Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 30: Mộ hoang ngàn dặm, ai tỏ cùng ai nỗi xót xa



Ở nghĩa địa ngoại ô kinh thành, Thịnh A Man mặc tang phục, đầu quấn khăn trắng, khuôn mặt đờ đẫn, quỳ bên mộ phần, châm đốt tiền giấy.

Vài tên đàn ông lực lưỡng chặt bốn cành tre, cắm trước mộ, sau đó phủ một tấm chiếu thô lên bốn góc của cành tre, tạo thành một mái lều đơn giản. Chúng nâng một chiếc quan tài mỏng đặt vào bên trong, sau đó chui ra khỏi lều, tới trước mặt Thịnh A Man, đòi tiền công.

Thịnh A Man thẫn thờ mở túi lấy mấy đồng tiền, lần lượt phát cho từng người. Đến người cuối cùng, hắn cố ý, sờ vào bàn tay mềm mại của nàng một cách thô bạo. Thịnh A Man rút tay về, liếc hắn một cái: “Cút.”

Tên đàn ông kia nổi giận: “Ngươi chỉ là một nhạc cơ trong giáo phường, còn bày đặt làm trinh nữ thanh cao?”

Thịnh A Man không tranh luận: “Cút.”

Tên kia hằn học nói: “Chúng ta thấy ngươi đáng thương mới nhận cái mối làm ăn này, nếu không ai thèm nâng quan tài cho huynh trưởng của ngươi? Hắn là bại tướng bị Thánh nhân ngự bút chỉ đích danh, thậm chí người còn không cho chôn cất. Ngay cả thân thích Thịnh gia cũng chẳng ai chịu động tay!”

Thịnh A Man quỳ trước mộ Thịnh Vân Đình, không nói thêm gì, chỉ lặng lẽ đốt từng tờ tiền giấy, đôi mắt rưng rưng nhìn ba chữ “Thịnh Vân Đình” khắc trên bia mộ. Tên kia định nói gì thêm, nhưng bị người khác kéo đi: “Thôi bỏ đi, nàng ta thân cô thế cô, không nơi nương tựa, nhìn thật đáng thương, ngươi cũng nên tích chút âm đức.”

Chúng bỏ đi, nghĩa địa trở nên hoang vắng, chỉ còn Thịnh A Man âm thầm rơi nước mắt, tiếp tục đốt tiền giấy.

Đến khi tờ giấy cuối cùng hóa thành tro lạnh, mắt Thịnh A Man đã sưng đỏ như quả đào. Nàng thì thầm: “A huynh, huynh không còn, bọn họ đều ức h**p muội…”

Nước mắt nàng càng chảy nhiều hơn: “A huynh, tiền giấy đã đốt hết rồi. Nhưng huynh yên tâm, A Man sẽ kiếm thêm tiền, sẽ đốt nhiều tiền hơn cho huynh, không để huynh dưới Địa phủ phải chịu khổ.”

Nàng vẫn quỳ đó, đến khi tàn tro của tiền giấy đã nguội, nàng vẫn không muốn rời đi.

Phía sau hình như có động tĩnh, Thịnh A Man cảm thấy có gì đó, nàng lau nước mắt, bình tĩnh nói: “Thôi Tuần, ngươi ra đi, ta biết ngươi đã đến.”

Phía sau im lặng một lúc, sau đó vang lên tiếng giày ô da chạm vào cành cây.

Thịnh A Man không ngoảnh lại, chỉ nhìn tấm bia gỗ khắc ba chữ “Thịnh Vân Đình” cùng niên hiệu “Năm Long Hưng thứ mười bốn,” lạnh lùng hỏi: “Vì sao a huynh ta lại bị chôn ngoài cửa Thông Hóa?”

Người sau lưng vẫn không đáp, nàng lại hỏi: “Bọn họ nói, vì muốn báo tin tới cung Đại Minh nên a huynh ta mới bị sơn tặc giết hại. Có đúng không?”

Thôi Tuần vẫn im lặng, Thịnh A Man bật cười: “Sơn tặc gì mà dám giết Ngu hầu của Thiên Uy quân? Sơn tặc nào mà dám chôn người giữa quan đạo?”

Thôi Tuần gầy guộc tựa như thân trúc, cuối cùng cũng khó nhọc thốt ra: “Cứ xem như là sơn tặc đi.”

Nghe vậy, Thịnh A Man lảo đảo đứng dậy, mắt đỏ như quả đào: “Thôi Tuần, ta hỏi ngươi một lần nữa, có phải là sơn tặc không?”

Thôi Tuần nhìn nàng, bàn tay trong tay áo siết chặt rồi buông lỏng, ánh mắt trở lại tĩnh lặng như đầm nước, giọng nhẹ nhưng kiên định: “Phải.”

Thịnh A Man cười lạnh: “Sơn tặc… Sơn tặc…”

Nàng lẩm bẩm vài câu, rồi nhìn Thôi Tuần: “Được, ta không còn gì để nói với ngươi nữa.”

Nàng cúi xuống nhặt chiếc hộp gỗ bên đống tro, mở ra, bên trong đầy ắp tiền đồng.

Giọng Thịnh A Man bình thản: “Người ta bảo số tiền này là bạn của a huynh cho ta. Ngoài ngươi ra, a huynh ta lấy đâu ra người bạn nào hào phóng như vậy? Nên, là ngươi đưa, đúng không?”

Thôi Tuần chưa kịp trả lời, Thịnh A Man đã ném chiếc hộp đi, tiền đồng rơi rào rào xuống đất, nàng nói: “Ta không cần.”

Nàng lấy từ trong tay áo ra một thỏi vàng rực rỡ: “Quản sự giáo phường nói có người muốn chuộc thân cho ta, cũng là ngươi đưa đúng không? Ta cũng không cần.”

Nàng buông tay, thỏi vàng rơi xuống đất, phát ra tiếng va chạm trầm đục. Nhìn gương mặt tái nhợt như tuyết mà vẫn thanh tú như hoa sen của Thôi Tuần, Thịnh A Man cười nhạt: “Kỳ lạ thật, trước đây ta đã từng thích một kẻ như ngươi, giờ nghĩ lại, chỉ thấy thật ghê tởm.”

Nàng bước qua những đồng tiền trên đất, khi đi ngang qua Thôi Tuần, nàng dừng lại: “Ta không biết ngươi làm sao còn mặt mũi đến trước mộ a huynh ta, nhưng ngươi muốn đến thì cứ đến. A huynh ta chết vì trung nghĩa, ngươi hãy ngắm quan tài của huynh ấy thật kỹ, rồi tự vấn xem chính mình sống nhục nhã thế nào.”

Nói xong, nàng không thèm nhìn hắn, rảo bước rời đi.

Mãi đến khi Thịnh A Man đi xa Thôi Tuần mới ngước nhìn quan tài của Thịnh Vân Đình. Quan tài lẻ loi nằm trong căn lều rách nát, khác biệt với những ngôi mộ cao lớn xung quanh. Người khác đều có thể an táng, chỉ riêng y là không.

Thôi Tuần cúi đầu, lấy ra một chiếc bình lưu ly màu xanh từ trong tay áo rồi mở nắp, mùi rượu nồng nàn lan tỏa. Hắn đổ rượu trước mộ Thịnh Vân Đình, nhìn bia mộ khắc tên y, ánh mắt thoáng qua sự bối rối. Cổ họng hắn khẽ động, dường như có rất nhiều điều muốn nói, nhưng cuối cùng, hắn lại chẳng thốt nên lời.

Hắn lặng lẽ đặt chiếc bình xuống trước mộ, cúi người nhặt chiếc hộp gỗ lên. Sau đó, hắn lại nhặt từng đồng tiền rơi vãi trên đất, cẩn thận bỏ lại vào hộp.

Bất ngờ, một bàn tay mềm mại trắng trẻo cũng cúi xuống nhặt tiền. Hai người chạm tay vào nhau, Thôi Tuần ngẩng đầu, thấy đó là Lý Doanh.

Lý Doanh đến cùng lúc với Thôi Tuần, nhưng khi hắn trò chuyện với Thịnh A Man, nàng chỉ đứng sau gốc cây, lặng lẽ quan sát. Chỉ đến lúc này, nàng mới bước ra. Thấy Lý Doanh, Thôi Tuần không nói gì, cúi đầu tiếp tục nhặt tiền.

Lý Doanh cũng không nói gì, nàng chăm chú nhặt tiền. Đột nhiên, tay nàng chạm vào thỏi vàng mà Thịnh A Man vứt bỏ. Thỏi vàng này, trông có vẻ quen thuộc.

Nàng còn chưa kịp suy nghĩ, thì bên tai đã vang lên giọng nói trầm khàn của Thôi Tuần: “Đây là vàng mà cô đã tìm Ngư Phù Nguy đổi lấy.”

Nhưng chẳng phải toàn bộ số tiền ấy đều được đưa cho tiểu lại của Đại Lý Tự, hối lộ hắn nhằm lấy hồ sơ vụ án hay sao?

Giọng Thôi Tuần rất nhẹ: “Cô đưa cho ta chín thỏi vàng, nhưng ta chỉ dùng một thỏi cho Tào Khôn ở Đại Lý Tự, số còn lại… ta giữ.”

Lý Doanh thoáng sững sờ. Nàng ngẩng lên, thấy Thôi Tuần đang cúi mình nhặt tiền đồng, không dám nhìn thẳng vào mắt nàng.

“Ta sẽ trả lại cho cô.” Hắn thì thào.

Lý Doanh nhoẻn cười, nàng nhặt thỏi vàng lên, đứng thẳng người, hỏi Thôi Tuần: “Thôi Tuần, ngài đã dùng số vàng còn lại vào việc gì?”

Thôi Tuần nhét đồng tiền vào trong hộp gỗ, vẫn không dám nhìn thẳng vào mắt nàng, cúi đầu nhặt tiếp tiền đồng, lặp lại: “Ta sẽ trả lại cho cô.”

Lý Doanh lắc đầu: “Ta không cần ngài trả. Ta chỉ muốn biết, tám thỏi vàng đó, ngài đã làm gì với chúng?”

Ngón tay Thôi Tuần siết chặt miệng hộp, hắn không trả lời, mà trốn tránh ánh mắt của nàng, tiếp tục nhặt tiền đồng. Lý Doanh thở dài, giọng không trách móc, ngược lại rất dịu dàng: “Thôi Tuần, thật ra ta đã đoán được ngài dùng số vàng đó làm gì. Nhưng ta muốn nghe chính ngài nói.”

Thôi Tuần cảm nhận được sự ấm áp trong giọng nói của nàng, tay hắn đang nhặt tiền chợt khựng lại: “Ta…”

Nhưng nửa câu sau, hắn vẫn không thể thốt ra.

“Thôi Tuần, nói ra đi.” Lý Doanh khích lệ hắn: “Ta muốn nghe ngài kể.”

“Ta…” Thôi Tuần ngập ngừng một lúc, cuối cùng cũng đứng thẳng người, đôi tay đang cầm hộp gỗ bỗng run rẩy, hắn cúi đầu, nói ra từng chữ một cách khó nhọc: “Ta… đã đem số vàng ấy cho gia quyến của Thiên Uy quân.”

Lý Doanh mỉm cười, bên cạnh nàng là một cây nghênh xuân hoa đang nở rộ, nàng đứng dưới tán hoa vàng nhạt, những bông hoa rực rỡ như ngàn ngôi sao, chiếu sáng cả thế gian: “Thôi Tuần, ngài đã làm một việc tốt như thế, tại sao không dám nói ra?”

Thôi Tuần kinh ngạc ngẩng đầu lên, do dự nói: “Cô không trách ta vì đã tự ý giữ vàng của cô sao?”

“Trách ngài làm gì? Thay vì đưa chín thỏi vàng cho một tiểu lại tham lam, chẳng phải đem giúp đỡ những người cần giúp sẽ tốt hơn sao? Ta không chỉ không trách ngài, mà còn cảm thấy rất vui, vì dù ta đã chết ba mươi năm, vẫn có thể giúp đỡ được người khác.” Lý Doanh nhìn Thôi Tuần, đôi môi khẽ nhếch, nụ cười tươi tắn dịu dàng, nàng chân thành nói: “Giúp đỡ người khác, ngài nói xem, ta có nên cảm thấy vui không?”

Thôi Tuần ngẩn ngơ nhìn nàng, hồi lâu mới quay đi, thì thào đáp: “Đúng vậy…”

“Huống chi, ngài cũng không hề chiếm đoạt của ta” Lý Doanh nhớ lại cách bài trí trong phủ của Thôi Tuần. Những viên quan quyền cao chức trọng như hắn, phủ đệ thường xa hoa lộng lẫy, không chỉ nuôi nhiều nô lệ người Côn Luân hay Tân La mà còn thích những mỹ vị như sơn dương mật gấu, ở thì phải ở trong những phòng lát ngọc thạch, lò sưởi dùng gỗ đàn hương trắng. Thế nhưng phủ của Thôi Tuần lại giản dị đến mức khiến người ta bất ngờ, chuyện ăn uống sinh hoạt cũng cực kỳ đơn giản. Nàng nói: “Trong phủ của ngài, ngoài đồ vật do a nương ban thưởng, gần như chẳng có gì đáng giá. Bao năm qua, bổng lộc của ngài đều dùng để lo liệu cho gia quyến của Thiên Uy quân, có đúng không?”

Thôi Tuần nghe vậy, không khỏi sững sờ nhìn nàng, Lý Doanh lại nhẹ giọng hỏi: “Thôi Tuần, những năm qua, ngài vất vả lắm phải không?”

Yết hầu Thôi Tuần khẽ động, tròng mắt hình như ấm lên, hắn cúi đầu: “Không… đã sáu năm rồi… gia quyến của họ, mỗi năm một ít đi, giờ cũng chẳng còn lại bao nhiêu người nữa…”

Lý Doanh mỉm cười, nàng bước lên một bước, đặt thỏi vàng trong tay vào hộp gỗ của Thôi Tuần: “Thôi Tuần, ta có rất nhiều, rất nhiều vàng, ta đều đưa hết cho ngài, ngài hãy dùng để giúp họ đi.”

Nàng ngẩng đầu, nhìn Thôi Tuần, giọng nói như gió xuân lướt nhẹ qua sườn mặt: “Thôi Tuần, sau này, khi ngài làm việc tốt, đừng ngại nói ra, ngài đã gánh vác cuộc sống của gia quyến năm vạn Thiên Uy quân, điều đó thật đáng tự hào biết bao. Đừng vì người khác trách móc mà ngại nói ra, nếu ngài sợ không ai nghe, thì nói cho ta nghe, ta thích nghe mà.”

Khuôn mặt nàng rạng ngời như ánh mặt trời ấm áp giữa ngày xuân, Thôi Tuần khoác chiếc áo choàng đen, cơn gió ấm thổi qua người hắn, khiến tứ chi lạnh lẽo và mệt mỏi như dần ấm lại. Hắn nhìn khuôn mặt xinh đẹp của nàng, gật nhẹ đầu: “Ừm…”

Cả hai nhặt hết đồng tiền, đóng lại hộp gỗ rồi ngồi xuống nghỉ ngơi.

Trước mộ phần là một hồ cá trải dài, trong veo như ngọc bích, dưới đáy nước, đàn cá bơi lượn giữa đám tảo, tung tăng vui đùa. Xa xa là núi xanh như phấn vẽ, mây trắng bồng bềnh như thơ. Lý Doanh ngồi bên bờ hồ, chân nàng buông thõng: “A Man chọn nơi này, tốt hơn dưới quan đạo.”

Thôi Tuần cũng im lặng ngồi bên cạnh, nhưng vẻ mặt hắn hơi buồn bã: “Nếu có thể an táng… sẽ tốt hơn…”

“Sẽ có ngày ấy thôi.” Lý Doanh nói.

Gió xuân nhè nhẹ mang theo hương thơm của hoa nghênh xuân. Hai người cùng nhìn ngắm cảnh non xanh nước biếc, cá lội rong rêu. Lý Doanh đột nhiên hỏi: “Vết thương của ngài… vừa rồi không bị rách ra chứ?”

Ngày đó, Thôi Tuần đào được hài cốt của Thịnh Vân Đình giữa cơn mưa, đau đớn đến mức thổ huyết, vết thương sau lưng bị roi đánh toàn bộ nứt toác. Về phủ, quả nhiên đổ bệnh nặng, nhưng ngoài dự liệu, Thái hậu cùng Thánh nhân không trách tội về việc hắn tự ý đào bới quan đạo, nhờ vậy, hắn mới được ở lại phủ dưỡng thương. Suốt thời gian đó, Lý Doanh cẩn thận chăm sóc hắn từng ly từng tí, kéo hắn trở về từ cửa tử.

Thôi Tuần đáp: “Không sao.”

Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm: “Ta thật sợ ngày đến mộ phần của Thịnh Vân Đình, sẽ lại tái diễn chuyện đêm mưa ấy.” Nàng đếm ngón tay: “Một lần phạt trượng, một lần dầm mưa, ta không muốn phải kéo ngài về lần thứ ba đâu.”

Nàng nghiêng đầu, ánh mắt hiện lên vẻ tinh nghịch khó thấy ở một thiếu nữ mười sáu tuổi: “Mệt lắm đấy.”

Thôi Tuần không khỏi bật cười, khóe miệng nhếch lên, trong mắt không còn vẻ u uất mà thay bằng sắc màu ấm, sáng như ráng chiều sau cơn mưa, khiến khung cảnh xung quanh cũng trở nên lu mờ. Lý Doanh lặng lẽ nhìn hắn một lúc, sau đó mới quay đầu, mỉm cười nhàn nhạt.

