bước chân vẫn vững chãi như thường.

Hắn tựa như chẳng biết mệt mỏi, vẫn có thể ôm nàng vững bước. Thi Yến Vi chẳng phải làm gì, nhưng cả người lại kiệt sức, chỉ biết nhắm mắt dưỡng thần, trong lòng âm thầm cảm thán hắn thật khó đối phó.

Khi Tống Hành ôm Thi Yến Vi trở về trạch viện cũ, trời đã tối mịt.

Quả nhiên Dương Quân quả nhiên nhớ nàng, vừa trông thấy Tống Hành bế nàng vào nhà, liền chạy ra đón, nét mặt rạng rỡ, hớn hở gọi to: “A gia, mau thả a nương xuống, con muốn a nương chơi cùng con!”

Tống Hành vừa một tay giữ lấy Thi Yến Vi, vừa đưa tay còn lại ôm lấy Dương Quân, nhẹ nhàng bế bé vào phòng trong. Đặt Thi Yến Vi nằm xuống giường, hắn dịu dàng dỗ dành: “Trân Trân ngoan, a nương con hơi mệt, không nên quấy rầy nàng, để a gia chơi cùng con, được không nào?

Dương Quân nghe vậy, nét mặt vui tươi lập tức xụ xuống, ánh mắt đầy lo lắng, kéo tay áo hắn, cất tiếng hỏi: “A nương sao thế ạ?”

Tống Hành biết Thi Yến Vi dễ ngại, sợ nàng xấu hổ, liền kéo chăn lên che đi dấu vết trên cổ nàng, chỉnh lại góc chăn rồi giải thích với Dương Quân: “A gia cùng a nương vừa đi bộ ngoài phủ một lúc lâu. Thân thể a nương vốn yếu, đi nhiều liền mệt. Con đừng lo, để nàng nghỉ ngơi một đêm, sáng mai sẽ tốt hơn. Hay a gia đưa Trân Trân ra ngoài cưỡi đại mã, để a nương ngủ thêm một lúc trong phòng, có được không?”

Dương Quân nhìn thoáng qua mẫu thân đang nằm trên giường, vẻ mặt có chút không tự nhiên, nhưng vẫn nghe lời Tống Hành.

Thi Yến Vi thấy Tống Hành dỗ dành được Dương Quân liền thở phào nhẹ nhõm, song trong lòng vẫn thấp thỏm không yên. Nàng nghĩ thầm, sáng sớm ngày mai nhất định phải bảo Úc Kim sắc một chén thuốc tránh thai để dùng.

Không bao lâu, nàng chìm vào giấc ngủ say.

Khi tỉnh giấc, trời vẫn chưa sáng rõ. Dương Quân đã chen giữa nàng và Tống Hành, ngủ ngon lành. Thật lạ, bé không thấy khó chịu, cũng không đuổi Tống Hành xuống giường. Có lẽ hắn đã dỗ được bé.

Thi Yến Vi mở mắt, nhìn tấm màn che trên đầu, trong lòng chẳng rõ là tư vị gì. Cuối cùng, dù cố gắng bao nhiêu, nàng vẫn chẳng thể thoát khỏi lòng bàn tay hắn.

Đợi mãi đến lúc trời sáng, nàng mới dậy, rời khỏi giường, đi tìm Úc Kim, nhờ nàng ra ngoài mua thuốc tránh thai.

Nhưng nàng nào hay, Tống Hành đã tỉnh dậy từ lâu, đứng dưới mái hiên nghe hết đoạn đối thoại giữa nàng và Úc Kim.

Hắn biết, nàng vẫn không muốn sinh con cho mình.

Tống Hành chân trần đứng trên nền gạch lạnh lẽo, nhưng chẳng cảm nhận được cái rét thấu da. Chỉ có trong lòng hắn là lạnh buốt, nỗi đau dường như xé nát tâm can, không thể diễn tả thành lời.

Hắn cố giữ vẻ bình thản, trở lại giường chờ nàng, giả vờ như vừa mới thức dậy. Sau đó, hắn ra ngoài, lệnh người mua ít mứt ngọt và bánh điểm tâm ngon miệng mang về.

Khi Úc Kim mua thuốc trở về, Thi Yến Vi nhận lấy, không muốn phiền ai, tự mình vào bếp sắc thuốc.

Tống Hành ngồi trên ghế La Hán, lặng lẽ nhìn nàng uống thuốc, lòng tràn đầy áy náy. Hắn vội bưng nước đến cho nàng súc miệng, rồi lại dỗ dành, ép nàng ăn thêm vài miếng bánh ngọt để giảm bớt vị đắng trong miệng.

Đến trưa, đoàn người đông đúc rời trạch viện, chuyển về phủ đệ hai người từng ghé qua.

Tống Hành cho nàng an nhàn một ngày, nhưng đến đêm hôm sau, hắn lại dẫn nàng đến noãn các. Hắn ôm lấy nàng từ phía sau, nhẹ giọng nói: “Hôm trước là ta không đúng, Âm Nương đừng uống thứ thuốc hại người ấy nữa. Ta sẽ cẩn thận như trước kia, không để lại trong nàng, được không?”

Nghe hắn nhắc, Thi Yến Vi không khỏi nhớ đến những ngày đau bụng quằn quại ở Thái Nguyên và Lạc Dương. Suy nghĩ hồi lâu, nàng mới khẽ gật đầu.

Kể từ lần đó, Thi Yến Vi luôn phải đề phòng tới lui, kịp thời vỗ vào cánh tay nhắc nhở hắn. Tống Hành không muốn khiến nàng phải uống thuốc, lần nào cũng rút ra kịp thời.

Tống Hành ở lại Hải Châu bảy ngày. Trong khoảng thời gian ấy, cứ cách một ngày, hắn lại gần gũi nàng một lần.

Đến ngày thứ tám, hắn tiễn Thi Yến Vi cùng đoàn người lên thuyền trở về Lạc Dương. Còn mình thì dẫn binh đi đánh Giang Hoài, chuẩn bị cho chiến sự ở vùng Cảm Hóa.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 78: Có thai



Ba năm ở Biện Châu, Thi Yến Vi vì muốn tránh đau đớn khi đến kỳ nguyệt sự, đã kiên trì dùng thuốc điều hòa. Nhờ vậy, nguyệt sự không chỉ đến đều hơn mà cơn đau cũng giảm bớt, không còn dữ dội như khi nàng còn ở Thái Nguyên hay Lạc Dương.

Hơn nữa, mỗi lần từ Tuyên Châu trở về, vì lo lắng, Thẩm Kính An đều mời thái y đến bắt mạch định kỳ cho nàng và Lý Lệnh Nghi. May thay, thân thể nàng giờ đây đã khỏe hơn nhiều so với lúc mới từ Lạc Dương đến, khiến y cũng nhẹ nhõm đôi phần.

Tuyên Châu nằm về phía nam sông Trường Giang, thuộc lãnh thổ nước Ngụy sau khi dời xuống phía nam. Trong thời gian ngắn khó lòng thuộc về đất Triệu. Tống Hành coi Lý Lệnh Nghi là người có thể kiềm chế Thi Yến Vi, tất nhiên sẽ không để nàng quay về Ngụy quốc.

Mặc cho Thi Yến Vi khéo léo thương lượng, Tống Hành cũng chỉ đồng ý để Lý Lệnh Nghi đến bất kỳ nơi nào thuộc lãnh thổ Triệu quốc.

Thi Yến Vi bất lực, chỉ có thể hỏi Lý Lệnh Nghi muốn đến đâu. Lý Lệnh Nghi không suy nghĩ lâu, liền đáp: “Dù là nơi nào ở nước Triệu, trong mắt hắn cũng như nhau cả thôi, chắc chắn sẽ phái người giám sát ta. Đã vậy, chi bằng đến Lạc Dương, để hai ta còn có cơ hội gặp nhau.”

Biết mình liên lụy đến Lý Lệnh Nghi, lòng Thi Yến Vi tràn ngập áy náy. Nàng trầm ngâm hồi lâu, khẽ nói: “Xin lỗi, là ta đã làm liên lụy cô.”

Lý Lệnh Nghi lắc đầu, nhẹ nhàng vỗ mu bàn tay nàng, dùng giọng ôn hòa an ủi: “Không phải lỗi của cô, đều do một mình hắn gây ra. Âm Nương không cần tự trách. Chỉ cần tâm đ*o kiên định, tu hành ở đâu cũng giống nhau thôi mà.”

Nghe vậy, lòng Thi Yến Vi dịu đi đôi chút nhưng vẫn không nguôi cảm giác tội lỗi. Nàng nhìn Lý Lệnh Nghi, ánh mắt kiên định, cất lời hứa hẹn: “Đợi hắn bớt nghi ngờ, ta sẽ xin hắn thả cô về Tuyên Châu.”

“Được.” Lý Lệnh Nghi mỉm cười, gật đầu để trấn an nàng. “Ta tin cô.”

Do Lý Lệnh Nghi không thể đi thuyền, tối hôm ấy, Thi Yến Vi đặc biệt nói với Tống Hành, nhờ hắn chuẩn bị xe ngựa để đi đường bộ. Nàng còn hỏi hắn xem trong thành Lạc Dương có đạo quán nào thích hợp cho Lý Lệnh Nghi tu hành không.

Tống Hành đáp: “Ở phía bắc cung Thượng Dương khoảng hai mươi dặm có cung Thượng Thanh, là nơi rất thích hợp để tu hành.”

Thi Yến Vi hỏi qua ý Lý Lệnh Nghi, nhận được sự đồng ý, liền để Tống Hành sắp xếp mọi việc.

Đến ngày lên đường, hai người từ biệt nhau. Thi Yến Vi lên thuyền, còn Lý Lệnh Nghi ngồi xe ngựa.

Dương Quân lần đầu đi thuyền lớn, cảm thấy vô cùng thích thú. Sau khi thuyền khởi hành, bé nhất quyết không chịu quay vào khoang, đòi người bế ra ngoài để từ biệt a gia.

Mãi đến khi bóng dáng Tống Hành hóa thành một chấm nhỏ, không thể nhìn rõ nữa, bé mới chịu quay về.

Mới vài ngày ngắn ngủi mà con gái đã xem Tống Hành như cha khiến Thi Yến Vi không khỏi băn khoăn. Nàng liền hỏi: “Trân Trân thích Tống… a gia sao?”

Dương Quân hồn nhiên như tờ giấy trắng, không nhận ra ý tứ trong lời mẹ, cũng không biết nói dối, bèn nghiêm túc gật đầu: “Thích ạ. A gia cho Trân Trân cưỡi ngựa lớn, còn cao hơn cả cữu ông. Trân Trân có thể nhìn thấy rất xa. A gia còn kể chuyện, hái hoa, chơi trốn tìm với Trân Trân. Những thứ a gia mua cho Trân Trân, Trân Trân đều thích.”

Đúng là hắn rất giỏi trong việc lấy lòng người khác. Thi Yến Vi chẳng mấy thiện cảm với trò này, nàng hỏi tiếp: “Vậy Trân Trân thích a nương nhiều hơn, hay a gia nhiều hơn?”

