Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 70: Trêu chọc



A Sử Na Ngột Đoá vừa rời đi, Thôi Tuần mới quay sang nhìn Lý Doanh. Ánh mắt hắn không còn vẻ lãnh đạm như băng tuyết ban nãy, mà nhu hòa hơn đôi chút. Hắn nói với nàng: “Chúng ta đi thôi.”

Lý Doanh gật đầu, nàng sánh vai cùng Thôi Tuần bước đi vài bước, chợt nghe hắn hỏi: “Vừa rồi… cô định giết nàng ta phải không?”

Lý Doanh đáp: “Ừm.”

Thôi Tuần liền bảo: “Thái hậu đã cho thắp đèn trường minh tại bốn vạn ngôi chùa khắp cả nước, mượn sức mạnh của Phật pháp mới giúp công chúa với thân phận quỷ hồn có thể đi lại giữa ban ngày. Nếu công chúa giết người, Phật pháp sẽ phản phệ, khiến hồn phách tan biến.”

Lý Doanh cắn môi, nhẹ giọng: “Ta… không nghĩ nhiều đến thế.”

Cơn gió nhẹ thổi qua, hai người bước vào một hành lang dài phủ đầy hoa tử đằng. Quanh hành lang, những cành liễu xanh mơn mởn rũ xuống như dòng thác, che mờ cảnh sắc bên trong. Trong hành lang, hoa tử đằng màu tím nhạt bám dọc giàn gỗ, những chuỗi hoa dài buông xuống tựa làn sương mỏng, mơ hồ ẩn hiện. Thôi Tuần lên tiếng: “Thật ra, cô và A Sử Na Ngột Đoá không có thâm thù đại hận gì.”

Vì thế, không cần phải hy sinh bản thân chỉ để giết nàng ta.

Lý Doanh cúi đầu, nhỏ giọng nói: “Nhưng, ta không muốn để nàng ta tiếp tục làm tổn thương ngài.”

Nàng không muốn A Sử Na Ngột Đoá tiếp tục tổn thương Thôi Tuần, đến mức chẳng kịp suy nghĩ rằng mình có bị hồn phi phách tán hay không.

Ánh mắt Thôi Tuần hơi nóng lên. Hắn lẩm bẩm: “Ta… liệu có xứng đáng để công chúa phải làm như vậy?”

“Ngài xứng đáng.” Lý Doanh đáp, đôi mắt sáng lên. Hình ảnh Thôi Tuần chịu đựng những tháng năm địa ngục ở Đột Quyết lại hiện về trong tâm trí nàng. Dù bị hành hạ đến không còn hình người, hắn vẫn không một lần cầu xin tha thứ, càng không hạ mình quy phục kẻ thù. Từng lời nàng nói ra đều chắc nịch: “Trong lòng ta, ngài là một người rất đáng khâm phục.”

Đôi mắt Thôi Tuần thoáng vẻ mông lung. Suốt những năm qua, hắn đã bị người ta gọi là kẻ hèn hạ, bị xem thường là kẻ ti tiện, bị chỉ trích là kẻ tàn nhẫn, nhưng chưa từng có ai nói rằng hắn là một người đáng khâm phục.

Ánh trăng len qua những tán hoa tử đằng, rải xuống ánh sáng tựa như cát bạc. Trong sắc đêm mờ ảo, nếu Lý Doanh hơi nghiêng đầu, có lẽ nàng sẽ thấy nơi hàng mi đen nhánh của Thôi Tuần lấp lánh giọt lệ. Nhưng nàng không quay đầu.

Thôi Tuần chớp mắt, dằn xuống những cảm xúc hỗn loạn. Hắn trầm giọng: “Sau này, đừng làm như vậy nữa.”

Hắn nói: “Ta có thể tự bảo vệ mình.” Một thoáng ngập ngừng, hắn lại buông thêm một câu: “Nếu vì ta mà cô phải gặp bất trắc, ta thà rằng…” Hắn cắn môi, giọng nhỏ dần: “Thà rằng chưa từng gặp cô.”

Lý Doanh ngẩn người. Nàng quay đầu nhìn hắn. Ánh trăng lúc sáng lúc mờ phủ lên khuôn mặt hắn như tấm lụa mỏng, đôi mắt đen thẫm của hắn sâu tựa đáy hồ, chẳng thể nhìn thấu. Những lời hắn nói dường như chất chứa sự quan tâm, dù biểu cảm lại kín đáo đến khó dò. Trong lòng hắn, rốt cuộc nghĩ thế nào đây?

Lý Doanh không đoán được.

Nàng chỉ gật đầu, đáp: “Ừm.”

Hành lang tử đằng dài nửa dặm, nói chuyện chưa bao lâu, hai người đã gần ra đến cuối. Mấy ngày trước, một cơn mưa xuân rơi xuống, khiến lối đi lát đá cuội dưới hành lang vẫn còn ẩm ướt. Lý Doanh lơ đãng trượt chân, cơ thể chao đảo, sắp ngã xuống đất.

Thôi Tuần nhanh tay kéo nàng lại. Trong nháy mắt, nàng nhào vào lòng hắn. Cánh tay hắn đặt trên eo nàng, khoảng cách giữa hai người gần đến mức nàng có thể nhìn thấy đôi mắt đen như mực của hắn, còn hắn thì cảm nhận được hương thơm dịu nhẹ từ gáy nàng.

Cái ôm lần trước, chẳng hề dính dáng đến tình ý. Còn lần này thì sao?

Lý Doanh ngước mắt nhìn Thôi Tuần. Nàng không hề rút lui, đôi mắt sáng ngời như dải ngân hà nhìn chằm chằm hắn, trong ánh mắt có hàng ngàn lời muốn nói nhưng lại nghẹn nơi cổ họng.

Đôi mắt vốn luôn bình lặng của Thôi Tuần hiếm khi thoáng nét bối rối. Hắn mím nhẹ môi, buông tay khỏi eo nàng, lùi lại hai bước: “Xin lỗi, vừa rồi đường đột, đã mạo phạm công chúa.”

Có lẽ vì tính cách hắn quá mức lãnh đạm và xa cách, ánh mắt thường ngày cũng lạnh lẽo như một dòng suối băng, không thể hiện chút vui buồn, hỉ nộ nào. Chẳng ai biết hắn thực sự nghĩ gì trong lòng. Lần này hắn lại lộ vẻ thất thố, khiến Lý Doanh bỗng nảy sinh một ý định trêu chọc.

Nàng bước lên hai bước, rút ngắn khoảng cách, ngẩng đầu, cười tươi như hoa nở: “Vậy trước giờ ngài đã từng mạo phạm người khác chưa?”

Nàng vốn đã xinh đẹp khuynh thành, nay lại thêm nét sinh động, tinh nghịch của thiếu nữ mười sáu tuổi nên vẻ đẹp ấy càng rạng rỡ bội phần. Thôi Tuần nhìn đến ngẩn ngơ, gương mặt trắng bệch không chút huyết sắc cũng bất giác ửng hồng. Ngay cả vành tai ngọc cũng điểm chút đỏ nhạt. Hắn lúng túng đáp: “Không… không có…”

Lý Doanh lại tiến thêm một bước, nét cười như ánh nắng đầu xuân: “Vậy ta nên giận, hay nên thấy vinh hạnh đây?”

Thôi Tuần ngại ngùng lùi về sau, lời nói cũng trở nên lắp bắp: “Tùy… tùy cô.”

Lý Doanh không tiến thêm nữa, nàng điềm đạm nói: “Đừng lùi nữa, lùi lại thì đi về lối cũ mất rồi.”

Lúc này Thôi Tuần mới nhận ra mình đã lùi cả một quãng dài, cách nàng đến hai trượng, nếu lùi thêm nữa thật sự sẽ quay lại hành lang tử đằng.

Mặt hắn càng đỏ hơn, vội vàng cúi đầu ho nhẹ, rồi bước tới bên nàng.

Lý Doanh che miệng khẽ cười: “Ta chỉ đùa thôi, ngài đừng giận.”

Thôi Tuần cúi đầu, giọng nhẹ như gió thoảng: “Ta đâu có giận cô đâu.”

Lần này, đến lượt Lý Doanh ngẩn người. Chưa kịp phản ứng, Thôi Tuần đã nói: “Đi thôi.”

Nói xong, hắn như chạy trốn mà bước nhanh về phía trước. Lý Doanh chớp mắt, rồi cũng vội theo sau. Nhưng Thôi Tuần đi nhanh hơn bình thường, nàng phải bước gấp mới đuổi kịp. Nhận ra điều đó, hắn liền chậm lại, chờ nàng đến gần mới sải bước đều như trước. Hương thơm dịu nhẹ từ nàng phảng phất bên cạnh, lòng hắn dần bình ổn. Thậm chí, làn sương mỏng che phủ đóa sen tịnh đế giữa hồ cũng tan biến từ lúc nào mà hắn chẳng hề nhận ra.



Về đến Thôi phủ, Thôi Tuần bắt đầu kiểm tra tờ giấy thông hành kia. Giấy thông hành được phát hành bởi Thượng thư tỉnh, nhưng tên người trên đó lại là giả. Nói cách khác, đây là một tờ giấy thông hành thật nhưng đã bị làm giả thông tin. Trong Thượng thư tỉnh, người có quyền hạn và lá gan làm được việc này chỉ có hai người: Tả bộc xạ Lư Dụ Dân hoặc Hữu bộc xạ Thôi Tụng Thanh.

Nếu là Lư Dụ Dân, Thôi Tuần có thể đoán được lý do ông ta giúp Kim Di. Nhưng nếu là Thôi Tụng Thanh… Thôi Tuần trầm ngâm hồi lâu, sau đó ra mật lệnh cho thám tử Sát Sự Thính toả đi điều tra rõ. Việc ký phát giấy thông hành vốn thuộc thẩm quyền của Tư môn lang trung và Viên ngoại lang. Bắt đầu từ hai người này, hẳn sẽ tìm ra ai đã làm giả tờ giấy.

Tuy nhiên, Lư và Thôi lần lượt là thủ lĩnh hai phe phái lớn, Thôi Tuần không thể trực tiếp bắt Tư môn lang trung và Viên ngoại lang đưa vào Sát Sự Thính thẩm vấn, chỉ có thể phái thám tử đi dò xét kín đáo, vì thế, tiến độ điều tra cũng có phần chững lại.

Khi kiểm tra thông hành, Thôi Tuần cũng không từ bỏ việc tìm kiếm tung tích Kim Di. Nhưng từ khi trốn thoát khỏi Phù Dung Viên, ông ta cứ như giọt nước rơi vào biển lớn, không để lại chút dấu vết. Trên án thư của Thôi Tuần bày la liệt báo cáo điều tra của các thám tử trong thành Trường An. Hắn chăm chú đọc từng bản, chân mày bỗng nhíu lại, bất tri bất giác, trời đã sang canh hai.

Tiếng gõ cửa nhẹ nhàng vang lên từ cánh cửa gỗ chạm khắc tinh xảo, Thôi Tuần lúc này mới rời mắt khỏi đống công văn chất chồng như quả núi. Hắn kéo chặt áo hồ ly trắng muốt đang khoác, rồi đứng dậy ra mở cửa.

Ngoài cửa quả nhiên là Lý Doanh.

Nàng vận trên mình một bộ váy xanh ngọc điểm hoa, tôn lên dung nhan như hoa tuyết của nàng. Trong ánh mắt Thôi Tuần thoáng hiện chút dịu dàng: “Sao cô lại tới đây?”

Lý Doanh liếc qua đống công văn cao ngất: “Ta đến giục ngài nghỉ ngơi.”

Thôi Tuần hơi sững sờ. Lý Doanh bấm đốt ngón tay, “Hiện tại đã là canh hai, đến khi tiếng trống báo canh năm vang lên, ngài lại phải vào triều, vậy khi nào ngài mới định nghỉ đây?”

Khóe môi Thôi Tuần cong lên, hắn đáp: “Mải truy bắt Kim Di, nên quên cả thời gian.”

Lý Doanh nhìn hắn, thân hình gầy guộc ẩn trong chiếc áo hồ cừu dày nặng, khẽ thở dài: “Bắt được Kim Di rất quan trọng, nhưng sức khỏe của ngài cũng không kém phần quan trọng.”

“Nhưng nếu bắt được Kim Di, ta sẽ sớm làm sáng tỏ chân tướng vụ án của cô.”

Nhớ đến tiếng ho khan vang lên khi đứng ngoài cửa, Lý Doanh buột miệng: “Nếu vì vụ án của ta mà ngài tổn hại sức khỏe, thì ta thà ngài đừng tiếp tục tra nữa.”

Thôi Tuần sững người, Lý Doanh cũng bất giác ngẩn ngơ. Ban đầu nàng đến tìm Thôi Tuần, là để nhờ hắn điều tra chân tướng, giúp nàng không phải làm cô hồn dã quỷ, có thể sớm ngày đầu thai chuyển thế. Nàng một lòng mong mỏi như vậy, nhưng giờ lại thốt ra lời này… Nếu cái giá phải trả là sức khỏe của hắn, thì nàng thà rằng hắn không điều tra nữa?

Ngay cả bản thân nàng cũng không hiểu vì sao mình lại nói vậy. Điều tra chân tướng chẳng phải là nguyện vọng lớn nhất của nàng suốt ba mươi năm qua sao? Từ lúc nào, nguyện vọng đó đã xếp sau điều khác mất rồi?

Trong khoảnh khắc thất thần, nàng im lặng không nói gì thêm. Ngược lại, Thôi Tuần là người đầu tiên hoàn hồn: “Đừng nói mấy lời giận dỗi.” Hắn ngừng một chút, rồi nói tiếp: “Vào trong đi.”



Trong phòng, lò hương bạch hạc tỏa làn khói mờ. Lý Doanh châm một mẩu hương an thần mới điều chế, làn khói xanh lượn lờ, thoang thoảng khắp gian. Nàng cất lời: “Đây là hương mới ta điều chế, có thể giúp ngài ngủ ngon hơn.”

Thôi Tuần gật đầu. Lý Doanh nhìn sắc mặt hắn, tái nhợt đến mức gần như trong suốt, bờ môi nàng mím lại, nói: “Ta chỉ… cho rằng ngài nên tự chăm sóc bản thân mình nhiều hơn.”

Thôi Tuần đáp: “Ta biết.”

Ánh mắt nàng dừng lại trên mu bàn tay hắn đặt trên án kỷ tử đàn. Làn da ấy cũng nhợt nhạt, các mạch máu xanh hiện rõ từng đường nét. Lý Doanh biết, nếu ánh mắt nàng lướt lên trên, nơi khuất sau lớp y phục ấy là những vết thương chồng chất. Nàng dừng một lát, rồi nói: “Hai năm ở Đột Quyết, cộng thêm một năm ở Đại Lý Tự, đã bào mòn thân thể ngài quá nhiều. Nếu muốn sống thêm vài năm nữa, ngài phải chú trọng điều dưỡng, không thể cứ bỏ ăn bỏ ngủ như thế.”

Thôi Tuần lặng lẽ nhìn nàng, nhẹ nhàng “ừ” một tiếng. Đôi mắt hắn đen thẳm, sâu không thấy đáy, như hồ nước u tịch. Khi ánh mắt ấy nhìn vào nàng, Lý Doanh có thể thấy hình bóng mình phản chiếu trong đó. Nàng bất giác cảm thấy khó xử, cúi đầu nói: “Ta… hình như ta đã nói hơi nhiều.”

Nàng ngập ngừng, lại hỏi: “Có phải ngài hối hận vì đã để ta chuyển về đây rồi không?”

Thôi Tuần nhanh chóng đáp lời: “Không hề hối hận.”

Một lát sau, hắn lại bổ sung: “Cô đâu có nói nhiều.”

Lý Doanh không kìm được, nở nụ cười: “Ngài không chê ta là tốt rồi.”

Thôi Tuần nhìn nụ cười tươi tắn của nàng, khẽ nói: “Sao ta lại chê cô chứ? Ta…”

Dường như hắn còn muốn nói điều gì đó, nhưng rồi lời tiếp theo lại ngập ngừng không thốt nên. Lý Doanh đợi một lúc, thấy hắn không mở miệng nữa, liền lên tiếng: “Nếu không chê, vậy ta đi đây, ngài nghỉ ngơi sớm đi nhé.”

Nàng vừa đứng dậy, Thôi Tuần đã gọi nàng lại: “Công chúa, xin chờ một chút.”

Lý Doanh quay lại, ngạc nhiên khi thấy hắn có vẻ hơi khó xử, sau một lúc lâu, hắn mới lấy hết can đảm nói: “Loại hương an thần này có mùi rất dễ chịu. Có thể làm thêm cho ta một ít không?”

Lý Doanh không ngờ hắn lại nói như vậy. Chẳng lẽ vừa rồi hắn định nói đến chuyện này? Dù sao đây cũng là lần đầu tiên hắn nhờ nàng làm điều gì đó cho mình, nàng mỉm cười, đáp: “Đương nhiên là được.”

Thôi Tuần nhìn nàng, trầm giọng nói: “Đa tạ.” Lý Doanh gật đầu: “Ngài ngủ ngon nhé.”

Nàng nói xong, liền bước ra khỏi phòng, nhưng không quay về phòng mình ngay mà đứng đó nhìn ánh sáng trong phòng hắn. Chỉ khi thấy ngọn đèn trong phòng vụt tắt, nàng mới quay về.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 71: Bách tính này, chẳng phải đã ít đi năm vạn người sao?



Từ sau đêm đó, mỗi tối Lý Doanh đều đốt một miếng hương an thần nhỏ cho Thôi Tuần. Có lẽ nhờ tác dụng của hương, hoặc có lẽ vì có nàng bên cạnh, những cơn ác mộng của hắn gần như không còn xuất hiện, cuối cùng hắn cũng có thể ngủ yên giấc.

Việc điều tra về tờ giấy thông hành giả mạo đã có chút manh mối. Ám thám bí mật hồi báo rằng, mặc dù cả Tư môn lang trung và Viên ngoại lang thoạt nhìn như thanh lưu, không phụ thuộc vào bất kỳ phe phái nào, nhưng trong nhà lại xuất hiện bức thư pháp của Thôi Tụng Thanh. Hiển nhiên, họ đã ngầm gia nhập Thôi đảng. Người đứng sau vụ làm giả giấy thông hành là ai, không cần nghĩ cũng có thể đoán ra.

Nhưng, tại sao Thôi Tụng Thanh lại muốn giúp Kim Di làm giả giấy tờ?

Thôi Tuần quyết định thử thăm dò một phen.

Tuy nhiên, còn chưa kịp đến Thôi phủ, thì Thôi Tụng Thanh đã chủ động tìm hắn trước.

Sau triều hội, bá quan dùng bữa ở hành lang dưới cung, còn các tể tướng dùng bữa tại Chính Sự Đường. Lư Dụ Dân được Thánh nhân triệu kiến riêng, Chính Sự Đường chỉ còn lại mỗi mình Thôi Tụng Thanh.

Thôi Tuần vừa gắp một miếng bánh mỳ thì đã có nội giám đến báo: “Thôi tướng công mời ngài qua đó.”

Hắn đứng dậy, ánh mắt đầy kinh ngạc của các quan viên xung quanh lập tức đổ dồn về phía hắn. Ai nấy đều biết rằng, dù Thôi Tuần là cháu trai của Thôi Tụng Thanh, nhưng từ trước đến nay Thôi Tụng Thanh luôn coi thường nhân phẩm của hắn, chưa từng đối đãi tử tế, sao hôm nay lại đột nhiên triệu hắn đến hỏi chuyện?

Thế nhưng, mọi người lại nghĩ, dù Thôi Tụng Thanh có coi thường Thôi Tuần thế nào đi nữa, thì Thôi Tuần vẫn là cháu của ông ta. Huống chi, Thôi Tuần thuộc phe của Thái hậu, lập trường giống hệt Thôi Tụng Thanh. Quan hệ giữa hai người dịu lại cũng là lẽ bình thường.

Chúng quan cũng không nghĩ nhiều nữa, tiếp tục dùng bữa ở hành lang. Phần ăn của bá quan gồm một trăm món, thêm ba con cừu, cùng các loại trái cây và mỹ tửu, không thể nói là không phong phú.

Có một lão thần không khỏi hồi tưởng ba mươi năm trước, khi phần ăn hành lang chỉ bằng một nửa bây giờ. Kể từ khi tân chính Thái Xương được thực thi, quốc khố dồi dào, tiền chất như núi, lương thóc đầy kho. Ba mươi năm trước là khởi đầu của cuộc cải cách trước nay chưa từng có tiền lệ, và rồi, Tiên đế đã đặt cược đúng chỗ.



Chính Sự Đường lát đá xanh biếc, bài trí giản dị, thoạt nhìn từ bên ngoài, khó có thể nhận ra đây là nơi quyết định đại sự triều đình qua các đời tể tướng. Thôi Tụng Thanh ngồi ngay ngắn sau bàn nhỏ, trên khay chỉ đặt một chiếc bánh hồ đơn sơ. So với những món ăn thịnh soạn ở ngoài hành lang, bữa ăn của ông giản tiện hơn rất nhiều. Nhìn thấy ánh mắt Thôi Tuần lướt qua khay thức ăn của mình, ông nói: “H.am m.uốn khẩu vị, chẳng đáng để bận tâm. Thay vì thế, dùng số bạc đó tạo thêm phúc lợi cho bách tính chẳng phải càng có lợi hơn sao?”

