Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 10: Thắp đèn kính Phật



Sau khi tiễn đưa Thôi Tuần về phủ, Lý Doanh quay lại nhìn hội hoa đăng Thượng Nguyên đang dần khép lại. Vương Nhiên Tê đã quay về nhà, từ đó không còn xuất hiện nữa, cũng không biết đến khi nào mới có dịp gặp lại nàng ta. Tuy rằng ảo não, nhưng Lý Doanh không hối hận. Nếu phải làm lại, nàng vẫn sẽ không bỏ mặc Thôi Tuần một mình đơn độc giữa rừng mai, chỉ vì muốn tìm hiểu chân tướng.

Hôm sau là rằm tháng Giêng, ngày toàn thành Trường An thắp đèn kính Phật. Thái hậu hạ lệnh cho tất cả các ngôi chùa trên cả nước thắp đèn trường minh để cầu nguyện cho Lý Doanh. Hàng chục vạn tăng lữ tụng kinh vãng sanh vì công chúa. Lý Doanh chưa được luân hồi, nhưng nhờ hưởng hương khói và phật chú tụng trì, nàng có thể xuất hiện giữa ban ngày mà không cần che ô. Thế nhưng, giữa đám đông nhộn nhịp, không ai nhìn thấy nàng. Dù đứng giữa nơi phồn hoa náo nhiệt, nàng vẫn lẻ loi đến lạ thường.

Trước cổng chùa Tây Minh, Lý Doanh ngẩng đầu nhìn tấm biển gỗ khắc ba chữ “Tây Minh tự.” Ba chữ này do a gia nàng đề bút, nhưng không ai biết rằng đó thực chất là nét bút của nàng năm lên tám tuổi.

Ngày ấy, a gia bệnh nặng, không còn đủ sức để cầm bút. Thế nhưng người không muốn để lộ bệnh tình cho ai biết. Đúng lúc đó, chùa Tây Minh vừa mới trùng tu xong, tấu chương thỉnh cầu người đề tên cũng đã được gửi đến. Từ nhỏ Lý Doanh đã giỏi bắt chước nét chữ của a gia, ngay cả các trọng thần cũng không nhận ra sự khác biệt. Vì thế a gia đã bảo nàng viết thay, vờ như chính tay người đã viết.

Nàng nhớ rõ lúc ấy nàng đã hỏi a gia: “A gia bệnh rồi, sao không muốn cho người khác biết?”

A gia chỉ nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, thở dài: “Ngoài kia kẻ xấu nhiều lắm, nhưng a gia còn rất nhiều việc chưa làm xong. A gia không thể ngã xuống được, càng không thể bọn họ biết a gia sắp sửa ngã xuống.”

Khi ấy, nàng còn nhỏ nên chỗ hiểu chỗ không. Nàng lại hỏi: “Không phải a gia là hoàng đế sao? Sao lại sợ kẻ xấu? Giết hết bọn họ không được sao?”

A gia chỉ cười nhạt: “Mấy trăm năm qua, bảy tám triều đại đổi thay nhưng kẻ xấu thì vẫn mãi là kẻ xấu. Hoàng đế cuối cùng của tiền triều muốn giết hết kẻ xấu, nhưng chính ông ấy lại bị bọn chúng xuống tay trước.”

Nàng vẫn không hiểu, a gia chỉ mỉm cười: “Minh Nguyệt Châu, bây giờ con không hiểu, nhưng khi lớn rồi, con sẽ hiểu.”

Sau đó a gia nghĩ lại, rồi lắc đầu: “Thôi, Minh Nguyệt Châu của ta vĩnh viễn không hiểu thì vẫn tốt hơn.”

Bệnh tình của a gia kéo dài đến ba tháng. Suốt ba tháng ấy, a nương không rời giường bệnh, cẩn thận chăm sóc a gia. Có lúc, a gia bệnh nặng đến mức không tỉnh táo, a nương phải xem tấu chương, đọc từng chữ một, rồi nàng sẽ bắt chước bút tích của a gia, viết theo từng chữ một. Thế mà giấu được trong ba tháng. A gia khỏi bệnh, còn a nương thì vì kiệt sức mà ngã bệnh.

Nàng lo lắng đến phát khóc. Trong lúc ấy, các phi tần trong cung liền nhân cơ hội a nương nàng bệnh, tìm cách tranh sủng. A gia không hề đến cung của bất kỳ ai trong số họ, người nắm tay a nương đang nằm trên giường bệnh, dịu dàng nói: “Linh Diệp, nàng khác với họ. Nàng mau khỏe lại đi, ta còn rất nhiều chuyện muốn bàn với nàng.”

Khi đó, nàng cứ tưởng rằng những chuyện mà a gia muốn bàn chính là chuyện Hoàng hậu và các phi tần ức h**p a nương. Nhưng giờ nghĩ lại, nàng mới hiểu mình đã quá nông cạn. A gia lúc bệnh đã giao cho a nương xử lý tấu chương. Chuyện mà người muốn thương lượng với bà, hẳn đều là quốc gia đại sự.

Từ khi sinh được nàng, a nương không còn sinh thêm được ai nữa. Hậu cung tranh giành sủng ái, a nương ít khi tham gia. Theo năm tháng tuổi xuân dần qua, dưới gối bà lại không có hoàng tử, nhiều người đoán rằng a nương sẽ thất sủng. Ngay cả Hoàng hậu Trịnh thị cũng nghĩ thế. Nhưng a nương ngày càng được sủng ái, thậm chí còn được phong làm Quý phi, một ân sủng chưa từng có tiền lệ.

Không ai hiểu vì sao a gia lại ưu ái a nương nàng đến vậy. Trịnh Hoàng hậu cũng không hiểu. Nhưng nếu họ được thấy thịnh thế của Đại Chu ngày hôm nay, có lẽ họ sẽ đều nhận ra.

Cả đời a gia nàng đều luôn nỗ lực hết mình, đưa hoàng tộc Lý thị thoát khỏi sự thao túng của các môn phiệt thế gia. A nương nàng chính là đồng minh đắc lực nhất của người. Giữa họ không chỉ đơn thuần là tình cảm nam nữ, vì thế những phi tần chỉ biết tranh sủng như Hoàng hậu Trịnh thị thì làm sao có thể so bì được?

Đáng tiếc, nàng chỉ nhận ra điều này sau khi đã qua đời ba mươi năm.

Lý Doanh ngước nhìn tấm biển gỗ khắc tên chùa Tây Minh. Nàng nhớ a nương, nhớ cả a gia nàng.



Cuối cùng, nàng bước vào chùa Tây Minh. Đại Hùng Bảo Điện của ngôi chùa này là nơi thờ phụng bài vị ghi quốc vận Đại Chu, phía sau là bài vị các đời đế vương của triều đại này.

Lý Doanh vừa bước vào đã nhận ra bài vị của a gia nàng ngay, miếu hiệu là chữ “Anh”. Tương truyền, sau khi người băng hà, Thượng thư Hữu bộc xạ Thôi Tụng Thanh vốn định đặt miếu hiệu là “Thánh” nhưng lại bị các sĩ tộc môn phiệt phản đối. A gia vì nàng mà diệt trừ môn phiệt, gây nên “Huyết án Thái Xương”, trong lúc tại vị, số người chết oan không ít. Vậy nên dù a gia có chính tích trác việt, khởi xướng khoa cử, thúc đẩy cải cách, lựa chọn nhân tài mà không câu nệ xuất thân, đặt nền móng cho thời thịnh trị của Đại Chu nhưng vẫn phải chịu sự phản đối của sĩ tộc, miếu hiệu từ Thánh Tông hạ xuống Anh Tông. Tuy nhiên, riêng với thụy hiệu là “Minh” thì sĩ tộc lại không thể phản bác, bởi ngay cả sĩ tộc cũng phải thừa nhận rằng, a gia của nàng đích thực là một minh quân.

Lý Doanh bước tới, định qua bậc cửa để đến gần bài vị a gia, nhưng còn chưa kịp đặt chân thì ánh kim quang tỏa ra từ tượng Phật trang nghiêm đã đẩy nàng lùi lại mấy bước. Nàng cười cay đắng, thân phận cô hồn như nàng, ngay cả việc đến gần bài vị a gia để lễ bái cũng trở thành một điều xa xỉ.

Trên bài vị, ghi rằng a gia băng hà vào ngày mùng bốn tháng sáu, năm Thái Xương thứ ba mươi. Tính đến nay ngót nghét đã được hai mươi năm.

Lý Doanh ngước nhìn bài vị của a gia. Hóa ra đã hai mươi năm trôi qua. A gia và nàng không giống nhau. Linh hồn của người không còn vướng lại nơi trần thế mà hẳn đã luân hồi chuyển kiếp từ lâu rồi. Hoặc có lẽ, nhờ công đức ghi vào sử sách mà rất có thể, người đã phi thăng thành tiên.

Nàng không thể vào Đại Hùng Bảo Điện, đành quỳ xuống trước bậc cửa, thành tâm bái ba lạy.

“A gia, người là vị hoàng đế tốt nhất, cũng là a gia tuyệt vời nhất.”

“Minh Nguyệt Châu nhớ người.”



Lý Doanh lễ bái xong, lòng trĩu nặng bước đi, chuẩn bị rời khỏi. Chuyện cũ không thể truy cầu, nàng vẫn phải tìm kiếm chân tướng cho bản thân.

Chỉ vừa đi được vài bước, nàng đã bắt gặp tỳ bà cơ mà Thôi Tuần cứu tối qua.

Trong tay tỳ bà cơ là một tay nải nhỏ, nàng đang nói chuyện với trụ trì chùa Tây Minh. Sau khi hành lễ với trụ trì, nàng mở tay nải ra, bên trong là năm trăm văn tiền được xâu thành chuỗi.

Tỳ bà cơ cẩn thận dâng năm trăm văn tiền lên, tha thiết nói với trụ trì: “Đại sư, đây là số tiền mà ta tích góp được, tuy không nhiều nhưng chắc cũng đủ để thắp một ngọn đèn trường minh cho a huynh ta rồi.”

Trụ trì lắc đầu: “Nữ thí chủ, lần trước khi người đến, lão nạp đã nói rõ. Tây Minh Tự không thể thắp đèn trường minh cho huynh trưởng của người, không phải vì vấn đề tiền bạc, mà là không thể.”

“Tại sao lại không thể?” Tỳ bà cơ sốt sắng: “Mọi người đều có thể thắp đèn, cớ sao a huynh của ta lại không thể? Chẳng phải vì ta không có đủ tiền hương sao? Giờ ta đã gom đủ rồi, xin đại sư thương tình, hãy thắp một ngọn đèn trường minh cho a huynh ta, cầu cho huynh ấy sớm ngày chuyển thế.”

Trụ trì chắp tay: “A di đà Phật, nữ thí chủ, huynh trưởng của người mang tội nghiệt trên thân, chùa Tây Minh không thể thắp đèn cho người ấy.”

“Tội nghiệt gì? Chẳng lẽ vì thua trận mà trở thành tội nhân sao? Chẳng nhẽ các người chưa từng thua một trận nào trong đời ? Khi a huynh của ta thắng trận, cũng chẳng thấy triều đình ca ngợi huynh ấy là công thần.”

Trụ trì chắp tay thở dài, niệm một câu “A di đà Phật”, lại nói: “Nữ thí chủ, lão nạp là người cửa Phật, không can dự vào chuyện thế gian. Nhưng Thiên Uy quân của huynh trưởng người thất thủ, làm mất thành, khiến Thánh nhân hạ lệnh tịch thu gia sản, không cho thu nhặt thi thể, cũng chẳng được chôn cất đường hoàng. Lão nạp cũng không thể làm gì khác, xin thí chủ đừng làm khó nữa.”

Tỳ bà cơ ôm số tiền chắt chiu được, mắt đỏ hoe, trông rất đáng thương. Nàng quỳ sụp xuống, giọng nghẹn ngào: “Đại sư, chuyện đó đã qua sáu năm rồi, có lẽ Thánh nhân cũng đã quên mất… Ta chỉ… chỉ muốn thắp một ngọn đèn cho huynh trưởng, để soi sáng lối về nơi hoàng tuyền mà thôi…”

Trụ trì bất đắc dĩ niệm thêm một câu “A di đà Phật”: “Nữ thí chủ, nếu người còn tiếp tục làm khó, lão nạp chỉ có thể cho người mời thí chủ ra ngoài.”

Tỳ bà cơ nghẹn ngào, vẫn cố nài nỉ, nhưng trụ trì đã lắc đầu. Ngay khi trụ trì định sai người mời nàng ra khỏi chùa, bỗng một giọng nói lạnh lùng vang lên: “Trụ trì, xin khoan đã.”

Một người mặc thường phục màu đỏ thắm, dung mạo rực rỡ như hoa sen, chính là Thôi Tuần, đang bước lại từ xa. Hắn chắp tay hành lễ, nói với trụ trì: “Trụ trì, nàng ấy là cố nhân của mỗ, xin cứ để mỗ xử lý việc này.”

Trụ trì nhận ra Thôi Tuần, khẽ gật đầu: “Nếu vậy, xin nhờ Thôi Thiếu khanh.”



Sau khi trụ trì rời đi, Thôi Tuần liếc nhìn Lý Doanh đầy vẻ tò mò nhưng không nói gì. Sau đó, hắn quay lại đỡ tỳ bà cơ vẫn đang quỳ dưới đất. Nhưng tỳ bà cơ phẫn nộ hất tay hắn ra, vùng vẫy đứng lên: “Ngươi đừng chạm vào ta!”

Nàng lạnh lùng nói: “Ta ngại ngươi bẩn!”

Nàng ôm chặt bọc vải chứa năm trăm đồng tiền, trừng mắt nhìn hắn: “Thôi Tuần, vì sao họ đều đã chết, mà ngươi lại được sống?”

Thôi Tuần chỉ im lặng nhìn nàng, ánh mắt xanh biếc như biển cả không dậy sóng. Tỳ bà cơ trút hết nỗi oán hận lên người hắn, đau đớn thốt lên: “Trận Lạc Nhạn Lĩnh, Thiên Uy quân năm vạn người, tất cả đều đã tử trận, trong đó có cả a huynh ta! Thánh nhân nói rằng họ làm mất thành, là tội nhân của Đại Chu. Nhưng họ có tội gì chứ? Họ quyết tử chiến với Đột Quyết, thề không đầu hàng, nhưng đều chết sạch cả rồi. Họ đáng được xem là những anh hùng, nhưng tại sao lại bị định tội, tịch thu gia sản, không được thu thập thi thể, không được mai táng đàng hoàng? Vì sao chứ? Còn ngươi, chỉ có ngươi, kẻ duy nhất sống sót lại là kẻ đầu hàng Đột Quyết để cầu sinh, rồi còn được thăng quan tiến chức, hưởng vinh hoa phú quý! Ông trời ơi, đây là cái thế đạo gì chứ? Trời cao ơi, người thật sự không có mắt sao?”

Trước những lời buộc tội của tỳ bà cơ, Thôi Tuần chỉ lặng lẽ đứng im mà không đáp. Tỳ bà cơ cười gằn: “Thôi Tuần, anh trai ta đã chết, Tào Ngũ cũng đã chết, bọn họ đều chết hết rồi! Vì sao ngươi vẫn còn sống? À, ta quên mất, ngươi có gương mặt đẹp, được xưng là Liên Hoa Lang, công chúa Đột Quyết thích ngươi nên không giết ngươi, Thái hậu thích ngươi nên cũng không giết ngươi. Ngươi thật giỏi, chỉ bằng một khuôn mặt mà chinh phục được cả hai người phụ nữ quyền lực nhất thiên hạ. Chỉ có ta, một nhạc kỹ vô danh không quyền thế lại khinh thường ngươi, chê ngươi bẩn thỉu!”

Nàng ôm chặt tay nải trong lòng, từng bước lui lại: “Chùa Tây Minh không chịu thắp đèn trường minh cho a huynh ta, nhưng rồi sẽ có ngôi chùa khác chịu thắp. A huynh ta sẽ sớm được siêu sinh, còn ngươi, đừng xuất hiện trước mặt ta nữa, đừng làm bẩn mắt ta, và cũng đừng làm vấy bẩn con đường luân hồi của a huynh ta.”

Tỳ bà cơ thất thểu bỏ chạy, để lại Thôi Tuần đứng nhìn theo bóng lưng nàng. Một lúc lâu sau, hắn xoay người lại, nói với Lý Doanh, người nãy giờ không dám lên tiếng: “Nhìn đủ chưa?”

Lý Doanh cuống quýt xua tay: “Ta không cố ý nhìn. Ta chỉ muốn đến gặp a gia, không ngờ lại gặp chuyện này…”

Nàng định nói rằng mình không ngờ sẽ gặp cảnh tỳ bà cơ mắng nhiếc Thôi Tuần, nhưng chợt cảm thấy lời này không ổn. Khi nàng còn đang túng quẫn, bỗng nghe Thôi Tuần thở dài: “Thôi bỏ đi, dù sao mỗi lần ta rơi vào cảnh khốn đốn thì cô cũng đều có mặt ở đó, ta đã quen rồi.”

Lý Doanh hơi ngẩn người, nàng ngượng ngùng gãi đầu. Mặc dù trên mặt Thôi Tuần không có biểu hiện gì khác thường, nhưng nàng cảm thấy, bị người quen cũ chỉ trích thế này, hẳn trong lòng hắn cũng không dễ chịu gì. Nàng bèn nói: “Những lời đó, ngài đừng để trong lòng.”

Thôi Tuần cười nhạt: “Chắc cô lại muốn nói, những điều đó chưa hẳn đã là sự thật?”

Lý Doanh nhớ tới những vết thương khắp người Thôi Tuần đêm qua, bèn lẩm bẩm: “Vốn dĩ chưa chắc đã là thật mà.”

Nghe vậy, Thôi Tuần khẽ cười, nụ cười làm sáng cả gương mặt vốn đã tuấn tú của hắn, giống như hoa sen nở rộ. Lý Doanh ngẩng đầu nhìn hắn, rồi bất chợt cười khúc khích: “Thôi Thiếu khanh, ta sẽ nói cho ngài một bí mật.”

Nàng đắc ý chỉ tay ra bên ngoài, nói: “Tấm bảng gỗ trước Tây Minh tự là do ta viết.”

“Cô viết sao?”

“Ừm, lúc ta tám tuổi.”

Thôi Tuần suy nghĩ một chút, rồi nhanh chóng hiểu ra. Lý Doanh tám tuổi, tức là năm Thái Xương thứ mười hai, trong năm đó, Thái Xương Đế đã không thượng triều trong suốt ba tháng. Dân chúng bàn tán xôn xao, đồn rằng Thái Xương Đế mắc bệnh nặng. Đích mẫu của người là Tiết Thái hậu, liền muốn lôi kéo Tiết thị ở Hà Đông để phế ngôi, lập người khác lên thay. Nhưng thánh chỉ của Thái Xương Đế vẫn được ban ra đều đặn từ điện Thần Long, nơi người dưỡng bệnh, điều này khiến họ Tiết ở Hà Đông sợ người giả bệnh, không dám nghe theo. Sau này khi Thái Xương Đế lâm triều trở lại, Tiết thị Hà Đông đều cho rằng người thực sự giả bệnh, tự nhủ may mà không nghe theo lời Thái hậu, nếu không chẳng phải cả tộc đã đi đời rồi sao?

Ai mà ngờ, Thái Xương Đế thực sự có bệnh.

Lý Doanh nói: “Mọi người đều nghĩ rằng tấm bảng đó do a gia viết, nhưng thực ra là do ta viết. Ngài xem, điều ai cũng tin là đúng nhưng chưa chắc đã đúng đâu. Thôi Thiếu khanh, ngài có thấy vậy không?”

Thôi Tuần nhìn vào gương mặt tươi sáng của nàng, cõi lòng như có làn gió lướt nhẹ qua dây đàn. Hắn không trả lời là đúng hay sai, một lúc lâu sau mới gật nhẹ đầu: “Ừ.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 11: Liên Hoa Nô



Tại hậu viện của chùa Tây Minh, Thôi Tuần và Lý Doanh cùng nhau sánh bước, thong thả dạo bộ.

Vườn mai ở hậu viện chùa Tây Minh nổi tiếng là một tuyệt cảnh của Trường An, khắp vườn ngập tràn sắc đỏ của hoa mai, nở rộ như ánh bình minh rực rỡ. Tuyết rơi từ những ngày trước vẫn chưa tan hết, bao phủ khắp nơi, nổi bật sắc hoa sáng ngời, đồng thời tạo nên cảnh sắc thơ mộng như thi như họa. Thôi Tuần khoác áo choàng đen, dung mạo như ngọc, Lý Doanh mặc áo hồ ly trắng, yêu kiều thanh tú. Thôi Tuần đi giày da đen, in từng dấu chân trên nền tuyết, nhưng Lý Doanh do là một hồn ma nên dù bước trên tuyết cũng chẳng để lại bất kỳ dấu vết nào. Nàng có chút ngậm ngùi, bước chân cũng theo đó bỗng khựng lại.

Thôi Tuần nhận ra, hắn khẽ nói: “Cô đi sau ta đi.”

Lý Doanh lập tức hiểu ý hắn, nàng gật đầu rồi đi theo sau lưng Thôi Tuần, từng bước đặt chân vào dấu chân trên tuyết của hắn, như thể nàng cũng để lại dấu chân ở trên thế gian.

Là một nam tử, dấu chân của Thôi Tuần lớn hơn nàng rất nhiều. Lý Doanh cúi đầu, tay áo giấu chiếc lò sưởi nhỏ, cứ thế mà theo bước hắn. Ánh mặt trời vàng rực như thớ lụa, phủ lên người Thôi Tuần, chiếu dài bóng hắn trên nền tuyết. Lý Doanh cúi đầu, vừa vặn trông thấy bóng dáng cao lớn của hắn bao phủ lên người nàng, cảm giác cô tịch trong lòng lặng lẽ tan biến, thay vào đó là một chút an yên.

