Siêu Nhiên FALSÁRIO

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
192689652-256-k41730.jpg

Falsário
Tác giả: flowerdumps
Thể loại: Siêu nhiên
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Bác sĩ giả mạo bác sĩ; bệnh nhân giả mạo bệnh nhân; bệnh viện giả mạo bệnh viện
Không phải tôi đã nói với anh rằng trên thế gian này chẳng có gì đáng tin sao?​
 
Falsário
1: BÁC SĨ BLASIUS


Năm 1945, màu của thuốc súng và bom khói nhuộm xám cả Berlin.

Phe Đồng Minh tấn công dồn dập, nạn đói kéo dài, tuyết rơi phủ kín những thi thể nằm trên đống đổ nát.

Một đế chế Đức tưởng sẽ ngự trị ngàn năm, một lời hứa hùng biện của kẻ lãnh đạo độc tài, tất cả tựa như bị cột vào thòng lọng mà chấm dứt trong những hơi thở tím tái của hoài bão và vọng tưởng.

Đế chế Đức đã đến hồi tàn, mà vị lãnh tụ cũng đã tự kết liễu cuộc đời tội nghiệt của hắn [1].Rạng sáng lúc bốn giờ, trại tập trung Auschwitz nhận được tin mật báo từ doanh trại quân đội [2]."

Ngài Blasius!

Ôi ngài Blasius!

Đức Quốc Xã thua rồi!

Phe Đồng Minh đã đánh đến phía đông rồi!"

Dankert đẩy cửa vào, nhìn vị bác sĩ đầu tóc rối bời ngồi trong căn phòng mà không ngăn nổi lồng ngực đang đập phập phồng đến khó thở.

Giấy tờ và hồ sơ để tán loạn mỗi nơi, quầng thâm nơi mắt cùng với quần áo xộc xệch khiến Blasius trông chật vật đến đáng thương, khác hẳn với sự cao ngạo những lúc gã cùng lính Đức tiến hành thí nghiệm trên cơ thể các tù binh.

Là bác sĩ đứng đầu nhóm thí nghiệm về sự tái sinh của con người, những thử nghiệm vô nhân tính của gã đủ để đẩy gã ngồi xuống ghế điện [3]."

Bác sĩ, nếu bây giờ không đi, sẽ không kịp đâu.

Argan với Flanc cũng đã sơ tán toàn bộ nhân viên rồi."

Dankert sốt ruột thúc giục, tiếng bước chân dồn dập cùng tiếng xe bóp còi inh ỏi vang vọng ngoài hành lang chỉ lác đác vài bóng người."

Được rồi" Blasius nhìn quanh căn phòng lần cuối, gã biết mình sẽ chẳng thể trở lại nơi này lần nữa.

Thành quả của gã, những thí nghiệm của gã, rồi tất cả đều sẽ phải theo nơi này mà chôn xuống.

"Có thuốc không?"

Gã hỏi, ít nhất thì gã muốn hút một điếu để ngăn lại mớ cảm xúc nuối tiếc trong lòng.

Dankert do dự một lát rồi móc trong túi một cái hộp sắt đưa cho Blasius.

Thuốc lá đã trở nên khan hiếm hơn những ngày nay, người ta sẽ giấu thuốc như giấu tiền, và lính Đức kể cả khi sắp chết, cũng chỉ ước được hút một điếu Nordland thay cho lời giã biệt [4].Blasius không hút nhiều, gã chỉ rít một vài hơi rồi đặt đầu thuốc còn nhen nhóm lửa xuống tập giấy trên bàn.

Ngọn lửa đói khát ánh lên màu đỏ rừng rực, gã nhìn nó nuốt trọn cả tuổi trẻ của mình rồi khẽ nhắm mắt lại.

Tất cả đều sẽ phải kết thúc ở một điểm nào đó, chẳng qua của gã kết thúc khi còn quá dang dở.

Blasius khoác áo choàng vào, gió bên ngoài rít lạnh qua khe hở của cửa sổ, cầm lấy hành lý Dankert đưa rồi theo đoàn người chen chúc mà lên xe.

Sấm chớp đánh xuống doanh trại những tia sáng chói mắt xen kẽ qua rặng mây xám xịt, xe bắt đầu lăn bánh, Blasius sờ sờ sống mũi ửng đỏ, vừa lúc chiếc ghế trống bên cạnh có người ngồi xuống."

Tôi vừa hay tin doanh trại có cháy, lửa lan rất nhanh, có phải đám tù binh Mỹ vẫn còn ở trong trại không?"

"Ừ, sao vậy, anh đột nhiên muốn trở thành sứ giả của Đức Mẹ sao, Argan?"

Blasius châm chọc nói, gã thừa biết Argan cũng không khác gì gã, chẳng qua chỉ là tiếc nuối cho một thí nghiệm chưa kịp hoàn thành.Argan nhìn gã cười, không có ý định trả lời, chỉ khẽ chuyển đề tài: "Anh có biết là xe định chở ta đến quân doanh chính không?

Như vậy có khác nào gông cổ cả lũ lại hộ cho phe Đồng Minh chứ?"

"Vậy anh định làm gì đây?

Cướp súng?

Chặn xe?"

"Không, là bỏ chạy nửa đường.

Xe chạy qua Prague rồi ta sẽ lên chuyến tàu hoả đi ngược lên Saxony-Anhalt.

Có một viện tâm thần trên Quedlinburg sẽ chờ tôi ở đó."

Argan rút từ túi áo ngực chiếc các-vi-dít đã sờn hai bên góc, phe phẩy nó tựa như đang khoe khoang.

Gã nhìn thoáng qua thấy dòng chữ Bệnh viện Bergström viết ở chính giữa bằng mực đen.

Nhưng ngoài cái tên thì cũng chẳng có bất kỳ một thông tin nào khác."

Anh đã tính toán kỹ lưỡng đến thế, giống như biết trước được rằng Đức Quốc Xã sẽ thua vậy" Blasius ngán ngẩm nói, những ngón tay gầy guộc gõ lên tay vịn theo nhịp điệu.

Argan đã có dự định riêng, còn gã lại chỉ biết đi theo đoàn, vậy liệu cái nào mới có lợi cho gã hơn?"

Tôi đã biết từ khi bọn Ý đầu hàng rồi."

