Đam Mỹ Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót

Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 101: Chương 101


Tiền và ngựa chiến, đặc biệt là thợ và bản vẽ binh khí trong xưởng chế tạo đều là kho tàng có giá trị liên thành, có thể sẽ trở thành vận nước trăm năm của Đại Cảnh, dù thế nào đi nữa thì Hoắc Kinh Đường cũng không thể bỏ qua.
Triệu Bạch Ngư không khuyên được, cũng sẽ không khuyên hắn, chỉ dặn dò hắn chú ý an toàn và phải bình an trở về.
Hoắc Kinh Đường xoa mặt Triệu Bạch Ngư rồi cười, "Trong lòng ta có tiểu lang, nào dám dốc sức liều mạng?"
Triệu Bạch Ngư: "Ta đợi chàng về."
Hoắc Kinh Đường ôm Triệu Bạch Ngư hít sâu một hơi, vô cùng kiên định nói: "Sau lần này, hai ta nhất định phải từ quan bỏ chạy đấy nhé!"
Triệu Bạch Ngư bật cười, vỗ lưng Hoắc Kinh Đường thuận miệng an ủi đôi ba câu.
Hắn cũng nói tới nói lui câu này nhiều năm lắm rồi, hùa theo mấy câu thì có sao đâu?
Có năm mươi thiết kỵ Đường Hà đi theo Hoắc Kinh Đường đang chờ ở phía trước, mà Hoắc Kinh Đường thì cứ lề mà lề mề dính lấy Triệu Bạch Ngư, dù sao cũng chẳng có ai dám thúc giục, trong lòng họ đều thầm cảm thán chỉ có mỗi tiểu Triệu đại nhân mới có thể khiến cho tướng quân trông chẳng khác gì si nam oán nữ* trên đời này thôi.
(*) Si nam oán nữ – 痴男怨女: chỉ những đôi yêu thương sâu đậm nhưng không được như ý.
Triệu Bạch Ngư: "Ta thấy trời u ám lắm, chỉ e chiều nay sẽ có một trận tuyết nữa, mau lên đường để còn kịp tìm nhà trọ để nghỉ chân trước khi tuyết rơi, không thôi là phải ngủ ngoài rừng núi hoang vắng đấy."
Hoắc Kinh Đường: "Ta chịu đựng được, bọn họ cũng chịu được."
Triệu Bạch Ngư: "Nhưng ngựa không chịu được, lương khô cũng vậy, đến lúc đó đội trời lạnh gió tuyết mà đi không nói, cắn miếng lương khô còn rụng luôn cả răng thì chàng nói xem chàng vẫn quay về gặp ta được sao?"
Nếu như Hoắc Kinh Đường vô cùng chú ý đến hình tượng trước mặt tiểu Triệu đại nhân mà thiếu mất một cái răng, chỉ sợ từ nay về sau hắn không dám nhe răng cười nữa mất.
Hoắc Kinh Đường buồn bực trong lòng, thấp giọng đáp lại mấy câu, sau đó dặn Chiết Thanh Phong bảo vệ Triệu Bạch Ngư, rồi lại nói với y: "Cả nhà Chiết Thanh Phong đều là tướng sĩ, biết rõ thành phòng tuyến và địa hình Tây Bắc, là người trung hậu nhưng dụng binh như thần, cũng quen thuộc với phân bố lực lượng, thực lực của phiên binh và tập tục của phiên tộc, nếu như gặp phải vấn đề khó giải quyết thì có thể cho gọi hắn."
Triệu Bạch Ngư: "Ta biết rồi."
Dặn dò xong, Hoắc Kinh Đường mới xoay mình lên ngựa, siết chặt dây cương quát lên một tiếng, ngựa phi dũng mãnh như thần, thoáng chốc đã chạy về phía phương xa,
Triệu Bạch Ngư thấy vậy, vô thức chạy về phía trước vài bước, vẫy tay liên tục cho đến khi đoàn người ngựa biến mất khỏi đường chân trời, trên mặt mới hiện lên vẻ không nỡ.
Gió đông xào xạc, trời xa vạn dặm, tuyết phủ đồng hoang, ngày ngắn mây mờ, cảm giác quạnh vắng tràn ngập trong lòng.
Triệu Bạch Ngư thở dài một hơi trút hết phiền muộn trong lòng, phấn chấn tinh thần rồi mới bắt tay vào xử lí phiền phức mà Kinh Nguyên để lại.
"Về thôi."
Chiết Thanh Phong theo sau Triệu Bạch Ngư quay về Kinh Châu.
***
Phủ kinh đô, điện Văn Đức.
Tin thắng lợi từ Tây Bắc đặt trên bàn, Nguyên Thú đế hiếm khi thả lỏng chơi đùa với nhẫn ban chỉ, nhìn xa xăm để giải tỏa tâm trạng, ba người gồm Khang vương, Trần Sư Đạo và Triệu Bá Ung lần lượt xuất hiện phía dưới, nhìn là biết bọn họ đã sớm thăm dò được tin tức Ngạc Khắc Thiện ngã ngựa từ Tây Bắc, đến đây chỉ để hỏi thăm tình hình cụ thể mà thôi.
Ba người chắp tay: "Vi thần tham kiến bệ hạ."
"Ừ." Tâm trạng của Nguyên Thú đế rất tốt, không muốn làm khó bọn họ, cầm lấy tin thắng lợi ném xuống: "Xem đi."
Triệu Bá Ung cướp được trước rồi mở ra xem, hai người còn lại nghiêng đầu sang đọc nhanh như gió.
Trần Sư Đạo vô cùng kích động: "Không uổng một binh lính nào vẫn khiến cho phiên tộc tự giết lẫn nhau, Ngạc Khắc Thiện không trốn nổi tội thông đồng với địch phản quốc, trì hoãn quân tình, dối trên gạt dưới, xét nhà diệt tộc là còn nhẹ đấy, thân tộc trải rộng khắp tất cả thị tộc của phiên tộc Tây Bắc, nếu như tru di cửu tộc e là sẽ khiến phiên tộc lâm vào khủng hoảng mất, nhưng có thể lấy cớ này chấn chỉnh thị tộc Tây Bắc, triều đình cũng có thể tiến thêm một bước khống chế phiên binh, làm suy yếu binh quyền trong tay bọn họ!"
Triệu Bá Ung cũng khen ngợi: "Hay cho bọ ngựa bắt ve chim sẽ chực sẵn, thậm chí ngũ lang còn chẳng ra mặt mà đã khiến cho phiên tộc gắn bó chặt chẽ trăm năm tan rã, giải quyết mối hoạ Tây Bắc to lớn trong lòng triều đình, ngược lại để nó trở thành một trợ lực mạnh mẽ!"
Mắt thấy lão lại sắp tái phát căn bệnh thao thao bất tuyệt khen Triệu Bạch Ngư, Khang vương vội vàng lên tiếng chặn lời: "Ngạc Khắc Thiện bị xử tử, cần phải nhanh chóng xác định vị trí đại thủ lĩnh, trong tấu cũng có thỉnh cầu bệ hạ phong Giả Long Thiên Châu trở thành thủ lĩnh tộc Giả Long.

Tuy nói trước giờ chưa từng có nữ thủ lĩnh, nhưng bổ nhiệm cho Giả Long Thiên Châu chính là bước đột phá để triều đình can thiệp vào việc chọn lựa thủ lĩnh cho tất cả các thị tộc phiên tộc kể từ này về sau.

Ta cũng cần phải ủy nhiệm Nguyên soái mới cho nhánh binh Kinh Nguyên, còn Tri phủ Kinh Châu Mông Thiên Túng dù có ít tài lại trị nhưng điều binh khiển tướng thì dốt đặc cán mai, phụ thuộc Ngạc Khắc Thiện, về sau còn giấu giếm tình hình chiến sự, gián tiếp gây ra thương vong cho tướng sĩ hai trại Thiên Đô và An Ninh, phái tháo mũ cánh chuồn, đoạt lại công danh, cách chức làm thứ dân."
Thật ra hành vi phạm tội của Mông Thiên Túng tương đương với tội chém đầu răn chúng, tuy nhiên Đại Cảnh đối xử rất nhân từ với tướng lĩnh và văn thần đóng giữ biên cảnh, dù phạm tội cũng không phạt tử hình.
Nhưng cái gọi là từ bất chưởng binh đó đã nuôi dưỡng ra vô số quan liêu lười biến không làm tròn trách nhiệm ở biên cương.
Vốn tưởng Nguyên Thú đế sẽ đồng ý với lời khuyên của ông, không ngờ phán quyết lại là: "Mông Thiên Túng tự cao tự đại, không hiểu bài binh bố trận, học thức nông cạn mà còn không chịu lắng nghe ý kiến của các tướng phía dưới, binh bại thì bỏ trốn, cùng Ngạc Khắc Thiện dối gạt triều đình, biết rõ Ngạc Khắc Thiện chấp nhận hòa đàm với Thác Bạt Minh Châu rồi mà vẫn giữ kín không nói ra, thế cũng chẳng thua gì thông đồng với địch phản quốc, không gi3t chết thì quả là có lỗi với mười ngàn tướng sĩ Thiên Đô Trại."
Ba người bên dưới đều khiếp sợ, sau đó lại vui vẻ từ tận đáy lòng, đã đến lúc phải nổi trận lôi đình với đám quan liêu ở biên cảnh kia rồi.
Triệu Bá Ung tiếp lời: "Họa phiên tộc đã giải quyết xong, Tây Bắc không còn chiến sự, có phải bệ hạ nên cho gọi ngũ lang...!Kinh lược sứ về triều rồi không? Tây Bắc trời đông lạnh giá, suy cho cùng cũng không phải là nơi có thể ở lại lâu, Kinh lược sứ lại có nội thương, nếu như hàn khí thấm vào cơ thể, vết thương cũ tái phát mà nơi ấy không có đủ thuốc thang và thái y thì phải làm sao đây?"
Nguyên Thú đế muốn nói thái y đã từng đảm bảo Triệu Bạch Ngư không có nội thương rồi, nhưng mấy người ở dưới đều tự coi mình là trưởng bối của Triệu Bạch Ngư, thương yêu đến nỗi mù quáng luôn rồi, sợ hãi nên cứ bắt bẻ y thuật của thái y không thạo, rồi cứ luôn miệng càm ràm...!Bỏ đi bỏ đi.
"Bây giờ tuyết rơi kín đường rồi, sông cũng kết băng, chờ đến đầu xuân đi.

Vừa hay Kinh Nguyên đang cần người trấn giữ, đến đầu xuân chắc là sẽ ổn định hơn, lúc đó rồi về."
Ông vừa dứt lời, những người còn lại không dám nói gì nữa.
***
Mùa đông khắc nghiệt, đất trời đều là tuyết.

Triều đình đã cho ra kết quả xử lý phiên tộc, Kinh Nguyên và gửi lời khen ngợi Triệu Bạch Ngư, Mông Thiên Túng bị giải vào đại lao, đưa Thông phán Kinh Châu lên vị trí Tri phủ.
Trong phòng đốt than nên ấm áp hơn nhiều, nhưng Triệu Bạch Ngư chôn cả người mình trong áo choàng lông cáo vẫn cảm thấy lạnh, tay chân không chịu nổi đông cứng lại cả rồi mà mỗi ngày vẫn kiên trì xử lý công việc cả hai mặt quân chính của Kinh Nguyên, sẵn tiện chờ đợi tin tức từ Đại Hạ.
Lúc này Chiết Thanh Phong vén rèm đi vào nói: "Triều đình Đại Hạ đã lung lay dữ lắm rồi, Thác Bạt Minh Châu thắng trận về triều gia nhập cuộc chiến đoạt trữ, nhưng Tang Lương Ngọc luốn đối đầu với hắn lại yên tĩnh đến lạ.

Nửa tháng trước, Đại vương tử Đại Hạ bỗng nhiên phát động bức vua thoái vị, binh bại ngay cửa cung, bị Ngũ vương tử chém chết tại chỗ, mẫu phi và nhà cậu của Đại vương tử đều bị liên lụy, một Ngũ vương tử chẳng có tiếng tăm gì đột nhiên vùng lên trở thành đối thủ mạnh cạnh tranh với Thác Bạt Minh Châu.

Điều kì lạ nhất chính là đã đến lúc này rồi mà Tang Lương Ngọc lại đóng cửa phủ Quốc sư, nói là cầu phúc cho bệ hạ, không hề hỏi đến sự tình trong triều."
Báo cáo xong, gã mới cảm thán: "Đường đoạt trữ bất ngờ thay đổi, còn chưa đến giây cuối cùng thì không biết được kết quả."
Triệu Bạch Ngư quấn chặt áo choàng lông chỉ chừa mặt ra ngoài, màu da trắng như ngọc, lúc này y mới rũ mắt nói: "Hoàng đế Đại Hạ không còn sống lâu được nữa, chậm nhất là đầu xuân sẽ có kết quả."
Chiết Thanh Phong: "Là thế nào?"
Triệu Bạch Ngư: "Tang Lương Ngọc không thể không hành động, trong lòng ông ta biết rõ một khi Thác Bạt Minh Châu ngồi lên cái ghế kia, thì người đầu tiên bị đưa ra chặt đầu chính là ông ta.

Nhưng Thác Bạt Minh Châu đã nắm được nhược điểm của ông ta, ông ta không thể hành động nên sẽ giúp đỡ những người khác...!Không một vương tử nào có thể từ chối cành ô liu mà Tang Lương Ngọc ném tới cả, có điều Tang Lương Ngọc là người Đại Cảnh, bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị các vương tử ngoại thích qua cầu rút ván, chỉ có thể chọn đẩy những vương tử thế đơn lực bạc lên cái ghế kia thôi, như vậy mới tiện bề hành động."
Chiết Thanh Phong đã rõ: "Nhà mẹ của Ngũ vương tử không hiển hách, vốn không thể có được phần thắng đoạt trữ cho nên mới là sự lựa chọn tốt nhất, Tang Lương Ngọc đóng cửa không ra ngoài, thực tế đang điều khiển triều đình, không động chính là động, không tranh chính là tranh, nhưng vì sao Triệu đại nhân lại khẳng định đầu xuân sẽ có kết quả?"
Triệu Bạch Ngư: "Ghi chép buôn bán ở các chợ ven biên giới cho thấy thương nhân Đại Hạ mua chủ yếu là vải sợi trắng, số lượng đèn bơ cũng tăng mạnh, mà vải sợi trắng dùng để làm đồ tang, đèn bơ thì hẳn là để Đại Hạ cúng người chết lúc chôn cất.

Khứu giác của thương nhân rất nhạy, nhất định là bọn họ đã nhận ra, còn vì sao là đầu xuân thì...!Vương tử tranh ngai vàng cần thời gian, có điều bây giờ vẫn đang giằng co chưa dứt, trừ phi có người phá vỡ được cục diện bế tắc này mới thôi."
Chiết Thanh Phong im lặng nghe y phân tích, vừa sợ vừa thán phục trước sự hiểu biết về thế cục Đại Hạ của Triệu Bạch Ngư, tuy không biết được tình tình thật giả ra sao, nhưng lời y nói có tình có lý, tin tưởng cũng không sao.
Triệu Bạch Ngư suy nghĩ, lập tức cầm bút lên viết mấy câu vè rồi giao cho Chiết Thanh Phong: "Có thể tìm cách để câu vè này truyền đi khắp phủ Hưng Khánh không?"
Phủ Hưng Khánh là thủ đô của Đại Hạ.
Chiết Thanh Phong xem thử rồi gật đầu: "Có thể." Rồi gã nói: "Mấy câu vè này chỉ thẳng Tang Lương Ngọc cấu kết với Ngạc Khắc Thiện, ngầm nói ông ta lén lút qua lại Đại Cản, đại nhân muốn mượn nó để tấn công Tang Lương Ngọc sao? Nhưng mà đây cũng chỉ là tin đồn thất thiệt, không có chứng cứ, không thể làm gì Tang Lương Ngọc được."
Triệu Bạch Ngư mỉm cười, "Không có lửa làm sao có khói, tin đồn mạnh nhờ thổi phồng.

Còn nữa, ngươi nói xem vì sao Thác Bạt Minh Châu đã bắt được nhược điểm của Tang Lương Ngọc rồi mà không dám lấy chúng để kéo Tang Lương Ngọc xuống ngựa? Bởi vì hắn biết rõ khi đưa những chứng cứ này ra thì chỉ càng thúc đẩy tiếng tăm của Tang Lương Ngọc lên cao hơn mà thôi, đừng quên Tang Lương Ngọc cấu kết với Ngạc Khắc Thiện là để dùng bạc Đại Cảnh phát triển kinh thế Đại Hạ, tạo phúc cho triều đình Đại Hạ.

Sở dĩ Tang Lương Ngọc sợ hãi là sợ Thác Bạt Minh Châu cắt câu lấy nghĩa, tung lời đồn ra, nói ông ta là người Đại Cảnh, và việc ông ta qua lại với Ngạc Khắc Thiện nhiều năm là sự thật, nếu như hắn gây khó dễ có chừng mực thì sẽ có thể dẫn dắt triều thần bắt tay nhau đoạt lại quyền lực trong tay ông ta, hoặc là giam cầm ông ta lại.

Mặc dù không thể giết trong một lần hành động, nhưng đủ để tạm thời ép Tang Lương Ngọc lui khỏi chiến trường đoạt trữ.

Chỉ cần một chút thời cơ thôi, bỏ qua cơ hội đoạt trữ, dù có được trả lại trong sạch thì ngày sau triều đình Đại Hạ cũng tuyệt không để cho Tang Lương Ngọc được sống yên ổn."
Chiết Thanh Phong đã hiểu.
Chẳng trách Thác Bạt Minh Châu đã có thể uy h**p Tang Lương Ngọc nhưng lại không dám thừa cơ gi3t chết, trước đây cũng cảm thấy thắc mắc, Tang Lương Ngọc cấu kết với Ngạc Khắc Thiện rõ ràng rất có lợi cho Đại Hạ, làm sao ông ta vẫn có thể bị cản trở cho được.
Hóa ra là vì chuyện đoạt trữ.
Triệu Bạch Ngư lại nói: "Tung ra lời đồn vào lúc này chính là để uy h**p Tang Lương Ngọc, ông ta không thể điều tra ra ngọn nguồn, ngươi nói xem ông ta sẽ đoán là ai hại mình?"
Chiết Thanh Phong gật như bật thốt ra: "Thác Bạt Minh Châu!"
Triệu Bạch Ngư: "Thác Bạt Minh Châu không tuân thủ ước định, tự tiện ra tay, ngươi đoán thử Tang Lương Ngọc có đánh trả lại không?"
Chiết Thanh Phong: "Có!" Không chờ Triệu Bạch Ngư tiếp tục dẫn dắt, gã đã nói trước: "Tang Lương Ngọc đánh trả, Thác Bạt Minh Châu sẽ không thờ ơ, hắn có thể đoán ra được lời đồn, nhưng sợ hãi dồn nén nhiều năm sẽ khiến cho hắn phản ứng quá khích, không thể chờ đến khi tra rõ chân tướng hoặc dứt khoát từ bỏ, hắn sẽ tấn công Tang Lương Ngọc, bởi vì trong lòng hắn cũng biết Ngũ vương tử đã trở mình vùng dậy, sau lưng còn có bóng dáng Tang Lương Ngọc.

Thay vì đối phó với một con rối, chi bằng trực tiếp gi3t chết kẻ giật dây núp phía sau!"
Triệu Bạch Ngư: "Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn dù bị Tang Lương Ngọc cố gắng nhắm vào vẫn có thể đợi thời trở lại chứng tỏ năng lực của bọn họ không kém, có lẽ họ đủ sức chèn ép Tang Lương Ngọc đến bước đường cùng."
Dường như nhớ ra gì đó, y líu ríu nói: "Ta lại rất tò mò "tên điên Tang Lương Ngọc" mà Ngạc Khắc Thiện nói có thể điên đến mức nào? Đó chính là kẻ thù mạnh nhất đã quang minh chính đại khiến cho Vương Nguyệt Minh thất bại, ta khó mà không tò mò cho được."
Lấy lại tinh thần, Triệu Bạch Ngư dặn dò: "Khí hậu cũng ấm áp hơn nhiều rồi, bảo các ngươi đi thu gom lương thực, nước và vật tư, đã chuẩn bị xong hết chưa?"
Chiết Thanh Phong gật đầu: "Từ trước lúc tuyết rơi nhiều chặn kính đường, bọn ta đã chọn mua lương thực từ nam thương trữ trong kho lương từ sớm rồi, hơn ba mươi giếng nước trong thành cũng đã cho người đến trông coi, băng cũng đã được gọt ra từ sông băng đang được trữ ở hầm ngầm, các vật tư còn lại cũng đều đã chuẩn bị xong, có điều thời gian gấp rút quá, hơn nữa nơi này xa xôi, dù có cố hết sức chuẩn bị thì số lượng vẫn không nhiều."
Triệu Bạch Ngư hỏi số lượng, tính toán rồi nói: "Cũng không tệ lắm.

Đi làm việc đi."
Chiết Thanh Phong nghe lệnh làm việc.

Chiết Thanh Phong đi rồi, Triệu Bạch Ngư mới cau mày lộ ra sắc mặt nghiêm trọng.
Y không dám coi thường Tang Lương Ngọc, có thể dùng thân phận dị tộc leo lên vị trí Quốc sư thì chắc chắn là người rất khôn ngoan, chiêu trò nhỏ như tung lời đồn này không thể lừa Tang Lương Ngọc.
Điều mà Triệu Bạch Ngư đánh cược chính là liệu rằng hai con chim sợ cành cong Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn sợ Tang Lương Ngọc đến mức nào, cược cả những người mà Vương Nguyệt Minh để lại Đại Hạ có quyết thề không thay lòng hay không.
***
Phủ Hưng Khánh, thủ đô Đại Hạ
Phủ Quốc sư.
Quản gia cầm mấy tờ giấy trong tay từ bên ngoài chạy vội vào thư phòng, mà trong phòng có một người đàn ông trung niên khoác áo choàng, dáng vẻ tiên phong đạo cốt đang nghiêm túc xem bản đồ Đại Hạ, không ngẩng đầu lên mà hỏi.
"Chạy gì mà chạy?"
Người này chính là Tang Lương Ngọc.
Quản gia vội vàng đưa giấy tới: "Đầu đường cuối xóm đều xuất hiện câu vè này, đã hát được ba ngày rồi, bây giờ thư sinh võ tướng trong các quán trà quán rượu đều đang truyền tai nhau, chắc là quý tộc trong kinh đô cũng biết rồi."
Tang Lương Ngọc cầm lấy xem, sắc mặt lập tức lạnh xuống.
Quản gia: "Có phải là do Nhị vương tử phái người...?"
"Không phải hắn.

Hắn và Cao Di Sơn đều không ngu, chúng biết rõ thả tin trong giờ phút quan trọng này không được lợi lộc gì, là có người hãm hại."
Quản gia: "Ngoại trừ Nhị vương tử thì còn ai biết nữa?"
Tang Lương Ngọc nghiêm mặt nhìn bản đồ, một lúc sau mới hỏi: "Ngạc Khắc Thiện bị chém chết rồi à?"
Quản gia: "Đã là chuyện tháng trước rồi, không phải ngài đã biết sao?"
Tang Lương Ngọc thở dài một hơi: "Triệu Bạch Ngư...!Ngươi nói xem có phải là ta coi thường Triệu Bạch Ngư quá rồi không?"
Quản gia: "Đại nhân có tài ngang dọc trời đất, Triệu Bạch Ngư kia chẳng có công danh gì, nhờ mấy năm trước gả vào phủ quận vương thanh danh mới lên cao thôi mà? Ngài xem thường y là vì ngài có tự tin, có tư cách, còn để lão nô nghĩ thì Triệu Bạch Ngư kia bàn về đánh chiến, quan trường, mưu lược lẫn lòng người đều không bằng ngài."
Tang Lương Ngọc: "Nhưng Vương Nguyệt Minh đã thất bại dưới tay y rồi."
Quản gia: "Nhưng Vương Nguyệt Minh cũng thua dưới tay ngài đấy thôi."
Tang Lương Ngọc chỉ tay vào bản đồ, nheo mắt lại nói: "Vương Nguyệt Minh thua là vì bị người ta tính kế, nhưng tính cách và mưu lược của ông ta hơn ta rất nhiều.

Một thư sinh què quặt vẫn có thể hô mưa gọi gió suốt ngần ấy năm ở Lưỡng Giang...!Có thể tra ra sự thật năm đó được không? Có trả thù ta được không? Ta và ông ta xa cách hai mươi năm, ta không thể đoán được suy nghĩ của ông ta, ông ta sẽ làm cách nào để trả thù ta?"
Quản gia: "Vương Nguyệt Minh kia quyền cao đến đâu thì cũng chỉ là một người có chút tiếng tăm trong thương trường Lưỡng Giang mà thôi, lấy tiền khai thông quan trường, chẳng phái đã chịu kết cục thân bại danh liệt rồi hay sao? Thủ đoạn thông thiên đến mức nào mà có thể trả thù được người đứng trên vạn dân như ngài ở Đại Hạ xa xôi này chứ?" Liếc nhìn bản đồ và tờ giấy, lão nhắc lại: "Đại nhân, ta phải nhanh chóng giải quyết lời đồn thôi, cẩn thận có người đem nó đi làm văn đấy.

Về phần Nhị vương tử...!Không quan tâm có phải do hắn làm hay không, cũng nên khều một cái, để cho bọn chúng đỡ phải thắc mắc ai mới là chủ của triều đình Đại Hạ này!"
"Thác Bạt Minh Châu không đủ để gây sợ hãi." Tang Lương Ngọc nhàn nhạt lên tiếng: "Ta nhớ ở Đại Hạ có bốn xưởng chế tạo vũ khí đúng chứ?"
Quản gia: "Đại nhân nhớ nhầm rồi, Đại Hạ chỉ có bốn xưởng chế tạo, chia ra ba nơi là Hưng Khánh, Tây Bình và Tây Lương."
Tang Lương Ngọc lắc đầu: "Năm Sùng Tông thứ tám, huyện Cô Tang phát hiện được một mỏ than cho nên đã bí mật xây dựng một xưởng chế tạo vũ khí ở đó, dùng mỏ than đó cung cấp cho cả nước, đến năm Sùng Tông thứ mười hai, mỏ than bị khai thác sạch, xưởng chế tạo vũ khí cũng bị bỏ đi, nhưng gần đây lúc rảnh rỗi ta có xem tấu tiêu thụ dòng chảy của các huyện trong phủ trình lên, phát hiện được điều kì lạ."
Quản gia tò mò: "Kì lạ ở đâu?"
Tang Lương Ngọc: "Mười lăm năm trước, có thương nhân họ Vương mua một ngọn núi ở huyện Cô Tang để trồng quýt."
Quản gia không nhịn cười được: "Trồng quýt ở Tây Lương là lỗ vốn tuột khố luôn đấy không phải sao?"
Tang Lương Ngọc: "Đúng vậy, nhưng mà nó vẫn giúp chủ kiếm được bộn tiền, thuế kinh doanh nộp hàng năm luôn cố định ở một con số, mà con số này lại không thay đổi trong mấy chục năm trời! Làm sao có thể không nhìn ra vấn đề chứ? Ta phái vài người đến huyện Cô Tang phủ Tây Lương xem thử, trong lòng của ta bất an, bất an vô cùng."
Kể từ khi Triệu Bạch Ngư bắt đầu trảm hơn phân nửa quan trường Đông Nam, Tang Lương Ngọc đã cảm thấy mọi chuyện không như ý, Vương Nguyệt Minh vốn đã chết rồi, lẽ ra họa lớn trong lòng đã bị khai trừ, ông ta phải được sống an nhàn rồi mới đúng, nhưng không ngờ vẫn còn một số tiền lớn vào sổ, vẫn còn tai họa ngầm Ngạc Khắc Thiện, ngay cả hai con tôm tép Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn cũng nắm được nhược điểm của ông ta.
Ba năm qua, triều đình rung chuyển, quý tộc tranh quyền đoạt lợi, vơ vét tài sản quốc gia một cách trắng tợn khiến cho dân chúng vào chẳng bằng ra, đáng sợ hơn nữa chính là tiền tệ Đại Cảnh còn lưu thông nhiều hơn cả tiền Đại Hạ, mà tiền trang Đại Thông có thể đổi tiền Đại Cảnh lại không chịu sự quản lý của quốc gia.
Đã vô số lần Tang Lương Ngọc có ý đồ nạp tiền trang Đại Thông vào quyền sở hữu của quốc gia nhưng đã bị quý tộc trong triều ngăn cản, đến cả bệ hạ cũng nghi ngờ tấm lòng của ông ta.
Từ lâu bọn họ đã được tiền trang Đại Thông đút no tiền, sợ rằng nếu như nó bị sáp nhập vào triều đình thì sẽ không moi được một xu nào nữa.
Kết quả là ngồi nhìn tiền trang Đại Thông lớn mạnh, qua lại với quý tộc thân hào, nếu như đột nhiên nổi loạn chỉ sợ dân chúng sẽ lầm than, nó cũng có thể phá hủy chính quyền chỉ trong khoảnh khắc, ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia.
"Các thám tử được phái đi điều tra người đứng sau bức màn của tiền trang Đại Thông trở về, nói rằng đã thấy Thác Bạt Minh Châu bỏ vốn ủng hộ, cũng muốn kiếm ít công lao." Tang Lương Ngọc khó nén được sự tàn nhẫn trong ánh mắt, "Đi nghe ngóng nơi ở của ông chủ Đại Thông đi, sau khi lấy được con dấu quản lý tiền trang thì gi3t chết!"
Quản gia: "Tuân mệnh!"
***
Ông chủ tiền trang Đại Thông vừa mới gặp mặt nói chuyện với Thác Bạt Minh Châu xong đã bị ám sát tại chỗ ở, sau đó được một nhóm người khác cứu đi, tin tức này khiến cho Thác Bạt Minh Châu bị chấn động.

Thác Bạt Minh Châu lần theo dấu vết trên người của kẻ hành thích thì tra được chúng đến từ phủ Quốc sư, trong lòng rõ ràng đây chính là lời cảnh cáo của Tang Lương Ngọc trước hành động của hắn, thế là ruột gan rối bời nói với Cao Di Sơn: "Ta đã từng nói mặc dù lời đồn kia không xuất phát từ chỗ chúng ta, nhưng Tang Lương Ngọc chắc chắn vẫn sẽ cắn chặt cái cớ này để ra tay mà!"
Cao Di Sơn cũng có hơi bàng hoàng, có điều ông ta nhanh chóng bình tĩnh lại, tỉnh táo trả lời: "Nếu như Tang Lương Ngọc ra tay, chúng ta sẽ dứt khoát nói ra chuyện ông ta tư thông với nước địch ở trước mặt bệ hạ."
Thác Bạt Minh Châu: "Nhưng phụ hoàng rất tin tưởng tên tà đạo Tang Lương Ngọc này!"
Cao Di Sơn: "Hoàn toàn ngược lại, từ trước đến nay bệ hạ luôn phòng bị Tang Lương Ngọc, cùng lắm là lợi dụng ông ta để đối phó với quý tộc Đại Hạ thôi.

Giờ này bệnh tình của bệ hạ đã nguy kịch, điều mà ngài ấy lo nhất chính là để ngoại thích tham gia vào chính sự và Tang Lương Ngọc cướp nước.

Dù là ngài hay Ngũ vương tử đều không có mẫu tộc hiển hách, hơn nữa cũng đã đến tuổi hiểu chuyện, không phải lo lắng về họ ngoại, vậy nên chỉ còn sót lại mầm họa là Tang Lương Ngọc mà thôi! Diệt trừ Tang Lương Ngọc, không ai có thể thoát chết tội thông đồng với địch phản quốc cả."
Thác Bạt Minh Châu hơi đổi ý: "Vậy thử xem, ta sẽ vào cung một chuyến."
Cao Di Sơn: "Gặp được bệ hạ rồi, điện hạ phải ăn ngay nói thật đấy."
Thác Bạt Minh Châu hơi khó hiểu: "Ăn ngay nói thật là nói tốt cho Tang Lương Ngọc à?"
Cao Di Sơn lắc đầu, vẫn kiên nhẫn giải thích: "Điện hạ chỉ cần nhớ kỹ một câu thôi, bệ hạ muốn diệt Tang quốc sư."
Thác Bạt Minh Châu động não, thoáng chốc đã hiểu.
Cao Di Sơn thấy thế rốt cuộc cũng an tâm, Vĩnh An đế biết rõ phải làm thế nào mới giết được Tang Lương Ngọc hơn cả Thác Bạt Minh Châu.
***
Thác Bạt Minh Châu vào cung một chuyến, nói hết chuyện Thiên Đô Trại, bao vây Kinh Châu cùng với nội dung cuộc hòa đàm của hắn và Ngạc Khắc Thiện cho Vĩnh An đế Đại Hạ, không giấu giếm một chuyện nào.
Vĩnh An đế nằm trên giường bệnh không ngồi dậy nổi, chỉ duỗi một tay ra khỏi rèm che vẫy vẫy, có một thái giám tiến lên nói: "Nhị vương tử, bệ hạ đã biết rồi.

Cứ để chứng cứ lại đây, ngài đi về trước đi."
Thác Bạt Minh Châu do dự một chút rồi mới đứng dậy rời đi.
***
Ngày hôm sau tảo triều, ngôn quan lấy bài vè trên phố để vạch tội Tang Lương Ngọc qua lại với nước địch, nói là không có lửa làm sao có khói, nếu như tin đồn đã lan khắp bốn phía thì ắt phải có nguyên nhân.
Dù có vô tội thì vẫn cần phải tra.
Ngôn quan khuyên can bị bác bỏ.
Ngày thứ hai, trong triều có thêm nhiều đại thần vạch tội hơn nữa, vẫn bị bác bỏ.
Ngày thứ ba, ngôn quan tiếp tục buộc tội, trình lên thư từ qua lại giữa Tang Lương Ngọc và Ngạc Khắc Thiện, chữ viết không phải là giả.
Giám quốc Tể tướng lệnh cho người truyền gọi Tang Lương Ngọc đến đối chiếu, người nọ ngoài câu "thanh giả tự thanh" ra thì không nói thêm gì nữa, vì vậy nên bị giam vào đại lao Hình bộ, đợi chờ tra rõ.
Đương nhiên là không có cơ hội điều tra, chỉ thu thập được những chứng cứ ông ta tùy tiện ngụy tạo, Tang Lương Ngọc giống hệt như cá trên thớt.
Thế nhưng đến ngày thứ tư, trong phủ Hưng Khánh có một bài vè được truyền khắp phố lớn ngõ nhỏ, nói rằng Ngạc Khắc Thiện thông đồng với địch phản quốc nên đã bị chém chết, mà Tang Lương Ngọc phải chịu khổ vận chuyển vật tư từ Đại Cảnh vào Đại Hạ để nâng cao năng lực kinh tế của quốc gia.
Cũng cùng lúc đó, người của Tang Lương Ngọc trong triều huy động toàn lực hành động.
Vừa phải nghĩ cách cứu Tang Lang Ngọc vừa phải nhân cơ hội đả kích Thác Bạt Minh Châu, trách hắn rõ ràng có binh hùng tướng mạnh bao vây phủ Kinh Châu, vì sao không thừa cơ đánh hạ Kinh Châu mà lại đồng ý hòa đàm, hơn nữa chỉ mới đòi bồi thường năm trăm ngàn lượng bạc trắng đã rút quân khỏi Kinh Châu?
Lưỡi dao sắc bị Tang Lương Ngọc siết chặt, lần lượt đâm vào giữa bụng phe Thác Bạt Minh Châu và các thế lực khác, trong lúc phân tranh không ngừng nghỉ, chẳng có ai để ý đến những xao động trong dân gian...
Tiền trang Đại Thông phá sản rồi!
***
Tiền trang Đại Thông có quý tộc làm chỗ dựa, để cho bạc trắng cuồn cuộn chảy vào, đặc biệt là tiền Đại Cảnh.
Phàm là thương nhân muốn đổi tiền Đại Cảnh thì khi đến các chợ ven biên giới, sự lựa chọn số một chính là tiền trang Đại Thông, thậm chí tiền trang Đại Thông còn thuyết phục được quý tộc Đại Hạ gửi tiền của bọn họ lại chỗ mình, hàng năm sẽ tính cho bọn họ tiền lãi hậu hĩnh, cứ thế bảy tám năm liên tục tiền trang càng hưng thịnh, thế cho nên quý tộc thân hào phú thương đều chọn gửi tiền ở tiền trang Đại Thông.
Mà bây giờ, tiền trang Đại Thông phá sản rồi.
Bọn họ vốn nói với bên ngoài rằng ông chủ của tiền trang Đại Thông đã bị ám sát, không trị nổi đã qua đời, cho nên đóng cửa ba ngày để chuẩn bị bàn giao, ba ngày sau sẽ mở cửa trở lại.
Qua ba ngày rồi lại thêm ba ngày nữa, tiền trang Đại Thông vẫn im lìm không mở cửa khiến cho những kẻ gửi tiền trong tiền trang để ăn lãi cảm thấy lo lắng, chỉ đành phá cửa xông vào, vậy mà phát hiện bên trong trống không chẳng còn thứ gì.
Đừng nói chi bạc, dù chỉ một đồng xu cũng không để sót lại.
Chuyện này khiến cho dân tình sôi trào nhưng bọn họ lại là bên chịu ít tổn thất nhất, người dân không có dư dả, hoặc là không đạt đủ tư cách để gửi tiết kiệm tại tiền trang, cho rằng thân hào quý tộc được cho ăn no bụng nhiều năm phát điên chọc thủng khớp xương trên dưới của triều đình trước, quan binh dốc toàn lực truy xét tiền trang Đại Thông, bắt tất cả những kẻ có quan hệ tốt và thường xuyên lui tới lại thẩm vấn, đại ngục liên tiếp nổi lên.
Chỉ trong chốc lát phủ Hưng Khánh gió tanh mưa máu.
Đến cả Thác Bạt Minh Châu cũng hận đến đỏ mắt, bởi vì bạc mà hắn tham ô từ Hộ vẫn còn để ở tiền trang Đại Thông, bây giờ toàn bộ đã mất hết, và hắn thật sự trở thành kẻ nghèo rồi.
Hai mắt Cao Di Sơn cũng đỏ quạch, nói với Thác Bạt Minh Châu đang thất thần: "Bây giờ chỉ có một kế cứu được ta và ngươi thôi."
Thác Bạt Minh Châu túm chặt cọng rơm cứu mạng: "Nói!"
Cao Di Sơn: "Khi đó ai là người ám sát ông chủ tiền trang Đại Thông? Là ai cứu ông ta? Ai muốn gặm cái sọt tiền ở tiền trang Đại Thông này? Là ai đã thượng tấu triều đình đòi sáp nhận tiền trang Đại Thông nhiều lần? Còn ai nữa, ai sẽ giấu tiền mà thân hào quý tộc phủ Hưng Khánh gửi vào tiền trang Đại Thông cho riêng mình?"
Thác Bạt Minh Châu lầm bầm: "Tang Lương Ngọc."
Cao Di Sơn: "Là ông ta!"
Hai mắt Thác Bạt Minh Châu dần sáng lên: "Tang Lương Ngọc là kẻ trộm tiền trong tiền trang sao?"
Cao Di Sơn: "Dù có đúng hay không thì cũng đều phải buộc tội ông ta! Tang Lương Ngọc chính là quốc sư một nước, không chỉ có tài chính trị quân sự mà còn có thiên phú kinh doanh, bao năm nay ông ta đã tích góp được bao nhiêu tiền chứ? Phải chia cắt tài sản của ông ta mới có thể lấp đầy vào chỗ trống này, cả triều văn võ bao gồm cả thân hào đều ủng hộ chúng ta...!Điện hạ à, giết một người cứu vạn người, đã đến lúc phải hướng về lòng dân rồi!"
Thác Bạt Minh Châu siết chặt nắm đấm, cố gắng đèn nén cảm xúc sôi trào, ngầm hiểu đáp lại: "Cao tướng, chúng ta phải thanh quân trắc thôi."
***
Cùng lúc đó, quản gia mang theo lời xôn xao của dư luận vào đại lao Hình bộ phủ Hưng Khánh, Tang Lương Ngọc trợn trừng mắt ra.
"Tiền trang Đại Thông phá sản rồi à?" Tang Lương Ngọc không tin nổi: "...!Sao có thể như vậy được?"

Ông ta đã từng kiêng dè trước tiền trang Đại Thông, luôn cho rằng tiền trang nằm trong phạm vi nước Hạ, có thể đóng cửa nhưng tuyệt đối không thể bỏ chạy.
Sao có thể chạy được?
Có thương nhân nào lại vứt núi vàng núi bạc mà chạy khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp cơ chứ?
Phải biết tiền trang này làm ăn bằng cách nhận tiền gửi và cho vay, bỏ chạy như vậy có khác gì ném hết số tiền đã cho vay xuống sông đâu? Đây chính là ném cục vàng trong ngực vào bếp lò đốt, đốt xong thì quăng xuống sông chẳng ai kiếm ra nổi, đến cùng là nhân tài nào làm ra chuyện điên rồ thế này vậy?
Chẳng lẽ ông chủ tiền trang Đại Thông bị ám sát xong mắc bệnh tâm thần luôn rồi à?
Rốt cuộc là có chuyện gì đang xảy ra vậy? Vì sao?
Chuyện này không hợp lý!
Đáy mắt Tang Lương Ngọc có chút sụp đổ, cái não thông minh và tri thức thâm sâu của ông ta vốn cũng không có cách nào giải thích rõ hành động và thái độ khác thường của tiền trang Đại Thông, "Chẳng lẽ là âm mưu của Đại Cảnh? Hao phí mười lăm năm để sắp xếp ván cờ này? Hoàng đế Đại Cảnh có kiên nhẫn để bày mưu sao? Chỉ trong mười lăm năm mà Đại Cảnh đã có được thực lực thế này sao? Không..."
Ông ta lắc đầu, bác bỏ suy nghĩ không thực tế này.
Được một mất mười không nói, người Hán tự xưng mình có phong thái của nước lớn, rất khinh thường loại âm mưu quỷ kế như thế này.
Vậy là ai?
Không đợi ông ta suy nghĩ kĩ càng, quản gia đã nói: "Thám tử phái đi huyện Cô Tang trở về báo cáo rồi, nói là ở địa phương vốn không có núi trồng quýt gì cả, chỉ có một xưởng quân công bị bỏ hoang nhưng vẫn luôn đốt lò, đã hoạt động ba bốn năm rồi, đào tạo được một đám thợ thủ công có tay nghề cao, không biết đã lấy được bản vẽ đại bác, nỏ thần ti mà Đại Hạ bảo mật nghiêm ngặt bằng cách nào rồi chế tạo chúng ở nơi đó!"
Tang Lương Ngọc vội hỏi: "Có bắt được không?"
Quản gia nghiến răng: "Đến trễ mấy ngày, bọn chúng ôm của chạy mất hút rồi."
Tang Lương Ngọc lộ vẻ mất hứng: "Lầu cao sắp đổ."
Quản gia vội la lên: "Đại nhân à, trước hết ngài đừng quan tâm Đại Hạ có đổ hay không đổ nữa, bây giờ cả triều văn võ và thân hào dưới sự dẫn dắt của Nhị vương tử đang công khai lên án ngài, bọn họ muốn vu oan cả hai tội tiền trang Đại Thông và thông đồng với địch phản quốc lên đầu ngài đấy.

Thác Bạt Minh Châu còn bí mật cho quân đội đến gần phủ Hưng Khánh, đóng trại ở cách thành ba mươi dặm, Ngũ vương tử đã bị nhốt lại.

Nhị vương tử được triều thần ủng hộ ngồi lên vị trí giám quốc, sai người trông coi Vĩnh An đế bệnh nặng liệt giường, cũng đã cầm ngọc tỷ truyền quốc đi...!E là sắp mưu triều soán vị rồi!"
Tang Lương Ngọc và kho phủ tư nhân của ông ta chính là hòn đá kê chân cho Thác Bạt Minh Châu đăng cơ.
Bỗng dưng Tang Lương Ngọc cười điên cuồng, tiếng cười lộ ra sự thê lương đến cùng cực: "Con nít mồm hôi sữa mà cũng dám nghĩ đến chuyện giết ta ư?" Sau đó tiếng cười ngưng bặt, sắc mặt ông ta lạnh lùng trở lại: "Cũng tại bao năm qua ta ghi nhớ ơn tri ngộ của Vĩnh An đế, nhượng bộ từng bước, còn dốc hết tâm huyết giúp đám rác rưởi này bảo trụ Đại Hạ nên mới khiến cho bọn chúng chỉ coi ta là con hổ giấy."
Quản gia sợ hãi trong lòng, mơ hồ đoán được ý đồ của Tang Lương Ngọc, có hơi kích động: "Đại nhân...?"
Tang Lương Ngọc nhắm mắt lại: "Đi chuẩn bị đi."
***
Kinh Châu Đại Cảnh.
Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên: "Tang Lương Ngọc soán vị rồi à?"
Chiết Thanh Phong: "Đã truyền khắp Tây Bắc rồi!"
"Vĩnh An đế và Thác Bạt Minh Châu thì sao? Quý tộc Đại Hạ thế nào?"
"Ai phản đối thì chém đầu người đó.

Vĩnh An đế thì tức chết rồi, Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn như tướng bại trận chạy khỏi phủ Hưng Khánh, không còn thấy bóng dáng đâu cả."
Triệu Bạch Ngư: "Chẳng phải trong tay Thác Bạt Minh Châu có binh à?"
Chiết Thanh Phong: "Phó tướng là người của Tang Lương Ngọc."
Triệu Bạch Ngư lập tức hỏi kỹ nguyên nhân hậu quả Tang Lương Ngọc soán vị, biết được tiền trang Đại Thông ôm tiền chạy trối chết, đến cả một đồng xu cũng không để lại thì không khỏi cảm thán: "Cái trò tổn thương địch tám trăm tự hại mình một ngàn vậy mà lại rất giống phong cách của Vương Nguyệt Minh, ngày xưa Tang Lương Ngọc lừa tiền Vương Nguyệt Minh, hại ông ấy tan nhà nát cửa, giờ đây bị Vương Nguyệt Minh gài thành loạn thần tặc tử, thế nên sử sách phải dùng ngòi bút làm vũ khí thôi."
Người thông minh tuyệt đình xưa nay đều tự đánh giá cao bản thân mình, vô cùng quan tâm đ ến thanh danh của mình trong sách sử, nhưng Tang Lương Ngọc phản bội Đại Cảnh trước, sau đó lại phản chủ, việc trước còn thuộc về tình lý, việc sau thì đã làm rõ bản chất của hạng cường đạo loạn đảng, tiếng xấu đã được định sẵn rồi.
"Có tin tức gì về hành trình của Hoắc Kinh Đường không?"
Chiết Thanh Phong lắc đầu: "Tang Lương Ngọc giết rất nhiều quý tộc Đại Hạ, người để lại hầu như đều ủng hộ ông ta, nhưng lúc này dân oán sôi trào, vậy mà ông ta còn trắng trợn kêu gọi nhập ngũ.

Thám tử chúng ta xếp vào phủ Hưng Khánh tra được mấy ngày gần đây trong phủ có phái mấy nhóm kị binh nhẹ đi về hướng phủ Tây Lương."
Triệu Bạch Ngư suy nghĩ rồi nói: "Huyện Cô Tang phủ Tây Lương là nơi có xưởng quân công, có lẽ Tang Lương Ngọc đã phát hiện ra được gì rồi, vẫn phải cẩn thận thì hơn, ngươi dẫn một nhóm phiên binh lén vào phủ Tây Lương đi trợ giúp Hoắc Kinh Đường đi!"
Chiết Thanh Phong: "Nhưng ty chức đã nhận lệnh tướng quận bảo vệ Triệu đại nhân rồi."
Triệu Bạch Ngư phất tay nói: "Hoắc Kinh Đường bảo ngươi nghe lệnh của ta, hôm nay ta ra lệnh cho ngươi mà ngươi lại không nghe theo sao?"
Chiết Thanh Phong do dự một chút: "Ty chức tuân lệnh."
Sắc mặt Triệu Bạch Ngư dịu đi: "Ngươi là người tộc Đảng Hạng, tướng mạo ngôn ngữ và thói quen đều khá giống với người Đại Hạ, bây giờ người trong phiên tộc cũng thấp thỏm lo sợ, chỉ có ta ngươi mới có thể tin được thôi.

Còn nữa, Kinh Châu cũng không hẳn là không có tướng để dùng, hơn một tháng nay ta đã liên tục quan sát khảo hạch các tướng lĩnh nơi này, phát hiện ra bọn họ không hề vô năng tầm thường, mà là vì trước đây bị Ngạc Khắc Thiện chèn ép quá đáng, không có cơ hội ra mặt mà thôi."
"Ngươi có thể yên tâm rồi đấy, ta có rất nhiều người để dùng kia mà."
Y liên tục tính toán trong đầu, lòng như nổi trống: "Hiện giờ Đại Hạ dân oán sục sôi, Tang Lương Ngọc còn động viên người đi lính, ý đồ rất rõ ràng, ông ta muốn phát động chiến tranh.

Ông ta sẽ chọn nơi nào làm điểm bùng nổ đại chiến đây? Nhưng dù là nơi nào đi nữa cũng vậy thôi, lệnh cho binh ra roi thúc ngựa đưa tin tức này đến tướng lĩnh các nhánh binh đi, cần phải lên kế hoạch cho các biện pháp đối phó thật kĩ lưỡng."
Triệu Bạch Ngư không biết Tang Lương Ngọc có thể điên đến mức nào, y chưa từng giao thủ nên không biết rõ năng lực chỉ huy của ông ta, thế nên cũng không chắc sẽ phải làm những gì.
"Triệu tập các tướng ngũ phẩm và ngũ phẩm trở lên ở Kinh Châu lại, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu!".
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 102: Chương 102


Đầu xuân, băng tuyết đã tan.
Đêm xuống.
Bỗng nhiên có một luồng ánh lửa xé rách bầu trời đêm thành Hà Đông Hùng Châu, lão binh gác đêm trừng mắt, mũi tên mang theo ngọn lửa đang tiến lại gần tầm mắt, thoắt cái bắn chết chiến hữu bên cạnh.
Lồ ng ngực ông nhói lên một cái, bất thình lình thét lên: "Địch tập kích rồi!!!" Sau đó dùng hết sức phóng tới chỗ trống trận, cầm dùi trống gõ hơn mười cái, tiếng trống đại diện cho lời hô địch tập kịch thoáng chốc truyền khắp doanh trại.
Một tiếng phốc vang lên, mũi tên sắt với tốc độc không thể đỡ nổi đâm xuyên qua ngực lão binh gác đêm ghim vào trống trận, thình ——! Dư âm của tiếng trống cuối cùng vang ra rồi kết thúc, sự yên lặng xuất hiện không đến một giây, trốn trận từ bốn phương tám hướng đã vang lên như mưa rơi, toàn bộ binh sĩ ùa tới.
Dường như ở Phu Diên, Hoàn Khánh và Kinh Nguyên đều xảy ra cùng một tình huống như vậy, cấp báo tám trăm dặm khẩn cấp đưa về triều đình, lúc này Nguyên Thú đế cũng đang triệu tập quần thần thương nghị, còn tướng lĩnh ba nhánh Tây Bắc và Hà Đông đã có phòng bị từ sớm, trái lại không đến nỗi tự loạn trận cước vì cuộc tập kích này.
Có điều Đại Hạ tập kích thì cũng dễ hiểu, nhưng sao Đột Quyết cũng làm loạn cùng lúc thế kia?
Đúng là kì lạ.
***
Ngạc phủ Kinh Châu, Kinh Nguyên.
Trời vừa hửng sáng, binh đưa tin chật vật xuống ngựa, đẩy binh sĩ cản đường ra xông vào Ngạc phủ Kinh Châu, lớn giọng kêu gào: "Địch tập kích...!Đêm qua Thiên Đô Trại bị tập kích rồi!"
Triệu Bạch Ngư nhanh chân chạy ra, Tri phủ Kinh Châu tân nhiệm Đậu Hồng và phó tướng nhánh binh Kinh Nguyên Nhậm Phi Nguyên theo sát phía sau, nghe thấy tin tức từ xa thì không khỏi thở dài: "Quả nhiên Tang Lương Ngọc đã cử binh xâm lược rồi!"
Đậu Hồng: "Ngạc Khắc Thiện bị chém chết, tướng chủ sự nhánh Kinh Nguyên đã được đổi mới, vả lại lần trước sau cuộc chiến kia Thiên Đô Trại đã tổn thất vô cùng nghiêm trọng, cho nên về sau càng tập trung chú ý vào hai trại Thiên Đô và Ninh An, Triệu đại nhân cũng có lòng dặn dò phải đề phòng sớm mới có thể chống đỡ được cuộc tấn công của Đại Hạ."
Quả nhiên, binh đưa tin nói: "Ninh An Trại đã phái hai ngàn viện binh đi đường đêm đến hỗ trợ Thiên Đô Trại, trước mắt lương thảo, vũ khí và các loại vật tư trong quân đều đã được cung cấp đầy đủ, Đại Hạ tập kích không được như ý."
Triệu Bạch Ngư: "Biết binh mã Đại Hạ đến tập kích có bao nhiêu không?"
Binh đưa tin: "Lúc tập kích có một ngàn kỵ binh giáp nặng, theo như lời thám tử tiền tuyến báo lại thì còn có hai mươi ngàn binh mã chia làm mấy đường đang tiến về phía Thiên Đô Trại."
Nhậm Phi Nguyên: "Xem ra Đại Hạ vẫn chọn Thiên Đô Trại làm cửa đột phá, phái một ngàn kỵ binh tấn công trước hẳn là để thăm dò.

Mạt tướng biết rõ phong cách đánh trận của quân Hạ, bọn chúng thiếu hụt vũ khí công thành nhưng rất giỏi đánh dã chiến, rất ưa tiếp cận đạo quân lớn, lần này chỉ mới phái hai mươi ngàn binh mã đến gần Thiên Đô Trại...!E là không chỉ có thế, có lẽ phía sau vẫn còn có tiếp viện.

Nếu như Tang Lương Ngọc tự chỉ huy phát động chiến tranh, thì một ngàn kỵ binh được phái ra rất có thể là đội kỵ binh Thiết Diều Tử mạnh nhất Đại Hạ, tổng cộng có ba ngàn người, cũng là sự tồn tại khiến cho người ở Tây Bắc nghe là sợ mất mật."
Đậu Hồng: "Tướng sĩ Thiên Đô Trại và Ninh An Trại cộng lại cũng chỉ có bảy ngàn, tuy có địa hình lạch trời hỗ trợ, nhưng nếu Đại Hạ phái Thiết Diều Tử đến thật, thêm hai mươi vạn đại quân bao vây tấn công thì sợ rằng không chống đỡ được bao lâu, cần phải nhanh chóng phái binh chi viện...!Lập tức lệnh cho tướng thủ thành Hoài Viễn dẫn ba ngàn kỵ binh sắp xếp mai phục ở những nơi hiểm yếu, lệnh cho tướng thủ Đắc Thắng Trại dẫn hai ngàn năm trăm binh đến chi viện Thiên Đô Trại, cũng báo cho nhánh Hoàn Khánh đến giúp đi, các nơi khác tạm thời án binh bất động."
Bàn về năng lực chỉ huy tác chiến, Triệu Bạch Ngư không bằng Nhậm Phi Nguyên và Đậu Hồng cho nên chỉ nghiêm túc lắng nghe, tiếp thu và làm theo sắp xếp của bọn họ.
Triệu Bạch Ngư: "Ta có một thắc mắc.

Nếu như ba ngàn kỵ binh giáp nặng Thiết Diều Tử cùng nhau tấn công, mất bao lâu để đánh bại Thiên Đô Trại?"
Đậu Hồng chần chừ trong một cái chớp mắt: "Thiên Đô Trại là nơi có địa hình hiểm yếu, dù là Thiết Diều Tử thì cũng tốn mất bốn năm ngày mới hạ được."
Triệu Bạch Ngư đăm chiêu: "Theo lý mà nói, nếu như có một thành trì bị công phá thì lần sau chắc chắn sẽ tăng binh trợ giúp, dù sao cũng có vết xe đổ, tấn công sẽ khó khăn gấp bội.

Phương thức tác chiến dẫu có thay đổi nhưng bản chất vẫn như vậy thôi, chúng ta có thể nghĩ tới thì quân địch cũng có thể nghĩ tới, vì vậy trong tình huống bình thường thì sẽ không ai chọn lại cùng một cứ điểm để đánh mới đúng."
Lòng Nhậm Phi Nguyên lay động: "Ý của đại nhân là đánh nghi binh*?"
(*) Nghi binh là hoạt động lừa dối trong quân sự, gây lầm lẫn về địa điểm tấn công, dẫn đến quyết định sai về hướng tiến quân của quân bị tấn công.

Khi các lực lượng viện binh dồn đến điểm nghi binh, quân tấn công sẽ tấn công vào nơi khác vốn dĩ là mục tiêu chính yếu đã chọn.
Triệu Bạch Ngư cũng không chắc chắn lắm: "Đây chỉ là suy đoán của ta thôi, không có căn cứ nào xác định là nó đúng cả."
Hai quân đối đầu nhau trả bằng máu thịt, suy cho cùng cũng không giống như chính đấu trong quan trường có chỗ trở mình, chỉ cần không cẩn thận là sẽ có người chết bởi sai sót trong việc chỉ huy hoặc chỉ đơn giản là đoán sai suy nghĩ trong đầu mà thôi.
Triệu Bạch Ngư không thể không thừa nhận trong lòng y cảm thấy sợ hãi, cũng không tự tin y có thể đối mặt với sự tấn công đột ngột của quân địch.
"Không." Nhậm Phi Nguyên nói: "Suy đoán của đại nhân không phải vô lý, tướng lĩnh Kinh Nguyên đã được thay thành nhóm mới, phòng thủ nghiêm mật, mắt thường cũng có thể thấy được, năm nào mà Đại Hạ chẳng cho thám tử lẻn vào Tây Bắc, số gián điệp không hơn một ngàn thì cũng đã mấy trăm rồi, không có khả năng không phát hiện được.

Huống chi người phát động chiến tranh lần này là Tang Lương Ngọc, lúc còn trẻ ông ta đã từng chỉ huy ba trận chiến đánh Đại Cảnh ta thua thảm, cũng chính nhờ ba trận thắng đó ông ta mới đứng vững gót chân trong triều đình Đại Hạ.

Tang Lương Ngọc quen thuộc với phòng tuyến Tây Bắc, sẽ không phạm phải sai lầm đơn giản như vậy được..."
Lúc này hắn và Đậu Hồng đang mở rộng bản đồ ra, dựa vào phương hướng tiến đánh của binh mã Đại Hạ để suy đoán cứ điểm có khả năng bị tấn công, bài binh bố trận lại một lần nữa.
"Nếu như đánh nghi binh thì mục đích ắt là để nhử hổ xa rừng, chọn một cứ điểm thiếu thốn binh lực để công phá trong một lần, e rằng những thành trì gần Thiên Đô Trại đều là mục tiêu của chúng, chỉ không biết chính xác là có bao nhiêu mục tiêu.

Chúng ta nên biết rõ ý đồ thật sự của quân Hạ thì mới có thể giành cơ hội trước được."
Triệu Bạch Ngư đứng nghe bên cạnh, không đưa ra thêm câu hỏi nào nữa, chỉ gật đầu đồng ý với sự sắp xếp của hai người.
***
Giữa tháng giêng, các trại Thiên Đô, Ninh An và Đắc Thắng và các thành trì ven biên giới Kinh Nguyên lần lượt bị tập kích, đều đánh đến tận ba bốn ngày, chờ đến khi viện binh Đại Cảnh đến thì lập tức lui binh, hành động này chính là ví dụ điển hình cho chiến lược đánh nghi binh của quân Hạ.
Đậu Hồng và Nhậm Phi Nguyên nghĩ đến mà sợ, "Quân Hạ thắng nhờ có một số lượng lớn ngựa đực to và khỏe, sức chịu đựng rất mạnh, vừa có thể băng đèo lội suối, cũng vừa có thể rút lui bất cứ lúc nào, rồi tiếp tục lặn lội đường xa đổi sang một thành trì khác để đánh mạnh bất ngờ.

Trái lại, triều đình của ta khan hiếm ngựa chiến, rất ít ngựa có đủ sức đi về không biết mệt, phần lớn là dùng sức người chạy ngày đêm không ngừng nghỉ, nhưng đi tới đi lui như thế, nếu lỡ như đến không kịp lúc để thành trì có binh lực yếu kém bị công phá...!Thật sự không thể tưởng tượng nổi hậu quả."
Có quá nhiều thành trì ở biên cảnh Tây bắc, binh lực cũng theo đó bị phân tán ra, nếu như một thành bị tấn công thì phải lập tức điều binh từ các thành lân cận đến chi viện, mà quân Hạ thì lại chia quân tấn công, đã nhiều lần thăm dò đánh nghi binh, bọn chúng luôn có cơ hội đánh hạ những cứ điểm có đội quân vừa mới rời thành.
Cùng lúc đó, tin tức ba phòng tuyến biên giới Hà Đông, Phu Diên và Hoàn Khánh bị tập kích cũng được truyền đến càng khiến cho nhóm Đậu Hồng sinh lòng sợ hãi và nghi hoặc hơn.
Đậu Hồng: "Đột Quyết tấn công Hà Đông, có thể là đã bắt tay với Đại Hạ rồi."
Nhậm Phi Nguyên: "Năm năm trước Đại Hạ bắt tay với Nam Cương tấn công Phu Châu, cũng từng có tin tức đã bắt tay với Đột Quyết, trận đó triều đình, Tây Bắc và Hà Đông đều rất căng thẳng, cũng may cuối cùng là chỉ sợ bóng sợ gió thôi, không ngờ lúc này lại đột nhiên nổi loạn.

Đột Quyết ra quân đã là ra quân vô vớ, lại còn đang trong thời kì nhạy cảm, cho nên khả năng chúng hợp tác với Đại Hạ là rất cao.

Có điều vấn đề lớn hơn trước mắt chính là quân Hạ đã châm lửa ở khắp nơi, hầu hết các phòng tuyền biên cảnh đều bị bọn chúng xâm lấn, nhưng làm sao bọn chúng có nhiều binh đến như vậy?"
Triệu Bạch Ngư: "Nghe nói năm ngoái sau khi đăng cơ, Tang Lương Ngọc đã cưỡng chế nhập ngũ...!Nếu như toàn dân đều là binh, cộng với đại quân, e là không chỉ có một trăm ngàn người.

Vấn đề là phòng tuyến Tây Bắc vô cùng rộng lớn, cứ cho rằng toàn dân nước Hạ đều là binh thì lực lượng đó cũng không đủ để chống đỡ với cách đánh phân tán như thế.

Dù cho có một nhóm quân nhỏ đột phá được cứ điểm nào cũng sẽ nhanh chóng bị cấm quân Tây Bắc giết bằng sạch thôi."
Trước đây cứ nghĩ mục đích của Đại Hạ là Kinh Nguyên, toàn bộ binh lực tụ họp ở đây có nhiều nhất là một trăm ngàn, mà Cấm quân Kinh Nguyên đã tăng cường phiên binh, hương binh và quân đội vùng ven, tổng số lượng không quá tám, chín mươi ngàn, vẫn có thể ngang hàng với địch, huống chi còn có hai nhánh viện binh Hoàn Khánh và Hi Hà có thể dễ dàng chạy tới.

Nhưng theo như tình hình trước mắt thì binh lực Đại Hạ phân tán ra, đối mặt với quân số của Đại Cảnh cũng bị phân tán nhưng tổng quân số nhiều gấp năm, sáu lần chính là lấy trứng chọi đá.
"Nguyên nhân chính đó là do quân đội chúng yếu hơn quân triều đình ta, đến khi xuất chinh nước Hạ mới huy động lực lượng hòng lấy số lượng và đánh nhanh thắng nhanh để đạt được thắng lợi.

Phương thức tác chiến trước mắt căn bản không có lợi gì cho Đại Hạ, Tang Lương Ngọc sẽ không giở thủ đoạn hồ đồ thế này đâu, có phải là ông ta đang có âm mưu gì khác không?"
Nhậm Phi Nguyên và Đậu Hồng được các tướng lĩnh nhắc nhở, đánh mạnh cho bọn họ giật mình, sau khi cẩn thận phân tích tình hình chiến tranh và tình hình tiền tuyến, trái tim nhanh chóng chùng xuống.
"Có khi nào đánh nghi binh chỉ là mồi nhử thôi không?" Một tướng lĩnh phía dưới nói ra suy đoán của mình, "Mục đích cơ bản của bọn chúng chính là khiến cho tướng lĩnh các nhánh binh bị hoang mang, làm bọn họ không dám tùy tiện dời binh đi, sau đó chúng sẽ nhân lúc này dồn toàn quân tấn công một nhánh, chỉ huy đánh thẳng xuống dưới, phá thành chiếm đất?"
Vẫn quay lại vấn đề ban đầu, ý đồ của quân Hạ là gì?
Triệu Bạch Ngư: "Lực lượng cả nước tính luôn binh Hạ có ba trăm ngàn, trong đó có thể có Đột Quyết hoặc Nam Cương nữa, nhưng hai nước này sẽ không dám tập hợp toàn quân, tối đa chỉ đưa ra bốn năm mươi ngàn binh ma thôi.

Chắc chắn Tang Lương Ngọc sẽ tập trung tất cả quân tinh nhuệ vào một mục tiêu," Y chỉ vào Kinh Nguyên trên bản đồ, "Quân tinh nhuệ tiền tuyến đã tấn công Thiết Diều Tử ở pháo đài nơi quân Kinh Nguyên thường xuyên qua lại..."

Y giương mắt, sắc mặt trở nên nghiêm nghị: "Mục tiêu của Tang Lương Ngọc chính là Kinh Nguyên!"
Lòng Đậu Hồng hoảng hốt: "Mạt tướng lập tức lệnh binh đưa tin báo tin tức này cho ba nhánh còn lại biết, chuẩn bị chi viện bất cứ lúc nào.
Triệu Bạch Ngư vẫn luôn sợ hãi, có một dạo quân Hạ lui tới khu vực pháo đài của Thiên Đô Trại nhưng chỉ thăm dò chứ không tấn công, đường đi nước bước gần giống như cách chúng tấn công ba nhánh Hoàn Khánh, Phu Diên và Hà Đông, nhưng kế này sẽ bị tướng lĩnh các nhánh nhìn thấu sớm thôi, chỉ còn cách nắm bắt thời cơ nhân lúc bọn chúng không kịp phản ứng để nhanh chóng xuất binh chứ không phải đông đánh một búa tây đập một gậy như thể Kinh Nguyên không phải là mục tiêu của chúng.
"Có lẽ..." Triệu Bạch Ngư thì thầm tự hỏi: "Các cụm pháo đài gần Thiên Đô Trại cũng không phải là mục tiêu nhỉ?"
***
Huyện Thần Điểu, phủ Tây Lương, chợt có một loạt kỵ binh vội vàng lướt qua, dừng lại trước cửa một nhà trọ, một người xuống ngựa xông vào trong, bắt hết tất cả khách và ông chủ ra ngoài.
Kỵ binh giáp nhẹ trầm giọng hỏi thăm rằng mấy ngày nay có một nhóm người nào đến ở trọ hay không, chủ trọ nơm nớp lo sợ đáp lại quả thật là có, nhưng sáng nay đã đi rồi.
Kỵ binh vào trong lục soát xong bước ra, nhẹ nhàng lắc đầu.
Thủ lĩnh kỵ binh giơ tay lên: "Tất cả mọi người trong nhà trọ này đều có hiềm nghi thông đồng với địch phản quốc, gi3t chết tại chỗ."
Thoáng chốc máu tanh vấy khắp nơi.

Rồi chốc lát nữa ánh lửa vút cao lên tận trời, không một ai may mắn thoát khỏi.
Kỵ binh nhẹ tiếp tục đi tra xét, mặt khác, trên đường núi xung quanh huyện Thần Điêu có một hàng người cao to cưỡi ngựa mặc trang phục đen giống hệt nhau, bọn họ đều đứng nhìn nhà trọ bị lửa lớn nuốt chửng từ phía xa.
Bên cạnh có người nói: "Cũng may đã chạy trước một bước, cũng đã để thợ và vũ khí giả làm đội buôn tiến Lan Châu rồi, có điều lòng dạ của quân Hạ đúng là độc ác, dân chúng vô tội thế mà nói giết là giết ngay được."
Bên phải lại có người nói: "Đại Hạ học được từ Nam Cương một bí thuật tìm người, có thể nhờ vào mùi hương mà chúng ta để lại rồi truy đến đây nhanh thôi, mặc dù lúc đi đã che giấu kĩ nhưng cẩn thận vẫn hơn, chúng ta nên xuất phát sớm đi thôi."
Hoắc Kinh Đường túm chặt dây cương quay đầu ngựa lại, giơ roi thúc ngựa chạy đi chỉ để lại một câu: "Tránh xa thành trấn, đi đường núi, đừng tìm chỗ nghỉ trọ nữa."
Người bên cạnh nghe vậy thì liếc nhìn nhau, tuy vậy trong lòng ai cũng tự hiểu, ý hắn nghĩa là thà rằng mạo hiểm đi vội thêm một đoạn đường chứ không muốn liên lụy đến người vô tội.
***
Cuối tháng giêng, bởi vì binh lực của Đại Hạ ở tiền tuyến đã tăng lên rõ ràng, lực chú ý của các tướng lĩnh Kinh Nguyên hầu như đều chuyển về khu vực pháo đài Thiên Đô Trại, nơi này luôn ở trong một bầu không khí cẩn trọng và căn thẳng, thành Hoàn Khánh gần Kinh Nguyên đột nhiên có một lượng lớn binh mã Đại Hạ túa ra, đội binh chia làm hai hướng đoạt lấy hai vùng Cao Bình và Bành Dương nhanh như chớp nhoáng, tướng lĩnh đóng giữ Vị Châu nghe tiếng mang binh về phía trấn Nhung giữa hai địa phương rồi tiến hành mai phục nhưng rồi lại rơi vào tay quân Hạ, bị hai đội binh phục kích vây vào trong thành, cắt đứt đường lương thảo, nguồn nước, chặn bỏ đường lui, diệt mười ngàn Cấm quân Tây Bắc, gi3t chết một nhóm hơn mười chủ và phó tướng Đại Cảnh.
Sau đó lên đường đi thẳng một mạch xuống dưới, tấn công Vị Châu.
Lúc này Nhậm Phi Nguyên đã dẫn một vạn binh đi Vị Châu, Đô thự nhánh Hoàn Khánh cũng dẫn tám ngàn binh đến chi viện cho Vị Châu, tướng lĩnh đóng quân ở Kinh Nguyên và các nơi khác cũng đồng thời dẫn gần nửa binh lực đến Vị Châu đối đầu với đội binh mã Đại Hạ đột ngột xuất hiện này.
Cùng lúc đó, quân đóng tại hai nhánh Hi Hà và Hoàn Khánh cũng bị Vị Châu thu hút, không ai để ý đến Kinh Châu phía sau.
Lúc này Kinh Châu chỉ có vẻn vẹn mười ngàn phiên binh, bảy ngàn Cấm quân và không đến hai mươi ngàn hương binh, quân đội trấn thủ vùng ven chỉ có khoảng chín mươi ngàn người.
Buổi chiều hôm đó, mây đen âm u, cuồng phong gào thét.
Binh sĩ thủ thành không nhịn được ngáp một cái, suýt nữa là hốc cát đầy miệng, lúc chà xát hai tay vào nhau đột nhiên phát hiện trong xoáy cát vàng cuốn theo gió mơ hồ xuất hiện một loạt bóng đen mờ mờ.
Đến khi bão cát dừng lại, bọn họ lập tức nhìn thấy ba ngàn kỵ binh giáp nặng khí phách to lớn đồng loạt xuất hiện trước cửa thành Kinh Châu.
Một luồng gió lớn thổi tới, trong không khí dường như tràn ngập mùi máu tươi tanh nồng, kỵ binh giáp nặng phân ra thành hai phía, chậm rãi đẩy máy ném đá ba chân vô cùng lớn ra, đặt một quả cầu màu đen đang cháy vào giữa máy ném đá, mười hai tên binh sĩ đồng thời giật dây thừng, quả cầu đen bay theo hướng vòng cung về phía cổng thành, chỉ nghe thấy một tiếng xẹt xé rách không trung vang lên bên tai, một giây sau quả cầu nổ ầm lên rung chuyển trời đất, khói mù màu xám lập tức tản ra ngoài, binh sĩ thủ thành hít khói mù vào nét mặt thoáng chốc chỉ còn lại đau đớn, bóp chặt cổ mình rồi tắt thở bỏ mạng không lâu sau đó.
"Chết, chết rồi?" Binh sĩ trẻ tuổi ngỡ ngàng luống cuống.
"Là đạn khí độc, bịt mũi miệng lại!" Lão binh có kinh nghiệm thủ thành vừa nhanh chóng thấm ướt quần áo để bịt mũi miệng lại, vừa hô lên: "Địch tập kích! Địch tập kích rồi ——!"
Lão binh thủ thành xoay người chạy vụt đến chòi canh gõ vang trống to báo động địch tập kích, người gác tháp chuông trong thành nghe tiếng cũng gõ chuông, tiếng trống chuông thoáng chốc truyền khắp thành Kinh Châu, cổng thành đóng chặt, Cấm quân, phiên binh đều bắt đầu hành động, bò về phía tường thành đối phó với quân địch đột kích.
Đậu Hồng bước đi rất nhanh, trùng hợp gặp được Triệu Bạch Ngư vừa khoác áo ngoài vừa chạy đến.
Triệu Bạch Ngư: "Có thể đến cổng thành xem không? Tình hình ở hai cổng thành còn lại thế nào? Bây giờ còn kịp sơ tán người dân không? Có bao nhiêu binh mã vây đánh vậy? Sao bọn họ lại xuất hiện đột ngột như thế? Các điểm đóng quân xung quanh không phát hiện truyền tin sao?"
Đậu Hồng: "Hạ quan mới từ cổng thành về đây, tình hình nguy cấp lắm, sơ tán không kịp đâu, hai cổng thành khác cũng có binh Hạ bao vậy.

Cửa đông có ba ngàn kỵ binh, nhìn mũ giáp và ngựa chiến thì có thế xác định đó chính là Thiết Diều Tử qua lại gần khu vực thành pháo đài Thiên Đô Trại.

Cửa tây và cửa bắc có tổng cộng hơn mười ngàn binh mã đồng thời tấn công thành, quân địch sử dụng máy bắn đá, đạn dược đầy đủ, không dùng đạn bùn như ngày xưa nữa mà là đạn khí độc, uy lực vô cùng lớn.

Đạn khí độc kia ta chưa từng nghe đến, độc tính rất mạnh và kì lạ, hạ quan hoài nghi là do người Nam Cương chế tạo.

Vì sao lại đột nhiên xuất hiện...!Có lẽ là chúng đã lợi dụng trận trấn Nhung thu hút sự chú ý của lực lượng đóng quân các nơi, lặng lẽ đi qua những địa phương phòng thủ kém để đến Kinh Châu.

Bởi vì đại quân nước Hạ đang tiếp cận biên cương, những điểm đóng quân quanh Kinh Châu đều đã đến chi viện rồi, hàng phòng ngự của Kinh Châu cực kì yếu kém, không chịu nổi gót sắt chà đạp.

Sợ là...!Lành ít dữ nhiều."
Tình hình nguy cấp nhưng lại không nghe được chút tin tức nào từ sớm, thế thì chỉ có một khả năng, những điểm đóng quân xung quanh bao gồm cả thôn xá đều đã bị hại, không để lại một người sống nào để đến đây mật báo.

Đi qua nơi nào là chúng thẳng tay chém giết sạch ở nơi đó.
Quân địch xâm lược, đốt giết đánh cướp cũng không phải là điều gì hiếm lạ, nhưng mà không để lại người sống thì rõ ràng là không được bình thường, chứng tỏ lần này bọn chúng đến không chỉ để tống tiền, hơn nữa nhất định là lúc này sĩ khí đã rất cao, chỉ sợ là phải giết đến đỏ mắt mới thôi.
Một khi thành Kinh Châu bị phá, dù ông ta có dẫn đầu xin hàng thì tính mạng của chín mươi ngàn dân chúng trong thành cũng có mà giữ nổi.
Triệu Bạch Ngư: "Có chuẩn bị mà đến, âm mưu cũng bại lộ rồi, xem ra mục tiêu của Tang Lương Ngọc là Kinh Châu."
Đậu Hồng nói: "Tính ra trong thành cũng có gần bốn mươi ngàn binh mã, nhưng mà đội kỵ binh mạnh nhất của Đại Hạ đang ở đây, binh mã vây thành nói ít cũng phải hai ba mươi ngàn, vẫn chưa biết phía sau có quân chi viện hay không...!Nếu như không có vũ khí công thành còn đỡ, vậy mà cuối cùng chúng lại đưa ra vũ khí công thành vô cùng cao cường! Rõ ràng Đại Hạ nổi tiếng là khuyết thiếu vũ khí công thành cơ mà! Nay chúng dùng đạn khí độc để tấn công, làm sao ta dám tự tiện mở cổng thành nghênh chiến chứ.

Hình như đối phương đã ăn thuốc giải độc từ trước nên không sợ khói độc, bây giờ đang điên cuồng phá thành, chúng ta không thể không cử người canh cổng thành! Nhưng bây giờ mà lên cổng thành chính là đi chầu trời đấy!"
Ông ta gấp đến nỗi đi lòng vòng.
Triệu Bạch Ngư: "Tinh binh đều tụ họp ở đây, nôn nóng phá thành, còn lấy cả vũ khí công thành trước đây chưa từng có...!Tang Lương Ngọc đưa Kinh Châu vào tình thế bắt buộc, chỉ sợ sau này còn có thêm quân Hạ đến góp sức! Phải động viên tất cả tướng sĩ và dân chúng trong thành: Quân địch tập kích, sống chết giữ lấy Kinh Châu!"
Tang Lương Ngọc vốn đánh nghi binh ở khu vực Tây Bắc, sau đó giả vờ tấn công những pháo đài quanh Thiên Đô Trại và trấn Nhung, điều một lượng binh mã thuận lợi tiến đến Kinh Châu, gióng trống khua chiêng hao phí binh lực, làm một loạt hành động thật thật giả giả chỉ vì Kinh Châu thôi sao?
Chúng sẽ chiếm được Kinh Châu nhưng không thủ được lâu, có thể chiếm thế thượng phong trong thời gian ngắn, tuy nhiên một khi tướng lĩnh các nhánh Tây Bắc nhận ra, ba bốn trăm ngàn quân từ bốn phương tám hướng đánh bọc sườn tới, chắc chắc có thể tiêu diệt được binh mã của Đại Hạ.
Đến lúc đó Đại Cảnh sẽ chịu tổn thất vô cùng nghiêm trọng, nhưng chắc chắn Đại Hạ phải dùng đất nước mình để kết thúc.
Trận chiến càn quét Tây Bắc này trông thế nào cũng không giống như là chỉ đến cướp đồ rồi tháo chạy...
"Tang Lương Ngọc là kẻ điên, Ngạc Khắc Thiện đánh giá như vậy, nếu như là lời của một phía thì không thể tin hết, nhưng Vương Nguyệt Minh cũng nói bóng gió như thế, vậy thì chứng tỏ ông ta là kẻ điên thật.

Kẻ điên vốn đã khiến cho người ta sợ hãi, nhưng kẻ điên vừa thông minh vừa thiếu đạo đức thì chính là một quả bom hẹn giờ, không thể suy đoán suy nghĩ của ông ta theo cách bình thường được."
Triệu Bạch Ngư chắp tay đưa lưng về phía Đậu Hồng, cánh môi mấp máy, tiếng nhỏ như muỗi kêu, thay đổi lối suy nghĩ, nếu như y là một kẻ điên ham công danh, bội bạc, theo đuổi tên đuổi mà lừa dối cuộc đời, nếu như y là Tang Lương Ngọc, y sẽ hành động như thế này vì mục đích gì?
"Tang Lương Ngọc xa xứ vạn dặm, gánh chịu tiếng nhơ phản quốc, tận tụy trù tính vì Đại Hạ, nhưng từ quân thần cho tới dân chúng Đại Hạ đều không đối xử tốt với ông ta, trái lại luôn luôn đề phòng.

Chắc chắn rồi, Tang Lương Ngọc oán hận Đại Cảnh, năm xưa vừa nương nhờ được nước Hạ đã không nhịn được bày ra mất trận chiến đánh bại triều đình của ta, sau đó dùng tất cả mọi thủ đoạn chính trị, nói lòng ông ta hướng về triều đình Đại Hạ, chẳng bằng nói ông ta vẫn luôn nhắm vào triều đình ta."
"...!Ông ta vẫn luôn oán hận Đại Cảnh, oán hận Nguyên Phong đế vì tình riêng mà năm đó cắt đứt đường tương lai của mình, hại ông ta đơn độc phiêu bạt nơi xứ người, mà bây giờ Đại Hạ cũng phản bội ông ta...!Tang Lương Ngọc là một kẻ tự phụ, nhất định sẽ không tìm kiếm nguyên nhân từ bản thân mình.

Ông ta soán vị, in dấu danh nhơ trên sử sách, chỉ biết trách móc Hoàng đế và triều thần Đại Hạ, vậy nên sau khi soán vị mới thẳng tay chém chết những quý tộc phản đối mình, sau khi tùy tiện trút hết lòng thù hận ra, trong lúc tinh thần mất cân bằng nhất, đối tượng trả thù kết tiếp chính là Đại Cảnh.

Nếu như lúc đó còn bóc trần được chuyện tiền trang Đại Thông, vấn đề của xưởng chế tạo vũ khí, lại truy ra được manh mối xuất phát từ Kinh Châu...!Không ổn chút nào."
"Tang Lương Ngọc đắc vị bất chính, trong nước còn có Thác Bạt Minh Châu và các quý tộc không phục ông ta chính là mối đe dọa tiềm ẩn, trong lúc này ông ta lại phát động chiến tranh quy mô lớn, đào rỗng binh lực của hàng phòng ngự trong nước, huy động toàn bộ lực lượng, đây đều là thứ khiến ta cảm thấy ông ta đã chuẩn bị kéo quốc gia chết theo bất cứ lúc nào, mà trước khi chết còn phải để lại cho quân thần Đại Cảnh một bài học thê thảm đau đớn."
Thật là điên cuồng.
Suy đoán của y rất điên.
Nếu như y không đoán sai, thì Tang Lương Ngọc phải càng điên hơn nữa.
"Thành Kinh Châu không thể bại."
Một khi thành bại, theo như những gì mà y đoán được về mạch suy nghĩ của Tang Lương Ngọc lúc này, khả năng cao đối phương sẽ tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành.
"Chờ đêm xuống lập tức lệnh cho binh sĩ ra khỏi thành nghênh chiến, chọn mấy người thông minh lanh trí một chút trà trộn vào đó rồi chia ra từng cổng thành, chạy đến Hoàn Khánh, Nguyên Châu lấy viện binh." Dừng một chút, Triệu Bạch Ngư ngập ngừng nói: "Bảo với bọn họ, chuyến này cửu tử nhất sinh, nhưng chắc chắn triều đình sẽ thu xếp ổn thỏa cho người nhà của họ! Phía sau chúng ta là mạng sống của chín mươi ngàn dân chúng, chúng ta buộc với bọn họ, cầu mong thuận buồm xuôi gió, mọi việc đều thuận lợi!"
Đậu Hồng: "Tuân lệnh."
"Vũ khí công thành có uy lực cực mạnh như đạn khí độc và đạn gây cháy bình thường rất khó chế tạo, số lượng có hạn, sẽ không thể dùng tấn công trong thời gian dài, nhưng cần để các tướng sĩ thủ thành bảo vệ thể lực, cứ mỗi nửa khắc đồng hồ sẽ đổi một nhóm khác lên cổng thành, triệu tập tất cả thầy thuốc trong thành lại, gom góp dược thảo lại cất cùng một nơi, mau chóng nghiên cứu ra đơn thuốc giải dộc.

Đặc biệt là là nguồn nước, kho lương trong thành, cần phải lệnh cho người trông coi cẩn thần, thấy người nào có hành tung mờ ám thì không cần phải hỏi lý do, bắt lại hết!"
Những điều này không cần Triệu Bạch Ngư dặn, Đậu Hồng cũng biết nên sắp xếp như thế nào.
Triệu Bạch Ngư nhắm mắt lại, đan hai tay vào nhau, cố gắng nhớ lại kế phá pháo mà y đã từng đọc trong sách lịch sử của đời trước.
"Thừng bảo vệ rào."
Đậu Hồng: "Đại nhân nói gì thế?"
Triệu Bạch Ngư mở mắt ra, "Gọi mấy người khéo tay một chút đến đây, lấy tất cả rơm rạ trong thành lại bện thành sợi dây cứng cáp, ta sẽ vẽ mẫu, ông bảo người ta dựa theo đó mà làm, sau đó lệnh cho một nhóm người đi khuấy bùn nhão.

Quấn sợi dây này lên nóc tường thành rồi đắp bùn nhão lên, nó có thể chặn được pháo, đạn gây cháy và tất cả các loại pháo đá khác."
Cũng chẳng biết có thể chế ra được hay không nữa, cứ thử xem đã rồi tính.
***
Hoàng hôn vừa xuống, máy ném đá ngừng hoạt động, Kinh Châu mở cổng thành lớn, Đậu Hồng thúc ngựa đi trước: "Giết —— " Thoáng chốc khí thế như hồng, chém giết rung trời.

Trên cổng thành, Triệu Bạch Ngư lệnh cho người di chuyển pháo, máy ném đá và hỏa tiễn ra, ném đạn gây cháy về phía quân địch ở xa, sau đó tiếp tục lệnh cho binh sĩ xếp một loạt mũi tên lửa ra hướng xuống phía dưới rồi bắn đi, thoáng chốc tên rơi như mưa, vút lên cao rồi rơi xuống.
Gói thuốc súng gắn với mũi tên sẽ bốc cháy ngay lập tức sau khi tiếp xúc với đích đến, cũng không thể xem thường uy lực của nó.
Mùi khói thuốc súng và mùi máu tanh gay mũi khiến Triệu Bạch Ngư cảm thấy hoa mắt chóng mặt, y dùng gói thuốc giúp tinh thần tỉnh táo lấy từ chỗ thầy thuốc ra bịt mũi lại, giơ tay hô to: "Kéo nỏ tầm xa!"
Nỏ tầm xa được kéo lên cổng thành thay thế cho đội hình hoả tiễn ban đầu, mũi tên lạnh lẽo nhắm ngay sau thiết kỵ, khi nó được kéo căng đến mức sẵn sàng phóng đi, Triệu Bạch Ngư lập tức ra lệnh: "Bắn!"
Nỏ tiễn xuyên qua màn đêm vô tận giống như cơn mưa rào xen lẫn với mùi khói từ thuốc súng tràn ngập trong không trung, phốc một tiếng xuyên qua áo giáp dày trên thân kỵ binh giáp nặng của Đại Hạ, kéo người ngã xuống ngựa lê thêm mấy mét nữa rồi bị vó ngựa giẫm đạp lên như đóng đinh, chẳng còn nhìn ra hình dạng gì.

Đao kiếm không có mắt, nỏ tiễn từ trên trời rơi xuống thoáng chốc đã xuyên qua thân của vài con ngựa chiến, đồng thời khiến cho những con ngựa khác hoảng hốt, chúng hí vang cất cao vó lên hất ngã kỵ binh trên lưng xuống rồi giẫm đạp lên họ.

Nhưng dù gì đó cũng lại kỵ binh giáp nặng tinh anh của Đại Hạ, chỉ một lát sau đã kiểm soát được ngựa chiến bị khủng hoảng, tiếp tục tấn công.
Đậu Hồng dẫn tám ngàn binh, tuy có thêm pháo và nỏ tiễn hỗ trợ cũng không thể chiếm thế thượng phong trước ba ngàn thiết kỵ, vào lúc này, mặt đất trước cổng thành run lên, tiếng ầm ầm ùn ùn kéo đến, tim Triệu Bạch Ngư đột nhiên chùng xuống, y cầm lấy mũi tên lửa phóng ra không trung, ánh lửa chiếu sáng phương xa, chỉ trong nháy mắt thôi là có thể thấy rõ được kia là một đội quân hùng hậu.
Viện binh quân Hạ!
"Rút quân!" Triệu Bạch Ngư hét vỡ cả giọng: "Rút quân ngay, đóng cổng thành! Ném hết pháo xuống dưới —— nhanh!!!"
Dường như trong cuốn họng có bọt máu tuôn ra, Triệu Bạch Ngư mặc kệ sự khàn đặc đau đớn đó, vừa chỉ huy vừa cầm lấy tên lửa bắ n ra phía xa, dù cánh tay đau đến nỗi tê dại cũng không dám buông lỏng một giây phút nào, mãi đến khi Đậu Hồng dẫn binh lui vào trong thành, cổng thành đóng lại kịp lúc ngăn thiết kỵ bên ngoài, lòng ai nấy vẫn còn sợ hại mà nhìn về phía viện binh quân Hạ dày đặc ở đằng kia.
Triệu Bạch Ngư đứng bất động ở tư thế bắn tên, nhìn chằm chằm vào vị trí giữa đội quân phía dưới tìm kiếm tướng soái, nhưng y chỉ có thể nhìn thấy được một cỗ xe nhung đột ngột xuất hiện chính giữa quân Hạ, được bộ binh hạng nặng vây chặt xung quanh như nêm cối.
Trực giác nói cho y biết, người ngồi trên xe nhung chính là tướng soái của quân địch.
Đậu Hồng bò lên trên cổng thành, nhìn qua binh mã dày đặc phía dưới, ánh mắt trở nên lạnh lẽo: "Đúng như ngài đoán, quả nhiên vẫn còn viện binh, mà chúng ta lại không biết chúng phái đi bao nhiêu binh mã đến vây đánh Kinh Châu."
Triệu Bạch Ngư không dám chớp mắt, giọng khàn khàn: "Kiểm tra những cổng thành khác xem có bao nhiêu binh mã đang bao vây, ông đoán xem tiếp theo quân địch sẽ tiếp tục đánh hỏa lực bọc sườn hay là lui về ba xá, nghỉ ngơi dưỡng sức."
Nuốt một ngụm nước bọt, y nói: "Ta đoán là sẽ tiếp tục cường công bằng hỏa lực."
==
Bản đồ tác chiến:
Năm nhánh Tây Bắc xếp thành một hàng, từ trái sang phải theo thứ tự là: Hi Hà, Kinh Nguyên, Hoàn Khánh, Phu Diên, Hà Đông (bốn khu vực đầu thuộc tỉnh Thiểm Tây.)
Kinh Châu, Nguyên Châu và Vị Châu liền kề nhau.

Kinh Châu, Nguyên Châu và nhánh Hoàn Khánh cũng liền nhau, vì vậy nếu như Kinh Nguyên bị tập kích thì có thể tìm đến điểm đóng quân của Hoàn Khánh để cầu viện, bởi vì nó gần.
Phòng tuyến biên cương của Kinh Nguyên được thiết lập gần giống như hình chữ "V", có rất nhiều pháo đài (thành trì).
Quân Hạ đánh nghi binh ngay hai bên cụm pháo đài chữ "V" này, pháo đài Thiên Đô Trại ở bên trái, pháo đài trấn Nhung ở bên phải, đánh bại trấn Nhung tiến quân vào Vị Châu, đại quân thu hút hỏa lực ở Vị Châu, một đội quân khác thì lén lút bọc phía sau bao vây thành Kinh Châu.
Vũ khí chiến đấu:
• Máy ném đá, vũ khí công thành sắc bén thời cổ đại.
• Đạn khí độc, đạn gây cháy, tên lửa, pháo các loại thì có mặt vào thời Đại Tống.
• Thừng bảo vệ rào - Hộ tì ly sách (护陴篱索): Dùng thân cây lúa (rơm rạ) để bện thành một sợi dây cứng, chu vi khoảng 4 tấc, dài 34 thước, cứ 5 sợi nhỏ thì buộc lại thành một sợi to, buộc một đầu của sợi dây vào cột nhà, quấn lên trên xà nhà rồi đắp quanh các tầng lầu cho đến khi dây xuống tới mặt đất, sau đó đắp bùn nhão lên, tên lửa và pháo không thể đốt cháy, đến pháo đá nặng trăm cân cũng không làm được gì.

Vừa nhẹ nhàng vừa không tốn tiền, cho nên được gọi là "Thừng bảo vệ rào"..
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 103: Chương 103


Triệu Bạch Ngư vừa dứt lời liền nghe thấy tiếng xé gió chói tai ập tới, trong mắt phản chiếu hỏa tiễn đang bay vút đến, sát qua đỉnh đầu của y rơi xuống phía sau phát ra một tiếng nổ mạnh, ngọn lửa bùng lên trong phút chốc nhanh chóng vây lấy binh sĩ, tiếng kêu la thảm thiết không ngừng vang lên, tuy rằng đã được dồng đội dập tắt lửa trên người, nhưng nối đuôi chính là tên lửa ùn ùn kéo tới, mọi người còn không lo nổi cho bản thân mình, căn bản không có dư sức đi cứu đồng đội bị lửa tấn công.
Đậu Hồng xông tới che chắn cho Triệu Bạch Ngư, níu tay y chạy xuống khỏi cổng thành: "Đại nhân, ngài rời khỏi đây trước đi!"
Triệu Bạch Ngư bóp mạnh kinh mạch trên cổ tay của Đậu Hồng: "Đã lúc nào rồi mà còn nghĩ đến tác phong của quan lại chứ?"
Cơn đau ép Đậu Hồng buông tay ra, nghe thấy tiếng chửi tục của Triệu Bạch Ngư vang lên bên tai thì không khỏi ngạc nhiên quay đầu nhìn lại, thấy trong mắt Triệu Bạch Ngư phản chiếu ngọn lửa đỏ rực, dùng thái độ quả cảm không ôn hòa điềm tĩnh như trước nữa mà quát lên: "Ông có kinh nghiệm tác chiến, mau đi chỉ huy đi! —— Bắn pháo! Máy ném đá bắn pháo cho ta! Cung thủ tiến lên, tên lửa có bao nhiêu bắn hết bấy nhiêu cho bổn vương! Hỗn hợp trộn từ phân và nước tiểu bảo các ngươi trộn mấy ngày nay ấy, mẹ nó đổ xuống dưới hết cho ta! Ngắm chuẩn chút, rót vào tai mắt mũi miệng đám t*ng trùng lên não muốn xâm chiếm nhà của chúng ta, giết người thân của chúng ta, chiếm đoạt tài sản đất đai của ta! Cho bọn chúng đớp cứt hết đi ——!"
Một câu cuồng loạn cuối cùng hô đến nỗi vỡ giọng nhưng vẫn như xuyên qua tường lửa, đinh tai nhức óc, trái lại khích lệ toàn quân trên tường thành, chỉ thấy Triệu Bạch Ngư vọt lên phía trước làm gương cho binh sĩ, cầm lấy tên lửa hướng xuống phía dưới bắn tên, ngón tay bị dây cung cứa rách be bét máu tươi nhưng dường như y chẳng hề phát hiện ra, những người xung quanh vô cùng hưng phấn, hăm hở phản kháng lại trước khí thế áp đảo đầy trời của quân địch.
Đậu Hồng cũng không còn lòng dạ nào nghĩ đến việc bảo vệ thượng sai nữa, ông cầm lấy trường thương lao đến cổng thành đâm xuống những tên quân Hạ đang bò lên, bên cạnh liên tục có binh sĩ nâng từng thùng phân lên đổ xuống, đã lúc này rồi không còn ai quan tâm đ ến mùi hôi thối gay mũi này nữa, sâu trong lòng chỉ còn lại h@m muốn giết chóc vô cùng tận, chỉ biết nếu như bọn họ không liều chết chống đỡ đợt sóng tấn công đầu tiên này, thì ngay sau đó đầu sẽ rơi xuống đất, nếu cổng thành bị phá, đất quê hương của họ sẽ bị phơi bày trước móng ngựa, chín mươi ngàn dân chúng tay không tấc sắt sẽ phải chịu đựng từng trận chà đạp tàn bạo và độc ác.
Tên lửa ồ ạt phóng ra không ngừng nghỉ, ánh lửa bất diệt bổ nhào xuống tường thành, mùi da thịt bị đốt cháy bốc lên, mùi máu tươi, mùi khói thuốc súng, mùi hôi thôi của phân và nước tiểu hòa lẫn vào nhau điên cuồng k1ch thích dạ dày của Triệu Bạch Ngư, nhưng lúc này cả người y đều căng thẳng, tinh thần tập trung cao độ, cố gắng tìm kiếm xe nhung giữa đội quân Đại Hạ đang yên tĩnh đứng cách thành hai dặm.
Với khoảng cách này, dù là tên lửa hay là nỏ tầm xa có thể bắn được nỏ tiễn xa đến một dặm cũng không giết được người trong xe nhung.
Bỗng nhiên có một dòng máu tươi nóng hổi phun ra, tung tóe lên nửa bên mặt Triệu Bạch Ngư, cánh tay kéo cung của y run rẩy, thoáng liếc nhìn sang binh sĩ bên cạnh thấy người nọ đã bị chém thành hai khúc, một thân hình cao to leo lên được trên tường thành, giơ đao dài lên cao bổ về phía Triệu Bạch Ngư.
Tình hình lúc này như ngàn cân treo sợi tóc, trường thương của Đậu Hồng xuyên qua lồ ng ngực của quân địch rồi đột ngột rút ra tạo nên âm thanh răng rắc chói tai, kẻ nọ r3n rỉ ngã xuống đất, mà cũng trong lúc đó, mũi tên lửa của Triệu Bạch Ngư đã được b ắn ra, tên lửa lao xuyên qua ngực của một binh Hạ rồi c ắm vào bụng của một binh Hạ khác phát ra tiếng nổ tung, trong nháy mắt chúng đều bị ngọn lửa cắn nuốt.
Vừa mới trải qua cái chết gần kề trước mắt nhưng Triệu Bạch Ngư không có thời gian để nghĩ tới mà sợ, khi y phát hiện ra tên lửa đã bị dùng hết thì rút hoàn thủ đao ra rồi vụt đến chỗ quân địch đang bò lên, vung đao chém xuống, máu tươi văng lên mặt, lúc này tiếng da thịt bị chém rách phóng đại bên tai, vang vọng lấn át cả tiếng chém giết của đao thương.
Khác với sự tỉnh táo trong cơn phẫn nộ đến tận cùng khi chém giết tham quan ô lại, bây giờ trong đầu y chỉ còn sót lại một suy nghĩ duy nhất đó là giết chóc, không hề có cảm giác sợ hãi, mệt mỏi lẫn tội lỗi.
Không giết thì chết.
Mà chết rồi cũng chưa thể kết thúc được, sau lưng còn có ngàn vạn người dựa vào sự bảo vệ của bọn họ.
Triệu Bạch Ngư liều chết cắn răng, tiếng gào thét mạnh mẽ bật ra khỏi lồ ng ngực: "Giết ——!"
Trước sau trái phải y có vô số người hưởng ứng, tiếng hô giết vang lên bốn phía, thậm chí có tân binh đã bị đâm thủng ngực thì quyết ôm lấy quân địch nhảy thẳng xuống thành, chỉ trong chốc lát đã bị giẫm đạp đến nổi chẳng còn ra hình người,
Ánh lửa ngập trời, mãi cho đến khi có tia nắng vàng óng xuyên qua tầng mây dày chiếu sáng rừng cây sắc xám phía xa, nắng phản chiếu trên khôi giáp của tướng sĩ vô cùng chói chang, quân Hạ ác chiến một đêm nhanh chóng rút lui như thủy triều, dựng trại đóng quân ở cách đó ba dặm.
***
Hai tay Triệu Bạch Ngư run lên cầm cập, từng đốt ngón tay đều nứt toác ra bê bết máu me, nhưng cơn đau mà nó mang lại thậm chí không thể so được với sự mệt mỏi của thể xác, tinh thần càng chấn động hơn thế nữa, nhưng y vẫn cần phải tiếp tục mạnh mẽ chống đỡ để đối phó với nguy cơ công thành sắp sửa xảy ra.
"Có bao nhiêu tiểu đội cầu viện phá vòng vây thành công?"
Tình hình của Đậu Hồng không ổn hơn Triệu Bạch Ngư là bao, đầu bù tóc rối hai mắt đỏ quạch, thở hồng hộc trả lời: "Chỉ có một tiểu đội là không bị treo đầu lên cột cờ của địch."
Triệu Bạch Ngư nhắm nghiền mắt lại.
Có tổng cộng bảy tiểu đội cầu viện, một đội năm người, chỉ có một tiểu đội phá vòng vây thành công, chạy đi mật báo.
"Từ Kinh Châu đến Vị Châu khoảng một trăm hai mươi dặm, nếu là kỵ binh nhẹ thì nhanh nhất cũng phải hai ngày hai đêm mới đến đó, nhưng điều này không thực tế, huống chi Vị Châu cũng đang bị quân Hạ vây đánh.

Chỉ có thể đến các nơi như Nguyên Châu, Khánh Châu, Lũng Châu, Ninh Châu và Phượng Tường để cầu viện, nhưng Nguyên Châu và Lũng Châu đều đã phái đi không ít binh lực chi viện cho Vị Châu, có thể đến giúp quân ta không được bao nhiêu.

Cấm quân Khánh Châu có ba mươi ngàn, Cấm quân Phượng Tường hai mươi lăm ngàn, Lũng Châu cũng có năm ngàn Cấm quân, cộng thêm hương binh và quân đội vùng ven đoán chừng có thể gom được đủ một trăm ngàn binh lực, nhưng nhóm viện binh đầu tiên đến hỗ trợ được nhanh nhất cũng phải tốn năm ngày!" Triệu Bạch Ngư cắn chặt răng hàm, nếm được mùi máu tươi: "Chúng ta cần cố thủ Kinh Châu năm ngày, phải đợi đến lúc viện binh đến!"
Trái tim của Đậu Hồng nhanh chóng trở nên nặng nề, đây đã là kết quả tốt nhất trong dự đoán rồi, vẫn chưa chắc quân cầu viện có thể đến đích thành công hay không, mà dù viện binh có xuất phát thuận lợi cũng không chắc sẽ đến đây kịp trong vòng năm ngày.
Lúc này, Triệu Bạch Ngư thấp giọng nói: "Phải bảo đảm đạn dược, lương thảo và nguồn nước đủ dùng trong vòng ít nhất mười ngày tới."
Đậu Hồng hiểu tính toán của Triệu Bạch Ngư nhưng...
"Đạn dược chỉ đủ dùng trong ba ngày.