Một cánh mai đỏ từ từ rơi xuống từ nhành cây, đáp lên vai Thôi Tuần rồi lại từ đó rơi xuống. Lý Doanh không kìm được mà dừng bước, vươn tay ngọc ra đón lấy cánh mai. Hoa mai nhẹ nhàng đáp vào lòng bàn tay nàng, nàng nhìn cánh hoa, bất giác nhớ lại cánh mai tối qua rơi trên môi Thôi Tuần, và cảm giác ngón tay nàng chạm vào đôi môi lạnh băng của hắn khi đó.

Tim nàng bỗng đập lỡ một nhịp. Thôi Tuần thấy nàng dừng lại, quay đầu hỏi: “Công chúa đang làm gì đó?”

Lý Doanh giật mình, tựa như kẻ làm chuyện xấu bị bắt quả tang, nàng lập tức giấu cánh hoa vào tay áo đang cầm chiếc lò sưởi, rồi lắc đầu: “Không… không có gì.”

Thôi Tuần mỉm cười, dưới nền tuyết trắng ngày đông, nụ cười ấy càng làm lu mờ cảnh sắc xung quanh. Lý Doanh miên man suy nghĩ, chợt nhớ lại những bài thơ hồi nhỏ nàng từng đọc, khi gặp phải câu “Tích thạch như ngọc, liệt tùng như thúy. Lang diễm độc tuyệt, thế vô kì nhị”, [1] nàng từng nghĩ, thế gian làm gì có nam tử nào phong thái đến nhường này. Nhưng gặp Thôi Tuần rồi, nàng mới hiểu thì ra có người như vậy. Chả trách người ta gọi hắn là “Liên Hoa Lang”, diện mạo này chẳng phải càng vượt xa đóa hoa sen hay sao

[1] Bản dịch của Fanpage Họa Ảnh Các: Đá kết như ngọc quý, thân tùng như ngọc xanh. Vẻ tươi riêng một cõi, thiên hạ chẳng người tranh.

Nàng vừa nghĩ, tim lại đập nhanh hơn một nhịp. Cúi đầu giấu chiếc lò sưởi trong tay áo, nàng vội vàng đổi chủ đề: “Phải rồi, đêm qua Thôi Thiếu khanh nhiễm lạnh, không biết hiện giờ đã đỡ hơn chưa?”

Thôi Tuần đáp: “Đa tạ công chúa đã tặng y phục, ta không sao.”

Thôi Tuần vốn không phải là người thích nói nhiều, sau câu đó, hắn lại trở về vẻ im bặt. Lý Doanh bối rối, nhỏ giọng hỏi: “Ồ, vậy tại sao hôm nay Thiếu khanh lại đến chùa Tây Minh?”

Thôi Tuần trầm ngâm một lúc, chậm rãi nói: “Hôm nay là ngày giỗ của mẫu thân ta.”

Lý Doanh không ngờ đến câu trả lời này, càng không ngờ rằng Thôi Tuần lại sẵn lòng nói với nàng. Nàng ngạc nhiên, rồi lúng túng nói: “Xin lỗi, ta không biết…”

Thôi Tuần khẽ nói: “Không sao.”

Hắn tiếp: “Mẫu thân qua đời khi ta mới ba tuổi. Thật ra, thậm chí ta còn không nhớ rõ bà trông như thế nào, nhưng mỗi năm vào dịp này, ta vẫn đến đây thắp một ngọn đèn trường minh cho bà.”

Theo phong tục Đại Chu, người đã khuất sẽ được thân nhân đến chùa thắp đèn trường minh, xua tan bóng tối và chiếu sáng con đường ở thế giới bên kia, giúp người đó sớm đầu thai chuyển thế. Nếu không có đèn trường minh, hồn phách sẽ vĩnh viễn bị giam cầm trong bóng tối, không thể vãng sinh.

Khi Thôi Tuần nói về việc thắp đèn cho mẫu thân, giọng điệu hắn vẫn bình thản, không lộ rõ cảm xúc vui buồn. Lý Doanh vội vàng an ủi: “Chẳc khi là nhờ vào phúc đức dày dặn, mà mẫu thân ngài đầu thai chuyển thế từ lâu rồi cũng nên.”

“Đầu thai chuyển thế?” Thôi Tuần khẽ cười: “Có lúc, ta lại hy vọng người chưa đầu thai.”

Lý Doanh sửng sốt. Nàng chợt nhớ đến lời đồn Thôi Tuần thân duyên đạm bạc, cha hắn đã sớm gạch tên hắn ra khỏi gia phả, nên vào đêm Giao thừa hay tiết Nguyên Tiêu, hắn đều chỉ có một mình, không có người thân để được đoàn viên. Người mẹ quá cố hẳn là ký ức cuối cùng của hắn về một người thân. Nếu bà ấy cũng chuyển sinh, điều đó có nghĩa là hắn cũng mất đi cả chút ký ức cuối cùng ấy.

Lý Doanh bỗng thấy lời an ủi của mình thật ngốc nghếch. Trong lúc nàng đang bối rối, Thôi Tuần lại nói: “Nhưng, có lẽ bà đầu thai sớm cũng tốt.”

Lý Doanh không hiểu, Thôi Tuần cũng không giải thích thêm. Hắn ngừng một chút, rồi bất ngờ hỏi: “Công chúa đã từng nghe ở âm phủ có một nơi gọi là Vong Tử Thành chưa?”

Lý Doanh ngạc nhiên, vội đáp: “Vong Tử Thành? Ta có nghe qua.”

Nàng bắt đầu kể: “Nghe nói đó là nơi dành cho những oan hồn. Những người không phải chết già mà chết oan ức hoặc bị người khác giết hại, đều không thể đầu thai. Hồn phách của họ bị đưa vào Vong Tử Thành do Cố Thành Vương cai quản, để tránh họ hóa thành lệ quỷ gây hại cho nhân gian. Những oan hồn ấy không thể nhận đồ cúng từ người trần, cũng không được cao tăng siêu độ. Chỉ khi tận mắt chứng kiến kẻ hại họ chịu báo ứng, họ mới có thể nguôi ngoai oán hận, rời khỏi Vong Tử Thành để đầu thai, nếu không, hồn phách sẽ mãi bị giam cầm, không thể siêu thoát.”

Thôi Tuần nghe xong, hồi lâu mới khẽ thở dài: “Thì ra là vậy.”

Lý Doanh cảm thấy hẳn là có nguyên do nên Thôi Tuần mới tìm hiểu về Vong Tử Thành. Nàng vừa định hỏi thì hắn lại lên tiếng: “Vậy tại sao hồn phách của công chúa không vào Vong Tử Thành?”

Lý Doanh chưa từng nghĩ đến vấn đề này, nghe vậy liền ngẩn người. Chưa kịp trả lời, Thôi Tuần đã tiếp tục: “Chắc là vì Thái hậu đã thắp đèn trường minh cho công chúa khắp bốn vạn ngôi chùa trên cả nước, dâng lễ trước Phật, nên công chúa mới không bị giam giữ ở Vong Tử Thành.”

Đèn trường minh càng nhiều, niệm lực của hồn phách càng mạnh. Lý Doanh nghĩ một lúc rồi đáp: “Có lẽ là vậy.”

Thôi Tuần gật đầu, sau đó không nói gì thêm, chỉ đứng ngắm nhìn những cành mai trong vườn, như đang suy tư điều gì đó. Lý Doanh thấy hắn đăm chiêu cũng không dám quấy rầy, chỉ lặng lẽ nắm lấy đóa mai, ẩn trong tay áo. Đóa hoa mai được đặt lên lò sưởi xông hương, mùi thơm nhàn nhạt của mai hòa quyện với hương trầm, lan ra khiến lòng người mê đắm.

Bất chợt, những tiếng lõm bõm vang tên, đó tiếng bước chân người giẫm vào trong tuyết. Ánh mắt của Thôi Tuần đột ngột cứng lại.

Lý Doanh nghi hoặc nhìn theo ánh mắt của hắn, chỉ thấy dưới gốc cây mai phía trước có một nữ tử vận váy thạch lựu đỏ, tay cầm một cành mai đã gãy, vẻ mặt cao ngạo, đang nhìn chằm chằm vào Thôi Tuần.

Nữ tử có làn da trắng nõn và vóc dáng cao hơn hẳn những nữ tử bình thường, con ngươi đen láy, sống mũi rất cao, ngũ quan sắc sảo, thoạt nhìn không giống người Trung Nguyên mà có vẻ như là người Đột Quyết.

Nhưng điều làm Lý Doanh kinh ngạc nhất không phải vì nàng ta là người Đột Quyết, mà là bên má phải của nàng có một hình xăm hoa sen sống động như thật, không những không làm mất đi vẻ đẹp mà ngược lại, còn khiến khuôn mặt nàng thêm phần diễm lệ, cuốn hút đến khó tin.

Nữ tử cầm cành mai, từng bước tiến về phía Thôi Tuần. Sắc mặt Thôi Tuần lập tức thay đổi, khuôn mặt vốn đã tái nhợt của hắn càng trở nên trắng bệch. Lý Doanh nghe thấy rõ hắn nghiến chặt răng, ánh mắt lạnh lùng, nhưng cuối cùng vẫn chắp tay hành lễ: “Tham kiến Huệ phi.”

Thì ra, nữ tử này chính là Huệ phi của đương kim hoàng đế, em trai ruột Lý Doanh.

Khi còn mắc kẹt dưới hồ sen, Lý Doanh từng nghe các cung nữ bàn tán về một vị công chúa Đột Quyết xinh đẹp tuyệt trần, được đưa đến hòa thân với Đại Chu, hoàng đế rất sủng ái nàng, vừa vào cung đã phong làm Huệ phi. Nàng ấy tên là A Sử Na Gia, chẳng lẽ chính là nữ tử trước mặt?

A Sử Na Gia cầm nhánh mai trong tay, tiến thêm vài bước đến trước mặt Thôi Tuần. Thôi Tuần vẫn cúi đầu, chắp tay hành lễ, nhưng A Sử Na Gia lại dùng cành mai nâng nhẹ cằm hắn lên. Đóa mai đỏ rực như mây, tương phản với khuôn mặt trắng bệch của Thôi Tuần, khiến hắn càng tuấn mỹ như tranh vẽ. A Sử Na Gia mỉm cười, nói bằng thứ ngôn ngữ Đại Chu không mấy lưu loát, pha chút khẩu âm của người Đột Quyết: “Mai của Trung Nguyên dù đẹp đến đâu, cũng không thể sánh với ngươi.”

Ánh mắt Thôi Tuần càng thêm lạnh lẽo, môi hắn mím chặt, nhíu mày rồi vung tay đẩy cành mai đang chạm vào cằm hắn ra. A Sử Na Gia cười khẩy: “Vẫn cái tính khí ấy.”

Nàng thản nhiên nói: “Ta biết ngươi không muốn nhìn thấy ta, nhưng ta vẫn cố tình đợi ngươi ở đây. Nghe nói hôm nay là ngày giỗ của mẫu thân ngươi, nên ta đặc biệt xuất cung, đến đây đợi ngươi.”

Thôi Tuần lạnh nhạt đáp: “Huệ phi xin giữ lễ.”

“Giữ lễ?” A Sử Na Gia cười nhạt: “Người như ngươi mà cũng xứng nói với ta câu đó sao?”

Nàng nhìn Thôi Tuần từ đầu đến chân, cười xùy: “Ngày đó ở Đột Quyết, ngươi nhất quyết không chịu khuất phục ta, ta còn tưởng ngươi rất có cốt khí. Không ngờ về Đại Chu chưa được bao lâu, ngươi lại thành khách trong màn của Thái hậu. Tuổi của bà ta cũng đủ để làm tổ mẫu ngươi, xem ra cốt khí của ngươi cũng chẳng còn lại nhiều. Nếu đã vậy, ngươi cần gì phải chịu hai năm hành hạ kia?”

Lời nói của nàng khiến Lý Doanh phút chốc hiểu ra. Nàng nhớ đến lời kể của tỳ bà cơ về việc công chúa Đột Quyết thích Thôi Tuần. Không lẽ chính là nữ tử này? Và hai năm hành hạ đó, lẽ nào chính nàng ta là người gây ra những vết thương trên cơ thể Thôi Tuần?

Thôi Tuần cau mày, hắn hiếm khi bộc lộ cảm xúc một cách rõ ràng, nhưng đối diện với A Sử Na Gia, hắn không muốn giấu giếm sự ghê tởm kia. Hắn lùi lại hai bước, lạnh lùng nói: “Nếu Huệ phi không còn chuyện gì khác, thần xin cáo lui.”

“Cứ đi đi.” A Sử Na Gia cười gằn: “Dù sao thì bà già đó cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa. Đến lúc bà ta chết rồi, ta muốn xem ngươi sẽ chạy đi đâu.”

Mắt Thôi Tuần lóe lên vẻ phẫn nộ, hắn mím môi không nói. A Sử Na Gia cười đầy ác ý: “Đến lúc đó, ngươi sẽ thuộc về ta, Liên Hoa Nô.”

Ba chữ “Liên Hoa Nô” vừa thốt ra, sắc mặt Thôi Tuần càng tái nhợt hơn, như thể đã khiến hắn nhớ lại một quá khứ vô cùng nhục nhã. Lý Doanh càng chắc chắn rằng những vết thương trên người hắn quả thật có liên quan đến A Sử Na Gia.

Thấy sắc mặt Thôi Tuần trắng bệch, A Sử Na Gia càng cười khoái trá, như thể nàng ta rất thích thú khi nhìn hắn chịu cảnh giày vò. Nàng ta bước tới gần hơn, v.uốt ve hình xăm hoa sen trên mặt, nói: “Nói mới nhớ, hình xăm hoa sen này cũng là nhờ ngươi ban tặng. Ngươi nói xem, đợi khi chỗ dựa của ngươi chết đi, ta nên trừng phạt ngươi thế nào đây? Dùng thép gai đâm xuyên qua xương ngươi rồi treo lên, hay lột hết y phục ngươi, nhốt vào chuồng chó, để người qua kẻ lại đều được thưởng thức tư thái của Liên Hoa Nô nhà ngươi?”

Thôi Tuần nghiến chặt răng, tay hắn siết chặt thành nắm đấm, đôi mắt rực lửa nhìn trừng trừng về phía A Sử Na Gia. Thấy thế, A Sử Na Gia nhướng mày: “Sao? Ngươi muốn giết ta à? Hừ, bây giờ ta là Huệ phi của Đại Chu, ngươi dám động đến một sợi tóc của ta, thì chẳng cần phải đợi bà lão kia chết đi, nhà lao của Đại Lý Tự sẽ là thứ đợi ngươi trước.”

Thôi Tuần nghiến răng ken két, tay nắm chặt đến mức các đốt ngón tay trắng bệch, móng tay đâm vào lòng bàn tay đau nhói. Hắn nghiến răng chịu đựng sự nhục nhã, quay người bỏ đi.

Nhưng đúng lúc đó, Thôi Tuần bỗng nhìn thấy Lý Doanh ngồi xổm xuống, cẩn thận nhặt lên một cành mai dưới đất.

A Sử Na Gia bỗng cảm thấy cánh tay mình bị ai đó đẩy nhẹ, nàng quay đầu lại nhưng chẳng thấy ai. Ngay sau đó, phía sau gáy nàng lại bị ai đó đánh mạnh, A Sử Na Gia hoảng sợ, nhìn quanh nhưng vẫn không thấy gì.

Lý Doanh cầm cành mai, gõ lên cánh tay và vai của A Sử Na Gia, miệng lẩm bẩm: “Đi mau đi, còn không đi sao?”

A Sử Na Gia rốt cuộc cũng biến sắc, hoảng hốt la lên: “Trong vườn mai… có ma! Có ma!”

Nàng ta vội vã chạy trốn, không dám ngoái đầu lại. Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm: “Cuối cùng cũng đi rồi.”

Nàng ném cành mai xuống, quay người nhìn về phía Thôi Tuần, định an ủi hắn vài câu nhưng lại không biết phải mở lời thế nào.

Sắc mặt Thôi Tuần vẫn còn trắng bệch hơn cả tuyết, trong ánh mắt hắn lộ rõ sự mơ hồ, bối rối. Hắn liếc nhìn Lý Doanh một cái, không nói lời cảm ơn, chỉ quay người, kéo chặt chiếc áo choàng hạc, cúi đầu lặng lẽ rời đi.

Lý Doanh nhìn theo bóng lưng đơn độc của hắn, nàng cắn môi, rồi thở dài: “Thôi vậy.”

Từ khi thấy Thôi Tuần cố gắng không ngất xỉu trước mặt mọi người vào tối qua, nàng đã biết rằng Thôi Tuần không phải là kẻ vô liêm sỉ như thiên hạ đồn đại, mà trái lại, lòng tự tôn của hắn rất cao. Vì vậy, hôm nay bị nàng nhìn thấy quá khứ nhục nhã nhất, hẳn là hắn cảm thấy vô cùng ê chề.

Lý Doanh lấy ra đóa hoa mai đã rơi từ trên vai Thôi Tuần, cẩn thận cầm trên tay và ngửi nhẹ. Hương mai thơm ngát, lần đầu tiên nàng cảm thấy tò mò, vị gian thần bị mọi người đàm tiếu vì đầu hàng Đột Quyết này, rốt cuộc đã trải qua những gì?

Trong lúc vừa mải mê ngửi đóa mai đó vừa đoán già đoán non, đột nhiên nàng nghe thấy một loạt tiếng bước chân lộn xộn: “Không phải Huệ phi đi vào rừng mai sao? Nhưng giờ lại không thấy nàng đâu?”

Một vài phụ nhân ăn vận hoa lệ vội vã bước đến, trong số đó có cả người mà Lý Doanh đã tìm kiếm bấy lâu: Vương Nhiên Tê.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 12: Ta không giết người



Hóa ra những quý phu nhân này đều theo hầu A Sử Na Gia đến chùa Tây Minh lễ Phật. Vì nàng ta đến Mai Viên tìm Thôi Tuần, cố ý đuổi tất cả bọn họ đi, sau đó mãi vẫn chưa thấy trở lại. Ai nấy đều vô cùng sốt ruột. Thánh nhân vô cùng sủng ái vị công chúa Đột Quyết này, nếu chẳng may nàng ta gặp phải chuyện gì bất trắc, chỉ e tiền đồ của phu quân bọn họ cũng sẽ tiêu tan theo.

Vương Nhiên Tê tinh nhanh tháo vát, liền lệnh cho các mệnh phụ khác: “Mai Viên này không rộng lắm, chúng ta chia nhau ra tìm, chắc chắn sẽ tìm thấy Huệ phi.”

Mọi người gật đầu, dẫn theo tỳ nữ tản nhau ra tìm A Sử Na Gia. Vương Nhiên Tê cũng mang theo một tỳ nữ, vội vã tìm kiếm. Chợt tỳ nữ như nghe thấy âm thanh gì đó, liền ngoái đầu lại nhìn, nhưng lại chẳng thấy gì khác lạ cả. Bà ta vừa quay trở lại thì thấy Vương Nhiên Tê cũng đã biến mất từ khi nào

Vương Nhiên Tê cũng nghe thấy tiếng động ấy, nhưng nó lại được phát ra từ một hướng khác. Tưởng rằng đó là A Sử Na Gia, bà ta liền nhanh chân bước về phía âm thanh. Nhưng khi tiến sâu vào rừng mai, xung quanh chỉ có bạch mai, hồng mai, lục mai nở rộ, trải dài thành một biển hoa, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng A Sử Na Gia.

Mồ hôi thấm đẫm lưng áo của Vương Nhiên Tê. Bà ta vốn là đích nữ của Vương thị ở Thái Nguyên, một danh gia vọng tộc bậc nhất thiên hạ, từ nhỏ đã kiêu ngạo tự phụ, luôn cạnh tranh hơn thua với người khác. Dù chịu liên lụy từ huyết án Thái Xương, phải gả cho một tiểu lại hàn môn, nhưng sau khi thành hôn, bà ta không ngừng nỗ lực vun vén, đến nay phu quân cũng đã là đại quan tam phẩm, còn bản thân cũng được phong làm Kim Thành quận phu nhân. Xét ra cuộc đời đã đủ viên mãn, nhưng vẫn còn một nỗi lo canh cánh trong lòng. Đó chính là con trai duy nhất nhiều lần thi cử không đỗ, suốt ngày chỉ lo chè chén với đám ca kỹ, làm bà ta mất hết thể diện trong giới mệnh phụ Trường An. Phu quân của bà ta, Bùi Quan Nhạc, cũng chẳng ưa thích gì đứa con này, không muốn giúp nó mưu cầu chức quan. Vương Nhiên Tê rơi vào đường cùng, đành nghĩ đến việc cầu cạnh Huệ phi, để nàng ta nói vài lời tốt đẹp trước mặt Thánh nhân, giúp con trai có một vị trí trong Thiên Ngưu Vệ. Chức này thân cận Thánh nhân, về sau dễ bề thăng tiến.

Vì thế, ngay từ sáng sớm ngày Thượng Nguyên, Vương Nhiên Tê đã hộ tống Huệ phi đi lễ Phật. Ai mà ngờ, Huệ phi mất tích.

Đột nhiên, bà ta nghe thấy một tiếng động phát ra từ sau gốc mai. Vương Nhiên Tê mừng rỡ, nghĩ rằng Huệ phi đang ở sau cây mai ấy. Bà ta vội vã chạy vòng qua, nhưng không thấy Huệ phi đâu, chỉ thấy trên mặt đất đặt một ngọn đèn trường minh.

Vương Nhiên Tê nghi hoặc nhặt ngọn đèn lên, rồi đọc dòng chữ khắc trên đế đèn: “Vĩnh An công chúa – Lý Doanh.”

Đây là đèn trường minh của công chúa Vĩnh An.

Vương Nhiên Tê như chạm phải rắn rết, sợ hãi ném ngọn đèn sang một bên, ngã quỵ xuống đất. Mồ hôi lạnh túa ra trên trán, miệng hoảng loạn gọi tên tỳ nữ: “Xuân Đào, Xuân Đào!”

Tỳ nữ vội vàng chạy đến đỡ bà ta dậy: “Phu nhân sao vậy?”

“Ai đã đặt ngọn đèn trường minh này ở đây?” Vương Nhiên Tê chỉ vào ngọn đèn, lớn tiếng hỏi.