Argan nhỏ giọng lại khi đám lính Đức đi ngang qua "À không, phải nói là từ khi đám lãnh đạo cấp cao đưa ra quyết định ngu ngốc là tuyên chiến với Hoa Kỳ." [5]"Anh nghĩ phe Đồng Minh bao lâu nữa mới đánh đến Auschwwitz?"

Im lặng một lúc lâu Blasius mới lên tiếng, gã quay đầu nhìn sang Argan, anh ta còn đang mải thổi nguội cốc trà."

Quan trọng lắm à?

Dù sao thì đến nơi rồi bọn chúng cũng chẳng moi móc được gì."

"Nói không sai" Blasius cười cười, gã gỡ kính mắt xuống, tựa đầu lên thành cửa sổ mà nhìn quang cảnh dần chạy ngược về phía sau; mưa chảy dài thành những vệt tan thành bọt nước.

"Để lại một mớ giấy vụn đốt thành tro tàn cùng một đám tù binh đang ngoắc ngoải chết, tôi cảm thấy thật tò mò không biết phe Đồng Minh sẽ làm gì."

"Nghe nói Đức Quốc Xã để dành một quả bom lớn dưới mặt đất cho bọn họ, sức công phá của nó đủ lớn để san bằng cả Abensburg." [6]"Một món quà đáp lễ cuối cùng, Đức Quốc Xã quả thật đã chết rồi."

Xe đã chạy một quãng đường dài, còn cách Prague không xa, Blasius nhận thấy xung quanh đã có vài người gục xuống ngủ, ngay cả Argan bên cạnh cũng đã gật gù lên xuống, ấy vậy mà bản thân gã lại không ngủ nổi.

Tuy rằng không thể hiện ra ngoài, nhưng gã luôn có linh cảm xấu rằng sẽ có chuyện xảy ra, trớ trêu thay linh cảm ấy lại không nói cho gã biết điềm xui đó là gì.

Mây đen kéo đến giăng kín cả bầu trời, cho đến khi có tiếng nổ lớn vang lên bên tai, đất đá từ mỏm núi phía trên dồn dập lăn xuống, Blasius mới bắt đầu hoảng hốt."

Khốn khiếp, có bom!"

Tên lính Đức ở đằng trước hét to "Mau ra khỏi xe!"

Mưa đá trút xuống ầm ầm, khói bay mịt mù che thoáng tầm mắt, tia lửa từ súng đạn dường như là ánh sáng duy nhất.

Blasius chật vật chạy ra từ khoang xe, trái tim không ngừng đập loạn trong lồng ngực.

Gã đã tận mắt thấy một tên lính Đức bị đạn găm thẳng qua đầu, cảnh tượng xảy ra quá đột ngột khiến gã không kịp phản ứng, chỉ có thể trong phút chốc cầm đi cây súng của anh ta, thân mình bằng kim loại hãy còn vương hơi ấm từ tay lính nọ.

Phe Đồng Minh chạy tắt từ dưới Ý lên, vừa vặn bắt kịp đoàn xe, rồi âm thầm dội một trận bom, thần không biết quỷ không hay."

Blasius!

Bên này!"

Đột nhiên nghe thấy có người gọi tên mình, gã liền quay đầu lại, Argan đang núp đằng sau thân cây cổ thụ không xa, nhìn thấy gã liền hét một tiếng."

Ta bị chặn đường rồi, rất nhanh thôi phe Đồng Minh sẽ bao vây toàn bộ khu vực, không chừng sẽ phải bỏ mạng tại đây mất..."

Blasius khó khăn thở hồng hộc, cây súng đeo trên vai dường như trở nên nặng hơn."

Đừng nói gở, tôi tìm được một cái xe đằng trước.

Lũ lính Đức ngu ngốc bỏ xe chạy lấy người, ta có thể tận dụng nó mà chạy đi."

Nói rồi Argan kéo lấy tay gã mà chạy, cho đến khi nhìn thấy chiếc xe quân sự xuất hiện trước mặt thì gã mới hết bán tính bán nghi.

Đèn pha của xe bị hỏng, một bên kính cũng bị vỡ, đầu xe cũng bị móp do đá rơi trúng, nhưng chung quy không thiệt hại đến mức không chạy được.

Gã cùng Argan nhanh chóng lên xe, tiếng súng máy đang dần trở nên dữ dội hơn."

Khởi động xe đi, khốn khiếp, anh muốn bị bắn nát hay sao?"

Blasius sốt ruột thúc giục khi thấy Argan mãi không chạy xe, mồ hôi chảy dài trên gương mặt gã, cơ thể gã cũng đã không khống chế được mà run rẩy rồi."

Mẹ kiếp nó không chạy, chẳng lẽ hết xăng?"

Argan đạp mạnh vào thân xe, gấp rút nhấn phanh và ga một cách điên cuồng.

Nếu còn chậm trễ hơn nữa, quân Đồng Minh sẽ đuổi đến chỗ anh ta mất.Blasius không kịp để Argan nói gì liền nhảy ra khỏi xe, để mặc anh ta loay hoay trên ghế mà cúi đầu xuống nhìn bên dưới gầm xe, mùi khét bất ngờ xông vào khứu giác khiến gã ho khù khụ.

Không đúng, tại sao lại có mùi khét?

Blasius tự hỏi, thân mình chiếc xe cũng đang phát nhiệt, hơi nóng khiến gã đứng ngồi không yên.

Nhưng rồi dường như nhận ra điều gì, Blasius giật mình xoay người chạy đi, gần như là dùng hết sức bình sinh chạy, mặc kệ tiếng kêu của Argan vang vọng từ đằng sau, gã chỉ biết cắm đầu mà chạy, linh cảm xấu trong lòng ngày càng lớn."

Mẹ kiếp!

Blasius cậu đang làm cái gì vậy?"

Argan hét lớn, khó hiểu nhìn gã chạy thục mạng.

Blasius định bỏ lại anh sao?

Argan tức giận đập vào vô lăng, thân xe nóng đến mức anh có cảm giác bản thân đang bị hun đốt.

Tiếng súng tàn phá từ đằng xa khiến Argan chẳng thể chờ đợi được nữa, anh ta nhảy ra khỏi xe, chạy theo hướng Blasius vừa đi.

Nhưng dường như chỉ chậm một giây thôi cũng đã quá muộn.