Nghe câu hỏi này, Dương Quân không chút chần chừ, dang tay ôm cổ Thi Yến Vi, hôn lên má nàng một cái, điệu bộ trẻ con non nớt: “Thích a nương! A nương là người Trân Trân thích nhất trên đời!”

Nghe những lời ngây thơ của con trẻ, trái tim Thi Yến Vi như được rót mật. Tâm tình nàng thoải mái hơn đôi chút, liền mở cửa sổ, ôm Dương Quân nhìn ra xa. Trước mắt là cảnh non xanh nước biếc, sóng gợn bờ xa, sức sống tràn đầy.

Ba mươi ngày sau, thuyền cập bến tàu phía nam thành Lạc Dương.

Thi Yến Vi bế Dương Quân xuống thuyền, vừa đi được mấy bước đã thấy một đoàn người khoảng ba mươi đến năm mươi người tiến đến. Người dẫn đầu chính là Diêu Thượng nghi.

Thời điểm Thi Yến Vi rời đi, nàng vẫn là một Tư tán. Ba năm qua, nhờ được Lưu thượng cung tín nhiệm và đề bạt nên năm ngoái, nàng được thăng làm Thượng nghi.

Bến tàu đông người, ngư long hỗn tạp nên Diêu Thượng nghi cùng những người đi theo chỉ gọi Thi Yến Vi là “nương tử”, gọi Dương Quân là “tiểu nương tử”.

Đám người vây quanh, hộ tống nàng lên xe ngựa. Bánh xe lăn đều, cảm giác xóc nảy liên tục truyền đến.

Thi Yến Vi bỗng cảm thấy trong dạ như có sóng lớn cuộn trào, vội lấy khăn che miệng, ho khan từng hồi. Úc Kim ngồi bên cạnh trông thấy, liền cúi xuống ghế tìm ống nhổ.

Tìm được rồi, nàng đưa tới cho Thi Yến Vi, đồng thời nhẹ nhàng xoa lưng giúp nương tử cảm thấy dễ chịu.

Hai ngày trước, khi còn đi trên kênh vận, dạ dày nàng đã không được thoải mái. Không ngờ hôm nay, ngồi xe ngựa một đoạn, lại không nhịn được mà nôn ra. May sao sáng nay nàng ăn không nhiều, chỉ nôn vài lần là dạ dày đã trống rỗng.

Thu Sương, người Tống Hành phái đến hầu hạ nàng, mang túi nước tới để nàng súc miệng. Sau khi súc sạch, Thi Yến Vi cảm thấy trong miệng và dạ dày cũng đã dễ chịu hơn, liền nói lời cảm tạ với hai người.

Dương Quân hiểu chuyện, thấy a nương không khỏe, ngoan ngoãn ngồi sát bên, không động đậy chút nào.

“A nương sao thế ạ?” Dương Quân bắt chước dáng vẻ người lớn, khẽ cau mày, ân cần hỏi han.

Thi Yến Vi đưa tay xoa nhẹ lên đầu bé, sợ bé lo lắng nên dùng giọng điệu bông đùa: “A nương không sao, chắc là ngồi thuyền quá lâu, thân thể làm mình làm mẩy một chút ấy mà.”

Dương Quân ngẩng đầu nhìn a nương, nghĩ ngợi một hồi, ngọng nghịu hỏi: “Giống như lần trước Trân Trân không chịu ăn sáng, để lâu, cái cối cũng làm mình làm mẩy, khiến Trân Trân khó chịu, đúng không a nương?”

Cái “cối” là cách Thi Yến Vi dùng để dặn bé chịu khó ăn uống, dùng hình tượng sinh động kể rằng dạ dày giống như cối xay đậu, mỗi ngày phải xay ba lần. Nếu sáng không ăn gì, cái cối không có đồ để xay sẽ giận dỗi, làm bụng khó chịu.

Nghe bé nhớ rõ lời mình nói như vậy, Thi Yến Vi chợt thấy ấm áp. Nàng ôm con vào ngực, khẽ gật đầu: “Đúng rồi, Trân Trân thật thông minh. Trân Trân yên tâm, a nương nghỉ ngơi hai ngày là khỏe thôi.”

Dương Quân rúc đầu nhỏ vào lòng a nương, lại đưa bàn tay bé xíu xoa nhẹ bụng nàng, ra vẻ người lớn căn dặn: “Vậy a nương phải ngoan ngoãn ăn uống, ngủ nghỉ đầy đủ, để mau khỏe lại nha.”

Trái tim Thi Yến Vi vì bé mà tan chảy. Nàng chẳng màng suy nghĩ thêm về việc chuyện nôn mửa, huống chi Tống Hành luôn cẩn thận, chuyện hoài thai không thể nào xảy ra được.

“Được rồi. A nương nghe lời Trân Trân.”

Xe ngựa chạy chừng nửa canh giờ thì đến cổng cung. Diêu Thượng nghi đưa lệnh bài cho binh lính canh gác. Lính ca chỉ liếc mắt một cái, đã biết người trong xe địa vị tôn quý, lập tức cho qua.

Sau đó, xe ngựa đi về hướng bắc, qua Ứng Thiên môn tiến vào Tử Vi thành, dừng lại trước điện Đại Nghiệp.

Diêu Thượng nghi dẫn đoàn người của Thi Yến Vi vào điện, cung kính nói: “Điện hạ xem thử còn chỗ nào cần sửa đổi, bổ sung không ạ?”

Thi Yến Vi thoáng dừng bước, ánh mắt khẽ lướt qua khung cảnh bốn phía. Trước mắt nàng, cảnh sắc nơi nào cũng thật mỹ miều. Điện các cao vút giữa nền đất bằng phẳng, cung lầu đan xen nối liền nhau sừng sững. Những bức tường trắng uốn lượn xung quanh, đá xanh dựng thành lan can chạm trổ tinh xảo, phô bày sự hoa lệ khó tả.

Đang độ tháng ba xuân về, gió xuân dịu nhẹ mơn man, làm lay động hoa mẫu đơn rực rỡ. Vài con bươm bướm ngọc sắc nhẹ nhàng bay lượn giữa những khóm hoa. Dưới cầu đá, ao sen phủ đầy những lá sen tròn trịa, xanh biếc, trải rộng thành một mảng thanh mát.

Dương Quân bị những cánh bướm xinh đẹp cuốn hút, ánh mắt ngây ngẩn không dứt ra được. Mãi đến khi Thi Yến Vi dắt tay bé theo Diêu Thượng nghi vào chính điện, bé mới lưu luyến bước đi.

Úc Kim như nhìn thấu tâm tư của cô bé, liền cúi người xuống, thấp giọng dỗ dành: “Trân Trân ngoan, lát nữa chúng ta lấy quạt tròn ra ngoài đuổi bướm nhé?”

Dương Quân nghe vậy, vui mừng không ngớt, gật đầu lia lịa.

Bên trong điện, nội thất đều được chế tác từ gỗ tử đàn thượng hạng, được lau chùi sạch bóng, dưới ánh nắng nhàn nhạt phản chiếu lên ánh sáng dịu nhẹ.

Cách bày biện trong điện cũng tinh xảo mà tao nhã: tranh vẽ của các danh họa thời Ngụy Tấn và bút tích của những văn nhân tiền triều đều được treo trên tường, những món đồ sứ men xanh, bình hoa màu trắng đa dạng được bày kín trên kệ, khiến người nhìn hoa cả mắt. Ngay cả mẫu đơn đặt trên giá hoa cũng thuộc loại cực kỳ quý hiếm, có màu tím thẫm sắc sảo và và màu trắng tinh khôi.

Diêu Thượng Nghi bước đến bên cửa sổ phía tây, đẩy khung cửa ra, nói: “Thánh thượng nói mùa thu hoa cỏ ít ỏi, vì điện hạ thích mộc phù dung, nên đã sai người trồng rất nhiều bên bờ tường phía tây.”

“Thánh thượng còn dặn rằng điện hạ thích bộ trà cụ bằng màu men ngọc bích này, tất cả đều do cục Thượng Nghi dốc lòng chọn lựa. Điện hạ thấy thế nào, có vừa ý hay không?”

Thi Yến Vi nghe nàng một câu “điện hạ”, hai câu “điện hạ” nên khó tránh khỏi cảm giác lạ lẫm. Chẳng phải thánh chỉ lập hậu vẫn chưa hạ xuống hay sao, nên dặn nàng ấy chỉ cần gọi nàng “nương tử” thôi là được.

Đến bên bàn trang điểm, ánh mắt Thi Yến Vi bị một chiếc hộp gỗ sơn mài khảm xà cừ thu hút. Nàng thuận tay mở ra, bên trong là những viên ngọc trai phương nam, ngọc đỏ, cùng đủ loại bảo thạch lóa mắt.

Hồi tưởng về bố cục của điện Triều Nguyên trước đây, ngoại trừ những vật dụng cần thiết thì gần như không có thêm thứ gì dư thừa.

Tống Hành không phải kẻ ham mê hưởng lạc. Ngoại trừ yến tiệc chiêu đãi quần thần hay tông thất, hắn hiếm khi tổ chức yến ẩm. Khi không có chiến sự, hắn thường xử lý xong chính vụ rồi tìm đến nàng, quấn quýt không rời.

Từ sau khi nàng rời đi, Tống Hành vẫn chưa lập hậu hay nạp phi, trong cung chỉ còn hắn và Thái hoàng thái hậu, không cần nhiều người hầu hạ, càng không cần tiêu pha vào thứ khác.

Chi tiêu trong cung cực kỳ tiết kiệm, thế nên trong mắt người ngoài, vị Thánh thượng này quả thực cần kiệm, mang phong thái của Văn Đế triều Tùy.

Thi Yến Vi khép chiếc hộp lại, thầm nghĩ đợi Tống Hành trở về, có lẽ đem những vật này nhập vào quốc khố thì sẽ hợp lý hơn.

“Mọi thứ ở đây đều ổn cả, không cần thay đổi gì thêm. Ta thấy trong người hơi mệt, các người lui xuống nghỉ đi.” Thi Yến Vi vừa nói, vừa ôm Dương Quân ngồi xuống giường La Hán.

Diêu Thượng nghi cùng những người khác vâng lệnh, rón rén rời khỏi điện.

Dương Quân ngồi trong lòng Thi Yến Vi, đôi mắt long lanh nhìn chậu mẫu đơn tím, hỏi nàng: “A nương, đây là nhà của a gia phải không? Nhà của a gia lớn quá, đẹp quá! Trân Trân thích nơi này, a nương có thích không?”

Hai chữ “không thích” suýt chút nữa bật ra khỏi miệng nàng, nhưng lại không muốn khiến Dương Quân thất vọng. Lại nghĩ bất kể nàng có muốn hay không, đây cũng sẽ là nơi nàng và Trân Trân phải sống. Vì thế, nàng hơi hé môi, gượng gạo nói ra chữ “thích”.

Dương Quân nghe được đáp án mong chờ, nụ cười càng thêm rạng rỡ, “A nương, vừa rồi Úc Kim a di nói sẽ dẫn con đi bắt bướm, a nương đi cùng bọn con nhé?”

Có lẽ vì vừa nôn một trận, Thi Yến Vi cảm thấy hơi mệt, liền bảo Úc Kim bế Dương Quân ra ngoài chơi. Nàng dặn con: “A nương muốn nghỉ ngơi một lát. Trân Trân đi chơi với Úc Kim a di trước đi nhé. Đợi dọn cơm xong, a nương sẽ gọi hai người.”