Quân địch đã có tiếp viện, ta đoán phải có chừng bảy, tám mươi ngàn, hơn nữa bọn chúng dư dả đạn dược, dùng không tiếc rẻ, chúng ta chỉ có tối đa bốn mươi ngàn binh, e là sẽ không chống đỡ được bao lâu."
"Chỉ cần thừng bảo vệ rào được chế tạo thành công, dù đạn có mạnh đến mức nào cũng không phá được.

Đã động viên dân chúng toàn thành chưa? Nếu như có kẻ nào phản kháng hoặc làm dao động lòng quân thì nhốt vào đại lao trước đã rồi tính."
Đậu Hồng còn chưa đáp lại đã có tướng lĩnh phía dưới vội vàng chạy tới nói: "Đại nhân, thừng bảo vệ rào mà tối qua ngài dặn dò làm mọi người đã chế ra được rồi, ngài có muốn đích thân đi kiểm tra không?"

Triệu Bạch Ngư: "Quấn lên nóc nhà rồi ném phá trước đã, xem thử có dùng được hay không."
Tướng lĩnh nghe lệnh.
Có thợ thủ công mang sợi dây thừng được bện theo như bản vẽ của Triệu Bạch Ngư đến, quấn năm lớp dây quanh một căn nhà trống, sau đó đổ bùn nhão ở xung quanh, đợi đến lúc nó khô lại mới dùng máy ném đá ném pháo vào, sau khi khói mù tan đi không thấy bị tổn hại gì, chúng tướng sĩ mới bừng bừng hứng khởi, nói có vũ khí phá pháo lợi hại như vậy rồi thì không sợ đạn gây cháy và đạn khí độc của Đại Hạ nữa.
Triệu Bạch Ngư: "Đạn khí độc nổ xong sẽ có khói độc bốc lên, thừng bảo vệ không thể chắn được."
Lúc này Đậu Hồng mới bước lên nói: "Đại nhân, có thầy thuốc đề nghị dùng mặt nạ ngâm qua giấm chua để phòng độc.

Hơn nữa trong quá trình chế tạo đạn khí độc rất dễ bị ngộ độc chết cho nên số lượng sản xuất ra rất ít, ngoại trừ ban đầu công thành ném đạn khí độc chứa chất độc cực mạnh ra để đe dọa, chèn ép sĩ khí thì những loại đạn khí độc lúc sau phóng đến không nguy hiểm đến tính mạng."
Triệu Bạch Ngư: "Cần người cho người, muốn vật liệu cho vật liệu, cố gắng phối hợp chế tạo mặt nạ phòng độc đi." Sau đó y bảo các tướng sĩ bày tỏ suy nghĩ của mình về việc đối phó với Đại Hạ, "Tập hợp ý tưởng của trăm người, cứ nói thoải mái đi, không gì là không thể."
Một đám tướng sĩ nhìn nhau, trong lòng rất do dự, cũng bởi vì Ngạc Khắc Thiện bảo thủ tự phụ, trước giờ chưa từng kiên nhẫn nghe theo ý kiến mang binh đánh giặc của thuộc hạ.
Ấy gọi là tướng dũng binh hùng, tướng hùng binh sợ, trên lệnh dưới theo, tướng lĩnh dưới quyền làm Ngạc Khắc Thiện nở mày nở mặt thường là những kẻ nịnh nọt bất tài, ông ta không thích nghe lời khuyên của cấp dưới, luôn cố tình chèn ép những tướng lĩnh ưu tú muốn ngóc đầu lên, vì vậy khi nghe thấy lời đề nghị của Triệu Bạch Ngư, bọn họ mới ngỡ ngàng và băn khoăn theo thói quen.
Tuy nói rằng Triệu Bạch Ngư có danh thanh thiên, biểu hiện tối qua của y cũng vô cùng dũng cảm, nhưng dù gì y cũng là quan văn, sao có thể hiểu mang binh đánh giặc chứ?
Triệu Bạch Ngư nhìn ra được suy nghĩ trong lòng bọn họ, không nói gì mà quay sang nhìn Đậu Hồng.
Đậu Hồng hiểu ra ngay, thế là đứng ra nói: "Mặc dù quân địch đã ác chiến một đêm, thắng vì số lượng nhưng không thích hợp kéo dài lâu, chỉ sợ là muốn đánh nhanh thắng nhanh, bọn chúng sẽ mau chóng tiến hành đợt công thành tiếp theo, nhờ trận đánh này làm tiêu hao binh lực và thể lực của quân ta.

Nhân số của quân ta rơi vào thế bất lợi, lại chỉ có thể kéo dài! Quân ta có thừng bảo vệ rào, công pháp pháo của địch mất hiệu lực thì chúng sẽ sử dụng loại vũ khí khác để phá thành, trận tên ắt không thể thiếu, chúng ta động viên dân chúng bện người rơm, học thuyền cỏ mượn tên của Chư Cát Khổng Minh, đến tối tổ chức cho dũng sĩ ra khỏi cổng thành, lẻn vào doanh địch đánh lén."
Triệu Bạch Ngư: "Được đấy."
Mưu kế của Đậu Hồng không khéo lắm, nhưng có thể có hiệu quả.
Thấy Triệu Bạch Ngư tiếp thu, lập tức có người đi ra nói: "Trong thành có một địa đạo thông ra ngoài thành, chúng ta có thể mai phục trong địa đạo để đánh lén mọi lúc."
Địa đạo chiến? Ông cố tổ sáng suốt quá mà.
Triệu Bạch Ngư vui vẻ khen ngợi, khen đến nỗi khiến cho gã đàn ông cao to thô kệch vừa ngại ngùng vừa vui sướng không thôi.
Có người lên tiếng trước được thừa nhận nên đã khích lệ được những người khác, đều là nam nhi khỏe mạnh dốc hết sức mình vì Ngô câu, ai mà không muốn toại chí lớn? Ai mà chưa từng có lòng muốn xuất tướng nhập tướng chứ?
Chỉ trong nháy mắt, một đám tướng sỉ tinh thần phơi phới đóng góp ý kiến của mình cho kế hoạch làm tiêu hao sinh lực và thể lực của quân địch, cố gắng kéo dài thời gian phá thành, Triệu Bạch Ngư nghiêm túc nghe hết.
Chỗ nào thắc mắc thì hỏi vài câu, hiểu rồi thì không góp ý thêm nữa, cho người cho vật liệu và quyền hạn tốt nhất để bọn họ mạnh tay thực hiện, còn lệnh cho người bên cạnh ghi lại những gì mà mỗi người ở đây đã cống hiến trong trận đại chiến này, để cho bọn họ nhìn thấy rõ rằng bất cứ đóng góp nào của họ cũng đều là công lao, ngày sau sẽ ban thưởng tương ứng với từng việc một.
Hành động này giống như một viên thuốc an thần tăng sĩ khí lên gấp đôi.
Triệu Bạch Ngư cũng sẽ đưa ra nguyên nhân bác bỏ một lời đề nghị nào đó, chỉ nói vài câu về chỗ thiếu sót thôi đã đủ khiến cho người khác thật lòng khâm phục rồi.
Dần dần, tiếng thảo luận vang lên không ngừng nghỉ, từ nhỏ nhẹ đến sục sôi, rồi lại giảm âm thanh xuống trong nháy mắt, Đậu Hồng dựng ngón trỏ lên đặt trên miệng ra hiệu đừng lên tiếng nữa, mọi người nhìn về phía Triệu Bạch Ngư giữa đống bao cát lộn xộn dưới tường thành, y đã nhắm mắt lại vô thức chìm vào giấc ngủ say.
Nhưng dù đang ngủ, tư thế của y vẫn căng thẳng không dám buông lỏng chút nào, mà vết thương chồng chất trên tay Triệu Bạch Ngư cũng lộ ra trước mắt mọi người, y thậm chí không thể gắng gượng đến lúc có thuốc bôi và băng gạc để chữa thương.
...
Không khí trở nên im ắng.
Mọi người đều hiểu ý lui đi, chỉ để lại một lão binh đứng cách năm mét canh chừng Triệu Bạch Ngư đang mê man giữa bao cát, còn gọi nhóc đồ đệ của thầy thuốc đến để giúp Triệu Bạch Ngư bôi thuốc lên tay.
Ai nấy đều làm việc cần làm, có điều tướng sĩ đánh từ tối qua đến giờ đều đã mệt mỏi kiệt sức, Đậu Hồng lệnh cho bọn họ thay phiên nhau nghỉ ngơi, bản thân ông cũng phải đi nghỉ một chút.
Ngủ chưa đủ hai canh giờ, Triệu Bạch Ngư đã choàng tỉnh giấc vì tiếng hỏa lực ầm ầm và tiếng động nặng nề vang lên khi cổng thành bị vật nặng tông vào, không cho chút thời gian nào để tỉnh táo, trận tập kích tiếp theo đến nhanh như mưa rào khiến y phải vùi đầu vào đánh ngay.
***
Tại một hẻm núi không tên thuộc dãy núi Kỳ Liên.

Tiếng rầm rập đinh tai nhức óc vang lên như tiếng sấm réo từ xa đến gần, bỗng nhiên bụi mù cuồn cuộn, có gì đó xuất hiện, thế mà lại là hàng ngàn con ngựa đang lao nhanh, hợp lại thành đoàn băng qua hẻm núi, kỵ binh mai phục phía trên lập tức biến sắc, nhìn quanh quất hồi lâu mới thấy được một bóng người màu đen ẩn hiện trong bầy ngựa, lập tức đưa tay hạ lệnh:
"Nổ hẻm núi!"
Bên cạnh có người do dự: "Bên dưới có hơn chục ngàn tuấn mã, đều là ngựa có đủ tư chất làm ngựa chiến, nổ phá hẻm núi chẳng phải sẽ chôn luôn chúng nó sao?"
Kỵ binh dẫn đầu tát kẻ kia một cái: "Đến bây giờ ngươi cũng chưa nhìn ra được mục đích của bọn người Hán này là đang chuẩn bị dẫn ngựa chiến mà bọn chúng trộm được từ Đại Hạ về nước chúng à? Đi qua sa mạc, thảo nguyên và đường núi, mượn thêm đường của dân tộc Thổ Phiên, bọn chúng sẽ nhanh chóng đến Tây Ninh Châu thôi!"

Kẻ bị tát không dám than thở một câu nào, chỉ lĩnh mệnh làm theo, châm lửa vào chất nổ đã chôn trong hẻm núi từ lâu.
Tiếng nổ liên tục vang lên khiến cho đàn ngựa hoảng sợ, nhao nhao hí vang rồi tìm cách tháo chạy, có con bị đá tảng bất ngờ rơi xuống làm gãy cổ, mất mạng tại chỗ đã là may mắn lắm rồi, chỏng vó run rẩy chịu đựng cơn đau chậm rãi lan ra mà không chết được mới đáng sợ.
Một thanh ô thương chấm dứt nỗi thống khổ của tuấn mã, siết chặt dây cương tránh tảng đá đang rơi từ trên cao xuống, Hoắc Kinh Đường nhìn lên mai phục ở phía trên hẻm núi rồi đột nhiên xông vào giữa bầy ngựa, một lát sau túm một ai đó từ bên trong ra, người nọ dùng hai tay đặt bên miệng huýt một tiếng sáo gọi ngựa, dần dần trấn an được bầy ngựa nóng nảy, để chúng chủ động tránh khỏi nguy hiểm.
"Giết kẻ chăn ngựa kia!"
Vừa dứt, vô số cung tên từ bốn phương tám hướng đã ồ ạt bắn về phía người chăn ngựa, có điều chỉ trong nháy mắt đã bị ô thương của Hoắc Kinh Đường gạt rơi xuống đất hết, cuộc tấn công trong phạm vi mười dặm đều có phòng ngự.
"Chúng tướng theo ta xuống giết!"
Ra lệnh một tiếng, tiếng thét giết rung trời của chừng hơn một ngàn phục binh vang lên, thiết kỵ giáp nặng màu đen tuyền bỗng nhiên xuất hiện như âm hồn, xếp thành một hàng dài im lặng đứng nhìn một ngàn phục binh hừng hực lao xuống dưới, bọn họ chỉ có vẻn vẹn năm mươi kỵ binh nhưng khí thế lại kh ủng bố như thể đang có đến năm trăm, năm ngàn kỵ binh vậy.
Nửa canh giờ sau, đội binh dưới hẻm núi rời đi, chỉ để lại xác chết của vài con ngựa và hàng trăm phục binh, có cơn gió từ thảo nguyên rộng lớn ghé thăm, lướt qua mỏm đá gồ ghề của hẻm núi, thổi những mầm cây nhỏ vừa nhú khỏi ngọn cây bay lất phất, ngân lên âm thanh thê lương bi tráng của đồng cỏ hoang vu.
Đây là một con đường đã từng được Đại Cảnh khai thác với mục đích tấn công Tây Ninh Châu, bởi vì đường đá hiểm trở, sa mạc, thảo nguyên và đồi núi đều xuất hiện trên tuyến đường này, còn cần phải đi dọc qua đường của dân tộc Thổ Phiên, hơn nữa vì lợi bất cập hại nên đã bị bỏ ngang, bây giờ vẫn có người qua lại nhưng rất ít, đã định sẵn là ai chết sẽ vùi xương nơi đây chứ không được chôn cất đàng hoàng.
Ngựa chạy không ngừng vó, băng qua mấy hẻm núi liền kề nhau chạy vào một đồng cỏ không rộng lớn lắm, cuối đồng cỏ là là một thị trấn nhỏ của dân tộc Thổ Phiên, qua khỏi thị trấn đó là đến Tây Ninh Châu thuộc lãnh thổ Đại Hạ.
Nhưng khi chỉ vừa mới đặt chân đến mảnh đất vàng vọt tr@n trụi không màu mỡ kia, năm mươi thiết kỵ Đường Hà bỗng gặp phải ba ngàn kỵ binh nhẹ cản đường, phó tướng bên cạnh Hoắc Kinh Đường nhận ra thân phận của kỵ binh nhẹ nhờ vào phục sức và loan đao mà bọn họ đeo trên người.
"Kinh binh nhẹ Mông Cổ." Phó tướng ngạc nhiên, "Đại Hạ điên rồi, hợp tác với kị binh Mông Cổ, lang sói hung ác tham lam nhất thảo nguyên này sao? Tang Lương Ngọc không sợ dẫn sói vào nhà à?"
Kỵ binh nhẹ Mông Cổ còn ghê gớm hơn cả kỵ binh hạng nặng của Đại Hạ, năm mươi kỵ binh đối đầu với ba ngàn kỵ binh, dù có là thiết kỵ Đường Hà chiến công hiển hách cũng không dám cược rằng họ có thể vượt qua được.
Sắc lưu ly trong mắt Hoắc Kinh Đường trở nên sâu thăm thẳm: "Hợp tác với Đột Quyết, Tây Liêu, Nam Cương gì cũng vậy thôi, thích chơi với lửa thì có ngày chết cháy, giết hết là được." Hắn giơ tay, dõng dạc từng câu chữ: "Đếm đầu luận công, chém được đầu thủ lĩnh thì tính công theo tứ đẳng."
Nghe vậy, năm mươi kỵ binh lập tức sáng mắt lên, kiêng dè ban đầu lúc này đã hoàn toàn hóa thành sát ý chộn rộn tràn đầy.

Hoắc Kinh Đường ra lệnh một tiếng, năm mươi kỵ binh dũng mãnh ra quân, tiên phong tàn sát ba ngàn kị binh nhẹ, âm thanh chiến tranh đâm thủng cả màng nhĩ, ngựa kêu vang rền, một giây sau bị chém đứt hai chân trước ngã rạp xuống đất làm kị binh trên lưng ngã theo, ngay lập tức bị trường thương theo sát xuyên thủng lồ ng ngực, hồn về tha hương.
Nắng chiều ngả về tây, đầu ô thương sắc nhọn lóe lên một tia sáng bạc rạch ngang da thịt yếu ớt, thoáng chốc một dòng máu đỏ tươi vung lên trời chiều, rơi khắp bãi cỏ, cơ thể người nặng nề rơi xuống đất, để lộ đôi mắt màu lưu ly vô cùng đặc biệt của Hoắc Kinh Đường, dù xác người đã chồng chất bên cạnh hắn nhưng đôi mắt vẫn lạnh lùng và bình tĩnh như cũ, không hề có chút điên cuồng, sợ hãi hay mất kiểm soát nào sau khi giết người như ngóe, trông như chẳng hề tồn tại chút tình cảm loài người nào, lúc này đến cả kị binh nhẹ Mông Cổ rong ruổi thảo nguyên tranh đấu cùng đàn sói cũng cảm thấy sợ hãi.
Giống đàn sói nhận ra được nguy hiểm nên quắp chặt cái đuôi vào người chật vật trốn chạy, lúc này không đến một ngàn kỵ binh Mông Cổ đã lui về phía sau vì hoảng sợ.
Chính vì sự rút lui tầm thường này mà khí thế của hai bên đã thay đổi trong chớp mắt, đối mặt với chừng ba mươi thiết kỵ Đường Hà còn sống sót, rất dễ nhận thấy sĩ khí của binh sĩ kỵ binh nhẹ Mông Cổ đã bị tổn thất hai phần ba, vô cùng suy kiệt.
Tên thủ lĩnh chạm phải ánh mắt của Hoắc Kinh Đường, không nén nổi sợ hãi đưa tay lên: "Rút..." Giọng nói nhỏ quá, những người khác nghe không rõ, sau đó liền nghe được âm thanh phẫn nộ phảng phất như rít ra từ trong kẽ răng của gã: "Rút!!!"
Số kỵ binh Mông Cổ còn lại rút lui như thủy triều, thiết kỵ Đường Hà chém giết đỏ mắt rồi cũng không muốn buông tha đơn giản như vậy, cũng bởi vì Hoắc Kinh Đường vẫn chưa hô ngừng nên yên tâm tiếp tục đuổi giết.
Hoắc Kinh Đường nhấc ô thương lên, siết chặt thân thương, chạy lấy đà vài bước rồi xoay người dùng hết sức ném đi, ô thương xuyên qua trời cao, đâm vào lồ ng ngực của thủ lĩnh kỵ binh nhẹ Mông Cổ một cách chuẩn xác.
Quán tính cực lớn lập tức túm lấy tên thủ lĩnh bay xa vài mét nữa rồi đóng chặt xuống đồng cỏ, gã phun ra mấy ngụm máu tươi, có điều chỉ trong chốc lát Hoắc Kinh Đường đã xuất hiện ngay trước mắt, gã huơ tay huơ chân giãy giụa, biểu cảm hoảng sợ cực độ, có thể cảm giác được ô thương cắm vào thân thể mình bị rút ra, trong mắt gã là Hoắc Kinh Đường với dáng vẻ tựa ác quỷ đang giơ cao hoàn thủ đao lên...!Đao rơi xuống, két két! Thi thể bị chém đứt làm đôi.
Thủ lĩnh chết trận binh tan đàn xẻ nghé, kỵ binh Mông Cổ tháo chạy khắp nơi, thiết kỵ Đường Hà nhẹ nhàng thu hoạch đầu người, mà Hoắc Kinh Đường nhanh chóng cảm nhận được có điều bất thường, quay đầu lại nhìn về phía đường chân trời nơi ánh trời chiều bị cắn nuốt, một loạt chấm đen bỗng nhiên lọt vào tâm mắt, hắn giật mình, lập tức lấy hơi hô to: "Thu binh! Lui lại!"
Ba mươi thiết kỵ Đường Hà đã nhìn thấy được nơi đường chân trời có hàng loạt kỵ binh đang vọt tới thì cũng rùng mình một cái, da đầu run lên, không dám ở lại nữa mà trở mình lên ngựa, giơ roi thúc ngựa chạy như điên, phía sau có khoảng bốn năm ngàn kỵ binh Đại Hạ đang đến gần, xông vào biên cảnh tộc Thổ Phiên mà không mảy may sợ hãi.
Mặc dù thiết kỵ Đường Hà vẫn còn ba mươi người sống sót nhưng đã có hơn nửa bị thương nặng, còn một nửa vừa mới trải qua một trận chiến hăng hái vẫn còn đang mệt mỏi, vốn đã không có sức mà còn phải đối mặt với một tốp kỵ binh Đại Hạ đang hừng hực khí thế.
Lần này sợ là lành ít dữ nhiều.
"Mẹ nó! Sao đám giặc Hạ này giống châu chấu giết một đàn vẫn còn đàn khác thế này, nếu như toàn quân ta đi nói không chừng bây giờ chúng đã bị ta đánh tơi bời rồi!" Phó tướng gào lên: "Cầu tặc họ Tang! Tốt nhất là mày nên cầu nguyện cho ông đây thoát chết nhiều lần đi, bằng không thì ông đào mồ tổ tiên nhà mày lên hết đấy!"
Bọn họ nhanh chóng bị kỵ binh Đại Hạ bao vây kín kẽ, đối mặt với đội binh mà chúng không ngừng truy đuổi, ba mươi thiết kỵ Đường Hà may mắn còn sống sót không khỏi cảm thấy mệt mỏi, đánh trận vốn chú trọng sự liền mạch*, nếu như toàn quân liên thủ, dù chỉ là năm mươi thiết kỵ Đường Hà thôi nhưng đánh chục ngàn quân cũng chỉ là chuyện nhỏ, bởi lẽ thiết kỵ Đường Hà dũng mãnh vô địch luôn đánh đâu thắng đó, chỉ cần không gì ngăn cản khí thế là sẽ đánh cho quân địch tan tác, vậy mà lại phải đánh luân phiên hết lượt này đến lượt khác, bọn họ vừa tiêu hao thể lực vừa hụt số lượng, còn phe của chúng thì không hề thả lỏng ý chí, kẻ đứng sau sắp xếp giật dây cho cuộc truy đuổi này thật sự tính toán rất giỏi.

(*) Nhất cổ tác khí (一鼓作气): một tiếng trống làm tinh thần hăng hái thêm.

"Tả Truyện" Trang Công thập niên: phu chiến, dũng khí dã.

Nhất cổ tác khí, tái nhi suy, tam nhi kiệt.

Khi đánh trận dựa vào dũng khí, đánh một tiếng trống, dũng khí tăng lên, đánh hai tiếng trống, dũng khí suy giảm, đánh ba tiếng trống, dũng khí không còn.

Sau này ví với nhân lúc đang hăng hái làm một mạch cho xong việc.
Hoắc Kinh Đường siết chặt chiếc khăn tay cũ giấu trong ngực áo, ánh mắt kiên định, thấp giọng nói: "Có lẽ không còn tìm được mộ tổ tiên của Tang cẩu tặc nữa đâu, hay là sống thêm chút nữa rồi dẫn binh chinh chiến đánh hạ phủ Hưng Khánh, cho ngươi mặc sức báo thù rửa hận!"
Thiết kỵ Đường Hà xung quanh đều bật cười khoái chí: "Các anh em nghe thấy chưa? Tướng quân đã đồng ý nếu lần này chúng ta sống sót là có thể tiến đánh thủ đô Đại Hạ, tiêu diệt con chó quên mất nguồn gốc của mình đấy!"
"Một lão thô kệch như ta ấy à, không nhớ gì đâu, chỉ mang thù thôi! Tướng quân, ngài đã nói vậy rồi, dù ta có bò cũng phải bò về Tây Bắc!"
"Nếu chưa thu lại Hà Hoàng địa, thề chẳng quay đầu..." Hoắc Kinh Đường nở nụ cười, đột nhiên đọc vang câu thơ trấn thủ biên cương của tiền triều, giọng nói vang vọng núi sông, hòa vào tiếng kêu lớn của diều hâu bay ngang qua thảo nguyên: "Ngóng cố hương!"
(*) Nhà thơ đời Đường – Lệnh Hồ Sở viết đề tài "Thiếu niên hành", cũng có một bài thất tuyệt mô tả những đoàn quân rời Hàm Dương Tây chinh: "Cung sáng đeo lưng kiếm ánh sương / Gió thu quất ngựa rời Hàm Dương / Nếu chưa thu lại Hà Hoàng địa / Thề chẳng quay đầu ngóng cố hương."
Bài thơ mô tả những đoàn quân thúc ngựa rời Hàm Dương về biên ải phía Tây.

Chuyến hành quân này nếu chưa thu phục lại những vùng đất trong khu vực Hà Hoàng, do quân Thổ Phồn chiếm đóng (Đông Nam bộ Cam Túc và Hà Tây Tẩu Lang), thề quyết không quay đầu nhìn lại quê hương.
Dứt lời, giết địch, làm gương cho binh sĩ.
Ba mươi thiết kỵ nhanh chóng chìm trong quân địch mênh mông như biển, Hoắc Kinh Đường không phụ danh xưng nhân đồ Tây Bắc, xung quanh hắn đều là xác quân địch chất chồng lên nhau, bất cứ nơi nào hắn đi qua, ai cũng đều phải sợ bảy phần, tướng địch lệnh cho hơn mười binh sĩ vung giáo dài ra đâm về phía Hoắc Kinh Đường, hắn lại giẫm xuống mũi giáo nhảy lên cao, lập tức có vài chục binh sĩ dựng thẳng giáo dài lên đặt dưới đất nơi hắn đáp xuống, Hoắc Kinh Đường dùng ô thương chen vào chỗ hở giữa các mũi giáo, mượn đà dùng sức tránh khỏi chúng, nhưng lại không tránh được vô số vết thương bị rạch ra dưới sự truy đuổi không ngừng nghỉ của vũ khí sắc nhọn.
Giơ tay đỡ lấy hàng chục mũi giáo đang đâm về phía mình, Hoắc Kinh Đường tung đám binh sĩ sang một bên làm lá chắn người chặn đòn tấn công từ phía bên kia, lại dùng sức lực toàn thân bẻ gãy giáo dài, dồn nội lực đánh ra, trong nháy mắt gi3t chết hơn mười người.

Bên tai có tiếng xé gió vụt tới, Hoắc Kinh Đường rút hoàn thủ đao ra theo phản xạ chém đứt, nhưng chỉ một giây sau cơn đau từ bụng kéo tới khiến hắn phải ngẩng đầu nhìn lại, thấy một hàng binh sĩ đang cầm nỏ thần ti uy lực phi phàm, đang kéo dây cung nhắm thẳng vào hắn.
Trước kỵ binh nặng, sau kỵ binh nhẹ, cuối cùng là cung thủ tinh anh cũng ra tay rồi, Tang Lương Ngọc khá coi trọng hắn đấy chứ.
Hoắc Kinh Đường cười mỉa, vươn tay chém đứt một nửa mũi tên cắm trên bụng hắn, gân xanh trên cánh tay, mu bàn tay hằn rõ lên, đã đến nỗi này rồi mà hắn vẫn có thể toát ra được khí thế cực kỳ mạnh mẽ không biết sợ hãi khiến cho tướng địch khiếp sợ.
Tướng địch kinh hoàng lui về phía sau, vung tay hạ lệnh: "Cung thủ chuẩn bị —— bắn tên!"
Mũi tên sắt bay ra như mưa, Hoắc Kinh Đường cắm ô thương sâu xuống mặt đất, hai tay nắm chặt hoàn thủ đao nhảy sang một mảnh đất trống, dù bả vai và bắp chân đã trúng tên nhưng dường như hắn không cảm thấy đau, mưa tên vây quanh một đao đâm chém, đến cả nỏ thần và cánh tay của cung thủ cũng bị hắn chém đứt, tướng địch sợ đến mức lui về phía sau, nghĩ mãi cũng không hiểu vì sao trên đời lại có người còn đáng sợ hơn cả quỷ thế này!
"Cung thủ...!Toàn bộ cung thủ —— ra khỏi hàng!" Tướng địch càng sợ hãi càng kiên quyết muốn chém chết Hoắc Kinh Đường ở đâu, lệnh năm trăm cung thủ xếp thành mười nhóm, chuẩn bị bắn tên liên hoàn, chủ ý chắn chắn là muốn hao sạch mũi tên, dù năm ngàn kỵ binh có chết cũng phải diệt được Hoắc Kinh Đường: "Bắn..."
Mắt Hoắc Kinh Đường bị máu tươi chảy xuống che khuất, hắn không có dư sức để suy xét, đầu óc, xương cốt và linh hồn đều chỉ còn lại duy nhất một suy nghĩ, phải sống.
Phải tiếp tục sống!
Hắn đã đồng ý với Triệu Bạch Ngư là không bỏ y trước rồi, làm sao dám chết ở đây?
"Bắn tên!"
Mưa tên ùn ùn kéo đến, đã có năm phó tướng gần đó xông đến ngăn trước mặt Hoắc Kinh Đường rồi lớn giọng hô nói bọn họ sẽ làm lá chắn, bảo Hoắc Kinh Đường khi nào giết sạch Đại Hạ rồi mang rượu tới trước phần mộ của bọn họ báo cho một tiếng là được.
Máu chảy xuống gần như che mất tầm nhìn của Hoắc Kinh Đường, hắn siết chặt hoàn thủ đao đột ngột tiến tới chặt đứt mũi tên sắt đang đến gần phó tướng, gào lên với đám phó tướng luôn miệng bảo hắn đi trốn đi: "Mẹ nó, ngậm cái miệng chó của ngươi lại!"
Cung thủ của quân địch bắn xong một đợt tên thì ngay lập tức có tốp khác lên bắn, không để cho bọn họ một cơ hội tạm nghỉ, tướng địch kia giết đỏ cả mắt rồi, mặt mũi gả đỏ bừng lên, hưng phấn không thôi, nếu như chiến thần Tây Bắc Hoắc Kinh Đường chết trong tay gã, từ nay về sau gã sẽ nổi danh khắp thiên hạ, làm dòng họ vinh dự không nói, về sau còn có thể trở thành một đại danh tướng lưu danh sử sách.
"Bắn tên bắn tên bắn tên!"
Tướng địch điên cuồng hô lên, nhưng chỉ một giây sau thôi khuôn mặt tươi cười phấn khích đã cứng đờ, gã liếc mắt thoáng nhìn thấy một loạt cung thủ bị tên sắt đâm xuyên qua ngực, không khỏi ngạc nhiên quay đầu nhìn lại, thấy được nơi ánh chiều tà sắp khuất có một đội kỵ binh đên đến, đối phương cũng cầm trên tay nỏ thần ti vốn chỉ ở Đại Hạ mới có đi từ xa lại gần, đến gần rồi rốt cuộc gã cũng có thể nhìn rõ khuôn mặt và trang phục của người dẫn đầu.
Đó cũng là trang phục của thiết kỵ Đường Hà, gương mặt đó lại trùng hợp là người mà gã vừa mới giao thủ xong, thủ lĩnh phiên tộc Chiết thị Tây Bắc Chiết Thanh Phong.

truyện kiếm hiệp hay
Vì sao hắn lại ở đây?
Đây chính là thắc mắc cuối cùng hiện lên trong đầu gã khi còn sống, bởi vì gã đã nhanh chóng nghe thấy lời hỏi thăm lạnh lùng đầy quỷ quái: "Mang binh đánh giặc nhiều năm rồi, chẳng lẽ không ai nói cho mày biết đứng trên chiến trường đừng đưa lưng về phía địch hay sao?"
Cái, cái gì?
Tướng địch chỉ kịp nhìn thoáng qua sát ý vô tận xuất hiện trên khuôn mặt kinh diễm như yêu tà đang tiến gần của Hoắc Kinh Đường, sau đó là cơn đau mãnh liệu, tầm mắt thay đổi, dường như gã đã nhìn thấy thân thể mình đứng yên một chỗ, rồi phạm vi nhìn chuyển sang ngửa lên, thấy được cơ thể không đầu và bầu trời như đổ lửa.
Viện binh quân địch đã đến, chủ tướng bị chém, lòng binh sĩ Đại Hạ rã rời, nháo nhào chạy trốn, phiên binh Chiết Thanh Phong mang đến đuổi giết một lúc mới lui, hỗ trợ những người chăn ngựa luôn được bảo vệ an toàn đi lùa ngựa chiến khắp nơi trên thảo nguyên trờ về.
Chiết Thanh Phong nhìn lướt qua chiến trường rồi giật mình, nhất là đống xác chết trông như bãi tha ma bên cạnh Hoắc Kinh Đường càng khiến cho gã muôn phần kính sợ.
"Mạt tướng tham kiến tướng quân!"
Hoắc Kinh Đường ném mũ sắt xuống đất, máu tươi chảy vào cực kì bết dính, tóc quấn lộn xộn vào nhau, hắn giơ hoàn thủ đao lên chém đứt toàn bộ đuôi tên trên người rồi mới liếc nhìn Chiết Thanh Phong: "Sao ngươi lại ở đây? Tiểu lang bên kia thế nào rồi?"
Chiết Thanh Phong sửng sốt, dường như không ngờ câu hỏi đầu tiên của Hoắc Kinh Đường là về Triệu Bạch Ngư, có điều cảm thấy nó vẫn nằm trong dự đoán, gã bèn thuật lại nguyên nhân mình đến đây.
Hoắc Kinh Đường cau mày: "Tiểu lang phát hiện Tang Lương Ngọc truy ra tin tức phủ Tây Lương, vậy nên phái ngươi tới hỗ trợ hả?" Hắn nhìn nỏ thần ti trên tay Chiết Thanh Phong, "Các ngươi đã sớm gặp được đám công nhân và vũ khí được đưa về Đại Cảnh rồi à?"
Chiết Thanh Phong: "Vâng."
Hoắc Kinh Đường: "Tang Lương Ngọc soán vị, đánh nghi binh ở tất cả các thành trì Tây Bắc, đã biết được mục tiêu thật sự ở đâu chưa?"

Suốt thời gian này đi một đường từ rừng núi hoang vắng đến thảo nguyên, sa mạc toàn những nơi biệt lập, Hoắc Kinh Đường chỉ phán đoán được ý đồ đánh nghi binh của quân đội Đại Hạ thông qua hướng đi của chúng, không có thêm manh mối xác thực nên không có cách nào đoán thêm bước nữa.
Mặt Chiết Thanh Phong lộ vẻ do dự.
Ánh mắt Hoắc Kinh Đường sắc bén: "Nói!"
Chiết Thanh Phong: "Là Vị Châu.

Lúc đó ta trà trộn vào phủ Tây Lương, nghe nói quân đội Đại Hạ chia làm hai hướng lần lượt đánh chiếm trấn Nhung và Vị Châu, các nhánh viện binh đều đang chạy tới Vị Châu huyết chiến cùng quân Đại Hạ, hình như đang giằng co, vẫn chưa phân thắng bại, hơn nữa quân Đại Hạ mang theo không ít vũ khí công thành mà trước đây không có, vô cùng khó giải quyết."
Sắc mặt của Hoắc Kinh Đường rất khó coi: "Vị Châu và Kinh Châu ở rất gần nhau! Chắc chắn Kinh Châu sẽ phái binh chi viện Vị Châu, tướng sĩ thủ thành ở lại không nhiều lắm, đường rút lui và hàng phòng ngự yếu kém, nếu như lúc này bị quân Đại Hạ chặn đứng đường lui vây thành công thành, vậy thì Kinh Châu sẽ lâm nguy!"
Chiết Thanh Phong: "Chắc có lẽ không đâu, quân chủ lực của Đại Hạ đã bị vây ở Vị Châu, không thừa sức vây bắt Kinh Châu nữa."
Hoắc Kinh Đường xoay mình lên ngựa đến thị trấn nhỏ của dân tộc Thổ Phiên gần nhất để xử lý vết thương, đồng thời nghiêm mặt nói: "Ngươi không biết Tang Lương Ngọc là một kẻ không thể khống chế mình đâu, thông minh đến điên cuồng, bởi vì ông ta là kẻ phản bội Đại Cảnh, vô cùng quan tâm cái danh trung thần, làm thần tử Đại Hạ hai mươi mấy năm biết rõ bị Vĩnh An đế lợi dụng, đề phòng thậm chí là cẩn trọng trước ông ta, dừng bước tại vị trí Quốc sư, đến nay bị buộc mưu triều soán vị, còn biết được chuyện tiền trang Đại Thông, xưởng chế tạo vũ khí và ngựa chiến, có lòng điều tra ắt sẽ tra ra được ba chuyện này có liên quan đến nhau, vả lại manh mối xuất hiện ở Kinh Châu.

Người càng thông minh, càng cố chấp sẽ càng không dễ dàng tha thứ cho kẻ bày trò đùa bỡn hắn, đây chính là một ván cờ lớn được bày vài chục năm rồi, chắc chắn Tang Lương Ngọc sẽ tò mò về Kinh Châu..."
Nói đến đây, Hoắc Kinh Đường vội vàng thúc ngựa chạy đi không nói gì nữa, đi đến một nhà trọ trong thị trấn tộc Thổ Phiên, hắn tìm một đại phu đến giúp gắp những mũi tên còn ghim trên người, bôi thuốc băng bó xong, không còn người ngoài ở lại nữa hắn mới nói tiếp.
"Liên minh với Đột Quyết, Mông Cổ, rất có thể còn có Nam Cương nữa, Tang Lương Ngọc dùng thứ gì để thuyết phục bọn chúng hợp tác Đại Hạ? Binh mã mà các nhanh Tây Bắc phái ra cùng với một trăm ngàn binh bao vây Vị Châu đánh nghi binh đã vượt qua số binh lực của Đại Hạ, ông ta ép buộc nhập ngũ, chỉ có thể xuất chinh tối đa ba trăm ngàn người, thế nhưng xuất chinh hết binh trong nước, không sợ nước láng giềng nhân cơ hội quốc gia phòng thủ yếu mà xâm nhập sao? Trong nước còn có Cao Di Sơn và Thác Bạt Minh Châu đang lánh nạn nữa, ông ta không sợ lửa cháy vườn sau ư?"
Chiết Thanh Phong nghe vậy cũng nhận ra được chỗ kì lạ: "Theo tướng quân suy đoán, Tang Lương Ngọc có ý định gì?"
Hoắc Kinh Đường rũ mắt nhìn ánh nến nhảy nhót: "Ông ta không ngại khiến Đại Hạ chia năm xẻ bảy."
Chiết Thanh Phong phát hoảng: "Chẳng lẽ Tang Lương Ngọc dùng đất Đại Hạ để thuyết phục Đột Quyết, Mông Cổ và Nam Cương liên minh sao? Ông ta điên thật rồi! Ai soán vị rồi mà lại kéo quốc gia mình cùng chết chứ? Đó cũng là quốc gia mà ông ta đã dốc hết tâm huyết cơ mà!" Hắn ta chợt nhận ra, "Nếu như lấy Đại Hạ ra để đánh cược, như vậy lần xâm chiếm này sẽ không phải chỉ là quấy phá giống như lúc trước.

Tang Lương Ngọc từng lãnh đạo ba trận chiến, Đại Cảnh thua thảm, sau đó ông ta đã có ý thuyết phục Vĩnh An đế mở lại một cuộc chiến tranh quy mô lớn vô số lần nữa nhưng đều bị Vĩnh An đế bác bỏ, có vẻ như là bởi vì trong ba lượt chiến tranh trước, Vĩnh An đế đã nhận ra được rằng Tang Lương Ngọc chỉ xem quân đội Đại Hạ là công cụ báo thù triều đình của ta thôi? Như vậy, lần này không còn sự trói buộc của Vĩnh An đế nữa, Tang Lương Ngọc sẽ không tiếc bất cứ giá nào mà tấn công Tây Bắc!"
Hoắc Kinh Đường siết chặt tay: "Hôm nay binh mã bên ngoài cộng lại chưa đủ hai trăm ngàn, chắc chắn còn có hơn một trăm ngàn binh mã đang vây đánh mục tiêu thật sự của Tang Lương Ngọc, một khi bị đánh hạ, để trả thù Đại Cảnh, Tang Lương Ngọc sẽ tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành, ông ta không quan tâm đ ến hậu quả, cũng không quan tâm đ ến kết cục của Đại Hạ...!Ta có linh cảm chẳng lành."
Kinh Châu, đó là một nơi quá đặc biệt.
Tang Lương Ngọc lợi dụng Ngạc Khắc Thiện để vận chuyển của cải mà mình thu được vào Đại Hạ thông qua các chợ ở Kinh Châu, trở thành trụ cột chính cho lực lượng của bản thân ông ta, vậy mà Vương Nguyệt Minh lại chôn quân cờ chí mạng bên dưới Đại Hạ, cũng lưu lại dấu vết ở Kinh Châu, còn có tiểu lang...!Là do bốn năm trước tiểu lang đã chém chết ba tram quan, diệt trừ con tốt của Tang Lương Ngọc ở phía Đông Nam, phá hỏng kế hoạch mà ông ta trù tính nhiều năm trời!
Hắn có cả ngàn lý do để có thể xác định Tang Lương Ngọc sẽ lựa chọn Kinh Châu làm nơi triển khai kế hoạch trả thù tàn nhẫn nhất của ông ta, nhưng lại không có lý do nào để phủ nhận việc Tang Lương Ngọc sẽ bỏ qua Kinh Châu.
"Chiết Thanh Phong, mau mang con dấu quan phòng Chế trí sứ của ta đến Hi Hà mượn binh!" Hoắc Kinh Đường bất chấp miệng vết thương sâu hoắm trên người, đứng dậy khoác thêm áo ngoài chuẩn bị đi, "Không kịp nữa rồi, ta sẽ về Kinh Châu trước."
Có phó tướng bị thương rất nặng khuyên nhủ hắn: "Tướng quân, thương thế của ngài không nhẹ, đi không ổn đâu."
"Chả chết được.

Ngày xưa suýt chút nữa là ngực ta bị chặt thành hai nửa, chẳng phải ta còn đuổi theo thêm mười dặm nữa để giết địch hay sao? Được rồi, ngươi nghỉ ngơi đi." Hoắc Kinh Đường vỗ cánh tay lão tướng rồi bước ra ngoài, vẻ mặt và giọng điệu không còn thoải mái như vừa nãy nữa: "Tiểu lang đã phái ngươi tới cứu ta, bây giờ đến lượt ta chạy về cứu y rồi."
Có lẽ tiểu lang đang ở trong ranh giới giữa sự sống và cái chết, nếu như không khởi hành ngay bây giờ, chỉ sợ rằng hối hận đời này không có thuốc nào giải được mất.
***
Nơi trú quân Cấm quân Khánh Châu.
Nhìn qua binh đưa tin đến từ Kinh Châu, Nguyên soái nhánh Hoàn Khánh Trịnh Nguyên Linh phất tay nói: "Bổn soái biết rồi, ngươi lui xuống trước đi, ta sẽ lập tức dân binh đi cứu viện."
Đợi binh đưa tin vừa đi, Trấn an sứ Thiểm Tây Thái Trọng Thăng núp sau tiền thính mới bước ra ngăn ông ta lại: "Dụ Xương huynh thật sự chuẩn bị phái binh chi viện sao?"
Trịnh Nguyên Linh cau mày: "Không thì sao?"
Thái Trọng Thăng: "Dụ Xương huynh à Dụ Xương huynh, huynh thế mà lại quên mất ở Kinh Châu còn có Lâm An quận vương và Triệu Bạch Ngư sao? Hoắc Kinh Đường vốn là Nguyên soái trăm trận trăm thắng ở Tây Bắc này, làm sao có thể bị mắc kẹt trong tay mấy chục ngàn binh mã Đại Hạ chứ?"
Trịnh Nguyên Linh: "Ít không địch nổi số đông, Hoắc Kinh Đường có lợi hại đi nữa, binh mã chênh lệch gấp hai ba lần cũng sẽ chết thôi!"
Thái Trọng Thăng: "Chết rồi thì càng tốt chứ sao?"
Biểu cảm của Trịnh Nguyên Linh thay đổi.
Thái Trọng Thăng: "Đến nay còn có ai không nhìn ra được ý đồ của bệ hạ chứ? Hoắc Kinh Đường còn sống, Tấn vương sẽ mãi mãi không có khả năng đăng cơ, phủ Trịnh quốc công trù tính nhiều năm nay mai thành nước dội lá khoai, tính mạng thân gia của nhiều người như vậy, vinh hoa phú quý đều buộc trên thân của Tấn vương, Hoắc Kinh Đường chết rồi, tạo phúc cho đại chúng chẳng phải là việc tốt hay sao?"
Trịnh Nguyên Linh: "Nhưng còn chín mươi ngàn dân chúng Kinh Châu..."
Thái Trọng Thăng: "Đại Hạ dám tàn sát hết dân trong thành sao? Nếu như chúng dám tàn sát hàng loạt, thì sáu trăm ba mươi ngàn binh đóng quân ở Tây Bắc này chỉ cần một chiêu diệt gọn Đại Hạ mà thôi! Biết đâu cũng như lúc trước, chạy vào cướp bóc một phen rồi tự động chạy đi thì sao, Kinh Châu là nơi Hoắc Kinh Đường trấn thủ, thành bị phá rồi không phải trách nhiệm của hắn thì là trách nhiệm của ai? Đại Hạ hận hắn thấu xương, chắc chắn sẽ không tha cho Hoắc Kinh Đường."
Trịnh Nguyên Linh: "Nhưng cầu viện đã tới rồi, bao người nhìn chằm chằm, chỉ sợ không dễ đối phó."
Thái Trọng Thăng: "Chẳng phải Vị Châu cũng đang bị binh Hạ bao vây sao? Một phần quân Khánh Châu của chúng ta cũng đã đến Vị Châu rồi, nếu như sau này bệ hạ truy cứu thì cứ nói Nguyên soái ngài đã đưa quân chủ lực đến chi viện cho Vị Châu, rồi hãy nói từ Khánh Châu đến Kinh Châu đường sá xa xôi, ít nhất cũng phải mười ngày nửa tháng mới tới."
Trịnh Nguyên Linh hiểu rõ ý của Thái Trọng Thăng, quả thật đã động tâm, nhưng tòng quân nhiều năm ông ta cũng không nỡ nhìn thành Kinh Châu bị đánh phá, mặc dù Đại Hạ sẽ không tàn sát người dân trong thành nhưng không thể tránh được việc chúng đốt giết cướp bóc.
Nghĩ một lúc, cuối cùng Trịnh Nguyên Linh cũng quyết định nói ra: "Đưa một nửa binh mã đến Vị Châu, phái một ngàn hai trăm quân đến Kinh Châu, trong số đó có hai ngàn tám trăm kỵ binh, bổn soái sẽ không cố tình kéo dài thời gian viện binh đến, nhưng Kính Châu có thể chống đỡ được đến khi viên binh đến hay không thì còn phải xem vận may của Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư nữa.".
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 104: Chương 104


Ngày thứ bảy, Kinh Châu hết gạo sạch đạn.
Vết thương trên người Triệu Bạch Ngư đã bị hoại tử, dù đã dùng dao nóng cắt đi sau đó lập tức bôi thuốc và băng bó lại nhưng vẫn không tránh nổi cơn sốt cao, y cũng không có thời gian nghỉ ngơi, chỉ đành cầm theo đá cục để hạ nhiệt độ vật lí, gắng gượng chống đỡ để tiếp tục xử lý tình huống khó khăn đang ở trước mắt.
Hơn mười vị tướng lĩnh lớn nhỏ đều tập trung trong phòng, báo cáo vấn đề khó mà họ gặp phải.
"Giếng nước trong thành đã bắt đầu cạn dần, trong đó có hai cái đã bị gian tế đầu độc, tạm thời không thể uống nữa.

Gian tế đã bị bắt lại, sau khi tra hỏi thì bắt thêm được những gian tế Đại Hạ khác đang ẩn núp trong thành, đã chém chết toàn bộ ngay tại chỗ.

Cũng may năm ngoái nghe lời dặn của đại nhân dự trữ không ít băng, dùng nó làm nước uống có thể chống đỡ được tầm mười ngày nữa.

Bốn kho lương trong thành cũng phát hiện có người phóng hỏa, tuy đã cứu kịp nhưng một kho vẫn đã bị thiêu hủy, tóm lại không duy trì được thêm bao lâu đâu."
Triệu Bạch Ngư: "Tháng hai tháng ba là thời điểm địch lương, có lẽ từ hai tháng trước đã có lương thương dự trữ lương thực rồi, đi gõ cửa nhà lương thương trưng dụng lương thực đi."
Tây Bắc là nơi thường xuyên thiếu lương thực là điều không sai, nhưng các lương thương rất ưa làm lũng đoạn, chắc chắn trong thương hội sẽ dự trữ rất nhiều lương thực.
"Trong thành hiện có ba trăm hỏa pháo, hai trăm đạn gây cháy, máy ném đá ta vốn có mười hai chiếc đã bị hủy chỉ còn lại năm chiếc, tên lửa đã dùng hết, trước đó chúng ta bị quân địch phát hiện sử dụng người rơm chắn tên, cho nên bọn chúng cũng đổi sang dùng tên lửa thiêu sạch cả rồi, cách này không thể dùng lại nữa, tên sắt cũng không còn thừa mấy, đều đang ngâm trong dịch độc chờ sử dụng.

Mấy cửa địa đạo cũng đã bị địch tìm ra, quân địch định thừa cơ chui vào nhưng đều bị chúng ta nổ hủy kịp thời vùi chúng bên trong, vậy nên quân ta không còn biện pháp đánh lén nữa."
"Đêm xuống phái binh tập kích, dùng độc, tạo tình huống tấn công quấy nhiễu quân địch,...!Có thể sử dụng kế gì thì cứ dùng hết, quân Hạ đề cao phòng bị, sẽ không bị lừa một cách dễ dàng đâu, binh của quân đã đã chết gần hai mươi ngàn, cũng không có viện quân, chỉ có thể trụ được tối đa bảy ngày!"
"Đại nhân! Đại Hạ quyết đánh hạ Kinh Châu không ai ngăn cản được, thôn xóm và các điểm đóng quân quanh Kinh Châu đã đã bị đánh chiếm chẳng còn người sống, chỉ e là dân chúng khó thoát khỏi cái chết."
Sắc mặt Triệu Bạch Ngư trầm như nước, binh mã chi viện đến giờ cũng chưa tới, tình hình tốt nhất đã tính sẵn vốn là viện binh sẽ đến trong vòng năm ngày, đáng tiếc hy vọng đã tan vỡ.
Nhất thời y cũng không nghĩ ra được cách nào tốt hơn.
Những kế có thể dùng bọn họ đều đã dùng mà dường như Đại Hạ không biết mệt mỏi, hai ngày đầu còn có khoảng thời gian gián đoạn ngừng chiến, đến ngày thứ ba bốn năm là bắn lửa đạn tấn công như phát rồ, hàng phòng ngự phá pháo như thừng bảo vệ rào mạnh mẽ cũng không chịu nổi hỏa pháo công kích không chút lưu tình.
Triệu Bạch Ngư không thể không cho binh sĩ rút khỏi tường thành, trong pháo đạn mãnh liệt như vậy, là thân thể người nào cũng không chịu được, cửa thành phía tây bị đánh vỡ hết nửa bên, nếu như không phái binh lực bổ sung kịp thời, chỉ sợ là đã bị quân Hạ đánh chiếm rồi.
Y thấp giọng nói: "Các vị đại nhân, dù sao ta cũng là quan văn, có đọc qua binh thư thì cũng chỉ là lý luận suông thôi, mọi người phòng thủ biên cảnh nhiều năm, không đọc binh thư thì vẫn có kinh nghiệm thực chiến nhiều hơn ta.

Triệu Bạch Ngư cầu xin các vị, có thể nghĩ ra cách nào để cố trụ thêm mấy ngày nữa được không? Viện binh năm nhánh sẽ tới, ta cũng tin tưởng Hoắc Kinh Đường, tin tưởng Chiết Thanh Phong, có lẽ bây giờ bọn họ đang từ Đại Hạ trở về, chỉ cần về đến Tây Bắc, Hoắc Kinh Đường nhất định sẽ đoán ra được Kinh Châu bị vây đánh, chắc chắn hắn sẽ gấp rút mang binh lên đường tiếp viện! Vì vậy, xin mọi người hãy tin ta, tin Hoắc Kinh Đường, cũng tin chính mình, các ngươi là tướng lĩnh thân kinh bách chiến, là nam nhi giàu tâm huyết, sao có thể bị cẩu tặc quên gốc quên nguồn kia dồn ép đến bước đường cùng chứ?"
Được lòng thành khích lệ một phen, có sự tin tưởng và khẳng định, cũng cho bọn họ tin và hy vọng vào Hoắc Kinh Đường, nghe thấy lời ấy, có ai không động lòng chứ?
Triệu Bạch Ngư nhìn Đậu Hồng: "Đậu đại nhân, ông còn cách nào không?"
Đậu Hồng do dự, sau đó nghiêm mặt nói: "Hạ quan có một cách có thể thử."
Triệu Bạch Ngư: "Cách gì?"
Đậu Hồng: "Trá hàng*.

Thành lập một đội cảm tử ra khỏi thành trá hàng vào ban đêm, sau đó hộ tống một tiểu đội dũng sĩ đi thiêu hủy lương thảo của quân địch."
(*) Trá hàng: Giả vờ đầu hàng
Triệu Bạch Ngư khẽ giật mình, có hơi không đành lòng.
Đậu Hồng biết Triệu Bạch Ngư mềm lòng, bèn khuyên bảo thêm: "Đại nhân, quân số Đại Hạ khổng lồ, đốt lương thảo chính là một kích trí mạng, đến lúc đó chúng ta chỉ cần chờ quân Hạ tự chui đầu vào rọ thôi là được.

Hơn nữa lợi dụng đội cảm tử trá hàng có thể xâm nhập vào doanh địch, nếu như nổ chết được tướng soái doanh địch thì quân Hạ ắt sẽ không chiến mà bại!"

Mấy tướng lĩnh khác cúi đầu suy nghĩ một lúc rồi gật đầu đồng ý, trong đó có một tiểu tướng trẻ tuổi chủ động xin đi giết giặc: "Đại nhân, ta đi!"
Đậu Hồng quay phắt đầu lại nhìn hắn, hốc mắt đỏ bừng lên tức thì.
Triệu Bạch Ngư nhớ hắn tên là Đậu Tử Ngang, là con trai thứ ba của Đậu Hồng, ông còn có một đứa con gái là tiểu đội trưởng đội quân Thiết nương tử nữa.
"Con biết một khi đi là không có đường về hay không?"
Giọng nói của Đậu Tử Ngang đanh thép: "Hi sinh vì nước, lòng như sắt thép, thấy chết không sờn."
Đậu Hồng run rẩy ôm quyền: "Đại nhân, đến giờ chỉ có cách này là có thể kéo dài thêm mấy ngày nữa.

Đậu đô hầu...!Tự đề cử mình, anh dũng có thể khen, nổ hủy doanh địch hoặc là thiêu hủy lương thảo của quân địch cũng được, xin đại nhân hạ lệnh!"
Lúc này cũng có một lão tướng và một tiểu tướng đứng ra tự nguyện gia nhập tiểu đội trá hàng, còn có một tướng trẻ vừa bước ra đã bị cha mình tát cho một cái, miệng hùng hổ mắng "lông cánh chưa đủ dài mà khoe tài cái rắm" nhưng chỉ một khắc sau thôi ông ta cũng chủ động tự đề cử mình.
Triệu Bạch Ngư đỏ mắt hỏi: "Không có cách khác nữa sao?"
Đậu Hồng lắc đầu.
Triệu Bạch Ngư: "Hỏa lực vẫn còn dùng được, đợi thêm vài ngày nữa, đến lúc chính thức hết gạo sạch đạn mà còn chưa có viện binh thì hãy trá hàng."
Đậu Hồng còn muốn khuyên thêm: "Đại nhân..."
"Được rồi!" Triệu Bạch Ngư: "Vẫn còn chưa đến bước đường cùng, Tang Lương Ngọc sẽ không tin là các ngươi giả vờ đầu hàng đâu." Y vuốt mặt, mạnh mẽ lên tinh thần, ánh mắt vô cùng kiên nghị: "Chờ thêm một chút nữa!"
Câu chờ thêm một chút này chờ thêm được tám ngày, bấy giờ Triệu Bạch Ngư và nhóm tướng sĩ, cùng với chín mươi ngàn dân đã cố thủ thành Kinh Châu được mười lăm ngày.
Đạn dược tên sắt và các vũ khí thủ thành khác chẳng còn thừa lại mấy, lương thảo và nước sạch cũng càng ngày càng ít đi, viện binh chậm trễ không thấy bóng dáng đâu, gay go nhất chính là sĩ khí của tướng sĩ và dân chúng trong thành đã dần trầm xuống, cả thành Kinh Châu dường như đã bị không khí chết chóc và tuyệt vọng cô lập rồi.
Triệu Bạch Ngư chỉ đành phải đồng ý với lời đề nghị của Đậu Hồng, chọn ra một trăm tám mươi dũng sĩ võ nghệ cao cường kiên nghị và quả cảm, chia ra thành chín tiểu đội cảm tử tự sát tập kích quân địch.
Đêm xuất phát, Triệu Bạch Ngư đứng trên tường thành trông theo bóng lưng của đoàn người đang tan dần vào bóng đêm, gió đêm thổi cờ hiệu bay phấp phới, mà y thì không nói gì trong một lúc lâu.
Đậu Hồng im lặng xuất hiện bên cạnh y, lặng lẽ đến đưa tiễn đứa con thứ ba một đi không trở lại của ông, hai mắt đỏ bừng nhưng vẫn giả vờ như không có gì nói: "Vua cao chớ nói phong hầu tước, một tướng danh thành vạn máu xương*." Dừng một chút, ông nói thêm: "Ba đứa con trai và con gái của hạ quan lớn lên ở Tây Bắc, muốn đi tiểu cũng chạy vào quân doanh mà đi, dù hạ quan có ép chúng nó đi đọc sách làm văn thần, làm tiểu thư khuê các bằng mọi giá chúng cũng không chịu nghe lời, còn dám tiền trảm hậu tấu, lén lút chạy đi làm lính.

Đặc biệt là đứa con gái, năm mười lăm tuổi nó bị ta ép phải quay về quê mẹ, nhưng đến nửa đường thì con bé nhảy xuống xe, gạt bọn ta chạy vào đội quân tóc dài, chờ đến khi ta tìm được người, hiển nhiên là nó đã tham gia vào chiến tranh kháng Hạ.

Về sau ta cũng bất lực, có lẽ là vì trong lòng ta rất tự hào, tự hào vì chúng nó, nhưng ta cũng đã chuẩn bị bài vị cho hai đứa bọn nó từ lâu rồi..."
(*) Kỷ Hợi Tuế (879) – Tào Tùng: Trấn Hải Tiết Độ Sứ là Cao Biền (đã từng sang Giao Chỉ - An Nam ta dẹp quân Nam chiếu, xây thành Đại La, sau là Thăng Long - Hà Nội, về được Vua Đường phong là Bột Hải Quận Vương thống lĩnh cả một vùng Chiết Giang - Giang Nam (xưa là Trạch Quốc).

Cao Biền đã cầm quân giết hại tàn khốc quân khởi nghĩa Hoàng Sào...!Bài thơ của Tào Tùng là vịnh sự việc này.

(Thivien.net)
Nước mắt trong khóe mắt trộm lăn đi, Đậu Hồng cười gượng nói: "Tướng sĩ trấn thủ biên cương khó liệu sống chết.

Người làm cha như ta đây còn chấp nhận được việc chúng sẽ chết trên chiến trường sớm hơn cả người khác mà."
Triệu Bạch Ngư xoay người nhìn ông: "Quê của đại nhân không ở Tây Bắc sao?"
Đậu Hồng: "Nhìn không ra à, quê ta ở Giang Nam."
Triệu Bạch Ngư cười nói: "Nghe khẩu âm không hiểu."
Đậu Hồng: "Ban đầu bị điều đến Tây Bắc cứ lần lữa không chịu quay về, sau này không dám về nữa."
Con trai con gái đều phỏng thủ ở Tây Bắc, làm sao Đậu Hồng dám đi?
Mũi Triệu Bạch Ngư chua xót, dù là vì tướng sĩ trấn thủ biên cương, hay là vì tấm lòng của cha con Đậu Hồng, có lẽ trong khoảng thời gian này nhìn thấy quá nhiều sự sống chết ở đây, y có thể chân chính nhận thấy được điểm giống nhau của thời đại này và đời trước, máu thịt lẫn linh hồn dần dần hòa nhập vào nó, không còn mạnh mẽ gạt bỏ nữa mà có chút đồng cảm, thật sự có thể cảm nhận được sự thăng trầm của tất cả mọi người.

Đột nhiên Đậu Hồng hỏi: "Đại nhân, ngày mai viện binh sẽ tới chứ?"
Triệu Bạch Ngư: "Sẽ tới." Y cắn răng, dù tình cảnh đã đến nước cam go nhất nhưng vẫn kiên định mà tin tưởng và hy vọng, "Nhất định là chúng ta sẽ nhìn thấy viện binh thôi."
Mặc dù có hi sinh, nhưng cũng có niềm hy vọng vô cùng tận đang đợi ở phía trước.
Hai người đứng trên cổng thành một canh giờ, nghe thấy tiếng nổ lớn truyền đến từ trong doanh địch, ánh lửa bùng lên, mà lúc này tiếng trống cũng nổi lên, rõ ràng là doanh trại đang lâm vào trận hỗn loạn.
Đậu Hồng không nhịn được nấc lên một tiếng nghẹn ngào.
Lưng Triệu Bạch Ngư thẳng tắp như trúc, bước nhanh xuống cổng thành, trở mình lên ngựa, phía sau là ba ngàn binh mã, vừa thấy cửa thành mở rộng là rút hoàn thủ đao ra hô lớn: "Giết!"
Bắt lấy thời cơ hỗn loạn này, thu hoạch hết đầu binh Hạ.
Thắng một trận nhỏ, dồn ép quân Hạ lui về thêm hai dặm, mặc dù tinh thần và sức lực đều hao tổn, Triệu Bạch Ngư vẫn phải cố giữ vững, trên người đầy rẫy những vết thương nhỏ vụn và máu tươi tanh tưởi, trở về bày tỏ niềm tiếc thương và mặc niệm trước sự hy sinh của tiểu đội cảm tử, đồng thời hết sức biểu dương hành động của họ, cuối cùng dùng thắng lợi của trận chiến ép quân Hạ lui binh này để khích lệ sĩ khí trong thành, lại dùng tin tức viện binh sắp đến để kéo hy vọng của chúng tướng sĩ lên một lần nữa.
Trải qua khoảng thời gian này, Triệu Bạch Ngư mệt đến mức không động đậy nổi.
Nhưng sự hi sinh của bọn họ chỉ ép lui quân Hạ được vẻn vẹn một ngày, đến ngày thứ hai chúng đã tập hợp lại và tấn công thành Kinh Châu bằng những cách thậm chí còn điên cuồng hơn, hỏa pháo và tên lửa oanh tạc liên tục không ngừng nghỉ, đợt tấn công này hung bạo hơn mười ngày trước nhiều, không hề kiêng nể gì tựa như là muốn nói cho các binh sĩ thành Kinh Châu biết, cuộc trá hàng tập kích đêm qua đã hoàn toàn khiến cho bọn chúng phẫn nộ, mà những trận tấn công mười ngày trước của chúng chỉ là đe dọa nhẹ nhàng mà thôi, hôm nay mới ra tay thật.
Suy nghĩ này khiến cho sĩ khí vất vả lắm mới tăng cao được của các tướng sĩ tụt đốc trở lại.
Triệu Bạch Ngư đã đưa ra lời giải thích khác cho việc này: "Trá hàng tập kích đúng là đã chọc giận quân Hạ, nhưng tấn công mãnh liệt thế này chứng tỏ bọn chúng cũng đã đến bước đường cùng rồi, không còn cách kéo dài nữa, không thể không quyết chiến đến chết!"
Phía dưới có tướng lĩnh hỏi: "Đại nhân nghĩ quân Hạ đang quyết chiến đến chết sao?"
"Ta dám khẳng định, chắc chắn là như thế!" Triệu Bạch Ngư lên tinh thần gấp trăm lần, y nói: "Nếu như không đoán sai, tướng chỉ huy quân địch lần này chính là Tang Lương Ngọc! Phong cách chỉ huy vừa táo bạo điên cuồng vừa ưa tính toán lòng người, nói không chừng phản ứng của các ngươi đều đã nằm trong kế hoạch của ông ta, tạo cho chúng ta ảo giác rằng chúng đang tức giận, chúng giả vờ có quân đội lớn mạnh chính là muốn để cho chúng ta lâm vào tuyệt vọng, tự loạn trận cước để thừa cơ công thành, chính những điều này đã chứng minh được rằng quân Hạ đã đi đến bước đường cùng!"
Y nhìn qua ánh mắt của mọi người, cho họ thấy sự tự tin mãnh liệt: "Tin ta đi! Ta đã biết được phong cách tác chiến và thủ đoạn của Tang Lương Ngọc rồi, bây giờ chính là trận huyết chiến của bọn chúng, cũng là trận chiến quyết đánh đến cùng của chúng ta! Ta khẳng định! Ta thề! Ta tin chắc rằng..."
"Đây chính là trận chiến nghênh đón bước chuyển hướng, là ánh sáng của thắng lợi!"
"Chắc chắn là lương thảo của quân Hạ đã bị dũng sĩ của chúng ta thiêu hủy rồi, thám tử của chúng nhất định sẽ thám thính được tin tức viện binh đến...!Không sai! Sáng nay tin tức từ chỗ ống nghe truyền đến nói là cách ba mươi dặm vang lên tiếng của một lượng lớn binh mã đang tiến lên, đó chính là viện binh!"
Lời vừa dứt, chúng tướng sĩ thoáng chốc trở nên phấn chấn hơn.
Triệu Bạch Ngư tỏ vẻ kích động nhưng trống lòng vẫn reo lên bất an, lão binh trông coi ống nghe thật sự nghe được một loạt âm thanh lớn và lộn xộn vang lên, nhưng mà âm thanh lộn xộn và động tĩnh cực lớn cách đến ba mươi dặm đó rất khó mà phân biệt được có phải là của viện binh hay không.
Trước mắt chỉ có thể bất chấp thật giả thôi, Triệu Bạch Ngư sức cùng lực kiệt, có cái gì lấy cái nấy, dẫn dầu toàn bộ bá tánh và không đến mười ngàn tướng sĩ chuẩn bị đương đầu với trận chiến cuối cùng gian nan nhất, cũng đã định là cuộc chiến oanh liệt nhất.
***
Cấm quân Nguyên Châu.
Khi nhận được tin cầu viện từ Kinh Châu, Tri phủ Nguyên Châu đã lập tức phái mười ba ngàn Cấm quân và sáu ngàn phiên binh nhanh chóng đi chi viện cho Kinh Châu, đúng lúc đó nghe nói bên dưới có một chủ soái thống lĩnh đến yết kiến, nói là tự nguyện dẫn binh đến Kinh Châu giải khốn.
Hỏi danh tính thì biết được người đó là con trai của Triệu tế chấp Triệu Trường Phong, ba năm trước được điều từ phủ kinh đô đến đây, giết địch vô cùng dũng mãnh, phẩm cấp không ngừng tăng lên, nhưng bản thân hắn tâm sự nặng nề, không thường giao hảo với cấp trên, có điều bối cảnh gia đình đã như thế, rõ ràng là tương lai rất xán lạn.
Lại hỏi thêm một câu nữa, hóa ra Kinh lược sứ Triệu Bạch Ngư mới được bổ nhiệm chính là em trai của Triệu Trường Phong, chẳng trách hắn không dằn nỗi sự nóng vội đến xin binh đi tiền tuyến.
Tri phủ Nguyên Châu biết được ngọn nguồn, tất nhiên nể mặt thành toàn cho tình nghĩa huynh đệ của người ta, lúc này vung bút lên, lệnh cho Triệu Trường Phong dẫn binh đến Kinh Châu chi viện.
Triệu Trường Phong nhận được tin tức lập tức xuất phát, vì lòng nóng như lửa đốt mà ra roi thúc ngựa chạy đi.
Sự thật là khi hắn nhận được tin thì đã muộn, dù có nhanh chân đuổi theo thế nào cũng đến chậm, mười ngày sau mới nhìn thấy Kinh Châu ngụp lặn trong biển lửa từ phía xa.
Trái tim Triệu Trường Phong thắt lại: "Ngũ lang?"
***
Phủ kinh đô.
Tin tức báo hiệu tình hình quân sự bất ổn từ Tây Bắc truyền về khiến cho lòng người bàng hoàng, nhất là khi đại quân đã tiếp cận vây khốn Vị Châu, mà Vị Châu lại nằm gần Kinh Châu, có vài người không tránh khỏi lo lắng.

Mấy ngày gần đây Tạ thị đều ở chùa Bảo Hoa, vừa trò truyện với trụ trì về Triệu Bạch Ngư lúc nhỏ và những chuyện thú vị thời niên thiếu, vừa cầu phúc cho Triệu Bạch Ngư ở Kinh Châu xa xôi.
Hôm nay bà vẫn tụng kinh như thường lệ, nhưng vòng phật bỗng nhiên đứt đoạn, hạt châu rơi vỡ đầy đất, tim Tạ thị đập loạn không có trật tự, mờ mịt nhìn về hướng Tây Bắc.

"Ngũ lang..."
***
Trên xe ngựa từ Lưỡng Giang đi về phía phủ kinh đô, Nghiên Băng vùi đầu học tập nên tinh thần mỏi mệt, đang vô thức đi vào mộng đẹp bỗng nhiên choàng tỉnh, vén rèm xe lên nhìn về phía trời đêm, thấy được những chấm nhỏ lấp lánh đầy trời, mà sao kim cũng vừa mới lóe sáng.
Tú ma ma trong kinh cũng đột nhiên có linh tính, lấy giày, y sam nhỏ và mũ đầu hổ,...!mà Triệu Bạch Ngư mặc ngày nhỏ ra so sánh với đồ chơi ngày xưa của Hoắc Kinh Đường mà Hải thúc mang tới, hai ông bà nhàm chán kể về những chuyện thú vị lúc còn nhỏ của đám trẻ nhà mình.
Gió đêm yên tĩnh cuộn bay, lướt nhẹ qua khắp núi rừng sông biển, thổi đến lọn tóc của du khách ở mọi miền trời nam đất bắc.
Vợ chồng Lý Ý Như ở Nam Chiếu xa xôi và Ngụy bá đang trên con thuyền trôi nổi giữa biển rộng đều cùng lúc nhớ đến Triệu Bạch Ngư ở Tây Bắc, mà lúc này trời đã sáng choang, ánh sáng rực rỡ chiếu rọi khắp đất trời.
***
Ánh sáng vàng chiếu rọi lên những vệt máu vẫn còn chưa kịp khô trên giáp, Triệu Bạch Ngư cúi đầu th ở dốc, hai tay run rẩy đến mức sắp không cầm nổi hoàn thủ đao nữa, máu và miệng vết thương dường như đều dính vào thanh đao, khắp nơi đều là xác người, cột cờ bị bẻ gãy và đao thương, xung quanh thì là một vài tướng sĩ đang vây tới.
Cách đó không xa chính là cửa thành đã bị phá mở, cách một cánh cửa, quân Hạ cũng chịu thương vong vô cùng nghiêm trọng, nhưng rốt cuộc bọn chúng cũng đã công phá được thành Kinh Châu, tinh thần vô cùng phấn chấn, đồng thời cũng có một nỗi căm thù bùng lên mạnh mẽ vì sự phản kháng ngoan cường của chúng tướng sĩ và dân chúng Kinh Châu.
Triệu Bạch Ngư biết quân Hạ vào thành sẽ đốt phá, chém giết, cướp bóc để trút hận, nhưng một nửa cổng thành đã bị đánh sập, không cách nào ngăn cản, chi bằng buông tay đánh cược một lần, dẫn binh vào chỗ ống nghe.
Y lui từng bước về phía sau, giọng nói cực kì bình tĩnh: "Rút lui.

Làm theo kế hoạch."
Nói xong, nhóm người phân tán ra khắp nơi, quân Hạ thấy vậy thì nối đuôi nhau chạy tới, xông vào căn nhà gần nhất chuẩn bị đánh phá thì phát hiện chẳng có ai ở trong, sau đó chạy ra ngoài hội ý, lúc này mới nháo nhào nhận ra...
"Ba cổng thành đều bị phá rồi, chắc chắn đã chuyển vào trong thành, tiền tài lương thảo cũng đều bị chuyển đi rồi! Các anh em à, bây giờ người Hán giống như chim trong lồ ng, tất cả hành động cùng lắm chỉ đang dựa vào thế yếu ngoan cố chống cự mà thôi, bọn chúng muốn binh không có binh, muốn vũ khí không có vũ khí, đi giết cho sướng tay thôi!"
Lời ấy k1ch thích sát ý của tất cả mọi người, bọn chúng không thể chờ nổi đến lúc được nghe tiếng kêu thảm thiết của nhân dân tay không tấc sắc, chỉ có máu tươi và bạc trắng mới có thể khiến cho tâm trạng hưng phấn vặn vẹo đến cực độ của chính khôi phục lại bình thường mà thôi.
Hơn nữa, đến chậm một bước thì tiền và phụ nữ đều sẽ bị người khác chiếm trước, phải vượt lên trước một bước mới có thể chia chén canh, vì vậy không ai nghĩ ngợi gì nữa mà làm theo lời nói kia.
Nhưng đuổi theo đến ngõ nhỏ mới nhận ra đã đi vào đường cụt, lúc chuẩn bị quay đầu lại mới nghe thấy trên lầu có người quát lên, chúng ngẩng đầu nhìn thì thấy đó là những dân chúng áo vải cầm trong tay quả cầu lửa tròn, đốt lên xong rồi ném đi, pháo nổ ầm ầm, vô số chông sắt xuyên qua nón giáp đâm người thành con nhím.
Một số lượng lớn quân Hạ chạy đến bãi đất trống lớn, bỗng nhiên có nỏ tầm xa kéo đến từ bốn phương tám hướng, trên nỏ tầm xa ràng gói thuốc nổ giống như hỏa tiễn bản phóng đại, thoáng chốc ném tới nổ tung lên khiến cho bốn năm người cùng kéo nhau đi chầu trời, chỉ trong nháy mắt, mấy trăm chiếc nỏ tầm xa cùng phóng thuốc nổ chết rất nhiều quân Hạ, không chờ cho chúng bỏ chạy đi trốn, các loài động vật như dê bò lạc đà đã xông vào đám đông, hoặc là giẫm đạp lên người đến chết, hoặc là bất ngờ phát nổ, thiêu cháy một số lượng lớn quân Hạ.
Hành động phản kích tương tự xảy ra ở mỗi đầu ngõ hẻm và các bãi đất trống trong thành Kinh Châu, đây chính là ván cược cuối cùng mà Triệu Bạch Ngư dốc hết công sức, động viên từng dân chúng mang gói thuốc nổ còn lại dùng trên thân quân Hạ, lợi dụng sự quen thuộc của bọn họ đối với địa hình Kinh Châu để đóng cửa đánh chó*.
(*) 关门打狗 /guān mén dǎ gǒu/: đóng cửa đánh chó, ẩn dụ khống chế đói phương trong phạm vi, địa bàn của mình sau đó tiến hành tấn công.
Đối mặt với một hàng mũi tên sắt lạnh lẽo cách đó mười thước, Triệu Bạch Ngư mặt không đổi sắc, gió lạnh thổi tới làm tung bay sợi tóc y, hoàn thủ đao chống xuống đất làm gậy chống đỡ cơ thể cạn kiệt sức lực, vậy mà y vẫn có thể dùng giọng điệu tỉnh táo để nói: "Tang Lương Ngọc, ông không tò mò xem ai đã tạo nên ván cờ này để hãm hại ông hay sao? Ông không tò mò chuyện tiền trang Đại Thông, xưởng chế tạo vũ khí và mã trận dưới núi Kỳ Liên là do ai gây ra sao? Ông cũng không tò mò ai là người đứng sau thêm dầu vào lửa, thuần dưỡng Ngạc Khắc Thiện, con cờ chuyên dùng để đối phó của ông ư?"
Phía quân Hạ lặng im không tiếng động, một lúc lâu sau mới đứng tránh ra chừa một con đường, cỗ xe nhung chầm chậm tiến về phía trước, âm thanh truyền từ bên trong ra: "Triệu Bạch Ngư, ta và ngươi là bạn tri âm đã lâu, hôm nay gặp mặt, chuyến này đúng là không uổng công."
Khóe môi Triệu Bạch Ngư giật giật: "Ta cũng từng nghe đến danh tiếng của Tang quốc sư, đúng là danh bất hư truyền."
Quả nhiên là Tang Lương Ngọc ngự giá thân chinh.
Tang Lương Ngọc: "Ta cứ nghĩ ngươi chỉ là một tên văn thần cổ hủ chỉ có bản lĩnh trị quốc, không ngờ còn có năng lực bình thiên hạ, nếu như để cho ngươi ở lại Tây Bắc thêm vài năm nữa, chắc có lẽ sẽ được xưng danh nho tướng đấy.

Tiếc thay...!Tiếc thay ta đã đoán ra được người tạo nên ván cờ trả thù ta là ai, ngươi đã đánh mất cơ hội tự cứu rồi, mà ta thì nhất định sẽ không dễ dàng tha cho ngươi được sống."
Trả thù?
Ông ta vừa thốt ra từ này, Triệu Bạch Ngư liền tin rằng Tang Lương Ngọc đã đoán ra Vương Nguyệt Minh.
Y không nhịn được nhếch miệng lên, quay đầu nhìn lại các tướng sĩ kề vai sát cánh chiến đấu mười mấy ngày cùng với dân chúng Kinh Châu trông chật vật không chịu nổi, cảm giác trong lòng trống rỗng, chắc có lẽ là vì tình cảm quá nặng nề nên mới tạo ra lỗ trống đó, rồi y quay đầu lại nhìn quân Hạ dày đặc, phía sau là bầu trời mênh mông bát ngát.
Bỗng nhiên Triệu Bạch Ngư nhớ đến mấy ngày sống chết không rõ kia, dáng vẻ tiều tụy khốn khổ của Hoắc Kinh Đường lại khiến cho y muốn khóc.
Triệu Bạch Ngư mấp máy môi: "Hoắc Kinh Đường, ta không muốn thất hứa..."
Lời hứa đồng sinh cộng tử, y không muốn nuốt lời.

Thế nhưng nếu là vì bất đắc dĩ, y nhất định sẽ ở lại suối vàng chờ Hoắc Kinh Đường, vì vậy giờ phút này lời cầu nguyện duy nhất của Triệu Bạch Ngư chính là cầu cho suối vàng thật sự có tồn tại trên đời này, nếu không y cũng không biết mình sẽ phải đi đâu để chờ Hoắc Kinh Đường nữa.
Mũi tên sắt bay đến ngay trước mắt, gần như trong khắc sinh tử ấy, một tình huống khác đã xảy ra, có một loạt mũi tên sắt từ phía bên cạnh vụt tới chắn bay mưa tên đuôi lông vũ mà quân Hạ chế tạo ra, chỉ nghe thấy trong đám người bỗng nhiên có tiếng hô hoán lên: "Là quân cứu viện! Quân cứu viện đến rồi!!!"
Hai mắt Triệu Bạch Ngư sáng lên, phản ứng cực nhanh thét to: "Các tướng sĩ! Theo ta giết..."
Dứt lời, hai tay đã siết chặt lấy hoàn thủ đao xông vào quân Hạ, quân Hạ khá hoảng loạn trước cuộc phản công bất ngờ này, ban đầu chúng còn cho rằng Triệu Bạch Ngư lại có quỷ kế gì khác nữa, nhưng rồi nhanh chóng phát hiện ra có viện binh thật, mà đó còn là thiết kỵ Đường Hà khiến cho người Tây Bắc vừa nghe tới đã sợ mất mật nữa!
Kỵ binh giáp nặng ép sát từng bước như thần chết, nỗi sợ hãi khắc cốt ghi tâm khiến sĩ khí quân Hạ sa sút trước một bước, nhất là khi nhìn thấy kỵ binh giáp đen dẫn đầu chỉ cần giơ ô thương lên là có thể lấy mạng người một cách nhẹ nhàng như cắt rơm rạ, nhanh chóng dọn dẹp sạch khu vực xung quanh, có kẻ nhận ra điều gì đó bèn quát lên: "Tu la...!Quỷ tu la Tây Bắc!"
Đó chính là danh hiệu của Hoắc Kinh Đường, đối với quân Hạ cái tên này còn kinh khủng hơn cả Diêm vương nữa, chỉ trong phút chốc thôi bọn chúng đã bị đánh tơi bời, binh bại bỏ chạy tán loạn.
Trong xe nhung, Tang Lương Ngọc mở cửa xe ra, chứng kiến quân cứu viện tràn vào, tự biết mình đã thất thế một nửa, trong lòng ngổn ngang cảm xúc.

Phàm là đến chậm một ngày, dù chỉ một ngày thôi cũng đủ để ông ta cho Đại Cảnh một bài học đau đớn rồi, tiếc thay thất bại trong gang tấc!
Ông trời đã định ông ta phải thất bại trong gang tấc.
Tang Lương Ngọc không tin vào số mệnh, không tin ý trời, thế nhưng hai mươi mấy năm trước đi thi gặp được một thầy tướng, người đó đã xem tướng số cho ông ta, nói ông ta có mệnh Trần Thắng* Hoàng Sào**, ngồi ở địa vị được tôn trọng, quý không nói nổi, chỉ tiếc mọi chuyện sắp thành lại bại, kém một nước cờ, chết không yên thân!
(*) Trần Thắng là thủ lĩnh đầu tiên đứng lên khởi nghĩa chống lại nhà Tần, người khởi đầu cho phong trào lật đổ nhà Tần trong lịch sử Trung Quốc.
(**) Hoàng Sào là người phát động Khởi Nghĩa Hoàng Sào, đồng thời cũng là thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa (874 – 884), trong thời gian của cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào xưng Hoàng Đế, thành lập chính quyền Đại Tề, khởi nghĩa Hoàng Sào tuy thất bại nhưng khiến nhà Đường suy yếu nghiêm trọng rồi sụp đổ trong khoảng 23 năm sau (năm 907).
Thi đậu công danh, thi Đình thất bại, ông ta không tin.
Hiến thân cho Đại Hạ, thắng Đại Cảnh ba trận chiến liên tiếp, lúc vẫn có thể kiến công lập nghiệp lại bị Vĩnh An đế kiên dè phòng bị, cường lệnh triệu hồi, ông ta vẫn không tin.
Bày mưu lập kế bao năm trời để cho một con rối lên ngôi, muốn cho bản thân mình lưu danh sử xanh, để cho người đời này biết được ông ta phản quốc là do sai lầm của Hoàng đế Đại Cảnh!
Thế nhưng lại thất bại trong gang tấc, thậm chí trở thành nghịch đảng khiến cho văn nhân trong thiên hạ khinh thường, ông ta vẫn như vậy, không tin.
Ý trời đã vậy, ông ta càng muốn nghịch thiên cải mệnh!
Bây giờ không còn đường lui, quyết chiến đến chết, chỉ cần quân cứu viện đến chậm một bước thôi là ông ta có thể tàn sát hàng loạt dân trong thành, hoàn thành tâm nguyện đời này, để cho Đại Cảnh biết thế chẳng làm, đau khổ tột cùng, vậy mà kiếm củi ba năm thiêu một giờ, cũng chỉ thiếu mỗi một bước mà thôi!
Tang Lương Ngọc ngoan cố đến cùng, nhất định không tin vào số mệnh.
Ông ta rút kiếm đế vương tinh xảo ra, bước xuống khỏi xe nhung tiến về phía Triệu Bạch Ngư trong đám người, từng bước đến gần, giơ kiếm đế vương lên, lưỡi kiếm phản chiếu khuôn mặt vặn vẹo dữ tợn của ông ta, rồi ông ta đột ngột vung kiếm xuống, chỉ nghe một tiếng xoẹt khi lưỡi đao sắt bén cứa vào da thịt, véo von dễ nghe, vô cùng êm tai.
Trên mặt Triệu Bạch Ngư lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn về phía Tang Lương Ngọc gần sát chỗ mình đang bị ô thương đâm xuyên qua tim, sau đó bỗng nhiên ô thương được rút ra, máu tươi phun vãi khắp nơi, Tang Lương Ngọc ngã xuống đất, Hoắc Kinh Đường xuất hiện phía sau lưng ông ta.
Mà ngay lúc ấy, binh sĩ xô đẩy nhau chạy trối chết không cẩn thận làm rơi khúc cây công thành, khiến cho nó lăn vòng một cách mất kiểm soát rồi đ è xuống hai chân Tang Lương Ngọc, Tang Lương Ngọc lập tức thét lên thảm thiết, hai chân gãy nát.
Đến lúc gần chết, ánh mắt của Tang Lương Ngọc dù đã tan rã nhưng vẫn không cam lòng: "Địa vị được tôn trọng, quý không nói nổi, kiếm củi ba năm thiêu một giờ, ý trời đã vậy...!Vẫn muốn..." Chống lại lệnh trời!
Ông ta phun một ngụm máu tươi khỏi miệng, bốn chữ nghẹn ứ chưa kịp nói đã tắt thở bỏ mạng.
Tang Lương Ngọc chết rồi, quân Hạ giống hệt như con ruồi mất đầu bay nhảy khắp nơi, binh bại như núi đổ, mối nguy toàn dân thành Kinh Châu bị tàn sát đã được hoá giải, tinh thần căng thẳng suốt mười lăm ngày trong nháy mắt rã rời, mỏi mệt, khó khăn, đau đớn, bi thương tuyệt vọng và niềm vui tìm được đường sống trong cõi chết, cùng với lòng sung sướng khi nhìn thấy Kinh Châu được bảo vệ thoáng chốc quét tới như lũ, Triệu Bạch Ngư đánh rơi đao trong tay xuống đất kêu leng keng rồi đột nhiên ngã về phía trước.
Hoắc Kinh Đường nhanh tay đón được y, hắn vòng tay ôm chặt lấy bả vai Triệu Bạch Ngư, phát hiện y đã gầy đi một cách đáng sợ, nhìn thấy vết thương đầy trên người y thì lại càng đau lòng hơn nữa.
Triệu Bạch Ngư cười yếu ớt, "Hoắc Kinh Đường, chàng lại cứu ta lần nữa."
Giọng nói của Hoắc Kinh Đường rất nhẹ: "Em cũng đã cứu ta."
Triệu Bạch Ngư líu ríu nói: "Ta mệt lắm rồi..."
Hoắc Kinh Đường ấn bàn tay vào cổ Triệu Bạch Ngư, cảm nhận được mạch đập vẫn nảy lên mới yên lòng, nhẹ nhàng dỗ dành: "Ngủ đi, ta ở bên cạnh em."
Triệu Bạch Ngư chậm rãi nhắm mắt, bóng đen ập đến bao lấy y như thủy triều, giấc ngủ yên bình đã đánh mất từ lâu cuối cùng cũng quay lại, trái tim đang lơ lửng trên bờ vực giữa sự sống và cái chết vững vàng đáp xuống.
Mặc cho khói thuốc súng dày đặc, tiếng giết chóc vang lên rung trời, vòng ôm của Hoắc Kinh Đường chính là nơi linh hồn Triệu Bạch Ngư dừng chân.
***
Không đến bốn mươi ngàn binh mã Kinh Châu chống lại một trăm ngàn quân tinh nhuệ Đại Hạ, cố thủ hai mươi ngày đến lúc hết gạo sạch đạn, dù thành đã bị phá nhưng quân cứu viện đã đến kịp thời, giúp cho ngàn vạn dân chúng Kinh Châu may mắn thoát khỏi kiếp nạn.
Tin tức này truyền về triều đình, kinh động triều thần.
Nhóm người Trần Sư Đạo, Triệu Bá Ung biết được khi ấy Kinh Châu chỉ có một mình Triệu Bạch Ngư lãnh đạo không đến bốn mươi ngàn tướng sỉ cố thủ thành thì đều bàng hoàng, nghĩ đến mà sợ hãi không thôi, ngay sau đó liền nhận ra có chỗ không đúng.
"Vì sao tận hai mươi ngày sau viện binh mới đến?" Triệu Bá Ung đứng trước điện Văn Đức đưa ra chất vấn, "Bệ hạ, theo như tiền tuyến báo lại, Kinh Châu đã cầu viện đến tổng cộng năm châu Nguyên, Khánh, Lũng, Ninh và Phượng Tường, trong đó có binh đưa tin đến Ninh Châu và Phượng Tường bị truy binh chặn đường, binh đưa tin đến Nguyên Châu bị trì hoãn nên đến đưa tin chậm một chút, không thể kịp thời phái binh đến chi viện cũng còn có thể giải thích được, nhưng Lũng Châu và Khánh Châu nhận được tin báo phái binh trợ giúp rồi mà còn đến Kinh Châu muộn hơn cả Lâm An quận vương đang ở Tây Ninh Châu xa hơn là thế nào?"
Nguyên Thú đế có thể tự đoán được nguyên nhân.
Tri phủ Lũng Châu là người của Thái Trọng Thăng, tướng soái đóng giữ Khánh Châu là Trịnh Nguyên Linh, mà mấy năm gần đây Thái Trọng Thăng thường xuyên qua lại với phủ Trịnh quốc công, làm sao có thể không hiểu rõ tình hình chứ?
"Bất kể là xuất phát từ lòng riêng hay là nguyên nhân gì khác, bệ hạ, trong thành Kinh Châu có đến chín mươi ngàn dân chúng tay không tấc sắt đấy!"
Nguyên Thú đế không hoảng, cũng không đáp lại.
Vẫn là Trần Sư Đạo đứng ra, dùng một câu thức tỉnh Nguyên Thú đế, "Bệ hạ, khi đó không có ai biết Lâm An quận vương không ở Kinh Châu."
Nguyên Thú đế nheo mắt nhìn Trần Sư Đạo, đó là gương mặt nho nhã gần như khô khan cổ hủ nhưng bao giờ cũng nói trúng tim đen của ông, sau đó thở dài thườn thượt, "Không bao lâu nữa Thái Trọng Thăng sẽ về kinh báo cáo công tác, đến lúc đó rồi nói.

Còn Trịnh Nguyên Linh, dù sao cũng là công thần, mấy năm qua cũng có chiến công hiển hách...!Đại Hạ hao binh tốn tướng nghiêm trọng, đang là thời điểm rắn mất đầu, lệnh cho năm nhánh binh mã nhân cơ hội này đánh vào phủ Hưng Khánh, thu hồi đát đai bị mất lại!"
Nếu như Trịnh Nguyên Linh đủ thông minh thì lão sẽ biết rằng lão nên bù đắp sai lầm của bản thân trong cuộc chiến mở rộng lãnh thổ Đại Cảnh này, đây cũng là cơ hội cuối cùng mà Nguyên Thú đế dành cho lão.
Nhóm người Trần Sư Đạo và Triệu Bá Ung càng già càng lão luyện, đều hiểu được đạo lý thấy tốt thì lấy, viện binh đến trễ mấy ngày thôi mà, Trịnh Nguyên Linh có rất nhiều lý do để giải thích.
Điều mà bọn họ muốn chính là thấy Nguyên Thú đế sinh ra ác cảm vì phủ Trịnh quốc công bắt tay với Tấn vương mưu hại Hoắc Kinh Đường, thái tử trong lòng ông..
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 105: Chương 105


"...!Huynh thì biết cái gì? Ở Thiểm Tây này muốn ăn cá lóc khó lắm đấy! Cầm lấy, bảo phòng bếp giết rồi nấu nồi canh cá để cho Triệu đại nhân bồi bổ thân thể đi, hai mươi ngày không được nghỉ ngơi đàng hoàng thì đúng là đáng thương thật, đại phu nói miệng vết thương trên người ngài ấy còn chưa lành đã lại nhiễm trùng nữa rồi, cũng may tuổi còn trẻ."
"Đậu cô nương, Triệu đại nhân có cá lóc, còn ta không có à?"
Nghe giọng nói thôi cũng đã tưởng tượng ra được dáng vẻ cười cợt tí tởn của Thôi phó quan, không những trông chẳng ra cái gì mà còn rất thiếu đánh.
"Gọi ta là Đậu chỉ huy."
"Đậu chỉ huy đại nhân!"
"Cái rổ ở dưới có ba con cá lóc, dù sao cũng dư ra, huynh muốn thì lấy đi."
"Ba con?" Giọng nói của Thôi phó quan tràn ngập niềm vui sướng, "Hơn Triệu đại nhân hai con, Đậu cô nương, á, không phải, Đậu chỉ huy, cho ta hai con cá à, ngại quá...!Chết rồi? Cô cho Triệu đại nhân ăn cá tươi, cho ta cá chết hả?"
"Không thì sao?"
Tiếp lời chính là tiếng quở mắng của đại phu bảo bọn họ nói chuyện nhỏ một chút, nếu thấy rảnh rỗi quá không có chuyện làm thì mau ra ngoài giúp sửa chữa tường thành đi.

Có điều chỉ trong chốc lát không gian đã yên tĩnh trở lại, tiếng kêu của Hải Đông Thanh to rõ, vang từ tận trời cao xuống dưới khiến cho chim chóc xây tổ dưới mái hiên sợ hãi mà bay đi mất.
Tiếng gió rì rào, rừng lá lao xao, ánh mặt trời ấm áp xuyên qua khe cửa sổ chiếu xuống mặt đất, bụi mịn tung bay giữa luồng sáng, một bóng dáng lướt qua bên cửa sổ từ bên ngoài bước vào trong phòng, ngẩng đầu lên nhìn Triệu Bạch Ngư đang mở mắt nằm trên giường.
Hoắc Kinh Đường vội vàng cầm chén thuốc vụt tới bên cạnh đỡ Triệu Bạch Ngư dậy, vừa sờ trán y vừa hỏi: "Choáng đầu nên khó chịu sao? Miệng vết thương đau hay là ngứa?"
Triệu Bạch Ngư lắc đầu: "Ta ngủ bao lâu rồi?"
Hoắc Kinh Đường: "Hai ngày ba đêm, mệt nhọc quá độ, miệng vết thương bị nhiễm trùng, hoại tử dẫn đến phát sốt.

Có điều tình huống tệ hơn ta cũng vượt qua được rồi, bây giờ cũng chỉ là chuyện nhỏ thôi, em xem em vẫn bị ta đánh thức đấy thôi."
Triệu Bạch Ngư siết chặt tay Hoắc Kinh Đường xem vết thương trên người hắn, "Chàng thì sao? Có nghỉ ngơi đàng hoàng không đó?"
Nhóm người về từ phủ Tây Lương gặp nguy hiểm, sau đó ngựa không ngừng vó mà chạy đi, vừa về đến đã lao vào thành Kinh Châu với nguy cơ bị phá nát, không chỉ phải chăm sóc y còn hôn mê mà còn phải giải quyết việc xây dựng lại phủ Kinh Châu, còn cả quân đội Đại Hạ phía Vị Châu nữa, không biết có chịu nghỉ ngơi hay không.
Hoắc Kinh Đường: "Không sao, Thôi Tông Chính bỏ mê hồn dược vào thuốc của ta, vậy nên ta cũng ngủ say một ngày một đêm, tinh thần thể lực đều khôi phục lại rồi, vết thương cũng đã đóng vảy, qua mười ngày nửa tháng nữa là ổn."
Triệu Bạch Ngư nhận lấy thuốc từ tay hắn uống một hơi hết sạch, sau đó nhanh tay bốc mứt quả ngậm vào miệng để xua tan vị đắng, cúi đầu nhìn băng vải trên người rồi nói: "Vết sẹo là vinh quang của đàn ông, sau này về kinh đô có vốn để khoe khoang với mấy ông lão cổ hủ và mấy tên lỗ m ãng kia rồi."
Đừng chỉ thấy Triệu Bạch Ngư treo trên người cái danh thanh thiên cương trực công chính, mấy năm nay vẫn có không ít quan lại lên chức gây khó dễ khắp nơi trong triều chỉ vì y đối nghịch với họ, những kẻ cổ hủ bảo thủ mắng y chanh chua, võ tướng mãng phu mắng y gà mờ hệt như thằng nhãi con, chỉ sợ thấy máu sẽ chóng mặt, hoàn toàn quên mất chuyện y đã từng chém đầu ba trăm quan.
Triệu Bạch Ngư bắt lấy tay Hoắc Kinh Đường rồi nắm tay mình lại thành quyền đụng vào nắm đấm của hắn, nhếch môi nói: "Trên người hai ta đều có huân chương, đúng là trời sinh một cặp."
Hoắc Kinh Đường: "Em còn có lòng dạ nói đùa à? Có biết lúc ta đến nhìn thấy thành bị phá, suýt nữa là tim ngừng đập thật rồi không."
Triệu Bạch Ngư: "Không còn sức sống thật hả?"
Hoắc Kinh Đường vừa trừng mắt, Triệu Bạch Ngư đã nhanh nhảu xin tha: "Gặp họa mà vẫn bình an tức là người có phúc, chàng xem ta đã trải qua mấy bận thập tử nhất sinh rồi hả? Nếu không phải là người phước dày thì khó mà qua nổi lắm."
Miệng lưỡi trơn tru nói lời chọc cười, cũng không biết là học từ đâu nữa, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, có lẽ là vì ngày nhỏ thường trà trộn vào đủ thứ hạng người nên mới có bản lĩnh này, về sau làm quan phải thận trọng nên đã bỏ bớt thói xấu, mấy năm nay được Hoắc Kinh Đường nuông chiều nên nó đã có dấu hiệu "hồi sinh", ấy vậy mà đã thật sự chọc cho hắn phải bật cười.
Hoắc Kinh Đường vốn không tức giận, Triệu Bạch Ngư bình an vô sự đã là may mắn lắm rồi, làm sao hắn nỡ nặng lời trách móc chứ?
"Em không nên điều Chiết Thanh Phong đi."
"Không cho điều thì cũng đã điều rồi, thế phải làm sao bây giờ đây?"
Hoắc Kinh Đường không nhịn được nở nụ cười, vất vả lắm mới có thể gắng gượng chống đỡ cơ thể suýt nữa là sụp đổ như núi, nói thật lúc ấy hắn đã rơi vào tình thể nguy hiểm, cũng may Chiết Thanh Phong đến kịp, nếu không có lẽ hắn đã bỏ mình ở Đại Hạ, mãi mãi không thấy ngày về rồi.
"Triệu Bạch Ngư, em lại cứu ta rồi, em cứu ta hai lần, kéo ta từ bờ vực sinh tử trở về, ta nợ em hai mạng."

