Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên

Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 60: Diên Châu



Bên trong Tống phủ, cảnh tượng bận rộn tưng bừng, không ai lưu tâm đến động tĩnh của Thi Yến Vi, càng không ai phát hiện điều bất thường ở viện Phù Thúy. Mọi chuyện diễn ra êm thấm, thần không biết, quỷ không hay.

Đến giữa trưa, Thôi Giác vận hỉ phục viên lĩnh đỏ thẫm, cưỡi trên thất ngựa uy dũng, dẫn đầu đoàn phù rể rầm rộ kéo về Tống phủ.

Ngựa dừng lại trước cổng Tống phủ, Thôi Giác tung người nhảy xuống ngựa, bước nhanh vào phủ. Trước tiên, hắn đặt đôi chim nhạn tự tay săn được ở chính đường để hoàn thành lễ Điện nhạn, [1] sau đó mới cùng đội phù rể tiến về Đông phòng, nơi Tống Thanh Hòa đang trang điểm.

[1] lễ Điện nhạn: là một nghi thức trong hôn lễ truyền thống Trung Hoa, đặc biệt phổ biến trong các gia đình quý tộc và văn nhân thời phong kiến. Trong lễ này, chú rể mang một đôi ngỗng (nhạn) đến nhà cô dâu để trao tặng. Ngỗng (nhạn) được chọn vì đây là loài chim thường sống thành đôi và có tính thủy chung cao. Việc tặng đôi ngỗng trong lễ cưới mang ý nghĩa cầu chúc cho hôn nhân bền vững, hòa hợp và trọn đời bên nhau. Ngoài ra, ngỗng còn tượng trưng cho sự hiền hòa và sự gắn bó giữa hai gia đình, vì loài chim này thường đi theo bầy đàn và biết đoàn kết.

Thôi Giác kiên nhẫn đợi ở sương phòng gần một canh giờ mà vẫn không thấy tân nương bước ra nên khó lòng tránh khỏi nôn nóng. Hắn đứng dậy bước ra ngoài chính phòng, cao giọng thúc giục.

Thế nhưng nhóm phù dâu đang đứng dưới hàng lang lại không chút nể nang, thẳng tay ngăn hắn ngoài cửa, không thèm đáp lời.

Thôi Giác bất mãn bỏ đi. Lại thêm nửa canh giờ trôi qua, hắn đứng dậy lần nữa, bước xuống thềm, cất giọng ngâm bài thơ giục cưới. [2]

[2] bài thơ giục cưới: “Thôi trang thi” (推妆诗) là một loại thơ trong văn hóa cưới hỏi cổ xưa của Trung Quốc, thường được chú rể hoặc người đại diện của chú rể sử dụng để “thúc giục” cô dâu chuẩn bị xong và ra khỏi phòng trang điểm vào ngày cưới. Trong lễ cưới truyền thống, cô dâu thường phải trải qua quá trình trang điểm, mặc trang phục và đeo trang sức rất cầu kỳ, và thời gian này có thể kéo dài, tạo ra sự chờ đợi. Để thêm phần trang trọng và cũng là một hình thức giao lưu văn chương, chú rể hoặc đoàn tân khách có thể ngâm “thôi trang thi” bên ngoài phòng trang điểm nhằm bày tỏ sự nôn nóng, mong mỏi gặp mặt tân nương, hoặc thể hiện sự ngưỡng mộ, tôn trọng.

Không giống như lần trước, Họa Bình vận váy áo đỏ nhạt bước ra từ cửa, mỉm cười nói: “Tân nương chuẩn bị cài trâm, mong rằng lang quân chớ vội.”

Thôi Giác nghe thấy, cùng mấy phù rể cúi mình thi lễ, cung kính đáp: “Đa tạ nương tử đã báo tin.”

Giọng nói đầy chân thành của Thôi Giác lọt vào tai. Tống Thanh Hòa đang khoác lên mình bộ váy lục hoa quế, trong lòng không khỏi hồi hộp, bàn tay nắm chặt khăn lụa cũng rịn mồ hôi. Tân nương ngồi trước gương đồng, mái tóc vấn cao, dung nhan như họa, đôi má ửng hồng thẹn thùng, trâm vàng óng ả trên tóc cùng đóa điền mai diễm lệ đỏ tươi khiến nàng đẹp đến nao lòng.

Một lúc sau, lại có tỳ nữ bưng khay gỗ đàn tiến đến. Cao phu nhân đích thân gỡ mũ hoa, cài vào giữa búi tóc, rồi dùng một đôi trâm vàng cánh sen và bộ diêu bằng ngọc nạm vàng cài hai bên tóc mai, xen kẽ cùng mười cây trâm hoa vàng đính lưu ly.

Họa Bình chỉ nhìn qua đã biết kiểu tóc này hẳn là rất nặng, liền cùng Tiểu Phiến đỡ nàng đứng dậy.

Tống Thanh Hòa ngân ngấn nước mắt, lần lượt từ biệt Cao phu nhân và Tiết phu nhân, sau đó lại cùng Tổ Giang Lan nói chuyện một hồi. Nàng còn đang tìm kiếm bóng dáng Thi Yến Vi giữa đám đông thì ngoài phòng lại vang lên giọng ngâm bài thơ giục cưới của Thôi Giác.

Chưa kịp nói câu nào thì bàn tay đã được nhét vào một cây quạt tròn từ lúc nào không hay. Cao phu nhân giục nàng dùng quạt che mặt, Tống Thanh Hòa luống cuống làm theo, chớp mắt đã bị đám tỳ nữ bà tử vây quanh rời khỏi phòng.

Trong viện Phù Thúy, Giang Nghiên là người tỉnh lại đầu tiên.

Lúc này trời đã vào đêm, vầng trăng vươn lên, lấp ló nơi đầu cành. Khoảng sân rộng lớn chẳng có lấy một ánh đèn, tĩnh lặng đến nỗi nghe rõ cả tiếng lá rơi. Giang Nghiên chớp mắt, đầu óc vẫn còn mơ hồ, ký ức ngắt quãng dừng đúng lúc hắn uống cạn hai bát rượu thù du to.

Đã là canh giờ nào rồi? Giang Nghiên tỉnh táo hẳn, mở to mắt, vội bước ra khỏi ghế dài, mò mẫm trong bóng tối tiến tới bên cửa sổ. Nhìn ra ngoài, chỉ thấy trên bầu trời là vầng trăng khuyết xanh lơ và vài ngôi sao mờ nhạt. Ánh trăng thanh khiết, ánh sao thì nhạt nhòa.

Suốt cả chiều nay, hắn đã làm gì? Đầu óc nhức nhối kinh khủng, khắp viện yên tĩnh đến mức có thể nghe thấy cả tiếng kim rơi. Giang Nghiên mở cửa sổ để ánh trăng chiếu vào, quay đầu nhìn lại thì thấy mấy người kia vẫn đang ngủ rất say.

Hỏng rồi. Tim Giang Nghiên bỗng đập thình thịch, chẳng để ý gì đến mấy đồng liêu đang gục trên bàn, ba bước gộp làm hai lao đến chính phòng của Thi Yến Vi, đẩy cửa bước vào, ánh mắt quét một lượt khắp phòng: không một bóng người.

Hắn lại cuống cuồng chạy đến phòng bên cạnh, chỉ thấy vài ba tỳ nữ bà mụ ngã gục quanh bàn, dường như còn ngủ say hơn cả bọn họ.

Nam nữ khác biệt, Giang Nghiên không tiện chạm vào từng người, đành rót một chén trà rồi lần lượt hất nước lên từng người một để đánh thức.

Lưu mụ còn đang mơ màng, vuốt mặt một cái, thấy bóng người trước mặt định quát lên, nhưng chợt cảm thấy điều gì đó bất thường. Bà lập tức bật dậy, mở to mắt nhìn quanh. Dương nương tử đã biến mất không còn một dấu vết.

Chẳng lẽ… Dương nương tử đã bỏ thuốc mê cho bọn họ rồi tự mình bỏ trốn? Lưu mụ nghĩ đến khả năng ấy, toàn thân rùng mình, hai chân mềm nhũn.

Những người khác cũng lần lượt tỉnh lại.

Quất Bạch yếu ớt xoa xoa trán, cố trấn tĩnh để sắp xếp dòng suy nghĩ đứt đoạn: “Là Đông Tuyết, trước khi ngất đi, ta thấy các người ngất trước… là chén rượu ấy, đúng rồi, ta chưa uống, chén rượu ấy… chắc chắn là chén rượu ấy, Đông Tuyết sợ ta kêu lên nên đã đánh ngất ta.”

Rượu ư? Giang Nghiên bước tới, mở nắp bình rượu, đưa lên mũi ngửi thử, đích thực là rượu thù du.

Các tỳ nữ và bà mụ hầu hạ Dương nương tử đều uống loại rượu này.

Dương nương tử xưa nay hiếm khi ra ngoài, dù có xuống phố dạo chơi thì cũng đều dưới sự theo dõi sát sao, căn bản không thể kiếm được thuốc mê, huống hồ còn cho vào trong rượu.

Tỳ nữ tên Đông Tuyết vốn không phải là người hầu ở viện Phù Thúy, nay người của viện Phù Thúy đều ở đây, chỉ riêng Đông Tuyết là không thấy. Nếu Dương nương tử thật sự bỏ trốn, vậy kẻ tiếp tay không ai khác chính là Đông Tuyết.

Nàng ta có thể ra tay chuẩn xác đánh ngất người khác, hẳn là biết chút võ công.

Giang Nghiên nhíu chặt mày, vội chạy tới nhà dưới đánh thức các thị vệ khác dậy, rồi sốt sắng tới Thối Hàn cư tìm Phùng Quý thông báo tình hình.

Phùng Quý vừa đun xong nước nóng, định sau khi rửa mặt sẽ nghỉ ngơi sớm, nào ngờ lại nhận được tin như sét đánh ngang tai, nhất thời không thể hoàn hồn.

Khi nhận thức được mức độ nghiêm trọng của sự việc, hắn bỗng cuống cuồng, cơn buồn ngủ cũng lập tức bay biến.

Một buổi chiều là quá đủ để Dương nương tử rời khỏi Thái Nguyên, bỏ sang các huyện lân cận.

Bọn họ chẳng qua là kẻ hầu của chủ tử thì sao có thể huy động quan binh trong thành lùng sục Dương nương tử một cách công khai?

Hơn nữa nếu đúng như lời Giang Nghiên nói, lần này Dương nương tử được người khác tương trợ, nếu nàng còn cải trang kỹ càng thì việc truy tìm ắt sẽ càng gian nan.

Rốt cuộc là ai to gan đến mức dám thả người trong lòng gia chủ? Phùng Quý thầm nghĩ, phút chốc liền nhớ đến một người.

Chẳng ai khác ngoài Tam lang quân, em trai ruột của gia chủ, Tống Duật.

Tam lang quân xưa nay đối nhân xử thế hiền hòa, rất trọng tình nghĩa, mà a huynh của Dương nương tử, Dương Duyên, từng vì cứu ngài mà mất mạng, trước lúc lâm chung lại đích thân nhờ cậy, gửi gắm Dương nương tử cho ngài, hẳn là ngài vẫn luôn thấy mắc nợ với Dương nương tử.

Nếu như tình ý của Dương nương tử đối với gia chủ bấy lâu chỉ là giả vờ, trong thâm tâm vẫn luôn tìm cách rời xa gia chủ, chiếu theo tính tình của Tam lang quân, nếu ngài biết được ý định thật của nàng thì việc ra tay giúp nàng trốn thoát cũng là điều hợp tình hợp lý.

Tam lang quân tinh tế nhạy bén, đã có lòng thả nàng đi thì hẳn đã chuẩn bị chu toàn, e rằng ngay cả giấy thông hành và hộ tịch cũng đều đã sắp đặt sẵn cho cả hai người họ…

Nghĩ đến đây, Phùng Quý không khỏi tự trách, không kìm được hút một ngụm khí lạnh, tâm tình như chìm xuống đáy cốc, thầm trách bản thân đã không cảnh giác với Tam lang quân nhiều hơn.

Gia chủ còn đang ở tiền tuyến đánh trận, mà hắn ngay cả nữ lang được gia chủ trân trọng yêu thương nhất cũng không thể trông giữ nổi, khiến nàng lại một lần nữa không để lại dấu vết, phản bội gia chủ rời đi, thực có lỗi với sự phó thác của gia chủ.

Phùng Quý thậm chí không dám tưởng tượng cảnh gia chủ sau khi thắng trận, thúc ngựa không kể ngày đêm trở về Thái Nguyên chỉ để nhanh chóng gặp lại Dương nương tử, thế mà điều đón chờ ngài chỉ là căn phòng trống rỗng quạnh hiu thì ngài sẽ đau lòng và giận dữ đến nhường nào.

Lần này, gia chủ sẽ giết người thật mất.

Trận chiến lần này, gia chủ nắm chắc phần thắng, từ đó thuận lợi đăng cơ, xưng đế tại Lạc Dương, đạt ngôi chí tôn, làm chủ thiên hạ. Uy nghi của ngài sao có thể dung thứ cho một nữ nhân nhỏ nhoi dám chà đạp?

Dù trung thành với Tống Hành, nhưng trước một nữ lang luôn đối xử ôn hòa và chân thành với mọi người, hắn cũng có vài phần cảm tình lẫn không đành lòng.

Đến tận hôm nay, trước sự kiên cường của Dương nương tử, hắn thực lòng có chút khâm phục nàng.

Bây giờ việc quan trọng nhất là phải tìm hiểu xem nàng đi về phương nào rồi nhanh chóng truy tìm nàng về. Nghĩa đến đây, Phùng Quý lập tức bước nhanh ra ngoài, đi tìm Tống Duật.

Hôm nay, Tống Duật uống vài chén rượu, tắm rửa xong liền sang phòng của Tổ Giang Lan. Thấy nàng đang ôm bé Tống Lân bụ bẫm ru ngủ, vì sợ nàng mệt nên nhanh chân tiến lên đón lấy Tống Lân, vỗ nhẹ vào má bé.

Tống Lân lim dim sắp ngủ, bị vỗ nhẹ nên tỉnh hẳn, lập tức khóc òa. Tổ Giang Lan hốt hoảng ôm bé lại vào lòng, liếc mắt trách hắn: “Tam lang này, tật vụng về của chàng cũng nên sửa ngay đi. Nếu cứ thế này, chẳng phải là chỉ giúp thiếp thêm phiền thôi sao?”

Nói xong lại hướng ánh nhìn trìu mến về khuôn mặt mũm mĩm, trắng hồng của Tống Lân, vỗ nhẹ lưng bé, ân cần dỗ dành: “Tề Nô ngoan, phụ thân con cũng không cố ý làm con thức giấc đâu, Tề Nô đừng giận phụ thân nhé?”

Tống Lân mới tám tháng, dĩ nhiên không hiểu những lời của mẫu thân, đôi mắt tròn xoe tò mò nhìn đôi môi mấp máy đỏ mọng của nàng, nhìn một lát không thấy gì thú vị, bé lại khóc nấc lên.

Tiếng khóc của ấu tử làm Tống Duật chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến chuyện của Thi Yến Vi. Hắn hớt hải đi tìm chiếc trống bỏi và con hổ vải mà Tống Lân yêu thích.

Con hổ vải là do Tống Duật tự tay làm trong lúc rảnh rỗi, nhờ tú nương dạy cách may, dù đường chỉ có phần lệch lạc nhưng Tống Lân lại rất thích, thường cầm trong tay chơi đùa.

Một nhà ba người đầm ấm hòa hợp, dùng xong bữa tối thì trời đã nhá nhem, Tống Lân được nhũ nương bồng đi bú sữa, Tống Duật mới có dịp ngồi bên Tổ Giang Lan, ôm nàng ngồi trong lòng, bóp vai đấm chân cho nàng.

Vì mải nghĩ đến chuyện Thi Yến Vi bỏ đi, hắn mất tập trung, nhất thời mạnh tay khiến Tổ Giang Lan rên nhẹ thành tiếng. Tống Duật hoàn hồn, đang định xin lỗi thì bất ngờ nghe tỳ nữ báo tin, Phùng lang quân ở bên ngoài cầu kiến nhưng lại không chịu vào viện.

“Đã là Phùng Quý bên cạnh Nhị lang tìm đến, hẳn là việc quan trọng. Thập Nhất cứ nghỉ ngơi trước, không cần đợi ta.” Nói xong, hắn liền ra ngoài.

Tống Duật vừa thấy vẻ mặt tối tăm khó đoán của Phùng Quý, hắn ngầm hiểu rằng Kiếm Sương hẳn đã hoàn thành sự tình như dự tính.

Phùng Quý dẫn hắn tới sau giả sơn, quỳ sụp xuống trước mặt Tống Duật, nói thẳng: “Dương nương tử đã mất dấu nửa ngày, có phải lang quân đã thả nàng đi không?”

Tống Duật sớm biết không thể giấu được hắn và Nhị huynh, nên cũng không định biện hộ, khom lưng đỡ hắn dậy, thẳng thắn thừa nhận: “Việc này, quả thực là do mỗ dày công sắp xếp. Người thả Dương nương tử đi chính là mỗ, không sai.”

Dù đã bao lần tưởng tượng ra viễn cảnh này nhưng Phùng Quý vẫn không khỏi tròn mắt kinh ngạc khi nghe Tống Duật đáp lại với vẻ nhẹ tênh, cứ như người bị thả chỉ là một con chim nhỏ bình thường ở trong lồng.

“Lang quân rõ ràng biết gia chủ muốn nạp nàng làm nhũ nhân, chuyện này cũng do Dương nương tử tự miệng đồng ý, sao ngài có thể hành sự như vậy được!”

Tống Duật chỉ cười lạnh, trầm giọng hỏi ngược lại: “Thật ư? Nhưng Dương nương tử từng đích thân nói với mỗ rằng, nàng không muốn làm nhũ nhân của Nhị lang. Mỗ không biết các ngươi đã dùng thủ đoạn gì để ép nàng, chỉ biết rằng, nàng là muội muội ruột duy nhất của Dương lang trên đời này, mỗ tuyệt sẽ không để yên. Nhị lang tương lai muốn thành đại nghiệp, sao có thể làm loại chuyện tiểu nhân này! Ngươi nên hiểu, mỗ làm như vậy cũng là vì tốt cho Nhị lang.”

Phùng Quý đối diện với hắn, thấy hắn đưa tay ra nhưng làm như không thấy, vẫn quỳ trên mặt đất, không chịu đứng lên. “Lang quân hành sự quyết liệt như vậy, chẳng lẽ không sợ tổn thương tình cảm huynh đệ với gia chủ hay sao?”

“Tính cách của gia chủ thế nào, ta và ngài đều rõ, nếu sự việc bại lộ, Dương nương tử bị gia chủ tìm lại chỉ sợ sống không bằng chết; nếu ngài chịu dừng lại, kịp thời ngăn lại đường đi của Dương nương tử, sự tình vẫn còn cách cứu vãn.”

Tống Duật thản nhiên liếc hắn một cái, ánh mắt kiên quyết lắc đầu, “Không còn cơ hội nào để xoay chuyển nữa đâu. Giấy thông hành có chừa lại chỗ trống, mỗ cũng không biết Dương nương tử sẽ đi đâu; còn về nhân mã trong thành, cũng sẽ không dấy động chỉ để tìm kiếm một nữ nhân.”

“Nhị lang hiện đang chinh chiến bên ngoài, sao có thể phân tâm vì việc vụn vặt này? Ngươi đã theo Nhị lang bao năm, trong lòng hẳn tự biết quyết định nào là đúng đắn.”

Dứt lời, hắn phất áo bỏ đi, để mặc Phùng Quý tiếp tục quỳ. Dứt lời, không ngoảnh lại mà rời khỏi nơi này, tìm đến Giang Nghiên và những người khác, dặn họ phải lấy đại cục làm trọng, tạm thời không báo tin này cho Tấn vương ở Kì Châu. Lại bảo người đi tìm quản sự trong phủ, lệnh hộ vệ tăng cường phòng bị, nếu không có lệnh của hắn, không ai được phép ra khỏi phủ, cũng không được lén chuyển đồ ra ngoài.

Thúy Trúc cư.

Phùng Quý mang đầy tâm sự bước tới bậc thềm, thấy Lưu mụ từ trong nhà bước ra.

Sắc mặt bà cũng nặng nề, có lẽ vừa báo việc Dương nương tử bỏ trốn cho Thái phu nhân.

Lưu mụ mặt lạnh bước xuống bậc, liếc nhìn hắn một cái, “Chuyện Dương nương tử bỏ trốn, lão thân vừa bẩm báo với Thái phu nhân, Thái phu nhân không bận tâm lắm, dường như không muốn can thiệp vào; hơn nữa, Thái phu nhân nói rằng thân thể mệt mỏi, vừa dặn dò sẽ không tiếp bất kỳ ai.”

Phùng Quý đâu dễ bỏ cuộc, không màng đến lời khuyên can của Lưu mụ, bước lên bậc đá định gõ cửa thì Hoán Trúc từ trong nhà đẩy cửa đi ra, lắc đầu với hắn.

Hoán Trúc dẫn hắn vào góc, khuyên nhủ: “Chuyện Dương nương tử bỏ trốn, Thái phu nhân bên ngoài thì thờ ơ, nhưng trong lòng thì đang giận lắm, người vừa sai Sơ Vũ lấy mộc chùy tới, giờ này sẽ không gặp ai đâu.”

Tâm phúc của Tiết phu nhân ở Thúy Trúc cơ chỉ có ba người là Sơ Vũ, Đống Tuyết và Thụy Thánh. Nay Đống Tuyết chuyển sang viện Phù Thúy nên đã nâng Hoán Trúc lên làm nhất đẳng tỳ nữ, hầu hạ bên cạnh cùng Sơ Vũ.

Được nàng khuyên giải thêm lần nữa, lúc này Phùng Quý mới thôi ý định cầu kiến Tiết phu nhân, cùng nàng hàn huyên thêm một hai câu rồi xoay người rời đi.

Một lúc sau, lại có hạ nhân xách hộp đồ ăn tiến vào.

Tiết phu nhân giờ vẫn đang nóng giận, Hoán Trúc sợ nàng vô tình khơi mào cơn giận của chủ tử, bèn chỉ tay ra cửa nhíu mày lắc nhẹ đầu, ngụ ý tâm trạng của Thái phu nhân không tốt, nàng đừng nên lại gần.

Hoán Trúc giơ tay đón lấy hộp thức ăn rồi nói, “Em lui xuống nghỉ ngơi đi, để ta thay lần này cho.”

Nữ lang nghe vậy liền chắp tay trước ngực thi lễ, gật đầu rón rén lui về.

Hoán Trúc mang hộp thức ăn vào phòng, lấy chén canh an thần, hai tay dâng lên Tiết phu nhân: “Thái phu nhân dùng chút canh an thần nhé.”

Tiết phu nhân dừng động tác gõ mộc chùy, dùng ánh mắt hiệu cho Hoán Trúc đặt chén canh xuống, chậm rãi hỏi: “Ngươi đã khuyên được hắn đi rồi?”

Hoán Trúc gật đầu, “Dạ.”

Tiết phu nhân thở dài thành tiếng, buồn bã nói: “Vừa nghe chuyện ấy, quả thật lão thân giận lắm, chỉ trách Dương nương tử đã ba lần bảy lượt bội bạc Nhị lang. Nhưng nghĩ kỹ lại, tình cảm nam nữ vốn chẳng thể cưỡng cầu bằng quyền thế. Nếu nàng không có tình ý gì với Nhị lang, thì dù Nhị lang có dốc hết tâm sức, thủ đoạn cũng chẳng thể đổi lấy được nửa phần chân tình từ nàng. Thôi thì để nàng tự do, cũng chẳng cần tốn công tìm lại. Người làm đại sự không được câu nệ tiểu tiết, sao phải gò mình vào chuyện nữ nhi tầm thường? Nhị lang nhiều lần vì nàng mà mất đi thể diện, phá vỡ khuôn phép, thật là không nên. Nay nàng tự ý bỏ đi, thiết nghĩ, Nhị lang sau khi trở về biết được chuyện này, ắt sẽ tỉnh ngộ ngay thôi.”

Hoán Trúc chợt nghĩ. Giả như nàng không thích Phùng Quý, liệu có vì hắn là kẻ được gia chủ tín nhiệm, trong phủ lại có chút thể diện mà thuận theo hắn hay không?

Nhưng trên đời chẳng có chuyện giá như.

“Thái phu nhân dạy phải.”

Cùng lúc ấy, ở Kì Châu cách xa vạn dặm.

Trình Diễm nhảy xuống ngựa, cấp tốc bước vào trong trướng.

Tống Hành bỏ cây bút chu sa trong tay xuống, đứng dậy, đi đến trước mặt Trình Diễm, cúi đầu nhìn thành trì trên sa bàn, điềm tĩnh hỏi: “Việc di tản dân cư trong thành đã làm đến đâu rồi?”

Trình Diễm đáp: “Bẩm Tiết soái, gần chín phần đã chuyển tới phía sau thành. Nhà cửa ven đường đã được dọn sạch theo lệnh Tiết soái, ngày mai có thể mở cổng thành nghênh chiến.”

Tống Hành đặt tay phải lên sa bàn, mắt nhìn về vị trí của Trần Thương, rồi nói: “Vệ Tuân và Tiết Phụng đã rời thành theo đường nhỏ vào đêm qua, tính ra giờ này cũng sắp tới Phượng Châu rồi.”

Nghe vậy, Trình Diễm trầm tư trong giây lát, đáp: “Theo tốc độ hành quân của quân Hà Đông, có lẽ chiều mai sẽ đến được Hưng Châu.”

Nói rồi, Tống Hành nhấc một tượng lính làm bằng đất nung, chậm rãi di chuyển đến vị trí của Trần Thương, nhẩm tính: “Mỗi ngày điều thêm khoảng hai trăm binh lính đi theo đường mòn tới Trần Thương, lão tặc Vương Sùng ắt sẽ nghĩ rằng lần này Bùi Trinh xuất binh là để đoạt lại Trần Thương, nhưng kỳ thực là đánh úp Hưng Châu, mở đường công phá Tây Nam.”

Ánh mắt của Trình Diễm di chuyển theo hướng tay của Tống Hành, lập tức hiểu được ý định, liền chuyển sang bàn về các vấn đề khác.

Bàn bạc xong, Tống Hành nhìn vào đồng hồ nước trên án, nhận ra đã quá canh nhất (19h) mộtlúc lâu, liền bảo với Trình Diễm: “Truyền lệnh xuống, tối nay quân doanh tắt đèn nghỉ sớm một canh giờ, binh sĩ tuần tra chia làm ba tốp thay phiên canh gác.”

Trình Diễm lĩnh mệnh, xoay người lui ra ngoài.

Tống Hành lấy khăn nhúng ít nước lau mặt, cởi áo choàng cùng giày vớ, thổi tắt đèn, gối đầu nằm nghỉ.

Hôm nay vốn là ngày đại hôn của Tống Thanh Hòa, song gần đây vì bận rộn việc quân trong thành, nhất thời đã quên mất chuyện nàng sắp phải xuất giá. Trái lại, chiếc áo lót và khăn tay từng dùng của Thi Yến Vi, lại được hắn cất giữ cẩn thận ở doanh trướng, lúc này lấy từ dưới gối ra nâng niu trong lòng bàn tay, ngắm nhìn một hồi, lại không kiềm được mà v**t v* mấy lượt, sau đó mới chịu cất vào trong vạt áo.

Lớp vải mềm mại áp sát ngực, khiến hắn có cảm giác như Thi Yến Vi đang kề cận bên hắn, thân tâm mệt nhoài dần được thả lỏng.

Có lẽ vật thuộc về nàng khiến hắn cảm thấy yên tâm nên chẳng mấy chốc đã chìm vào giấc ngủ, hoàn toàn không hay biết gì về chuyện nữ lang hắn hằng đêm mong nhớ giờ này đã cao chạy xa bay.

Màn đêm buông xuống, ánh trăng nhu hòa trải dài khắp cánh đồng hoang vu vô tận, vạn vật như được dát thêm một lớp sương bàng bạc.

Trên quan đạo ngoài huyện Cổ Giao, cùng tiếng “hú” kéo dài, một chiếc xe ngựa cũ kỹ không mấy nổi bật dừng lại trước một quán trọ lâu đời. Kiếm Sương và Thi Yến Vi lần lượt xách hành lý xuống xe, dắt ngựa cột dưới gốc liễu giữa sân rồi bước vào sảnh chính. Sau khi trả tiền và đăng ký bằng tên giả, hai người gọi một ấm trà hoa và hai bát hoành thánh, sai tiểu nhị đưa tới tận phòng.

Kiếm Sương dùng hỏa chiết đốt sáng cây nến trên giá, cẩn thận đặt tay nải lên đầu giường.

Thi Yến Vi đói cả một ngày, bụng reo òng ọc, ăn hết bát hoành thánh rồi lấy dư đồ từ trong tay nải ra xem xét kỹ lưỡng, nhẩm tính: nếu mỗi ngày đi trăm dặm, sáng mai khởi hành vào lúc tờ mờ sáng thì có thể tới huyện Lâu Phiền trước khi mặt trời lặn.

Đi liên tục trăm dặm mỗi ngày, chưa bàn đến ngựa có chịu nổi không, ngay cả thân mình nàng cũng mà trụ được.

Khi đến Yên Châu chia tay Kiếm Sương, nàng sẽ đổi sang cưỡi ngựa, vừa có thể tăng tốc mà ngựa chỉ chở mỗi mình nàng cũng đỡ mệt, không đến mức đuối sức rồi đổ bệnh.

Thi Yến Vi gỡ bỏ những suy tính trong đầu, cơn buồn ngủ cũng bất giác kéo tới. Nàng xếp lại dư đồ, đặt vào hành lý, rửa mặt qua loa, sau đó cởi áo thổi tắt đèn, dò dẫm nằm lên giường, ôm chặt túi tiền cũng cũng vật quan trọng khác vào ngực, mê man tiến vào mộng đẹp.

Kiếm Sương đặt thanh kiếm bên gối, một tay đặt lên vỏ lạnh lẽo của kiếm. Chỉ khi cảm nhận được hơi lạnh từ thanh kiếm, nàng mới có thể yên tâm đôi chút, đi vào giấc ngủ chập chờn.

Sáng sớm hôm sau, Thi Yến Vi dậy đúng giờ Mão, lúc ấy trời vẫn còn tối, ánh nắng ban mai cũng chưa kịp ló dạng.

Kiếm Sương thu xếp gọn gàng rồi ra thanh toán tiền phòng và lấy xe.

Thi Yến Vi đội mũ có màn che, xuống lầu mua hai cái bánh bao, nhờ người gói bằng giấy vàng, sau khi trả tiền liền ngồi lên xe ngựa, tiếp tục dọc theo quan đạo tiến về huyện Lâu Phiền.

Phùng Quý, Giang Nghiên cùng một số người khác đều bị đội thị vệ mà Tống Duật điều đến giám sát chặt chẽ, không thể dấy lên chút sóng gió nào.

Gia nhân trong phủ đều nhận được lệnh không được bàn tán đến việc này.

Cứ như vậy, chỉ trong một ngày ngắn ngủi, phủ đệ tựa như chưa từng có người nào tên là Dương nương tử. Ai nấy đều trở về công việc của mình, khiến nàng dần rơi vào quên lãng.

Vài ngày sau, đến tiết Trùng Dương, tại thành Kì Châu.

Vương Ngũ nhận được tin mật, biết rằng Bùi Trinh đã chia quân chi viện cho Trần Thương hơn nửa tháng nay, quân số ước chừng không dưới năm nghìn, tất cả đều là tinh binh Phượng Tường, mỗi người có thể địch ba.

Tham quân tâu rằng thành Kì Châu đã bị vây khốn gần một tháng nay, lương thảo đã cạn, nay lại là tiết Trùng Dương, tướng sĩ quân dân trong thành không thể ra ngoài ngắm cảnh, lại thêm chiến sự bất lợi, ắt sẽ sinh lòng chán nản, ngay cả tướng thủ thành cũng không hề ra ngoài khiêu chiến, nếu đêm mai bất ngờ tập kích, ắt có thể làm ít hưởng nhiều, đoạt được thành mà không phải hao tổn quá nhiều sức lực.

Vương Vũ nghe xong, dù rất tán thành nhưng lại không yên lòng về Trần Thương. Vùng đất quý giá này đâu dễ gì chiếm được, làm sao có thể để mất lần nữa.

Ngoài trướng, bóng chiều dần ngả, ánh tà dương qua khung cửa nhỏ chiếu vào, đọng trên gương mặt tròn, bên tóc mai đã hoa râm của Vương Vũ, những nếp nhăn trên trán và giữa lông mày hiện rõ. Vương Sùng nhận ra tâm sự và sự lo lắng của phụ thân, chắp tay nói: “Nếu cha tin tưởng Nhị lang, tối nay Nhị lang có thể dẫn binh công thành, chắc chắn sẽ sớm hạ thành Kì Châu. Nếu lòng cha không yên về Trần Thương, thì có thể dẫn một đội quân trở về phòng bị.”

Vương Vũ nghe vậy, trong lòng tràn đầy cảm giác “đúng là con trai ta,” liền giãn mày, đứng dậy bước đến vỗ vai Vương Sùng, cao giọng: “Nhị lang chiếm Trần Thương chỉ mất vài ngày, cha đương nhiên tin con.”

Nói xong, ông quay sang nhìn tham quân cùng những người khác, giao phó việc hạ thành Kì Châu cho Vương Sùng và tham quân, sau đó kiểm tra binh mã, lập tức trở về Trần Thương đề phòng Bùi Trinh đoạt thành.

Hai ngày sau, tiếng chém giết vang dội khắp ngoài thành Kì Châu.

Vương Sùng dẫn hàng vạn quân Vũ Định công thành, quân Phượng Tường trong thành quyết tử thủ, trên lầu thành lửa cháy ngút trời, quân Phượng Tường tay cầm đao kiếm chém thẳng vào những binh sĩ áo giáp ồ ạt tràn lên từ thang mây.

Thế quân Vũ Định áp đảo, quân Phượng Tường dần rơi vào thế yếu, đến canh ba thì cổng thành đã bị phá.

Thấy cổng thành đã mở, Vương Sùng trong lòng mừng rỡ, giương thương lớn tiếng hô to: “Các tướng sĩ nghe lệnh, theo ta tiến vào thành, chém đầu lập công, ban thưởng một bậc, phong làm phó úy Chiêu Vũ!” Lệnh vừa ban ra, quân tâm phấn chấn, người thì tràn qua cổng, kẻ trèo lên thang mây, chỉ trong chốc lát, thành Kỳ Châu đã đầy rẫy quân Vũ Định.

Mọi thứ dường như tiến triển quá thuận lợi, chỉ thấy nhà cửa, hàng quán trong thành đều đóng cửa kín bưng, đường phố vắng tanh không bóng người, gió thu len lỏi qua ngõ phố, mang theo mùi tanh nồng nặc. Mũi thương của Vương Sùng vẫn còn đọng máu, từng giọt lại từng giọt nhỏ xuống, Vương Sùng chợt nắm chặt thương, cảm giác có điều gì đó không ổn.

Thần kinh căng như dây đàn, đôi mắt diều hâu sắc bén nhìn quanh. Bỗng nghe tiếng vó ngựa vang lên từ xa, một bóng đen khổng lồ nhanh chóng lọt vào tầm mắt. Người ấy vừa từ đầu hẻm phóng ra, thân hình cao lớn vững chãi như núi, vai rộng như che cả bầu trời. Vừa thoáng thấy, Vương Sùng bỗng nhớ ngay đến lời người đương thời từng mô tả về Tống Hành.

Không thể như thế được, chẳng phải phụ thân nói hắn bị trọng thương không thể dậy nổi ư? Vương Sùng rối bời, nhưng tham quân bên cạnh đã kịp phản ứng, gấp gáp hô một chữ “Rút!”

Tống Hành kẹp chặt bụng ngựa, thúc ngựa lao tới, giọng vang như sấm: “Quân Hà Đông theo ngô xông pha giết địch, thề chết bảo hộ Kì Châu!”

Chỉ trong chớp mắt, từ sau những cánh cửa gỗ lao ra, đen nghịt một vùng, tiếng hét vang trời.

Dưới ánh trăng mờ ảo, Tống Hành vung đao liên tiếp, giết sạch vài binh lính Vũ Định, thẳng hướng Vương Sùng mà lao tới.

Vương Sùng từ nhỏ đã tập võ, bao năm theo Vương Vũ chinh chiến Kim Thương, Kinh Nam, Kiềm Trung, toàn thắng nhiều phen, bỏ qua thân phận thứ tử của Vương Vũ thì hắn cũng được xem là một mãnh tướng.

Chỉ trong mấy chục nhịp thở, Tống Hành đã tới trước mặt Vương Sùng. Phó tướng Triệu Khải thấy vậy, ra sức thoát khỏi vòng vây quân Hà Đông, phi thân tới ném một thanh kiếm ngăn cú chém của Tống Hành.

Tống Hành nhíu mày, sát ý càng đậm, dồn lực một lần nữa đâm kiếm thẳng về phía Vương Sùng.

Vương Sùng vội vàng giơ trường thương trong tay lên chặn lưỡi kiếm của hắn.

Tống Hành lực đạo kinh người, thanh kiếm của hắn dài hơn kiếm thường không ít, ngay cả sức nặng cũng vượt xa bảo kiếm bình thường. Trường thương của Vương Vũ dù chắc chắn đến đâu thì vẫn bị trọng kiếm huyền thiết của Tống Hành chém rạn thành vết nứt sâu.

Một tiếng “keng” khác vang lên, chẳng biết từ đâu, Triệu Khải lại vớ được một thanh trường đao khác, chém mạnh vào lưỡi kiếm của Tống Hành.

Lưỡi kiếm nảy nhẹ lên. Tống Hành vận sức nắm chặt kiếm, cơ bắp trên cánh tay càng nổi rõ, chỉ sau hai hơi thở ngắn ngủi, lưỡi kiếm lại bắt đầu ép sát về phía Vương Sùng và Triệu Khải.

Triệu Khải gồng hết sức mình chống đỡ, mồ hôi nhễ nhại, gân xanh nổi lên, hắn hét lớn: “Đại cục làm trọng, lang quân mau đi đi!”

Vương Sùng cắn răng, hạ quyết tâm, vội thu thương quay ngựa về phía cổng thành bỏ chạy.

Giữa đám đông, có người quát lớn, cầm thương đuổi theo Vương Sùng, “Tên chó nhà họ Vương, chạy đâu cho thoát!”

Thấy người đó đuổi theo, Vương Sùng vội ghìm cương quay lại đỡ đòn. Người kia không địch nổi Vương Sùng, suýt thì bị Vương Sùng đả thương. May sao Tống Hành chém gục Triệu Khải đúng lúc, kịp thời chạy tới giải nguy.

Vương Sùng trừng mắt nhìn Tống Hành, phun ra một bãi nước bọt, rồi nghiến răng giận dữ mắng: “Oắt con Tống Hành, hôm nay ngươi dám giết ta, cha ta bao năm tung hoành ở Tây Nam, nhất định không tha cho ngươi!”

Tống Hành vung kiếm mạnh mẽ chém xuống ngực hắn, Vương Sùng kịp phản ứng, đưa cán thương lên đỡ, chỉ nghe một tiếng “choang”, cán thương bị lưỡi kiếm chém gãy làm đôi.

Thấy hắn đang giết đỏ cả mắt, lòng Vương Sùng hoảng loạn, thúc ngựa bỏ chạy.

Phía sau hắn bỗng truyền tới ngữ điệu đầy khinh miệt của Tống Hành, “Giết ngươi thì đã sao? Về phần cha ngươi, mỗ cũng sẽ tiễn hắn xuống hoàng tuyền!”

Vương Sùng nghe xong hồn xiêu phách lạc, một lòng chỉ muốn chạy thoát thân, giục ngựa chạy thục mạng.

Tống Hành ghì chặt dây cương, một tay cầm kiếm đuổi theo, con ngựa của hắn lao đi tựa mũi tên rời cung, ngang nhiên chém giết đám quân Vũ Định yểm hộ cho Vương Sùng, một đường giết thẳng ra ngoài, đuổi đến ngoài thành, chặn đường thoát của Vương Sùng.

Đêm nay trăng sáng vô ngần, ánh nguyệt quang như dải lụa mềm phủ lên đất trời, tinh hà lấp lánh ôm lấy bóng trăng huyền ảo. Cảnh sắc yên bình và đẹp đẽ, cực kỳ tương phản với khung cảnh tàn khốc máu chảy thành sông trong thành Kì Châu.

Vương Sùng từng nếm trải thủ đoạn của Tống Hành, giờ chỉ còn một đoạn tàn thương trong tay, lòng hắn ngập tràn tuyệt vọng. Thay vì để Tống Hành g**t ch*t, chi bằng tự kết liễu còn hơn. Nghĩ thế, hắn giơ trường thương lên định tự vẫn, nào ngờ Tống Hành nghiêng kiếm lên chặn lại.

“Lũ chuột nhắt các ngươi ở Trần Thương tàn sát quân dân Phượng Tường, tội ác không thể dung thứ. Hôm nay mỗ sẽ đích thân lấy mạng ngươi, để an ủi linh hồn họ nơi chín suối!” Tống Hành dứt lời, lưỡi kiếm theo đó giáng xuống, chớp mắt đã đâm thẳng vào tim Vương Sùng. Vương Sùng dù đã ôm tâm thế chịu chết, nhưng theo bản năng vẫn giơ thương ra đỡ.

Tống Hành chỉ dùng chưa đến bảy phần lực, vậy mà cũng đủ khiến mẩu thương gãy văng ra khỏi tay Vương Sùng, trong ánh mắt bàng hoàng tột cùng của Vương Sùng, kết thúc sinh mạng hắn.

Máu nóng từ vết thương tuôn trào, nhuộm đỏ lưỡi kiếm của Tống Hành, không biết là lần thứ bao nhiêu.

Sắc mặt của Vương Sùng vặn vẹo đau đớn, còn Tống Hành thì vẻ mặt lạnh tanh, rút kiếm, để mặc thi thể hắn rơi khỏi lưng ngựa.

Ánh mắt của Tống Hành thoáng qua như đang ngó một con kiến hôi, quay đầu lại, hắn ba lần hô vang rằng Vương Sùng đã bị hắn g**t ch*t, quân Hà Đông tiến lên càng lúc càng đông, truy đuổi quan địch ra ngoài thành.

Chẳng bao lâu, một binh sĩ mắt tinh nhận ra Vương Sùng trên đất vẫn chưa tắt thở, bèn chặt đầu hắn, cắm lên đầu thương, phấn khích reo vang: “Tiết soái đã giết chủ soái quân địch, Tiết soái đã giết chủ soái quân địch!”

Quân Vũ Định tận mắt nhìn thấy thủ cấp Vương Sùng, nhuệ khí rã rời, bỏ chạy như ong vỡ tổ.

Quân Hà Đông dưới sự chỉ huy của Trần Thắng theo đà truy kích, thế như chẻ tre phá tan đội hình phía sau của quân Vũ Định. Quân Vũ Định mất chủ soái, chủ tướng lại lần lượt bỏ mạng dưới kiếm Tống Hành. Quân Vũ Định đại bại, chỉ mới qua canh tư, kẻ chết thì chết, kẻ hàng thì hàng.

Tống Hành lệnh kiểm kê lương thực còn lại trong kho của Vũ Định quân, chia đều cho quân dân trong thành.

Gạo chất trong kho hạt nào hạt nấy chắc mẩy tròn trịa, đủ để thấy đất Thục phì nhiêu, sản vật phong phú đến nhường nào.

Tống Hành bốc một nắm gạo trong tay, trong đầu hiện lên những câu từng đọc thuở nhỏ: “Ích Châu hiểm trở, đồng bằng ngàn dặm, điều kiện tự nhiên trù phú.” muốn dựng nghiệp lớn thống nhất thiên hạ, tuyệt không thể thiếu lương thảo dồi dào. Chỉ cần chiếm lấy Ích Châu, nguồn cung ứng sẽ không bao giờ đứt đoạn.

Giờ đây, nguy cơ tại Kì Châu đã được giải trừ, ưu tiên trước mắt là nghỉ ngơi dưỡng sức. Tống Hành không muốn tàn sát tù binh, chỉ lệnh thu hồi binh khí, cởi bỏ giáp trụ, lưu lại nghìn quân Hà Đông quản thúc, lại sai đám tù binh xây dựng tường thành, sửa sang nhà cửa, dọn dẹp lòng sông, khai hoang trồng trọt.

Trận chiến này khiến quân Phượng Tường càng thêm kính ngưỡng Tống Hành.

Sau khi thăm hỏi, an ủi các tướng sĩ bị thương, Tống Hành dùng một chiếc khăn thô nhúng nước lau qua mặt, vén chăn chợp mắt một chút. Bên ngoài trời đã tảng sáng.

Chẳng mấy chốc đã đến trung tuần tháng Chín, Tiết độ sứ Hồ Nam tự lập tại Đàm Châu, quốc hiệu Nam Sở.