Thi Yến Vi ở lại điện Đại Nghiệp nghỉ ngơi mấy ngày. Cảm giác mệt mỏi tuy giảm bớt, nhưng lại xuất hiện chứng chóng mặt và chán ăn.

Thu Sương trông thấy những thay đổi của nàng, bắt đầu chú ý đến kỳ nguyệt tín của nàng.

Cẩn thận ngẫm lại, dường như từ lúc Hoàng hậu điện hạ bước lên thuyền đến lúc trở về cung, vẫn chưa thấy nguyệt tín xuất hiện. Dù cơ thể điện hạ không được như những nữ tử bình thường, nguyệt tín lúc có lúc không, nhưng ngày nàng xuống thuyền, rõ ràng đã nôn một trận, đã vậy còn rơi vào cảnh chán ăn, không thể không khiến người ta hoài nghi.

Huống hồ mấy ngày ấy, gần như đêm nào Thánh thượng cũng ở lại chỗ điện hạ. Có khi đã thành sự rồi cũng nên.

Nghĩ tới đây, Thu Sương không dám lơ là, ngày ngày lưu ý nhất cử nhất động của Thi Yến Vi, sợ nàng va vấp hay sơ suất điều gì.

Những biến đổi này, dù Thi Yến Vi vốn không mấy nhạy bén, thì cũng dần nảy sinh nghi hoặc. Chẳng lẽ nàng đã xem nhẹ chuyện tránh thai? Có khi nào lần đó vào đúng thời kỳ, lại trùng hợp để sót lại một phần không mong muốn…

Càng nghĩ, Thi Yến Vi càng bất an, chỉ mong nguyệt sự mau chóng trở lại. Nàng thấp thỏm chờ đợi suốt nửa tháng nhưng nguyệt sự vẫn biệt tăm. Ngược lại, nàng càng thêm mỏi mệt, không ăn được đồ ngọt, chỉ muốn ăn những loại quả có vị chua để k*ch th*ch vị giác.

Hôm ấy, Dương Quân ngồi bên cạnh nàng, tự mình ăn cơm. Thi Yến Vi nhìn qua bàn ăn toàn những món nhạt nhẽo trước mặt, vẫn không hề gợi lên khẩu vị. Úc Kim gắp cho nàng một ít thức ăn, dịu giọng khuyên nhủ: “Nương tử, vì sức khỏe của bản thân, ít nhiều cũng nên ăn một chút mới được. Nếu cứ như vậy, chẳng phải sẽ đói đến kiệt sức hay sao?”

Nhìn thấy ánh mắt của Dương Quân cũng đang hướng về phía mình, cuối cùng nàng cầm đũa gắp một miếng thịt gà hầm thanh đạm. Nhưng chỉ vừa ăn được vài miếng, nàng đột nhiên cảm thấy miếng thịt trong miệng quá tanh, vội che miệng, lấy ống nhổ nôn ra.

Chuyện đến mức này, Thi Yến Vi không cách nào tiếp tục tự lừa mình dối người. Sau khi súc miệng, nàng sai người nấu nước mơ chua, lại gọi thái y tới chẩn mạch.

Thái y họ Vương mang theo hòm thuốc vội vàng tới, cách một chiếc khăn mỏng, bắt mạch cho nàng. Chỉ một lúc sau, ông đã lộ vẻ vui mừng, lui về sau hai bước, chắp tay hành lễ: “Thần xin chúc mừng điện hạ, điện hạ đã mang thai được hơn hai tháng. Có điều, thân thể điện hạ yếu nhược, thai tượng không ổn, sợ có nguy cơ sảy thai, phải uống thuốc an thai thì mới ổn thỏa được.”

Hai chữ “có thai” lọt vào tai, Thi Yến Vi như bị sét đánh giữa trời quang. Dù nàng đã mơ hồ dự liệu điều này, nhưng lúc thực sự nghe thái y xác nhận, vẫn cảm thấy khó mà tin nổi.

Lúc ở Duyên Châu, y công từng nói sau này nàng sẽ khó có con. Hơn nữa, trong thời gian ở Hải Châu, nàng và Tống Hành cũng chỉ ở bên nhau có bốn ngày. Ngày đầu hắn sơ suất, nhưng nàng đã dùng thuốc phòng ngừa. Ba ngày sau đó, hắn đều không để lại gì…

Chẳng lẽ kỳ rụng trứng lại đến đúng vào lúc đó?

Nàng chưa từng nghĩ đến việc sẽ sinh con cho Tống Hành.

Đứa trẻ này vốn dĩ không nên xuất hiện trong bụng nàng.

Thi Yến Vi siết chặt mép bàn, ánh mắt ngây dại như mất hồn. Trong một thoáng rối trí, nàng nhìn chằm chằm Vương thái y, lời nói không chút kiêng dè: “Ta không muốn đứa trẻ này, phiền thái y kê cho ta một thang thuốc phá thai.”

Lời vừa nói ra, cả Vương thái y và Thu Sương đều kinh hãi, vội quỳ xuống: “Lão thần không dám! Đây là long tự, nếu có bất trắc, lão thần làm sao gánh vác nổi.”

Phải rồi, đây là Triệu cung, cả Thái Y Viện đều chỉ biết nghe lệnh Tống Hành. Nàng muốn bỏ đi đứa trẻ này, nhưng ai dám liều mạng cả gia tộc để kê đơn cho nàng?

Nhưng Vương thái y vừa nói, thai tượng của nàng không ổn định, chỉ cần nàng không uống thuốc an thai, đứa trẻ này e rằng khó mà giữ được.

Họ có thể ngăn nàng dùng thuốc, nhưng không thể ép nàng uống thuốc an thai.

Hậu quả của hành động này, cuối cùng chỉ có mình nàng gánh chịu.

Thi Yến Vi bình tĩnh lại, nghĩ thông suốt, cuối cùng cũng không làm khó Vương thái y. Nàng thu lại ánh mắt, trầm ngâm một lát rồi bảo ông lui xuống.

Thái y không dám nhắc lại chuyện dưỡng thai, chỉ lặng lẽ rời khỏi. Nhưng ngay sau đó, ông vội vã đến điện Huy Du, bẩm báo việc này với Thái hoàng thái hậu.

Dương thị mang thai. Phản ứng đầu tiên của Thái hoàng thái hậu là kinh ngạc và lo lắng, sau đó mới lộ vẻ vui mừng.

Thánh thượng lên ngôi đã bốn năm, năm nay đã ba mươi ba tuổi, mà dưới gối vẫn chưa có con nối dõi. Trong khi đó, Tam lang đã có hai con trai. Hai năm nay, không ít triều thần đều dõi mắt vào cả nhà Tam lang, chẳng qua là tính toán xem liệu Thánh thượng có nhận nuôi một đứa từ chỗ Tam lang làm con thừa tự, dưỡng dục dưới gối hay không.

Nhưng huyết thống ruột thịt, ai lại nỡ lòng giao con mình cho người khác nuôi dưỡng, cho dù người đó là huynh đệ cùng mẹ sinh ra, là đấng cửu ngũ chí tôn.

Huống hồ, với tính tình của Tam lang, chưa chắc hắn đã coi trọng ngôi vị hoàng đế. Điều hắn mong mỏi chẳng qua chỉ là cùng Thập Nhất nương bạch đầu giai lão, con cái bình an lớn lên, phụng dưỡng bên người mà thôi.

Bàn tay là thịt, mu bàn tay cũng là thịt, bà sao nỡ để Tam lang và Thập Nhất nương chịu đau đớn khi phải giao con ra?

Dù bà không vừa mắt khi thấy Nhị lang vì nữ tử họ Dương kia mà nhiều lần đánh mất quy củ, nhưng đứa trẻ trong bụng nàng ta rốt cuộc cũng là cốt nhục của Nhị lang. Nếu là con trai, với sự sủng ái mà Nhị lang dành cho nàng ta, hẳn nhiên đứa trẻ sẽ được lập làm thái tử.

Thái hoàng thái hậu khẽ thở dài, thầm nghĩ: dù giữa hai người là một đoạn nghiệt duyên, nhưng đoạn nghiệt duyên này cuối cùng cũng kết quả. Về phần quả ấy là ngọt hay đắng, thì đều phụ thuộc vào hai người họ mà thôi.

“Người đâu, chuẩn bị bộ liễn. Lão thân muốn đi một chuyến tới điện Đại Nghiệp.”

Điện Đại Nghiệp vốn không phải là nơi dành cho nữ tử cư ngụ, vậy mà Nhị lang lại bất chấp lễ nghi, ban nơi ấy cho nàng ta.

Thái hoàng thái hậu được người đỡ lên loan giá, đi thẳng đến điện Đại Nghiệp.

Bước vào trong điện, dù đã sống trong phú quý cả đời, bà vẫn không khỏi hít sâu vài hơi, lòng thầm cảm thán: Chẳng nhẽ Nhị lang định dọn hết bảo vật trong quốc khố đưa vào đây chỉ để lấy lòng nàng ta?

Ánh mắt của Thái hoàng thái hậu khẽ nheo lại, chậm rãi quan sát nữ tử họ Dương đang tựa mình trên chiếc giường La Hán. Tầm nhìn của bà liền bị hấp dẫn bởi chiếc phù dung quan bằng ngọc bích trên búi tóc nàng ta.

Chiếc phù dung quan ấy được chế tác từ một khối ngọc bích tinh khiết không tì vết, hai bên điểm xuyết trâm hoa diệp, ánh nắng chiều xuyên qua cửa, phản chiếu những tia sáng vàng óng ánh, làm lộ rõ những đường vân ít ỏi bên trong, khiến phù dung quan càng thêm phần rực rỡ.

Khối phỉ thúy có phẩm chất hoàn mỹ thế này, ngày trước hễ Nhị lang có được thì đều ưu tiên cho các nữ lang của Tống thị. Thế mà nay, hắn lại dành ra để chế tác thành một chiếc ngọc quan cho nàng ta.

Khi Thái hoàng thái hậu còn đang miên man suy nghĩ thì Thi Yến Vi đã hầm chậm đứng dậy, muốn xuống giường hành lễ. Thái hoàng thái hậu vội xua tay, ra hiệu nàng không cần đa lễ, chỉ cần ngồi xuống vị trí đối diện bà.

Ánh mắt dò xét của bà lướt qua đôi khuyên tai lam ngọc, dừng lại nơi chiếc vòng lưu ly trong suốt trên cổ. Ngón tay bà khẽ lướt qua chuỗi Phật châu, giả như thuận miệng nói: “Lão thân nhớ trước kia khi cháu còn ở Thái Nguyên thì vẫn luôn là người ưa thích cách ăn vận giản dị, thanh nhã. Không ngờ ba năm qua ở nước Nguỵ lại đâm ra yêu chuộng trân châu ngọc thạch. Nhưng như vậy cũng tốt, cháu nhỏ hơn Thánh thượng tám tuổi, cũng nên trang điểm ộng lẫy. Nhị lang sủng ái cháu thế này, người ngoài nhìn vào cũng chẳng dám nói gì.”