Tỳ nữ nhìn xuống đất, khó hiểu đáp: “Phu nhân, dưới đất không có gì cả.”

Vương Nhiên Tê ngơ ngẩn, nhìn ngọn đèn trường minh dưới đất: “Ngươi nói, không có gì sao?”

Tỳ nữ gật đầu: “Không có gì cả.”

Môi Vương Nhiên Tê bắt đầu run rẩy: “Có ma! Có ma!”

Bà ta sợ hãi bám chặt lấy cánh tay của tỳ nữ mà trước giờ vốn luôn coi thường: “Mau về phủ! Về phủ!”

“Phu nhân, chúng ta không tìm Huệ phi nữa sao?”

“Không tìm nữa! Không tìm nữa! Mau về phủ!”

Vương Nhiên Tê được tỳ nữ vừa đỡ vừa kéo đi, lủi khỏi Mai Viên như chạy trốn.

Từ sau gốc mai, Lý Doanh chậm rãi bước ra.

Trong lòng bàn tay nàng, ánh sáng mờ ảo lóe lên, ngọn đèn trường minh trên mặt đất cũng từ từ biến mất.

Phản ứng của Vương Nhiên Tê khiến Lý Doanh càng khẳng định cái chết của nàng có liên quan đến bà ta, nếu không, Vương Nhiên Tê đã chẳng hoảng sợ đến thế.

Nhìn bóng lưng bà ta rời đi, Lý Doanh thầm nghĩ, nàng không thể lộ diện trước mặt người đời. Lúc này, lẽ ra nàng nên tìm Thôi Tuần, để hắn tra hỏi Vương Nhiên Tê, nhưng tình trạng của Thôi Tuần lúc này khiến nàng có phần không nỡ.

Lý Doanh mím môi, rồi vẫn nhanh chóng bám theo Vương Nhiên Tê.



Vương Nhiên Tê vội vã rời khỏi chùa Tây Minh, lên xe ngựa mà lòng vẫn chưa hết run sợ. Bà ta nắm chặt chuỗi tràng hạt tử đàn trong tay, sắc mặt tái nhợt, nhắm mắt lại, miệng không ngừng niệm sáu chữ của chú Đại Minh: “Án ma ni bát mê hồng.” [1] Đột nhiên bà ta lại nghe tiếng động, mở mắt ra, phát hiện trên xe ngựa có thêm một ngọn đèn trường minh.

[1] “Án ma ni bát mê hồng” là một câu chân ngôn cổ xưa và quan trọng nhất của Phật giáo Tây Tạng. Đây là câu Hán-Việt, có nguồn gốc từ tiếng Trung Hoa: 唵嘛呢叭咪吽. Câu này vẫn chưa phải là gốc, chỉ là câu phiên từ tiếng Phạn. Lục tự đại minh chân ngôn (Chân ngôn rực sáng sáu chữ), tượng trưng cho lòng từ bi vô lượng, muốn đạt được Niết bàn, đoạn triệt luân hồi (saṃsāra), tức dập tắt đi cái tam độc gọi là “tham ái” (sa. tṛṣṇā), “sân” (sa. dveśa) và “si” (sa. moha, hoặc vô minh, sa. avidyā)…

Vừa nhìn, bà ta đã nhận ra ngay đó chính là ngọn đèn trường minh đã được dâng cúng cho Lý Doanh khi nãy.

Vương Nhiên Tê hét lên kinh hãi, ném chuỗi tràng hạt về phía ngọn đèn, muốn dùng sức mạnh của nó để xua đuổi tà ma. Nhưng chuỗi tràng hạt xuyên qua ngọn đèn, rơi xuống sàn xe.

Bà ta chết lặng trong giây lát, rồi hét lớn: “Xuân Đào, Xuân Đào!”

Nhưng lần này, Xuân Đào ở ngay bên ngoài xe lại không nghe thấy gì, phu xe cũng không phản ứng, chỉ tiếp tục thúc xe ngựa đi.

Vương Nhiên Tê tuyệt vọng gào lên: “Dừng xe! Dừng xe!”

Nhưng phu xe vẫn nhịp nhàng thúc xe, không hề dừng lại. Và rồi, bà ta bỗng nghe thấy thanh âm trong trẻo của một thiếu nữ: “Vô ích thôi, bọn họ không nghe thấy đâu.”

Trong xe ngựa, một ngọn lửa ma trơi xanh biếc bùng lên. Trước mắt Vương Nhiên Tê dần hiện ra hình dáng của một thiếu nữ khoác áo choàng hồ ly trắng, búi tóc song hoàn vọng tiên kiều diễm. Thiếu nữ ấy môi đỏ như son, răng trắng như ngọc, đôi mày thanh tú như tranh. Vương Nhiên Tê run rẩy đến nỗi hàm răng va lập cập vào nhau: “Ma! Có ma!”

Lý Doanh lặng lẽ nhìn bà ta: “Vì sao ngươi lại sợ ta đến thế?”

Vương Nhiên Tê chỉ biết co rúm trong góc xe ngựa, giọng khản đặc hét lên: “Ma! Có ma!”

“Xem ra ngươi biết ta là ai.” Lý Doanh nói: “Vậy ta nên gọi ngươi là Kim Thành quận phu nhân, hay nên gọi ngươi một tiếng là biểu muội của Trịnh Quân”

“Trịnh Quân…” Cái tên đã lâu không nghe đến làm Vương Nhiên Tê bừng tỉnh: “Phải rồi, chính Trịnh Quân đã giết ngươi! Đừng tìm ta! Đừng tìm ta!”

“Thật sự là Trịnh Quân sao? Chuyện đó không hề liên quan gì đến ngươi ư?”

“Không! Không!” Vương Nhiên Tê không dám nhìn Lý Doanh, tóc tai rối bù, tay chân quơ loạn, hoàn toàn mất đi phong phạm của một quý nữ danh giá: “Ta không giết ngươi!”

“Nếu ngươi không giết ta, sao ngươi lại không dám nhìn ta?”

Vương Nhiên Tê không trả lời, chỉ biết gào lên tuyệt vọng: “Ta không giết! Ta không giết!”

Ngọn lửa ma trơi màu xanh lục trong xe ngựa tối dần đi, cổ họng Lý Doanh trào lên vị tanh ngọt. Sức mạnh từ niệm lực nàng hoàn toàn nhờ vào ngọn đèn trường minh mà a nương nàng đã dâng cúng trước Phật. Pháp lực này giúp nàng có thể ở lại cõi dương, có thể đi lại vào ban ngày, cũng có thể biến ra vài trò ảo thuật nhỏ như ngọn đèn trường minh. Nhưng điều đó không có nghĩa là nàng có thể lợi dụng sức mạnh này để cưỡng ép hiện hình, tạo ra ảo cảnh, dọa dẫm người phàm, làm hại nhân gian.

Nếu nàng còn cố gắng cưỡng ép niệm lực, giam giữ Vương Nhiên Tê, chỉ e sẽ bị Phật pháp phản phệ.

Lý Doanh chỉ cảm thấy ngũ tạng như đang thiêu đốt, nàng nhíu chặt mày, trước mắt tối sầm lại từng đợt, nhưng nếu không ép hỏi Vương Nhiên Tê ngay bây giờ thì sẽ không kịp nữa.

Nàng trừng mắt nhìn Vương Nhiên Tê: “Nếu ngươi một mực nói rằng ngươi không giết ta, vậy ngươi dám thề không? Ngươi dám thề rằng nếu ngươi có bất kỳ liên quan nào đến chuyện này, ngươi sẽ mãi mãi rơi vào địa ngục A Tỳ, [2] vĩnh viễn không thể luân hồi không?”

[2] A Tỳ địa ngục (tiếng Phạn: Avīci), còn được gọi là “vô gián địa ngục,” là tầng địa ngục thấp nhất và khắc nghiệt nhất trong Phật giáo, dành cho những linh hồn chịu hình phạt nặng nề nhất. Được gọi là “vô gián” vì ở đây, sự khổ đau là không ngừng nghỉ, không có gián đoạn, linh hồn phải chịu đựng đau khổ liên tục mà không được giải thoát, ngay cả trong giấc ngủ. Đây là một nơi đầy u tối, nơi chúng sinh phải chịu cảnh tra tấn và đau khổ vĩnh viễn vì những tội lỗi nghiêm trọng nhất.

Vương Nhiên Tê không dám thề, bà ta bỗng nhiên quỳ xuống, liên tục đập đầu: “Công chúa, xin người tha cho ta, ba mươi năm trước, ta chỉ là nhất thời mê muội… nên mới… nên mới…”

“Mới làm gì?”

Vương Nhiên Tê bỗng nhiên không nói nữa, bà ta chỉ biết điên cuồng đập đầu: “Tha cho ta đi, tha cho ta đi, ta sẽ dâng đèn trường minh trước Phật cho công chúa, ta sẽ ngày đêm cầu nguyện cho công chúa, xin công chúa hãy tha cho ta…”

Cổ họng Lý Doanh càng lúc càng tanh ngọt, ngọn lửa ma trơi trong xe ngựa cuối cùng cũng tắt ngấm hoàn toàn, Vương Nhiên Tê nhận ra không còn động tĩnh gì nữa. Bà ta sợ hãi ngẩng đầu lên, phát hiện ra trong xe đã trống không, không còn bóng người.



Ngày lễ Thượng Nguyên, trời quang mây tạnh, nắng vàng rực rỡ, nhưng đến chiều tối lại bắt đầu có tuyết rơi dày đặc. Trước phủ của Thôi Tuần, một viên tiểu lại của Sát Sự Thính vội vã đi đến.

Khi lão bộc câm đang quét tuyết, viên tiểu lại hỏi: “Xin hỏi lão trượng, Thiếu khanh đang ở đâu?”

Lão bộc câm chỉ vào cánh cửa đang đóng chặt, viên tiểu lại hiểu ý: “Có thể truyền báo một tiếng không? Mỗ có việc quan trọng muốn cầu kiến Thiếu khanh.”

Lão bộc câm lắc đầu, viên tiểu lại không còn cách nào khác, đành bước nhanh tới, gõ nhẹ vào cánh cửa đóng chặt, nhưng bên trong vẫn yên ắng không một tiếng động. Tiểu lại không dám xông vào, đành cao giọng nói: “Thiếu khanh, mỗ là Lưu Cửu, ngày trước Thiếu khanh có dặn mỗ trông chừng động tĩnh trong phủ Bùi gia. Hôm nay Bùi phủ đã xảy ra chuyện lạ.”

Trong phòng vẫn yên lặng như tờ, không rõ Thôi Tuần có nghe thấy hay không. Tiểu lại cố gom dũng khí, tiếp tục nói: “Sáng nay Kim Thành quận phu nhân đến chùa Tây Minh lễ Phật, nhưng trên đường về lại gặp phải ma. Ban ngày gặp ma khiến Kim Thành quận phu nhân sợ đến điên loạn, nói năng lảm nhảm, hiện giờ đã nằm liệt giường.”

Viên tiểu lại nói xong, ngừng một lát, lắng tai nghe, nhưng vẫn không nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Hắn đành thất vọng chắp tay thi lễ, sau đó cáo lui.

Sau khi tiểu lại rời đi, lão bộc câm lại tiếp tục quét tuyết trong sân. Trong căn phòng tối om, chiếc đèn gốm trắng của lò Cảnh Diêu [3] bỗng được thắp lên.

[3] Cảnh Diêu là một lò gốm nổi tiếng của Trung Quốc, chuyên sản xuất đồ gốm trắng, có từ thời Đường, tạo cảm giác tinh xảo và tao nhã.

Dưới ngọn lửa đỏ thẫm nhảy nhót trên bấc đèn, hiện ra một gương mặt trắng bệch như ngọc.

Thôi Tuần không mặc quan phục đỏ thẫm của quan viên tứ phẩm theo quy định, mà chỉ mặc một chiếc áo lụa trắng tinh. Áo trắng như tuyết, tóc đen như mực, như thần như tiên.

Nhưng dưới vẻ ngoài thần tiên ấy, qua cổ áo trắng, lờ mờ thấy những vết sẹo chằng chịt trên da thịt.

Thôi Tuần từ từ nhắm mắt lại, cơ thể bắt đầu run lẩy bẩy. Hết lần này đến lần khác, những cuộc tra tấn không hồi kết, những lần bị sỉ nhục đến cực độ trong dãy núi Âm Sơn đã nghiền nát hết thảy lòng tự trọng và niềm kiêu hãnh của một đệ tử * dòng họ Thôi ở Bác Lăng.

* Chữ “đệ tử” này nghĩa là “con cháu”, người trong họ.

Khi dầu đèn sắp cạn, Thôi Tuần cuối cùng mở mắt, đứng dậy, mở cánh cửa gỗ. Ngoài kia gió tuyết mờ mịt, khắp nơi đã là một màu trắng xóa. Lão bộc câm đang quét tuyết ngẩng lên, ngây ngẩn nhìn Thôi Tuần trong bộ áo lụa trắng.

Thôi Tuần rốt cuộc cũng mở miệng, giọng bình thản: “Không cần quét nữa.”

“Tuyết rơi rồi, thế thì càng sạch.”



Kinh thành Trường An đã đến giờ giới nghiêm, các binh lính của Kim Ngô Vệ xếp thành hàng, cầm đuốc đi tuần tra khắp các con phố. Có người lẩm bẩm: “Thời tiết quái đản, ban ngày còn nắng rực mà đêm đến lại có tuyết rơi dày thế này.”

Lại có người nói: “Tuyết lớn thế này, chắc chẳng có gã điên nào vi phạm lệnh giới nghiêm để ra ngoài ngắm tuyết đâu nhỉ.”

Lời vừa dứt, bỗng thấy giữa cơn bão tuyết, một thanh niên mặc áo lụa trắng, tóc đen buông xõa được cố định bằng một cây trâm gỗ mun, xách đèn lồng đỏ bằng nan trúc, chậm rãi bước tới.

Người thanh niên cầm đèn từng bước lại gần, mái tóc đen và bộ áo trắng đều phủ đầy tuyết. Một bông tuyết xoay tròn trong gió, rơi xuống hàng mi dày như lông quạ, kết lại thành lớp băng mỏng. Ai nấy đều nhìn nhau, thầm nghĩ, chẳng lẽ đây là hồn ma của một danh sĩ thời Ngụy Tấn nào đó, vì đêm tuyết ở Trường An quá đẹp nên đã không kìm lòng được, hiện về ở dương gian? Nhưng cũng có một lính Kim Ngô Vệ không tin vào ma quỷ, lớn tiếng quát: “Người nào! Đứng lại!”

Người thanh niên vẫn không dừng bước, vẫn cầm đèn lồng đi tiếp. Kim Ngô Vệ tức giận, định tiến lên hỏi, nhưng bỗng bị đồng đội kéo lại. Đồng đội chỉ vào tấm ngư đại [4] tử kim treo trên thắt lưng người thanh niên kia, rồi lắc đầu.

[4] Ngư đại (魚袋) có tiền thân là “ngư phù” (魚符). Giống như các loại “phù” khác (hổ phù, quy phù,…), ngư phù vốn là một dạng tín vật làm bằng kim loại hình con cá, gồm hai mảnh giống nhau, mặt trong của phù thường có chữ “Đồng” (同). Do ngư phù thường được đựng trong một chiếc túi (đại-袋), hoặc được gắn lên bề mặt túi, nên từ đây xuất hiện khái niệm “ngư đại” (魚袋). Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 13: Ta và cô chỉ đang lợi dụng lẫn nhau



Mãi đến mười ngày sau, Lý Doanh mới từ từ tỉnh lại.

Khi nàng mở mắt, điều đầu tiên đập vào mắt là trần nhà đơn sơ bằng ván gỗ. Chậu đồng chất đầy thụy than đặt ở góc phòng, hương an thần được đốt bằng lư hương bạch hạc thoát ra, dìu dịu lan tỏa. Nàng ho nhẹ hai tiếng, cố gắng gượng dậy, chăn gấm đang đắp trượt ra khỏi người. Đúng lúc ấy, một giọng nói trong trẻo nhưng lạnh lùng vang lên: “Tỉnh rồi sao?”

Lý Doanh theo âm thanh nhìn lại, chỉ thấy Thôi Tuần ngồi thẳng trước án kỷ, tay cầm bút đầu chim sẻ, không ngẩng đầu lên, chăm chú viết lên tờ giấy gai trắng của quyển tấu chương.

Thì ra nàng đang ở trong thư phòng của Thôi Tuần.

Nàng ôm chặt chăn, ngơ ngác hỏi: “Là ngài cứu ta sao?”

Thôi Tuần “ừm” một tiếng, Lý Doanh cảm thấy không thể tin nổi, nàng không khỏi hỏi tiếp: “Ngài… sao ngài lại cứu ta?”

Ngòi bút của Thôi Tuần chững lại, nhàn nhạt đáp: “Cứ xem như trả ơn tặng áo.”

Lý Doanh ngẩn người một chút, khi nàng tặng áo, thật ra cũng không kỳ vọng gì vào việc Thôi Tuần sẽ nhớ đến. Nàng lặng lẽ gật đầu, trong lòng suy nghĩ một hồi lâu, cuối cùng vẫn rụt rè hỏi: “Ngày đó ở chùa Tây Minh, vị công chúa người Đột Quyết kia…”

Nàng chưa kịp nói hết câu, đã thấy bút trong tay Thôi Tuần khẽ run lên. Hắn hạ ánh mắt, tiếp tục viết chữ tiểu khải trên giấy, cất giọng trầm trầm: “Đó không phải là chuyện cô nên quan tâm.”

“Không phải ta muốn dò la gì cả.” Lý Doanh có chút sốt ruột, cổ họng lại khô khốc, nàng cúi đầu ho khan vài tiếng, rồi nói: “Ta chỉ muốn nói rằng, nàng ta không phải người tốt. Ngài không cần vì một người như thế mà tự làm khổ mình.”

Thôi Tuần đang viết bốn chữ “Nhật Nguyệt Kinh Thiên”, khi nghe thấy câu nói này, hắn hơi ngẩng đầu. Ánh mắt hướng về phía Lý Doanh đang tựa vào sạp thấp bằng gỗ hoa nam, [1] ôm lấy chăn gấm, cổ tay trắng ngần như sương, dáng vẻ dịu dàng như nguyệt. Hắn lại cúi đầu, hoàn thành nét cuối cùng của chữ “nguyệt”, rồi lạnh nhạt nói

[1] gỗ hoa nam: đây là loại gỗ có hương thơm nhẹ, thường được sử dụng trong việc chế tạo đồ nội thất cao cấp, đặc biệt là những món đồ như giường, ghế, hay bàn trong cung đình, nhà cửa xưa.

“Thiếu chút nữa là hồn phi phách tán, mà còn rảnh rỗi lo cho người khác.”

Lý Doanh cười gượng: “Khi đó tình hình khẩn cấp, ta vội quá nên đã làm liên lụy đến Thiếu khanh.”

“Về sau đừng hành xử l* m*ng như vậy nữa.” Thôi Tuần nói: “Nếu không, thế gian này sẽ không còn quả tần bà thứ hai để cứu cô đâu.”

“Tần bà? Đó là thứ gì?”

“Một loại quả mọc bên bờ Nại Hà ở âm ty, có thể cứu chữa hồn phách.” Thôi Tuần dừng lại một chút: “Là Ngư Phù Nguy tìm về.”

Lý Doanh không giấu nổi sự kinh ngạc. Nàng nói lời xin lỗi: “Ngư Phù Nguy là thương nhân, chắc hẳn Thôi Thiếu khanh đã tiêu tốn không ít bạc. Ta sẽ trả lại cho ngài.”

“Không cần đâu, Ngư Phù Nguy không lấy dù chỉ một xu.”

Lý Doanh cảm thấy khó tin, Ngư Phù Nguy là người tinh ranh tính toán, làm ăn không bao giờ chịu thiệt, sao lại đưa cho nàng một thứ chỉ nghe đã thấy quý giá nhưng lại không lấy dù chỉ một đồng tiền? Nàng chợt nghĩ đến lời Ngư Phù Nguy từng nói, cái chết của nàng đã thay đổi vận mệnh của cả hàn tộc, có lẽ, hắn đang đại diện cho hàn tộc và cảm tạ nàng chăng?

Trong lòng ngũ vị tạp trần, Lý Doanh cũng không biết nên vui hay nên buồn. Bỗng Thôi Tuần ngước mắt, chợt hỏi: “Sao lại tự mình đi tìm Vương Nhiên Tê? Sao không gọi ta đi cùng?”

Lý Doanh sững sờ, nàng cúi cần cổ mượt mà như ngọc, nhẹ giọng nói: “Hôm ấy tâm trạng ngài không tốt, ta không muốn quấy rầy ngài.”

Lần này đến lượt Thôi Tuần ngây ra. Hắn cúi đầu trầm ngâm, tiếp tục viết từng chữ trên giấy, một lúc lâu sau hắn nói: “Cô còn chưa khỏi hẳn, nằm xuống nghỉ đi.”

Lý Doanh gật đầu, nàng nghe lời nằm nghiêng trên sạp gỗ hoa nam, quay mặt về phía Thôi Tuần, yên tĩnh nghỉ ngơi. Thôi Tuần cũng không nói thêm gì, trong thư phòng chỉ còn tiếng đầu bút mỏ chim kéo sàn sạt trên giấy. Lý Doanh vì thương thế chưa khỏi, dần dần thấy buồn ngủ, mí mắt nặng trĩu, hết khép lại mở, hình dáng thanh tao tựa liễu xuân của Thôi Tuần cứ chập chờn hiện lên trong tầm mắt của nàng.

Hắn cúi đầu viết chữ, lông mày đen nhánh như mực, lông mi dài như cánh quạ, đôi mắt đào hoa mê hoặc tâm trí. Giữa vẻ đẹp khiến người khác vừa trầm trồ vừa đố kỵ ấy là khí chất cứng cỏi, kiên nghị khó lòng lay chuyển.