Cơn gió nhẹ thoảng qua mang theo hương hoa nghênh xuân thanh khiết. Như chợt nhớ ra điều gì, Lý Doanh nói: “Ta có thứ này muốn đưa cho ngài.”

“Thứ gì?”

Lý Doanh mở chiếc túi gấm ngũ sắc thêu hoa mẫu đơn, lấy ra một quả cầu bạc chạm vàng tinh xảo. Quả cầu này giống hệt với chiếc nàng đã tặng cho Thôi Tuần lần trước. Nàng đưa nó cho hắn: “Đây này, ta đã thêm vào bạch chỉ, xạ hương, mộc hương, trầm hương, có thể giúp tán hàn giảm đau.”

Nàng không hỏi quả cầu hương lần trước đã đi đâu, chỉ thấy Thôi Tuần ngơ ngác nhìn vật trong tay nàng, im lặng trong chốc lát rồi mới nói: “Cô… vẫn sẵn lòng làm hương cầu cho ta sao?”

“Tại sao lại không?” Lý Doanh nhẹ nhàng đáp, “Ta đã quyết định tin ngài thêm một lần nữa, tất nhiên sẽ toàn tâm đối đãi, cũng không bận lòng những chuyện trước kia. Nếu không, chẳng phải đã tự làm khổ mình sao?”

Bàn tay nàng mở ra, trắng mịn như ngọc dương chi thượng hạng, tỏa ra hơi ấm dịu dàng. Thôi Tuần trầm mặc một lúc, rồi từ từ cầm lấy quả cầu hương chạm vàng từ lòng bàn tay nàng: “Quả cầu hương lần trước…”

Hắn ngập ngừng, giọng trầm lặng: “Đã không còn nữa…”

Thôi Tuần cẩn thận buộc dây bạc của quả cầu hương vào đai lưng, động tác thận trọng và chân thành: “Nhưng, chiếc này sẽ không mất đâu.”

Đôi mắt Lý Doanh trong suốt như làn nước hồ thu, nàng nhìn hắn rồi mỉm cười: “Được.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 31: Bạch y Khanh tướng



Dương xuân tháng ba, vạn vật hồi sinh.

Tại tây thị Trường An, thương nhân tụ hội, người qua lại như mắc cửi. Một tửu quán gần đại lộ Chu Tước vô cùng náo nhiệt, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng cười nói của các vũ nữ Hồ tộc và thực khách. Bên ngoài tửu quán, một thương nhân Hồ tóc vàng dắt theo lạc đà chở đầy hàng hóa chậm rãi đi qua. Trên nhã tọa tầng hai của tửu quán, hai vị lang quân trẻ tuổi trong thường phục sắc hồng ngồi đối diện nhau, vừa thưởng thức khung cảnh phồn hoa của đại lộ Chu Tước, vừa uống rượu đàm đạo.

Không biết hai người đã bàn đến chuyện gì, một người trẻ tuổi, khí phách mạnh mẽ bỗng giận dữ đập mạnh chén rượu xuống bàn: “Thôi Tuần ngang nhiên đào xới quan đạo, ta đã dâng mười phong tấu chương buộc tội hắn, nhưng đều như đá chìm đáy biển, thật đáng giận!”

Vị lang quân ấy chính là Quốc tử Tư nghiệp Lư Hoài, người từng không phục Thôi Tuần tại yến tiệc trừ tịch. Nay, hắn đã được điều nhiệm làm Đại Lý Tự Thiếu khanh. Công việc đầu tiên sau khi nhậm chức, là gửi tặng Thôi Tuần một vò rượu hình hoa sen khắc đầu phượng để châm biếm.

Người đối diện hắn là Hoàng môn Thị lang, [1] Vương Huyên, người từng chế nhạo Thôi Tuần lấy sắc thờ người, sắc suy tình mỏng. Hắn dùng giọng điệu ôn hòa, khuyên nhủ: “Hoài Tín, ta khuyên ngài không nên dâng tấu nữa. Thái hậu căn bản không có ý muốn trị tội Thôi Tuần.”

[1] Thị lang là phó quan, đứng sau Thị trung. Hoàng môn Thị lang là phó quan của Môn hạ tỉnh, phụ trách kiểm tra phân loại tấu chương của triều thần; phúc thẩm các chiếu, sắc của Trung thư tỉnh. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 32: Nàng mang trong mình một sức mạnh làm an lòng người



Lúc này, Thôi Tụng Thanh vừa nhập kinh, lần thứ hai được phong làm Thượng thư Hữu bộc xạ, chức vị ngang hàng Tể tướng. Ông ta một lòng vì nước, danh vọng trong triều và dân gian đều cực kỳ cao. Vì vậy, lần tái nhiệm này hầu như không gặp bất kỳ trở ngại nào. Bách tính truyền tai nhau, nói rằng cuối cùng Thái hậu cũng không còn bị Thôi Tuần mê hoặc. Nay Thánh nhân có Thôi tướng công và Lư tướng công phò tá, Đại Chu tất sẽ đạt tới cảnh thịnh thế thái bình, biển lặng nước trong.

Trong Thôi phủ, Lý Doanh vừa băng bó vòng vải lụa trắng cuối cùng cho Thôi Tuần, rồi quay lưng đi, không nhìn đến những vết sẹo chằng chịt trên người hắn. Nàng bưng chậu đồng đặt trên án, nói: “Ta ra ngoài trước. Ngài mặc áo cẩn thận, đừng để động đến vết thương.”

Phía sau, tiếng “Ừ” khẽ khàng của hắn truyền đến, Lý Doanh bưng chậu đồng ra giếng, bắt đầu giặt sạch dải lụa đã dùng.

Nàng vốn là một tiểu công chúa ngọc ngà cao quý, chưa từng phải làm những công việc này. Nhưng việc giặt lụa cũng không phải điều gì quá khó khăn; không cần học nàng cũng biết làm. Nàng cũng chưa bao giờ nghĩ vì mình là công chúa mà làm những việc này là hạ thấp thân phận. Thân phận công chúa là vinh quang nàng có từ khi sinh ra, không phải gông cùm trói buộc nàng tiến bước.

Dưới cửa sổ, Thôi Tuần đang khoác lên lớp áo ngoài cuối cùng. Dù hắn rất cẩn thận, nhưng vẫn không tránh khỏi làm động đến vết thương. Đau đớn khiến hắn hơi nhíu mày, nhưng ánh mắt lại vô thức dõi về phía bóng dáng mảnh mai đang ngồi xổm giặt lụa ngoài cửa sổ.

Hắn yên lặng ngắm nàng. Đột nhiên, nỗi đau từ những vết thương dường như tan biến. Nàng mang một loại sức mạnh khiến người ta bình tâm, làm dịu đi mọi giông tố trong lòng. Kẻ yếu nhược như Trịnh Quân là vậy, kẻ âm trầm như hắn, cũng không ngoại lệ.

Tiên đế chọn Trịnh Quân làm phò mã, có lẽ ôm lòng muốn nếu cải cách thất bại, Trịnh gia sẽ bảo vệ nàng. Nhưng thực ra, nàng chẳng cần ai bảo vệ. Tâm tính nàng kiên cường hơn bất cứ ai. Dù không còn thân phận công chúa, không cha mẹ, không nhà chồng, nàng vẫn có thể sống tốt.



Khi Lý Doanh giặt xong dải lụa, nàng đứng thẳng người, xoay đầu lại thì thấy Thôi Tuần đã mặc xong y phục, quỳ ngồi dưới cửa sổ. Trước cửa sổ, một nhánh hải đường vươn mình qua khung gỗ, những cánh hoa đỏ thắm tầng tầng lớp lớp như ráng chiều. Bên dưới tán hoa, gương mặt nghiêng của Thôi Tuần ẩn hiện mờ mờ, tựa băng ngọc, làm lu mờ cả sắc hoa rực rỡ.

Cảnh đẹp đến vậy, bước chân của Lý Doanh cũng bất giác chậm lại. Nàng thầm nghĩ, Thôi Tuần được gọi là Liên Hoa Lang quả không sai, nhưng dù là hoa sen rực rỡ, cũng không thể sánh bằng hắn.

Có lẽ cảm nhận được nàng đến gần, Thôi Tuần hơi nghiêng đầu. Đôi mắt đen như mực của hắn nhìn nàng, khiến tim nàng bất giác lỡ nhịp. Lý Doanh vội cúi đầu, giấu đi sắc đỏ thoáng qua trên gương mặt, rồi bước nhanh vào phòng ngủ.

Nàng ngồi đối diện hắn, thấy hắn đưa tới một chồng giấy trắng dày. Nàng đón lấy: “Đây là gì?”

“Sổ ghi chép việc ra vào của cung nữ bên cạnh Thái hậu.”

Lý Doanh kinh ngạc: “Chẳng phải đã bị tra xét và thu giữ rồi sao?”

Lời vừa dứt, nàng liền nhận ra điểm khác thường. Trước đó, sổ ghi chép lấy được từ Nội thị tỉnh là trên thẻ tre, nhưng bản này viết trên giấy gai trắng, nét chữ tiểu khải ngay ngắn, nhỏ nhắn quen thuộc. Thôi Tuần gật đầu: “Bản này do ta sao chép lại.”

Lý Doanh nhìn vết mực còn chưa khô hẳn: “Ngài chép từ khi nào?”

“Vài ngày qua.”

Lý Doanh ngẩng đầu nhìn hắn. Gương mặt hắn xanh xao tái nhợt, chẳng trách những ngày qua khi thay thuốc, nàng nhận thấy vết thương của hắn hồi phục rất chậm. Ban đêm, ánh sáng đèn từ cửa sổ vẫn luôn mờ mờ. Vì thế nàng nói: “Ngài còn chưa khỏi hẳn, viết chữ thế này sẽ động đến vết thương, không đau sao?”

Hắn lắc đầu: “Không đau.”

Lý Doanh thở dài một tiếng. Làm sao có thể không đau? Ai trên đời này không sợ đau? Chỉ là hắn đã quen nhẫn nhịn, không bao giờ chịu nói ra mà thôi.

“Dù có chép cũng không cần làm ngay như vậy, nhất là trong mấy ngày qua.”

“Sổ gốc đã bị tịch thu, ta sợ để lâu, trí nhớ sẽ phai nhạt.”

Lý Doanh lật qua từng trang, tất cả đều rất chính xác, không sai một chữ. Nàng càng xem càng cảm thấy áy náy.

“Ngài bị thương nặng thế này, còn hao tổn tâm trí vì ta mà làm những việc này, thực sự ta cảm thấy ngại lắm.”

Đôi mắt nàng cụp xuống, hàng mi dài run nhẹ, trên gương mặt thanh tú hiện lên nét lo lắng. Nàng thực lòng lo cho hắn. Thôi Tuần nhìn nàng chăm chú, hồi lâu mới thu lại ánh mắt.

“Không cần áy náy. Ta làm những việc này…” Hắn ngừng một chút, “… không phải vì cô.”

Lý Doanh sửng sốt, ngẩng đầu nhìn hắn.

Thôi Tuần nói tiếp: “Ta làm vì Vân Đình.”

“Thịnh Vân Đình?”

Hắn gật đầu: “Là bằng hữu chí cốt của ta. Nếu không có cô giúp đỡ, hài cốt của Vân Đình đã mục nát dưới quan đạo. Vì tình vì nghĩa ta đều phải cảm tạ cô.”

Lý Doanh mím môi, cõi lòng áy náy tựa hồ được giãn ra đôi chút, nhưng lại mang theo cảm giác bâng khuâng khó hiểu. Nàng siết nhẹ tay đang cầm tờ giấy gai trắng, thấp giọng: “A nương không cho ngài điều tra tiếp, ngài còn chép những thứ này làm gì. Nếu để a nương phát hiện, vậy phải làm sao?”

Nàng tuy trong lòng canh cánh muốn tra rõ chân tướng, nhưng kể từ khi thấy hắn bị mẫu thân trách phạt đến mất nửa mạng, nàng lại không muốn hắn điều tra nữa. Việc có đi hay không là chuyện của riêng nàng, nàng không muốn hắn bị liên lụy.

Thôi Tuần lại nói: “Cô yên tâm, Thái hậu sẽ không giết ta.”

Lý Doanh có chút không hiểu: “Tại sao ngài lại chắc chắn như vậy?”

“Lần trước lăng mộ của cô bị hủy hoại, Thái hậu cũng không giết ta, lần sau, bà ấy cũng sẽ không giết ta.”

Lý Doanh suy nghĩ một lát, hỏi: “Có phải a nương vẫn cần ngài giúp việc cho bà ấy?”

Câu trả lời trong lòng hắn không phải như vậy, nhưng hắn vẫn gật đầu. Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm: “Vậy thì ta yên tâm đôi chút rồi.”

Nói xong, nàng lại có chút do dự: “Nhưng nếu lại bị phạt trượng trăm roi… thì đâu có được…”

Hắn đáp: “Vậy phiền cô, chăm sóc ta lần nữa.”

Thôi Tuần xưa nay lãnh đạm, rất ít khi nói ra những lời xem như yếu thế nhưng thực chất lại để xoa dịu bầu không khí. Thế mà khi nói lời này, nét mặt hắn vẫn điềm nhiên như thường, giọng điệu cũng không chút biến đổi, khiến Lý Doanh không nhịn được mà bật cười khúc khích. Từ sau khi tỉnh lại ở hồ sen, đây là lần đầu tiên nàng cười thoải mái đến vậy.

Chân mày vốn nhíu chặt của nàng dần giãn ra, dưới ánh dương ấm áp lọt qua song cửa, gương mặt trắng như ngọc của nàng tựa hồ được phủ lên một tầng ánh sáng dịu nhẹ như minh châu. Thôi Tuần bất giác cong khóe môi. Hắn cúi đầu, từ tay nàng cầm lấy một tờ giấy gai trắng: “Chỉ là, tối qua khi sao chép, ta phát hiện ra một thứ.”

“Phát hiện gì?”

Hắn định mở lời, thì đột nhiên cửa lớn phủ đệ bị người ta đạp mạnh, tiếp đó là một toán binh sĩ xông vào. Lý Doanh còn chưa kịp phản ứng thì đã thấy một nam nhân vận quan bào đỏ thẫm, diện mạo anh tuấn, ung dung bước vào sân.

Khi thấy người đó, Thôi Tuần lại không tỏ ra ngạc nhiên, tựa hồ đã sớm đoán trước hắn sẽ đến.

Hắn quay sang nàng, thản nhiên nói: “Đó là Thẩm Khuyết.”

Thẩm Khuyết?

Chẳng phải là con trai út của a di, biểu đệ của nàng, Thẩm Khuyết sao?

Lý Doanh bất giác nhìn về phía hắn. Thẩm Khuyết mặt vuông, mày rậm, mắt sáng như sao, giữa chân mày có vài nét phảng phất giống a di và biểu tỷ, nhưng khác biệt ở chỗ, a di và biểu tỷ hòa nhã khiêm tốn, còn hắn thì tỏ ra kiêu ngạo ngông cuồng, chẳng khác nào những đường huynh đường đệ bị chiều chuộng đến hư hỏng của nàng.

Huống hồ, Thịnh Vân Đình lại do chính tay hắn sát hại, nên dù Thẩm Khuyết là biểu đệ của nàng, Lý Doanh vẫn không khỏi sinh lòng chán ghét. Nàng thấy hắn hùng hổ đến đây, trong lòng vô cùng lo lắng cho Thôi Tuần: “Thôi Tuần…”

Hắn tựa hồ nhận ra nỗi lo trong mắt nàng, nhẹ giọng trấn an: “Không sao.”

Hắn đứng dậy, bước ra ngoài, thần sắc lạnh nhạt: “Thẩm tướng quân đại giá quang lâm, chẳng hay là có việc quan trọng gì?”

“Chẳng có việc quan trọng nào cả,” Thẩm Khuyết cười nhạt, “chỉ là đến đây để giết một con chó rơi xuống nước mà thôi.”

Thôi Tuần vẫn giữ nét mặt bình thản: “Ngươi nhận thánh chỉ, hay nhận lệnh của Thái hậu?”

“Không phải thánh chỉ, cũng chẳng phải lệnh của Thái hậu,” Thẩm Khuyết chậm rãi nói, “là ta, Thẩm Khuyết, muốn giết ngươi.”

Hắn phất tay, đám binh sĩ sau lưng lập tức xông lên, tay cầm đao kiếm, vây chặt lấy Thôi Tuần.

Bị đao kiếm bao quanh, hắn không sợ hãi, chỉ nhàn nhạt nói: “Thánh nhân và Thái hậu chưa hạ chỉ, ta xem các ngươi ai dám động đến ta?”

Giọng hắn tuy bình thản, nhưng khi thốt ra lại khiến người nghe không khỏi lạnh sống lưng. Đám binh sĩ cầm đao nhìn nhau, nhớ đến thủ đoạn tàn nhẫn của hắn trong ba năm qua, nhớ đến những hình cụ tàn khốc ở Sát Sự Thính, nhớ đến thi thể của Vương Lương bị chó hoang gặm nhấm. Cả bọn bất giác run rẩy, đồng loạt lùi một bước.

Thẩm Khuyết nổi giận, quất roi vào một binh sĩ gần nhất, khiến trên mặt hắn lập tức xuất hiện một vết máu dài. Thẩm Khuyết lại đá hắn văng ra: “Đồ vô dụng!”

Hắn sải bước về phía Thôi Tuần: “Thôi Tuần, đồ chó nhà ngươi, còn dám mượn thế Thái hậu mà làm càn sao? Ngươi chẳng qua là một con chó rơi xuống nước đã bị cách chức! Giết ngươi chẳng khác gì b*p ch*t một con kiến!”

