Ngôn Tình Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên

Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 60: Diên Châu


Bên trong Tống phủ, cảnh tượng bận rộn tưng bừng, không ai lưu tâm đến động tĩnh của Thi Yến Vi, càng không ai phát hiện điều bất thường ở viện Phù Thúy. Mọi chuyện diễn ra êm thấm, thần không biết, quỷ không hay.

Đến giữa trưa, Thôi Giác vận hỉ phục viên lĩnh đỏ thẫm, cưỡi trên thất ngựa uy dũng, dẫn đầu đoàn phù rể rầm rộ kéo về Tống phủ.

Ngựa dừng lại trước cổng Tống phủ, Thôi Giác tung người nhảy xuống ngựa, bước nhanh vào phủ. Trước tiên, hắn đặt đôi chim nhạn tự tay săn được ở chính đường để hoàn thành lễ Điện nhạn, [1] sau đó mới cùng đội phù rể tiến về Đông phòng, nơi Tống Thanh Hòa đang trang điểm.

<i>[1] lễ Điện nhạn: là một nghi thức trong hôn lễ truyền thống Trung Hoa, đặc biệt phổ biến trong các gia đình quý tộc và văn nhân thời phong kiến. Trong lễ này, chú rể mang một đôi ngỗng (nhạn) đến nhà cô dâu để trao tặng. Ngỗng (nhạn) được chọn vì đây là loài chim thường sống thành đôi và có tính thủy chung cao. Việc tặng đôi ngỗng trong lễ cưới mang ý nghĩa cầu chúc cho hôn nhân bền vững, hòa hợp và trọn đời bên nhau. Ngoài ra, ngỗng còn tượng trưng cho sự hiền hòa và sự gắn bó giữa hai gia đình, vì loài chim này thường đi theo bầy đàn và biết đoàn kết.</i>

Thôi Giác kiên nhẫn đợi ở sương phòng gần một canh giờ mà vẫn không thấy tân nương bước ra nên khó lòng tránh khỏi nôn nóng. Hắn đứng dậy bước ra ngoài chính phòng, cao giọng thúc giục.

Thế nhưng nhóm phù dâu đang đứng dưới hàng lang lại không chút nể nang, thẳng tay ngăn hắn ngoài cửa, không thèm đáp lời.

Thôi Giác bất mãn bỏ đi. Lại thêm nửa canh giờ trôi qua, hắn đứng dậy lần nữa, bước xuống thềm, cất giọng ngâm bài thơ giục cưới. [2]

<i>[2] bài thơ giục cưới: “Thôi trang thi” (推妆诗) là một loại thơ trong văn hóa cưới hỏi cổ xưa của Trung Quốc, thường được chú rể hoặc người đại diện của chú rể sử dụng để “thúc giục” cô dâu chuẩn bị xong và ra khỏi phòng trang điểm vào ngày cưới. Trong lễ cưới truyền thống, cô dâu thường phải trải qua quá trình trang điểm, mặc trang phục và đeo trang sức rất cầu kỳ, và thời gian này có thể kéo dài, tạo ra sự chờ đợi. Để thêm phần trang trọng và cũng là một hình thức giao lưu văn chương, chú rể hoặc đoàn tân khách có thể ngâm “thôi trang thi” bên ngoài phòng trang điểm nhằm bày tỏ sự nôn nóng, mong mỏi gặp mặt tân nương, hoặc thể hiện sự ngưỡng mộ, tôn trọng.</i>

Không giống như lần trước, Họa Bình vận váy áo đỏ nhạt bước ra từ cửa, mỉm cười nói: “Tân nương chuẩn bị cài trâm, mong rằng lang quân chớ vội.”

Thôi Giác nghe thấy, cùng mấy phù rể cúi mình thi lễ, cung kính đáp: “Đa tạ nương tử đã báo tin.”

Giọng nói đầy chân thành của Thôi Giác lọt vào tai. Tống Thanh Hòa đang khoác lên mình bộ váy lục hoa quế, trong lòng không khỏi hồi hộp, bàn tay nắm chặt khăn lụa cũng rịn mồ hôi. Tân nương ngồi trước gương đồng, mái tóc vấn cao, dung nhan như họa, đôi má ửng hồng thẹn thùng, trâm vàng óng ả trên tóc cùng đóa điền mai diễm lệ đỏ tươi khiến nàng đẹp đến nao lòng.

Một lúc sau, lại có tỳ nữ bưng khay gỗ đàn tiến đến. Cao phu nhân đích thân gỡ mũ hoa, cài vào giữa búi tóc, rồi dùng một đôi trâm vàng cánh sen và bộ diêu bằng ngọc nạm vàng cài hai bên tóc mai, xen kẽ cùng mười cây trâm hoa vàng đính lưu ly.

Họa Bình chỉ nhìn qua đã biết kiểu tóc này hẳn là rất nặng, liền cùng Tiểu Phiến đỡ nàng đứng dậy.

Tống Thanh Hòa ngân ngấn nước mắt, lần lượt từ biệt Cao phu nhân và Tiết phu nhân, sau đó lại cùng Tổ Giang Lan nói chuyện một hồi. Nàng còn đang tìm kiếm bóng dáng Thi Yến Vi giữa đám đông thì ngoài phòng lại vang lên giọng ngâm bài thơ giục cưới của Thôi Giác.

Chưa kịp nói câu nào thì bàn tay đã được nhét vào một cây quạt tròn từ lúc nào không hay. Cao phu nhân giục nàng dùng quạt che mặt, Tống Thanh Hòa luống cuống làm theo, chớp mắt đã bị đám tỳ nữ bà tử vây quanh rời khỏi phòng.

Trong viện Phù Thúy, Giang Nghiên là người tỉnh lại đầu tiên.

Lúc này trời đã vào đêm, vầng trăng vươn lên, lấp ló nơi đầu cành. Khoảng sân rộng lớn chẳng có lấy một ánh đèn, tĩnh lặng đến nỗi nghe rõ cả tiếng lá rơi. Giang Nghiên chớp mắt, đầu óc vẫn còn mơ hồ, ký ức ngắt quãng dừng đúng lúc hắn uống cạn hai bát rượu thù du to.

Đã là canh giờ nào rồi? Giang Nghiên tỉnh táo hẳn, mở to mắt, vội bước ra khỏi ghế dài, mò mẫm trong bóng tối tiến tới bên cửa sổ. Nhìn ra ngoài, chỉ thấy trên bầu trời là vầng trăng khuyết xanh lơ và vài ngôi sao mờ nhạt. Ánh trăng thanh khiết, ánh sao thì nhạt nhòa.

Suốt cả chiều nay, hắn đã làm gì? Đầu óc nhức nhối kinh khủng, khắp viện yên tĩnh đến mức có thể nghe thấy cả tiếng kim rơi. Giang Nghiên mở cửa sổ để ánh trăng chiếu vào, quay đầu nhìn lại thì thấy mấy người kia vẫn đang ngủ rất say.

Hỏng rồi. Tim Giang Nghiên bỗng đập thình thịch, chẳng để ý gì đến mấy đồng liêu đang gục trên bàn, ba bước gộp làm hai lao đến chính phòng của Thi Yến Vi, đẩy cửa bước vào, ánh mắt quét một lượt khắp phòng: không một bóng người.

Hắn lại cuống cuồng chạy đến phòng bên cạnh, chỉ thấy vài ba tỳ nữ bà mụ ngã gục quanh bàn, dường như còn ngủ say hơn cả bọn họ.

Nam nữ khác biệt, Giang Nghiên không tiện chạm vào từng người, đành rót một chén trà rồi lần lượt hất nước lên từng người một để đánh thức.

Lưu mụ còn đang mơ màng, vuốt mặt một cái, thấy bóng người trước mặt định quát lên, nhưng chợt cảm thấy điều gì đó bất thường. Bà lập tức bật dậy, mở to mắt nhìn quanh. Dương nương tử đã biến mất không còn một dấu vết.

Chẳng lẽ… Dương nương tử đã bỏ thuốc mê cho bọn họ rồi tự mình bỏ trốn? Lưu mụ nghĩ đến khả năng ấy, toàn thân rùng mình, hai chân mềm nhũn.

Những người khác cũng lần lượt tỉnh lại.

Quất Bạch yếu ớt xoa xoa trán, cố trấn tĩnh để sắp xếp dòng suy nghĩ đứt đoạn: “Là Đông Tuyết, trước khi ngất đi, ta thấy các người ngất trước… là chén rượu ấy, đúng rồi, ta chưa uống, chén rượu ấy… chắc chắn là chén rượu ấy, Đông Tuyết sợ ta kêu lên nên đã đánh ngất ta.”

Rượu ư? Giang Nghiên bước tới, mở nắp bình rượu, đưa lên mũi ngửi thử, đích thực là rượu thù du.

Các tỳ nữ và bà mụ hầu hạ Dương nương tử đều uống loại rượu này.

Dương nương tử xưa nay hiếm khi ra ngoài, dù có xuống phố dạo chơi thì cũng đều dưới sự theo dõi sát sao, căn bản không thể kiếm được thuốc mê, huống hồ còn cho vào trong rượu.

Tỳ nữ tên Đông Tuyết vốn không phải là người hầu ở viện Phù Thúy, nay người của viện Phù Thúy đều ở đây, chỉ riêng Đông Tuyết là không thấy. Nếu Dương nương tử thật sự bỏ trốn, vậy kẻ tiếp tay không ai khác chính là Đông Tuyết.

Nàng ta có thể ra tay chuẩn xác đánh ngất người khác, hẳn là biết chút võ công.

Giang Nghiên nhíu chặt mày, vội chạy tới nhà dưới đánh thức các thị vệ khác dậy, rồi sốt sắng tới Thối Hàn cư tìm Phùng Quý thông báo tình hình.

Phùng Quý vừa đun xong nước nóng, định sau khi rửa mặt sẽ nghỉ ngơi sớm, nào ngờ lại nhận được tin như sét đánh ngang tai, nhất thời không thể hoàn hồn.

Khi nhận thức được mức độ nghiêm trọng của sự việc, hắn bỗng cuống cuồng, cơn buồn ngủ cũng lập tức bay biến.

Một buổi chiều là quá đủ để Dương nương tử rời khỏi Thái Nguyên, bỏ sang các huyện lân cận.

Bọn họ chẳng qua là kẻ hầu của chủ tử thì sao có thể huy động quan binh trong thành lùng sục Dương nương tử một cách công khai?

Hơn nữa nếu đúng như lời Giang Nghiên nói, lần này Dương nương tử được người khác tương trợ, nếu nàng còn cải trang kỹ càng thì việc truy tìm ắt sẽ càng gian nan.

Rốt cuộc là ai to gan đến mức dám thả người trong lòng gia chủ? Phùng Quý thầm nghĩ, phút chốc liền nhớ đến một người.

Chẳng ai khác ngoài Tam lang quân, em trai ruột của gia chủ, Tống Duật.

Tam lang quân xưa nay đối nhân xử thế hiền hòa, rất trọng tình nghĩa, mà a huynh của Dương nương tử, Dương Duyên, từng vì cứu ngài mà mất mạng, trước lúc lâm chung lại đích thân nhờ cậy, gửi gắm Dương nương tử cho ngài, hẳn là ngài vẫn luôn thấy mắc nợ với Dương nương tử.

Nếu như tình ý của Dương nương tử đối với gia chủ bấy lâu chỉ là giả vờ, trong thâm tâm vẫn luôn tìm cách rời xa gia chủ, chiếu theo tính tình của Tam lang quân, nếu ngài biết được ý định thật của nàng thì việc ra tay giúp nàng trốn thoát cũng là điều hợp tình hợp lý.

Tam lang quân tinh tế nhạy bén, đã có lòng thả nàng đi thì hẳn đã chuẩn bị chu toàn, e rằng ngay cả giấy thông hành và hộ tịch cũng đều đã sắp đặt sẵn cho cả hai người họ…

Nghĩ đến đây, Phùng Quý không khỏi tự trách, không kìm được hút một ngụm khí lạnh, tâm tình như chìm xuống đáy cốc, thầm trách bản thân đã không cảnh giác với Tam lang quân nhiều hơn.

Gia chủ còn đang ở tiền tuyến đánh trận, mà hắn ngay cả nữ lang được gia chủ trân trọng yêu thương nhất cũng không thể trông giữ nổi, khiến nàng lại một lần nữa không để lại dấu vết, phản bội gia chủ rời đi, thực có lỗi với sự phó thác của gia chủ.

Phùng Quý thậm chí không dám tưởng tượng cảnh gia chủ sau khi thắng trận, thúc ngựa không kể ngày đêm trở về Thái Nguyên chỉ để nhanh chóng gặp lại Dương nương tử, thế mà điều đón chờ ngài chỉ là căn phòng trống rỗng quạnh hiu thì ngài sẽ đau lòng và giận dữ đến nhường nào.

Lần này, gia chủ sẽ giết người thật mất.

Trận chiến lần này, gia chủ nắm chắc phần thắng, từ đó thuận lợi đăng cơ, xưng đế tại Lạc Dương, đạt ngôi chí tôn, làm chủ thiên hạ. Uy nghi của ngài sao có thể dung thứ cho một nữ nhân nhỏ nhoi dám chà đạp?

Dù trung thành với Tống Hành, nhưng trước một nữ lang luôn đối xử ôn hòa và chân thành với mọi người, hắn cũng có vài phần cảm tình lẫn không đành lòng.

Đến tận hôm nay, trước sự kiên cường của Dương nương tử, hắn thực lòng có chút khâm phục nàng.

Bây giờ việc quan trọng nhất là phải tìm hiểu xem nàng đi về phương nào rồi nhanh chóng truy tìm nàng về. Nghĩa đến đây, Phùng Quý lập tức bước nhanh ra ngoài, đi tìm Tống Duật.

Hôm nay, Tống Duật uống vài chén rượu, tắm rửa xong liền sang phòng của Tổ Giang Lan. Thấy nàng đang ôm bé Tống Lân bụ bẫm ru ngủ, vì sợ nàng mệt nên nhanh chân tiến lên đón lấy Tống Lân, vỗ nhẹ vào má bé.

Tống Lân lim dim sắp ngủ, bị vỗ nhẹ nên tỉnh hẳn, lập tức khóc òa. Tổ Giang Lan hốt hoảng ôm bé lại vào lòng, liếc mắt trách hắn: “Tam lang này, tật vụng về của chàng cũng nên sửa ngay đi. Nếu cứ thế này, chẳng phải là chỉ giúp thiếp thêm phiền thôi sao?”

Nói xong lại hướng ánh nhìn trìu mến về khuôn mặt mũm mĩm, trắng hồng của Tống Lân, vỗ nhẹ lưng bé, ân cần dỗ dành: “Tề Nô ngoan, phụ thân con cũng không cố ý làm con thức giấc đâu, Tề Nô đừng giận phụ thân nhé?”

Tống Lân mới tám tháng, dĩ nhiên không hiểu những lời của mẫu thân, đôi mắt tròn xoe tò mò nhìn đôi môi mấp máy đỏ mọng của nàng, nhìn một lát không thấy gì thú vị, bé lại khóc nấc lên.

Tiếng khóc của ấu tử làm Tống Duật chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến chuyện của Thi Yến Vi. Hắn hớt hải đi tìm chiếc trống bỏi và con hổ vải mà Tống Lân yêu thích.

Con hổ vải là do Tống Duật tự tay làm trong lúc rảnh rỗi, nhờ tú nương dạy cách may, dù đường chỉ có phần lệch lạc nhưng Tống Lân lại rất thích, thường cầm trong tay chơi đùa.

Một nhà ba người đầm ấm hòa hợp, dùng xong bữa tối thì trời đã nhá nhem, Tống Lân được nhũ nương bồng đi bú sữa, Tống Duật mới có dịp ngồi bên Tổ Giang Lan, ôm nàng ngồi trong lòng, bóp vai đấm chân cho nàng.

Vì mải nghĩ đến chuyện Thi Yến Vi bỏ đi, hắn mất tập trung, nhất thời mạnh tay khiến Tổ Giang Lan rên nhẹ thành tiếng. Tống Duật hoàn hồn, đang định xin lỗi thì bất ngờ nghe tỳ nữ báo tin, Phùng lang quân ở bên ngoài cầu kiến nhưng lại không chịu vào viện.

“Đã là Phùng Quý bên cạnh Nhị lang tìm đến, hẳn là việc quan trọng. Thập Nhất cứ nghỉ ngơi trước, không cần đợi ta.” Nói xong, hắn liền ra ngoài.

Tống Duật vừa thấy vẻ mặt tối tăm khó đoán của Phùng Quý, hắn ngầm hiểu rằng Kiếm Sương hẳn đã hoàn thành sự tình như dự tính.

Phùng Quý dẫn hắn tới sau giả sơn, quỳ sụp xuống trước mặt Tống Duật, nói thẳng: “Dương nương tử đã mất dấu nửa ngày, có phải lang quân đã thả nàng đi không?”

Tống Duật sớm biết không thể giấu được hắn và Nhị huynh, nên cũng không định biện hộ, khom lưng đỡ hắn dậy, thẳng thắn thừa nhận: “Việc này, quả thực là do mỗ dày công sắp xếp. Người thả Dương nương tử đi chính là mỗ, không sai.”

Dù đã bao lần tưởng tượng ra viễn cảnh này nhưng Phùng Quý vẫn không khỏi tròn mắt kinh ngạc khi nghe Tống Duật đáp lại với vẻ nhẹ tênh, cứ như người bị thả chỉ là một con chim nhỏ bình thường ở trong lồng.

“Lang quân rõ ràng biết gia chủ muốn nạp nàng làm nhũ nhân, chuyện này cũng do Dương nương tử tự miệng đồng ý, sao ngài có thể hành sự như vậy được!”

Tống Duật chỉ cười lạnh, trầm giọng hỏi ngược lại: “Thật ư? Nhưng Dương nương tử từng đích thân nói với mỗ rằng, nàng không muốn làm nhũ nhân của Nhị lang. Mỗ không biết các ngươi đã dùng thủ đoạn gì để ép nàng, chỉ biết rằng, nàng là muội muội ruột duy nhất của Dương lang trên đời này, mỗ tuyệt sẽ không để yên. Nhị lang tương lai muốn thành đại nghiệp, sao có thể làm loại chuyện tiểu nhân này! Ngươi nên hiểu, mỗ làm như vậy cũng là vì tốt cho Nhị lang.”

Phùng Quý đối diện với hắn, thấy hắn đưa tay ra nhưng làm như không thấy, vẫn quỳ trên mặt đất, không chịu đứng lên. “Lang quân hành sự quyết liệt như vậy, chẳng lẽ không sợ tổn thương tình cảm huynh đệ với gia chủ hay sao?”

“Tính cách của gia chủ thế nào, ta và ngài đều rõ, nếu sự việc bại lộ, Dương nương tử bị gia chủ tìm lại chỉ sợ sống không bằng chết; nếu ngài chịu dừng lại, kịp thời ngăn lại đường đi của Dương nương tử, sự tình vẫn còn cách cứu vãn.”

Tống Duật thản nhiên liếc hắn một cái, ánh mắt kiên quyết lắc đầu, “Không còn cơ hội nào để xoay chuyển nữa đâu. Giấy thông hành có chừa lại chỗ trống, mỗ cũng không biết Dương nương tử sẽ đi đâu; còn về nhân mã trong thành, cũng sẽ không dấy động chỉ để tìm kiếm một nữ nhân.”

“Nhị lang hiện đang chinh chiến bên ngoài, sao có thể phân tâm vì việc vụn vặt này? Ngươi đã theo Nhị lang bao năm, trong lòng hẳn tự biết quyết định nào là đúng đắn.”

Dứt lời, hắn phất áo bỏ đi, để mặc Phùng Quý tiếp tục quỳ. Dứt lời, không ngoảnh lại mà rời khỏi nơi này, tìm đến Giang Nghiên và những người khác, dặn họ phải lấy đại cục làm trọng, tạm thời không báo tin này cho Tấn vương ở Kì Châu. Lại bảo người đi tìm quản sự trong phủ, lệnh hộ vệ tăng cường phòng bị, nếu không có lệnh của hắn, không ai được phép ra khỏi phủ, cũng không được lén chuyển đồ ra ngoài.

Thúy Trúc cư.

Phùng Quý mang đầy tâm sự bước tới bậc thềm, thấy Lưu mụ từ trong nhà bước ra.

Sắc mặt bà cũng nặng nề, có lẽ vừa báo việc Dương nương tử bỏ trốn cho Thái phu nhân.

Lưu mụ mặt lạnh bước xuống bậc, liếc nhìn hắn một cái, “Chuyện Dương nương tử bỏ trốn, lão thân vừa bẩm báo với Thái phu nhân, Thái phu nhân không bận tâm lắm, dường như không muốn can thiệp vào; hơn nữa, Thái phu nhân nói rằng thân thể mệt mỏi, vừa dặn dò sẽ không tiếp bất kỳ ai.”

Phùng Quý đâu dễ bỏ cuộc, không màng đến lời khuyên can của Lưu mụ, bước lên bậc đá định gõ cửa thì Hoán Trúc từ trong nhà đẩy cửa đi ra, lắc đầu với hắn.

Hoán Trúc dẫn hắn vào góc, khuyên nhủ: “Chuyện Dương nương tử bỏ trốn, Thái phu nhân bên ngoài thì thờ ơ, nhưng trong lòng thì đang giận lắm, người vừa sai Sơ Vũ lấy mộc chùy tới, giờ này sẽ không gặp ai đâu.”

Tâm phúc của Tiết phu nhân ở Thúy Trúc cơ chỉ có ba người là Sơ Vũ, Đống Tuyết và Thụy Thánh. Nay Đống Tuyết chuyển sang viện Phù Thúy nên đã nâng Hoán Trúc lên làm nhất đẳng tỳ nữ, hầu hạ bên cạnh cùng Sơ Vũ.

Được nàng khuyên giải thêm lần nữa, lúc này Phùng Quý mới thôi ý định cầu kiến Tiết phu nhân, cùng nàng hàn huyên thêm một hai câu rồi xoay người rời đi.

Một lúc sau, lại có hạ nhân xách hộp đồ ăn tiến vào.

Tiết phu nhân giờ vẫn đang nóng giận, Hoán Trúc sợ nàng vô tình khơi mào cơn giận của chủ tử, bèn chỉ tay ra cửa nhíu mày lắc nhẹ đầu, ngụ ý tâm trạng của Thái phu nhân không tốt, nàng đừng nên lại gần.

Hoán Trúc giơ tay đón lấy hộp thức ăn rồi nói, “Em lui xuống nghỉ ngơi đi, để ta thay lần này cho.”

Nữ lang nghe vậy liền chắp tay trước ngực thi lễ, gật đầu rón rén lui về.

Hoán Trúc mang hộp thức ăn vào phòng, lấy chén canh an thần, hai tay dâng lên Tiết phu nhân: “Thái phu nhân dùng chút canh an thần nhé.”

Tiết phu nhân dừng động tác gõ mộc chùy, dùng ánh mắt hiệu cho Hoán Trúc đặt chén canh xuống, chậm rãi hỏi: “Ngươi đã khuyên được hắn đi rồi?”

Hoán Trúc gật đầu, “Dạ.”

Tiết phu nhân thở dài thành tiếng, buồn bã nói: “Vừa nghe chuyện ấy, quả thật lão thân giận lắm, chỉ trách Dương nương tử đã ba lần bảy lượt bội bạc Nhị lang. Nhưng nghĩ kỹ lại, tình cảm nam nữ vốn chẳng thể cưỡng cầu bằng quyền thế. Nếu nàng không có tình ý gì với Nhị lang, thì dù Nhị lang có dốc hết tâm sức, thủ đoạn cũng chẳng thể đổi lấy được nửa phần chân tình từ nàng. Thôi thì để nàng tự do, cũng chẳng cần tốn công tìm lại. Người làm đại sự không được câu nệ tiểu tiết, sao phải gò mình vào chuyện nữ nhi tầm thường? Nhị lang nhiều lần vì nàng mà mất đi thể diện, phá vỡ khuôn phép, thật là không nên. Nay nàng tự ý bỏ đi, thiết nghĩ, Nhị lang sau khi trở về biết được chuyện này, ắt sẽ tỉnh ngộ ngay thôi.”

Hoán Trúc chợt nghĩ. Giả như nàng không thích Phùng Quý, liệu có vì hắn là kẻ được gia chủ tín nhiệm, trong phủ lại có chút thể diện mà thuận theo hắn hay không?

Nhưng trên đời chẳng có chuyện giá như.

“Thái phu nhân dạy phải.”

Cùng lúc ấy, ở Kì Châu cách xa vạn dặm.

Trình Diễm nhảy xuống ngựa, cấp tốc bước vào trong trướng.

Tống Hành bỏ cây bút chu sa trong tay xuống, đứng dậy, đi đến trước mặt Trình Diễm, cúi đầu nhìn thành trì trên sa bàn, điềm tĩnh hỏi: “Việc di tản dân cư trong thành đã làm đến đâu rồi?”

Trình Diễm đáp: “Bẩm Tiết soái, gần chín phần đã chuyển tới phía sau thành. Nhà cửa ven đường đã được dọn sạch theo lệnh Tiết soái, ngày mai có thể mở cổng thành nghênh chiến.”

Tống Hành đặt tay phải lên sa bàn, mắt nhìn về vị trí của Trần Thương, rồi nói: “Vệ Tuân và Tiết Phụng đã rời thành theo đường nhỏ vào đêm qua, tính ra giờ này cũng sắp tới Phượng Châu rồi.”

Nghe vậy, Trình Diễm trầm tư trong giây lát, đáp: “Theo tốc độ hành quân của quân Hà Đông, có lẽ chiều mai sẽ đến được Hưng Châu.”

Nói rồi, Tống Hành nhấc một tượng lính làm bằng đất nung, chậm rãi di chuyển đến vị trí của Trần Thương, nhẩm tính: “Mỗi ngày điều thêm khoảng hai trăm binh lính đi theo đường mòn tới Trần Thương, lão tặc Vương Sùng ắt sẽ nghĩ rằng lần này Bùi Trinh xuất binh là để đoạt lại Trần Thương, nhưng kỳ thực là đánh úp Hưng Châu, mở đường công phá Tây Nam.”

Ánh mắt của Trình Diễm di chuyển theo hướng tay của Tống Hành, lập tức hiểu được ý định, liền chuyển sang bàn về các vấn đề khác.

Bàn bạc xong, Tống Hành nhìn vào đồng hồ nước trên án, nhận ra đã quá canh nhất <i>(19h) </i>mộtlúc lâu, liền bảo với Trình Diễm: “Truyền lệnh xuống, tối nay quân doanh tắt đèn nghỉ sớm một canh giờ, binh sĩ tuần tra chia làm ba tốp thay phiên canh gác.”

Trình Diễm lĩnh mệnh, xoay người lui ra ngoài.

Tống Hành lấy khăn nhúng ít nước lau mặt, cởi áo choàng cùng giày vớ, thổi tắt đèn, gối đầu nằm nghỉ.

Hôm nay vốn là ngày đại hôn của Tống Thanh Hòa, song gần đây vì bận rộn việc quân trong thành, nhất thời đã quên mất chuyện nàng sắp phải xuất giá. Trái lại, chiếc áo lót và khăn tay từng dùng của Thi Yến Vi, lại được hắn cất giữ cẩn thận ở doanh trướng, lúc này lấy từ dưới gối ra nâng niu trong lòng bàn tay, ngắm nhìn một hồi, lại không kiềm được mà v**t v* mấy lượt, sau đó mới chịu cất vào trong vạt áo.

Lớp vải mềm mại áp sát ngực, khiến hắn có cảm giác như Thi Yến Vi đang kề cận bên hắn, thân tâm mệt nhoài dần được thả lỏng.

Có lẽ vật thuộc về nàng khiến hắn cảm thấy yên tâm nên chẳng mấy chốc đã chìm vào giấc ngủ, hoàn toàn không hay biết gì về chuyện nữ lang hắn hằng đêm mong nhớ giờ này đã cao chạy xa bay.

Màn đêm buông xuống, ánh trăng nhu hòa trải dài khắp cánh đồng hoang vu vô tận, vạn vật như được dát thêm một lớp sương bàng bạc.

Trên quan đạo ngoài huyện Cổ Giao, cùng tiếng “hú” kéo dài, một chiếc xe ngựa cũ kỹ không mấy nổi bật dừng lại trước một quán trọ lâu đời. Kiếm Sương và Thi Yến Vi lần lượt xách hành lý xuống xe, dắt ngựa cột dưới gốc liễu giữa sân rồi bước vào sảnh chính. Sau khi trả tiền và đăng ký bằng tên giả, hai người gọi một ấm trà hoa và hai bát hoành thánh, sai tiểu nhị đưa tới tận phòng.

Kiếm Sương dùng hỏa chiết đốt sáng cây nến trên giá, cẩn thận đặt tay nải lên đầu giường.

Thi Yến Vi đói cả một ngày, bụng reo òng ọc, ăn hết bát hoành thánh rồi lấy dư đồ từ trong tay nải ra xem xét kỹ lưỡng, nhẩm tính: nếu mỗi ngày đi trăm dặm, sáng mai khởi hành vào lúc tờ mờ sáng thì có thể tới huyện Lâu Phiền trước khi mặt trời lặn.

Đi liên tục trăm dặm mỗi ngày, chưa bàn đến ngựa có chịu nổi không, ngay cả thân mình nàng cũng mà trụ được.

Khi đến Yên Châu chia tay Kiếm Sương, nàng sẽ đổi sang cưỡi ngựa, vừa có thể tăng tốc mà ngựa chỉ chở mỗi mình nàng cũng đỡ mệt, không đến mức đuối sức rồi đổ bệnh.

Thi Yến Vi gỡ bỏ những suy tính trong đầu, cơn buồn ngủ cũng bất giác kéo tới. Nàng xếp lại dư đồ, đặt vào hành lý, rửa mặt qua loa, sau đó cởi áo thổi tắt đèn, dò dẫm nằm lên giường, ôm chặt túi tiền cũng cũng vật quan trọng khác vào ngực, mê man tiến vào mộng đẹp.

Kiếm Sương đặt thanh kiếm bên gối, một tay đặt lên vỏ lạnh lẽo của kiếm. Chỉ khi cảm nhận được hơi lạnh từ thanh kiếm, nàng mới có thể yên tâm đôi chút, đi vào giấc ngủ chập chờn.

Sáng sớm hôm sau, Thi Yến Vi dậy đúng giờ Mão, lúc ấy trời vẫn còn tối, ánh nắng ban mai cũng chưa kịp ló dạng.

Kiếm Sương thu xếp gọn gàng rồi ra thanh toán tiền phòng và lấy xe.

Thi Yến Vi đội mũ có màn che, xuống lầu mua hai cái bánh bao, nhờ người gói bằng giấy vàng, sau khi trả tiền liền ngồi lên xe ngựa, tiếp tục dọc theo quan đạo tiến về huyện Lâu Phiền.

Phùng Quý, Giang Nghiên cùng một số người khác đều bị đội thị vệ mà Tống Duật điều đến giám sát chặt chẽ, không thể dấy lên chút sóng gió nào.

Gia nhân trong phủ đều nhận được lệnh không được bàn tán đến việc này.

Cứ như vậy, chỉ trong một ngày ngắn ngủi, phủ đệ tựa như chưa từng có người nào tên là Dương nương tử. Ai nấy đều trở về công việc của mình, khiến nàng dần rơi vào quên lãng.

Vài ngày sau, đến tiết Trùng Dương, tại thành Kì Châu.

Vương Ngũ nhận được tin mật, biết rằng Bùi Trinh đã chia quân chi viện cho Trần Thương hơn nửa tháng nay, quân số ước chừng không dưới năm nghìn, tất cả đều là tinh binh Phượng Tường, mỗi người có thể địch ba.

Tham quân tâu rằng thành Kì Châu đã bị vây khốn gần một tháng nay, lương thảo đã cạn, nay lại là tiết Trùng Dương, tướng sĩ quân dân trong thành không thể ra ngoài ngắm cảnh, lại thêm chiến sự bất lợi, ắt sẽ sinh lòng chán nản, ngay cả tướng thủ thành cũng không hề ra ngoài khiêu chiến, nếu đêm mai bất ngờ tập kích, ắt có thể làm ít hưởng nhiều, đoạt được thành mà không phải hao tổn quá nhiều sức lực.

Vương Vũ nghe xong, dù rất tán thành nhưng lại không yên lòng về Trần Thương. Vùng đất quý giá này đâu dễ gì chiếm được, làm sao có thể để mất lần nữa.

Ngoài trướng, bóng chiều dần ngả, ánh tà dương qua khung cửa nhỏ chiếu vào, đọng trên gương mặt tròn, bên tóc mai đã hoa râm của Vương Vũ, những nếp nhăn trên trán và giữa lông mày hiện rõ. Vương Sùng nhận ra tâm sự và sự lo lắng của phụ thân, chắp tay nói: “Nếu cha tin tưởng Nhị lang, tối nay Nhị lang có thể dẫn binh công thành, chắc chắn sẽ sớm hạ thành Kì Châu. Nếu lòng cha không yên về Trần Thương, thì có thể dẫn một đội quân trở về phòng bị.”

Vương Vũ nghe vậy, trong lòng tràn đầy cảm giác “đúng là con trai ta,” liền giãn mày, đứng dậy bước đến vỗ vai Vương Sùng, cao giọng: “Nhị lang chiếm Trần Thương chỉ mất vài ngày, cha đương nhiên tin con.”

Nói xong, ông quay sang nhìn tham quân cùng những người khác, giao phó việc hạ thành Kì Châu cho Vương Sùng và tham quân, sau đó kiểm tra binh mã, lập tức trở về Trần Thương đề phòng Bùi Trinh đoạt thành.

Hai ngày sau, tiếng chém giết vang dội khắp ngoài thành Kì Châu.

Vương Sùng dẫn hàng vạn quân Vũ Định công thành, quân Phượng Tường trong thành quyết tử thủ, trên lầu thành lửa cháy ngút trời, quân Phượng Tường tay cầm đao kiếm chém thẳng vào những binh sĩ áo giáp ồ ạt tràn lên từ thang mây.

Thế quân Vũ Định áp đảo, quân Phượng Tường dần rơi vào thế yếu, đến canh ba thì cổng thành đã bị phá.

Thấy cổng thành đã mở, Vương Sùng trong lòng mừng rỡ, giương thương lớn tiếng hô to: “Các tướng sĩ nghe lệnh, theo ta tiến vào thành, chém đầu lập công, ban thưởng một bậc, phong làm phó úy Chiêu Vũ!” Lệnh vừa ban ra, quân tâm phấn chấn, người thì tràn qua cổng, kẻ trèo lên thang mây, chỉ trong chốc lát, thành Kỳ Châu đã đầy rẫy quân Vũ Định.

Mọi thứ dường như tiến triển quá thuận lợi, chỉ thấy nhà cửa, hàng quán trong thành đều đóng cửa kín bưng, đường phố vắng tanh không bóng người, gió thu len lỏi qua ngõ phố, mang theo mùi tanh nồng nặc. Mũi thương của Vương Sùng vẫn còn đọng máu, từng giọt lại từng giọt nhỏ xuống, Vương Sùng chợt nắm chặt thương, cảm giác có điều gì đó không ổn.

Thần kinh căng như dây đàn, đôi mắt diều hâu sắc bén nhìn quanh. Bỗng nghe tiếng vó ngựa vang lên từ xa, một bóng đen khổng lồ nhanh chóng lọt vào tầm mắt. Người ấy vừa từ đầu hẻm phóng ra, thân hình cao lớn vững chãi như núi, vai rộng như che cả bầu trời. Vừa thoáng thấy, Vương Sùng bỗng nhớ ngay đến lời người đương thời từng mô tả về Tống Hành.

Không thể như thế được, chẳng phải phụ thân nói hắn bị trọng thương không thể dậy nổi ư? Vương Sùng rối bời, nhưng tham quân bên cạnh đã kịp phản ứng, gấp gáp hô một chữ “Rút!”

Tống Hành kẹp chặt bụng ngựa, thúc ngựa lao tới, giọng vang như sấm: “Quân Hà Đông theo ngô xông pha giết địch, thề chết bảo hộ Kì Châu!”

Chỉ trong chớp mắt, từ sau những cánh cửa gỗ lao ra, đen nghịt một vùng, tiếng hét vang trời.

Dưới ánh trăng mờ ảo, Tống Hành vung đao liên tiếp, giết sạch vài binh lính Vũ Định, thẳng hướng Vương Sùng mà lao tới.

Vương Sùng từ nhỏ đã tập võ, bao năm theo Vương Vũ chinh chiến Kim Thương, Kinh Nam, Kiềm Trung, toàn thắng nhiều phen, bỏ qua thân phận thứ tử của Vương Vũ thì hắn cũng được xem là một mãnh tướng.

Chỉ trong mấy chục nhịp thở, Tống Hành đã tới trước mặt Vương Sùng. Phó tướng Triệu Khải thấy vậy, ra sức thoát khỏi vòng vây quân Hà Đông, phi thân tới ném một thanh kiếm ngăn cú chém của Tống Hành.

Tống Hành nhíu mày, sát ý càng đậm, dồn lực một lần nữa đâm kiếm thẳng về phía Vương Sùng.

Vương Sùng vội vàng giơ trường thương trong tay lên chặn lưỡi kiếm của hắn.

Tống Hành lực đạo kinh người, thanh kiếm của hắn dài hơn kiếm thường không ít, ngay cả sức nặng cũng vượt xa bảo kiếm bình thường. Trường thương của Vương Vũ dù chắc chắn đến đâu thì vẫn bị trọng kiếm huyền thiết của Tống Hành chém rạn thành vết nứt sâu.

Một tiếng “keng” khác vang lên, chẳng biết từ đâu, Triệu Khải lại vớ được một thanh trường đao khác, chém mạnh vào lưỡi kiếm của Tống Hành.

Lưỡi kiếm nảy nhẹ lên. Tống Hành vận sức nắm chặt kiếm, cơ bắp trên cánh tay càng nổi rõ, chỉ sau hai hơi thở ngắn ngủi, lưỡi kiếm lại bắt đầu ép sát về phía Vương Sùng và Triệu Khải.

Triệu Khải gồng hết sức mình chống đỡ, mồ hôi nhễ nhại, gân xanh nổi lên, hắn hét lớn: “Đại cục làm trọng, lang quân mau đi đi!”

Vương Sùng cắn răng, hạ quyết tâm, vội thu thương quay ngựa về phía cổng thành bỏ chạy.

Giữa đám đông, có người quát lớn, cầm thương đuổi theo Vương Sùng, “Tên chó nhà họ Vương, chạy đâu cho thoát!”

Thấy người đó đuổi theo, Vương Sùng vội ghìm cương quay lại đỡ đòn. Người kia không địch nổi Vương Sùng, suýt thì bị Vương Sùng đả thương. May sao Tống Hành chém gục Triệu Khải đúng lúc, kịp thời chạy tới giải nguy.

Vương Sùng trừng mắt nhìn Tống Hành, phun ra một bãi nước bọt, rồi nghiến răng giận dữ mắng: “Oắt con Tống Hành, hôm nay ngươi dám giết ta, cha ta bao năm tung hoành ở Tây Nam, nhất định không tha cho ngươi!”

Tống Hành vung kiếm mạnh mẽ chém xuống ngực hắn, Vương Sùng kịp phản ứng, đưa cán thương lên đỡ, chỉ nghe một tiếng “choang”, cán thương bị lưỡi kiếm chém gãy làm đôi.

Thấy hắn đang giết đỏ cả mắt, lòng Vương Sùng hoảng loạn, thúc ngựa bỏ chạy.

Phía sau hắn bỗng truyền tới ngữ điệu đầy khinh miệt của Tống Hành, “Giết ngươi thì đã sao? Về phần cha ngươi, mỗ cũng sẽ tiễn hắn xuống hoàng tuyền!”

Vương Sùng nghe xong hồn xiêu phách lạc, một lòng chỉ muốn chạy thoát thân, giục ngựa chạy thục mạng.

Tống Hành ghì chặt dây cương, một tay cầm kiếm đuổi theo, con ngựa của hắn lao đi tựa mũi tên rời cung, ngang nhiên chém giết đám quân Vũ Định yểm hộ cho Vương Sùng, một đường giết thẳng ra ngoài, đuổi đến ngoài thành, chặn đường thoát của Vương Sùng.

Đêm nay trăng sáng vô ngần, ánh nguyệt quang như dải lụa mềm phủ lên đất trời, tinh hà lấp lánh ôm lấy bóng trăng huyền ảo. Cảnh sắc yên bình và đẹp đẽ, cực kỳ tương phản với khung cảnh tàn khốc máu chảy thành sông trong thành Kì Châu.

Vương Sùng từng nếm trải thủ đoạn của Tống Hành, giờ chỉ còn một đoạn tàn thương trong tay, lòng hắn ngập tràn tuyệt vọng. Thay vì để Tống Hành g**t ch*t, chi bằng tự kết liễu còn hơn. Nghĩ thế, hắn giơ trường thương lên định tự vẫn, nào ngờ Tống Hành nghiêng kiếm lên chặn lại.

“Lũ chuột nhắt các ngươi ở Trần Thương tàn sát quân dân Phượng Tường, tội ác không thể dung thứ. Hôm nay mỗ sẽ đích thân lấy mạng ngươi, để an ủi linh hồn họ nơi chín suối!” Tống Hành dứt lời, lưỡi kiếm theo đó giáng xuống, chớp mắt đã đâm thẳng vào tim Vương Sùng. Vương Sùng dù đã ôm tâm thế chịu chết, nhưng theo bản năng vẫn giơ thương ra đỡ.

Tống Hành chỉ dùng chưa đến bảy phần lực, vậy mà cũng đủ khiến mẩu thương gãy văng ra khỏi tay Vương Sùng, trong ánh mắt bàng hoàng tột cùng của Vương Sùng, kết thúc sinh mạng hắn.

Máu nóng từ vết thương tuôn trào, nhuộm đỏ lưỡi kiếm của Tống Hành, không biết là lần thứ bao nhiêu.

Sắc mặt của Vương Sùng vặn vẹo đau đớn, còn Tống Hành thì vẻ mặt lạnh tanh, rút kiếm, để mặc thi thể hắn rơi khỏi lưng ngựa.

Ánh mắt của Tống Hành thoáng qua như đang ngó một con kiến hôi, quay đầu lại, hắn ba lần hô vang rằng Vương Sùng đã bị hắn g**t ch*t, quân Hà Đông tiến lên càng lúc càng đông, truy đuổi quan địch ra ngoài thành.

Chẳng bao lâu, một binh sĩ mắt tinh nhận ra Vương Sùng trên đất vẫn chưa tắt thở, bèn chặt đầu hắn, cắm lên đầu thương, phấn khích reo vang: “Tiết soái đã giết chủ soái quân địch, Tiết soái đã giết chủ soái quân địch!”

Quân Vũ Định tận mắt nhìn thấy thủ cấp Vương Sùng, nhuệ khí rã rời, bỏ chạy như ong vỡ tổ.

Quân Hà Đông dưới sự chỉ huy của Trần Thắng theo đà truy kích, thế như chẻ tre phá tan đội hình phía sau của quân Vũ Định. Quân Vũ Định mất chủ soái, chủ tướng lại lần lượt bỏ mạng dưới kiếm Tống Hành. Quân Vũ Định đại bại, chỉ mới qua canh tư, kẻ chết thì chết, kẻ hàng thì hàng.

Tống Hành lệnh kiểm kê lương thực còn lại trong kho của Vũ Định quân, chia đều cho quân dân trong thành.

Gạo chất trong kho hạt nào hạt nấy chắc mẩy tròn trịa, đủ để thấy đất Thục phì nhiêu, sản vật phong phú đến nhường nào.

Tống Hành bốc một nắm gạo trong tay, trong đầu hiện lên những câu từng đọc thuở nhỏ: “Ích Châu hiểm trở, đồng bằng ngàn dặm, điều kiện tự nhiên trù phú.” muốn dựng nghiệp lớn thống nhất thiên hạ, tuyệt không thể thiếu lương thảo dồi dào. Chỉ cần chiếm lấy Ích Châu, nguồn cung ứng sẽ không bao giờ đứt đoạn.

Giờ đây, nguy cơ tại Kì Châu đã được giải trừ, ưu tiên trước mắt là nghỉ ngơi dưỡng sức. Tống Hành không muốn tàn sát tù binh, chỉ lệnh thu hồi binh khí, cởi bỏ giáp trụ, lưu lại nghìn quân Hà Đông quản thúc, lại sai đám tù binh xây dựng tường thành, sửa sang nhà cửa, dọn dẹp lòng sông, khai hoang trồng trọt.

Trận chiến này khiến quân Phượng Tường càng thêm kính ngưỡng Tống Hành.

Sau khi thăm hỏi, an ủi các tướng sĩ bị thương, Tống Hành dùng một chiếc khăn thô nhúng nước lau qua mặt, vén chăn chợp mắt một chút. Bên ngoài trời đã tảng sáng.

Chẳng mấy chốc đã đến trung tuần tháng Chín, Tiết độ sứ Hồ Nam tự lập tại Đàm Châu, quốc hiệu Nam Sở.

Vài ngày sau, Tống Hành công phá Phượng Châu, nghỉ ngơi tại chỗ hai ngày rồi dẫn quân tiến dần về phía Tây Nam, thẳng đến Hưng Châu.

Thu tàn đông đến, đất Bắc mỗi ngày một lạnh hơn.

Thi Yến Vi đưa tờ thông hành cho cho thành môn lang xem xét, thuận lợi vào được thành Diên Châu.

Kiếm Sương đánh xe ngựa tìm đến một khách đ**m bình thường, hỏi Thi Yến Vi có muốn ra chợ mua thêm y phục và ít lương khô không. Thi Yến Vi cũng chưa vội mua sắm vì trong lòng còn việc hệ trọng khác. Chừng nào chưa có câu trả lời thỏa đáng, nàng sẽ không thể an tâm.

Hai người đem đồ đạc cất vào phòng khách, xuống lầu gọi tiểu nhị đến chọn một ấm trà cùng hai món xào, một mặn một chay.

Thi Yến Vi vén góc rèm, dùng xong cơm trưa, nhỏ nhẹ nói: “Ta muốn ghé qua một y quán gần đây.”

Kiếm Sương chỉ nghĩ là nàng mệt mỏi vì bôn ba đường xa, lại thêm ra khỏi Hà Đông chưa quen thổ nhưỡng nên mới sinh bệnh, bèn quan tâm hỏi: “Nương tử có chỗ nào không khỏe sao?”

Thi Yến Vi lắc đầu, “Chỉ là bệnh cũ đã nhiều năm, nay đã vào thành thì tiện thể đến y quán xem thế nào, nếu không sao thì cũng đỡ lo hơn.”

Kiếm Sương vô cùng nhanh nhẹn, nghe nàng nói thế liền đi tính tiền cơm, ra ngoài lấy xe ngựa đậu sẵn trước cửa, nhắc nàng cẩn thận dưới chân, chờ nàng lên xe rồi mới đánh xe đi.

Xe ngựa dừng trước một y quán gia truyền, Thi Yến Vi đội mũ sa xuống xe, tự mình đi vào, trong khi Kiếm Sương kiên nhẫn chờ bên ngoài.

Thi Yến Vi cũng chẳng vòng vo, yêu cầu y công bắt mạch, xem có phải là hỉ mạch hay không.

Y công đặt một chiếc khăn mỏng lên tay nàng, cẩn thận bắt mạch, một lát sau rời tay khỏi cổ tay nàng, cau mày nói: “Nữ lang không có thai, hơn nữa thân thể nữ lang dường như không khỏe mạnh như những nữ lang khác, có thể tháo mũ cho lão phu nhìn thử sắc mặt không?”

Vì đã rời khỏi Hà Đông, lại có mũ che mặt, nên hôm nay nàng không thoa phấn vàng. Thi Yến Vi làm theo lời y công, tháo mũ che mặt, lộ ra một gương mặt mộc thanh khiết.

Trải qua bốn bước vọng, văn, vấn, thiết, y công nói: “Quả nhiên đúng như nương tử nói, nương tử thường xuyên dùng canh tị tự suốt bốn tháng, lại chưa điều dưỡng kịp thời, mỗi ngày dẫm trên băng lạnh gần một khắc đồng hồ, kéo dài suốt ba tháng, tinh thần u uất không được giải tỏa, e rằng khí huyết ứ trệ, t* c*ng hàn lãnh, về sau e rằng khó có con.”

“Khó mà có con” chứ không phải triệt để mất đi khả năng sinh nở khiến Thi Yến Vi không khỏi cảm thấy vướng bận. Nếu có thể nghĩ đến phương diện tồi tệ nhất, nàng thà nghe rằng mình vĩnh viễn không thể mang thai.

Cả đời này, nàng đã quyết sẽ không tái giá, huống hồ là ở thời cổ đại với điều kiện y học kém cỏi, nàng càng không muốn vì sinh con mà liều mạng bước vào Quỷ Môn quan.

Những loại thuốc phổ biến như trị phong hàn và bầm tím đều đã được Tống Duật Tống Duật chu đáo chuẩn bị sẵn trong xe ngựa nên không phải mua thêm. Thi Yến Vi trả xong chẩn phí liền không nhắc đến chuyện điều dưỡng thân thể, ngược lại nhẹ bước rời khỏi y quán.

Kiếm Sương thấy nàng ra, tiến lên hỏi thăm tình hình sức khỏe.

Thi Yến Vi nhoẻn cười, ung dung đáp: “Y công đã xem qua, nói rằng không có gì đáng ngại, thậm chí không cần uống thuốc nên đừng lo lắng quá. Chúng ta vất vả lắm mới vào được thành, cũng nên mua thêm một con ngựa nữa.”

Lời vừa dứt, Kiếm Sương cảm thấy có điều gì đó không đúng, nhưng chẳng biết rõ rốt cuộc sai ở đâu. Nàng sóng bước bên cạnh Thi Yến Vi, dè dặt hỏi lại: “Phải chăng nương tử cảm thấy tốc độ của một con ngựa hơi chậm nên mới định dùng một đôi ngựa để kéo xe?”

Thi Yến Vi dừng bước, nhấc nhẹ mành sa để lộ đôi mắt sáng ngời, nhìn thẳng vào Kiếm Sương, giọng điệu nhẹ bẫng: “Kiếm Sương, thế gian này vẫn còn rất nhiều cảnh đẹp mà cô chưa từng thấy, nhiều người, việc, vật mà cô chưa từng biết. Như là hoang mạc ngút ngàn ở Tây Bắc, ruộng sen bát ngát ở Giang Nam, sóng biển lấp lánh ở Hải Châu, hay thảo nguyên bạt ngàn của Tái Bắc. Lẽ nào cô chưa bao giờ nghĩ đến chuyện sống vì chính mình một lần sao?”
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 61: Nàng trốn


Sống vì chính mình một lần… Liệu nàng có tư cách để mơ đến điều đó không?

Từ khi biết nhận thức, nàng đã rơi vào tay những kẻ buôn người. Nếu không nhờ Tam lang quân nhân từ cứu vớt, tìm thầy dạy võ rồi sắp xếp nàng làm võ tỳ bên cạnh tiểu nương tử, thì về sau khi tiểu nương tử xuất giá, nàng cũng không được giao phó nhiệm vụ bảo hộ Dương nương tử một đời bình an.

Sinh mạng này, có thể nói là do Tam Lang Quân ban cho. Nếu không có ngài, bọn buôn người chắc đã bán nàng vào chốn phong trần ô nhục, sống một cuộc đời còn thua cả cái chết. Bằng tính cách cứng cỏi khắc sâu trong xương tủy, nàng thà chết chứ không chịu nổi những năm tháng như địa ngục đó.

Tam lang quân là ân nhân của nàng, lời của ngài, nàng coi như thánh chỉ, tuyệt đối không thể trái nghịch.

Tuy đã động lòng trước những lời hứa hẹn đầy mê hoặc của Thi Yến Vi nhưng Kiếm Sương vẫn không thể từ bỏ điều mà Tống Duật đã sai phái. Sau một hồi giằng xé, nàng đành ép mình lắc đầu, khẽ nói, “Từ khi vào phủ, nô tỳ chưa từng nghĩ đến sống vì bản thân. Nô tỳ chỉ biết cuộc đời này do lang quân ban tặng, nên cả đời sẽ trung thành với lang quân. Huống chi, lang quân đã dặn, từ nay trở đi, nương tử là chủ nhân duy nhất của nô tỳ, là người mà nô tỳ không tiếc thân mình để bảo vệ.”

Giây phút ấy, Thi Yến Vi thoáng thấy bóng dáng của Luyện Nhi qua lời nói của Kiếm Sương. Nàng nhớ đến khoảng thời gian ở biệt viện hành sơn năm nào, khi nàng bảo Luyện Nhi cứ gọi thẳng tên mình, nhưng Luyện Nhi nghe xong lại hoảng sợ, nhấn mạnh rằng nàng là chủ nhân, tuyệt đối không thể xưng hô tùy tiện. Giờ đây, cảnh tượng tương tự lại tái diễn với Kiếm Sương.

Có lẽ đã ở trong thế giới này đủ lâu, khiến tâm thế nàng bình thản nhiều hơn trước.

Trong suy nghĩ của họ, quý tiện tôn ti đã cắm rễ quá sâu, nếu dùng lăng kính của người hiện đại để nhìn nhận thì sẽ là phiến diện và có phần không thỏa đáng.

“Như lời cô vừa nói, hiện giờ ta là chủ nhân duy nhất của cô trên đời này, vậy thì hôm nay, ta sẽ dùng thân phận này để ra lệnh lần cuối cùng: từ giờ phút này trở đi, mạng sống của cô không thuộc về ai cả, chỉ thuộc về chính cô mà thôi. Cô không cần phải sống vì bất kỳ ai nữa, chỉ cần sống vì bản thân mình. Trong hành trang có giấy thông hành để trống và một ít ngân lượng, cô và ta mỗi người giữ một nửa, ngày mai mỗi người một ngả. Mong rằng hai ta đều bình an, đừng vương vấn gì nhau nữa.”

Chỉ sống vì chính mình… Câu nói ấy cứ lởn vởn trong tâm trí Kiếm Sương, khiến nàng bất giác bước chậm lại. Mười tám năm qua, chưa từng có ai nói với nàng những lời này.

Dương nương tử biết rõ việc này chắc chắn sẽ chọc giận Tấn vương, nhưng vẫn kiên quyết bỏ trốn khỏi quý phủ, để lại những ngày tháng gấm vóc lụa là, cơm bưng nước rót. Thứ nàng theo đuổi, có lẽ là điều mà nàng gọi là sống vì chính mình chăng?

Nhưng việc được tận mắt ngắm nhìn núi sông hùng vĩ, sa mạc hoang vu thực sự quan trọng đến thế sao? Quan trọng đến mức sẵn sàng đánh đổi cả sinh mạng…

Kiếm Sương không thể hiểu được, nàng mơ hồ cúi đầu, trong tâm trí hỗn loạn, hồi lâu không đáp lại lời Thi Yến Vi.

Hai người sánh bước vào chợ, Thi Yến Vi nhanh chóng bắt tay vào việc mua sắm. Nàng nhắm trúng một con ngựa cao lớn bốn vó cân đối, trải qua hồi mặc cả mới mua được với giá hai mươi quan bạc. Sau đó, nàng còn mua thêm một số vật dụng hàng ngày khác.

Trở về khách đ**m, bầu trời bỗng chốc âm u, mây đen ùn ùn kéo đến phía trên tòa thành lâu, khiến người ta lầm tưởng tuyết sắp rơi dù tiết Tiểu Tuyết vẫn còn chưa đến.

Thi Yến Vi lấy giấy thông hành từ hành trang ra, đếm lại cẩn thận thì thấy còn mười một tờ trắng, nàng chia ra sáu tờ đưa cho Kiếm Sương, rồi kiểm tra số bạc nén trong túi vải.

“Nương tử thực sự muốn đuổi nô tỳ đi sao?” Kiếm Sương thấy nàng bắt đầu chia đồ, như thể đang chuẩn bị thật, trong lòng không khỏi hoang mang. Từ khi có ký ức đến giờ, nàng chưa từng sống một mình, giờ Thi Yến Vi muốn thả nàng tự do, nàng lại thấy như mình mất đi điểm tựa, không biết phải đi đâu về đâu.

Thi Yến Vi chia đôi số bạc vàng, đặt một phần vào túi Kiếm Sương, đối diện ánh mắt có phần bối rối của nàng, “Giờ ta và cô đều đang lẩn trốn, không biết khi nào sẽ bị tìm thấy. Cô đã giúp ta rất nhiều, ta không muốn làm vướng chân cô thêm nữa. Con đường sắp tới tự cô phải quyết định lấy.”

“Vả lại, Phùng Quý và Giang Nghiên chắc chắn đã biết bên cạnh ta có cô bảo vệ, nếu hai chúng ta tiếp tục đi cùng nhau sẽ càng dễ bị phát hiện thôi. Chi bằng mỗi người một hướng, sẽ an toàn hơn.”

Kiếm Sương nghe lời nàng, trong đôi mắt bình thản bất chợt lóe lên một tia sáng. Nàng nhớ đến bức tranh cổ vẽ lại cảnh non nước Giang Nam. Nơi ấy sương khói mờ ảo, chim chóc rộn ràng, hoa sắc tươi thắm, bướm vờn bên lan can điêu khắc, cảnh sắc đỏ tím đua chen…

Có lẽ, khi rời xa Dương nương tử, nàng sẽ đến vùng cực nam Bắc địa, đợi khi thiên hạ yên ổn, sẽ hướng về Tô Hàng mà đi.

Còn cả Tây Bắc, Tái Bắc, Hải Châu như lời Dương nương tử nói nữa… Chỉ cần nàng đủ ý chí và lòng dũng cảm, mọi cảnh sắc trên thế gian này đều có thể một lần đặt chân đến, tự mình trải nghiệm mà, đúng không?

Nếp nhăn trên trán nàng dần giãn ra, ánh mắt dừng lại trên mấy tờ thông hành, cuối cùng gật đầu đồng ý, khẽ đáp: “Nô tỳ nghe theo nương tử.”

Thi Yến Vi cuối cùng đã thuyết phục được nàng, cũng giãn đôi mày. Nàng lấy nghiên mài mực, chấm mực lên bút rồi viết như bay.

Kiếm Sương không biết nhiều chữ, thời gian này Thi Yến Vi đã dạy nàng một ít, nhưng cũng chỉ như muối bỏ biển, miễn cưỡng nhận ra được vài chữ đơn giản. Vì vậy, Thi Yến Vi dặn đi dặn lại nàng, sau này dù nàng có dừng chân ở nơi đâu cũng nhất định phải tìm một người thầy có phẩm hạnh đoan chính mà học cho hết con chữ, rồi đọc thêm vài quyển sách khác, đừng đọc loại sách như Nữ tắc, Nữ giới, còn nếu có thời gian thì đọc thoại bản để tiêu khiển cũng không sao.

Sáng hôm sau, khi trời vừa hửng sáng, hai người cùng nhau dùng bữa sớm. Thi Yến Vi trao quyển sổ tay đã viết sẵn cho Kiếm Sương, sau đó chia hành lý thành hai bọc bằng nhau, dùng vải buộc lại, đặt hai bên trái phải trên lưng ngựa.

Vào khoảng giờ Thìn nhị khắc, Thi Yến Vi từ biệt Kiếm Sương, lên lưng ngựa, trước tiên đi đến tiệm may mua một bộ trường bào viên lĩnh thay vào, búi tóc đội mũ, giả làm nam nhân.

Vì nàng cao ráo, đế giày độn tương đối cao nên nhìn thoáng qua không khác mấy một vị lang quân gầy gò. Thành môn lang đối chiếu một hồi với mô tả trên giấy thông hành, chỉ hỏi vài câu rồi để nàng đi qua.

Thi Yến Vi cưỡi ngựa rời thành, phóng tầm mắt nhìn quan đạo thênh thang và dãy núi trùng điệp nối dài ở phía trước, gió thổi rì rào bên tai mà nghe cũng như khúc nhạc tiên êm dịu.

Hai ngày trước, khi nàng và Kiếm Sương chưa tới Diên Châu, tin tức Tống Hành hạ được Phượng Châu đã lan đến phương bắc. Nàng đoán rằng chặng đường xuôi theo Tây Nam, chiếm lấy đất Thục cũng chỉ độ một đến hai năm là cùng.

Cho dù Tống Hành kia thông minh tài trí đến đâu, làm sao đoán được rằng nơi nàng sắp tới lại chính là Phượng Tường. Đợi khi hắn bình định đất Thục, nàng sẽ đặt chân đến đô thành Ích Châu.

Ngày hôm sau, Kiếm Sương khởi hành đi về hướng Ngụy Châu.

Giờ Thìn vốn là lúc dùng bữa sớm, trước kia có Thi Yến Vi ở đây, trong viện lúc nào cũng rộn ràng náo nhiệt, nay nàng đã không còn, Lưu mụ thường xuyên mặt ủ mày chau, than ngắn thở dài không dứt.

Luyện Nhi cũng luyến tiếc nàng vô cùng, nhưng nghĩ đến việc rời đi đối với nàng có lẽ mới là điều khiến nàng thực sự vui vẻ, lòng cũng dần nhẹ nhõm, thật tâm chúc phúc cho nàng.

Chỉ mong Dương nương tử đừng hoài thai hài tử của Tấn vương. Luyện Nhi nghĩ vậy, lòng mang tâm sự nặng trĩu, lặng lẽ dùng bữa sớm, sau đó đến bên cửa sổ, nhân lúc không có ai, liền chuyển chậu cúc ấy ra ngoài.

Nếu không lại gần thì không ngửi thấy, nhưng khi nàng bưng chậu hoa ấy lên, mùi thuốc nồng đậm trong đất liền xông thẳng vào mũi.

Ngửi thấy hương vị quen thuộc ấy, nàng bất giác nghĩ đến Dương nương tử. Nào có chuyện Tấn vương tình cờ gặp gỡ và động lòng với nương tử ở Lạc Dương, ngay từ lúc ở Thái Nguyên, Tấn vương đã cậy quyền cưỡng ép, hủy hoại sự thanh bạch của nương tử.

Nương tử đến giờ vẫn không muốn mang hài tử của Tấn Vương, chắc hẳn là nàng không hề có chút tình cảm nào với ngài ấy. Bằng không, sao nàng lại lén lút đổ đi hết những chén thuốc điều dưỡng cơ thể này.

Có lẽ ngay từ cái đêm mà Dương nương tử bất chấp hậu quả cầu xin giúp nàng, nói cho nàng biết: cả hai vốn đều như nhau, không cần phân biệt cao thấp, rằng khi không có ai, chẳng cần gọi nàng là “nương tử” mà chỉ cần gọi thẳng tên nàng là được, thì Luyện Nhi đã xem nương tử là người thân cận rồi.

Nghĩ đến đây, sống mũi của Luyện Nhi chợt cay cay, hốc mắt cũng đỏ lên, nàng cúi đầu, sợ người khác nhìn thấy.

Đúng lúc này, Lưu mụ từ ngoài bước vào, thấy nàng đang động vào chậu cúc hoa với dáng vẻ khả nghi, liền gọi nàng dừng lại.

Lưu mụ nhận ra chậu hoa quen mắt, nhìn xuống dưới cửa sổ, liền nhớ ra đó là một trong hai chậu hoa cúc mà Dương nương tử từng tự mình đem đến đặt ở nơi ấy, giờ chỉ còn một chậu.

Nghĩ đến việc Dương nương tử từ trước đến nay không cho phép ai hầu thuốc, mỗi lần đều là Luyện Nhi đem hộp thức ăn đưa vào.

Suy nghĩ đến đó, sắc mặt Lưu mụ sa sầm, lạnh lùng quát: “Đặt xuống!”

Luyện Nhi chưa từng thấy Lưu mụ xưa nay ôn hòa lại đột nhiên biến sắc như vậy, bị dọa đến mức nhắm mắt há hốc mồm, run rẩy đặt chậu hoa xuống đất.

Lưu mụ bước tới, nhón tay nhặt lấy ít đất đưa lên mũi ngửi thử, lập tức hiểu ra sự tình.

Đó là thuốc điều dưỡng thân thể trợ giúp việc mang thai, nếu có thai rồi uống thuốc này cũng không hại đến thai nhi. Lưu mụ nghi ngờ rằng Thi Yến Vi đã có thai, nhưng nàng chưa ngưng thuốc, chỉ chờ bốn mươi ngày sau khi đại phu có thể chẩn mạch thì sẽ đổi sang bài thuốc an thai.

Nào ngờ, Dương nương tử chỉ uống thuốc bổ trước mặt bà hai ba lần, những lúc khác nàng đều vụng trộm đổ hết thuốc vào chậu hoa.

Lúc ở biệt viện hành sơn, nàng đã uống không ít thuốc tránh thai, mùa hè còn thích mát mẻ, mỗi ngày đều dùng một chậu đá băng, lại không chịu điều dưỡng thân thể. Xem ra khả năng lớn nhất là Dương nương tử bị rối loạn kinh nguyệt chứ không phải có thai.

Tham lạnh, băng.

Lưu mụ tinh ý nhận ra mối liên hệ này, trong lòng liền nảy ra một phỏng đoán táo bạo.

Có lẽ Dương nương tử dùng băng không phải chỉ để giải nhiệt mà còn muốn mượn hơi lạnh truyền vào cơ thể từ lòng bàn chân chăng?

Điều này cũng giải thích vì sao trong phòng nàng, dưới giường La Hán lại luôn có đặt chậu gỗ.

Thật không ngờ, nàng vì tránh thai mà có thể tàn nhẫn đến vậy.

Lưu mụ chỉ cảm thấy máu huyết toàn thân như đông lại, căng giọng chất vấn Luyện Nhi: “Nói mau, Dương nương tử đổ thuốc bổ vào chậu hoa đã bao lâu rồi?!”

Luyện Nhi sợ hãi đến run lẩy bẩy, nước mắt lăn dài trên khóe mắt, nghĩ đến Thi Yến Vi thường ngày đối xử tốt với mình, nàng cắn răng không hé ra nửa lời.

Lưu mụ liếc mắt nhìn Luyện Nhi, trong lòng đã có câu trả lời: từ năm ngoái ở biệt viện hành sơn, người hầu thuốc cho Dương nương tử mỗi ngày chính là ả, vậy có lẽ là từ khi ấy.

Nếu quả thực là vậy, nương tử khó lòng mang thai được, có chăng là do cơ thể nhiễm hàn khí, dẫn đến nguyệt sự bất thường.

Năm sau, tháng tư đầu hạ.

Tống Hành liên tiếp công phá các khu vực Tây Đạo Sơn Nam, cùng với hai vùng Lưỡng Xuyên là Xuyên Đông và Xuyên Tây, phế bỏ chức Tiết độ sứ, giao ba châu trấn ấy cho các thân tín làm tướng giữ thành.

Tin tức truyền đến Lũng Châu, Thi Yến Vi gấp rút điền vào ba chữ lớn “Thành Cẩm Quan” trên giấy thông hành, chỉ chờ khi Tống Hành hạ lệnh thông thương tự do giữa đất Thục và Bắc địa là nàng sẽ khởi hành ngay.

Mười ngày sau, Tiết độ sứ Bùi Quang Nhân của Phượng Tường tự mình mở tiệc khoản đãi Tống Hành tại phủ.

Trận chiến này kéo dài ròng rã bảy tháng trời, quân Phượng Tường hao tổn nguyên khí, quân Hà Đông cũng tổn thất không ít binh lực, nhưng may thay cuối cùng đã chiếm được bảo địa Tam Thục, tiền tuyến có nguồn cung cấp ổn định, tạo tiền đề vững chắc cho việc nhất thống thiên hạ sau này.

Bùi Quang Nhân càng thêm chắc chắn rằng mình đặt cược đúng chỗ, bày biện yến tiệc hết sức linh đình, đích thân ra ngoài thành nghênh đón Tống Hành, trước mặt chúng tướng sĩ kéo ngựa cho hắn.

Bách tính trong thành cũng chen chúc hai bên đường để nghênh đón, mong được nhìn thấy tận mắt dung mạo của Tống Hành. Tiếng hò reo của dân chúng vang lên át cả tiếng vó ngựa rộn rã, ai ai cũng ca tụng Tống Hành và Hà Đông quân.

Tống Hành xuống ngựa, cùng Bùi Quang Nhân nhập tiệc.

Bùi Mậu Khiêm chiếu theo “sở thích” của Tống Hành, mời đến không ít thanh khách dáng vẻ thanh tao, tinh thông âm luật, ăn mặc nhã nhặn vào sân tấu nhạc.

Tống Hành lặng lẽ uống rượu, thậm chí chưa từng ngước mắt nhìn các ca kỹ một lần.

Hắn không còn nhớ rõ đã mơ thấy nàng bao nhiêu lần, cũng không thể đếm được có bao nhiêu đêm ôm kha tử của nàng chìm vào giấc mộng. Ngày đánh hạ được Miên Châu, lòng hắn đã rộn ràng mong ngóng, đó là một cảm giác mà hắn chưa từng trải qua.

Ngay cả khi mẹ hắn còn tại thế, hắn cũng chưa từng có khát khao chia sẻ mạnh mẽ đến vậy. Lần đầu tiên, hắn có người mà hắn nóng lòng muốn gặp, muốn tự mình nói với nàng: Hắn thắng rồi, từ nay nắm trọn càn khôn, thiên hạ đã nằm gọn trong túi.

Bùi Quang Nhân nâng chén rượu chúc mừng Tống Hành, hỏi hắn định ở lại Phượng Tường nghỉ ngơi bao lâu, Tống Hành hơi nghiêng đầu, nhìn về phía Bùi Quang Nhân, đáp rằng sáng sớm mai sẽ lên đường.

Cuộc đối thoại của hai người thu hút sự chú ý của Bùi Mậu Khiêm. Hắn cẩn thận quan sát Tống Hành một hồi, phát hiện Tống Hành từ đầu đến cuối đều không hề nhìn đám thanh khách trong tiệc, bất giác đâm ra hoài nghi: Từ lúc rời khỏi Thái Nguyên, đã qua hơn một năm, chẳng lẽ Tống Hành vẫn chỉ một lòng một dạ với nữ tỳ đã ở cạnh hắn hôm đó?

Nói cho cùng, Bùi Mậu Khiêm từ khi mười tám tuổi đã bước chân vào chốn phong nguyệt, bảy năm qua, mỹ nhân kiều diễm thế nào hắn cũng từng thấy qua, duy chỉ có nữ tử bên cạnh Tống Hành là để lại ấn tượng đặc biệt. Tuy nàng không phải người đẹp nhất, xuất chúng nhất nhưng khí chất tao nhã và dung mạo thoát tục của nàng thật khiến người khác khó mà bỏ qua được.

Bùi Mậu Khiêm lúc này đã mất đi khả năng g*** h*p, chỉ mới nghĩ thoáng qua mà lòng đã nhói đau. Hắn âm thầm nguyền rủa kẻ đã hại mình sẽ không được chết tử tế, mãi mãi đọa đày trong địa ngục A Tỳ.

Tống Hành uống liền mấy chén rượu, bởi từng gặp nạn ở Trường An nên hắn đã phòng bị rất kỹ, chỉ uống đến hơi say rồi đứng dậy rời yến tiệc, không ở lại Bùi phủ mà về nghỉ ngơi tại dịch quán, quân Hà Đông chia làm ba lớp bảo vệ, thay nhau tuần tra canh giữ.

Giờ Mão sáng sớm hôm sau, khi trời vừa hửng sáng, Tống Hành cưỡi ngựa chiến, dẫn theo mấy vạn quân Hà Đông, dưới ánh mắt tiễn biệt của quân dân trong thành, rầm rộ rời khỏi cổng thành, quay về Thái Nguyên.

Hai bên quan đạo, cây xanh che bóng, tán cây rậm rạp, ánh nắng mờ ảo xuyên qua kẽ lá rọi lên bộ áo giáp đồ sộ trên người Tống Hành, ánh vàng chói lọi, thân hình ngất ngưởng như một tòa núi di động, khiến người khác không khỏi sinh lòng ngưỡng mộ xen lẫn kiêng dè.

Dưới lớp giáp nặng nề ấy là những thớ cơ rắn chắc, đường nét uyển chuyển. Trừ những lúc ra trận hay luyện công thì chỉ khi cùng Thi Yến Vi h**n **, thân thể ấy mới căng tràn, gân xanh nổi cuồn cuộn.

Hắn khao khát được giữ chặt nàng trong vòng tay, phi ngựa trên đồng cỏ bát ngát, ngắm nhìn gương mặt nàng đỏ bừng, đôi mắt ngấn lệ.

Thiên hạ nữ nhân vô số, nhưng trong lòng hắn, chỉ có duy nhất nàng. Tất cả những gì hắn tâm niệm, chỉ là được gần nàng thêm một chút mà thôi.

Từ Phượng Tường đến Thái Nguyên cách xa ngàn dặm, mỗi ngày Tống Hành hành quân được sáu canh giờ, hơn mười ngày sau mới về đến Thái Nguyên.

Sáng sớm hôm ấy, quý phủ đã nhận được tin báo, Tiết phu nhân lập tức sai người đi mời cặp phu thê nhà Tống Thanh Âm và Tống Thanh Hòa đến, sau đó đích thân dẫn mọi người trong phủ ăn vận chỉnh tề ra cửa nghênh đón.

Tống Hành vội vã nhảy xuống ngựa, tiến tới bái kiến Tiết phu nhân, không nhìn bất kỳ ai khác, chỉ kiên nhẫn tìm kiếm hình bóng nữ tử đã làm hắn tương tư suốt hơn hai trăm ngày đêm qua.

Thế nhưng hắn tìm mãi vẫn không thấy được người muốn gặp. Một cảm giác bất an ập đến, hắn cau mày hỏi Phùng Quý: “Vì sao Dương nương tử không ra? Hay là nàng không khỏe?”

Phùng Quý bị hắn nhìn chằm chặp, hai chân như nhũn cả ra, bất giác nhớ lại lần đầu tiên Dương nương tử bỏ trốn, khi ấy gia chủ đã giận dữ đến mức nào, ánh mắt hiểm độc ra sao…

Một cơn ớn lạnh xộc thẳng từ sống lưng lên đến đỉnh đầu, thấm vào xương tủy. Hai bàn tay Phùng Quý ướt đẫm mồ hôi, gió đầu hạ phả vào người lẽ ra phải ấm nóng, nhưng hắn lại lạnh buốt đến nỗi hai tay run lên cầm cập.

Tiết phu nhân liếc Phùng Quý một cái, thừa biết sự việc này không thể giấu được nữa. Nhưng ngoài cửa có bao người dòm ngó, nếu như Nhị lang mất kiểm soát, nếu như hắn lỡ thất thố trước mặt ba quân thì còn ra thể thống gì nữa.

Nghĩ đến đây, bà nắm chặt chuỗi Phật châu bằng gỗ tử đàn trong tay, hít sâu một hơi để bình tâm lại, ra vẻ điềm tĩnh nói với mọi người: “Nắng gắt thế này, Nhị lang có chuyện gì thì vào phủ rồi nói cũng chưa muộn.”

Đôi mắt phượng của Tống Hành hơi híp lại, quét qua những người đứng dưới mái hiên, không chỉ nữ lang hắn ngày nhớ đêm mong mà ngay cả đám người hầu trong viện của nàng cũng đều không có mặt.

Chắc chắn là đã có chuyện gì đó xảy ra.

Vì lời nhắc nhở của Tiết phu nhân, Tống Hành đành kìm nén cảm giác bất an, cố giữ phong thái bình tĩnh, bàn tay phải bất giác nắm chặt chuôi kiếm, trong lòng dâng lên nỗi sầu lo không thể nói thành lời, căng chặt trong lồng ngực.

Đám tỳ nữ, gia bộc đều khép nép vây quanh Tống Hành cùng Tiết phu nhân, ai nấy đều không dám thở mạnh.

Khi đoàn người đến ngã rẽ, Tiết phu nhân bỗng chậm bước lại, nghiêng đầu nhìn Tống Hành, giọng điệu bình thản: “Nhị lang hành quân vất vả đã nhiều ngày, hẳn cũng đã mệt, hãy về phòng nghỉ ngơi trước đã.”

Trước kia mỗi lần hắn khải hoàn trở về, Tiết phu nhân và Phùng Quý đều vui vẻ ra mặt nhưng hôm nay lại hoàn toàn khác lạ, cử chỉ thần sắc đều kỳ quặc, tuyệt nhiên không đề cập gì đến nữ lang hắn luôn đặt trên đầu quả tim.

Nỗi nghi hoặc và bất an trong lòng càng trỗi dậy mãnh liệt, Tống Hành lờ mờ đoán ra điều gì, nhưng không dám tin, chính xác hơn là không muốn tin, không đành lòng tin.

Chẳng lẽ nàng thực sự ghét bỏ hắn đến vậy, nhọc lòng giành được lòng tin của hắn, ngay khi hắn muốn nghênh đón nàng làm nhũ nhân, lại lần nữa nhẫn tâm phản bội như trêu ngươi hắn vậy?

Từ khi xuất chinh vào năm mười lăm tuổi, Tống Hành từng nhiều lần lấy ít thắng nhiều, chưa từng gặp phải kẻ địch nào khiến hắn thất bại hai lần liên tiếp, vậy mà nay lại thua hết lần này đến lần khác trong tay một nữ lang nhỏ nhoi.

Hai tay hắn nắm chặt thành quyền, đốt ngón tay phát ra âm thanh nặng nề, trán hắn nổi đầy gân xanh, mắt phượng chứa đầy phẫn nộ.

Trời biết hắn đã cố nhịn không gầm lên trước mặt Tiết phu nhân, cánh tay tráng kiện vì nén giận mà gần như run rẩy. Hắn như nghiến răng, gằn từng chữ một: “Đa tạ a bà đã quan tâm.”

Nói xong, hắn không chờ Tiết phu nhân đi trước mà lập tức quay người, lao đi như tên bắn.

Phùng Quý vội vã chạy theo, lặng lẽ nối gót phía sau cho đến khi đặt chân lên thềm đá trước cửa Thối Hàn cư. Đột nhiên, hắn nghe Tống Hành giận dữ quát lớn, gọi hắn lại gần.

Tống Hành đứng sững trước cửa viện, nhìn Phùng Quý đang thở hồng hộc, một lần nữa chạm tay vào chuôi kiếm lạnh lẽo.

“Nói, Dương Sở Âm rốt cuộc đã đi đâu?”

Lần đầu tiên, Phùng Quý nghe thấy Tống Hành gọi thẳng tục danh của Dương nương tử, đôi chân hắn như bị đổ chì, đóng đinh tại chỗ, cổ họng như bị dính hồ, không thốt nổi một chữ.

Nhìn hắn khúm núm, im lặng cúi gằm, Tống Hành không thể tự dối lòng thêm nữa. Cơn thịnh nộ lên đến đỉnh điểm, ánh mắt sắc bén như dao xoáy vào Phùng Quý, nghiến giọng gào lên: “Đồ khốn, còn dám giấu ta? Ngươi có đủ mạng để ta giết không đây?”

Cảnh tượng mặt lạnh quát tháo trong phủ thế này, lần trước là khi xử lý tên tiểu tư vô lại không biết liêm sỉ bên cạnh phụ thân của tiểu nương tử cách đây năm năm, và sau đó là lần này.

“Nô tài tuyệt không dám giấu diếm Tấn vương.” Phùng Quý run run, toàn thân hoảng loạn, vội vàng quỳ xuống, đầu gục xuống không dám ngẩng lên nhìn hắn một lần nào nữa, chỉ lắp bắp: “Dương nương tử… đã trốn đi từ ngày tiểu nương tử xuất giá năm ngoái, sau đó bặt vô âm tín…”

Trốn đi, bặt vô âm tín. Sáu chữ ấy cứ văng vẳng bên tai Tống Hành, hận thù như thủy triều đánh mạnh vào lòng hắn, như muốn nuốt chửng hắn, đẩy hắn sa vào vực sâu u ám vô tận.

Nàng đã trốn, nàng lại một lần nữa trốn thoát khỏi hắn!

Dung nhan của nàng vẫn in sâu trong tâm trí hắn, rõ ràng như trước, không cách nào phai nhạt, không cách nào quên được.

“Tống Hành, ngài đã động lòng với ta rồi sao?” Đôi mắt trong veo của nàng nhìn thẳng vào hắn, điềm đạm hỏi hắn.

Tiết Trung thu, trong phòng bếp, nàng tự tay dạy hắn cách làm bánh. Đêm buông xuống, dưới màn lụa màu cánh sen, tay nàng nhẹ nhàng vòng qua cổ hắn, ôm lấy hắn, dịu dàng gọi hắn là “Quỳ Ngưu Nô,” hắn rõ ràng nhẫn nhịn hết mức, nhưng vì tiếng khẩn cầu yếu ớt của nàng mà vẫn chậm lại, chọn cách thỏa hiệp.

“Tống Hành, Quỳ Ngưu Nô, ta đang ở đây.” Đêm chia biệt ấy, nàng nhỏ nhẹ đáp lại hắn, vì những động tác của hắn mà tiếng khóc nho nhỏ vang lên, khi ấy rõ ràng nàng cũng đã hài lòng.

“Tống Hành, ngài không nỡ để ta đi phải không?” Trong khoang xe, nàng khẽ v**t v* gương mặt hắn, nhẹ nhàng hỏi, đôi mắt long lanh của nàng rõ ràng cũng ánh lên mấy phần nhu tình.

Những lời đường mật ấy, những cử chỉ âu yếm ấy, hóa ra chỉ là để dỗ dành hắn, lừa gạt hắn, là màn kịch mà nàng dày công tạo ra nhằm trèo ra khỏi lòng bàn tay hắn một lần nữa.

Lẽ ra hắn nên nhìn sớm thấu bộ mặt thật của nàng, dùng dây xích trói chặt nàng lại, để nàng không thể đi đâu được.

Nàng đối với hắn, chưa từng có lấy một chút chân tình, còn hắn thì động lòng trắc ẩn, vì nàng mà tự ràng buộc mình, vì nàng mà sợ làm nàng đau…

Giờ nghĩ lại, đáng ra hắn phải tàn nhẫn đoạt lấy nàng, để nàng khóc, để nàng đau, để nàng biết sợ, để nàng không bao giờ dám mơ tưởng thoát khỏi hắn.

Trán Tống Hành nổi đầy gân xanh, lửa giận thiêu rụi lý trí gần như sạch sẽ. Hắn xông đến bụi mộc phù dung ở bên gốc tường, chỉ nghe một tiếng “choang” vang lên, thanh kiếm dài được tuốt ra khỏi vỏ, tiếp theo đó lưỡi kiếm sắc bén vung lên, bổ vào thân cây nâu sẫm, để lại những vết chém sâu hoắm, lá xanh rụng xuống ngổn ngang.

Phùng Quý nào đã từng thấy cảnh hắn phát cuồng, mất kiểm soát đến độ này, gáy hắn lạnh buốt, sợ hãi đến mức như muốn nổ tung, chỉ hận không thể lập tức thoát khỏi nơi này.

Mồ hôi lạnh đầm đìa, thấm ướt cả lớp vải áo. Phùng Quý cảm thấy tim mình như treo lơ lửng, phân vân không biết có nên lén lút trốn đi không thì lại nghe Tống Hành gầm lên: “Giỏi, giỏi lắm! Mau bắt hết đám tỳ nữ, bà mụ trong viện lại đây, ta muốn đích thân thẩm vấn từ người một. Nếu nàng muốn trốn, tốt nhất là trốn cho xa, chết ở ngoài đó cũng được. Bằng không, nếu để ta bắt về, nhất định ta sẽ khiến nàng sống không bằng chết!”

Chuyện Dương nương tử bỏ trốn thực chất là do sự sắp đặt của Tam lang quân, chứ chẳng can hệ gì đến người trong Phù Thúy viện. Xưa nay nàng tâm tính nhân hậu, nếu ở đây, hẳn là không muốn thấy các nàng vì mình mà bị chịu liên lụy.

Phùng Quý dù đang kinh hoàng nhưng cũng đâu thể trơ mắt nhìn các nàng phải chịu trách phạt, thậm chí là mất mạng.

Giữa lúc hoảng hốt, hắn chợt nhớ lại lời Tam lang quân đã đích thân nói với mình đêm ấy: Sau khi gia chủ về, chuyện này cứ để ngài một mình gánh chịu, quyết không liên lụy đến người khác.

Phùng Quý không còn cách nào khác, đắn đo một lúc, cuối cùng vẫn chầm chậm bước tới, nhưng thay vì đi về phía Phù Thúy viện, hắn lại tiến đến gần Tống Hành, thân thể co quắp, dùng hết dũng khí để khuyên nhủ: “Gia chủ e là đã giận quá rồi, các nàng sao dám có gan lớn như vậy, còn có thủ đoạn để giúp Dương nương tử tránh khỏi ánh mắt của Giang Nghiên, lặng lẽ ra khỏi phủ, rồi thoát khỏi thành?”

Ngày Trùng Cửu, trốn tránh thị vệ, rời khỏi phủ, rồi ra khỏi thành.

Những manh mối đó nối liền trong tâm trí của Tống Hành, như sợi chỉ dẫn đến chân tướng: thị vệ và người trong viện Phù Thúy bị chuốc mê bằng rượu thù du, Dương Sở Âm giả trang để lừa gạt họ, tìm cách rời phủ, rồi dùng giấy thông hành thoát khỏi thành.

Mê dược, đồ cải trang, và giấy thông hành. Đối với một nữ lang đơn độc như nàng, việc sắp đặt những thứ ấy dưới mắt thị vệ và đám Lưu mụ thực là gian truân, làm sao nàng xoay xở nổi một mình?

Rõ ràng là có kẻ đứng đằng sau hỗ trợ.

Trong phủ, người có khả năng giúp nàng chỉ có thể là Tam lang hoặc a bà mà thôi.

A bà luôn tôn trọng hắn, dù làm gì cũng đều thương lượng trước với hắn, nhất định sẽ không làm chuyện độc đoán này.

Nhưng Tam lang thì ngược lại, vì một người đã khuất mà xem Dương Sở Âm như muội muội, đã thế còn từng vì nàng mà dám cả gan chống đối hắn.

“Có khi nào nàng nói chuyện riêng với Tam lang không?” Tống Hành nén giận, hỏi.

Phùng Quý nghe vậy lắc nhẹ đầu, cau mày nhỏ giọng đáp: “E rằng không có. Chỉ nhớ vào ngày thứ hai sau khi về phủ, Tổ nương tử từng sai người mời Dương nương tử đến phòng của nàng. Theo lời của Quất Bạch, nương tử chỉ ngồi chưa đến một khắc thì Tam lang quân về đến nơi, rồi cũng bước vào, sau đó nói gì thì Quất Bạch không rõ, vì nàng ấy đứng hầu bên hiên, không thể nghe thấy.”

Tam lang, quả nhiên đứa em trai ruột cùng chung chí hướng, chí tình chí nghĩa của hắn.

Tống Hành tức giận, rút kiếm cắm sâu vào đất, cởi bỏ khôi giáp, để lộ bộ trường bào đen tuyền, xoay người, định thân chinh tìm gặp Tống Duật.

May sao Tiết phu nhân tính tình cẩn trọng, đã sớm dự liệu trước nên phái người đến trước Thối Hàn cư canh chừng.

Tỳ nữ tên Hoàng Nhụy thấy Tống Hành khí thế bừng bừng, tức giận rảo bước xuống con đường lát đá bên dưới hòn giả sơn, nàng đang kinh ngạc vì gia chủ tắm rửa quá nhanh thì bên kia, chân hắn thoăn thoắt như cưỡi lên cơn gió, nhoáng cái đã đến bậc đá dưới cùng.

Hoàng Nhụy thu lại suy nghĩ, vội vàng tiến lên nghênh đón, lấy hết can đảm nhẹ giọng nói: “Hồi bẩm gia chủ, Thái phu nhân thỉnh ngài tắm rửa thay y phục xong thì qua đó một chuyến.”

Tống Hành mắt đầy lửa giận, nhìn thẳng về phía trước, dù biết nàng là người thân cận bên cạnh Tiết phu nhân thì vẫn không hề nể nang, lạnh nhạt nói: “Không đi, cút!”
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 62: Thành Cẩm Quan


Gió thổi nhẹ ngang qua, nhưng không hiểu sao lại khiến cho người ta toát mồ hôi lạnh.

Hoàng Nhụy vốn tính thật thà, tuy rằng hiện giờ bị thần sắc đáng sợ của Tống Hành làm cho kinh hãi, nhưng lệnh của chủ tử lại không thể không nghe.

Nàng nắm chặt tay áo, do dự muốn tiến lên nhắc lại một lần nữa rằng Thái phu nhân dặn ngài phải sang đó ngay, thì Phùng Quý bỗng nhìn sang, ra sức nháy mắt, vụng trộm chỉ về phía Tống Hành, rồi lại giơ ba ngón tay, ra hiệu cho nàng nhanh chóng quay lại Thúy Trúc cư để báo tin cho Tiết phu nhân.

Người hầu ở Thúy Trúc cư nào có ai ngu dốt, Hoàng Nhụy lập tức hiểu ý Phùng Quý đang nói về Tam lang quân, không dám chậm trễ, liền quay ngoắt đi tìm Tiết phu nhân báo tin.

Tiết phu nhân vẫn giấu chuyện Tống Hành về Thái Nguyên với Tống Duật, nên sáng ấy Tống Duật vẫn đến quan thự làm việc như thường lệ.

Thế nhưng, thanh thế khi quân Hà Đông khải hoàn lớn biết nhường nào, khó mà ém nhẹm lâu. Quân Hà Đông vừa đi qua cổng thành thì tin tức đã truyền đến quan thự.

Tống Duật vừa nghe, đã vội vã rời quan thự, vừa ra đến cửa thì đã thấy một bóng người từ sau tượng sư tử đá chặn đường hắn, khẩn khoản thưa chuyện: “Hồi bẩm Tam lang quân, Thái phu nhân có lệnh, dặn ngài mấy hôm tới tuyệt đối đừng về phủ, cứ ở lại khách xá trong thành mà nghỉ ngơi, việc ở quan thự cũng tạm gác lại, không cần quản đến nữa.”

Tống Duật nghe xong, mặt không đổi sắc, điềm nhiên hỏi lại: “Tấn vương hồi phủ rồi sao?”

Vừa dứt lời, hắn chợt nhận ra bản thân đang hỏi một câu dư thừa.

A bà đã tự mình sai người đến tìm hắn, không cho hắn về phủ, chắc chắn là Nhị huynh đã biết chuyện Dương nương tử trốn đi rồi nổi giận đùng đùng. Cho dù a bà ra mặt cũng chưa chắc đã có thể dàn xếp ổn thỏa chuyện này chỉ trong chốc lát, do vậy mới tính đến việc để hắn lánh tạm bên ngoài, tránh khỏi đầu sóng ngọn gió.

Nhị huynh từng đánh chết tiểu tư hầu cận bên cạnh thúc phụ, cơn giận lần này e rằng cũng không thua kém lần trước là bao. Nếu hắn co cổ rụt đầu, phó mặc sinh tử cho Lưu mụ và Giang Nghiên tự mình xoay xở thì hắn sẽ thành hạng người nào?

Tống Duật không thèm để ý đến tiểu tư đang im lặng đứng đó, xoay người bước vội về chuồng ngựa, tự mình dắt ngựa ra, bất chấp sự can ngăn của tiểu tư, hắn vung roi, thúc ngựa phi nhanh về hướng Tống phủ.