Mắt Lý Doanh dần dần nhắm lại, rồi lại từ từ mở ra, mỗi lần như thế, hình bóng tựa như ánh nắng ban mai của Thôi Tuần lại đập vào mi mắt. Cho đến khi Thôi Tuần khẽ ngẩng đầu, ánh mắt nhìn về phía nàng, Lý Doanh mới như kẻ làm sai bị bắt quả tang, vội vàng xoay người sang một bên. Một lúc sau, tiếng thở đều đặn vang lên từ sạp thấp, Thôi Tuần chỉ liếc nhìn, rồi cúi đầu tiếp tục viết tấu chương bằng nét chữ tiểu khải gọn gàng tỉ mỉ.



Tuyết đông đã tan, thời tiết ấm hơn nhưng vẫn còn se lạnh. Lý Doanh dưỡng bệnh được vài ngày, cuối cùng cũng có thể xuống giường đi lại. Nhưng do thuật pháp phản phệ đã thương tổn nàng tận gốc, nàng vẫn không thể ra khỏi phòng, cũng không thể hiện hình vào ban ngày.

Những ngày này, Thôi Tuần vẫn không về phủ. Hắn có vẻ rất bận rộn, lo liệu công việc ở Sát Sự Thính, nghỉ lại ở công đường. Dẫu vậy, ngày nào lão bộc câm cũng sẽ đến thư phòng, thêm thụy than và thắp hương an thần.

Lão bộc câm không biết nói, quý phủ rộng lớn dường như thêm phần quạnh quẽ. Lý Doanh đứng dậy khỏi sạp thấp, bám vào tường, miễn cưỡng đi vài vòng trong thư phòng, nhưng khi đến gần giá sách gỗ đen, nàng vô tình làm rơi một cuốn sách ở trên đó.

Lý Doanh hoảng hốt, lập tức ngồi xuống nhặt sách, nhưng cuốn sách đã rơi xuống đất, mở ra. Nàng tò mò nhìn thấy trên đó có rất nhiều dòng chữ nhỏ:

“Tống Ngũ Lang, người Tống thôn, Hòa Dương, Trường An, nhà còn một mẹ…”

Hóa ra trong cuốn sách này, toàn bộ đều là tên người và địa chỉ, trong đó dòng chữ của Tống Ngũ lang được tô đỏ và vạch một đường thẳng, nhưng nét vạch đó ngoằn ngoèo, đủ để thấy lúc vạch nét bút đó, người viết đã cực kỳ tức giận, đến cầm bút mà cũng không vững.

Lý Doanh chợt nhớ ra, ngày đó ở chùa Tây Minh, tỳ bà cơ đã nói: “Tống Ngũ đã chết”, lẽ nào người mà nàng ấy nhắc tới chính là Tống Ngũ lang được ghi trên sách này sao?

Lý Doanh lại nhìn xuống: “Thịnh Vân Đình, người phường Đại An, Trường An, trong nhà còn một muội muội, tên là A Man…”

A Man? Tỳ bà cơ đó, hình như chính là A Man…

Lý Doanh đang suy nghĩ, bỗng nghe thấy tiếng giày da đen giẫm trên nền, tiếp theo là tiếng cửa bị mở ra, Thôi Tuần trong chiếc áo choàng đen bước vào, mọi chuyện xảy ra quá nhanh, khiến nàng không kịp thu lại cuốn sách.

Thôi Tuần thấy sách nằm trên đất, ánh mắt ám trầm, nhanh chóng bước tới, nhặt lên rồi đặt lại trên giá sách gỗ mun.

Lý Doanh hoảng loạn, ấp úng nói: “Ta không phải cố ý xem trộm, ta chỉ vô tình làm rơi cuốn sách này…”

Nàng cúi đầu, khuôn mặt đỏ bừng, hai tay nắm chặt vạt váy có hai màu xen lẫn, dáng vẻ lộ rõ sự ngượng ngùng bất an. Thôi Tuần đặt sách xong, không quay lại, chỉ hời hợt nói: “Thôi, không sao.”

Lý Doanh sửng sốt: “Hả?”

“Ta nói thôi, không sao.” Thôi Tuần quay đầu lại, giọng nói lạnh lẽo như băng ngọc.

Lý Doanh nghe ra sự không vui trong giọng hắn, nàng càng thêm xấu hổ, bèn cúi đầu, siết chặt vạt áo. Thấy nàng có vẻ lúng túng và tự trách, Thôi Tuần mím môi, đột nhiên hỏi: “Người còn chưa khỏi hẳn, sao lại xuống đất đi lại?”

Lý Doanh ngẩn ra, vội đáp: “Ta… ta cảm thấy ngột ngạt quá, muốn xuống đi vài bước cho đỡ buồn. Nhưng vì không thể ra ngoài, chỉ có thể đi loanh quanh trong thư phòng. Vậy nên mới vô ý…”

Nàng lắp bắp giải thích, hết lần này đến lần khác nói rằng mình không cố ý làm rơi đồ, trong khi Thôi Tuần đã nhấc chiếc ô giấy dầu đặt trên giá, thản nhiên nói: “Vậy ra ngoài đi dạo một chút.”



Ngoài trời, cành cây đã nhuốm sắc xanh lơ, khí xuân bừng tỉnh, mọi thứ thật tươi mới. Lý Doanh cuộn người trong áo choàng hồ ly trắng, dáng người gầy gò yếu đuối. Bên cạnh nàng là Thôi Tuần khoác áo choàng đen, tay cầm ô giấy dầu, dáng vẻ lạnh lùng cao ngạo.

Đi được vài bước, Lý Doanh cảm thấy chân đứng không vững, đầu váng mắt hoa. Nàng đành vịn vào cây liễu bên cạnh, hơi thở dồn dập. Thôi Tuần liếc nhìn nàng, Lý Doanh cười khổ: “Xin lỗi, người ta yếu quá, phụ ý tốt của ngài rồi.”

Thôi Tuần trầm mặc một lát, sau đó chìa tay ra, giọng điềm tĩnh: “Nếu công chúa không phiền, có thể vịn vào ta mà đi.”

Lý Doanh kinh ngạc, ngước mắt nhìn gương mặt đẹp như châu ngọc của Thôi Tuần, rồi lại cúi đầu, chậm rãi đưa tay ra, vịn vào khuỷu tay hắn. Nàng dồn chút sức nặng của mình vào cánh tay hắn, từng bước đi về phía trước.

Dưới chiếc ô giấy dầu, một nam một nữ dìu nhau mà đi. Lý Doanh đi được vài bước lại phải dừng mấy bước, thở d.ốc.

Thôi Tuần khẽ nói: “Cô còn phải dưỡng thương thêm vài ngày nữa.”

“Nhưng bên Vương Nhiên Tê…”

“Bà ta cũng bệnh rồi.” Thôi Tuần cầm ô giấy dầu, dưới chiếc áo choàng rộng rãi, thân hình mặc quan phục đỏ thẫm cũng gầy guộc: “So ra bệnh còn nặng hơn cô.”

Lý Doanh cảm thấy không cam lòng: “Nếu bà ta chết, làm sao tra được chân tướng?”

“Cô cứ yên tâm, trước khi bà ta chết, ta sẽ bắt được bà ta về Sát Sự Thính.”

Lý Doanh vẫn không yên tâm: “Vương Nhiên Tê là thê tử của đại quan tam phẩm, còn được hoàng đế sắc phong làm Kim Thành Quận phu nhân. Ngài chắc chắn có thể đưa nàng ta đến Sát Sự Thính sao?”

Thôi Tuần thờ ơ nói: “Trước đây bà ta có thể là phu nhân của đại quan tam phẩm, cũng có thể là Kim Thành Quận phu nhân được hoàng đế phong tặng. Nhưng sau khi công chúa dùng cả mạng sống để tra hỏi manh mối, bà ta chỉ còn là nghi phạm giết hại ái nữ của Thái hậu mà thôi.”

“Nhưng phu quân nàng ta, Bùi Quan Nhạc, Thượng thư Bộ Binh, liệu có đứng yên mà nhìn không?”

Đáy mắt Thôi Tuần thoáng hiện lên một tia sắc lạnh khó nhận ra: “Hy vọng hắn đừng chỉ đứng nhìn.”

Lý Doanh không hiểu nhưng nàng hiểu Thôi Tuần đã hứa là sẽ bắt được Vương Nhiên Tê. Nàng chân thành cúi đầu nói: “Vậy thì đa tạ ngài, Thôi Thiếu khanh.”

Trước sự thành tâm của nàng, Thôi Tuần chỉ giữ sự im lặng, mãi một lúc lâu sau, hắn mới lạnh nhạt nói: “Ta và cô chỉ là lợi dụng lẫn nhau mà thôi. Sau khi việc thành sẽ đường ai nấy đi. Vì thế, không cần cảm tạ lần nữa.”

Lời hắn thốt ra nghe thật tuyệt tình. Lý Doanh sững sờ, nàng không kìm được mà liếc nhìn Thôi Tuần, chỉ thấy dưới chiếc mũ đen, ánh mắt hắn lạnh lùng như băng, xa cách vô cùng, trong lòng không hiểu sao lại có cảm thấy hụt hẫng, đành cúi đầu, đáp nhỏ một chữ: “Vâng.”

Thôi Tuần cũng không nói thêm gì nữa. Hai người lẳng lặng đi một vòng trong sân. Cuối cùng, Thôi Tuần lên tiếng: “Ngoài kia gió lớn, vẫn nên về thôi.”

Lý Doanh nhẹ gật đầu, vịn vào cánh tay của Thôi Tuần, gió xuân se lạnh, thân thể Thôi Tuần lạnh lắm, thậm chí còn lạnh hơn cái rét của mùa xuân và cả thân xác đã héo tàn của nàng. Về đến thư phòng, Thôi Tuần đỡ nàng lên sạp rồi tự mình ngồi vào bàn, tiếp tục xử lý công vụ. Thỉnh thoảng, hắn lại ngẩng đầu nhìn Lý Doanh, phát hiện lần này nàng không nằm nghiêng như những ngày trước để nhìn hắn mà mà quay lưng lại, ngắm nhìn tường trắng ngọc, cột đỏ son. Thời gian chậm rãi trôi qua, vẫn không nghe thấy tiếng thở đều đều của nàng khi say giấc.

Thôi Tuần mím môi nhìn bóng lưng nàng, đáy mắt hiện một tia lạ lẫm, nhưng chỉ trong chốc lát, những dao động đó liền biến mất, trở về với vẻ bằng phẳng, không dậy sống của một mặt giếng cổ. Hắn cúi đầu, tiếp tục cầm bút, từng nét chữ thanh thoát nối tiếp nhau rơi xuống tấu chương, cẩn trọng và không chút sơ sót.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 14: Một kẻ gian ác như thế, tốt nhất công chúa vẫn nên tránh xa



Mấy ngày sau, Thôi Tuần vẫn không có ở phủ, Lý Doanh một mình dưỡng thương trong thư phòng. Ngay cả ban đêm, nàng cũng quen thắp một ngọn đèn nhỏ, ánh sáng chập chờn giúp nàng vơi đi nỗi bất an, nếu không, nàng sẽ có cảm giác như mình vẫn còn mắc kẹt dưới hồ sen, tối tăm không chút ánh sáng.

Cái giá sách làm từ gỗ mun của Thôi Tuần, nàng không dám chạm vào nữa. Khi di chuyển dựa vào tường, nàng cẩn thận tránh xa nó. Lão bộc câm vẫn đều đặn đến quét tước hằng ngày. Nhưng khác với trước đây, mỗi lần vào, ông đều mang theo vài cành hoa, cắm trong chiếc bình sứ xanh của lò gốm Cảnh Diêu đặt trên bàn trước cửa sổ. Đôi khi là hoa nghênh xuân, đôi khi là đỗ quyên, đôi khi là hải đường. Những bông hoa rực rỡ tô điểm căn phòng, khiến tâm trạng u uất của Lý Doanh cũng nhẹ nhàng hơn phần nào.

Mỗi lần dọn dẹp xong, lão bộc câm lại mở cửa sổ gỗ. Qua khung cửa sổ, Lý Doanh thấy những cành liễu bên ngoài đang đâm chồi nảy lộc, cành lá mơn mởn đung đưa theo gió. Vài con én đập cánh hạ xuống, đậu trên cành, làm cong nhánh liễu rồi lại bay đi. Cảnh xuân như tranh vẽ, đẹp không sao kể xiết. Lý Doanh chống cằm ngồi trước thư án, không kìm được mà nói với lão bộc câm đang quỳ bên cạnh, cắm những cành hoa xuân: “Thật đẹp, có phải không?”

Lão bộc câm tựa như không nghe thấy, vẫn lặng lẽ tiếp tục việc cắm hoa. Lý Doanh thở dài, nàng lại quên mất, ông không thể nhìn thấy nàng, cũng không thể nghe nàng nói chuyện. Chỉ có Thôi Tuần mới nhìn thấy nàng, nghe được giọng nàng. Khi Thôi Tuần không có ở đây, nàng chẳng khác gì khi bị nhốt trong hồ sen.

Nàng quay đầu lại, tiếp tục chống cằm ngắm cảnh đào thắm liễu xanh ngoài cửa sổ. Lần này, từ khung cửa, nàng thấy một thanh niên mặc áo dài màu đen đi vào.

Đại Chu quy định, thương nhân đồ tể phải mặc trang phục màu đen. Lý Doanh ngay lập tức nhận ra, đó là Quỷ thương Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy ngó nghiêng khắp nơi, rồi nhìn thấy Lý Doanh đang ngồi bên khung cửa. Hắn mỉm cười, cúi chào lão bộc câm: “Lão trượng, xin hỏi Thôi Thiếu khanh có ở trong phủ không?”

Lão bộc câm đứng thẳng lên, lắc đầu.

Ngư Phù Nguy nói: “Mỗ là thương nhân Ngư Phù Nguy. Mười mấy ngày trước Thôi Thiếu khanh từng làm ăn với mỗ. Không biết mỗ có thể đợi ngài ấy trong thư phòng không?”

Lão bộc câm không làm khó Ngư Phù Nguy, chỉ bình tĩnh gật đầu. Sau khi cắm xong cành hoa nghênh xuân, ông bước ra khỏi thư phòng. Ngư Phù Nguy gãi đầu, nói với Lý Doanh: “Mỗ ngồi đây, không làm phiền công chúa chứ?”

Lý Doanh khẽ cười: “Không đâu. Nếu tiên sinh chịu trò chuyện với ta, ta còn vui mừng nữa là.”

Ngư Phù Nguy liền cẩn trọng, quỳ ngồi bên cạnh Lý Doanh. Hắn vừa nhìn đã thấy cành nghênh xuân tươi tắn trong chiếc bình sứ xanh ở trên án. Ngư Phù Nguy đưa tay chạm vào cánh hoa vàng nhạt: “Không ngờ Thôi Thiếu khanh lại có sở thích tao nhã thế này.”

Lý Doanh buột miệng: “Ngài ấy không nên thích hoa sao?”

Ngư Phù Nguy bĩu môi: “Không giống lắm.”

Lúc này, Lý Doanh mới nhớ lại, trước đây khi gặp Thôi Tuần, trong thư phòng của hắn chưa từng cắm hoa. Các đời đế vương Đại Chu đều yêu thích hoa đạo, phụ hoàng nàng lại càng yêu thích, từ đó thúc đẩy phong tục trong dân gian, các đại thần danh sĩ đến bách tính thường dân đều thích cắm hoa trong nhà. Vào mùa đông, họ sẽ cắm mai. Nhưng trong phòng của Thôi Tuần, ngay cả một cành mai cũng không có.

Lý Doanh nói: “Trước đây Thôi Thiếu khanh quả thật không yêu hoa đạo.”

Ngư Phù Nguy gảy nhẹ những cành nghênh xuân xanh mướt, cười nói: “Công chúa nói thế làm mỗ nghĩ rằng, những cành nghênh xuân này được đặt đó là vì công chúa.”

Tim Lý Doanh bất chợt nhảy lên một nhịp, nàng phản ứng rất mạnh: “Sao có thể?”

Ngư Phù Nguy nhìn vẻ mặt nghiêm túc phản bác của nàng, bỗng bật cười: “Không thể.”

Mặt Lý Doanh vẫn hơi tái nhợt. Ngư Phù Nguy chuyển sang chủ đề khác: “Phải rồi, vết thương của công chúa đã ổn hơn chưa?”

“Trừ việc vẫn không thể nhìn ánh sáng mặt trời, cũng sắp khỏi rồi.” Lý Doanh nói: “Nhắc mới nhớ, còn phải cảm ơn tiên sinh vì quả tần bà nữa.”

“Chỉ là một quả tần bà thôi, với mỗ, không đáng là gì.”

“Sao tiên sinh biết người bị thương là ta?”

“Thôi Thiếu khanh tìm mỗ để lấy thuốc chữa thương cho quỷ hồn. Hồn ma đó, còn có thể là ai khác? Đoán một cái là ra thôi.”

“Thì ra vậy.” Lý Doanh gật đầu, chân thành nói: “Đại ân của tiên sinh, ta không biết lấy gì báo đáp. Sau này, nếu tiên sinh cần Lý Doanh giúp đỡ, thì cứ việc mở lời.”

Nàng nói những lời này với ánh mắt chân thật, thẳng thắn. Nàng dù là hồn ma nhưng vẫn là công chúa cao quý của đế quốc. Ngư Phù Nguy xuất thân bần hàn, chỉ là một thương nhân, vốn bị quan lại quý tộc coi thường. Chưa bao giờ hắn được ai đối xử với sự tôn trọng như thế nên trong lòng không tránh khỏi xúc động, dáng ngồi ngả ngớn cũng được điều chỉnh để trở nên đoan chính hơn. Hắn ngồi thẳng lưng, cúi đầu nói: “Công chúa quá lời rồi.”

Hắn ngừng một lát, rồi bỗng nói: “Có phải công chúa có nhũ danh là Minh Nguyệt Châu không?”

Lý Doanh ngẩn ra, rồi “ừ” một tiếng. Ngư Phù Nguy nhìn cảnh xuân rạng rỡ bên ngoài thư phòng, trong sân cây mộc lan cũng đã nở, tinh khiết trong trẻo, như ngọc như trăng. Hắn nói: “Minh Nguyệt Châu, quả là một cái tên hay.”

Lý Doanh mím môi. Minh Nguyệt Châu là nhũ danh của nàng, nàng không quen nghe một nam tử khác gọi mình như vậy. Ngư Phù Nguy cũng nhận ra điều đó, hắn gõ đầu: “Xin lỗi, mỗ lại đường đột rồi.”

Nói xong, hắn lấy từ túi gấm thêu ra một viên ngọc. Vừa lấy ra, viên ngọc đã tỏa sáng lung linh, rực rỡ. Lý Doanh không kìm được hỏi: “Đây là gì?”

“Xá lợi Phật.”

Lý Doanh hít sâu một hơi: “Xá lợi Phật?”

Xá lợi, tương truyền là hóa thân của Phật cốt. Thái Tổ hoàng đế từng thỉnh một viên Phật cốt từ nước Ma Kiệt Đà, nghe nói ngày đó cờ phướn rực rỡ, hương hoa trống nhạc vang lừng, vạn dân chào đón, cảnh tượng chưa từng có. Từ đó xá lợi Phật được thờ phụng tại chùa Pháp Môn ở Trường An. Không ngờ, hôm nay lại xuất hiện trong tay Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy nói: “Đây không phải xá lợi Phật của chùa Pháp Môn, mà là mỗ mua từ nước Tỳ Xá Ly. Hồn phách công chúa bị tổn thương, đeo xá lợi Phật này bên mình sẽ hồi phục như cũ.”

Lý Doanh theo bản năng từ chối: “Thứ này quý giá quá, ta không thể nhận.”

Ngư Phù Nguy dường như đã đoán trước nàng sẽ từ chối, hắn nói: “Nếu công chúa cảm thấy quá quý, vậy hãy dùng vật ngang giá mà đổi. Lễ vật Thái hậu đốt cho công chúa nhiều không đếm xuể, số tiền này, hẳn công chúa bỏ ra được.”

Lý Doanh không ngờ Ngư Phù Nguy lại đáp như vậy, nàng hơi sững sờ, nhưng nghĩ kỹ, trao đổi tương đương, nếu nàng từ chối nữa, e rằng sẽ khách sáo quá chừng, vì thế nàng thản nhiên gật đầu: “Tiên sinh nói đúng, ta có thể trả được, vậy xá lợi Phật này, ta xin nhận.”

Nàng đưa tay nhận lấy Phật xá lợi, khi chạm vào, một luồng ấm áp lan tỏa khắp tứ chi, xoa dịu từng ngóc ngách trong cơ thể. Nàng cảm nhận được hồn phách tổn thương đang dần hồi phục, niệm lực mất đi cũng đang trở lại. Lý Doanh vui mừng nói: “Đa tạ tiên sinh, phần báo đáp ta sẽ nhờ chỉ tỳ (nô tỳ bằng giấy) đưa đến phủ tiên sinh.”

Ngư Phù Nguy thấy nụ cười tươi tắn của nàng, dung nhan như ngọc, lòng không khỏi xao động. Hắn muốn nói rằng, xá lợi Phật này tặng cho nàng cũng không sao, nhưng sợ nàng không nhận, nên đành nhẫn tâm đáp: “Công chúa quá lời, mỗ và công chúa chỉ là đôi bên cùng trao đổi mà thôi.”

Một câu “đôi bên cùng trao đổi” khiến Lý Doanh nhớ đến lời Thôi Tuần từng nói: “Cô và ta chỉ là lợi dụng lẫn nhau mà thôi. Sau khi việc thành sẽ đường ai nấy đi.”

Nét vui mừng trong mắt nàng dần tan biến, thay vào đó là vẻ u sầu ảo não. Ngư Phù Nguy thấy sắc mặt nàng đột nhiên thay đổi, bèn hỏi: “Công chúa có tâm sự?”

Lý Doanh không trả lời, chỉ mơ hồ lắc đầu. Nhưng lần này, Ngư Phù Nguy quyết truy đến cùng: “Liệu có phải vì Thôi Tuần?”

Bị chạm đến nỗi lòng, Lý Doanh sững lại, nàng không biết phải đáp thế nào, một lúc lâu sau mới thốt lên: “Đôi khi ta không hiểu, vì sao lại như thế.”