"Chàng cũng đã cứu ta hai lần..."
Hoắc Kinh Đường nhớ lại, cảm thấy không đúng lắm, "Vậy chẳng phải hai ta huề nhau sao? Nhưng tính kĩ thì ta chỉ cứu em lần này thôi, lần trước không thành, đều là nhờ công lao của thái y, ta không thể vô sỉ ôm công được, vậy cứ cho là ta nợ em một lần đi." Nói về chuyện quan trọng này, hắn còn dùng lời lẽ nghiêm túc để nói: "Ngoại trừ tước vị vô dụng, của cải, thanh danh thì chỉ có tấm thân to cao và gương mặt khôi ngô này là có chút giá trị thôi, tiểu lang quân, cho ta thấy thân báo đáp nhé."
"...!Cút đi."
Hoắc Kinh Đường đá rớt giày xuống đất rồi chui lên giường, ôm Triệu Bạch Ngư náo loạn trong chăn một hồi, đến giờ cơm mới lệnh cho người đến phòng bếp mang nồi canh cá lóc vào cho y bồi bổ cơ thể.
Đến ngày thứ ba Triệu Bạch Ngư đã có thể xuống giường hỏi thăm công việc ở Kinh Châu, ai nấy đều bừng bừng khí thế làm công tác tu sửa các mục trong phủ, các phương diện khác như buôn bán, nông nghiệp và quan phủ đều đi vào quỹ đạo, mà vòng vây của Vị Châu cũng đã được giải quyết, quân đội Đại Hạ còn lưu lạc ở biên cảnh Tây Bắc đều bị đánh cho chạy bán sống bán chết, tin tức Tang Lương Ngọc đã chết dường như đã được truyền đi khắp Tây Bắc, Đột Quyết nắm tin tức xong cũng lập tức hành động, rời khỏi đường biên giới Tây Bắc chỉ trong một đêm.
Tây Bắc đã tạm thời khôi phục lại sự yên tĩnh của ngày xưa, nhưng các nhánh binh mã lại đang chờ xuất phát, Nam Cương, Mông Cổ và Đột Quyết đều nhìn chằm chằm, Đại Hạ lung lay từ bên trong chính là một miếng thịt vụn thối nát, hấp dẫn đám kền kền tham ăn xung quanh, ba kẻ kia không dám lộn xộn là bởi vì bọn chúng phát hiện ra Đại Cảnh đã đang điều điều sáu trăm ba mươi ngàn binh đóng quân Tây Bắc, chúng sợ hãi đánh chính diện với con quái vật khổng lồ này, cũng sợ bị trả thù, thế cho nên chẳng ai dám hành động trước.
Bầu không khí bình lặng kỳ lạ bao phủ Tây Bắc và Đại Hạ, mà ngay lúc này, Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn chạy trốn ra khỏi Đại Hạ đã xưng đế ở trấn Hắc Thủy, phái Lai sứ ra với ý đồ hòa đàm với Đại Hạ.
Một tháng kể từ khi Đại Hạ khơi mào chiến tranh, phủ kinh đô truyền thánh chỉ xuống, lệnh cho năm nhánh binh mã Tây Bắc chia ra các tuyến đường khác nhau tấn công Đại Hạ, giao cho Hoắc Kinh Đường cầm binh.
Lai sứ Đại Hạ đi vào quân doanh Vị Châu, vừa tỏ ý đồ đến đã bị Hoắc Kinh Đường chém chết tại chỗ, hắn cầm đầu lâu lên nói: "Lai sứ Đại Hạ có ý đồ ám sát bổn vương, người đến không lành, bản tính khó dời, lòng ngấp nghé thành trì Tây Bắc ta chưa dứt, triều đình của chúng ta tôn trọng hòa bình là vì suy nghĩ cho sự yên bình của dân chúng biên cảnh, bao dung cho Đại Hạ dù đã xâm phạm Tây Bắc nhiều lần, cũng chấp nhận biết bao nhiêu điều kiện hòa đàm thậm chí là mở các cuộc trao đổi hữu nghị, nhưng không hiểu sao lòng tham vô đáy của quý tộc Đại Hạ vẫn không chết, liên tục giở thủ đoạn bẩn thỉu...!Các tướng sĩ có chịu đựng được không?"
Lòng tướng sĩ đầy căm phẫn, nổi giận hô lên không thể nhẫn nhịn không muốn chịu đựng, tiêu diệt Đại Hạ!
"Nhịn được thì nhịn, không nhịn được nữa thì không cần phải nhịn! Chúng tướng sĩ tẩy binh thả ngựa, chờ xuất phát theo ta đi mở đất biên cương, đạp phá phủ Hưng Khánh, đưa bờ Hoàng Hà, đồng cỏ Cao Hà và hành lang Hà Tây vào bản đồ Đại Cảnh ta!"
Đám tướng sĩ thi nhau hò hét, tinh thần sục sôi, sĩ khí trước đó chưa từng có tăng vọt lên.
***
Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư gặp lại nhau chưa tới hai tháng đã lại chia tay lần nữa, nhưng lần này hai người không lưu luyến bịn rịn quá nhiều, chỉ nói một câu: "Sống chết có nhau."
Triệu Bạch Ngư: "Ta cất rượu Tần, chờ ngày chàng đại thắng về triều sẽ khui ra."
Hoắc Kinh Đường cười to: "Nếu đã vậy không quay về thì sẽ tiếc lắm nhỉ!"
Bên này bọn họ quấn quít chia tay nhưng cũng chẳng ai để ý đến, bởi vì người đứng khắp gò núi này đều đang chiết liễu tiễn biệt nhau, cách đó không xa là Thôi phó quan và Đậu cô nương.
Đậu cô nương kia chính là con gái của Đậu Hồng, để bảo vệ Kinh Châu, anh lớn đã trá hàng hi sinh trong doanh địch, vì vậy mà cha già mới đau buồn đến bạc trắng tóc, không chịu nổi cảnh người đầu bạc tiễn người đầu xanh nữa, trùng hợp thay Thôi phó quan vừa nhìn thấy nàng đã yêu, dính chặt lấy nàng suốt hai tháng trời, mà Đậu cô nương cảm thấy người này cũng không tệ lắm, bản thân nàng cũng không phải là người dễ ngại, thử thách mấy phen bèn đồng ý cho Thôi phó quan theo đuổi mình.
Có điều Đậu cô nương chấp nhận Thôi phó quan không phải là để cởi giáp, mà là để sinh một đứa con an ủi cha già, ngoài mặt bày tỏ lòng hiếu tháo, quay đầu lại chạy đi làm nữ tướng.
Cách này vừa có thể làm tròn chữ hiếu, vừa có thể tiếp tục nhiệt tình với sự nghiệp, chẳng trách mọi người đều nói phụ nữ Tây Bắc rất ngoan cường và không bao giờ khuất phục.
Đưa mắt nhìn Hoắc Kinh Đường xoay người lên ngựa, hòa vào đội quân rồi, Triệu Bạch Ngư quay lại mới thấy Triệu Trường Phong đứng dưới một gốc cây liễu khô cách đó không xa, hai người nhìn nhau, thời gian qua đi cảnh vật cũng đổi, tâm trạng không còn như lúc trước nữa.
Triệu Trường Phong đi tới, cẩn thận nhìn mặt Triệu Bạch Ngư, bốn năm trước kể từ sau cung yến hắn vẫn không có cơ hội được gặp Triệu Bạch Ngư, ngũ lang trong trí nhớ của hắn cũng không còn rõ ràng mấy, mỗi lần nhớ lại, những gì mà bọn họ thiếu nợ y sẽ càng trở nên chân thực hơn, lồ ng ngực cũng thít vào đau đớn gần như khiến hắn không hít thở nổi.
"Ngũ lang gầy đi nhiều rồi."
Triệu Bạch Ngư cười khách sáo.
Triệu Trường Phong cúi đầu, muốn nói gì đó lại thôi.
Triệu Bạch Ngư thầm thở dài, đã không còn ý định kéo dài thân duyên, cũng không có ý chà đạp tấm lòng của người khác, chỉ chắp tay qua đầu nói: "Tướng đi vạn dặm, đường xá gian nan, hy vọng người túi gấm còn tên, thắng lợi về triều, bình an vô sự."
Triệu Trường Phong bỗng giương mắt lên, cảm động không thôi, một lúc lâu sau mới thốt ra được hai chữ: "...!Cảm ơn."
Triệu Trường Phong cứ chần chừ tại chỗ mãi không chịu nhúc nhích, đến khi cấp trên thúc giục lần nữa, hắn mới đành leo lên ngựa rời đi, đi được một đoạn đường xa rồi, Triệu Trường Phong mới mò vào ngọc quân tử trong ngực áo, đó vốn là quà cập quan mấy năm trước muốn tặng cho Triệu Bạch Ngư, nhưng cho đến giờ vẫn không thể tặng được.
Đội quân nối thành một hàng dài xuất chinh, biến mất dần trong ánh trời chiều, những người đến chia tay đều lưu luyến đứng lại tạm biệt bọn họ đến tận khi mặt trăng leo l3n đỉnh núi rồi mới lục tục rời đi.
***
Khẩu dụ từ phủ kinh đô truyền Triệu Bạch Ngư trở về đã đến hai lần nhưng đều bị y lấy lý do công việc ở Tây Bắc bận rộn để từ chối, đóng giữ Kinh Châu đến khi thời tiết nóng bức của đầu hè ập tới, thời gian lặng lẽ trôi đến cuối tháng sáu, cũng chính vào lúc này, biên cảnh truyền tin chiến thắng về, phủ Hưng Khánh đã bị phá, đại quân đánh thẳng vào hoàng cung Đại Hạ, bắt lấy Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn có ý đồ chạy trốn lần nữa.
Người trước rút đao tự vẫn, kẻ sau cảm thán đi đến bước đường cùng, thời gian không chờ đợi ta, rồi sau đó cũng đi theo.
Mặt khác, toàn bộ quý tộc Đại Hạ đều quỳ xuống đất cầu xin tha thứ, bởi vì những người dám phản kháng Tang Lương Ngọc đều đã bị ông ta giết sạch rồi, trái lại dân chúng không hề hấn gì trước việc này, dù sao thì quân đội Đại Cảnh cũng không dám làm những chuyện như đốt giết cướp bóc, hơn nữa, ít nhất hai ba mươi năm về trước có người không phải là con dân Đại Hạ mà là người có cùng nguồn gốc với phiên tộc Tây Bắc, vốn chẳng có lòng yêu nước gì cả, làm bá tánh của nước nào thì có sao đâu?

Ăn uống no đủ là tốt rồi, dù gì về sau đi chợ cũng không cần phải đợi quan phủ phê chuẩn mới được, thỉnh thoảng các chợ đóng cửa, cả nhà còn phải lâm vào tình cảnh không có đồ ăn cực kì thê thảm, Đại Hạ chết rồi là chuyện tốt đấy chứ.
Đại Hạ bị diệt, Hoắc Kinh Đường còn dẫn binh đánh vào Nam Cương và Mông Cổ nữa, coi như trả thù.
Đột Quyết ở sát vách Đại Hạ cũng chẳng chiếm được cái gì tốt, trước đây có thể chân vạc bị Đại Hạ kiềm hãm, bây giờ môi hở răng lạnh, khó đảm bảo tiếp theo không phải là bọn họ nước mất nhà tan, lúc này phái Vương tử đi làm Đại sứ hòa đàm, phái thêm công chúa đi hòa thân, bày tỏ lòng kính sợ, dùng thái độ vô cùng lo lắng để cầu hòa.
Trước mắt không phải là thời điểm chỉnh đốn Đột Quyết, vậy nên Nguyên Thú đế không từ chối hòa đàm, có điều thái độ vẫn cứng rắn, thở ra một câu tỏ rõ ý rằng ông vẫn có ý định ra sức làm thịt Đột Quyết.
***
Đầu tháng bảy, mặt trời nhô cao.
Giả Long Thiên Châu trở thành thủ lĩnh tộc Giả Long, nàng lặn lội từ Nguyên Châu đến, mang theo một ít quà cáp chuẩn bị bái kiến Triệu Bạch Ngư, trên đường gặp được ni cô Nhã Thiện đã kết hôn với thanh mai trúc mã, bấy giờ đang mang thai sáu tháng, nàng ta cảm niệm vì ngày xưa nàng đã chăm sóc các ni cô ở Kính Châu nên tặng cho nàng bánh hoa mà mình tự tay làm, lại nghe nói Giả Long Thiên Châu sắp sửa đi gặp Triệu Bạch Ngư ân nhân của nàng ta, Nhã Thiện bèn vội vàng đi soạn một giỏ bánh hoa và kẹo cưới nhờ Giả Long Thiên Châu đi tặng giúp.
Thế là Giả Long Thiên Châu xách theo túi lớn túi nhỏ đi vào Ngạc phủ đã được tu sửa lại rồi sung vào công quỹ, nàng không gặp được Triệu Bạch Ngư, hỏi thăm mới biết người ta đã đi đến lễ đua ngựa mà phiên tộc địa phương tổ chức vào tháng bảy rồi.
Tiểu đồng canh cửa nói: "Triệu đại nhân và Đậu đại nhân đều đã bị kéo đi làm trọng tài, là do Đậu cô nương bắt đi cho bằng được đấy, bởi vì lễ đua ngựa chỉ có phái nam mới được tham gia thôi, Đậu cô nương tức lắm cho nên muốn Triệu đại nhân và Đậu đại nhân ngầm thay đổi thể lệ, cho phép phái nữ dự thi, cũng không hiểu sao mà Triệu đại nhân rất tán thành, còn đề xuất thi đấu theo nhóm nam, nhóm nữ rồi nhóm nam nữ hỗn hợp nữa...!Cô biết mà, lễ đua ngựa này không chỉ có đua ngựa mà còn có những hoạt động khác, tổ chức từ sáng sớm đến tận tối muộn, cá chắc là nó sẽ không kết thúc cho đến tận hừng đông ngày mai đâu...!Cô có định đến đó không?"
Giả Long Thiên Châu đã làm ni cô mười mấy năm, tính tình trầm ổn, không quen với không khí ồn ào náo nhiệt nên bèn từ chối.
"Ta có thể ngồi trong phủ chờ được không..."
Còn chưa dứt lời đã nghe thấy tiếng hí vang của tuấn mã truyền đến từ xa và tiếng kêu thánh thót xé rách bầu trời của hùng ưng, quay đầu nhìn lại, đập vào mắt đầu tiên chính là một con Hải Đông Thanh trống cực đẹp, theo sau đó là một kỵ binh lao đến trước mặt nàng trong nháy mắt, khí thế khắc nghiệt lạnh lùng ập đến khiến cho Giả Long Thiên Châu và tiểu đồng đều phải run rẩy đề phòng.
Chờ người nọ tháo mặt nạ sắt bảo hộ xuống, để lộ đôi mắt Bồ Tát màu vàng lưu ly đặc trưng và gương mặt vô cùng tuấn mỹ ra, hai người thấy đó là Hoắc Kinh Đường thì mới thôi cảnh giác.
"Tiểu nhân / Giả Long thị tham kiến tướng quân."
Hoắc Kinh Đường quét mắt nhìn phủ đệ vắng tanh vắng ngắt, chỉ hỏi một câu: "Tiểu lang đang ở đâu?"
Tiểu đồng trả lời đúng sự thật, Hoắc Kinh Đường chẳng nói chẳng rằng giục ngựa rời đi.
Giả Long Thiên Châu hơi ngạc nhiên: "Cấm quân đã thắng trận trở về rồi à?"
Nếu thắng trận trở về thì phải đánh tiếng thật lớn mới đúng chứ, nhưng có lẽ Lâm An quận vương không chịu nổi cảnh nhớ nhung, bỏ rơi đại quân còn mình thì ngày đêm chạy gấp về đây ấy mà.
Giả Long Thiên Châu bật cười, thấp giọng rầm rì: "Hóa ra người Hán ở Trung Nguyên không phải ai cũng thận trọng bảo thủ nhỉ."
***
Kinh Châu là nơi rất nhiều phiên tộc chung sống, trên đồng cỏ, có mấy con ngựa hoang đang uống nước bên hồ Trân Châu, đằng kia kia chính là địa điểm tổ chức lễ đua ngựa, không khí vô cùng ồn ào và vui vẻ.
Xa xa thấy Đậu cô nương cưỡi trên lưng tuấn mã phi như bay, trong ngực ôm con dê con vừa mới cướp được về tay, trên thân dê con vẫn còn treo quả cầu hoa, nó đã sớm bị dọa cho không dám nhúc nhích gì, phía sau còn có tầm mười con ngựa khác không ngừng đuổi theo, thậm chí còn đang nghĩ đến chuyện giành lấy con dê nhỏ trong lòng Đậu cô nương nữa.
Triệu Bạch Ngư mặc lan sam khoác áo dài màu trắng đứng ở bên hồ, di chuyển tầm mắt nhìn về phía mặt hồ trong vắt, nhìn thoáng qua có thể thấy được mấy con cá lóc đang chơi đùa với mấy cây bèo nữa.
Lúc này sau lưng truyền tới tiếng vó ngựa, Triệu Bạch Ngư cứ tưởng kia là hán tử đua ngựa nào đó chạy tới đây cho ngựa uống nước cho nên không để ý lắm, không ngờ bên hông căng chặt, trong nháy mắt bay lên trên không, trời đất quay cuồng một trận thế là bị bắt lên lưng ngựa, chạm vào giáp sắt lạnh lẽo thì khẽ giật mình, sau đó hít sâu một hơi rồi duỗi hai tay ra ôm eo kẻ xấu, thân mật vùi mặt vào.
Người đua ngựa bên kia phát hiện ra điều kì lạ, vội vàng giá ngựa đuổi theo, có lẽ mọi người đều cho rằng đường đua đã bị thay đổi nên mới muốn đuổi theo bọn họ, trong nháy mắt đã có mấy chục con ngựa nối đuôi theo sau, vó ngựa không dừng, bụi mù cuồn cuộn, thảm cỏ dưới trời xanh toàn là tiếng reo hò hoan hô vang lên chẳng ngớt.
Triệu Bạch Ngư phất tay về phía sau, cô nương đuổi theo một quãng đường dài mệt mỏi hết sức chợt hiểu ra, hung hăng trừng mắt một cái rồi quay đầu khiến cho đám người sau lưng đồng thời than thở một tiếng dậy đất, nhưng lại không thể không đuổi theo.
Triệu Bạch Ngư thấy vậy, đột nhiên hiểu ra mới bật cười thành tiếng, ôm siết lấy eo Hoắc Kinh Đường bảo hắn đi một chỗ, đào rượu Tần cất từ mùa xuân lên rồi mới quay trở lại thảo nguyên mênh mông bát ngát để chè chén say sưa.
Đến khi màn đêm buông xuống, hai người mới đi đến bên một bờ hồ xa ngút ngàn chẳng có bóng người, nằm trên thảm đá xanh bên cạnh hồ vừa uống rượu vừa ngắm sao bay đầy trời, gió đêm hè thảo nguyên thổi qua, tán gẫu một chút về trận chiến tiêu diệt Đại Hạ lần này.
"Không có gì đáng ngại, bên trong Đại Hạ giống như là hang côn trùng bị đục rỗng vậy, thiết kỵ tới nơi như vào chốn không người, thành trì ở ngoài cùng còn có ý chống cự, nhưng càng vào sâu càng chẳng ai chống nữa, thậm chí cỏ thành chủ động mở cổng nghênh đón Cấm quân, cúi đầu xưng thần.

Không còn Tang Lương Ngọc, Đại Hạ giống như đứt mất cánh tay vậy, huống chi gần ba trăm ngàn binh mã đã chết hết một nửa ở Tây Bắc, dù Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn có chút tài, cũng có lòng anh dũng ngoan cố chống lại đến cùng nhưng sẽ đánh không lại Cấm quân Đại Cảnh, cũng không thể níu kéo được lòng dân, sụp đổ dễ như trở bàn tay vậy."

Không phải Đại Hạ không có người chính trực, cũng có kẻ kiên cường giữ thành chống lại Cấm quân Đại Cảnh hơn một tháng trời, Hoắc Kinh Đường nói chuyện còn tỏ ý kính nể, đương nhiên là những điểm quan trọng còn lại toàn là lấp ló khoe khoang ngầm muốn Triệu Bạch Ngư khen ngợi hắn, nếu có chỗ nào bị lặp lại thì sẽ tỏ vẻ ghét bỏ hắn cho có lệ.
"Khi Đại Hạ đánh Linh Châu đúng thật là đã gặp khó khăn, suýt nữa là binh tướng đều tổn thất, trong quân Tây Bắc có người lấy cớ tịch thu lương thảo của Chiết gia quân, trong lúc Chiết gia quân tấn công Linh Châu thì ra lệnh nghiêm ngặt buộc họ phải ở yên chờ lệnh, rồi sau đó chuẩn bị tấn công.

Nếu như đánh hạ Linh Châu rồi thì không sao, nhưng vẫn cứ là không đánh được, còn vì bị binh Hạ đập vỡ nguồn nước Hoàng Hà, nhấn chìm Cấm quân Tây Bắc, toàn quân suýt chút nữa là bị diệt."
Nhắc đến việc này, Hoắc Kinh Đường làm vẻ mặt giống như cười mà lại không phải cười, nếu như nhìn kĩ thì chỉ thấy toàn là sát ý lạnh băng.
"Linh Châu phạm phải sai lầm coi như xong, sau đó còn ta vào đánh hạ phủ Hưng Khánh, lúc đuổi giết kỵ binh nhẹ Mông Cổ, chúng mai phục ta ở nơi hiểm yếu, bị bắt tại trận còn dám nói láo rằng ông ta nghĩ nhầm thiết kỵ Đường Hà của ta là kỵ binh Mông Cổ...!Tiểu lang cũng biết người này là ai chứ?"
"Trịnh Nguyên Linh?"
"Ừ." Hoắc Kinh Đường trở mình, vùi mặt vào trong cổ Triệu Bạch Ngư, một chân cong lên, tay trái choàng qua vai y rồi nói: "Có đôi khi ta không tài nào giải thích được vì sao có nhiều người nhìn chằm chằm vào cái ghế kia đến vậy, dù là Trịnh Nguyên Linh, lão Lục hay cả nhà Trịnh quốc công đều đã cống hiến hết thời gian tốt đẹp nhất của cuộc đời ở biên cương, đúng là bọn họ có chút lòng dạ riêng, thế nhưng lòng trung thành bảo hộ núi sông, che chở cho dân chúng không phải là giả.

Thực ra lão Lục lúc là thiếu tướng quân quân Ký Châu rất có khí phách, túc trí đa mưu, cũng là kẻ được người người ca tụng, thủ đoạn sạch sẽ, không thể so với thanh liêm nhân từ nhưng rất ngay thẳng, nhưng đã vào quan trường rồi, về lại triều đình, theo đuổi cái ghế kia, biến thành người giống với Thái tử, trở nên ngu dốt, cố chấp, ích kỷ, làm sao có thể lãng phí mạng sống của tướng sĩ chỉ vì tham lam chút công lao này kia chứ!"
"Làm quan ngàn dặm chỉ vì tiền tài, làm người muôn đời thì cầu quyền thế, từ xưa đến nay đều như vậy." Triệu Bạch Ngư an ủi Hoắc Kinh Đường.
Hoắc Kinh Đường đột nhiên bật cười, "Ta cũng không có tư cách nói đến người khác."
"Vì sao?"
"Trước đây ta cũng từng đuổi theo cái ghế đó, có lẽ là từ nhỏ ta đã biết rõ bệ hạ đối xử với ta khác, rất dễ đoán ra tâm tư của ông ấy, mặc dù bị ném đến phủ Tĩnh vương, ta vẫn tin rằng bệ hạ chỉ đang thử thách ta mà thôi, ông ấy muốn ta trở thành hùng ưng lang vương chứ không phải là một quân vương độc đoán mềm yếu, ta đã từng giận ông ấy, lòng tin cũng thay đổi.

Ta đến Ký Châu, lăn lộn ở Tây Bắc, đã từng trải qua nhiều lần sống chết khó khăn, tự mưu tính con đường trở thành Thái tử, lấy lòng những người đa mưu túc trí, điều chỉnh lại thiết kỵ Đường Hà, đào tạo võ tướng thuộc về ta, sắp xếp quân cờ ở khắp nơi...!Em có biết ta đã từng ra sức mời Trần Sư Đạo không?"
Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên: "Ta không biết chuyện này."
"Nếu như không phải đã nhìn ra dã tâm của ta, thì ngày trước làm sao ông cụ có thể một lòng tin tưởng em gả cho ta là để trở thành mưu sĩ giúp ta làm việc cho vua, che đậy tai mắt người khác?"
"Hóa ra là thế?"
"Dã tâm trở thành Thái tử tan nát khi bị cổ độc tra tấn, rồi bị nghiền nát hoàn toàn khi bệ hạ quay lưng lựa chọn lão Lục, bỏ mặc ta bị cổ độc hành hạ ngày qua ngày nên càng trở nên gắt gỏng hơn, tiếng xấu vang xa...! Lần em đến nhặt xác, đám người kia là do hậu cung xếp vào, lúc đưa bọn họ vào cũng chính là lúc cổ độc bạo phát, ta không thể khống chế được, lời đàm tiếu nói ta tàn bạo, chơi đùa người khác đến chết trên giường bị truyền đi, còn bệ hạ chỉ...!thờ ơ."
Triệu Bạch Ngư ôm chặt lấy Hoắc Kinh Đường, mặc dù đã biết cảnh ngộ của hắn, nhưng nghe hắn tự nói ra thì trong lòng vẫn đau xót không thôi.
"Lúc ta gặp chàng, chàng rất dịu dàng, trong lòng ra chàng chính là người vô cùng tốt."
Y nói ấn tượng của mình về Hoắc Kinh Đường.
"Chàng biết khi chàng xuất hiện trước mặt ta, bảo ta đi gióng trống khua chiên cáo trạng cứu thầy, trong lòng ta đã nghĩ gì không?"
"Nghĩ gì?"
"Ta nghĩ, người đã khiến cho ta phải sợ hãi suốt hai năm trời, chính là người duy nhất mở cho ta một con đường phía trước, cùng là người dọn sạch đường lui phía sau trong suốt mười chín năm cuộc đời của ta, từ nay về sau, hắn nhất định sẽ tách biệt hoàn toàn với vạn người trong thiên hạ."
Triệu Bạch Ngư quen lủi thủi một mình, tuy có Tú ma ma và Ngụy bá quan tâm, che chở y, nhưng phần lớn thời gian y đều phải tự mình lo liệu trước sau, dù có phải đối mặt với sóng to gió lớn gì cũng đều đứng chắn phía trước như một thói quen, không ai mở đường cho y, càng không ai có thể kéo y lại khi thuyền y bị lật, vì vậy nên Triệu Bạch Ngư mới quen với việc chú ý cẩn thận với mọi thứ.
Khi cứu Trần Sư Đạo, trong lòng y đã tồn tại suy nghĩ muốn chết, vậy mà Hoắc Kinh Đường lại ngang nhiên xuất hiện ngay lúc ấy.
Hoắc Kinh Đường cười mấy tiếng, bỗng dưng níu lấy Triệu Bạch Ngư lật khỏi thảm đá nhảy xuống hồ, một đám bọt nước tung lên kêu rào rào, Triệu Bạch Ngư không phản ứng kịp nên uống phải một ngụm nước rồi nhanh chóng bị Hoắc Kinh Đường chặn miệng, lấy rong rêu dưới thân làm giường, cá con to cỡ bàn tay bừng tỉnh, kéo bầy kéo đàn lủi đi mất.
Hồ nước trong vắt đến nỗi y có thể nhìn thấy ánh sao trời chiếu xuống lấp lánh, thậm chí lúc này đây y còn có thể cảm nhận được nhiệt độ của Hoắc Kinh Đường khi hắn dán sát vào người mình, đó chính là sự nóng nảy mà nước hồ lạnh buốt không thể thấm ướt, là toan tính điên cuồng tràn trề hưng phấn không thể dập tắt mà Hoắc Kinh Đường ngày đêm gấp gáp trở về sau khi giành thắng lợi trên chiến trường, tiêu diệt Đại Hạ, gây dựng sự nghiệp to lớn đến cả Thánh tổ cũng chẳng thể làm được.
Dường như mới vừa rồi dịu dàng tâm sự, để lộ vẻ đa sầu đa cảm chẳng qua là vì sợ tiểu lang quân sợ hãi mà thôi, hắn đã cố hết sự giảm nhiệt độ rồi, chỉ tiếc là chẳng có hiệu quả mấy.
Nước lại vang lên rào rào, Triệu Bạch Ngư đạp nước ngoi lên, được Hoắc Kinh Đường ôm tựa vào mép hồ, trâm ngọc đã bị rút ra, mái tóc ướt sũng tản ra rũ xuống, chóp mũi chạm nhau vừa nóng vừa ướt, nụ hôn nhỏ vụn rơi xuống không ngừng, nhanh chóng từ nhẹ nhàng hóa thành gió lớn mưa rào.
Dưới màn trời này, trên thảo nguyên, cạnh hồ nước, hai người trút hết tinh lực tràn trề tới mức gần như chẳng còn gì, ôm ấp lấy sự mỏi mệt sau khi thỏa mãn, lấy trời làm màn lấy đất làm chiếu ngủ đến tận lúc mặt trời mọc mới cưỡi ngựa trở về, nhìn ra xa thấy được tro tàn của lửa trại đêm qua, Hoắc Kinh Đường không đi sang đó mà ôm Triệu Bạch Ngư quay đầu ngựa về phủ.
***
Đại Hạ bị diệt, Cấm quân Tây Bắc thắng lợi về triều chính là sự nghiệp to lớn nhất từ xưa đến nay giữ cho Đại Cảnh trăm năm thịnh thế, Nguyên Thú đế rất vui, đại xá thiên hạ, lệnh cho ba tỉnh sáu bộ chuẩn bị cho tốt danh mục quà tặng, bắt tay vào sắp xếp chuyện này đến chuyện khác với ý đồ nhận lại Hoắc Kinh Đường, lòng dạ gấp gáp muốn lập trữ rõ mồn một.
Trong điện Văn Đức, chỉ có Nguyên Thú đế đang ngồi phía trên, đại thái giám và một người đàn ông trung niên đang quỳ rạp dưới đất, hình như lão vừa báo cáo công tác xong, đang đợi phân công.
Một lúc lâu sau, Nguyên Thú đế mới nói: "Nhân dịp đại hỉ, trẫm chuẩn bị đến ngoại ô phía nam tế trời sau Trung thu này." Buông tấu chương xuống, ông nhìn về phía đầu người ở dưới, "Ngươi có hiểu ý của trẫm không?"
Người phía dưới đảo mắt mấy vòng, nghĩ một chút liền hiểu được, thoáng chốc kinh hồn bạt vía, vì sự quả quyết của Nguyên Thú đế mà không nói nên lời, có điều trên mặt vẫn cung kính lễ độ: "Thần tuân chỉ!"

Sự chú ý của Nguyên Thú đế lại quay về trên tấu chương, hời hợt đáp: "Về đi, đừng để người khác nhìn thấy."
Ông lệnh cho đại thái giám đi tiễn một đoạn, dẫn người đến một con đường ít ai qua lại.
Hai người này một trước một sau đi trên cung đạo, hai bên là tường thành màu đỏ, khi đi qua một cung điện mọc đầy cỏ dại, mưu sĩ đi phía sau mới nhét túi tiền vào trong tay đại thái giám, hỏi một câu "Tâm trạng của bệ hạ thế nào".
Đại thái giám nhìn trái nhìn phải, nghĩ tới sức nặng của túi tiền, tốt bụng nói: "Ông còn không nhìn ra được à? Tất nhiên là rất vui rồi.

Thịnh thế này coi như là được mở ra trong tay bệ hạ, người nên ngã cũng đã ngã, đồ muốn có cũng đã có, hài lòng như ý, ý trời tương trợ, tất nhiên vẫn muốn mọi chuyện được suôn sẻ, phải vô cùng hoàn mỹ mới được." Lão giảm âm thanh xuống khuyên nhủ, "Ông ấy à, bây giờ đã gánh vác trách nhiệm trên vai thì chớ có quay đầu lại.

Trong thời điểm quan trọng này, phàm có ai muốn làm bệ hạ phật lòng thì không chỉ phải nghĩ đến đầu của mình, mà còn phải nhớ tới gia đình họ hàng nữa."
"!" Mưu sĩ run rẩy, nhớ tới mấy chữ "gánh vác trách nhiệm", không khỏi cười khổ: "Ta tạ lời hay của công công."
Đại thái giám vẫy vẫy tay: "Tiễn ông đến đây thôi, đi cẩn thận một chút, đừng để cho ai trông thấy."
Mưu sĩ nói lời cảm ơn rồi đi ngay, đại thái giám đứng đó một lát rồi cũng đi.
Cung điện tan hoang vô cùng yên tĩnh, bỗng nhiên có tiếng lá khô bị đạp nát vang lên, có người bước ra từ phía sau bức tường phủ đầy dây thường xuân, sắc mặt tái nhợt, ánh mắt u ám như nước, ấy vậy mà lại là Ngũ hoàng tử ít xuất hiện đi chẳng còn nghe thấy tên tuổi kể từ khi Đông cung chết.

***
Phủ Tấn vương.
Phụ tá khuyên nhủ: "Bàn về văn trị võ công, tất cả mọi thứ Lâm An quận vương đều hơn vương gia một bậc, bệ hạ vốn luôn thiên vị hắn.

Còn có Thái Trọng Thăng về báo cáo công tác rồi vô cớ bị giáng chức đến một nơi hoang dã như Nam Man, Trịnh nhị gia cũng không truyền tin về đã nhiều ngày liên tục rồi, thậm chí chẳng hiểu sao binh quyền của nhánh Hoàn Khánh lại bị chuyển giao cho phó tướng, hơn nữa bệ hạ hành động liên tiếp, tình thế cấp bách, nếu để cho Hoắc Kinh Đường về kinh an toàn, e là vị trí Thái tử sẽ rơi lên đầu hắn, đến lúc đó ngài và phủ Trịnh quốc công có muốn cố gắng cũng chẳng còn cơ hội!"
Lục hoàng tử ngày xưa giờ đã trở thành Tấn vương: "Theo tiên sinh, ta nên làm thế nào?"
Phụ tá: "Việc này là việc trọng đại, chắc chắn bệ hạ sẽ đi ngoại ô phía nam để tế trời, Thái hậu cũng đi theo, trong cung không có người, Cấm quân phòng thủ yếu kém, đó chính là cơ hội tốt nhất để đoạt quyền."
Tấn vương yên lặng nhìn phụ tá, nhìn đến mức người nọ cảm thấy sợ hãi, lúc này mới dời tầm mắt đi, cau mày nói: "Mấy năm nay ta bước đi khó khăn, đảng văn thần không phát triển nổi, đảng võ quan cũng bị gọt dũa đi nhiều, lấy binh quyền ở đâu ra để mà đoạt vị?"
Phụ tá: "Dù gì Trịnh Sở Chi cũng đang nhậm chức Đô úy doanh Long Hổ, có thể phối hợp chặt chẽ với quân cờ ta xếp vào Cấm quân trong cung, chỉ cần lấy được ngọc tỉ và dây đeo triện, chống chọi đại thần văn võ trước rồi ép bệ hạ thoái vị."
Quân doanh đóng quân trong phủ kinh đô gọi chung là doanh Long Hổ, cũng là một nhánh trong tám trăm ngàn Cấm quân.
Tấn vương: "Tiên sinh thật sự muốn ta mưu phản ép vua thoái vị sao? Nếu như cũng thất bại giống như Đông cung lúc trước, kết cục của ta và ông đều sẽ là đầu rơi xuống đất!"
Lúc này phụ tá quỳ xuống đất, dùng giọng đanh thép đáp lại: "Thuộc hạ nguyện đầu rơi máu chảy vì vương gia, đến chết mới thôi!"
Tấn vương dán chặt ánh mắt theo dõi ông ta, một lúc lâu sau mới vỗ lên tay ghế cười to: "Hay! Hay! Tiên sinh là phụ tá đắc lực của cô, là Chư Cát tể tướng của cô!" Sau đó hắn thở dài như thể đang nhớ về trước kia: "Tiên sinh đến bên cạnh cô từ năm nào ấy nhỉ?"
"Năm Nguyên Thú thứ mười tám, lúc vương gia tòng quân, trên đường cứu được thuộc hạ bị bỏ tù oan, giúp người nhà của thuộc hạ sử lại án oan, thề làm ngựa chó dốc sức suốt quãng đời còn lại vì điện hạ."
"Năm Nguyên Thú thứ mười tám...!Cũng đã tám năm rồi." Tấn vương như có điều suy nghĩ: "Nếu như nghiệp lớn thành công, cô nhất định phụng tiên sinh làm Tam công."
"Thuộc hạ đi theo điện hạ chỉ vì báo ân, nguyện vì điện hạ đạt thành nghiệp lớn, không vì tiếng tăm của bản thân!"
Tấn vương nở nụ cười, tự tay nâng phụ tá dậy, tha thiết an ủi giống như thường ngày, nhỏ nhẹ thương lượng chuyện lớn, chờ cân nhắc xong xuôi mới đưa người đi, nụ cười trên mặt lập tức biến mất, thay vào đó là đau thương, trong mắt dần dần ngập tràn nặng nề xót xa.
"Cha mẹ thương con, tất vì con mà lo toan chu toàn." Tấn vương mấp máy môi nói, "Cô luôn tin rằng lúc trước phụ hoàng hao tâm tốn sức sắp xếp tiên sinh đến bên cạnh là bởi vì muốn nâng đỡ cô, thật sự ký thác kỳ vọng vào cô, rõ ràng đó chính là tình thương của cha.

Nhưng hôm nay lại tốn công tốn sức khiến ta rơi vào vùng đất chết, rõ ràng là hy vọng cô đi tìm chết, đó vẫn là tình thương của cha...!Nhưng lại không phải dành cho ta."
Sau lưng hắn có một người khác xuất hiện, đó là Ngũ hoàng tử mặt không cảm xúc.
Lão Lục còn được Nguyên Thú đế yêu thương cất nhắc, đến cả Đông cung cũng đã từng có lúc được ông gửi gắm hy vọng, còn gã thì sao? Bị biến thành một quân cờ mặc người sử dụng, dường như đến cả tư cách cũng không đủ.
Thái tử, lão Lục còn có tư cách để đau khổ, hắn thì chẳng có thứ gì..
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 106: Chương 106


Giành được đại thắng, khải hoàn hồi triều, hành trình đã định không thể thay đổi.
Bởi vì công việc đã gần như hoàn thành xong hết, Hoắc Kinh Đường bèn dắt theo Triệu Bạch Ngư tách khỏi đội ngũ, chuẩn bị đi du sơn ngoạn thủy rồi mới về kinh đô.
Tuyến đường đi khác nhau, dường như là vòng hết một vòng Tây Bắc, đến đường nùi Kỳ Liên ngắm thảo nguyên, canh giữa hẻm núi ba ngày ba đêm chờ cảnh hàng ngàn con ngựa lao nhanh qua, xem người chăn ngựa bản địa thuần phục mã vương suốt hơn một tháng trời.
Hoắc Kinh Đường còn nói cho Triệu Bạch Ngư biết, con ngựa đen xinh đẹp đó chính là vua của bầy ngựa hoang, lúc trước hắn phải trở thành người hoang dã suốt hai tháng trên thảo nguyên rộng lớn này mới hàng phục được nó.
Dọc theo đồng cỏ bao la, theo đàn trâu, bầy dê đi về phía trước chẳng có đích đến, lần này là băng qua Lan Châu, vượt đồng cỏ, qua hẻm núi, đến biển xanh, ngắm nhìn sóng Hoàng Hà cuộn lên rồi vỗ xuống hệt như một con rồng lớn, tiếng vang như sấm, trong lòng Triệu Bạch Ngư vô cùng hăng hái, cảm nhận được cảnh tượng con người nhỏ bé như hạt cát trước trời đất cao rộng trong thơ cổ.
Hai người còn đi đến cửa ải hiểm yếu nhất thiên hạ là Gia Dự Quan*, nơi này xưa nay vốn là vùng đất bị nhà binh tranh giành, tất nhiên cũng được binh mã phòng thủ nghiêm ngặt, chỉ tiếc có cửa không có thành, bởi vì bấy giờ còn chưa xây dựng thành trì, cho nên thời điểm này các quan ải để giao thiệp với sứ giả Tây Vực chính là Ngọc Môn Quan**, nhân viên rất ít qua lại ở khu vực Gia Dự Quan, không to lớn sầm uất như đời sau.

(*) Gia Dự Quan là điểm cuối đoạn phía tây Trường Thành.
(**) Ngọc Môn quan hay đèo Ngọc Môn là tên của một con đèo nằm ở phía tây Đôn Hoàng, thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc.

Trong thời cổ đại, đây là nơi con đường tơ lụa đi qua và là một trong những con đường quan trọng kết nối khu vực Trung Á với Trung Quốc, trước đây được gọi là Tây Vực.
Nhưng ngắm nhìn ra phía xa từ trên cao, đằng tây chính là đại ngàn hoang vu, núi non hùng vĩ, được trông thấy cảnh tượng mặt trời lặn hoặc lấp ló xuất hiện từ cuối trời mênh mông âu cũng là một may mắn khó có được trong đời người.
Khi đó, Triệu Bạch Ngư đã ngồi ngắm mặt trời mọc giữa dãy núi từ sớm, phấn khích đến nỗi bộc phát hứng thú làm thơ, tuy rất thẳng thắn bộc lộ cảm xúc trong lòng nhưng tài văn chương lại không được như ý, dù vậy y vẫn không nản lòng, vẫn viết câu thơ ra để chuẩn bị xuất bản tập thơ trong tương lai.
Hoắc Kinh Đường gối hai tay sau ót, nằm ở bên cạnh liếc nhìn y.
Với trình độ đó, dù có mang danh quan thanh thiên phụ mẫu đi nữa thì cũng chẳng có nhà in nào muốn nhận hết.
Cũng may từ trước đến giờ Triệu Bạch Ngư hiểu rất rõ bản thân mình, y chỉ có ý định sưu tầm mấy bài thơ sau đó đóng lại thành cuốn, ngày sau ôm theo vào quan tài chôn cùng mình thôi là được rồi.
Cảm hứng được thúc đẩy trước khung cảnh mặt trời mọc trên lưng núi hùng tráng, Triệu Bạch Ngư quyết định sẽ phi ngựa băng qua vùng đất hoang phương Bắc, đuổi theo ánh chiều tà.
Hoắc Kinh Đường ôm cánh tay, không có ý kiến gì với lời đề nghị này, dù sao thì đuổi theo hoàng hôn cũng rất thú vị, hắn không thể không thử trải nghiệm.
Hai người ăn nhịp với nhau, cùng chén cạn một bầu rượu rồi một trước một sau cưỡi ngựa ra khỏi Gia Dự Quan, truy đuổi ánh mặt trời trên hoang mạc rộng lớn đến tận khi ông trăng bò l3n đỉnh núi mới bắt đầu chạy về.
Có lẽ núi sông kỳ vĩ quả thực có thể chữa lành lòng người, những nơi đi qua cũng là nơi bá tánh an cư lạc nghiệp, biên cương triều đại này đã ổn định, mở cửa với nước ngoài, buôn bán phát đạt và rất nhiều nhân tố khác nữa khiến cho đất nước phát triển mạnh mẽ, thậm chí có xu hướng vượt hẳn sự hưng thịnh của các triều đại trước, Triệu Bạch Ngư cũng càng thông suốt và thoải mái hơn, không còn canh cánh trong lòng vì quan trường đấu đá, cũng chẳng còn khúc mắc gì với thời đại mù mịt lạc hậu không được chiếu sáng này nữa, dần dần mở lòng hoàn toàn.
Hành trình phong phú này kéo dài hơn một tháng, lúc trở về phủ Kinh Đô đã là sau Trung thu, tất nhiên phải khao thưởng ba quân, mà Nguyên Thú đế cũng lười truy cứu hai người vì không về trình diện, bắt đầu chuẩn bị đi Tây Giao tế trời.
Tế trời là đại sự, cách ba năm tổ chức một lần, năm nay là phá lệ.
Nghi thức xe ngựa trang nghiêm, trình tự được thực hiện rất cẩn thận, cùng lúc đó Cấm quân hoàng gia cũng bị điều động đến hơn phân nửa để bảo hộ.
Bá quan văn võ vốn cũng nên cùng đến tham gia lễ tế, nhưng vì là phá lệ cho nên chỉ đưa vài đại thần thân cận đi theo.
Song trước ngày thân tự, Nguyên Thú đế phải vào Thái miếu ở để tắm gội và giữ giới ba ngày.
***
Trước lúc giữ giới, Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư về kinh.
Vừa bước vào phủ quận vương, hai người đã bị gọi vào cung ăn một bữa cơm nhà với Nguyên Thú đế và Thái hậu.
Trong yến tiệc còn có một vài phi tử có phẩm cấp cùng với mấy vị Ngũ, Lục, Thất, Cửu hoàng tử và hai công chúa.
Nói thật, tiệc gia đình này khiến cho Triệu Bạch Ngư hối hận vì không kiếm cớ từ chối sớm hơn một chút.
Hoắc Kinh Đường nhìn ra suy nghĩ trong lòng y, len lén kề tai nói nhỏ: "Vợ chồng một thể, có họa cùng chịu."
Mặt Triệu Bạch Ngư không đổi sắc, hơi phiền muộn: "Chàng nói xem, không danh không phận, gọi chàng đến tham gia bữa tiệc này là có ý gì?"
Hoắc Kinh Đường: "Đại Hạ bị diệt, các cao thủ đều về triều, ông ngoại không có lý do gì để từ chối, bị động đưa "con gái" vào, ta đoán lễ tế trời này chính là lúc để ta nhận tổ quy tông."
Triệu Bạch Ngư cúi đầu vuốt tay áo: "Mấy người em trai của chàng không có ý kiến gì sao?"
Hoắc Kinh Đường: "Trịnh Nguyên Linh bị giam vào Đại Lý Tự, trước mắt vẫn chưa có tin sẽ xử lí như thế nào, phủ Trịnh quốc công, Quý phi và lão Lục sẽ không có động tĩnh gì."
Triệu Bạch Ngư: "Bình lặng mới là dấu hiệu của con sóng lớn...!Sự việc của Đông cung sẽ không tái diễn chứ?"
Giương mắt nhìn quanh điện, Nguyên Thú đế và Thái hậu ở giữa đang nói đùa với nhau, có phải là thật sự lơ là hay không thì cần phải bàn lại, mấy vị phi tử có gia thế không hiển hách lắm thì khá là yên tĩnh, hai vị công chúa một lớn một nhỏ, người lớn hơn mười lăm tuổi, phát hiện Triệu Bạch Ngư bèn nhìn y bằng ánh mắt kiêu căng, vị nhỏ hơn chỉ vừa tròn chín tuổi, cô bé đang nhìn chằm chằm vào trái cây trên bàn, bởi vì có mẹ ngồi ở bên cạnh nên không dám lấy ăn.
Trịnh quý phi rũ mắt không nói gì, vẻ mặt lạnh nhạt, không thể nhìn ra cảm xúc.

Ngũ hoàng tử thì chuyên tâm xem biểu diễn trong điện, dáng vẻ táo bạo, ngạo mạn cũng dần chẳng còn nữa kể từ sau khi Đông cung rớt đài, dường như gã không còn có hứng thú với cuộc tranh giành quyền lực nữa.

Về phần Lục hoàng tử, hắn ta uống cạn mấy chung rượu liên tục, nhận ra ánh mắt của Triệu Bạch Ngư bèn vội vàng ngẩng đầu, giơ chung rượu lên cao cụng một cái rồi uống cạn sạch, vẻ mặt tươi cười và ánh mắt đều mang lại cảm giác kì lạ không thể nói nên lời.
Bầu không khí này khiến cho người ta cảm thấy không được tự nhiên, cả người Triệu Bạch Ngư không thoải mái chút nào.
Mấy năm nay Lục hoàng tử bị giam cầm ở Kinh Đô, Đông cung ngã ngựa, hắn ta trở thành mục tiêu công kích của mọi người trước khi bị bóc trần, vốn là lựa chọn đầu tiên cho vị trí Thái tử, nhưng rồi lại trở thành đối tượng bị nhắm vào, bị chất vấn vì Nguyên Thú đế dần thể hiện ý đồ của mình.
Quyền lực lấy được về tay từng bước bị giảm bớt, binh quyền cũng liên tục bị đoạt lại, người khác đã phục hồi tinh thần, e là Tấn vương bị bỏ rơi rồi.
Kể từ lúc đó, người nhảy xuống khỏi chiếc thuyền của Tấn vương ngày càng nhiều, đến cùng rải rác chẳng còn mấy người, mặc dù trong môn đảng có không ít võ tướng, nhưng xưa nay trị quốc vẫn cần phải có nhóm văn thần dẫn dầu.
Tấn vương nay ngoài mặt phong quang, bên trong đã là chiếc thuyền hỏng sớm muộn gì cũng chìm.
Thuyền hỏng còn có ba tấc đinh, tuy vậy cũng khó đảm bảo sẽ không bị ép trở thành Đông cung thứ hai.
Nhưng Nguyên Thú đế không hề phát giác ra hay sao?
Người khác phòng bị, mưu tinh ông ấy mà ông ấy hoàn toàn chẳng biết gì cả ư?
Triệu Bạch Ngư nhìn sang, lúc này Trịnh quý phi đã nói câu gì đó chọc Thái hậu cười rất vui vẻ, bà ấy không ngừng khen ngợi Trịnh quý phi thông minh khiến cho người ta phải yêu thương, chủ động nhắc đến sự tận tâm tận lực của quý phi khi quản lý trung quỹ hậu cung, nói gần nói xa muốn đưa bà ta lên làm Hoàng hậu, Nguyên Thú đế lập tức đáp lại đôi ba câu chấp nhận.
Trịnh quý phi vô cùng thích thú nhưng kịp kiềm chế lại, bày ra thái độ khéo léo từ chối.
Nói thế nào ấy nhỉ?
Có cảm giác vò mẻ lại sứt, bởi vì trong lòng ai nấy cũng đều biết rõ đây chỉ là đối phó mà thôi.
Hoắc Kinh Đường nhéo tay Triệu Bạch Ngư: "Sau khi kết thúc tiệc, em về phủ trước đi."
Triệu Bạch Ngư quay đầu nhìn vào đôi mắt màu ngọc lưu ly của Hoắc Kinh Đường, một lúc sau mới gật đầu, không hỏi nguyên nhân.

Giữa chừng Nguyên Thú đế và Thái hậu đều hỏi Triệu Bạch Ngư một chút chuyện nhà, tiệc gia đình tiến hành được một nửa thì Thái hậu rời đi, lúc đi còn gọi Triệu Bạch Ngư đi theo cùng một đoạn.
Trên cung đạo yên tĩnh, Thái hậu có nhắc đến câu chuyện Mục Liên cứu mẹ trong Phật pháp: "Thanh Đề làm ác, sau khi chết phải chịu ngàn vạn khổ sở, dù vậy, Mục Liên vẫn sẵn lòng vì mẹ mình dưới địa ngục, gặp ác quỷ, cứu chúng sinh...!Ấy chính là mẫu tử liền tâm, không cắt đứt được."
Triệu Bạch Ngư im lặng, cho rằng Thái hậu đang biện hộ giúp Tạ thị.
"Cha mẹ thương con, không phải để đền đáp."
Cầm lấy tay Triệu Bạch Ngư vỗ vỗ, Thái hậu híp mắt nhìn đường, từ sau biến cố Đông cung, bà bỗng nhiên già đi nhiều, tóc mai đã nhuốm bạc, nếp nhăn bò đầy mặt, cũng càng tin Phật hơn, có lẽ tâm tình trải qua biến lớn, ngày trước là hiền lành, đến nay càng là một người nhân từ từ trong ra ngoài.
"Mấy năm cuối cùng này ai gia cứ nghĩ, nếu như có thể dạy bảo Xương Bình cho thật tốt trước khi nó trở nên lệch lạc, thì có phải về sau sẽ không xảy ra biết bao nhiêu chuyện khiến cho người ta tiếc nuối hay không? Ai gia cũng không cần phải làm người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, cũng sẽ không thấy hổ thẹn trong lòng."
Triệu Bạch Ngư muốn nói lại thôi: "Thái hậu..."
Thái hậu đột nhiên siết chặt tay Triệu Bạch Ngư, cắt ngang lời y nói, bà vẫn nhìn đường dù thật ra đã không nhìn thấy rõ nữa rồi, nhưng ở phía trước đã có thái giám cung nữ soi đường cho nên không sợ bị trượt chân.
"Tiên đế không phải là người cha tốt, ai gia cũng không phải là một người mẹ tốt."
Trực giác mách bảo Triệu Bạch Ngư những gì tiếp theo không phải điều y có thể nghe, giương mắt nhìn lên thì thấy thái giám cung nữ đều mắt nhìn mũi mũi nhìn tim như người câm vậy.
Y mở miệng: "Thái hậu nói đùa rồi.

Từ khi đăng cơ đến nay bệ hạ đều thức khuya dậy sớm, là người uy phong sáng suốt, trong triều chỉ dùng người tài, nghe lời can như nước chảy, ngoài triều cởi mở thương sự, bình định Tây Bắc, mở đất biên cương, lập công suốt đời...!cũng là nhờ có tiên đế và thái hậu làm gương tốt, dày công tốn sức sinh ra minh quân, mới có được thái bình thịnh thế muôn nơi của ngày hôm nay."
Thái hậu để lộ nụ cười không nhìn ra cảm xúc, thấp giọng nói: "Triệu khanh càng ngày càng khéo đưa đẩy, giống hệt như tam công cửu khanh trong triều vậy."
Triệu Bạch Ngư: "Lời vi thần nói đều xuất phát từ đáy lòng."
"Con đó," Thái hậu thở dài: "Con không thích hoàng cung, Tử Uyên cũng không thích."
Chủ để xoay chuyện nhanh như chớp, Triệu Bạch Ngư nheo mắt, cảm giác như lời kế tiếp mới là trọng điểm.
"Xương Bình ích kỷ, Hoàng đế tự cao, không một ai có thể hiểu được tính tình con trai con gái của ai gia hơn ai gia cả, khi làm hoàng hậu phải giữ tốt bổn phận của hoàng hậu, làm thái hậu thì phải giữ tốt bổn phận của thái hậu, vì vậy có rất nhiều chuyện biết rõ là không đúng nhưng ai gia không muốn, cũng không thể bước ra khỏi phạm vi đó để uốn nắn, cho nên mới gây ra biết bao nhiêu hậu quả xấu.

Nhà họ Triệu là một, ngươi là hai, tiên hoàng hậu và Đông cung cũng là một trong số đó...!Những hậu quả xấu khiến cho từng người phải chịu ấy cứ lăn qua lộn lại trong lòng ta, đau đớn đến mức ta trằn trọc khó ngủ, trái tim nhức nhối không thôi.

Mà bây giờ, Hoàng đế lại cố chấp khư khư với ý định đó, tiếp tục gây ra bất hòa giữa quân thần, cha con tương tàn lần nữa, nhưng lần này ai gia sẽ không thờ ơ ngồi nhìn đâu."
Triệu Bạch Ngư bỗng nhiên dừng bước, nhìn về phía cửa lớn điện Từ Minh.
Thái hậu cũng dừng lại, rất lâu sau đó mới thở dài nặng nề: "Con là đứa trẻ ngoan, là đứa trẻ thông minh nhất mà ai gia từng gặp trên đời này, nếu như đứt gánh nơi thâm cung, thật sự rất đau lòng."
Nói xong, bà liền buông tay Triệu Bạch Ngư ra rồi bước vào điện Từ Minh.
Trước khi đi còn để lại một câu: "Hoàng đế sẽ không dễ dàng chấp nhận để cho một người đàn ông trở thành Hoàng hậu của Đại Cảnh."
Triệu Bạch Ngư đứng một mình dưới ánh trăng, một lát sau mới có thái giám đi ra đưa cho y một chiếc đèn.
Triệu Bạch Ngư cầm đèn men theo ánh trăng sáng rời cung.
***
Tiệc nhà kết thúc, Nguyên Thú đế giữ Hoắc Kinh Đường ở lại, cung phi và các hoàng tử hiểu chuyện trong điện đều không hẹn mà cùng nhìn về phía Trịnh quý phi và Tấn vương, hai người đều im lặng cáo lui.
Không nhìn ra được gì, bởi vì bọn họ rất bình tĩnh.
Về đến điện Văn Đức, Nguyên Thú đế mới nói: "Hai ngày nữa trẫm trai giới, chuẩn bị đi Tây Giao tế trời sẵn tiện lánh đời cho nhàn hạ, nửa tháng tới sẽ không về, nhưng trong triều thì không thể một ngày không có vua, con giám quốc đi."
Hoắc Kinh Đường: "Từ trước đến nay đều để Thái tử giám quốc, thần không danh không phận, không tài không đức, không đảm đương nổi việc quan trọng như giám quốc."
Nguyên Thú đế không vui: "Trẫm nói được thì con có thể làm."
Hoắc Kinh Đường: "Thần lĩnh mệnh."
Nguyên Thú đế: "Trẫm sai con làm chút chuyện, con đừng có kiếm cớ từ chối suốt ngày..." Giật mình một cái, ông đột nhiên xoay người, không giấu được ngạc nhiên: "Con đồng ý rồi sao?"
Hoắc Kinh Đường: "Người muốn đổi ý à, bây giờ vẫn kịp."
Nguyên Thú đế thích lắm, làm sao mà đổi ý cho được?
Ông bước nhanh hai bước đến siết chặt lấy cánh tay Hoắc Kinh Đường vỗ vỗ hai cái: "Phải như vậy từ sớm rồi chứ! Chẳng lẽ trẫm hại con được sao? Tất cả đều là vì trẫm muốn tốt cho con thôi! Đồ tốt nhất đều nên thuộc về con, thiên hạ đều là của con, sớm muộn gì cũng có ngày con hiểu được lòng thành khẩn của trẫm thôi."
Hoắc Kinh Đường cười.
"Tạ bệ hạ ưu ái."
Nguyên Thú đế cảm thấy sung sướng vô cùng, ông biết rằng những gì Tử Uyên làm trước đây chỉ là để trút giận, trên đời này không có cha mẹ nào sai, huống chi ông làm tất cả mọi thứ đều là để trải đường cho Tử Uyên mà thôi, sống trên đời không ai có thể từ chối vị trí cửu ngũ chí tôn cà!
"Con yên tâm đi, trẫm nhất định sẽ cho con và mẹ con một danh phận xứng đáng!"
Từng nguyện vọng nay đã lần lượt được thực hiện, Nguyên Thú đế cảm thấy được an ủi phần nào, ông đã từng trơ mắt nhìn người phụ nữ mình yêu thương bị gả cho người em trai mà mình ghét cay ghét đắng, đã không có cách nào khiến cho đứa con trai ông yêu thương, vừa lòng nhất gọi ông là cha một cách danh chính ngôn thuận, mà còn phải nhìn con trai cực kì xuất sắc của mình và Tĩnh vương mà mình ghét nhất phụ từ tử hiếu, phải giao vị trí Thái tử lại cho con mà người phụ nữ ông không thích sinh ra, cho những hoàng tử chẳng có chỗ nào sánh bằng Tử Uyên!
Nhịn cơn tức lâu như vậy, bày ra một nước cờ thâm như vậy, nguyện vọng xưa nay đã thành, sao có thể không khuây khỏa cho được?
"Đã lâu rồi trẫm với con không soi đuốc uống rượu trò chuyện trong đêm, không biết tài chơi cờ của Tử Uyên có bị thụt lùi hay không đây?"
Hoắc Kinh Đường: "Thầy nghiêm dạy trò giỏi, tài chơi cờ của ta là do người dạy, nào dám thụt lùi?"
Nguyên Thú đế cười ha ha, thật sự lôi Hoắc Kinh Đường đi đánh cờ đến tận nửa đêm, giữa chừng có tra hỏi một vài chính sự trên triều, thấy hắn trả lời trôi chảy mới cảm thấy vừa lòng thỏa dạ, sau đó bóc trần một vài quan hệ nhỏ trên triều ra nói rõ.
Đặc biệt là có nhắc đến người nhà họ Triệu.
"Chỉ một Triệu Bạch Ngư thôi đã khiến bọn họ sụp đổ, lòng người không đủ, hùng tâm của Thừa Giới cũng chẳng còn như xưa nữa, mà thiếu mất ba phần khôn ngoan của tể tướng.

Môn sinh của tể tướng rất đông, nếu như muốn trọng dụng những thanh niên tài tuấn này ngay thì khó tránh khỏi kết thành bè đảng.

Nếu ngày nào đó con trở thành Thái tử thì tìm một lý do cách chức ông ấy đi."
Về việc xử lý thần tử đi cùng mình hơn hai mươi năm thế nào, Nguyên Thú đế không có ý định hạ thủ lưu tình.
Hoắc Kinh Đường không trả lời, đặt một quân cờ đen xuống chặn cờ trắng của Nguyên Thú đế lại làm cho ông phải thu hồi lực chú ý đã giảm sút, chăm chú nhìn vào bàn cờ, vậy nên cũng không phát hiện từ đầu đến cuối Hoắc Kinh Đường vẫn luôn kiềm chế giữ tỉnh táo, không hề có chút hứng thú nào.
***

Trước khi đi Tây Giao một ngày, Nguyên Thú đế đã ở lại cung của Trịnh quý phi.
Đến sáng sớm, Trịnh quý phi nhận lấy đũa ngà voi chia thức ăn cho Nguyên Thú đế, nghe ông nhắc đến hành trình đi Tây Giao, khi Nguyên Thú đế nói "Nàng cũng đi" thì tay run lên, đũa ngà voi rơi thảng xuống đất, câu nói này dọa bà ta sợ đến mức quỳ xuống ngay tức khắc.
"Bệ hạ thứ tội."
Trong điện là một khoảng lặng, thái giám cung nữ không dám thở mạnh, không ai hiểu được vì sao mấy ngày nay Trịnh quý phi lại có biểu hiện vội vàng như vậy, lần trước lúc chia thức ăn đã từng làm rơi vỡ bát, sau đó cầu xin tha, cũng đã từng nhõng nhẽo, sao bây giờ sợ tới nỗi lạnh run rồi?
"Đứng lên đi." Nguyên Thú đế đặt đũa xuống, chẳng còn muốn ăn uống gì nữa, "Nàng đi theo Thái hậu tụng kinh niệm Phật thôi là được rồi."
Trịnh quý phi gần như bò xuống đất, cố gắng kìm nén giọng nói run rẩy để mà cầu xin: "Bệ hạ, thần thiếp còn phải quản lý trung quỹ hậu cung...!Chi bằng để cho các muội muội ở cung khác đi thay, Thục phi tin Phật nhiều năm rồi, có thể khiến cho Thái hậu cảm thấy thoải mái hơn...!Bệ hạ, thần thiếp ngu muội, đến nơi cửa Phật chỉ thêm quấy nhiễu sự thanh tịnh của người khác thôi."
Nguyên Thú đế đứng dậy, mặc kệ Trịnh quý phi bước ra ngoài, "Nàng không muốn đi, vậy thì lệnh cho người khiêng nàng đi cũng được."
"Bệ hạ!"
Trịnh quý phi hô lên, nhưng Nguyên Thú đế cũng không quay đầu lại.
"Trông coi quý phi đi, sáng sớm mai mời nàng ta lên xe, Sau ngày hôm nay, không được tùy tiện ra vào Tây cung nữa."
Quý phi chỉ có thể ôm mặt khóc không thành tiếng, sau đó đau khổ bật cười, từng tiếng nấc nghẹn đều tràn ngập oán hận.
"Bệ hạ! Ta và Hoàng hậu cùng xuất giá một năm, gả vào Đông cung, ở bên người gần ba mươi năm, sinh con dưỡng cái cho người, chủ trì hậu cung, chẳng lẽ không thể tính là vợ người hay sao? Chẳng lẽ chút tình cảm cũng không có ư?"
Nguyên Thú đế bước thẳng ra khỏi cửa cung, lạnh lùng tuyệt tình: "Năm đó ai là người khiến Tĩnh vương phát hiện ra trẫm và Như nương đôi bên yêu nhau, ai là người giật dây để Tĩnh vương đến chỗ bệ hạ cầu hôn, ai là người tiết lộ quan hệ của trẫm và Như nương cho Hoàng hậu biết, ám chỉ cho Hoàng hậu nhiều lần, trẫm muốn nuôi dưỡng Tử Uyên thành Thái tử, ai lại là người giật dây cho nàng ta nhắm vào Tử Uyên ám hại nó?"
Bước đến cửa cung, Nguyên Thú đế phất tay áo nói: "Trông coi quý phi, đừng để nàng ta tự sát."
Trịnh quý phi suy sụp ngã xuống đất, thì thào tự nhủ: "Hóa ra người biết cả rồi."
Phủ Trịnh quốc công và phủ Thôi quốc công đều là công thần khai quốc, cũng đều là võ tướng, hai nhà ở gần bên nhau, đã từng là thế giao.

Trịnh quý phi và Thôi Thanh Như là đôi bạn thân, một người sùng văn, một người thượng võ, nhưng cả hai đều một lòng yêu Nguyên Thú đế khi ấy vẫn còn là Thái tử.
Bà ta yêu Nguyên Thú đế, muốn trở thành Thái tử phi, cũng muốn trở thành Hoàng hậu!
Vì vậy bà ta mới nhờ vả anh cả của mình giật dây để Tĩnh vương cầu xin tiên đế ban hôn, chia rẽ bệ hạ và Thôi Thanh Như, được gả vào Đông cung như ý nguyện, dù chỉ là trắc phi nhưng Nguyên Thú đế lại sủng ái bà ta hơn, vừa lên ngôi đã phong bà ta làm quý phi, sau khi bà ta sinh được hai hoàng tử thì lập tức phong làm Hoàng quý phi.
Dù về sau tình cờ biết được tiên đế vốn định lập bà ta làm Thái tử phi, nhưng chỉ vì một câu "Nữ đức dung công của thế gia thanh quý phải làm gương cho phụ nhân" mà nuốt hết mọi tủi thân vào bụng, không nỡ oán hận nửa câu.
Bà ta cũng muốn cố gắng bao dung Hoắc Kinh Đường, nhưng kiểu cách bất công đến cùng cực của bệ hạ khiến cho bà ta nghĩ đến tiên đế lúc tuổi già.
Mấy năm đầu vì ghi hận tiên đế, bệ hạ vẫn còn kiềm chế được, càng về sau càng không muốn che giấu nữa, hai cha con thật sự giống nhau như đúc, sao bà ta có thể không kinh hãi cho được? Làm sao có thể không ra tay?
Cả thế nhân này đều biết Hoàng quý phi được thương yêu nhất lục cung, Hoắc Kinh Đường thân trúng cổ độc, bệ hạ lựa chọn tiểu Lục của bà ta, làm sao bà ta có thể tin được tất cả mọi thứ đều chỉ là diễn trò chứ không tồn tại chút tình cảm nào cơ chứ?
Nhưng mà hóa ra, mọi chuyện đúng thật đều là giả dối hết!
Trịnh quý phi vừa khóc vừa cười: "Công sức ta bỏ ra ba mươi năm nay tính là cái gì? Hai hoàng nhi của ta làm sai điều gì mà phải đi làm đá kê chân cho Thái tử kia?"
Hành trình Tây Giao cái gì? Tế trời cái gì? Đi theo Thái hậu tụng kinh niệm phật gì chứ!
Chẳng qua là muốn cầm chân người nhà họ Trịnh, chế trụ bà ta, ép tiểu Lục của bà ta không thể không mưu phản mà thôi!
Trịnh quý phi cười lạnh lùng, lau khô nước mắt, đứng dậy bình tĩnh nói: "Lui xuống hết đi.

Bổn cung muốn nghỉ ngơi, không có việc gì thì đừng quấy rầy."
Thái giám mà Nguyên Thú đế để lại lập tức lĩnh mệnh, lệnh cho người dọn đồ ăn xuống, còn mình thì cung kính theo sát sau lưng.
Trịnh quý phi tiện tay cầm lấy bình hoa nện xuống đất, trừng mắt chất vấn: "Chẳng lẽ bổn cung tắm rửa thay đồ ngươi cũng phải theo cùng hay sao? Bổn cung là người mà một tên hoạn quan như ngươi có thể trông coi hay sao?"
Thái giám rất đúng mực: "Nương nương, bệ hạ dặn dò chúng nô tỳ phải chú ý đến sự an toàn của người, nô tài phụng mệnh làm việc, mong nương nương đừng làm khó."
Trịnh quý phi: "Hay cho cẩu nô tài.

Ngươi cứ yên tâm đi, bổn cung chắc chắn sẽ sống lâu trăm tuổi, ngươi muốn theo thì cứ việc theo, theo đến cùng, xem xem bổn cung nở mày nở mặt thế nào, bảo dưỡng tuổi thọ thế nào!"
Thái giám cúi đầu thấp hơn, không dám đáp lại.
Trịnh quý phi hừ lạnh một tiếng rồi đi vào phòng trong, giật dây để rèm ngọc phủ xuống, thái giám cung nữ không dám tiến thêm bước nào nhưng đều nhìn chăm chú phòng hờ bà ta có bất kì hành động tự sát nào.
Cũng may đến tận khi quý phi lên giường chìm vào giấc ngủ rồi cũng chẳng có động tĩnh gì, cứ thế im lặng mà ngủ, đám người trông coi mới có thể cảm thấy bớt phiền hà.
Nghĩ như vậy, nhóm thái giám cung nữ cũng dần lơ lờ, mãi đến bốn canh giờ sau mà quý phi vẫn không nhúc nhích gì mới nhận ra có gì không đúng, vội vàng vén rèm ngọc lên, nhìn thấy trên khóe môi quý phi đọng lại dòng máu đen mới lớn giọng hét lên: "Mau gọi thái y..."
***
Cung Phúc Ninh.
"Quý phi chết rồi sao?" Nguyên Thú đế giật lấy áo khoác khoác lên rồi vội vàng đi ra ngoài, "Đã xảy ra chuyện gì vậy?"
Thái giám kia đáp lại: "Thái y kiểm tra xong nói là...!Là uống thuốc độc tự sát, lúc phát hiện thì đã tắt thở từ lâu rồi, không cứu được nữa."
Mặt Nguyên Thú đế tối sầm lại, ông đến tẩm cung của quý phi, tàn nhẫn đạp một cước lên ngực tên thái giám không làm tròn việc: "Chẳng phải bảo ngươi trông coi thật kỹ à, sao người được trông chết rồi!"
Thái giám bị đá hộc máu, cuống cuồng dập đầu xin tha.
Cơn giận của Nguyên Thú đế chưa tan hết, trừng mắt nhìn cửa phòng trong thật lâu, cuối cùng cũng không bước vào mà xoay người rời đi: "Nhớ kỹ, quý phi không sao cả, sáng sớm mai cùng Thái hậu đi Tây Giao tế trời."
Thoáng chốc thái giám cung nữ đã quỳ đầy sau lưng, mà Nguyên Thú đế đi ra một khoảng xa rồi mới tàn nhẫn ra lệnh diệt khẩu.
***
Tây Giao tế trời, trong triều không vua, Hoắc Kinh Đường nhận quyền giám quốc.
Tin này vừa truyền ra, tất cả các quan lại đều xôn xao, mặc dù trong lòng biết rõ nhưng khi thời khắc đó đến vẫn hoảng sợ không thôi.
Trên triều đình không ai ngu ngốc đến nỗi đi khuyên nhủ Nguyên Thú đế, chứ đừng nhắc đến chuyện bí mật kia là thế nào.
***
Triều hội tan, các quan lại bước đi trên cung đạo, thỉnh thoảng quay đầu lại nhìn Tấn vương, không biết từ lúc nào đã đi cùng Ngũ hoàng tử, trái lại còn có hơi thân cận.

Mà Tấn vương cũng là người rất xuất sắc, đã từng là thiếu niên tướng quân chí khí ngút trời thần thái phấn chấn, về triều nhận vài việc hoàn thành rất hoàn hảo, chỉ tiếc không đánh lại được sự bất công của bệ hạ, càng tiếc hơn vì sinh ra không gặp thời, đã sinh ra hắn thì cần gì phải đẩy một Hoắc Kinh Đường tới nữa?
Hoắc Kinh Đường xuất sắc hơn cả hắn ta, lại có thể thuận theo tâm ý của bệ hạ, thời tới thì khống chế hoàng quyền ngồi l3n đỉnh cao, cả triều văn võ làm sao có thể đối nghịch với Nguyên Thú đế được?
Mấy triều thần trước đây ủng hộ Tấn vương tìm được cơ hội đều chạy sạch, Thái Trọng Thăng ở Tây Bắc xa xôi không hiểu nhiều về triều đình nên vọng tưởng ôm công để trèo cao, cuối cùng vứt hết đường tương lai vào một ván cược thua.
Không chỉ có Thái Trọng Thăng, mà Trịnh Nguyên Linh chiến công hiển hách đến nay vẫn còn ở trong Đại Lý Tự, Tấn vương và phủ Trịnh quốc công có hợp lực cũng chẳng thể kéo người ra được.
Đã như vậy rồi, còn ai dám nhảy lên chiếc thuyền của Tấn vương nữa?
Sau đó bọn họ cảm thấy Ngũ hoàng tử vẫn chưa nắm rõ, đến nước này rồi mà vẫn còn đi gần Tấn vương như vậy.
Các quan lại lắc đầu, mỗi người nghĩ mỗi khác.
Vào lúc này, một tiểu hoàng môn xuất hiện ngăn hai người Ngũ hoàng tử và Tấn vương lại: "Lâm An quận vương mời hai vị điện hạ đến điện Thùy Củng một chuyến."
Ngũ hoàng tử: "Bảo bọn ta đến đó làm gì?"
Tiểu hoàng môn: "Quận vương chỉ lệnh cho nô tài mời hai vị điện hạ đến đó, không có dặn dò thêm gì khác."
Ngũ hoàng tử: "Vừa mới lấy được quyền giám quốc đã bắt đầu kiểu cách Hoàng đế rồi à." Tuy gã ít xuất hiện, nhưng tính tình thì vẫn cáu kỉnh như vậy: "Không có việc gì mà tỏ ra ân cần, không phải gian thì cũng là trộm."
Mặt Tấn vương vẫn vô cảm: "Chúng ta đâu có gì đáng để cho Hoắc Kinh Đường lấy lòng đâu chứ?"
Ngũ hoàng tử uất nghẹn: "Đệ coi dã tâm của hắn là cái gì?" Gã phất tay áo bất mãn nói: "Lúc trước hắn chỉ là một quận vương chẳng có thực quyền gì mà đã trừng mắt lạnh lùng với chúng ta rồi, bây giờ có quyền giám quốc, chẳng lẽ mắt mũi không hếch lên trời hay sao? Đệ muốn đi thì đi đi, ta không muốn bị khinh thường đâu."
Tấn vương: "Đi thôi."
Ngũ hoàng tử còn tưởng rằng hắn sẽ báo không thèm đến coi con chó Hoắc Kinh Đường kia diễn trò đâu, nhưng vừa nhấc chân lên đã thấy Tấn vương đang bước về phía điện Thùy Củng rồi, vốn còn muốn cứng rắn không đi, nhưng nghĩ lại chẳng lẽ gã lại phải ôm hết hận thù lên người hay sao?
Không nghĩ nổi nữa, gã vội vàng xám mặt chạy theo cùng.
***
Trong điện Thùy Củng.
Giao ngọc tỷ và thánh chỉ cho Hoắc Kinh Đường, đại thái giám luôn miệng chúc mừng: "Chúc mừng quận vương, chúc mừng quận vương rẽ mấy thấy mặt trời, khổ tận cam lai."
Hoắc Kinh Đường: "Đô tri, ta hỏi ông chuyện này, ông có thể nói thật với ta được không?"
"Xem ngài nói gì này? Điện hạ có việc gì cứ hỏi, lão nô biết nhất định sẽ nói!"
"Trịnh quý phi thế nào rồi?"
"Quý, quý phi nương nương..." Đại thái giám nghẹn lời, mặt lộ vẻ khó xử, chớp chớp mắt rồi nở nụ cười lúng túng: "Tất nhiên là đã hộ tống loan giá đi Tây Giao, ăn chay niệm phật với Thái hậu, cùng lão nhân gia cầu phúc cho bệ hạ, cho vạn dân rồi."
"Có phải vì thái độ của ta tốt quá cho nên ông mới cảm thấy ta dễ bị mắc lừa không?"
Đại thái giám không ngừng run rẩy, mặt buồn rười rượi đáp: "Lão nô đâu dám? Điện hạ đừng gây khó dễ cho lão nô nữa, chuyện này thật sự không thể nói đâu!"
Hoắc Kinh Đường bất ngờ hói: "Đêm qua bệ hạ xử tử một nhóm người trong cung của quý phi là để diệt khẩu à?"
"Phải, không phải!" Đại thái giám không dám ngẩng đầu nhìn Hoắc Kinh Đường, chỉ chột dạ trả lời: "Điện hạ à ngài đừng hỏi nữa, bệ hạ làm cái gì đũng là vì muốn tốt cho ngài cả thôi."
"Trịnh Nguyên Linh bị giam vào Đại Lý Tự, quý phi cũng không từng hỏi qua sao?"
"Cũng không phải không có..."
"Ông chỉ cần trả lời câu hỏi thôi, đúng hay sai, có hay không, đừng lảm nhảm dư thừa làm phiền lỗ tai bổn vương, bổn vương không ngại cắt lưỡi ông đâu."
"!" Đại thái giám sợ đến nỗi không nói nên lời, rồi sau đó vội vàng gật đầu: "Có, có hỏi."
"Quý phi có cầu xin tha không?"
"Có cầu."
"Sau khi xin tha có phải quý phi đã bị cấm túc một thời gian hay không? Lão Trịnh quốc công thắng trận về triều giao nộp binh quyền, cáo lão hồi hương nhưng bị từ chối, quý phi đã cầu xin bệ hạ ân chuẩn đúng chứ? Có phải quý phi cũng từng nhắc đến chuyện để Tấn vương rời kinh đi đến đất phong với Thái hậu hay không? Có đúng không?"
"Dạ dạ, đúng! Có từng nhắc tới!"
"Quý phi đã chết rồi sao?"
"Đúng vậy, mới chết ngày hôm qua..." Trong nháy mắt đại thái giám bị dọa sợ, vẻ mặt tràn đầy nỗi kinh hoàng trừng mắt nhìn Hoắc Kinh Đường và Tấn vương cùng với Ngũ hoàng tử chẳng biết đã đứng ở ngoài điện từ lúc nào, ông ta lắc đầu nguầy nguậy, tát mạnh vào miệng mình: "Coi cái miệng thối của lão nô nói bậy này! Không có chuyện đấy đâu, quý phi nương nương vẫn còn khỏe lắm, đang đi Tây Giao rồi, các vị điện hạ nhất định đừng tin lời lão nô nói, lão nô hồ đồ rồi nên mới nói nhảm vậy thôi."
Chẳng ai tin ông ta nói nhảm cả, Tấn vương hồn bay phách lạc, bỗng nhiên hai mắt đỏ bừng xông tới bóp cổ đại thái giám, giận dữ hỏi: "Mẫu phi của ta đang ở đâu? Nói!"
Đại thái giám bị ép không thở nổi, Ngũ hoàng tử muốn đẩy tay hắn ta ra cũng không được vì đánh không lại Tấn vương với sức mạnh tòng quân nhiều năm, chỉ đành phải quát lên: "Đệ bóp cổ ông ta chết rồi thì còn có thể hỏi được gì nữa hả!"
Tấn vương không nghe khuyên bảo như thể gặp quỷ, Hoắc Kinh Đường phải điểm hai lần vào huyệt tê trên cánh tay thì hắn ta mới chịu buông ra, lúc này đại thái giám vừa thoát hiểm đã sợ chết khiếp mà lủi ra sau lưng Hoắc Kinh Đường, vừa xua tay vừa ho khan.
"Khụ khụ...!Không, lão nô thật sự không thể khụ...!Không thể nói! Nói rồi, lão nô khó giữ được tính mạng, không thể giải thích với bệ hạ."
Tấn vương hung dữ như một con sói, nói: "Ông không nói, cô sẽ cho đầu ông rơi xuống đất ngay tức khắc!"
Đại thái giám giật mình, vội vàng cầu xin Hoắc Kinh Đường bảo vệ mình.
Nhưng Hoắc Kinh Đường chỉ rũ mắt khảy vòng phật: "Đó là mẹ ruột của nó, nếu ta bảo vệ ông, nói không chứng nó dám giết cả ta luôn đấy.

Dù sao thì chuyện này cũng không thể giấu được, sớm muộn gì cũng sẽ bị phát hiện thôi, bệ hạ không có ở đây, ông nói thì có sao đâu?"
Đại thái giám suy sụp, biết rõ hôm nay không nói chắc chắn sẽ không bước qua được cánh cửa này, mà nếu ông nói, ngày sau cũng khó mà giải trình với bệ hạ.
Thà sống khổ còn hơn chết sướng, có thể gặp nạn trễ một khắc thì cứ cho trễ vậy.
"Ngày hôm qua quý phi đã uống thuốc độc tự vẫn...!Không có liên quan gì đến bệ hạ cả! Bệ hạ còn cố tình dặn người trông coi quý phi cho thật kỹ ở bên ngoài, không để bà ấy tự sát, vốn là vẫn bình thường, cũng chẳng biết từ lúc nào đã nhân lúc người khác không cảnh giác mà uống thuốc độc, thật sự không có ai đoán trước được."
Tấn vương sợ hãi mà hồn vía lên mây, tàn nhẫn trừng mắt nhìn đại thái giám rồi nghiến răng nói: "Ông nói láo! Mẫu phi của ta coi thường những kẻ tự sát nhất, bởi vì bọn họ mềm yếu vô dụng, tuyệt đối không thể tự sát được! Có phải là...!Có phải là Hoàng đế lệnh cho các người giết bà áy hay không?"
"Không phải không phải, Tấn vương điện hạ tỉnh táo một chút đi, tốt xấu gì nương nương cũng là quý phi một nước, là con gái nhà tướng, cũng là người đi cùng bệ hạ ba mươi năm trời, sinh con dưỡng cái vì ông ấy, đó không phải thứ tình cảm bình thường.

Chỉ là khi biết được năm đó Tĩnh vương cầu hôn cô nương Thôi gia là do quý phi nhúng tay từ bên trong, bệ hạ cũng từng thật sự muốn lấy mạng bà ấy, là quý phi tự nghĩ quẩn trong lòng..."
Đại thái giám bịt miệng mình chặt kín, lại không nhịn được tát cho mình một cái thật mạnh nữa.
Hôm nay cứ nói sai mãi, đã có chuyện gì xảy ra vậy?
Hoắc Kinh Đường khẽ nâng mắt liếc qua.
Ngũ hoàng tử cũng quan sát sắc mặt của hắn ta, nhất thời cảm thấy sợ hãi không yên.
"Hôm qua bệ hạ đã nói gì?" Tấn vương siết chặt nắm đấm, có thể thấy trên người hắn nổi đầy gân xanh, tất nhiên là đã kìm nén tâm trạng đến mức tận cùng rồi: "Nói!"
Đại thái giám lắp bắp: "Bệ hạ lệnh cho, lệnh cho quý phi đi Tây Giao tế trời, quý phi không muốn đi, bệ hạ nói việc năm đó ra, có lẽ đã k1ch thích đến quý phi cho nên...!Nhất thời nghĩ quẩn."
Tấn vương lảo đảo mấy bước rồi té ngã xuống đất, ôm đầu nức nở nghẹn ngào.
Người đàn ông cứng rắn như sắt, đao chém rìu đục cũng chưa từng rơi nước mắt, vậy mà bây giờ lại khóc như thể trời đã sập xuống, Ngũ hoàng tử thấy vậy mà trong lòng đau xót, không biết phải an ủi thế nào mới được, gã bèn hướng mắt về phía Hoắc Kinh Đường ra hiệu, ý hỏi hắn có thể đến khuyên đôi ba câu được không.
Hoắc Kinh Đường chỉ lạnh nhạt ghé mắt nhìn sang giống như đang nói Ngu ngốc, rồi xoay lưng lại, cuộn tay vào vờ như không thấy.
Ngũ hoàng tử thấy thế không khỏi trợn mắt, "Máu lạnh!"
Tấn vương lau mặt mình, đỏ mắt hỏi đại thái giám: "Mẫu phi của ta, di thể của bà ấy ở đâu?"
Đại thái giám cúi đầu: "Bệ hạ mang đi rồi."
"Ông ấy còn là con người sao!" Tấn vương đột ngột bùng phát, khuôn mặt dữ tợn, "Mẫu phi ta theo ông ấy từ khi gả vào Đông cung, cùng phủ Trịnh quốc công toàn tâm toàn ý phò tá ông ấy lên ngôi, sinh con dưỡng cái vì ông ấy, quản lý trung quỹ hậu cung vì ông ấy, tận tâm tận lực chưa từng có một câu oán giận, chỉ vì Thôi Thanh Như bị Tĩnh vương cướp đi, chỉ vì huynh..." Hắn căm phẫn chỉ vào Hoắc Kinh Đường, "Mà ông ấy có thể khiến cho mẫu phi của ta, và cả những đứa con của ông ấy như bọn ta trở thành quân cờ rồi thỏa sức lợi dụng hay sao?"

Hoắc Kinh Đường nghiêng mặt, thờ ơ nhìn Tấn vương nổi điên.
Hai tay Tấn vương run run, tâm trạng bị kích động đến mức một hồi lâu sau cũng không thể nói nên lời, "Vì sao? Trong mắt ông ấy, chỉ có huynh mới là con của ông ấy, vậy bọn ta là cái gì?" Hắn ta nâng ngón trỏ lên chỉ loạn vào không trung, "Huynh có biết ta trải qua bốn năm nay như thế nào hay không? Biết ta run sợ trong lòng đến nhường nào hay không? Ta sợ hãi nếu không cẩn thận phạm phải sai lầm thì sẽ giống như Thái tử vậy, bị ép đi đến đường cùng!"
"Huynh thì hay rồi, Hoắc Kinh Đường, huynh giỏi lắm, huynh rất may mắn, huynh có một người cha tốt trù tính tất cả mọi thứ vì huynh! Suốt bốn năm nay, cả triều văn võ này có ai mà không biết Thái tử hợp ý phụ hoàng là huynh? Huynh không ngồi trên vị trí Thái tử, nhưng vua dân từ trên xuống dưới có ai không xem huynh là Thái tử đâu? Ta," Tấn vương vỗ ngực nói, "Ta tính toán bao nhiêu năm? Thật ra từ đầu ta đã chẳng có hứng thú gì với cái ghế sau lưng kia rồi, là do phụ hoàng chọn trúng ta trước, là ông ấy đưa ta đi tòng quân, trải đường cho ta, dạy cho ta biết tâm thuật của thiên tử, cán cân trong quan trường, còn nói cả tình hình chung trong thiên hạ nữa, ông ấy cầm tay dạy ta, đích thân ông ấy cho dã tâm của ta ăn no, chính ông ấy nói cho ta biết ta mới là Thái tử mà ông ấy vừa ý!"
"Ông ấy cho ta tất cả mọi thứ, sau đó nói lấy lại là lấy lại, nói không cần là không cần, thậm chí ta chẳng phạm phải sai lầm lớn gì, đến cả đường lui ta cũng không có huynh có hiểu không? Bốn năm qua không phải là những gì ta muốn cho cái ghế này, là do phụ hoàng ép ta, ông ấy muốn ta trở thành hòn đá kê chân để cho huynh đường hoàng bước lên vị trí Thái tử! Ông ấy ép ta mưu phản bức vua thoái vị, ông ấy dùng ông ngoại, nhà cậu của ta và mẫu phi để ép ta tạo phản, ép ta bước vào đường chết..."
Hai tay Tấn vương đều chỉ vào Hoắc Kinh Đường, năm lần bảy lượt bước lui về phía sau, bi phẫn đến mức không thể kìm chế cảm xúc mà gào thét lên: "Ông ấy đã cắt bỏ sạch sẽ vây cánh của ta và phủ Trịnh quốc công rồi mà vẫn không chịu buông tha ta.

Ta cũng là con trai của ông ấy, đã từng là Thái tử mà ông ấy vừa lòng, vì sao? Ta đã đình làm như ông ấy mong muốn rồi, ép vua thoái vị, giao quyền hành cho huynh, chỉ cần ông ấy buông tha cho ông ngoại, nhà cậu và mẫu phi của ta mà thôi, bọn họ hận huynh, làm những chuyện có lỗi với huynh cũng chỉ vì ta, vậy nên ta sẽ lấy mạng mình tạ tội...!Nhưng vì sao ông ấy không chịu tha cho mẫu phi của ta chứ?"
Phẫn nộ xong, Tấn vương xông lên phía trước, tung ra từng cú đấm đá vào da thịt Hoắc Kinh Đường, chiêu nào cũng là chiêu chí mạng, trút hết mọi oán hận dày đặc của hắn ta.
Ngũ hoàng tử và đại thái giám vội vàng chạy vào một góc trốn đi, Hoắc Kinh Đường đón được đòn tấn công của Tấn vương, vẫy tay cho Cấm vệ quân lui xuống, đẩy nắm đấm đang vung tới ra, cũng không hề khách sáo chút nào mà đánh vào huyệt vị đau nhất trên cơ thể người.
Tấn vương trút bỏ nỗi phẫn nộ mất đi mẹ mình, tại sao Hoắc Kinh Đường không thể lấy lại công bằng cho mẹ của hắn chứ?
"Vì để cho ta không bị uy h**p, vì không muốn để ta tự tìm đường chết, mẫu phi mới tự sát! Nhưng đến cả di thể của bà ấy mà Hoàng đế cũng không tha, rốt cuộc ông ấy có còn là con người hay không! Có phải là người hay không! Trừ Hoắc Kinh Đường huynh ra, ta, Thái tử, Tam ca Tứ ca Ngũ ca, tất cả bọn ta đều là kẻ thù của ông ấy hay sao?"
Đại thái giám hận không thể bịt kín tai mình lại, Ngũ hoàng tử thì xúc động gật đầu.
"Ông ấy đề phòng ta! Đề phòng phủ Trịnh quốc công! Ông ấy sợ ta trở thành Tĩnh vương thứ hai, vậy nên trước khi huynh kế vị phải diệt trừ ta và phủ quốc công tận gốc!"
"Vì cái gì? Huynh tốt hơn bọn ta chỗ nào?"
Hoắc Chiêu Vấn nổi điên lên, tấn công như thể không biết đau đớn, Hoắc Kinh Đường tay mắt nhanh lẹ nhấc chân lên đá về phía bụng hắn ta, mũi chân hắn hướng lên, nhắm thẳng vào vị trí cơ gây tê mà đạp, "cộp" một tiếng, đầu gối của Hoắc Chiêu Vấn nặng nề đập xuống đất, một chân còn lại cũng bị Hoắc Kinh Đường đá trúng, mãi lâu sau cũng không thể động đậy được.
Hoắc Kinh Đường gạt bỏ hai tay của hắn ta ra, thuận thế túm cổ hắn ta lại gần nói: "Kêu ca với ta cái gì? Nếu như oán hận nhiều như vậy, vì sao bốn năm nay đến một cái rắm cũng không dám thả ở chỗ bệ hạ đi? Chọn hồng mềm mà bóp, sao lại trách xuống đầu ta thế?"
Tay bóp cổ Hoắc Chiêu Vấn siết chặt lại, đôi mắt màu ngọc lưu ly của Hoắc Kinh Đường tỉnh táo lạnh lùng khiến cho người ta không chút nghi ngờ rằng hắn có thể sẽ thẳng tay bóp ch3t Hoắc Chiêu Vấn.
"Ta không ôn hòa như bệ hạ đâu!"
Hoắc Kinh Đường trúng cổ độc, ít xuất hiện đã nhiều năm, về sau có Triệu Bạch Ngư bên người nên rất mềm mỏng dễ nói chuyện, suýt chút nữa người ta quên mất rằng hắn đã từng ngang ngược đến nỗi không ai dám chọc vào.
"Bây giờ ngươi đang cảm thấy uất ức à? Trước đây được chọn làm Thái tử, trong lòng hăm hở mừng thầm, không biết địa vị của ta trong suy nghĩ của bệ hạ, nhưng có lẽ ngươi biết Đông cung cũng là đá kê chân cho vị trí của ngươi ngày hôm nay, vậy sao ngươi lại không cảm thấy Đông cung đáng thương? Chẳng phải ngươi cũng yên tâm chuẩn bị giẫm vào Đông cung để bước lên hay sao! Hưởng thụ sự hy sinh của Tam ca ruột thịt để lấy được chỗ tốt chẳng phải rất thoải mái ư? Ở đây vờ vịt với ta cái rắm!"
Buông Hoắc Chiêu Vấn ra, Hoắc Kinh Đường đứng dậy đi quanh Hoắc Chiêu Vấn một vòng rồi đột nhiên tung chân đá vào ngực hắn ta một cước, giẫm lên vai hắn ta nhìn từ trên cao xuống nói: "Ngươi kêu oan cho mẹ mình, nhưng ít nhất ngươi cũng đường đường chính chính là hoàng tử hai mươi bốn năm! Mẫu phi của ngươi cũng được làm Hoàng quý phi cao cao tại thương suốt gần ba mươi năm! Mẹ của ta thì sao? Chôn xương cát vàng, bỏ mạng ở cái tuổi hào hoa phong nhã nhất, ta trở thành cái đinh trong mắt Tĩnh vương hơn hai mươi năm, hai mươi mấy năm trời không ngừng chịu đựng mọi kế hãm hại của mẫu phi ngươi và Hoàng hậu, tính như vậy thì ai mới là người thiếu nợ ai? Kẻ nào mới có tư cách uất ức hơn?"
Không chút lưu tình đá gãy xương bả vai của Hoắc Chiêu Vấn, Hoắc Kinh Đường vốn không quan tâm đ ến nỗi đau khổ của hắn ta, cũng chẳng thèm đế ý đến ánh mắt sợ hãi lúc nhìn hắn của Ngũ hoàng tử và đại thái giám.
Tính tình của hắn ngang ngược quái đản như thế đấy, không chọc đến thì chẳng có sao, chọc rồi thì đến thiên vương lão tử hắn cũng giết bằng sạch!
Hoắc Kinh Đường cũng chỉ để lộ một mặt mềm mại ấm áp của mình ở trước mặt Triệu Bạch Ngư mà thôi, suốt ngày giả vờ từ bi lương thiện, nhưng hắn cũng đã từng đuổi theo đế vị, chuyện bẩn thỉu gì mà chưa từng dính tay?
"Sủa với ta cái rắm!"
Hoắc Kinh Đường nắm cổ áo Hoắc Chiêu Vấn lên, xách hắn đi về phía long ỷ trong điện Thùy Củng: "Lúc bệ hạ ở đây, sao ngươi không dám chất vấn đi? Có gan tìm chết mà không có gan hỏi à? Nếu như ngươi nói hết ra tất cả trước khi bệ hạ đi một ngày, nói không chừng mẫu phi của ngươi vẫn sẽ bình an vô sự đấy.

Tự cho là bảo vệ người thân, thật ra là sợ hãi phải đối mặt với việc bệ hạ khinh thường bộ mặt thật của ngươi có đúng không? Nhu nhược."
Nhịp ngón tay lên tay vịn long ỷ, Hoắc Kinh Đường lạnh lùng nói: "Lúc bệ hạ chọn ngươi làm Thái tử, ta cũng đang bị cổ độc tra tấn mãnh liệt, không thuốc nào có thể cứu được.

Ta của khi đó, chính là ngươi của hôm nay, vật đổi sao dời mà thôi."
Đồng tử Hoắc Chiêu Vấn tan rã, thoáng chốc sụp đổ, nỗi kích động trong người biến mất chẳng còn tăm hơi, chỉ để lại nỗi đau khổ và sa sút nặng nề.
Hoắc Kinh Đường xoay người lại, bỗng nhiên nói: "Ta không có hứng làm Hoàng đế."
Cái gì?
Giống như sấm dậy đất bằng, Hoắc Chiêu Vấn và Ngũ hoàng tử cùng không nhịn được mà nhìn về phía hắn.
Hoắc Kinh Đường không kiên nhẫn nổi: "Nhưng ta không thích nhìn thấy các ngươi làm Hoàng đế, chẳng có kẻ nào thật sự xem việc của dân chúng và đại sự quốc gia là chuyện chính cả, suốt ngày dùng người bên cạnh mình làm con cờ đấu đá nhau không ngừng nghỉ.

Nếu làm Hoàng đế thật, đừng nói đến thịnh thế, không tranh nhau đến nỗi nước mất nhà tan là đã không phụ lòng liệt tổ liệt tông rồi."
Ngũ hoàng tử lộ vẻ tiếc nuối.
Cảm giác như con chó còn thông minh hơn gã nữa.
Hoắc Kinh Đường cởi vòng phật giữa cổ tay xuống, cầm trên tay lần tới lần lui nói: "Ta biết Lão lục ngươi bị ép bức vua thoái vị, không có ý định nhìn ngươi đi chịu chết thật, gọi các ngươi tới đây vốn chính là muốn nói ta sẽ đến chỗ bệ hạ để giải quyết, chỉ là không ngờ quý phi đã tự sát mà thôi." Lạnh lùng liếc nhìn Hoắc Chiêu Vấn, hắn bình luận: "Tự cho mình thông minh."
Hoắc Chiêu Vấn mấp máy môi muốn phản bác, rồi lại không tìm được lời nào có thể nói, cuối cùng nản lòng.
Dù hoài bão có lớn mạnh đến đâu đi nữa thì trải qua bốn năm nay rồi cũng nên hiểu rõ sự thật, rằng tất cả mọi thứ sẽ dần lụi tàn, kiên trì đến bây giờ đều là vì mẫu phi, vì phủ Trịnh quốc công và môn khách bè đảng đã theo cùng đến ngày hôm nay, hơn nữa không tiến ắt lui, Hoắc Chiêu Vấn không còn cách nào khác ngoài dấn thân vào con đường tự hủy, hắn ta vốn chưa từng nghĩ đến việc liệu có đường hòa giải hay không.
Hắn cười đau khổ: "Huynh giải quyết như thế nào? Tước sạch thực quyền trong tay ta, cướp đi binh quyền của phủ Trịnh quốc công, để cho bọn ta nằm dưới sự ngờ vực và giám sát của bệ hạ và Thái tử tân nhiệm, luôn phải sống trong nơm nớp lo sợ giống như con chó cụp đuôi ư?"
"Chẳng phải bốn năm qua đã như thế rồi sao?" Hoắc Kinh Đường nói trúng tim đen.
Hoắc Chiêu Vấn á khẩu không thể đáp lại.
Hoắc Kinh Đường: "Hoặc là ôm phủ Trịnh quốc công theo vào chỗ chết, ta thành toàn cho các ngươi.

Hoặc là thành thật phối hợp làm chút việc, ta sẽ bảo vệ phủ quốc công an toàn, thuận tiện giúp ngươi mang di thể không hao tổn tí gì của quý phi trở về."
Ánh mắt Hoắc Chiêu Vấn sắc bén: "Huynh đảm bảo không?"
Hoắc Kinh Đường: "Tin hay không thì tùy."
Hoắc Chiêu Vấn liên tục nghẹn lời, cũng chỉ có thể tin Hoắc Kinh Đường mà đưa ra lựa chọn, nhưng hắn có một điều kiện: "Ta muốn đến Hoàn Khâu."
Hoắc Kinh Đường xoay người rời đi: "Tùy ngươi."
***
Đưa mắt nhìn Hoắc Kinh Đường đi xa dần, Hoắc Chiêu Vấn ngã xuống ghế rồng, không khỏi nghĩ về dã tâm, về những tính toán mà hắn ta bày ra bao năm qua, không ngăn được phát ra tiếng cười tự giễu.
Ngũ hoàng tử im lặng không tiếng động đến gần hắn, hỏi một câu: "Đệ tin Hoắc Kinh Đường thật à?"
Hoắc Chiêu Vấn hỏi lại: "Nếu là huynh, huynh sẽ chọn thế nào?"
Ngũ hoàng tử gãi ót, nói thật thì trước lúc Đông cung mưu phản, nhìn thấy Nguyên Thú đế bất công gã cũng đã từng nghi ngờ, bài xích thậm chí là từng căm hận, nhưng nghĩ lại, hắn chẳng nhận được đãi ngộ nào của Thái tử, cha không thương, nhà mẹ không hiển hách, lấy đâu ra tư cách để ghen ghét oán trách đây?
Nhưng nếu phải đảm bảo hoàn toàn không lạc lối, thì dù có là thánh nhân cũng không làm được.
Có điều những lời mà Hoắc Kinh Đường vừa nói cũng có câu khiến người trong mộng bừng tỉnh, năm đó Tấn vương được chọn để bồi dưỡng làm Thái tử, chẳng phải Đông cung và gã với tư cách là mông đảng Đông cung cũng bị lấy làm đá kê chân cho hắn ta sao?
Bao gồm cả Hoắc Kinh Đường bị bệ hạ vứt bỏ nữa, không khó để tưởng tượng ra được tình cảnh của hắn ngày ấy còn thê thảm gấp trăm gấp ngàn lần Tấn vương bây giờ.
Vì sao mà Tấn vương không hề cảm thấy áy náy với việc này?
Mặt Ngũ hoàng tử không giấu được chuyện, tất nhiên là Hoắc Chiêu Vấn nhìn ra rồi, tiếng cười nhạo càng thêm rõ ràng hơn, rồi một lúc sau biến mắt chẳng còn thấy đâu nữa.
"Ta làm gì có mẫu phi đâu."
Gã cúi đầu nỉ non câu này, giống như là lữ khách lạc đường bàng hoàng mất định hướng..
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 107: Chương 107


Ngày thứ tư giữ giới, lúc tế trời.
Hoàn Khâu, Nam Giao*.
(*) Ở đây mình có sự nhầm lẫn một chút, trong chương trước có vài chỗ nhắc đến Nam Giao, vài chỗ là Tây Giao, nhưng do mình không để ý nên chỉ để Tây Giao không thôi, thì Nam Giao thường là nơi lập đàn làm các lễ tế, còn Tây Giao là nơi Thái hậu đến tụng kinh niệm Phật.

Mình sẽ sửa lại những chỗ sai sau nhe.
Sau khi lễ tế trời kết thúc, Nguyên Thú đế cho Cấm quân lui đi, ở lại đàn tế trời một mình, đứng chắp tay cho đến tận khi trăng treo cao giữa trời, có Cấm quân đến báo Hoắc Kinh Đường cầu kiến, trong lòng ông biết kế hoạch đã tiến triển thuận lợi, bèn phất tay đồng ý triệu kiến.
Trên trời đêm trăng tròn sáng tỏ, sao bạc rải rác vạn trượng, trở thành tấm mạng bao phủ toàn bộ đàn tế.
Hoắc Kinh Đường dẫn theo năm sáu vị hoàng tử đi đến, bọn họ đứng chờ bên dưới cầu thang của đàn tế, hắn đưa tay ngăn cản Cấm quân chuẩn bị báo cáo, lệnh cho bọn họ lui về nơi cách đó mấy trăm thước, rồi sau đó mới bước lên đàn tế, đi đến phía sau lưng Nguyên Thú đế.
Hai cha con không nói chuyện, chỉ im lặng quan sát tinh tượng.
Nguyên Thú đế đột nhiên lên tiếng: "Sao Thiên Lang ở đâu?"
Hoắc Kinh Đường giơ ngón tay lên chỉ về một phía, Nguyên Thú đế hỏi liên tục vài vì sao nữa, cái nào hắn cũng trả lời được.
"Vẫn chưa quên nhỉ." Nguyên Thú đế cười vỗ vai Hoắc Kinh Đường, nói với hắn: "Hôm nay ta tạ lỗi với trời, với liệt tổ liệt tông, chuẩn bị đến Đông chí sẽ phong hậu cho mẹ con, cho con nhận tổ quy tông."
"Dù ta giết hại anh em mình sao?"
Nguyên Thú đế khựng lại, quay đầu nhìn vào mắt Hoắc Kinh Đường: "...!Tiểu Lục?"
"Dựa vào nơi hiểm yếu chống lại, phát hiện quý phi tự sát, mất kiểm soát cảm xúc, tự lấy dao đâm mình chết rồi."
Nguyên Thú đế ngây người, rất lâu sau mới thở dài nói: "Không liên quan gì đến con, là nghiệp chướng của trẫm."
Bên dưới đàn tế, Ngũ hoàng tử nhìn Hoắc Chiêu Vấn, người nọ đứng trong bóng tối, biểu cảm như chết lặng.
Hoắc Kinh Đường vuốt v e vòng phật, đọc thầm tâm kinh: "Nếu như ta trở thành Thái tử, bệ hạ định xử trí tiểu lang như thế nào?"
Nguyên Thú đế hơi không vui: "Con sợ ta hại nó à? Nó là năng thần, đã cứu mạng ta, lại bị Xương Bình làm cho mệt mỏi, ta thật sự rất xấu hổ với nó, huống chi ấy là người trong lòng con, ta muốn hại nó chẳng phải là ép cha con ta trở mặt thành thù hay sao? Về công về tư, ta sẽ không hại nó, nhưng nó không thể trở thành Hoàng hậu."
Hoắc Kinh Đường rũ mắt: "Tao khang chi thê bất hạ đường*, bệ hạ cho rằng ta sẽ xử trí tiểu lang như thế nào?"
(*) Tao khang chi thê bất hạ đường - 糟糠之妻不下堂: ý nói người đàn ông sau khi giàu sang không thể tuỳ ý ruồng bỏ người vợ từng cùng với mình chịu gian khổ trước đó.
Nguyên Thú đế: "Nó làm tể tướng, các con cùng phổ một đoạn giai thoại quân thần, bên nhau như cũ, nếu như có một ngày ân tận ái tuyệt thì vẫn có thể tiếp tục làm quân thần, kết cục có hậu như vậy, làm sao lại không thể chứ?"
Hoắc Kinh Đường: "Ý ta là sau khi trở thành Thái tử còn phải cưới vợ nạp thiếp sao?"
Nguyên Thú đế: "Đàn ông bình thường còn tam thê tứ thiếp cầu có người nối nghiệp, huống chi là Thái tử?"
Hoắc Kinh Đường: "Nếu như Tĩnh vương không cản trở từ bên trong, bệ hạ được cưới mẹ như ý nguyện, thì có phải vẫn sẽ vì vị trí Đông cung mà tái giá Hoàng hậu và Trịnh quý phi, từ đó lạnh nhạt để mẹ ta uất ức hay không? Sắc suy ái trì, nếu như mẹ ta không chết thê thảm như vậy, sớm muộn gì cũng sẽ có một ngày rơi vào kết cục giống như Hoàng hậu và Trịnh quý phi thôi, ta cũng sẽ trở thành Đông cung của ngày trước, là Tấn vương của hiện tại..."
"Chát" một tiếng giòn vang, Nguyên Thú đế tát cho Hoắc Kinh Đường một cái thật mạnh, giận dữ mắng mỏ: "Con đang coi thường mẹ mình sao! Sao con có thể đánh đồng mẹ con với người khác được chứ? Đối với con, từ trước đến nay trẫm đều coi trọng con hơn bọn nó, con có nhìn thấy ta như vậy không?"
"Sẽ rất giả dối nếu ta nói mình không biết ơn và chưa bao giờ cảm thấy kiêu ngạo vì điều đó.