Lời nói thoạt nghe như bênh vực nàng, nhưng thực chất lại là lời nhắc nhở, răn đe: Những gì nàng có được ngày hôm nay, tất thảy đều nhờ vào Tống Hành. Người ngoài không dám dị nghị nàng, chẳng qua cũng bởi e ngại Tống Hành đứng phía sau nàng.

Tống Hành yêu chiều nàng có thể khiến cuộc sống của nàng an nhàn, cao quý. Nhưng nếu một ngày Tống Hành không còn sủng ái nàng, thì tất cả cũng sẽ hóa thành bọt nước. Khi ấy, miệng đời sẽ chẳng nể nang, thậm chí mặc sức chỉ trích nàng.

Nhưng nàng chẳng bận tâm người đời nghĩ gì về mình, đặc biệt là nam lang. Nàng không vì lời đồn đại của thiên hạ mà rụng mất một sợi tóc, cũng chẳng vì những lời tán dương mà sống thêm một ngày.

Nàng là người như thế nào, chính nàng biết rõ nhất, cần gì phải để người khác định nghĩa.

Điều nàng theo đuổi, từ trước đến nay vẫn luôn là sự bình yên trong tâm hồn, hà tất phải để tâm đến ánh mắt hay lời dèm pha của thiên hạ?

Có lẽ trong mắt thế nhân, Tiết phu nhân là một người phụ nữ đầy trí tuệ. Nhờ vào sự dạy dỗ chu đáo của bà, Tống phủ mới có được ba vị nhân tài kiệt xuất. Trong đó, Tống Hành là vị khai quốc đế vương hiếm có, văn võ song toàn, có tài định quốc an bang.

Nhưng trong mắt Thi Yến Vi, bà cũng không thể phá vỡ xiềng xích mà nam giới áp đặt lên nữ giới. Bà tin rằng mọi thứ nữ lang có được đều do nam lang ban cho. Ví dụ như trí tuệ của bà, nếu không thể thông qua thành tựu của cha con Tống Lâm, Tống Hành, Tống Duật để chứng minh, thì trí tuệ ấy liền trở nên vô nghĩa. Bà sẽ chẳng thể khẳng định giá trị của riêng mình.

Giờ đây, bà lại muốn đem tư tưởng đó áp đặt lên nàng, muốn nàng xem Tống Hành là trời, coi vinh nhục của hắn chính là vinh nhục của mình, rằng giá trị của một con người như nàng chỉ có thể được chứng minh và thực hiện thông qua hắn.

Người đời vốn chẳng cho phép nữ nhân vượt quyền trên nam nhân. Đáng thương hơn nữa, là vô số nữ nhân từ nhỏ đã bị giáo lý “nam tôn nữ ti”, “tam cương ngũ thường” tẩy não, cũng không chấp nhận việc nữ nhân có thể vượt mặt nam nhân.

Từ khi triều đại phong kiến đầu tiên ra đời, những nữ nhân kiệt xuất như nữ đế Võ Chiếu, thái hậu Lữ Trĩ, hay nhà thiên văn học Vương Trinh Nghi đều không tránh khỏi việc bị nam nhân cầm bút bôi nhọ, hoặc bị lịch sử do nam nhân chấp bút vùi lấp.

Thi Yến Vi biết bản thân không nên trách cứ Tiết phu nhân, vì suy cho cùng, bà cũng chỉ là một nữ nhân thời xưa bị tư tưởng phong kiến thâm căn cố đế làm cho mụ mẫm, chẳng có tư duy tự chủ. Nhưng khi phải nghe những lời lẽ rập khuôn đến mức giáo điều của bà, lòng nàng vẫn không khỏi nghẹn ngào. Thi Yến Vi hít thật sâu một hơi, trấn định tâm tình, phải mất một lúc lâu nàng mới giữ được sắc mặt bình thường, lẳng lặng không đáp.

“Hiện giờ cháu đã mang thai được hai tháng, cần phải cẩn thận mọi bề. Thang thuốc do thái y kê, nhất định phải dùng đúng cách, việc ăn uống cũng không được sơ sài.”

Thái hoàng thái hậu vừa nói, ánh mắt vừa chuyển xuống bụng nàng. Có lẽ vì dáng vóc nàng gầy gò nên vẫn chưa nhìn ra dấu hiệu nào của thai kỳ. Sắc mặt nàng nhợt nhạt, phần lớn là do phản ứng trong những tháng đầu mang thai.

“Bên cạnh cháu chỉ có hai người hầu hạ, thực sự chẳng đúng quy củ. Ngày trước ở Thái Nguyên, Đống Tuyết từng phục vụ cháu, lão thân thấy nàng ta làm việc chu toàn, nên sẽ để nàng ở lại, hầu hạ cháu.”

Thái hoàng thái hậu nói xong cũng chẳng đợi Thi Yến Vi đồng ý hay không, liền dứt khoát để người ở lại điện Đại Nghiệp.

Hiện tại, Thi Yến Vi vẫn chưa được hành lễ sách phong, cũng chưa nắm giữ ấn tín của hoàng hậu, nên đối với sự sắp xếp của Thái hoàng thái hậu, nàng đành bất lực, chẳng thể phản kháng.

Đúng lúc ấy, Úc Kim bưng trà nóng tiến lên, Thái hoàng thái hậu thoáng nhìn chén trà men xanh với hoa văn cánh sen, mỉm cười đầy ẩn ý: “Thánh thượng quả nhiên hết lòng với cháu. E rằng ngay cả trưởng công chúa Tấn Dương và quận chúa Thanh Hà cũng không có được một bộ trà cụ hoàn chỉnh thế này.”

Nói xong, bà kín đáo quan sát biểu tình của Thi Yến Vi, nhấp vài ngụm trà, rồi đứng dậy rời điện.

Đúng lúc ấy, Dương Quân ôm một con thỏ nhỏ chạy vào, hai cung nhân theo sau liên tục gọi bé công chúa, bảo bé đừng chạy quá nhanh.

Thái hoàng thái hậu vừa bước ra liền chạm mặt cô bé, ánh mắt bà cúi xuống quan sát Dương Quân. Cô bé chưa từng gặp bà bao giờ, bị khuôn mặt âm trầm mang vẻ mỏi mệt kia dọa sợ, bé ôm chặt con thỏ, không dám nói gì.

Công chúa? Khắp Triệu quốc này, trừ Tấn Dương ra, làm gì có người thứ hai.

Ngũ quan của đứa bé chẳng có điểm nào giống với Nhị lang, chỉ có đôi mày mảnh là miễn cưỡng giống nữ tử họ Dương.

Thái hoàng thái hậu càng nhìn càng thấy không có nét gì gần gũi. Chẳng hiểu vì sao bà luôn cho rằng đứa trẻ này không phải huyết mạch của Nhị lang. Không rõ nữ nhân họ Dương kia đã dùng bùa chú gì mà khiến Nhị lang say mê đến mức định phong cho một đứa trẻ lai lịch bất minh thành công chúa?

Sau mười mấy nhịp thở, Thái hoàng thái hậu mới miễn cưỡng nở một nụ cười nhạt, giọng điệu dịu dàng: “Chạy chậm một chút. Nếu không may té ngã, a nương ngươi sẽ đau lòng lắm đấy. A nương ngươi hiện đang mang đệ đệ của ngươi trong bụng, rất vất vả, đừng chọc nàng buồn phiền.”

Dứt lời, bà gẩy chuỗi Phật châu trong tay, chậm rãi rời đi.

Dương Quân ôm chú thỏ đưa cho Thi Yến Vi xem, định hỏi người con thỏ này có đáng yêu hay không, trong bụng nàng thật sự có một em bé không. Nhưng rồi, Dương Quân phát hiện ra: hình như a nương sắp khóc.

“A nương buồn sao? Có phải do Trân Trân chạy lung tung làm a nương buồn không?”

Dương Quân hỏi, mắt cũng đỏ hoe.

Thi Yến Vi cố kìm nước mắt, lắc đầu, xoa xoa chú thỏ trong tay con gái: “Không, Trân Trân không làm a buồn đâu.”

“Con thỏ của Trân Trân thật đáng yêu, là ai tặng con vậy?”

“Là Thu Sương a di. Hôm trước nghe Trân Trân nói thích thỏ, liền nhờ người ngoài cung mua tặng con.”

Nàng vốn không để ý đến Thu Sương, nên giờ nghe Dương Quân nhắc đến thì mới sực nhớ ra. Từ khi Vương thái y rời đi, Thu Sương dường như cũng lặn mất tăm.

Tối hôm ấy, khi Đống Tuyết bưng thuốc an thai vào. Thi Yến Vi nhịn đắng, cố gắng uống, nhưng chẳng bao lâu sau đã nôn sạch, thậm chí còn nôn cả cơm tối ra.

Liên tiếp mười mấy ngày, nàng chẳng thể uống thuốc, cơm cũng ăn rất ít. Người nàng gầy rộc cả đi, khó khăn lắm mới bồi bổ được chút ít tại Ngụy quốc, giờ lại tiêu hao gần hết. Đống Tuyết thấy tình cảnh ấy không thể ngồi yên, nhân đêm tối, nàng lén lút tới điện Huy Du.

Thái hoàng thái hậu nghe tin, cũng không khỏi bàng hoàng. Dù gì đi nữa thì đây cũng là đứa con đầu tiên của Nhị lang, bất kể thế nào cũng phải giữ cho bằng được.

Vì Tống Hành không ở trong cung, Đại trưởng công chúa Tống Vi Lan lại được mời vào điện Huy Du, đêm nay lưu lại bên cạnh Thái hoàng thái hậu.

“Ả họ Dương mang thai?” Tống Vi Lan kinh ngạc hỏi.

Thái hoàng thái hậu gật đầu, thần sắc nặng nề.

Tống Vi Lan không khỏi sửng sốt, một lúc sau, cơn phẫn nộ dâng lên, nàng ta nghiến răng nói: “Thánh thượng mụ đầu rồi sao!”

Thái hoàng thái hậu vì lo lắng đến cùng cực, nhất thời cũng không nghĩ ra biện pháp nào ép nàng uống thuốc, bèn thở dài: “Nàng ta không chịu uống thuốc, chẳng lẽ hai người bên cạnh nàng cũng không biết đường để khuyên nhủ?”

Đống Tuyết cau mày đáp: “Sao lại không khuyên được ạ? Mỗi ngày chúng nô tỳ đều khuyên đi khuyên lại không biết bao nhiên lần, chỉ thiếu nước biến thành cái túi chứa lời mà thôi. Nhưng kỳ lạ thay, cô bé họ gọi là Trân Trân, mỗi lần mở miệng lại hiệu quả hơn chúng nô tỳ nói cả buổi.”

Tống Vi Lan chưa từng gặp Dương Quân, nghe Đống Tuyết nói vậy, liền hỏi: “Trân Trân là ai?”

Đống Tuyết ngập ngừng, đáp một cách không chắc chắn: “Cô bé gọi Dương thị là a nương, cung nhân trong đều điện Đại Nghiệp gọi cô bé là công chúa, có khi là hài tử của Thánh thượng và Dương thị.”