Chẳng rõ nàng đang nói về bản thân hay là Thôi Tuần.

Ngư Phù Nguy không hiểu, nhưng hắn cũng không định hiểu, bèn nghiêm túc nói: “Mỗ không biết vì sao công chúa lưu lại phủ Thôi Tuần, cũng không biết công chúa cần hắn giúp việc gì. Nhưng mỗ có một lời khuyên, không thể không nói.”

Hắn nói từng chữ một: “Công chúa nên tránh xa Thôi Tuần.”

Nghe xong, Lý Doanh chỉ đáp: “Ta biết tiên sinh muốn nói gì, tiên sinh muốn nói Thôi Tuần có tiếng xấu phải không? Nhưng có lẽ, tiên sinh đã lo lắng quá rồi.”

Ngư Phù Nguy không ngờ Lý Doanh lại trả lời như vậy, hắn hơi bối rối, rồi lại tiếp tục khuyên nhủ: “Công chúa chỉ biết hắn mang tiếng xấu, nhưng không biết cụ thể hắn đã làm gì, phải không? Thôi Tuần, từ nhỏ đã ngỗ nghịch, âm trầm. Phụ thân hắn, Thôi công, từng nói hắn bướng bỉnh, ngạo mạn, tâm tính thất thường. Hắn khinh thường khoa cử, mười bốn tuổi gia nhập quân Thiên Uy, muốn dựa vào quân công để thăng tiến. Ba năm sau, tại trận Lạc Nhạn Lĩnh, toàn bộ quân Thiên Uy bị tiêu diệt, chủ soái Quách Cần Uy bị treo đầu trước mười tám bộ lạc của Đột Quyết. Chỉ có Thôi Tuần sống sót. Có lời đồn rằng hắn đã đầu hàng Đột Quyết, còn làm khách trên giường của công chúa A Sử Na Ngột Đoá. Thánh nhân nổi giận, Thôi công cũng lấy làm nhục, liền xóa tên hắn khỏi gia phả. Hai năm sau, Thôi Tuần đột nhiên trở về từ Đột Quyết. Thân là phản tặc Đại Chu, đương nhiên bị nhốt vào Đại Lý tự chờ chém, nhưng chẳng rõ vì sao Thái hậu lại cứu hắn. Hắn lại giở trò cũ, làm khách trong màn của Thái hậu, từ đó thăng quan tiến chức, trở thành Thiếu khanh Sát Sự Thính tứ phẩm. Những năm qua, Thôi Tuần thay Thái hậu trừ khử đối thủ, hãm hại trung thần, gây ra hàng trăm vụ án oan, số người bị giết oan không dưới một vạn. Cả thành Trường An ai ai cũng muốn uống xẻ thịt nuốt máu tươi của hắn. Một kẻ gian ác như thế, tốt nhất công chúa vẫn nên tránh xa.”

Lý Doanh im lặng lắng nghe, rồi chỉ hỏi một câu: “Những điều ngài nói, đều là sự thật sao?”

Ngư Phù Nguy sững người: “Đương nhiên là thật.”

Lý Doanh lắc đầu: “Không phải thật.”

Ngư Phù Nguy cuống lên, định nói thêm thì chợt nghe một giọng nói rét lạnh vang lên: “Ngư Phù Nguy, ngươi đến phủ ta rồi nói xấu ta, không thấy lố bịch lắm sao?”

Ngư Phù Nguy và Lý Doanh đồng loạt quay đầu, thấy Thôi Tuần đứng dựa bên cửa gỗ chạm nổi, dáng như trúc thẳng, khí chất ngời ngời, lạnh lùng nhìn chằm chằm vào Ngư Phù Nguy. Ngư Phù Nguy không chút sợ hãi, bật cười, đứng dậy chắp tay nói: “Xin Thôi Thiếu khanh rộng lượng. Mỗ vẫn chưa muốn thử hình cụ của Sát Sự Thính.”

Thôi Tuần hơi mím môi, thu lại ánh mắt giận giữ: “Hôm nay ngươi đến gặp ta, có việc gì?”

“Mỗ không phải đến gặp Thôi Thiếu khanh.” Ngư Phù Nguy liếc nhìn Lý Doanh, cười nói: “Mỗ đến gặp công chúa Vĩnh An.”

Lý Doanh ngẩn ra, Ngư Phù Nguy nói tiếp: “Xá lợi Phật công chúa đã nhận, mỗ xin cáo lui trước.”

Dứt lời, hắn cúi người chào Lý Doanh, rồi nhàn nhã rời đi.

Lý Doanh có chút ngượng ngùng, nàng nắm chặt xá lợi Phật trong tay, nói với Thôi Tuần: “Thật xin lỗi, ta không ngờ hắn lại nói những lời đó…”

“Cô không cần xin lỗi ta.” Thôi Tuần thản nhiên đáp: “Dù sao những lời đó cũng chẳng làm tổn thương ta chút nào.”

Nói xong, hắn quay người định rời đi. Lý Doanh hoảng hốt, vội gọi: “Thôi Thiếu khanh, xin dừng bước.”

Thôi Tuần quay lại, Lý Doanh nhìn vào gương mặt lạnh lùng như băng tuyết của hắn, lấy hết can đảm, giọng nói dịu dàng nhưng kiên quyết: “Thôi Thiếu khanh, thật ra, ngài chưa từng đầu hàng Đột Quyết, đúng không?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 15: Là thế nhân hiểu lầm ngài rồi



Thôi Tuần chỉ lặng lẽ nhìn nàng, ánh mắt không chút dao động. Lý Doanh cũng chẳng hiểu dũng khí từ đâu tới, nàng nói nhanh: “Nếu ngài đã từng đầu hàng Đột Quyết, Huệ phi tuyệt đối sẽ không đối xử với ngài như thế. Còn nữa… nếu thực sự như vậy, những vết thương cũ trên người ngài sẽ không thể nặng nề như thế. Vậy nên, tất cả đều là hiểu lầm, đúng không? Ngài chưa từng đầu hàng Đột Quyết, phải không?”

Thôi Tuần cuối cùng cũng mở lời, nhưng không phải trả lời câu hỏi của nàng, mà lạnh nhạt nói: “Phải hay không, liên quan gì đến cô?”

“Ta biết điều đó không liên quan gì đến ta.” Lý Doanh luống cuống, nàng đứng dậy, vội vàng tiến đến trước mặt Thôi Tuần. Hắn cao hơn nàng không ít, nàng phải ngẩng đầu để nhìn hắn. Hôm nay, nàng mặc một bộ váy lưu tiên màu trắng, dải lụa hồng nhạt khoác hờ qua cánh tay. Khi gió nhẹ thổi qua, vạt áo phất phơ, lụa bay phiêu dật, gương mặt ngẩng lên thanh tao tựa ngọc: “Ta chỉ muốn nói, nếu ngài thực sự không đầu hàng Đột Quyết, ngài có thể nói với ta. Đừng giữ mọi chuyện trong lòng, như vậy sẽ rất khổ sở.”

Lời nàng chân thành, nhưng Thôi Tuần nghe xong vẫn không có lấy một tia động lòng: “Ta khuyên cô đừng tự cho mình là thông minh, nếu không, nhất định sẽ hối hận.”

Nói xong, hắn xoay người, quay lưng rời khỏi nàng. Lý Doanh đứng ngây ngẩn nhìn bóng lưng cô độc của hắn, rất lâu sau, nàng mới thở dài một hơi.



Mùa xuân vừa đến, sương khói dịu êm, cỏ non xanh biếc, chim yến lượn quanh. Lý Doanh nắm chặt xá lợi Phật trong tay, chỉ cảm thấy gió xuân dịu dàng, toàn thân như ấm lại. Quả nhiên, xá lợi này thật kỳ diệu, chỉ ba ngày sau khi có nó, thương tích của nàng đã hồi phục phân nửa. Giờ đây, nàng có thể tự do đi lại vào ban ngày.

Nàng đứng dưới gốc hải đường, khẽ nheo mắt ngước nhìn ánh dương ấm áp, tay đưa lên che nắng, nhìn những chú oanh non ríu rít tìm cành ấm, chim yến tất bật, ngậm bùn xây tổ. Nàng thích ngắm nhìn những cảnh tượng sinh động như thế này, bởi chúng khiến nàng cảm thấy nàng chưa chết mà vẫn đang tồn tại, rạng ngời như những cánh chim xuân.

Trên nhánh cây có một tổ chim yến, một con chim non loạng choạng bay ra khỏi tổ, nhưng dường như đôi cánh của nó vẫn chưa đủ cứng cáp. Một cơn gió thổi qua, chim non bị gió đẩy, rơi xuống ngay dưới chân Lý Doanh. Lý Doanh ngồi xuống, nhìn thấy chim non ra sức vỗ cánh, nhưng dù cố thế nào cũng chẳng thể bay về tổ. Động lòng trắc ẩn, nàng chìa hai tay ra, muốn giúp nó quay lại tổ. Nhưng đôi tay nàng lại xuyên qua cơ thể con chim non, lúc ấy nàng mới sực nhớ ra là mình không thể chạm vào sinh vật sống.

Khi nàng đang lo lắng, chợt thấy trước mắt xuất hiện một thân quan phục màu đỏ tía thêu hoa văn chỉ vàng, nàng ngẩng đầu, vui mừng reo lên: “Thôi Thiếu khanh, ngài đến thật đúng lúc.”

Chưa kịp để Thôi Tuần phản ứng, nàng hồ hởi nói: “Ngài có thể giúp ta, đưa con chim non này trở về tổ không?”

Thôi Tuần liếc nhìn con chim non vẫn đang kiên cường vỗ cánh, hờ hững hỏi: “Tại sao phải đưa nó về?”

“Nếu không, nó sẽ chết.”

Thôi Tuần vẫn điềm nhiên: “Thì đã sao?”

Lý Doanh không ngờ hắn lại trả lời như vậy, ngây người một lúc. Chợt nhớ lại lần đầu gặp hắn, nàng đã cầu xin hắn giúp mình tìm ra chân tướng. Khi ấy, hắn cũng từ chối thẳng thừng, mãi đến khi nàng đưa túi hương từ chùa Tây Minh ra đổi, hắn mới đồng ý giúp nàng.

Lý Doanh thở dài một hơi, nếu muốn Thôi Tuần cứu con chim non này, có lẽ nàng cũng phải lấy vật ngang giá ra để đổi. Nghĩ ngợi mãi, cuối cùng nàng thử nói: “Thôi Thiếu khanh, tục ngữ có câu: “cứu một mạng người còn hơn xây bảy tầng tháp”. Con chim nhỏ này cũng là một sinh mạng. Cứu nó, âm ty sẽ tích lũy công đức cho ngài, mang lại phúc lành về cho ngài và những người mà ngài quan tâm.”

Nàng nói xong, không ngờ Thôi Tuần không làm ngơ như trước, mà cúi người xuống, nắm lấy đôi cánh đang vùng vẫy của chim non, nhấc nó lên.

Lý Doanh thấy vậy, biết là mình đã thuyết phục được hắn. Nàng đang vui mừng, nhưng lại thấy Thôi Tuần ngẩng đầu nhìn nhánh cây không cao lắm, bình thản nói: “Ta không leo lên được.”

Lý Doanh hoàn toàn bất ngờ, không nói nên lời. Nàng ngẩng đầu nhìn nhánh cây, nó chỉ cách mặt đất không quá một trượng, nàng cũng có thể leo lên, vậy mà Thôi Tuần lại không thể…

Thôi Tuần nói: “Để lão câm làm đi.”

Nói xong, hắn gọi lão bộc câm tới, giao chim non cho ông. Lão bộc nhanh nhẹn leo lên nhánh cây, chẳng mấy chốc đã đặt chim non trở lại tổ.

Thấy chim non an toàn trở về tổ, lúc này Lý Doanh mới thở phào nhẹ nhõm, ánh mắt cũng vô thức hướng về đôi chân của Thôi Tuần. Đôi chân của hắn bị che dưới lớp quan bào đỏ tía, không thể nhìn ra điều gì. Chỉ có phần eo thắt đai lưng điệp tiệp bằng vàng là lộ rõ, vòng eo hẹp và gầy đến mức lạ thường. Quan viên Đại Chu, đến hàm tứ phẩm đều mặc phục mặc quan phục màu đỏ tía, dây lưng vàng mười một khoa. [1] Nhưng với Thôi Tuần, mười một khoa ấy dường như quá rộng, sau khi thắt gọn vào, phần dây thừa phải luồn vào đai lưng, thả hờ xuống. Eo hắn đã gầy gò như vậy, thì chân cẳng, chắc cũng chẳng khá khẩm hơn là bao.

[1] khoa là vật trang trí gắn trên đai lưng điệp tiệp. Chú thích hình ảnh đặt ở cuối chương.

Lý Doanh không khỏi suy nghĩ, liệu điều này có liên quan gì đến hai năm bị tra tấn mà A Sử Na Gia đã nhắc đến hay không? Rốt cuộc phải chịu đựng tra tấn khốc liệt đến thế nào mới khiến cho một người chưa quá hai mươi như Thôi Tuần, đôi chân lại yếu đuối đến mức không thể leo lên được nhánh cây cách mặt đất chỉ hơn một trượng?

Còn đang mải miết suy nghĩ, Lý Doanh chẳng hề hay biết lão bộc câm kia đã rời đi từ lúc nào. Thôi Tuần nhíu mày, thấy nàng lơ đãng thất thần, liền bất ngờ hỏi: “Cô đã có thể đi lại vào ban ngày rồi, đúng không?”

Lý Doanh lập tức bừng tỉnh, vội gật đầu: “Phải.”

“Vậy đi cùng ta đến ngoại thành.” Thôi Tuần dừng một lát: “Liên quan đến Vương Nhiên Tê.”



Thôi Tuần đưa Lý Doanh đến một ngọn núi hoang ở ngoại thành. Núi hoang này cực kỳ heo hút, cỏ cây khô cằn mọc lộn xộn dọc theo triền núi chênh vênh, bốn bề chẳng thấy bóng dáng chim muông, hoang tàn vắng vẻ. Lý Doanh ngó quanh, nghi hoặc hỏi: “Thôi Thiếu khanh đưa ta đến đây làm gì?”

“Đưa cô đi xem một thứ.”

Thôi Tuần giẫm lên lớp lá khô, dùng giày ô da màu đen gạt hết sang một bên. Dưới lớp lá khô, Lý Doanh lờ mờ thấy thấy phần xương cánh tay trắng.

Lý Doanh giật mình thốt lên: “Đây… đây là?”

“Đây là cung nữ Vương Đoàn Nhi của cục Thượng Y ba mươi năm trước.”

“Vương Đoàn Nhi?” Lý Doanh loáng thoáng có chút ấn tượng, cung nữ này cần mẫn dịu ngoan, từng mang y phục đến cho nàng vài lần: “Vậy đây chính là thi thể của Vương Đoàn Nhi sao?”

Thôi Tuần gật đầu: “Nàng ta đã chết ba mươi năm rồi.”

“Vì sao nàng ta lại chết?”

Thôi Tuần đáp gọn: “Bị người sát hại.” Hắn nói tiếp: “Ta đã cho người điều tra lại danh sách cung nữ của cục Thượng Y ba mươi năm trước, quả nhiên phát hiện điều đáng ngờ. Cung nữ tên Vương Đoàn Nhi này từng là gia nô của nhà họ Vương. Sau khi nhà họ Vương phóng thích một số nô bộc, cha mẹ của Vương Đoàn Nhi cũng nằm trong số ấy, còn nàng ta thì được chọn vào cục Thượng Y. Cả nhà nàng ta đều mang ơn nhà họ Vương. Sau khi Trịnh Quân bị bắt vào Đại Lý Tự, Vương Đoàn Nhi cũng biến mất. Nếu ta không đoán sai, nàng ta đã bị Vương Nhiên Tê giết để diệt khẩu.”

Mặt đất trong khu rừng hoang phủ đầy lá khô, dày đến mức chẳng để lại dấu chân. Điều này chứng tỏ nơi này hiếm người lui tới, quả thực là một chỗ lý tưởng để phi tang xác chết. Lý Doanh không khỏi thắc mắc: “Sao ngài lại tìm thấy được thi thể này?”

“Mật thám của Sát Sự Thính tỏa đi khắp Trường An, đừng nói đến một cung nữ, dù chỉ là một con chó chết, cũng có thể đào ba thước đất mà tìm.”

Lý Doanh trợn tròn mắt kinh ngạc. Nàng biết rằng mặc dù Sát Sự Thính và Đại Lý Tự cùng chưởng quản hình sự, nhưng chức trách lại có điểm khác nhau. Sát Sự Thính phụ trách giám sát quan lại và vương công, sở hữu rất nhiều mật thám, có thể tự mình xử lý các vụ án mà không cần thông qua Đại Lý Tự. Tuy vậy, nàng không ngờ rằng Sát Sự Thính đáng sợ đến mức chỉ trong vòng mười mấy ngày, đã có thể đào ra một bộ hài cốt bị vứt bỏ nơi hoang vu từ tận ba mươi năm trước.

Nếu Sát Sự Thính có thể tìm ra hài cốt từ ba mươi năm trước, thì những chuyện khuất tất của các đại thần và quan viên chắc chắn không thể giấu giếm được. Cũng không khó hiểu khi danh tiếng của Sát Sự Thính giờ đây đã lấn át Đại Lý Tự, khiến mọi quan viên và dân chúng trong Trường An đều vừa hận vừa sợ Thôi Tuần.

Lý Doanh vốn chẳng hứng thú với chính sự, nhưng dù nàng không quan tâm, cũng hiểu rõ rằng những kẻ đứng đầu mật thám như Thôi Tuần, trải qua nhiều triều đại, đều khó có kết cục tốt đẹp. Huống hồ hắn vừa ngạo mạn lại vừa phô trương, kẻ thù mà hắn đã kết phải nhiều không đếm xuể. Nếu vậy, kết cục của hắn e rằng sẽ đặc biệt thê thảm.

Lý Doanh nghĩ đến đây, không kìm được mà liếc nhìn Thôi Tuần thêm một lần. Thôi Tuần không nhận ra những suy nghĩ trong lòng nàng. Giữa núi rừng lạnh lẽo, hắn khoác một chiếc áo choàng hồ ly màu trắng tinh, lớp lông hồ ly trắng ánh bạc càng làm tôn lên gương mặt trắng bệch như tuyết, đường nét tuấn tú như ngọc. Lý Doanh bỗng nhớ đến câu nói của hắn ba ngày trước: “Liên quan gì đến cô?” Nàng bỗng thấy lòng mình rơi vào khoảng trống, chán nản đến mức không muốn nghĩ thêm điều gì khác. Nàng chỉ hỏi: “Thôi Thiếu khanh, nếu đã tìm được thi thể Vương Đoàn Nhi, liệu có thể tìm Vương Nhiên Tê để hỏi rõ sự thật không?”

Thôi Tuần trầm ngâm: “Vương Nhiên Tê tính tình xảo quyệt, dù có dùng hình cũng chưa chắc có thể khiến bà ta khai ra sự thật.”

“Vậy thì phải làm sao?”

“Ta có một cách.” Thôi Tuần đáp. “Công chúa có nhớ được dung mạo của Vương Đoàn Nhi không?”

Lý Doanh ngẫm nghĩ: “Còn nhớ mang máng.”

“Vậy thì dễ rồi. Phiền công chúa vẽ lại dung mạo nàng ta. Phần còn lại thì cứ giao cho ta xử lý.”



Vương Nhiên Tê đã ốm liệt giường mấy ngày, mỗi ngày mê mê tỉnh tỉnh, liên tục gặp ác mộng. Mỗi lần nhắm mắt lại, bà ta đều thấy cảnh tượng Lý Doanh chìm dần xuống nước, chết đuối dưới hồ sen.

Bà ta thét lên tỉnh dậy. Thị tỳ bên cạnh vội vàng tiến lên, vuốt lưng giúp bà ta thuận khí: “Phu nhân lại gặp ác mộng sao?”

Vương Nhiên Tê nghẹn lời không nói được, thở hổn hển hỏi: “Thượng thư đâu?”

“Dạ Thượng thư đi triều kiến, được Thánh nhân lưu lại nghị sự, giờ vẫn chưa về.”

“Trương Nhi đâu?”

Thị tỳ ấp úng: “Tiểu lang quân… Tiểu lang quân đến phường Bình Khang rồi ạ.”

Vương Nhiên Tê nghiến răng: “Mẹ nó bệnh đến thế này, nó còn có thời gian đến Bình Khang tìm kỹ nữ!”

Bà ta tức giận đến ho khan không ngừng, sau đó là cảm giác ngập tràn cay đắng. Suốt đời tranh đấu không ngừng, đến cuối cùng lại là chồng không yêu, con không hiếu. Bà không biết bao nhiêu nỗ lực của mình rốt cuộc đổi lại được cái gì.

Nếu không vì lòng đố kỵ và ghen ghét của ba mươi năm trước, lẽ ra bà ta đã có thể gả cho một công tử thế gia môn đăng hộ đối, cùng người cầm sắt hòa minh, tâm ý tương thông. Con cái sinh ra cũng sẽ là những người lễ nghĩa khiêm cung, chứ không phải như bây giờ, bề ngoài vinh hoa nhưng ấm lạnh chỉ mình bà biết rõ.

Chung quy một bước sai, bước bước sai.

Trong mơ màng, trước mắt Vương Nhiên Tê hiện lên hình ảnh của một thanh niên ôn nhuận như ngọc.

Bà ta hé môi, muốn gọi “biểu huynh”, nhưng chần chừ vẫn không dám thốt ra.

Vương Nhiên Tê cười khổ một tiếng, nói với thị tỳ: “Các ngươi lui ra, ta muốn nghỉ ngơi.”

Người hầu rời đi. Vương Nhiên Tê nằm trên giường gỗ lê hoa vàng, nhìn lên màn lụa rủ xuống, trong lòng tự nhủ: đã làm thì đừng hoài niệm xuân thu. Đó chẳng phải tính cách của bà ta.