Vài ngày sau, Tống Hành công phá Phượng Châu, nghỉ ngơi tại chỗ hai ngày rồi dẫn quân tiến dần về phía Tây Nam, thẳng đến Hưng Châu.

Thu tàn đông đến, đất Bắc mỗi ngày một lạnh hơn.

Thi Yến Vi đưa tờ thông hành cho cho thành môn lang xem xét, thuận lợi vào được thành Diên Châu.

Kiếm Sương đánh xe ngựa tìm đến một khách đ**m bình thường, hỏi Thi Yến Vi có muốn ra chợ mua thêm y phục và ít lương khô không. Thi Yến Vi cũng chưa vội mua sắm vì trong lòng còn việc hệ trọng khác. Chừng nào chưa có câu trả lời thỏa đáng, nàng sẽ không thể an tâm.

Hai người đem đồ đạc cất vào phòng khách, xuống lầu gọi tiểu nhị đến chọn một ấm trà cùng hai món xào, một mặn một chay.

Thi Yến Vi vén góc rèm, dùng xong cơm trưa, nhỏ nhẹ nói: “Ta muốn ghé qua một y quán gần đây.”

Kiếm Sương chỉ nghĩ là nàng mệt mỏi vì bôn ba đường xa, lại thêm ra khỏi Hà Đông chưa quen thổ nhưỡng nên mới sinh bệnh, bèn quan tâm hỏi: “Nương tử có chỗ nào không khỏe sao?”

Thi Yến Vi lắc đầu, “Chỉ là bệnh cũ đã nhiều năm, nay đã vào thành thì tiện thể đến y quán xem thế nào, nếu không sao thì cũng đỡ lo hơn.”

Kiếm Sương vô cùng nhanh nhẹn, nghe nàng nói thế liền đi tính tiền cơm, ra ngoài lấy xe ngựa đậu sẵn trước cửa, nhắc nàng cẩn thận dưới chân, chờ nàng lên xe rồi mới đánh xe đi.

Xe ngựa dừng trước một y quán gia truyền, Thi Yến Vi đội mũ sa xuống xe, tự mình đi vào, trong khi Kiếm Sương kiên nhẫn chờ bên ngoài.

Thi Yến Vi cũng chẳng vòng vo, yêu cầu y công bắt mạch, xem có phải là hỉ mạch hay không.

Y công đặt một chiếc khăn mỏng lên tay nàng, cẩn thận bắt mạch, một lát sau rời tay khỏi cổ tay nàng, cau mày nói: “Nữ lang không có thai, hơn nữa thân thể nữ lang dường như không khỏe mạnh như những nữ lang khác, có thể tháo mũ cho lão phu nhìn thử sắc mặt không?”

Vì đã rời khỏi Hà Đông, lại có mũ che mặt, nên hôm nay nàng không thoa phấn vàng. Thi Yến Vi làm theo lời y công, tháo mũ che mặt, lộ ra một gương mặt mộc thanh khiết.

Trải qua bốn bước vọng, văn, vấn, thiết, y công nói: “Quả nhiên đúng như nương tử nói, nương tử thường xuyên dùng canh tị tự suốt bốn tháng, lại chưa điều dưỡng kịp thời, mỗi ngày dẫm trên băng lạnh gần một khắc đồng hồ, kéo dài suốt ba tháng, tinh thần u uất không được giải tỏa, e rằng khí huyết ứ trệ, t* c*ng hàn lãnh, về sau e rằng khó có con.”

“Khó mà có con” chứ không phải triệt để mất đi khả năng sinh nở khiến Thi Yến Vi không khỏi cảm thấy vướng bận. Nếu có thể nghĩ đến phương diện tồi tệ nhất, nàng thà nghe rằng mình vĩnh viễn không thể mang thai.

Cả đời này, nàng đã quyết sẽ không tái giá, huống hồ là ở thời cổ đại với điều kiện y học kém cỏi, nàng càng không muốn vì sinh con mà liều mạng bước vào Quỷ Môn quan.

Những loại thuốc phổ biến như trị phong hàn và bầm tím đều đã được Tống Duật Tống Duật chu đáo chuẩn bị sẵn trong xe ngựa nên không phải mua thêm. Thi Yến Vi trả xong chẩn phí liền không nhắc đến chuyện điều dưỡng thân thể, ngược lại nhẹ bước rời khỏi y quán.

Kiếm Sương thấy nàng ra, tiến lên hỏi thăm tình hình sức khỏe.

Thi Yến Vi nhoẻn cười, ung dung đáp: “Y công đã xem qua, nói rằng không có gì đáng ngại, thậm chí không cần uống thuốc nên đừng lo lắng quá. Chúng ta vất vả lắm mới vào được thành, cũng nên mua thêm một con ngựa nữa.”

Lời vừa dứt, Kiếm Sương cảm thấy có điều gì đó không đúng, nhưng chẳng biết rõ rốt cuộc sai ở đâu. Nàng sóng bước bên cạnh Thi Yến Vi, dè dặt hỏi lại: “Phải chăng nương tử cảm thấy tốc độ của một con ngựa hơi chậm nên mới định dùng một đôi ngựa để kéo xe?”

Thi Yến Vi dừng bước, nhấc nhẹ mành sa để lộ đôi mắt sáng ngời, nhìn thẳng vào Kiếm Sương, giọng điệu nhẹ bẫng: “Kiếm Sương, thế gian này vẫn còn rất nhiều cảnh đẹp mà cô chưa từng thấy, nhiều người, việc, vật mà cô chưa từng biết. Như là hoang mạc ngút ngàn ở Tây Bắc, ruộng sen bát ngát ở Giang Nam, sóng biển lấp lánh ở Hải Châu, hay thảo nguyên bạt ngàn của Tái Bắc. Lẽ nào cô chưa bao giờ nghĩ đến chuyện sống vì chính mình một lần sao?”
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 61: Nàng trốn



Sống vì chính mình một lần… Liệu nàng có tư cách để mơ đến điều đó không?

Từ khi biết nhận thức, nàng đã rơi vào tay những kẻ buôn người. Nếu không nhờ Tam lang quân nhân từ cứu vớt, tìm thầy dạy võ rồi sắp xếp nàng làm võ tỳ bên cạnh tiểu nương tử, thì về sau khi tiểu nương tử xuất giá, nàng cũng không được giao phó nhiệm vụ bảo hộ Dương nương tử một đời bình an.

Sinh mạng này, có thể nói là do Tam Lang Quân ban cho. Nếu không có ngài, bọn buôn người chắc đã bán nàng vào chốn phong trần ô nhục, sống một cuộc đời còn thua cả cái chết. Bằng tính cách cứng cỏi khắc sâu trong xương tủy, nàng thà chết chứ không chịu nổi những năm tháng như địa ngục đó.

Tam lang quân là ân nhân của nàng, lời của ngài, nàng coi như thánh chỉ, tuyệt đối không thể trái nghịch.

Tuy đã động lòng trước những lời hứa hẹn đầy mê hoặc của Thi Yến Vi nhưng Kiếm Sương vẫn không thể từ bỏ điều mà Tống Duật đã sai phái. Sau một hồi giằng xé, nàng đành ép mình lắc đầu, khẽ nói, “Từ khi vào phủ, nô tỳ chưa từng nghĩ đến sống vì bản thân. Nô tỳ chỉ biết cuộc đời này do lang quân ban tặng, nên cả đời sẽ trung thành với lang quân. Huống chi, lang quân đã dặn, từ nay trở đi, nương tử là chủ nhân duy nhất của nô tỳ, là người mà nô tỳ không tiếc thân mình để bảo vệ.”

Giây phút ấy, Thi Yến Vi thoáng thấy bóng dáng của Luyện Nhi qua lời nói của Kiếm Sương. Nàng nhớ đến khoảng thời gian ở biệt viện hành sơn năm nào, khi nàng bảo Luyện Nhi cứ gọi thẳng tên mình, nhưng Luyện Nhi nghe xong lại hoảng sợ, nhấn mạnh rằng nàng là chủ nhân, tuyệt đối không thể xưng hô tùy tiện. Giờ đây, cảnh tượng tương tự lại tái diễn với Kiếm Sương.

Có lẽ đã ở trong thế giới này đủ lâu, khiến tâm thế nàng bình thản nhiều hơn trước.

Trong suy nghĩ của họ, quý tiện tôn ti đã cắm rễ quá sâu, nếu dùng lăng kính của người hiện đại để nhìn nhận thì sẽ là phiến diện và có phần không thỏa đáng.

“Như lời cô vừa nói, hiện giờ ta là chủ nhân duy nhất của cô trên đời này, vậy thì hôm nay, ta sẽ dùng thân phận này để ra lệnh lần cuối cùng: từ giờ phút này trở đi, mạng sống của cô không thuộc về ai cả, chỉ thuộc về chính cô mà thôi. Cô không cần phải sống vì bất kỳ ai nữa, chỉ cần sống vì bản thân mình. Trong hành trang có giấy thông hành để trống và một ít ngân lượng, cô và ta mỗi người giữ một nửa, ngày mai mỗi người một ngả. Mong rằng hai ta đều bình an, đừng vương vấn gì nhau nữa.”

Chỉ sống vì chính mình… Câu nói ấy cứ lởn vởn trong tâm trí Kiếm Sương, khiến nàng bất giác bước chậm lại. Mười tám năm qua, chưa từng có ai nói với nàng những lời này.

Dương nương tử biết rõ việc này chắc chắn sẽ chọc giận Tấn vương, nhưng vẫn kiên quyết bỏ trốn khỏi quý phủ, để lại những ngày tháng gấm vóc lụa là, cơm bưng nước rót. Thứ nàng theo đuổi, có lẽ là điều mà nàng gọi là sống vì chính mình chăng?

Nhưng việc được tận mắt ngắm nhìn núi sông hùng vĩ, sa mạc hoang vu thực sự quan trọng đến thế sao? Quan trọng đến mức sẵn sàng đánh đổi cả sinh mạng…

Kiếm Sương không thể hiểu được, nàng mơ hồ cúi đầu, trong tâm trí hỗn loạn, hồi lâu không đáp lại lời Thi Yến Vi.

Hai người sánh bước vào chợ, Thi Yến Vi nhanh chóng bắt tay vào việc mua sắm. Nàng nhắm trúng một con ngựa cao lớn bốn vó cân đối, trải qua hồi mặc cả mới mua được với giá hai mươi quan bạc. Sau đó, nàng còn mua thêm một số vật dụng hàng ngày khác.

Trở về khách đ**m, bầu trời bỗng chốc âm u, mây đen ùn ùn kéo đến phía trên tòa thành lâu, khiến người ta lầm tưởng tuyết sắp rơi dù tiết Tiểu Tuyết vẫn còn chưa đến.

Thi Yến Vi lấy giấy thông hành từ hành trang ra, đếm lại cẩn thận thì thấy còn mười một tờ trắng, nàng chia ra sáu tờ đưa cho Kiếm Sương, rồi kiểm tra số bạc nén trong túi vải.

“Nương tử thực sự muốn đuổi nô tỳ đi sao?” Kiếm Sương thấy nàng bắt đầu chia đồ, như thể đang chuẩn bị thật, trong lòng không khỏi hoang mang. Từ khi có ký ức đến giờ, nàng chưa từng sống một mình, giờ Thi Yến Vi muốn thả nàng tự do, nàng lại thấy như mình mất đi điểm tựa, không biết phải đi đâu về đâu.

Thi Yến Vi chia đôi số bạc vàng, đặt một phần vào túi Kiếm Sương, đối diện ánh mắt có phần bối rối của nàng, “Giờ ta và cô đều đang lẩn trốn, không biết khi nào sẽ bị tìm thấy. Cô đã giúp ta rất nhiều, ta không muốn làm vướng chân cô thêm nữa. Con đường sắp tới tự cô phải quyết định lấy.”

“Vả lại, Phùng Quý và Giang Nghiên chắc chắn đã biết bên cạnh ta có cô bảo vệ, nếu hai chúng ta tiếp tục đi cùng nhau sẽ càng dễ bị phát hiện thôi. Chi bằng mỗi người một hướng, sẽ an toàn hơn.”

Kiếm Sương nghe lời nàng, trong đôi mắt bình thản bất chợt lóe lên một tia sáng. Nàng nhớ đến bức tranh cổ vẽ lại cảnh non nước Giang Nam. Nơi ấy sương khói mờ ảo, chim chóc rộn ràng, hoa sắc tươi thắm, bướm vờn bên lan can điêu khắc, cảnh sắc đỏ tím đua chen…

Có lẽ, khi rời xa Dương nương tử, nàng sẽ đến vùng cực nam Bắc địa, đợi khi thiên hạ yên ổn, sẽ hướng về Tô Hàng mà đi.

Còn cả Tây Bắc, Tái Bắc, Hải Châu như lời Dương nương tử nói nữa… Chỉ cần nàng đủ ý chí và lòng dũng cảm, mọi cảnh sắc trên thế gian này đều có thể một lần đặt chân đến, tự mình trải nghiệm mà, đúng không?

Nếp nhăn trên trán nàng dần giãn ra, ánh mắt dừng lại trên mấy tờ thông hành, cuối cùng gật đầu đồng ý, khẽ đáp: “Nô tỳ nghe theo nương tử.”

Thi Yến Vi cuối cùng đã thuyết phục được nàng, cũng giãn đôi mày. Nàng lấy nghiên mài mực, chấm mực lên bút rồi viết như bay.

Kiếm Sương không biết nhiều chữ, thời gian này Thi Yến Vi đã dạy nàng một ít, nhưng cũng chỉ như muối bỏ biển, miễn cưỡng nhận ra được vài chữ đơn giản. Vì vậy, Thi Yến Vi dặn đi dặn lại nàng, sau này dù nàng có dừng chân ở nơi đâu cũng nhất định phải tìm một người thầy có phẩm hạnh đoan chính mà học cho hết con chữ, rồi đọc thêm vài quyển sách khác, đừng đọc loại sách như Nữ tắc, Nữ giới, còn nếu có thời gian thì đọc thoại bản để tiêu khiển cũng không sao.

Sáng hôm sau, khi trời vừa hửng sáng, hai người cùng nhau dùng bữa sớm. Thi Yến Vi trao quyển sổ tay đã viết sẵn cho Kiếm Sương, sau đó chia hành lý thành hai bọc bằng nhau, dùng vải buộc lại, đặt hai bên trái phải trên lưng ngựa.

Vào khoảng giờ Thìn nhị khắc, Thi Yến Vi từ biệt Kiếm Sương, lên lưng ngựa, trước tiên đi đến tiệm may mua một bộ trường bào viên lĩnh thay vào, búi tóc đội mũ, giả làm nam nhân.

Vì nàng cao ráo, đế giày độn tương đối cao nên nhìn thoáng qua không khác mấy một vị lang quân gầy gò. Thành môn lang đối chiếu một hồi với mô tả trên giấy thông hành, chỉ hỏi vài câu rồi để nàng đi qua.

Thi Yến Vi cưỡi ngựa rời thành, phóng tầm mắt nhìn quan đạo thênh thang và dãy núi trùng điệp nối dài ở phía trước, gió thổi rì rào bên tai mà nghe cũng như khúc nhạc tiên êm dịu.

Hai ngày trước, khi nàng và Kiếm Sương chưa tới Diên Châu, tin tức Tống Hành hạ được Phượng Châu đã lan đến phương bắc. Nàng đoán rằng chặng đường xuôi theo Tây Nam, chiếm lấy đất Thục cũng chỉ độ một đến hai năm là cùng.

Cho dù Tống Hành kia thông minh tài trí đến đâu, làm sao đoán được rằng nơi nàng sắp tới lại chính là Phượng Tường. Đợi khi hắn bình định đất Thục, nàng sẽ đặt chân đến đô thành Ích Châu.

Ngày hôm sau, Kiếm Sương khởi hành đi về hướng Ngụy Châu.

Giờ Thìn vốn là lúc dùng bữa sớm, trước kia có Thi Yến Vi ở đây, trong viện lúc nào cũng rộn ràng náo nhiệt, nay nàng đã không còn, Lưu mụ thường xuyên mặt ủ mày chau, than ngắn thở dài không dứt.

Luyện Nhi cũng luyến tiếc nàng vô cùng, nhưng nghĩ đến việc rời đi đối với nàng có lẽ mới là điều khiến nàng thực sự vui vẻ, lòng cũng dần nhẹ nhõm, thật tâm chúc phúc cho nàng.

Chỉ mong Dương nương tử đừng hoài thai hài tử của Tấn vương. Luyện Nhi nghĩ vậy, lòng mang tâm sự nặng trĩu, lặng lẽ dùng bữa sớm, sau đó đến bên cửa sổ, nhân lúc không có ai, liền chuyển chậu cúc ấy ra ngoài.

Nếu không lại gần thì không ngửi thấy, nhưng khi nàng bưng chậu hoa ấy lên, mùi thuốc nồng đậm trong đất liền xông thẳng vào mũi.

Ngửi thấy hương vị quen thuộc ấy, nàng bất giác nghĩ đến Dương nương tử. Nào có chuyện Tấn vương tình cờ gặp gỡ và động lòng với nương tử ở Lạc Dương, ngay từ lúc ở Thái Nguyên, Tấn vương đã cậy quyền cưỡng ép, hủy hoại sự thanh bạch của nương tử.

Nương tử đến giờ vẫn không muốn mang hài tử của Tấn Vương, chắc hẳn là nàng không hề có chút tình cảm nào với ngài ấy. Bằng không, sao nàng lại lén lút đổ đi hết những chén thuốc điều dưỡng cơ thể này.

Có lẽ ngay từ cái đêm mà Dương nương tử bất chấp hậu quả cầu xin giúp nàng, nói cho nàng biết: cả hai vốn đều như nhau, không cần phân biệt cao thấp, rằng khi không có ai, chẳng cần gọi nàng là “nương tử” mà chỉ cần gọi thẳng tên nàng là được, thì Luyện Nhi đã xem nương tử là người thân cận rồi.

Nghĩ đến đây, sống mũi của Luyện Nhi chợt cay cay, hốc mắt cũng đỏ lên, nàng cúi đầu, sợ người khác nhìn thấy.

Đúng lúc này, Lưu mụ từ ngoài bước vào, thấy nàng đang động vào chậu cúc hoa với dáng vẻ khả nghi, liền gọi nàng dừng lại.

Lưu mụ nhận ra chậu hoa quen mắt, nhìn xuống dưới cửa sổ, liền nhớ ra đó là một trong hai chậu hoa cúc mà Dương nương tử từng tự mình đem đến đặt ở nơi ấy, giờ chỉ còn một chậu.

Nghĩ đến việc Dương nương tử từ trước đến nay không cho phép ai hầu thuốc, mỗi lần đều là Luyện Nhi đem hộp thức ăn đưa vào.

Suy nghĩ đến đó, sắc mặt Lưu mụ sa sầm, lạnh lùng quát: “Đặt xuống!”

Luyện Nhi chưa từng thấy Lưu mụ xưa nay ôn hòa lại đột nhiên biến sắc như vậy, bị dọa đến mức nhắm mắt há hốc mồm, run rẩy đặt chậu hoa xuống đất.

Lưu mụ bước tới, nhón tay nhặt lấy ít đất đưa lên mũi ngửi thử, lập tức hiểu ra sự tình.

Đó là thuốc điều dưỡng thân thể trợ giúp việc mang thai, nếu có thai rồi uống thuốc này cũng không hại đến thai nhi. Lưu mụ nghi ngờ rằng Thi Yến Vi đã có thai, nhưng nàng chưa ngưng thuốc, chỉ chờ bốn mươi ngày sau khi đại phu có thể chẩn mạch thì sẽ đổi sang bài thuốc an thai.

Nào ngờ, Dương nương tử chỉ uống thuốc bổ trước mặt bà hai ba lần, những lúc khác nàng đều vụng trộm đổ hết thuốc vào chậu hoa.

Lúc ở biệt viện hành sơn, nàng đã uống không ít thuốc tránh thai, mùa hè còn thích mát mẻ, mỗi ngày đều dùng một chậu đá băng, lại không chịu điều dưỡng thân thể. Xem ra khả năng lớn nhất là Dương nương tử bị rối loạn kinh nguyệt chứ không phải có thai.

Tham lạnh, băng.

Lưu mụ tinh ý nhận ra mối liên hệ này, trong lòng liền nảy ra một phỏng đoán táo bạo.

Có lẽ Dương nương tử dùng băng không phải chỉ để giải nhiệt mà còn muốn mượn hơi lạnh truyền vào cơ thể từ lòng bàn chân chăng?

Điều này cũng giải thích vì sao trong phòng nàng, dưới giường La Hán lại luôn có đặt chậu gỗ.

Thật không ngờ, nàng vì tránh thai mà có thể tàn nhẫn đến vậy.

Lưu mụ chỉ cảm thấy máu huyết toàn thân như đông lại, căng giọng chất vấn Luyện Nhi: “Nói mau, Dương nương tử đổ thuốc bổ vào chậu hoa đã bao lâu rồi?!”

Luyện Nhi sợ hãi đến run lẩy bẩy, nước mắt lăn dài trên khóe mắt, nghĩ đến Thi Yến Vi thường ngày đối xử tốt với mình, nàng cắn răng không hé ra nửa lời.

Lưu mụ liếc mắt nhìn Luyện Nhi, trong lòng đã có câu trả lời: từ năm ngoái ở biệt viện hành sơn, người hầu thuốc cho Dương nương tử mỗi ngày chính là ả, vậy có lẽ là từ khi ấy.

Nếu quả thực là vậy, nương tử khó lòng mang thai được, có chăng là do cơ thể nhiễm hàn khí, dẫn đến nguyệt sự bất thường.

Năm sau, tháng tư đầu hạ.

Tống Hành liên tiếp công phá các khu vực Tây Đạo Sơn Nam, cùng với hai vùng Lưỡng Xuyên là Xuyên Đông và Xuyên Tây, phế bỏ chức Tiết độ sứ, giao ba châu trấn ấy cho các thân tín làm tướng giữ thành.

Tin tức truyền đến Lũng Châu, Thi Yến Vi gấp rút điền vào ba chữ lớn “Thành Cẩm Quan” trên giấy thông hành, chỉ chờ khi Tống Hành hạ lệnh thông thương tự do giữa đất Thục và Bắc địa là nàng sẽ khởi hành ngay.

Mười ngày sau, Tiết độ sứ Bùi Quang Nhân của Phượng Tường tự mình mở tiệc khoản đãi Tống Hành tại phủ.

Trận chiến này kéo dài ròng rã bảy tháng trời, quân Phượng Tường hao tổn nguyên khí, quân Hà Đông cũng tổn thất không ít binh lực, nhưng may thay cuối cùng đã chiếm được bảo địa Tam Thục, tiền tuyến có nguồn cung cấp ổn định, tạo tiền đề vững chắc cho việc nhất thống thiên hạ sau này.

Bùi Quang Nhân càng thêm chắc chắn rằng mình đặt cược đúng chỗ, bày biện yến tiệc hết sức linh đình, đích thân ra ngoài thành nghênh đón Tống Hành, trước mặt chúng tướng sĩ kéo ngựa cho hắn.

Bách tính trong thành cũng chen chúc hai bên đường để nghênh đón, mong được nhìn thấy tận mắt dung mạo của Tống Hành. Tiếng hò reo của dân chúng vang lên át cả tiếng vó ngựa rộn rã, ai ai cũng ca tụng Tống Hành và Hà Đông quân.

Tống Hành xuống ngựa, cùng Bùi Quang Nhân nhập tiệc.

Bùi Mậu Khiêm chiếu theo “sở thích” của Tống Hành, mời đến không ít thanh khách dáng vẻ thanh tao, tinh thông âm luật, ăn mặc nhã nhặn vào sân tấu nhạc.

Tống Hành lặng lẽ uống rượu, thậm chí chưa từng ngước mắt nhìn các ca kỹ một lần.

Hắn không còn nhớ rõ đã mơ thấy nàng bao nhiêu lần, cũng không thể đếm được có bao nhiêu đêm ôm kha tử của nàng chìm vào giấc mộng. Ngày đánh hạ được Miên Châu, lòng hắn đã rộn ràng mong ngóng, đó là một cảm giác mà hắn chưa từng trải qua.

Ngay cả khi mẹ hắn còn tại thế, hắn cũng chưa từng có khát khao chia sẻ mạnh mẽ đến vậy. Lần đầu tiên, hắn có người mà hắn nóng lòng muốn gặp, muốn tự mình nói với nàng: Hắn thắng rồi, từ nay nắm trọn càn khôn, thiên hạ đã nằm gọn trong túi.

Bùi Quang Nhân nâng chén rượu chúc mừng Tống Hành, hỏi hắn định ở lại Phượng Tường nghỉ ngơi bao lâu, Tống Hành hơi nghiêng đầu, nhìn về phía Bùi Quang Nhân, đáp rằng sáng sớm mai sẽ lên đường.

Cuộc đối thoại của hai người thu hút sự chú ý của Bùi Mậu Khiêm. Hắn cẩn thận quan sát Tống Hành một hồi, phát hiện Tống Hành từ đầu đến cuối đều không hề nhìn đám thanh khách trong tiệc, bất giác đâm ra hoài nghi: Từ lúc rời khỏi Thái Nguyên, đã qua hơn một năm, chẳng lẽ Tống Hành vẫn chỉ một lòng một dạ với nữ tỳ đã ở cạnh hắn hôm đó?

Nói cho cùng, Bùi Mậu Khiêm từ khi mười tám tuổi đã bước chân vào chốn phong nguyệt, bảy năm qua, mỹ nhân kiều diễm thế nào hắn cũng từng thấy qua, duy chỉ có nữ tử bên cạnh Tống Hành là để lại ấn tượng đặc biệt. Tuy nàng không phải người đẹp nhất, xuất chúng nhất nhưng khí chất tao nhã và dung mạo thoát tục của nàng thật khiến người khác khó mà bỏ qua được.

Bùi Mậu Khiêm lúc này đã mất đi khả năng g*** h*p, chỉ mới nghĩ thoáng qua mà lòng đã nhói đau. Hắn âm thầm nguyền rủa kẻ đã hại mình sẽ không được chết tử tế, mãi mãi đọa đày trong địa ngục A Tỳ.

Tống Hành uống liền mấy chén rượu, bởi từng gặp nạn ở Trường An nên hắn đã phòng bị rất kỹ, chỉ uống đến hơi say rồi đứng dậy rời yến tiệc, không ở lại Bùi phủ mà về nghỉ ngơi tại dịch quán, quân Hà Đông chia làm ba lớp bảo vệ, thay nhau tuần tra canh giữ.

Giờ Mão sáng sớm hôm sau, khi trời vừa hửng sáng, Tống Hành cưỡi ngựa chiến, dẫn theo mấy vạn quân Hà Đông, dưới ánh mắt tiễn biệt của quân dân trong thành, rầm rộ rời khỏi cổng thành, quay về Thái Nguyên.

Hai bên quan đạo, cây xanh che bóng, tán cây rậm rạp, ánh nắng mờ ảo xuyên qua kẽ lá rọi lên bộ áo giáp đồ sộ trên người Tống Hành, ánh vàng chói lọi, thân hình ngất ngưởng như một tòa núi di động, khiến người khác không khỏi sinh lòng ngưỡng mộ xen lẫn kiêng dè.

Dưới lớp giáp nặng nề ấy là những thớ cơ rắn chắc, đường nét uyển chuyển. Trừ những lúc ra trận hay luyện công thì chỉ khi cùng Thi Yến Vi h**n **, thân thể ấy mới căng tràn, gân xanh nổi cuồn cuộn.

Hắn khao khát được giữ chặt nàng trong vòng tay, phi ngựa trên đồng cỏ bát ngát, ngắm nhìn gương mặt nàng đỏ bừng, đôi mắt ngấn lệ.

Thiên hạ nữ nhân vô số, nhưng trong lòng hắn, chỉ có duy nhất nàng. Tất cả những gì hắn tâm niệm, chỉ là được gần nàng thêm một chút mà thôi.

Từ Phượng Tường đến Thái Nguyên cách xa ngàn dặm, mỗi ngày Tống Hành hành quân được sáu canh giờ, hơn mười ngày sau mới về đến Thái Nguyên.

Sáng sớm hôm ấy, quý phủ đã nhận được tin báo, Tiết phu nhân lập tức sai người đi mời cặp phu thê nhà Tống Thanh Âm và Tống Thanh Hòa đến, sau đó đích thân dẫn mọi người trong phủ ăn vận chỉnh tề ra cửa nghênh đón.

Tống Hành vội vã nhảy xuống ngựa, tiến tới bái kiến Tiết phu nhân, không nhìn bất kỳ ai khác, chỉ kiên nhẫn tìm kiếm hình bóng nữ tử đã làm hắn tương tư suốt hơn hai trăm ngày đêm qua.

Thế nhưng hắn tìm mãi vẫn không thấy được người muốn gặp. Một cảm giác bất an ập đến, hắn cau mày hỏi Phùng Quý: “Vì sao Dương nương tử không ra? Hay là nàng không khỏe?”

Phùng Quý bị hắn nhìn chằm chặp, hai chân như nhũn cả ra, bất giác nhớ lại lần đầu tiên Dương nương tử bỏ trốn, khi ấy gia chủ đã giận dữ đến mức nào, ánh mắt hiểm độc ra sao…

Một cơn ớn lạnh xộc thẳng từ sống lưng lên đến đỉnh đầu, thấm vào xương tủy. Hai bàn tay Phùng Quý ướt đẫm mồ hôi, gió đầu hạ phả vào người lẽ ra phải ấm nóng, nhưng hắn lại lạnh buốt đến nỗi hai tay run lên cầm cập.

Tiết phu nhân liếc Phùng Quý một cái, thừa biết sự việc này không thể giấu được nữa. Nhưng ngoài cửa có bao người dòm ngó, nếu như Nhị lang mất kiểm soát, nếu như hắn lỡ thất thố trước mặt ba quân thì còn ra thể thống gì nữa.

Nghĩ đến đây, bà nắm chặt chuỗi Phật châu bằng gỗ tử đàn trong tay, hít sâu một hơi để bình tâm lại, ra vẻ điềm tĩnh nói với mọi người: “Nắng gắt thế này, Nhị lang có chuyện gì thì vào phủ rồi nói cũng chưa muộn.”

Đôi mắt phượng của Tống Hành hơi híp lại, quét qua những người đứng dưới mái hiên, không chỉ nữ lang hắn ngày nhớ đêm mong mà ngay cả đám người hầu trong viện của nàng cũng đều không có mặt.

Chắc chắn là đã có chuyện gì đó xảy ra.

Vì lời nhắc nhở của Tiết phu nhân, Tống Hành đành kìm nén cảm giác bất an, cố giữ phong thái bình tĩnh, bàn tay phải bất giác nắm chặt chuôi kiếm, trong lòng dâng lên nỗi sầu lo không thể nói thành lời, căng chặt trong lồng ngực.

Đám tỳ nữ, gia bộc đều khép nép vây quanh Tống Hành cùng Tiết phu nhân, ai nấy đều không dám thở mạnh.

Khi đoàn người đến ngã rẽ, Tiết phu nhân bỗng chậm bước lại, nghiêng đầu nhìn Tống Hành, giọng điệu bình thản: “Nhị lang hành quân vất vả đã nhiều ngày, hẳn cũng đã mệt, hãy về phòng nghỉ ngơi trước đã.”

Trước kia mỗi lần hắn khải hoàn trở về, Tiết phu nhân và Phùng Quý đều vui vẻ ra mặt nhưng hôm nay lại hoàn toàn khác lạ, cử chỉ thần sắc đều kỳ quặc, tuyệt nhiên không đề cập gì đến nữ lang hắn luôn đặt trên đầu quả tim.

Nỗi nghi hoặc và bất an trong lòng càng trỗi dậy mãnh liệt, Tống Hành lờ mờ đoán ra điều gì, nhưng không dám tin, chính xác hơn là không muốn tin, không đành lòng tin.

Chẳng lẽ nàng thực sự ghét bỏ hắn đến vậy, nhọc lòng giành được lòng tin của hắn, ngay khi hắn muốn nghênh đón nàng làm nhũ nhân, lại lần nữa nhẫn tâm phản bội như trêu ngươi hắn vậy?

Từ khi xuất chinh vào năm mười lăm tuổi, Tống Hành từng nhiều lần lấy ít thắng nhiều, chưa từng gặp phải kẻ địch nào khiến hắn thất bại hai lần liên tiếp, vậy mà nay lại thua hết lần này đến lần khác trong tay một nữ lang nhỏ nhoi.

Hai tay hắn nắm chặt thành quyền, đốt ngón tay phát ra âm thanh nặng nề, trán hắn nổi đầy gân xanh, mắt phượng chứa đầy phẫn nộ.

Trời biết hắn đã cố nhịn không gầm lên trước mặt Tiết phu nhân, cánh tay tráng kiện vì nén giận mà gần như run rẩy. Hắn như nghiến răng, gằn từng chữ một: “Đa tạ a bà đã quan tâm.”

Nói xong, hắn không chờ Tiết phu nhân đi trước mà lập tức quay người, lao đi như tên bắn.

Phùng Quý vội vã chạy theo, lặng lẽ nối gót phía sau cho đến khi đặt chân lên thềm đá trước cửa Thối Hàn cư. Đột nhiên, hắn nghe Tống Hành giận dữ quát lớn, gọi hắn lại gần.

Tống Hành đứng sững trước cửa viện, nhìn Phùng Quý đang thở hồng hộc, một lần nữa chạm tay vào chuôi kiếm lạnh lẽo.

“Nói, Dương Sở Âm rốt cuộc đã đi đâu?”

Lần đầu tiên, Phùng Quý nghe thấy Tống Hành gọi thẳng tục danh của Dương nương tử, đôi chân hắn như bị đổ chì, đóng đinh tại chỗ, cổ họng như bị dính hồ, không thốt nổi một chữ.

Nhìn hắn khúm núm, im lặng cúi gằm, Tống Hành không thể tự dối lòng thêm nữa. Cơn thịnh nộ lên đến đỉnh điểm, ánh mắt sắc bén như dao xoáy vào Phùng Quý, nghiến giọng gào lên: “Đồ khốn, còn dám giấu ta? Ngươi có đủ mạng để ta giết không đây?”

Cảnh tượng mặt lạnh quát tháo trong phủ thế này, lần trước là khi xử lý tên tiểu tư vô lại không biết liêm sỉ bên cạnh phụ thân của tiểu nương tử cách đây năm năm, và sau đó là lần này.

“Nô tài tuyệt không dám giấu diếm Tấn vương.” Phùng Quý run run, toàn thân hoảng loạn, vội vàng quỳ xuống, đầu gục xuống không dám ngẩng lên nhìn hắn một lần nào nữa, chỉ lắp bắp: “Dương nương tử… đã trốn đi từ ngày tiểu nương tử xuất giá năm ngoái, sau đó bặt vô âm tín…”

Trốn đi, bặt vô âm tín. Sáu chữ ấy cứ văng vẳng bên tai Tống Hành, hận thù như thủy triều đánh mạnh vào lòng hắn, như muốn nuốt chửng hắn, đẩy hắn sa vào vực sâu u ám vô tận.

Nàng đã trốn, nàng lại một lần nữa trốn thoát khỏi hắn!

Dung nhan của nàng vẫn in sâu trong tâm trí hắn, rõ ràng như trước, không cách nào phai nhạt, không cách nào quên được.

“Tống Hành, ngài đã động lòng với ta rồi sao?” Đôi mắt trong veo của nàng nhìn thẳng vào hắn, điềm đạm hỏi hắn.

Tiết Trung thu, trong phòng bếp, nàng tự tay dạy hắn cách làm bánh. Đêm buông xuống, dưới màn lụa màu cánh sen, tay nàng nhẹ nhàng vòng qua cổ hắn, ôm lấy hắn, dịu dàng gọi hắn là “Quỳ Ngưu Nô,” hắn rõ ràng nhẫn nhịn hết mức, nhưng vì tiếng khẩn cầu yếu ớt của nàng mà vẫn chậm lại, chọn cách thỏa hiệp.

“Tống Hành, Quỳ Ngưu Nô, ta đang ở đây.” Đêm chia biệt ấy, nàng nhỏ nhẹ đáp lại hắn, vì những động tác của hắn mà tiếng khóc nho nhỏ vang lên, khi ấy rõ ràng nàng cũng đã hài lòng.

“Tống Hành, ngài không nỡ để ta đi phải không?” Trong khoang xe, nàng khẽ v**t v* gương mặt hắn, nhẹ nhàng hỏi, đôi mắt long lanh của nàng rõ ràng cũng ánh lên mấy phần nhu tình.

Những lời đường mật ấy, những cử chỉ âu yếm ấy, hóa ra chỉ là để dỗ dành hắn, lừa gạt hắn, là màn kịch mà nàng dày công tạo ra nhằm trèo ra khỏi lòng bàn tay hắn một lần nữa.

Lẽ ra hắn nên nhìn sớm thấu bộ mặt thật của nàng, dùng dây xích trói chặt nàng lại, để nàng không thể đi đâu được.

Nàng đối với hắn, chưa từng có lấy một chút chân tình, còn hắn thì động lòng trắc ẩn, vì nàng mà tự ràng buộc mình, vì nàng mà sợ làm nàng đau…

Giờ nghĩ lại, đáng ra hắn phải tàn nhẫn đoạt lấy nàng, để nàng khóc, để nàng đau, để nàng biết sợ, để nàng không bao giờ dám mơ tưởng thoát khỏi hắn.

Trán Tống Hành nổi đầy gân xanh, lửa giận thiêu rụi lý trí gần như sạch sẽ. Hắn xông đến bụi mộc phù dung ở bên gốc tường, chỉ nghe một tiếng “choang” vang lên, thanh kiếm dài được tuốt ra khỏi vỏ, tiếp theo đó lưỡi kiếm sắc bén vung lên, bổ vào thân cây nâu sẫm, để lại những vết chém sâu hoắm, lá xanh rụng xuống ngổn ngang.

Phùng Quý nào đã từng thấy cảnh hắn phát cuồng, mất kiểm soát đến độ này, gáy hắn lạnh buốt, sợ hãi đến mức như muốn nổ tung, chỉ hận không thể lập tức thoát khỏi nơi này.

Mồ hôi lạnh đầm đìa, thấm ướt cả lớp vải áo. Phùng Quý cảm thấy tim mình như treo lơ lửng, phân vân không biết có nên lén lút trốn đi không thì lại nghe Tống Hành gầm lên: “Giỏi, giỏi lắm! Mau bắt hết đám tỳ nữ, bà mụ trong viện lại đây, ta muốn đích thân thẩm vấn từ người một. Nếu nàng muốn trốn, tốt nhất là trốn cho xa, chết ở ngoài đó cũng được. Bằng không, nếu để ta bắt về, nhất định ta sẽ khiến nàng sống không bằng chết!”

Chuyện Dương nương tử bỏ trốn thực chất là do sự sắp đặt của Tam lang quân, chứ chẳng can hệ gì đến người trong Phù Thúy viện. Xưa nay nàng tâm tính nhân hậu, nếu ở đây, hẳn là không muốn thấy các nàng vì mình mà bị chịu liên lụy.

Phùng Quý dù đang kinh hoàng nhưng cũng đâu thể trơ mắt nhìn các nàng phải chịu trách phạt, thậm chí là mất mạng.

Giữa lúc hoảng hốt, hắn chợt nhớ lại lời Tam lang quân đã đích thân nói với mình đêm ấy: Sau khi gia chủ về, chuyện này cứ để ngài một mình gánh chịu, quyết không liên lụy đến người khác.

Phùng Quý không còn cách nào khác, đắn đo một lúc, cuối cùng vẫn chầm chậm bước tới, nhưng thay vì đi về phía Phù Thúy viện, hắn lại tiến đến gần Tống Hành, thân thể co quắp, dùng hết dũng khí để khuyên nhủ: “Gia chủ e là đã giận quá rồi, các nàng sao dám có gan lớn như vậy, còn có thủ đoạn để giúp Dương nương tử tránh khỏi ánh mắt của Giang Nghiên, lặng lẽ ra khỏi phủ, rồi thoát khỏi thành?”

Ngày Trùng Cửu, trốn tránh thị vệ, rời khỏi phủ, rồi ra khỏi thành.

Những manh mối đó nối liền trong tâm trí của Tống Hành, như sợi chỉ dẫn đến chân tướng: thị vệ và người trong viện Phù Thúy bị chuốc mê bằng rượu thù du, Dương Sở Âm giả trang để lừa gạt họ, tìm cách rời phủ, rồi dùng giấy thông hành thoát khỏi thành.

Mê dược, đồ cải trang, và giấy thông hành. Đối với một nữ lang đơn độc như nàng, việc sắp đặt những thứ ấy dưới mắt thị vệ và đám Lưu mụ thực là gian truân, làm sao nàng xoay xở nổi một mình?

Rõ ràng là có kẻ đứng đằng sau hỗ trợ.

Trong phủ, người có khả năng giúp nàng chỉ có thể là Tam lang hoặc a bà mà thôi.

A bà luôn tôn trọng hắn, dù làm gì cũng đều thương lượng trước với hắn, nhất định sẽ không làm chuyện độc đoán này.

Nhưng Tam lang thì ngược lại, vì một người đã khuất mà xem Dương Sở Âm như muội muội, đã thế còn từng vì nàng mà dám cả gan chống đối hắn.

“Có khi nào nàng nói chuyện riêng với Tam lang không?” Tống Hành nén giận, hỏi.

Phùng Quý nghe vậy lắc nhẹ đầu, cau mày nhỏ giọng đáp: “E rằng không có. Chỉ nhớ vào ngày thứ hai sau khi về phủ, Tổ nương tử từng sai người mời Dương nương tử đến phòng của nàng. Theo lời của Quất Bạch, nương tử chỉ ngồi chưa đến một khắc thì Tam lang quân về đến nơi, rồi cũng bước vào, sau đó nói gì thì Quất Bạch không rõ, vì nàng ấy đứng hầu bên hiên, không thể nghe thấy.”

Tam lang, quả nhiên đứa em trai ruột cùng chung chí hướng, chí tình chí nghĩa của hắn.

Tống Hành tức giận, rút kiếm cắm sâu vào đất, cởi bỏ khôi giáp, để lộ bộ trường bào đen tuyền, xoay người, định thân chinh tìm gặp Tống Duật.

May sao Tiết phu nhân tính tình cẩn trọng, đã sớm dự liệu trước nên phái người đến trước Thối Hàn cư canh chừng.

Tỳ nữ tên Hoàng Nhụy thấy Tống Hành khí thế bừng bừng, tức giận rảo bước xuống con đường lát đá bên dưới hòn giả sơn, nàng đang kinh ngạc vì gia chủ tắm rửa quá nhanh thì bên kia, chân hắn thoăn thoắt như cưỡi lên cơn gió, nhoáng cái đã đến bậc đá dưới cùng.

Hoàng Nhụy thu lại suy nghĩ, vội vàng tiến lên nghênh đón, lấy hết can đảm nhẹ giọng nói: “Hồi bẩm gia chủ, Thái phu nhân thỉnh ngài tắm rửa thay y phục xong thì qua đó một chuyến.”

Tống Hành mắt đầy lửa giận, nhìn thẳng về phía trước, dù biết nàng là người thân cận bên cạnh Tiết phu nhân thì vẫn không hề nể nang, lạnh nhạt nói: “Không đi, cút!”
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 62: Thành Cẩm Quan



Gió thổi nhẹ ngang qua, nhưng không hiểu sao lại khiến cho người ta toát mồ hôi lạnh.

Hoàng Nhụy vốn tính thật thà, tuy rằng hiện giờ bị thần sắc đáng sợ của Tống Hành làm cho kinh hãi, nhưng lệnh của chủ tử lại không thể không nghe.

Nàng nắm chặt tay áo, do dự muốn tiến lên nhắc lại một lần nữa rằng Thái phu nhân dặn ngài phải sang đó ngay, thì Phùng Quý bỗng nhìn sang, ra sức nháy mắt, vụng trộm chỉ về phía Tống Hành, rồi lại giơ ba ngón tay, ra hiệu cho nàng nhanh chóng quay lại Thúy Trúc cư để báo tin cho Tiết phu nhân.

Người hầu ở Thúy Trúc cư nào có ai ngu dốt, Hoàng Nhụy lập tức hiểu ý Phùng Quý đang nói về Tam lang quân, không dám chậm trễ, liền quay ngoắt đi tìm Tiết phu nhân báo tin.

Tiết phu nhân vẫn giấu chuyện Tống Hành về Thái Nguyên với Tống Duật, nên sáng ấy Tống Duật vẫn đến quan thự làm việc như thường lệ.

Thế nhưng, thanh thế khi quân Hà Đông khải hoàn lớn biết nhường nào, khó mà ém nhẹm lâu. Quân Hà Đông vừa đi qua cổng thành thì tin tức đã truyền đến quan thự.

Tống Duật vừa nghe, đã vội vã rời quan thự, vừa ra đến cửa thì đã thấy một bóng người từ sau tượng sư tử đá chặn đường hắn, khẩn khoản thưa chuyện: “Hồi bẩm Tam lang quân, Thái phu nhân có lệnh, dặn ngài mấy hôm tới tuyệt đối đừng về phủ, cứ ở lại khách xá trong thành mà nghỉ ngơi, việc ở quan thự cũng tạm gác lại, không cần quản đến nữa.”