Thôi Tụng Thanh làm quan, quả thực luôn lấy quốc gia, dân chúng làm trọng. Thôi Tuần gật đầu, ngồi đối diện ông. Trước mặt hắn cũng chỉ có một chiếc bánh hồ. Thôi Tụng Thanh nhìn thoáng qua, nói: “Nếu không quen với thức ăn này, ngươi có thể ra ngoài hành lang lấy thêm món ăn khác.”

“Không cần.” Thôi Tuần đáp.

Bị giam cầm ở Đột Quyết bao năm, hắn đã quen không có lấy một chiếc bánh hồ để ăn, nhiều khi nhịn đói suốt bảy tám ngày là chuyện bình thường. Thôi Tụng Thanh nghĩ hắn không chịu nổi thức ăn đạm bạc, kỳ thực đã xem nhẹ hắn.

Tuy nhiên, Thôi Tuần cũng không muốn giải thích nhiều. Hắn cầm chiếc bánh hồ giòn tan, cắn một miếng.

Nếu là trước đây, ngồi đối diện bá phụ, hắn biết rõ những lời tiếp theo ắt không phải lời hay, và có lẽ ngay cả bánh hồ hắn cũng không nuốt nổi. Nhưng Lý Doanh đã dặn hắn phải biết chăm sóc bản thân, hắn không muốn khiến nàng thất vọng, nên vẫn cố nhai vài miếng.

Thôi Tụng Thanh nhìn hắn, từ tốn hỏi: “Nghe nói ngươi đến Phù Dung Viên bắt Kim Di, nhưng lại công cốc trở về?”

Quả nhiên bá phụ tìm hắn vì chuyện của Kim Di. Có lẽ ông đã biết hắn tra ra được liên quan giữa Kim Di và Tư môn lang trung cũng như Viên ngoại lang, nên mới nôn nóng đến mức hắn chưa dùng xong bữa ăn ở hành lang đã triệu hắn vào Chính Sự Đường.

Thôi Tuấn nuốt miếng bánh trong miệng xuống, rồi cầm lấy chiếc khăn gấm trắng trên án, chậm rãi lau tay, điềm tĩnh nói:

“Quả thực là công cốc, nhưng cũng không hoàn toàn vô ích.”

“Ồ?”

“Tìm được một tờ giấy thông hành giả, hẳn là thứ Kim Di chưa kịp mang đi. Lần theo đó điều tra, lại có thêm chút manh mối.”

Thần sắc Thôi Tụng Thanh không hề thay đổi. Ông cũng không hỏi Thôi Tuần đã phát hiện ra điều gì, chỉ lạnh nhạt nói: “Bất luận ngươi phát hiện ra điều gì, việc truy bắt Kim Di, hãy dừng lại tại đây.”

Yêu cầu của bá phụ không hề nằm ngoài dự liệu của Thôi Tuần. Hắn lắc đầu: “Chỉ e không thể.”

Thôi Tụng Thanh thoáng sững lại, dường như không ngờ Thôi Tuấn lại thẳng thừng cự tuyệt như vậy. Sắc mặt ông hơi mất tự nhiên, liền gằn giọng: “Nếu ngươi lo lắng rằng Đại Lý Tự bắt được Kim Di sẽ ép ông ta khai ra ngươi, thì không cần. Ta nhất định bảo vệ ngươi.”

Thôi Tuần đáp: “Không phải vì lý do đó.”

“Vậy vì gì?”

Thôi Tuần mím môi, ánh mắt lặng như nước, chậm rãi nói: “Có lẽ… chỉ là muốn cầu một sự thật.”

Vì Lý Doanh, cầu một sự thật.

Thôi Tụng Thanh không hề hay biết những gì Thôi Tuần đang nghĩ trong lòng, ông ta cười nhạt: “Ngươi, Thôi Tuần, còn chưa gây ra đủ oan án hay sao? Ngươi cũng xứng nhắc đến hai chữ sự thật?”

Thôi Tuần tựa hồ đã dự liệu trước lời chế nhạo của Thôi Tụng Thanh. Hắn chỉ cúi mắt, nhàn nhạt đáp: “Yêu cầu của bá phụ, e là Thôi Tuần không thể đáp ứng.”

Thôi Tụng Thanh cả giận, mày nhíu lại, lạnh lùng nói: “Thôi Tuần, ta nhắc nhở ngươi một câu, ngươi làm việc cho Thái hậu, biết nhiều không tốt.”

Nghe vậy, Thôi Tuần lại điềm nhiên hỏi: “Ý của bá phụ là, Thái hậu không muốn ta bắt Kim Di? Vậy dám hỏi bá phụ, vì sao Thái hậu lại không muốn ta bắt một kẻ phản quốc?”

Một câu hỏi này khiến Thôi Tụng Thanh nghẹn lời. Ông ta trợn mắt há miệng, nhất thời không thể đáp lại. Chỉ cần nói sai nửa câu, sẽ lập tức bị Thôi Tuần dẫn vào bẫy, vạn kiếp bất phục.

Thôi Tụng Thanh nhìn chăm chăm đứa cháu trai vẫn luôn để ông ta sỉ nhục mà không phản kháng. Phải đến lúc này, ông ta mới thực sự đối chiếu người này với vị Thiếu khanh Sát Sự Thính nổi danh tàn nhẫn, cay nghiệt khắp thiên hạ. Hắn chịu đựng nhục mạ, chẳng qua vì không muốn so đo. Hoặc giả, chỉ vì nể trọng vị bá phụ này mà hắn không muốn tính toán.

Thôi Tụng Thanh dù sao cũng từng lăn lộn nơi quan trường bao năm, rất nhanh lấy lại bình tĩnh, cười nhạt: “Được thôi, Thôi Tuần, nếu ngươi đã không chịu từ bỏ vụ án của Kim Di, vậy ta bây giờ có thể nói thẳng, tờ giấy thông hành kia là do ta sai người làm giả. Ngươi có bản lĩnh thì cứ bắt ta về Sát Sự Thính thẩm vấn!”

Thôi Tuần lắc đầu: “Ta sẽ không bắt bá phụ.”

Hắn ngừng một chút, lại tiếp lời: “Nhưng ta vẫn muốn hỏi, vì sao bá phụ phải che chở cho Kim Di? Chẳng lẽ trong tay ông ta, nắm giữ nhược điểm của bá phụ, hay là của người mà bá phụ muốn bảo vệ?”

Giọng nói của hắn tuy điềm đạm, nhưng lại mang khí thế như thẩm vấn. Thôi Tụng Thanh thoáng ngẩn người, Thôi Tuần tiếp tục nói: “Bá phụ luôn tận tụy vì nước, ta tin rằng bá phụ không có nhược điểm gì. Như vậy, chỉ có thể là Kim Di nắm giữ bí mật của người mà bá phụ muốn bảo vệ. Nhưng trên đời này, người đáng để bá phụ bảo vệ, ta chỉ nghĩ được vài cái tên.”

Sắc mặt Thôi Tụng Thanh dần trở nên trắng bệch. Thôi Tuần hỏi: “Là Thái hậu, hay là…”

Hắn vừa nói, vừa quan sát thần sắc của Thôi Tụng Thanh. Nhưng chưa kịp nói hết câu, một loạt tiếng bước chân vọng lại. Sau đó, từ bên ngoài vang lên giọng nói the thé của nội giám: “Tham kiến Lư tướng công.”

Thượng thư Tả bộc xạ Lư Dụ Dân đẩy cửa bước vào. Ông ta đã ngoài năm mươi, thân hình gầy gò, dáng vẻ còn già hơn tuổi thực. Vừa nhìn thấy Thôi Tuần, ông ta thoáng ngạc nhiên, rồi không hài lòng nói: “Xem ra, bữa cơm hôm nay cũng chẳng cần ăn nữa.”

Thôi Tụng Thanh vốn đã bị chất vấn đến á khẩu, nay gặp Lư Dụ Dân xông vào lại buông lời mỉa mai, lửa giận đầy bụng đang không biết trút vào đâu, liền lạnh giọng đáp: “Lư tướng công không cần buông lời châm chọc.”

Lư Dụ Dân liếc nhìn Thôi Tuần, rồi quay sang Thôi Tụng Thanh, giễu cợt: “Thôi tướng công mời tới đây một con chó săn bẩn thỉu tới, làm dơ bẩn cả Chính Sự Đường, thế mà dám chê ta nói lời châm chọc sao?”

Thôi Tụng Thanh tuy không ưa Thôi Tuần, nhưng lại càng ghét Lư Dụ Dân. Huống hồ, Thôi Tuần và ông ta đều thuộc phe Thái hậu. Vì công hay vì tư, ông ta cũng phải bênh vực Thôi Tuần vài câu: “Nếu làm việc cho hoàng gia là chó săn, vậy ngươi và ta đều là chó săn.”

Lư Dụ Dân cao giọng: “Ta, Lư Dụ Dân, chỉ làm việc vì bách tính!”

Thôi Tụng Thanh cười lạnh: “Rốt cuộc là lo cho quốc gia, hay làm kẻ gian trá giả vờ trung thành, sau này sử sách tự có công luận.”

Lời này chọc giận Lư Dụ Dân. Hai người vốn đã thường xuyên công kích nhau trên triều, nay tại Chính Sự Đường, càng không chịu nhường nhịn. Lư Dụ Dân cười gằn: “Ta là kẻ gian trá giả trung thành? Ta không vợ không con, gia tài chẳng qua vài quan tiền, cũng không đi khắp nơi cầu danh, tự xưng là Bạch y Khanh tướng. Lại càng không vừa tự cho mình thanh cao, vừa sai khiến cháu ruột làm tay sai, bịa đặt oan án, bài trừ dị kỷ! Những gì ta làm, trên không thẹn với thiên tử, dưới không hổ với bách tính.”

Lúc này, Thôi Tuần, người vẫn ngồi lặng yên nghe, bỗng bật cười: “Bách tính? Bách tính này, chẳng phải đã ít đi năm vạn người sao?”

Lư Dụ Dân lập tức khựng lại. Thôi Tuần đứng lên, châm chọc: “Ồ, không đúng, còn thiếu cả dân chúng của mấy châu.”

Sắc mặt Lư Dụ Dân trắng bệch, Thôi Tuần đưa mắt nhìn qua hắn, rồi nhìn đến Thôi Tụng Thanh. Biểu cảm ngẩn ngơ trên mặt cả hai không lọt khỏi ánh mắt của hắn. Cuối cùng, ánh nhìn của hắn dừng lại trên tấm bảng treo trên bức tường trắng đề bốn chữ lớn: “Kinh bang tế thế”, khóe miệng cong lên: “Chính Sự Đường này, rốt cuộc là bị chó săn như ta làm bẩn, hay vốn dĩ đã bẩn sẵn?”

Nói xong, hắn bật cười, không thèm để ý đến thần sắc của hai người nữa, xoay người bước ra, vừa cười vừa rời đi.



Thôi Tuần rời khỏi Chính Sự Đường, không muốn tiếp tục ở lại hành lang cùng những quan viên khinh miệt hắn dùng bữa. Hắn dường như không muốn nấn ná thêm một khắc, lập tức cưỡi ngựa rời khỏi cung Đại Minh, giục roi thúc ngựa phi nhanh về hướng phường Tuyên Dương.

Cuối cùng, khi đến trước căn nhà tịch mịch ấy, nhìn thấy cánh cửa gỗ sơn đỏ son, lòng Thôi Tuần vốn ngổn ngang giận dữ cũng dần bình ổn lại. Hắn xoay người xuống ngựa. Trước đây, nơi này với hắn chẳng qua chỉ là một chốn nghỉ chân, nhưng giờ đây, mọi thứ đã không còn như cũ.

Lý Doanh đang ngồi xổm dưới đất, chăm chú nhìn con yến ngậm bùn. Con yến này chính là chim non nàng từng nhờ Thôi Tuần cứu giúp, giờ đây mấy tháng đã trôi qua, chú chim nhỏ ngày nào đã trưởng thành thành một con yến xuân.

Lý Doanh say mê nhìn yến xuân dùng mỏ nhặt từng hạt bùn ẩm. Đợi khi nhặt đủ bùn, nó tung cánh bay lên, mang bùn về xây tổ mới. Sau đó, lại quay trở về, tiếp tục nhặt bùn. Động tác cứ thế lặp đi lặp lại. Lý Doanh xem đến nhập thần, đến mức không hề phát hiện Thôi Tuần đã sớm trở về.

Bước chân của Thôi Tuần bất giác chậm lại. Lý Doanh nhìn yến xuân, còn hắn lại chăm chú nhìn nàng. Ánh dương nhẹ nhàng rải lên người nàng, làm tôn thêm bóng dáng mảnh mai, yên bình. Thôi Tuần lặng lẽ dõi theo bóng nàng, lòng dần quên đi câu “tay sai chó săn,” cũng quên đi lời “làm bẩn Chính Sự Đường,” và thậm chí cả màn khẩu chiến giữa Lư Khuyết và Thôi Tụng Thanh.

Thế gian này tuy đầy rẫy hỗn loạn, nhưng chỉ cần có nàng bên cạnh, trọn đời này, đã là đủ.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 72: Yến xuân ngậm bùn xây tổ mới



Lý Doanh dường như cảm thấy điều gì đó, nàng quay đầu lại, quả nhiên thấy Thôi Tuần đang đứng dưới tán hải đường.

Hắn vận một thân quan phục đỏ thẫm, gió nhẹ thổi qua, hoa hải đường rơi rụng, cánh hoa tung bay khắp trời, đẹp tựa tuyết, người tựa tranh. Lý Doanh ngẩn người.

Cảnh sắc dù đẹp đến nao lòng, nhưng những cành hoa hải đường sum suê, bóng cây loang lổ, đã che lấp dung nhan hắn trong bóng tối. Những tia nắng vàng ấm áp chẳng thể chiếu rọi được lên người hắn, tựa như, hắn đã thiêu đốt tất cả để đổi lấy một mùa hoa rực rỡ này.

Lý Doanh có chút sững sờ. Nàng không đứng dậy nghênh đón hắn, mà vẫn ngồi xổm ở đó, hai cánh tay tựa lên đầu gối, ngước mắt nhìn Thôi Tuần đứng trong bóng tối. Thôi Tuần mím môi, từng bước từng bước đi ra khỏi vùng u ám, ánh nắng vàng chiếu rọi lên người hắn, làm dung nhan trắng nhợt tựa u linh của hắn càng thêm phần sáng tỏ.

Hắn đi đến bên nàng: “Đang nhìn gì vậy?”

Lý Doanh lúc này mới bừng tỉnh, nàng vội đáp: “Nhìn… yến xuân.”

Nàng lại hỏi: “Ngài có muốn cùng nhìn không?”

Thôi Tuần khẽ gật đầu, rồi cũng cúi người ngồi xuống, xếp bằng bên cạnh nàng, cùng nhìn đàn yến xuân.



Nếu lúc này có ai bước vào Thôi phủ, ắt hẳn sẽ kinh hãi tột độ. Vị Thiếu khanh của Sát Sự Thính, người mà thiên hạ đồn là âm trầm, độc ác, lại đang ngồi xếp bằng dưới đất, vẻ mặt bình thản ngắm đàn yến nhặt bùn.

Lý Doanh ngồi bên cạnh hắn, nàng đưa tay ra, cẩn thận chạm vào yến xuân, nhưng không ngoài dự liệu, đầu ngón tay nàng xuyên qua thân chim, nàng không thể chạm vào vật sống.

Lý Doanh thở dài, nàng hơi nghiêng đầu, nhìn Thôi Tuần. Đôi mắt hắn đen thẳm như mực, chăm chú nhìn đàn yến nhặt bùn, ánh mắt không gợn chút sóng. Lý Doanh nói: “Thôi Tuần, ngài không thích yến sao?”

Thôi Tuần nhíu mày. Hắn khó lòng trả lời câu hỏi của nàng. Hắn không thích hoa, đặc biệt chán ghét hoa sen. Còn về yến hay những loài chim khác, hắn không thể nói là không thích, nhưng cũng chẳng thể nói là thích. Suốt đời hắn, dường như chẳng mấy khi thích thứ gì. Lý Doanh thấy hắn mãi không đáp, liền nói: “Ta thích yến.”

Nàng nhẹ giọng: “Ta thích hoa cỏ, thích chim bay, thích tất cả những thứ tràn đầy sức sống.”

Tràn đầy sức sống ư? Thôi Tuần cúi mắt. Nàng thích những thứ tràn đầy sức sống, nhưng hắn lại chẳng hề liên quan đến bốn chữ ấy. Nếu không phải vì vụ án kéo hai người lại gần, e rằng nàng sẽ chẳng bao giờ liếc nhìn hắn dù chỉ một lần.

Trong lòng hắn giằng co hồi lâu, cuối cùng dè dặt hỏi: “Cô chỉ thích những thứ tràn đầy sức sống thôi sao?”

Lý Doanh ngẩn người, rồi rất nhanh đáp: “Không phải đâu, ta thích cây xanh hoa đỏ, thích oanh mới yến non, nhưng ta cũng thích đêm tĩnh nơi núi vắng, bóng trăng khuất sau rừng trúc.”

Thôi Tuần nghe vậy, lòng dần bình ổn lại. Hắn khẽ nói: “Vậy à…”

Lý Doanh gật đầu xác nhận, rồi đột nhiên lấy từ túi gấm ra một ít gạo vụn, đổ vào lòng bàn tay, nói: “Ta muốn cho chim yến ăn lắm, nhưng ta không thể chạm vào nó. Ngài có thể giúp ta không?”

Thôi Tuần đáp: “Tất nhiên là được.”

Hắn vươn hai tay ra, Lý Doanh cẩn thận đổ những hạt gạo vụn vào lòng bàn tay hắn. Nhưng vừa khi hắn định bước tới gần con chim yến, nó đã giật mình vỗ cánh bay đi.

Thôi Tuần cười khổ: “Nó sợ ta.”

Lý Doanh nghĩ một chút, rồi nói: “Không phải nó sợ ngài, mà là vì nó không biết ngài muốn tốt cho nó. Nếu nó hiểu được, nhất định sẽ không sợ đâu.”

Thôi Tuần nghe vậy, chỉ thở dài: “Thôi, không cần nó phải biết làm gì.”

“Như vậy sao được? Đã muốn làm việc tốt, thì không thể bỏ dở giữa chừng.” Nàng khuyên nhủ: “Ngài cứ ngồi ở đây, đừng động đậy, đợi nó quay lại. Ngài lặp đi lặp lại vài lần, nó sẽ hiểu rằng ngài không có ác ý, và rồi sẽ chấp nhận sự giúp đỡ của ngài theo một cách tự nhiên.”

Lời nàng nói, hắn cẩn thận nghiền ngẫm. Chim yến là thế, con người chẳng phải cũng vậy hay sao?

Hắn cũng từng khép chặt lòng mình, chỉ sau khi nàng nhiều lần bày tỏ thiện ý, hắn mới chấp nhận. Hắn còn có thể mở lòng, huống hồ là một con chim yến?

Thôi Tuần nghe lời nàng, ngồi yên tại chỗ. Khi chim yến quay lại mổ bùn, hắn lại chìa tay ra mời, lần đầu nó sợ hãi bay đi, nhưng sau thấy hắn không đuổi theo, nó rụt rè quay lại. Qua mấy lần như thế, cuối cùng nó mới thử mổ một ít gạo trong lòng bàn tay hắn.

Sau khi mổ xong một hạt, chim yến lại vỗ cánh bay đi, nhưng lần này, nó quay lại nhanh hơn trước. Khi chắc chắn rằng không có nguy hiểm, nó mạnh dạn nhảy lên lòng bàn tay hắn, cúi đầu mổ từng hạt gạo nhỏ.

Mổ hết những hạt gạo ở rìa, chim yến bỗng nhảy lên bàn tay hắn, cúi đầu mổ từng hạt một. Cảm giác tê tê nhồn nhột lan khắp lòng bàn tay, khiến Thôi Tuần bất giác chăm chú nhìn chú chim nhỏ nhảy nhót thanh thoát. Trong lòng hắn dâng lên một cảm giác kỳ lạ. Từ khi trở về Đại Chu, hắn chỉ là kẻ mà người ghét, quỷ hận. Hắn chưa từng nghĩ, có một ngày, lòng bàn tay thấm đẫm máu tươi của hắn lại có thể cảm nhận được hơi thở mạnh mẽ của sự sống.

Lý Doanh khẽ cười: “Thú vị lắm đúng không?”

Thôi Tuần lặng lẽ gật đầu: “Đúng là thú vị thật.”

Chim yến ăn xong, lại lăn tròn trong lòng bàn tay hắn, bộ lông mềm mại như tơ lụa để lại một xúc cảm dịu êm. Thôi Tuần nhìn chú chim yến trong tay, lại liếc bóng hình dịu dàng như nước ngồi bên cạnh. Trong khoảnh khắc mơ hồ, hắn bỗng nghĩ, có lẽ, hắn đã có chút lưu luyến với nhân gian này.

Lý Doanh đột nhiên nói: “Ngài có biết, chim yến còn có một cái tên khác không?”

“Tên gì?”

“Yến Quan Âm.” Nàng nhẹ giọng giải thích: “Thiên mệnh Huyền Điểu, giáng sinh ra nhà Thương. Huyền Điểu chính là chim yến, vì vậy người ta cũng gọi nó là yến Quan Âm.”