Nội trạch Tống phủ.

Tống Hành sải bước lớn tới viện của Tống Duật, tìm mãi không thấy, nắm chặt tay định ra khỏi phủ đến quan thự tìm em trai, may sao Tiết phu nhân kịp chặn lại ở cửa nhị môn.

Người cháu mà bà tự hào nhất những năm qua nay lại phát cuồng vì một tiểu nữ lang. Tiết phu nhân rũ mắt thở dài một tiếng, nghiêng đầu ra hiệu cho Sơ Vũ, Sơ Vũ lập tức hiểu ý, dẫn mọi người lui ra ba trượng.

Chỉ vẻn vẹn trong mấy mươi nhịp thở sau đó, đình viện trống trải chỉ mỗi tổ tôn hai người.

Trong con mắt đục ngầu của Tiết phu nhân thoáng qua vẻ thất vọng, bà cao giọng chất vấn hắn: “Nhị lang, cháu tính làm gì đây? Tam lang là em trai ruột cùng một mẹ với cháu, cháu định vì một nữ lang mà mà gây chuyện bất nhã, khiến Tống phủ thành trò cười cho thiên hạ hay sao?”

Bà ngừng lại, đổi giọng nghiêm nghị: “Cháu đừng quên, cháu biểu tượng của vạn hộ phương bắc, là tam trấn Tiết độ sứ, bảo vệ bình an của tất cả bọn họ.”

Trên đời này, người mà Tống Hành thật lòng kính trọng, ngoài song thân đã qua đời của hắn thì chỉ còn mỗi mình Tiết phu nhân mà thôi.

Tuy hiểu rõ không được hành xử l* m*ng trước mặt bà nhưng cơn giận trong lồng ngực như ngọn lửa thiêu đốt lý trí hắn, khiến hắn luôn phải cố gắng hết sức để không nói gì mạo phạm đến Tiết phu nhân.

Tống Hành siết tay thành quyền, gần như nghiến răng mà nói: “A bà, hắn đã thả Dương Sở Âm đi… Nếu hắn coi ta là anh thì nỡ nào lại làm tổn thương ta đến thế!”

Vì một nữ tử họ Dương, hắn đã nghi ngờ người em trai ruột từng theo hắn vào sinh ra tử, không hề suy xét xem bản thân đã sai ở đâu, thật khiến lòng người lạnh giá.

Tiết phu nhân thấy hắn mê muội đến vậy, không nén nổi tiếng thở dài, chống gậy đập mạnh ba lần lên phiến đá dưới chân, cau mày trách mắng: “Nhị lang, cháu thật sự chỉ xem Dương thị là đồ chơi thôi sao? Nếu lão thân biết cháu bị nàng mê hoặc đến mức này, không cần Tam lang nhúng tay, lão thân cũng sẽ tìm cách đưa nàng rời đi, tự tay chặt đứt mối nghiệt duyên ấy.”

Hắn đối với nàng, là thế nào? Tống Hành không ngừng tự hỏi.

Hắn thật chỉ xem nàng là đồ chơi thật sao? Nhưng nếu chỉ là đồ chơi thì sao hắn lại sinh ra nhiều oán hận và căm phẫn như thế này? Rõ ràng khi còn nhỏ, dù Tam lang làm hỏng hay làm mất những món đồ mà hắn yêu thích, hắn cùng lắm chỉ trách mắng vài câu, tuyệt đối sẽ không vì chuyện nhỏ nhặt này mà nảy sinh hiềm khích với Tam lang.

Nhưng nếu bảo hắn thích nàng, yêu nàng, thì lại quá nực cười. Người thành đại nghiệp đâu thể để lòng vướng víu chuyện tình cảm. Yêu sao? Trong lòng hắn, chỉ có chí hướng lớn lao, chẳng nhẽ lại chia sẻ cho một nữ lang nhỏ bé. Hắn không cho phép mình có loại cảm xúc này, càng không cho phép nó trở thành nhược điểm của mình.

Tâm tư rối bời, cơn đau đầu lại ập đến, Tống Hành đau khổ đấm vào trán mình để giảm bớt cảm giác khó có thể chịu được kia.

Tiết phu nhân thấy hắn đã bình tĩnh hơn, cũng yên lòng đôi phần, hơi dãn chân mày, lại khuyên nhủ: “Tam lang vốn là người trọng tình trọng nghĩa, trước kia Dương Duyên vì cứu Tam lang mà bỏ mạng, trước lúc lâm chung còn tự mình gửi gắm Dương thị cho Tam lang chăm sóc, Tam lang vẫn luôn cảm thấy áy náy với huynh trưởng của nàng, dĩ nhiên không thể trơ mắt nhìn nàng bị cháu c**ng b*c. Nói đi cũng phải nói lại, Dương thị một mặt đáp ứng cháu, một mặt lại toan tính bỏ đi, phản trắc khó bỏ, tâm địa khó lường, sao cháu có thể để nàng trở thành người bên gối? Nàng đã bỏ đi rồi, chi bằng cứ để nàng tự do, không cần làm rùm beng lên làm gì. Còn về đám người ở Phù Thúy viện, đã chẳng liên quan gì, Nhị lang cứ coi là tích phúc cho a bà, đừng làm khó họ thêm nữa.”

Nếu đổi sang chuyện khác, có lẽ hắn sẽ nghe theo lời Tiết phu nhân, nhưng riêng chuyện buông tha Dương Sở Âm, thì hắn nhất quyết không thể.

Nàng đã ba lần bảy lượt trêu chọc hắn, dắt hắn xoay vòng trong lòng bàn tay, phạm phải tội nghiệt tày đình, tuyệt đối không thể dung thứ.

Tống Hành mặt mày u ám, tạm thời chôn giấu nỗi hận trong lòng, trở về với giọng điệu đạm mạc như thường: “Nếu a bà đã nói thế, mỗ đương nhiên sẽ khoan dung, tính mệnh người ở viện Phù Thúy mỗ sẽ không động đến nữa.”

Tiết phu nhân nghe xong lời ấy, trái tim vốn đang treo lơ lửng giờ mới dần yên ổn, nhẹ gật đầu, ôn tồn hỏi hắn lần xuất chinh lần này có bị thương hay không.

Bị thương sao, chẳng nhẽ lại không có? Đất Thục dễ thủ khó công, tướng sĩ thủ thành cũng không thiếu những kẻ dũng mãnh. Trên vai và cánh tay hắn lại có thêm vài vết thương mới, trong đó có một vết đao thương nghiêm trọng đến độ kéo dài gần nửa tấm lưng.

Mùa đông vết thương khó lành, lại thêm việc không thể thay thuốc kịp thời, vết thương cứ chảy máu rồi lại đóng vảy, mãi đến khi trời ấm lên mới dần có chuyển biến, để lại một vết sẹo xấu xí.

Khi vết sẹo ấy thành hình, hắn từng tưởng tượng rằng, lúc khải hoàn về, nàng sẽ dịu dàng như lần đầu gọi hắn là “Quỳ Ngưu Nô”, hỏi rằng vết sẹo ấy còn đau không.

Nay ngẫm lại, mọi thứ thật nực cười.

Hắn vì một nữ gian không tim không phổi mà đau đáu trong lòng, ngóng đợi nàng như chó đợi chủ, chỉ mong khi quay về có thể thấy được vẻ mặt hòa nhã, nghe được đôi lời an ủi thốt ra từ nàng.

“Không có gì đáng ngại, a bà yên tâm.” Tống Hành nói xong, định gọi người đưa Tiết phu nhân về, rồi sai Trình Diễm mang ngư phù của hắn đi đi khắp nơi phát lệnh truy nã.

Đang sắp mở miệng thì đã thấy Tống Duật người mướt mồ hôi đi vào cửa viện, ánh mắt hai người chạm nhau, Tống Duật nhanh hơn một bước, chắp tay trước ngực thi lễ với Tiết phu nhân: “Cháu có vài lời muốn nói riêng với Nhị lang, nếu a bà không còn chuyện gì thì có thể về trước được không ạ?”

Thấy Tống Hành đã tỉnh táo trở lại, Tiết phu nhân cũng không nghi ngờ, dặn dò hai người vài câu xong thì chống quải trượng khoan thai rời khỏi viện, gọi đám Sơ Vũ đi theo.

Từ nhỏ Tống Duật đã vô cùng e sợ vị huynh trưởng này, nhưng lần này, hắn tin rằng mình đã làm đúng, nên khi đứng trước mặt Nhị huynh, hắn thể hiện một thái độ bình thản và cương trực hiếm thấy, ung dung nói: “Chuyện Dương nương tử rời phủ là do một mình đệ sắp đặt, nếu Nhị huynh có trách phạt thì cứ nhắm vào đệ, đừng liên lụy đến người khác.”

Tống Hành coi như không nghe thấy, mặt mày vô cảm hỏi thẳng vấn đề mà hắn quan tâm: “Giấy thông hành ghi nơi nào?”

Hắn đoán được có lẽ Tống Duật đã đưa cho nàng một giấy thông hành trắng, nhưng lúc này hắn sốt ruột muốn tìm nàng, dù câu hỏi có chút thừa thãi thì hắn vẫn ôm một tia hy vọng mong manh, buột miệng hỏi.

Tống Duật điềm tĩnh đáp: “Không ghi rõ, đệ cũng không biết nàng đã đi đâu.”

Giữa không trung bỗng nhiên nổi lên trận gió mạnh, cuốn áo bào hai người bay phiêu diêu, tiếng gió lùa vào tai rít lên u u, lẫn cũng âm thanh trầm đục của những thân trúc gầy guộc đang xoắn lấy nhau.

Tống Hành trong gió giơ tay lên, nhưng không đánh vào mặt Tống Duật mà nắm chặt lấy vai hắn, lạnh lùng cười khẩy, môi mỏng khẽ nhếch: “Tam lang, Tống Duật, ngươi đúng là đứa em tốt của ta… Ngươi nghĩ rằng, việc này có thể giúp nàng thoát khỏi bể khổ sao? Để ta cho ngươi biết, ngươi có cách để nàng trốn đi, thì ta cũng có cách tìm nàng về. Đến khi nàng quay về bên ta, nhờ ơn huệ ngươi ban, ta sẽ để nàng hiểu thế nào là sống không được, chết cũng không xong. Bài vị của huynh trưởng nàng vẫn được thờ phụng trong Tam Thanh quan, khi ấy, ta sẽ đem bài vị của hắn về, để hắn tận mắt chứng kiến tiểu muội hắn bị ta thu phục.”

Lời lẽ điên cuồng của hắn khiến Tống Duật ngây người, đôi mắt nhìn hắn như nhìn kẻ điên, hồi lâu không thốt nên lời, chỉ có thể nhìn hắn với ánh mắt kinh ngạc, khó khăn thốt lên mấy chữ: “Nhị huynh, huynh điên rồi…”

Câu nói nhẹ bẫng ấy, căn bản không đủ sức tác động.

Ngay lúc này, Tống Hành hơi cúi đầu xuống, nhưng vẫn cao hơn Tống Duật một cái đầu, hắn thản nhiên phủi bụi trên vai áo em trai, nhìn thẳng vào mắt y, giọng điệu lạnh lẽo: “Người điên không phải là ta, mà là Tam lang ngươi. Nếu ngươi không điên, sao lại ngây thơ đến mức dám cả gan giúp người thiếp chưa qua cửa của ta bỏ trốn! Dương Sở Âm và những vật ngươi từng làm mất hồi nhỏ không giống nhau, ngươi không nên động vào nàng. Nếu không phải nể mặt mẫu thân và a bà, ngươi tưởng ta sẽ bỏ qua cho ngươi dễ thế sao?”

Khoảnh khắc ấy, Tống Duật như bị kéo trở lại ký ức ngày bé, trở lại cảm giác sợ hãi khi bị hắn chi phối.

Khi ấy hắn chỉ mười bốn, mười lăm tuổi, nhưng khí thế đã mạnh mẽ bức người, thân hình cao lớn, nổi trội hơn cả những người đồng trang lứa. Nhũ danh của hắn là Quỳ Ngưu Nô, nhưng từ khi hắn thể hiện rõ không thích cái tên này, không còn ai dám gọi hắn như vậy, ngay cả a bà cũng không ngoại lệ.

Vệ Tuân và Trình Diễm đều sợ hắn, Tống Duật cũng vậy, ngay cả phụ thân cũng nhìn hắn bằng ánh mắt khác, nói hắn thanh xuất ư lam. [1]

[1]

Cuối cùng tay vẫn không thắng được đùi, [2] hắn sao có thể địch nổi Nhị huynh. Tống Duật có phần nhụt chí, rũ mắt không dám nhìn lên, hai tay siết chặt phát run, hắn mấp máy môi hỏi thử: “Dương nương tử liên tiếp mất cha mẹ và huynh trưởng, cuộc đời nàng đã đủ khổ lắm rồi. Nhị huynh đã nương tay với ta thì cớ gì lại không tha cho nàng?”

[2]

“Ngươi là thứ tử của cha nương, là thứ tôn của ông bà, nàng là thứ gì! Có xứng để ta phải dung tha? Người nợ mạng của huynh trưởng nàng là ngươi, không phải ta. Về sau Tam lang nhớ kỹ, đừng nhắc đến chuyện nàng là em gái ân nhân cứu mạng của ngươi ra trước mặt ta, vọng tưởng sẽ khiến ta mềm lòng với nàng.”

Tống Hành nghiến răng, nhấn mạnh từng chữ “thứ gì”, đủ để thấy nỗi căm hận trong lòng hắn sâu đến nhường nào.

Lúc này hắn đã giận đến mất trí, lời lẽ cay nghiệt đến khó nghe. Tống Duật nghe xong, không muối đôi co gì thêm, chỉ mong Dương nương tử có thể an toàn, mai danh ẩn tích giữa biển người vạn dặm.

Ngày tháng qua đi, Nhị huynh ắt hẳn sẽ dần quên nàng.

Tự trấn an mình xong, Tống Duật lặng lẽ rời đi, trở về phòng.

Ngoài miệng Tống Hành nói sẽ bỏ qua, tuy không đụng đòn roi nhưng thủ đoạn giết người không dao thì không thể thiếu. Chỉ trong hai ngày ngắn ngủi, toàn bộ binh quyền và chức vị của Tống Duật đều bị hắn thu hồi, để lại một chức quan nhàn tản, hữu danh vô thực.

Biện Châu.

Thẩm Kính An không phụ sự kỳ vọng của Giang Tiều, liên tiếp hạ được hai trấn Tuyên Hấp và Trấn Hải, thắng trận trở về.

Trên Minh Đường, Giang Tiều luận công ban thưởng, phong Thẩm Kính An làm Vũ An hầu.

Cuối buổi triều, Giang Tiều giữ Thẩm Kính An lại hỏi chuyện, chuẩn y được nghỉ ba ngày.

Thẩm Kính An không thích ồn ào, không muốn mở tiệc chúc mừng, lập tức trở về phủ thay thường phục, cưỡi ngựa đến biệt phủ.

Khi y đến nơi, Lý Lệnh Nghi đã làm xong công khóa, đang ngồi dưới giàn hoa pha trà.

Thẩm Kính An ôm quyền thi lễ, Lý Lệnh Nghi đứng lên đáp lễ, vừa thả bột trà vào nước sôi, vừa hỏi y lần xuất chinh này có thuận lợi không, có bị thương chỗ nào không.

Giọng nói thanh thoát của nữ lang vừa rơi xuống, vết thương cũ trên vai Thẩm Kính An bỗng nhói lên, trái tim không khỏi đập nhanh hơn, bèn giả vờ trấn tĩnh đáp: “Mọi chuyện đều thuận lợi. Chỉ là trên chiến trường đầy đao kiếm không có mắt, tránh sao khỏi chút thương tích ngoài da, nay đã ổn rồi, làm phiền công chúa phải bận tâm.”

Nghe vậy, Lý Lệnh Nghi chỉ khẽ gật đầu, “Không sao là tốt rồi.”

Nói đoạn, nước sôi lại nổi lên, Lý Lệnh Nghi cho thêm nửa gáo nước suối vào, mỉm cười mời: “Đây là Hoàng Nha [3] ở Thọ Châu ta mang về, lang quân ngồi xuống thưởng một chén xem sao.”

[3]

“Được.” Thẩm Kính An không chút do dự, như sợ nàng đổi ý, vội lấy chén trà ra, cẩn thận nâng trong tay đợi trà được hãm xong.

Thấy vậy, Lý Lệnh Nghi không nhịn được cười, trêu chọc y ngốc nghếch, “Lang quân cứ cầm mãi thế này, chẳng may bị phỏng thì làm sao, cứ để chén xuống, ta sẽ rót cho.”

Dù đã ngoài ba mươi, nhưng nghe nàng nói vậy, Thẩm Kính An vẫn thấy tai mình nóng lên, đặt chén trà xuống, an tĩnh chờ đợi.

Chẳng bao lâu, trà đã được chuẩn bị xong, Lý Lệnh Nghi rót hai chén, Thẩm Kính An nâng chén của mình lên, từ tốn nhấp vài ngụm, lại hỏi: “Công chúa định khi nào sẽ trở về Tuyên Châu?”

“Ta ở đây làm phiền đã lâu, dĩ nhiên càng sớm càng tốt.”

Thẩm Kính An muốn nói rằng nàng không hề quấy rầy, muốn nàng lưu lại lâu hơn, nhưng sợ lời nói ra quá phận, đành nuốt xuống, dịu giọng đáp: “Giấy thông hành và xe ngựa cần thêm đôi ba ngày để chuẩn bị, công chúa cứ yên tâm ở lại đây thêm ít ngày nữa.”

Nghe vậy, Lý Lệnh Nghi khẽ mỉm cười, thành tâm cảm tạ: “Vậy phiền lang quân phải bận tâm rồi.”

Nhịp tim càng thêm mãnh liệt, Thẩm Kính An siết chặt chén trà trong tay, khóe môi khẽ cong lên, đáp: “Công chúa đã có ơn với mỗ, sao cần phải khách sáo như vậy. Mùa thu năm ngoái, công chúa đã đi bờ sông Biện ngắm trăng chưa?”

“Dĩ nhiên là có.” Lý Lệnh Nghi nhớ tới đèn hoa do chính tay y làm, liền nói: “Đèn hoa mà lang quân tặng, ta rất thích, cảm ơn ngài.”

Thẩm Kính An vốn kiệm lời, nắm được chủ đề liền tiếp tục: “Công chúa thích là tốt rồi. Nếu có dịp gặp lại, mỗ sẽ làm thêm nhiều loại đèn hoa khác.”

Lý Lệnh Nghi nhẹ gật đầu: “Tuyên Châu và Biện Châu đều là đất của nước Ngụy, sau này nhất định sẽ còn gặp lại.”

Còn có thể gặp lại. Thẩm Kính An không ngừng lặp lại câu nói của nàng trong đầu, một mặt nén chặt niềm vui trong lòng, một mặt vẫn giữ vẻ thong dong, ngỏ lời mời dưới tư cách một người bạn: “Thánh nhân đã chẩn cho mỗ được nghỉ ba ngày, ngày mai mỗ muốn mời công chúa đi dạo trên sông Biện ngắm cảnh, công chúa thấy thế nào?”

Lý Lệnh Nghi vẫn ngầm tán thưởng phẩm hạnh của Thẩm Kính An, xem y là quân tử đoan chính, nên không nghĩ ngợi nhiều mà đồng ý ngay.

Trong lòng bàn tay, mồ hôi dần ướt đẫm, khiến chén trà cũng trở nên trơn trượt, Thẩm Kính An khẽ ho một tiếng, cố giấu niềm vui và nụ cười nơi khóe miệng, đặt chén trà xuống rồi làm như vô tình nói: “Mặt trời lên cao rồi, công chúa đứng dưới nắng lâu sẽ nhức đầu mất, nên vào trong phòng ngồi nghỉ thôi. Giờ Thìn ngày mai, mỗ sẽ phái người tới đón công chúa.”

“Được.” Lý Lệnh Nghi cười dịu dàng, thanh âm nhẹ như làn gió xuân.

Thẩm Kính An không nán lại lâu, sau khi dùng xong trà, y cáo từ rồi rời khỏi biệt viện, cưỡi ngựa hồi phủ.

Vừa xuống ngựa, đã có tiểu tư tiến lên nghênh đón.

Thẩm Kính An giao ngựa cho hắn dắt vào chuồng.

“Gia chủ, mấy hôm trước phía Thái Nguyên đã gửi tin đến.”

Thẩm Kính An vội vã cầm lấy phong thư, nắm chặt trong tay, sải bước nhanh về phòng chính.

Sau khi gỡ dấu niêm phong, y lấy lá thư bên trong mở ra xem.

Không ngờ lại là người đã đón nàng đi là người của Tống phủ.

Hồi tưởng lại những ngày ở Tấn Châu, nàng và Tam lang đều còn nhỏ, chưa đến mười tuổi, nhưng đã học được cách nhìn sắc mặt người khác để hành xử, cẩn trọng mọi bề. Tam lang là nam nhi, vẫn còn đỡ hơn đôi chút, nhưng Nhị nương tính tình trầm mặc, ít khi thổ lộ, dù chịu ấm ức trong phủ cũng chỉ biết giấu kín trong lòng.

Y được phụ thân nhận nuôi, từ khi người qua đời, ở quý phủ cũng thấp cổ bé họng, không giúp được gì cho a tỷ góa bụa và hai đứa con nhỏ về nương nhờ của nàng. Y không có tài văn chương, nhưng biết công phu quyền cước, vậy nên y tòng quân, mong rằng nhờ công trạng mà kiếm được một chức quan, trở thành chỗ dựa cho cho a tỷ, Nhị nương và Tam lang. Nào ngờ, từ lúc ly biệt đó, y chưa từng gặp lại a tỷ lần nào nữa.

Nếu không vì gia nhập Tuyên Võ quân, nhờ chiến công lọt vào mắt Thánh nhân, nắm trong tay chút quyền hành thì có khi y cũng không thể nào lần theo dấu vết của a tỷ sau khi người rời khỏi Tấn Châu, nói chi đến việc dò la tung tích của Nhị nương.

Tống Duật. Thẩm Kính An trước giờ chưa từng điều tra kỹ về con người này, nhưng nay hắn đã có liên hệ với Nhị nương, không thể không phái người dò hỏi một phen.

Nếu Nhị nương còn ở trong phủ của hắn, tất nhiên y sẽ đưa nàng về.

Sáng hôm sau, Thẩm Kính An và Lý Lệnh Nghi cùng ngồi thuyền du ngoạn trên sông Biện; qua một ngày nữa, mọi việc đều đã thu xếp ổn thỏa, Thẩm Kính An đích thân tiễn Lý Lệnh Nghi rời thành.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, thoáng chốc đã đến giữa hạ, tháng năm. Lý Lệnh Nghi ngồi xe ngựa đến Tuyên Châu, tiếp tục việc tu đạo trên núi Kính Đình.

Phía tây nam của thành Cẩm Quan, giữa hai hàng cây xum xuê tươi tốt.

Thi Yến Vi thuê một ngôi nhà cũ ở Hoán Hoa Khê, thuộc phường Bích Kê với giá tám quan tiền, cách tòa Ngâm Thi Lâu mà tài nữ Tiết Đào của triều trước lập ra chỉ khoảng hai khắc đi bộ.

Tiết Đào vốn người Trường An, về sau gia đạo sa sút, nàng theo cha đến tá túc tại thành Cẩm Quan. Dù sau này bất hạnh rơi vào chốn phong trần, nàng vẫn giữ trọn lòng son, không ngừng đạt được những thành tựu trong văn chương, nhờ đó mà được thoát tiện tịch. Thơ của nàng mang phong vị thanh nhã, hàm ý uyển chuyển, nổi danh thiên hạ, là một trong tứ đại tài nữ tiền triều. Do từng nhiều lần làm giáo thư cho các trấn Mạc Phủ, nên nàng còn được biết đến với danh hiệu “nữ giáo thư.” [4]

[4]

Thi Yến Vi nghe ngóng khắp nơi, cuối cùng tìm được mộ phần của Tiết Đào, sau khi cúng bái xong, nàng đi ra chợ để mua giấy Tiết Đào.

Nhân lúc trả tiền, Thi Yến Vi mở lời hỏi: “Xin hỏi nơi này có cần người làm giấy nữa không?”

Nếu có thể học được nghề này, sau này dù phải rời Cẩm Quan thành đến nơi khác, nàng cũng có thêm một lựa chọn làm kế sinh nhai, không đến mức miệng ăn núi lở.

Người kia nghe vậy liền đáp: “Tiểu lang quân muốn tìm việc sao? Giấy Tiết Đào này phải làm vào mùa hoa mộc phù dung, lúc này hoa còn chưa đơm nụ nên cũng chưa làm giấy được. Nếu tiểu lang quân muốn tìm việc thì phía trước có một tiệm vải đang thiếu người, chỉ là tiếc là họ thường chỉ tuyển nữ công thôi.”

Thi Yến Vi sực nhớ đến bức danh họa thời Thịnh Đường, người xe lụa và may vá đều là nữ lang những việc tinh tế thế này, quả là không thích hợp cho lang quân thô kệch. Tiệm vải chỉ nhận nữ công cũng là lẽ thường tình thôi.

Xung quanh nếu toàn là nữ nhân cùng làm việc với nàng thì Thi Yến Vi sẽ thấy yên tâm hơn.

Nghĩ vậy, bèn tiếp: “Mỗ có một tiểu muội đang cần tìm việc, phiền ngài chỉ cụ thể hơn được không.”

Người kia bản tính nhiệt tình, không nghi ngờ gì, liền cẩn thận chỉ đường cho nàng rồi mới nhận mấy đồng tiền nàng đưa, đếm lại, dặn dò nàng giữ kỹ tập giấy, chớ để quên mất.

Thi Yến Vi vừa đi vừa hỏi, chẳng bao lâu đã tìm đến được tiệm vải, nàng chưa vội vào ứng tuyển, mà trở về nhà viết lại những trải nghiệm hôm nay vào cuốn “Du ký Cẩm Quan” do chính nàng biên soạn.

Sáng sớm hôm sau, Thi Yến Vi mặc y phục nữ nhi, dùng hoàng phấn và than chì che đi dung mạo thực, rồi ngồi xe lừa đến tiệm vải đã trông thấy hôm trước.

Trước đây lúc ở Lạc Dương, từng có khoảng thời gian nàng bị Tống Hành nửa dụ dỗ, nửa ép buộc học cắt vải, may y phục với các bà mụ ở phòng châm tuyến nên dù không thể đảm đương những việc nặng nhọc như dệt vải, thì việc cầm kim khâu vá, thêu thùa, nàng vẫn có thể làm được.

Nữ thương của tiệm vải đưa nàng đến phòng may.

Việc may vá trả công theo từng món, thời gian làm việc cũng khá tự do, Thi Yến Vi tạm hài lòng với công việc này, liền hẹn với chưởng quầy năm ngày sau sẽ bắt tay làm việc.

Không vì lý do nào khác, chỉ bởi nàng muốn trong ngày hè này đến ngắm đập Đô Giang và núi Thanh Thành [5] nghìn năm trước. Vẫn nhớ kỳ nghỉ hè năm thứ hai đại học, nàng cùng Trần Nhượng từng đến thăm quan hai địa danh này. Không giống với hai lần đi cùng cha mẹ và bạn cùng phòng ký túc xá, có Trần Nhượng ở bên, tâm trạng khi ấy thật khác biệt.

[5]

Lúc này nàng đi một thân một mình, tâm cảnh e rằng cũng sẽ chẳng giống ba lần trước.

Thi Yến Vi bỗng thấy sống mũi cay xè, bèn lấy nghiên mực ra mài, hạ bút giãi bày nỗi lòng.

Hai ngày sau, Thi Yến Vi đã thăm xong đập Đô Giang, rồi tiếp tục hành trình lên núi Thanh Thành.

Từ chân núi nhìn lên, núi Thanh Thành này không khác biệt là bao so với khung cảnh ở thời không trước khi nàng xuyên đến, nhưng đường lên núi và kiến trúc trên ấy thì hoàn toàn khác biệt.

Trên núi có một đạo quán tên là Thường Đạo quan, khởi xây từ thời Đại Nghiệp nhà Tùy, danh tiếng lẫy lừng, khói hương rất thịnh.

Thi Yến Vi đặt chân lên bậc đá tiến vào, chắp tay cung kính vái lạy trước tượng thần, rồi tiến vào điện xin một quẻ.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 63: Trong giấc mộng


Trong chính điện, Thi Yến Vi học theo các thiện tín [1] khác, tay trái ở ngoài, tay phải ở trong, hành lễ ba vái chín lạy hướng về phía tượng thần, rồi cầm lấy ống thẻ mà lắc, rút ra một thẻ.

[1]<i>[1] thiện tín có nghĩa là niềm tin chí thành vào Phật pháp, hay chỉ chung cho người có niềm tin như vậy.</i>

Tiện tay nhặt lấy một thẻ dài lên, hóa ra là một quẻ đại hung.

Thi Yến Vi biết rằng hy vọng trở về thời hiện đại của mình thật mong manh, nên sớm đã lường trước kết quả này. Nhưng khi hai chữ “hạ hạ” hiện lên trong tầm mắt, nàng vẫn không kìm được nỗi thất vọng.

Chậm rãi đứng dậy, nàng lấy tờ giấy giải thẻ, đặt thêm chút tiền nhang đèn, rồi đến nhờ đạo trưởng giải nghĩa.

Đạo trưởng nhìn qua thẻ văn, rồi hỏi: “Không biết thiện tín cầu gì?”

Việc xuyên qua thời không vốn là chuyện huyền ảo khó tin, Thi Yến Vi nhất thời không biết phải giải thích sao cho rõ ràng. Nàng nhíu mày, đắn đo một lúc, cuối cùng dùng phép ẩn dụ để giãy bày hoàn cảnh của mình: “Một giấc mộng dài, vô tình lạc vào cõi Hoè An; nguyện cầu tỉnh giấc, mong được về nhà.”

Nghe xong, đạo trưởng trầm ngâm một lát rồi dẫn nàng vào tĩnh thất. Ông chăm chú xem tướng mạo và đường chỉ tay của nàng, rồi hỏi thêm một số điều.

Thi Yến Vi lần lượt đáp, cũng nói ra ngày sinh tháng đẻ của mình ở hiện đại.

“Đã vào cõi Hoè An, sao không an tâm mà ở lại. Ngoài tổ kiến, mệnh đã tận, hà tất phải nhớ mãi. Tiên đạo quý ở sinh, vô lượng cứu người. Thiện tín có được thân thể này, đều là nhờ ba người hành thiện tích đức mà cầu xin, sao lại không biết quý trọng?” [2]

[2]<i>[2] Điển cố “Giấc mộng Hoè An” bắt nguồn từ truyện “Nam Kha Thái Thú Truyện” của tác giả Lý Công Tá thời Đường. Câu chuyện kể về một người tên Thuần Vu Phần, một lần say rượu dưới gốc cây hoè đã chìm vào giấc mộng dài. Trong giấc mộng, ông được dẫn đến vương quốc Hoè An, trải qua những vinh quang hiển hách: ông được vua Hoè An trọng dụng, phong làm thái thú Nam Kha, lấy công chúa làm vợ, có con cháu đầy đàn, và trải qua cuộc sống giàu sang phú quý.</i>

<i>Thế nhưng, hạnh phúc chẳng kéo dài lâu. Một ngày nọ, quân địch xâm chiếm vương quốc Hoè An, gia đình và sự nghiệp của Thuần Vu Phần đều tiêu tan. Ông tỉnh dậy và nhận ra rằng tất cả chỉ là một giấc mộng thoáng qua khi ông ngủ dưới gốc cây hoè, và dưới cành hòe phía nam chỉ có một tổ kiến mà thôi.</i>

Ba người trong lời đạo trưởng nói, có phải là chỉ ba mẹ và Trần Nhượng không?

Sinh mệnh của nàng ở hiện đại đã chấm dứt, không còn đường quay về; việc nàng có thể mượn thân xác này tái sinh cũng là nhờ công đức cầu xin của cha mẹ và Trần Nhượng?

Mắt Thi Yến Vi liền đỏ hoe, nàng muốn hỏi thêm vài câu, nhưng đạo trưởng thấy thế chỉ hơi nhắm mắt và lắc đầu, ý bảo nàng đừng nên hỏi thêm nữa. “Tất cả những gì có thể nói, bần đạo đều đã nói, phần còn lại, xin thứ cho bần đạo vô năng vô lực. Thiện tín hãy quay về đi.”

Ngoài cửa sổ nổi lên một trận gió to làm cành lá trong đình đung đưa xào xạc, lá cây đập nhẹ trên song gỗ, sáng tối đan xen, thời gian như hoà quyện vào nhau.

Thi Yến Vi đứng dậy, nhìn về phía đạo trưởng, chắp tay thi lễ. Đạo trưởng cầm phất trần, chỉ thốt lên hai chữ: “Đi đi.”

Cõi lòng trăm ngả rối ren, Thi Yến Vi cố gắng để không bật khóc, im lặng bước ra khỏi tĩnh thất, đem tờ giấy giải thẻ đốt dưới ngọn nến rồi xuống núi.

Suốt quãng đường, nàng vừa đi vừa nghỉ, trong đầu vẫn còn văng vẳng lời nói của đạo trưởng, không dám nghĩ đến cảnh ba mẹ, bạn bè và Trần Nhượng sẽ đau lòng biết bao sau khi nàng qua đời ở kiếp trước.

Lúc đến trời tờ mờ sáng nhưng giờ thì đã gần giữa trưa, mặt trời chói chang nằm trên đỉnh đầu.

Ở đằng xa, bên ngoài căn nhà nhỏ, dưới mái che đặt ba chiếc bàn vuông cũ kỹ, một bà lão gần sáu mươi cầm quạt mo xua tan cái nóng, nghe tiếng nữ lang gọi, muốn ăn hai bát chè thạch, bà liền lững thững đứng dậy, đáp lời xong thì lấy chén trà tráng qua nước sôi, rót đầy hai chén trà lạnh.

Thi Yến Vi bụng đói cồn cào, nghe tiếng ấy, liếc nhìn qua rồi tiến lại, gọi một chén trà lạnh và món bánh ngọt quế hoa, ăn lót dạ trước.

Nữ lang tới trước nàng mới khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, bên cạnh còn có một cô bạn cùng tuổi, cả hai vui vẻ trò chuyện, kể nhau nghe những chuyện thú vị gần đây.

Thi Yến Vi trước nay quen nói tiếng Quan Thoại, giờ nghe được giọng quê hương thân thuộc thì bỗng có cảm giác cận hương tình khiếp. [3] Thế nhưng, nàng vẫn chưa thể nói lại giọng quê ngay, tựa hồ sợ người ta nhận ra chất giọng không thuần của thân thể này.

[3]<i>[3] cận hương tình khiếp: thành ngữ diễn tả cảm giác mâu thuẫn của một người khi trở về nơi chốn cũ: vừa phấn khởi, vừa sợ hãi, vì cảm thấy xa lạ.</i>

Tiếng nói quê hương quanh quẩn bên tai, tâm trạng nàng dần ổn định lại.

Bất giác, nàng nhớ lại một cặp câu đồng nghĩa từng học thời trung học: “An chi nhược tố, tùy ngộ nhi an”. [4]

[4]<i>[4] An chi nhược tố, tùy ngộ nhi an: thành ngữ Trung Quốc, thể hiện lối sống không để tâm trí bị dao động bởi ngoại cảnh, dù gặp điều bất như ý vẫn có thể giữ lòng bình thản, sống trong hoà bình và không để hoàn cảnh chi phối tâm hồn.</i>

Giờ đây, điều nàng thiếu chính là hai loại tâm cảnh này.

Nếu đúng như lời đạo trưởng nói thì nàng đã qua đời ở hiện đại, sinh mệnh này là do ba mẹ và Trần Nhượng dốc lòng cầu khẩn mà có. Làm sao nàng có thể không quý trọng đây? Nàng mang theo tình yêu của ba người mà đặt chân lên mảnh đất cố thổ cách họ cả ngàn năm này, sao nỡ lòng phí hoài mạng sống?

Thi Yến Vi nhắm mắt, nhẩm đi nhẩm lại hai câu thành ngữ đó vài lần, cảm giác chua xót trong lòng dần thuyên giảm.

“Lấy thêm một bát chè thạch tới đây.” Bà lão đứng trước quầy, lớn tiếng gọi.

Thi Yến Vi sực tỉnh, biết bà đi đứng bất tiện, vội vàng bước tới đón lấy bát chè.

Gió trong rừng nhẹ nhàng thoáng qua, mang theo hơi lạnh, xua tan cái nóng hầm hập trên người.

Nàng múc một muỗng thạch cho vào miệng, thì nghe lang quân mặc áo viên lĩnh ở bàn bên cạnh cười nói: “Gió mát thổi tới thật thích quá.”

Nữ lang ngồi cạnh thấy vậy, đưa tay vỗ nhẹ vào cánh tay hắn, cười đáp: “Đồ ngốc.”

Thi Yến Vi nghe hai người trò chuyện, lơ đãng nhớ lại từng kỷ niệm với Trần Nhượng.

Ngày đầu tiên Trần Nhượng cõng nàng là khi hai người đi dạo trong viện bảo tàng suốt hai tiếng đồng hồ. Ra tới quảng trường lớn bên ngoài, Trần Nhượng phát hiện gót chân nàng hơi rộp lên, lập tức bảo nàng đứng trên bậc đá, dưới nắng gắt khăng khăng đòi cõng nàng.

Khi đó, Thi Yến Vi không lay chuyển được anh, thẹn thùng leo lên lưng anh. Trần Nhượng lại cố ý đùa nàng, giả vờ loạng choạng như mất thăng bằng, nói rằng nàng nặng quá.

Những ký ức ấy bỗng chốc hiện về, Thi Yến Vi ngước mắt nhìn đôi vợ chồng trẻ ở bàn bên, môi khẽ nhoẻn cười rồi từ tốn thưởng thức món chè thạch trong bát.

Một lát sau, trên đường mòn giữa rừng có một người bán hàng rong đi tới, thấy nàng đội mũ sa, trong tay không có quạt, liền bước tới, đặt quang gánh xuống, niềm nở hỏi: “Nữ lang có muốn mua quạt không? Rẻ nhưng bền lắm.”

Người kia có nước da đen bóng, dường như vì nắng gió dãi dầu, trên trán lấm tấm mồ hôi, theo má chảy dọc xuống cổ, nhìn qua đã thấy vất vả.

Thi Yến Vi nhã nhặn hỏi giá, người gánh hàng rong nói, loại không thêu năm văn một chiếc, loại thêu là hai mươi văn. Thấy chiếc lược gỗ bên cạnh đẹp mắt lại nhỏ gọn, dễ mang theo, nàng liền hỏi giá thì được báo là năm văn một chiếc.

Thi Yến Vi chọn một chiếc quạt tròn thêu cá chép vàng và chiếc lược nhỏ bằng gỗ chạm hoa, trả người bán rong hai mươi lăm văn, rồi đưa thêm bốn văn cho bã lão ở hàng nước, phe phẩy quạt tròn tiến về một khách đ**m cách đó chừng hai dặm.

Sáng sớm hôm sau, Thi Yến Vi trả tiền phòng, cưỡi ngựa rời khỏi núi Thanh Thành, trở lại Cẩm Quan thành, về đến nhà, nàng ghi chép những trải nghiệm trong ba bốn ngày qua ở Đô Giang Yển và núi Thanh Thành, chỉ riêng việc xin thẻ là được nàng lược qua.

“Kiện Vĩ Yển, [5] cách thành Cẩm Quan một trăm dặm về phía tây, nằm trên sông Mân, do Thái thú quận Thục nước Tần là Lý Băng khởi dựng nhằm tránh thiên tai lũ lụt và hạn hán, được con trai là Nhị lang hỗ trợ…”

[5]<i>[5] Kiện Vĩ Yển (Đập Kiện Vĩ) là tên gọi của Đô Giang Yển vào thời nhà Đường.</i>

Thi Yến Vi viết gần nghìn chữ, đêm đã khuya, nàng đặt bút, lại lật xem bản thảo trước đó, quyết ý sẽ viết một tập riêng cho Tiết Đào, Hoa Nhụy phu nhân và các nữ thương.

Tiếng đánh canh của lính tuần đêm cũng vọng đến từ bên ngoài tường viện. Nàng thổi tắt ngọn nến, gối đầu đi vào giấc ngủ. Sáng tinh mơ liền thức dậy, rửa mặt chải tóc, mặc y phục chỉnh tề xong thì đến quán nhỏ đầu ngõ ăn một bát đậu hũ mặn, sau đó lên đường đến tiệm may.

Cứ thế ban ngày nàng may vá, đêm đến lại viết sách, lâu dần mắt không chịu nổi, nàng đành phải đến y quán, xin đơn thuốc dưỡng gan sáng mắt.

Công việc châm kim luồn chỉ này rất tổn thương thị lực, Thi Yến Vi cũng không muốn làm lâu, chỉ đợi thêm hai ba năm, khi Tống Hành đã quên hẳn mình đi, nàng sẽ mua một ngôi nhà nhỏ trong thành, dùng số tiền còn lại mua cửa tiệm ở vị trí thuận tiện, mở cửa hàng điểm tâm đồ ngọt. Nếu buôn bán không được, thì cùng lắm nàng sẽ cho thuê, vẫn tốt hơn ngồi chờ khánh kiệt.

Chớp mắt đã sang tháng sáu, trời sắp vào tiết nóng nực.

Tống Hành xử lý xong mọi việc ở Thái Nguyên phủ, có ý rời Tống phủ, đến Lạc Dương chuẩn bị cho việc đăng cơ.

Đêm trước khi lên đường, Tiết phu nhân gọi Tống Hành lại, căn dặn vài lời, rồi nhắc đến việc thành hôn lập hậu.

Lần này, Tống Hành lắng nghe lời dặn của bà một cách nghiêm túc, đáp rằng sau khi đăng cơ sẽ tổ chức cung yến, mời những nữ lang mà bà để mắt đến dự tiệc, khi ấy hãy xem xét cũng không muộn.

Suốt quá trình, Tiết phu nhân luôn chú ý quan sát sắc mặt hắn, khi nhắc đến chuyện lập hậu nạp phi, gương mặt hắn không lộ chút né tránh hay miễn cưỡng, dường như đã hoàn toàn buông bỏ nữ nhi họ Dương kia, lúc ấy bà mới nhẹ thở ra, nhắc tên vài nữ lang xuất thân sĩ tộc, tài sắc song toàn.

Tiết phu nhân gẩy chuỗi tràng hạt trong tay, vẻ mặt hiền từ mà nói: “Mai Nhị lang còn phải đến Lạc Dương, hãy trở về nghỉ ngơi sớm đi.”

Tống Hành đáp lời, lặng lẽ rời khỏi Thúy Trúc cư.

Phùng Quý không đoán được tâm trạng hôm nay của ngài đang thế nào, nhưng vì ngài không mở miệng nên hắn cũng không dám nói nhiều, chỉ lặng lẽ theo sau, trong lòng âm thầm cảm thán.

Từ khi Dương nương tử rời đi, gia chủ gần như chẳng cười lấy một lần. Trừ lúc ra quan phủ hay quân doanh, ngài ở phủ càng lúc càng lầm lì ít nói.

Không ai dám nhắc sáu chữ “Phù Thúy viện” và “Dương nương tử” trước mặt ngài, ngay cả Phùng Quý cũng thế.

Vậy nên, khi ngài men theo lối rẽ, đi về hướng Phù Thúy viện một cách vô thức, Phùng Quý cũng không dám hỏi dù chỉ một câu.

Tống Hành đẩy cửa bước vào.

Luyện Nhi ngồi một mình dưới giàn hoa tường vi, ngẩn người ngắm trăng, trong lòng nhớ đến Dương nương tử: không biết cuộc sống bên ngoài của nương tử thế nào rồi, liệu có tìm được chốn dung thân, lại thầm cầu mong nàng luôn bình an, ngàn vạn lần đừng để người mà gia chủ phái đi tìm được.

Trước cổng viễn chợt truyền tới tiếng bước chân nhỏ vụn, Luyện Nhi cả kinh nghiêng đầu nhìn sang thì thấy thân ảnh cao lớn của Tống Hành đập vào tầm mắt. Nàng sợ đến mức há hốc mồm, bàng hoàng đứng lên, vô thức quỳ xuống vái lạy: “Nô tỳ bái kiến gia chủ, gia chủ vạn phúc.”

Thanh âm run rẩy của nữ lang lọt vào tai nhưng Tống Hành không thèm liếc mắt lấy một lần, sải bước tiến lên bậc thềm, bước vào trong phòng.

Phùng Quý nháy mắt ra hiệu, xua tay bảo nàng lui xuống, nơi này một mình hắn có thể lo liệu được.

Luyện Nhi hiểu ý, lập tức quay người đi vào phòng hạ nhân.

Phùng Quý thổi tắt đèn lồng, đặt lên bàn, rút hỏa chiết tử từ trong tay áo ra, đốt lên rồi thắp sáng từng ngọn đèn trong phòng.

Tròn một tháng, cuối cùng ngài vẫn không thể quên được Dương nương tử, một lần nữa đặt chân đến đây.

Phùng Quý khẽ thở dài, rón rén lui ra ngoài, đứng dưới hiên lặng lẽ chờ chủ.

Tống Hành đảo mắt nhìn quanh. Căn phòng này tuy không xa hoa lộng lẫy như căn phòng hắn tự mình sai người chuẩn bị cho nàng ở Lạc Dương, nhưng cũng là thứ mà sĩ tộc bình thường khó lòng với tới được, rốt cuộc nàng có gì bất mãn mà lại lần nữa phản bội hắn rời đi.

Dưới lớp tay áo rộng, Tống Hành nắm chặt thành quyền, mím đôi môi mỏng lại gần trước bàn trang điểm, chiếc lược bằng bạc mạ vàng vẫn còn sót lại mấy sợi tóc của nàng. Hắn nhặt lên, cẩn thận gói lại vào khăn, đặt trong tay áo.

Trong hộp trang điểm bằng gỗ đàn hương, lá bùa hộ thân hắn tự tay xin về cho nàng bị nàng tiện tay đặt chồng lên trâm cài, chẳng hề có ý trân trọng.

Tống Hành cầm lá bùa lên, cúi đầu nhìn hồi lâu, cười khẩy hai tiếng như tự chế giễu, bước đến bên đèn, đốt thành tro bụi.

Thứ vô tâm như nàng, nào xứng đáng với lá bùa mà hắn đã thành tâm cầu nguyện.

Chờ đến khi người mà hắn phái đi tìm được nàng về, hắn nhất định sẽ khiến nàng hối cũng không kịp, sống không được, chết không xong

Mùi giấy cháy bốc lên trong phòng, Phùng Quý khụt khịt mũi, hắt hơi một cái, nhớ đến chỗ giấy Dương nương tử dùng để luyện chữ còn lưu lại trong biệt viện hành sơn.

Vài ngày trước, người ở biệt viện có hỏi phải xử lý số giấy mực ấy thế nào, nhưng vì sợ hãi nên Phùng Quý vẫn chần chừ chưa dám hỏi, nay thấy người chủ động đến phòng của Dương nương tử, thật đúng lúc để hỏi xin ý kiến.

Một lúc lâu sau, Tống Hành bước ra khỏi phòng, y phục dưới thân có vẻ phồng hơn so với lúc tới, Phùng Quý không khỏi nhớ đến ngài từng cầm áo lót của Dương nương tử bước vào phòng tắm, hắn chợt hiểu ra nhưng lại vờ như không thấy gì cả, chuyển sang hỏi nên sắp xếp đống giấy mực của Dương nương tử ở biệt viện thế nào đây.

Giấy mực nàng để lại khi luyện chữ. Tống Hành như nghĩ đến điều gì, bất chợt nhíu mày, siết chặt món kha tử trong tay.

Trong thư phòng ở biệt viện hành sơn, những ngày tháng quấn quýt bên nàng cứ nối đuôi nhau, hiện lên rõ mồn một trong tâm trí hắn.

Đôi bông tai vàng nàng đeo, chiếc trâm gắn tua rủ trong tóc, ánh mắt long lanh, giọng nói thầm thì, tất cả đều đẹp đẽ rõ ràng.

Yến tiệc trên thuyền hoa năm ấy, khi hắn đến tìm nàng, nàng đã viết gì trên tờ Tuyết Lãng kia?

Tống Hành ngưng thần, cố gắng hồi tưởng.

Phải rồi, khi ấy nàng viết: “Hà đương cộng tiễn tây song chúc, khước thoại Ba Sơn dạ vũ thì.”

Ba Sơn.

Tống Hành nhạy bén nắm lấy hai chữ tưởng như bình thường này, cố nén sự bồn chồn trong lòng, đem kha tử áp vào ngực áo, tập trung suy nghĩ.

Nếu người thường ngày nhớ đêm mơ, thì liệu có khi nào nàng cũng sẽ gửi gắm tâm tình nơi ngòi bút?

Tâm trạng Tống Hành bỗng nhiên bừng sáng, gần như không thể nhịn xuống cảm giác vui sướng lẫn kích động trong lòng, hắn bước nhanh hơn, như bay về phía chuồng ngựa, tự tay dắt ngựa ra.

Phùng Quý đi theo phía sau cũng không hiểu đã xảy ra chuyện gì, bị hành động bất thình lình này làm cho ngỡ ngàng.

Chỉ thấy Tống Hành nhảy lên lưng ngựa, giơ roi thúc ngựa phóng như bay về biệt viện hành sơn, Phùng Quý đuổi theo không kịp, bị bỏ lại một đoạn rất xa. Khi hắn đến căn phòng từng là nơi Dương nương tử cư ngụ thì thấy Tống Hành đã ngồi sẵn trên giường La Hán.

Chỉ một lúc sau, đã có hai tiểu tư vóc người cân xứng chuyển thùng bản thảo của Dương nương tử tới.

Phùng Quý nhìn chằm chằm vào chiếc hòm gỗ đỏ hồi lâu, vẫn chưa hiểu rõ ý định của gia chủ, mãi đến khi thấy ngài tiện tay cầm lên một xấp giấy dày lên, lật kỹ từng tờ, lúc này mới mơ hồ nhận ra đôi chút. Có lẽ ngài đang đang tìm kiếm thứ gì đó qua những câu chữ mà Dương nương tử đã viết chăng?

Từng hàng từng hàng chữ đập vào mắt Tống Hành, phần lớn đều là những câu thơ:

“Thừa tướng từ đường hà xứ tầm? Cẩm Quan thành ngoại bách sâm sâm.” [6]

[6]<i>[6] Hai câu trích trong bài: Thục tướng (Thừa tướng nước Thục) của Đỗ Phủ.</i>

Bản dịch nghĩa: Tìm ở nơi nào thấy đền thờ của thừa tướng?/Chính là ở ngoài thành Cẩm Quan, nơi có hàng cây bách um tùm. (Nguồn
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 64: Công chúa Tuyên Thành


Thời gian cứ thế trôi qua, chớp mắt đã sang tháng bảy, hạ tàn thu đến. Qua tiết Xử Thử, thời tiết dần trở nên mát mẻ hơn. Thi Yến Vi nhân một ngày được nghỉ, tìm đến thôn Giang bên suối Hoán Hoa để dạo chơi.

Buổi sáng, vào lúc giờ Thìn một khắc, nàng cưỡi ngựa lên đường. Vì trời còn sớm, đường phố thưa thớt bóng người và ngựa xe. Nàng men theo bờ suối Hoán Hoa, vừa đi vừa hỏi đường, chừng khoảng hai khắc thì đến được thôn Giang.

Phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy trong thôn liễu rũ mơ màng, nước chảy dịu êm. Những bức tường trắng mái ngói xám lạnh nối liền nhau, lối mòn cắt ngang ruộng đồng. Trên đồng, lúa trổ một màu xanh mướt, khi gió thu khẽ lướt qua, sóng lúa dập dềnh phát ra tiếng rì rào, tạo nên khung cảnh nhàn nhã, yên ả.

Thi Yến Vi thong thả dạo bước, trong đầu hình dung ra mạch truyện sẽ viết ngày hôm nay. Chợt nàng nghe tiếng đàn ngân nga từ một lầu dài vọng lại.

Nàng khựng bước, theo tiếng đàn nhìn sang thì thấy một nữ nhân mặc tố y ngồi xếp bằng, ngón tay ngọc ngà lướt trên dây đàn, âm thanh uyển chuyển, da diết như lan tỏa từ đầu ngón tay nàng ta.

Khúc nhạc vừa dứt, Thi Yến Vi tựa như cảm nhận được tâm trạng u sầu của người tấu đàn, bèn cột ngựa vào cây liễu, bước tới hỏi khúc nhạc vừa rồi gọi là gì.

Nữ lang ngẩng đầu nhìn nàng, khẽ mở môi son, đáp rằng đó là khúc “Thục Quốc Huyền” từng được Tiết Đào tấu lên.

Nghe lời kể, Thi Yến Vi cẩn thận ghi nhớ, rồi khéo léo hỏi thêm vài chuyện khác. Hai người tuy chỉ sơ giao nhưng chuyện trò càng lâu càng trở nên thân mật. Chỉ một lúc sau, cả hai bắt đầu nói về những bước ngoặt trong cuộc đời mình.

Nữ lang kia tên là Vương Uẩn Nương bộc bạch câu chuyện đời mình bằng tất cả sự chân thành, trong khi Thi Yến Vi lại không thể nhắc đích danh Tống Hành trước mặt nàng ta. Nàng chỉ nhã nhặn kể lại rằng nàng từng bị một kẻ quyền quý giam cầm, may được quý nhân tương trợ, cuối cùng thoát khỏi tai ương.

Mải trò chuyện, trời đã sang giờ Ngọ. Qua lời kể, Thi Yến Vi hình dung ra thân thế của Vương Uẩn Nương, bất giác nhớ đến tỳ bà cơ dưới ngòi bút của Bạch Cư Dị. Tuy nàng không biết làm thơ, cũng chẳng tài hoa xuất chúng, nhưng nàng vẫn có thể dùng văn ngôn chất phác để viết lại câu chuyện mình nghe, biến con người và sự kiện ấy thành những dòng chữ hữu hình, lưu danh hậu thế.

Thi Yến Vi từ biệt Vương Uẩn Nương, tự mình tháo dây cương buộc ngựa, dắt ra khỏi thôn, trở lại con đường lớn thoáng rộng, rồi mới leo lên lưng ngựa, thúc ngựa về nhà.

Sau khi dùng cơm trưa, nàng hồi tưởng những câu chuyện Vương Uẩn Nương kể, cẩn thận sắp xếp ý tứ rồi cầm bút viết lên giấy. Nửa buổi chiều qua đi, câu chuyện về một nữ nhạc công đất Thục phiêu bạt khắp Trường An, Lạc Dương và thành Cẩm Quan hiện lên sống động dưới ngòi bút nàng.

Trong bài viết, Thi Yến Vi không quên ghi lại tên thật của nàng: Vương Uẩn, cùng với tài năng tuyệt diệu của nàng trong việc diễn tấu khúc “Thục Quốc Huyền”.

Sau khi hoàn thành bản thảo, tâm trí nàng chợt nhớ lại một nữ nhân khác được Vương Uẩn Nương nhắc đến.

Công chúa Tuyên Thành, Lý Lệnh Nghi.

Tính đến nay, đây đã là lần thứ ba Thi Yến Vi nghe người khác kể về nàng.

Dẫu có thân phận cao quý là một công chúa, nhưng đứng giữa thời cuộc rối ren, nàng cũng không thể tự định đoạt nhân duyên cho riêng mình.

Mười bốn năm trước, khi mới mười bảy tuổi, để tránh khỏi vận mệnh bị Thánh nhân chỉ hôn nhằm lung lạc quyền thần, nàng đã quyết liệt chọn con đường xuất gia, làm một đạo cô.

Thánh nhân biết chuyện, long nhan giận dữ, lập tức hạ chỉ buộc nàng hoàn tục. Công chúa Tuyên Thành kháng chỉ bất tuân, thẳng thừng nói: “Quan viên quyền quý khắp triều đình, nhà nào chẳng tam thê tứ thiếp? Cả đời không làm tân nương thì đã sao? Không bằng tự do tự tại, còn hơn bị làm bẩn tai mắt.”

Dứt lời, nàng định lao đầu vào cột để tỏ rõ chí mình.

May mắn thay, một cung nhân nhanh tay ngăn lại, sau đó tâu trình sự việc lên Thánh nhân. Vì đường con cái ít ỏi, mẹ công chúa lại qua đời từ sớm, trong lòng người không đành, rốt cuộc thu hồi ý chỉ, để mặc nàng xuất gia tu hành.

Năm ấy, Vương Uẩn Nương vừa tròn hai mươi tư, là một ca kỹ tại Giáo Phường Tư ở thành Trường An. Một lần nàng nghe các khách nhân bàn luận về chuyện này, cả sảnh đường cười ầm, công kích công chúa Tuyên Thành là nữ lang dị dạng, bởi ai nấy đều cho rằng đàn ông tam thê tứ thiếp vốn là lẽ thường tình, cớ sao nữ nhân dám lắm mồm chỉ trích? Nàng dù là công chúa, nhưng lại không có phẩm hạnh, không biết tam tòng tứ đức, thật làm ô uế hoàng thất.

Vương Uẩn Nương chẳng thể quên gương mặt xấu xí, đầy ác ý của những kẻ ấy. Chính từ ngày đó, nàng thề rằng cả đời sẽ không gả cho ai. Đến năm ba mươi bảy tuổi, rốt cuộc nàng cũng được thoát tịch, mang theo số bạc dành dụm suốt bao năm, một mình đến thôn Giang ở thành Cẩm Quan, dựng một ngôi nhà nhỏ để sinh sống.

Những câu chuyện về Vương Uẩn Nương và Lý Lệnh Nghi khiến Thi Yến Vi cảm thán khôn nguôi. Dẫu lòng nàng nặng trĩu, nhưng cũng thầm cảm thấy may mắn khi bản thân đã thoát khỏi móng vuốt của Tống Hành.

Dẫu trải qua biết bao sóng gió, nhưng cuối cùng, cả ba người họ đều có được cái kết viên mãn của riêng mình.

Thi Yến Vi chợt nhớ đến việc công chúa Tuyên Thành từng góp phần cải tiến kỹ thuật rèn sắt, giúp thợ thủ công chế tạo ra dụng cụ sưởi ấm cho dân gian. Tư tưởng của nàng cũng vô cùng tiến bộ, vượt xa những ràng buộc mà thời đại này áp đặt lên nữ nhân, đủ để nàng trở thành nhân vật đáng ghi thành sách truyện.

Ngoài khung cửa, ánh tà dương dần ngả về tây, ráng chiều phủ trên những tầng mây, phản chiếu ánh sáng đỏ cam lên những chiếc lá ngân hạnh hơi ngả vàng, cảnh sắc yên bình mà đẹp đẽ.

Từ luyện sắt, chế tạo ấm sưởi, đến tu đạo, kháng chỉ, lánh đời. Thi Yến Vi xâu chuỗi mọi chi tiết về công chúa Tuyên Thành. Khi mọi mảnh ghép khớp thành một vòng tròn hoàn chỉnh, trong lòng nàng bỗng dấy lên một suy đoán đầy táo bạo.

Lẽ nào, công chúa cũng giống như nàng, là một người mang linh hồn từ thế giới khác xuyên qua?

Niềm vui sướng bất ngờ tràn ngập tâm trí, khiến Thi Yến Vi khó lòng thoát ra được.

Nếu Lý Lệnh Nghi cũng là người xuyên không, vậy thì, nàng sẽ không còn đơn độc trên thế gian này nữa…

Thi Yến Vi nóng lòng muốn biết thêm về những chuyện liên quan đến công chúa Tuyên Thành. Nếu chẳng phải lệnh giới nghiêm sắp đến, nàng thật sự muốn ra ngoài hỏi han khắp nơi một phen ngay.

Những ngày sau đó, Thi Yến Vi lân la dò hỏi, cuối cùng nghe được về một người từng sống lâu năm ở Trường An nhưng thi cử lận đận, giờ về quê mở trường tư dạy học: Trương Nhị lang.

Ngày hôm sau, nàng xin nghỉ một ngày, đến phường Văn Ông ở phía nam thành để tìm Trương Nhị lang.

Chuyến này quả không phí công. Thi Yến Vi đã nghe được nhiều câu chuyện về cuộc đời của công chúa Tuyên Thành từ lời kể của Trương Nhị lang.

Thì ra, năm xưa sau khi công chúa Tuyên Thành đến tu hành tại Diên Sinh quán ngoài thành Trường An, bệnh tình của Thánh nhân bỗng chuyển biến tốt đẹp, Thánh nhân vốn trọng đạo, liền tin chắc đó là phúc khí mà công chúa mang lại. Từ đó, ngài càng thêm sủng ái công chúa Tuyên Thành, thường xuyên ban thưởng vàng bạc châu báu cho nàng.

Mặc dù xuất thân hoàng thất, song công chúa Tuyên Thành lại không mang thói kiêu kỳ xa xỉ. Nàng thường xuyên phát cháo bên ngoài đạo quán, giải đáp thắc mắc của bá tính, thu nhận các nữ lang không nơi nương tựa, đích thân dạy họ học chữ, tính toán. Đợi khi có được tay nghề, nàng lại phái người đưa họ xuống núi, tự mình kiếm kế sinh nhai.

Thế nhưng, cảnh tượng tốt đẹp ấy chỉ kéo dài vẻn vẹn được ba năm. Sau khi Thánh nhân băng hà, thái tử kế vị, vì công chúa Tuyên Thành không phải là em gái ruột của tân đế, nên nàng dần bị thất sủng. Ngày tháng càng thêm khó khăn, nàng buộc lòng rời kinh, đến ẩn cư tại Kính Đình sơn ở Tuyên Châu, tránh xa thế tục.

Bảy năm sau, Tân Đế qua đời, con trai là Ai Đế kế vị.

Ai Đế tuy yếu mềm nhút nhát, nhưng lại đặc biệt coi trọng tình thân. Vì cảm thương hoàng tộc ngày một thưa thớt, giữa hàng thúc bá cùng huynh đệ tỷ muội, chỉ còn mỗi vị hoàng cô là công chúa Tuyên Thành còn trên đời, nên sau khi lấy lòng và được Giang Tiều ưng thuận, người mới dám hạ chỉ tu sửa đạo quán cho công chúa.

Trương Nhị lang còn kể, trước khi rời khỏi hoàng cung để tu hành, công chúa Tuyên Thành từng viết sách truyền ký, nhưng vì trong sách chứa không ít lời lẽ trái với luân thường, lại chuyên viết về nữ nhân, nên không được người đương thời đón nhận. Dẫu nàng bỏ tiền khắc in thành sách, thì cũng hiếm người chịu mua về đọc.

Về sau, có ngôn quan can gián Thánh nhân trước Minh đường, bóng gió chỉ trích công chúa Tuyên Thành là hiện tượng dị đoan, cho rằng sách của nàng đi ngược với lễ giáo cương thường, phản lại đức hạnh của nữ tính, không thể để tà phong mê hoặc chúng sinh. Thánh nhân nổi giận, nghe theo lời ngôn quan, hạ chỉ đốt sách của công chúa, dân gian cũng bị cấm tái bản.

Trương Nhị lang nhớ rõ chuyện này, bởi ông từng đọc qua sách của công chúa. Tiếc rằng chưa kịp đọc hết, cuốn sách đã bị phường đinh tịch thu rồi thiêu hủy.

Dạy nữ nhân học chữ, lại vì nữ nhân mà viết sách riêng. Thi Yến Vi nghe đến đây, không nói đến xác suất trăm phần trăm, nhưng tám, chín phần nàng đã có thể chắc chắn vị công chúa này chính là một người xuyên không.

Nàng nghĩ, đợi khi thời cuộc ổn định, hoặc khi Tống Hành đăng cơ, bắt tay giảng hòa và nối lại giao thương với Nam Ngụy, nàng nhất định phải đến núi Kính Đình ở Tuyên Châu, tìm gặp vị công chúa Tuyên Thành này một lần.

Cõi lòng đã định ra chủ ý, hạ quyết tâm xong, Thi Yến Vi chắp tay trước ngực thi lễ cảm ơn Trương Nhị lang, cáo từ rời đi.

Có lẽ vì trong lòng đã nhen nhóm một tia hy vọng, dường như thời gian trôi qua càng thêm dài đằng đẵng. Mỗi ngày sau khi xong việc, lúc trở về nhà, Thi Yến Vi đều bần thần đứng trước gốc hồng và cây lựu già trong sân hồi lâu.

Hồng và lựu đều là những trái ngọt chín vào mùa thu. Tuy hiện giờ chỉ mới đầu thu, trên cây cũng đã lác đác những trái nhỏ xanh xanh, nom thật vui mắt.

Thi Yến Vi nhớ mẹ nàng, Thi Văn Tịnh, rất thích ăn lựu vào mùa thu, nên càng mong cây lựu kia sẽ sớm ngày chín đỏ.

Ngày mười hai tháng tám, bầu trời trong xanh như ngọc, khí trời sáng sủa thanh lành.

Tống Hành đội mũ miện bạch ngọc mười hai tua, mặc hoàng bào màu huyền sắc thêu mười hai chương văn, thắt đai da dát vàng nạm ngọc, bên hông vẫn mang thanh trường kiếm huyền thiết đã cùng hắn chinh chiến nhiều năm. Tại Lạc Dương, hắn chính thức lên ngôi hoàng đế, lấy phong hiệu của phụ thân Triệu Quốc Công làm quốc hiệu, truy tôn sinh phụ Tống Giới làm Thái tổ, truy phong sinh mẫu làm Nguyên Đức Hoàng hậu, tôn tổ mẫu họ Tiết làm Thái hoàng thái hậu, phong em trai Tống Duật làm Thẩm vương, và em gái Tống Thanh Âm làm Tấn Dương Trưởng công chúa.

Đại điển đăng cơ diễn ra tại chính điện Tử Vi thành, trang trọng uy nghiêm, trống nhạc linh đình, khí thế lẫm liệt.

Tống Hành trong sự chú mục của bá quan văn võ, bước từng bước vững chãi lên bậc đá, thẳng lưng đứng trước điện Minh Đường, lắng nghe tiếng quần thần đồng thanh tung hô vạn tuế, ngước mắt trông về phía dãy núi trập trùng.

Sau đại lễ, quần thần cùng nhau yến ẩm tại Minh Đường, chúc mừng tân hoàng đăng cơ.

Ở thành Cẩm Quan cách xa ngàn dặm, cũng vì sự kiện này mà dỡ bỏ lệnh giới nghiêm trong vòng ba ngày.

Sau khi hoàn tất một ngày dài làm việc, Thi Yến Vi đội mũ màn sa, mướn xe lừa đến phường Phú Xuân dạo chợ đêm.

Mùa thu, trời tối nhanh, chỉ mới giờ Dậu hai khắc mà bầu trời đã đen mờ. Đèn hoa được thắp lên, gió đêm hiu hiu thổi.

Phường Phú Xuân nổi tiếng bởi rượu ngon, trong phố còn có không ít trà phường và các hàng quán bán thức ăn vặt đủ loại. Thi Yến Vi vừa đi vừa dừng, trước sau cũng nếm thử ba bốn món, rồi mua thêm vài thứ lạ mắt rẻ tiền, cuối cùng bước vào một trà phường để thưởng trà.

Trà phường ở thành Cẩm Quan khác hẳn nơi khác, giá có nhỉnh hơn đôi chút, nhưng chỉ cần gọi một chén trà là có thể ngồi cả buổi, còn được xem các vở hí kịch trên đài.

Nàng gọi một chén trà, trả mười văn tiền cho trà nhị, rồi tìm một chỗ ngồi gần giữa sảnh.

Trên đài đang diễn một vở tham quân hí, khán giả bên dưới cười rộn ràng.

Thi Yến Vi xem chừng nửa canh giờ, thấy trời đã không còn sớm, liền thuê xe lừa trở về nhà ở phường Bích Kê.

Tống Hành nay đã lên ngôi, chẳng bao lâu nữa sẽ lập hoàng hậu, lại nạp thêm phi tần để củng cố quyền vị, nối dài tông tự.

Đời này, nàng chẳng mong còn chút liên quan nào đến hắn, chỉ mong hắn và hoàng hậu tương lai tâm đầu ý hợp, cầm sắt hòa minh, sớm quên đi nàng.

Những ngày gần đây, hồng và lựu trong sân đều đã kết quả chín mọng. Thi Yến Vi có phần mệt mỏi, vã nước lạnh cho tỉnh táo, rồi xách đèn lồng ra hái mấy trái hồng tươi rói trên cây.

Sợ hái nhiều ăn không hết, nàng chỉ lựa mấy quả chín đút vào giỏ, nghĩ bụng hôm khác có thời gian sẽ mời hàng xóm đến hái mang về ăn, tránh để những quả hồng mục rữa trên cây rồi phí hoài rụng xuống.

Kể từ khi rời khỏi Thái Nguyên, kỳ lạ thay, có lẽ nhờ tâm trạng thoải mái hơn, mà chỉ chưa đầy nửa tháng sau khi chia tay Kiếm Sương, kỳ nguyệt tín của nàng dần trở lại bình thường, mỗi tháng chỉ chậm ba đến năm ngày. Dẫu cơn đau vẫn còn dữ dội, nhưng may mắn thay, lại không xuất hiện thêm bệnh trạng gì khác.

Thi Yến Vi cứ thế hái hồng mang vào nhà, hoàn toàn không để ý tới hai bóng đen in trên bức tường phía sau.

Ngày kế tiếp, Thi Yến Vi hóa trang, phủ thêm áo khoác màu hồng cánh sen thêu hoa văn hình đoàn rồi ra ngoài.

Trong không khí phảng phất hương thơm nhẹ của hồng chín, Thi Yến Vi ngửi thấy mùi quả tươi mát, bất giác đứng dưới mái hiên, ngước nhìn cây hồng. Trên những phiến đá dưới gốc cây có vài quả hồng dập nát đã rụng. Nàng đoán mùi thơm kia hẳn là từ phần thịt quả tỏa ra.

Thi Yến Vi chỉ liếc qua đôi chút, cũng không nghĩ nhiều, chỉ cho rằng đêm qua quả bị gió thổi rụng, hoặc cũng có thể do lũ mèo hoang quanh đây trèo lên cây làm rơi. Nàng tự nhủ quả hồng có mùi thơm ngọt thế kia, biết đâu còn thu hút cả chim chóc kéo đến đây rỉa phần thịt quả. Vậy nên đợi đến khi tan làm, về nhà rồi hẵng dọn dẹp sau.

Tháng này nàng được nghỉ hai ngày, một ngày dành cho ngày đầu kỳ nguyệt tín, còn một ngày để đến bên giếng Tiết Đào, xem các nữ lang, bà tử trong thành làm giấy Tiết Đào bên bờ suối Hoán Hoa.

Nàng trông thấy trong giỏ chất đầy hoa phù dung, các nữ lang đem hoa phù dung cho vào cối giã lấy nước, sau đó đem sắc thành nước hoa phù dung, rồi hòa vào dòng suối Hoán Hoa, dùng cọ quét nước hoa lên giấy làm từ vỏ cây phù dung, phơi khô, trở thành giấy Tiết Đào.

Chỉ đứng nhìn thôi mà Thi Yến Vi cũng cảm thấy công việc này thật chẳng dễ dàng, nhất là khâu sắc nước hoa phù dung, chỉ cần sơ suất một chút là nước hoa sẽ cháy khét, không chỉ phí công phí sức mà còn uổng cả một giỏ phù dung. Hơn nữa, việc chế tác giấy từ vỏ cây phù dung cũng cầu kỳ không kém.

Khi xưa, Tiết Đào phát minh ra loại giấy này, chắc chắn đã thử nghiệm nhiều lần, dốc không ít tâm tư.

Những ngày ở thành Cẩm Quan thực bình yên thoải mái. Thi Yến Vi ngồi phơi nắng bên bờ suối Hoán Hoa, ánh mặt trời cuối tháng tám không còn gay gắt như mùa hè, chiếu lên người mang lại cảm giác ấm áp dễ chịu. Nàng ngồi thêm khoảng hai khắc đồng hồ rồi ghé một quán nhỏ bên đường ăn hoành thánh.

Ngày tháng dần trôi, đảo mắt đã là tháng chín.

Lạc Dương.

Tử Vi thành, điện Triều Nguyên.

Đêm đến, sáu vòng đèn hình bạch lộ tỏa sáng, hàng chục ngọn nến thắp rạng một góc trời, chiếu sáng cả đại điện như ban ngày. Dầu nến nhỏ xuống đáy, đông thành từng lớp đèn hoa.

Dưới ánh nến, Tống Hành cầm bút son, viết trên tờ giấy, nét bút sắc bén.

Trương nội thị nhẹ nhàng gõ cửa điện, nói rằng Bất Lương Soái xin cầu kiến.

Tống Hành thoáng cau mày, hạ bút nhìn vết mực chưa khô trên sổ con, đặt sang một bên, ra lệnh cho Trương nội thị mời người vào.

Một lát sau, Trương nội thị đẩy cửa điện, khom lưng cung kính mời Bất Lương Soái vào.

Tống Hành đứng dậy, chậm rãi bước đến bên cửa sổ, nhìn bóng hoa phù dung lay động trong gió.

“Ti hạ bái kiến Thánh thượng.” Bất Lương Soái nói, cúi đầu hành lễ.

Tống Hành khẽ đáp, trầm giọng hỏi: “Có phải đất Thục có tin tức rồi chăng?”

Bất Lương Soái gật đầu, giọng nhẹ nhàng: “Bẩm đúng.”

“Nữ lang mà Thánh thượng tìm quả thật đang ở thành Cẩm Quan, hai tháng trước đã thuê một ngôi nhà ở phường Bích Kê. Ngôi nhà đó nằm cạnh suối Hoán Hoa, do nha nhân trong thành giới thiệu. Khế thư đang ở đây, kính xin Thánh thượng xem qua.”

Nói rồi, hắn lấy khế thư trong lòng ra, dâng lên bằng cả hai tay.

Tống Hành quay người nhìn hắn, cầm lấy khế thư nhưng không để tâm đến nội dung bên trên, chỉ chăm chú nhìn vào chỗ ký tên đóng dấu.

Hai chữ Trịnh Nghiên đập vào mắt, Tống Hành gần như lập tức nhận ra nét chữ của nàng. Không biết từ bao giờ, nét chữ của nàng ghi tạc trong lòng, khắc sâu vào đầu hắn.

Những ngày say đắm vấn vương, trong thư phòng, hắn ôm nàng, giữ chặt nàng, kiềm chế nàng. Đôi môi nàng ấm áp mềm mại, vòng eo nàng tinh tế mảnh mai, những ngón tay ngọc trắng nõn như búp măng, lúc đan vào tay hắn, lòng bàn tay nhỏ bé ấy hoàn toàn nằm gọn trong lòng bàn tay hắn.

Nàng như thể được tạo từ nước, lúc quyến luyến bên hắn, nước mắt hòa lẫn cùng ngọc lộ, khiến hắn chẳng nỡ rời khỏi nàng, chỉ muốn nhìn nàng nấc nhẹ, dáng vẻ diễm lệ cầu xin.

Tống Hành đột ngột nhắm mắt lại, vô thức siết chặt khế thư, vừa phẫn hận vì sự giả dối và phản bội của nàng, nhưng đồng thời, cảm giác kích động và hân hoan khi tìm ra tung tích của nàng lại dội lên mãnh liệt.

Chỉ vài nhịp thở sau, nhờ khả năng tự kiềm chế phi thường, Tống Hành ép bản thân bình tĩnh lại. Hắn từ từ mở mắt, đôi môi mỏng khẽ nhếch, trầm giọng ra lệnh: “Ngày mai khi trời vừa sáng, hãy tìm vài người thật đáng tin, mang theo hai cung nhân mà trẫm đã lệnh đưa tới, cùng đến thành Cẩm Quan. Nếu nàng kháng cự hay tìm cách tự vẫn, cứ lấy hai cung nhân đó ra uy h**p, chắc chắn sẽ khiến nàng khuất phục.”

Bất Lương Soái cung kính đáp lại, khi nhận được cái gật đầu từ Tống Hành, hắn khom người thi lễ lần nữa rồi quay người, rời khỏi điện Triều Nguyên trong im lặng.

Tống Hành lặng người chống tay lên cửa sổ, mặc cho cơn gió đêm lạnh lẽo thổi vào người, xua tan đi cảm giác oi bức đang âm ỉ trong lồng ngực. Những ngón tay thon dài thô ráp nhẹ nhàng gõ lên khung cửa làm bằng gỗ kim ti nam mộc, [1] dần khép chặt lại.

[1]

[1] kim ti nam mộc: là loại gỗ quý hiếm phân bố chủ yếu ở Tứ Xuyên và một số vùng thuộc phía Nam sông Trường Giang, Trung Quốc. Được mệnh danh là “gỗ hoàng đế”, kim ti nam mộc thường được hoàng đế và hoàng tộc sử dụng. Cây kim ti nam mộc càng “lâu năm” thì gỗ càng quý và có giá trị càng cao. Nguồn
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 65: Thấy nàng


Nhóm ẩn sĩ cải trang rời khỏi Lạc Dương. Lần này còn có thêm Luyện Nhi và Lưu mụ. Đoàn người đi không ngừng nghỉ, cuối cùng sau hai mươi ngày đã đến được thành Cẩm Quan.

Suốt cả chặng đường, Luyện Nhi luôn thấp thỏm lo âu, trái lại, Lưu mụ vẫn giữ được vẻ bình thản, khuôn mặt không lộ chút cảm xúc, như thể người mà bà sắp phải đối mặt chỉ là một kẻ xa lạ chẳng mấy liên quan.

Khi xe ngựa tiến vào thành, tốc độ rõ ràng chậm hẳn. Chừng nửa canh giờ sau, con ngựa kiệt sức cũng dừng bước trước một ngôi nhà nhỏ đã cũ.

Luyện Nhi và Lưu mụ bị thúc giục xuống xe, theo người dẫn đường đi vào bên trong ngôi nhà.

Lưu mụ dù sao cũng đã ngoài năm mươi, tuy gương mặt không biểu lộ gì, nhưng thân thể yếu ớt lại không che giấu được. Vừa chạm chân xuống đất, đôi chân bà đã mềm nhũn, đầu óc choáng váng. Luyện Nhi vội đỡ lấy bà, dìu đến chỗ lan can dưới mái hiên ngồi nghỉ.

Cất xe ngựa xong, một ẩn sĩ mang theo bọc hành lý trở lại. Hắn mở gói đồ, lấy ra mấy chiếc tất la, bánh hồ và túi nước, ném một ít sang cho hai người.

Luyện Nhi chăm sóc Lưu mụ uống nước, ăn bánh trước. Đợi bà ăn uống gần xong, nàng mới ăn phần bánh còn lại.

Tháng chín sắp tàn, Lập Đông kề cận. Trời bắt đầu trở lạnh nhưng vì đi vội nên họ không kịp mang theo áo ấm, giờ ngồi nơi gió lùa, hơi lạnh khiến ai nấy đều co ro.

Mặt trời đã ngả về tây, cách thời điểm tan làm càng lúc càng gần.

Hôm nay không hiểu sao Thi Yến Vi cứ thấy bồn chồn không yên, tâm trí bấn loạn, đến mức kim khâu còn châm vào tay nàng những hai lần.

“Trịnh nương tử này, hôm nay có phải cô không khỏe ở chỗ đâu không? Sao trông cô cứ như người mất hồn thế?” Thôi Nhị nương ngồi bên cạnh liếc nàng một cái, lo lắng hỏi.

Thi Yến Vi đặt kim chỉ xuống, xoa ngón tay bị đâm trúng, khẽ lắc đầu, gượng cười đáp:

“Có lẽ là do đêm qua ta không ngủ ngon thôi.”

Thôi Nhị nương nghe vậy, tạm dừng công việc trên tay, cất lời khuyên nhủ: “Nếu người không thoải mái, hôm nay cứ về sớm đi. Bộ xiêm y này cũng chỉ còn mỗi viền ống tay áo, phần còn lại ta làm giúp cô cũng được.”

Thi Yến Vi vốn không quen làm phiền người khác, định từ chối, nhưng Thôi Nhị nương đã nhanh tay giật lấy kim chỉ trong tay nàng, cười xòa: “Cô cứ yên tâm về đi. Không sao cả, ta làm xong đây rồi, cũng chỉ còn vài mũi nữa thôi.”

Đến mức này, nàng không tiện từ chối lòng tốt của Thôi Nhị nương. Thi Yến Vi xoa nhẹ trán, cảm tạ rồi nói với Thôi Nhị nương: “Sao có thể để Nhị nương làm không công được, sáng mai ta sẽ mua cổ lâu cho cô nhé, chịu không?”

Thôi Nhị nương hiểu ý, biết nàng không muốn mang nợ ai, tủm tỉm cười đồng ý, giục nàng mau về nghỉ ngơi.

Thi Yến Vi cảm ơn lần nữa, mang tâm trạng nặng nề rời khỏi tiệm may, cưỡi ngựa về nhà. Khi vào đến ngõ, nàng kéo dây cương, cho ngựa đi chậm lại.

Xuống ngựa, nàng lấy chìa khóa từ túi đeo bên hông định mở cửa, nhưng chợt phát hiện ổ khóa đã không cánh mà bay.

Nhà bị trộm sao? Ý nghĩ này lập tức lóe lên trong đầu nàng. Nhưng rồi tự nhủ, trên đời nào làm gì có tên trộm nào lại táo tợn đến mức giữa ban ngày ban mặt mà lại dám ngang nhiên xông vào nhà kia chứ.

Chuyện này có gì đó kỳ lạ. Bất kể trong nhà là trộm hay không, hoặc trộm còn đó hay đã đi, linh cảm mách bảo nàng không nên tự đi vào một mình.

Tim nàng đập thình thịch, dường như tiếng gió bên tai cũng bị khuếch đại không ngừng. Thi Yến Vi xoay người, định lên ngựa đi tìm phường đinh ở phường Bích Kê rồi quay lại kiểm tra.

Nghĩ là làm, nàng định bỏ đi thì giật mình nhận ra phía sau chẳng biết đã xuất hiện một bóng người cao gầy từ lúc nào.

Người đó đeo một thanh đoản kiếm dài chừng một thước bên hông, chắp tay trước ngực thi lễ, nghiêm giọng nói: “Hồi bẩm nương tử, gia chủ đặc biệt sai mỗ đến đây “mời” người quay về.”

Hai chữ “gia chủ” vừa lọt vào tai, đầu óc Thi Yến Vi lập tức ù đi. Nàng rơi vào hồi ức đau thương ngày trước, trái tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Tiếng tim đập dồn dập như trống trận, tay nàng không kiểm soát được mà run rẩy, mặt đất trước mắt xoay tròn, không khí ngưng lại khiến hô hấp cũng trở nên khó khăn.

Vì sao nàng đã trốn đến đất Thục rồi mà vẫn bị hắn tìm được? Chẳng lẽ số mệnh nàng thực sự bi đát đến vậy sao?

Nàng đối với vạn vật trên đời luôn giữ lòng thiện lương, chưa từng làm điều gì thương thiên hạ lý, cớ sao ông trời lại nhẫn tâm với nàng đến mức này? Phải chăng định buộc nàng phải chết mới vừa lòng hả dạ?

Nước mắt nóng hổi ướt mi, viền mắt nàng đã hoe hoe đỏ.

Nàng nghĩ, thay vì trở về Lạc Dương để chịu đựng nhục nhã trong sự hành hạ của Tống Hành, chi bằng bây giờ tự mình kết thúc tất cả…

Nhưng, mạng sống hiện tại của nàng là do ba mẹ và Trần Nhượng đã cầu xin giữ lại, liệu nàng có thể xem nhẹ mà vứt bỏ được không?

Hai luồng suy nghĩ mâu thuẫn quấn lấy nhau trong đầu nàng, khiến đầu óc đau như búa bổ.

Nàng phải làm sao? Phải làm gì đây?

Nước mắt làm mờ đi tầm nhìn, không thể thấy rõ, vạn vật xung quanh dần trở nên mơ hồ, không còn chân thực.

Ngay lúc này, Lưu mụ và Luyện Nhi bị người dẫn ra. Người đứng đầu nhóm tử sĩ lạnh giọng nói: “Còn ngẩn ra đó làm gì? Mau dìu nương tử lên xe, lập tức xuất thành!”

Luyện Nhi nhạy bén, thấy nàng như vậy, mơ hồ cảm nhận được rằng nàng đang chìm trong nỗi đau đớn và sợ hãi tột cùng. Nàng đau lòng, nắm lấy tay Thi Yến Vi, nhẹ nhàng vỗ về mu bàn tay, dịu giọng an ủi: “Nương tử chớ đau lòng, cũng đừng sợ hãi. Em và Lưu mụ đều sẽ luôn ở bên cạnh người. Phải sống tốt mới có hy vọng, chẳng phải vậy sao?”

Thi Yến Vi nghe tiếng bèn nhìn sang, thấy Luyện Nhi bên cạnh, bất giác nhớ tới người em họ thân thiết của mình. Ký ức về ba mẹ và những hình bóng quen thuộc của Trần Nhượng càng lúc càng hiện rõ, thậm chí nàng có thể tưởng tượng cảnh họ đã đau đớn đến nhường nào khi hay tin nàng qua đời.

Nàng làm sao có thể phụ lòng họ, làm sao có thể không màng đến mạng sống của chính mình?

Tống Hành quả là người đa mưu túc trí, vì sợ nàng sẽ tìm cái chết trên đường hồi kinh, bèn đưa cả Luyện Nhi và Lưu mụ đi cùng, như những lời nhắc nhở, đe dọa, áp chế nàng từng giờ từng khắc.

Liệu bên chỗ Ngân Chúc và Lâm Vãn Sương, Tống Hành có cho người giám sát nghiêm ngặt như vậy không?

Suy nghĩ càng thêm hỗn loạn. Nếu không có Luyện Nhi kề bên dìu đỡ, Thi Yến Vi e rằng mình đã không thể đứng vững nổi.

Thoáng chốc, nàng lại nhớ đến công chúa Tuyên Thành, người nàng còn chưa kịp diện kiến. Liệu công chúa có đang mong chờ nàng, mong gặp được một người để có thể giãi bày nỗi lòng không?

Hơn nữa, kẻ đáng tội chưa bao giờ là bị hại. Kẻ đáng chết phải là kẻ đã gây ra tội ác, chứ nào phải là một nạn nhân.

Kẻ ác còn đang sống nhởn nhơ, được vạn dân tôn thờ kính ngưỡng, trong khi nạn nhân lại phải chết. Trên đời này sao có lý lẽ nào như thế?

Nàng không thể chết, ít nhất là không thể chết một cách uất ức mà chẳng làm được gì.

Nghĩ đến đây, Thi Yến Vi cắn chặt môi, đôi tay nhỏ bé vì căm hận mà siết chặt thành nắm đấm.

Lần này, khi gặp lại hắn, nàng nhất định phải tự đòi lại công bằng cho riêng mình.

Ánh mắt Thi Yến Vi hướng về người đứng đầu đám ẩn sĩ, ánh mắt không hề tỏ ra yếu thế, coi bọn chúng như tay sai của Tống Hành. Nàng cau mày, cất cao giọng nói: “Trong nhà còn mấy tập bản thảo của ta, nếu các người không để cho ta lấy, hôm nay ta nhất quyết sẽ không lên xe.”

Chỉ là lấy bản thảo thôi mà, cũng không phải chuyện gì hệ trọng. Người đứng đầu đám ẩn sĩ không đoán được ý tứ của Thánh nhân đối với nàng, không muốn đắc tội với nàng, đành đích thân theo nàng vào nhà tìm bản thảo.

Thi Yến Vi cẩn thận đặt bản thảo vào tráp gỗ lim, nâng niu ở trong lồng ngực. Trước khi lên xe, nàng lưu luyến nhìn hai cây lựu và hồng đã nhiều năm tuổi trong sân, cõi lòng trăm mối dày vò.

Đường sá đất Thục đa phần gập ghềnh khó đi, thêm vào đó, Luyện Nhi và Lưu mụ đã mấy ngày liền bôn ba, sức khỏe vốn không chịu nổi. Vì thế, chưa đi được năm ngày, Lưu mụ tuổi đã ngoài năm mươi, kiệt sức mà đổ bệnh giữa đường.

Thi Yến Vi cương quyết yêu cầu dừng lại ở thị trấn phía trước, tìm một y công chữa trị cho Lưu mụ. Sau khi uống thuốc theo đơn, nàng bắt đoàn người dừng chân ba ngày, đợi đến khi sức khỏe của Lưu mụ khá hơn mới lên đường trở lại Lạc Dương.

Cả hành trình kéo dài gần bốn mươi ngày, hơn hẳn ba mươi ngày của lúc trước.

Cuối tháng mười, thời tiết ở Lạc Dương lạnh buốt. Cơn gió đông sắc lẹm thổi qua như dao cắt, luồn thẳng vào quần áo. Luyện Nhi kéo chặt áo khoác, cụp mắt.

Lúc còn ở thành Cẩm Quan, phải vất vả lắm Thi Yến Vi mới tích thêm được chút da thịt, nhưng vì cả chuyến đi này, người nàng gầy rộc cả đi, cộng thêm việc nhiều ngày không được ngủ yên giấc, sắc mặt nàng hiện rõ vẻ phờ phạc.

Xe ngựa dừng lại, Thi Yến Vi theo chân cung nhân đến đón nàng, đi qua một đoạn đường dài. Hai khắc sau, đoàn người dừng trước một viện nhỏ xập xệ.

Cung nhân lấy chìa khóa mở cửa, nửa đẩy nửa mời Thi Yến Vi bước vào. Bà ta không nói một lời đã khóa cửa lại, để nàng một mình trong căn phòng không lớn không nhỏ ấy.

Luyện Nhi và Lưu mụ thấy vậy liền hỏi cung nhân kia làm thế là có ý gì, nhưng người nọ đã nhanh hơn một bước, đáp: “Gian phòng bên cạnh là chỗ ở của hai người. Ngoại trừ lúc hầu hạ nương tử rửa mặt, thay y phục, tắm rửa và dùng bữa, còn lại không được ở cùng nàng.”

Lưu mụ nhìn căn phòng đó, cửa sổ như thể cũng bị bít kín, không lọt nổi một tia sáng. Giờ lại không được ở bên nương tử, nếu nàng không sợ bóng tối thì còn đỡ, chứ nếu sợ, chứ nếu sợ thì làm sao nàng chịu nổi đây?

Luyện Nhi vừa buồn vừa sốt ruột, lại không làm gì được, chỉ biết ngây người dưới mái hiên, nhìn chăm chăm vào cánh cửa khóa trái kia.

Lưu mụ không ngờ nàng lại cố chấp đến vậy, bất giác sinh lòng thương xót, nhíu mày nhắc nhở: “Đứng đây cũng chẳng ích gì, vào nhà trước đi. Nếu chúng ta lại đổ bệnh, tình cảnh của nương tử sẽ càng khó khăn hơn.”

Thấy bà nói đúng, Luyện Nhi đành miễn cưỡng theo bà vào trong.

“Thánh thượng sao có thể nhẫn tâm đối xử với Dương nương tử như vậy? Rõ ràng trước đây…”

Luyện Nhi lầm bầm oán trách, nhưng chưa nói hết câu thì đã bị Lưu mụ nghiêm giọng chặn đứng: “Câm miệng! Ngươi không muốn sống nữa sao? Nếu bị ai nghe thấy, có mười cái đầu cũng không đủ để chém đâu!”