Tống Duật nghe xong, mặt không đổi sắc, điềm nhiên hỏi lại: “Tấn vương hồi phủ rồi sao?”

Vừa dứt lời, hắn chợt nhận ra bản thân đang hỏi một câu dư thừa.

A bà đã tự mình sai người đến tìm hắn, không cho hắn về phủ, chắc chắn là Nhị huynh đã biết chuyện Dương nương tử trốn đi rồi nổi giận đùng đùng. Cho dù a bà ra mặt cũng chưa chắc đã có thể dàn xếp ổn thỏa chuyện này chỉ trong chốc lát, do vậy mới tính đến việc để hắn lánh tạm bên ngoài, tránh khỏi đầu sóng ngọn gió.

Nhị huynh từng đánh chết tiểu tư hầu cận bên cạnh thúc phụ, cơn giận lần này e rằng cũng không thua kém lần trước là bao. Nếu hắn co cổ rụt đầu, phó mặc sinh tử cho Lưu mụ và Giang Nghiên tự mình xoay xở thì hắn sẽ thành hạng người nào?

Tống Duật không thèm để ý đến tiểu tư đang im lặng đứng đó, xoay người bước vội về chuồng ngựa, tự mình dắt ngựa ra, bất chấp sự can ngăn của tiểu tư, hắn vung roi, thúc ngựa phi nhanh về hướng Tống phủ.

Nội trạch Tống phủ.

Tống Hành sải bước lớn tới viện của Tống Duật, tìm mãi không thấy, nắm chặt tay định ra khỏi phủ đến quan thự tìm em trai, may sao Tiết phu nhân kịp chặn lại ở cửa nhị môn.

Người cháu mà bà tự hào nhất những năm qua nay lại phát cuồng vì một tiểu nữ lang. Tiết phu nhân rũ mắt thở dài một tiếng, nghiêng đầu ra hiệu cho Sơ Vũ, Sơ Vũ lập tức hiểu ý, dẫn mọi người lui ra ba trượng.

Chỉ vẻn vẹn trong mấy mươi nhịp thở sau đó, đình viện trống trải chỉ mỗi tổ tôn hai người.

Trong con mắt đục ngầu của Tiết phu nhân thoáng qua vẻ thất vọng, bà cao giọng chất vấn hắn: “Nhị lang, cháu tính làm gì đây? Tam lang là em trai ruột cùng một mẹ với cháu, cháu định vì một nữ lang mà mà gây chuyện bất nhã, khiến Tống phủ thành trò cười cho thiên hạ hay sao?”

Bà ngừng lại, đổi giọng nghiêm nghị: “Cháu đừng quên, cháu biểu tượng của vạn hộ phương bắc, là tam trấn Tiết độ sứ, bảo vệ bình an của tất cả bọn họ.”

Trên đời này, người mà Tống Hành thật lòng kính trọng, ngoài song thân đã qua đời của hắn thì chỉ còn mỗi mình Tiết phu nhân mà thôi.

Tuy hiểu rõ không được hành xử l* m*ng trước mặt bà nhưng cơn giận trong lồng ngực như ngọn lửa thiêu đốt lý trí hắn, khiến hắn luôn phải cố gắng hết sức để không nói gì mạo phạm đến Tiết phu nhân.

Tống Hành siết tay thành quyền, gần như nghiến răng mà nói: “A bà, hắn đã thả Dương Sở Âm đi… Nếu hắn coi ta là anh thì nỡ nào lại làm tổn thương ta đến thế!”

Vì một nữ tử họ Dương, hắn đã nghi ngờ người em trai ruột từng theo hắn vào sinh ra tử, không hề suy xét xem bản thân đã sai ở đâu, thật khiến lòng người lạnh giá.

Tiết phu nhân thấy hắn mê muội đến vậy, không nén nổi tiếng thở dài, chống gậy đập mạnh ba lần lên phiến đá dưới chân, cau mày trách mắng: “Nhị lang, cháu thật sự chỉ xem Dương thị là đồ chơi thôi sao? Nếu lão thân biết cháu bị nàng mê hoặc đến mức này, không cần Tam lang nhúng tay, lão thân cũng sẽ tìm cách đưa nàng rời đi, tự tay chặt đứt mối nghiệt duyên ấy.”

Hắn đối với nàng, là thế nào? Tống Hành không ngừng tự hỏi.

Hắn thật chỉ xem nàng là đồ chơi thật sao? Nhưng nếu chỉ là đồ chơi thì sao hắn lại sinh ra nhiều oán hận và căm phẫn như thế này? Rõ ràng khi còn nhỏ, dù Tam lang làm hỏng hay làm mất những món đồ mà hắn yêu thích, hắn cùng lắm chỉ trách mắng vài câu, tuyệt đối sẽ không vì chuyện nhỏ nhặt này mà nảy sinh hiềm khích với Tam lang.

Nhưng nếu bảo hắn thích nàng, yêu nàng, thì lại quá nực cười. Người thành đại nghiệp đâu thể để lòng vướng víu chuyện tình cảm. Yêu sao? Trong lòng hắn, chỉ có chí hướng lớn lao, chẳng nhẽ lại chia sẻ cho một nữ lang nhỏ bé. Hắn không cho phép mình có loại cảm xúc này, càng không cho phép nó trở thành nhược điểm của mình.

Tâm tư rối bời, cơn đau đầu lại ập đến, Tống Hành đau khổ đấm vào trán mình để giảm bớt cảm giác khó có thể chịu được kia.

Tiết phu nhân thấy hắn đã bình tĩnh hơn, cũng yên lòng đôi phần, hơi dãn chân mày, lại khuyên nhủ: “Tam lang vốn là người trọng tình trọng nghĩa, trước kia Dương Duyên vì cứu Tam lang mà bỏ mạng, trước lúc lâm chung còn tự mình gửi gắm Dương thị cho Tam lang chăm sóc, Tam lang vẫn luôn cảm thấy áy náy với huynh trưởng của nàng, dĩ nhiên không thể trơ mắt nhìn nàng bị cháu c**ng b*c. Nói đi cũng phải nói lại, Dương thị một mặt đáp ứng cháu, một mặt lại toan tính bỏ đi, phản trắc khó bỏ, tâm địa khó lường, sao cháu có thể để nàng trở thành người bên gối? Nàng đã bỏ đi rồi, chi bằng cứ để nàng tự do, không cần làm rùm beng lên làm gì. Còn về đám người ở Phù Thúy viện, đã chẳng liên quan gì, Nhị lang cứ coi là tích phúc cho a bà, đừng làm khó họ thêm nữa.”

Nếu đổi sang chuyện khác, có lẽ hắn sẽ nghe theo lời Tiết phu nhân, nhưng riêng chuyện buông tha Dương Sở Âm, thì hắn nhất quyết không thể.

Nàng đã ba lần bảy lượt trêu chọc hắn, dắt hắn xoay vòng trong lòng bàn tay, phạm phải tội nghiệt tày đình, tuyệt đối không thể dung thứ.

Tống Hành mặt mày u ám, tạm thời chôn giấu nỗi hận trong lòng, trở về với giọng điệu đạm mạc như thường: “Nếu a bà đã nói thế, mỗ đương nhiên sẽ khoan dung, tính mệnh người ở viện Phù Thúy mỗ sẽ không động đến nữa.”

Tiết phu nhân nghe xong lời ấy, trái tim vốn đang treo lơ lửng giờ mới dần yên ổn, nhẹ gật đầu, ôn tồn hỏi hắn lần xuất chinh lần này có bị thương hay không.

Bị thương sao, chẳng nhẽ lại không có? Đất Thục dễ thủ khó công, tướng sĩ thủ thành cũng không thiếu những kẻ dũng mãnh. Trên vai và cánh tay hắn lại có thêm vài vết thương mới, trong đó có một vết đao thương nghiêm trọng đến độ kéo dài gần nửa tấm lưng.

Mùa đông vết thương khó lành, lại thêm việc không thể thay thuốc kịp thời, vết thương cứ chảy máu rồi lại đóng vảy, mãi đến khi trời ấm lên mới dần có chuyển biến, để lại một vết sẹo xấu xí.

Khi vết sẹo ấy thành hình, hắn từng tưởng tượng rằng, lúc khải hoàn về, nàng sẽ dịu dàng như lần đầu gọi hắn là “Quỳ Ngưu Nô”, hỏi rằng vết sẹo ấy còn đau không.

Nay ngẫm lại, mọi thứ thật nực cười.

Hắn vì một nữ gian không tim không phổi mà đau đáu trong lòng, ngóng đợi nàng như chó đợi chủ, chỉ mong khi quay về có thể thấy được vẻ mặt hòa nhã, nghe được đôi lời an ủi thốt ra từ nàng.

“Không có gì đáng ngại, a bà yên tâm.” Tống Hành nói xong, định gọi người đưa Tiết phu nhân về, rồi sai Trình Diễm mang ngư phù của hắn đi đi khắp nơi phát lệnh truy nã.

Đang sắp mở miệng thì đã thấy Tống Duật người mướt mồ hôi đi vào cửa viện, ánh mắt hai người chạm nhau, Tống Duật nhanh hơn một bước, chắp tay trước ngực thi lễ với Tiết phu nhân: “Cháu có vài lời muốn nói riêng với Nhị lang, nếu a bà không còn chuyện gì thì có thể về trước được không ạ?”

Thấy Tống Hành đã tỉnh táo trở lại, Tiết phu nhân cũng không nghi ngờ, dặn dò hai người vài câu xong thì chống quải trượng khoan thai rời khỏi viện, gọi đám Sơ Vũ đi theo.

Từ nhỏ Tống Duật đã vô cùng e sợ vị huynh trưởng này, nhưng lần này, hắn tin rằng mình đã làm đúng, nên khi đứng trước mặt Nhị huynh, hắn thể hiện một thái độ bình thản và cương trực hiếm thấy, ung dung nói: “Chuyện Dương nương tử rời phủ là do một mình đệ sắp đặt, nếu Nhị huynh có trách phạt thì cứ nhắm vào đệ, đừng liên lụy đến người khác.”

Tống Hành coi như không nghe thấy, mặt mày vô cảm hỏi thẳng vấn đề mà hắn quan tâm: “Giấy thông hành ghi nơi nào?”

Hắn đoán được có lẽ Tống Duật đã đưa cho nàng một giấy thông hành trắng, nhưng lúc này hắn sốt ruột muốn tìm nàng, dù câu hỏi có chút thừa thãi thì hắn vẫn ôm một tia hy vọng mong manh, buột miệng hỏi.

Tống Duật điềm tĩnh đáp: “Không ghi rõ, đệ cũng không biết nàng đã đi đâu.”

Giữa không trung bỗng nhiên nổi lên trận gió mạnh, cuốn áo bào hai người bay phiêu diêu, tiếng gió lùa vào tai rít lên u u, lẫn cũng âm thanh trầm đục của những thân trúc gầy guộc đang xoắn lấy nhau.

Tống Hành trong gió giơ tay lên, nhưng không đánh vào mặt Tống Duật mà nắm chặt lấy vai hắn, lạnh lùng cười khẩy, môi mỏng khẽ nhếch: “Tam lang, Tống Duật, ngươi đúng là đứa em tốt của ta… Ngươi nghĩ rằng, việc này có thể giúp nàng thoát khỏi bể khổ sao? Để ta cho ngươi biết, ngươi có cách để nàng trốn đi, thì ta cũng có cách tìm nàng về. Đến khi nàng quay về bên ta, nhờ ơn huệ ngươi ban, ta sẽ để nàng hiểu thế nào là sống không được, chết cũng không xong. Bài vị của huynh trưởng nàng vẫn được thờ phụng trong Tam Thanh quan, khi ấy, ta sẽ đem bài vị của hắn về, để hắn tận mắt chứng kiến tiểu muội hắn bị ta thu phục.”

Lời lẽ điên cuồng của hắn khiến Tống Duật ngây người, đôi mắt nhìn hắn như nhìn kẻ điên, hồi lâu không thốt nên lời, chỉ có thể nhìn hắn với ánh mắt kinh ngạc, khó khăn thốt lên mấy chữ: “Nhị huynh, huynh điên rồi…”

Câu nói nhẹ bẫng ấy, căn bản không đủ sức tác động.

Ngay lúc này, Tống Hành hơi cúi đầu xuống, nhưng vẫn cao hơn Tống Duật một cái đầu, hắn thản nhiên phủi bụi trên vai áo em trai, nhìn thẳng vào mắt y, giọng điệu lạnh lẽo: “Người điên không phải là ta, mà là Tam lang ngươi. Nếu ngươi không điên, sao lại ngây thơ đến mức dám cả gan giúp người thiếp chưa qua cửa của ta bỏ trốn! Dương Sở Âm và những vật ngươi từng làm mất hồi nhỏ không giống nhau, ngươi không nên động vào nàng. Nếu không phải nể mặt mẫu thân và a bà, ngươi tưởng ta sẽ bỏ qua cho ngươi dễ thế sao?”

Khoảnh khắc ấy, Tống Duật như bị kéo trở lại ký ức ngày bé, trở lại cảm giác sợ hãi khi bị hắn chi phối.

Khi ấy hắn chỉ mười bốn, mười lăm tuổi, nhưng khí thế đã mạnh mẽ bức người, thân hình cao lớn, nổi trội hơn cả những người đồng trang lứa. Nhũ danh của hắn là Quỳ Ngưu Nô, nhưng từ khi hắn thể hiện rõ không thích cái tên này, không còn ai dám gọi hắn như vậy, ngay cả a bà cũng không ngoại lệ.

Vệ Tuân và Trình Diễm đều sợ hắn, Tống Duật cũng vậy, ngay cả phụ thân cũng nhìn hắn bằng ánh mắt khác, nói hắn thanh xuất ư lam. [1]

[1]

Cuối cùng tay vẫn không thắng được đùi, [2] hắn sao có thể địch nổi Nhị huynh. Tống Duật có phần nhụt chí, rũ mắt không dám nhìn lên, hai tay siết chặt phát run, hắn mấp máy môi hỏi thử: “Dương nương tử liên tiếp mất cha mẹ và huynh trưởng, cuộc đời nàng đã đủ khổ lắm rồi. Nhị huynh đã nương tay với ta thì cớ gì lại không tha cho nàng?”

[2]

“Ngươi là thứ tử của cha nương, là thứ tôn của ông bà, nàng là thứ gì! Có xứng để ta phải dung tha? Người nợ mạng của huynh trưởng nàng là ngươi, không phải ta. Về sau Tam lang nhớ kỹ, đừng nhắc đến chuyện nàng là em gái ân nhân cứu mạng của ngươi ra trước mặt ta, vọng tưởng sẽ khiến ta mềm lòng với nàng.”

Tống Hành nghiến răng, nhấn mạnh từng chữ “thứ gì”, đủ để thấy nỗi căm hận trong lòng hắn sâu đến nhường nào.

Lúc này hắn đã giận đến mất trí, lời lẽ cay nghiệt đến khó nghe. Tống Duật nghe xong, không muối đôi co gì thêm, chỉ mong Dương nương tử có thể an toàn, mai danh ẩn tích giữa biển người vạn dặm.

Ngày tháng qua đi, Nhị huynh ắt hẳn sẽ dần quên nàng.

Tự trấn an mình xong, Tống Duật lặng lẽ rời đi, trở về phòng.

Ngoài miệng Tống Hành nói sẽ bỏ qua, tuy không đụng đòn roi nhưng thủ đoạn giết người không dao thì không thể thiếu. Chỉ trong hai ngày ngắn ngủi, toàn bộ binh quyền và chức vị của Tống Duật đều bị hắn thu hồi, để lại một chức quan nhàn tản, hữu danh vô thực.

Biện Châu.

Thẩm Kính An không phụ sự kỳ vọng của Giang Tiều, liên tiếp hạ được hai trấn Tuyên Hấp và Trấn Hải, thắng trận trở về.

Trên Minh Đường, Giang Tiều luận công ban thưởng, phong Thẩm Kính An làm Vũ An hầu.

Cuối buổi triều, Giang Tiều giữ Thẩm Kính An lại hỏi chuyện, chuẩn y được nghỉ ba ngày.

Thẩm Kính An không thích ồn ào, không muốn mở tiệc chúc mừng, lập tức trở về phủ thay thường phục, cưỡi ngựa đến biệt phủ.

Khi y đến nơi, Lý Lệnh Nghi đã làm xong công khóa, đang ngồi dưới giàn hoa pha trà.

Thẩm Kính An ôm quyền thi lễ, Lý Lệnh Nghi đứng lên đáp lễ, vừa thả bột trà vào nước sôi, vừa hỏi y lần xuất chinh này có thuận lợi không, có bị thương chỗ nào không.

Giọng nói thanh thoát của nữ lang vừa rơi xuống, vết thương cũ trên vai Thẩm Kính An bỗng nhói lên, trái tim không khỏi đập nhanh hơn, bèn giả vờ trấn tĩnh đáp: “Mọi chuyện đều thuận lợi. Chỉ là trên chiến trường đầy đao kiếm không có mắt, tránh sao khỏi chút thương tích ngoài da, nay đã ổn rồi, làm phiền công chúa phải bận tâm.”

Nghe vậy, Lý Lệnh Nghi chỉ khẽ gật đầu, “Không sao là tốt rồi.”

Nói đoạn, nước sôi lại nổi lên, Lý Lệnh Nghi cho thêm nửa gáo nước suối vào, mỉm cười mời: “Đây là Hoàng Nha [3] ở Thọ Châu ta mang về, lang quân ngồi xuống thưởng một chén xem sao.”

[3]

“Được.” Thẩm Kính An không chút do dự, như sợ nàng đổi ý, vội lấy chén trà ra, cẩn thận nâng trong tay đợi trà được hãm xong.

Thấy vậy, Lý Lệnh Nghi không nhịn được cười, trêu chọc y ngốc nghếch, “Lang quân cứ cầm mãi thế này, chẳng may bị phỏng thì làm sao, cứ để chén xuống, ta sẽ rót cho.”

Dù đã ngoài ba mươi, nhưng nghe nàng nói vậy, Thẩm Kính An vẫn thấy tai mình nóng lên, đặt chén trà xuống, an tĩnh chờ đợi.

Chẳng bao lâu, trà đã được chuẩn bị xong, Lý Lệnh Nghi rót hai chén, Thẩm Kính An nâng chén của mình lên, từ tốn nhấp vài ngụm, lại hỏi: “Công chúa định khi nào sẽ trở về Tuyên Châu?”

“Ta ở đây làm phiền đã lâu, dĩ nhiên càng sớm càng tốt.”

Thẩm Kính An muốn nói rằng nàng không hề quấy rầy, muốn nàng lưu lại lâu hơn, nhưng sợ lời nói ra quá phận, đành nuốt xuống, dịu giọng đáp: “Giấy thông hành và xe ngựa cần thêm đôi ba ngày để chuẩn bị, công chúa cứ yên tâm ở lại đây thêm ít ngày nữa.”

Nghe vậy, Lý Lệnh Nghi khẽ mỉm cười, thành tâm cảm tạ: “Vậy phiền lang quân phải bận tâm rồi.”

Nhịp tim càng thêm mãnh liệt, Thẩm Kính An siết chặt chén trà trong tay, khóe môi khẽ cong lên, đáp: “Công chúa đã có ơn với mỗ, sao cần phải khách sáo như vậy. Mùa thu năm ngoái, công chúa đã đi bờ sông Biện ngắm trăng chưa?”

“Dĩ nhiên là có.” Lý Lệnh Nghi nhớ tới đèn hoa do chính tay y làm, liền nói: “Đèn hoa mà lang quân tặng, ta rất thích, cảm ơn ngài.”

Thẩm Kính An vốn kiệm lời, nắm được chủ đề liền tiếp tục: “Công chúa thích là tốt rồi. Nếu có dịp gặp lại, mỗ sẽ làm thêm nhiều loại đèn hoa khác.”

Lý Lệnh Nghi nhẹ gật đầu: “Tuyên Châu và Biện Châu đều là đất của nước Ngụy, sau này nhất định sẽ còn gặp lại.”

Còn có thể gặp lại. Thẩm Kính An không ngừng lặp lại câu nói của nàng trong đầu, một mặt nén chặt niềm vui trong lòng, một mặt vẫn giữ vẻ thong dong, ngỏ lời mời dưới tư cách một người bạn: “Thánh nhân đã chẩn cho mỗ được nghỉ ba ngày, ngày mai mỗ muốn mời công chúa đi dạo trên sông Biện ngắm cảnh, công chúa thấy thế nào?”

Lý Lệnh Nghi vẫn ngầm tán thưởng phẩm hạnh của Thẩm Kính An, xem y là quân tử đoan chính, nên không nghĩ ngợi nhiều mà đồng ý ngay.

Trong lòng bàn tay, mồ hôi dần ướt đẫm, khiến chén trà cũng trở nên trơn trượt, Thẩm Kính An khẽ ho một tiếng, cố giấu niềm vui và nụ cười nơi khóe miệng, đặt chén trà xuống rồi làm như vô tình nói: “Mặt trời lên cao rồi, công chúa đứng dưới nắng lâu sẽ nhức đầu mất, nên vào trong phòng ngồi nghỉ thôi. Giờ Thìn ngày mai, mỗ sẽ phái người tới đón công chúa.”

“Được.” Lý Lệnh Nghi cười dịu dàng, thanh âm nhẹ như làn gió xuân.

Thẩm Kính An không nán lại lâu, sau khi dùng xong trà, y cáo từ rồi rời khỏi biệt viện, cưỡi ngựa hồi phủ.

Vừa xuống ngựa, đã có tiểu tư tiến lên nghênh đón.

Thẩm Kính An giao ngựa cho hắn dắt vào chuồng.

“Gia chủ, mấy hôm trước phía Thái Nguyên đã gửi tin đến.”

Thẩm Kính An vội vã cầm lấy phong thư, nắm chặt trong tay, sải bước nhanh về phòng chính.

Sau khi gỡ dấu niêm phong, y lấy lá thư bên trong mở ra xem.

Không ngờ lại là người đã đón nàng đi là người của Tống phủ.

Hồi tưởng lại những ngày ở Tấn Châu, nàng và Tam lang đều còn nhỏ, chưa đến mười tuổi, nhưng đã học được cách nhìn sắc mặt người khác để hành xử, cẩn trọng mọi bề. Tam lang là nam nhi, vẫn còn đỡ hơn đôi chút, nhưng Nhị nương tính tình trầm mặc, ít khi thổ lộ, dù chịu ấm ức trong phủ cũng chỉ biết giấu kín trong lòng.

Y được phụ thân nhận nuôi, từ khi người qua đời, ở quý phủ cũng thấp cổ bé họng, không giúp được gì cho a tỷ góa bụa và hai đứa con nhỏ về nương nhờ của nàng. Y không có tài văn chương, nhưng biết công phu quyền cước, vậy nên y tòng quân, mong rằng nhờ công trạng mà kiếm được một chức quan, trở thành chỗ dựa cho cho a tỷ, Nhị nương và Tam lang. Nào ngờ, từ lúc ly biệt đó, y chưa từng gặp lại a tỷ lần nào nữa.

Nếu không vì gia nhập Tuyên Võ quân, nhờ chiến công lọt vào mắt Thánh nhân, nắm trong tay chút quyền hành thì có khi y cũng không thể nào lần theo dấu vết của a tỷ sau khi người rời khỏi Tấn Châu, nói chi đến việc dò la tung tích của Nhị nương.

Tống Duật. Thẩm Kính An trước giờ chưa từng điều tra kỹ về con người này, nhưng nay hắn đã có liên hệ với Nhị nương, không thể không phái người dò hỏi một phen.

Nếu Nhị nương còn ở trong phủ của hắn, tất nhiên y sẽ đưa nàng về.

Sáng hôm sau, Thẩm Kính An và Lý Lệnh Nghi cùng ngồi thuyền du ngoạn trên sông Biện; qua một ngày nữa, mọi việc đều đã thu xếp ổn thỏa, Thẩm Kính An đích thân tiễn Lý Lệnh Nghi rời thành.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, thoáng chốc đã đến giữa hạ, tháng năm. Lý Lệnh Nghi ngồi xe ngựa đến Tuyên Châu, tiếp tục việc tu đạo trên núi Kính Đình.

Phía tây nam của thành Cẩm Quan, giữa hai hàng cây xum xuê tươi tốt.

Thi Yến Vi thuê một ngôi nhà cũ ở Hoán Hoa Khê, thuộc phường Bích Kê với giá tám quan tiền, cách tòa Ngâm Thi Lâu mà tài nữ Tiết Đào của triều trước lập ra chỉ khoảng hai khắc đi bộ.

Tiết Đào vốn người Trường An, về sau gia đạo sa sút, nàng theo cha đến tá túc tại thành Cẩm Quan. Dù sau này bất hạnh rơi vào chốn phong trần, nàng vẫn giữ trọn lòng son, không ngừng đạt được những thành tựu trong văn chương, nhờ đó mà được thoát tiện tịch. Thơ của nàng mang phong vị thanh nhã, hàm ý uyển chuyển, nổi danh thiên hạ, là một trong tứ đại tài nữ tiền triều. Do từng nhiều lần làm giáo thư cho các trấn Mạc Phủ, nên nàng còn được biết đến với danh hiệu “nữ giáo thư.” [4]

[4]

Thi Yến Vi nghe ngóng khắp nơi, cuối cùng tìm được mộ phần của Tiết Đào, sau khi cúng bái xong, nàng đi ra chợ để mua giấy Tiết Đào.

Nhân lúc trả tiền, Thi Yến Vi mở lời hỏi: “Xin hỏi nơi này có cần người làm giấy nữa không?”

Nếu có thể học được nghề này, sau này dù phải rời Cẩm Quan thành đến nơi khác, nàng cũng có thêm một lựa chọn làm kế sinh nhai, không đến mức miệng ăn núi lở.

Người kia nghe vậy liền đáp: “Tiểu lang quân muốn tìm việc sao? Giấy Tiết Đào này phải làm vào mùa hoa mộc phù dung, lúc này hoa còn chưa đơm nụ nên cũng chưa làm giấy được. Nếu tiểu lang quân muốn tìm việc thì phía trước có một tiệm vải đang thiếu người, chỉ là tiếc là họ thường chỉ tuyển nữ công thôi.”

Thi Yến Vi sực nhớ đến bức danh họa thời Thịnh Đường, người xe lụa và may vá đều là nữ lang những việc tinh tế thế này, quả là không thích hợp cho lang quân thô kệch. Tiệm vải chỉ nhận nữ công cũng là lẽ thường tình thôi.

Xung quanh nếu toàn là nữ nhân cùng làm việc với nàng thì Thi Yến Vi sẽ thấy yên tâm hơn.

Nghĩ vậy, bèn tiếp: “Mỗ có một tiểu muội đang cần tìm việc, phiền ngài chỉ cụ thể hơn được không.”

Người kia bản tính nhiệt tình, không nghi ngờ gì, liền cẩn thận chỉ đường cho nàng rồi mới nhận mấy đồng tiền nàng đưa, đếm lại, dặn dò nàng giữ kỹ tập giấy, chớ để quên mất.

Thi Yến Vi vừa đi vừa hỏi, chẳng bao lâu đã tìm đến được tiệm vải, nàng chưa vội vào ứng tuyển, mà trở về nhà viết lại những trải nghiệm hôm nay vào cuốn “Du ký Cẩm Quan” do chính nàng biên soạn.

Sáng sớm hôm sau, Thi Yến Vi mặc y phục nữ nhi, dùng hoàng phấn và than chì che đi dung mạo thực, rồi ngồi xe lừa đến tiệm vải đã trông thấy hôm trước.

Trước đây lúc ở Lạc Dương, từng có khoảng thời gian nàng bị Tống Hành nửa dụ dỗ, nửa ép buộc học cắt vải, may y phục với các bà mụ ở phòng châm tuyến nên dù không thể đảm đương những việc nặng nhọc như dệt vải, thì việc cầm kim khâu vá, thêu thùa, nàng vẫn có thể làm được.

Nữ thương của tiệm vải đưa nàng đến phòng may.

Việc may vá trả công theo từng món, thời gian làm việc cũng khá tự do, Thi Yến Vi tạm hài lòng với công việc này, liền hẹn với chưởng quầy năm ngày sau sẽ bắt tay làm việc.

Không vì lý do nào khác, chỉ bởi nàng muốn trong ngày hè này đến ngắm đập Đô Giang và núi Thanh Thành [5] nghìn năm trước. Vẫn nhớ kỳ nghỉ hè năm thứ hai đại học, nàng cùng Trần Nhượng từng đến thăm quan hai địa danh này. Không giống với hai lần đi cùng cha mẹ và bạn cùng phòng ký túc xá, có Trần Nhượng ở bên, tâm trạng khi ấy thật khác biệt.

[5]

Lúc này nàng đi một thân một mình, tâm cảnh e rằng cũng sẽ chẳng giống ba lần trước.

Thi Yến Vi bỗng thấy sống mũi cay xè, bèn lấy nghiên mực ra mài, hạ bút giãi bày nỗi lòng.

Hai ngày sau, Thi Yến Vi đã thăm xong đập Đô Giang, rồi tiếp tục hành trình lên núi Thanh Thành.

Từ chân núi nhìn lên, núi Thanh Thành này không khác biệt là bao so với khung cảnh ở thời không trước khi nàng xuyên đến, nhưng đường lên núi và kiến trúc trên ấy thì hoàn toàn khác biệt.

Trên núi có một đạo quán tên là Thường Đạo quan, khởi xây từ thời Đại Nghiệp nhà Tùy, danh tiếng lẫy lừng, khói hương rất thịnh.

Thi Yến Vi đặt chân lên bậc đá tiến vào, chắp tay cung kính vái lạy trước tượng thần, rồi tiến vào điện xin một quẻ.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 63: Trong giấc mộng



Trong chính điện, Thi Yến Vi học theo các thiện tín [1] khác, tay trái ở ngoài, tay phải ở trong, hành lễ ba vái chín lạy hướng về phía tượng thần, rồi cầm lấy ống thẻ mà lắc, rút ra một thẻ.

[1][1] thiện tín có nghĩa là niềm tin chí thành vào Phật pháp, hay chỉ chung cho người có niềm tin như vậy.

Tiện tay nhặt lấy một thẻ dài lên, hóa ra là một quẻ đại hung.

Thi Yến Vi biết rằng hy vọng trở về thời hiện đại của mình thật mong manh, nên sớm đã lường trước kết quả này. Nhưng khi hai chữ “hạ hạ” hiện lên trong tầm mắt, nàng vẫn không kìm được nỗi thất vọng.

Chậm rãi đứng dậy, nàng lấy tờ giấy giải thẻ, đặt thêm chút tiền nhang đèn, rồi đến nhờ đạo trưởng giải nghĩa.

Đạo trưởng nhìn qua thẻ văn, rồi hỏi: “Không biết thiện tín cầu gì?”

Việc xuyên qua thời không vốn là chuyện huyền ảo khó tin, Thi Yến Vi nhất thời không biết phải giải thích sao cho rõ ràng. Nàng nhíu mày, đắn đo một lúc, cuối cùng dùng phép ẩn dụ để giãy bày hoàn cảnh của mình: “Một giấc mộng dài, vô tình lạc vào cõi Hoè An; nguyện cầu tỉnh giấc, mong được về nhà.”

Nghe xong, đạo trưởng trầm ngâm một lát rồi dẫn nàng vào tĩnh thất. Ông chăm chú xem tướng mạo và đường chỉ tay của nàng, rồi hỏi thêm một số điều.

Thi Yến Vi lần lượt đáp, cũng nói ra ngày sinh tháng đẻ của mình ở hiện đại.

“Đã vào cõi Hoè An, sao không an tâm mà ở lại. Ngoài tổ kiến, mệnh đã tận, hà tất phải nhớ mãi. Tiên đạo quý ở sinh, vô lượng cứu người. Thiện tín có được thân thể này, đều là nhờ ba người hành thiện tích đức mà cầu xin, sao lại không biết quý trọng?” [2]

[2][2] Điển cố “Giấc mộng Hoè An” bắt nguồn từ truyện “Nam Kha Thái Thú Truyện” của tác giả Lý Công Tá thời Đường. Câu chuyện kể về một người tên Thuần Vu Phần, một lần say rượu dưới gốc cây hoè đã chìm vào giấc mộng dài. Trong giấc mộng, ông được dẫn đến vương quốc Hoè An, trải qua những vinh quang hiển hách: ông được vua Hoè An trọng dụng, phong làm thái thú Nam Kha, lấy công chúa làm vợ, có con cháu đầy đàn, và trải qua cuộc sống giàu sang phú quý.

Thế nhưng, hạnh phúc chẳng kéo dài lâu. Một ngày nọ, quân địch xâm chiếm vương quốc Hoè An, gia đình và sự nghiệp của Thuần Vu Phần đều tiêu tan. Ông tỉnh dậy và nhận ra rằng tất cả chỉ là một giấc mộng thoáng qua khi ông ngủ dưới gốc cây hoè, và dưới cành hòe phía nam chỉ có một tổ kiến mà thôi.

Ba người trong lời đạo trưởng nói, có phải là chỉ ba mẹ và Trần Nhượng không?

Sinh mệnh của nàng ở hiện đại đã chấm dứt, không còn đường quay về; việc nàng có thể mượn thân xác này tái sinh cũng là nhờ công đức cầu xin của cha mẹ và Trần Nhượng?

Mắt Thi Yến Vi liền đỏ hoe, nàng muốn hỏi thêm vài câu, nhưng đạo trưởng thấy thế chỉ hơi nhắm mắt và lắc đầu, ý bảo nàng đừng nên hỏi thêm nữa. “Tất cả những gì có thể nói, bần đạo đều đã nói, phần còn lại, xin thứ cho bần đạo vô năng vô lực. Thiện tín hãy quay về đi.”

Ngoài cửa sổ nổi lên một trận gió to làm cành lá trong đình đung đưa xào xạc, lá cây đập nhẹ trên song gỗ, sáng tối đan xen, thời gian như hoà quyện vào nhau.

Thi Yến Vi đứng dậy, nhìn về phía đạo trưởng, chắp tay thi lễ. Đạo trưởng cầm phất trần, chỉ thốt lên hai chữ: “Đi đi.”

Cõi lòng trăm ngả rối ren, Thi Yến Vi cố gắng để không bật khóc, im lặng bước ra khỏi tĩnh thất, đem tờ giấy giải thẻ đốt dưới ngọn nến rồi xuống núi.

Suốt quãng đường, nàng vừa đi vừa nghỉ, trong đầu vẫn còn văng vẳng lời nói của đạo trưởng, không dám nghĩ đến cảnh ba mẹ, bạn bè và Trần Nhượng sẽ đau lòng biết bao sau khi nàng qua đời ở kiếp trước.

Lúc đến trời tờ mờ sáng nhưng giờ thì đã gần giữa trưa, mặt trời chói chang nằm trên đỉnh đầu.

Ở đằng xa, bên ngoài căn nhà nhỏ, dưới mái che đặt ba chiếc bàn vuông cũ kỹ, một bà lão gần sáu mươi cầm quạt mo xua tan cái nóng, nghe tiếng nữ lang gọi, muốn ăn hai bát chè thạch, bà liền lững thững đứng dậy, đáp lời xong thì lấy chén trà tráng qua nước sôi, rót đầy hai chén trà lạnh.

Thi Yến Vi bụng đói cồn cào, nghe tiếng ấy, liếc nhìn qua rồi tiến lại, gọi một chén trà lạnh và món bánh ngọt quế hoa, ăn lót dạ trước.

Nữ lang tới trước nàng mới khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, bên cạnh còn có một cô bạn cùng tuổi, cả hai vui vẻ trò chuyện, kể nhau nghe những chuyện thú vị gần đây.

Thi Yến Vi trước nay quen nói tiếng Quan Thoại, giờ nghe được giọng quê hương thân thuộc thì bỗng có cảm giác cận hương tình khiếp. [3] Thế nhưng, nàng vẫn chưa thể nói lại giọng quê ngay, tựa hồ sợ người ta nhận ra chất giọng không thuần của thân thể này.

[3][3] cận hương tình khiếp: thành ngữ diễn tả cảm giác mâu thuẫn của một người khi trở về nơi chốn cũ: vừa phấn khởi, vừa sợ hãi, vì cảm thấy xa lạ.

Tiếng nói quê hương quanh quẩn bên tai, tâm trạng nàng dần ổn định lại.

Bất giác, nàng nhớ lại một cặp câu đồng nghĩa từng học thời trung học: “An chi nhược tố, tùy ngộ nhi an”. [4]

[4][4] An chi nhược tố, tùy ngộ nhi an: thành ngữ Trung Quốc, thể hiện lối sống không để tâm trí bị dao động bởi ngoại cảnh, dù gặp điều bất như ý vẫn có thể giữ lòng bình thản, sống trong hoà bình và không để hoàn cảnh chi phối tâm hồn.

Giờ đây, điều nàng thiếu chính là hai loại tâm cảnh này.

Nếu đúng như lời đạo trưởng nói thì nàng đã qua đời ở hiện đại, sinh mệnh này là do ba mẹ và Trần Nhượng dốc lòng cầu khẩn mà có. Làm sao nàng có thể không quý trọng đây? Nàng mang theo tình yêu của ba người mà đặt chân lên mảnh đất cố thổ cách họ cả ngàn năm này, sao nỡ lòng phí hoài mạng sống?

Thi Yến Vi nhắm mắt, nhẩm đi nhẩm lại hai câu thành ngữ đó vài lần, cảm giác chua xót trong lòng dần thuyên giảm.

“Lấy thêm một bát chè thạch tới đây.” Bà lão đứng trước quầy, lớn tiếng gọi.

Thi Yến Vi sực tỉnh, biết bà đi đứng bất tiện, vội vàng bước tới đón lấy bát chè.

Gió trong rừng nhẹ nhàng thoáng qua, mang theo hơi lạnh, xua tan cái nóng hầm hập trên người.

Nàng múc một muỗng thạch cho vào miệng, thì nghe lang quân mặc áo viên lĩnh ở bàn bên cạnh cười nói: “Gió mát thổi tới thật thích quá.”

Nữ lang ngồi cạnh thấy vậy, đưa tay vỗ nhẹ vào cánh tay hắn, cười đáp: “Đồ ngốc.”

Thi Yến Vi nghe hai người trò chuyện, lơ đãng nhớ lại từng kỷ niệm với Trần Nhượng.

Ngày đầu tiên Trần Nhượng cõng nàng là khi hai người đi dạo trong viện bảo tàng suốt hai tiếng đồng hồ. Ra tới quảng trường lớn bên ngoài, Trần Nhượng phát hiện gót chân nàng hơi rộp lên, lập tức bảo nàng đứng trên bậc đá, dưới nắng gắt khăng khăng đòi cõng nàng.

Khi đó, Thi Yến Vi không lay chuyển được anh, thẹn thùng leo lên lưng anh. Trần Nhượng lại cố ý đùa nàng, giả vờ loạng choạng như mất thăng bằng, nói rằng nàng nặng quá.

Những ký ức ấy bỗng chốc hiện về, Thi Yến Vi ngước mắt nhìn đôi vợ chồng trẻ ở bàn bên, môi khẽ nhoẻn cười rồi từ tốn thưởng thức món chè thạch trong bát.

Một lát sau, trên đường mòn giữa rừng có một người bán hàng rong đi tới, thấy nàng đội mũ sa, trong tay không có quạt, liền bước tới, đặt quang gánh xuống, niềm nở hỏi: “Nữ lang có muốn mua quạt không? Rẻ nhưng bền lắm.”

Người kia có nước da đen bóng, dường như vì nắng gió dãi dầu, trên trán lấm tấm mồ hôi, theo má chảy dọc xuống cổ, nhìn qua đã thấy vất vả.

Thi Yến Vi nhã nhặn hỏi giá, người gánh hàng rong nói, loại không thêu năm văn một chiếc, loại thêu là hai mươi văn. Thấy chiếc lược gỗ bên cạnh đẹp mắt lại nhỏ gọn, dễ mang theo, nàng liền hỏi giá thì được báo là năm văn một chiếc.

Thi Yến Vi chọn một chiếc quạt tròn thêu cá chép vàng và chiếc lược nhỏ bằng gỗ chạm hoa, trả người bán rong hai mươi lăm văn, rồi đưa thêm bốn văn cho bã lão ở hàng nước, phe phẩy quạt tròn tiến về một khách đ**m cách đó chừng hai dặm.

Sáng sớm hôm sau, Thi Yến Vi trả tiền phòng, cưỡi ngựa rời khỏi núi Thanh Thành, trở lại Cẩm Quan thành, về đến nhà, nàng ghi chép những trải nghiệm trong ba bốn ngày qua ở Đô Giang Yển và núi Thanh Thành, chỉ riêng việc xin thẻ là được nàng lược qua.

“Kiện Vĩ Yển, [5] cách thành Cẩm Quan một trăm dặm về phía tây, nằm trên sông Mân, do Thái thú quận Thục nước Tần là Lý Băng khởi dựng nhằm tránh thiên tai lũ lụt và hạn hán, được con trai là Nhị lang hỗ trợ…”

[5][5] Kiện Vĩ Yển (Đập Kiện Vĩ) là tên gọi của Đô Giang Yển vào thời nhà Đường.

Thi Yến Vi viết gần nghìn chữ, đêm đã khuya, nàng đặt bút, lại lật xem bản thảo trước đó, quyết ý sẽ viết một tập riêng cho Tiết Đào, Hoa Nhụy phu nhân và các nữ thương.

Tiếng đánh canh của lính tuần đêm cũng vọng đến từ bên ngoài tường viện. Nàng thổi tắt ngọn nến, gối đầu đi vào giấc ngủ. Sáng tinh mơ liền thức dậy, rửa mặt chải tóc, mặc y phục chỉnh tề xong thì đến quán nhỏ đầu ngõ ăn một bát đậu hũ mặn, sau đó lên đường đến tiệm may.

Cứ thế ban ngày nàng may vá, đêm đến lại viết sách, lâu dần mắt không chịu nổi, nàng đành phải đến y quán, xin đơn thuốc dưỡng gan sáng mắt.

Công việc châm kim luồn chỉ này rất tổn thương thị lực, Thi Yến Vi cũng không muốn làm lâu, chỉ đợi thêm hai ba năm, khi Tống Hành đã quên hẳn mình đi, nàng sẽ mua một ngôi nhà nhỏ trong thành, dùng số tiền còn lại mua cửa tiệm ở vị trí thuận tiện, mở cửa hàng điểm tâm đồ ngọt. Nếu buôn bán không được, thì cùng lắm nàng sẽ cho thuê, vẫn tốt hơn ngồi chờ khánh kiệt.

Chớp mắt đã sang tháng sáu, trời sắp vào tiết nóng nực.

Tống Hành xử lý xong mọi việc ở Thái Nguyên phủ, có ý rời Tống phủ, đến Lạc Dương chuẩn bị cho việc đăng cơ.

Đêm trước khi lên đường, Tiết phu nhân gọi Tống Hành lại, căn dặn vài lời, rồi nhắc đến việc thành hôn lập hậu.

Lần này, Tống Hành lắng nghe lời dặn của bà một cách nghiêm túc, đáp rằng sau khi đăng cơ sẽ tổ chức cung yến, mời những nữ lang mà bà để mắt đến dự tiệc, khi ấy hãy xem xét cũng không muộn.

Suốt quá trình, Tiết phu nhân luôn chú ý quan sát sắc mặt hắn, khi nhắc đến chuyện lập hậu nạp phi, gương mặt hắn không lộ chút né tránh hay miễn cưỡng, dường như đã hoàn toàn buông bỏ nữ nhi họ Dương kia, lúc ấy bà mới nhẹ thở ra, nhắc tên vài nữ lang xuất thân sĩ tộc, tài sắc song toàn.

Tiết phu nhân gẩy chuỗi tràng hạt trong tay, vẻ mặt hiền từ mà nói: “Mai Nhị lang còn phải đến Lạc Dương, hãy trở về nghỉ ngơi sớm đi.”

Tống Hành đáp lời, lặng lẽ rời khỏi Thúy Trúc cư.

Phùng Quý không đoán được tâm trạng hôm nay của ngài đang thế nào, nhưng vì ngài không mở miệng nên hắn cũng không dám nói nhiều, chỉ lặng lẽ theo sau, trong lòng âm thầm cảm thán.

Từ khi Dương nương tử rời đi, gia chủ gần như chẳng cười lấy một lần. Trừ lúc ra quan phủ hay quân doanh, ngài ở phủ càng lúc càng lầm lì ít nói.

Không ai dám nhắc sáu chữ “Phù Thúy viện” và “Dương nương tử” trước mặt ngài, ngay cả Phùng Quý cũng thế.

Vậy nên, khi ngài men theo lối rẽ, đi về hướng Phù Thúy viện một cách vô thức, Phùng Quý cũng không dám hỏi dù chỉ một câu.

Tống Hành đẩy cửa bước vào.