Nghe vậy, ánh mắt Thôi Tuần dừng lại trên con yến nhỏ đang nhảy múa trong lòng bàn tay, nhưng đôi mắt sâu thẳm dường như không chỉ đang nhìn chim yến. Hắn bất chợt mỉm cười, đôi mắt tĩnh lặng gợn lên muôn vàn rung động. Hắn thốt lên: “Hóa ra Quan Âm, vẫn luôn ở bên ta.”



Chim yến ngậm bùn xây tổ, oanh vàng tranh cành ấm, cảnh xuân rạng rỡ, một ngày bình yên trôi qua tựa như gió mát giữa lòng hoa.

Đến khi màn đêm buông xuống, một vị vũ hầu đến báo, nói rằng phát hiện tung tích của Kim Di ở vùng núi Ly Sơn bên ngoài thành.

Toàn bộ vũ hầu của Sát Sự Thính đã xuất phát để lục soát khắp núi. Thôi Tuần vốn định cưỡi ngựa lên đường đến Ly Sơn, nhưng Lý Doanh gọi hắn lại, khẽ nói: “Không phải nói Kim Di biết điểu ngữ sao? Vũ hầu đã phát hiện tung tích của ông ta, có lẽ con cú đêm của ông ta cũng đã báo tin rồi. Ta thấy, giờ đây chưa chắc ông ta vẫn còn ở Ly Sơn.”

Thôi Tuần nghe vậy, cũng cảm thấy có lý. Lý Doanh lại nói: “Dưới chân núi Ly Sơn có cung Thang Tuyền. Cung Thang Tuyền là biệt cung của hoàng gia, phải được trình báo lên cung đình mới có thể lục soát. Theo ta thấy, Kim Di chắc lại giở trò cũ, trốn vào đó rồi.”

Thôi Tuần trầm ngâm nói: “Chờ trình báo cung đình thì đã chậm. Ta sẽ tự mình đến cung Thang Tuyền, dò xét một phen.”

“Nhưng Kim Di là Đô úy của Bách Kỵ Tư, ngài…” Lý Doanh khựng lại. Thôi Tuần từ sau khi chịu đại hình, đã không còn là thiếu niên tướng quân oai phong cưỡi bạch mã, yên bạc lấp lánh như ngày trước. Hiện nay, hắn bệnh tật triền miên, tay chân chẳng còn sức lực. Nếu gặp phải Kim Di, e rằng sẽ xảy ra bất trắc.

Thôi Tuần dường như đoán được suy nghĩ trong lòng nàng, liền gỡ cây nỏ gỗ treo trên vách xuống. Đó là món vũ khí Lý Doanh dùng cây cung cũ của hắn cải tạo thành. Hắn nói: “Ta mang theo cái này là đủ.”

“Đợi đã.” Lý Doanh vẫn cảm thấy lo lắng: “Ta cũng đi.”



Ly Sơn nằm ở phía nam thành Trường An, cảnh sắc đẹp đẽ như gấm, vì vậy còn được gọi là Tú Lĩnh. Cung Thang Tuyền được xây dựng dựa vào thế núi Ly phong, quy mô rộng lớn, khí thế uy nghi.

Nhờ có ngư đại tử kim được Thái hậu ngự ban nên Thôi Tuần dễ dàng tiến vào cung Thang Tuyền. Bên trong cung điện, lầu các đình đài, hành lang cầu nước, đâu đâu cũng hoa lệ rực rỡ. Lý Doanh đưa mắt nhìn quanh, nàng đã từng đến cung Thang Tuyền vài lần. So với trước đây, nơi này dường như đã được mở rộng và tân trang, đến mức nàng gần như không nhận ra được.

Thôi Tuần nói: “Cung Thang Tuyền được trùng tu vào năm Thái Xương thứ ba mươi. Khi ấy, Tân Chính Thái Xương đã triển khai được mười năm, quốc khố dồi dào, nên ngay cả hành cung của hoàng gia cũng có tiền để sửa chữa.”

Năm Thái Xương thứ ba mươi cũng chính là năm phụ thân nàng qua đời. Trong lòng Lý Doanh thoáng chút bồi hồi. Nàng lẩm bẩm: “Ngài từng nói, a gia ta xứng đáng là một vị quân vương, quả thực đúng là như vậy.”

Có lẽ người không phải một quân vương nhân từ, nhưng lại là một quân vương xứng đáng.

Lý Doanh bước cạnh bên Thôi Tuần, cung nữ và nội thị trong cung Thang Tuyền đều nghe danh tiếng của hắn. Bọn họ vốn dĩ trong cung này sống an nhàn, nhưng nay đột nhiên Thôi Tuần – kẻ mà họ ví như La Sát – lại xuất hiện, chẳng rõ đến đây để làm gì. Người người đều sợ đến mức hai chân run rẩy, vội vàng trốn biệt, khiến suốt dọc đường Thôi Tuần cũng không gặp phải ai.

Thôi Tuần chẳng mấy bận tâm, còn Lý Doanh, khi đi ngang qua một lương đình lục giác, bất chợt dừng bước.

Lương đình này dù được bảo dưỡng kỹ lưỡng nhưng vẫn có phần cũ kỹ, không hài hòa với vẻ tráng lệ của cung Thang Tuyền. Có vẻ như khi trùng tu, lương đình lục giác này cũng không được sửa chữa. Thôi Tuần theo ánh mắt của Lý Doanh nhìn sang, thấy trên lương đình treo tấm biển đề “Vong Ưu Đình,” nét chữ được đề bởi chính tay Thái Xương Đế.

Lý Doanh lẩm bẩm đọc: “Vong Ưu Đình…”

Thôi Tuần hỏi: “Sao vậy?”

Lý Doanh cười buồn: “Nói ra, cũng đã là chuyện của bốn mươi năm trước rồi.”

Bốn mươi năm trước, là năm Thái Xương thứ mười. Năm đó, Thái Xương Đế cùng Tiết Thái hậu đấu đá ngày càng kịch liệt. Thái Xương Đế ngồi trên ngôi cửu ngũ, Tiết Thái hậu giữ danh phận đích mẫu. Triều đình hay hậu cung đều là những trận chiến đầy nguy hiểm. Trong cuộc tranh giành quyền lực tàn khốc ấy, để tạm thời xoa dịu tình thế, Thái Xương Đế dẫn các phi tần và hoàng tử, công chúa đến cung Thang Tuyền để giải sầu.

Ngày hôm đó, Thái Xương Đế đứng trong lục giác đình, phóng tầm mắt ngắm nhìn non nước hữu tình, nhưng trên gương mặt vẫn mang nét u uất, phiền muộn. Lý Doanh, lúc ấy mới sáu tuổi, lặng lẽ bước đến bên cạnh ông, giọng trẻ con lanh lảnh cất lên: “A gia.”

Thái Xương Đế quay đầu nhìn cô bé, nở nụ cười dịu dàng: “Là Minh Nguyệt Châu sao?”

Lý Doanh gật đầu, hỏi: “A gia, mọi người đều ra hồ chèo thuyền rồi, sao người không đi?”

Thái Xương Đế đáp lại bằng một nụ cười: “Thế sao Minh Nguyệt Châu không đi?”

“Con ở lại với a gia.” Lý Doanh nói: “A gia có tâm sự, con đi chơi hồ cũng không vui. Thay vì vừa chơi vừa nghĩ đến a gia, chi bằng ở đây cùng người.”

Khi ấy đã là ngày đông giá lạnh, Lý Doanh khoác áo choàng lông trắng, trông càng giống như một búp bê ngọc xinh xắn. Cô bé chỉ mới sáu tuổi, lẽ ra đang tuổi ham chơi, vậy mà vì lo lắng cho cha mình mà không ra hồ. Thái Xương Đế thấy lòng mình ấm áp, cúi xuống ôm cô bé vào lòng như một người cha bình thường, dịu dàng hỏi: “Nếu a gia cứ không vui mãi, con cũng không chơi đùa nữa sao?”

“Không chơi nữa.” Lý Doanh lắc đầu: “Nếu a gia cứ buồn bực như thế, Minh Nguyệt Châu sẽ mãi mãi ở bên cạnh a gia.”

“Nhưng sau này Minh Nguyệt Châu còn phải xuất giá. Lấy chồng rồi, sẽ không thể ở bên cạnh a gia nữa.”

“Vậy thì con không lấy chồng.” Lý Doanh đáp ngay: “Minh Nguyệt Châu sẽ luôn ở bên a gia, với cả a nương nữa.”

Lời trẻ nhỏ ngây thơ nhưng lại chạm đến lòng người. Thái Xương Đế bật cười ha hả, tâm trạng nặng nề cũng dần tan biến. Ông nói: “Minh Nguyệt Châu, a gia đang làm một việc rất nguy hiểm. Nếu thất bại, sẽ mất mạng. Con có sợ không?”

Nghe đến việc rất nguy hiểm và chuyện mất mạng, khuôn mặt nhỏ bé tựa như viên bánh nếp của Lý Doanh thoáng hiện nét hoảng sợ. Nhưng khi Thái Xương Đế hỏi cô bé có sợ không, bé lại nuốt nước bọt, cố trấn tĩnh trả lời: “Không sợ.”

“Tại sao?”

“Vì Minh Nguyệt Châu tin rằng a gia nhất định sẽ thành công.” Lý Doanh đáp: “A gia chính là vị anh hùng lợi hại nhất trên đời này.”

Thái Xương Đế nghe xong, lại bật cười ha hả. Ông ôm Lý Doanh, nhìn ra ngoài đình nơi tuyết phủ trắng xóa, những dãy núi trập trùng. Có ái nữ bên cạnh, lòng ông cũng nhẹ nhàng hơn nhiều. Thái Xương Đế lại nói: “Minh Nguyệt Châu, đình lục giác này vẫn chưa có tên, con đặt một cái xem nhé.”

Lý Doanh suy nghĩ một lát rồi đáp: “Vậy gọi là Vong Ưu Đình đi. Mong rằng từ nay về sau a gia luôn quên hết được phiền muộn.”

Sau đó, Thái Xương Đế đã tự tay đề ba chữ “Vong Ưu Đình” treo trên cao. Hai mươi năm sau, dù cung Thang Tuyền từng trải qua một cuộc đại trùng tu, nhưng từng viên gạch, viên ngói của Vong Ưu Đình vẫn được giữ nguyên vẹn như ban đầu.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 73: Ta ghét tất cả những thứ làm tổn thương ngài



Lý Doanh nhớ lại tất cả những gì xảy ra ở Vong Ưu Đình. Nàng bước vào trong, tay lướt qua cây cột đình, ánh mắt ẩn chứa nỗi buồn man mác. Năm cuối cùng trong cuộc đời của a gia, hẳn là người đã phải chống chọi trên giường bệnh. Trong cơn đau đớn ấy, khi Giám Tác Giám tu sửa cung Thang Tuyền, người vẫn không quên dặn dò họ không được động đến Vong Ưu Đình. Một chuyện nhỏ nhặt như vậy, người vẫn luôn giữ trong lòng.

A gia là một vị hoàng đế mẫu mực, lại còn là một người cha tốt đến nhường nào. Vậy mà vì cớ gì, khi chưa tròn năm mươi, người đã băng hà? Người còn nhiều hoài bão chưa kịp hoàn thành. Nếu có thể cho người thêm chút thời gian, người nhất định sẽ được chứng kiến Đại Chu dưới sự thúc đẩy của tân chính, khiến bách tính được an cư lạc nghiệp, quốc thái dân an. Thế nhưng, khi người ra đi, chỉ để lại a nương và một đệ đệ mới ba tuổi. Liệu người có thật sự yên lòng?

Lý Doanh ngẩn ngơ, đúng như lời Thôi Tuần từng nói: “Một mạng đổi ngàn mạng, giết người tuy là tội nghiệt, nhưng giết một người mà cứu sống được muôn dân, lại chính là công đức.” Dù a gia nàng giết hại không ít người, nhưng nhờ đó mà trăm ngàn bách tính nghèo khổ có cơ hội hồi sinh. Điều này, chẳng lẽ không phải là công đức ư? Vì thế, hẳn a gia đã siêu thoát thành tán tiên rồi cũng nên.

Nàng ngồi trong Vong Ưu Đình, tâm tư ngổn ngang trăm mối. Thôi Tuần cũng bước vào theo. Thấy thần sắc nàng trầm mặc, hắn cất lời: “Công chúa đang nghĩ đến Tiên đế sao?”

Lý Doanh gật đầu. Thôi Tuần lặng thinh hồi lâu, hai người sóng vai nhìn ánh trăng phủ trên dãy núi mờ sương. Bỗng hắn nhẹ giọng nói: “Có lúc, ta thật sự rất ngưỡng mộ công chúa.”

Dù âm điệu của hắn trầm thấp, nhưng trong Vong Ưu Đình tĩnh mịch, Lý Doanh vẫn nghe rõ. Nàng nghiêng đầu nhìn hắn. Ánh trăng mờ tựa dòng nước chảy, chiếu lên đôi mắt đen thăm thẳm của hắn, không cách nào nhìn thấu cảm xúc ẩn bên trong. Có lẽ, hắn đã tức cảnh sinh tình.

Lý Doanh được cha mẹ yêu thương hết mực, nhưng hắn thì sao? Mẫu thân mất sớm, phụ thân xem hắn như kẻ thù. Hắn hẳn chưa từng được hưởng tình yêu thương của cha mẹ. Trái tim Lý Doanh đột nhiên nhói lên. Nàng mím môi, khẽ nói: “Trước kia, có Thiên Uy quân ở bên ngài. Bây giờ, có ta bầu bạn cùng ngài.”

Thôi Tuần lặng lẽ nhìn về dãy núi Ly Sơn u tĩnh, hồi lâu sau, hắn mới khẽ đáp: “Ừ.”

Thực ra, hắn biết rõ, Thiên Uy quân đã bị diệt toàn quân. Còn Lý Doanh, nàng là một linh hồn, không thuộc về nhân gian. Khi tìm ra kẻ đã hại nàng, nàng sẽ trở lại địa phủ, tiếp tục luân hồi. Nàng cũng không thể ở bên hắn mãi mãi.

Trong thế gian hiểm ác này, chung quy, hắn vẫn chỉ có thể bước đi một mình.

Hắn không nói gì thêm, nhưng Lý Doanh ở bên hắn bấy lâu, làm sao không hiểu được tâm tư hắn. Hắn mong nàng có thể ở lại bên mình, nhưng cũng hiểu rằng nàng không thể. Nhìn gương mặt tái nhợt của hắn, trong lòng nàng bỗng trào dâng một thôi thúc mãnh liệt.

Nàng… không muốn chuyển kiếp, nàng muốn ở lại bên hắn mãi mãi.

Ý nghĩ này vừa xuất hiện, ngay chính nàng cũng sững sờ. Nàng đang nghĩ gì vậy? Không muốn luân hồi nữa sao? Từ lâu, ước nguyện lớn nhất của nàng là xuống địa phủ, vượt sông Nại Hà, chuyển kiếp thành người. Thế mà giờ đây, nàng lại không muốn nữa?

Ý nghĩ ấy làm nàng hoảng sợ, ánh mắt ngơ ngẩn nhìn dãy núi trùng điệp trước mặt. Một lúc sau, Thôi Tuần bỗng nói: “Đi tìm Kim Di nào.”

Lý Doanh mới bừng tỉnh, gật nhẹ đầu, chỉ là nét mặt vẫn còn chút bỡ ngỡ.



Trong một vòng tuần tra quanh cung Thang Tuyền, Lý Doanh không phát hiện ra tung tích của Kim Di. Nàng bắt đầu nghi ngờ phán đoán của chính mình. Lẽ nào Kim Di vẫn còn ở Ly Sơn, chứ không trốn đến cung Thang Tuyền?

Thôi Tuần dường như nhận ra sự phân vân của nàng, hắn nói: “Vậy đổi sang cách khác xem.”

Lý Doanh hỏi: “Cách nào?”

“Không tìm Kim Di nữa.” Thôi Tuần đáp: “Chuyển sang tìm cú đêm.”

Lý Doanh ngây người. Thôi Tuần không đợi nàng hỏi thêm, đã dẫn nàng đi thẳng về phía rừng trúc trong cung Thang Tuyền.

Kim Di từng nuôi một con cú đêm vô cùng hung tợn, thích săn mồi, đặc biệt đam mê vồ chuột. Mỗi khi bắt được con mồi, nó luôn kích động đến mức phát ra tiếng kêu ghê rợn. Ở cung Thang Tuyền không có chuột đồng, nhưng trong rừng trúc, lại có nhiều chuột tre. Nếu cú đêm thực sự đang ở đây, thì dấu vết của nó hẳn sẽ lưu lại nơi này.

Lý Doanh ngờ vực hỏi: “Sao ngài lại hiểu rõ tập tính của cú đêm vậy?”

Thôi Tuần lặng đi giây lát, rồi nói: “Khi ta còn ở Đột Quyết, mỗi lần trốn chạy, đều bị con cú đêm này phát hiện. Vì vậy, không thể không tìm hiểu kỹ tập tính của nó.”

Lời hắn thốt ra nhẹ như gió thoảng, nhưng lại khiến tim nàng thắt lại. Hóa ra, hắn từng là con mồi dưới vuốt sắc của cú đêm.

Lý Doanh nhớ rõ lần cuối hắn bị bắt, cảnh tượng thảm thương đến mức khiến người ta khó lòng quên được: tay chân hắn đều bị khóa bởi dây xích gắn đinh, những chiếc đinh găm sâu vào xương cổ tay và cổ chân, mỗi cử động nhỏ nhất cũng khiến hắn đau đớn toát mồ hôi lạnh, nói chi đến chuyện đi lại.

Nàng mím môi, dè dặt hỏi: “Ngài… đã trốn mấy lần?”

“Năm lần.” Hắn đáp, giọng nói không gợn sóng, như kể chuyện của người khác.

Dưới ánh trăng, bóng hình gầy gò trong chiếc áo choàng trắng như tuyết của hắn mảnh khảnh đến mức gần như tiều tụy. Lý Doanh cụp mắt, khẽ nói: “Nếu là ta, có lẽ đã không thể gắng gượng được.”

Một người có thể kiên trì đến mức nào để theo đuổi lý tưởng của mình? Trước đây nàng không hiểu, nhưng giờ, nàng đã hiểu.

Phật từng hỏi một vị sa môn: “Sinh mệnh con người kéo dài trong bao lâu?”

Sa môn đáp: “Trong thời gian một bữa cơm.”

Phật lại hỏi: “Sinh mệnh con người kéo dài trong bao lâu?”

Sa môn đáp: “Trong một hơi thở.”

Có lẽ, Thôi Tuần đã dựa vào hơi thở mong manh ấy mà chịu đựng suốt sáu năm đày ải. Nếu hơi thở tắt, thì mạng sống cũng chấm dứt.

Ý nghĩ đó khiến lòng nàng dâng lên nỗi bàng hoàng mơ hồ. Nàng nghiêng đầu, ngắm nhìn gương mặt cô độc của hắn dưới ánh trăng, bỗng tự hỏi: “Hắn sẽ chết sao? Nếu hắn chết, hồn hắn sẽ đi đâu? Có tái sinh không, hay xuống điện Diêm La? Khi ấy, liệu nàng có thể gặp lại hắn lần nữa?”

Những suy nghĩ miên man khiến bước chân nàng đột nhiên chững lại, không muốn tiếp tục tìm Kim Di nữa.

Thôi Tuần thấy nàng ngừng bước, cũng dừng lại, hắn hỏi: “Sao thế?”

Ngón tay Lý Doanh vô thức vò nhẹ mép váy hoa, cố gắng trấn tĩnh tâm trạng rối bời. Nàng ngẩng đầu, cất giọng kiên định: “Không sao. Chúng ta vào rừng trúc đi.”

Hắn không hỏi thêm, chỉ lặng lẽ đi cùng nàng về phía rừng trúc của cung Thang Tuyền.



Bóng trúc đung đưa, ánh trăng soi tỏ con đường mòn phủ đầy lá rụng. Lý Doanh và Thôi Tuần chầm chậm bước qua lớp lá khô, tiếng bước chân sàn sạt vang lên trong rừng trúc tĩnh mịch. Nàng ngẩng đầu, đôi mắt chăm chú dõi khắp bốn phía nhưng không tìm thấy bóng dáng cú đêm.

Nàng không hề nản lòng, ánh mắt lập tức dời xuống đất. Quả nhiên, không lâu sau, nàng phát hiện một cái hang nhỏ của bầy chuột tre. Vội vàng, nàng kéo nhẹ tay áo Thôi Tuần: “Thôi Tuần, dùng nỏ gỗ của ngài đập vào hang, để lũ chuột tre chạy ra.”

Thôi Tuần liếc nhìn nỏ gỗ trên tay, có vẻ như rất trân quý món đồ này: “Nỏ gỗ này không phải để dùng như thế…”

Lý Doanh chẳng màng đến điều đó, tiếp tục kéo tay áo hắn, ánh mắt kiên quyết: “Không sao đâu. Nếu làm hỏng, ta sẽ sửa giúp ngài. Ta từng học nghề từ đại công tượng, nên việc này không làm khó được ta.”

Lời nàng nói đầy tự nhiên, lại chứa đựng sự tự tin, khiến Thôi Tuần cuối cùng cũng miễn cưỡng tiến đến bên hang chuột, cầm nỏ gõ nhẹ vào. Nhưng hắn gõ quá nhẹ, tựa hồ như sợ làm đau cái hang, chẳng có động tĩnh gì. Lý Doanh đứng bên quan sát, nàng nhíu mày, rồi kéo tay áo hắn thêm một lần nữa: “Mạnh tay chút đi chứ!”