Tống Vi Lan đăm chiêu một lúc, ánh mắt tối lại, rồi nhẹ nhàng đưa ra đề nghị: “Ả họ Dương kia hẳn là vẫn đang hậm hực với Thánh thượng, trong lòng không muốn tiếp nhận đứa trẻ trong bụng. Chi bằng a bà đón đứa bé gọi là Trân Trân kia về nuôi tại điện Huy Du, ngày nào Dương thị không ngoan ngoãn uống thuốc, ăn uống đầy đủ, hạ sinh long tự của Thánh thượng một cách bình an, thì ngày đó a bà không không cho phép Trân Trân trở lại điện Đại Nghiệp. Thể nào ả cũng phải nghe lời thôi.”



Mấy ngày trước, tại Dương Châu.

Tống Hành nhận được thư từ Lạc Dương, trong lòng lo lắng như lửa đốt, liền thức thâu đêm xử lý hết công việc còn lại, dặn dò Trình Diễm và Vệ Trạm ở lại thêm vài ngày thu xếp mọi việc, rồi dẫn theo một trăm kỵ binh, băng qua Tuyên Võ, Trung Võ, chạy về Lạc Dương.

Trời chưa sáng rõ, Thi Yến Vi đã bị Úc Kim gọi dậy.

Vì nhiều ngày liên tục không ăn uống tử tế, nên nàng gầy đi trông thấy, sắc mặt cũng trắng bệch xanh xao. Nhìn nàng chẳng giống một nữ lang đã mang thai gần ba tháng, trái lại trông như người bệnh liệt giường suốt ba tháng trời.

Úc Kim và Thu Sương khuyên nàng ăn vài thìa cháo. Đống Tuyết còn chưa kịp mang thuốc đến, người của cung Thái hoàng thái hậu đã đến trước, bế Dương Quân đi thẳng về điện Huy Du.

Điện Đại Nghiệp có không ít cung nhân, tất nhiên ra sức ngăn cản. Nhưng đám người kia lập tức trình ra ý chỉ của Thái hoàng thái hậu, chúng nhân không còn cách nào khác, đành trơ mắt nhìn Dương Quân bị mang đi.

Chẳng mấy chốc, Dương Quân đã được bế tới điện Huy Du.

Thi Yến Vi không thể ngồi yên, liền đuổi theo.

“A nương!” Dương Quân bị ôm chặt, hai tay giãy giụa, miệng không ngừng gọi.

Thái hoàng thái hậu nhìn cảnh tượng này, rốt cuộc không đành lòng, bàn tay đang gẩy chuỗi Phật châu cũng chậm lại, toan mở miệng bảo thả Dương Quân về với Thi Yến Vi.

Tống Vi Lan nhận ra sự do dự trong ánh mắt bà, liền ghé tai bà thì thầm: “Nếu lúc này Thái hoàng thái hậu mềm lòng, chẳng phải công lao vất vả đều uổng phí hay sao? Ả họ Dương kia ngay cả long tự cũng dám từ bỏ, e rằng sau việc này sẽ càng coi thường người. Đợi Nhị lang khải hoàn hồi triều, đến khi ấy còn ai trong cung này có thể khống chế nàng ta?”

Nghe xong, Thái hoàng thái hậu nhắm mắt, dằn lòng, rồi cũng hạ quyết tâm.

Tại điện Đại Nghiệp.

Tống Hành đi một mạch mấy ngày liền không nghỉ ngơi, vượt đường dài gấp rút trở về Lạc Dương. Áo hắn ướt đẫm mồ hôi, râu ria lún phún chưa kịp cạo, cả người phờ phạc. Đến nơi, hắn lập tức lao vào điện, ánh mắt đầy trông ngóng, nhưng nhìn quanh một vòng lại chẳng thấy bóng dáng nữ lang hắn ngày nhớ đêm mơ, ngay cả Úc Kim và Thu Sương cũng không thấy đâu.

“Hoàng hậu đi đâu rồi?” Tống Hành lòng rối như tơ vò, nghiêm giọng hỏi lớn.

Cung nhân quỳ rạp cả dưới đất, run rẩy thốt ra ba chữ: “Điện Huy Du.”



Tại điện Huy Du.

Thi Yến Vi vẫn đang giằng co cùng Thái hoàng thái hậu, không chịu lui bước. Dù đôi chân bủn rủn nhưng nàng vẫn gắng gượng đứng dưới bậc thềm, ngước nhìn Thái hoàng thái hậu, cất giọng van xin: “Thái hoàng thái hậu, Trân Trân là con ta. Trên đời này nào có đạo lý để mẹ con phải chia lìa. Người xem, con bé khóc đến đáng thương, xin người rủ lòng từ bi, để con bé về với mẹ nó.”

Thái hoàng thái hậu nghe vậy càng thêm mềm lòng, không dám nhìn thẳng vào ánh mắt của nàng, rũ mi đáp: “Hiện giờ cháu đang mang thai, bản thân còn chưa lo xong, thì sao có thể chăm sóc tốt cho con? Lão thân sẽ thay cháu chăm sóc con bé thật chu đáo. Đợi cháu sinh hạ tròn con vuông, lão thân sẽ để con bé trở về điện Đại Nghiệp.”

Thi Yến Vi nghe vậy, càng thêm kích động: “Không được! Trân Trân là con ta. Con bé còn nhỏ, ngoài ta ra, ở bên ai cũng không chịu được!”

Thái hoàng thái hậu vốn đã dao động, lòng càng thêm hoang mang. Thấy vậy, Tống Vi Lan liền lên tiếng, sai người đóng chặt cửa cung, đưa Thi Yến Vi về điện Đại Nghiệp.

Nàng ta giờ đang mang thai, nếu có chuyện gì xảy ra, ai dám đứng ra chịu trách nhiệm.

Cung nhân trong cung Thái hoàng thái hậu đều là kẻ khôn ngoan, không ai dám hành động thiếu suy nghĩ. Đúng lúc tình thế bế tắc, bên ngoài cung bỗng vang lên tiếng vó ngựa dồn dập.

Ai dám cưỡi ngựa đi nghênh ngang trong hậu cung, nhất là bên ngoài điện Huy Du của Thái hoàng thái hậu?

Tống Vi Lan chau mày, giận dữ sai người ra ngoài xem kẻ nào dám to gan như vậy.

Nhưng chưa kịp đi, vó ngựa đã dừng lại. Một bóng người cao lớn như núi xông vào, ba bước làm hai, vội vã lao về phía Thi Yến Vi, chẳng nói chẳng rằng mà ôm chặt lấy nàng.

“Thái hoàng thái hậu, Đại trưởng công chúa, các người có ý gì đây? Hoàng hậu và công chúa của trẫm đã làm gì khiến các người chướng mắt? Mà các người lại dám ra tay nhẫn tâm đến vậy!”

Tống Hành rõ ràng giận đến cực điểm, không còn gọi Thái hoàng thái hậu là “a bà”, trong giọng nói chẳng hề có chút kính trọng nào, chỉ toàn là chất vấn. Ánh mắt hắn nhìn bà và Tống Vi Lan lạnh buốt như băng sương.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 79: Lập hậu



Dương Quân trông thấy hắn, liền giãy giụa dữ dội, không ngừng gọi: “A gia!”, khiến Tống Hành lòng đau như cắt. Hắn dùng ánh mắt ra hiệu cho Thu Sương bế bé qua.

Cung nhân bị Tống Hành trừng mắt một cái, chỉ cảm thấy tóc gáy dựng đứng, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, nào dám tiếp tục giữ chặt Dương Quân mà phải ngoan ngoãn trả người lại cho Thu Sương. Chờ Thu Sương bế vững rồi, nàng ta mới dám buông tay, như thể sợ cô bé té ngã.

Thái hoàng thái hậu biết mình đuối lý, đành thu lại khí thế thường ngày, nhẹ giọng biện minh: “Nhị lang chớ hiểu lầm, lão thân làm thế là vì thương xót Dương thị và đứa trẻ kia. Nay Dương thị đang mang thai, ngay cả bản thân nàng ấy cũng khó lòng chăm sóc chu toàn, làm sao còn có sức lo liệu cho đứa trẻ kia? Lão thân cũng chỉ xuất phát từ ý tốt mà thôi.”

Một câu “đứa trẻ kia” nghe thật xa cách, ngay đến tên gọi của Dương Quân bà cũng không rõ, thử hỏi làm sao có thể thật lòng xem con bé như con cháu của mình?

Cơn giận của Tống Hành không chút suy giảm, thậm chí hắn chẳng buồn liếc mắt nhìn Tống Vi Lan bên cạnh Thái hoàng thái hậu. Hắn lạnh lùng đáp: “Hoàng hậu và công chúa của trẫm, không dám phiền Thái hoàng thái hậu nhọc lòng. Đợi Thái sử lệnh chọn ngày lành lập hậu, mọi việc trong hậu cung đều do hoàng hậu quản lý. Thái hoàng thái hậu tuổi tác đã cao, nên tĩnh dưỡng, không cần phải lo liệu việc của hậu cung hay tiền triều nữa. Còn về hoàng cô, nếu không có chỉ dụ của trẫm, từ nay không được vào cung.”

Vì bảo vệ Dương thị nữ, hắn không ngại nói lời nặng nề với Thái hoàng thái hậu và cả hoàng cô của mình. Nàng ta là cô ruột của hắn, khi hắn còn trong tã lót, nàng ta từng cõng hắn trên lưng. Vậy mà nay, vì một nữ lang vốn là cháu gái của kẻ thù đã giết biểu đệ trên chiến trường mà hắn không cho phép nàng ta tiến cung thăm mẫu thân. Thật là vô lý!

Nhị lang trước đây vẫn luôn tôn kính mẫu thân nàng ta biết bao, đối với vị cô ruột như nàng ta cũng luôn giữ gìn lễ nghĩa. Vậy mà vì nữ nhân họ Dương, người vốn chẳng yêu hắn, lại hết lần này đến lần khác khác làm trái luân thường đạo lý, thực khiến người ta khó lòng chấp nhận nổi.

“Thánh thượng chớ quên, cậu ả từng g**t ch*t Thừa Sách. Thừa Sách là biểu đệ của Thánh thượng, là ngoại tôn của Thái hoàng thái hậu. Trong người hắn cũng chảy dòng máu họ Tống. Thánh thượng vì ả mà mất trí, muốn lập ả làm hậu, chẳng lẽ không sợ triều thần đồng lòng chỉ trích? Còn về đứa trẻ không rõ lai lịch kia, thân thế mập mờ, nhìn thế nào cũng chẳng có điểm nào giống Thánh thượng. Chẳng lẽ Thánh thượng không sợ một ngày nào đó bị gọi là kẻ đội nón xanh sao…”

Tống Hành nghe nàng càng nói càng quá đáng, không kìm được cơn phẫn nộ trước lời lăng mạ của Tống Vi Lan dành cho hai mẹ con nàng, liền nghiêm giọng quát: “Im miệng! Người đâu, lập tức đưa Đại trưởng công chúa rời cung!”

Khuôn mặt hắn lạnh lùng đến đáng sợ, khí thế uy nghiêm bức người khiến Tống Vi Lam không khỏi rùng mình. Dù trong lòng uất hận, nhưng cũng không dám nói thêm câu nào. Để giữ lại chút thể diện cuối cùng, nàng ta không đợi nội thị “mời” mà tự giác lui khỏi điện Huy Du.