Thôi Tuần cười khẩy: “Vậy ngươi thử xem.”

Lời nói dường như không hề đặt Thẩm Khuyết vào mắt.

Thẩm Khuyết tức đến mức giậm chân. Hắn nhớ lại ba năm qua, người này lần nào cũng chống đối hắn, ngay cả việc nhỏ như thu chút lợi lộc của thương nhân người Hồ, Thôi Tuần cũng có thể thổi phồng thành chuyện lớn, nói hắn cấu kết Hồ nhân mưu phản, suýt nữa bắt hắn vào Sát Sự Thính chịu cực hình. Nghĩ đến đây, Thẩm Khuyết càng căm hận.

Hắn rút kiếm bên hông, kề sát cổ Thôi Tuần, gằn giọng: “Thôi Tuần, đồ chó, ngươi thật sự nghĩ ta không dám giết ngươi sao?”

Hắn thậm chí không ngẩng đầu, chỉ lạnh nhạt mỉa mai: “Làm chuyện ngu ngốc như giết người, lại để Bùi Quan Nhạc xúi giục, xem ra quan hệ giữa các ngươi không gì có thể phá vỡ nổi.”

Thẩm Khuyết ngẩn người, sau đó cười nhạo: “Thôi Tuần, ngươi đừng tưởng có thể châm ngòi ly gián! Ta nói cho ngươi hay, cho dù hôm nay ta lấy mạng ngươi, Thái hậu cũng sẽ không trách phạt ta. Ai bảo ta là cháu trai bà ta, ai bảo bà ta thiếu nợ mẹ ta kia chứ.”

Dứt lời, hắn giơ bội đao lên, toan chặt cổ Thôi Tuần. Lý Doanh kinh hãi, ngọn quỷ hỏa màu xanh lục trong tay nàng thoáng hiện ra. Cho dù bị phản phệ, nàng cũng muốn cứu Thôi Tuần.

Thôi Tuần vẫn điềm tĩnh đứng trước mặt, ánh mắt không chút dao động, dù trước mặt là lưỡi đao sắc bén của kẻ địch. Tuy nhiên, khi lưỡi đao kia vừa giơ lên chuẩn bị giáng xuống, bỗng một tiếng quát vang lên từ phía sau:

“Dừng tay!”

Thanh âm trầm lạnh ấy làm cả sân viện đều im lặng. Thẩm Khuyết lập tức dừng động tác, lưỡi đao dừng lơ lửng trên không. Hắn quay đầu nhìn lại, hóa ra là tân nhiệm Thượng thư Hữu bộc xạ: Thôi Tụng Thanh.

Thẩm Khuyết nhíu mày không cam lòng, lớn tiếng hỏi: “Thôi tướng công, ta biết Thôi Tuần là cháu ruột của ngài, nhưng chẳng lẽ ngài đến đây để bao che hắn?”

Thôi Tụng Thanh ánh mắt lạnh lùng liếc qua hắn một cái, giọng điệu không chút cảm tình: “Cho dù Thôi Tuần không phải cháu ta, Thẩm tướng quân cũng không thể vô cớ giết người.”

Thẩm Khuyết vẫn không chịu nhượng bộ: “Ta giết Thôi Tuần, là ý nguyện của dân chúng!”

Thôi Tụng Thanh nghe vậy, khẽ nhếch môi mỉa mai: “Nếu chỉ cần ý nguyện của dân chúng là có thể giết người, tính mạng của Thẩm tướng quân e rằng cũng khó giữ nổi qua ngày hôm nay.”

Thẩm Khuyết nghe xong bị nghẹn họng, không thể nói thêm lời nào. Thôi Tụng Thanh tay chắp sau lưng, lạnh nhạt tiếp lời: “Biến đi. Chỉ cần ta, Thôi Tụng Thanh, còn đứng ở Trường An một ngày, không ai được phép động vào Thôi Tuần.”

Thẩm Khuyết đành nghiến răng, hung hăng liếc nhìn Thôi Tụng Thanh một cái, sau đó giận dữ rời đi.

Khi Thẩm Khuyết đã đi, Thôi Tụng Thanh vẫn đứng nguyên trước cổng chính, không chịu bước vào bên trong một bước.

Thôi Tuần đứng lặng hồi lâu, sau đó bước tới, cúi người hành lễ: “Bá phụ.”

Hành lễ xong, hắn từ tốn đứng thẳng người, nhưng ánh mắt của Thôi Tụng Thanh chỉ toàn sự chán ghét, như thể đang nhìn một kẻ không đáng tồn tại.

Sau một lúc lâu, Thôi Tụng Thanh lạnh lùng lên tiếng: “Sao ngươi không chết ở Đột Quyết?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 33: Có lẽ Vong Tử Thành còn sạch hơn cõi trần gian



Thôi Tuần ngẩn người.

Thôi Tụng Thanh hờ hững cất tiếng: “Ngươi mất mẹ từ năm ba tuổi, sau khi phụ thân tục huyền, ngươi không hòa hợp với mẹ kế và các huynh đệ. Có lần vì đứa em cùng cha khác mẹ đặt biệt danh cho ngươi là “Liên Hoa Lang”, ngươi đã đánh nó đến chảy máu đầu. Phụ thân ghét bỏ ngươi, cho rằng ngươi ngỗ nghịch phóng túng, tính khí thất thường. Nhưng ta lại nghĩ rằng bản tính của ngươi như vậy, tất cũng do hoàn cảnh mà ra. Huống hồ, ngươi văn thao võ lược, chính là người kiệt xuất nhất của Thôi gia ta. Nếu có thời gian rèn luyện, chắc chắn sẽ trở thành trụ cột của Đại Chu. Ta trân quý tài năng của ngươi, nhưng không thể can thiệp vào chuyện nhà ngươi, đành viết thư tiến cử ngươi cho Quách Cần Uy, chủ soái Thiên Uy quân, vào năm ngươi mười bốn tuổi. Quách Cần Uy tuy xuất thân hàn môn, nhưng yêu thương binh sĩ, trí dũng song toàn. Ta nghĩ, nếu được người như ông ta tôi luyện, ngươi ắt sẽ mài dũa thành tài, đạt được hoài bão.”

Thôi Tuần nghe đến đây, đầu càng cúi thấp hơn. Giọng của Thôi Tụng Thanh ngày càng lạnh lùng: “Nhưng ngươi thì sao? Ngươi đã làm gì? Trong trận Lạc Nhạn Lĩnh, Quách Cần Uy tuy quyết sách sai lầm, mất thành mất đất, nhưng ông ta vẫn lấy cái chết để bảo toàn danh tiết. Những binh sĩ khác của Thiên Uy quân không chịu bị bắt, đều quyết chiến đến cùng. Nếu kết cục dừng lại ở đó, Thiên Uy quân còn có thể nhận được sự thương cảm “tội đáng chém, tình đáng thương”. Còn ngươi, vì muốn sống sót, lại đầu hàng Đột Quyết, khiến sử quan đến cả lời cảm thông cũng không thể hạ bút nổi. Vậy nên, Thôi Tuần, tại sao ngươi không tự sát? Tại sao ngươi không chết ở Đột Quyết đi?”

Từng lời chất vấn của Thôi Tụng Thanh như những lưỡi dao, Thôi Tuần đột nhiên ngẩng đầu lên. Hắn nhìn người trưởng bối mà hắn tôn kính nhất, ánh mắt thoáng qua sự mơ hồ. Hắn cố gắng nói điều gì đó, nhưng cuối cùng chỉ khó nhọc thốt ra: “Ngay cả con kiến cũng có thể sống tạm bợ, tại sao ta lại không thể sống?”

Thôi Tụng Thanh cười giận: “Tốt! Một câu “con kiến cũng có thể sống tạm bợ”! Hay! Hay lắm! Là ta nhìn nhầm người! Không ngờ Thôi thị Bác Lăng lại sinh ra kẻ ham sống sợ chết như ngươi.”

Thôi Tuần ánh mắt ngày càng mơ hồ: “Mỗi người đều có đạo của riêng mình. Đạo của bá phụ là thúc đẩy tân chính, ổn định quốc gia, vì điều đó không tiếc trở mặt với thân bằng quyến thuộc, sống cuộc đời thanh bần. Còn ta, ta cũng có đạo của ta. Trước khi hoàn thành đạo của mình, ta không thể chết.”

Thôi Tụng Thanh quát lên: “Đạo của ngươi, chẳng lẽ chính là vì mạng sống mà đầu hàng Đột Quyết, cúi mình van xin trước nữ nhân Hồ tộc?”

Những lời nói ấy dường như đâm trúng nỗi đau sâu kín trong lòng Thôi Tuần. Đôi mắt hắn xám xịt, như mặt hồ bao phủ bởi sương mù lúc bình minh. Hắn khẽ khàng cười, đáp: “Khi ở Đột Quyết, quả thực ta có hàng nghìn, hàng vạn cơ hội để tự sát. Chết rồi, sẽ không còn bị sỉ nhục nữa. Nhưng ta không muốn chết.”

Thôi Tụng Thanh thất vọng tràn trề: “Trước khi đến đây, ta còn tìm đủ mọi lý do bào chữa cho ngươi. Ta nghĩ có lẽ vì Đột Quyết canh phòng nghiêm ngặt, nên ngươi không thể chết. Không ngờ, là chính ngươi không muốn chết!”

Khuôn mặt Thôi Tuần trắng bệch như đêm đông phủ đầy tuyết mới, không còn chút sắc máu. Hắn dường như giằng xé rất lâu, cuối cùng lên tiếng: “Bá phụ đã nghe về chuyện di hài của Thịnh Vân Đình, Ngu hầu Thiên Uy quân, bị phát hiện trong quan đạo chưa?”

Thôi Tụng Thanh nghe vậy, chỉ thản nhiên đáp một câu: “Thì sao?”

Một câu nói, khiến Thôi Tuần như rơi vào hố băng.

Thôi Tụng Thanh chậm rãi nói: “Chẳng lẽ ngươi muốn nói có kẻ cố ý khoanh tay đứng nhìn, khiến Thiên Uy quân toàn quân bị diệt? Tạm không bàn đến việc án Thiên Uy quân đã định, chỉ riêng việc dẫn năm vạn quân đến Lạc Nhạn Lĩnh, cũng là quyết định của Quách Cần Uy. Ông ta chịu tội, chẳng lẽ không đáng sao? Thôi Tuần, ngươi định đổ hết nguyên do cho việc ngươi ham sống sợ chết là vì cái không biết có hay không ấy sao?”

Khuôn mặt Thôi Tuần thê lương như đêm tuyết đầu mùa, bỗng bật cười nhẹ: “Không, vì chính ta ham sống sợ chết, không có lý do nào khác.”

Thôi Tụng Thanh hoàn toàn thất vọng. Ông lạnh lùng nhìn Thôi Tuần: “Tuy nhân phẩm ngươi thấp kém, nhưng vẫn còn đôi chút tài năng. Ta sẽ thuyết phục Thái hậu phục chức cho ngươi. Nhưng từ nay về sau, trên triều đình, ngươi không được gọi ta là bá phụ. Ta không muốn mất mặt vì ngươi.”

Thôi Tuần vô hồn đáp: “Được.”

Thôi Tụng Thanh liếc nhìn hắn lần cuối, đầy ghét bỏ, rồi phất tay áo bỏ đi.

Thôi Tụng Thanh vừa rời đi, Thôi Tuần lặng lẽ đứng trước cửa thật lâu, rồi mới chậm rãi xoay người, quay trở lại tẩm phòng.

Lý Doanh nhìn theo bóng lưng hắn, mím nhẹ đôi môi, bước theo, đến tẩm phòng rồi quỳ gối trước án thư.

Thôi Tuần không nói gì, nàng cũng lặng im. Chỉ yên tĩnh ngồi đối diện hắn, lặng lẽ bầu bạn.

Thần sắc Thôi Tuần trống rỗng, trong đôi mắt đen nhánh như mực ấy tựa hồ ẩn giấu một vực sâu không cách nào chạm đến. Một lúc lâu, hắn bỗng ngẩng đầu, trầm giọng nói: “Trước đó ta từng nói với cô, đêm qua trong lúc sao chép, ta phát hiện ra một điều bất thường.”

Lý Doanh nhỏ giọng hỏi: “Ngài phát hiện điều gì?”

“Hậu cung của Trịnh Hoàng hậu có một cung nữ tên Vãn Hương. Khi Trịnh Hoàng hậu phạm tội, các cung nữ trong cung đều bị giáng chức hoặc xử tử, duy chỉ có Vãn Hương không những toàn mạng mà còn được thăng làm Tư thiện của cục Thượng Thực. Nhưng một năm sau, nàng ta bị Thái hậu hạ lệnh, đánh chết ngay tại chỗ.”

“Ngài muốn nói rằng nàng ta là nội ứng của a nương, vì thế mới không bị xử tử mà còn được trọng dụng?”

Thôi Tuần gật đầu: “Trịnh Hoàng hậu có tính tình kiêu ngạo, đối đãi cung nữ không chút khoan dung. Mẫu thân cô vì tự bảo vệ mình, mua chuộc cung nhân trong cung Trịnh Hoàng hậu để thám thính tin tức, cũng chẳng phải điều gì sai trái.”

“Nếu là người của a nương, vì sao lại bị đánh chết không thương tiếc?”

“Nếu ta không đoán sai, nàng ta có lẽ giống như Vương Đoàn Nhi, bị giết để diệt khẩu.”

Lý Doanh chấn động: “A nương diệt khẩu? Vì cớ gì bà phải làm thế, chẳng lẽ…”

Nửa câu sau, nàng không cách nào thốt ra thành lời.

Bởi nếu Thái hậu quả thực làm vậy, chỉ có một nguyên nhân duy nhất.

Đó là Vãn Hương đã biết được bí mật kinh thiên động địa nào đó, khiến Thái hậu không thể không xuống tay.

Mà rốt cuộc, đó là bí mật gì, lại có giá trị để khiến bà làm đến mức này?

Lý Doanh chỉ nghĩ đến một điều duy nhất.

Đôi vai nàng khẽ run, hai bàn tay nắm chặt vạt áo, ngón tay trắng bệch. Một lúc lâu sau, nàng mới khó nhọc lên tiếng: “Thật… thật sự là a nương sao?”

Thôi Tuần nhìn nàng, nếu là trước đây, hắn chắc chắn sẽ không chút do dự nói rằng Thái hậu là kẻ tình nghi lớn nhất. Nhưng lúc này, trong lòng hắn lại nảy sinh một tia không nỡ, hắn chậm rãi nói: “Chỉ dựa vào cái chết của Vãn Hương, chưa thể khẳng định được điều gì.”

Nghe vậy, vẻ mặt Lý Doanh thoáng dịu đi đôi chút. Nàng lẩm bẩm: “Ngài nói đúng, có lẽ là nàng ta phạm phải sai lầm gì đó, mới bị phạt trượng đến chết, không phải a nương ta diệt khẩu…”

Lời vừa nói, chính nàng cũng cảm thấy khó tin. Nếu thật sự là phạm lỗi, thì sao lại bị đánh chết tàn nhẫn như thế? Khi ấy nương đã là một Hoàng hậu, nếu cung nữ ấy gây tội, sử quan sẽ ghi chép rõ ràng, chứ sao lại để Hoàng hậu mang tiếng ác, vì đã đích thân xử t* c*ng nhân?

Thôi Tuần thấy nàng thất thần, liền nói: “Muốn biết Vãn Hương chết vì cớ gì, cũng không phải là không có cách.”

Lý Doanh ngẩng đầu, ngạc nhiên hỏi: “Ngài có cách sao?”

Thôi Tuần gật đầu: “Vãn Hương từng có một đối thực [1] trong cung, tên là Tưởng Lương. Sau khi Vãn Hương qua đời, ông ta cũng chạy trốn khỏi cung. Nếu tìm được ông ta, có lẽ có thể biết chân tướng cái chết của nàng ta.”

[1] Đối thực: một hình thức kết giao thân mật giữa cung nữ và thái giám trong cung đình cổ đại.

“Vậy Tưởng Lương hiện ở đâu?”

“Lần cuối có người nhìn thấy ông ta, là ở Quỷ thị Trường An.”

Cái gọi là Quỷ thị Trường An, nằm trong phường Vụ Bản, là một chợ đêm náo nhiệt. Khi trời tối, Trường An cấm giới nghiêm, người đi đường không được ra khỏi phường, nhưng Quỷ thị lại khai chợ vào lúc nửa đêm, khi gà gáy thì giải tán. Những thứ được bán tại đây đều là hàng hiếm khó tìm, phần lớn không rõ nguồn gốc, thương nhân cũng không nộp thuế. Quan binh từng nhiều lần điều tra nhưng không lần nào thành công, vì thế nơi này được gọi là Quỷ thị.

Thôi Tuần nói: “Tưởng Lương cần tránh bị truy sát, lại cần bạc để mưu sinh. Quỷ thị là nơi tốt nhất cho ông ta.”

Lý Doanh gật đầu: “Vậy đêm nay chúng ta đến Quỷ thị tìm ông ta.”

Thôi Tuần đáp: “Được.”

Lòng Lý Doanh như gần chạm tới sự thật, nhưng càng lúc càng thấp thỏm. Nếu sự thật là… a nương nàng…

Thôi Tuần dường như nhìn thấu tâm tư của nàng, bất chợt hỏi: “Nếu thật sự là Thái Hậu, công chúa định thế nào?”

“Ta định thế nào?” Trong mắt Lý Doanh hiện lên vẻ mờ mịt: “Nếu thật sự là a nương ta, ta cũng đâu thể báo thù bà. Ta luôn nhớ, mỗi lần ta ốm đau, bà đều ôm ta vào lòng, lo lắng không yên… Ta không thể tin được vì ngôi vị Hoàng hậu mà bà đã giết ta.”