Phía sau đột nhiên phát ra tiếng nổ lớn, sức bật khiến Blasius đang chạy bị đẩy bắn về phía trước, đập cả người người vào thân cây.

Chiếc xe quân sự phát nổ, năm sáu phần là do mìn bọn lính Đức đặt.

Blasius gượng đứng dậy, lưng gã đau đến ê ẩm, gã dùng cây súng làm gậy chống, chậm chạp đi về phía trước.

Gã phát hiện ra Argan nằm trên mặt đất, tứ chi nát bét vì bom nổ, gương mặt anh ta vặn vẹo vì đau, cổ họng thều thào cầu xin gã cứu giúp."

Blasius...làm ơn"Blasius nhìn chằm chằm vào gương mặt bị bỏng nặng của Argan, chợt nhận ra ấy thế mà gã đã quên mất khuôn mặt anh ta đã từng trông như thế nào rồi."

Anh có trách tôi vì đã bỏ mặc anh không?"

Rồi gã thấy Argan đờ người ra một lúc, ánh mắt anh lộ rõ sự tuyệt vọng.

Con người vốn tuyệt tình như vậy, sẽ chẳng có gì khiến thứ sinh vật máu lạnh ấy để tâm mà ghi nhớ cả.

Argan kêu hai tiếng làm ơn, nhưng dường như chỉ hai từ thôi cũng đã khiến anh ta đau đớn đến méo xệch.

Làm ơn, làm ơn gì đây?

Argan không nói rõ, vậy cũng đừng trách gã, cái anh ta cần bây giờ, là sự giải thoát.

Blasius gượng đứng thẳng dậy, chĩa cây súng về phía đầu Argan, nhìn mắt anh ta chợt mở to mà không do dự bóp cò.

Tiếng súng đơn độc vang lên, gã nhìn khuôn mặt nát bấy của Argan mà khẽ chau mày, vội vàng ngồi xuống, nhanh chóng lục lọi trong túi áo anh ta.

Rồi gương mặt căng thẳng của gã chợt buông lỏng ra.

Cầm trong tay chiếc các-vi-dít đã sờn góc, gã khẽ nắm chặt lấy nó, tựa như nắm chặt lấy sinh mạng mình."

Ôi Chúa ơi...."

Gã thở dài "Có lẽ con lại phải dời ngày xưng tội lại rồi..."

Rồi gã đứng dậy, chống gậy men theo bìa rừng mà đi.

Hai ngày sau, Blasius leo lên chuyến tàu hoả chạy đến Quedlinburg.

————- GHI CHÚ ————-

[1] Vị lãnh tụ được nhắc tới ở đây là Adolf Hitler, người đã cùng vợ tự sát vào năm 1945.[2] Trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã, một cái lò sát sinh tàn bạo, người ta ước tính hơn triệu người đã chết ở đó.[3] VD: việc gỡ bỏ xương của một người để thế vào cơ thể của người khác,...[4] Nordland: một hãng thuốc lá Đức rất nổi tiếng giữa các binh lính Đức thời thế chiến thứ hai.[5] Cuối năm 1941 Đức Quốc Xã tuyên chiến với Hoa Kỳ; Năm 1943 nước Ý đầu hàng.[6] Abensberg: một thị trấn nằm ở bang Bavaria với diện tích là 60.28 km2.
 
Falsário
2: CỔ TÍCH QUEDLINBURG


Quedlinburg là một thị trấn cổ mà gã đoán là chẳng có ai biết tới sự tồn tại của nó cả.

Blasius không tự tin rằng mình là kẻ hiểu biết hơn người, nhưng gã cam đoan rằng Quedlinburg là một thị trấn lạc hậu, và rằng gã đã đúc kết lại được điều đó sau khi nghe lén được cuộc hội thoại của hai tên bợm rượu ở toa thứ ba cuối tàu."

Tàu chở hàng đến Brunswick sao?

Và phải đi qua, ôi anh xem tôi lại quên mất rồi, là Regensburg đấy à?"

Tên thứ nhất nói, tướng ngồi say ngắc ngoải, chai bia rỗng tuếch cầm trong tay lại theo thói quen đưa lên miệng."

Quedlongburg, là Quedlongburg, đó là tên một thị trấn sao?

Nghe như tên một loại xúc xích, không phải cái loại mà có bột ngô đâu, tôi cá là bên trong sẽ có đường và gan lợn trộn nhuyễn."

Tên thứ hai cười ha hả, bả vai dày lắc lư theo nhịp tàu."

Đấy, tôi đã nói rồi mà, bia mà không có xúc xích giống như một Tran không có Helle vậy, nó không hoàn thiện [1].

Anh đọc tuần san Die Deutsche Wochenschau chứ?

Họ xuất hiện trên cửa kính của tòa sạn nhiều đến mức cả nước Đức không ai biết đến họ [2].

Chí ít thì cả Berlin đều không hiếm lạ gì họ."

"Anh bạn của tôi ơi, cái đầu trọc của Tran đã phủ kín màn hình vô tuyến của nước Đức này rồi."

Blasius ngồi ở góc trong cùng, khuất sau những chiếc thùng gỗ rỗng xếp chồng lên nhau.

Tàu chạy được gần một ngày nhưng gã chỉ chợp mắt được nửa tiếng, mắt mở thao láo nhìn xung quanh.

Cuộc trò chuyện của hai kẻ say đã bật lên một cái công tắc, đèn sáng, và giờ gã bắt buộc phải nghĩ lại xem bản thân có bỏ quên cái gì không trong những ngăn tủ cũ kỹ phủ bụi bặm của ký ức.

Gã không nhớ được rốt cuộc gã đã nghe cái tên Quedlinberg từ đâu ra, chắc chắn không phải từ Argan, có lẽ là ông cố Aurick của gã, thợ mộc của Nuremberg.

Nhưng tại sao một lão thợ mộc lại biết đến một thị trấn mà có lẽ cả đời lão sẽ chẳng bao giờ đặt chân đến?

Blasius nghĩ ngay đến những con buôn lắm miệng, từ Frankfurt chạy sang Hamburg, đi xuyên qua nước Đức với ổ tiền dắt bên thắt lưng và những nụ cười đểu giả đính trên mặt kể cả sau cuộc đại khủng hoảng.