Chờ đến khi bà ta khỏi bệnh, bà ta sẽ tiếp tục vào cung hầu Huệ phi, kiếm một chức quan nhỏ cho Trương Nhi.

Nghĩ đến Huệ phi, bà ta lại cảm thấy nhục nhã. Nữ nhân kiêu ngạo người Đột Quyết, trên mặt còn có dấu hoa sen ấy dựa vào cái gì mà lại Thánh nhân sủng ái, còn bà ta, một đích nữ của họ Vương ở Thái Nguyên thì phải xu nịnh nàng ta cứ như một con chó!

Hừ, sớm muộn gì ả cũng có kết cục giống như chị ả, A Sử Na Ngột Đóa – vị công chúa mà Thôi Tuần từng hầu hạ ở Đột Quyết, chết cũng chẳng được toàn thây!

Nhưng nghĩa lại, Thôi Tuần từng hầu hạ A Sử Na Ngột Đóa ở Đột Quyết, chẳng lẽ lại không hầu hạ em gái ả là A Sử Na Gia? Vậy thì, liệu A Sử Na Gia có giữ được tấm thân hoàn bích?

Vương Nhiên Tê cay độc nghĩ, rồi lại mê man thiếp đi. Trong giấc mơ, bà ta nhìn thấy Lý Doanh.

Lý Doanh mặc chiếc váy hai màu đỏ trắng đan xen, giống như hôm ngồi trong xe ngựa, yên lặng nhìn bà ta: “Tại sao ngươi giết ta?”

Lý Doanh từng bước tiến đến gần, bóp chặt cổ bà ta: “Ngươi đã giết ta, ta cũng sẽ giết ngươi để đòi mạng!”

“A!” Vương Nhiên Tê thét lên rồi choàng tỉnh, mồ hôi lạnh túa ra đầy trán. Bà ta nắm chặt lấy tay thị tỳ vừa chạy đến: “Mau! Mau theo ta đến chùa Tây Minh lễ Phật! Ta muốn thần Phật giúp ta trừ ma! Trừ ma!”

Bà ta lảm nhảm, nghiến răng: “Còn nữa, gọi hết các đạo sĩ, hòa thượng trong phủ đến. Cả những chuỗi tràng hạt đã khai quang cũng mang theo. Nếu con quỷ ấy còn dám đến, ta nhất định sẽ khiến nó hồn phi phách tán, vĩnh viễn đọa đày!”

*
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 16: Sát Sự Thính phá án, không cần bằng chứng



Vương Nhiên Tê dẫn theo một đoàn người, rầm rộ tiến về Tây Minh Tự lễ Phật. Trong xe ngựa, bà ta cầm chuỗi Phật châu làm từ gỗ tử đàn, miệng lẩm nhẩm sáu chữ của chú Đại Minh. Trên vách xe dán đầy bùa trừ tà màu vàng, các đạo sĩ và hòa thượng cầm pháp khí bao quanh xe chặt như nêm, không để lọt kẽ hở. Vương Nhiên Tê vừa tụng “Án ma ni bát mê hồng,” chỉ mong mau chóng đến chùa Tây Minh, rồi nhờ phương trượng triệu tập toàn bộ cao tăng làm pháp sự, giúp bà ta trừ tai giải nạn.

Đang niệm kinh, xe đi đến một đoạn đường nhỏ thì bất ngờ dừng lại. Vương Nhiên Tê cảnh giác mở mắt, hỏi: “Xuân Đào, sao lại dừng xe?”

Bên ngoài, giọng Xuân Đào run rẩy: “Phu nhân… có người… có người chặn đường…”

Vương Nhiên Tê nổi giận. Ở thành Trường An này, ai ăn gan hùm mật gấu mà dám chặn một người đường đường là Kim Thành quận phu nhân như bà ta? Bà ta vén rèm xe, nhưng vừa thấy thân ảnh mặc quan bào đỏ sẫm ngồi trên ngựa với dung mạo rạng rỡ, bà ta liền sững người.

Thôi Tuần dẫn theo một nhóm vũ hầu của Sát Sự Thính, thần sắc lãnh đạm, chậm rãi nói: “Có một vụ án, mong Kim Thành quận phu nhân đi theo ta một chuyến.”

Vương Nhiên Tê kinh ngạc, rồi giận dữ quát: “Thôi Tuần, ngươi có biết ta là Kim Thành quận phu nhân được Thánh nhân sắc phong hay không? Ngươi là thứ gì mà dám bắt ta?”

“Ta đích thực chẳng là thứ gì cả,” Thôi Tuần lạnh lùng đáp, “Nhưng theo ý chỉ của Thái hậu, bất kể vương công quý tộc hay bách tính thường dân, Sát Sự Thính đều có quyền bắt giữ, thẩm vấn. Nếu quận phu nhân có ý kiến, cứ việc vào cung tìm Thái hậu khiếu nại.”

Nhắc đến Thái hậu, Vương Nhiên Tê cứng họng. Bà ta gắng cãi: “Ta đã phạm tội gì mà ngươi phải bắt ta?”

Thôi Tuần tỏ vẻ mất kiên nhẫn: “Bà phạm tội gì, đến Sát Sự Thính rồi sẽ rõ.”

Vương Nhiên Tê nghiến răng, nhớ lại cái chết thảm của Vương Lương, bà con trong họ Vương ở Thái Nguyên với bà ta. Đã vào Sát Sự Thính, một là nhận tội dưới sự ép cung, hai là có đi không có về. Bà ta kiên quyết nói: “Phu quân ta hiện đang cùng Thánh nhân bàn việc trong cung, ngươi muốn bắt ta ít nhất cũng phải báo với phu quân ta một tiếng. Nếu không, ta tuyệt đối không theo!”

Thôi Tuần chẳng muốn phí lời, liền phất tay ra hiệu. Đám vũ hầu như hổ đói thấy mồi, đồng loạt xông lên, tóm lấy Vương Nhiên tê. Bà ta kinh hãi, những đạo sĩ và hòa thượng theo hộ tống lập tức bỏ chạy tán loạn, chỉ còn đám gia phó liều mạng chống cự. Nhưng sức của gia phó làm sao bì được với đội vũ hầu được huấn luyện bài bản? Chỉ một lát sau, đám gia phó đã bị đánh cho tơi tả. Vương Nhiên Tê cũng bị lôi từ xe ngựa xuống, tóc tai rũ rượi, bị nhét vào xe tù.

Vương Nhiên Tê giãy giụa, kêu gào thảm thiết: “Mau về phủ báo cho Thượng thư! Mau lên!”

Miệng bà ta bị bịt kín, trói chặt, rồi quẳng vào xe tù. Trên lưng ngựa cao ngất, Thôi Tuần liếc nhìn đám gia phó nhà họ Bùi mặt mũi bầm dập, nhàn nhạt nói: “Về báo lại với Bùi Thượng thư nhà các ngươi. Người là do Thôi Tuần ta bắt. Nếu ông ta có bản lĩnh, cứ đến Sát Sự Thính đòi người.”

Hắn cầm cương, quay đầu ngựa, hộ tống xe tù phủ vải đen rời đi. Khi bánh xe tù lăn tròn về phía trước, Thôi Tuần bỗng ghìm cương, ngoảnh đầu nhìn về phía những gia phó nhà họ Bùi còn đang run bần bật: “À, tiện thể nói với Thượng thư của các ngươi, ta đã tìm thấy thi thể của Vương Đoàn Nhi rồi.”



Trong ngục thất của Sát Sự Thính, cả bầu không khí cũng thấm đẫm mùi máu tanh, tiếng rên la đau đớn của các phạm nhân không ngừng vang lên. Vương Nhiên Tê bị dẫn vào phòng thẩm tra. Đám vũ hầu đối xử với bà ta chẳng chút nương nhẹ, thậm chí còn ném thẳng bà ta xuống nền đất. Cú ngã đau đớn khiến Vương Nhiên Tê choáng váng, đầu ong ong như muốn vỡ tung. Tay bà ta chạm phải thứ gì đó, định thần nhìn kỹ thì thấy ra là một chiếc kẹp tay nhuốm đầy máu, những vết máu loang lổ bám trên đó không biết là do nữ nhân xấu số nào để lại.

Vương Nhiên Tê kinh hoàng bò dậy, gắng gượng dùng khí thế để áp chế sợ hãi: “Các ngươi… các ngươi định làm gì? Ta là thê tử của Binh bộ Thượng thư chính tam phẩm, là Kim Thành quận phu nhân do Thánh nhân thân phong, các ngươi chớ có làm bậy!”

Mấy vũ hầu không để ý đến bà ta, chỉ cúi người cung kính chắp tay với người đang đứng bên ngoài phòng giám ngục: “Thiếu khanh.”

Thôi Tuần trong bộ quan phục màu đỏ sẫm từ tốn bước vào, Vương Nhiên Tê vừa thấy hắn, liền hận không thể xé xác hắn ngay: “Thôi Tuần, ngươi bắt ta vào Sát Sự Thính rốt cuộc là có ý đồ gì?”

“Có một vụ án, cần quận phu nhân hỗ trợ.”

“Vụ án gì? Lại là vụ vu hãm Hán Dương vương sao?” Vương Nhiên Tê tức giận gào lên, “Ngươi đã dùng cực hình ép cung đến chết Vương Lương, giờ lại muốn làm vậy với ta à?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Chuyện này thật không liên quan đến Hán Dương vương.”

“Vậy liên quan đến ai?” Vương Nhiên Tê cười lạnh: “Mời Thôi Thiếu khanh nói rõ, ngươi muốn ta vu cáo vị triều thần nào mưu phản?”

“Không phải án mưu phản, mà là…” Thôi Tuần mím môi, trong mắt thoáng hiện một tia giễu cợt: “Án mạng.”

Vương Nhiên Tê đờ đẫn, bộ trang phục vốn trang nhã giờ đã bẩn thỉu, rách nát. Bà ta trừng mắt nhìn Thôi Tuần: “Án mạng gì? Ta không hiểu ngươi đang nói gì cả!”

“Quận phu nhân quên rồi sao, vụ án của công chúa Vĩnh An?”

Nghe đến đây, Vương Nhiên Tê cố tỏ vẻ bình tĩnh nhưng sắc mặt đã tái nhợt. Bà ta lắp bắp hỏi lại: “Vĩnh… Vĩnh An công chúa? Chẳng phải công chúa đã hoăng thệ cách đây ba mươi năm rồi sao, chuyện này liên quan gì đến ta?”

Thôi Tuần điềm tĩnh hỏi: “Quận phu nhân, cái chết của công chúa thật sự không liên quan gì đến bà sao?”

“Tất nhiên là không liên quan!” Vương Nhiên Tê quả quyết phủ nhận: “Cả thiên hạ đều biết, công chúa là do Trịnh Quân giết. Chẳng lẽ Thôi Thiếu khanh định nói rằng công chúa là do ta giết sao? Thật nực cười!”

Thôi Tuần nhắc nhở: “Bà và Trịnh Quân là thanh mai trúc mã, tình cảm sâu đậm, lại là biểu huynh muội.”

Vương Nhiên Tê sững người, không ngờ Thôi Tuần lại điều tra mối quan hệ giữa bà ta và Trịnh Quân. Trán bà ta toát đầy mồ hôi lạnh: “Thì sao? Ta với hắn cũng chưa từng bàn đến chuyện hôn nhân, hắn giết người, chẳng lẽ ta phải chôn theo?”

Thôi Tuần lắc đầu: “Quận phu nhân thật vô tình, Trịnh Quân đúng là đáng thương.”

Mồ hôi bà ta tuôn như tắm, tâm trí bấn loạn, rồi chợt hiểu ra: “Ta biết rồi, ngươi bắt ta đến Sát Sự Thính, định vu oan cho ta giết công chúa Vĩnh An, mượn chuyện này kéo chân phu quân ta. Thôi Tuần, ngươi thật độc ác! Làm những chuyện tán tận lương tâm như thế, ngươi sớm muộn gì cũng sẽ gặp báo ứng!”

“Báo ứng?” Hai chữ này khiến Thôi Tuần không khỏi bật cười. Hắn nhếch môi, giọng điệu mỉa mai: “Nếu thật có báo ứng, e rằng người nhận đầu tiên phải là quận phu nhân.”

Bị đẩy đến đường cùng, Vương Nhiên Tê gào lên: “Thôi Tuần! Bắt trộm phải có tang vật! Ngươi nói ta giết công chúa Vĩnh An, thì đưa bằng chứng ra đây! Bằng không đừng hòng ép ta nhận tội!”

Thôi Tuần nhướn mắt, thản nhiên nói: “Sát Sự Thính làm việc, không cần chứng cứ.”

Vương Nhiên Tê sững sờ, biết rõ Thôi Tuần muốn dùng cực hình để ép cung. Bà ta giận dữ chửi mắng: “Thôi Tuần! Ngươi hòng đắc ý! Ta nói cho ngươi biết, ta không giết công chúa Vĩnh An, dù ngươi có đánh chết ta, ta cũng không nhận tội!”

Càng nói, bà càng trở nên điên cuồng, liên tục mắng nhiếc: “Thôi Tuần, ngươi là tên hạ tiện, phường trai lơ, kẻ hàng tướng bỉ ổi, ngươi đừng tưởng có thể dựa vào sự sủng ái của Thái hậu mà đảo lộn phải trái. Ta nói cho ngươi biết, một khi ngươi thất sủng, ta nhất định sẽ dùng đao cắt thịt ngươi từng mảnh, để ngươi chết ngàn lần cũng không đền hết tội!”

Bà ta càng rủa càng độc, nhưng Thôi Tuần vẫn điềm nhiên như không. Hắn lạnh lùng bảo tên vũ hầu bên cạnh: “Miệng của quận phu nhân cứng quá, dùng hình để bà ta mở miệng.”

Đám võ hầu như lang sói tiến về phía Vương Nhiên Tê. Bà ta sợ hãi co rúm vào góc tường, nhưng vẫn lớn tiếng hét: “Thôi Tuần! Ngươi dám động đến ta, phu quân ta nhất định sẽ giết ngươi!”

Thôi Tuần dùng vẻ mặt vô cảm nhìn bà ta giãy dụa. Khi vừa đặt kẹp ngón tay lên tay Vương Nhiên Tê, một tên vũ hầu vội vã chạy đến, ghé vào tai Thôi Tuần thì thầm điều gì đó. Hắn nhíu mày, rồi quát lớn: “Dừng tay.”

Nói xong, hắn cùng đám vũ hầu rời đi, bỏ lại Vương Nhiên Tê bị ném trở về ngục thất trong trạng thái bệ rạc.



Tâm thần bà ta chưa kịp yên ổn, xung quanh đã là nhà lao lạnh lẽo thấu xương. Ánh sáng nhợt nhạt le lói, mùi ẩm ướt hòa quyện với mùi hôi của xác thối. Từ nhỏ Vương Nhiên Tê đã quen sống trong nhung lụa, chưa bao giờ chịu khổ nhục như vậy. Bà ta quỳ xuống nôn thốc nôn tháo, đến khi trời đất đảo điên mới mệt mỏi dựa lưng vào tường.

Bùi Quan Nhạc sẽ đến cứu bà ta, đúng không? Dù hai người chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa, nhưng ông ta vẫn cần thân phận đích nữ Vương thị của bà ta. Huống hồ vợ mình bị Sát Sự Thính bắt đi là nỗi nhục lớn đến nhường nào, nhất định ông ta sẽ không mặc kệ.

Miễn là chịu được tra khảo thì bà ta sẽ còn đường sống.

Vương Nhiên Tê cắn chặt răng. Những hình cụ dành cho nữ phạm ở Sát Sự Thính không chỉ có kẹp ngón tay, mà còn có “Phượng hoàng xòe cánh,” “Ngọc nữ leo thang,” và “Tiên nhân hiến quả” [1] – mỗi loại đều là cực hình khắc nghiệt. Bà ta không dám chắc mình có thể chịu đựng nổi, nhưng lại hiểu rõ, một khi thú nhận, tất cả sẽ chấm hết. Vì thế, bà nhất định không được khai.

[1]

– Phượng hoàng xòe cánh: hình phạt buộc tay ra hai bên như cánh phượng hoàng xòe rộng, sau đó kéo căng để gây đau đớn hoặc làm trật khớp.

– Ngọc nữ leo thang: bắt nạn nhân trèo hoặc bị kéo căng trên một v.ật c.ứng (như thang hoặc giá đỡ) để tra tấn cơ thể, làm tổn thương các cơ hoặc xương, gây đau đớn dữ dội.

– Tiên nhân hiến quả: hình phạt có liên quan đến các vật dụng tròn, giống như “quả,” được đặt vào hoặc ép lên các phần nhạy cảm của cơ thể, gây đau đớn hoặc sỉ nhục.

Khi đang miên man suy nghĩ, bên tai lại vang lên tiếng roi da quất vào da thịt cùng tiếng kêu la thảm thiết của tù nhân. Mùi máu tanh lẫn trong không khí và mùi nôn mửa từ ngục thất xung quanh khiến bà ta càng thêm hoảng loạn. Bà ta ôm đầu, vừa sợ hãi, vừa kinh hoàng, rồi thiếp đi lúc nào không hay.

Không rõ đã ngủ bao lâu, bỗng bà ta nghe thấy một giọng gọi khẽ: “Tiểu nương tử.”

Tiểu nương tử? Bà ta đã xuất giá ba mươi năm, ai lại gọi bà ta như vậy?

Vương Nhiên Tê mơ màng mở mắt, đập vào mắt là một gương mặt bê bết máu.

Bà ta hét thất thanh, co người run lẩy bẩy: “Ngươi! Ngươi là ai?”

“Tiểu nương tử không nhận ra ta sao?” Người đó vén mái tóc xác xơ, để lộ một khuôn mặt thuần hậu, chất phác. “Ta là Vương Đoàn Nhi.”

“Vương… Vương Đoàn Nhi…” Vương Nhiên Tê run rẩy đến cắn lập cập: “Ngươi… không phải đã chết rồi sao?”

“Đúng vậy, ta đã chết rồi.” Vương Đoàn Nhi nở nụ cười ghê rợn: “Chính tiểu nương tử đã đâm ta, từng nhát, từng nhát, đâm chết ta.”

Vương Nhiên Tê sợ đến mức mặt mũi tái mét: “Ngươi… ngươi là quỷ?”

Vương Đoàn Nhi gật đầu, đôi mắt rỉ máu: “Ta là quỷ.”

Vương Nhiên Tê run run: “Ngươi… ngươi đến để làm gì?”

“Tất nhiên là tìm tiểu nương tử để báo thù.”

“Báo thù… báo thù…” Vương Nhiên Tê bò lồm cồm trên đất, cuối cùng lại chui vào góc tường, không màng đến vũng nôn bẩn thỉu trước đó. Bà ta ôm đầu, hét lên trong bàng hoàng: “Có ai không! Có quỷ! Có quỷ!”

Nhưng bên ngoài, đám ngục tốt vẫn chuyện trò rôm rả, không một ai để ý đến bà ta, như thể họ chẳng hề nhìn thấy Vương Đoàn Nhi.

Cảnh tượng này giống hệt ngày hôm đó khi Lý Doanh xuất hiện trong xe ngựa. Bà ta tuyệt vọng gào thét, nhưng những người xung quanh chẳng ai nghe thấy hay nhìn thấy, khiến bà ta phải một mình đối mặt với hồn ma đáng sợ ấy.

Nước mắt và nước mũi tuôn trào, Vương Nhiên Tê nức nở: “Đoàn Nhi, là ta có lỗi với ngươi! Ta sẽ thắp đèn trường minh, ta sẽ siêu độ cho ngươi, tha cho ta… tha cho ta…”

“Tiểu nương tử, ta chưa từng nghĩ đến chuyện sẽ tố giác người. Sao người lại giết ta?” Vương Đoàn Nhi oán hận, giọng đầy căm phẫn: “Người còn vứt xác ta nơi hoang vu, lạnh lẽo vô cùng. Lũ yêu quỷ đã kéo đến cắn xé thi thể ta, người nhìn xem!”

Vương Đoàn Nhi vén tay áo, để lộ hai cánh tay đầy những vết thương lớn như miệng bát, những vết sẹo nham nhở lộ ra phần thịt đỏ thẫm và phần xương trắng toát. Ở nơi đó, lũ giòi bọ đang bò lổm ngổm. Vương Nhiên Tê hét lên một tiếng chói tai, cúi người thổ ra từng cơn.

Đợi đến khi không còn gì để nôn, chỉ còn dịch vàng trào ra khỏi miệng. Lúc này, Vương Đoàn Nhi mới bình thản nói: “Tiểu nương tử, giết người thì đền mạng. Hãy trả lại mạng cho ta.”

Nói rồi, nàng ta đưa tay ra, định bóp lấy cổ Vương Nhiên Tê. Khoảng cách quá gần, đến mức Vương Nhiên Tê có thể thấy rõ những lỗ thủng đẫm máu trên mặt Vương Đoàn Nhi, khiến bà ta bị dọa đến phát điên. Bà ta lăn lộn bò về phía cửa ngục, điên cuồng đập tay lên thanh chắn gỗ: “Người đâu! Cứu mạng! Cứu mạng!”

Thế nhưng, chẳng ai đáp lại. Vương Nhiên Tê cảm nhận được những ngón tay lạnh như băng của Vương Đoàn Nhi đang siết lấy cổ mình. Bà ta sợ đến mức hồn bay phách lạc, cho đến khi nhìn thấy tà áo đỏ thẫm của người kia lại lần nữa xuất hiện.

Như kẻ chết đuối vớ được cọc, bà ta vội đưa tay qua thanh chắn, hét lên: “Thôi Tuần! Không, Thôi Thiếu khanh! Cứu ta! Cứu ta ra ngoài! Ta sẽ khai hết, cứu ta! Cứu ta!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 17: Lòng người còn ác hơn quỷ (Phần 1)



Khi Thôi Tuần trở về Thôi phủ, trời đã sang canh ba. Hắn bước thẳng vào thư phòng, từ cửa sổ lụa xanh có thể lờ mờ thấy ánh đèn bên trong. Thôi Tuần gõ cửa vài lần, nhưng không ai ra mở. Hắn cau mày, đèn còn sáng chứng tỏ Lý Doanh chưa nghỉ, vậy sao nàng lại chậm trễ không ra? Hay đã có chuyện gì xảy ra rồi? Suy nghĩ vừa thoáng qua, ánh mắt hắn lạnh đi, chuẩn bị đẩy cửa thì đúng lúc đó, cánh cửa bật mở, kêu lên tiếng “két”.