Giọng nàng mềm mại, lại như nũng nịu trách yêu, khiến tim Thôi Tuần bỗng chốc xao động. Hắn quay đầu, ánh mắt vô thức hướng về phía nàng. Nàng không nhận ra, vẫn chăm chú nhìn hang chuột, đôi mắt trong trẻo lấp lánh tựa ánh sao trên bầu trời đêm giữa rừng trúc. Thôi Tuần nhìn nàng đến ngơ ngẩn.

Khi nàng hơi nghiêng đầu định nói điều gì đó, hắn vội cúi xuống, che giấu ánh mắt thất thần của mình, sau đó nhẹ ho vài tiếng, dường như muốn làm dịu đi cảm giác bối rối. Siết chặt nỏ trúc trong tay, hắn dùng lực mạnh hơn, gõ một cái vang dội vào hang chuột.

Cú đập khiến cả hang rung lên, tức thì, từ trong đó b*n r* bảy tám con chuột tre. Lý Doanh vui vẻ thì thầm: “Mau, mau trốn đi!”

Hai người nép mình sau một thân trúc to bằng bát tay. Để không kinh động cú đêm, cả hai im lặng như tờ, không dám phát ra dù chỉ một tiếng động nhỏ. Nhưng thân trúc tuy lớn, cũng khó che kín hai người, nên họ phải đứng sát nhau. Lý Doanh hầu như dựa hẳn vào lòng Thôi Tuần, song nàng lại không hề nhận ra điều đó, bởi toàn bộ tâm trí nàng đều đặt vào việc chờ cú đêm xuất hiện.

Trong mắt nàng, đám cú đêm này chính là thủ phạm đã khiến Thôi Tuần chịu bao đau khổ. Nàng nhất định sẽ không để nó trốn thoát.

Ngược lại, Thôi Tuần nhận thức rõ tình cảnh hiện tại. Hơi thở nàng thoảng qua da cổ hắn, những lọn tóc mềm mại lướt qua gáy theo làn gió, mang theo hương thơm thanh khiết khiến lòng dạ hắn rối tung. Thân hình nàng mềm mại tựa bông, tựa như nhấn chìm lý trí của hắn trong sự ngọt ngào khó tả.

Hai mươi ba năm qua, từng có không ít nữ tử ái mộ hắn, nhưng chưa từng có ai gần gũi hắn đến mức này. Khoảnh khắc ấy, Thôi Tuần cảm thấy hoàn toàn luống cuống, đến mức không biết phải đặt tay vào đâu, chỉ sợ bất cẩn khiến nàng thấy bất tiện.

Hắn cảm thấy toàn thân cứng đờ, mồ hôi mỏng đã lấm tấm trên trán, thậm chí có thể nghe rõ tiếng tim mình đập dồn dập như trống trận. Tiến lên cũng không được, lùi lại cũng chẳng xong, hắn chợt nghĩ, cảnh ngộ này so với những hình phạt từng chịu trong quá khứ dường như cũng chẳng dễ chịu hơn là bao.

Lần đầu tiên hắn cảm nhận thời gian trôi qua chậm chạp đến thế. Khi tâm trạng còn đang xao động, bỗng nhiên một tiếng vỗ cánh phành phạch vang lên, tiếp đó là bóng dáng một con cú đêm, mắt to như chuông đồng, từ trên cao lao xuống. Chỉ trong chớp mắt, nó đã dùng móng vuốt sắc nhọn bắt gọn một con chuột tre đang chạy.

Lý Doanh vội hô lên: “Thôi Tuần, mau lên!”

Hắn giật mình bừng tỉnh, cầm chắc nỏ gỗ, nhắm thẳng vào con cú đêm, kéo cò. Hành động ấy tựa như hàng vạn lần hắn từng kéo cung trong quân Thiên Uy. Mũi tên xé gió, cắm thẳng vào con cú đêm đang lao vút trên không.

Cú đêm thét lên một tiếng thảm thiết, rồi rơi xuống đất, nằm im bất động. Con chuột tre trong móng vuốt nó hoảng hốt, vội vàng chạy thoát.

Lý Doanh mừng rỡ, nhanh chóng bước ra khỏi chỗ nấp sau thân trúc, chạy đến bên con cú đêm. Thôi Tuần vẫn đứng nguyên tại chỗ, như thể trong lòng hắn còn lưu lại hơi ấm từ nàng. Hắn ngây người, mãi đến khi Lý Doanh quay đầu lại nhìn hắn với vẻ thắc mắc, vẫy tay gọi: “Thôi Tuần, mau tới đây!”

Hắn như bừng tỉnh khỏi giấc mộng, bước nhanh đến bên nàng. Lý Doanh cúi người quan sát con cú đêm đã tắt thở: “Thôi Tuần, có phải đây là con cú đêm mà Kim Di nuôi dưỡng không?”

Thôi Tuần nhìn kỹ. Con cú đêm thân tựa chim ưng, mặt như mèo, mỏ cong sắc bén như lưỡi liềm, móng vuốt tựa móc sắt, lớp lông không phải màu nâu đậm thường thấy mà là sắc trắng pha màu nâu nhạt. Đúng là con cú đêm đã mang đến cho hắn biết bao cơn ác mộng.

Hắn gật đầu. Lý Doanh mừng rỡ: “Tốt quá, cuối cùng cũng báo được thù cho ngài rồi.”

Nàng vui mừng như vậy, không phải vì bản thân, mà là vì hắn sao?

Thôi Tuần không khỏi cất lời: “Cô ghét nó đến vậy sao?”

Lý Doanh không chút đắn đo, đáp ngay: “Ta ghét tất cả những ai hay con vật nào làm tổn thương ngài.”

Nàng nói dứt khoát, khiến lòng hắn như có suối nước ấm chảy qua. Hắn cúi đầu, giấu đi sự xúc động trong đáy mắt, rồi khẽ đáp: “Ừ.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 74: hẳng lẽ một người còn sống lại không bằng một người đã chết



Cú đêm xuất hiện tại cung Thang Tuyền, chứng tỏ suy đoán của Lý Doanh không hề sai, Kim Di đích thực đang ẩn náu ở đây. Thôi Tuần và Lý Doanh tiếp tục tìm kiếm thêm một hồi, nhưng cuối cùng chỉ phát hiện một loạt dấu chân hỗn loạn trong một hang núi và một xác chuột tre. Có lẽ Kim Di đã nhận thấy điều bất thường và nhanh chóng bỏ trốn.

Nhưng không sao. Cú đêm đã chết, đồng nghĩa với việc Kim Di đã mất đi cặp mắt tinh tường. Dù ông ta có hiểu được tiếng chim, cũng rất khó để huấn luyện một con cú đêm thông minh như vậy thêm lần nữa. Hắn tin chắc rằng ông ta cũng không thể lẩn trốn được lâu.



Sau đó, Thôi Tuần và Lý Doanh trở về Thôi phủ. Hắn dự định chờ đến sáng hôm sau mới vào cung Đại Minh để bẩm báo Thái hậu. Nhưng vào khoảng canh tư, một cỗ xe ngựa phủ kín bằng vải đen chậm rãi rời khỏi cung Đại Minh. Khi đến phủ Bùi Quan Nhạc tại phường Thắng Nghiệp, một nữ tử đội mũ rèm được cung nhân dìu xuống xe, tiến vào phòng khách. Nàng gỡ bỏ mũ rèm, để lộ gương mặt có ấn ký hoa sen rực rỡ.



Bên trong phòng khách, A Sử Na Ngột Đoá lơ đễnh nghe Bùi Quan Nhạc bày mưu tính kế, tựa hồ nàng chẳng mấy hứng thú với những gì ông ta nói. Bùi Quan Nhạc cảm thấy khó hiểu. Vị công chúa Đột Quyết này đã nhập cung ba năm, tuy được Long Hưng Đế sủng ái nhưng từ trước tới nay chưa từng can thiệp vào chính sự. Lần này nàng chủ động tìm đến ông ta, nói rằng biết chuyện ông ta và Thôi Tuần không hề hòa hợp, muốn cùng ông ta hợp sức loại bỏ Thôi Tuần. Điều này khiến ông ta mừng rỡ không thôi. Nhưng khi ông ta hao tổn tâm tư nghĩ ra diệu kế, nàng lại tỏ vẻ chẳng mấy bận tâm.

Bùi Quan Nhạc thử dò hỏi: “Huệ phi có kế sách nào cao minh hơn chăng?”

A Sử Na Ngột Đoá lắc đầu: “Người Đột Quyết chúng ta không giỏi mưu mô quỷ kế, đó là sở trường của người Hán các ngươi. Vậy nên, ngươi muốn làm gì thì cứ làm, ta không có ý kiến.”

Bùi Quan Nhạc thoáng sững người, rồi gượng gạo đáp: “Nếu đã vậy, mỗ sẽ làm theo kế hoạch.”

A Sử Na Ngột Đoá gật đầu, nhưng nàng lại bổ sung thêm: “Tùy ngươi, nhưng nhớ phải giữ lại một Thôi Tuần còn sống, và trả cho ta.”

Bùi Quan Nhạc kinh ngạc: “Nhưng kế sách này vốn nhằm đoạt mạng hắn mà!”

“Cứ để hắn chết trên danh nghĩa là được.” A Sử Na Ngột Đoá thản nhiên nói: “Tìm một tử tù chịu tội chém đầu thay hắn là được mà? Chẳng lẽ chút bản lĩnh này cỏn con này mà cả ngươi lẫn Lư tướng công đều không làm được?”

Bùi Quan Nhạc chần chừ, sắc mặt đầy khó xử. Ông ta bày mưu tính kế là để gi.ết ch.ết Thôi Tuần, nào phải để tìm một tử tù thay hắn chịu tội. Bùi Quan Nhạc thận trọng hỏi: “Dám hỏi Huệ phi, vì cớ gì lại không muốn Thôi Tuần phải chết?”

A Sử Na Ngột Đoá nhẹ nhàng xoay chiếc nhẫn hồng ngọc trên tay. Viên ngọc lớn cỡ trứng bồ câu, rực rỡ như ánh lửa, giá trị vô song, là lễ vật sinh thần mà Long Hưng Đế tặng nàng. Một hồi lâu, nàng mới lên tiếng, ánh mắt như đọng lại ở đâu đó xa xăm: “Con ưng của ta, vẫn chưa thuần phục xong.”

Bùi Quan Nhạc thoáng ngẩn người, không hiểu ý tứ trong lời nàng nói. Nhưng ông ta sớm đã biết rõ vị Huệ phi trước mắt này không phải A Sử Na Gia, mà chính là A Sử Na Ngột Đoá giả danh. Chuyện này phải ngược dòng về hai năm trước. Khi đó, một gia nô Đột Quyết trong phủ theo ông ta nhập cung, từng bẩm báo rằng, Huệ phi không giống con gái của Khả hãn Tô Thái, mà lại rất giống con gái của cố Khả hãn Ni Đô – A Sử Na Ngột Đoá.

Tin này khiến Bùi Quan Nhạc kinh hãi tột độ. Theo lời đồn, A Sử Na Ngột Đoá từng có quan hệ mập mờ với Thôi Tuần, thậm chí ngay cả tấm thân trong trắng cũng chẳng còn, làm sao có thể tới Đại Chu để hòa thân? Chuyện hệ trọng, Bùi Quan Nhạc không dám tiết lộ với ai, chỉ bẩm với Thượng thư Hữu bộc xạ Lư Dụ Dân. Về phần Lư Dụ Dân có bẩm lên Long Hưng Đế hay không, ông ta cũng không hay biết. Chỉ biết sau đó, Huệ phi vẫn được sủng ái như thường, khiến ông ta chỉ có thể vờ như không biết, tuyệt nhiên không nhắc lại.

Nhưng nếu trước đây có thể giả ngơ, thì lúc này, ông ta lại không thể không nhắc nhở A Sử Na Ngột Đoá. Bùi Quan Nhạc e dè nói: “Huệ phi, thuần ưng là thú vui của người Đột Quyết, nhưng Huệ phi giờ đang ở Đại Chu.”

A Sử Na Ngột Đoá nghe vậy, không phản bác, chỉ hờ hững hỏi: “Bùi Thượng thư, ngươi xuất thân từ hàn môn Đại Chu, phải không?”

Bùi Quan Nhạc thoáng do dự rồi gật đầu. A Sử Na Ngột Đoá cười nhạt: “Thánh nhân dạy ta rằng, Đại Chu chia làm hàn môn và thế gia. Ngươi xuất thân hàn môn, lại phản bội hàn môn, chọn nương nhờ thế gia để từng bước thăng tiến. Thật ra, từ đầu đến cuối, điều ngươi muốn chỉ là quyền lực thôi, đúng không? Từ khi hai mươi tuổi đến giờ đã năm mươi, mục đích của ngươi vẫn chưa từng thay đổi. Ngươi có thể kiên định như vậy suốt mấy chục năm, thì vì cớ gì ta lại không thể?”

Những lời thẳng thắn của nàng khiến sắc mặt Bùi Quan Nhạc nóng bừng. Ông ta cảm thấy nàng toàn nói lý lẽ ngang ngược. Nam nhân mưu cầu quyền thế, sao có thể đem so với việc nữ nhân chìm đắm trong tình cũ? Nhưng nàng là phi tần được Thánh nhân sủng ái nhất, ông ta không dám đắc tội. Đành khẽ hỏi: “Vậy Huệ phi định xử trí Thôi Tuần thế nào?”

A Sử Na Ngột Đoá thoáng liếc qua ông ta, giọng điệu điềm nhiên: “Ngươi yên tâm, chim ưng đã gãy cánh thì không còn cơ hội đối đầu với ngươi nữa.”

Lần này, Bùi Quan Nhạc nghe ra ý nàng, miễn cưỡng đáp: “Vậy cũng không phải là không được.”

A Sử Na Ngột Đoá không tiếp tục đôi co, mà quay sang hỏi: “Sao đêm nay Lư tướng công không đến?”

Bùi Quan Nhạc hơi giật mình: “Chuyện này…”

“Thôi đi.” A Sử Na Ngột Đoá hừ lạnh: “Ta biết, ông ta trung thành với Thánh nhân. Trong mắt ông ta, ta – một nữ tử Đột Quyết, dựa vào đâu mà được Thánh nhân sủng ái? Ông ta cho rằng ta chính là vết nhơ của Thánh nhân.”

Bùi Quan Nhạc cười gượng: “Lư tướng công xưa nay luôn tự cho mình cao quý. Huệ phi không cần bận tâm.”

“Tự cho mình cao quý? Cao quý mà lại…” A Sử Na Ngột Đoá đột ngột ngừng lời, ánh mắt thoáng trầm xuống: “Thôi, cả đời này, ta chẳng thể nào hiểu được người Đại Chu các ngươi.”



Sau khi bàn bạc xong với Bùi Quan Nhạc, A Sử Na Ngột Đoá đội lại mũ sa, lên xe ngựa. Xe mang theo ngư phù mà Thánh nhân ban tặng, vượt qua mọi chốt canh, một đường thuận lợi tiến vào cung Đại Minh.

Vào đến cung Đại Minh, nàng tháo mũ sa xuống, chậm rãi bước về tẩm cung của mình. Trong lòng nàng, ý vị hả hê dường như không ngừng dâng lên. Hôm ấy, tại Phù Dung Viên, nàng bị Thôi Tuần dọa đến chật vật bỏ chạy, nhưng càng nghĩ lại, nàng càng tức giận. Cơn giận dữ dần chuyển thành ý chí không chịu thua, cuối cùng lại biến thành khát vọng chinh phục, xen lẫn hận thù.

Từ lần đầu gặp hắn, nàng đã muốn khuất phục tù binh người Hán xinh đẹp này. Hai năm trời, nàng dùng đủ mọi cách hành hạ hắn, nhưng hắn vẫn không hề khuất phục. Cuối cùng, hắn lại tặng nàng một trận đại hỏa, khiến Phụ hãn nàng thiêu thân trong biển lửa, còn nàng thì bị hủy đi dung nhan từng lấy làm tự hào.

Đây có phải là cái giá của việc “nuôi ưng cả đời, cuối cùng lại bị ưng mổ mắt”?

A Sử Na Ngột Đoá không cam lòng. Đối với hắn, nàng không chỉ có khát vọng chinh phục mà còn là mối hận thù vì nợ máu giết cha. Nàng nhất định phải giết hắn để báo thù cho Phụ hãn. Nhưng trước khi giết, nàng phải khuất phục được hắn, hoàn thành niềm kiêu hãnh của riêng mình. Sau khi chinh phục được hắn, nàng sẽ giết hắn, rồi cùng hắn xuống hoàng tuyền.

A Sử Na Ngột Đoá mải miết suy nghĩ, không hề hay biết đội Kim Ngô Vệ đã nhanh chóng bao vây.



Trong điện Bồng Lai, Thái hậu vốn đã an nghỉ nay lại ngồi uy nghi giữa chính điện. Bà lạnh lùng nhìn Kim Ngô Vệ áp giải A Sử Na Ngột Đoá trong bộ dáng nhếch nhác quỳ xuống đất. Dẫu biết sự tình bất lợi, nàng vẫn giữ vẻ kiêu ngạo, không chút run sợ, ngẩng cao đầu nói: “Không biết Thái hậu áp giải thiếp thân tới điện Bồng Lai là có ý đồ gì?”

“Ý đồ?” Thái hậu không giận mà cười nhạt: “Thân là hậu phi mà dám tự ý xuất cung, lại còn thông đồng với ngoại thần. Ngươi còn mặt mũi hỏi ngô có ý đồ gì sao?”

A Sử Na Ngột Đoá tái mặt. Thì ra từ lúc nàng rời cung đến khi bước chân vào phủ Bùi Quan Nhạc, mọi hành động đều không qua được mắt Thái hậu. Ánh mắt bà đầy vẻ châm biếm: “Sao? Câm rồi à?”

A Sử Na Ngột Đoá cũng chẳng buồn tranh cãi thêm: “Muốn giết thì giết đi.”

Thái hậu cũng không muốn dài dòng: “Tốt! Vậy ngô thành toàn cho ngươi!”

Ánh mắt bà liếc qua đám nội giám dưới điện. Hiểu ý, mấy tên nội giám cầm dải lụa trắng tiến lên, siết chặt cổ A Sử Na Ngột Đoá, kéo mạnh sang hai bên. Hơi thở nàng dần đứt quãng, trước mắt trở nên mờ mịt. Giữa lằn ranh sinh tử, nàng bỗng cười khẽ.

Thật đáng tiếc… Ta lại chết trước ngươi rồi.



Đúng lúc tính mạng treo trên sợi chỉ, bỗng vang lên tiếng bước chân gấp gáp. Long Hưng Đế xuất hiện, vung tay đẩy mấy tên nội giám đang siết lấy nàng ra xa. A Sử Na Ngột Đoá ngã vào lòng hắn.

Long Hưng Đế vừa kinh vừa giận, ngẩng đầu nhìn Thái hậu: “A nương, người đang làm gì vậy?”

“Giết nàng ta!”

“Tại sao phải giết nàng ấy?”

“Nàng ta tự ý rời cung, đến phủ Bùi Quan Nhạc, như thế còn chưa đáng tội chết sao?”

Long Hưng Đế thoáng kinh ngạc nhìn A Sử Na Ngột Đoá, nhưng rất nhanh, hắn mím môi, bình tĩnh nói với Thái hậu: “Việc này trẫm đã biết, chính trẫm sai Huệ phi đến phủ Thượng thư Bùi xử lý công việc. Huệ phi không có tội.”

Thái hậu giận dữ: “Thánh nhân, lý do này không khiến ngươi thấy nực cười sao? Là việc quan trọng gì mà cần đến hậu phi của ngươi phải đích thân đến phủ ngoại thần giữa đêm khuya?”

“Là việc trọng yếu, không tiện nói rõ với a nương.” Long Hưng Đế đáp: “Tóm lại, Huệ phi chỉ phụng chỉ của trẫm xuất cung, nàng ấy không sai.”

Nghe vậy, Thái hậu giận đến nghiến răng. Long Hưng Đế lập tức ra lệnh cho người đưa A Sử Na Ngột Đoá trở về, còn mình thì ở lại điện Bồng Lai, đối diện cơn thịnh nộ của Thái hậu.

Cuối cùng, vì nể mặt hắn, Thái hậu cho lui hết người trong điện. Không gian rộng lớn của điện Bồng Lai chỉ còn lại hai mẹ con.



Thái hậu nén giận, hồi lâu sau mới cất tiếng, giọng vẫn mang ý trách móc: “Con thực sự muốn bảo vệ nữ nhân Hồ tộc ấy đến cùng?”

Long Hưng Đế trước giờ luôn hiếu thuận, nhưng lần này hắn không nhượng bộ nửa phần: “A nương hỏi trẫm có quyết ý bảo vệ Huệ phi không, vậy trẫm cũng muốn hỏi a nương một câu. Thân là Thái hậu, chuyện quản lý hậu cung chẳng phải nên lấy nhân từ và bao dung làm đầu sao? Vì cớ gì lại tự ý xử trí phi tần của trẫm?”

Thái hậu lớn tiếng: “Đây không phải là Thái hậu xử lý phi tần, mà là một người mẹ xử lý kẻ làm hại đến con mình!”