Luyện Nhi ngồi một mình dưới giàn hoa tường vi, ngẩn người ngắm trăng, trong lòng nhớ đến Dương nương tử: không biết cuộc sống bên ngoài của nương tử thế nào rồi, liệu có tìm được chốn dung thân, lại thầm cầu mong nàng luôn bình an, ngàn vạn lần đừng để người mà gia chủ phái đi tìm được.

Trước cổng viễn chợt truyền tới tiếng bước chân nhỏ vụn, Luyện Nhi cả kinh nghiêng đầu nhìn sang thì thấy thân ảnh cao lớn của Tống Hành đập vào tầm mắt. Nàng sợ đến mức há hốc mồm, bàng hoàng đứng lên, vô thức quỳ xuống vái lạy: “Nô tỳ bái kiến gia chủ, gia chủ vạn phúc.”

Thanh âm run rẩy của nữ lang lọt vào tai nhưng Tống Hành không thèm liếc mắt lấy một lần, sải bước tiến lên bậc thềm, bước vào trong phòng.

Phùng Quý nháy mắt ra hiệu, xua tay bảo nàng lui xuống, nơi này một mình hắn có thể lo liệu được.

Luyện Nhi hiểu ý, lập tức quay người đi vào phòng hạ nhân.

Phùng Quý thổi tắt đèn lồng, đặt lên bàn, rút hỏa chiết tử từ trong tay áo ra, đốt lên rồi thắp sáng từng ngọn đèn trong phòng.

Tròn một tháng, cuối cùng ngài vẫn không thể quên được Dương nương tử, một lần nữa đặt chân đến đây.

Phùng Quý khẽ thở dài, rón rén lui ra ngoài, đứng dưới hiên lặng lẽ chờ chủ.

Tống Hành đảo mắt nhìn quanh. Căn phòng này tuy không xa hoa lộng lẫy như căn phòng hắn tự mình sai người chuẩn bị cho nàng ở Lạc Dương, nhưng cũng là thứ mà sĩ tộc bình thường khó lòng với tới được, rốt cuộc nàng có gì bất mãn mà lại lần nữa phản bội hắn rời đi.

Dưới lớp tay áo rộng, Tống Hành nắm chặt thành quyền, mím đôi môi mỏng lại gần trước bàn trang điểm, chiếc lược bằng bạc mạ vàng vẫn còn sót lại mấy sợi tóc của nàng. Hắn nhặt lên, cẩn thận gói lại vào khăn, đặt trong tay áo.

Trong hộp trang điểm bằng gỗ đàn hương, lá bùa hộ thân hắn tự tay xin về cho nàng bị nàng tiện tay đặt chồng lên trâm cài, chẳng hề có ý trân trọng.

Tống Hành cầm lá bùa lên, cúi đầu nhìn hồi lâu, cười khẩy hai tiếng như tự chế giễu, bước đến bên đèn, đốt thành tro bụi.

Thứ vô tâm như nàng, nào xứng đáng với lá bùa mà hắn đã thành tâm cầu nguyện.

Chờ đến khi người mà hắn phái đi tìm được nàng về, hắn nhất định sẽ khiến nàng hối cũng không kịp, sống không được, chết không xong

Mùi giấy cháy bốc lên trong phòng, Phùng Quý khụt khịt mũi, hắt hơi một cái, nhớ đến chỗ giấy Dương nương tử dùng để luyện chữ còn lưu lại trong biệt viện hành sơn.

Vài ngày trước, người ở biệt viện có hỏi phải xử lý số giấy mực ấy thế nào, nhưng vì sợ hãi nên Phùng Quý vẫn chần chừ chưa dám hỏi, nay thấy người chủ động đến phòng của Dương nương tử, thật đúng lúc để hỏi xin ý kiến.

Một lúc lâu sau, Tống Hành bước ra khỏi phòng, y phục dưới thân có vẻ phồng hơn so với lúc tới, Phùng Quý không khỏi nhớ đến ngài từng cầm áo lót của Dương nương tử bước vào phòng tắm, hắn chợt hiểu ra nhưng lại vờ như không thấy gì cả, chuyển sang hỏi nên sắp xếp đống giấy mực của Dương nương tử ở biệt viện thế nào đây.

Giấy mực nàng để lại khi luyện chữ. Tống Hành như nghĩ đến điều gì, bất chợt nhíu mày, siết chặt món kha tử trong tay.

Trong thư phòng ở biệt viện hành sơn, những ngày tháng quấn quýt bên nàng cứ nối đuôi nhau, hiện lên rõ mồn một trong tâm trí hắn.

Đôi bông tai vàng nàng đeo, chiếc trâm gắn tua rủ trong tóc, ánh mắt long lanh, giọng nói thầm thì, tất cả đều đẹp đẽ rõ ràng.

Yến tiệc trên thuyền hoa năm ấy, khi hắn đến tìm nàng, nàng đã viết gì trên tờ Tuyết Lãng kia?

Tống Hành ngưng thần, cố gắng hồi tưởng.

Phải rồi, khi ấy nàng viết: “Hà đương cộng tiễn tây song chúc, khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì.”

Ba Sơn.

Tống Hành nhạy bén nắm lấy hai chữ tưởng như bình thường này, cố nén sự bồn chồn trong lòng, đem kha tử áp vào ngực áo, tập trung suy nghĩ.

Nếu người thường ngày nhớ đêm mơ, thì liệu có khi nào nàng cũng sẽ gửi gắm tâm tình nơi ngòi bút?

Tâm trạng Tống Hành bỗng nhiên bừng sáng, gần như không thể nhịn xuống cảm giác vui sướng lẫn kích động trong lòng, hắn bước nhanh hơn, như bay về phía chuồng ngựa, tự tay dắt ngựa ra.

Phùng Quý đi theo phía sau cũng không hiểu đã xảy ra chuyện gì, bị hành động bất thình lình này làm cho ngỡ ngàng.

Chỉ thấy Tống Hành nhảy lên lưng ngựa, giơ roi thúc ngựa phóng như bay về biệt viện hành sơn, Phùng Quý đuổi theo không kịp, bị bỏ lại một đoạn rất xa. Khi hắn đến căn phòng từng là nơi Dương nương tử cư ngụ thì thấy Tống Hành đã ngồi sẵn trên giường La Hán.

Chỉ một lúc sau, đã có hai tiểu tư vóc người cân xứng chuyển thùng bản thảo của Dương nương tử tới.

Phùng Quý nhìn chằm chằm vào chiếc hòm gỗ đỏ hồi lâu, vẫn chưa hiểu rõ ý định của gia chủ, mãi đến khi thấy ngài tiện tay cầm lên một xấp giấy dày lên, lật kỹ từng tờ, lúc này mới mơ hồ nhận ra đôi chút. Có lẽ ngài đang đang tìm kiếm thứ gì đó qua những câu chữ mà Dương nương tử đã viết chăng?

Từng hàng từng hàng chữ đập vào mắt Tống Hành, phần lớn đều là những câu thơ:

“Thừa tướng từ đường hà xứ tầm? Cẩm Quan thành ngoại bách sâm sâm.” [6]

[6][6] Hai câu trích trong bài: Thục tướng (Thừa tướng nước Thục) của Đỗ Phủ.

Bản dịch nghĩa: Tìm ở nơi nào thấy đền thờ của thừa tướng?/Chính là ở ngoài thành Cẩm Quan, nơi có hàng cây bách um tùm. (Nguồn
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 64: Công chúa Tuyên Thành



Thời gian cứ thế trôi qua, chớp mắt đã sang tháng bảy, hạ tàn thu đến. Qua tiết Xử Thử, thời tiết dần trở nên mát mẻ hơn. Thi Yến Vi nhân một ngày được nghỉ, tìm đến thôn Giang bên suối Hoán Hoa để dạo chơi.

Buổi sáng, vào lúc giờ Thìn một khắc, nàng cưỡi ngựa lên đường. Vì trời còn sớm, đường phố thưa thớt bóng người và ngựa xe. Nàng men theo bờ suối Hoán Hoa, vừa đi vừa hỏi đường, chừng khoảng hai khắc thì đến được thôn Giang.

Phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy trong thôn liễu rũ mơ màng, nước chảy dịu êm. Những bức tường trắng mái ngói xám lạnh nối liền nhau, lối mòn cắt ngang ruộng đồng. Trên đồng, lúa trổ một màu xanh mướt, khi gió thu khẽ lướt qua, sóng lúa dập dềnh phát ra tiếng rì rào, tạo nên khung cảnh nhàn nhã, yên ả.

Thi Yến Vi thong thả dạo bước, trong đầu hình dung ra mạch truyện sẽ viết ngày hôm nay. Chợt nàng nghe tiếng đàn ngân nga từ một lầu dài vọng lại.

Nàng khựng bước, theo tiếng đàn nhìn sang thì thấy một nữ nhân mặc tố y ngồi xếp bằng, ngón tay ngọc ngà lướt trên dây đàn, âm thanh uyển chuyển, da diết như lan tỏa từ đầu ngón tay nàng ta.

Khúc nhạc vừa dứt, Thi Yến Vi tựa như cảm nhận được tâm trạng u sầu của người tấu đàn, bèn cột ngựa vào cây liễu, bước tới hỏi khúc nhạc vừa rồi gọi là gì.

Nữ lang ngẩng đầu nhìn nàng, khẽ mở môi son, đáp rằng đó là khúc “Thục Quốc Huyền” từng được Tiết Đào tấu lên.

Nghe lời kể, Thi Yến Vi cẩn thận ghi nhớ, rồi khéo léo hỏi thêm vài chuyện khác. Hai người tuy chỉ sơ giao nhưng chuyện trò càng lâu càng trở nên thân mật. Chỉ một lúc sau, cả hai bắt đầu nói về những bước ngoặt trong cuộc đời mình.

Nữ lang kia tên là Vương Uẩn Nương bộc bạch câu chuyện đời mình bằng tất cả sự chân thành, trong khi Thi Yến Vi lại không thể nhắc đích danh Tống Hành trước mặt nàng ta. Nàng chỉ nhã nhặn kể lại rằng nàng từng bị một kẻ quyền quý giam cầm, may được quý nhân tương trợ, cuối cùng thoát khỏi tai ương.

Mải trò chuyện, trời đã sang giờ Ngọ. Qua lời kể, Thi Yến Vi hình dung ra thân thế của Vương Uẩn Nương, bất giác nhớ đến tỳ bà cơ dưới ngòi bút của Bạch Cư Dị. Tuy nàng không biết làm thơ, cũng chẳng tài hoa xuất chúng, nhưng nàng vẫn có thể dùng văn ngôn chất phác để viết lại câu chuyện mình nghe, biến con người và sự kiện ấy thành những dòng chữ hữu hình, lưu danh hậu thế.

Thi Yến Vi từ biệt Vương Uẩn Nương, tự mình tháo dây cương buộc ngựa, dắt ra khỏi thôn, trở lại con đường lớn thoáng rộng, rồi mới leo lên lưng ngựa, thúc ngựa về nhà.

Sau khi dùng cơm trưa, nàng hồi tưởng những câu chuyện Vương Uẩn Nương kể, cẩn thận sắp xếp ý tứ rồi cầm bút viết lên giấy. Nửa buổi chiều qua đi, câu chuyện về một nữ nhạc công đất Thục phiêu bạt khắp Trường An, Lạc Dương và thành Cẩm Quan hiện lên sống động dưới ngòi bút nàng.

Trong bài viết, Thi Yến Vi không quên ghi lại tên thật của nàng: Vương Uẩn, cùng với tài năng tuyệt diệu của nàng trong việc diễn tấu khúc “Thục Quốc Huyền”.

Sau khi hoàn thành bản thảo, tâm trí nàng chợt nhớ lại một nữ nhân khác được Vương Uẩn Nương nhắc đến.

Công chúa Tuyên Thành, Lý Lệnh Nghi.

Tính đến nay, đây đã là lần thứ ba Thi Yến Vi nghe người khác kể về nàng.

Dẫu có thân phận cao quý là một công chúa, nhưng đứng giữa thời cuộc rối ren, nàng cũng không thể tự định đoạt nhân duyên cho riêng mình.

Mười bốn năm trước, khi mới mười bảy tuổi, để tránh khỏi vận mệnh bị Thánh nhân chỉ hôn nhằm lung lạc quyền thần, nàng đã quyết liệt chọn con đường xuất gia, làm một đạo cô.

Thánh nhân biết chuyện, long nhan giận dữ, lập tức hạ chỉ buộc nàng hoàn tục. Công chúa Tuyên Thành kháng chỉ bất tuân, thẳng thừng nói: “Quan viên quyền quý khắp triều đình, nhà nào chẳng tam thê tứ thiếp? Cả đời không làm tân nương thì đã sao? Không bằng tự do tự tại, còn hơn bị làm bẩn tai mắt.”

Dứt lời, nàng định lao đầu vào cột để tỏ rõ chí mình.

May mắn thay, một cung nhân nhanh tay ngăn lại, sau đó tâu trình sự việc lên Thánh nhân. Vì đường con cái ít ỏi, mẹ công chúa lại qua đời từ sớm, trong lòng người không đành, rốt cuộc thu hồi ý chỉ, để mặc nàng xuất gia tu hành.

Năm ấy, Vương Uẩn Nương vừa tròn hai mươi tư, là một ca kỹ tại Giáo Phường Tư ở thành Trường An. Một lần nàng nghe các khách nhân bàn luận về chuyện này, cả sảnh đường cười ầm, công kích công chúa Tuyên Thành là nữ lang dị dạng, bởi ai nấy đều cho rằng đàn ông tam thê tứ thiếp vốn là lẽ thường tình, cớ sao nữ nhân dám lắm mồm chỉ trích? Nàng dù là công chúa, nhưng lại không có phẩm hạnh, không biết tam tòng tứ đức, thật làm ô uế hoàng thất.

Vương Uẩn Nương chẳng thể quên gương mặt xấu xí, đầy ác ý của những kẻ ấy. Chính từ ngày đó, nàng thề rằng cả đời sẽ không gả cho ai. Đến năm ba mươi bảy tuổi, rốt cuộc nàng cũng được thoát tịch, mang theo số bạc dành dụm suốt bao năm, một mình đến thôn Giang ở thành Cẩm Quan, dựng một ngôi nhà nhỏ để sinh sống.

Những câu chuyện về Vương Uẩn Nương và Lý Lệnh Nghi khiến Thi Yến Vi cảm thán khôn nguôi. Dẫu lòng nàng nặng trĩu, nhưng cũng thầm cảm thấy may mắn khi bản thân đã thoát khỏi móng vuốt của Tống Hành.

Dẫu trải qua biết bao sóng gió, nhưng cuối cùng, cả ba người họ đều có được cái kết viên mãn của riêng mình.

Thi Yến Vi chợt nhớ đến việc công chúa Tuyên Thành từng góp phần cải tiến kỹ thuật rèn sắt, giúp thợ thủ công chế tạo ra dụng cụ sưởi ấm cho dân gian. Tư tưởng của nàng cũng vô cùng tiến bộ, vượt xa những ràng buộc mà thời đại này áp đặt lên nữ nhân, đủ để nàng trở thành nhân vật đáng ghi thành sách truyện.

Ngoài khung cửa, ánh tà dương dần ngả về tây, ráng chiều phủ trên những tầng mây, phản chiếu ánh sáng đỏ cam lên những chiếc lá ngân hạnh hơi ngả vàng, cảnh sắc yên bình mà đẹp đẽ.

Từ luyện sắt, chế tạo ấm sưởi, đến tu đạo, kháng chỉ, lánh đời. Thi Yến Vi xâu chuỗi mọi chi tiết về công chúa Tuyên Thành. Khi mọi mảnh ghép khớp thành một vòng tròn hoàn chỉnh, trong lòng nàng bỗng dấy lên một suy đoán đầy táo bạo.

Lẽ nào, công chúa cũng giống như nàng, là một người mang linh hồn từ thế giới khác xuyên qua?

Niềm vui sướng bất ngờ tràn ngập tâm trí, khiến Thi Yến Vi khó lòng thoát ra được.

Nếu Lý Lệnh Nghi cũng là người xuyên không, vậy thì, nàng sẽ không còn đơn độc trên thế gian này nữa…

Thi Yến Vi nóng lòng muốn biết thêm về những chuyện liên quan đến công chúa Tuyên Thành. Nếu chẳng phải lệnh giới nghiêm sắp đến, nàng thật sự muốn ra ngoài hỏi han khắp nơi một phen ngay.

Những ngày sau đó, Thi Yến Vi lân la dò hỏi, cuối cùng nghe được về một người từng sống lâu năm ở Trường An nhưng thi cử lận đận, giờ về quê mở trường tư dạy học: Trương Nhị lang.

Ngày hôm sau, nàng xin nghỉ một ngày, đến phường Văn Ông ở phía nam thành để tìm Trương Nhị lang.

Chuyến này quả không phí công. Thi Yến Vi đã nghe được nhiều câu chuyện về cuộc đời của công chúa Tuyên Thành từ lời kể của Trương Nhị lang.

Thì ra, năm xưa sau khi công chúa Tuyên Thành đến tu hành tại Diên Sinh quán ngoài thành Trường An, bệnh tình của Thánh nhân bỗng chuyển biến tốt đẹp, Thánh nhân vốn trọng đạo, liền tin chắc đó là phúc khí mà công chúa mang lại. Từ đó, ngài càng thêm sủng ái công chúa Tuyên Thành, thường xuyên ban thưởng vàng bạc châu báu cho nàng.

Mặc dù xuất thân hoàng thất, song công chúa Tuyên Thành lại không mang thói kiêu kỳ xa xỉ. Nàng thường xuyên phát cháo bên ngoài đạo quán, giải đáp thắc mắc của bá tính, thu nhận các nữ lang không nơi nương tựa, đích thân dạy họ học chữ, tính toán. Đợi khi có được tay nghề, nàng lại phái người đưa họ xuống núi, tự mình kiếm kế sinh nhai.

Thế nhưng, cảnh tượng tốt đẹp ấy chỉ kéo dài vẻn vẹn được ba năm. Sau khi Thánh nhân băng hà, thái tử kế vị, vì công chúa Tuyên Thành không phải là em gái ruột của tân đế, nên nàng dần bị thất sủng. Ngày tháng càng thêm khó khăn, nàng buộc lòng rời kinh, đến ẩn cư tại Kính Đình sơn ở Tuyên Châu, tránh xa thế tục.

Bảy năm sau, Tân Đế qua đời, con trai là Ai Đế kế vị.

Ai Đế tuy yếu mềm nhút nhát, nhưng lại đặc biệt coi trọng tình thân. Vì cảm thương hoàng tộc ngày một thưa thớt, giữa hàng thúc bá cùng huynh đệ tỷ muội, chỉ còn mỗi vị hoàng cô là công chúa Tuyên Thành còn trên đời, nên sau khi lấy lòng và được Giang Tiều ưng thuận, người mới dám hạ chỉ tu sửa đạo quán cho công chúa.

Trương Nhị lang còn kể, trước khi rời khỏi hoàng cung để tu hành, công chúa Tuyên Thành từng viết sách truyền ký, nhưng vì trong sách chứa không ít lời lẽ trái với luân thường, lại chuyên viết về nữ nhân, nên không được người đương thời đón nhận. Dẫu nàng bỏ tiền khắc in thành sách, thì cũng hiếm người chịu mua về đọc.

Về sau, có ngôn quan can gián Thánh nhân trước Minh đường, bóng gió chỉ trích công chúa Tuyên Thành là hiện tượng dị đoan, cho rằng sách của nàng đi ngược với lễ giáo cương thường, phản lại đức hạnh của nữ tính, không thể để tà phong mê hoặc chúng sinh. Thánh nhân nổi giận, nghe theo lời ngôn quan, hạ chỉ đốt sách của công chúa, dân gian cũng bị cấm tái bản.

Trương Nhị lang nhớ rõ chuyện này, bởi ông từng đọc qua sách của công chúa. Tiếc rằng chưa kịp đọc hết, cuốn sách đã bị phường đinh tịch thu rồi thiêu hủy.

Dạy nữ nhân học chữ, lại vì nữ nhân mà viết sách riêng. Thi Yến Vi nghe đến đây, không nói đến xác suất trăm phần trăm, nhưng tám, chín phần nàng đã có thể chắc chắn vị công chúa này chính là một người xuyên không.

Nàng nghĩ, đợi khi thời cuộc ổn định, hoặc khi Tống Hành đăng cơ, bắt tay giảng hòa và nối lại giao thương với Nam Ngụy, nàng nhất định phải đến núi Kính Đình ở Tuyên Châu, tìm gặp vị công chúa Tuyên Thành này một lần.

Cõi lòng đã định ra chủ ý, hạ quyết tâm xong, Thi Yến Vi chắp tay trước ngực thi lễ cảm ơn Trương Nhị lang, cáo từ rời đi.

Có lẽ vì trong lòng đã nhen nhóm một tia hy vọng, dường như thời gian trôi qua càng thêm dài đằng đẵng. Mỗi ngày sau khi xong việc, lúc trở về nhà, Thi Yến Vi đều bần thần đứng trước gốc hồng và cây lựu già trong sân hồi lâu.

Hồng và lựu đều là những trái ngọt chín vào mùa thu. Tuy hiện giờ chỉ mới đầu thu, trên cây cũng đã lác đác những trái nhỏ xanh xanh, nom thật vui mắt.

Thi Yến Vi nhớ mẹ nàng, Thi Văn Tịnh, rất thích ăn lựu vào mùa thu, nên càng mong cây lựu kia sẽ sớm ngày chín đỏ.

Ngày mười hai tháng tám, bầu trời trong xanh như ngọc, khí trời sáng sủa thanh lành.

Tống Hành đội mũ miện bạch ngọc mười hai tua, mặc hoàng bào màu huyền sắc thêu mười hai chương văn, thắt đai da dát vàng nạm ngọc, bên hông vẫn mang thanh trường kiếm huyền thiết đã cùng hắn chinh chiến nhiều năm. Tại Lạc Dương, hắn chính thức lên ngôi hoàng đế, lấy phong hiệu của phụ thân Triệu Quốc Công làm quốc hiệu, truy tôn sinh phụ Tống Giới làm Thái tổ, truy phong sinh mẫu làm Nguyên Đức Hoàng hậu, tôn tổ mẫu họ Tiết làm Thái hoàng thái hậu, phong em trai Tống Duật làm Thẩm vương, và em gái Tống Thanh Âm làm Tấn Dương Trưởng công chúa.

Đại điển đăng cơ diễn ra tại chính điện Tử Vi thành, trang trọng uy nghiêm, trống nhạc linh đình, khí thế lẫm liệt.

Tống Hành trong sự chú mục của bá quan văn võ, bước từng bước vững chãi lên bậc đá, thẳng lưng đứng trước điện Minh Đường, lắng nghe tiếng quần thần đồng thanh tung hô vạn tuế, ngước mắt trông về phía dãy núi trập trùng.

Sau đại lễ, quần thần cùng nhau yến ẩm tại Minh Đường, chúc mừng tân hoàng đăng cơ.

Ở thành Cẩm Quan cách xa ngàn dặm, cũng vì sự kiện này mà dỡ bỏ lệnh giới nghiêm trong vòng ba ngày.

Sau khi hoàn tất một ngày dài làm việc, Thi Yến Vi đội mũ màn sa, mướn xe lừa đến phường Phú Xuân dạo chợ đêm.

Mùa thu, trời tối nhanh, chỉ mới giờ Dậu hai khắc mà bầu trời đã đen mờ. Đèn hoa được thắp lên, gió đêm hiu hiu thổi.

Phường Phú Xuân nổi tiếng bởi rượu ngon, trong phố còn có không ít trà phường và các hàng quán bán thức ăn vặt đủ loại. Thi Yến Vi vừa đi vừa dừng, trước sau cũng nếm thử ba bốn món, rồi mua thêm vài thứ lạ mắt rẻ tiền, cuối cùng bước vào một trà phường để thưởng trà.

Trà phường ở thành Cẩm Quan khác hẳn nơi khác, giá có nhỉnh hơn đôi chút, nhưng chỉ cần gọi một chén trà là có thể ngồi cả buổi, còn được xem các vở hí kịch trên đài.

Nàng gọi một chén trà, trả mười văn tiền cho trà nhị, rồi tìm một chỗ ngồi gần giữa sảnh.

Trên đài đang diễn một vở tham quân hí, khán giả bên dưới cười rộn ràng.

Thi Yến Vi xem chừng nửa canh giờ, thấy trời đã không còn sớm, liền thuê xe lừa trở về nhà ở phường Bích Kê.

Tống Hành nay đã lên ngôi, chẳng bao lâu nữa sẽ lập hoàng hậu, lại nạp thêm phi tần để củng cố quyền vị, nối dài tông tự.

Đời này, nàng chẳng mong còn chút liên quan nào đến hắn, chỉ mong hắn và hoàng hậu tương lai tâm đầu ý hợp, cầm sắt hòa minh, sớm quên đi nàng.

Những ngày gần đây, hồng và lựu trong sân đều đã kết quả chín mọng. Thi Yến Vi có phần mệt mỏi, vã nước lạnh cho tỉnh táo, rồi xách đèn lồng ra hái mấy trái hồng tươi rói trên cây.

Sợ hái nhiều ăn không hết, nàng chỉ lựa mấy quả chín đút vào giỏ, nghĩ bụng hôm khác có thời gian sẽ mời hàng xóm đến hái mang về ăn, tránh để những quả hồng mục rữa trên cây rồi phí hoài rụng xuống.

Kể từ khi rời khỏi Thái Nguyên, kỳ lạ thay, có lẽ nhờ tâm trạng thoải mái hơn, mà chỉ chưa đầy nửa tháng sau khi chia tay Kiếm Sương, kỳ nguyệt tín của nàng dần trở lại bình thường, mỗi tháng chỉ chậm ba đến năm ngày. Dẫu cơn đau vẫn còn dữ dội, nhưng may mắn thay, lại không xuất hiện thêm bệnh trạng gì khác.

Thi Yến Vi cứ thế hái hồng mang vào nhà, hoàn toàn không để ý tới hai bóng đen in trên bức tường phía sau.

Ngày kế tiếp, Thi Yến Vi hóa trang, phủ thêm áo khoác màu hồng cánh sen thêu hoa văn hình đoàn rồi ra ngoài.

Trong không khí phảng phất hương thơm nhẹ của hồng chín, Thi Yến Vi ngửi thấy mùi quả tươi mát, bất giác đứng dưới mái hiên, ngước nhìn cây hồng. Trên những phiến đá dưới gốc cây có vài quả hồng dập nát đã rụng. Nàng đoán mùi thơm kia hẳn là từ phần thịt quả tỏa ra.

Thi Yến Vi chỉ liếc qua đôi chút, cũng không nghĩ nhiều, chỉ cho rằng đêm qua quả bị gió thổi rụng, hoặc cũng có thể do lũ mèo hoang quanh đây trèo lên cây làm rơi. Nàng tự nhủ quả hồng có mùi thơm ngọt thế kia, biết đâu còn thu hút cả chim chóc kéo đến đây rỉa phần thịt quả. Vậy nên đợi đến khi tan làm, về nhà rồi hẵng dọn dẹp sau.

Tháng này nàng được nghỉ hai ngày, một ngày dành cho ngày đầu kỳ nguyệt tín, còn một ngày để đến bên giếng Tiết Đào, xem các nữ lang, bà tử trong thành làm giấy Tiết Đào bên bờ suối Hoán Hoa.

Nàng trông thấy trong giỏ chất đầy hoa phù dung, các nữ lang đem hoa phù dung cho vào cối giã lấy nước, sau đó đem sắc thành nước hoa phù dung, rồi hòa vào dòng suối Hoán Hoa, dùng cọ quét nước hoa lên giấy làm từ vỏ cây phù dung, phơi khô, trở thành giấy Tiết Đào.

Chỉ đứng nhìn thôi mà Thi Yến Vi cũng cảm thấy công việc này thật chẳng dễ dàng, nhất là khâu sắc nước hoa phù dung, chỉ cần sơ suất một chút là nước hoa sẽ cháy khét, không chỉ phí công phí sức mà còn uổng cả một giỏ phù dung. Hơn nữa, việc chế tác giấy từ vỏ cây phù dung cũng cầu kỳ không kém.

Khi xưa, Tiết Đào phát minh ra loại giấy này, chắc chắn đã thử nghiệm nhiều lần, dốc không ít tâm tư.

Những ngày ở thành Cẩm Quan thực bình yên thoải mái. Thi Yến Vi ngồi phơi nắng bên bờ suối Hoán Hoa, ánh mặt trời cuối tháng tám không còn gay gắt như mùa hè, chiếu lên người mang lại cảm giác ấm áp dễ chịu. Nàng ngồi thêm khoảng hai khắc đồng hồ rồi ghé một quán nhỏ bên đường ăn hoành thánh.

Ngày tháng dần trôi, đảo mắt đã là tháng chín.

Lạc Dương.

Tử Vi thành, điện Triều Nguyên.

Đêm đến, sáu vòng đèn hình bạch lộ tỏa sáng, hàng chục ngọn nến thắp rạng một góc trời, chiếu sáng cả đại điện như ban ngày. Dầu nến nhỏ xuống đáy, đông thành từng lớp đèn hoa.

Dưới ánh nến, Tống Hành cầm bút son, viết trên tờ giấy, nét bút sắc bén.

Trương nội thị nhẹ nhàng gõ cửa điện, nói rằng Bất Lương Soái xin cầu kiến.

Tống Hành thoáng cau mày, hạ bút nhìn vết mực chưa khô trên sổ con, đặt sang một bên, ra lệnh cho Trương nội thị mời người vào.

Một lát sau, Trương nội thị đẩy cửa điện, khom lưng cung kính mời Bất Lương Soái vào.

Tống Hành đứng dậy, chậm rãi bước đến bên cửa sổ, nhìn bóng hoa phù dung lay động trong gió.

“Ti hạ bái kiến Thánh thượng.” Bất Lương Soái nói, cúi đầu hành lễ.

Tống Hành khẽ đáp, trầm giọng hỏi: “Có phải đất Thục có tin tức rồi chăng?”

Bất Lương Soái gật đầu, giọng nhẹ nhàng: “Bẩm đúng.”

“Nữ lang mà Thánh thượng tìm quả thật đang ở thành Cẩm Quan, hai tháng trước đã thuê một ngôi nhà ở phường Bích Kê. Ngôi nhà đó nằm cạnh suối Hoán Hoa, do nha nhân trong thành giới thiệu. Khế thư đang ở đây, kính xin Thánh thượng xem qua.”

Nói rồi, hắn lấy khế thư trong lòng ra, dâng lên bằng cả hai tay.

Tống Hành quay người nhìn hắn, cầm lấy khế thư nhưng không để tâm đến nội dung bên trên, chỉ chăm chú nhìn vào chỗ ký tên đóng dấu.

Hai chữ Trịnh Nghiên đập vào mắt, Tống Hành gần như lập tức nhận ra nét chữ của nàng. Không biết từ bao giờ, nét chữ của nàng ghi tạc trong lòng, khắc sâu vào đầu hắn.

Những ngày say đắm vấn vương, trong thư phòng, hắn ôm nàng, giữ chặt nàng, kiềm chế nàng. Đôi môi nàng ấm áp mềm mại, vòng eo nàng tinh tế mảnh mai, những ngón tay ngọc trắng nõn như búp măng, lúc đan vào tay hắn, lòng bàn tay nhỏ bé ấy hoàn toàn nằm gọn trong lòng bàn tay hắn.

Nàng như thể được tạo từ nước, lúc quyến luyến bên hắn, nước mắt hòa lẫn cùng ngọc lộ, khiến hắn chẳng nỡ rời khỏi nàng, chỉ muốn nhìn nàng nấc nhẹ, dáng vẻ diễm lệ cầu xin.

Tống Hành đột ngột nhắm mắt lại, vô thức siết chặt khế thư, vừa phẫn hận vì sự giả dối và phản bội của nàng, nhưng đồng thời, cảm giác kích động và hân hoan khi tìm ra tung tích của nàng lại dội lên mãnh liệt.

Chỉ vài nhịp thở sau, nhờ khả năng tự kiềm chế phi thường, Tống Hành ép bản thân bình tĩnh lại. Hắn từ từ mở mắt, đôi môi mỏng khẽ nhếch, trầm giọng ra lệnh: “Ngày mai khi trời vừa sáng, hãy tìm vài người thật đáng tin, mang theo hai cung nhân mà trẫm đã lệnh đưa tới, cùng đến thành Cẩm Quan. Nếu nàng kháng cự hay tìm cách tự vẫn, cứ lấy hai cung nhân đó ra uy h**p, chắc chắn sẽ khiến nàng khuất phục.”

Bất Lương Soái cung kính đáp lại, khi nhận được cái gật đầu từ Tống Hành, hắn khom người thi lễ lần nữa rồi quay người, rời khỏi điện Triều Nguyên trong im lặng.

Tống Hành lặng người chống tay lên cửa sổ, mặc cho cơn gió đêm lạnh lẽo thổi vào người, xua tan đi cảm giác oi bức đang âm ỉ trong lồng ngực. Những ngón tay thon dài thô ráp nhẹ nhàng gõ lên khung cửa làm bằng gỗ kim ti nam mộc, [1] dần khép chặt lại.

[1]

[1] kim ti nam mộc: là loại gỗ quý hiếm phân bố chủ yếu ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, Trung Quốc. Được mệnh danh là “gỗ hoàng đế”, kim ti nam mộc thường được hoàng đế và hoàng tộc sử dụng. Cây kim ti nam mộc càng “lâu năm” thì gỗ càng quý và có giá trị càng cao. Nguồn
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 65: Thấy nàng



Nhóm ẩn sĩ cải trang rời khỏi Lạc Dương. Lần này còn có thêm Luyện Nhi và Lưu mụ. Đoàn người đi không ngừng nghỉ, cuối cùng sau hai mươi ngày đã đến được thành Cẩm Quan.

Suốt cả chặng đường, Luyện Nhi luôn thấp thỏm lo âu, trái lại, Lưu mụ vẫn giữ được vẻ bình thản, khuôn mặt không lộ chút cảm xúc, như thể người mà bà sắp phải đối mặt chỉ là một kẻ xa lạ chẳng mấy liên quan.

Khi xe ngựa tiến vào thành, tốc độ rõ ràng chậm hẳn. Chừng nửa canh giờ sau, con ngựa kiệt sức cũng dừng bước trước một ngôi nhà nhỏ đã cũ.

Luyện Nhi và Lưu mụ bị thúc giục xuống xe, theo người dẫn đường đi vào bên trong ngôi nhà.

Lưu mụ dù sao cũng đã ngoài năm mươi, tuy gương mặt không biểu lộ gì, nhưng thân thể yếu ớt lại không che giấu được. Vừa chạm chân xuống đất, đôi chân bà đã mềm nhũn, đầu óc choáng váng. Luyện Nhi vội đỡ lấy bà, dìu đến chỗ lan can dưới mái hiên ngồi nghỉ.

Cất xe ngựa xong, một ẩn sĩ mang theo bọc hành lý trở lại. Hắn mở gói đồ, lấy ra mấy chiếc tất la, bánh hồ và túi nước, ném một ít sang cho hai người.

Luyện Nhi chăm sóc Lưu mụ uống nước, ăn bánh trước. Đợi bà ăn uống gần xong, nàng mới ăn phần bánh còn lại.

Tháng chín sắp tàn, Lập Đông kề cận. Trời bắt đầu trở lạnh nhưng vì đi vội nên họ không kịp mang theo áo ấm, giờ ngồi nơi gió lùa, hơi lạnh khiến ai nấy đều co ro.

Mặt trời đã ngả về tây, cách thời điểm tan làm càng lúc càng gần.

Hôm nay không hiểu sao Thi Yến Vi cứ thấy bồn chồn không yên, tâm trí bấn loạn, đến mức kim khâu còn châm vào tay nàng những hai lần.

“Trịnh nương tử này, hôm nay có phải cô không khỏe ở chỗ đâu không? Sao trông cô cứ như người mất hồn thế?” Thôi Nhị nương ngồi bên cạnh liếc nàng một cái, lo lắng hỏi.

Thi Yến Vi đặt kim chỉ xuống, xoa ngón tay bị đâm trúng, khẽ lắc đầu, gượng cười đáp:

“Có lẽ là do đêm qua ta không ngủ ngon thôi.”

Thôi Nhị nương nghe vậy, tạm dừng công việc trên tay, cất lời khuyên nhủ: “Nếu người không thoải mái, hôm nay cứ về sớm đi. Bộ xiêm y này cũng chỉ còn mỗi viền ống tay áo, phần còn lại ta làm giúp cô cũng được.”

Thi Yến Vi vốn không quen làm phiền người khác, định từ chối, nhưng Thôi Nhị nương đã nhanh tay giật lấy kim chỉ trong tay nàng, cười xòa: “Cô cứ yên tâm về đi. Không sao cả, ta làm xong đây rồi, cũng chỉ còn vài mũi nữa thôi.”

Đến mức này, nàng không tiện từ chối lòng tốt của Thôi Nhị nương. Thi Yến Vi xoa nhẹ trán, cảm tạ rồi nói với Thôi Nhị nương: “Sao có thể để Nhị nương làm không công được, sáng mai ta sẽ mua cổ lâu cho cô nhé, chịu không?”

Thôi Nhị nương hiểu ý, biết nàng không muốn mang nợ ai, tủm tỉm cười đồng ý, giục nàng mau về nghỉ ngơi.

Thi Yến Vi cảm ơn lần nữa, mang tâm trạng nặng nề rời khỏi tiệm may, cưỡi ngựa về nhà. Khi vào đến ngõ, nàng kéo dây cương, cho ngựa đi chậm lại.

Xuống ngựa, nàng lấy chìa khóa từ túi đeo bên hông định mở cửa, nhưng chợt phát hiện ổ khóa đã không cánh mà bay.

Nhà bị trộm sao? Ý nghĩ này lập tức lóe lên trong đầu nàng. Nhưng rồi tự nhủ, trên đời nào làm gì có tên trộm nào lại táo tợn đến mức giữa ban ngày ban mặt mà lại dám ngang nhiên xông vào nhà kia chứ.

Chuyện này có gì đó kỳ lạ. Bất kể trong nhà là trộm hay không, hoặc trộm còn đó hay đã đi, linh cảm mách bảo nàng không nên tự đi vào một mình.

Tim nàng đập thình thịch, dường như tiếng gió bên tai cũng bị khuếch đại không ngừng. Thi Yến Vi xoay người, định lên ngựa đi tìm phường đinh ở phường Bích Kê rồi quay lại kiểm tra.

Nghĩ là làm, nàng định bỏ đi thì giật mình nhận ra phía sau chẳng biết đã xuất hiện một bóng người cao gầy từ lúc nào.

Người đó đeo một thanh đoản kiếm dài chừng một thước bên hông, chắp tay trước ngực thi lễ, nghiêm giọng nói: “Hồi bẩm nương tử, gia chủ đặc biệt sai mỗ đến đây “mời” người quay về.”

Hai chữ “gia chủ” vừa lọt vào tai, đầu óc Thi Yến Vi lập tức ù đi. Nàng rơi vào hồi ức đau thương ngày trước, trái tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Tiếng tim đập dồn dập như trống trận, tay nàng không kiểm soát được mà run rẩy, mặt đất trước mắt xoay tròn, không khí ngưng lại khiến hô hấp cũng trở nên khó khăn.

Vì sao nàng đã trốn đến đất Thục rồi mà vẫn bị hắn tìm được? Chẳng lẽ số mệnh nàng thực sự bi đát đến vậy sao?

Nàng đối với vạn vật trên đời luôn giữ lòng thiện lương, chưa từng làm điều gì thương thiên hạ lý, cớ sao ông trời lại nhẫn tâm với nàng đến mức này? Phải chăng định buộc nàng phải chết mới vừa lòng hả dạ?

Nước mắt nóng hổi ướt mi, viền mắt nàng đã hoe hoe đỏ.

Nàng nghĩ, thay vì trở về Lạc Dương để chịu đựng nhục nhã trong sự hành hạ của Tống Hành, chi bằng bây giờ tự mình kết thúc tất cả…

Nhưng, mạng sống hiện tại của nàng là do ba mẹ và Trần Nhượng đã cầu xin giữ lại, liệu nàng có thể xem nhẹ mà vứt bỏ được không?

Hai luồng suy nghĩ mâu thuẫn quấn lấy nhau trong đầu nàng, khiến đầu óc đau như búa bổ.

Nàng phải làm sao? Phải làm gì đây?

Nước mắt làm mờ đi tầm nhìn, không thể thấy rõ, vạn vật xung quanh dần trở nên mơ hồ, không còn chân thực.

Ngay lúc này, Lưu mụ và Luyện Nhi bị người dẫn ra. Người đứng đầu nhóm tử sĩ lạnh giọng nói: “Còn ngẩn ra đó làm gì? Mau dìu nương tử lên xe, lập tức xuất thành!”

Luyện Nhi nhạy bén, thấy nàng như vậy, mơ hồ cảm nhận được rằng nàng đang chìm trong nỗi đau đớn và sợ hãi tột cùng. Nàng đau lòng, nắm lấy tay Thi Yến Vi, nhẹ nhàng vỗ về mu bàn tay, dịu giọng an ủi: “Nương tử chớ đau lòng, cũng đừng sợ hãi. Em và Lưu mụ đều sẽ luôn ở bên cạnh người. Phải sống tốt mới có hy vọng, chẳng phải vậy sao?”

Thi Yến Vi nghe tiếng bèn nhìn sang, thấy Luyện Nhi bên cạnh, bất giác nhớ tới người em họ thân thiết của mình. Ký ức về ba mẹ và những hình bóng quen thuộc của Trần Nhượng càng lúc càng hiện rõ, thậm chí nàng có thể tưởng tượng cảnh họ đã đau đớn đến nhường nào khi hay tin nàng qua đời.

Nàng làm sao có thể phụ lòng họ, làm sao có thể không màng đến mạng sống của chính mình?

Tống Hành quả là người đa mưu túc trí, vì sợ nàng sẽ tìm cái chết trên đường hồi kinh, bèn đưa cả Luyện Nhi và Lưu mụ đi cùng, như những lời nhắc nhở, đe dọa, áp chế nàng từng giờ từng khắc.

Liệu bên chỗ Ngân Chúc và Lâm Vãn Sương, Tống Hành có cho người giám sát nghiêm ngặt như vậy không?

Suy nghĩ càng thêm hỗn loạn. Nếu không có Luyện Nhi kề bên dìu đỡ, Thi Yến Vi e rằng mình đã không thể đứng vững nổi.

Thoáng chốc, nàng lại nhớ đến công chúa Tuyên Thành, người nàng còn chưa kịp diện kiến. Liệu công chúa có đang mong chờ nàng, mong gặp được một người để có thể giãi bày nỗi lòng không?

Hơn nữa, kẻ đáng tội chưa bao giờ là bị hại. Kẻ đáng chết phải là kẻ đã gây ra tội ác, chứ nào phải là một nạn nhân.

Kẻ ác còn đang sống nhởn nhơ, được vạn dân tôn thờ kính ngưỡng, trong khi nạn nhân lại phải chết. Trên đời này sao có lý lẽ nào như thế?

Nàng không thể chết, ít nhất là không thể chết một cách uất ức mà chẳng làm được gì.

Nghĩ đến đây, Thi Yến Vi cắn chặt môi, đôi tay nhỏ bé vì căm hận mà siết chặt thành nắm đấm.

Lần này, khi gặp lại hắn, nàng nhất định phải tự đòi lại công bằng cho riêng mình.

Ánh mắt Thi Yến Vi hướng về người đứng đầu đám ẩn sĩ, ánh mắt không hề tỏ ra yếu thế, coi bọn chúng như tay sai của Tống Hành. Nàng cau mày, cất cao giọng nói: “Trong nhà còn mấy tập bản thảo của ta, nếu các người không để cho ta lấy, hôm nay ta nhất quyết sẽ không lên xe.”

Chỉ là lấy bản thảo thôi mà, cũng không phải chuyện gì hệ trọng. Người đứng đầu đám ẩn sĩ không đoán được ý tứ của Thánh nhân đối với nàng, không muốn đắc tội với nàng, đành đích thân theo nàng vào nhà tìm bản thảo.

Thi Yến Vi cẩn thận đặt bản thảo vào tráp gỗ lim, nâng niu ở trong lồng ngực. Trước khi lên xe, nàng lưu luyến nhìn hai cây lựu và hồng đã nhiều năm tuổi trong sân, cõi lòng trăm mối dày vò.

Đường sá đất Thục đa phần gập ghềnh khó đi, thêm vào đó, Luyện Nhi và Lưu mụ đã mấy ngày liền bôn ba, sức khỏe vốn không chịu nổi. Vì thế, chưa đi được năm ngày, Lưu mụ tuổi đã ngoài năm mươi, kiệt sức mà đổ bệnh giữa đường.

Thi Yến Vi cương quyết yêu cầu dừng lại ở thị trấn phía trước, tìm một y công chữa trị cho Lưu mụ. Sau khi uống thuốc theo đơn, nàng bắt đoàn người dừng chân ba ngày, đợi đến khi sức khỏe của Lưu mụ khá hơn mới lên đường trở lại Lạc Dương.