Thu Sương bế Dương Quân bước vào, Dương Quân vừa thấy đã vội vàng rời khỏi vòng tay nàng, nhào về phía Thi Yến Vi.

Những ngày qua Thi Yến Vi ăn không ngon ngủ không yên, cơ thể suy nhược, lại đang mang thai khiến tâm trạng dễ dao động. Giờ đây nhìn Dương Quân ôm nàng khóc nức nở, nước mắt nàng cũng theo đó rơi xuống. Nàng muốn dang tay ôm lấy bé, nhưng toàn thân mềm nhũn, tay chân như mất hết sức lực. Đôi mắt nàng đẫm lệ, càng lúc càng nặng trĩu, chỉ có thể cúi xuống lau đi dòng nước mắt trên khuôn mặt bé nhỏ kia.

Tống Hành trong lòng tự trách bản thân không bảo vệ tốt được mẹ con nàng, trái tim đau như bị dao cắt. Hắn cúi người ôm nàng đứng dậy, giọng nói mềm mại, ôn hòa đến bất ngờ: “Âm Nương, đừng sợ. Ta hứa với nàng, chuyện thế này sẽ không bao giờ tái diễn nữa.”

Thi Yến Vi chỉ ngồi xổm một lát, vậy mà khi đứng dậy, đầu óc liền choáng váng, mắt tối sầm lại, cả người ngã thẳng xuống đất.

“Âm Nương! Mau mau truyền Thái y tới!” Tống Hành hét lên thất thanh, hắn nhanh tay đỡ lấy Thi Yến Vi đang ngã quỵ, lập tức bế nàng lên, đặt nàng ngang trên lưng ngựa, phi thẳng về điện Đại Nghiệp.

Lòng ngập tràn sợ hãi, mãi đến khi đặt nàng nằm trong chăn gấm, hắn mới bàng hoàng nhận ra đôi bàn tay mình đã nhuốm đầy máu.

Năm xưa trên chiến trường, rất nhiều lần hắn phải đối diện với cảnh máu chảy đầu rơi, vậy mà hắn chẳng mảy may sợ hãi. Thế nhưng giờ đây, chỉ một vệt máu từ nàng cũng khiến hắn kinh hoàng đến mức hồn bay phách lạc.

Lần đầu tiên trong đời, hắn để lộ đôi mắt hoe đỏ trước mặt người khác.

Cả điện Đại Nghiệp lặng ngắt như tờ, không ai dám đến gần.

Mãi đến khi Vương Thái y được người thúc giục đến nơi, thần trí Tống Hành mới dần khôi phục. Hắn vội sai Thái y bắt mạch, chẩn bệnh cho nàng.

Chừng nửa khắc sau, Vương thái y chau mày, nói: “Điện hạ vốn đã có thai tượng bất ổn, lại mấy ngày nay không chịu dùng thuốc, hôm nay lại chịu kinh sợ, xúc động mạnh, nên mới dẫn đến hiện tượng ra huyết. May thay, bào thai trong bụng vẫn chưa gặp nguy hiểm. Lão thần sẽ kê lại phương thuốc, Điện hạ chỉ cần an tâm tịnh dưỡng một thời gian, cả người lẫn thai nhi sẽ bình an vô sự. Nhưng thân thể Điện hạ vốn yếu nhược, nếu xảy ra chuyện xấu như sẩy thai, chỉ e không chỉ lưu lại bệnh căn mà thậm chí còn tổn hại thọ mệnh.”

Tuy đã biết nàng không sao, Tống Hành vẫn không sao yên lòng. Hắn gật đầu, bảo Vương Thái y kê đơn rồi lui xuống.

Khi cung nhân bưng thuốc tới, Tống Hành tự tay nhận lấy. Hắn cẩn thận bế nàng lên, cả người lẫn chăn cùng trong vòng tay, dịu dàng đút từng thìa thuốc.

Dương Quân ngồi trên ghế nguyệt nha gần đó, nhìn mẫu thân yếu ớt, không dám khóc quấy. Bé ngồi yên, chỉ mở to đôi mắt ngơ ngác nhìn a gia đút thuốc cho a nương.

Sau khi uống hết thuốc, máu cũng đã cầm. Tống Hành liền sai người mang nước nóng vào, kiên nhẫn dỗ dành Dương Quân đôi câu rồi bảo cung nhân đưa bé sang tẩm điện bên cạnh.

Trong điện chỉ còn lại Tống Hành và Thi Yến Vi.

Thi Yến Vi vẫn chìm trong giấc ngủ mê man, Tống Hành cẩn thận nhẹ nhàng cởi bỏ y phục trên người nàng, lau sạch thân thể, gột rửa hết vết máu, thay cho nàng bộ trung y sạch sẽ, dùng chăn mới quấn lấy nàng, xem nàng như trân bảo mà ôm vào lòng, bước ra ngoài tẩm điện.

Ánh mắt Tống Hành dán chặt vào nàng, tựa hồ chỉ cần rời mắt một chút, nàng sẽ biến mất không dấu vết.

Hắn lớn tiếng gọi người vào, thay toàn bộ chăn gối trên giường rồi mới đặt nàng xuống. Tống Hành ngồi bên mép giường, lặng lẽ trông chừng nàng.

Mãi đến khi đèn được thắp sáng, bên ngoài màn đêm dần buông xuống, Thi Yến Vi mới tỉnh lại.

“Trân Trân…” Nàng khẽ mở miệng, giọng khàn khàn, yếu ớt thốt ra hai chữ.

Tống Hành thấy nàng tỉnh, vội trấn an: “Trân Trân rất tốt, vẫn ở điện Đại Nghiệp. Trân Trân là con của nàng và ta, con bé sẽ không đi đâu cả, sẽ luôn ở bên cạnh nàng.”

Nghe hắn nói, nàng mới hơi yên lòng. Nhưng khi nghĩ đến đứa trẻ trong bụng, nỗi chán ghét và cự tuyệt với hắn lại trỗi dậy. Thi Yến Vi quay đầu sang một bên, không muốn nhìn mặt hắn.

Tống Hành dường như nhận ra biến chuyển trong cảm xúc của nàng, bàn tay lớn phủ lên vị trí bụng nàng qua lớp chăn gấm, vẻ mặt bất lực, cất giọng khẩn cầu: “Âm Nương, Thái y nói thân thể nàng nếu xảy ra chuyện gì, chỉ e sẽ lưu lại bệnh căn, thậm chí ảnh hưởng đến thọ mệnh. Trân Trân yêu mến nàng đến vậy, nàng có nỡ lòng rời xa con bé sớm như thế không? Huống hồ, đứa trẻ này cũng là cốt nhục của nàng. Dẫu nàng hận ta đến đâu nhưng nó vô tội. Xin nàng, hãy giữ lại nó, đừng ruồng bỏ nó, được không?”

Thi Yến Vi nghe những lời này, trong lòng rối bời như tơ vò. Nàng không muốn giữ lại đứa trẻ này, nhưng thân thể nàng vốn yếu nhược, nếu cưỡng ép bỏ đi, hậu quả khó lường. Đứa trẻ ấy, rõ ràng chẳng làm gì sai, vậy mà từ khi mang thai, nàng lại luôn xem nhẹ sinh mệnh của nó. Những ngày qua, nàng không chịu uống thuốc, ăn uống qua loa, hôm nay lại thêm một phen kinh động, vậy mà nó vẫn kiên cường bám víu, không chịu rời đi.

Thế nhưng, để nàng sinh ra đứa con của một kẻ từng chà đạp, tổn thương mình, thực lòng nàng không làm được.

Nữ lang trên giường vẫn lặng im không nói, cũng không đáp ứng lời khẩn cầu của hắn. Tống Hành trầm ngâm giây lát, rời khỏi mép giường, rồi chậm rãi quỳ xuống trước mặt nàng.

“Âm Nương, trong lòng nàng hận ta, ghét ta, chỉ cần trút giận lên người ta là được, muốn đánh, muốn mắng, muốn giết đều tùy ý nàng. Nhưng nếu nàng nhất quyết muốn giết nó, vậy thì cứ giết ta luôn đi, để nó có a gia đồng hành trên đường xuống hoàng tuyền, chắc hẳn sẽ không cảm thấy cô độc.”

Tống Hành vừa nói, vừa lấy từ trong tay áo ra cây trâm mà bốn năm trước nàng từng dùng để đâm lén hắn, cương quyết đặt nó vào tay nàng, rồi đưa đến cổ mình, giọng nói mang theo chút điên cuồng: “Âm Nương, nếu nàng đã quyết tâm giết nó, vậy thì cứ cắm cây trâm này vào cổ ta, để ta lập tức vong mạng.”

Giết hắn đi thì thật đơn giản, nhưng nàng, Trân Trân và Lệnh Nghi liệu còn có đường sống nào chăng?

Không biết hắn đã giấu cây trâm này trong tay áo từ bao giờ. Thi Yến Vi bị thần thái cuồng loạn của hắn làm cho kinh hãi, cố sức thu tay lại, nhưng sức lực của hắn lớn đến nỗi nàng không thể giãy thoát.

Mắt nàng đỏ lên, hít sâu một hơi, cố kìm nén cảm xúc: “Tống Hành, ngươi đừng ép ta nữa.”

Thấy nàng giãy giụa kịch liệt, Tống Hành sợ nàng tự làm tổn thương chính mình, vội thả tay nàng ra, siết chặt cây trâm trong tay, ánh mắt khẩn thiết: “Âm Nương, ta không phải muốn ép nàng. Ta chỉ muốn cầu xin nàng, hãy cho con của chúng ta một con đường sống… Nó còn nhỏ như vậy, nó cũng khát khao được đến với thế gian này. Trên đời có biết bao cặp phu thê, vậy mà nó lại chọn ta và nàng làm cha làm mẹ. Âm Nương, sao nàng lại nhẫn tâm đến vậy…”

“Người đừng nói nữa!” Thi Yến Vi không chịu nổi, lớn tiếng cắt ngang lời hắn, giọng nói lạnh lùng: “Ý ta đã quyết, không thể thay đổi.”

Tống Hành thu tay lại, nắm chặt cây trâm đến mức các khớp ngón tay trở nên tái nhợt, cất giọng trầm tĩnh: “Vừa rồi ta đã cho nàng cơ hội, nhưng nàng không muốn giết ta, chỉ muốn giết nó. Nếu vậy, sau này trên chiến trường, ta có thể hứa rằng không làm tổn hại cậu của nàng. Còn những người khác có tha cho hắn hay không, thì ta không dám đảm bảo.”

“Người…”

Hắn vốn là kẻ giỏi bày trò, Thi Yến Vi nghẹn lời, không biết nói gì, chỉ giận dữ trừng mắt nhìn hắn.

Tống Hành không thích ánh mắt đó, ánh mắt như những lưỡi dao nhỏ sắc bén từng nhát từng nhát cắt vào da thịt, xuyên qua lồng ngực, khiến tim hắn nhói lên.