Thôi Tuần trầm mặc, Lý Doanh cũng không nói thêm, một lúc sau, nàng chỉ thở dài:

“Nếu đúng là a nương, thì ta cũng không muốn lang bạt nữa, ta sẽ tự tìm đến Vong Tử Thành.”

Thôi Tuần ngẩng đầu nhìn nàng: “Không phải công chúa luôn sợ cô độc hay sao? Vì sao lại tự nguyện đến Vong Tử Thành?”

Lý Doanh cười khổ, nói: “Từ sau khi tỉnh lại bên hồ sen, mọi chuyện đều đã đổi thay, vật còn mà người chẳng còn. Với thế nhân, ta chỉ là một vị công chúa yểu mệnh, người từng khiến Trường An máu chảy thành sông. Chẳng ai tiếc thương cái chết của ta, chỉ có a nương, chỉ có a nương là vẫn còn nhớ đến ta. Vì ta mà bà đã thắp sáng đèn trường minh khắp bốn vạn ngôi chùa thờ Phật trên cả nước, cầu nguyện cho ta sớm được đầu thai. Bà cũng có thể vì một túi thơm của ta mà tha thứ cho ngài, có thể vì cây bồ đề ta trồng mà khóc lóc thảm thiết. Nếu thật sự là bà đã hạ sát ta, vậy thì ta nghĩ… ta thật sự không biết phải tin vào điều gì nữa. Thay vì như vậy, chi bằng ta đến Vong Tử Thành, chờ đến khi a nương thọ chung, ta mới luân hồi chuyển kiếp.”

Nàng nói những lời này với vẻ mặt ngơ ngẩn, tựa như mất đi phương hướng. Đúng vậy, nếu ngay cả a nương cũng không thể tin tưởng, nàng còn biết tin ai đây?

Thôi Tuần mím môi, bỗng cất tiếng hỏi: “Vậy nên, nếu đêm nay tìm ra chân tướng, công chúa định đến Vong Tử Thành thật sao?”

Lý Doanh thoáng ngẩn ngơ, ánh mắt nhìn hắn. Khuôn mặt hắn trắng nhợt tựa tuyết, khiến lòng nàng bỗng dưng chùng xuống. Trong tâm trí, nàng lại nhớ đến ánh mắt trống rỗng khi nãy của Thôi Tụng Thanh khi chế giễu hắn không dám tự sát để giữ gìn danh tiết. Ngón tay nàng siết chặt lấy vạt áo, không khỏi dâng lên một chút không nỡ, nhưng… người sống kẻ chết vốn cách biệt, nàng chỉ là một cô hồn lạc lõng, nhân gian này chẳng phải là nơi nàng nên lưu lại quá lâu.

Thôi Tuần trầm mặc hồi lâu, bỗng nở một nụ cười nhạt: “Cũng tốt, có lẽ Vong Tử Thành còn sạch sẽ hơn nhân gian này.”

Lý Doanh cũng rơi vào trầm mặc, một lát sau mới khẽ đáp: “Ngài nói đúng, Vong Tử Thành, có lẽ sạch sẽ hơn cả nhân gian.”

Nàng ngừng lại một chút, rồi nói: “Thôi Tuần, ngài rất tôn kính bá phụ của mình, đúng không?”

Thôi Tuần không ngờ nàng đột nhiên nhắc đến Thôi Tụng Thanh, thoáng ngây người, rồi bỗng gật đầu: “Phải.”

“Nhưng ta không thích ông ấy,” Lý Doanh thẳng thắn nói, “Ông ấy nói ngài vì đạo lý của mình mà sống mòn, nhưng chính ông ấy chẳng phải cũng vì đạo lý của mình mà làm ngơ trước oan khuất của Thịnh Vân Đình đó sao?”

Thôi Tuần sững sờ nhìn nàng, nàng lại tiếp tục: “Đến cả A Man cũng có thể nhận ra Thịnh Vân Đình không phải bị sơn tặc sát hại, ta không tin ông ấy không nhận ra. Chẳng qua ông ấy không muốn vì một Thịnh Vân Đình mà lật lại những chuyện cũ sáu năm trước, để đánh cược một ván không biết thắng thua mà thôi.”

“Ông ấy là Bạch y Khanh tướng, lòng mang muôn dân. Ông ấy có rất nhiều việc lớn phải làm, phải quý trọng tính mạng của mình, không thể vì một chức Ngu hầu nhỏ bé mà bỏ mạng. Nhưng tính mạng của ông ấy là tính mạng, còn tính mạng của ngài ấy, lại không phải tính mạng sao?”

“Nếu như vậy, ông ấy lại có tư cách gì để hùng hồn chỉ trích ngài không chịu chết?”

Lý Doanh nhìn thẳng vào mắt Thôi Tuần, từng chữ từng lời nói ra như đinh đóng cột: “Cho nên, Thôi Tuần, ngài không cần vì lời của ông ấy mà đau lòng. Ông ấy không đáng.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 34: Quỷ thị Trường An



Lý Doanh nói những lời này với thần sắc nghiêm túc đến lạ thường. Không phải vì muốn an ủi Thôi Tuần mà nàng mới nói như vậy, đó đều là lời từ tận đáy lòng nàng.

Lỗ Ai Công từng hỏi Khổng Tử: “Nhân và đạo, cái nào lớn hơn?”

Khổng Tử đáp: “Chính (chính nghĩa) lớn hơn.”

Có lẽ, đây chính là nguyên tắc hành xử của Thôi Tụng Thanh. Vì lý tưởng trong lòng, ông có thể buông bỏ mọi thứ. Do đó, ông sẽ không vì một bộ hài cốt không rõ thật giả mà làm rối đại cục, hay dành trọn đời mình để tìm kiếm chân tướng. Khó mà nói hành động của ông là sai. Sau này, sử sách có lẽ sẽ dành cho ông một lời bình rằng: “Công trạng như núi, danh lưu hậu thế.” Nhưng khi ông nghiêm khắc chỉ trích Thôi Tuần vì không chịu chết, Lý Doanh lại nhớ đến hình ảnh Thôi Tuần khom người trước phần mộ của Thịnh Vân Đình, cúi mình nhặt từng đồng tiền đồng bị bùn đất làm vấy bẩn.

Đôi mắt nàng bỗng chua xót, hơi mím môi rồi nói: “Thôi Tuần, đường là của ngài, chỉ cần ngài thấy đúng thì cứ bước tiếp đi. Không cần bận tâm người khác nói gì, dù người đó có là bậc trưởng bối mà ngài kính trọng nhất.”

Nàng ngồi trước thư án, đôi mắt như chứa ngàn sao lấp lánh. Thôi Tuần lặng lẽ nhìn ánh mắt như nước ấy, thần sắc thoáng vẻ thất thần. Một lúc lâu sau, hắn chợt cất lời: “Vừa rồi, thực sự ta đã rất đau lòng.”

Thế nhân khinh miệt, nhạo báng, làm nhục hắn, hắn đã sớm quen. Nhưng khi đến cả bậc trưởng bối mà hắn kính trọng nhất từ nhỏ cũng đối xử như vậy, hắn thực sự không cách nào để không bận tâm.

Giọng nói của Lý Doanh dịu dàng như gió thoảng: “Ta biết.”

Thôi Tuần cố gượng một nụ cười cay đắng: “Nhưng ta đau lòng không chỉ vì trưởng bối mà ta kính trọng xem ta như bùn đất ô uế, mà còn vì cái chết của Vân Đình bị xem nhẹ tựa lông hồng.”

“Trên thân thể Vân Đình có không dưới trăm vết đao chí mạng. Ấy vậy mà Hình bộ chỉ mất hai ngày đã vội vã kết luận rằng huynh ấy bị sơn tặc cướp của sát hại. Triều đình văn võ bá quan đều giả điếc làm ngơ, không một ai chất vấn.”

“Họ muốn lưu danh sử xanh, muốn vinh quang ngàn đời. Nhưng Thiên Uy quân lại là nỗi sỉ nhục lớn nhất của triều đình, họ không thể để mình dính líu đến. Không một ai… không một người nào nguyện đứng ra rửa sạch oan khuất cho Vân Đình.”

Thậm chí, khi hắn lấy hết can đảm, thăm dò vị trưởng bối mà mình kính trọng nhất, nhưng chỉ nhận lại một câu: “Thì sao?”

Khoảnh khắc ấy, Thôi Tuần như rơi xuống vực sâu thăm thẳm, xung quanh chỉ toàn là bóng tối không thấy ánh sáng, dù có đi thế nào cũng không thoát ra được.

Bên tai hắn bỗng vang lên giọng nói nhẹ nhàng của Lý Doanh: “Không, Thôi Tuần, không phải không có ai nguyện vì Thịnh Vân Đình mà rửa oan. Ngài vẫn luôn muốn rửa oan cho y, chẳng phải sao?”

Nàng tiếp lời: “Ngài luôn tìm kiếm hài cốt của Thịnh Vân Đình, chưa bao giờ từ bỏ. Ngài hao tổn tâm sức bắt Vương Nhiên Tê, chẳng phải cũng vì hài cốt của y sao? Ngài đã tìm được rồi, ngài để y không phải chôn vùi nơi quan đạo nữa. Giống như lời y nói, ngài là một hảo hán của Thiên Uy quân.”

Thôi Tuần chỉ cảm thấy lồng ng.ực mình như nóng lên, khóe mắt bắt đầu ươn ướt. Hắn cắn chặt răng, cố kìm nén cảm xúc trong lòng: “Không, ta không phải. Sáu năm rồi, tròn sáu năm rồi, hài cốt của họ vẫn còn ở Lạc Nhạn Lĩnh, đến cả việc thu liệm cũng không thể. Là ta có lỗi với họ…”

Ngón tay đặt trên thư án của hắn siết chặt dần, nổi lên những đường gân xanh rõ mồn một trên bàn tay gầy guộc. Lý Doanh nhìn xuống cổ tay gầy yếu, trơ xương ấy, mím môi hỏi: “Thôi Tuần, chuyện Thiên Uy quân bị tiêu diệt có ẩn khuất, đúng không?”

Thôi Tuần đột ngột ngẩng đầu lên.

“Vì sao Thẩm Khuyết và Vương Nhiên Tê phải giết Thịnh Vân Đình? Vì sao phải ngăn cản y vào cung Đại Minh cầu viện? Và vì sao ngài phải từng bước ép sát Bùi Quan Nhạc? Chẳng phải tất cả những điều này đều liên quan đến Thiên Uy quân hay sao?” Lý Doanh nói: “Thôi Tuần, ta muốn biết, ngài hãy nói cho ta.”

Thôi Tuần nhìn nàng, ánh mắt đen sâu thẳm như điểm mực, nhưng mãi lâu sau vẫn không đáp. Một tia chua xót dâng lên trong lòng Lý Doanh. Hắn vẫn như trước đây, thà giữ tất cả trong lòng, không chịu nói với bất kỳ ai. Đau cũng không nói, khổ cũng không nói. Nhưng hắn cũng chỉ là một người, một trái tim, làm sao có thể chứa đựng hết máu và nước mắt của năm vạn người đây?

Nàng cúi đầu, lòng nặng trĩu, cảm giác đau xót mỗi lúc một dâng lên. Đúng lúc ấy, Thôi Tuần bỗng lên tiếng, giọng hắn mơ hồ: “Ta không biết… Ta không biết vì sao Đột Quyết biết được đường hành quân của chúng ta… Ta không biết vì sao Bùi Quan Nhạc rõ ràng biết chúng ta bị vây lại không đến cứu viện… Ta càng không biết vì sao Quách soái phải nhận được thánh chỉ thì mới xuất binh, còn Bùi Quan Nhạc lại nói không có thánh chỉ ấy…”

Nói đến đây, đầu ngón tay hắn run rẩy không thể khống chế, gương mặt trắng bệch như giấy, thân thể lung lay như sắp đổ. Trong đầu hắn như hiện lên từng gương mặt trẻ trung đầy sức sống của các chiến hữu. Họ kéo ngựa dừng lại trước mặt hắn, rồi máu từ mũi, tai họ chảy ra đỏ tươi. Họ trách hắn: “Thập Thất lang, vì sao ngươi vẫn chưa rửa oan cho chúng ta?”

Thôi Tuần đỏ hoe đôi mắt, khớp ngón tay đã siết chặt đến trắng bệch: “Là ta có lỗi với họ… Ta có lỗi với họ…”

Nỗi tuyệt vọng, day dứt, thống khổ đan xen, khiến trái tim hắn như bị một tảng đá lớn đè nặng, đến mức không thở nổi. Móng tay hắn đã bấm sâu vào lòng bàn tay, dường như sắp chảy máu. Lý Doanh nhìn bàn tay siết chặt ấy, rồi nhẹ nhàng đặt tay mình lên, che phủ lấy lòng bàn tay hắn.

Thân thể Thôi Tuần run lên, ngón tay đang siết chặt từ từ buông lỏng. Lý Doanh dịu dàng nói: “Thôi Tuần, ngài đã cố hết sức rồi. Ta tin rằng, nhất định sẽ có một ngày chân tướng được phơi bày.”

Nàng nhìn sâu vào đôi mắt trầm ngâm của hắn, đôi mắt ấy chứa đựng một thứ gì đó khiến lòng nàng day dứt. Một lúc lâu sau, nàng bỗng nói, giọng nàng nhẹ tựa mây trôi: “Để ta giúp ngài, được không?”

Ánh mắt của Thôi Tuần chợt khựng lại, như thể lời nàng nói vừa phá tan mọi sự câm lặng trong tâm hồn hắn. Nhưng rồi hắn lại thu bàn tay mình, từ từ rời khỏi lòng bàn tay nàng.

Hắn chỉ nói: “Quỷ thị sắp mở cửa. Chúng ta đi thôi.”



Quỷ thị Trường An, nơi được gọi là một thế giới khác giữa lòng kinh đô.

Thôi Tuần dẫn Lý Doanh đi qua con đường lát đá xanh của phường Vụ Bản. Ánh trăng mờ ảo xuyên qua những tầng mây, soi xuống con đường, khiến cả không gian chìm trong sự u ám lạnh lẽo. Quanh họ, mọi thứ yên tĩnh đến mức khác thường. Bước chân chậm rãi, Lý Doanh bất giác cảm thấy rợn người. Nàng vô thức bước sát lại gần hắn, nhưng ngay khi ánh mắt chạm đến chiếc áo choàng đen hắn khoác, nàng lại chần chừ, hơi dịch sang bên, giữ một khoảng cách nhỏ giữa hai người.

Sự trầm mặc bao phủ. Thôi Tuần bất ngờ cất tiếng, giọng nói như xé toang màn đêm: “Cô đang trách ta à?”

Lý Doanh sững người, đôi môi mím nhẹ, rồi chỉ lắc đầu.

Hắn im lặng một thoáng, rồi trầm mặc nói: “Chuyện của ta không nên làm liên lụy đến cô.”

Thì ra, trong lòng hắn, nàng chỉ là một người ngoài.

Cảm giác thất vọng len lỏi vào tâm can Lý Doanh, nàng cắn chặt môi, không nói thêm lời nào. Hai người cứ thế bước đi trong im lặng, cho đến khi một âm thanh chói tai vang lên tiếng cánh vỗ rào rạt của đàn quạ đen.

Lý Doanh ngẩng đầu, chỉ thấy một đàn quạ lớn từ trên cao lao xuống. Từng con một, dường như chúng đang bị thứ gì đó đáng sợ đuổi theo, vừa bay vừa kêu rít lên thảm thiết. Một vài con mất phương hướng, thậm chí va vào người nàng.

Trong khoảnh khắc, bàn tay Thôi Tuần đã kéo nàng sang bên, tránh cho nàng khỏi đàn quạ. Một con quạ rơi xuống đất, hắn cúi đầu nhìn, đôi mày thoáng nhíu lại. Lý Doanh giật tay ra, lùi về sau vài bước.

“Lại đây.”

Lý Doanh ngạc nhiên, đứng lặng. Hắn lặp lại, giọng điềm tĩnh: “Lại đây.”

Không còn lựa chọn, nàng miễn cưỡng tiến lên vài bước, đứng trước mặt hắn. Thôi Tuần mở rộng chiếc áo choàng đen, giơ tay, che chắn cho nàng.

Đàn quạ vẫn tiếp tục lao tới, nhưng giờ đây, dưới lớp áo choàng, nàng không còn nhìn thấy chúng nữa. Nàng thấp hơn hắn một cái đầu, muốn nhìn hắn phải ngước lên. Dưới ánh trăng mờ nhạt, khuôn mặt hắn gần đến mức khiến nàng bối rối. Đôi mắt hắn, sâu lắng như biển cả. Chiếc mũi cao thẳng tắp. Đôi môi mỏng nhợt nhạt thoảng mùi hương thuốc từ vết thương được băng bó. Lý Doanh lập tức quay đi, cố gắng tránh ánh mắt hắn, lòng dạ rối bời.

Vừa mới nhích chân, giọng hắn đã vang lên, kiên quyết: “Đừng động.”

Nàng cúi đầu, thì thầm: “Ta là hồn ma. Những con quạ này là vật sống, chúng không thể chạm vào ta.”

Thôi Tuần đáp, giọng lạnh băng: “Nếu không muốn chết thêm lần nữa thì đừng động đậy.”

Lời nói ấy khiến nàng sững sờ. Đôi chân bất giác khựng lại. Nàng ngoan ngoãn đứng yên dưới áo choàng của hắn, không còn nhúc nhích.