Cả hành trình kéo dài gần bốn mươi ngày, hơn hẳn ba mươi ngày của lúc trước.

Cuối tháng mười, thời tiết ở Lạc Dương lạnh buốt. Cơn gió đông sắc lẹm thổi qua như dao cắt, luồn thẳng vào quần áo. Luyện Nhi kéo chặt áo khoác, cụp mắt.

Lúc còn ở thành Cẩm Quan, phải vất vả lắm Thi Yến Vi mới tích thêm được chút da thịt, nhưng vì cả chuyến đi này, người nàng gầy rộc cả đi, cộng thêm việc nhiều ngày không được ngủ yên giấc, sắc mặt nàng hiện rõ vẻ phờ phạc.

Xe ngựa dừng lại, Thi Yến Vi theo chân cung nhân đến đón nàng, đi qua một đoạn đường dài. Hai khắc sau, đoàn người dừng trước một viện nhỏ xập xệ.

Cung nhân lấy chìa khóa mở cửa, nửa đẩy nửa mời Thi Yến Vi bước vào. Bà ta không nói một lời đã khóa cửa lại, để nàng một mình trong căn phòng không lớn không nhỏ ấy.

Luyện Nhi và Lưu mụ thấy vậy liền hỏi cung nhân kia làm thế là có ý gì, nhưng người nọ đã nhanh hơn một bước, đáp: “Gian phòng bên cạnh là chỗ ở của hai người. Ngoại trừ lúc hầu hạ nương tử rửa mặt, thay y phục, tắm rửa và dùng bữa, còn lại không được ở cùng nàng.”

Lưu mụ nhìn căn phòng đó, cửa sổ như thể cũng bị bít kín, không lọt nổi một tia sáng. Giờ lại không được ở bên nương tử, nếu nàng không sợ bóng tối thì còn đỡ, chứ nếu sợ, chứ nếu sợ thì làm sao nàng chịu nổi đây?

Luyện Nhi vừa buồn vừa sốt ruột, lại không làm gì được, chỉ biết ngây người dưới mái hiên, nhìn chăm chăm vào cánh cửa khóa trái kia.

Lưu mụ không ngờ nàng lại cố chấp đến vậy, bất giác sinh lòng thương xót, nhíu mày nhắc nhở: “Đứng đây cũng chẳng ích gì, vào nhà trước đi. Nếu chúng ta lại đổ bệnh, tình cảnh của nương tử sẽ càng khó khăn hơn.”

Thấy bà nói đúng, Luyện Nhi đành miễn cưỡng theo bà vào trong.

“Thánh thượng sao có thể nhẫn tâm đối xử với Dương nương tử như vậy? Rõ ràng trước đây…”

Luyện Nhi lầm bầm oán trách, nhưng chưa nói hết câu thì đã bị Lưu mụ nghiêm giọng chặn đứng: “Câm miệng! Ngươi không muốn sống nữa sao? Nếu bị ai nghe thấy, có mười cái đầu cũng không đủ để chém đâu!”

Lời vừa thốt ra, lúc này Luyện Nhi mới nhận ra mình vừa nói lời đại nghịch bất đạo, sợ đến toát mồ hôi lạnh, vội lấy tay bịt miệng, ngồi phịch xuống sạp thấp.

Căn phòng này bài trí quá mức sơ sài, cũng chẳng có lấy một chỗ ra hồn để đặt chân. Lưu mụ kéo đến một chiếc ghế nguyệt nha cũ nát ở góc tường, lấy khăn thấm nước lau qua, rồi đặt bên cạnh bàn.

Trong căn phòng tối đen như mực, Thi Yến Vi mệt mỏi vô cùng, ôm chặt chiếc tráp đựng đầy bản thảo, chẳng buồn để ý đến cái chăn đệm trên giường có sạch sẽ hay không. Nhờ vào ánh sáng yếu ớt xuyên qua kẽ hở, nàng nhấc một góc chăn, nằm xuống. Hương thơm nhàn nhạt của xà phòng lẻn vào xoang mũi, chẳng mất bao lâu nàng đã tiến vào mộng đẹp.

Không biết đã ngủ thiếp từ khi nào, nàng bị tiếng động bên ngoài đánh thức. Luyện Nhi mang hộp cơm vào, lấy chén đĩa đựng đồ ăn ra.

Thi Yến Vi hỏi nàng và Lưu mụ đã ăn chưa, Luyện Nhi gật đầu đáp là đã ăn rồi, Thi Yến Vi nghe xong mới chịu cầm đũa dùng bữa.

Hai ngày liên tục sau đó, Thi Yến Vi đều sống trong cảnh không thấy ánh mặt trời. Ngoài những lúc ra ngoài thay y phục, phần lớn thời gian trong ngày nàng chỉ nằm ngủ trên giường, tựa hồ muốn bù lại giấc ngủ thiếu hụt suốt hành trình vừa qua.

Vẻ mệt mỏi trên mặt nàng đã giảm đi nhiều, nhưng tinh thần lại ủ rũ, trông chẳng có chút sinh khí nào.

Cung nhân bước vào, thắp đèn nến trong phòng, thấy nàng ngồi trên giường với dáng vẻ ỉu xìu, liền lấy một loại cao giúp tỉnh táo tinh thần, thoa lên huyệt thái dương của nàng. Sau đó, lại dìu nàng lên bộ liễn, đưa tới một tòa cung điện nguy nga. Đến nơi, nàng được dẫn vào phòng tắm để tắm gội.

Sau khi tắm xong, một nhóm cung nhân vây quanh nàng, dẫn vào chính điện đèn đuốc huy hoàng, cẩn thận lau tóc, búi tóc, trang điểm… Một quy trình tỉ mỉ đến tận canh hai mới hoàn thành.

Thi Yến Vi nhìn vào gương đồng, thấy mình đã được điểm tô rạng rỡ, thầm hiểu rằng tối nay sợ rằng không thể thoát việc gặp Tống Hành.

Trâm vàng trên tóc ánh lên từng tia lấp lánh. Thi Yến Vi nhìn chăm chú vào trâm cài loan điểu trong gương, giống như vật chết, từ đầu đến cuối trầm mặc không nói năng gì.

Chừng một khắc sau, ngoài thềm vang lên tiếng bước chân nhỏ vụn. Nàng chưa từng để ý đến tiếng bước chân của Tống Hành, nhưng lúc này vô cớ lại cảm nhận được người đến chính là hắn.

“Đặt mọi thứ xuống, tất cả lui ra ngoài điện.” Giọng nói trầm thấp của Tống Hành vang lên bên tai.

Thi Yến Vi vẫn ngồi yên lặng trước gương, tựa như không nghe thấy lời hắn. Cho đến khi Tống Hành giận dữ lao đến trước mặt nàng, ôm lấy vòng eo mảnh mai của nàng, kéo nàng đứng dậy khỏi ghế nguyệt nha.

“Dương Sở Âm, nàng giỏi lắm; đến nước này rồi, nàng còn gì để nói nữa không?”

Thi Yến Vi gạt mạnh cánh tay của hắn ra, căm hận trong lòng đã lấn át sự sợ hãi đối với hắn. Nàng gằn giọng: “Ta không có gì để nói với ngươi cả! Đừng dùng bàn tay bẩn thỉu của ngươi chạm vào ta, thật khiến người ta buồn nôn!”

Buồn nôn sao? Câu nói tựa lưỡi dao bén ngót, đâm thẳng vào tim hắn. Ngọn lửa giận dữ trong lòng hắn không tìm được chỗ để phát tiết, hắn giật cổ áo nàng ra, chạm vào đai lưng điệp tiệp, bật ra một tiếng cười lạnh: “Còn nhiều thứ đáng buồn nôn hơn đang chờ phía trước, đừng nôn vội ra ngay lúc này.”

Vừa nói, hắn vừa siết lấy vòng eo tinh tế của nàng, dùng sức nhấc bổng lên, đặt nàng lên bàn trang điểm. Tà váy xòe rộng, trải ra như một đóa hoa, phủ kín bề mặt gỗ.

“Trẫm muốn nàng nhận sai. Chỉ cần nàng chịu nhận sai một câu, trẫm sẽ không truy cứu chuyện cũ.” Tống Hành cúi thấp người, ánh mắt sắc bén như diều hâu rơi thẳng xuống đôi môi nàng, mang theo sự trông đợi rằng nàng sẽ nói ra những lời hợp ý hắn.

Bậc thang đã được đặt xuống, nhưng không rõ là cho nàng hay là cho chính hắn.

Những ngón tay thon gầy của Thi Yến Vi bám chặt mép bàn, suýt làm đổ chiếc gương trang điểm. Nàng chật vật giữ thăng bằng, mím môi, kiên quyết không thốt ra dù chỉ một chữ.

Đúng là cứng đầu cứng cổ! Tống Hành hừ lạnh, buông cằm nàng ra, bàn tay lớn chuyển sang v**t v* gương mặt thanh tú ấy. Đôi mắt sâu thẳm cuộn lên như sóng dữ, ánh mắt hắn đảo qua, như muốn l*t s*ch y phục nàng đang mặc.

Bất thình lình, đôi môi mềm của nàng bị hắn cúi xuống, bắt đầu g*m c*n. Cơn đau như hồng thủy giáng xuống, nhấn chìm nàng trong cảm giác nhức nhối, từng nhát dao như khoét sâu vào tim nàng.

Mắt nàng đỏ hoe, những giọt lệ trong suốt lặng lẽ rơi xuống, thấm ướt gò má.

Thì ra, khi nỗi đau leo đến đỉnh điểm, ngay cả hô hấp cũng xé da xé thịt.

Tống Hành nắm lấy đôi tay nàng, ôm trọn trong lòng bàn tay.

Cổ tay nàng, cũng chỉ nhỏ nhắn như thế.

Thi Yến Vi cảm giác dạ dày như bị một cơn bão lớn quật tung.

Khoảnh khắc đôi tay được giải thoát khỏi sự kiềm chế, nước mắt lăn dài xuống môi, mang theo vị chát mằn mặn.

Nàng muốn nôn, nhưng bụng trống rỗng, chỉ phát ra những tiếng ho khan.

Khuôn mặt ngọc ngà của nàng vương đầy nước mắt, dáng vẻ tiều tụy đến não lòng. Tâm trạng phẫn uất trong lòng hắn dường như đã tiêu tán, thay vào đó là cảm giác nặng trĩu không tên, đè nén đến nghẹt thở.

Nàng chỉ là một nữ gian miệng lưỡi trơn tru mà thôi. Tống Hành tự nhủ không được mềm lòng với nàng, bắt ép mình không được dao động. Hắn cầm bình dược cao, đổ một chút ra tay rồi thô bạo bôi lên nàng, đặt nàng lên thư án.

Lớp vải còn lại mỏng manh, trắng muốt. Tống Hành trầm mặt kéo xuống, tiện tay ném xuống đất.

Đã mấy tháng chưa từng gần gũi, hắn biết rõ nàng sẽ khó lòng thích ứng được.

Tống Hành cúi xuống, nhích sát lại nàng.

Từ mắt cá chân truyền đến hai luồng phản kháng mạnh mẽ.

Ngọc quan trên tóc hắn lọt vào tầm mắt, khiến Thi Yến Vi chỉ cảm thấy nhục nhã vô cùng. Nàng nghiến chặt răng, nhắm nghiền mắt, giận dữ đến mức cả người run bần bật.

Bàn tay nhỏ nhắn bám chặt lấy mép bàn, hàm răng nghiến đến bật máu môi dưới.

Chừng nửa khắc sau, Tống Hành nuốt khan, ngẩng đầu v**t v* má nàng, đôi môi mỏng dưới ánh nến ánh lên chút bóng loáng, thì thầm khen nàng vẫn tuyệt diệu như xưa.

Thi Yến Vi không chiều theo ý hắn, móng tay nàng bấm sâu vào bắp tay hắn, đôi mắt hoe đỏ, phẫn nộ trừng mắt nhìn hắn. Nếu ánh mắt có thể giết người, nàng đã khiến hắn chết trăm nghìn lần.

Tống Hành dường như đã quen với ánh mắt ấy của nàng. Hắn không để nàng có cơ hội nghỉ ngơi, bất ngờ áp sát, thô bạo giữ chặt nàng.

Thi Yến Vi hít mạnh một hơi, nước mắt lại trực trào ra từ khóe mắt, rõ ràng là không hề dễ chịu.

Không muốn gần gũi với hắn, nàng cố gắng ngả người ra sau, cắn môi đến bật máu. Giọt máu đỏ thẫm chầm chậm rỉ ra, mang theo vị tanh nhàn nhạt của sắt gỉ.

Từ trước đến nay, mỗi lần ở bên nàng, hắn luôn cảm thấy thư sướng và khoái lạc. Thế nhưng lần này, mọi cảm giác quen thuộc ấy đều biến mất, không đọng lại chút dư vị nào.

Dòng máu rỉ ra từ môi nàng k*ch th*ch thị giác hắn. Hắn đang trừng phạt nàng, điều này lẽ ra phải khiến hắn hả dạ. Nhưng tại sao, lòng hắn lại rối bời, đầu đau cứ như bị bó chặt.

Nàng là người đã phụ bạc hắn trước, tội này không thể dung tha.

Hắn phải khiến nàng sợ hắn đến tận xương, không bao giờ dám rời xa hắn nữa.

“Trẫm từng nói với nàng, nếu còn dám bỏ trốn, trẫm tuyệt đối sẽ không nhân nhượng.”

Lời nói lạnh lùng của Tống Hành vang lên, Thi Yến Vi thấy tim mình như chìm xuống đáy vực. Nàng thầm nghĩ: Lần này, hắn chắc chắn sẽ cho người vây kín cả tòa cung điện này.

Thay vì mỗi ngày bị nhốt trong cung điện lạnh lẽo, sống như gỗ đá đợi hắn đến làm nhục, chi bằng chết sớm cho xong.

Nếu ba mẹ và Trần Nhượng biết nàng sống lại một đời, lại phải chịu đựng đau khổ như thế, sống không ra người, chết không ra ma, chắc chắn sẽ hiểu cho lựa chọn này của nàng.

Nghĩ đến đây, Thi Yến Vi bất ngờ đưa tay ôm lấy mặt Tống Hành, điều hòa hơi thở, nàng nhìn hắn với ánh mắt đầy vẻ khinh miệt, cố ý để giọng thách thức. “Tống Hành, người tức giận và mất kiểm soát như thế, chẳng qua là sợ ta sẽ rời bỏ ngài. Chẳng lẽ, ngài đã thích ta rồi sao?”

Thích ư? Đúng là chuyện nực cười nhất trên đời. Trong tim hắn chỉ có giang sơn xã tắc, làm gì có chỗ cho một nữ lang nhỏ bé như nàng, bị trói buộc bởi những chuyện nhi nữ thường tình.

Sợ hãi, đó chỉ là cảm xúc của kẻ hèn nhát. Hắn là nam lang đội trời đạp đất, kiêu hùng bất thế, làm sao lại sinh ra loại yếu mềm ấy được.

Muốn ngay lập tức phủ nhận, nhưng lời vừa đến miệng, lại không sao thốt ra được. Tống Hành cũng không hiểu vì sao lại như thế, chỉ cảm thấy cơn đau đầu như muốn vỡ tung, lý trí bên bờ vực sụp đổ. Hắn chỉ muốn hòa nàng vào xương, nuốt chửng vào bụng.

Hắn ra sức chứng minh điều gì đó, nhưng tại sao, cả thân tâm đều không cảm nhận được chút niềm vui sướng nào.

Điều hắn thích chẳng phải chỉ là thân xác của nàng thôi sao? Nhưng vì sao, giờ phút này dù đang cùng nàng kề cận, hắn vẫn chẳng thể lấp đầy khoảng trống và cùng nỗi khao khát ở trong lòng?

Hắn lặng lẽ dời ánh mắt, không dám nhìn thẳng vào đôi mắt trong veo như nước của nàng, ngoan cố lừa mình dối người: “Thích nàng? Dương Sở Âm, nàng cũng quá đề cao bản thân rồi. Từ đầu đến cuối, thứ mà trẫm để mắt tới chỉ là dung mạo và thân thể nàng mà thôi.”

Lời vừa dứt, Thi Yến Vi bất ngờ thay đổi thái độ, vòng tay qua bờ vai rộng của hắn, nhẹ như chuồn chuồn đậu nước, hôn lên phiến môi mỏng của Tống Hành, cất giọng yêu kiều: “Quỳ Ngưu Nô, nơi này lạnh lắm, chúng ta lên giường được không?”

Quỳ Ngưu Nô. Đã bao lâu rồi hắn không nghe thấy giọng nói nhỏ nhẹ ấy từ nàng? Đôi mắt vốn u ám của Tống Hành như được thắp lên bởi một tia sáng, hắn quay lại nhìn nàng. Khoảnh khắc ấy, hắn như một con chó trung thành luôn vâng mệnh chủ nhân, ngoe nguẩy đuôi đến gần người duy nhất hắn nhận đó là chủ.

Chữ “được” sắp sửa thốt ra, nhưng lý trí lại kịp kéo hắn lại, nhắc nhở hắn rằng: Nữ lang trước mặt chẳng qua chỉ là một nữ gian chuyên lừa lọc mà thôi. Những gì nàng nói không thể xem là thật. Nàng chỉ dụ dỗ hắn, lừa gạt hắn, trêu đùa hắn…

Ánh sáng trong mắt hắn tắt ngấm, trái tim như con chó cụp đuôi. Hắn lạnh giọng: “Dương Sở Âm, nàng đừng hòng giở trò trước mặt trẫm. Từ nay về sau, lời nàng nói, một chữ trẫm cũng sẽ không tin.”

Thi Yến Vi đã hạ quyết tâm, đương nhiên không thể bỏ cuộc giữa chừng. Gạt qua nỗi nhục nhã, nàng quấn lấy hắn, v**t v* hắn, thủ thỉ bên tai hắn: “Tống Hành, Quỳ Ngưu Nô, mặt bàn cứng lắm, da ta sẽ bị… xước mất…”

Giọng nữ uyển chuyển như tiếng oanh thốt bên tai, pha tiếng thút thít nghẹn ngào. Tiếng ngâm khiến cánh tay Tống Hành nổi đầy gân xanh, cơ bắp hằn lên cuồn cuộn, từng giọt mồ hôi lớn to bằng hạt đậu treo giữa trán, nóng hầm hập, ngay cả hơi thở cũng bỏng rát vô cùng.

Thiên hạ này chẳng ai dám gọi thẳng tục danh của hắn, cũng chẳng ai dám gọi hắn là Quỳ Ngưu Nô, chỉ có nàng. Đáng lẽ hắn phải trách mắng, không cho phép nàng tiếp tục phạm thượng, nhưng kỳ lạ thay, hắn lại mê mẩn cách nàng gọi hắn như thế.

Suy nghĩ hỗn loạn khó phân, Tống Hành thở hồng hộc như trâu, hơi ngẩng cổ lên, kìm chế những gợn sóng trong lòng, không nhìn nàng nữa.

Trên cổ, yết hầu tròn như hạt đào lộ rõ.

Thi Yến Vi siết lấy cánh tay hắn, hôn lên yết hầu ấy.

Giọng nàng chậm rãi, ngắt quãng, như đang ban lệnh: “Quỳ… Ngưu Nô, Nhị… Lang, đừng… ở đây…”

Đêm nay, là nàng tự tìm đường chết.

Cơ bắp hắn căng lên, máu nóng trong người như chảy ngược. Tống Hành bế nàng lên, bước đi vững chãi trong ánh nến mờ nhạt, vẻ mặt lạnh lùng: “Dương Sở Âm, là nàng tự chọc vào trẫm trước, vậy thì phải ngoan ngoãn mà chịu đựng cho trẫm!”

Thời gian dài đằng đẵng, gần như khiến người ta tê dại. Nước mắt Thi Yến Vi như chuỗi ngọc bị cắt đứt, nàng hé môi son cách lớp hoàng bào rực rỡ, cắn mạnh lên bả vai Tống Hành.

Áo bào trên người Tống Hành vẫn còn nguyên, vẫn là bộ dáng uy nghiêm thủ lễ như thường lệ, những chuyện hắn đang làm lúc này, chỉ cần nghe thấy thôi cũng đủ khiến người khác mặt đỏ tai hồng.

“Tham lam thế này, có lẽ trẫm nên sớm nhốt nàng lại, tỉ mỉ chăm bẵm, để nàng không bao giờ rời khỏi người trẫm.”

Hắn ôm chặt lấy nàng, cảm giác hạnh phúc khi mất đi rồi tìm lại được khiến hắn không dám lơi lỏng dù chỉ một khắc, vừa thân mật vừa không ngừng thốt ra những câu từ lả lơi.

“Muốn lên giường, cưỡi lên người trẫm? Tiểu yêu tinh, nàng muốn làm hoàng hậu của trẫm chắc?”

Lời vừa thốt ra, Tống Hành thấy hối hận, nghi ngờ rằng bản thân bị sắc đẹp làm cho hồ đồ. Huống chi nàng sớm nói qua, bất luận là là thê là thiếp, nàng đều không bằng lòng gả cho hắn, hắn hà tất phải mặt nóng dán mông lạnh, tự mình chuốc nhục.

Thi Yến Vi không cắn hắn nữa, nhẹ nhàng lắc đầu, phủ nhận một cách đơn giản, dứt khoát: “Thiếp chưa từng nghĩ như vậy.”

Nàng thực sự phủ nhận. Tống Hành chỉ cảm thấy lời nàng nói thật chói tai, ngọn lửa giận trong lòng vừa lắng xuống lại hừng hực thiêu đốt, khơi dậy ý muốn hủy diệt mọi thứ trong lòng hắn. Nhưng cuối cùng, hắn vẫn nhịn xuống, bỏ qua cho hai lần đào vong của nàng.

“Xem ra nàng cũng hiểu chuyện, tự biết rõ vị trí của mình. Tạm thời trẫm chiều chuộng nàng hơn, sau này nếu mang long thai, trẫm sẽ phong nàng làm phi.”

Vừa nói, hắn vừa thuận theo ý nàng bước về phía giường, vòng tay ôm lấy eo nàng mà ngả xuống.

Thi Yến Vi nắm chặt lấy vạt áo hắn, ngẩng chiếc cổ thiên nga trắng mịn, khẽ gọi hắn là “Quỳ Ngưu Nô.”

Mỹ nhân da trắng thắng tuyết, mồ hôi đượm hương thơm.

Tống Hành không dời nổi mắt, sa vào thời khắc mê hoặc này.

Thời gian trôi lâu như trải qua một kiếp, Tống Hành chạm đến đỉnh mây, đôi mắt khép hờ.

Thi Yến Vi đột nhiên buông cánh tay hắn, nhanh như chớp rút cây trâm vàng trên tóc, không chút do dự đâm mạnh vào ngực hắn.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 66: Đâm hắn



Đầu cây trâm nhọn cắm sâu vào lồng ngực, gần kề trái tim, cơn đau âm ỉ không tiếng động chậm rãi lan tỏa. Tống Hành ngỡ ngàng nhìn chủ nhân của cây trâm, đến khi thấy rõ khuôn mặt nàng, nhanh như cắt hắn nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn, trắng ngần ấy. Và rồi, như bắt gặp điều gì khá thú vị, hắn bật cười.

Lần đầu tiên, thỏ trắng yếu mềm lại dám giơ vũ khí đâm vào con sói đuôi dài hung ác.

Trước mặt người khác, thậm chí là một con mèo, nàng vẫn ôn hòa, thiện lương là thế. Ấy vậy mà khi đối mặt với hắn, nàng lại như tảng đá vô tri, vô tình, tàn độc.

Máu tươi không ngừng tuôn ra dọc theo đầu trâm. Tống Hành nắm chặt tay nàng, ngồi dậy. Nụ cười vẫn treo ở khoé môi hắn, hắn càng siết chặt tay nàng, làm đầu trâm càng đâm sâu hơn vào da thịt.

Theo thời gian, những ngón tay trắng mịn của nàng đã nhuốm đỏ, nhịp tim của Thi Yến Vi bắt đầu tăng tốc.

Nàng trời sinh đã có bản tính hiền lành, nhân hậu, ngay cả một con chuồn chuồn hay cánh bướm cũng không nỡ làm chúng tổn thương. Nàng không chịu nổi cảnh máu tanh, dù đã hai mươi bốn tuổi đầu nhưng chưa khi nào nàng mua về một con gia cầm sống.

Những lần ba nàng làm cá nấu canh, chỉ cần nàng có mặt ở nhà, thì đều tránh xa căn bếp, không dám nhìn cảnh cá bị cạo vảy róc thịt.

Nhưng giờ đây, nàng lại đang giết người.

Máu nóng dính lên tay, sền sệt, khiến Thi Yến Vi gần như suy sụp. Nàng giãy giụa muốn rút tay, nhưng bàn tay to lớn của Tống Hành đã giằng lại, không để nàng được phép trốn thoát.

Bên tai vang lên giọng nói trầm thấp đầy trào phúng và điên cuồng của Tống Hành: “Sức mọn thế này, lại còn đâm sai chỗ. Dương Sở Âm, nàng vô dụng thế này thì sẽ chẳng giết được ai đâu.”

Cả người nàng không tự chủ được mà run lẩy bẩy, máu vẫn chảy không ngừng. Ánh mắt b*nh h**n của Tống Hành làm nàng kinh hãi, đến cả thở cũng không dám thở mạnh. Nàng cắn môi, thất thần hét lên: “Tống Hành, ngươi điên rồi! Mau buông ta ra!”

Nụ cười trên mặt Tống Hành càng sâu, hắn giữ chặt tay nàng, rút cây trâm ra, rồi dẫn tay nàng hướng tới vị trí trái tim hắn. Giọng hắn đã gần như phát cuồng: “Dương Sở Âm, nhìn cho kỹ. Đâm chỗ này này! Nếu ta chết dưới tay nàng, những người có liên quan đến nàng sẽ là kẻ đầu tiên chịu họa. Nhà họ Dương sẽ bị tru di cửu tộc, toàn bộ cung nhân trong điện này vì hành động của nàng mà chết thảm. Sau đó, cả nước Triệu cũng sẽ chìm trong chiến loạn triền miên, xác chết chồng chất, dân chúng lầm than. Nào, Dương Sở Âm, giết ta đi! Vừa rồi nàng đã làm rất tốt cơ mà!”

Giây phút này, nàng mới bàng hoàng nhận ra, hắn chính là một con chó điên, một khi cắn người thì cắn chặt không nhả.

Thi Yến Vi không chịu nổi sự nhớp nháp của máu trên tay, lắc đầu liên tục, giọng đầy tuyệt vọng: “Nếu gặp kẻ điên như ngươi là số mệnh của ta, thì ta thà không cần cái mạng này nữa! Ngươi giết ta đi, Tống Hành! Sống bên cạnh ngươi, từng ngày từng giờ đều kinh tởm, bi ai. Ta thực sự đã chịu đủ rồi, chỉ mong được chết đi thôi!”

Nàng thực sự ghét hắn đến thế, không chỉ muốn giết hắn, mà sẵn sàng từ bỏ mạng sống của chính mình. Rốt cuộc hắn có điều gì không tốt, khiến nàng nguyện chết cũng không muốn ở lại bên hắn, hưởng vinh hoa phú quý và quyền lực vô biên.

Nhận thức rõ điều này, Tống Hành chỉ thấy đầu đau như muốn nứt ra. Lửa giận ngập trời thiêu đốt lồng ngực hắn, vết thương ở đó vẫn không ngừng rỉ máu. Mỗi cơn đau đều như k*ch th*ch dây thần kinh, khiến hắn gần như phát dại.

Hắn muốn nàng sống, để ở bên hắn, nhưng lời đến miệng lại hóa thành những nhát dao bén ngót. “Giết nàng? Giết nàng rồi, trẫm lấy ai để phát tiết d*c v*ng? Nó thích nàng đến vậy, chẳng lẽ nàng lại không cảm nhận được chút gì sao?”

Lời còn chưa dứt, hắn đã lần nữa xông lên, dễ dàng khống chế cả người nàng.

Cảnh tượng ấy khiến người ta không khỏi liên tưởng đến ngày xuân, khi những nụ hoa e ấp khẽ bung nở, cánh hoa mỏng tang ôm trọn từng cơn gió, tựa áng mây trời cứ thế lững lờ trôi.

Tống Hành chẳng màng đến vết thương trước ngực. Hắn mải miết công thành đoạt đất, tùy ý tấn công. Máu từ vết thương chậm rãi chảy xuống, men theo đường eo nhuốm đỏ vạt áo, thấm vào chăn gấm.

Thi Yến Vi lặng lẽ chịu đựng cơn cuồng loạn của hắn, khép mắt không nhìn. Thời gian trôi qua trở nên dài vô tận, cho đến khi giọng nói trầm thấp, lạnh tanh của hắn lại một lần nữa vang lên bên tai nàng:

“Nàng dám chết thử xem, trẫm sẽ giết Luyện Nhi, Lưu mụ đang hầu hạ nàng, rồi giết Vương Ngân Chúc, Lâm Vãn Sương những người quen biết nàng, chưa kể thân nhân của phụ mẫu nàng, dù là ai cũng đừng hòng trốn thoát… Trên đường xuống hoàng tuyền, có bấy nhiêu người hầu hạ và bầu bạn, nàng sẽ không đến nỗi cô đơn.”

Sao hắn sao có thể phát rồ đến mức này.

“Ngươi điên rồi, điên rồi!” Thi Yến Vi kinh hãi lùi lại, đôi mắt mở to, nhìn hắn như đang nhìn một con quái vật gớm ghiếc.

Tống Hành thoáng khựng lại khi thấy nàng dùng ánh mắt ấy nhìn mình.

Hắn muốn làm nàng sợ, muốn khiến nàng khiếp đảm, đúng không sai. Nhưng khi bị nàng dùng ánh mắt ấy chiếu thẳng vào người, hắn lại có cảm giác như đang bị từng mũi dao đâm thẳng vào tim, từng thớ thịt như bị xé toạc, nỗi đau không cách nào tả xiết.

“Đúng, trẫm điên rồi. Từ lần thứ hai nàng ruồng bỏ trẫm, trong lòng trẫm đã khao khát nàng phát điên. Những nữ lang khác không thể khiến trẫm dậy nổi hứng thú, chỉ có thể hết lần này đến lần khác nhìn kha tử của nàng, mặc lên người bộ y phục mà chính tay nàng khâu vá, nghĩ về nàng, nhớ về nàng, mới miễn cưỡng giải tỏa được…”

Không muốn đối diện thêm với ánh mắt đầy oán trách và thăm dò của nàng, Tống Hành nghiến răng, buộc bản thân dừng lại. Hắn buông nàng ra, xoay người nàng lại, ép nàng cúi xuống, quỳ trên lớp chăn. Tay hắn giữ chặt lấy eo nàng, kéo sát cơ thể vào nhau, bất chấp cơn đau như nhát búa dội vào đầu.

“Chẳng lẽ nàng cho rằng trẫm muốn biến thành bộ dạng này sao? Không chỉ nàng hận trẫm, mà chính trẫm cũng hận bản thân. Hận vì sao không thể buông bỏ nàng, hận vì sao lại gục ngã trước một tiểu nữ lang đầy dối trá như nàng. Hận vì sao hết lần này đến lần khác mềm lòng với nàng, nhưng lại giống một con chó đáng thương, chỉ mong nàng có thể đối tốt với trẫm hơn dù chỉ một chút.”

Nói xong, Tống Hành nghiêng người ép sát xuống, thân hình vạm vỡ đè lên người nàng, cúi đầu vùi mặt vào cổ nàng. Hắn bắt lấy tay nàng, buộc mười ngón tay đan chặt vào nhau, lòng bàn tay hắn áp chặt lên mu bàn tay nàng, đè xuống chăn đệm.

Mu bàn tay nóng ran. Thi Yến Vi giống như cá nằm trên thớt, cả người như bị đóng đinh. Khắp nơi đều là hơi thở của hắn, nóng bỏng, dữ dội, khiến người ta không cách nào lờ đi được.

Giữa lúc cảm giác khác lạ trỗi dậy, bên tai nàng vang lên lời nói vừa ngạo nghễ vừa bất kham của Tống Hành: “Trẫm sẽ không buông tha nàng, cũng không thể bỏ qua cho nàng. Nàng là của trẫm, chỉ có thể là của trẫm. Dù có mạo phạm thần nữ hay chọc giận thiên thần, trẫm là nhân hoàng, cũng sẽ không sợ!”

Lời chưa dứt, nữ tử trong lòng hắn đã thở nhẹ một hơi. Tống Hành hưng phấn đến đỏ cả mắt, dường như quên đi cơn giận và oán hận đối với nàng, cũng quên việc phải xưng “trẫm”, bật ra câu hỏi từ tận đáy lòng: “Âm Nương, nàng vẫn có chút tình cảm đối với ta có đúng không? Nàng cũng có một chút thích ta, đúng không?”

Thi Yến Vi không còn đủ sức để suy nghĩ, ngón tay vô thức co lại, môi cắn chặt, dù không nói nên lời nhưng vẫn theo bản năng lắc đầu.

Tống Hành hiển nhiên không chấp nhận được câu trả lời này, lòng dạ càng thêm độc địa. Hắn bất ngờ buông tay nàng ra, nhích thân rời khỏi phần eo rồi ghé sát tai nàng, gằn giọng nói: “Từ nay về sau, trẫm quyết không mềm lòng với nàng nữa. Đêm nay, trẫm nhất định sẽ khiến nàng phải khóc tức tưởi cho bằng được.”

Không biết đã qua bao lâu, Thi Yến Vi mệt mỏi đến mức không mở nổi mắt. Tống Hành rốt cuộc cũng dừng lại, xả giận xong, hắn đứng dậy rời khỏi người nàng.

Một lát sau, hắn mặc lại chiếc trường bào lấm chấm đỏ, lấy áo choàng lông cừu lớn treo sau cửa bọc kín cả người nàng, ngồi xuống bên sạp, lại sai người đưa nước vào, thay đi lớp chăn đã ướt.

May thay, vết thương kia đã không còn chảy máu, chỉ kết thành một lớp vảy mỏng, nổi bật trên nước da lúa mạch.

Trên người Thi Yến Vi cũng dính vài vệt máu. Tống Hành lặng thinh, dùng khăn lau sạch cho nàng, thay bộ tẩm y mới trước khi đặt nàng lại vào trong chăn gấm, đắp kín chăn. Hắn nhặt chiếc trâm vàng dính máu, cất kỹ vào tay áo như báu vật, sau đó lặng lẽ rời khỏi phòng.

Khi Tống Hành bước vào điện Triều Nguyên, đêm đã sang canh ba, bóng tối dày đặc, bốn bề lặng ngắt như tờ.

Hắn sai người mang thuốc trị thương đổ lên vết thương rồi bảo Trương nội thị dùng vải mịn băng lại, nhưng hắn không hề sai người thỉnh ngự y ở viện thái y đến chẩn bệnh.

Trương nội thị đã cùng theo người rời điện Triều Nguyên, đương nhiên biết rõ vết thương này không phải do Thánh nhân tự gây ra. Xem ra, chỉ có thể là do vị nương tử trong điện để lại.

Đả thương long thể chính là trọng tội mất đầu.

Lần này Thánh nhân bị thương không nhẹ nhưng lại không trừng phạt vị nương tử kia. Thậm chí vì không để lộ tiếng gió tới tai Thái hoàng thái hậu nên cũng không chịu mời ngự y đến. Qua đó cũng đủ thấy Thánh nhân đối với vị nương tử kia vẫn luôn mang lòng ngưỡng mộ.

Dù trong lòng khiếp sợ, nhưng đây là việc liên quan đến long thể an nguy, Trương nội thị do dự hồi lâu, rốt cuộc vẫn phải lên tiếng khuyên nhủ: “Vết thương dù sao cũng ở gần tâm khẩu, long thể của Thánh thượng vô cùng quý giá, chi bằng triệu ngự y đến chẩn trị cho đường hoàng.”

“Nếu Thánh thượng không muốn để người khác biết, chỉ cần lệnh ngự y giữ kín miệng là được.”

Tống Hành lặng lẽ nghe hắn nói hết, cuối cùng vẫn không đáp lại.

Trương nội thị đứng bên, thấy sắc mặt hắn trầm ngâm, không dám nói thêm lời nào, chỉ khẽ thở dài rồi rón rén lui xuống, sai hoàng môn vào hầu hạ người rửa mặt thay y phục.

Đêm khuya Thánh nhân mới trở về, Bảo Sênh giữ lại một ngọn đèn le lói trong phòng dưới. Khi thấy Thánh nhân bước xuống từ bộ liễn, nàng vội dập tắt ngọn nến trên bàn, chọc thủng giấy cửa sổ, nhìn ra ngoài qua ánh trăng sáng sủa.

Nàng thấy Trương nội thị lấy một bình thuốc và băng vải sạch từ thiên điện mang vào, còn hoàng môn thì bưng chậu nước lấm tấm sắc đỏ ra.

Bảo Sênh hơi nhíu mày, đợi khi ánh nến trong chính điện tắt hẳn mới trở về giường nằm xuống.

Bên ngoài cửa sổ, màn đêm tĩnh lặng, ánh trăng đầy phòng, hoa đông hé nở.

Tống Hành nằm nghiêng trên giường, không sao chợp mắt nổi. Trong đầu hắn chỉ toàn hình bóng dáng của nàng: khuôn mặt sầu muộn, giọng nói oán hờn, cùng những giọt nước mắt nóng hổi.

Nàng hận hắn, trong lòng không có chút tình cảm nào.

Hắn mở choàng mắt, qua tấm rèm lụa vàng nhạt về phía ánh sáng trắng mờ rọi xuống từ cửa sổ.

Tống Hành cau mày thành hình chữ xuyên, tâm tình cứ từng bước lụn bại. Hắn chợt nhớ đến những giọt nước mắt của nàng đêm nay, chắc chắn nàng đã bị thương ở đâu đó. Lúc ấy hắn giận quá, quên không bôi thuốc cho nàng. Sáng mai tỉnh dậy, vết thương của nàng không biết chừng sẽ hóa thành những vết sưng.

Vết thương mơ hồ nhói lên, ngàn vạn suy nghĩ quấy nhiễu trong lồng ngực. Hắn trằn trọc trở người qua lại, mãi đến nửa đêm mới đi vào giấc ngủ chập chờn.

Sáng hôm sau, trong ánh bình minh, Thi Yến Vi từ từ tỉnh dậy.

Ánh sáng hắt qua cửa sổ có phần chói mắt. Nàng gắng gượng nhấc cánh tay lên, nhưng chỉ thấy toàn thân ê ẩm.

Hai chân rã rời đến mức không chịu nổi, mỗi lần cử động lại không tránh khỏi kéo căng nơi giữa chân, khiến cảm giác đau nhức và rát buốt càng thêm rõ rệt.

Tên điên kia không để thuốc lại cho nàng dùng.

Cả người Thi Yến Vi như bị cỗ xe cán qua, cổ họng khô rát không thể phát ra tiếng, nàng chỉ có thể chống tay vào mép giường, khó nhọc ngồi dậy rồi bước xuống.

Hai chân nàng mềm nhũn, chẳng khác nào lá rau đã bị nấu chín nhừ, vừa đặt chân xuống, nàng nhận ra tự mình sẽ không thể đứng vững.

Cả người ngã khuỵu xuống đất, đầu gối nện vào mặt sàn, nàng không kìm được rên thành tiếng, hốc mắt cũng vì thế rưng rưng.

Nàng lảo đảo đứng dậy thêm lần nữa, dò dẫm đến cạnh bàn, nhấc ấm nước lên. Bàn tay phải run run không ngừng, phải rất lâu sau, nàng mới rót được nửa chén trà nguội. Uống xong, nàng dùng ánh mắt vô hồn, cứ thế nhìn chằm chằm vào chén sứ.

Nàng tự hỏi: Sống tiếp để làm gì? Sống chỉ để làm một món đồ chơi bị Tống Hành nhốt kín hay sao? Nàng vốn không thuộc về nơi này, càng không đáng phải chịu đựng những tháng ngày sống không bằng chết.

Hình bóng cha mẹ, Trần Nhượng và cả bạn thân Huyên Huyên bỗng hiện ra trước mắt. Cảm xúc trong lòng Thi Yến Vi như vỡ òa, nước mắt ướt mèm lông mi, tiếng khóc sụt sùi cùng trở nên yếu ớt. Nàng gom hết chút sức lực cuối cùng, ném mạnh chiếc chén xuống đất, nhặt lên một mảnh sứ vỡ.

Bên ngoài, Luyện Nhi nghe tiếng động, vội gọi cung nhân đi lấy chìa khóa, nói vọng qua khe cửa: “Nương tử, người làm vỡ chén trà rồi sao? Để nô tỳ vào dọn dẹp, người đừng chạm vào mảnh sứ kẻo bị thương.”

Giọng nói của Luyện Nhi chứa đầy sự quan tâm và sốt sắng, khiến bàn tay Thi Yến Vi dừng lại khi mảnh sứ đã kề sát lên cổ, lời đe dọa của Tống Hành một lần nữa luẩn quẩn bên tai nàng.

Nếu nàng dám chết, hắn sẽ giết hết những người vô tội trong cung: Luyện Nhi, Lưu mụ, còn bên ngoài cung là Ngân Chúc và Lâm Vãn Sương…

Nàng không sợ chết, nhưng không đành lòng làm liên lụy người khác.

Luyện Nhi vẫn chưa tròn mười tám tuổi, Ngân Chúc đã tìm được phu quân, thoát khỏi thân phận nô tịch, và con gái của Vãn Sương thì vẫn đang còn để tóc trái đào…

Chẳng lẽ chỉ khi đã hành hạ nàng đến kiệt quệ, hắn mới chịu buông tha, không truy cứu những người vô tội kia sao?

Thi Yến Vi yếu ớt buông tay xuống, ôm đầu gối, vùi mặt vào đó, khóc nức nở không thể kìm lại được.

Tiếng ổ khóa sắt va chạm với cánh cửa gỗ vang lên “keng” một tiếng. Luyện Nhi hớt hải chạy vào phòng, thấy nương tử chỉ khoác trên người một lớp áo ngủ đơn bạc, thân thể co ro nhỏ bé, toàn thân run lên vì lạnh. Nhìn nàng như vậy, thật khiến người ta đau lòng xót xa.

Mắt Luyện Nhi đỏ hoe, vội bước tới, nhẹ nhàng đặt tay lên vai nàng, khẽ nói: “Nương tử có phải cảm thấy lạnh không? Để nô tỳ đỡ người về giường được không, cẩn thận một chút, đừng giẫm phải mảnh sứ bên cạnh.”

Thi Yến Vi ngẩng đầu nhìn nàng, điềm đạm gật đầu. Khuôn mặt đầy vệt nước mắt, đôi mắt đẫm lệ, đôi chân không còn chút sức lực, nàng gần như bị Luyện Nhi kéo về giường.

Làn da lộ ra ngoài tái xanh, những vết bầm tím hiện rõ. Đặc biệt là cổ tay, vết xiết sâu khiến người ta không khỏi xót xa. Luyện Nhi nuốt nước mắt, không dám nhìn vào dưới váy nàng, cẩn thận dìu nàng nằm xuống.

“Nô tỳ đi lấy ít đồ ăn. Nương tử cứ nằm nghỉ, lát nữa ấm người sẽ dễ chịu hơn thôi.”

Thi Yến Vi khẽ đáp một tiếng, quay mặt vào trong, nước mắt đầm đìa thấm ướt cả gối mềm. Nàng cắn môi không chịu để tiếng khóc bật ra, lẩm bẩm gọi tên Trần Nhượng trong vô vọng.

Thật muốn nói với anh rằng: dù chỉ một khắc hay một giây, nàng đều không muốn ở lại nơi này. Nhưng đến tự kết liễu nàng cũng không có quyền, cách duy nhất nàng có thể nghĩ ra là sống lay lắt cho đến khi dầu cạn đèn tắt.

Không lâu sau, Luyện Nhi mang thức ăn đến, Thi Yến Vi không có chút khẩu vị nào, miễn cưỡng ăn được non nửa chén, rồi không thể nuốt thêm được nữa. Nàng lại kéo chăn trùm lên đầu, đi vào giấc ngủ nhợt nhạt.

Luyện Nhi thu dọn mảnh sứ, đang định ra ngoài thì gặp Tống Hành.

Đó là người đã hành hạ một người hiền lành như Dương nương tử đến mức này, lòng Luyện Nhi không dấy lên chút bất bình. Tuy vậy, người là bậc đế vương, nàng không thể không cúi đầu hành lễ.

Tống Hành quét mắt qua mảnh sứ được bọc trong vải xô, nhíu mày hỏi: “Nàng làm vỡ chén?”

Luyện Nhi không dám trả lời, chỉ gật đầu.

Nghe xong, Tống Hành dừng bước, trầm mặc hồi lâu rồi cất giọng phân phó với cung nhân: “Đổi toàn bộ vật dụng trong phòng này thành đồ bạc, không để lại vật sắc nhọn, dây vải dài hay bất cứ thứ gì tương tự.”

