Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Convert [Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện

[BOT] Mê Truyện Convert

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
393,589
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
29425eac2890a32ed9d9feb95ce93ac1bb08308191080d489228f6ea66b0573e.jpg

[Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện
Tác giả: Phong Hỏa Hí Chư Hầu
Thể loại: Tiên Hiệp
Trạng thái: Đang ra


Giới thiệu truyện:

Thế giới rộng lớn không thiếu cái lạ. Trần Bình An ta chỉ với một kiếm, có thể dời núi, lấp biển, hàng yêu, trấn ma, phong thần, chém sông, phá thành, mở trời mở đất.

Bạn nào đã đọc convert xin vui lòng không tiết lộ trước nội dung, cảm ơn!

Phần đầu bản dịch này có chú thích nhiều thứ, sau này sẽ không chú thích lại nữa, cho nên khuyên mọi người hãy đọc từ đầu để hiểu rõ nội dung truyện.

Truyện được dịch tại Tàng Thư Viện. Hiện giờ đang tạm thời tắt bình luận trên web, cho nên bạn nào muốn bình luận thì tải app của Tàng Thư Viện nhé.

Bạn nào muốn donate ủng hộ có thể tặng phiếu hoặc chuyển khoản trực tiếp cho người dịch.

Vietcombank: 0721000529820

Chủ tài khoản: Trần Biển

Cảm ơn các bạn rất nhiều.​
 
[Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện
Chương 0 : Tự chương


Thế giới Trung Thổ không thiếu cái lạ.

Chính giữa trời đất, có một học giả từng dùng một kiếm bổ ra thác nước sông ngân, là chuyện đắc ý nhất trong nhân gian.

Bên bờ biển đông, có một đạo nhân vô danh không muốn phi thăng ngồi bất động trên đỉnh núi, chỉ nguyện gió mát thổi vào mặt.

Tây Phương cực lạc, có một hòa thượng già thích mời người khác uống canh gà, kể cố sự cho người ta nghe, nuôi dưỡng chín con rồng trời.

Nam Cương hoang vu, có một họa sĩ mắt mù điều khiển con rối giáp vàng cao như núi, di chuyển mười vạn núi lớn, trải ra một bức tranh gấm vóc.

Một thiếu niên bần hàn lớn lên ở phương bắc, một ngày kia hắn nhìn thấy trên đầu có hàng ngàn hàng vạn tiên nhân ngự kiếm, giống như bầy châu chấu bay qua.

Hắn muốn đi tận mắt xem thử vị học giả mà tiên sinh kể chuyện kia đã nói, nước lớn ngập trời ở biển đông, cát vàng vạn dặm ở Tây Phương và núi lớn nguy nga ở Nam Hoang.

Thế là cuối cùng có một ngày, thiếu niên xách theo kiếm gỗ bắt đầu xuôi nam.
 
[Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện
Chương 1 : Kinh Trập


Mồng hai tháng hai, rồng ngẩng đầu. (2)

Vào chiều hôm, tại một nơi yên tĩnh gọi là ngõ Nê Bình trong trấn nhỏ, có một thiếu niên gầy gò lẻ loi trơ trọi. Lúc này hắn đang làm theo tập tục, một tay cầm nến, một tay cầm nhánh đào, soi sáng các nơi như xà nhà, vách tường, giường gỗ... dùng nhánh đào gõ gõ đập đập, muốn mượn chuyện này xua đuổi rắn rết bò cạp các thứ, miệng lẩm bẩm câu châm ngôn lưu truyền nhiều đời trong trấn nhỏ này: “Mồng hai tháng hai, soi sáng xà nhà, đào gõ vào tường, rắn rết trong nhân gian không nơi nào ẩn náu.”

Thiếu niên họ Trần, tên là Bình An, cha mẹ mất sớm. Đồ gốm của trấn nhỏ rất nổi tiếng, từ khi bản triều khai quốc tới nay, trấn nhỏ đã đảm nhận trọng trách “phụng chiếu sản xuất đồ dùng cúng tế lăng mộ”, hàng năm có quan viên đóng giữ ở đây giám sát công việc của lò gốm triều đình. Thiếu niên không nơi nương tựa, từ rất sớm đã làm thợ lò nung gốm, ban đầu chỉ có thể làm vài chuyện tay chân lặt vặt, đi theo một sư phụ nửa mùa tính tình tệ hại, vất vả chịu đựng mấy năm mới trau dồi được một chút cách thức nung gốm.

Kết quả thế sự vô thường, trấn nhỏ đột nhiên mất đi lá bùa hộ mệnh là chế tạo vật dụng cho triều đình, mấy chục lò gốm hình dáng như rồng nằm chung quanh trấn nhỏ, trong một đêm đều bị quan phủ buộc phải đóng cửa tắt lửa.

Trần Bình An bỏ nhánh đào mới bẻ kia xuống, thổi tắt nến, sau đó đi ra khỏi nhà, ngồi trên bậc thềm, ngẩng đầu nhìn trời sao lấp lánh.

Đến nay thiếu niên vẫn nhớ rõ, lão sư phụ chỉ chịu nhận mình làm nửa đồ đệ kia họ Diêu, vào sáng sớm cuối thu năm ngoái, bị người ta phát hiện ngồi trên một chiếc ghế trúc nhỏ nhìn về hướng lò gốm, mắt đã nhắm rồi.

Nhưng số người lâm vào bế tắc như lão Diêu chung quy cũng không nhiều.

Thợ thủ công trong trấn nhỏ nhiều đời chỉ biết nung gốm, đã không dám vượt quyền chế tạo cống phẩm triều đình, cũng không dám bán đồ gốm trong kho cho dân chúng, đành phải nhao nhao tìm đường khác.

Trần Bình An mười bốn tuổi cũng bị đuổi ra ngoài, sau khi trở lại ngõ Nê Bình thì tiếp tục trông coi ngôi nhà cũ đã rách nát từ lâu này, tình cảnh tiêu điều gần như chỉ còn bốn bức tường, cho dù hắn muốn làm kẻ phá của cũng không biết bắt đầu từ đâu.

Sống vật vờ như cô hồn dã quỷ một thời gian, thiếu niên thật sự không tìm được công việc kiếm ra tiền. Dựa vào một chút tích góp ít ỏi miễn cưỡng lấp đầy bụng. Mấy ngày trước nghe nói ở ngõ Kỵ Long cách đó mấy con đường, có một lão trợ rèn họ Nguyễn từ nơi khác đến, tuyên bố với bên ngoài muốn thu bảy tám học đồ làm nghề nguội, không trả tiền công nhưng sẽ bao cơm, Trần Bình An liền vội vàng chạy đến thử vận may.

Không ngờ ông lão chỉ liếc xéo hắn một cái đã từ chối ngoài cửa. Khi đó Trần Bình An nghi hoặc, chẳng lẽ công việc làm nghề nguội này không phải xem lực cánh tay lớn nhỏ, mà là xem tướng mạo tốt xấu?

Nên biết Trần Bình An mặc dù nhìn có vẻ yếu đuối nhưng sức lực không thể xem thường, đây là thân thể được rèn luyện từ những năm tháng thiếu niên nung gốm nặn phôi. Ngoài ra hắn còn theo ông lão họ Diêu chạy khắp núi sông trong phạm vi trăm dặm chung quanh trấn nhỏ, nếm đủ mùi vị của các loại đất đai khắp nơi, nhẫn nhục chịu khó, sẵn lòng làm bất cứ công việc dơ bẩn và mệt nhọc nào mà không hề do dự.

Đáng tiếc lão Diêu vẫn luôn không thích Trần Bình An, hiềm vì thiếu niên không có thiên phú, đầu óc chậm tiến không sáng suốt, kém xa đại đồ đệ Lưu Tiện Dương. Chuyện này cũng không trách được ông lão thiên vị, sư phụ nhận vào cửa, tu hành do cá nhân. Ví dụ cùng là việc nặn phôi khô khan nhàm chán, Lưu Tiện Dương chỉ tốn công sức nửa năm ngắn ngủi, đã ngang với trình độ của Trần Bình An vất vả ba năm.

Mặc dù cả đời chưa chắc đã dùng đến ngón nghề này, nhưng Trần Bình An vẫn giống như trước đây, nhắm mắt lại tưởng tượng trước người mình có đặt phiến đá xanh và trục quay, bắt đầu luyện tập nặn phôi, quen tay hay việc.

Đại khái cứ qua một khắc đồng hồ thì thiếu niên lại nghỉ ngơi một lúc, rung rung cổ tay, lặp lại như vậy nhiều lần cho đến khi cả người mệt mỏi rã rời. Lúc này Trần Bình An mới đứng dậy, vừa đi dạo trong sân vừa chậm rãi thư giãn gân cốt. Trước giờ không có ai dạy cho Trần Bình An những điều này, đây là phương pháp do hắn tự mày mò nghĩ ra.

Trong khung cảnh vốn đang yên tĩnh, Trần Bình An bỗng nghe được một tiếng cười nhạo chói tai. Hắn dừng bước, quả nhiên nhìn thấy tên bạn cùng lứa đang ngồi xổm trên đầu tường, nhếch miệng không hề che giấu vẻ khinh thường.

Tên này là hàng xóm lâu năm của Trần Bình An, nghe đâu là con riêng của đại nhân trông coi sản xuất tiền nhiệm. Vị đại nhân kia sợ thanh danh bị gièm pha, quan giám sát trong triều tố cáo, cho nên cuối cùng một mình trở lại kinh thành báo cáo công việc, giao đứa trẻ cho quan viên thay thế có quan hệ thân thiết giúp trông coi chiếu cố.

Hôm nay trấn nhỏ mất đi tư cách chế tạo đồ gốm cho triều đình một cách khó hiểu, vị đại nhân phụ trách giám sát công việc lò gốm thay triều đình còn khó giữ được mình, giống như Bồ Tát đất qua sông, nào còn chiếu cố được con riêng của quan lại đồng liêu. Ông ta chỉ để lại một chút tiền bạc rồi vội vã bất an chạy về kinh thành lo lót quan hệ.

Thiếu niên hàng xóm bất giác đã trở thành đứa trẻ bị bỏ rơi, nhưng cuộc sống vẫn an nhàn tự tại như trước, suốt ngày dẫn theo nha hoàn thiếp thân của mình dạo chơi trong ngoài trấn nhỏ, quanh năm suốt tháng chơi bời lêu lổng, cũng chưa từng ưu sầu về tiền bạc.

Tường viện bằng đất vàng của mọi nhà trong ngõ Nê Bình đều rất thấp, thực ra thiếu niên hàng xóm hoàn toàn không cần nhún chân cũng có thể nhìn thấy cảnh tượng bên sân kia, nhưng mỗi lần nói chuyện với Trần Bình An thì hắn đều thích ngồi xổm trên đầu tường.

So với tên gọi Trần Bình An thô thiển tầm thường, tên của thiếu niên hàng xóm lịch sự tao nhã hơn nhiều, gọi là Tống Tập Tân. Ngay cả tỳ nữ nương tựa với hắn cũng có một cái tên nho nhã, đó là Trĩ Khuê.

Lúc này thiếu nữ đang đứng ở bên kia tường viện, cô có một đôi mắt hạnh, trông có vẻ yếu đuối rụt rè.

Chỗ cửa viện bên kia có một giọng nói vang lên:

- Tỳ nữ này của ngươi có bán không?

Tống Tập Tân sững sốt, quay đầu nhìn theo giọng nói, trông thấy một thiếu niên áo gấm đang mỉm cười đứng ở ngoài viện, gương mặt hoàn toàn xa lạ.

Bên cạnh thiếu niên áo gấm có môt ông lão thân hình cao lớn đang đứng, dung nhan trắng nõn, sắc mặt hòa nhã, khẽ hí mắt quan sát thiếu niên thiếu nữ ở hai nhà sát nhau.

Ánh mắt của ông lão đảo qua Trần Bình An cũng không dừng lại, nhưng lại dừng trên người Tống Tập Tân và tỳ nữ, nụ cười dần rõ hơn.

Tống Tập Tân liếc mắt nói:

- Bán! Sao lại không bán!

Thiếu niên kia mỉm cười nói:

- Vậy ngươi nói giá đi.

Thiếu nữ trợn to mắt, vẻ mặt khó tin giống như một con nai nhỏ đang hoảng hốt.

Tống Tập Tân liếc mắt, đưa một ngón tay ra lắc lắc:

- Một vạn lượng bạc trắng!

Sắc mặt thiếu niên áo gấm vẫn như thường, gật đầu nói:

- Được.

Tống Tập Tân thấy dáng vẻ thiếu niên kia không giống như nói đùa, vội vàng đổi giọng nói:

- Là vạn lượng hoàng kim!

Khóe miệng thiếu niên áo gấm nhếch lên, nói:

- Đùa với ngươi thôi.

Sắc mặt Tống Tập Tân âm trầm.

Thiếu niên áo gấm không để ý tới Tống Tập Tân nữa, dời mắt nhìn về phía Trần Bình An:

- Hôm nay nhờ ngươi nên ta mới mua được con cá chép kia, sau khi mua về ta càng xem càng thích, thầm nghĩ nhất định phải ở trước mặt cám ơn ngươi một tiếng, cho nên đã bảo Ngô gia gia dẫn ta suốt đêm tới tìm ngươi.

Hắn ném một cái túi thêu nặng trĩu cho Trần Bình An, vẻ mặt tươi cười nói:

- Đây là đền đáp, xem như ngươi và ta không còn nợ nần gì nữa.

Trần Bình An vừa muốn nói chuyện, thiếu niên áo gấm đã xoay người rời đi.

Trần Bình An nhíu mày.

Ban ngày mình vô tình nhìn thấy một người trung niên xách theo giỏ cá đi trên đường, bắt được một con cá chép vàng ánh lớn cỡ bàn tay, giãy rất mạnh trong giỏ trúc. Trần Bình An chỉ liếc nhìn một cái đã cảm thấy rất thích, bèn mở lời hỏi xem có thể dùng mười đồng tiền mua nó hay không.

Người trung niên vốn chỉ muốn khao cái bụng của mình, trông thấy có cơ hội kiếm chác nên lập tức tăng giá, giống như sư tử há miệng lớn, đòi ba mươi đồng tiền mới chịu bán. Trần Bình An trong túi lép xẹp nào có nhiều tiền dư như vậy, nhưng thật sự luyến tiếc con cá chép vàng rực kia, cho nên thèm thuồng đi theo người trung niên liên tục cò kè, muốn hạ giá xuống mười lăm đồng, cho dù là hai mươi đồng cũng được.

Khi người trung niên có vẻ muốn chấp thuận, thiếu niên áo gấm và ông lão cao lớn vừa lúc đi qua, bọn họ không nói gì thêm đã dùng năm mươi đồng tiền mua con cá chép và giỏ cá. Trần Bình An chỉ có thể trơ mắt nhìn bọn họ nghênh ngang rời đi mà không làm gì được.

Nhìn chằm chằm theo bóng lưng càng lúc càng xa của hai ông cháu kia, Tống Tập Tân thu hồi ánh mắt hung tợn, nhảy xuống tường, dường như nhớ đến chuyện gì, nói với Trần Bình An:

- Ngươi còn nhớ con vật bốn chân vào tháng giêng không?

Trần Bình An gật đầu.

Làm sao không nhớ, ký ức quả thật vẫn còn mới mẻ.

Dựa theo phong tục lưu truyền mấy trăm năm của trấn nhỏ này, nếu có con vật thuộc loại rắn chui vào trong nhà mình là điềm tốt, chủ nhân tuyệt đối không nên xua đuổi hoặc giết chết nó.

Vào mùng một tháng giêng Tống Tập Tân đang ngồi ở ngưỡng cửa phơi nắng, bỗng có một con vật nhỏ thường được gọi là rắn mối lủi vào nhà ngay trước mắt hắn. Tống Tập Tân liền bắt lấy ném ra ngoài sân, không ngờ con rắn mối đã ngã lăn quay kia càng gặp khó thì càng lớn gan, tiếp tục muốn chui vào, khiến cho Tống Tập Tân vốn không tin quỷ thần bị chọc tức, trong cơn nóng giận đã ném nó vào sân của Trần Bình An. Ai ngờ hôm sau Tống Tập Tân tại nhìn thấy con rắn mối kia cuộn tròn nằm dưới gầm giường của mình.

Tống Tập Tân phát giác thiếu nữ đang kéo kéo tay áo của mình.

Thiếu niên và cô có một sự hiểu ngầm, lời đã ra đến miệng bất giác lại nuốt trở vào.

Hắn muốn nói là gần đây trên trán của con rắn mối vô cùng xấu xí kia lại gồ lên, giống như đỉnh đầu mọc sừng vậy.

Tống Tập Tân đổi sang câu khác nói:

- Tháng sau có thể ta và Trĩ Khuê phải rời khỏi nơi này rồi.

Trần Bình An thở dài:

- Đi đường cẩn thận.

Tống Tập Tân nửa thật nửa giả nói:

- Có vài món đồ ta chắc chắn không mang đi được, ngươi cũng đừng thừa lúc nhà ta không có ai mà táo tợn trộm đồ.

Trần Bình An lắc đầu.

Tống Tập Tân bỗng cười sằng sặc, dùng ngón tay chỉ vào Trần Bình An, cợt nhả nói:

- Nhát như chuột, chẳng trách người ta bảo là nhà nghèo hèn không thể sinh quý tử. Đừng nói là đời này nghèo khổ mặc cho người ta khi dễ, nói không chừng đời sau cũng trốn không thoát.

Trần Bình An im lặng không nói gì.

Từng người trở về nhà mình. Trần Bình An đóng cửa lại, nằm trên giường gỗ cứng rắn, thiếu niên bần hàn nhắm mắt nhỏ giọng rủ rì:

- Vỡ vỡ bình, tháng tháng an, vỡ vỡ bình an, tháng tháng bình an... (3)

......

(1) Kinh Trập còn được gọi là “Khải Trập”, là tiết thứ ba trong hai mươi bốn tiết của năm (như Lập Xuân, Thanh Minh, Đông Chí...), bắt đầu từ ngày 5 hoặc 6 cho đến 20 tháng 3 dương lịch.

(2) Rồng ngẩng đầu (mồng 2 tháng 2 âm lịch) còn được gọi là lễ Xuân Canh, lễ Nông Sự, lễ Thanh Long, lễ Xuân Long... là một ngày lễ dân gian truyền thống của Trung Quốc. “Rồng” là chỉ chòm sao Thanh Long (tên gọi chung của chòm bảy ngôi sao ở phía đông trong chòm Nhị Thập Bát Tú). Mỗi năm vào đầu tháng 2, “sao Long Giác” lại từ đường chân trời phía đông dâng lên, cho nên gọi là “rồng ngẩng đầu”.

(3) Vỡ vỡ bình an: câu nói thường dùng khi lỡ tay làm rơi vỡ đồ vật, nhằm cầu xin đây là một điềm lành.
 
[Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện
Chương 2 : Mở cổng


Trời vừa tảng sáng, gà còn chưa gáy thì Trần Bình An đã rời giường. Chăn đệm mỏng manh thật sự không giữ được hơi ấm, hơn nữa lúc hắn làm học đồ nung gốm đã tập thành thói quen dậy sớm ngủ muộn.

Trần Bình An mở cửa nhà, đi vào khoảng sân nhỏ đất đai mềm xốp, hít thở sâu một hơi, sau đó vươn eo đi ra khỏi viện. Lúc hắn quay đầu thì nhìn thấy một bóng dáng nhỏ bé và yếu ớt đang khom người, hai tay xách một thùng nước, dùng vai đẩy cửa viện của mình ra. Đó là tỳ nữ của Tống Tập Tân, chắc hẳn cô vừa múc nước từ giếng Thiết Tỏa bên ngõ Hạnh Hoa trở về.

Trần Bình An dời mắt đi, băng đường qua ngõ, chạy chầm chậm về phía đông trấn nhỏ. Ngõ Nê Bình nằm ở phía tây trấn nhỏ, cổng thành lại nằm ở ngoài cùng phía đông, có người phụ trách trông coi thương khách ra vào trấn nhỏ và tuần tra ban đêm, bình thường cũng thu nhận và chuyển giao một số thư từ bên ngoài gởi về.

Chuyện kế tiếp mà Trần Bình An cần làm là đưa những lá thư kia cho dân chúng trấn nhỏ, thù lao là một phong thư một đồng tiền, đây là phương pháp kiếm tiền mà hắn vất vả lắm mới xin được. Trần Bình An đã hẹn trước với bên kia, sau mồng hai tháng hai rồng ngẩng đầu thì sẽ bắt đầu tiếp nhận công việc này.

Theo như lời của Tống Tập Tân thì số mệnh trời sinh đã nghèo khổ, cho dù có phúc khí vào nhà thì Trần Bình An hắn cũng không giữ được.

Tống Tập Tân thường nói một số câu kỳ quặc, có lẽ là đọc được trong quyển sách nào đó, Trần Bình An luôn nghe không hiểu lắm. Chẳng hạn hai ngày trước nhắc tới chuyện đầu xuân se lạnh thiếu niên chết cóng gì đó, Trần Bình An hoàn toàn không hiểu.