Ánh mắt vô tình rơi xuống quả cầu hương mạ vàng treo bên thắt lưng hắn. Đó chính là món quà nàng tặng hắn, nó vẫn được hắn mang theo bên mình, chưa từng rời xa.

Lý Doanh chăm chú nhìn quả cầu hương khẽ đung đưa. Một lúc lâu sau, khi tiếng vỗ cánh và tiếng kêu rít của đàn quạ dần biến mất, Thôi Tuần mới hạ tay, buông áo choàng xuống. Ngay lập tức, nàng bước lùi ra sau, giữ khoảng cách an toàn với hắn. Nàng gãi vành tai, cố xua đi bầu không khí ngượng ngùng, rồi hỏi: “Vừa nãy ngài nói nếu ta không muốn chết lần nữa? Ý ngài là gì?”

Thôi Tuần dùng mũi giày đá nhẹ con quạ vừa rơi xuống đất: “Nhìn đi.”

Nàng nghi hoặc nhìn xuống, nhưng vừa mới liếc qua, đã kinh hãi bật thốt thành tiếng.

Con mắt của con quạ đó đã bị móc đi, chỉ còn lại hai hốc máu rỉ đỏ. Ngay giữa ngực nó cũng có một lỗ hổng lớn, bên trong trống rỗng. Tim đã bị lấy mất.

Không có tim… thì làm sao nó bay được?

Thôi Tuần ngẩng đầu, ánh mắt hướng về nơi xa, nơi những ánh đèn leo lét phát ra từ Quỷ thị: “Có lẽ, câu trả lời nằm ở phía trước.”



Quỷ thị nằm trong một khu rừng hoang vắng tại phường Vụ Bản, rừng sâu tối tăm đến mức ngay cả ánh trăng cũng giấu mình sau tầng mây dày. Trong Quỷ thị không có ánh sáng, Lý Doanh chỉ có thể dựa vào ánh đèn lồng mờ nhạt người qua lại cầm theo, hoặc ánh sáng từ mồi lửa, để miễn cưỡng nhìn rõ tình hình các sạp hàng. Các sạp ở đây cách nhau khá xa, bày bán những vật không hề bình thường. Sạp gần Lý Doanh nhất bày vài bộ kim tuyến ngọc y rách nát, thứ vốn là liệm y của quý tộc nhà Hán.

Thấy vậy, chỉ e rằng đây là vật do Mô kim Hiệu úy [1] trộm về.

[1] Mô kim Hiệu úy: Chức quan do Tào Tháo lập ra, để hợp thức hóa việc đào mộ, quật mả của người khác.

Một sạp khác lại không bán đồ vật, mà là những con chuột lớn màu đen, bị nhốt trong lồng sắt.

Càng đi sâu, Lý Doanh càng cảm thấy tim đập nhanh hơn, nhưng dù có kinh hãi đến đâu, nàng vẫn không muốn tiến gần thêm về phía Thôi Tuần.

Thôi Tuần nhận ra điều này, bèn lên tiếng: “Còn giận à?”

“Không giận.” Lý Doanh trả lời, giọng có chút nghèn nghẹn: “Ta chỉ không muốn ngài gánh hết mọi chuyện một mình, nên mới muốn giúp ngài. Nhưng nếu ngài không muốn ta giúp, ta cũng không còn cách nào khác.”

Thôi Tuần im lặng, không nói gì. Lý Doanh cũng không nói thêm, chỉ cúi đầu bước đi. Nàng không hề nhận ra, trên một thân cây khô cằn gần đó, có đôi mắt màu xanh biếc, lạnh lẽo như ma trơi, vẫn luôn dõi theo bóng lưng nàng.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 35: Miêu quỷ



Trong Quỷ thị, các tiểu thương đều mang nét mặt lạnh lùng, không cất lời rao hàng hay gọi mời khách. Khung cảnh im lặng này hoàn toàn đối lập với sự náo nhiệt trong hội đèn Thượng Nguyên. Lý Doanh thậm chí còn nhìn thấy một tiểu thương và khách buôn tranh cãi đến mức xô xát, những người xung quanh chẳng một ai đứng ra can ngăn, mà chỉ lặng lẽ ngồi ở chỗ mình, chờ đợi người mua ghé qua.

Thôi Tuần giải thích: “Những kẻ này bán toàn những món kỳ quái, không thể dùng suy nghĩ của người thường để đoán định.”

Lý Doanh khẽ gật đầu: “Nhưng phải thừa nhận, nơi này quả là chỗ trốn lý tưởng.”

Người bình thường chẳng dám bén mảng tới đây. Còn kẻ đến được đây đa phần đều mang trọng án, tất nhiên chẳng ai dại gì mà đi báo quan. Có lẽ vì vậy nên Tưởng Lương chọn mới nơi này làm nơi ẩn nấp.

Nàng hỏi: “Nhưng Tưởng Lương có thể trốn ở đây suốt ba mươi năm sao?”

“Nếu ông ta vẫn còn ở Trường An, thì đây chính là nơi ông ta lựa chọn.”

“Vậy ông ta có còn ở Trường An không?”

“Không biết. Nhưng Tưởng Lương là hoạn quan, không để râu. Chúng ta chỉ cần tìm quanh một vòng là rõ.”



Hai người tìm kiếm khắp nơi nhưng không hề thấy bóng dáng người bán hàng nào khoảng năm mươi tuổi và không để râu. Đúng lúc Lý Doanh định hỏi Thôi Tuần rằng liệu Tưởng Lương có thực sự không ở đây, thì Thôi Tuần bất ngờ dừng bước trước một sạp hàng.

Sạp này bày bán cung tên, trường đao và những binh khí khác, tất cả đều gỉ sét loang lổ. Ánh mắt Thôi Tuần dừng lại trên một cây thiết thai cung.

Thiết thai cung (cung sắt) này toàn thân làm từ sắt, dây cung chế từ tơ dâu tằm. Tơ dâu tằm cực kỳ bền chắc, không chỉ khó đứt mà còn có ưu thế trên chiến trường, dễ dàng cắt đứt yết hầu kẻ địch hơn dây cung làm từ gân bò. Đây vốn là loại cung mà võ tướng Đại Chu thường sử dụng.

Ánh mắt Thôi Tuần như hóa đá khi nhìn cây cung ấy thật lâu. Hắn định đưa tay nhấc nó lên, nhưng một bàn tay khác đã nhanh hơn, cầm lấy cây cung trước hắn.

Là Quỷ thương Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy liếc qua Thôi Tuần và Lý Doanh. Lý Doanh vận áo lục, váy vàng xen kẽ đỏ, búi tóc cài trâm ngọc hải đường thạch lựu, ấn đường điểm ngọc châu hình giọt nước. Đứng cạnh nàng là Thôi Tuần, khoác cẩm bào hoa lệ. Cả hai trông vô cùng xứng đôi. Ngược lại, Ngư Phù Nguy chỉ mặc một thân áo vải thô màu chàm. Theo luật pháp Đại Chu: thương nhân không được mặc y phục xa hoa, không được cưỡi ngựa, không được tham gia quan trường.

Hắn mỉm cười nhạt, nâng cây cung trong tay, rồi đọc hàng chữ khắc trên thân cung: “Thôi… Vọng… Thư.”

Hắn ngước lên, nở nụ cười ý vị nhìn Thôi Tuần: “Thất lễ, thất lễ, thì ra cây cung này lại là vật cũ của Thôi Thiếu khanh.”

Lý Doanh cũng tò mò ngắm nghía cây cung, quay sang hỏi Thôi Tuần: “Đây là cung của ngài sao?”

Nhưng cây cung của Thôi Tuần làm sao lại xuất hiện ở Quỷ thị được?

Chưa kịp đợi Thôi Tuần trả lời, Ngư Phù Nguy đã quay sang hỏi lão bán hàng: “Này, ngươi trộm cây cung này từ đâu đấy?”

Lão bán hàng chẳng buồn ngẩng đầu lên, đáp: “Trộm cái gì mà trộm? Đây là của một gã Hồ thương người Đột Quyết thiếu nợ ta, nên đã mang đến để gán nợ.”

“Người Đột Quyết?” Ngư Phù Nguy quay sang Thôi Tuần, cười khẩy: “Chẳng lẽ cây cung này là thứ binh sĩ Đột Quyết đoạt được khi Thôi Thiếu Khanh hàng phục chúng sao?”

Sắc mặt Thôi Tuần thoáng căng thẳng, môi mím chặt, ánh mắt bừng lên cơn giận mơ hồ. Thấy vậy, Ngư Phù Nguy lập tức dừng lại, không nói tiếp nữa. Hắn đưa cây cung về phía Thôi Tuần, cười giả lả: “Thôi Thiếu khanh, mỗ lại nói năng bậy bạ rồi. Thôi thế này đi, mỗ sẽ trả tiền của cây cung này, sau đó tặng lại ngài coi như chuộc lỗi.”

Thôi Tuần lạnh lùng giật lấy cây cung từ tay Ngư Phù Nguy. Thân cung bằng sắt đã phủ đầy những vết gỉ sét loang lổ, đôi tay thon dài của Thôi Tuần nhẹ nhàng lướt qua bề mặt lồi lõm của lớp gỉ. Ánh sắc bén và vẻ huy hoàng từng có của cây cung sắt giờ đây đã hoàn toàn tan biến. Trong ánh mắt thoáng chút mơ màng của hắn, dường như không chỉ cây cung bị hao mòn theo năm tháng, mà còn cả hình bóng thiếu niên từng giương cung bắn chim, mũi tên như sao băng.

Ngư Phù Nguy lấy ra một xâu đồng từ trong túi tiền, giao cho lão bán hàng: “Chừng này đủ chưa?”

Lão bán hàng ngẩng đầu lên, ông ta chừng khoảng sáu mươi tuổi, đôi mắt đục ngầu. Ông nhận lấy xâu tiền nhưng ánh mắt vàng vọt lại nhìn chằm chằm vào Lý Doanh. Bỗng, ông lên tiếng về hướng phía sau nàng: “Cẩn thận.”

Lý Doanh chưa kịp nghĩ xem ông có thể nhìn thấy nàng hay không, thì đã vô thức quay đầu lại nhìn theo ánh mắt của ông. Chỉ thấy trên cành cây phía sau, một con mèo hoang đen tuyền, mắt lóe lên ánh lục u ám, bước đi không hề phát ra tiếng động.

Nói là mèo, nhưng phải gọi là một khối hắc ám thì đúng hơn, bởi bóng dáng nó trong đêm chẳng khác nào một mảng sương mù đặc quánh, hoàn toàn không rõ hình hài.

Khi bị phát hiện, con mèo đen rít lên một tiếng chói tai, rồi lao về phía nàng với một tư thế quái dị, gần như không giống loài vật.

Con mèo nhanh, nhưng Thôi Tuần còn nhanh hơn. Hắn lập tức rút một mũi tên từ ống đựng trên sạp, xoay người, tay trái nắm cung, tay phải kéo dây, đặt tên, mọi động tác hoàn thành trong chớp mắt. Nhưng cây cung hắn đã kéo hàng ngàn lần nay đến một nửa cũng khó khăn. Mũi tên vì thế chệch hướng, bay xiêu vẹo chưa được một trượng đã rơi xuống đất.

Con mèo đen trừng mắt, lông trên sống lưng dựng đứng, nhe nanh sắc nhọn như dùi đâm, nhưng cơ thể nó dưới ánh lửa lại không hề có lấy một chút bóng. Chỉ thấy nó lao thẳng tới, hàm răng nhọn ngoạm về phía cổ họng Lý Doanh.

Lý Doanh kêu thất thanh, Ngư Phù Nguy đã kịp chộp lấy cây cung sắt từ tay Thôi Tuần, giáng mạnh xuống người con mèo. Một tiếng “phịch” vang lên, con mèo đen rơi phịch xuống đất, lăn vài vòng rồi run rẩy đứng dậy.

Móng vuốt của nó bị dây cung sắc bén cứa phải, máu nhỏ tí tách. Nó giận dữ lườm Ngư Phù Nguy, đồng tử xanh lục co lại chỉ còn nhỏ bằng đầu kim. Cuối cùng, nó rít lên một tiếng oán hận, vừa nhăn răng gầm gừ, vừa lảo đảo chạy sâu vào rừng hoang.



Chờ đến khi con hắc miêu quái dị kia hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt ba người, Ngư Phù Nguy mới nhấc cây cung lên, kéo thử dây cung. Chỉ một động tác đơn giản, hắn đã dễ dàng kéo dây cung đến mức tối đa. Hắn giả vờ buông tay, như muốn bắn một mũi tên hờ, rồi bật cười chế nhạo: “Xem ra phong hoa tuyết nguyệt của thành Trường An đã làm Thôi Thiếu khanh mê mẩn đến rệu rã cả xương cốt, thế nên ngay cả cây cung cũ của mình cũng không thể kéo nổi.”

Thôi Tuần nhìn Ngư Phù Nguy kéo dây cung một cách nhẹ nhàng, ánh mắt thoáng trầm xuống. Cổ tay từng bị thương cũ giờ lại dấy lên cơn đau âm ỉ như kim châm từng hồi, không ngừng đâm xuyên da thịt. Bàn tay giấu trong lớp hạc bào màu đen dần siết chặt, nhưng hắn không hề đáp lại câu nào. Chỉ lặng lẽ xoay người, rời khỏi bóng tối của Quỷ thị, từng bước khuất xa.

Ngư Phù Nguy có đôi phần bất ngờ. Hắn vốn nghĩ rằng, với tính tình của Thôi Tuần, nghe những lời vừa rồi hẳn sẽ nổi trận lôi đình. Nhưng không ngờ, hắn lại cứ thế xoay người bỏ đi, không hề tỏ vẻ tức giận. Đây thật sự là Thôi Tuần nổi danh khắp Đại Chu với tính cách nhỏ mọn, lòng dạ hiểm độc, hành sự tàn nhẫn đó sao?

Lý Doanh nhìn bóng lưng tiêu điều của Thôi Tuần, đôi môi nàng khẽ mím lại. Nàng bước tới trước mặt Ngư Phù Nguy, từ trong túi lấy ra một viên minh châu trong suốt sáng lấp lánh, đặt trước mặt hắn: “Cho ngươi.”

Ngư Phù Nguy thoáng bừng tỉnh, liền hỏi: “Công chúa làm vậy là có ý gì?”

“Cảm tạ ngươi đã cứu ta.”

Trong lòng Ngư Phù Nguy không khỏi vui mừng, liền cười ha hả, nói: “Chỉ là việc nhỏ, công chúa không cần khách sáo như vậy.”

“Nhận lấy.”

Giọng nói của Lý Doanh mang một khí thế khác lạ, mơ hồ toát ra vẻ uy nghi của một công chúa Đại Chu. Ngư Phù Nguy sững người giây lát, rồi cũng cẩn thận nhận lấy viên minh châu. Thấy hắn đã nhận, Lý Doanh liền nói: “Chuyện của ta xem như đã xong, giờ đến lúc ta nói với ngươi về chuyện của Thôi Tuần.”

Ngư Phù Nguy nhíu mày, vẻ mặt đầy nghi hoặc: “Chuyện của Thôi Tuần?”

Lý Doanh xòe tay ra, ánh mắt bình tĩnh: “Đưa cung của Thôi Tuần cho ta.”

“Công chúa muốn chiếc cung đó để làm gì?”

“Trả lại cho hắn.”

Ngư Phù Nguy thoáng ngẩn người, sau đó thắc mắc: “Đến cả kéo cung hắn còn không kéo nổi, công chúa còn muốn trả lại cây cung đó để làm gì?”

“Dù kéo không nổi thì nó vẫn thuộc về hắn.”

Ngư Phù Nguy bất đắc dĩ, đem chiếc cung sắt đưa cho Lý Doanh: “Mỗ thật không hiểu, vì sao công chúa lại đối tốt với một kẻ gian nịnh tiếng xấu đầy người như hắn.”

Lý Doanh tiếp lấy cây cung, nàng hơi cụp mắt: “Ngư Phù Nguy, có phải ngươi luôn tự cho mình là một đại anh hùng không?”

Đây là lần đầu tiên nàng gọi thẳng tên hắn, chứ không kính cẩn xưng là “Ngư tiên sinh”. Ngư Phù Nguy thoáng sững sờ, nàng tiếp lời: “Có phải ngươi cảm thấy mình lấy thân phận thương nhân, dám công khai chê bai một viên gian nịnh mang tiếng xấu đầy người như hắn, là rất tài giỏi không?”

Ngư Phù Nguy bị hỏi đến mức lặng người, một lát sau mới yếu ớt phản bác: “Mỗ nào nghĩ mình tài giỏi, trái lại là công chúa đấy, cùng một kẻ bị người người căm ghét như chuột chạy qua đường dây dưa không rõ, chẳng lẽ không cảm thấy bẩn sao?”

Nghe vậy, Lý Doanh chỉ cười nhạt: “Ngư Phù Nguy, nếu như Thôi Tuần thực sự xấu xa như ngươi nói, thì ngay khi ngươi dám ở trong nhà hắn nói những lời này, ngươi đã bị hắn bắt vào Sát Sự Thính, chứ làm gì có thể an ổn đứng đây, cười nhạo hắn không kéo nổi chiếc cung cũ của mình?”

Ngư Phù Nguy há miệng, muốn chống chế nhưng không biết phải nói gì. Một lúc sau, hắn đáp: “Đó là vì… vì hắn cần mỗ tìm giúp một vài món đồ mà người khác không thể tìm ra.”