Long Hưng Đế sững người. Thái hậu hít sâu một hơi, cố kìm nén cảm xúc, nói tiếp: “Nàng ta đến Đại Chu ba năm, con phong nàng làm Huệ phi, sủng ái vượt qua lục cung. Những điều đó, ngô đều mắt nhắm mắt mở, chỉ cần nàng ta an phận thủ thường, ngô sẵn lòng chiều theo ý con. Nhưng nếu nàng ta không an phận nữa thì ngô tuyệt không thể dung thứ!”

“Cho dù Huệ phi không an phận, nhưng không làm gì nhằm vào trẫm.”

Thái hậu nghe vậy, tức đến muốn ngất lịm: “Đợi đến khi nàng ta nhằm vào con thì đã muộn rồi! Hậu cung này, ai cũng có thể ở lại bên cạnh con, nhưng một nữ nhân Hồ tộc lòng dạ khó lường như nàng ta thì tuyệt đối không được!”

Long Hưng Đế cười khổ: “Hậu cung này, Hoàng hậu do a nương chọn, Đức phi, Thục phi cũng do a nương chọn, đến cả Chiêu nghi, Tiệp dư cũng là a nương chọn. Trẫm chỉ muốn tự mình chọn một lần, chẳng lẽ cũng là sai?”

“Con sai rồi! Người con chọn là ai chẳng được, cớ sao lại chọn một nữ nhân như thế?” Thái hậu nghiêm nghị nói: “Rốt cuộc nàng ta có phải con gái của Tô Thái, A Sử Na Gia hay không, con nghĩ ngô không biết sao?”

Long Hưng Đế cả kinh, nhưng rất nhanh, hắn đáp: “Dù nàng từng là ai, thì hiện tại, nàng chính là Huệ phi của trẫm.”

Thái hậu kinh ngạc nhìn đứa con trai mà bà đã nuôi nấng từ tấm bé. Từ khi nào hắn đã trở nên xa lạ đến thế này? Vì một nữ nhân người Hồ lai lịch bất minh mà đối đầu với bà? Bà nhịn không được mà hỏi: “Rốt cuộc con thích nữ nhân Hồ tộc ấy ở điểm nào? Thiên hạ này, luận nhan sắc, có không ít người đẹp hơn nàng ta; luận tài tình, nàng ta không viết nổi một câu thơ; luận phẩm hạnh, nàng ta không dịu dàng, cũng không hiền thục, lại còn ích kỷ, tàn nhẫn. Rốt cuộc con xem trọng nàng ở điểm nào?”

Long Hưng Đế lặng lẽ đáp: “A nương nói Huệ phi ích kỷ, tàn nhẫn, hỏi trẫm thích nàng ở đâu. Nhưng trẫm lại thích chính sự ích kỷ và tàn nhẫn ấy. Từ nhỏ, a nương đã dạy trẫm phải làm bậc Thánh nhân, phải làm gương sáng cho muôn dân. Nhưng trẫm cũng mệt mỏi, cũng ao ước như người khác, muốn làm gì thì làm.”

Thái hậu nghiêm giọng quát: “Con là hoàng đế, làm sao có thể muốn làm gì thì làm nấy? Nếu đã hưởng quyền lực chí tôn, con phải chấp nhận những ràng buộc do quyền lực mang lại. Bằng không, lẽ nào con muốn chiếm hết những điều tốt đẹp trên đời? Trên đời này liệu có chuyện gì vừa ý người đến thế không?”

Bị lời trách mắng làm cho ngẩn ngơ, Long Hưng Đế thoáng hiện vẻ mờ mịt trong ánh mắt. Y hệt như những lần còn thơ bé bị quở trách, hắn không biết đáp lại thế nào. Thái hậu nhìn vẻ bối rối đó của hắn, lòng đột nhiên trào dâng một nỗi mỏi mệt. Bà nhẹ giọng nói: “Con khiến ta quá thất vọng. Minh Nguyệt Châu sẽ không như con.”

Nghe đến ba chữ “Minh Nguyệt Châu”, Long Hưng Đế lập tức ngẩng đầu lên, mắt bừng bừng phẫn nộ: “Đủ rồi! Trẫm chịu đủ rồi! Tại sao a nương lúc nào cũng đem a tỷ ra so sánh với trẫm? A tỷ đã mất rồi, mất suốt ba mươi năm nay rồi! Nhưng trẫm vẫn còn sống! Chẳng lẽ một người còn sống lại không bằng một người đã chết? Chẳng lẽ một đứa con trai đã đem đến cho a nương vinh quang vô thượng lại không bằng một người con gái đã khuất sao?”

Thái hậu trợn trừng mắt, nhất thời không thốt nên lời. Một lát sau, bà bỗng bật cười: “Hóa ra, đây mới là lời thật lòng của con.”

Long Hưng Đế trầm tĩnh lại, nói: “Phải, là lời thật lòng. Nói ra rồi, lòng nhẹ nhõm hơn hẳn.”

Hai mẹ con, một người đứng, một người ngồi, không tiếp tục tranh cãi. Họ chỉ lặng lẽ đối diện nhau. Hồi lâu sau, Thái hậu khẽ gọi nhũ danh của hắn: “Bồ Tát Bảo…”

Bà chưa kịp nói hết câu, Long Hưng Đế đã ngắt lời: “A nương, nơi này không có Bồ Tát Bảo, chỉ có một Thánh nhân do chính tay người dạy dỗ.”

Thái hậu khựng lại, sững sờ nhìn hắn. Long Hưng Đế không nói thêm lời nào, chỉ cúi đầu hành lễ với bà một cách nghiêm cẩn, rồi chậm rãi rời đi, bóng dáng thoáng vẻ cô đơn đến xót xa.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 75: Cuồng phong trỗi dậy



Đêm ấy, cung Bồng Lai và điện Thần Long đều không chợp mắt. Bên ngoài cung, Thôi Tuần lại không hề hay biết về trận cuồng phong vừa cuốn qua Đại Minh cung. Khi trời vừa hửng sáng, hắn đã chỉnh trang, chuẩn bị vào cung bái kiến Thái hậu.

Lý Doanh cũng thức dậy từ sớm. Ác điểu đã chết, nàng như trút được tảng đá lớn trong lòng. Sát Sự Thính đã giăng thiên la địa võng, chẳng quá ba ngày, Kim Di hẳn sẽ bị bắt. Đến lúc đó, ngay cả Đại Lý Tự cũng không còn lý do gì để vu cáo Thôi Tuần nữa.

Tâm tình thoải mái, nàng ngồi bên song cửa, tay chống má, ngắm hoa hải đường ngoài cửa sổ. Vô tình, nàng thấy Thôi Tuần chỉnh lại quan phục, chuẩn bị tiến vào Đại Minh cung. Nhìn bóng lưng như ngọc trong bộ quan phục màu đỏ của hắn, ký ức chợt kéo nàng về hôm ở hành lang tử đằng. Khi ấy, nàng trêu chọc hắn, khuôn mặt tái nhợt của hắn thoáng ửng đỏ. Đảo mắt, nàng lại nhìn bình mai trên án gỗ tử đàn, loại hoa được cắm hôm nay khéo thay, lại chính là hoa tử đằng.

Lý Doanh hái xuống một nhành hoa tử đằng, ném nhẹ lên lưng hắn. Khi hắn quay lại, nàng bỗng thấy chột dạ, vội vàng nép mình vào một góc. Thôi Tuần nhìn qua khung cửa, thấy bên trong trống không, môi hắn thoáng cong lên, tiến đến gần cửa sổ, ôn hòa nói: “Ta thấy cô rồi.”

Lý Doanh giấu mãi không được, đành lộ diện, dung nhan thanh tú thoáng đỏ ửng, vẻ như hơi thẹn khi trò đùa của mình bị hắn phát hiện. Ánh mắt nàng trốn tránh, mãi mới nhỏ giọng hỏi: “Ngài chuẩn bị vào cung sao?”

“Ừ.” Thôi Tuần gật đầu.

“Ngài sẽ đến gặp Thái hậu trước, rồi sau đó tham dự triều hội, đúng không?”

“Ừ.”

“Sau khi tham triều hội xong, ngài sẽ về, phải không?”

“Ừ.”

Lý Doanh chẳng hiểu vì sao lại hơi bực dọc. Nàng quỳ ngồi trước án kỷ, cúi đầu vân vê nhành tử đằng trong bình: “Ngài không thể nói được một chữ khác ngoài chữ ừ sao?”

Nhành hoa tử đằng trong tay nàng sắp bị bứt trụi lủi. Thôi Tuần nhìn đôi tay mềm mại của nàng đang giày vò cánh hoa. Nàng giận dỗi, hắn càng thêm bối rối. Vốn là người lạnh nhạt, chưa từng giao tiếp với tiểu thư khuê các, hắn không biết phải nói gì để làm nàng vui. Nghĩ ngợi một lát, hắn nói: “Có lẽ Kim Di sắp bị bắt rồi.”

Lần này hắn đã nói không chỉ một chữ. Lý Doanh ngừng bứt hoa, ánh mắt chuyển sang nhìn hắn. Thôi Tuần tiếp lời: “Án của công chúa cũng sẽ sớm được làm rõ, đến khi ấy, công chúa có thể yên lòng chuyển sinh.”

Lý Doanh sững người, nhưng rồi quay đầu đi, tiếp tục vân vê cánh hoa tử đằng, vẻ thất vọng rõ ràng. Hiển nhiên, lời hắn nói không phải điều nàng muốn nghe.

Thôi Tuần lại trầm ngâm giây lát, đoạn nói: “Phúc Mãn Đường mới làm ra một món bánh ngọt mới, dùng mật ong và nhân táo đỏ, hương vị không thua kém bánh trà lần trước. Đợi ta hạ triều, sẽ mang về cho cô nếm thử, được không?”

Lần này Lý Doanh không vò hoa nữa. Nàng quay đầu, ánh mắt sáng lên, miệng khẽ cười: “Được.”

Nhìn nàng vui vẻ trở lại, Thôi Tuần cũng không kìm được ý cười trên môi: “Vậy ta vào cung đây.”

Lý Doanh gật đầu. Nàng chống cằm, dõi theo bóng lưng hắn dần khuất trong tầm mắt. Nàng chẳng nhận ra, suốt thời gian ấy, nụ cười trên môi nàng chưa từng lu mờ.



Chỉ là, ngày hôm ấy, Thôi Tuần chẳng thể vào cung Đại Minh, mà Lý Doanh cũng không được nếm thử món bánh mứt quả như đã hẹn.

Bởi vì Kim Di đã tự thú.

Đêm qua, sau khi cú đêm bị Thôi Tuần bắn chết, Kim Di biết rằng bản thân khó lòng trốn thoát. Ông ta tìm đến Bùi Quan Nhạc, mong y giúp ông ta rời khỏi Trường An. Bùi Quan Nhạc đưa ra một kế hoạch đầy mê hoặc, hứa rằng chỉ cần Kim Di đồng ý, đến lúc hành hình, ông ta sẽ âm thầm tráo đổi, khiến thiên hạ tưởng rằng Kim Di đã chết. Khi đó, chẳng ai truy lùng Kim Di nữa, và cả đời ông ta có thể an ổn.

Kế hoạch nghe qua thực sự khiến người ta động lòng. Nhưng Kim Di là kẻ gian xảo đến cùng cực. Ông ta đã phản bội không ít người, cũng từng bị phản bội không ít lần. Khi còn ở Đột Quyết, vì không được Khả hãn Ni Đô trọng dụng nên dù biết Tô Thái có ý định giết huynh đoạt vị, nhưng không hề bẩm báo, ngược lại còn kết minh với Tô Thái. Nào ngờ, sau khi Tô Thái lên ngôi Khả hãn, điều đầu tiên y làm lại là muốn giết ông ta để trừ hậu họa. Từ đó, ông ta chẳng tin bất kỳ ai, đương nhiên cũng không ngoại lệ với Bùi Quan Nhạc.

Ông ta không lập tức đồng ý, nhưng tình thế đã khác xưa. Lúc này, Kim Di đã không còn đường lùi. Ở Trường An, người có thể bảo toàn tính mạng cho ông ta chỉ có ba người: A Sử Na Ngột Đóa đã dứt khoát từ chối, Thôi Tụng Thanh tuy chính trực, nhưng cứng nhắc, cùng lắm chỉ có thể cho ông ta một tấm giấy thông hành giả. Chỉ còn lại Bùi Quan Nhạc là kẻ duy nhất có khả năng cứu ông ta.

Giữa đêm, ông ta tiến vào phủ đệ của Bùi Quan Nhạc, rời đi xong thì lập tức đến Đại Lý Tự tự thú. Tại đây, ông ta không hề quanh co, mà thẳng thắn nhận tội phản quốc. Hễ Đại Lý Tự Thiếu khanh Lư Hoài hỏi gì, ông ta đều trả lời hết sức hợp tác. Đến cuối buổi thẩm vấn, Lư Hoài hỏi ông ta: “Thôi Tuần, có phải cũng đã quy hàng Đột Quyết?”

Kim Di gật đầu: “Phải.” Ngừng một lúc, lại nói: “Hơn nữa, chủ soái Thiên Uy quân Quách Cần Uy, cũng do chính tay hắn giết.”



Chủ soái Thiên Uy quân, Quách Cần Uy thân kinh bách chiến, uy vọng cực cao. Ông từng đơn thương độc mã tiến sâu vào đại mạc, một mũi tên bắn chết Đột Quyết Diệp Hộ, trở thành đối thủ mà người Đột Quyết vừa hận vừa sợ nhất. Trong trận Lạc Nhạn Lĩnh, Quách Cần Uy thà chết chứ không chịu làm tù binh, tự vẫn tuẫn quốc. Đầu của ông bị chém xuống, truyền khắp quân Đột Quyết. Dẫu Quách Cần Uy trung liệt đáng khen, nhưng vì sai lầm trong quyết sách, khiến sáu châu thuộc Quan Nội bị Đột Quyết giày xéo dưới vó ngựa, cuối cùng lại trở thành tội nhân bị người đời chỉ trích.

Theo lời Kim Di, Quách Cần Uy không phải tự vẫn tuẫn quốc, đầu cũng không phải bị Đột Quyết chém xuống, mà là do Thôi Tuần vì tham sống sợ chết nên xuống tay, chém đầu dâng cho Đột Quyết. Thiên Uy quân mất chủ soái, quân tâm đại loạn, cuối cùng thua trận ở Lạc Nhạn Lĩnh, toàn quân tan tác.

Lời khai ấy khiến mọi người trong điện kinh hãi.

Lư Hoài hỏi: “Nếu Quách Cần Uy bị Thôi Tuần giết, tại sao trước đây người Đột Quyết không nói, mà lại truyền tin về Đại Chu rằng ông ta tự vẫn?”

Kim Di cười mỉa: “Tất nhiên là vì công chúa Đột Quyết yêu thích Thôi Tuần. Công chúa chiều chuộng hắn đủ đường. Thôi Tuần sợ việc này bại lộ, hắn sẽ không còn chốn dung thân nên cầu xin công chúa truyền tin về Đại Chu rằng Quách Cần Uy tự vẫn, còn hắn bị bắt. Nhưng thực chất, hắn nào có bị bắt? Khi Đột Quyết bao vây Lạc Nhạn Lĩnh, hắn đã có ý xin hàng. Hắn vốn là tâm phúc của Quách Cần Uy, nhân lúc Quách Cần Uy sơ ý, liền ra tay giết hại, sau đó mang thủ cấp chủ soái vui vẻ chạy đến đầu hàng Đột Quyết.”

Việc này trọng đại, dù Lư Hoài có khinh bỉ Thôi Tuần đến đâu cũng không dám chỉ nghe mỗi lời Kim Di mà vội tin. Huống hồ, Thôi Tuần phẩm hạnh thấp kém, nhưng Kim Di – một kẻ đã sớm đầu hàng Đột Quyết, cũng chẳng phải hạng người đáng tin. Lư Hoài trầm ngâm: “Lời ngươi nói có bằng chứng nào không?”

Kim Di đáp: “Trong cung, Huệ phi cũng đến từ Đột Quyết, nàng ta có thể làm chứng.”

Kim Di đầy tự tin. Huệ phi trong cung vốn là một phần trong kế hoạch của ông ta. Chỉ cần Huệ phi đứng ra làm chứng, kết hợp với lời khai của ông ta, Thôi Tuần không chết thì cũng vào ngục. Mà một khi vào ngục, mọi chuyện đã được Bùi Quan Nhạc sắp đặt ổn thỏa, lần này Thôi Tuần chắc chắn chỉ còn con đường chết.

Nhưng Kim Di không ngờ, đêm qua, Huệ phi xuất cung thì bị Thái hậu phát giác, suýt nữa bị siết cổ ngay tại điện Bồng Lai, giờ nào dám đứng ra làm chứng. Kể cả nàng có gan, hoàng đế cũng không cho phép.

Lư Hoài đến hỏi nhưng Huệ phi chỉ thoái thác. Nàng ta nói hồi còn ở Đột Quyết, nàng ta chỉ ru rú trong nhà mẹ đẻ, chuyện Lạc Nhạn Lĩnh không hề nắm rõ ràng. Huệ phi bất ngờ đổi ý khiến kế hoạch hoàn toàn sụp đổ, giờ chỉ còn lời khai một phía từ Kim Di.

Lư Hoài tức giận, lại thẩm vấn Kim Di, định dùng hình thì Kim Di vội kêu lên: “Ta còn bằng chứng khác!”

“Là chứng cứ gì?”

Kim Di đáp: “Quách Cần Uy bị Thôi Tuần dùng dây cung sắt của thiết thai cung cắt đầu. Nếu có thể lấy được thiết thai cung của Thôi Tuần, so với vết cắt trên đầu Quách Cần Uy, tự nhiên mọi chuyện sẽ sáng tỏ.”

“Thiết thai cung của Thôi Tuần ở đâu?”

“Ở trong tay hắn.” Kim Di nhớ lại đêm qua, từ xa ông ta trông thấy Thôi Tuần dùng thiết thai cung cải tạo thành nỏ gỗ để bắn chết cú đêm, trong lòng căm phẫn nghiến răng: “Thủ cấp của Quách Cần Uy vẫn còn ở Đột Quyết. Nay Đột Quyết muốn giao hảo với Đại Chu, lại đưa công chúa A Sử Na Gia đến hòa thân. Nếu Đại Chu cầu Đột Quyết trả lại thủ cấp Quách Cần Uy, bọn chúng tất nhiên sẽ không dám từ chối.”

Lư Hoài nói: “Việc đòi lấy thủ cấp cần có thời gian, đến Đột Quyết cũng mất thời gian, quay về lại càng không nhanh chóng. Một phen phiền toái này, sớm nhất cũng phải mất gần một tháng. Ai biết được đây có phải cái cớ để ngươi kéo dài hơi tàn?”

Kim Di đáp: “Nếu Lư Thiếu khanh không muốn phí công sức như vậy, chi bằng cứ bẩm báo thẳng với Thánh nhân, trực tiếp tống giam Thôi Tuần vào ngục, dùng nghiêm hình khảo vấn, chẳng phải cũng có thể khai ra chân tướng sao?”

Lư Hoài lạnh lùng nói: “Khổ hình bức cung là phong cách của Thôi Tuần, chứ không phải của Lư Hoài ta. Tuy ta bất tài, nhưng chưa từng gây ra oan hồn nào.”

Kim Di cười nhạt: “Không ngờ ngục thất Đại Lý Tự lại có vị Thiếu khanh công chính như Lư Thiếu khanh đây. Đúng là hiếm thấy.”

Nhưng liệu Lư Hoài muốn làm người công chính, nào có dễ dàng như vậy? Chốn ngục tù mà hắn xem là nơi minh oan phân xử, từ lâu đã thành công cụ của kẻ quyền thế. Nếu không, tại sao bốn năm trước, khi Thôi Tuần từ Đột Quyết trở về với thương tích đầy mình, dù hắn có cầu xin họ đến Đột Quyết điều tra thì ngục tốt của Đại Lý Tự vẫn giả câm giả điếc, chỉ biết dùng hình tra khảo, ép hắn nhận tội danh phản quốc? Cái nơi vốn được giao phó trọng trách giữ gìn công lý ấy, nay đã biến thành lò luyện ngục với vô số oan hồn.

Lư Hoài có thể giữ được sự ngay thẳng này, cũng chẳng qua nhờ có thúc phụ đứng sau che chở.

Lư Hoài nghe ra ý châm biếm trong lời của Kim Di, hắn chau mày, nhưng không so đo với Kim Di, chỉ lạnh lùng nói: “Ngươi nói Đột Quyết sẽ giao nộp thủ cấp của Quách Cần Uy, nhưng Đột Quyết vốn giảo quyệt, ai biết thứ được chúng đưa tới liệu có phải là giả mạo hay không?”

Kim Di đáp: “Danh tiếng gian nịnh của Thôi Tuần đã lan khắp thiên hạ, hắn lại được người Đột Quyết phóng thích. Nếu Đột Quyết khen ngợi hắn, đương nhiên phải cảnh giác; nhưng nếu nói xấu hắn, thì chúng được lợi gì? Hơn nữa, cây cung sắt kia đang ở trong tay Thôi Tuần, chẳng lẽ Đột Quyết có thể từ nơi nghìn dặm xa xôi, tạo ra một chiếc đầu giả với vết cắt đúng như dây cung sắt gây nên sao?”