Cung nhân nghe lệnh, vội vàng bắt tay vào chuẩn bị.

Tống Hành bảo tất cả lui ra, một mình tiến vào phòng.

Thi Yến Vi đang ngủ rất nông, cảm giác lạnh buốt ập đến khi chăn vừa bị kéo ra, khiến nàng lập tức bừng tỉnh.

“Ngươi đừng qua đây! Đừng qua đây…”

Hình ảnh đêm qua hiện rõ mồn một trong đầu nàng, nỗi kinh hoàng bủa vây, nàng gần như theo bản năng mà kháng cự hắn. Tay nàng run rẩy nắm lấy mép chăn, đôi mắt ngập tràn sợ hãi, cầu xin trong nghẹn ngào: “Ta cầu xin ngươi, tha cho ta… tha cho ta…”

Biểu cảm đó như một tia sét giáng vào tim Tống Hành, để lại một nỗi đau âm ỉ nơi lồng ngực.

“Trẫm không làm gì nàng, chỉ muốn bôi thuốc cho nàng.” Nói rồi, hắn cẩn thận dùng tay nâng y phục nàng lên để kiểm tra vết thương.

Tống Hành chợt nhớ lại ngày ở biệt viện, hắn cũng từng phạt nàng.

Hắn, thực sự là một tên thú đội lốt người.

Nghĩ đến đây, Tống Hành cảm thấy ngực mình nghẹn lại, thở hổn hển, lại không nói gì. Hắn im lặng dùng ngón tay lấy thuốc, tay còn lại thì giữ chặt nàng, ngăn mọi động tác phản kháng.

Dù chỉ là bôi thuốc bằng ngón tay, Thi Yến Vi vẫn đau đến mức nước mắt lã chã tuôn rơi, vô lực đẩy tay hắn ra, miệng không ngừng mắng: “Tống Hành, ngươi không phải người, ngươi là súc sinh, ngươi là tội phạm! Dù ngươi là vua một nước, nhưng sai thì vẫn là sai, tội vẫn hoàn tội. Ngươi sẽ chịu báo ứng, ngươi sẽ xuống địa ngục.”

Tống Hành lắng nghe từng câu mắng chửi của nàng, trái tim hắn lại không cảm thấy quá đau đớn. Hắn thong thả rút tay lại, lấy khăn lau sạch thuốc trên tay rồi kéo chăn đắp cho nàng, giọng như trăng thanh gió mát: “Tiếp tục mắng đi, trẫm thích nghe nàng nói thật. Nàng có biết hận cũng là một cảm xúc chân thật không? Ánh mắt nàng nhìn trẫm lúc này, dù có hận đến thế nào thì vẫn khiến trẫm vui vẻ hơn nhiều so với dáng vẻ hư tình giả ý của trước kia.”

Trong ánh mắt đầy thù hận của Thi Yến Vi, Tống Hành sờ đùi nàng qua lớp chăn, hé mở môi mỏng nói: “Âm Nương cứ thích chạy trốn như vậy, trẫm thật sự không thể an tâm. Sau này, chỉ có thể dùng xích sắt buộc chặt nàng, khiến nàng không thể trốn thoát, không bao giờ rời bỏ trẫm được nữa.”

“Chỉ cần nàng ngoan ngoãn nghe lời, mỗi tháng trẫm sẽ dành ra một ngày để tháo xích, đưa nàng ra ngoài dạo chơi, ngắm cảnh. Sắp đến tháng mười một rồi, Lạc Dương chẳng mấy chốc sẽ có tuyết rơi. Trẫm dẫn nàng đến bờ hồ Cửu Châu ngắm tuyết, nàng thấy có được không?”

Nhắc đến đây, Tống Hành di chuyển tay lên, đặt lên phần bụng bằng phẳng của nàng, nở một nụ cười dị dạng, gần như điên cuồng nói: “Hoặc là, mấy ngày nay Âm Nương đã độc chiếm nguyên dương của trẫm, nếu may mắn mang thai, nàng và trẫm sẽ có sợi dây huyết mạch tương liên, không thể nào tách rời. Đến lúc đó, trẫm sẽ phong nàng làm quý phi, không cần dùng đến dây xích nữa.”

Những lời điên rồ này, Thi Yến Vi đều coi như gió thoảng qua tai, nhưng chỉ riêng hai chữ “mang thai” đã khơi dậy nỗi sợ hãi sâu kín nhất trong lòng nàng.

Nàng sao có thể sinh ra đứa con của một tên tội phạm?

Ở thành Duyên Châu, tuy y công đã từng nói nàng rất khó có thai, nhưng khó không đồng nghĩa với không thể. Hắn túng dục như thế, ngày ngày nhốt nàng ở đây, khi nào hứng lên thì đến xâm phạm nàng. Thời gian trôi qua, nếu thật sự mang thai thì phải làm sao đây?

Thi Yến Vi không thể chịu đựng nổi viễn cảnh ấy. Nếu thật sự có thai, nàng sẽ tìm mọi cách để bỏ đi đứa trẻ.

“Tống Hành, ngươi giờ đã giàu có bốn bể, có thể cưới hoàng hậu, sinh con nối dõi. Sao phải ép buộc ta, ép ta sinh ra một đứa con không được chào đón? Ngươi làm hại ta còn chưa đủ, lại còn muốn tiếp tục hại một sinh linh yếu ớt, vô tội nữa? Ngươi thật quá đáng sợ!”

Làm hại. Sao nàng có thể dùng từ đó để định nghĩa lòng tốt và sự nuông chiều hắn dành cho nàng. Trong thế giới loạn lạc này, hắn đã mang đến cho nàng một cuộc sống đầy vinh hoa phú quý, ban cho nàng một chốn nương thân, để nàng không phải chịu bất kỳ sự tổn thương nào từ bên ngoài. Thế mà, nàng vẫn cảm thấy hắn đang hại nàng.

Đứa trẻ của hắn và nàng sẽ trở thành hoàng tử, công chúa với thân phận tôn quý. Hắn sẽ là một người cha tốt, tận tâm dạy dỗ con cái biết cưỡi ngựa, bắn cung, dạy bọn trẻ biết viết chữ và đối nhân xử thế. Hắn sẽ che chở chúng, để chúng bình an lớn lên.

Sao nàng có thể gọi hắn là kẻ đã hãm hại mình? Làm sao nàng có thể nói hắn đáng sợ?

Một lần nối tiếp một lần, Tống Hành cảm thấy trái tim nhói lên, hắn đưa tay vuốt tóc nàng, kiên định nói: “Nàng ghét trẫm thế nào cũng được, nhưng trẫm vẫn muốn nàng, và cả đứa con của nàng.”

Kẻ này ngang ngược vô lý, cần gì phí lời với hắn? Cuối cùng cũng chỉ như đàn gảy tai trâu, ông nói gà bà nói vịt mà thôi. Thi Yến Vi khinh bỉ hắn, quay mặt đi không nhìn hắn, không muốn để hắn chạm vào mình, càng không muốn bị hắn v**t v*. Nàng dùng sức đẩy tay hắn ra, kéo chăn che kín đầu lại.

Tống Hành thấy vậy, trong lòng lo lắng nàng sẽ sinh bệnh vì bị bức bí quá lâu. Hắn nghiêm mặt, kéo tấm chăn ra, ép nàng ngẩng mặt lên, ôn tồn nói: “Nàng muốn hận trẫm thế nào cũng được, chỉ có một điều, không được phép làm nhục thân thể của chính mình.”

Thi Yến Vi hừ lạnh một tiếng, cười mỉa: “Rốt cuộc là ai đang làm nhục ai? Mỗi lần ngươi trút hết thú tính lên người ta, liệu có từng nghĩ…?”

Lời còn chưa kịp nói hết, Tống Hành bỗng cúi người xuống, bắt lấy cằm nàng, hôn lên môi nàng, l**m láp, g*m c*n. Hắn ép nàng mở miệng, dùng lưỡi quấn lấy, cướp đi hơi thở của nàng.

Thi Yến Vi bị ép nhìn hắn, rõ ràng hắn đang cưỡng hôn nàng, thế nhưng, vẻ mặt của hắn lại ẩn chứa sự đau xót.

Hắn không dám đối mặt với những lời vạch trần của nàng, hắn đang bị chính những lời đó dằn vặt.

Khi nhận ra điều này, Thi Yến Vi chỉ thấy hắn thật nực cười. Một kẻ suốt ngày coi nàng như đồ chơi, thế mà lại động lòng với nàng.

Chắc hẳn, hắn cũng không muốn thừa nhận điều này.

Như mọi khi, Thi Yến Vi nằm yên như một khúc gỗ, không có chút phản ứng nào đối với nụ hôn của hắn, như thể một cái xác không hồn.

Mấy ngày sau đó, dù bận rộn chính sự, Tống Hành vẫn luôn dành thời gian đến thăm nàng, quan sát tình trạng của nàng, giúp nàng thoa dược.

Thi Yến Vi không còn mắng chửi hắn nữa, cũng không mở miệng nói gì với hắn, chỉ im lìm như một pho tượng bằng sứ.

Cho đến một ngày, Tống Hành mang đến một dây xích làm bằng vàng, trên xích có một lớp bông mềm mại, lại được phủ thêm một lớp lụa nhẵn nhụi.

Tống Hành rất kiên nhẫn, dùng giọng nói ngọt ngào như đang dỗ dành một đứa trẻ, thủ thỉ bên tai nàng: “Âm Nương ngoan, Âm Nương hiểu chuyện nhất. Trẫm có thể cam đoan với nàng, chiếc xích này rất nhẹ, đeo lên mắt cá chân sẽ không đau chút nào đâu.”

Thi Yến Vi tự biết chống cự cũng vô dụng, trơ mắt nhìn hắn nổi điên. Thế nhưng, khi dây xích choàng vào mắt cá chân, tâm tình nàng gần như vỡ vụn. Nàng hết lần này đến lần khác phải tự nhắc nhở bản thân, chỉ cần xem mình như một con rối.

“Âm Nương.” Tống Hành đột nhiên cúi xuống, dùng bàn tay lớn bao lấy mắt cá chân trắng muốt của nàng, hơi thở hầm hập phả ra, khẽ gọi.

Thi Yến Vi nhận ra, hắn lại chuẩn bị phát tiết…
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 67: Thích



Tống Hành dễ dàng giữ chặt đôi vai gầy guộc của nàng, đẩy nàng ngã xuống chăn gấm, rồi quỳ thẳng xuống trước đầu gối nàng.

Cổ chân mảnh khảnh của nàng bị hắn nắm lấy, gió khuya se lạnh lướt qua làn da trắng mềm mịn.

Trong chậu than đặt dưới giường là than bạc ngân sương, ánh lửa bập bùng vàng cam, tản ra từng đợt hơi ấm.

Thi Yến Vi nằm bất động như cá chết, hai tay níu chặt lấy chăn gấm bên dưới, ngay cả liếc mắt nhìn lên phát quan của hắn cũng khiến nàng cảm thấy ghê tởm.

Tống Hành dốc sức lấy lòng nàng, nhưng đến bám vào bả vai hắn nàng cũng không muốn, cứ như thể hắn là một thứ đồ dơ bẩn.

“Âm Nương, nàng gọi trẫm một tiếng Quỳ Ngưu Nô nữa, được không?” Tống Hành cố kìm nén, ngước nhìn đôi mắt nhắm chặt của nàng, giọng nói pha chút cầu xin.

Cũng không biết là vì lạnh hay vì nguyên do nào khác, cơ thể nàng khẽ run rẩy, nhưng lời hắn nói đều bị nàng coi như gió thoảng bên tai, im lìm không phát ra tiếng đáp.

Trước khi đến đây, Tống Hành đã uống trà, lại dùng qua ngọc lộ mỹ tửu, nhưng vẫn không cảm thấy thỏa mãn. Hắn nuốt từng ngụm lớn, yết hầu cứ thế nhấp nhô.

Bàn tay to lớn của hắn vuốt lên má nàng, gương mặt sa sầm, hỏi: “Âm Nương, nàng định làm người câm trước mặt trẫm mãi sao?”

Cho dù sự động chạm của hắn khiến nàng kinh tởm đến mức muốn nôn mửa, thì nàng vẫn không phản kháng, thậm chí không thèm mở mắt ra nhìn hắn. Tựa như con diều đã đứt dây, phó mặc cho số phận.

Tống Hành dùng đôi mắt phượng thâm thúy nhìn nàng, ánh nhìn chằm chằm như ưng nhãn, cảm xúc trong lòng bị sự phớt lờ của nàng kích động, dần xuất hiện dấu hiệu bùng phát.

Từng giây trôi qua, hắn thấy sợi dây tự chủ trong lòng đã căng đến giới hạn.

Những ngón tay thon dài bất ngờ di chuyển đến cằm nàng, nhàn nhã khép lại rồi nhấc cằm nàng lên, giọng điệu bỗng chốc cao vút:

“Trẫm muốn nàng nói, Dương Sở Âm!”

Thi Yến Vi nghe rõ sự tức giận trong giọng điệu hắn, hòa cùng nỗ lực kìm nén đến tột độ. Âm lượng phát ra tuy lớn, nhưng lại ẩn chứa dè chừng. Hắn gần như đã dùng hết mọi cách để dằn xuống sát khí trên người, khiến giọng điệu không trở nên quá đáng.

Đáp lại hắn vẫn chỉ là sự im lặng kéo dài.

Hồi lâu, khi kiên nhẫn của Tống Hành đã cạn, hắn buông cằm nàng ra, rồi đưa tay tới gần vạt áo nàng, định cởi xuống từng nút thắt.

Nếu mệnh lệnh trở nên vô dụng, thì hắn sẽ dùng cách khác để buộc nàng phải lên tiếng.

Thi Yến Vi phản ứng ngay tức khắc, bài xích sự tiếp cận từ hắn. Nàng co người lại, cắn chặt răng, chỉ sợ hắn lặp lại những ngày trước, nhục mạ nàng đến tận cùng.

Ký ức như một cơn ác mộng không ngừng đeo bám nàng. Suốt những ngày qua, chỉ cần nghĩ đến cảnh bị hắn kiềm chế, nàng đã cảm thấy buồn nôn, không ăn gì nổi, chỉ hận không thể nhổ bằng sạch những thứ nằm trong dạ dày.

Đôi mắt đào hoa vốn trong sáng linh động dường như đã rút cạn sinh khí, phẳng lặng như một đầm nước đọng. Nàng nhìn chằm chặp vào hắn, sự đề phòng đã dựng nên bức tường vô hình giữa hai người.

Tống Hành thấy nàng gần như cắn nát môi dưới, liền biết nàng đang sợ gì.

Ngày đó hắn quả thực quá mức nóng vội, vậy nên đã làm nàng đau.

Cơn đau ngấm ngầm kéo tới. Tống Hành cúi người tới gần nàng, phủ lên phiến môi đỏ thắm.

Cảm giác tự ti xâm chiếm lấy hắn, khiến hắn muốn che đi ánh mắt nàng, sợ nàng nhìn thấy con người đầy khiếm khuyết. Trước mặt nàng, hắn chỉ để lại đỉnh đầu và bờ vai dày rộng.

Tống Hành tháo đai lưng điệp tiệp bằng vàng bên hông, dùng ngữ điệu uyển chuyển nhất có thể để trấn an nàng.

Thi Yến Vi nhíu chặt mày, cố nén tiếng kêu tủi nhục nơi cuống họng, nàng giấu tay về phía sau, bám vào chiếc gối mềm dưới đầu, từ chối bất kỳ sự tiếp xúc thân mật nào với hắn.

Dây xích trên cổ chân nàng rung lên theo nhịp chuyển động, phát ra tiếng leng keng khe khẽ.

Nghe âm thanh ấy, Tống Hành chỉ cảm thấy vừa mới lạ vừa hứng khởi.

Lòng bàn tay và tóc mai của Thi Yến Vi thấm đẫm mồ hôi, làm ẩm lớp vải mềm trên gối.

Những giọt nước mắt bất lực rơi xuống, lăn dài trên má, hòa cùng mồ hôi nhễ nhại.

Tống Hành đặt một chiếc gối mềm kê dưới eo nàng, cánh tay rắn chắc xuyên qua nách, giam chặt cả người nàng từ sau lưng. Hắn tì cằm lên hõm vai nàng, hơi thở lảng vảng bên tai, thì thào những âm điệu ngắt quãng.

“Dương Sở Âm.”

“Sinh cho trẫm một đứa con, trẫm sẽ làm một người cha tốt.”



Cơn mưa bất ngờ trút xuống, xối xả như dội cả bầu trời.

Tống Hành gần như mê mẩn dán mắt vào bụng nàng, không kìm được vươn tay chạm vào.

Thi Yến Vi không cách nào diễn tả hết nỗi ghê tởm của mình đối với hắn. Làm sao hắn có thể trơ tráo đến mức vọng tưởng nàng sẽ sinh cho hắn thứ nghiệt chủng?

“Tống Hành, ngươi nhìn lại dáng vẻ bây giờ của mình đi, liệu còn nửa phần phong thái đế vương một nước? Rõ ràng người căm hận ta phản bội người, vậy mà không ngừng lui tới, cố tình mặt nóng dán mông lạnh. Miệng nói rằng chưa từng động lòng, cũng chẳng yêu thích ta, nhưng giờ đây hậu vị để trống, lại bất chấp tất cả để một nữ nhân không danh không phận như ta sinh hạ cốt nhục của ngươi. Ngươi thật sự nghĩ rằng chỉ cần một đứa trẻ là có thể khiến ta từ bỏ tâm ý, cam tâm tình nguyện làm cá trong chậu, làm chim trong lồng, để ngươi tùy cơ thưởng ngoạn sao? Dù ngươi có dùng thủ đoạn đê hèn nào đi nữa, ta chỉ nói đúng một câu: tâm ta bàn thạch, vững vàng không rời.”

Chưa từng động tâm, cũng không thích nàng sao? Tống Hành chưa từng nghĩ, sau ngần ấy ngày im lặng, điều đầu tiên nàng mở miệng nói với hắn lại là những lời này.

Hắn đã cho nàng một bậc thang để xuống. Chỉ cần nàng chịu bước theo hắn, sinh hạ cốt nhục cho hắn, mọi lỗi lầm nàng phạm phải ngày trước hắn đều có thể bỏ qua. Thậm chí, hắn còn sẵn lòng phong nàng làm quý phi, để nàng hưởng một đời tôn quý.

Thế nhưng, nàng chẳng những không bước xuống thang, lại còn thốt ra toàn những lời lẽ ngông cuồng.

Cơn đau đầu lại bắt đầu dội lên.

Chưa từng động lòng, cũng chẳng hề yêu thích nàng sao? Tống Hành không kìm được, trong lòng hết lần này đến lần khác tự vấn.

Hắn không muốn thừa nhận, cũng chẳng dám thừa nhận. Trong cơn thống khổ ấy, bàn tay phải siết chặt thành quyền, không ngừng vỗ lên trán, từng cơn đau nhức như muốn nuốt chửng hắn, suýt có lúc hắn đã thốt ra rằng: không phải hắn chưa từng động lòng, cũng chẳng phải hắn không hề thích nàng…

Nhưng lý trí cuối cùng vẫn thắng thế. Hắn cúi mắt nhìn nàng, ánh mắt hai người chạm nhau, cố nén nỗi đau như bị xé thành hai nửa, trầm giọng nói: “Trẫm đương nhiên sẽ không động lòng với một nữ nhân dối trá, càng không nói đến chuyện sẽ thích nữ nhân ấy. Nàng nói tâm mình như đá, trẫm nói nước chảy đá mòn. Nếu Âm nương không sinh hạ con nối dõi cho trẫm, sao có thể chứng thực lời nàng nói là sẽ không bao giờ thay đổi vì con?”

Còn dám cãi chày cãi cối.

Vì muốn nàng sinh con mà Tống Hành như hóa điên vậy.

Hắn đã dùng hết mọi thủ đoạn ép buộc lẫn dụ dỗ, nhưng vẫn không thể hủy đi “cốt cách phản nghịch” trong người nàng, càng không thể bóc tách những tư tưởng khác lạ ra khỏi đầu nàng. Đến bước đường này, hắn chỉ còn cách đặt hết hy vọng vào thủ đoạn mà hầu hết đàn ông trên thế gian này đều sẽ lựa chọn: dùng một đứa trẻ để trói buộc.

Hắn không dám đối diện với tình cảm trong lòng, cũng giống như một kẻ hèn nhát đang tự mình lừa dối mình mà thôi.

Nghĩ đến đây, Thi Yến Vi cười lạnh một tiếng, cuối cùng mắng hắn một câu: “Tống Hành, ngươi thật ti tiện! Nhìn ngươi bẩn thỉu gì có khác gì đám khách làng chơi, ham thích đùa bỡn nữ lang không?”

Nói xong, nàng nhắm mắt lại, ngăn cách bản thân khỏi thế giới khiến nàng tuyệt vọng này.

Nàng nói hắn bẩn thỉu. Tống Hành không để tâm đến việc nàng phạm thượng, nhưng lại không thể chịu đựng được việc nàng bóp méo sự thật.

Hai năm qua, kể từ khi ngã vào người nàng, hắn chỉ có duy nhất mình nàng. Sao nàng dám đánh đồng hắn với những tên đàn ông “bẩn thỉu” mà nàng vừa nhắc đến kia chứ?

Tống Hành giận đến mức gân xanh nổi đầy trên mu bàn tay, cánh tay, chưa kể là cả nơi đó.

“Âm Nương, trẫm chỉ có mình nàng. Trẫm bẩn hay không, nàng là người rõ nhất. Trẫm sẽ chứng minh, tất cả những gì của trẫm… đều là của nàng.”

Tiếng xiềng xích cùng giường gỗ rung chuyển kịch liệt lại vọng ra lần nữa, so với trước càng chói tai bội phần.

Trương nội thị ngồi dưới hiên, lắng nghe động tĩnh trong phòng mà không khỏi lấy làm khó hiểu. Nếu Thánh thượng đã yêu thích vị nương tử bên trong đến vậy, tại sao không ban cho nàng danh phận chính đáng để đường hoàng sủng ái? Tại sao người cứ phải lén lút tới lui như phường trộm cắp, chỉ dám đến khi màn đêm buông xuống rồi vội vã trở về trước khi mặt trời lên?

Thế nhưng, chuyện của chủ tử, đâu phải việc hắn có thể xen vào. Trong chốn thâm cung này, đạo sinh tồn chỉ có một mà thôi: những chuyện không nên hỏi, không nên nói, không nên làm, thì vĩnh viễn không được hỏi, không được nói, không được làm.

Đến tận canh ba, tiếng động trong phòng mới dần lắng xuống. Trương nội thị lập tức sai người mang nước ấm vào.

Luyện Nhi bưng chậu nước bước vào, thu hết can đảm lén nhìn vị chủ tử đang nằm úp trên nệm gấm.

t*m l*ng tr*ng n*n tựa tuyết giờ đầy rẫy những dấu vết lớn nhỏ, thắt lưng hằn chi chít những dấu tay. Mũi Luyện Nhi cay xè, không dám nhìn thêm, cúi gằm đầu xuống thật thấp.

Tống Hành đứng bên giường, chậm rãi thắt lại đai lưng điệp tiệp đính bảo thạch đủ màu, lạnh lùng liếc chậu đồng khắc hoa điểu trên tay nàng một cái, hững hờ ra lệnh: “Hầu hạ chủ tử ngươi lau mình.”

Nói xong, người phất tay áo rời đi.

Luyện Nhi chưa từng giúp Thi Yến Vi lau người sau khi hành phòng với Tống Hành, nên cũng bỡ ngỡ không biết cần phải làm những gì. Nàng lúng túng đặt chậu nước lên ghế đẩu, rồi quay sang đỡ Thi Yến Vi ngồi dậy.

Dù đã tự thôi miên thân thể này chỉ còn là một túi da, nhưng Thi Yến Vi vẫn không nỡ để Luyện Nhi thấy được dáng vẻ này của mình vì sợ sẽ dọa đến cô bé. Nàng gượng cười, thái độ điềm đạm, nói với Luyện Nhi: “Ta tự mình làm được, em lui ra đi.”

Luyện Nhi không dám nhìn vào mắt nàng, sợ rằng bản thân sẽ không kìm được mà rơi nước mắt. Chỉ lẳng lặng quay lưng về phía Thi Yến Vi, bước ra sau bình phong, giả vờ bình tĩnh đáp: “Đợi nương tử lau người xong, nô tỳ mang chậu nước đi luôn chẳng phải tiện hơn sao? Trước khi nương tử gọi, nô tỳ sẽ không bước ra khỏi bình phong nửa bước, nương tử không cần bận tâm đến nô tỳ.”

Thi Yến Vi hiểu nàng lo lắng cho mình. Nếu lúc này đuổi nàng đi, có khi Luyện Nhi sẽ thao thức đến mất ngủ cả đêm mất. Thế nên, nàng đành gật đầu đồng ý.

Ấn huyệt vị xong, Thi Yến Vi kéo lê thân thể tàn tạ, chật vật xuống giường, tẩy sạch những thứ nhơ bẩn, nhớp nháp trên người từ trong ra ngoài. Lau khô vệt nước trên chân, nàng kiệt sức ngã xuống đệm gấm, đến cả sức mặc lại quần áo tử tế cũng chẳng còn mà chỉ kéo chăn che kín người, rồi khàn giọng gọi Luyện Nhi.

Thi Yến Vi nghiêng đầu nhìn nàng, nói nhỏ: “Ta đã liên lụy em và Lưu mụ, khiến cả hai cũng bị kẹt lại nơi này.”

“Đây không phải lỗi của nương tử, mà là số mệnh của chúng ta.” Trong lòng Luyện Nhi, tư tưởng tôn ti đã ăn sâu bén rễ. Dẫu là ở hoàn cảnh thế này, nàng cũng chỉ biết quy tất cả cho vận mệnh, chẳng dám oán trách đến bậc thiên tử là Tống Hành.

“Dù thế nào đi nữa, ta vẫn phải cảm tạ em và Lưu mụ từ Thái Nguyên đến đây luôn tận tâm chăm sóc ta.” Thi Yến Vi nói xong những lời ấy, mí mắt đã díp lại, không cách nào chống đỡ thêm nữa, nàng chìm vào giấc ngủ sâu.

Tống Hành trở về điện Triều Nguyên, lúc này đã gần đến giờ Tý. (~23h)

Bảo Sênh thấy rõ động tĩnh của Tống Hành suốt mấy ngày gần đây. Ngoại trừ đêm đầu và đêm nay, những ngày giữa chỉ ở lại chưa đến nửa canh giờ đã hồi cung. Nhưng riêng hai đêm ấy, người lại nấn ná tận hai canh giờ.

Hôm sau.

Trời còn chưa sáng, Bảo Sênh đã dậy từ sớm. Nàng dõi theo bóng Tống Hành rời điện Triều Nguyên tiến về Minh Đường, rồi lặng lẽ vòng theo lối cửa sau, băng qua tiểu đạo đến điện Huy Du của Thái hoàng thái hậu.

Bảo Sênh không hiểu hết những uẩn khúc phía sau, nhưng trong lòng Thái hoàng thái hậu thì rõ như gương sáng.

Tống Hành đã hao tâm khổ tứ biết bao mới tìm được người về, nào phải chuyện có thể giấu được Thái hoàng thái hậu.

Huống chi Tống Hành bản tính cao ngạo, trước giờ cũng không định che giấu.

Giờ Tý mới hồi cung. Chỉ cần nghe thấy câu này, Thái hoàng thái hậu lập tức đoán được những ngày trước, tôn nhi của bà không nán lại lâu, chắc hẳn vì đêm đầu tiên hắn ra tay quá nặng, khiến Dương thị kia không chịu nổi ân sủng, buộc hắn phải nhẫn nhịn đến đêm qua.

Chẳng trách vì sao hai tháng trước, hắn lại dửng dưng với việc tuyển hậu. Từ đầu đến cuối, hắn vẫn luôn nhớ thương Dương thị.

Dung nhan và khí chất của Bảo Sênh đều thuộc hàng thanh nhã thoát tục, là dựa theo sở thích của hắn để tuyển chọn, nhưng hắn chưa từng dành cho nàng dù chỉ một cái liếc mắt, lại càng không nói đến chuyện sủng hạnh.

Hắn quả thực không thể rời xa Dương thị, không chỉ về thể xác, mà còn là cả tâm trí.

Không được để nàng tiếp tục hớp hồn Nhị lang.

Thái hoàng thái hậu siết chặt chuỗi Phật châu trong tay, đầu ngón tay trắng bệch, đôi mắt nhắm hờ, hít một hơi thật sâu. Sau một lúc trầm tư, bà đã có đối sách trong lòng.

Chuyện này chỉ có thể lợi dụng tâm lý phản nghịch và hiếu thắng của Nhị lang, đặt hắn vào thế buộc phải tự mình buông tay Dương nương tử.

Hắn càng không chịu thừa nhận tình cảm của mình, bà càng muốn lấy Dương thị làm cái cớ.

Không lâu sau, Thái hoàng thái hậu chậm rãi mở mắt, nhẹ nhàng lần Phật châu trong tay, rồi ra lệnh chuẩn bị bộ liễn.

Khi bộ liễn đã sẵn sàng, bà đặt chuỗi Phật châu xuống, chống gậy đứng lên. Sơ Vũ thấy vậy, liếc nhìn Đống Tuyết một cái rồi bước lên đỡ Thái hoàng thái hậu.

Đống Tuyết hiểu ý, vội thu lại chuỗi Phật châu, theo sau hai người bước ra cửa điện.

Bộ liễn được hoàng môn khiêng một cách vững chãi, từng bước tiến đến trước cung điện nơi giam giữ Thi Yến Vi, rồi dừng lại.

Thái hoàng thái hậu được người dìu xuống, thư thả bước vào.

“Thái hoàng thái hậu giá đáo.”

Tiếng hô kéo dài của nội thị vừa vang lên, các cung nhân trong điện, cùng Luyện Nhi và Lưu mụ, vội vàng quỳ gối nghênh đón.

“Nô tỳ tham kiến Thái hoàng thái hậu.” Ba người đồng thanh, cúi đầu cung kính.

Thái hoàng thái hậu thản nhiên liếc nhìn họ, ánh mắt quét một vòng quanh điện, lòng thầm than điện này xa hoa quá mức, tựa như “kim ốc tàng kiều”, hai hàng mày điểm bạc càng nhíu chặt hơn.

Không ngờ Nhị lang vẫn sủng ái nàng ta đến mức này.

“Dương nương tử hiện đang ở đâu? Vì sao không ra nghênh tiếp?”

Cánh cửa chính phòng bị khóa kín bởi ổ khóa nặng nề, Thái hoàng thái hậu liền cho rằng nơi ấy không có người ở, lại chẳng thấy Thi Yến Vi ra đón, bèn cất lời hỏi.

Ở đây Lưu mụ là người lớn tuổi nhất, trầm mặc giây lát, thấy hai người kia không dám đáp lời, đành lên tiếng giải thích: “Bẩm Thái hoàng thái hậu, nương tử hiện giờ vẫn ở trong phòng. Thánh nhân hạ lệnh khóa kín cửa lại, nương tử không thể ra ngoài, vì vậy không thể ra nghênh tiếp Thái hoàng thái hậu giá lâm.”

Đôi mắt phượng đục ngầu của Thái hoàng thái hậu dừng trên người Lưu mụ, giọng điệu trầm tĩnh nhưng quyết đoán: “Mau mở khóa ra.”

Cung nhân quỳ bên cạnh Lưu mụ nghe vậy, trong lòng vẫn nhớ đến sắc mặt nghiêm nghị của Tống Hành khi căn dặn, mạnh dạn bẩm báo: “Bẩm Thái hoàng thái hậu, Thánh nhân có lệnh, khi chưa có chỉ dụ, bất kỳ ai cũng không được thăm nương tử.”

Thái hoàng thái hậu nghe vậy, đôi mắt mờ đục chợt ánh lên một tia sắc bén, ánh nhìn lạnh lẽo khiến cung nhân kia hốt hoảng đến run rẩy. Bà nghiêm giọng trách: “Thánh nhân xưa nay hiếu thuận, vẫn luôn tôn kính với lão thân. Chuyện hậu cung nhỏ nhặt thế này, không lý nào Thánh nhân lại ngăn cản lão thân? Chẳng lẽ trong mắt ngươi chỉ có Thánh nhân, mà không có lão thân, Thái hoàng thái hậu này sao? Mau đem chìa khóa đến mở cửa ngay, đừng để lão thân phải sai người lục phòng ngươi, làm cả hai bên mất mặt!”

Cung nhân bị khí thế của bà dọa dẫm, định đi lấy chìa khóa thì bị một bóng người cao lớn chắn ngang. Người đến chính là Giang Nghiên.

Thái hoàng thái hậu vừa trông thấy, lập tức nổi giận, không ngờ Giang Nghiên lại cướp lời trước: “Thánh nhân đích thân hạ lệnh, không cho bất kỳ ai vào trong. Dù là Thái hoàng thái hậu, nếu không có chỉ dụ của Thánh nhân, cũng không thể đặt chân vào bên trong. Kính mong Thái hoàng thái hậu thứ lỗi.”

Bên trong gian phòng, nữ lang đang mơ màng ngủ bị những âm thanh ngoài cửa làm tỉnh giấc. Nàng chầm chậm mở mắt, ánh nắng ngoài cửa sổ lọt vào khiến nàng phải nheo mắt cản lại. Nàng nhấc nhẹ người, xiềng xích nơi cổ chân liền phát ra âm thanh leng keng rất khẽ.

Thi Yến Vi thử nghe ngóng, đoán chừng bên ngoài là tiếng cãi vã giữa Giang Nghiên và Thái hoàng thái hậu. Giang Nghiên không nhượng bộ chút nào, cuối cùng ép Thái hoàng thái hậu phải tức tối bỏ đi.

Bên ngoài trở lại yên tĩnh. Thi Yến Vi chân trần bước xuống giường, nhưng vì chiều dài dây xích có hạn, nàng chỉ có thể quanh quẩn bên mép giường.

Đêm đến, Tống Hành lại tới.

Song vì thân thể nàng còn chưa khỏi, hắn chỉ ôm nàng hôn khắp nơi. Đôi môi mỏng rời khỏi môi nàng, trượt xuống.

Phát quan trên đầu hắn lỏng dần, rơi xuống ngang eo.

Thi Yến Vi ngả người về phía sau, không chịu gần hắn, cũng không muốn chạm vào y phục trên vai hắn. Mọi thứ thuộc về hắn đều khiến nàng cảm thấy dờm dợm.

Bên tai nàng, tiếng nước róc rách vang lên, cơ thể dần trở nên mềm nhũn.

Nàng cắn chặt môi dưới, cố gắng nuốt những âm thanh nghẹn ngào trở lại.

Thật lâu sau, Tống Hành mới đứng dậy khỏi mép giường, đối diện với nàng. Hầu kết hắn chuyển động, ngón tay cái vuốt nhẹ bờ môi nàng, khen nàng quyến rũ mê người.

Vì ban ngày đứng lâu trên nền gạch, nên Thi Yến Vi cũng nhiễm chút phong hàn. Họng nàng vừa đau vừa ngứa, vì sợ hắn nhận ra giọng nói bất thường nên dù hắn nói gì cũng im lặng không đáp, như một cái bầu hồ lô bịt kín miệng.

Đợi Tống Hành rời đi, sợ phát ra tiếng động bị người nghe thấy, nàng cẩn thận nắm lấy sợi xích trong tay, dè dặt bước xuống giường. Cả người ngồi xuống nền gạch lạnh lẽo, đầu tựa vào chân giường, nghĩ toàn những ý nghĩ vẩn vơ.

Hiện giờ nàng đang ở trong hoàng cung, sợ rằng cả đời cũng không thể thoát ra được.

Cảm giác tuyệt vọng như cơn bão đổ bộ, nước mắt lăn dài xuống gò má. Mọi chuyện nghe được ở Thường Đạo quán hay những lời kể về công chúa Tuyên Thành đều bị nàng tạm thời gác qua một bên.

Hôm sau, cung nhân mang điểm tâm sáng vào điện, mới phát hiện Thi Yến Vi lại ngủ gục bên mép giường, sắc môi tái nhợt, sắc mặt trắng bệch như giấy.

Cung nhân giật mình kinh hãi, vội vã bước tới kiểm tra. Thử dò hơi thở, may mà nàng vẫn còn thoi thóp, nhưng cơ thể lại lạnh ngắt đến đáng sợ.

Cung nhân vội vàng đỡ Thi Yến Vi lên giường, sau đó cuống quýt sai người đi thỉnh thái y.

May thay, sau khi Lý thái y đến xem qua, xác nhận không có gì nghiêm trọng, cũng không phát sốt, chỉ là nhiễm phong hàn. Ông lập tức kê đơn, sai người sắc thuốc mang tới.

Chưa đến một khắc đồng hồ sau, Tống Hành đã nghe được tin này.

Sổ con trên bàn chất cao như núi nhưng Tống Hành không đọc nổi dù chỉ một chữ. Hắn nhíu mày, gác bút son rồi rời chính điện, hướng thẳng về cung điện Thi Yến Vi đang ở.

Hắn cố ý chọn một cung điện gần đó, nên chẳng mấy chốc đã đến nơi.

Khóa cửa sớm đã có người mở ra, Tống Hành bước nhanh vào trong, không một tiếng động, đứng bên giường nhìn xuống.

Dưới lớp chăn gấm, nữ tử an tĩnh nhắm mắt, đôi mày liễu hơi chau lại, dường như không thể ngủ yên.

Hắn cảm thấy tim mình trĩu nặng, tựa như có một tảng đá lớn đè lên.

Chậm rãi ngồi xuống bên giường, cẩn thận tháo xiềng xích trên cổ chân nàng, lặng lẽ ngồi cạnh trông nom.

Ngón tay Tống Hành vuốt dọc lên mi tâm của nàng, ký ức về những lần tiếp xúc vụn vặt giữa hai người hiện lên từng chút một.

Từ ngày nàng đến bên hắn, dù có được cuộc sống cẩm y ngọc thực, nàng rất ít khi nở nụ cười trước mặt hắn. Như khi còn ở Tống phủ, nàng tuy là người làm bếp, áo quần vải mộc đơn sơ, nhưng lại thường cười bằng cả tấm lòng.

Tiền nàng tự kiếm và tiền hắn cho, rốt cuộc khác nhau ở chỗ nào?

Trong mắt nàng, hắn thực sự tầm thường và vô dụng đến thế sao?

Khi hắn đang mải suy nghĩ, Luyện Nhi bưng chén thuốc tiến vào.

Luyện Nhi vẫn luôn sợ hắn, cúi đầu thấp, run rẩy thưa chuyện: “Bẩm Thánh thượng, nên gọi nương tử dậy uống thuốc rồi ạ.”

“Được.” Tống Hành gật đầu, giọng điệu ôn hòa kỳ lạ.

Luyện Nhi sững sờ, quên cả đứng dậy, mãi đến khi Tống Hành tự tay cầm lấy bát thuốc, nàng mới giật mình bừng tỉnh.

“Âm Nương.” Tống Hành lay nhẹ tấm chăn mỏng trên người nàng, gọi nhẹ một tiếng, cố đánh thức nàng.

Thi Yến Vi ngủ rất nông, liền bị động tác ấy của hắn làm tỉnh. Vừa mở đôi mắt nhập nhèm buồn ngủ thì gương mặt hắn đã hiện lên trong tầm mắt của nàng.

Vẻ mặt nàng lập tức hiện rõ sự sợ hãi và đề phòng, thân mình co rụt lại, bản năng lộ rõ sự kinh sợ, sợ hắn sẽ tiếp tục giày vò nàng.

Chiếc xích nơi chân vì động tác nhỏ của nàng, phát ra tiếng leng keng.

Nhìn nàng khiếp sợ, xa cách mình như thế, cổ họng hắn nghẹn lại, cảm giác khó thở càng thêm trầm trọng.

“Âm Nương ngoan, uống thuốc nhé, được không?” Tống Hành liên tục dỗ dành, nhẫn nại múc một thìa thuốc đưa tới môi nàng.

Thi Yến Vi mím môi, mặc kệ hắn.

Tống Hành kiên trì dỗ ngọt thêm vài câu, nhưng nàng vẫn bất động, tựa như đã quyết định trở thành khúc gỗ không lời trước mặt hắn.

Không còn cách nào, Tống Hành đành uống một ngụm thuốc, sau đó cúi xuống, chạm môi mình lên môi nàng.

Luyện Nhi đứng cạnh đó vẫn cúi đầu, không dám nhìn cảnh tượng trước mắt.

Đột nhiên, một tiếng tát chát chúa cùng tiếng chén sứ vỡ tan vang lên trong điện. Luyện Nhi kinh ngạc ngẩng đầu thì thấy bên má Tống Hành đỏ lên, thuốc đổ vung vãi khắp sàn.

Cảnh tượng khiến nàng hoảng hốt, định quỳ xuống cầu xin thay Thi Yến Vi.

“Ngươi cút.” Thi Yến Vi chỉ thốt ra hai chữ ngắn gọn.

Mặt Tống Hành biến sắc, nhưng chỉ vài hơi thở sau, nét u tối đó nhanh chóng biến mất, nhường chỗ cho một nụ cười hết sức khó hiểu.

Thi Yến Vi không sao hiểu nổi vì sao hắn bị đánh mà vẫn cười. Có lẽ, hắn thực sự là một người điên.

“Đợi nàng uống hết thuốc, trẫm sẽ đi.” Hắn mỉm cười, dặn Luyện Nhi sai người sắc thêm bát thuốc khác.

Lần này, để tránh nàng chống đối, hắn giao lại chén thuốc cho Luyện Nhi.

Trước khi rời đi, hắn sai người tháo xiềng xích trên chân nàng, dặn dò Giang Nghiên: Chỉ cần nàng không bước ra ngoài cổng cung này, thì không được phép giam giữ nàng nữa.

Từ đó, ngày nào Tống Hành cũng dành chút thời gian tới thăm nàng. Thi Yến Vi vẫn không thèm để ý đến hắn, nên hắn cũng chỉ ngồi một lúc rồi đi.

Ngày hôm đó, Tống Thanh Âm đến điện Huy Du, thỉnh an Thái hoàng thái hậu.

Thái hoàng thái hậu tuy niệm kinh gõ mõ, nhưng nét mặt khó tránh khỏi u sầu.

Tống Thanh Âm buột miệng hỏi một câu.

Thái hoàng thái hậu tìm được người liền trút bầu tâm sự, chẳng có gì ngoài việc Tống Hành chỉ một lòng đắm chìm vào vị nữ tử họ Dương kia. Đáng tiếc, nữ tử họ Dương lại là người cao ngạo, cứng cỏi, phản cốt trời sinh, nàng chỉ biết chống đối Nhị lang, vậy mà lạ lùng thay, Nhị lang chẳng những không phiền, mà còn hết mực mê luyến, đến nỗi chẳng thể thoát ra được. Điều này khiến bà không khỏi lo lắng.

Nữ tử họ Dương ấy ư? Tống Thanh Âm ngưng thần suy nghĩ, trong đầu liền hiện ra dung nhan mỹ miều của một giai nhân như đóa phù dung.

Trông nàng không giống kiểu sẽ mê hoặc lòng người.

“A bà không cần quá lo lắng, để nhi khuyên nhủ hoàng huynh.” Tống Thanh Âm nói xong, đứng dậy hành lễ, cáo biệt Thái hoàng thái hậu, ngồi lên bộ liễn, hướng về điện Triều Nguyên.

Bộ liễn dừng trước cửa điện, Tống Thanh Âm được người dìu xuống. Đám hoàng môn ở đây đã gặp nàng hai lần, vội quỳ xuống, kính cẩn nói: “Nô tài tham kiến trưởng công chúa.”

“Thánh thượng đang ở trong điện?”

Hoàng môn gật đầu, khom người làm tư thế mời: “Thỉnh trưởng công chúa vào, nô tài sẽ đi vào thông truyền.”

Tống Hành đã xử lý chính vụ trong điện được một lúc lâu, vừa vặn cũng đã thấm mệt. Nghe hoàng môn nói Trưởng công chúa Tấn Dương cầu kiến, hắn khép lại sổ con vừa phê, đặt sang một bên, rồi rời khỏi án thư, sai người đưa Tống Thanh Âm vào.

Gặp nàng, hắn liền bảo không cần đa lễ.

Tống Thanh Âm ngồi xuống đối diện hắn.

“Gần đây hoàng huynh tâm tình không tốt, phải chăng là vì nữ tử họ Dương kia?”

Tống Hành nghiêng đầu nhìn nàng, ánh mắt thâm sâu: “Muội vừa gặp a bà sao?”

Tống Thanh Âm thẳng thắn thừa nhận: “Nàng vốn là muội muội của ân nhân cứu mạng Tam huynh. Hoàng huynh dùng thủ đoạn để cưỡng đoạt nàng, nhưng chỉ biết trách móc nàng chống đối, sao không nghĩ đến lỗi lầm của mình đi?”

“Hoàng huynh thử đặt mình vào hoàn cảnh của nàng xem, nếu hoàng huynh không quyền không thế, bị người ta dùng thủ đoạn cưỡng ép, há lại không hận? Nếu hoàng huynh cứ từng bước ép buộc, sẽ chỉ đẩy nàng ngày một xa hơn.”