Ta có thể tùy tiện, không bị bắt nạt nhiều năm như vậy hoàn toàn là nhờ bệ hạ bất công thiên vị, nhưng mà người đẩy ta xuống vách núi khiến ta tan xương nát thịt cũng là bệ hạ."
Mặt mũi Nguyên Thú đế tái mét: "Tối nay con đến đây là để chất vấn ta à? Con vẫn còn ghi hận chuyện năm đó sao? Ngày ấy đưa con trở về phủ Tĩnh vương là vì hậu cung, triều đình hợp sức nhau ép ta, huống chi hậu cung không thể an toàn hơn phủ Tĩnh vương! Rồi lại nói đến chuyện hoán trữ...!Trẫm đúng là có hơi nóng lòng, Đông cung không nên thân, con...!Con là do một tay trẫm dạy dỗ, là Thái tử mà trẫm hài lòng nhất, còn là đứa con trai mà người phụ nữ trẫm yêu thương nhất sinh cho trẫm, bỗng nhiên chẳng còn thuốc chữa, chẳng lẽ trẫm không đau lòng sao? Chẳng lẽ chưa từng vùng vẫy do dự hay sao? Chọn người trở thành Thái tử là đại sự quốc gia, nếu như để cho Hoàng hậu và Đông cung khống chế triều đình, Đại Cảnh nhất định sẽ suy bại, trẫm có thể đảm bảo mình sống lâu trăm đuổi để dạy bảo cho thêm một đứa nhỏ nữa, nhưng sao có thể đảm bảo nó sẽ thành tài? Từ lúc biết được con đã giải được cổ độc, trẫm đã lập tức đổi lại kế hoạch ban đầu, Thái tử vẫn là con, Hoàng đế Đại Cảnh vẫn là con, chỉ có thể là con!"
Hoắc Kinh Đường: "Chỉ vì như vậy mà phải hy sinh Trịnh quý phi và Tấn vương sao?"
Nguyên Thú đến gằn giọng: "Là do bọn họ không chịu hăng hái tranh giành! Lão Lục quá ỷ lại vào phủ Trịnh quốc công, lão Tam nhúng tay vào trường thi Giang Nam, gây nên chướng khí mù mịt, hơn phân nữa tiền thu được từ việc bán quan bán tước được phủ quốc công dùng để đút lót cao thấp, coi như lão Lục không biết ngay từ đầu, nhưng từ sau sự việc của lão Tam, thì dù nó có ngu xuẩn cũng phải biết rõ chứ, nhưng chẳng phải nó vẫn thoải mái chi tiêu như thường sao? Phàm là nó có đền bù chút ít tổn thất, cũng không đến mức khiến ta phải thất vọng.

Những việc nó làm sau đó việc nào mà chẳng lấp ló bóng dáng của nhà ngoại? Ngay cả cơ hội tiêu diệt Đại Hạ ngàn năm có một này đây, rõ ràng Trịnh Nguyên Linh còn động tay động chân ở bên trong! Nếu như có ngày đăng cơ, họ ngoại tham gia vào chính sự, nhất định sẽ thành mối họa!"
Dù Tấn vương đứng bên dưới đàn tế đã chuẩn bị tâm lý, nhưng vẫn bị lời khiển trách nặng nề của Nguyên Thú đế khiến cho suýt nữa là sụp đổ.
"Lão Lục giống như Đông cung, ta đã từng phí hết tâm huyết hun đúc, không có một đứa nào ra hồn!"
"Ai có thể ra hồn sau khi được hun đúc dưới sự vui giận thất thường của người chứ? Một khắc trước vừa nâng lên đến trời, gửi gắm kỳ vọng, một khắc sau đột nhiên ném xuống mặt đất, đuổi tận giết tuyệt, người thử nói xem phải thế nào mới có thể ra hồn đây?"
"Con! Sấm chớp mưa sương đều là ơn trời, bá quan văn võ, vạn dân thiên hạ, ai đối mặt với trẫm mà không phải nơm nớp lo sợ, cẩn thận từng chút chứ? Bọn họ có thể thích ứng, có thể làm được, các con là con của ta, là vương tử hoàng tôn, vì sao không thể?"
"Nói như vậy lúc đối mặt với bọn ta, rốt cuộc người xem bọn ta là thần tử, hay xem là con của người? Khi nào bọn ta có thể xem người là cha, khi nào phải xem người là quân vương mới không phạm phải sai lầm đây?"
Nguyên Thú đế giận dữ, vung tay lên định tát một cái nữa, nhưng chạm đến ánh mắt của Hoắc Kinh Đường thì lại bất lực hạ tay xuống, trong nháy mắt chán nản, để lộ ra vẻ mệt mỏi già yếu: "Trẫm thiên vị con, muốn để lại những gì tốt nhất trên đời này cho con, như vậy là sai ư?"
Hoắc Kinh Đường lộ vẻ xúc động, cánh tay khẽ nhúc nhích, nhưng đến cuối cùng vẫn không đáp lại Nguyên Thú đế.
"Quả thật ban đầu khi con trúng cổ độc, không có thuốc chữa mà vứt bỏ con là do trẫm vô tình, thế nhưng sau đó mọi thứ lại vào trật tự, quay về quỹ đạo ban đầu, vì để đền bù cho con mà trẫm không quan tâm danh nhơ vợ chồng không hòa thuận, cha con tương tàn..." Dừng một chút, Nguyên Thú đế mới rũ vai xuống nói: "Con cảm thấy trẫm đối xử với con, với Thái tử, với lão Lục và quý phi vô tình quá ư? Trẫm vô tình với bọn họ, nhưng đối xử với con như thế nào, con tự hỏi lòng mình đi, ngoại trừ chuyện cổ độc còn có việc nào có lỗi với con nữa? Ngay cả lão Lục và quý phi, trẫm cũng chưa từng muốn bọn họ phải chết! Trẫm định sẽ đưa lão Lục đi cấm túc ở đất phong, chỉ cần nó an phận thì không cần phải lo cơm áo, sống lâu trăm tuổi!"
"Cha mẹ thương con, ắt phải tính toán sâu xa.

Tử Uyên, đến khi con ngồi ở vị trí này là sẽ hiểu được nỗi khổ tâm của ta thôi."
"Cha mẹ thương con, không phải để báo đáp."
Một giọng nói quen thuộc đột nhiên xuất hiện phía sau lưng, Nguyên Thú đế quay đầu lại, nhìn thấy lão Lục mà ông cho rằng đã chết vì mưu phản bức vua thoái vị, còn có cả lão Ngũ cũng đi theo, hai người đều đỏ mắt, sắc mặt bi thương, nổi oán giận bộc lộ trong lời nói.
"Còn chúng con thì sao?" Tấn vương hỏi: "Phụ hoàng, chúng con không phải con của người hay sao?"
Gương mặt Nguyên Thú đế run rẩy, khi tính toán thì ra tay độc ác, nhưng đến khi bị chất vấn thẳng mặt thì lại không thể nhẫn tâm đ ến cùng, nghẹn lời một lúc lâu sau mới bị cảm giác áy náy dâng lên trong lòng đánh bại, không thể thốt nên lời tuyệt tình.
"Đời người không tránh khỏi bất công, cha mẹ cưng chiều con mình là chuyện rất bình thường, đến mẫu phi cũng thương con hơn Tam ca, nhưng mẫu phi không hề muốn Tam ca phải đi chịu chết.

Người nói người không muốn mẫu phi của con chết, nhưng mẫu phi lại bị người ép phải tự sát, di thể bị lợi dụng đến cùng, người vẫn nói người không muốn con chết ư? Vừa nãy Hoắc Kinh Đường nói con chết rồi, phản ứng đầu tiên của người chính là ôm tội vào mình! Người vẫn giải vây giúp huynh ấy! Thà gánh danh nhơ giết con chứ không để Hoắc Kinh Đường chịu tiếng anh em tương tàn! Sao người có thế bất công đến như vậy?"
Tấn vương hận đến nghiến răng.
Ngũ hoàng tử xúc động lây, mũi cay xè, lòng đau xót, cúi đầu không nói gì.
"Chẳng lẽ người không biết mưu phản bức vua thoái vị sẽ có kết cục gì? Chẳng lẽ người không biết con sẽ tự sát? Sáng suốt như người, bệ hạ, người đúng thật không nghĩ tới chuyện con và mẫu phi sẽ tự sát sao? Hay là người có nghĩ tới những cảm thấy chẳng hề gì, sức nặng chẳng bằng việc Hoắc Kinh Đường đăng cơ?"
"Càn rỡ!" Nguyên Thú đế không nén được giận, tức tối mắng: "Con lấy thân phận gì để chất vấn trẫm!"
Tấn vương gằn từng chữ: "Hôm nay con thà bị phế làm thứ dân, cũng chỉ lấy thân phận con trai của người để chất vấn người thôi, phụ hoàng, người thật sự không nghĩ rằng con sẽ chết sao?"
Nguyên Thú đế sửng sốt, ánh mắt lập lòe, đầu óc lộn xộn, không thể trả lời ngay được.
Như thể phản ứng của ông đã nói rõ đáp án, Tấn vương lòng như tro tàn, chắp tay qua đầu, ba quỳ chín khấu: "Thần đã hiểu rồi.

Thần sẽ bảo ông ngoại giao lại binh quyền Định Châu, tự thỉnh đến đất phong, không chiếu không rời, không hỏi chuyện triều chính, an phận thủ thường, ở đây thề rằng vĩnh viễn sẽ không gây chuyện với tân đế, nếu như làm trái lời thề này, chết không yên lành, vĩnh đọa A Tỳ.

Chỉ có một chuyện muốn nhờ, cầu xin bệ hạ trả lại di thể mẹ đẻ cho thần, thần đưa bà ấy trở về đất phong, sẽ không làm chướng mắt bệ hạ nữa."
"Con..." Nguyên Thú đế hơi hoảng hốt, nhưng không để cho ông kịp phản ứng, lão Ngũ cũng đã quỳ sụp xuống, ba quỳ chín khấu, cứ thể kết thúc thân duyên giống như người trước.
"Bệ hạ, thần cũng sẵn lòng tự thỉnh đất phong, không chiếu không rời, mãi mãi không nhúng tay vào triều chính, toàn tâm toàn ý ủng hộ tân đế."
Hai người cùng dập đầu, đồng thanh nói: "Cầu bệ hạ thành toàn!"
"..." Sắc mặt Nguyên Thú đế trầm xuống, quay đầu nhìn Hoắc Kinh Đường: "Đây là mục đích của con đêm nay đúng chứ? Các con chẳng còn cần phụ hoàng ta nữa, đều chỉ muốn làm quân thần với ta thôi chứ gì?"
Hoắc Kinh Đường vén vạt áo lên, cũng quỳ xuống dập đầu theo: "Người thiên vị ta, ta cũng vậy.

Thường nói quân phụ, quân ở trước phụ, nhưng trong lòng ta, người là cha của ta trước, sau đó mới là quân vương.

Thần tử sẽ oán giận vì bị quân vương tuyệt tình và vứt bỏ, nhưng con trai có oán giận cũng sẽ không bao giờ hận cha của hắn.

Ta bị vứt bỏ vì trúng cổ độc, mặc dù nản lòng, nhưng ngày sau có việc nào người giao xuống mà ta không làm tận tâm tận lực đâu? Đó hoàn toàn không chỉ vì người là quân ta là thần, mà hơn hết bởi vì người là cha ta là con."
Nguyên Thú đế: "Con không oán giận, vậy vì cớ gì mà không chịu chấp nhận sắp xếp của ta?"
Hoắc Kinh Đường: "Ta không muốn làm hoàng đế."
Nguyên Thú đế: "Hồ đồ! Con không muốn làm hoàng đế thì đi Tây Bắc làm gì? Vì sao âm thầm chiêu dụ nhiều mưu sĩ như thế? Con có ý chiêu dụ Trần Sư Đạo, lén lút qua lại với đám người Cao đồng trì, tưởng ta không biết gì cả sao? Ta đây rõ rành rành dã tâm của con, bây giờ lại nói mình không muốn, làm sao ta có thể tin được?"
Hoắc Kinh Đường không giải thích thêm: "Bệ hạ, xin người hãy chọn Thái tử khác! Đời này thần chỉ có một mình Triệu Bạch Ngư, đã định đoạn tử tuyệt tôn, trừ phi người bằng lòng chứng kiến giang sơn đổi chủ, triều đình rung chuyển!"
Nguyên Thú đế trợn mắt nhìn hắn: "Con uy h**p trẫm đấy à?"
Hoắc Kinh Đường: "Trần thuật sự thật mà thôi.

Nếu uy h**p thật, thần cảm thấy tạm thời người không muốn thấy cảnh ấy đâu."
Nguyên Thú đế trừng mắt như sắp nứt, vô cùng đau lòng, tức giận đến mức tay run cầm cập, không ngừng gật đầu: "Hoắc Kinh Đường, khi đại án Lưỡng Giang xảy ra, con vì Triệu Bạch Ngư mà phá sạch ván cờ của ta, bởi vì mắc nợ nó nên ta không truy cứu con.

Bây giờ con lại vì nó, không chịu làm hoàng đế, còn uy h**p ta...!Người mà con uy h**p là cha con, là người cha ruột hết lòng lo lắng cho con! Con thật sự nghĩ ta không dám giết Triệu Bạch Ngư sao? Con cho rằng chỉ vì mắc khoản nợ này, cho rằng nó đã cứu mạng trẫm, cho nên nghĩ đấy là đủ để hôm nay trẫm tha thứ cho đám ngỗ nghịch các con hay sao?"
Hoắc Kinh Đường: "Tiểu lang đã thề đồng sinh cộng tử với ta từ lâu rồi."
Nguyên Thú đế: "Thân thể tóc da là cha mẹ cho, mạng của con là trẫm cho, là mẹ của con cho, Triệu Bạch Ngư là cái thá gì!"
"Trong bốn năm bị cổ độc tra tấn thần đã chết một lần, mạng này là do Triệu Bạch Ngư cho, y chính là phu lang chôn cùng một quách* với ta trăm năm về sau." Hoắc Kinh Đường ngẩng đầu lên, nhìn Nguyên Thú đế tức đến đỏ mặt tía tai, sinh lòng tiếc nuối: "Bệ hạ tội gì phải vậy?"
(*) Quách: quan tài lớn chứa quan tài nhỏ.
Nguyên Thú đế không ngừng cười lại: "Trẫm không thiếu hoàng tử, nếu như các con đã xưng thần, vậy hẳn là không quan tâm mình bị phế truất danh hiệu hoàng tử vương tốn rồi nhỉ, chỉ mong đừng hối hận.

Hoắc Kinh Đường, con không muốn vị trí Thái tử thì vẫn còn rất nhiều người tranh đến mức đầu rơi máu chảy, trẫm không cầu xin con! Nhưng những gì trẫm cho con, dù con có bằng lòng hay không cũng đều phải nhận lấy!" Rồi sau đó ông nhìn ba người đang quỳ dưới đất, hừ lạnh nói: "Nếu như thích quỳ, thì cứ quỳ ở chỗ này cho thỏa đi!"
Nói xong phất tay áo rời đi.
Ba người cứ quỳ ở đàn tế trời như thế, mặt trăng lặn mặt trời mọc, cái nóng mùa hè ập xuống, ánh mặt trời chói chang, nói không chừng đặt ly nước lên nền gạch đàn tế còn có thể sôi lên.
Hoắc Kinh Đường và Hoắc Chiêu Vấn cơ thể cường tráng, phơi nắng mấy canh giờ không có gì đáng ngại, nhưng Ngũ hoàng tử được nuông chiều từ nhỏ chưa từng phải chịu khổ cực thế này, mặt mũi gã tái nhợt, da môi tróc ra, phơi nắng ba canh giờ đã ngất xỉu.
Cấm quân chịu trách nhiệm trông coi quanh đàn tế không biết làm thế nào, bèn chuẩn bị lệnh cho người đi xin chỉ thị của Nguyên Thú đế, nhưng lại bị Hoắc Kinh Đường gọi tới: "Đừng quấy rầy bệ hạ, đi hỏi ý thái hậu đi."
Cấm quân do dự.
Hoắc Kinh Đường chậm rãi nhắm mắt lại, mân mê vòng phật của hắn, tư thế không giống như bị phạt quỳ mà giống như đang thành tâm cầu phúc.
"Bệ hạ đang nổi nóng, ngươi có đến xin chỉ thị cũng chỉ có thể nghe ông ấy nói cho quỳ đến chết thôi, nhưng nếu hoàng tử quỳ đến chết thật, sau này bệ hạ hối hận, các ngươi có gánh nổi trách nhiệm không? Đến chỗ thái hậu hỏi ý đi, có lão nhân gia ra mặt, bệ hạ sẽ nể chút tình mọn."
Thống lĩnh Cấm quân đi tới, dù Hoắc Kinh Đường không nói lý do hắn ta cũng sẽ nghe lệnh làm việc, vội vàng lệnh cho người đi hỏi ý thái hậu.
Chẳng bao lâu sau, ma ma bên cạnh thái hậu đã dẫn thái y chạy tới, đưa Ngũ hoàng tử quay về biệt trang hoàng gia ở gần đó, rồi bảo Hoắc Kinh Đường và Hoắc Chiêu Vấn đứng dậy đến chỗ Thái hậu.
Ma ma nói với Cấm quân cản đường: "Nếu như bệ hạ trách tội, ngươi cứ nói thật thôi."
Có lão nhân gia làm chỗ dựa, Cấm quân chỉ mong sao bọn họ mau chóng mang ba củ khoai nóng bỏng tay trên đàn tế đi thôi.
***
Biệt trang hoàng gia, viện Thu Ngô.
Ba người Hoắc Kinh Đường bước vào trong, lập tức nhìn thấy Triệu Bạch Ngư đứng dưới cây ngô đồng.
Ngũ hoàng tử được đưa vào trong viện, Hoắc Chiêu Vấn lập tức hỏi ma ma, ma ma nói thái hậu đang tụng kinh niệm phật, không tiện quấy rầy, vậy nên hắn ngồi xuống bậc thang ngoài sân đình, mặt không đổi sắc ngẩng đầu lên nhìn trời, thoáng liếc mắt thấy Triệu Bạch Ngư túm lấy Hoắc Kinh Đường kiểm tra trên người hắn có vết thương hay không, sau đó ôn tồn nhỏ tiếng quan tâm, không khỏi sinh lòng hâm mộ.
Hoắc Kinh Đường đúng là vô cùng may mắn, sống trên đời có được ngần ấy người tha thiết yêu thương hắn.
Hắn ta cũng đã từng có được mẫu phi yêu thương không cầu báo đáp, nhưng hiện tại chẳng còn gì nữa.
Nỗi muộn phiền lan rộng trong lòng, Hoắc Chiêu Vấn dứt khoát chôn vùi toàn bộ tình cảm vào bầu trời màu xanh trong vắt, quên hết mọi sự vật quanh người.
Triệu Bạch Ngư kéo Hoắc Kinh Đường đến bên bàn đá dưới gốc cây ngồi xuống, rót cho hắn một ly trà hoa cúc thấm giọng, xua đi cái nóng, ân cần hỏi thăm: "Sao rồi?"
Hoắc Kinh Đường: "Xem bệ hạ có nghĩ thông suốt hay không thôi...!Sao em lại ở đây?"
Triệu Bạch Ngư: "Lo lắng cho chàng chứ còn sao nữa."
Sau khi trở về từ buổi tiệc gia đình ngày đó, y bèn nói ra lời của thái hậu và suy đoán của mình cho Hoắc Kinh Đường biết, khi ấy Hoắc Kinh Đường nói không cần quan tâm, cứ việc giao hết cho hắn đi xử lý.
"Chàng giải quyết thế nào vậy?"
"Nói thẳng rồi."
"Kết quả chọc bệ hạ nổi cơn tam bành, phạt mấy người quỳ suốt mười canh giờ, nghe nói còn chuẩn bị phế truất tước vị của hai vị hoàng tử chứ gì?"
"Giải quyết dứt khoát, bớt dây dưa dài dòng, ta không muốn so kiên nhẫn với bệ hạ, chờ đến khi ta được nhận lại thì mọi thứ đều kết thúc cả rồi.

Thiên hạ này không có tiền lệ lập nam hoàng hậu, triều thần có thể tạm thời đồng ý, nhưng không có nghĩa là mười năm, hai mươi năm sau không có tâm tư khác, hậu cung gắn liền với tiền triều, ai cũng hy vọng rằng đứa con chui ra từ bụng mình được làm Thái tử tương lai cả, đến lúc đó em sẽ trở thành mục tiêu công kích của mọi người, mà cuối cùng ta cũng sẽ có lúc sơ hở thiếu phòng bị, không bảo vệ được em.

Bệ hạ tự phụ, thái bình thịnh thế mở ra trong tay ông ấy, nguyên vọng bấy lâu nay đã thành càng cổ vũ ông ấy thêm bảo thủ kiêu căng, phải cảnh tỉnh ông ấy, để cho ông ấy tỉnh táo hơn, đừng để ông ấy thật sự cho rằng bản thân có thể thao túng được cuộc đời của người khác."
Hoắc Kinh Đường không nhịn được thở dài: "Sau khi chữa khỏi cổ độc, ta đã hời hợt rất nhiều với chính đấu triều đình, cả việc kết bè kết cánh nữa, ta không tin bệ hạ không nhận ra, suy đoán rõ ràng làm ông ấy mơ hồ, quả thật có tình thương con, nhưng đó cũng chỉ để hoàn thành chấp niệm của ông ấy, trừ khử món nợ sâu trong lòng ông ấy mà thôi.

Khư khư cố chấp như vậy, đến cả người phụ nữ ở bên cạnh ba mươi năm cũng chết rồi, vậy mà vẫn lợi dụng chẳng thấy xấu hổ, hành động càng lúc càng giống như tiên đế ngày xưa."
"Suỵt.

Nói nhỏ thôi, tai vách mạch dừng."
Hoắc Kinh Dường hôn lên mu bàn tay Triệu Bạch Ngư, hết sức hưởng thụ sự quan tâm của tiểu lang quân.
Có điều hắn cũng không nói sai, Nguyên Thú đế đã từng cực kì hận tiên đế thiên vị Tĩnh vương, vậy mà bây giờ ông ấy chỉ hơn chứ không kém, chẳng tiếc ép hoàng tử khác đi vào chỗ chết chỉ vì trải đường cho Hoắc Kinh Đường.
Không thể phủ nhận tình thương sâu đậm của cha mà ông ấy dành cho Hoắc Kinh Đường, nhưng đó lại là sự ích kỷ cố chấp khiến cho lòng người nguội lạnh.
"Bệ hạ có thể nghĩ thông suốt không?"
"Văn thần chết can võ tướng chết trận, trăm quan triều đình đã nhận bổng lộc thì phải làm việc nên làm chứ."
Triệu Bạch Ngư nghe hiểu lời bóng gió này, hạ giọng nói: "Chàng bắt tay với các quan trong triều ép bệ hạ buông bỏ suy nghĩ lập chàng làm trữ sao?"
Hoắc Kinh Đường cũng hạ giọng, ra vẻ thần bí: "Em đoán xem vì sao bọn họ lại đồng ý với ta đi đắc tội bệ hạ?"
Triệu Bạch Ngư sẵn sàng tiếp thu lời phải: "Vì sao thế?"
Hoắc Kinh Đường: "Vì em đấy." Hắn cười cong mắt: "Cha mẹ vì con mà suy tính sâu xa, không phải để đền đáp."
Triệu Bạch Ngư sững người.

***
Quyền giám quốc của Hoắc Kinh Đường bị thu hồi, hắn và Hoắc Chiêu Vấn, Hoắc Chiêu Hành đều bị giữ lại biệt việt hoàng gia ở Tây Giao, Nguyên Thú đế thì lập tức dẫn đoàn xe ngựa và Cấm quân trở về hoàng cung trước.
Vừa hồi cung, Nguyên Thú đế đã lệnh cho Khâm Thiên Giám chọn một ngày lành tháng tốt để phong hậu, ông không chờ nổi đến Đông chí, chậm nhất trong vòng hai tháng phải sắc phong Thái tử Đại Cảnh.
Khâm Thiên Giám run tay, vắt óc tính thời gian, không tìm được ngày nào cực kì tốt cũng chỉ đành phải chọn ngày tốt thứ hai, viết thời gian ra rồi đi đến trước điện Văn Đức trình lên.
Ngày tốt tới tay, bấy giờ Nguyên Thú đế mới gọi đại thần từ tam phẩm trở lên dến thương lượng phong con gái Thôi quốc công làm hậu, cũng sẽ nhận lại Hoắc Kinh Đường, đồng thời xác định Thái tử, cuối cùng là việc ba đại sự này sẽ được tổ chức cùng một nơi.
Dù là phong hậu hay là lập trữ đều không phải trò đùa, sao có thể làm qua loa được chứ?
Có người ra khuyên can, không một ai là không bị Nguyên Thú đế điên tiết buông lời trách phạt và răn dạy, đặc biệt là Ngự Sử đại phu từng câu từng chữ phản đối Nguyên Thú đế lập trữ phong hậu sơ sài bị phạt đánh ba mươi trượng, suýt nữa là đánh chết.
Triều thần bị chấn nhiếp, nói năng thận trọng, không ai dám khuyên thẳng.
Ngày phong hậu lập trữ tốt đã định ra, trong cung thu mua, Lễ bộ và tất cả các nha môn đồng tâm hiệp lực quản lý vụ này, nói là phong hậu thực tế là truy phong, vẫn làm cùng một lúc với đại điển lập trữ, hai thể chế khác nhau, cách thức và nghi thức cũng khác, bởi vì không có tiền lệ, cho nên mọi chi tiết dù lớn dù nhỏ đều được kiểm tra cẩn thận rồi mới quyết định, không được phép mắc phải bất kì sai sót nào, loay hoay đến nỗi chân không chạm đất.
Mà giữa lúc phong hậu lập trữ gay cấn, tòa Phật tháp ở chùa Đại Tướng Quốc trăm năm lịch sử đột nhiên sụp đổ, nghe nói trong đó có thờ cúng xá lợi xương Phật hóa thân của Phật Như Lai Thích Ca Mâu Ni, nhưng Phật tháp sụp rồi, xá lợi xương Phật bên trong cũng bay khỏi phủ Kinh Đô.
Võ tăng trông coi Phật tháp và dân cư ở xung quanh đều nói rằng đêm đó bọn họ tận mắt nhìn thấy có một vật bay ra khỏi Phật tháp đã sụp xuống, vật này tỏa ra thứ ánh sáng thần kì, hóa thành sao băng bay về phía tây, rõ ràng đó là xá lợi xương Phật.
Cũng không biết vì sao mà xá lợi xương Phật lại bỗng nhiên rời khỏi chùa Đại Tướng Quốc.
Không quá hai ngày, phố lớn ngõ nhỏ phủ Kinh Đô đã truyền ra tin tức xá lợi xương Phật không muốn tiếp tục che chở cho dân chúng Kinh Đô nữa, tin này truyền đi suốt đêm, chính là điềm báo chẳng lành.
Dân chúng có được đời sống sinh hoạt sung túc thì có thú vui ngồi quán trà, quán rượu ven đường bàn tán, bắt gặp người nhắc đến sự biến mất của xá lợi xương Phật, nhắc tới cả "điềm báo chẳng lành" nữa, cũng không biết trong đám người đó là ai đã nhắc đến chuyện phong hậu lập trữ không được ngày lành tháng tốt trấn áp, chỉ sợ là vì chuyện ấy nên mới dẫn tới điềm xấu, ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia, xá lợi xương Phật kia mới chạy mất.
Ngay từ đầu đã cảm thấy đây là đại sự hoàng gia nên không dám lắm miệng, nhưng con người ta thường có tâm lý may rủi, cho rằng pháp không trách chúng, tiếp tục truyền tai truyền miệng, càng nói càng thái quá, thực sự kinh động đến Khâm Thiên Giám và Ngự Sử đài, hai bên đều báo cáo dư tình dân gian lên trên.
***
Điện Văn Đức.
Cộp!
Nghiên mực bị ném xuống dưới, nước mực đổ ra đầy đất, Nguyên Thú đế vẫn chưa tan cơn giận: "Điềm báo chẳng lành? Để không làm Thái tử, đến cả việc trẫm cho mẹ nó danh phận cũng dám làm gián đoạn à! Nghịch tử, nghịch tử!"
Thái giám cung nữ quỳ rạp không dám nói lời nào, Nguyên Thú đế vẫn điên cuồng.
"Đối nghịch với trẫm! Trẫm để lại người cho nó, dung túng nó kết bè kết phái, quay đầu trả ngược lại cho trẫm sao? Hừ, Phật tháp phủ Kinh Đô ngã rồi, dù có một trăm xá lợi xương Phật bay mất cũng không thể thay đổi quyết định của trẫm đâu.

Cái gọi là điềm báo chẳng lành đều có thể gặp dữ hóa lành, giải quyết dễ dàng dưới chân long thiên uy của trẫm!"
Nguyên Thú đế khư khư cố chấp, trấn áp dư tình dân gian rồi, nhưng quá trình thu mua trong cung và xử lý đại điển của Lễ bộ lại liên tục gặp nhiều việc lạ, không phải ngọc khuê đã chuẩn bị xong đột nhiên vỡ tan tành, thì công trình xây dựng rầm rộ cũng bị hỏng hóc, dư tình vất vả lắm mới ép xuống được lại sôi sục lên một lần nữa.
Tin đồn vặt vãnh không ra thể thống gì, không ngăn được sự chuyên quyền độc đoán của Nguyên Thú đế, nhưng vẫn khiến cho lòng ông cảm thấy hơi mơ hồ.
Nguyên Thú đế âm thầm cử ám vệ bắt tay vào điều tra xem cuối cùng là ai đang làm những việc này sau lưng ông, không quá ba ngày, danh sách đã được đặt lên bàn trong điện Văn Đức.
Cao đồng tri, Lư tri viện, Trần Sư Đạo, Triệu Bá Ung...!Tất cả đều là năng thần tể tướng đáng tin cậy, bọn họ bắt tay nhau ngỗ ngược với hoàng đế ông đây!
Nguyên Thú để cho gọi mọi người vào cung, nhìn chằm chằm ánh mắt của bọn họ, ném danh sách tới trước mặt bọn họ rồi quát lớn: "Đường đường là trọng thần xương cánh tay mà lại học thần côn dân dã để làm những trò lừa gạt lòng người này, còn ra thể thống gì nữa? Đã muốn tham gia lập trữ, lại không giám thẳng thắn can ngăn như Ngự Sử đại phu, sử dụng lòng dạ nhỏ nhen khiến cho người ta tấm tức thì có thể thay đổi được gì? Tể tướng tam ty lưỡng phủ, đại quan nhất phẩm của trẫm, còn có nguyên lão ba triều Trần Sư Đạo, Trần thái sư của trẫm, trẫm cứ nghĩ ông sẽ không để tình riêng lấn lướt việc công, nhưng ông hãy nhìn ông của bây giờ xem...!Chẳng phải sợ Tử Uyên đăng cơ làm oan Triệu Bạch Ngư sao? Xá lợi xương Phật ở chùa Đại Tướng Quốc là trò của ông à? Ông không biết trẫm không tin Phật sao?"
Nhìn quanh một vòng người bên dưới, Nguyên Thú đế khó nén nỗi thất vọng: "Trẫm thất vọng không chỉ bởi vì các ngươi bắt tay nhau ngỗ ngược với trẫm, mà thất vọng là vì hành động mà các ngươi dám làm, giả thần giải quỷ lường gạt dân tình, rụt đầu rụt đuôi, lấy lòng xu nịnh qua loa cho xong chuyện!"
Nhóm người Cao đồng tri chắp tay nói: "Bệ hạ bớt giận."
Nguyên Thú đế: "Đại điển phong hậu và lập trữ sẽ diễn ra như cũ, ai dám lén lút làm chuyện mờ ám, đừng trách trẫm không niệm tình xưa.

Nếu như trong phủ có lời đồn, tra ra ngọn nguồn rồi sẽ không nương tay.

Nếu như chư khanh có lòng nhúng tay vào chuyện lập trữ, thì có thể chết gián đến cùng, bước vào điện Thùy Củng đập đầu hoặc là cắt cổ trước mặt trẫm, như vậy còn tốt hơn là đi đường ngang ngõ tắt tung lời đồn ra ngoài!"
Cao đồng tri vén quan bào quỳ xuống khuyên thẳng: "Bệ hạ, Thôi thị và bệ hạ tuổi trẻ tình thâm, người chết vì cứu bệ hạ, nếu vì vậy mà bịa ra một thân phận, còn cả danh phận, truy phong lập hậu không phải là không được, nhưng việc lập trữ liên quan đến quốc thể, chuyện này là chuyện lớn, chứ nói chi phải cực kì thận trọng với huyết mạch hoàng thất, không thể tùy tiện làm xáo trộn.

Lâm An quận vương đã là con trai trưởng của Tĩnh vương ba mươi năm trời, mà Tĩnh vương chính là loạn thần tặc tử, mọi người đều biết, rất khó đảm bảo toàn bộ người trong thiện hạ sẽ không chất vấn về huyết thống của Lâm An quận vương, sẽ nghi ngờ Tĩnh vương cố tình xáo trộn huyết mạch hoàng thất, chỉ sợ ngày sau loạn thần nghịch đảng sẽ lấy đây làm cái cớ, xua binh tiến thẳng vào phủ Kinh Đô quấy nhiễu làm xã tắc rung chuyển, triều đình bất ổn, dân chúng trôi dạt khắp nơi, đến lúc đó mới hối hận thì đã muộn."
Lư tri viện cũng quỳ xuống khuyên can: "Võ tướng chết trận văn thần chết can, thần vốn phải chết trận sa trường, cống hiến cho đất nước, được bệ hạ thương cảm, cho vào hai phủ, chưởng binh quyền thiên hạ, phúc lộc song toàn, thoát chết khỏi chiến trường, hôm nay làm văn thần chết can một lần, khuyên bệ hạ thu hồi mệnh lệnh lập trữ đã ban ra, lựa chọn tân quân khác!"
Nguyên Thú đế: "Im miệng!" Ông rút bảo kiếm ra bước nhanh tới, ném xuống trước mặt Lư tri viện rồi tàn nhẫn nói: "Nói nghe hay lắm, không bằng lập tức dùng cái chết tỏ rõ ý chí đi, nói không chừng vì sức nặng cái mạng của ông mà trẫm sẽ thật sự buông bỏ ý định lập trữ đấy!"
Trần Sư Đạo vội vàng quỳ xuống ngăn lại: "Bệ hạ có lòng yêu con, lão thần vô cùng đồng cảm.

Lão thần già rồi mới có con trai, mẹ của nó không qua được cửa tử, nó đi tiểu cũng được ta ôm trong ngực, ta nuôi nó lớn trên vai.

Không sợ bệ hạ chê cười, tã lót của thằng nhóc kia còn là do ta thay đấy, lão thần còn có thể vá quần thủng đáy nữa..."
Nói đến đây ông cụ bật cười, cũng khiến cho sự phẫn nộ của Nguyên Thú đế hòa hoãn đi nhiều.
Năm Hoắc Kinh Đường chỉ mới hai ba tuổi đúng là lúc hắn bị chó ghét người ngại, được đưa vào cung thì bị hậu cung nhìn chằm chằm, Nguyên Thú đế sợ sơ sẩy một chút là hắn chết, thế là ông thường xuyên đưa hắn theo bên người, ăn cùng nơi, ngủ cùng chỗ, văn trị võ công đều do một tay ông dạy cho, vừa làm cha vừa làm mẹ, hắn chính là miếng thịt trên người ông, tình cảm đó tất nhiên không thể so sánh với các hoàng tử khác.
Năm xưa vứt bỏ Hoắc Kinh Đường là vì có chút bất đắc dĩ, ông vốn là vua, sau mới là cha, thế nhưng sau khi Hoắc Kinh Đường chữa khỏi cổ độc, mặc dù lão Lục cũng rất ưu tú, nhưng ông cũng chưa từng nghĩ đến chuyện giao lại ngôi vị hoàng đế cho ai khác ngoài Hoắc Kinh Đường.
Sự thiên vị đó đã định trước rằng ông sẽ mắc nợ các hoàng tử khác, nhưng mà ông là hoàng đế!
Trước giờ chưa có chuyện gì khiến ông hài lòng, vợ không phải người ông yêu, Thái tử không làm ông vừa ý, mọi chuyện đều phải suy nghĩ vì giang sơn đất nước và dân chúng, ngày nay chỉ vì một chút lợi riêng thôi, vì sao khắp thiên hạ này đều muốn đối nghịch với ông kia chứ?
Hoàng đế có được vạn dặm non sông, vì sao không thể nghe theo lòng mình một lần?
"Thằng bé chính là một cây giống, lớn lên thành bộ dáng gì cũng đều là cho lão thần chăm bẵm cắt tỉa, lão thần hy vọng nó bình an vui vẻ, cũng mong con được hơn người, chỉ sợ nó bị liên lụy chịu khổ nơi quan trường, bèn hạ quyết tâm phải trải đường phía trước cho nó, diệt trừ hết mọi khó khăn cho nó, lão thần muốn cho nó hết tất cả những gì tốt nhất trên đời này, muốn ngăn cản hết tai nạn trên thế gian này ở bên ngoài...!Nói chung, cha mẹ trên đời đều có tâm lý như vậy đấy."
Đại thần ở đây đều có đông con cái, đúng là có lúc bất công thiên vị, nhưng vì yêu con, lòng lo lắng cho con cái thì lại giống nhau như đúc.
"Lão thần hiểu rõ bệ hạ muốn đền bù tổn thất cho Lâm An quận vương, nhưng bệ hạ đã từng cân nhắc đến việc quận vương điện hạ có chấp nhận hay không chưa? Cây giống tuy nhỏ, nhưng rồi cũng có lúc sẽ lớn thành cây to che trời, lão thần không thể bảo vệ nó mãi được, phải có lúc nó cần tự đảm đương một mình.

Lão thần muốn con trai được triệu về Kinh Đô, ở lại Kinh Đô, làm một quan triều, hầu hạ bên gối, tương lai xán lạn, như thế sẽ an toàn hơn, nhưng nó không muốn, nó muốn ở lại tỉnh ngoài, được phục vụ dân chúng tốt và trực quan.

Lão thần lo lắng, nhưng lại rất đỗi vui mừng..."
Giọng điệu của Trần Sư Đạo chân thành: "Bệ hạ à, con cái sẽ không bao giờ đi trên con đường bằng phẳng mà cha mẹ sắp sẵn cho chúng đâu, quận vương điện hạ cũng không còn nhỏ nữa, thằng bé tỉnh táo, xuất sắc hơn rất bất cứ ai, có lẽ người hiểu tính tình của quận vương hơn, tùy hứng ngang ngược, tùy tâm sở dục, nhưng mà nó biết tiến lui đúng mực, hiểu nặng nhẹ, thằng bé sẽ vì chuyện thái tử mà hờn dỗi với người sao? Nếu như ý nó nằm ở ngôi vị hoàng đế, chẳng lẽ phải chờ đến tận bây giờ ư? Không dối gạt gì bệ hạ, bọn ta cũng từng nghĩ đến chuyện phò tá quận vương điện hạ để kiếm công, thế nhưng nếu như phò tá một người từ tận trong đáy lòng không muốn làm hoàng đế, đối với giang sơn Đại Cảnh, đối với dân chúng mà nói là chuyện tốt sao?"
Mặt mày Nguyên Thú đế xanh mét, không muốn thừa nhận rằng Trần Sư Đạo nói có lý.
Triệu Bá Ung cũng quỳ xuống đất, nhưng lời khuyên của ông ta không giống với những người khác, mà là thẳng thắn biểu đạt suy nghĩ riêng: "Quận vương điện hạ đăng cơ, ngũ lang chắc chắn sẽ trở thành vật hy sinh, đó chỉ là chuyện sớm muộn, Thần cũng có lòng yêu con, mù quáng bởi tình riêng, mong bệ hạ thông cảm.

Huống chi tình cảm của điện hạ và ngũ lang sâu sắc, nếu như ngũ lang chết vì trận đấu quyền lực giữa hậu cung và triều đình, làm sao biết được điện hạ sẽ không đau đớn quá độ, bệnh cuồng táng tâm? Biệ hạ phải hiểu, điện hạ trọng tình trọng nghĩa, giống hệt với Thôi cô nương năm xưa, hắn sẽ không vứt bỏ ngũ lang đâu."
Ai cũng nói rất có lý, về công về tư, Hoắc Kinh Đường đều không thích hợp làm hoàng đế, nhưng Nguyên Thú đế vẫn không tin.
Ông vẫn cố chấp với suy nghĩ của mình, đi theo con đường dẫn vào tăm tối.
"Thần mắc nợ ngũ lang rất nhiều, nếu như ngũ lang chịu uất ức, thần sẽ dốc hết lực lượng toàn tộc, dù có thí luôn mạng này cũng sẽ lấy lại công bằng cho nó."

Ý trong lời nói chính là một khi Hoắc Kinh Đường đăng cơ, hậu cung không thể để trống, con nối dõi không thể không có, ông ta sẽ không dễ dàng tha thứ triều thần nào chèn ép Triệu Bạch Ngư, thà để hậu cung trống vắng, thiên tử tuyệt hậu!
Đây chính là uy h**p!
Là một thần tử, lại chạy tới đây uy h**p thiên tử, đúng là hoang đường!
Hoang đường!
Nguyên Thú đế nổi giận mắng mỏ nhóm người Triệu bá Ung, đuổi bọn họ ra khỏi điện Văn Đức.
Nhưng sau đó người đến yết kiến là Khang vương, ông ta đến tự thỉnh tới đất phong, còn muốn đưa Cao đô tri đi theo cùng.
Khang vương nhẹ giọng nói: "Hoàng huynh, người nhà họ Hoắc thực chất vừa bội bạc lại vừa thâm tình, tình sâu nghĩa nặng với người mình yêu thương, thiên vị họ, nhưng lại bạc tình bạc ý với người ngoài, tâm địa sắt đá.

Tiên đế đã thế, huynh cũng thế, đệ cũng như thế, nhưng Tử Uyên lại giống với Thôi cô nương hơn, không bội bạc giống chúng ta, nó xem trọng tình nghĩa, dù có trở thành hoàng đế cũng sẽ không cưới vợ nạp thiếp vứt bỏ Triệu Bạch Ngư.

Ngay cả bản thân hoàng huynh nữa, bao năm qua huynh chưa từng hối hận vì ban đầu không phản kháng tiên đế từ chối hôn sự sao? Hoàng huynh hãy tự hỏi lòng mình đi, nếu như Thôi cô nương còn sống, huynh có cam lòng để nàng chịu uất ức không?"
Người nhà họ Hoắc bội bạc từ trong máu, phụ nữ và tình yêu đều bị tổn thương bởi cú tấn công của quyền lợi, nói là thâm tình, nhưng một khi nắm được quyền lực mới hồ đồ vì tình yêu, cả đời chỉ rung động với một người, mười, hai mươi, ba mươi năm sau cũng không thay đổi.
Giống như tiên đế, cũng giống Nguyên Thú đế, vì ngôi vị hoàng đế mà để cho người phụ nữ mình thương uất ức thậm chí vứt bỏ họ, mà khi bọn họ nắm quyền hơn chục năm về sau, gạt bỏ được mọi khó khăn rồi mới muốn trao vô vàn yêu thương cho người mà bọn họ yêu.
Khang vương không có dã tâm, nhìn thấu mọi việc, ở bên cạnh Cao đô tri của ông ta đến nay đã qua nửa đời người, thật ra ông ta không nghĩ đến chuyện thủ thân như ngọc, trung trinh bất khuất, nhưng chỉ đơn giản là ngoại trừ ông ấy ra thì không thể là ai khác nữa.
Nguyên Thú đế đỏ mắt, không đáp mà chỉ hỏi lại: "Đệ cũng muốn đối nghịch với trẫm sao?"
Khang vương thầm thở dài, chắp tay bái biệt: "Bệ hạ, lúc làm thần tử, đệ mới sợ huynh, lúc làm anh em, đệ kính trọng huynh, dù có thế nào đi nữa, đệ cũng sẽ không đối nghịch với huynh đâu."
Nguyên Thú đế nhắm chặt hai mắt lại: "Chuyện tự thỉnh đất phong, trẫm không cho phép, về sau đừng nhắc đến nữa."
"Bệ hạ..."
"Cút ra ngoài."
Khang vương bất đắc dĩ, chỉ đành rời đi, để lại Nguyên Thú đế cô đơn một mình trong điện Văn Đức.
***
Biệt trang hoàng gia, Tây Giao.
Thái hậu chia ra triệu kiến Hoắc Chiêu Hành, Hoắc Chiêu Vấn và Hoắc Kinh Đường, âm thầm nói chuyện riêng với bọn họ, cuối cùng còn nói cho Hoắc Chiêu Vấn biết chỗ đặt di thể của Trịnh quý phi.
Hoắc Chiêu Vấn dập đầu nói lời cảm ơn, sau đó rời đi, tìm di thể của mẫu phi hắn.
Hoắc Chiêu Hành, Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư vẫn còn ở lại biệt viện Tây Giao, thái hậu thì lên đường về cung trước, ngồi trong Phật đường nhỏ chờ hoàng đế tới.
***
Điện Từ Minh, Phật đường nhỏ.
Nguyên Thú đế cung kính đứng trước cửa ra vào chờ thái hậu thắp hương xong, đỡ tay bà ra phòng khách bên ngoài Phật đường ngồi xuống: "Sao thái hậu lại rời Tây Giao về sớm như vậy?"
Thái hậu khảy vòng Phật: "Lão Lục vừa mất mẹ đã bị phạt quỳ, cấm túc ở Tây Giao, hoàng đế không đau lòng vì con trai, nhưng ai gia đau lòng vì cháu trai đấy."
Nguyên Thú đế: "Nó ngỗ nghịch bất hiếu, trong mắt không có bề trên, cần phải chịu trừng phạt."
Thái hậu: "Người không còn mẹ mà vẫn có thể giữ bình tĩnh như thường mới nên phạt."
Nguyên Thú đế nhíu màu: "Hôm nay thái hậu gọi tới là để gọi tội trẫm sao?"
Thái hậu nhìn Nguyên Thú đế chằm chằm: "Hoàng đế vẫn còn nhận ta là mẹ sao?"
Nguyên Thú đế biến sắc, cúi đầu rủ mắt, hơi kính cẩn nói: "Có lý nào mà con lại không nhận mẹ chứ? Dù trẫm có là Phật Như Lai tái thế cũng không thể không nhận người."
Thái hậu: "Nếu như vẫn còn biết ta là mẹ, thì đừng gây khó dễ cho mấy đứa cháu trai của ta."
Nguyên Thú đế: "Có ý gì?"
Thái hậu: "Chọn Thái tử khác, đừng làm khó Tử Uyên, cũng đừng lại mắc nợ những đứa con khác của con nữa."
Sắc mặt Nguyên Thú đế tối sầm lại, giọng điệu chuyển sang lạnh lẽo: "Mẫu hậu, người cũng muốn đứng ở phía đối lập với con trai sao?"
Thái hậu nhắm mắt, thở dài nặng nề: "Lão Đại à, con còn muốn mắc nợ bao nhiêu người nữa đây? Thôi Thanh Như, Xương Bình, Hoắc Kinh Đường, Triệu Bạch Ngư, người nhà họ Triệu...!Còn có tiên hoàng hậu, Đông cung, quý phi ở bên con gần ba mươi năm, cả lão Tam, lão Tứ, lão Ngũ và lão Lục, tuy nói sấm chớp mưa sương đều là ơn trời, nhưng lòng người âu cũng chỉ là một miếng thịt mà thôi, bọn họ đúng là thần tử của con, nhưng còn là thân bằng tri kỷ, là vợ của con mà, tình cảm của cháu trai cháu ngoại đối với con đều không hề hời hợt, nhưng bọn họ cũng là người sống sờ sờ, biết đau biết hận biết yêu, không phải là quân cờ để mặc cho con chi phối."
Nguyên Thú đế vô cùng phiền lòng, cố gắng kiềm chế cơn giận của mình trước mặt người mẹ ruột mà ông tôn kính nhất.
Thái hậu mưu đoạt đế vị vì ông, sau đó công thành lui thân không tranh quyền nữa, chỉ thương yêu đứa con gái phạm sai lầm, sợ ông khó xử nên không muốn dùng quyền uy của thái hậu và hiếu đạo ép ông mở một mặt lưới.
Ông vẫn luôn nhớ kỹ công sức của thái hậu bao năm qua, mặc dù trời sinh tôn sùng phụ quyền cũng không thể sánh bằng lòng kính yêu mẹ mình.
Thái hậu ra mặt khuyên bảo, sức nặng khiến cho Nguyên Thú đế không dám tùy tiện bác bỏ.
"Mẫu hậu phải hiểu rõ, con trai vì điều đó mà trù tính ba mươi năm, từ khi con trai biết được sự tồn tại của Tử Uyên là đã quyết định vị trí hoàng đế này thuộc về nó rồi."
"Mẹ và con đều mắc nợ Thôi Thanh Như và Tử Uyên, đúng là Tử Uyên rất xuất sắc, khi đó nó có dã tâm, muốn có được ngôi vị hoàng đế, mẹ vui và thành toàn cho tình cha con của các con.

Nhưng bây giờ Tử Uyên không muốn nữa, nó cũng không muốn vì ngôi vị hoàng đế mà vứt bỏ Triệu Bạch Ngư, hoàng hậu Đại Cảnh càng không thể là một người đàn ông!" Thái hậu thở dài, "Có phải con đang thắc mắc vì sao trước giờ mẹ không nhúng tay vào chuyện lớn trong triều, bây giờ lại đột nhiên ra mặt nói chuyện đúng không? Trước giờ mẹ quen lấy đại cục và giang sơn làm trọng, mắc nợ quá nhiều người, bao năm nay ăn chay niệm phật vẫn không thể trả được nợ.

Có lẽ là vì niệm Phật nhiều, chân tu được lòng từ bi, cho nên suy nghĩ mọi chuyện cầu toàn hơn, chỉ mong đám tiểu bối các con muốn gì được nấy, đừng tạo thêm sát nghiệt oan uổng nữa."
Thái hậu nắm chặt tay hoàng đế, tận tình khuyên nhủ: "Mẹ già rồi, bệnh tật kéo dài quấn thân, có thể sẽ không đi cùng con lâu nữa, nỗi lo đời này ngoại trừ con ra thì không còn gì khác, mẹ thật sự không muốn nhìn thấy dáng vẻ cô đơn bị mọi người xa cách của con."
Nguyên Thú đế xúc động: "Mẫu hậu nhất định có thể sống lâu trăm tuổi!"
Thái hậu cười hiền lành, ánh mắt nhìn Nguyên Thú đế tràn đầy yêu thương như ánh mắt của mọi người mẹ trong thiên hạ: "Nghe lời mẹ khuyên, buông tay đi.

Con cháu có phúc của con cháu, thứ mà con muốn cho không chắc có thể khiến Tử Uyên vui vẻ.

Nếu Như nương còn tại thế, chắc chắn sẽ ủng hộ sự lựa chọn của Tử Uyên."
Nguyên Thú đế cắn răng nói: "Thái tử gắn liền với giang sơn xã tắc, ngoại trừ Tử Uyên thì còn ai có thể gánh lấy trọng trách này đây?"
Thái hậu: "Lão Ngũ không được, lão Lục nản lòng thoái chí, còn có tiểu Thất, tiểu Cửu tiểu Thập Tam...!Con ta đương tuổi tráng niên, thân thể khỏe mạnh, triều thần xương cánh tay vẫn còn lắm người tài giỏi, học rộng hiểu nhiều, văn có thể trị nước, võ có thể an bang, lo gì không thể dạy ra một tân quân nhân hậu có tài trị quốc chứ?"
Nguyên Thú đế im lặng không nói.
Thái hậu đã nhìn ra ông bị lung lay, vì thế bỏ thêm dầu vào lửa.
"Mẹ biết rõ con muốn tốt cho Tử Uyên, mẹ khuyên con nhìn như là để cầu viên mãn cho đám cháu chắt, thật ra là thiên vị con.

Mẹ không muốn thấy các con quân thần bất thuận, cha con bất hòa, con thiên vị Tử Uyên, thật ra không phải không yêu thương đám lão Lục."
Câu này nói trúng lòng Nguyên Thú đế, đối với Đông cung và đám lão Lục, đúng thật là ông đã tỏ ra máu lạnh, nhưng không có nghĩa là trong lòng không áy náy, chỉ là cảm xúc đó cực kì bé nhỏ, bây giờ bị thái hậu phóng to ra mà thôi.
"Con có lòng yêu thương con mình, mẹ cũng vậy."
Nguyên Thú đế đã hoàn toàn cảm động: "Con trai bất hiếu."
"Nuôi con đến trăm tuổi, lo âu chín mươi chín năm." Thái hậu vỗ cánh tay Nguyên Thú đế: "Con hãy suy nghĩ kĩ đi, đừng để đến cùng chẳng ai được vui vẻ."
Nguyên Thú đế thỏa hiệp, "Con trai sẽ suy nghĩ kĩ."
Nói như vậy, thái hậu đã hài lòng rồi.
***
Khẩu dụ được truyền xuống, nhóm người Hoắc Kinh Đường mới được rời khỏi Tây Giao.
Triệu Bạch Ngư chân trước mới vừa bước vào phủ quận vương, chân sau đã bị đại thái giám đến mời tiến cung, gặp Nguyên Thú đế ở hồ Long Đình.
"Vi thần tham kiến bệ hạ."
"Ngồi đi." Nguyên Thú đế vỗ vỗ vị trí bên người, bảo Triệu Bạch Ngư ngồi xuống, không thèm nhìn y mà hỏi: "Trẫm định sẽ để Tử Uyên trở thành Thái tử, ngươi nghĩ thế nào?"
Triệu Bạch Ngư: "Bệ hạ mong ta trả lời với thân phận thần tử hay là thân phận quận vương phi đây ạ?"
Nguyên Thú đế: "Nói hết đi."
Triệu Bạch Ngư: "Là thần, thần không cho rằng Hoắc Kinh Đường có thể là một hoàng đế tốt.

Là vợ, ta không muốn chàng trở thành Hoàng đế."
Nguyên Thú đế: "Tử Uyên trong lòng ngươi bất trị như vậy sao?"

"Hoàn toàn ngược lại." Triệu Bạch Ngư đưa ra nghi vấn: "Bệ hạ, người cảm thấy Đại Cảnh hiện tại như thế nào? Dân chúng như thế nào?"
"Quốc thái dân an, trời yên biển lặng, thiên hạ thái bình."
"Bệ hạ, người cảm thấy gây dựng sự nghiệp khó hay là giữ vững sự nghiệp khó?"
Nguyên Thú đế nghe vậy liền biết nông sâu, bấy giờ mới quay đầu sang nhìn Triệu Bạch Ngư: "Gây dựng sự nghiệp khó, giữ vững sự nghiệp càng khó hơn."
"Thần lại cho rằng việc phục hưng mới khó.

Thứ cho thần nói thẳng, thánh tổ chính là vị vua gây dựng toàn bộ sự nghiệp và để lại nó, tự thực hiện tiết kiệm, mà bệ hạ chính là vị vua phục hưng, chịu nhiều khổ cực, cứu nước khỏi sóng dữ, lấy lại vinh quang cho quốc gia, đều là thế hệ tài trí mưu lược kiệt xuất, tân quân tiếp bước, ngày nay khắp nơi đều đã ổn định, phồn vinh hưng thịnh, đúng là lúc cần có một vị vua nhân từ gìn giữ cơ nghiệp trước, duy trì sự ổn định thái bình này.

Bệ hạ, người cảm thấy Hoắc Kinh Đường thích hợp trở thành một vị vua giữ gìn cái đã có sao?"
Không ai hiểu con bằng cha.
Hoắc Kinh Đường có thể trở thành vị vua lập đô phục hưng, hắn chỉ không thể trở thành vị vua gìn giữ cơ nghiệp trước, trên người hắn phủ đầy huyết tính lệ khí, chính trực quyết đoán, không thể làm vị vua nhân tự trị quốc như vậy được.
Cả triều văn võ, bao gồm cả Thái hậu đều đã khuyên nhủ, nhưng không có một ai trực tiếp đâm chọc uy h**p Nguyên Thú đế như Triệu Bạch Ngư cả, cũng là một người yêu thương Hoắc Kinh Đường, y mới có thể nhìn thấu được bản chất của hắn, về công về tư đều hiểu rõ Hoắc Kinh Đường không thích hợp làm hoàng đế.
"Coi như ta đã hiểu được vì sao Tử Uyên lại chung tình với một mình ngươi rồi." Nguyên Thú đế giật mạnh cần câu lên, con cá nhảy trên không trung hai lần, nuốt được mồi câu rồi bèn giãy giụa.

nhảy ngược lại xuống hồ, "Ngươi có hận trẫm không?"
"Không dám."
"Là không dám, không phải không có."
Triệu Bạch Ngư im lặng một lát, thản nhiên nói: "Thật là là không hề hận, người không làm gì có lỗi với ta cả."
Y chưa bao giờ yêu cầu xa vời rằng Nguyên Thú đế phải đối xử đặc biệt với mình, cho nên không cảm thấy tất cả những hành động xuất phát từ lợi ích, vì tình riêng của ông có chỗ nào có lỗi với y cả, không rõ bổn phận mà lại đòi hỏi đúng sai với đế vương, đúng là tự làm khó bản thân mình.
"Biết thói đời mà lại không sành đời, khéo đưa đẩy nhưng lại quá ngây thơ.

Triệu Bạch Ngư, ngươi cứ như thế đi, đừng thay đổi.

Trẫm lại muốn xem các ngươi có thể đi được bao lâu, Tử Uyên có hối hận với sự lựa chọn của nó hôm nay hay không, trẫm còn muốn nhìn thêm chút nữa..."
Triệu Bạch Ngư chờ một hồi lâu sau, nhưng Nguyên Thú đế chỉ phất phất tay cho y lui ra ngoài.
"Nghịch tử kia sợ ngươi chết ở trong thâm cung này, lén lút đi theo sau ngươi vào đây, đang chờ ở bên ngoài hồ Long Đình đấy, nếu không thả ngươi ra, sợ là nó sẽ xông vào đây, làm trẫm cụt hứng mất."
Triệu Bạch Ngư ho nhẹ hai tiếng: "Thần cáo lui."
Đợi y vừa đi, Nguyên Thú đế đã tiếp tục nhìn chằm chằm vào mặt hồ tĩnh lặng, rất lâu sau mới nhẹ giọng rầm rì một câu: "Trẫm và Như nương không thể chết già, cho nên muốn xem các ngươi có thể hạnh phúc đến cùng, bên nhau tới bạc đầu hay không."
***
Triệu Bạch Ngư thật sự nhìn thấy đại thái giám thấy chết không sờn đang đứng trước mặt Hoắc Kinh Đường, y vừa đến gần, Hoắc Kinh Đường cũng vừa nhấc mắt lên gọi y đến.
"Tiểu lang."
Đại thái giám xoay người, lập tức thở hắt ra: "Lão nô tham kiến Triệu đại nhân."
Triệu Bạch Ngư cười cười, "Đi thôi."
Hai người kề vai sát cánh xuất cung.
Hoắc Kinh Đường: "Ông ấy không gây khó dễ cho em chứ?"
Triệu Bạch Ngư: "Hỏi ta vài lời thôi, đã buông bỏ ý định lập chàng làm Thái tử rồi, hồi ở Tây Giao chàng đã làm những gì vậy?"
Hoắc Kinh Đường bèn thuật lại đơn giản dư tình của dân gian, lời khuyên can của triều thần và thái hậu một lần: "Ta tỏ thái độ trước, sau đó đến ý kiến và thái độ của dân chúng, có điều chúng không thể dao động bệ hạ.

Lúc này đến lượt các triều thần phản đối, sức nặng của bọn họ cũng chưa đủ, nhưng tài ăn nói của Thập thúc, mấy vị tể tướng và Trần thái sư rất cao minh, tư duy nhanh nhẹn, có thể nói có sách, mách có chứng lay động bệ hạ, cho ông ấy biết rằng khắp thiên hạ này ngoại trừ ông ấy ra, không ai đồng ý để ta trở thành Thái tử cả.

Cuối cùng mới cầu xin đại Phật ra tay."
"Thái hậu ư?"
"Đêm tiệc nhà, em nói cho ta biết thái độ của thái hậu, ta đã biết bà ấy sẽ đi khuyên bệ hạ, cũng chỉ có bà ấy mới có thể thật sự khuyên được bệ hạ thôi."
"Nếu như bệ hạ vẫn quyết giữ ý mình, ai nói cũng không nghe, vậy thì chàng phải làm sao bây giờ?"
"Còn có thể làm sao nữa? Dắt em đi trốn thôi."
Triệu Bạch Ngư nở nụ cười, lắc người huých Hoắc Kinh Đường một cái: "Không đứng đắn."
"...!Thành thật đi, chàng chưa từng nghĩ đến chuyện có con nối dõi sao?"
"Nếu như ta có chấp niệm với con nối dõi, thì đã phải để lại hạt giống từ lúc cổ độc vẫn chưa xâm nhập vào xương cốt tứ chi rồi."
"Ta muốn ăn heo sữa quay và rượu ngâm tuyết quá."
"Em đánh trống lảng cũng nhanh đấy nhỉ...!Trời vẫn còn sớm, giờ này đi có thể ngồi ở trên lầu đấy."
"Vậy thì tranh thủ thời gian đi thôi.

Nói thật, lúc được mời vào cung ta đã chuẩn bị tâm lý rồi, cứ sợ là sẽ bị ban cho một ly rượu độc..."
"Xem truyện ít thôi tiểu Triệu đại nhân của ta à, trí óc tỉnh táo thông minh của em đã sắp hỏng đến nơi rồi."
"Đây là chuyện hoàn toàn có khả năng xảy ra mà, đừng có việc gì cũng đổ lỗi cho thoại bản nữa...!Ta còn chưa nhắc đến chuyện chàng lén lút đọc bí hí đồ đây, đừng nghĩ ta không biết chàng là khách quen của mấy tiệm sách kia, mỗi tháng có hàng mới chàng đều mua rất bạo tay nha, ta còn thắc mắc vì sao chàng lại biết đủ trò như vậy...!Hoắc Kinh Đường, chàng đừng có im lặng, ê, đi chậm thôi!"
Trên cung đạo, chủ đề trò chuyện của Triệu đại nhân và Lâm An quận vương dần chuyển thành chuyện không thể nói được, cũng may trái phải không có người, bằng không thì sắp tới phủ Kinh Đô sẽ lại có một vở kịch tình yêu mới mà thôi.
Sau khi nghĩ sâu tính kỹ, cuối cùng Nguyên Thú đế cũng hủy bỏ lập trữ, nhưng đại điển truy phong Thôi Thanh Như làm hoàng hậu vẫn diễn ra như cũ, thân phận Đại hoàng tử của Hoắc Kinh Đường cũng được khôi phục, ông không thể tiếp tục khoan nhượng để tên của con trai mình treo trên gia phủ nhà Tĩnh vương nữa.
Ngũ hoàng tử vẫn còn ở lại Hộ bộ phủ Kinh Đô làm việc, Lục hoàng tử xin đất phong ở Định Châu, sau tết trùng cửu là lên đường, nếu không có chuyện gì ngoài ý muốn, e là hắn sẽ không trở về kinh nữa.
Trước khi lên đường, hắn ta đến điện Văn Đức cầu ý chỉ, chỉ có những người thân thiết gần gũi mới biết hắn ta đến cầu Nguyên Thú đế khai ân, đừng chôn cất di thể của quý phi vào phi lăng.
Mặc dù theo lý là không hợp, nhưng xuất phát từ lòng áy náy, Nguyên Thú đế vẫn đồng ý với yêu cầu của hắn ta.
Cứ thế, mọi chuyện đều đã kết thúc, chỉ là vẫn còn phải tổ chức nghị sự để chọn Thái tử, Nguyên Thú đế quyết định sẽ chọn từ những hoàng tử nhỏ tuổi để dạy dỗ, lần này ông tính để cho tam công cửu khanh đến dạy.
Tất cả các hoàng tử đều được đối xử như nhau, đến lúc đó chọn ra một người thích hợp nhất trong số đó để lập trữ.
Chủ ý đã định, không ai phản đối, Nguyên Thú đế tự thiết kế ý định của mình, chỉ định Triệu Bạch Ngư làm Thiếu sư của hoàng tử, ngày sau lập trữ sẽ trở thành Thái sư của Thái tử, phò tá Thái tử đến khi đăng cơ mới thôi.
Trong đám hoàng tử, đứa nhỏ tuổi nhất vẫn còn chưa được mười tuổi, Nguyên Thú đế còn có thể tại vị ít nhất là mười năm nữa, đến khi Thái tử đăng cơ, Triệu Bạch Ngư với tư cách là Thái sư của Thái tử nhất định còn cần phải hỗ trợ cho đến khi triều cục ổn định, mà hoàng đế chắc chắn sẽ không tha người, chẳng lẽ phải đợi đến tận hai mươi năm nữa mới được từ quan hay sao?
Hoắc Kinh Đường đuổi thái giám đến truyền chỉ ra khỏi phủ quận vương, cho rằng Nguyên Thú đế cố tình cản bước hắn, có điều mới vừa rồi hắn đã ép Nguyên Thú đế cúi đầu lui một bước lớn, bây giờ không có lý do gì để vào cung quậy một trận nữa, chỉ khổ cho tiểu Bồ Tát của hắn thôi.
Thế là hắn rầu rĩ không vui, tự tức tối một mình, từ sáng sớm đã ra sân khua đao múa thương, chưa trút được lửa giận lại chạy vào Phật đường gõ mõ hết nửa canh giờ, chép kinh Phật một canh giờ, giữ chừng đột nhiên chạy đến trước mặt Triệu Bạch Ngư, nhìn y chằm chằm.
Triệu Bạch Ngư bình tĩnh như thường, tiếp lục làm việc đang làm.
Nghiên Băng đến hỏi bài thấy thế thì sợ hãi từ tận đáy lòng, cậu thấy Hoắc Kinh Đường ngồi đó một lát rồi chẳng nói chẳng rằng đứng lên bước đi thẳng, không khỏi ôm bụng nghi ngờ: "Ngũ lang, quận vương bị cái gì đả kích vậy ạ?"
"Ăn chút bực bội, tự tức giận với mình ấy mà." Triệu Bạch Ngư vui vẻ cười rộ lên, giải đáp mấy câu ngắn ngọn cho vấn đề mà Nghiên Băng đang thắc mắc, đợi cậu hiểu rồi mới cầm thoại bản lên tiếp tục đọc, vừa khéo đọc tới lời bình của nhân vật chính trong sách, thuận miệng nói ra: "Đời này thong dong trời đừng hỏi, xưa nay mọi sự chảy về đông."
Ánh mặt trời xuyên qua khung cửa chiếu vào trong nhà, chùm hoa lăng tiêu nghiêng mình trên mái nhà rũ xuống bên ngoài cửa sổ, chiếc chuông màu cam xinh xắn hồn nhiên đong đưa theo gió tựa như bông hoa nhỏ, rung rinh tràn ngập sự sống.
Triệu Bạch Ngư duỗi eo duỗi cổ, có hương hoa, có mùi nắng, cũng có mùi nước mực thư hương chưa khô thoang thoảng qua cánh mũi, hít một hơi vào phổi mà lòng sáng dạ thông, mặt mày không khỏi nheo lại, y thở dài:
"Một phen xuân rồi đến thu, thế sự biết bao ưu phiền, tận hưởng thú vui trước mắt thôi chứ nhỉ."
=== HOÀN CHÍNH VĂN ===
***
Min: Ta da ~ cuối cùng mình cũng đã hoàn thành chính truyện kịp trước tháng 10 (là tròn một năm) rồi nè.

Vẫn còn tới tận 11 ngoại truyện nữa mình sẽ từ từ edit, vì chương nào nó cũng dài như chương bình thường
Cảm ơn mọi người đã chờ đợi và ủng hộ mình suốt thời gian qua, còn rất nhiều lời mình muốn nói nhưng có lẽ mình sẽ để dành lại đến ngoại truyện cuối rồi nói luôn một thể nha ️
Love you all sooooo much.
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 108: 108: Ngoại Truyện 1 • Phù Sinh Nửa Buổi Nhàn


(*) Nguyên văn: Trộm được phù sinh nửa buổi nhàn – 偷得浮生半日闲 (Nguồn: Tu Viện Thiện Tường): Một câu thơ của nhà thơ Lý Thiệp thời Đường.

Phù sinh chỉ cuộc đời, nên câu thơ có thể hiểu rằng trộm được nửa ngày nhàn nhã trong dòng đời vội vã.
Dịch nghĩa:
Sống say chết mộng mãi mê mang / Chợt nghe Xuân hết, gắng đăng san / Cùng tăng trò chuyện trên sân trúc / Trộm được phù sinh nửa buổi nhàn!
(- Lý Thiệp đời Đường, Sakya Minh-Quang dịch -)
***
Triệu Bạch Ngư về kinh báo cáo công tác xong là tháo chức Kinh lược sứ, quan phục nguyên chức, vẫn là một thân kiêm hai công việc, có điều đổi từ Ngự sử trung thừa dành Hoàng tử Thiếu sư, tạm thời có kha khá nhiều thời gian rảnh rỗi.
Sau khi phủ Kinh Đô được thay đổi thành mô hình sương phường, nha dịch giữ gìn trị an phải trải qua quá trình đào tạo, huấn luyện xong mới được nhậm chức, Triệu Bạch Ngư cũng phổ biến cơ chế vận hành giám sát và báo cáo lẫn nhau, đề phòng công sai nha dịch và thương nhân lòng dạ hiểm độc cấu kết với nhau phá hỏng cán cân thị trường.
Đám trộm cắp thường hành sự vào ban ngày ban mặt không thể nói là biến mất chẳng thấy tăm hơi, nhưng hầu như đều giấu đầu giấu đuôi không dám quậy phá nữa, vì vậy những vụ án gạt người lừa tài sản và những vụ báo thù vì bị lừa gạt đã giảm bớt đi rất nhiều.
Triệu Bạch Ngư nhậm chức Tri phủ Kinh Đô đã bốn năm nay, tỉ lệ phạm tội trong phủ và huyện dưới quyền giảm mạnh, nhờ thực hiện an ninh trật tự bằng cách "không nhặt của rơi trên đường, ban đêm không cần đóng cửa" mà buôn bán trở nên phồn vinh, thuyền bè ra vào bến thuyền, cửa sông của bốn kênh Kinh Đô gần như không có lúc nào ngừng nghỉ, nhiều nước bạn đến thăm, có thể gặp người nước ngoài mũi cao mắt sâu đến đây kinh doanh hoặc giao lưu văn hóa ở bất kì một con phố hay nhà trọ nào.
Triệu Bạch Ngư chưa từng tận mắt nhìn thấy bốn phương tám hương Khai Nguyên* thịnh thế trong lịch sử ở đời trước, nhưng có lẽ nó cũng không khác gì mấy so với thịnh thế trước mắt y bây giờ.
(*) Khai Nguyên (niên hiệu của vua Đường Huyền Tông tức vua là Lý Long Cơ công nguyên 713-741
"Tiểu Triệu đại nhân, hôm nay lão có cua rượu mới vừa ngâm đêm qua, ngài có muốn mua hai con không?"
Lúc qua cầu trong chợ, ông lão bán cua ngâm rượu trên cầu đã coi y như khách quen rồi, nhìn thấy Triệu Bạch Ngư là gọi người lại ngay.
Triệu Bạch Ngư tiếc nuối từ chối: "Mấy ngày nay sức khỏe không ổn lắm, đại phu đã dặn ta không được ăn đồ lạnh, nếu không sẽ bị đau bụng." Y lắc tay lia lịa, "Thật sự không dám tham ăn."
Ông lão nghe vậy cũng tỏ vẻ tiếc nuối, lập tức nghĩ đến một chuyện: "Quán rượu ở bên kia sông mới vừa cho ra lò món mới, gọi là món dê con hấp nhừ, đó là một món ăn nổi tiếng khắp Kinh Đô này, mỗi ngày đều có thể thấy quý nhân ra vào xếp hàng chờ.

Nghe nói nguyên liệu được chọn từ dê non Đồng Châu, thịt dê vừa tươi sạch vừa mềm ăn rất ngon, lúc chế biến người ta dùng trà hạnh nhân và các loại gia vị khác để nêm nếm, nấu xong mới bưng lên bàn, không thể dùng đũa gắp mà phải dùng muỗng múc mà ăn."
Triệu Bạch Ngư nghe mà thèm nhỏ dãi: "Sao ông lại biết rõ thế?"
Ông lão vỗ đùi nói: "Hàng xóm của lão gả con gái đi, gả được vào gia đình tốt, lúc làm tiệc cưới có đặt món thịt dê hấp nhừ này để đãi, ăn xong một lần nhớ mãi không quên, hay nhắc đi nhắc lại bên tai lão ấy mà."
Triệu Bạch Ngư giấu tay đi, đứng ở đầu cầu, ánh nắng chiều phủ khắp mặt sông rộng lớn, sóng gợn lăn tăn, thuyền hàng đậu rải rác, còn có một chiếc thuyền đi qua dưới cầu, bên bờ có người kéo thuyền đang lôi thuyền vào, cành liễu ở hai bên bờ sông rũ xuống đón gió.
Quán rượu mà ông lão chỉ đúng là đông nghìn nghịt khách, bên cạnh là một nhà bán rượu lâu năm, cờ hiệu trước cửa phấp phơi trong gió, hương rượu nhẹ nhàng bay xa mười dặm, Triệu Bạch Ngư đứng ở tận đầu cầu bên này mà còn có thể ngửi được mùi thơm kia.
Mặc dù không bằng một phần trăm của đời trước, nhưng vẫn có thể thấy được, đây đã là một thế giới phồn hoa thịnh vượng mấy ngàn năm nay chưa từng thấy rồi.
Triệu Bạch Ngư mỉm cười, nói: "Nhờ ông đề cử, ta sẽ thử đến đó xem có thể đặt được món thịt dê hấp nhừ quán bọn họ không." Nói xong thì tạm biệt ông lão.
Đến trước quán rượu, trời hãy còn sớm, y thật sự bước tới chỗ biển hiệu chờ đặt hàng, gọi phục vụ giao hàng rồi hẹn giờ giao đến phủ Trần Sư Đạo, lúc gần đi sẵn tiện dặn dò chủ quán: "Làm xong việc rồi, còn thừa một chén hãy đưa đến chỗ ông lão bán cua ngâm rượu ở đầu cầu nhé."
Ông chủ quán rượu vỗ ngực đảm bảo: "Đại nhân cứ yên tâm, ta nhớ rồi."
Triệu Bạch Ngư để bạc lại rồi đi.
***
Dạo chợ mua thêm một vài món ăn nóng hổi như thịt lừa nướng, thịt thỏ nướng than,...!xong xuôi, Triệu Bạch Ngư mang chúng đến nhà thăm Trần Sư Đạo, tiện thể bàn bạc với ông cụ xem phải làm sao để trở thành một Hoàng tử Thiếu sư tốt, dù sao thì Thái sư Trần Sư Đạo cũng là người có khá nhiều kinh nghiệm.
Bước vào tiền thính Trần phủ, Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên phát hiện Cao đồng tri và Triệu Bá Ung cũng có mặt.
Triệu Bá Ung thoáng nhìn sang Triệu Bạch Ngư, lập tức đứng dậy, một lúc sau mới nhớ hành động này của ông quá dễ gây sự chú ý với người khác, thế là bèn ngại ngùng ngồi xuống trở lại.
Cái mũi già tham ăn của Trần Sư Đạo khịt khịt, bấy giờ mới ngửi ra được trong túi giấy dầu trên tay Triệu Bạch Ngư có cái gì, đọc lên từng món một, rồi ông cụ tỏ vẻ tiếc hùi hụi, nói: "Đồ ăn ngon thế mà lại không có rượu ngon ướp lạnh để nhắm, tiếc quá tiếc quá."
Triệu Bạch Ngư: "Tiệm rượu bán rượu tuyết ngâm hoa mai nằm ngược với đường con đến đây, vừa nãy vào phủ con đã gọi tiểu đồng đi mua rồi, có lẽ bây giờ đang trên đường về đấy ạ."
Mặt mày Trần Sư Đạo thoáng cái hớn hở: "Thầy thích ngũ lang đến làm khách lắm đấy, lúc nào cũng hiểu lòng thầy cả."
Triệu Bạch Ngư: "Con là học sinh của thầy, không mang theo chút đồ ăn thì nào dám tới gặp thầy? Thầy đó, thầy ăn được món gì, thích ăn món gì, con đều nhớ rất rõ."

Trần Sư Đạo: "Thành thật quá đi thôi, đến Đại lang còn chẳng hiểu thầy bằng con nữa."
Đoạn đối thoại của hai thầy trò bọn họ vô cùng tự nhiên, nói lời nào cũng đều lộ ra sự thân mật khiến cho Triệu Bá Ung ngồi bên cạnh nghe mà lục phủ ngũ tạng đều chua xót, vô thức hừ một tiếng, vừa hừ xong đã phải nhận lấy mũi nhọn mà Trần Sư Đạo nhắm tới.
"Lòng dạ phủ tạng xấu xa rất dễ dẫn tới tâm trạng bất mãn, mà tâm trạng bất mãn thì giọng sẽ không nghe lời, mấy kẻ quái gở thích hừm hừ đúng là khiến người ta phát ghét...!Triệu tế chấp, ông thấy ta nói như vậy có lý không?"
Triệu Bá Ung miễn cưỡng làm mặt cười, đáp lại hai tiếng rồi thôi.
Trần Sư Đạo đắc ý, vỗ bàn ý bảo Triệu Bạch Ngư mau mang đồ ăn đến đặt xuống, sau đó lệnh cho nha hoàn cầm chén đũa và chung rượu tới, ấy vậy mà lại không cắt bớt một bộ chén đũa của Triệu Bá Ung, khiến cho một người đường đường là tế chấp kích động đến nỗi mất một lúc lâu sau lòng mới có thể yên tĩnh trở lại.
Đây chính là đồ ăn tự tay ngũ lang mua tới, nói cho vuông thì chính là con trai nhỏ của ông vì ông mà xuy kim soạn ngọc, làm sao có thể không quý trọng cho được?
Triệu Bá Ung nhai chậm nuốt chậm, thỉnh thoảng tự cho là kín đáo quan sát Triệu Bạch Ngư, vểnh tai cẩn thận lắng nghe y và Cao đồng tri, Trần Sư Đạo bàn bạc về việc dạy dỗ các hoàng tử thế nào.
Nguyên Thú đế hạ chỉ, lệnh cho bốn người bọn họ, trong đó có Lư tri viện giữ chức thầy giáo của các hoàng tử, hai người phụ trách giảng văn học và thuật trị nước, hai người còn lại phụ trách dạy võ, rèn luyện thân thể.
Trần Sư Đạo đã quá quen với quá trình thụ nghiệp và giải hoặc, "Tùy theo khả năng tới đâu mà dạy tới đó, bốc thuốc đúng bệnh.

Các ngươi không thể biết rõ tư chất, tính tình của các hoàng tử ngay được, cần phải thấu hiểu trước rồi mới có thể tiến tới việc đưa ra định hướng giáo dục cho bọn họ.

Dù sao thì cũng phải đối xử với bọn họ khác hoàn toàn với học sinh trong thiên hạ, thái tử được chọn ra từ trong số đố, cần phải thận trọng từng bước một, tránh mắc phải sai lầm, di họa bá tánh."
Triệu Bạch Ngư gật đầu.
Cao đồng tri cũng nêu ra một vài quan điểm của mình, thậm chí đến Triệu Bá Ung cũng truyền đạt một số hiểu biết của mình về mấy vị hoàng tử.
Lúc đối mặt với ông, Triệu Bạch Ngư cố gắng khiến cho biểu cảm của mình không thay đổi quá nhiều, trông như bình thường, thật ra trong lòng y hơi bối rối, mặc cho ai đó vô thức thể hiện sự niềm nở, trông mong nhìn thấy biểu cảm của y, nói chung là không được tự nhiên lắm.
Triệu Bá Ung mà y biết là một người nghiêm khắc hay quát mắng, không bao giờ thay đổi sắc mặt chán ghét, đột nhiên thái độ quay ngoắt, đã bốn năm rồi mà y vẫn cảm thấy lạ lẫm.
"Nhiệm kỳ của Tri phủ Kinh Đô dài nhất cũng chỉ năm năm, tính thêm một năm đến Tây Bắc nhậm chức Kinh lược sứ nữa thì cũng đã sắp kết thúc nhiệm kỳ rồi.

Bây giờ con là Hoàng tử Thiếu sư, sẽ không dễ gì bị phái rời kinh nữa, xét thấy trước đây con đã từng nhậm chức Thuế vụ sứ, cái ghế Đạc chi sứ Tam ty đang trống, có khả năng sẽ để con bổ khuyết vào đó."
Trò chuyện vấn đề hình thức dạy học xong, trong một khoảnh khắc im lặng, Triệu Bá Ung đột nhiên lên tiếng.
Triệu Bạch Ngư nhận ra mình đang nói chuyện với ông thì hơi sửng sốt, sau đó gật đầu đáp lại một tiếng.
Triệu Bá Ung hơi thất thần, nhưng rồi cũng nhanh chóng bình tĩnh lại để nói sang vài chuyện khác, "Tết Trùng Cửu sau thu thì phải leo cao ngắm cảnh, theo thường lệ còn phải tổ chức tiệc ngắm hoa cúc.

Chỉ tiếc trong phủ không có danh thắng núi cao nào, cũng ít chỗ có thể leo lên cao...!Ta nhớ Trùng Cửu năm ngoái có một bữa tiệc ngắm hoa rất lớn đã được tổ chức ở vườn Ngọc Tân trên danh nghĩa của Quảng Bình quận vương, nghe nói văn nhân nổi tiếng trong phủ đều đến đó? Năm nay không biết có tiếp tục tổ chức nữa hay không, ngũ lang sẽ đến chứ?"
(*) Tết Trùng Cửu (hay còn gọi là Tết Trùng Dương, Tết người cao tuổi, Tết người già, chính là ngày 9/9 Âm lịch hằng năm theo phong tục của người Trung Quốc.

Con số 9 được coi là số dương và sự lặp lại hai lần của nó trong ngày 9/9 chính là lý do mà nó được gọi là Trùng Cửu, Trùng Dương..

========== Truyện vừa hoàn thành ==========
1.

Cô Dâu Bảy Tuổi: Làm Dâu Âm Phủ
2.

Qua 81 Nạn Mới Cưới Được Vợ
3.

Nốt Ruồi Son Nơi Đáy Mắt
4.

Như Giấc Mộng Ban Đầu (Tự Mộng Sơ Giác)
=====================================
Ở Việt Nam trước đây vào thời Lý - Trần các nho sĩ cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng tết Trùng Dương.

Mặc dù hiện nay Tết Trùng Cửu không có sức ảnh hưởng lớn trong văn hóa của người Việt Nam nhưng nó vẫn được coi là một ngày lễ quan trong của Nho giáo.
Cao đồng tri im lặng đặt chung rượu xuống, che mặt không nói gì.
Trần Sư Đạo dùng tay áo che khuôn mặt cười nhăn nhở, tài nói chuyện phiếm tẻ nhạt đến thế thì có thể mong được đáp lại cái gì chứ?
Triệu Bá Ung không hiểu lắm, vẫn là Triệu Bạch Ngư giải thích thắc mắc giúp ông: "Tiệc ngắm hoa cúc năm ngoái xảy ra xung đột, các chính khách nổi tiếng và văn nhân đánh nhau tơi bời, đập nát rất nhiều cây hoa cúc có giá trị rất lớn trong vườn, Quảng Bình quận vương tức bệnh hơn nửa tháng, chắc mấy năm sau này sẽ không tổ chức thêm bữa tiệc ngắm hoa cúc nào nữa đâu."
"Vì sao mà lại đánh nhau tơi bời?" Triệu Bá Ung hỏi.
Triệu Bạch Ngư thấy trên mặt ông toàn vẻ tò mò, bèn nói kỹ hơn: "Nguyên nhân là do một học sinh vừa thi đậu tỉnh cùng với một học sinh trong phủ vừa trúng cử Quốc Tử Giám đã thi làm thơ từ một chậu hoa cúc tím, hoa cúc tím kia được một ca cơ có vẻ ngoài xinh đẹp ôm lấy, hai người đều muốn thể hiện trước mặt cô gái xinh đẹp đó, kết quả làm được câu thơ trích dẫn cùng một điển cố, không thể phân tranh, không ai nhường ai bèn chửi mắng lẫn nhau, phát sinh tranh cãi, sau đó..." Y hồn nhiên chẳng hay biết Triệu Bá Ung đang nhìn mình bằng ánh mắt yêu thương, mà Triệu tế chấp dẫn dắt ba ngàn môn đảng cũng không hề nhận ra điều đó, "...!Thật ra đến cùng cũng chỉ là học phái bần hàn tranh đấu với đệ tử sĩ tộc thôi, chẳng ai phục ai cả."
"Hóa ra là vậy, chỉ cần nhìn sơ qua là hiểu được toàn bộ sự việc rồi." Triệu Bá Ung: "Ngũ lang nhanh nhạy thật."
Triệu Bạch Ngư nghe vậy thì nhướn mày, nhanh chóng nhận ra, chỉ cúi đầu cười không nói gì.
Triệu Bá Ung thấy tốt thì lấy, lúc này mới "thu binh".
Ngược lại Cao đồng tri lên tiếng: "Sơn Hà lâu là một nơi đáng đến, nó nằm giữa dãy núi, gần sát trời sao, vừa có thể bắt chước người xưa leo núi ngắm cảnh, vừa có thể tổ chức tiệc ngắm cúc, chỉ tiếc không cho bên ngoài mượn chỗ, cũng không mở cửa cho người ngoài vào."
Triệu Bạch Ngư: "Ta nhớ Sơn Hà lâu không có trồng cúc."
Cao đồng tri: "Bữa tiệc ngắm cúc của Quảng Bình quận vương có một nửa danh phẩm được mượn từ Sơn Hà lâu tới đấy."
Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên: "Ta không biết chuyện ấy."
Ba người còn lại đều nhìn về phía y, Trần Sư Đạo nói: "Nói như vậy, ngũ lang thường xuyên ra vào Sơn Hà lâu hay sao?"
Triệu Bạch Ngư: "Bệ hạ ban cho Hoắc Kinh Đường."
"Chẳng trách." Trần Sư Đạo đập bàn, bừng tỉnh ngộ ra: "Bảo sao điện hạ lại giấu kín bưng không khoe ra ngoài."
Lúc này đã có người giao món thịt dê hấp nhừ tới trước phủ, khi nắp hộp sơn vàng vừa được nhấc lên cũng là lúc mùi thơm xộc vào mũi, dẫn dắt cơn thèm ăn trong dạ dày của Trần Sư Đạo ra, ông cụ chẳng nói lời nào mà vùi đầu vào ăn uống cật lực.
Ăn no nê xong là đến buổi chiều, bọn họ quây quần uống trà giải ngấy, nói thêm một vài chuyện trong triều nữa, không lâu sau đó thì ai về nhà nấy.
Rời khỏi Trần phủ, Cao đồng tri kéo Triệu Bạch Ngư vào trong góc hỏi nhỏ: "Đến tết Trùng Cửu có thể cho phép lão phu đưa phu nhân đến Sơn Hà lâu không?"
Chưa chờ Triệu Bạch Ngư đáp lại, Cao đồng tri đã chủ động nói rõ nguyên nhân: "Phu nhân thích hoa cúc lắm, nhưng lại không khéo tay."
Triệu Bạch Ngư đã hiểu, "Ta sẽ nói lại một tiếng, nhưng ông cứ đến đi, không sao đâu."
Cao đồng tri nói lời cảm ơn rồi đi.
Khi Triệu Bạch Ngư chuẩn bị về phủ quận vương, xe ngựa của Triệu phủ dừng ở bên cạnh, Triệu Bá Ung ngồi trong xe nói: "Chở con đi một đoạn nhé."
Triệu Bạch Ngư lịch sự từ chối: "Phủ quận vương ngược đường với Triệu phủ."
Triệu Bá Ung: "Đi vòng thêm một vòng thôi mà."
Triệu Bạch Ngư: "Không cần đâu, đường từ Trần phủ về phủ quận vương không xa, ta đi bộ về cho tiêu cơm được rồi." Y chắp tay cáo từ, xoay người đi ngay, không nhìn thấy ánh mắt của Triệu Bá Ung ở sau lưng đã tối sầm xuống.
Bước được bảy tám bước rồi, Triệu Bạch Ngư bỗng nhiên dừng lại, xoay người đưa lưng về phía ánh trăng, chắp tay với Triệu Bá Ung: "Về chuyện khuyên can bệ hạ từ bỏ việc lập Hoắc Kinh Đường làm thái tử, Tế chấp đã sẵn lòng tương trợ, hạ quan vô cùng biết ơn."

Giương mắt lên, y nhẹ giọng nói: "Ta cũng chịu ơn ngài."
Nói đến đây, Triệu Bạch Ngư nhanh chóng xoay người bước nhanh đi, không để cho Triệu Bá Ung có thời gian phản ứng.
Xe ngựa đứng giữa đường tắt, dưới ánh trăng trong suốt, Triệu Bá Ung nâng tay áo lên che mặt, khóc vì vui sướng.
***
Trước tết Trùng Cửu, trước cửa điện Văn Đức.
Hoắc Chiêu Vấn cầu kiến Nguyên Thú đế, cung kính đứng chờ trước cửa một hồi lâu, đại thái giám mới vội vàng chạy tới nói Nguyên Thú đế đang dùng bữa tại cung Phúc Ninh, lệnh cho hắn sang đó ngay.
Hoắc Chiêu Vấn không nói hai lời mà đi tới cung Phúc Ninh, bước vào trong liền vén vạt áo bào lên quỳ xuống cầu xin: "Bệ hạ, thần đã chuẩn bị hành lý xong xuôi, hai ngày nữa sẽ lên đường, đặc biệt đến đây chào tạm biệt."
"Chẳng phải sau tết Trùng Cửu mới đi sao?"
"Sau tiết này nhiệt độ sẽ thấp xuống, ông ngoại thần không đủ sức khỏe, chỉ sợ trên đường về Định Châu không chịu nổi rét lạnh, cho nên mới lên đường trước khi trời trở lạnh."
Lần này Trịnh quốc công về kinh, nhìn rõ thái độ của Nguyên Thú đế, thức thời trả lại binh quyền rồi từ quan, ông ấy đã sống ở biên cương nửa đời, vợ già cháu chắt đều sống ở đó, sau khi chào từ giả rồi mới đi cùng Hoắc Chiêu Vấn về Định Châu.
Về phần Trịnh Nguyên Linh, bởi vì là công thần, bản thân ông ta cũng có chiến công, phủ quốc công cũng đã yếu thế, Nguyên Thú đế không gây khó dễ nữa, chỉ tạm cách chức quan để khiển trách, qua hai năm nữa là có thể lên chức trở lại.
Trịnh Sở Chi thì ở lại phủ Kinh Đô, sẵn tiện chăm sóc cho Tần vương bị cấm túc.
"Lại đây, ngồi kế bên trẫm." Nguyên Thú đế bảo Hoắc Chiêu Vấn đến dùng bữa cùng mình, cẩn thận quan sát lão Lục, từ lúc hắn trở về ông đã xem hắn như một viên đá định bụng sẽ diệt trừ, chưa từng nghiêm túc nhìn hắn, bây giờ nhìn chú ý nhìn kĩ mới nhận ra đường nét khuôn mặt của hắn là giống ông nhất.

"Vẫn còn oán giận trẫm sao?"
Hoắc Chiêu Vấn: "Thần không dám."
Hắn không hề xưng nhi thần và phụ hoàng, đôi bên bị ngăn cách bởi quân thần, cũng không còn quấn quít với ông nữa.
Nguyên Thú đế không tránh khỏi nuối tiếc, hiểu ra trong lòng hắn vẫn giận mình, im lặng dùng xong bữa ăn trưa mà cả hai bên đều không thoải mái.
Dùng bữa xong, trước khi Hoắc Chiêu Vấn đi, Nguyên Thú đế đột nhiên nói: "Tử Uyên có thể đoán được ván cờ mà trẫm sắp đặt, nó sẽ không để cho con và quý phi tự sát."
Tưởng chừng như bất chợt nói ra câu này, thực chất là đáp lại lời chất vấn của Hoắc Chiêu Vấn lúc ở Hoàn Khâu, hắn đã hỏi Nguyên Thú đế có phải ông thật sự không nghĩ rằng bọn họ sẽ tự sát hay không, khi đó không nhận được lời đáp, nhưng trả lời lúc này chi bằng không trả lời.
Hoắc Chiêu Vấn đưa lưng về phía Nguyên Thú đế, nở nụ cười trào phúng, hóa ra không nghĩ bọn họ sẽ tự sát là vì tin tưởng sự nhạy bén và hữu ái của Hoắc Kinh Đường sao?
Đúng là châm chọc quá mà.
Đến cùng thì tính mạng của hắn và mẹ ruột rõ ràng vẫn được gửi gắm vào sự bất công của Nguyên Thú đế đối với Hoắc Kinh Đường.
Hoắc Chiêu Vấn bi thương chết tâm, hoàn toàn không còn chút tình cha con với Nguyên Thú đế nữa, quãng đời về sau chỉ còn tình quân thần mà thôi.
"Thần sợ hãi."
Nói xong, hắn rời đi không quay đầu lại.
***
Tết Trùng Cửu đến.
Sáng ngày ra phủ quận vương đã vẫy nước quét nhà trừ bụi, để không làm chướng mắt người khác, Hoắc Kinh Đường đã dẫn Triệu Bạch Ngư rời phủ từ sớm, hai người ra chợ dạo một vòng trước, rồi đến quán trà ngồi nghe kịch bản truyện vừa ra mắt, sau đó mới đến nhà bạn bè gần đó làm khách.
Phủ Khang vương "may mắn" được chọn trúng, hai người kề vai sát cánh đến phủ thăm hỏi, phát hiện trước cửa là hàng loạt xe ngựa chen lấn nhau chật kín như bưng, thấy tò mò bèn hỏi gia đinh dẫn đường.
Gia đinh nói: "Là các nhà quan lại quyền quý trong kinh đến phủ leo cao."
Lúc này Triệu Bạch Ngư mới chợt nhớ ra phủ Khang vương có một tòa tháp cao năm tầng, hình như năm đó khi xây phủ, toà tháp này đã được dựng nên bằng mọi sự đấu tranh và lí trí.
Mỗi một tấc đất ở trong kinh thành đều vô cùng đắt đỏ, diện tích xây phủ không có nhiều, vốn chẳng có đủ chỗ cho một tòa tháp năm tầng, vì vậy nên khi chọn nơi xây phủ, Khang vương đã cố tình chọn một nơi khá xa hoàng cung, thế là bị không ít người chê cười.
Cười ông chọn cái nhỏ bỏ cái lớn, nhưng mỗi năm cứ đến tết Trùng Cửu là người đến nhà thăm hỏi lại cực kì đông đúc, phần lớn là những người năm xưa cười nhạo Khang vương.
Lúc bước vào phủ, Triệu Bạch Ngư thoáng nhìn sạp hàng nhỏ được dựng lên trước cửa, bèn hỏi là để làm gì.
Gia đinh: "Cao đô tri phân phó, phải thu phí vào leo núi, phí trái cây...! À, làm như vậy là để tránh những chuyện phát sinh ngoài ý muốn như có người hạ độc, hạ dược hại người khác liên lụy đến vương phủ ấy mà, Cao đô tri có ý dặn dò không được mang thức ăn bên ngoài vào."
Triệu Bạch Ngư: "..." Không hổ là Cao đô tri quản lý nội khố, sắp trở thành cái sọt tiền thành tinh rồi, y tò mò không biết có còn ngày lễ nào khác mà Cao đô tri không ôm tiền hay không nữa.
Xuyên qua hành lang gấp khúc là có thể nhìn thấy hòn non bộ, hồ nước, mà tòa tháp kia ẩn náu giữa những hòn non bộ, đi vào con đường nhỏ giữa vô số ngọn núi giả là có thể nghe được tiếng ồn ào náo nhiệt trong tòa tháp xa xa, mơ hồ còn có tiếng hát, Triệu Bạch Ngư lập tức bỏ ý định đi vào tháp thưởng thức những thứ đó, cùng Hoắc Kinh Đường đi ngược lại, phát hiện bên hồ có mấy chiếc thuyền, thế là quyết định chèo thuyền du ngoạn trên hồ.
Theo luật thì tết Trùng Cửu là ngày nghỉ, sĩ tộc quan thân và cả học sinh đều được nghỉ, bấy giờ sẽ kết bạn leo núi, gộp nhóm đi hội đạp thanh, mở tiệc thưởng cúc, ăn bánh hoa ngọt, tụ tập uống rượu, say rồi thì thi ngâm thơ hoặc là vẩy mực vẽ tranh, hát hò khoe giọng, đến lúc giải tán thì sẽ lựa cánh hoa cúc mang về nhà, để cho người nấu rượu hoa cúc, chờ đến tết Trùng Cửu năm sau sẽ lấy ra uống, ngụ ý trường sinh, kéo dài tuổi thọ.
Triệu Bạch Ngư nằm trên thuyền nhỏ, dùng mu bàn tay chống cằm, hai mắt híp lại, ánh nắng mặt trời ngày hôm nay sáng dịu chứ không chói lóa, gió trên hồ khẽ lướt qua, kéo theo hơi ấm khiến cho tinh thần người ta say đắm.
Hoắc Kinh Đường thì nằm ngửa ở đầu bên kia nhắm mắt nghỉ ngơi, phơi bày dáng vẻ lười biếng ra, không ai muốn lên tiếng nói chuyện.
Bỗng nghe một tiếng rồn rột khẽ vang lên, Triệu Bạch Ngư mở mắt, nghiêng tai lắng nghe thì phát hiện ra đó chính là âm thanh phát ra từ bụng Hoắc Kinh Đường, y đá vào bắp chân hắn hỏi: "Chàng đói à?"

Hoắc Kinh Đường lời ít ý nhiều: "Ừ."
"Lên bờ ăn cơm thôi."
Hoắc Kinh Đường nằm sải lai: "Không muốn di chuyển."
Triệu Bạch Ngư: "Chàng định chết đói luôn hay sao?"
Hoắc Kinh Đường nằm im ru: "Chết đói luôn đi."
Triệu Bạch Ngư hừ một tiếng, vừa ngẩng đầu lên đã nghênh đón một luồng gió mát phả vào mặt, khắp người thư thái mềm mại, trùng hợp thay y cũng hơi đói, nhưng liếc nhìn thấy thuyền nhỏ đã cách bờ một khoảng xa, đột nhiên y cũng không muốn động đậy nữa.
Thế là lại nằm xuống.
Khang vương mãi mà không thấy hai người có mặt bèn chạy đến đây tìm, nhìn thấy chiếc thuyền nhỏ ở phía xa, ông gọi to: "Mấy cái đứa này ở trên thuyền làm gì đấy? Lằng nhằng lâu vậy, tiệc thưởng cúc đã diễn ra được một nửa rồi!"
Triệu Bạch Ngư đạp nhẹ Hoắc Kinh Đường một cái: "Gọi chàng kìa."
Hoắc Kinh Đường dùng chút nội lực lớn tiếng nói vọng lên bờ: "Ta và tiểu lang gặp chút rắc rối, đang bị kẹt ở đây rồi, mau tới cứu đi." Giọng điệu còn có hơi sốt ruột.
Khang vương hoài nghi nhưng vẫn cho người ra đó kéo thuyền của hai người vào bờ, phát hiện cả hai không nhúc nhích mới vội hỏi bọn họ đã xảy ra chuyện gì, bị cảm nắng hay là bị trúng độc.
Bỗng nghe thấy hơi thở mong manh Hoắc Kinh Đường, hắn đáp: "Đói bụng."
Khang vương sững sờ, vô thức nhìn về phía mái chèo trên thuyền nhỏ, lập tức hiểu ra, sau đó trợn mắt há miệng: "Tử Uyên thì thôi đi, hết cứu được nó rồi, nhưng sao ngũ lang con cũng học theo dáng vẻ lôi thôi bất cần của nó thế hả?"
Ông vô cùng đau lòng, sao Triệu Bạch Ngư trong sáng thanh cao lại có thể bị Hoắc Kinh Đường đồng hóa được chứ?
Nếu như đồng hóa rồi, về sau ông gặp người khác làm sao nói Triệu Bạch Ngư và ông học cùng một thầy được, làm sao có thể "lợi dụng" thanh danh của Triệu Bạch Ngư để thu được ý đồ giấu mà không bán trong tay đám văn nhân dầu muối không vào kia chứ?
Trong nháy mắt lòng ông sinh ra một ảo giác như thể trời vừa sụp xuống, Khang vương nhanh tay kéo Triệu Bạch Ngư lên quan tâm săn sóc một hồi, tung chân đá thuyền nhỏ ra xa, chỉ vào Hoắc Kinh Đường vẫn chưa chịu bò dậy nghiêm túc khuyên bảo: "Nghe Thập thúc nói này, nhất định đừng có học theo nó." Kéo tay người đi rồi, ông vẫn còn ngập ngụa trong mớ cảm xúc kia: "Đúng là gần mực thì đen mà, nếu không ngũ lang đến vương phủ ở một thời gian đi? Hoặc là đến chỗ Thập thẩm của con cũng được, trong phủ của ông ấy có rất nhiều trò vui, được chơi được ăn, ai đến ở Cao phủ rồi đều không muốn rời đi đâu..."
Triệu Bạch Ngư cong môi cười, vừa nghe vừa lặng lẽ quay đầu nhìn ra sau, Hoắc Kinh Đường uể oải theo sát phía sau, trông hắn giống hệt như quả cà thấm sương*, không nghe lọt tai câu mắng mỏ nào của Khang vương cả, rồi đột nhiên hắn giương mắt nhìn lại, bắt gặp ánh mắt của Triệu Bạch Ngư thì nhếch môi lên làm khẩu hình miệng nói: "Lải nha lải nhải, như bà buôn dưa vậy."
(*) Nguyên văn là [霜打的茄子]: câu ngạn ngữ này xuất phát từ phương Bắc.