Còn như hàng năm chịu đựng qua mùa đông, sau khi vào xuân sẽ có một khoảng thời gian còn lạnh hơn, thiếu niên đã tự mình trải nghiệm. Tống Tập Tân nói đó là rét mùa xuân, lợi hại giống như hồi mã thương trên sa trường vậy, cho nên rất nhiều người sẽ chết trước những cửa âm phủ này.

Trấn nhỏ cũng không có tường thành vây quanh, dù sao đừng nói là giặc cỏ cường đạo, ngay cả trộm cắp mọt nước cũng hiếm thấy. Cho nên trên danh nghĩa là cổng thành, thực ra chỉ là một hàng rào cũ kỹ xiêu vẹo, tùy tiện chừa một khoảng trống cho người đi đường và xe cộ thông qua, xem như là thể diện của trấn nhỏ này rồi.

Lúc Trần Bình An chạy chầm chậm qua ngõ Hạnh Hoa, trông thấy không ít phụ nữ và trẻ con đang tụ tập bên giếng Thiết Tỏa, guồng quay của giếng nước vẫn kêu cót két.

Lại vòng qua một con đường, Trần Bình An nghe được cách đó không xa vang lên tiếng đọc sách quen thuộc. Nơi đó có một ngôi trường làng do vài gia đình giàu có trong trấn nhỏ góp tiền thành lập, thầy giáo dạy học là người xứ khác.

Lúc Trần Bình An còn nhỏ thường chạy đến nấp bên ngoài cửa sổ, len lén ngồi xuống vểnh tai nghe ngóng. Vị thầy giáo kia mặc dù lúc dạy học cực kỳ nghiêm khắc, nhưng cũng không trách mắng ngăn cản những đứa trẻ “đọc lén học lỏm” như Trần Bình An. Sau đó Trần Bình An đến một lò gốm bên ngoài trấn nhỏ làm học đồ, cũng không tới trường học nữa.

Lại đi về phía trước, Trần Bình An đi qua một ngôi miếu thờ bằng đá. Do miếu thờ được xây dựng trên mười hai cột đá nên người bản xứ thích gọi nó là miếu thờ Con Cua.

Về tên thật của miếu thờ này, ý kiến của Tống Tập Tân và Lưu Tiện Dương rất khác nhau. Tống Tập Tân thề thốt rằng trong một quyển sách cũ tên là Địa Phương Huyện Chí, nơi này được gọi là miếu Đại Học Sĩ, là miếu thờ do hoàng đế lão gia ban tặng, nhằm để tưởng niệm một vị quan lớn trong lịch sử có đóng góp về cả chính trị lẫn quân sự.

Lưu Tiện Dương cũng quê mùa như Trần Bình An thì nói đây là miếu Con Cua, chúng ta đã gọi mấy trăm năm rồi, không có lý nào gọi nó là miếu Đại Học Sĩ vớ vẩn gì đó. Lưu Tiện Dương còn hỏi Tống Tập Tân một vấn đề, “mũ quan của đại học sĩ rốt cuộc lớn đến đâu, có phải còn lớn hơn miệng giếng Thiết Tỏa hay không”, khiến cho Tống Tập Tân mặt đỏ bừng.

Lúc này Trần Bình An chạy một vòng quanh mười hai chân miếu thờ, mỗi mặt đều có bốn chữ to, kiểu chữ kỳ quái không hề giống nhau, phân biệt là “Đương Nhân Bất Nhượng”, “Hi Ngôn Tự Nhiên”, “Mạc Hướng Ngoại Cầu” và “Khí Xung Đấu Ngưu” (1). Nghe Tống Tập Tân nói ngoại trừ bốn chữ nào đó được giữ nguyên, ba tấm biển khắc đá còn lại đều từng bị bôi xóa sửa đổi.

Trần Bình An mù mờ về những chuyện này, chưa từng suy nghĩ xa hơn. Đương nhiên cho dù thiếu niên muốn truy xét ngọn nguồn cũng chỉ phí công, hắn còn không biết quyền Địa Phương Huyện Chí mà Tống Tập Tân thường nói rốt cuộc là sách gì.

Đi qua miếu thờ không xa, rất nhanh nhìn thấy một cây cây hòe già cành lá tươi tốt, phía dưới có một khúc cây không biết do ai chuyển đến đây, sau khi đẽo gọt một chút thì lót hai phiến đá xanh bên dưới hai đầu, thế là khúc cây lớn này đã trở thành băng ghế dài đơn giản.

Hàng năm đến hè dân chúng trấn nhỏ đều thích tới đây hóng mát, trưởng bối của những gia đình giàu có còn vớt một giỏ trái cây ướp lạnh từ trong giếng nước ra, bọn trẻ ăn uống no say rồi lập nhóm chơi đùa dưới bóng cây.

Trần Bình An đã quen lên núi xuống nước, chạy đến gần cổng rào thì dừng lại trước cửa một căn nhà bằng đất vàng trơ trọi, tim không đập nhanh cũng không thở dốc.

Người bên ngoài lui tới trấn nhỏ không nhiều, theo lý hôm nay cây tiền lò gốm triều đình này đã ngã xuống thì càng sẽ không có những gương mặt mới.

Lúc lão Diêu còn tại thế từng có lần uống say, nói với những đồ đệ như Trần Bình An và Lưu Tiện Dương, lò gốm của chúng ta là độc nhất trên đời, là nơi sản xuất đồ dùng cho hoàng đế bệ hạ và hoàng hậu nương nương, dân chúng khác cho dù có tiền, cho dù làm quan lớn đến đâu, nếu cả gan đụng vào đều sẽ bị chém đầu. Ngày đó tinh khí thần của lão Diêu hoàn toàn khác biệt.

Hôm nay Trần Bình An nhìn ra ngoài hàng rào lại phát hiện có rất nhiều người đang chờ mở cổng thành, phải đến bảy tám người, nam nữ già trẻ đều có.

Hơn nữa bọn họ đều là người xa lạ. Dân chúng bản địa ở trấn nhỏ ra ra vào vào, dù là đi nung gốm hay trồng trọt đều rất ít khi đi cửa đông. Lý do rất đơn giản, con đường từ cửa đông trấn nhỏ dẫn ra ngoài không có lò gốm và ruộng đồng nào.

Lúc này Trần Bình An và những người xứ khác kia cách nhau một hàng rào gỗ, hai bên nhìn nhau.

Tại giây phút đó, thiếu niên mang giày cỏ tự bện chỉ thấy hâm mộ áo quần dày cộm của những người kia, chắc hẳn là rất ấm áp, có thể chịu lạnh được.

Những người ngoài cổng kia rõ ràng chia làm mấy tốp, cũng không phải cùng một nhóm, nhưng đều nhìn về phía thiếu niên gầy gò trong cổng. Phần lớn bọn họ sắc mặt hờ hững, ngẫu nhiên có một hai người ánh mắt đã sớm vượt qua bóng dáng của thiếu niên, nhìn về nơi xa hơn trong trấn nhỏ.

Trần Bình An cảm thấy kỳ quái, chẳng lẽ những người này còn không biết triều đình đã đóng cửa tất cả lò gốm? Hay chính vì bọn họ đã biết chân tướng, cho nên cảm thấy có cơ hội kiếm chác?

Có một người trẻ tuổi đầu đội mũ cao kỳ lạ, vóc dáng cao gầy, bên hông đeo một miếng ngọc bội xanh lá. Hắn dường như không kiên nhẫn chờ đợi được nữa, một mình đi ra khỏi đám người, muốn đẩy cửa lớn hàng rào vốn không có khóa. Nhưng khi ngón tay sắp chạm đến cửa gỗ thì hắn đột nhiên dừng lại, chậm rãi thu tay, hai tay chắp ở sau người, cười híp mắt nhìn về phía thiếu niên giày cỏ trong cửa, chỉ cười chứ không nói gì.

Khóe mắt Trần Bình An vô tình phát giác những người đứng sau lưng người trẻ tuổi kia, dường như có người thất vọng, có người nghiền ngẫm, có người cau mày, có người chế giễu, tâm tình nhỏ bé của mỗi người đều không giống nhau.

Ngay lúc này một người đàn ông trung niên đầu tóc rối bời đột nhiên mở cửa, nói kháy với Trần Bình An:

- Thằng ranh con này, có phải bị tiền làm mờ mắt rồi không? Sớm như vậy đã tới gọi hồn đòi mạng, ngươi vội đi đầu thai gặp cha mẹ đã chết của ngươi à?

Trần Bình An trợn trắng mắt, cũng không để ý tới những lời lẽ chua ngoa này. Thứ nhất là sống ở nơi nông thôn không có được mấy quyển sách này, nếu bị người khác mắng mấy câu đã nổi nóng, vậy nên dứt khoát tìm một cái giếng nhảy xuống cho đỡ rườm rà. Thứ hai tên trung niên độc thân giữ cửa này vốn là đối tượng thường bị dân chúng trấn nhỏ giễu cợt trêu đùa, nhất là đám phụ nữ gan lớn chua ngoa kia, đừng nói mắng suông mà còn có không ít người ra tay đánh hắn.

Ngoài ra tên này rất thích khoác lác với đám trẻ còn mặc quần yếm, chẳng hạn như năm xưa ông đây chém giết một trận ở cổng thành, đánh cho năm sáu gã đàn ông răng rơi đầy đất, máu chảy khắp nơi, cả con đường rộng hai trượng trước cổng thành đều lầy lội giống như trời mưa vậy.

Hắn bực bội nói với Trần Bình An:

- Cái chuyện cỏn con của ngươi đợi lát nữa hãy nói.

Trong trấn nhỏ không ai quan tâm đến tên này.

Nhưng người xứ khác có thể vào trấn nhỏ hay không lại do người đàn ông này quyết định.

Hắn vừa đi về phía cổng hàng rào gỗ vừa đưa tay móc đũng quần.

Sau khi tên đàn ông quay lưng về phía Trần Bình An này mở cửa, thường thu của người khác một cái túi thêu nhỏ bỏ vào ống tay áo của mình, sau đó lần lượt cho qua.

Trần Bình An đã sớm nhường ra một con đường. Tám người đại khái chia làm năm tốp đi về hướng trấn nhỏ, ngoại trừ người trẻ tuổi đầu đội mũ cao, hông đeo ngọc bội xanh lá kia, còn có hai đứa trẻ bảy tám tuổi lần lượt đi qua. Bé trai mặc một bộ áo choàng màu đỏ tươi tắn, bé gái thì da dẻ trắng nõn như đồ sứ thượng hạng vậy.

Bé trai thấp hơn Trần Bình An nửa cái đầu, lúc đứa bé đi sát qua người hắn còn há miệng, mặc dù không phát ra âm thanh nhưng có khẩu hình rõ ràng, chắc là đã nói hai chữ, vẻ mặt đầy khiêu khích.

Vị phu nhân trung niên dắt theo bé trai khẽ hắng giọng, lúc này đứa bé mới thu liễm một chút.

Bé gái đi phía sau vị phu nhân và bé trai, cô được một ông lão cường tráng đầu tóc bạc trắng dắt theo. Cô bé quay đầu nói một tràng với Trần Bình An, không quên chỉ chỉ trỏ trỏ vào đứa bé trai cùng lứa đi phía trước.

Trần Bình An không hiểu cô bé đang nói gì, nhưng có thể đoán ra là cô đang tố cáo.

Ông lão cường tráng liếc nhìn thiếu niên giày cỏ một cái.

Chỉ là bị người khác cố tình hay vô ý nhìn một cái, Trần Bình An đơn thuần theo bản năng lui về sau một bước.

Giống như chuột nhìn thấy mèo.

Sau khi thấy cảnh này, cô bé vốn líu ríu như một con chim sẻ nhỏ cũng không có hứng thú châm dầu vào lửa nữa, quay đầu đi không nhìn Trần Bình An thêm cái nào, giống như nhìn thêm sẽ làm bẩn mắt của mình vậy.

Thiếu niên Trần Bình An quả thật chưa thấy việc đời, nhưng không có nghĩa là không biết nhìn sắc mặt.

Đợi đến khi đám người này đi xa, tên đàn ông giữ cửa cười hỏi:

- Có muốn biết bọn họ nói gì không?

Trần Bình An gật đầu đáp:

- Muốn.

Trung niên độc thân kia vui vẻ, cười hì hì nói:

- Khen ngươi vẻ ngoài đẹp trai, đều là lời khen cả.

Khóe miệng Trần Bình An giật giật, nghĩ thầm ông xem tôi là thằng ngốc à?

Người đàn ông kia nhìn thấu tâm tư của thiếu niên, càng cười vui vẻ hơn:

- Nếu như ngươi không ngốc, ông đây có thể để ngươi đưa thư sao?

Trần Bình An không dám phản bác, chỉ lo chọc giận tên này thì đồng tiền sắp đến tay lại bay đi mất.

Người đàn ông quay đầu sang nhìn về phía những người kia, đưa tay vuốt cằm râu ria xồm xoàm, thấp giọng tấm tắc nói:

- Cặp chân của bà cô vừa rồi có thể kẹp chết người đấy.

Trần Bình An do dự một lúc, hiếu kỳ hỏi:

- Vị phu nhân kia từng luyện võ sao?

Người đàn ông ngạc nhiên, cúi đầu nhìn thiếu niên, nghiêm túc nói:

- Thằng nhóc ngươi đúng là ngốc thật sự.

Thiếu niên không hiểu gì cả.

Hắn bảo Trần Bình An chờ, bước nhanh vào nhà, sau khi trở ra thì trong tay có thêm một xấp thư, không dày không mỏng khoảng chừng mười phong. Sau khi hắn đưa cho Trần Bình An thì hỏi:

- Kẻ ngốc có phúc ngốc, người tốt có báo tốt. Ngươi có tin không?

Một tay Trần Bình An cầm thư, bàn tay còn lại mở ra, chớp chớp mắt:

- Đã thỏa thuận trước là một phong thư một đồng tiền.

Người đàn ông kia thẹn quá hóa giận, cầm năm đồng tiền đã chuẩn bị trước đập mạnh vào lòng bàn tay thiếu niên, sau đó vung tay lên khí thế hào hùng nói:

- Còn lại năm đồng cho thiếu đi!

---------

(1) Đương nhân bất nhượng: làm việc nhân đức không nhường người khác.

Hi ngôn tự nhiên: đạo chân chính luôn vận hành tự nhiên chứ không cần nhiều lời, khuyên giới cầm quyền nên ít ra sắc lệnh cưỡng chế quấy nhiễu dân.

Mạc hướng ngoại cầu: không nên cầu đạo bên ngoài, khuyên mọi người phán đoán đúng sai nên dựa vào lương tri chứ không phải sự vật bên ngoài.

Khí xung Đấu Ngưu: khí thế giống như lên đến sao Đấu và sao Ngưu, chỉ khí thế ngút trời.
 
[Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện
Chương 3 : Mặt trời mọc


Trấn này không lớn không nhỏ, hơn sáu trăm hộ gia đình. Trần Bình An nhận biết phần lớn gia đình nghèo khổ trong trấn, còn những gia đình giàu có của cải sung túc thì ngưỡng cửa quá cao, thiếu niên chân đất không đi vào được.

Thậm chí Trần Bình An còn chưa từng đặt chân đến những con ngõ rộng rãi nơi một số gia đình giàu có tụ tập. Con đường bên kia được lót bằng nhiều phiến đá xanh lớn, trời mưa cũng sẽ không đạp văng bùn lầy tung tóe. Trải qua người ngựa xe cộ giẫm đạp nghiền ép trăm ngàn năm, những phiến đá xanh phẩm chất cực tốt đó từ lâu đã được mài phẳng nhẵn bóng như gương.

Bốn họ Lư, Lý, Triệu, Tống là họ lớn trong trấn nhỏ, trường làng cũng là do mấy nhà này bỏ tiền thành lập, hầu hết đều sở hữu hai ba lò gốm lớn bên ngoài thành. Dinh thự của các đời quan giám sát lò gốm đều nằm cùng một con đường với mấy gia đình này.

Không khéo là mười phong thư mà Trần Bình An phải đưa hôm nay, gần như đều của những gia đình xa hoa nổi tiếng trong trấn nhỏ, điều này cũng rất hợp tình hợp lý. Rồng sinh rồng, phượng sinh phượng, chuột sinh con thì đào hang, người xa quê có thể gởi thư về nhà thì chắc chắn gia thế không tệ, nếu không cũng sẽ không có khả năng rời nhà đi xa.

Thực ra Trần Bình An chỉ cần đi đến hai nơi là đường Phúc Lộc và ngõ Đào Diệp để giao chín phong thư trong đó. Khi lần đầu tiên đạp lên phiến đá xanh lớn như ván giường, thiếu niên hơi thấp thỏm, bước chân chậm đi, lại có phần tự ti, không kìm được cảm thấy giày cỏ của mình làm bẩn mặt đường.

Phong thư đầu tiên Trần Bình An giao là của Lư gia, tổ tiên của gia tộc này từng nhận được ngọc như ý do hoàng đế ban tặng, khi thiếu niên đứng ở cửa thì càng lo lắng bất an.

Gia đình có tiền rất chú ý sự sang trọng, không cần nói đến nhà của Lư gia, nơi cửa đặt hai pho tương sư tử bằng đá cao ngang người, khí thế càng ép người. Tống Tập Tân nói thứ này có thể tránh hung trấn tà, Trần Bình An thì không rõ cái gì là hung tà, chỉ tò mò vì trong miệng sư tử cao ngang người hình như còn ngậm một quả cầu đá tròn quay, làm thế nào điêu khắc được như vậy?

Trần Bình An cố nén xung động muốn đi đến chạm vào quả cầu đá, bước lên bậc thang, gõ vang vòng cửa hình sư tử bằng đồng thau. Rất nhanh có một người trẻ tuổi mở cửa bước ra, vừa nghe nói là đến để đưa thư, vẻ mặt người nọ không biểu cảm, dùng hai ngón tay kẹp một góc phong thư. Sau khi cầm lấy phong thư kia thì xoay người bước nhanh vào trong nhà, dóng sập cánh cửa lớn có dán hình thần tài vẽ màu.

Sau đó quá trình đưa thư của thiếu niên cũng bình thường như vậy. Góc đường ngõ Đào Diệp có một hộ gia đình không nổi tiếng, người mở cửa là một cụ già thấp bé mặt mày hiền hậu, sau khi nhận thư bèn cười nói một câu:

- Chàng trai, vất vả rồi, có muốn vào nghỉ ngơi một chút, uống ngụm nước ấm không?

Thiếu niên cười ngượng ngùng, lắc đầu chạy đi.

Cụ già nhẹ nhàng bỏ phong thư kia vào tay áo, cũng không vội trở vào nhà mà ngẩng đầu nhìn về phương xa, ánh mắt đục ngầu.

Sau cùng ánh mắt nhìn chăm chú vào cây đào hai bên đường, từ cao đến thấp, từ xa đến gần, lúc này cụ già bề ngoài hom hem lẩm cẩm mới nở một nụ cười.

Cụ già xoay người rời đi.

Không lâu sau một con chim sẻ nhỏ màu sắc đáng yêu đậu trên đầu cành đào, chiếc mỏ như còn non nớt hót vang khe khẽ.

Phong thư chừa đến cuối cùng Trần Bình An phải đưa cho thầy giáo dạy học ở trường làng, trên đường đi ngang qua một gian hàng coi bói. Một đạo sĩ trẻ tuổi mặc đạo bào cũ kỹ lưng thẳng tắp trấn giữ sau bàn, đầu đội mũ cao giống như một đóa hoa sen nở rộ.

Đạo nhân trẻ tuổi thấy thiếu niên chạy qua, vội vàng mời chào:

- Anh bạn trẻ, đi qua thì đừng bỏ lỡ, tới rút một thẻ xăm. Bần đạo giúp cậu đoán một quẻ, có thể biết trước lành dữ họa phúc.

Trần Bình An không dừng bước, nhưng vẫn quay đầu sang xua xua tay.

Đạo nhân vẫn chưa hết hi vọng, nghiêng người về phía trước nói lớn:

- Anh bạn trẻ, trước kia bần đạo giải xăm cho người khác phải thu mười đồng tiền, hôm nay phá lệ chỉ lấy cậu ba đồng! Đương nhiên nếu rút ra xăm thượng thì cậu đừng ngại cho thêm một đồng tiền mừng, nếu vận may rơi xuống ra xăm thượng thượng thì bần đạo cũng chỉ thu của cậu năm đồng, thế nào?

Bước chân Trần Bình An ở phía xa rõ ràng hơi chậm lại. Đạo nhân trẻ tuổi vội vàng đứng dậy, tranh thủ thời cơ lớn tiếng nói:

- Vừa mới sáng sớm, anh bạn trẻ đây là vị khách đầu tiên. Bần đạo dứt khoát làm người tốt đến cùng, chỉ cần cậu ngồi xuống rút xăm, thực không dám giấu, bần đạo sẽ vẽ một ít lá bùa giấy vàng, có thể giúp cậu cầu phúc tích góp âm đức cho tổ tiên. Với bản lĩnh của bần đạo, không dám đảm bảo khiến cho người ta đầu thai vào nhà giàu sang phú quý, nhưng nếu muốn nhiều thêm vài phần phúc đức báo ứng thì vẫn nên thử một lần.

Trần Bình An ngẩn người, nửa tin nửa ngờ xoay người trở lại, ngồi lên ghế dài phía trước gian hàng.