Hắn lặng thinh một lúc lâu, cuối cùng cũng không tiếp tục dùng những lời sắc bén đả thương nàng nữa. Sau khi bình ổn tâm trạng, giọng nói cũng trở nên mềm mỏng hơn: “Không bằng nàng với ta mỗi người nhượng bộ một bước. Chỉ cần nàng giữ lại nó, sau này ta sẽ uống thuốc, không để nàng phải mang thai thêm lần nào nữa. Đợi đến khi nó chào đời, ta sẽ thả Lý Lệnh Nghi đi. Mai này, nếu nước Ngụy diệt vong, dù cậu nàng không muốn quy hàng nước Triệu, ta cũng sẽ tha cho hắn.”

Lời vừa dứt, xung quanh vắng lặng như tờ. Qua một hồi lâu, Thi Yến Vi chậm rãi rời mắt khỏi hắn, dường như buông xuôi, hướng lên màn giường phía trên, giọng nhỏ giống như tiếng muỗi: “Được.”

Hôm sau, Tống Hành giữ Thái Sử lệnh lại tại điện Triều Nguyên để nghị sự.

Đây là lần thứ hai, Thái Sử lệnh phụng mệnh hắn, bịa chuyện thiên tượng, tính toán ngày lành để lập hậu, nhưng phải càng sớm càng tốt.

Tống Hành không còn ở điện Triều Nguyên phê tấu chương nữa, tất cả đều để nội thị chuyển đến điện Đại Nghiệp. Hắn mỗi ngày đều ở bên cạnh Thi Yến Vi, đích thân bón thuốc cho nàng, thấy nàng uống hết thì hắn mới có thể an tâm.

Thi Yến Vi đang tựa vào một bên, thần sắc hơi tái nhợt nhưng dường như đã đỡ hơn đôi chút. Tống Hành gấp lại tấu chương, vội vàng đỡ nàng ngồi dậy, sau đó múc một thìa yến sào đã hầm kỹ, dịu dàng đưa đến miệng nàng, khẽ dỗ: “Nàng ăn một chút, sẽ mau khỏe lại.”

Thi Yến Vi miễn cưỡng ăn được nửa chén, bèn hỏi về Dương Quân.

Tống Hành nhẹ nhàng cười, giọng nói mang theo sự trấn an: “Âm Nương cứ yên tâm, lúc bãi triều ta đã hỏi qua. Nghe cung nhân nói, con bé đang ôm thỏ ra Ngự hoa viên, có mấy cung nhân theo sát, Thu Sương cũng đi cùng, sẽ không có chuyện gì đâu.”

Nói đến đây, hắn lại múc một thìa yến sào, đưa đến trước mặt nàng. Thi Yến Vi lắc đầu, nhỏ giọng từ chối: “Ta không ăn nổi nữa.”

Tống Hành không để nàng thoái thác, cười nhẹ nhưng giọng đầy cương quyết: “Ăn thêm hai miếng thôi, sau đó ta sẽ bảo Ngự thiện phòng làm ít nước ô mai cho nàng.”

Bị hắn quấn lấy không còn cách nào khác, nàng đành ăn thêm hai thìa.

Bởi vì hôm trước nàng có dấu hiệu động thai, Tống Hành lo nàng không chịu nổi, hai ngày nay không cho phép nàng rời giường. Hôm nay thấy sắc mặt nàng khá hơn, hắn bèn gác lại chính sự, giúp nàng đứng dậy thay y phục, sau đó gọi cung nhân vào dạy hắn chải tóc cho nàng.

Lần đầu tiên thử, động tác của hắn vụng về vô cùng, không cẩn thận kéo đau nàng hai lần, khiến nàng tức giận đập vào tay hắn: “Người có biết làm đâu!”

Tống Hành cười trừ, nhẹ giọng làm hòa: “Ta sẽ nhẹ tay hơn, Âm Nương, nàng đừng giận.”

Vừa nói hắn vừa cẩn thận chải tóc cho nàng. Dẫu động tác còn vụng về, nhưng kiểu tóc hắn chải lại không tệ. Lo phát quan quá nặng sẽ đè lên cổ nàng, hắn chỉ chọn hai chiếc bộ diêu chạm rỗng và một món điền đầu đơn giản để cài lên.

Sau khi chỉnh trang xong, hắn dìu nàng đến ngự hoa viên tìm Dương Quân.

Tới nơi, chỉ thấy Dương Quân đang mải mê đuổi bắt một con thỏ, các cung nhân thì căng thẳng theo sát phía sau, sợ bé vấp ngã, nhưng lại không dám can ngăn.

Tống Hành đỡ Thi Yến Vi đứng một lát. Chờ đến khi Dương Quân bắt được con thỏ, các cung nhân thở phào nhẹ nhõm, lúc này mới phát hiện ra hai người.

“Nô tỳ bái kiến Thánh thượng, Hoàng hậu điện hạ.”

Nghe tiếng gọi, Dương Quân quay đầu, ôm lấy con thỏ chạy về phía Thi Yến Vi, cố hết sức kiễng chân, đưa con thỏ đến trước mặt nàng.

Tống Hành tỏ vẻ lo lắng, sợ con thỏ cào trúng nàng. Hai bàn tay to lớn của hắn cẩn thận đưa ra, hỏi ý Dương Quân: “A gia có thể ôm nó để a nương xem không?”

“Được ạ.” Dương Quân vui vẻ đồng ý, không hề chần chừ, yên tâm giao con thỏ cho hắn.

Tống Hành hơi khom người, đưa con thỏ đến trước mặt Thi Yến Vi.

Lúc này, mặt trời chưa đứng bóng, ánh nắng không quá gay gắt. Thi Yến Vi giơ tay vuốt nhẹ đôi tai của con thỏ, khen Trân Trân chăm sóc con thỏ quá giỏi.

Thấy Dương Quân vui vẻ vì được mẹ khen, người làm cha như Tống Hành sao có thể thua kém? Hắn lập tức mở lời dỗ dành: “Đợi đến mùa thu, a gia sẽ tự mình đến núi Mang bắt hai con thỏ rừng về làm bạn với con thỏ này của Trân Trân, có được không?”

Nghe vậy, đôi mắt tròn xoe như quả nho của Dương Quân nhìn hắn chăm chú: “Thỏ rừng cũng trắng như thế này đúng không ạ?”

Tống Hành suy nghĩ một lát, rồi mỉm cười đáp: “Phần nhiều là màu xám và đen.”

Dương Quân cố gắng tưởng tượng con thỏ trước mặt trở thành màu đen, cảm thấy có chút lạ lẫm. Bé chớp mắt, buột miệng nói: “ Trân Trân chưa từng thấy con thỏ màu đen bao giờ…”

Tống Hành nhẹ nhàng an ủi: “Trân Trân chưa thấy cũng không sao. A gia sẽ bắt mỗi loại một con về cho Trân Trân, được không?”

“Được ạ! Trân Trân muốn ngoắc tay với a gia!” Dương Quân chìa ngón út nhỏ xíu ra.

Tống Hành vui vẻ, ngồi xổm xuống ngoắc tay với bé.

Thi Yến Vi đứng một bên yên lặng nhìn hai cha con, trong lòng bỗng dâng lên cảm giác mơ hồ: có lẽ, Tống Hành thật lòng xem Dương Quân như con gái ruột, chứ không phải chỉ là diễn kịch trước mặt nàng.

Ngoắc tay xong, Tống Hành trả lại con thỏ cho Dương Quân, rồi đứng thẳng dậy, bế ngang Thi Yến Vi, không để nàng tự đi về.

Dương Quân thấy vậy, chợt nhớ đến lời của bà lão kia đã nói với cô bé rằng trong bụng a nương có thêm một em trai. Bé tò mò hỏi: “Em trai của Trân Trân đang ở trong bụng a nương đúng không?”

Tống Hành chậm rãi bước, mỉm cười đáp: “Không nhất định là em trai, cũng có thể là một em gái đáng yêu như Trân Trân. Dù là nam hay nữ, chỉ cần là lớn lên trong bụng a nương, a gia đều sẽ yêu quý.”

Dương Quân cố ngẩng đầu lên, chăm chú quan sát bụng của Thi Yến Vi. Nhìn mãi mà thấy bụng không lớn thêm chút nào, bé càng thêm nghi hoặc: “Bụng a nương nhỏ thế này làm sao có em trai em gái được ạ? A gia đặt vào đó sao?”

Thi Yến Vi nghe thấy lời trẻ con càng lúc càng thiếu chừng mực, ho nhẹ một tiếng, vội chuyển chủ đề sang con thỏ.

Tống Hành cúi đầu nhìn nàng, khẽ hỏi bằng giọng trầm thấp: “Âm Nương, nàng xấu hổ rồi sao?”

Thi Yến Vi trừng mắt liếc hắn, tay vung nhẹ đấm vào vai hắn hai cái, trách hắn không tập trung, bảo hắn chăm chú nhìn đường.

Trên đường về đến điện Đại Nghiệp, Trương nội thị đã chờ sẵn ở cửa điện nghênh tiếp.

Trương nội thị tiến lên hành lễ, vẻ mặt như thường, dường như đã quá quen thuộc với việc Thánh thượng yêu chiều nữ nhân trong lòng. Hắn cung kính thưa chuyện: “Hồi bẩm Thánh thượng, Thái Sử lệnh đã chờ ở điện Triều Nguyên được một lúc lâu.”

“Trẫm biết rồi.” Tống Hành để lại một câu, bước nhanh vào điện. Hắn đặt Thi Yến Vi lên giường La Hán, dặn dò Thu Sương vài câu rồi mới rời đi.

Điện Triều Nguyên.

Thái Sử lệnh chọn được ngày lành gần nhất là ngày mười hai tháng sáu.

Tống Hành ban thưởng một trăm lượng bạc, lệnh nội thị đưa Thái Sử lệnh xuất cung.

Soạn thánh chỉ xong, lại ấn ngọc tỷ, tâm trạng khoan khoái lạ thường.

Rời khỏi điện Triều Nguyên, Tống Hành gọi Trương nội thị đến, giao phó một số việc, rồi lập tức quay về điện Đại Nghiệp.

Tống Hành đến nơi, thấy Thi Yến Vi đang ngồi dưới cửa sổ chép kinh.

Hắn lặng lẽ đứng sau lưng nàng một hồi, rồi tự đi đến án thư bên kia xử lý tấu chương.

Có lẽ vì tâm trạng thoải mái, hoặc cũng vì có nàng ở bên nên lòng cảm thấy yên ổn, những việc khiến hắn phiền lòng trước đây, giờ đều có thể cười mà bỏ qua.

Đến giờ dùng bữa tối, Tống Hành cùng mẹ con nàng quây quần bên nhau. Hắn tỉ mỉ gỡ sạch xương cá cho nàng, kiên quyết ép nàng ăn nhiều hơn.

Để giúp nàng có khẩu vị hơn, hắn sai cục Thượng Thực chế ra nhiều món nước uống chua, ngay cả trái cây cũng chọn loại có vị chua.

Dương Quân bày ra vẻ người lớn, phụ họa lời của Tống Hành: “A nương phải ăn nhiều một chút, nếu a đệ hay a muội giành ăn với a nương thì a nương sẽ bị đói đó.”

Thi Yến Vi không chịu nổi khi hai cha con họ lải nhải không dứt, đành ăn thêm nửa chén cơm.

Dùng xong bữa, súc miệng, Tống Hành lại cùng nàng đi dạo một lát bên ngoài điện.