Lời vừa thốt ra, lúc này Luyện Nhi mới nhận ra mình vừa nói lời đại nghịch bất đạo, sợ đến toát mồ hôi lạnh, vội lấy tay bịt miệng, ngồi phịch xuống sạp thấp.

Căn phòng này bài trí quá mức sơ sài, cũng chẳng có lấy một chỗ ra hồn để đặt chân. Lưu mụ kéo đến một chiếc ghế nguyệt nha cũ nát ở góc tường, lấy khăn thấm nước lau qua, rồi đặt bên cạnh bàn.

Trong căn phòng tối đen như mực, Thi Yến Vi mệt mỏi vô cùng, ôm chặt chiếc tráp đựng đầy bản thảo, chẳng buồn để ý đến cái chăn đệm trên giường có sạch sẽ hay không. Nhờ vào ánh sáng yếu ớt xuyên qua kẽ hở, nàng nhấc một góc chăn, nằm xuống. Hương thơm nhàn nhạt của xà phòng lẻn vào xoang mũi, chẳng mất bao lâu nàng đã tiến vào mộng đẹp.

Không biết đã ngủ thiếp từ khi nào, nàng bị tiếng động bên ngoài đánh thức. Luyện Nhi mang hộp cơm vào, lấy chén đĩa đựng đồ ăn ra.

Thi Yến Vi hỏi nàng và Lưu mụ đã ăn chưa, Luyện Nhi gật đầu đáp là đã ăn rồi, Thi Yến Vi nghe xong mới chịu cầm đũa dùng bữa.

Hai ngày liên tục sau đó, Thi Yến Vi đều sống trong cảnh không thấy ánh mặt trời. Ngoài những lúc ra ngoài thay y phục, phần lớn thời gian trong ngày nàng chỉ nằm ngủ trên giường, tựa hồ muốn bù lại giấc ngủ thiếu hụt suốt hành trình vừa qua.

Vẻ mệt mỏi trên mặt nàng đã giảm đi nhiều, nhưng tinh thần lại ủ rũ, trông chẳng có chút sinh khí nào.

Cung nhân bước vào, thắp đèn nến trong phòng, thấy nàng ngồi trên giường với dáng vẻ ỉu xìu, liền lấy một loại cao giúp tỉnh táo tinh thần, thoa lên huyệt thái dương của nàng. Sau đó, lại dìu nàng lên bộ liễn, đưa tới một tòa cung điện nguy nga. Đến nơi, nàng được dẫn vào phòng tắm để tắm gội.

Sau khi tắm xong, một nhóm cung nhân vây quanh nàng, dẫn vào chính điện đèn đuốc huy hoàng, cẩn thận lau tóc, búi tóc, trang điểm… Một quy trình tỉ mỉ đến tận canh hai mới hoàn thành.

Thi Yến Vi nhìn vào gương đồng, thấy mình đã được điểm tô rạng rỡ, thầm hiểu rằng tối nay sợ rằng không thể thoát việc gặp Tống Hành.

Trâm vàng trên tóc ánh lên từng tia lấp lánh. Thi Yến Vi nhìn chăm chú vào trâm cài loan điểu trong gương, giống như vật chết, từ đầu đến cuối trầm mặc không nói năng gì.

Chừng một khắc sau, ngoài thềm vang lên tiếng bước chân nhỏ vụn. Nàng chưa từng để ý đến tiếng bước chân của Tống Hành, nhưng lúc này vô cớ lại cảm nhận được người đến chính là hắn.

“Đặt mọi thứ xuống, tất cả lui ra ngoài điện.” Giọng nói trầm thấp của Tống Hành vang lên bên tai.

Thi Yến Vi vẫn ngồi yên lặng trước gương, tựa như không nghe thấy lời hắn. Cho đến khi Tống Hành giận dữ lao đến trước mặt nàng, ôm lấy vòng eo mảnh mai của nàng, kéo nàng đứng dậy khỏi ghế nguyệt nha.

“Dương Sở Âm, nàng giỏi lắm; đến nước này rồi, nàng còn gì để nói nữa không?”

Thi Yến Vi gạt mạnh cánh tay của hắn ra, căm hận trong lòng đã lấn át sự sợ hãi đối với hắn. Nàng gằn giọng: “Ta không có gì để nói với ngươi cả! Đừng dùng bàn tay bẩn thỉu của ngươi chạm vào ta, thật khiến người ta buồn nôn!”

Buồn nôn sao? Câu nói tựa lưỡi dao bén ngót, đâm thẳng vào tim hắn. Ngọn lửa giận dữ trong lòng hắn không tìm được chỗ để phát tiết, hắn giật cổ áo nàng ra, chạm vào đai lưng điệp tiệp, bật ra một tiếng cười lạnh: “Còn nhiều thứ đáng buồn nôn hơn đang chờ phía trước, đừng nôn vội ra ngay lúc này.”

Vừa nói, hắn vừa siết lấy vòng eo tinh tế của nàng, dùng sức nhấc bổng lên, đặt nàng lên bàn trang điểm. Tà váy xòe rộng, trải ra như một đóa hoa, phủ kín bề mặt gỗ.

“Trẫm muốn nàng nhận sai. Chỉ cần nàng chịu nhận sai một câu, trẫm sẽ không truy cứu chuyện cũ.” Tống Hành cúi thấp người, ánh mắt sắc bén như diều hâu rơi thẳng xuống đôi môi nàng, mang theo sự trông đợi rằng nàng sẽ nói ra những lời hợp ý hắn.

Bậc thang đã được đặt xuống, nhưng không rõ là cho nàng hay là cho chính hắn.

Những ngón tay thon gầy của Thi Yến Vi bám chặt mép bàn, suýt làm đổ chiếc gương trang điểm. Nàng chật vật giữ thăng bằng, mím môi, kiên quyết không thốt ra dù chỉ một chữ.

Đúng là cứng đầu cứng cổ! Tống Hành hừ lạnh, buông cằm nàng ra, bàn tay lớn chuyển sang v**t v* gương mặt thanh tú ấy. Đôi mắt sâu thẳm cuộn lên như sóng dữ, ánh mắt hắn đảo qua, như muốn l*t s*ch y phục nàng đang mặc.

Bất thình lình, đôi môi mềm của nàng bị hắn cúi xuống, bắt đầu g*m c*n. Cơn đau như hồng thủy giáng xuống, nhấn chìm nàng trong cảm giác nhức nhối, từng nhát dao như khoét sâu vào tim nàng.

Mắt nàng đỏ hoe, những giọt lệ trong suốt lặng lẽ rơi xuống, thấm ướt gò má.

Thì ra, khi nỗi đau leo đến đỉnh điểm, ngay cả hô hấp cũng xé da xé thịt.

Tống Hành nắm lấy đôi tay nàng, ôm trọn trong lòng bàn tay.

Cổ tay nàng, cũng chỉ nhỏ nhắn như thế.

Thi Yến Vi cảm giác dạ dày như bị một cơn bão lớn quật tung.

Khoảnh khắc đôi tay được giải thoát khỏi sự kiềm chế, nước mắt lăn dài xuống môi, mang theo vị chát mằn mặn.

Nàng muốn nôn, nhưng bụng trống rỗng, chỉ phát ra những tiếng ho khan.

Khuôn mặt ngọc ngà của nàng vương đầy nước mắt, dáng vẻ tiều tụy đến não lòng. Tâm trạng phẫn uất trong lòng hắn dường như đã tiêu tán, thay vào đó là cảm giác nặng trĩu không tên, đè nén đến nghẹt thở.

Nàng chỉ là một nữ gian miệng lưỡi trơn tru mà thôi. Tống Hành tự nhủ không được mềm lòng với nàng, bắt ép mình không được dao động. Hắn cầm bình dược cao, đổ một chút ra tay rồi thô bạo bôi lên nàng, đặt nàng lên thư án.

Lớp vải còn lại mỏng manh, trắng muốt. Tống Hành trầm mặt kéo xuống, tiện tay ném xuống đất.

Đã mấy tháng chưa từng gần gũi, hắn biết rõ nàng sẽ khó lòng thích ứng được.

Tống Hành cúi xuống, nhích sát lại nàng.

Từ mắt cá chân truyền đến hai luồng phản kháng mạnh mẽ.

Ngọc quan trên tóc hắn lọt vào tầm mắt, khiến Thi Yến Vi chỉ cảm thấy nhục nhã vô cùng. Nàng nghiến chặt răng, nhắm nghiền mắt, giận dữ đến mức cả người run bần bật.

Bàn tay nhỏ nhắn bám chặt lấy mép bàn, hàm răng nghiến đến bật máu môi dưới.

Chừng nửa khắc sau, Tống Hành nuốt khan, ngẩng đầu v**t v* má nàng, đôi môi mỏng dưới ánh nến ánh lên chút bóng loáng, thì thầm khen nàng vẫn tuyệt diệu như xưa.

Thi Yến Vi không chiều theo ý hắn, móng tay nàng bấm sâu vào bắp tay hắn, đôi mắt hoe đỏ, phẫn nộ trừng mắt nhìn hắn. Nếu ánh mắt có thể giết người, nàng đã khiến hắn chết trăm nghìn lần.

Tống Hành dường như đã quen với ánh mắt ấy của nàng. Hắn không để nàng có cơ hội nghỉ ngơi, bất ngờ áp sát, thô bạo giữ chặt nàng.

Thi Yến Vi hít mạnh một hơi, nước mắt lại trực trào ra từ khóe mắt, rõ ràng là không hề dễ chịu.

Không muốn gần gũi với hắn, nàng cố gắng ngả người ra sau, cắn môi đến bật máu. Giọt máu đỏ thẫm chầm chậm rỉ ra, mang theo vị tanh nhàn nhạt của sắt gỉ.

Từ trước đến nay, mỗi lần ở bên nàng, hắn luôn cảm thấy thư sướng và khoái lạc. Thế nhưng lần này, mọi cảm giác quen thuộc ấy đều biến mất, không đọng lại chút dư vị nào.

Dòng máu rỉ ra từ môi nàng k*ch th*ch thị giác hắn. Hắn đang trừng phạt nàng, điều này lẽ ra phải khiến hắn hả dạ. Nhưng tại sao, lòng hắn lại rối bời, đầu đau cứ như bị bó chặt.

Nàng là người đã phụ bạc hắn trước, tội này không thể dung tha.

Hắn phải khiến nàng sợ hắn đến tận xương, không bao giờ dám rời xa hắn nữa.

“Trẫm từng nói với nàng, nếu còn dám bỏ trốn, trẫm tuyệt đối sẽ không nhân nhượng.”

Lời nói lạnh lùng của Tống Hành vang lên, Thi Yến Vi thấy tim mình như chìm xuống đáy vực. Nàng thầm nghĩ: Lần này, hắn chắc chắn sẽ cho người vây kín cả tòa cung điện này.

Thay vì mỗi ngày bị nhốt trong cung điện lạnh lẽo, sống như gỗ đá đợi hắn đến làm nhục, chi bằng chết sớm cho xong.

Nếu ba mẹ và Trần Nhượng biết nàng sống lại một đời, lại phải chịu đựng đau khổ như thế, sống không ra người, chết không ra ma, chắc chắn sẽ hiểu cho lựa chọn này của nàng.

Nghĩ đến đây, Thi Yến Vi bất ngờ đưa tay ôm lấy mặt Tống Hành, điều hòa hơi thở, nàng nhìn hắn với ánh mắt đầy vẻ khinh miệt, cố ý để giọng thách thức. “Tống Hành, người tức giận và mất kiểm soát như thế, chẳng qua là sợ ta sẽ rời bỏ ngài. Chẳng lẽ, ngài đã thích ta rồi sao?”

Thích ư? Đúng là chuyện nực cười nhất trên đời. Trong tim hắn chỉ có giang sơn xã tắc, làm gì có chỗ cho một nữ lang nhỏ bé như nàng, bị trói buộc bởi những chuyện nhi nữ thường tình.

Sợ hãi, đó chỉ là cảm xúc của kẻ hèn nhát. Hắn là nam lang đội trời đạp đất, kiêu hùng bất thế, làm sao lại sinh ra loại yếu mềm ấy được.

Muốn ngay lập tức phủ nhận, nhưng lời vừa đến miệng, lại không sao thốt ra được. Tống Hành cũng không hiểu vì sao lại như thế, chỉ cảm thấy cơn đau đầu như muốn vỡ tung, lý trí bên bờ vực sụp đổ. Hắn chỉ muốn hòa nàng vào xương, nuốt chửng vào bụng.

Hắn ra sức chứng minh điều gì đó, nhưng tại sao, cả thân tâm đều không cảm nhận được chút niềm vui sướng nào.

Điều hắn thích chẳng phải chỉ là thân xác của nàng thôi sao? Nhưng vì sao, giờ phút này dù đang cùng nàng kề cận, hắn vẫn chẳng thể lấp đầy khoảng trống và cùng nỗi khao khát ở trong lòng?

Hắn lặng lẽ dời ánh mắt, không dám nhìn thẳng vào đôi mắt trong veo như nước của nàng, ngoan cố lừa mình dối người: “Thích nàng? Dương Sở Âm, nàng cũng quá đề cao bản thân rồi. Từ đầu đến cuối, thứ mà trẫm để mắt tới chỉ là dung mạo và thân thể nàng mà thôi.”

Lời vừa dứt, Thi Yến Vi bất ngờ thay đổi thái độ, vòng tay qua bờ vai rộng của hắn, nhẹ như chuồn chuồn đậu nước, hôn lên phiến môi mỏng của Tống Hành, cất giọng yêu kiều: “Quỳ Ngưu Nô, nơi này lạnh lắm, chúng ta lên giường được không?”

Quỳ Ngưu Nô. Đã bao lâu rồi hắn không nghe thấy giọng nói nhỏ nhẹ ấy từ nàng? Đôi mắt vốn u ám của Tống Hành như được thắp lên bởi một tia sáng, hắn quay lại nhìn nàng. Khoảnh khắc ấy, hắn như một con chó trung thành luôn vâng mệnh chủ nhân, ngoe nguẩy đuôi đến gần người duy nhất hắn nhận đó là chủ.

Chữ “được” sắp sửa thốt ra, nhưng lý trí lại kịp kéo hắn lại, nhắc nhở hắn rằng: Nữ lang trước mặt chẳng qua chỉ là một nữ gian chuyên lừa lọc mà thôi. Những gì nàng nói không thể xem là thật. Nàng chỉ dụ dỗ hắn, lừa gạt hắn, trêu đùa hắn…

Ánh sáng trong mắt hắn tắt ngấm, trái tim như con chó cụp đuôi. Hắn lạnh giọng: “Dương Sở Âm, nàng đừng hòng giở trò trước mặt trẫm. Từ nay về sau, lời nàng nói, một chữ trẫm cũng sẽ không tin.”

Thi Yến Vi đã hạ quyết tâm, đương nhiên không thể bỏ cuộc giữa chừng. Gạt qua nỗi nhục nhã, nàng quấn lấy hắn, v**t v* hắn, thủ thỉ bên tai hắn: “Tống Hành, Quỳ Ngưu Nô, mặt bàn cứng lắm, da ta sẽ bị… xước mất…”

Giọng nữ uyển chuyển như tiếng oanh thốt bên tai, pha tiếng thút thít nghẹn ngào. Tiếng ngâm khiến cánh tay Tống Hành nổi đầy gân xanh, cơ bắp hằn lên cuồn cuộn, từng giọt mồ hôi lớn to bằng hạt đậu treo giữa trán, nóng hầm hập, ngay cả hơi thở cũng bỏng rát vô cùng.

Thiên hạ này chẳng ai dám gọi thẳng tục danh của hắn, cũng chẳng ai dám gọi hắn là Quỳ Ngưu Nô, chỉ có nàng. Đáng lẽ hắn phải trách mắng, không cho phép nàng tiếp tục phạm thượng, nhưng kỳ lạ thay, hắn lại mê mẩn cách nàng gọi hắn như thế.

Suy nghĩ hỗn loạn khó phân, Tống Hành thở hồng hộc như trâu, hơi ngẩng cổ lên, kìm chế những gợn sóng trong lòng, không nhìn nàng nữa.

Trên cổ, yết hầu tròn như hạt đào lộ rõ.

Thi Yến Vi siết lấy cánh tay hắn, hôn lên yết hầu ấy.

Giọng nàng chậm rãi, ngắt quãng, như đang ban lệnh: “Quỳ… Ngưu Nô, Nhị… Lang, đừng… ở đây…”

Đêm nay, là nàng tự tìm đường chết.

Cơ bắp hắn căng lên, máu nóng trong người như chảy ngược. Tống Hành bế nàng lên, bước đi vững chãi trong ánh nến mờ nhạt, vẻ mặt lạnh lùng: “Dương Sở Âm, là nàng tự chọc vào trẫm trước, vậy thì phải ngoan ngoãn mà chịu đựng cho trẫm!”

Thời gian dài đằng đẵng, gần như khiến người ta tê dại. Nước mắt Thi Yến Vi như chuỗi ngọc bị cắt đứt, nàng hé môi son cách lớp hoàng bào rực rỡ, cắn mạnh lên bả vai Tống Hành.

Áo bào trên người Tống Hành vẫn còn nguyên, vẫn là bộ dáng uy nghiêm thủ lễ như thường lệ, những chuyện hắn đang làm lúc này, chỉ cần nghe thấy thôi cũng đủ khiến người khác mặt đỏ tai hồng.

“Tham lam thế này, có lẽ trẫm nên sớm nhốt nàng lại, tỉ mỉ chăm bẵm, để nàng không bao giờ rời khỏi người trẫm.”

Hắn ôm chặt lấy nàng, cảm giác hạnh phúc khi mất đi rồi tìm lại được khiến hắn không dám lơi lỏng dù chỉ một khắc, vừa thân mật vừa không ngừng thốt ra những câu từ lả lơi.

“Muốn lên giường, cưỡi lên người trẫm? Tiểu yêu tinh, nàng muốn làm hoàng hậu của trẫm chắc?”

Lời vừa thốt ra, Tống Hành thấy hối hận, nghi ngờ rằng bản thân bị sắc đẹp làm cho hồ đồ. Huống chi nàng sớm nói qua, bất luận là là thê là thiếp, nàng đều không bằng lòng gả cho hắn, hắn hà tất phải mặt nóng dán mông lạnh, tự mình chuốc nhục.

Thi Yến Vi không cắn hắn nữa, nhẹ nhàng lắc đầu, phủ nhận một cách đơn giản, dứt khoát: “Thiếp chưa từng nghĩ như vậy.”

Nàng thực sự phủ nhận. Tống Hành chỉ cảm thấy lời nàng nói thật chói tai, ngọn lửa giận trong lòng vừa lắng xuống lại hừng hực thiêu đốt, khơi dậy ý muốn hủy diệt mọi thứ trong lòng hắn. Nhưng cuối cùng, hắn vẫn nhịn xuống, bỏ qua cho hai lần đào vong của nàng.

“Xem ra nàng cũng hiểu chuyện, tự biết rõ vị trí của mình. Tạm thời trẫm chiều chuộng nàng hơn, sau này nếu mang long thai, trẫm sẽ phong nàng làm phi.”

Vừa nói, hắn vừa thuận theo ý nàng bước về phía giường, vòng tay ôm lấy eo nàng mà ngả xuống.

Thi Yến Vi nắm chặt lấy vạt áo hắn, ngẩng chiếc cổ thiên nga trắng mịn, khẽ gọi hắn là “Quỳ Ngưu Nô.”

Mỹ nhân da trắng thắng tuyết, mồ hôi đượm hương thơm.

Tống Hành không dời nổi mắt, sa vào thời khắc mê hoặc này.

Thời gian trôi lâu như trải qua một kiếp, Tống Hành chạm đến đỉnh mây, đôi mắt khép hờ.

Thi Yến Vi đột nhiên buông cánh tay hắn, nhanh như chớp rút cây trâm vàng trên tóc, không chút do dự đâm mạnh vào ngực hắn.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 66: Đâm hắn


Đầu cây trâm nhọn cắm sâu vào lồng ngực, gần kề trái tim, cơn đau âm ỉ không tiếng động chậm rãi lan tỏa. Tống Hành ngỡ ngàng nhìn chủ nhân của cây trâm, đến khi thấy rõ khuôn mặt nàng, nhanh như cắt hắn nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn, trắng ngần ấy. Và rồi, như bắt gặp điều gì khá thú vị, hắn bật cười.

Lần đầu tiên, thỏ trắng yếu mềm lại dám giơ vũ khí đâm vào con sói đuôi dài hung ác.

Trước mặt người khác, thậm chí là một con mèo, nàng vẫn ôn hòa, thiện lương là thế. Ấy vậy mà khi đối mặt với hắn, nàng lại như tảng đá vô tri, vô tình, tàn độc.

Máu tươi không ngừng tuôn ra dọc theo đầu trâm. Tống Hành nắm chặt tay nàng, ngồi dậy. Nụ cười vẫn treo ở khoé môi hắn, hắn càng siết chặt tay nàng, làm đầu trâm càng đâm sâu hơn vào da thịt.

Theo thời gian, những ngón tay trắng mịn của nàng đã nhuốm đỏ, nhịp tim của Thi Yến Vi bắt đầu tăng tốc.

Nàng trời sinh đã có bản tính hiền lành, nhân hậu, ngay cả một con chuồn chuồn hay cánh bướm cũng không nỡ làm chúng tổn thương. Nàng không chịu nổi cảnh máu tanh, dù đã hai mươi bốn tuổi đầu nhưng chưa khi nào nàng mua về một con gia cầm sống.

Những lần ba nàng làm cá nấu canh, chỉ cần nàng có mặt ở nhà, thì đều tránh xa căn bếp, không dám nhìn cảnh cá bị cạo vảy róc thịt.

Nhưng giờ đây, nàng lại đang giết người.

Máu nóng dính lên tay, sền sệt, khiến Thi Yến Vi gần như suy sụp. Nàng giãy giụa muốn rút tay, nhưng bàn tay to lớn của Tống Hành đã giằng lại, không để nàng được phép trốn thoát.

Bên tai vang lên giọng nói trầm thấp đầy trào phúng và điên cuồng của Tống Hành: “Sức mọn thế này, lại còn đâm sai chỗ. Dương Sở Âm, nàng vô dụng thế này thì sẽ chẳng giết được ai đâu.”

Cả người nàng không tự chủ được mà run lẩy bẩy, máu vẫn chảy không ngừng. Ánh mắt b*nh h**n của Tống Hành làm nàng kinh hãi, đến cả thở cũng không dám thở mạnh. Nàng cắn môi, thất thần hét lên: “Tống Hành, ngươi điên rồi! Mau buông ta ra!”

Nụ cười trên mặt Tống Hành càng sâu, hắn giữ chặt tay nàng, rút cây trâm ra, rồi dẫn tay nàng hướng tới vị trí trái tim hắn. Giọng hắn đã gần như phát cuồng: “Dương Sở Âm, nhìn cho kỹ. Đâm chỗ này này! Nếu ta chết dưới tay nàng, những người có liên quan đến nàng sẽ là kẻ đầu tiên chịu họa. Nhà họ Dương sẽ bị tru di cửu tộc, toàn bộ cung nhân trong điện này vì hành động của nàng mà chết thảm. Sau đó, cả nước Triệu cũng sẽ chìm trong chiến loạn triền miên, xác chết chồng chất, dân chúng lầm than. Nào, Dương Sở Âm, giết ta đi! Vừa rồi nàng đã làm rất tốt cơ mà!”

Giây phút này, nàng mới bàng hoàng nhận ra, hắn chính là một con chó điên, một khi cắn người thì cắn chặt không nhả.

Thi Yến Vi không chịu nổi sự nhớp nháp của máu trên tay, lắc đầu liên tục, giọng đầy tuyệt vọng: “Nếu gặp kẻ điên như ngươi là số mệnh của ta, thì ta thà không cần cái mạng này nữa! Ngươi giết ta đi, Tống Hành! Sống bên cạnh ngươi, từng ngày từng giờ đều kinh tởm, bi ai. Ta thực sự đã chịu đủ rồi, chỉ mong được chết đi thôi!”

Nàng thực sự ghét hắn đến thế, không chỉ muốn giết hắn, mà sẵn sàng từ bỏ mạng sống của chính mình. Rốt cuộc hắn có điều gì không tốt, khiến nàng nguyện chết cũng không muốn ở lại bên hắn, hưởng vinh hoa phú quý và quyền lực vô biên.

Nhận thức rõ điều này, Tống Hành chỉ thấy đầu đau như muốn nứt ra. Lửa giận ngập trời thiêu đốt lồng ngực hắn, vết thương ở đó vẫn không ngừng rỉ máu. Mỗi cơn đau đều như k*ch th*ch dây thần kinh, khiến hắn gần như phát dại.

Hắn muốn nàng sống, để ở bên hắn, nhưng lời đến miệng lại hóa thành những nhát dao bén ngót. “Giết nàng? Giết nàng rồi, trẫm lấy ai để phát tiết d*c v*ng? Nó thích nàng đến vậy, chẳng lẽ nàng lại không cảm nhận được chút gì sao?”

Lời còn chưa dứt, hắn đã lần nữa xông lên, dễ dàng khống chế cả người nàng.

Cảnh tượng ấy khiến người ta không khỏi liên tưởng đến ngày xuân, khi những nụ hoa e ấp khẽ bung nở, cánh hoa mỏng tang ôm trọn từng cơn gió, tựa áng mây trời cứ thế lững lờ trôi.

Tống Hành chẳng màng đến vết thương trước ngực. Hắn mải miết công thành đoạt đất, tùy ý tấn công. Máu từ vết thương chậm rãi chảy xuống, men theo đường eo nhuốm đỏ vạt áo, thấm vào chăn gấm.

Thi Yến Vi lặng lẽ chịu đựng cơn cuồng loạn của hắn, khép mắt không nhìn. Thời gian trôi qua trở nên dài vô tận, cho đến khi giọng nói trầm thấp, lạnh tanh của hắn lại một lần nữa vang lên bên tai nàng:

“Nàng dám chết thử xem, trẫm sẽ giết Luyện Nhi, Lưu mụ đang hầu hạ nàng, rồi giết Vương Ngân Chúc, Lâm Vãn Sương những người quen biết nàng, chưa kể thân nhân của phụ mẫu nàng, dù là ai cũng đừng hòng trốn thoát… Trên đường xuống hoàng tuyền, có bấy nhiêu người hầu hạ và bầu bạn, nàng sẽ không đến nỗi cô đơn.”

Sao hắn sao có thể phát rồ đến mức này.

“Ngươi điên rồi, điên rồi!” Thi Yến Vi kinh hãi lùi lại, đôi mắt mở to, nhìn hắn như đang nhìn một con quái vật gớm ghiếc.

Tống Hành thoáng khựng lại khi thấy nàng dùng ánh mắt ấy nhìn mình.

Hắn muốn làm nàng sợ, muốn khiến nàng khiếp đảm, đúng không sai. Nhưng khi bị nàng dùng ánh mắt ấy chiếu thẳng vào người, hắn lại có cảm giác như đang bị từng mũi dao đâm thẳng vào tim, từng thớ thịt như bị xé toạc, nỗi đau không cách nào tả xiết.

“Đúng, trẫm điên rồi. Từ lần thứ hai nàng ruồng bỏ trẫm, trong lòng trẫm đã khao khát nàng phát điên. Những nữ lang khác không thể khiến trẫm dậy nổi hứng thú, chỉ có thể hết lần này đến lần khác nhìn kha tử của nàng, mặc lên người bộ y phục mà chính tay nàng khâu vá, nghĩ về nàng, nhớ về nàng, mới miễn cưỡng giải tỏa được…”

Không muốn đối diện thêm với ánh mắt đầy oán trách và thăm dò của nàng, Tống Hành nghiến răng, buộc bản thân dừng lại. Hắn buông nàng ra, xoay người nàng lại, ép nàng cúi xuống, quỳ trên lớp chăn. Tay hắn giữ chặt lấy eo nàng, kéo sát cơ thể vào nhau, bất chấp cơn đau như nhát búa dội vào đầu.

“Chẳng lẽ nàng cho rằng trẫm muốn biến thành bộ dạng này sao? Không chỉ nàng hận trẫm, mà chính trẫm cũng hận bản thân. Hận vì sao không thể buông bỏ nàng, hận vì sao lại gục ngã trước một tiểu nữ lang đầy dối trá như nàng. Hận vì sao hết lần này đến lần khác mềm lòng với nàng, nhưng lại giống một con chó đáng thương, chỉ mong nàng có thể đối tốt với trẫm hơn dù chỉ một chút.”

Nói xong, Tống Hành nghiêng người ép sát xuống, thân hình vạm vỡ đè lên người nàng, cúi đầu vùi mặt vào cổ nàng. Hắn bắt lấy tay nàng, buộc mười ngón tay đan chặt vào nhau, lòng bàn tay hắn áp chặt lên mu bàn tay nàng, đè xuống chăn đệm.

Mu bàn tay nóng ran. Thi Yến Vi giống như cá nằm trên thớt, cả người như bị đóng đinh. Khắp nơi đều là hơi thở của hắn, nóng bỏng, dữ dội, khiến người ta không cách nào lờ đi được.

Giữa lúc cảm giác khác lạ trỗi dậy, bên tai nàng vang lên lời nói vừa ngạo nghễ vừa bất kham của Tống Hành: “Trẫm sẽ không buông tha nàng, cũng không thể bỏ qua cho nàng. Nàng là của trẫm, chỉ có thể là của trẫm. Dù có mạo phạm thần nữ hay chọc giận thiên thần, trẫm là nhân hoàng, cũng sẽ không sợ!”

Lời chưa dứt, nữ tử trong lòng hắn đã thở nhẹ một hơi. Tống Hành hưng phấn đến đỏ cả mắt, dường như quên đi cơn giận và oán hận đối với nàng, cũng quên việc phải xưng “trẫm”, bật ra câu hỏi từ tận đáy lòng: “Âm Nương, nàng vẫn có chút tình cảm đối với ta có đúng không? Nàng cũng có một chút thích ta, đúng không?”

Thi Yến Vi không còn đủ sức để suy nghĩ, ngón tay vô thức co lại, môi cắn chặt, dù không nói nên lời nhưng vẫn theo bản năng lắc đầu.

Tống Hành hiển nhiên không chấp nhận được câu trả lời này, lòng dạ càng thêm độc địa. Hắn bất ngờ buông tay nàng ra, nhích thân rời khỏi phần eo rồi ghé sát tai nàng, gằn giọng nói: “Từ nay về sau, trẫm quyết không mềm lòng với nàng nữa. Đêm nay, trẫm nhất định sẽ khiến nàng phải khóc tức tưởi cho bằng được.”

Không biết đã qua bao lâu, Thi Yến Vi mệt mỏi đến mức không mở nổi mắt. Tống Hành rốt cuộc cũng dừng lại, xả giận xong, hắn đứng dậy rời khỏi người nàng.

Một lát sau, hắn mặc lại chiếc trường bào lấm chấm đỏ, lấy áo choàng lông cừu lớn treo sau cửa bọc kín cả người nàng, ngồi xuống bên sạp, lại sai người đưa nước vào, thay đi lớp chăn đã ướt.

May thay, vết thương kia đã không còn chảy máu, chỉ kết thành một lớp vảy mỏng, nổi bật trên nước da lúa mạch.

Trên người Thi Yến Vi cũng dính vài vệt máu. Tống Hành lặng thinh, dùng khăn lau sạch cho nàng, thay bộ tẩm y mới trước khi đặt nàng lại vào trong chăn gấm, đắp kín chăn. Hắn nhặt chiếc trâm vàng dính máu, cất kỹ vào tay áo như báu vật, sau đó lặng lẽ rời khỏi phòng.

Khi Tống Hành bước vào điện Triều Nguyên, đêm đã sang canh ba, bóng tối dày đặc, bốn bề lặng ngắt như tờ.

Hắn sai người mang thuốc trị thương đổ lên vết thương rồi bảo Trương nội thị dùng vải mịn băng lại, nhưng hắn không hề sai người thỉnh ngự y ở viện thái y đến chẩn bệnh.

Trương nội thị đã cùng theo người rời điện Triều Nguyên, đương nhiên biết rõ vết thương này không phải do Thánh nhân tự gây ra. Xem ra, chỉ có thể là do vị nương tử trong điện để lại.

Đả thương long thể chính là trọng tội mất đầu.

Lần này Thánh nhân bị thương không nhẹ nhưng lại không trừng phạt vị nương tử kia. Thậm chí vì không để lộ tiếng gió tới tai Thái hoàng thái hậu nên cũng không chịu mời ngự y đến. Qua đó cũng đủ thấy Thánh nhân đối với vị nương tử kia vẫn luôn mang lòng ngưỡng mộ.

Dù trong lòng khiếp sợ, nhưng đây là việc liên quan đến long thể an nguy, Trương nội thị do dự hồi lâu, rốt cuộc vẫn phải lên tiếng khuyên nhủ: “Vết thương dù sao cũng ở gần tâm khẩu, long thể của Thánh thượng vô cùng quý giá, chi bằng triệu ngự y đến chẩn trị cho đường hoàng.”

“Nếu Thánh thượng không muốn để người khác biết, chỉ cần lệnh ngự y giữ kín miệng là được.”

Tống Hành lặng lẽ nghe hắn nói hết, cuối cùng vẫn không đáp lại.

Trương nội thị đứng bên, thấy sắc mặt hắn trầm ngâm, không dám nói thêm lời nào, chỉ khẽ thở dài rồi rón rén lui xuống, sai hoàng môn vào hầu hạ người rửa mặt thay y phục.

Đêm khuya Thánh nhân mới trở về, Bảo Sênh giữ lại một ngọn đèn le lói trong phòng dưới. Khi thấy Thánh nhân bước xuống từ bộ liễn, nàng vội dập tắt ngọn nến trên bàn, chọc thủng giấy cửa sổ, nhìn ra ngoài qua ánh trăng sáng sủa.

Nàng thấy Trương nội thị lấy một bình thuốc và băng vải sạch từ thiên điện mang vào, còn hoàng môn thì bưng chậu nước lấm tấm sắc đỏ ra.

Bảo Sênh hơi nhíu mày, đợi khi ánh nến trong chính điện tắt hẳn mới trở về giường nằm xuống.

Bên ngoài cửa sổ, màn đêm tĩnh lặng, ánh trăng đầy phòng, hoa đông hé nở.

Tống Hành nằm nghiêng trên giường, không sao chợp mắt nổi. Trong đầu hắn chỉ toàn hình bóng dáng của nàng: khuôn mặt sầu muộn, giọng nói oán hờn, cùng những giọt nước mắt nóng hổi.

Nàng hận hắn, trong lòng không có chút tình cảm nào.

Hắn mở choàng mắt, qua tấm rèm lụa vàng nhạt về phía ánh sáng trắng mờ rọi xuống từ cửa sổ.

Tống Hành cau mày thành hình chữ xuyên, tâm tình cứ từng bước lụn bại. Hắn chợt nhớ đến những giọt nước mắt của nàng đêm nay, chắc chắn nàng đã bị thương ở đâu đó. Lúc ấy hắn giận quá, quên không bôi thuốc cho nàng. Sáng mai tỉnh dậy, vết thương của nàng không biết chừng sẽ hóa thành những vết sưng.

Vết thương mơ hồ nhói lên, ngàn vạn suy nghĩ quấy nhiễu trong lồng ngực. Hắn trằn trọc trở người qua lại, mãi đến nửa đêm mới đi vào giấc ngủ chập chờn.

Sáng hôm sau, trong ánh bình minh, Thi Yến Vi từ từ tỉnh dậy.

Ánh sáng hắt qua cửa sổ có phần chói mắt. Nàng gắng gượng nhấc cánh tay lên, nhưng chỉ thấy toàn thân ê ẩm.

Hai chân rã rời đến mức không chịu nổi, mỗi lần cử động lại không tránh khỏi kéo căng nơi giữa chân, khiến cảm giác đau nhức và rát buốt càng thêm rõ rệt.

Tên điên kia không để thuốc lại cho nàng dùng.

Cả người Thi Yến Vi như bị cỗ xe cán qua, cổ họng khô rát không thể phát ra tiếng, nàng chỉ có thể chống tay vào mép giường, khó nhọc ngồi dậy rồi bước xuống.

Hai chân nàng mềm nhũn, chẳng khác nào lá rau đã bị nấu chín nhừ, vừa đặt chân xuống, nàng nhận ra tự mình sẽ không thể đứng vững.

Cả người ngã khuỵu xuống đất, đầu gối nện vào mặt sàn, nàng không kìm được rên thành tiếng, hốc mắt cũng vì thế rưng rưng.

Nàng lảo đảo đứng dậy thêm lần nữa, dò dẫm đến cạnh bàn, nhấc ấm nước lên. Bàn tay phải run run không ngừng, phải rất lâu sau, nàng mới rót được nửa chén trà nguội. Uống xong, nàng dùng ánh mắt vô hồn, cứ thế nhìn chằm chằm vào chén sứ.

Nàng tự hỏi: Sống tiếp để làm gì? Sống chỉ để làm một món đồ chơi bị Tống Hành nhốt kín hay sao? Nàng vốn không thuộc về nơi này, càng không đáng phải chịu đựng những tháng ngày sống không bằng chết.

Hình bóng cha mẹ, Trần Nhượng và cả bạn thân Huyên Huyên bỗng hiện ra trước mắt. Cảm xúc trong lòng Thi Yến Vi như vỡ òa, nước mắt ướt mèm lông mi, tiếng khóc sụt sùi cùng trở nên yếu ớt. Nàng gom hết chút sức lực cuối cùng, ném mạnh chiếc chén xuống đất, nhặt lên một mảnh sứ vỡ.

Bên ngoài, Luyện Nhi nghe tiếng động, vội gọi cung nhân đi lấy chìa khóa, nói vọng qua khe cửa: “Nương tử, người làm vỡ chén trà rồi sao? Để nô tỳ vào dọn dẹp, người đừng chạm vào mảnh sứ kẻo bị thương.”

Giọng nói của Luyện Nhi chứa đầy sự quan tâm và sốt sắng, khiến bàn tay Thi Yến Vi dừng lại khi mảnh sứ đã kề sát lên cổ, lời đe dọa của Tống Hành một lần nữa luẩn quẩn bên tai nàng.

Nếu nàng dám chết, hắn sẽ giết hết những người vô tội trong cung: Luyện Nhi, Lưu mụ, còn bên ngoài cung là Ngân Chúc và Lâm Vãn Sương…

Nàng không sợ chết, nhưng không đành lòng làm liên lụy người khác.

Luyện Nhi vẫn chưa tròn mười tám tuổi, Ngân Chúc đã tìm được phu quân, thoát khỏi thân phận nô tịch, và con gái của Vãn Sương thì vẫn đang còn để tóc trái đào…

Chẳng lẽ chỉ khi đã hành hạ nàng đến kiệt quệ, hắn mới chịu buông tha, không truy cứu những người vô tội kia sao?

Thi Yến Vi yếu ớt buông tay xuống, ôm đầu gối, vùi mặt vào đó, khóc nức nở không thể kìm lại được.

Tiếng ổ khóa sắt va chạm với cánh cửa gỗ vang lên “keng” một tiếng. Luyện Nhi hớt hải chạy vào phòng, thấy nương tử chỉ khoác trên người một lớp áo ngủ đơn bạc, thân thể co ro nhỏ bé, toàn thân run lên vì lạnh. Nhìn nàng như vậy, thật khiến người ta đau lòng xót xa.

Mắt Luyện Nhi đỏ hoe, vội bước tới, nhẹ nhàng đặt tay lên vai nàng, khẽ nói: “Nương tử có phải cảm thấy lạnh không? Để nô tỳ đỡ người về giường được không, cẩn thận một chút, đừng giẫm phải mảnh sứ bên cạnh.”

Thi Yến Vi ngẩng đầu nhìn nàng, điềm đạm gật đầu. Khuôn mặt đầy vệt nước mắt, đôi mắt đẫm lệ, đôi chân không còn chút sức lực, nàng gần như bị Luyện Nhi kéo về giường.

Làn da lộ ra ngoài tái xanh, những vết bầm tím hiện rõ. Đặc biệt là cổ tay, vết xiết sâu khiến người ta không khỏi xót xa. Luyện Nhi nuốt nước mắt, không dám nhìn vào dưới váy nàng, cẩn thận dìu nàng nằm xuống.

“Nô tỳ đi lấy ít đồ ăn. Nương tử cứ nằm nghỉ, lát nữa ấm người sẽ dễ chịu hơn thôi.”

Thi Yến Vi khẽ đáp một tiếng, quay mặt vào trong, nước mắt đầm đìa thấm ướt cả gối mềm. Nàng cắn môi không chịu để tiếng khóc bật ra, lẩm bẩm gọi tên Trần Nhượng trong vô vọng.

Thật muốn nói với anh rằng: dù chỉ một khắc hay một giây, nàng đều không muốn ở lại nơi này. Nhưng đến tự kết liễu nàng cũng không có quyền, cách duy nhất nàng có thể nghĩ ra là sống lay lắt cho đến khi dầu cạn đèn tắt.

Không lâu sau, Luyện Nhi mang thức ăn đến, Thi Yến Vi không có chút khẩu vị nào, miễn cưỡng ăn được non nửa chén, rồi không thể nuốt thêm được nữa. Nàng lại kéo chăn trùm lên đầu, đi vào giấc ngủ nhợt nhạt.

Luyện Nhi thu dọn mảnh sứ, đang định ra ngoài thì gặp Tống Hành.

Đó là người đã hành hạ một người hiền lành như Dương nương tử đến mức này, lòng Luyện Nhi không dấy lên chút bất bình. Tuy vậy, người là bậc đế vương, nàng không thể không cúi đầu hành lễ.

Tống Hành quét mắt qua mảnh sứ được bọc trong vải xô, nhíu mày hỏi: “Nàng làm vỡ chén?”

Luyện Nhi không dám trả lời, chỉ gật đầu.

Nghe xong, Tống Hành dừng bước, trầm mặc hồi lâu rồi cất giọng phân phó với cung nhân: “Đổi toàn bộ vật dụng trong phòng này thành đồ bạc, không để lại vật sắc nhọn, dây vải dài hay bất cứ thứ gì tương tự.”

Cung nhân nghe lệnh, vội vàng bắt tay vào chuẩn bị.

Tống Hành bảo tất cả lui ra, một mình tiến vào phòng.

Thi Yến Vi đang ngủ rất nông, cảm giác lạnh buốt ập đến khi chăn vừa bị kéo ra, khiến nàng lập tức bừng tỉnh.

“Ngươi đừng qua đây! Đừng qua đây…”

Hình ảnh đêm qua hiện rõ mồn một trong đầu nàng, nỗi kinh hoàng bủa vây, nàng gần như theo bản năng mà kháng cự hắn. Tay nàng run rẩy nắm lấy mép chăn, đôi mắt ngập tràn sợ hãi, cầu xin trong nghẹn ngào: “Ta cầu xin ngươi, tha cho ta… tha cho ta…”

Biểu cảm đó như một tia sét giáng vào tim Tống Hành, để lại một nỗi đau âm ỉ nơi lồng ngực.

“Trẫm không làm gì nàng, chỉ muốn bôi thuốc cho nàng.” Nói rồi, hắn cẩn thận dùng tay nâng y phục nàng lên để kiểm tra vết thương.

Tống Hành chợt nhớ lại ngày ở biệt viện, hắn cũng từng phạt nàng.

Hắn, thực sự là một tên thú đội lốt người.

Nghĩ đến đây, Tống Hành cảm thấy ngực mình nghẹn lại, thở hổn hển, lại không nói gì. Hắn im lặng dùng ngón tay lấy thuốc, tay còn lại thì giữ chặt nàng, ngăn mọi động tác phản kháng.

Dù chỉ là bôi thuốc bằng ngón tay, Thi Yến Vi vẫn đau đến mức nước mắt lã chã tuôn rơi, vô lực đẩy tay hắn ra, miệng không ngừng mắng: “Tống Hành, ngươi không phải người, ngươi là súc sinh, ngươi là tội phạm! Dù ngươi là vua một nước, nhưng sai thì vẫn là sai, tội vẫn hoàn tội. Ngươi sẽ chịu báo ứng, ngươi sẽ xuống địa ngục.”

Tống Hành lắng nghe từng câu mắng chửi của nàng, trái tim hắn lại không cảm thấy quá đau đớn. Hắn thong thả rút tay lại, lấy khăn lau sạch thuốc trên tay rồi kéo chăn đắp cho nàng, giọng như trăng thanh gió mát: “Tiếp tục mắng đi, trẫm thích nghe nàng nói thật. Nàng có biết hận cũng là một cảm xúc chân thật không? Ánh mắt nàng nhìn trẫm lúc này, dù có hận đến thế nào thì vẫn khiến trẫm vui vẻ hơn nhiều so với dáng vẻ hư tình giả ý của trước kia.”

Trong ánh mắt đầy thù hận của Thi Yến Vi, Tống Hành sờ đùi nàng qua lớp chăn, hé mở môi mỏng nói: “Âm Nương cứ thích chạy trốn như vậy, trẫm thật sự không thể an tâm. Sau này, chỉ có thể dùng xích sắt buộc chặt nàng, khiến nàng không thể trốn thoát, không bao giờ rời bỏ trẫm được nữa.”

“Chỉ cần nàng ngoan ngoãn nghe lời, mỗi tháng trẫm sẽ dành ra một ngày để tháo xích, đưa nàng ra ngoài dạo chơi, ngắm cảnh. Sắp đến tháng mười một rồi, Lạc Dương chẳng mấy chốc sẽ có tuyết rơi. Trẫm dẫn nàng đến bờ hồ Cửu Châu ngắm tuyết, nàng thấy có được không?”

Nhắc đến đây, Tống Hành di chuyển tay lên, đặt lên phần bụng bằng phẳng của nàng, nở một nụ cười dị dạng, gần như điên cuồng nói: “Hoặc là, mấy ngày nay Âm Nương đã độc chiếm nguyên dương của trẫm, nếu may mắn mang thai, nàng và trẫm sẽ có sợi dây huyết mạch tương liên, không thể nào tách rời. Đến lúc đó, trẫm sẽ phong nàng làm quý phi, không cần dùng đến dây xích nữa.”

Những lời điên rồ này, Thi Yến Vi đều coi như gió thoảng qua tai, nhưng chỉ riêng hai chữ “mang thai” đã khơi dậy nỗi sợ hãi sâu kín nhất trong lòng nàng.

Nàng sao có thể sinh ra đứa con của một tên tội phạm?

Ở thành Duyên Châu, tuy y công đã từng nói nàng rất khó có thai, nhưng khó không đồng nghĩa với không thể. Hắn túng dục như thế, ngày ngày nhốt nàng ở đây, khi nào hứng lên thì đến xâm phạm nàng. Thời gian trôi qua, nếu thật sự mang thai thì phải làm sao đây?

Thi Yến Vi không thể chịu đựng nổi viễn cảnh ấy. Nếu thật sự có thai, nàng sẽ tìm mọi cách để bỏ đi đứa trẻ.

“Tống Hành, ngươi giờ đã giàu có bốn bể, có thể cưới hoàng hậu, sinh con nối dõi. Sao phải ép buộc ta, ép ta sinh ra một đứa con không được chào đón? Ngươi làm hại ta còn chưa đủ, lại còn muốn tiếp tục hại một sinh linh yếu ớt, vô tội nữa? Ngươi thật quá đáng sợ!”

Làm hại. Sao nàng có thể dùng từ đó để định nghĩa lòng tốt và sự nuông chiều hắn dành cho nàng. Trong thế giới loạn lạc này, hắn đã mang đến cho nàng một cuộc sống đầy vinh hoa phú quý, ban cho nàng một chốn nương thân, để nàng không phải chịu bất kỳ sự tổn thương nào từ bên ngoài. Thế mà, nàng vẫn cảm thấy hắn đang hại nàng.

Đứa trẻ của hắn và nàng sẽ trở thành hoàng tử, công chúa với thân phận tôn quý. Hắn sẽ là một người cha tốt, tận tâm dạy dỗ con cái biết cưỡi ngựa, bắn cung, dạy bọn trẻ biết viết chữ và đối nhân xử thế. Hắn sẽ che chở chúng, để chúng bình an lớn lên.

Sao nàng có thể gọi hắn là kẻ đã hãm hại mình? Làm sao nàng có thể nói hắn đáng sợ?

Một lần nối tiếp một lần, Tống Hành cảm thấy trái tim nhói lên, hắn đưa tay vuốt tóc nàng, kiên định nói: “Nàng ghét trẫm thế nào cũng được, nhưng trẫm vẫn muốn nàng, và cả đứa con của nàng.”

Kẻ này ngang ngược vô lý, cần gì phí lời với hắn? Cuối cùng cũng chỉ như đàn gảy tai trâu, ông nói gà bà nói vịt mà thôi. Thi Yến Vi khinh bỉ hắn, quay mặt đi không nhìn hắn, không muốn để hắn chạm vào mình, càng không muốn bị hắn v**t v*. Nàng dùng sức đẩy tay hắn ra, kéo chăn che kín đầu lại.

Tống Hành thấy vậy, trong lòng lo lắng nàng sẽ sinh bệnh vì bị bức bí quá lâu. Hắn nghiêm mặt, kéo tấm chăn ra, ép nàng ngẩng mặt lên, ôn tồn nói: “Nàng muốn hận trẫm thế nào cũng được, chỉ có một điều, không được phép làm nhục thân thể của chính mình.”

Thi Yến Vi hừ lạnh một tiếng, cười mỉa: “Rốt cuộc là ai đang làm nhục ai? Mỗi lần ngươi trút hết thú tính lên người ta, liệu có từng nghĩ…?”

Lời còn chưa kịp nói hết, Tống Hành bỗng cúi người xuống, bắt lấy cằm nàng, hôn lên môi nàng, l**m láp, g*m c*n. Hắn ép nàng mở miệng, dùng lưỡi quấn lấy, cướp đi hơi thở của nàng.

Thi Yến Vi bị ép nhìn hắn, rõ ràng hắn đang cưỡng hôn nàng, thế nhưng, vẻ mặt của hắn lại ẩn chứa sự đau xót.

Hắn không dám đối mặt với những lời vạch trần của nàng, hắn đang bị chính những lời đó dằn vặt.

Khi nhận ra điều này, Thi Yến Vi chỉ thấy hắn thật nực cười. Một kẻ suốt ngày coi nàng như đồ chơi, thế mà lại động lòng với nàng.

Chắc hẳn, hắn cũng không muốn thừa nhận điều này.

Như mọi khi, Thi Yến Vi nằm yên như một khúc gỗ, không có chút phản ứng nào đối với nụ hôn của hắn, như thể một cái xác không hồn.

Mấy ngày sau đó, dù bận rộn chính sự, Tống Hành vẫn luôn dành thời gian đến thăm nàng, quan sát tình trạng của nàng, giúp nàng thoa dược.

Thi Yến Vi không còn mắng chửi hắn nữa, cũng không mở miệng nói gì với hắn, chỉ im lìm như một pho tượng bằng sứ.

Cho đến một ngày, Tống Hành mang đến một dây xích làm bằng vàng, trên xích có một lớp bông mềm mại, lại được phủ thêm một lớp lụa nhẵn nhụi.

Tống Hành rất kiên nhẫn, dùng giọng nói ngọt ngào như đang dỗ dành một đứa trẻ, thủ thỉ bên tai nàng: “Âm Nương ngoan, Âm Nương hiểu chuyện nhất. Trẫm có thể cam đoan với nàng, chiếc xích này rất nhẹ, đeo lên mắt cá chân sẽ không đau chút nào đâu.”

Thi Yến Vi tự biết chống cự cũng vô dụng, trơ mắt nhìn hắn nổi điên. Thế nhưng, khi dây xích choàng vào mắt cá chân, tâm tình nàng gần như vỡ vụn. Nàng hết lần này đến lần khác phải tự nhắc nhở bản thân, chỉ cần xem mình như một con rối.

“Âm Nương.” Tống Hành đột nhiên cúi xuống, dùng bàn tay lớn bao lấy mắt cá chân trắng muốt của nàng, hơi thở hầm hập phả ra, khẽ gọi.

Thi Yến Vi nhận ra, hắn lại chuẩn bị phát tiết…
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 67: Thích


Tống Hành dễ dàng giữ chặt đôi vai gầy guộc của nàng, đẩy nàng ngã xuống chăn gấm, rồi quỳ thẳng xuống trước đầu gối nàng.

Cổ chân mảnh khảnh của nàng bị hắn nắm lấy, gió khuya se lạnh lướt qua làn da trắng mềm mịn.

Trong chậu than đặt dưới giường là than bạc ngân sương, ánh lửa bập bùng vàng cam, tản ra từng đợt hơi ấm.

Thi Yến Vi nằm bất động như cá chết, hai tay níu chặt lấy chăn gấm bên dưới, ngay cả liếc mắt nhìn lên phát quan của hắn cũng khiến nàng cảm thấy ghê tởm.

Tống Hành dốc sức lấy lòng nàng, nhưng đến bám vào bả vai hắn nàng cũng không muốn, cứ như thể hắn là một thứ đồ dơ bẩn.

“Âm Nương, nàng gọi trẫm một tiếng Quỳ Ngưu Nô nữa, được không?” Tống Hành cố kìm nén, ngước nhìn đôi mắt nhắm chặt của nàng, giọng nói pha chút cầu xin.

Cũng không biết là vì lạnh hay vì nguyên do nào khác, cơ thể nàng khẽ run rẩy, nhưng lời hắn nói đều bị nàng coi như gió thoảng bên tai, im lìm không phát ra tiếng đáp.

Trước khi đến đây, Tống Hành đã uống trà, lại dùng qua ngọc lộ mỹ tửu, nhưng vẫn không cảm thấy thỏa mãn. Hắn nuốt từng ngụm lớn, yết hầu cứ thế nhấp nhô.

Bàn tay to lớn của hắn vuốt lên má nàng, gương mặt sa sầm, hỏi: “Âm Nương, nàng định làm người câm trước mặt trẫm mãi sao?”

Cho dù sự động chạm của hắn khiến nàng kinh tởm đến mức muốn nôn mửa, thì nàng vẫn không phản kháng, thậm chí không thèm mở mắt ra nhìn hắn. Tựa như con diều đã đứt dây, phó mặc cho số phận.

Tống Hành dùng đôi mắt phượng thâm thúy nhìn nàng, ánh nhìn chằm chằm như ưng nhãn, cảm xúc trong lòng bị sự phớt lờ của nàng kích động, dần xuất hiện dấu hiệu bùng phát.

Từng giây trôi qua, hắn thấy sợi dây tự chủ trong lòng đã căng đến giới hạn.

Những ngón tay thon dài bất ngờ di chuyển đến cằm nàng, nhàn nhã khép lại rồi nhấc cằm nàng lên, giọng điệu bỗng chốc cao vút:

“Trẫm muốn nàng nói, Dương Sở Âm!”

Thi Yến Vi nghe rõ sự tức giận trong giọng điệu hắn, hòa cùng nỗ lực kìm nén đến tột độ. Âm lượng phát ra tuy lớn, nhưng lại ẩn chứa dè chừng. Hắn gần như đã dùng hết mọi cách để dằn xuống sát khí trên người, khiến giọng điệu không trở nên quá đáng.

Đáp lại hắn vẫn chỉ là sự im lặng kéo dài.

Hồi lâu, khi kiên nhẫn của Tống Hành đã cạn, hắn buông cằm nàng ra, rồi đưa tay tới gần vạt áo nàng, định cởi xuống từng nút thắt.

Nếu mệnh lệnh trở nên vô dụng, thì hắn sẽ dùng cách khác để buộc nàng phải lên tiếng.

Thi Yến Vi phản ứng ngay tức khắc, bài xích sự tiếp cận từ hắn. Nàng co người lại, cắn chặt răng, chỉ sợ hắn lặp lại những ngày trước, nhục mạ nàng đến tận cùng.

Ký ức như một cơn ác mộng không ngừng đeo bám nàng. Suốt những ngày qua, chỉ cần nghĩ đến cảnh bị hắn kiềm chế, nàng đã cảm thấy buồn nôn, không ăn gì nổi, chỉ hận không thể nhổ bằng sạch những thứ nằm trong dạ dày.

Đôi mắt đào hoa vốn trong sáng linh động dường như đã rút cạn sinh khí, phẳng lặng như một đầm nước đọng. Nàng nhìn chằm chặp vào hắn, sự đề phòng đã dựng nên bức tường vô hình giữa hai người.

Tống Hành thấy nàng gần như cắn nát môi dưới, liền biết nàng đang sợ gì.

Ngày đó hắn quả thực quá mức nóng vội, vậy nên đã làm nàng đau.

Cơn đau ngấm ngầm kéo tới. Tống Hành cúi người tới gần nàng, phủ lên phiến môi đỏ thắm.

Cảm giác tự ti xâm chiếm lấy hắn, khiến hắn muốn che đi ánh mắt nàng, sợ nàng nhìn thấy con người đầy khiếm khuyết. Trước mặt nàng, hắn chỉ để lại đỉnh đầu và bờ vai dày rộng.

Tống Hành tháo đai lưng điệp tiệp bằng vàng bên hông, dùng ngữ điệu uyển chuyển nhất có thể để trấn an nàng.

Thi Yến Vi nhíu chặt mày, cố nén tiếng kêu tủi nhục nơi cuống họng, nàng giấu tay về phía sau, bám vào chiếc gối mềm dưới đầu, từ chối bất kỳ sự tiếp xúc thân mật nào với hắn.

Dây xích trên cổ chân nàng rung lên theo nhịp chuyển động, phát ra tiếng leng keng khe khẽ.

Nghe âm thanh ấy, Tống Hành chỉ cảm thấy vừa mới lạ vừa hứng khởi.

Lòng bàn tay và tóc mai của Thi Yến Vi thấm đẫm mồ hôi, làm ẩm lớp vải mềm trên gối.

Những giọt nước mắt bất lực rơi xuống, lăn dài trên má, hòa cùng mồ hôi nhễ nhại.

Tống Hành đặt một chiếc gối mềm kê dưới eo nàng, cánh tay rắn chắc xuyên qua nách, giam chặt cả người nàng từ sau lưng. Hắn tì cằm lên hõm vai nàng, hơi thở lảng vảng bên tai, thì thào những âm điệu ngắt quãng.

“Dương Sở Âm.”

“Sinh cho trẫm một đứa con, trẫm sẽ làm một người cha tốt.”



Cơn mưa bất ngờ trút xuống, xối xả như dội cả bầu trời.

Tống Hành gần như mê mẩn dán mắt vào bụng nàng, không kìm được vươn tay chạm vào.

Thi Yến Vi không cách nào diễn tả hết nỗi ghê tởm của mình đối với hắn. Làm sao hắn có thể trơ tráo đến mức vọng tưởng nàng sẽ sinh cho hắn thứ nghiệt chủng?

“Tống Hành, ngươi nhìn lại dáng vẻ bây giờ của mình đi, liệu còn nửa phần phong thái đế vương một nước? Rõ ràng người căm hận ta phản bội người, vậy mà không ngừng lui tới, cố tình mặt nóng dán mông lạnh. Miệng nói rằng chưa từng động lòng, cũng chẳng yêu thích ta, nhưng giờ đây hậu vị để trống, lại bất chấp tất cả để một nữ nhân không danh không phận như ta sinh hạ cốt nhục của ngươi. Ngươi thật sự nghĩ rằng chỉ cần một đứa trẻ là có thể khiến ta từ bỏ tâm ý, cam tâm tình nguyện làm cá trong chậu, làm chim trong lồng, để ngươi tùy cơ thưởng ngoạn sao? Dù ngươi có dùng thủ đoạn đê hèn nào đi nữa, ta chỉ nói đúng một câu: tâm ta bàn thạch, vững vàng không rời.”

Chưa từng động tâm, cũng không thích nàng sao? Tống Hành chưa từng nghĩ, sau ngần ấy ngày im lặng, điều đầu tiên nàng mở miệng nói với hắn lại là những lời này.

Hắn đã cho nàng một bậc thang để xuống. Chỉ cần nàng chịu bước theo hắn, sinh hạ cốt nhục cho hắn, mọi lỗi lầm nàng phạm phải ngày trước hắn đều có thể bỏ qua. Thậm chí, hắn còn sẵn lòng phong nàng làm quý phi, để nàng hưởng một đời tôn quý.

Thế nhưng, nàng chẳng những không bước xuống thang, lại còn thốt ra toàn những lời lẽ ngông cuồng.

Cơn đau đầu lại bắt đầu dội lên.

Chưa từng động lòng, cũng chẳng hề yêu thích nàng sao? Tống Hành không kìm được, trong lòng hết lần này đến lần khác tự vấn.

Hắn không muốn thừa nhận, cũng chẳng dám thừa nhận. Trong cơn thống khổ ấy, bàn tay phải siết chặt thành quyền, không ngừng vỗ lên trán, từng cơn đau nhức như muốn nuốt chửng hắn, suýt có lúc hắn đã thốt ra rằng: không phải hắn chưa từng động lòng, cũng chẳng phải hắn không hề thích nàng…

Nhưng lý trí cuối cùng vẫn thắng thế. Hắn cúi mắt nhìn nàng, ánh mắt hai người chạm nhau, cố nén nỗi đau như bị xé thành hai nửa, trầm giọng nói: “Trẫm đương nhiên sẽ không động lòng với một nữ nhân dối trá, càng không nói đến chuyện sẽ thích nữ nhân ấy. Nàng nói tâm mình như đá, trẫm nói nước chảy đá mòn. Nếu Âm nương không sinh hạ con nối dõi cho trẫm, sao có thể chứng thực lời nàng nói là sẽ không bao giờ thay đổi vì con?”

Còn dám cãi chày cãi cối.

Vì muốn nàng sinh con mà Tống Hành như hóa điên vậy.

Hắn đã dùng hết mọi thủ đoạn ép buộc lẫn dụ dỗ, nhưng vẫn không thể hủy đi “cốt cách phản nghịch” trong người nàng, càng không thể bóc tách những tư tưởng khác lạ ra khỏi đầu nàng. Đến bước đường này, hắn chỉ còn cách đặt hết hy vọng vào thủ đoạn mà hầu hết đàn ông trên thế gian này đều sẽ lựa chọn: dùng một đứa trẻ để trói buộc.

Hắn không dám đối diện với tình cảm trong lòng, cũng giống như một kẻ hèn nhát đang tự mình lừa dối mình mà thôi.

Nghĩ đến đây, Thi Yến Vi cười lạnh một tiếng, cuối cùng mắng hắn một câu: “Tống Hành, ngươi thật ti tiện! Nhìn ngươi bẩn thỉu gì có khác gì đám khách làng chơi, ham thích đùa bỡn nữ lang không?”

Nói xong, nàng nhắm mắt lại, ngăn cách bản thân khỏi thế giới khiến nàng tuyệt vọng này.

Nàng nói hắn bẩn thỉu. Tống Hành không để tâm đến việc nàng phạm thượng, nhưng lại không thể chịu đựng được việc nàng bóp méo sự thật.

Hai năm qua, kể từ khi ngã vào người nàng, hắn chỉ có duy nhất mình nàng. Sao nàng dám đánh đồng hắn với những tên đàn ông “bẩn thỉu” mà nàng vừa nhắc đến kia chứ?

Tống Hành giận đến mức gân xanh nổi đầy trên mu bàn tay, cánh tay, chưa kể là cả nơi đó.

“Âm Nương, trẫm chỉ có mình nàng. Trẫm bẩn hay không, nàng là người rõ nhất. Trẫm sẽ chứng minh, tất cả những gì của trẫm… đều là của nàng.”

Tiếng xiềng xích cùng giường gỗ rung chuyển kịch liệt lại vọng ra lần nữa, so với trước càng chói tai bội phần.

Trương nội thị ngồi dưới hiên, lắng nghe động tĩnh trong phòng mà không khỏi lấy làm khó hiểu. Nếu Thánh thượng đã yêu thích vị nương tử bên trong đến vậy, tại sao không ban cho nàng danh phận chính đáng để đường hoàng sủng ái? Tại sao người cứ phải lén lút tới lui như phường trộm cắp, chỉ dám đến khi màn đêm buông xuống rồi vội vã trở về trước khi mặt trời lên?

Thế nhưng, chuyện của chủ tử, đâu phải việc hắn có thể xen vào. Trong chốn thâm cung này, đạo sinh tồn chỉ có một mà thôi: những chuyện không nên hỏi, không nên nói, không nên làm, thì vĩnh viễn không được hỏi, không được nói, không được làm.

Đến tận canh ba, tiếng động trong phòng mới dần lắng xuống. Trương nội thị lập tức sai người mang nước ấm vào.

Luyện Nhi bưng chậu nước bước vào, thu hết can đảm lén nhìn vị chủ tử đang nằm úp trên nệm gấm.

t*m l*ng tr*ng n*n tựa tuyết giờ đầy rẫy những dấu vết lớn nhỏ, thắt lưng hằn chi chít những dấu tay. Mũi Luyện Nhi cay xè, không dám nhìn thêm, cúi gằm đầu xuống thật thấp.

Tống Hành đứng bên giường, chậm rãi thắt lại đai lưng điệp tiệp đính bảo thạch đủ màu, lạnh lùng liếc chậu đồng khắc hoa điểu trên tay nàng một cái, hững hờ ra lệnh: “Hầu hạ chủ tử ngươi lau mình.”

Nói xong, người phất tay áo rời đi.

Luyện Nhi chưa từng giúp Thi Yến Vi lau người sau khi hành phòng với Tống Hành, nên cũng bỡ ngỡ không biết cần phải làm những gì. Nàng lúng túng đặt chậu nước lên ghế đẩu, rồi quay sang đỡ Thi Yến Vi ngồi dậy.

Dù đã tự thôi miên thân thể này chỉ còn là một túi da, nhưng Thi Yến Vi vẫn không nỡ để Luyện Nhi thấy được dáng vẻ này của mình vì sợ sẽ dọa đến cô bé. Nàng gượng cười, thái độ điềm đạm, nói với Luyện Nhi: “Ta tự mình làm được, em lui ra đi.”

Luyện Nhi không dám nhìn vào mắt nàng, sợ rằng bản thân sẽ không kìm được mà rơi nước mắt. Chỉ lẳng lặng quay lưng về phía Thi Yến Vi, bước ra sau bình phong, giả vờ bình tĩnh đáp: “Đợi nương tử lau người xong, nô tỳ mang chậu nước đi luôn chẳng phải tiện hơn sao? Trước khi nương tử gọi, nô tỳ sẽ không bước ra khỏi bình phong nửa bước, nương tử không cần bận tâm đến nô tỳ.”

Thi Yến Vi hiểu nàng lo lắng cho mình. Nếu lúc này đuổi nàng đi, có khi Luyện Nhi sẽ thao thức đến mất ngủ cả đêm mất. Thế nên, nàng đành gật đầu đồng ý.

Ấn huyệt vị xong, Thi Yến Vi kéo lê thân thể tàn tạ, chật vật xuống giường, tẩy sạch những thứ nhơ bẩn, nhớp nháp trên người từ trong ra ngoài. Lau khô vệt nước trên chân, nàng kiệt sức ngã xuống đệm gấm, đến cả sức mặc lại quần áo tử tế cũng chẳng còn mà chỉ kéo chăn che kín người, rồi khàn giọng gọi Luyện Nhi.

Thi Yến Vi nghiêng đầu nhìn nàng, nói nhỏ: “Ta đã liên lụy em và Lưu mụ, khiến cả hai cũng bị kẹt lại nơi này.”

“Đây không phải lỗi của nương tử, mà là số mệnh của chúng ta.” Trong lòng Luyện Nhi, tư tưởng tôn ti đã ăn sâu bén rễ. Dẫu là ở hoàn cảnh thế này, nàng cũng chỉ biết quy tất cả cho vận mệnh, chẳng dám oán trách đến bậc thiên tử là Tống Hành.

“Dù thế nào đi nữa, ta vẫn phải cảm tạ em và Lưu mụ từ Thái Nguyên đến đây luôn tận tâm chăm sóc ta.” Thi Yến Vi nói xong những lời ấy, mí mắt đã díp lại, không cách nào chống đỡ thêm nữa, nàng chìm vào giấc ngủ sâu.

Tống Hành trở về điện Triều Nguyên, lúc này đã gần đến giờ Tý. <i>(~23h)</i>

Bảo Sênh thấy rõ động tĩnh của Tống Hành suốt mấy ngày gần đây. Ngoại trừ đêm đầu và đêm nay, những ngày giữa chỉ ở lại chưa đến nửa canh giờ đã hồi cung. Nhưng riêng hai đêm ấy, người lại nấn ná tận hai canh giờ.

Hôm sau.

Trời còn chưa sáng, Bảo Sênh đã dậy từ sớm. Nàng dõi theo bóng Tống Hành rời điện Triều Nguyên tiến về Minh Đường, rồi lặng lẽ vòng theo lối cửa sau, băng qua tiểu đạo đến điện Huy Du của Thái hoàng thái hậu.

Bảo Sênh không hiểu hết những uẩn khúc phía sau, nhưng trong lòng Thái hoàng thái hậu thì rõ như gương sáng.

Tống Hành đã hao tâm khổ tứ biết bao mới tìm được người về, nào phải chuyện có thể giấu được Thái hoàng thái hậu.

Huống chi Tống Hành bản tính cao ngạo, trước giờ cũng không định che giấu.

Giờ Tý mới hồi cung. Chỉ cần nghe thấy câu này, Thái hoàng thái hậu lập tức đoán được những ngày trước, tôn nhi của bà không nán lại lâu, chắc hẳn vì đêm đầu tiên hắn ra tay quá nặng, khiến Dương thị kia không chịu nổi ân sủng, buộc hắn phải nhẫn nhịn đến đêm qua.

Chẳng trách vì sao hai tháng trước, hắn lại dửng dưng với việc tuyển hậu. Từ đầu đến cuối, hắn vẫn luôn nhớ thương Dương thị.

Dung nhan và khí chất của Bảo Sênh đều thuộc hàng thanh nhã thoát tục, là dựa theo sở thích của hắn để tuyển chọn, nhưng hắn chưa từng dành cho nàng dù chỉ một cái liếc mắt, lại càng không nói đến chuyện sủng hạnh.

Hắn quả thực không thể rời xa Dương thị, không chỉ về thể xác, mà còn là cả tâm trí.

Không được để nàng tiếp tục hớp hồn Nhị lang.

Thái hoàng thái hậu siết chặt chuỗi Phật châu trong tay, đầu ngón tay trắng bệch, đôi mắt nhắm hờ, hít một hơi thật sâu. Sau một lúc trầm tư, bà đã có đối sách trong lòng.

Chuyện này chỉ có thể lợi dụng tâm lý phản nghịch và hiếu thắng của Nhị lang, đặt hắn vào thế buộc phải tự mình buông tay Dương nương tử.

Hắn càng không chịu thừa nhận tình cảm của mình, bà càng muốn lấy Dương thị làm cái cớ.

Không lâu sau, Thái hoàng thái hậu chậm rãi mở mắt, nhẹ nhàng lần Phật châu trong tay, rồi ra lệnh chuẩn bị bộ liễn.

Khi bộ liễn đã sẵn sàng, bà đặt chuỗi Phật châu xuống, chống gậy đứng lên. Sơ Vũ thấy vậy, liếc nhìn Đống Tuyết một cái rồi bước lên đỡ Thái hoàng thái hậu.

Đống Tuyết hiểu ý, vội thu lại chuỗi Phật châu, theo sau hai người bước ra cửa điện.

Bộ liễn được hoàng môn khiêng một cách vững chãi, từng bước tiến đến trước cung điện nơi giam giữ Thi Yến Vi, rồi dừng lại.

Thái hoàng thái hậu được người dìu xuống, thư thả bước vào.

“Thái hoàng thái hậu giá đáo.”

Tiếng hô kéo dài của nội thị vừa vang lên, các cung nhân trong điện, cùng Luyện Nhi và Lưu mụ, vội vàng quỳ gối nghênh đón.

“Nô tỳ tham kiến Thái hoàng thái hậu.” Ba người đồng thanh, cúi đầu cung kính.

Thái hoàng thái hậu thản nhiên liếc nhìn họ, ánh mắt quét một vòng quanh điện, lòng thầm than điện này xa hoa quá mức, tựa như “kim ốc tàng kiều”, hai hàng mày điểm bạc càng nhíu chặt hơn.

Không ngờ Nhị lang vẫn sủng ái nàng ta đến mức này.

“Dương nương tử hiện đang ở đâu? Vì sao không ra nghênh tiếp?”

Cánh cửa chính phòng bị khóa kín bởi ổ khóa nặng nề, Thái hoàng thái hậu liền cho rằng nơi ấy không có người ở, lại chẳng thấy Thi Yến Vi ra đón, bèn cất lời hỏi.

Ở đây Lưu mụ là người lớn tuổi nhất, trầm mặc giây lát, thấy hai người kia không dám đáp lời, đành lên tiếng giải thích: “Bẩm Thái hoàng thái hậu, nương tử hiện giờ vẫn ở trong phòng. Thánh nhân hạ lệnh khóa kín cửa lại, nương tử không thể ra ngoài, vì vậy không thể ra nghênh tiếp Thái hoàng thái hậu giá lâm.”

Đôi mắt phượng đục ngầu của Thái hoàng thái hậu dừng trên người Lưu mụ, giọng điệu trầm tĩnh nhưng quyết đoán: “Mau mở khóa ra.”

Cung nhân quỳ bên cạnh Lưu mụ nghe vậy, trong lòng vẫn nhớ đến sắc mặt nghiêm nghị của Tống Hành khi căn dặn, mạnh dạn bẩm báo: “Bẩm Thái hoàng thái hậu, Thánh nhân có lệnh, khi chưa có chỉ dụ, bất kỳ ai cũng không được thăm nương tử.”

Thái hoàng thái hậu nghe vậy, đôi mắt mờ đục chợt ánh lên một tia sắc bén, ánh nhìn lạnh lẽo khiến cung nhân kia hốt hoảng đến run rẩy. Bà nghiêm giọng trách: “Thánh nhân xưa nay hiếu thuận, vẫn luôn tôn kính với lão thân. Chuyện hậu cung nhỏ nhặt thế này, không lý nào Thánh nhân lại ngăn cản lão thân? Chẳng lẽ trong mắt ngươi chỉ có Thánh nhân, mà không có lão thân, Thái hoàng thái hậu này sao? Mau đem chìa khóa đến mở cửa ngay, đừng để lão thân phải sai người lục phòng ngươi, làm cả hai bên mất mặt!”

Cung nhân bị khí thế của bà dọa dẫm, định đi lấy chìa khóa thì bị một bóng người cao lớn chắn ngang. Người đến chính là Giang Nghiên.

Thái hoàng thái hậu vừa trông thấy, lập tức nổi giận, không ngờ Giang Nghiên lại cướp lời trước: “Thánh nhân đích thân hạ lệnh, không cho bất kỳ ai vào trong. Dù là Thái hoàng thái hậu, nếu không có chỉ dụ của Thánh nhân, cũng không thể đặt chân vào bên trong. Kính mong Thái hoàng thái hậu thứ lỗi.”

Bên trong gian phòng, nữ lang đang mơ màng ngủ bị những âm thanh ngoài cửa làm tỉnh giấc. Nàng chầm chậm mở mắt, ánh nắng ngoài cửa sổ lọt vào khiến nàng phải nheo mắt cản lại. Nàng nhấc nhẹ người, xiềng xích nơi cổ chân liền phát ra âm thanh leng keng rất khẽ.

Thi Yến Vi thử nghe ngóng, đoán chừng bên ngoài là tiếng cãi vã giữa Giang Nghiên và Thái hoàng thái hậu. Giang Nghiên không nhượng bộ chút nào, cuối cùng ép Thái hoàng thái hậu phải tức tối bỏ đi.

Bên ngoài trở lại yên tĩnh. Thi Yến Vi chân trần bước xuống giường, nhưng vì chiều dài dây xích có hạn, nàng chỉ có thể quanh quẩn bên mép giường.

Đêm đến, Tống Hành lại tới.

Song vì thân thể nàng còn chưa khỏi, hắn chỉ ôm nàng hôn khắp nơi. Đôi môi mỏng rời khỏi môi nàng, trượt xuống.

Phát quan trên đầu hắn lỏng dần, rơi xuống ngang eo.

Thi Yến Vi ngả người về phía sau, không chịu gần hắn, cũng không muốn chạm vào y phục trên vai hắn. Mọi thứ thuộc về hắn đều khiến nàng cảm thấy dờm dợm.

Bên tai nàng, tiếng nước róc rách vang lên, cơ thể dần trở nên mềm nhũn.

Nàng cắn chặt môi dưới, cố gắng nuốt những âm thanh nghẹn ngào trở lại.

Thật lâu sau, Tống Hành mới đứng dậy khỏi mép giường, đối diện với nàng. Hầu kết hắn chuyển động, ngón tay cái vuốt nhẹ bờ môi nàng, khen nàng quyến rũ mê người.

Vì ban ngày đứng lâu trên nền gạch, nên Thi Yến Vi cũng nhiễm chút phong hàn. Họng nàng vừa đau vừa ngứa, vì sợ hắn nhận ra giọng nói bất thường nên dù hắn nói gì cũng im lặng không đáp, như một cái bầu hồ lô bịt kín miệng.

Đợi Tống Hành rời đi, sợ phát ra tiếng động bị người nghe thấy, nàng cẩn thận nắm lấy sợi xích trong tay, dè dặt bước xuống giường. Cả người ngồi xuống nền gạch lạnh lẽo, đầu tựa vào chân giường, nghĩ toàn những ý nghĩ vẩn vơ.

Hiện giờ nàng đang ở trong hoàng cung, sợ rằng cả đời cũng không thể thoát ra được.

Cảm giác tuyệt vọng như cơn bão đổ bộ, nước mắt lăn dài xuống gò má. Mọi chuyện nghe được ở Thường Đạo quán hay những lời kể về công chúa Tuyên Thành đều bị nàng tạm thời gác qua một bên.

Hôm sau, cung nhân mang điểm tâm sáng vào điện, mới phát hiện Thi Yến Vi lại ngủ gục bên mép giường, sắc môi tái nhợt, sắc mặt trắng bệch như giấy.

Cung nhân giật mình kinh hãi, vội vã bước tới kiểm tra. Thử dò hơi thở, may mà nàng vẫn còn thoi thóp, nhưng cơ thể lại lạnh ngắt đến đáng sợ.

Cung nhân vội vàng đỡ Thi Yến Vi lên giường, sau đó cuống quýt sai người đi thỉnh thái y.

May thay, sau khi Lý thái y đến xem qua, xác nhận không có gì nghiêm trọng, cũng không phát sốt, chỉ là nhiễm phong hàn. Ông lập tức kê đơn, sai người sắc thuốc mang tới.

Chưa đến một khắc đồng hồ sau, Tống Hành đã nghe được tin này.

Sổ con trên bàn chất cao như núi nhưng Tống Hành không đọc nổi dù chỉ một chữ. Hắn nhíu mày, gác bút son rồi rời chính điện, hướng thẳng về cung điện Thi Yến Vi đang ở.

Hắn cố ý chọn một cung điện gần đó, nên chẳng mấy chốc đã đến nơi.

Khóa cửa sớm đã có người mở ra, Tống Hành bước nhanh vào trong, không một tiếng động, đứng bên giường nhìn xuống.

Dưới lớp chăn gấm, nữ tử an tĩnh nhắm mắt, đôi mày liễu hơi chau lại, dường như không thể ngủ yên.

Hắn cảm thấy tim mình trĩu nặng, tựa như có một tảng đá lớn đè lên.

Chậm rãi ngồi xuống bên giường, cẩn thận tháo xiềng xích trên cổ chân nàng, lặng lẽ ngồi cạnh trông nom.

Ngón tay Tống Hành vuốt dọc lên mi tâm của nàng, ký ức về những lần tiếp xúc vụn vặt giữa hai người hiện lên từng chút một.

Từ ngày nàng đến bên hắn, dù có được cuộc sống cẩm y ngọc thực, nàng rất ít khi nở nụ cười trước mặt hắn. Như khi còn ở Tống phủ, nàng tuy là người làm bếp, áo quần vải mộc đơn sơ, nhưng lại thường cười bằng cả tấm lòng.

Tiền nàng tự kiếm và tiền hắn cho, rốt cuộc khác nhau ở chỗ nào?

Trong mắt nàng, hắn thực sự tầm thường và vô dụng đến thế sao?

Khi hắn đang mải suy nghĩ, Luyện Nhi bưng chén thuốc tiến vào.

Luyện Nhi vẫn luôn sợ hắn, cúi đầu thấp, run rẩy thưa chuyện: “Bẩm Thánh thượng, nên gọi nương tử dậy uống thuốc rồi ạ.”

“Được.” Tống Hành gật đầu, giọng điệu ôn hòa kỳ lạ.

Luyện Nhi sững sờ, quên cả đứng dậy, mãi đến khi Tống Hành tự tay cầm lấy bát thuốc, nàng mới giật mình bừng tỉnh.

“Âm Nương.” Tống Hành lay nhẹ tấm chăn mỏng trên người nàng, gọi nhẹ một tiếng, cố đánh thức nàng.

Thi Yến Vi ngủ rất nông, liền bị động tác ấy của hắn làm tỉnh. Vừa mở đôi mắt nhập nhèm buồn ngủ thì gương mặt hắn đã hiện lên trong tầm mắt của nàng.

Vẻ mặt nàng lập tức hiện rõ sự sợ hãi và đề phòng, thân mình co rụt lại, bản năng lộ rõ sự kinh sợ, sợ hắn sẽ tiếp tục giày vò nàng.

Chiếc xích nơi chân vì động tác nhỏ của nàng, phát ra tiếng leng keng.

Nhìn nàng khiếp sợ, xa cách mình như thế, cổ họng hắn nghẹn lại, cảm giác khó thở càng thêm trầm trọng.

“Âm Nương ngoan, uống thuốc nhé, được không?” Tống Hành liên tục dỗ dành, nhẫn nại múc một thìa thuốc đưa tới môi nàng.

Thi Yến Vi mím môi, mặc kệ hắn.

Tống Hành kiên trì dỗ ngọt thêm vài câu, nhưng nàng vẫn bất động, tựa như đã quyết định trở thành khúc gỗ không lời trước mặt hắn.

Không còn cách nào, Tống Hành đành uống một ngụm thuốc, sau đó cúi xuống, chạm môi mình lên môi nàng.

Luyện Nhi đứng cạnh đó vẫn cúi đầu, không dám nhìn cảnh tượng trước mắt.

Đột nhiên, một tiếng tát chát chúa cùng tiếng chén sứ vỡ tan vang lên trong điện. Luyện Nhi kinh ngạc ngẩng đầu thì thấy bên má Tống Hành đỏ lên, thuốc đổ vung vãi khắp sàn.

Cảnh tượng khiến nàng hoảng hốt, định quỳ xuống cầu xin thay Thi Yến Vi.

“Ngươi cút.” Thi Yến Vi chỉ thốt ra hai chữ ngắn gọn.

Mặt Tống Hành biến sắc, nhưng chỉ vài hơi thở sau, nét u tối đó nhanh chóng biến mất, nhường chỗ cho một nụ cười hết sức khó hiểu.

Thi Yến Vi không sao hiểu nổi vì sao hắn bị đánh mà vẫn cười. Có lẽ, hắn thực sự là một người điên.

“Đợi nàng uống hết thuốc, trẫm sẽ đi.” Hắn mỉm cười, dặn Luyện Nhi sai người sắc thêm bát thuốc khác.

Lần này, để tránh nàng chống đối, hắn giao lại chén thuốc cho Luyện Nhi.

Trước khi rời đi, hắn sai người tháo xiềng xích trên chân nàng, dặn dò Giang Nghiên: Chỉ cần nàng không bước ra ngoài cổng cung này, thì không được phép giam giữ nàng nữa.

Từ đó, ngày nào Tống Hành cũng dành chút thời gian tới thăm nàng. Thi Yến Vi vẫn không thèm để ý đến hắn, nên hắn cũng chỉ ngồi một lúc rồi đi.

Ngày hôm đó, Tống Thanh Âm đến điện Huy Du, thỉnh an Thái hoàng thái hậu.

Thái hoàng thái hậu tuy niệm kinh gõ mõ, nhưng nét mặt khó tránh khỏi u sầu.

Tống Thanh Âm buột miệng hỏi một câu.

Thái hoàng thái hậu tìm được người liền trút bầu tâm sự, chẳng có gì ngoài việc Tống Hành chỉ một lòng đắm chìm vào vị nữ tử họ Dương kia. Đáng tiếc, nữ tử họ Dương lại là người cao ngạo, cứng cỏi, phản cốt trời sinh, nàng chỉ biết chống đối Nhị lang, vậy mà lạ lùng thay, Nhị lang chẳng những không phiền, mà còn hết mực mê luyến, đến nỗi chẳng thể thoát ra được. Điều này khiến bà không khỏi lo lắng.

Nữ tử họ Dương ấy ư? Tống Thanh Âm ngưng thần suy nghĩ, trong đầu liền hiện ra dung nhan mỹ miều của một giai nhân như đóa phù dung.

Trông nàng không giống kiểu sẽ mê hoặc lòng người.

“A bà không cần quá lo lắng, để nhi khuyên nhủ hoàng huynh.” Tống Thanh Âm nói xong, đứng dậy hành lễ, cáo biệt Thái hoàng thái hậu, ngồi lên bộ liễn, hướng về điện Triều Nguyên.

Bộ liễn dừng trước cửa điện, Tống Thanh Âm được người dìu xuống. Đám hoàng môn ở đây đã gặp nàng hai lần, vội quỳ xuống, kính cẩn nói: “Nô tài tham kiến trưởng công chúa.”

“Thánh thượng đang ở trong điện?”

Hoàng môn gật đầu, khom người làm tư thế mời: “Thỉnh trưởng công chúa vào, nô tài sẽ đi vào thông truyền.”

Tống Hành đã xử lý chính vụ trong điện được một lúc lâu, vừa vặn cũng đã thấm mệt. Nghe hoàng môn nói Trưởng công chúa Tấn Dương cầu kiến, hắn khép lại sổ con vừa phê, đặt sang một bên, rồi rời khỏi án thư, sai người đưa Tống Thanh Âm vào.

Gặp nàng, hắn liền bảo không cần đa lễ.

Tống Thanh Âm ngồi xuống đối diện hắn.

“Gần đây hoàng huynh tâm tình không tốt, phải chăng là vì nữ tử họ Dương kia?”

Tống Hành nghiêng đầu nhìn nàng, ánh mắt thâm sâu: “Muội vừa gặp a bà sao?”

Tống Thanh Âm thẳng thắn thừa nhận: “Nàng vốn là muội muội của ân nhân cứu mạng Tam huynh. Hoàng huynh dùng thủ đoạn để cưỡng đoạt nàng, nhưng chỉ biết trách móc nàng chống đối, sao không nghĩ đến lỗi lầm của mình đi?”

“Hoàng huynh thử đặt mình vào hoàn cảnh của nàng xem, nếu hoàng huynh không quyền không thế, bị người ta dùng thủ đoạn cưỡng ép, há lại không hận? Nếu hoàng huynh cứ từng bước ép buộc, sẽ chỉ đẩy nàng ngày một xa hơn.”

“Nếu hoàng huynh thật lòng thích nàng, muốn cùng nàng có cuộc sống êm ấm, sao không tiến từng bước một, thử nghĩ cho nàng nhiều hơn, hiểu và tôn trọng lý tưởng nàng, để nàng được làm những điều nàng thích? Cho nàng một chút hy vọng, lòng nàng có chỗ dựa, tự nhiên cũng sẽ thuận hơn.”

Tống Hành yên lặng nghe nàng nói xong, rơi vào trầm tư thật lâu mà không trả lời.

Thích nàng sao? Trừ nàng ra, đây là lần đầu tiên, hắn nghe thấy người khác định nghĩa tâm tư của mình đối với nàng theo cách này.

Muốn phủ nhận, nhưng cổ họng lại như bị nghẹn, hắn không thể trái lòng thêm được nữa.

Hắn không nên vướng vào tình yêu nam nữ. Thích, đến đây là đủ. Từ nay về sau, hắn chỉ thích nàng, không để phần tình cảm ấy biến thành yêu. Tống Hành đã dùng lý do đó để thuyết phục mình chấp nhận sự thật này.

“Lời của hoàng muội, trẫm sẽ cẩn thận suy nghĩ.”

Trong mắt Tống Thanh Âm, Tống Hành vẫn luôn khí độ ngời ngời, chưa bao giờ để lộ vẻ khó xử hay tâm tư u sầu trước mặt ai.

Tâm tư hắn dành cho nữ tử họ Dương, e rằng không đơn giản chỉ là thích. Lòng hắn, hãy để chính hắn tự nhìn thấu. Những gì nàng nên nói đều đã nói, nghe hay không, làm thế nào, tất cả đều tùy hắn.

Tống Thanh Âm thấy hắn dường như cũng chẳng muốn nghe thêm điều gì, nàng liền đứng dậy, hành lễ cáo từ.

Tống Hành không giữ nàng lại, chỉ trầm ngâm uống một ngụm trà, rồi lại cúi đầu phê duyệt tấu chương.

Tới giờ lên đèn, hắn mới dừng bút dùng bữa tối.

Sau đó, hắn rảo bước đến tìm Thi Yến Vi, không để cung nhân thông báo.

Nàng đang ngồi dưới cửa sổ viết gì đó.

Chợt nhớ lại, ẩn sĩ từng nói với hắn, Dương nương tử rất trân quý những bản thảo kia, khăng khăng đòi mang theo chúng mới chịu lên xe ngựa.

Tống Hành lặng lẽ bước tới cạnh nàng, đôi mắt thâm trầm quan sát từng nét chữ nàng đang viết.

Những dòng chữ ấy đang tái hiện lại cảnh sắc cùng tâm trạng trên đường từ thành Cẩm Quan trở về Lạc Dương.

“Nương tử yêu thích việc viết lách, chi bằng để trẫm phong nàng làm Thượng nghi chính ngũ phẩm, chuyên quản bút ký kinh thư, mỗi tháng nhận bổng lộc từ chính đôi bàn tay, nàng thấy thế nào?”

Hắn phong nàng làm nữ quan, chứ không phải phi tần của hắn.

Thi Yến Vi đoán không ra trong hồ lô của hắn đang có thứ gì, rốt cuộc chịu ngước mắt nhìn, nói câu đầu tiên sau nhiều ngày im lặng: “Người lại muốn làm gì nữa đây?”

Tống Hành không trả lời ngay, thay vào đó, hắn nắm lấy tay nàng, nhẹ nhàng đặt lên lồng ngực mình, giọng nói càng chân thành hiếm thấy: “Không làm gì cả. Trẫm chỉ mong Âm Nương có thể thử mở lòng chấp nhận trẫm. Từ nay về sau, trẫm sẽ cố gắng tôn trọng và thấu hiểu mọi suy nghĩ của Âm Nương, mong Âm Nương cho trẫm và chính mình một cơ hội, được không?”

Chấp nhận hắn sao, cả đời này tuyệt đối không thể. Thi Yến Vi thầm nghĩ, rồi bình tĩnh đáp: “Nhưng nếu như ta mãi mãi không thể chấp nhận người, và người cũng không làm được những gì mình nói, chẳng lẽ ta và người sẽ cứ dây dưa như thế cả đời sao? Ta mệt rồi, thật sự không còn đủ sức và dũng khí để đánh cược cả đời vào một lời hứa chẳng có gì bảo chứng.”