Một đạo sĩ giản dị và một thiếu niên mộc mạc, hai kẻ lớn nhỏ nghèo rớt mồng tơi ngồi đối diện với nhau.

Đạo nhân mỉm cười vươn tay, ra hiệu cho thiếu niên cầm ống xăm lên.

Trần Bình An do dự, đột nhiên hỏi:

- Tôi không rút xăm, ông giúp tôi vẽ một lá bùa giấy vàng thôi có được không?

Trong trí nhớ của Trần Bình An, hình như vị đạo gia trẻ tuổi ngao du đến trấn nhỏ này đã ở lại ít nhất năm sáu năm rồi, dáng vẻ lại không hề thay đổi, gặp người nào cũng ôn hoà điềm đạm, ngày thường giúp người khác sờ xương xem tướng, tính quẻ rút xăm, thỉnh thoảng cũng giúp viết thư nhà.

Điều thú vị là ống xăm trên bàn kia có một trăm lẻ tám thẻ xăm bằng trúc, qua nhiều năm như vậy, nam nữ trong trấn nhỏ đến rút xăm lại không ai rút được xăm thượng thượng, cũng không ai lắc ra một thẻ xăm hạ từ trong ống, giống như cả một trăm lẻ tám thẻ xăm đều là trung thượng chứ không có xăm xấu.

Cho nên vào dịp lễ tết vì muốn cầu may mắn, dân chúng trong trấn nhỏ cũng có thể chấp nhận tốn mười đồng tiền. Nếu thật sự gặp phải chuyện phiền lòng, chắc chắn sẽ không ai muốn tới nơi này tiêu xài hoang phí.

Nếu nói vị đạo sĩ này hoàn toàn là một tay lường gạt cũng oan uổng cho người ta, trấn lớn như vậy, nếu quả thật chỉ biết giả thần giả quỷ, lừa đảo bịp bợm thì đã sớm bị đuổi ra ngoài rồi. Cho nên nói bản lĩnh của vị đạo nhân trẻ tuổi này chắc chắn không nằm ở hai chuyện xem tướng và giải xăm. Có rất nhiều người mắc vài bệnh nhỏ, chỉ cần uống một chén nước bùa của đạo nhân là có thể nhanh chóng khỏi bệnh, khá là linh nghiệm.

Đạo nhân trẻ tuổi lắc đầu nói:

- Bần đạo làm việc không lừa gạt người già hay trẻ con, đã nói trước là giải xăm cộng thêm vẽ bùa sẽ thu của cậu năm đồng tiền.

Trần Bình An thấp giọng phản bác:

- Là ba đồng.

Đạo nhân cười ha hả nói:

- Ngộ nhỡ rút ra xăm thượng thượng, chẳng phải là năm đồng sao.

Trần Bình An hạ quyết tâm đưa tay cầm lấy ống xăm, bỗng nhiên lại ngẩng đầu hỏi:

- Đạo trưởng làm sao biết trên người ta vừa vặn có năm đồng tiền?

Đạo nhân ngồi ngay ngắn:

- Bần đạo nhìn người phúc khí dày mỏng, tài vận nhiều ít luôn rất chuẩn xác.

Trần Bình An suy nghĩ một lúc, cầm ống xăm kia lên.

Đạo nhân mỉm cười nói:

- Anh bạn trẻ, không cần khẩn trương, cái số đã có thì cuối cùng sẽ có, cái số không có thì đừng nên cưỡng cầu, dùng tấm lòng bình thường đối đãi với chuyện vô thường chính là cách vẹn toàn tốt nhất.

Trần Bình An lại bỏ ống xăm xuống bàn, vẻ mặt trịnh trọng hỏi:

- Đạo trưởng, tôi đưa cả năm đồng tiền cho ông, cũng không rút xăm nữa, chỉ xin đạo trưởng vẽ lá bùa giấy vàng kia tốt hơn bình thường một chút, được không?

Đạo nhân vẫn tươi cười, suy nghĩ một lúc rồi gật đầu nói:

- Được.

Trên bàn bút mực nghiên giấy đã sẵn sàng, đạo nhân cẩn thận hỏi thăm tên họ quê quán ngày sinh của cha mẹ Trần Bình An, sau đó rút một lá bùa màu vàng ra, nhanh chóng vẽ xong một cách gọn gàng lưu loát.

Còn như vẽ cái gì thì Trần Bình An hoàn toàn mù tịt.

Đạo nhân trẻ tuổi đặt bút xuống, cầm lá bùa kia lên, thổi thổi nét mực:

- Sau khi cầm về nhà, cậu đứng ở trong ngưỡng cửa, đốt giấy vàng ở bên ngoài ngưỡng cửa là được rồi.

Thiếu niên trịnh trọng cầm lấy lá bùa kia, cẩn thận cất vào như cất vật quý, không quên đặt năm đồng tiền lên bàn, cúi người cảm ơn.

Đạo nhân trẻ tuổi phất phất tay, ra hiệu cho thiếu niên tiếp tục làm chuyện của mình.

Trần Bình An vội vàng chạy đi đưa phong thư cuối cùng.

Đạo nhân uể oải dựa vào ghế, liếc nhìn mấy đồng tiền, khom lưng đưa tay quơ chúng đến trước người.

Ngay lúc này một con chim sẻ xinh xắn hoạt bát từ trời cao bay nhào xuống mặt bàn, mổ nhẹ vào một đồng tiền, sau đó nhanh chóng mất hứng, rung cánh bay đi xa.

- Chim sẻ muốn đến ngậm đóa hoa, nhà anh trồng đào còn chưa nở.

Đạo nhân thong thả đọc xong câu thơ này, sau đó khẽ vung tay áo ra vẻ tiêu sái, thở dài nói:

- Số mệnh tám thước đừng cầu một trượng. (1)

Tay áo vừa vung lên thì có hai thẻ xăm bằng trúc từ bên trong trượt xuống, rơi trên mặt đất. Đạo nhân kêu một tiếng “ôi chao”, vội vàng nhặt lên. Sau đó lén lút nhìn xung quanh, phát hiện tạm thời không có ai để ý bên này mới giống như trút được gánh nặng, lại cầm hai thẻ xăm bằng trúc kia giấu vào trong ống tay áo rộng.

Đạo nhân trẻ tuổi hắng giọng một tiếng, nghiêm mặt lại, tiếp tục ôm cây đợi thỏ chờ vị khách kế tiếp.

Hắn có phần cảm khái, quả nhiên kiếm tiền của nữ nhân vẫn dễ dàng hơn.

Thực ra trong tay áo đạo nhân trẻ tuổi giấu hai thẻ xăm bằng trúc, một thẻ là xăm thượng thượng còn một thẻ là xăm hạ hạ, đều dùng để kiếm nhiều tiền hơn.

Không thể để người ngoài biết được.

Thiếu niên dĩ nhiên không biết những huyền cơ ảo diệu này, bước chân ung dung đi đến bên ngoài ngôi trường làng kia, gần đó là rừng trúc um tùm, xanh tươi ướt át.

Trần Bình An đi chậm lại. Trong nhà vang lên giọng nói thuần hậu của người trung niên:

- Mặt trời chiếu rọi, lông cừu nhẵn bóng.

Sau đó là những giọng nói non nớt trong trẻo vang lên một cách chỉnh tề:

- Mặt trời chiếu rọi, lông cừu nhẵn bóng.

Trần Bình An ngẩng đầu nhìn, trông thấy mặt trời vừa mọc ở phía đông, huy hoàng rộng lớn.

Thiếu niên nhìn đến xuất thần.

Chờ hắn khôi phục tinh thần lại, đám trẻ học vỡ lòng đang gật gù đắc ý, thành thạo đọc thuộc lòng một đoạn văn theo yêu cầu của thầy giáo:

- Vào lễ Kinh Trập, trời đất sinh sôi, vạn vật phồn vinh. Ngủ sớm dậy sớm, dạo bước trong sân, quân tử chầm chậm, thích ứng tự nhiên...

Trần Bình An đứng ở cửa lớp, muốn nói lại thôi.

Nho sĩ trung niên tóc mai pha sương quay đầu nhìn lại, nhẹ nhàng đi ra khỏi lớp.

Trần Bình An dùng hai tay đưa thư tới, cung kính nói:

- Đây là thư của tiên sinh.

Người đàn ông cao lớn mặc áo xanh cầm lấy phong thư, sau đó ôn hòa nói:

- Về sau lúc rảnh rỗi ngươi có thể đến nơi này dự thính.

Trần Bình An hơi khó xử, dù sao hắn chưa chắc đã có thời gian tới đây nghe vị thầy giáo này dạy học, thiếu niên không muốn lừa gạt ông ta.

Người đàn ông kia cười cười, hiểu ý nói:

- Không sao, đạo lý đều ở trong sách, làm người lại ở ngoài sách. Ngươi cứ làm việc đi.

Trần Bình An thở phào một hơi, cáo từ rời đi.

Sau khi thiếu niên chạy đi rất xa, ma xui quỷ khiến thế nào bỗng quay đầu nhìn lại.

Hắn trông thấy vị tiên sinh kia vẫn đứng ở cửa, bóng dáng đắm chìm trong ánh mặt trời, nhìn từ xa giống như thần tiên.

---------

(1) Một thước Trung Quốc bằng 1/3 mét, một trượng bằng 10 thước tương đương với 3,3 mét.
 
[Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện
Chương 4 : Chim sẻ


Nếu không đi qua đường Phúc Lộc hay ngõ Đào Diệp, có thể cả đời này Trần Bình An cũng không nhận ra được sự tối tăm chật hẹp của ngõ Nê Bình. Nhưng thiếu niên giày cỏ chẳng những không có cảm giác mất mát, ngược lại cuối cùng cảm thấy an lòng.

Hắn mỉm cười đưa hai tay ra, vừa khéo lòng bàn tay chạm vào vách tường bằng đất vàng hai lần. Nhớ lại khoảng ba bốn năm trước, hắn chỉ có thể dùng đầu ngón tay chạm đến tường đất mà thôi.

Đi đến trước nhà mình, phát hiện cửa viện mở rộng, Trần Bình An tưởng rằng bị trộm nên vội vàng chạy vào trong. Kết quả nhìn thấy một thiếu niên cao lớn đang ngồi trên ngưỡng cửa, dựa lưng vào cửa nhà bị khóa, tâm trạng buồn chán ngáp ngắn ngáp dài.

Sau khi nhìn thấy Trần Bình An, hắn lập tức đứng dậy giống như mông bị lửa đốt, chạy đến trước người Trần Bình An, nắm chặt lấy cánh tay đối phương kéo về phía cửa, thấp giọng nói:

- Mau mở cửa, có chuyện quan trọng muốn nói với ngươi!

Trần Bình An không thể giãy thoát khỏi tay tên này, đành phải để hắn kéo đến mở cửa nhà. Thiếu niên cường tráng lớn hơn hai tuổi nhanh chóng bỏ Trần Bình An ra, rón ra rón rén mò lên giường gỗ của Trần Bình An, ghé chặt tai vào tường nghe ngóng động tĩnh ở sát vách.

Trần Bình An hiếu kỳ hỏi:

- Lưu Tiện Dương, ngươi đang làm gì vậy?

Thiếu niên cao lớn nghe được câu hỏi của Trần Bình An vẫn nhắm mắt làm ngơ, sau khoảng nửa nén nhang thì Lưu Tiện Dương khôi phục bình thường, ngồi bên mép giường gỗ, sắc mặt phức tạp, có vẻ thư thái cũng có vẻ nuối tiếc.

Lúc này Lưu Tiện Dương mới phát hiện Trần Bình An đang làm một chuyện kỳ lạ, ngồi xổm ở trong cửa, thân thể nghiêng ra bên ngoài, dùng một khúc nến chỉ còn lại chừng ngón cái đốt cháy một tờ giấy vàng, tro tàn đều rơi bên ngoài ngưỡng cửa. Dường như Trần Bình An còn liên tục lẩm bẩm, có điều cách hơi xa nên Lưu Tiện Dương nghe không rõ ràng.

Lưu Tiện Dương là đệ tử thân truyền của lão Diêu ở một lò gốm lâu đời, còn về Trần Bình An tư chất đần độn, ông lão từ đầu đền cuối vẫn không thật sự thu nhận tên đồ đệ này. Tại bản địa nếu như đồ đệ không dâng trà bái sư, hoặc sư phụ không uống ly trà kia thì chẳng khác nào không có danh phận thầy trò.

Trần Bình An và Lưu Tiện Dương không phải là hàng xóm, nhà tổ hai bên cách nhau rất xa. Khi đó sở dĩ Lưu Tiện Dương giới thiệu Trần Bình An cho lão Diêu, là do hai thiếu niên từng có một đoạn ân oán năm xưa.

Lưu Tiện Dương từng là thiếu niên ngỗ nghịch nổi danh trấn nhỏ, trước khi ông nội qua đời thì trong nhà dù sao cũng còn một trưởng bối quản thúc. Sau khi ông nội hắn bị bệnh qua đời, thiếu niên mười hai mười ba tuổi đã cao lớn không kém gì thanh niên trai tráng, trở thành ma vương quậy phá khiến hàng xóm láng giềng đều đau đầu.

Về sau chẳng biết vì sao Lưu Tiện Dương lại chọc giận một đám con cháu Lư gia, kết quả bị người ta chặn đường trong ngõ Nê Bình đánh cho một trận bầm dập. Đối phương đều là thiếu niên đang trong thời kỳ bốc đồng, ra tay không hề tính toán nặng nhẹ, Lưu Tiện Dương nhanh chóng bị đánh cho liên tục nôn ra máu. Hơn mười hộ gia đình ở ngõ Nê Bình phần lớn là thợ cấp thấp làm việc ở lò gốm nhỏ để kiếm cơm ăn, nào dám nhúng tay vào vũng nước đục này.

Khi đó Tống Tập Tân hoàn toàn không sợ, ngược lại còn thích thú ngồi xổm trên đầu tường xem náo nhiệt, chỉ lo thiên hạ không loạn.

Đến cuối cùng chỉ có một đứa trẻ gầy như que củi lén lút chuồn ra sau viện, chạy đến đầu ngõ nhìn ra đường cái hô lớn:

- Chết người rồi, chết người rồi...

Nghe được hai chữ “chết người”, lúc này đám con cháu Lư gia mới giật mình bừng tỉnh. Trông thấy Lưu Tiện Dương nằm dưới đất khắp người đầy vết máu, thiếu niên cao lớn chỉ còn thoi thóp một hơi, đám con cháu nhà giàu chưa thành niên kia cuối cùng cảm thấy sợ hãi, đưa mắt nhìn nhau rồi bỏ chạy về đầu bên kia ngõ Nê Bình.

Nhưng sau đó Lưu Tiện Dương chẳng những không cảm kích đứa trẻ cứu mạng mình, ngược lại thường tới bên này trêu chọc đùa giỡn. Đứa trẻ mồ côi kia cũng ương ngạnh, mặc kệ Lưu Tiện Dương ức hiếp thế nào cũng không chịu khóc, khiến cho hắn càng phẫn uất.

Thế nhưng có một năm sau này, Lưu Tiện Dương thấy cô nhi nhỏ họ Trần kia đoán chừng không qua nổi mùa đông, cuối cùng lương tâm trỗi dậy. Hắn đã bái sư học nghề làm gốm, bèn dẫn theo cô nhi đi đến lò gốm nằm ở bên khe suối.

Ra khỏi trấn nhỏ đi về hướng tây mười mấy dặm đường núi giữa trời tuyết lớn, đến bây giờ Lưu Tiện Dương vẫn không hiểu được thằng nhóc dáng dấp như than củi, cặp chân rõ ràng nhỏ như cây sào tre kia làm thế nào đi tới lò gốm được?

Có điều mặc dù lão Diêu cuối cùng vẫn giữ Trần Bình An lại, nhưng đối xử với hai người lại khác biệt một trời một vực. Tuy rằng cũng đánh cũng mắng đệ tử thân truyền Lưu Tiện Dương, nhưng người mù cũng cảm nhận được tâm tư hao phí trong đó.

Chẳng hạn có lần đánh hơi nặng tay khiến cho trán Lưu Tiện Dương rỉ máu, thiếu niên da thô thịt dày không cảm thấy gì, nhưng lão Diêu làm sư phụ lại rất hối hận. Ông lão khó đoán này đã quen tỏ ra uy nghiêm trước mặt đồ đệ, vì ngại mặt mũi nên không tiện nói gì, kết quả đi lòng vòng trong phòng mình hơn nửa đêm vẫn không yên lòng về Lưu Tiện Dương, cuối cùng đành phải gọi Trần Bình An tới đưa cho Lưu Tiện Dương một bình thuốc bôi.

Nhiều năm như vậy Trần Bình An vẫn luôn rất hâm mộ Lưu Tiện Dương.

Không phải hâm mộ Lưu Tiện Dương thiên phú cao, sức lực lớn, quan hệ tốt, chỉ là hâm mộ tính cách không sợ trời không sợ đất của Lưu Tiện Dương, đi đến đâu cũng không cần lo lắng, trước giờ cũng không cảm thấy sống một mình là chuyện tệ hại gì. Bất kể Lưu Tiện Dương đến nơi nào, chung sống với ai cũng có thể nhanh chóng thân thiết, xưng huynh gọi đệ, uống rượu tù tì.

Bởi vì thân thể ông nội Lưu Tiện Dương không tốt nên từ rất sớm hắn đã phải tự lực cánh sinh, trở thành nhân vật giống như vua của đám trẻ. Bắt rắn, đánh cá, moi tổ chim, việc gì cũng thông thạo, cung gỗ cần câu, giàn ná lồng chim, giống như thứ gì Lưu Tiện Dương cũng biết làm. Nhất là hai chuyện bắt cá chạch và câu lươn ở bờ ruộng nông thôn, thiếu niên chắc chắn là người giỏi nhất trong trấn nhỏ.

Thực ra năm đó lúc Lưu Tiện Dương nghỉ học ở trường làng, vị Tề tiên sinh kia còn có lòng đi tìm ông nội của Lưu Tiện Dương đang nằm trên giường bệnh, bảo rằng có thể không thu một đồng tiền học nào. Nhưng Lưu Tiện Dương nhất quyết không đáp ứng, nói rằng hắn chỉ muốn kiếm tiền chứ không muốn đọc sách. Tề tiên sinh nói có thể bỏ tiền thuê Lưu Tiện Dương làm thư đồng của mình, nhưng Lưu Tiện Dương vẫn không chịu gật đầu.

Trên thực tế Lưu Tiện Dương sống rất tốt, cho dù lão Diêu đã chết, lò gốm bị đóng cửa, chỉ mấy ngày sau hắn đã được thợ rèn ở ngõ Kỵ Long nhìn trúng, bắt đầu xây dựng nhà lá bếp lò ở phía nam trấn nhỏ, vô cùng bận rộn.

Lưu Tiện Dương nhìn Trần Bình An thổi tắt nến đặt lên bàn, hắn thấp giọng hỏi:

- Bình thường vào sáng sớm ngươi có nghe được tiếng kêu kỳ lạ không, giống như...

Trần Bình An ngồi trên ghế dài, yên lặng chờ đợi đoạn sau.

Lưu Tiện Dương do dự một lúc, lần đầu tiên hơi đỏ mặt:

- Giống như tiếng mèo động dục.

Trần Bình An hỏi:

- Là Tống Tập Tân học mèo kêu, hay là Trĩ Khuê?

Lưu Tiện Dương trợn trắng mắt, không làm chuyện đàn gảy tai trâu nữa, hai tay chống lên ván giường, chậm rãi cong khuỷu tay, sau đó duỗi thẳng cánh tay, mông rời khỏi ván giường, hai chân rời khỏi mặt đất. Mông của hắn treo giữa không trung, bĩu môi châm chọc:

- Trĩ Khuê cái gì, rõ ràng tên là Vương Chu. Từ nhỏ họ Tống đã thích khoe khoang vớ vẩn, chẳng biết từ đâu nhìn thấy hai chữ “Trĩ Khuê” nên dùng lung tung, cũng mặc kệ ý nghĩa của hai chữ này có tốt hay không. Vương Chu gặp phải một công tử như vậy đúng là kiếp trước gây nghiệp, nếu không thì cũng không đến mức phải chịu tội chịu khổ bên cạnh Tống Tập Tân.

Trần Bình An không hùa theo ý kiến của thiếu niên cao lớn.

Lưu Tiện Dương vẫn giữ nguyên tư thế, hừ lạnh nói:

- Ngươi thật sự không hiểu à? Tại sao ngươi giúp nha đầu Vương Chu kia xách nước một lần, sau đó cô ấy lại không nói chuyện tán gẫu với ngươi nữa? Bảo đảm là do tên Tống Tập Tân kia bụng dạ hẹp hòi, vì ghen tuông nên đã đe dọa Vương Chu không cho liếc ngang liếc dọc với ngươi, nếu không thì sẽ dùng gia pháp trừng phạt, chẳng những đánh gãy chân cô ấy mà còn ném ra ngoài ngõ Nê Bình...

Trần Bình An thật sự nghe không nổi nữa, bèn ngắt lời Lưu Tiện Dương:

- Tống Tập Tân đối xử với cô ấy không xấu.

Lưu Tiện Dương thẹn quá hóa giận nói:

- Ngươi biết cái gì tốt cái gì xấu sao?