Mỗi khi cuối thu, nhất là sau khi tiết sương giáng (23 hoặc 24 tháng mười), đất phương Bắc vì nhiệt độ trong đêm hạ thấp mà trên thực vật kết một lớp sương mỏng, mà lúc này quả cà chưa hái (quả cà có chịu được nhiệt độ cao nhưng sợ lạnh) không chịu được sương lạnh k1ch thích khiến da bên ngoài nhăn nheo, câu này dùng để chỉ một người tinh thần uể oải không phấn chấn, phờ phạc, suy sụp, mất hồn...
Triệu Bạch Ngư sợ mình bật cười thành tiếng làm tổn thương Khang vương nên vội quay đầu lên phía trước.
Khang vương không dẫn bọn họ đến tòa tháp mà dẫn tới một nhà thủy tạ tương đối yên tĩnh, Cao đô tri đang chờ bọn họ trước cửa.

Cửa vừa mở ra, tiếng đàn sáo, tiếng ca hát cười đùa đã truyền vào trong tai, đầp vào mắt đầu tiên chính là cả sảnh đường đầy cúc mùa thu, những khóm hoa như được dát thêm lớp vàng óng ánh, sáng bừng cả căn phòng.
Bước lên cầu thang đi lên trên lầu, nơi này còn có rất nhiều chủng loại cúc khác nhau nữa.
Cao đô tri ngắt một đóa hoa cúc tím cài lên tóc mai của Triệu Bạch Ngư: "Mới vừa nãy ta đã nghĩ, tết Trùng Cửu sao có thể thiếu trâm hoa được chứ? Cọ vẽ làm thơ, tóc xanh trâm hoa, thiếu niên vui đùa." Nhìn tới nhìn lui, ông nở nụ cười hài lòng, "Sáng nay ta mời đầu bếp của quán rượu đến phủ nấu món thịt dê hấp nhừ và cua thu, mới vừa lên món thôi, vẫn còn bốc hơi đấy."
"Quấy rầy rồi ạ, mong được thứ lỗi." Triệu Bạch Ngư nói lời khách sao, nhưng chân lại bước đi không dừng.
Khang vương nghe vậy mới cảm thấy dễ chịu.
Hoắc Kinh Đường tiện tay vỗ vai Khang vương: "Nhường đường chút, đừng có chắn cửa." Sau đó hắn quen cửa quen nẻo ngồi vào bàn, yên vị bên cạnh Triệu Bạch Ngư.
Trên bàn còn có Lê Yến Kỳ, Đỗ Công Tiên, Phạm Văn Minh cùng với Hạ Quang Hữu, vị Tri phủ Từ Châu ngày xưa nay đã được lên chức làm quan Kinh Đô, càng khiến cho người ta ngạc nhiên hơn nữa chính là Lư tri viện đang ngồi xếp bằng ở trên giường đối diện kia, ngồi xung quanh ông ta là ba bốn cử tử Quốc Tử Giám.
Triệu Bạch Ngư tìm kiếm một lượt, không thấy hai vị Trần Sư Đạo và Cao đồng tri, y liền biết ngay là hai ông không tới.
Cao đô tri cười nói: "Thật ra ta rất muốn mời họ, quan to tể tướng đến càng nhiều, chỗ này của ta mới có thể đông như trẩy hội, chỉ tiếc vị kia nhà ta cứ hễ nhìn thấy Trần thái sư là như chuột thấy mèo vậy."
Ông cầm chén trà mà tiểu đồng đưa tới, "Nếm thử đi."
Triệu Bạch Ngư nhận lấy, phát hiện trong chén có đầy bọt trắng che phủ, không khỏi sợ hãi thán phục: "Tay nghề giỏi." Người đương thời pha trà quý nhất là ở đám bọt trắng này, bởi lẽ mới nói "mực phải đen, trà phải trắng", "Là tay nghề của vị nào thế ạ?"
Hoắc Kinh Đường gõ gõ bàn, chỉ về phía Lư tri viện.
Triệu Bạch Ngư theo tiếng nhìn sang, thấy Lư tri viện đang cầm ấm trà, giống như lão tướng sa trường điểm binh, nước trà róc rách chảy vào tách nổi một tầng bọt trắng lên, váy dài nhấc lên cùng động tác, phong thái nước chảy mây trôi, vô cùng lưu loát.
Hạ Quang Hữu ngồi xéo trong góc vuốt râu thở dài: Bọt trắng trà hoa phủ chén ngọc, măng hao rau đắng hưởng mâm xuân..."
Tuy không có măng hao rau đắng, nhưng lại có cúc dại và tế thái* nấu cháo, tính ra cũng chẳng thua kém gì với măng non đầu xuân.
(*) Cây tể thái: tên một thức cỏ, hoa trắng, khi còn non ăn được, dùng làm thuốc giải nhiệt, lợi tiểu, cầm máu.
"Ý vị của thế gian chính là niềm vui đơn thuần."
==.
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 109: 109: Ngoại Truyện 2 • Giấc Mộng Hoàng Lương


(*) Nguyên văn: Hoàng lương nhất mộng - 黄粱一梦 Ý của câu thành ngữ này dùng để ví với sự mơ tưởng viển vông và những ước mong không thể thực hiện được.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Chẩm trung ký" của Thẩm Ký Tế triều nhà Đường.
Min:Tui edit xong chương này từ mấy bữa trước ùi, nhưng muốn đính kèm thêm chương sau để cho liền mạch.

Và cái gì nên đến cũng đến, plot twist ủn tới mung rồi kk, mấy bà đừng quên quả truyện củ chuối kia có đến hai kết cục, và cái kết ức chế mà mấy bà được biết từ đầu đến giờ chỉ mới là cái kết HE của cặp chính, MHN giấu kết BE tới cuối truyện mới tung nè píc cà bu
Thật ra tui cũng định viết thêm suy nghĩ của tui, mà tính tui lê thê lướt thướt dài dòng với sợ nói sai nữa nên thôi hjhj để sau vậy.

Mấy bà cứ đọc rồi để lại suy nghĩ của mình cho tui góp dzui với nha.

Dô ~~~
***
Sắc trời đột ngột thay đổi, cuồng phong vũ bão từ đâu kéo tới.

lá xanh hoa hồng trong viện bị đánh dập tơi tả rơi khắp sân, gạch đá xanh từ màu xám trắng biến thành màu nâu đen, côn trùng cuộn mình dưới mớ rễ cây hoặc là trong khe hở của cửa sổ, chờ đợi cơn mưa tầm tã chiếm cứ cả nửa cuộc đời của chúng mau chóng kết thúc.
Bầu trời âm u, mây đen giăng kín, trời đất mênh mông sương mù.
Ma ma và hai nha hoàn rẽ từ một góc hành lang sang, xách váy chạy nhanh tới, một người xông vào nhĩ phòng đóng cửa sổ, ma ma và một nha hoàn khác thì mau chóng dọn mấy chậu mẫu đơn màu hồng phấn vào trong hành lang.
Cũng may kịp lúc, không để cho cơn mưa đột ngột làm hỏng những đóa mẫu đơn trị giá hàng trăm lượng vàng này.
"Cẩn thận một chút, đều là hoa tự tay lão gia trồng đấy, dặn xuống dưới nhất định phải chăm sóc cho kĩ, đợi đến tháng ba là có thể tổ chức tiệc mẫu đơn, để đón tiếp ngũ lang đến thưởng thức chứ." Ma ma rút khăn tay ra lau bùn đất dính trên bông mẫu đơn đi, đau lòng liên tục rầm rì: "...! Đều là tâm huyết, tâm huyết tưới nước suốt sáu năm trời đấy."
"Tưới nước sáu năm trời, năm nào cũng mở tiệc, năm nào cũng mời, vậy mà chẳng năm nào đến..." Nha hoàn nói thầm một câu, nhưng lại không dám càn rỡ quá mức, "Ma ma có từng nghĩ đến chưa, có lẽ ngũ lang không thích mẫu đơn."
Ma ma: "Cô tưởng lão gia chưa từng thử mở tiệc ngắm mai, ngắm cúc hay sao? Triệu phủ chúng ta dù có lớn hơn nữa cũng không thể mở rộng đến nỗi xây được một vườn mai, nhưng chúng ta có thể đặt mua một cái ở ngoài, vấn đề là nuôi không sống được, tiệc ngắm cúc cũng giống y như vậy.

Hơn nữa lão gia không muốn nhờ nghệ nhân mà nhất quyết tự tay trồng, đến mùa hoa nở nói một tiếng với bên ngoài như vậy, ai dám không nể mặt Tế chấp?"
Nha hoàn không ngờ trồng hoa là vì cớ này, "Nhưng mà ngũ lang cũng đâu có đến đâu."
Ma ma: "Ngũ lang nào có nhìn nhân quyền để thỏa hiệp chứ?" Bà hừ một tiếng, hơi bất mãn: "Lão gia thông minh tài trí nhưng lại luôn có hơi khuyết thiếu trước những chuyện liên quan đến cậu ấy."
Nha hoàn ngạc nhiên trừng mắt, ma ma thế này là đang đặt điều Tể tướng đại nhân sao?
Ngoài phòng, mưa tuôn không ngớt thấm ướt bùn đất, hoa lá rơi đầy sân, trong khi ở bên ngoài tiếng mưa rơi ồn ào, không khí trong phòng yên tĩnh đến lạ lùng, khói xanh trên bàn thờ lượn lờ, quanh co bay lên tháp hương trên nóc nhà.
Mõ khẽ kêu, tiếng vọng theo nhịp vang đều cùng với tiếng tụng kinh quanh quẩn bên tai, đèn cầu phúc nhấp nháy ánh lửa, trụ trì trong miếu bước đến bên cạnh phu nhân tể tướng, nói một câu vạn phúc trước, sau đó nói A di đà Phật.
Phu nhân tể tướng có phong thái khoan thai điềm đạm, hỏi thăm mệnh số của con trai nhỏ nhà bà.
Phủ Kinh Đô này không ai không biết con trai út nhà tể tướng là kim tôn ngọc quý, chỉ hơn chứ không hề kém cạnh các hoàng tử vương tôn, đến Hoàng đế Thái hậu cũng yêu thương cậu, các hoàng tử cũng chiều chuộng cậu, có thể nói là số mệnh tốt nhất trong thiện hạ rồi.
Trụ trì nói đúng sự thật, lựa thêm vài lời hay đắp vào, tất nhiên nhìn thấy tâm trạng của phu nhân tể tướng trở nên vui sướng.
"Phựt" một tiếng, khi phu nhân tể tướng bước ra cửa đại điện, vòng Phật cầu phúc trong tay đột nhiên đứt đôi, trong mắt người tin Phật, dù thế nào đi nữa thì cũng đều là điềm báo chẳng lành.

Trụ trì vội nói: "Vòng Phật bồ đề này ngày đêm được thờ cúng hương khói, đã có linh tính, bỗng nhiên bị đứt có lẽ là để ngăn cản tai họa cho chủ nhân, là chuyện tốt."
Phu nhân tể tướng nhẹ nhàng thở ra, nhưng trái tim chợt như rơi xuống nặng trịch, ra khỏi cổng chùa Tướng Quốc, chuẩn bị lên xe ngựa, bà thoáng nhìn thấy có một trận tranh cãi đang diễn ra ở quán trà cách đó không xa, tìm hiểu thử mới biết có một gã ăn mày uống trà không trả tiền mà nhất quyết đòi đoán mệnh để gán nợ, tính ra được không phải số tốt, chọc giận chủ quán trà, ông chủ chẳng màng quan tâm người ngoài khuyên can, định dạy dỗ gã ăn mày một trận.
"Nơi cửa Phật đừng nên tranh cãi, chớ làm phiền sự thanh tĩnh nơi này, đi lấy chút tiền trả cho ông chủ quán trà đi."
Nói xong lên xe, nhắm mắt nghỉ ngơi, không hiểu sao trong ngực phu nhân tể tướng dâng lên một nỗi bất an lo sợ, đột nhiên xe ngựa dừng lại, người đánh xe quở mắng hai câu, nhưng nghe rõ ngọn nguồn rồi mới biết hóa ra người cản đường kia chính là gã ăn mày được giải vây lúc nãy, nói là sẽ tính cho quý nhân một quẻ để báo ơn.
Mạng của bà sao có thể để cho kẻ khác tùy tiện tính toán chứ?
Phu nhân tể tướng lệnh cho người đuổi đi, nhưng không biết vì cớ gì mà tên ăn mày vẫn cứ bám rịt lấy, bị sự bất lực ép buộc, bà đành phải đứng ra nhẫn nại nói: "Ta không muốn đoán mệnh, xin tiên sinh hãy nhường đường cho."
Thầy tướng luộm thuộm như ăn mày vừa nhìn thấy mặt phu nhân tế tướng thì sững người trong nháy mắt, gọi thẳng: "Lão phu đã từng đoán mệnh cho bà rồi."
Phu nhân tể tướng đang chuẩn bị quay về xe ngựa nghe vậy thì nói, "Ta chưa từng gặp ông."
Thầy tướng: "Nếu nói chính xác thì là vào hai mươi sáu năm trước, ta đã đoán mệnh cho bào thai trong bụng bà."
Con trai bà ư? Lòng phu nhân tể tướng khẽ dao động, tò mò hỏi: "Chẳng phải thầy tướng các ông chỉ xem ngũ quan người, vân tay và ngày sinh để đoán mệnh à? Còn có thể tính được mệnh của thai nhi chưa ra đời nữa sao?"
"Số mệnh của trẻ con gắn bó chặt chẽ với mệnh của cha mẹ, ta đoán mệnh của đứa trẻ, cũng là đoán mệnh của bà."
Phu nhân tể tướng cảm thấy hứng thúc, khóe môi cong lên: "Vậy số mệnh của con trai ta như thế nào?"
"Thân duyên cạn, lắm tai ương, đường đời nhiều ngang trái, không thể chết già."
Thoáng chốc mặt phu nhân tể tướng trở nên lạnh lùng, giận dữ thét lên: "Đuổi ông ta đi!"
Không đợi người đánh xe nhảy xuống, thầy tướng già đã lảo đảo đi xa, nhưng dường như cũng chỉ trong chớp mắt, ông ta độn thổ biến mất giống như thần tiên, người đánh xe hoảng sợ dụi mắt, còn lồ ng ngực của phu nhân tể tướng thì lan tràn nỗi hỗn loạn mất kiểm soát.
Bà nghĩ, sao thân duyên có thể cạn được chứ?
Cha mẹ cưng chiều, anh em thân thiết, ai mà chẳng biết con trai út nhà họ Triệu được nhận vô vàn thương yêu?
Lớn lên trong gấm vóc rực rỡ, sao có thể chịu lắm tai ương, đường đời nhiều ngang trái được chứ?
Chú trọng điều dưỡng cơ thể nhiều năm trời đã biến thiếu niên lang hoạt bát khỏe khoắn trở thành một quân tử chững chạc đoan chính, làm sao mà không thể chết già được?
Phu nhân tể tướng siết chặt vòng Phật cầu phúc đã cầu lại, mặc kệ nỗi hỗn loạn trong lòng, quay về Triệu phủ, ma ma trong phủ đến báo cáo chuyện trong phủ, đến lúc sắp kết thúc bỗng nhiên nói một câu: "Ngũ lang chết rồi."
"Ai?" Phu nhân tể tướng phản ứng rất mạnh.
Ma ma sững sờ, sau đó mới nói Ngũ lang gả đến phủ quận vương đã chết rồi.
Y? Phu nhân tể tướng trố mắt hồi lâu mới hỏi: "Vì sao lại mất?"
"Hôm nay y bỗng nhiên ra tay trên đường chợ đông đúc, ý đồ dùng kim độc mưu hại tứ lang, bị một vị cao thủ chặn đường kim đi đẩy ngược trở lại, trúng ngay giữa họng, tắt thở bỏ mạng, thân bại danh liệt."
"Gieo gió gặt bão." Phu nhân tể tướng chỉ nói một câu, bà nhìn ra cảnh xuân tươi đẹp bên ngoài phủ, lồ ng ngực bỗng nhiên trống vắng.
Im hơi lặng tiếng chết đi trong ngày xuân ấm áp, vẫn còn chưa kịp đi hội đạp thanh, cùng người thả rượu trôi sông*, thật ra có hơi đáng tiếc.
(*) Nguyên văn là Khúc thủy lưu thương - 曲水流觞: là một phong tục TQ có từ đời nhà Chu.

Vào đầu tháng 3, mọi người ngồi hai bên bờ dòng nước và thả những chén rượu xuống, chén trôi tới ai thì người đó uống.
Mới hai mươi sáu, còn trẻ quá.
Một lát sau, bà lại hỏi: "Cao thủ cứu tứ lang là ai?"
Ma ma tỏ vẻ khó xử, do dự một hồi mới nhỏ giọng nói: "Là Lý Đắc Thọ."
"!" Đồng tử phu nhân tể tướng co rút nhanh, quá khứ khó coi không chịu nổi lại gào thét cuồn cuộn ập đến, trong nháy máy bao trùm lấy bà, khiến cho bà hít thở vô cùng khó khăn: "Bà ta về rồi sao?"

Ma ma gật đầu.
Phu nhân hồn bay phách lạc đi về phía trước, bước xa mười thước rồi mới hoàn hồn: "Bà ta có biết thân phận của tứ lang không?"
Ma ma: "Hẳn là biết đấy ạ, khi đó Đông cung đang đi cùng tứ lang, nhận ra Xương Binh đang ngồi trên xe ngựa, còn lên tiếng chào hỏi nữa."
Phu nhân tể tướng siết chặt tay ma ma, "Lúc đối mặt với tứ lang, bà ta phản ứng ra sao?"
Ma ma mới lại cảnh tượng lúc ấy: "Bình tĩnh lắm, trầm tính hơn Xương Bình của ngày xưa nhiều...!À đúng rồi, bà ta còn nói một câu Đây là con trai nhỏ mà Triệu tế chấp yêu thương tận trời đấy à? rồi không nói thêm gì nữa."
Phu nhân tể tướng thấp giọng lầm bầm: "Bà ta ở Lưỡng Giang hai mươi sáu năm, làm sao vừa thấy mặt tứ lang đã biết thân phận của nó được? Người ngoài đều gọi nó là tứ lang, nhưng mà trước đây nó thứ năm, chỉ mới đổi cách đây vài năm thôi mà, người bị giáng chức đến Lưỡng Giang sao có thể biết rõ ràng như vậy? Chẳng lẽ giờ phút nào bà ta cũng để ý đến động tĩnh trong Kinh Đô à? Nhưng người của bà ta ở đâu ra?"
Bà cúi đầu vội vàng chạy đi, lúc bước vào chủ viện, toàn thân phu nhân tể tướng sững lại, sắc mặt ngây ra nhìn chằm chằm xuống đất, tuyệt vọng và đau đớn thoáng vỡ vụn trong đáy mắt, cùng với đó là vẻ trốn tránh khó mà chấp nhận được.
"Ngũ lang đột tử đầu đường, thân bại danh liệt, bị người thân bỏ rơi, không ai sẵn lòng nhặt xác cho y cả."
Thầy tướng già nói, con trai út của phu nhân thân duyên cạn, lắm tai ương, không thể chết già.
"Nếu như đã biết rõ thân phận, con ruột chết thảm, còn là chết vì con trai của người phụ nữ mà bà ta hận nhất, vì sao Xương Bình vẫn thờ ơ? Tâm phúc của bà ta, vì để cứu con trai của tình địch mà gi3t chết con trai của bà ta, vì sao! Chẳng mảy may quan tâm!"
Biểu cảm của phu nhân tể tướng dần trở nên dữ tợn, hai mắt đỏ quạch, gân xanh nổi đầy trên trán và cổ, nỗi sợ hãi thúc giục bà nhắm chặt mắt ngăn chặn ánh sáng, nhưng cơn phẫn nộ trước nay chưa từng có ép bà tiếp tục bước đi, dù con đường phía trước chính là con đường vạn kiếp bất phục.
***
Sấm sét rền vang xé rách bầu tròi u ám, chiếu sáng tất cả mọi người trong phòng khách.
Mặt mày của phu nhân tể tướng, Tế chấp và ba đứa con trai của bọn họ đều trắng bệch, ngọn nến lập lòe, nhảy nhót phản chiếu trong ánh mắt, dấy lên ngọn lửa hận thù trong lòng.
Triệu nhị lang đặt những chứng cứ phạm tội của Xương Bình công chúa mà hắn tra được suốt bao năm qua lên bàn, một trong những chứng cứ phạm tội kéo dài suốt hai mươi sáu năm trời đã được đưa ra ánh sáng, cuối cùng cũng nhìn thấy mặt trời, nhưng người chịu đủ mọi oan khuất đã an nghỉ lòng đất từ lâu, bị người thân ghét bỏ, ngậm oan mà chết trong lời khinh bỉ của muôn người.
Tạ thị nghe thấy Triệu nhị lang nói: "Ít nhất mười năm trước, Triệu Ngọc Tranh đã biết rõ thân phận của mình, Xương Bình công chúa luôn đưa tử sĩ tới bảo vệ cho nó.

Ngũ lang vốn không thể nào làm tổn thương nó.

Ngũ lang muốn tham gia khoa khảo, bị người được Triệu Ngọc Tranh một lòng nịnh nọt cố tình đẩy thứ hạng xuống, bởi vị kích động, xúc động quá mức cho nên mới có ý định ra tay trên phố, ý vốn là muốn làm ngựa hoảng sợ, dạy dỗ Triệu Ngọc Tranh một chút mà thôi.

Không ngờ, bỏ cả mạng."
Sự thật đổi con bị phơi bày ra trước mặt người nhà họ Triệu, con trai út thật của bọn họ lúc còn sống nghe theo vận mệnh, không thể chết già, trái lại hai mẹ con tu hú chiếm tổ chim khách kia lòng tham không đáy, lòng dạ rắn rết, giờ đây phong quang vô hạn.
Nếu như con trai út thật không phải đau khổ cả đời, nếu như Triệu Ngọc Tranh không phải đã biết trước chuyện này mà không báo cáo, yên tâm thoải mái hưởng thụ tất cả mọi thứ không thuộc về cậu, còn ra tay hãm hại ngũ lang, nếu như không biết được những chi tiết và sự thật bị bao phủ suốt hai mươi sáu năm này từ sớm, có lẽ bọn họ vẫn sẽ bị ràng buộc bởi hai mươi sáu năm chung sống, có lẽ sẽ đau lòng vì tình cảm không trọn vẹn mà rơi vào tình thế khó lựa chọn, nhưng sự thật là lòng chân thành và số mệnh của bọn họ đã đều bị hai mẹ con ác quỷ kia chà đạp, sự thật là cuối cùng, đứa con trai út vô tội thế thân Triệu Ngọc Tranh đã phải gánh chịu sự ghét bỏ, khắt khe của bọn họ, cuối cùng chết thảm đầu đường.
"Con trai của mẹ đã làm sai điều gì?" Trong lòng Tạ thị tràn ngập câu hỏi: "Sao lòng người lại có thể ác như vậy?"
Khi ấy lệ đã rơi đầy mặt bà, nhưng bà vẫn dửng dưng như thể chưa phát hiện ra.
***
Phủ Lâm An quận vương thu giữ thi thể của ngũ lang, chọn cho y một nơi non xanh nước biếc tươi đẹp, không ai ngờ rằng người nhặt xương cho người kia lại là Lâm An quận vương tàn bạo không chịu nổi trong lời đồn.
Ngũ lang nhập liệm không bao lâu, Lâm An quận vương cũng biến mất.
Binh Tây Bắc thất bại, Đại Cảnh hòa đàm, Lai sứ Đại Hạ đến đòi bồi thường, mà vào đêm cung yến, nghịch đảng Lưỡng Giang đã trà trộn vào đoàn mua hát kịch với ý đồ hành thích, Lai sứ Đại Hạ suýt nữa bị hại, là nhờ Triệu Ngọc Tranh cản giúp hắn một đao.
Xương Bình lỡ miệng nói ra sự thật.

Bấy giờ người bên ngoài mới biết màn đổi con sóng gió này, không hẹn mà cùng tò mò phản ứng của người nhà họ Triệu thế nào.
Không có chuyện gì bất ngờ xảy ra, hiển nhiên là người nhà họ Triệu nổi trận lôi đình, từ chối gặp Triệu Ngọc Tranh, nhưng có Thái hậu và bệ hạ chu toàn từ bên trong, hơn nữa Triệu Ngọc Tranh không quỳ gối nổi, cơ thể mỏng manh, cuối cùng tình thân nhiều năm cũng chiếm thế thượng phong, người nhà họ Triệu lại chấp nhận Triệu Ngọc Tranh lần nữa, vẫn cưng chiều cậu như trước, cũng vì thế mà tha thứ cho tất cả mọi hành động của Xương Bình năm xưa.
Quan hệ không thể nói là hòa thuận, nhưng hiềm khích lúc trước đã tiêu tan rồi.
Người đứng ngoài phủ Kinh Đô nhìn vào, thấy Triệu Ngọc Tranh bây giờ trước có bệ hạ, Thái hậu và Đông cung sủng ái, sau có cả nhà Tể tướng cưng chiều, hôm nay lại có thêm một Xương Bình công chúa nữa, thân phận càng trở nên nóng bỏng tay, nào ai dám đắc tội?
Tất nhiên là chỉ chúc mừng ngoài mặt, trong lòng lại cảm thấy tội nghiệp cho Triệu ngũ lang không ai hỏi thăm kia.
***
Đông cung và Xương Bình bắt tay nhau, còn có người nhà họ Triệu giúp đỡ hết sức nên đánh bại chỗ dựa của Lục hoàng tử là phủ Trịnh quốc công một cách dễ dàng, giữ vững vị trí Thái tử cho Đông cung.
Mùa xuân năm sau, Nguyên Thú đế bị gió tà nhập vào người, sức khỏe chuyển biến đột ngột, không tới hai tháng đã băng hà.
Đông cung đăng cơ làm vua, khi Thái tử phi đã mang thai sáu tháng, lợi dụng lý do không được chịu vất vả mà dời đại điển phong hậu về sau, cuối cùng Thái tử phi qua đời vì sinh khó, cũng may đã thuận lợi hạ sinh một vị hoàng tử.
Cuối năm đó, khi xương cốt Thải tử phi hãy còn chưa lạnh, tân đế đã lập tức cùng Xương Bình và một nhà Triệu tế chấp kiệt lực bác bỏ mọi nghị luận không cùng ý kiến, phong Triệu Ngọc Tranh làm nam hoàng hậu đầu tiên của Đại Cảnh.
Mùa xuân năm thứ ba, đại điển phong hậu được cử hành như thường lệ, đầu tiên là sắc phong, sau đó nhận sách bảo, sau đó để cho các quan lại dâng tấu chương chúc mừng, cuối cùng là đến thái miếu yết kiến liệt tổ liệt tông, quá trình này diễn ra đã khiến cho đại điển sắc phong càng thêm long trọng.
Hậu vị của người phụ nữ tôn quý nhất thiên hạ này cứ thể rơi vào tay một người đàn ông, không ai dám bàn đến sự hoang đường ấy, những người phản đối đều bị lấy cớ diệt trừ, nhưng kẻ có quyền thế nhất vương triều này bắt tay nhau tạo ra chốn đào nguyên cho Triệu Ngọc Tranh, dường như không có chút giới hạn nào, điên cuồng yêu thương một mình cậu.
Không biết có bao nhiêu người vô cùng ngưỡng mộ và ghen tị với Triệu Ngọc Tranh, nhưng sau lưng lại cảm thấy khó hiểu, Đông cung và Xương Bình thôi đã đủ rồi, vì sao mà người nhà họ Triệu cũng thay lòng như điên, toàn tâm toàn ý yêu thương ly miêu giả dối thế kia?
Tất cả những khúc mắc ấy đã có được đáp án vào ngày đại điển sắc phong diễn ra không lâu sau đó.
Lâm An quận vương mất tích đột nhiên cử binh tạo phản, dẫn theo thiết kỵ Đường Hà dũng mãnh thiện chiến vào như đến chốn không người, xuất hiện trong đại điển sắc phong ép buộc tân đế thoái vị.
Đế hậu lo lắng không thôi, Xương Bình thét ra lệnh cho Lư tri viện nắm trong tay Cấm quân và Triệu gia đại lang bắt Lâm An quận vương lại, nhưng ngạc nhiên phát hiện ra người nhà họ Triệu, bao gồm cả Lư tri viện và một đám đại thần đều đứng về phía Lâm An quận vương, dùng thái độ lạnh lẽo nhìn bọn họ.
Tân đế giận dữ, gào lên: "Các ngươi dám tạo phản à? Một đám bất trung bất hiếu bất nhân bất nghĩa, triều thần Đại Cảnh ta sao có thể là hạng người trộm cắp không chịu khuất phục như các ngươi chứ?"
Lâm An quận vương lần vòng Phật của hắn, cười như không cười liếc nhìn bọn họ, không nói một lời nào, đã có triều thần nhẫn nhịn từ lâu bước lên lột tấm da mặt giả tạo của bọn họ ra.
Trên mặt Lư tri viện tràn đầy sát ý, vạch trần âm mưu hợp tác hãm hại con gái ông của Đông cung và Xương Bình, nói cách khác là Thái tử phi đã bị ép nhường lại hậu vị cho Triệu Ngọc Tranh, trong khi Triệu Ngọc Tranh biết rõ mọi chuyện mà chẳng hề nói gì!
"Nham hiểm độc ác, lòng dạ quỷ quyệt, có thể làm vua một nước hay sao? Nối giáo cho giặc, lời lẽ xảo trá, giả vờ câm điếc, hào nhoáng bên ngoài, có thể là mẫu nghi một nước hay sao? Thần tử trung quân, nhưng là phải trung với vị vua nhân nghĩa!"
Triệu Bá Ung lộ vẻ bình tĩnh, nhưng nếu nhìn kỹ vào mắt ông là sẽ thấy được sự điên cuồng ngọc nát đá tan bên trong, cơn điên cuồng này cũng tràn ngập trong lòng của những đứa con nhà họ Triệu, kèm theo sự thôi thúc khiến cho bọn họ không sợ gánh bêu danh mưu triều soán vị, lại càng không sợ tiếng xấu vang xa muôn đời, phải phanh thây xé xác đám ác quý hại chết ngũ lang mới có thể khiến cho ngọn lửa không thể dập tắt trong lòng bọn họ lắng xuống.
Ông lấy những vật chứng chứng minh mà mình mang theo trong người ra, đứng giữa sảnh đường lên án tân đế bắt tay với Xương Bình mưu hại tiên đế, chứng cứ phạm tội vô cùng chính xác, không thể chối cãi.
"Là một người bình thường vô năng, phàm có một chút nhân từ, khắc sâu câu trung quân ái quốc vào trong xương cốt, thì bá quan văn võ có ai không ủng hộ ngươi?"
Triệu Bá Ung mặc kệ Xương Bình, bước tới gần bóp lấy khuôn mặt xinh đẹp tỏ ra vô tội của Triệu Ngọc Tranh, cố kìm chết đễ không bóp ch3t cậu mà gân xanh nổi đầy tay: "Triệu Ngọc Tranh, đến cùng là người nhà họ Triệu ta đã làm gì có lỗi với ngươi? Từ nhỏ đến lớn, ngươi muốn cái gì mà không có được? Cả nhà từ trên xuống dưới đều nâng niu ngươi trong lòng bàn tay để mà yêu thương, không cầu ngươi phải hồi đáp ngang bằng, nhưng ít nhất cũng phải để lại cho bọn ta một chút nhân từ chứ! Ít ra ngươi có thể đối xử tốt với ngũ lang một chút, một chút thôi cũng được...!Nhưng ngươi đã làm cái trò gì đây? Ngươi ngày càng tệ hơn, hãm hại nó, hai lần thay mận đổi đào giá họa lên đầu nó, đã như vậy rồi mà ngươi vẫn còn không chịu buông tha cho nó, ngươi khiến cho nó, khiến cho nó chết trong tuyệt vọng, đau đớn! Sao ngươi có thể? Bọn ta nợ ngươi thứ gì, mà ngươi lại muốn trả thù lên người vô tội nhất? Tất cả mọi thứ của thằng bé đều đã bị ngươi cướp đi rồi, vì sao đến cả cơ hội sống ngươi cũng muốn cướp đi chứ?"
Biểu cảm của Triệu Ngọc Tranh từ đau đớn, bi thương trở thành giễu cợt, khó khăn thốt ra từng chữ: "Ta...!Ta biết ngay mà, một khi thân thế bị vạch trần, các người, các người sẽ không yêu thương ta nữa...!Ta biết mà! Muốn trách phải trách các ngươi quá thiên vị ta, ta sợ...!ta sợ mất đi nó."
Trái tim Triệu Bá Ung đau đớn tựa như bị bóp chặt, trong nháy mắt vô cùng ngỡ ngàng luống cuống, hóa ra là vì quá thiên vị Triệu Ngọc Tranh nên mới khiến cho cậu ra tay với Triệu Bạch Ngư sao? Tất cả những điều bất công làm tổn thương ngũ lang, là nguồn gốc nguyên nhân dẫn tới cái chết của y sao?
Đến cùng là bọn họ đã làm những việc gì, mà mỗi một chi tiết nhớ lại thì phát hiện tất cả đều là bằng chứng ép chết ngũ lang chứ?
Người hại chết ngũ lang không chỉ có Xương Bình, Triệu Ngọc Tranh, mà còn có cả những kẻ tự xưng là người nhà như bọn họ nữa!
Trong nháy mắt Triệu Bá Ung như bạc đầu, không còn chút khí phách nào, mãi mãi hổ thẹn trong lòng.
***
Tạ thị không màng quan tâm những lời khuyên can mà đào phần mộ của ngũ lang lên, mặc kệ Lâm An quận vương có mỉa mai tình yêu chậm trễ của bà, nói rằng tình yêu đó vẫn là sự tổn thương đối với con trai út nhà họ Triệu, chết rồi vẫn không chịu để người ta yên, thật sự là sống chết vẫn thiếu nợ bọn họ.
...!Không, ngũ lang không thiếu nợ bọn họ, là bọn họ mắc nợ ngũ lang!
Tạ thị đưa thi thể của ngũ lang về phủ, mời các cao tăng đạo sĩ đến tu cho y một kiếp sau tốt đẹp, bà không tiếc cho đi phúc phần mười đời của bản thân, nhưng những cao tăng đạo sĩ kia chỉ biết tụng kinh mà thôi.
"Chỉ biết tụng kinh thôi à!" Tạ thị ngày đêm không nghỉ, tiều tụy không sao chịu được, bà sao chép kinh văn, đốt không biết bao nhiêu chậu, "Vì sao chì biết tụng kinh! Ta chỉ là muốn chuộc tội, muốn con trai ta kiếp sau được viên mãn, ta không làm hại ai, vì sao đến chút việc nhỏ ấy cũng không làm được?"
Người nhà họ Triệu muốn khuyên bà tỉnh táo, nhưng cảm giác tội lỗi to lớn ấy đã làm cho bọn họ bị choáng ngợp, tìm kiếm hồi ức suốt hơn hai mươi năm qua, những ký ức có liên quan đến ngũ lang đều khiến lòng người nguội lạnh, bọn họ nhìn khuôn mặt trắng nhợt không chút sức sống, cô đơn đáng thương trong quan tài, sao có thể an lòng cho được?
Tinh thần khó an, cho nên cũng mù quáng giống như Tạ thị chạy đi tìm người đắc đạo, cũng muốn dành phần phúc dời sau của mình cầu cho ngũ lang có được kiếp sau viên mãn.
Bọn họ nói kết cục bi thảm của Triệu Ngọc Tranh cho Tạ thị nghe, khi ấy Tạ thị đã vuốt v e tóc mai của ngũ lang, nghe vậy thì im lặng hồi lâu, sau đó mới nói ra một câu làm lòng người vỡ nát: "Nhưng mà con trai nhỏ của mẹ chết rồi."
"Triệu Ngọc Tranh mắc nợ có thể bị trừng phạt, còn mẹ cũng mắc nợ, mẹ phải trả lại như thế nào đây?"

Triệu Bá Ung dùng hết toàn lực để tìm kiếm vị thầy tướng già mà ông chỉ mới gặp được một lần, cuối cùng cũng tìm được thầy tướng tóc trắng xóa ấy, ông ta vẫn giữ nguyên dáng vẻ của mấy chục năm trước, không thấy già yếu đi, liền biết đó là thần tiên thật.
Ông cứ cầu xin thầy tướng già mãi, nguyện dùng công đức phúc phần đổi lấy kiếp sau trọn vẹn cho con trai út.
Thầy tướng già thở dài: "Không có duyên phận không thể tụ họp, không có nợ nần không thể đến, duyên tụ duyên diệt đều bắt đầu từ một ý nghĩ mà thôi.

Duyên cạn mệnh ngắn, số mệnh đã thế, cưỡng cầu cũng vô ích, chi bằng buông đi."
Dù có khẩn cầu như thế nào đi nữa, thầy tướng già cũng không đồng ý ra tay đổi mệnh, không lâu sau đó liền biến mất.
Về phần người nhà họ Triệu, bọn họ tự thẹn trong lòng, không quên việc ấy, cả đời cũng không bỏ xuống được.
Cơn mưa rào mùa xuân khiến cho hoa lá rơi rụng đầy sân, tiếng tụng kinh gõ mõ trong một góc phủ tể tướng vang lên không ngừng nghỉ, nhang khói lượn lờ, thanh đăng được đốt lên, ngoài phòng vang vọng tiếng nói liên miên của ma ma và các nha hoàn, gọi một tiếng: "Cẩn thận hoa trong hành lang kìa!", thoáng chốc bừng tỉnh khỏi giấc mộng hoàng lương.
Chuỗi hạt bỗng nhiên đứt đoạn, hạt bồ đề lọc cọc rơi xuống đất, người trên giường mở mắt ra, lệ rơi lã chã.
"...!Là mơ sao?"
Sao lại chân thật thật như thế?
Là kiếp trước kiếp này, hay là kiếp này kiếp sau?
Bà đang ở trong giấc mộng nào? Giấc mộng hoàng lương ấy là thế giới nào?
Nếu như phải chọn một thế giới giấc mơ mà ở đó không phải thức dậy, bà chỉ mong mình được ở lại nơi này mãi mãi.
Dẫu cho trăm năm không nhận nhau, ít ra con trai nhỏ của bà vẫn còn sống, sống rất tốt, dù vui dù buồn vẫn luôn có người bên cạnh làm bạn, không lẻ loi hiu quạnh, mộ phần hoang vắng như kiếp trước.
***
Phủ Lâm An quận vương.
Từ khi Hoắc Kinh Đường khôi phục lại thân phận Đại hoàng tử, phẩm cấp cũng đã được thăng từ Quận vương lên thành Thân vương, gọi là Lâm An vương.
Cơn mưa ngày xuân liên miên không dứt, vạn vật trong trời đất đều không muốn động đậy, đương nhiên con người cũng ham lười biếng, lại trùng hợp vào ngày nghỉ phép, Triệu Bạch Ngư dứt khoát làm ổ trong phòng làm việc ở phủ, ăn trưa xong bèn di chuyển đến giường gần cửa sổ đọc thoại bản một lát, lắng nghe tiếng mưa rơi theo tiết tấu mà chìm vào giấc ngủ.
Nén nhang trên bàn đã được đốt lên, tro nhang chất đống bên cạnh lư hương, nha hoàn đã vào thay bốn nén nhang rồi.

Một nén nhang đốt nửa canh giờ, bây giờ đã hai canh trôi qua, sắc trời tối xuống, mưa cũng đã ngừng rơi, bầu trời như được khoác tấm áo mới, hương thơm bùn đất và hoa cỏ tràn ngập trong không khí, côn trùng nhao nhao bò ra hít khí trời.
Tiểu tư bên ngoài nhỏ giọng hỏi: "Ngủ bao lâu rồi?"
"Hai canh giờ, chưa từng lâu như thế, chắc là mệt muốn chết rồi.

Bảo mọi người thả lỏng nghỉ ngơi đi, cơ mà cá, ếch bên ngoài chắc đã tụ đầy ở hồ nước rồi đấy, mưa vừa ngớt là kêu ộp ộp không ngừng."
"Đã gọi người đến đó xem rồi ạ."
"Mang hoa dưới hành lang ra vườn lại đi...!Mang từng chậu đi thôi, buổi tối sẽ không mưa nữa đâu."
Lúc này có một loạt tiếng bước chân dồn dập đi tới, người nọ thấp giọng nói: "Phu nhân tể tướng đến rồi, Hải tổng quản đang ở nhà trước tiếp đón đấy."
"Là vị nào...!Triệu phu nhân hả? Biết rồi, ta sẽ vào phòng đánh thức Triệu đại nhân ngay."
Một lúc sau, có tiếng cọt kẹt vang lên, có tia sáng lọt vào trong phòng, tiếng bước chân nhẹ nhàng đi tới chiếc giường cạnh cửa sổ, người nọ vừa định lên tiếng đã thấy Triệu Bạch Ngư mở to mắt, đôi mắt sáng trong, trông chẳng giống như ngái ngủ chút nào cả.
"Đại nhân tỉnh từ khi nào thế ạ?"
"Mới vừa tỉnh thôi." Triệu Bạch Ngư đứng dậy khoác thêm áo choàng, vừa mang giày vừa hỏi: "Triệu phu nhân có nói vì sao lại đến nhà thăm hỏi không?"
Tiểu tư đáp: "Chỉ nói muốn đến thăm ngài thôi."
Triệu Bạch Ngư đi ra ngoài, đột nhiên quay đầu lại nhìn về phía thứ ánh sáng xua tan bóng tối ở gần giường, bên cạnh lư hương vẫn còn lưu lại một luồng khói xanh, trong sương khói tựa như cất giấu mộng cảnh hoang đường kì lạ vừa nãy.
Sắc mặt thoáng xuất hiện sự hốt hoảng, Triệu Bạch Ngư xoay người lại, "Đi thôi.".
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 110: 110: Ngoại Truyện 3 • Chợt Mơ Chuyện Thiếu Niên


Khói xanh lượn lờ, tiếng Phật mịt mù.
Triệu Bạch Ngư cất hai tay vào trong tay áo, rũ mắt phục tùng giống như một du hồn bước đi trên hành lang khúc khuỷu, ánh mắt thoáng liếc sang hai bóng người đang nói chuyện trong sân nhà.
Y giương mắt nhìn lên, thấy một người tóc bạc trắng trôi lôi thôi lếch thếch, người còn lại thì mặc thường phục, lưng thẳng tắp, mái tóc cũng trắng xoá, đang nói chuyện với người lớn tuổi lôi thôi kia.
Y ến gần nghe thử, "...!Không tiếc đại giới, chỉ cầu cho ngũ lang tu được kiếp sau viên mãn." Giọng nói rất quen tai, thế là y đi vòng qua phía chính diện để thấy rõ mặt của người đang nói, chính là Triệu Bá Ung.
"Ta biết khiến cho người chết sống lại là chuyện rất hoang đường, không cầu kiếp này, chỉ cầu kiếp sau, nhất định đừng chịu hết cực khổ như cuộc đời kiếp này nữa..." Tiếng Triệu Bá Ung nhỏ dần, không giấu được sự suy sụp và đau đớn: "Là một người cha, ta thậm chí không thể hình dung nó là một sự thất bại, phạm phải một sai lầm lớn, ta cũng không thể cho chính mình một cơ hội để sửa sai.

Tiên sinh, cầu xin ngài rủ lòng từ bi, ngũ lang không nên chịu những gian khổ không thuộc về thằng bé."
Thầy tướng gì bất đắc dĩ: "Thế gian ngàn vạn người có ngàn vạn gian khổ, sao có thể tùy tiện đổi mệnh được chứ? Chuyện xảy ra hôm nay còn không quản được, sao có thể quản chuyện kiếp sau? Số mệnh đã như thế, không thể cưỡng cầu, ai cũng có nhân duyên tế hội của riêng mình, kiếp này y chịu khổ, làm sao biết kiếp sau không được hưởng phúc? Đường nhiên là ta không chắc chắn y sẽ tốt số, chỉ là...!Hầy, đừng cầu xin ta nữa, nếu như thật lòng thì hãy kết thiện duyên rộng rãi, tu phúc cho người khác đi, dù không thể nói trước được, nhưng các người vẫn có thể dùng chút thân duyên yếu kém đó tăng mấy phần phúc khí cho tiểu lang quân đấy."
Ông ta phất tay nói những lời kỳ lạ, ánh mắt hướng về nơi Triệu Bạch Ngư đang đứng.
Triệu Bạch Ngư cứ tưởng ông ta nhìn thấy mình, thầm nghi ngờ không biết đây là giấc mơ quái quỷ gì, có điều y lại nhanh chóng phát hiện ra thầy tướng già kia không nhìn thấy y.
Cơ thể lang thang vô định, đi vào sâu hơn bên trong Triệu phủ, Triệu Bạch Ngư quay đầu lại nhìn Triệu Bá Ung sương gió đầy mặt, trong lòng dâng lên một cảm xúc kì lạ, sau đó y tiếp tục đi về phía trước, lần lượt nhìn thấy Triệu Trường Phong, Triệu Trọng Cẩm và Triệu Ngọc Khanh, Triệu đại lang vẫn làm việc trong Cấm quân, lão nhị làm ở Tam ty, Triệu Ngọc Khanh tiền đồ đứt đoạn vì uống rượu gây sự, chạy vào giang hồ làm hiệp khách,
Vừa hay hôm nay Triệu Ngọc Khanh về phủ, Triệu Bạch Ngư nhìn thấy gã suýt chút nữa thì tưởng y nhận nhầm người, thiếu niên đã từng mang trong mình tính cách lỗ m ãng, nay mặt mũi râu mọc đầy, vẻ mặt vừa chán nản vừa tang thương, trông gã bình tĩnh là thế nhưng vẫn nhìn ra được nỗi buồn bã.
Triệu Trọng Cẩm thì không khác với dáng vẻ mà y quen biết lắm, chỉ thêm già giặn và chín chắn hơn, lúc này hắn đang đứng trong sân một mình.
So với Triệu Ngọc Tranh, Triệu Trường Phong trông không nhếch nhác bằng, thế nhưng tuổi còn trẻ thế mà hai tóc mai đã nhuộm bạc, khiến cho người ta phải thổn thức.
Nhắc mới nhớ, bấy giờ Triệu Ngọc Khanh nhỏ tuổi nhất cũng đã ba mươi rồi, nói chi đến hai người còn lại, nhưng cả ba anh em đến tuổi này rồi mà vẫn không vợ không con, âu cũng khiến người ta ngạc nhiên.
Thân thể bị động bay tới viện nhỏ vắng vẻ mà y đã ở suốt mười chín năm trời, Triệu Bạch Ngư bất ngờ khi nhận ra nó đã được tu sửa lại và xây dựng thêm không ít thứ, giống như biến thành hai viện, cảnh vật chung quanh đẹp đẽ và yên tĩnh rất hợp lòng người, nhưng cờ chiêu hồn, đèn trường mệnh và các loại hương nến bên trong lại nhiều vô số kể, nhìn giống như chùa miếu hơn.
Đến gần một chút nữa, y thật sự nghe được tiếng gõ mõ và tiếng tụng kinh.
Triệu Bạch Ngư đứng trên hành lang, đèn lồ ng màu đỏ trên đỉnh đầu được thắp sáng, chập chờn trong gió đêm phát ra tiếng kẽo kẹt nhỏ xíu, cánh cửa bên cạnh mở toang, bên trong trải dài thanh đăng, hương khói không ngừng, trên bàn bày một cái bài vị, chiếc bàn bên cạnh thì có một vị phu nhân mặc quần áo giản dị đang dựa vào bàn sao chép kinh Phật, chậu đồng thiêu giấy đặt kế bên chân đang rực lửa.
"Ta nghe như vậy: Vào một thuở nọ đức Phật ở tại cung Trời Đao Lợi..."
Bà đang chép Kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện, cầu phúc cho người chết.
Lúc này có ma ma đưa hai nha hoàn theo cầm giỏ xách đi tới, trong giỏ là những đồ vật để đốt cho người chết như nguyên bảo*, vương kim, tiền phúc, bọn họ cúi đầu vái trước bài vị, thông báo với Tạ thị đang sao chép kinh Phật chẳng màng tới ai rồi bước ra sân thiêu hủy những đồ vật kia.
(*) Nguyên bảo: đ ĩnh vàng hoặc bạc thời xưa, một đ ĩnh bạc thường nặng 50 lượng, một đ ĩnh vàng thường nặng 5 hoặc 10 lượng
Ma ma dặn hai nha hoàn đứng trong sân canh lửa, chú ý phải để mọi thứ bị đốt sạch xong rồi mới được đi, sau đó quay vào nhà cùng Tạ thị.
Hai nha hoàn kia đứng cách hành lang rất xa, nhưng Triệu Bạch Ngư vẫn có thể nghe được nội dung cuộc trò chuyện của hai nàng, một trong hai nha hoàn đó có một người là người mới tới, không hiểu chuyện trong phủ bèn nhỏ giọng hỏi thăm.
Nha hoàn còn lại nhìn trái nhìn phải, xác định không có ai ở gần mới kể cho nàng ta nghe chuyện lớn làm chấn động phủ Kinh Đô năm đó, sự thật đổi con bị vạch trần, người nhà họ Triệu nhẫn nhịn, giả vờ đầu quân vào Đông cung, để hắn kế vị không tới một năm đã tiêu diệt sạch đảng đế vương, phơi bày âm mưu hại tiên đế, giúp đỡ Lâm An quận vương đăng cơ.
Mặc dù Xương Bình và Triệu Ngọc Tranh đã phải chịu đủ báo ứng, nhưng ngũ lang thật đã chết từ lâu rồi, dù có làm nhiều hơn nữa, hối hận đến đâu đi nữa thì cũng vô ích thôi, người chết đâu thể nào sống lại được.
"Hôm nay là ngày giỗ của ngũ lang."
Cùng lúc đó, Tạ thị ở trong nhà vô cùng thành kính mà niệm, "Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát, nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, cầu cho kiếp sau của con ta được viên mãn, sống lâu trăm tuổi, trăm tuổi không lo."
Triệu Bạch Ngư quay phắt đầu nhìn lại, rốt cuộc cũng thấy rõ mấy chữ to "Bài vị của con trai Triệu Bạch Ngư quá cố" ở bên trên.
——Không, nói đúng hơn là bài vị của "Triệu Bạch Ngư" trong nguyên tác.

Vì sao y lại mơ giấc mơ này?
"Không phải là mơ đâu."
Ai đang nói chuyện thế?
Triệu Bạch Ngư theo tiếng nhìn lại, thấy được một người có dáng vẻ giống y như đúc, chỉ là khí chất dịu dàng và yếu ớt hơn y, cơ thể cũng vô cùng đơn bạc, giữa lông mày chất chứa nỗi phiền muộn.
"Triệu Bạch Ngư."
Là Triệu Bạch Ngư không được yêu thương trong nguyên tác.
"Hân hạnh được gặp."
Ngoài dự đoán chính là "Triệu Bạch Ngư" trước mắt y không hề thê thảm như lời miêu tả trong quyển truyện kia.
"Triệu Bạch Ngư" nhìn về phía Tạ thị, ánh mắt dịu dàng, không còn oán hận cũng chẳng còn cố chấp: "Cậu nhìn thấy chưa? Bọn họ đều cảm thấy cuộc đời tôi đau khổ, thật ra trừ việc không ai thương tôi ra, thì tôi sống chẳng phải lo sinh hoạt, cũng không cần lo ăn uống gì." Cậu ta cười, "Nhưng khi còn sống người ta đâu có nhận ra được những điều này, mà chỉ tập trung vào nỗi đau nhất thời và phóng đại nó lên vô hạn, cố chấp với thứ không có duyên phận, sống chết không chịu buông tay...!Bây giờ tôi mới hiểu được hóa ra sự cố chấp của tôi cũng giống như của bọn họ mà thôi.

Người chết rồi coi như xong chuyện, tôi vốn phải im hơi lặng tiếng mà tiêu tan đi, nhưng chấp niệm của bọn họ đã kéo tôi trở về, để tôi tận mắt nhìn thấy rằng, trên đời này không phải là không có ai thương yêu tôi."
"Tôi đã cảm thấy mỹ mãn rồi."
"Cậu đúng là Triệu Bạch Ngư nhưng không phải là tôi, chúc cậu không tai không đau, mọi sự suôn sẻ, được như mong muốn."
"Tôi cũng mong cậu không tai không đau, được trời quan tâm, tam tinh cao chiếu, vạn sự như ý cát tường."
Tên, gương mặt, số mệnh giống nhau nhưng lại là hai người khác nhau, một trái một phải chắp tay cúi chào lẫn nhau, chúc phúc cho nhau, sau đó nhìn nhau cười tươi, mà cũng ngay lúc này, "Keng..." một tiếng vang dậy đất, âm thanh của chuông vàng xuyên qua phủ Kinh Đô, mang theo nhịp điệu thanh thoát của tiếng gõ mõ, tiếng tụng kinh, cùng với tiếng mưa rơi, tiếng ếch kêu, tiếng nha hoàn xì xào bàn tán và tiếng mấy tiểu tử thì thầm đan xen vào nhau, dần dần cách xa, rồi một bên biến mất chẳng còn tăm hơi, một bên còn lại thì càng trở nên rõ ràng, hình ảnh biến từ vặn vẹo mơ hồ thành rõ ràng chân thật...
Triệu Bạch Ngư mở bừng mắt ra, tiếng mưa rơi, tiếng ếch kêu và tiếng thì thầm của mấy tên tiểu tư vọng vào trong phòng đểu biến mất hết, chỉ có tiếng chuông reo là vẫn còn vang dội, lại một lát sau nữa, khi nghe thấy tin bảo "Phu nhân tể tướng tới chơi", đón lấy tiếng tiểu tư vào phòng y mới xác định mình đã thoát khỏi giấc mộng kia, về lại đời này.
Khoác thêm áo choàng, Triệu Bạch Ngư băng qua hành lang, đan mười ngón tay vào nhau giấu trong tay áo, rũ mắt suy nghĩ về "người nhà họ Triệu" và "Triệu Bạch Ngư" mà y nhìn thấy trong giấc mơ.
Không hề nghi ngờ gì nữa, đó chính là tuyến truyện của nguyên tác, kết cục HE chính là ngày đại điển sắc phong của nhân vật chính diễn ra, mà khi màn kịch vừa buông xuống, những nhân vật phụ bỗng nhiên sống dậy trở lại giống hệt như những con rối, đốt giết tàn sát, gió tanh mưa máu, vì nhân vật chính mà thêm thắt một ngoại truyện BE tràn ngập mùi máu tanh.
Y nghĩ, hóa ra người nhà họ Triệu biết được sự thật đổi con rồi vẫn yêu thương Triệu Ngọc Tranh như ngày xưa là vì có mục đích riêng, hóa ra "Triệu Bạch Ngư" trong sách không hề thảm thương đến tột cùng, không phải bị vứt bỏ mặc cho người chà đạp, cũng không phải chết không có gì hối hận, vẫn có người nhặt xương cho cậu ấy, có người đốt đèn trường mệnh cho cậu ấy suốt chục năm trời, có người vì cậu ấy mà chịu hổ thẹn nhiều năm, giày vò cuộc đời mình, có người sẵn lòng dâng ra phúc phận mười đời của mình đổi cho cậu ấy một kiếp sau tốt đẹp hơn.
Thì ra "Triệu Bạch Ngư" chỉ có thân duyên nông cạn, cho nên cũng không phải là số trời khó trái.

***
Nhà trước.
Tạ thị nghe thấy tiếng bước chân bèn nhanh chóng quay người lại, nhìn thấy Triệu Bạch Ngư liền vô thức tiến lên, nhưng đi được vài bước thì đột nhiên đứng lại, nụ cười tươi xuất hiện trên môi: "Ngũ lang." Bà quan sát Triệu Bạch Ngư, thấy y không tai không đau, không có bất kì dấu hiệu gì là sẽ chết trẻ ở tuổi hai mươi sáu, dây thừng căn chặt trong ngực mới nới lỏng ra, không nhịn được thở phào một hơi nhẹ nhõm, nhỏ giọng nói: "Ta vừa mới đi ngang qua vương phủ, nên muốn đến đây gặp con một chút.

Bây giờ gặp được rồi, cũng không có chuyện gì khác, ta không quấy rầy con nữa, ta...!Bây giờ ta đi đây."
Ngoài miệng nói đi, nhưng chân lại không động đậy, hai mắt vẫn còn dính chặt lên người Triệu Bạch Ngư.
Triệu Bạch Ngư rũ mắt, tuy rằng có giấc mơ kia làm bước đệm, nhưng y vẫn không biết phải đối mặt với Tạ thị như thế nào.
Người đã từng hận y, trách y, khắt khe với y chính là Tạ thị, thương y, hổ thẹn với y, vì y mà tụng kinh niệm phật cầu phúc trường an cũng là Tạ thị, Triệu Bạch Ngư có đau khổ trong lòng nhưng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện căm hận Tạ thị và người nhà họ Triệu.
Đã từng nói dùng cả đời này để thanh toán hết không phải là hờn dỗi, y tự mình đa tình với nhà họ Triệu, nhưng nó đã tan thành mây khói vào ngày xuất giá của mùa hè năm mười chín tuổi rồi, từ dạo ấy về sau lòng không gợn sóng, mặc dù có thương cảm vì sau này người nhà họ Triệu luôn bỏ ra công sức cố gắng chắp vá thân duyên, nhưng cuối cùng cũng không có cảm xúc gì quá mãnh liệt.

Nhưng khoảng thời gian này, hình ảnh Tạ thị dù có muốn quan tâm đ ến y vẫn phải cẩn thận lòng vòng lại khiến cho y lơ đễnh nhớ đến Tạ thị sao chép kinh Phật như điên, lẩm bẩm "Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát", xin trời cao rủ lòng thương, hy vọng con trai nhỏ "sống lâu trăm tuổi" trong giấc mơ kia.
Suy cho cùng thì y vẫn không đành lòng.
Triệu Bạch Ngư: "Hôm trước vừa nhận đường đỏ Nghiên Băng gửi đến, thằng bé tự tay nấu đấy, tối nay ta định lấy nấu trứng gà đường đỏ, nấu hơi nhiều một chút, Tử Uyên vẫn còn ở trong cung, nấu xong để nguội lâu sẽ có mùi tanh...!Người có muốn uống không?"
Có thể thấy hai mắt của Tạ thị long lanh sáng rực, khóe môi cong lên, gật đầu liên tục: "Thích chứ, mẹ...!À, ta, ta thích trứng gà đường đỏ lắm!"
Mặc kệ trước kia đi, dù sao thì từ rày về sau đây chính là tình cảm chân thành của bà ấy.
Triệu Bạch Ngư cười, lấy cớ phải đi hối thúc, thật ra là vào nhà bếp tự tay nấu trứng gà đường đỏ, tài nấu nướng của y kém quá, làm cái gì cũng không xong, nhưng nấu một chén trứng gà đường đỏ dễ uống thì y làm được.
Nấu hai chén trước, sau đó mới mang lên nhà trên, chia cho Tạ thị một chén.
Tạ thị nếm thử, đầu lưỡi bị phỏng nên hai mắt cũng nóng lên, trong chớp mắt hiểu ra đây là nước chè vừa mới nấu xong.
Không phải thuận tiện, mà là cố tình xuống bếp, là mây mờ trăng tỏ sau sáu năm trời ròng rã, rốt cuộc cũng nhìn thấy được hiềm khích năm xưa tiêu tan, thân duyên có khả năng nối lại.
Cảnh tượng con trai nhỏ tự thân xuống bếp, ngồi chung một bàn, im lặng uống nước đường, chỉ còn lại tiếng lách cách khi muỗng chạm vào thành chén là niềm hi vọng mà Tạ thị mong mỏi đã lâu rồi nhưng có nghĩ bà cũng không dám nghĩ đến, những tưởng bà gặp được con rồi sẽ lại ch ảy nước mắt, sẽ khó nhịn nỗi xúc động, nhưng sự thật thì tỏ ra bình tĩnh khéo léo, giống như một người mẹ và con trai bình thường, ngồi lại nói những chuyện bình thường vào một ngày rất bình thường trên đời này vậy.
Uống một chén trứng gà đường đỏ như nhấm nháp sơn hào hải vị, tốn hết tâm tư kéo dài thời gian nhưng rất nhanh đã thấy đáy, Tạ thị hơi bối rối, không biết nên dùng cớ gì để tiếp tục ở lại vương phủ.
Triệu Bạch Ngư nói những chuyện thường ngày một cách rất tự nhiên, Tạ thị vội vàng bắt lấy cơ hội tiếp lời, trò chuyện câu được câu chăng nhưng cũng đâu ra đấy, có lẽ là dấu hiệu phá băng.
Nửa canh giờ nhanh chóng trôi qua, tất nhiên Tạ thị đã cảm thấy thỏa mãn rồi, cũng không thể lấn lướt tiếp tục ở lại đây nữa, vô duyên vô cớ lại làm người ta phát ghét nữa.
Bà đứng dậy chào tạm biệt.
Triệu Bạch Ngư tiễn bà đi, đi qua sân nhà, hành lang rồi đến bức tường phù điêu, đứng cạnh cổng đưa mắt nhìn Tạ thị lên xe ngựa, bỗng nhiên cất giọng: "Mẫu đơn trong phủ nở thế nào rồi ạ?"
Tạ thị kinh ngạc mừng vui nâng mắt lên: "Trăm hoa tươi đẹp, kiều diễm ướt át."
Triệu Bạch Ngư: "Tổ chức tiệc vào cuối tháng Ba sao?"
Tạ thị: "Hai mươi lăm tháng Ba."
Triệu Bạch Ngư: "Ta có thể đến chứ?"
Chóp mũi Tạ thị chua xót, nhưng môi lại cười tươi như hoa: "Xỏ ngược giày nghênh đón*."
(*) Nguyên văn là Đảo tỉ nghênh chi - 倒屣迎之: Xỏ giày ngược ra nghênh đón.

Vì nhiệt tình, vội vàng ra nghênh tiếp khách mà đi giày ngược
Triệu Bạch Ngư đưa tay ra, ống tay áo dài che khuất gương mặt, thoáng cúi đầu chào tiễn biệt.
Tạ thị bước vào xe ngựa, bánh xe lăn nhanh đi xa, bỗng nhiên bà dùng tay áo che mặt, vui mừng phát khóc.
==
Buổi chiều, Hoắc Kinh Đường trở về từ trong cung.
Từ khi hắn từ chối vị trí Thái tử, được nhận lại lấy thân phận Đại hoàng tử, quan hệ cha con với Nguyên Thú đế đã hòa dịu đến trạng thái thuần túy tốt đẹp nhất.

Nhưng Nguyên Thú đế luôn thích tối đa hóa lợi ích của mọi người và mọi thứ, nói trắng ra là không muốn thấy Hoắc Kinh Đường chơi bời lêu lổng ăn nằm đàn đúm suốt ngày, cho nên gọi hắn vào cung dạy võ công, bài binh bố trận, hành quân chiến tranh,...!cho các hoàng tử, chiến thần Tây Bắc đích thân dạy học đương nhiên là thầy giỏi dạy trò hay rồi.
Hơn nữa nhờ vậy mà Hoắc Kinh Đường không chỉ là đại ca của các hoàng tử, hắn còn trở thành thầy giáo, có hai thân phận này bảo vệ, ngày sau tân đế đăng cơ cũng phải đối xử cung kính với bọn họ, không được làm những việc như qua cầu rút ván.
Có điều nhìn qua quá trình trước mắt, Hoắc Kinh Đường càng có khả năng sẽ trở thành nỗi ám ảnh lúc nhỏ của các hoàng tử hơn.
Trong phòng tắm, hơi nước mờ mịt, Hoắc Kinh Đường đang ngâm mình dưới nước nóng, trong tầm mắt, Triệu Bạch Ngư chỉ có thể nhìn thấy được tấm lưng dày rộng và cánh tay cơ bắp cường tráng của hắn, tóc dài búi lên, hai cánh tay sải dài gác lên thành bồn tắm, trên cổ tay quấn chuỗi vòng Phật.
"Hôm nay trời mưa đến chiều tối, không thể tổ chức các hoạt động ngoài trời, lẽ ra phải về sớm chứ, sao chàng về muộn thế?"
"Sáng nay Thập tam với Thập ngũ đứa nào đứa nấy giở trò nhỏ nhen, ta phạt chúng tiếp tục luyện tập trong mưa, đợi mệt sắp ngất rồi mời thả cho về."
Tuy nói lúc huấn luyện Hoắc Kinh Đường vô cùng nghiêm khắc, nhưng thật ra rất ít khi trừng phạt, với cái tính lười biếng của hắn thì chắc chắn phải chẳng thèm quan tâm mấy chuyện này mới đúng, nếu không phải tại Nguyên Thú đế thường xuyên lệnh cho người đến theo dõi, nói không chừng vừa đến giờ Mão là hắn xách mông chạy về rồi.
Có thể khiến cho hắn chủ động đưa ra hình phạt, nhất định là đối phương đã phạm vào giới hạn của hắn.
"Sao vậy?"
"Hoàng tử tranh giành, đùa giỡn bày trò tâm cơ là chuyện bình thường, nhưng tuổi còn nhỏ đã không từ thủ đoạn mà nhảy vào chỗ chết, nếu không nhanh chóng uốn nắn cho thẳng lại thì khó tránh khỏi lệch lạc thành kẻ tàn bạo bất nhân.

Đám nhóc con này, không cầu bọn chúng ngày sau có thể trở thành minh quân thịnh thế, làm một quân vương có lòng nhân nghĩa, là một tấm gương tốt, biết thương cảm cho nỗi khổ của người khác là được rồi."
Nhắc đến đây, im lặng một lát, Hoắc Kinh Đường không chịu nổi lớp da giả vờ lạnh lùng bình tĩnh nữa, trầm giọng hừ một tiếng khinh thường, vô cùng không vui nói: "Phiền!"
Hoắc Kinh Đường xoay người, thò tay về phía Triệu Bạch Ngư, làm dáng nói: "Tiểu lang quân mau tới dỗ dành tinh thần và thể xác mệt mỏi của ta đi."
Triệu Bạch Ngư bước tới, tát một cái vào lưng hắn, nói chuyện như ông già: "Làm người đứng đắn đi." Nhưng vẫn mặc cho hắn nắm tay, y hơi cúi đầu xuống, hơi nước mờ mịt bao phủ trước mắt, miệng cũng đột nhiên bị ngăn lại, rồi bỗng trời đất quay cuồng, bị kéo thẳng vào trong bồn tắm, bọt nước tung tóe khắp nơi, quần áo ướt dần, trôi lềnh bềnh trên mặt nước.
Mặt nước sóng sánh, Triệu Bạch Ngư nheo mắt lại, trâm ngọc rơi ra, búi tóc vốn lỏng lẻo chớp mắt rơi đầy trên vai, đuôi tóc ướt đẫm, cũng trôi nổi giống như áo ngoài.
Hoắc Kinh Đường khẽ cười, "Buổi chiều tiểu lang đã gặp Triệu phu nhân à?"
Triệu Bạch Ngư dùng giọng mũi ừm một tiếng trả lời, mười ngón chân co quắp lại.
Bàn tay của Hoắc Kinh Đường cứ quanh quẩn bên eo Triệu Bạch Ngư, nghe vậy bèn tiếp tục hỏi như đang trò chuyện: "Tiểu lang định đến dự tiệc sao?"
Triệu Bạch Ngư cau mày, tay trái lướt qua vai Hoắc Kinh Đường nắm chặt lấy thành bồn tắm, đầu ngón tay trắng trẻo, thấp giọng đáp: "Mời mấy năm nay rồi, từ chối nữa thì không phải phép."
Hoắc Kinh Đường: "Là vì bỏ qua tất cả mọi hiềm khích lúc trước hay là chỉ làm theo lời yêu cầu thôi?"
Triệu Bạch Ngư mím môi không muốn nói, nhưng Hoắc Kinh Đường thấy y không nói chuyện bèn lại gần hôn lên khóe môi y, nhưng những hành động mang ý trêu đùa tựa như đang chọc ghẹo mèo con liên tục ập đến, thỉnh thoảng khiến người ta cảm giác như đang bị giày vò.
"Phiền quá!" Triệu Bạch Ngư đột nhiên nổi nóng, nắm thay thành quyền nện vào vai Hoắc Kinh Đường, thuận thế đứng dậy, chuẩn bị đá cái tên phiền phức chết tiệt này ra rồi bỏ đi, "Chàng tự chơi đi...!A!"
Hoắc Kinh Đường siết chặt eo y kéo trở về, để y lưng tựa vào bồn tắm, đôi mắt Bồ Tát màu ngọc lưu ly chứa đựng vẻ lười nhác nhưng hung hăng, giống hệt như đọa Phật, mê hoặc Triệu Bạch Ngư đang tức giận trở nên mềm lòng, áp sát lại hôn lên cằm và trái cổ của hắn.
Thoáng chốc bọt nước văng tứ tung, sương khói lượn lờ, đèn dầu xua tan bóng tối, người làm mang công cụ chà rửa phòng tắm đến trước cửa rồi lại đi, mãi đến tận khi trăng tròn treo cao, Hoắc Kinh Đường ôm Triệu Bạch Ngư đi ra, bọn họ mới có thể vào thu dọn phòng tắm hỗn loạn.
Buổi chiều đã ngủ hai canh giờ vốn phải tỉnh táo, nào ngờ đến tối lại náo loạn một trận không có giới hạn, thể lực bị vắt sạch, vừa nằm lên giường đã ngủ say.
Hoắc Kinh Đường khoác áo lót vào, ôm Triệu Bạch Ngư ngủ.
Đêm xuân hơi lạnh, mọi âm thanh đều như ngừng lại, trừ tiếng côn trùng nhỏ kêu vang, ánh nến lập lòe hai lần đã ắt, giấc mộng bí mật ngọt ngào ghé thăm.
...
Cũng vào một đêm mưa mới dứt, côn trùng ở nơi rừng sâu cây dày kêu lên không ngừng, Triệu Bạch Ngư mười sáu tuổi vừa trở thành tú tài, lòng mang chí lớn, chất chứa đầy hoài bão và triển vọng vì dân lập mệnh, cũng tài hoa hơn người, tương lai rộng mở.
Nếu như không có chuyện gì ngoài ý muốn, tiếp theo chính là thi Hương, thi Hội, cuối cùng là thi Đình giành lấy công danh.
Ân sư khen ngợi y có tài trạng nguyên, nhưng y lại không quan trọng trạng nguyên hay bảng nhãn, có thể làm quan là được rồi.
Triệu Bạch Ngư lảo đảo chạy theo thời đại này, tuy rằng vấp ngã đến nỗi mặt mũi bầm dập, y trà trộn vào đủ thứ hạng người để nhìn nổi khổ của tầng lớp dưới cùng, thế nhưng chưa bước vào quan trường, chưa chính thức đối mặt với bóng tối khiến cho con người của thời đại này rơi vào tuyệt vọng nhất, chưa nếm trải cảm giác dốc hết toàn lực để đầu rơi máu chảy rồi lại bất lực, lúc bấy giờ vẫn còn khá ngây thơ.
Y cũng giống như các học sinh trong thiên hạ này, học hành chỉ để làm quan.
Có người làm quan vì tiền tài, có người làm quan để kiến công lập nghiệp, để lưu danh sử sách, nhưng cũng có người làm quan chỉ vì hai chữ "vì dân".

Triệu Bạch Ngư cho rằng tu thân cũng đơn giản giống như tu quan, không cầu tiền tài, không mưu quyền, chỉ nhẹ nhàng như hai chữ vì dân.
Nếu như có cơ hội tiến xa vạn dặm, thì sẽ từ vì dân thành lo nước, suy cho cùng thì vẫn chỉ là để mưu cầu hạnh phúc và lợi ích cho dân mà thôi.
Từ nhỏ trong y đã chứa dấu ấn của một thời đại bình đẳng, cho nên làm mọi chuyện đều chọn cách tử tế nhất, chỉ không ngờ người nhà họ Triệu vì một suy nghĩ của Triệu Ngọc Tranh mà yêu cầu y từ bỏ tham gia khoa khảo.
Trong lòng Triệu Bạch Ngư cảm thấy hoang đường, hiếm khi chọn từ kiên quyết từ chối, vậy mà chỉ ngủ một giấc thôi, tỉnh dậy y đã phát hiện mình bị nhốt trong một căn phòng lạ lẫm, cửa sổ cũng khóa chặt, trong góc có lương khô đủ sống qua mười ngày nửa tháng.
Hôm nay là ngày vào trường thi.
Ngoài cửa đột nhiên có tiếng bước chân vang lên, dường như là vọng vào từ bên ngoài.
Triệu Bạch Ngư nhòm ra khe cửa, trông thấy một bóng lưng hơi quen thuộc, người đó đi đến cửa viện, rồi sau đó giọng nói tò mò của Triệu Ngọc Tranh vang lên, "Tam ca, sao huynh lại ở đây?"
Triệu tam lang nói mấy câu lừa gạt cho qua chuyện, Triệu Ngọc Tranh còn định hỏi tiếp đã nghe một giọng nói khá lạnh lùng khác vang lên: "Nó chỉ là một thằng nhóc ranh thôi, trừ bày trò xấu ra thì có thể làm nên chuyện đứng đắn gì chứ? Đừng để bị nó dạy hư, đệ mới vừa khỏi bệnh, theo nhị ca đến sân xem cưỡi ngựa đánh bóng thôi, phải chỉ bảo cho nhị ca đấy."
Quả nhiên sự chú ý của Triệu Ngọc Tranh đã bị dời đi, tung tăng chạy xa.
Chỉ nghe Triệu nhị lang quát một câu không đau không ngứa: "Vừa phải thôi."
Triệu tam lang rầm rì hai câu rồi chạy theo sau, viện nhỏ hoàn toàn trở nên yên tĩnh, Triệu Bạch Ngư bèn nghĩ, thế thì cũng không cần phải nhốt y mười ngày nửa tháng chứ, chỉ cần bỏ lỡ canh giờ vào trường thi hôm nay là đã tương đương với việc y tự động từ bỏ ba năm khoa khảo sau này rồi.
"Hầy."
Triệu Bạch Ngư ôm cánh tay, chôn mặt vào khuỷu tay, bị nhốt trong tiểu viện lạ lẫm suốt hai ngày một đêm, cuối cùng đập bể cửa sổ chạy ra ngoài, nhìn lên bầu trời không trăng không sao và rừng sâu vươn tay không thấy nổi năm ngón, bỗng nhiên nện nắm tay vào lòng bàn tay chán nản nói: "Sớm biết như vậy thì mấy ngày trước không nên từ chối bùa cầu phúc bình an mà cao tăng chùa Bảo Hoa chào hàng mới đúng!"
Tiếc rằng khi đó y không thể mua vì giá đắt quá, từ chối đi cửa sau có thần phật che chở.
Bây giờ có hối hận cũng đâu thể làm được gì, thần phật đã đóng cửa sau lại rồi, chỉ chừa mỗi bóng lưng vô tình mà thôi.
So với rừng rậm tràn đầy bóng tối với vô số loài rắn, côn trùng, chuột và kiến, tất nhiên là tiểu viện sau lưng an toàn hơn, chỉ cần ngồi bên trong đợi đến sáng là được, nhưng đối với Triệu Bạch Ngư mà nói, y thà xông vào khu rừng đầy rẫy nhưng hiểm nguy, có khả năng sẽ phải chết oan chết uổng còn hơn là quay trở lại gian phòng bí bách đó.
Đó là khi sự nhiệt tình mà y dành cho người nhà họ Triệu bắt đầu trở nên nguội lạnh.
Lần mò trong bóng tối đi về phía trước, trên cơ thể đầy vết thương bầm dập tê tái, nỗi đau và sợ hãi như muốn xé rách linh hồn và thân thể, y lẻ loi bước đi trong khu rừng tối nơi chẳng có chút ánh sáng, sự lạc lõng khi sống trong một thế giới khác luôn được kiềm nén, nỗi sợ hãi, cô độc, khó khăn, đau đớn và tủi thân trong chốc lát cùng nhau bùng nổ, Triệu Bạch Ngư đột nhiên chạy như điên, trong đầu trống rỗng, sống chết toàn bộ dựa vào ý trời.
Rồi y vấp phải rễ cây trượt chân xuống sườn núi, lăn vào con đường nhỏ bên cạnh, tưởng rằng đã ngã chết ở một nơi không ai hay biết, nhưng rồi y nghe được ở cuối con đường nhỏ đó có tiếng vó ngựa đang vọng từ xa tới gần, cũng chẳng biết vì sao, dưới sự hạn chế của bóng tới và ánh mắt mơ hồ, Triệu Bạch Ngư vẫn nhìn thấy được chú ngựa phi nhanh đến cùng với tướng mạo vô cùng đẹp của chàng trai trên lưng ngựa, hùng ưng bay lượn trên đầu rồi hạ thấp độ cao xuống, tay trái của hắn cầm trường cung, túi da treo trên lưng chứa đầy mũi tên đuôi lông trắng vô cùng thu hút sự chú ý của người khác.
Trước khi mất sạch ý thức, Triệu Bạch Ngư nghĩ thầm, hóa ra là lang quân cưỡi ngựa bắn cung vào ban đêm, không biết có phải người tòng quân hay không nữa.
Nhìn thấy đuôi tóc dài của hắn bay lên, khí thế hăm hở, nếu không mang Ngô câu chẳng phải sẽ đáng tiếc lắm sao?
Lang quân trên lưng ngựa liếc nhìn sang, lạnh lùng nghiêm khắc nhưng hờ hững, có điều chỉ trong nháy mắt lại bay bổng rời đi, tiếng vó ngựa đi xa dần, Triệu Bạch Ngư lại nghĩ bụng người ta không phát hiện ra mình, hay là nhìn thấy nhưng không muốn dây vào việc của người khác?
Bỏ đi, có hơi đau đấy, ngủ một chút trước đã.
Ý thức của Triệu Bạch Ngư đã gần đến mức sụp đổ rồi, vó ngựa lại rền vang, móng trước nhô cao, một chiếc đèn cầy chiếu sáng mặt của y, rồi sau đó y được bó lại trong quần áo và chăn ấm, ngửi thấy mùi hương đốt trước Phật êm dịu nhàn nhạt khiến cho tinh thần người ta an yên.
Giữa lúc nửa tỉnh nửa mê, Triệu Bạch Ngư líu ríu nói: "...!Tướng quân đêm bắn tên, sớm mai tìm dấu vết." Vậy cho nên ban đầu y mới lập tức suy đoán nếu như đó không phải là một vị tướng quân còn trẻ đã thành danh thì thật là tiếc cho phong thái ấy quá.
Sau khi tỉnh lại, Triệu Bạch Ngư đã thấy mình ở y quán rồi, y không thể tra ra được người cứu mình là ai, đến nối dáng vẻ của đối phương cao thấp thế nào y cũng không nhớ rõ, chỉ có khuôn mặt khôi ngô đẹp đẽ là vẫn loáng thoáng trong đầu, đương nhiên là y sẽ loại trừ Lâm An quận vương tàn bạo có tướng mạo xấu xí kia trước.
Dần dà, kí ức kia trở nên mơ hồ, thậm chí đôi khi y còn cho rằng đó chỉ là một giấc mộng.
Cũng có thể người kia là yêu quái trong núi, tình cờ rũ lòng thương làm việc tốt cứu y mà thôi.
...
Đột nhiên choàng tỉnh khỏi cơn mơ, Triệu Bạch Ngư mở mắt ra, khuôn mặt say ngủ của Hoắc Kinh Đường lọt vào tầm mắt, y ngắm nhìn thật kĩ, nếu như hắn trẻ ra mười tuổi, hình dáng và ngũ quan đều sẽ nhu hòa hơn, màu da cũng sẽ trắng hơn một chút, thật sự là rất giống với yêu ma quỷ quái mà y gặp được trong núi năm mười sáu tuổi.
Đúng ngay lúc này, ngoài phòng có tiếng chim ưng vang lên, giống hệt như cách hùng ưng hạ mình bay quanh bầu trời đêm ấy.
Bỗng nhiên Triệu Bạch Ngư nở nụ cười.
Hóa ra mỗi lần ta bước đến lằn ranh của sự sống và cái chết, chàng đều là người cứu ta..
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 111: Ngoại truyện 4 • Đừng bận tâm quá khứ


Sau khi mọi chuyện bại lộ, Triệu Ngọc Tranh vẫn không hề sợ hãi, từ năm mười sáu tuổi biết được sự thật đổi con, cậu đã chấp nhận kết cục chết không yên ổn rồi.

Nửa đời trước cậu được ăn ngon mặc đẹp, được muôn vàn yêu thương, tự do bay nhảy, làm sao có thể chịu được cuộc sống sau khi rơi xuống đất chứ?

Biết rõ Đông cung và mẹ ruột sẽ lợi dụng cung yến cử binh mưu phản, thực tế triều thần mệnh phụ tham dự cuộc họp càng dễ trở thành bia ngắm hơn, Triệu Ngọc Tranh vẫn trơ mắt nhìn xe ngựa đưa Triệu Bá Ung và Tạ thị đi về phía hoàng cung.

Thật ra cậu đã cho Triệu Bá Ung và Tạ thị một cơ hội, cậu đã giữ họ lại, nếu như hai người vẫn nhìn cậu một cái, có thể đối mặt với cậu bằng biểu cảm ôn hòa, có thể khiến cho cậu cảm nhận được hai mươi năm bọn họ ở cùng nhau không phải duy trì nhờ dựa vào quan hệ máu mủ.

Thế nhưng người nhà họ Triệu lại khiến cho cậu thất vọng.

Thân thế của cậu, mẹ ruột của cậu chính là nguồn gốc tội lỗi, cho nên cậu cũng sẽ bị ghét lây giống như Triệu Bạch Ngư của những ngày trước khi sự thật bị vạch trần.

Những lúc triền miên trên giường bệnh, Triệu Ngọc Tranh đã vô cùng hận Triệu Bạch Ngư, hận mẹ ruột đã hại cậu sinh ra với số mệnh ngắn ngủi, hận Triệu Bạch Ngư có được thân thể khỏe mạnh, có thể chạy nhảy, vì vậy nên từ nhỏ cậu đã học được cách lợi dụng cơ thể yếu ớt lắm bệnh của mình để dẫn dắt người bên cạnh mình giận cá chém thớt, ghét bỏ Triệu Bạch Ngư.

Triệu Trường Phong, Triệu Trọng Cẩm và Triệu Ngọc Khanh đều yêu thương và nuông chiều cậu, họ ấn tượng sâu sắc với sự ác độc của Xương Bình, cảm xúc đối với Triệu Bạch Ngư vốn rất phức tạp, lại bị dáng vẻ suy yếu, bất lực khóc lóc vì đau của cậu k1ch thích, hiển nhiên toàn bộ nỗi căm ghét Xương Bình đều bị chuyển lên người Triệu Bạch Ngư.

Ác ý của một đứa trẻ là thứ đơn thuần nhất nhưng cũng dễ gây tổn thương nhất, chỉ tiếc gia phong nhà họ Triệu vẫn sừng sững ở đó, cuối cùng không khiến Triệu Bạch Ngư chết ở sâu trong đại trạch, trái lại bình an lớn lên.

Ba con trai lớn của nhà họ Triệu đều được chọn trở thành thư đồng của hoàng tử, dù không ai từng đến tộc học dù chỉ một ngày, bởi vì hổ thẹn với nhà họ Triệu, Nguyên Thú đế và Thái hậu cũng vô cùng yêu chiều cậu, đặc biệt lệnh cho Triệu Ngọc Tranh tuổi còn nhỏ vào cung làm thư đồng.

Thực tế là muốn đi hay không tùy vào ý cậu, đến đó rồi cũng chỉ được các hoàng tử vây quanh tâng bốc mà thôi.

Trong cung ngoài cung, trong phủ ngoài phủ đều không có ngoại lệ, những người có quyền thế nhất trên đời này đều thiên vị cậu, ai dám không cưng chiều con trai út của nhà họ Triệu chứ?

Có ai không yêu Triệu Ngọc Tranh?

Đến tuổi hiểu chuyện biết lễ, cơ thể không còn lúc nào cũng bệnh tật nữa, Triệu Ngọc Tranh nhìn Triệu Bạch Ngư cũng không còn thấy ghét, không còn trút giận lên y hay tìm cớ kiếm chuyện nữa, mặc dù không thể thông cảm cho những việc mà 'mẹ ruột' của y làm, nhưng cậu vẫn rộng lượng buông tha cho Triệu Bạch Ngư.

Tình cảnh của đối phương khó khăn, hình phạt nên nhận cũng đã nhận đủ rồi.

Chờ đến khi cậu trở thành con trai út nhà họ Triệu không ai trong phủ Kinh Đô này không biết, cưỡi ngựa đỏ thẫm, giơ cao roi ngựa mang theo thắng lợi lâm trường từ ngoài tỉnh trở về, băng qua những con đường sầm uất trong thành, sau lưng mãi mãi có một đám thanh niên trẻ tranh nhau đi theo, phong thái sáng sủa, khí thế hăng hái, thân đeo vô vàn quang vinh, trên đời này không có thứ gì cậu muốn mà không chiếm được cả.

Cậu giàu có quá rồi.

Dù là về tinh thần hay vật chất đều dầy đủ thậm chí quá nhiều, vô cùng tôn quý, thế cho nên mới nảy sinh lòng đồng cảm dư thừa...

Triệu Ngọc Tranh đồng cảm với nỗi bất hạnh của Triệu Bạch Ngư, thương hại cho tình cảnh của y, cũng đã từng có một thời gian cậu đối xử với Triệu Bạch Ngư rất thân thiện, không hề có chút ác ý nào.

Chỉ tiếc tiệc vui chóng tàn, mẹ ruột phái người đến báo cho cậu biết sự thật đổi con.

Triệu Ngọc Tranh không chịu nổi đả kích, bệnh nặng một trận, cơ thể gầy đi, nhìn thấy sự lo lắng của Triệu Bá Ung, Tạ thị và ba anh em họ Triệu, suy nghĩ muốn nói cho bọn họ biết về thân thế của mình hiện lên trong đầu cậu, nhưng nhanh chóng bị dập tắt.

Một khi sự thật bị phanh phui, liệu rằng người nhà họ Triệu có lấy lại tất cả tình thương không thuộc về cậu, đồng thời đáp trả lại sự hận thù và ghê tởm mà cậu từng gây ra cho Triệu Bạch Ngư với mức độ lớn hơn thế nữa hay không?

Triệu Ngọc Tranh vừa sợ hãi vừa tham lam, không nỡ bỏ, cậu không buông bỏ được thân phận có được vô vàn yêu thương này, dù trở thành một con tu hú chiếm tổ vẫn khiến cho cậu cảm thấy xấu hổ trong lòng. Bởi vì cảm thấy tội lỗi, cho nên cậu càng để ý Triệu Bạch Ngư hơn.

Để ý càng lâu lòng càng kinh sợ trước sự thông minh ưu tú của Triệu Bạch Ngư, không cần nhờ quan hệ của nhà họ Triệu hay sự giúp đỡ của tộc học, chỉ dựa vào chính mình mà y vẫn có thể được nguyên lão ba triều Trần Sư Đạo dốc lòng chỉ dạy, đến cả những người không học tập xem bài văn Triệu Bạch Ngư làm cũng đều nhìn ra được trình độ của y.

Triệu Ngọc Tranh lén lút sao chép sách luận mà Triệu Bạch Ngư viết, giấu tên tìm một thầy giáo nổi tiếng bình phẩm, cuối cùng có tú tài tự thẹn không bằng, nói thẳng cả đời hắn cũng không thể nào viết ra được tác phẩm tốt như vậy, hẳn là người viết nó phải có tài trạng nguyên.

Những người này không biết thân phận của cậu và Triệu Bạch Ngư, chứng tỏ lời họ nói hoàn toàn chân thật.

Triệu Bạch Ngư giỏi giang khiến cho Triệu Ngọc Tranh cảm thấy sợ hãi, lòng đố kị, ghen ghét mai danh ẩn tích mấy năm lặng lẽ ngóc đầu, đi theo lâu ngày lâu năm trưởng thành khỏe mạnh, rắc rối khó gỡ, trở thành tâm bệnh không thể chữa khỏi được.

Cậu lại dùng những thủ đoạn nhỏ chèn ép Triệu Bạch Ngư lần nữa, nhưng khi nhìn thấy Triệu Bạch Ngư có thể mặc kệ và gạt bỏ đi mọi lời ác ý nhằm vào mình của người ngoài, cùng với dáng vẻ tự nhiên không thèm để ý của y, Triệu Ngọc Tranh càng căm ghét y hơn.

Người nhà họ Triệu càng tỏ thái độ tốt với Triệu Bạch Ngư hơn chừng nào, lòng Triệu Ngọc Tranh sẽ càng nóng hơn chừng nấy, tìm cách làm tăng mâu thuẫn giữa bọn họ, ví dụ như cố gắng nhắc đi nhắc lại những chuyện buồn nôn mà Xương Bình đã làm.

Nhà họ Triệu vì cậu, vì Xương Bình mà khắc khe với Triệu Bạch Ngư, vô hình trung cũng tăng nỗi sợ hãi trong lòng cậu lên.

Cậu rất sợ một ngày nào đó bản thân không thể nói đối được nữa, Triệu Bạch Ngư của lúc này sẽ là cậu của ngày ấy.

Làm kẻ xấu sẽ không được chết yên lành. Triệu Ngọc Tranh chấp nhận tất mọi kết cục không tốt đẹp, và cái kết tệ nhất chính là đầu rơi xuống đất.

Nhưng mà Triệu Bá Ung đã nói gì?

"Ngươi hãy mở to mắt mà nhìn những gì thuộc về ngươi, những vật không phải là của ngươi, cả những gì ngươi quý trọng hoặc không bị tước đoạt đi từng thứ một."

Triệu Ngọc Tranh bị giam lại vẫn còn cười khẩy, chết còn không sợ, có gì đáng sợ hơn chứ?

***

Ác mộng trở thành sự thật nhưng lại không cảm thấy sợ hãi, mấy ngày đầu, Triệu Ngọc Tranh không hề sợ sệt mà còn có tâm trạng mỉa mai người nhà họ Triệu làm bộ làm tịch.

Trong vòng vài ngày không gặp người ngoài, bị nhốt ở một nơi chỉ đủ nằm, hoa phục hoa quan trên người bị cởi ra, đổi thành áo vải thô ráp cọ xước da thịt, bình thường cần người khác hối thúc nài nỉ mới chịu mở miệng ăn thức ăn ngon, bây giờ đói bụng chẳng ai thèm để ý, phải chịu chấp nhận ăn những thứ thức ăn kì lạ tra tấn ngũ giác và nội tạng.

Không có người hầu xếp thành hàng, cũng không được ăn ngon mặc đẹp, cậu cứ nghĩ sự tra tấn đáng sợ nhất đời này đã dừng lại ở đây rồi, nỗi phẫn hận cũng những tâm trạng phức tạp khác như mất mát và đau khổ hòa lẫn vào nhau, thúc đẩy Triệu Ngọc Tranh tức giận mắng chửi nhà họ Triệu, kể ra những chuyện xấu mà cậu và bọn họ đã làm với Triệu Bạch Ngư, cố gắng hết sức k1ch thích bọn họ.

Người nhà họ Triệu tổn thương càng nặng, nỗi đau trong lòng cậu càng được giảm bớt.

Cậu đắm chìm vào dáng vẻ đau khổ của nhà họ Triệu, đắm chìm vào sự ngoan cường cố chấp cùng với lòng kiên trì và dũng cảm quên cả sống chết của bản thân, cho đến khi một ngày ba bữa cơm đổi thành ngày một bữa, hai ngày một bữa thậm chí là đưa đồ ăn thiu tới.

Triệu Ngọc Tranh cho rằng cậu sẽ chết vì bảo vệ danh dự của mình, kết quả là cậu bóp mũi ngăn mùi thối ăn thức ăn thiu chỉ được tổng cộng năm ngày.

Cậu khóc rống lên, rơi nước mắt thỏa hiệp, cầu xin tha thứ, phát hiện người nhà họ Triệu thờ ơ, cậu bèn chửi ầm lên, có lúc không nhịn được nữa lại nghĩ đến cái chết.

Ngay khi cậu đã chuẩn bị tinh thần chịu chết xong xuôi, Triệu Bá Ung lại xuất hiện, đích thân dẫn cậu đi đến pháp trường, chứng kiến Xương Bình không ai bì nổi trở thành tù nhận, đường đường là đích trưởng công chúa mà lại mặc áo tù, tóc tai rối bù lên, quỳ xuống trước mặt dân đen trong thiên hạ... Keng! Đầu người rơi xuống đất.

Đầu người với hai mắt trợn tròn chết đứng lăn hai vòng trên đất rồi dừng lại, Triệu Ngọc Tranh nôn ra cả dịch mật.

Trở về từ pháp trường, Triệu Ngọc Tranh hồn bay phách lạc, cậu nghe thấy Triệu Bá Ung hờ hững hỏi một câu: "Còn muốn chết nữa không?" Thoáng chốc như bị đẩy xuống hầm băng, rốt cuộc cậu cũng hiểu được mình sợ chết đến nhường nào.

"Ngươi cảm thấy hiện tại ngươi đang ở địa ngục sao?"

"Ngươi chỉ quay về vị trí cũ, trả lại tất cả những thứ từ đầu đến cuối không hề thuộc về ngươi mà thôi. Suy cho cùng thì ngươi cũng tham gia mưu phản, vốn nên chịu tội chết, may mắn lắm mới giữ được cái mạng làm thứ dân."

"Thứ dân muốn ăn cơm thì phải dốc sức liều mạng, bán sức lao động mới kiếm được!"

Cậu khóc hỏi: "Mặc dù Xương Bình công chúa mới là mẹ đẻ của ta, nhưng chẳng phải ta cũng là con của ông sao?"

"Ta cũng rất muốn hỏi đấy, ngươi đã xem ta là cha, vì sao biết rõ sự thật rồi mà vẫn cầm dao cắt vào lòng ta? Ngươi nhìn đi, rõ ràng ngươi có thể dự đoán được kết quả sau khi sự thật bị phơi bày, rõ ràng ngươi biết được nhà chúng ta sẽ phải chịu nỗi đau đớn dày vò như thế nào, thế nhưng ngươi dù đã được nhà ta yêu thương suốt mười chín năm trời, vẫn không hề do dự đẩy nhà ta xuống địa ngục."

Triệu Ngọc Tranh không phản bác được.

***

Từ sau khi hiểu chuyện, Triệu Trường Phong không còn tham gia vào những hành động bắt nạt Triệu Bạch Ngư nữa, Triệu Trọng Cẩm thông minh từ nhỏ thì càng khó bị kích động hơn, chỉ có Triệu Ngọc Khanh sát tuổi cậu là tính tình sôi nổi, không thích động não, thân mật với cậu nhất và rất dễ bị khiêu khích.

Triệu Ngọc Tranh không nhịn nổi sự tra tấn này nữa bèn tìm Triệu tam lang đến giúp, cậu đau khổ cầu xin, chỉ mong có thể thức tỉnh được tình anh em giữa mình và gã.

Triệu tam lang không còn dễ gạt như ngày trước nữa, gã hỏi: "Ngươi đã biết thân thế của ngũ lang từ trước, vì sao lại giấu giếm mà không báo?" Thật ra đáp án đã được nói ra rất nhiều lần rồi, hỏi lại cũng chỉ có thể nghe được những lời như khoan vào tim thôi, gã thì thào chất vấn: "Vì sao? Rốt cuộc là bọn ta đã làm lỗi gì với ngươi? Nuôi một con chó nó còn biết ơn, huống chi cho đến lúc đó bọn ta vẫn đối xử với ngươi như trân châu bảo vật, sao ngươi có thể... Sao có thể lợi dụng sự bao dung mà bọn ta dành cho ngươi để tổn thương ngũ lang vô tội? Ngươi nói ngươi sợ sau khi bọn ta biết rõ sự thật rồi sẽ không cần ngươi, không yêu thương ngươi nữa, sẽ càng trả thù ngươi nặng nề hơn..."

Gã càng khó mà tin được: "Cho nên ngươi mới trơ mắt ra nhìn bọn ta gây tổn thương cho ngũ lang, người mà cả nhà mắc nợ rất nhiều, ngươi còn thờ ơ nhìn cha mẹ, nhìn ta và đại ca tham gia vào bữa tiệc mưu phản... Ngươi thật sự không biết nếu như Đông cung mưu phản, với tư cách là Tế chấp cha và mẹ sẽ đứng mũi chịu sào ư?"

Triệu Ngọc Tranh nước mắt giàn giụa: "Ta chỉ hy vọng mọi người đổi xử tốt với ta không phải là vì quan hệ máu mủ, mà chỉ vì ta là Triệu Ngọc Tranh thôi, ta sợ mọi người vứt bỏ ta, bởi vì quá sợ hãi, cho nên ta mới hồ đồ."

"Nhất thời hồ đồ có thể thông cảm, nhưng ta chưa từng thấy người nào hồ đồ đến tận bốn năm năm trời." Có lẽ là vì đả kích quá lớn, Triệu tam lang suy nghĩ rõ ràng hơn trước đây nhiều, lời lẽ cũng sắc bén hơn, "Ngươi một mặt trách nhà ta xem trọng huyết thống, tùy tiện vứt bỏ người thân ở bên cạnh suốt mười chín năm trời, mặt khác không chút do dự đầu quân vào nhà mẹ đẻ, tận dụng tài nguyên và quan hệ mà mẹ đẻ mang lại không hệ có chút gánh nặng nào, cũng không cảm thấy tội lỗi mà chiếm cứ thân phận của ngũ lang, làm tổn thương ngũ lang... Rõ ràng người chà đạp tình cảm mười chín năm giữa nhà họ Triệu và ngươi trước chính là ngươi, làm sao ngươi vẫn có thể không thẹn với lòng mà chỉ trích thẳng mặt nhà ta? Tự hỏi lòng mình đi, dù thân duyên có sâu nặng hơn nữa vẫn có thể chống cự lại được sự tiêu hao của ngươi sao?"

Gã nhẹ giọng hỏi: "Triệu Ngọc Tranh, ngươi xứng ư?"

Triệu Ngọc Tranh vô cùng đau đớn, ánh mắt đầy hối hận và áy náy hoàn toàn tan rã dưới dự thờ ơ lạnh lùng của Triệu tam lang, để lộ ra sự ích kỷ, ngang ngược cố chấp không còn thuốc chữa, gằn từng chữ một: "Ta có xấu xa thì cũng chỉ là người giật dây, còn người cầm dao đâm Triệu Bạch Ngư chính là mấy người."

Mặt Triệu tam lang biến sắc.

Triệu Ngọc Tranh tự tiếp lời: "Năm Triệu Bạch Ngư tham gia kì thi, ta chỉ giả vờ bệnh một chút thôi, rồi ở trước mặt huynh dẫn dắt vài câu, huynh đã không chờ được mà hành động, nhốt Triệu Bạch Ngư lại... Trước khi trách ta, huynh hãy tự giết bản thân mình để tạ tội với Triệu Bạch Ngư đi!"

Mặt Triệu tam lang trắng bệch, môi mấp máy, lúng túng nói: "Ta đã nghĩ ngũ lang không có tài học..." Dù sao cũng bỏ lỡ thời gian rồi, gã nghĩ có lẽ vẫn có thể tiến cử y làm một tiểu quan tiểu lại, không tính là bạc đãi.

Triệu Ngọc Tranh cười điên cuồng: "Huynh đã xem bài thi của Triệu Bạch Ngư rồi đúng không? Huynh vẫn luôn nghĩ rằng giám khảo cho y đậu là vì nể mặt Tế chấp sao? Bài làm bị phê đỏ đó là do ta tìm người khác viết, ta cố tình bày ra ván cờ đó, rồi để cho huynh lấy đọc được, khiến huynh hiểu lầm rằng y không có tài học... Có huynh là chứng cứ phụ, cha mẹ lòng mang thành kiến của chúng ta sẽ không bao giờ lãng phí thời gian để kiểm chứng thực hư! Vì thế, tam ca à, là do huynh lỗ m ãng tự đại, tự cho mình là đúng, cắt đứt tương lai của Triệu Bạch Ngư!"

Cậu bước từng bước đến gần, sắc mặt dữ tợn: "Huynh hãy hận chính mình trước khi hận ta đi, cũng hãy trách phạt bản thân trước khi trách ta đi! Tam ca, người hại Triệu Bạch Ngư là huynh, huynh đáng tội, tội đáng chết vạn lần!"

Triệu tam lang mất hồn mất vía, lảo đảo rời khỏi đó.

Khi Triệu Ngọc Tranh cho rằng cậu đã đạt được chiến thắng toàn vẹn, thì Triệu tam lang bỗng xoay người lại, gã nhìn Triệu Ngọc Tranh rồi dõng dạc nói: "Ta đáng chết, nhưng ngươi cũng thoát không nổi đâu. Tương lai của ngũ lang bị hủy hoại bởi ta và ngươi, vì thế nên ta và ngươi đều phải trả lại."