Lư Hoài nghĩ thầm, lời này quả thật có lý, liền lạnh giọng nói: “Kim Di, nếu ngươi có nửa lời gian dối, ta nhất định khiến ngươi sống không bằng chết!”

Kim Di chỉ cười nhạt: “Kẻ sắp chết, đâu dám nói láo.”

Lư Hoài trầm ngâm hồi lâu: “Được, ta sẽ bẩm rõ với Thánh nhân, sau đó mới quyết định.”



Lư Hoài dâng tấu về lời chứng của Kim Di lên Thánh nhân. Quả nhiên, triều đình văn võ đều xôn xao, ngay cả Thôi Tụng Thanh cũng kinh ngạc vô cùng. Đến khi trấn tĩnh lại, ông ta chỉ thấy hổ thẹn, không muốn vì Thôi Tuần mà biện bạch nửa lời. Ông ta đã như thế, huống chi là các phe phái thanh lưu và Lư đảng.

Trong cơn phẫn nộ của quần thần, các đại thần đồng loạt dập đầu thỉnh cầu Thánh nhân lập tức xử trảm Thôi Tuần. Nhưng Lư Hoài lại tâu rằng, chi bằng chờ đầu của Quách Cần Uy từ Đột Quyết mang về rồi mới định đoạt. Chỉ là đường đi Đột Quyết xa xôi, một chuyến đi về cũng mất gần một tháng. Thánh nhân nghe thế bèn hạ lệnh, trước mắt giam Thôi Tuần ở Đại Lý Tự, đợi điều tra rõ ràng rồi sẽ xử lý sau.

Chỉ dụ còn chưa kịp ban xuống, cung Bồng Lai bỗng truyền ý chỉ khác. Thái hậu cho rằng Đại Lý Tự và Sát Sự Thính từ lâu không hòa thuận, nếu giam Thôi Tuần tại Đại Lý Tự, e rằng đợi đầu của Quách Cần Uy còn chưa kịp tới nơi, Thôi Tuần đã mất mạng. Vì vậy, bà lệnh giam hắn tại phủ riêng, sau đó mới nghị bàn tiếp.

Lư Hoài không thể tin nổi, phản ứng đầu tiên chính là Thái hậu đang thiên vị Thôi Tuần. Phản ứng thứ hai, hắn cảm thấy bản thân chịu oan khuất. Hắn quỳ gối trước mặt Long Hưng Đế, trong mắt ẩn hiện nét lệ: “Thần tuy không hòa thuận với Thôi Tuần, từ lâu đã khinh rẻ con người hắn, nhưng quyết không vì thù riêng mà vu oan giá họa. Nếu thần là kẻ tiểu nhân như vậy, đã chẳng đề nghị trước tiên đến Đột Quyết lấy đầu Quách Cần Uy về đối chứng thật giả. Thái hậu đối xử với thần như thế, chẳng phải là khinh thường thần sao?”

Long Hưng Đế cũng bật lực. Hắn cũng cảm thấy Thái hậu đang thiên vị Thôi Tuần, nhưng vì chuyện Huệ phi mà giữa hắn và Thái hậu đã có hiềm khích, không thể vì nơi giam giữ Thôi Tuần mà lại gây thêm bất hòa. Hắn trấn an Lư Hoài một hồi, song Lư Hoài vẫn thấy uất ức không nguôi, cuối cùng Long Hưng Đế đành nhỏ giọng nói riêng với hắn: “Thái hậu không để Thôi Tuần bị giam ở Đại Lý Tự, nhưng cũng chẳng cấm các ngươi giám sát hắn. Nói cho cùng, vẫn để lại chút mặt mũi cho Đại Lý Tự.”

Lư Hoài không nghĩ như vậy, chỉ lạnh lùng đáp: “Nếu như lời Kim Di là thật, thì tội của Thôi Tuần chính là đại nghịch bất đạo. Ba năm trước, Thái hậu đã che chở cho hắn thoát khỏi Đại Lý Tự, nay ba năm sau lại muốn bảo vệ hắn thêm lần nữa hay sao?”

Long Hưng Đế cười khổ: “Trẫm cũng chẳng hiểu vì sao Thái hậu lại muốn bảo toàn tính mạng của hắn. Trẫm giống như Lư khanh, vô cùng chán ghét hắn. Nhưng Đại Chu lấy hiếu trị thiên hạ, trẫm không thể ngỗ nghịch mẫu thân.”

Long Hưng Đế vừa mềm mỏng vừa lý lẽ, cuối cùng Lư Hoài đành im lặng, chỉ là sắc mặt vẫn hiện rõ vẻ không vui. Long Hưng Đế lại an ủi: “Nếu Thái hậu đã ra ý chỉ giam hắn trong phủ, Lư khanh cứ đối đãi theo tiêu chuẩn của phạm nhân. Thái hậu đã thiên vị hắn đến mức này, có lẽ cũng không can thiệp thêm được nữa.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 76: Ta sẽ luôn ở bên ngài



Cái gọi là đối đãi theo tiêu chuẩn phạm nhân là gì?

Chính là mặc áo tù, gông xiềng quấn thân.

Theo luật Đại Chu, quan phẩm từ thất phẩm trở lên được miễn mang gông, chỉ cần khóa tay khóa chân, vì thế Thôi Tuần tuy tránh khỏi phải đeo gông, nhưng xiềng chân tay và áo tù vẫn không thể thiếu. Thôi phủ bị vây kín không một kẽ hở, ngay cả ruồi muỗi cũng khó lọt qua, lão bộc câm trong phủ cũng bị đuổi đi, bởi vì phạm nhân không cần đến người hầu.

Nhưng Lư Hoài tuyệt không ngờ tới, trong Thôi phủ vẫn còn một “người” chưa rời đi.

Ánh mắt hắn lạnh lùng nhìn Thôi Tuần trong bộ áo tù trắng bằng sợi gai thô, tay chân bị xiềng xích nặng nề trói buộc. Điều kỳ lạ là, dù hắn đã sa sút đến mức này, nhưng lại không hề hạ mình cầu xin lấy một lời. Lúc này đây, hắn chẳng giống một kẻ xu nịnh chút nào, trái lại còn toát lên dáng vẻ cao ngạo, thanh tao của một thế gia công tử, như hạc đứng giữa nhân gian. Cảnh ấy khiến Lư Hoài cười khẩy trong lòng, chỉ là kẻ tiểu nhân mà cũng quen thói làm bộ làm tịch.

Hắn hậm hực nói: “Thôi Tuần, Thái hậu đã ban ân, cho phép ngươi không bị giam ở Đại Lý Tự. Nhưng ngươi cũng đừng đắc ý! Thôi phủ này, ngươi đừng mơ bước ra một bước, chứ đừng nói đến chuyện truyền tin cầu viện.”

Hắn nói một tràng dài, nhưng Thôi Tuần lại xem như chẳng hề nghe thấy. Hai tay hai chân hắn bị xích sắt khóa chặt, không cách nào ngồi ngay ngắn, đành khoanh chân ngồi trước chiếc án bằng gỗ tử đàn, vẻ mặt lạnh nhạt đến cực điểm, thậm chí không buồn liếc nhìn Lư Hoài lấy một cái. Hành động này khiến Lư Hoài như cảm thấy tự mình chuốc lấy bẽ bàng, nhưng vẫn cố nhấn mạnh thêm một câu: “Thái hậu nói nếu ngươi bị giam ở Đại Lý Tự thì sẽ mất mạng, nhưng ta phải nói rõ, Lư Hoài ta không dùng chuyện công để báo tư thù. Mạng của ngươi, ta muốn lấy một cách đường đường chính chính!”

Nói xong, hắn hừ lạnh, phất tay áo bỏ đi. Sau khi hắn rời khỏi, cánh cửa gỗ đỏ chói của Thôi phủ cũng kêu “két” một tiếng rồi đóng lại. Bên ngoài lờ mờ còn nghe được tiếng khóa xích lách cách vang lên.

Chờ đến khi bốn bề lặng ngắt như tờ, Thôi Tuần mới nâng nhẹ mí mắt, nhìn Lý Doanh đang đứng trước mặt, hốc mắt nàng đã đỏ hoe tự bao giờ.

Lý Doanh hoàn toàn không hiểu vì sao mọi chuyện lại thành ra thế này. Rõ ràng sáng nay hắn rời đi vẫn còn yên ổn, còn bảo sẽ mua bánh mứt quả của Phúc Mãn Đường về cho nàng. Vậy mà đến khi trở về, hắn lại trở thành trọng phạm chịu án chờ xử lý. Rốt cuộc, tại sao lại như thế?

Nàng nhìn đôi cổ tay gầy guộc của Thôi Tuần bị cùm đen nặng nề quấn chặt. Xiềng xích quá nặng, hắn phải để hai tay lên đầu gối. Có lẽ nhận ra ánh mắt của nàng, hắn kéo áo tù, định che đi cùm sắt, nhưng làm sao che giấu được kia chứ? Lý Doanh cắn môi, một giọt nước mắt rơi xuống bàn gỗ tử đàn: “Đều tại ta cả. Nếu không phải vì ta cải tạo thiết thai cung thì Kim Di sẽ không nhìn thấy, ông ta cũng sẽ không nghĩ ra độc kế này để hại ngài!”

Nước mắt nhỏ xuống trên án tử đàn ngày một nhiều. Ngón tay Thôi Tuần khẽ động. Trong lòng hắn dâng lên một ý niệm mãnh liệt: hắn muốn lau đi nước mắt cho nàng. Nàng là người tốt như vậy, không đáng phải buồn vì hắn. Nhưng khi hắn nâng tay lên, tiếng xiềng xích leng keng lại khiến hắn lập tức bừng tỉnh.

Hắn mím môi, cố giữ giọng nhẹ nhàng: “Không liên quan đến cô.”

“Nhưng nếu không phải vì ta cải tạo thiết thai cung…”

“Dục gia chi tội, hà hoạn vô từ ? (muốn ghép tội thì sợ gì không có lí do) Không có thiết thai cung rồi cũng sẽ có chuyện khác.”

Thần sắc hắn càng bình thản, lòng Lý Doanh lại càng quặn thắt. Nàng lẩm bẩm: “Kim Di với ngài không thù không oán, tại sao lại muốn hại ngài? Hay là… có kẻ đứng sau sai khiến ông ta?”

Thôi Tuần gật đầu. Lý Doanh hỏi tiếp: “Bùi Quan Nhạc? Là Bùi Quan Nhạc phải không?”

Thôi Tuần không đáp, nhưng trong lòng nàng đã có câu trả lời. Nàng bất giác nghẹn ngào: “Tại sao ông ta luôn không chịu buông tha cho ngài?”

“Không.” Thôi Tuần bình tĩnh nói: “Là ta không muốn buông tha ông ta.”

Lý Doanh sững sờ trong chốc lát, nhưng rất nhanh đã hiểu. Dù Thôi Tuần chưa bao giờ nói với nàng Bùi Quan Nhạc đã làm điều ác gì, nhưng từ cái chết của Thịnh Vân Đình đến những câu hắn buột miệng nói ra trong lúc cực kỳ đau lòng lần duy nhất Thôi Tụng Thanh đến phủ, cộng thêm việc Bùi Quan Nhạc nhất quyết muốn đưa Thôi Tuần vào Đại Lý Tự, nàng cũng đoán được rằng Bùi Quan Nhạc chắc chắn có liên quan đến oan án của Thiên Uy quân.

Ba năm nay, Thôi Tuần không ngừng truy tìm chân tướng vụ án của Thiên Uy quân, còn Bùi Quan Nhạc vì muốn bảo toàn bản thân nên mới tìm mọi cách muốn lấy mạng hắn. Giữa hai người là huyết hải thâm cừu, không chết không thôi.

Hiện giờ, vợ của Bùi Quan Nhạc là Vương Nhiên Tê đã bị diệt khẩu, đồng minh Thẩm Khuyết bị lưu đày, những người thân cận xung quanh cũng lần lượt bị chỉnh đốn, buộc ông ta chó cùng rứt giậu, ra lệnh cho Kim Di vu khống giá họa cho Thôi Tuần.

Nếu độc kế của ông ta thành công, Thôi Tuần tất sẽ phải chết.

Lòng Lý Doanh tràn ngập nỗi sợ hãi. Nàng nhìn Thôi Tuần, giọng run run: “Ngài không phản bội Đột Quyết, cũng không giết Quách Cần Uy. Đây rõ ràng là vu oan giá họa! Thôi Tuần, ngài sẽ không sao đâu, đúng không?”

Thực ra, Thôi Tuần không phải thần tiên. Hắn chỉ là một kẻ bốn bề thọ địch, thân đầy ác danh. Ngay cả chính hắn cũng không biết liệu mình có thể toàn mạng hay không. Nhưng nhìn thấy vẻ mặt lo âu của nàng, hắn vẫn gật đầu, đáp một tiếng: “Ừ.”

Lý Doanh làm sao không hiểu? Nàng bối rối, cuống quýt nghĩ mọi cách: “Hay là, ngài nhờ Lư Hoài tới Đột Quyết điều tra thử xem? Ta thấy tính cách hắn cũng xem như thẳng thắn, nhất định có thể giúp ngài giải oan.”

Thôi Tuần nhìn nàng, chỉ đáp bằng bốn chữ: “Tích trọng nan phản.” (Chuyện đã quá sâu, không thể cứu vãn.)

Chưa nhắc đến việc Lư Hoài là cháu trai của Lư Dụ Dân thì đời nào hắn chịu đi Đột Quyết điều tra. Huống hồ, Khả hãn Tô Thái của Đột Quyết hiện tại là kẻ giết huynh đoạt vị, mà lưỡi dao ông ta dùng để thực hiện điều đó lại chính là Thôi Tuần. Nếu phải lựa chọn, đương nhiên ông ta sẽ muốn Thôi Tuần chết hơn là để hắn sống. Ai dám chắc chuyến đi Đột Quyết lần này sẽ không khiến oan khuất của Thôi Tuần càng thêm chồng chất?

Hơn nữa, Thôi Tuần đã sa vào tay Đột Quyết suốt hai năm, lại chịu cảnh lao ngục tại Đại Lý Tự một năm trời. Ba năm đó, tiếng xấu của hắn đã truyền khắp thiên hạ, trở thành ô danh khó lòng gột rửa.

Vì vậy, Thôi Tuần chỉ nói: “Tích trọng nan phản.”

Lý Doanh vốn tinh ý, nghĩ sơ qua đã hiểu rõ khúc mắc trong đó. Cảm giác tủi thân khiến đôi mắt nàng long lanh ánh nước, nghẹn ngào hỏi: “Chẳng lẽ chỉ có thể ngồi đây chờ chết thôi sao?”

Thôi Tuần trầm mặc nhìn nàng. Ban đầu, hắn thà chết chứ không muốn kéo nàng vào vòng xoáy này. Nhưng hiện tại, khi thấy nước mắt nàng từng giọt từng giọt rơi xuống, lòng hắn không khỏi thắt lại, cảm giác đau đớn khó tả. Nếu hắn thực sự chết đi, liệu nàng có càng đau lòng hơn không?

Hắn không biết.

Thôi Tuần mấp máy môi, định nói gì đó, nhưng cuối cùng lại chỉ im lặng.

Chính sự im lặng ấy lại nhóm lên trong lòng Lý Doanh một tia hy vọng. Nàng vội vã nói: “Ngài có cách mà, nhất định ngài sẽ nghĩ ra cách, đúng không?”

Khi nàng nói, một giọt lệ nhỏ tựa hạt châu sáng lung linh, đọng lại nơi đầu mi, chỉ chực rơi xuống. Nhìn giọt lệ sắp rơi ấy, Thôi Tuần không kiềm được mà đáp: “Có lẽ… có thể dành một tháng, đến Đột Quyết đòi lại thủ cấp của Cố soái…”

Hắn nói đến đây bỗng khựng lại. Năm chữ cuối cùng vừa thốt ra, hắn cảm giác như từng câu từng chữ đều đè nặng trong lòng, khiến ngực hắn thắt lại, đôi mắt bất giác nóng lên. Bàn tay đặt trên gối siết chặt thành quyền, khớp ngón tay trắng bệch.

Thủ cấp Cố soái… Trong trận chiến ở Lạc Nhạn Lĩnh, thủ cấp của Cố soái bị người Đột Quyết chém xuống, truyền đi khắp quân doanh, để lại vết thương không thể xóa nhòa trong lòng hắn. Sau đó, thủ cấp ấy biến mất không rõ tung tích. Khi hắn giữ chức Thiếu khanh ở Sát Sự Thính, đã từng phái người đến Đột Quyết điều tra, nhưng đường xa cách trở, ngôn ngữ bất đồng, lại thêm Khả hãn Tô Thái xảo quyệt cùng sự tiếp tay của Kim Di, những ám thám hắn cử đi đều không ai trở về. Thế nên, đến nay thủ cấp của Cố soái vẫn bặt vô âm tín.

Một tiếng gọi dịu dàng kéo Thôi Tuần trở về thực tại: “Thôi Tuần.”

Hắn ngẩng đầu, ánh mắt chạm vào đôi đồng tử trong veo như nước của Lý Doanh, lòng đau khổ như từng đợt sóng dữ dội bỗng dần lắng lại. Hắn giữ bình tĩnh, tiếp tục nói: “Chuyện dành một tháng sang Đột Quyết đòi lại thủ cấp Cố soái vốn dĩ không nằm trong kế hoạch của Bùi Quan Nhạc.”

“Vì sao ngài nói vậy?”

“Một tháng là khoảng thời gian quá dài. Nếu ta là Bùi Quan Nhạc, kiểu gì cũng sẽ mong đánh nhanh thắng nhanh, chứ không để đối thủ có thêm thời gian xoay để chuyển tình thế.”

“Ý của ngài là gì?”

“Kế hoạch của Bùi Quan Nhạc đã gặp trục trặc ở đâu đó. Ta đoán việc sang Đột Quyết đòi thủ cấp Quách soái là sách lược do Kim Di tự mình đề ra. Một mặt, ông ta muốn tranh thủ thêm thời gian để được sống. Mặt khác, tạo cơ hội để Bùi Quan Nhạc ngấm ngầm giở trò.”

Lý Doanh trầm ngâm suy nghĩ, rồi cũng nhận ra. Một tháng này, Bùi Quan Nhạc có thể tận dụng để làm giả chứng cứ, củng cố tội danh của Thôi Tuần, nhưng đồng thời, một tháng cũng đủ để Thôi Tuần phản công, rửa sạch oan khuất cho mình.

Nguy cơ, cũng chính là chuyển cơ.

Lý Doanh thở dài một hơi, đôi mày đang chau chặt cuối cùng cũng giãn ra đôi chút. Khóe môi nàng nở một nụ cười chua chát: “Cũng may, vẫn còn một tháng.”

Nhưng rồi nàng lại thì thầm: “Có điều, ngài bị giam ở đây, tin tức chẳng thể truyền ra ngoài, sao có thể phản công được chứ…”

Dường như chợt nghĩ ra điều gì, nàng ngước mắt nhìn hắn: “Thôi Tuần, để ta giúp ngài, được không?”

Không đợi hắn trả lời, nàng đã nói tiếp: “Đây là lần thứ ba ta nói muốn giúp ngài. Hai lần trước, đều bị ngài từ chối. Lần này, nếu ngài lại từ chối, ta sẽ không quan tâm thêm nữa. Nhưng ngài cũng đừng tiếp tục điều tra vụ án giúp ta. Hãy để ta làm một hồn ma lẻ loi cả đời, từ nay về sau, giữa ta và ngài không còn liên quan gì nhau nữa.”

Giọng nàng nhẹ nhàng, nhưng từng lời lại vô cùng kiên định. Lần này, Lý Doanh đã dùng những lời tuyệt tình chưa từng có để nói với hắn, khiến Thôi Tuần thoáng ngẩn người. Bỗng Lý Doanh bật cười: “Thôi Tuần, ta nói thật đấy. Ngài muốn đồng ý hay từ chối, tự mình quyết định đi.”

Nàng thực sự nghiêm túc. Thôi Tuần hiểu rõ, tuy nàng có vẻ ngoài yếu đuối nhưng nội tâm lại vô cùng cứng cỏi. Những gì nàng nói, chắc chắn sẽ làm được. Còn hắn, sao nỡ để nàng biến thành dã quỷ lang thang? Một lúc lâu, Thôi Tuần mới thất thần đáp: “Ta… đồng ý với cô.”

Lý Doanh rốt cuộc cũng nhẹ nhõm, dây thần kinh đang căng thẳng bỗng chốc thả lỏng. Nàng chớp mắt, hàng mi dài rung rinh, những giọt lệ nhỏ đọng nơi khóe mi cũng lặng lẽ rơi xuống. Đáng lẽ nàng phải thấy vui mừng, nhưng chẳng hiểu sao lại càng muốn khóc hơn. Nàng cắn môi, tháo tấm khăn lụa trắng mềm mại quấn nơi cổ tay. Khăn lụa được dệt từ tơ tằm thượng hạng, mềm mại như mây. Ban đầu, nàng định dùng nó để lau nước mắt, nhưng bỗng nhiên ngừng lại, nắm lấy một góc khăn, rồi dùng lực xé nó ra thành bốn mảnh.