Lý Doanh khoác trên mình tấm áo choàng lông hồ ly, mái tóc chưa chải, mượt mà như lụa rũ xuống ngang vai. Chiếc áo choàng đỏ rực như lửa càng làm nổi bật làn da trắng mịn của nàng, khiến vẻ đẹp ấy vừa yêu kiều vừa thanh tú. Mỗi lần Thôi Tuần gặp Lý Doanh, nàng luôn chỉnh chu, đoan trang, tư thái toát lên vẻ cao quý của một nàng công chúa triều Đại Chu. Nhưng hôm nay, nàng lại khoác áo ngoài và buông tóc lòa xòa như vậy. Thấy hắn nhìn mình chăm chú, nàng thoáng ngượng ngùng:

“Xin lỗi, ta vừa mới nằm nghỉ, nên xiêm y chưa chỉnh tề, thật khiến Thôi Thiếu khanh phải chê cười…”

Lúc này, Thôi Tuần mới nhận ra, hắn vội dời ánh mắt khỏi nàng và nhìn về phía đèn bạch sứ đang cháy trong phòng:

“Ta thấy cô còn để đèn, tưởng rằng cô chưa nghỉ.”

“Ta quen rồi, đêm nào cũng để đèn.”

“Tại sao?”

Lý Doanh cúi đầu, cười khổ: “Có lẽ vì hồ sen quá tối, từ ngày rời khỏi đó, ta sợ bóng tối hơn hẳn.”

Giọng nàng mỗi lúc một nhỏ dần, như không muốn để hắn thấy nỗi đau trong ánh mắt mình, đầu nàng cúi thấp hẳn xuống. Thôi Tuần nhìn thấy bờ vai mảnh mai lộ ra dưới lớp tóc mềm, bàn tay dưới lớp quan phục của hắn khẽ siết lại nhưng rồi cũng nhanh chóng buông ra. Hắn nói: “Ta có chuyện muốn nói với cô.”

Lý Doanh ngước lên: “Chuyện gì?”

Thôi Tuần nhìn sâu vào đôi mắt nàng, những lời đã chuẩn bị sẵn lại không thốt ra được. Thấy thế, Lý Doanh mỉm cười, nói: “Bên ngoài gió lạnh, Thôi Thiếu khanh vào trong uống chén trà rồi hãy nói.”



Thôi Tuần ngồi ngay ngắn trước án thư, Lý Doanh ngồi đối diện hắn. Nàng cẩn thận lấy bánh trà Tử Duẩn ra hơ qua ngọn lửa cho dậy hương, rồi tỉ mỉ nghiền thành bột trong chén trà hoa văn tròn mạ vàng, sau đó, nàng dùng rây lọc trà thật kỹ trước khi cho vào ấm bạc đặt trên lò nhỏ. Nàng chậm rãi khuấy than để làm lửa bùng lên, ánh than đỏ hồng phản chiếu lên gương mặt thanh khiết của nàng, tựa một bức tranh tĩnh lặng, yên bình mà đẹp đẽ.

Thôi Tuần lặng lẽ nhìn nàng pha trà, trong lòng bất chợt tràn ngập một cảm giác yên bình mà bao lâu nay hắn không thể có được. Nước trong ấm trà đã sôi, mùi thơm dịu nhẹ lan tỏa. Lý Doanh vừa định rót trà ra chén bạc thì phát hiện cửa sổ gỗ chưa đóng kín. Nàng đứng dậy, nhẹ nhàng đi đến đóng cửa, rồi quay lại bên án thư. Khi nàng quay lại, Thôi Tuần đã tự mình rót trà. Hắn nhấp một ngụm và nói: “Trà ngon.”

Lý Doanh thẹn thùng, mỉm cười: “Thôi Thiếu khanh quá khen rồi.”

Thôi Tuần liếc nhìn bàn trà, thấy một khối long não đặt trên đó: “Long não là dược liệu quý, công chúa định làm túi thơm cho Thái hậu sao?”

Lý Doanh hơi sững lại, nàng cất khối long não vào lòng bàn tay, không trả lời trực tiếp mà chỉ đáp khẽ: “Ừm.” Thôi Tuần đặt chén trà xuống, ánh mắt rơi vào trầm tư: “Công chúa quả huệ chất lan tư, trà đạo, hương đạo đều tinh thông, chẳng trách Tiên đế và Thái hậu lại yêu mến công chúa đến vậy.”

Lý Doanh cười nhẹ, nét mặt lộ vẻ hoài niệm: “Làm con cái, không có gì nhiều để báo đáp phụ mẫu, chỉ biết pha trà, đốt hương, làm những việc nhỏ nhoi này thôi.”

Lời nói của nàng thấm đẫm tình cảm sâu nặng dành cho Tiên đế và Thái hậu. Thôi Tuần bỗng nhớ đến câu nói của Thái hậu ngày đó: “Minh Nguyệt Châu, nàng là người con gái mà ngô yêu thương nhất. Ba mươi năm trước là như vậy, và ba mươi năm sau, lại càng là như vậy.”

Hắn cúi đầu, một lần nữa cầm chén trà lên, nhấp một ngụm vị trà Tử Duẩn thanh mát, nước trà màu ngọc bích, để lại hậu vị lâu dài. Hắn đặt chén xuống và cuối cùng nói: “Hôm nay, ta đã bắt được Vương Nhiên Tê.”

Lý Doanh ngẩn người: “Ngài đã bắt Vương Nhiên Tê?”

Thôi Tuần khẽ gật đầu, bàn tay giấu trong tay áo vô thức siết chặt lại. Hắn mím môi, thản nhiên nói: “Ta đã giam bà ta vào Sát Sự Thính, rồi tìm một đào kép có dung mạo giống Vương Đoàn Nhi để giả làm oan hồn của nàng. Vương Nhiên Tê vốn luôn sợ ác quỷ đòi mạng, quả nhiên bà ta đã mắc bẫy, sợ đến mức phải khai nhận.”

Ánh mắt hắn dán vào Lý Doanh, chậm rãi nói từng chữ: “Bà ta đã thú nhận, chính bà ta là kẻ đã giết cô.”

Lý Doanh nghe được câu trả lời mà nàng đã truy tìm bấy lâu, đầu tiên là sững sờ, sau đó lẩm bẩm: “Quả nhiên là bà ta…”

“Có muốn hỏi lý do không?”

Lý Doanh cắn chặt môi, suốt ba mươi năm nàng đã chờ đợi khoảnh khắc này, cuối cùng kẻ thủ ác cũng phải đền tội. Nhưng có lẽ vì thời gian quá dài, suốt ba thập kỷ đằng đẵng, mà giờ đây trong nàng lại dâng lên cảm giác mơ hồ, như tất cả đều không thực. Nhận thấy nàng im lặng quá lâu, Thôi Tuần nói: “Nếu không muốn, cô không cần phải đi.”

“Không, ta muốn đi.” Lý Doanh ngẩng đầu, kiên quyết nói: “Ta không đáng chết. Ta phải biết, vì sao bà ta muốn gi.ết ch.ết ta.”



Đây là lần thứ hai Lý Doanh bước chân vào ngục thất của Sát Sự Thính. Lần đầu tiên, Thôi Tuần dẫn nàng đến để dọa nàng, cố tình cho nàng xem cảnh hắn tra tấn Vương Lương bằng cực hình. Lần thứ hai, vẫn là Thôi Tuần dẫn nàng đi, nhưng lần này là để đối diện với hung thủ đã sát hại nàng.

Đi theo sau Thôi Tuần, qua ô cửa sắt nhỏ, nàng trông thấy Vương Nhiên Tê co ro trong góc phòng giam. Máu me phủ đầy gương mặt bà ta, những vết rạch sâu hằn trên da thịt tạo thành những đường nét dữ tợn đáng sợ. Lý Doanh không khỏi liếc nhìn Thôi Tuần, hắn liền đáp: “Không liên quan đến ta, là do bà ta tự làm.”

Trong ngục phòng, Vương Nhiên Tê giơ đôi tay gầy gò, móng tay dài nhuộm đỏ màu hoa phượng tiên, quờ quạng giữa không trung, giọng bà ta khản đặc đầy sợ hãi: “Ma! Ma! Đừng tới đây! Đừng tới đây!”

“Không còn ma nào dọa bà ta nữa.” Thôi Tuần nói, “Bà ta đã tự dọa mình đến phát điên rồi.”

Lý Doanh nhìn bộ dạng thảm hại của Vương Nhiên Tê, lòng không rõ là thương hại hay căm ghét: “Không làm việc trái lương tâm thì không sợ ma quấy phá. Bà ta sợ ma quỷ hung ác, nhưng chính bà ta còn ác gấp vạn lần chúng ta.”

Vương Nhiên Tê lại cào cấu không khí, rồi chuyển sang cào rách da thịt trên mặt và cổ mình, gào thét điên cuồng: “Ma! Ma! Mau cút đi! Cút đi!”

Khuôn mặt bị cào rách nát, máu thịt lộ ra, thảm không nỡ nhìn. Thôi Tuần quay sang Lý Doanh, hỏi: “Cô muốn hỏi bà ta điều gì?”

Lý Doanh trầm mặc một lúc. Có quá nhiều điều nàng muốn hỏi, nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Là hỏi vì sao bà ta giết nàng? Hay hỏi bà ta đã giết nàng thế nào? Hoặc tại sao Trịnh Quân lại nhận tội thay bà ta? Những câu hỏi đó cứ xoay vần trong tâm trí, không biết nên gỡ ra từ chỗ nào.

Thôi Tuần dường như đoán được tâm trạng rối bời của nàng, bèn nói: “Để ta hỏi.”

Hắn gõ nhẹ lên ô cửa sắt của phòng ngục. Tiếng động khiến Vương Nhiên Tê giật mình hoảng sợ, quay phắt về phía cửa sắt. Khuôn mặt như hoa sen của Thôi Tuần hiện ra phía sau song cửa, lãnh đạm mà uy nghiêm.

Rõ ràng trước mắt là một Diêm La đến đòi mạng, nhưng Vương Nhiên Tê lại như nhìn thấy cọng rơm cứu mạng, bò tới sát cửa, dồn sức đập mạnh vào tường: “Thôi Thiếu khanh, cứu ta, cứu ta!”

Thôi Tuần nhếch môi cười nhạt: “Muốn ta cứu bà, vậy ta hỏi gì, bà phải trả lời cái đó.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 18: Lòng người còn ác hơn quỷ (Phần 2)



“Vì sao bà lại muốn giết công chúa Vĩnh An?”

Giữa lời thú tội nửa tỉnh nửa mê của Vương Nhiên Tê, cuối cùng Lý Doanh cũng vén được bức màn sự thật về vụ án đẫm máu ba mươi năm trước.

Vương Nhiên Tê xuất thân từ Vương thị Thái Nguyên, một trong ngũ tính thất vọng của Đại Chu. Từ nhỏ, bà ta đã kiêu ngạo, hiếu thắng, sớm thề rằng nhất định sẽ gả cho một vị hôn phu tốt nhất thiên hạ. Người ấy phải có dung mạo tuấn tú, tài hoa hơn người, tính tình ôn hòa, xuất thân cao quý, gia tài đồ sộ, tiền đồ vô lượng, và quan trọng nhất, là phải một lòng một dạ với bà ta, cả đời chỉ cưới bà ta làm thê tử, không để bà ta phải tranh giành với những tiện thiếp thấp kém.

Nghe qua thì ai cũng cho rằng đó là mộng tưởng viển vông, nhưng Vương Nhiên Tê là ai? Bà ta chính là đích nữ của Vương thị Thái Nguyên, và bà ta đã thật sự tìm được người chồng lý tưởng ấy.

Người đó chính là biểu huynh của bà ta, Trịnh Quân, xuất thân từ Trịnh thị ở Huỳnh Dương.

Mẫu thân của Trịnh Quân là dì ruột của bà ta, còn hắn thì phong độ nho nhã, ôn nhu như ngọc, hội đủ mọi điều kiện Vương Nhiên Tê mong muốn. Bà ta xác định rằng Trịnh Quân chính là phu quân lý tưởng của mình, liền tìm đủ mọi cách để tiếp cận hắn. Một nữ tử vì người mình trong mộng mà dùng chút mưu kế nhỏ nhoi cũng chẳng có gì đáng trách. Tình cảm giữa Trịnh Quân và Vương Nhiên Tê ngày càng sâu đậm, hai người thề non hẹn biển, tư định chung thân.

Nếu câu chuyện dừng lại ở đây, thì thế gian đã có thêm một đôi tài tử giai nhân môn đăng hộ đối, phu quân ôn tồn lễ độ, thê tử xinh đẹp thông minh. Dưới sự che chở của gia tộc, cuộc đời họ hẳn sẽ thuận buồm xuôi gió. Nhưng đáng tiếc, thế sự vẫn luôn khó lường.

Cô mẫu của Trịnh Quân, chính là đương triều Hoàng hậu Trịnh thị. Vì muốn lấy lòng hoàng đế, bà ta đã không tiếc lời, tán dương Trịnh Quân trước mặt hoàng đế, ý đồ tiến cử hắn làm phò mã cho công chúa Vĩnh An. Sau vài lần triệu kiến, hoàng đế thấy Trịnh Quân có phẩm chất tốt đẹp liền hạ chiếu chỉ, phong hắn làm phò mã.

Khi nhận được thánh chỉ, Trịnh Quân như bị sét đánh ngang tai, hắn không ngờ rằng những lần hoàng đế triệu kiến đều là để chọn phò mã cho công chúa Vĩnh An. Thật nực cười khi lúc đó hắn còn tưởng hoàng đế triệu hắn để phong chức, nên mới ra sức thể hiện, nào ngờ lại thành tự mua dây buộc mình.

Nhưng thánh chỉ đã ban xuống, liệu hắn có dám kháng chỉ?

Vương Nhiên Tê không thể chấp nhận, bà ta khóc lóc, làm loạn: “Huynh nói huynh không biết Thánh nhân triệu kiến là để chọn phò mã, ai mà tin kia chứ?”

Trịnh Quân thề thốt: “Ta thực sự không biết. Hoàng hậu cũng chưa từng nói với ta. Nếu ta biết trước, ta đã giấu bớt tài năng, đâu để bị chọn như vậy.”

Vương Nhiên Tê cười lạnh: “Huynh làm điều khuất tất, tất nhiên sẽ nói như thế! Huynh đúng là kẻ bội tình bạc nghĩa. Là ta có mắt không tròng, nhìn nhầm huynh rồi!”

Trịnh Quân cuống quýt: “Nếu ta thực sự bội bạc, trời tru đất diệt, nhà tan cửa nát!”

Nghe lời thề độc như vậy, Vương Nhiên Tê mới dần ngừng khóc. Bà ta tựa vào lòng Trịnh Quân, lòng đầy hoang mang về tương lai và chất chứa hận ý đối với Lý Doanh.

Nếu… nếu trên đời này không có công chúa Vĩnh An, thì tốt biết bao.



Nghe đến đây, Lý Doanh không khỏi bàng hoàng. Nàng nhớ lại ngày hôm đó, a gia bảo nàng ẩn mình sau bức rèm châu, quan sát một thiếu niên khí độ phi phàm, xuất khẩu thành thơ, nói năng lưu loát. Nàng biết rằng đây là người mà a gia muốn chọn làm phò mã cho nàng.

Sau khi thiếu niên rời đi, a gia vén rèm lên, mỉm cười hỏi: “Minh Nguyệt Châu, Trịnh Quân này, có thể làm phò mã của con không?”

Hai má nàng ửng đỏ, cúi đầu, khẽ đáp: “Người a gia chọn, ắt hẳn là lang quân tốt nhất trên đời rồi.”

Nàng luôn tin tưởng a gia và a nương. Huống hồ, Trịnh Quân kia từ dung mạo, gia thế và tài năng đều không chê vào đâu được, nàng đâu có gì để mà không hài lòng?

A nương lại có chút lo lắng, bởi bà và Hoàng hậu Trịnh thị vốn không hòa hợp. Bà lo rằng Trịnh Quân sẽ đối xử không tốt với nàng. Nhưng a gia đã ra mặt giải thích: “Linh Diệp, những năm qua ta đề xướng tân chính, đã đắc tội hết thảy thế gia. Cuộc chiến giữa hoàng quyền và thế gia sớm muộn cũng phải phân thắng bại. Nếu ta thắng, có ta bảo hộ, Trịnh gia sẽ không dám đối xử tệ với Minh Nguyệt Châu. Nếu ta bại, thì Minh Nguyệt Châu làm chính thê của Trịnh Quân. Hắn là một người có nhân phẩm chính trực, thế gia đại tộc như Trịnh thị lại trọng nhất là thể diện, nên nửa đời sau của con bé cũng sẽ được bình yên, không đến mức chịu liên lụy vì ta.”

Cha mẹ thương con, lo nghĩ sâu xa. A gia đã chọn lựa kỹ lưỡng mới định Trịnh Quân làm phò mã.

Nhưng dù tính toán thế nào, a gia cũng không biết rằng Trịnh Quân đã sớm có người trong lòng, thậm chí đã cùng Vương Nhiên Tê ngầm định chung thân.



Trong ngục thất, cuộc thẩm vấn vẫn tiếp tục. Thôi Tuần lạnh lùng hỏi: “Cho dù Trịnh Quân đã trở thành phò mã, nguồn cơn cũng là do tư tâm của Trịnh hoàng hậu mà ra, đâu liên quan gì đến công chúa? Nếu bà và Trịnh Quân không thành đôi thì có thể tìm người khác gả đi, cớ gì phải giết công chúa?”

“Ta vốn không có ý giết nàng ta!” Vương Nhiên Tê vừa khóc vừa cười, đáp: “Ta là nữ nhi của Vương thị ở Thái Nguyên, cho dù không thể có một lang quân xuất sắc như Trịnh Quân, ta cũng không lo không lấy được chồng. Ta không đấu lại công chúa, chỉ đành cam chịu số phận!”

“Vậy vì sao bà lại giết nàng?” Thôi Tuần lạnh lùng hỏi.

“Ta vốn đã muốn buông bỏ, nhưng mà… nhưng mà…” Vương Nhiên Tê quỳ sụp xuống nền gạch xám lạnh lẽo. Nền gạch vốn xanh biếc, giờ bị máu thấm đẫm, chẳng còn nhận ra màu nguyên bản, chỉ để lại những vết đen nhức mắt. Ánh mắt bà ta đăm đăm nhìn qua khung cửa sắt nhỏ hẹp, nhìn về phía bóng dáng thanh nhã như hoa sen của Thôi Tuần, nhưng trong mắt bà ta đó lại là một thân ảnh tú lệ khác. Vương Nhiên Tê cười phá lên, rồi lảo đảo đứng lên, chỉ tay vào bóng hình mờ ảo, bắt đầu gào lên: “Nhưng, nhưng mà ai bảo Trịnh Quân lại yêu nàng ta!”

Một câu nói như sấm rền vang trời, cả Lý Doanh và Thôi Tuần đều sững sờ. Thôi Tuần không dám tin: “Bà nói, Trịnh Quân… yêu công chúa Vĩnh An?”

Vương Nhiên Tê bật cười khanh khách: “Công chúa Vĩnh An, yểu điệu thướt tha, thông minh tài giỏi, sáng rực như ánh trăng, lại còn lương thiện, tính tình hòa nhã. Phải rồi, ai mà không thích nàng ta chứ? Tiên đế yêu thích nàng, Thái hậu yêu thích nàng, quan lại yêu thích nàng, cung nữ yêu thích nàng, và thậm chí… Trịnh Quân cũng yêu thích nàng!”

Lời nói của bà ta ngập tràn oán hận: “Trịnh Quân nói sẽ không bao giờ phụ ta, hắn thề rằng không phải kẻ bội tình bạc nghĩa. Nhưng chỉ mới gặp công chúa có vài lần thôi, mà hắn đã đem lòng yêu nàng? Vậy còn ta, người đã cùng hắn thề non hẹn biển nhiều năm, hóa ra chỉ là một trò đùa? Ta phải dùng biết bao thủ đoạn mới có được tình yêu của hắn, vậy mà tình yêu đó lại dễ dàng bị chuyển dời sang công chúa Vĩnh An! Thế thì ta là gì? Chẳng lẽ ta, Vương Nhiên Tê, lại thua kém nàng, Lý Doanh sao?”

Vương Nhiên Tê không cam lòng, thực sự không cam lòng. Bà ta tận mắt chứng kiến sự thay đổi trong thái độ của Trịnh Quân. Khi nói về Lý Doanh, từ chỗ trách móc, ánh mắt hắn dần trở nên dịu dàng đầy yêu thương. Hắn nói: “Việc chọn phò mã không liên quan gì đến công chúa.”

Hắn còn nói: “Thật ra công chúa là người lương thiện nhất. Chúng ta không nên oán hận nàng.”



Vương Nhiên Tê không thể chấp nhận điều đó. Bà ta có thể chấp nhận việc Trịnh Quân trở thành phò mã vì không thể kháng chỉ, nhưng không thể chấp nhận việc người đàn ông đã hứa hẹn với bà ta bao năm lại dễ dàng yêu một người khác. Tại sao chứ? Một nữ tử có xuất thân thấp hèn từ gia đình thương nhân, rốt cuộc là dựa vào điều gì?

Trịnh Quân không chịu thừa nhận. Hắn không thừa nhận mình đã yêu công chúa Vĩnh An. Phải rồi, những kẻ bạc tình trên đời này đều như vậy, dù trong lòng đã thay đổi nhưng vẫn khăng khăng phủ nhận. Bà ta khóc lóc không ngừng, lấy cái chết ra uy h**p. Trịnh Quân lần này không thề thốt, chỉ liên tục lặp lại: “Ta không yêu công chúa, người ta yêu là muội.”