Nụ cười tươi của Triệu Ngọc Tranh đông cứng trên mặt, trong mắt dần toát ra vẻ chấn động sợ hãi.

"Ngươi đã vượt qua thi Hương, kế tiếp là thi Tỉnh, đó chính là lối thoát duy nhất của ngươi."

Nhận ra được gã muốn làm gì, Triệu Ngọc Tranh nghẹn ngào: "Không... Huynh không thể..."

"Ngươi phải mở to mắt ra mà nhìn cơ hội để bản thân trở nên nổi bật bị cướp đi, giống như cách mà ngươi cố tình khiến cho tương lai của ngũ lang bị đứt đoạn năm đó vậy."

"Không!!!" Đột nhiên Triệu Ngọc Tranh gào lên, cậu định nhào tới nhưng Triệu tam lang đã tránh đi được.

Triệu tam lang lạnh lùng rời đi, nhìn thấy Triệu Trọng Cẩm ở cửa viện, hắn vừa trở về từ Lưỡng Giang, từ nãy giờ đã nghe hết toàn bộ mọi chuyện.

"Đệ tới đúng lúc lắm, ta có vài lời muốn nói với đệ."

"Năm đó Triệu Ngọc Tranh cố ý hay vô ý nhắm vào, sự thật là ta đã nhìn ra." Triệu Trọng Cẩm chỉ liếc một cái là có thể đoán được Triệu tam lang muốn hỏi gì, hắn thoáng nhìn mảng rêu xanh trên tường, nói đầu đuôi gốc ngọn: "Cậu ta giả vờ bệnh, cố ý dẫn ta và đại ca đi ngang qua viện nhỏ trong rừng ngoại ô, ta có thể nhìn ra chút dấu vết. Mặc dù không thích, nhưng ta chưa từng nghĩ đến việc uốn nắn cậu ta."

Nhắm chặt hai mắt, giấu nỗi hối hận vào sâu tận bên trong, vẻ mặt Triệu Trọng Cẩm bình tĩnh đến đáng hận: "Ta cũng khó thoát khỏi tội kia."

Thoáng cái mắt Triệu tam lang đỏ bừng lên.

"Đệ không thông minh, không chín chắn bình tĩnh như đại ca, cũng không thể nhìn thấu lòng người như huynh, đệ bị lợi dụng là đáng đời đệ, chuyện đệ làm sai đáng bị trừng phạt, nhưng nhị ca đã nhìn ra được mà vẫn để mặc sai lầm bành trướng... Chẳng trách những năm đó, đệ từng có cảm giác, cảm giác như huynh luôn xa lánh Triệu Ngọc Tranh, đệ còn tưởng mình hiểu lầm, hóa ra huynh đã nhìn ra bản chất của nó từ sớm. Không thích, cũng không muốn xen vào chuyện của người khác, nhưng vì có tình anh em ngăn trở nên vẫn để mặc nó, bởi vì dù có làm sao đi nữa thì người bị hại cũng không quan trọng, tai họa cũng không đến lượt huynh gánh có phải không? Bởi vì nhà họ Triệu có thể giúp nó phơi bày mặt trái giải quyết hậu quả, bên trên còn có cha mẹ và anh cả, không đến lượt huynh dạy dỗ nó, cho nên huynh mới lười vạch lá tìm sâu đúng chứ?"

Triệu tam lang che mặt, không nhịn được nghẹn ngào: "Bởi vì tính tình của phần lớn những kẻ thông minh như các người đều bội bạc, cho rằng dù có phạm sai lầm thì cuối cùng vẫn có cách bù đắp, thế nên mới không sợ phạm phải sai lầm có đúng không?"

Triệu Trọng Cẩm á khẩu không nói nên lời, vị đắng chát lan tràn từ trong lòng dâng lên cổ họng, lan đến tận khoang miệng, dù bây giờ có nói hắn hối hận rồi, chỉ sợ vẫn sẽ bị chỉ trích đó là một trong những lý do để bao che cho lỗi lầm mà thôi.

Giờ phút này, tấm lưng không hề khuất phục từ trước đến nay của Triệu tam lang bỗng nhiên sụp xuống, khí phách thiếu niên trong mắt lung lay sắp đổ: "Nhưng đệ không biết phải làm sao bây giờ nữa." Mờ mịt mất định hướng, sự hăm hở bị dập tắt chỉ trong một khoảnh khắc.

Triệu Trọng Cẩm liền hiểu được một Triệu Ngọc Khanh tuy lỗ m ãng phá hoại nhưng khẳng khái trượng nghĩa, quyết chí trở thành một thiếu niên hào hiệp đã không còn nữa rồi.

Người khác trưởng thành trong đau khổ, Triệu Ngọc Khanh lại trưởng thành trong một thoáng tâm trạng day dứt, quãng đời sau này đã định là sẽ khó mà tìm được niềm vui.

***

Ngày thi Tỉnh đến, Triệu Ngọc Tranh bị Triệu Ngọc Khanh áp giải đến trước cửa trường thi nhìn các học sinh ngồi vào bàn, nhìn giám khảo gạch bỏ ba chữ tên "Triệu Ngọc Tranh" trên sổ điểm danh, nhìn cửa lớn ngoài trường thi đóng lại, nghe lời tuyên bố u ám cắt đứt tương lai cậu của gã: "Cơ hội trở nên nổi bật của ngươi không còn nữa rồi, tâm trạng thế nào?"

Triệu Ngọc Tranh chết lặng, từ cầu xin tha thứ đến khóc nấc đau đớn, nước mắt lăn dài thảm thiết nhận sai, cũng không nhận được lòng thương cảm, lúc này trong lòng cậu hối hận không thôi.

Không phải hối hận vì ngày xưa đã cản trở Triệu Bạch Ngư đi thi, mà hối hận là vì mấy ngày trước đã mất kiếm soát k1ch thích Triệu Ngọc Khanh.

Nhìn mặt Triệu Ngọc Tranh, Triệu tam lang nở nụ cười.

"Khoa khảo ba năm, bỏ lỡ lần này thì ba năm nữa thi lại, có rất nhiều người đến gần năm mươi tuổi mới đậu Tiến sĩ, ngươi còn trẻ, chỉ mới ngoài hai mươi..." Triệu tam lang gi ết chết suy nghĩ của Triệu Ngọc Tranh, lời nói xoay chuyển: "Có lẽ ngươi sẽ trúng cử, toàn bộ là nhờ có cha sửa bài, giảng bài cho ngươi, cha chính là Thái phó Hoàng tử, tể tướng đương triều, Trạng nguyên tam nguyên cập đệ! Dù là cái đầu heo cũng có thể trúng cử được! Nhưng về sau này ngươi sẽ phải tự lực cánh sinh, rồi ngươi sẽ nhận ra chỉ sống thôi cũng đã rất khó khăn rồi, làm sao có thể chuyên tâm chuẩn bị tham gia kì thi nữa chứ? Sẽ không còn ai giảng bài cho ngươi, không có giấy bút và mực, không có sách vở, chẳng học được cái gì đến nơi đến chốn..."

"Trong người ta vẫn có công danh!" Bỗng nhiên Triệu Ngọc Tranh ngẩn đầu lên, ánh mắt ngập thù hận.

Giọng Triệu tam lang nhẹ bẫng: "Triệu gia tứ lang Triệu Ngọc Tranh, bệnh hiểm nghèo đột phát, chết rồi."

Triệu Ngọc Tranh sững sờ: "Ta còn sống mà..."

Bất thình lình có tia sáng xẹt qua, cậu nhớ đến những lời mà Triệu Bá Ung từng nói: "Thân phận, tên, cơ hội vượt trội của ngươi, bao gồm danh dự làm người, sự tồn tại của ngươi, kể cả quyền muốn được sống và được chết..."

Từng thứ một sẽ lần lượt bị tước đoạt.

Muốn sống cũng không được, muốn chết cũng không xong.

Đây chính là sự trả thù cực kì cao siêu và ác độc của Triệu Bá Ung.

***

Bốn năm sau, ma ma Triệu phủ bất thình lình nhét một cái túi vải vào ngực Triệu Ngọc Tranh, đưa cậu đến cửa sau, chỉ ra còn đường bằng phẳng phía bên ngoài rồi nói: "Ngươi đi đi."

Khi đó Triệu Ngọc Tranh đã cam chịu số phận, những tưởng cậu sẽ mãi mãi sống trong chiếc lồ ng giam mà người nhà họ Triệu dựng nên cho đến khi lặng lẽ chết đi, không ngờ chỉ mới bốn năm thôi, bọn họ đã thả cậu đi rồi.

Cậu nghi ngờ mình bị lừa, do dự rồi bước ra bên ngoài, phát hiện ma ma chỉ lạnh lùng nhìn cậu một cái rồi quay người vào phủ, cửa sau đóng chặt, từ đây về sau sẽ chẳng còn liên quan gì đến cậu nữa.

Bước chân của Triệu Ngọc Tranh từ chậm rãi thành nhanh dần, sau đó là chạy băng băng, cậu chạy như điên về phía mặt trời mọc, cứ nghĩ sắp sửa đón chào hy vọng, nhưng rời khỏi Triệu phủ rồi, trở thành tầng lớp dân chúng bình thường mới nhận ra lời Triệu tam lang nói không sai.

Người bình thường để nuôi sống bản thân thôi cũng đã vô cùng khó khăn rồi, huống chi cậu không xu dính túi, không có người thân, lại chẳng giỏi giang gì chuyện học hành, cùng lắm chí thi đậu công danh với tài nguyên bằng một phần ngàn lần thứ người thường có cầu cũng không cầu được mà thôi, mất đi sự che chở của Triệu phủ, cậu lập tức trở thành đồ vô dụng tệ hại.

Cuộc sống gian nan hoàn toàn làm phai mờ đi thái độ kiêu ngạo của Triệu Ngọc Tranh, mài mòn cậu thành một người bình thường như bao người bình thường khác, để có được mấy đồng tiền, có được một phần cơm ăn mà phải làm lụng vất vả, tính toán chi li, hoặc chửi ầm lên với người khác, một bước cũng không nhường, hoặc là khúm núm khép nép, cúi đầu khom lưng, lúc rơi vào vũng lầy, không chịu nổi nữa cũng không có gan để mà tự sát, chỉ đành phải kéo lê xác th1t mệt mỏi tiếp tục sống tạm bợ trong thân thể này.

Khó có được đêm khuya thanh tĩnh thì cũng sẽ đột ngột bừng tỉnh khỏi cơn mộng, trừng mắt nhìn thấy trần nhà đầy mạng nhện, nhưng đầu óc thì vẫn còn đắm chìm trong những ngày niên thiếu tươi đẹp đi thăm thú vườn tược, gọi bạn dẫn bè, ra roi thúc ngựa ra phố đông nườm nượp.

Một lát sau mới giật mình hoàn hồn, xoay người lại ngủ say, nửa đêm về sáng không mộng mị, rốt cuộc cũng không bị chuyện xưa quấy nhiễu nữa.

Thỉnh thoảng vẫn sẽ tự hỏi lòng mình, rằng có từng hối hận hay không?

Đã đến nước này rồi còn làm gì được nữa, hối hận cũng vô ích thôi.

***

"Mười năm vui buồn như giấc mộng, vỗ tay nói với nhau đôi lời, chuyện cũ qua rồi tựa khói bay."

Bên cạnh cầu Cô Tô, phía đầu mui thuyền đen có một hiệp sĩ áo vải đang ngồi xếp bằng, tay ôm thanh kiếm hỏng, phơi mình dưới nắng, thấp giọng đọc thơ khiến cho các nữ ngư dân đang giặt đồ gần đó hướng ánh mắt tò mò đến đánh giá.

Nữ ngư dân nọ đánh bạo hỏi: "Câu thơ mà huynh đọc có nghĩa là gì?"

Hiệp sĩ kia quay đầu lại nhìn, vẻ ngoài sa sút khó giấu được tướng mạo tuấn tú, gã cong môi cười, trái lại có hơi thoải mái.

"Ý bảo người ta đừng hoài niệm quá khứ ấy mà."

Nữ ngư dân ôm chậu gỗ đựng quần áo đứng dậy, nghe vậy thì đáp: "Cơ mà những người ngoài miệng nói đừng bận tâm đ ến quá khứ, thường là những người bị mắc kẹt trong quá khứ và không thể thoát ra khỏi nó. Thiếu hiệp miệng nói một đằng lòng nghĩ một nẻo đấy à."

Nói xong cô nàng cười rồi rời đi, hiệp sĩ ở lại, cũng chính là Triệu gia tam lang Triệu Ngọc Khanh đang sững sờ, một lúc sau mới để lộ nụ cười khổ, gã tự cho rằng mình không vướng bận gì, kết quả đến một nữ ngư dân cũng nhìn ra được gã đang mua dây buộc mình.

Năm đó dẹp loạn chuyện Đông cung mưu phản xong, triều cục ổn định, nhưng nhà họ Triệu lại chia năm xẻ bảy, ai nấy đều tự thẹn với lòng, Tạ thị khóa cửa viện, làm bạn với thanh đăng cổ Phật, Triệu Bá Ung tóc đổi màu hoa râm, chỉ vì muốn được ngũ lang tha thứ, Triệu Trường Phong thì lập tức tự thỉnh đến biên cương ngay sau đó.

Dù về sau Đại Hạ đã bị diệt, biên cương ổn định, Triệu Trường Phong vẫn không chịu quay về.

Tính tình Triệu Ngọc Khanh trở nên trầm ổn hơn, làm việc đáng tin cậy, chỉ trong vài năm đã thăng liền mấy cấp, khoảng thời gian đó gã cũng từng thử rất nhiều cách để bù đắp sai lầm với mong muốn chữa lành tình thân với ngũ lang, nhưng người trước không giải quyết được vấn đề gì, người sau nỗ lực không có tác dụng.

Gã sẽ mãi mãi không thể quay trở về quá khứ, không thể ngăn cản Triệu Ngọc Khanh mười chín tuổi làm ngũ lang tổn thương, cũng không có cách nào tha thứ cho Triệu Ngọc Khanh đã phạm phải sai lầm, gã không thể tha thứ cho bản thân mình, vĩnh viễn bị nhốt lại viện nhỏ trong rừng sâu năm mười chín tuổi.

Triệu Ngọc Khanh đã nằm mơ thấy vô số ác mộng, trong mộng "gã" đứng ở bên ngoài viện, đối diện với cánh cửa bị khóa chặt, gã biết rõ phía sau cánh cửa kia là ngũ lang, biết rõ đã sắp đến giờ vào trường thì rồi.

Gã chỉ cần bước lên đá văng cửa ra, ôm ngũ lang lên ngựa, dùng tốc độ nhanh nhất đưa y đến trường thi, sau đó chờ, chờ đến khi y thi xong, gã sẽ nghiêm túc lấy bùa linh cầu từ chùa Tướng Quốc ra treo vào bên hông ngũ lang, nói với y rằng, nói với y rằng...

"Xin lỗi đệ."

Thế nhưng "gã" ở trong mộng chỉ đứng trước cửa viện, lắng nghe động tĩnh bên trong rồi không chút do dự mà xoay người rời đi.

Dưới ánh mặt trời, rừng cây xanh tốt, móng ngựa lộc cộc, Triệu Ngọc Tranh ngu xuẩn kia đi rồi.

Triệu Ngọc Khanh của tuổi hai mươi ba mỗi lần bừng tỉnh khỏi giấc mộng, bên gối đều sẽ ướt đẫm, không chịu nổi đau khổ, bốn năm sau đó lạnh lùng nhìn Triệu Ngọc Tranh bị vứt bỏ nơi cõi tục giãy giụa tìm đường sống, gã cũng từ quan rời kinh, hủy bỏ tương lai rộng mở, trở thành một hiệp khách lang bạt nay đây mai đó.

Mấy năm nay gã từng cứu người, cũng từng giết kẻ ác, đi qua vô số địa phương, để được no bụng và kiếm lộ phí, những việc cực khổ gã đều đã từng làm, một ngày nọ bỗng nhiên giải thích được vì sao ngũ lang lại chém đầu ba trăm quan, bỗng nhiên hiểu ra vì sao đêm cung yến năm ấy ngũ lang lại một lòng muốn chết.

Việc xưa chẳng còn dấu vết, đừng bận tâm quá khứ, nếu như lòng đã hổ thẹn, cớ sao không hỏi lại chuyện cũ?

==

<b><i>Min:</i></b>

<i>"Người nhà họ Triệu càng tỏ thái độ tốt với Triệu Bạch Ngư hơn chừng nào, lòng Triệu Ngọc Tranh sẽ càng nóng hơn chừng nấy"</i>

Trách nhà họ Triệu bị hận thù che mờ mắt, nhưng họ cũng đáng thương vì bị lừa gạt suốt hai mươi năm trời. Họ cũng đã từng đối xử tốt với Triệu Bạch Ngư, ngẫm lại, đâu phải họ không cho Triệu Bạch Ngư đi học đâu, em bé còn được thầy giỏi dạy dỗ cơ mà, nhưng chỉ vì Triệu Ngọc Tranh quá lo được mất, muốn làm những điều có lợi cho bản thân mình, cộng thêm một Triệu Ngọc Khanh yêu ghét rõ ràng, tính tình xốc nổi và sự hiểu lầm tai hại bởi trò vặt của Triệu Ngọc Tranh xấu tính, mọi chuyện mới đi vào đường cùng.

Xâu chuỗi lại tất cả mọi chuyện, trong suy nghĩ của mình, mình cảm thấy ít nhiều gì nhà họ Triệu cũng có tình cảm với Triệu Bạch Ngư, không có tình thân thì cũng có tình người, nhờ tình người đó, họ mới giữ em lại nuôi lớn, cho em cái ăn cái mặc và chỗ ở, thậm chí dù chỉ là một chức quan thất phẩm nhỏ tẹo thôi họ cũng cho, bởi lẽ nếu như ghét bỏ em và hận lây từ "mẹ ruột" của em, thì nhà họ cứ việc âm thầm hãm hại em đến chết là được rồi, dù gì Xương Bình cũng chẳng quan tâm đ ến em, cần gì phải để em lớn lên khoẻ mạnh trong khi "con ruột" của mình ôm bệnh trong người sống chết không rõ chứ?

Ở đây mình không tẩy trắng cho nhà họ Triệu, bởi vì bên cạnh những việc nêu trên, không thể phủ nhận bọn họ còn làm ra những chuyện tồi tệ hơn thế nhiều, nhưng mà ta thường nói "Ác giả ác báo", những người làm chuyện xấu đều phải gánh chịu hậu quả, ngay cả nhà họ Triệu được mệnh danh là "gia đình hạnh phúc nhất Kinh Đô" cũng tan đàn xẻ nghé rồi, những điều này tuy không đủ để bù đắp lại cho những gì họ đã làm với Triệu Bạch Ngư, nhưng kết cục của mỗi người nhà họ Triệu đều là những gì mà họ đáng phải chịu.

Trong ngoại truyện 3, "Triệu Bạch Ngư" có nói với bé Cá rằng cậu ấy đã cảm thấy thoả mãn rồi, bởi vì cậu ấy biết trên đời này vẫn còn có người yêu thương mình, cậu ấy nhìn ra được điều đó, gần như đồng nghĩa với việc cậu tha thứ cho nhà họ Triệu. Cho nên đối với mình, em bé Cá của mình có tha thứ cho nhà họ Triệu hay không thì đó vẫn là sự lựa chọn của em ấy, và mình tôn trọng quyết định đó.

Mọi người đọc cũng thấy thái độ của em đối với mẹ Tạ trong ngoại truyện rồi đúng không? Nhà họ Triệu khom mình lấy lòng suốt mấy năm trời chỉ mong được em nhìn đến, nói chuyện với họ, chỉ cần nói một câu thôi họ cũng đã mừng rơi nước mắt rồi chứ chẳng cầu chi đến chuyện được em tha thứ, nước chảy đá mòn, lòng người cũng giống vậy thôi, huống chi em Cá còn là một bé bi cực kì dễ mềm lòng, và bản thân em cũng tự khẳng định mình không hề hận nhà họ Triệu đấy thôi, có lẽ em sẽ không nhận lại gia đình nhưng vẫn hoà hoãn với họ, đó đã là một kết thúc đẹp cho cả hai bên rồi ^^
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 112: Ngoại truyện 5 • Truyền đèn (1)


Nha môn Tri phủ Quảng Châu, Quảng Đông, năm Nguyên Thú thứ ba mươi ba.

Trời vừa tờ mờ sáng, trống kêu oan ở trước cửa nha môn Tri phủ đã bị gõ vang, người đánh trống kêu oan quỳ sụp xuống khi cánh cửa được mở ra, hô lên: "Oan quá! Cầu xin đại nhân giải oan!"

Nha dịch báo lại án oan, Tri phủ Quảng Châu vội vàng khoác áo đi giày, đội mũ cánh chuồn vào, thần thái gấp gáp đi vào công đường nhìn quanh khắp nơi, thấy một bà lão tóc trắng xóa đang đứng dưới công đường, mà bên ngoài có chừng mười người đang đứng hóng hớt.

Tri phủ chụp kinh đường mộc lên gõ xuống: "Dưới đường là người nơi nào đến trạng cáo bổn quan?"

Bà lão run rẩy quỳ xuống, "Dân phụ Lưu thị, là người thôn Lâm gia, huyện Thanh Viễn, cầu xin đại nhân giải oan cho ta."

Tri phủ: "Có đơn kiện không?"

Bà lão lấy đơn kiện ra: "Mời đại nhân xem."

Nha địch đem tờ đơn lên đường án, Tri phủ Quảng Châu trông khoảng chừng hai bảy, hai tám tuổi, da dẻ trắng trẻo nhưng mắt mày nhuộm đầy vẻ cương nghị chính trực, hắn cầm lấy đơn kiện xem cẩn thận, sau đó hỏi sư gia, rốt cuộc cũng biết bà lão đến báo án gì.

Hai năm trước, thôn Lâm gia huyện Thanh Viễn có xảy ra một vụ án giết vợ chặt đầu, hung thủ chính là con trai của bà lão họ Lưu dưới công đường - Lâm Đại.

Lâm Đại này vốn là một thương nhân vân du bốn phương, thường xuyên ra ngoài làm ăn buôn bán, tích góp cho gia sản, coi như là một phú hộ nổi tiếng ở địa phương, cho nên có cơ hội cưới con gái của một hộ giàu có khác trong huyện.

Vợ của Lâm Đại xinh đẹp như hoa, chồng không ở nhà quanh năm, trong nhà chỉ có mẹ chồng không quan tâm mọi chuyện và một cô em chồng còn nhỏ tuổi, người anh rể thì đang khổ đọc ở thư viện, không ai dạy dỗ nàng ta, cho nên hành vi cử chỉ có hơi lẳng lơ phóng túng, khó tránh khỏi những lời đồn đại từ hàng xóm, vì thế mà mỗi lần Lâm Đại về nhà đều sẽ cãi nhau với nàng ta, cãi xong thì đến quán rượu nhậu say mèm.

Vợ chồng không hòa thuận, mười dặm tám hướng đều biết điều đó.

Sư gia: "Hai năm trước, Lâm Đại vừa đi bán hàng về, tới nhà nghe được mấy lời đồn nhảm nhí, nhưng lời lẽ lại rất đâu ra đấy, đến tướng mạo của gian phu còn có thể miêu tả được, hắn ta không khỏi tức giận, lại cãi một trận lớn với vợ mình, còn xuống tay với vợ. Tính tình của Đàm thị này cũng không dễ đối phó, lập tức làm ầm ĩ lên, dọn dẹp hành lý về nhà mẹ đẻ, hàng xóm ở quê đều có thể làm chứng."

Không tới hai ngày, Lâm Đại đã đến nhà cha mẹ vợ cầu xin Đàm thị trở về nhà.

Ban đầu Đàm thị không muốn, người trong nhà phải khuyên can mãi nàng ta mới gật đầu bằng lòng, ngày hôm sau theo Lâm Đại về nhà, trên đường lại xảy ra lục đục, Đàm thị không ngừng nói khích Lâm Đại, tuyên bố nàng ta sẽ bẩm báo quan phủ để ly hôn với Lâm Đại, Lâm Đại giận quá nên gi ết chết nàng ta, sau đó trốn khỏi hiện trường, ngày hôm sau đã bị bắt.

"Đêm mà Lâm Đại bỏ chạy khỏi Đàm thị, có tên thợ săn phát hiện ra một cái xác phụ nữ không có đầu nằm trên con đường không ai lui tới, thế là chạy đi báo quan. Trùng hợp thay có người nhà mẹ đẻ của Đàm thị làm việc ở Huyện nha, nhìn thấy quần áo, trang sức và vóc dáng của cái xác kia tương tự với Đàm thị, bèn phái người tức tốc chạy đến nhà họ Lâm hỏi thăm, không thấy bóng dáng Đàm thị đâu mới dám khẳng định thân phận của các xác nữ không đầu kia."

Lâm Đại bị bắt, đương nhiên là kêu oan, không chịu thừa nhận mình giết vợ.

"Huyện lệnh huyện Thanh Viễn sai người đi nghe ngóng điều tra, biết được Lâm Đại và Đàm thị đã xảy ra tranh cãi, mâu thuẫn rất căng, có động cơ giết người. Không lâu sau đó liền có một nông dân đến báo quan, nói là cùng ngày Đàm thị bị hại, ông ta đang cày ruộng trên sường núi, đứng ở đằng xa nhìn thấy Lâm Đại cầm dao trong tay nhắm ngay Đàm thị, áo quần đầm đìa máu, sau đó mọi người thật sự tìm ra được con dao còn dính máu trong nhà của Lâm Đại, rồi còn tìm được cả quần áo dính vết máu của hắn ta ở hạ lưu sông, đó chính là áo ngoài mà Lâm Đại đã mặc ra ngoài ngày hôm đó."

Nhân chứng vật chứng đều đã có, Lâm Đại chính là kẻ tình nghi giết vợ số một.

"Chỉ vậy thôi đã định án rồi sao?"

"Ngoài ra còn có ông chủ quán rượu thuật lại rằng ông ta nghe thấy Lâm Đại uống say nói với người ngoài, nếu như Đàm thị lén phén qua lại với đàn ông, hắn sẽ giết nàng ta. Cũng có một tên lưu manh nói là hôm đó đã nhìn thấy Lâm Đại toàn thân đều là máu, ôm trong ngực một thứ trông giống như đầu người, hắn hoảng sợ quá nên bỏ chạy mất. Hơn nữa lúc thẩm vấn, Lâm Đại này đã thừa nhận hắn ta đã cãi nhau với Đàm thị trên đường về nhà, chính miệng Đàm thị thừa nhận nàng ta lén lút qua lại với đàn ông, hy vọng được ly hôn, nếu như Lâm Đại không đồng ý thì sẽ cáo quan... Động cơ giết người đã có, nhân chứng vật chứng cũng có, nhưng chì cần một tiếng kinh đường mộc, một bản cung được chấp thuận đã phán thẳng hình phạt chém đầu rồi!"

Tri phủ hỏi thăm sơ lược xong bèn hỏi Lưu thị: "Bản cung đã chấp thuận, phạm nhân nhận tội, vụ án đã trải qua ba lần thẩm tra theo quy trình huyện, phủ, tỉnh đều không có dị nghị, vì sao bà lại kêu oan?"

Lưu thị: "Đại nhân, con ta bị tra tấn nặng nề trong tù, chịu không nổi nữa mới nhận tội, nó bị vu oan giá họa là chuyện rõ như ban ngày! Đại nhân, ta hiểu rõ con mình, nó trung hậu trung thực, là người lương thiện, bình thường lễ tết tới, trong nhà giết gà mổ heo nó còn trốn đi chẳng đành lòng xem, làm sao dám giết vợ? Làm sao dám lấy đầu người? Sao lại chặt đầu? Nếu như chặt đầu thật, nó đã giấu đầu người ở nơi nào? Nếu như nó giết người thật, thì theo lẽ thường không phải nên mau chóng chạy trốn hay sao? Sao mà còn nghênh ngang đi uống rượu đến say mèm, rồi chạy về nhà đợi quan phủ tới bắt cơ chứ?"

Có vô vàn cảm xúc tràn vào suy nghĩ của bà ta, hoặc là phía sau có người chỉ điểm, hoặc là do bôn tẩu đã lâu, cầu xin sự giúp đỡ từ khắp nơi, nguyên nhân hậu quả và những điểm đáng ngờ trong bản án đều nhớ kỹ trong lòng.

Tri phủ trầm ngâm một lát rồi nói: "Bổn quan sẽ đích thân lật lại bản án, nếu như có ẩn tình thật, chắc chắn sẽ trả lại trong sạch cho con trai bà. Còn nếu như chứng cứ là thật, Lâm Đại chặt đầu người, tất cả mọi chuyện đều là thật, chỉ mong bà tâm phục khẩu phục."

Lưu thị dập đầu: "Nếu như con ta thật sự phạm phải tội tày trời, tất nhiên là tội đáng muôn chết."

***

Lui đường, Tri phủ vừa lật xem hồ sơ vừa nói: "Lưu thị kia cũng không nói sai, nếu như Lâm Đại giết người thật, vậy thì cái đầu của Đàm thị ở đâu?"

"Sau khi bị Huyện lệnh huyện Thanh Viễn nghiêm hình tra tấn, Lâm Đại đã chỉ ra bốn năm địa điểm khác nhau, nhưng không tìm được đầu người ở đâu cả. Đến bây giờ đầu của Đàm thị vẫn không rõ tung tích."

"Đây mới là điều lạ, Lâm Đại đã bị phán tội chém đầu, không lý nào mà hắn vẫn cứ tiếp tục che giấu nơi đã giấu đầu Đàm thị cả."

Tri phủ Quảng Châu cẩn thận đọc hồ sơ, phát hiện án này có rất nhiều chỗ khó hiểu.

"Thứ nhất, chưa tìm ra được đầu của vợ Lâm Đại. Hắn ta chỉ đông chỉ tây, quan sai uổng công đi về, rõ ràng là không chịu được cực hình nữa nên mới chỉ trỏ lung tung thôi, thật ra chẳng biết đầu giấu ở nơi nào. Thứ hai, rõ ràng trong hồ sơ có viết hung khí là một con dao găm dài bảy, tám tấc, đây là thứ vũ khí dù có sắc bén đến mức nào đi nữa cũng không thể chặt đứt đầu. Đến cả đao phủ có quyền xét xử đầu người cũng chỉ cần lệch một chút thôi đã không chém đứt được cổ rồi, lưỡi đao còn bị cong nữa. Thứ ba, chặt rơi đầu người thì máu tươi phải phun khắp xung quanh chứ, vì sao chỉ có áo ngoài của Lâm Đại là dính máu? Thứ tư, Lâm Đại vừa giết vợ, sao vẫn có thể bình tĩnh tự nhiên chạy đi uống rượu cho được?"

Hai mắt sư gia bỗng sáng lên, mặc dù ông ta làm cộng sự với Tri phủ đại nhân trước mặt đây chưa được một năm, biết năng lực và thủ đoạn của hắn không tầm thường, nhưng có thể cảm nhận được vấn đề trong một án mạng nhanh đến như vậy thật sự là vượt ngoài dự đoán.

"Đại nhân nói có lý, Tri phủ tiền nhiệm cũng đã từng chú trọng việc điều tra những điểm đáng ngờ này."

"Kết quả thế nào?"

"Không có kết quả."

"Đã không có kết quả, sao lại định án qua loa vậy?"

"Đại nhân có điều không biết, chuyện này cũng là do Đề Hình sứ Quảng Đông đích thân can thiệp vào, hối thúc Tri phủ tiền nhiệm kết án. Lãnh đạo trực tiếp đã lên tiếng, những người phía dưới ai dám không theo? Huống chi Lâm Đại có miệng không thể nói, hiềm nghi lớn nhất, vả lại bản án này gây xôn xao, bên trên phía dưới đều theo dõi sát sao. Tri phủ tiền nhiệm đành nhắm mắt quyết định, biết thời biết thế tặng cho một chút tình người rồi cứ thế kết thúc bản án, giao toàn bộ cho Đề Hình sứ, đóng quan tài cho kết luận chẳng phải vẫn sẽ phán tội tử hình hay sao?" Sư gia chuyển lời, hỏi: "Đại nhân biết vì sao Đề Hình sứ Quảng Đông lại hỏi đến án này không?"

"Nói đi."

"Thế thì phải nói đến Đàm thị, tổ tiên nhà mẹ đẻ của nàng ta làm quan, về sau gia đạo sa sút, gặp khó khăn về kinh tế nên mới gả con cho Lâm Đại. Méo mó có hơn không, làm quan xuống dốc nhưng vẫn tận dụng được quan hệ từ những mối làm ăn ngày xưa, trong nhà họ Đàm có một vị trưởng bối quen biết với nhà mẹ của vợ Đề Hình sứ Quảng Đông, mở miệng cầu xin giúp đỡ, có lẽ còn dùng tiền nữa, Đề Hình sứ Quảng Đông dao động. Miệng vàng vừa mở, cấp dưới đã ngầm hiểu, bản án kéo dài hơn một năm đã chấm dứt nhanh gọn rồi."

Tri phủ suy nghĩ một lát, bỗng nhiên hỏi: "Nhà họ Đàm kia yêu con gái như mạng à?"

Sư gia: "Nếu đã yêu con như mạng, sao lại vì chút tiền bạc mà gả nàng ta cho một thương nhân vân du bốn phương cơ chứ?"

"Nếu như không thương con gái, sao có thể cam lòng tiêu tiền vì con chứ?"

"Suy cho cùng thì con gái nhà mình cũng chết thê thảm, huống hồ việc tiêu xài tiền để đút lót còn thuộc về quan điểm cá nhân nữa."

"Cũng đúng." Tri phủ xem hồ sơ tiếp: "Lâm Đại bị nhốt trong đại lao Quảng Châu, hai tháng sau hành hình, không còn nhiều thời gian lắm. Cầm thư của ta đến huyện Thanh Viễn, gọi nhân chứng, vật chứng có liên quan tới án mạng của Lâm Đại đến đi, cả người khám nghiệm tử thi nữa, ta sẽ sắp xếp thời gian thẩm vấn Lâm Đại."

Dặn dò xong, hắn bèn mang hồ sơ đi, lúc đi không cẩn thận làm rơi một phần hồ sơ khác, tiện tay nhặt lên thì thấy đó là một bản án của thôn dân họ Lý báo vợ mình mất tích.

Nhét hồ sơ lên giá sách, Tri phủ xoay người rời đi.

***

Huyện nha huyện Thanh Viễn.

"Phúc thẩm? Bản án giết vợ của Lâm Đại đã phán quyết xong xuôi, sao đột nhiên lại muốn lật lại thế?" Huyện lệnh huyện Thanh Viễn bất mãn phàn nàn: "Quan mới nhậm chức ba đám lửa*, nhưng mà đốt trên đầu ta là có ý gì? Trời ạ, Đề Hình Quảng Đông có biết chuyện này không?"

<i>(*) Nguyên văn: Tân quan thượng nhiệm/nhậm tam bả hỏa - </i>新官上任三把火<i>: tục ngữ, ý nói quan mới lên chức, làm ra một hai ba việc để tỏ rõ tài cán, quyết tâm, đạo đức, vì dân vì nước này nọ; muốn tỏ uy phong, lập uy, khiến quần chúng phục (giống như đốt lên mấy đống lửa vừa sáng vừa nóng, thu hút mọi người đều thấy). Nhưng về sau không biết có được như thế nữa không, hay đâu lại vào đấy.</i>

Thuộc hạ đáp: "Cũng không biết nữa ạ. Bản án là do Đề Hình sứ Quảng Đông phán quyết, nếu như lật lại bản án chẳng phải ý nói Mã đề hình không làm tròn trách nhiệm sao? Hành động lần này của Tri phủ Quảng Châu là đánh vào mặt Mã đề hình đấy, hay là đại nhân phái người đi một chuyến đến Đề Hình ty, báo để cho đại Phật Mã đề hình này đối phó với Tri phủ Quảng Châu đi!"

Huyện lệnh huyện Thanh Viễn túm râu vuốt v e: "Cũng được."

Thuộc hạ tiếp tục hỏi: "Nhưng theo lời Tri phủ, phải đưa nhân chứng vật chứng tới đó hết, có cần dặn dò bọn họ bớt nói vài lời không?"

"Tại sao phải nói bớt lại chứ? Không chỉ phải nói cho rõ ràng đâu ra đấy, mà tốt nhất là nên dặm mắm thêm muối vào, nói mấy lời vô nghĩa một chút, lật nỗi nghi ngờ trong lòng Tri phủ đại nhân kia lên rồi quấy tung nó cho ta!" Huyện lệnh huyện Thanh viễn cảm giác bản án kia có liên quan đến Mã đề hình, nhờ chỗ dựa này, ông ta không sợ Tri phủ Quảng Châu sẽ gây ra rắc rối gì.

Ông ta chỉ sợ thiên hạ không loạn, càng muốn mượn cớ này để mà kiếm lợi.

"Ngươi có nhớ trước khi vụ án này xảy ra, hai thị tộc lớn ở huyện Thanh Viễn là Lâm thị và Trần thị đã từng nảy sinh tranh chấp không?"

Thuộc hạ gật đầu lia lịa: "Hạ sai còn nhớ rõ Trần thị có hơn trăm người bị đánh chết, mặc dù Lâm thị kia đã bồi thường bạc rồi, nhưng hai đại tộc cũng đã kết thù. Bởi vậy nên khi án giết vợ của Lâm Đại nổ ra, Trần thị đứng về phía Đàm thị thỉnh thoảng kéo thôn dân đến cửa Huyện nha tĩnh tọa kháng nghị, kéo theo dư tình bắt buộc đại nhân ngài không được kết án qua loa."

"Ngươi chỉ biết một chứ không biết hai. Ngươi thật sự cho rằng một kẻ có địa vị cao như Mã đề hình lại tự hạ thấp mình để nói đỡ chuyện cho nhà họ Đàm chỉ vì nể mặt phu nhân của ông ta hay sao? Đâu phải thế, phu nhân của Mã đề hình họ Trần, là người tộc Trần thị huyện Thanh Viễn đấy. Hơn nữa, tông tộc Mã thị của Mã đề hình này từng xuất thân từ huyện Thanh Viễn, Trần thị kia bèn coi Mã thị là người đứng đầu của mình, quan hệ của hai dòng họ lớn bền chặt như keo sơn, dòng họ Lâm g iết chết trăm người nhà họ Trần, ngươi thử nghĩ mà xem, Trần thị và Mã đề hình không ghi hận chút nào sao?"

Thuộc hạ: "Thì ra là thế. Nhưng mà bọn họ tranh chấp qua lại, đại nhân dây vào trong đấy để làm gì?"

Huyện lệnh huyện Thanh Viễn cười đắc ý: "Hai dòng tộc lớn dùng vũ khí đánh nhau, nếu như hại chết một người thì phải bồi thường hai ba trăm lượng bạc, bổn quan có thể rút từ trong đó ra ba, bốn phần đấy."

Ngàn dặm làm quan chỉ vì tiền tài thôi.

Thuộc hạ bỗng nhiên tỉnh ngộ.

***

Quan sai triệu tập nhân chứng lại rồi truyền lại lời của huyện lệnh, dặn bọn họ phải thêm mắm dặm muối, có một người khám nghiệm tử thi hỏi có phải nên nói hết tất cả mọi thứ hay không, liền nhận được câu trả lời: "Đại nhân dặn các ngươi không được giấu giếm, nghe lời đi được không? Nhớ hay không nhớ, đã từng nói hay chưa từng, chỉ cần nghĩ tới là có thể nói hết, hiểu chưa?"

Người khám nghiệm tử thi cúi đầu, lúng túng vâng dạ.

***

Đề Hình ty Quảng Đông.

Tri phủ Quảng Châu tiền nhiệm là Trần Minh cầm quà biếu đến thăm hỏi Mã đề hình, trong bữa tiệc có nhắc đến chuyện Tri phủ Quảng Châu tân nhiệm chuẩn bị phúc thẩm án giết vợ của lâm Đại, bấy giờ mới bày tỏ sự lo lắng của mình.

Mã đề hình: "Một Tri phủ nho nhỏ chẳng làm nên sóng gió gì, không đáng lo. Hắn muốn làm thanh thiên lật lại bản án, chỉ sợ sẽ bị đám rùa xung quanh cắn chết trước."

Chẳng trách lão không sợ hãi, phải biết tông tộc Quảng Đông đã thành xu thế, sức mạnh to lớn, dù quan to tam, nhị phẩm nhảy dù xuống nơi đây làm việc cũng phải cẩn thận hết sức, chú ý không được đắc tội tông tộc địa phương, mà chín đời tổ tiên Mã đề hình định cư ở Quảng Đông, Mã thị con đàn cháu đống, trong quan trường, thương trường đều có người, chính là một con quái vật khổng lồ, làm sao có thể sợ hãi một Tri phủ ngũ phẩm thấp bé kia chứ?

Trần Minh thấy thế thì không khỏi sốt ruột: "Nếu như là người khác thì ta không sợ, nhưng mà lai lịch của Tri phủ tân nhiệm này không tầm thường đâu."

Mã đề hình: "Lai lịch thế nào?"

Trần Minh: "Tri phủ tân nhiệm đó chính là môn sinh tâm đắc của đương kim Tế chấp Triệu Bạch Ngư! Nghe nói hắn đã ở bên cạnh y từ nhỏ, mưa dầm thấm đất, lấy thân làm mẫu, lấy mình làm gương, tay cầm tay dạy bảo đấy!"

Tên Triệu Bạch Ngư vừa được thốt ra, đến cả Mã đề hình cũng không ngăn được tim gan mình run rẩy lên, ông ta đặt chung rượu xuống: "Vậy mà lại có lai lịch thế này sao? Xem ra đúng là cần phải đề phòng một chút rồi."

"Bản án có không ít điểm đáng ngờ, hơi khó mà bổ sung vào được, làm ít sai ít, không cần làm những chuyện ngu xuẩn vô ích. Cố gắng kéo dài thêm hai tháng, đến lúc hành hình Lâm Đại, bổn quan sẽ gây áp lực mạnh hơn!" Mã đề hình là lão thần, rất giỏi luận ngục xử án, ông ta hiểu rất rõ vụ án này, nhanh chóng nghĩ ra cách đối phó. "Tuy rằng khẩu cung của những nhân chứng kia là sự thật, nhưng nó không thể đóng đinh Lâm Đại, nếu như Tri phủ Quảng Châu có lòng lật lại bản án, e rằng sẽ lấy đây làm cái cớ để bác bỏ phán quyết, trừ phi bằng chứng sống biến thành bằng chứng chết."

Trần Minh nghe vậy, tinh thần bị chấn động, cẩn thận nghe lời.

Mã đề hình: "Ta sẽ tìm đúng thời cơ, gọi người từ hai tông tộc Trần, Mã đến bao vây nha môn, quậy cho trăm đồng liêu của mười lăm châu quý phủ Quảng Đông đến tham gia tố cáo hắn, phá cho hắn sứt đầu mẻ trán, mất sạch lòng dân, sai lầm liên tiếp, đến lúc đó dù Triệu Bạch Ngư có mở miệng cũng không cứu nổi hắn."

Có những lời này của Mã đề hình, Trần Minh an tâm, vội vàng nâng chén lấy lòng.

***

Bữa tiệc tàn, Trần Minh vừa đi, có một người bước ra sảnh, người này khoảng chừng ba mươi, đó chính là Mã Khai Tín - đứa cháu trai mà Mã đề hình coi như con trai ruột của mình.

Mã Khai Tín khó hiểu hỏi: "Đại bá cần gì phải tìm cách đối phó với tên Tri phủ Quảng Châu không biết tốt xấu đó? Viết một lá thư đưa tới, phàm là người thông minh sẽ biết nên làm gì thôi."

Mã đề hình không thể thả lỏng tâm trạng: "Vừa rồi con không nghe thấy hắn ta nói thầy của Tri phủ Quảng Châu kia là Triệu Bạch Ngư à?"

"Đương kim Tế chấp thôi mà." Mã Khai Tín không để bụng: "Trời cao Hoàng đế xa, huống chi là Tế chấp?"

Mã đề hình liếc nhìn cháu trai, gã ta chưa từng làm quan, tất nhiên không thể hiểu được ba chữ Triệu Bạch Ngư có ý nghĩa gì đối với quan lại trong thiên hạ.

Đó chính là tấm gương được hàng vạn người ngưỡng mộ, cũng là dao trảm treo trên đỉnh đầu của mỗi một vị quan lại.

Đặc biệt là những người từng đích thân trải qua đại án Lưỡng Giang năm đó như bọn họ.

"Tóm lại, đối phó với Tri phủ Quảng Châu cần phải nghiêm chỉnh một chút, hắn cũng không phải người dễ chơi! Con cũng nên quản nửa cái th@n dưới của mình cho đàng hoàng đi, nếu như chuyện thế này lại xảy ra nữa thì đừng trách ta không quan tâm đ ến con!" Mã đề hình quát lên: "Trên đời này lắm phụ nữ mập gầy cao thấp, muốn chọn ai cũng được, sao con lại chạy đi trêu chọc một người đàn bà đã có chồng vậy chứ! Còn làm ra chuyện ngu xuẩn như giết người chặt đầu giả mạo Đàm thị, rồi để cho người khác giúp con thu dọn tàn cuộc nữa."

Mã Khai Tín cúi đầu, luống cuống đáp: "Cháu trai đã biết sai rồi."

Mã đề hình hừ lạnh, trái lại lười tiếp tục truy cứu, nhanh chóng đổi chủ đề khác: "Chuyện ở nghiệp đoàn Quảng Đông đã giải quyết xong chưa?"

Mã Khai Tín: "Vẫn còn đang thương lượng, cũng được tám chín phần mười rồi, gần đây tông tộc Lý thị xảy ra chút chuyện, gia chủ không có lòng dạ nào xử lý chuyện trong nghiệp đoàn, có rất nhiều Việt* thương chuyển vào nghiệp đoàn của chúng ta."

<i>(*) Việt - </i>粤<i>: chỉ hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây hoặc có thể hiểu như một tên gọi khác của Quảng Đông.</i>

Sắc mặt Mã đề hình dịu lại, hài lòng dặn dò thêm vài câu.

***

Chờ Mã đề hình đi rồi, Mã Khai Tín mới trở về quý phủ của mình, kẻ ham hoa háo sắc này không bước vào hậu trạch mà đi tới thư phòng. Cửa thư phòng vừa mở, một người phụ nữ xinh đẹp lập tức chạy ra đón.

Nếu như người nhà họ Đàm hoặc Lưu thị ở đây, chắc chắn có thể nhận ra nàng ta chính là vợ của Lâm Đại bị giết hại chặt đầu, Đàm thị.

"Biểu ca," Đàm thị dựa vào lòng Mã Khai Tín, sóng mắt chuyển động, xinh đẹp động lòng người, "Khi nào thì em có thể ra ngoài?"

Mã Khai Tín dụ dỗ nàng: "Đợi mấy ngày nữa ta sẽ thả em rời phủ."

Đàm thị không nghi ngờ gì, chỉ hỏi: "Tên Lâm Đại kia có chịu ly hôn với em không?"

Nàng hoàn toàn không biết gì về vụ án cái xác phụ nữ không đầu làm xôn xao dư luận, càng không biết mình đã "chết" rồi.

Mã Khai Tín nở nụ cười ấm áp chân thành, dỗ đến nỗi Đàm thị mở cờ trong bụng, để mặc gã muốn làm gì thì làm.

***

Đại lao Nha môn.

Lâm Đại bị đưa ra thẩm vấn như chết lặng, làm lơ tất cả mọi câu hỏi.

Lính canh ngục nhìn không thuận mắt giận dữ mắng: "Bề trên hỏi chuyện thì trả lời cho đúng sự thật, bớt giả ngu đi!"

Cả người Lâm Đại run lên, vô thức co rụt thân thể gầy gò lại liên tục xin lỗi: "Tiểu nhân biết sai rồi! Tiểu nhân nhận tội! Tiểu nhân tội đáng muôn chết!"

Chắc hẳn đây chính là phản xạ tự nhiên hình thành do bị nghiêm hình tra tấn,

Bấy giờ, sư gia bèn khuyên bảo: "Tri phủ của bọn ta xem xét lại hồ sơ, phát hiện án mạng này của ngươi có vài điểm đáng ngờ cho nên mới đặc biệt đến hỏi thăm. Nếu như ngươi có oan thì tốt nhất là nên nhanh chóng nói ra, nếu không hai tháng nữa xử trảm, dù có là Đại La thần tiên* cũng không cứu được ngươi đâu!"

<i>(*) Nguyên văn là </i>大罗神仙<i>, hay nói đúng hơn là </i>大罗金仙<i> (Đại La kim tiên): là một loại thần tiên trong Đạo giáo. Mục đích cuối cùng của người tu Đạo là thăng thiên đến thiên thành Đại La, nơi các tôn thần, thiên tôn tối cao cư ngụ. Đại La kim tiên là những thần tiên cư ngụ ở thiên thành Đại La.</i>

Lâm Đại vẫn dập đầu, đầu nện xuống kêu cộp cộp: "Tiểu nhân nhận tội, bây giờ tiểu nhân muốn chết rồi, cầu xin đại nhân tha cho tiểu nhân! Ta không muốn lật bản án nữa, ta có tội, ta đáng chết... ta đáng chết!"

Sư gia để lộ vẻ khó xử, bước đến trước mặt Tri phủ nói: "Có lẽ là do bị hành hạ nặng nề, đả kích lớn quá nên tinh thần không được bình thường nữa rồi."

"Để ta nói với hắn mấy câu." Nói xong bảo lính canh mở cửa ngục, Tri phủ ngồi xổm xuống trước mặt Lâm Đại nói: "Chắc hẳn ngươi là một người con hiếu thảo."

Lâm Đại vẫn không nhúc nhích.

"Không chỉ là một người con hiếu thảo, ngươi còn yêu thương đệ muội, nhiệt tình giúp đỡ mọi người, thế cho nên các em của ngươi vì để cứu ngươi mà hai năm qua đã bôn ba vất vả, tìm kiếm quan hệ khắp nơi, dù ngươi đã nhận tội, bị phán chém đầu, nhưng mẹ ngươi vẫn nhờ người viết giúp một mẫu đơn kiện, từ ngữ trau chuốt, ngắn gọn súc tích, người làm văn hộ nhất định rất quen thuộc với việc kiện tụng, hẳn là người đó đã giới thiệu mẹ ngươi đến Nha môn của ta gõ trống kêu oan. Huyện Thanh Viễn... Nghe nói có một vị trạng sư* chuyên môn giúp người thưa kiện, ông ta rất giỏi viết đơn kiện, danh vang khắp Quảng Đông, có thể nhờ vả một trạng sư nổi tiếng viết thay lời cho, ngươi cũng phải là một người tốt có tiếng xa gần, hoặc vụ án này là một án oan."

<i>(*) Luật sư thời xưa</i>

Lâm Đại quỳ rạp xuống đất, hai tay run run, có hơi dao động.

Tri phủ: "Nếu là án oan, bổn phủ sẽ lo đến cùng, trả lại trong sạch cho ngươi!"

Lâm Đại vẫn làm thinh, không dám dễ dàng trao lòng tin cho người khác nữa.

Tri phủ suy nghĩ một chút: "Ngươi cũng biết thầy của bổn phủ chính là Tế chấp đương triều Triệu Bạch Ngư chứ?"

"Triệu Bạch Ngư?" Lâm Đại ngẩng phắt đầu dậy, ánh mắt long lanh: "Là Triệu đại nhân Triệu Bạch Ngư công chính liêm minh, trên tay không có án oan trong lời đồn đó sao?"

"Đúng vậy!" Tri phủ mỉm cười, "Ngươi không tin danh tiếng thanh thiên của Triệu đại nhân nhưng bổn phủ tin. Bổn phủ biết rõ ngươi đã chứng kiến bóng tối của quan trường trong suốt hai năm qua, không ôm hy vọng được bình oan giải tội, nhưng ngươi không suy nghĩ cho mình thì cũng nên nghĩ đến mẹ già của ngươi chứ, đến nông nỗi này rồi mà bà ấy vẫn không hề vứt bỏ ngươi, bôn ba khắp chốn, sáu mươi tuổi vẫn lên công đường tố oan tình, vậy thì sao ngươi có thể dễ dàng vứt bỏ sinh mệnh của mình kia chứ?"

Cảm xúc của Lâm Đại lung lay sụp đổ, thoáng chốc nước mắt rơi như mưa, một lúc lâu sau mới ép mình bình tĩnh lại: "Đại nhân có chuyện cứ hỏi, tiểu nhân sẽ phối hợp."

Tri phủ: "Miêu tả lại cái đêm ngươi và Đàm thị về nhà cha mẹ vợ một lần đi, nói rõ đầu đuôi gốc ngọn cho ta, không được bỏ sót bất kì chi tiết nào."

Lâm Đại không cần suy nghĩ vẫn có thể miêu tả lại cảnh tượng mà hắn đã nói ra hết lần này đến lần khác: "Hôm đó ta đưa Đàm thị về nhà, đi đến một con đường nhỏ, đột nhiên nàng ta móc mỉa, mắng chửi ta vô dụng, rác rưởi, nàng ta còn nói cho ta biết là mình đi vụng trộm, nàng ta gả cho ta ba năm, trong khoảng thời gian ta không ở đây, nàng ta vẫn luôn qua lại với người khác. Ta tức giận đến nỗi mất sạch lý trí, đẩy nàng ta ngã rồi đá thêm một cú nữa, trong lúc hỗn loạn, nàng ta đã rút đao bên hông ta ra rồi đâm vào cánh tay ta, nhìn cánh tay chảy đầm đìa máu tươi, ta tức giận mà đầu óc choáng váng, sau đó ta giật đao lại, cởi áo ngoài ra lau máu, mà nàng ta thì vẫn la oai oái lên đòi ly hôn với ta... Ta sợ mình không kiểm soát được bản thân làm ra chuyện không thể cứu vãn, cũng không muốn ly hôn, cho nên ta mới chạy đi, trên đường đi, càng nhìn chiếc áo ngoài thấm đầy máu tươi ta càng cảm thấy phiền lòng, thế là ta cởi ra ném nó xuống sông, sau đó chạy đi uống rượu..."

Nói đến đây, gã lại không nhịn được ch ảy nước mắt, "Nếu như ta không bỏ rơi Đàm thị, nàng ta sẽ không bị kẻ xấu làm hại, mà thi thể của nàng cũng sẽ không bị vứt ở nơi khác. Nàng muốn ly hôn thì ly hôn, nàng sẽ không chết, mẹ ta cũng không cần phải làm người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, đôi bên đều tốt! Chỉ tiếc ta không suy nghĩ cẩn thận sớm hơn một chút!"

Tri phủ: "Đàm thị nói nàng ta lén lút qua lại với người khác, chứ không nói là người ở đâu sao?"

Lâm Đại lắc đầu, có hơi xấu hổ: "Ta rất ít khi ở nhà, không có manh mối nào về chuyện này cả."

Nhìn chằm chằm Lâm Đại một lát, Tri phủ mới đứng dậy, thấp giọng dặn dò lính canh ngục đi làm việc.

Lính canh nghe lệnh, một lát sau cầm chén máu gà tươi đến.

Tri phủ: "Giội lên người hắn đi."

Lính canh giội chén máu gà lên người Lâm Đại, người nọ cúi đầu nhìn thử, hai mắt trợn ngược lên rồi té xỉu.

Sư gia trợn mắt há mồm.

Tri phủ vẫn bình tĩnh: "Hắn thấy máu nên chóng mặt."

Nói xong lệnh cho người đưa Lâm Đại trở vào phòng giam, sau đó đi ra ngoài.

Sư gia: "Lâm Đại nhìn thấy máu là chóng mặt, tuyệt đối không có khả năng gi ết chết Đàm thị, càng khỏi phải nói đến chuyện chặt đứt đầu nàng ta! Hơn nữa, khi đó bọn họ đang đi dọc đường đột nhiên nảy sinh tranh cãi, không phải là ủ mưu, loại trừ hiềm nghi đồng lõa gây án, hung thủ chính là một người hoàn toàn khác, Lâm Đại bị oan rồi! Cơ mà làm sao đại nhân biết được Lâm Đại thấy máu là chóng mặt?"

Tri phủ rút tay vào ống tay áo như một thói quen, đáp: "Để đưa ra bằng chứng Lâm Đại gan nhỏ, Lưu thị đã cố tình nhắc tới việc giết gà mà hắn cũng không dám nhìn, nhưng một kẻ nhát gan như vậy có thể trở thành người buôn bán vân du bốn phương hay sao? Mới đầu ta hoài nghi bà ta chỉ nói quá hoặc nói dối thôi, sau đó khi xem hồ sơ mới thấy nhắc tới tình tiết sau khi dao chém cánh tay bị thương, Lâm Đại đã nhanh chóng chạy đi, còn vứt luôn cả áo ngoài, vừa rồi hắn lại nhắc đến lần nữa, dùng "đầu bị choáng" để trần thuật trạng thái của hắn ngay lúc đó, bởi hắn cứ tưởng mình tức giận, nhưng thật ra là chóng mặt vì máu. Chiếc áo ngoài thấm máu kia khiến cho hắn cảm thấy không thoải mái, hắn thà ném đi chứ không muốn giữ lại."

Sư gia: "Đại nhân nhìn thoáng đã biết, ty chức bội phục."

Không hổ là môn sinh tâm đắc được Triệu đại nhân cầm tay chỉ dạy.

Hai người vừa mới ra đến cửa nhà lao thì có người đến báo: "Đại nhân, không biết có một kẻ giang hồ từ đâu đến tự xưng là bạn cũ của ngài, đang đứng chờ ở ngoài Nha môn."

Tri phủ: "Người đó có tự giới thiệu không?"

"Ông ta nói mình họ Ngụy."

Vừa mới dứt lời đã thấy Tri phủ trước giờ vẫn luôn chững chạc bước nhanh vài bước, rồi co chân chạy đến cửa Nha môn, hô to với một bóng người dù hai tóc mai đã chuyển màu hoa râm nhưng vóc dáng vẫn mạnh mẽ rắn rỏi: "Ngụy bá!"

Người giang hồ kia quay lại, để lộ gương mặt quen thuộc, gật đầu với Tri phủ: "Nghiên Băng."

Môn sinh tâm đắc được dạy dỗ bởi Tế chấp đương triều Triệu Bạch Ngư, Tri phủ Quảng Châu hiện tại chính là thư đồng Nghiên Băng của y ngày xưa, làm quan lấy họ Triệu, học thầy Triệu Bạch Ngư.

Triệu Nghiên Băng đang mặc trên người thường phục dài màu xanh, tóc cột chặt quấn mão cài trâm, dù là phong thái hay cách xử sự đều có thể thoáng nhìn ra được bóng dáng của Triệu Bạch Ngư.

"Ta đi theo thuyền buôn trở về cảng Quảng Châu, thư từ qua lại với ngũ lang mới biết được ngươi đã nhậm chức Tri phủ Quảng Châu nên bèn đến thăm. Đến làm việc cũng được một năm rồi, cảm giác như thế nào?"

Nghiên Băng: "Trong ngoài phủ Quảng Châu bình yên như gió lạnh, chó sủa chẳng sợ hãi, người dân chân chất nhiệt tình, không có xảy ra quá nhiều vụ án. Công việc ở Nha môn cũng khá ổn định, không đến nỗi khó khăn."

"Ta định nghỉ ngơi non nửa năm rồi lại ra biển, ở lại Quảng Châu trước. Trong thư ngũ lang cũng dặn ta đến đây giúp đỡ ngươi một chút, ngươi mới tới, vẫn cần phải có người bên cạnh để tin dùng mới được chứ."

Nghe nói ngũ lang nhắc đến mình trong thư, Nghiên Băng vui sướng không thôi.

"Ân sư có còn... Chỉ điểm chỗ nào nữa không?"

Từ khi hắn thi đậu tiến sĩ, chính thức trở thành môn sinh của Triệu Bạch Ngư đã thích gọi y là ân sư, về sau luôn tự lấy nó làm niềm vui như vậy.

"Ngũ lang còn nói thế lực của tông tộc ở Quảng Đông rất lớn mạnh, không sợ đối đầu với quan phủ, hơn nữa nơi đây cách xa kinh thành, một khi gặp chuyện không may thì y cũng không với tới được. Đã trời cao Hoàng đế xa, mà pháp còn không trách chúng, tuy rằng tông tộc là một đoàn thể, nhưng suy cho cùng bọn họ vẫn là bá tánh, vẫn là nhân dân, dù có hàng trăm, hàng ngàn người tụ họp lại cầm vũ khí đe dọa, thì bọn họ vẫn là dân chúng, giải quyết loạn đảng mà không thể trừng trị loạn đảng. Ta thường xuyên tới lui cảng Quảng Châu, có quen biết với tông tộc địa phương, cũng có không ít bạn bè trong giang hồ, cho nên y mới nhờ ta đề phòng giúp ngươi."

Nghiên Băng: "Ta không đắc tội tông tộc, bọn họ không đến mức đối đầu với quan phủ đâu."

Ngụy bá: "Phòng ngừa rắc rối có khả năng xảy ra thôi, phải chuẩn bị từ sớm." Sau đó ông lại hỏi, "Ngươi định giúp Lâm Đại lật bản án sao?"

Nghiên Băng ngạc nhiên: "Ông biết à?"

"Tin tức truyền đi nhanh nhất ở bến thuyền và giữa các thương nhân, có thể nghe ngóng được từ chỗ bọn họ." Ngụy bá nói, "Án Lâm Đại giết vợ là vụ án nổi tiếng nhất hai năm gần đây, tông tộc Lâm thị vững tin rằng Lâm Đại vô tội, người nhà họ Đàm lại khăng khăng đổ tại hắn phẫn nộ mà giết vợ, chặt đầu cho hả giận, muốn hắn lấy mạng đền mạng cho Đàm thị con gái mình. Lại thêm những tình tiết kì lạ như việc vụng trộm với người khác, tung tích của cái đầu không rõ, dường như trong đó còn có trộn lẫn với màn tranh đấu của các tông tộc nữa, đương nhiên là phải chú ý cao độ rồi."

==

<b><i>Min:</i></b> Em Cá của mấy bà giờ là đá đuýt cha già ngồi ghế Tế chấp rồi nha =)))) ngầu hok, mà em Băng cũng ngầu, hai đứa ở với nhau từ nhỏ tới lớn nên cái style y chang 🤣🤣
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 113: Ngoại truyện 6 • Truyền đèn (2)


Ngày hôm sau, thuộc hạ chạy nhanh đến báo lại: "Đại nhân, nhân chứng từ huyện Thanh Viễn đến đã bị bọn cướp hãm hại trên đường đi rồi!"

Nghiên Băng vội hỏi: "Không để lại người sống luôn à?"

Nha dịch: "Lão già khám nghiệm tử thi nhờ giấu con dao gọt trong ngực mà né được một đao chí mạng, vẫn còn giữ được hơi tàn, đang dưỡng thương trong y quán."

Nghiên Băng: "Bảo vệ để người đó sống tiếp, tìm người đến nghe ngóng điều tra ở nơi xảy ra chuyện không may đi, xem có thể tìm được manh mối của những hung thủ giết người kia không." Dừng một chút, hắn hỏi tiếp: "Khi huyện Thanh Viễn đưa người làm chứng tới, có bảo quan sai đi theo không?"

Nha dịch: "Có, nhưng đã chết hết rồi."

Sắc mặt Nghiên Băng trở nên nghiêm trọng, bảo người lui đi, mà lúc này, Ngụy bá cũng bước ra từ phía sau: "Đường đi từ Thanh Viễn đến Quảng Châu không đến nỗi xa, tuy rằng dân phong khắc nghiệt nhưng ta nhớ ở xung quanh đây không hề có cướp bóc. Huống chi có quan sai áp giải, ai dám nhảy ra cướp của giết người? Đến cả quan sai cũng giết, chỉ sợ là diệt khẩu đấy!"

Nghiên Băng suy nghĩ một lúc: "Ai diệt khẩu chứ? Mục đích của việc diệt khẩu là sợ ta lật bản án lại, kẻ nào sợ ta lật bản án lại nhất?"

Ngụy bá: "Người nhà họ Đàm sao? Nhà họ Đàm luôn khẳng định Lâm Đại hại chết Đàm thị, khăng khăng đòi hắn đền mạng, bất kể mọi phương hướng tra án nào nghiêng về phía Lâm Đại cũng đều bị bọn họ cho rằng là thiên vị, nhận hối lộ, Đàm thị và tông tộc Trần thị qua lại thân thiết, triệu tập rất nhiều thôn dân Trần thị vây quanh cửa Nha môn nói ép Huyện lệnh mau chóng xử án. Ta nhớ hơn một năm trước, vụ án này là do Tri phủ tiền nhiệm Trần Minh làm chủ thẩm, thôn dân Trần thị vẫn muốn giở lại trò cũ, bao vây Nha môn Tri phủ, không ngờ Trần Minh là người thuộc tông tộc Trần thị, lũ lớn cuốn trôi miếu Long Vương, sau khi bị sai quay về, người nhà họ Đàm không chịu để yên, hình như đã đi nương nhờ Đề Hình Quảng Đông, Đề Hình Quảng Đông ra mặt mới tính là kết án. Hiện tại ngươi lật lại bản án coi như là tra án oan, Đề Hình Quảng Đông cũng không thể trốn tránh trách nhiệm."

Nghiên Băng: "Mặc dù bản án bị phán sai, nhưng người vẫn chưa chết, án oan sẽ không lọt đến phủ Kinh Đô, dư tình bị giới hạn ở Quảng Châu, dù có lật bản án, cùng lắm thì Đề hình Quảng Đông cũng sẽ chỉ bị triều đình trách phạt mà thôi, bị giáng chức là xong chuyện, tội gì phải giết người diệt khẩu?"

Chỉ bị triều đình hỏi trách, giáng chức quan thôi cũng đủ để khiến cho những tên quan địa phương này tức nước vỡ bờ rồi, vấn đề ở đây là quá cấp thiết.

Không thể đánh đồng mức độ nghiêm trọng hậu quả việc phán sai kết luận của án oan và việc điều tra ra được chân tướng của hành động giết người diệt khẩu. Nói di nói lại thì hắn cũng chỉ để lộ chút tin đồn chuẩn bị xử phúc thẩm vụ án thôi mà, sao lại đến nỗi phải gi ết chết người làm chứng cơ chứ?

Người có thể làm đến chức Đề hình Quảng Đông không thể nào thiếu kiên nhẫn như vậy được.

"Nhưng nếu không phải là do Đề hình Quảng Đông giết, thì là do ai làm?"

Ngụy bá: "Người nhà họ Đàm?"

"Nhà họ Đàm tuy làm quan lại, nhưng lại sa sút đến độ phải gả con gái đi để vượt qua khó khăn, lấy đâu ra bản lĩnh tày trời mà đi giết người? Bọn họ làm sao có gan đó, lấy lý do gì để diệt khẩu?" Nghiên Băng mặt ủ mày chau, không nghĩ ra nguyên nhân, "Trừ phi án này liên quan trực tiếp đến bên trên, có ẩn tình khác."

Ngụy bá nghĩ ngợi một chút rồi nói: "Ta nhờ mấy người bạn giang hồ tìm hiểu thử, rất có thể sẽ tìm được lưu manh côn đồ hoặc là sát thủ diệt khẩu trên đường, moi được tin tức, dùng nó để thăm dò manh mối dẫn đến chân tướng."

"Làm phiền Ngụy bá rồi." Nghiên Băng hơi bó tay, chợt nghĩ ra một chuyện bèn hỏi: "Lúc nãy ông nói hai năm trước có thôn dân Trần thị giúp đỡ người nhà họ Đàm vây quanh Huyện nha sao? Vì sao thôn dân Trần thị lại sẵn lòng giúp đỡ nhà họ Đàm?"

Ngụy bá: "Trước khi Lâm Đại bị cuốn vào vụ án mạng này, tông tộc Trần thị và tông tộc Lâm thị có nảy sinh một trận đánh nhau có dùng vũ khí, Trần thị chết hơn trăm người. Hai nhà kết thù, không chết không thôi."

Nghiên Băng: "Vì chuyện gì mà lại kết thù?"

Ngụy bá: "Ta cũng không hiểu rõ tình hình cho lắm."

Nghiên Băng lập tức đi hỏi sư gia, người nọ trả lời: "Ta nhớ mang máng là có liên quan đến nghiệp đoàn?"

"Nghiệp đoàn?"

"Đây là quy củ ở Quảng Đông này, nếu như có người muốn tham gia một hạng buôn bán nào đó thì buộc phải đến nghiệp đoàn để ghi tên đăng kí, ví dụ một người muốn mở quán trà thì phải nói với nghiệp đoàn, nộp hội phí trước, sau đó quán trà phải định giá, tiền thu mua lá trà, thuê tuyển bao nhiêu người học việc vào giúp đỡ, thù lao bao nhiêu vân vân... những quy định này đêu phải nghe theo Hàng lão của nghiệp đoàn, không thể tùy tiện vượt giới hạn, dù có thể kiếm nhiều tiền hơn, không có sự đồng ý của Hàng lão thì cũng chẳng làm được gì! Nếu không sẽ bị liên hiệp chèn ép đến nỗi phải đóng cửa, tội lớn là sẽ bị bắt đi gặp quan ăn gậy, chỗ dựa sau lưng của nghiệp đoàn là quan phủ, những Hàng lão kia ít nhiều đều xuất thân tông tộc, là anh em của quan lại địa phương." Sư gia giải thích: "Hai nhà Trần, Lâm là hai tông tộc lớn của huyện Thanh Viễn, chia ra nắm giữ nghiệp đoàn của riêng mình, nhiều năm qua chỉ vị tranh giành sản nghiệp là quán trà mà đánh chém nhau không ngơi nghỉ. Hai năm trước đôi bên xô xát đã chết chừng trăm người, cốt là để giành được tiếng nói cho Hàng lão về công việc của quán trà, vì thế nên hai nhà giống như kẻ thù của nhau, tóm lấy chuyện Lâm Đại giết vợ chặt đầu, chỉ hận không thể khiến cả nhà kia chết thảm."

Nghiên Băng không ngờ là còn có cả quy củ thế này: "Mở quán trà thôi mà, những việc nhỏ không đáng kể như nhập, bán hàng, thuê người học việc cũng can thiệp đến cùng như thế, còn phải nộp hội phí, nói là cửa tiệm do bản thân mở, chẳng bằng nói là mở chi nhánh cho nghiệp đoàn."

Sư gia: "Ai nói không phải đâu?"

Nghiên Băng: "Có điều, chỉ vì nghiệp mở quán trà thôi mà, lợi nhuận của nó đủ để hai nhà giao chiến bằng vũ khí, thương vong hơn trăm người sao?"

Sư gia: "Đại nhân có biết sau khi hơn trăm người chết, tông tộc Lâm thị kia đã phải bồi thường bao nhiêu không? Một người hai trăm thỏi bạc ròng, ngoài ra, quan thân trong tộc cũng phải đút lót một số tiền nữa để không bị phán tội đền mạng, bồi thường tổng cộng ít nhất là bốn trăm, tương đương với bốn mươi ngàn lượng bạc đấy. Một tông tộc cầm ra được bốn mươi ngàn lượng bạc, ở đâu ra? Nhờ lũng đoạn, nhờ tông tộc nhỏ phụ thuộc vào tông tộc lớn!"

Nghiên Băng cảm thấy thú vị: "Ý bảo hai nhà Trần, Lâm vẫn là tông tộc nhỏ à?"

Sư gia: "Tất nhiên rồi."

Nghiên Băng: "Vậy ông nói ta nghe xem, bọn họ phụ thuộc vào tông tộc nào?"

Sư gia: "Họ Trần phụ thuộc vào họ Mã, tông tộc Mã thị trải rộng khắp Quảng Đông, còn họ Lâm thì nghe nói dựa vào họ Lý. Hai họ Mã, Lý đều là tông tộc lớn ở Quảng Đông, đại nhân không tin thì cứ dạo một dọc từ Nha môn đến chợ phường trong phủ đi, tìm hiểu một chút là sẽ biết ngay Hàng lão có tiếng nói trong nghiệp đoàn nếu không mang họ Mã thì cũng mang họ Lý."

Nghiên Băng bật cười thành tiếng: "Sao ta có thể không tin được chứ? Ta tin ông..." Đột nhiên hắn khựng lại, nụ cười chợt tắt: "Bổn quan còn nhớ Đề Hình sứ Quảng Đông họ Mã?"

Sư gia: "Ông ta chính là cột trụ vững vàng của tông tộc Mã thị."

Nghiên Băng chớp mắt, Ngụy bá thấy vậy bèn hỏi có phải hắn nghĩ ra chuyện gì hay không, hắn bèn lắc đầu đáp: "Ta vẫn chưa chắc lắm, hy vọng là do ta nghĩ nhiều thôi, có điều ít ra là ta đã có hướng tra án rồi."

Hắn là đệ tử được ngũ lang dạy dỗ, mấy năm nay trải nghiệm quan trường đầy rẫy khó khăn, từ quan nhỏ cửu phẩm làm đến Tri phủ ngũ phẩm bây giờ chứng tỏ năng lực không hề tầm thường, hiển nhiên là Ngụy bá không lo lắng cho hắn, thế là ông an tâm ra ngoài tìm bạn bè trong giang hồ giúp đỡ tra án.

***

Bạn giang hồ của Ngụy bá vốn nhiều, bao năm qua gần như đóng đô của Quảng Châu, hai bên sáng tối đều có người quen, nhanh chóng tra ra được một đám côn đồ lưu manh nhận tiền của người khác, giúp người ta làm chuyện xấu, tất cả đều bị bắt về Nha môn.

Thẩm vấn một lượt, toàn bộ đều nói mình không biết thân phận người thuê bọn họ là gì.

"Bọn ta cũng có quy tắc đấy, để phòng ngừa trường hợp côn đồ lợi dụng và uy h**p ngược lại cố chủ, bọn ta đều chọn ra một nơi để giao dịch tiền và tên người cần giết, bọn ta nhận tiền làm việc, nhưng dám khẳng định không biết người thuê thật sự là ai cả."

Nghiên Băng: "Ngoài chuyện này ra, ngươi không biết thêm gì khác nữa à?"

Mấy tên lưu manh đều phải chịu nghiêm hình tra tấn, không kẻ nào dám mạnh miệng đến cùng, huống chi trong bản chất của bọn họ chẳng có chút trung hiếu nhân nghĩa nào, cho nên cứ tuôn lời bằng sạch như đổ đậu.

"Đại nhân, bọn ta kiếm tiền bằng cách giết người, không nhắc đến chuyện đáng tin hay không, nếu như có thể đưa ra manh mối để lấy công chuộc tội thì nào dám giấu giếm?"

Nghiên Băng phì cười, "Vậy ra các ngươi cũng nhận thức rất rõ về bản thân mình đấy chứ, có điều lời ngươi nói cũng hơi đúng, nếu như không có manh mối để lấy công chuộc tội, vậy thì giết người phải đền mạng." Bỏ ngoài tai lời cầu xin tha không dứt của đám côn đồ, hắn bước thẳng ra ngoài, "Hại một mạng tính một mạng, giết hết là xong việc."

Phong cách xử tử hung phạm gọn gàng dứt khoát, tuyệt đối không dây dưa này cực kì giống Triệu Bạch Ngư.

Những lời trong nhà lao đều là nhờ cắn răng cố chịu mới nói ra được, vừa ra khỏi nơi đó hai vai đã sụp xuống, mặt mày Nghiên Băng lại ủ rũ: "Không tra ra được manh mối gì cả. À phải, đã phái người đi tìm số bạc mà đám côn đồ kia nhận chưa thế?"

Sư gia nói: "Đã đi lục soát rồi, nhưng ta tìm số tiền hối lộ đấy để làm gì?"

Nghiên Băng: "Có lẽ ta sẽ tìm được người thuê từ số tiền bị tham ô đó chăng?"

Sư gia gật đầu, hỏi tiếp: "Người khám nghiệm tử thi đã tỉnh, có thể rời khỏi y quán rồi, vậy để cho gã trở về huyện Thanh Viễn hay là gọi đển hỏi chuyện?"

Trong lòng hắn cảm thấy dù có gọi người khám nghiệm tử thi đến cũng vô dụng, dù sao thì kết quả khám nghiệm cũng đã được ghi lại trong hồ sơ, có thể hỏi thêm được gì đâu chứ?

"Cứ gọi đến đi, ta sẽ hỏi kỹ thêm một chút."

Nghiên Băng cũng đã đến nước có bệnh mới lo tìm thầy rồi, có thể tìm được thêm bao nhiêu manh mối thì hay bấy nhiêu.

***

Người khám nghiệm tử thi cũng được coi là người có tiếng xa gần ở huyện Thanh Viễn, có lúc còn được Huyện nha của huyện khác thuê đến khám xác.

Vốn nghĩ là đi một chuyến công tác mà thôi, không ngờ lại suýt chết, dưỡng thương trong y quán mấy ngày vẫn còn chưa tỉnh táo cho lắm, bây giờ nghe thấy câu hỏi của Tri phủ Quảng Châu, gã bèn nói ra tất cả những gì mình biết.

"Thi thể của người phụ nữa kia tầm khoảng hai lăm, hai sáu tuổi, vóc dáng vừa vừa, da dẻ trắng nõn, trên bụng ngón tay có vết chai cứng do bút viết để lại, nhưng không phải là vết chai do làm việc nặng nhọc, có lẽ cuộc sống bình thường rất an nhàn sung sướng, tất cả mọi thứ đều rất khớp với Đàm thị. Nhưng nàng ta là bị bóp cổ chết trước rồi mới bị chặt đầu, vết cắt ở cổ thì khá nhẵn, hẳn là đã dùng rìu hoặc dao bầu, lực chém tương đương với sứ lực của một người đàn ông trưởng thành, một dao chém xuống..." Người khám nghiệm tử thi dùng tay làm dao khua tay múa chân: "Người bị chặt đôi!"

Nghiên Băng: "Lời chứng này của ngươi hoàn toàn khác so với những gì được miêu tả trong hồ sơ."

Mặt người khám nghiệm tử thi tràn đầy vẻ bất lực: "Đại nhân à, tiểu nhân thấp cổ bé họng, khám nghiệm xác chết như thế nào là chuyện của tiểu nhân, nhưng viết vào hồ sơ như thế nào là việc của bọn họ, làm gì có chỗ cho tiểu nhân xen vào?"

Nghiên Băng giận đến tái mặt, chắp tay đi tới đi lui: "Được lắm, như vậy rõ ràng là án oan rồi, từ trên xuống dưới làm bộ như không thấy, nhà họ Đàm kia lụn bại đến nỗi phải bán con gái đi, đến cùng là bọn họ lấy mặt mũi đâu ra để cho từ tông tộc địa phương, Huyện lệnh, Tri phủ đến Đề Hình một tỉnh đều giúp đỡ họ đổ oan cho một người vô tội thế? Đã có bản lĩnh tày trời thế này thì làm sao không biết Lâm Đại vô tội? Im lặng gi ết chết người vô tội, không chịu truy cứu tội phạm, là yêu thương con gái thật hay là còn có lòng riêng?"

Dừng bước, hắn muốn gọi cả nhà Đàm thị và Huyện lệnh huyện Thanh Viễn đến hỏi chuyện ngay lập tức.

Ngụy bá: "Bây giờ chưa đủ chứng cứ, để tránh đánh rắn động cỏ, ta vẫn nên suy nghĩ thêm thì hơn."

Nghiên Băng: "Nhân chứng đã chết rồi, nhưng người khám nghiệm tử thi đã khám xác, mở nắp quan tài ra kiểm chứng lại vẫn có thể kết luận hung khí không phải là dao thường thông qua vết cắt ở cổ, tuy rằng vật chứng chưa đủ, nhân chứng cũng đã bị diệt khẩu, ta vẫn có thể dựa vào việc này lật ngược vấn đề Lâm Đại là hung thủ lại. Có lẽ là người nhà họ Đàm không biết sự thật về chuyện diệt khẩu, nhưng họ sẽ biết một vài bí mật khác, gọi bọn họ đến đe dọa một phen, ta có thể tra được chút ít manh mối, hoặc có khả năng ép hung thủ thật sự chưa đánh đã chạy."

Ngụy bá suy nghĩ một hồi, đồng ý với cách làm của Nghiên Băng.

Bọn họ nói chuyện riêng cũng không tránh người khám nghiệm tử thi, thế nên gã mới biết mình gặp phải tai họa bất ngờ này là vì hung phạm sợ hãi chân tướng bản án bị tra rõ đã mua chuộc kẻ giết người, gã không khỏi ấm ức nổi đóa lên, mở miệng nói: "Đại nhân, ta còn phát hiện một điều nữa, không biết có nên nói hay không."

Nghiên Băng: "Nói đi."

Người khám nghiệm tử thi: "Hai năm trước, khi khám nghiệm cái xác kia thì ta phát hiện người phụ nữ đó đang mang thai."

Nghiên Băng chấn động: "Thật sao? Ngươi kết luận bằng cách nào?"

Người khám nghiệm tử thi: "Ta đã làm công việc này được gần hai mươi năm rồi, không phải là ta khoe khoang gì đâu, nhưng phàm là có một cái xác để trước mắt, không cần sử dụng bất kì kỹ năng nào ta vẫn có thể nhìn ra được người đó chết thế nào và nguyên nhân phát bệnh trên xác. Bụng dưới của cái xác nữ kia hơi lồi lên, nhấn vào thấy hơi cứng, thế thì hoặc là đang mắc bệnh, hoặc là đã mang thai được hơn một tháng, ta âm thầm tìm đới hạ y đến xem, bấy giờ ông ta khẳng định cái xác nữ này đã mang thai ít nhất là hai tháng!"

Đới hạ y chính là đại phu chuyên môn xem bệnh cho phụ nữ.

"Vì sao lúc đó ông không nói?"

"Tính theo thời gian, cái thai trong bụng Đàm thị không thể nào là của Lâm Đại được..." Người khám nghiệm tử thi tỏ vẻ xấu hổ, "Ta họ Lâm."

Đến nước này rồi Nghiên Băng cũng lười truy cứu những chuyện này, trong đầu hắn xuất hiện rất nhiều suy đoán, ví dụ như Đàm thị đã mang thai với người mà mình lén lút qua lại, không thể chờ đợi được muốn ly hôn, nhưng gian phu không chấp nhận việc này cho nên sát hại nàng ta rồi giá họa cho Lâm Đại.

"Ngụy bá, ông có thể tìm thêm bạn giang hồ giúp ta chia ra đến huyện Thanh Viễn, thôn Lâm gia và vùng lân cận nhà họ Đàm nghe ngóng điều tra hay không, tra xem rốt cuộc là hai năm trước Đàm thị đã lui tới thân mật với người đàn ông nào."

Ngụy bá đồng ý ngay.

***

Huyện lệnh huyện Thanh Viễn và người nhà họ Đàm đều bị gọi đến Nha môn Quảng Châu, cả nhà kia bị nhốt thẳng vào trong nhà lao, tin tức truyền ra từ chỗ Tri phủ Quảng Châu, nói rằng dựa vào việc nhân chứng đã bị hại, vật chứng chưa đủ, kết luận người nhà họ Đàm vu oan hãm hại người khác.

Tin này truyền đến tay Mã Khai Tín, gã không khỏi nhạo báng: "Ta tưởng hay ho thế nào, hóa ra cũng cùng một loại với Trần Minh, một kẻ tài hèn sức mọn thích vu oan giá họa. Như vậy xem ra Triệu Bạch Ngư kia cũng tầm thường thôi mà."

Thuộc hạ bèn nịnh nọt tiếp lời mấy câu: "Cơ mà đêm dài lắm mộng, nếu không ngừng hăm dọa thì sẽ khó tránh khỏi việc nhà họ Đàm khai ngài ra, có phải nên nghĩ cách trừng trị cái tên Tri phủ không biết điều kia không?"

Mã Khai Tín: "Ngươi lấy ít bạc đi tìm tông tộc Trần thị, bảo bọn họ gióng trống khua chiêng đi... Đúng rồi, đem sáu cái quan tài đến đặt trước cửa Nha môn nữa."

Thuộc hạ không hiểu: "Vì sao phải đặt sáu cái?"

Mã Khai Tín: "Ngu ngốc, nhà họ Đàm có sáu người thì cần sáu cái quan tài, để cho mọi người đều biết Tri phủ Quảng Châu thiên vị kẻ phạm tội, chuẩn bị ép chết người nhà của người bị hại!"

Thuộc hạ bỗng nhiên hiểu ra: "Lang quân sáng suốt!"

***

Huyện lệnh huyện Thanh Viễn là một kẻ chuyên giở thủ đoạn, nói chuyện với lão cứ như đánh Thái Cực vậy, chỉ cần không có chứng cứ rõ ràng là lão có chết cũng không thừa nhận, người nhà họ Đàm cũng mạnh miệng ngoài dự đoán, không hề dễ dàng bị dọa cho nói thật.

Nghiên Băng cảm thấy mình đã đi đến ranh giới nan giải, bên ngoài Nha môn người ta ùn ùn kéo đến tụ tập ồn ào, khua chiêng gõ trống kéo đàn vung tiền giấy, sáu cái quan tài nằm ngay ngắn trước cửa Nha môn, tinh hoa chèo kéo dân chúng đến làm loạn chính là đây.

"Đàm thị có cô con gái bị giết chặt làm dôi, người vô tội uổng mạng, cha mẹ anh em của Đàm thị đau đớn tuyệt vọng, lấy lẽ trời công bằng làm chứng, hung phạm giết người phải lấy mạng đền mạng, đã phán hình phạt chém đầu, sao nửa năm sau đã đòi lật án rồi? Hung phạm Lâm thị táng gia bại sản, Tri phủ ngũ phẩm kia nuốt tiền no căng bụng, khổ chủ lại phải chịu oan bị bỏ tù... Ông trời không có mắt à!"

Cửa Nha môn đóng chặt, người đứng quanh đều là nha dịch, còn có sư gia và Nghiên Băng.

Nha dịch và sư gia đều lộ vẻ căng thẳng: "Đại nhân, ý dân áp bách, khí thế hung hăng, chỉ sợ là khó mà ngó lơ được."

Trái lại, Nghiên Băng chỉ nở nụ cười.

"Không phải rất tốt à? Chứng tỏ bọn họ nóng ruột lắm rồi. Nóng ruột càng tốt, rất dễ bị lòi đuôi, các ngươi phái mấy tên nha dịch thay quần áo trà trộn vào đi, tìm hiểu xem ai là kẻ đầu têu, sau đó tìm cơ hội tròng bao bố áp đến đây cho bổn phủ."

Nha dịch không hiểu lắm nhưng vẫn nghe lời làm theo.

***

Mấy tên dẫn đầu bị âm thầm bắt vào Nha môn, trùng hợp thay lúc đó Ngụy bá cũng đem tin tức mới đến.

"Người đến thăm dò ở huyện Thanh Viễn tra được mấy tên đàn ông qua lại mật thiết với Đàm thị, hai năm trước bọn họ đều bị bắt đến Huyện nha thẩm vấn, sau khi tra tấn đã xác định bọn họ không có quan hệ gì với Đàm thị, ngoại trừ một người. Kẻ này tên là Mã Khai Tín, mẹ hắn là chị em ruột với vợ cả của Mã đề hình, một người anh trong tộc họ tái giá lấy con gái của nhà họ Đàm, thường xuyên qua lại nên có mối quan hệ rất thân thiết, khi còn nhỏ, Mã Khai Tín từng theo người thân đến đến nhà họ Đàm ở một khoảng thời gian, tình cảm giữa hắn và Đàm thị là tình thanh mai trúc mã. Sau đó không ngừng liên lạc với nhau, Mã Khai Tín thường chạy đến nhà họ Đàm chơi trong thời gian ngắn, người hầu trong nhà từng thấy Mã Khai Tín xuất hiện ở khuê phòng của Đàm thị vào lúc nửa đêm. Sau khi Đàm thị kết hôn thường hay trở về nhà mẹ đẻ, hơn nửa khoảng thời gian này Mã Khai Tín cũng ở nhà họ Đàm."

"Mã Khai Tín, Mã đề hình, đúng rồi ha."

Ngụy bá nói tiếp: "Ta còn dò hỏi ra được manh mối quan trọng nữa."

"Là cái gì?"

"Con gái nhà họ Đàm đã từng bị sảy thai trước khi xuất giá, rất khó có thai lần nữa."

"Là thật sao?"

"Đại phu từng khám bệnh cho Đàm thị và tỳ nữ đều đã được ta đưa về đây rồi."

"Ngụy bá, ông đã giúp ta một việc lớn rồi đó!" Nghiên Băng siết chặt nắm đấm, hai mắt sáng rực, quay đầu lại dặn dò cấp dưới, "Đi lấy giấy dầu đến đây, tách người nhà họ Đàm ra, bổn quan chuẩn bị thẩm vấn từng người."

Ngụy bá nghe thấy giấy dầu lập tức hiểu ra: "Là thiếp gia quan?"

Nghiên Băng cười tủm tỉm: "Ân sư thích dùng thủ đoạn tra tấn này nhất, hiệu quả tốt mà còn không thấy máu."

***

Người nhà họ Đàm chỉ cứng miệng khi Nghiên Băng không lệnh cho lính canh ngục "chăm sóc" bằng nghiêm hình, bọn họ không sợ, cũng nghĩ rằng không có chứng cứ rõ ràng, Tri phủ Quảng Châu này sẽ không dám động vào bọn họ, lại nghe lính canh nhắc đến chuyện bên ngoài có người tộc Trần thị đến gây ầm ĩ bèn đoán được là do Mã đề hình ra tay, bọn họ càng chẳng có chút cảm giác sợ hãi nào.

Sau khi bị tách ra, người nhà họ Đàm tiếp tục mỉa mai Nghiên Băng, trái lại, người nọ vẫn vui vẻ nghe bọn họ cười nhạo cho xong, sau đó lập tức lấy giấy dầu ra miêu tả kĩ càng cực hình thiếp gia quan này.

Nhàn nhã đắp một lớp giấy dầu lên mặt bọn họ, Nghiên Băng từ tốn nói: "Thật ra ta đã điều tra rõ ràng cả rồi, Đàm thị và cháu trai của Mã đề hình là thanh mai trúc mã, hai người đã lén lút qua lại từ trước khi kết hôn, nhưng Mã Khai Tín không có ý định lấy con gái nhà họ Đàm mà lập gia đình với người khác, vợ cả có lai lịch không nhỏ lại thêm tính ghen tị, không cho hắn nạp thiếp. Nghe người ta nói mấy năm trước còn đến tận nhà mấy người quậy phá một trận, ép các ngươi không thể không mau chóng gả Đàm thị đi lấy chồng, nhưng suy cho cùng Lâm Đại cũng chỉ là một kẻ buôn, số tiền mà hắn kiếm được chẳng phải của các ngươi, các ngươi cũng không thể sử dụng những mối quan hệ và danh tiếng của hắn, rể hiền mà các ngươi mong muốn vẫn là Mã Khai Tín. Vừa vặn thay Mã Khai Tín chưa dứt tình, cả nhà các ngươi rặt một lũ mèo mả gà đồng, bắt tay nhau để hai người đã kết hôn lén lút qua lại, có phải như thế hay không?"

Con trai trưởng nhà họ Đàm khó thở, trên mặt đã chồng ba lớp giấy, hai chân quẫy đạp mạnh.

Nghiên Băng vờ như không nhìn thấy: "Ba năm trước vợ cả của Mã Khai Tín đột phát bệnh hiểm nghèo, các ngươi cảm thấy cơ hội đến rồi bèn buộc Đàm thị ly hôn với Lâm Đại, không ngờ Lâm Đại biết Đàm thị vụng trộm với kẻ khác mà nén giận không chịu ly hôn, các ngươi ác đến mức lớn gan, tìm một cô gái bóp cổ chết, chém đứt đầu, ném xác ở cạnh con đường nhỏ, giấu Đàm thị đi, xúi giục tông tộc Trần thị có mối hận với tông tộc Lâm thị giúp các ngươi khuấy động dư tình, ép buộc đám người Quảng Đông xử án qua loa, lại có thêm tầng quan hệ với Mã Khai Tín, cho nên đã phán Lâm Đại tội chết một cách hợp lẽ. Có phải như vậy không?"

Trên mặt con trai trưởng họ Đàm đã bị chồng năm lớp giấy, lúc toàn thân gã trở nên run rẩy, Nghiên Băng vẫn thờ ở lạnh lùng, cả buổi trời mới vạch trần một chút, bóp mặt gã ép hỏi: "Bổn quan hỏi lại ngươi, ngươi có nhận tội hay không?"

Con trưởng Đàm gia trợn trắng mắt: "Cẩu quan, ngươi nhận bạc của nhà họ Lâm, giúp đỡ bọn họ đổ oan cho khổ chủ, ngươi sẽ gặp báo ứng đấy!"

"Vẫn còn mạnh miệng à?" Nghiên Băng tức cười, "Ngươi nghĩ Mã đề hình cứu được các ngươi sao? Ông ta bảo vệ bản thân còn khó, làm gì rảnh mà đến cứu các ngươi?" Hắn bước đến trước mặt con trưởng Đàm gia, thấp giọng hỏi: "Đàm thị vẫn chưa chết đúng không?"

Mặt mũi đứa con trưởng nhà họ Đàm trắng bệch, sợ sệt nhìn Nghiên Băng như thể vừa trông thấy vật thể gì đáng sợ lắm, bờ môi run rẩy, gần như không chống đỡ nồi phòng tuyến tâm lý sắp sụp đổ nữa.

Nghiên Băng nhân cơ hội này hỏi dồn dập: "Đàm thị đang được giấu ở đâu? Ở nhà họ Đàm? Hay là ở trong phủ của Mã Khai Tín? Nếu bây giờ ngươi trả lời thành thật thì vẫn có thể giảm bớt hành vi phạm tội, còn nếu cứ khư khư cố chấp, chờ bổn phủ bắt được người, người nhà các ngươi một kẻ hai kẻ cũng đừng hòng chạy! Xử phạt thật nặng, tất cả đầu đều sẽ rơi cho bằng hết!"

Đã sắp dọa được con trai trưởng nhà họ Đàm không nhịn được nói ra được tình hình thật, đột nhiên có một tiếng thét hỏi truyền vào: "Chiêu đe dọa dụ dỗ của Triệu đại nhân đúng là hay! Dùng hình riêng để tra khảo, nghiêm hình bức cung, vu oan giá họa, ép khổ chủ chết oan, hay cho môn sinh của thanh thiên! Bổn quan chỉ muốn đích thân hỏi đương kim Tế chấp một câu, sao cuối cùng lại dạy ra được một tên đệ tử như ngươi vậy!"

Nghiên Băng ngẩng đầu nhìn lên, thế mà lại thấy được người lãnh đạo trực tiếp của hắn, Mã đề hình.

"Hạ quan tham kiến thượng sai."

Mã đề hình lạnh lùng quan sát Nghiên Băng: "Trong mắt ngươi còn có thượng sai ta đây sao? Bản án mà ta phán quyết, ngươi nói lật là lật ngay, thậm chí không viết sổ con báo với ta một tiếng, cũng không hỏi đến Đề Hình ty đã tự tiện đưa nhân chứng vật chứng đi rồi giam giữ người nhà họ Đàm, kết quả khiến cho nhân chứng chết trong tay sơn phỉ, suýt nữa làm cho khổ chủ chết oan, gây ầm ĩ bát nháo, Triệu đại nhân Triệu Nghiên Băng, ngươi sắp sửa một tay che trời khiến cho phủ Quảng Châu này rơi vào hỗn loạn hay sao?"

Nghiên Băng: "Phạm nhân kêu oan, hạ quan phúc thẩm theo luật mà thôi."

Mã đề hình: "Theo luật? Theo luật thì ngươi nên viết một lá thư đàng hoàng gửi cho Đề hình ty từ sớm mới đúng, chờ Đề hình ty đồng ý mới có thể lật án, còn ngươi đã làm chưa? Ngươi không làm!" Ông ta phẫn nộ một các kì lạ, chỉ thẳng mặt Nghiên Băng mắng: "Bổn quan ăn muối còn nhiều hơn ngươi ăn cơm, thủ đoạn nào trong quan trường mà chưa từng nhìn thấy? Ngươi tưởng bổn quan không biết ngươi giương cờ hiệu vì dân giải oan thật ra là để đá đểu bổn quan à? Nghe này, Triệu Nghiên Băng, ta sẽ đưa người nhà họ Đàm đi, ngươi muốn thẩm án thì báo lý do trước, làm theo trình tự đàng hoàng, nhưng trước khi bản án được trả về phúc thẩm, ngươi cứ cầu nguyện đi, liệu ngươi có thể giữ được cái mũ cánh chuồn trên đầu mình hay không!"

Nghiên Băng ngăn Mã đề hình lại: "Vụ án này có rất nhiều điểm đáng ngờ, hạ quan chỉ không muốn người vô tội bỏ uổng mạng sống, trước mắt cũng đã tra ra được chút manh mối, kính mong đại nhân châm chước cho."

Mã đề hình: "Nếu như ta châm chước cho ngươi, thì hôm nay nhà họ Đàm sẽ chết ở chỗ của ngươi đấy!"

Nói xong, ông ta lập tức lệnh cho quan sai mà mình đưa đến cản Nghiên Băng lại, cưỡng chế đưa người nhà họ Đàm đi.

Nghiên Băng vuốt mặt, bỗng nhiên mắng to: "Vì sao ông ta đến mà chẳng có ai tới truyền tin thế!"

Cả đám gồm sư gia và nha dịch đều không dám đáp lời.

Nghiên Băng chống nạnh, sắc mặt sa sầm đến đáng sợ, suýt chút nữa là đã hỏi ra được kết quả rồi.

Ngụy bá từ bên ngoài bước vào nói: "Mã đề hình có chuẩn bị mà đến, quan sai trong Nha môn đều bị khống chế cả rồi, không lên tiếng được."

Mặt mũi Nghiên Băng vẫn u ám, nhưng ít ra là hắn không hề hỏi trách đám nha dịch.

Ngụy bá: "Mặc dù bằng chứng hiện tại có thể chứng minh Lâm Đại thoát khỏi hiềm nghi giết vợ, nhưng không thể chứng minh người chết là một người hoàn toàn khác, cũng không có cách nào tra ra được thân phận của người chết, vội vàng đưa ra kết luận cho vụ án không thể trả lại trong sạch, cũng như không thể đưa kẻ phạm tội ra trước công lý. Kế tiếp đây quan lại Quảng Đông nhất định sẽ tham gia tố cáo ngươi, chỉ sợ triều đình giáng chức thôi."

"Có ân sư ở đó, có lẽ sẽ nói giúp ta được vài lời."

Có ngũ lang ở đó, chắc chắn sẽ không dễ bị người khác cản tay.

Nghiên Băng hơi dùng sức đánh vào mặt mình, ép cho đầu óc mình tỉnh táo lại, cố gắng hết sức dập tắt một chút cảm xúc chán chường thất vọng này.

"Nhưng mà động tĩnh trước mắt càng lớn, chứng tỏ vụ án này càng tày trời."
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 114: Ngoại truyện 7 • Củi cháy lửa truyền


Kinh Đô, phủ Lâm An quận vương.

Sổ con Quảng Đông tham tấu Tri phủ Quảng Châu bay về Kinh Đô như bông tuyết, vừa hạ triều Triệu Bạch Ngư đã bị Nguyên Thú đế gọi đến bên cạnh, cùng ông đi đến ngự hoa viên.

Mấy năm nay hoàng cung đã đổi mới, Đông cung bị dời ra ngoài, cho nên ngự hoa viên cũng được nới rộng ra, kì trân dị bảo từ năm sông bốn biển chuyển vào bên trong, đây là nơi mà gần đây Nguyên Thú đế thích đến để thả lỏng nhất.

Nguyên Thú đế cho cung nữ và thái giám lui xuống, gọi Triệu Bạch Ngư chui vào động thạch dưới mỏm núi đá, đi dọc theo chiếc cầu thang hẹp dẫn đến một mái đình nhỏ phía trên, ông đứng chắp tay nhìn ngự hoa viên rồi nói: "Ngũ lang vẫn chưa đến đây ngắm cảnh lần nào à."

Triệu Bạch Ngư đứng ở phía sau ông, ngắm nhìn lớp ánh sáng hiện lên bên trên mặt hồ: "Chưa từng ạ, nhưng phong cảnh đúng là như tranh vẽ."

Hai bên tóc mai của Nguyên Thú đế đã chuyển thành màu hoa râm, lưng hơi còng xuống một chút, hai năm trước mắc phải một trận bệnh nặng xong là trông ông già yếu đi hẳn, có lẽ ông nhận ra được Hoắc Kinh Đường hoàn toàn không có khả năng đăng cơ như ông mong muốn, cũng nhìn thấy mấy hoàng tử nhỏ được đại thần văn võ dạy dỗ tương lai xán lạn, dần dà hiểu được trước kia phạm phải sai lầm, cho nên đối xử ôn hòa hơn với Triệu Bạch Ngư mà ông mắc nợ rất nhiều, thật sự là đối xử với y giống như con cháu của mình vậy.

"Là bản vẽ ta tự tay phác họa đó, trong hồ còn có đá Thái Hồ cao ba trượng, bạc này là bạc mà trẫm lấy trộm từ trong nội khố ra, cũng vì thế mà còn phải nghe Hộ bộ mắng nữa cơ, nhưng mà ngươi nhìn xem có phải chúng trông rất thần kì không? Tiền này chi thế cũng hay ho mà nhỉ?"

Nguyên Thú đế giống hệt một lão già trẻ con, đã tiêu lắm tiền còn bị ăn mắng nhưng không hề hối cải, vẫn dương dương tự đắc.

Triệu Bạch Ngư cũng trả lời thành thật: "Núi non trùng điệp tinh xảo đặc sắc, kiểu dáng lạ mắt, màu sắc xinh đẹp, vô cùng độc đáo, đúng là đáng giá từng đồng."

Nguyên Thú đế thích chí cười to, mấy năm nay ông càng ngày càng thích nói chuyện với Triệu Bạch Ngư.

Vỗ vỗ lan can, Nguyên Thú đế thở dài một hơi: "Triệu khanh, ngươi nói thật với trẫm đi, ngươi hướng về ai thế?"

Triệu Bạch Ngư thừa biết ý của lời này là nhắc đến việc lập trữ, nhưng y chỉ nói: "Đại sự quốc gia, không phải là lời của mỗi mình thần."