Bọn thương gia biết tuốt đến lấy hàng tiện thể không quên kể cho lão già buồn chán ở Nuremberg những câu chuyện không biết thật giả khắp nước Đức."

Lão Aurick thân mến, lão biết đấy, chúng tôi sắp leo trên chuyến tàu đi tới Quedlinburg, cái thị trấn cổ tích đẹp như mơ ấy, lão đã nghe đến bao giờ chưa?"

"Quedlinburg?

Cái chốn ấy nó đẹp đến thế sao?

Ấy vậy mà tôi chưa nghe đến bao giờ."

"Tôi biết là lão chẳng mảy may biết gì về nó mà, hằng ngày lão cứ cắm cúi trong cái căn phòng toàn xác gỗ và máy cưa.

Nhưng thôi, tôi sẽ không làm lão xấu hổ nữa, chúng ta hãy nói về lịch sử của nó một chút, lão muốn biết về cái gì thì phải rõ ràng nguồn gốc của nó.

Giống như lão uống một bình rượu mà không biết nó đến từ cái thùng cuộn nào vậy.Nguồn gốc của Quedlinburg gắn liền với triều đại cầm quyền đầu tiên của Đế quốc La Mã, người Otton.

Thị trấn này có niên đại từ thế kỷ thứ 10, được cai trị bởi vua Heinrich I, và cũng là người đã phong nó thành thủ đô đầu tiên của Đức.

Sau đó thì cái trấn này được cai trị bởi phụ nữ trong 800 năm.

Người vợ góa của vua Heinrich I, Mathilde, sau khi ngài mất đã thành lập một tu viện cho phụ nữ quý tộc vào năm 936 và cháu gái của họ trở thành người cai trị của thị trấn.

Các viện trưởng của tu viện cai trị thị trấn cho đến năm 1802, khi Napoléon xâm chiếm và tu viện bị giải tán.Giống như các thị trấn khác của Harz, phần lớn sự thịnh vượng của nó đến từ các mỏ bạc, đồng và thiếc gần đó.

Lão không biết đâu, ở đó vô vàn châu báu, giá mà tôi sinh ra sớm một chút có lẽ đã không phải đi buôn cái mớ đồ gỗ của lão rồi."

Ừ thì lão Aurick ngu ngơ đến vậy đấy, lão chỉ chăm chăm với những câu chuyện và ru rú trong cái phòng của lão, ai nói gì cũng tin, ai chê gì cũng cười.

Nhưng vì lão thật thà và chất phác, không mấy ai nghĩ đến việc lừa một lão già neo đơn với cái máy cưa cũ mèm là công cụ kiếm ăn duy nhất, đám con buôn cũng tử tế mua hàng của lão, tuy rằng gã cam đoan là mấy món đồ gỗ ấy bán được lãi hơn ta nghĩ nhiều.

Dẫu sao thì Blasius vẫn phát ngán với cái tính ấy của lão, thế nên trong những ngày gã cùng cha mẹ xuống Bayern thăm Aurick, những gì gã làm là chỉ ngồi im nghe lão lải nhải về những câu chuyện lão được nghe kể, mà gã còn chẳng dám chắc lão kể lại đúng nữa [3].

Về sau khi cha mẹ mất, gã cũng không buồn về Nuremberg thăm lão Aurick nữa.

Song, Blasius vẫn ngờ vực lắm, vì rõ ràng gã đã được nghe kể về Quedlinburg, nhưng là về mặt tối của nó, chứ không phải là về mớ lịch sử từ ngàn năm trước."

Là hồn ma của con chó săn, ừ, nhà Baskerville, nó ám cả dòng họ ấy, từng người thừa kế cứ thế mà chết một cách bí ẩn, đẫm máu và man rợ." [4] Tiếng trò chuyện của hai kẻ say cắt đứt mạch suy nghĩ của gã, ấy vậy mà Blasius lại rất biết ơn họ, khi mà họ đã vô tình lắp mảnh ghép cuối cùng vào ký ức chưa hoàn thành của gã.

Blasius nhớ rồi, gã đã nghe được câu chuyện về Quedlinberg và vị thống chế của đội mật vụ SS Heinrich Himmler qua Argan, trớ trêu thay lại là từ anh ta cơ đấy.

Vào ngày 2 tháng 7 năm 1936, một đảng phái của Đức quốc xã cấp cao đã xuống thăm thị trấn cổ Quedlinburg ở miền trung nước Đức với tư cách khách mời của Reichsführer-SS Heinrich Himmler.

Quedlinburg lúc ấy chào đón họ với những con đường quét sạch và những ngôi nhà mới sơn.

Biểu ngữ của Đức Quốc Xã treo trên các mái nhà, và các bức tường dọc theo các đường phố chính được trang trí bằng những vòng hoa.Các Reichsführer và đảng của hắn dừng lại một thời gian ngắn để chiêm ngưỡng lâu đài tráng lệ của thị trấn, sau đó chuyển sang điểm đến cuối cùng của họ, nhà thờ Quedlinburg thời trung cổ.

Ở đó, trong hầm mộ được dựng quanh những dãy cột, Himmler đặt một vòng hoa trên ngôi mộ trống của vua Heinrich, ca ngợi lòng can đảm của ngài, và tuyên bố sẽ tiếp tục nhiệm vụ của ngài ở phía đông.

Một năm sau khi đặt vòng hoa, thống chế Himmler đã có bộ xương của vua Heinrich mang vào nhà thờ trong đám rước trang trọng để tái hợp lại vào trong ngôi mộ ban đầu.

Có những lời đồn đại rằng hắn đã thực hiện những buổi gọi hồn lúc nửa đêm trong hầm mộ của nhà thờ được thiết kế để hắn có thể liên lạc với linh hồn đã khuất của Heinrich the Fowler, từ đó tìm kiếm một vài lời khuyên về chính trị.

Câu chuyện này khiến Blasius phát lạnh.

Thống chế Himmler không chỉ là Reichsführer của SS mà còn là người đứng đầu nhóm mật vụ bí mật nổi tiếng của Gestapo - Quốc xã Đức Quốc xã - và là kẻ chịu trách nhiệm về "Giải pháp cuối cùng", một kế hoạch giết người thông qua diệt chủng, dẫn đến cái chết của sáu triệu người.

Liệu có khả năng hắn đã quyết định như vậy dưa theo lời mách bảo của một linh hồn chứ?