Ánh mắt Trần Bình An trong suốt, nhẹ giọng nói:

- Có đôi khi cô ấy làm việc trong sân, Tống Tập Tân ngồi trên ghế đọc quyển Địa Phương Huyện Chí gì đó của hắn, lúc cô ấy nhìn Tống Tập Tân thì luôn mỉm cười.

Ánh mắt Lưu Tiện Dương ngớ ra.

Bỗng nhiên giường gỗ đơn bạc không chịu nổi trọng lượng của Lưu Tiện Dương, từ giữa gãy thành hai nửa, khiến thiếu niên cao lớn nện mông xuống đất.

Trần Bình An cũng ngồi xổm xuống đất, hai tay ôm đầu thở vắn than dài, cảm thấy hơi nhức đầu.

Lưu Tiện Dương gãi gãi đầu đứng dậy, cũng không nói lời áy náy nào, chỉ khẽ đá Trần Bình An một cái, nhếch mép cười nói:

- Được rồi, không phải chỉ là một chiếc giường nhỏ rách nát sao. Hôm nay ta tới là để mang cho ngươi một tin tức tốt lành, chắc chắn là đáng giá hơn cái giường tồi tàn này của ngươi!

Trần Bình An ngẩng đầu lên.

Lưu Tiện Dương đắc ý nói:

- Sau khi Nguyễn sư phụ nhà ta rời khỏi trấn nhỏ, đến bên khe suối phía nam đột nhiên nói rằng muốn đào mấy cái giếng. Ban đầu nhân lực không đủ nên cần gọi người giúp đỡ, ta bèn buột miệng đề cử ngươi, nói rằng có một quả bí đao lùn sức lực tạm được. Nguyễn sư phụ cũng đã đồng ý, bảo ngươi trong hai ngày tự đi tới đó.

Trần Bình An đột nhiên đứng dậy, muốn nói một tiếng cám ơn.

Lưu Tiện Dương lại giơ một bàn tay lên:

- Dừng lại, dừng lại! Đại ân không cần nói cám ơn! Nhớ ở trong lòng là được!

Trần Bình An cắn răng trợn mắt.

Lưu Tiện Dương nhìn chung quanh, thấy góc tường có một chiếc cần câu đặt nghiêng, nơi cửa sổ để một giàn ná, trên vách tường treo cung gỗ. Thiếu niên cao lớn muốn nói lại thôi, cuối cùng vẫn nhịn được không lên tiếng.

Hắn bước dài vượt qua ngưỡng cửa, cố ý đi vòng qua đống tro tàn của lá bùa kia.

Trần Bình An nhìn theo bóng lưng cao lớn của hắn.

Lưu Tiện Dương đột nhiên xoay người, đối diện với Trần Bình An đang đứng trong ngưỡng cửa. Thiếu niên cao lớn khom người, chân không rời đất, xông thẳng tới mấy bước tung ra một quyền mạnh mẽ, sau đó thu quyền thẳng lưng, lớn tiếng cười nói:

- Nguyễn sư phụ đã lén nói với ta, chỉ cần luyện quyền pháp này một năm là có thể đánh chết người!

Lưu Tiện Dương dường như cảm thấy chưa đã ghiền, lại thực hiện một động tác đá chân kỳ lạ, cười nói:

- Đây gọi là chân khỏe tất vào háng, đá chết lừa say rượu! (1)

Cuối cùng Lưu Tiện Dương giơ ngón cái chỉ chỉ vào ngực mình, vênh váo nói:

- Lúc Nguyễn sư phụ truyền thụ quyền pháp cho ta, ta có vài suy nghĩ tâm đắc nên đã tán gẫu với ông ấy, chẳng hạn như cảm ngộ của ta về tuyệt học làm gốm bí truyền “Khiêu Đao” của lão Diêu. Nguyễn sư phụ khen ta là kỳ tài luyện võ trăm năm mới gặp. Sau này ngươi cứ theo ta lăn lộn, ăn uống no say không thiếu phần ngươi!

Khóe mắt Lưu Tiện Dương liếc thấy nha hoàn ở sát vách đã vào nhà, trong thoáng chốc không còn hứng thú diễn vai anh hùng hảo hán nữa, thuận miệng nói với Trần Bình An:

- Đúng rồi, ban nãy lúc ta đi qua cây hòe già, chỗ đó có một lão già tự xưng là “người kể chuyện” đang loay hoay bày sạp, còn nói lão đã tích góp một bụng chuyện lý thú về các kỳ nhân muốn kể với chúng ta, nếu ngươi rảnh rỗi có thể đi xem thử.

Trần Bình An gật đầu.

Lưu Tiện Dương bước nhanh rời khỏi ngõ Nê Bình.

Trấn nhỏ lưu truyền rất nhiều câu chuyện về thiếu niên bướng bỉnh đi lại một mình này, nhưng thiếu niên thích tự nhận tổ tiên là tướng quân mang binh đánh giặc, cho nên nhà hắn mới có món bảo giáp truyền thừa nhiều đời kia.

Trần Bình An đã tận mắt nhìn thấy một lần, nói là bảo giáp chứ thực ra hình dạng của nó rất xấu, giống như mụn cóc trên người, lại giống như vảy kết trên cây già vậy.

Nhưng đám bạn cùng lứa với Lưu Tiện Dương lại không nói như vậy, chỉ nói tổ tiên của Lưu Tiện Dương là một tên lính đào ngũ chạy trốn tới trấn nhỏ, chấp nhận ở rể nhà người khác, may mắn mới thoát khỏi quan phủ truy bắt. Bọn chúng nói chắc như đinh đóng cột, giống như đã tận mắt nhìn thấy tổ tiên của Lưu Tiện Dương trốn khỏi chiến trường ra sao, lê lết đến trấn nhỏ này như thế nào.

Trần Bình An suy nghĩ một lúc, ngồi xổm bên cạnh ngưỡng cửa, cúi đầu thổi bay đống tro tàn kia.

Chẳng biết từ lúc nào Tống Tập Tân đã đứng ở bên kia tường viện, bên cạnh là tỳ nữ Trĩ Khuê. Hắn hô lên:

- Có muốn đến chỗ cây hòe chơi với chúng ta không?

Trần Bình An ngẩng đầu lên:

- Không đi đâu.

Tống Tập Tân nhếch mép:

- Đồ chán ngắt.

Hắn quay đầu cười nói với nha hoàn của mình:

- Trĩ Khuê, chúng ta đi thôi! Đi mua cho cô một bình phấn hoa đào bụng tướng quân. (2)

Cô ngượng ngùng nói:

- Một lọ nho nhỏ là đủ rồi.

Tống Tập Tân chắp hai tay sau lưng, ngẩng đầu ưỡn ngực, bước dài đi tới trước:

- Người của Tống gia ta quen sống xa hoa, mấy đời nhung lụa sao có thể hẹp hòi, chẳng phải là làm nhục nếp nhà?

Trần Bình An ngồi ở ngưỡng cửa dụi dụi trán. Thực ra lúc Tống Tập Tân này không nói những lời bậy bạ kia thì cảm giác gây cho người ta cũng không tệ, nhưng ví dụ như lúc này, nếu Lưu Tiện Dương có mặt thì nhất định sẽ nói hắn rất muốn cầm một cục gạch đập vào gáy Tống Tập Tân.

Trần Bình An nghiêng người dựa vào cửa nhà, suy nghĩ đến tình cảnh ngày mai quá nửa sẽ giống như hôm nay, ngày mốt thì sẽ giống như ngày mai, cứ lặp đi lặp lại, thế là cuộc đời của Trần Bình An hắn sẽ luôn tiếp tục như vậy, cho đến cuối cùng đi theo lão Diêu.

Người ăn đất cả đời, đất ăn người một lần.

Đến cuối đời nhắm mắt, khi mở ra có lẽ đã là chuyện của đời sau rồi.

Thiếu niên cúi đầu nhìn giày cỏ dưới chân, đột nhiên mỉm cười.

Giẫm trên phiến đá xanh và giẫm vào đống bùn lầy, cảm giác không giống nhau cho lắm.

---------

Lưu Tiện Dương rời khỏi con ngõ nhỏ, lúc đi qua gian hàng coi bói, đạo nhân trẻ tuổi kia lại mời chào:

- Tới đây, tới đây, bần đạo thấy khí sắc của cậu như lửa nóng đun dầu, tuyệt đối không phải là điềm lành. Nhưng đừng lo lắng, bần đạo có một phương pháp giúp cậu tiêu trừ tai nạn...

Lưu Tiện Dương thoáng ngạc nhiên, nhớ được đạo sĩ này trước kia thường giải xăm đoán mệnh cho người khác. Chưa nói đến chuyện đúng hay sai, nhưng người này thật sự chưa từng chủ động mời chào, gần như đều do người khác tình nguyện mắc câu. Chẳng lẽ hiện nay lò gốm bị quan phủ triều đình đóng cửa, đạo sĩ này cũng bị vạ lây không kiếm ăn được gì, cho nên thà rằng giết lầm còn hơn bỏ sót?

Lưu Tiện Dương cười mắng:

- Phương pháp của ngươi là dùng tiền để tiêu trừ tai nạn đúng không? Cút ngay cho đại gia ngươi, muốn lừa tiền trong túi ta thì chờ kiếp sau đi!

Đạo nhân trẻ tuổi cũng không tức giận, hô to với thiếu niên cao lớn kia:

- Chỉ mong năm nay được thịnh vượng, ai ngờ số mệnh có tai ương. Không họa chẳng chịu cầu thần tiên, muốn được yên ổn thì thắp hương... nên thắp hương đấy...

Lưu Tiện Dương bỗng xoay người, chạy nhanh như bay về phía gian hàng coi bói, vừa xoa tay vừa la lên:

- Thắp hương đúng không, ta đốt gian hàng của ngươi trước đã!

Đạo nhân hiển nhiên bị dọa cho hoảng hồn, sau khi đứng dậy cũng không quan tâm tới gian hàng được nữa, chạy vắt giò lên cổ.

Lưu Tiện Dương đứng bên cạnh gian hàng, cười sằng sặc nhìn bóng dáng chật vật của đạo nhân. Hắn liếc thấy ống xăm trên bàn bèn tùy ý đưa tay hất ngã nó, những thẻ xăm bằng trúc kêu rào rào trượt ra khỏi ống, cuối cùng tạo thành hình quạt trên bàn.

Lưu Tiện Dương đưa tay chỉ vào đạo nhân đã dừng lại ở phía xa:

- Sau này gặp ngươi lần nào đánh lần đó!

Đạo nhân trẻ tuổi chắp tay thi lễ, cầu xin dung thứ.

Lúc này Lưu Tiện Dương mới bỏ qua.

Đợi đến khi thiếu niên cao lớn đi xa, đạo nhân trẻ tuổi mới dám ngồi xuống lại, thở dài:

- Thế đạo gian khổ, lòng người không chất phác như xưa, hại bần đạo muốn sống qua ngày cũng không dễ dàng.

Ngay lúc này ánh mắt đạo nhân sáng lên, vội nhắm mắt lại cao giọng nói:

- Hồ nước đầy... ếch kêu hỗn loạn, thứ đâm lòng người là nhân tâm. Nơi này công danh bèo trên nước, chỉ cần gió thổi dạt bốn phương!

Đôi thiếu niên thiếu nữ kia hiển nhiên nghe được lời nói của đạo nhân, chỉ tiếc là không có ý dừng lại.

Đạo nhân khẽ mở mí mắt, trông thấy lại sắp bỏ lỡ một vụ làm ăn, đành phải vỗ vào mặt bàn nói lớn:

- Trạng nguyên vốn đến từ nhân gian, tể tướng chỉ là kẻ trên đời. Học theo tiên nhân danh tiếng lớn, đắc ý hả hê tinh khí thần!

Tống Tập Tân và tỳ nữ Trĩ Khuê vẫn tiếp tục đi tới.

Đạo nhân chán nản ủ rũ, thấp giọng lẩm bẩm:

- Cuộc sống này không qua nổi rồi.

Thiếu niên bỗng quay đầu sang, từ xa xa ném cho đạo nhân trẻ tuổi một đồng tiền, cười rạng rỡ nói:

- Nhờ lời chúc lành của ngươi!

Đạo nhân vội vàng chụp lấy đồng tiền, khi mở bàn tay ra xem thì lại rầu rĩ, bởi vì đó chỉ là một đồng tiền nhỏ nhất.

Có điều đạo nhân trẻ tuổi vẫn nhẹ nhàng đặt đồng tiền này lên bàn.

Trong nháy mắt bỗng có một con chim sẻ lao nhanh xuống bàn, cúi đầu mổ nhẹ vào đồng tiền kia, sau đó ngậm nó trong miệng, ngẩng đầu nhìn về đạo nhân trẻ tuổi, tròng mắt linh động không khác gì con người.

Đạo nhân nhẹ giọng nói:

- Đi thôi, nơi này không thích hợp ở lâu.

Chim sẻ nhoáng lên rồi biến mất.

Đạo nhân trẻ tuổi nhìn chung quanh, cuối cùng ánh mắt dừng lại ở ngôi miếu thờ cao cao phía xa, vừa lúc đối diện với tấm biển bốn chữ “Khí Xung Đấu Ngưu”, cảm khái nói:

- Đáng tiếc thật.

Cuối cùng đạo nhân bổ sung một câu:

- Nếu có thể cầm ra ngoài bán, thế nào cũng được một ngàn tám trăm lượng bạc chứ?

---------

(1) Tương truyền ở nội Mông Cổ có một cửa tiệm chưng cất rượu hương bay trăm dặm, khiến cho một con lừa làm loạn đến uống trộm bị say ngã, sau này cụm từ “lừa say ngã” được dùng để chỉ đặc sản rượu trắng của thảo nguyên.

(2) Một sản phẩm gốm sứ của Trung Quốc, do phần nắp giống như mũ của tướng quân nên được gọi là bình tướng quân.
 
[Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện
Chương 5 : Vạch trần


Tống Tập Tân dẫn theo tỳ nữ Trĩ Khuê đến dưới cây hòe già, phát hiện dưới bóng cây đã đầy ắp người. Gần năm mươi người ngồi trên ghế dài từ nhà mình mang tới, còn có trẻ con dắt tay trưởng bối lục tục kéo tới xem náo nhiệt.

Tống Tập Tân và cô đứng sánh vai ven rìa bóng cây, trông thấy một ông lão đứng ở dưới cây, một tay cầm chén trắng lớn, một tay để sau người, vẻ mặt hăng hái lớn tiếng nói:

- Vừa rồi đã nói đại khái về hướng đi của long mạch, bây giờ ta lại nói một chút về chân long này. Chậc chậc, chuyện này đúng là ghê gớm. Khoảng ba ngàn năm trước trên đời xuất hiện một vị thần tiên tài giỏi, ban đầu chuyên tâm tu hành trong một động tiên, sau khi chứng được đại đạo thì một mình cầm kiếm ngao du thiên hạ, trong tay cầm ba thước khí khái bộc lộ tài năng.

- Chẳng biết tại sao người này cứ muốn đối phó với giao long, suốt ba trăm năm hễ thấy giao long là lại xử trảm, giết đến khi thế gian không còn chân long mới thôi, cuối cùng không biết tung tích. Có người nói y đã đi đến nơi đạo pháp đỉnh cao, ngồi luận đạo với Đạo Tổ; cũng có người nói là đi Phật quốc Tây Phương cực lạc ở rất xa, tranh luận phật pháp với Phật Đà; còn có người nói y đã tự mình trấn giữ cửa lớn của Phong Đô địa phủ, ngăn ngừa quỷ quái làm hại nhân gian...

Lão tiên sinh nói đến nước bọt văng tứ tung, nhưng tất cả dân chúng trấn nhỏ bên dưới đều làm thinh, vẻ mặt ai nấy cũng ngơ ngác.

Tỳ nữ hiếu kỳ thấp giọng hỏi:

- Ba thước khí khái là cái gì?

Tống Tập Tân cười đáp:

- Chính là kiếm.

Tỳ nữ bực bội nói:

- Công tử, lão nhân gia này đúng là quá thích khoe khoang học vấn rồi, kể chuyện cũng không chịu nói rõ ràng.

Tống Tập Tân liếc nhìn ông lão, giống như cười trên nỗi đau của người khác nói:

- Trấn nhỏ của chúng ta không có mấy người biết chữ, vị tiên sinh kể chuyện này xem như là liếc mắt đưa tình với người mù rồi.

Tỳ nữ lại hỏi:

- Động tiên lại là cái gì? Trên đời thật sự có người sống đến ba trăm tuổi à? Còn có Phong Đô địa phủ kia, không phải là nơi người chết mới tới được sao?

Tống Tập Tân bị hỏi khó, lại không muốn lòi cái dốt nên thuận miệng nói:

- Đều là nói hưu nói vượn, có lẽ đọc được mấy quyển sách tạp lục vớ vẩn nên mang ra lừa gạt thôn phu quê mùa.

Tại khoảnh khắc này, Tống Tập Tân nhạy bén phát hiện ông lão kia không biết vô tình hay cố ý nhìn mình một cái. Mặc dù chỉ là ánh mắt lướt qua nhanh như chuồn chuồn chạm nước, nhưng Tống Tập Tân vẫn cẩn thận nắm bắt được. Có điều thiếu niên cũng không để bụng, chỉ cho là trùng hợp mà thôi.

Tỳ nữ ngẩng đầu nhìn về phía cây hòe già, tia sáng vụn vặt xuyên qua khe hở của lá cây chiếu xuống, khiến cô bất giác nheo mắt lại.

Tống Tập Tân quay đầu nhìn, đột nhiên ngẩn người ra.

Hôm nay tỳ nữ này của mình có một bên mặt vừa bắt đầu rút đi vẻ phúng phính của trẻ con, cô giống như khác biệt rất lớn với nha hoàn nhỏ gầy tong gầy teo trong trí nhớ.

Dựa theo tập tục của trấn nhỏ, khi con gái lấy chồng sẽ mời một bà thợ phúc khí đầy đủ cha mẹ con cái đều khoẻ mạnh, nhờ bà ta lột lông măng trên mặt tân nương, cắt tóc trước trán và tóc mai chỉnh tề, gọi là mở mặt hoặc lên mày.

Tống Tập Tân còn đọc được trong sách một tập tục mà trấn nhỏ không có, cho nên vào năm Trĩ Khuê mười hai tuổi hắn đã mua rượu mới ủ ngon nhất trấn nhỏ, lấy chiếc bình sứ lén trộm được ra, màu sứ cực đẹp giống như quả mơ, đổ rượu vào trong bình, sau đó cẩn thận dùng bùn đậy kín rồi chôn xuống đất.

Tống Tập Tân đột nhiên nói:

- Trĩ Khuê, dựa theo cách nói của lão tổ tông người đọc sách chúng ta, tuy rằng cái tên họ Trần kia thuộc loại “gỗ mục không thể điêu khắc, bức tường rác rưởi không thể tô trét”, nhưng dù thế nào thì đời này hắn đã làm một chuyện có ý nghĩa.

Tỳ nữ không trả lời, lông mày hạ thấp, có thể loáng thoáng nhìn thấy lông mi hơi run rẩy.

Tống Tập Tân tiếp tục nói ra suy nghĩ của mình:

- Trần Bình An à, con người không xấu nhưng tính tình quá cứng nhắc, làm chuyện gì cũng không biết linh hoạt, cho nên khi làm thợ lò dù hắn có cần cù khổ luyện đến mấy cũng không làm ra được một món đồ tốt nào. Do đó sư phụ của Lưu Tiện Dương là lão Diêu kia luôn nhìn Trần Bình An không thuận mắt, cũng xem như ông ta có ánh mắt đặc biệt, đây gọi là gỗ mục không thể điêu khắc.

- Còn như bức tường rác rưởi không thể tô trét, ý tứ đại khái là tên quỷ nghèo kiết xác như Trần Bình An, cho dù có mặc long bào cho hắn thì vẫn là một kẻ chân đất quê mùa...

Lúc Tống Tập Tân nói đến đây lại tự giễu:

- Thực ra ta còn thảm hơn Trần Bình An.

Cô không biết phải an ủi công tử của mình như thế nào.

Trong trấn nhỏ này, Tống Tập Tân và tỳ nữ của hắn vẫn luôn là chủ đề bàn tán lúc trà dư tửu hậu của đám người giàu có ở đường Phúc Lộc và ngõ Đào Diệp, chuyện này phải quy công cho người “cha hờ” kia của Tống Tập Tân là Tống đại nhân.

Trấn nhỏ không có nhân vật lớn nào, cũng không có sóng gió gì, cho nên quan giám sát làm gốm được triều đình phái đến đây chắc chắn là loại thanh thiên đại lão gia trong các vở tuồng.

Trong mấy chục vị quan giám sát từ xưa đến giờ, quan tiền nhiệm Tống đại nhân là người được lòng dân nhất. Tống đại nhân không giống như những quan lão gia trước đó ngồi tít trên cao, ông chẳng những không trốn trong dinh quan tu thân dưỡng khí, cũng không đóng cửa từ chối tiếp khách, một lòng nghiên cứu học vấn ở thư phòng, mà là tự tay làm tất cả công việc ở lò gốm, quả thật còn giống dân chúng thôn quê hơn cả thợ gốm.