Xé xong, Lý Doanh đứng dậy, bước đến trước mặt Thôi Tuần rồi quỳ xuống. Nàng cúi đầu nhìn đôi tay gầy guộc của hắn đặt trên đầu gối. Đôi tay giam cầm trong cặp cùm đen kịt càng thêm xót xa. Nàng mím môi, đưa tay nắm lấy cổ tay hắn.

Thôi Tuần ngẩn ra, tiếng kim loại vang lên khi cổ tay hắn giật lại theo bản năng. Nàng lên tiếng: “Đừng động đậy.”

Hắn vốn là vị quan được người người kiêng dè, vậy mà khi nghe hai chữ ấy từ nàng, hắn thực sự không nhúc nhích. Lý Doanh giữ lấy cổ tay hắn, cũng may Lư Hoài chưa làm khó quá mức, cũng may cổ tay hắn gầy đến mức chỉ còn da bọc xương, nên vòng sắt không quá chặt, vẫn còn một khoảng trống nhỏ. Nàng đẩy nhẹ chiếc cùm lên một chút, quả nhiên thấy phần da bên dưới bị ma sát đến đỏ rát.

Lý Doanh cụp mắt, nàng lấy ra một mảnh lụa mềm, cẩn thận quấn quanh cổ tay hắn, dịu giọng nói: “Hôm nay tình thế cấp bách, chỉ có thể dùng tạm cái này thôi.”

Thôi Tuần cúi đầu nhìn mảnh lụa trắng tinh quấn trên cổ tay mình, vẫn còn giữ mùi hương thanh khiết của nàng. Hắn nhẹ giọng đáp: “Cái này… đã là tốt lắm rồi.”

Lý Doanh khẽ mỉm cười, nàng lại tỉ mỉ quấn lụa lên cổ tay còn lại của hắn. Khi thắt nút, nàng đột nhiên nói nhỏ: “Thôi Tuần, từ nay về sau, ngài không cần một mình đối diện với tất cả nữa, ta sẽ luôn ở bên ngài.”

Nàng cúi đầu, dáng vẻ trầm tĩnh, từng động tác đều yên bình đẹp đẽ. Thôi Tuần nhìn chăm chú vào hàng mi dài như cánh chim của nàng, nói một tiếng: “Ừ.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 77: Càng thấy nhiều, ta càng muốn biện minh thay hắn



Thôi Tuần bị giam giữ trong phủ, tuy phải đeo cùm sắt, ăn cơm thừa canh cặn, nhưng cũng không quá khổ sở. Lý Doanh dùng lụa tơ tằm mềm nhất lót vào bên trong cùm sắt trên tay chân hắn, mang những món ăn chay được dâng cúng ở chùa đến để hắn dùng tạm, mỗi tối, nàng đều đốt một khối hương an thần trong phòng ngủ của hắn. Nhờ vậy, thân thể hắn không chịu quá dày vò. Ngược lại, do tạm gác hết công việc nên hắn có thêm thời gian để nghỉ ngơi, thậm chí khí sắc còn hồng hào hơn trước. Thế nhưng, cả hai đều hiểu rõ: sống hay chết, tất cả sẽ định đoạt trong kỳ hạn một tháng này.

Lý Doanh chau mày, vẻ mặt khó hiểu: “Ngài không giết Quách soái. Vết cắt trên cổ Quách soái chắc chắn không giống với dây cung của thiết thai cung. Vậy sao Kim Di dám khẳng định sau khi thủ cấp của Quách soái được đưa tới Đại Chu, sẽ trở thành bằng chứng buộc ngài vào tử lộ?”

“Thiết thai cung đã bị niêm phong, đưa vào Đại Lý Tự,” Thôi Tuần đáp. “Với khả năng của Bùi Quan Nhạc, việc lén lấy nó ra ngoài, dùng dây cung cắt đứt đầu một người, sau đó để một ngỗ tác (pháp y) có kinh nghiệm làm giả vết thương trên đầu thành xương sọ đã chết sáu năm trước, chẳng phải chuyện khó khăn gì.”

“Ý ngài là, dù Đột Quyết thật sự giao trả thủ cấp của Quách soái, thì Bùi Quan Nhạc cũng sẽ dùng một đầu lâu giả để đánh tráo?”

Thôi Tuần gật đầu: “Ban đầu, hẳn ông ta cũng không muốn phiền phức đến thế đâu.”

Do Hiền phi đột ngột đổi ý, ép Bùi Quan Nhạc phải dùng tới mưu kế của Kim Di. Có lẽ Bùi Quan Nhạc đã nguyền rủa Kim Di không biết bao nhiêu lần trong lòng. Một lời nói dối cần vô số lời nói dối khác để lấp liế.m. Nếu chỉ xảy ra chút sơ suất, mọi thứ sẽ đổ sông đổ biển, không thể cứu vãn.

Hiện tại, điều duy nhất ông ta yên tâm là Thôi Tuần đang bị giam trong phủ, mà phủ đệ chỉ có mỗi mình hắn. Thôi Tuần dù có thần thông quảng đại đến mấy thì cũng không tài nào tự cứu mình chỉ trong một tháng ngắn ngủi. Nhưng ông ta không biết rằng, dù trong phủ không có người thứ hai, nhưng lại có một “hồn ma.”

Đôi mắt Lý Doanh sáng lên: “Nếu chúng ta đã đoán được âm mưu của Bùi Quan Nhạc, vậy thì mọi việc trở nên dễ dàng hơn nhiều rồi.”

Đã nhìn thấu mưu đồ, thì có thể đi trước một bước, giành thế chủ động.

Thôi Tuần bị giam trong phủ, nhưng Lý Doanh vẫn có thể tự do ra vào.

Chỉ là, cho dù Lý Doanh có thể đi lại tự do trong phủ của hắn, giúp hắn truyền tin, nhưng rốt cuộc nàng cũng không thể hiện thân trước mặt người khác, nhiều chuyện cũng không thể tự tay làm được.

Vì thế, nàng nghĩ đến một người.

Ngư Phù Nguy.



Trong ngôi đại trạch xa hoa ở phường Quần Hiền, Ngư Phù Nguy vội vã tiến đến khu vườn mẫu đơn. Lúc này, Lý Doanh đang chống má, ngồi trên bãi cỏ xanh rì, nhìn nhạc công Tây Vực gảy khúc nhạc trên cây đàn Hạc [1] dựng đứng. Tiếng đàn trong trẻo, ngân vang. Thấy Lý Doanh, khóe môi Ngư Phù Nguy không khỏi hiện lên nụ cười ấm áp. Hắn cố gắng kìm nén niềm vui trong lòng, trước tiên bảo nhạc công Tây Vực lui xuống, rồi thong thả bước đến trước mặt Lý Doanh, cười nói: “Vài ngày trước phủ Thôi Tuần đã bị vây kín, mỗ còn lo lắng cho công chúa. May mắn thay, công chúa vẫn bình an.”

[1] đàn Hạc: hay còn gọi là hạc cầm, đàn Harp, đàn Harpe, không hầu; là một nhạc cụ thuộc bộ dây có số dây rất lớn tương đương piano và từng thông dụng ở châu Phi, châu Âu, châu Mỹ, châu Á và là một trong những dụng cụ âm nhạc có nguồn gốc lâu đời nhất trên thế giới. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 78: Đã vượt quá giới hạn



Lý Doanh muốn Ngư Phù Nguy làm một việc, chính là tìm đến vũ hầu Lưu Cửu của Sát Sự Thính, nhờ hắn cử các ám thám theo dõi đoàn xe áp tải thủ cấp của Quách Cần Uy.

Ngư Phù Nguy vốn cho rằng hiện nay Thôi Tuần đã rơi vào cảnh nguy nan nên hẳn các vũ hầu của Sát Sự Thính sẽ không chịu tuân lệnh, nhưng không ngờ khi hắn lấy ra thư tay của Thôi Tuần, Lưu Cửu lại cung kính nhận lấy. Y nói: “Phiền lang quân về bẩm báo với Thiếu khanh, mỗ nhất định sẽ không phụ sứ mệnh.”

Ngư Phù Nguy hơi sững lại, nhớ đến lời của Lý Doanh đêm qua, cuối cùng không nhịn được hỏi: “Bình thường, Thôi Thiếu khanh đối đãi với các ngươi rất tốt sao?”

Lưu Cửu rõ ràng ngẩn ra, Ngư Phù Nguy liền rút trong túi ra một mẩu bạc vụn, đưa tới trước mặt Lưu Cửu: “Đây là việc mỗ muốn biết, không liên quan đến Thôi Thiếu khanh. Mỗ cam đoan sẽ không tiết lộ lời ngươi nói cho Thôi Tuần biết, nếu không, mỗ chết không có chỗ chôn thây.”

Ngư Phù Nguy đã thốt ra lời thề độc như vậy, Lưu Cửu rốt cuộc cũng chịu mở miệng. Hắn suy nghĩ một chút về sự lạnh nhạt thường ngày của Thôi Tuần, rồi đáp: “Cũng không hẳn là rất tốt.”

Dù sao, cũng không giống một số quan viên khác đối với thuộc hạ hết sức ân cần, quan tâm đủ đường.

Ngư Phù Nguy càng không hiểu: “Nếu không tốt, vậy tại sao khi hắn lâm cảnh tù tội, các ngươi vẫn nguyện ý làm việc cho hắn?”

Lưu Cửu suy nghĩ một lát, nói: “Thiếu khanh đối với chúng ta không quá tốt, nhưng cũng không tệ. Ít nhất, người làm việc tận tâm có thể nhận được phần thưởng xứng đáng. Làm việc dưới trướng ngài được ba năm, cuộc sống của bọn ta tốt hơn trước nhiều, trước mặt Đại Lý Tự, cũng có thể ưỡn thẳng lưng. Nếu đổi một vị Thiếu khanh khác, chỉ e rằng còn chẳng bằng ngài ấy.”

“Nhưng danh tiếng của hắn…”

Lưu Cửu cười nhạt: “Ngư lang quân, bao năm qua, Sát Sự Thính chúng ta đã làm không ít chuyện trái với lương tâm. Nhưng ngài có dám khẳng định mấy vị đại quan nhị, tam phẩm trong triều đều sạch sẽ không chút tì vết? Ngồi đến vị trí ấy, liệu có ai là trong sạch hoàn toàn? Đều vì một chút quyền lực, tranh qua tranh lại mà thôi. Người của Thái hậu thất thế thì vào Đại Lý Tự, người của Thánh nhân thất thế thì đến Sát Sự Thính. Không phải vậy sao? Mỗ ở Sát Sự Thính mười năm, sớm đã nhìn thấu rồi. Danh tiếng của Thiếu khanh dù tệ đến đâu, nhưng ngài có thể giúp mỗ cơm no áo ấm, không coi mỗ như nô bộc mà tùy ý sai khiến hay đánh đập, vậy là đủ để mỗ theo ngài ấy rồi.”

Ngư Phù Nguy nhất thời không biết đáp thế nào. Lưu Cửu không phải người học rộng, trong mắt hắn, Thôi Tuần chỉ cần cho hắn no ấm, coi hắn là con người, lại thưởng công xứng đáng, những điều đó đã đủ khiến hắn cho rằng Thôi Tuần là một vị cấp trên đủ tiêu chuẩn. Những vũ hầu khác hẳn cũng đều nghĩ như thế.

Ngư Phù Nguy không khỏi bối rối. Trong nhận thức trước đây của hắn, Thôi Tuần là kẻ ti tiện, vô liêm sỉ, tàn nhẫn vô tình. Hắn cho rằng đám người như Lưu Cửu chỉ vì sợ hãi quyền thể của Thôi Tuần mà phải cam chịu đi theo. Nhưng hôm nay hắn mới biết, những vũ hầu này thật lòng muốn làm việc cho Thôi Tuần.

Lẽ nào, Thôi Tuần thật sự không phải là loại người mà hắn vẫn nghĩ?

Ngư Phù Nguy bỗng nhớ tới câu nói của Lý Doanh: “Ta càng nhìn thấy nhiều, càng muốn thay ngài ấy biện giải.”

Hắn cúi đầu trầm tư, có lẽ, đã đến lúc hắn nên nhìn nhận lại Thôi Tuần theo một cách khác.



Mười hai canh giờ không ngừng nghỉ, nhóm ám thám của Sát Sự Thính ngày đêm theo dõi đoàn xe hộ tống thủ cấp của Quách Cần Uy. Cuối cùng, bọn họ cũng nghe ngóng được chút tin tức hữu dụng.

Trong một lần nghe lén, ám thám bắt gặp hai tiểu lại đang nói chuyện. Một người than phiền: “Đột Quyết tuỳ tiện đưa cho chúng ta một cái đầu lâu, bảo rằng đó là đầu của Quách Cần Uy. Chúng ta lại cẩn trọng hộ tống như thế, làm sao biết được đó có phải đồ thật hay không?”

Người kia đáp:“Ta thấy chín phần là giả. Ta từng gặp Quách Cần Uy, ông ấy cao tám thước, oai phong lẫm liệt. Còn cái đầu lâu này, rõ ràng thuộc về người cao sáu thước, làm gì có nửa điểm tương đồng?”

“Vậy thì đây đúng là một cái đầu lâu giả?”

“Ôi, giả hay thật cũng chẳng quan trọng. Chúng ta cứ hộ tống tới nơi là xong việc.”

Ám thám nghe xong liền ghi nhớ trong lòng. Đến đêm, khi bọn lính canh ngủ say, hắn lén mở hộp gỗ ra xem, quả nhiên đầu lâu bên trong có kích thước nhỏ hơn nhiều, như lời tiểu lại kia nói.

Như vậy, đây rõ ràng không phải đầu của Quách Cần Uy.



Khi Lý Doanh thuật lại toàn bộ lời báo cáo của ám thám cho Thôi Tuần, nàng còn đưa hắn xem bản vẽ kích thước do ám thám phác hoạ. Thôi Tuần liếc mắt đã nhận ra ngay: đây chắc chắn không phải thủ cấp của Cố soái.

Lý Doanh lên tiếng: “Ta đoán Bùi Quan Nhạc đã đạt được thoả thuận nào đó với Khả hãn Tô Thái, nên ông ta mới đưa sang một cái đầu lâu giả. Dù sao, đến lúc cần, Bùi Quan Nhạc sẽ dùng chiêu tráo đổi bằng chiếc cung sắt để đánh lừa mọi người. Nếu cái đầu kia là thật, ngược lại còn gây thêm phiền phức.”

Thôi Tuần khẽ gật đầu. Bùi Quan Nhạc có thể tráo thủ cấp để lừa thiên hạ, thì hắn cũng có thể lợi dụng hành động ấy để giáng một đòn chí mạng lên kẻ kia. Chỉ là, nếu trong đòn chí mạng đó có thể tìm ra được thủ cấp của Cố soái, thì phần thắng sẽ càng lớn hơn.

Lý Doanh không kìm được bèn hỏi: “Thôi Tuần, ngài nói xem, thủ cấp của Cố soái giờ đang ở đâu?”

Thôi Tuần lắc đầu, trong mắt là một mảnh u tối: “Ta không biết.”

Nếu biết, hắn tuyệt đối sẽ không để thi hài Cố soái trôi dạt tha hương như vậy.

Nhìn thấy nét u buồn trên gương mặt hắn, Lý Doanh an ủi: “Không sao, chỉ cần chúng ta tìm được bằng chứng Bùi Quan Nhạc đánh tráo, vậy là đã đủ để thắng rồi.”

Thôi Tuần chỉ đáp nhẹ một tiếng “Ừm”, nhưng thần sắc vẫn có phần nặng nề. Thấy vậy, Lý Doanh bèn mỉm cười, nói: “Thôi Tuần, ta có thứ muốn cho ngài xem.”

Hắn hơi ngẩng lên: “Là gì vậy?”

Lý Doanh lấy ra một hộp gỗ sơn vuông vắn. Nàng mở hộp, bên trong là một đĩa bánh ngọt trắng ngần: “Hôm trước không được ăn bánh mứt quả của Phúc Mãn Đường, ta cứ thấy tiếc mãi, nên đã nhờ Ngư Phù Nguy mua lại một ít về đây.”

Nàng đặt đĩa bánh mứt quả trước mặt hắn: “Ngài nếm thử xem?”

Thôi Tuần cầm lên một miếng, tiếng xiềng xích trên tay hắn khẽ vang lên. Hắn cụp mắt, trầm giọng: “Lẽ ra món bánh này phải là ta mua cho cô.”

“Chuyện xảy ra bất ngờ mà.” Lý Doanh mỉm cười: “Lúc đầu, ngài vốn định cùng ta thưởng thức. Vì thế, là ta mua hay ngài mua, có gì khác biệt đâu? Quan trọng là, người cùng thưởng thức vẫn không đổi.”

Thôi Tuần không đáp, chỉ lặng lẽ cắn một miếng bánh mứt quả. Dù ngọt lành lan tỏa, hương trái cây nồng đượm, nhưng trong lòng hắn lại dâng lên từng tia áy náy. Vì hắn nàng đã làm rất nhiều việc, còn hắn, ngay cả việc mua cho nàng một hộp bánh mứt quả, cũng không thể.

Hắn cảm thấy vị ngọt như hóa thành nhạt nhẽo. Lý Doanh tựa như nhìn thấu tâm tư của hắn, dịu dàng nói: “Thôi Tuần, ngài có phải đang cảm thấy rất áy náy không?”

Thôi Tuần hơi ngẩn người, một lúc sau cúi đầu đáp: “Ta chỉ cảm thấy, cô đã hết lòng thuyết phục Ngư Phù Nguy, cố gắng cứu ta ra ngoài. Vậy mà ta lại chẳng thể mua nổi một hộp bánh cho cô. Thật sự, ta có lỗi với cô.”

Lời hắn vừa thốt, đầu cúi thấp, hàng mi đen dài che khuất ánh mắt, cố tình giấu đi tia phiền muộn ẩn sâu trong đáy mắt. Lý Doanh chăm chú nhìn đôi hàng mi tựa cánh quạ kia, lòng nàng không khỏi thầm thở dài. Người này, vì sao lúc nào cũng thích ôm hết mọi lỗi lầm về mình? Lần trước Thẩm Khuyết hủy hoại danh tiết của A Man, hắn đã cho rằng đó là lỗi của mình, đau khổ đến mức say mèm. Lần này không mua nổi bánh mứt quả, hắn lại cảm thấy có lỗi, đến mức chẳng nuốt trôi nổi dù chỉ một miếng bánh. Bề ngoài tưởng như lạnh lùng vô tình, nhưng đối với những người hắn để tâm, hắn lại quá mức nặng tình. Cứ vậy cũng đâu có tốt cho hắn.

Ánh mắt Lý Doanh dừng lại trên lá cọ lót dưới đáy hộp sơn mài, nàng nhẹ nhàng nói: “Thôi Tuần, ngài thực sự cảm thấy có lỗi với ta sao?”

Thôi Tuần gật đầu. Lý Doanh nói tiếp: “Được rồi, nếu đã vậy, ta thay ngài mua bánh mứt quả, ngài cũng hãy làm cho ta một việc để bù đắp đi.”

Thôi Tuần ngẩng đầu lên, thoáng ngạc nhiên: “Việc gì?”

Lý Doanh lấy ra lớp lá cọ từ trong hộp sơn, giơ lên trước mặt hắn: “Ngài hãy bện cho ta một con châu chấu bằng cỏ đi.”

Thôi Tuần nhìn chiếc lá cọ xanh trong lòng bàn tay nàng, thoáng ngẩn người: “Ta… không biết bện châu chấu cỏ.”

Hắn xuất thân từ thế gia danh môn, đôi tay này đã từng cầm bút viết chữ, gảy đàn, cầm kiếm, giương cung, nhưng chưa từng thử qua việc bện châu chấu cỏ bao giờ.

Lý Doanh như phát hiện ra điều gì mới mẻ, bỗng bật cười khúc khích: “Hóa ra ngài không biết bện châu chấu cỏ.”

Gò má tái nhợt của Thôi Tuần thoáng ửng lên vệt đỏ: “Công chúa biết bện sao?”

Lý Doanh gật đầu: “A nương đã dạy ta.”

Thái hậu xuất thân dân dã, đương nhiên biết những trò chơi dân gian ấy. Khi còn nhỏ, bà thường bện châu chấu cỏ chơi cùng nàng. Lâu dần, Lý Doanh cũng học được. Nàng nhìn Thôi Tuần, khẽ hỏi: “Vậy để ta dạy ngài nhé?”



Lý Doanh ngồi bên cạnh Thôi Tuần, đôi tay nàng khéo léo gấp chiếc lá cọ, ngón tay nhanh nhẹn lướt qua những đường gân lá. Thân mình con châu chấu, đôi râu nhỏ nhắn nhanh chóng hiện hình. Chẳng bao lâu, một con châu chấu xanh biếc sống động như thật đã xuất hiện trước mắt hai người. Nàng đưa con châu chấu bằng lá cho Thôi Tuần, rồi hỏi: “Ngài biết làm chưa?”

Hắn vốn dĩ có trí nhớ rất tốt, các bước làm của Lý Doanh vừa rồi từng chút từng chút hiện rõ trong đầu. Hắn gật đầu, đáp: “Hẳn là biết làm rồi.”

Tuy rằng đã hiểu cách làm, nhưng lần đầu tiên thử sức, tốc độ của hắn chậm hơn Lý Doanh khá nhiều. Nàng kiên nhẫn nhìn hắn dùng mảnh lá bên trái vòng qua cuống lá, tạo thành một nửa nút thắt, bắt đầu bện thân châu chấu. Khi hắn định vòng nửa nút thứ hai, lại có chút sai sót, đúng ra phải thắt nút từ bên phải cuống lá, chứ không phải bên trái. Lý Doanh không khỏi đưa tay chạm vào cuống lá, nhẹ nhàng nhắc: “Không phải bên trái, là bên phải.”