Tuy nhiên điều làm gã khiếp đảm trước sự kinh hoàng của tình huống lại chính là sự vô lý của tâm trí.

Đây không phải là câu hỏi xoay quanh việc liệu những linh hồn có thực sự tồn tại hay không mà là vấn đề về nhận thức của Himmler về họ.

Hàng triệu người đã chết vì một người đàn ông ngớ ngẩn tin rằng hắn ta có thể nói chuyện với hồn ma?

Blasius không nghĩ rằng mình là thánh Mẫu và gã có nghĩa vụ phải thương xót cho sáu triệu mạng sống ấy, thế nhưng gã cảm thấy nực cười, và tiếc nuối.

Họ chết vì bộ não không được bình thường của một thống chế với những ảo vọng phi thực tế và ngông cuồng đến kỳ lạ.

Là gã thì gã cũng thà chết vì hy sinh, còn hơn là tế vật cho một đức tin ngu xuẩn.Blasius không ngừng nghĩ miên man, gã khá là căng thẳng vì mình sắp đặt chân đến cái thị trấn bị Heinrich nguyền rủa, lại nói, không những một mà tận hai Heinrich; và gã ước rằng giờ mình vẫn đang ngồi trong văn phòng với ly cà phê bốc khói nghi ngút trên tay.

Nhưng dẫu sao thì gã thà cắm đầu vào một câu chuyện siêu nhiên với cái đầu khoa học còn hơn là chạy về với bão đạn và tiếng súng.

Tàu chạy băng băng trên đường ray đến đỉnh của Brocken thì dừng lại, báo hiệu rằng chuyến đi của gã đã đến hồi kết.

Hoặc cũng có thể là sự khởi đầu.

Ai nào biết chứ, trong tâm trí gã giờ chỉ nghĩ đến việc đi đâu để lấp cái bụng đói thôi.

————- GHI CHÚ ————-

[1] Tran và Helle là một bộ đôi hài kịch nổi tiếng trên truyền hình Đức Quốc Xã[2] Die Deutsche Wochenschau là một tạp chí nổi tiếng thời xưa, người ta sẽ dán những mặt báo lên trên cửa kính tòa soạn để mọi người đều có thể đọc[3] Bayern là tên gọi tiếng Đức của bang Bavaria ngày nay[4] Câu chuyện được kể ở đây chính là bộ truyện trinh thám Con chó hoang của dòng họ Baskerville được viết và xuất bản vào năm 1901 của nhà văn Sir Arthur Conan Doyle
 
Falsário
3: BỆNH VIỆN BERGSTRÖM


"Thế này đi, anh có một bao thuốc lá trong tay, việc đầu tiên anh sẽ làm là gì?"

"Đương nhiên là móc một điếu ra hút rồi."

"Sai, anh phải mang ngay bao thuốc đó đến tiệm tạp hóa ở đầu trấn, thay vì tận hưởng lạc thú chỉ kéo dài có vài phút,một bao thuốc sẽ đổi được cho anh vài vé đấy.

Ấy còn tùy vào cái bao bì, Luckies sẽ đủ để giữ anh lại vài ngày ở một căn nhà trọ [1]; Fatima thì sẽ cho anh một bữa tối đầy ụ ở quán ăn đối diện [2], còn Nordland thì sẽ cứu anh khỏi những ngày tháng cực khổ nhất.

Nhưng đấy là khi anh may mắn tìm được một bao."

Lão dở người, Blasius bực dọc nghĩ thầm sau khi rời khỏi quán bia ven đường, và gã thề rằng nếu gã có thể quay ngược thời gian thì gã sẽ thà bước vào quán ăn tanh mùi cá mòi biển bên trái thay vì bị hấp dẫn bởi những vại bia chất đầy.

Bạn hỏi chuyện gì vừa xảy ra đấy à?

Tất cả bắt nguồn từ quán bia ven đường ấy đấy.

Vừa đặt chân lên mảnh đất nhiệm màu của Quedlinburg, Blasius đã phải rẽ ngay vào quán bia gần nhất để tìm cái gì bỏ bụng; gã gọi cho đã đời những đĩa khoai nghiền và thịt viên đúc, và đương nhiên không thể thiếu món sa-lát trộn mỡ yêu thích rồi.

Nhưng thế đấy, gã cứ mải mê thưởng thức bữa ăn bình dân mà không hề biết rằng cái túi của gã để dưới chân đã bị thó đi từ lúc nào.

Đến khi gã phát hiện ra thì đã quá muộn, Blasius chỉ biết căm giận nốc nốt cốc bia, ngán ngẩm khi mà nghĩ đến đôi giày da mông ngựa gã còn chưa kịp đi lần nào [3].

Và cả cách làm sao để ra khỏi quán mà không bị người ta lột đồ đánh gãy chân."

Tệ thật, lại một vị khách thứ năm trong tuần bị trộm mất đồ, nhưng trách ai được ngoài chính bản thân anh, giờ thì anh định trả cho bữa ăn hôm nay như nào đây?"

Lão chủ quán ngồi xuống đối diện với gã, bộ râu màu bạc xù lên do không được tỉa tót, nhưng sẽ chẳng có thằng đàn ông nào muốn phá hỏng cái vẻ đẹp nam tính mộc mạc này bằng bất cứ dụng cụ nào đâu.

Quay lại câu chuyện, vốn dĩ Blasius đã sẵn sàng tinh thần cởi bỏ cái áo choàng lông cừu của gã ra để gán nợ rồi, nhưng lão chủ quán lại chú ý tới chiếc hộp thiếc đặt trong túi quần ngoài của anh, thế là ta lại có một cuộc trò chuyện nhỏ giữa lão chủ quán tò mò và gã bác sĩ hết tiền:"Ồ, ít ra thì chàng trai của chúng ta cũng biết để ví trên người nhỉ.

Nhưng ta chưa bao giờ thấy một ai để tiền trong hộp thiếc và coi nó là vật thay thế cho cái ví da tiện lợi hơn đâu.

Hơn nữa đó còn là một anh chàng bảnh bao với cái kính gọng bạc ra dáng tiến sĩ."

"Không may là nó chỉ là hộp đựng thuốc thôi thưa lão" Thậm chí nó còn không phải là của tôi, Blasius nghĩ thầm, hộp thiếc là của Dankert, nhưng ngay cả gã cũng không nhớ rằng mình đã lấy nó từ lúc nào.