Nguyên Thú đế hừ một tiếng: "Ngươi cứ lén nói với ta đi, quanh đây không có ai, cũng đâu chắc là ta có chấp nhận hay không đâu."

Triệu Bạch Ngư vẫn kiên trì, "Thần dạy người không phân biệt, đối xử công bằng, các hoàng tử đều xuất sắc ngang nhau, thần cũng không có hứng tham gia việc không đâu này đâu."

Nguyên Thú đế xụ mặt: "Ngươi mới vừa nói đây là đại sự quốc gia, sau đó lại nói là việc không đâu, ngươi lừa gạt trẫm đấy à?"

Triệu Bạch Ngư không hề kinh sợ: "Thần sợ hãi."

"..." Nguyên Thú đế vô cùng bất lực, trừng mắt nhìn Triệu Bạch Ngư càng lúc càng láu cá, thái độ trước mặt ông cũng càng lúc càng giống với Hoắc Kinh Đường rồi, "Trẫm coi ái khanh ngươi như tri kỉ đáng tin duy nhất trong lòng, vất vả lắm mới quyết định tìm cơ hội trải lòng, giao phó tâm sự cùng ngươi, ngươi lại đáp trả qua loa cho có lệ! Hầy, trẫm thừa biết mà, đều thấy trẫm già cả hồ đồ rồi chứ gì, chỉ vì mấy năm trước trẫm không hợp tình người, cho nên mấy người các ngươi đều oán trách trẫm, không muốn gần gũi với trẫm nữa. Tử Uyên là một, lão Ngũ cũng vậy... trẫm cũng đã thả lão Tam khỏi Tông Chính tự rồi, nhưng mà lão Lục vẫn không muốn về kinh! Tính tình của ngươi tốt nhất, không ưa mang thù, ban đầu trẫm cứ nghĩ ngươi có thể hồi đáp lại trẫm những cảm xúc tương tự..."

Anh hùng tuổi xế chiều, đế vương yếu thế, suy cho cùng vẫn khiến cho lòng người chua xót.

"Bệ hạ đối xử tốt với thần, thần khắc sâu trong lòng." Triệu Bạch Ngư lạnh lùng vô tình, không hề lo lắng nể mặt ông chút nào. "Nếu như ngày hôm trước người không nói câu "tri kỷ duy nhất trong lòng" này với ân sư, có thể thần sẽ tin đấy."

Nguyên Thú đế gãi mu bàn tay, ánh mắt rất lơ đễnh: "Hai thầy trò các ngươi chẳng giấu giếm nhau điều gì nhỉ."

Triệu Bạch Ngư im lặng.

Một lát sau, Nguyên Thú đế mới nói: "Thôi được rồi. Sổ con Quảng Đông cứ để đó trước đi, nhưng mắng thì vẫn phải mắng đấy nhé. Triệu Nghiên Băng là đệ tử mà ngươi dạy dỗ, phong cách làm việc giống với ngươi năm đó vài phần, nhưng thủ đoạn còn hơi non nớt, chỉ một vụ án mạng cũng bị làm khó, về sau làm sao mà đấu ngược lại với thế lực của tông tộc Quảng Đông được chứ?"

Triệu Bạch Ngư: "Thế lực của tông tộc bị diệt một vẫn có thể tái sinh một cái khác, đó chính là đường sống của bọn họ, e là rất khó diệt trừ."

Nguyên Thú đế lắc tay: "Trẫm không muốn tấn công vào thế lực tông tộc, sống gắn kết với nhau đã là bản năng của con người, Quảng Đông ở xa Kinh Đô, không sống gắn kết thì làm sao có thể đặt chân vào quan trường? Nhưng bọn họ không thể quá phận, chỉ lấp đầy bụng đám tông tộc lớn mạnh mà không màng quan tâm tới dân chúng, càng không thể vọng tưởng đến việc nhúng tay vào thuế quan triều đình."

Triệu Bạch Ngư rũ mắt, "Năm đó quan trường Đông Nam bị chỉnh lý, không phải bệ hạ đã thuận tay chỉnh đốn cảng Quảng Châu rồi sao?"

Nguyên Thú đế: "Những chuyện như tham ô này giống như măng mọc sau mưa vậy, cắt một gốc, năm sau lại có một gốc khác lớn lên, qua mấy năm sẽ lớn thành đại thụ che trời, thế là lại phải chặt nữa."

Triệu Bạch Ngư hiểu rõ ý trong lời nói của Nguyên Thú đế, ông đang ám chỉ y ra tay giúp đỡ Triệu Nghiên Băng đứng vững ở Quảng Châu, giúp ông nhìn chằm chằm vào thuế quan Quảng Đông.

Nguyên Thú đế: "Đừng xem thường một vụ án mạng, có khả năng liên lụy đến các tông tộc lớn, trăm tên quan viên mười lăm châu Quảng Đông tham tấu Triệu Nghiên Băng, nếu như hắn không thể giải quyết được án giết vợ này trong vòng nửa tháng nữa, chờ đến lúc hung thủ bị chém đầu, Mã Thế Bác tuyệt đối sẽ không buông tha cho hắn, sẽ tham tấu lần thứ hai. Đến lúc đó, trẫm không thể thiên vị nữa, chỉ sợ là sẽ phải phạt thật nặng mới thôi."

Vẫn vận dụng thủ đoạn vừa ban ơn vừa giữ uy* thuần thục như vậy.

<i>(*) Nguyên văn: </i>恩威并施<i> - ân uy tịnh thi, vừa ban phát ân huệ, vừa gìn giữ uy nghiêm. Nếu chỉ biết giữ cái uy thì kẻ dưới sợ mà không ưa, chỉ biết ban ân thì người ta nhờn mà không kính.</i>

Triệu Bạch Ngư chắp tay đáp: "Thần thay mặt đệ tử không nên thân tạ ơn bệ hạ."

Nguyên Thú đế nở nụ cười, Triệu Bạch Ngư nói lời này khiến cho ông tự nhiên an tâm, tâm trạng trở nên vui vẻ mời Triệu khanh ở lại câu cá.

***

Quảng Châu.

Huyện lệnh huyện Thanh Viễn và người nhà họ Đàm được Mã đề hình mang đi, may mà Nghiên Băng đã để người khám nghiệm tử thi đi trốn, nếu như để bị phát hiện, chỉ sợ bọn họ sẽ thẳng tay g iết chết bịt miệng.

Đại phu giúp Đàm thị xem bệnh và tỳ nữ, cùng với đới hạ y có thể chứng minh việc cái xác không đầu kia có thai cũng đều đã được y đưa về Nha môn lẩn trốn, khi Đàm thị vẫn chưa bị tìm thấy, Nghiên Băng không thể để lộ chuyện trước khi chết người phụ nữ kia đã mang thai.

Hắn tìm Ngụy bá đến giúp điều tra biệt trang trên danh nghĩa của Mã Khai Tín, "Để ý dinh thự nơi hắn thường xuyên ra vào, nếu như Đàm thị còn sống, chắc chắn sẽ bị hắn giấu ở đó."

Ngụy bá đi tìm Đàm thị, còn hắn thì lập tức đem bạc đi thuê những hiệp khách trẻ tuổi giúp mình đến huyện Thanh Viễn tìm kiếm thông tin của người phụ nữ mất tích hai năm trước, tiếp tục lợi dụng quyền hạn điều hồ sơ từ huyện Thanh Viễn đến, thức trắng đêm lật xem hai năm trước có bản án nào báo việc mất tích hay không.

Ngay khi Nghiên Băng khua chiêng gõ trống triển khai điều tra, tông tộc Trần thị cũng chằng nhàn rỗi gì, càng quậy cho ầm ĩ hơn, thể là việc ngắt lá chế biến trà thơm cũng bị trì hoãn, trà thương từ các nơi đến huyện Thanh Viễn để mua loại trà đặc sắc của nơi này đành phải quay về tay không, sốt ruột không chịu nổi.

Biết được là do Tri phủ Quảng Châu cản trở từ bên trong, đám trà thương này bèn kéo nhau đến kháng nghị ở Thương hội Quảng Châu.

Nghiệp đoàn có không ít người đã bị mua chuộc từ lâu, hùa theo hưởng ứng, phái một Hàng lão đức cao vọng trọng đích thân thăm hỏi Tri phủ Quảng Châu, khuyên hắn chớ vì một chút ít lợi lộc mà làm trái ý dân.

Lâm Đại giết vợ, chứng cứ phạm tội đã vô cùng chính xác rồi, cần gì phải cố chấp lật bản án, ồn ào đến nỗi chẳng ai thoải mái?

Hàng lão quen thói cậy già lên mặt, thấy Nghiên Băng non trẻ, lời nói gần xa đều chứa đầy ý mỉa mai, bị Nghiên Băng đen mặt ra lệnh thả chó đuổi người, Hàng lão tức giận quay về, bắt tay với mấy thương hội lớn đình công.

Đương nhiên là bọn họ đình công không giống với cách đình công của Cán thương mấy năm trước, quy mô không ảnh hưởng đến cả phủ, chỉ kết hợp với mấy Nghiệp đoàn trong chợ phường đóng cửa hàng và quán trọ, việc này đã gây rắc rối cho dân chúng, khiến họ khó khăn trong việc mua bán và đi lại.

Không đến mấy ngày, sổ con tham tấu lại được gửi về phủ Kinh Đô, Nguyên Thú đế quát mắng không giống như vô thưởng vô phạt, dùng từ tương đối nghiêm trọng, phạt hắn một năm bổng lộc.

Hành động lần này khiến cho quan lại Quảng Đông cảm thấy thỏa mãn, chuẩn bị thêm dầu vào lửa, hoặc là đá Nghiên Băng xuống ngựa, hoặc là trị cho hắn về sau phải rụt đầu mà làm người.

Mã Khai Tín lén lút giữ người, còn định tung thêm vài chiêu nữa, bắt đầu ra tay với người nhà họ Lâm rồi chèn ép Lâm Đại đến chết, ngay lúc cùng đường bí lối, Nghiên Băng nhận được thư gửi từ phủ Kinh Đô.

Xem xong thư Triệu Bạch Ngư gửi đến, Nghiên Băng nói với Ngụy bá: "Ta không bằng ân sư."

"Ngũ lang hiểu rõ thế lực tông tộc Quảng Đông, chỉ đôi ba câu đã trình bày được rõ ràng, nói ta không cần phải lo lắng việc bọn họ bắt tay ép ngược lại quan phủ. Tuy rằng tông tộc, thương hội đã cấu kết với quan phủ, thế lực mạnh mẽ, nhưng thật ra có lợi cũng có hại, cần phải phân tách chúng ra, chỉ cần hai chữ "lợi ích" là đủ. Tông tộc không tuân theo sự quản giáo của triều đình, thường xuyên vì tranh đoạt "lợi ích" mà lén lút đánh nhau bằng vũ khí, cứ cách mấy năm là sẽ tổ chức một trận thông qua "thư chiến", thương vong vô cùng nghiêm trọng, hận thù một đời tích lũy trở thành mối thù truyền kiếp, mấy trăm năm không thể hóa giải. Ví dụ như Trần thị và Lâm thị, hoặc là Mã thị và Lý thị, cứ tùy thời để cho bọn họ đối phó với nhau là được."

"Tiếp đến là thương hội. Dù sao thì lợi ích của Thương hội Quảng Đông cũng đã được nhất trí, nhưng sau khi quan trường Đông Nam rung chuyển vào mấy năm trước, triều đình đã thừa cơ sắp xếp người vào. Sau đó, ngũ lang bèn nhân cơ hội nâng đỡ nha hàng thuộc về triều đình, cùng một loại với Thương hội Quảng Đông, nhưng công hiệu lại đầy đủ hơn."

"Đợi thời cơ đến là có thể chiếm lấy được rồi."

Nghiên Băng thán phục: "Ngũ lang mưu tính lợi hại, phòng ngừa chu đáo."

Ngụy bá để lộ vẻ hiểu rõ: "Thảo nào ngươi lại bị điều đến Quảng Đông, trước là Triều Châu, rồi đến Liên Châu, Phong Châu, ngũ lang chưa từng lên tiếng điều ngươi về Kinh Đô, hóa ra là vì đã tốn rất nhiều tâm tư trải sẵn đường ở đây rồi."

Nghiên Băng sửng sốt, một tia sáng lóe lên trong đầu, thoáng chốc như bừng tỉnh ngộ ra, trong lòng cảm kích quên thân, một lúc lâu không nói nên lời.

Tuy rằng Quảng Đông có cảng Quảng Châu phồn hoa, giàu có và dông đúc, nhưng mà cách xa Kinh Đô, những địa phương khác thì vừa nghèo rớt mồng tơi vừa đầy trùng độc mãnh thú, chướng khí phủ đầy, đây vẫn là nơi lưu vong khiến cho tất cả quan lại bị giáng chức cảm thấy sợ hãi nhất.

Thành tích của Nghiên Băng cũng có thể tính là nổi bật, quanh năm chỉ chạy tới chạy lui các nơi quanh Quảng Đông, vất cả lắm mới được đặt chân đến phủ Quảng Châu sầm uất, nếu như có thể nhân cơ hội này xử lý tốt Thương hội Quảng Đông và vụ việc tham ô thuế quan hải quan, chắc chắn sẽ một bước lên mây, địa vị cao vững.

"Ân sư nhọc lòng, ta tuyệt đối không thể phụ lòng được." Nghiên Băng càng thêm vững lòng, chỉ cần Triệu Bạch Ngư nhắc một chút là tự biết cách giải quyết trò hề của tông tộc như thế nào. "Lâm Đại giết vợ, bôi nhọ mặt mũi của tông tộc, nếu như để cho tông tộc Lâm thị biết được Lâm Đại vô tội, tông tộc Trần thị và Mã đề hình bắt tay nhau thêm dầu vào lửa, chỉ e là tông tộc Lý thị phía sau sẽ không bàng quan đứng nhìn đâu."

Ngụy bá nghe thấy thế bèn nở nụ cười.

"Dù sao cũng loạn rồi, cho loạn đến cùng đi."

Nghiên Băng gật đầu: "Như bọn họ mong muốn."

Đang nói chuyện, hắn thoáng liếc mắt nhìn phần hồ sơ bản án đang để mở ở bên bệnh, hai năm trước, có một thôn dân họ Lý báo vợ mình mất tích, vợ gã họ Lâm, vốn định về nhà mẹ đẻ ở huyện Thanh Viễn ở chơi vài ngày, kết quả mất tăm mất tích.

Người nhà mẹ đẻ cũng chưa từng gặp lại nàng ta, tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy người đâu, dần dà xuất hiện lời đồn Lâm thị kia đã bỏ trốn theo trai.

Thôn dân họ Lý không tin vào lời đồn kia, kiên trì báo quan, nhưng không hiểu sao mà hai năm trôi qua vẫn không có manh mối gì, gã sợ vợ mình bị bọn buôn người lừa bán đi, cho nên tiếp tục đến phủ Quảng Châu báo mất tích.

Nghiên Băng đọc đi đọc lại những lời giải trình trong báo cáo về người mất tích, lúc này, hiệp khách trẻ cũng đem tin tức từ huyện Thanh Viễn về, nói rằng hai năm trước người phụ nữ ở nhà họ Lý, Lâm thị đã mất tích, không rõ đang ở đâu.

Kể từ khi đó, Nghiên Băng đã cơ bản xác định được thân phận của cái xác phụ nữ không đầu kia.

"Nhưng vấn đề bây giờ là không biết hung thủ là ai? Vì sao lại giết Lâm thị? Một xác hai mạng, đổ oan cho Lâm Đại, suýt nữa là thành ba mạng rồi... Lâm thị? Thôn dân họ Lý... Lý Vọng Tân?" Nghiên Băng cau mày, cảm thấy cái tên này có hơi quen, hắn gõ bàn suy nghĩ một lúc mới phát hiện ra: "Hắn chính là Hàng lão Thương hội Quảng Châu, tộc lão* của tông tộc Lý thị!"

<i>(*) Chỗ này mình không tìm được nghĩa tiếng Việt của từ gốc nên để theo QT, nhưng có thể hiểu nôm na đây là người đứng đầu 1 nhánh trong 1 gia tộc lớn.</i>

Ngụy bá: "Có liên quan gì đến tranh đấu giữa các tông tộc hay không?"

Nghiên Băng không đáp mà hỏi: "Có tìm thấy tung tích của Đàm thị không?"

Ngụy bá: "Ngoại trừ một phủ đệ, Mã Khai Tín còn sở hữu hai biệt viện nữa, trong nhà đều nuôi phụ nữ, ta đã lén vào xem cả rồi, không tìm được ai khớp với Đàm thị kia, nhưng ta phát hiện Mã Khai Tín này là một tên háo sắc, mỗi đêm phải chơi bời gái gú xong mới có thể ngủ ngon. Tuy nhiên mỗi tháng hắn luôn dành ra vài ngày nhốt mình trong thư phòng, hơn nữa trong các tháng này, son phấn và bột nước cùng với quần áo phụ nữ mới đều sẽ được đưa đến thư phòng."

Nghiên Băng: "Vậy thì không sai được, thân phận của Đàm thị nhạy cảm, giấu chỗ nào cũng không an toàn, chẳng bằng giấu ở thư phòng nơi mà người khác không vào được! Ngụy bá, ông có thể lén đưa Đàm thị ra ngoài không?"

Ngụy bá: "Trong phủ của Mã Khai Tín có cao thủ, rất khó để mà im hơi lặng tiếng đưa người đi."

Nghiên Băng nghĩ ngợi một chút, đấm vào lòng bàn tay nói: "Ta sẽ gây động tĩnh ở bên ngoài, thu hút sự chú ý, ép Mã Khai Tín điều nhân thủ đi, có thể thực hiện không?"

Ngụy bá: "Có thể thử một lần."

Nghiên Băng: "Được rồi. Chờ bổn phủ đích thân đưa thiệp mời hẹn ngày gặp Lý Vọng Tân, thuyết phục Lý Vọng Tân và Lâm thị, trói những người có cùng mối thù lên chung một chiếc thuyền... Một xác hai mạng đấy, sao có thể ra tay được cơ chứ?"

***

Sĩ tộc Lý thị, Quảng Châu.

Lý phủ có hơi bề thế, tiểu đồng đứng sau cửa lớn màu đen nhận lấy thiệp mời đi xin chỉ thị đã quay trở lại, tuy khó xử nhưng vẫn từ chối nhã nhặn lời mời gặp mặt của Tri phủ.

Tri phủ trẻ tuổi ôm một bụng ý đồ, chỉ đáp đúng một câu "Bổn phủ có tung tích của Lâm thị" đã nhanh chóng được nghênh đón vào trong phủ, tộc trưởng tông tộc Lý thị trông khoảng chừng ba lăm, ba sáu tuổi vội vàng chạy đến, hai mắt sắc như dao nhìn chằm chằm vào Nghiên Băng, nhưng gã là một người nhanh nhạy, thẳng thắn đi vào vấn đề đâm vỡ chủ ý trong bụng của Nghiên Băng.

"Ta biết đại nhân một cột khó chống vững nhà, chỉ mong tìm được chỗ dựa hỗ trợ từ tông tộc Lý thị của ta, quả thật Lý thị ta và Mã thị là kẻ thù truyền kiếp, nhưng tông tộc to lớn, không phải phụ thuộc vào một lời của nhà ta, càng không thể để mặc ta lợi dụng vì lợi ích riêng, dù tính toán của đại nhân có tốt thì e là vẫn sẽ gặp thất bại mà thôi."

Gã không vội hỏi tung tích của vợ mình, hai mắt vẫn cố định trên mặt của Nghiên Băng với ý định phân tích xem những lời hắn sắp nói có phải là thật hay không thông qua nét mặt.

Tất nhiên là trước khi đến đây, Nghiên Băng đã điều tra rõ ràng về cuộc đời của Lý Vọng Tân này rồi.

Gã đậu tú tài vào năm Nguyên Thú hai mươi tám, không muốn làm quan mà đặc biệt thích kinh doanh buôn bán, lấy con gái nhà họ Lâm nhờ lời mai mối, sau khi kết hôn vợ chồng đều có lòng như nhau, lâu ngày sinh tình, mấy năm trời không có con nhưng tình cảm vẫn đậm sâu.

Lâm thị mất tích hai năm, gã không lấy vợ kế, cũng không có ý định nạp thiếp, quan phủ không giúp được, gã bèn tiêu một số tiền lớn thuê người trong giang hồ, đây cũng là lý do khiến cho hồ sơ chỗ quan phủ trở nên chẳng đáng để chú ý đến.

Trước khi nói tung tích của Lâm thị, Nghiên Băng hỏi: "Anh cũng biết trước khi mất tích, Lâm thị vợ anh đã mang thai hai tháng rồi chứ?"

Dù Lý Vọng Tân trông bình tĩnh tự nhiên là thế nhưng vẫn để lộ sơ hở, sắc mặt khó nén nổi khiếp sợ, hẳn là không biết vợ mình có thai.

Nghiên Băng thấy vậy thì không đành lòng.

Lý Vọng Tân cố gắng đè nén tâm trạng, không kiểm soát được run rẩy đứng dậy, gã đã nhận ra được một ít manh mối từ biểu cảm của Nghiên Băng, nhưng trong lòng vẫn cất giấu hy vọng: "Đại nhân đã gặp vợ ta sao? Nàng đang ở đâu? Người có khỏe không?"

Nghiên Băng rủ mắt nhìn xuống đất, đáp lời không trôi chảy: "Khi bổn phủ truy xét án giết vợ của Lâm Đại, xem xét thông tin từ lời của đới hạ y đã xem bệnh cho Đàm thị năm đó, biết được trước khi Đàm thị được gả cho Lâm Đại đã quan hệ với Mã Khai Tín, bởi vì phá thai không đúng cách dẫn đến cả đời này khó mang thai lần nữa. Nhưng líc người khám nghiệm tử thi khám thi thể ở huyện Thanh Viễn, đã phát hiện thi thể của người phụ nữ kia đang mang thai hai tháng..."

Ngẩng đầu nhìn về phía Lý Vọng Tân đang ngây ra như phỗng, hắn nói: "Nói Lâm Đại giết vợ chính là vu oan giá họa, Đàm thị chưa chết, đang được giấu trong phủ của Mã Khai Tín, người chết là một người khác."

Lý Vọng Tân cười khẩy: "Chỉ dựa vào điểm ấy thôi mà đã muốn lợi dụng ta giúp đại nhân đối phó với Mã đề hình sao? Đúng là suy nghĩ hão huyền! Vợ ta giúp đỡ mọi người làm việc tốt, sao có thể bị hại chia lìa thể xác như vậy? Huống chi năm đó khi nàng bị hại, ta đã từng đến xem thi thể rồi," Dường như là gã đang nặn ra từng chữ một, "Không phải là nàng ấy!"

Nghiên Băng càng thêm thông cảm, nhẹ nhàng đáp: "Mỗi lần Đàm thị về nhà mẹ đẻ đều sẽ qua lại với Mã Khai Tín, lần đó ả cũng lấy cớ về nhà mẹ đẻ, thật ra lại là để ngoại tình với Mã Khai Tín... Nếu như chuyện vợ anh chết có liên quan đến Mã Khai Tín, như vậy rất có khả năng anh sẽ không được đến gần người chết mà chỉ được đứng xa xem thôi, chỉ liếc mắt vội vàng, hơn nữa trong lòng anh không muốn thừa nhận tin dữ này, lại thêm động cơ Lâm Đại giết vợ quá đầy đủ, so với việc vợ mình bị chặt đầu và việc bất chấp nhận định Đàm thị bị Lâm Đại hãm hại, anh có khuynh hướng suy nghĩ vợ mình bị đám buôn người bắt cóc hơn, ít ra thì khi ấy người vẫn còn sống."

"Đủ rồi!" Lý Vọng Tân phẫn nộ quát lên, "Đại nhân không có bằng chứng mà đã rủa vợ con ta chết, thứ cho tại hạ không thể tiếp chuyện với ngài nữa, xin hãy rời khỏi đây ngay lập tức!"

Gã nói là "vợ con".

Nghiên Băng đã đoán được kết cục này, đứng dậy bái biệt.

***

Quả nhiên, đêm đó Lý Vọng Tân đến gõ cửa sau của Nha môn, dùng đôi mắt tràn đầy tơ máu nhìn Nghiên Băng: "Ngài làm cách nào chứng minh cái xác kia... Đó là vợ ta?"

Nghiên Băng: "Tìm ra Đàm thị, bắt Mã Khai Tín, anh sẽ đạt được mong muốn."

Lý Vọng Tân cười mỉa: "Ta mong vợ con ta bình an vô sự, có thể được như mong muốn không?"

Nghiên Băng không trả lời được.

Lý Vọng Tân nhắm mắt: "Ta biết cách đối phó với Mã đề hình và Mã Khai Tín, đại nhân cứ chờ tin tốt đi."

Đối với hắn thì là tin tốt, nhưng đối với Lý Vọng Tân thì lại là cơn ác mộng tuyệt vọng mạnh mẽ chèn ép.

Đưa mắt nhìn theo bóng dáng suy sụp đang rời đi của Lý Vọng Tân, Nghiên Băng bỗng nhiên nặng lòng, thấp giọng thầm thì: "Hóa ra trầm oan giải tội không hoàn toàn có thể giúp cho người ta hả lòng hả dạ."

Ngụy bá vỗ vai Nghiên Băng, an ủi trong im lặng,

***

Lý Vọng Tân đã đấu thắng Mã Khai Tín vô số lần, biết rõ cách vừa nhanh vừa chuẩn vừa tàn nhẫn để mà bắt chẹt đối phương bảy phần.

Không đến hai ngày, tông tộc Trần thị vây quanh Nha môn đã nhanh chóng tản đi, đi nghe ngóng một chút, hóa ra Lý Vọng Tân đã ra sức ủng hộ tông tộc Lâm thị mở bán hàng tồn trong kho, bán cho trà thương hết số trà thơm vốn được chuẩn bị để cung cấp cho Lý Vọng Tân với giá cả bằng giá của những năm trước.

Được tông tộc lớn sai khiến, sẵn tiện dựa vào việc này mà ra giá cao hơn, tông tộc Trần thị không ngờ sự việc lại không phát triển như trong tưởng tượng, ngược lại thiệt hại lượng khách hàng cố định, ai nấy đều sững sờ, bất chấp mệnh lệnh của Mã Khai Tín, tranh thủ thời điểm ban đầu lộn ngược trở lại, bận rộn tranh giành trà thương, căn bản không có thời gian tiếp tục đến bao vây Nha môn Quảng Châu nữa.

Dư tình cứ thế tự nhiên được dẹp loạn.

Việc Nghiệp đoàn đình công thì càng dễ giải quyết hơn.

Nha hàng được cài cắm ở Quảng Châu nhiều năm nay nhân cơ hội này dùng thế lực không thể chống đỡ nối chiếm đoạt thị trường, có triều đình là hậu thuẫn, nguồn cung cấp ổn định, hàng hóa nhiều, chất lượng tốt, lại không bày vẽ những quy tắc ngang ngược như Nghiệp đoàn đã làm, nhanh chóng thu hút một nhóm thương nhân gia nhập Nha hàng góp vốn làm ăn.

Đến khi Nghiệp đoàn kịp nhận ra mới phát hiện đối thủ của mình rất mạnh, cứng rắn dồn hết sức lực, nào có ai còn dư hơi quan tâm đ ến lời nói của Mã đề hình và Mã Khai Tín nữa chứ?

Tông tộc Mã thị cũng không phải là chỗ để cho hai bác cháu bọn họ độc đoán.

Tiếp đó là chấn chỉnh quan trường Quảng Đông, khiến cho bọn họ không dám để cho Mã đề hình đem ra lợi dụng nữa, cũng phải nhờ Lý Vọng Tân ra mặt. Trước đây Nghiệp đoàn hai nhà đấu đá với nhau, tranh giành Việt thương để củng cố Nghiệp đoàn lớn mạnh, Mã Khai Tín đã giở không biết bao nhiêu là thủ đoạn ngầm xấu xa, tông tộc Lý thị đã bất mãn từ lâu rồi.

Lý Vọng Tân không phụ sự tín nhiệm của mọi người, cùng ngày hôm đó gửi thư chiến đi, buổi tối đã dẫn người bao vây lấy phủ đệ của Mã Khai Tín.

Hai tộc phải dùng vũ khí đánh nhau, sự việc diễn ra đột ngột không kịp đề phòng, Mã Khai Tín chưa chuẩn bị sẵn sàng, đội ngũ phe mình lại ít quá, gã đành phải điều động cao thủ vốn là vòng canh gác thư phòng nghiêm ngặt, để lộ sơ hở cho phép Ngụy bá vào bắt Đàm thị đi.

***

Bó đuốc sáng ngời thắp sáng Nha môn, Nghiên Băng nhìn xuống Đàm thị trắng trẻo đ ẫy đà, điềm đạm đáng yêu, chắc chắn là hai năm qua sống rất sung sướng.

"Đàm thị."

Đàm thị co rụt hai vai lại: "Các ngươi là ai? Có biết ta là ai không? Ngươi mặc quan phục... Ngươi làm quan à, sao biết rõ luật còn cố phạm phải?"

Nghiên Băng: "Bổn quan có chuyện cần hỏi cô, cô phải trả lời đúng sự thật. Đàm Y, thứ nữ nhà họ Đàm huyện Thanh Viễn, vợ của Lâm Đại ở thôn Lâm gia là cô phải không?"

Đàm thị gật đầu.

Nghiên Băng: "Hai năm qua cô đều trốn ở phủ của Mã Khai Tín sao?" Thấy Đàm thị gật đầu, hắn lập tức nghiêm nghị quát lên: "Vì sao hai năm qua không ra khỏi nhà? Vì sao không báo cáo hành tung? Có phải là cô cấu kết với Mã Khai Tín làm việc xấu, để giấu giếm tình riêng, thoát khỏi Lâm Đại mà cố tình sát hại cô gái vô tội, chặt đầu của nàng, hãm hại Lâm Đại hay không? Các ngươi giết người giá họa là mưu đồ đã lâu hay là do bất chợt nảy lòng tham?"

"Không..." Đàm thị ngạc nhiên, mặt mũi trắng bệch, liên tục lắc tay đáp: "Không phải, ta không hiểu ngài nói vậy là có ý gì? Giết, giết người gì chứ? Hãm hại Lâm Đại là sao? Rốt cuộc điều đó nghĩa là gì?"

Nàng ta nhìn quanh khắp nơi, bốn phía đều là gương mặt lạnh lùng của quan sai, dường như nhận ra có gì đó không đúng, nàng ta mấp máy nói: "Không phải ta, ta, rõ ràng là ta đã báo cáo hành tung với người nhà rồi mà, ta muốn ly hôn với Lâm Đại, nhưng mà hắn cứ dây dưa không ngừng, cho nên ta mới trốn đi không muốn hắn tìm thấy, biểu ca, cha và đại ca đều nói bọn họ sẽ bàn bạc với Lâm Đại, dặn dò ta không được ra khỏi nhà, gần đây mới nói cho ta biết Lâm Đại đã đồng ý ly hôn rồi mà..."

"Ly hôn?" Ánh mắt Nghiên Băng lạnh lẽo, hắn nói: "Cô có biết rằng hai năm trước cô và Lâm Đại tranh cãi, người ta phát hiện một cái xác phụ nữ mất đầu tại nơi mà hắn bỏ rơi cô lại, vì thế mà nhà họ Đàm và quan phủ đều nhận định rằng Lâm Đại giết cô, vu oan giá họa cho hắn hay không. Nếu như không ai giúp Lâm Đại lật bản án, hai ngày tới hắn sẽ bị áp giải ra pháp trường chém đầu đấy! Đây chính là ly hôn mà người nhà họ Đàm và Mã Khai Tín nói ư!"

Đàm thị nghe vậy ngồi sụp xuống đất, mặt mày tràn đầy vẻ khó tin.

Nghiên Băng: "Bổn phủ cần cô ra mặt chỉ định Mã Khai Tín và nhà họ Đàm âm thầm giấu cô đi, sát hại người vô tội, giá họa cho Lâm Đại."

Đàm thị không nói gì, cúi đầu không muốn phối hợp.

"Đưa ả đến gặp Lâm Đại đi." Nghiên Băng nói sâu xa, "Chỉ mong cô nhìn nhận cảnh ngộ của Lâm Đại trong hai năm qua, ít nhất không đến nỗi đánh mất đi lương tâm của mình."

Đàm thị bị đem đi gặp Lâm Đại, Nghiên Băng chắp tay ngắm trăng.

Một lát sau, Nghiên Băng nói: "Ngụy bá, phiền ông dẫn quan sai đi bắt Mã Khai Tín lại, sẵn tiện bắt cả người nhà họ Đàm về, bổn phủ muốn tra xét hung phạm xuyên đêm!"

Ngụy bá yên lòng, không chút do dự dẫn binh đi bắt Mã Khai Tín.

***

Đàm thị gặp Lâm Đại xong thì không cưỡng lại được nỗi nhục nhã hổ thẹn.

Nghiên Băng nói: "Người phụ nữ bị hại khi đó đang mang thai hai tháng, nàng ấy cũng có người chồng hòa hợp chung tình, có cha mẹ anh em yêu thương nàng."

Đàm thị cúi người đáp: "Dân phụ chấp nhận ra mặt chỉ định Mã Khai Tín."

Sắc mặt Nghiên Băng hòa hoãn đi dôi chút, hoá ra cũng chẳng phải là một kẻ không có lương tâm.

***

Mã Khai Tín và người nhà họ Đàm đều bị bắt về Nha môn, mới đầu cắn chết không nhận tội, mãi đến khi Nghiên Băng cho mang nhân chứng vật chứng lên công đường, con trưởng nhà họ Đàm mới nhịn không được nữa quỳ xuống đất khóc cầu trước: "Không liên quan gì đến ta hết, thật sự là không liên quan gì đến ta hết... Là hắn! Là do Mã Khai Tín thấy sắc nảy lòng tham, có ý đồ c**ng h**p Lâm thị, khi Lâm thị phản kháng mạnh mẽ thì lỡ tay giết nàng, sau đó hắn cưỡng ép ta giúp hắn giải quyết thi thể!"

"Ta không muốn, ta thật sự không muốn đâu! Nhưng mà hắn lấy tính mạng của nhà ta để chèn ép, ta, ta cũng chỉ là bất lực bị ép mà thôi!"

Mã Khai Tín trừng mắt đến nỗi mắt sắp nứt ra rồi, dột nhiên gã xông lên trước mặt con trưởng nhà họ Đàm rồi đánh hắn: "Ta đánh chết con chó ăn cây táo rào cây sung nhà ngươi!"

Lạnh lùng thờ ơ nhìn hai con thú dữ cắn xé lẫn nhau một hồi, Ngụy bá mới bước lên phía trước đá gãy một chân Mã Khai Tín: "Công đường là nơi để cho ngươi nổi loạn à?"

Mã Khai Tín đau đến mức lăn qua lộn lại dưới đất, con trưởng nhà họ Đàm bị dọa sợ hai chân run rẩy, mắt mở trừng trừng, cơ mặt co rút, tự biết hành vi phạm tội đã bại lộ, dù là Mã Khai Tín hay Mã đề hình thì đều là Bồ Tát bùn qua sông, tự bảo vệ mình còn khó, chẳng bằng gã nói ra hết những gì mình biết, cố gắng giải trừ hành vi phạm tội của mình.

Thế là hắn ta chủ động phối hợp: "Đại nhân, Mã Khai Tính háo sắc, phàm là nhìn thấy cô gái nào xinh đẹp thì đều sẽ tìm cách có được trong tay, nếu như không làm theo lời thì hắn sẽ chuốc thuốc dụ dỗ. Hai năm trước, hắn và em của ta hẹn thời gian địa điểm để ngoại tình, nửa đường nhìn thấy Lâm thị cũng có nhan sắc liền động lòng, bày trò anh hùng cứu mỹ nhân nhưng lại bị Lâm thị vạch trần, hắn thẹn quá hóa giận, muốn c**ng bức làm trò đồi bại, đầu tiên Lâm thị lớn tiếng hét lên, sau đó tiết lộ thân phận... Khi đó Mã Khai Tín đã thất bại thảm hại trong tay Lý Vọng Tân, đứng trước ranh giới của sự phẫn hận, nghe Lâm thị nói thân phận xong thì càng hạ quyết tâm cho Lý Vọng Tân một bài học cả đời khó quên!"

"Lâm thị giãy giụa rất mạnh, Mã Khai Tín lỡ tay bóp cổ nàng chết, đang chưa biết sẽ giải quyết thi thể này như thế nào, thì nghe em ta khóc lóc bảo rằng Lâm Đại dùng dao uy h**p muội ấy, muốn giết muội ấy, vả lại vóc dáng của em ta và Lâm thị tương tự nhau, thế cho nên hắn mới nghĩ ra kế vu oan giá họa, chặt đầu Lâm thị ra để ở bên cạnh con đường nhỏ, sau đó mua chuộc Huyện lệnh huyện Thanh Viễn và Tri phủ Quảng Châu, ép buộc lợi dụng người nhà họ Đàm của ta, lệnh ép bọn ta phải giá họa cho Lâm Đại."

Nghiên Băng hỏi: "Các ngươi có biết khi ấy Lâm thị đang mang thai hay không?"

Con trưởng nhà họ Đàm chớp mắt, ấp úng đáp: "Không, không biết..."

Nghiên Băng nghiêm mặt quát lớn: "Biết hay không biết!"

Con trưởng nhà họ Đàm giật bắn mình, gật đầu lia lịa: "Biết, biết! Khi đó Lâm thị tự nói mình đang mang thai, cầu xin Mã Khai Tín buông tha cho nàng."

"Súc sinh." Lý Vọng Tân vừa mới bước ra khỏi phía sau công đường, trên mặt là vẻ hận thù đã khắc sâu trong xương tủy, gã nghiến răng nghiến lợi, chỉ hận không thể ăn thịt uống máu: "Súc sinh!"

Lý Vọng Tân xông lên phía trước, phẫn nộ tung quyền tung cước đánh con trai nhà họ Đàm và Mã Khai Tín, chỉ mong có thể đánh chết hai người nọ ngay tại chỗ này.

Trên công đường không ai đứng ra cản trở, đánh đấm một hồi, Nghiên Băng mới lệnh cho người kéo Lý Vọng Tân ra, sau đó lấy một bản khai đến trước mặt Mã Khai Tín đế hắn chấp thuận.

Mã Khai Tín không chịu nhận tội, đầu đầy mồ hôi lạnh, gã giãy giụa: "Đại bá của ta là Đề Hình sứ Quảng Đông, thượng sai của ngươi đấy, sao ngươi dám đối xử với ta như thế? Ngươi không sợ đường làm quan của mình bị đánh gãy à..."

"Mã đề hình và một đám quan lại Quảng Đông nhận hối lộ, che chở lẫn nhau để trục lợi, cố tình buộc tội người khác, ông ta còn khó mà tự bảo vệ mình nữa là. Tông tộc với thế lực lớn mạnh dám đối địch với triều đình trong mắt ngươi hiện đang đấu tranh trong gian khó với Nha hàng được triều đình nâng đỡ rồi, chẳng có thời gian quan tâm đ ến ngươi đâu."

Nghiên Băng mạnh mẽ giật phắt mão trên tóc của Mã Khai Tín, tàn nhẫn nói: "Ngươi yên tâm đi, bổn phủ sẽ không cướp đoạt quyền lợi tam đường hội thẩm của ngươi đâu, cũng sẽ không ngăn chặn cơ hội kêu oan chống án của ngươi, ngươi phải tận mắt chứng kiến bản thân bị quyền lợi mà ngươi lạm dụng từ trước đến nay và dư tình cắn trả, ép ngược lại ngươi, nhanh chóng khiến cho ngươi và tông tộc của ngươi đi về phía diệt vong!"

Mã Khai Tín run như cầy sấy, vừa đau đớn vừa sợ hãi.

***

Tin tức truyền nhanh, trời vừa sáng, Mã đề hình đã dẫn quan binh đến bao vây Nha môn phủ Quảng Châu, ra lệnh cưỡng chế Triệu Nghiên Băng giao Mã Khai Tín ra.

Nghiên Băng: "Mở cửa đi."

Quan sai và sư gia đứng phía sau cửa lớn đóng chặt, lo lắng nói: "Đại nhân, Mã đề hình dẫn một đội quan binh đến, chắc chắn là đã chuẩn bị kĩ rồi, nói không chừng còn có thể thừa cơ giết sạch những nhân chứng nữa, đến lúc đó đổi trắng thay đen như thế nào còn phải xem tâm trạng của ông ta đấy."

Nghiên Băng: "Bổn quan nói mở cửa!"

Sư gia và Ban đầu đối mắt nhìn nhau, khó xử mở cánh cổng lớn ra, Nghiên Băng vừa bước ra ngoài, quan binh đã vây quanh hắn, nhắm những mũi giáo sắc nhọn vào người hắn, Mã đề hình ngồi trên ngựa cao, ngạo nghễ nhìn xuống.

Nghiên Băng cười: "Đại nhân định tạo phản đấy à?"

Mã đề hình: "Cơm có thể ăn bậy, nhưng lời thì không thể nói lung tung đâu. Triệu đại nhân nên nhớ, họa từ miệng mà ra."

Nghiên Băng: "Không phải là tạo phản, thế vì sao lại đem binh đến bao vây Nha môn Quảng Châu? Bổn quan không giết người không phạm pháp, đại nhân dựa vào cái gì mà điều binh khiển tướng?"

Mã đề hình: "Vậy thì cháu trai của bổn quan đã phạm tội gì, để cho đại nhân phải mang binh đi bắt nó lên công đường ngay trong đêm?"

Nghiên Băng: "Mã Khai Tín thấy sắc nảy lòng tham, sát hại người vô tội, chặt đầu người ta rồi giá họa cho Lâm Đại, giấu con cái nhà lành, cũng đã có người làm chứng rồi, hành vi phạm tội như thế đã đủ để bổn quan chém đầu hắn chưa?"

Sắc mặt Mã đề hình tối sầm xuống: "Có chứng cứ không?"

Nghiên Băng: "Bổn quan luận ngục xử án nhiều năm, biết rõ bắt người phải có bằng chứng, không phiền thượng sai phải hao tâm tổn trí. Mã Khai Tín và đồng lõa là người nhà họ Đàm đã thừa nhận mọi tội lỗi, cũng đã chấp thuận cung cấp bản khai, theo luật còn cần phải trình bản án lên Đề Hình ty tỉnh, vừa hay thượng sai cũng đến đây rồi, vậy thì cứ thế đến luôn bước tam đường hội thẩm đi!"

Mã đề hình khựng lại, để lộ sát ý: "Tam đường hội thẩm?"

Nghiên Băng nở nụ cười đã tính toán từ trước: "Bổn quan đã lệnh cho người đi mời Soái sứ Quảng Đông đến công đường tra xét, có lẽ là đang trên đường dẫn binh đến đây rồi, thượng sai có muốn xuống ngựa vào trong công đường ngồi chờ không?"

Soái sứ là quan lớn cấp bốn, đã đến đây là chắc chắn sẽ dẫn binh theo, đủ để chấn nhiếp Mã đề hình đang rục rịch.

Mã đề hình không dám hành động mù quáng, hoài nghi nhìn Nghiên Băng, ánh mắt sắc bén của ông ta thoáng liếc thấy vẻ lạnh lùng của Lý Vọng Tân trong Nha môn, toàn thân không khỏi chấn động, Lý Vọng Tân này có một người cô mới được gả vào phủ Soái sứ.

Hai bên có quan hệ thông gia, giờ phút này lại xuất hiện trong Nha môn, chắc chắn là đã đứng cùng một chiến tuyến với Tri phủ Quảng Châu rồi, chẳng lẽ là thật sao?

Suy nghĩ tới lui một phen, một đứa cháu trai cũng không đáng để cho ông ta chôn vùi đường làm quan của mình, Mã đề hình xuống ngựa vào công đường.

Trong lúc chờ đợi, Mã đề hình nhận lấy bản khai đã được chấp thuận xem qua một lượt.

Sau khi xem xong, Mã đề hình không nén được cơn giận, tuyệt đối không ngờ người mà Mã Khai Tín gi ết chết lại chính là vợ của Lý Vọng Tân!

Lý Vọng Tân nổi tiếng yêu thương vợ ai ai cũng biết, khi ấy người đó còn mang thai, thù này đã kết chỉ sợ là không chết không thôi!

Dĩ nhiên Mã đề hình đã liệu trước được sự trả thù không tiếc bất cứ giá nào của Lý Vọng Tân rồi, tông tộc Mã thị và ông ta sẽ phải nghênh đón tai họa ngập đầu.

Bên ngoài truyền đến tiếng bước chân đều tăm tắp, một người đàn ông mặc văn võ bào nhảy xuống khỏi lưng ngựa cao, bước nhanh vào trong, doanh binh đi cùng vây quanh Nha môn, thủ tiêu sạch sẽ quan binh mà Mã đề hình mang theo.

Cùng là binh, nhưng tuyệt đối không thể đánh đồng binh của quân đội và binh của Nha môn.

Soái sứ Quảng Đông vừa đến gần công đường, Nghiên Băng đã đứng dậy: "Hạ quan tham kiến Soái sứ."

Khi đối mặt với hắn, biển cảm của Soái sứ Quảng Đông hòa hoãn đi nhiều, rồi ông đi về phía bàn xử án ở giữa công đường, sắc mặt trở nên tàn nhẫn. giơ kinh đường mộc lên cao rồi vỗ mạnh xuống...

"Dẫn phạm nhân lên công đường, phúc thẩm án Lâm Đại giết vợ!"

Mã đề hình thoáng mềm chân ngồi liệt tại chỗ, mặt mũi trắng bệch, suy sụp không chịu nổi, tự biết thế lớn đã mất, buông bỏ không vùng vẫy nữa.

***

Vụ án giết vợ đã bị đắp chiếu đưa kết luận hai năm trước vẫn có thể lật lại được, liên quan sâu xa đến ân oan giữa hai tông tộc Lý – Mã, Đề Hình sứ là quan lớn cũng vì thế mà ngã ngựa, tình tiết vụ án khúc chiết li kì, được dân chúng lan truyền rộng rãi, bàn tán say sưa.

Bởi vì có liên quan đến cuộc chiến giữa các tông tộc, quan quan tin tưởng bao che cho nhau, oan kêu trời không thấu, nhiều như tuyết bay giữa tháng sáu, vu oan giá họa, khó lòng giải bày, dân chúng đều đồng tình xếp vụ án này vào ghi chép thập đại kì oan của tỉnh Quảng Đông.

Lâm Đại vô tội được thả ra, được quan phủ đền bù tổn thất cho, những phạm nhân phải chết thì đã chết, cần lưu vong đã lưu vong, bận bịu hơn nửa tháng cuối cùng cũng kết thúc, công việc tiếp theo sau khi rảnh tay chính là hợp tác với Tào sứ Quảng Đông giải quyết Thượng hội Quảng Đông.

Cuối năm, nhờ có thánh chỉ ngợi khen từ triều đình, đường làm quan của Nghiên Băng coi như là ổn định.

***

Đầu mùa xuân một năm sau, Nghiên Băng nhận lời mời đến thăm Nha hàng từ Tào sứ, nơi đã tranh chấp với Nghiệp đoàn của tông tộc suốt nửa năm trời qua, mô hình sương phường được Nha hàng phụ trách quản lý này đã thoát khuôn khỏi hình thức của sương phường ở phủ Kinh Đô, dung nhập sự đặc sắc của phủ Quảng vào, còn có thêm sự chống đỡ của cảng Quảng Châu phồn hoa, hàng hóa rực rỡ vạn trạng, thương gia tranh kỳ đấu diễm, đường phố nhộn nhịp, bất cứ lúc nào cũng có thể nhìn thấy người nước ngoài tóc vàng mắt xanh.

Trên đường đi, Nghiên Băng tách khỏi nhóm đồng liêu, quyết định chắp tay đi một mình giữa dòng người, nghe thấy được tiếng thét to ở cách đó không xa, hắn đi sang đó nhưng chẳng có hứng thú mấy, thế nhưng lại nghe thấy giọng nói sang sảng của một nha tử nào đó từ trong đám đông: "... Khoảng chừng tám tuổi, răng lợi ngay ngắn, nhan sắc xinh đẹp, tuy chỉ là một cô nhóc nhưng đã chịu khổ nhọc, hôm nay bán tháo thân mình, làm thuê mười năm, sống chết mặc đời! Lên giá đi..."

Là người môi giới bán sức lao động, có một đám người đang vây quanh thành một vòng tròn.

Nghiên Băng đứng lại nên bị kéo theo vào, hắn thấy trên cái bàn đặt chính giữa có một cô gái nhỏ vàng vọt gầy nhom, hai chân tr@n trụi, cả người co quắp lại, bên cạnh chính là người môi giới đang bừng bừng khí thế.

Luật pháp Đại Cảnh nghiêm trị tội buôn người nhưng lại không thể ngăn cản được dân chúng nghèo khổ bán con để sống, thời buổi này là thế, mấy năm nay Triệu Bạch Ngư bôn ba xuôi ngược cũng chỉ có thể dùng việc thuê mướn để thay thế cho buôn người mà thôi.

Người nghèo khổ bị thuê, tuy gọi là "nô tỳ" nhưng lại là một người tự do, không mang tiện tịch, thời hạn làm thuê tối đa mười năm.

Mười năm sau, không cần hỏi nguyên do, phải trả tự do cho họ.

Đây chính là bình quyền mà Triệu Bạch Ngư dốc hết sức lực để giúp đỡ cho trăm họ.

Nghiên Băng nhìn cô bé kia, bỗng nhiên nhớ đến bản thân mình khi còn nhỏ, hắn cũng từng trở thành nô lệ, bị rao bán trên đường cái, khi đó Đại Cảnh vẫn cho phép những hình thức như tự bán thân, bán cha mẹ, chồng bán vợ làm nô lệ thấp kém cho chủ nhân, mà hắn là bị mẹ kế bán cho tên môi giới ngay trước mặt cha mình.

Bởi vì là con trai, mặt mũi đoan chính, lại còn hơi trắng trẻo, người môi giới muốn bán giá tốt cho nên ôm hắn chạy thẳng đến kinh thành, cuối cùng hắn mắc bệnh nặng, giá tiền đã hạ, dù có hạ hơn nữa cũng chẳng có ai chấp nhận mua.

Khi đó Nghiên Băng nghĩ là hắn sẽ cứ thế mà chết ở trong cái lồng kia, sau đó bị ném đến bãi tha ma, đến cả tấm chiếu đắp cũng chẳng có.

Nhưng mà Triệu Bạch Ngư đi ngang qua, tiêu hết sạch tiền cứu hắn.

Cô bé trên cái bàn kia đột nhiên ngẩng đầu lên, dùng ánh mắt sáng trong nhìn Nghiên Băng chằm chằm, trong mắt không có sợ hãi cũng không đau buồn, mà chỉ còn sót lại sự kiên cường bình tĩnh sau khi phải chịu đựng vô vàn khổ cực.

Nghiên Băng thoáng thấy xúc động.

"Mười lăm lượng bạc!"

Sẽ chẳng có ai bỏ ra mười lăm lượng bạc chỉ để mua một cô gái xanh xao vàng vọt về cả, nhưng Nghiên Băng thì lại bỏ tiền ra mua cô bé.

Nghiên Băng trả lại khế ước bán thân mười năm cho cô bé: "Ta lấy danh nghĩa quan phủ để mua con, đưa con về nhà."

Người nghèo buộc phải bán con mình để tiếp tục sống, triều đình hết cách, chỉ đành phải trả tiền chuộc những đứa trẻ lại rồi đưa chúng về nhà.

Cô bé: "Con không có nhà."

Nghiên Băng: "Con tên là gì?"

Cô bé: "Hàng bồi thường, nha đầu chết tiệt, tiện..."

"Thôi bỏ đi, đó không phải là tên." Nghiên Băng đưa cô bé về phủ, hai bóng người sóng vai đi trên đường, ánh chiều tà nơi chân trời nhuộm đỏ tầng mây, gió mát lướt qua mặt, "Nếu như con không chê, ta lấy tên cho con nhé?"

"Dạ."

"Ẩm Băng thì sao? Sớm nhận chiếu triều, hoàng hôn uống băng, ngụ ý lo lắng cho nước, thanh chính liêm khiết."

"Nhưng con là con gái mà."

"Con gái vẫn có thể tham gia khoa cử. Có điều sẵn lòng hay không là chuyện của con, trước hết cứ lấy họ theo họ của ta đi, họ Triệu. Sau này họ gì, con tự xem Bách gia tính mà chọn."

Một lớn một nhỏ đi càng lúc càng xa, rồi dần dà chìm vào trời chiều, không còn thấy bóng dáng đâu nữa.

Thời đại gió mưa đổi thay, tự có một đời huyền thoại mới ôm lấy một đời huyền thoại xưa cũ, thế nhưng năm tháng qua đi, củi cháy lửa truyền*, không bao giờ tắt.

<i>(*) Nguyên văn: "Tân hỏa tương truyền" - </i>薪火相傳<i>, củi và lửa truyền tiếp cho nhau; hay "Tân tận hỏa truyền" - </i>薪盡火傳<i>, có nghĩa là củi hết nhưng lửa vẫn truyền đi. Đây là chỉ tinh thần giáo dục, thế hệ trước truyền ngọn lửa tri thức cho thế hệ sau. Thành ngữ này có xuất xứ từ sách của Trang Tử.</i>

<i>==</i>

<b><i>Min:</i></b> em Băng thật sự là bản sao của bé Cá đó<i> </i>😭😭
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 115: Ngoại truyện 8 • Từ quan (1)


Năm Nguyên Thú thứ ba mươi bảy, một trận phong hàn xuất hiện đột ngột quật ngã Nguyên Thú đế, bệnh tình ập đến mạnh mẽ, thuốc và kim châm cứu cũng nhanh chóng không thể chữa được nữa, ông bệnh rồi qua đời trong một buổi trưa mùa xuân tươi đẹp, thụy hào Cảnh Văn đế.

Thập Thất hoàng tử kế vị, niên hiệu Trọng Hoa.

Trọng Hoa đế đăng cơ, đại xá thiên hạ, sẵn tiện gia phong cho các lão thần, trọng thần bên người.

Trần Sư Đạo tám mươi mấy tuổi đã rảnh rỗi ngồi nhà từ lâu, có nói gì cũng không chịu xuất sĩ trở lại, chỉ đành phải giữ cho ông chức Thái sư, hưởng vinh dự, lãnh lương bổng, không cần phải vào triều làm việc, thay vào đó đặc phong tước hiệu cho con trai của ông cụ là Trần Phương Nhung.

Lòng dạ Nguyên Thú đế lang thang ở tận trời xa, đây là chuyện mà tất cả mọi người đều biết, dù tân đế là một người có tính tình nhân hậu, nhưng trước khi băng hà ông vẫn nghĩ đủ mọi cách để đan thư thiết khoán lại cho phủ Lâm An vương, còn cho Triệu Bạch Ngư một cây roi đánh vua trên đánh hôn quân dưới đánh gian thần.

Chỉ cần hai người không làm những chuyện như mưu triều soán vị, thì trên đời này không ai có thể động đến bọn họ.

Vậy cho nên hai người không thể phong cũng chẳng thể thưởng.

Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư lần lượt là huynh trưởng và trưởng tẩu, bên cạnh đó còn đều là thầy dạy gã về võ công và văn trị, dù không có đan thư thiết khoán và roi đánh vua, tân đế cũng không dám suy nghĩ đến chuyện không kính trọng họ.

Hai vị này đều là gừng già thành tinh lăn lộn lâu trong quan trường, làm việc sẽ không bao giờ quan tâm đ ến điểm mấu chốt, cũng sẽ không để cho người ta nắm được nhược điểm, khi tiên đế tại thế còn hết cách đành chịu với bọn họ, huống chi là tân đế lớn lên trong sự giáo dục của hai vợ chồng này?

Hoắc Kinh Đường mang tước vị cao nhất, Triệu Bạch Ngư cũng đứng ở nơi cao ngất ngưỡng, trong kho phủ chồng chất bảo vật mà tiên đế ban cho, mà nhà họ còn lén lút kinh doanh sản nghiệp riêng, tính ra tài sản còn nhiều hơn cả tiền riêng của tân đế nữa.

Bởi vậy nên là không thể phong, cũng không thể thưởng.

Mới đầu khi tân đế lên ngôi, quả thật đã đau đầu một khoảng thời gian, ai ai cũng được phong thưởng, nhìn lại hai vị này chẳng có động tĩnh gì, trong triều có mấy người tinh ranh bảo đấy là phân biệt đối xử, khoảng thời gian đó, số lượng sổ con tham tấu từ môn sinh của Triệu Bạch Ngư tăng lên gấp đôi.

Cũng may nhờ có Thái hậu ra chủ ý, thông báo rằng trong cung sẽ tổ chức một bữa tiệc nhà, tân đế không mời hoàng thúc huynh đệ tỷ muội gì cả, chỉ đưa khẩu dụ đến thẳng phủ Lâm An vương.

Tiền triều hậu cung nhìn thấy lập tức hiểu rõ, đến chị em ruột cùng mẹ sinh ra còn chẳng được mời đến bữa tiệc nhà này, đủ để chứng minh sức nặng của Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư trong lòng tân đế rồi, trong ngoài triều đình đều không ai bì nổi.

Cách làm này hiệu quả hơn bất kì mọi chức tước hay phần thưởng nào khác.

Lòng dạ nhỏ nhen của đám người triều trước nhanh chóng bị bóp ch ết từ trong trứng nước, năm thứ hai tân đế lên ngôi mưa thuận gió hoà, mùa gặt hái thu hoạch tốt đẹp, trong lòng người dân bốn phương thật sự khâm phục, không ai dám lỗ m ãng trước mặt một đất nước mang mệnh cường thịnh này nữa.

Có thể nói Trọng Hoa đế chính là Hoàng đế được lòng người nhất kể từ khi dựng nước Đại Cảnh đến nay, vậy cho nên tính tình càng thêm phúc hậu, các quan lại trên triều thường xuyên ầm ĩ nháo nhào lên vì chính kiến không hợp, thậm chí còn lao vào đánh nhau.

Triệu Bạch Ngư đặc biệt vào cung vì chuyện này, khéo léo khuyên can Trọng Hoa đế nên đặt lòng dạ sắt đá đúng chỗ, xuống tay mạnh mẽ đúng lúc, nếu cứ để như thế mãi, uy nghiêm của đế vương sẽ không còn nữa, không quản lý được văn thần võ tướng, sớm muộn gì cũng dẫn đến hỗn loạn.

Ban đầu Trọng Hoa đế không để bụng, triều thần tranh luận càng gay gắt càng chứng minh bọn họ để tâm đ ến việc nước, tại sao lại phải ngăn?

Thái hậu nghe thấy việc này, bèn nhân dịp Trọng Hoa đế đến thăm hỏi, bà lệnh cho Hoàng hậu dẫn mấy hoàng tử nhỏ đến trước mặt gã diễn tiết mục anh em cãi nhau.

Trọng Hoa đế lạnh mặt quát lớn, các hoàng tử chẳng những không nghe lời mà ngược lại còn khóc to hơn, vẫn là Hoàng hậu bước ra, chỉ cần dùng một ánh mắt thôi là đã có thể khiến cho các hoàng tử bắt tay giảng hòa, giải quyết cuộc tranh cãi trong êm đềm mà hiệu quả còn cao.

Thái hậu nói vài câu bên tai, thấy biểu cảm Trọng Hoa đế như đang suy tư điều gì đó bèn ngừng lại một chút.

Sau khi suy nghĩ thông suốt, ngày hôm sau vào triều, Trọng Hoa đế đã mạnh dạn trừng trị đám thần tử gây rối, tóm lại nói là hai bên gây chuyện phải hợp lực giải quyết vấn đề dẫn đến tranh cãi trong thời hạn quy định, không quan tâm là dùng cách gì, gã chỉ muốn xem kết quả.

Chuyện này vừa xảy ra, trăm quan trên triều nếu có tranh cãi cũng sẽ không cãi nhau đến mức biến buổi triều sớm thành cái chợ bán thức ăn nữa, sự khinh thường tân đế trong lòng ít nhiều đều giảm xuống, lời nói hành động đã bị trói buộc, hiệu quả công việc đã được cải thiện không chỉ một hai điểm.

Trong Hoa đế cảm nhận được kết quả tốt, rốt cuộc cũng hiểu được cái hay của tâm thuật đế vương, biết cân nhắc trái phải, mọi thứ đều không thể quá mức, được phép dung túng nhưng không được phóng túng.

Gã mơ hồ nắm được sợi dây vô hình dùng để thao túng triều đình kia, bước đi bước đầu tiên của một Đế vương, gã càng cảm nhận được sâu sắc hơn về sự vĩ đại và thâm sâu không lường được của tiên đế, cũng càng hiểu rõ được vì sao trước khi chết, tiên đế lại cố tình giáng chức hơn phân nửa số lão thần trong triều, liên tục dặn dò gã rằng lão thần nào dùng được, ai không thể dùng được, còn có ai sử dụng được nhưng không thể trọng dụng.

Đầu tiên là giúp gã nhổ bỏ những lão thần có quyền thế quá lớn, tránh cho bọn họ cậy già lên mặt sau khi tân đế lên ngôi, đồng thời nhường các vị trí đó lại để tân để bổ sung người vào, rồi sau đó thuận tiện đá rớt những thần tử ăn không ngồi rồi xuống.

Tiếp theo là tân đế đại xá thiên hạ, đại sự phong thưởng, lôi kéo lòng người.

Cuối cùng là những lão thần có thể sử dụng nhưng không thể trọng dụng, ví dụ như Triệu Bá Ung có rất nhiều môn sinh, nhóm người Lư Tri Viện, trước khi cưỡi hạc về trời tiên đế đã tìm lý do giáng chức bọn họ rồi, giáng tận hai ba cấp.

Đến khi tân đế đăng cơ bọn họ sẽ lại được phong lên một phẩm cấp cao hơn nhưng không có nhiều thực quyền, bị giáng chức xuống cấp thấp, thực hiện những việc thiết thực và xứng chức, đã cho thăng quan, cho thể diện sáng chói, thế nhưng là vừa nắm trong lòng bàn tay ép sạch giá trị, vừa có thể phòng ngừa bọn họ có được quyền cao chức trọng, kết bè kết cánh, không thuận theo tân đế, nguy hại đến sự ổn định xã tắc.

"Muốn nói trên đời này ai là người thấu hiểu quan trường nhất, ai mới là kẻ thành tinh trong quan trường, nếu không phải là tiên đế thì không thể là ai khác."

Sau khi lên ngôi tân đế hành động một phen, trong lòng các lão thần đều rõ ràng.

Trần Sư Đạo gọi Triệu Bạch Ngư đến nhà uống rượu, nhỏ giọng kể với y việc này.

"Triệu Thừa Giới đi theo tiên đế khi lão mới bắt đầu trở thành Đông cung, nhà cửa suýt là bị chia rẽ đến nơi, nhưng cuối cùng vẫn tính toán hay như vậy." Trần Sư Đạo lắc đầu cảm thán, "Gần vua như gần cọp, cũng may là thầy đã từ quan từ sớm rồi."

Triệu Bạch Ngư gõ bàn, dặn dò Trần Sư Đạo: "Đừng có tham rượu."

Trần Sư Đạo không quan tâm lời khuyên của y, đến tầm tuổi ông đây rồi còn kiêng khem cái con khỉ gì nữa?

Triệu Bạch Ngư mặt không đổi sắc nhắc đến vợ Trần Phương Nhung, "Hình như vẫn đang còn hầm canh cách thủy ở phòng bếp ấy nhỉ?"

Trần Sư Đạo hậm hực đặt chung rượu xuống, khi Trần Phương Nhung đi nhậm chức ở tỉnh ngoài, một lần gặp bất trắc rơi vào trong tay sơn phỉ, suýt nữa là toi mạng, không ngờ có một nữ hiệp từ trên trời rơi xuống cứu hắn.

Nữ hiệp tính cách hào sảng xông xáo, thích kiểu mặt trắng giống Trần Phương Nhung nên theo đuổi hai năm, thành công bắt được người ta, sau đó nàng sinh hạ một trai một gái, trở thành nữ chủ nhân duy nhất của Trần phủ, trong ngoài cao thấp đều chăm lo sít sao, bao gồm cả lão già trẻ con Trần Sư Đạo.

Những lời Triệu Bạch Ngư nói có thể coi như không khí, nhưng con dâu lên tiếng là không thể không nghe, nàng lo liệu việc bếp núc, kiêm luôn quyền sở hữu tài sản trong phủ, Trần Sư Đạo mà mê rượu sẽ bị cắt tiền tiêu vặt hàng tháng.

Sở thích thu thập tranh chữ sách cổ của văn nhân vốn là để đốt tiền mà.

"Không uống nữa." Trần Sư Đạo cầm đũa lên chuyên tâm dùng bữa, liếc nhìn Triệu Bạch Ngư: "Con đang nghĩ gì thế?"

Triệu Bạch Ngư: "Con không nằm trong danh sách bị giáng chức."

Trần Sư Đạo: "Phải rồi."

Tân đế đăng cơ, đủ loại quan lại chìm nổi, chỉ có chức quan của Triệu Bạch Ngư là không nhúc nhích, còn được mời đến tiệc nhà trong cung, địa vị sừng sững bất động.

"Nghiên Băng vào Hình bộ à?"

"Hình bộ Thượng thư."

"Một tên thư đồng con cũng có thể dạy thành Thượng thư, chẳng trách người người nhà nhà ngoài kia cứ tìm quan hệ với ý đồ nhét con cái vào làm thư đồng cho con." Trần Sư Đạo không biết nên khóc hay nên cười, "Còn có người muốn kết giao với thầy, thầy bèn nghĩ con làm gì mà có thời gian dạy dỗ đám đệ tử trong Kinh Đô này chứ? Cho nên thuận miệng nói một câu, chờ con thân kiêm hai chức như thầy ngày xưa, làm lên Tể tửu Quốc Tử Giám là có thể dạy dỗ con của bọn họ như họ mong muốn rồi."

Triệu Bạch Ngư có hơi bất đắc dĩ: "Bảo sao hai năm qua Quốc Tử Giám cứ luôn nhờ vả con đến chỗ bọn họ giảng bài, thầy ngồi yên chút đi, tân đế đăng cơ còn nhiều việc phức tạp, con mệt đến nỗi bệnh suốt mấy ngày, con còn đang nghĩ đến chuyện xong hết việc là từ quan được rồi đây này."

Trần Sư Đạo không đồng ý: "Đang lúc tráng niên, không thể nói những lời lẽ thiếu chí khí như vậy được."

Triệu Bạch Ngư chỉ cười không đáp.

Lúc này có tiểu đồng đến báo lại: "Lão thái gia, Triệu thượng thư đến chơi."

Triệu Bá Ung.

"Chắc là biết con đang ở chỗ thầy nên chạy tới đây mà, con có gặp không?"

Thoắt cái mà đã hơn mười năm rồi, thiên đại ân oán gì thì cũng đều đã có thể cười đùa cho qua, mấy năm này quan hệ giữa Triệu Bạch Ngư và nhà họ Triệu trở nên hòa hoãn hơn, ngày lễ tết có qua lại, nhưng tóm lại là vẫn chưa thân quen lắm.

Triệu Bạch Ngư cười, "Người mà ông ấy muốn đến thăm là thầy, gặp hay không gặp tất nhiên là do thầy quyết định rồi."

Trần Sư Đạo vuốt râu nói: "Đêm nay đại lang về muộn, chắc hai người thầy và con không ăn hết bàn thức ăn này đâu... Đi đi, mời Triệu đại nhân vào đây."

Một lát sau nghe thấy tiếng bước chân, Triệu Bạch Ngư giương mắt nhìn lên, bắt gặp đôi mắt đầy yêu thương của Triệu Bá Ung, y đứng dậy chắp tay cúi đầu, nhóm người nhập lại ngồi xuống.

"Cạch" một tiếng nhỏ vang lên, chén trà nâng lên chạm nhau, ơn hận trên thế gian hoà tan vào rượu và trăng sáng.

***

Đêm khuya.

Triệu Bạch Ngư trằn trọc, thất thần ngắm nhìn luồng ánh sáng bạc của mặt trăng rọi vào từ khe cửa sổ, xuyên qua tấm màn rơi đầy trên giường, đột nhiên có một cánh tay vươn đến ôm ngang lấy vai y, thân người nóng rực áp sát lại gần, y nghe Hoắc Kinh Đường hỏi: "Không ngủ được sao?"

"Ta đánh thức chàng à?"

Hoắc Kinh Đường không đáp mà hỏi lại: "Mấy ngày nay ta thấy em nặng trĩu tâm sự, ăn không ngon miệng, rốt cuộc là bị thứ gì quấy rầy thế? Trên triều có người chọc cho em tức giận sao? Hay là Hoàng đế lại làm điều gì đó ngu ngốc, gây thêm phiền toái cho em?"

"Không có việc gì." Triệu Bạch Ngư không muốn nói, thế nhưng việc kia cứ nghẹn ứ ở trong lòng, mấy năm nay y đã tập thói quen chia sẻ tất cả mọi chuyện cho Hoắc Kinh Đường nghe, nhịn một lúc rồi cũng không nhịn nổi nữa, y xoay người lại nhìn Hoắc Kinh Dường dò hỏi: "Chàng nói xem, bây giờ ta từ quan thì có thành công không?"

Từ nãy đến giờ nói chuyện Hoắc Kinh Đường luôn chỉ khép hờ hai mắt, bấy giờ hai mày và mi mắt run run, rồi bỗng dưng hắn mở bừng mắt ra, hai mắt sáng long lanh, hoàn toàn không nhìn ra được dấu vết của một giấc ngủ say.

"Cảm ơn trời đất, cuối cùng em cũng nghĩ đến chuyện từ quan rồi."

Nhắc đến cũng buồn cười, mới đầu người thất vọng với quan trường là Triệu Bạch Ngư, nhưng về sau kẻ nháo nhào lên, nằng nặc đòi từ quan lại đổi thành Hoắc Kinh Đường, hắn vốn đã chuẩn bị tâm lý rằng ít nhất là năm mươi tuổi Triệu Bạch Ngư mới chịu từ quan, không ngờ bây giờ vẫn chưa đến bốn mươi mà đã nghĩ thông suốt rồi.

"Ta đã muốn nói điều này từ lâu rồi, quan trường cũng chẳng phải là nơi để cho người ở, công việc xử lý suốt ngày chẳng xong, còn phải đề phòng bị công kích khắp nơi." Hoắc Kinh Đường lải nhải, ý kiến ý cò như ông già. "Ngày xưa đám Đông cung, lão Lục bọn họ tranh đoạt, môn đảng sau lưng lật tung triều đình lên, có quá nhiều thay đổi đáng ngạc nhiên, vất vả lắm mới giải quyết được, sống yên ổn thêm được vài năm, kết quả mấy đứa nhỏ trưởng thành lại chém giết một trận mưa máu gió tanh, đến cuối cùng tiểu Thập Thất lên ngôi, tiên đế trao cho em một cây roi đánh vua, chứng tỏ muốn giữ em lại phò tá tân đế cho đến khi hắn có thể kiểm soát được triều đình mới thôi, sao có thể lợi dụng người khác tới mức đó chứ?"

Triệu Bạch Ngư cười nhìn hắn, y rất thích nghe Hoắc Kinh Đường phàn nàn, bởi vì từng câu từng chữ đều hướng về Triệu Bạch Ngư y.

Hoắc Kinh Đường huyên thuyên không ngớt bày tỏ tâm trạng bất mãn của mình xong mới hỏi: "Cơ mà sao đột nhiên lại muốn từ quan vậy?"

"Bây giờ đất nước hòa bình, xã tắc ổn định, trăm họ an cư lạc nghiệp, không còn việc gì cần đến ta nữa rồi."

"Nói bậy nào, tiểu lang là định hải châm, là trụ cột, trong triều đình dù thiếu ai thì vẫn có thể vận hành, chỉ không thể thiếu đi tiểu lang thôi. Nếu như không có em giữ yên, ít nhất trong vòng hai năm, sâu mọt sẽ xuất hiện khắp nơi."

"Không quá đáng đến nỗi vậy đâu. Tân đế nhân hậu sáng suốt, lại nhờ có tiên đế hao hết lòng dạ trải nệm lót gối làm đường, không có họ ngoại chuyên quyền uy h**p, trên triều còn có lão thần ngồi đó, ngoài ra có tân đảng và nhiều chính sách mới k1ch thích sinh lực, hỗ trợ lẫn nhau, có thể thúc đẩy đất nước tiến lên nhưng không bước đi quá xa... Thế cho nên, chàng có hiểu ý của ta không?"

Hoắc Kinh Đường im lặng ngắm nhìn Triệu Bạch Ngư, phản chiếu trong đôi mắt màu lưu ly của hắn chính là tiểu lang quân dù chìm đắm gần hai mươi năm trong quan trường nhưng luôn giữ tấm lòng rộng mở, làm vợ chồng hơn mười năm, hắn vẫn nhói tim vì điều đó.

Xã tắc yên ổn, triều đình vững chắc, trăm họ được ăn no mặc ấm, triều đại tràn ngập sức sống này đủ để khiến cho Triệu Bạch Ngư yên tâm rời đi rồi.

Thần tử đứng ở vị trí cao nhất, chìm nổi trong quan trường hai mươi năm mà không lưu luyến quyền thế, lòng dạ vẫn giống hệt như thuở ban đầu, lúc cần thì sẽ có mặt, tham gia định quốc an bang, lúc không cần là có thể buông bỏ vương quyền phú quý không chút tiếc nuối, không màng danh lợi, vì nước vì dân.

Chân danh sĩ, tự phong lưu.

"Nhưng mà Hoàng đế sẽ không dễ dàng để cho em từ quan đâu."

Đã là một Hoàng đế có đầu óc thì sẽ không thả cho một thần tử tài giỏi vượt bậc, không ham quyền thế lại còn chẳng có môn đảng chạy đi đâu cả, huống chi Trọng Hoa đế luôn muốn trở thành một minh quân.

"Em còn rất trẻ tuổi."

Biết bao nhiêu người ba mươi lăm, ba mươi sáu tuổi mới thi đậu tiến sĩ, mới vào quan trường?

Đây chính là độ tuổi mà tinh thần, thể lực và hoài bão đều đang chạm ngưỡng cao nhất, đặc biệt là Triệu Bạch Ngư có gần hai mươi năm tuổi quan, còn trẻ mà đã có thể bước đến được hàng ngũ lão thần, hơn nữa, phần lớn những tên lão thần cáo già đều không tin phục tân đế lắm, không thể trọng dụng, còn người mới dù ưu tú nhưng lại không thể đảm đương công việc một mình, Hoàng đế cần một người như Triệu Bạch Ngư ra mặt giúp đỡ kiềm chế lão thần và tân đảng.

"Tân đế vừa mới lên ngôi, tin tức em muốn từ quan mà truyền ra ngoài, ai sẽ tin là em chủ động từ quan chứ? Sợ là sợ đám thần tử lòng dạ rét lạnh kia nghĩ đông nghĩ tây, nói em vong ân bội nghĩa, không tin là em chẳng màng danh lợi thôi."

Ai có thể tin rằng Triệu Bạch Ngư đứng trên vạn người lại từ quan khi còn chưa qua bốn mươi tuổi cơ chứ?

"Tổng hợp những ý ta nói lại, thì Hoàng đế không chỉ sẽ từ chối em từ quan, mà còn có thể nâng em lên một vị trí cao hơn khiến cho em không thể từ quan nổi nữa."

Triệu Bạch Ngư cau mày: "Bây giờ ta vừa là Thái sư vừa là Tể tướng, còn có thể cao đến đâu nữa chứ?"

"Phụ chính đại thần."

Triệu Bạch Ngư phì cười: "Cũng chẳng phải là ấu đế đăng cơ không thể tham dự triều chính, tân đế lấy đâu ra danh mục để lập Phụ chính đại thần? Trọng..." Nụ cười của y dần biến mất trước ánh mắt thấu hiểu của Hoắc Kinh Đường, bất lực nói: "Với tính tình của bệ hạ thì hình như đúng là có thể làm ra được chuyện này đấy."

Dù sao cũng là học trò do chính tay bọn họ dạy dỗ, bình thường nhân hậu minh đức dễ bảo, thế nhưng cũng có đôi khi cố chấp tùy hứng, đánh mắng đều không nghe.

Nếu như Triệu Bạch Ngư từ quan, Trọng Hoa đế thật sự có thể làm ra chuyện hoang đường như việc lập y làm Phụ chính đại thần, như thế y có muốn đi cũng không đi được nữa.

"Vậy ta phải chịu đựng thêm mấy năm nữa mới có thể đi?"

"Chịu đựng gì mà chịu đựng?" Hoắc Kinh Đường ngạc nhiên nói: "Từ quan không dễ, nhưng chúng ta tìm cách đi đường vòng thì sẽ từ được thôi. Tốt xấu gì Hoàng đế cũng là do ta và em dạy dỗ, tính cách của nó thế nào em còn không rõ sao? Không cứng rắn được thì mềm mỏng. Mềm không được nữa thì vừa đấm vừa xoa thôi."

Triệu Bạch Ngư ngồi dậy: "Có cách à?"

Hoắc Kinh Người ngoắc ngón tay: "Ghé tai lại đây."

==

<b><i>Min: </i></b>Công cuộc từ quan của em Cá tuy quằn nhưng mà vui vl =))))))))))) <b>xì poi</b> chiêu số 1 chồng em dạy: lì lợm la li3m 🤣
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 116: Ngoại truyện 9 • Từ quan (2)


Điện Văn Đức.

Trọng Hoa đế chăm chỉ vừa ngẩng đầu lên đã nhìn thấy tiểu thái giám ở bên cạnh gã nhiều năm đang bê một đống tấu chương vào, không khỏi đau đầu: "Ngày nào cũng như ngày nấy, phê mãi chẳng xong."

Tiểu thái giám cười xòa: "Mọi chuyện trong thiên hạ đều tập trung ở đây, làm sao mà xong được ạ?"

Trọng Hoa để cảm thán: "Trước khi ngồi lên vị trí này, trẫm cứ nghĩ làm Hoàng đế oai phong biết bào nhiêu, ngươi nhìn đi, tiên đế được nhiều người ủng hộ, không ai không theo, sự nghiệp to lớn muôn đời, thịnh thế có minh quân, đến lưu danh sử xanh ông ấy cũng làm được, trẫm cứ nghĩ là sẽ rất nhẹ nhàng, bây giờ mới hiểu được nỗi khổ của tiên đế."

Tiểu thái giám không hiểu được những lời Trọng Hoa đế nói, nhanh trí suy nghĩ rồi đáp: "Không thì bệ hạ đến ngự hoa viên dạo một vòng đi? Hoặc là đến đình hồ thả câu ấy, nghe nói là vừa có một loạt loại cá mới được đem đến đó thả, bắt từ phía nam đấy ạ, trước đây chưa từng thấy loại cá này."

Trọng Hoa đế lắc tay: "Thôi, trẫm không muốn câu cá, trẫm cũng đã nhìn sạch hết mấy khối gạch đá ở ngự hoa viên rồi, ngày nào cũng nhìn nhưng chúng có ra hoa đâu."

Vừa thở dài vừa cầm lấy sổ con ở trên cùng lên nhìn lướt qua, đều là mấy chuyện nhỏ không quan trọng lắm, gã cầm bút đỏ lên tùy tiện phê một hai chỗ tỏ ý đã duyệt, đến khi cầm cuốn sổ con thứ tư lên, phát hiện là sổ con của thầy mình Triệu Bạch Ngư, gã bèn vội vàng cầm lấy đọc.

Không xem thì thôi chẳng sao, xem xong là sắc mặt lập tức trầm xuống.

Tiểu thái giám thấy vậy lòng dạ phát sầu, không dám hỏi thăm.

Trọng Hoa đế lên tiếng trước: "Đắc Phúc, ngươi nói xem trẫm là người như thế nào?"

Tiểu thái giám: "Tất nhiên bệ hạ là người hùng tài vĩ lược, thông minh tuyệt đỉnh, mấu chốt là ở tấm lòng nhân hậu, thương cảm dân tình, trong bốn phương triều dã trên dưới này, ai dám không ngợi khen bệ hạ ngài một tiếng minh quân thịnh thế?"

Trọng Hoa đế: "Đã như vậy, vì sao thầy còn muốn từ quan?"

Tiểu thái giám: "Thầy... Là vị nào ạ?"

Trọng Hoa đế: "Triệu khanh."

Tiểu thái giám: "Triệu tế chấp? Sao lại thế? Triệu đại nhân vẫn còn chưa qua tuổi bất hoặc*, thân thể đang độ sung sức mạnh khỏe, vì sao lại muốn từ quan?"

<i>(*) Tuổi bất hoặc:</i><i> Trên</i><i> 40 tuổi</i>

Trọng Hoa đế: "Đúng vậy, người bình thường đến độ tuổi này, lại vừa khéo gặp triều mới thì phải tích cực nắm lấy quyền lực để leo lên cao hơn mới đúng, nhưng hành động của thầy thì hoàn toàn ngược lại, trẫm không hiểu nổi."

Tiểu thái giám cũng nghĩ mãi mà không ra: "Có lẽ là do người khác đều được phong thưởng, chỉ Triệu đại nhân là không có... Nên mới không vừa lòng ư?"

Trọng Hoa đế: "Thầy không phải là loại người như vậy. Hơn nữa, Thái hậu đã tổ chức một bữa tiệc nhà, cố ý mời thầy và Đại hoàng huynh đến tham gia, sao mà không nhìn ra tấm lòng của trẫm được chứ?"

Hoàng đế trẻ tuổi không thể giải thích được lý do Triệu Bạch Ngư từ quan, không nói hai lời bác bỏ sổ con đề nghị được từ quan của Triệu Bạch Ngư.

***

Đề nghị từ quan bị bác bỏ là chuyện trong dự đoán, Triệu Bạch Ngư bình tĩnh chuẩn bị quyển số con xin từ quan thứ hai.

Chiêu thứ nhất Hoắc Kinh Đường dạy y: Lì lợm la li3m.

Chuyện từ quan này không thể được chấp thuận trong ngày một ngày hai, phải chuẩn bị tinh thần kéo dài trong vòng hai, ba năm gì đó, thời gian này là vừa đủ để y giúp đỡ Trọng Hoa đế vừa đăng cơ ổn định triều dã trên dưới, cũng sẽ không giống như đang giả dối ra vẻ "vong ân bội nghĩa".

Trong kí ức về đời trước, Triệu Bạch Ngư nhớ cũng có không ít những lần thỉnh từ khó khăn, ví dụ như vào năm Vạn Lịch, có một đại thần đã ròng rã suốt ba bốn năm trời, dâng sổ con thỉnh từ lên tổng cộng một trăm hai mươi lần, đến khi được từ quan người cũng đã bảy mươi mấy tuổi rồi.

Thế là lòng thảnh thơi của Triệu Bạch Ngư dần dần tiêu tan.

***

Ba quyển sổ con thỉnh từ tới liên tiếp, Trọng Hoa đế thật sự ngồi không yên nữa bèn mời Triệu Bạch Ngư vào cung, vốn định học theo tiên đế thả câu ngó lơ Triệu Bạch Ngư, nhưng mà chiến thuật tâm lý của gã là do Triệu Bạch Ngư dạy cho, học trò làm sao có thể qua mắt thầy được?

Lạnh nhạt thờ ơ cả buổi trời, gã không nhịn được nữa quay đầu sang hỏi: "Gần đây sức khoẻ thầy thế nào?"

Triệu Bạch Ngư thoáng nheo mắt nhìn ánh mặt trời chói chang: "Không ổn lắm. Tay già chân yếu rồi, thường xuyên đau lưng, nếu ngồi làm việc trong thời gian dài lúc đứng dậy trước mắt sẽ tối đen, suýt chút nữa là ngất xỉu."

Trọng Hoa đế ngượng ngùng: "Khanh gia nói đùa, ân sư của khanh gia là Trần thái sư đã bảy mươi tuổi rồi mà vẫn hoạt bát khỏe mạnh tựa như bốn mươi, thầy vẫn chưa đến bốn mươi, đang độ long tinh hổ mãnh, sao mà thân thể có thể kém đến như vậy được?"

Triệu Bạch Ngư: "Bệ hạ có điều không biết, mấy năm trước chịu vết thương chí mạng, vết thương này để lại họa ngầm, vài năm gần đây phát tác nhiều lần, cứ luôn nhói đau, lúc trước thái y cũng nói nếu như ta không chăm sóc đàng hoàng, hoặc là mệt mỏi quá độ thì mạng sẽ rút ngắn lại, chết sớm đấy."

Trọng Hoa đế nghe xong thì sốt ruột, ân cần nói: "Trẫm sẽ lập tức lệnh cho thái y điều dưỡng cho thầy, cần thuốc gì thì cứ lấy từ trong cung, trong cung không có thì lệnh cho người ra ngoài kia tìm! Nếu thật sự không được nữa, thì lệnh thái y đến vương phủ ở một thời gian cũng được. Nếu khanh gia thật sự bề bộn nhiều việc, trẫm sẽ điều mấy tên đắc lực đến gánh vác cùng thuộc hạ của thầy... chỉ cần đừng nhắc đến chuyện từ quan nữa, trẫm đau lòng lắm."

Triệu Bạch Ngư đứng im không động đậy, chắp tay nói: "Thần tài hèn sức mọn, năng lực không đủ, không gánh vác nổi chức tể tướng, chỉ muốn làm người giàu có nhàn rỗi trong khoảng thời gian có hạn còn lại của cuộc đời, đi khắp vạn dặm nước non tươi đẹp, thỏa mãn mộng trường kiếm giang hồ thuở thiếu thời."

Trọng Hoa đế không có ý muốn thương lượng: "Thầy tài hoa hơn người, thầy không thể làm tể tướng, vậy trên đời này còn ai có thể làm được chứ? Đừng nói nữa, lòng trẫm đã quyết, thầy còn phải đi cùng trẫm hai ba mươi năm nữa, cùng phổ nên giai thoại quân thần lưu truyền muôn đời mới đúng!"

Triệu Bạch Ngư: "Bệ hạ..."

"Được rồi." Trọng Hoa đế cắt lời y: "Khanh gia ở lại trong cung dùng bữa với trẫm đi."

Triệu Bạch Ngư không biết làm thế nào, Trọng Hoa đế cố chấp hơn y tưởng tượng nhiều.

***

"Con cháu nhà họ Hoắc đúc cùng một khuôn ra, tính tình nhân hậu, nhưng suy cho cùng thì ai cũng đều giấu cái tính tuỳ tiện cố chấp mà nhiệt tình ở sâu bên trong, bất kể là xuất phát từ việc chọn đúng người, hay là phổ giai thoại quân thần gì đó, hay là lo lắng cho thanh danh, chung quy là vẫn không nỡ bỏ em... Nói ngắn gọn thì, điều mà hắn băn khoăn trước hết tất nhiên là tâm trạng của bản thân rồi. Trời đất bao la, tâm trạng của Hoàng đế là to nhất mà."

Trên sân phơi nằm trong Sơn Hà lâu ở ngoại ô, Hoắc Kinh Đường nằm trên ghế trông ra cảnh núi, thoải mái nhàn nhã đưa ra lý giải của hắn.

"Tiểu Thập Thất nhân hậu, nhưng cũng đã bước ra từ trong trận chiến tranh đoạt vị trí Thái tử, bây giờ chỉ là từ chối thôi, không bao lâu nữa sẽ có thuyết khách tới cửa."

Triệu Bạch Ngư đỡ má, để gió núi mùa thu lướt qua mặt vô cùng thích chí, lòng dạ đã bay về phía non sông vạn dặm từ lâu, ngày càng không chịu nổi nơi triều đình ngươi lừa ta gạt kia nữa rồi.

"Từ xưa đến nay, lý do để từ quan chỉ có mấy loại đơn giản, do già yếu, cáo lão về quê, có tang lớn, hoặc là do trong nhà có cha mẹ già bệnh nặng, nếu không nữa thì cũng là do bản thân mắc bệnh nặng để mà xin nghỉ. Nhưng mà ta một là quá trẻ, hai là biết rõ gốc rễ, cha mẹ anh em đều còn sống, ba là ta không tiện nói về bệnh tình của mình, bệ hạ sẽ phái luôn thái y vào vương phủ túc trực mất."

Triệu Bạch Ngư suy nghĩ một hồi, bỗng nhiên nói: "Chàng nghĩ ta viện cớ dưới gối không con có được không?"

Hoắc Kinh Đường tiện tay cầm một hạt thông nhỏ lên búng vào trán Triệu Bạch Ngư, ném bỏ suy nghĩ không thực tế của y đi: "Cứ làm như ta nói đi, cứ việc dây dưa trước, diễn mấy màn cơ thể yếu ớt lắm bệnh, đến lúc đó ta chỉ cần dùng tình và lý để thuyết phục... Dù sao thì nếu có thể khiến cho Hoàng đế mở lòng là đã thành công hơn phân nửa rồi."

Đây chính là chiêu thứ hai của Hoắc Kinh Đường: Giả bệnh.

***

Đối với Triệu Bạch Ngư, việc giả bệnh này rất dễ dàng, dù sao y cũng có rất nhiều lý do thỏa đáng để đột ngột phát bệnh nặng.

Ví dụ như tẩy tủy đan áp chế độc khi còn trong bụng mẹ đã mất tác dụng, ví dụ như vết thương y cản đao giúp tiên đế lại đau, hoặc là tai họa ngầm mà hai mươi ngày trở thành Chế Trí sứ Tây Bắc, tử thủ thành Kinh Châu để lại làm cho bệnh cũ tái phát.

Lý do bệnh nặng quấn thân đã có, tiếp theo cần có thái y tạo chứng cứ giả.

Cả nhà thái y từ gia đến trẻ đều bán mạng cho Hoàng đế, làm sao dám giúp bọn họ lừa gạt Trọng Hoa đế chứ?

Thời điểm này thì phải để cho Từ thần y lên sàn.

Trùng hợp thay hai năm trước dạo chơi quay về, vợ chồng Từ thần y và Lý Ý Như đã ôm theo bốn đứa trẻ về định cư ở Kinh Đô, sau đó mở một y quán gia đình, lấy phủ Lâm An vương làm chỗ dựa nên thuận lợi đủ đường, không bị người trong nghề gây khó dễ.

Hai cặp vợ chồng có qua có lại, ngày lễ tết đều tụ họp với nhau.

Triệu Bạch Ngư đến xin dạy bảo cho cách giả bệnh, Từ thần y quay về suy nghĩ một hồi, bày mấy tờ đơn thuốc ra.

"Không có loại thuốc nào là không gây hại cho cơ thể, những phương thuốc này đã là nhẹ nhàng nhất rồi, uống vào nhiều khiến cho cơ thể suy nhược, sau này vẫn có thể bồi bổ để hồi phục lại bình thường. Nếu như các ngươi đã muốn lừa gạt thái y, thì ta đề nghị là nên ra tay từ kinh mạch. Đại phu xem bệnh chỉ vọng, văn, vấn, thiết đơn giản, có cách khiến cho ngươi thoạt trông kém sắc nhưng không làm tổn thương đến cơ thể, ngươi có thể giả giọng yếu ớt, nhưng tất cả những hành động của ngươi đều phải phù hợp với bệnh tình, cho nên đến lúc đó ta sẽ nói cho ngươi biết cần đối đáp thế nào khi thái y hỏi thăm, khó khăn nhất là bắt mạch. Người tập võ có thể khiến cho kinh mạch của bản thân yếu đi, cũng có thể gây ảnh hưởng tương tự cho người khác, việc này nhờ Vương gia giúp cũng được."

Cầm lấy một phương thuốc khác mà gã đã vắt sạch óc để viết ra, sau đó chân thành đề nghị: "Nhờ Vương gia khiến cho kinh mạch của ngươi từ mạnh chuyển sang yếu, đây là một trong những cách giả chết dọa người trong giang hồ, thái y trong cung chưa từng thấy bao giờ, đến lúc đó sẽ không có ai chẩn đoán ra được bệnh của ngươi, ta sẽ ra mặt... Dù sao cũng có danh thần y, còn có quan hệ thân thiết với Thái Y viện, ta mà nói ra được chứng bệnh, chắc chắn bệ hạ sẽ tin tưởng thôi."

Mùi thảo dược nồng đậm lướt qua mũi Triệu Bạch Ngư, bởi có vô số loại thảo dược đang được phơi nắng trên sân nhà, trong góc còn để một vại hoa sen, giữa sân là hai đứa nhóc con, một đứa con trai một đứa con gái của Từ thần y đang cùng đuổi theo Hoắc Kinh Đường, dường như muốn bắt lấy hắn.

Nhưng mà đến một góc áo thôi Hoắc Kinh Đường cũng không để cho bọn nhỏ bắt lấy được.

Một người lớn chơi với trẻ con mà còn so đo như thật, trò đùa dai chọc cho mấy đứa nhỏ tức tối muốn được chiến thắng.

Lý Ý Như đang ở cuối hành lang trông chừng mấy lò nấu thuốc, có ba tiểu đồng đang giúp nàng làm việc.

Mà lúc này, mặt trời đã nghiêng về phía tây, ráng chiều nhuộm đỏ nửa bầu trời, gió thu lả lướt qua khuôn mặt, năm tháng êm đềm trôi khiến cho người ta có thể cam tâm tình nguyện say mê đến chết ngay thời khắc này.

Triệu Bạch Ngư mỉm cười.

"Ta chỉ muốn từ quan, không muốn để cho "Triệu Bạch Ngư" chết. Khắp cõi dưới trời, nơi nào chẳng phải của vua, nhỡ ngày nào đó việc giả chết bị phơi bày ra ánh sáng, ta không gánh nổi tội khi quân."

Làm sao y có thể nhẫn tâm vì tình riêng của mình mà kéo một nhà sáu mạng của Từ thần y chịu chết theo chứ?

"Cứ từ từ thôi. Cũng đã chịu đựng được quan trường này hai mươi năm rồi, đợi thêm mấy năm nữa thì có gì đâu?"

Từ thần y cũng cười, "Trải qua hai mươi năm quan trường, dù có là Phật thì lòng dạ cũng sẽ bị mài mòn thành lòng dạ ác quỷ, duy chỉ có đại nhân là vẫn nguyên vẹn như xưa, vẫn mang lòng dạ Bồ Tát."

Triệu Bạch Ngư lắc tay: "Mấy năm qua tay dính nhiều máu, không nhận nổi danh Bồ Tát nữa."

"Bồ Tát cũng có lúc tức giận mà."

Triệu Bạch Ngư chỉ cười không đáp.

***

Triệu Bạch Ngư vừa mới bắt đầu giả bệnh, thuyết khách của Trọng Hoa đế đã đến rồi.

Một đám đại thần văn võ liên tục đến nhà hỏi thăm, võ tướng còn dễ giải quyết, chưa kịp đến trước mặt Triệu Bạch Ngư mở miệng đã bị Hoắc Kinh Đường lấy cớ so tài lôi đi đánh cho chạy trối chết, làm sao còn nhớ những lời Trọng Hoa đế đã dặn đi dặn lại kĩ càng?

Một võ tướng nọ mới bỏ chạy, Thôi Tông Chính đã theo chân tới cửa, đưa tay ra chào: "Tiểu Triệu đại nhân..."

Lời còn chưa dứt, Hoắc Kinh Đường đã thò người ra khỏi mái nhà: "Tiểu Thôi à, đến đúng lúc lắm, giãn gân cốt với ca nào."

Thôi Tông Chính: "..." Không nói hai lời, quay đầu bỏ chạy.

Hoắc Kinh Đường khịt mũi xem thường: "Quả trứng ngu ngốc."

Quay trở về, đám trứng ngu ngốc này bèn biểu diễn màn một khóc hai quậy ba la làng trước âm thanh chất vấn chỉ tiếc rèn sắt không thành thép của Trọng Hoa đế, nói tóm lại chính là sẽ không đồng ý bước vào phủ Lâm An vương để cho người ta chặt chém như dưa nữa.

Nhóm văn thần như Phạm Văn Minh, Hạ Quang Hữu thì mượn những dịp tao nhã hơn như tiệc rượu, thưởng trà, tiệc ngắm hoa để nói bóng nói gió, suy nghĩ của bọn họ cũng giống với Trọng Hoa đế, đều không hi vọng Triệu Bạch Ngư từ quan.

Đặc biệt là những "người hâm mộ" lâu năm như Hạ Quang Hữu, chỉ tiếc vì Triệu Bạch Ngư không tiếp tục tỏa sáng rực rỡ trong quan trường, tiếp tục sự nghiệp vĩ đại, lập thêm công danh, lưu danh sử sách.

Bọn họ không tài nào hiểu nổi thứ mà Triệu Bạch Ngư đang theo đuổi.

Nghiên Băng biết rõ Triệu Bạch Ngư không màng danh lợi, nhưng hắn cũng giống như bọn họ tiếc nuối vì ân sư tuổi còn trẻ mà đã chọn từ quan

Đối với đàn ông thời bấy giờ, không có gì hơn chí khí hiên ngang, văn có thể cầm bút an bang, võ có thể lên ngựa định quốc, đã là chim đại bàng bay lượn trên chín tầng trời cao, hà cớ gì phải quay về nơi gian khổ làm một con cá?

"Dù có là cá lớn Bắc Hải thì cũng chỉ là con cá mà thôi!" Hạ Quang Hữu uống rượu say khướt, thổ lộ những lời trong lòng mình không chút kiêng dè, "Thời niên thiếu chí khí ngút trời, hăng hái vạn trượng, lấy thân mình đền ơn nước. đến độ xế chiều, tuổi già chí chưa già, vẫn ở ngàn dặm, chí lớn không chết. Mà lúc trung niên thì phải giống như Triệu đại nhân vậy, khí xuyên cầu vồng, vượt chín tầng mây, sáng cùng nhật nguyệt, xoay chuyển tình thế bị đảo ngược, nâng đỡ nhà cao khi đổ nghiêng, chí hướng luôn đặt ở chuyện của thiên hạ."

Không biết Phạm Văn Minh lấy một chiếc đàn nhị từ đâu ra, say sưa đàn hát một khúc cùng với Hạ Quang Hữu.

Ánh nến lập lòe, nốt nhạc ngân như châu rơi khay ngọc, có một tiểu đồng đứng pha trà giải rượu ở bên cạnh, nước trà màu da cam róc rách chảy vào trong tách, khói trắng từ bếp lò trong góc bàn lượn lờ bay lên.

Triệu Bạch Ngư nghiêng người tựa vào tay vịn ghế, co một chân lên, tay gác trên đầu gối, nghe thấy vậy thì tựa như nở nụ cười, chờ bạn bè khuyên nhủ xong mới chậm rãi hỏi: "Nghiên Băng, ngươi cũng nghĩ giống như vậy sao?"

Nghiên Băng: "Đệ tử có cùng suy nghĩ với các vị đại nhân ở đây nhưng vẫn tôn trọng suy nghĩ của ân sư. Ân sư thỉnh từ, tất đã định sẵn, trước đây ngài đã dạy ta, cuộc đời người là vô vàn ảo ảnh trùng điệp, có thể làm quan, có thể vung thương, có thể làm một người bình thường, cũng có thể chỉ làm một nông phu cày ruộng, nhưng người có chí riêng, quan trọng nhất là được sống thoải mái tự tại."

Nghiên Băng không rộng lượng bằng Triệu Bạch Ngư, nhưng mà cảnh giới của Triệu Bạch Ngư luôn ở cao hơn người thường, hắn chỉ cần trở thành một người ủng hộ thôi là được.

Đám người xung quanh thao thao bất tuyệt, nói có sách, mách có chứng, Triệu Bạch Ngư chỉ im lặng nghe, không cãi lại một lời, mãi đến khi ai nấy đều say sưa trong men rượu, y mới nâng ly rượu lên kính từng người một: "Ai cũng có chí hướng của riêng mình, dù chí hướng không giống nhau, nhưng sẽ không vì thế mà thay đổi."

Chí hướng của mọi người đều khác nhau, không thể vì người ngoài mà lung lay được, mà người ngoài cũng không thể ép y thay đổi.

Phàm là những người biết chữ, từ văn nhân đến người thường đều đã từng đọc đạo lý này từ sách của Thánh nhân, chẳng phải tất cả những người ở đây đều là người học cao hiểu rộng hay sao, làm sao có thể không hiểu cho được?

Chỉ cần một câu này thôi đã đủ để thể hiện thái độ của Triệu Bạch Ngư rồi, cũng là để cho người ta biết khó mà lui.

***

Văn thần võ tướng được phái đi đều quay về tay không, Trọng Hoa đế vừa tức giận vừa bất lực, Triệu Bạch Ngư cố tình từ quan, vậy gã phải làm sao đây?

Không lâu sau đó, Triệu Bạch Ngư đổ bệnh nằm nhà.

Trọng Hoa đế nghi ngờ y giả vờ bệnh, lần lượt phái người đến phủ hỏi thăm, câu trả lời nhận được đều là bệnh thật, mà bệnh cũng không nhẹ.

Thái y nói bệnh này là bệnh nặng kéo dài trong người, mạch đập rất yếu ớt.

Người vừa dứt lời xong, Trọng Hoa đế không tốn thời gian so đo thêm nữa, mau chóng lệnh cho Thái y viện đến chữa bệnh cho Triệu Bạch Ngư.

Mới đầu chỉ là bệnh nhỏ cần nghỉ ngơi hơn nửa tháng, mấy tháng sau bỗng nhiên bệnh kéo dài tận ba bốn tháng, đến người nhà họ Triệu cũng nóng ruột đến mức cầu thần khấn phật, thậm chí Triệu Bá Ung còn đưa Tạ thị đến ở lì trong phủ Lâm An vương một thời gian ngắn.

Trận bệnh kia không chỉ có Triệu Bá Ung lo lắng, mà Triệu Nghiên Băng và nhóm khanh gia đều mặt ủ mày chau, lo âu khủng khiếp cứ như thể Triệu Bạch Ngư bệnh sắp chết rồi vậy, điều này khiến cho trong lòng Trọng Hoa đế áy náy, thật sự đã suy nghĩ về việc thả y trở về cuộc sống nhàn hạ tự do.

Nhưng mà khi Triệu Bạch Ngư khỏe lên rồi, gặp y trên triều, Trọng Hoa đế lại không nỡ thả người đi nữa.