“Nếu hoàng huynh thật lòng thích nàng, muốn cùng nàng có cuộc sống êm ấm, sao không tiến từng bước một, thử nghĩ cho nàng nhiều hơn, hiểu và tôn trọng lý tưởng nàng, để nàng được làm những điều nàng thích? Cho nàng một chút hy vọng, lòng nàng có chỗ dựa, tự nhiên cũng sẽ thuận hơn.”

Tống Hành yên lặng nghe nàng nói xong, rơi vào trầm tư thật lâu mà không trả lời.

Thích nàng sao? Trừ nàng ra, đây là lần đầu tiên, hắn nghe thấy người khác định nghĩa tâm tư của mình đối với nàng theo cách này.

Muốn phủ nhận, nhưng cổ họng lại như bị nghẹn, hắn không thể trái lòng thêm được nữa.

Hắn không nên vướng vào tình yêu nam nữ. Thích, đến đây là đủ. Từ nay về sau, hắn chỉ thích nàng, không để phần tình cảm ấy biến thành yêu. Tống Hành đã dùng lý do đó để thuyết phục mình chấp nhận sự thật này.

“Lời của hoàng muội, trẫm sẽ cẩn thận suy nghĩ.”

Trong mắt Tống Thanh Âm, Tống Hành vẫn luôn khí độ ngời ngời, chưa bao giờ để lộ vẻ khó xử hay tâm tư u sầu trước mặt ai.

Tâm tư hắn dành cho nữ tử họ Dương, e rằng không đơn giản chỉ là thích. Lòng hắn, hãy để chính hắn tự nhìn thấu. Những gì nàng nên nói đều đã nói, nghe hay không, làm thế nào, tất cả đều tùy hắn.

Tống Thanh Âm thấy hắn dường như cũng chẳng muốn nghe thêm điều gì, nàng liền đứng dậy, hành lễ cáo từ.

Tống Hành không giữ nàng lại, chỉ trầm ngâm uống một ngụm trà, rồi lại cúi đầu phê duyệt tấu chương.

Tới giờ lên đèn, hắn mới dừng bút dùng bữa tối.

Sau đó, hắn rảo bước đến tìm Thi Yến Vi, không để cung nhân thông báo.

Nàng đang ngồi dưới cửa sổ viết gì đó.

Chợt nhớ lại, ẩn sĩ từng nói với hắn, Dương nương tử rất trân quý những bản thảo kia, khăng khăng đòi mang theo chúng mới chịu lên xe ngựa.

Tống Hành lặng lẽ bước tới cạnh nàng, đôi mắt thâm trầm quan sát từng nét chữ nàng đang viết.

Những dòng chữ ấy đang tái hiện lại cảnh sắc cùng tâm trạng trên đường từ thành Cẩm Quan trở về Lạc Dương.

“Nương tử yêu thích việc viết lách, chi bằng để trẫm phong nàng làm Thượng nghi chính ngũ phẩm, chuyên quản bút ký kinh thư, mỗi tháng nhận bổng lộc từ chính đôi bàn tay, nàng thấy thế nào?”

Hắn phong nàng làm nữ quan, chứ không phải phi tần của hắn.

Thi Yến Vi đoán không ra trong hồ lô của hắn đang có thứ gì, rốt cuộc chịu ngước mắt nhìn, nói câu đầu tiên sau nhiều ngày im lặng: “Người lại muốn làm gì nữa đây?”

Tống Hành không trả lời ngay, thay vào đó, hắn nắm lấy tay nàng, nhẹ nhàng đặt lên lồng ngực mình, giọng nói càng chân thành hiếm thấy: “Không làm gì cả. Trẫm chỉ mong Âm Nương có thể thử mở lòng chấp nhận trẫm. Từ nay về sau, trẫm sẽ cố gắng tôn trọng và thấu hiểu mọi suy nghĩ của Âm Nương, mong Âm Nương cho trẫm và chính mình một cơ hội, được không?”

Chấp nhận hắn sao, cả đời này tuyệt đối không thể. Thi Yến Vi thầm nghĩ, rồi bình tĩnh đáp: “Nhưng nếu như ta mãi mãi không thể chấp nhận người, và người cũng không làm được những gì mình nói, chẳng lẽ ta và người sẽ cứ dây dưa như thế cả đời sao? Ta mệt rồi, thật sự không còn đủ sức và dũng khí để đánh cược cả đời vào một lời hứa chẳng có gì bảo chứng.”

Lời nàng vừa dứt, ánh mắt Tống Hành cũng theo đó trầm xuống. Hắn nhìn sâu vào đôi mắt trong veo của nàng, rồi nói: “Năm năm. Chúng ta ước định năm năm. Nếu đến lúc đó nàng vẫn không thể chấp nhận trẫm, hoặc nếu trẫm đã có hoàng hậu, phi tần, không còn thích nàng nữa, trẫm sẽ buông tay. Được không?”
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 68: Dương Thượng nghi



Thi Yến Vi đã từng bị hắn lừa một lần, sao dễ tin hắn thế được. Khi nghe những lời đường mật từ hắn, nàng tự nhủ rằng đó chẳng qua chỉ là viên đạn bọc đường, tuyệt đối không được coi là thật. Vì vậy, nàng vẫn duy trì vẻ mặt điềm tĩnh, không để lộ bất kỳ cảm xúc nào.
Tống Hành nhìn nàng, liền hiểu ngay nàng chưa yên tâm, cũng không tin tưởng hắn. Hắn bèn nói: “Nếu Âm Nương không tin, trẫm sẽ tự tay viết thủ dụ, đóng ngọc tỷ, giao tận tay Âm Nương giữ. Âm Nương đã yên tâm hơn chưa?”

Nghe đến đây, rốt cuộc Thi Yến Vi cũng có chút phản ứng. Nàng ngước nhìn hắn, ánh mắt dò xét, điềm đạm hỏi: “Thánh thượng đến có mang theo thánh chỉ và ngọc tỷ không?”

Tống Hành lắc đầu: “Trẫm sẽ dẫn nàng tới điện Triều Nguyên để lập. Sau này, khi không có ai khác, Âm Nương hãy gọi trẫm là Nhị lang hoặc là Quỳ Ngưu Nô, được chứ?”

Thi Yến Vi không đáp lại nửa vế sau, chỉ nhấn mạnh rằng nàng phải thấy thủ dụ đã được lập xong.

Nghe nàng nói vậy, Tống Hành cười khẽ, bất chợt bế nàng lên ngang ngực, sải bước đi thẳng ra khỏi điện.

Trương nội thị vốn luôn tỉ mỉ, tinh tế, thấy Tống Hành tự đi bộ đến đây, nên dù không cần dùng kiệu lúc trở về thì vẫn cho người chuẩn bị sẵn, chờ bên ngoài cổng cung.

Tống Hành vốn định bế nàng đi thẳng, nhưng Thi Yến Vi đã hạ giọng nhắc nhở: “Ta muốn làm nữ quan, không phải phi tần của Thánh thượng. Nếu cứ để người ôm ta thế này, sau này các cung nhân sẽ nghĩ sao về ta?”

“Không sao. Âm Nương chỉ cần vùi đầu vào lòng trẫm, họ sẽ không nhìn thấy gì cả.” Tống Hành dịu giọng động viên nàng.

Cảm giác được nàng khẽ lắc đầu từ chối, Tống Hành đành chiều ý nàng. Hắn bước lên kiệu, vẫn để nàng ngồi trên đùi mình, đôi tay ôm trọn lấy nàng.

“Trẫm đã nhượng bộ rồi.”

Kiệu được nâng lên, dập dềnh khi di chuyển. Rèm lụa buông xuống che mờ ánh mắt người ngoài. Nàng vùi mặt vào lớp áo vàng mềm mại của hắn, chẳng khác nào con đà điểu, cố gắng lánh xa thế gian.

Năm năm. Hắn dặn lòng, trong khoảng thời gian ấy, hắn nhất định sẽ khiến nàng cam tâm tình nguyện ở bên hắn, cùng hắn sinh con đẻ cái. Ngón tay Tống Hành vuốt nhẹ những sợi tóc đen tuyền của nữ lang, âm thầm tính toán trong lòng.

Kiệu dừng trước điện Triều Nguyên, Tống Hành bế nàng xuống, ôm chặt trong tay, bước thẳng vào nội điện.

Bảo Sênh đứng từ xa đã trông thấy cảnh này, thầm nghĩ phải tìm cơ hội báo tin này ngay cho Thái hoàng thái hậu.

Tống Hành sai người mang thánh chỉ và ngọc tỷ đến. Hắn không để bất kỳ ai hầu cận trong điện, tự tay mài mực, nhấc bút viết từng nét.

Bút pháp của hắn mạnh mẽ, cứng cáp, lưu loát như nước chảy mây trôi.

Thi Yến Vi chăm chú quan sát từng nét chữ rơi xuống tấm lụa. Khi hắn viết xong một đoạn dài hơn mười chữ, nàng ngắm đi ngắm lại hàng chữ, đề phòng hắn dùng lời lẽ để chơi khăm mình.

Đang mải nghĩ, Thi Yến Vi đã thấy Tống Hành mang ngọc tỷ đến, đặt vào tay nàng: “Âm Nương tự tay đóng dấu đi nhé?”

Ngọc tỷ này được chế tác từ một khối ngọc quý hiếm, hoàn toàn khác với ngọc tỷ truyền quốc vốn được khắc từ Hòa Thị Bích thời Tần. [1] Nhìn viên ngọc tỷ sáng bóng, mới tinh, nàng chợt nhớ đến việc Ai Đế của triều trước từng nhường ngôi ở cung Đại Minh, hẳn ngọc tỷ truyền quốc giờ đã nằm trong cung điện của nước Ngụy.

[1]

[1] Hòa thị bích (chữ Hán: 和氏璧), có nghĩa “Ngọc bích họ Hòa”, là một viên ngọc nổi danh trong lịch sử Trung Quốc. Nó không chỉ nổi tiếng là một viên ngọc hoàn hảo, ghi nhiều dấu ấn trong lịch sử mà còn được sử dụng như một đối tượng trong nhiều thành ngữ ở các nước Đông Á.

Thấy nàng có vẻ đăm chiêu, Tống Hành liền biết nàng đang nghĩ gì, bèn nói: “Có phải Âm Nương đang nghĩ đến ngọc tỷ truyền quốc có từ thời Tần? Tiếc rằng nó đã bị lão tặc Giang Tiều mang về Biện Châu. Nhưng nàng yên tâm, sớm muộn gì trẫm cũng đoạt lại được. Đến khi đó, trẫm sẽ đưa nó cho nàng thưởng lãm, nàng thấy thế nào?”

Đưa ngọc tỷ truyền quốc cho nàng thưởng lãm sao, nghe hắn nói thế, nàng chỉ thấy hắn đã điên thật rồi. Dù vậy, nàng vẫn giữ sự tỉnh táo, liền từ chối ngay: “Nếu Quỳ Ngưu Nô thực sự làm vậy, chẳng những không được các lão thần dưới trướng đồng tình, mà còn khiến ta bị xem là hồng nhan họa thủy, rồi mặc sức gièm pha, bôi nhọ.”

Tống Hành nghe xong chỉ cười khẽ, bàn tay không mấy an phận liền v**t v* làn da trắng như ngọc của nàng, từng ngón tay men theo những đường nét quyến rũ, lướt nhẹ đến nơi mê người nhất.

“Có trẫm ở đây thì chẳng ai dám buông lời nhục mạ Âm Nương. Nếu có lời đồn, trẫm sẽ để ẩn sĩ đưa tất cả ra đối chất.”

Thi Yến Vi cầm lấy chỉ dụ đã viết xong, liền lạnh nhạt đẩy tay hắn ra, trừng mắt trách: “Giữa ban ngày ban mặt, Nhị lang không muốn giữ lễ, nhưng ta vẫn cần thể diện.”

Nghe nàng mắng nhưng ý cười trên mặt Tống Hành càng sâu. Hắn bất đắc dĩ phải thu tay, nhưng cảm giác mượt mà ấm áp từ nàng vẫn còn vương lại trên lòng bàn tay hắn. Tống Hành nhìn gương mặt yêu kiều như đóa phù dung, khẽ cười: “Không ngờ, thánh chỉ của trẫm còn chưa hàng xuống mà Âm Nương đã có vài phần khí thế của một Thượng nghi rồi.”

Thi Yến Vi chẳng thèm để ý đến hắn, đứng dậy định giữ khoảng cách, nhưng lại bị cánh tay mạnh mẽ của Tống Hành kéo lại, ôm chặt vào lòng. Hắn cúi xuống, tiếp tục đặt bút phê duyệt chiếu thư khác.

Từ khi lên ngôi đến nay, Tống Hành vẫn chưa lập hậu, cũng chẳng kết nạp phi tần, thành ra chuyện hậu cung không ai quản lý, các vị trí nữ quan trong sáu cục hai mươi bốn ty còn trống rất nhiều. Nay phong nàng làm Thượng nghi, cũng không soán chỗ của ai.

“Ngày mai Âm Nương hãy làm quen trước đã, nếu thấy thích thì mùa xuân năm sau sẽ được tham gia ra đề, rồi làm giám khảo.”

Thi Yến Vi nhìn hắn cầm bút phê vào sổ con, cuối cùng cũng không nhịn được tò mò, hỏi thẳng điều mà nàng băn khoăn: “Quỳ Ngưu Nô định khi nào lập hậu?”

“Giờ này rồi mà Âm Nương vẫn còn tâm tư lo lắng thay người khác, xem ra đã khỏe hẳn rồi.” Hắn vừa nói vừa lần đến nút thắt bên eo nàng.

Thi Yến Vi ngay lập tức xoay eo tránh khỏi tay hắn, giọng nhỏ nhẹ nhưng dứt khoát: “Buổi sáng dậy đầu còn hơi choáng váng.”

“Có sao đâu, trẫm tự biết chừng mực.” Tống Hành để chiếu thư vừa viết sang một bên đợi ráo mực, tay luồn vào váy nàng, vén cao lên đến đầu gối. “Hôm nay Âm Nương nhận được bao nhiêu là lợi ích, cũng phải để trẫm hưởng chút ngọt ngào. Viết chữ lâu như vậy, cổ họng khô khốc lắm, Âm Nương phát chút từ tâm, thưởng trẫm có được không?”

Nói xong, hắn chẳng để nàng kịp phản ứng, tà váy mềm mại đã rủ xuống tận mắt cá chân.

Thi Yến Vi giận đến muốn giật lấy ngọc quan trên đầu hắn, nhưng nghĩ thế vẫn chưa đủ hả dạ, bàn tay luồn vào mái tóc đen nhánh, túm chặt đầu hắn.

Cuối thu ngả dần sang đầu đông, gió lạnh phả qua bắp chân, mang theo cảm giác se lạnh.

“Tống Hành, ta lạnh.” Thi Yến Vi không thèm nể mặt, bộc lộ rõ sự khó chịu dành cho hắn.

Dù ngoài miệng không đáp nhưng Tống Hành cũng sợ nàng nhiễm lạnh, liền hạ váy xuống, cánh tay rắn chắc dán sát vào đôi chân nhỏ bé của nàng.

Cung điện của hắn không thể gọi là xa hoa, mọi vật phẩm giá trị đều bị đưa vào quốc khố, chỉ giữ lại ít sách cổ và tranh chữ trong điện. Bộ thường phục màu đen trên người cũng là mang từ Thái Nguyên đến, dù chưa cũ nhưng cũng đã mặc qua nhiều ngày.

Bên cạnh hắn cũng không có hoàng hậu hay phi tần, hậu cung trống không, giảm thiểu được không ít chi phí. Hơn nữa, bản thân hắn cũng không có thói hoang phí, toàn bộ thành Tử Vi chỉ có khoảng một vạn cung nhân, so với bốn vạn của triều Huyền Tông thời trước, cắt giảm được không biết bao nhiêu lương thực, tiền bạc.

Phát hiện nàng đang mất tập trung, Tống Hành có chút bất mãn, càng ra sức lấy lòng để khiến nàng vui vẻ.

Suy nghĩ bị hắn cắt ngang, đầu óc trở nên nhẹ bẫng. Nàng hơi ngẩng cằm, ngón tay thu lại, kéo lấy sợi tóc đen của hắn.

Mãi đến khi mọi chuyện kết thúc, Tống Hành mới bế nàng từ trên án kỷ, ôm chặt trong lòng, ủ ấm nàng.

Nữ lang trong lòng mềm mại như nước, đôi mắt khép hờ, dường như đã thấm mệt, chỉ muốn chợp mắt đôi chút.

“Âm Nương vừa ra chút mồ hôi, rửa sơ đi đã rồi hẵng ngủ.” Tống Hành nói xong, sai người chuẩn bị nước, kiên nhẫn hầu hạ nàng tắm rửa, cuối cùng quyết định giữ nàng lại điện Triều Nguyên qua đêm.

Tống Hành bế nàng lên giường, đắp kín chăn, ngồi bên mép giường dịu dàng dỗ nàng ngủ.

Thi Yến Vi chỉ mới vừa khỏi bệnh nên vốn không có nhiều sức lực. Bị hắn trêu chọc một hồi, nàng khó tránh khỏi kiệt sức, vừa ngả lưng xuống thì đã mơ màng ngủ thiếp đi.

Thấy nàng đã ngủ say, lúc này Tống Hành mới yên lòng ra khỏi nội điện, nhấc nhẹ bước chân tới ngoại điện để phê duyệt tấu chương.

Đến giờ cơm tối, Tống Hành gọi Trương nội thị, lệnh hắn đến cục Thượng nghi tìm một gian phòng sáng sủa, sạch sẽ.

Trong nội điện, Thi Yến Vi tỉnh dậy, lật xem những cuốn sách cổ của Tống Hành để giết thời gian. Nhưng sách của hắn hầu hết đều là binh thư, chỉ xem được một lúc, nàng đã mất hứng, lại đặt sách xuống, cầm thủ dụ do chính tay Tống Hành viết, ngẩn người.

Đang lo lắng cho con đường phía trước, chợt nghe tiếng mở cửa truyền đến bên ngoài điện. Chỉ trong chốc lát, hình dáng cao lớn của Tống Hành đã hiện trong khung cửa, bóng hắn in xuống nền chiếm đi một mảng lớn.

Tống Hành đến để ăn tối cùng nàng.

Cung nhân bày biện từng món, Thi Yến Vi cầm đũa, vừa định gắp thức ăn thì chợt nghe Tống Hành nói: “Sau ngày mai, Âm Nương sẽ là Dương Thượng nghi của cục Thượng nghi, sẽ có phòng riêng để ở, chỉ e không tiện nghỉ lại điện Triều Nguyên.”

Thi Yến Vi hiểu ý hắn nói. Nàng không thể lưu lại điện Triều Nguyên, mà Tống Hành cũng không thể đến cục Thượng nghi, vậy là sau này nàng sẽ không còn phải ngủ chung với hắn, số lần phải làm chuyện kia tự nhiên cũng ít đi.

Tính ra, việc trở thành Thượng nghi quả thật là chuyện tốt không gì sánh bằng.

Nghĩ đến đây, Thi Yến Vi rốt cuộc cũng chịu thu lại vẻ mặt khó coi, ăn hết những món hắn tự tay gắp cho nàng, vậy nên nàng cũng không cần tự mình gắp đồ ăn nữa.

Nàng nhận thấy trên bàn bày đến tám món khác nhau, nhưng lượng thức ăn trên mỗi dĩa lại không nhiều. Hai người cố gắng một hồi, cuối cùng cũng ăn hết phần lớn.

So với những gì nàng từng đọc về bữa ăn của thế gia đại tộc hoặc hoàng thất cung đình được viết trong các tiểu thuyết lấy bối cảnh thời Minh và thời Thanh, Tống Hành quả thật rất tiết kiệm.

Nếu hắn có thể chọn được một hoàng hậu tâm đầu ý hợp, sớm quên nàng đi, chưa đầy năm năm đã thả nàng rời cung thì về sau, hắn làm đế vương, cai trị thiên hạ của hắn, nàng tự do đi tìm công chúa Tuyên Thành, xác minh thân phận của nàng. Đó sẽ là kết cục tốt nhất dành cho cả hai người.

Dùng xong bữa tối, Tống Hành lại dỗ nàng uống thêm một bát thuốc để bồi dưỡng sức khỏe. Thi Yến Vi lười nghe hắn lải nhải, bèn bưng bát uống cạn chỉ trong một hơi.

Tống Hành ngồi bên cạnh, lẳng lặng nhìn nàng uống hết. Sợ nàng thấy đắng, hắn vội dâng cốc nước ấm để nàng súc miệng, sau đó mang đến mấy quả mơ ngâm đường cho nàng ngậm, khử đi vị đắng. Hắn lấy bản thảo khỏi tay nàng, đặt lên án thư rồi dùng vật nặng đè lại, kế đó bế nàng lên giường, cúi người, quỳ dưới chân giường giúp nàng cởi đi giày tất.

Thi Yến Vi tự mình vén chăn, chui vào trong. Tống Hành cũng không chậm trễ, lập tức nằm lên, cả người không chút ngại ngần áp sát vào người nàng, ôm chặt rồi bắt đầu hôn xuống, g*m c*n phiến môi đỏ như chu sa.

Nàng bị hắn làm cho nghẹt thở, trong lòng thầm mắng con “trâu già” này vẫn chứng nào tật nấy, hành xử l* m*ng thật khiến người ta phải bực mình. Nàng bèn đưa tay lên đẩy vai hắn, muốn hắn dừng lại.

Tống Hành chẳng cần dùng sức đã có thể dễ dàng nắm lấy hai bàn tay nhỏ của nàng, vòng qua cổ hắn. Nụ hôn càng lúc càng sâu, đến khi khuôn mặt Thi Yến Vi đỏ bừng, phiến môi đỏ mọng, hơi sưng lên thì hắn mới chịu buông nàng ra.

Thi Yến Vi tức giận, đá vào đầu gối hắn một cái, giọng điệu bực bội: “Người tự đi lấy cái chăn khác mà đắp!”

Tống Hành chưa bao giờ bị người ta ghét bỏ và sai khiến như thế. Nhưng hắn lại không muốn rời khỏi mùi hương nhàn nhạt trên người nàng khi ngủ, trong lòng không tránh khỏi ấm ức. Định bụng thương lượng đôi câu, nhưng sợ chọc nàng phát giận, không còn cách nào khác, hắn đành ngoan ngoãn xuống giường, đến tủ tìm một cái chăn vừa phải ra đắp.

Không thể ôm nàng, hắn đành nằm gần nàng nhất có thể.

Có nàng ở bên, Tống Hành không còn gì phải cảm thấy lo lắng, chẳng bao lâu sau hắn cũng theo nàng chìm vào giấc mộng.

Hôm sau, Thi Yến Vi ngủ đến khi mặt trời đã lên cao ba sào thì mới chịu tỉnh dậy.

Từ sáng tinh mơ, Tống Hành đã đến Minh Đường để thiết triều. Vì sợ làm nàng thức giấc, thay triều phục xong liền ra ngoài điện rửa mặt.

Trong lúc Thi Yến Vi dùng bữa sáng, Trương Nội thị đã sai người đến cục Thượng nghi truyền lời, chỉ chờ nàng sắp xếp xong thì sẽ sang đó nhận chức.

Đồ vật trong cung không thể tùy ý lấy đi. Vì vậy, Thi Yến Vi chỉ mang theo những thứ mà Tống Hành sai người chuẩn bị cho nàng: vài món trang sức, sách vở, thoại bản cùng một ít kem dưỡng chăm sóc da.

Ở Biện Châu.

Thẩm Kính An huấn luyện binh sĩ đến tận chiều muộn, sau đó lại vào doanh trướng xử lý quân vụ, thu xếp đâu ra đấy thì mới thúc ngựa hồi phủ.

Ngày đông trời ngắn, giờ Dậu vừa qua, ánh hoàng hôn cuối trời đã dần tắt.

Không hiểu sao y lại nghĩ đến Lý Lệnh Nghi, không biết lúc này nàng đang làm gì, có phải cũng đang đứng dưới ánh tà dương mà nhớ về một người ở phương xa như y?

Nếu sau này có dịp, nhất định y sẽ lên núi Kính Đình thăm nàng một lần nữa.

Thẩm Kính An thúc ngựa một mạch tới trước cổng phủ, chưa kịp xuống ngựa thì đã thấy tiểu tư chạy ra nghênh đón, nói rằng Thịnh lang quân đang đợi trong chính sảnh.

Nghe vậy, Thẩm Kính An vội xoay người xuống ngựa, bước nhanh vào phủ, đi thẳng tới chính sảnh.

Thịnh Lăng vừa thấy hắn liền đứng dậy thi lễ.

“Có phải Thái Nguyên gửi tin tới không?”

Thịnh Lăng không đáp, dâng phong mật thư bằng cả hai tay.

Thẩm Kính An vội vã nhận lấy, mở ra đọc, hàng mày lập tức chau lại.

Nhị nương chỉ ở Tống phủ chưa đầy một năm đã rời đi, sau đó chẳng rõ vì sao lại theo Tống Hành từ Lạc Dương quay về, có ý gả cho Tống Hành làm thiếp, nhưng khi tiểu nương tử trong phủ xuất giá thì nàng lại bỏ đi, từ đó đến nay không rõ tung tích.

Thẩm Kính An xâu chuỗi những thông tin này trong đầu, cảm thấy với tính cách trầm lặng của Nhị nương, không thể nào lại bốc đồng đến mức từ bỏ sự che chở của Tống phủ giữa thời thế loạn lạc.

Hơn nữa, dù đã mất mẹ và anh trai nhưng nàng vẫn xuất thân từ họ Dương ở Hoằng Nông, nhận sự giáo huấn cẩn thận, đâu thể nào chỉ vì vinh hoa phú quý mà cam nguyện làm thiếp cho người.

Nghe nói Tống Hành kia tác phong bá đạo, ngạo nghễ bất tuân, không chừng chính hắn đã dùng thủ đoạn ép buộc Nhị nương. Lần đầu nàng rời khỏi Tống phủ hẳn cũng vì tránh xa hắn, nhưng không ngờ vẫn bị hắn tìm về.

Lần thứ hai, Nhị nương chắc chắn đã phải hao tổn tâm sức lắm mới có thể thoát thân.

Không biết giờ đây nàng đang ở phương nào, liệu có bị người của Tống Hành theo dõi sát sao? Nàng có biết về người cậu này không, có hay y đang ở nước Ngụy ngóng chờ nàng, rồi tìm cách đến đây, để cậu cháu hai người được đoàn tụ.

Nghĩ đến đây, Thẩm Kính An viết ngay một bức thư nhờ người gửi đến Thái Nguyên, đồng thời phái người tới Hoằng Nông và Tấn Châu điều tra tin tức.

Vì Thi Yến Vi là nữ quan được Tống Hành hạ chỉ thân phong nên đương nhiên Lưu Thượng cung cũng không dám lơ là. Bà đích thân đến đón nàng, dẫn nàng tới nơi ở mới trong cung.

Thi Yến Vi cảm ơn bà, sau đó chuyện trò vài câu. Lưu Thượng cung thấy nàng có vẻ e dè nên viện cớ bận việc để rời đi, có ý để lại không gian riêng cho nàng.

Chiều hôm ấy, dưới sự hướng dẫn của Vương Thượng nghi, Thi Yến Vi làm quen với công việc hàng ngày của một Thượng nghi. Bà khuyên nàng không cần vội vàng học hết mọi việc, chỉ cần làm quen dần là được.

Thi Yến Vi cẩn thận ghi lại từng lời bà nói, hôm sau bắt đầu từ những việc đơn giản nhất.

Mấy ngày liên tục trôi qua, nàng không hề gặp lại Tống Hành, tâm trạng cũng thư thái hơn hẳn. Mỗi lần gặp người trong cục Thượng nghi, nàng đều nở nụ cười chào hỏi.

Trong cung, đẳng cấp tôn ti rõ ràng còn khắt khe hơn so với lễ nghi ở Tống phủ. Mặc cho nàng nhiều lần dặn dò rằng nếu không có người ngoài thì không cần phải quỳ gối hạ bái mình, nhưng mỗi lần gặp nàng, họ vẫn cung kính hành lễ đúng quy củ.

Lâu dần, Thi Yến Vi biết không thể thay đổi được gì, đành thôi không nhắc nữa, chỉ đáp lại bằng cách chắp tay, hoàn lễ trước ngực.

Hôm ấy, Đặng Tư tịch mang tới danh mục kinh thư để nàng xem xét. Thi Yến Vi mải mê đọc đến nỗi quên cả giờ cơm trưa. Nếu không nhờ Diêu Tư tán để ý nàng chưa tới, giữ lại phần cơm, có lẽ nàng đã bị đói bụng.

Ngày đông trời ngắn, đến lúc Thi Yến Vi xem xong danh mục, xử lý ổn thỏa những việc khác thì bên ngoài trời đã chạng vạng. Dùng xong bữa tối, nàng tự xách đèn lồng ra ngoài tản bộ tiêu thực.

Đi qua một hòn giả sơn, bước xuống dốc, nàng chợt nghe thấy tiếng mèo kêu vọng ra từ bụi hoa phía trước.

Thi Yến Vi xách đèn tiến lại gần, thấy một con mèo hoang nhỏ màu vàng cam từ trong bụi nhảy ra, kêu “meo meo” với nàng, trông có vẻ đói bụng. Nhưng lúc này nàng chẳng có gì để cho nó ăn, đành nhìn nó một lúc, vừa ngắm vừa lẩm bẩm như trò chuyện, dặn nó ở lại đây chờ, nàng sẽ đi tìm đồ ăn mang tới. Nàng cũng chẳng để ý con mèo có hiểu lời mình hay không.

Dặn xong, nàng xoay người định đi, nhưng vừa ngẩng đầu đã thấy một bóng dáng cao lớn sừng sững hiện ra. Người đến mặc trường bào viên lĩnh màu vàng sáng thêu kim long ngũ trảo.

Là Tống Hành.

Không biết hắn đã theo nàng từ khi nào.

Thi Yến Vi bất giác nhớ lại đêm nọ ở Tống phủ, nàng gặp hắn và Phùng Quý bên bờ nước. Khi xưa, Phùng Quý thường theo hầu hắn. Nhưng giờ, Phùng Quý đã thành gia lập thất, mà kể cả không phải như thế thì cũng chưa chắc hắn đã muốn tịnh thân vào cung, tiếp tục hầu hạ Tống Hành. May sao, Tống Hành cũng không dùng hoàng quyền để cưỡng ép.

“Thánh thượng vạn phúc.”

Thi Yến Vi vẫn giữ nét mặt dửng dưng, bước lên hành lễ với hắn. Nhìn qua, nàng đối với hắn chẳng khác gì một mối quan hệ quân thần thông thường.

“Âm Nương.” Tống Hành dùng đôi mắt phượng chăm chú nhìn nàng, như thể đã rất lâu không gặp, hoặc như đang chiêm ngưỡng một báu vật hiếm có trên thế gian, khiến người ta chẳng thể rời mắt. Trầm mặc mất một lúc lâu, hắn tiến thêm hai bước, không chút giấu giếm mà thốt lên những câu từ chân thật: “Trẫm nhớ nàng, nhớ nàng, rất nhớ nàng.”

Đúng lúc này, con mèo lông vàng cam có vẻ đã đói không chịu nổi, bạo dạn tiến đến cạnh chân Thi Yến Vi, vừa vẫy đuôi vừa không ngừng kêu “meo meo”.

Thi Yến Vi thử bước mấy bước về phía trước, con mèo cũng lẽo đẽo theo sau. Khi biết chắc nó sẽ đi theo mình, nàng liền mặc kệ Tống Hành, bỏ qua hắn mà dời gót theo hướng khác.

Tống Hành không làm gì được nàng, chỉ có thể theo sau nàng một cách thầm lặng, giữ một khoảng cách không xa không gần giữa hắn với một người một mèo ở đằng kia. Vì sợ bị người khác bắt gặp, làm tổn hại đến thanh danh khi nàng đang là một Thượng nghi, trốn tránh một hồi, cuối cùng trèo tường, nhảy vào viện của nàng.

Đợi đến khi ăn no, con mèo liền trở mặt kiêu ngạo, không để Thi Yến Vi sờ đầu nữa mà vặn mình chạy mất.

Tống Hành nấp sau gốc cây chứng kiến hết thảy, thấy Thi Yến Vi quay vào nhà, hắn mới từ trong bóng tối bước ra, thong thả gõ cửa phòng nàng.

Thi Yến Vi vừa rửa sạch tay, nhìn thấy bóng dáng cao lớn chiếu lên cánh cửa, liền đoán ngay được là hắn, tim nàng bỗng đập nhanh hơn. Nàng nghiêm mặt, nói: “Trời đã tối, Thánh thượng đến vào giờ này quả thực không hợp lẽ.”

“Dương Thượng nghi, mở cửa ngay. Bằng không, trẫm cũng ngại việc hạ chỉ, triệu nàng vào điện Triều Nguyên diện thánh. Nếu làm vậy, nàng có thấy hợp lẽ hơn chăng?”

Giọng điệu của Tống Hành rất thản nhiên, thậm chí mềm mỏng, nhưng từng câu từng chữ đều thể hiện uy quyền áp đảo.

Ai chứ hắn thì rất có khả năng. Thi Yến Vi biết rõ điều này, không còn cách nào khác, nàng đành mở cửa cho hắn vào.

“Thánh…” Lời chưa kịp thốt ra, Tống Hành đã nhanh chóng ôm lấy hông nàng, kéo nàng vào lòng mình, đôi môi mỏng áp sát đôi môi đỏ như hoa đào của nàng, tay vừa khẽ động, cánh cửa liền khép lại.

Nụ hôn của hắn vừa mạnh mẽ vừa cuồng nhiệt, như muốn cướp lấy toàn bộ hơi thở của nàng.

Hắn quá cao, Thi Yến Vi bị ép phải nhón chân lên, ngửa cổ hết mức nhưng vẫn khó mà tiếp nhận nổi. Nàng lảo đảo không thể đứng vững, phải đưa tay bấu chặt vào cánh tay hắn.

Tống Hành lúc này mới nhận ra chênh lệch chiều cao giữa hai người, liền vòng tay đỡ lấy hông nàng, để hai chân nàng quấn quanh eo hắn. Một tay hắn giữ lấy lưng nàng, ghì chặt nụ hôn sâu, như muốn chiếm trọn mỗi một ngóc ngách trong khuôn miệng nhỏ nhắn của nàng.

Rất lâu sau, Tống Hành mới lưu luyến rời khỏi đôi môi nàng, hỏi: “Âm Nương có thích con mèo nhỏ vừa rồi không?”

Thích hay không, Thi Yến Vi cũng chẳng rõ, chỉ là khi đó thấy nó kêu rất đáng thương, muốn nó ăn no mà thôi.

Thi Yến Vi mơ hồ lắc đầu rồi lại gật đầu.

Ánh mắt Tống Hành càng thêm u ám, nhớ đến giấc mộng khi hắn hóa thành con mèo nhỏ, được nàng ôm ấp trong lòng.

“Đến một con mèo mới gặp mà Âm Nương cũng có thể yêu thích, thì liệu có thể yêu thích trẫm dù chỉ một chút hay không?”

Đối với câu hỏi này, Thi Yến Vi không hề đắn đo, thuận theo bản năng mà lắc đầu.

Tống Hành nhìn nàng, khóe môi khẽ nhếch lên một nụ cười tự giễu, đặt nàng xuống giường La Hán rồi bắt đầu c** th*t l*ng điệp tiệp.

Trong lúc bị hắn cưỡng hôn, nàng đã lường trước chuyện này nên không hề tỏ ra ngạc nhiên, vẻ mặt nàng vô cảm, lạnh nhạt đưa ra yêu cầu: “Sau khi xong việc, khẩn cầu Thánh thượng hãy ban cho ta một chén thuốc tránh thai. Thánh thượng chưa sắc lập hoàng hậu, chắc cũng không muốn để bên ngoài đồn đãi chuyện nữ quan có thai. Huống hồ, hiện tại ta đối với người hoàn toàn không có tình cảm, sao có thể cùng người sinh con đẻ cái? Nếu Thánh thượng thật lòng muốn thấu hiểu và tôn trọng ta, thì không nên ép buộc ta chuyện này.”

Tống Hành nghe xong, trầm ngâm một lúc, dù không đáp ứng yêu cầu của nàng nhưng vẫn nhường nàng một bước: “Loại dược đó tổn hại thân thể, không nên sử dụng lâu dài. Âm Nương vẫn chưa thích trẫm nên không muốn mang thai cũng là điều dễ hiểu. Từ giờ, trẫm sẽ không xuất vào trong. Đây là thỏa hiệp lớn nhất về phía trẫm.”

Dứt lời, áo bào vàng óng rơi xuống đất.

Lo nàng nhiễm lạnh, hắn không cởi bỏ y phục của nàng.

Lúc ấy mới qua canh nhất, còn chưa đến giờ đi ngủ. Thi Yến Vi sợ có người tìm đến, nếu thông thấy cái bóng hắt lên màn cửa thì còn ra thể thống gì nữa. Vậy nên, khi Tống Hành ôm nàng lên, buộc nàng choàng tay qua vai hắn, nàng đã vung tay đấm hai cái vào cánh tay hắn, bảo hắn đầu tiên phải thổi tắt đèn.

Ban đầu Tống Hành không muốn, nhưng lát sau vẫn chịu bế theo nàng đi thổi đèn.

Hắn cố ý đè nặng bước chân, khiến nhịp độ càng thêm xóc nảy.

Thi Yến Vi cúi đầu tựa vào vai hắn, nước mắt dâng lên, chỉ chực rơi xuống.

Tống Hành ôm nàng đứng bên cửa sổ, cúi thấp đầu, chỉ muốn cảm nhận nhiệt độ cơ thể nàng, hết sức kiềm chế không để nàng càng thêm chật vật. Giọng hắn mang theo chút hối hận cùng một chút ý tứ cầu xin: “Những ngày qua, trẫm không gặp được nàng, nghĩ về nhiều chuyện, chỉ thấy trước đây trẫm đã làm sai quá nhiều, khiến nàng đau lòng khổ sở… Trẫm thích nàng, thật sự rất thích. Trẫm chưa từng thích ai như vậy. Về sau trẫm sẽ đối tốt với nàng, bảo vệ nàng chu toàn. Âm Nương, nàng hãy thích trẫm, dù chỉ một chút thôi có được không?”

Hắn nói hắn sai. Đây là lần thứ hai Thi Yến Vi nghe hắn nhận lỗi với nàng. Giọng điệu nghe có vẻ còn tự trách hơn so với lần trước. Nhưng không phải lời xin lỗi nào cũng hữu dụng. Từng vết thương hắn gây ra, từng nỗi đau nàng phải chịu, tất cả đều ghi tạc trong tim, không thể xóa nhòa. Đừng nói là thích, ngay cả tha thứ hay quên đi, nàng cũng không làm được.

Những ngày qua, nàng đã làm quen với rất nhiều nữ quan ở sáu cục hai mươi bốn ty. Tuy tính cách khác biệt, nhưng tất cả đều tràn đầy kỳ vọng vào tương lai. Họ hoạt bát, nỗ lực, chăm chỉ, dùng sức mình duy trì hoạt động cả tòa Tử Vi thành. Những nữ tử ấy không hề thua kém những nam nhi thế gian, thật đáng để ngưỡng mộ.

Sau khi tiếp xúc và chung đụng với họ lâu ngày, tâm trạng Thi Yến Vi cũng dần thay đổi. Nàng không còn lo được lo mất, sợ sệt nhiều như trước, mà trở nên trầm tĩnh, bình thản hơn. Ngay cả khi đối mặt với Tống Hành, nàng cũng có thể xử sự điềm nhiên, không bị ảnh hưởng bởi cảm xúc tiêu cực. Lúc này giữa hai người chỉ như đang bàn bạc, nàng dùng lý trí vạch trần từng chuyện một, rành mạch, cương quyết: “Tống Hành, không phải mọi chuyện trên đời đều có thể bù đắp hay quên đi. Anh của ta vì cứu em của người mà phải bỏ mạng, người lại cưỡng ép ta, thật là thật là vô tình vô nghĩa, lấy oán báo ân. Giữa hai ta, người sai từ đầu đến cuối chỉ có mỗi mình người.”

Tống Hành nghe nàng lên án, nhưng không biện hộ, chỉ lặng lẽ ôm lấy nàng, dùng cách hắn cho là hiệu quả nhất để xác nhận rằng nàng vẫn ở bên hắn. Hắn vẫn còn cơ hội giành được trái tim nàng, để lòng hắn có thể dễ chịu hơn.

“Âm Nương, trẫm thích nàng.” Không giống trước đây, chỉ toàn nói những lời bông đùa để trêu ghẹo nàng, lần này, hắn chỉ lặp đi lặp lại những câu: “Trẫm thích nàng”, “Là lỗi của trẫm” hoặc: “Thích trẫm một chút thôi, được không?”

Sợ nàng vất vả đến mức ngày mai không dậy nổi, hắn cố nhịn xuống, chỉ đòi hỏi nàng một lần, cũng không lưu lại trong người nàng.

Nhưng dù là vậy, vẫn không tránh khỏi rơi lại một ít trên người Thi Yến Vi.

Nhận ra nàng đang dùng ánh mắt đầy chán ghét nhìn mình, Tống Hành giống như một đứa trẻ làm sai, luống cuống lấy khăn lau sạch cho nàng. Sau khi giúp nàng thay y phục, an ổn nằm nghỉ trên giường, hắn len lén rời khỏi, trèo tường thoát ra ngoài.

Sáng hôm sau, Tống Hành sai người tới Hoằng Nông, ban thánh chỉ phong Thi Yến Vi làm Thượng nghi chính ngũ phẩm, công bố với Dương gia. Thánh chỉ ấy chẳng khác nào một cái tát lên mặt Dương gia. Một nữ lang dung mạo như thế, lại bị coi như cỏ rác mà vứt bỏ.

Những chủ tử đứng đầu Dương gia khi nhận được thánh chỉ, ai nấy đều toát mồ hôi hột, hối hận không thôi, thầm nghĩ Nhị nương được Thánh nhân coi trọng, nếu nàng còn nhớ chuyện cũ mà kể điều gì đó trước mặt Thánh nhân, cả tộc sẽ không được hưởng trái ngọt mất.

Giữa tháng mười một, tiết trời lạnh giá, Thẩm Kính An nhận được tin Nhị nương được phong làm Thượng nghi, làm việc trong cung Triệu quốc.

Cùng lúc ấy, Lạc Dương có trận mưa tuyết đầu tiên.

Thái hoàng thái hậu nhân đó, lấy cớ thưởng tuyết để bày gia yến.

Cục Thượng nghi đảm nhận việc lễ nghi và sinh hoạt trong cung, do đó, Chung Thượng cung giao việc này cho Thi Yến Vi cùng Diêu Tư tán cùng phối hợp thực hiện.

Thi Yến Vi tra cứu điển tịch trong cung, định ra tiêu chuẩn tổ chức yến tiệc lần này. Chờ Diêu Tư tán lập bản kế hoạch chi tiết, nàng sẽ xét duyệt và đưa ra quyết định sau cùng.

Tống Thanh Hòa được phong làm quận chúa Thanh Hà, cũng nằm trong danh sách được mời dự yến.

Trước khi nhập cung, nàng đã nghe chuyện Thi Yến Vi được phong làm Thượng nghi, nên trong lòng vẫn luôn lấy làm thắc mắc: Dương nương tử chưa kịp gả làm nhũ nhân cho Nhị huynh đã bỏ đi, nhưng khi trở lại, không trở thành phi tần của Nhị huynh mà lại làm nữ quan trong cung?

Trong bữa tiệc, Tống Thanh Hòa khen ngợi cung yến lần này tổ chức rất chu toàn, đồng thời tỏ ý muốn gặp Dương Thượng nghi và Diêu Tư tán để ban thưởng.

Thái hoàng thái hậu vốn cũng muốn nhân cơ hội này thăm dò tâm tư của Tống Hành, phụ họa vài câu, sau đó sai người mời cả hai nàng đến.

Không lâu sau, Thi Yến Vi vận quan phục nữ quan cổ tròn màu đỏ thẫm, bước chân nhẹ nhàng, khoan thai tiến vào điện.

Thái hoàng thái hậu bảo hai nàng an tọa, trước tiên ban lời khen ngợi, sau đó ban rượu.

Diêu Tư tán vốn uống được rượu, mỗi dịp lễ tết thường cùng các nữ lang thân thiết chung vui, bèn cầm chén rượu lên uống cạn ngay tại chỗ.

Tống Hành yên ổn ở vị trí thượng tọa, biết rõ Thi Yến Vi không uống được loại rượu mạnh này. Ngày thường, chỉ hai chén rượu trái cây nhưng cũng đủ khiến nàng choáng váng đầu óc, huống hồ là loại rượu mạnh như thiêu như đốt này. Dù chỉ một ly cũng khiến nàng khó lòng chịu đựng nổi.