"Tuy rằng tôi cũng ước mình đã bỏ tiền vào trong đó."

"Ôi trời, anh nói thật chứ?

Anh có thuốc đấy à?

Nó thậm chí còn tuyệt hơn mớ xu lẻ anh nợ ta."

Blasius khó hiểu hơn bao giờ hết, trong phút chốc gã đã nghĩ lão chủ quán là một tên nghiện thuốc bị cắt đi nguồn cung của gã, nhưng nhìn xuống chóp ngón tay lão, màu da bình thường, có vẻ hơi nhạt do tuổi tác, nhưng không có sắc vàng uể oải nên có của những tay hút lâu đời.

Thế nên loại trừ khả năng ấy ra, chỉ có duy nhất một lý do mà thôi:"Lão cho tôi mạn phép hỏi, thuốc lá ở đây có giá lắm sao?"

Nhìn lão chủ quán gật đầu, gã lại tiếp tục hỏi, trong đầu có nhiều nghi vấn không ngừng đá xéo lẫn nhau "Vậy người ta trả tiền bằng thuốc thay vì mấy đồng xu đấy à, hay chẳng qua lão đang thèm thuốc thôi?"

Lão chủ quán bật cười ha hả, cái kiểu cười mà phải ngửa cả cổ ra đằng sau, ưỡn cái bụng lớn giấu sau hàng khuy bị giãn, cái kiểu cười mà Blasius ghét nhất.

Nhưng rồi thì sau khi lão cười được nửa phút mà vẫn thấy Blasius cau mày nhìn lão, thì cái mớ câu hỏi đang nhảy loạn trong đầu gã mới được giải đáp."

Tuy rằng ta thích Nordland hơn, nhưng nhìn thuốc của anh ta có cảm giác nó khá hơn rất nhiều."

Lão nói trong khi tay mân mê điếu thuốc bằng ngón trỏ và ngón cái "Vỏ gói đều mà vừa đủ chặt, nhân bên trong có tỉ lệ trộn hoàn hảo giữa lá thuốc khô và lá lên men, màu lá cũng tươi và đậm nhưng vì anh để trong cái hộp thiếc không đủ ẩm cũng quá khô của anh, ta đoán là anh cũng đã phần nào trút đi hương vị của nó rồi."

"Nhưng chỗ thuốc ấy đủ để tiễn tôi ra cửa an toàn chứ?"

Blasius vừa nói vừa ngước về phía mấy gã to con ngồi trước cửa, bắp tay săn chắc của chúng khiến gã run người."

Ôi chàng trai, thuốc lá của anh tuy không nguyên vẹn lắm, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng nó là hàng thượng hạng!

Ta đoán là lãnh đạo cấp cao cũng có vài ba điếu dắt trong túi áo.

Và vì anh đã cho ta cơ hội được cầm trên tay những điếu thuốc tuyệt vời như này, ta sẽ không thu tiền anh, thậm chí ta còn phải trả cho anh một món tiền cơ đấy!"

Nói rồi lão rút từ trong ví ra một sấp tiền mặt, tuy không dày nhưng cũng chẳng mỏng, nhét vào túi áo ngực của gã, vỗ nó một cách mạnh mẽ như cái cách người ta thường vỗ vai nhau, chẳng qua người ta vỗ nhẹ còn lão vỗ mạnh, thế nên giờ ngực trái của Blasius cứ ẩn ẩn đau.

Gã muốn rời khỏi đây lắm rồi, nhưng nghĩ đến lý do mình đặt chân đến Quedlinburg, gã bèn nán lại một chút, hỏi nhỏ lão chủ quán:

"Tôi biết là mình đã làm phiền lão lắm rồi, nhưng lão cho tôi hỏi nốt một câu, liệu lão có biết bệnh viện Bergström ở hướng nào không?"

Blasius không nghĩ rằng một cái bệnh viện tâm thần sẽ có sức ảnh hưởng lớn đến vậy, vì gã vừa dứt lời xong, sắc mặt của lão chủ quán đã xanh mét.

Khi mà gã còn đang tự hỏi xem liệu mình có phát âm nhầm tên bệnh viện với một từ lóng nào đấy của thị trấn hay không thì đã nghe lão chậm rãi lên tiếng:

"Bệnh viện Bergström thì ta không biết, cả cái trấn này chỉ có một phòng khám duy nhất ở khu Cửa Đông thôi.

Nhưng anh có thể tìm đến Người Lái Xe Khách của Lâu Đài, có lẽ anh ta sẽ biết được điều gì đó."

"Vậy cảm ơn lão nhiều lắm" Blasius đứng dậy, bước về phía chiếc cửa, cố gắng không nhìn đến bọn bảo vệ với thân hình đồ sộ đang chăm chú vào mình mà đi một mạch về phía trước.

"Mong rằng quán lão làm ăn thuận lợi!"

Ra khỏi quán bia, Blasius bước đi trên con đường lát đá cuội, men theo những con ngõ nhỏ mà qua lời chỉ dẫn của người dân đến chân đồi.

Blasius mất nửa giờ đi bộ đến chân đồi Lâu Đài, chân gã đã mỏi nhừ, mái tóc vàng rơm trên trán đã lấm tấm những giọt mồ hôi, ấy còn chưa kể gã rất ít khi toát mồ hôi.

Nhưng trong nửa giờ ấy gã cũng đã đắm chìm trong cái đẹp của Quedlinburg đủ để tạm thời quên đi bả vai đang nhức và cẳng chân đang đau.

Thị trấn Quedlinburg nghìn năm tuổi nằm ở rìa Đông Bắc của dãy núi Harz phủ trắng tuyết trở nên thơ mộng dưới những tuyệt tác nghệ thuật của chính nó.

Các con phố hẹp lúc nhúc với những ngôi nhà khung gỗ, biệt thự từ thời kỳ Gründerzeit và Art Nouveau cùng với các tòa nhà xây theo kiến trúc Roma [4].

Ngay cả vào một buổi chiều mùa đông lạnh lẽo, ánh sáng mặt trời ngả lên nhà thờ trên đỉnh đồi của Quedlinburg cũng đủ để sưởi ấm mái nhà lợp bằng đá sa thạch với sắc vàng mật tỏa nhiệt.