Trong hơn mười năm, vị Tống đại nhân vốn đầy vẻ trí thức này đã phơi nắng đến mức nước da đen kịt sáng bóng, trang phục ngày thường không khác gì một anh nông dân, đối nhân xử thế chưa từng lên mặt.

Chỉ tiếc đồ gốm triều đình do trấn nhỏ chế tạo dù là màu men, độ hoàn hảo sau khi cất giữ, hay là hình dạng và cấu tạo của đồ lớn vật nhỏ đều không hoàn toàn được như ý. Nói chuẩn xác là trình độ còn kém hơn trước đây một bậc, khiến cho đám người lão Diêu không thể lý giải được.

Cuối cùng có lẽ triều đình bên kia thấy Tống đại nhân cần cù tận tụy, không có công lao thì cũng có khổ lao, cho nên trong sắc lệnh công văn của Lại bộ điều ông ta về kinh thành cũng ghi đánh giá tốt.

Trước khi Tống đại nhân về kinh đã tiêu hết ngàn vàng, bỏ vốn xây dựng một một cây cầu mái che. Sau đó phát hiện trong đoàn xe Tống đại nhân rời đi không mang theo một đứa trẻ, mấy thế gia vọng tộc trong trấn nhỏ mới chợt hiểu. Có thể nói Tống đại nhân đã tích góp một phần tình hương hỏa không ít cho trấn nhỏ, cộng thêm quan giám sát đương nhiệm tận lực chiếu cố, những năm qua thiếu niên Tống Tập Tân sống ở trấn nhỏ không lo cơm áo, tiêu dao tự tại.

Hôm nay nha hoàn kia đã đổi tên thành Trĩ Khuê, về thân thế lai lịch của cô có rất nhiều cách nói. Người bản xứ ở ngõ Nê Bình nói rằng vào một mùa đông tuyết lớn như lông ngỗng, có một cô gái xứ khác ăn xin dọc đường đến nơi này, bất tỉnh trước cửa nhà Tống Tập Tân, nếu không phải có người phát hiện sớm thì đã đi gặp Diêm Vương chuyển thế đầu thai rồi.

Cụ già làm việc vặt bên phía dinh quan thì lại có cách nói khác, thề thốt rằng năm xưa Tống đại nhân đã bảo người ta mua cô nhi từ nơi khác, tìm cho đứa con riêng Tống Tập Tân một người thân thiết biết nhân tình ấm lạnh, nhằm bù đắp một ít thiệt thòi khi cha con không thể nhận nhau.

Dù sao đi nữa sau khi tỳ nữ được thiếu niên đặt tên là Trĩ Khuê, xem như đã hoàn toàn chứng thực quan hệ cha con của hai người. Bởi vì danh gia vọng tộc trong trấn nhỏ đều biết, Tống đại nhân rất chung tình với một nghiên mực, đã khắc lên đó hai chữ “Trĩ Khuê”.

Tống Tập Tân lấy lại tinh thần, vẻ mặt tươi cười sáng lạn:

- Chẳng biết tại sao, nhớ tới con rắn mối mặt dày mày dạn kia, Trĩ Khuê cô nghĩ xem, ta đã ném nó vào sân của Trần Bình An, nó vẫn muốn chui vào nhà chúng ta. Cô nói xem cái ổ chó của Trần Bình An khó coi đến mức nào, khiến cho một con rắn mối nhỏ cũng không muốn vào?

Tỳ nữ nghiêm túc ngẫm nghĩ, trả lời:

- Có một số việc phải xét đến duyên phận đúng không?

Tống Tập Tân giơ ngón cái lên, vui vẻ nói:

- Chính là đạo lý này! Trần Bình An hắn là một kẻ duyên cạn phúc mỏng, có thể sống sót là đã hài lòng rồi.

Cô không nói gì.

Tống Tập Tân lẩm bẩm nói:

- Sau khi chúng ta rời khỏi trấn nhỏ, đồ đạc trong nhà giao cho Trần Bình An trông coi, tên này có thể biển thủ hay không?

Tỳ nữ nhẹ giọng nói:

- Công tử, không đến nỗi như vậy chứ?

Tống Tập Tân cười nói:

- Ấy, Trĩ Khuê, biết cả ý nghĩa của biển thủ à?

Tỳ nữ chớp chớp cặp mắt như nước mùa thu:

- Chẳng lẽ không phải ý nghĩa trên mặt chữ sao?

Tống Tập Tân cười nhìn về phía nam, lộ ra vẻ mong chờ:

- Ta nghe nói kinh thành cất giữ sách còn nhiều hơn hoa cỏ cây cối ở trấn nhỏ chúng ta!

Ngay lúc này tiên sinh kể chuyện đang nói:

- Trên đời tuy đã không còn chân long, nhưng những loài thuộc họ rồng như giao, cầu, ly... vẫn thật sự sống ở thế gian, nói không chừng đang...

Ông lão cố ý tạo một gút thắt, thấy người nghe đều làm thinh không biết cổ vũ, đành phải nói tiếp:

- Nói không chừng đang ẩn náu bên cạnh chúng ta, thần tiên đạo giáo gọi đó là rồng ẩn dưới vực sâu!

Tống Tập Tân ngáp một cái.

Trên đầu đột nhiên có một chiếc lá hòe rơi xuống, xanh biếc ẩm ướt, vừa khéo rơi vào trên trán thiếu niên.

Tống Tập Tân đưa tay bắt lấy lá cây, hai ngón tay se se cuống lá.

---------

Thiếu niên đang suy nghĩ hay là đi cửa đông thành đòi nợ một lần, khi gần tới cây hòe già cũng nhìn thấy trước mắt có lá hòe rơi xuống, hắn liền bước tới nhanh hơn muốn đưa tay đón lấy.

Nhưng một cơn gió mát thổi qua, lá cây đã lướt khỏi tay hắn.

Thiếu niên giày cỏ thân hình khoẻ mạnh, nhanh chóng lướt ngang một bước, muốn chặn chiếc lá cây này lại.

Nhưng lá cây lại đánh một vòng giữa không trung.

Thiếu niên không tin tà ma, xoay chuyển xê dịch mấy lần, cuối cùng vẫn không thể bắt được lá hòe.

Thiếu niên Trần Bình An bất lực.

Một thiếu niên áo xanh vừa rời khỏi trường làng đi sát qua vai Trần Bình An.

Chính thiếu niên áo xanh cũng không biết, một chiếc lá hòe đã rơi trên đầu vai từ lúc nào.

Trần Bình An tiếp tục đi về phía cửa đông thành, cho dù không đòi được tiền thì hối thúc một chút cũng được.

---------

Tại gian hàng coi bói phía xa, đạo nhân trẻ tuổi nhắm mắt nghỉ ngơi, lẩm bẩm nói:

- Là ai bảo vận trời tuần hoàn không nặng nhẹ?
 
[Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện
Chương 6 : Quẻ hạ


Trần Bình An đi tới cửa đông, thấy người đàn ông kia đang khoanh chân ngồi trên gốc cây ở cổng rào, uể oải phơi nắng đầu xuân, nhắm mắt lại ngâm nga khúc nhạc, hai tay vỗ vào đầu gối.

Trần Bình An ngồi xổm xuống bên cạnh hắn, đối với thiếu niên thì chuyện đòi nợ thật sự khó mà mở miệng được.

Thiếu niên đành phải yên lặng nhìn về con đường lớn rộng rãi ở phía đông, quanh co và dài đằng đẵng giống như một con rắn dài màu vàng to lớn.

Hắn theo thói quen vốc một nhúm đất lên, nắm chặt trong lòng bàn tay chậm rãi xoa nắn.

Hắn từng đi theo lão Diêu trèo đèo lội suối chung quanh trấn nhỏ, vác bọc hành lý nặng trịch chứa đầy những dụng cụ như dao chẻ củi hay cuốc. Đi rồi lại dừng khắp các nơi theo sự chỉ dẫn của ông lão, Trần Bình An thường phải “ăn đất”, vốc một nhúm đất bỏ thẳng vào miệng nhai, cẩn thận nhấm nháp mùi vị.

Lâu ngày quen tay hay việc, cho dù Trần Bình An chỉ dùng ngón tay nghiền nắn một hồi cũng biết rõ tính chất của đất đai. Cho đến sau này ngay cả mảnh sứ vỡ của một số lò gốm lâu năm, hắn ước lượng một chút cũng có thể biết là thuộc lò gốm nào, thậm chí là do vị sư phụ nào làm ra.

Lão Diêu tính cách quái gở, không hợp tình hợp lẽ, hở một tí là đánh chửi Trần Bình An. Đã từng có một lần lão Diêu chán ghét Trần Bình An thiên phú quá kém, đúng là một tên đần độn đầu óc không được thông suốt, trong cơn tức giận đã bỏ hắn lại vùng núi hoang vu, còn ông lão thì trở về lò gốm một mình.

Đến khi thiếu niên đi hết sáu mươi dặm đường núi, gần tới lò gốm kia thì đêm đã khuya. Ngày đó mưa như trút nước, thiếu niên loạng choạng bước đi trong bùn lầy, cuối cùng khi nhìn thấy một điểm sáng ở xa xa, lần đầu tiên thiếu niên quật cường tự lực cánh sinh lại kích động muốn khóc.

Thế nhưng thiếu niên chưa từng oán trách ông lão, càng sẽ không mang hận.

Thiếu niên gia thế nghèo hèn chưa từng đọc sách, nhưng vẫn hiểu được một đạo lý nằm ngoài sách vở, đó là trên đời ngoại trừ cha mẹ thì không ai có nghĩa vụ phải đối xử tốt với ngươi.

Mà cha mẹ của hắn đã ra đi rất sớm.

Trần Bình An nhẫn nại đến mức ngây ra. Người đàn ông lếch thếch dường như cảm thấy quá nửa là không thể lừa gạt qua được, bèn mở mắt cười nói:

- Không phải chỉ là năm đồng tiền sao, đàn ông hẹp hòi như vậy sau này không có tiền đồ đâu.

Vẻ mặt Trần Bình An bất đắc dĩ:

- Chẳng phải ông đang kì kèo sao?

Người đàn ông nhếch mép lộ ra hàm răng vàng không đồng đều, cười hề hề nói:

- Cho nên nếu không muốn sau này độc thân như ta thì đừng nhớ đến năm đồng tiền kia nữa.

Trần Bình An thở dài, ngẩng đầu lên nghiêm túc nói:

- Nếu như ông đang túng thiếu, năm đồng tiền này xem như cho qua đi. Nhưng trước đó phải nói rõ, sau này một phong thư một đồng tiền không được nợ nữa.

Gã đàn ông trên người tỏa ra mùi chua quay đầu, cười híp mắt nói:

- Thằng nhóc, với cái tính cách như đá hôi dưới hầm cầu này của ngươi, tương lai rất dễ phải chịu thiệt thòi lớn. Chẳng lẽ ngươi chưa từng nghe một câu nói cũ, thua thiệt là phúc? Nếu ngươi không thể chịu được một chút thiệt thòi...

Hắn liếc thấy nhúm đất trong tay thiếu niên, dừng lại một lúc rồi ranh mãnh nói:

- Chính là cái số bán mặt cho đất bán lưng cho trời rồi.

Trần Bình An phản bác:

- Vừa rồi chẳng phải tôi đã nói không cần năm đồng tiền nữa sao? Chẳng lẽ không tính là chịu một chút thiệt thòi?

Người đàn ông kia có phần chào thua, sắc mặt bực bội phất tay đuổi người:

- Cút cút cút, nói chuyện với thằng nhóc ngươi thật phí sức.

Trần Bình An buông tay ném nhúm đất xuống, đứng dậy rồi nói:

- Gốc cây nhiều hơi ẩm...

Người đàn ông ngẩng đầu cười mắng:

- Ông đây còn cần ngươi tới dạy đời sao? Người trẻ tuổi hơi ấm dồi dào, dưới mông có thể nướng bánh đấy!

Người đàn ông quay đầu liếc theo bóng lưng thiếu niên, miệng méo méo lẩm bẩm một câu, giống như đang chán nản mắng ông trời.

---------

Hôm nay chẳng biết tại sao thầy giáo Tề tiên sinh lần đầu tiên kết thúc buổi học sớm hơn một chút.

Sau trường có một khoảng sân, phía bắc mở một cổng tre nhỏ thấp thấp có thể thông đến rừng trúc.

Khi Tống Tập Tân và tỳ nữ đang nghe cố sự dưới cây hòe già thì bị người ta gọi đi đánh cờ. Tống Tập Tân không tình nguyện lắm, nhưng người kia nói đây là ý của Tề tiên sinh, muốn xem thử kỹ năng đánh cờ của bọn họ có tiến bộ hay không.

Tống Tập Tân có một cảm giác khó miêu tả đối với Tề tiên sinh luôn nghiêm túc, nhìn chung có thể gọi là vừa kính vừa sợ. Cho nên khi Tề tiên sinh tự mình hạ thánh chỉ này, Tống Tập Tân đành phải đến nơi hẹn, nhưng hắn nhất quyết muốn chờ nghe xong cố sự mới đi đến sân sau trường học.

Thiếu niên áo xanh giúp tiên sinh chuyển lời đành phải trở về trước, không quên dặn dò Tống Tập Tân nhất định đừng tới quá trễ, nói lải nhải liên thiên một hồi vẫn là mấy luận điệu cũ rích, chẳng hạn như tiên sinh nhà ta rất coi trọng quy củ, không thích những kẻ nói không giữ lời...

Lúc đó Tống Tập Tân chỉ ngoáy tai, nhẫn nại bảo là biết rồi biết rồi.

Khi Tống Tập Tân dẫn theo Trĩ Khuê đến sân sau trường học thì gió mát hiu hiu, thiếu niên áo xanh nho nhã lịch sự đã ngồi ngay ngắn trên ghế phía nam như thường ngày, lưng thẳng tắp.

Tống Tập Tân đặt mông ngồi xuống phía bắc, đối diện với thiếu niên áo xanh ở phía nam.

Tề tiên sinh ngồi ở phía tây, vẫn luôn nhìn cờ không nói gì.

Mỗi khi thiếu gia nhà mình đánh cờ với người khác, tỳ nữ Trĩ Khuê đều sẽ vào rừng trúc đi dạo để tránh quấy rầy đến ba “người đọc sách”, hôm nay cũng không ngoại lệ.

Trấn nhỏ nằm ở một góc hẻo lánh không có gia đình trí thức nào, cho nên người đọc sách có thể xem là hàng quý hiếm.

Theo như quy tắc cũ do Tề tiên sinh lập ra, Tống Tập Tân và thiếu niên áo xanh phải đoán cờ, cầm quân đen đi trước.

Tống Tập Tân và tên bạn cùng lứa ở đối diện gần như bắt đầu học đánh cờ cùng lúc, có điều Tống Tập Tân tư chất thông minh, kỹ năng đánh cờ tiến bộ thần tốc một ngày ngàn dặm, cho nên được Tề tiên sinh dạy hai người đánh cờ xem là cửa trên.

Lúc đoán cờ sẽ do Tống Tập Tân lấy một nhúm cờ trắng từ trong hộp cờ ra trước, số lượng không biết, không để người khác thấy. Sau đó thiếu niên áo xanh sẽ lấy ra một hoặc hai quân cờ đen, đoán đúng cờ trắng chẵn hay lẻ là có thể cầm đen đi trước, như vậy sẽ có ưu thế. Hai năm qua Tống Tập Tân đánh cờ, dù là cầm trắng đi sau hay cầm đen đi trước đều không thua lần nào.

Nhưng Tống Tập Tân không hứng thú với đánh cờ lắm, không kiên trì được thời gian dài. Ngược lại thiếu niên áo xanh tư chất thua kém, vừa là học sinh trường làng vừa đảm nhiệm chức thư đồng, sớm chiều chung sống với Tề tiên sinh, cho dù chỉ đứng bên cạnh quan sát tiên sinh ngồi đánh cờ cũng được lợi không nhỏ. Cho nên thiếu niên áo xanh từ ban đầu phải cầm đen mới có thể thỉnh thoảng may mắn chiến thắng, đến hôm nay chỉ cần cầm đen là tỷ lệ thắng bại đã năm năm với Tống Tập Tân, kỹ năng đánh cờ tiến bộ rõ ràng.

Đối với việc một người tiến bộ còn một người thụt lùi như vậy, Tề tiên sinh không hề khen ngợi hoặc phê bình, chỉ khoanh tay đứng nhìn mà thôi.

Tống Tập Tân vừa định cầm lấy quân cờ, Tề tiên sinh đột nhiên nói:

- Hôm nay các ngươi hãy đánh một ván cờ tọa tử (1), cầm trắng đi trước.

Hai thiếu niên đều ngơ ngác không biết “cờ tọa tử” là gì.

Tề tiên sinh không nhanh không chậm cẩn thận giải thích quy củ, sau đó không hề rườm rà đặt hai quân đen và hai quân trắng ở vị trí tứ tinh.

Động tác người trung niên lấy cờ đặt cờ thuần thục như nước chảy mây trôi, khiến người ta vui tai thích mắt.

Bình thường thiếu niên áo xanh luôn tuân thủ quy củ nghiêm ngặt, sau khi nghe “tin dữ” lại trợn mắt há mồm, ngơ ngác nhìn bàn cờ, cuối cùng cẩn thận nói:

- Tiên sinh, làm như vậy hình như có rất nhiều thế cờ không dùng được nữa.

Tống Tập Tân nhíu mày suy nghĩ một lúc, ánh mắt nhanh chóng sáng lên, chân mày giãn ra nói:

- Là kết cấu của bàn cờ nhỏ đi rồi.

Sau đó Tống Tập Tân giống như tranh công ngẩng đầu cười hỏi:

- Đúng không Tề tiên sinh?

Nho sĩ trung niên gật đầu đáp:

- Đúng là như vậy.

Tống Tập Tân nhướng nhướng mày với tên bạn cùng lứa ở đối diện, cười hỏi:

- Có cần nhường hai quân trước không, nếu không tên này chắc chắn sẽ thua.

Sắc mặt thiếu niên đối diện lập tức đỏ tới mang tai, lúng túng ậm ừ. Bởi vì hắn biết rõ số lần chiến thắng của mình càng ngày càng nhiều, ngoại trừ kỹ năng đánh cờ nâng cao, nguyên nhân chủ yếu là do hai năm qua Tống Tập Tân đánh cờ càng ngày càng không tập trung, có lúc còn nhẫn nại không muốn kết thúc. Thậm chí Tống Tập Tân còn cố ý bỏ qua rất nhiều nước cờ phân thắng bại, hoặc là sau khi chiếm ưu thế trên nước rõ ràng, đánh tới giữa ván lại cố gắng mạo hiểm để ăn một lần thật nhiều quân.

Đối với đánh cờ, Tống Tập Tân đầy tài hoa có vui vẻ hay không, có hứng thú hay không mới là chuyện quan trọng nhất.

Còn đối với thiếu niên áo xanh, từ lần đầu tiên cầm cờ đặt xuống bàn cờ, hắn đã cố chấp với hai chữ thắng thua.

Tề tiên sinh nhìn học trò trong lớp của mình:

- Con có thể cầm trắng đi trước.

Kế tiếp thiếu niên áo xanh hạ cờ chậm chạp, cẩn thận chặt chẽ, từng bước thận trọng. Tống Tập Tân vẫn hạ cờ như bay, phóng khoáng rộng rãi, không thấy hình bóng.

Tính cách hai bên khác biệt một trời một vực.

Nhưng sau hơn tám mươi nước, thiếu niên áo xanh đã thua nát bét, cúi đầu không nói gì, chỉ mím chặt môi.

Tống Tập Tân chống khuỷu tay lên bàn nâng cằm, dùng hai ngón tay kẹp quân cờ gõ nhẹ vào bàn đá, nhìn chăm chú vào ván cờ.

Theo như quy củ của Tề tiên sinh, hai bên chỉ cần bỏ cờ im lặng nhận thua là được, tuyệt đối không được nói ba chữ “ta thua rồi”.

Dù thiếu niên áo xanh không cam lòng thế nào vẫn chậm rãi bỏ cờ.

Tề tiên sinh lại dặn học trò:

- Đi luyện chữ đi, không cần thu dọn tàn cục, hãy viết ba trăm chữ “Vĩnh”.

Thiếu niên áo xanh vội vàng đứng dậy, cung kính chắp tay thi lễ cáo từ.

Sau khi bóng dáng của thiếu niên kia biến mất, Tống Tập Tân mới nghẹ giọng hỏi:

- Tiên sinh cũng phải rời khỏi nơi này rồi sao?

Văn sĩ nho nhã tóc mai trắng như sương gật đầu nói:

- Trong một tuần sẽ rời đi.

Tống Tập Tân cười nói:

- Vậy thì tốt, ta còn có thể tiễn tiên sinh.

Vị tiên sinh dạy học này do dự một lúc, cuối cùng mới nói:

- Không cần tiễn ta. Tống Tập Tân, sau này ngươi ra ngoài trấn nhỏ hãy nhớ không nên quá rêu rao. Trên người ta không có thứ gì khác, chỉ có ba bộ sách vỡ lòng là “Tiểu Học”, “Lễ Nhạc” và “Quan Chỉ”, ngươi có thể cầm đi hết.