Nhưng vừa dứt lời, ngay cả bản thân hắn cũng thấy lý do này không đủ thuyết phục. Dù hắn có thể buôn bán âm dương thì cùng lắm cũng chỉ là một thương nhân. Thiên hạ có biết bao kẻ giống như hắn, Thôi Tuần sao lại nể tình hắn chỉ vì một lý do như vậy?

Lý Doanh lắc đầu: “Chỉ đơn giản là hắn không muốn tính toán với ngươi thôi.”

Ngư Phù Nguy nghẹn lời. Lý Doanh lại nói: “Từ nay về sau, đừng nói xấu hắn trước mặt ta nữa, ta không muốn nghe.”

Ngư Phù Nguy ngây người, còn Lý Doanh ôm lấy chiếc cung cũ, quay người rời khỏi tầm mắt của hắn. Hồi lâu sau, Ngư Phù Nguy mới bừng tỉnh, nắm chặt viên minh châu trong tay, quay lại nhìn về phía sạp hàng của ông lão từng nhắc nhở Lý Doanh. Lão bán hàng vẫn giữ thần sắc thờ ơ, dường như không nghe, không thấy bất kỳ điều gì. Ngư Phù Nguy đột nhiên cảm thấy bực bội, ném túi tiền lên quầy: “Mua hết!”



Lý Doanh ôm lấy chiếc cung, cảm thấy nó nặng trĩu. Nàng thở hổn hển, chạy một mạch mới kịp đuổi theo Thôi Tuần.

Thôi Tuần vẫn như thường ngày, ánh mắt tựa hồ sâu thẳm không đáy, gương mặt tái nhợt như tuyết, không lộ bất kỳ cảm xúc nào. Lý Doanh cất tiếng gọi, đưa chiếc cung về phía hắn.

Thôi Tuần dừng bước, nhìn chiếc cung cũ trong tay nàng. Ánh mắt hắn lạnh nhạt như sương tuyết. Hồi lâu sau, hắn đưa tay định chạm vào cây cung, nhưng còn chưa kịp chạm, Lý Doanh đã lên tiếng trước: “Đừng vứt đi.”

Động tác của Thôi Tuần thoáng khựng lại.

Lý Doanh lại nói: “Ngài vứt, thì ta sẽ nhặt lại.”

Đôi tay thon gầy tựa trúc của Thôi Tuần dừng giữa không trung, rồi hắn thu tay về, không nói thêm lời nào, xoay người tiếp tục bước đi.

Lý Doanh ôm lấy chiếc cung, dịu dàng nói: “Ta vừa nói với Ngư Phù Nguy, bảo hắn sau này đừng nói xấu ngài trước mặt ta nữa. Ta không muốn nghe.”

Thôi Tuần nghe xong, trầm mặc giây lát, mới nói: “Thiên hạ đều nói, cô quản không xuể.”

“Quản được người nào hay người đó.”

Thôi Tuần im lặng. Lý Doanh cũng không nói gì thêm. Trong khu rừng hoang vu, chỉ còn lại tiếng bước chân của Thôi Tuần trên lớp lá khô, đôi giày nặng nề của Lý Doanh khẽ phát ra âm thanh sột soạt. Hai người lặng lẽ đi một lúc, bỗng Lý Doanh lên tiếng:

“Thôi Tuần, nặng quá.”

Thôi Tuần khựng lại. Trong ánh trăng, Lý Doanh ôm chiếc cung sắt, ngẩng đầu nhìn hắn. Đôi mắt nàng trong suốt, sáng ngời như sương mai. Thôi Tuần nhìn sâu vào ánh mắt ấy, sau đó khẽ mím môi, đưa tay nhận lấy chiếc cung từ nàng, tiếp tục bước đi.

Lý Doanh cúi đầu, khóe miệng nàng khẽ cong lên một nụ cười nhàn nhạt. Nàng lại hỏi: “Thôi Tuần, chúng ta đi đâu?”

“Trên đất, có vết máu.”

Lý Doanh định thần nhìn kỹ, trên lá khô, quả nhiên có từng giọt máu đỏ thẫm. Nàng khẽ giật mình: “Đây là máu của con mèo hoang vừa nãy sao?”

“Không phải mèo hoang.”

“Không phải mèo hoang, thì là gì?”

“Đó là… Miêu quỷ.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 36: Có kẻ muốn hại a nương



Nghe đồn miêu quỷ là một loại tà thuật vu cổ. Vu hành giả sát hại con mèo già đã sống hơn hai mươi năm, sau đó dùng phù chú giam giữ linh hồn nó. Hằng đêm vào giờ Tý, kẻ đó dùng máu tươi của mình và xác chuột để cúng tế. Trải qua hàng chục năm, linh hồn con mèo già bị thao túng, trở thành công cụ hãm hại những người mà vu hành giả muốn diệt trừ.

Chẳng trách con mèo hoang khi nãy lại không có bóng. Thì ra, đó không phải mèo sống, mà là một miêu quỷ.

Lý Doanh lẩm bẩm: “Vậy những con quạ không tim vừa nãy, cũng là do miêu quỷ làm hại sao?”

Thôi Tuần gật đầu: “Hẳn là miêu quỷ đã ăn mắt và tim của quạ, sau đó điều khiển xác chúng bay lượn. Những con quạ khác vì thế mới hoảng loạn mà vội vã rời khỏi khu rừng hoang.”

Lý Doanh lại hỏi: “Vậy miêu quỷ lao vào ta, vì muốn ăn ta sao?”

“Đúng vậy.” Thôi Tuần trầm giọng: “Miêu quỷ được nuôi dưỡng bằng tà thuật hàng chục năm, đã trở thành ác hồn. Ác hồn vốn ưa hành hạ những kẻ yếu hơn mình. Nó giết quạ để mua vui, rồi muốn nuốt luôn cả hồn phách của công chúa.”

Hồi tưởng lại cảnh kinh hoàng ban nãy, Lý Doanh bất giác lạnh toát cả sống lưng. Nếu yết hầu nàng bị miêu quỷ cắn nát, có lẽ kết cục sẽ chẳng khác gì bầy quạ kia. Nàng run giọng nói: “Ta nhớ triều trước từng xảy ra họa miêu quỷ trong cung. Bởi vậy, Đại Chu có luật ai nuôi miêu quỷ hay truyền bá tà thuật này đều bị xử trảm; người nhà nếu biết mà không báo thì lưu đày ba nghìn dặm. Là ai, ai lại dám mạo hiểm, chịu tội chết để nuôi miêu quỷ?”

Ánh mắt Thôi Tuần dừng lại trên vệt máu kéo dài trên lá khô, hướng về phía trước. Hắn đáp: “Đi theo dấu máu này, ắt sẽ tìm ra đáp án.”



Vệt máu dẫn đến một căn nhà đá.

Nhà đá ẩn sâu trong rừng hoang, vô cùng hẻo lánh, xung quanh chẳng có lấy một bóng người. Tường nhà được xếp bằng những phiến đá thô, trên mái phủ dày lớp cỏ tranh. Thoạt nhìn, nơi này chẳng khác nào chỗ nghỉ chân của một thợ săn. Nhưng ánh trăng yếu ớt xuyên qua tầng mây, rọi lên đống xương chuột lớn bên cạnh, cùng bóng tối phủ trùm từ bên trong gian nhà, khiến không khí nơi đây trở nên lạnh lẽo đến rợn người.

Lý Doanh rùng mình, không khỏi sợ hãi.

Thôi Tuần không để lộ chút cảm xúc, chỉ nhẹ nhàng chắn trước nàng, trầm giọng nói: “Nắm lấy áo ta.”

Lý Doanh vội vàng gật đầu, bàn tay nhỏ run rẩy bám nhẹ vào chiếc áo bào lông hạc màu đen tuyền của hắn, theo sau từng bước, đến bên cánh cửa gỗ khép hờ.

Qua khe cửa, cả hai lén nhìn vào trong. Bóng tối ngập tràn, nhưng trong màn đen đặc ấy, một đôi mắt xanh lục âm u rực sáng, hiện ra rõ ràng.

Miêu quỷ!

Hai chữ này đồng thời xuất hiện trong tâm trí họ. Dường như nghe thấy động tĩnh, miêu quỷ ngoảnh đầu nhìn về phía cửa, cong lưng, gầm gừ nhe nanh. Nhưng khi trông thấy cây cung sắt dính máu trên tay Thôi Tuần, nó lập tức khựng lại, gầm một tiếng nhỏ sợ hãi, rồi phóng mình qua cửa sổ bỏ chạy.

Miêu quỷ đã trốn thoát.

Căn nhà đá lại chìm trong tĩnh lặng.

Thôi Tuần nói: “Chúng ta vào xem thử.”

Lý Doanh bấu chặt lấy áo hắn, dường như nhờ sự hiện diện của người trước mặt, nỗi sợ trong lòng nàng cũng vơi đi phần nào. Thôi Tuần bật lửa, ánh sáng đỏ rực lập lòe trong bóng tối, soi sáng cả căn nhà.



Khi bước vào, hai người đều sửng sốt.

Khắp nơi trong nhà đá bốc lên thứ không khí kỳ dị khó tả. Tường nhà phủ đầy rêu xanh ẩm ướt, bàn ghế bằng tre mục nát lốm đốm vết mốc. Nhưng điều khiến Lý Doanh kinh hoàng nhất chính là chiếc cọc gỗ hình chữ thập giữa phòng. Trên cọc, một hình nhân rơm mặc địch y xanh lục thêu mười hai chương văn, phần vai của nó còn loang lổ những vết máu khô. [1] Xem ra, đây là nơi trú thân của miêu quỷ.

[1] Địch y chính là lễ phục trang trọng nhất dành cho các bậc Hậu phi trong triều đình các nước Á Đông xưa. Từ thời Đường trở về sau, sắc áo được chuyển thành màu xanh sẫm, trên thân áo thêu đúng mười hai hàng hoa văn chim trĩ, viền tay áo và cổ áo đều thêu rồng. Kiểu dáng Địch y là nhất quán (giống với sự thống nhất của Cổn phục), chỉ có số lượng hàng chim trĩ sẽ thay đổi theo phẩm trật: bậc Hậu có 12 hàng, bậc Phi chỉ có 9 hàng. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 37: Thôi Tuân, ngài đang lo lắng cho ta sao?



Bùi Quan Nhạc, ngươi định đi đâu?

Lý Doanh không kịp nghĩ ngợi, lập tức chuẩn bị đuổi theo. Nhưng ánh mắt nàng lướt qua cây cung cũ trên đầu gối, lòng chợt do dự. Nghĩ ngợi một chút, nàng xòe bàn tay, một ngọn quỷ hỏa xanh lục bùng lên. Quỷ hỏa bay vút lên không trung rồi lập tức biến mất, ánh sáng xanh âm u len lỏi vào cây cung cũ. Sau khi thi triển xong thuật che mắt, Lý Doanh mới yên tâm. Nàng cẩn thận đặt cây cung dưới chân bệ đá của sư tử, rồi vội vã đứng dậy, đuổi theo hướng Bùi Quan Nhạc.

Xe ngựa của Bùi Quan Nhạc không gặp trở ngại nào trên đường, từ phường Tuyên Dương đến một căn viện yên tĩnh ở phường Bình Khang. Ông ta xuống xe, đi vào viện qua cổng sau. Cánh cổng vừa khép lại, không ai phát hiện một bóng dáng kiều diễm xuyên qua cánh cửa gỗ sơn đen đóng kín, âm thầm bước vào hậu viện cùng ông ta.

Vừa đặt chân đến hậu viện, Lý Doanh đã nghe tiếng nhạc cụ vang vọng, nàng bám sát theo hướng âm thanh. Nhìn bề ngoài tòa viện này trông vô cùng bình thường, nhưng bên trong lại được bài bố vô cùng tinh xảo: cầu nhỏ nước chảy, giả sơn kỳ quái, kỳ hoa dị thảo đủ cả, không hề thua kém phủ đệ của quan lại quyền quý. Rõ ràng Bùi Quan Nhạc rất quen thuộc nơi này, đi qua hành lang dài, thẳng tới một gian phòng bên cạnh.

Cửa sổ gian phòng được làm bằng khung gỗ sơn đỏ, hé mở một nửa. Qua khung cửa, Lý Doanh thấy trong phòng đèn đuốc sáng trưng, tựa như ban ngày. Mấy nàng Hồ cơ mắt xanh, y phục mỏng manh như sương, lộ ra những đường cong đầy đặn, đang uốn éo theo tiếng đàn Hồ cầm, gương mặt nở nụ cười đầy mê hoặc.

Y phục của các nàng quá mỏng, không che nổi những đường nét phập phồng. Lý Doanh chỉ nhìn một lúc đã thấy mặt đỏ tai hồng. Nàng lại nhìn quanh một lượt, đoán rằng nơi này chắc hẳn là một kỹ viện ở phường Bình Khang.

Triều Đại Chu không cấm quan lại lui tới chốn thanh lâu. Từ tể tướng đến mạc liêu, hiếm ai không qua lại những nơi như thế, thậm chí còn coi đó là thú vui tao nhã. Vì vậy, chuyện Bùi Quan Nhạc đến đây cũng chẳng có gì lạ.

Lý Doanh cố nén cơn ngượng, tiếp tục nhìn vào bên trong. Khi ánh mắt nàng bắt gặp vị lang quân anh tuấn đang ngồi dựa trên tràng kỷ giữa gian phòng, nàng hơi sững người.

Đó là… biểu đệ của nàng, Thẩm Khuyết.

Nét mặt Thẩm Khuyết lạnh lùng, dường như chẳng mấy hứng thú với màn múa hát. Hai nàng Hồ cơ ngồi bên cạnh: một người xoa bóp chân cho hắn, người còn lại bóc nho, đưa từng trái lên miệng hắn. Cảnh tượng này trông không khác gì một công tử ăn chơi vùng Ngũ Lăng. Lý Doanh cau mày, dù rất khẽ, bởi nàng chán ghét hắn. Dù là biểu đệ, dù có chung dòng máu, nàng vẫn không thích nổi con người này.

Bùi Quan Nhạc bước vào, cũng cau mày, giọng điệu có vẻ không vui: “Thẩm tướng quân, nhã hứng quá nhỉ.”

Thẩm Khuyết vừa ăn một quả nho, giọng điệu lạnh nhạt: “Hôm nay không trừ được chó dữ, đành tìm chút thú vui cho mình. Bùi Thượng thư, chuyện này ông cũng muốn xen vào?”

Hắn luôn kiêu căng, đến mức Bùi Quan Nhạc cũng không dám chạm vào vảy ngược của hắn. Chỉ đành ngồi xuống chiếc sạp thấp bốn chân bên cạnh, sửa lời: “Chuyện trừ chó dữ không thành, đều là do Thôi Tụng Thanh bất ngờ xuất hiện.”

Thẩm Khuyết cười lạnh: “Gì mà bất ngờ xuất hiện, tám phần là do mụ già kia không nỡ bỏ rơi sủng vật của mình, cố ý phái Thôi Tụng Thanh đến.”

Vừa nói, khóe miệng hắn nhếch lên thành một nụ cười khinh miệt, vẻ mặt đầy chế nhạo. Những nàng Hồ cơ không hiểu hắn nói gì, nhưng vẫn ánh mắt mê mẩn nhìn hắn. Thấy vậy, Bùi Quan Nhạc bật cười: “Tú bà ham tiền, giai nhân mê sắc, đàn bà ai chẳng vậy, huống chi là một góa phụ hai mươi năm không chồng.”

Thẩm Khuyết nghe thế, hừ nhẹ một tiếng. Bùi Quan Nhạc cũng cười lớn. Lý Doanh cảm thấy cả người không thoải mái, nhưng vẫn cố nén, tiếp tục lắng nghe.

Thẩm Khuyết lạnh lùng nói: “Nếu không phải mụ già đó mê sắc đến lú lẫn, đáng lẽ từ sáu năm trước, Thôi Tuần đã phải chết rồi.”

Bùi Quan Nhạc cũng thở dài đầy tiếc nuối: “Vì sáu năm trước không giết được hắn nên mới để lại mối họa hôm nay.”

“Chuyện này còn phải trách Bùi Thượng thư.” Thẩm Khuyết liếc nhìn ông ta, không khách khí nói: “Thôi Tuần bị giam ở Đại Lý Tự, ta đã nói nên giết hắn ngay, nhưng Bùi Thượng thư cứ chần chừ, bảo phải lấy được lời khai hắn đầu hàng Đột Quyết thì mới có lý do chính đáng để xử hắn tội phản quốc. Nếu hắn chết ở Đại Lý Tự một cách mơ hồ, mụ già kia chắc chắn sẽ bới móc. Kết quả thì sao? Thôi Tuần ở Đại Lý Tự suốt một năm, mọi hình phạt đều đã dùng, vậy mà hắn vẫn không mở miệng. Mụ già kia cũng chẳng có ý định cứu hắn. Một năm sau, Bùi Thượng thư cuối cùng tỉnh ngộ, muốn giết hắn, thì chẳng hiểu sao mụ già ấy tự dưng lại đến Đại Lý Tự, gặp được Thôi Tuần. Hừ, Liên Hoa Lang, đẹp như đóa sen, chỉ nhờ một lần gặp gỡ, Thôi Tuần lại được giữ tính mạng.”

Bùi Quan Nhạc ngượng ngùng cười: “Chuyện này không thể hoàn toàn trách ta. Khi ấy, Đại Lý Tự khanh Ngô Lục cũng có phần trách nhiệm. Nếu không phải ông ta cổ hủ, khăng khăng nói Đại Chu có luật, quy định không được tra khảo liên tục, mỗi lần phải cách nhau hai mươi ngày, thì Thôi Tuần đã chết dưới cực hình rồi.”