Càng đi xuống dưới đồi, những ngôi nhà gỗ ngày một thưa thớt, thay vào đó là hàng cây thủy tùng cao tít tắp trải dài hai bên đường.

Blasius không nhớ lần cuối mình dành thời gian để tận hưởng cái đẹp thanh lặng nhất của thiên nhiên là từ khi nào, bởi lẽ gã hầu như đều đắm mình trong những buổi thí nghiệm ở trại tập trung; tiếng hét thê lương và tiếng lạo xạo của kim loại đã hằn quá sâu vào tâm trí gã, đủ để gã khó mà tận hưởng được bất cứ cái đẹp nào của âm thanh mà không bị nỗi ám ảnh dày vò.

Nhưng những ký ức tồi tệ ấy không nán lại quá lâu trong gã, vì xa xa bóng dáng thấp thoáng của chiếc Chrysler Sedan 1935 màu đen đã thu hút một kẻ chưa bao giờ được sờ vào một con xe xịn như Blasius.Một người đàn ông bước ra khỏi chiếc xe, Blasius có thể nhìn thấy khung gỗ đậm và ghế da lộn màu kem trong giây lát cửa xe mở.

Người đàn ông mặc bộ quần áo ngực đơn với vai đệm lớn, ve cao điểm, chiếc áo sơ mi xanh dương đơn giản giấu sau các họa tiết sọc đỏ trên nền màu xanh hải quân [5].

Đôi giày oxford hai tông nâu trắng bước về phía gã, tiếng gót giày gõ cồm cộp trên nền gạch, rồi dừng lại khi chỉ cách mũi giày gã có vài căng.

Blasius nhìn người đàn ông giơ tay về phía gã, nụ cười trên miệng câu lên đủ để tỏ lẽ lịch sự:"Chào ngài, tôi là Người Lái Xe Khách của Lâu Đài, ngài hẳn là đang muốn tìm tôi?"

"Đúng là tôi đang muốn tìm ông" Blasius đáp, ánh mắt cảnh giác liếc người đàn ông, vẻ mặt bình thản khiến gã nghi hoặc "Nhưng làm sao mà ông biết được điều đó vậy?"

"Thưa ngài, ở Quedlinburg ai cũng biết đến tôi, và tôi cũng quen mặt tất cả mọi người ở cái trấn này.

Ngài và cái áo blu bám bụi của ngài là điều lạ lẫm duy nhất xung quanh, không quá khó để nhận ra ngài."

"Thôi được rồi, cảm ơn ông đã giải quyết khúc mắc của tôi, nhưng mục đích chính của tôi tìm gặp ông là để hỏi ông về bệnh viện Bergström.

Tôi nghe nói ông biết chút ít về nó."

"Bệnh viện Bergström?

Đã lâu lắm rồi tôi không nghe thấy ai nói về nó, tôi cũng không chắc nó có còn ở vị trí cũ nữa hay không.

Người ta đã dừng nhắc đến cái tên này đã hơn chục năm rồi.

Nhưng cho tôi mạn phép hỏi, ngài biết đến cái tên này từ đâu vậy?"

"Tôi..."

Blasius im lặng một lát, nghĩ đến Argan gã lại muốn chửi thề một tiếng, làm sao đây khi gã muốn giả danh Argan nhưng lại chẳng mảy may biết một chút gì về anh ta?

Thông tin mỗi người ở trại tập trung là một bí mật, ngay cả gã cũng không cho ai biết gì về mình ngoại trừ cái tên và tuổi tác; và đương nhiên, Argan cũng thế, ngoại trừ việc gã còn biết anh ta có một đứa em trai cùng cha khác mẹ đang ở bên Pháp.

"Tôi nghĩ là cái này nằm ngoài sự quan tâm của ông."

Người Lái Xe Khách bật cười ha hả, song vẫn giữ được vẻ lịch thiệp vốn có của ông.

Ông ngả chiếc mũ xuống, vuốt vuốt lọn tóc cong cong trên trán "Thứ lỗi cho sự mạo phạm của tôi, trời cũng đang gần tối rồi, một người xa lạ với đất Quedlinburg sẽ không thể sống sót sau một đêm lạnh giá ở đây đâu.

Tôi sẽ đưa ngài đến bệnh viện Bergström, nếu như nó vẫn ở vị trí cũ mấy chục năm nay."

Người Lái Xe Khách mở cửa sau của chiếc xe, Blasius cũng không khách sáo ngồi vào.

Cửa đóng chặt, ngăn lại những cơn gió gào thét bên ngoài, chỉ còn lại mùi hương thoang thoảng của nệm lông và chất gỗ bao quanh vô lăng.

Hàng cây thủy tùng dần dần chạy ngược về phía sau, xe chạy vào trong rừng, theo con đường uốn khúc mà chạy lên đồi.

Trong xe không có ai nói chuyện, Blasius cũng chỉ tập trung nhìn ra bên ngoài, nhưng gã vẫn có cảm giác Người Lái Xe đang chăm chú quan sát gã qua gương chiếu hậu, tuy rằng gã không hề thích cái cảm giác ấy chút nào song cũng không thể hiện ra trên khuôn mặt.

Mưa dần rơi những giọt nước lẻ tẻ lăn dài trên mặt kính mà cùng lúc đó, trước mặt dần xuất hiện một tòa biệt thự lớn từ đằng xa, giấu mình sau những mảng sương mù giăng kín vạt trời.

Một tòa biệt thự đồ sộ, xa hoa nhưng lại mang vẻ đẹp lâu đời cổ điển với mái ngói nhọn hoắt tô một màu xanh ngọc lam.

Chẳng mấy chốc đã lên đến cổng chính, xe dừng lại trước chiếc cổng đen cao sừng sững, xác hoa hồng leo kín những chiếc song sắt, dòng chữ Bergström trên chiếc biển có phần cũ mòn, sét đã đánh cháy đen một góc.

Blasius nhận ra không có ai canh gác ngoài cổng cả."

Lạ thật đấy, có vẻ như xe không thể đi vào rồi."

Gã lầm bầm, định bụng tự mình đi xuống, thì lại bắt gặp khuôn mặt có chút sợ sệt của Người Lái Xe.

"Ông không sao chứ?"

Gã hỏi."

Xin lỗi ngài, nơi này quả thực khác xa so với những gì tôi nhớ."