Lời nàng vừa dứt, ánh mắt Tống Hành cũng theo đó trầm xuống. Hắn nhìn sâu vào đôi mắt trong veo của nàng, rồi nói: “Năm năm. Chúng ta ước định năm năm. Nếu đến lúc đó nàng vẫn không thể chấp nhận trẫm, hoặc nếu trẫm đã có hoàng hậu, phi tần, không còn thích nàng nữa, trẫm sẽ buông tay. Được không?”
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 68: Dương Thượng nghi


Thi Yến Vi đã từng bị hắn lừa một lần, sao dễ tin hắn thế được. Khi nghe những lời đường mật từ hắn, nàng tự nhủ rằng đó chẳng qua chỉ là viên đạn bọc đường, tuyệt đối không được coi là thật. Vì vậy, nàng vẫn duy trì vẻ mặt điềm tĩnh, không để lộ bất kỳ cảm xúc nào.<b>
Tống Hành nhìn nàng, liền hiểu ngay nàng chưa yên tâm, cũng không tin tưởng hắn. Hắn bèn nói: “Nếu Âm Nương không tin, trẫm sẽ tự tay viết thủ dụ, đóng ngọc tỷ, giao tận tay Âm Nương giữ. Âm Nương đã yên tâm hơn chưa?”

Nghe đến đây, rốt cuộc Thi Yến Vi cũng có chút phản ứng. Nàng ngước nhìn hắn, ánh mắt dò xét, điềm đạm hỏi: “Thánh thượng đến có mang theo thánh chỉ và ngọc tỷ không?”

Tống Hành lắc đầu: “Trẫm sẽ dẫn nàng tới điện Triều Nguyên để lập. Sau này, khi không có ai khác, Âm Nương hãy gọi trẫm là Nhị lang hoặc là Quỳ Ngưu Nô, được chứ?”

Thi Yến Vi không đáp lại nửa vế sau, chỉ nhấn mạnh rằng nàng phải thấy thủ dụ đã được lập xong.

Nghe nàng nói vậy, Tống Hành cười khẽ, bất chợt bế nàng lên ngang ngực, sải bước đi thẳng ra khỏi điện.

Trương nội thị vốn luôn tỉ mỉ, tinh tế, thấy Tống Hành tự đi bộ đến đây, nên dù không cần dùng kiệu lúc trở về thì vẫn cho người chuẩn bị sẵn, chờ bên ngoài cổng cung.

Tống Hành vốn định bế nàng đi thẳng, nhưng Thi Yến Vi đã hạ giọng nhắc nhở: “Ta muốn làm nữ quan, không phải phi tần của Thánh thượng. Nếu cứ để người ôm ta thế này, sau này các cung nhân sẽ nghĩ sao về ta?”

“Không sao. Âm Nương chỉ cần vùi đầu vào lòng trẫm, họ sẽ không nhìn thấy gì cả.” Tống Hành dịu giọng động viên nàng.

Cảm giác được nàng khẽ lắc đầu từ chối, Tống Hành đành chiều ý nàng. Hắn bước lên kiệu, vẫn để nàng ngồi trên đùi mình, đôi tay ôm trọn lấy nàng.

“Trẫm đã nhượng bộ rồi.”

Kiệu được nâng lên, dập dềnh khi di chuyển. Rèm lụa buông xuống che mờ ánh mắt người ngoài. Nàng vùi mặt vào lớp áo vàng mềm mại của hắn, chẳng khác nào con đà điểu, cố gắng lánh xa thế gian.

Năm năm. Hắn dặn lòng, trong khoảng thời gian ấy, hắn nhất định sẽ khiến nàng cam tâm tình nguyện ở bên hắn, cùng hắn sinh con đẻ cái. Ngón tay Tống Hành vuốt nhẹ những sợi tóc đen tuyền của nữ lang, âm thầm tính toán trong lòng.

Kiệu dừng trước điện Triều Nguyên, Tống Hành bế nàng xuống, ôm chặt trong tay, bước thẳng vào nội điện.

Bảo Sênh đứng từ xa đã trông thấy cảnh này, thầm nghĩ phải tìm cơ hội báo tin này ngay cho Thái hoàng thái hậu.

Tống Hành sai người mang thánh chỉ và ngọc tỷ đến. Hắn không để bất kỳ ai hầu cận trong điện, tự tay mài mực, nhấc bút viết từng nét.

Bút pháp của hắn mạnh mẽ, cứng cáp, lưu loát như nước chảy mây trôi.

Thi Yến Vi chăm chú quan sát từng nét chữ rơi xuống tấm lụa. Khi hắn viết xong một đoạn dài hơn mười chữ, nàng ngắm đi ngắm lại hàng chữ, đề phòng hắn dùng lời lẽ để chơi khăm mình.

Đang mải nghĩ, Thi Yến Vi đã thấy Tống Hành mang ngọc tỷ đến, đặt vào tay nàng: “Âm Nương tự tay đóng dấu đi nhé?”

Ngọc tỷ này được chế tác từ một khối ngọc quý hiếm, hoàn toàn khác với ngọc tỷ truyền quốc vốn được khắc từ Hòa Thị Bích thời Tần. [1] Nhìn viên ngọc tỷ sáng bóng, mới tinh, nàng chợt nhớ đến việc Ai Đế của triều trước từng nhường ngôi ở cung Đại Minh, hẳn ngọc tỷ truyền quốc giờ đã nằm trong cung điện của nước Ngụy.

[1]

<i>[1] Hòa thị bích (chữ Hán: 和氏璧), có nghĩa “Ngọc bích họ Hòa”, là một viên ngọc nổi danh trong lịch sử Trung Quốc. Nó không chỉ nổi tiếng là một viên ngọc hoàn hảo, ghi nhiều dấu ấn trong lịch sử mà còn được sử dụng như một đối tượng trong nhiều thành ngữ ở các nước Đông Á.</i>

Thấy nàng có vẻ đăm chiêu, Tống Hành liền biết nàng đang nghĩ gì, bèn nói: “Có phải Âm Nương đang nghĩ đến ngọc tỷ truyền quốc có từ thời Tần? Tiếc rằng nó đã bị lão tặc Giang Tiều mang về Biện Châu. Nhưng nàng yên tâm, sớm muộn gì trẫm cũng đoạt lại được. Đến khi đó, trẫm sẽ đưa nó cho nàng thưởng lãm, nàng thấy thế nào?”

Đưa ngọc tỷ truyền quốc cho nàng thưởng lãm sao, nghe hắn nói thế, nàng chỉ thấy hắn đã điên thật rồi. Dù vậy, nàng vẫn giữ sự tỉnh táo, liền từ chối ngay: “Nếu Quỳ Ngưu Nô thực sự làm vậy, chẳng những không được các lão thần dưới trướng đồng tình, mà còn khiến ta bị xem là hồng nhan họa thủy, rồi mặc sức gièm pha, bôi nhọ.”

Tống Hành nghe xong chỉ cười khẽ, bàn tay không mấy an phận liền v**t v* làn da trắng như ngọc của nàng, từng ngón tay men theo những đường nét quyến rũ, lướt nhẹ đến nơi mê người nhất.

“Có trẫm ở đây thì chẳng ai dám buông lời nhục mạ Âm Nương. Nếu có lời đồn, trẫm sẽ để ẩn sĩ đưa tất cả ra đối chất.”

Thi Yến Vi cầm lấy chỉ dụ đã viết xong, liền lạnh nhạt đẩy tay hắn ra, trừng mắt trách: “Giữa ban ngày ban mặt, Nhị lang không muốn giữ lễ, nhưng ta vẫn cần thể diện.”

Nghe nàng mắng nhưng ý cười trên mặt Tống Hành càng sâu. Hắn bất đắc dĩ phải thu tay, nhưng cảm giác mượt mà ấm áp từ nàng vẫn còn vương lại trên lòng bàn tay hắn. Tống Hành nhìn gương mặt yêu kiều như đóa phù dung, khẽ cười: “Không ngờ, thánh chỉ của trẫm còn chưa hàng xuống mà Âm Nương đã có vài phần khí thế của một Thượng nghi rồi.”

Thi Yến Vi chẳng thèm để ý đến hắn, đứng dậy định giữ khoảng cách, nhưng lại bị cánh tay mạnh mẽ của Tống Hành kéo lại, ôm chặt vào lòng. Hắn cúi xuống, tiếp tục đặt bút phê duyệt chiếu thư khác.

Từ khi lên ngôi đến nay, Tống Hành vẫn chưa lập hậu, cũng chẳng kết nạp phi tần, thành ra chuyện hậu cung không ai quản lý, các vị trí nữ quan trong sáu cục hai mươi bốn ty còn trống rất nhiều. Nay phong nàng làm Thượng nghi, cũng không soán chỗ của ai.

“Ngày mai Âm Nương hãy làm quen trước đã, nếu thấy thích thì mùa xuân năm sau sẽ được tham gia ra đề, rồi làm giám khảo.”

Thi Yến Vi nhìn hắn cầm bút phê vào sổ con, cuối cùng cũng không nhịn được tò mò, hỏi thẳng điều mà nàng băn khoăn: “Quỳ Ngưu Nô định khi nào lập hậu?”

“Giờ này rồi mà Âm Nương vẫn còn tâm tư lo lắng thay người khác, xem ra đã khỏe hẳn rồi.” Hắn vừa nói vừa lần đến nút thắt bên eo nàng.

Thi Yến Vi ngay lập tức xoay eo tránh khỏi tay hắn, giọng nhỏ nhẹ nhưng dứt khoát: “Buổi sáng dậy đầu còn hơi choáng váng.”

“Có sao đâu, trẫm tự biết chừng mực.” Tống Hành để chiếu thư vừa viết sang một bên đợi ráo mực, tay luồn vào váy nàng, vén cao lên đến đầu gối. “Hôm nay Âm Nương nhận được bao nhiêu là lợi ích, cũng phải để trẫm hưởng chút ngọt ngào. Viết chữ lâu như vậy, cổ họng khô khốc lắm, Âm Nương phát chút từ tâm, thưởng trẫm có được không?”

Nói xong, hắn chẳng để nàng kịp phản ứng, tà váy mềm mại đã rủ xuống tận mắt cá chân.

Thi Yến Vi giận đến muốn giật lấy ngọc quan trên đầu hắn, nhưng nghĩ thế vẫn chưa đủ hả dạ, bàn tay luồn vào mái tóc đen nhánh, túm chặt đầu hắn.

Cuối thu ngả dần sang đầu đông, gió lạnh phả qua bắp chân, mang theo cảm giác se lạnh.

“Tống Hành, ta lạnh.” Thi Yến Vi không thèm nể mặt, bộc lộ rõ sự khó chịu dành cho hắn.

Dù ngoài miệng không đáp nhưng Tống Hành cũng sợ nàng nhiễm lạnh, liền hạ váy xuống, cánh tay rắn chắc dán sát vào đôi chân nhỏ bé của nàng.

Cung điện của hắn không thể gọi là xa hoa, mọi vật phẩm giá trị đều bị đưa vào quốc khố, chỉ giữ lại ít sách cổ và tranh chữ trong điện. Bộ thường phục màu đen trên người cũng là mang từ Thái Nguyên đến, dù chưa cũ nhưng cũng đã mặc qua nhiều ngày.

Bên cạnh hắn cũng không có hoàng hậu hay phi tần, hậu cung trống không, giảm thiểu được không ít chi phí. Hơn nữa, bản thân hắn cũng không có thói hoang phí, toàn bộ thành Tử Vi chỉ có khoảng một vạn cung nhân, so với bốn vạn của triều Huyền Tông thời trước, cắt giảm được không biết bao nhiêu lương thực, tiền bạc.

Phát hiện nàng đang mất tập trung, Tống Hành có chút bất mãn, càng ra sức lấy lòng để khiến nàng vui vẻ.

Suy nghĩ bị hắn cắt ngang, đầu óc trở nên nhẹ bẫng. Nàng hơi ngẩng cằm, ngón tay thu lại, kéo lấy sợi tóc đen của hắn.

Mãi đến khi mọi chuyện kết thúc, Tống Hành mới bế nàng từ trên án kỷ, ôm chặt trong lòng, ủ ấm nàng.

Nữ lang trong lòng mềm mại như nước, đôi mắt khép hờ, dường như đã thấm mệt, chỉ muốn chợp mắt đôi chút.

“Âm Nương vừa ra chút mồ hôi, rửa sơ đi đã rồi hẵng ngủ.” Tống Hành nói xong, sai người chuẩn bị nước, kiên nhẫn hầu hạ nàng tắm rửa, cuối cùng quyết định giữ nàng lại điện Triều Nguyên qua đêm.

Tống Hành bế nàng lên giường, đắp kín chăn, ngồi bên mép giường dịu dàng dỗ nàng ngủ.

Thi Yến Vi chỉ mới vừa khỏi bệnh nên vốn không có nhiều sức lực. Bị hắn trêu chọc một hồi, nàng khó tránh khỏi kiệt sức, vừa ngả lưng xuống thì đã mơ màng ngủ thiếp đi.

Thấy nàng đã ngủ say, lúc này Tống Hành mới yên lòng ra khỏi nội điện, nhấc nhẹ bước chân tới ngoại điện để phê duyệt tấu chương.

Đến giờ cơm tối, Tống Hành gọi Trương nội thị, lệnh hắn đến cục Thượng nghi tìm một gian phòng sáng sủa, sạch sẽ.

Trong nội điện, Thi Yến Vi tỉnh dậy, lật xem những cuốn sách cổ của Tống Hành để giết thời gian. Nhưng sách của hắn hầu hết đều là binh thư, chỉ xem được một lúc, nàng đã mất hứng, lại đặt sách xuống, cầm thủ dụ do chính tay Tống Hành viết, ngẩn người.

Đang lo lắng cho con đường phía trước, chợt nghe tiếng mở cửa truyền đến bên ngoài điện. Chỉ trong chốc lát, hình dáng cao lớn của Tống Hành đã hiện trong khung cửa, bóng hắn in xuống nền chiếm đi một mảng lớn.

Tống Hành đến để ăn tối cùng nàng.

Cung nhân bày biện từng món, Thi Yến Vi cầm đũa, vừa định gắp thức ăn thì chợt nghe Tống Hành nói: “Sau ngày mai, Âm Nương sẽ là Dương Thượng nghi của cục Thượng nghi, sẽ có phòng riêng để ở, chỉ e không tiện nghỉ lại điện Triều Nguyên.”

Thi Yến Vi hiểu ý hắn nói. Nàng không thể lưu lại điện Triều Nguyên, mà Tống Hành cũng không thể đến cục Thượng nghi, vậy là sau này nàng sẽ không còn phải ngủ chung với hắn, số lần phải làm chuyện kia tự nhiên cũng ít đi.

Tính ra, việc trở thành Thượng nghi quả thật là chuyện tốt không gì sánh bằng.

Nghĩ đến đây, Thi Yến Vi rốt cuộc cũng chịu thu lại vẻ mặt khó coi, ăn hết những món hắn tự tay gắp cho nàng, vậy nên nàng cũng không cần tự mình gắp đồ ăn nữa.

Nàng nhận thấy trên bàn bày đến tám món khác nhau, nhưng lượng thức ăn trên mỗi dĩa lại không nhiều. Hai người cố gắng một hồi, cuối cùng cũng ăn hết phần lớn.

So với những gì nàng từng đọc về bữa ăn của thế gia đại tộc hoặc hoàng thất cung đình được viết trong các tiểu thuyết lấy bối cảnh thời Minh và thời Thanh, Tống Hành quả thật rất tiết kiệm.

Nếu hắn có thể chọn được một hoàng hậu tâm đầu ý hợp, sớm quên nàng đi, chưa đầy năm năm đã thả nàng rời cung thì về sau, hắn làm đế vương, cai trị thiên hạ của hắn, nàng tự do đi tìm công chúa Tuyên Thành, xác minh thân phận của nàng. Đó sẽ là kết cục tốt nhất dành cho cả hai người.

Dùng xong bữa tối, Tống Hành lại dỗ nàng uống thêm một bát thuốc để bồi dưỡng sức khỏe. Thi Yến Vi lười nghe hắn lải nhải, bèn bưng bát uống cạn chỉ trong một hơi.

Tống Hành ngồi bên cạnh, lẳng lặng nhìn nàng uống hết. Sợ nàng thấy đắng, hắn vội dâng cốc nước ấm để nàng súc miệng, sau đó mang đến mấy quả mơ ngâm đường cho nàng ngậm, khử đi vị đắng. Hắn lấy bản thảo khỏi tay nàng, đặt lên án thư rồi dùng vật nặng đè lại, kế đó bế nàng lên giường, cúi người, quỳ dưới chân giường giúp nàng cởi đi giày tất.

Thi Yến Vi tự mình vén chăn, chui vào trong. Tống Hành cũng không chậm trễ, lập tức nằm lên, cả người không chút ngại ngần áp sát vào người nàng, ôm chặt rồi bắt đầu hôn xuống, g*m c*n phiến môi đỏ như chu sa.

Nàng bị hắn làm cho nghẹt thở, trong lòng thầm mắng con “trâu già” này vẫn chứng nào tật nấy, hành xử l* m*ng thật khiến người ta phải bực mình. Nàng bèn đưa tay lên đẩy vai hắn, muốn hắn dừng lại.

Tống Hành chẳng cần dùng sức đã có thể dễ dàng nắm lấy hai bàn tay nhỏ của nàng, vòng qua cổ hắn. Nụ hôn càng lúc càng sâu, đến khi khuôn mặt Thi Yến Vi đỏ bừng, phiến môi đỏ mọng, hơi sưng lên thì hắn mới chịu buông nàng ra.

Thi Yến Vi tức giận, đá vào đầu gối hắn một cái, giọng điệu bực bội: “Người tự đi lấy cái chăn khác mà đắp!”

Tống Hành chưa bao giờ bị người ta ghét bỏ và sai khiến như thế. Nhưng hắn lại không muốn rời khỏi mùi hương nhàn nhạt trên người nàng khi ngủ, trong lòng không tránh khỏi ấm ức. Định bụng thương lượng đôi câu, nhưng sợ chọc nàng phát giận, không còn cách nào khác, hắn đành ngoan ngoãn xuống giường, đến tủ tìm một cái chăn vừa phải ra đắp.

Không thể ôm nàng, hắn đành nằm gần nàng nhất có thể.

Có nàng ở bên, Tống Hành không còn gì phải cảm thấy lo lắng, chẳng bao lâu sau hắn cũng theo nàng chìm vào giấc mộng.

Hôm sau, Thi Yến Vi ngủ đến khi mặt trời đã lên cao ba sào thì mới chịu tỉnh dậy.

Từ sáng tinh mơ, Tống Hành đã đến Minh Đường để thiết triều. Vì sợ làm nàng thức giấc, thay triều phục xong liền ra ngoài điện rửa mặt.

Trong lúc Thi Yến Vi dùng bữa sáng, Trương Nội thị đã sai người đến cục Thượng nghi truyền lời, chỉ chờ nàng sắp xếp xong thì sẽ sang đó nhận chức.

Đồ vật trong cung không thể tùy ý lấy đi. Vì vậy, Thi Yến Vi chỉ mang theo những thứ mà Tống Hành sai người chuẩn bị cho nàng: vài món trang sức, sách vở, thoại bản cùng một ít kem dưỡng chăm sóc da.

Ở Biện Châu.

Thẩm Kính An huấn luyện binh sĩ đến tận chiều muộn, sau đó lại vào doanh trướng xử lý quân vụ, thu xếp đâu ra đấy thì mới thúc ngựa hồi phủ.

Ngày đông trời ngắn, giờ Dậu vừa qua, ánh hoàng hôn cuối trời đã dần tắt.

Không hiểu sao y lại nghĩ đến Lý Lệnh Nghi, không biết lúc này nàng đang làm gì, có phải cũng đang đứng dưới ánh tà dương mà nhớ về một người ở phương xa như y?

Nếu sau này có dịp, nhất định y sẽ lên núi Kính Đình thăm nàng một lần nữa.

Thẩm Kính An thúc ngựa một mạch tới trước cổng phủ, chưa kịp xuống ngựa thì đã thấy tiểu tư chạy ra nghênh đón, nói rằng Thịnh lang quân đang đợi trong chính sảnh.

Nghe vậy, Thẩm Kính An vội xoay người xuống ngựa, bước nhanh vào phủ, đi thẳng tới chính sảnh.

Thịnh Lăng vừa thấy hắn liền đứng dậy thi lễ.

“Có phải Thái Nguyên gửi tin tới không?”

Thịnh Lăng không đáp, dâng phong mật thư bằng cả hai tay.

Thẩm Kính An vội vã nhận lấy, mở ra đọc, hàng mày lập tức chau lại.

Nhị nương chỉ ở Tống phủ chưa đầy một năm đã rời đi, sau đó chẳng rõ vì sao lại theo Tống Hành từ Lạc Dương quay về, có ý gả cho Tống Hành làm thiếp, nhưng khi tiểu nương tử trong phủ xuất giá thì nàng lại bỏ đi, từ đó đến nay không rõ tung tích.

Thẩm Kính An xâu chuỗi những thông tin này trong đầu, cảm thấy với tính cách trầm lặng của Nhị nương, không thể nào lại bốc đồng đến mức từ bỏ sự che chở của Tống phủ giữa thời thế loạn lạc.

Hơn nữa, dù đã mất mẹ và anh trai nhưng nàng vẫn xuất thân từ họ Dương ở Hoằng Nông, nhận sự giáo huấn cẩn thận, đâu thể nào chỉ vì vinh hoa phú quý mà cam nguyện làm thiếp cho người.

Nghe nói Tống Hành kia tác phong bá đạo, ngạo nghễ bất tuân, không chừng chính hắn đã dùng thủ đoạn ép buộc Nhị nương. Lần đầu nàng rời khỏi Tống phủ hẳn cũng vì tránh xa hắn, nhưng không ngờ vẫn bị hắn tìm về.

Lần thứ hai, Nhị nương chắc chắn đã phải hao tổn tâm sức lắm mới có thể thoát thân.

Không biết giờ đây nàng đang ở phương nào, liệu có bị người của Tống Hành theo dõi sát sao? Nàng có biết về người cậu này không, có hay y đang ở nước Ngụy ngóng chờ nàng, rồi tìm cách đến đây, để cậu cháu hai người được đoàn tụ.

Nghĩ đến đây, Thẩm Kính An viết ngay một bức thư nhờ người gửi đến Thái Nguyên, đồng thời phái người tới Hoằng Nông và Tấn Châu điều tra tin tức.

Vì Thi Yến Vi là nữ quan được Tống Hành hạ chỉ thân phong nên đương nhiên Lưu Thượng cung cũng không dám lơ là. Bà đích thân đến đón nàng, dẫn nàng tới nơi ở mới trong cung.

Thi Yến Vi cảm ơn bà, sau đó chuyện trò vài câu. Lưu Thượng cung thấy nàng có vẻ e dè nên viện cớ bận việc để rời đi, có ý để lại không gian riêng cho nàng.

Chiều hôm ấy, dưới sự hướng dẫn của Vương Thượng nghi, Thi Yến Vi làm quen với công việc hàng ngày của một Thượng nghi. Bà khuyên nàng không cần vội vàng học hết mọi việc, chỉ cần làm quen dần là được.

Thi Yến Vi cẩn thận ghi lại từng lời bà nói, hôm sau bắt đầu từ những việc đơn giản nhất.

Mấy ngày liên tục trôi qua, nàng không hề gặp lại Tống Hành, tâm trạng cũng thư thái hơn hẳn. Mỗi lần gặp người trong cục Thượng nghi, nàng đều nở nụ cười chào hỏi.

Trong cung, đẳng cấp tôn ti rõ ràng còn khắt khe hơn so với lễ nghi ở Tống phủ. Mặc cho nàng nhiều lần dặn dò rằng nếu không có người ngoài thì không cần phải quỳ gối hạ bái mình, nhưng mỗi lần gặp nàng, họ vẫn cung kính hành lễ đúng quy củ.

Lâu dần, Thi Yến Vi biết không thể thay đổi được gì, đành thôi không nhắc nữa, chỉ đáp lại bằng cách chắp tay, hoàn lễ trước ngực.

Hôm ấy, Đặng Tư tịch mang tới danh mục kinh thư để nàng xem xét. Thi Yến Vi mải mê đọc đến nỗi quên cả giờ cơm trưa. Nếu không nhờ Diêu Tư tán để ý nàng chưa tới, giữ lại phần cơm, có lẽ nàng đã bị đói bụng.

Ngày đông trời ngắn, đến lúc Thi Yến Vi xem xong danh mục, xử lý ổn thỏa những việc khác thì bên ngoài trời đã chạng vạng. Dùng xong bữa tối, nàng tự xách đèn lồng ra ngoài tản bộ tiêu thực.

Đi qua một hòn giả sơn, bước xuống dốc, nàng chợt nghe thấy tiếng mèo kêu vọng ra từ bụi hoa phía trước.

Thi Yến Vi xách đèn tiến lại gần, thấy một con mèo hoang nhỏ màu vàng cam từ trong bụi nhảy ra, kêu “meo meo” với nàng, trông có vẻ đói bụng. Nhưng lúc này nàng chẳng có gì để cho nó ăn, đành nhìn nó một lúc, vừa ngắm vừa lẩm bẩm như trò chuyện, dặn nó ở lại đây chờ, nàng sẽ đi tìm đồ ăn mang tới. Nàng cũng chẳng để ý con mèo có hiểu lời mình hay không.

Dặn xong, nàng xoay người định đi, nhưng vừa ngẩng đầu đã thấy một bóng dáng cao lớn sừng sững hiện ra. Người đến mặc trường bào viên lĩnh màu vàng sáng thêu kim long ngũ trảo.

Là Tống Hành.

Không biết hắn đã theo nàng từ khi nào.

Thi Yến Vi bất giác nhớ lại đêm nọ ở Tống phủ, nàng gặp hắn và Phùng Quý bên bờ nước. Khi xưa, Phùng Quý thường theo hầu hắn. Nhưng giờ, Phùng Quý đã thành gia lập thất, mà kể cả không phải như thế thì cũng chưa chắc hắn đã muốn tịnh thân vào cung, tiếp tục hầu hạ Tống Hành. May sao, Tống Hành cũng không dùng hoàng quyền để cưỡng ép.

“Thánh thượng vạn phúc.”

Thi Yến Vi vẫn giữ nét mặt dửng dưng, bước lên hành lễ với hắn. Nhìn qua, nàng đối với hắn chẳng khác gì một mối quan hệ quân thần thông thường.

“Âm Nương.” Tống Hành dùng đôi mắt phượng chăm chú nhìn nàng, như thể đã rất lâu không gặp, hoặc như đang chiêm ngưỡng một báu vật hiếm có trên thế gian, khiến người ta chẳng thể rời mắt. Trầm mặc mất một lúc lâu, hắn tiến thêm hai bước, không chút giấu giếm mà thốt lên những câu từ chân thật: “Trẫm nhớ nàng, nhớ nàng, rất nhớ nàng.”

Đúng lúc này, con mèo lông vàng cam có vẻ đã đói không chịu nổi, bạo dạn tiến đến cạnh chân Thi Yến Vi, vừa vẫy đuôi vừa không ngừng kêu “meo meo”.

Thi Yến Vi thử bước mấy bước về phía trước, con mèo cũng lẽo đẽo theo sau. Khi biết chắc nó sẽ đi theo mình, nàng liền mặc kệ Tống Hành, bỏ qua hắn mà dời gót theo hướng khác.

Tống Hành không làm gì được nàng, chỉ có thể theo sau nàng một cách thầm lặng, giữ một khoảng cách không xa không gần giữa hắn với một người một mèo ở đằng kia. Vì sợ bị người khác bắt gặp, làm tổn hại đến thanh danh khi nàng đang là một Thượng nghi, trốn tránh một hồi, cuối cùng trèo tường, nhảy vào viện của nàng.

Đợi đến khi ăn no, con mèo liền trở mặt kiêu ngạo, không để Thi Yến Vi sờ đầu nữa mà vặn mình chạy mất.

Tống Hành nấp sau gốc cây chứng kiến hết thảy, thấy Thi Yến Vi quay vào nhà, hắn mới từ trong bóng tối bước ra, thong thả gõ cửa phòng nàng.

Thi Yến Vi vừa rửa sạch tay, nhìn thấy bóng dáng cao lớn chiếu lên cánh cửa, liền đoán ngay được là hắn, tim nàng bỗng đập nhanh hơn. Nàng nghiêm mặt, nói: “Trời đã tối, Thánh thượng đến vào giờ này quả thực không hợp lẽ.”

“Dương Thượng nghi, mở cửa ngay. Bằng không, trẫm cũng ngại việc hạ chỉ, triệu nàng vào điện Triều Nguyên diện thánh. Nếu làm vậy, nàng có thấy hợp lẽ hơn chăng?”

Giọng điệu của Tống Hành rất thản nhiên, thậm chí mềm mỏng, nhưng từng câu từng chữ đều thể hiện uy quyền áp đảo.

Ai chứ hắn thì rất có khả năng. Thi Yến Vi biết rõ điều này, không còn cách nào khác, nàng đành mở cửa cho hắn vào.

“Thánh…” Lời chưa kịp thốt ra, Tống Hành đã nhanh chóng ôm lấy hông nàng, kéo nàng vào lòng mình, đôi môi mỏng áp sát đôi môi đỏ như hoa đào của nàng, tay vừa khẽ động, cánh cửa liền khép lại.

Nụ hôn của hắn vừa mạnh mẽ vừa cuồng nhiệt, như muốn cướp lấy toàn bộ hơi thở của nàng.

Hắn quá cao, Thi Yến Vi bị ép phải nhón chân lên, ngửa cổ hết mức nhưng vẫn khó mà tiếp nhận nổi. Nàng lảo đảo không thể đứng vững, phải đưa tay bấu chặt vào cánh tay hắn.

Tống Hành lúc này mới nhận ra chênh lệch chiều cao giữa hai người, liền vòng tay đỡ lấy hông nàng, để hai chân nàng quấn quanh eo hắn. Một tay hắn giữ lấy lưng nàng, ghì chặt nụ hôn sâu, như muốn chiếm trọn mỗi một ngóc ngách trong khuôn miệng nhỏ nhắn của nàng.

Rất lâu sau, Tống Hành mới lưu luyến rời khỏi đôi môi nàng, hỏi: “Âm Nương có thích con mèo nhỏ vừa rồi không?”

Thích hay không, Thi Yến Vi cũng chẳng rõ, chỉ là khi đó thấy nó kêu rất đáng thương, muốn nó ăn no mà thôi.

Thi Yến Vi mơ hồ lắc đầu rồi lại gật đầu.

Ánh mắt Tống Hành càng thêm u ám, nhớ đến giấc mộng khi hắn hóa thành con mèo nhỏ, được nàng ôm ấp trong lòng.

“Đến một con mèo mới gặp mà Âm Nương cũng có thể yêu thích, thì liệu có thể yêu thích trẫm dù chỉ một chút hay không?”

Đối với câu hỏi này, Thi Yến Vi không hề đắn đo, thuận theo bản năng mà lắc đầu.

Tống Hành nhìn nàng, khóe môi khẽ nhếch lên một nụ cười tự giễu, đặt nàng xuống giường La Hán rồi bắt đầu c** th*t l*ng điệp tiệp.

Trong lúc bị hắn cưỡng hôn, nàng đã lường trước chuyện này nên không hề tỏ ra ngạc nhiên, vẻ mặt nàng vô cảm, lạnh nhạt đưa ra yêu cầu: “Sau khi xong việc, khẩn cầu Thánh thượng hãy ban cho ta một chén thuốc tránh thai. Thánh thượng chưa sắc lập hoàng hậu, chắc cũng không muốn để bên ngoài đồn đãi chuyện nữ quan có thai. Huống hồ, hiện tại ta đối với người hoàn toàn không có tình cảm, sao có thể cùng người sinh con đẻ cái? Nếu Thánh thượng thật lòng muốn thấu hiểu và tôn trọng ta, thì không nên ép buộc ta chuyện này.”

Tống Hành nghe xong, trầm ngâm một lúc, dù không đáp ứng yêu cầu của nàng nhưng vẫn nhường nàng một bước: “Loại dược đó tổn hại thân thể, không nên sử dụng lâu dài. Âm Nương vẫn chưa thích trẫm nên không muốn mang thai cũng là điều dễ hiểu. Từ giờ, trẫm sẽ không xuất vào trong. Đây là thỏa hiệp lớn nhất về phía trẫm.”

Dứt lời, áo bào vàng óng rơi xuống đất.

Lo nàng nhiễm lạnh, hắn không cởi bỏ y phục của nàng.

Lúc ấy mới qua canh nhất, còn chưa đến giờ đi ngủ. Thi Yến Vi sợ có người tìm đến, nếu thông thấy cái bóng hắt lên màn cửa thì còn ra thể thống gì nữa. Vậy nên, khi Tống Hành ôm nàng lên, buộc nàng choàng tay qua vai hắn, nàng đã vung tay đấm hai cái vào cánh tay hắn, bảo hắn đầu tiên phải thổi tắt đèn.

Ban đầu Tống Hành không muốn, nhưng lát sau vẫn chịu bế theo nàng đi thổi đèn.

Hắn cố ý đè nặng bước chân, khiến nhịp độ càng thêm xóc nảy.

Thi Yến Vi cúi đầu tựa vào vai hắn, nước mắt dâng lên, chỉ chực rơi xuống.

Tống Hành ôm nàng đứng bên cửa sổ, cúi thấp đầu, chỉ muốn cảm nhận nhiệt độ cơ thể nàng, hết sức kiềm chế không để nàng càng thêm chật vật. Giọng hắn mang theo chút hối hận cùng một chút ý tứ cầu xin: “Những ngày qua, trẫm không gặp được nàng, nghĩ về nhiều chuyện, chỉ thấy trước đây trẫm đã làm sai quá nhiều, khiến nàng đau lòng khổ sở… Trẫm thích nàng, thật sự rất thích. Trẫm chưa từng thích ai như vậy. Về sau trẫm sẽ đối tốt với nàng, bảo vệ nàng chu toàn. Âm Nương, nàng hãy thích trẫm, dù chỉ một chút thôi có được không?”

Hắn nói hắn sai. Đây là lần thứ hai Thi Yến Vi nghe hắn nhận lỗi với nàng. Giọng điệu nghe có vẻ còn tự trách hơn so với lần trước. Nhưng không phải lời xin lỗi nào cũng hữu dụng. Từng vết thương hắn gây ra, từng nỗi đau nàng phải chịu, tất cả đều ghi tạc trong tim, không thể xóa nhòa. Đừng nói là thích, ngay cả tha thứ hay quên đi, nàng cũng không làm được.

Những ngày qua, nàng đã làm quen với rất nhiều nữ quan ở sáu cục hai mươi bốn ty. Tuy tính cách khác biệt, nhưng tất cả đều tràn đầy kỳ vọng vào tương lai. Họ hoạt bát, nỗ lực, chăm chỉ, dùng sức mình duy trì hoạt động cả tòa Tử Vi thành. Những nữ tử ấy không hề thua kém những nam nhi thế gian, thật đáng để ngưỡng mộ.

Sau khi tiếp xúc và chung đụng với họ lâu ngày, tâm trạng Thi Yến Vi cũng dần thay đổi. Nàng không còn lo được lo mất, sợ sệt nhiều như trước, mà trở nên trầm tĩnh, bình thản hơn. Ngay cả khi đối mặt với Tống Hành, nàng cũng có thể xử sự điềm nhiên, không bị ảnh hưởng bởi cảm xúc tiêu cực. Lúc này giữa hai người chỉ như đang bàn bạc, nàng dùng lý trí vạch trần từng chuyện một, rành mạch, cương quyết: “Tống Hành, không phải mọi chuyện trên đời đều có thể bù đắp hay quên đi. Anh của ta vì cứu em của người mà phải bỏ mạng, người lại cưỡng ép ta, thật là thật là vô tình vô nghĩa, lấy oán báo ân. Giữa hai ta, người sai từ đầu đến cuối chỉ có mỗi mình người.”

Tống Hành nghe nàng lên án, nhưng không biện hộ, chỉ lặng lẽ ôm lấy nàng, dùng cách hắn cho là hiệu quả nhất để xác nhận rằng nàng vẫn ở bên hắn. Hắn vẫn còn cơ hội giành được trái tim nàng, để lòng hắn có thể dễ chịu hơn.

“Âm Nương, trẫm thích nàng.” Không giống trước đây, chỉ toàn nói những lời bông đùa để trêu ghẹo nàng, lần này, hắn chỉ lặp đi lặp lại những câu: “Trẫm thích nàng”, “Là lỗi của trẫm” hoặc: “Thích trẫm một chút thôi, được không?”

Sợ nàng vất vả đến mức ngày mai không dậy nổi, hắn cố nhịn xuống, chỉ đòi hỏi nàng một lần, cũng không lưu lại trong người nàng.

Nhưng dù là vậy, vẫn không tránh khỏi rơi lại một ít trên người Thi Yến Vi.

Nhận ra nàng đang dùng ánh mắt đầy chán ghét nhìn mình, Tống Hành giống như một đứa trẻ làm sai, luống cuống lấy khăn lau sạch cho nàng. Sau khi giúp nàng thay y phục, an ổn nằm nghỉ trên giường, hắn len lén rời khỏi, trèo tường thoát ra ngoài.

Sáng hôm sau, Tống Hành sai người tới Hoằng Nông, ban thánh chỉ phong Thi Yến Vi làm Thượng nghi chính ngũ phẩm, công bố với Dương gia. Thánh chỉ ấy chẳng khác nào một cái tát lên mặt Dương gia. Một nữ lang dung mạo như thế, lại bị coi như cỏ rác mà vứt bỏ.

Những chủ tử đứng đầu Dương gia khi nhận được thánh chỉ, ai nấy đều toát mồ hôi hột, hối hận không thôi, thầm nghĩ Nhị nương được Thánh nhân coi trọng, nếu nàng còn nhớ chuyện cũ mà kể điều gì đó trước mặt Thánh nhân, cả tộc sẽ không được hưởng trái ngọt mất.

Giữa tháng mười một, tiết trời lạnh giá, Thẩm Kính An nhận được tin Nhị nương được phong làm Thượng nghi, làm việc trong cung Triệu quốc.

Cùng lúc ấy, Lạc Dương có trận mưa tuyết đầu tiên.

Thái hoàng thái hậu nhân đó, lấy cớ thưởng tuyết để bày gia yến.

Cục Thượng nghi đảm nhận việc lễ nghi và sinh hoạt trong cung, do đó, Chung Thượng cung giao việc này cho Thi Yến Vi cùng Diêu Tư tán cùng phối hợp thực hiện.

Thi Yến Vi tra cứu điển tịch trong cung, định ra tiêu chuẩn tổ chức yến tiệc lần này. Chờ Diêu Tư tán lập bản kế hoạch chi tiết, nàng sẽ xét duyệt và đưa ra quyết định sau cùng.

Tống Thanh Hòa được phong làm quận chúa Thanh Hà, cũng nằm trong danh sách được mời dự yến.

Trước khi nhập cung, nàng đã nghe chuyện Thi Yến Vi được phong làm Thượng nghi, nên trong lòng vẫn luôn lấy làm thắc mắc: Dương nương tử chưa kịp gả làm nhũ nhân cho Nhị huynh đã bỏ đi, nhưng khi trở lại, không trở thành phi tần của Nhị huynh mà lại làm nữ quan trong cung?

Trong bữa tiệc, Tống Thanh Hòa khen ngợi cung yến lần này tổ chức rất chu toàn, đồng thời tỏ ý muốn gặp Dương Thượng nghi và Diêu Tư tán để ban thưởng.

Thái hoàng thái hậu vốn cũng muốn nhân cơ hội này thăm dò tâm tư của Tống Hành, phụ họa vài câu, sau đó sai người mời cả hai nàng đến.

Không lâu sau, Thi Yến Vi vận quan phục nữ quan cổ tròn màu đỏ thẫm, bước chân nhẹ nhàng, khoan thai tiến vào điện.

Thái hoàng thái hậu bảo hai nàng an tọa, trước tiên ban lời khen ngợi, sau đó ban rượu.

Diêu Tư tán vốn uống được rượu, mỗi dịp lễ tết thường cùng các nữ lang thân thiết chung vui, bèn cầm chén rượu lên uống cạn ngay tại chỗ.

Tống Hành yên ổn ở vị trí thượng tọa, biết rõ Thi Yến Vi không uống được loại rượu mạnh này. Ngày thường, chỉ hai chén rượu trái cây nhưng cũng đủ khiến nàng choáng váng đầu óc, huống hồ là loại rượu mạnh như thiêu như đốt này. Dù chỉ một ly cũng khiến nàng khó lòng chịu đựng nổi.

Bàn tay trong tay áo hắn siết thành quyền, gần như không thể kìm lòng, muốn lập tức sai người dọn rượu đi, hoặc đứng ra thay nàng nhận rượu. Nhưng dù làm gì đi nữa, chỉ e cũng sẽ khiến người khác sinh nghi. Miệng lưỡi thế gian đáng sợ. Hắn thân là thiên tử, không ngại kẻ khác đàm tiếu, nhưng nàng hiền lành như vậy, hắn không đành lòng để nàng vì danh dự tổn hại mà phiền muộn, sầu não.

Thái hoàng thái hậu cùng mọi người đồng loạt nhìn về phía Thi Yến Vi.

Hai luồng suy nghĩ trái ngược đan xen, rốt cuộc Tống Hành vẫn không thể trơ mắt nhìn nàng uống chén rượu kia. Ngay lúc nàng vừa đưa tay ra định nâng ly rượu lên, hắn liền đứng dậy.

Thế nhưng, Thi Yến Vi như đã sớm đoán được hắn sẽ làm gì, nàng không muốn bất kỳ ai trong lục cục biết được những khúc mắc giữa nàng và Tống Hành, bèn ngửa đầu, học theo Diêu Tư tán mà uống cạn chén rượu chỉ trong một hơi. Chỉ một thoáng sau, vị cay nồng đã làm nàng đau đến mức phải ôm lấy ngực, ho khan không ngừng.

Thái hoàng thái hậu quay sang nhìn Tống Hành. Thấy hắn ngồi xuống, môi mím chặt, lông mày nhíu lại, hai tay siết lấy ống tay áo, lộ rõ vẻ lo lắng và xót xa cho nữ tử họ Dương kia.

Nếu không phải Dương thị thức thời, chủ động uống hết chén rượu, chỉ e Nhị lang đã không kiềm chế được mà hành động hồ đồ, công khai bênh vực nàng trước mặt mọi người.

Thái hoàng thái hậu hơi nhíu mày, sắc mặt trầm nghiêm: “Dương Thượng nghi trông có vẻ không được khỏe, truyền lệnh chuẩn bị bộ liễn, đưa nàng về nghỉ trước đi.”

Diêu Tư tán không yên lòng, nhận thưởng xong liền cáo lui trước, vội vàng đến phòng của Thi Yến Vi để chăm sóc nàng.

Diêu Tư tán vuốt nhẹ lưng cho Thi Yến Vi, để nàng nôn ra một lượt, sau đó mang trà cho nàng súc miệng, dùng khăn lau mặt và tay, cuối cùng đắp chăn cẩn thận rồi mới chịu rời đi.

Chờ Diêu Tư tán đi xa, Tống Hành lập tức trèo cửa sổ vào trong.

Lúc này, đầu óc Thi Yến Vi đã không còn tỉnh táo, mơ hồ cảm nhận được một bàn tay to lớn, ấm nóng nắm lấy bàn tay nhỏ vốn không biết đã để lộ ra ngoài chăn từ lúc nào. Hơi ấm lan tỏa trên mu bàn tay, khiến nàng ngẩn ngơ nhớ lại hình bóng của một ai đó.

Sợ nàng bị lạnh, Tống Hành đặt tay nàng trở lại trong chăn. Nhưng ngay khi hắn định rút tay về, nữ lang nằm trong chăn lại kéo nhẹ lấy tay hắn. Đôi môi đỏ mọng khẽ mở, viền mắt đỏ hoe, vì say mà bắt đầu nói toàn những mê sảng:

“Trần, Trần Nhượng, đừng đi… Em không, không say, anh ở lại nói chuyện với em được không?”

“Trần Nhượng, đưa điện thoại cho em, em muốn gọi cho ba mẹ…”

<b>*</b>

* Giải thích về hệ thống nữ quan<i>Khái niệm về sáu cục hai mươi bốn ty: </i>

<i>– Sáu cục: Là sáu bộ trong triều đình cổ đại Trung Quốc, gồm các bộ quan trọng như Bộ Lại (công vụ), Bộ Hộ (tài chính), Bộ Lễ (nghi lễ), Bộ Binh (quân sự), Bộ Hình (hình sự), và Bộ Công (công trình, xây dựng).</i>

<i>– Hai mươi bốn ty (tư): Thường chỉ các cơ quan dưới quyền các bộ (cục) này. Mỗi bộ có những tổ chức con gọi là “ty”, làm việc về các lĩnh vực chuyên môn.</i>

<i>Cục Thượng Nghi một cơ quan trong hệ thống triều đình cổ đại Trung Quốc, chuyên phụ trách các công việc liên quan đến nghi lễ, lễ nghi và các nghi thức trong cung đình. Cục này thường thuộc bộ Lễ, một trong sáu bộ trong hệ thống quan chức của triều đình.</i>

<i>Thượng nghi: là chức Nữ quan ngũ phẩm, thuộc cục Thượng nghi, chưởng quản lễ nghi, đời sống hằng ngày trong cung.</i>

<i>Tư tán: có nghĩa là người phụ trách giúp đỡ và hỗ trợ trong các nghi lễ, lễ nghi hoặc công việc triều chính của hoàng gia. </i>

** Dương Quý Phi, Loạn An Sử và Sự sụp đổ của đế quốc Đại Đường<i>Đầu tiên phải kể đến Dương thị ở Hoằng Nông: Đây là một gia tộc mà hoàng tộc nhà Tùy nhận là tổ tiên, xuất phát từ Hoa Âm (nay là khu vực Hoa Âm, Thiểm Tây) Đây là mẫu tộc của Võ Tắc Thiên, phụ tộc của Dương Quý Phi, Dương Hoàn thời Đường Huyền Tông.</i>

<i>Triều đình nhà Đường, đặc biệt từ thời Đường Huyền Tông, ngày càng sa vào xa hoa, th*m nh*ng lan rộng. Các quan lại và gia đình quyền quý lạm dụng quyền lực, bóc lột nhân dân, khiến đời sống dân chúng trở nên khốn khổ. Để bảo vệ lãnh thổ rộng lớn, nhà Đường thiết lập các Tiết độ sứ (quan chỉ huy quân sự địa phương) có quyền tự trị cao, dẫn đến việc họ dần trở thành các thế lực cát cứ. Điều này làm suy yếu quyền lực trung ương. Thuế khóa nặng nề và thiên tai liên tiếp khiến nông dân nổi dậy khắp nơi. Hệ thống vận chuyển lương thực cũng không hiệu quả, dẫn đến mất ổn định kinh tế.</i>

<i>Về phía Đường Huyền Tông, dù từng đạt được những thành tựu rực rỡ, càng về già càng trở nên mê muội, chìm đắm trong sắc đẹp và tình yêu với Dương Quý Phi. Ông bỏ bê chính sự, giao quyền điều hành triều đình cho các đại thần và thân tộc của Dương Quý Phi, như Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quý Phi). Mâu thuẫn giữa Dương Quốc Trung và An Lộc Sơn (một Tiết độ sứ gốc Hồi Hột) ngày càng gay gắt, trở thành nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Loạn An Sử (755 – 763 SCN) </i>

<i>Cuộc nổi loạn này không chỉ là một cuộc chiến tranh mà còn là cú đánh chí mạng vào sự ổn định của nhà Đường. Sau khi đàn áp được cuộc nổi dậy, nhà Đường không còn khả năng khôi phục quyền lực trung ương mạnh mẽ. Sau Loạn An Sử, quyền lực của các Tiết độ sứ tăng mạnh, dẫn đến cát cứ địa phương và sự suy yếu của triều đình. Cuối cùng, nhà Đường sụp đổ vào năm 907. Dương Quý Phi đời vào năm 756, trong bối cảnh cuộc Loạn An Sử đang diễn ra. </i>

<i>Năm 756, khi quân nổi loạn của An Lộc Sơn áp sát Trường An, Đường Huyền Tông buộc phải chạy trốn cùng đoàn tùy tùng về phía tây, đến Mã Ngôi ( nay thuộc tỉnh Thiểm Tây). Trên đường chạy loạn, binh sĩ trong đoàn nổi loạn, yêu cầu xử tử Dương Quốc Trung, anh họ của Dương Quý Phi, vì cho rằng ông là nguồn cơn gây ra tai họa. Sau khi Dương Quốc Trung bị giết, quân lính tiếp tục yêu cầu xử tử Dương Quý Phi, cho rằng bà là người khiến Đường Huyền Tông trở nên mê muội, bỏ bê chính sự. Dưới áp lực, Đường Huyền Tông buộc phải ra lệnh xử tử Dương Quý Phi để xoa dịu quân đội. Bà bị ép phải tự tử bằng cách thắt cổ tại Mã Ngôi.</i>

<i>Nhà Triệu do nam chính Tống Hành lập nên diễn ra cùng lúc với giai đoạn nhà Đường sụp đổ. Chu Ôn (trong truyện là Giang Tiều) phế cựu hoàng đế triều Đường thành Tế Âm vương, đưa đến Tào Châu, cho binh sĩ canh chừng, đến năm 908 thì hạ độc sát hại cựu hoàng. Chu Toàn Trung lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Lương (sử gọi là Hậu Lương). Trong truyện, Giang Tiều lên ngôi, đặt quốc hiệu là Nam Ngụy.</i>

<i>Có thể nói lý do Thái hoàng thái hậu Tiết thị kiêng dè nữ chính (nguyên thân Dương Sở Âm) cũng vì nàng xuất thân từ Hoằng Nông Dương thị. Bà sợ nếu nam chính Tống Hành quá mức sủng ái nàng, thì sẽ đi vào vết xe đổ của triều Huyền Tông. (Chi tiết này từng được nhắc đến trong chương 59)</i>
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 69: Người trong lòng


Bàn tay mềm mại, trắng nõn của nữ lang áp lên da thịt hắn, hơi ấm từ lòng bàn tay truyền tới rạo rực. Cảm giác nóng ấm đó khiến mồ hôi túa ra trên trán Tống Hành, cổ họng khô rát. Thế nhưng lúc này hắn không có tâm trí nghĩ tới những ý niệm ám muội, chỉ vì từ chính miệng Thi Yến Vi, hắn nghe thấy rõ hai chữ “Trần Nhượng”.

Đêm đó tại biệt viện, nàng cũng từng nhắc tới chữ “Nhượng”. Người nàng nhìn thấy trong mộng hôm ấy, chẳng lẽ cũng là hắn?

Nàng vì mơ thấy hắn giết người mà hoảng sợ, thế nhưng lại gọi tên một người khác để xoa dịu nỗi bất an.

Trần Nhượng. Đây hẳn là tên của một nam nhân.

Nếu trong lòng nàng từ trước đến giờ luôn có bóng dáng của người đó, vậy hắn là gì? Chỉ là một kẻ dùng quyền lực cưỡng đoạt, chen ngang tình cảm giữa hai người họ hay sao?

Ý nghĩ đó vừa lóe lên, ánh mắt sắc như diều hâu của Tống Hành liền rơi trên gương mặt ửng hồng như đóa phù dung của Thi Yến Vi. Hắn muốn đánh thức nàng, hỏi cho ra nhẽ, nhưng đôi mày hơi nhíu lại của nàng bỗng khiến hắn mủi lòng.

Lửa giận trong lòng không có chỗ phát tiết, khiến ngực hắn như bị nén chặt lại. Hắn chỉ có thể miễn cưỡng thôi miên bản thân rằng, có lẽ “Trần Nhượng” chỉ là một người quen của nàng, chứ không phải ý trung nhân.

Tống Hành dằn xuống lửa giận trong lòng, sắc mặt u ám. Hắn gỡ tay nàng ra, không còn tâm trạng chỉnh lại chăn màn cho nàng nữa, chỉ muốn đứng dậy rời khỏi gian phòng này.

Nhưng nữ lang trong chăn chờ mãi không được người trong lòng hồi đáp, dường như đã mất sạch kiên nhẫn. Cảm nhận được sự xa cách của hắn, nàng bất chợt nâng người, nửa ngồi dậy, ôm chầm lấy hắn từ phía sau.

“Trần Nhượng, đừng đi, được không? Anh ôm em đi, em không muốn quay về bên tra nam đó… Anh dẫn em theo với, dẫn em rời khỏi nơi này, em không muốn ở lại đây.”

Khuôn mặt nhỏ nhắn của nàng áp lên lớp áo mềm, những giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống, thấm ướt vạt áo hắn.

Tên “tra nam” mà nàng nhắc đến… hẳn là hắn rồi.

Tống Hành chưa từng nghe qua từ này trước đây, nhưng dù không hiểu rõ ý nghĩa, cũng chẳng khó để hắn đoán ra đó không phải lời hay ý đẹp.

Nàng bảo hắn ôm nàng, đưa nàng đi. Nếu không phải ý trung nhân của nàng, thì đó có thể là gì?

Chút hy vọng cuối cùng bị chính nàng tự tay phá vỡ, hắn không còn lý do gì để tự lừa mình dối người nữa.

Cơn giận của Tống Hành bùng phát đến đỉnh điểm, ghen tuông cùng đố kỵ như ngọn lửa thiêu đốt toàn thân hắn. Họng hắn khô khốc, siết chặt bàn tay đang nổi đầy gân xanh, hắn bóp cằm nàng, nghiến răng chất vấn: “Dương Sở Âm, nói cho trẫm biết, nàng và Trần Nhượng quen nhau từ khi nào? Nàng đã đem lòng yêu hắn ta, phải không?!”

Thi Yến Vi đau đến hít mạnh một hơi, chẳng hiểu vì sao người luôn dịu dàng như Trần Nhượng lại trở nên nóng nảy như vậy. Nàng khẽ đưa tay chạm vào cổ tay hắn, dịu dàng an ủi: “Đừng giận mà, lần này để em ôm anh, hôn anh, có được không?”

Đôi mắt trong trẻo, long lanh ánh nước nhìn hắn chăm chú. Bóng dáng hắn in trong đáy mắt nàng, nhưng vẻ mặt của người trước mắt lại như biến thành Trần Nhượng. Chỉ là thần sắc kia… dường như có chút bất đồng.

Hẳn là đang trách nàng đột nhiên biến mất quá lâu chăng?

Thi Yến Vi đầu óc không mấy minh mẫn, ánh mắt phủ một tầng sương mờ, bản năng dẫn dắt nàng làm theo lời vừa nói. “Anh làm em đau rồi… Em không đi đâu cả, anh thả em ra trước đã, được không?”

Cảm giác từ lòng bàn tay nàng truyền đến khiến lý trí của Tống Hành dần quay trở lại. Hắn sợ làm nàng bị thương, vội vàng thu tay lại, đưa lên v**t v* má nàng. Hắn cố gắng kiềm chế cơn giận để không làm nàng sợ hãi, “Dương Sở Âm, mở to mắt ra mà nhìn cho kỹ, ta là ai?”

Thi Yến Vi dường như không nghe lời hắn, đôi tay mảnh khảnh vòng qua cổ hắn, nhẹ nhàng áp môi mình lên môi hắn.

Đây là lần đầu tiên nàng tự nguyện hôn hắn, nhưng lại là trong hoàn cảnh nhận nhầm hắn thành người khác.

Thứ mà trước đây dù hắn có cầu khẩn thế nào cũng không thể có được, nay lại mang đến cho hắn cảm giác thống khổ và nhục nhã sâu sắc. Như thể có một tấm lưới vô hình đã vây chặt lấy hắn, khiến hắn không thể thoát ra, càng giãy giụa càng thêm bất lực. Nỗi đau trong lòng thật khó để diễn tả, hắn gần như dùng hết sức lực để chặn đứng khát vọng đối với nàng, lạnh mặt đẩy nàng ra.

“Nói cho trẫm biết, người trước mắt nàng là ai?”

Ánh mắt Thi Yến Vi dần trầm xuống. Nàng không hiểu vì sao Trần Nhượng lại đối xử lạnh nhạt với mình như vậy. Trước đây, mỗi khi nàng chủ động hôn anh, anh đều ôm lấy nàng, đáp lại nàng, môi lưỡi quấn quýt không rời.

Đầu óc quay cuồng, nàng nâng tay ôm lấy gương mặt hắn, nghi hoặc hỏi: “Trần Nhượng, hôm nay anh làm sao vậy?”

Trần Nhượng, Trần Nhượng, Trần Nhượng. Hai chữ này gần như khiến hắn phát điên, như thể tim hắn bị vùi trên đống than hồng mà thiêu đốt. Ghen tuông bốc lên như ngọn lửa không thể dập tắt, hắn nghiến răng, nắm chặt cổ tay nàng kéo tay nàng ra khỏi mặt mình, nghiêm giọng quát lớn: “Nói cho trẫm biết, Trần Nhượng là ai? Hắn đang ở đâu?!”

Lực tay của hắn quá mạnh, cổ tay Thi Yến Vi đau nhói. Nước mắt lăn dài khóe mi, nàng giãy dụa muốn thoát ra, yếu ớt kêu thành tiếng ngắt quãng: “Đau…”

Tống Hành bị nàng quậy đến tâm phiền ý loạn. Hắn buông tay nàng ra, nhìn thấy trên cổ tay nàng hằn đỏ một vòng, dù biết nàng chưa thể tỉnh táo ngay, nhưng vẫn ngoan cố lặp đi lặp lại câu hỏi: “Trần Nhượng là ai?”

Thi Yến Vi bị hắn tra hỏi đến rối loạn. Nàng cố gắng hiểu câu hỏi của hắn, nhưng càng nghĩ, cơn đau đầu càng dội lên mãnh liệt. Thân thể trở nên mềm nhũn, bất giác nàng ngã nhào vào lòng Tống Hành.

Ngay cả khi nàng như vậy, cơn giận trong lòng Tống Hành vẫn không thể vơi nổi, hắn sầm mặt, nghiêm nghị nói: “Dương Sở Âm, đừng mong lừa được trẫm! Hôm nay trẫm nhất định phải…”

Thi Yến Vi thoáng ngẩng đầu, nhìn kỹ khuôn mặt hắn. Đó rõ ràng là dung mạo của Trần Nhượng, nhưng khí tức toát ra lại giống y hệt kẻ từng làm đủ những trò đồi bại đối với nàng. Những chuyện xấu xa hắn đã làm trước đây chợt ùa về, khiến nàng đau đớn nhắm chặt mắt. Nàng chỉ mong Trần Nhượng ôm lấy nàng, gần gũi với nàng, xua tan bóng ma mà Tống Hành để lại.

Nếu hai người thật sự tâm đầu ý hợp, chuyện đó có lẽ cũng có thể khiến nàng cảm thấy vui vẻ.

Hơi nóng lan tỏa khắp tứ chi, Thi Yến Vi hiếm khi chủ động, lần này lại đưa tay cởi áo.

Ánh mắt Tống Hành thoáng sầm xuống, hắn cúi đầu nhìn nàng. Hắn cố kiềm chế cảm giác bức bối trong người, sợ mình sẽ mất kiểm soát, sợ mình tự hạ thấp bản thân. Hắn nắm lấy tay nàng, giữ chặt lại, mồ hôi lấm tấm trên trán, không để nàng tiếp tục cởi y phục.

Thi Yến Vi không hiểu vì sao hắn không chịu gần gũi nàng, đôi mày thanh tú hơi nhíu lại, nàng thở nhẹ, giọng điệu oán trách: “Anh vẫn còn giận em sao?”

Hắn rốt cuộc thua kém kẻ kia ở điểm nào?

Tống Hành luôn kiêu ngạo tự phụ, làm sao dễ dàng buông tay. Hắn siết chặt đôi vai mảnh khảnh của nàng, cố chấp hỏi lại: “Người trước mặt nàng là ai?”

Dẫu vậy, câu hỏi ấy chẳng khác nào tự chuốc nhục vào mình.

Thi Yến Vi nâng gương mặt hắn, từ đôi môi đỏ mọng khẽ thốt ra hai chữ: “Trần Nhượng.”

Ngay khi âm thanh vừa dứt, cả người Tống Hành như rơi vào hố băng, cả người lạnh buốt, cõi lòng cũng nguội lạnh đến tột cùng… Là thiên chi kiêu tử, từ nhỏ đã cao quý tự phụ, từ khi nào hắn lại trở thành cái bóng của người khác, càng không thể chấp nhận việc làm thế thân.

Hắn muốn tàn nhẫn trừng phạt nàng, bắt nàng phải khóc trong vòng tay hắn. Nhưng khi ánh mắt hắn chạm vào đôi mày mắt của nàng, hắn lại không thể nào dùng thân phận của một kẻ khác cùng nàng hoan hỷ. Hắn chỉ có thể cúi đầu, nuốt đi giọt lệ lăn dài trên đuôi mắt nàng.

Giết hắn, chỉ cần giết người đàn ông tên là Trần Nhượng kia, khiến hắn biến mất khỏi thế gian, thì Âm Nương sẽ không còn vấn vương nữa. Đến lúc đó, nàng sớm muộn cũng sẽ thích hắn.

Tống Hành tự an ủi mình, hết lần này đến lần khác. Chỉ có như vậy hắn mới không phát điên, không làm tổn thương nàng.

Không biết vì sao, Thi Yến Vi mơ hồ cảm nhận “Trần Nhượng” đang ôm nàng lúc này như thể đang rất dằn vặt. Nàng chậm rãi đưa tay, khẽ vuốt lên đôi mày nhíu chặt của hắn, nhỏ nhẹ nói: “Không phải em về rồi đó sao? Anh đừng buồn nữa.”

Tống Hành không thể chịu được ánh mắt nàng nhìn xuyên qua mình để hướng về kẻ khác. Hắn gần như tuyệt vọng nhắm mắt lại, đôi môi mỏng di chuyển xuống, phủ lên đôi môi nàng, dễ dàng cạy mở khớp răng của nàng.

Nàng cũng rất thuận theo, đón nhận nụ hôn và sự quấn quýt của hắn, dịu dàng đáp lại.

Hai người triền miên hồi lâu. Khi Tống Hành bừng tỉnh, hắn nhận ra nữ tử say chưa tỉnh trong vòng tay dường như đã bị cơn buồn ngủ kéo đến. Nàng tựa lên vai hắn, mí mắt nặng trĩu, dần chìm vào giấc ngủ.

Lần đầu tiên Tống Hành và nàng cùng chung giường, nhưng hắn lại không ôm lấy nàng từ phía sau.

Triệu quốc giữ nguyên lệ cũ của tiền triều, hai ngày mới có một buổi triều sớm. Hôm nay vừa nghị sự xong, ngày mai không cần thượng triều, bởi vậy cả đêm qua, Tống Hành đều tá túc ở đây, không cần quay về điện Triều Nguyên.

Trong lòng như bị đè nặng bởi một tảng đá lớn, khiến hơi thở cũng trở nên nặng nề, hắn cứ trằn trọc như thế, phải đến khi trời gần sáng, bình minh vừa ló dạng thì hắn mới rơi vào giấc ngủ không sâu.

Trong giấc mộng, nữ lang hắn luôn đặt trên đầu quả tim khoác tay một nam tử xa lạ. Tống Hành không thể nhìn rõ khuôn mặt người kia. Hắn muốn tiến lên giành lại nàng, nhưng phát hiện bản thân không có hình dáng cụ thể, không cách nào cử động. Chỉ có thể trơ mắt nhìn hai người bọn họ thân mật, nói nói cười cười.

Hắn là gì chứ? Trong lòng nàng, hắn chẳng là gì cả.

Ngọn lửa ghen tuông bùng cháy hừng hực dường như muốn nuốt chửng hắn. Ngay cả trong giấc mơ, hắn cũng không được yên ổn, hai tay nắm chặt thành quyền, từng giọt mồ hôi lớn bằng hạt đậu treo đầy trên trán. Y phục trên người hắn đã bị mồ hôi thấm ướt từ khi nào chẳng hay.

Giết Trần Nhượng, giết hắn. Không thể để hắn tiếp tục sống trên đời này. Trong đầu Tống Hành chỉ có duy nhất suy nghĩ đó.

Ngoài trời, mặt trời bắt đầu lên, nhưng vẫn không thấy bóng dáng Thánh thượng bước ra. Trương nội thị chờ bên ngoài cục Thượng Nghi vội đến nỗi đi vòng vòng, nhưng lại không dám đường đột đến mời, cũng bởi Thánh thượng từng nhiều lần nghiêm lệnh, không được phép để thanh danh của Dương thượng nghi phải chịu bất kỳ tổn hại nào.

Ngày đông tuyết rơi, nền trời âm u. Thi Yến Vi ngủ một mạch đến giờ Tỵ hai khắc, chuyện tối qua nàng hoàn toàn không nhớ rõ. Chỉ mơ hồ nhớ rằng mình được đưa về bằng kiệu nhỏ, sau đó Dao Tư tán có ghé qua, trông nom nàng một lúc lâu.

Chén rượu tối qua quả thật quá mạnh, khiến đầu nàng lúc này vẫn còn ong ong.

Cổ họng khô rát, Thi Yến Vi lật chăn định xuống giường tự mình rót cốc nước uống, nhưng bất chợt nhận ra sau lưng tựa hồ còn có một người khác đang nằm, lòng nàng không khỏi giật thót. Nàng vội quay lại nhìn.

Tống Hành cũng thuận thế ngồi dậy, đôi mắt đầy tơ máu nhìn chằm chằm vào nàng, như chim ưng săn mồi chú mục vào con mồi tinh quái.

“Người…” Sao lại ở đây?

Lời còn chưa dứt, Tống Hành đã bất ngờ lao tới, tay mạnh mẽ bóp chặt cổ tay nàng, ánh mắt u ám, môi mỏng hé mở. Hắn gằn từng chữ như bức cung: “Nói cho trẫm biết, đêm qua, cái tên Trần Nhượng mà nàng nhắc đến là ai?”

Hóa ra, tối qua nàng đã nhận lầm hắn là Trần Nhượng, thậm chí còn buột miệng thốt lên cái tên ấy.

Thi Yến Vi giờ mới nhận ra chuyện này, trong lòng âm thầm giận dữ. Đáng lẽ tối qua nàng không nên uống ly rượu ấy. Nhưng dù nàng không uống, e rằng kết cục cũng chẳng khác là bao.

Hắn đã biết đến sự tồn tại của Trần Nhượng, vậy thì chi bằng nhân cơ hội này đâm thêm vài nhát vào tim hắn, để hắn cũng nếm trải tư vị bứt rứt không yên.

“Ngoài cha ta ra, Trần Nhượng là người đàn ông hiểu được tôn trọng ta, bảo vệ ta nhất. Chàng chưa từng làm tổn thương ta, cũng không như người tùy ý chà đạp ta. Chàng luôn chân thành, chu đáo với ta. Chúng ta tâm ý tương thông, chí hướng tương hợp, là hai con người đồng điệu về cả thể xác lẫn tâm hồn. Dù là ai cũng không thể chia cắt được chúng ta.”

Nói đến đây, nàng ngước mắt đón lấy đôi mắt sắc bén đang soi mói nhìn mình, tiếp tục một cách đầy kiên định: “Trong lòng ta, người vĩnh viễn không thể sánh bằng chàng dù chỉ một phần nhỏ. Thay vì tiếp tục lãng phí tâm trí vào ta, người nên buông bỏ thì hơn.”

Mặt Tống Hành sa sầm lại với tốc độ mà mắt thường cũng có thể nhìn thấy, đôi mắt lạnh lùng đến đáng sợ. Nhưng Thi Yến Vi giờ đây chẳng còn chút sợ hãi nào trước hắn, mặc cho cổ tay bị siết đến đau buốt. Nàng khẽ cười, giọng đầy khinh miệt:

“Tống Hành, với tính cách của người, nghe đến đây hẳn là đã có ý định giết chàng rồi chứ gì? Chỉ tiếc rằng chàng không còn trên đời này nữa, người không thể tìm thấy chàng, càng không thể giết được chàng!”

Ánh mắt nàng nhìn hắn như đang nhìn một trò cười. Đã có lúc, hắn cũng nhìn nàng như vậy. Nay hắn lại yêu nàng đến mức chẳng thể dứt ra, cũng chẳng thể làm được điều tương tự, thì đến lượt nàng nhìn hắn như trò đùa.

Ngay cả trong cơn phẫn nộ mất lý trí, Tống Hành vẫn không thể nào thực sự nhẫn tâm làm hại nàng, chỉ có thể gắng gượng giữ lại chút kiêu ngạo cuối cùng trước mặt nàng, nghiến răng, gằn giọng nói lớn: “Dương Sở Âm, nàng giỏi lắm! Dẫu nàng không nói cũng không sao, trẫm nhất định sẽ tự mình tìm ra kẻ đó và đích thân g**t ch*t hắn, cắt đứt triệt để vọng niệm hão huyền đó trong lòng nàng!”

Thi Yến Vi nghe hắn nói xong, không có lấy một chút dao động, chỉ bình tĩnh đáp lại:

“Người đã thích làm chuyện vô ích ấy thì cứ làm. Nếu Thánh thượng còn chút tự trọng, thì không nên cứ ép buộc mãi một nữ lang đã có người trong lòng, đã thế còn coi người như một kẻ thế thân. Làm vậy chỉ khiến bản thân người càng mất giá thêm mà thôi.”

Tống Hành bị nàng làm nghẹn lời, không thể phản bác, lặng lẽ buông cổ tay nàng ra, bước qua người nàng xuống giường. Hắn tự mình mặc áo, búi tóc qua loa, dùng nước đêm qua nàng rửa mặt mà lau rửa qua quýt, nét mặt lạnh lùng, không ngoảnh lại mà rời đi.

Y phục trên người hắn không đến nỗi nhếch nhác, nhưng búi tóc thì thực sự khó coi. Đám cung nhân gặp hắn trên đường, ai nấy đều nhạy bén nhận ra tâm trạng hắn hôm nay cực kỳ nặng nề, từ xa đã vội đứng lại hành lễ, không dám nhìn thẳng vào hắn.

Trương nội thị bám sát phía sau, gần như phải chạy theo từng bước, may thay hắn chưa đến bốn mươi tuổi, nên vẫn còn đủ sức khỏe.

Đến điện Triều Nguyên, Trương nội thị mới được dịp thở phào. Thấy sắc mặt người cực kỳ khó coi, trong lòng không khỏi thầm suy đoán, chẳng lẽ Dương Thượng nghi lại chọc giận Thánh thượng? Rõ ràng mấy ngày trước quan hệ giữa người và Dương nương tử kia vẫn xem như tốt đẹp. Mỗi lần gặp nàng xong, người đều khó giấu vui mừng, không như trước đây, mỗi lần rời khỏi chỗ nàng thì đều giận dữ bừng bừng, mặt mày cau có.

Đúng lúc ấy, cung nhân mang y phục sạch sẽ mới giặt đến, Trương nội thị mới sực nhớ ra y phục Thánh thượng đang mặc không chỉnh tề, chắc hẳn là vì đêm qua ở chỗ Dương Thượng nghi nên không thay đồ. Hắn đánh bạo mang khay y phục vào điện, dè dặt hỏi xem Tống Hành có muốn tắm rửa thay đồ không.

Tống Hành, không biết trút giận vào đâu, ngồi trên ghế thiền, trong lòng tràn đầy cảm giác đau khổ. Có lẽ vì đêm qua không ngủ được, nên huyệt thái dương của hắn giờ đây đau âm ỉ. Khi vừa ngẩng đầu lên, hắn liền nhìn thấy chiếc khay sơn đen chạm trổ bên trong đựng bộ áo lót do chính tay Thi Yến Vi may. Một nụ cười tự giễu chợt nở trên môi hắn.

Đó chỉ là thứ nàng dùng để lừa gạt hắn, hoàn toàn không phải thật lòng may cho hắn mặc. Trong mắt nàng, hai món y phục ấy chẳng đáng một xu. Vậy mà hắn lại trân quý đến mức không nỡ mặc thường xuyên, còn cẩn thận giữ gìn ở trong tủ.

Đến mức tự đa tình như vậy, đúng là quá hèn mọn rồi.

Cơn đau nơi trán càng lúc càng trầm trọng. Tống Hành tiện tay hất bộ triều phục màu vàng sáng đè lên hai món y phục kia, cầm lấy chúng, định xé tan tành để trút giận.

Và rồi, Trương nội thị trông thấy một cảnh tượng quỷ dị đến khó tin. Thánh thượng cầm hai món y phục lên, nhiều lần định xé, nhưng mỗi lần đều dừng lại ngay tức khắc, sau đó lại nắm chặt trong tay hồi lâu. Cứ thế lặp đi lặp lại, cuối cùng vẫn đặt chúng xuống nhẹ nhàng.

“Cút ra ngoài chuẩn bị nước tắm.” Tống Hành nhẫn nhịn cơn đau đầu, ra lệnh xong, chỉ cảm thấy mọi thứ trong phòng đều chướng mắt. Dù đang giữa mùa đông, trên người hắn vẫn lấm tấm mồ hôi. Hắn đứng dậy đi đến cửa sổ, mở toang ra để đón luồng gió lạnh, hai tay siết chặt bệ cửa sổ, suy nghĩ rối bời.

Hồi nàng ở Hoằng Nông và Tấn Châu, tuổi còn nhỏ, làm sao biết được thế nào là tình yêu nam nữ. Do đó, Trần Nhượng mà nàng nhắc đến, rất có khả năng là quen biết khi sống ở Văn Thủy.

Tống Hành bình tĩnh lại, sau khi thông suốt điều này, liền lệnh cho người truyền Bất Lương Soái vào yết kiến.

“Dương Sở Âm, trẫm nhất định phải giết hắn.” Tống Hành nhắm mắt lại, hít sâu một hơi, cố gắng không để cơn giận và sự ghen ghét làm rối loạn tâm trí, dẫu vậy, hắn cảm thấy nghẹn ứ nơi cổ họng. Hắn rút thanh trường kiếm trên giá, chạy ra ngoài, lia loạn lên thân cây phù dung.

Nhánh cây cùng lá khô lẫn vào tuyết đọng, vương vãi đầy đất, Tống Hành lạnh giọng phân phó cung nhân dọn dẹp sạch sẽ, rồi cắm phập thanh kiếm xuống đất, chẳng buồn để ý vỏ kiếm đã bị hắn vứt bậy ở nơi nào.

Trong phòng tắm.

Tống Hành nhíu mày, ngâm mình trong nước, quên cả việc dùng đậu tắm làm sạch cơ thể, thậm chí chẳng màng tìm tư thế ngồi thoải mái. Hắn cứ thế tựa vào thành thùng gỗ.

Trước khi ẩn sĩ tìm được Trần Nhượng, đưa đến trước mặt để hắn tự tay kết liễu, hắn sẽ không gặp lại Dương Sở Âm nữa.

Tống Hành nghĩ vậy, nhẹ nhàng khép mắt, để đầu óc và suy nghĩ trống trơn.

Suốt hơn một tháng sau đó, Tống Hành quả thực nhẫn nhịn không đến tìm Thi Yến Vi. Mỗi ngày chìm trong công vụ, hắn cố gắng khiến bản thân bận rộn đến mức không còn thời gian để nghĩ ngợi. Nhưng ngay cả như vậy, triều thần vẫn nhạy bén nhận ra tâm trạng của Thánh thượng gần đây không được tốt, chẳng ai dám mạo hiểm để tự chuốc lấy xui xẻo. Tất cả những chuyện có thể khiến Thánh thượng nổi giận đều được tránh tuyệt đối, dù vậy vẫn có kẻ không may đụng trúng vảy ngược, đến mức phải quỳ trước Thái hoàng thái hậu, nhờ bà bênh vực vài lời thì mới giữ được mạng.

Trương nội thị là người tỉ mỉ chu toàn, mỗi ngày hầu cận bên cạnh, chẳng mấy mà nhận ra Thánh nhân ngày càng không muốn đến gặp Thái hoàng thái hậu, cũng không muốn nghe những lời khuyên răn của bà. Người miễn cưỡng đến thăm chỉ vì đạo hiếu, đối đáp qua loa cho có mà thôi.

Cho đến đêm mồng một Tết, Thánh thượng tựa hồ không còn nhẫn nại thêm được nữa.

Trương nội thị thấy người rảo bước về phía cục Thượng nghi, lập tức sai người dọn đường, đảm bảo không có kẻ không phận sự nào lai vãng gần nơi ở của Dương Thượng nghi.

Lúc đó, Thi Yến Vi vừa cùng Vương Thượng nghi, Diêu Tư tán chơi trò phi hoa lệnh, uống rượu nếp nên gương mặt hơi ửng hồng. Nàng cầm đèn lồng, lững thững quay về chỗ ở.

Nhờ sự sắp xếp của Trương nội thị, Thi Yến Vi được phân một viện nhỏ khá độc lập và hẻo lánh, bình thường rất ít người lui tới nếu không có việc gì.

Khi đi qua núi giả ngoài viện, nàng bất ngờ bị một lực kéo mạnh giữ lấy cánh tay, gần như bị người ta giật vào trong khe núi giả.

Chiếc đèn lồng lục giác bằng vải lụa trong tay rơi xuống đất, lòng Thi Yến Vi kinh hoàng, hé môi định gọi người thì đã bị Tống Hành chặn lại. Hắn thâm nhập vào môi nàng một cách bá đạo, khiến nàng không kịp phản ứng.

Dưới ánh trăng, nhìn rõ người trước mặt là hắn, nàng lập tức vùng vẫy, dùng toàn bộ sức lực vung tay tát mạnh vào má phải của hắn.

Tiếng bạt tai trong đêm tối tĩnh mịch càng trở nên vang dội.

Giữa mùa đông lạnh lẽo, khi máu huyết tuần hoàn chậm lại, cảm giác đau đớn thường bị khuếch đại. Nhưng Tống Hành dường như hoàn toàn không cảm nhận được, hắn tiếp tục giữ lấy khuôn mặt nàng, lại cúi xuống hôn sâu, kiên quyết không để nàng trốn thoát.

Sợ lưng nàng bị đá giả sơn làm trầy xước, hắn dễ dàng nâng nàng vòng qua eo mình, dùng lớp y phục để che chắn mọi thứ.

Thi Yến Vi ngửa cần cổ thon dài trắng nõn, hai tay níu chặt vạt áo nơi bờ vai hắn. Trước khi kịp mắng, Tống Hành đã ghé sát bên tai nàng, trầm giọng cảnh cáo: “Âm Nương, nếu muốn mắng, tốt nhất hãy tranh thủ sớm đi. Bởi lát nữa, trẫm sẽ khiến nàng không nói được nên lời.”

“Hoặc nàng cứ mắng thật lớn, để mọi người ở đây đều biết quan hệ giữa chúng ta. Sau này cả sáu cục đều sẽ tôn nàng làm chủ, ngay cả Thượng cung cũng chẳng dám hó hé gì trước mặt nàng.”

Thi Yến Vi ghét việc bị hắn chạm vào, “Tống Hành, ngươi thật ti tiện đến mức ta chỉ muốn n…”

Nhưng chữ cuối cùng còn chưa kịp thoát ra, Tống Hành đã hung hăng làm tới, khiến nàng quả thật không thể mắng được một câu hoàn chỉnh.

Một lúc lâu sau, Tống Hành ôm nàng từ núi giả bước ra, từng bước nặng nề tiến vào viện, rồi lại đặt nàng lên bên khung cửa sổ, giam cầm nàng không chút thương tiếc.

Ngoài kia, màn đêm thăm thẳm. Thi Yến Vi mệt mỏi đến cực điểm, mơ hồ bị hắn ôm lấy một lần nữa. Tiếng pháo hoa nổ rền rĩ bên tai, Tống Hành lòng đầy hân hoan, ôm nàng đến dưới mái hiên, nhưng vẫn không nỡ buông tay khỏi người nàng.

“Ba năm rồi, Âm Nương. Đã ba năm kể từ lần đầu trẫm và nàng gặp nhau. Đây là Nguyên Nhật đầu tiên mà chúng ta cùng trải qua. Trẫm sẽ mãi nhớ khoảnh khắc này, ngày hôm nay, giờ phút này, nàng vẫn thuộc về trẫm.”

Thi Yến Vi mệt đến mức không còn sức ngẩng đầu nhìn pháo hoa, thay vào đó lại cúi xuống, cắn mạnh hắn, giục hắn mau kết thúc.

Ngắm pháo hoa được một lát, Tống Hành lại ôm nàng quấn quýt thêm hai khắc đồng hồ mới chịu dừng lại, cẩn thận chỉnh lại xiêm y cho nàng, để nàng gọn gàng thư thái.

Đêm ấy, hắn ở lại qua đêm tại phòng nàng. Hắn ôm lấy nàng, đặt tay nàng lên vùng ngực gần hai vết sẹo cũ, giọng nói đầy phấn khích: “Đây là vết sẹo thứ ba mà nàng để lại cho trẫm, cũng là vết sẹo mà trẫm yêu thích nhất.”

Nghe xong, Thi Yến Vi chỉ thấy bệnh điên của hắn ngày một trầm trọng. Nàng lười đôi co với hắn, để mặc hắn áp tay nàng lên lồng ngực hắn. Nhịp đập mạnh mẽ truyền từ đó qua lòng bàn tay, nhưng trái tim nàng lại không hề xao xuyến. Chỉ một lúc sau, nàng chìm vào giấc ngủ.

Cảm nhận được nữ lang trong lòng đã ngủ say, Tống Hành sợ nàng bị tê tay nên cẩn thận đặt tay nàng về chỗ cũ, sau đó tìm một tư thế quen thuộc để ôm nàng, rồi mới yên lòng đi ngủ.

Đêm ấy vì náo động quá lâu, Tống Hành chỉ ngủ được hai khắc đồng hồ, sau đó dậy sớm, lặng lẽ rời đi, đến điện Triều Nguyên chỉnh trang, chuẩn bị cho buổi đại triều hội.

Từ mùng một đến mùng bảy, mỗi đêm Tống Hành đều không nghỉ tại điện Triều Nguyên, mà lẻn vào phòng Thi Yến Vi bám chặt lấy nàng. Dù Thi Yến Vi luôn kiên quyết không cho hắn chạm vào, cũng chẳng hề tỏ ra thân thiện, nhưng hắn không hề nổi giận, với hắn, chỉ cần được ôm nàng ngủ đã là quá đủ rồi.

Chớp mắt, tết Nguyên Đán đã qua, lễ Thượng Nguyên liền tiếp nối ngay sau đó. Tống Hành tiếp kiến vạn dân trên thành Tử Vi. Lần đầu tiên, hắn nảy sinh ý muốn để nàng sóng vai đứng bên cạnh, cùng đón nhận tiếng reo hò chúc tụng của muôn dân.

Sau Thượng Nguyên, đông qua xuân đến.

Từ mồng một Tết, Thẩm Kính An thúc ngựa vượt đường đến núi Kính Đình ở Tuyên Châu. Khi trở về Biện Châu thì hay tin Giang Tiều đã tập trung mười vạn đại quân, lợi dụng lúc đất Thục còn tàn dư của họ Vương gây rối, tướng thủ của Tống Hành ở vùng này chưa vững chân, muốn bắc thượng đoạt lấy Nguỵ Bác, khiến nước Triệu không kịp trở tay.

Chiến sự dường như sắp bùng nổ. Thẩm Kính An nhận lệnh lãnh binh xuất chinh.

Ban đầu, Tống Hành vốn định ngự giá thân chinh, nhưng bị các lão thần do Tiết Thái phó dẫn đầu kịch liệt phản đối, cho rằng nước Triệu lập quốc mới được mấy tháng, trong nước không thể một ngày không có vua. Trước mắt nên để Vệ tướng quân dẫn quân chi viện, tùy theo diễn biến chiến sự rồi mới quyết định sau cũng không muộn.

Tống Duật, Thái hoàng thái hậu và Trưởng công chúa đều lần lượt đến khuyên, lúc này Tống Hành mới miễn cưỡng từ bỏ ý định.

Cuối tháng hai, tin dữ từ tiền tuyến truyền về: con trai trưởng của Tống Vi Lan, nữ nhi độc nhất của Tiết phu nhân là Tiêu Thừa Sách đã chết dưới đao của Thẩm Kính An. Tiên phong Tiết Phụng cũng bị hắn đánh bại, mất đi một cánh tay.

Tống Hành biết tin, không còn dám xem nhẹ Thẩm Kính An, liền sai người điều tra lai lịch hắn.

Tháng Ba xuân ấm, hai bờ Hoàng Hà bắt đầu hứng chịu từng đợt mưa lớn. Nước lũ hoành hành, cả nước Triệu và Ngụy đều bị ảnh hưởng nặng nề, dân chúng sống ven sông lâm vào cảnh khốn cùng, than trời trách đất.

Giờ không phải thời điểm hợp lý để khai chiến. Thẩm Kính An suy xét kỹ càng, soạn một phong thư cho người cưỡi ngựa ngày đêm chuyển gấp về Biện Châu, đề nghị tạm thời đình chiến, nghị hòa, đợi đến khi đôi bên nghỉ ngơi, hồi sức rồi cùng Triệu quốc nhất quyết thư hùng <i>(phân cao thấp) </i>sau cũng chưa muộn.

Giang Triều lắng nghe lời khuyên của triều thần, cũng đồng tình với ý kiến này, bèn phái sứ giả mang thư nghị hòa đến nước Triệu.

Tống Hành tiếp kiến sứ giả Ngụy quốc, sau khi xem qua thư, đưa ra điều kiện: Thẩm Kính An phải đích thân đến kinh đô Triệu quốc, Lạc Dương, để bàn việc hoà đàm.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 70: A cữu


Thi thể của Tiêu Thừa Sách được đưa về Lan Lăng, Tiêu gia chọn ngày lành tháng tốt để hạ táng.

Thái hoàng thái hậu vì muốn an ủi con gái duy nhất, đã thỉnh cầu Tống Hành ban thêm thực ấp cho hoàng cô Đại trưởng công chúa Tống Vi Lan, đồng thời thăng chức cho thứ tử của nàng, Tiêu Thừa Cảnh, thành quan tứ phẩm ở kinh thành.

Tống Hành thuở nhỏ từng được vị hoàng cô này che chở, giữa hai người vốn có chút tình thân. Lại thêm Thái hoàng thái hậu nhiều ngày qua vì chuyện này mà phiền muộn, hắn bất đắc dĩ phải đồng ý. Tuy nhiên, vì Tiêu Thừa Cảnh tư chất tầm thường nên chỉ được ban một chức quan nhàn tản.

Tống Vi Lan chỉ còn duy nhất người con trai này, không dám mơ ước xa vời. Nàng chỉ mong con mình có thể bình an sống đến cuối đời. Một chức quan tứ phẩm an nhàn, vừa có không ít bổng lộc, vừa tránh xa vòng xoáy quyền lực, đủ để bảo toàn cho hắn, sao nàng có thể không hài lòng?

Tiêu Thừa Cảnh từ Lan Lăng lên đường đến Lạc Dương nhậm chức. Tống Vi Lan nhận được ý chỉ của Thái hoàng thái hậu, theo hắn cùng đến Lạc Dương, tạm thời trú tại cung của Thái hoàng thái hậu.

Tình hình chiến sự ở tiền tuyến ngày càng căng thẳng, Tống Hành không có tâm tư để ý đến những chuyện khác. Ngay cả yến tiệc tiếp đón cũng bỏ qua, chỉ gặp Tống Vi Lan và Tiêu Thừa Cảnh mỗi một lần tại cung Thái hoàng thái hậu.

Đêm ấy, hai mẹ con họ nhắc đến Tiêu Thừa Sách, không khỏi đau đớn khôn cùng, khóc đến nước mắt giàn giụa.

Giờ khắc này, họ dường như không phải là Thái hoàng thái hậu và Đại trưởng công chúa cao quý, mà chỉ là người bà, người mẹ mất đi người cháu, người con của mình.

Sơ Vũ nhìn cảnh tượng này, mắt cũng đỏ hoe. Nàng kìm nén nước mắt, cẩn thận mang khăn đến cho hai người lau mặt, nhẫn nại khuyên nhủ hồi lâu. Mãi đến lúc ấy, họ mới ngừng khóc.

Gần đây, ngoài nỗi lo vì chiến sự và thiên tai, trong lòng Tống Hành bỗng dâng lên một dự cảm không mấy rõ ràng, những cảm xúc khó tả đó khiến hắn ăn không ngon, ngủ không yên. Chỉ khi được gặp được nàng, giai nhân hắn luôn đặt nơi đầu trái tim, hắn mới cảm thấy nhẹ nhõm phần nào.

Thế nhưng, từ đầu xuân đến nay, nàng không chỉ cố ý tránh hắn mỗi ngày mà còn không thèm nói chuyện với hắn. Dù là trên giường, hắn hành xử khép nép, trăm phương ngàn kế lấy lòng, nàng vẫn chẳng dành cho hắn sắc mặt cùng nụ cười dễ coi.

Nàng vốn là người dịu dàng, tính tình mềm mại, nhưng nếu bị hắn ép quá, nàng cũng sẽ tức giận, đấm thình thịch vào ngực, vào vai hắn, mở miệng mắng hắn không phải người.

Tống Hành lại vô cùng thích bộ dạng nàng như vậy, khi không còn là tảng đá vô tri trước mặt hắn. Mỗi lần như thế, hắn đều mặt dày đưa mặt lại gần, để nàng đánh vào mặt cũng không sao, chỉ cần nàng chú ý nhẹ tay, đừng để ai nhận ra là được.

Nếu có người để ý, chắc hẳn họ sẽ nhận thấy rằng, tuy mỗi ngày Dương Thượng nghi đều bận rộn công vụ nhưng phần lớn thời gian vẫn giữ được tâm trạng khá tốt. Thân hình vốn gầy guộc của nàng giờ đã có phần đầy đặn hơn, khuôn mặt cũng tròn trịa hẳn ra.

Ngược lại, vị Thánh thượng cường tráng khôi ngô, có lẽ vì lao tâm quốc sự, thường xuyên cau mày trước mặt quần thần, thân hình dường như gầy đi vài phần.

Mãi đến khi sứ giả nước Ngụy đến cầu hòa, hàng chân mày của Tống Hành mới tạm giãn ra, tiếp sứ giả nước Ngụy tại Minh Đường.

Vị Võ An hầu Thẩm Kính An, người đã công phá hai trấn Trấn Hải và Tuyên Hấp, một tướng tài thành danh khá muộn, cũng là người hắn rất muốn gặp. Hắn bèn đặt điều kiện gặp người này để đồng ý hòa đàm.

Sứ giả lập tức phi ngựa hồi báo về Biện Châu.

Ngay đêm hôm đó, Giang Tiều triệu Thẩm Kính An vào cung.

Đã hơn năm mươi tuổi mới có được một vị tướng kiệt xuất như vậy, nếu lần này y gặp bất trắc, Giang Tiều biết đi đâu để tìm một người thay thế y nữa đây?

Thẩm Kính An nhìn ra vẻ khó xử của Giang Tiều, liền mở lời trước: “Thánh thượng có điều gì xin cứ nói thẳng.”

Giang Tiều nghe vậy, hàng mày đang nhíu lại càng siết chặt hơn: “Tống Hành muốn khanh đến Lạc Dương hòa đàm.”

Lạc Dương. Đúng lúc y cũng dự định đến nơi ấy, vừa hay nhân cơ hội đưa Nhị nương sớm trở về nước Ngụy, để y có thể bảo vệ nàng chu toàn.