Thẩm Khuyết mỉa mai tiếp lời: “Bùi Thượng thư, đừng trốn tránh trách nhiệm nữa. Không phải sau đó cũng chính ông là người đã bảo với ông ta: luật pháp chỉ là thứ nằm trên giấy, chỉ có người sống thì định luật được. Về sau cũng đâu giữ cái luật chết tiệt cách hai mươi ngày mới được tra khảo một lần đó nữa. Dù ngài nói với Ngô Lục rằng cứ tùy ý tra khảo, nhưng phải giữ mạng Thôi Tuần, nên Ngô Lục mới rụt rè, để cho Thôi Tuần sống sót.”

Lý Doanh càng nghe càng kinh hãi. Chẳng trách Thôi Tuần không giương nổi cây cung cũ, chẳng trách hắn bệnh tật yếu ớt đến vậy. Ai bị tra khảo cực hình suốt một năm ở Đại Lý Tự, nếu không chết cũng mất nửa cái mạng, nào dám mơ đến việc hồi phục được như trước.

Hơn nữa, nghe Bùi Quan Nhạc và Thẩm Khuyết nói, Thôi Tuần bị cực hình ép cung suốt một năm vẫn không hé miệng, chứng tỏ hắn căn bản chưa từng đầu hàng Đột Quyết.

Lý Doanh nhớ lại lời Ngư Phù Nguy từng chế giễu Thôi Tuần rằng hắn bị phong hoa tuyết nguyệt ở Trường An làm mềm xương, đến mức không giương nổi cung cũ. Lòng nàng càng thêm khó chịu. Nhìn về phía Thẩm Khuyết và Bùi Quan Nhạc, ánh mắt càng thêm phần chán ghét.

Thẩm Khuyết lạnh lùng châm biếm liên tiếp, dù Bùi Quan Nhạc không muốn gây sự với hắn, cũng không khỏi bực mình: “Thẩm Tướng quân, giờ không phải lúc truy cứu trách nhiệm. Thay vì vậy, chi bằng nghĩ xem phải làm thế nào để trừ khử Thôi Tuần. Nếu không, chờ hắn phục chức, chúng ta còn có ngày lành sao?”

“Ta không nghĩ ra cách nào nữa.” Thẩm Khuyết nhận chén rượu nho từ tay Hồ cơ, uống một hơi cạn sạch: “Bùi Thượng thư bày bố cục tốt như vậy mà cũng không giết được Thôi Tuần, thì ta đành chịu.”

Bùi Quan Nhạc chán nản nói: “Vốn định mượn chuyện lăng mộ công chúa Vĩnh An bị phá hoại để trừ khử Thôi Tuần, không ngờ vẫn uổng công vô ích.”

Nghe những lời này, Lý Doanh không lấy làm bất ngờ. Quả nhiên không ngoài dự liệu, lăng mộ nàng bị hủy hoại là chủ ý của Bùi Quan Nhạc và Thẩm Khuyết.

Hồ cơ lại đưa thêm một chén rượu nho mỹ tửu cho Thẩm Khuyết, lần này hắn không uống mà chỉ lắc nhẹ chén vàng, chất rượu đỏ như máu lay động trong chén, ánh mắt trầm ngâm: “Nhắc đến việc Thôi Tuần điều tra nguyên nhân cái chết của công chúa Vĩnh An, hắn đang tính làm gì đây?”

“Ai mà biết được? Có lẽ là muốn dùng chuyện này để uy h**p Thái hậu.”

Thẩm Khuyết nắm chặt chén vàng, trong đôi mắt tuấn mỹ ánh lên một tia sắc lạnh: “Vì ngôi vị Hoàng hậu, ngay cả con gái cũng có thể giết, tỷ tỷ có thể giết, cháu gái cũng không tha. Loại phụ nhân độc ác như thế, thiên cổ chưa từng thấy!”

Lý Doanh nghe đến đây, sắc mặt nàng thoáng tái đi, thân mình hơi nghiêng về phía trước vài bước, càng áp sát khung cửa sổ gỗ son khắc hoa, lắng nghe từng lời đối thoại giữa Thẩm Khuyết và Bùi Quan Nhạc.

Nàng không hề hay biết, khi nàng còn đang dò xét trong viện, thì ở bên kia Thôi Tuần cũng đã rời khỏi phủ Thôi Tụng Thanh.

Thôi Tuần bước ra khỏi cửa, ánh trăng xuyên qua tầng mây chiếu lên gương mặt tựa tuyết của hắn. Môi hắn mím chặt, bàn tay giấu dưới tà áo khoác đen cũng hơi run rẩy. Khi bước qua ngưỡng cửa, cánh cổng son nặng nề lập tức đóng lại, dường như muốn cắt đứt toàn bộ liên hệ giữa hắn và Thôi phủ.

Tiếng cánh cửa gỗ vang lên, nặng nề và lạnh lẽo, như sự tuyên cáo công khai của bá phụ đối với sự chán ghét mà ông không định che giấu.

Hàng mi đen như cánh quạ của Thôi Tuần bỗng hạ xuống. Hắn kéo chặt áo choàng, khi ngẩng đầu lên, ánh mắt đã trở về vẻ bình tĩnh không chút gợn sóng. Hắn xoay người, định tìm bóng dáng mảnh khảnh bên cạnh con sư tử đá.

Nhưng ở đó lại trống không, không hề có ai cả.

Ánh mắt Thôi Tuần chợt trở nên sắc bén, hắn nhanh chân bước đến bên sư tử đá, chỉ thấy một cây cung sắt nằm trên bệ đá, ánh lên sắc xanh kỳ lạ giống như lửa ma trơi.

Hắn đưa tay nhặt cây cung lên, khi đầu ngón tay vừa chạm vào thân cung, ánh sáng xanh lập tức tắt ngấm.

Cầm cây cung trong tay, hắn phát hiện những vết rỉ sét loang lổ đã được gột sạch, cây cung sắt nay lại sáng bóng như mới. Thôi Tuần dùng ngón tay thon dài chậm rãi vuốt dọc thân cung, ánh sáng phản chiếu lên gương mặt tái nhợt của hắn, đôi mắt trong đó lại hiện lên một tia hoang mang hiếm thấy.

Ngay khoảnh khắc này, những lời lẽ lạnh nhạt của bá phụ đã bị hắn quên sạch. Hắn siết chặt cây cung, thân cung lạnh lẽo tựa băng giá khiến hắn khôi phục chút tỉnh táo. Hắn bước đến trước bệ sư tử đá, cúi nhìn mặt đá xanh bên dưới, nơi có vết bùn mới hằn từ bánh xe ngựa.

Trên phiến đá xanh, có tổng cộng mười sáu dấu móng ngựa – là xe tứ mã.



Trong phường Bình Khang, Lý Doanh vẫn đang chăm chú lắng nghe cuộc đối thoại giữa Bùi Quan Nhạc và Thẩm Khuyết. Hai người nhắc đến việc a nương của nàng từng muốn giết nàng. Nàng cứ nghĩ họ phải có chứng cứ gì rõ ràng, nhưng nghe qua nghe lại, ngoài những lời lăng mạ và chế giễu thì chẳng có lấy một chứng cứ xác thực.

Hóa ra, đó chỉ là phỏng đoán của họ mà thôi.

Lý Doanh thầm thở phào nhẹ nhõm, Bùi Quan Nhạc lại cất lời: “Có lúc, ta thực sự không hiểu nổi Thái hậu đang nghĩ gì. Nếu nói bà ta để tâm đến công chúa Vĩnh An, vậy tại sao lại biết chúng ta phá hủy lăng mộ công chúa mà không truy cứu? Còn nếu nói bà ta không để tâm, thì vì sao lại liên tiếp bãi chức Giả Phương, Lưu Viễn? Động thái này, chẳng khác nào đang xả giận.”

“Chỉ là làm bộ làm tịch mà thôi.” Thẩm Khuyết cười nhạt. “Một kẻ đã nhẫn tâm giết cả con gái mình, thì sao còn để tâm đến con gái?”

Bùi Quan Nhạc không đồng tình, ông ta nhấp một ngụm rượu đỏ như máu, khẽ lắc đầu, trông đầy vẻ hoài nghi khó hiểu.

Thẩm Khuyết lại chẳng còn kiên nhẫn để suy đoán: “Quan tâm mụ già ấy nghĩ gì làm gì chứ? Bao năm qua, chúng ta đã đoán tâm tư bà ta đủ rồi. Hừ, chẳng mấy chốc nữa, chúng ta sẽ không cần phải đoán nữa.”

Lý Doanh nghe đến đây, định nghiêng người chăm chú nghe thêm, thì chợt nghe tiếng nói vang lên từ hành lang dài: “Đạo trưởng, Thẩm tướng quân hiện đang ở trong gian phòng này, xin ngài đợi chút, để mỗ đi thông báo.”

Đạo trưởng? Là một đạo sĩ sao?

Trong lòng Lý Doanh thoáng sợ hãi. Nếu để đạo sĩ ấy gặp nàng, chắc chắn sẽ cho rằng nàng là yêu tà mà thu phục. Nàng liếc nhìn vào trong, nơi hai bóng người Thẩm Khuyết và Bùi Quan Nhạc còn đang đối thoại, rồi cắn răng, xoay người chạy khỏi.

Trong bóng đêm, Lý Doanh vừa vội vã chạy trốn, vừa không ngừng ngoái đầu nhìn lại. Đến khi chắc chắn rằng đạo sĩ kia không đuổi theo, nàng mới thở phào nhẹ nhõm, dừng bước, định nghỉ ngơi một chút.

Nhưng vừa mới đứng lại, cổ tay nàng bất chợt bị một người giữ chặt. Còn chưa kịp kêu lên, nàng đã bị kẻ đó kéo vào một con ngõ nhỏ.

Lý Doanh sợ hãi ngẩng đầu, hóa ra là Thôi Tuần.

Nàng lập tức an tâm: “Thôi Tuần, ngài làm ta sợ muốn chết.”

Thôi Tuần mím chặt môi, ánh mắt hiện rõ vài phần tức giận: “Cô đã đi đâu? Có biết là rất nguy hiểm không?”

Thôi Tuần xưa nay vui buồn không lộ ra ngoài, hiếm khi nào bộc lộ cảm xúc. Vậy mà lúc này, ngay cả giọng nói cũng mang theo chút bực bội. Dưới ánh trăng, Lý Doanh ngẩng đầu nhìn hắn, đôi mắt hắn sâu thẳm, nhưng nàng không hề sợ, ngược lại còn bất giác bật cười, nói: “Thôi Tuần, ngài… lo lắng cho ta sao?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 38: Tâm kính lưu ly



Rõ ràng Thôi Tuần đã sững lại.

Gương mặt ngẩng cao của Lý Doanh trắng ngần như tuyết, đôi mắt long lanh sáng rực. Nàng khẽ mỉm cười, lặp lại câu hỏi: “Thôi Tuần, ngài lo lắng cho ta sao?”

Thôi Tuần lúc này mới hoàn hồn. Hắn buông tay khỏi cổ tay nàng, lùi lại hai bước, ánh mắt trở lại vẻ điềm tĩnh, không chút gợn sóng. Hắn không trả lời câu hỏi của nàng, chỉ nói: “Bên cạnh Bùi Quan Nhạc có rất nhiều đạo sĩ và hòa thượng. Cô đi theo ông ta, chẳng phải muốn chết thêm lần nữa hay sao?”

Nghe hắn nói vậy, trong lòng Lý Doanh không có chút hụt hẫng nào. Nàng cũng không tiếp tục truy hỏi, chỉ mỉm cười dịu dàng nhìn hắn, nói: “Được rồi, lần sau ta sẽ không như vậy nữa. Ngài đừng giận.”

Thôi Tuần lại ngẩn ra một lúc. Hắn thấp giọng đáp: “Ta không giận.”

Nhưng câu nói tiếp theo, dù thế nào hắn cũng không thể thốt ra. Hắn thở dài, đổi chủ đề: “Cô đi theo Bùi Quan Nhạc, có phát hiện gì không?”

“Có.” Lý Doanh trả lời: “Lăng mộ của ta bị phá hoại, quả nhiên là do bọn chúng.”

“Chuyện nằm trong dự liệu.”

“Còn một phát hiện khác.”

“Phát hiện gì?”

Ánh mắt Lý Doanh dừng lại trên chiếc cung cũ trong tay Thôi Tuần, rồi nhìn đến cổ tay lộ ra ngoài ống tay áo của hắn. Cổ tay ấy rất đẹp, trắng lạnh như ngọc, ngón tay cũng thon dài, sạch sẽ, vô cùng thanh thoát. Một bàn tay đẹp như vậy, thế mà ngay đến cây cung cũ của mình cũng không kéo nổi.

Lý Doanh ngẩng đầu. Nàng không nhắc đến chuyện Bùi Quan Nhạc nói rằng Thôi Tuần từng bị giam ở Đại Lý Tự, mà chỉ nói: “Bùi Quan Nhạc nói, Ngự sử Giả Phương từng dâng tấu vạch tội ngài đã bị a nương bãi quan, mấy kẻ bên phe ông ta cũng vậy. Ông ta nghĩ rằng, a nương làm thế là vì muốn xả giận.”

Nghe xong, Thôi Tuần thoáng trầm ngâm. Lý Doanh mỉm cười: “Ngài từng nói, vì muốn ngăn ngài tiếp tục điều tra nên a nương đã không truy cứu chuyện ai là kẻ phá hoại lăng mộ ta. Nhưng thực ra, a nương đã xử lý xong rồi.”

Khóe môi nàng cong lên, nụ cười như những đóa hoa đầu xuân, tươi sáng và rạng rỡ. Nàng rất dễ cảm thấy vui vẻ vì một điều nhỏ nhặt. Vì vậy, khi biết a nương không bỏ mặc mình, nàng thực lòng cảm thấy hạnh phúc. Đó là niềm vui khi tình yêu được đáp lại. Nàng biết, a nương chưa bao giờ quên mình.

Thôi Tuần nhìn vào nụ cười của nàng, nhưng trong lòng vẫn còn chút nghi hoặc. Phải chăng cơn giận dữ của Thái hậu không chỉ vì hắn điều tra được những người bên cạnh bà? Nhưng đối diện với ánh mắt long lanh của Lý Doanh, hắn không nói ra được những nghi ngờ trong lòng.

Thôi Tuần quay mặt đi, nhìn ánh trăng trong trẻo chiếu lên phiến đá xanh ngoài con ngõ: “Ừ, do ta tiểu nhân, hẹp hòi suy đoán.”

Lý Doanh hơi sững người, sau đó khẽ nói: “Ngài không phải là kẻ tiểu nhân.”

Câu “tiểu nhân thấp kém” mà hắn đã nghe không biết bao nhiêu lần, giờ đây được nàng bác bỏ, khiến hắn cảm thấy có chút mới mẻ: “Ồ? Không phải tiểu nhân, vậy là gì?”

Lý Doanh thực sự nghiêm túc suy nghĩ câu hỏi của hắn. Người tốt? Hắn không phải. Người xấu? Không, nàng cảm thấy hắn cũng không phải. Vậy là gì nhỉ?

Nghĩ một lúc lâu, nàng nói: “Ngài là… một kẻ si tình.”

Lần này đến lượt Thôi Tuần ngạc nhiên: “Tại sao lại nói vậy?”

“Chấp niệm là si mê. Ngài chấp nhất với một ý niệm, kẹt lại trong một ý niệm. Chẳng phải là kẻ si tình sao?”

Thôi Tuần chậm rãi nghiền ngẫm lời nàng, một lúc lâu sau, hắn mỉm cười, nói: “Chấp nhất với sống, với chết, với sáng, với diệt. Không sửa được rồi.”

Lý Doanh không khuyên hắn buông bỏ chấp niệm, chỉ lặng lẽ nhìn hắn. Ánh mắt nàng dịu dàng như ánh trăng sáng ngời.

Thôi Tuần bỗng hỏi: “Vậy công chúa cảm thấy mình là người thế nào?”

“Ta à?” Lý Doanh đáp: “Ta là người không có chí lớn gì cả, cũng không có lý tưởng vĩ đại. Ta chỉ hy vọng những người ta yêu thương được bình an, thuận lợi. Chỉ vậy thôi.”

Thôi Tuần đưa ngón tay chạm nhẹ lên thân cung cong vút trong tay mình. Trước đây, chiếc cung này đầy vết han gỉ, nhưng giờ đây đã bóng loáng như cũ. Hắn lắc đầu, nhàn nhạt nói: “Đức Phật Dược Sư có dạy rằng: Khi đắc Bồ Đề, thân như lưu ly, tinh sạch hoàn toàn, không chút vẩn đục. Bởi vậy, ta cảm thấy, công chúa là một người có trái tim lưu ly.” [1]

[1] Đức Phật Dược Sư là vị Phật thông suốt tất cả y dược của thế gian và xuất thế gian. Còn gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, Dược Sư Như Lai, Dược Sư Lưu Ly Như Lai, Đại Y Vương Phật. Bản nguyện của ngài là “cứu tất cả bệnh khổ cho chúng sinh” cho nên còn có tên Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. Quốc độ của Ngài là cõi Tịnh Lưu Ly nằm ở phương Đông.

Ngài có thể chữa trị hết tất cả bệnh khổ của chúng sinh, những điên đảo vọng tưởng do tham, sân, si phiền não gây ra. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 39: Đường phấn ở Phúc Mãn Đường, là loại nổi danh nhất ở Trường An



Thôi Tuần còn chưa kịp đáp, Lý Doanh đã nước mắt lưng tròng, nghẹn ngào nói: “Chắc chắn ngài sẽ bảo là không đau, nhưng ngài cũng là con người, làm sao mà không đau được?”