Nói rồi ông ta lục từ trong ngăn dưới ra một chiếc ô đưa cho gã "Có vẻ như tôi chỉ có thể tiễn ngài tới đây thôi, ngài hãy cầm lấy chiếc ô này và bảo trọng."

Việc Blasius cầm ô và bước dần vào khuôn viên đã là chuyện của mười phút sau.

Chiếc xe Chrysler đã đi xuống đồi, vội vã khuất mất tầm mắt.

Mưa không những không tạnh mà còn rơi nặng hơn, đến mức chiếc tay cầm ô của gã cũng hơi run.

Hai bên đường là xác những bụi hồng khô quắp lại, màu xám xịt của những cánh hoa như hòa vào làm một với khung cảnh hiện giờ.

Xung quanh im ắng đến mức Blasius có thể nghe thấy tiếng thở khe khẽ của chính mình, cảm giác cô độc khiến gã ớn lạnh, vì lý nào đó mà trực giác mách bảo rằng gã không có một mình.

Gió thổi mạnh những cành cây trụi lá, rít lên những hồi cao như đang giục giã gã hãy mau chóng rời khỏi đây.

Blasius cảm nhận được nỗi sợ hãi vô hình đến từ xung quanh, cảnh sắc u ám khiến gã căng thẳng, những bước chân cũng vô thức đi nhanh hơn vài nhịp.

Chỉ đến khi trước mặt hiện ra ánh đèn phát ra từ bên trong tòa nhà, Blasius mới khẽ thở phào một hơi.

Nhanh chóng chạy vào bên trong, đón chào gã là một nàng y tá, mái tóc đen vuốt ngược về phía sau, búi thấp xuống ngang gáy.

Nhưng ánh mắt nàng có chút không tự nhiên, chẳng qua Blasius không rõ nó lạ ở chỗ nào.

Gã cụp chiếc ô xuống, nước mưa chảy tong tỏng xuống chiếc thảm chùi chân sần sùi, cùng lúc đó nàng y tá lên tiếng:"Xin lỗi, giờ thăm bệnh nhân đã hết rồi.

Mời ngài quay lại vào ngày hôm sau."

Giọng nói khàn khàn bất thình lình khiến Blasius giật mình, nó không có cái tông mềm mại của phụ nữ, lại không có âm nặng nên có, chất giọng lạnh tanh, bằng bằng, lại rè rè như chiếc máy phát thanh cũ kỹ bị hỏng.

Ngẩn người một lúc Blasius mới khẽ ho vài tiếng, gã đoán rằng tai mình bị ù vì chênh lệch áp suất."

Không không, cô nhầm rồi, tôi là bác sĩ phụ trách đến từ trại tập trung Auschwitz.

Tôi đến là để nhận việc."

Rồi gã móc từ trong túi áo ra chiếc các-vi-dít đưa cho nàng y tá.Ánh mắt nàng y tá cũng không lay động gì sau lời nói của gã, chỉ khẽ cầm lấy chiếc thẻ, bước đến phía sau quầy trực, tay cầm bút viết lên những ký tự kỳ quặc mà gã đoán là ngôn ngữ địa phương.

Rồi bất ngờ nàng ngẩng đầu lên, con mắt đen kịt nhìn thẳng vào mắt gã, trong phút chốc gã thề mình đã nhìn thấy hình ảnh những bàn tay gầy guộc màu xám vươn ra từ đôi mắt ấy."

Thứ lỗi, tôi cần biết tên của ngài."

Âm thanh của nàng y tá lại đánh tan suy nghĩ mù mờ của gã.

Blasius giật mình một lúc lâu mới do dự thốt lên:"Là Argan, Argan Haase."

Blasius nhìn tên vị chiến hữu quá cố được nét chữ ngay ngắn viết trên giấy mà trong lòng nảy sinh sự nuối tiếc và nỗi buồn không thể lý giải.

Từ giờ gã sẽ phải sống dưới cái tên Argan Haase, có Chúa mới biết là đến bao giờ mới thoát khỏi nó.

Người ta sẽ biết đến gã là Argan, chứ không còn là Blasius nữa.

Nhưng thôi thì, chúng ta không thể lúc nào cũng thắng; gã cướp đi danh tính của Argan cho một cuộc sống mới, mà cái giá phải trả là danh tính của chính gã sẽ bị chôn vùi xuống cát bụi và sự lãng quên.

————- GHI CHÚ ————-

[1] Luckies (Lucky Strike) là một hãng thuốc lá đến từ Mỹ, rất nổi những năm 1930.[2] Fatima, cũng là một hãng thuốc lá có xuất xứ ở Mỹ, đã từng rất được ưa chuộng vào những năm 1940, nhưng tạo hình cổ lỗ sĩ của nó đã dẫn đến việc giá cổ phiếu giảm thấp đáng kể qua năm tháng, cho đến năm 1980 thì mặt hàng này chính thức bị loại bỏ trên thị trường.[3] Da mông ngựa, hay còn được biết đến là Shell Cordovan, là dòng da thượng hạng quý hiếm và bền nhất trên thế giới.[4]

-Gründerzeit là giai đoạn kinh tế trong thế kỷ 19 của Đức và Áo trước khi thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1873.

-Art Nouveau là trường phái nghệ thuật đặc biệt bởi tính kết cấu, các họa tiết, cách điệu hóa, và cách sử dụng các đường cong.

-Kiến trúc Roma phần lớn là kiến trúc tôn giáo như nhà thờ, tu viện và các nhà ở và công trình kiến trúc có tính phòng thủ của giai cấp phong kiến.[5] Thời trang của đàn ông những năm 1940 thường bao gồm quần áo ngực đơn hoặc đôi với vai đệm lớn, ve rộng hoặc ve cao điểm, và thắt lưng.

Quần cũng khá rộng, có vòng eo cao và chúng được củng cố bằng dây đai.

Một chiếc áo sơ mi trắng hoặc xanh dương đơn giản là lựa chọn linh hoạt nhất cho tất cả các màu sắc phù hợp.

Những bộ quần áo sọc đỏ với màu xanh hải quân, xám và nâu rất được ưa chuộng.

Các mẫu hoa văn tinh tế khác như kẻ ô hoặc kẻ sọc cũng rất phổ biến.
 
Back
Top Bottom