Thẩm Kính An đoán được Giang Triều e ngại điều gì, lập tức ôm quyền trần tình:

“Thánh thượng không cần lo lắng cho thần. Cổ nhân có câu: “Lưỡng quốc giao binh bất trảm lai sứ”. Cho dù quốc quân nước Triệu có hận thần vì đã lấy mạng Tiêu Thừa Sách, phế đi một cánh tay của Tiết Phụng, thì cũng chỉ có thể đường đường chính chính lấy mạng thần trên chiến trường. Chẳng nhẽ hắn lại hạ mình thực hiện những hành động ti tiện ngay trong địa giới nước Triệu?”

Dứt lời, Giang Tiều vẫn còn do dự. Ông ta từng có giao tình sâu đậm với Tống Lâm, nhưng lại không mấy quen thuộc với tính cách của con trai ông ta, vị quốc quân hiện tại. Nếu người đang tại vị là Tống Lâm, ông ta sẽ không ngần ngại phái Thẩm Kính An đi hòa đàm. Nhưng với một Tống Hành có tiếng là ngoan độc, nhẫn tâm, ông ta khó mà yên lòng được.

Thẩm Kính An nhìn thấy trên mặt ông ta vẫn còn nét lưỡng lự và kiêng dè, nhưng cuối cùng vẫn quỳ gối xuống, chân thành nói: “Vị quốc quân nước Triệu kia tuy thủ đoạn tàn nhẫn, nhưng cũng không phải hạng tiểu nhân đê hèn. Dân chúng Bắc địa đã hết lòng ủng hộ phụ tử bọn họ, trong tay hắn cũng có không ít lương tướng trung thành quy thuận, hẳn là phẩm tính cũng có chỗ tương đồng. Thánh thượng cứ an tâm, thần đi chuyến này nhất định không phụ sự ủy thác, mang theo hòa ước trở về Biện Châu bình an vô sự.”

Giang Tiều thấy y đã quyết ý ra đi, cuối cùng cũng hạ quyết tâm, cúi người đỡ y đứng dậy, cao giọng nói:

“Tri Dật chưa bao giờ khiến trẫm thất vọng, trẫm tự nhiên tin tưởng khanh. Chỉ là, ngoại nhân đều nói tiểu tử Tống Hành lòng dạ thâm sâu, không giống như phụ thân hắn, hào sảng cương trực. Chuyến đi này, khanh nhất định phải thật cẩn thận.”

Thẩm Kính An lại dập đầu cảm tạ ba lần, lúc này mới chịu đứng lên.

Ngoài cửa sổ, ánh trăng đã lên đến đỉnh trời, còn chưa đến giờ cài then đóng cửa. Giang Tiều liền gọi y ngồi xuống, tự tay rót một chén trà, lại hỏi thăm về đứa cháu gái lưu lạc bên ngoài của y.

Chuyện đưa người từ cung Triệu quốc về hẳn nhiên không thể giấu giếm. Nếu giờ vì chỉ vì tránh nghi ngờ mà che đậy, sau này có lời đồn không hay, ngược lại khó bề biện giải, chỉ làm mối quan hệ quân thần thêm xa cách.

Nghĩ vậy, Thẩm Kính An đặt chén trà xuống, nói thật: “Thần thay mặt cháu gái Nhị nương của thần cảm tạ Thánh thượng đã quan tâm. Thú thật với Thánh thượng, cháu gái thần hiện đang làm nữ quan trong cung Triệu quốc. Chuyến này thần cũng muốn đón nàng về Ngụy quốc. Nếu Thánh thượng không yên tâm, thần có thể an trí nàng nơi khác, không để nàng ở lại phủ của thần.”

Giang Tiều nghe vậy, có ý ban ơn để hắn một lòng trung thành với Ngụy quốc, bèn nói: “Cháu gái khanh lưu lạc bên ngoài bao năm, hẳn chịu không ít khổ sở. Trẫm sao nhẫn tâm để các khanh chia cắt thân nhân? Nếu Tri Dật tin tưởng nàng, tất nhiên có thể để nàng ở lại phủ chăm sóc.”

Thẩm Kính An vừa nghe xong, lập tức lại muốn quỳ xuống tạ ơn, nhưng Giang Tiều nhanh chóng khoát tay ngăn lại, ra hiệu không cần đa lễ. Sau khi cùng y uống trà, trò chuyện đôi câu, ông ta mới sai nội thị tiễn Thẩm Kính An xuất cung.

Thẩm Kính An ra khỏi hoàng cung, lên ngựa trở về phủ.

Gió xuân về đêm mát lành sảng khoái, Thẩm Kính An thuận tay mở cửa sổ, lấy ra miếng đệm đầu gối do chính tay Lý Lệnh Nghi may, nhìn về hướng núi Kính Đình, ôm chiếc đệm trong tay, v**t v* hết lần này đến lần khác.

Không hiểu sao, lòng y bỗng bình yên lạ thường. Thậm chí y có một linh cảm rằng, chuyến này trở về từ Triệu quốc, chẳng bao lâu nữa y sẽ gặp được nàng.

Tối đó thu xếp hành trang xong xuôi, sáng sớm hôm sau, trong buổi thiết triều, Giang Tiều ban cho Thẩm Kính An một ngàn tinh binh tháp tùng, hẹn giờ Thìn ngày kế tiếp sẽ cùng khởi hành từ Biện Châu, lên đường đến Lạc Dương bàn chuyện hòa đàm.

Ba ngày sau khi Thẩm Kính An xuất phát, Tống Hành nhận được một phong mật báo.

Mọi thông tin về cuộc đời của Thẩm Kính An, dù nhỏ nhặt đến đâu, đều bị ẩn sĩ đào bới đến tận gốc rễ. So với con đường công danh của hắn, Tống Hành lại quan tâm hơn đến quãng thời gian Thẩm Kính An sống tại Tấn Châu.

Không ngờ, hắn lại chính là cậu của Dương Sở Âm.

Hai người họ tuy không có quan hệ máu mủ, nhưng tình cảm giữa hắn và mẫu thân nàng lại thân thiết như chị em ruột thịt cùng mẹ sinh ra.

Tống Hành không sao dùng lời để diễn tả tâm trạng của mình lúc này.

Bên tai hắn dường như lại vang vọng những lời cay nghiệt mà nàng thốt ra ngày hôm đó: Anh trai nàng từng cứu em trai hắn, còn hắn thì lấy oán trả ân, lại còn cưỡng đoạt nàng.

Còn giờ thì a cữu nàng lại đoạt mạng trưởng tử của hoàng cô hắn…

Đây có tính là báo ứng không?

Tống Hành lặng lẽ đốt tờ thư ấy trên giá nến, vị trí hai bên thái dương bắt đầu co giật.

Nếu nàng biết chuyện này, nhớ lại trên đời mình còn có một người cậu, liệu nàng có bất chấp tất cả mà rời bỏ hắn, rời xa nơi này?

Cơn đau ở trán ngày càng lan rộng. Tống Hành khép mắt đầy thống khổ.

Đây là hoàng thành nước Triệu. Chỉ cần hắn không thả nàng đi, cả đời nàng đừng mong bước ra khỏi thành Tử Vi dù chỉ nửa bước. Hắn thực sự không cần phải lo lắng đến vậy. Nhưng, hắn lại chẳng khống chế được bản thân, không thể ngừng nghĩ đến điều này.

Trên đời này, ngoài nàng ra, không còn ai có thể xoa dịu nỗi đau cùng cảm xúc hỗn loạn trong lòng hắn lúc này.

Cục Thượng nghi.

Thi Yến Vi dùng xong bữa tối, mang một ít công việc còn dang dở trở về phòng xử lý.

Ngòi bút trong tay không ngừng di chuyển, bỗng nghe ngoài bậu cửa sổ truyền đến tiếng mèo kêu.

Nghe tiếng ấy, nàng liền nhận ra đó là con mèo mướp lông vàng hôm nọ.

Nàng liền đặt cây bút lông sói xuống, lấy ra mấy miếng cá khô đã nhờ người ở ngự thiện phòng làm riêng, nhoẻn cười bước ra ngoài.

Dưới ánh trăng, bóng dáng một người một mèo đổ dài trên nền đất.

Thi Yến Vi v**t v* bộ lông mềm mại của nó, rồi khẽ gãi gãi vùng đầu và phần lông mềm nơi cổ. Con mèo sau khi ăn no liền ở lại lâu hơn thường lệ, để nàng thỏa thích vỗ về.

Phía sau, từ lúc nào đã xuất hiện một bóng người cao lớn. Thi Yến Vi hoàn toàn không hay biết, đợi đến lúc con mèo mướp rời đi, nàng quay người định về, lúc này mới bắt gặp hắn.

Ý cười trên mặt lập tức đông cứng chỉ trong nháy mắt. Thi Yến Vi làm như không thấy, đi thẳng vào phòng.

Tống Hành theo sau nàng bước vào, còn chưa kịp khép cửa, hắn đã nôn nóng ôm chầm lấy nàng từ đằng sau.

Thi Yến Vi vốn cho rằng hắn tìm đến là để phát tiết, tự biết chống cự cũng vô ích, nên chẳng buồn phản kháng, chỉ xem bản thân như một khối gỗ, giọng điệu lạnh lùng: “Thánh thượng làm nhanh cho xong, thần còn công vụ còn chưa xử lý hết.”

“Âm Nương, chỉ cần kỳ hạn năm năm chưa trọn, nàng sẽ không rời khỏi trẫm, đúng không?”

Thi Yến Vi không hiểu tại sao hắn đột nhiên hỏi như vậy. Dù nàng muốn rời đi, nhưng đất dưới chân này chẳng phải vẫn là đất của vương triều hay sao? Không có sự cho phép của hắn, nàng làm sao thoát ra được?

Có lẽ hắn lại phát điên, thay đổi cách thăm dò ý nghĩ chân thật trong lòng nàng. Nàng đành phải tùy tiện đối đáp cho qua, miễn cưỡng thốt ra hai chữ: “Sẽ không.”

“Trẫm đã biết Âm Nương nhất định là người giữ lời, không nỡ đối xử tàn nhẫn với trẫm như thế.” Từng lời của Tống Hành như lời tự nhủ, vừa nói vừa xoay người nàng lại, bế bổng nàng lên, nâng nàng ngang tầm rồi cúi xuống, chiếm lấy phiến môi mềm mại, đỏ như chu sa.

Suốt bốn tháng qua, hắn chịu khó học hỏi, tham khảo không ít sách vở tạp thư, không còn giống như trước đây, chỉ biết dùng sức mà chẳng quan tâm đến cảm nhận của nàng. Giờ đây, hắn làm mọi thứ bài bản hơn, hiếm khi khiến nàng bộc lộ vẻ đau đớn.

Nếu hắn có thể khiến nàng thỏa mãn, thỉnh thoảng nàng cũng sẽ mở lòng từ bi, thưởng cho hắn vài tiếng ngâm khẽ.

Tống Hành đặt nàng lên bàn, rời khỏi đôi môi nàng, rồi cúi người xuống. Sự khô rát trong miệng hắn dịu lại, cơn đau đầu cũng dần thuyên giảm.

Không biết tự lúc nào, cả hai đã nằm trên giường La Hán. Tống Hành ôm lấy nàng, hỏi: “Nếu nàng thích con mèo đó, sao không giữ nó ở viện của mình, như vậy sẽ được gặp nó thường xuyên hơn?”

Đôi mắt Thi Yến Vi phủ một màn sương mờ, hơi thở ngắt quãng, đáp lời từng chút một: “Nó quen tự do ngoài kia rồi. Nếu thực sự muốn ở lại đây, nó tự khắc sẽ không rời đi. Nó không chịu ở, tức là nó không muốn. Ta mà ép buộc, dù lấy danh nghĩa vì nó, cũng chỉ là mặc kệ ý nguyện của nó, thế thì khác nào nhốt nó vào một cái lồng lớn hơn.”

Tống Hành thừa hiểu ý tứ trong lời nói của nàng. Hôm nay nàng chịu nói với hắn nhiều như thế, chẳng qua là mượn chuyện mèo để bóng gió, chỉ trích hành động của hắn mà thôi.

“Âm Nương, trẫm thật lòng thích nàng. Chỉ cần nàng muốn, trẫm có thể lập nàng…”

Nhưng chưa đợi hắn nói hết, Thi Yến Vi đã dứt khoát ngắt lời: “Ta không muốn. Mong Thánh thượng đừng quên giao ước giữa hai ta.”

Hắn cố gắng níu giữ, nhưng thứ muốn giữ lại lại không cách nào giữ được. Ngay nơi lồng ngực, vết sẹo nàng để lại bỗng trở nên ngứa ngáy, đau rát. Tống Hành đặt tay nàng lên vết sẹo ấy, siết chặt eo nàng, nói khẽ: “Được, trẫm giữ lời. Trẫm sẽ không hỏi nữa.”

Bàn tay nàng cảm nhận được từng nhịp tim hắn, bình ổn, vững vàng. Thi Yến Vi thấy phiền, muốn rút tay lại, nhưng Tống Hành cố chấp không cho, còn dùng một tay áp chặt bàn tay mềm mại của nàng, ánh mắt lộ rõ vẻ cầu xin.

“Âm Nương, tin trẫm lần này được không? Trẫm sẽ thay đổi vì nàng. Trẫm sẽ không thua kém Trần Nhượng, mọi điều nàng muốn, trẫm đều sẽ dâng lên bằng cả hai tay.”

Nhịp tim hắn không hề tăng lên, chứng tỏ hắn không hề nói dối. Nhưng điều nàng muốn không phải kỳ trân dị bảo, cũng chẳng phải quyền thế hay danh lợi, mà là tự do, vừa vặn lại thứ hắn không thể cho nàng.

Thi Yến Vi đờ đẫn để hắn giữ tay mình, không đáp một lời.

Khoảnh khắc đó, nàng thoáng thấy trong ánh mắt Tống Hành là vẻ thống thiết, bi thương.

Chỉ là thoáng qua rất nhanh, nhưng nàng biết mình không nhìn nhầm.

Biểu cảm ấy, trước đây nàng từng có vô số lần. Hắn cũng từng thấy, nhưng lại chọn cách ngó lơ, vì thế, điều nàng đáp lại hắn cũng chỉ là sự phớt lờ.

Tống Hành suy nghĩ rối bời, tâm sự nặng nề, nhất thời lơ đãng, phản ứng chậm mất nửa nhịp.

Thi Yến Vi dường như cũng không nhận ra, chỉ đẩy vai hắn, giục hắn mau rời đi.

Tống Hành mặt dày quấn lấy nàng, lại vòng tay ôm lấy lưng nàng, dò hỏi: “Âm Nương, ngày mai không cần thượng triều, trẫm ở lại đây canh giấc cho nàng có được không?”

Thi Yến Vi dần mất kiên nhẫn, đưa tay vỗ nhẹ lên mặt hắn, nuốt lại lời muốn đuổi cổ hắn đi, chỉ nói: “Thánh thượng nếu còn muốn có lần sau, thì tốt nhất đừng nói thêm gì nữa.”

Nói xong, nàng bày ra vẻ ghét bỏ kéo tay áo hắn ra, đứng dậy rời khỏi người hắn.

Tống Hành muốn nói lại thôi, sợ làm nàng phật ý. Mấy ngày nay, khó khăn lắm mới khiến nàng chịu nói nhiều hơn với hắn một chút. Nếu lần sau nàng lại không thèm đoái hoài gì đến hắn, chẳng phải bao công sức đều sẽ đổ sông đổ biển hay sao?

Nghĩ vậy, Tống Hành đành nén lại cơn bực còn chưa kịp bùng phát, quay về điện Triều Nguyên đi thẳng vào phòng tắm, ngâm mình trong nước lạnh, tự tìm cách giải tỏa.

Mấy ngày sau, sứ đoàn nước Ngụy đặt chân đến Lạc Dương.

Lưu Thượng cung vốn có ấn tượng tốt về Thi Yến Vi, nhận xét nàng vừa chịu khó vừa chu đáo, nên việc tiếp đãi sứ đoàn vẫn giao cho nàng cùng Dao Tư tán đồng phụ trách, thêm Dư Tư khách hỗ trợ quản lý và đối chiếu thông tin quan khách.

Hôm sau, dạ yến được tổ chức tại điện Cam Lộ trong cung Thượng Dương.

Cuộc hòa đàm diễn ra khá suôn sẻ. Ước chừng thêm một, hai ngày nữa là hiệp ước có thể ký kết, sơ bộ đề ra là hai bên đình chiến mười năm, mở rộng giao thương.

Thẩm Kính An tự biết công tư không thể lẫn lộn, vì vậy tại Minh Đường, y không nhắc đến Nhị nương trước mặt Tống Hành.

Tuy nhiên, yến tiệc đêm nay không bàn chính sự, lại có quan viên hai nước làm chứng, đây hẳn là thời cơ tốt để đề cập đến chuyện đó.

Từ lời nói đến sinh hoạt hàng ngày của Tống Hành đều được Ký Cư lang ghi chép lại, còn của Thái hoàng thái hậu thì do nữ quan thuộc cục Thượng nghi phụ trách. Theo lý, việc này không cần đến tay Thượng nghi làm. Chẳng qua Nguyễn Tư tịch gặp kỳ nguyệt sự, thân thể không khỏe. Thi Yến Vi thấy vậy liền giúp nàng đảm nhận công việc này.

Nhân lúc Thái hoàng thái hậu chưa lên tiếng, Thi Yến Vi thò nhẹ nửa cái đầu ra từ sau tấm bình phong, nhanh chóng quan sát mọi người trong phòng một lượt, cuối cùng ánh mắt dừng lại trên người Tống Hành.

Hắn vận một bộ cổn phục màu đen tuyền mười hai chương văn, trên đầu đội mũ miện có rèm châu bằng bạch ngọc che khuất nửa khuôn mặt, khiến người ta không nhìn rõ biểu cảm hay dung mạo của hắn. Bộ y phục trang trọng ấy càng tôn thêm vẻ uy nghiêm, không giận tự uy, chỉ cần nhìn thoáng qua cũng khiến người ta sinh lòng áp lực.

Tống Hành chưa bao giờ ăn mặc như vậy trước mặt Thi Yến Vi. Mỗi lần đến tìm, hắn đều thay thường phục và búi tóc gọn gàng, có lẽ vì sợ nàng sẽ thêm phần sợ hãi và kháng cự, khó lòng thích ứng được.

Đôi mắt trong veo của Thi Yến Vi chỉ lướt qua người hắn, dừng lại trên bộ cổn miện đế vương mới tinh, rồi chẳng còn hứng thú nhìn thêm. [1]

[1][1] Cổn Miện (袞冕), hay Miện phục (冕服) là lễ phục cao cấp nhất dành cho nam giới ở Đông Á cổ đại. Nó chủ yếu bao gồm “quan” (冠, vương miện), “thượng y” (上衣, áo khoác, thường là màu đen), “hạ thường”(下裳, váy dưới, màu đỏ nhạt), cũng như các thành phần pha phụ kiện khác. Nguồn
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 71: Rời đi


Mọi người lục tục rời đi, trong điện chỉ còn lại vài người bọn họ.

Dù có Thái hoàng thái hậu ở bên, Tống Hành cũng không thể kiềm chế cơn giận trong lòng. Hắn hất mạnh tay của Trương nội thị ra, gầm lên một tiếng, quát y cút đi.

Trương nội thị chưa từng thấy Tống Hành nổi giận đến mức này, sợ đến mức hai chân mềm oặt. Thái hoàng thái hậu thấy vậy, lập tức ra hiệu cho hắn lui xuống.

Nhưng chưa kịp bước được mấy bước, Tống Hành đã từ trên đài lao xuống, ba bước gộp thành hai, tiến thẳng về phía Thẩm Kính An và Thi Yến Vi.

“Nhị lang! Dừng tay! Cháu thật sự muốn vì một nữ nhân mà mê muội đến vậy sao?!” Thái hoàng thái hậu hốt hoảng kêu lên. Đúng lúc hai nước đang đàm phán hòa bình, sao có thể giết sứ giả nước Ngụy? Bà sốt ruột can ngăn, đến mức quên gọi hắn là “Thánh thượng”, chỉ biết dùng cách xưng hô như khi còn ở Thái Nguyên, hy vọng có thể kéo hắn tỉnh lại.

Nhưng trong đầu Tống Hành chỉ có ý niệm g**t ch*t Thẩm Kính An, không để Thi Yến Vi rời khỏi hắn. Lời của Thái hoàng thái hậu toàn toàn bị hắn phớt lờ.

Thi Yến Vi thấy hắn càng lúc càng gần, không kịp nghĩ ngợi nhiều, nàng chỉ biết rằng nàng không thể chịu đựng thêm một giây phút nào ở lại Tử Vi Thành này hay bên cạnh Tống Hành nữa. Nàng dồn hết can đảm, bất chấp tất cả, chắn trước Thẩm Kính An.

“Tống Hành, nếu ngươi muốn giết a cữu của ta, thì hãy giết ta trước! A cữu là người thân duy nhất trên đời này đối xử tốt với ta. Nếu hôm nay người chết dưới tay ngươi, ta nhất định sẽ không sống một mình!” Vừa nói, nàng vừa rút chiếc trâm vàng trên tóc, không chút do dự kề sát vào cổ mình.

Tống Hành hai mắt đỏ ngầu, vẻ mặt mất kiểm soát. Dù thấy Thi Yến Vi lấy mạng uy h**p, hắn vẫn không lùi bước, tay siết chặt thanh kiếm, cất giọng khàn đặc: “Âm Nương, tránh ra! Trẫm không muốn làm tổn thương nàng, đừng ép trẫm!”

Đã bước đến nước này, không thể quay đầu lại. Nếu Vũ An hầu thực sự chết, Tống Hành nhất định sẽ nổi giận với nàng vì đã nhận Thẩm Kính An, chứ đừng nói đến việc tuân thủ ước hẹn năm năm. Thay vì chết mòn trong thâm cung, chết ngay bây giờ có lẽ chính là sự giải thoát.

Đầu trâm đã đâm vào da thịt, máu rỉ ra từng giọt. Thi Yến Vi kiên quyết nói: “Cậu ấy chết, ta cũng chết! Tống Hành, ta nói được làm được!”

Máu đỏ tươi k*ch th*ch thị giác của Tống Hành, lý trí của hắn dần quay lại. Trái tim như bị siết chặt, hắn nghiến răng nhịn đau, cao giọng chất vấn nàng: “Nàng hận trẫm đến vậy sao, chỉ muốn rời xa trẫm?”

Thi Yến Vi nhìn thẳng vào mắt hắn, lạnh lùng đáp: “Đúng! Ta hận ngươi, hận đến mức không muốn nhìn thêm một lần nào nữa!”

Lời nói như lưỡi dao vô hình, từng nhát cứa rách lòng hắn, khiến hắn đau đớn khôn nguôi.

Kiếm trong tay rơi xuống đất, phát ra âm thanh vang dội.

Cơ thể Tống Hành như mất hết sức lực, mắt ánh lên vẻ u ám, gần như dốc toàn bộ sinh lực để cầu xin: “Âm Nương, đừng tự làm tổn thương mình. Trẫm không giết hắn, không giết hắn nữa.”

Tống Hành khàn giọng, đôi mắt ánh lệ. Thi Yến Vi nhìn thấy sự đau đớn trong mắt hắn, từ từ buông trâm, lùi lại đứng cạnh Thẩm Kính An.

Thái hoàng thái hậu đau lòng nhìn đứa cháu mà bà luôn tự hào nay phủ phục trước gấu váy của một nữ nhân. Bà thầm hối hận, giá như biết trước thế này, bà đã không giữ nữ nhân họ Dương ấy lại phủ, chỉ đưa chút bạc rồi tiễn đi là xong.

Giờ hối thì cũng đã muộn, chỉ còn cách khuyên nhủ Nhị lang buông tay.

“Nhị lang, nàng ta không còn ý với con. Dù con có cưỡng cầu thế nào cũng vô ích. Chi bằng để nàng theo Võ An hầu rời đi.”

Lời vừa dứt, Tống Hành im lặng hồi lâu, mãi sau mới lên tiếng, yêu cầu Thái hoàng thái hậu và Thẩm Kính An rời khỏi điện.

Thẩm Kính An lo lắng, dù thể nào cũng không thể yên tâm khi nàng ở lại với một kẻ đang phát cuồng, dùng ngữ khí kiên định nói: “Nhị nương, a cữu sẽ không để cháu ở đây một mình.”

Có lẽ vì mối dây thân tình còn sót lại từ tiền kiếp, chỉ mới gặp một lần mà nàng đã cảm thấy thân thiết, không rõ vì sao lại tin tưởng y. Thi Yến Vi bình thản trấn an y: “A cữu yên tâm. Nếu hắn thực sự muốn hại cháu, vừa rồi đã không buông kiếm. Cháu sẽ nói chuyện với hắn rồi ra ngay, sẽ không sao đâu.”

Thẩm Kính An nghe vậy nhưng vẫn không yên tâm, đứng lặng tại chỗ, ngập ngừng.

Thi Yến Vi ngoảnh lại nhìn y, khẽ mỉm cười, giọng điệu điềm tĩnh: “A cữu yên tâm, cháu sẽ không sao đâu. Lần này người hãy tin cháu.”

Biết không lay chuyển được nàng, Thẩm Kính An đành thở dài nhượng bộ, dịu giọng: “Được, a cữu sẽ chờ ở ngoài điện. Nếu có chuyện gì, cứ lớn tiếng gọi, ta sẽ lập tức vào. A cữu từng vào sinh ra tử, không phải người dễ dàng khuất phục.”

Thi Yến Vi gật đầu, rồi quay lại nhìn Tống Hành.

Hắn có vẻ như đã chờ quá lâu, không còn kiên nhẫn nữa. Vừa thấy Thẩm Kính An và Thái hoàng thái hậu rời khỏi, hắn liền kéo Thi Yến Vi vào lòng, tựa cằm lên mái tóc mềm mại của nàng.

“Âm Nương, đêm đó nàng đã hứa với trẫm, rằng khi chưa đủ năm năm, nàng sẽ không rời xa trẫm. Trẫm giữ lời, không còn giam cầm nàng trong cung, để nàng làm nữ quan, tự dùng đôi tay mình kiếm sống, không để ai biết quan hệ giữa nàng và trẫm, cũng chưa từng ép nàng phải sinh con. Vậy mà sao nàng nỡ bội ước, chưa tròn năm năm đã muốn rời bỏ trẫm? Nàng không thể làm tổn thương trẫm như vậy.”

Thi Yến Vi không vùng vẫy, chỉ khẽ nghiêng đầu, tránh khỏi cằm hắn, ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt hắn, lời lẽ sắc bén:

“Muốn nói đến bội ước, chẳng phải chính Thánh thượng là người đã phá vỡ ước định ba năm giữa chúng ta trước sao? Ta làm vậy, cũng chỉ là đáp trả lại mà thôi.”

“Đừng nói là năm năm, dù là mười năm, hai mươi năm hay ba mươi năm, ta cũng không bao giờ tha thứ cho người, càng không thể yêu người. Trong lòng ta, người mãi mãi không thể sánh bằng dù chỉ một góc của Trần Nhượng!”

Nghe những lời này, lòng Tống Hành đau như dao cắt. Không biết từ bao giờ, nàng đã chiếm trọn trái tim hắn, chi phối cảm xúc hắn dễ như trở bàn tay. Điều đó không đơn thuần chỉ vì hắn thích nàng mà có thể giải thích được.

Trong thoáng chốc, chữ “yêu” hiện lên trong tâm trí hắn.

Hắn đã yêu nàng rồi sao? Không, hắn không thể có thứ tình cảm đó. Không, hắn không thể có thứ tình cảm đó. Đó là điều mà kẻ phàm tục và ngu muội mới theo đuổi. Hắn là quân vương của một nước, tuyệt đối không thể chứa chấp thứ tình cảm yếu mềm và phiền toái này.

Không thể thừa nhận, không dám thừa nhận. Tống Hành đau đớn nhắm chặt mắt, lông mày nhíu chặt như bị một cơn đau quặn thắt bao trùm.

Thi Yến Vi nhìn ra nguồn cơn đau khổ của hắn, không chút mềm lòng, lạnh lùng đâm thêm nhát dao: “Tống Hành, người lộ ra vẻ mặt đau khổ như vậy, chẳng lẽ là vì người đã yêu ta rồi sao? Người yêu chính con chim nhỏ mà người từng nuôi dưỡng, yêu người đàn bà mà người vẫn coi là nữ gian chuyên lừa đảo!”

“Nhưng phải làm sao đây? Nàng ấy không chỉ là em ruột ân nhân cứu mạng của em trai người, lại là cháu ngoại của kẻ thù giết con của hoàng cô người…”

Nàng còn chưa dứt lời, Tống Hành không thể kìm nén nỗi đau trong lòng, hai tay siết chặt thành nắm đấm, gân xanh nổi lên, giận dữ gầm lên: “Dương Sở Âm, nàng câm miệng cho trẫm!”

Thi Yến Vi hoàn toàn thờ ơ trước cơn thịnh nộ và sự bất lực của hắn, đưa tay vỗ nhẹ vào mặt hắn đầy khinh bỉ, ánh mắt như đang nhìn một vật thể nực cười, liên tục truy hỏi hắn: “Người là hoàng đế nước Triệu, còn a cữu của nàng ấy là Vũ An hầu nước Ngụy. Giữa hai người là thù nước hận nhà. Đến bước này rồi, người vẫn còn vọng tưởng giữ nàng ấy lại, mong nàng ấy cũng sẽ yêu người sao?”

Từng câu từng chữ của nàng đều chạm vào nỗi đau của hắn, buộc hắn đối diện với chữ “yêu” mà hắn luôn né tránh.

Nàng sẽ không thích hắn, càng không yêu hắn. Vậy thì tại sao hắn phải quỵ lụy như một con chó vẫy đuôi cầu xin nàng? Dù thế nào đi nữa, khi năm năm kết thúc, nàng cũng sẽ rời xa hắn.

Chi bằng thả nàng ra, cũng là giải thoát cho chính mình.

Là vua một nước, sao có thể vướng bận vào tình ái nam nữ? Hắn nên cưới một hoàng hậu hiền lương thục đức, chiêu nạp các quý nữ thế tộc làm phi, con cháu đầy đàn.

Hắn nhất định sẽ làm tốt.

Sợ bản thân hối hận, Tống Hành không dám nhìn nàng thêm dù chỉ một cái. Khuôn mặt u ám, giọng điệu khàn khàn: “Cút đi. Từ nay về sau, trẫm không muốn gặp lại nàng nữa.”

Không gặp lại nàng nữa. Thi Yến Vi trong lòng phấn khởi nhưng lại nghi ngờ mình nghe lầm, không dám lộ chút vui mừng nào, chỉ khẽ hỏi lại: “Người bằng lòng để ta rời khỏi nước Triệu rồi sao?”

Tống Hành quay lưng, không nói thêm lời nào.

Không phủ nhận chính là ngầm đồng ý. Thi Yến Vi lo sợ hắn sẽ đổi ý, không dám dây dưa mà cố gắng giữ bình tĩnh, nhẹ bước rời khỏi.

Bên ngoài, màn đêm đã buông sâu. Thẩm Kính An đứng khoanh tay dưới mái hiên.

Nghe tiếng cửa điện mở, y lập tức quay lại nhìn.

“A cữu.” Thi Yến Vi khẽ gọi y.

Nhìn nữ lang trước mắt với dung nhan rực rỡ mà đoan trang, y cảm thấy nàng đã khác đi so với khi còn nhỏ. Dù nét mặt không thay đổi nhiều nhưng thần thái đã trưởng thành hơn, càng giống a tỷ khi ở ngưỡng đôi mươi.

Thẩm Kính An bước đi bên nàng, chờ khi rời khỏi Điện Cam Lộ một đoạn mới mở miệng hỏi: “Hắn có đồng ý để cháu rời đi không?”

Thi Yến Vi khẽ gật đầu: “Dạ, hắn đồng ý rồi.”

Thẩm Kính An cuối cùng cũng buông được tảng đá trong lòng, thở ra một hơi nhẹ nhõm, trầm ngâm một lát rồi nói tiếp: “Chỉ cần hắn đồng ý là tốt rồi. A cữu vốn nghĩ sự tình không dễ dàng như vậy. Lũ ở Đại Vận Hà đã rút, để tránh đêm dài lắm mộng, khi hòa đàm kết thúc, ta sẽ không ghé Văn Thủy thăm a nương và a huynh của cháu nữa mà trực tiếp lên thuyền ở bến tàu phía nam, theo đường thủy để đến Biện Châu.”

Thi Yến Vi nhẹ nhàng đáp: “Mọi chuyện đã có nguyên do, a nương và a huynh ở dưới suối vàng biết rõ chắc chắn sẽ không trách cháu và a cữu.”

Thẩm Kính An khẽ gật đầu: “Ta đã lập bài vị của họ tại Biện Châu. Đến nơi, ta sẽ dẫn Nhị nương đi thắp hương bái tế.”

Thi Yến Vi nghe vậy, lại càng chân thành cảm tạ: “Đa tạ a cữu. Nếu không nhờ a cữu cứu thoát, Nhị nương thực sự không biết phải thoát khỏi hắn thế nào.”

Chữ “hắn” nàng vừa nhắc đến, không cần nói cũng rõ là ai.

Thẩm Kính An cảm thấy đau lòng, giọng hạ thấp: “Hắn đối xử với cháu…” Vừa thốt ra ba chữ liền cảm thấy không ổn, như thể xát muối vào vết thương của Nhị nương, bèn nuốt lời lại, đổi giọng an ủi: “Mọi chuyện đều đã qua. Những điều không vui trong quá khứ không cần nhắc lại. Sau này, a cữu nhất định bảo vệ Nhị nương, để cháu một đời yên ổn, năm tháng vô lo.”

Thi Yến Vi lặng người. Đã bao lâu rồi nàng chưa cảm nhận được sự ấm áp từ người thân? Nghĩ lại, dường như đã quá lâu rồi. Đến nơi này, bất giác đã ba năm, thân thể này cùng linh hồn nàng trải qua hơn một ngàn đêm ngày.

Từ mười tám đến hai mốt tuổi, vì người đàn ông đó, nàng đã bỏ lỡ và đánh mất quá nhiều.

Ánh trăng thanh lạnh chiếu lên con đường nhỏ bằng đá. Thi Yến Vi ngước mắt nhìn vầng trăng sáng vằng vặc trên cao, chợt nhớ tới công chúa Tuyên Thành Lý Lệnh Nghi đang ẩn cư ở núi Kính Đình, bèn hỏi: “A cữu, từ Biện Châu đến Tuyên Châu phải mất bao lâu?”

Nghe đến hai chữ “Tuyên Châu”, Thẩm Kính An thoáng nghĩ đến nữ tử khí chất thanh tao như trúc ấy, trong lòng hơi xao động, chậm rãi đáp: “Nếu cưỡi ngựa hết sức thì mất khoảng mười ngày; nếu đi xe ngựa, phải mất gần hai mươi ngày.”

“Nhị nương hỏi vậy, có phải muốn đến Tuyên Châu?”

Thi Yến Vi không trả lời ngay, chỉ thành thật nói: “Cháu muốn gặp công chúa Tuyên Thành ở núi Kính Đình.”

Nghe vậy, Thẩm Kính An không khỏi nghi hoặc. Công chúa đồng tuổi với hắn, lớn hơn Nhị nương mười một tuổi, chỉ từng tu đạo ở Trường An và Tuyên Châu, trong khi Nhị nương lớn lên ở Văn Thủy, sau lại được đưa đến Thái Nguyên. Sao nàng có thể biết công chúa?

“Nhị nương quen biết công chúa ư?” Thẩm Kính An hỏi.

Thi Yến Vi lắc đầu: “Không phải quen, mà là cháu muốn kết giao.”

Thẩm Kính An nghe vậy, lòng chợt dâng lên một cơn phẫn nộ. Nàng bị kẻ đó bức đến tuyệt vọng, liệu có ý định noi gương công chúa, ẩn cư tu đạo để tránh thế sự?

Cảm giác ấy khiến y hận không thể lập tức g**t ch*t Tống Hành để đòi lại công bằng cho Nhị nương.

Thấy a cữu trầm mặc, Thi Yến Vi lo rằng y hiểu nhầm, vội giải thích: “A cữu, cháu không có ý lên núi tu hành, chỉ là nghe được câu chuyện về công chúa Tuyên Thành, một nữ tử kỳ tài khiến người người kính phục, cháu ngưỡng mộ nàng nên mới muốn kết giao thôi.”

“Thì ra là vậy. Chuyện này không khó, ta và công chúa Tuyên Thành có chút giao tình. Nếu Nhị nương muốn gặp, đến Biện Châu, ta sẽ viết thư giới thiệu và cho người đưa cháu đến Tuyên Châu. Công chúa thấy thư, tất sẽ gặp cháu.”

Thi Yến Vi chân thành cảm tạ, định nói lời cảm ơn thì Thẩm Kính An đã ngắt lời: “Nhị nương hà tất phải khách sáo như thế. Trưởng bối quan tâm hậu bối vốn là lẽ thường tình. Cháu không cần đa lễ, nói nhiều lại khiến hai ta như người xa lạ.”

Thi Yến Vi nghe xong chỉ khẽ mỉm cười, gật đầu đáp lại.

Bất tri bất giác, đã tới bên ngoài cục Thượng nghi, nàng nghĩ trong này là nơi ở của các nữ quan, không tiện mời y vào ngồi một lát, bèn nói: “Cháu đến rồi, trời cũng không còn sớm, a cữu cũng nên mau chóng quay về nghỉ ngơi đi.”

Thẩm Kính An đáp: “Được, ta nhìn cháu vào rồi sẽ đi.”

Thi Yến Vi chắp tay hành lễ từ biệt, quay người bước vào cục Thượng nghi. Vừa đi nàng vừa nghĩ, ngày khác nhất định phải hỏi xem liệu a cữu đã thành thân chưa, trong nhà có đứa em họ nào đáng yêu như Lâm Doanh không để nàng chơi cùng.

Đêm ấy, tâm trạng nàng khoan khoái nhưng vẫn thấp thỏm lo rằng Tống Hành liệu có rút lại ý định hay không. Hai loại cảm xúc đan xen khiến nàng trằn trọc khó ngủ, mãi đến giờ Tý <i>(~</i>23h) mới mơ màng chìm vào giấc mộng.

Sáng hôm sau, vì tinh thần trách nhiệm, nàng vẫn dậy thật sớm xử lý những công vụ cần thiết. Đến chiều tối, cơm nước xong xuôi, nàng lại chong đèn thức khuya, biên soạn một quyển tập để hướng dẫn công việc từ những kinh nghiệm đã tích lũy trong mấy tháng qua, giúp người kế nhiệm thuận tiện nắm bắt.

Ba ngày sau, hai nước Triệu và Ngụy đạt được thỏa thuận, ký kết hiệp ước.

Buổi chiều hôm ấy, Thẩm Kính An cho người báo tin nàng rằng sáng mai giờ Thìn <i>(~7h)</i> sẽ rời thành Tử Vi để quay về Biện Châu.

Trong ba ngày ấy, Tống Hành chưa từng xuất hiện trước mặt nàng, khiến nỗi bất an trong lòng nàng cũng dần tan biến. Khi nhận được tin chắc chắn sẽ rời đi vào ngày mai, nàng vui mừng khôn xiết, gần như không giấu nổi nét hoan hỷ trên mặt.

Diêu Tư tán biết tin Thi Yến Vi tìm được thân nhân, sắp rời đi, bèn tới chúc mừng. Thi Yến Vi tặng nàng một số vật dụng, cùng uống hai chén trà rồi tiễn nàng ra đến ngoài viện.

Bên gốc quế nơi bức tường phía tây, một bóng dáng cao lớn chầm chậm bước ra dưới ánh trăng. Khi Thi Yến Vi vừa khép cửa liền bị hắn ôm chặt ngang lưng.

Lưng nàng áp sát vào lồng ngực hắn, không cần quay đầu cũng biết người tới là ai.

Không phải là hắn thay đổi quyết định rồi đấy chứ? Một ý nghĩ như sét đánh ngang tai, nàng kinh hãi mở to mắt, định vùng vẫy thoát khỏi vòng tay hắn để tranh luận.

Đối phương như đoán được ý định của nàng, bàn tay to lớn ôm chặt lấy nàng, cúi đầu sát tai, giọng trầm thấp: “Âm Nương, nếu muốn ngày mai thuận lợi rời khỏi cổng cung, đêm nay ngoan ngoãn nghe lời, đừng chọc giận trẫm.”

Dứt lời, không để nàng phản ứng, hắn bế ngang nàng lên, đạp cửa bước vào, đi thẳng tới điện Triều Nguyên.

Thi Yến Vi hiểu rõ tính tình hắn, dù trong lòng tràn ngập oán hận nhưng vì ngày mai được rời đi, nàng đành cắn răng nhẫn nhịn, không dám kêu la.

Đây là Triệu cung của hắn, dù có gọi người tới thì nhục nhã cũng chỉ thuộc về nàng.

Tống Hành không kiên nhẫn bế nàng vào nội điện, vừa nhìn thấy Trương nội thị và những người khác, hắn bước nhanh vào tiền điện nơi phê tấu chương và bàn chuyện quốc sự, lớn tiếng quát: “Cút hết ra ngoài điện!”

Trương nội thị vội vàng đáp lời, cúi người thận trọng khép cửa lại, dẫn theo mọi người rời ra ngoài cổng cung.

Thi Yến Vi biết rõ hắn muốn làm gì, chỉ nằm bất động như một con cá chết, mặc hắn định đoạt.

Tống Hành quét sạch đồ trên bàn xuống đất, đặt nàng ngồi lên mép bàn.

Mặc dù gấp gáp nhưng hắn vẫn cúi xuống để thỏa cơn khát trước.

Thân thể Thi Yến Vi mềm nhũn, hai tay nhỏ bé níu chặt lấy vạt áo trên vai hắn, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi.

Đôi mắt từ khi nào đã phủ lên một làn sương mờ, nàng c*n m** d***, không nói một lời.

Tống Hành dường như không bận tâm nàng có nói hay không, sắc mặt lạnh nhạt, cúi đầu c** th*t l*ng vàng điệp tiệp, áo bào rộng thùng thình rơi xuống đất, áp sát nàng, ghim chặt nàng lại.

Giữa đầu hạ, không khí có phần oi bức.

Mồ hôi trên người hắn như hơi nước bốc lên, nóng bức khó chịu.

Thi Yến Vi cũng toát nhẹ mồ hôi.

Lớp áo lụa mỏng manh thấm ướt mồ hôi, bám sát vào làn da, càng tôn lên vóc dáng yêu kiều lả lướt của nàng.

Tống Hành nhìn nàng chăm chú, vài hơi sau, lớp vải mềm rơi xuống như cánh hoa, yên lặng nằm trên nền gạch xanh thẫm.

Mép bàn nơi bàn tay nàng áp lên, nhờ nhiệt độ cơ thể mà ấm dần.

Tâm trí trống rỗng, không nghĩ nổi gì nữa.

Ngay cả hàng mi dài cong vút cũng run run.

Hai người đều bướng bỉnh, không để phát ra bất kỳ tiếng động nào.

Chỉ còn tiếng gió và tiếng nước ngoài khung cửa sổ.

Tống Hành ôm chặt nàng, đắm mình trong sự quyến luyến, rồi bất ngờ bế nàng lên, đi tới bên cửa sổ, nhìn ánh trăng cùng hai bóng hình in trên đó.

Đầu óc Thi Yến Vi dần tỉnh táo, lại bắt đầu hoài nghi không biết Tống Hành có hối hận hay không. Tuy nhiên, hắn chẳng để nàng có quá nhiều thời gian suy nghĩ, cảm giác mệt mỏi khiến đầu óc trống rỗng lại một lần nữa ùa về.

Khi trước tới đây để đóng ngọc tỷ, Thi Yến Vi chưa từng cảm thấy tiền điện của điện Triều Nguyên lớn đến vậy. Giờ đây, từng bước chân Tống Hành đo lường, chỉ cảm thấy đi hết một vòng sao lại dài đến thế.

Nàng không biết hắn đã đi bao lâu, cũng không rõ bản thân trải qua bao lần từ tỉnh táo đến mơ hồ, rồi từ mơ hồ lại tỉnh táo.

Chiếc áo hoàng bào dài màu vàng sáng đã bị hắn ném xuống thảm, ép nàng phải quỳ lên đó.

Tống Hành không thể thấy rõ mặt nàng, chỉ cảm nhận nàng tựa như viên nam châu thuần khiết hiếm có, chói lọi đến mức khiến hắn mặc cảm, tự ti.

Nàng là nữ lang kiên cường, thiện lương nhất hắn từng gặp, nhưng sự kiên cường ấy chỉ dành để đối đầu hắn, còn sự thiện lương kia lại chỉ dành cho người khác. Ngay cả con mèo nhỏ nàng chỉ mới gặp một lần, nàng cũng có thể nở nụ cười dịu dàng, kiên nhẫn đối xử.

Nàng có thể nhân từ với vạn vật trên thế gian, nhưng lại chẳng dành nổi chút từ bi nào cho hắn.

Dù tấm thảm mềm mại đến đâu, hắn vẫn sợ làm đau đầu gối nàng, không bao lâu sau, hắn bế nàng lên, đặt nàng ngồi xuống giường La Hán trước bình phong.

Thi Yến Vi đã mệt lả, tựa cằm vào hõm vai hắn. Tống Hành cúi đầu nhìn đầu gối nàng, quả nhiên đỏ ửng, nổi bật trên làn da trắng muốt.

Đến tận canh ba,<i> (~23h)</i> Tống Hành mới buông tha nàng. Sau khi chỉnh trang y phục, hắn bế nàng đến phòng tắm, đặt nàng vào thùng nước ấm.

Hắn đã sai lão tự nhân Trương chuẩn bị sẵn y phục từ sớm. Tống Hành đích thân giúp nàng rửa sạch, lấy cao dưỡng bôi lên làn da nàng. Dù hiện tại ít khi hắn làm nàng đau, nhưng vì muốn nàng thoải mái nên hắn vẫn có thói quen làm vậy.

Mát lạnh và dễ chịu. Thi Yến Vi vốn quen với việc bôi thuốc từ trước nên cũng không từ chối.

Đến khi hắn giúp nàng mặc đồ xong, trời đã gần sang giờ Tý. <i>(~23h)</i>

Biết nàng khó có thể tự đi về, hắn định cõng nàng, cúi người xuống trước mặt nàng.

Đôi chân Thi Yến Vi như nhũn ra, không muốn động đậy.

Người phía sau chờ mãi không thấy động tĩnh, Tống Hành hiểu ý, bế nàng về thẳng nơi ở trong cục Thượng Nghi.

Đêm đã khuya, bốn bề tĩnh lặng, chỉ còn tiếng bước chân của hắn và tiếng côn trùng rả rích.

Thi Yến Vi buồn ngủ, hai mí mắt cứ dính chặt vào nhau.

Nàng ngủ chập chờn được chừng nửa khắc, sau đó cảm nhận được mình được đặt vào trong chăn gấm. Nàng bỗng tỉnh giấc, hé mắt ra liền nghe tiếng Tống Hành thì thầm: “Trẫm sẽ quên nàng.”

Đây là câu thứ hai hắn nói với nàng tối nay.

Thi Yến Vi hy vọng đó là câu cuối cùng, bèn đáp gọn một chữ: “Được.”

Tống Hành sẽ buông tha nàng.

Lòng nàng nhẹ bẫng, không còn nặng nề phiền muộn nữa. Cộng thêm việc vừa hao tổn thể lực, vừa đặt lưng xuống giường Thi Yến Vi đã chìm luôn vào giấc ngủ sâu.

Trăng lặn biển xanh, mặt trời mọc từ hướng đông.

Ánh bình minh dát lên chân trời một màu hoàng kim rực rỡ.

Thi Yến Vi chỉnh lại y phục, dù đôi chân còn đau nhức, nàng vẫn cố giữ dáng đi bình thường, nên chẳng bao lâu mồ hôi đã rịn đầy sau lưng.

Thẩm Kính An phái tỳ nữ đến đón nàng.

Ngoài thành Tử Vi, Thẩm Kính An ngồi trên lưng ngựa cao lớn, tỳ nữ đỡ nàng lên xe, ngăn cách hoàn toàn với thế giới bên ngoài.

Tống Hành cùng thái hoàng thái hậu đến tiễn. Khi Thi Yến Vi lướt qua Thẩm Kính An, nàng nhận ra Tống Hành không hề liếc nhìn mình lấy một lần.

Không quan tâm họ nói gì bên ngoài, nàng chỉ mong mau chóng rời khỏi chiếc lồng giam khổng lồ này.

Chỉ một khắc sau, bánh xe bắt đầu lăn, đoàn người rầm rộn hướng về phía bến tàu nam thị.

Thái hoàng thái hậu vốn nghĩ Tống Hành sẽ đợi xe đi xa mới rời đi, không ngờ chỉ vài nhịp thở sau, hắn đã quay lưng bước đi, không ngoái lại, tựa như không hề lưu luyến nữ lang ngồi trên cỗ xe đó.

Thái hoàng thái hậu nghĩ, vậy là tốt nhất. Nếu Nhị lang không còn vướng bận gì nàng, có thể sớm ngày thành thân, lập hậu, kéo dài dòng dõi.

Nghĩ tới đây, những khúc mắc trong lòng Thái hoàng thái hậu dần được cởi bỏ, bà lên bộ liễn, khởi hành về cung.

Bến tàu phía nam.

Thi Yến Vi bước xuống xe ngựa, vén nhẹ tấm rèm của mũ che, nhìn ra ngoài. Hàng trăm con thuyền lớn nhỏ khác nhau neo đậu trên lòng sông rộng lớn của kênh đào. Con thuyền họ sắp lên có sức chứa đến hơn một trăm người.

Gió hè nhẹ nhàng thổi qua, làm tà áo lụa của nàng bay phất phơ. Thẩm Kính An xoay người xuống ngựa, bước lại gần nàng, ân cần hỏi liệu nàng có say sóng không.

Thi Yến Vi đáp: “Làm phiền a cữu bận tâm. Cháu không bị say sóng. Hai năm trước, cháu từng đi thuyền từ Đồng Quan đến Lạc Dương rồi.”

“Không say thì tốt.” Nói đến đây, y chợt nghĩ đến công chúa. Nàng hiếm khi ra ngoài, hầu như chỉ cưỡi ngựa hoặc ngồi xe, vì chính nàng đã nói rằng mình say sóng nặng. Lần đầu từ Đồng Quan đi thuyền đến Dương Châu, suýt chút nữa ói đến gầy sọp.

Đang suy nghĩ, thuyền phu bước tới báo rằng mọi thứ đã sẵn sàng, có thể lên thuyền.

Thẩm Kính An nhường Thi Yến Vi đi trước.

Nàng bước qua cầu thuyền lên boong, theo người dẫn đường vào trong khoang thuyền xem xét, sau đó ra đứng trên boong ngắm nhìn những ngọn núi xanh biếc nối dài ở đằng xa. Thi Yến Vi bỗng cảm thấy mọi thứ thật không chân thực.

Cuối cùng, nàng đã thoát khỏi tầm kiểm soát của Tống Hành, tìm lại tự do.

Sau khi sắp xếp xong xuôi mọi chuyện trên thuyền, Thẩm Kính An bước đến bên nàng, kể về cảnh sắc của thành Biện Châu.

Thi Yến Vi chỉ biết thành Biện Châu qua phim ảnh. Nghe Thẩm Kính An mô tả, lòng không khỏi trào dâng niềm mong chờ. Khi đến Biện Châu nghỉ ngơi vài hôm, nàng dự định sẽ đi tiếp đến Tuyên Châu.

Hai người đứng trò chuyện một lúc, thấy nắng càng lúc càng gay gắt, Thẩm Kính An khuyên nàng vào khoang thuyền nghỉ ngơi. Nếu muốn ngắm cảnh, đợi hoàng hôn rồi ra ngoài cũng không muộn.

Lúc ấy có thể ngắm mây đỏ rực trời, mặt trời lặn nhường chỗ cho vầng trăng lên cao, cảnh sắc ấy sẽ thật thú vị.

Bảy ngày sau, thuyền cập bến Biện Châu.

Thi Yến Vi đội mũ che, bước xuống thuyền, rồi lên xe ngựa đến Thẩm phủ.

Quý phủ của Thẩm Kính An là do Giang Tiều ban tặng, tuy diện tích không rộng bằng Tống phủ nhưng bởi vì Thẩm Kính An không thê không thiếp, cũng không có con cái, sống một mình nên dù rộng rãi thì vẫn mang cảm giác trống trải.

Dẫu có thêm Thi Yến Vi, phủ vẫn nhuốm một màu tịch mịch, quạnh hiu.

Thẩm Kính An không về phủ cùng nàng mà vào cung diện kiến Giang Tiều.

Tối đó, Giang Tiều mở yến tiệc đón gió tẩy trần trong cung, mừng Thẩm Kính An và đoàn sứ giả.

Giang Tiều có bốn con trai và hai con gái còn sống đến tuổi trưởng thành. Trưởng tử Giang Thịnh do nguyên phối Từ Hoàng hậu sinh ra nhưng yểu mệnh, đã qua đời từ sớm. Thứ tử Giang Hoằng là con của kế thất, Hoàng hậu Trịnh thị. Tam tử Giang Tầm và tứ tử Giang Hiên đều do sủng phi Hứa Quý phi hạ sinh.

Trưởng nữ Giang Viên và thứ nữ Giang Linh lại do Trịnh hoàng hậu và thiếp thất Vi Lệ phi sinh ra.

Dẫu Giang Tiêu có tài mưu lược, giỏi thu phục nhân tài nhưng lại có bản tính háo sắc. Trong những năm Thẩm Kính An theo ông ta, đã chứng kiến không dưới mười thiếp thất vẻ ngoài mạo mỹ được nạp vào phủ, bất kể là khuê nữ, nữ tử từng hòa ly hay góa bụa.

Diện mạo của Nhị nương giống mẹ nàng, vốn đã nổi bật giữa đám mỹ nhân thông thường, huống chi trong buổi dạ yến hôm nay, sự chú ý sẽ là khó tránh khỏi. Do đó, khi Giang Tiều hỏi sao cháu gái không đến, Thẩm Kính An viện cớ rằng nàng lưu lạc ở bên ngoài nhiều năm, ngại giao tiếp, chỉ thích ở một mình, không thích ra ngoài.

Giang Tiều lại hỏi nàng đã từng gả chồng chưa.

Thẩm Kính An đáp rằng nhan sắc nàng không nổi trội, lại không nơi nương tựa, nên chưa có mối mai, đến hai mươi vẫn chưa xuất giá.

Nghe vậy, Giang Tiều không gặng hỏi thêm, quay sang uống rượu với Vi Lệ phi.

Bốn con trai Giang Tiều theo thứ tự ngồi dưới tay trái ông ta, thái tử Giang Thịnh, Khang vương Giang Hoằng, và Ngô vương Giang Hiên đều mang theo chính thất. Chỉ Hạ vương Giang Tầm dẫn theo vương phi họ Vương và nhũ nhân Phùng thị.

Phùng thị hoa dung nguyệt mạo, vóc dáng thướt tha, rất được Giang Tầm yêu mến. Chưa đầy nửa năm vào vương phủ, nàng gần như chiếm trọn sự sủng ái, ngay cả Hạ Vương phi cũng không làm gì được.

Thẩm Kính An không mấy hứng thú với yến tiệc, uống vài ly rượu rồi cáo lui, mãi đến khi yến tiệc sắp kết thúc mới quay lại.

Sau khi xuất cung, y cưỡi ngựa trở về phủ, gọi bà mụ đến hỏi thăm thì được biết Nhị nương mệt mỏi sau chuyến đi, đã nghỉ ngơi từ sớm.

Y thưởng bạc, dặn phải chăm sóc nàng chu đáo. Đêm đó viết thư, sáng hôm sau cử người đến đô đốc phủ lo giấy tờ cho chuyến đi Tuyên Châu.

Vì vắng mặt ở Biện Châu hơn hai mươi ngày, công vụ tích tụ khá nhiều. Bận rộn xử lý suốt đêm, khi tiếng trống canh vang lên thì đã là canh hai. <i>(~21h)</i>

Thi Yến Vi ở quý phủ nhàn nhã không việc gì làm, nên thường trò chuyện cùng các bà mụ, tỳ nữ hoặc lấy cờ song lục ra, tỉ thí cùng người khác.

Lại một ngày nữa trôi qua, công vụ giảm bớt, Thẩm Kính An về sớm, hỏi nàng đã quen với cuộc sống mới ở phủ chưa.

Thi Yến Vi đáp rằng mọi thứ đều tốt, chỉ là cả ngày quanh quẩn trong phủ nên có chút buồn chán.

“Nhị nương có biết cưỡi ngựa không?” Thẩm Kính An hỏi.

“Ngày trước, cháu từng học cưỡi ngựa ở Tống phủ.”

“Biết cưỡi ngựa thì dễ rồi. Ra ngoại thành dạo chơi một ngày cũng tốt. Dạo gần đây bận rộn nhiều việc, chưa kịp chăm lo cho cháu, mai ta sẽ cử vài thị vệ võ nghệ cao cường theo cháu ra ngoài, ta cũng yên tâm hơn. Còn nữa, trong thành Biện Châu lắm kẻ ăn chơi ph*ng đ*ng, ta sợ chúng làm cháu kinh động. Khi ra ngoài, Nhị nương nhớ đội mũ che.”

Thi Yến Vi liền gật đầu, đáp: “Làm phiền a cữu nhọc lòng, Nhị nương biết rồi ạ.”

Thẩm Kính An nhấp một ngụm trà, rồi nói đến chuyện thông hành, dặn nàng kiên nhẫn chờ thêm ba đến năm ngày.

Thi Yến Vi cảm động trước sự tận tình của y, trong lòng càng thêm kính trọng, xem y như người thân thực sự.

“A cữu đã dùng bữa tối chưa?”

Thẩm Kính An đáp: “Chưa. Nếu Nhị nương cũng chưa ăn, thì cùng nhau dùng bữa đi.”

Thi Yến Vi không từ chối, Thẩm Kính An liền sai người tới phòng bếp truyền thiện.

Bốn ngày sau, Thi Yến Vi đã dạo quanh những nơi nhộn nhịp nhất trong thành Biện Châu. Đi cùng nàng là hai, ba tỳ nữ và bà mụ, phía sau còn có thị vệ giữ khoảng cách phù hợp, nên cũng không xảy ra sự cố hay nguy hiểm nào.

Chiều hôm ấy, Thẩm Kính An mang theo giấy thông hành đến gặp nàng.

Thi Yến Vi cầm tờ giấy trong tay, tim đập nhanh hơn. Nỗi mong chờ được gặp Lý Lệnh Nghi càng mãnh liệt, nàng không muốn chậm trễ thêm ngày nào nữa. Nàng nói rõ ý định sẽ rời Biện Châu vào sáng sớm hôm sau để đến Tuyên Châu.

Sự sốt sắng và nhiệt tình của nàng đối với công chúa dường như có phần quá mức. Mặc dù Thẩm Kính An không hiểu tại sao nàng lại vội vã như vậy, nhưng y cũng không hỏi thêm. Sau khi ngồi lại đôi chút, y rời khỏi viện của nàng.

Y gọi quản sự đến, sai chuẩn bị xe ngựa và tìm một phu xe đáng tin, dặn rằng sáng sớm hôm sau sẽ hộ tống nương tử đến Tuyên Châu.

Đêm đó, Thi Yến Vi thu dọn hành lý rồi đi nghỉ sớm.

Đúng giờ Mão hai khắc <i>(~5h30)</i>, nàng dậy rửa mặt chải đầu.

Trịnh mụ trong viện tuổi đã cao, nên Thi Yến Vi không muốn phiền bà. Vì Thẩm Kính An kiên quyết yêu cầu nàng mang theo một người hầu cận, nàng chọn một tỳ nữ đồng niên tên là Úc Kim.

Trong lúc trò chuyện, nàng biết tên của Úc Kim là do Trịnh mụ đặt, lấy từ loài hoa có mùi hương thơm ngát là uất kim hương <i>(hoa oải hương/lavender)</i>

Tuyên Châu cách Biện Châu hơn một ngàn hai trăm dặm. Thi Yến Vi đi đường ban ngày, nghỉ ngơi ban đêm, lại phải để ngựa thư giãn giữa chặng, theo đúng nguyên tắc làm việc nghỉ ngơi kết hợp. Dù Thẩm Kính An dự tính hai mươi ngày, nàng vẫn mất đến hai mươi lăm, hai mươi sáu ngày mới tới nơi.

Hôm ấy, nàng nghỉ ngơi trong thành Tuyên Châu một ngày, hôm sau chuyển sang cưỡi ngựa tiến về núi Kính Đình ở ngoại thành.

Kể từ sau khi triều đại trước diệt vong, đạo quán nơi Lý Lệnh Nghi ở hiếm khi có người lui tới dâng hương. Tuy nhiên, nàng vẫn còn đủ tiền bạc nên không quá lo lắng về chuyện sinh kế.

Dùng xong bữa trưa, Lý Lệnh Nghi ngồi dưới giàn nho, vừa pha vừa thưởng trà. Bên cạnh nàng chỉ có một cung nhân đi theo từ khi xuất cung, tên là Vọng Tình.

“Thưa công chúa, có người ở ngoài đạo quán đưa thư tới.”

Lý Lệnh Nghi đưa tay nhận lấy phong thư, nhìn nét chữ trên phong bì, nàng nhận ra ngay đó là bút tích của Thẩm Kính An.

Mở thư ra xem, y đã tìm thấy cháu gái bị thất lạc. Nàng ấy đặc biệt từ Biện Châu ngàn dặm xa xôi tới đây, mong muốn gặp mặt công chúa. Đồng thời, y còn khẩn cầu nàng “thu nhận” cháu gái, xin phép để nàng được ở lại đạo quán thêm vài ngày.

Lý Lệnh Nghi khẽ mỉm cười, gấp lá thư lại cho vào phong bì, lấy chén trà đè lên. Sau đó, nàng đứng dậy, bước ra khỏi đạo quán…
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 72: Đáp án


Mùa hạ, tháng sáu, trời nóng bức, bầu trời xanh thẳm như được gột rửa, làn gió nhẹ thổi qua người, mang theo chút hơi nóng.

Thi Yến Vi đứng dưới gốc cây quế bên ngoài đạo quán tránh nắng. Đám thị vệ thì giữ khoảng cách xa gần, đứng chờ dưới bóng cây.

Cánh cửa gỗ “két” một tiếng mở ra, Thi Yến Vi nghe thấy liền bung chiếc ô giấy dầu, đứng chờ ngoài cửa.

Lý Lệnh Nghi bước ra, đập vào mắt là hình ảnh một nữ lang đang che ô hoa.

Trên chiếc ô vẽ vài nhành sen lá thanh tao, nét vẽ trong trẻo mà trang nhã.

Nữ lang dưới ô có gương mặt hồng hào, đôi môi đỏ thắm, dung nhan tú lệ, tựa như tiên nữ lạc trần, khiến người nhìn chẳng thể rời mắt.

Lúc này, nàng cũng đang tĩnh lặng quan sát Lý Lệnh Nghi.

Lý Lệnh Nghi đã ngoài ba mươi, song nhờ tâm tư tĩnh tại, ăn uống điều độ, sinh hoạt nề nếp, bảo dưỡng kỹ lưỡng nên thoạt nhìn chỉ như nữ tử đôi mươi. Gương mặt nàng tựa hoa hải đường chớm nở, đôi mày thanh thoát như ngọn núi xa, khí chất ôn hòa như lan, tao nhã như trúc, mang theo vẻ xuất trần thoát tục.

Ánh mắt hai người chạm nhau, Lý Lệnh Nghi mỉm cười dịu dàng, cất giọng ôn hòa:

“Nếu đã là cháu gái của Thẩm lang quân, cứ gọi ta là Lệnh Nghi.”

Nói xong, nàng mời Thi Yến Vi vào trong đạo quan.

Thi Yến Vi thoáng căng thẳng, nghe nàng nói, vội đáp một tiếng “được,” rồi quên cả việc hành lễ, lặng lẽ theo sau nàng tiến vào trong.

“Công… Lệnh Nghi, ta có chuyện muốn nói riêng với cô.” Thi Yến Vi liếc nhìn thị nữ Vọng Tình đứng bên cạnh nàng, rồi ra hiệu cho Úc Kim phía sau mình ngồi lại dưới giàn nho hóng mát.

Lý Lệnh Nghi sống ở đây nhiều năm, từng gặp không ít người. Nhưng dáng vẻ vừa hồi hộp vừa mong chờ như của Thi Yến Vi lại rất hiếm gặp, nụ cười trên môi càng thêm dịu dàng: “Được.”

Nói xong, nàng bảo Vọng Tình lui xuống rồi dẫn Thi Yến Vi vào phòng.

Sau khi khép cửa, Thi Yến Vi nghe rõ từng nhịp tim mình vang dội trong lồng ngực.

Nàng vừa xúc động vừa bối rối, ngồi xuống bên cạnh Lý Lệnh Nghi, khó nhọc thốt ra một câu: “Lệnh Nghi có biết câu “kỳ biến ngẫu bất biến” không?” [1]

[1]

<i>[1] Phần này hình như là câu thường dùng để ghi nhớ công thức lượng giác. Đầy đủ là: “Kỳ biến ngẫu bất biến, dấu cách tử giai hoán”. </i>

Lời vừa dứt, nụ cười trên mặt Lý Lệnh Nghi thoáng ngưng đọng, vẻ mặt trở nên nghiêm túc. Sau một lúc im lặng, nàng hỏi lại:

“Là một công thức lượng giác?”

Thi Yến Vi nghe thế, gần như chắc chắn rằng nàng cũng giống như mình, đều từ hiện đại xuyên không đến.

Cảm giác vui mừng khôn xiết khiến mắt nàng cay cay. Thi Yến Vi kìm nén cảm xúc, ánh mắt ngấn lệ: “Dù không nhớ rõ cách dùng, nhưng nhớ mang máng đó là công thức bổ trợ trong lượng giác.”

Lý Lệnh Nghi cũng chìm trong niềm vui bất ngờ, dù vậy nàng vẫn giữ vẻ điềm tĩnh, nhẹ giọng hỏi: “Mình vẫn chưa biết tên của bạn.”

Cách nàng hỏi không giống với người cổ đại, thay vì hỏi “Không biết nữ lang đây họ gì tên gì?”, nàng lại dùng cách hỏi của người hiện đại.

Thi Yến Vi cũng không dùng lối nói của người xưa nữa, sau một hồi chậm rãi đáp: “Trước kia là Thi Yến Vi, giờ gọi là Dương Sở Âm. Trước khi đến đây, Lệnh Nghi chắc cũng có tên khác nhỉ?”

Đã bao lâu rồi nàng chưa xưng tên ở thời hiện đại trước mặt người khác. Giật mình nhận ra, điều đó đã xảy ra từ rất lâu trước đây, lâu đến mức nàng gần như không còn nhớ nổi nữa.

Sau một thoáng ngẩn ngơ, Lý Lệnh Nghi gật đầu, chậm rãi đáp: “Trước đây, mình là Lương Thiển, giờ là Lý Lệnh Nghi.”

Lương Thiển. Một cái tên vừa đơn giản lại vừa dễ nghe.

Khi mới đến thế giới này, hẳn nàng ấy cũng giống như mình, mang trong lòng những cảm xúc cô độc, hoang mang và lạc lõng. Nghĩ đến đây, lòng Thi Yến Vi dấy lên cảm giác đồng điệu sâu sắc.

Dù quê quán, tỉnh thành có khác nhau, nhưng mối quan hệ giữa họ lúc này đã vượt qua cái gọi là đồng hương.

Trong xã hội phong kiến “ăn thịt người không nhả xương” này, việc gặp được một người giống mình, từng được giáo dục hiện đại, hơn nữa lại cùng giới tính, quả là niềm vui khó diễn tả bằng lời.

“Lương Thiển, sau này mình có thể gọi bạn là Thiển Thiển được không?”

Không hiểu sao, Thi Yến Vi không muốn gọi nàng là Lệnh Nghi. Nàng mơ hồ cảm thấy, nếu Lý Lệnh Nghi thực sự yêu thích thân phận công chúa, thì đã chẳng tu đạo lánh đời.

Đã nhiều năm Lý Lệnh Nghi không nghe ai gọi mình như thế, bất giác nhớ đến những người bạn thời hiện đại, từ bạn thân đến bạn cùng phòng đều thích gọi nàng bằng cái tên ấy. Vì thế, nàng không chút do dự mà đồng ý, giọng nói mang theo ý cười:

“Nếu bạn gọi mình như vậy, mình cũng sẽ gọi bạn là Vi Vi.”

Cảm giác chua xót vì những ký ức cũ theo cuộc trò chuyện nhẹ nhàng dần phai đi, Thi Yến Vi cũng bật cười: “Cũng được, nếu có ai hỏi thì cứ bảo là tên thân mật chúng mình đặt cho nhau.”

Đang nói chuyện, nàng bỗng nhớ đến những chuyện đã trải qua trước khi xuyên không, liền hỏi Lý Lệnh Nghi làm sao lại đến được nơi này.

Lý Lệnh Nghi đáp: “Mình mắc bệnh tim bẩm sinh phức tạp, năm hai mươi lăm tuổi đã không qua nổi lần phẫu thuật thứ hai. Sau khi đến đây, mình từng gặp một đạo trưởng bị què chân. Ông ấy nói với mình rằng mạng này là nhờ cha mẹ mình thành tâm hành thiện suốt hơn hai mươi năm mà có được. Thân phận công chúa trong mắt người nơi đây có lẽ là mệnh phú quý trời sinh, nhưng với người đến từ thời đại kinh tế tri thức như mình, thực ra mình chẳng ưa gì những lễ nghi ràng buộc, nam tôn nữ ti, tam cương ngũ thường… Dẫu có là công chúa cao quý, cũng chỉ là con chim bị nhốt trong lồng son dưới chế độ phụ quyền và phu quyền mà thôi.”

Câu chuyện dần trở nên nặng nề, Thi Yến Vi không ngờ nàng lại thổ lộ nhiều như thế. Ngực nàng thoáng nghẹn lại, không biết phải an ủi thế nào.

Thi Yến Vi còn đang lưỡng lự, lại nghe Lý Lệnh Nghi khẽ nói: “Mình đã đấu tranh với chính mình đủ lâu rồi. Mình thà sống thật với bản thân.”

“Câu nói này là điều mà mình đã nhận ra trước khi quyết định tu đạo, chọn lánh đời. Khi đó, mình từng nghĩ, có lẽ mình nên thuận theo số mệnh, gả cho người mà hoàng đế chỉ định, từ đó sống những ngày tháng phú quý, an nhàn nhưng vô nghĩa, để rồi kết thúc cuộc đời như vậy cũng được.”

“Dù cuộc sống hiện tại dù có phần thanh đạm, vẫn có thể xem là tự tại. Mình mệt thì có thể ngủ, đói thì ăn, buồn chán thì xuống núi dạo chợ, không còn như ngày xưa trong cung bị người ta kè kè suốt ngày, kiềm chế cả tính tình lẫn cử chỉ. Thỉnh thoảng nhớ đến người và chuyện ở hiện đại, không cần gò ép bản thân nữa, cứ thoải mái mà khóc một trận cho thỏa.”

Lý Lệnh Nghi nói xong, Thi Yến Vi dường như vẫn chìm đắm trong những lời ấy, chưa thể bừng tỉnh. Lý Lệnh Nghi nhẹ nhàng vỗ mu bàn tay nàng, hỏi nàng làm sao lại đến nơi này.

Thi Yến Vi kể lại rằng sau khi gặp tai nạn giao thông, vừa mở mắt đã thấy mình nằm trong một căn nhà gỗ cổ xưa, thanh tịnh. Sau đó, nàng gặp Tống Hành, bị hắn ép buộc làm ngoại thất của hắn. Trong thời gian đó, nàng đã hai lần tìm cách bỏ trốn nhưng đều bị hắn bắt về. Mãi cho đến khi a cữu của nguyên thân là Thẩm Kính An đến Triệu quốc, nàng mới có cơ hội thoát khỏi lòng bàn tay hắn.

Trong thời đại này, chỉ có nhan sắc mà không có gia thế, há chẳng phải là một loại khổ nạn sao?

Lý Lệnh Nghi nghe xong, khẽ thở dài một tiếng, trở lại phong thái cổ nhân, an ủi nàng: “May mà tất cả đã qua rồi. Vô cớ phải chịu kiếp nạn này, về sau ắt sẽ khổ tận cam lai, bình an hỉ nhạc.”

Thi Yến Vi đã lâu không dùng cách nói chuyện của người hiện đại, trong phút chốc khó mà chuyển đổi kịp, huống chi sau này còn phải dùng ngôn từ cổ nhiều, sợ rằng sẽ lộ sơ hở trước người khác. Nàng bèn thuận theo, nói theo kiểu cách cổ nhân: “Ta còn nhiều chuyện muốn nói với cô, e rằng phải ở lại đây một thời gian. Nếu cô không chê, cho ta một gian phòng ở lại nhé? Lễ nghĩa qua lại, đợi ít hôm nữa, cô cũng theo ta đến Biện Châu vài ngày được không? Chúng ta ở cùng nhau trò chuyện, nói nói cười cười, ngày tháng trôi qua cũng đỡ buồn chán hơn.”

Lý Lệnh Nghi không bài xích gì với Biện Châu, cũng không có ác cảm với Thẩm Kính An. Lần trước khi đến Biện Châu, Thẩm Kính An sắp xếp chu toàn, để tránh dị nghị, đã đặc biệt bố trí nàng ở biệt phủ ngoài thành. Lần này có Thi Yến Vi đi cùng, nàng có thể ở cùng nàng ấy trong Thẩm phủ, không lo lời ra tiếng vào.

“Được, đợi khi nào cô chán ở đây rồi, ta sẽ cùng cô về Biện Châu một thời gian.”

Đêm đó, hai người dùng xong bữa tối, ngồi dưới giàn nho uống trà, ngắm trăng sao.

Úc Kim sai những thị vệ khỏe mạnh mang đầy nước vào, rồi Vọng Tình dẫn họ tới phòng phía bên để nghỉ ngơi.

Đạo quán này do Ai Đế sai người trùng tu sửa chữa, tuy không quá lớn nhưng cũng không nhỏ, có đủ vài gian phòng, cả phòng thay đồ cũng có hai ba gian, vì vậy nghỉ lại đây cũng khá thuận tiện.

Thi Yến Vi tự mình rửa mặt chải đầu xong, Úc Kim khăng khăng muốn ngủ cùng phòng với nàng. Ban đầu, nàng định ra ngoài nằm trên chiếc sạp thấp để trực đêm, nhưng thấy Úc Kim ngủ như vậy e không thoải mái, Thi Yến Vi đành gọi nàng lên giường ngủ cùng.

Úc Kim nghĩ nàng lần đầu ngủ ở đạo quán trên núi nên có chút không quen, cần có người bên cạnh, liền vui vẻ đồng ý ngay.

Có người để trút bầu tâm sự, tâm trạng Thi Yến Vi trở nên nhẹ nhõm. Nàng không còn nghĩ về những đêm bị Tống Hành áp bức, nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.

Không ngờ rằng, đêm đó nàng lại mơ thấy ba mẹ và Trần Nhượng. Họ cứu trợ động vật hoang dã, triệt sản và xây tổ cho chúng; đến tận vùng núi hẻo lánh giúp đỡ những cô bé không có điều kiện học hành; nhiều lần thành tâm quỳ trước tượng thần, cầu nguyện cho nàng có cơ hội sống lại.

Giấc mơ hiện lên như một cuốn phim quay nhanh, thời gian trôi vùn vụt, chỉ trong chốc lát, tóc ba mẹ đã hoa râm, còn Trần Nhượng cũng bước vào tuổi trung niên.

Dường như anh vẫn chưa kết hôn, vẫn sống một mình. Trong phòng đặt một khung ảnh chụp chung của nàng và Trần Nhượng khi đi biển. Trần Nhượng bước vào phòng, cầm lấy khung ảnh, thì thầm gì đó với người trong ảnh. Thi Yến Vi muốn tiến lại gần để nghe rõ nhưng bất luận cố gắng thế nào, nàng vẫn không thể di chuyển. Nàng như một làn khí vô hình, không hề có thực thể.

Thi Yến Vi nằm trên giường, khóe mắt ướt đẫm, đôi mày nhíu chặt, nắm chặt chăn.

Bỗng nhiên, khung cảnh trong mơ tối sầm lại.

Khi ánh sáng trở lại, căn phòng trước mắt đã biến thành nội điện Triều Nguyên.

Trong khoảnh khắc, Thi Yến Vi kinh hãi đến mất hồn, vội bật dậy khỏi giường, không kịp xỏ giày, gần như dốc hết sức chạy về phía cửa.

Nhưng chưa kịp tới cửa, nàng đã nghe tiếng cánh cửa bị đẩy mở ra.

Tống Hành bước vào, bóng dáng hắn bị ánh sáng phía sau kéo dài, đổ tràn khắp nền.

Tim Thi Yến Vi đập thình thịch, hai chân run rẩy, mềm nhũn, bị hắn từng bước ép về phía giường La Hán sau lưng.

“Âm Nương, nàng định đi đâu?” Giọng nói trầm thấp của hắn vang lên khiến nàng sợ hãi tới nỗi nghẹt thở, da đầu tê dại.

“Đừng lại đây, đừng lại đây!” Thi Yến Vi tuyệt vọng gào lên, vớ lấy chén trà trên bàn nhỏ ném về phía hắn.

Hắn không tránh, mặc chén trà đập vào người, nước trà lạnh thấm ướt y phục nhưng vẫn thản nhiên như không.

“Hôm nay sao Âm Nương lại giận dữ như vậy? Trẫm đến giúp nàng hạ hỏa, được chứ?” Tống Hành vừa nói, vừa cởi đai lưng, dễ dàng trói chặt cổ tay nàng.

Sau đó, hắn thản nhiên cởi bỏ áo bào đen tuyền ngay trước mặt nàng.

Thi Yến Vi hoảng sợ tột độ, nhưng không còn đường lui, chỉ biết nhắm chặt mắt, không dám mở ra nhìn thân hình cao lớn, rắn rỏi như thành đồng vách sắt của hắn.

Tống Hành cúi xuống, bàn tay to lớn kéo váy nàng.

Trên thảm bên cửa sổ, giữa giường, hắn giam cầm nàng, khống chế nàng như muốn đóng đinh nàng xuống đất.

Kiệt sức, nàng không thể kháng cự, chỉ một tay hắn cũng đủ khiến nàng bất lực.

Sợ hãi theo bản năng, nàng lắc đầu liên tục, từ chối chén canh sâm.

“Không, ta không uống…” Thi Yến Vi bật thành tiếng, bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng.

Mồ hôi ướt đẫm áo ngủ, khóe mắt nàng còn đọng lại những giọt nước mắt từ giấc mộng.

Bên cạnh, Úc Kim bị tiếng động đánh thức, lập tức tỉnh táo. Thấy nương tử nhà mình ngồi dậy, tay đặt lên ngực, thở hổn hển, nàng vội vàng xoa lưng trấn an: “Tiểu nương tử gặp ác mộng sao?”

Thi Yến Vi khẽ gật đầu, nhìn ra cửa sổ. Trời vẫn chưa sáng hẳn, nhưng ánh sáng mờ nhạt đã le lói, chắc cũng sắp bình minh.

Úc Kim xuống giường, rót một ly nước lạnh mang tới. Thi Yến Vi đón lấy, cảm ơn rồi nhấp từng ngụm nhỏ. Nàng không còn sợ hãi như lúc nãy nhưng cũng chẳng còn buồn ngủ nữa.

Suốt cả ngày hôm đó, giấc mơ ấy cứ bám lấy nàng, khiến nàng lo lắng Tống Hành sẽ đổi ý, phái người tới bắt nàng về cung.

Dù muốn nói chuyện cùng Lý Lệnh Nghi, nàng lại chẳng thể tập trung, chỉ ngồi im lặng, ánh mắt thẫn thờ.

Thấy bộ dáng thất thần của Thi Yến Vi, Lý Lệnh Nghi không khỏi lên tiếng dò hỏi.

Thi Yến Vi chỉ đáp rằng đêm qua gặp ác mộng, ngoài ra không có gì đáng ngại.

Lý Lệnh Nghi trầm ngâm giây lát, thầm nghĩ có thể khiến nàng bồn chồn lo lắng đến vậy, trên đời này e rằng chỉ có tên quân vương cầm thú kia thôi.

“Người ta thường nói, ngày nghĩ nhiều, đêm mộng mị. Có lẽ Vi Vi vẫn còn mắc kẹt trong những chuyện xưa, tâm không thể yên ổn. Ở đây ta có sẵn giấy bút, nếu không có việc gì, chi bằng chép vài lần kinh tĩnh tâm để lòng tĩnh lặng hơn.”

Không tìm được cách nào khác để khiến lòng mình dịu lại, Thi Yến Vi nghe vậy không dám trái lời. Nàng liền lấy bút mực, thêm nước vào nghiên, rồi cầm bút bắt đầu chép kinh.

Lý Lệnh Nghi đứng bên cạnh nhìn một lát, thấy nàng dần dần bình tâm lại, tập trung vào từng nét chữ, lúc này mới yên lòng rời đi làm việc khác.

Thành Tử Vi, điện Triều Nguyên.

Tống Hành đã phê sổ con suốt cả buổi trưa, đôi mắt không khỏi nhức mỏi, không khỏi cảm thấy nhức mắt, tê tay, bèn đặt bút, bước đến bên cửa sổ.

Đưa tay chạm vào gỗ nơi bệ cửa, hơi nóng truyền đến lòng bàn tay, hẳn là bị ánh nắng gay gắt cả chiều nay nung nóng.

Không biết vì sao, hắn chợt nhớ đến điều gì đó, hình ảnh ngón tay thanh mảnh, búi tóc buông lơi, khuyên tai khẽ lay động, tấm lưng trắng ngần tựa tuyết, tất cả đều tương phản rõ rệt với làn da rám nắng thô ráp của hắn.

Hắn nhớ lại đêm hôm đó, trong chính gian điện này, hắn và nàng thân mật gắn bó, từ trên bàn, giường La Hán cho đến cả tấm thảm. Khắp nơi dường như vẫn còn vương lại hơi thở của nàng.

Nàng mềm mại, thơm hương, hoàn toàn khác biệt với hắn, một kẻ vai u thịt bắp, nhất là khi ở bên cạnh nàng, sự vạm vỡ của hắn càng trở nên dữ tợn đến đáng sợ. Khó trách nàng chưa bao giờ dám nhìn thẳng vào thân hình hắn.

Hắn tự nhủ, lẽ ra không nên tiếp tục nghĩ về nàng. Dù d*c v*ng có sâu đến mấy, cũng chỉ cần nhẫn nhịn thêm ít lâu. Chờ a bà tìm cho hắn một nữ nhi thế gia tài sắc song toàn, tự nhiên sẽ có người hợp ý hắn hơn nàng, có gì đâu mà hắn phải bận lòng như thế nữa.

Nghĩ đến đây, Tống Hành rút tay khỏi bệ cửa, ngồi xuống giường La Hán. Trên bàn nhỏ bên cạnh có đặt một khay đá băng, tỏa ra từng làn khí mát lạnh, đáng lý ra có thể xua đi sự bức bối trong lòng, nhưng không ngờ, ký ức về nàng lại một lần nữa xâm chiếm tâm trí hắn.

Hắn ngồi không yên, do dự hồi lâu, cuối cùng cất giọng ra lệnh cho Trương nội thị chuẩn bị nước lạnh.

Từ khi Dương thượng nghi rời đi đến nay đã hơn một tháng, không biết bao nhiêu lần như thế rồi. Thánh thượng cấm bất kỳ ai nhắc đến chữ “Dương,” còn cố ý tránh mọi thứ liên quan đến cục Thượng Nghi. Bề ngoài tỏ vẻ không bận tâm, nhưng thực chất lại chỉ là tự dối lòng.

Thánh thượng đã bước vào tuổi tam thập nhi lập, Trương nội thị thực lòng mong người sớm thoát khỏi quá khứ, cưới hoàng hậu, nạp phi tần, để con cháu đầy đàn, củng cố quốc bản.

Khi nước đã chuẩn bị xong, Tống Hành không cho ai hầu hạ, tự mình cởi bỏ long bào vàng rực. Y phục hôm nay không phải bộ y phục đêm đó, nhưng khi thoáng nhìn qua, hình ảnh cũ lại hiện rõ mồn một, thôi thúc hắn quỳ xuống đất.

Hắn hồi tưởng tấm lưng trần trắng muốt như nam châu, thở trở nên gấp gáp, không sao dập tắt nổi ngọn lửa đang bùng cháy trong lòng. Cuối cùng vì không thể đè nén, hắn sa vào những ảo tưởng trụy lạc, khép dần ngón tay.

Tuy nhiên, bàn tay ấy vẫn không thể nào ngừng lại.

Cũng khó trách, lúc ở Thái Nguyên, nàng luôn chỉ biết khóc.

Hắn thật đáng chết, chưa từng một lần nghĩ tới nàng, lúc đó, nàng hẳn là rất sợ hắn, phải không?

Tống Hành khẽ nhắm mắt, lẩm bẩm với không trung: “Trước đây là trẫm không tốt, Âm Nương đánh trẫm chút để xả giận, được không?”

Qua một lúc lâu, Tống Hành mới cắn răng, phát ra một tiếng gầm thấp.

Hoàng bào vàng thắm, đã dính đầy sương trắng.

Sau cơn cuồng vọng, Tống Hành lại tự giận bản thân vì đã không kiểm soát được mình.

Một nữ gian dối trá như nàng, đâu đáng để hắn day dứt như vậy?

Nàng coi thường hắn, nhưng bên ngoài có vô số nữ nhân nguyện làm phi tần của hắn, sinh con nối dõi cho hắn.

Hắn nghĩ đến nước Ngụy lẫn nước Sở phía nam, quốc chủ đều đã quá tuổi ngũ tuần, làm sao có thể so với hắn, một vị hoàng đế đang tuổi tráng niên?

Nàng rời bỏ hắn, tuyệt đối không thể tìm được nam lang nào tốt hơn hắn.

Ngoài hắn ra, cũng chẳng ai có thể mang đến cho nàng quyền thế tối thượng.

Hắn sẽ khiến nàng hiểu rõ quyết định rời bỏ hắn ngày ấy ngu xuẩn đến nhường nào.

Hắn nhất định sẽ quên nàng triệt để, dù cho nàng có khóc lóc, quỳ gối cầu xin trước mặt hắn, hắn cũng sẽ không mảy may dao động.

Nghĩ vậy, Tống Hành bước vào bồn tắm, dòng nước mát lạnh ngập đến eo, cơn bực bội dần tan biến.

Trương nội thị rất tinh ý, đã chuẩn bị sẵn bộ áo lót do chính tay Thi Yến Vi khâu.

Dù bề ngoài Thánh thượng tỏ ra chê bai, nhưng lần nào tắm xong cũng chỉ mặc chúng mới có thể bình tâm lại. Nếu không, ban đêm người khó lòng yên giấc.

Y phục Dương thượng nghi để lại, Thánh thượng không cho cung nhân đụng vào, đích thân thu dọn mang về điện Triều Nguyên, giờ đang nằm im lìm trong tủ áo.

Trương nội thị chờ bên ngoài phòng tắm, đợi Tống Hành ra, hỏi hắn muốn về tiền điện hay nội điện.

Tống Hành vẫn còn công vụ chưa xử lý xong nên đi về phía tiền điện.

Đến gần canh ba, <i>(~23h) </i>Tống Hành mới quay lại nội điện nghỉ ngơi.

Bảo Sênh đã quan sát mấy ngày nay, thấy cảm xúc của Thánh thượng ổn định, hàng ngày hoặc gặp đại thần, hoặc phê duyệt tấu chương, nghĩ rằng hẳn đã quên Dương nương tử, liền đi đường tắt đến cung Thái hoàng thái hậu.

Thái hoàng thái hậu nghe xong, tâm trạng thoải mái hơn, liền chỉnh lý danh sách đã chọn, để Tống Vi Lan xem qua một lượt. Trước bữa tối, bà sai Sơ Vũ tới điện Triều Nguyên, mời Thánh thượng tới dùng bữa.

Tống Hành đã hai, ba ngày không đến vấn an Thái hoàng thái hậu, nên khi Sơ Vũ đến mời, hắn không từ chối, xử lý xong tấu chương liền lên kiệu đến điện Huy Du.

Nghe nội thị truyền báo, Thái hoàng thái hậu vẫn ngồi yên, Tống Vi Lan đứng dậy.

Tống Hành trước tiên vấn an Thái hoàng thái hậu, rồi gọi Tống Vi Lan một tiếng “hoàng cô”, bảo nàng không cần đa lễ.

Sau bữa tối, ba người súc miệng rửa tay, Thái hoàng thái hậu bảo Sơ Vũ lấy bức họa ra, lần lượt giới thiệu những người bà đã chọn kỹ càng.

So với lần đầu tiên giới thiệu, số lượng lần này giảm hơn một nửa, đều là con gái nhà thế gia vọng tộc, tài sắc, phẩm hạnh không thiếu thứ gì.

Tống Hành xem qua, chỉ thấy họ như cùng một khuôn mặt, liền tùy ý chỉ năm, sáu người, rồi viện cớ còn việc triều chính còn tồn đọng, để rời điện Huy Du.

Mấy ngày nay, Thi Yến Vi chép kinh tĩnh tâm, quả nhiên lòng dạ thư thái hơn, không còn gặp những cơn ác mộng kinh hoàng nữa. Mỗi ngày nàng trò chuyện, uống trà với Lý Lệnh Nghi, cùng nàng xuống núi dạo chợ, thưởng thức các món ăn và đặc sản ở Tuyên Châu.

Chiều hôm ấy, Thi Yến Vi đội mũ sa xuống núi, thấy dưới lều mát có người b*n n**c ngọt ướp lạnh và dưa ướp đá, nhìn rất hấp dẫn. Sau khi hỏi giá, nàng nhoẻn miệng cười, bảo Úc Kim cùng vài thị vệ tìm chỗ ngồi, mọi người cùng nếm thử.

Úc Kim vốn là người cẩn thận, thấy Thi Yến Vi từ ngày vào phủ đến nay không hề thấy nguyệt tín ghé qua, nghi ngờ cơ thể nàng không tốt, liền khuyên nên bớt ăn đồ lạnh. Đợi về Biện Châu, nhất định phải mời một y công giỏi về phụ khoa đến khám.

Thi Yến Vi do uống nhiều thuốc, thêm vào hàn khí nhập thể, vì lo ngại mang thai nên không dám uống thuốc điều hòa, kỳ kinh nguyệt rối loạn cũng đã lâu, chưa khi nào đến đúng ngày cả. Sau đó nàng vào cung nước Triệu làm Thượng nghi, tần suất hành phòng cũng không nhiều như trước, chưa kể Tống Hành chưa khi nào dám để lọt vào trong, nên cũng không lo chuyện có thai.

Tuy nhiên, hiện tại nàng đã có a cữu che chở, lại đang ở trong địa phận nước Ngụy, cũng có thể xem xét việc điều dưỡng cơ thể. Nếu cứ kéo dài tình trạng này, mỗi khi đến kỳ kinh nguyệt không chỉ đau bụng khó chịu mà e rằng còn ảnh hưởng đến sức khỏe.