Vết thương sau lưng của Thôi Tuần đã nhuộm đỏ lớp trung y, sắc mặt như ngọc nhuộm ánh tà dương giờ đây vì mất máu mà trở nên tái nhợt. Hàng mày vì đau đớn mà hơi nhíu lại, hắn cố gắng kìm nén, lồng ng.ực phập phồng nhẹ, nhưng đôi mắt lạnh lùng như sương tuyết ấy lại thoáng hiện một tia rung động.

Suốt sáu năm qua, hắn bước ra từ núi thây biển máu, dẫm lên Tu La đạo, làm những việc quỷ dữ, tính toán với người, cũng toan tính với mình. Trên thân thể đầy rẫy vết thương cũ chồng lên vết thương mới, nhiều đến không thể đếm xuể. Chưa từng có ai hỏi hắn, đau không.

Hắn cũng chưa từng hỏi chính mình: “Có đau không?”

Bởi ác quỷ trên Tu La đạo, vốn không biết đau.

Thế nhưng khi thiếu nữ mỹ lệ vừa khóc vừa hỏi hắn, liệu có đau hay không, hắn mới sững sờ nhận ra, hóa ra, hắn vẫn là con người, chứ không phải là quỷ.

Hắn lặng lẽ nhìn Lý Doanh. Cửa sổ và cửa phòng đều đóng kín, ánh sáng lờ mờ. Ánh nến cháy dở hắt lên gương mặt đẫm lệ của nàng, phủ lên đường nét mềm mại một lớp ánh sáng dịu dàng. Thôi Tuần bất giác nhớ đến ánh trăng trong trẻo như lưu ly rải trên phiến đá xanh đêm qua.

Đêm lặng gió yên, trở về chỉ thấy, một dòng trăng sáng, xanh trong như ngọc.

Yết hầu hắn khẽ động, ba chữ gần như thoát ra: “Minh Nguyệt Châu.”

Nhưng rồi ba chữ ấy cuối cùng hắn vẫn không nói ra được.

Hắn chợt thở dài một hơi, cài lại trung y. Lý Doanh lúc này đã khóc nấc lên từng hồi. Thôi Tuần cầm lấy một chiếc khăn trên bàn gỗ tử đàn, đưa cho nàng.

Nàng lại hất tay hắn ra.

Hắn nhẹ giọng hỏi: “Giận rồi sao?”

Lý Doanh gật đầu, nghẹn ngào nói: “Ta giận ngài, giận chính mình, ta giận tất cả mọi thứ.”

Đôi mắt nàng vì khóc mà đỏ hoe. Thôi Tuần nhìn nàng, khẽ cười, chậm rãi nói: “Đi từ cổng Đan Phượng trở về phường Tuyên Dương, sẽ ngang qua một tiệm bánh gọi là Phúc Mãn Đường.”

Lý Doanh ngừng khóc, ngẩng đầu nhìn hắn đầy nghi hoặc, vai vẫn không ngừng run lên. Đầu mũi nàng còn vương một giọt lệ lấp lánh.

Hắn nói tiếp: “Đường phấn ở Phúc Mãn Đường, là loại nổi danh nhất ở Trường An.”

“Đường phấn…” Nàng khẽ lặp lại.

Thôi Tuần chống tay xuống đất, gắng sức đứng dậy. Hắn khoác lên mình chiếc lam sam, nói như không: “Trên đường về, ta sẽ mua cho cô.”

Lý Doanh ngẩn người, nhìn theo bóng lưng hắn cho đến khi hắn rời khỏi phòng, cánh cửa gỗ đóng lại, thân ảnh khuất dần khỏi tầm mắt nàng. Chợt nhớ ra điều gì đó, nàng vội lục lọi trong túi gấm ngũ sắc đeo bên hông, lấy ra một viên đường phấn màu hổ phách.



Trong điện Bồng Lai, lò hương hình đầu chim phượng không còn đốt loại hương giải đau đầu, mà thay bằng bạch đàn hương an thần.

Sau lớp rèm châu, sắc mặt của Thái hậu đã khá hơn trước. Bà lãnh đạm nhìn Thôi Tuần đang quỳ dưới sàn gỗ mun, ánh mắt lướt qua chiếc áo dài nhuốm máu sau lưng hắn. Nửa nén hương trôi qua, bà mới cất lời: “Đứng lên đi.”

Trán Thôi Tuần đã rịn đầy mồ hôi lạnh, hắn cắn răng đáp: “Tạ Thái hậu.”

Hắn gắng gượng đứng lên, nhưng đầu gối đau buốt như vạn mũi kim châm, đôi chân lảo đảo, thân mình loạng choạng mới miễn cưỡng đứng vững.

Thái hậu vẫn lạnh lùng như cũ, hờ hững nói: “Vết thương còn chưa lành, ngươi đã dám đi điều tra án miêu quỷ ở Quỷ thị. Thôi Tuần, có phải ngô nên khen ngươi một câu trung thành tận tụy không?”

Sắc mặt Thôi Tuần tái nhợt, lưng và đầu gối đau đến cùng cực, mồ hôi lạnh không ngừng rơi. Đôi mày thanh tú vì cơn đau mà càng thêm tiều tụy. Hắn cúi đầu nói: “Mạng thần là do Thái hậu cứu, đương nhiên phải tận trung.”

“Ồ?” Thái hậu bật cười lạnh: “Ngô chưa từng nhìn ra điều đó.”

Thôi Tuần nghe vậy, mím môi, rồi quỳ rạp xuống, đầu cúi thấp: “Tự ý điều tra người bên cạnh Thái hậu là lỗi của thần. Thần không còn lời nào biện giải, xin Thái hậu tùy ý xử trí.”

“Ngô đã xử trí ngươi rồi.” Thái hậu nhìn bóng dáng đẫm máu ngoài bên ngoài bức rèm châu, thản nhiên nói: “Hôm nay ngô chỉ muốn nghe xem, rốt cuộc ngươi nghĩ gì.”

Thôi Tuần nghiến răng cúi đầu, đôi tay chống đỡ cơ thể đã bắt đầu run rẩy nhẹ, một lúc sau, hắn mới lên tiếng: “Sáu năm trước, quân Thiên Uy ở Lạc Nhạn Lĩnh bị diệt toàn quân, Quách soái vì giữ gìn danh tiết, đã tự vẫn mà chết. Các tướng sĩ quân Thiên Uy còn lại, tất cả đều chiến đấu đến chết.”

Hắn nói đến đây, giọng nói cũng không tránh khỏi sự run rẩy. Thái hậu im lặng, không đáp lời. Thôi Tuần lại quỳ gối dập đầu: “Thần coi Quách soái như phụ thân, coi quân Thiên Uy như huynh đệ. Thần, chỉ mong có thể làm rõ sự trong sạch cho họ.”

Ánh mắt hắn hơi ướt, cổ họng nghẹn lại, không thể nói tiếp, chỉ dập đầu thật mạnh. Thái hậu vẫn không nói gì, mãi lâu sau, bà mới lên tiếng: “Thôi Tuần, khi ta cứu ngươi ra từ ngục Đại Lý Tự, đã từng nói qua, án Thiên Uy quân đã có đủ chứng cứ xác thực, huống chi sáu châu Quan Nội vẫn còn dưới vó ngựa sắt của Đột Quyết, nỗi nhục này như dao cứa vào lòng, khiến dân chúng phẫn uất không thôi. Họ cần một nơi để xả giận. Ai muốn lật lại án của Thiên Uy quân, chắc chắn sẽ trở thành đối tượng để người đời chỉ trích. Cho nên, án này không thể lật lại được. Sao ngươi cứ bướng bỉnh thế này?”

Mồ hôi lạnh đã thấm đẫm áo Thôi Tuần, mỗi lần động đậy, là nỗi đau đớn như cắt vào xương thịt, mắt hắn mờ đi, lẩm bẩm: “Thần chỉ cảm thấy, họ không nên chịu kết cục này.”

Thái hậu đứng sau rèm châu, nhìn bóng dáng gầy guộc của hắn, bà im lặng hồi lâu, đến khi hương trầm tàn đi, mới cất tiếng: “Vậy ngươi định mượn chuyện Minh Nguyệt Châu để uy h**p ngô, giúp Thiên Uy quân lật lại án sao?”

Người Thôi Tuần ướt sũng mồ hôi lạnh, từng nhịp hô hấp nghe thấy tiếng rít nhẹ, tựa hồ đang cố gắng kìm nén cơn đau. “Thần làm phiền công chúa, khiến người không được yên nghỉ, tội đáng muôn chết. Nhưng trong cơn ác mộng, thần vẫn luôn thấy trận chiến ở Lạc Nhạn Lĩnh, vì thế mới làm bừa, xin Thái hậu ban tội.”

Thái hậu vẫn đang cầm chiếc túi thơm bằng vàng hoa văn bồ đào hoa điểu chạm rỗng mà Lý Doanh dâng tặng. Nhìn bóng dáng run rẩy của Thôi Tuần, ánh mắt bà thoáng qua một tia thương hại. Bà nắm chặt chiếc túi thơm, từng lời, từng chữ đều nghiêm nghị: “Thôi Tuần, không được phép động vào Minh Nguyệt Châu nữa.”

Thôi Tuần quỳ rạp trên đất, từng giọt mồ hôi lạnh rơi xuống mặt sàn gỗ đen bóng. Thái hậu lại nói: “Không được phép có lần thứ hai.”

Một câu này khiến Thôi Tuần hiểu rằng hắn đã an toàn vượt qua chuyện này. Hắn dập đầu xuống đất: “Tạ Thái hậu.”

“Ngô cho ngươi toàn quyền phụ trách vụ án miêu quỷ. Vương công quý tộc, nếu cần, đều có thể bắt trước xét sau, không cần bẩm báo với ngô.”

“Vâng.”

“Các vật quý hiếm trong cung không thể dễ dàng bị đánh cắp.” Đôi mắt Thái hậu thoáng lộ một nỗi bi ai, dường như không thể hóa giải: “Đi đi, tìm hiểu rõ ràng, ai muốn hại ngô, hy vọng đó không phải là hắn…”

Thôi Tuần mím môi, cúi đầu khấu tạ: “Thần tuân lệnh.”



Sau khi Thôi Tuần vào cung, Lý Doanh vẫn ngồi lâu lắm mới dần ngừng nức nở. Nàng cầm viên đường trong tay, ngọt ngào của đường thấm vào miệng, phần nào xoa dịu nỗi buồn trong lòng, nhưng khi nhìn thấy con dao găm dính đầy máu trên bàn tử đàn, lòng nàng vẫn không thể ngừng dâng lên cảm giác tủi thân. Sao hắn lại không yêu thương bản thân mình như vậy, nàng cũng không muốn quan tâm nữa.

Hắn nói muốn mua đường phấn cho nàng, nhưng nàng không thèm ăn thứ đường của hắn. Nàng không muốn quản hắn nữa.

Viên đường tan dần trong miệng. Lý Doanh lau nước mắt, đứng dậy trở về thư phòng. Khi Vương Nhiên Tê bị thương, nàng từng ở lại thư phòng của Thôi Tuần để tiện chăm sóc. Đến khi Thôi Tuần bị thương, nàng lại dọn về thư phòng, vẫn là để chăm lo cho hắn. Từ ngày nàng chuyển vào, Thôi Tuần dọn hết đồ đạc sang phòng ngủ, kể cả kệ sách gỗ mun chất đầy bí mật. Vì vậy, thư phòng giờ đây giống như một góc nhỏ của riêng nàng.

Lý Doanh quỳ xuống trước cầm án, trên bàn là một bình hải đường đã được cắm ngay ngắn. Ánh nắng xuyên qua cửa sổ gỗ, chiếu lên những đóa hoa màu hồng nhạt. Nhìn cảnh sắc ấm áp ấy, tâm trạng nàng dường như cũng khá lên.

Nàng nhẹ nhàng v.uốt ve nh.ụ.y hoa, nhưng ánh mắt không tự chủ lại nhìn ra ngoài cửa. Thôi Tuần vào cung đã gần một canh giờ, không biết khi nào hắn mới về?

Ý nghĩ ấy vừa thoáng qua, nàng liền giật mình. Chẳng phải nàng đã nói là không muốn quan tâm đến hắn nữa sao? Vậy thì còn để ý hắn làm gì?

Nàng hờn giận lắc đầu, thầm nghĩ sẽ không để tâm đến hắn nữa, cũng không thèm chăm sóc hắn. Hắn muốn làm khổ bản thân thì cứ làm đi, dù sao đau đớn cũng chẳng phải nàng chịu.

Nói thì nói vậy, nhưng khi nghe tiếng bước chân ngoài cửa, nàng vẫn không kiềm được mà đứng dậy, bước ra đón.

Nhưng người tới không phải là Thôi Tuần, mà là một người bán hoa từ Trường An.

Lão bộc câm đi cùng người bán hoa. Người bán hoa cầm một giỏ đầy hoa vàng nhạt mới hái. Hắn liên tục xin lỗi lão bộc câm: “Xin lỗi, những ngày qua trong nhà có chuyện, không kịp mang hoa đến.”

Lão bộc câm cũng không tức giận, nhận lấy giỏ hoa, chỉ vào cây hoa hải đường trong vườn, ra hiệu bằng tay. Người bán hoa cười nói: “Lão ông đã cắt cành hoa hải đường rồi sao, hoa hải đường trong phòng cũng thật đẹp.”

Lão bộc câm gật đầu, người bán hoa nói: “Nhưng hoa hải đường chỉ nở vào mùa xuân, nếu muốn có hoa quanh năm thì phải mua thêm những cành hoa khác.”

Lão bộc câm đưa mấy đồng xu cho người bán hoa, người bán hoa nhận lấy, tò mò hỏi: “Nhưng này, sao Thôi Thiếu khanh lại đột nhiên thích hoa thế? Trước giờ chưa từng nghe nói ngài ấy nhờ ai mang hoa đến.”

Lão bộc câm lắc đầu, người bán hoa lại hỏi: “Thôi Thiếu khanh không thích hoa sao?”

Lão bộc câm gật đầu, người bán hoa khó hiểu: “Không thích hoa sao lại mua hoa?”

Nhưng lão bộc câm không giải thích thêm, chỉ lịch sự tiễn người bán hoa đi, tự mình mang giỏ hoa vào vườn.

Trong vườn, Lý Doanh nhìn theo bóng người bán hoa, hắn không hiểu, nhưng nàng lại hiểu rất rõ.

Khi nàng bị thương ở phòng sách, mỗi ngày đều có hoa tươi, có khi là hoa nghênh xuân, có khi là hoa đỗ quyên, có khi là hoa mộc lan trắng. Nhưng trong viện của Thôi Tuần chỉ trồng hải đường, mà mấy cây hải đường ấy khi đó vẫn chưa nở hoa.

Hắn không thích hoa, ngay cả trong phòng ngủ cũng chưa từng đặt hoa tươi. Vậy thì những hoa tươi này là để dành cho ai, không cần nói ra cũng hiểu.

Một bông hoa nghênh xuân màu vàng nhạt từ giỏ hoa rơi ra, lão bộc câm không phát hiện, tiếp tục bước đi, phía sau, Lý Doanh cúi xuống nhặt bông hoa vàng nhạt ấy.

Hoa nghênh xuân màu vàng nhạt, nhỏ nhắn mà xinh đẹp, Lý Doanh cầm hoa, đưa nh.ụ.y hoa lên ngửi, hương thơm thanh nhã, nàng cầm bông hoa, mắt cũng không tự chủ được, lại nhìn ra cửa.



Mãi cho đến khi hoàng hôn, Thôi Tuần mới từ cung Đại Minh trở về phường Tuyên Dương. Hắn ngồi thẳng trên xe ngựa, lưng bị thương, vết thương rách toác, máu đông dính vào áo, mỗi khi cử động là cơn đau lại dâng lên, như muốn xuyên thủng tâm can. Hắn nhắm mắt lại, vẻ mặt bình thản, nhưng sắc diện tái nhợt vẫn không thể giấu nổi sự đau đớn tột cùng.

Khi xe ngựa gần đến cửa Thôi phủ, hắn rời xe, bảo người đánh xe quay về Sát Sự Thính, còn bản thân thì bước xuống, đi bộ trên đường. Cơn gió mát thoảng qua, đầu óc vốn đang choáng váng vì cơn đau cũng dần tỉnh táo lại. Hắn chậm rãi suy nghĩ về vụ án miêu quỷ. Thái hậu nói không sai, cung cấm nghiêm ngặt, một bộ địch y chắc chắn không thể tự biến mất, hẳn nhiên, phải có kẻ trộm đi.

Mà kẻ này, ắt hẳn phải là người có thân phận không tầm thường, nếu không sao có thể lẻn vào nơi phòng thủ nghiêm ngặt trong cung, lấy đi y phục cũ của Thái hậu?

Nhưng kẻ đó, làm sao biết được nơi của Tưởng Lương?

Thôi Tuần tiếp tục suy nghĩ, không hay biết, mình đã bước đến trước cửa Thôi phủ. Bên ngoài, không một bóng người, nơi đây vốn dĩ luôn vắng vẻ, ai ai cũng tránh xa, Thôi Tuần đã quen với điều đó.

Tuy nhiên, bước chân của hắn bỗng nhiên dừng lại.

Trên bậc thềm, có một thiếu nữ thanh tú đang ngồi chờ.

Thiếu nữ nhìn thấy hắn, ngẩng đầu lên, mỉm cười rạng rỡ: “Thôi Tuần, ngài đã về rồi sao?”

Nàng ngừng lại một lát, rồi tiếp lời: “Ta chờ… túi đường phấn của ngài.”
 
Back
Top Bottom