Từ lúc đó lôi lôi kéo kéo suốt một thời gian dài, hai năm trôi qua, sổ con thỉnh từ không một trăm thì cũng tám mươi rồi.

Vừa định hạ bút đỏ phê chuẩn cho quyển sổ con thỉnh từ cuối cùng, ma ma của thái hậu đã tới cửa truyền lời thay: "Thái hậu nói, trong cuộc sống đôi lúc cũng phải có những vấn đề, không có duyên phận thì đừng cố chấp. Từ trên xuống dưới triều đình, trong khắp bốn biển này, không phải không tìm ra được hiền thần lương tướng, bệ hạ cũng đang độ tuổi xuân, lo gì không thể phổ nên giai thoại quân thần thân cận nghìn đời? Huống chi giúp người khác hoàn thành nguyện vọng cũng đã chính là một giai thoại rồi."

Ánh mắt Trọng Hoa đế trở nên buồn bã, lạnh giọng hỏi: "Có người đã nói lung tung bên tai thái hậu sao?"

Ma ma hạ mình cúi đầu: "Triệu tướng xin từ quan đã hai năm rồi, dư luận sôi sục, khó tránh khỏi truyền đến hậu cung."

Sắc mặt Trọng Hoa đế hòa hoãn, vẫy tay cho ma ma lui: "Trẫm sẽ suy nghĩ thật kỹ."

Ma ma vừa đi, gã lập tức gọi người đến hỏi thăm xem mấy ngày nay có ai đến chỗ Thái hậu, nhận được câu trả lời rằng là Lâm An vương Hoắc Kinh Đường lấy cớ dâng Phật để gặp Thái hậu.

"Hừ! Trẫm thừa biết là không thể thiếu được lời khuyến khích của Đại hoàng huynh mà."

Hừ lạnh hai tiếng, ngồi cô đơn một mình trong điện lớn trống trải, Trọng Hoa đế lộ ra vẻ mặt mất mát: "Trẫm vẫn luôn xem Lâm An vương và Triệu tướng như thầy như cha, vì sao bọn họ đều muốn rời bỏ trẫm vậy?"

Thái giám và cung nữ đều cúi đầu không nói, làm như không nghe, chẳng ai có thể giái đáp câu hỏi của gã.

***

Chiêu thứ ba của Hoắc Kinh Đường chính là nhờ Thái hậu ra tay.

Nếu như là khi tân đế vừa đăng cơ, Thái hậu chắc chắn sẽ không đồng ý để cho Triệu Bạch Ngư từ quan, dù sao khi đó vẫn cần có đại thần như Triệu Bạch Ngư giúp đỡ Trọng Hoa đế trấn giữ triều đình.

Bây giờ đã hai năm trôi qua, Trọng Hoa đế ngồi vững trên ngôi Hoàng đế, khống chế thực quyền trong tay, khoa khai ân hai năm liền có rất nhiều thần tử mới trúng cử, lòng từ quan của Triệu Bạch Ngư đã kiên quyết đến vậy, Hoắc Kinh Đường lại ra mặt khuyên một lời, Thái hậu cũng sợ sự cố chấp của Trọng Hoa đế sẽ gây ra hậu quả xấu khiến quân thần bất hòa, tất nhiên là đồng ý ra mặt cầu xin nhân tình.

Đại Cảnh coi trọng hiếu đạo, Trọng Hoa đế sẽ không bao giờ không nghe lời Thái hậu nói, nhưng gã vẫn muốn cố gắng thêm một chút nữa, thế là lén lút chuồn ra khỏi cung đến phủ Lâm An vương.

Nhưng đến phủ Lâm An vương rồi mà gã cũng không gõ cửa, lưỡng lự một hồi, Trọng Hoa đế phủi tay, thở dài thườn thượt, xoay người chuẩn bị quay về cung thì lại trùng hợp nhìn thấy Triệu Bạch Ngư một thân áo xanh và Hoắc Kinh Đường mặc đồ xanh đậm.

Triệu Bạch Ngư đã gần bốn mươi mà trông vẫn giống như thanh niên hai mươi, mặt mũi trắng nõn, tóc đen nhánh, khí chất của văn nhân nho nhã dịu dàng như gió xuân, y đứng trên đường lớn, khóe môi treo nụ cười khiến cho người ta vô thức có cảm tình.

Hoắc Kinh Đường cũng đã hơn bốn mươi nhưng nét mặt vẫn trẻ trung như trước, vẻ quỷ quyệt diễm lệ, hung hăng của thời trẻ đã giảm xuống, đổi lại ngày càng trầm tĩnh, khoan thai hơn nhiều.

Từ khi còn trẻ đến tuổi bốn mươi, hắn vẫn đứng đầu bảng tiêu chuẩn kén vợ kén chồng ở phủ Kinh Đô giống như xưa.

Trọng Hoa đế đỡ trán, gã cũng không biết vì sao mình phải để ý đến loại chuyện nhàm chán như kén vợ kén chồng này, có lẽ là bởi vì gã thậm chí không thể lọt nổi vào mười vị trí đầu.

"Triệu khanh, hoàng huynh."

"Sao bệ hạ lại đột nhiên muốn cải trang vi hành thế?"

"Đã lâu không đi dạo chợ đêm, ngắm nhìn thứ gọi là đèn hoa rực rỡ, chợt có ý nghĩ đó nên xuất cung thôi."

Trong lòng Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường thừa biết lý do mà Trọng Hoa đế xuất cung, đôi bên ngầm hiểu lẫn nhau.

"Đêm nay có đoàn tạp kĩ từ Tây Bắc đến chợ đêm, bọn họ sẽ biểu diễn pháo hoa sắt, đến giờ Mậu sẽ thả hơn trăm chùm pháo hoa ở ven sông, soi sáng trăm chiếc thuyền trên mặt sông, pháo bay nhanh như sao băng, nở rộ như hoa lửa, bệ hạ có muốn đi xem không?" Hoắc Kinh Đường ngỏ lời mời.

Trọng Hoa đế suy nghĩ rồi nói: "Có."

Ba người đi song song nhau, ám vệ lẩn vào dòng người để bảo vệ, bấy giờ sắc trời còn chưa tối hẳn, đường phố nhộn nhịp, hàng quán đã mở cửa, đèn trên mái hiên, trên cây và cây cầu gần bờ sông đều được thắp sáng lên, tạo ra thịnh cảnh đèn hoa rực rỡ trong đêm không ngủ trước khi mặt trời lặn hẳn.

Người đi như mắc cửi, giữa phồn hoa kề bên, Trọng Hoa đế cảm thấy tự hào hơn ai hết.

Đây là giang sơn của gã, là con dân của gã.

Triệu Bạch Ngư mời Trọng Hoa đế đến một quán nhỏ ven đường ăn hoành thánh nóng hổi, sát vách là một hàng bán bánh đúc đậu ngọt, y ngồi chồm hổm ngay cạnh đầu cầu chờ món đầu thỏ, đầu vịt om được mang lên bàn, sẵn tiện gọi cả món ngỗng hấp thơm nức mũi từ trong quán rượu.

Bởi vì quán rượu đã kín chỗ, chủ quán vô cùng áy náy tặng cho họ một bình nước lạnh.

Hai người Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư ngồi xuống ghế đẩu cạnh bàn thấp ở đầu cầu, tiện thể gọi không ít món ăn, cái bàn vuông nhỏ nhanh chóng bị lấp đầy bởi thức ăn, người đến người đi trên đường, đi qua cầu, gió đêm lất phất thổi, nhìn thấy đèn màu trên trăm chiếc thuyền chậm chậm lướt qua, đối với Trọng Hoa đế mà nói thật sự là một trải nghiệm mới mẻ.

Quan to, quý tộc trong phủ Kinh Đô cũng có người không câu nệ tiểu tiết, nhưng làm gì có ai tự tại đến nỗi chạy tới tận chỗ này, còn cùng người kéo thuyền ở bến thuyền ngồi xổm ăn uống trước bàn dân thiên hạ kia chứ?

Chẳng lẽ không cảm thấy xấu hổ hay sao?

Nhưng Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường đã ăn mãi thành quen, còn trò chuyện rất đỗi tự nhiên nữa, thực khách, chủ quán, thậm chí là ông chủ quán rượu cũng quen biết bọn họ, đã bán đồ ăn nhẹ rồi mà còn tặng thêm mấy món vặt nữa.

Trọng Hoa đế ăn viên hoành thánh một cách mất tự nhiên, gã nhìn khắp xung quanh, thấy không có ai nhìn mình mới cảm thấy yên tâm, nhỏ giọng nói: "Trẫm thường nghe bảo hoàng huynh và Triệu khanh thân dân, còn tưởng là nói quá, bây giờ thấy rồi, hóa ra là nói thật."

Hoắc Kinh Đường: "Bệ hạ nghĩ là thân dân, nhưng đối với bọn ta thì chỉ là chuyện bình thường thôi."

Trọng Hoa đế không hiểu lắm.

Triẹu Bạch Ngư cầm ly nước lạnh lên, tựa vào thành ghế nheo mắt lại nói: "Bọn ta ngồi ở đây, không phải là muốn làm gương thân dân gì cả, chỉ là sở thích thôi, không có ý gì khác."

Trọng Hoa đế vẫn chưa thể hiểu được.

"Ta thích không khí khói lửa của dân gian, thật ra là thích chợ đêm, người phải biết Tể tướng Đại Cảnh không thích ăn cơm nhà ba bữa mà chỉ thích chợ đêm. Dù là phòng cao cấp nhất của quán rượu hay là quán nhỏ ven đường, thậm chí là đầu cầu cũng thử ngồi, nếu như có phòng cao cấp thì sẽ ăn trong không gian trang nhã, nếu không có phòng thì cứ ngồi ven đường, ngồi đầu cầu, ở đâu mà chẳng phải là nơi để ăn uống? Thật ra mùa hè ngồi trên phòng cao không thoải mái chút nào, dù có đá tảng nhưng vẫn khó chịu, ngồi ở bên ngoài vui hơn, trên đầu là đèn rực rỡ và cành liễu, gió sông buổi đêm thổi rất mát, còn có thể ngắm nhìn hàng trăm chiếc thuyền đẹp đẽ trôi trên sông, có những lúc may mắn, được ngồi ở vị trí tốt thì có thể xem tạp kỹ và pháo hoa ở bên kia cầu... Bệ hạ không biết đâu, có một sự thật chính là vị trí xem pháo hoa đẹp nhất nằm ở đầu cầu đấy."

Trọng Hoa đế im lặng, mơ hồ hiểu được ý trong lời nói của Triệu Bạch Ngư.

"Bọn ta không hề chơi dùa với danh tiếng của mình vì nó tốt đẹp, cũng không sợ mang tiếng vô ơn, càng không phải đang tìm cho bản thân mình một con đường lui... chỉ là vì thích mà thôi. Ai cũng có chí hướng, nhưng chí hướng không giống nhau, người đã từng ngày đêm ở cùng bọn ta, văn do ta dạy, võ là Tử Uyên dạy, không ai có thể hiểu được chí hướng của các sư phụ hơn là đệ tử người. Mấy năm nay đúng là Tử Uyên đã có được cuộc sống nhàn hạ, nhưng nếu không phải bởi vì tiên đế tuổi cao, Thái tử chưa định, chàng sẽ không ở lại Kinh Đô, ta cũng vậy."

Trọng Hoa đế cúi đầu, không muốn đáp lại lời nói chân thành của y.

Con người ấy mà, một khi trở thành đế vương là sẽ sinh ra rất nhiều tâm tư, muốn đặt lợi ích lên hàng đầu, không phải là gã không thể giúp người khác hoàn thành ước nguyện, mà là sau khi cân nhắc lợi và hại đã cho ra kết quả rằng giữ Triệu Bạch Ngư lại sẽ có lợi hơn.

Không phải gã không hiểu lòng dạ của Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư.

Hoắc Kinh Đường dùng ngón trỏ nhịp khẽ lên ly rượu: "Khi tiên đế vẫn còn tại thế, ta đã muốn chạy rồi. Bởi vì tiểu lang, bất đắc dĩ mới phải ở lại Kinh Đô. Sau đó Thái tử chưa định, lại là đại sự quốc gia, cho nên ta mới ở lại đây, tận tâm tận lực dạy dỗ. Đệ đăng cơ rồi, ta và tiểu lang vốn đã có thể rời đi, nói hơi khó nghe, nhưng nếu như bọn ta thật sự quyết tâm từ quan, bệ hạ cũng không thể làm gì được. Nhưng đệ là tiểu đệ của ta, còn là học trò của ta, người ta bảo huynh trưởng như cha, một ngày làm thầy cả đời làm cha, suy cho cùng, ta vẫn không đành lòng để đệ một mình đối mặt với khó khăn hiểm trở của triều đình."

Hắn nói chuyện vừa thẳng thắn thành khẩn, vừa tàn nhẫn như đâm vào lòng người khác.

Từ nhỏ đến lớn Trọng Hoa đế đã bị đâm vô số lần, đương nhiên là khó chịu nhưng đã quen với điều này, nếu như có lúc nào đó nghe thấy hắn nói chuyện bằng giọng điệu ôn tồn thì sẽ thấy không thoải mái, giống hệt như tiên đế vậy.

"Hiện tại binh quyền lẫn chính quyền đều đã nằm trong tay đệ, các huynh đệ cũng cung kính không gây khó dễ, lão thần trong triều tâm phục khẩu phục, tân đảng dưới sự dẫn dắt của đệ cũng ủng hộ chủ trương cải cách mới. Triều đình đâu lại vào đấy, phát triển không ngừng, bệ hạ, người đã không còn cần đến bọn ta nữa rồi."

Trọng Hoa đế vội la lên: "Từ lúc ta bảy tuổi đã được hoàng huynh và Triệu khanh dạy dỗ, văn trị võ công cái nào không phải nhờ hai người dốc túi dạy hết? Sao lại nói như thể ta không cần hai người nữa vậy chứ? Dù ta có già bảy tám mươi tuổi rồi thì vẫn cần hai người."

Ít ra những lời này có chứa đến bảy phần tình cảm.

Trọng Hoa đế sinh sau đẻ muộn, mấy người anh lớn phía trước đều có quyền thế, làm gì có cơ hội cho gã phát triển? Mẫu phi của gã không được sủng, khi còn nhỏ người yếu nhiều bệnh, lại còn nhát gan, cũng không nhận được Nguyên Thú đế chào đón, tuy rằng về sau các lão thần trong triều đã dạy dỗ các hoàng tử như nhau, thế nhưng ai lại không có một chút lòng riêng? Ai có thể không bị công lao cám dỗ, không động lòng trước nó?

Chỉ có mỗi mình Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư là thật lòng đối xử công bằng với tất cả các hoàng tử, bọn họ sẽ tận tâm tận lực truyền đạt nội dung sách luận, thứ mà dù gã có xem thế nào cũng không hiểu nổi, sẽ kiên nhẫn dạy cho gã biết phương châm trị quốc, cũng sẽ vì cơ thể yếu kém của gã mà đặc biệt nhờ Từ thần y đến điều dưỡng cho gã.

Đối với gã, Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư còn giống như cha hơn cả Nguyên Thú đế.

Triệu Bạch Ngư cười.

"Bệ hạ à, trên đời này, buổi tiệc nào rồi cũng sẽ tàn thôi."

Lòng Trọng Hoa đế nặng nề, không nói thêm gì nữa.

Im lặng thưởng thức bữa tiệc ngon trên bàn xong, Hoắc Kinh Đường đi tính tiền, để lại không gian cho Trọng Hoa đế và Triệu Bạch Ngư.

Trọng Hoa đế cắn răng hỏi: "Thầy, người từ quan vì ta không phải là đệ tử mà người tâm đắc nhất hay sao? Nếu như đối thành Cửu ca, Thập tam ca kế vị, có phải là thầy sẽ ở lại phò tá đến cùng hay không?"

Triệu Bạch Ngư: "Nghĩ kĩ lại, nếu như bọn họ kế vị, đúng thật là ta sẽ không từ quan."

Dù đã đoán được từ trước, Trọng Hoa đế vẫn khó nén nỗi mất mác.

"Bởi vì bọn họ có tính đa nghi, cực đoan, dễ xúc động, nếu như đặt vào thái bình thịnh thế, chỉ sợ là bất kể hành động gì cũng đều sẽ quyết đoán mạnh mẽ, khiến cho tiếng oán than của triều dã trên dưới dậy đất, dân chúng chịu khổ, làm sao ta dám từ quan? Bệ hạ thì khác, bệ hạ chính là đế vương mà tiên đế và các đại thần đã chọn lựa kĩ càng, là minh quân trời sinh để kéo dài thịnh thế. Bệ hạ, bởi vì là người, thần mới dám yên tâm rời đi."

Thế là cảm giác mất mác trong lòng Trọng Hoa đế bị quét sạch, để lộ vẻ mặt khó nén nổi xúc động.

"Thầy..."

Ánh mắt Triệu Bạch Ngư dịu dàng: "Bệ hạ, thời niên thiếu của thần bấp bênh, mệnh vốn không dài, may mắn sống lâu được thêm chục năm bèn muốn dùng quãng đời còn lại bù đắp cho giấc mộng thời trẻ, thần muốn đi ra ngoài kia để ngắm nhìn phong thổ, non sông vạn dặm."

Trọng Hoa để biết rõ cảnh đời lận đận của Triệu Bạch Ngư, kết hợp với căn bệnh kéo dài trong người y suốt hai năm qua, nhìn sắc mặt tái nhợt của y mà lòng khó tránh khỏi xót xa, khóe môi thả lỏng ra: "Trẫm cũng mong thầy vạn sự như ý."

Vừa dứt lời, pháo hoa đã nở rộ nơi khoảng không phía trên đầu cầu, giống như "đèn cây tỏa ngàn ánh sáng, pháo hoa bảy nhánh tung bay", lập tức thu hút một nhóm người ngạc nhiên cảm thán chạy đến xem, đầu cầu bờ sông chật kín người, cửa sổ quán rượu và trên các con thuyền đều có người ló đầu ra ngoài nhìn, cảnh tượng hưng thịnh đẹp đẽ như thế, chẳng trách Triệu Bạch Ngư muốn đích thân đi xem thử.

Một chút cố chấp nằm sâu trong lòng Trọng Hoa đế cuối cùng cũng dập tắt theo pháo hoa, gã không nói với ai chuyện này, đó là gã chỉ sợ rằng Triệu Bạch Ngư từ quan vì không hài lòng với một học sinh như gã, vì không muốn cống hiến cho gã.

Nhưng mà thầy nói, bởi vì gã quá xuất sắc, cho nên mới phải buông tay từ quan.

Bấy giờ Hoắc Kinh Đường đã quay về, ôm vai Triệu Bạch Ngư nói nhỏ với y như đưa tình, trong mắt hắn là tình yêu thương có thể nhấn chìm người khác, nói xong điều gì đó, hắn ngẩng đầu lên nhìn về phía Trọng Hoa đế.

Trọng Hoa đế lặng lẽ đứng thẳng lưng lên, giống như chờ đợi cha nghiêm khen ngợi con trai của mình.

Pháo hoa vẫn còn bùng nổ, đoàn tạp kỹ ở bờ bên kia cầu đang chơi hoa sắt, Hoắc Kinh Đường đưa Triệu Bạch Ngư sang xem, lúc đi có hơi tụt lại phía sau, vỗ vỗ vai Trọng Hoa đế rồi nói: "Đệ là đệ tử có nghị lực nhất, năng lực cao nhất mà ta đã dạy, đại ca rất tự hào về đệ."

Trọng Hoa đế sững sờ, hốc mắt ấm ướt nóng bừng lên, xấu hổ vội vàng lướt qua đi mất, một hồi sau mới quay đầu lại nhìn về phía hai bóng người đứng cách đó không xa, dưới vạt áo dài là mười ngón tay đan chặt vào nhau, họ nhìn nhau cười rồi để tóc mai chạm vành tai, vô cùng thân mật.

Được rồi, thôi vậy.

Pháo hoa chóng tàn, đời người ngắn ngủi, sao cứ phải trói buộc bọn họ làm gì?

Để cho bọn họ đi đi, thay gã đi khắp non sông vạn dặm này.

Trọng Hoa đế không đi cùng, chỉ lấy một sổ con xin từ quan được phê đỏ từ trong ống tay áo ra giao cho ám vệ: "Đưa bọn họ."

Nói xong, gã xoay người rời đi, được vài bước thì dừng chân, lại quay đầu nhìn ra phía sau, thấy được dáng vẻ ngạc nhiên của hai người khi lấy được sổ con thì mừng thầm, thấy chưa, cũng có lúc hai người không thể liệu trước được mọi chuyện mà.

Trước khi trẫm đến tìm hai người đã quyết định đồng ý lời thỉnh từ kia rồi.

Nhớ lại biểu cảm kinh ngạc của Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường, Trọng Hoa đế ôm theo tâm trạng vui sướng về cung.

***

Nhận được sổ con cho phép từ quan, Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư gói gém đồ đạc suốt đêm, chỉ thông báo vài câu đơn giản rồi giơ roi thúc ngựa đạp lên ánh bình minh, khi cổng thành vừa mở, một trước một sau vội vàng chạy đi nhanh như sấm chớp, rời khỏi Kinh Đô.

Chạy đến bến thuyền ở chân núi thì dừng lại, ở cửa trạm nghỉ cách đó không xa là hai người Nghiên Băng và Trần Phương Nhung đến để tiễn biệt.

Trần Phương Nhung: "Sao lại đi gấp vậy?"

Triệu Bạch Ngư ngồi trên lưng ngựa, nhìn Hoắc Kinh Đường một cái rồi đáp: "Đêm qua bọn ta dùng tình để chạm vào trái tim bệ hạ, nói lý để để cho bệ hạ hiểu, vì cảm xúc bị khuếch đại mà hắn cảm động nhất thời, chịu thả bọn ta đi, nhưng đến khi hắn tỉnh táo lại, chỉ sợ là sẽ đổi ý, thế nên bọn ta phải mau chóng chạy thôi."

Chiêu thứ tư của Hoắc Kinh Đường là dùng tình cảm để lay động trái tim, chiêu thứ năm chính là cao chạy xa bay.

Dù sao Hoàng đế cũng buông rồi, bọn họ rời kinh một cách quang minh chính đại.

Trần Phương Nhung và Nghiên Băng không nói gi, nhưng bọn họ tin chắc rằng Trọng Hoa đế có thể làm được cái trò đổi ý xấu xa kia.

Mặt trời đỏ rực đã lên giữa lưng núi, nghênh đón ánh nắng, Trần Phương Nhung và Triệu Nghiên Băng mỗi người bẻ một cành liễu đưa tiễn Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư: "Núi cao sông dài, giang hồ gặp lại."

Hai người Triệu Bạch Ngư cũng chắp tay đáp: "Sau này còn gặp lại." Rồi y nhìn Hoắc Kinh Đường, cười rộ lên nói: "Chúng ta lên đường thôi."

"Đi nào." Hoắc Kinh Đường thúc ngựa.

Hướng về hồng trần thế tục, hướng về khắp chốn cách xa triều đình, giơ roi thúc ngữa, đeo kiếm chạy về phía chân trời, đi về nơi có tự do, không bị quan trường trói buộc.

Bọn họ rời đi không bao lâu, quả nhiên có Cấm vệ đại nội đuổi theo đến tận đây, nhưng tiếc thay đến chậm vài bước, Cấm vệ chỉ đành đi một bước than ba câu, về cung phục mệnh.

Đi vào sâu trong rừng cây hoa hạnh, không biết từ đâu ra có một đám nhóc con cất giọng nói non nớt lên, rung đùi đắc ý đọc thơ dưới sự hướng dẫn của tiên sinh dạy học ——

Sớm Vị Thành ướt mưa bụi nhẹ,

Liễu quán khách mơn mởn xanh tươi.

Mời rượu chỉ mong người uống cạn,

Dương Quan về Tây mất bạn xưa.*

-

<i>(*) Vị Thành khúc - Tống Nguyên nhị sứ An Tây</i>

<i>Chữ hán: </i>

渭城朝雨浥輕塵<i> / </i>客舍青青柳色新。

勸君更盡一杯酒<i> / </i>西出陽關無故人。

<i>Hán – Việt:</i>

<i>Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần / Khách xá thanh thanh liễu sắc tân.</i>

<i>Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu / Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.</i>

<i>Vì không tìm được bản dịch thơ ưng ý và hợp với bản edit nên mình tự chế lại dựa theo bản chữ Hán và bản Hán – Việt, mình đã cố chỉnh sửa để nó hợp vần và dễ đọc nhất có thể rồi (mà</i><i> vẫn</i><i> dở</i><i> </i>🥲<i>), nếu như có chỗ nào sai sót thì comment cho mình biết để mình sửa nhe!</i>

<i>==</i>

<b><i>Min:</i></b><i> </i>còn 2 chương ngoại truyện nữa lận nhưng mà tự nhiên edit xong chương này tui ngồi buồn khóc ngon ơ luôn mấy bà, sắp sửa tạm biệt em Cá với anh Đường rùi 😭
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 117: Ngoại truyện 10 • Kiếp sau - Nội dung diễn đàn


Cách nhiều năm cuối cùng cũng quay được một bộ phim quan trường mới, tuy rằng vẫn là đề tài thanh niên đã được quay nát từ mười mấy năm trước, nhưng từ khi chuẩn bị quay đã được định là một bộ phim có chất lượng cao, đội hình diễn viên cũng hùng hậu, thậm chí được các phương tiện truyền thông trong nước hỗ trợ đưa tin, rõ ràng cho thấy họ coi trọng đến mức nào.

Những người hâm mộ yêu thích lịch sử đã tạo vài siêu thoại liên quan đến nhân vật lịch sử và một cái dành cho bộ phim, các diễn viên cũng được tạo siêu thoại nhưng độ hot lại không bằng những nhân vật lịch sử kia.

Bảy giờ tối, trên một diễn đàn bình luận màu xanh nào đó.

Nền tảng này có rất nhiều chuyên mục, trong đó mục điện ảnh và truyền hình luôn nóng sốt nhất, còn chuyên mục lịch sử thì lại hẻo lánh nhất, nhưng chỉ trong một tháng qua, hai chuyên mục lớn này đã phá vỡ rào cản, bổ sung lẫn nhau, độ hot tăng cao chưa từng có.

Tám giờ tối phim mới chiếu, mà mới sáu, bảy giờ đã có người đăng bài ở chuyên mục lịch sử, chưa đến nửa tiếng nhận được hai ngàn bình luận.

Vương Hiểu Nguyệt là người mới lần đầu tiên sử dụng diễn đàn màu xanh.

Cô là người hâm mộ của một nhân vật lịch sử từ thời cấp 3, đã cày sạch những tư liệu lịch sử và tác phẩm phái sinh có liên quan đến người này rồi, trong lúc chờ đợi tác phẩm phái sinh khác đã nghĩ đến việc lên mạng tìm người có cùng sở thích.

Vừa vào đến siêu thoại đã thấy fan nhỏ tuổi và fan couple chiếm đa số, Vương Nguyệt Minh không thể chấp nhận nổi những nhận xét được đưa ra mà không có bất kỳ căn cứ nào, và rất nhiều trong số đó đều dựa trên dã sử và những lời đồn đại, thế là cô lần theo các bài viết tìm được chuyên mục lịch sử trên diễn đàn xanh.

Nhấp vào, cô lập tức nhìn thấy bình luận có lượt tương tác cao nhất: "Từ triều Nguyên Thú đến triều Trọng Hoa của Đại Cảnh, chính sử có liên quan đến Triệu Bạch Ngư nghe sao mà còn vô lý hơn cả dã sử thế kia?"

Chính sử vô lý hơn dã sử?

Vương Hiểu Nguyệt cảm thấy có hứng thú bèn nhấp vào bài viết để xem thử, nội dung bình luận rất đa dạng, chính sử dã sử bao gồm cả phim điện ảnh và truyền hình được cải biên đều bị lôi vào nói, cô bỏ qua tất cả những bình luận vô nghĩa, chỉ chọn đọc những cái thú vị.

"Năm Nguyên Thú thứ 22, Triệu Bạch Ngư chém giết hơn phân nửa quan trường Đông Nam, tôi cảm thấy đây chính là chi tiết chính sử vô lý nhất."

"Đến Đông Nam một chuyến, chém đầu ba trăm quan, vang dội từ xưa đến tận bây giờ! Từ đó về sau y chính là một tấm bia văn thần to lớn không ai có thể vượt qua bất kể triều đại đổi thay, đứng sừng sững nơi dòng thác lũ từ năm này qua tháng nọ, để cho hơn một ngàn năm sau, khi chúng ta quay đầu lại nhìn, vẫn có thể dễ dàng nhìn thấy được tấm bia vĩ ngạn đó."

"Vì dân sinh lập mệnh, vì dân chúng giải oan, đối với người khác mà nói có lẽ đó chỉ là nguyện vọng hướng tới địa vị cao trọng trong đời, nhưng đối với Triệu Bạch Ngư, đó chính là thứ khắc họa cuộc đời của y. Y đã thật sự dành cả đời mình để làm những việc này, dù là từ quan hay đeo kiếm ra giang hồ, ở đâu có bất công, ở đấy sẽ có bóng dáng của y, y chính là Khâm sai không có chiếu thư được lịch sử công nhận."

"Văn thần thụy hào Văn Trinh Đại Cảnh chỉ có mỗi năm vị, ân sư của Triệu Bạch Ngư là Trần Sư Đạo, Triệu Bạch Ngư và học trò của Triệu Bạch Ngư đã chiếm được ba rồi. Sau khi Triệu Bạch Ngư từ quan còn thu nhận một đệ tử nữa, người học sinh này về sau cũng là một người chuyên xử án luận ngục, rửa oan trừ bạo, khai sáng pháp y học, viết quyển sách xử án, khám nghiệm tử thi như thế nào, nhờ mở cửa giao thương với nước ngoài mà có thể tiêu thụ sách ở Đông Nam Á, ảnh hướng đến toàn thế giới."

"Dạy một thư đồng trở thành tể tướng, thư đồng lại nuôi dạy một cô gái không cha không mẹ, lớn lên trở thành nữ tể tướng văn võ song toàn đầu tiên trong lịch sử Đại Cảnh. (PS: Nữ tướng này khi còn trẻ hành tung bất định, kết hợp với khu vực Lưỡng Giang mà đôi chồng chồng Triệu Hoắc hay xuất hiện, bên cạnh luôn có một chàng trai mặt lạnh đi theo, nhà sử học mới cho rằng "hắn" chính là nữ tướng thời trẻ), rồi y lại tiếp tục nuôi dạy một đệ tử trở thành cha đẻ của pháp y, ngần ấy năm tháng tời không biết đã phá bao nhiêu án oan, trả lại công bằng cho dân... Nghĩ đến sự bi hùng của Triệu Bạch Ngư khi chém chết một nửa quan trường Đông Nam, tui lập tức có cảm giác trong lòng vừa xót vừa mừng, bởi vì củi cháy lửa truyền không bao giờ dứt."

"Điều kì diệu nhất chính là Triệu Bạch Ngư không có chiếu vẫn trảm ba trăm quan thế mà! Không chết! Theo lẽ thường, dù có là Hoàng đế nào đi nữa thì cũng sẽ tuyệt đối không tha thứ cho thần tử dưới quyền không chiếu mà chém giết quan lại, không phải là y chỉ chém một hai cái đầu, mà là tận ba trăm cái đầu!"

"Tui cũng cảm thấy đây là một kỳ tích."

"Thế nên tôi nghi đoạn tư liệu lịch sử này là giả."

<b><i>Reply:</i></b> "Làm giả kiểu gì? Trong chính sử ghi chép sự thật lịch sử rất rõ ràng, xin hỏi là làm giả thế nào? Cậu có bằng chứng là chúng bị làm giả sao? Mở miệng nói thôi mà, ai chẳng nói được. "

Vương Hiểu Nguyệt cũng không nhịn được đáp trả:

"Trong "Cảnh Sử", "Thái Bình Ký" và "Đại Cảnh Tứ Thư" đều có ghi chép lại chuyện này, Triệu Bạch Ngư tra xét đại án Lưỡng Giang, quan trường Đông Nam rơi rụng hơn nửa, sau đó tổ chức khoa khai ân ba năm liền chính là để bổ sung chỗ trống cho quan trường Đông Nam đấy thôi!"

"Cứ cho là không làm giả đi, thì số người bị chém chưa chắc là đến ba trăm, nói không chừng chỉ có ba mươi người thôi ấy? Người ngày xưa thường thích khuếch đại số lượng và quan trọng hóa mọi chuyện lên, bằng không thì mấy người nói coi vì sao Triệu Bạch Ngư lại không bị gì cả?"

Vương Hiểu Nguyệt nổi giận, lọc cọc gõ chữ.

"Xem ra cậu là một người chẳng biết gì về lịch sử nhỉ, cậu không nhớ thân phận của Triệu Bạch Ngư là gì sao? Y là Lâm An quận vương phi đấy! Phàm là người có chút kiến thức về lịch sử thì phải biết khi đó Lâm An quận vương chính là Thái tử mà Nguyên Thú đế mong muốn, giết vợ của đứa con trai mà mình yêu quý, khiến cho cha con trở mặt thành thù, cậu nghĩ người khôn khéo như Nguyên Thú đế sẽ làm ra chuyện ngu ngốc như vậy sao? Huống chi lúc đó Triệu Bạch Ngư đã cứu Nguyên Thú đế, sau đó chuyện ly miêu tráo thải tử bị phanh phui, người nhà họ Triệu cắn ngược Xương Bình công chúa như chó điên, từ trên xuống dưới nhà họ Hoắc mắc nợ Triệu tướng, đã như vậy, Nguyên Thú đế dám giết ư?"

"Móa nó, nếu như Nguyên Thú đế thật sự muốn lấy mạng Triệu Bạch Ngư, lão Hoắc không phát điên mới lạ ấy? Không chừng lịch sử cũng thay đổi luôn, nào còn Đại Cảnh thịnh thế để mà nói nữa."

"Mịa! Nói đến đây làm tôi cảm thấy dù dã sử có đáng kinh ngạc đến đâu đi nữa thì cũng không hề có một chi tiết vừa hoang đường vừa li kì như chính sử, chính là ly miêu tráo thái tử!"

"Rõ ràng đầu óc của Xương Bình kia không phải là đầu óc của người bình thường, nhà sử học và bác sĩ đều nói bà ta có thể mắc bệnh tâm thần, lúc còn trẻ thì gây họa cho nhà họ Triệu, đến già thì gây họa cho dân chúng, hại huyết mạch duy nhất của bà ta và Triệu tướng phải chịu khắt khe hai mươi năm, mẹ nó cuối cùng lại là ly miêu tráo thái tử! Đm nó tui không thể tin được khi sự thật được phơi bày, người họ Triệu đã phản ứng như thế nào, Nguyên Thú đế sẽ nghĩ như thế nào... Chuyện này có ai ngờ đâu chứ?"

"Tôi cảm thấy Triệu Bạch Ngư có thể sống sót qua đại án Lưỡng Giang là nhờ yếu tố ly miêu tráo thái tử này quyết định, trời đất bao la cũng không thể địch lại món nợ này."

"Nếu tui là người nhà họ Triệu, chắc chắn sẽ phát điên thẳng tay lật hết giang sơn nhà họ Hoắc bọn họ lên mất."

"Đây chính là nguyên nhân giúp Nguyên Thú đế có thể buông đại án Lưỡng Giang xuống một cách nhẹ nhàng."

"Có lẽ nguyên nhân cũng là do Triệu Bạch Ngư xả thân cản đao nữa, trong chính sử chỉ khái quát kiểu "chưa rõ sống chết" thôi, nhưng lúc ấy hẳn là rất nguy kịch."

Mọi người đang trò chuyện hăng say, chủ bình luận ban đầu lại ngoi lên.

"Tôi đã hiểu được lý do rồi, cũng hiểu đạo lý, nhưng vì sao Triệu Bạch Ngư lại phải chém giết ba trăm quan quan trường Đông Nam sớm như vậy? Với trí thông minh của y, chẳng lẽ y không biết làm điều đó là sẽ đưa mình vào thế vạn kiếp bất phục hay sao? Rõ ràng chỉ cần giao nộp chứng cứ phạm tội tra được ở Lưỡng Giang cho triều đình, một người bất chấp mọi thứ để đạt mục đích như Nguyên Thú đế sẽ không bỏ qua cho đám người kia, Triệu Bạch Ngư cần gì phải hành động ngay lúc đó? Chỉ có thể là y mua danh cầu lợi, hoặc là không thông minh giống như những gì miêu tả trong chính sử, nói hay thì là căm ghét tội ác, nói khó nghe chẳng phải là dễ kích động hay sao? Có bị rối loạn lưỡng cực không đấy?"

Cơn giận vất vả lắm mới ép xuống được của Vương Hiểu Nguyệt ầm một cái bùng nổ trở lại, vẫn còn chưa gõ chữ đã phát hiện bên dưới hiện lên tầm mười bình luận phản bác lại cô.

"Kết hợp với phỏng đoán tư liệu lịch sử, có thể là vì đại án Lưỡng Giang liên lụy đến Xương Bình công chúa, nhờ Thái hậu xin tha, Nguyên Thú đế mới bao che cho bà ta. Triệu tướng của chúng ta thông minh hơn người, chắc chắn sẽ đoán ra được tâm tư của Nguyên Thú đế, thế nên mới đành phải tìm đường sống trong cõi chết."

"Ban đầu khi Nguyên Thú đế đăng cơ cũng đã từng có một khoảng thời gian rất êm đẹp với gia đình của Triệu tướng, đến khi Xương Bình làm chuyện ác, người nắm quyền chắc chắn sẽ giết Xương Bình để nịnh nọt thần tử đắc lực của mình, dù bà ta có là em gái ruột, bởi suy cho cùng thì ông ta cũng đuối lý rồi. Thế nhưng khoảng thời gian êm đẹp kia đỡ đòn cho nỗi hận của nhà họ Triệu, mà Nguyên Thú đế lại vẫn kiên quyết bảo vệ Xương Bình, điều này chứng tỏ tình cảm anh em của bọn họ rất sâu đậm, dù Xương Bình liên lụy đến đại án Lưỡng Giang thì cũng có đến tám phần không bị giết."

"Đừng quên, vào năm Nguyên Thú thứ hai mươi hai, khi Cá Con còn chưa đi Lưỡng Giang nhậm chức, vào tiệc thọ của Thái hậu, Xương Bình hiến thọ được nhận rất nhiều đồ thưởng, nếu như không có đại án Lưỡng Giang, Xương Bình tuyệt đối có thể tránh được việc bị trừng phạt, sau đó nhàn nhã hồi Kinh, nói không chừng còn có thể gặp mặt con trai ruột của bà ta nữa."

"Có thật là được ghi chép trong tư liệu lịch sử không vậy? Có phải sự thật đâu, tất cả đều chỉ là suy đoán thôi mà, có quỷ mới biết thật hay giả."

"...Tôi cũng không thể tin được vào đoạn phân tích này của nhà sử học, Nguyên Thú đế là một người có tính đa nghi, chắc chắn sẽ không dễ dàng tha thứ cho kẻ phạm tội ngập trời là Xương Bình được sống tiếp, hơn nữa rõ ràng trong "Đại Cảnh Sử Quan" có ghi lại, ngày Xương Bình hiến thọ, đội thuyền của bà ta đã đụng ngã thuyền vận chuyển, hơn một trăm quan lại liên danh tố tấu, vậy mà bọn họ vẫn có thể gom đủ trăm ngàn thạch quan lương, đây không thể so sánh với số lượng bình thường được, Nguyên Thú đế nhịn được hả? Cá Con đi Lưỡng Giang nhậm chức là vì Nguyên Thú đế cố tình, lúc đó ông ta đã muốn trừng trị Xương Bình rồi!"

"Úi... Chỗ này không ai cắn đường cp anh Hoắc và Cá Con của tôi sao?"

"Cắn đường cp thì quẹo phải, đi ra cái khu nóng bừng bừng bên cạnh ấy."

Vương Hiểu Nguyệt không phản bác cái này được.

Đừng nói chi cô, nhà sử học cũng không giải thích rõ.

Vấn đề bị tranh cãi suốt trăm năm qua chính là "Vì sao Triệu Bạch Ngư lại chém ba trăm quan", động cơ là gì?

Nếu như sự thật đổi con không bị phanh phui, Triệu Bạch Ngư cũng không xả thân cản đao, như vậy y sẽ chết không gì phải bàn cãi nữa cả.

Y không chết, khó tránh khỏi làm cho uy nghiêm triều đình lung lay.

Vì sao Triệu Bạch Ngư biết rõ là đường chết lại còn dám làm chuyện không chiếu mà tiền trảm hậu tấu?

Vương Hiểu Nguyệt vô thức load lại trang trên màn hình điện thoại, đột nhiên nhìn thấy một bình luận trả lời mới.

"Nhắc mới nhớ, có ai biết gì về tiến trình của cuộc khảo cổ cổ mộ được đào lên ở Đại Châu, Giang Tây nửa năm trước không?"

"Cổ mộ gì cơ?"

<b><i>Reply:</i></b> "Mộ của Triệu Nghiên Băng. Nghe nói sau khi xác định đó chính là mộ của Triệu Nghiên Băng, chuyên gia đã mừng như điên luôn, nói không chừng có thể tìm được tư liệu lịch sử thật sự mang giá trị nghiên cứu ở trong đó đấy."

"Tui thấy mà thèm muốn chết nè, đi qua hai triều Nguyên Thú, Trọng Hoa, sự thật thì ông ấy chính là người hâm mộ cuồng nhiệt nhất của Cá Con, đã ghi chép vô số bài văn khen ngợi ân sư, có rất nhiều tư liệu nghiên cứu về Cá Con được kiểm chứng từ trong những tập văn mà ông ấy để lại đấy, bao gồm cả nhân duyên của Cá Con và vị kia nhà y năm xưa nữa."

"Tức chết mất, cả một Đại Cảnh thịnh thế chẳng có một quyển tư liệu lịch sử nào dám ghi chép lý do Cá Con bị gả cho Hoắc Đại cả! Nếu không nhờ có tập văn của Triệu Nghiên Băng, chắc chắn sẽ không ai biết rõ được vì sao khi đó Cá Con lại bị ép gả cho Hoắc Đại mang tiếng bạo ngược kia!"

"Hoắc Đại là cái tên quần què gì vậy trời? Thôi được rồi. Sự thật cũng đã chứng minh, không nhờ có Hoắc Đại làm chỗ dựa, đường làm quan của Cá Con sẽ rất khó khăn, y làm việc luôn không để ý đến hậu quả, dễ dàng đắc tội người khác, nói vậy đây cũng là một mối duyên ngẫu nhiên trùng hợp được trời đưa đất đẩy rồi."

"Tui đồng ý, xu thế đời sau trở nên bảo thủ, rõ ràng trong lịch sử có ghi lại Cá Con và Hoắc Đại đã bái đường, cả đời tin tưởng, giải cứu lẫn nhau trong hoạn nạn, sinh cùng khâm chết cùng huyệt, kết quả phim truyền hình bây giờ đều đắp nặn thành kết hôn giả, thật ra là tri kỉ... Tri kỷ cái con khỉ!"

"Mấy năm trước mà cũng dám quay như thế đấy à... Hỡi ôi."

"Đù móa, mấy cậu mau đi xem hot search đi kìa!"

Vương Hiểu Nguyệt lườm một cái, mới đầu còn không có hứng, sau đó phát hiện có một đống người thả bình luận dấu "!!!" ngập tràn trên màn hình, cô không khỏi tò mò bèn chuyển sang hot search xem, nhận ra top 3 tin nóng sốt đều có liên quan đến cổ mộ của Triệu Nghiên Băng đào được hồi đầu năm.

Mục đầu tiên là một video được đăng bởi đài truyền hình nhà nước.

Phóng viên đang phỏng vấn một nhà sử học hàng đầu, hỏi về những phát hiện sau nửa năm khảo cổ.

Nhà sử học: "Trong mộ cất chứa rất nhiều tác phẩm của những bậc thầy thời bấy giờ, danh họa truyền đời, có đủ giá trị nghiên cứu nhất là một quyển du kí và một quyển tùy bút. Qua khảo chứng, chúng tôi cơ bản có thể xác định được tác giả của quyển du kí này là Lâm An vương Đại Cảnh và Triệu Bạch Ngư, à, chính là vị thanh thiên đầu tiên mà chúng ta biết đấy. Nó hẳn là được viết sau khi Triệu Bạch Ngư từ quan rời Kinh, đi khắp thiên hạ, nội dung sách bao gồm phong thổ và cuộc sống của nhân dân các nơi, cả những kiến trúc đặc sắc và các nền ẩm thực, cùng với một vài so sánh cụ thể về chính sách của quan trường, cửa hàng, thuế quan thời đó, y còn đến Tây Vực, xuống Nam Dương, cũng từng đi La Mã, toàn bộ đều được ghi chép lại! Cho nên mới nói nó có giá trị nghiên cứu vô cùng cao."

Vương Hiểu Nguyệt hít thở mạnh, hai mắt mở to ra, cực kì phấn khích.

Một bình luận nhảy lên màn hình: "Có thể xuất bản sách này được không? Tui sẽ mua một trăm quyển!"

Vương Hiểu Nguyệt gật đầu lia lịa, cô cũng rất muốn mua.

Phóng viên cũng hỏi về vấn đề này.

Nhà sử học: "Đang bàn bạc, đến lúc đó nếu như có xuất bản thì chúng tôi sẽ thông báo."

Còn nội dung của quyển tùy bút kia là gì?

Phóng viên đặt câu hỏi giúp tất cả mọi người ở ngoài màn hình.

Nhà sử học cười ha ha đáp: "Mọi người biết đấy, tùy bút giống như nhật kí của người hiện đại chúng ta vậy. Triệu Nghiên Băng là người hâm mộ cuồng nhiệt của thầy mình có lẽ các bạn cũng biết phải không, cho nên trong tùy bút này ghi chép rất nhiều chuyện về Triệu Bạch Ngư."

"Yeah!"

Vương Hiểu Nguyệt không nhịn được bật dậy hoan hô, vất vả lắm mới có thể đè nén tâm trạng xuống, cô ngồi xuống lại tiếp tục theo dõi.

Lúc này nhà sử học mới nói: "... Trong tùy bút có ghi chép những việc mà ngay cả chính sử và dã sử đều không nhắc đến, ví dụ như việc Triệu Bạch Ngư bị thay mận đổi đào ép gả cho Lâm An vương, cùng với việc sau khi kết hôn vợ chồng hòa thuận. Còn nữa, trong đêm cung yến, lúc cản đao trong lòng Triệu Bạch Ngư vẫn còn rất muốn chết, đến tận bây giờ chúng ta không ai có cách nào cảm nhận được sự tuyệt vọng của một Triệu Bạch Ngư mang trong mình chí hướng to lớn, tim buộc vào muôn dân, hòa mình vào trong lê dân bách tính là như thế nào, nhưng trong tùy bút, Triệu Nghiên Băng đã viết một cấu "Bá quan văn võ đều đau lòng", có thể thấy được sức hút của Triệu Bạch Ngư lớn đến đâu."

Thật ra Vương Hiểu Nguyệt chỉ muốn biết nguyên nhân Triệu Bạch Ngư hạ đao chém ba trăm quan, cô cứ nghĩ sẽ không tìm được đáp án, không ngờ một khắc sau đã có giải đáp rồi.

Xúc động nghe xong, im lặng thoát video, hai má cô lành lạnh, ngón tay vừa chạm vào mới thấy rõ đó chính là nước mắt vô thức rơi xuống.

Vương Hiểu Nguyệt lên diễn đàn, phát hiện tất cả mọi người đều như nhau.

"Tui khóc rồi, mấy cô thì sao?"

"Khóc huhu luôn nè, đau lòng quá trời."

"Quan phụ mẫu là gì chứ? Cũng chỉ như thế mà thôi."

"Trong thời đại phong kiến mà dân chúng như trâu chó, mạng người như cỏ rác đó, Cá Con thật sự đã đặt nhân dân ở tầng lớp thấp kém nhất ở trong lòng, dành cho bọn họ sự tôn trọng và công bằng tuyệt đối."

"Chém chết ba trăm mạng là vứt luôn cả mạng mình đấy, cũng chỉ vì mong cầu hai chữ "công bằng" mà thôi."

Cảm xúc vừa ổn định của Vương Hiểu Nguyệt lại bị kéo lên, cô nhớ đến lời nói của nhà sử học: "Dù sao Triệu Nghiên Băng cũng là thần tử Đại Cảnh, lòng trung quân ái quốc không cho phép ông ấy nói thẳng rằng Nguyên Thú đế đã sai, nhưng từ vài điều trong ghi chép, có thể nói bóng gió rằng đại án Lưỡng Giang có liên quan đến Nguyên Thú đế, vì thế cho nên Nguyên Thú đế mới không muốn xử lý Xương Bình dù chứng cứ phạm tội đã rõ rành rành, ông ta muốn coi chuyện đó là chuyện nhỏ, thiếu một Xương Bình, các tội nhân khác vẫn bị xử lí, vẫn có thể trả lại cho dân chúng uống mạng thứ gọi là công bằng, không phải sao? Nhưng mà Xương Bình chính là đầu sỏ, lý nào lại gi ết chết tiểu quỷ buông tha Diêm Vương, lại còn để cho Quỷ vương này ở lại Kinh Đô tiếp tục hưởng thụ vinh hoa phú quý cho được? Nếu như không nhờ Triệu Bạch Ngư, oan khuất mà hàng trăm ngàn người ở Lưỡng Giang phải chịu sẽ bị chìm xuống đáy mất."

"Ở thời đại mà vương quyền là nhất, thật ra đó là chuyện bình thường, trừ phi động đến lợi ích của người nắm quyền thì họ mới ra tay giết nhanh rồi lấy cớ là vì đòi lại công đạo cho dân chúng, chiếm trọn lòng dân. Trên thực tế, đa phần lúc nói thiên tử phạm pháp cũng cùng tội với thứ dân đều chỉ là lời nói suông mà thôi, đương nhiên luật pháp chủ trương ngang hàng, thế nhưng luật pháp cũng bị quyền quý khống chế trong tay, mượn lỗ hổng luật pháp giết oan dân thường, nhìn chung lịch sử thì đâu đâu cũng có."

"Cho nên tình huống khi đó gần như là không thể cứu vãn, đường sống của Xương Bình rộng thênh thang, oan khuất Lưỡng Giang ngập trời, nếu không có thanh đao của Triệu Bạch Ngư, chỉ sợ là oán hận chất chồng ngàn năm cũng khó mà biết mất được."

"Trong tùy bút của Triệu Nghiên Băng có viết về đêm trước khi ông ấy đi nhậm chức lần đầu tiên, ân sư và ông ấy đã cùng nói chuyện chân thành với nhau, ân sư có miêu tả một thời đại rực sáng đầy lý tưởng, một chốn yên vui chỉ thuộc về Triệu Bạch Ngư."

"Tôi ấn tượng sâu sắc với một câu mà tôi nghĩ dường như nó vẫn sẽ vang vọng mãi, vượt qua cả thời không và hàng ngàn năm sau nữa. Y nói là..."

Trong diễn đàn có người lặp lại câu nói của nhà sử học.

"Chúng ta sinh ra đã tự do, bình đẳng."

*

Bé Cá: Ta sinh ra đã tự do, bình đẳng, cho nên không đành lòng nhìn các ngươi bị vây trong bóng đêm.

==

<b><i>Min: </i></b>Chương này không liên quan gì đến thời hiện đại nha, có lẽ nó ở một thế giới khác nơi mà lịch sử Đại Cảnh có thật, và em Cá không chỉ có mấy fans mà có cả đống fans =))))))))))
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 118: Ngoại truyện 11 • Hiện đại - May mắn


"Tít..."

Điện tâm đồ trong phòng phẫu thuật vốn đã trở thành một đường thẳng tắp đột nhiên phát ra tiếng kêu mãnh liệt, có thể thấy rằng nó đang bắt đầu gập ghềnh lên xuống, bác sĩ và người thân đang chìm trong đau thương ngẩng phắt đầu lên, các bác sĩ vội vàng cấp cứu, người thân thì vui buồn lẫn lộn, ngạc nhiên đến sững sờ.

Người nhà bị mời ra khỏi phòng phẫu thuật, bắt lấy một y tá lo lắng hỏi: "Cô à, bé Ngư nhà tôi không chết mà đã sống lại rồi có phải không?"

Y tá: "Xin hãy đợi bác sĩ thông báo nhé ạ? Bệnh nhân xuất hiện tình trạng chết lâm sàng rồi lấy lại hô hấp, bây giờ vẫn còn đang cấp cứu, xin hãy kiên nhẫn chờ đợi kết quả."

Nói xong người nọ liền đẩy cửa quay lại phòng phẫu thuật, để lại người nhà ở ngoài hành lang cầu trời khấn phật rủ chút lòng thương, phù hộ cho đứa trẻ đáng thương nhà họ bình an vượt qua tai nạn này.

Lời nói chuyện của bác sĩ, y tá và người nhà mờ áo lướt qua một lần trong đầu, lúc thì mơ hồ, lúc lại rõ ràng, ý thức chốc lát vờn quanh phòng phẫu thuật, thậm chí ngửi được mùi hương đặc thù của căn phòng này, một lúc sau lại bị kéo trở về thế giới trong sách, đi khắp vạn dặm non sông, chứng kiến thịnh thế của Đại Cảnh vạn bang triều bái, rồi qua đời vì bệnh tật khi đang ở đỉnh cao cuộc đời.

Một khắc trước khi chết bệnh, bên trong và ngoài phòng đều là người, bạn tốt bạn cũ ngày xưa đều đến đưa tiễn, thế nhưng trước giường chỉ có Hoắc Kinh Đường đầu đầy tóc bạc, cậu chỉ muốn gặp Hoắc Kinh Đường, chỉ không nỡ rời bỏ Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường đã nắm chặt tay cậu, tháo chuỗi vòng Phật quấn trên cổ tay của hắn ra rồi đổi lại với chuỗi vòng mà năm ấy hắn tặng cho cậu, nói là trao đổi tín vật kiếp trước kiếp này để gặp nhau.

Hắn bảo Triệu Bạch Ngư cứ đứng trước suối vàng chờ một chút, hắn sẽ nhanh chóng đi tìm cậu.

Triệu Bạch Ngư đã không mở nổi mắt lên nữa, ngón trỏ run rẩy khẽ chạm vào mu bàn tay Hoắc Kinh Đường, cánh môi giần giật không nói nên lời, trong lòng thầm cầu mong trời cao rủ lòng thương.

Nguyện có kiếp sau, tiền duyên nối tiếp.

Rồi sau đó cậu chìm vào bóng tối chẳng có chút ánh sáng nào, không biết đã qua bao lâu, có lẽ là cả ngàn năm, cũng có lẽ là chỉ trong nháy mắt, cậu không thể chờ Hoắc Kinh Đường đến, chỉ chờ được ánh sáng trên bàn phẫu thuật.

Cậu trở về hiện thế rồi.

Không có Đại Cảnh, không có người nhà họ Triệu, không có bạn bè tri kỉ, cũng không có Hoắc Kinh Đường, niềm hy vọng, nỗi tuyệt vọng, sự sống mong manh hay niềm hạnh phúc vô tận dường như đều biến thành giấc mộng Nam Kha, thậm chí chẳng tìm được chút tung tích nào trong sách sử.

Đó chỉ là một triều đại giả tưởng không tồn tại, và cuộc đời đó của cậu cũng chỉ như một giấc mơ mà thôi.

***

Khi Triệu Bạch Ngư tỉnh lại, tình trạng của cậu đã tiến triển một cách thần kì, cả bệnh viện đều truyền tai nhau về chuyện này, những bệnh nhân mắc bệnh nan y đều muốn đến gặp cậu, sờ đồ của cậu để cầu nguyện cho mình một chút may mắn nhận được đặc xá của thần chết.

Bác sĩ và y tá cũng săn sóc cậu nhiều hơn, không chỉ bởi vì Triệu Bạch Ngư là bệnh nhân mà họ chăm nom nhiều năm trời, mà còn là vì minh chứng chứng minh bọn họ đã chiến thắng thần chết, theo dõi cậu sống lại từ cõi chết là một cảm giác thành tựu không gì sánh bằng.

Y tá đến kiểm tra phòng như thường lệ, hỏi thăm một chút tình huống cơ thể Triệu Bạch Ngư, cuối cùng nở nụ cười hài lòng: "Chúc mừng em nhé, hai ngày nữa là được ra viện rồi."

Triệu Bạch Ngư cũng cười đáp lại, sau đó hỏi: "Hồi trước chị có kể với em về một quyển truyện quyền mưu, chị còn nhớ không?"

"Truyện gì cơ?" Cô y tá ngạc nhiên.

Triệu Bạch Ngư: "Là truyện có nhân vật trùng tên với em ấy."

Y tá: "À! Quyển đấy hả! Sao thế?"

Triệu Bạch Ngư: "Chị nói là ngoại truyện BE... Nhưng em lên mạng tìm rồi, không có phần truyện đó."

Y tá: "Ngoại truyện nằm trong sách xuất bản, em muốn xem sao, chị sẽ lấy đến cho em mượn."

Triệu Bạch Ngư: "Không cần đâu, em tự đi mua..."

Y tá cắt lời cậu: "Không sao hết, chị sẽ cho mượn. Đọc cái truyện đấy bực cả mình, chị cũng không thèm đọc nó nữa đâu, gì mà truyện nhẹ nhàng chứ... Đúng là lừa đảo."

Đã như vậy Triệu Bạch Ngư cũng không tiện từ chối nữa: "Cảm ơn chị."

Y tá cười xòa nói không có gì, cô còn chưa cảm ơn Triệu Bạch Ngư đã hướng dẫn bài tập môn khoa học xã hội cho em trai mình nữa kia kìa.

Buổi chiều hôm đó, y ta đúng hẹn cầm quyển "Mỗi ngày yêu chiều ánh trăng sáng" đến, Triệu Bạch Ngư lật thẳng đến ngoại truyện, nội dung trong truyện giống hệt những gì xảy ra trong "mơ" của cậu, có điều nó miêu tả rất ít phần sau có liên quan đến Hoắc Kinh Đường.

Sau khi Hoắc Kinh Đường đăng cơ, nhờ sự giúp đỡ của người nhà họ Triệu đã tiến hành cải cách Đại Cảnh một cách dứt khoát mạnh mẽ, trọng dụng nghiêm điển, đánh giết tham quan, thủ đoạn nhanh gọn, hơn nữa còn mạnh dạn ủy nhiệm các thần tử trẻ tuổi cấp tiến, chung tay rót thêm sức sống mới cho Đại Cảnh.

Cả đời hắn không cưới vợ, chọn ra mấy hoàng tử con cái của anh em mình, dùng cách thức nuôi dạy xưa để chọn ra người chiến thắng cuối cùng.

Hoắc Kinh Đường chỉ ngồi trên ngai vàng mười hai năm, sau khi lập Thái tử thì lập tức thiền vị, biến mất chẳng còn tung tích, mà tân đế tuy cũng dẫn dắt Đại Cảnh đến đỉnh cao thịnh thế, nhưng về sau xa hoa dâm dật, lại liên lụy thịnh thế khiến cho dân chúng lầm than, loạn lạc.

Triệu Bạch Ngư duỗi ngón tay ra vuốt v e ba chữ Hoắc Kinh Đường.

Ngoại truyện nói hắn biến mất chẳng còn tung tích, có khả năng là chết ở một nơi nào đó, cũng có khả năng đã bị tân đế ám sát, cũng có thể là hắn ẩn náu trong giang hồ, làm một hiệp khách tiêu sái không bị trói buộc.

Triệu Bạch Ngư thiên về khả năng cuối cùng, cũng hy vọng là như vậy.

"Hoắc Kinh Đường, em bắt đầu nhớ anh rồi."

Làm sao bây giờ?

Mới vừa về không bao lâu đã bắt đầu nhớ, thậm chí sợ rằng cuộc đời mà cậu trải qua ở Đại Cảnh chỉ là một đoạn ảo cảnh trước khi chết mà thôi, thế nhưng dù cho điều đó có tồn tại thật, thì Hoắc Kinh Đường cũng chỉ là một nhân vật trong sách, làm sao xuất hiện được trong thế giới thực?

Mấy năm trước khi chết, Triệu Bạch Ngư đã nói lai lịch của mình cho Hoắc Kinh Đường nghe.

Hoắc Kinh Đường đã im lặng rất lâu nhưng chỉ để ý một việc: "Nếu như em quay về thế giới kia, liệu ta có thể tìm được em không?"

Nước mắt Triệu Bạch Ngư tuôn rơi như mưa ngay tức thì, Hoắc Kinh Đường phát hoảng, nhẹ giọng thì thầm dỗ dành cậu cả buổi, chỉ tay lên trời thề nhất định sẽ tìm được cậu.

Nhưng mà tìm như thế nào?

Không có cầu Nại Hà, không có đường Hoàng Tuyền vãng sinh, hai thế giới khác nhau, thời đại không giống nhau, làm cách nào để tới đây?

Gõ cửa hai cái, mẹ Triệu vừa vào đã đặt nước canh hầm lên đầu tủ, lo lắng hỏi: "Bé yêu à, ai bắt nạt con thế? Sao lại khóc?"

Lúc này Triệu Bạch Ngư mới nhận ra là mình khóc.

"Không ạ..." Liếc mắt nhìn sách, Triệu Bạch Ngư đáp: "Con đang đọc truyện thôi."

"Ôi, sách gì thế, chọc con khóc luôn à." Mẹ Triệu giả vờ đánh hai cái vào trang sách, quen yêu thương Triệu Bạch Ngư như một đứa con nít, bà mở canh hầm ra, cầm hộp canh gà vàng óng ánh lên nói: "Ba con hầm hai tiếng lận đáy, bổ lắm, mau uống đi."

Triệu Bạch Ngư nói cảm ơn, nhận lấy canh gà uống, uống xong mới nhắc đến chuyện ra viện, chốc lát sau mẹ Triệu cũng đi tìm bác sĩ để hiểu thêm về tình hình của cậu.

Mẹ vừa đi, Triệu Bạch Ngư cũng nỗ lực ngăn chặn tâm trạng đang sa sút, cậu vuốt v e quyển sách bị đóng lại, chợt có suy nghĩ lên mạng tìm kiếm đồng nhân của Hoắc Kinh Đường, bấy giờ mới phát hiện fans của Hoắc Kinh Đường rất đông, còn có người cắn đường của cp Hoắc Kinh Đường và "Triệu Bạch Ngư" nữa.

Đương nhiên là cũng có những fans sìn cp kiểu "khác", Triệu Bạch Ngư thẳng tay che lại.

Nhắm mắt làm ngơ.

***

Sau khi ra viện, Triệu Bạch Ngư về nhà nghỉ ngơi.

Bởi vì nghỉ học tạm thời, đừng nói đến bằng đại học, đến kì thi đại học cậu còn chưa được tham gia, trái lại cậu muốn tìm cơ hội học lại cấp ba, chỉ có điều hai mươi tuổi đầu rồi mà nhảy vào giữa một đám học sinh cấp ba, ba mẹ chỉ lo cậu bị ăn h**p, hoặc là bị cười chê.

Ba mẹ Triệu không muốn cậu phải vất vả quá, với số tiền mà họ dành dụm được, ngoại trừ mấy năm nay dùng để chữa bệnh cho cậu thì vẫn đủ để nuôi cậu cả đời.

Triệu Bạch Ngư không muốn ăn bám ba mẹ, thế là lên kế hoạch học lại cấp ba, đợi lấy được bằng đại học rồi thì ra ngoài kia tìm việc làm.

Một tháng sau, Triệu Bạch Ngư quay lại bệnh viện để tái khám, sau khi kiểm tra lần lượt, bác sĩ nói rằng tất cả mọi mặt đều hồi phục rất tốt, sau đó muốn ba mẹ của Triệu Bạch Ngư ở lại nói một vài chuyện riêng.

Triệu Bạch Ngư hiểu ý, ra ngoài ngồi đợi.

Trong lúc đó có y tá đẩy cửa đi vào trong, lúc đi ra không đóng kín cửa lại, cho nên cuộc trò chuyện bên trong đã bị Triệu Bạch Ngư nghe thấy.

"Bác sĩ à, sau khi khỏi bệnh hẳn rồi, liệu rằng tâm trạng có bị ảnh hưởng gì không?"

"Không thể loại trừ hoóc-môn trong cơ thể bị k1ch thích, thay đổi dẫn đến việc tâm trạng bị ảnh hưởng, sao vậy?"

"Cũng không có gì... Chỉ là sau khi bé Ngư khỏi bệnh cũng không mấy vui vẻ, có lần tôi thấy thằng bé nằm mơ mà cứ khóc thút thít, tôi chỉ sợ nó ấm ức. Chẳng phải có bệnh nhân vất vả lắm mới được chữa khỏi bệnh nan y dây dưa nhiều năm, nhất thời không quen nên ấm ức trong lòng, cuối cùng tự sát hay sao? Tôi thật sự rất sợ hãi..."

"Có thể nào là vì bị một nhân tố nào đó khác ảnh hưởng không? Ví dụ như nghe nhạc dạo của một bộ phim truyền hình buồn? Hay là tiểu thuyết chẳng hạn?"

"Đúng là có ôm một quyển tiểu thuyết, nhưng tôi đã xem thử rồi, nội dung cũng nhẹ nhàng thôi, nhưng hình như là viết về chuyện hai người đàn ông yêu đương... Hay là bé Ngư sợ chúng ta không chấp nhận tính hướng của thằng bé?"

Triệu Bạch Ngư nghe đến đây thì không nghe tiếp nữa, cậu đứng dậy đi ra ngoài tòa nhà bệnh viện, ngẩn ngơ nhìn vào một điểm nào đó trong hư không.

Trên đầu là mặt trời chói lóa, ánh nắng chiếu xuống khiến mặt đất dường như bốc khói lên, ở gần cửa chính có một dãy quầy thanh toán, phía trước có một đoàn người xếp hàng rất dài, xe ô tô nhiều mẫu mã đến rồi đi không ngớt trên đoạn đường trước bệnh viện

Lúc này có tầm mười chiếc xe ô tô gần như lấp kín con đường kia, người người cầm bệnh án đi tới đi lui đều vô thức liếc mắt nhìn sang, có thể thấy được trên mặt họ là cảm giác xuýt xoa thán phục khi nhận ra mấy chiếc ô tô đó đều là xe sang có giá trị lớn.

Lúc này Triệu Bạch Ngư đã ổn định tâm trạng xong, cậu không muốn những người quan tâm mình lo lắng vì tâm trạng đau khổ của cậu.

Do cậu bị ốm đau tra tấn quanh năm suốt tháng, ba mẹ đã vì cậu mà lo lắng âu sầu nửa đời rồi, cậu không thể khiến cho bọn họ khổ sở thêm nữa.

Triệu Bạch Ngư rũ mắt, chuẩn bị xoay người lại, ngạc nhiên phát hiện sau lưng cậu có mấy y tá và bác sĩ đang trò chuyện.

"Mười chiếc xe kia đều là xe xịn cả triệu* đấy... Chậc chậc, viện trưởng trèo lên được khách quý thế này từ khi nào thế?"

<i>(*) Tính theo nhân dân tệ</i>

"Ăn nói cẩn thận vào, nghe đồn bệnh viện chúng ta có ông lớn, đầu tư nhiều năm rồi, nửa tháng trước đột nhiên tâm huyết dâng trào nói muốn tới thị sát, viện trưởng vội tới mức mở mấy cuộc họp liền, dặn dò mọi người cần phải, tuyệt đối, nhất định phải xốc lại tinh thần gấp mười ngàn lần để đối phó, thiết bị chữa bệnh trong vòng sáu tháng cuối năm, thậm chí là tương lai vài năm nữa có thể thay được không là nằm ở chỗ này đó."

"Thế chẳng phải chúng ta cần thể hiện cho tốt hay sao?"

"Đừng phá nữa, chú bước vào được văn phòng viện trưởng rồi hãy nói, tới tư cách bưng trà dâng nước tôi còn chẳng có đây này."

Triệu Bạch Ngư lướt qua bọn họ, mắt nhìn đồng hồ, đã hơn mười hai giờ rồi, đang giờ nghỉ trưa, thảo nào bọn họ lại rảnh rỗi để mà tụ tập ngay cổng chính xem trò vui.

"Cơ mà vì sao ông chủ lớn lại đầu tư vào bệnh viện của chúng ta vậy?"

"Hầy, có gì kì lạ đâu? Người có tiền thì cái quái gì mà chẳng đầu tư? Y học, chữa bệnh, khoa học kĩ thuật, nhiên liệu, đất trồng... Càng có tiền càng muốn nắm lấy, sẽ là một chuyện tốt nếu bệnh viện chúng ta được cải thiện mà, quản cả ông chủ là có ý gì đây hả!"

"Cũng đúng ha ha ha..."

Triệu Bạch Ngư đi xa dần, vừa về tới đã bị ba mẹ túm lấy hỏi hạn: "Con đi đâu thế?"

Triệu Bạch Ngư: "Bên ngoài mát mẻ, hoa nở rất đẹp, con ra ngoài kia đi dạo thôi."

Ba mẹ thấy cậu không có việc gì, nỗi phiền muộn giữa đầu mày dường như tan đi một chút, trong lòng cũng an tâm hơn nhiều, bọn họ đổi nét mặt tươi cười, dịu dàng nhỏ nhẹ hỏi: "Buổi chiều còn cần phải lấy một báo cáo kết quả nữa, bé Ngư muốn ba hay mẹ chờ cùng con nào?"

Bị ba mẹ coi là em bé cưng, Triệu Bạch Ngư dở khóc dở cười, cũng biết ba mẹ bận bịu công việc, lúc nãy điện thoại đã không ngừng run lên, thế là cậu nói: "Con tự chờ cũng được, ba mẹ mau đi giải quyết công việc của mình đi."

Ba mẹ hỏi lại lần nữa, Triệu Bạch Ngư vẫn kiên quyết muốn chờ kết quả một mình, cuối cùng chỉ đành lưu luyến đi về.

Triệu Bạch Ngư cười bất lực, cậu đi đến dãy ghế bên cạnh quầy trên lầu hai ngồi chờ, y tá lúc trước chăm sóc chào hỏi cậu rồi bước ra phía cửa sổ.

"Đợi báo cáo à?"

Triệu Bạch Ngư gật đầu: "Chị không về nhà nghỉ ngơi sao?"

Cô gái: "Nhà chị ở xa, phòng nghỉ lại ồn quá, không bằng ra cửa sổ đứng, được chút yên tĩnh."

Một lúc không nói chuyện, cô gái nọ quan sát Triệu Bạch Ngư: "Bé Ngư à, tháng này em nghỉ dưỡng ở đâu vậy? Sao chị cứ cảm thấy em... Xinh đẹp ra gấp trăm lần luôn?"

Triệu Bạch Ngư bật cười: "Ăn nói bậy bạ."

"Chính là cảm giác này đây!" Cô gai nắm tay lại nện vào lòng bàn tay kia nói: "Là phong thái, mắt mày đó, nhấc tay áo lên này, cái tác phong tỏa từ trong ra ngoài này là... Phong lưu! Tự thành phong lưu, giống như danh sĩ thời xưa vậy! Nếu như đổi thành tóc dài, mặc trường bào, đứng ở chỗ kia, có thể chị sẽ nghĩ em là một người xưa xuyên không đến đây đó."

Triệu Bạch Ngư bị chọc cười, nhưng chỉ im lặng nhìn cô gái.

Cô gái bị cậu nhìn đến mức ngại ngùng, tim đập thình thịch, nhưng suy nghĩ đầu tiên hiện lên không phải là xiêu lòng, mà chỉ là cô cảm thấy bất kể người nào bị một người đẹp mắt cười dịu dàng nhìn sang thì phản ứng cũng đều sẽ giống như vậy thôi.

Đột nhiên phía trước ầm ĩ lên, cô gái bị bên đó thu hút, thấy được một nhóm người đi từ xa tới, y tá trưởng cũng nằm trong nhóm người này, đi đầu là một người đàn ông mặc trang phục bình thường mang giày bốt martin đính đinh tán, chân dài vai rộng eo nhỏ, cổ tay có quấn vòng phật, trên cổ đeo một chiếc dây xích bạc, xương quai xanh có hình xăm bị lộ ra một chút, bởi vì đội mũ lưỡi trai che mất nửa khuôn mặt nên không nhìn rõ diện mạo, chỉ chừa lại đường cằm hơi nhọn, môi đỏ da trắng, tóc dài buộc cao lên, giống hệt như một yêu quái tu luyện thành công trong thế giới Cyberpunk vậy.

Nói ngắn gọn thì chính là có rất nhiều thứ mâu thuẫn với nhau, nhưng gộp lại trên người hắn thì lại hòa hợp một cách kì lạ.

Cô gái mở to mắt nhìn, nhận ra y tá trưởng đang không ngừng ra hiệu cho cô, sau đó hoảng sợ phát hiện người kia đang đi về phía bên này, lại còn dẫn theo nhóm người sau lưng nữa, trong số đó có rất nhiều lãnh đạo của bệnh viện.

A a a... Ông chủ lớn!

Cô gái hét lên trong lòng.

Cứu với! Đừng có tới đây!

Tiếc thay thần tiên đi ngang qua không nghe thấy lời cầu nguyện của cô, cô gái không còn gì để luyến tiếc nữa nhìn ông chủ lớn đi một đường thẳng tắp tới, trong đầu đã nghĩ đến cuộc sống mưu sinh sau khi bị sa thải rồi... Ông chủ lớn đi tới, ông chủ lớn bỏ qua cô, ông chủ lớn đi đến phía sau cô... Phía sau cô có gì?

"!"

Có bé Ngư đó!

Triệu Bạch Ngư vẫn luôn cúi đầu, không để ý lắm đến sự việc xảy ra xung quanh, đến khi có một đôi bốt Martin đính đầy đinh tán dừng lại ngay trước mắt cậu, cậu đứng hình một lúc mới thoáng lui về phía sau, dán chặt vào lưng ghế, rồi sau đó dịch sang phía bên cạnh, nhưng mà đôi bốt Martin kia cũng di chuyển theo.

Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên, hơi ngẩng đầu lên lập tức nhìn thấy được chuỗi vòng Phật quấn trên cổ tay, cả người như bị sét đánh.

Trên đầu vang lên giọng nói mang ý cười nửa chọc ghẹo nửa thâm tình quen thuộc vô cùng: "Tiểu lang quân sinh ra xinh đẹp như thế, khiến anh vừa gặp đã yêu, người đã dùng cả đời tin tưởng anh, nguyện cùng anh gắn kết tình vợ chồng, chiêu cáo trời đất quỷ thần, cùng sống cùng chết."

Triệu Bạch Ngư giương mắt lên, bắt gặp một đôi mắt Bồ Tát màu lưu ly tràn đầy tình yêu ấm áp dịu dàng, dường như khắp cùng trời cuối đất lướt qua, thời không xoay chuyển liên tục rồi đảo ngược, rốt cuộc cũng tìm được tiểu lang quân mà hắn thương yêu.

Chỉ trong một thoáng ấy, lệ rơi lã chã.

***

Ba mẹ Triệu không ngờ rằng chỉ một buổi chiều không gặp Triệu Bạch Ngư thôi, cậu đã bị người đàn ông không biết từ đâu ra lừa chạy mất rồi.

Chỉ nghe bọn họ nói, "Vừa gặp đã yêu", "Cùng sống cùng chết", "Nếu như có thể thì ngày mai đi lãnh chứng, sẵn tiện đăng ký tài sản, chọn ngày lành tháng tốt làm hôn lễ, dù sao cũng là chuyện lớn đời người, hôn lễ nhất định không được làm qua loa, trời đất quỷ thần đều nhìn đấy, càng long trọng thì càng hạnh phúc."

Thật ra nói vậy cũng không sai... Cái rắm ấy!

Ba mẹ Triệu mặt đen như than, trong lòng không ưa Hoắc Kinh Đường, thế nhưng quay đầu nhìn sang Triệu Bạch Ngư, dù cậu chẳng nói một lời nhưng có thể thấy trong lòng rất vui sướng, còn tự nhắc nhớ lại những ngày tháng cậu tiều tụy, chỉ e là thật sự lo lắng bị bọn họ phản đối, sợ tới mức nằm mơ cũng khóc, ba mẹ Triệu lại không khỏi đau lòng.

Như vậy xem ra, không phải là cậu vừa gặp đã yêu, mà là ngấm ngầm qua lại đã lâu ở chỗ mà bọn họ không biết rồi!

Nghĩ đến chuyện Hoắc Kinh Đường chính là cổ đông lớn ở bệnh viện, chứng tỏ là ở gần quan được ban lộc mà!

Tức giận thì tức giận, ba mẹ Triệu thật sự không nỡ để Triệu Bạch Ngư phải đau buồn, từ đầu đã muốn cậu được bình an vui vẻ, thế là cũng hòa hoãn, chỉ đưa ra một yêu cầu: "Trước khi kết hôn không được làm cái, cái chuyện kia đâu đấy."

Hoắc Kinh Đường nhanh trí gật đầu, dù sao đời trước cũng làm nhiều lắm rồi, hắn không quan tâm một chốc lát này.

***

Qua được cửa ải phụ huynh, Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư yêu đương công khai luôn, chỉ là thời gian bên nhau hơi eo hẹp.

Đời này Hoắc Kinh Đường không được làm một ông chủ nhàn rỗi nữa, hắn cần phải quản lý một sản nghiệp to lớn, tuy rằng đã tận lực bồi dưỡng nhân viên, nhưng mà vẫn còn cách xa khoảng thời gian dược về hưu hưởng thụ lắm.

Triệu Bạch Ngư thì phải lập tức học lại cấp ba, chuẩn bị chiến đấu với kì thi đại học, thời gian còn gấp rút hơn cả Hoắc Kinh Đường.

Nói về chuyện yêu đương cũng khá là "căng thẳng", bởi có một sự thật chính là ngoại hình và phong thái của Triệu Bạch Ngư tuyệt vời một cách đáng kinh ngạc, dù sao cũng đã có kinh nghiệm từ đời trước, tính cách và sức hút của cậu vốn rất mạnh, cứ thế ném vào quần thể học sinh cấp 3 liệu có thu hút người khác không?

Hoắc Kinh Đường cũng không gấp, Triệu Bạch Ngư vừa thi đại học xong đã bị bế đi đăng ký kết hôn.

***

Nhìn quyển sổ đỏ, Hoắc Kinh Đường bỗng nhiên vùi mặt vào cổ Triệu Bạch Ngư, sau đó có dòng chất lỏng nóng hổi nhỏ xuống làn da cậu.

"Kiếp trước anh đã quỳ lạy trước Phật, không làm gì khác ngoài việc đó, anh cầu xin trời cao rủ lòng thương, giúp cho anh có thể tìm được em." Hoắc Kinh Đường khẽ cười, "May mà anh đã có thể thế giới của em, may mà vận số của anh không quá tệ."

Triệu Bạch Ngư siết chặt tay Hoắc Kinh Đường, mười ngón tay đan vào nhau, nhẫn bạc trên ngón áp út phản chiếu ánh nắng lóe sáng lên.

Trên cổ tay cả hai người đều có đeo một chuỗi vòng Phật, tựa như tình cảm vợ chồng đời đời kiếp kiếp đều quấn quít bên cạnh nhau.

"Em may mắn gặp được anh, cũng là nhờ trời cao rũ lòng quan tâm."

==

<b><i>Min: </i></b>Vậy là truyện đã thật sự kết thúc rồi, lúc này mình chưa biết nói gì nên không dài dòng, chỉ muốn cảm ơn sự ủng hộ và tình cảm của mọi người dành cho Triệu Bạch Ngư, cho Hoắc Kinh Đường, cho các nhân vật trong "Đếm ngược thời gian sống sót" của tác giả Mộc Hề Nương và bản edit của mình.

Mình sẽ đăng một bài cảm ơn và đôi dòng cảm nghĩ của mình khi mình có thể!

Cảm ơn và yêu thương rất nhiều 🥰
 
Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót
Chương 119: Ngoại truyện • Động phòng (H) (Hoàn toàn văn)


<b>

<i>Rèm kéo lên rồi, bắc loa gáyyyyyy đi bà con làng xóm ơi </i>📢📢📢<i> đây là chương H của đêm thành hôn c22 nha, dẹp nến đỏ đổ lệ gì đó đê, nhào dô húp thịt thoai ~</i>

==

Màn đỏ rũ xuống, ánh nến của đèn cầy long phượng thoáng chốc mờ ảo, cảnh vật trở nên khép kín, chiếc giường cưới vốn cảm thấy rộng quá mức giờ đây khiến cho Triệu Bạch Ngư sinh ra cảm giác chật chội, hít thở không thông.

Y rũ mắt, quỳ thấp trên chiếc chăn hỉ màu đỏ chót, liếc mắt sang là có thể thấy được hình thêu khéo léo trên trên chăn, đó là hoa văn uyên ương hí thủy truyền thống.

Bàn tay của Hoắc Kinh Đường đã vươn đến trước mặt Triệu Bạch Ngư, ngón tay thon dài, khớp xương rõ ràng, màu da trắng lạnh, bàn tay ấy hơi lớn hơn tay y, nó cởi bỏ đai lưng của Triệu Bạch Ngư, chậm rãi rút ra, dường như phát hiện ra y thoáng thở dồn dập nên khựng lại một chút.

"Sợ à?"

Triệu Bạch Ngư lắc đầu, nhấp môi đáp: "Hồi hộp."

Tiếng cười của Hoắc Kinh Đường vang lên trên đỉnh đầu: "Tập quen là được rồi."

Triệu Bạch Ngư do dự: "Túng dục không tốt."

Hoắc Kinh Đường nghiêng đầu sang một bên rồi bật cười.

Triệu Bạch Ngư: "..." Y muốn hỏi xem có gì vui đâu mà cười, nhưng chỉ một giây sau đai lưng đã bị rút đi, áo ngoài lập tức bung ra, bàn tay linh hoạt lạ thường của Hoắc Kinh Đường c ởi sạch từng lớp quần áo bên trong, rồi hắn cúi người xuống hôn môi y.

Trong mũi ngập tràn mùi đàn hương và mùi thuốc Đông y nhàn nhạt, hương vị này bện thành một tấm lưới màu son bao phủ năm giác quan của Triệu Bạch Ngư, sau đó toàn bộ cảm giác đều bị sức nóng trên môi tước đoạt đi hết.

Môi mỏng ấp áp vốn mềm mại nhưng lúc này lại mạnh mẽ đến nỗi không thể ngăn lại được, nó phá vỡ khóe môi đang hé ra của Triệu Bạch Ngư, rồi như vào chốn không người bắt đầu càn quét kịch liệt, lưỡi quét qua lợi, xoáy vào khoang miệng nhạy cảm, hai đầu lưỡi quấn quýt lấy nhau phát ra âm thanh ướt át, giống như tiếng hai con cá chuối giao phối dưới đám cây thủy sinh trong ao sâu vào đêm khuya.

Mười ngón tay Triệu Bạch Ngư siết chặt vào ống quần, trái tim hồi hộp đến hoảng sợ, thình thịch rộn lên, thoắt cái cả người run rẩy, y bỗng nhận ra Hoắc Kinh Đường đã cởi hết quần áo trên người mình, chỉ để lại một chiếc áo lót trắng dán lên da thịt, bàn tay kia lần theo mép áo chui vào sờ s0ạng, nhẹ nhàng dán lên da y, bụng ngón tay có vết chai khá rõ ràng, cọ qua da không đau nhưng lại khiến cho từng nơi mà nó đi ngang trở nên ngứa ngáy không sao chịu nổi, sự chú ý hoàn toàn bị chỗ ngứa chiếm đoạt mất rồi.

Triệu Bạch Ngư nhắm chặt hai mắt, lông mi run lên không ngừng, cảm giác được Hoắc Kinh Đường lui ra rồi lại đến gần, mi mắt bị hắn li3m ướt, y mở bừng mắt ra, đối diện với ánh mắt của Hoắc Kinh Đường, đôi mắt vốn mang sắc lưu ly trong vắt giờ đây đã trở nên sâu đậm, đâu đó là d*c vọng mãnh liệt như dã thú giãy giụa trong trói buộc sắp sửa bùng nổ.

Hoắc Kinh Đường khẽ cười một tiếng, "Biết phải làm gì không?"

Cả người Triệu Bạch Ngư nóng bừng, cuộn chặt tay lại rồi lắc đầu.

"Để ta dạy em." Hình như bất hảo đã chiếm một nửa tính cách của Hoắc Kinh Đường, cứ thích trêu ghẹo khiến cho Triệu Bạch Ngư thẹn thùng, chỉ hận không thể đào đất tự chôn mình xuống nhưng vẫn cố giả vờ bình tĩnh. Hắn hôn khắp mặt và môi Triệu Bạch Ngư trước rồi nói: "Đây gọi là chuồn chuồn lướt nước."

Sự chú ý của Triệu Bạch Ngư bị thu hút, nảy sinh nghi hoặc, thật ra là y hiểu, thế nhưng vì sao lại gọi là chuồn chuồn lướt nước?

Hoắc Kinh Đường: "Em làm lại đi."

Triệu Bạch Ngư chần chừ một chút, sau đó lặp lại từng bước, cuối cùng hôn lên môi Hoắc Kinh Đường, rồi nhận được cái lắc đầu không công nhận của hắn: "Không đúng, phải là như thế này." Vừa mới dứt lời, hắn đã nghiêng nửa người trên về phía trước, bao vây môi Triệu Bạch Ngư, từ lả lướt đến hôn sâu, quấn lấy đầu lưỡi như muốn cướp lấy nó, bắt chước động tác gi@o hợp mạnh mẽ khiến Triệu Bạch Ngư không tài nào theo kịp, chấp nhận rơi vào thế bị động, sau khi được thả ra mãi một lúc lâu mà y vẫn chưa thế lấy lại tinh thần, mặc cho ngón tay cái của Hoắc Kinh Đường vuốt v e cánh môi đỏ thẫm của mình, lắng nghe kẻ xấu tố cáo trước: "Thể lực của văn nhân hơi yếu nhỉ, mà thôi, lần này không đòi lại nữa."

Sau đó hắn cúi người m út cổ Triệu Bạch Ngư, một tay choàng qua sau lưng của y x0a nắn một cách tình tứ, bàn tay còn lại bóp lấy đầu v* bên trái, dùng đầu ngón tay cái và bụng ngón trỏ vân vê, nhấn nhá, rồi dùng móng tay đâm vào hạt đậu nhỏ nhô ra, k1ch thích khiến Triệu Bạch Ngư phải ưỡn ngực, đồng tử cũng vì vậy mà giãn ra, vô thức nắm chặt lấy vạt áo của Hoắc Kinh Đường.

Áo trong đã hoàn toàn rơi xuống, Hoắc Kinh Đường vùi đầu vào ngực Triệu Bạch Ngư, môi lưỡi thay thế ngón tay, bàn tay phía sau trượt theo cột sống đi xuống phía dưới, dò vào xương cụt tìm được nhụy h0a khép chặt, vuốt v e xung quanh nó với ý đồ tìm cơ hội đi vào, lúc này trên cơ thể Triệu Bạch Ngư chẳng có nơi nào là không nhạy cảm, bên trên bị môi lưỡi ướt át quấy rối, nơi riêng tư nhất phía dưới cũng sắp bị khai phá, trên dưới đều không được yên ổn nên sinh ra cảm giác muốn trốn tránh, thế nhưng lại bị một câu "Đêm động phòng hoa chúc, cộng phó Vu Sơn* là lẽ đương nhiên, không được sợ, cũng không được lui" của Hoắc Kinh Đường trói chặt tay chân.

<i>(*) Cộng phó Vu Sơn (</i>共赴巫山<i>): ý chỉ chuyện mây mưa ân ái.</i>

Không được sợ, cũng không được lui, trận địa sắp thất thủ càng kêu gọi người ta tiếp tục tiến tới.

Triệu Bạch Ngư dần chìm vào mê man, sợ đến mức run rẩy, muốn di dời sự chú ý nên đành phải hỏi bước này có tên là gì, hành động mà hắn làm là gì.

Hoắc Kinh Đường vốn chỉ bịa chuyện thôi, hắn đặt Triệu Bạch Ngư nằm lên tấm chăn đỏ, thẳng người nhìn vô vàn những vết cắn xinh đẹp gợi tình trên cổ và ngực y rồi dùng ngón trỏ nhẹ nhàng vẽ vời trên lồ ng ngực trắng như tuyết, khẽ ngâm nga một câu: "Cái này gọi là hồng mai... thanh tao thoát tục, từng nụ mai đỏ, cảnh đẹp nhân gian."

Quần của Triệu Bạch Ngư cũng đã bị cởi ra, Hoắc Kinh Đường mò vào hốc tối ở đầu giường lấy một chiếc hộp gỗ màu đỏ ra, quệt một ít cao bôi trơn trong suốt rồi đưa vào giữa đùi y.

Cao lạnh buốt, nhưng từng nơi da thịt tiếp xúc thì lại nóng rực, lạnh nóng xen lẫn vào nhau chuyển thành ẩm ướt, cảm giác bị khai phá cũng chẳng khá khẩm gì cho cam, vật lạ cố gắng chen lấn để đi vào bên trong, vừa đào vửa móc, đặc tính sinh lí của con người thúc đẩy vách trong nuốt lấy ngón tay đang duỗi vào, rõ ràng là động tác đẩy dị vật ra ngoài bỗng trở thành m út mát, ý thức của Triệu Bạch Ngư đã bị cướp sạch, dù Hoắc Kinh Đường vẫn còn đang sờ s0ạng cắn m út trên ngực cũng không thể khiến cho y di dời sự chú ý.

Triệu Bạch Ngư mơ màng luống cuống nhìn lên đầu giường, bỗng muốn đổi ý.

Đó chính là bản năng của động vật khi bị tấn công, đổi ý, chạy trốn, nếu không sẽ bị nuốt vào bụng, ăn đến khi chẳng còn lại mẩu xương nào.

Hoắc Kinh Đường không cho y cơ hội thực hiện hành động đó, hắn rút ba ngón tay ra ngoài, chuyển sang nắm lấy thứ phía trước, phàm là một người đàn ông cũng không thể chịu nổi, đã vậy dường như hắn rất thạo tay, đôi lúc chỉ cần lả lướt ở nơi quan trọng thôi thì đối với một tờ giấy trắng trong phương diện tình d*c như Triệu Bạch Ngư mà nói, y chẳng đủ có sức để mà chống cự lại, từng đợt sóng kh0ái cảm đánh tới như sóng biển, y chính là hòn đá đen cheo leo trên vách đá, không động đậy được mà chỉ có thể chấp nhận.

"Không..." Giọng Triệu Bạch Ngư run rẩy, y vươn tay muốn đẩy cánh tay của Hoắc Kinh Đường ra nhưng lại không có sức, giống như vừa muốn chối từ vừa ra vẻ mời gọi. Dộng tác của Hoắc Kinh Đường càng lúc càng nhanh, cơn cực kh0ái giống như dòng điện chạy dọc từ bụng dưới lên khắp xương cốt tứ chi, cả người Triệu Bạch Ngư run rẩy kịch liệt, y bật ra tiếng r3n rỉ ngắn ngủi, ánh mắt mơ màng nhìn lên trên trần, lúc này rất khó để tiếp tục bị k1ch thích bởi bất kỳ hành động nào khác, Triệu Bạch Ngư để mặc người ta tùy tiện tách hai chân ra, rồi sau đó tầm mắt đột nhiên bị Hoắc Kinh Đường chiếm lấy.

Hoắc Kinh Đường đã c ởi sạch quần áo, cũng đang khỏa thân giống như y, đường nét trên cơ thể càng rõ ràng hơn, bởi vì bị cổ độc tra tấn nhiều năm mà trở nên thon gầy, thế nhưng chỗ nào cũng có cơ bắp, làn da trắng lạnh trông giống hệt như một viên ngọc xinh đẹp, hắn bỗng lật Triệu Bạch Ngư lại để cho y đưa lưng về phía mình, dùng đầu gối chèn vào chân y, tay niết mạnh hai cánh mông rồi banh ra, vật thể nóng rực ngập ngừng chọc tới, sau đó chậm chạp mà chắc chắn đẩy vào bên trong, cửa huy3t mềm mại, ẩm ướt và ấm áp vừa vất vả khép mình lại tách ra, bị vật t0 lớn hơn nhiều so với ngón tay chen chúc vào bên trong, dù trước đó đã được chăm sóc, nhưng suy cho cùng đây cũng không phải là nơi dùng để đón nhận một bộ phận khác, lúc này đây chỉ vừa bị vạch mở là nó đã truyền đến cảm giác đau đớn như bị xé rách rồi.

Triệu Bạch Ngư vô thức khép hai chân vào, thế nhưng chính giữa hai ch ân y là Hoắc Kinh Đường, có vẻ như hắn đã đoán trước được việc này cho nên đã tạo thế ghìm chết hai chân y lại, dù có dùng nhiều sức hơn nữa cũng không cách nào khép vào được, ấy là chưa nói y vốn chẳng còn thừa bao nhiêu sức.

"A..."

Hoắc Kinh Đường vuốt dọc sau lưng Triệu Bạch Ngư, vươn tay túm gáy của y, dùng ngón tay cái vuốt v e quanh cần cổ giống như trấn an, cũng như bắt lấy tử huyệt phòng trường hợp y bỏ chạy.

Triệu Bạch Ngư không phản kháng được, chịu không nổi nữa cất giọng nức nở cầu xin: "Sau này rồi làm được không? Ta không muốn nữa..." Da đầu y giật lên, không chỉ vì cơn đau này, mà còn là nỗi sợ khi bên trong đã bị đâm mở, cảm giác bị đâm vào thật đáng sợ, "Ta sợ, ta sợ lắm."

Hoắc Kinh Đường rải dấu hôn khắp sau lưng y, nhẹ giọng trấn an, "Sớm muộn gì cũng đến bước này thôi, em không tránh được đâu." Giọng nói ấy dịu dàng, nhưng động tác phía dưới thì lại chẳng hề nhường nhịn chút nào, cứ thế ra vào chẳng chút thương xót, cho đến tận khi đã đẩy hết vào bên trong, hắn mới nói như dỗ dành: "Tiểu lang có khiếu trời cho, nuốt trọn hết rồi."

Triệu Bạch Ngư không nhận nổi lời khen này, trong đầu hãy còn trống rỗng, chật vật hoàn hồn nhưng tinh thần lại bị sự va chạm không có điểm dừng phía sưng lưng nghiền nát hơn phân nửa, chịu đựng không nổi khóc chẳng thành tiếng, y há miệng cắn chặt ngón tay, giường đệm và màn che trước mắt đều lắc lư, ván giường phát ra tiếng kẽo kẹt, một lúc sau y mới nhận ra rằng không phải là giường đệm đang lắc lư, mà là y bị đâm đến nỗi lắc lư.

"A... Ư!" Triệu Bạch Ngư cắn hằn dấu răng lên tay, Hoắc Kinh Đường hạ thấp xuống càng khiến cho vật kia đi sâu vào hơn nữa, độ sâu này khiến cho Triệu Bạch Ngư cảm tưởng nội tạng của mình cũng bị nó đâm xuyên qua rồi. Ngón tay của y bị Hoắc Kinh Đường lấy ra, để cho tiếng r3n rỉ nhỏ vụn cất lên, không thể giấu giếm được nữa, Triệu Bạch Ngư còn chưa kịp bình tĩnh sau sự bối rối này thì đã phát hiện Hoắc Kinh Đường dường như lại sờ mó cái gì nữa rồi.

Ban đầu y không hiểu, nhưng thắc mắc này đã nhanh chóng được giải đáp.

"Không...." Triệu Bạch Ngư điên cuồng giãy giụa, vừa muốn rút ngón tay chặn miệng mình ra, vừa muốn tránh khỏi Hoắc Kinh Đường đang đè lên người mình, y ưỡn người giống hệt như con cá mắc cạn, bị ép đến tận cùng, rốt cuộc điểm bí ẩn ở sâu bên trong cũng bị cọ vào, phút chốc kéo theo kh0ái cảm vô cùng tận dồn ép lấy y. "...A!"

"Ở đây à?" Hoắc Kinh Đường lầm bầm, "Là ở đây."

Chợt chẳng có chút phản ứng nào, hắn lại chạm mạnh vào điểm này vài lần nữa, từng cú dập vừa chắc vừa mạnh như sóng triều nối tiếp nhau ve vuốt Triệu Bạch Ngư, nhấn y chìm xuống.

Triệu Bạch Ngư giơ tay lên quơ quào một cách vô nghĩa, cắn chặt môi mình, trừ phi bị đâm mạnh chịu không nổi nữa mới chấp nhận nhả một chút âm thanh ra ngoài, y cứ cho rằng chịu đựng qua đợt này thôi là xong, nhưng Hoắc Kinh Đường thì không có ý định dừng lại, rõ ràng mõ ở bên ngoài đã gõ ba lần, đèn cầy long phượng cũng cháy hết một nửa rồi, vậy mà hắn vẫn không dừng lại!

Không chỉ không dừng lại, mà động tác cũng lúc nhanh lúc chậm, cần cù trêu đùa bỡn cợt Triệu Bạch Ngư, có lúc rủ lòng thương mà gia giảm tốc độ, nhưng có khi lương tâm bị bóng đêm che mờ, không quan tâm y chịu hết nổi cầu xin tha thứ, liên tục đâm rút vào hẻm nhỏ, bên tai còn văng vẳng tiếng da thịt vỗ vào nhau, miệng huyệt ẩm ướt bị dập phát ra tiếng nước nhóp nhép, y không nén được bật khóc thành tiếng, nhưng tiếng khóc ấy nhỏ nhẹ giống hệt như tiếng mèo kêu, dù là bất cứ kẻ nào nghe thấy cũng đều sẽ chộn rộn khát tình, vậy mà y lại chẳng hề hay biết.

Triệu Bạch Ngư hãy còn đang uất ức, sao có thể đâm vào chỗ đó được vậy chứ? Y thất thần xin tha: "Đừng làm nữa, hỏng mất... Ta sẽ hỏng mất." Nhưng làm như vậy chỉ khiến cho người ta càng muốn bắt nạt y hơn thôi.

...

Tiếng mõ lại vang lên, hiện tại là canh ba, trong phòng đã kêu nước hai lần, yên tĩnh được chốc lát, đuốc hoa phòng tân hôn lại tiếp tục lay động. Ánh nến càng lúc càng mờ, chiếc giường vẫn còn đang lắc lư, Triệu Bạch Ngư tựa ót vào đầu giường, cả người được Hoắc Kinh Đường ôm vào trong lòng xốc lên hạ xuống, mặt nghiêng sang một bên, bởi vì bị kh0ái cảm k1ch thích mà hai mắt sóng sánh nước, trong lúc mơ màng nhìn thấy trên đầu giường có khắc một bộ xuân cung đồ, bỗng nhiên nhớ đến người xưa khi kết hôn, trên đầu giường ngủ thường sẽ khắc tị hỏa đồ, cũng chính là xuân cung đồ.

"Hình như tiểu lang phát hiện rồi nhỉ."

Hoắc Kinh Đường ôm y xoay một vòng, quay lại xem xuân cung đồ cùng y.

"Tiểu lang chưa từng xem xuân cung đồ cũng không sao, để vi phu dạy em. Vừa rồi chúng ta chỉ mới thử trước vài thứ, bây giờ thử hết số còn lại, được không?"

Triệu Bạch Ngư trừng mắt, đương nhiên câu trả lời của y là không được.

Biết làm sao được mây mưa cao đường, vành tai chạm tóc mai, là một người chồng phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong đêm động phòng hoa chúc, y không có cách nào từ chối, chỉ đành bất lực để mình bị cuốn vào vòng nước xoáy tình d*c dường như chẳng có kết thúc này mà thôi.

.

.

.

.

<b>Min:</b> Đm thì ra bộ mặt thật của tỉu quậng zương Quắc Kinh Đường ở trên giường là như vầy - vắt kiệt sức lao động của bạn đời =)))))))) cha nội này dụ ép nhỏ Cá đại chiến 500 hiệp thoả thuê, nạp full năng lượng sáng sớm hùng hục chạy đi tập võ rồi về hỏi đểu sao em t yếu thế mới làm có nhiêu đó mà vọp bẻ tùm lum 😀 thấy ghét ghê ko

✨ Thật ra ngoại truyện này má Mộc đăng cùng ngày với chương cuối luôn í =))))))) hôm qua mình lụm cái template, chế xong up rồi mới nổi hứng lên weibo kiếm hình hai trẻ, lướt weibo má ruột hai đứa nó mới mò được cái chức năng tìm kiếm trong trang cá nhân của 1 người, tìm cái ra luôn chương này, mắ đúng là quê mùa 🤡

Mình xoá chương trước rồi, để lại ở đây cho ai chưa hóng nha :3

68747470733a2f2f73332e616d617a6f6e6177732e636f6d2f776174747061642d6d656469612d736572766963652f53746f7279496d6167652f52334a52467344687376795943773d3d2d313430353436303230302e313761306563383339363835363163303338353233333636333734322e6a7067


Chỗ hỏi thang 100 điểm chắc chắn là anh ta đang khen đểu em yêu đó 🤣 chứ thứ nhất nội cái miếng da mặt mỏng lét của em Cá là thấy đường đua em thua rồi, thứ hai là em không biết (hoặc ngại) tán tỉnh bằng mấy câu tà zâm sến sẩm như lão chồng, ba là em thường buông súng đầu hàng trước vì bị chồng ghẹo bằng kĩ năng 10 điểm =)))))))) bốn là tới cái khúc em lóng nga lóng ngóng với thằng đệ quá cỡ của chồng em, phải đợi chồng dạy cho đủ combo các tư thế + tên gọi (rồi bị anh ta đòi trả bài và ghẹo thêm miếng nữa) thì 10 điểm kĩ năng cho em là: Không! Thể! Nèoooo!!!

Còn bảo cho 100 điểm cute thì t cho luôn dương vô cực điểm ai đồng ý thì giơ tay đi ạ =)))))))))))))

<i>(Template là của người ta nhưng nội dung là của mình, được mình dựa theo những chi tiết nước thịt nhỏ nhặt trong truyện và tính cách của hai đứa để suy ra, mong các bạn đừng bê ẻm đi đâu hết nha </i>🎉<i>)</i>

<i>Cre template: @Lộ Vũ</i>
 
Back
Top Bottom