Thi Yến Vi đã có chủ ý, không dám tham ăn, chỉ nhấp nhẹ nửa bát rồi dừng lại, sau đó mua một miếng dưa ướp đá nhỏ. Nàng cảm thấy loại quả này tuy không đỏ mọng như thời hiện đại, vị cũng chẳng ngọt ngon bằng, nhưng ở thời đại này có thể thưởng thức được như thế đã là hiếm có. Trả tiền xong, nàng không đi đâu thêm, chỉ ghé qua chợ mua cả một quả lớn, mang về cho Lý Lệnh Nghi và Vọng Tình cùng thưởng thức.

Mùa hạ nóng nực, Thái hoàng thái hậu cho gọi Lưu thượng cung, dặn bà nghĩ ra một cái cớ để mời các quý nữ vào hưu mộc giữa tháng này đến cung dự yến.

Lưu Thượng cung đề xuất rằng tháng sáu là mùa thưởng sen, không cần dùng món chính mà thay bằng chè đậu xanh, núi hạt dẻ, dưa lạnh và nước mơ chua.

Thái hoàng thái hậu nghe xong rất hài lòng, liền giao cho Lưu Thượng cung sắp xếp người lo liệu.

Sau khi Thi Yến Vi rời đi, vị trí Thượng nghi cũng để trống, Lưu thượng cung có ý nâng đỡ Dao Tư tán, liền giao việc này cho nàng cùng với Vương Thượng nghi phụ trách.

Ngày hai mươi tháng sau, hưu mộc.

Từ sáng sớm, Tống Hành đã nhận được lời mời của Thái hoàng thái hậu, dặn hắn trưa nay đến hồ Cửu Châu ngắm sen.

Hắn vì nhiều năm hành quân đánh trận bên ngoài nên không sợ nóng, nhưng nghĩ tới việc gặp nhiều nữ lang cùng một lúc lại cảm thấy lười nhác, nấn ná cạnh thùng băng mãi đến gần giờ mới ngồi lên bộ liễn, hướng về hồ Cửu Châu.

Khi Tống Hành tới nơi, các quý nữ đã chờ trong thủy tạ từ lâu. Thấy hắn xuống kiệu, họ đồng loạt đứng dậy, tiến tới bậc thềm hành lễ.

Một cơn gió thoảng qua, mang theo hương sen nhè nhẹ, hòa lẫn với mùi hương phấn thoảng trên người các quý nữ. Tống Hành vốn không thích mùi hương nồng, khẽ nhíu mày khó nhận ra, ánh mắt lướt nhanh qua mà không dừng lại ở ai. Hắn thản nhiên nói:

“Đã là Thái hoàng thái hậu cho gọi các ngươi đến đây, không cần quá câu nệ phép tắc.”

Dứt lời, hắn bước chân dài, đi thẳng vào thủy tạ, thong thả ngồi xuống ghế cao chính giữa.

Thái hoàng thái hậu thấy hắn chỉ chăm chú uống trà, chẳng buồn trò chuyện, sắc mặt thoáng trầm, liền sai người mang bánh tô sơn lên. [2]

[2]<i>[2] tô sơn: là loại kem của thời nhà Đường.</i>

Cung nhân trước tiên dâng bánh cho Tống Hành và Thái hoàng thái hậu. Nhìn lướt qua các nữ nhân bên dưới, bà mỉm cười nói với hắn: “Bánh tô sơn này làm từ sữa tươi và quả tươi rưới lên đá bào, ngọt mát thanh tao, rất hợp giải nhiệt. Thánh thượng dùng thử một chút xem sao.”

Tống Hành vốn không thích đồ ngọt, nhưng cũng chẳng tiện làm mất lòng Thái hoàng thái hậu, chỉ nhẹ nhàng “ừ” một tiếng, cầm thìa nếm qua.

Lần gần đây nhất hắn ăn đồ ngọt, là tết Thượng Nguyên, cùng nữ gian kia ăn đường viên.

Lời nàng khi ấy vẫn còn văng vẳng bên tai: Phải cho thêm chút rượu nếp, ăn mới không ngấy.

Nghĩ đến đây, động tác cầm thìa của hắn khẽ khựng lại. Ngước mắt lên nhìn các quý nữ, thấy họ dù ăn uống đoan trang, nhưng dáng vẻ lại có phần thích thú. Hắn bất giác tự hỏi: Nàng liệu có thích bánh tô sơn? Ba năm qua, mỗi dịp hè nàng không ở bên hắn, liệu nàng có tự mình đi mua tô sơn không?

Ánh mắt hắn dừng lại ở bát bánh trước mặt một quý nữ, nhưng không phải nhìn nàng mà là nhìn chằm chằm vào món bánh.

Sữa tươi rưới trên đá bào sao sánh được làn da trắng như tuyết của nàng? Nghĩ đến dáng vẻ nàng ăn bánh, hẳn là đôi môi hồng khẽ mở, từng miếng nhỏ nhắn chậm rãi đưa vào miệng. Đôi môi ấy mềm mại, nhỏ xinh, ăn nhiều chắc chẳng nổi, nhưng những món ăn nhẹ như thế lại rất hợp với nàng.

Thái hoàng thái hậu nhận thấy ánh mắt Tống Hành đang dừng ở đâu đó, liền nhìn theo. Bà trông thấy một gương mặt quả hạnh bầu bĩnh, tuy không mạo mỹ thoát tục như nữ tử họ Dương kia nhưng vẫn là một nữ lang thanh tú động lòng người. Nhìn nàng có vẻ nhỏ tuổi hơn, lớn lên ắt sẽ càng thêm phần xinh đẹp.

Nàng là nữ lang nhà ai? Thái hoàng thái hậu đã có tuổi, trí nhớ không còn được như trước, bà thoáng nghĩ, rồi nghiêng đầu hỏi nhỏ Tống Vi Lan bên cạnh.

Tống Vi Lan mỉm cười, đáp khẽ: “A nương, đó là tiểu nữ nhi của Hiển Quốc công, ở nhà xếp hàng thứ tư.”

Thái hoàng thái hậu gật gù: “Ồ,” một tiếng, lại dùng ánh mắt lại dò xét dáng vóc nàng, cảm thấy nàng khỏe mạnh hơn hẳn so với Dương thị, sắc mặt hồng hào, vóc dáng đầy đặn.

Trần Thư Ngưng cảm giác có người đang nhìn mình, liền ngẩng đầu lên. Nàng phát hiện đó là Thái hoàng thái hậu, còn Thánh thượng dường như cũng nhìn về phía nàng, nhưng ánh mắt lại như đang chăm chú nhìn vào bát tô sơn ở trên bàn chứ không phải nhìn nàng.

Chẳng phải Thánh thượng cũng có một bát đó sao, sao lại nhìn bát của nàng? Hay là người thấy bát của nàng có vẻ ngon hơn?

Thái hoàng thái hậu thấy mình bị bắt gặp, bèn thản nhiên quay đi, ánh mắt dừng ở đóa mẫu đơn tịnh đế thêu trên bức bình phong gần đó.

Trương nội thị lặng lẽ đứng sau lưng Tống Hành, ánh mắt thoáng lo lắng khi thấy bát bánh sơn trên bàn chỉ mới động một chút, còn người thì lại đăm chiêu, nhìn về xa xăm. Hắn liền khẽ ho một tiếng, che miệng nhắc nhở:

“Thánh thượng, bánh của người sắp tan rồi.”

Tống Hành giật mình bừng tỉnh, nhớ ra hôm nay là dịp chọn phi tần, nhưng lòng lại tràn ngập hình bóng nàng. Chẳng lẽ nàng là nữ tử Miêu Cương, trước đây đã hạ cổ độc lên người hắn?

Nghĩ lại thấy buồn cười, nếu nàng thật sự hạ cổ, chắc hẳn cũng phải là loại cổ chí mạng, có thể lấy mạng hắn chứ không thể nào lại hạ cổ tình.

Tống Hành khẽ cười tự giễu, không chạm thêm vào bát bánh, rót cho mình chén trà nhạt, chậm rãi thưởng thức.

Thái hoàng thái hậu, sau khi quan sát kỹ Trần Thư Ngưng, lại chuyển mắt nhìn Tống Hành. Thấy hắn từ đầu đến cuối chẳng buồn liếc qua bất kỳ nữ lang nào khác, bà ngầm hiểu rằng tâm tư hắn đã đặt vào tiểu nữ nhi của Hiển Quốc công.

Tiệc tàn, Thái hoàng thái hậu giữ Tống Hành lại nói chuyện.

“Có phải đã Thánh thượng để mắt đến Trần Tứ nương của phủ Hiển Quốc công rồi không?” Vừa hỏi, ánh mắt bà vừa hướng về chỗ Trần Thư Ngưng từng ngồi.

Tống Hành không nhớ rõ diện mạo nàng, thậm chí cũng chẳng để tâm. Nhưng bốn chữ “Hiển Quốc công phủ” lại để lại ấn tượng khá tốt.

Hiển Quốc công Trần Khiên, từng giữ chức tể tướng triều trước, nổi danh cương trực, không kết bè kéo cánh, là bậc thanh lưu trong triều. Chính các mưu thần dưới trướng hắn phải tốn không ít công sức mới thuyết phục được Trần Khiên quy thuận Triệu quốc.

Một người như Trần Khiên, chính trực liêm khiết, hẳn không thể dạy ra một nữ nhi kiêu căng, ngạo mạn, tâm địa bất chính.

Hậu cung, chỉ cần một nữ nhân hiền lương, đủ khả năng quản lý chu toàn, giúp hắn bớt đi lo nghĩ, là ai cũng không khác biệt.

Nếu a bà đã hỏi vậy tức cũng cảm thấy nàng là người thích hợp.

Tống Hành nghĩ như thế, nhưng vẫn không thể thuận miệng nói rằng mình có cảm tình với nàng. Hắn cân nhắc một hồi, cuối cùng hời hợt đáp: “Nếu a bà cảm thấy nàng phù hợp, hưu mộc lần tới, cứ mời nàng đến điện Huy Du uống trà là được.”

Thái độ tuy có chút lãnh đạm, nhưng cũng không đến mức dửng dưng như trước. Thái hoàng thái hậu nghe xong, lòng tràn đầy hy vọng, vội vàng gật đầu đồng ý. Sau khi Tống Hành rời đi, bà liền sai người điều tra cặn kẽ tính tình của Trần Tứ nương.

Từ khi Thi Yến Vi rời khỏi Triệu quốc, Tống Hành hiếm khi bước chân ra khỏi điện Triều Nguyên, ngoài việc đi tuần tra quân doanh và đích thân huấn luyện binh sĩ, hắn đều vùi mình trong công vụ.

Như hôm nay, tuy mười ngày mới đến một ngày hưu mộc, hắn cũng chỉ sáng sớm luyện kiếm, dùng qua bữa rồi lại quay về nội điện phê duyệt tấu chương.

Kể từ lúc trở về từ hồ Cửu Châu Trì, sắc mặt người vẫn chẳng chút vui vẻ, tựa hồ từ ngày Dương Thượng Nghi theo Vũ An Hầu rời đi, chưa khi nào Thánh thượng nở nụ cười lần nữa.

Trương nội thị nhìn thấy cảnh ấy mà lo lắng không yên, trong lòng thầm nghĩ nếu cứ kéo dài như vậy, e rằng Thánh thượng sẽ sinh bệnh mất thôi. Vốn hy vọng hôm nay gặp vài tiểu thư xinh đẹp sẽ giúp người khuây khỏa, nào ngờ về rồi tâm trạng lại càng ủ dột hơn.

Thấm thoắt đã mười ngày trôi qua.

Ngày mùng một tháng bảy.

Thái hoàng thái hậu đặc biệt triệu Trần Tứ nương đến điện Huy Du uống trà.

Trước đó, lời đồn về việc Thánh thượng chọn phi đã lan truyền khắp nơi. Nay Thái hoàng thái hậu lại đích thân triệu kiến một mình nàng, cho dù là kẻ ngốc cũng có thể hiểu rõ hàm ý trong chuyện này.

Hiển Quốc công gia, Trần Khiên, vốn nghe danh Tống Hành không gần nữ sắc, tâm tư khó lường, không hề có ý định kết thân với hoàng thất. Nay hay tin tiểu nữ được triệu vào cung, ông chẳng xem đó là điều đáng mừng, trái lại càng thêm lo lắng. Khi Trần Thư Ngưng sửa soạn lên đường, ông đã dặn dò không dưới ba lần, rằng nàng phải ăn nói cẩn trọng, tuyệt đối không được đắc tội với những bậc quý nhân trong cung.

Trần Thư Ngưng vốn là người lanh lợi tùy hứng, không mấy ưa thích những quy củ ràng buộc trong cung. Nhớ lại lần trước dự yến, nàng chẳng buồn hé lời với bất kỳ ai quen biết ngồi cạnh, bởi thế càng thêm chán ngán nơi này.

Nàng vốn nghĩ bản thân không phải người nổi bật nhất trong số các quý nữ kia, Thái hoàng thái hậu và Thánh thượng hẳn sẽ không để ý đến mình. Nào ngờ, lần này Thái hoàng thái hậu lại chỉ đích danh nàng, mời một mình nàng đến uống trà.

Không có ai quen biết, chỉ nghĩ đến điều này thôi nàng đã cảm thấy bất an, không biết phải làm thế nào cho phải.

Khi vào cung, cung nhân tại điện Huy Du mở cửa mời nàng vào. Trần Thư Ngưng bước đến, chắp tay trước ngực quỳ gối, cung kính hành lễ.

Thái hoàng thái hậu vẫn giữ vẻ hòa nhã, còn vị Thánh thượng bên cạnh bà, sắc mặt tựa băng tuyết, lạnh lẽo đủ khiến người ta đông cứng.

Lần đầu đối diện áp lực lớn như vậy, Trần Thư Ngưng từ một người có tính cách hoạt bát bỗng trở nên rụt rè, thận trọng, không dám nhiều lời.

Mãi cho đến khi Thái hoàng thái hậu khẽ mỉm cười, hỏi nàng có biết pha trà hay không, nàng mới hoàn hồn, cung kính trả lời.

Thái hoàng thái hậu bèn sai người mang đủ bộ dụng cụ pha trà đến, bảo nàng pha một ấm trà để mọi người cùng thưởng thức.

Trần Thư Ngưng lập tức làm theo, cẩn thận pha trà rồi rót vào ba chén. Nàng dâng chén đầu tiên cho Thái hoàng thái hậu, kế đến là Thánh thượng và Tống Vi Lan.

Thái hoàng thái hậu liền hỏi sao không dâng Thánh thượng trước. Trần Thư Ngưng liền đáp các triều đại Trung Nguyên lấy xưa nay đều dùng hiếu đạo trị quốc. Thánh thượng kính trọng Thái hoàng thái hậu, triều thần đều đa tỏ tường. Hơn nữa, Thánh thượng vừa dùng trà lạnh, hẳn cũng không vội dùng trà nóng ngay.

“Thật là đứa trẻ tinh tế.” Thái hoàng thái hậu khen ngợi, rồi quay nhìn Tống Hành và Tống Vi Lan, thì thấy sắc mặt Tống Hành vẫn bình thản, trong khi Tống Vi Lan khẽ gật đầu tán thưởng, rõ ràng cũng cảm thấy nàng không tệ.

Thái hoàng thái hậu rất hài lòng, bèn giữ nàng lại dùng bữa tối trong cung, rồi bảo Tống Hành đưa nàng đi dạo, ngắm hoa tử vi đang nở rộ trong ngự hoa viên.

Tống Hành chẳng hề có ấn tượng đặc biệt nào với nàng, hắn chỉ làm theo ý Thái hoàng thái hậu, không chút để tâm.

Về phía Trần Thư Ngưng, phải ở cùng hắn khiến nàng cảm thấy vô cùng gò bó. Sau khi dạo một vòng quanh hoa viên, hai người trở lại điện Huy Du, trước khi trời tối, Thái hoàng thái hậu sai người tiễn nàng xuất cung.

Khi ấy, Tống Vi Lan vẫn ngồi trong điện, Thái hoàng thái hậu không kiêng dè gì, trực tiếp hỏi Tống Hành thấy vị Trần tứ nương này thế nào.

Tống Hành trầm tư hồi lâu, không thể đưa ra quyết định.

Thái hoàng thái hậu có chút mất kiên nhẫn, khẽ nhíu đôi mày bạc: “Nhị lang, chẳng lẽ cháu vẫn còn nhớ đến nữ tử họ Dương kia?”

Nữ tử họ Dương mà a nương vừa nhắc đến chính là cháu hái kẻ đã hại chết Đại lang.

Tống Vi Lan nhớ đến trưởng tử chết dưới đao Thẩm Kính An khi còn chưa tròn hai mươi lăm tuổi, không khỏi nghiến răng căm phẫn. Ngón tay nàng siết chặt lấy chén trà trong tay, hơi thở gấp gáp, lời nói bật ra khỏi miệng mà không kịp giữ ý, thậm chí quên cả quy củ, gọi thẳng Tống Hành là “Nhị lang”.

“Nhị lang vẫn còn nhớ đến cháu gái của tướng quân nước Ngụy sao?! Khi xưa, Thừa Sách từng cùng Nhị lang đọc sách, luyện võ. Nó luôn kính trọng biểu huynh của mình nhất…”

Lời chưa dứt, ánh mắt nghiêm nghị của Thái hoàng thái hậu đã lạnh lùng liếc qua, ra hiệu cho nàng im lặng, chớ buông lời hồ đồ thêm nữa.

Sắc mặt Tống Hành càng thêm âm trầm. Sau một hồi tĩnh lặng kéo dài, giọng nói trầm thấp của nam lang chợt vang lên: “Trẫm sẽ lập nàng làm hoàng hậu. Đồng thời, xin nhờ a bà chọn thêm bốn nữ lang để lấp đầy vị trí tứ phi.”

Đêm ấy, Tống Hành thức đến khuya để tự tay viết thánh chỉ, nhưng khi đến bước đóng ngọc tỷ, hắn lại chần chừ mãi, không hạ tay.

Bất giác, trong tâm trí hắn hiện lên hình ảnh nữ lang từng cầm ngọc tỷ với đôi tay thon dài, trắng ngần. Nàng ngồi trong lòng hắn, ánh mắt tập trung như đang nghĩ ngợi điều gì đó.

Hắn từng nói sẽ tặng nàng ngọc tỷ truyền quốc để nàng tùy ý chơi đùa. Nàng khi ấy đã quay đầu nhìn hắn, ánh mắt như sao trời rực sáng, soi thẳng tận đáy lòng hắn.

Cơn đau âm ỉ nơi thái dương khiến Tống Hành khẽ cau mày. Hắn đóng nắp hộp cất ngọc tỷ lại, đặt thánh chỉ sang một bên chờ mực khô.

Đêm đó, hắn tiếp tục phê duyệt tấu chương đến tận canh ba mới đi nghỉ.

Sáng hôm sau, Tống Hành sai Khâm Thiên Giám tính toán ngày lành để lập hậu.

Ba ngày sau, Khâm Thiên Giám đưa ra dự báo. Tin này cũng lập tức truyền đến tai Thái hoàng thái hậu.

Tống Vi Lan nói: “Lần này Nhị lang chắc chắn sẽ đưa ra quyết định. Sáng mai thánh chỉ nhất định sẽ được ban xuống.”

Thái hoàng thái hậu dù vẻ ngoài điềm tĩnh, nhưng trong lòng vẫn thấp thỏm không yên, chỉ khẽ đáp: “Hy vọng là vậy.”

Tại điện Triều Nguyên.

Tống Hành đã điền ngày tháng vào thánh chỉ, nhưng lại chưa đóng ngọc tỷ.

Hắn nghĩ: “Đợi đến sáng mai rồi đóng cũng chưa muộn.”

Nghĩ xong, hắn đắt thánh chỉ sang một bên, hoàn tất công việc còn lại rồi lên giường đi ngủ.

Những ngày gần đây, hắn ép bản thân không được nghĩ đến nữ gian chuyên lừa gạt kia, bận rộn với quốc sự, chẳng để tâm đến bất kỳ chuyện nào khác.

Trong giấc mơ, điện Triều Nguyên hiện lên tràn ngập đèn hoa, không khí rộn ràng náo nhiệt.

Tống Hành đẩy cửa bước vào, cảnh tượng trước mắt khiến hắn lặng người.

Trên chiếc giường lớn, một nữ lang vận hôn phục màu xanh lục đang an tĩnh ngồi đó.

Tim hắn bỗng đập mạnh, lòng bàn tay rịn mồ hôi.

Nữ lang ngồi trên giường dường như cảm nhận được có người đang tới gần, khẽ nghiêng mình, nhẹ nhàng gạt chiếc quạt che mặt ra, nở nụ cười nhàn nhạt.

Khuôn mặt xa lạ của nàng hiện lên khiến Tống Hành kinh hãi, cả người như rơi vào hố băng.

Nàng là ai?

Hắn cố gắng nhớ lại. Đúng rồi, nàng là con gái của Trần Khiên, nhưng hắn không tài nào nhớ được dung mạo hay tên tuổi của nàng.

Thực sự phải cưới nàng sao? Hắn tự hỏi đi hỏi lại trong lòng.

Chỉ sau một thoáng, hắn đã tìm ra câu trả lời.

Không phải nàng. Người hắn muốn cưới không phải là nàng, người hắn muốn gặp cũng không phải là nàng.

Bất chợt, mộng cảnh chuyển về biệt viện trước khi hắn đăng cơ.

“Quỳ Ngưu Nô.”

Thanh âm trong trẻo của một nữ lang vang lên bên tai, khiến đôi mắt Tống Hành sáng rõ. Hắn quay đầu tìm kiếm nơi phát ra giọng nói.

Dưới ánh nến lung linh, người con gái mà hắn ngày đêm mong nhớ đang ngồi trên ghế nguyệt nha. Nàng vận váy lụa quế hoa, đôi mắt hoa đào long lanh nhìn hắn, ánh lên tình ý dạt dào.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 73: Quyết tâm


Ánh trăng lan tràn qua song cửa, hòa quyện cùng ánh nến cam vàng, nhưng tất cả ánh sáng ấy đều không thể sánh bằng dung nhan rực rỡ của nàng.

Phải rồi, người mà hắn muốn gặp là nàng. Hắn muốn nhìn thấy nàng mặc lục y gả cho hắn, trở thành tân nương của hắn.

Ngoài nàng ra, chẳng có bất kỳ nữ lang nào có thể khiến ánh mắt hắn lưu luyến.

Phản ứng từ sâu thẳm bản năng không thể lừa dối, Tống Hành chẳng cách nào tự lừa mình dối người.

Hắn không muốn cùng bất kỳ ai khác làm chuyện thân mật, cơ thể không hề khơi dậy chút hứng thú nào, chỉ duy nhất với Âm Nương, hắn mới khát khao điều đó.

Lẽ ra hắn nên nhận ra điều này từ sớm. Ba năm qua, rõ ràng hắn chưa từng chạm vào nữ lang nào khác ngoài nàng. Dù khi xuất chinh bên ngoài, nghe các tướng sĩ thường tụ họp đàm luận về thú vui x*c th*t, hay những lần hành quân ngang qua các thành trấn, không ít người tìm đến chốn phong nguyệt để giải tỏa nhu cầu, nhưng hắn chưa bao giờ nghĩ đến việc tìm ai khác.

Trước khi gặp Âm Nương, hắn vốn không ưa thích những chuyện như vậy, thậm chí xem đó là sự lãng phí thời gian. Nhưng từ lúc hắn động lòng với nàng, từ khi cơ thể hắn được nàng chạm tới, hắn mới hiểu được niềm vui của chuyện ** *n. Kể từ đó, cả thân thể lẫn trái tim hắn đều chỉ mong có nàng, không dung nạp nổi bất kỳ ai.

Nếu nàng muốn, hắn nguyện dâng cả hậu vị cho nàng.

“Âm Nương…” Tống Hành cất tiếng gọi đầy trìu mến, chưa đợi nàng phản ứng, hắn đã sải bước đến gần.

Nữ nhân ngày đêm mong nhớ nay đứng ngay trước mắt, Tống Hành chẳng thể nào đè nén nỗi nhớ nhung. Đôi cánh tay rắn rỏi vòng qua eo nàng, siết chặt.

Hắn cúi người, ghé sát bên tai nàng, thì thầm hắn thích nàng đến mức nào, rồi cầu xin nàng cũng thích hắn dù chỉ một chút.

Nàng lặng lẽ nghe hắn nói hết, rất lâu sau vẫn không đáp lại chữ “được” mà hắn hằng mong đợi.

Dẫu là trong mộng, nàng cũng không chịu đồng ý.

Tim hắn nặng trĩu, sống mũi cay xè.

“Ta… thật có lỗi, ngày trước là ta đã làm nàng đau, khiến nàng tổn thương, buồn khổ. Ta thật sự có lỗi… về sau tuyệt đối sẽ không như vậy nữa… Âm Nương, tha thứ cho ta được không?”

Lời vừa dứt, gian phòng tĩnh lặng như tờ. Một hồi lâu sau, nàng vẫn im lặng, như con rối vô hồn để mặc hắn điều khiển.

Hắn đã từng phạm không ít sai lầm, gây cho nàng biết bao tổn thương. Nàng làm sao có thể dễ dàng tha thứ? Hắn vẫn nghĩ rằng ngày tháng phía trước còn dài, chỉ cần hắn hết lòng bù đắp, nàng nhất định sẽ nguôi ngoai mà ở lại bên hắn. Nhưng không ngờ, nàng lại căm ghét hắn đến vậy, hằng ngày chỉ mong thoát khỏi hắn, ra đi dứt khoát không lời từ biệt.

Nàng chỉ để lại cho hắn vẻn vẹn một chữ “được”.

Tống Hành không muốn nghĩ thêm về những điều đau lòng ấy nữa.

“Âm Nương…” Tống Hành khẽ gọi, tay vuốt nhẹ lên mái tóc đen nhánh của nàng, rồi lướt xuống gò má.

Thấy nàng không đẩy hắn ra, trái tim hắn thoáng trở nên nhẹ nhõm. Hắn nhẹ nhàng bế nàng lên, đôi môi mỏng áp lên đôi môi nàng, từ tốn tách ra, đưa lưỡi vào khẽ chạm đến đầu lưỡi nàng, nụ hôn tràn đầy yêu thương và quấn quýt.

Không biết từ lúc nào, nàng đã bị hắn đặt lên bàn trang điểm, tà váy bị hắn kéo cao đến tận eo.

Tống Hành rời môi nàng, cúi mình trước mặt nàng, giúp nàng gợi lên cảm xúc.

Chẳng bao lâu sau, đôi mắt nàng vì sự chăm sóc dịu dàng của hắn mà ngấn nước, rơi xuống những giọt sương ngọc.

Hắn tháo đai ngọc, chống hai tay lên bàn, chậm rãi tiến tới, cho nàng thời gian thích nghi, không còn sợ hãi hay kháng cự như trước.

Đôi mắt ngập nước của nàng đối diện với ánh nhìn cháy bỏng của hắn.

“Âm Nương…” Hắn tiến lại gần, rời khỏi án thư, bàn tay rắn rỏi nắm lấy mười ngón tay nàng, đôi môi mỏng đặt lên mi tâm nàng, cố gắng kiềm chế h*m m**n cùng lực đạo.

Nhưng sự kìm nén ấy không làm dịu đi cảm giác nóng bức trong người hắn, khó chịu như con kiến bò trên chảo nóng.

Nước mắt nàng bắt đầu rơi, như những hạt mưa nhỏ từng chút đập thẳng vào trái tim hắn.

Tống Hành nhẫn nhịn đến mức đôi mắt cũng muốn đỏ lên, làn da rám nắng tỏa ra hơi nóng, dòng máu trong người sôi sục, thôi thúc hắn tìm ra lối thoát.

Cảm giác lơ lửng giữa chừng này khiến nàng cũng khổ sở, không biết bản thân mình muốn gì, chỉ thấy cơ thể nóng bức vô cùng. Rõ ràng hắn cũng đang tỏa nhiệt, nhưng nàng lại cảm thấy hơi thở của hắn mang theo chút cảm giác lành lạnh, như có thể xoa dịu cơn khô nóng, liền vô thức nép sát vào hắn. Không biết từ khi nào, nàng đã quấn chặt lấy hắn như dây leo ôm lấy thân cây.

Nàng cần hắn. Tống Hành vô cùng kinh ngạc lẫn vui mừng. Trong đôi mắt phượng như lóe lên ánh sáng, hắn thành kính hôn lên giữa đôi mày nàng, siết chặt mười ngón tay đan vào nhau, từng bước dẫn dắt.

Chợt, nàng phát ra tiếng rên khẽ…

Tống Hành lau nước mắt nơi đuôi mắt nàng, dịu giọng dỗ dành: “Ta sẽ khiến nàng vui sướng. Gọi ta đi, Âm Nương.”

Ý thức dần mờ nhạt, đầu óc trở nên hỗn loạn, hắn nghe thấy nàng gọi hắn là “Thánh thượng.”

Tống Hành khẽ lắc đầu, một tay nắm chặt lấy nàng, giọng nói tựa gió cuốn, sửa lại lời nàng: “Âm Nương ngoan, không phải gọi như vậy. Nàng phải gọi ta là Quỳ Ngưu Nô.”

Quỳ Ngưu Nô. Ba chữ ấy xoay quanh trong đầu nàng, khiến tâm trí nàng chẳng thể cưỡng lại sức ép của hắn.

Ngón chân trắng hồng khẽ co lại, nàng ngước mắt lên nhìn hắn, ánh mắt mờ mịt ngấn lệ. Nàng mở miệng, lần này lớn tiếng hơn chút: “Quỳ Ngưu Nô…”

Tống Hành không thể diễn tả sự thỏa mãn của mình lúc này. Hắn dịu dàng v**t v* lưng nàng, khen ngợi: “Âm Nương ngoan, ngoài nàng ra, không ai được phép gọi ta như vậy.”

“Ta chỉ thuộc về mình Âm Nương, và Âm Nương cũng chỉ có thể là của ta. Ta nhất định sẽ đưa nàng ra khỏi nước Ngụy, để chúng ta đều có thể gặp nhau mỗi ngày.”

Chẳng phải nàng vẫn đang ở bên hắn đó sao? Nhưng không hiểu sao khi hắn nói những lời này, nàng lại quay đầu đi, nhắm mắt lại, không thèm để ý đến hắn nữa.

Tuy nhiên, điều này không làm giảm đi hứng thú của Tống Hành.

Tống Hành bế nàng bước tới trước bức bình phong hoa điểu gập làm ba, vẫn không mệt mỏi nâng niu nàng. Hơi thở ấm áp thì thầm bên tai nàng: “Âm Nương, nàng cũng phải thích ta, nhất định phải thích ta. Trên đời này, chỉ có ta mới xứng với nàng. Nếu là người khác, làm sao có thể nuôi được nàng, thỏ ngọc tham ăn này, làm sao có thể khiến nàng thỏa mãn như vậy?”

Sau một lúc lâu, cuối cùng nữ lang cũng không còn sức để nói, chỉ có thể yếu ớt quàng tay quanh cổ hắn, ôm lấy hắn.

Tống Hành cắn nhẹ vành tai nàng, từng bước một, vững vàng và nhanh chóng, hắn tiến về phía giường.

Cơ thể mềm mại của nàng dần kiệt sức, nước mắt và mồ hôi hòa quyện, giọng khản đặc cầu xin để nàng được nghỉ ngơi trên giường.

Cảm nhận được sự thay đổi của nàng, Tống Hành dừng lại đúng lúc, ôm nàng bước thêm một đoạn, rồi mới chịu buông nàng xuống lớp chăn êm ái.

Trong mộng, mọi thứ đều chân thật đến mức khiến người ta khó lòng phân biệt. Hắn không nhớ đã bao nhiêu lần, chỉ biết đến khi bên ngoài truyền đến tiếng gõ cửa của Trương nội thị, thúc giục hắn thức dậy, giấc mộng mới chấm dứt.

Tống Hành xoa nhẹ sống mũi cao thẳng của mình, từ từ mở đôi mắt vẫn còn nhập nhèm buồn ngủ, vén chăn bước xuống giường. Đến lúc ấy, hắn mới nhận ra chiếc q**n l*t của mình đã không còn nguyên vẹn.

Đến cả đệm giường cũng chẳng khá hơn là bao.

Nếu đã khát vọng đến mức này, không thể quên nổi nàng, thì cớ sao không thuận theo trái tim mà hành động?

Hắn từng để nàng rời đi, đương nhiên cũng có thể lần nữa mang nàng trở về.

Hãy để nàng an ổn thêm một thời gian ở đất Ngụy.

Tống Hành thay bộ q**n l*t sạch, ra lệnh mang nước vào. Sau khi rửa mặt, mặc phục sức chỉnh tề, hắn để nội thị giúp mình vấn tóc gọn gàng.

Nếu không tận mắt thấy Thánh thượng vì Dương thị nữ mà lưu luyến đến tận khuya mới hồi cung, Bảo Sênh suýt nữa đã tin rằng hắn thực sự là Thánh nhân thanh tâm quả dục, không gần nữ sắc.

Trương nội thị lại đặc biệt chú ý đến việc lập hậu của hắn, âm thầm theo dõi đến từng nhất cử nhất động. Nhìn thấy tinh thần của Thánh thượng dường như phấn chấn hơn, không còn u sầu như những ngày trước, liền đoán rằng có lẽ người đã nhận được tin vui nào đó.

Có lẽ Thánh thượng đã nghĩ thông, quyết định sống những ngày yên ổn với tân hậu.

Trương nội thị thầm nghĩ như vậy, theo sát Tống Hành rời khỏi điện Triều Nguyên, cung kính đi phía sau long liễn.

Trên triều đường, quần thần đều ngầm hiểu ý chỉ Tống Hành đưa ra mấy ngày trước về việc lập hậu. Lại thêm Thái sử lệnh [1] vừa yết kiến Thánh thượng hôm qua, hẳn rằng hôm nay chính là ngày Thánh thượng ban chiếu lập hậu.

[1]

Thế nhưng, suốt buổi lâm triều, chẳng những không có chiếu lập hậu, mà Thánh thượng lại nói đến thiên tượng, bảo rằng đêm qua khi rảnh rỗi, người nhận thấy thiên tượng có điểm khác thường, ra lệnh cho Thái Thường tự [2] điều tra nguyên nhân.

[2]

Thái Sử lệnh vốn mỗi đêm đều quan sát thiên tượng, nhưng chưa từng phát hiện điều gì bất thường. Dẫu vậy, nếu Thánh thượng đã nói, hẳn là có lý do riêng, ông đành bước ra, khom mình tiếp chỉ một cách kính cẩn.

Sau triều, ông liền bước đến ngoài điện Triều Nguyên, xin cầu kiến Thánh thượng.

Tống Hành không vòng vo mà thẳng thắn ra lệnh cho Thái Sử lệnh nghĩ ra một lý do để biện minh rằng hiện tại quốc quân không thể lập hậu hay nạp phi.

Mới mấy ngày trước còn yêu cầu ông chọn ngày lành tháng tốt để sách lập hoàng hậu, nay lại bắt ông bịa ra một thiên tượng không hề tồn tại. Thái Sử lệnh chỉ cảm thấy vị quân vương trẻ tuổi này thực sự có phần làm khó người khác, hành vi cũng hết sức kỳ lạ.

Từ cổ chí kim, làm gì có vị hoàng đế nào gần ba mươi tuổi mà vẫn chưa lập hậu, nạp phi, để lục cung trống không như vậy kia chứ?

Việc này quả thật hoang đường, nhưng mệnh vua khó cãi, vì mạng sống của chính mình, Thái Sử lệnh đành cắn răng chấp nhận.

Ngày ấy, Thái hoàng thái hậu chờ mãi mà vẫn không nhận được tin tức lập hậu của Tống Hành. Ba ngày sau, bà lại nghe được tin rằng Thái Thường tự báo cáo thiên tượng cho thấy có điềm lạ. Thánh nhân phán rằng trước khi thiên tượng thay đổi, không nên lập hậu hay nạp phi, nếu không sẽ ảnh hưởng đến quốc vận.

Lời lẽ hoang đường này có thể ngăn chặn miệng lưỡi của những kẻ khác, nhưng không qua mắt được Thái hoàng thái hậu. Bà thầm nghĩ: Nhị lang thật sự vì nữ nhân họ Dương ấy mà mất trí rồi sao? Không lập hậu, không nạp phi? Chẳng lẽ ngày sau đánh bại Ngụy quốc, hắn còn định đón nữ nhân ấy về cung, sắc lập làm hoàng hậu?

Hoặc là, ngay lúc này hắn sẽ nghĩ cách đưa nữ tử họ Dương ra khỏi nước Ngụy?

Trong lòng bất an, đầu đau như búa bổ, thêm tiết trời tháng bảy chuyển thu, ban đêm lại chịu vài cơn gió lạnh, không bao lâu bà liền nhiễm phong hàn. Tống Hành nghe tin, lúc này mới đến điện Huy Du để thỉnh an Thái hoàng thái hậu.

“Nếu lão thân không lâm bệnh, có phải Nhị lang sẽ mãi trốn tránh, không chịu đến gặp ta nữa không?”

Thái hoàng thái hậu vừa uống thuốc xong, trong miệng vẫn còn dư vị đắng chát, nhưng lòng bà lúc này còn đắng hơn. Chân mày bà cau chặt, trầm giọng hỏi Tống Hành.

Tống Hành vẫn giữ nét mặt ung dung, đáp: “Trẫm không có ý đó. Chỉ là gần đây quốc sự bận rộn, nhất thời quên mất việc đến thăm a bà.”

Quốc sự bận rộn? Nếu hắn thật sự lấy quốc sự làm trọng thì sẽ không vì một nữ tử họ Dương mà trì hoãn việc lập hậu, nạp phi, kéo dài dòng dõi hoàng tộc?

Thái hoàng thái hậu tức giận đến mức không thể giữ vẻ ôn hòa được nữa. Vị đắng trong miệng và trong lòng dường như càng thêm nồng, bà chỉ biết ôm ngực, giọng run run: “Chỉ vài tháng nữa, Nhị lang sẽ tròn ba mươi tuổi. Các đời đế vương từ xưa đến nay, làm gì có ai không lập hậu, không nạp phi? Hơn nữa, dưới gối người lại chưa có con cái, giang sơn cơ nghiệp của Triệu quốc này, tương lai người muốn giao cho ai kế thừa?”

Tống Hành im lặng giây lát, đôi mày giãn ra, giọng điềm tĩnh: “Không quá vài năm nữa, trẫm sẽ tự mình đưa Dương thị về. Hoàng hậu của trẫm, chỉ có thể là nàng. Đích tử của trẫm, cũng chỉ có thể là con của nàng.”

Thái hoàng thái hậu gần như không thể tin nổi những gì mình vừa nghe. Bà tức đến mức mắt tối sầm, cố gắng nuốt cơn khó chịu xuống, trừng mắt nhìn hắn, quát lớn: “Nhị lang, cháu điên rồi! Dương thị chỉ là một cô nhi, lại là cháu gái của Vũ An hầu, làm sao có thể xứng làm hoàng hậu? Nhị lang, chẳng lẽ cháu bị nàng ta chuốc mê hồn dược rồi sao?”

Mắng xong, bà ho sặc sụa không ngừng.

Lúc này, ý định của Tống Hành đã như đinh đóng cột. Dù Thái hoàng thái hậu lấy gia pháp tổ tông ra ép buộc, hắn cũng không đời nào thay đổi quyết định.

Thấy Thái hoàng thái hậu tức giận đến mức này, để tránh bà nổi giận làm tổn hại sức khỏe, Tống Hành không ở lại lâu, liền đứng dậy cáo từ: “Trẫm đã nói nàng làm được thì nhất định sẽ làm được. A bà đang bệnh, việc triều chính và hậu cung không cần xen vào, hãy an tâm dưỡng bệnh. Trẫm còn nhiều tấu chương chưa phê, khi nào rảnh sẽ lại đến thăm người sau.”

Nói xong, hắn sải bước rời khỏi điện Huy Du.

Trương nội thị thấy Tống Hành bước vào điện Huy Du với sắc mặt bình thường, nhưng lúc đi ra lại mang theo vẻ trầm lặng, liền hiểu ngay có chuyện bất hòa với Thái hoàng thái hậu. Hăn không dám nhiều lời, chỉ lặng lẽ theo người về điện Triều Nguyên, rồi dặn dò cung nhân trong điện cẩn thận hầu hạ, tránh làm Thánh thượng phật ý.

Tuyên Châu.

Thi Yến Vi đã ở lại nơi này hơn hai mươi ngày, thăm thú hết các danh lam thắng cảnh xung quanh. Sau khi hoàn thành bản du ký, nàng bắt đầu thu xếp hành lý, ngỏ ý mời Lý Lệnh Nghi cùng về Biện Châu.

Hai người đã sớm hẹn trước, nên Lý Lệnh Nghi đương nhiên không từ chối. Nàng cùng Vọng Tình sắp xếp mọi đồ đạc gọn gàng, không khóa cửa đạo quán, để mặc cửa lớn cửa nhỏ đều mở toang.

Úc Kim thấy vậy không khỏi khó hiểu, liền lên tiếng hỏi.

Lý Lệnh Nghi cười nhẹ đáp: “Phúc sinh vô lượng thiên tôn, nếu có ai qua đường cần chỗ trú chân, có thể nghỉ lại trong đạo quán một đêm.”

Thi Yến Vi nghe thế liền mỉm cười nói: “Mấy hôm trước chẳng phải có lão bà và nữ lang đến tránh mưa trong đạo quán sao? Cách đây vài ngày lại có một nam lang du ngoạn ở xa xin nghỉ nhờ một đêm, chẳng lẽ Úc Kim đã quên rồi?”

Úc Kim nghe xong, mặt thoáng đỏ bừng, ngượng ngùng nói: “Hai vị nữ quan có lòng nhân hậu, giúp người khi cần, là do em hẹp hòi rồi.”

Lý Lệnh Nghi nghe vậy, khẽ mỉm cười, nói: “Mỗi khi ra ngoài, khóa cửa cẩn thận là lẽ đương nhiên, đâu có gì hẹp hòi đâu.”

Bốn người cười nói vui vẻ, cùng nhau xuống núi. Khi đến nơi, Úc Kim thấy xe ngựa đã có thêm một con ngựa kéo, so với lúc đến chỉ có một, có lẽ tiểu nương tử thấy một con ngựa kéo bốn người là quá sức, nên đã mua thêm một con.

Trên đường trở về Biện Châu, Thi Yến Vi lo lắng ngựa quá sức mà sinh bệnh, nên dọc đường nghỉ ngơi nhiều hơn lúc đi. Phải mất tròn ba mươi ngày, cả đoàn mới tới được Biện Châu.

Thi Yến Vi viết thư báo trước cho Biện Châu, Thẩm Kính An biết Lý Lệnh Nghi sẽ về cùng nàng nên vô cùng mừng rỡ. Y sai người dọn dẹp một viện tử cổ kính, chuẩn bị sẵn bồ đoàn và hương án, chờ hai người đến nơi. Bà mụ quản sự dẫn Lý Lệnh Nghi về viện của nàng.

Giờ Dậu nhị khắc, Thẩm Kính An cưỡi ngựa về phủ.

Tiểu tư báo rằng tiểu nương tử đã về phủ, còn dẫn theo một nữ quan.

Thẩm Kính An nghe vậy mừng rỡ, bước nhanh vào phủ. Nhưng để tránh mạo phạm Lý Lệnh Nghi, y quyết định tìm gặp cháu gái trước.

Vào đến viện, y thấy Thi Yến Vi đang cùng Lý Lệnh Nghi đánh cờ dưới tàng hoa quế.

Trung thu sắp tới, cành cây đã đầy nụ, hương quế thoang thoảng theo làn gió mát.

“Gia chủ.” Úc Kim là người đầu tiên nhìn thấy y, vội đứng dậy khỏi ghế đá, chắp tay trước ngực thi lễ.

Thi Yến Vi và Lý Lệnh Nghi cũng đứng lên, hành lễ.

Khác với những lần gặp riêng Thi Yến Vi, hôm nay Thẩm Kính An có vẻ hơi lúng túng. Tay phải y buông lỏng, nhưng tay trái lại siết thành nắm đấm nhỏ, đôi môi mỏng hơi nhếch lên, có vẻ như tai y cũng hơi đỏ.

Người trong cuộc thường u mê, kẻ bên ngoài sáng tỏ. Lý Lệnh Nghi không nhận ra điều gì, nhưng Thi Yến Vi lại nhạy bén nhận ra ngay.

Thẩm Kính An chuyển ánh mắt từ Lý Lệnh Nghi sang Thi Yến Vi, nửa đùa nửa thật: “Dạo này Nhị nương trông có vẻ tròn trịa hơn, chắc hẳn đồ ăn ở Tuyên Châu hợp khẩu vị, ngày nào cũng ăn thỏa thích nhỉ?”

Vừa nói, y vừa quay sang nhìn Lý Lệnh Nghi, như chỉ đang đơn thuần cảm ơn: “Cũng phải cảm tạ công chúa đã chiếu cố cháu gái ta suốt thời gian qua.”

Lý Lệnh Nghi mỉm cười: “Thẩm lang quân không cần khách sáo. Năm ngoái ở Biện Châu, lang quân đã giúp đỡ ta rất nhiều, đây chẳng qua là lễ đáp lại.”

Thi Yến Vi nghe hai người đối đáp, không khỏi tò mò về mối quan hệ của họ, liền hỏi: “Không biết a cữu và Lệnh Nghi gặp nhau thế nào?”

Thẩm Kính An ra hiệu cho hai nàng ngồi xuống tiếp tục chơi cờ, mình thì ngồi xuống một chiếc ghế đá gần đó, ra lệnh cho Úc Kim pha trà, rồi mới chậm rãi mở lời: “Hồi đó, a cữu tòng quân ở Tấn Châu đã nhiều năm, nhưng không ít lần bị những kẻ có bối cảnh thế gia cướp công, mãi chẳng lập được chiến công nào đáng kể, càng không nói đến việc được trọng dụng. Sau này, a nương của cháu mang theo cháu và Tam lang rời khỏi Tấn Châu. Mẹ cháu gửi thư về mẫu tộc, nhưng thư chưa mở đã bị đốt. A cữu không hay biết các người đi đâu, thêm vào tiền đồ mờ mịt, lòng tự nhiên nguội lạnh, nên mới rời Tấn Châu đến Trường An tìm cơ hội. Khi ấy, nghe nói công chúa Tuyên Thành được hoàng đế sủng ái, thường cứu giúp người khốn khó, a cữu liền mong được diện kiến. Nhưng mỗi ngày có hàng chục người cầu kiến, nên phải mười lần lui tới bên ngoài Diên Sinh quan mới được gặp. Công chúa nhẫn nại khuyên giải, giúp a cữu vực dậy tinh thần, còn ban cho ba quan tiền. Dựa vào số bạc ấy, a cữu từ Trường An đi đến Hứa Châu, gia nhập Võ quân, rồi nhờ chiến công mà được đương kim Thánh nhân chú ý, sau đó chuyển vào làm quân tiên phong Tuyên Võ, từng bước đạt tới vị trí hôm nay.”

“Những năm qua, a cữu luôn ghi nhớ ân đức của công chúa, mỗi năm đều đến núi Kính Đình thăm nàng. Năm ngoái, khi Thánh thượng mới đăng cơ, hai trấn Trấn Hải và Tuyên Hấp toan lợi dụng danh nghĩa triều trước để chiêu binh mãi mã, chiêu dụ cựu thần. A cữu kịp thời sai người đón công chúa về thành Biện Châu lánh nạn. Nhờ vậy mới có chuyện công chúa nhắc đến ân tình của a cữu vừa rồi.”

Thi Yến Vi chăm chú lắng nghe, đến mức không để ý quân cờ của mình đặt ở đâu. Lý Lệnh Nghi ngồi đối diện thấy vậy liền trêu chọc: “Âm Nương nghe đến nhập thần rồi, quên mất mình đang cầm quân trắng sao?”

Vừa nói, nàng vừa đặt xuống một quân đen, ăn được cả mảng lớn quân trắng.

Chừng một khắc sau, quân đen thắng.

Thi Yến Vi nhìn sâu vào mắt Thẩm Kính An, mỉm cười nhẹ nhàng: “Cháu không địch nổi Lệnh Nghi, a cữu giúp cháu gỡ lại có được không?”

Thẩm Kính An đón lấy ánh mắt nàng, nhận thấy dường như nàng đã nhận ra điều gì, liền không từ chối ý tốt của nàng.

Hai người giao đấu một hồi, trời đã chập choạng tối.

Thi Yến Vi tiễn họ ra đến cổng viện, thấy Thẩm Kính An và Lý Lệnh Nghi sóng vai rời đi, lòng thầm hiểu hắn đang tiễn nàng về.

Vài ngày sau, Thi Yến Vi quan sát hai người nhiều lần, càng thêm chắc chắn suy đoán trong lòng.

Ngày hưu mộc, Thẩm Kính An dậy sớm luyện công, Thi Yến Vi dùng xong bữa sáng liền đến thỉnh an.

Khi tỳ nữ lui ra pha trà, nàng thẳng thắn hỏi: “Có phải a cữu đã có tình cảm với Lệnh Nghi không?”

Thẩm Kính An vịn tay vào ghế thiền, không phủ nhận.

“Công chúa tâm đ*o kiên định, không muốn hoàn tục. A cữu tôn trọng tâm ý của nàng, không muốn nàng phiền muộn. Chỉ cần mỗi năm gặp được vài ngày như hiện tại, a cữu đã mãn nguyện. Huống chi, nay a cữu đã tìm lại được cháu. Nếu sau này cháu gặp được ý trung nhân, sinh vài ba đứa nhỏ, chỉ sợ a cữu sẽ bận rộn luôn tay.”

Thời thế hiện tại, người có quyền thế đa phần đều thê thiếp đầy nhà, thật hiếm ai như a cữu.

Thi Yến Vi cảm thán trong lòng. Nàng và Lương Thiển đều là linh hồn đến từ hiện đại, tự nhiên không muốn cưới gả làm thê tử ở nơi này. Chỉ là tiếc thay cho tấm chân tình của a cữu.

“A cữu chớ nói bừa. Cháu nào muốn cưới gả sinh con gì! A cữu chẳng hay biết sao? Nữ nhân khi sinh nở tựa như bước một chân vào quỷ môn quan. Khi xưa a nương mang thai con đã thân thể yếu nhược. Sau đó chỉ vừa quá ba mươi đã sớm lìa trần. Ai biết liệu có phải do việc sinh nở làm hao tổn nguyên khí không? Nếu a cữu thích trẻ con, sao không đến phường tế bần nhận nuôi vài đứa bé không còn cha mẹ?”

Khi xưa, lúc a nương mang thai Dương Duyên và nguyên thân, Thẩm Kính An đều không ở bên cạnh bà, nên y không thể biết rõ những hiểm nguy ấy. Dẫu vậy, trong số những nam nhân, y lại là người hiếm hoi biết lắng nghe và cảm thông. Nghe xong lời này của nàng, hồi tưởng lại dáng vẻ gầy yếu bệnh tật của a tỷ sau khi trở về nhà mẹ đẻ, y không khỏi tự trách mình vì đã lỡ lời.

“Quả thực là a cữu không hiểu nỗi khổ của nữ lang khi sinh nở. Hôm nay nghe Nhị nương nói thế, a cữu đã được khai sáng. Từ nay sẽ không hỏi đến chuyện hôn nhân của Nhị nương nữa. Nếu sau này Nhị nương muốn lập nữ hộ, a cữu cũng sẽ tôn trọng ý nguyện của Nhị nương.”

Thi Yến Vi nhìn y đối xử tốt với mình như thế, trong lòng chẳng khỏi dâng lên cảm giác áy náy. Bởi nàng nào phải Dương Sở Âm, mà chỉ là một linh hồn từ hiện đại, hoàn toàn không liên can gì đến y.

Nhưng rồi nàng tự nhủ, nếu nói ra sự thật chẳng phải chỉ khiến y thêm đau lòng? Nếu lỡ làm y kinh hãi, e rằng còn bị coi là yêu quái… Nghĩ kỹ lại, cuối cùng vẫn không nên nói thì hơn.

Một lúc sau, tỳ nữ mang trà nóng vào. Thi Yến Vi nhấp nhẹ một ngụm, rồi khẽ cười:

“A cữu này, hôm nay trời đẹp thế này, bờ sông Biện chắc hẳn rất náo nhiệt. Hay là người cùng cháu và Lệnh Nghi ra bờ sông dạo một vòng? Lệnh Nghi bảo năm ngoái ở Biện Châu có loại bánh hoa quế thơm ngọt vô cùng. Cháu cũng muốn thử xem sao.”

Được cùng người trong lòng tản bộ ngắm cảnh, Thẩm Kính An nào có thể từ chối.

Ba năm sau.

Thành Tuyên Châu.

Thi Yến Vi ôm một bé gái chừng hai tuổi bước lên xe ngựa trở về Biện Châu. Bên cạnh nàng vẫn là Úc Kim như thuở nào.

Lý Lệnh Nghi cũng đồng hành cùng nàng đến Biện Châu. Sau khi lưu lại đó vài ngày, nàng sẽ lên đường đến Yên Châu để gặp một cố nhân.

Gần đây, triều đình nước Ngụy không được yên ổn. Thế lực Đông Cung dần thất sủng, ngược lại, Khang vương ngày càng được thánh ân sủng ái. Hai phe thế lực tranh đấu quyết liệt, các đại thần trong triều buộc phải chọn đứng về một phía.

Thời gian dài, trong giới sĩ tộc quyền quý bắt đầu lan truyền tin đồn: Nhũ nhân họ Vương của Khang vương rất được lòng Thánh thượng, chính nhờ nàng mà Khang vương mới có được ân sủng.

Chuyện chốn thâm cung thế này, vốn dĩ không thể vô căn cứ mà truyền ra.

Ba năm qua, Thánh thượng đắm chìm trong tửu sắc, sa đọa trong hưởng lạc. Dù quốc khố có phần khởi sắc, nhưng so với sự cần kiệm và chuyên cần của quốc quân nước Triệu, quốc khố Triệu quốc ngày càng thịnh vượng, khiến khoảng cách giữa hai nước càng thêm rộng lớn.

Ban đầu, Thẩm Kính An cùng một nhóm lão thần hết lòng can gián, tuy nhiên, sau nhiều lần nghe phải lời không lọt tai, Giang Tiều bắt đầu không còn nhẫn nại, hoặc là tảng lờ cho qua, hoặc là viện cớ bệnh không tiếp.

Ngày Thi Yến Vi đặt chân đến Biện Châu, đúng lúc cuối hạ đầu thu. Nắng trưa gay gắt, Úc Kim xuống xe trước, giương ô che nắng. Thi Yến Vi bế Dương Quân trong lòng, chậm rãi tiến vào phủ.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 74: Trân Trân


Buổi chiều đầu thu vẫn còn chút oi bức. Dương Quân ngồi trên xe ngựa suốt mấy ngày liền, giờ trở về căn phòng quen thuộc, chẳng mấy chốc đã nằm dài trên giường ngủ say.

Lý Lệnh Nghi và Thi Yến Vi ngồi sát bên nhau, cùng chăm chú ngắm nhìn Dương Quân. Cả hai ngày càng tin rằng quyết định giữ cô bé lại thay vì đưa đến phường tế bần, là điều hoàn toàn đúng đắn.

Dẫu việc chăm sóc cô bé đôi khi rất vất vả, nhưng bé cũng mang đến không ít tiếng cười. Tương lai có bé bên cạnh, dù hai người không ở cùng nhau, Thi Yến Vi vẫn xem như có chỗ dựa tinh thần.

Huống chi, a cữu của nàng mới ba mươi lăm tuổi, nếu một ngày nào đó, người để ý đến một nữ lang khác và cưới làm chính thê, Thi Yến Vi ra riêng tự lập môn hộ, có Dương Quân làm bạn, tương lai cũng có người thừa kế gia sản.

“Trân Trân trông có vẻ cao hơn rồi, xem ra chúng ta lại có việc để làm đây.”

Trân Trân là cái tên họ đặt cho cô bé khi quyết định nhận nuôi bé, sau lần tình cờ phát hiện bé nằm trong tã lót ngoài đạo quán hai năm trước.

Vì Lý Lệnh Nghi là người tu hành, không tiện dùng họ của nàng, nên lấy họ Dương của Thi Yến Vi để đặt tên cho cô bé.

Suốt hai năm qua, Thi Yến Vi thường xuyên đưa cô bé qua lại giữa Biện Châu và Tuyên Châu, nhờ vậy mà bé không bị say xe ngựa hay thuyền. Thi Yến Vi thậm chí còn ôm cô bé du thuyền trên sông Biện nhiều lần.

Lúc Dương Quân tỉnh giấc, mặt trời bên ngoài đã ngả về tây. Thi Yến Vi đưa tay sờ lên sau gáy bé, quả nhiên mồ hôi đã thấm ướt áo trong.

Nàng lấy từ tủ ra một miếng vải mềm sạch sẽ, nhẹ nhàng đặt vào sau lưng Dương Quân, khiến phần vải trên cổ áo lộ ra một mảnh màu sắc khác biệt.

Lý Lệnh Nghi lần đầu thấy nàng làm vậy liền cảm thán là đã không nhìn lầm, họ đều là những người từng làm dì nhỏ ở thời hiện đại.

Dương Quân chỉ hơn hai tuổi, đang ở độ tuổi hiếu động. Vừa tỉnh dậy, bé liền khụt khịt mũi kêu đói, ăn no rồi lại leo trèo khắp giường La Hán và bàn nhỏ.

Khi Thẩm Kính An đến, trời đã vào giữa giờ Dậu.

Hoàng hôn đỏ rực cả nửa bầu trời, vầng trăng non ẩn sau lớp mây.

Thẩm Kính An đến mà không thông báo, bước thẳng vào cửa, thấy Dương Quân đang đứng trên bàn nhỏ tập nói với cháu gái. Ánh mắt Thẩm Kính An liếc qua Lý Lệnh Nghi, chỉ chốc lát rồi bước tới, mỉm cười nói: “Đã lâu không gặp, Trân Trân có nhớ cữu ông không?”

Dương Quân tuy nhỏ nhưng trí nhớ cũng khá, lần trước khi rời Biện Châu chưa đầy vài tháng, gặp lại Thẩm Kính An, cô bé sợ hãi trốn sau lưng Thi Yến Vi, nhất quyết không chịu gần gũi.

Lần này, bé không còn sợ, cái đầu nhỏ lắc lư rồi chăm chú gật đầu, đôi mắt to tròn chớp chớp: “Nhớ, nhớ ạ.”

Thẩm Kính An đưa tay xoa nhẹ lên mái tóc bé, sau đó quang minh chính đại chuyển ánh nhìn sang Lý Lệnh Nghi, tỏ ý cảm tạ vì nàng đã chăm sóc mẹ con họ trong thời gian qua.

Lý Lệnh Nghi cười khẽ, trêu y học đâu ra những lời khách sáo ấy.

Thẩm Kính An đón ánh mắt của hai người, liền cúi người bế Dương Quân lên, nhẹ nhàng ước chừng trọng lượng rồi cảm thán: “Trân Trân lại lớn thêm rồi.” Y khẽ cười, hỏi ý cô bé: “Trân Trân ngoan, cữu ông dẫn con ra vườn hái hoa có được không?”

Dương Quân nghe xong, đôi mắt to tròn như quả nho căng mọng sáng bừng lên, gật đầu liên hồi như giã thuốc, miệng cười toe: “Con muốn hái, hái hoa đỏ tươi, hoa lớn… lớn… thật lớn!”

Thẩm Kính An dịu giọng giải thích: “Trân Trân muốn nói đến mẫu đơn mùa xuân à? Nhưng giờ không có mẫu đơn cho con hái đâu, đành để con chọn hoa khác vậy.”

Dương Quân dường như không hiểu rõ lời y nói, chỉ biết đại khái rằng giờ không thể hái loại hoa bé yêu thích, bĩu môi hồng nhìn hết sức đáng yêu, phụng phịu đáp: “Thôi được, vậy… con hái hoa khác cũng được.”

Nói rồi, bé thúc giục Thẩm Kính An mau đưa mình ra vườn.

Thi Yến Vi và Lý Lệnh Nghi không có việc gì làm, nhấp ngụm trà rồi cũng theo sau bước vào vườn.

Lý Lệnh Nghi hiểu biết nhiều về thảo mộc, liền chủ động dạy Dương Quân nhận biết hoa cỏ cây cối trong vườn. Các tỳ nữ cũng không ngơi nghỉ, theo sát bước chân hai người.

Thẩm Kính An đứng dưới gốc cây quế, thu lại nụ cười, ánh mắt thoáng nét trầm tư dưới ánh chiều tà dịu nhẹ. Y chăm chú nhìn Thi Yến Vi, khẽ nói: “Ba năm qua đi, dung nhan của Nhị nương vẫn như trước, dường như càng thêm viên mãn, khí sắc cũng tốt hơn nhiều.”

Ý tại ngôn ngoại: Giờ nàng vẫn đẹp đến mê hoặc lòng người.

Thi Yến Vi nhận thấy tâm tình y hôm nay không còn vẻ bình thản như trước, dường như mang theo ưu tư, liền thu lại nụ cười.

“Thời cuộc hiện nay không ổn, lòng ta luôn cảm thấy bất an. Nhị nương gần đây nên hạn chế ra ngoài, có thiếu thứ gì, cứ để hạ nhân lo liệu là được.”

Thời cuộc bất ổn. Thi Yến Vi ngẫm nghĩ lời này, đoán rằng vị thế của Đông Cung có lẽ không còn vững vàng như trước.

Đông Cung nhận thấy nguy cơ, tất nhiên phản kích. Vài ngày trước vừa tra ra một vụ án muối lậu, có dấu hiệu liên quan đến phe Khương vương.

Giang Tiều vốn đa nghi, cán cân vốn đã nghiêng về phía Đông Cung nay lại cân bằng trở lại đôi chút.

Khương vương không cam tâm để cục diện khó khăn này phá vỡ tâm huyết mình gây dựng, lại sai Vương thị đến bên gối Giang Tiều thổi gió.

Khang Vương không cam lòng để thế cục mà mình dày công gây dựng bị phá hủy, lại sai Vương thị đến bên gối Giang Tiều rỉ tai.

Các triều đại qua đi, hễ hoàng đế có nhiều con trai thì việc tranh đoạt ngôi vị thái tử luôn đẫm máu và tàn khốc.

Giang Tiều đã cao tuổi, bốn người con trai đều tráng kiện. Hai năm trước, Quý phi họ Phòng vừa được phong đã hạ sinh thêm một hoàng tử. Đứa trẻ chưa đầy một tuổi đã được phong làm Duyện vương, đủ thấy Giang Tiều sủng ái thế nào.

Thi Yến Vi trầm ngâm hồi lâu, gật đầu, nhớ đến Lương Thiển từng nói muốn đến Duyện Châu thăm cố nhân, trong lòng không khỏi lo lắng, bèn hỏi: “Lệnh Nghi còn định đi Duyện Châu một chuyến, a cữu thấy bây giờ đi, có ổn không?”

Thẩm Kính An cân nhắc hồi lâu, nhíu mày đáp: “Khoảng bốn năm trăm dặm đường, nếu cưỡi ngựa, chừng năm sáu ngày là tới. Nếu công chúa nhất quyết đi, tốt nhất nên đi nhanh về nhanh.”

“Dạ, cháu sẽ nói chuyện với Lệnh Nghi. Nếu nàng còn muốn đi, e rằng lại phải phiền a cữu chuẩn bị giấy thông hành.”

Thẩm Kính An chỉ hận không thể làm thêm điều gì cho nàng, nào nề hà gì chuyện nhỏ nhặt ấy, không chút do dự mà đáp ứng ngay.

Đêm đó, Thi Yến Vi trò chuyện với Lý Lệnh Nghi, biết nàng đã quyết, liền sai người tiễn về. Sáng hôm sau, nàng dỗ Dương Quân ngủ yên rồi báo lại cho Thẩm Kính An.

Thẩm Kính An thay nàng sắp xếp giấy tờ, cử thêm vài thị vệ thân thủ tốt đi theo tháp tùng. Lúc này y mới tạm yên lòng, để nàng lên đường tới Duyện Châu.

Trời đất chuyển vần, tháng bảy trôi qua, sắc thu càng thêm đậm.

Lạc Dương, điện Triều Nguyên.

Tống Hành nhận được mật báo, mở ra xem qua, đoạn ném vào ngọn lửa trên giá nến, để cháy thành tro tàn.

Mặc dù biết rõ người của Thẩm Kính An nhất định sẽ bảo vệ nàng chu toàn, nhưng trong lòng hắn vẫn không yên.

Cứ xem như hắn lại hèn mọn thêm một lần.

“Hãy cử thêm tử sĩ thân thủ xuất chúng đến Thẩm phủ ở Biện Châu, tập trung bảo vệ nàng.”

Nam nhân đứng trước án thư, chắp tay trước ngực, cung kính đáp lại: “Ti hạ tuân lệnh.”

Tống Hành căn dặn thêm vài chuyện rồi khoát tay, ra hiệu cho lui. Chẳng bao lâu sau, trong điện chỉ còn lại một mình hắn.

Đêm mỗi lúc một sâu, bên ngoài điện vắng lặng không tiếng động.

Ba năm qua, quốc khố ngày một dồi dào, trong tay Tống Hành tích trữ không ít báu vật được nữ lang yêu thích: Từ lông thú quý do Bột Hải tiến cống, trân châu lớn như dạ minh châu, đến đồ sứ thượng phẩm của Củng huyện, hay những món đồ trang trí chạm khắc từ san hô lớn dọc bờ biển Lư Long, và cả châu báu, ngọc thạch từ các nước hải ngoại…

Từ khi hạ quyết tâm lập nàng làm hậu, Đại trưởng công chúa Tống Vi Lan đã năm lần bảy lượt tìm cách gây khó dễ, lớn tiếng cho rằng nữ tử họ Dương là họa quốc yêu cơ, trách hắn không màng đến nỗi đau mất con của nàng ta. Tống Hành không để tâm, chỉ hạ lệnh đưa nàng ra khỏi cung.

Thái hoàng thái hậu vì thế tranh cãi với hắn không ngừng, nhưng Tống Hành vẫn không động lòng, viện cớ bà tuổi cao, nên giao toàn bộ hậu cung cho lục cục nhị thập ty xử lý. Tương lai lập hậu, mọi sự sẽ giao cho hoàng hậu định đoạt.

Biện Châu, Khang vương phủ.

Khang vương và Hạ vương đang bí mật thương nghị.

Hạ vương hỏi một viên quan mặc quan phục đỏ thẫm: “Chuyện muối lậu ở Dương Châu đã xử lý ổn thỏa chưa?”

Hóa ra vụ án muối lậu này là do Đông Cung phát hiện, sau khi nhận thấy nguy cơ, điều tra sâu mới lôi ra được mối liên hệ với phe của Khang vương. Hiện giờ vụ án này đã được giao cho Đại lý tự và Hình bộ đồng xử lý.

Giang Tiều bản tính đa nghi, từng có ý định phế Đông Cung để lập Khang vương. Nay xảy ra chuyện này, lòng tin lung lay, tạm gác lại suy nghĩ.

Khang vương không cam lòng để công sức xây dựng bao năm sụp đổ, liền sai Vương thị thổi gió vào tai Giang Tiều.

Nhưng gần đây, Giang Tiều dường như không còn sủng ái Vương thị như trước, hiếm khi lưu nàng ngủ lại. Trái ngược, gần đây lại có quan hệ với một thừa huy <i>(thị thiếp)</i> của Đông Cung.

Viên quan cung kính đáp: “Hai vị vương gia yên tâm, mọi sự đã thu xếp ổn thỏa, tuyệt không ai tra ra được vết tích nào liên quan đến vương gia. Chỉ cần đẩy kẻ dưới ra làm vật thí nữa là được.”

Sau một hồi cân nhắc, hắn nói tiếp: “Ti hạ cho rằng nếu muốn khởi sự, không bằng lợi dụng vụ án này, khiến Vũ An hầu rời khỏi Biện Châu. Chủ tướng không có mặt, quân đội tất sẽ không đáng lo ngại.”

Hạ vương cũng có ý này, phụ họa nói: “Vũ An hầu trung thành với Thánh thượng, lại có ý thiên vị Đông Cung. Ta từng nhiều lần lôi kéo hắn, từ vàng bạc châu báu đến mỹ nhân, nhưng hắn không hề lay động. Không làm đồng minh được thì chỉ có thể là kẻ địch.”

Khang vương suy nghĩ hồi lâu, cảm thấy lời ấy có lý, liền định kế hoạch. Hắn hỏi tiếp về tình hình các tướng canh giữ các cổng thành, bàn bạc đến lúc trời khuya dần…

Hạ vương ra cửa hông của phủ, tình cờ gặp một chiếc kiệu nhỏ tiến vào. Người ngồi trong kiệu chẳng phải ai xa lạ, chính là Vương nhũ nhân, người đang là tâm điểm của những lời dị nghị khắp kinh thành dạo gần đây.

Nhị huynh là người ngay cả mỹ nhân từng được cưng chiều bấy lâu cũng có thể hai tay dâng lên. Nếu đổi lại là hắn, tuyệt không làm được trò đó.

Hạ vương ghìm ngựa quay về phủ, giao ngựa cho tiểu đồng dắt vào chuồng, rồi thẳng bước đến một viện trống trải. Nơi đây từng là chỗ ở của Phùng nhũ nhân, ái thiếp mà hắn trân trọng nhất.

Hôm ấy, Phùng thị lao vào lòng hắn, khóc lóc kể tội Thánh thượng đã phạm phải hành vi bất luân đối với nàng.

Hạ vương như bị sét đánh giữa trời quang, toàn thân chấn động, nhất thời chưa thể hồi thần. Chưa kịp hỏi thêm để xác minh sự tình, Phùng thị đã rút trâm bạc cài trên đầu, đâm thẳng vào cổ mình. Máu tươi phun trào, hắn cố sức thế nào cũng không thể cầm lại được.

Từ hôm đó, hắn âm thầm quyết tâm phải đòi lại công đạo từ phụ hoàng.

Nhưng hắn chỉ là một hoàng tử không được sủng ái, đã khi nào phụ hoàng chịu để mắt đến hắn? Muốn đòi lại công đạo, muốn phụ hoàng cũng nếm trải nỗi đau, hắn chỉ có thể nhờ cậy người khác.

Nhị huynh Khang vương, con trai của kế thất Trịnh hoàng hậu, là lựa chọn tốt nhất. Tuy hắn không màng chính sự, nhưng hắn thừa hiểu dã tâm đoạt ngôi Đông cung của Nhị huynh. Hơn nữa, Nhị huynh còn là kẻ lòng muông dạ thú, tâm tư thâm hiểm khó lường.

Mấy ngày sau, tin Phùng nhũ nhân qua đời lan truyền khắp nơi. Giang Tiều không khỏi áy náy với Hạ vương, vì Hạ vương đã cố ý lấy lòng ông ta, nói rằng Phùng thị được Thánh thượng sủng ái vốn là phúc phần của nàng ta, không ngờ nàng ta quá cao ngạo, tự mình tìm cách tự vẫn. Người như thế, thật không xứng hưởng thụ hoàng ân.

Giang Tiều nghe xong cảm thán trước tấm lòng hiếu thảo của Hạ vương, có ý muốn bù đắp nên phong Hạ vương làm Trung thư Thị lang.

Sáng hôm sau, tại triều, các đại thần thuộc phe Khang vương đột nhiên đề nghị phái Thẩm Kính An đi tuần tra án muối lậu ở Giang Hoài.

Việc muối sắt quan hệ đến dân sinh và thu thuế, tuyệt đối không phải chuyện nhỏ. Thẩm Kính An là tâm phúc của Giang Tiều, lại là người đoan chính ngay thẳng, Giang Tiều đương nhiên hoàn toàn tin tưởng y. Đổi lại người khác, chỉ sợ lợi ích chồng chất, chẳng ai dám gánh vác.

Giang Tiều suy nghĩ kỹ càng rồi hạ khẩu dụ, lệnh Trung thư tỉnh thảo chiếu thư.

Ngày hôm đó sau buổi triều, Thẩm Kính An hồi phủ.

Lý Lệnh Nghi đã rời đi hơn mười ngày, hẳn giờ đang ở Duyện Châu, vài ngày nữa sẽ quay lại Biện Châu.

Khi Thẩm Kính An đến, Thi Yến Vi đang ôm Dương Quân kể chuyện cổ tích cho cô bé.

Hôm nay, Thi Yến Vi kể câu chuyện “Cá con tìmmẹ” nhưng đã cải biên lại theo cách riêng của nàng.

Úc Kim ngồi bên ghế nguyệt nha, khâu vá quần áo.

Thẩm Kính An cho nàng lui ra.

“Vài ngày tới, a cữu phải rời Biện Châu đến Dương Châu tuần muối. Công chúa còn chưa về, chỉ có con và Trân Trân ở lại trong thành, lòng a cữu không yên tâm chút nào.”

Thi Yến Vi đưa khóa Khổng Minh cho Dương Quân chơi, đôi mày liễu khẽ chau lại.

“A cữu lo rằng sẽ có kẻ nhắm vào Thẩm phủ sao?”

Không nói rõ được đang lo điều gì, chỉ cảm thấy có chuyện lớn sắp xảy ra. Nếu nói là nhắm vào Thẩm phủ, y không có con nối dõi, cũng không có thân thích nam giới nào đủ khiến phe Khang vương để mắt tới, đâu đáng để bọn họ hao tâm tổn sức như vậy.

Thẩm Kính An lắc đầu, “Khó nói, chỉ thấy thời điểm này có điều bất ổn. Nhị nương phải cẩn thận, tích trữ thêm lương thực cũng không thừa. Nếu không có việc gì cần kíp, hãy hạn chế người trong phủ ra ngoài.”

Thi Yến Vi thoáng trầm tư, rồi khẽ gật đầu: “Cháu hiểu rồi, a cữu cứ an tâm mà đi.”

Đúng như Thẩm Kính An dự liệu, sáng sớm hôm sau thánh chỉ hạ xuống, lệnh y ngày mai giờ Thìn khởi hành đi Dương Châu.

Buổi chiều, Thẩm Kính An tới Đông Cung yết kiến Thái tử.

Trước khi đi, y giao lệnh bài điều động thị vệ trong phủ cho Thi Yến Vi giữ, dặn dò kỹ lưỡng, sau đó mang tâm sự nặng nề cưỡi ngựa rời khỏi thành.

Mấy ngày sau.

Đến giờ thắp đèn, phường chợ bắt đầu đóng cửa.

Thi Yến Vi ngồi cùng Dương Quân trên giường La Hán, chơi một lúc những món đồ nhỏ để dỗ trẻ con, lại vẽ một lúc những bức họa đơn giản cho cô bé, chẳng mấy chốc đã gần sang canh hai.

Tỳ nữ mang nước ấm đến rửa mặt, Thi Yến Vi tự tay lau gương mặt nhỏ nhắn trắng hồng của Dương Quân.

Đột nhiên, bên ngoài vang lên tiếng đánh nhau.

Nghe âm thanh, dường như có hai nhóm người đang giao chiến.

Tiếng binh khí va chạm sắc bén khiến Dương Quân sợ hãi òa khóc.

Thi Yến Vi vội ôm chặt cô bé vào lòng, bịt kín tai bé lại.

Thị vệ của quý phủ nhanh chóng vây quanh, đứng ngoài cửa trấn an nàng không cần lo sợ.

Một khắc sau, tiếng đánh nhau bên ngoài dần lắng xuống, nhưng tiếng bước chân lại dồn dập áp sát vào Thẩm phủ.

Bọn chúng dường như muốn phá cửa xông vào, có ý đồ giết sạch người trong phủ.

Thị vệ trong phủ đều là những người do Thẩm Kính An đích thân tuyển chọn và huấn luyện, ai nấy đều tinh nhuệ, thân thủ phi phàm. Tuy nhiên, đám binh lính xông vào lại đông như kiến cỏ, khiến tình thế dần trở nên căng thẳng.

Mặc dù chống cự quyết liệt, nhưng sau một khắc giằng co, thị vệ Thẩm phủ dần tỏ ra yếu thế, vài binh lính cầm đao đã xông vào được, thấy người liền chém.

Phủ đệ chìm trong cơn hỗn loạn.

Bất thình lình, từ trong bóng tối lao ra mười mấy bóng đen. Người nào người nấy võ nghệ cao cường, hơn hẳn đám thị vệ trong phủ, mỗi kẻ một địch mười. Chẳng bao lâu đã trợ giúp thị vệ Thẩm phủ đẩy lui binh lính địch ra ngoài phủ.

Những kẻ đó là đến để giết nàng sao?

Thi Yến Vi cố gắng hồi tưởng, nhưng nhớ rằng a cữu chưa từng kết oán với Đông cung, ngược lại còn giữ thái độ giao hảo. Chỉ là vị Khang vương dạo gần đây danh tiếng lẫy lừng kia, a cữu lại không hề đánh giá cao.

Chẳng lẽ đêm nay Khang vương làm phản, sai đám binh lính đó tới giết người trong Thẩm phủ?

Nếu quả là như vậy, a cữu chắc chắn đã bị bọn chúng điệu hổ ly sơn. Tình thế trong cung hiện giờ nguy cấp, chỉ e a cữu cũng lành ít dữ nhiều.

Lòng Thi Yến Vi rối bời, chưa kịp nghĩ xem phải làm gì thì binh mã dưới trướng Thẩm Kính An từ Đông Cung tới.

Bên trong quý phủ, thị vệ trưởng thầm nghĩ: Tiểu nương tử chẳng qua chỉ là nữ nhân nơi khuê phòng, hà tất phải bận tâm đến chuyện bên ngoài. Bởi vậy, chuyện có người âm thầm tương trợ vừa rồi, hắn cũng không định nói cho Thi Yến Vi hay, tính toán đợi khi gia chủ hồi phủ sẽ bẩm báo để người quyết định.

Thi Yến Vi giao Dương Quân cho Úc Kim chăm sóc, rồi bước ra ngoài, cúi người cảm tạ các tướng sĩ đã đến cứu giúp.

Tiểu võ quan theo Thẩm Kính An nhiều năm, biết rõ tướng quân có một cháu gái lưu lạc bên ngoài, ba năm trước mới tìm về được. Giờ thấy nàng cúi đầu cảm tạ, vội vàng xua tay: “Nương tử không cần đa lễ.”

Suốt đêm, Thi Yến Vi chẳng thể chợp mắt. Khó khăn lắm mới dỗ Dương Quân ngủ được, nàng rời giường, ngồi thu mình trên giường La Hán.

A cữu sống chết chưa rõ, Lương Thiển cũng chưa trở về. Nàng sao có thể an lòng?

Khi tia sáng đầu tiên của buổi bình minh rọi xuống chính điện, ngôi vị quốc quân nước Ngụy sẽ chính thức truyền lại cho thái tử Giang Thịnh.

Theo sử quan ghi chép, cái chết của Giang Tiều là do Khang vương và Hạ vương tạo phản, đích thân Hạ vương ra tay sát hại. Khi Giang Tiều bị giết, ông ta đang vui thú cùng Lưu thừa huy trên giường. Thái tử kịp thời đến cứu giá, bắn chết Khang vương và Hạ vương ngay trước cửa tẩm cung.

Chỉ trong một đêm ngắn ngủi, Thánh thượng cùng hai vị vương gia đều bỏ mạng.

Ba ngày sau, Lý Lệnh Nghi trở về Tuyên Châu.

Thẩm Kính An sau khi tuần tra vùng Giang Hoài, không chỉ giải quyết vụ án buôn lậu muối, mà còn phát hiện nhiều vấn đề khác. Đợi thu thập đủ chứng cứ, y lập tức hồi kinh, trở về Biện Châu.

Thời gian y rời đi đã gần hai tháng, nhưng triều đình nay khác xưa. Một triều vua, một triều thần. Khi Thẩm Kính An quay lại, triều cục đã thay đổi nghiêng trời lệch đất.

Thẩm Kính An yết kiến tân đế Giang Thịnh, bẩm báo những vụ án mới tra được.

Giang Thịnh vốn được thế tộc quyền quý ủng hộ, mối quan hệ đan xen chằng chịt. Do đó, hắn chỉ lệnh thanh trừng phe Khang vương và Hạ vương, còn những người khác thì được bỏ qua.

“Có câu “nước trong quá thì không có cá”, chẳng lẽ Thẩm hầu gia không hiểu đạo lý này?”

“Nay thiên hạ thái bình, biên cương không có chiến sự lớn. Nước Sở chỉ là đất man di ở Lĩnh Nam, binh lực chưa bằng một nửa triều ta, hoàn toàn không đáng lo ngại. Thẩm hầu nắm giữ mười vạn binh mã trấn giữ kinh thành đã gần bốn năm, triều đình sớm có lời dị nghị. Lâu dần, khó tránh khỏi dèm pha. Chi bằng giao lại binh quyền. Nếu sau này có chiến sự, trẫm tự nhiên sẽ trả lại binh phù cho hầu gia. Nghe danh hầu gia trung thành phụng chủ, chẳng lẽ chỉ vì trẫm tuổi trẻ mà sinh lòng khinh nhờn?”

Lời này rõ ràng là không muốn hoàn trả binh phù.

Tâm địa nghi kỵ, độc đoán của hắn đã ra đến nông nỗi này sao? Nghĩ đến Thánh thượng một đời chinh chiến mới dựng nên cơ nghiệp nước Ngụy, nay giao vào tay người như vậy, chẳng biết tương lai sẽ ra sao.

Thẩm Kính An nghĩ đến đây, lòng lạnh đi nửa phần. Giờ đây Giang Thịnh là quân, y là thần, thưởng hay phạt đều không thể chối từ. Dù trong lòng không cam, y cũng đành cúi đầu, tạ ơn lĩnh chỉ.

Rời cung về phủ, thị vệ trưởng bẩm báo chuyện các hắc y nhân giúp họ đẩy lùi thủ hạ Khang vương.

Nghe xong, trong đầu Thẩm Kính An lập tức hiện lên hai chữ: Tống Hành.

Dám liều chết dùng sát chiêu như vậy, ngoài những tử sĩ được nuôi dưỡng từ nhỏ bò ra từ xác chết chất thành đống, y thật sự không nghĩ ra ai khác.

Người có khả năng nuôi tử sĩ vốn không nhiều, huống hồ đám tử sĩ này lại đến để bảo vệ Nhị nương.

Hắn vẫn chưa buông bỏ Nhị nương sao? Thẩm Kính An thấy lòng rối bời. Sợ nàng và công chúa phát hiện điều gì, y quyết định quay về viện của mình, tạm thời không gặp họ.

Nước Triệu.

Tống Hành đứng trước dư đồ.

Trương nội thị đứng bên ngoài đại điện, khẽ thưa: “Hồi bẩm Thánh thượng, Bất Lương Soái cầu kiến.”

Tống Hành ra lệnh cho người đưa vào.

Bất Lương soái bước vào, cúi người cung kính: “Hồi bẩm Thánh thượng, có tin từ nước Ngụy truyền tới.”

Tống Hành khẽ nhíu mày: “Nói.”

“Ngày nhị vương Khang và Hạ bức cung, người mà Thánh thượng phái đi đã cứu được Dương nương tử cùng… cùng…”

Bất Lương Soái thoáng lưỡng lự, không chắc nữ hài kia cùng Thánh thượng có quan hệ gì, càng không biết phải xưng hô thế nào.

“Cùng ai? Chẳng lẽ lại là Vũ An hầu Thẩm Kính An? Theo trẫm biết, lúc đó hắn đang ở Dương Châu.”

Bất Lương Soái do dự một lát, cau mày cẩn trọng thưa: “Hồi bẩm Thánh thượng, bên cạnh Dương nương tử còn có một đứa trẻ gọi nàng là a nương, gọi Vũ An hầu là cữu ông, chừng hai tuổi.”

Một đứa bé gọi nàng là “a nương”…

Tống Hành nghe vậy, lửa giận lập tức bùng lên, khó kiềm chế được cảm xúc. Nàng sao có thể? Sao nàng dám sinh con cho người khác?!

“Trả lời trẫm, bên cạnh nàng còn có nam nhân nào khác không?”

Bất Lương Soái lắc đầu: “Chưa từng có ai thấy Dương nương tử đi cùng nam lang nào khác, chỉ có công chúa Tuyên Thành của tiền triều ở cùng nàng.”

Không có nam lang khác… Vậy cha của đứa trẻ rất có thể là hắn?

Nhưng không đúng! Tính theo thời gian, nếu đứa bé là con của hắn, thì chỉ có thể là vào thời điểm sau khi nàng trở thành Thượng nghi. Nhưng khi đó, hắn chưa từng ở bên trong…

Khoan đã!

Tống Hành đột nhiên nhớ lại một đêm… Hôm đó, hắn cầu nàng, nàng lại từ chối. Trong khoảnh khắc thất vọng, tâm trí hắn mơ hồ, chẳng lẽ khi ấy vô tình để lại chút mầm mống?

Phải, chính là khi ấy.

Nghĩ đến đây, lòng hắn tràn ngập vui sướng.

Tống Hành lập tức triệu gọi người của cục Thượng y, hỏi rõ tháng cuối cùng trước khi nàng rời cung có lãnh vật dụng dành cho kỳ nguyệt sự hay không.

Nghĩ đến việc nàng thường đau bụng khi đến kỳ nguyệt sự, hắn tiếp tục gọi Lưu Thượng cung đến hỏi xem nàng có xin nghỉ phép vì lý do đó không.

Cả hai nơi đều khẳng định là không.

Phải rồi, chính là khi ấy. Nàng đã mang thai con của hắn!

Đứa trẻ đó là cốt nhục của hắn và nàng.

Hắn sẽ phong đứa bé làm công chúa, sẽ làm một phu quân và một người cha tốt. Nàng sẽ trở thành tiểu nương tử hạnh phúc nhất thiên hạ, và con của họ sẽ là tiểu hài tử hạnh phúc nhất trên đời.

Tống Hành đắm chìm trong những suy nghĩ ấy, vui sướng đến phát cuồng, khó lòng che giấu niềm hân hoan trên gương mặt, lập tức ban thưởng cho Lưu Thượng cung và Triệu Thượng y mỗi người hai mươi quan tiền.

Lưu Thượng cung và Triệu Thượng y đều là những người tinh ý, vừa thấy thái độ của Thánh thượng liền đoán được nguyên do. Họ hiểu rằng những tin đồn về Dương Thượng nghi trước và sau khi rời cung có lẽ không phải là giả.

Tối hôm đó, Tống Hành phấn khích đến mức phê duyệt tấu chương suốt đêm. Qua giờ Tý, nằm trên giường, hắn vẫn nghe rõ nhịp tim mạnh mẽ của mình, mãi không thể bình tâm, càng không tài nào chợp mắt. Hắn chỉ nghĩ đến nàng, nhớ nàng, lòng ngọt ngào như được tẩm mật.

May rằng ngày mai không cần thượng triều sớm, hắn quyết định buông thả bản thân, cho phép mình ngủ thêm một chút.

Mãi đến khi đêm đã về khuya, hắn mới thiếp đi.

Trong mơ, hắn lại biến thành con mèo nhỏ, nhảy lên lòng nữ lang.

Nữ lang ôm hắn vào lòng, nhẹ nhàng v**t v* bộ lông mềm mại.

Đột nhiên, trọng lượng trong lòng tăng lên đáng kể, chưa kịp phản ứng, chú mèo nhỏ đã biến thành một lang quân cao lớn, dùng hai cánh tay rắn chắc giam cầm nàng trong lòng dễ như trở bàn tay.

Chỉ trong chốc lát, y phục trên người nàng rơi xuống đất.

Làn gió nóng ẩm của đêm hè thổi qua da thịt, khiến Tống Hành càng khó kiềm chế hơn. Đôi mắt phượng sâu thẳm của hắn như muốn lột bỏ cả lớp kha tử cuối cùng.

Nàng đáng thương và bất lực, gắng sức bảo vệ mảnh áo lót mỏng manh, càng chống cự càng kịch liệt. Nhưng vừa mới nhấc chân khỏi mép giường, đã bị hắn mạnh mẽ kéo lại.

Trong giấc mơ, ký ức dường như vẫn dừng lại ở Tống phủ, đôi mắt nàng đỏ hoe, giọng nói yếu ớt van xin: “Gia chủ không thể như vậy… cầu ngài, xin đừng đối xử với ta như thế… tha cho ta…”
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 75: Hải Châu


Trong giấc mộng, ký ức của nàng dường như chỉ dừng lại ở những ngày còn ở trong Tống phủ.

Động tác trên tay của Tống Hành bỗng ngừng lại, giọng hắn dịu dàng an ủi: “Âm Nương, đừng sợ. Ta sẽ không làm đau nàng, ta sẽ đưa nàng lên tiên cảnh, khiến nàng thư thái dễ chịu.”

Nàng chỉ đang sống nhờ ở Tống phủ, chẳng hề có liên hệ gì với hắn, làm sao có thể để xảy ra chuyện như vậy? Huống hồ, nàng cũng chẳng hiểu vì sao hắn lại xuất hiện ở đây, lại còn thân mật gọi nàng là Âm Nương.

Nhưng, nàng còn chưa kịp nghĩ thông suốt, bên ngoài chợt vang lên tiếng gõ cửa dồn dập. Một giọng nữ ôn hòa cất lên ngoài cánh cửa: “A Âm, vừa rồi cô đang nói chuyện với ai vậy? Có chuyện gì không?”

Nghe giọng, nàng nhận ra đó là Ngân Chúc. Với bộ dạng này cùng gia chủ, nàng làm sao có thể gặp người được?

Tống Hành dường như cố ý trêu chọc nàng, động tác cởi áo trên tay chẳng chút dừng lại.

Chỉ trong thoáng chốc, lớp áo mỏng màu trắng từ vai phải nàng trượt xuống, để lộ ra một khoảng da thịt trắng như tuyết. Trâm lưu tô mạ vàng cài trên tóc vô tình vướng vào tóc nàng, ánh vàng lấp lánh phản chiếu những giọt lệ còn vương trên khóe mắt, khiến ai nhìn vào cũng không khỏi thương cảm.

Khác hẳn với dáng vẻ mảnh mai yếu đuối của nàng, Tống Hành lại cao lớn cường tráng, tựa như một dã thú hung dữ trong rừng sâu. Hắn tựa hồ lớn gấp đôi nàng, khiến nỗi sợ hãi của nàng cũng trở nên dễ hiểu.

Nhận thấy nàng khẽ rụt người lại, Tống Hành lập tức ngừng động tác, cúi người, dùng ánh mắt cháy bỏng nhìn xuống làn da trắng nõn mềm mại trước mắt, hơi thở nóng rực kề sát tai nàng, thì thầm: “Âm Nương không muốn để người khác thấy nàng trong bộ dạng này, phải không? Nàng muốn tự bảo nàng ta đi hay để ta đuổi?”

“Xin ngài đừng như vậy, không được đâu…” Đôi mắt nàng đỏ hoe, hốt hoảng đến mức suýt bật khóc. Đôi mắt đào hoa long lanh, chan chứa tình ý, lại thêm màn sương mờ ảo khiến nàng vừa yểu điệu vô tội vừa cuốn hút đến tận cùng.

Tống Hành nhìn nàng như vậy, làm sao còn có thể kìm chế thêm chút nào. Một cơn nhiệt hỏa từ h* th*n bốc l*n đ*nh đầu, tựa như thiêu đốt cả sống lưng hắn.