Bà ta không tin, cầm lấy con dao mà Trịnh Quân đã tặng để phòng thân, định tự vẫn. Trịnh Quân vội cướp lấy dao, lòng bàn tay bị rạch một vết sâu: “Biểu muội, phải làm thế nào thì muội mới tin ta?”

Bà ta cười lạnh: “Muốn ta tin huynh? Được thôi, vậy huynh hãy giết Lý Doanh đi. Nếu huynh giết nàng, ta sẽ tin huynh!”



Ai mà ngờ được, cái chết của Minh Nguyệt Châu, viên ngọc sáng chói nhất Đại Chu, lại bắt nguồn từ lòng đố kỵ của một nữ nhân?

Thôi Tuần cau mày, đôi mắt lạnh băng: “Chỉ vì Trịnh Quân thay lòng đổi dạ, mà bà muốn giết công chúa sao?”

Vương Nhiên Tê bật cười thê lương, giọng bà ta đầy căm phẫn: “Ngươi chưa từng yêu ai, làm sao ngươi hiểu được cảm giác bị phản bội?”

Lý Doanh không thể tin nổi rằng cái chết của mình lại bắt nguồn từ một cuộc tranh giành tình cảm mà nàng hoàn toàn không hay biết. Nàng ngây người nhìn Vương Nhiên Tê, người phụ nữ ấy đã gần năm mươi, trải qua ba mươi năm, vì được bảo dưỡng thỏa đáng vẫn giữ được nét quý phái của một tiểu thư thế gia. Thế nhưng, nét quý phái ấy giờ đây đã đã bị bóp méo, thay thế bằng lòng hận thù xấu xa. Vương Nhiên Tê, nữ nhi của họ Vương ở Thái Nguyên, đã bị lòng đố kỵ nuốt chửng đến mức chính bản thân bà ta cũng chẳng nhận ra mình nữa. Lý Doanh bất giác rùng mình, nàng khẽ lẩm bẩm: “Không, ngươi không giận vì bị Trịnh Quân phản bội. Ngươi giận vì không thể vượt qua ta.”

Nhưng dù là lý do nào đi nữa, nàng có tội tình gì?

Nhưng Vương Nhiên Tê không nghe thấy lời nàng, bà ta chỉ tiếp tục nói trong điên loạn: “Điểm yếu lớn nhất của Trịnh Quân chính là mềm lòng. Ta khóc, náo loạn, thậm chí dọa chết, hắn liền hoảng sợ, cảm thấy có lỗi với ta, rồi đồng ý. Ha, nghĩ lại cũng phải, khi đó cả hai chúng ta còn quá trẻ, hắn mười bảy, ta mười lăm, đều chẳng biết trời cao đất dày là gì. Ai mà ngờ rằng được nộ khí của thiên tử lại có thể khiến xác phơi trăm dặm, máu chảy thành sông?”

Thôi Tuần lạnh lùng nói: “Đại Chu có luật, sát hại hoàng tộc chẳng khác nào mưu phản, tru di cửu tộc. Bà ngu muội, chẳng lẽ Trịnh Quân cũng ngu muội như vậy?”

“Ta đã nói rồi, hắn mềm lòng.” Vương Nhiên Tê cất giọng trầm thấp, như thể trước mắt bà ta lại hiện lên khuôn mặt ôn hòa như ngọc của Trịnh Quân: “Hắn bị ta ép đến mức không còn cách nào khác. Ta bảo hắn rằng chúng ta sẽ hành động hoàn hảo, không để lại sơ hở nào. Cho dù có bị phát hiện, cùng lắm thì ta sẽ chết cùng hắn, còn họ hàng nhà hắn, nhất định không sao. Chẳng lẽ hắn chưa từng nghe chuyện Thánh nhân tu sửa Tông Tộc Chí sao?”

Việc tu sửa Tông Tộc Chí vốn là chỉ dụ của Thái Xương Đế, giao cho Thượng thư Bộ Lại và Thị lang Bộ Lễ biên soạn gia phả tông tộc. Tuy nhiên, không ngờ rằng quần thần lại xếp “Ngũ tính Thất vọng” lên trên hoàng tộc họ Lý, trong đó họ Thôi ở Bác Lăng đứng đầu tiên. Thái Xương Đế giận dữ, hạ lệnh sửa lại, nhưng các đại thần kiên quyết phản đối, nói rằng nếu xếp hoàng tộc họ Lý trước họ Thôi, sẽ gây chấn động thiên hạ, khiến sĩ nhân coi việc được ghi vào Tông Tộc Chí là sỉ nhục. Cuối cùng, sự việc rơi vào bế tắc, Bác Lăng Thôi thị vững vàng ngồi ở vị trí cao nhất trong các đại tộc, dẫn đầu sĩ tộc. Từ đó, “Ngũ tính Thất vọng” ngày càng kiêu ngạo, thế nhân truyền tai nhau rằng: “Thà cưới con gái ngũ họ, chứ không vào làm rể hoàng gia.”

Vương Nhiên Tê tin tưởng rằng, dù Trịnh Quân có giết Lý Doanh, việc này cũng sẽ không ảnh hưởng đến gia tộc Trịnh thị ở Huỳnh Dương.

Nhưng đáng tiếc, bà ta đã sai.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 19: Lòng người còn ác hơn quỷ (Phần 3)



Vương Nhiên Tê nhiều lần khóc lóc, nhiều lần thuyết phục. Bà ta nói, chỉ cần Lý Doanh chết, họ có thể tái hợp bên nhau. Dưới sức ép không ngừng của bà ta, cuối cùng Trịnh Quân cũng đồng ý. Vương Nhiên Tê tìm được một nội ứng trong cung, chính là cung nữ Vương Đoàn Nhi ở cục Thượng Y, người trước kia từng là gia nô ở Vương phủ. Ban đầu, Vương Đoàn Nhi sống chết không chịu, nhưng Vương Nhiên Tê dùng ân tình để uy h**p, khiến Vương Đoàn Nhi vì sợ hãi mà phải gật đầu.

Kế hoạch của bọn họ là để Trịnh Quân viết thư hẹn Lý Doanh ra gặp ở hồ sen vào ban đêm. Lý Doanh vốn thẹn thùng, sẽ không nói việc hẹn hò với phò mã cho bất kỳ cung nữ nào, và tất nhiên sẽ không dẫn theo ai. Khi nàng đến hồ sen, Vương Đoàn Nhi sẽ bám theo rồi đẩy nàng xuống hồ, tạo ra cảnh tượng Lý Doanh trượt chân ngã xuống hồ mà chết.

Kế hoạch này đầy rẫy những sơ hở, vì xét cho cùng, Vương Nhiên Tê và Trịnh Quân chỉ là con cháu thế gia được nuông chiều, nào phải bậc kỳ tài về mưu lược. Khi ngày thành thân của Trịnh Quân và Lý Doanh đến gần, dù có nhiều lỗ hổng đến đâu thì kế hoạch ấy cũng buộc phải tiến hành.

Thật không ngờ, kế hoạch đầy bất cẩn ấy lại thành công.

Lý Doanh lẩm bẩm: “Nếu Vương Đoàn Nhi là người đẩy ta xuống, thì tại sao Trịnh Quân lại không khai ra bà ta?”

Thôi Tuần ngừng một chút, đem nghi vấn của nàng hỏi Vương Nhiên Tê: “Vì sao cuối cùng Trịnh Quân lại nhận hết tội lỗi về mình?”

Vương Nhiên Tê nước mắt như mưa: “Vì sao hắn lại nhận hết tội lỗi về mình ư? Đúng vậy, ta cũng muốn hỏi hắn vì sao lại làm thế? Ta từng cố tự an ủi mình, rằng hắn vì tình mà che giấu mọi tội lỗi thay ta, nhưng… ta biết, không phải vậy!”

Bà ta điên cuồng, nghiêng đầu nhìn Thôi Tuần, giọng cười như khóc: “Hắn gánh hết tội lỗi là vì hắn muốn chết. Vì sao hắn muốn chết? Vì hắn muốn chết cùng Lý Doanh!”



Đêm mùng sáu tháng mười, trời thu.

Đêm đó vốn dĩ là một đêm bình thường. Vương Nhiên Tê và Trịnh Quân đang ngồi ở tửu quán chờ tin tức, nhưng Trịnh Quân cứ không yên lòng, bồn chồn đứng ngồi không yên. Vương Nhiên Tê rót rượu cho hắn, nhưng hắn cũng chẳng uống.

Hắn đi qua đi lại đầy lo lắng, cuối cùng không chịu nổi nữa, hắn lao ra ngoài, nhảy lên lưng ngựa. Vương Nhiên Tê đuổi theo, nắm lấy dây cương: “Biểu huynh, huynh định làm gì?”

“Ta phải đi cứu nàng!”

Vương Nhiên Tê như bị sét đánh ngang tai: “Huynh nói gì? Huynh muốn đi cứu nàng ta?”

“Chúng ta sai rồi.” Mắt Trịnh Quân đỏ hoe: “Nàng không đáng phải chết!”

Vương Nhiên Tê không thể tin nổi: “Huynh dám cứu nàng ta? Ta liều mạng cùng huynh làm chuyện này, đến phút cuối huynh nói muốn cứu nàng ta là sao?”

“Biểu muội, ta có lỗi với muội! Nhưng mọi chuyện không liên quan đến nàng ấy. Hãy để ta một mình gánh chịu tất cả!”

Dứt lời, Trịnh Quân vung roi giục ngựa, bóng ngựa lao đi như tia chớp hướng về cung Đại Minh. Vương Nhiên Tê bị hất ngã xuống đất, toàn thân đau nhói, mặt bà ta tái nhợt như tro tàn: “Hắn điên rồi, hắn thật sự điên rồi…”

Hắn đi cứu người mà chính hắn định giết.



Trường An đã đến giờ giới nghiêm, nhưng Trịnh Quân có tử kim ngư đại do Thái Xương Đế ban tặng, nên có thể tùy ý xuất nhập cửa cung. Hắn phóng ngựa suốt đêm, chỉ để cứu vị hôn thê mà lẽ ra hắn phải giết. Nhưng đáng tiếc, khi hắn đến hồ sen thì đã quá muộn. Trước mắt hắn chỉ còn lại thi thể Lý Doanh nổi trên mặt nước.

Hắn như bị ngũ lôi đánh trúng, quỳ sụp xuống đất, che mặt khóc rống. Hắn muốn kéo thi thể Lý Doanh lên bờ, nhưng khi nghe thấy tiếng người, hắn hoảng loạn bỏ chạy.

Hắn sợ hãi, sợ phải đối diện với Thái Xương Đế, sợ phải đối diện với Khương Quý phi, và càng sợ khi phải đối diện với Lý Doanh.

Hắn hoảng hốt chạy trốn, đến khi bị Thôi Tụng Thanh bắt vào Đại Lý Tự, hắn không biện bạch, nhận hết tội danh, chỉ một lòng cầu chết.



Vương Nhiên Tê nức nở: “Trịnh Quân, tên phụ tình bạc nghĩa ấy, hắn nghĩ rằng không khai ra ta thì ta sẽ cảm kích hắn sao? Hừ, chính hắn đã thề, nếu phụ tình thì sẽ nhà tan cửa nát, chết không toàn thây. Nay lời thề ứng nghiệm, chẳng lẽ ta ngu ngốc đến mức tự thú để chết theo hắn sao? Không, ta sẽ không làm vậy. Ta muốn cưới một phu quân như ý, để hắn dưới cửu tuyền nhìn kỹ xem kẻ phản bội ta phải chịu kết cục ra sao!”

“Trịnh Quân đã chết, trên đời này chỉ còn một người biết ta phạm tội, đó là Vương Đoàn Nhi. Chính nàng ta đã đẩy Lý Doanh xuống, nhưng vì sợ hãi, nàng ta sống trong cảnh nơm nớp lo âu. Ta hẹn gặp nàng ta, dùng chính con dao Trịnh Quân tặng để đâm thủng nàng ta từng nhát, từng nhát một. Khi chết, mắt nàng ta vẫn mở trừng trừng, chắc chưa bao giờ nàng ta ngờ rằng, chủ tử mà nàng ta tôn thờ sẽ là kẻ giết nàng ta để diệt khẩu.”

Thôi Tuần trầm giọng hỏi: “Bà giết Vương Đoàn Nhi, rồi vứt xác ra vùng núi hoang sao?”

“Không phải ta. Ta là một nữ nhân yếu đuối, làm gì có bản lĩnh đó? Chính là Bùi Quan Nhạc, khi ấy là đội trưởng chánh thất phẩm của Huân Dực Vệ. Khi Vương Đoàn Nhi ra khỏi cung, hắn nghi ngờ có điểm bất thường nên lặng lẽ bám theo, sau đó bắt gặp ta giết người, dùng chuyện này uy h**p ta phải gả cho hắn, nếu không hắn sẽ tố cáo ta. Ta đâu dám để hắn làm thế? Một khi bị vạch trần, việc giết Lý Doanh tất nhiên bại lộ. Ta đành phải đồng ý làm thê tử của kẻ hèn mọn, đổi lại, hắn giúp ta xử lý thi thể Vương Đoàn Nhi, vứt xác ngoài núi hoang. Lúc đó, triều đình và hậu cung đều náo loạn vì cái chết của công chúa, máu chảy thành sông, chẳng ai để ý đến sự biến mất của một cung nữ ở cục Thượng Y. Và ta đã bình an sống thêm ba mươi năm như thế.”

Ba mươi năm qua, không chỉ bình an, bà ta còn hết lòng giúp đỡ phu quân tiến thân, bày mưu tính kế, sống an nhàn sung túc. Nhưng liệu trong những giấc mơ lúc nửa đêm, có khi nào bà ta nhìn thấy biểu huynh Trịnh Quân, kẻ đã bị bà ta xúi giục, cuối cùng thân vong đầu lìa hay không?

Thôi Tuần lại hỏi: “Bùi Quan Nhạc có biết bà đã giết công chúa Vĩnh An không?”

Vương Nhiên Tê bật cười khinh miệt: “Có lẽ hắn biết, có lẽ không, ai mà biết được. Dù sao thì hắn cũng chưa bao giờ hỏi. Thứ hắn cần chỉ là danh phận con rể của Vương thị Thái Nguyên mà thôi.”

Lý Doanh bỗng cảm thấy lạnh, nàng kéo chặt chiếc áo khoác lông hồ ly, thì thầm: “Ta không muốn nghe nữa, chúng ta đi thôi.”

Thôi Tuần gật đầu, xoay người muốn cùng nàng rời đi, nhưng Vương Nhiên Tê hoảng loạn, lao đến bên tường, vỗ vào song sắt, cầu xin: “Thôi Thiếu khanh, ngươi không thể đi! Ngươi đi rồi, công chúa Vĩnh An và Vương Đoàn Nhi sẽ đến tìm ta nữa mất!”

Thôi Tuần quay lại, cười khẩy: “Giết người không sợ, mà lại sợ quỷ?”

Vương Nhiên Tê á khẩu không đáp, bà ta chỉ biết liên tục khẩn cầu: “Ta đã khai nhận toàn bộ theo yêu cầu của ngươi rồi, hãy cứu ta! Cứu ta với!”

Thôi Tuần liếc nhìn bà ta, ném vào ô cửa sắt một vật nhỏ. Vương Nhiên Tê vội nhặt lên như báu vật, nâng niu trong tay và liên tục niệm: “Án ma ni bát mê hồng,” Lý Doanh nhìn kỹ, hóa ra đó là một chuỗi Phật châu bằng gỗ tử đàn.

Kẻ ác như vậy, thế mà lại cầm chuỗi hạt được khai quang, niệm thần chú cầu xin Phật tổ phù hộ. Trong lòng Lý Doanh không biết nên cảm thấy thế nào, nàng cười chua chát, kéo chặt áo khoác, không ngoảnh lại mà rời đi.



Khi về đến Thôi phủ, oan trái đã sáng tỏ, nhưng trà đã nguội lạnh.

Lý Doanh dường như vẫn chưa hồi phục khỏi cú sốc khi biết sự thật. Nàng ngồi thần người trước án thư, không nói một lời. Thôi Tuần cũng không bắt chuyện trước, chỉ cẩn thận chuẩn bị lại mọi thứ: từ nấu trà, nghiền trà, sàng lọc, cho nguyên liệu, thả trà, nấu nước, rót trà. Những ngón tay hắn thon dài, khi nhập vào trà đạo liền toát ra vẻ tao nhã ung dung, tư thái thoát tục, khiến người ta quên mất rằng hắn là một viên quan khét tiếng mà người đời ai cũng thóa mạ. Trước mắt họ lúc này còn là hình ảnh vị công tử họ Thôi ở Bác Lăng, sĩ tộc đứng đầu thiên hạ.

Thôi Tuần đưa chén trà đã rót sẵn cho Lý Doanh: “Uống trà đi.”

Lý Doanh nào có lòng dạ mà thưởng trà, nàng mơ màng nhận lấy, không nhấp từng ngụm mà uống cạn một hơi. Thôi Tuần liếc nhìn nàng, nói: “Đại thù của công chúa đã báo, sao lại chẳng thấy cô vui?”

Lý Doanh đặt chén trà bằng bạc xuống, gượng cười: “Ba mươi năm qua, ta đã nhiều lần tưởng tượng đến khoảnh khắc tìm ra hung thủ. Lúc đó, ta sẽ vui hay thấy hả hê? Nhưng khi thật sự tìm được, ta mới nhận ra mình không hề vui, cũng chẳng hả hê, ngược lại còn thấy lòng nặng trĩu.”

Nàng lẩm bẩm: “Ta cũng không biết vì sao lại thế, Thôi Thiếu khanh, ngài có hiểu được không?”

Nhưng hỏi xong, nàng lại lắc đầu tự đáp: “Không, nhất định ngài sẽ không hiểu.”

Bị vị hôn phu cùng tình nhân của hắn hợp mưu hãm hại nhưng phải đến ba mươi năm sau sự thật mới sáng tỏ. Nhưng sự thật có sáng tỏ thì có ích gì? Nàng vẫn chết, mãi mãi rời xa phụ mẫu, không còn cơ hội gặp lại họ nữa.

Cảm giác vừa mâu thuẫn vừa đau khổ sau khi trả thù, Thôi Tuần chưa từng trải qua, làm sao nàng có thể mong hắn hiểu được?

Lý Doanh thì thầm, không nhận ra Thôi Tuần đã siết chặt chén trà trong tay. Hắn cúi đầu, nhấp một ngụm, khẽ nói: “Phải, ta không hiểu.”

Lý Doanh im lặng, Thôi Tuần cúi đầu, lắc nhẹ chén trà, nhìn dòng nước xanh biếc gợn sóng: “Trà nguội rồi có thể đun lại, nhưng người đã chết thì không thể sống lại.”

Lý Doanh hơi mím môi, nhìn chén trà màu ngọc bích trong tay Thôi Tuần, lòng chợt trống trải. Nàng cảm thấy lời hắn nói như đang nhắm vào nàng, lại như không phải. Trong tâm trí nàng, lời thú nhận của Vương Nhiên Tê nơi lao ngục và gương mặt của Trịnh Quân ba mươi năm trước dần chồng lên hình ảnh Vương Nhiên Tê của ba mươi năm sau. Tình yêu, hận thù, tham lam, sân hận, cứ như một giấc mộng dài.

Giờ đây, giấc mộng ấy đã đến hồi tỉnh giấc, nàng cũng nên tìm cho mình một con đường mới ở kiếp sau.

Lý Doanh ngẩng đầu hỏi Thôi Tuần: “Vương Nhiên Tê sẽ ra sao? Trượng phu của bà ta sẽ cứu bà ta chứ?”

“Ông ta không dám.” Thôi Tuần đáp: “Ông ta là kẻ thông minh, sẽ không vì Vương Nhiên Tê mà chôn vùi tiền đồ rực rỡ của riêng mình.”

Lý Doanh thở phào: “Vậy Vương Nhiên Tê sẽ bị trừng phạt chứ?”

“Ta sẽ tấu việc này lên Thái hậu và Thánh nhân. Thái hậu yêu thương công chúa như mạng, dưới cơn thịnh nộ của bà, nhất định sẽ xử tử Vương Nhiên Tê.”

Lý Doanh gật đầu: “Bà ta chết rồi, ta mới có thể đi đầu thai.”

Là một người chết oan, chỉ cần những kẻ hãm hại nàng chịu báo ứng, thì oán khí mới tiêu tan, nàng mới có thể chuyển kiếp, không còn phải cô độc lẻ loi phiêu bạt trên thế gian này nữa.

Nàng ngước nhìn Thôi Tuần, giọng khẽ khàng: “Ta phải đi rồi, Thôi Thiếu khanh, đa tạ ngài.”

Nàng dõi mắt nhìn hắn, ánh mắt trong suốt như lưu ly. Trong đôi đồng tử ấy, hắn thấy bóng mình phản chiếu mờ mịt, gương mặt trắng bệch, đôi mày tàn ác, nét mặt âm u, tựa như ác quỷ bò lên từ địa ngục.

Thôi Tuần cúi đầu, không còn nhìn nàng nữa, chỉ lặng lẽ nâng chén trà trong tay, nhấp một ngụm nhỏ, rồi khẽ nói: “Người còn ác hơn quỷ, mong rằng từ nay về sau, công chúa sẽ không còn gặp phải kẻ ác nào nữa.”

Lý Doanh nhẹ gật đầu: “Ừm, cả đời này ta chưa từng làm việc gì sai trái. Ta nghĩ kiếp sau mình sẽ không xui xẻo đến như vậy.”

Thôi Tuần cúi xuống, dùng chiếc kẹp bằng đồng thuần thục gắp từng mẩu than chưa cháy hết trong bếp trà. Hắn chậm rãi nói: “Kiếp sau, đừng gặp một người nhu nhược như Trịnh Quân, cũng đừng gặp một kẻ độc ác như Vương Nhiên Tê, lại càng không nên gặp kẻ ngu trung như Vương Đoàn Nhi.”

Hắn gắp khúc than cuối cùng, khẽ nói: “Và đừng bao giờ gặp một kẻ như ta nữa.”
 
Back
Top Bottom