Bàn tay trong tay áo hắn siết thành quyền, gần như không thể kìm lòng, muốn lập tức sai người dọn rượu đi, hoặc đứng ra thay nàng nhận rượu. Nhưng dù làm gì đi nữa, chỉ e cũng sẽ khiến người khác sinh nghi. Miệng lưỡi thế gian đáng sợ. Hắn thân là thiên tử, không ngại kẻ khác đàm tiếu, nhưng nàng hiền lành như vậy, hắn không đành lòng để nàng vì danh dự tổn hại mà phiền muộn, sầu não.

Thái hoàng thái hậu cùng mọi người đồng loạt nhìn về phía Thi Yến Vi.

Hai luồng suy nghĩ trái ngược đan xen, rốt cuộc Tống Hành vẫn không thể trơ mắt nhìn nàng uống chén rượu kia. Ngay lúc nàng vừa đưa tay ra định nâng ly rượu lên, hắn liền đứng dậy.

Thế nhưng, Thi Yến Vi như đã sớm đoán được hắn sẽ làm gì, nàng không muốn bất kỳ ai trong lục cục biết được những khúc mắc giữa nàng và Tống Hành, bèn ngửa đầu, học theo Diêu Tư tán mà uống cạn chén rượu chỉ trong một hơi. Chỉ một thoáng sau, vị cay nồng đã làm nàng đau đến mức phải ôm lấy ngực, ho khan không ngừng.

Thái hoàng thái hậu quay sang nhìn Tống Hành. Thấy hắn ngồi xuống, môi mím chặt, lông mày nhíu lại, hai tay siết lấy ống tay áo, lộ rõ vẻ lo lắng và xót xa cho nữ tử họ Dương kia.

Nếu không phải Dương thị thức thời, chủ động uống hết chén rượu, chỉ e Nhị lang đã không kiềm chế được mà hành động hồ đồ, công khai bênh vực nàng trước mặt mọi người.

Thái hoàng thái hậu hơi nhíu mày, sắc mặt trầm nghiêm: “Dương Thượng nghi trông có vẻ không được khỏe, truyền lệnh chuẩn bị bộ liễn, đưa nàng về nghỉ trước đi.”

Diêu Tư tán không yên lòng, nhận thưởng xong liền cáo lui trước, vội vàng đến phòng của Thi Yến Vi để chăm sóc nàng.

Diêu Tư tán vuốt nhẹ lưng cho Thi Yến Vi, để nàng nôn ra một lượt, sau đó mang trà cho nàng súc miệng, dùng khăn lau mặt và tay, cuối cùng đắp chăn cẩn thận rồi mới chịu rời đi.

Chờ Diêu Tư tán đi xa, Tống Hành lập tức trèo cửa sổ vào trong.

Lúc này, đầu óc Thi Yến Vi đã không còn tỉnh táo, mơ hồ cảm nhận được một bàn tay to lớn, ấm nóng nắm lấy bàn tay nhỏ vốn không biết đã để lộ ra ngoài chăn từ lúc nào. Hơi ấm lan tỏa trên mu bàn tay, khiến nàng ngẩn ngơ nhớ lại hình bóng của một ai đó.

Sợ nàng bị lạnh, Tống Hành đặt tay nàng trở lại trong chăn. Nhưng ngay khi hắn định rút tay về, nữ lang nằm trong chăn lại kéo nhẹ lấy tay hắn. Đôi môi đỏ mọng khẽ mở, viền mắt đỏ hoe, vì say mà bắt đầu nói toàn những mê sảng:

“Trần, Trần Nhượng, đừng đi… Em không, không say, anh ở lại nói chuyện với em được không?”

“Trần Nhượng, đưa điện thoại cho em, em muốn gọi cho ba mẹ…”

*

* Giải thích về hệ thống nữ quanKhái niệm về sáu cục hai mươi bốn ty:

– Sáu cục: Là sáu bộ trong triều đình cổ đại Trung Quốc, gồm các bộ quan trọng như Bộ Lại (công vụ), Bộ Hộ (tài chính), Bộ Lễ (nghi lễ), Bộ Binh (quân sự), Bộ Hình (hình sự), và Bộ Công (công trình, xây dựng).

– Hai mươi bốn ty (tư): Thường chỉ các cơ quan dưới quyền các bộ (cục) này. Mỗi bộ có những tổ chức con gọi là “ty”, làm việc về các lĩnh vực chuyên môn.

Cục Thượng Nghi một cơ quan trong hệ thống triều đình cổ đại Trung Quốc, chuyên phụ trách các công việc liên quan đến nghi lễ, lễ nghi và các nghi thức trong cung đình. Cục này thường thuộc bộ Lễ, một trong sáu bộ trong hệ thống quan chức của triều đình.

Thượng nghi: là chức Nữ quan ngũ phẩm, thuộc cục Thượng nghi, chưởng quản lễ nghi, đời sống hằng ngày trong cung.

Tư tán: có nghĩa là người phụ trách giúp đỡ và hỗ trợ trong các nghi lễ, lễ nghi hoặc công việc triều chính của hoàng gia.

** Dương Quý Phi, Loạn An Sử và Sự sụp đổ của đế quốc Đại ĐườngĐầu tiên phải kể đến Dương thị ở Hoằng Nông: Đây là một gia tộc mà hoàng tộc nhà Tùy nhận là tổ tiên, xuất phát từ Hoa Âm (nay là khu vực Hoa Âm, Thiểm Tây) Đây là mẫu tộc của Võ Tắc Thiên, phụ tộc của Dương Quý Phi, Dương Hoàn thời Đường Huyền Tông.

Triều đình nhà Đường, đặc biệt từ thời Đường Huyền Tông, ngày càng sa vào xa hoa, th*m nh*ng lan rộng. Các quan lại và gia đình quyền quý lạm dụng quyền lực, bóc lột nhân dân, khiến đời sống dân chúng trở nên khốn khổ. Để bảo vệ lãnh thổ rộng lớn, nhà Đường thiết lập các Tiết độ sứ (quan chỉ huy quân sự địa phương) có quyền tự trị cao, dẫn đến việc họ dần trở thành các thế lực cát cứ. Điều này làm suy yếu quyền lực trung ương. Thuế khóa nặng nề và thiên tai liên tiếp khiến nông dân nổi dậy khắp nơi. Hệ thống vận chuyển lương thực cũng không hiệu quả, dẫn đến mất ổn định kinh tế.

Về phía Đường Huyền Tông, dù từng đạt được những thành tựu rực rỡ, càng về già càng trở nên mê muội, chìm đắm trong sắc đẹp và tình yêu với Dương Quý Phi. Ông bỏ bê chính sự, giao quyền điều hành triều đình cho các đại thần và thân tộc của Dương Quý Phi, như Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quý Phi). Mâu thuẫn giữa Dương Quốc Trung và An Lộc Sơn (một Tiết độ sứ gốc Hồi Hột) ngày càng gay gắt, trở thành nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Loạn An Sử (755 – 763 SCN)

Cuộc nổi loạn này không chỉ là một cuộc chiến tranh mà còn là cú đánh chí mạng vào sự ổn định của nhà Đường. Sau khi đàn áp được cuộc nổi dậy, nhà Đường không còn khả năng khôi phục quyền lực trung ương mạnh mẽ. Sau Loạn An Sử, quyền lực của các Tiết độ sứ tăng mạnh, dẫn đến cát cứ địa phương và sự suy yếu của triều đình. Cuối cùng, nhà Đường sụp đổ vào năm 907. Dương Quý Phi đời vào năm 756, trong bối cảnh cuộc Loạn An Sử đang diễn ra.

Năm 756, khi quân nổi loạn của An Lộc Sơn áp sát Trường An, Đường Huyền Tông buộc phải chạy trốn cùng đoàn tùy tùng về phía tây, đến Mã Ngôi ( nay thuộc tỉnh Thiểm Tây). Trên đường chạy loạn, binh sĩ trong đoàn nổi loạn, yêu cầu xử tử Dương Quốc Trung, anh họ của Dương Quý Phi, vì cho rằng ông là nguồn cơn gây ra tai họa. Sau khi Dương Quốc Trung bị giết, quân lính tiếp tục yêu cầu xử tử Dương Quý Phi, cho rằng bà là người khiến Đường Huyền Tông trở nên mê muội, bỏ bê chính sự. Dưới áp lực, Đường Huyền Tông buộc phải ra lệnh xử tử Dương Quý Phi để xoa dịu quân đội. Bà bị ép phải tự tử bằng cách thắt cổ tại Mã Ngôi.

Nhà Triệu do nam chính Tống Hành lập nên diễn ra cùng lúc với giai đoạn nhà Đường sụp đổ. Chu Ôn (trong truyện là Giang Tiều) phế cựu hoàng đế triều Đường thành Tế Âm vương, đưa đến Tào Châu, cho binh sĩ canh chừng, đến năm 908 thì hạ độc sát hại cựu hoàng. Chu Toàn Trung lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Lương (sử gọi là Hậu Lương). Trong truyện, Giang Tiều lên ngôi, đặt quốc hiệu là Nam Ngụy.

Có thể nói lý do Thái hoàng thái hậu Tiết thị kiêng dè nữ chính (nguyên thân Dương Sở Âm) cũng vì nàng xuất thân từ Hoằng Nông Dương thị. Bà sợ nếu nam chính Tống Hành quá mức sủng ái nàng, thì sẽ đi vào vết xe đổ của triều Huyền Tông. (Chi tiết này từng được nhắc đến trong chương 59)
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 69: Người trong lòng



Bàn tay mềm mại, trắng nõn của nữ lang áp lên da thịt hắn, hơi ấm từ lòng bàn tay truyền tới rạo rực. Cảm giác nóng ấm đó khiến mồ hôi túa ra trên trán Tống Hành, cổ họng khô rát. Thế nhưng lúc này hắn không có tâm trí nghĩ tới những ý niệm ám muội, chỉ vì từ chính miệng Thi Yến Vi, hắn nghe thấy rõ hai chữ “Trần Nhượng”.

Đêm đó tại biệt viện, nàng cũng từng nhắc tới chữ “Nhượng”. Người nàng nhìn thấy trong mộng hôm ấy, chẳng lẽ cũng là hắn?

Nàng vì mơ thấy hắn giết người mà hoảng sợ, thế nhưng lại gọi tên một người khác để xoa dịu nỗi bất an.

Trần Nhượng. Đây hẳn là tên của một nam nhân.

Nếu trong lòng nàng từ trước đến giờ luôn có bóng dáng của người đó, vậy hắn là gì? Chỉ là một kẻ dùng quyền lực cưỡng đoạt, chen ngang tình cảm giữa hai người họ hay sao?

Ý nghĩ đó vừa lóe lên, ánh mắt sắc như diều hâu của Tống Hành liền rơi trên gương mặt ửng hồng như đóa phù dung của Thi Yến Vi. Hắn muốn đánh thức nàng, hỏi cho ra nhẽ, nhưng đôi mày hơi nhíu lại của nàng bỗng khiến hắn mủi lòng.

Lửa giận trong lòng không có chỗ phát tiết, khiến ngực hắn như bị nén chặt lại. Hắn chỉ có thể miễn cưỡng thôi miên bản thân rằng, có lẽ “Trần Nhượng” chỉ là một người quen của nàng, chứ không phải ý trung nhân.

Tống Hành dằn xuống lửa giận trong lòng, sắc mặt u ám. Hắn gỡ tay nàng ra, không còn tâm trạng chỉnh lại chăn màn cho nàng nữa, chỉ muốn đứng dậy rời khỏi gian phòng này.

Nhưng nữ lang trong chăn chờ mãi không được người trong lòng hồi đáp, dường như đã mất sạch kiên nhẫn. Cảm nhận được sự xa cách của hắn, nàng bất chợt nâng người, nửa ngồi dậy, ôm chầm lấy hắn từ phía sau.

“Trần Nhượng, đừng đi, được không? Anh ôm em đi, em không muốn quay về bên tra nam đó… Anh dẫn em theo với, dẫn em rời khỏi nơi này, em không muốn ở lại đây.”

Khuôn mặt nhỏ nhắn của nàng áp lên lớp áo mềm, những giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống, thấm ướt vạt áo hắn.

Tên “tra nam” mà nàng nhắc đến… hẳn là hắn rồi.

Tống Hành chưa từng nghe qua từ này trước đây, nhưng dù không hiểu rõ ý nghĩa, cũng chẳng khó để hắn đoán ra đó không phải lời hay ý đẹp.

Nàng bảo hắn ôm nàng, đưa nàng đi. Nếu không phải ý trung nhân của nàng, thì đó có thể là gì?

Chút hy vọng cuối cùng bị chính nàng tự tay phá vỡ, hắn không còn lý do gì để tự lừa mình dối người nữa.

Cơn giận của Tống Hành bùng phát đến đỉnh điểm, ghen tuông cùng đố kỵ như ngọn lửa thiêu đốt toàn thân hắn. Họng hắn khô khốc, siết chặt bàn tay đang nổi đầy gân xanh, hắn bóp cằm nàng, nghiến răng chất vấn: “Dương Sở Âm, nói cho trẫm biết, nàng và Trần Nhượng quen nhau từ khi nào? Nàng đã đem lòng yêu hắn ta, phải không?!”

Thi Yến Vi đau đến hít mạnh một hơi, chẳng hiểu vì sao người luôn dịu dàng như Trần Nhượng lại trở nên nóng nảy như vậy. Nàng khẽ đưa tay chạm vào cổ tay hắn, dịu dàng an ủi: “Đừng giận mà, lần này để em ôm anh, hôn anh, có được không?”

Đôi mắt trong trẻo, long lanh ánh nước nhìn hắn chăm chú. Bóng dáng hắn in trong đáy mắt nàng, nhưng vẻ mặt của người trước mắt lại như biến thành Trần Nhượng. Chỉ là thần sắc kia… dường như có chút bất đồng.

Hẳn là đang trách nàng đột nhiên biến mất quá lâu chăng?

Thi Yến Vi đầu óc không mấy minh mẫn, ánh mắt phủ một tầng sương mờ, bản năng dẫn dắt nàng làm theo lời vừa nói. “Anh làm em đau rồi… Em không đi đâu cả, anh thả em ra trước đã, được không?”

Cảm giác từ lòng bàn tay nàng truyền đến khiến lý trí của Tống Hành dần quay trở lại. Hắn sợ làm nàng bị thương, vội vàng thu tay lại, đưa lên v**t v* má nàng. Hắn cố gắng kiềm chế cơn giận để không làm nàng sợ hãi, “Dương Sở Âm, mở to mắt ra mà nhìn cho kỹ, ta là ai?”

Thi Yến Vi dường như không nghe lời hắn, đôi tay mảnh khảnh vòng qua cổ hắn, nhẹ nhàng áp môi mình lên môi hắn.

Đây là lần đầu tiên nàng tự nguyện hôn hắn, nhưng lại là trong hoàn cảnh nhận nhầm hắn thành người khác.

Thứ mà trước đây dù hắn có cầu khẩn thế nào cũng không thể có được, nay lại mang đến cho hắn cảm giác thống khổ và nhục nhã sâu sắc. Như thể có một tấm lưới vô hình đã vây chặt lấy hắn, khiến hắn không thể thoát ra, càng giãy giụa càng thêm bất lực. Nỗi đau trong lòng thật khó để diễn tả, hắn gần như dùng hết sức lực để chặn đứng khát vọng đối với nàng, lạnh mặt đẩy nàng ra.

“Nói cho trẫm biết, người trước mắt nàng là ai?”

Ánh mắt Thi Yến Vi dần trầm xuống. Nàng không hiểu vì sao Trần Nhượng lại đối xử lạnh nhạt với mình như vậy. Trước đây, mỗi khi nàng chủ động hôn anh, anh đều ôm lấy nàng, đáp lại nàng, môi lưỡi quấn quýt không rời.

Đầu óc quay cuồng, nàng nâng tay ôm lấy gương mặt hắn, nghi hoặc hỏi: “Trần Nhượng, hôm nay anh làm sao vậy?”

Trần Nhượng, Trần Nhượng, Trần Nhượng. Hai chữ này gần như khiến hắn phát điên, như thể tim hắn bị vùi trên đống than hồng mà thiêu đốt. Ghen tuông bốc lên như ngọn lửa không thể dập tắt, hắn nghiến răng, nắm chặt cổ tay nàng kéo tay nàng ra khỏi mặt mình, nghiêm giọng quát lớn: “Nói cho trẫm biết, Trần Nhượng là ai? Hắn đang ở đâu?!”

Lực tay của hắn quá mạnh, cổ tay Thi Yến Vi đau nhói. Nước mắt lăn dài khóe mi, nàng giãy dụa muốn thoát ra, yếu ớt kêu thành tiếng ngắt quãng: “Đau…”

Tống Hành bị nàng quậy đến tâm phiền ý loạn. Hắn buông tay nàng ra, nhìn thấy trên cổ tay nàng hằn đỏ một vòng, dù biết nàng chưa thể tỉnh táo ngay, nhưng vẫn ngoan cố lặp đi lặp lại câu hỏi: “Trần Nhượng là ai?”

Thi Yến Vi bị hắn tra hỏi đến rối loạn. Nàng cố gắng hiểu câu hỏi của hắn, nhưng càng nghĩ, cơn đau đầu càng dội lên mãnh liệt. Thân thể trở nên mềm nhũn, bất giác nàng ngã nhào vào lòng Tống Hành.

Ngay cả khi nàng như vậy, cơn giận trong lòng Tống Hành vẫn không thể vơi nổi, hắn sầm mặt, nghiêm nghị nói: “Dương Sở Âm, đừng mong lừa được trẫm! Hôm nay trẫm nhất định phải…”

Thi Yến Vi thoáng ngẩng đầu, nhìn kỹ khuôn mặt hắn. Đó rõ ràng là dung mạo của Trần Nhượng, nhưng khí tức toát ra lại giống y hệt kẻ từng làm đủ những trò đồi bại đối với nàng. Những chuyện xấu xa hắn đã làm trước đây chợt ùa về, khiến nàng đau đớn nhắm chặt mắt. Nàng chỉ mong Trần Nhượng ôm lấy nàng, gần gũi với nàng, xua tan bóng ma mà Tống Hành để lại.

Nếu hai người thật sự tâm đầu ý hợp, chuyện đó có lẽ cũng có thể khiến nàng cảm thấy vui vẻ.

Hơi nóng lan tỏa khắp tứ chi, Thi Yến Vi hiếm khi chủ động, lần này lại đưa tay cởi áo.

Ánh mắt Tống Hành thoáng sầm xuống, hắn cúi đầu nhìn nàng. Hắn cố kiềm chế cảm giác bức bối trong người, sợ mình sẽ mất kiểm soát, sợ mình tự hạ thấp bản thân. Hắn nắm lấy tay nàng, giữ chặt lại, mồ hôi lấm tấm trên trán, không để nàng tiếp tục cởi y phục.

Thi Yến Vi không hiểu vì sao hắn không chịu gần gũi nàng, đôi mày thanh tú hơi nhíu lại, nàng thở nhẹ, giọng điệu oán trách: “Anh vẫn còn giận em sao?”

Hắn rốt cuộc thua kém kẻ kia ở điểm nào?

Tống Hành luôn kiêu ngạo tự phụ, làm sao dễ dàng buông tay. Hắn siết chặt đôi vai mảnh khảnh của nàng, cố chấp hỏi lại: “Người trước mặt nàng là ai?”

Dẫu vậy, câu hỏi ấy chẳng khác nào tự chuốc nhục vào mình.

Thi Yến Vi nâng gương mặt hắn, từ đôi môi đỏ mọng khẽ thốt ra hai chữ: “Trần Nhượng.”

Ngay khi âm thanh vừa dứt, cả người Tống Hành như rơi vào hố băng, cả người lạnh buốt, cõi lòng cũng nguội lạnh đến tột cùng… Là thiên chi kiêu tử, từ nhỏ đã cao quý tự phụ, từ khi nào hắn lại trở thành cái bóng của người khác, càng không thể chấp nhận việc làm thế thân.

Hắn muốn tàn nhẫn trừng phạt nàng, bắt nàng phải khóc trong vòng tay hắn. Nhưng khi ánh mắt hắn chạm vào đôi mày mắt của nàng, hắn lại không thể nào dùng thân phận của một kẻ khác cùng nàng hoan hỷ. Hắn chỉ có thể cúi đầu, nuốt đi giọt lệ lăn dài trên đuôi mắt nàng.

Giết hắn, chỉ cần giết người đàn ông tên là Trần Nhượng kia, khiến hắn biến mất khỏi thế gian, thì Âm Nương sẽ không còn vấn vương nữa. Đến lúc đó, nàng sớm muộn cũng sẽ thích hắn.

Tống Hành tự an ủi mình, hết lần này đến lần khác. Chỉ có như vậy hắn mới không phát điên, không làm tổn thương nàng.

Không biết vì sao, Thi Yến Vi mơ hồ cảm nhận “Trần Nhượng” đang ôm nàng lúc này như thể đang rất dằn vặt. Nàng chậm rãi đưa tay, khẽ vuốt lên đôi mày nhíu chặt của hắn, nhỏ nhẹ nói: “Không phải em về rồi đó sao? Anh đừng buồn nữa.”

Tống Hành không thể chịu được ánh mắt nàng nhìn xuyên qua mình để hướng về kẻ khác. Hắn gần như tuyệt vọng nhắm mắt lại, đôi môi mỏng di chuyển xuống, phủ lên đôi môi nàng, dễ dàng cạy mở khớp răng của nàng.

Nàng cũng rất thuận theo, đón nhận nụ hôn và sự quấn quýt của hắn, dịu dàng đáp lại.

Hai người triền miên hồi lâu. Khi Tống Hành bừng tỉnh, hắn nhận ra nữ tử say chưa tỉnh trong vòng tay dường như đã bị cơn buồn ngủ kéo đến. Nàng tựa lên vai hắn, mí mắt nặng trĩu, dần chìm vào giấc ngủ.

Lần đầu tiên Tống Hành và nàng cùng chung giường, nhưng hắn lại không ôm lấy nàng từ phía sau.

Triệu quốc giữ nguyên lệ cũ của tiền triều, hai ngày mới có một buổi triều sớm. Hôm nay vừa nghị sự xong, ngày mai không cần thượng triều, bởi vậy cả đêm qua, Tống Hành đều tá túc ở đây, không cần quay về điện Triều Nguyên.

Trong lòng như bị đè nặng bởi một tảng đá lớn, khiến hơi thở cũng trở nên nặng nề, hắn cứ trằn trọc như thế, phải đến khi trời gần sáng, bình minh vừa ló dạng thì hắn mới rơi vào giấc ngủ không sâu.

Trong giấc mộng, nữ lang hắn luôn đặt trên đầu quả tim khoác tay một nam tử xa lạ. Tống Hành không thể nhìn rõ khuôn mặt người kia. Hắn muốn tiến lên giành lại nàng, nhưng phát hiện bản thân không có hình dáng cụ thể, không cách nào cử động. Chỉ có thể trơ mắt nhìn hai người bọn họ thân mật, nói nói cười cười.

Hắn là gì chứ? Trong lòng nàng, hắn chẳng là gì cả.

Ngọn lửa ghen tuông bùng cháy hừng hực dường như muốn nuốt chửng hắn. Ngay cả trong giấc mơ, hắn cũng không được yên ổn, hai tay nắm chặt thành quyền, từng giọt mồ hôi lớn bằng hạt đậu treo đầy trên trán. Y phục trên người hắn đã bị mồ hôi thấm ướt từ khi nào chẳng hay.

Giết Trần Nhượng, giết hắn. Không thể để hắn tiếp tục sống trên đời này. Trong đầu Tống Hành chỉ có duy nhất suy nghĩ đó.

Ngoài trời, mặt trời bắt đầu lên, nhưng vẫn không thấy bóng dáng Thánh thượng bước ra. Trương nội thị chờ bên ngoài cục Thượng Nghi vội đến nỗi đi vòng vòng, nhưng lại không dám đường đột đến mời, cũng bởi Thánh thượng từng nhiều lần nghiêm lệnh, không được phép để thanh danh của Dương thượng nghi phải chịu bất kỳ tổn hại nào.

Ngày đông tuyết rơi, nền trời âm u. Thi Yến Vi ngủ một mạch đến giờ Tỵ hai khắc, chuyện tối qua nàng hoàn toàn không nhớ rõ. Chỉ mơ hồ nhớ rằng mình được đưa về bằng kiệu nhỏ, sau đó Dao Tư tán có ghé qua, trông nom nàng một lúc lâu.

Chén rượu tối qua quả thật quá mạnh, khiến đầu nàng lúc này vẫn còn ong ong.

Cổ họng khô rát, Thi Yến Vi lật chăn định xuống giường tự mình rót cốc nước uống, nhưng bất chợt nhận ra sau lưng tựa hồ còn có một người khác đang nằm, lòng nàng không khỏi giật thót. Nàng vội quay lại nhìn.

Tống Hành cũng thuận thế ngồi dậy, đôi mắt đầy tơ máu nhìn chằm chằm vào nàng, như chim ưng săn mồi chú mục vào con mồi tinh quái.

“Người…” Sao lại ở đây?

Lời còn chưa dứt, Tống Hành đã bất ngờ lao tới, tay mạnh mẽ bóp chặt cổ tay nàng, ánh mắt u ám, môi mỏng hé mở. Hắn gằn từng chữ như bức cung: “Nói cho trẫm biết, đêm qua, cái tên Trần Nhượng mà nàng nhắc đến là ai?”

Hóa ra, tối qua nàng đã nhận lầm hắn là Trần Nhượng, thậm chí còn buột miệng thốt lên cái tên ấy.

Thi Yến Vi giờ mới nhận ra chuyện này, trong lòng âm thầm giận dữ. Đáng lẽ tối qua nàng không nên uống ly rượu ấy. Nhưng dù nàng không uống, e rằng kết cục cũng chẳng khác là bao.

Hắn đã biết đến sự tồn tại của Trần Nhượng, vậy thì chi bằng nhân cơ hội này đâm thêm vài nhát vào tim hắn, để hắn cũng nếm trải tư vị bứt rứt không yên.

“Ngoài cha ta ra, Trần Nhượng là người đàn ông hiểu được tôn trọng ta, bảo vệ ta nhất. Chàng chưa từng làm tổn thương ta, cũng không như người tùy ý chà đạp ta. Chàng luôn chân thành, chu đáo với ta. Chúng ta tâm ý tương thông, chí hướng tương hợp, là hai con người đồng điệu về cả thể xác lẫn tâm hồn. Dù là ai cũng không thể chia cắt được chúng ta.”

Nói đến đây, nàng ngước mắt đón lấy đôi mắt sắc bén đang soi mói nhìn mình, tiếp tục một cách đầy kiên định: “Trong lòng ta, người vĩnh viễn không thể sánh bằng chàng dù chỉ một phần nhỏ. Thay vì tiếp tục lãng phí tâm trí vào ta, người nên buông bỏ thì hơn.”

Mặt Tống Hành sa sầm lại với tốc độ mà mắt thường cũng có thể nhìn thấy, đôi mắt lạnh lùng đến đáng sợ. Nhưng Thi Yến Vi giờ đây chẳng còn chút sợ hãi nào trước hắn, mặc cho cổ tay bị siết đến đau buốt. Nàng khẽ cười, giọng đầy khinh miệt:

“Tống Hành, với tính cách của người, nghe đến đây hẳn là đã có ý định giết chàng rồi chứ gì? Chỉ tiếc rằng chàng không còn trên đời này nữa, người không thể tìm thấy chàng, càng không thể giết được chàng!”

Ánh mắt nàng nhìn hắn như đang nhìn một trò cười. Đã có lúc, hắn cũng nhìn nàng như vậy. Nay hắn lại yêu nàng đến mức chẳng thể dứt ra, cũng chẳng thể làm được điều tương tự, thì đến lượt nàng nhìn hắn như trò đùa.

Ngay cả trong cơn phẫn nộ mất lý trí, Tống Hành vẫn không thể nào thực sự nhẫn tâm làm hại nàng, chỉ có thể gắng gượng giữ lại chút kiêu ngạo cuối cùng trước mặt nàng, nghiến răng, gằn giọng nói lớn: “Dương Sở Âm, nàng giỏi lắm! Dẫu nàng không nói cũng không sao, trẫm nhất định sẽ tự mình tìm ra kẻ đó và đích thân g**t ch*t hắn, cắt đứt triệt để vọng niệm hão huyền đó trong lòng nàng!”

Thi Yến Vi nghe hắn nói xong, không có lấy một chút dao động, chỉ bình tĩnh đáp lại:

“Người đã thích làm chuyện vô ích ấy thì cứ làm. Nếu Thánh thượng còn chút tự trọng, thì không nên cứ ép buộc mãi một nữ lang đã có người trong lòng, đã thế còn coi người như một kẻ thế thân. Làm vậy chỉ khiến bản thân người càng mất giá thêm mà thôi.”

Tống Hành bị nàng làm nghẹn lời, không thể phản bác, lặng lẽ buông cổ tay nàng ra, bước qua người nàng xuống giường. Hắn tự mình mặc áo, búi tóc qua loa, dùng nước đêm qua nàng rửa mặt mà lau rửa qua quýt, nét mặt lạnh lùng, không ngoảnh lại mà rời đi.

Y phục trên người hắn không đến nỗi nhếch nhác, nhưng búi tóc thì thực sự khó coi. Đám cung nhân gặp hắn trên đường, ai nấy đều nhạy bén nhận ra tâm trạng hắn hôm nay cực kỳ nặng nề, từ xa đã vội đứng lại hành lễ, không dám nhìn thẳng vào hắn.

Trương nội thị bám sát phía sau, gần như phải chạy theo từng bước, may thay hắn chưa đến bốn mươi tuổi, nên vẫn còn đủ sức khỏe.

Đến điện Triều Nguyên, Trương nội thị mới được dịp thở phào. Thấy sắc mặt người cực kỳ khó coi, trong lòng không khỏi thầm suy đoán, chẳng lẽ Dương Thượng nghi lại chọc giận Thánh thượng? Rõ ràng mấy ngày trước quan hệ giữa người và Dương nương tử kia vẫn xem như tốt đẹp. Mỗi lần gặp nàng xong, người đều khó giấu vui mừng, không như trước đây, mỗi lần rời khỏi chỗ nàng thì đều giận dữ bừng bừng, mặt mày cau có.

Đúng lúc ấy, cung nhân mang y phục sạch sẽ mới giặt đến, Trương nội thị mới sực nhớ ra y phục Thánh thượng đang mặc không chỉnh tề, chắc hẳn là vì đêm qua ở chỗ Dương Thượng nghi nên không thay đồ. Hắn đánh bạo mang khay y phục vào điện, dè dặt hỏi xem Tống Hành có muốn tắm rửa thay đồ không.

Tống Hành, không biết trút giận vào đâu, ngồi trên ghế thiền, trong lòng tràn đầy cảm giác đau khổ. Có lẽ vì đêm qua không ngủ được, nên huyệt thái dương của hắn giờ đây đau âm ỉ. Khi vừa ngẩng đầu lên, hắn liền nhìn thấy chiếc khay sơn đen chạm trổ bên trong đựng bộ áo lót do chính tay Thi Yến Vi may. Một nụ cười tự giễu chợt nở trên môi hắn.

Đó chỉ là thứ nàng dùng để lừa gạt hắn, hoàn toàn không phải thật lòng may cho hắn mặc. Trong mắt nàng, hai món y phục ấy chẳng đáng một xu. Vậy mà hắn lại trân quý đến mức không nỡ mặc thường xuyên, còn cẩn thận giữ gìn ở trong tủ.

Đến mức tự đa tình như vậy, đúng là quá hèn mọn rồi.

Cơn đau nơi trán càng lúc càng trầm trọng. Tống Hành tiện tay hất bộ triều phục màu vàng sáng đè lên hai món y phục kia, cầm lấy chúng, định xé tan tành để trút giận.

Và rồi, Trương nội thị trông thấy một cảnh tượng quỷ dị đến khó tin. Thánh thượng cầm hai món y phục lên, nhiều lần định xé, nhưng mỗi lần đều dừng lại ngay tức khắc, sau đó lại nắm chặt trong tay hồi lâu. Cứ thế lặp đi lặp lại, cuối cùng vẫn đặt chúng xuống nhẹ nhàng.

“Cút ra ngoài chuẩn bị nước tắm.” Tống Hành nhẫn nhịn cơn đau đầu, ra lệnh xong, chỉ cảm thấy mọi thứ trong phòng đều chướng mắt. Dù đang giữa mùa đông, trên người hắn vẫn lấm tấm mồ hôi. Hắn đứng dậy đi đến cửa sổ, mở toang ra để đón luồng gió lạnh, hai tay siết chặt bệ cửa sổ, suy nghĩ rối bời.

Hồi nàng ở Hoằng Nông và Tấn Châu, tuổi còn nhỏ, làm sao biết được thế nào là tình yêu nam nữ. Do đó, Trần Nhượng mà nàng nhắc đến, rất có khả năng là quen biết khi sống ở Văn Thủy.

Tống Hành bình tĩnh lại, sau khi thông suốt điều này, liền lệnh cho người truyền Bất Lương Soái vào yết kiến.

“Dương Sở Âm, trẫm nhất định phải giết hắn.” Tống Hành nhắm mắt lại, hít sâu một hơi, cố gắng không để cơn giận và sự ghen ghét làm rối loạn tâm trí, dẫu vậy, hắn cảm thấy nghẹn ứ nơi cổ họng. Hắn rút thanh trường kiếm trên giá, chạy ra ngoài, lia loạn lên thân cây phù dung.

Nhánh cây cùng lá khô lẫn vào tuyết đọng, vương vãi đầy đất, Tống Hành lạnh giọng phân phó cung nhân dọn dẹp sạch sẽ, rồi cắm phập thanh kiếm xuống đất, chẳng buồn để ý vỏ kiếm đã bị hắn vứt bậy ở nơi nào.

Trong phòng tắm.

Tống Hành nhíu mày, ngâm mình trong nước, quên cả việc dùng đậu tắm làm sạch cơ thể, thậm chí chẳng màng tìm tư thế ngồi thoải mái. Hắn cứ thế tựa vào thành thùng gỗ.

Trước khi ẩn sĩ tìm được Trần Nhượng, đưa đến trước mặt để hắn tự tay kết liễu, hắn sẽ không gặp lại Dương Sở Âm nữa.

Tống Hành nghĩ vậy, nhẹ nhàng khép mắt, để đầu óc và suy nghĩ trống trơn.

Suốt hơn một tháng sau đó, Tống Hành quả thực nhẫn nhịn không đến tìm Thi Yến Vi. Mỗi ngày chìm trong công vụ, hắn cố gắng khiến bản thân bận rộn đến mức không còn thời gian để nghĩ ngợi. Nhưng ngay cả như vậy, triều thần vẫn nhạy bén nhận ra tâm trạng của Thánh thượng gần đây không được tốt, chẳng ai dám mạo hiểm để tự chuốc lấy xui xẻo. Tất cả những chuyện có thể khiến Thánh thượng nổi giận đều được tránh tuyệt đối, dù vậy vẫn có kẻ không may đụng trúng vảy ngược, đến mức phải quỳ trước Thái hoàng thái hậu, nhờ bà bênh vực vài lời thì mới giữ được mạng.

Trương nội thị là người tỉ mỉ chu toàn, mỗi ngày hầu cận bên cạnh, chẳng mấy mà nhận ra Thánh nhân ngày càng không muốn đến gặp Thái hoàng thái hậu, cũng không muốn nghe những lời khuyên răn của bà. Người miễn cưỡng đến thăm chỉ vì đạo hiếu, đối đáp qua loa cho có mà thôi.

Cho đến đêm mồng một Tết, Thánh thượng tựa hồ không còn nhẫn nại thêm được nữa.

Trương nội thị thấy người rảo bước về phía cục Thượng nghi, lập tức sai người dọn đường, đảm bảo không có kẻ không phận sự nào lai vãng gần nơi ở của Dương Thượng nghi.

Lúc đó, Thi Yến Vi vừa cùng Vương Thượng nghi, Diêu Tư tán chơi trò phi hoa lệnh, uống rượu nếp nên gương mặt hơi ửng hồng. Nàng cầm đèn lồng, lững thững quay về chỗ ở.

Nhờ sự sắp xếp của Trương nội thị, Thi Yến Vi được phân một viện nhỏ khá độc lập và hẻo lánh, bình thường rất ít người lui tới nếu không có việc gì.

Khi đi qua núi giả ngoài viện, nàng bất ngờ bị một lực kéo mạnh giữ lấy cánh tay, gần như bị người ta giật vào trong khe núi giả.

Chiếc đèn lồng lục giác bằng vải lụa trong tay rơi xuống đất, lòng Thi Yến Vi kinh hoàng, hé môi định gọi người thì đã bị Tống Hành chặn lại. Hắn thâm nhập vào môi nàng một cách bá đạo, khiến nàng không kịp phản ứng.

Dưới ánh trăng, nhìn rõ người trước mặt là hắn, nàng lập tức vùng vẫy, dùng toàn bộ sức lực vung tay tát mạnh vào má phải của hắn.

Tiếng bạt tai trong đêm tối tĩnh mịch càng trở nên vang dội.

Giữa mùa đông lạnh lẽo, khi máu huyết tuần hoàn chậm lại, cảm giác đau đớn thường bị khuếch đại. Nhưng Tống Hành dường như hoàn toàn không cảm nhận được, hắn tiếp tục giữ lấy khuôn mặt nàng, lại cúi xuống hôn sâu, kiên quyết không để nàng trốn thoát.

Sợ lưng nàng bị đá giả sơn làm trầy xước, hắn dễ dàng nâng nàng vòng qua eo mình, dùng lớp y phục để che chắn mọi thứ.

Thi Yến Vi ngửa cần cổ thon dài trắng nõn, hai tay níu chặt vạt áo nơi bờ vai hắn. Trước khi kịp mắng, Tống Hành đã ghé sát bên tai nàng, trầm giọng cảnh cáo: “Âm Nương, nếu muốn mắng, tốt nhất hãy tranh thủ sớm đi. Bởi lát nữa, trẫm sẽ khiến nàng không nói được nên lời.”

“Hoặc nàng cứ mắng thật lớn, để mọi người ở đây đều biết quan hệ giữa chúng ta. Sau này cả sáu cục đều sẽ tôn nàng làm chủ, ngay cả Thượng cung cũng chẳng dám hó hé gì trước mặt nàng.”

Thi Yến Vi ghét việc bị hắn chạm vào, “Tống Hành, ngươi thật ti tiện đến mức ta chỉ muốn n…”

Nhưng chữ cuối cùng còn chưa kịp thoát ra, Tống Hành đã hung hăng làm tới, khiến nàng quả thật không thể mắng được một câu hoàn chỉnh.

Một lúc lâu sau, Tống Hành ôm nàng từ núi giả bước ra, từng bước nặng nề tiến vào viện, rồi lại đặt nàng lên bên khung cửa sổ, giam cầm nàng không chút thương tiếc.

Ngoài kia, màn đêm thăm thẳm. Thi Yến Vi mệt mỏi đến cực điểm, mơ hồ bị hắn ôm lấy một lần nữa. Tiếng pháo hoa nổ rền rĩ bên tai, Tống Hành lòng đầy hân hoan, ôm nàng đến dưới mái hiên, nhưng vẫn không nỡ buông tay khỏi người nàng.

“Ba năm rồi, Âm Nương. Đã ba năm kể từ lần đầu trẫm và nàng gặp nhau. Đây là Nguyên Nhật đầu tiên mà chúng ta cùng trải qua. Trẫm sẽ mãi nhớ khoảnh khắc này, ngày hôm nay, giờ phút này, nàng vẫn thuộc về trẫm.”

Thi Yến Vi mệt đến mức không còn sức ngẩng đầu nhìn pháo hoa, thay vào đó lại cúi xuống, cắn mạnh hắn, giục hắn mau kết thúc.

Ngắm pháo hoa được một lát, Tống Hành lại ôm nàng quấn quýt thêm hai khắc đồng hồ mới chịu dừng lại, cẩn thận chỉnh lại xiêm y cho nàng, để nàng gọn gàng thư thái.

Đêm ấy, hắn ở lại qua đêm tại phòng nàng. Hắn ôm lấy nàng, đặt tay nàng lên vùng ngực gần hai vết sẹo cũ, giọng nói đầy phấn khích: “Đây là vết sẹo thứ ba mà nàng để lại cho trẫm, cũng là vết sẹo mà trẫm yêu thích nhất.”

Nghe xong, Thi Yến Vi chỉ thấy bệnh điên của hắn ngày một trầm trọng. Nàng lười đôi co với hắn, để mặc hắn áp tay nàng lên lồng ngực hắn. Nhịp đập mạnh mẽ truyền từ đó qua lòng bàn tay, nhưng trái tim nàng lại không hề xao xuyến. Chỉ một lúc sau, nàng chìm vào giấc ngủ.

Cảm nhận được nữ lang trong lòng đã ngủ say, Tống Hành sợ nàng bị tê tay nên cẩn thận đặt tay nàng về chỗ cũ, sau đó tìm một tư thế quen thuộc để ôm nàng, rồi mới yên lòng đi ngủ.

Đêm ấy vì náo động quá lâu, Tống Hành chỉ ngủ được hai khắc đồng hồ, sau đó dậy sớm, lặng lẽ rời đi, đến điện Triều Nguyên chỉnh trang, chuẩn bị cho buổi đại triều hội.

Từ mùng một đến mùng bảy, mỗi đêm Tống Hành đều không nghỉ tại điện Triều Nguyên, mà lẻn vào phòng Thi Yến Vi bám chặt lấy nàng. Dù Thi Yến Vi luôn kiên quyết không cho hắn chạm vào, cũng chẳng hề tỏ ra thân thiện, nhưng hắn không hề nổi giận, với hắn, chỉ cần được ôm nàng ngủ đã là quá đủ rồi.

Chớp mắt, tết Nguyên Đán đã qua, lễ Thượng Nguyên liền tiếp nối ngay sau đó. Tống Hành tiếp kiến vạn dân trên thành Tử Vi. Lần đầu tiên, hắn nảy sinh ý muốn để nàng sóng vai đứng bên cạnh, cùng đón nhận tiếng reo hò chúc tụng của muôn dân.

Sau Thượng Nguyên, đông qua xuân đến.

Từ mồng một Tết, Thẩm Kính An thúc ngựa vượt đường đến núi Kính Đình ở Tuyên Châu. Khi trở về Biện Châu thì hay tin Giang Tiều đã tập trung mười vạn đại quân, lợi dụng lúc đất Thục còn tàn dư của họ Vương gây rối, tướng thủ của Tống Hành ở vùng này chưa vững chân, muốn bắc thượng đoạt lấy Nguỵ Bác, khiến nước Triệu không kịp trở tay.

Chiến sự dường như sắp bùng nổ. Thẩm Kính An nhận lệnh lãnh binh xuất chinh.

Ban đầu, Tống Hành vốn định ngự giá thân chinh, nhưng bị các lão thần do Tiết Thái phó dẫn đầu kịch liệt phản đối, cho rằng nước Triệu lập quốc mới được mấy tháng, trong nước không thể một ngày không có vua. Trước mắt nên để Vệ tướng quân dẫn quân chi viện, tùy theo diễn biến chiến sự rồi mới quyết định sau cũng không muộn.

Tống Duật, Thái hoàng thái hậu và Trưởng công chúa đều lần lượt đến khuyên, lúc này Tống Hành mới miễn cưỡng từ bỏ ý định.

Cuối tháng hai, tin dữ từ tiền tuyến truyền về: con trai trưởng của Tống Vi Lan, nữ nhi độc nhất của Tiết phu nhân là Tiêu Thừa Sách đã chết dưới đao của Thẩm Kính An. Tiên phong Tiết Phụng cũng bị hắn đánh bại, mất đi một cánh tay.

Tống Hành biết tin, không còn dám xem nhẹ Thẩm Kính An, liền sai người điều tra lai lịch hắn.

Tháng Ba xuân ấm, hai bờ Hoàng Hà bắt đầu hứng chịu từng đợt mưa lớn. Nước lũ hoành hành, cả nước Triệu và Ngụy đều bị ảnh hưởng nặng nề, dân chúng sống ven sông lâm vào cảnh khốn cùng, than trời trách đất.

Giờ không phải thời điểm hợp lý để khai chiến. Thẩm Kính An suy xét kỹ càng, soạn một phong thư cho người cưỡi ngựa ngày đêm chuyển gấp về Biện Châu, đề nghị tạm thời đình chiến, nghị hòa, đợi đến khi đôi bên nghỉ ngơi, hồi sức rồi cùng Triệu quốc nhất quyết thư hùng (phân cao thấp) sau cũng chưa muộn.

Giang Triều lắng nghe lời khuyên của triều thần, cũng đồng tình với ý kiến này, bèn phái sứ giả mang thư nghị hòa đến nước Triệu.

Tống Hành tiếp kiến sứ giả Ngụy quốc, sau khi xem qua thư, đưa ra điều kiện: Thẩm Kính An phải đích thân đến kinh đô Triệu quốc, Lạc Dương, để bàn việc hoà đàm.
 
Back
Top Bottom