Lúc nàng vươn tay chạm vào cuống lá, Thôi Tuần vừa định vòng lá từ bên trái qua. Ngón tay hai người bất giác chạm vào nhau. Đầu ngón tay của Lý Doanh vốn thấp hơn nhiệt độ người thường, nhưng so với Thôi Tuần, lại có thể xem như ấm áp. Hắn chỉ cảm thấy đầu ngón tay truyền đến một cảm giác mềm mại, ấm nóng, còn nàng thì thấy một cảm giác lành lạnh, mát rượi từ đầu ngón tay hắn truyền lại.

Hai người đều sững sờ, rồi không hẹn mà cùng ngẩng lên, nhìn vào đôi mắt của đối phương, ánh mắt chạm nhau. Trong đôi mắt người kia, họ thấy rõ hình bóng phản chiếu của chính mình. Giữa khoảnh khắc giao nhau ấy, sự ấm áp và lạnh lẽo thoáng chốc hóa thành một cảm giác tê dại, chậm rãi len lỏi, mang theo cả chút rung động khó gọi tên.

Vẫn là Thôi Tuần kịp hồi thần trước, hắn rút ngón tay khỏi cuống lá, cúi đầu nói: “Quả nhiên là ta bện sai rồi.”

Lý Doanh lúc này mới phản ứng lại. Tim nàng bỗng đập nhanh, đầu ngón tay trắng ngần cũng phủ thêm lớp ửng hồng nhàn nhạt. Nàng vội vàng kéo tay áo, giấu bàn tay vào trong lớp vải rộng, không dám ngẩng đầu lên, chỉ nhỏ giọng nói: “Vậy… có cần ta bện lại một lần nữa không?”

Thôi Tuần vẫn không ngẩng đầu: “Không cần đâu.”

Hắn cẩn thận hồi tưởng từng bước Lý Doanh vừa thực hiện, rồi tiếp tục bện con châu chấu cỏ. Một lát sau, một con châu chấu đã hoàn thành.

Hắn cầm lấy đôi cánh châu chấu, đưa cho Lý Doanh: “Tặng cô.”

Lý Doanh không dám ngẩng đầu, cũng chẳng dám để lộ ngón tay khỏi tay áo, sợ rằng hắn sẽ nhìn thấy đầu ngón tay nàng đã đỏ rực cả lên. Thôi Tuần vì đôi tay mang xiềng xích nặng trĩu, cổ tay đã hơi mỏi, nhưng lại nghe Lý Doanh bỗng nói: “Ơ? Bên ngoài hình như có người đến?”

Thôi Tuần không khỏi đưa mắt nhìn về phía cửa sổ lụa mờ, Lý Doanh liền thừa lúc hắn phân tâm, nhanh tay cầm lấy con châu chấu cỏ trong tay hắn. Đợi khi Thôi Tuần quay lại, nàng đã nắm chặt con châu chấu trong tay, rồi lặng lẽ rụt tay về dưới lớp tay áo rộng thùng thình.

Nàng ho khan một tiếng, rồi nói: “Nhìn nhầm rồi, bên ngoài không có ai cả.”

Không đợi Thôi Tuần trả lời, nàng đã nói tiếp: “Ta hơi mệt, nên sẽ về phòng trước đây.”

Dứt lời, nàng đứng bật dậy, vội vàng bước nhanh ra cửa. Nhưng nàng lại không nhận ra, ngay cả vành tai cũng ửng hồng.

Mọi biểu hiện ấy, không gì thoát khỏi ánh mắt của Thôi Tuần. Hắn cúi đầu, ngón tay dường như vẫn còn lưu lại hơi ấm mềm mại từ tay nàng.

Hắn nghĩ, dường như… đã vượt quá giới hạn rồi.

Lý Doanh gần như chạy trốn khỏi khung cảnh ấy, vội vã trở về phòng. Nàng tựa lưng vào cánh cửa gỗ vừa khép, trái tim đập càng lúc càng loạn nhịp. Nàng mơ hồ đoán được bản thân đã dành cho Thôi Tuần một tình cảm nào đó, và khoảnh khắc vừa rồi, đã khiến nàng thêm xác minh điều ấy.

Phải chăng, tình cảm nàng dành cho Thôi Tuần, chính là…

Khi ý nghĩ ấy còn đang quẩn quanh trong đầu, nàng không nhận ra trên án thư đã có một loan đoan bằng vàng, lặng lẽ nằm đó tự bao giờ.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 79: A Sử Na Gia



Lưỡi đao chợt phát ra ánh sáng lục nhàn nhạt, cắt ngang dòng suy nghĩ của nàng.

Lý Doanh giật mình. “Loan đao vỏ vàng?” Nàng lẩm bẩm. “Là A Sử Na Gia? A Sử Na Gia đến tìm ta sao?”

Phải chăng, nàng ấy đã biết chuyện của Thôi Tuần?

Lý Doanh liền đốt một đóa Mạn Châu Sa Hoa, triệu hồi thân ảnh từ loan đao. Quả nhiên, ngay khi xuất hiện, lời đầu tiên của A Sử Na Gia là: “Có phải chàng gặp chuyện gì rồi không?”

Lý Doanh không khỏi kinh ngạc: “Sao cô biết được?”

“Là linh cảm.” A Sử Na Gia đáp: “Mấy ngày nay, ta cứ thấy bồn chồn bất an.”

Giống hệt như năm lần chàng chạy trốn ở Thảo Nguyên đột quyết, mỗi lần như thế, nàng đều tới thần điện Bột Đăng Ngưng Lê, cầu nguyện để chàng có thể thoát khỏi hiểm nguy. Nàng nói với địa thần rằng, chỉ cần chàng có thể toàn mạng trở về, nàng nguyện hiến dâng tất cả, đôi mắt của nàng, sinh mạng của nàng, máu thịt của nàng, địa thần đều có thể lấy đi, chỉ mong Thôi Tuần được bình an vô sự.

Thế nhưng, sau mỗi lần cầu nguyện, lòng nàng lại càng thêm bấn loạn, loạn đến mức cuối cùng, nàng nghe tin chàng bị bắt trở lại. Và lần này cũng vậy, cơn bất an ngập tràn khiến nàng sốt sắng hỏi Lý Doanh: “Rốt cuộc chàng đã xảy ra chuyện gì?”

Lý Doanh không khỏi xúc động trước tình cảm sâu đậm của nàng dành cho Thôi Tuần. Nàng khẽ gật đầu, đáp: “Đúng là hắn đã gặp chuyện không may.”

Trong sự nôn nóng của A Sử Na Gia, Lý Doanh chậm rãi kể lại việc Thôi Tuần bị vu oan tội giết hại Cố soái. Nghe xong, A Sử Na Gia liền phẫn nộ nói: “Chàng giết Quách Cần Uy khi nào chứ? Khi Ngột Đóa tỷ tỷ báo tin đầu của Quách Cần Uy bị chém xuống, truyền khắp quân doanh, chàng đã không kiềm được, khóc đến nỗi không thốt thành lời. Phải biết rằng, ngay cả khi bị Ngột Đóa tỷ tỷ hành hạ đến thế nào, chàng cũng chưa từng một lần rơi lệ. Sao chàng có thể làm ra chuyện ấy?”

“Ta cũng tin rằng hắn không giết Quách soái. Nhưng người khác thì không tin.” Lý Doanh ngừng một chút, rồi hỏi A Sử Na Gia: “Công chúa A Sử Na Gia, cô có biết đầu của Quách soái hiện đang ở đâu không?”

A Sử Na Gia nói: “Ngột Đóa tỷ tỷ từng muốn dùng thủ cấp của Quách Cần Uy để ép chàng phải khuất phục. Tỷ ấy nói, nếu hắn không chịu làm Liên Hoa Nô cho tỷ ấy, tỷ ấy sẽ băm nhỏ đầu Cố soái ngay trước mặt chàng rồi cho chó ăn.”

Lý Doanh không ngờ chỉ vì muốn ép Thôi Tuần phải cúi đầu mà A Sử Na Ngột Đóa mà có thể vượt qua mọi giới hạn như thế. Nàng cảm thấy dạ dày quặn lên, một cảm giác ghê tởm cuộn trào. Nàng nghiến răng hỏi: “Rồi sao nữa?”

“Thôi Tuần không đồng ý, bởi chàng biết nếu lần này chàng khuất phục vì chuyện này, thì tiếp theo sẽ là năm vạn thi thể của Thiên Uy quân được mang ra để uốn nắn con người chàng ngay lập tức. Chàng không thể để Ngột Đóa tỷ tỷ nắm được điểm yếu của mình. Tỷ ấy tức giận lắm, đã định làm như đã nói, nhưng bá phụ Ni Đô ngăn cản tỷ ấy. Bá phụ nói Quách Cần Uy là biểu tượng của Đại Chu, nếu xúc phạm thi thể ông ấy quá mức thì sẽ khiến người Đại Chu nổi giận. Vì vậy, sau khi đầu của Quách Cần Uy được đem truyền khắp ba quân thì đã được bá phụ Ni Đô đặt vào trong thạch tháp của vương đình. Nhưng ta nghe nói, chưa đến một năm sau, thủ cấp ấy đã biến mất một cách đầy ly kỳ, không còn nằm trong thạch tháp nữa.”

“Vậy thủ cấp ông ấy giờ đang ở đâu?”

A Sử Na Gia lắc đầu: “Ta không biết.”

Lý Doanh thoáng thất vọng: “Nếu tìm được thủ cấp của Quách soái, lần này Thôi Tuần nhất định có thể xoay chuyển tình thế.”

A Sử Na Gia trầm ngâm một lát rồi nói: “Nhưng có một người, sẽ biết được thủ cấp của Quách Cần Uy đang ở đâu.”

“Ai?”

“Chính Quách Cần Uy.”



Trong đại trạch của Ngư phủ, khi Lý Doanh truyền đạt đề nghị của A Sử Na Gia, Ngư Phù Nguy bất giác đưa mắt nhìn thiếu nữ đang ngồi yên lặng một bên. Khuôn mặt nàng tái nhợt, dung nhan tú lệ, không hề giống chút nào với hình dung về một người Đột Quyết hung tợn, tàn nhẫn. Nàng vì Thôi Tuần mà chết, sau khi chết ba năm chấp niệm vẫn không thể tiêu tan? Ngư Phù Nguy không biết nên xúc động vì sự si tình của nàng hay thương xót cho số phận bi ai ấy.

A Sử Na Gia lên tiếng trước: “Ngư tiên sinh, đề nghị của ta, liệu có khả thi không?”

Ngư Phù Nguy không trả lời ngay, mà hỏi ngược lại nàng: “Có đúng là Thôi Tuần chưa từng đầu hàng Đột Quyết không?”

“Chưa từng.” A Sử Na Gia quả quyết, từng lời chắc như đinh đóng cột.

Ngư Phù Nguy gật đầu: “Được, vậy lần này mỗ giúp Thôi Tuần, xem ra cũng không giúp lầm người.”

Điều mà hắn căm ghét nhất ở Thôi Tuần chính là việc hắn đầu hàng ngoại tộc. Nay biết được hắn chưa từng làm vậy, ấn tượng của Ngư Phù Nguy với Thôi Tuần đã thay đổi ít nhiều. Hắn bắt đầu trả lời câu hỏi của A Sử Na Gia: “Sau khi chết, thân xác và hồn phách sẽ tách rời. Nếu thi thể không được an nghỉ, hồn phách cũng chẳng yên bình. Nếu có thể tìm được hồn phách của Quách Cần Uy, có lẽ có thể biết được nơi đặt thi thể ông ta.”

Lý Doanh hỏi: “Hồn phách của Quách soái, chẳng phải đã bị sứ giả câu hồn đưa về địa phủ rồi sao?”

Ngư Phù Nguy gật đầu: “Quách Cần Uy tự sát, hồn phách của ông ta hẳn đã bị sứ giả câu hồn đưa đến Quỷ Phán Điện dưới Địa phủ, chịu sự cai quản của Tần Quảng Vương. Dù Quỷ Phán Điện canh giữ nghiêm ngặt, nhưng vẫn dễ chịu hơn so với Vong Tử Thành. Có điều, đường xuống địa phủ xưa nay vốn dĩ chỉ có đi mà không có về, vì thế việc tìm kiếm hồn phách của Quách Cần Uy cũng không hề dễ.”

Lý Doanh nhớ lại lần trước bản thân từng xuống địa phủ, cũng nhờ vào Phật cốt xá lợi mới có thể trở về. Nàng thở dài: “Ngư tiên sinh, trên đời này, ngoài Phật cốt xá lợi ra, còn vật gì có thể soi sáng Sinh Tử Đạo nữa không?”

Ngư Phù Nguy nhìn thoáng qua nàng, lập tức đoán được ý định trong lòng nàng: “Cô muốn đi?”

Hắn lắc đầu: “Không được. Vấn đề không chỉ nằm ở Sinh Tử Đạo, mà còn ở chỗ Quỷ Phán Điện nằm giữa Minh Tuyền. Cô có biết Minh Tuyền là gì không? Trời có cửu tiêu, đất có cửu tuyền, còn Minh giới có mười điện Diêm Vương. Tần Quảng Vương chính là Diêm Vương cai quản Quỷ Phán Điện. Điện ấy nằm giữa Minh Tuyền, mà nước Minh Tuyền chính là vật chí âm chí tà. Nếu không có quỷ sai dẫn đường, ngay cả những hồn ma bình thường cũng chẳng thể vượt qua được Minh Tuyền.”

Lý Doanh là hồn ma, không bị quỷ sai bắt giữ đã là kỳ tích, nói gì đến vượt qua Minh Tuyền?

Cho nên việc này, vạn vạn lần không thể thực hiện được.

Lý Doanh còn chưa kịp đáp lời, A Sử Na Gia đứng bên cạnh bỗng thở dài mà nói: “Hồn ma không thể vượt Minh Tuyền, vậy còn một tia chấp niệm, chẳng phải người, cũng chẳng phải quỷ thì sao?”

Ngư Phù Nguy ngẩn ra một lúc. Tuy là Quỷ thương, kiến thức uyên thâm, nhưng vấn đề này vẫn làm khó hắn. Hắn đáp: “Việc này mỗ thực sự không biết.”

Bởi từ trước tới nay, chưa từng có một tia chấp niệm không phải người không phải quỷ nào thử vượt qua Minh Tuyền.

“Để ta thử xem.” A Sử Na Gia nói, ánh mắt kiên định: “Biết đâu, ta có thể qua được Minh Tuyền, tiến vào Điện Quỷ Phán.”

Ngư Phù Nguy thoáng ngập ngừng. Hắn luôn cảm thông với cảnh ngộ của vị công chúa Đột Quyết này, không khỏi lên tiếng khuyên nhủ: “Công chúa A Sử Gia Na này, dù cô có thể vượt Minh Tuyền, vào được Quỷ Phán Điện, nhưng chỉ e rằng khi bước vào Minh Tuyền, tia chấp niệm của cô sẽ tan thành mây khói, chẳng thể kiên trì cho đến khi rời khỏi Địa phủ.”

A Sử Na Gia khựng lại, dường như đang hồi tưởng điều gì. Sau đó, nàng đưa mắt nhìn về phía Lý Doanh, ánh mắt ngập tràn kiên định: “Có phải nếu một phần ý thức của công chúa Vĩnh An nhập vào ký ức của ta, thì dù ở dương gian nhưng công chúa Vĩnh An vẫn có thể nhìn thấy những gì ta trải qua dưới Địa phủ?”

Ngư Phù Nguy trầm ngâm giây lát rồi đáp: “Có lẽ, là được.”

A Sử Na Gia nói: “Vậy còn chần chừ gì nữa, để ta đi thôi.”

Nàng vốn nhút nhát, làm việc luôn thiếu can đảm, quen thói nhìn trước ngó sau. Thế nhưng giờ đây, khi chủ động đi vào đường chết, nàng lại vô cùng dứt khoát và bình thản. Lý Doanh không khỏi xót xa: “A Sử Na…”

Chưa kịp nói hết câu, A Sử Na Gia đã cắt ngang: “Công chúa Vĩnh An, ta biết cô muốn nói gì. Cô nhất định sẽ khuyên ta không cần hy sinh bản thân như vậy, rằng chắc chắn sẽ có cách khác. Nhưng dù có cách khác đi chăng nữa, Thôi Tuần cũng không còn thời gian để chờ đợi. Đây là cách nhanh nhất, đúng không?”

“Nhưng, cô thật sự không cần phải làm vậy.” Lý Doanh khẽ nói: “Nếu cô làm điều này để chuộc tội cho trận roi đó thì có lẽ, hắn không trách cô nhiều như cô tưởng tượng đâu. Trong lòng hắn đã chất chứa quá nhiều chuyện, e rằng hắn chẳng còn thời gian để oán giận cô nữa.”

“Không phải vì chuộc tội.” A Sử Na Gia bình thản đáp: “Ta đã yếu đuối suốt hơn mười năm qua. Khi cuối cùng gom đủ dũng khí để mạnh mẽ một lần, lại bị Ngột Đóa tỷ tỷ gi.ết ch.ết. Nay, khi bị giam trong thanh thanh loan đao này quá lâu, dường như ta lại trở về làm một A Sử Na Gia nhu nhược như năm nào. Rõ ràng đã đến Trường An, nhưng ta vẫn không dám gặp chàng… Một kẻ như ta, sống hay chết, có khác biệt gì đâu? Ta không muốn như vậy nữa. Ta muốn can đảm thêm một lần.”

Vậy nên, nàng không chỉ cứu Thôi Tuần, mà còn muốn cứu chính mình.



Dưới sự kiên quyết của A Sử Na Gia, Lý Doanh và Ngư Phù Nguy cuối cùng cũng đồng ý. A Sử Na Gia lúc này như được trút bỏ gánh nặng trong lòng, nàng chủ động nói với Lý Doanh: “Công chúa Vĩnh An, có thể đưa ta đi gặp Thôi Tuần một lần không?”

Lý Doanh im lặng gật đầu. A Sử Na Gia lại nói thêm: “Ta còn muốn tự tay nấu cho chàng một bát canh thịt dê.”

Bát canh thịt dê năm đó, có lẽ từng là chút an ủi hiếm hoi trong những ngày tháng tăm tối của Thôi Tuần. Nhưng lại bị A Sử Na Ngột Đóa dùng roi hất đổ. Đây luôn là nỗi tiếc nuối không thể nguôi ngoai trong lòng A Sử Na Gia. Vì vậy, trước khi đối mặt với cái chết, nàng muốn nấu cho hắn một bát canh thịt dê để bù đắp lỗi lầm năm ấy.

Canh thịt dê được nấu trong căn bếp ở tân trạch của Lý Doanh. Trong nhà chỉ có những tỳ nữ bằng giấy qua lại, không gian bếp lặng lẽ, chỉ nghe tiếng nước canh trong nồi sôi lục bục.

A Sử Na Gia cầm chiếc quạt bồ, lặng lẽ quạt lửa, Lý Doanh ngồi bên cạnh, nét mặt đầy sự không nỡ.

Đột nhiên, A Sử Na Gia lên tiếng: “Công chúa Vĩnh An, cô vẫn cảm thấy tiếc cho ta sao?”

Lý Doanh cười khổ: “Ta chỉ đang nghĩ, nếu hắn không xuất hiện, có lẽ cô sẽ không mất mạng đến hai lần.”

A Sử Na Gia thở dài: “Nếu chàng không xuất hiện, hẳn ta đã bị Phụ hãn gả cho một quý tộc Đột Quyết nào đó, rồi sinh hai ba đứa con. Nhưng, sống bình an như thế thì có ý nghĩa gì chứ? Suốt đời chỉ là một công cụ. Ngược lại, ta phải cảm ơn chàng, vì đã cho ta cơ hội được làm chính mình.”

Lý Doanh ngẫm kỹ những lời nàng nói. Cả cuộc đời A Sử Na Gia, từ khi sinh ra, đã trở thành công cụ liên hôn của Phụ hãn. Có lẽ nàng chưa từng sống tùy thích theo ý mình. Vì thế, nàng mới ngưỡng mộ A Sử Na Ngột Đóa. Nhưng thực ra, trong thân thể của nàng cũng chảy dòng máu của tộc A Sử Na. Trong lòng nàng, cũng có một ngọn lửa, chỉ là ngọn lửa ấy bị quyền uy đè nén bấy lâu nay, cho đến khi gặp người tù binh Hán không bao giờ khuất phục, ngọn lửa trong nàng lại bùng lên lần nữa.

Nàng là A Sử Na Gia. Nàng muốn làm ngọn gió tự do tự tại trên thảo nguyên, nàng muốn sống một lần theo ý mình.

A Sử Na Gia mở nắp nồi, hương thơm nồng đượm của canh thịt dê lập tức lan tỏa khắp căn bếp. Nước canh sánh mịn, trắng ngần như tuyết đông. Nhìn bát canh, ký ức về bát canh bị lật đổ năm xưa lại ùa về. Ánh mắt A Sử Na Gia phảng phất sự phức tạp, nàng thủ thỉ: “Canh thịt dê, đã nấu xong rồi.”
 
Back
Top Bottom