- Phải thường xuyên ôn tập, nên biết đọc sách trăm lần thì sẽ tự lĩnh hội được ý nghĩa. Nếu có thể đọc hết vạn quyển thì sẽ càng hạ bút như có thần, chân ý của nó... sau này ngươi tự nhiên sẽ hiểu. Còn về ba quyển sách hỗn tạp gồm thuật toán “Tinh Vi”, kỳ phổ “Đào Lý” và văn tập “Sơn Hải Sách”, lúc rãnh rỗi đừng ngại lật xem, cũng có thể dưỡng tính khiến mình vui vẻ.

Vẻ mặt Tống Tập Tân sửng sốt, hơi lúng túng, lấy can đảm nói:

- Tiên sinh giống như đang “gởi gắm con cái trước lúc lâm chung”, khiến ta không thích ứng được.

Vẻ mặt Tề tiên sinh tươi cười, ôn hòa nói:

- Không khoa trương như ngươi nói, đời người thiếu gì chốn có thể chạm mặt nhau, sau này sẽ có ngày gặp lại.

Lúc vị tiên sinh này mỉm cười gây cho người ta cảm giác như tắm gió xuân.

Ông ta đột nhiên nói:

- Ngươi đến chỗ Triệu Dao xem thử, coi như nói lời từ biệt sớm.

Tống Tập Tân đứng dậy cười nói:

- Được rồi, vậy làm phiền tiên sinh thu dọn ván cờ này.

Thiếu niên vui vẻ chạy đi.

Nho sĩ trung niên cúi người thu dọn quân cờ, nhìn giống như phía đông một quân, phía tây một quân lộn xộn vô trật tự, nhưng thực ra đen trước trắng sau, bắt đầu nhặt từ quân cờ đen cuối cùng mà Tống Tập Tân đặt xuống, đảo ngược thứ tự không sai một quân nào.

Chẳng biết từ lúc nào tỳ nữ Trĩ Khuê đã từ rừng trúc quay về, nhưng chỉ đứng ngoài cổng tre chứ không bước vào trong sân.

Ông ta không quay đầu, trầm giọng nói:

- Tự thu xếp ổn thỏa đi.

Lúc này gương mặt của thiếu nữ lớn lên ở ngõ Nê Bình đầy vẻ mờ mịt, yếu đuối rụt rè, điềm đạm đáng yêu.

Nho sĩ lịch sự tao nhã thoáng lộ ra vẻ giận dữ, chậm rãi quay đầu nhìn.

Ánh mắt lạnh nhạt.

Dánh vẻ của thiếu nữ vẫn mơ mơ màng màng.

Hồn nhiên ngây thơ.

Người trung niên trí thức đứng lên, tuấn tú tiêu sái, nhìn về phía thiếu nữ kia cười lạnh nói:

- Nghiệp chướng nghịch chủng!

Thiếu nữ chậm rãi thu lại vẻ mặt vô tội, ánh mắt dần dần trở nên lạnh lùng, khóe miệng nở một nụ cười chế nhạo.

Cô giống như đang nói, ngươi có thể làm gì ta?

Cô nhìn thẳng mặt nho sĩ như vậy.

Trong ngoài sân nhỏ giống như có một đôi mãng xà và giao long đang đối diện với nhau.

Hai người nhìn nhau đầy thù địch.

Tống Tập Tân ở phía xa hô lớn:

- Trĩ Khuê, về nhà thôi.

Thiếu nữ lập tức nhón chân lên, lanh lợi đáp một câu:

- À, được rồi, công tử.

Cô đẩy cổng tre ra, chạy chầm chậm sát qua người tiên sinh dạy học, sau khi chạy ra mấy bước còn không quên xoay người, nhìn bóng lưng kia làm động tác chúc phúc, giọng nói uyển chuyển động lòng người:

- Tiên sinh, Trĩ Khuê đi trước nhé.

Một lúc lâu sau nho sĩ mới thở dài.

Gió xuân ấm áp, lá trúc đung đưa như tiếng lật sách.

---------

Đạo nhân trẻ tuổi đầu đội mũ hoa sen đang dọn dẹp gian hàng, than vắn thở dài. Dân chúng trấn nhỏ quen biết hỏi nguyên do, y chỉ lắc đầu không trả lời.

Cuối cùng một vị phu nhân mới lấy chồng từng xem nhân duyên ở đây đi ngang qua, trông thấy đạo nhân trẻ tuổi khác thường như vậy bèn ngượng ngùng dừng bước, cất giọng dịu dàng, ngoài mặt là hỏi thăm, nhưng cặp mắt long lanh như nước biết nói chuyện kia lại quanh quẩn trên gương mặt anh tuấn của đạo nhân trẻ tuổi.

Đạo nhân trẻ tuổi không lộ tâm tình liếc nhìn vị phu nhân kia, ánh mắt hơi nghiêng xuống dưới, trông thấy một hình ảnh căng phồng. Sau đó đạo sĩ nuốt một ngụm nước bọt, nói một câu bói toán khác với lẽ thường:

- Hôm nay bần đạo tính cho mình một quẻ, là quẻ hạ, không may.

---------

(1) Cờ tọa tử là một quy tắc cờ vây của Trung Quốc, trước khi bắt đầu sẽ đặt hai quân đen và hai quân trắng ở góc tinh đối diện nhau.

 
[Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện
Chương 7 : Chén nước


Ngõ Hạnh Hoa có một giếng nước tên là giếng Thiết Tỏa, một sợi xích sắt to như cánh tay đàn ông trai tráng rủ xuống miệng giếng năm này qua năm khác. Giếng nước và xích sắt này có từ bao giờ, lại do người nào làm chuyện vô vị và kỳ quái này, từ lâu đã không ai biết chân tướng, ngay cả cụ già lớn tuổi nhất trấn nhỏ cũng không biết được ngọn nguồn.

Theo lời đồn trong trấn nhỏ từng có người nhiều chuyện muốn kiểm tra xem xích sắt rốt cuộc dài bao nhiêu, bỏ qua lời khuyên của đám người già, không quan tâm đến quy tắc lâu đời được truyền miệng là “người kéo xích sắt ra khỏi miệng giếng, mỗi một thước sẽ giảm thọ một năm”. Kết quả trong thời gian một nén nhang gắng sức kéo ra một đống xích sắt lớn, nhưng vẫn không có dấu hiệu nhìn thấy đầu cuối.

Người nọ đã sức cùng lực kiệt, bèn để mặc cho đống xích sắt kia nằm vòng vèo bên cạnh ròng rọc giếng, nói rằng ngày mai lại tới, cứ khăng khăng không tin vào tà ma. Sau khi người này về đến nhà thì ngay hôm ấy thất khiếu chảy máu, chết bất đắc kỳ tử trên giường, hơn nữa còn chết không nhắm mắt, bất kể người nhà cố sức vuốt mắt thế nào thì thi thể cũng không nhắm lại được.

Cuối cùng có một cụ già nhiều đời sống ở gần giếng nước, bảo gia đình khiêng thi thể đến bên cạnh giếng, “mắt mở trừng trừng” nhìn cụ già thả xích sắt vào lại trong giếng. Đến khi xích sắt một lần nữa chui thẳng vào miệng giếng nước sâu, thi thể kia cuối cùng đã nhắm mắt lại.

Một già một trẻ chậm rãi đi về hướng giếng Thiết Tỏa kia. Người trẻ là một đứa bé còn thò lò mũi xanh, nhưng khi kể lại câu chuyện cũ này thì ăn nói rõ ràng, gọn gàng rành mạch, không giống như một đứa trẻ mới học vỡ lòng nửa năm. Lúc này nó đang ngẩng đầu lên, hai mắt rất to giống như hai quả nho đen, khẽ khịt khịt mũi khiến hai hàng nước mũi rút trở về.

Nó nhìn vị tiên sinh kể chuyện dùng một tay cầm chén trắng lớn, vểnh môi nói:

- Tôi kể xong rồi, ông cũng nên cho tôi xem trong chén của ông chứa thứ gì chứ?

Ông lão cười ha hả nói:

- Đừng gấp, đừng gấp, chờ đến bên cạnh giếng nước ngồi xuống sẽ cho ngươi xem thỏa thích.

Đứa bé “có ý tốt” nhắc nhở:

- Không được nuốt lời, nếu không ông sẽ chết không yên lành, vừa tới bên cạnh giếng Thiết Tỏa sẽ cắm đầu ngã xuống, đến lúc đó tôi cũng không vớt thi thể cho ông đâu. Còn không thì sẽ đột nhiên có sét đánh, vừa lúc đánh cho ông thành thành một cục than cốc, khi đó tôi sẽ cầm một cục đá gõ từng chút một cho vỡ ra...

Ông lão nghe đứa bé nói một tràng những lời xui xẻo ác độc mà không hề vấp váp, cảm thấy nhức đầu nên vội vàng nói:

- Chắc chắn sẽ cho ngươi xem, đúng rồi, những lời này là ngươi học của ai?

Đứa bé nói như đinh đóng cột:

- Học từ mẹ tôi!

Ông lão cảm khái nói:

- Không hổ là người giỏi đất thiêng, đất lành sinh ra hiền tài.

Đứa bé đột nhiên dừng bước, nhíu mày nói:

- Ông đang mắng người phải không? Tôi biết có một số người thích nói ngược những lời tán dương để châm biếm, chẳng hạn như Tống Tập Tân!

Ông lão vội vàng phủ nhận, sau đó đổi chủ đề hỏi:

- Có phải trong trấn nhỏ thường xảy ra một số chuyện lạ không?

Đứa bé gật đầu.

Ông lão lại hỏi:

- Nói nghe xem.

Đứa bé chỉ chỉ vào ông lão, nghiêm túc nói:

- Ví dụ như ông cầm một cái chén trắng lớn nhưng lại không chịu để người ta bỏ tiền vào. Lúc ông còn chưa kể xong cố sự thì mẹ tôi đã nói ông kể không tồi, nghe giống như rơi vào trong sương mù, vừa nhìn đã biết là kẻ quen lừa gạt. Cho nên bảo tôi đưa cho ông mấy đồng tiền, nhưng ông lại nhất quyết không nhận, rốt cuộc trong chén có gì?

Ông lão dở khóc dở cười.

Hóa ra vị tiên sinh này lúc trước kể chuyện dưới cây hòe già, sau khi kể xong bèn bảo đứa bé này dẫn mình đến ngõ Hạnh Hoa xem giếng nước kia. Ban đầu đứa bé không thích, ông lão mới nói cái chén trắng lớn này của ông ta có chứa những thứ hay ho hiếm lạ, đáng để tìm tòi.

Đứa bé kia trời sinh hoạt bát hiếu động, bị cha mẹ nói là lúc đầu thai quên mọc cái mông nên không ngồi yên được, lúc còn rất nhỏ nó đã thích theo đám lông bông Lưu Tiện Dương đi lang thang khắp nơi. Nhưng khi muốn câu một con lươn hay cá chạch, đứa bé nghịch ngợm này có thể ngồi yên phơi nắng nửa canh giờ dưới ánh mặt trời, kiên nhẫn đến khác thường.

Cho nên khi ông lão nói trong chén trắng kia có chứa thứ gì đó, đứa bé lập tức cắn mồi mắc câu.

Dù lúc đầu ông lão đưa ra một yêu cầu kỳ quái, nói rằng muốn thử nhấc nó lên xem rốt cuộc nặng đến đâu, có được bốn mươi cân hay không, đứa bé không hề do dự gật đầu đáp ứng, dù sao bị người ta nhấc mấy cái cũng không mất miếng thịt nào.

Nhưng chuyện khiến đứa bé liên tục trợn trắng mắt lại xảy ra, ông lão dùng lòng bàn tay trái nâng chén, tập trung hết sức dùng tay phải thử nhấc nó năm sáu lần, nhưng không lần nào thành công nhấc lên.

Cuối cùng đứa bé liếc nhìn tay chân mảnh khảnh của ông lão, lắc đầu nghĩ thầm sao Trần Bình An nghèo rớt mồng tơi kia cũng gầy như que củi, nhưng sức lực lại lớn hơn lão già này nhiều vậy. Có điều nghĩ đến mình còn chưa được nhìn thấy thứ bên trong chén trắng, đứa bé giống như trời sinh đã thông hiểu từ sớm này lại nhẫn nại, không nói những lời khiến ông lão bẽ mặt.

Nên biết tại khu vực ngõ Nê Bình và ngõ Hạnh Hoa này, xét về cãi nhau chửi bới, nhất là nói chuyện kỳ quặc thì đứa bé này có thể xếp thứ ba, thứ nhì là người trí thức Tống Tập Tân, thứ nhất lại là mẹ của đứa bé này.

Ông lão đi đến bên cạnh giếng nước, nhưng cũng không ngồi lên miệng giếng.

Giếng cổ được xây bằng gạch xanh.

Bất giác hô hấp của ông lão trở nên trầm trọng.

Đứa bé đi đến bên cạnh giếng nước, quay lưng về phía miệng giếng nhảy ra sau, cái mông vừa khéo ngồi trên miệng giếng.

Ông lão nhìn thấy cảnh này mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, nếu không cẩn thận thì thằng nhóc kia sẽ ngã thẳng xuống, với ngọn nguồn lịch sử của cái giếng cổ này thì muốn nhặt xác cũng khó.

Ông lão chậm rãi đi tới trước mấy bước, nheo mắt lại cúi người nhìn kỹ xích sắt kia, thấy một đầu xích gắn chặt vào dưới đáy ròng rọc giếng.

“Phong thủy thắng cảnh, giáp ở một châu.”

Ông lão nhìn quanh, nhiều cảm xúc lẫn lộn, nghĩ thầm: “Không biết cuối cùng món bảo khí này sẽ rơi vào nhà ai?”

Ông lão vươn tay trái để không ra, nhìn chăm chú vào lòng bàn tay.

Đường chỉ tay loang lổ phức tạp.

Nhưng lại xuất hiện một đường chỉ tay mới đang từ từ kéo dài, giống như vết nứt trên đồ sứ.

Thần tiên xem tay, như nhìn non sông.

Có điều hiện giờ ông lão này chỉ đang nhìn bản thân mà thôi.

Ông lão nhíu mày thở dài nói:

- Chỉ nửa ngày ngắn ngủi quang cảnh đã u ám như vậy, chẳng lẽ là mấy vị kia?

Đứa bé đã đứng lên miệng giếng, một tay chống nạnh còn một tay chỉ vào ông lão, lớn tiếng thúc giục:

- Rốt cuộc ông có có cho tôi xem chén trắng hay không?

Ông lão bất đắc dĩ nói:

- Ngươi mau xuống, mau xuống, ta sẽ cho ngươi xem chén trắng lớn ngay.

Đứa bé nửa tin nửa ngờ, cuối cùng vẫn nhảy khỏi miệng giếng.

Ông lão do dự một lúc, sắc mặt trang nghiêm:

- Bé con, ngươi và ta có duyên, cho ngươi xem sự huyền diệu của cái chén này cũng được. Nhưng sau khi xem xong ngươi không được nhắc tới với người ngoài, kể cả vị mẫu thân kia của ngươi. Nếu như ngươi làm được thì ta sẽ để ngươi mở mang kiến thức, còn nếu không làm được thì dù có bị bé con ngươi nói xấu sau lưng cũng không cho ngươi xem chút nào.

Đứa bé chớp chớp mắt:

- Bắt đầu đi.

Ông lão trịnh trọng đi đến bên cạnh miệng giếng, vừa cúi đầu thì phát hiện lúc này đứa bé đã đổi thành dang hai chân ngồi trên miệng giếng, lão hơi hối hận vì đã dây vào thằng nhóc coi trời bằng vung này.

Ông lão ngừng suy nghĩ lung tung, nhìn về phía miệng giếng, năm ngón tay cầm đáy chén trắng lớn, lòng bàn tay bắt đầu hơi nghiêng, biên độ nhỏ đến mức gần như không thể nhận ra.

Đứa bé có cảm giác mình đã chờ rất lâu, nhưng vẫn không thấy cái chén trắng trên đầu kia có động tĩnh gì, ông lão cũng luôn giữ nguyên tư thế kia.

Ngay khi hai hàng nước mũi của đứa bé sắp chảy đến bên miệng, không còn kiên nhẫn được.

Chợt thấy một dòng nước to bằng ngón tay từ trong chén trắng trút xuống, đổ vào sâu trong giếng nước mà không phát ra tiếng động nào.

Đứa bé há miệng lộ cả răng, đang muốn chửi ầm lên.

Nó đột nhiên kinh ngạc ngậm miệng lại, một lát sau sắc mặt đã từ kinh ngạc biến thành ngỡ ngàng. Sau đó đứa bé bắt đầu sợ hãi, đột nhiên lấy lại tinh thần, trong thoáng chốc nhảy xuống khỏi miệng giếng chạy về hướng nhà mình.

Hóa ra lượng nước mà ông lão dùng cái chén trắng kia đổ vào trong giếng đã hơn cả một lu lớn rồi.

Nhưng vẫn còn nước từ trong chén trắng đổ ra ngoài.

Đứa bé cảm thấy mình chắc chắn là gặp quỷ giữa ban ngày rồi.

---------

Lưu Tiện Dương tiện tay bẻ một nhánh cây vừa đâm chồi ven đường bắt đầu luyện kiếm, cả người xoay tròn điên dại giống như bánh xe chuyển động, không hề thương tiếc đôi giày mới dưới chân, khiến con đường nhỏ bốc lên vô số bụi bặm.

Thiếu niên cao lớn ra khỏi trấn nhỏ, từ phía bắc đi về phía nam, chỉ cần băng qua chiếc cầu mái che do Tống đại nhân bỏ tiền xây dựng, đi thêm ba bốn dặm đường là sẽ đến tiệm rèn của cha con họ Nguyễn. Thực ra Lưu Tiện Dương luôn tự cao tự đại, nhưng Nguyễn sư phụ chỉ dùng một câu nói đã khiến thiếu niên bội phục sát đất: “Chúng ta đến đây chỉ để mở lò đúc kiếm.”

Đúc kiếm thật tuyệt, vừa nghĩ tới tương lai mình có thể sở hữu một thanh kiếm thật, Lưu Tiện Dương lại không kìm được hưng phấn, hắn ném nhánh cây đi, bắt đầu vừa chạy vừa hét như quỷ khóc sói gào.

Lưu Tiện Dương nhớ đến mấy quyền thế mà Nguyễn sư phụ lén lút truyền thụ, lại bắt đầu luyện tập, cũng có hình có dạng, hổ gầm gió nổi.

Thiếu niên càng lúc càng đến gần cầu mái che.

Trên bậc thang ở phía bắc cầu mái che có bốn người đang ngồi. Một phu nhân xinh đẹp đẫy đà tư thái thướt tha, ôm một đứa bé trai mặc áo choàng màu đỏ vào lòng. Thằng bé kia hất cằm lên cao, giống như một vị tướng quân vừa mới giành được đại thắng.

Phía bên kia bậc thang có một ông lão cao lớn đầu tóc bạc trắng đang ngồi, nhỏ giọng dỗ dành một bé gái đang tức giận. Cô bé trắng ngần như búp bê bằng sứ tinh xảo nhất trên đời, nước da non nớt lóng lánh dưới ánh mặt trời chiếu rọi, đến nỗi có thể nhìn thấy rõ ràng từng đường gân mạch dưới da.

Hai đứa bé vừa cãi nhau xong, bé gái ứa mắt muốn khóc, còn bé trai thì càng đắc ý.

Ông lão có vóc người cao lớn giống như một ngọn núi nhỏ. Phu nhân bên cạnh đưa mắt nhìn sang như muốn xin lỗi, nhưng ông lão uy nghiêm lại làm như không thấy.

Phía dưới bậc thang còn có một người trẻ tuổi họ Lư đang đứng, đó là cháu đích tôn của gia chủ họ Lư, tên là Lư Chính Thuần. Có lẽ đúng là đất đai khác nhau thì nuôi dưỡng ra người khác nhau, những người sinh trưởng ở trấn nhỏ tướng mạo nhìn chung đẹp hơn nam nữ xứ khác. Có điều Lư Chính Thuần từ lâu đã bị tửu sắc mài mòn cơ sở, rơi vào mắt bốn người ngồi ở bậc thang thì càng khó coi.

Lò gốm mà Lư gia sở hữu dù là số lượng hay quy mô đều nổi bật trong trấn nhỏ, cũng là dòng họ có con cháu trong tộc rời khỏi trấn nhỏ đi nơi khác sinh sống nhiều nhất. Trước đây Lư Chính Thuần rất uy phong ở trấn nhỏ, nhưng lúc này vẻ mặt thận trọng, sắc mặt tái nhợt, cả người căng thẳng, giống như chỉ hơi sơ suất sẽ bị người ta tịch thu tài sản tru di cửu tộc.

Thằng bé nói ngôn ngữ mà dân chúng trấn nhỏ nghe không hiểu:

- Mẹ, tổ tiên của con sâu nhỏ họ Lưu này thật sự là vị kia...

Khi nó vừa định nói ra tên họ, phu nhân lập tức bịt miệng con mình lại:

- Trước khi ra cửa cha đã dặn con bao nhiêu lần rồi, ở chỗ này không được tùy tiện chỉ mặt gọi tên bất cứ ai.

Thằng bé đẩy tay của phu nhân ra, ánh mắt nóng bỏng, thấp giọng hỏi:

- Nhà hắn thật sự đời đời truyền thừa bảo giáp và Kiếm Kinh?