Sau khi súc miệng, Tống Hành cùng nàng đi dạo bên ngoài điện một lúc. Hắn còn giả làm trâu già, để Dương Quân ngồi vắt vẻo trên lưng, giả làm mục đồng.

Cung nhân trong điện Đại Nghiệp chưa từng thấy Thánh thượng như vậy, ai nấy đều sững sờ, chết cũng không dám phát ra tiếng.

Dương Quân phát hiện họ có vẻ rất sợ a gia. Nhưng lần đầu gặp a gia, bé cũng từng sợ hãi như vậy, nên cảm thấy chuyện này không có gì là lạ.

Chơi với con được một lúc, Tống Hành đứng dậy, phủi bụi trên áo rồi tiếp tục xử lý tấu chương.

Gió mát buổi tối hè thổi qua, dễ khiến người ta cảm thấy buồn ngủ. Dương Quân bò lên lòng Thi Yến Vi, để nàng ôm, cùng nhau chìm vào giấc ngủ.

Khi Tống Hành xong việc, bên ngoài trời đã tối đen, đã qua canh giờ đầu tiên.

Thi Yến Vi tỉnh dậy trước, phát hiện Dương Quân vẫn đang gối đầu trên lòng nàng. Nàng khẽ nhấc Dương Quân ra, nhưng Tống Hành đã nhanh hơn một bước, ôm lấy Dương Quân trao cho Úc Kim bên ngoài điện chăm sóc.

Tống Hành quay lại, ôm lấy Thi Yến Vi, khẽ hít lấy hương thơm từ nàng, nét mặt rạng rỡ: “Ngày mai, ta sẽ hạ chỉ lập nàng làm hoàng hậu.”

Thi Yến Vi nghe vậy, vẻ mặt hờ hững, chỉ “ừ” một tiếng qua loa.

Tống Hành đặt bàn tay to lớn lên bụng nàng, giọng nói dịu dàng: “Âm Nương không cần quỳ nhận chỉ, nàng muốn tiếp chỉ thế nào cũng được.”

Vừa nói, bàn tay to lớn đã lướt lên trên, bắt đầu trêu chọc.

Thi Yến Vi cảm thấy, có lẽ hắn chỉ đang tự chuốc lấy phiền phức.

Hắn bế nàng đặt lên mép giường, rồi quỳ xuống dưới chân nàng. Thi Yến Vi nắm chặt vạt áo hắn, mồ hôi đầm đìa.

Tống Hành nhẹ nhàng nói: “Âm Nương đổ mồ hôi thế này, tối nay chắc sẽ ngủ ngon hơn.”

Nước nóng trong bồn tỏa hơi làm người ta thấy nóng bức. Tống Hành hầu nàng tắm xong, hôn nàng một hồi, không dám làm gì thêm, đỡ nàng mặc áo ngủ sạch sẽ, ôm nàng về giường, đắp lên người nàng một tấm chăn mỏng. Xong xuôi, hắn mới quay lại phòng tắm.

Trong phòng tắm, tiếng nước chảy róc rách kéo dài rất lâu. Sau khi tự mình giải tỏa xong, Tống Hành quay lại ôm lấy Thi Yến Vi cùng nhau chìm vào giấc ngủ.

Trời chưa sáng, các quan viên đã đứng thành hàng ngay ngắn, chờ đợi bên ngoài Minh Đường. Khi cửa đại điện vừa mở, mọi người lần lượt theo thứ tự mà tiến vào.

Những tấu trình hôm nay phần lớn đều liên quan đến nước Ngụy. Tống Hành nhẫn nại ứng phó, giải quyết từng việc một, rồi hạ lệnh tuyên đọc thánh chỉ lập hậu.

Trong triều, có một vị quan ngũ phẩm thuộc tộc Dương thị, nghe tin cháu gái của được lập làm hoàng hậu thì không khỏi bàng hoàng, gần như không tin nổi vào tai mình.

Việc xảy ra bốn năm trước ông cũng từng nghe phong thanh. Nghe nói vị cháu gái đang làm nữ quan trong cung này có mối quan hệ mật thiết với Thánh thượng. Nhưng sau đó, Thánh thượng nổi cơn thịnh nộ ngay giữa yến tiệc, cuối cùng chuyện kết thúc bằng việc Dương thị nữ rời cung. Nào ngờ, nay nàng không chỉ trở lại mà còn một bước lên ngôi hoàng hậu.

Niềm vui bất ngờ này khiến ông ta gần như ngây người, động tác quỳ xuống chúc mừng cũng chậm hơn nửa nhịp.

Bên cạnh những quan viên dâng lời chúc mừng, vẫn có một vài người không sợ chết, cứng rắn giữ thẳng sống lưng. Đợi đến khi những người khác đã đứng lên, một vị ngôn quan ngoài bốn mươi tuổi liền bước ra khỏi hàng, phản đối việc lập Dương thị nữ làm hậu.

Có người khơi mào, những kẻ khác cũng lần lượt lên tiếng can gián.

Tống Hành chẳng thèm để tâm, chỉ đứng dậy rời Minh Đường, trở về điện Đại Nghiệp.

Khi Trương Nội thị đến bẩm báo, Tống Hành đang dỗ Thi Yến Vi uống thuốc.

Tống Hành mặt không đổi sắc, thản nhiên nói: “Họ muốn quỳ thì cứ để họ quỳ. Nhân tài trong thiên hạ đâu thiếu gì, mất đi bọn họ, trời của Triệu Quốc cũng không vì thế mà sụp xuống.”

Thi Yến Vi ôm bát thuốc, thần sắc như có điều suy nghĩ. Đến khi nàng hoàn hồn, Trương nội thị đã lui ra ngoài.

Thánh chỉ được ban ra đúng hạn. Bên cục Thượng phục liền sai nữ quan đến đo người, bắt đầu chuẩn bị lễ phục huy y [1] cho đại điển sắc phong.

[1]

Mặt trời đứng bóng, buổi trưa nóng như đổ lửa. Đám triều thần quỳ ngoài điện, ai nấy đều phờ phạc, mặt mày thất sắc.

Trương nội thị nhìn cảnh tượng ấy mà không khỏi xót xa, lại bước tới khuyên nhủ đôi lời. Nhưng đáng tiếc, chẳng ai chịu nghe, cứ cắn răng quỳ tiếp.

Lo họ hứng nắng nhiều quá mà sinh bệnh, Trương nội thị lại lần nữa đến bẩm báo với Tống Hành.

Nhưng Tống Hành vẫn không để ý. Ngược lại, Thi Yến Vi nghe được liền sai Trương nội thị đưa ô giấy dầu, nước chè đậu xanh và nước mơ chua tới cho họ.

Trương nội thị là người khéo ăn nói, luôn biết lựa lời làm vừa ý Tống Hành. Hắn cúi người thi lễ với Thi Yến Vi rồi nói: “Hoàng hậu điện hạ từ bi nhân hậu, lão nô thay mặt họ cảm tạ điện hạ.”

Quả nhiên, lời này khiến Tống Hành long tâm đại duyệt, thưởng cho hắn ta mười quan tiền rồi cho lui. Sau đó, hắn ôm lấy Thi Yến Vi, hôn nàng một hồi rồi mới trở lại bàn tiếp tục phê tấu.

Đêm ấy, vừa qua canh hai, khắp thành Tử Vi rực sáng trong ánh lửa pháo hoa.

Thi Yến Vi đang nhấm nháp một chén trà, nghe thấy âm thanh vang vọng khắp nơi, liền đặt chén trà xuống, để Tống Hành nắm tay dẫn ra ngoài, đến bên lan can lầu các.

Tống Hành đỡ nàng lên, hướng về phía pháo hoa rực rỡ trên bầu trời, nhẹ giọng hỏi nàng có thích màn pháo hoa này không.

Vị trí này cao vời vợi, lại là lầu vọng cảnh, cả thành Tử Vi, thậm chí là cả Lạc Dương đều nằm trọn trong tầm mắt. Màn pháo hoa đẹp mắt này cũng không ngoại lệ.

Pháo hoa kéo dài gần nửa canh giờ. Đến khi ánh sáng dần lụi, Thi Yến Vi tựa vào lòng Tống Hành, cơn buồn ngủ cũng chợt kéo đến. Nàng đang lim dim mắt thì đã bị Tống Hành lay tỉnh, chỉ tay về một hướng xa xa.

Thi Yến Vi mở đôi mắt còn ngái ngủ, liền thấy từng chiếc đèn trời chầm chậm bay lên từ những mái nhà thấp thoáng ở đằng xa.

Ngày một nhiều đèn trời được thả ra, ánh sáng vàng cam nhấp nháy, tựa như những viên ngọc lửa đang lơ lửng giữa màn đêm.

Tống Hành lại ôm nàng sát trong lòng, giọng tràn ngập yêu thương và kích động: “Âm Nương, từ hôm nay trở đi, khắp thiên hạ đều sẽ biết, nàng là hoàng hậu của ta.”

Khung cảnh trước mắt dù đẹp đến nao lòng, nhưng Thi Yến Vi lại không kìm được mà nghĩ đến hai chữ: đốt tiền.

Nàng khẽ cau mày, nhắc nhở: “Về sau không được tiêu tốn nhân lực, tài vật để làm những việc phô trương như vậy nữa. Đám sử quan nhìn thấy, không biết sẽ chép ta thành hạng người nào trong sách sử.”

Tống Hành nghe nàng nói thì ngoan ngoãn gật đầu, nhưng trong lòng đã sớm có tính toán khác.

“Sáng mai ta sẽ hạ lệnh phát cháo cứu tế trong thành suốt một tháng. Đó đều là tiền bạc ta tích cóp tiết kiệm bấy lâu nay, chẳng ai có thể tìm được lý do nào để chê trách.”

Đám triều thần quỳ suốt nửa ngày dưới ánh nắng chói chang, trước giờ đóng cửa hoàng cung, đã bị thị vệ mời ra khỏi thành Tử Vi. Nghĩ đến cảnh tượng vừa trải qua ban chiều, e rằng đêm nay khó lòng chợp mắt nổi.

Đêm ấy, mãi đến gần canh ba, Tống Hành mới ôm Thi Yến Vi trở về điện Đại Nghiệp.

Dương Quân sau khi xem xong pháo hoa đã được Thu Sương ru ngủ. Thi Yến Vi lại khăng khăng, lần mò trong bóng tối qua tẩm điện thăm con, sau đó mới chịu quay về chính điện.

Tống Hành hầu nàng rửa mặt thay y phục, vẫn ôm nàng vào lòng mà ngủ, bàn tay to lớn áp nhẹ lên chiếc bụng nhỏ hơi nhô lên của nàng.

Ba ngày trước lễ sắc phong, tư y của cục Thượng Phục đã mang huy y đến.

Khi Thi Yến Vi thử bộ lễ phục, Tống Hành chỉ ngẩn ngơ nhìn nàng một hồi lâu. Đợi tư y lui xuống, hắn mới nhấc bổng nàng lên, hôn mãi cho đến khi mãn nguyện mới bằng lòng giúp nàng cởi bộ lễ phục ấy ra.

Chớp mắt, hai ngày đã trôi qua. Đến ngày mười hai tháng sáu, trời quang mây tạnh, gió mát thanh lành, nắng ấm chan hòa khắp nhân gian.
 
Back
Top Bottom