Ngón tay khẽ móc vào vạt áo nàng, làn da thuần khiết càng thêm lộ rõ. Hắn như thể đã mất hết kiên nhẫn, ghé sát tai nàng thủ thỉ: “Âm Nương ngoan, bảo nàng ta đi đi. Bằng không, ta cũng chẳng ngại để nàng ta biết bây giờ nàng đang ở dưới thân ta, chỉ sợ nàng ngượng ngùng không chịu nổi mà thôi.”

Nói xong, ánh mắt hắn hướng về cánh cửa gỗ, định lên tiếng. Nữ lang hoảng hốt, vội lấy tay che miệng hắn, mắt đỏ hoe, gạt bỏ mọi xấu hổ, cất giọng: “Không có gì, ta chỉ muốn nghỉ ngơi, ngày mai hãy đến nha.”

Một lát sau, bóng dáng ngoài cửa biến mất.

Bàn tay mềm mại của nàng vẫn phủ trên môi hắn. Tống Hành nắm lấy tay nàng, áp lên môi mình mà hôn, lưu luyến chẳng muốn buông ra.

“Âm Nương ngoan lắm.” Hắn khẽ bật cười, ánh mắt nóng rực lại dán lên gương mặt như đóa phù dung của nàng. Hắn thuần thục tháo dây buộc kha tử trên người nàng.

Làn gió đêm mát lạnh thoáng qua, áp vào làn da trần.

Thi Yến Vi gần như theo phản xạ mà đưa tay che lại, nhưng hành động quá đỗi vô dụng, nàng thậm chí không biết nên che chỗ nào trước.

“Che làm gì? Có nơi nào mà ta chưa từng thấy qua đâu? Ngoan, để ta nhìn cho rõ. Rồi nàng sẽ nhận được phần thưởng của mình.” Tống Hành vừa nói vừa ngăn bàn tay nàng đang cố gắng che chắn.

Nàng cho hắn xem hồi nào chứ? Vừa bực lại vừa sợ, đôi mắt ướt át đầy kinh hoàng, nàng lại bắt đầu giãy dụa: “Ngài không thể như vậy! Ta không muốn… Buông ta ra!”

Tống Hành hoàn toàn phớt lờ sự phản kháng của nàng, nắm lấy cổ chân nàng, chặn đứng lời nàng muốn nói. Hắn khẽ nhếch môi cười ngạo nghễ, giọng nói lộ rõ vẻ khiêu khích: “Vì sao lại không thể như vậy? Rõ ràng giữa chúng ta đã từng có vô số lần, ta sẽ khiến nàng nhớ lại.”

Nói dứt lời, hắn cúi xuống, nét mặt hiện lên sự mê đắm điên cuồng.

Dẫu chỉ là trong mộng, nàng vẫn nhỏ bé đến thế.

Tống Hành thoáng có chút hối hận, nhưng lại cố gắng tập trung tinh thần, dốc sức làm mọi cách để khiến nàng vui lòng.

Thi Yến Vi bất giác ngửa đầu, cần cổ trắng ngần như càng thêm nổi bật. Tay nàng bấu chặt lấy lớp áo trên vai hắn, đôi mắt hoe đỏ, dáng vẻ yếu ớt giống hệt những gì hắn từng thấy trước đây.

“Âm Nương, gọi ta là Quỳ Ngưu Nô đi.” Giọng hắn trầm thấp, từng lời như rót mật, ngón tay trêu chọc lướt nhẹ.

Trên mái tóc nàng là viên nam châu trắng không tỳ vết, tròn trịa mượt mà.

Đôi mắt nàng ngập nước, mỗi lúc một đầy, bất lực dùng móng tay cào vào vai hắn, giọng nói khẩn cầu: “Đừng như vậy, xin ngài tha cho ta…”

Nhưng những lời nói như thế chẳng khác nào lửa đổ thêm dầu, càng khiến bản năng hủy hoại điên cuồng trong người hắn dâng cao.

Tống Hành nhẫn nại đến cùng cực, cuối cùng nghiến răng, chặt đứt hy vọng cuối cùng của nàng: “Tha cho nàng? Cả đời này, cả kiếp này, vĩnh viễn không thể.”

Vừa nói, bàn tay mạnh mẽ của hắn dễ dàng khống chế thân hình mảnh mai của nàng, chạm đến chiếc thắt lưng vàng trên hông.

Nữ lang không dám tin vào mắt mình, đôi đồng tử tràn đầy vẻ bàng hoàng, toàn thân run rẩy trốn tránh, nhưng làm sao thoát được. Khắp nơi đều là hơi thở của hắn, nàng bị giam cầm trong một không gian chật hẹp, không cách nào chạy thoát.

Tống Hành nâng khuôn mặt nàng lên, ánh mắt như nhìn một món bảo vật, dịu giọng vỗ về: “Không sao đâu, Âm Nương. Ta và nàng đã bao lần như thế, lần nào nàng cũng chịu được cả.”

Thi Yến Vi nhíu mày, tựa hồ không hiểu hắn đang nói gì. “Bao lần” là ý gì? Trong đầu nàng chỉ tràn ngập sự kinh hoàng, cố quay mặt né tránh ánh mắt hắn, một lòng một dạ vùng vẫy mong thoát khỏi sự kìm kẹp.

Thế nhưng sức lực của nàng quá yếu, yếu đến nỗi không khác gì gãi ngứa cho hắn.

Nước mắt Thi Yến Vi tuôn trào, như những chuỗi ngọc lăn dài trên má. Nàng bấu chặt vai hắn, ngón tay như muốn khảm vào da thịt, nghẹn ngào van xin: “Xin ngài đừng như vậy với ta, không được đâu… thả ta ra, ta xin ngài…”

Hắn còn chưa làm gì, nàng đã khóc thành một người đầy nước mắt như vậy rồi.

Tống Hành không dám hành động liều lĩnh thêm, nghiêng người nhặt lấy y phục vương vãi trên sàn, vo tròn lại đặt dưới lưng nàng làm điểm tựa.

“Âm Nương, thả lỏng một chút, đừng sợ hãi.” Tống Hành cúi đầu hôn đi những giọt lệ trên má nàng, từng chút một nuốt trọn, bàn tay nhẹ nhàng v**t v* trấn an.

Dần dần, nàng không còn hoảng sợ như lúc đầu nữa.

Lúc này, hắn mới dám mạnh dạn hơn.

Dù vẫn chưa đủ, nhưng nàng lại khóc càng dữ dội hơn.

“Âm Nương, hay nàng cắn ta một cái cho bớt giận nhé?” Hắn không thể chịu được khi thấy nàng buồn bã như vậy, trong lòng cảm thấy bức bối. Nhưng bảo hắn buông tha nàng, hắn lại không làm được, đành cúi sát xuống, đưa bờ vai trái của mình đến trước môi nàng.

Thi Yến Vi không còn đường trốn, đành trừng mắt nhìn hắn, rồi không chút do dự, cắn mạnh lên bả vai hắn.

Tống Hành như thể vừa nhận được phần thưởng quý giá, không giấu nổi sự kích động, nói: “Âm Nương ngoan, tất cả những gì của ta đều là của nàng. Nếu muốn, cứ cắn thêm ở chỗ khác đi.”

Lời vừa dứt, đến lượt Thi Yến Vi ngây ra. Hiển nhiên, nàng không ngờ hắn có thể thốt ra những lời điên cuồng như vậy, kinh ngạc đến mức quên cả khóc.

Tống Hành vẫn không chịu buông tha nàng.

Một lát sau, sức lực giữa môi và răng nàng cũng yếu đi, không thể không rời khỏi vai hắn, giọng đứt quãng pha chút tức tưởi, thổn thức trong lòng hắn.

Thấy nàng khóc đến đáng thương như vậy, cuối cùng Tống Hành cũng động lòng, bế nàng rời khỏi chiếc sạp thấp, bước vào trong.

“Âm Nương, nàng chờ ta, chẳng mấy chốc nữa, ta sẽ đưa nàng và con của chúng ta trở về Triệu quốc. Khi ấy, gia đình ba người chúng ta sẽ cùng nhau sống vui vẻ, không ai có thể chia lìa chúng ta nữa.” Vừa nói, Tống Hành vừa cố gắng kiềm chế bản thân, để mọi chuyện nhanh chóng kết thúc.

Nữ lang hơi sững lại, rõ ràng là không hiểu hắn đang nói gì. Nàng và hắn, làm gì có đứa con nào? Nhưng chỉ sau một khoảnh khắc, nàng đã không còn tâm trí để suy nghĩ, trong lòng âm thầm mắng người trước mặt sao lại có sức lực trâu bò đến thế.

Khi tất cả đã kết thúc, Tống Hành vùi cằm vào mái tóc đen rối bời của nàng, hạ giọng nói: “Ngôi vị hoàng hậu chỉ có thể thuộc về Âm Nương, và Âm Nương cũng chỉ có thể là của ta. Các con của chúng ta chắc chắn sẽ có một cuộc sống hạnh phúc. Ta sẽ biến cô bé trở thành nàng công chúa tôn quý nhất thiên hạ.”

Nữ lang trong lòng hắn dường như đã bị kiệt sức, lặng yên để hắn ôm lấy, Tống Hành cũng an tâm nhắm mắt chìm vào giấc mộng.

Trong mộng, hắn lại thấy người con gái hắn ngày đêm mong nhớ đang chơi đùa với một bé gái giữa trời tuyết. Tuy không thấy rõ khuôn mặt đứa trẻ ấy, nhưng hắn tin chắc rằng cô bé cũng sẽ có đôi mắt hoa đào tuyệt đẹp giống như nàng.

Tống Hành bước nhanh về phía hai bóng hình trước mắt, định tham gia cùng họ. Thế nhưng, khi hắn vừa tiến lại gần, cả hai lại đột ngột biến mất, không để lại dấu vết nào.

Cảnh tượng xung quanh dần trở nên hoang vắng, trước mắt chỉ còn một màu trắng xóa. Lòng hắn tràn đầy hoảng hốt, bất giác choàng tỉnh từ giấc mộng.

Tay hắn siết chặt, từng giọt mồ hôi trên trán lớn bằng hạt đậu, y phục ngủ cũng ướt đẫm. Tống Hành mệt mỏi áp tay lên ngực, há miệng th* d*c.

Bên ngoài trời đã hửng sáng, nhưng giờ vẫn đang còn sớm.

Tống Hành xuống giường, đi giày, bước đến bên cửa sổ, mở ra. Làn gió thu se lạnh thổi qua, xua đi hơi nóng còn sót lại trên người hắn.

Hắn bước đến cửa sổ, chống tay đẩy ra. Bên ngoài, hoa mộc phù dung đã nở rộ.

Hắn bất giác nhớ đến sáng sớm hôm nàng rời khỏi Lạc Dương để đến Thái Nguyên ở biệt viện. Khi ấy, ngoài cửa sổ cũng đầy những đóa mộc phù dung rực rỡ. Nàng đứng bên cửa sổ ngắm hoa, nghĩ lại, chuyện đó đã là năm năm trước.

Khi ấy, nàng mới mười chín tuổi, giờ đây chỉ vừa hai mươi tư, còn hắn hơn nàng tám tuổi, nay đã ba mươi hai, không còn là lang quân tuổi đôi mươi năm đó.

Nàng vẫn trẻ trung mạo mỹ, còn hắn, so về tuổi tác, dường như không xứng với nàng nữa.

Nghĩ đến đây, lòng hắn càng thêm bất an. Tay siết chặt lấy gỗ cửa sổ, hắn hạ quyết tâm, phải nhanh chóng đưa nàng và con của họ trở về bên mình.

Trung thu vừa qua, Trùng Dương lại đến.

Tin tức sứ thần nước Triệu chuẩn bị đến nước Sở truyền đến nước Ngụy khiến triều đình xôn xao.

Giang Thịnh nghe tin này liền lập tức đưa ra nhận định: Tống Hành có ý muốn “xa giao gần công” <i>(kết giao xa, tấn công gần)</i>, hoặc kết đồng minh với nước Sở chung sức bàn đại kế phạt Ngụy.

Đêm ấy, hắn vội triệu tập quần thần vào điện bàn bạc, quyết định tiên phát chế nhân, [1] tấn công nước Sở, phá vỡ liên minh giữa hai nước.

[1]

Thẩm Kính An cảm thấy chuyện này có điểm đáng ngờ, bèn khuyên Giang Thịnh chớ nóng vội, tránh hành động theo cảm tính.

Nhưng Giang Thịnh vốn là người ham công danh, lại thêm tài trí tầm thường, chẳng có chiến công gì nổi bật. Nay đăng cơ, thiên hạ vẫn chỉ tôn xưng phụ hoàng hắn là hùng chủ nước Ngụy. Giang Thịnh ôm mộng đánh bại nước Sở để xây dựng uy vọng, vượt qua thành tựu của tiên đế. Nhân cớ này, hắn quyết định xuất binh, lớn tiếng nói: “Nguyện vọng cả đời của tiên đế là thống nhất thiên hạ. Nay nước Ngụy ta ngày càng hùng mạnh, còn nước Sở chỉ là tiểu quốc ba trấn, có gì đáng sợ. Đợi sau khi chiếm được nước Sở, thống nhất miền Nam, tự khắc có thể Bắc phạt nước Triệu.”

Thẩm Kính An nghe vậy cảm thấy không ổn, định khuyên thêm lần nữa, nhưng Tể tướng Trình Cảnh đã lên tiếng trước: “Nếu lúc này tấn công nước Sở, chẳng phải lo sợ nước Triệu nhân cơ hội đánh úp chúng ta, khiến ta rơi vào tình thế lưỡng đầu thọ địch [2] hay sao?”

[2]

Giang Thịnh lòng đã quyết, không muốn nghe những lời trái ý, sắc mặt lập tức sa sầm: “Nước Triệu và nước Ngụy đã nghị hòa mười năm, đến nay mới qua ba năm. Nếu bọn chúng lúc này tấn công ta, chẳng phải là bội tín bội nghĩa, không sợ bị thiên hạ cười chê hay sao? Huống chi, chúng muốn lôi kéo nước Sở, đủ thấy rằng với sức của nước Triệu hiện tại vẫn chưa thể một mình đánh bại nước Ngụy. Nếu không nhân lúc này diệt Sở, chẳng phải để lại mối họa về sau?”

Dẫu Giang Thịnh đã quyết ý, Thẩm Kính An vẫn không quên bổn phận của bề tôi, bước lên trước khuyên nhủ: “Ti hạ cho rằng lời Trình công rất có lý. Kính mong Thánh thượng nghĩ kỹ trước khi hành động.”

Nghe vậy, sắc mặt Giang Thịnh càng thêm khó coi. Trong lòng hắn chỉ cảm thấy hai tâm phúc này của tiên đế luôn luôn đối đầu với mình, chẳng qua là không muốn thấy hắn làm tốt hơn tiên đế mà thôi.

Giữa lúc bầu không khí căng thẳng, Tể tướng Chu Bành bỗng nói: “Thần cho rằng, lời Thánh thượng không phải không có lý. Huống chi nước Sở nhiều lần quấy nhiễu biên cương ta, cướp bóc sinh sự. Nay xuất binh thảo phạt là điều đúng đắn. Thẩm công liên tiếp làm trái ý Thánh thượng, chẳng lẽ vì dựa vào quân công và sự trọng dụng của tiên đế, được phong hầu mà coi thường đương kim Thánh thượng hay sao?”

Thẩm Kính An nghe vậy, trong lòng không khỏi lạnh lẽo. Y nhớ lại khi xưa từng tín nhiệm Đông cung, khi rời khỏi Biện Châu còn giao binh phù cho hắn để bảo vệ tiên đế. Nhưng không ngờ tiên đế vẫn băng hà, trong lòng không khỏi hoài nghi liệu có phải Đông cung cố ý làm ngơ không.

Hai vị vương gia Khang Vương và Hạ Vương cũng lần lượt chết trong tay hắn.

Người xưa nay trông có vẻ trung hậu như Đông cung, giờ nhìn lại, đâu phải chỉ đơn giản như vậy.

Hiện nay, y không nắm binh quyền, lại không được lòng vua, còn có thể làm gì nữa? Nghĩ đến công chúa, cháu gái và Trân Trân trong phủ, Thẩm Kính An âm thầm nắm chặt tay, trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng cúi đầu ôm quyền thi lễ, dùng giọng điệu bình tĩnh đáp: “Ti hạ tuyệt không dám có ý này.”

Giang Thịnh không thèm nhìn hắn, chỉ nhíu mày, lạnh lùng nói: “Trẫm đã quyết, chư khanh không cần khuyên thêm. Nếu có kế sách gì thắng địch, cứ việc trình bày.”

Những lời sau đó, Thẩm Kính An không còn nghe lọt tai. Trong lòng y chỉ thầm tính, e rằng đã đến lúc phải để các nàng rời khỏi Biện Châu rồi.

Hôm sau, lúc lâm triều, Giang Thịnh ban chiếu chỉ, phong Quách Thừa, huynh trưởng của Hoàng hậu Quách thị, làm Nguyên soái, đồng thời cử thêm ba vị tướng quân khác, nhưng lại chỉ để Thẩm Kính An làm Phó tướng.

Chiếu chỉ này rõ ràng nhằm áp chế tâm phúc cùng cựu thần của Tiên đế, cũng như nâng đỡ bè phái thân cận với tân đế. Phía ủng hộ tân đế thì tự hả hê, mừng rỡ vô cùng.

Sau buổi triều, Giang Thịnh giữ Thẩm Kính An lại để nghị sự.

“Trẫm nghe nói, cháu gái của Thẩm công dung mạo xuất chúng, khí chất phi phàm. Nay Thẩm công sắp thân chinh nước Sở, dù muốn quan tâm cũng e rằng lực bất tòng tâm. Chi bằng để trẫm thay ngươi gánh vác trách nhiệm ấy.”

Nhị nương trước nay ít khi rời phủ, chẳng rõ từ khi nào đã lọt vào mắt xanh của hắn. Nghe đến đây, trong lòng Thẩm Kính An thảng thốt, vội vã phủ nhận: “Ti hạ không rõ Thánh thượng nghe từ đâu ra lời đồn ấy, nhưng cháu gái của ti hạ dung mạo tầm thường, đã quá hai mươi bốn tuổi, hơn nữa còn có một nữ nhi bên gối. Làm sao dám làm phiền Thánh thượng hạ cố?”

Giang Thịnh nghe vậy chỉ cười nhạt: “Thẩm công, ngày trước ngươi lừa Tiên đế, phạm tội khi quân, giờ lại muốn dối gạt trẫm sao? Thẩm công đừng quên, đêm Khang vương tạo phản, chính trẫm đã phái người đến Thẩm phủ cứu ngươi. Khi đó cháu gái của ngươi đã đích thân cảm tạ, dung mạo nàng ta đã hiện rõ trước mắt mọi người, chẳng lẽ lại không đến tai trẫm? Dù nàng chẳng phải hoàn bích cũng không sao, Tiên đế khi nạp thiếp cũng từng có người tái giá hay quả phụ. Huống hồ, loại phong tình ấy e rằng còn độc đáo hơn nữa.”

Cơn giận trong lòng Thẩm Kính An suýt không kìm được, đầu ngón tay bấm chặt lòng bàn tay đến đau nhói. Sau mười mấy nhịp thở, y chậm rãi lên tiếng: “Thánh thượng đã nói vậy, ti hạ cũng không dám nhiều lời. Chuyện này nên thuận theo ý nguyện cả hai bên mới thỏa đáng. Xin Thánh thượng cho phép ti hạ về phủ bàn kỹ với cháu gái, để nàng ấy chuẩn bị tâm lý.”

Ngày trước ở bên phụ hoàng, hắn luôn là kẻ hiên ngang mạnh mẽ, chưa từng phải nhún nhường, hạ mình như hôm nay. Nghĩ thế nên Giang Thịnh càng cảm thấy đắc ý, quyết định ban ơn: “Cũng được. Đợi khi ngươi rời Biện Châu, trẫm sẽ phái người đưa nàng vào cung. Ngươi nhất định phải nói rõ tấm chân tình trẫm dành cho nàng, dặn nàng nhất định phải ăn vận chỉnh chu.”

Thẩm Kính An cố nén nỗi uất hận, khom người cung kính đáp: “Ti hạ tạ ơn Thánh thượng, thay mặt cháu gái cảm tạ thánh ân.”

Giang Thịnh thấy sự đã thành, liền vui vẻ cho lui. Hắn nghĩ, chỉ hai ngày nữa thôi, giai nhân ngoan ngoãn nhập cung, hắn sẽ kiên nhẫn chờ đợi.

Ra khỏi cung, Thẩm Kính An lập tức đến Đô đốc phủ, dựa vào giao tình mà lần đầu phá lệ xin một tờ giấy thông hành trống.

Trở về phủ, y cầm giấy thông hành đến gặp Thi Yến Vi, đồng thời sai người chuẩn bị cả bạc và vàng nén.

“A cữu, đây là ý gì?” Thi Yến Vi nghi hoặc hỏi.

Thẩm Kính An khẽ thở dài: “Kim thượng vừa thiếu đức vừa độc đoán, sợ rằng vận số nước Ngụy chẳng còn kéo dài được bao lâu. Sáng mai điểm binh xong, a cữu sẽ xuất chinh đánh Sở. Người kia sớm muộn cũng sẽ đem quân đánh nước Nguỵ, cháu cùng công chúa hãy mang theo Trân Trân đến Hải Châu trước. Nếu Ngụy bại trận, không cần bận tâm tới a cữu, cứ theo thương đoàn vượt biển mà đi. A cữu đã sắp xếp thị vệ đi cùng bảo vệ mọi người an toàn đến hải ngoại. Hắn dù có bản lĩnh lớn cũng không nghĩ ra cháu đã rời khỏi Trung Nguyên.”

Người kia… trong đầu Thi Yến Vi mơ hồ đoán được, chính là Tống Hành. Ba năm qua, nàng cố tình né tránh mọi chuyện liên quan đến hắn, chỉ nghe phong thanh rằng hắn cai quản nước Triệu rất tốt. Nhưng nàng chưa từng ngờ rằng, dù hắn từng nói sẽ quên nàng, ba năm trôi qua, hắn vẫn ghi nhớ nàng, thậm chí có ý truy đuổi mãi không buông?

“A cữu, cháu chưa hiểu.” Thi Yến Vi lên tiếng.

Thẩm Kính An khẽ cười chua xót: “Ta chưa từng nói với cháu, vì sợ cháu lo lắng. Nhị nương còn nhớ đêm Khang vương tạo phản, phủ ta vốn đã không chống đỡ nổi, vì sao lại giữ được cho đến khi quân Đông cung đến cứu không?”

Thi Yến Vi chẳng biết chút võ nghệ, cũng không có giác quan nhạy bén, nên hoàn toàn không nhận ra sự hiện diện của những tử sĩ. Nàng suy nghĩ mãi vẫn không hiểu, chỉ đành ngơ ngác lắc đầu.

Thẩm Kính An mặt mày ngưng trọng, rồi nói: “Chính là người kia phái tử sĩ âm thầm bảo vệ cháu, lúc này sợ rằng họ đang ở quanh Thẩm phủ. Ba năm nay, hắn không lập hậu cũng chẳng nạp phi. Có thể thấy, hắn chưa từng quên cháu.”

“A cữu biết cháu từng bị hắn làm tổn thương, trong lòng chẳng còn chút tình ý nào, chắc chắn không muốn quay lại bên hắn sống khổ sở. Nhưng a cữu chỉ mong cháu và công chúa sống tốt, sống vui vẻ. Chính vì thế mới nghĩ ra cách này.”

Lời vừa dứt, căn phòng chìm vào tĩnh lặng. Nàng không muốn tin sự việc lại thành ra như vậy, nhưng dù không muốn tin thì thực tế cũng đã rành rành, không thể không chấp nhận.

Nàng lẽ ra phải nghe theo sắp đặt của a cữu mà rời đi, nhưng ba năm sống chung, nàng đã coi y như người thân. Thi Yến Vi thấy lòng đau xót, nước mắt tràn mi: “Nhưng a cữu, nếu chúng ta đi rồi, người phải làm sao?”

“A cữu đã nói rồi, nếu quân Ngụy bại trận, mọi người hãy rời ra hải ngoại. Còn nếu Ngụy thắng, ta sẽ thu xếp cho mọi người đến nơi khác. Hải ngoại dù sao cũng chẳng phải quê nhà, nếu không đường cùng ta cũng không muốn ba người liều lĩnh đến đất khách.”

Thi Yến Vi càng thấy khó hiểu, vì sao Ngụy thắng rồi mà họ vẫn phải rời đi, vì sao không thể tiếp tục ở Biện Châu cùng a cữu? Trân Trân cũng rất yêu mến vị cữu công này.

Thẩm Kính An nhận ra nỗi băn khoăn trong mắt nàng, bèn giải thích: “Thánh thượng nghe từ miệng người cứu viện hôm ấy rằng nhan sắc của Nhị nương hơn người, nên muốn đưa cháu vào cung để thỏa mãn tư dục. Ta không thể cháu nàng vừa thoát khỏi hang hổ lại sa vào miệng sói, nên chỉ có thể đến dùng hạ sách này.”

“Nhưng may thay, Thánh thượng vốn là kẻ ham mê sắc đẹp, nay thế này mai thế khác, sẽ không bận tâm đến một nữ lang quá lâu. Nghĩ đến vài năm nữa, khi Nhị nương lớn tuổi, hắn sẽ không còn nhớ đến Nhị nương. Đến khi đó, cữu cháu ta sẽ có ngày tái ngộ.”

Đến lúc này, Thi Yến Vi cuối cùng cũng thấm thía lời Tống Hành từng nói với nàng lúc ở biệt viện hành sơn. Nàng chỉ có nhan sắc, nhưng không có năng lực tự bảo vệ, nếu rời xa hắn, sẽ chỉ chuốc họa bởi hạng người lang sói.

Giờ đây, nàng chẳng những không thể tự bảo vệ mình mà còn làm liên lụy đến cậu của nguyên thân.

Thi Yến Vi lòng tràn đầy tự trách, song cũng hiểu rõ thời khắc này không phải lúc do dự. A cữu sắp đặt như vậy, tất nhiên có lý lẽ của người. Huống hồ, nước Ngụy đang lúc cần người tài, Thánh thượng cũng không mất trí đến mức vì muốn có nàng mà lấy mạng của a cữu.

“Được, cháu sẽ nghe theo sự sắp xếp của a cữu.” Thi Yến Vi quyết ý, gật đầu thật mạnh.

Thẩm Kính An cố gắng giữ bình tĩnh, giọng điềm nhiên: “Sáng sớm mai, ta sẽ sai người cải trang thành cháu để đánh lạc hướng đám tử sĩ mà Tống Hành phái tới. Cháu và công chúa cải trang, dắt theo Trân Trân rồi đi qua cửa hông, sẽ có xe ngựa đến đón.”

Kế hoạch đã định, Thi Yến Vi thu dọn hành lý gọn ghẽ, lòng thấp thỏm đợi ngày mai đến.

Mọi chuyện diễn ra suôn sẻ, cả đoàn người ra khỏi thành, thẳng tiến về Hải Châu cách gần ngàn dặm.

Thêm một ngày nữa trôi qua, Thẩm Kính An đã theo quân xuất chinh. Giang Thịnh sai nội thị trong cung đến đón người, nhưng trong Thẩm phủ giờ đây đâu còn vị cháu gái xinh đẹp như hoa như ngọc của Thẩm hầu nữa.

Biết tin, Giang Thịnh giận đến tím mặt, song việc này vốn kín đáo, không tiện công khai. Thẩm Kính An đã rời Biện Châu theo quân chinh chiến, hắn không có lý do chính đáng để làm khó người Thẩm phủ. Huống chi hắn vừa lên ngôi không lâu, e rằng sẽ bị người ta nắm thóp. Tạm thời, hắn đành nén cơn giận, chờ Thẩm Kính An hồi triều rồi mới tính sổ.

Quách Trừng tuy kinh nghiệm chiến trận không bằng Thẩm Kính An, nhưng vì hắn là chủ soái, dù quyết sách sai lầm, kẻ khác cũng không dám không nghe. Thành ra, quân đội kéo đến biên giới nước Sở đã nửa tháng mà chưa chiếm nổi thành trì nào.

Phía tiền tuyến còn đang giằng co, hậu phương lại gặp biến cố. Triệu quốc, dưới sự chỉ huy của đại tướng quân Vệ Trạm, đã dẫn năm vạn binh từ Kim Châu tiến đánh Quân Châu. Chỉ trong hơn mười ngày ngắn ngủi, quân Triệu liên tiếp chiếm được ba thành, áp sát Đường Châu.

Giang Thịnh nhận được chiến báo, long nhan đại nộ. Triều đình lúc này không còn binh để dùng, đành phải gấp rút điều quân từ Hoài Nam tiếp viện bằng lệnh tám trăm dặm hỏa tốc.

Điện Triều Nguyên.

Mọi chuyện dường như đều diễn ra theo kế hoạch của hắn, chỉ trừ một điều ngoài dự liệu.

Nàng lại một lần nữa biến mất ngay trước mắt những kẻ mà hắn phái đi.

Ngụy quốc chưa nằm trọn trong tay hắn, không thể huy động quy mô lớn để truy tìm nàng.

Muốn biết tung tích của mẹ con nàng, chỉ e vẫn phải bắt đầu từ Thẩm Kính An.

Thẩm Kính An vốn cẩn trọng, chắc chắn đã sắp đặt kỹ lưỡng cho nàng. Nơi nàng đi đến, nhất định là do Thẩm Kính An đích thân lựa chọn.

Tống Hành chăm chú nhìn tấm dư đồ trước mặt. Chiến báo hôm qua vừa đến, việc chiếm được Đường Châu chỉ là vấn đề sớm muộn. Khi quân Vệ Trạm áp sát trấn Trung Võ, hắn sẽ thân chinh dẫn quân hội ngộ tại Hứa Châu, rồi thẳng tiến Biện Châu.

Dù không thể nhất cử đoạt lấy Ngụy quốc, chỉ cần đẩy lùi bọn chúng xuống phía nam Trường Giang, đến Hàng Châu là đủ.

Đất nước mất đi một nửa, dù vẫn còn tồn tại, cũng chỉ là cầm cự trong cảnh suy vong.

Ngón tay trỏ của Tống Hành dừng lại ở vị trí Hàng Châu, nhưng ánh mắt lại vô tình lướt qua Hải Châu phía trên. Dù vậy, hắn cũng không để tâm quá nhiều, chỉ thu tay lại, xoa nhẹ sống mũi để giảm bớt sự nhức mỏi trong đôi mắt và cơn đau âm ỉ nơi trán.

Mùa đông sắp tới, không biết nàng ngoài kia sống ra sao, liệu có cơm no áo ấm. Đứa trẻ của họ có biết đến sự tồn tại của người cha này, có biết hắn đang ngày đêm nhớ mong mẹ con họ hay không?

Là hoàng hậu, là công chúa, nào có thể chịu cảnh bôn ba phiêu dạt. Tống Hành nghĩ đến đây, chỉ hận không thể ngay lập tức tấn công nước Ngụy, lật tung cả nước lên, đem mẹ con nàng bình an vô sự trở về Triệu quốc.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 76: Gặp nhau


Chớp mắt đã sang tháng mười, giữa mùa đông giá rét.

Mùa đông ở Hải Châu vừa khô vừa buốt. Sáng sớm, Thi Yến Vi rửa mặt, trước tiên nhóm một chậu than đỏ bên giường. Sau khi Dương Quân tỉnh giấc, nàng mang đến bộ y phục đã sưởi ấm, giúp bé mặc vào, rồi dạy bé tự mình mang giày.

Dương Quân còn nhỏ, việc mang giày tất vẫn chưa thạo. Bé ngồi ở mép giường, loay hoay thử một lúc, cất giọng ngọng nghịu hỏi: “A nương ơi, mùa đông ở Hải Châu có tuyết rơi không ạ?”

Thi Yến Vi lần đầu trải qua mùa đông tại Hải Châu. Khi còn ở hiện đại, thời thơ ấu nàng lớn lên tại vùng duyên hải phía nam, chưa từng được thấy cảnh tuyết rơi. Song, Hải Châu nằm gần phương Bắc, có lẽ sẽ có tuyết chăng?

Dù không chắc chắn, nàng không muốn để bé thất vọng, bèn mỉm cười đáp: “Đợi trời lạnh thêm chút nữa, có lẽ sẽ có tuyết rơi.”

Tiết trời khô lạnh dễ làm da nứt nẻ. Làn da của Dương Quân non nớt, càng không chịu nổi gió rét. Thi Yến Vi trông chừng bé rửa mặt, đánh răng xong xuôi, rồi lấy hộp cao dưỡng da, cẩn thận thoa lên tay và má bé.

Khi ấy, Lý Lệnh Nghi vừa làm xong công khóa. Nàng bước vào thì thấy Dương Quân đang lấy loại cao dưỡng da thơm lừng màu trắng trên mu bàn tay Thi Yến Vi xoa cho nàng ấy, vừa xoa vừa nhỏ nhẹ nói: “A nương cũng thoa vào đi.”

Lý Lệnh Nghi không quấy rầy hai mẹ con, chỉ lặng lẽ ngồi xuống bàn bên cạnh.

Thi Yến Vi quay lại nhìn, hỏi nàng đã ăn sáng chưa. Lý Lệnh Nghi đáp rằng nàng đã cùng Vọng Tình ăn mì rồi.

“Ta và Trân Trân còn chưa ăn. Ta định ra chợ dạo một vòng, Lệnh Nghi có muốn cùng đi không?”

Lý Lệnh Nghi nhàn rỗi không có việc gì làm, bèn gật đầu đồng ý.

Thi Yến Vi sửa soạn một chút, đội lên chiếc mũ có rèm che, nắm tay nhỏ của Dương Quân, cùng bước ra ngoài.

Gần căn nhà các nàng thuê có một khu chợ, không cần đi xe ngựa, chỉ cần đi bộ là tới.

Hải Châu là vùng ven biển, dân cư phần lớn sống bằng nghề đánh bắt cá. Trong thành, khắp nơi đều bày bán hải sản tươi ngon.

Đi ngang qua một quán nhỏ, mùi thơm từ nồi nước sôi nghi ngút khiến Dương Quân dừng chân, đôi mắt sáng lên, tay kéo nhẹ tay áo của Thi Yến Vi làm nũng: “A nương, Trân Trân muốn, muốn ăn món trắng trắng kia.”

Thi Yến Vi nhìn nam lang đang giã thịt cá chăm chỉ, rồi nhìn nữ lang đang dùng đũa gắp viên cá cho vào nồi. Nàng thầm nghĩ món cá viên này chắc hẳn ngon lành, lại nguyên chất tự nhiên. “Được, Trân Trân muốn ăn cá viên, a nương sẽ ăn với con.”

Sau đó nàng quay sang hỏi Lý Lệnh Nghi và Úc Kim có muốn ăn cùng không. Cả hai người đều lắc đầu bảo không đói. Vì vậy, nàng chỉ gọi hai bát mì cá viên.

Chủ quán mời các nàng ngồi xuống. Sợ Dương Quân bị lạnh, Thi Yến Vi bế bé ngồi lên đùi mình, hà hơi, thổi nhẹ vào đôi tay nhỏ để sưởi ấm.

Mì cá viên nhanh chóng được mang lên. Lý Lệnh Nghi bảo Thi Yến Vi đặt Dương Quân vào lòng nàng. Bé rất thân thiết với người dì này, liền ngoan ngoãn để nàng bế.

Dương Quân mới hơn hai tuổi, cầm đũa còn chưa vững, thấy bé xoay sở một hồi vẫn không gắp được viên cá, Lý Lệnh Nghi vừa thấy đáng yêu, vừa thấy đáng thương. Nàng dịu dàng hỏi: “Để a di đút cho Trân Trân ăn nhé?”

Thi Yến Vi nghe chữ “a di”, đột nhiên nhớ ra dì và cậu thuộc hai thế hệ khác nhau. Cậu nàng mới ba mươi lăm tuổi mà đã lên hàng ông cậu rồi.

“Được ạ.” Dương Quân nghiêm túc gật đầu, đưa đũa cho Lý Lệnh Nghi. Nàng mỉm cười nhận lấy, đút cho bé ăn vài sợi mì, rồi gắp thêm một miếng cá viên nhỏ.

Trong lúc đang đút ăn, họ bỗng thấy bên quầy xuất hiện hai mẹ con dáng người gầy gò. Quần áo của hai người cũ kỹ, mỏng manh, tóc búi đơn giản, cài bằng trâm gỗ và buộc bằng vải thô. Cô bé kia nhìn chỉ chừng năm sáu tuổi, âm thầm nuốt nước bọt khi nhìn vào những bát mì nóng hổi.

Người mẹ mang theo một giỏ tre cũ kỹ đựng rau tươi theo mùa, có vẻ định vào chợ bán.

Thi Yến Vi và Lý Lệnh Nghi nhìn thấy đôi mẹ con với dáng vẻ tiều tụy, sinh lòng cảm thương. Nàng trao đổi ánh mắt với Lý Lệnh Nghi, đứng dậy mời hai người vào, nói muốn mua ít rau củ của họ.

Trong lúc nói chuyện, Thi Yến Vi quay sang dặn chủ quán nấu thêm hai bát canh cá viên.

Cô bé núp sau lưng mẹ, rụt rè nhìn hai nữ lang trước mắt, chỉ thấy các nàng đẹp như tiên tử bước ra từ bức họa.

Người lớn tuổi hơn bế trong lòng một tiểu cô nương, khuôn mặt tròn xoe trắng hồng, mái tóc cài đầy hoa vải và dây lụa, cổ đeo khóa bạc, cổ tay lại có thêm vòng bạc kèm chuông nhỏ, tất cả đều lấp lánh rực rỡ.

Cô bé thầm nghĩ, hai người này hẳn đến từ gia đình phú quý hiển hách. Đúng lúc này, chủ quán bưng hai bát mì ra bàn.

Thi Yến Vi nhẹ giọng nói: “Thời tiết giá lạnh, không bằng ngồi xuống ăn bát mì nóng. Rau cải trắng và rau dền gai của hai người, ta sẽ mua hết.”

Vừa nói, nàng vừa lấy túi tiền từ tay Úc kim, rút ra hai lượng bạc đưa cho phụ nhân kia.

Phụ nhân nắm lấy bạc, chỉ thấy bàn tay nặng trĩu, tim đập thình thịch, vội vã lắc đầu từ chối: “Số rau này làm sao đáng giá đến vậy…”

Lời còn chưa dứt, Thi Yến Vi đã vỗ nhẹ lên mu bàn tay nàng, nhoẻn cười ý nhị: “Mấy loại rau này ta đều rất thích. Thân là nữ tử, sức khỏe không thể qua loa. Trời rét thế này, nương tử hãy cầm số bạc này đi mua vài món y phục ấm áp mà mặc.”

Phụ nhân nghe vậy, nước mắt rưng rưng cảm kích, toan quỳ xuống tạ ơn. Nhưng Thi Yến Vi liền xua tay cười nói: “Đây chỉ là tích đức hành thiện, nương tử không cần đa lễ. Hãy giữ số bạc này cẩn thận.”

Nói rồi, nàng tháo một đóa hoa lụa từ trên đầu Dương Quân, cài lên mái tóc tiểu cô nương đang đứng bên cạnh, nhẹ giọng hỏi cá viên có ngon không.

Đứa bé ngây thơ đưa tay chạm lên đóa hoa lụa, đôi mắt ánh lên niềm vui sướng, gật đầu thật mạnh rồi ngập ngừng khen Thi Yến Vi và Lý Lệnh Nghi giống tiên nữ trong tranh.

Thi Yến Vi không nhịn được cười, yêu thương xoa nhẹ đỉnh đầu cô bé. Nàng quay sang hỏi chủ quán cá viên có bán theo cân không.

Chủ quán nói rằng bán, Thi Yến Vi liền mua thêm hai cân, gói lại rồi tặng mẹ con họ, tất cả đều do nàng chi trả.

Cá viên đưa vào miệng, quả nhiên thơm ngon, vị tươi đậm đà. Thi Yến Vi nhân tiện mua thêm một ít, bảo chủ quán gói trong giấy vàng để đem về nhà.

Trên đường trở về, Úc Kim xách một giỏ nhỏ, bên trong chất đầy đồ ăn thức uống. Cả Lý Lệnh Nghi và Thi Yến Vi cũng không rảnh rỗi, thay phiên nhau xách đồ và bế Dương Quân.

Khi về đến nhà, cũng gần đến giờ Ngọ. Thi Yến Vi dặn Úc Kim ôm Dương Quân vào phòng sưởi ấm, còn nàng thì tự mình chuẩn bị bữa trưa.

Thẩm Kính đã sắp xếp bốn thị vệ võ công cao cường, đi theo bảo vệ các nàng. Hai người luôn theo sát Thi Yến Vi mỗi lần ra ngoài, còn hai người kia trông coi hậu viện, mọi việc được an bài chu đáo, không chút sơ suất.

Tại Biện Châu cách đó ngàn dặm, Giang Thịnh thấp thỏm không yên, nhiều ngày không chợp mắt.

Tống Hành ngự giá thân chinh, hội quân với Vệ Trạm tại Đường Châu, áp sát Trung Võ. Nếu chiếm được Hứa Châu, thì Tuyên Võ ắt sẽ gặp nguy.

Trình Cảnh thấy thế cuộc nguy cấp, bất chấp an nguy bản thân, quỳ ngoài điện cầu kiến Giang Thịnh.

Quân nước Triệu thế như chẻ tre. Đến lúc này, Giang Thịnh mới bình tĩnh lại đôi chút, không làm khó Trình Cảnh, mà ra lệnh mời ông tiến vào.

Vừa gặp Giang Thịnh, Trình Cảnh liền quỳ trên nền gạch lạnh băng, khẩn thiết thưa chuyện: “Lão thần khẩn cầu Thánh thượng triệu hồi Vũ An hầu trở lại Biện Châu. Hầu gia từng theo tiên đế chinh chiến khắp nơi, thắng nhiều hơn bại, là một tài năng hiếm có. Nếu ngài ấy thống lĩnh binh mã đến Trung Võ có lẽ sẽ xoay chuyển được cục diện nguy nan.”

Giang Thịnh từng cân nhắc việc triệu hồi Thẩm Kính An, nhưng hắn từng chèn ép y quá đà, sợ trong lòng y nảy sinh oán hận. Huống hồ, thân là quốc quân một nước, hắn cũng khó mà cúi mình, để hạ chỉ triệu người về nắm giữ ấn soái.

“Nếu Thánh thượng không chê, lão thần nguyện dùng chút hơi tàn, đích thân đến Giang Tây mời Võ An hầu hồi triều.”

Có người đã xây bậc thang cho hắn bước xuống, Giang Thịnh cũng không làm cao nữa, lập tức chuẩn lệnh. Nhưng xét đến tuổi tác và sức khỏe của Trình Cảnh, khó lòng chịu đựng được hành trình gấp gáp, hắn bèn hạ lệnh tám trăm dặm truyền chỉ khẩn cấp.

Thẩm Kính An tiếp chỉ hồi triều. Hôm y trở lại Biện Châu, Trình Cảnh đích thân đến cổng thành nghênh đón, còn Giang Thịnh tuy đến trễ, nhưng vẫn trả lại binh phù cho y.

Giang Thịnh không nói nhiều, chỉ bảo y hãy nghỉ ngơi trong phủ một hôm, hôm sau vào giờ Mão dẫn binh đến Trung Võ, chống lại đại quân Triệu quốc.

Mười ngày sau, chiến sự tại Hứa Châu trở nên căng thẳng. Thẩm Kính An dẫn quân đến cứu viện.

Đêm đông lạnh giá, Tống Hành khoác một chiếc áo choàng lông hạc, đứng lặng trước doanh trướng, chăm chú nhìn về phía thành Hứa Châu.

Thẩm Kính An đã đến, nếu có thể bắt sống y, liệu có tìm được tung tích Âm Nương?

Âm Nương là người từ bi lương thiện, như thần nữ mang trong mình lòng trắc ẩn với vạn vật. Nàng nhất định không đành lòng nhìn Thẩm Kính An chết trước mắt mình. Vì cứu tính mạng cữu phụ, nàng nhất định sẽ ở lại bên hắn.

Hắn muốn giam giữ Thẩm Kính An bên ngoài cung, chỉ cần Thẩm Kính An còn trong tay hắn một ngày, Âm Nương ắt sẽ ngoan ngoãn ở lại bên cạnh hắn, không dám nghĩ đến chuyện rời xa hắn nữa.

Ngày hôm sau, quân Triệu đến dưới thành khiêu chiến.

Thẩm Kính An bình chân như vại, suốt ba ngày liền đều không ra khỏi thành nghênh địch.

Quân Triệu định vây khốn quân Ngụy, nhưng cũng là giết địch một nghìn, tổn hại tám trăm. Gió đêm ngoài thành lạnh thấu xương, tất càng thêm khó nhịn.

Chờ đến khi quân Triệu vì lạnh mà sinh bệnh, sức chiến đấu ắt suy giảm.

Trình Diễm nhìn ra ý đồ của Thẩm Kính An, lòng dạ lo âu, vội tìm Tống Hành thương nghị.

Tống Hành nói: “Nhữ Châu cách Hứa Châu không quá trăm dặm, có thể vận than củi và chăn bông chống rét từ Nhữ Châu đến. Huống hồ, thủ thành Hứa Châu là Viên Chử và Thẩm Kính An xưa nay chẳng có giao tình sâu sắc, hai người đó chưa chắc đã đồng lòng. Sao không nghĩ cách kích động Viên Chử?”

Trình Diễm nghe xong, nhanh chóng điểm lại những chuyện liên quan đến Viên Chử, chậm rãi nói: “Viên Sở về già chỉ có một đứa con trai độc nhất, hiện tại đang làm quan tại huyện Mật, thuộc quản hạt Trịnh Châu. Nếu bắt được con trai ông ta, ắt sẽ ép được ông ta xuất thành nghênh chiến.”

Huyện Mật cách Hứa Châu chưa đầy hai trăm dặm, phi ngựa nhanh thì chỉ mất hai canh giờ.

Ánh mắt Tống Hành thoáng u ám, quyết định chỉ trong chớp mắt. Hắn khoác áo choàng, dẫn theo hai ngàn kỵ binh tinh nhuệ, men theo đường nhỏ, thẳng tiến đến huyện Mật ngay trong đêm.

Khi đến huyện Mật, đã qua giờ Tý. Trong thành, quân dân đều đã ngủ say. Tống Hành dẫn binh công thành, trời chưa sáng đã chiếm được huyện Mật. Hắn ra lệnh quân Triệu thu thập binh khí, chiến mã trong thành, sau đó đích thân bắt giữ Viên Dụ, con trai của Viên Chử.

Bình minh vừa lên, quân Triệu vẫn không đến khiêu chiến. Viên Chử không khỏi sinh nghi, đứng trên tường thành nhìn về phía quân doanh nước Triệu.

Đến trưa, bất chợt thấy một đội quân đông đảo từ rừng cây phi tới, khói bụi mịt mờ.

Tống Hành giao Viên Dụ cho tiền phong, đến dưới thành kêu gọi.

Viên Chử đứng trên cao, trông thấy rõ ràng kẻ bị trói chặt không ai khác ngoài con trai mình.

“Thằng nhãi Tống Hành kia, ngươi đừngkhinh người quá đáng!” Viên Chử thét lớn, không màng đến lời khuyên can của thuộc hạ, vội vã xuống thành, lên ngựa xuất thành nghênh chiến.

Trong doanh trướng, khi Thẩm Kính An nghe tin, lập tức ra ngoài, không nói lời nào đã tự mình đánh trống lệnh thu binh.

Con trai ở ngay trước mắt, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc, Viên Chử nào chịu nghe theo, chỉ dẫn theo thân tín liều chết xông pha.

Viên Chử không địch lại Vệ Trạm. Hai bên giao chiến không lâu, quân Viên Chử đã rơi vào thế yếu. Đội quân dưới tay Viên Chử không phải binh sĩ được Thẩm Kính An huấn luyện, thực lực kém xa quân Triệu. Chưa đầy hai khắc, thắng bại đã rõ.

Tống Hành dẫn binh truy kích, Viên Chử được thuộc hạ bảo vệ quay về thành. Trong khi đó, Thẩm Kính An chỉ huy vài trăm quân ngăn cản, Tống Hành một ngựa xông lên, nhắm thẳng vào Thẩm Kính An mà đến.

Trong lúc giao chiến, Thẩm Kính An nhận ra kiếm pháp của Tống Hành sắc bén nhưng không phải sát chiêu, rõ ràng không muốn lấy mạng y.

Nghĩ đến chắc là do tìm không thấy Nhị nương, muốn bắt sống y, hòng ép y khai ra tung tích của nàng ấy.

Qua mười chiêu, Tống Hành phát giác Thẩm Kính An quả nhiên võ nghệ bất phàm, có thể giao thủ với hắn nhiều chiêu mà vẫn giữ được thế cân bằng, đây là lần đầu tiên hắn gặp đối thủ như vậy.

Nhưng nếu so về thể lực và sức lực, đối phương rõ ràng vẫn kém hơn.

Tống Hành tăng thêm lực đạo vào đường kiếm. Thẩm Kính An khó lòng chống đỡ, hai tay nắm chặt trường thương trong tay, liều mạng đỡ đòn. Tống Hành không có ý đoạt mạng, lập tức nương tay, chuyển mũi kiếm đâm xuống chân đối phương.

Thẩm Kính An vội vã xoay ngựa tránh né, nhưng Tống Hành không chịu bỏ qua, thúc quân Triệu quốc truy sát không ngừng.

Quân Nguỵ kịp thời đóng cổng thành, cắt đứt đường tiến của quân Triệu.

Viên Chử tuy may mắn giữ được mạng, nhưng lại trọng thương, còn Thẩm Kính An cũng bị một kiếm của Tống Hành đâm trúng.

Trong lòng y càng cảm thấy bất an, dù hận Tống Hành đã làm nhục Nhị nương, càng hận hắn đoạt đi sinh mạng của không biết bao nhiêu tướng sĩ Nguỵ quốc, nhưng không thể phủ nhận rằng Tống Hành chính là bá chủ không thể bỏ qua trong thời loạn thế này, là người có khả năng lớn nhất để thống nhất thiên hạ trong tương lai.

Nếu Nhị nương muốn thoát khỏi ma trảo của hắn, e chỉ còn cách rời khỏi nơi này, lánh nạn ở hải ngoại.

Trận chiến lần này, quân Nguỵ rõ ràng rơi vào thế hạ phong, sĩ khí không khỏi suy sụp.

Tống Hành thừa thắng xông lên, liên tục tấn công Hứa Châu trong nhiều ngày. Cuối cùng, đến ngày thứ mười, thành Hứa Châu bị phá.

Khi ấy, tướng thủ Trịnh Châu vì nghe tin huyện Mật bị quân Triệu công phá chỉ trong một đêm, đành phải tăng cường cảnh giác, đồng thời cấp báo đến Biện Châu.

Mấy ngày trước, Giang Thịnh vừa nhận được tin tức từ Trịnh Châu, nay lại nghe chiến báo Hứa Châu thất thủ, trong lòng nóng như lửa đốt. Để bảo toàn binh lực, hắn buộc phải ra lệnh tám trăm dặm hỏa tốc, yêu cầu Quách Trừng lập tức rút quân về Biện Châu.

Tin tức Hứa Châu thất thủ lan truyền khắp dân gian, cả thành Biện Châu chìm trong bàng hoàng.

Thẩm Kính An dẫn quân rút về Tuyên Võ, chờ quân của Quách Trừng đến Bạc Châu, hai bên hội quân rồi cùng nhau trở về Lạc Dương.

Thành Tuyên Võ được trấn giữ bởi những tướng sĩ từng theo Giang Tiều chinh chiến khi xưa, không dễ công phá như thành Trung Võ. Tống Hành bày kế, giả vờ công thành ở biên giới Tuyên Võ suốt mười mấy ngày, rồi đột nhiên chuyển hướng, toàn lực đánh vào Trịnh Châu ở tây bắc.

Tướng thủ Trịnh Châu tuy đã có chuẩn bị từ trước, nhưng vẫn bị đánh úp đến không kịp trở tay. Chưa đầy nửa tháng, tình hình Trịnh Châu đã vô cùng nguy cấp. Trịnh Châu cách Biện Châu hơn trăm dặm, nếu Trịnh Châu thất thủ, quân Triệu có thể thẳng tiến về Biện Châu.

Trên Minh Đường, bá quan văn võ tranh luận không ngớt về việc có nên từ bỏ Biện Châu để lui xuống phía nam hay không.

Thẩm Kính An cau mày, đề nghị: “Ti hạ cùng Quách Nguyên soái mỗi người đều nắm trong tay hàng vạn binh lực, Tuyên Võ lại có thêm năm vạn quân, chưa hẳn không giữ được Biện Châu. Nếu giờ Thánh thượng rời thành xuôi nam, chẳng phải là dâng nửa nước Nguỵ cho quân Triệu sao?”

Chu Bành vặn mày, nhìn hắn chằm chằm, nói: “Nếu Vũ An hầu thật sự có thể chống lại quân Triệu, thì đã không để Hứa Châu thất thủ, khiến quân Triệu liên tiếp công phá thành trì của Ngụy quốc. Nay quốc khố hao hụt, lại có nước Sở ở Lĩnh Nam dòm ngó, nếu không bảo toàn binh lực và tài lực rồi nam hạ, e rằng không chỉ nửa nước Ngụy, mà cả Ngụy quốc sẽ không còn.”

Hoài Nam hầu tiếp lời: “Trịnh Châu lâm nguy, nếu Thánh thượng còn do dự không quyết, đợi đến khi quân Triệu công đến Biện Châu, sự an nguy của Thánh thượng và tông thất Ngụy quốc, ai có thể đảm bảo?”



Trên triều, tiếng tranh cãi dần lắng xuống. Ngoại trừ một số võ tướng và các văn thần im lặng không tỏ thái độ, phần lớn quan viên ủng hộ từ bỏ Biện Châu, lui về phía nam.

Giang Thịnh day trán, đưa ra quyết định: Đêm nay sẽ rời Biện Châu.

Thẩm Kính An không đành lòng bỏ mặc Ngụy quốc và quốc quân, nhưng cũng không thể trơ mắt nhìn Nhị nương rơi vào tay Tống Hành hoặc Giang Thịnh. Ngay lập tức, y viết một phong thư, giao cho tâm phúc cưỡi hãn huyết bảo mã của y ngày đêm không nghỉ chạy tới Hải Châu.

Người ấy nhận lệnh, lên ngựa lao đi, hoàn toàn không hay biết hành tung của mình đã bị lộ.

Bảy ngày sau, ở Hải Châu.

Năm mới gần kề, ngày ngắn đêm dài. Trời vừa mờ sáng, Thi Yến Vi ra mái hiên thắp đèn lồng, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng gõ dồn dập.

Dương Quân trèo lên ghế, ghé mắt qua ô cửa sổ nhìn ánh sáng từ chiếc đèn lồng, há miệng nhỏ giọng giục nàng mau vào nhà sưởi ấm, kẻo bên ngoài lạnh lắm.

Lý Lệnh Nghi lo bé té ngã, vội đặt cây phất trần trong tay xuống, bế bé xuống đất.

Ngoài cửa vang lên giọng nói trong trẻo của Thi Yến Vi: “Trân Trân ngoan nào, bên ngoài có người gõ cửa, a nương ra xem thử.”

Nói rồi, nàng bước xuống bậc đá, tiến về cổng lớn, cao giọng hỏi bên ngoài là ai.

Ngoài cửa không có ai hồi đáp. Nàng hơi nghi hoặc, lại hỏi một lần nữa nhưng vẫn không có tiếng trả lời.

Có lẽ người gõ cửa đã nhầm chỗ, nhận ra sai lầm mà rời đi. Nghĩ vậy, nàng không để tâm, quay người trở lại phòng.

Dương Quân vừa thấy nàng bước vào, chớp đôi mắt to tròn sáng rỡ, ngọt ngào hỏi: “A nương, ai gõ cửa vậy ạ?”

Thi Yến Vi bị vẻ đáng yêu nghiêm túc của bé làm rung động, mỉm cười đáp: “Không có ai cả, chắc là nhầm nhà rồi.”

“Làm sao có người lại không nhận ra nhà mình cơ chứ?” Dương Quân vẫn thắc mắc, dang đôi tay nhỏ xíu đòi nàng bế.

Lý Lệnh Nghi cười theo, bế Dương Quân đặt vào lòng Thi Yến Vi, giọng dịu dàng bảo: “Trân Trân chỉ cần thấy cô là dính chặt, đủ biết a nương như cô là người bé yêu quý nhất.”

Thi Yến Vi ôm Dương Quân, ngồi xuống ghế bành, lấy ra một con hổ vải cho bé chơi.

Dương Quân nhìn con hổ có vẻ hung dữ, liền nói: “A nương có biết làm thỏ nhỏ không? Trân Trân thích thỏ cơ.”

Con hổ vải ấy vốn là thứ nàng mua ở chợ với giá một quan bạc từ tay một bà lão, không phải do nàng tự may. Bị câu hỏi bất ngờ làm khó, hồi lâu nàng mới đáp là đợi qua Nguyên Nhật, thời tiết ấm lên, tay không bị cóng nữa, lúc đó a nương sẽ thử may sau.

Dương Quân liền đưa ngón út nhỏ nhắn, đòi cùng a nương ngoắc tay.

Đây là thói quen mà cữu ông của bé đã dạy.

Khi tin tức Thánh thượng mang theo hậu phi, tông thất và triều thần xuôi nam lánh nạn truyền đến Hải Châu, đã là ngày hai mươi tám tháng Chạp.

Trong thành Hải Châu, bá tánh vẫn chìm trong không khí náo nức đón ngày đầu năm mới, chỉ xem chuyện này như đề tài lúc trà dư tửu hậu.

Tựa hồ việc triều đại đổi thay, giang sơn đổi chủ chẳng liên quan gì đến họ. Chỉ cần chiến sự không lan đến Hải Châu thì không việc gì phải lo lắng.

Ngụy quốc bại trận, Thánh thượng xuôi nam lánh nạn. A cữu vẫn chưa gửi tin tức, không biết hiện giờ người có được bình an không?

Nàng có nên rời Hải Châu, lên thuyền theo thương đội ngoại quốc vượt biển không?

Lúc Thi Yến Vi đang hoang mang suy nghĩ, thì một thị vệ bỗng gõ cửa phòng nàng.

“Nương tử.” Thị vệ cung kính gọi một tiếng, đợi nghe thấy tiếng nàng đáp lời mới nói tiếp: “Tuy gia chủ không gửi thư đến, nhưng mỗ không dám quên lệnh của gia chủ. Nay Ngụy quốc thất bại, mỗ cùng đồng liêu sẽ hộ tống nương tử và nữ quan rời Hải Châu.”

Thi Yến Vi im lặng một lát, cuối cùng cắn răng gật đầu: “Được, ta sẽ thu dọn đồ đạc ngay trong đêm. Sáng mai, chúng ta sẽ đến bến cảng tìm thuyền vượt biển.”

Thị vệ đáp: “Mỗ đã rõ, nương tử cũng nên nghỉ ngơi sớm.”

Thi Yến Vi đứng đó, trong lòng nôn nao khó hiểu. Nàng lo lắng cho ngày mai, chẳng biết mọi việc có thể thuận lợi hay không. Không biết a cữu có bình an hay không, có cùng Thánh thượng xuôi nam lánh nạn hay không.

Nửa đêm ấy, Dương Quân dường như cảm nhận được sự bất thường của nàng, liền kéo tay áo nàng, dụi vào lòng, ngẩng đầu lên nhìn: “A nương, người không vui sao? Hôm nay Trân Trân… Trân Trân có phải không ngoan không?”

Thi Yến Vi cúi xuống bế cô bé, miễn cưỡng nở nụ cười, phủ nhận: “Không phải a nương không vui. Ngày mai a nương và a di sẽ dẫn Trân Trân đi thuyền lớn đến một nơi mà con chưa từng đến. Trên thuyền lớn có thể thấy biển xanh, hải âu trắng, có lẽ còn thấy cả cá heo nữa.”

Úc Kim cũng không hiểu “hải âu” hay “cá heo” mà nàng vừa nhắc tới là gì. Chỉ biết đôi khi Thi Yến Vi và công chúa Tuyên Thành sẽ thốt ra những lời mà nàng cùng Vọng Tình chẳng tài nào hiểu nổi.

Nghe vậy, Dương Quân tròn mắt, không giấu nổi vẻ tò mò: “Hải âu là gì vậy ạ?”

“Ừm, hải âu là một loài chim có bộ lông toàn màu trắng, thường bay lượn trên mặt biển.”

“Vậy còn cá heo? Cá heo là gì ạ?”

“Cá heo là loài cá có bụng trắng, thân xanh, trên lưng có một chiếc vây cong cong. Chúng thường nhảy lên khỏi mặt nước, trông rất linh hoạt.”

Nói đến đây, nàng chợt nhớ ra, chữ “động vật có vú” e rằng Dương Quân không hiểu, bèn đơn giản gọi đó là “cá”.

Đêm ấy, Dương Quân quấn lấy nàng, hỏi không ngừng về biển cả, cho đến khi cả hai đều thấm mệt mà thiếp đi.

Sáng hôm sau, xe ngựa đã chuẩn bị xong xuôi, thị vệ đến thỉnh các nàng lên đường.

Thi Yến Vi gật đầu đáp ứng, nắm tay nhỏ của Dương Quân bước ra cửa. Chưa kịp bước xuống bậc thềm, từ hậu viện vọng lại tiếng binh khí chạm nhau. Còn chưa hiểu sự tình, đã thấy một nhóm người quỳ rạp trước mặt mẹ con nàng.

“Ti hạ phụng mệnh Thánh thượng, đặc biệt đến bảo hộ Hoàng hậu điện hạ và công chúa được bình an.”

Hoàng hậu? Công chúa? Nàng đồng ý làm hoàng hậu của hắn khi nào chứ? Trân Trân lại càng không liên quan gì đến hắn!

Tên điên này! Vì sao đã gần bốn năm qua, hắn vẫn không chịu buông tha nàng?

Năm xưa hắn từng thề sẽ quên nàng. Nhưng nghĩ kỹ mà xem, có khi nào hắn chịu giữ lời với nàng đâu?

Lần này, nàng không nổi giận, cũng không run sợ như những lần trước. Chỉ còn lại cảm giác mỏi mệt và bất lực sâu sắc.

Đấu không lại, thoát không xong. Dù nàng có cố gắng thế nào, hắn vẫn như miếng cao dán dai dẳng, bám chặt lấy nàng, không cách nào gỡ ra được.

Nàng cố lấy lại bình tĩnh, hỏi: “Hắn đang ở đâu?”

“Duyện Châu. Chờ công phá được Thái Ninh, người sẽ tự mình đến gặp điện hạ cùng công chúa.”

Duyện Châu. Thi Yến Vi cẩn thận nhớ lại tấm bản đồ nàng đã xem không dưới ngàn lần, ước tính từ đây đến đó chừng năm trăm dặm.

Hải Châu là trấn quản hạt của Thái Ninh, binh lực chủ yếu tập trung ở Duyện Châu. Một khi hắn chiếm được Duyện Châu, toàn bộ Thái Ninh sẽ quy phục dưới chân Triệu quốc, trở thành quốc thổ của hắn.

Thi Yến Vi khẽ nhắm mắt, hạ giọng ra lệnh: “Bảo bọn họ dừng tay, không được làm hại bất kỳ ai bên cạnh ta.”

Người nọ cung kính ôm quyền nói: “Ti hạ tuân mệnh.”

Từ hôm ấy, phủ của Thi Yến Vi bị vây kín bởi binh sĩ Triệu quốc. Cả dịp Nguyên Nhật đến Thượng Nguyên cũng trôi qua trong cảnh tẻ nhạt vô vị.

Ngoài phòng tắm, phòng thay đồ và phòng ngủ, bọn họ kiên quyết không để nàng ra khỏi tầm mắt. Dù nàng muốn ra chợ cũng bị một đám thị vệ mặt mày nghiêm nghị theo sát, khiến người dân phải chủ động nhường đường. Điều này khiến nàng cảm thấy mình đang làm phiền đến người khác, nên chẳng mấy khi ra ngoài nữa. Mỗi ngày, nàng chỉ sai người mua đồ ít mang vào.

Qua Thượng Nguyên, tiết trời ấm dần, sắp đến ngày Hoa Triêu.

Một buổi chiều nắng đẹp, Tống Hành khoác chiến bào đến gặp nàng.

Khác với hai lần trước, nàng toàn bị áp giải để về diện kiến hắn.

Lần này, là hắn tìm đến nàng.

“Âm Nương.” Tống Hành không màng đến thị vệ và binh sĩ đứng xung quanh, sự vui sướng và kích động trong lòng không thể che giấu, cất tiếng gọi nàng.

Tiếng gọi ấy mang theo nỗi nhớ của hơn một ngàn ngày đêm, tình ý và yêu thương dành cho nàng đều hiện rõ trong ánh mắt, không chút che đậy.

Trình Diễm biết ý, liền dẫn mọi người lui ra xa.

Tống Hành đứng yên, lặng lẽ ngắm nữ lang đang lặng thinh trước mắt. Một lúc lâu sau, ánh mắt hắn mới chuyển sang bé gái chừng ba tuổi bên cạnh nàng.

Sợ cô bé thấy lạ mặt, hắn không dám tùy tiện đến gần, chỉ nghiêm cẩn đứng trước mặt hai mẹ con họ.

“Con bé tên Trân Trân, đúng không? Đây là con của trẫm và nàng.”

Giọng nói của Tống Hành nhẹ nhàng đến lạ, như một người cha đầy yêu thương, sợ rằng âm điệu hơi lớn sẽ khiến nàng hoặc cô bé giật mình.

Thi Yến Vi lãnh đạm liếc nhìn hắn, giọng nói hờ hững: “Trân Trân không phải là con của người.”
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 77: A gia*


*<i>Vì xưng hô cha – mẹ trong bản gốc là a gia, a nương nên mình quyết định giữ nguyên mọi người nhé.</i>

Lời vừa dứt, nụ cười trên môi Tống Hành như đông cứng lại, niềm vui trong lòng như bị một tảng đá lớn đè nặng, hơi thở cũng trở nên khó khăn

Ánh mắt hắn rơi vào khuôn mặt hồng hào phúng phính của Dương Quân, cẩn thận quan sát từng đường nét. Sau hồi lâu suy nghĩ, lòng hắn dậy lên nỗi nghi hoặc: Nếu Trân Trân không phải con hắn, thì là con ai?

Âm Nương của hắn luôn thanh cao thoát tục, đâu phải là người sẽ tùy tiện tìm một kẻ lạ sinh con.

Nghĩ đến đây, Tống Hành như trút được gánh nặng, thần sắc cũng dịu đi một chút. Hắn tiến lên hai bước, lại gần hai mẹ con, càng nhìn càng thấy đôi mắt phượng đặc trưng, chẳng khác nào được khắc ra từ cùng một khuôn với hắn.

Hắn kiềm chế không để ôm chầm lấy cô bé, miệng lẩm bẩm với giọng điệu gần như cầu xin: “Âm Nương đừng nói những lời nóng giận, không phải con của trẫm, vậy đó là con ai?”

“Âm Nương đừng nói là Trần Nhượng. Trẫm đã sai người điều tra bấy lâu nay, trên đời này có rất nhiều người tên là Trần Nhượng, nhưng làm gì có ai từng ở bên Âm Nương. Có lẽ hắn chỉ là người mà Âm Nương tự tưởng tượng ra thôi. Ta cũng đã hỏi qua thái y, nếu có chấn thương đầu óc hoặc chịu kích động quá lớn, có thể sinh ra chứng bệnh trầm cảm. Những điều này trong dân gian và y thư đều có ghi chép.”

Tưởng tượng ư? Nàng thật sự mong những ngày tháng bên hắn đều là ảo tưởng. Nhưng trớ trêu thay, hắn lại đứng ngay trước mặt nàng, những nỗi đau, nỗi buồn, và những ký ức không thể nào quên lại lại như đèn kéo quân, ồ ạt hiện lên.Nếu không phải vì ba năm nay nàng kiên trì tụng kinh tĩnh tâm, có lẽ lúc này nàng không thể bình tĩnh đối diện hắn, mà đã phẫn uất đến phát điên.

“Nghĩ thế nào tùy người, nhưng người đó là thật, không phải do ta tưởng tượng. Còn Trân Trân… là đứa trẻ mà ta và Lệnh Nghi nhặt được ngoài đạo quán, không liên quan gì đến người.”

Giọng Thi Yến Vi rất bình tĩnh, bình tĩnh đến mức không có chút cảm xúc nào, thật sự không muốn tốn thêm chút tinh thần hay khí lực vào chuyện của hắn.

Dáng vẻ của nàng không giống như đang nói lời giận dỗi, cũng không giống như đang lừa dối hắn. Ba năm qua, Tống Hành đã hiểu ra, dù cho trong lòng nàng có nghĩ đến ai, yêu ai, thì cả đời này, hắn vẫn sẽ gắn bó với nàng.

Đứa bé mong đợi từ lâu lại không phải là con của hai người, lẽ ra hắn phải cảm thấy thất vọng, nhưng giờ nhìn nàng, trong lòng hắn chỉ thấy sự an tâm, nhẹ nhõm.

Dù là đứa trẻ nhặt về, cũng còn tốt hơn là con của người khác, miễn là Âm Nương yêu thương đứa trẻ này, hắn cũng sẽ yêu quý nó.

Tống Hành đưa tay xoa gương mặt nhỏ nhắn của Dương Quân, giọng nói dịu dàng: “Nếu không phải con của Âm Nương và trẫm cũng không sao, nhìn nàng yêu quý đứa trẻ này, chắc hẳn trong hai năm qua nó đã mang lại cho nàng rất nhiều niềm vui. Nàng nuôi dạy nó lớn lên như vậy, sau này khi chúng ta có con, nàng cũng có kinh nghiệm, chăm sóc con dễ dàng hơn.”

Bàn tay hắn không mềm mại như của Thi Yến Vi hay Lý Lệnh Nghi, đầy vết chai sạn, lướt qua khiến Dương Quân cảm thấy không thoải mái. Hơn nữa hắn đã lâu không tắm rửa, quai hàm đầy râu chưa cạo khiến bé sợ hãi mà khóc ầm lên.

Dương Quân rụt cổ lại, quay mặt đi, đôi mắt ngập nước nhìn Thi Yến Vi, ngập ngừng nói: “A nương, a nương, người này lạ lắm, Trân Trân sợ, sợ lắm.”

Tống Hành bây giờ mới nhận ra, hôm nay bộ dạng của hắn thật sự không đẹp, không dám tiếp tục chạm vào Dương Quân nữa, chỉ nhẹ nhàng dỗ dành: “Trân Trân ngoan, a gia không phải người lạ. Trên đời này trừ a nương ra, a gia là người yêu Trân Trân nhất. Khắp thiên hạ này, ai cũng có cha và mẹ, Từ nay về sau, không chỉ a nương ở bên Trân Trân, mà a gia cũng sẽ ở bên Trân Trân. A gia sẽ khiến Trân Trân trở thành tiểu nữ lang hạnh phúc nhất trên đời. Nếu Trân Trân muốn lấy mặt trăng trên trời, a gia cũng sẽ tìm cách hái cho Trân Trân.”

Thi Yến Vi chưa từng thấy Tống Hành dịu dàng với trẻ con như vậy, trong lòng chỉ thấy hắn có chút lạ lẫm, xem ra hắn đã mê muội đứa trẻ này, nếu thật sự yêu thích, sao không lập hậu, nạp phi sinh thêm một đám con cái, sao lại tự tìm đến đây, lôi kéo một đứa trẻ không hề có quan hệ huyết thống với mình.

Nghe vậy, Dương Quân ngừng khóc, nhớ lại lời hắn vừa nói: Mỗi đứa trẻ đều có cha và mẹ, Trân Trân cũng có cha, cha bé muốn hái trăng cho bé.

Đôi mắt đẫm lệ đầy tò mò, bé ngước lên hỏi: “Người hái được mặt trăng thật sao? A nương nói, mặt trăng rất lớn, rất lớn, ở rất cao, rất cao trên trời…”

Thi Yến Vi không ngờ Trân Trân lại dễ dàng tin vào những lời hắn nói, vội vàng lên tiếng: “Ngoan, Trân Trân, hắn không phải a gia của con, hắn cũng không thể hái được mặt trăng, hắn…”

Tống Hành vội vàng ngắt lời, không để cho những lời của Thi Yến Vi phá hủy chút ít ấn tượng tốt đẹp hắn vừa gây dựng trong lòng Trân Trân, hắn sốt sắng nói: “Trân Trân, đừng nghe a nương nói bậy, ta chính là a gia của con, nếu ta không phải a gia của con, sao lại có thể vào nhà a nương? Vừa rồi a nương cũng không nói chuyện với a gia.”

“Nhà mà Trân Trân và a nương đang ở tất nhiên là tốt, nhưng nhà của a gia còn tốt hơn nhiều. Có nhiều phòng đẹp, bên ngoài trồng đủ loại hoa, còn có rất nhiều món ăn ngon và đồ chơi, ngoài ra còn có nhiều người chơi cùng Trân Trân. À, Trân Trân đã chơi trốn tìm chưa?”

Dương Quân chăm chú lắng nghe, gật đầu, nghiêm túc nói: “A nương nói trò trốn tìm còn gọi là chơi mèo bắt chuột. Chỉ là sân ở đây hơi nhỏ, Trân Trân đã trốn qua hết rồi.”

Tống Hành càng lúc càng thích bé, thầm nghĩ chỉ cần dỗ bé vui vẻ thì Âm Nương sẽ không lạnh nhạt với hắn nữa.

Nghĩ đến đây, liền nhếch môi cười khẽ: “Cái này không khó. Nhà a gia có một khu vườn cực kỳ, cực kỳ rộng. Trân Trân chơi cả ngày cũng không hết, chỉ cần Trân Trân và a nương theo a gia về, a gia sẽ chơi trốn tìm với con, có được không?”

Dương Quân đang trong giai đoạn hiếu động, không suy nghĩ nhiều, liền đồng ý ngay lập tức: “Được ạ, con và a nương sẽ về cùng a gia.”

Thi Yến Vi thật sự mệt mỏi, không thèm để ý đến những lời hoa ngôn xảo ngữ của Tống Hành, chỉ ôm Dương Quân vào nhà, vừa đi vừa nhấn mạnh: “Đó không phải a gia của con.”

Dương Quân liếc nhìn người lạ đi theo phía sau, nhất thời không biết nên tin ai: “Đó không phải a gia của Trân Trân, vậy a gia của Trân Trân đi đâu rồi?”

“Hắn…” Thi Yến Vi nhất thời không nghĩ ra nên trả lời thế nào, không khỏi có chút lưỡng lự. Nhưng Tống Hành lại không bỏ lỡ cơ hội, ngay lập tức nhận thân: “Ta là a gia của Trân Trân. Trân Trân đừng nghe a nương nói bậy. Hồi trước a gia xấu tính làm a nương con tức giận, nên nàng mới mang theo con rời khỏi a gia. A gia tìm hai người đã lâu lắm rồi.”

Dương Quân còn nhỏ, không hiểu rõ hết lời hắn nói, nhưng riêng câu “Ta là a gia của Trân Trân” lại được bé nhớ kỹ trong lòng.

Câu “chọc a nương tức giận”, bé cũng hiểu được, liền quay sang nhìn Thi Yến Vi, tò mò hỏi: “A gia làm gì mà a nương lại giận thế ạ?”

Tống Hành nghe thấy trong miệng Dương Quân thốt lên hai chữ “a gia”, lòng hắn vui như nở hoa, ánh mắt chăm chú nhìn Thi Yến Vi, đợi nàng thừa nhận thân phận của hắn.

Thế nhưng, điều khiến hắn thất vọng là Thi Yến Vi chẳng buồn đáp lời Dương Quân, mà lần nữa không chút nể nang phủ nhận hết thảy: “A nương nói rồi, hắn không phải là a gia của con.”

A nương nói đó không phải là a gia của mình, lại chẳng nói rõ a gia rốt cuộc đi đâu. Chắc chắn là người đã làm a nương tức giận, a nương vẫn chưa nguôi giận nên mới nói như vậy.

Dương Quân ngẫm nghĩ trong lòng, tự khẳng định thân phận của hắn, nhưng vì đây là lần đầu tiên gặp mặt, nên không dám thân cận. Bé chẳng buồn nhìn hắn, chứ đừng nói chi là để hắn bế mình.

Tống Hành tuy không được nàng công nhận, nhưng chẳng vì thế mà nản lòng. Hắn tin tưởng rằng, một khi trở về Lạc Dương, nàng thành hoàng hậu độc nhất vô nhị của hắn, Trân Trân trở thành công chúa cao quý, sớm muộn gì nàng cũng sẽ phải chấp nhận.

Căn nhà này thực sự quá nhỏ, không tiện cho hắn hành sự.

Tống Hành đích thân đi đến phòng bên, gọi tỳ nữ thân cận của nàng đến.

Đây là lần đầu tiên Úc Kim nhìn thấy Tống Hành, chỉ cảm thấy hắn cao lớn như núi, từng cử chỉ đều toát lên vẻ uy nghiêm, áp lực khiến người khác khó mà thở nổi. So với nàng, nương tử chỉ cao hơn một chút, chắc cũng cảm thấy tương tự.

“Ngươi bế Trân Trân đi chơi. Trẫm cùng Âm Nương ra ngoài một lát, sẽ về sau.”

Tống Hành nói câu này vô cùng tự nhiên, như thể bọn họ thực sự là một gia đình ba người.

Thi Yến Vi không muốn đi cùng hắn, nàng chỉ muốn ở bên Trân Trân và Lý Lệnh Nghi. Vì vậy, nàng không chịu giao Trân Trân cho Úc Kim.

Thấy nàng như vậy, Tống Hành bước đến, cúi người thì thầm vào tai nàng: “Trân Trân còn nhỏ, tỳ nữ của nàng còn chưa xuất giá, trong phòng bên lại có một nữ quan. Nàng muốn để bọn họ nghe thấy hai ta yến hảo?”

Tên điên toàn những suy nghĩ dâm loạn này.

Rơi vào tay hắn rồi, sợ rằng cả đời cũng khó lòng thoát được. Nàng lại có Trân Trân, Lệnh Nghi, và cả a cữu, không thể không vì bọn họ mà nhẫn nhịn.

Dù sao cũng chỉ là nằm dưới thân hắn, cứ xem mình như vật chết vô tri. Thi Yến Vi tự an ủi mình, bất đắc dĩ thỏa hiệp: “Ta vừa hay có chuyện muốn nói riêng với người.”

Dứt lời, nàng giao Dương Quân cho Úc Kim chăm sóc, vuốt mái tóc mềm mại của bé, gượng cười: “A nương có việc phải ra ngoài một chút. Trân Trân ở đây chơi với Úc Kim và dì Lệnh Nghi có được không?”

Không hiểu sao, trong lòng Dương Quân lại cảm thấy a nương sẽ đi cùng a gia. Bé rất hiểu chuyện, gật gật đầu: “Được ạ, a nương, a gia phải về nhanh đấy nhé.”

Úc Kim bế Dương Quân, tim đập thình thịch. Trân Trân vốn là đứa trẻ nương tử nhặt được, từ khi nào lại trở thành con gái của hoàng đế Triệu quốc?

Hoàng đế Triệu quốc xem ra rất thích Trân Trân. Nghĩ kỹ lại, Trân Trân đáng yêu như vậy, ai mà không thích kia chứ?

Thi Yến Vi dặn dò Úc Kim vài câu, đứng dậy khỏi ghế gỗ. Chưa kịp bước ra ngoài, Tống Hành đã nhấc bổng nàng lên.

“Người làm cái gì vậy?” Thi Yến Vi giật mình kêu lên.

Tống Hành cười vô lại, không biết xấu hổ mà đáp: “Trẫm bế hoàng hậu của mình, có gì không ổn?”

Úc Kim thấy hắn đối với cư xử thân mật nương tử, đã vậy còn nói những lời kia, mặt mũi đỏ bừng, vội ôm Dương Quân quay người ra ngoài.

Khi Tống Hành bước qua cửa, Thi Yến Vi vẫn loáng thoáng nghe tiếng Dương Quân hỏi Úc Kim: “Hoàng hậu là gì vậy ạ?”

Nhưng câu trả lời của Úc Kim, nàng không nghe thấy.

Thi Yến Vi nhíu mày, nghĩ xem sau này phải giải thích thế nào về mối quan hệ giữa nàng và Tống Hành cho Trân Trân.

“Âm Nương đang nghĩ gì thế?” Tống Hành nhận ra nàng có tâm sự, cúi xuống nhìn, ân cần hỏi.

Thi Yến Vi lắc đầu, lạnh lùng đáp: “Không có gì.”

Bên ngoài, xe ngựa đã được chuẩn bị sẵn. Tống Hành cứ thế, bế nàng lên xe trước ánh mắt trợn trừng của đám người xung quanh.

Bánh xe bắt đầu lăn trên đường lát đá xanh, phát ra những âm thanh lộc cộc.

Tống Hành vẫn không buông nàng ra, cứ thế ôm trong lòng như thể nâng niu bảo vật, không chút ngượng ngùng nói: “Âm Nương không còn nhẹ như lúc rời cung nữa, chắc hẳn đã tròn trịa hơn. Lát nữa, trẫm phải nhìn kỹ mới được.”

Lời hắn nói tuy không quá trắng trợn, nhưng cũng đủ khiến người khác đỏ mặt tía tai. Thi Yến Vi chẳng muốn đọ tài khua môi múa mép với hắn, chỉ thầm niệm vài câu kinh tĩnh tâm trong lòng, cố giữ bình tĩnh.

Chừng hai khắc sau, xe ngựa dừng lại. Tống Hành bế nàng xuống, trước mặt là tòa phủ đệ, vốn là nơi ở của Tiết độ sứ Thái Ninh vừa bị kê biên tài sản.

Tống Hành ôm nàng bước xuống xe, được người dẫn đường vào gian thượng phòng đã được chuẩn bị sẵn. Trên đường, hắn chủ động kể về tình hình hiện tại: “Ta còn nhiều việc phải xử lý ở Hải Châu, chắc sẽ lưu lại đây vài ngày. Tướng thủ thành đã hàng Triệu, nhưng ta và Vệ Trạm vẫn phải xuôi nam, đánh dẹp Hoài Nam. Ngụy quốc có lẽ chỉ còn đủ sức co cụm ở phía nam Trường Giang, kéo dài hơi tàn.”

Nghe hắn nhắc đến nước Ngụy, Thi Yến Vi lập tức nghĩ tới Thẩm Kính An, vội vàng hỏi: “A cữu của ta vẫn ổn chứ?”

Tống Hành vừa đặt nàng lên chiếc giường gấm mềm mại, vừa cởi bộ khôi giáp trên người, để lộ ra thường phục bên trong. Hắn cúi người, tấm thân cao lớn tạo thành một cái bóng khổng lồ, che kín ánh sáng.

Tống Hành tháo giày cho nàng, tiến về phía cuối giường, ánh mắt lướt qua chiếc váy tay lửng nàng đang mặc. Ánh mắt hắn lướt từ trên xuống, rồi vén nhẹ tà váy nhạt màu lên, giọng đầy ẩn ý: “Âm Nương ngoan, nếu muốn biết tin tức của a cữu, thì thưởng ta ít ngon ngọt nào.”

Thi Yến Vi mím chặt môi, giả vờ như không hiểu lời hắn nói, hoàn toàn không để ý đến hắn.

Y phục chỉ còn lại một mớ hỗn độn, Tống Hành dồn hết sức kiềm chế, cúi sát xuống người nữ lang mà hắn ngày đêm mong nhớ, áp môi hôn lên, nhẹ nhàng ve vuốt, như muốn làm tan đi giá lạnh.

Bên tai nàng vang lên tiếng nước róc rách, tựa như có người đang uống dòng suối ngọt mát từ một nguồn nước trong lành.

Thi Yến Vi nhắm mắt, không muốn nhìn thấy búi tóc và bờ vai của hắn, chỉ nắm chặt chiếc gối mềm dưới đầu mình.

Hắn dốc sức làm nàng vui lòng, hoàn toàn không còn vẻ kiêu ngạo ngang tàng khi ở Thái Nguyên.

Ý thức thoáng chốc trở nên trống rỗng, thân thể mềm mại vô lực.

Tống Hành ngẩng đầu nhìn nàng, vẫn giữ tư thế quỳ, đôi môi mỏng phủ ánh sáng lấp lánh.

Nếu không phải chính mắt nhìn thấy nhiều lần, nàng thật khó mà tưởng tượng được hắn cũng có một mặt thế này.

“Ngọt ngào mà Âm Nương trao, ta rất thích.” Tống Hành vừa cười nói, vừa vươn tay tháo chiếc đai vàng trên eo, đáp lại câu hỏi của nàng khi nãy: “A cữu của nàng mọi thứ đều ổn, giờ hẳn đã cùng Giang Thịnh vượt sông. Lúc ở Hứa Châu, ta nể tình nàng nên đã tha cho y một mạng.”

Thi Yến Vi thực sự không chịu nổi khi hắn cứ áp sát lại gần, liền không khách khí mà đập vào cánh tay hắn, ánh mắt đầy vẻ chán ghét nhìn hắn ra lệnh: “Mau đi tắm đi!”

Tống Hành lúc này gấp gáp như kiến bò trên chảo nóng, tựa như bị trăm ngàn loại côn trùng gặm nhấm, trong lòng sốt ruột, trên người cũng khó chịu không kém. Nhưng khi thấy nàng kiên quyết không chịu nhượng bộ, hắn đành ngoan ngoãn xuống giường, xỏ giày, hối hả gọi người chuẩn bị nước lạnh đưa đến phòng tắm.

Rửa sạch thân mình, cạo bỏ râu ria, hắn vội vàng quay lại phòng, bước chân như gió cuốn.

Thi Yến Vi nằm trên giường, trong lòng đang nghĩ ngợi chuyện gì đó. Mùa xuân dễ khiến người ta buồn ngủ, không lâu sau, nàng bắt đầu cảm thấy mơ màng. Mí mắt cứ chực sụp xuống, thì Tống Hành đã hấp tấp trèo lên giường, bắt đầu lần mò trên người nàng.

Chẳng mấy chốc, từng lớp y phục rơi rụng xuống đất, chồng chất lộn xộn.

Động tác của hắn rất nhẹ nhàng, hơi thở của Thi Yến Vi vẫn đều đặn, ánh mắt rơi vào đôi mắt phượng của hắn. Nàng cất lời, giọng điềm tĩnh: “Tống Hành, người thực sự không thể buông tha cho ta sao?”

Trán Tống Hành đẫm mồ hôi, còn chưa kịp lau khô.

Thi Yến Vi ngẩng cao cằm, cào nhẹ lên người hắn.

Những giọt mồ hôi lăn dài từ trán, rơi xuống cần cổ trắng ngần của nàng, hòa thành một vệt nước.

Tống Hành chấp nhất mà kiên định nói: “Không thể. Dù nàng có muốn hay không, nàng cũng chỉ có thể ở bên ta. Trừ khi ta chết, cả đời này không bao giờ buông tay nàng. Chỉ cần Âm Nương đồng ý ở lại bên ta, dù là mười điều kiện, trăm điều kiện, chỉ cần ta làm được, tuyệt đối sẽ không từ chối.”

Nàng bị hắn ép buộc đến mức hai hàng lệ nóng chảy dài. Cố gắng hít thở, phải qua vài chục nhịp thở nàng mới dễ chịu hơn đôi chút.

Phần bụng nhỏ bé không chưa nổi hắn. Vì hắn quá lớn, quá dọa người.

Tống Hành có phần hối hận, ánh mắt dịu xuống, không nỡ nhìn nàng đau đớn. Hắn đổi tư thế, để nàng nằm trên người mình, bàn tay kiên nhẫn vuốt dọc sống lưng, khẽ khàng an ủi.

Một lát sau, Thi Yến Vi mới quen dần, nghẹn ngào đưa ra yêu cầu: “Ta muốn người hứa… không được tổn hại bất kỳ ai bên cạnh ta.”

Tống Hành nghe ra ý nàng đồng ý ở lại, không chút do dự mà gật đầu đáp: “Được, ta hứa với nàng. Không những không tổn hại họ, mà còn ban cho họ vinh hoa phú quý. Ngay cả cậu của nàng, chỉ cần y quy thuận nước Triệu, trẫm sẽ phong y làm quốc công.”

“Người muốn ta làm hoàng hậu của người, thì không được nạp phi. Nếu người có ý ấy, hãy để ta và Trân Trân rời đi.”

Tống Hành nghe vậy, lập tức kích động, hỏi một đằng, trả lời một nẻo, bật dậy thề: “Nếu ta có ý đó, thì sẽ thân bại danh liệt, chết không toàn thây, vĩnh viễn không được siêu thoát.”

Thi Yến Vi nghe hắn thề thốt, không hề cảm động, chỉ lạnh lùng trừng mắt nhìn, ánh mắt như đang hỏi hắn có đồng ý không.

Tống Hành sợ nàng nổi giận, không dám nói thêm, chỉ gật đầu thật mạnh: “Ta đồng ý. Còn Trân Trân, ta sẽ phong con bé làm công chúa, thương yêu che chở như con ruột.”

Hắn đáp xong, vẫn không quên dùng ánh mắt ám hiệu nàng tiếp tục đưa ra yêu cầu.

“Nếu ta là hoàng hậu, lục cục hai mươi bốn ty trong hậu cung đều phải do ta chưởng quản. Dù là người, cũng không được can thiệp.”

Tống Hành lại gật đầu, ôm nàng chặt hơn, giọng đùa cợt: “Được, chuyện hậu cung ta không hỏi tới. Còn chuyện triều chính, nếu Âm Nương muốn can dự, ta cũng có thể nghe ý kiến của nàng. Những gì nàng nói về coi trọng nông thương, hạn chế chiếm dụng quỹ đất, ta cũng có chung ý nghĩ. Vì hoàng hậu Văn Hiến mà Tùy Văn Đế để trống hậu cung, hai người cùng được xưng Nhị thánh. Ta với nàng, cũng có thể như vậy.”

Hắn nói xong, cảm giác nàng trong lòng mình run rẩy, hơi thở loạn nhịp. Tống Hành bèn dừng lại, nhìn nàng đầy thâm tình. Chờ nàng lấy lại nhịp thở, hắn trêu đùa bằng giọng điệu nửa đùa nửa thật: “Nếu nàng còn điều kiện gì, hiện tại cứ nói ra đi. Xuống giường rồi, trẫm sẽ không nhận nữa.”

“Ta sợ mục rữa trong bóng tối, sợ bị côn trùng gặm nhấm. Nếu ta chết trước người, hãy thiêu ta thành tro, rải xuống biển, để ta tự do cảm nhận nắng gió mưa sương.”

Tống Hành nghe vậy, lòng bỗng chùng xuống, nỗi sợ hãi dâng lên. Hắn cúi đầu ôm chặt lấy nàng, như muốn xác nhận nàng vẫn an toàn ở bên cạnh mình. Giọng hắn khàn đi, nhíu mày nói: “Đang yên đang lành, sao lại nhắc tới chuyện sống chết? Nàng còn trẻ, nếu phải chết, cũng phải là ta chết trước nàng.”