Phu nhân cưng chiều sờ đầu con thơ, dịu dàng nói:

- Họ Lư dùng nửa gia phả để bảo đảm, hai món đồ còn giấu trong nhà thiếu niên kia.

Thằng bé đột nhiên làm nũng nói:

- Mẹ mẹ, chúng ta có thể đổi một ít bảo vật với nhà Tiểu Bạch không, bảo giáp mà chúng ta định lấy thật sự quá xấu. Mẹ nghĩ thử xem, đổi thành bộ Kiếm Kinh kia có thể dùng phi kiếm lấy đầu trong mộng, đúng là thần không biết quỷ không hay, chẳng phải lợi hại hơn nhiều so với một cái mai rùa sao?

Không đợi phu nhân giải thích ngọn nguồn nguyên do trong đó, cô bé ở gần bên đã nổi giận đùng đùng nói:

- Chỉ bằng ngươi mà cũng muốn nhúng tay vào bảo vật trấn sơn thất truyền đã lâu của chúng ta? Lần này chúng ta tới đây là danh chính ngôn thuận vật về với chủ, không giống như một số kẻ không biết xấu hổ đi làm cường đạo trộm cắp, thậm chí là làm ăn mày!

Thằng bé quay đầu sang làm mặt quỷ, sau đó cười nhạo nói:

- Nha đầu thối ngươi cũng đã nói rồi, đó là bảo vật trấn “sơn”, dựa vào vai vế sơn môn mà thôi, giỏi lắm à?

Thằng bé đột nhiên đổi sang vẻ mặt cười đùa, từ trong lòng phu nhân đứng dậy, ánh mắt thương hại nhìn xuống bé gái, giống như thầy giáo đang răn dạy đám trẻ ngây thơ còn chưa mở mang đầu óc:

- Đại đạo trưởng sinh, làm việc nghịch thiên, chỉ ở chữ “Tranh”. Ngay cả đạo lý này mà ngươi cũng không hiểu, sau này làm thế nào thừa kế gia nghiệp, lại làm sao tuân thủ tổ huấn? Hậu duệ núi Chính Dương các ngươi, cứ cách ba mươi năm thì các đời con cháu cần phải nâng cao núi Chính Dương ít nhất một trăm trượng. Nha đầu thối, ngươi tưởng rằng từ ông nội đến cha ngươi làm được rất dễ dàng sao?

Cô bé có phần thua về khí thế, sắc mặt ủ rũ cúi đầu, không dám nhìn thẳng vào bé trai kia.

Ông lão cao lớn đầu tóc bạc trắng trầm giọng nói:

- Phu nhân, tuy rằng trẻ con nói chuyện thiếu suy nghĩ, nhưng lỡ may làm hại đạo tâm của thiếu chủ nhà ta bị che mờ, vậy các người cũng nên cân nhắc hậu quả.

Phu nhân cười quyến rũ, kéo đứa con thơ sắc mặt âm trầm vào lại trong lòng, nói giống như trong bông có kim:

- Trẻ con cãi nhau mà thôi, Viên tiền bối cần gì phải phóng đại như vậy, đừng phá hư tình hữu nghị ngàn năm của hai nhà chúng ta.

Không ngờ tính khí của ông lão rất rắn rỏi, đáp thẳng lại một câu:

- Núi Chính Dương ta khai sơn hai ngàn sáu trăm năm, có ân báo ân ngàn năm cũng không quên, có oán báo oán chưa từng để qua đêm!

Phu nhân chỉ cười cười, cũng không muốn tranh khí thế.

Lần này đến trấn nhỏ mọi người đều gánh vác trọng trách, nhất là bà đã đặt cược cả tính mạng của gia đình mình, tiền đồ của con trai và tài sản của nhà mẹ đẻ, một ván được ăn cả ngã về không.

Vị phu nhân này mặc dù quần áo giản dị nhưng khí khái lại ung dung, có điều dân chúng trấn nhỏ chưa từng thấy qua việc đời, không biết được huyền cơ mấu chốt trong đó.

Từ đầu đến cuối Lư Chính Thuần vẫn quay lưng về phía bậc thang của cầu mái che.

Lúc trước lần đầu tiên nhìn thấy những khách quý này ở nhà lớn họ Lư, em trai ruột của mình chẳng qua là trẻ tuổi bốc đồng không đủ định lực, nhất thời quên mất lời răn của ông nội, không nhịn được liếc trộm bộ ngực của phu nhân xinh đẹp kia. Ông nội giận đến toàn thân run rẩy, lập tức bảo người kéo hắn ra dùng gậy đánh chết ngay trong sân.

Trong miệng hắn nhét đầy vải bông giống như khi hành hình, do đó Lư Chính Thuần tiếp tục theo ông nội nghị sự trong phòng lớn, không nghe được tiếng kêu thê thảm của em trai, cũng không thấy được hình ảnh máu thịt đầm đìa. Đợi đến khi thương nghị xong, cùng nhau ra ngoài tìm kiếm thiếu niên họ Lưu, Lư Chính Thuần sải bước ra khỏi ngưỡng cửa phòng khách, mới phát hiện vết máu trong sân đã sớm được rửa sạch.

Bốn vị khách từ xa đến kia, kể cả đôi trẻ như Kim Đồng Ngọc Nữ đều thờ ơ với chuyện này, giống như đây là một chuyện hiển nhiên vậy.

Tại khoảnh khắc đó Lư Chính Thuần đã ngỡ ngàng.

Chết một người, sao giống như còn không bằng chết một con chó?

Huống hồ người đó còn là họ Lư, khuya hôm qua còn cùng với người anh trai này của hắn uống rượu tăng thêm can đảm, nhảy nhót tung tăng, nói rằng sau này nhất định phải thăng quan tiến chức, rạng danh cửa nhà, hai anh em không làm ếch ngồi đáy giếng nữa, phải hợp sức mở mang một cõi ở bên ngoài.

Đến sau khi rời khỏi nhà lớn Lư gia, đầu óc Lư Chính Thuần vẫn trống rỗng.

Sau đó Lư Chính Thuần bắt đầu nảy sinh sợ hãi, khi đám quý nhân xa lạ hỏi thì giọng nói của hắn sẽ run rẩy, lúc dẫn đường bước chân cũng lâng lâng. Hắn biết dáng vẻ này của mình sẽ làm trò cười cho thiên hạ, làm ông nội thất vọng, khiến gia tộc xấu hổ, nhưng người trẻ tuổi thật sự không kiềm chế được sự sợ hãi của mình, giống như trong xương cốt toàn thân đều rỉ ra khí lạnh.

Vào cuối năm ngoái ông nội đã dẫn anh em bọn họ vào một gian mật thất, nói với bọn họ một tin tức, không lâu sau Lư gia sẽ phải làm việc cho một số quý nhân, đó là phúc phận rất lớn, nhất định phải cẩn thận làm việc. Xong việc Lư gia sẽ dùng thù lao làm nước cờ đầu bồi dưỡng hai anh em, chỉ cần quý nhân chịu gật đầu thì sau này dưới chân anh em bọn họ sẽ xuất hiện một con đường rộng rãi, một bước lên mây, cuối cùng có được vinh hoa phú quý không thể tưởng tượng.

Khi đó hắn mới hiểu được vì sao mình và em trai từ nhỏ phải học tập nhiều ngôn ngữ địa phương kỳ lạ hiếm thấy như vậy.

Lư Chính Thuần nhìn Lưu Tiện Dương càng lúc càng đến gần cầu mái che, hắn đột nhiên rất căm hận người này. Cái tên nghèo rớt mồng tơi này từng bị mình dẫn người chặn trong ngõ nhỏ, nằm dưới đất như chó chết. Nếu không có một thằng khốn chạy đến đầu ngõ bên kia la lên chết người rồi, hắn và mấy đồng đảng vốn đã định làm theo giao hẹn, cởi quần tưới một cơn mưa rào lên đầu tên thiếu niên không biết điều nằm dưới đất kia rồi.

Cho tới giờ Lư Chính Thuần vẫn không hiểu tại sao những quý nhân ngồi tít trên cao này lại nhìn Lưu Tiện Dương với con mắt khác. Còn về những thứ mà bọn họ nói như bảo giáp, Kiếm Kinh, núi Chính Dương, trường sinh đại đạo, còn có tranh cơ duyên, giành số mệnh gì đó, hắn giống như nghe hiểu được hết, thực ra lại chẳng hiểu gì.

Nhưng Lư Chính Thuần có thể xác định một chuyện, đó là hắn rất mong Lưu Tiện Dương chết ở đây.

Còn như nguyên nhân thật sự, Lư Chính Thuần không dám thừa nhận cũng không muốn suy nghĩ sâu xa.

Từ tận đáy lòng, Lư Chính Thuần tuyệt đối không muốn Lưu Tiện Dương hèn mọn như chó, nhìn thấy thiếu gia họ Lư ăn ngon mặc đẹp như mình suy bại đến mức thấp kém như họ Lưu hắn.

Không có chuyện gì nhục nhã hơn chuyện này.

Phu nhân xinh đẹp nhìn về hướng kia, lẩm bẩm nói:

- Tới rồi.

Thiếu niên cao lớn vừa đánh quyền vừa đi tới, đến lúc sau xuất quyền nhanh chóng và mãnh liệt, càng đánh càng nhanh, đến mức thân hình thiếu niên cũng bị quyền thế cuốn theo hơi loạng choạng.

Dưới con mắt người trong nghề, trong quyền ý vừa mới thành hình đã lộ ra một chút phong phạm đại thành cương nhu bổ trợ.

Con đường võ đạo quyền pháp có một câu khẩu quyết nhập môn: “Không có chân ý quyền, trăm năm vẫn tay ngang. Ngộ được chân ý quyền, mười năm đánh quỷ thần.”

Phu nhân xinh đẹp như trút được gánh nặng, quả nhiên thiếu niên họ Lưu này là người mà bọn họ muốn tìm. Thiên phú đúng là không tầm thường, cho dù ở trong những phủ đệ tiên gia của bọn họ thì căn cốt tư chất của hắn cũng không thể xem thường.

Đương nhiên trong thế giới rộng lớn của phu nhân xinh đẹp và ông lão tóc bạc cao lớn, loại người này cũng là nhiều nhất.

Phu nhân xinh đẹp đứng lên, dặn dò Lư Chính Thuần phía dưới bậc thang:

- Ngươi đi nói với thiếu niên kia, hỏi xem hắn muốn gì mới đồng ý lấy ra hai món đồ gia truyền là áo giáp và bộ sách.

Khi Lư Chính Thuần xoay lại thì đã cúi đầu khom người, cũng trả lời bằng một loại tiếng địa phương mà dân chúng trấn nhỏ chắc chắn nghe không hiểu:

- Vâng thưa phu nhân.

Phu nhân hờ hững nói:

- Nhớ kỹ, lúc ngươi và thiếu niên kia nói chuyện phải vui vẻ hoà nhã, chú ý chừng mực.

Bé trai đưa ngón tay ra, giống như đứng trên cao nhìn xuống, nghiêm nghị nói:

- Nếu làm hỏng chuyện lớn bản công tử sẽ lột da rút gân ngươi, còn luyện hồn phách của ngươi thành tim đèn, trước khi đèn tắt ngươi lúc nào cũng sẽ sống không bằng chết!

Lư Chính Thuần sợ đến giật mình, càng khom lưng xuống thấp, lo lắng bất an nói:

- Tiểu nhân tuyệt đối sẽ không làm hỏng việc!

Bé gái cuối cùng cảm thấy có cơ hội giành lại khí thế, bèn chế giễu:

- Trước mặt những phàm phu tục tử này thì đầy uy phong, không biết là ai trên đường tới đây bị người đồng đạo mắng thẳng trước mặt là con hoang, nhưng cũng không dám đánh lại.

Thực ra ngay từ đầu ông lão cao lớn đã có ấn tượng không tốt về đôi mẹ con nịnh hót này, vì vậy bổ sung một câu:

- Tiểu thư nói sai rồi, đâu phải là không dám đánh lại, rõ ràng là không dám cãi lại.

Bé trai mặc bộ áo choàng đỏ tươi nghiến răng nghiến lợi, sắc mặt âm trầm nhìn chằm chằm vào bé gái, nhưng cũng không nói lời độc ác nào, cuối cùng lại nhoẻn miệng cười rất tươi sáng.

Ánh mắt của phu nhân thì vẫn luôn tập trung vào con đường phía trước, sắc mặt bình thản ung dung, còn như trong lòng bà có khó chịu hay không thì có trời mới biết.

Bé gái hừ lạnh chạy xuống bậc thang, ngồi xổm bên khe suối, cúi đầu nhìn cá lội trong nước.

Thỉnh thoảng có từng đàn cá chép bơi qua trước mắt cô bé, số lượng không đồng đều, có đủ hai màu xanh đỏ.

Một số cụ già lớn tuổi trong trấn nhỏ khi tán gẫu dưới cây hòe già, thường nói trong thời tiết dông bão, lúc bọn họ đi ngang cầu mái đều từng thấy dưới cầu có một con cá chép vàng rực bơi qua.

Chỉ là có cụ già nói kích thước của con cá chép vảy vàng kia lớn bằng bàn tay, cũng có người nói con cá chép kỳ lạ kia rất lớn, ít nhất phải dài đến nửa thân người, đúng là sắp thành tinh rồi.

Nhiều cách nói khác nhau khiến đám người già tranh cãi, đến nỗi đám trẻ nhỏ nghe kể chuyện cũng không tin là thật.

Lúc này bé gái nhìn chăm chú vào khe suối nhỏ trong suốt thấy đáy kia, hay tay nâng cằm nhìn không chớp mắt.

Ông lão tóc bạc ngồi xổm xuống bên cạnh cô, nhẹ giọng cười nói:

- Tiểu thư, nếu như Lư gia không nói láo, phần cơ duyên lớn này đã rơi vào túi người khác rồi.

Cô bé quay đầu sang, nhếch miệng cười nói:

- Viên gia gia, nói không chừng có đến hai con!

Thế là cô lộ ra hình ảnh thiếu một chiếc răng cửa trông rất khôi hài.

Cô bé nhanh chóng nhận ra điều này, vội vàng đưa tay che miệng lại.

Ông lão nín cười giải thích:

- Họ nhà giao long còn chưa qua sông thì rất coi trọng phân chia địa bàn, không cho phép đồng loại đến gần. Vì vậy...

Cô bé ồ lên, lại quay đầu đi, hai tay nâng cằm ngẩn ra, lẩm bẩm nói:

- Ngộ nhỡ có thì sao.

Ông lão luôn có vẻ hiền hậu khi ở bên cạnh bé gái, lần đầu tiên lộ ra vẻ mặt uy nghiêm của bề trên, đưa tay khẽ ấn đầu cô bé, trầm giọng nói:

- Tiểu thư hãy nhớ lấy, hai chữ “ngộ nhỡ” này quả thật là tử địch số một của chúng ta, quyết không thể ôm lòng cầu may! Tiểu thư cô tuy là cành vàng lá ngọc...

Cô bé rút một tay ra cố sức vẫy vẫy, hồn nhiên oán trách:

- Biết rồi, biết rồi, Viên gia gia, lỗ tai của cháu sắp chai rồi.

Ông lão nói:

- Tiểu thư, ta đi xem động tĩnh bên kia. Mặc dù đối phương là đồng minh trên danh nghĩa của núi Chính Dương chúng ta, nhưng tính cách phẩm hạnh của người trong gia tộc kia, à thôi đi, tránh làm bẩn tai của tiểu thư.

Cô bé chỉ phất tay xua đuổi.

Ông lão đành phải bất đắc dĩ rời đi.

Ông lão cường tráng thân phận giống như tôi tớ này buông hai tay xuống đầu gối, lúc đi đường lưng hơi khom giống như đang vác nặng.

Bé gái bên bờ suối đột nhiên ra sức dụi dụi mắt.

Cô phát hiện mực nước trong khe suối nhỏ rõ ràng bắt đầu dâng lên từ từ, dùng mắt thường có thể thấy được!

Nếu là ở ngoài trấn nhỏ, ví dụ như núi Chính Dương hoặc bất kỳ nơi nào ở quê nhà, cho dù là cả dòng nước của khe suối nhỏ trong nháy mắt khô cạn, cô cũng sẽ không ngạc nhiên chút nào.

Cô bé nghi hoặc nói:

- Không phải ở nơi này thiên nhiên đóng kín tất cả huyền thuật, thần thông và đạo pháp? Hơn nữa tu vi càng cao thâm thì cắn trả càng mạnh sao? Viên gia gia từng nói, cho dù là người trong truyền thuyết kia ở chỗ này lâu dài, hôm nay cũng lâm vào tình cảnh khó khăn lo cho mình còn không xong, rất khó ngăn cản người khác ra tay tranh đoạt...

Cuối cùng cô lắc lắc đầu, không muốn suy nghĩ vấn đề này nữa.

Cô bé quay đầu nhìn bóng lưng cao lớn của Viên gia gia.

Cô vui vẻ thầm nghĩ, chờ nơi này hoàn toàn xóa bỏ lệnh cấm, cô sẽ thỉnh cầu Viên gia gia mang đỉnh núi tên là Phi Vân kia đi.

Mang về quê nhà làm vườn hoa của cô.
 
[Dịch] Kiếm Lai - Tàng Thư Viện
Chương 8 : Cỏ dại


Sau khi Trần Bình An trở về nhà thì mí mắt vẫn luôn giật giật, mắt trái giật tài, mắt phải giật tai.

Thế là Trần Bình An ngồi trên bậc cửa, bắt đầu tưởng tượng mình đang nặn phôi, hai tay lơ lửng, rất nhanh thiếu niên giày cỏ đã tiến vào trạng thái quên mình. Thiếu niên cần cù là một chuyện, quan trọng không kém là hành động này có thể chịu đói, cho nên Trần Bình An đã tập thành thói quen có tâm sự là lại nặn phôi.

Chuyện nung gốm phải xem ý trời, bởi vì trước khi mở lò không ai biết màu men và hình dạng của một món đồ gốm có như ý muốn hay không, chỉ có thể phó thác cho trời. Nhưng trước khi đốt lò thì nặn phôi chắc chắn rất quan trọng, có điều Trần Bình An bị lão Diêu xem là tư chất kém, đa phần chỉ làm một số việc tay chân như xử lý đất. Hắn cũng chỉ có thể ở bên cạnh cẩn thận quan sát, sau đó tự mình xử lý đất và nặn phôi, tìm cảm giác tay.

Nhà sát vách vang lên tiếng đẩy cửa, hóa ra là Tống Tập Tân dẫn theo tỳ nữ Trĩ Khuê trở về từ trường học. Thiếu niên anh tuấn lao tới ung dung nhảy lên tường, ngồi xổm xuống rồi mở bàn tay ra, bên trong là những viên đá lớn bằng móng tay, đủ loại màu sắc như mỡ dê, xanh đậu, ngó sen...

Loại đá không đáng tiền này nhiều kích cỡ khác nhau, có thể tìm thấy dễ dàng nơi ghềnh suối của trấn nhỏ. Trong đó được yêu thích nhất là một loại đá đỏ tươi giống như thấm đầy máu gà, Tề tiên sinh ở trường học đã dùng nó điêu khắc một con dấu cho đệ tử Triệu Dao. Tống Tập Tân vừa nhìn thấy đã bị hấp dẫn, nhiều lần muốn dùng thứ khác đổi với tên kia nhưng đối phương nhất quyết không chịu.

Tống Tập Tân không dùng nhiều sức ném một viên đá ra, đập vào ngực Trần Bình An, nhưng đối phương vẫn làm thinh.

Ném thêm lần nữa, lần này ném trúng trán thiếu niên giày cỏ, nhưng Trần Bình An vẫn lù lù bất động.

Tống Tập Tân thấy vậy cũng không ngạc nhiên, một nắm đá bảy tám viên lần lượt ném ra kêu lốp bốp. Tuy Tống Tập Tân cố ý khiến Trần Bình An bị đau phân tâm, nhưng vẫn không ném thẳng vào cánh tay và mười ngón tay của Trần Bình An, bởi vì Tống Tập Tân cảm thấy làm như vậy có thắng cũng không vinh quang.

Tống Tập Tân ném đá xong thì phủi phủi tay. Trần Bình An thở ra một hơi dài, cổ tay rung lên, cũng không để ý tới Tống Tập Tân, chỉ cúi đầu suy nghĩ một lúc, năm ngón tay trái làm động tác giống như đang cầm dao khắc.

Trong đám thợ lò lâu năm ở trấn nhỏ, ngón nghề Khiêu Đao này cũng không tính là tuyệt kỹ bí truyền của người nào, nhưng bất cứ ai nhìn thấy thủ pháp Khiêu Đao của lão Diêu đều sẽ giơ ngón cái lên.

Lão Diêu đã thu mấy đồ đệ nhưng vẫn không thể khiến ông lão thật sự hài lòng, đến khi gặp được Lưu Tiện Dương mới cho rằng đã tìm được người có thể thừa kế chân truyền. Trước kia lúc Lưu Tiện Dương luyện tập, Trần Bình An chỉ cần rãnh rỗi thì sẽ ngồi ở một bên quan sát thật kỹ.