Thi Yến Vi nghiêm mặt, nâng khuôn mặt hắn lên, ép hắn nhìn thẳng vào mắt mình: “Người chỉ cần trả lời ta, đồng ý hay không.”

Tống Hành thấy sợ khi nghe nàng nhắc đến chữ “chết”, đặc biệt là khi chữ ấy liên quan đến nàng. Hắn nhìn nàng, ánh mắt thoáng nét hoảng loạn, vành mắt đã ửng đỏ. Tựa như gom hết dũng khí trong người, hắn khẽ thốt lên một chữ: “Được.”

Hắn không dám nhìn nàng nữa. May thay, Thi Yến Vi vừa nghe được đáp án mình muốn thì cũng buông tay khỏi khuôn mặt hắn. Tống Hành nhắm mắt, vùi đầu vào hõm cổ nàng, toàn tâm toàn ý cảm nhận hơi thở của nàng, khẽ nói: “Âm Nương, trẫm sẽ khiến nàng trường mệnh vô ưu.”

Thi Yến Vi không chợp mắt nghỉ trưa, lúc này đã mỏi mệt, dần dần thiếp đi trên người hắn.

Tống Hành ôm nàng thật chặt, sợ nàng tỉnh giấc, cố kìm nén không làm phiền. Khi nàng tỉnh lại, hắn vẫn chăm chú nhìn nàng.

Hắn năm nay đã ba mươi ba, Thi Yến Vi lo lắng, sợ hắn cứ như vậy rồi có ngày chết trên giường, khiến nàng mang tiếng là yêu hậu, bị sử quan thóa mạ trong sử sách. Nàng lập tức khuyên hắn: “Như thế này mãi, Nhị lang liệu có chịu nổi không?”

Tống Hành nghe vậy, cảm thấy như bị xúc phạm, cố chứng minh bản thân. Hắn như trở lại dáng vẻ khi hai mươi mấy tuổi, bế nàng xuống giường, sải bước đo kích thước căn phòng, kiêu ngạo nói: “Thân thể ta thế nào, người ngoài không biết, chẳng lẽ Âm Nương không rõ?”

Thi Yến Vi chẳng bao lâu đã rưng rưng nước mắt, trong lòng hối hận vì đã nói lời châm chọc người vừa xa nàng gần bốn năm.

Tống Hành lại thích nhìn nàng khóc, ánh lệ trên khuôn mặt nàng tựa ngọc đẫm sương mai. Hắn cúi xuống hôn nhẹ nơi đuôi mắt, dịu dàng lau đi từng giọt lệ lăn dài.

Mặt trời đã lặn ngoài cửa sổ, hoàng hôn như lửa đốt, chẳng mấy chốc trời sẽ chạng vạng tối. Thi Yến Vi nhớ đến Trân Trân sợ con khóc đòi mẹ, bèn đưa tay vỗ nhẹ má hắn, giục hắn nhanh hơn.

Tống Hành cũng không muốn khiến nàng quá mệt, liền nhanh chóng kết thúc. Sau khi giúp nàng chỉnh trang, hắn bế nàng rời khỏi phòng, tiến thẳng ra ngoài phủ.

“Đêm nay, cả nhà ba người chúng ta cứ tạm ở chỗ kia. Ngày mai lại dọn hẳn đến đây.” Nói đoạn, Tống Hành ôm nàng bước lên xe ngựa, dáng vẻ khoan thai, mỗi bước chân vẫn vững chãi như thường.

Hắn tựa như chẳng biết mệt mỏi, vẫn có thể ôm nàng vững bước. Thi Yến Vi chẳng phải làm gì, nhưng cả người lại kiệt sức, chỉ biết nhắm mắt dưỡng thần, trong lòng âm thầm cảm thán hắn thật khó đối phó.

Khi Tống Hành ôm Thi Yến Vi trở về trạch viện cũ, trời đã tối mịt.

Quả nhiên Dương Quân quả nhiên nhớ nàng, vừa trông thấy Tống Hành bế nàng vào nhà, liền chạy ra đón, nét mặt rạng rỡ, hớn hở gọi to: “A gia, mau thả a nương xuống, con muốn a nương chơi cùng con!”

Tống Hành vừa một tay giữ lấy Thi Yến Vi, vừa đưa tay còn lại ôm lấy Dương Quân, nhẹ nhàng bế bé vào phòng trong. Đặt Thi Yến Vi nằm xuống giường, hắn dịu dàng dỗ dành: “Trân Trân ngoan, a nương con hơi mệt, không nên quấy rầy nàng, để a gia chơi cùng con, được không nào?

Dương Quân nghe vậy, nét mặt vui tươi lập tức xụ xuống, ánh mắt đầy lo lắng, kéo tay áo hắn, cất tiếng hỏi: “A nương sao thế ạ?”

Tống Hành biết Thi Yến Vi dễ ngại, sợ nàng xấu hổ, liền kéo chăn lên che đi dấu vết trên cổ nàng, chỉnh lại góc chăn rồi giải thích với Dương Quân: “A gia cùng a nương vừa đi bộ ngoài phủ một lúc lâu. Thân thể a nương vốn yếu, đi nhiều liền mệt. Con đừng lo, để nàng nghỉ ngơi một đêm, sáng mai sẽ tốt hơn. Hay a gia đưa Trân Trân ra ngoài cưỡi đại mã, để a nương ngủ thêm một lúc trong phòng, có được không?”

Dương Quân nhìn thoáng qua mẫu thân đang nằm trên giường, vẻ mặt có chút không tự nhiên, nhưng vẫn nghe lời Tống Hành.

Thi Yến Vi thấy Tống Hành dỗ dành được Dương Quân liền thở phào nhẹ nhõm, song trong lòng vẫn thấp thỏm không yên. Nàng nghĩ thầm, sáng sớm ngày mai nhất định phải bảo Úc Kim sắc một chén thuốc tránh thai để dùng.

Không bao lâu, nàng chìm vào giấc ngủ say.

Khi tỉnh giấc, trời vẫn chưa sáng rõ. Dương Quân đã chen giữa nàng và Tống Hành, ngủ ngon lành. Thật lạ, bé không thấy khó chịu, cũng không đuổi Tống Hành xuống giường. Có lẽ hắn đã dỗ được bé.

Thi Yến Vi mở mắt, nhìn tấm màn che trên đầu, trong lòng chẳng rõ là tư vị gì. Cuối cùng, dù cố gắng bao nhiêu, nàng vẫn chẳng thể thoát khỏi lòng bàn tay hắn.

Đợi mãi đến lúc trời sáng, nàng mới dậy, rời khỏi giường, đi tìm Úc Kim, nhờ nàng ra ngoài mua thuốc tránh thai.

Nhưng nàng nào hay, Tống Hành đã tỉnh dậy từ lâu, đứng dưới mái hiên nghe hết đoạn đối thoại giữa nàng và Úc Kim.

Hắn biết, nàng vẫn không muốn sinh con cho mình.

Tống Hành chân trần đứng trên nền gạch lạnh lẽo, nhưng chẳng cảm nhận được cái rét thấu da. Chỉ có trong lòng hắn là lạnh buốt, nỗi đau dường như xé nát tâm can, không thể diễn tả thành lời.

Hắn cố giữ vẻ bình thản, trở lại giường chờ nàng, giả vờ như vừa mới thức dậy. Sau đó, hắn ra ngoài, lệnh người mua ít mứt ngọt và bánh điểm tâm ngon miệng mang về.

Khi Úc Kim mua thuốc trở về, Thi Yến Vi nhận lấy, không muốn phiền ai, tự mình vào bếp sắc thuốc.

Tống Hành ngồi trên ghế La Hán, lặng lẽ nhìn nàng uống thuốc, lòng tràn đầy áy náy. Hắn vội bưng nước đến cho nàng súc miệng, rồi lại dỗ dành, ép nàng ăn thêm vài miếng bánh ngọt để giảm bớt vị đắng trong miệng.

Đến trưa, đoàn người đông đúc rời trạch viện, chuyển về phủ đệ hai người từng ghé qua.

Tống Hành cho nàng an nhàn một ngày, nhưng đến đêm hôm sau, hắn lại dẫn nàng đến noãn các. Hắn ôm lấy nàng từ phía sau, nhẹ giọng nói: “Hôm trước là ta không đúng, Âm Nương đừng uống thứ thuốc hại người ấy nữa. Ta sẽ cẩn thận như trước kia, không để lại trong nàng, được không?”

Nghe hắn nhắc, Thi Yến Vi không khỏi nhớ đến những ngày đau bụng quằn quại ở Thái Nguyên và Lạc Dương. Suy nghĩ hồi lâu, nàng mới khẽ gật đầu.

Kể từ lần đó, Thi Yến Vi luôn phải đề phòng tới lui, kịp thời vỗ vào cánh tay nhắc nhở hắn. Tống Hành không muốn khiến nàng phải uống thuốc, lần nào cũng rút ra kịp thời.

Tống Hành ở lại Hải Châu bảy ngày. Trong khoảng thời gian ấy, cứ cách một ngày, hắn lại gần gũi nàng một lần.

Đến ngày thứ tám, hắn tiễn Thi Yến Vi cùng đoàn người lên thuyền trở về Lạc Dương. Còn mình thì dẫn binh đi đánh Giang Hoài, chuẩn bị cho chiến sự ở vùng Cảm Hóa.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 78: Có thai


Ba năm ở Biện Châu, Thi Yến Vi vì muốn tránh đau đớn khi đến kỳ nguyệt sự, đã kiên trì dùng thuốc điều hòa. Nhờ vậy, nguyệt sự không chỉ đến đều hơn mà cơn đau cũng giảm bớt, không còn dữ dội như khi nàng còn ở Thái Nguyên hay Lạc Dương.

Hơn nữa, mỗi lần từ Tuyên Châu trở về, vì lo lắng, Thẩm Kính An đều mời thái y đến bắt mạch định kỳ cho nàng và Lý Lệnh Nghi. May thay, thân thể nàng giờ đây đã khỏe hơn nhiều so với lúc mới từ Lạc Dương đến, khiến y cũng nhẹ nhõm đôi phần.

Tuyên Châu nằm về phía nam sông Trường Giang, thuộc lãnh thổ nước Ngụy sau khi dời xuống phía nam. Trong thời gian ngắn khó lòng thuộc về đất Triệu. Tống Hành coi Lý Lệnh Nghi là người có thể kiềm chế Thi Yến Vi, tất nhiên sẽ không để nàng quay về Ngụy quốc.

Mặc cho Thi Yến Vi khéo léo thương lượng, Tống Hành cũng chỉ đồng ý để Lý Lệnh Nghi đến bất kỳ nơi nào thuộc lãnh thổ Triệu quốc.

Thi Yến Vi bất lực, chỉ có thể hỏi Lý Lệnh Nghi muốn đến đâu. Lý Lệnh Nghi không suy nghĩ lâu, liền đáp: “Dù là nơi nào ở nước Triệu, trong mắt hắn cũng như nhau cả thôi, chắc chắn sẽ phái người giám sát ta. Đã vậy, chi bằng đến Lạc Dương, để hai ta còn có cơ hội gặp nhau.”

Biết mình liên lụy đến Lý Lệnh Nghi, lòng Thi Yến Vi tràn ngập áy náy. Nàng trầm ngâm hồi lâu, khẽ nói: “Xin lỗi, là ta đã làm liên lụy cô.”

Lý Lệnh Nghi lắc đầu, nhẹ nhàng vỗ mu bàn tay nàng, dùng giọng ôn hòa an ủi: “Không phải lỗi của cô, đều do một mình hắn gây ra. Âm Nương không cần tự trách. Chỉ cần tâm đ*o kiên định, tu hành ở đâu cũng giống nhau thôi mà.”

Nghe vậy, lòng Thi Yến Vi dịu đi đôi chút nhưng vẫn không nguôi cảm giác tội lỗi. Nàng nhìn Lý Lệnh Nghi, ánh mắt kiên định, cất lời hứa hẹn: “Đợi hắn bớt nghi ngờ, ta sẽ xin hắn thả cô về Tuyên Châu.”

“Được.” Lý Lệnh Nghi mỉm cười, gật đầu để trấn an nàng. “Ta tin cô.”

Do Lý Lệnh Nghi không thể đi thuyền, tối hôm ấy, Thi Yến Vi đặc biệt nói với Tống Hành, nhờ hắn chuẩn bị xe ngựa để đi đường bộ. Nàng còn hỏi hắn xem trong thành Lạc Dương có đạo quán nào thích hợp cho Lý Lệnh Nghi tu hành không.

Tống Hành đáp: “Ở phía bắc cung Thượng Dương khoảng hai mươi dặm có cung Thượng Thanh, là nơi rất thích hợp để tu hành.”

Thi Yến Vi hỏi qua ý Lý Lệnh Nghi, nhận được sự đồng ý, liền để Tống Hành sắp xếp mọi việc.

Đến ngày lên đường, hai người từ biệt nhau. Thi Yến Vi lên thuyền, còn Lý Lệnh Nghi ngồi xe ngựa.

Dương Quân lần đầu đi thuyền lớn, cảm thấy vô cùng thích thú. Sau khi thuyền khởi hành, bé nhất quyết không chịu quay vào khoang, đòi người bế ra ngoài để từ biệt a gia.

Mãi đến khi bóng dáng Tống Hành hóa thành một chấm nhỏ, không thể nhìn rõ nữa, bé mới chịu quay về.

Mới vài ngày ngắn ngủi mà con gái đã xem Tống Hành như cha khiến Thi Yến Vi không khỏi băn khoăn. Nàng liền hỏi: “Trân Trân thích Tống… a gia sao?”

Dương Quân hồn nhiên như tờ giấy trắng, không nhận ra ý tứ trong lời mẹ, cũng không biết nói dối, bèn nghiêm túc gật đầu: “Thích ạ. A gia cho Trân Trân cưỡi ngựa lớn, còn cao hơn cả cữu ông. Trân Trân có thể nhìn thấy rất xa. A gia còn kể chuyện, hái hoa, chơi trốn tìm với Trân Trân. Những thứ a gia mua cho Trân Trân, Trân Trân đều thích.”

Đúng là hắn rất giỏi trong việc lấy lòng người khác. Thi Yến Vi chẳng mấy thiện cảm với trò này, nàng hỏi tiếp: “Vậy Trân Trân thích a nương nhiều hơn, hay a gia nhiều hơn?”

Nghe câu hỏi này, Dương Quân không chút chần chừ, dang tay ôm cổ Thi Yến Vi, hôn lên má nàng một cái, điệu bộ trẻ con non nớt: “Thích a nương! A nương là người Trân Trân thích nhất trên đời!”

Nghe những lời ngây thơ của con trẻ, trái tim Thi Yến Vi như được rót mật. Tâm tình nàng thoải mái hơn đôi chút, liền mở cửa sổ, ôm Dương Quân nhìn ra xa. Trước mắt là cảnh non xanh nước biếc, sóng gợn bờ xa, sức sống tràn đầy.

Ba mươi ngày sau, thuyền cập bến tàu phía nam thành Lạc Dương.

Thi Yến Vi bế Dương Quân xuống thuyền, vừa đi được mấy bước đã thấy một đoàn người khoảng ba mươi đến năm mươi người tiến đến. Người dẫn đầu chính là Diêu Thượng nghi.

Thời điểm Thi Yến Vi rời đi, nàng vẫn là một Tư tán. Ba năm qua, nhờ được Lưu thượng cung tín nhiệm và đề bạt nên năm ngoái, nàng được thăng làm Thượng nghi.

Bến tàu đông người, ngư long hỗn tạp nên Diêu Thượng nghi cùng những người đi theo chỉ gọi Thi Yến Vi là “nương tử”, gọi Dương Quân là “tiểu nương tử”.

Đám người vây quanh, hộ tống nàng lên xe ngựa. Bánh xe lăn đều, cảm giác xóc nảy liên tục truyền đến.

Thi Yến Vi bỗng cảm thấy trong dạ như có sóng lớn cuộn trào, vội lấy khăn che miệng, ho khan từng hồi. Úc Kim ngồi bên cạnh trông thấy, liền cúi xuống ghế tìm ống nhổ.

Tìm được rồi, nàng đưa tới cho Thi Yến Vi, đồng thời nhẹ nhàng xoa lưng giúp nương tử cảm thấy dễ chịu.

Hai ngày trước, khi còn đi trên kênh vận, dạ dày nàng đã không được thoải mái. Không ngờ hôm nay, ngồi xe ngựa một đoạn, lại không nhịn được mà nôn ra. May sao sáng nay nàng ăn không nhiều, chỉ nôn vài lần là dạ dày đã trống rỗng.

Thu Sương, người Tống Hành phái đến hầu hạ nàng, mang túi nước tới để nàng súc miệng. Sau khi súc sạch, Thi Yến Vi cảm thấy trong miệng và dạ dày cũng đã dễ chịu hơn, liền nói lời cảm tạ với hai người.

Dương Quân hiểu chuyện, thấy a nương không khỏe, ngoan ngoãn ngồi sát bên, không động đậy chút nào.

“A nương sao thế ạ?” Dương Quân bắt chước dáng vẻ người lớn, khẽ cau mày, ân cần hỏi han.

Thi Yến Vi đưa tay xoa nhẹ lên đầu bé, sợ bé lo lắng nên dùng giọng điệu bông đùa: “A nương không sao, chắc là ngồi thuyền quá lâu, thân thể làm mình làm mẩy một chút ấy mà.”

Dương Quân ngẩng đầu nhìn a nương, nghĩ ngợi một hồi, ngọng nghịu hỏi: “Giống như lần trước Trân Trân không chịu ăn sáng, để lâu, cái cối cũng làm mình làm mẩy, khiến Trân Trân khó chịu, đúng không a nương?”

Cái “cối” là cách Thi Yến Vi dùng để dặn bé chịu khó ăn uống, dùng hình tượng sinh động kể rằng dạ dày giống như cối xay đậu, mỗi ngày phải xay ba lần. Nếu sáng không ăn gì, cái cối không có đồ để xay sẽ giận dỗi, làm bụng khó chịu.

Nghe bé nhớ rõ lời mình nói như vậy, Thi Yến Vi chợt thấy ấm áp. Nàng ôm con vào ngực, khẽ gật đầu: “Đúng rồi, Trân Trân thật thông minh. Trân Trân yên tâm, a nương nghỉ ngơi hai ngày là khỏe thôi.”

Dương Quân rúc đầu nhỏ vào lòng a nương, lại đưa bàn tay bé xíu xoa nhẹ bụng nàng, ra vẻ người lớn căn dặn: “Vậy a nương phải ngoan ngoãn ăn uống, ngủ nghỉ đầy đủ, để mau khỏe lại nha.”

Trái tim Thi Yến Vi vì bé mà tan chảy. Nàng chẳng màng suy nghĩ thêm về việc chuyện nôn mửa, huống chi Tống Hành luôn cẩn thận, chuyện hoài thai không thể nào xảy ra được.

“Được rồi. A nương nghe lời Trân Trân.”

Xe ngựa chạy chừng nửa canh giờ thì đến cổng cung. Diêu Thượng nghi đưa lệnh bài cho binh lính canh gác. Lính ca chỉ liếc mắt một cái, đã biết người trong xe địa vị tôn quý, lập tức cho qua.

Sau đó, xe ngựa đi về hướng bắc, qua Ứng Thiên môn tiến vào Tử Vi thành, dừng lại trước điện Đại Nghiệp.

Diêu Thượng nghi dẫn đoàn người của Thi Yến Vi vào điện, cung kính nói: “Điện hạ xem thử còn chỗ nào cần sửa đổi, bổ sung không ạ?”

Thi Yến Vi thoáng dừng bước, ánh mắt khẽ lướt qua khung cảnh bốn phía. Trước mắt nàng, cảnh sắc nơi nào cũng thật mỹ miều. Điện các cao vút giữa nền đất bằng phẳng, cung lầu đan xen nối liền nhau sừng sững. Những bức tường trắng uốn lượn xung quanh, đá xanh dựng thành lan can chạm trổ tinh xảo, phô bày sự hoa lệ khó tả.

Đang độ tháng ba xuân về, gió xuân dịu nhẹ mơn man, làm lay động hoa mẫu đơn rực rỡ. Vài con bươm bướm ngọc sắc nhẹ nhàng bay lượn giữa những khóm hoa. Dưới cầu đá, ao sen phủ đầy những lá sen tròn trịa, xanh biếc, trải rộng thành một mảng thanh mát.

Dương Quân bị những cánh bướm xinh đẹp cuốn hút, ánh mắt ngây ngẩn không dứt ra được. Mãi đến khi Thi Yến Vi dắt tay bé theo Diêu Thượng nghi vào chính điện, bé mới lưu luyến bước đi.

Úc Kim như nhìn thấu tâm tư của cô bé, liền cúi người xuống, thấp giọng dỗ dành: “Trân Trân ngoan, lát nữa chúng ta lấy quạt tròn ra ngoài đuổi bướm nhé?”

Dương Quân nghe vậy, vui mừng không ngớt, gật đầu lia lịa.

Bên trong điện, nội thất đều được chế tác từ gỗ tử đàn thượng hạng, được lau chùi sạch bóng, dưới ánh nắng nhàn nhạt phản chiếu lên ánh sáng dịu nhẹ.

Cách bày biện trong điện cũng tinh xảo mà tao nhã: tranh vẽ của các danh họa thời Ngụy Tấn và bút tích của những văn nhân tiền triều đều được treo trên tường, những món đồ sứ men xanh, bình hoa màu trắng đa dạng được bày kín trên kệ, khiến người nhìn hoa cả mắt. Ngay cả mẫu đơn đặt trên giá hoa cũng thuộc loại cực kỳ quý hiếm, có màu tím thẫm sắc sảo và và màu trắng tinh khôi.

Diêu Thượng Nghi bước đến bên cửa sổ phía tây, đẩy khung cửa ra, nói: “Thánh thượng nói mùa thu hoa cỏ ít ỏi, vì điện hạ thích mộc phù dung, nên đã sai người trồng rất nhiều bên bờ tường phía tây.”

“Thánh thượng còn dặn rằng điện hạ thích bộ trà cụ bằng màu men ngọc bích này, tất cả đều do cục Thượng Nghi dốc lòng chọn lựa. Điện hạ thấy thế nào, có vừa ý hay không?”

Thi Yến Vi nghe nàng một câu “điện hạ”, hai câu “điện hạ” nên khó tránh khỏi cảm giác lạ lẫm. Chẳng phải thánh chỉ lập hậu vẫn chưa hạ xuống hay sao, nên dặn nàng ấy chỉ cần gọi nàng “nương tử” thôi là được.

Đến bên bàn trang điểm, ánh mắt Thi Yến Vi bị một chiếc hộp gỗ sơn mài khảm xà cừ thu hút. Nàng thuận tay mở ra, bên trong là những viên ngọc trai phương nam, ngọc đỏ, cùng đủ loại bảo thạch lóa mắt.

Hồi tưởng về bố cục của điện Triều Nguyên trước đây, ngoại trừ những vật dụng cần thiết thì gần như không có thêm thứ gì dư thừa.

Tống Hành không phải kẻ ham mê hưởng lạc. Ngoại trừ yến tiệc chiêu đãi quần thần hay tông thất, hắn hiếm khi tổ chức yến ẩm. Khi không có chiến sự, hắn thường xử lý xong chính vụ rồi tìm đến nàng, quấn quýt không rời.

Từ sau khi nàng rời đi, Tống Hành vẫn chưa lập hậu hay nạp phi, trong cung chỉ còn hắn và Thái hoàng thái hậu, không cần nhiều người hầu hạ, càng không cần tiêu pha vào thứ khác.

Chi tiêu trong cung cực kỳ tiết kiệm, thế nên trong mắt người ngoài, vị Thánh thượng này quả thực cần kiệm, mang phong thái của Văn Đế triều Tùy.

Thi Yến Vi khép chiếc hộp lại, thầm nghĩ đợi Tống Hành trở về, có lẽ đem những vật này nhập vào quốc khố thì sẽ hợp lý hơn.

“Mọi thứ ở đây đều ổn cả, không cần thay đổi gì thêm. Ta thấy trong người hơi mệt, các người lui xuống nghỉ đi.” Thi Yến Vi vừa nói, vừa ôm Dương Quân ngồi xuống giường La Hán.

Diêu Thượng nghi cùng những người khác vâng lệnh, rón rén rời khỏi điện.

Dương Quân ngồi trong lòng Thi Yến Vi, đôi mắt long lanh nhìn chậu mẫu đơn tím, hỏi nàng: “A nương, đây là nhà của a gia phải không? Nhà của a gia lớn quá, đẹp quá! Trân Trân thích nơi này, a nương có thích không?”

Hai chữ “không thích” suýt chút nữa bật ra khỏi miệng nàng, nhưng lại không muốn khiến Dương Quân thất vọng. Lại nghĩ bất kể nàng có muốn hay không, đây cũng sẽ là nơi nàng và Trân Trân phải sống. Vì thế, nàng hơi hé môi, gượng gạo nói ra chữ “thích”.

Dương Quân nghe được đáp án mong chờ, nụ cười càng thêm rạng rỡ, “A nương, vừa rồi Úc Kim a di nói sẽ dẫn con đi bắt bướm, a nương đi cùng bọn con nhé?”

Có lẽ vì vừa nôn một trận, Thi Yến Vi cảm thấy hơi mệt, liền bảo Úc Kim bế Dương Quân ra ngoài chơi. Nàng dặn con: “A nương muốn nghỉ ngơi một lát. Trân Trân đi chơi với Úc Kim a di trước đi nhé. Đợi dọn cơm xong, a nương sẽ gọi hai người.”

Thi Yến Vi ở lại điện Đại Nghiệp nghỉ ngơi mấy ngày. Cảm giác mệt mỏi tuy giảm bớt, nhưng lại xuất hiện chứng chóng mặt và chán ăn.

Thu Sương trông thấy những thay đổi của nàng, bắt đầu chú ý đến kỳ nguyệt tín của nàng.

Cẩn thận ngẫm lại, dường như từ lúc Hoàng hậu điện hạ bước lên thuyền đến lúc trở về cung, vẫn chưa thấy nguyệt tín xuất hiện. Dù cơ thể điện hạ không được như những nữ tử bình thường, nguyệt tín lúc có lúc không, nhưng ngày nàng xuống thuyền, rõ ràng đã nôn một trận, đã vậy còn rơi vào cảnh chán ăn, không thể không khiến người ta hoài nghi.

Huống hồ mấy ngày ấy, gần như đêm nào Thánh thượng cũng ở lại chỗ điện hạ. Có khi đã thành sự rồi cũng nên.

Nghĩ tới đây, Thu Sương không dám lơ là, ngày ngày lưu ý nhất cử nhất động của Thi Yến Vi, sợ nàng va vấp hay sơ suất điều gì.

Những biến đổi này, dù Thi Yến Vi vốn không mấy nhạy bén, thì cũng dần nảy sinh nghi hoặc. Chẳng lẽ nàng đã xem nhẹ chuyện tránh thai? Có khi nào lần đó vào đúng thời kỳ, lại trùng hợp để sót lại một phần không mong muốn…

Càng nghĩ, Thi Yến Vi càng bất an, chỉ mong nguyệt sự mau chóng trở lại. Nàng thấp thỏm chờ đợi suốt nửa tháng nhưng nguyệt sự vẫn biệt tăm. Ngược lại, nàng càng thêm mỏi mệt, không ăn được đồ ngọt, chỉ muốn ăn những loại quả có vị chua để k*ch th*ch vị giác.

Hôm ấy, Dương Quân ngồi bên cạnh nàng, tự mình ăn cơm. Thi Yến Vi nhìn qua bàn ăn toàn những món nhạt nhẽo trước mặt, vẫn không hề gợi lên khẩu vị. Úc Kim gắp cho nàng một ít thức ăn, dịu giọng khuyên nhủ: “Nương tử, vì sức khỏe của bản thân, ít nhiều cũng nên ăn một chút mới được. Nếu cứ như vậy, chẳng phải sẽ đói đến kiệt sức hay sao?”

Nhìn thấy ánh mắt của Dương Quân cũng đang hướng về phía mình, cuối cùng nàng cầm đũa gắp một miếng thịt gà hầm thanh đạm. Nhưng chỉ vừa ăn được vài miếng, nàng đột nhiên cảm thấy miếng thịt trong miệng quá tanh, vội che miệng, lấy ống nhổ nôn ra.

Chuyện đến mức này, Thi Yến Vi không cách nào tiếp tục tự lừa mình dối người. Sau khi súc miệng, nàng sai người nấu nước mơ chua, lại gọi thái y tới chẩn mạch.

Thái y họ Vương mang theo hòm thuốc vội vàng tới, cách một chiếc khăn mỏng, bắt mạch cho nàng. Chỉ một lúc sau, ông đã lộ vẻ vui mừng, lui về sau hai bước, chắp tay hành lễ: “Thần xin chúc mừng điện hạ, điện hạ đã mang thai được hơn hai tháng. Có điều, thân thể điện hạ yếu nhược, thai tượng không ổn, sợ có nguy cơ sảy thai, phải uống thuốc an thai thì mới ổn thỏa được.”

Hai chữ “có thai” lọt vào tai, Thi Yến Vi như bị sét đánh giữa trời quang. Dù nàng đã mơ hồ dự liệu điều này, nhưng lúc thực sự nghe thái y xác nhận, vẫn cảm thấy khó mà tin nổi.

Lúc ở Duyên Châu, y công từng nói sau này nàng sẽ khó có con. Hơn nữa, trong thời gian ở Hải Châu, nàng và Tống Hành cũng chỉ ở bên nhau có bốn ngày. Ngày đầu hắn sơ suất, nhưng nàng đã dùng thuốc phòng ngừa. Ba ngày sau đó, hắn đều không để lại gì…

Chẳng lẽ kỳ rụng trứng lại đến đúng vào lúc đó?

Nàng chưa từng nghĩ đến việc sẽ sinh con cho Tống Hành.

Đứa trẻ này vốn dĩ không nên xuất hiện trong bụng nàng.

Thi Yến Vi siết chặt mép bàn, ánh mắt ngây dại như mất hồn. Trong một thoáng rối trí, nàng nhìn chằm chằm Vương thái y, lời nói không chút kiêng dè: “Ta không muốn đứa trẻ này, phiền thái y kê cho ta một thang thuốc phá thai.”

Lời vừa nói ra, cả Vương thái y và Thu Sương đều kinh hãi, vội quỳ xuống: “Lão thần không dám! Đây là long tự, nếu có bất trắc, lão thần làm sao gánh vác nổi.”

Phải rồi, đây là Triệu cung, cả Thái Y Viện đều chỉ biết nghe lệnh Tống Hành. Nàng muốn bỏ đi đứa trẻ này, nhưng ai dám liều mạng cả gia tộc để kê đơn cho nàng?

Nhưng Vương thái y vừa nói, thai tượng của nàng không ổn định, chỉ cần nàng không uống thuốc an thai, đứa trẻ này e rằng khó mà giữ được.

Họ có thể ngăn nàng dùng thuốc, nhưng không thể ép nàng uống thuốc an thai.

Hậu quả của hành động này, cuối cùng chỉ có mình nàng gánh chịu.

Thi Yến Vi bình tĩnh lại, nghĩ thông suốt, cuối cùng cũng không làm khó Vương thái y. Nàng thu lại ánh mắt, trầm ngâm một lát rồi bảo ông lui xuống.

Thái y không dám nhắc lại chuyện dưỡng thai, chỉ lặng lẽ rời khỏi. Nhưng ngay sau đó, ông vội vã đến điện Huy Du, bẩm báo việc này với Thái hoàng thái hậu.

Dương thị mang thai. Phản ứng đầu tiên của Thái hoàng thái hậu là kinh ngạc và lo lắng, sau đó mới lộ vẻ vui mừng.

Thánh thượng lên ngôi đã bốn năm, năm nay đã ba mươi ba tuổi, mà dưới gối vẫn chưa có con nối dõi. Trong khi đó, Tam lang đã có hai con trai. Hai năm nay, không ít triều thần đều dõi mắt vào cả nhà Tam lang, chẳng qua là tính toán xem liệu Thánh thượng có nhận nuôi một đứa từ chỗ Tam lang làm con thừa tự, dưỡng dục dưới gối hay không.

Nhưng huyết thống ruột thịt, ai lại nỡ lòng giao con mình cho người khác nuôi dưỡng, cho dù người đó là huynh đệ cùng mẹ sinh ra, là đấng cửu ngũ chí tôn.

Huống hồ, với tính tình của Tam lang, chưa chắc hắn đã coi trọng ngôi vị hoàng đế. Điều hắn mong mỏi chẳng qua chỉ là cùng Thập Nhất nương bạch đầu giai lão, con cái bình an lớn lên, phụng dưỡng bên người mà thôi.

Bàn tay là thịt, mu bàn tay cũng là thịt, bà sao nỡ để Tam lang và Thập Nhất nương chịu đau đớn khi phải giao con ra?

Dù bà không vừa mắt khi thấy Nhị lang vì nữ tử họ Dương kia mà nhiều lần đánh mất quy củ, nhưng đứa trẻ trong bụng nàng ta rốt cuộc cũng là cốt nhục của Nhị lang. Nếu là con trai, với sự sủng ái mà Nhị lang dành cho nàng ta, hẳn nhiên đứa trẻ sẽ được lập làm thái tử.

Thái hoàng thái hậu khẽ thở dài, thầm nghĩ: dù giữa hai người là một đoạn nghiệt duyên, nhưng đoạn nghiệt duyên này cuối cùng cũng kết quả. Về phần quả ấy là ngọt hay đắng, thì đều phụ thuộc vào hai người họ mà thôi.

“Người đâu, chuẩn bị bộ liễn. Lão thân muốn đi một chuyến tới điện Đại Nghiệp.”

Điện Đại Nghiệp vốn không phải là nơi dành cho nữ tử cư ngụ, vậy mà Nhị lang lại bất chấp lễ nghi, ban nơi ấy cho nàng ta.

Thái hoàng thái hậu được người đỡ lên loan giá, đi thẳng đến điện Đại Nghiệp.

Bước vào trong điện, dù đã sống trong phú quý cả đời, bà vẫn không khỏi hít sâu vài hơi, lòng thầm cảm thán: Chẳng nhẽ Nhị lang định dọn hết bảo vật trong quốc khố đưa vào đây chỉ để lấy lòng nàng ta?

Ánh mắt của Thái hoàng thái hậu khẽ nheo lại, chậm rãi quan sát nữ tử họ Dương đang tựa mình trên chiếc giường La Hán. Tầm nhìn của bà liền bị hấp dẫn bởi chiếc phù dung quan bằng ngọc bích trên búi tóc nàng ta.

Chiếc phù dung quan ấy được chế tác từ một khối ngọc bích tinh khiết không tì vết, hai bên điểm xuyết trâm hoa diệp, ánh nắng chiều xuyên qua cửa, phản chiếu những tia sáng vàng óng ánh, làm lộ rõ những đường vân ít ỏi bên trong, khiến phù dung quan càng thêm phần rực rỡ.

Khối phỉ thúy có phẩm chất hoàn mỹ thế này, ngày trước hễ Nhị lang có được thì đều ưu tiên cho các nữ lang của Tống thị. Thế mà nay, hắn lại dành ra để chế tác thành một chiếc ngọc quan cho nàng ta.

Khi Thái hoàng thái hậu còn đang miên man suy nghĩ thì Thi Yến Vi đã hầm chậm đứng dậy, muốn xuống giường hành lễ. Thái hoàng thái hậu vội xua tay, ra hiệu nàng không cần đa lễ, chỉ cần ngồi xuống vị trí đối diện bà.

Ánh mắt dò xét của bà lướt qua đôi khuyên tai lam ngọc, dừng lại nơi chiếc vòng lưu ly trong suốt trên cổ. Ngón tay bà khẽ lướt qua chuỗi Phật châu, giả như thuận miệng nói: “Lão thân nhớ trước kia khi cháu còn ở Thái Nguyên thì vẫn luôn là người ưa thích cách ăn vận giản dị, thanh nhã. Không ngờ ba năm qua ở nước Nguỵ lại đâm ra yêu chuộng trân châu ngọc thạch. Nhưng như vậy cũng tốt, cháu nhỏ hơn Thánh thượng tám tuổi, cũng nên trang điểm ộng lẫy. Nhị lang sủng ái cháu thế này, người ngoài nhìn vào cũng chẳng dám nói gì.”

Lời nói thoạt nghe như bênh vực nàng, nhưng thực chất lại là lời nhắc nhở, răn đe: Những gì nàng có được ngày hôm nay, tất thảy đều nhờ vào Tống Hành. Người ngoài không dám dị nghị nàng, chẳng qua cũng bởi e ngại Tống Hành đứng phía sau nàng.

Tống Hành yêu chiều nàng có thể khiến cuộc sống của nàng an nhàn, cao quý. Nhưng nếu một ngày Tống Hành không còn sủng ái nàng, thì tất cả cũng sẽ hóa thành bọt nước. Khi ấy, miệng đời sẽ chẳng nể nang, thậm chí mặc sức chỉ trích nàng.

Nhưng nàng chẳng bận tâm người đời nghĩ gì về mình, đặc biệt là nam lang. Nàng không vì lời đồn đại của thiên hạ mà rụng mất một sợi tóc, cũng chẳng vì những lời tán dương mà sống thêm một ngày.

Nàng là người như thế nào, chính nàng biết rõ nhất, cần gì phải để người khác định nghĩa.

Điều nàng theo đuổi, từ trước đến nay vẫn luôn là sự bình yên trong tâm hồn, hà tất phải để tâm đến ánh mắt hay lời dèm pha của thiên hạ?

Có lẽ trong mắt thế nhân, Tiết phu nhân là một người phụ nữ đầy trí tuệ. Nhờ vào sự dạy dỗ chu đáo của bà, Tống phủ mới có được ba vị nhân tài kiệt xuất. Trong đó, Tống Hành là vị khai quốc đế vương hiếm có, văn võ song toàn, có tài định quốc an bang.

Nhưng trong mắt Thi Yến Vi, bà cũng không thể phá vỡ xiềng xích mà nam giới áp đặt lên nữ giới. Bà tin rằng mọi thứ nữ lang có được đều do nam lang ban cho. Ví dụ như trí tuệ của bà, nếu không thể thông qua thành tựu của cha con Tống Lâm, Tống Hành, Tống Duật để chứng minh, thì trí tuệ ấy liền trở nên vô nghĩa. Bà sẽ chẳng thể khẳng định giá trị của riêng mình.

Giờ đây, bà lại muốn đem tư tưởng đó áp đặt lên nàng, muốn nàng xem Tống Hành là trời, coi vinh nhục của hắn chính là vinh nhục của mình, rằng giá trị của một con người như nàng chỉ có thể được chứng minh và thực hiện thông qua hắn.

Người đời vốn chẳng cho phép nữ nhân vượt quyền trên nam nhân. Đáng thương hơn nữa, là vô số nữ nhân từ nhỏ đã bị giáo lý “nam tôn nữ ti”, “tam cương ngũ thường” tẩy não, cũng không chấp nhận việc nữ nhân có thể vượt mặt nam nhân.

Từ khi triều đại phong kiến đầu tiên ra đời, những nữ nhân kiệt xuất như nữ đế Võ Chiếu, thái hậu Lữ Trĩ, hay nhà thiên văn học Vương Trinh Nghi đều không tránh khỏi việc bị nam nhân cầm bút bôi nhọ, hoặc bị lịch sử do nam nhân chấp bút vùi lấp.

Thi Yến Vi biết bản thân không nên trách cứ Tiết phu nhân, vì suy cho cùng, bà cũng chỉ là một nữ nhân thời xưa bị tư tưởng phong kiến thâm căn cố đế làm cho mụ mẫm, chẳng có tư duy tự chủ. Nhưng khi phải nghe những lời lẽ rập khuôn đến mức giáo điều của bà, lòng nàng vẫn không khỏi nghẹn ngào. Thi Yến Vi hít thật sâu một hơi, trấn định tâm tình, phải mất một lúc lâu nàng mới giữ được sắc mặt bình thường, lẳng lặng không đáp.

“Hiện giờ cháu đã mang thai được hai tháng, cần phải cẩn thận mọi bề. Thang thuốc do thái y kê, nhất định phải dùng đúng cách, việc ăn uống cũng không được sơ sài.”

Thái hoàng thái hậu vừa nói, ánh mắt vừa chuyển xuống bụng nàng. Có lẽ vì dáng vóc nàng gầy gò nên vẫn chưa nhìn ra dấu hiệu nào của thai kỳ. Sắc mặt nàng nhợt nhạt, phần lớn là do phản ứng trong những tháng đầu mang thai.

“Bên cạnh cháu chỉ có hai người hầu hạ, thực sự chẳng đúng quy củ. Ngày trước ở Thái Nguyên, Đống Tuyết từng phục vụ cháu, lão thân thấy nàng ta làm việc chu toàn, nên sẽ để nàng ở lại, hầu hạ cháu.”

Thái hoàng thái hậu nói xong cũng chẳng đợi Thi Yến Vi đồng ý hay không, liền dứt khoát để người ở lại điện Đại Nghiệp.

Hiện tại, Thi Yến Vi vẫn chưa được hành lễ sách phong, cũng chưa nắm giữ ấn tín của hoàng hậu, nên đối với sự sắp xếp của Thái hoàng thái hậu, nàng đành bất lực, chẳng thể phản kháng.

Đúng lúc ấy, Úc Kim bưng trà nóng tiến lên, Thái hoàng thái hậu thoáng nhìn chén trà men xanh với hoa văn cánh sen, mỉm cười đầy ẩn ý: “Thánh thượng quả nhiên hết lòng với cháu. E rằng ngay cả trưởng công chúa Tấn Dương và quận chúa Thanh Hà cũng không có được một bộ trà cụ hoàn chỉnh thế này.”

Nói xong, bà kín đáo quan sát biểu tình của Thi Yến Vi, nhấp vài ngụm trà, rồi đứng dậy rời điện.

Đúng lúc ấy, Dương Quân ôm một con thỏ nhỏ chạy vào, hai cung nhân theo sau liên tục gọi bé công chúa, bảo bé đừng chạy quá nhanh.

Thái hoàng thái hậu vừa bước ra liền chạm mặt cô bé, ánh mắt bà cúi xuống quan sát Dương Quân. Cô bé chưa từng gặp bà bao giờ, bị khuôn mặt âm trầm mang vẻ mỏi mệt kia dọa sợ, bé ôm chặt con thỏ, không dám nói gì.

Công chúa? Khắp Triệu quốc này, trừ Tấn Dương ra, làm gì có người thứ hai.

Ngũ quan của đứa bé chẳng có điểm nào giống với Nhị lang, chỉ có đôi mày mảnh là miễn cưỡng giống nữ tử họ Dương.

Thái hoàng thái hậu càng nhìn càng thấy không có nét gì gần gũi. Chẳng hiểu vì sao bà luôn cho rằng đứa trẻ này không phải huyết mạch của Nhị lang. Không rõ nữ nhân họ Dương kia đã dùng bùa chú gì mà khiến Nhị lang say mê đến mức định phong cho một đứa trẻ lai lịch bất minh thành công chúa?

Sau mười mấy nhịp thở, Thái hoàng thái hậu mới miễn cưỡng nở một nụ cười nhạt, giọng điệu dịu dàng: “Chạy chậm một chút. Nếu không may té ngã, a nương ngươi sẽ đau lòng lắm đấy. A nương ngươi hiện đang mang đệ đệ của ngươi trong bụng, rất vất vả, đừng chọc nàng buồn phiền.”

Dứt lời, bà gẩy chuỗi Phật châu trong tay, chậm rãi rời đi.

Dương Quân ôm chú thỏ đưa cho Thi Yến Vi xem, định hỏi người con thỏ này có đáng yêu hay không, trong bụng nàng thật sự có một em bé không. Nhưng rồi, Dương Quân phát hiện ra: hình như a nương sắp khóc.

“A nương buồn sao? Có phải do Trân Trân chạy lung tung làm a nương buồn không?”

Dương Quân hỏi, mắt cũng đỏ hoe.

Thi Yến Vi cố kìm nước mắt, lắc đầu, xoa xoa chú thỏ trong tay con gái: “Không, Trân Trân không làm a buồn đâu.”

“Con thỏ của Trân Trân thật đáng yêu, là ai tặng con vậy?”

“Là Thu Sương a di. Hôm trước nghe Trân Trân nói thích thỏ, liền nhờ người ngoài cung mua tặng con.”

Nàng vốn không để ý đến Thu Sương, nên giờ nghe Dương Quân nhắc đến thì mới sực nhớ ra. Từ khi Vương thái y rời đi, Thu Sương dường như cũng lặn mất tăm.

Tối hôm ấy, khi Đống Tuyết bưng thuốc an thai vào. Thi Yến Vi nhịn đắng, cố gắng uống, nhưng chẳng bao lâu sau đã nôn sạch, thậm chí còn nôn cả cơm tối ra.

Liên tiếp mười mấy ngày, nàng chẳng thể uống thuốc, cơm cũng ăn rất ít. Người nàng gầy rộc cả đi, khó khăn lắm mới bồi bổ được chút ít tại Ngụy quốc, giờ lại tiêu hao gần hết. Đống Tuyết thấy tình cảnh ấy không thể ngồi yên, nhân đêm tối, nàng lén lút tới điện Huy Du.

Thái hoàng thái hậu nghe tin, cũng không khỏi bàng hoàng. Dù gì đi nữa thì đây cũng là đứa con đầu tiên của Nhị lang, bất kể thế nào cũng phải giữ cho bằng được.

Vì Tống Hành không ở trong cung, Đại trưởng công chúa Tống Vi Lan lại được mời vào điện Huy Du, đêm nay lưu lại bên cạnh Thái hoàng thái hậu.

“Ả họ Dương mang thai?” Tống Vi Lan kinh ngạc hỏi.

Thái hoàng thái hậu gật đầu, thần sắc nặng nề.

Tống Vi Lan không khỏi sửng sốt, một lúc sau, cơn phẫn nộ dâng lên, nàng ta nghiến răng nói: “Thánh thượng mụ đầu rồi sao!”

Thái hoàng thái hậu vì lo lắng đến cùng cực, nhất thời cũng không nghĩ ra biện pháp nào ép nàng uống thuốc, bèn thở dài: “Nàng ta không chịu uống thuốc, chẳng lẽ hai người bên cạnh nàng cũng không biết đường để khuyên nhủ?”

Đống Tuyết cau mày đáp: “Sao lại không khuyên được ạ? Mỗi ngày chúng nô tỳ đều khuyên đi khuyên lại không biết bao nhiên lần, chỉ thiếu nước biến thành cái túi chứa lời mà thôi. Nhưng kỳ lạ thay, cô bé họ gọi là Trân Trân, mỗi lần mở miệng lại hiệu quả hơn chúng nô tỳ nói cả buổi.”

Tống Vi Lan chưa từng gặp Dương Quân, nghe Đống Tuyết nói vậy, liền hỏi: “Trân Trân là ai?”

Đống Tuyết ngập ngừng, đáp một cách không chắc chắn: “Cô bé gọi Dương thị là a nương, cung nhân trong đều điện Đại Nghiệp gọi cô bé là công chúa, có khi là hài tử của Thánh thượng và Dương thị.”

Tống Vi Lan đăm chiêu một lúc, ánh mắt tối lại, rồi nhẹ nhàng đưa ra đề nghị: “Ả họ Dương kia hẳn là vẫn đang hậm hực với Thánh thượng, trong lòng không muốn tiếp nhận đứa trẻ trong bụng. Chi bằng a bà đón đứa bé gọi là Trân Trân kia về nuôi tại điện Huy Du, ngày nào Dương thị không ngoan ngoãn uống thuốc, ăn uống đầy đủ, hạ sinh long tự của Thánh thượng một cách bình an, thì ngày đó a bà không không cho phép Trân Trân trở lại điện Đại Nghiệp. Thể nào ả cũng phải nghe lời thôi.”



Mấy ngày trước, tại Dương Châu.

Tống Hành nhận được thư từ Lạc Dương, trong lòng lo lắng như lửa đốt, liền thức thâu đêm xử lý hết công việc còn lại, dặn dò Trình Diễm và Vệ Trạm ở lại thêm vài ngày thu xếp mọi việc, rồi dẫn theo một trăm kỵ binh, băng qua Tuyên Võ, Trung Võ, chạy về Lạc Dương.

Trời chưa sáng rõ, Thi Yến Vi đã bị Úc Kim gọi dậy.

Vì nhiều ngày liên tục không ăn uống tử tế, nên nàng gầy đi trông thấy, sắc mặt cũng trắng bệch xanh xao. Nhìn nàng chẳng giống một nữ lang đã mang thai gần ba tháng, trái lại trông như người bệnh liệt giường suốt ba tháng trời.

Úc Kim và Thu Sương khuyên nàng ăn vài thìa cháo. Đống Tuyết còn chưa kịp mang thuốc đến, người của cung Thái hoàng thái hậu đã đến trước, bế Dương Quân đi thẳng về điện Huy Du.

Điện Đại Nghiệp có không ít cung nhân, tất nhiên ra sức ngăn cản. Nhưng đám người kia lập tức trình ra ý chỉ của Thái hoàng thái hậu, chúng nhân không còn cách nào khác, đành trơ mắt nhìn Dương Quân bị mang đi.

Chẳng mấy chốc, Dương Quân đã được bế tới điện Huy Du.

Thi Yến Vi không thể ngồi yên, liền đuổi theo.

“A nương!” Dương Quân bị ôm chặt, hai tay giãy giụa, miệng không ngừng gọi.

Thái hoàng thái hậu nhìn cảnh tượng này, rốt cuộc không đành lòng, bàn tay đang gẩy chuỗi Phật châu cũng chậm lại, toan mở miệng bảo thả Dương Quân về với Thi Yến Vi.

Tống Vi Lan nhận ra sự do dự trong ánh mắt bà, liền ghé tai bà thì thầm: “Nếu lúc này Thái hoàng thái hậu mềm lòng, chẳng phải công lao vất vả đều uổng phí hay sao? Ả họ Dương kia ngay cả long tự cũng dám từ bỏ, e rằng sau việc này sẽ càng coi thường người. Đợi Nhị lang khải hoàn hồi triều, đến khi ấy còn ai trong cung này có thể khống chế nàng ta?”

Nghe xong, Thái hoàng thái hậu nhắm mắt, dằn lòng, rồi cũng hạ quyết tâm.

Tại điện Đại Nghiệp.

Tống Hành đi một mạch mấy ngày liền không nghỉ ngơi, vượt đường dài gấp rút trở về Lạc Dương. Áo hắn ướt đẫm mồ hôi, râu ria lún phún chưa kịp cạo, cả người phờ phạc. Đến nơi, hắn lập tức lao vào điện, ánh mắt đầy trông ngóng, nhưng nhìn quanh một vòng lại chẳng thấy bóng dáng nữ lang hắn ngày nhớ đêm mơ, ngay cả Úc Kim và Thu Sương cũng không thấy đâu.

“Hoàng hậu đi đâu rồi?” Tống Hành lòng rối như tơ vò, nghiêm giọng hỏi lớn.

Cung nhân quỳ rạp cả dưới đất, run rẩy thốt ra ba chữ: “Điện Huy Du.”



Tại điện Huy Du.

Thi Yến Vi vẫn đang giằng co cùng Thái hoàng thái hậu, không chịu lui bước. Dù đôi chân bủn rủn nhưng nàng vẫn gắng gượng đứng dưới bậc thềm, ngước nhìn Thái hoàng thái hậu, cất giọng van xin: “Thái hoàng thái hậu, Trân Trân là con ta. Trên đời này nào có đạo lý để mẹ con phải chia lìa. Người xem, con bé khóc đến đáng thương, xin người rủ lòng từ bi, để con bé về với mẹ nó.”

Thái hoàng thái hậu nghe vậy càng thêm mềm lòng, không dám nhìn thẳng vào ánh mắt của nàng, rũ mi đáp: “Hiện giờ cháu đang mang thai, bản thân còn chưa lo xong, thì sao có thể chăm sóc tốt cho con? Lão thân sẽ thay cháu chăm sóc con bé thật chu đáo. Đợi cháu sinh hạ tròn con vuông, lão thân sẽ để con bé trở về điện Đại Nghiệp.”

Thi Yến Vi nghe vậy, càng thêm kích động: “Không được! Trân Trân là con ta. Con bé còn nhỏ, ngoài ta ra, ở bên ai cũng không chịu được!”

Thái hoàng thái hậu vốn đã dao động, lòng càng thêm hoang mang. Thấy vậy, Tống Vi Lan liền lên tiếng, sai người đóng chặt cửa cung, đưa Thi Yến Vi về điện Đại Nghiệp.

Nàng ta giờ đang mang thai, nếu có chuyện gì xảy ra, ai dám đứng ra chịu trách nhiệm.

Cung nhân trong cung Thái hoàng thái hậu đều là kẻ khôn ngoan, không ai dám hành động thiếu suy nghĩ. Đúng lúc tình thế bế tắc, bên ngoài cung bỗng vang lên tiếng vó ngựa dồn dập.

Ai dám cưỡi ngựa đi nghênh ngang trong hậu cung, nhất là bên ngoài điện Huy Du của Thái hoàng thái hậu?

Tống Vi Lan chau mày, giận dữ sai người ra ngoài xem kẻ nào dám to gan như vậy.

Nhưng chưa kịp đi, vó ngựa đã dừng lại. Một bóng người cao lớn như núi xông vào, ba bước làm hai, vội vã lao về phía Thi Yến Vi, chẳng nói chẳng rằng mà ôm chặt lấy nàng.

“Thái hoàng thái hậu, Đại trưởng công chúa, các người có ý gì đây? Hoàng hậu và công chúa của trẫm đã làm gì khiến các người chướng mắt? Mà các người lại dám ra tay nhẫn tâm đến vậy!”

Tống Hành rõ ràng giận đến cực điểm, không còn gọi Thái hoàng thái hậu là “a bà”, trong giọng nói chẳng hề có chút kính trọng nào, chỉ toàn là chất vấn. Ánh mắt hắn nhìn bà và Tống Vi Lan lạnh buốt như băng sương.
 
Giam Nàng Trong Trướng - Tụ Tụ Yên
Chương 79: Lập hậu


Dương Quân trông thấy hắn, liền giãy giụa dữ dội, không ngừng gọi: “A gia!”, khiến Tống Hành lòng đau như cắt. Hắn dùng ánh mắt ra hiệu cho Thu Sương bế bé qua.

Cung nhân bị Tống Hành trừng mắt một cái, chỉ cảm thấy tóc gáy dựng đứng, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, nào dám tiếp tục giữ chặt Dương Quân mà phải ngoan ngoãn trả người lại cho Thu Sương. Chờ Thu Sương bế vững rồi, nàng ta mới dám buông tay, như thể sợ cô bé té ngã.

Thái hoàng thái hậu biết mình đuối lý, đành thu lại khí thế thường ngày, nhẹ giọng biện minh: “Nhị lang chớ hiểu lầm, lão thân làm thế là vì thương xót Dương thị và đứa trẻ kia. Nay Dương thị đang mang thai, ngay cả bản thân nàng ấy cũng khó lòng chăm sóc chu toàn, làm sao còn có sức lo liệu cho đứa trẻ kia? Lão thân cũng chỉ xuất phát từ ý tốt mà thôi.”

Một câu “đứa trẻ kia” nghe thật xa cách, ngay đến tên gọi của Dương Quân bà cũng không rõ, thử hỏi làm sao có thể thật lòng xem con bé như con cháu của mình?

Cơn giận của Tống Hành không chút suy giảm, thậm chí hắn chẳng buồn liếc mắt nhìn Tống Vi Lan bên cạnh Thái hoàng thái hậu. Hắn lạnh lùng đáp: “Hoàng hậu và công chúa của trẫm, không dám phiền Thái hoàng thái hậu nhọc lòng. Đợi Thái sử lệnh chọn ngày lành lập hậu, mọi việc trong hậu cung đều do hoàng hậu quản lý. Thái hoàng thái hậu tuổi tác đã cao, nên tĩnh dưỡng, không cần phải lo liệu việc của hậu cung hay tiền triều nữa. Còn về hoàng cô, nếu không có chỉ dụ của trẫm, từ nay không được vào cung.”

Vì bảo vệ Dương thị nữ, hắn không ngại nói lời nặng nề với Thái hoàng thái hậu và cả hoàng cô của mình. Nàng ta là cô ruột của hắn, khi hắn còn trong tã lót, nàng ta từng cõng hắn trên lưng. Vậy mà nay, vì một nữ lang vốn là cháu gái của kẻ thù đã giết biểu đệ trên chiến trường mà hắn không cho phép nàng ta tiến cung thăm mẫu thân. Thật là vô lý!

Nhị lang trước đây vẫn luôn tôn kính mẫu thân nàng ta biết bao, đối với vị cô ruột như nàng ta cũng luôn giữ gìn lễ nghĩa. Vậy mà vì nữ nhân họ Dương, người vốn chẳng yêu hắn, lại hết lần này đến lần khác khác làm trái luân thường đạo lý, thực khiến người ta khó lòng chấp nhận nổi.

“Thánh thượng chớ quên, cậu ả từng g**t ch*t Thừa Sách. Thừa Sách là biểu đệ của Thánh thượng, là ngoại tôn của Thái hoàng thái hậu. Trong người hắn cũng chảy dòng máu họ Tống. Thánh thượng vì ả mà mất trí, muốn lập ả làm hậu, chẳng lẽ không sợ triều thần đồng lòng chỉ trích? Còn về đứa trẻ không rõ lai lịch kia, thân thế mập mờ, nhìn thế nào cũng chẳng có điểm nào giống Thánh thượng. Chẳng lẽ Thánh thượng không sợ một ngày nào đó bị gọi là kẻ đội nón xanh sao…”

Tống Hành nghe nàng càng nói càng quá đáng, không kìm được cơn phẫn nộ trước lời lăng mạ của Tống Vi Lan dành cho hai mẹ con nàng, liền nghiêm giọng quát: “Im miệng! Người đâu, lập tức đưa Đại trưởng công chúa rời cung!”

Khuôn mặt hắn lạnh lùng đến đáng sợ, khí thế uy nghiêm bức người khiến Tống Vi Lam không khỏi rùng mình. Dù trong lòng uất hận, nhưng cũng không dám nói thêm câu nào. Để giữ lại chút thể diện cuối cùng, nàng ta không đợi nội thị “mời” mà tự giác lui khỏi điện Huy Du.

Thu Sương bế Dương Quân bước vào, Dương Quân vừa thấy đã vội vàng rời khỏi vòng tay nàng, nhào về phía Thi Yến Vi.

Những ngày qua Thi Yến Vi ăn không ngon ngủ không yên, cơ thể suy nhược, lại đang mang thai khiến tâm trạng dễ dao động. Giờ đây nhìn Dương Quân ôm nàng khóc nức nở, nước mắt nàng cũng theo đó rơi xuống. Nàng muốn dang tay ôm lấy bé, nhưng toàn thân mềm nhũn, tay chân như mất hết sức lực. Đôi mắt nàng đẫm lệ, càng lúc càng nặng trĩu, chỉ có thể cúi xuống lau đi dòng nước mắt trên khuôn mặt bé nhỏ kia.

Tống Hành trong lòng tự trách bản thân không bảo vệ tốt được mẹ con nàng, trái tim đau như bị dao cắt. Hắn cúi người ôm nàng đứng dậy, giọng nói mềm mại, ôn hòa đến bất ngờ: “Âm Nương, đừng sợ. Ta hứa với nàng, chuyện thế này sẽ không bao giờ tái diễn nữa.”

Thi Yến Vi chỉ ngồi xổm một lát, vậy mà khi đứng dậy, đầu óc liền choáng váng, mắt tối sầm lại, cả người ngã thẳng xuống đất.

“Âm Nương! Mau mau truyền Thái y tới!” Tống Hành hét lên thất thanh, hắn nhanh tay đỡ lấy Thi Yến Vi đang ngã quỵ, lập tức bế nàng lên, đặt nàng ngang trên lưng ngựa, phi thẳng về điện Đại Nghiệp.

Lòng ngập tràn sợ hãi, mãi đến khi đặt nàng nằm trong chăn gấm, hắn mới bàng hoàng nhận ra đôi bàn tay mình đã nhuốm đầy máu.

Năm xưa trên chiến trường, rất nhiều lần hắn phải đối diện với cảnh máu chảy đầu rơi, vậy mà hắn chẳng mảy may sợ hãi. Thế nhưng giờ đây, chỉ một vệt máu từ nàng cũng khiến hắn kinh hoàng đến mức hồn bay phách lạc.

Lần đầu tiên trong đời, hắn để lộ đôi mắt hoe đỏ trước mặt người khác.

Cả điện Đại Nghiệp lặng ngắt như tờ, không ai dám đến gần.

Mãi đến khi Vương Thái y được người thúc giục đến nơi, thần trí Tống Hành mới dần khôi phục. Hắn vội sai Thái y bắt mạch, chẩn bệnh cho nàng.

Chừng nửa khắc sau, Vương thái y chau mày, nói: “Điện hạ vốn đã có thai tượng bất ổn, lại mấy ngày nay không chịu dùng thuốc, hôm nay lại chịu kinh sợ, xúc động mạnh, nên mới dẫn đến hiện tượng ra huyết. May thay, bào thai trong bụng vẫn chưa gặp nguy hiểm. Lão thần sẽ kê lại phương thuốc, Điện hạ chỉ cần an tâm tịnh dưỡng một thời gian, cả người lẫn thai nhi sẽ bình an vô sự. Nhưng thân thể Điện hạ vốn yếu nhược, nếu xảy ra chuyện xấu như sẩy thai, chỉ e không chỉ lưu lại bệnh căn mà thậm chí còn tổn hại thọ mệnh.”

Tuy đã biết nàng không sao, Tống Hành vẫn không sao yên lòng. Hắn gật đầu, bảo Vương Thái y kê đơn rồi lui xuống.

Khi cung nhân bưng thuốc tới, Tống Hành tự tay nhận lấy. Hắn cẩn thận bế nàng lên, cả người lẫn chăn cùng trong vòng tay, dịu dàng đút từng thìa thuốc.

Dương Quân ngồi trên ghế nguyệt nha gần đó, nhìn mẫu thân yếu ớt, không dám khóc quấy. Bé ngồi yên, chỉ mở to đôi mắt ngơ ngác nhìn a gia đút thuốc cho a nương.

Sau khi uống hết thuốc, máu cũng đã cầm. Tống Hành liền sai người mang nước nóng vào, kiên nhẫn dỗ dành Dương Quân đôi câu rồi bảo cung nhân đưa bé sang tẩm điện bên cạnh.

Trong điện chỉ còn lại Tống Hành và Thi Yến Vi.

Thi Yến Vi vẫn chìm trong giấc ngủ mê man, Tống Hành cẩn thận nhẹ nhàng cởi bỏ y phục trên người nàng, lau sạch thân thể, gột rửa hết vết máu, thay cho nàng bộ trung y sạch sẽ, dùng chăn mới quấn lấy nàng, xem nàng như trân bảo mà ôm vào lòng, bước ra ngoài tẩm điện.

Ánh mắt Tống Hành dán chặt vào nàng, tựa hồ chỉ cần rời mắt một chút, nàng sẽ biến mất không dấu vết.

Hắn lớn tiếng gọi người vào, thay toàn bộ chăn gối trên giường rồi mới đặt nàng xuống. Tống Hành ngồi bên mép giường, lặng lẽ trông chừng nàng.

Mãi đến khi đèn được thắp sáng, bên ngoài màn đêm dần buông xuống, Thi Yến Vi mới tỉnh lại.

“Trân Trân…” Nàng khẽ mở miệng, giọng khàn khàn, yếu ớt thốt ra hai chữ.

Tống Hành thấy nàng tỉnh, vội trấn an: “Trân Trân rất tốt, vẫn ở điện Đại Nghiệp. Trân Trân là con của nàng và ta, con bé sẽ không đi đâu cả, sẽ luôn ở bên cạnh nàng.”

Nghe hắn nói, nàng mới hơi yên lòng. Nhưng khi nghĩ đến đứa trẻ trong bụng, nỗi chán ghét và cự tuyệt với hắn lại trỗi dậy. Thi Yến Vi quay đầu sang một bên, không muốn nhìn mặt hắn.

Tống Hành dường như nhận ra biến chuyển trong cảm xúc của nàng, bàn tay lớn phủ lên vị trí bụng nàng qua lớp chăn gấm, vẻ mặt bất lực, cất giọng khẩn cầu: “Âm Nương, Thái y nói thân thể nàng nếu xảy ra chuyện gì, chỉ e sẽ lưu lại bệnh căn, thậm chí ảnh hưởng đến thọ mệnh. Trân Trân yêu mến nàng đến vậy, nàng có nỡ lòng rời xa con bé sớm như thế không? Huống hồ, đứa trẻ này cũng là cốt nhục của nàng. Dẫu nàng hận ta đến đâu nhưng nó vô tội. Xin nàng, hãy giữ lại nó, đừng ruồng bỏ nó, được không?”

Thi Yến Vi nghe những lời này, trong lòng rối bời như tơ vò. Nàng không muốn giữ lại đứa trẻ này, nhưng thân thể nàng vốn yếu nhược, nếu cưỡng ép bỏ đi, hậu quả khó lường. Đứa trẻ ấy, rõ ràng chẳng làm gì sai, vậy mà từ khi mang thai, nàng lại luôn xem nhẹ sinh mệnh của nó. Những ngày qua, nàng không chịu uống thuốc, ăn uống qua loa, hôm nay lại thêm một phen kinh động, vậy mà nó vẫn kiên cường bám víu, không chịu rời đi.

Thế nhưng, để nàng sinh ra đứa con của một kẻ từng chà đạp, tổn thương mình, thực lòng nàng không làm được.

Nữ lang trên giường vẫn lặng im không nói, cũng không đáp ứng lời khẩn cầu của hắn. Tống Hành trầm ngâm giây lát, rời khỏi mép giường, rồi chậm rãi quỳ xuống trước mặt nàng.

“Âm Nương, trong lòng nàng hận ta, ghét ta, chỉ cần trút giận lên người ta là được, muốn đánh, muốn mắng, muốn giết đều tùy ý nàng. Nhưng nếu nàng nhất quyết muốn giết nó, vậy thì cứ giết ta luôn đi, để nó có a gia đồng hành trên đường xuống hoàng tuyền, chắc hẳn sẽ không cảm thấy cô độc.”

Tống Hành vừa nói, vừa lấy từ trong tay áo ra cây trâm mà bốn năm trước nàng từng dùng để đâm lén hắn, cương quyết đặt nó vào tay nàng, rồi đưa đến cổ mình, giọng nói mang theo chút điên cuồng: “Âm Nương, nếu nàng đã quyết tâm giết nó, vậy thì cứ cắm cây trâm này vào cổ ta, để ta lập tức vong mạng.”

Giết hắn đi thì thật đơn giản, nhưng nàng, Trân Trân và Lệnh Nghi liệu còn có đường sống nào chăng?

Không biết hắn đã giấu cây trâm này trong tay áo từ bao giờ. Thi Yến Vi bị thần thái cuồng loạn của hắn làm cho kinh hãi, cố sức thu tay lại, nhưng sức lực của hắn lớn đến nỗi nàng không thể giãy thoát.

Mắt nàng đỏ lên, hít sâu một hơi, cố kìm nén cảm xúc: “Tống Hành, ngươi đừng ép ta nữa.”

Thấy nàng giãy giụa kịch liệt, Tống Hành sợ nàng tự làm tổn thương chính mình, vội thả tay nàng ra, siết chặt cây trâm trong tay, ánh mắt khẩn thiết: “Âm Nương, ta không phải muốn ép nàng. Ta chỉ muốn cầu xin nàng, hãy cho con của chúng ta một con đường sống… Nó còn nhỏ như vậy, nó cũng khát khao được đến với thế gian này. Trên đời có biết bao cặp phu thê, vậy mà nó lại chọn ta và nàng làm cha làm mẹ. Âm Nương, sao nàng lại nhẫn tâm đến vậy…”

“Người đừng nói nữa!” Thi Yến Vi không chịu nổi, lớn tiếng cắt ngang lời hắn, giọng nói lạnh lùng: “Ý ta đã quyết, không thể thay đổi.”

Tống Hành thu tay lại, nắm chặt cây trâm đến mức các khớp ngón tay trở nên tái nhợt, cất giọng trầm tĩnh: “Vừa rồi ta đã cho nàng cơ hội, nhưng nàng không muốn giết ta, chỉ muốn giết nó. Nếu vậy, sau này trên chiến trường, ta có thể hứa rằng không làm tổn hại cậu của nàng. Còn những người khác có tha cho hắn hay không, thì ta không dám đảm bảo.”

“Người…”

Hắn vốn là kẻ giỏi bày trò, Thi Yến Vi nghẹn lời, không biết nói gì, chỉ giận dữ trừng mắt nhìn hắn.

Tống Hành không thích ánh mắt đó, ánh mắt như những lưỡi dao nhỏ sắc bén từng nhát từng nhát cắt vào da thịt, xuyên qua lồng ngực, khiến tim hắn nhói lên.

Hắn lặng thinh một lúc lâu, cuối cùng cũng không tiếp tục dùng những lời sắc bén đả thương nàng nữa. Sau khi bình ổn tâm trạng, giọng nói cũng trở nên mềm mỏng hơn: “Không bằng nàng với ta mỗi người nhượng bộ một bước. Chỉ cần nàng giữ lại nó, sau này ta sẽ uống thuốc, không để nàng phải mang thai thêm lần nào nữa. Đợi đến khi nó chào đời, ta sẽ thả Lý Lệnh Nghi đi. Mai này, nếu nước Ngụy diệt vong, dù cậu nàng không muốn quy hàng nước Triệu, ta cũng sẽ tha cho hắn.”

Lời vừa dứt, xung quanh vắng lặng như tờ. Qua một hồi lâu, Thi Yến Vi chậm rãi rời mắt khỏi hắn, dường như buông xuôi, hướng lên màn giường phía trên, giọng nhỏ giống như tiếng muỗi: “Được.”

Hôm sau, Tống Hành giữ Thái Sử lệnh lại tại điện Triều Nguyên để nghị sự.

Đây là lần thứ hai, Thái Sử lệnh phụng mệnh hắn, bịa chuyện thiên tượng, tính toán ngày lành để lập hậu, nhưng phải càng sớm càng tốt.

Tống Hành không còn ở điện Triều Nguyên phê tấu chương nữa, tất cả đều để nội thị chuyển đến điện Đại Nghiệp. Hắn mỗi ngày đều ở bên cạnh Thi Yến Vi, đích thân bón thuốc cho nàng, thấy nàng uống hết thì hắn mới có thể an tâm.

Thi Yến Vi đang tựa vào một bên, thần sắc hơi tái nhợt nhưng dường như đã đỡ hơn đôi chút. Tống Hành gấp lại tấu chương, vội vàng đỡ nàng ngồi dậy, sau đó múc một thìa yến sào đã hầm kỹ, dịu dàng đưa đến miệng nàng, khẽ dỗ: “Nàng ăn một chút, sẽ mau khỏe lại.”

Thi Yến Vi miễn cưỡng ăn được nửa chén, bèn hỏi về Dương Quân.

Tống Hành nhẹ nhàng cười, giọng nói mang theo sự trấn an: “Âm Nương cứ yên tâm, lúc bãi triều ta đã hỏi qua. Nghe cung nhân nói, con bé đang ôm thỏ ra Ngự hoa viên, có mấy cung nhân theo sát, Thu Sương cũng đi cùng, sẽ không có chuyện gì đâu.”

Nói đến đây, hắn lại múc một thìa yến sào, đưa đến trước mặt nàng. Thi Yến Vi lắc đầu, nhỏ giọng từ chối: “Ta không ăn nổi nữa.”

Tống Hành không để nàng thoái thác, cười nhẹ nhưng giọng đầy cương quyết: “Ăn thêm hai miếng thôi, sau đó ta sẽ bảo Ngự thiện phòng làm ít nước ô mai cho nàng.”

Bị hắn quấn lấy không còn cách nào khác, nàng đành ăn thêm hai thìa.

Bởi vì hôm trước nàng có dấu hiệu động thai, Tống Hành lo nàng không chịu nổi, hai ngày nay không cho phép nàng rời giường. Hôm nay thấy sắc mặt nàng khá hơn, hắn bèn gác lại chính sự, giúp nàng đứng dậy thay y phục, sau đó gọi cung nhân vào dạy hắn chải tóc cho nàng.

Lần đầu tiên thử, động tác của hắn vụng về vô cùng, không cẩn thận kéo đau nàng hai lần, khiến nàng tức giận đập vào tay hắn: “Người có biết làm đâu!”

Tống Hành cười trừ, nhẹ giọng làm hòa: “Ta sẽ nhẹ tay hơn, Âm Nương, nàng đừng giận.”

Vừa nói hắn vừa cẩn thận chải tóc cho nàng. Dẫu động tác còn vụng về, nhưng kiểu tóc hắn chải lại không tệ. Lo phát quan quá nặng sẽ đè lên cổ nàng, hắn chỉ chọn hai chiếc bộ diêu chạm rỗng và một món điền đầu đơn giản để cài lên.

Sau khi chỉnh trang xong, hắn dìu nàng đến ngự hoa viên tìm Dương Quân.

Tới nơi, chỉ thấy Dương Quân đang mải mê đuổi bắt một con thỏ, các cung nhân thì căng thẳng theo sát phía sau, sợ bé vấp ngã, nhưng lại không dám can ngăn.

Tống Hành đỡ Thi Yến Vi đứng một lát. Chờ đến khi Dương Quân bắt được con thỏ, các cung nhân thở phào nhẹ nhõm, lúc này mới phát hiện ra hai người.

“Nô tỳ bái kiến Thánh thượng, Hoàng hậu điện hạ.”

Nghe tiếng gọi, Dương Quân quay đầu, ôm lấy con thỏ chạy về phía Thi Yến Vi, cố hết sức kiễng chân, đưa con thỏ đến trước mặt nàng.

Tống Hành tỏ vẻ lo lắng, sợ con thỏ cào trúng nàng. Hai bàn tay to lớn của hắn cẩn thận đưa ra, hỏi ý Dương Quân: “A gia có thể ôm nó để a nương xem không?”

“Được ạ.” Dương Quân vui vẻ đồng ý, không hề chần chừ, yên tâm giao con thỏ cho hắn.

Tống Hành hơi khom người, đưa con thỏ đến trước mặt Thi Yến Vi.

Lúc này, mặt trời chưa đứng bóng, ánh nắng không quá gay gắt. Thi Yến Vi giơ tay vuốt nhẹ đôi tai của con thỏ, khen Trân Trân chăm sóc con thỏ quá giỏi.

Thấy Dương Quân vui vẻ vì được mẹ khen, người làm cha như Tống Hành sao có thể thua kém? Hắn lập tức mở lời dỗ dành: “Đợi đến mùa thu, a gia sẽ tự mình đến núi Mang bắt hai con thỏ rừng về làm bạn với con thỏ này của Trân Trân, có được không?”

Nghe vậy, đôi mắt tròn xoe như quả nho của Dương Quân nhìn hắn chăm chú: “Thỏ rừng cũng trắng như thế này đúng không ạ?”

Tống Hành suy nghĩ một lát, rồi mỉm cười đáp: “Phần nhiều là màu xám và đen.”

Dương Quân cố gắng tưởng tượng con thỏ trước mặt trở thành màu đen, cảm thấy có chút lạ lẫm. Bé chớp mắt, buột miệng nói: “ Trân Trân chưa từng thấy con thỏ màu đen bao giờ…”

Tống Hành nhẹ nhàng an ủi: “Trân Trân chưa thấy cũng không sao. A gia sẽ bắt mỗi loại một con về cho Trân Trân, được không?”

“Được ạ! Trân Trân muốn ngoắc tay với a gia!” Dương Quân chìa ngón út nhỏ xíu ra.

Tống Hành vui vẻ, ngồi xổm xuống ngoắc tay với bé.

Thi Yến Vi đứng một bên yên lặng nhìn hai cha con, trong lòng bỗng dâng lên cảm giác mơ hồ: có lẽ, Tống Hành thật lòng xem Dương Quân như con gái ruột, chứ không phải chỉ là diễn kịch trước mặt nàng.

Ngoắc tay xong, Tống Hành trả lại con thỏ cho Dương Quân, rồi đứng thẳng dậy, bế ngang Thi Yến Vi, không để nàng tự đi về.

Dương Quân thấy vậy, chợt nhớ đến lời của bà lão kia đã nói với cô bé rằng trong bụng a nương có thêm một em trai. Bé tò mò hỏi: “Em trai của Trân Trân đang ở trong bụng a nương đúng không?”

Tống Hành chậm rãi bước, mỉm cười đáp: “Không nhất định là em trai, cũng có thể là một em gái đáng yêu như Trân Trân. Dù là nam hay nữ, chỉ cần là lớn lên trong bụng a nương, a gia đều sẽ yêu quý.”

Dương Quân cố ngẩng đầu lên, chăm chú quan sát bụng của Thi Yến Vi. Nhìn mãi mà thấy bụng không lớn thêm chút nào, bé càng thêm nghi hoặc: “Bụng a nương nhỏ thế này làm sao có em trai em gái được ạ? A gia đặt vào đó sao?”

Thi Yến Vi nghe thấy lời trẻ con càng lúc càng thiếu chừng mực, ho nhẹ một tiếng, vội chuyển chủ đề sang con thỏ.

Tống Hành cúi đầu nhìn nàng, khẽ hỏi bằng giọng trầm thấp: “Âm Nương, nàng xấu hổ rồi sao?”

Thi Yến Vi trừng mắt liếc hắn, tay vung nhẹ đấm vào vai hắn hai cái, trách hắn không tập trung, bảo hắn chăm chú nhìn đường.

Trên đường về đến điện Đại Nghiệp, Trương nội thị đã chờ sẵn ở cửa điện nghênh tiếp.

Trương nội thị tiến lên hành lễ, vẻ mặt như thường, dường như đã quá quen thuộc với việc Thánh thượng yêu chiều nữ nhân trong lòng. Hắn cung kính thưa chuyện: “Hồi bẩm Thánh thượng, Thái Sử lệnh đã chờ ở điện Triều Nguyên được một lúc lâu.”

“Trẫm biết rồi.” Tống Hành để lại một câu, bước nhanh vào điện. Hắn đặt Thi Yến Vi lên giường La Hán, dặn dò Thu Sương vài câu rồi mới rời đi.

Điện Triều Nguyên.

Thái Sử lệnh chọn được ngày lành gần nhất là ngày mười hai tháng sáu.

Tống Hành ban thưởng một trăm lượng bạc, lệnh nội thị đưa Thái Sử lệnh xuất cung.

Soạn thánh chỉ xong, lại ấn ngọc tỷ, tâm trạng khoan khoái lạ thường.

Rời khỏi điện Triều Nguyên, Tống Hành gọi Trương nội thị đến, giao phó một số việc, rồi lập tức quay về điện Đại Nghiệp.

Tống Hành đến nơi, thấy Thi Yến Vi đang ngồi dưới cửa sổ chép kinh.

Hắn lặng lẽ đứng sau lưng nàng một hồi, rồi tự đi đến án thư bên kia xử lý tấu chương.

Có lẽ vì tâm trạng thoải mái, hoặc cũng vì có nàng ở bên nên lòng cảm thấy yên ổn, những việc khiến hắn phiền lòng trước đây, giờ đều có thể cười mà bỏ qua.

Đến giờ dùng bữa tối, Tống Hành cùng mẹ con nàng quây quần bên nhau. Hắn tỉ mỉ gỡ sạch xương cá cho nàng, kiên quyết ép nàng ăn nhiều hơn.

Để giúp nàng có khẩu vị hơn, hắn sai cục Thượng Thực chế ra nhiều món nước uống chua, ngay cả trái cây cũng chọn loại có vị chua.

Dương Quân bày ra vẻ người lớn, phụ họa lời của Tống Hành: “A nương phải ăn nhiều một chút, nếu a đệ hay a muội giành ăn với a nương thì a nương sẽ bị đói đó.”

Thi Yến Vi không chịu nổi khi hai cha con họ lải nhải không dứt, đành ăn thêm nửa chén cơm.

Dùng xong bữa, súc miệng, Tống Hành lại cùng nàng đi dạo một lát bên ngoài điện.

Sau khi súc miệng, Tống Hành cùng nàng đi dạo bên ngoài điện một lúc. Hắn còn giả làm trâu già, để Dương Quân ngồi vắt vẻo trên lưng, giả làm mục đồng.

Cung nhân trong điện Đại Nghiệp chưa từng thấy Thánh thượng như vậy, ai nấy đều sững sờ, chết cũng không dám phát ra tiếng.

Dương Quân phát hiện họ có vẻ rất sợ a gia. Nhưng lần đầu gặp a gia, bé cũng từng sợ hãi như vậy, nên cảm thấy chuyện này không có gì là lạ.

Chơi với con được một lúc, Tống Hành đứng dậy, phủi bụi trên áo rồi tiếp tục xử lý tấu chương.

Gió mát buổi tối hè thổi qua, dễ khiến người ta cảm thấy buồn ngủ. Dương Quân bò lên lòng Thi Yến Vi, để nàng ôm, cùng nhau chìm vào giấc ngủ.

Khi Tống Hành xong việc, bên ngoài trời đã tối đen, đã qua canh giờ đầu tiên.

Thi Yến Vi tỉnh dậy trước, phát hiện Dương Quân vẫn đang gối đầu trên lòng nàng. Nàng khẽ nhấc Dương Quân ra, nhưng Tống Hành đã nhanh hơn một bước, ôm lấy Dương Quân trao cho Úc Kim bên ngoài điện chăm sóc.

Tống Hành quay lại, ôm lấy Thi Yến Vi, khẽ hít lấy hương thơm từ nàng, nét mặt rạng rỡ: “Ngày mai, ta sẽ hạ chỉ lập nàng làm hoàng hậu.”

Thi Yến Vi nghe vậy, vẻ mặt hờ hững, chỉ “ừ” một tiếng qua loa.

Tống Hành đặt bàn tay to lớn lên bụng nàng, giọng nói dịu dàng: “Âm Nương không cần quỳ nhận chỉ, nàng muốn tiếp chỉ thế nào cũng được.”

Vừa nói, bàn tay to lớn đã lướt lên trên, bắt đầu trêu chọc.

Thi Yến Vi cảm thấy, có lẽ hắn chỉ đang tự chuốc lấy phiền phức.

Hắn bế nàng đặt lên mép giường, rồi quỳ xuống dưới chân nàng. Thi Yến Vi nắm chặt vạt áo hắn, mồ hôi đầm đìa.

Tống Hành nhẹ nhàng nói: “Âm Nương đổ mồ hôi thế này, tối nay chắc sẽ ngủ ngon hơn.”

Nước nóng trong bồn tỏa hơi làm người ta thấy nóng bức. Tống Hành hầu nàng tắm xong, hôn nàng một hồi, không dám làm gì thêm, đỡ nàng mặc áo ngủ sạch sẽ, ôm nàng về giường, đắp lên người nàng một tấm chăn mỏng. Xong xuôi, hắn mới quay lại phòng tắm.

Trong phòng tắm, tiếng nước chảy róc rách kéo dài rất lâu. Sau khi tự mình giải tỏa xong, Tống Hành quay lại ôm lấy Thi Yến Vi cùng nhau chìm vào giấc ngủ.

Trời chưa sáng, các quan viên đã đứng thành hàng ngay ngắn, chờ đợi bên ngoài Minh Đường. Khi cửa đại điện vừa mở, mọi người lần lượt theo thứ tự mà tiến vào.

Những tấu trình hôm nay phần lớn đều liên quan đến nước Ngụy. Tống Hành nhẫn nại ứng phó, giải quyết từng việc một, rồi hạ lệnh tuyên đọc thánh chỉ lập hậu.

Trong triều, có một vị quan ngũ phẩm thuộc tộc Dương thị, nghe tin cháu gái của được lập làm hoàng hậu thì không khỏi bàng hoàng, gần như không tin nổi vào tai mình.

Việc xảy ra bốn năm trước ông cũng từng nghe phong thanh. Nghe nói vị cháu gái đang làm nữ quan trong cung này có mối quan hệ mật thiết với Thánh thượng. Nhưng sau đó, Thánh thượng nổi cơn thịnh nộ ngay giữa yến tiệc, cuối cùng chuyện kết thúc bằng việc Dương thị nữ rời cung. Nào ngờ, nay nàng không chỉ trở lại mà còn một bước lên ngôi hoàng hậu.

Niềm vui bất ngờ này khiến ông ta gần như ngây người, động tác quỳ xuống chúc mừng cũng chậm hơn nửa nhịp.

Bên cạnh những quan viên dâng lời chúc mừng, vẫn có một vài người không sợ chết, cứng rắn giữ thẳng sống lưng. Đợi đến khi những người khác đã đứng lên, một vị ngôn quan ngoài bốn mươi tuổi liền bước ra khỏi hàng, phản đối việc lập Dương thị nữ làm hậu.

Có người khơi mào, những kẻ khác cũng lần lượt lên tiếng can gián.

Tống Hành chẳng thèm để tâm, chỉ đứng dậy rời Minh Đường, trở về điện Đại Nghiệp.

Khi Trương Nội thị đến bẩm báo, Tống Hành đang dỗ Thi Yến Vi uống thuốc.

Tống Hành mặt không đổi sắc, thản nhiên nói: “Họ muốn quỳ thì cứ để họ quỳ. Nhân tài trong thiên hạ đâu thiếu gì, mất đi bọn họ, trời của Triệu Quốc cũng không vì thế mà sụp xuống.”

Thi Yến Vi ôm bát thuốc, thần sắc như có điều suy nghĩ. Đến khi nàng hoàn hồn, Trương nội thị đã lui ra ngoài.

Thánh chỉ được ban ra đúng hạn. Bên cục Thượng phục liền sai nữ quan đến đo người, bắt đầu chuẩn bị lễ phục huy y [1] cho đại điển sắc phong.

[1]

Mặt trời đứng bóng, buổi trưa nóng như đổ lửa. Đám triều thần quỳ ngoài điện, ai nấy đều phờ phạc, mặt mày thất sắc.

Trương nội thị nhìn cảnh tượng ấy mà không khỏi xót xa, lại bước tới khuyên nhủ đôi lời. Nhưng đáng tiếc, chẳng ai chịu nghe, cứ cắn răng quỳ tiếp.

Lo họ hứng nắng nhiều quá mà sinh bệnh, Trương nội thị lại lần nữa đến bẩm báo với Tống Hành.

Nhưng Tống Hành vẫn không để ý. Ngược lại, Thi Yến Vi nghe được liền sai Trương nội thị đưa ô giấy dầu, nước chè đậu xanh và nước mơ chua tới cho họ.

Trương nội thị là người khéo ăn nói, luôn biết lựa lời làm vừa ý Tống Hành. Hắn cúi người thi lễ với Thi Yến Vi rồi nói: “Hoàng hậu điện hạ từ bi nhân hậu, lão nô thay mặt họ cảm tạ điện hạ.”

Quả nhiên, lời này khiến Tống Hành long tâm đại duyệt, thưởng cho hắn ta mười quan tiền rồi cho lui. Sau đó, hắn ôm lấy Thi Yến Vi, hôn nàng một hồi rồi mới trở lại bàn tiếp tục phê tấu.

Đêm ấy, vừa qua canh hai, khắp thành Tử Vi rực sáng trong ánh lửa pháo hoa.

Thi Yến Vi đang nhấm nháp một chén trà, nghe thấy âm thanh vang vọng khắp nơi, liền đặt chén trà xuống, để Tống Hành nắm tay dẫn ra ngoài, đến bên lan can lầu các.

Tống Hành đỡ nàng lên, hướng về phía pháo hoa rực rỡ trên bầu trời, nhẹ giọng hỏi nàng có thích màn pháo hoa này không.

Vị trí này cao vời vợi, lại là lầu vọng cảnh, cả thành Tử Vi, thậm chí là cả Lạc Dương đều nằm trọn trong tầm mắt. Màn pháo hoa đẹp mắt này cũng không ngoại lệ.

Pháo hoa kéo dài gần nửa canh giờ. Đến khi ánh sáng dần lụi, Thi Yến Vi tựa vào lòng Tống Hành, cơn buồn ngủ cũng chợt kéo đến. Nàng đang lim dim mắt thì đã bị Tống Hành lay tỉnh, chỉ tay về một hướng xa xa.

Thi Yến Vi mở đôi mắt còn ngái ngủ, liền thấy từng chiếc đèn trời chầm chậm bay lên từ những mái nhà thấp thoáng ở đằng xa.

Ngày một nhiều đèn trời được thả ra, ánh sáng vàng cam nhấp nháy, tựa như những viên ngọc lửa đang lơ lửng giữa màn đêm.

Tống Hành lại ôm nàng sát trong lòng, giọng tràn ngập yêu thương và kích động: “Âm Nương, từ hôm nay trở đi, khắp thiên hạ đều sẽ biết, nàng là hoàng hậu của ta.”

Khung cảnh trước mắt dù đẹp đến nao lòng, nhưng Thi Yến Vi lại không kìm được mà nghĩ đến hai chữ: đốt tiền.

Nàng khẽ cau mày, nhắc nhở: “Về sau không được tiêu tốn nhân lực, tài vật để làm những việc phô trương như vậy nữa. Đám sử quan nhìn thấy, không biết sẽ chép ta thành hạng người nào trong sách sử.”

Tống Hành nghe nàng nói thì ngoan ngoãn gật đầu, nhưng trong lòng đã sớm có tính toán khác.

“Sáng mai ta sẽ hạ lệnh phát cháo cứu tế trong thành suốt một tháng. Đó đều là tiền bạc ta tích cóp tiết kiệm bấy lâu nay, chẳng ai có thể tìm được lý do nào để chê trách.”

Đám triều thần quỳ suốt nửa ngày dưới ánh nắng chói chang, trước giờ đóng cửa hoàng cung, đã bị thị vệ mời ra khỏi thành Tử Vi. Nghĩ đến cảnh tượng vừa trải qua ban chiều, e rằng đêm nay khó lòng chợp mắt nổi.

Đêm ấy, mãi đến gần canh ba, Tống Hành mới ôm Thi Yến Vi trở về điện Đại Nghiệp.

Dương Quân sau khi xem xong pháo hoa đã được Thu Sương ru ngủ. Thi Yến Vi lại khăng khăng, lần mò trong bóng tối qua tẩm điện thăm con, sau đó mới chịu quay về chính điện.

Tống Hành hầu nàng rửa mặt thay y phục, vẫn ôm nàng vào lòng mà ngủ, bàn tay to lớn áp nhẹ lên chiếc bụng nhỏ hơi nhô lên của nàng.

Ba ngày trước lễ sắc phong, tư y của cục Thượng Phục đã mang huy y đến.

Khi Thi Yến Vi thử bộ lễ phục, Tống Hành chỉ ngẩn ngơ nhìn nàng một hồi lâu. Đợi tư y lui xuống, hắn mới nhấc bổng nàng lên, hôn mãi cho đến khi mãn nguyện mới bằng lòng giúp nàng cởi bộ lễ phục ấy ra.

Chớp mắt, hai ngày đã trôi qua. Đến ngày mười hai tháng sáu, trời quang mây tạnh, gió mát thanh lành, nắng ấm chan hòa khắp nhân gian.
 

Thành viên trực tuyến

Không có thành viên trực tuyến.

Thống kê diễn đàn

Chủ đề
39,938
Bài viết
1,075,527
Thành viên
9
Mới tham gia
Jony fang
Back
Top Bottom