Lưu Tiện Dương rất thích sĩ diện, cũng biết ý định của Trần Bình An, cho nên thường dùng khẩu quyết bí truyền của lão Diêu để chấn nhiếp đối phương, chẳng hạn như “muốn dao đi vững thì tay không được cứng, suy cho cùng là tâm ổn.”

Nhưng khi Trần Bình An truy hỏi thế nào là tâm ổn thì Lưu Tiện Dương lại lúng túng.

Tống Tập Tân nhìn một lát cảm thấy nhàm chán mất hứng, bèn nhảy xuống đầu tường đi vào nhà.

Tỳ nữ Trĩ Khuê đứng ở bên kia tường, nếu cô không nhún chân thì vừa khéo lộ ra nửa mặt trên, dù vậy đã thấp thoáng có thể thấy thiếu nữ là một mỹ nhân sau này.

Cô suy nghĩ một lúc rồi khẽ nhún gót chân lên, ánh mắt rơi vào chung quanh thiếu niên bần hàn, cuối cùng tìm được hai viên đá mà mình thích nằm dưới đất. Một viên màu sắc đỏ tươi hơn nữa còn sáng long lanh, một viên thì óng ánh trắng như tuyết, đều là thứ mà công tử nhà cô vừa ném đi.

Cô do dự một lúc rồi thấp giọng rụt rè nói:

- Trần Bình An, ngươi có thể giúp ta nhặt hai viên đá kia lên không, ta rất thích chúng.

Trần Bình An chậm rãi ngẩng đầu lên, động tác tay vẫn rất ổn định không hề dừng lại, dùng ánh mắt ra hiệu cho cô chờ một lát.

Trĩ Khuê cười duyên dáng như mầm xanh đầu tiên trên cành sau khi vào xuân, trông rất đẹp.

Có điều thiếu niên đã cúi đầu nên không nhìn thấy hình ảnh động lòng người này.

Khóe miệng cô nhếch lên, cặp mắt sáng lung linh như có một sinh vật rất nhỏ đang thong thả bơi trong đó.

Đợi đến khi Trần Bình An ngừng động tác, hỏi cô xem rốt cuộc hai viên đá nào, ánh mắt tỳ nữ Trĩ Khuê liền khôi phục bình thường, vẫn mềm mại giống như đất xuân sau cơn mưa.

Trần Bình An theo hướng ngón tay cô chỉ nhặt hai viên đá kia lên, sau đó đi tới bên tường, cô vừa giơ tay thì thiếu niên giày cỏ cũng đã đặt đá lên đầu tường.

Cô cầm hai viên đá lên, nắm chặt trong lòng bàn tay.

Người có lòng gắng sức tìm kiếm thứ này thì như mò kim đáy biển, mười năm khó gặp.

Người hữu duyên cho dù không quan tâm vẫn có được dễ dàng, giống như rác vứt bên đường chỉ xem có hứng nhặt hay không.

Trần Bình An cười hỏi:

- Không sợ tên mũi thò lò kia đến cửa nhà các người mắng cả buổi sao?

Cô không thừa nhận công tử nhà mình trộm đồ của người khác, nhưng dường như cũng không mặt dày phủ nhận sự thật, cho nên chỉ cười mà không nói gì.

Có một đôi mẹ con sống ở ngõ Nê Bình, bản lĩnh cãi nhau của hai người là vô địch trong trấn nhỏ, cũng chỉ Tống Tập Tân mới có thể so tài với bọn họ. Trong đó đứa bé rất ngang bướng nghịch ngợm, quanh năm treo hai hàng nước mũi, thích đến ghềnh suối bắt cá nhặt đá. Cá bắt được đều nuôi trong một lu nước lớn, đá thì chất đống bên cạnh lu nước.

Tống Tập Tân lại cứ thích trêu chọc cái tên hay sinh sự này, thường tiện tay lấy trộm mấy viên đá, một hai ngày không nhận ra nhưng Tống Tập Tân lại lấy thêm nhiều lần. Một khi thằng nhóc xác nhận bảo bối của mình bị thiếu, sẽ xù lông giống như một con mèo hoang nhỏ bị đạp trúng đuôi, có thể đứng ngoài cửa mắng một canh giờ.

Mẹ nó cũng không hề khuyên răn mà còn ra sức châm dầu vào lửa, chuyên môn lôi chuyện Tống Tập Tân là con riêng của quan giám sát tiền nhiệm để chế giễu, nhiều lần khiến Tống Tập Tân giận đến nghiến răng, thiếu chút nữa đã xách ghế ra cửa đánh nhau, tỳ nữ Trĩ Khuê phải khuyên can mãi mới chịu dừng.

Bỗng nhiên một giọng nói gay gắt vang lên:

- Tống Tập Tân, Tống Tập Tân, mau tới bắt gian, tỳ nữ nhà ngươi đang liếc mắt đưa tình với Trần Bình An này, rõ ràng là cấu kết với nhau rồi! Nếu ngươi không quản tì thiếp nhà ngươi, nói không chừng tối nay cô ta sẽ leo tường đi gõ cửa nhà Trần Bình An đấy! Mau lăn ra đi, chậc chậc chậc, tay của Trần Bình An đã sờ lên mặt cô vợ nhỏ kia rồi, ngươi không thấy Trần Bình An cười gian đến buồn nôn thế nào đâu...

Tống Tập Tân vẫn không ló mặt, chỉ ngồi trong nhà hô lên:

- Như vậy đã là gì, tối hôm qua ta còn nhìn thấy Trần Bình An lôi lôi kéo kéo mẹ ngươi, sau khi bị ta bắt gặp Trần Bình An mới cố “rút” móng vuốt ra khỏi cổ áo bà ta. Chuyện này cũng phải trách mẹ ngươi, chỗ đó của bà ta đúng là quá đồ sộ đẫy đà, đáng thương cho Trần Bình An mệt đến mồ hôi đầy đầu...

Trong ngõ nhỏ có người đạp mạnh vào cửa nhà Tống Tập Tân, tức giận nói:

- Tống Tập Tân, ra đây một đấu một! Nếu ngươi thua thì đưa Trĩ Khuê cho ta làm nha hoàn, mỗi ngày đút cơm, trải giường, rửa chân cho ta! Còn nếu ta thua sẽ đưa Trần Bình An cho ngươi làm đầy tớ tạp dịch, thế nào? Xem ngươi có dám hay không, ai không dám thì là con rùa rút đầu!

Tống Tập Tân trong nhà uể oải nói:

- Cút qua một bên hóng mát đi! Cha ngươi đây đã xem hoàng lịch rồi, hôm nay không thích hợp để đánh con, Cố Xán, xem như ngươi may mắn!

Đứa bé bên ngoài nhà ra sức đập cửa:

- Trĩ Khuê, cô đi theo một thiếu gia hèn nhát như vậy đúng là ủy khuất, thà theo Lưu Tiện Dương bỏ trốn cho rồi, dù sao ánh mắt của tên to xác ngu ngốc kia nhìn cô giống như muốn ăn tươi nuốt sống vậy.

Tỳ nữ Trĩ Khuê xoay người đi vào nhà.

Tống Tập Tân trong nhà đang cẩn thận lau chùi một chiếc hồ lô màu xanh lá, đây là đồ cổ không rõ niên đại, cũng là một trong số “gia sản” mà vị Tống đại nhân kia để lại. Ban đầu Tống Tập Tân không hề để ý, sau đó vô tình phát hiện mỗi khi trời mưa dông thì trong hồ lô lại kêu lên ong ong. Nhưng khi Tống Tập Tân mở nắp, bất kể lắc lư thế nào cũng không thấy có vật gì trượt ra, rót nước đổ cát vào trong đến khi đổ ra vẫn là nước và cát, không nhiều hơn hay ít hơn chút nào.

Tống Tập Tân thật sự hết cách, cộng thêm có lần bị bà mẹ chua ngoa của Cố Xán ở ngoài cửa mắng ra rả là đồ con hoang có mẹ sinh không có cha nuôi, khiến cho hắn tâm phiền ý loạn, bèn cầm dao chặt vào hồ lô một hồi để xả giận. Kết quả lại khiến thiếu niên nghẹn họng nhìn trân trối, lưỡi dao đã bay nhưng hồ lô vẫn nguyên vẹn không hư hại gì, không lưu lại một chút vết tích nào.

Trong một bức thư năm xưa bị Tống Tập Tân đốt có viết: “Vàng bạc từ dinh quan chuyển tới nhà nhỏ đảm bảo cho hai chủ tớ các ngươi không lo cơm áo, lúc rãnh rỗi có thể sưu tầm một ít đồ cổ mà mình thích thú, xem như rèn luyện tính tình. Trấn này tuy nhỏ nhưng ngô khoai có thể dưỡng bụng, sách vở có thể dưỡng đức, cảnh vật có thể dưỡng mắt, tịch mịch có thể dưỡng tâm. Từ hôm nay hãy cố gắng làm việc, còn lại tùy thuộc vào trời, rồng ẩn dưới vực sâu nhất định ngày sau sẽ có phúc đức báo ứng.”

Mặc dù Tống Tập Tân oán hận người đàn ông kia, nhưng có tiền không tiêu thì trời đánh thánh đâm. Trong trấn nhỏ nếp sống giản dị này muốn ăn xài phung phí cũng rất khó. Qua nhiều năm như vậy Tống Tập Tân cũng thật sự thích nghề thu gom đồ nát, cả một cái rương lớn sơn đỏ đầy ắp những món đồ chơi linh tinh tương tự như hồ lô màu xanh lá này.

Nhưng Tống Tập Tân có một loại trực giác huyền diệu khó giải thích, trong một rương lớn hơn ba mươi món đồ đủ các loại, hồ lô này là thứ quý trọng nhất. Sau đó là một chiếc chuông màu tím rỉ sét, lắc lên rõ ràng nhìn thấy quả chuông đập vào vách, lẽ ra phải có tiếng vang lanh lảnh nhưng thực tế lại im hơi lặng tiếng, khiến Tống Tập Tân vừa sởn tóc gáy vừa lấy làm lạ. Cuối cùng là một bình trà cổ xưa có ghi chữ “Sơn Tiêu” (ma núi). Những đồ vật còn lại thì Tống Tập Tân không thích lắm, không thể gọi là vừa thấy đã yêu.

Đứa bé tên là Cố Xán đứng ngoài cửa mắng như tát nước, hơi sức dồi dào.

Không lâu sau tiếng mắng chửi chợt im bặt.

Tiếp đó Trần Bình An nhìn thấy đứa bé kia đột nhiên đẩy cửa nhà mình ra, vẻ mặt hoàng hốt, sau khi cài then thì ngồi xổm bên cạnh cửa, không ngừng nháy mắt bảo mình cũng ngồi xuống bên cạnh nó.

Trần Bình An không rõ nguyên do nhưng vẫn khom lưng chạy đến bên cạnh đứa bé, sau khi ngồi xuống bèn nhẹ giọng hỏi:

- Cố Xán, ngươi làm gì vậy? Lại chọc giận mẹ ngươi à?

Đứa bé ra sức khịt khịt mũi, thấp giọng nói:

- Trần Bình An, ta nói cho ngươi biết, ban nãy ta gặp phải một quái nhân, cái chén trắng trong tay ông ta có thể đổ nước ra ngoài liên tục. Ngươi xem này, cái chén chỉ hơi lớn như vậy, ta tận mắt nhìn thấy ông ta đổ nước đến một canh giờ! Vừa rồi lúc lão đó đi qua đầu ngõ Nê Bình chúng ta hình như đã ngừng lại, không phải là nhìn thấy ta rồi chứ? Thảm rồi, thảm rồi...

Đứa bé khoa tay múa chân miêu tả kích cỡ của chén trắng, sau đó vỗ vỗ ngực cảm khái nói:

- Thật là dọa chết cha Tống Tập Tân đây rồi.

Trần Bình An hỏi:

- Ngươi muốn nói tới vị tiên sinh kể chuyện dưới cây hòe kia?

Đứa bé ra sức gật đầu:

- Đúng vậy, lực tay của lão già cũng không được mấy cân, nhấc ta không nổi, nhưng cái chén nát kia đúng khiếp người, rất khiếp người!

Đứa bé đột nhiên nắm lấy cánh tay Trần Bình An:

- Trần Bình An, lần này ta thật sự không lừa ngươi! Ta có thể thề, nếu như lừa ngươi thì sẽ khiến Tống Tập Tân chết không yên lành!

Trần Bình An giơ một ngón tay lên ra dấu im lặng.

Đứa bé lập tức ngậm miệng.

Ngoài cửa có tiếng bước chân, từ từ nhấc lên, từ từ hạ xuống.

Vỏ quýt dày thì có móng tay nhọn.

Đứa bé vốn không sợ trời không sợ đất ngồi bệt dưới sân, đưa tay lau mặt qua loa, sắc mặt trắng bệch, rất dễ thấy tên mũi thò lò gọi là Cố Xán này đúng là sợ đến gần chết.

Đứa bé thình lình hỏi:

- Trần Bình An, không phải lão kia đến nhà ta đấy chứ? Giải quyết như thế nào đây?

Trần Bình An bất đắc dĩ nói:

- Ta theo ngươi về nhà ngươi xem thử?

Đứa bé giống như đang chờ câu này của Trần Bình An, đột nhiên đứng dậy, nhưng sau đó lại chán nản ngồi xuống, vẻ mặt như đưa đám nói:

- Trần Bình An, chân ta nhũn ra rồi không đi nổi.

Trần Bình An đứng lên, khom lưng nắm lấy cổ áo sau của đứa bé, dùng một tay nhấc nó lên, tay kia thì mở then cửa đi ra khỏi sân.

Nhà của đứa bé cách đây không xa, chỉ chừng trăm bước. Quả nhiên Cố Xán nhìn thấy ông lão kia đang ở trong sân nhà nó, mẹ nó còn mang cho lão một cái ghế.

Vào giây phút này đứa bé cảm thấy như trời sập xuống, cho nên nó quyết định trốn sau lưng Trần Bình An, để tên cao lớn kia đi trước.

Trần Bình An cũng không làm đứa bé này thất vọng, không biết vô tình hay cố ý che trước người nó.

Khi thằng nhóc nghịch ngợm Cố Xán nắm ống tay áo Trần Bình An, chẳng biết vì sao lập tức tràn đầy khí phách.

Ông lão không để ý tới chuyện này, ngồi trên ghế ngẫm nghĩ, cái chén trắng trong tay bỗng nhiên biến mất.

Cố Xán lập tức lại nhũn chân, cả người nấp sau lưng Trần Bình An, nơm nớp lo sợ.

Ông lão nhìn thôn phụ quê mùa vẻ mặt bình tĩnh khác thường, lại nhìn thiếu niên giày cỏ đang nhíu mày, cuối cùng nói với đứa bé đang co đầu rụt cổ:

- Nhóc con, có biết trong lu nước nhà ngươi nuôi thứ gì không?

Đứa bé sau lưng Trần Bình An kêu lên:

- Còn cái gì nữa chứ, là tôm cua cá do tôi bắt từ suối lên, còn có cá chạch và lươn câu được trong ruộng! Nếu ông thích thì cứ lấy đi, đừng khách sáo...

Giọng nói của đứa bé càng lúc càng nhỏ, hiển nhiên là không đủ hơi.

Phu nhân vuốt vuốt tóc mai, nhìn Trần Bình An ôn nhu nói:

- Bình An.

Trần Bình An hiểu ý bà, xoa xoa đầu Cố Xán rồi xoay người rời đi.

Sâu trong ánh mắt của phu nhân thoáng hiện lên vẻ hổ thẹn với thiếu niên giày cỏ.

Bà ngừng suy nghĩ lung tung, quay đầu hỏi ông lão:

- Tiên sư từ xa đến đây là muốn mua hay giành phần cơ duyên này?

Ông lão lắc đầu cười nói:

- Mua? Ta không mua nổi. Giành? Ta cũng không giành được.

Phu nhân cũng lắc đầu:

- Trước kia là vậy nhưng sau này chưa chắc.

Ông lão vốn thần thái nhàn hạ nghe được lời này lại giống như bị sét đánh, đột nhiên vung tay áo, năm ngón tay bấm như bay.

Ông lão thở dài nói:

- Sao lại đến nỗi này!

Sắc mặt phu nhân lạnh nhạt, cười nhạo nói:

- Tiên trưởng cho rằng trấn nhỏ này được mấy người tốt?

Ông lão đứng lên, nhìn sâu vào đứa bé đang ngơ ngơ ngác ngác, dường như đã có một quyết định rất lớn, cổ tay nhoáng một cái chén trắng lại hiện lên.

Ông lão đi đến bên cạnh lu nước lớn cao bằng nửa người, nhanh chóng múc một chén nước trong lu.

Mặc dù phu nhân ra vẻ bình tĩnh nhưng thực chất lòng bàn tay đã đầy mồ hôi.

Ông lão ngồi trở lại ghế, vẫy tay với Cố Xán nói:

- Nhóc con, qua đây xem thử.

Đứa bé nhìn về phía mẹ mình, thấy bà gật đầu ánh mắt đầy khích lệ.

Sau khi đứa bé đến gần, ông lão khẽ thổi một hơi vào mặt nước trong chén, làm nổi lên sóng gợn lăn tăn.

Ông lão cười nói:

- Há miệng.

Cùng lúc này ông lão quơ tay một cái, không biết từ chỗ nào trên người đứa bé lấy ra một chiếc lá hòe.

Hai ngón tay kẹp hờ chứ không cầm chắc.

Đứa bé theo bản năng kêu một tiếng a.

Ông lão gập ngón tay búng ra, lá hòe xanh biếc ẩm ướt này đã chui vào trong miệng đứa bé.

Đứa bé ngẩn ra tại chỗ, sau đó phát hiện hình như trong miệng mình cũng không có gì khác thường.

Ông lão không cho nó cơ hội hỏi thăm, chỉ chỉ vào cái chén trắng trong lòng bàn tay:

- Nhìn kỹ xem có thứ gì.

Cố Xán trợn to hai mắt tập trung nhìn vào, đầu tiên là nhìn thấy một điểm đen cực nhỏ, sau đó dần dần biến thành một đường đen hơi rõ, cuối cùng từ từ mở rộng, giống như biến thành một con cá chạch nhỏ màu vàng đất, vui sướng lăn lộn trong sóng gợn của mặt nước chén trắng.

Đứa bé đầu óc đang rối loạn giống như nhớ ra điều gì, giật mình kêu lên:

- Tôi nhớ nó rồi! Là tôi từ chỗ Trần Bình An bên kia...

Phu nhân tát vào mặt con trai mình, mặt hầm hầm nói:

- Im miệng!

Ông lão cũng không bất ngờ về chuyện này, hờ hững nói:

- Tu sĩ chúng ta vì chứng trường sinh mà đại nghịch bất đạo, một chút tranh đoạt như vậy chẳng tính là gì. Không cần khẩn trương như vậy, nếu là của con trai ngươi thì chạy không khỏi, nếu không phải là của thiếu niên kia thì cũng không giữ được.

Đứa bé tên là Cố Xán này thể trọng không tới bốn mươi cân.

Nhưng “căn cốt” của nó lại nặng đến mức khó tưởng tượng.

Cho nên lúc trước ông lão cầm chén người có thần thông này phá lệ thi triển bí thuật tổ truyền, sờ xương của nó xem thử cân nặng, dĩ nhiên không nhấc Cố Xán lên được.

Đây là điều kiện trước tiên để ông ta thu đồ đệ.

Nếu không trẻ con ba tuổi cầm vàng qua chợ, không phải là tự tìm đường chết sao?

Ông lão cười vui vẻ nhưng ánh mắt lại lạnh giá, chậm rãi nói:

- Đương nhiên dù vốn là của thiếu niên kia thì thế nào? Hôm nay có lão phu tự mình trấn giữ, cũng không còn là của hắn nữa.

Đứa bé câm như hến, răng run lập cập.

Phu nhân như trút được gánh nặng.

Gương mặt của ông lão lại đổi sang hiền lành hòa nhã:

- Bé con, cái chén này chứa nước của cả con sông, hôm nay còn nuôi một con giao long nhỏ. Từ giờ trở đi ngươi chính là đệ tử thân truyền của ta.

- Lão phu là một vị “Chân Quân”, chỉ thiếu nửa bước là thành tổ sư “khai tông”, tuy là hạ tông... Tóm lại sau này ngươi tự nhiên sẽ hiểu phân lượng của bốn chữ Chân Quân và khai tông.

Ông lão cười hả hả nói:

- Sẽ còn nặng hơn một chén nước sông này.

Đứa bé bỗng khóc lên:

- Như vậy không đúng! Nó là của Trần Bình An!

Phu nhân thẹn quá hóa giận, lại giơ cao cánh tay muốn giáo huấn đứa con trai ngu ngốc không biết điều này.

Ông lão khoát tay cười cười, hời hợt nói:

- Có lòng dạ như vậy cũng không hẳn là chuyện xấu.

Đứa bé cúi đầu, dùng mu bàn tay lau nước mắt và nước mũi.

Phu nhân lặng lẽ nhìn về phía ông lão.

Ông lão hiểu ngầm cười, gật đầu một cái.

Người trong đồng đạo, tất cả đều không cần phải nói.

Sau khi đứa bé ngẩng đầu lên, mẹ nó và sư phụ nửa đường từ trên trời rớt xuống kia đã cười nhàn nhạt.

Đứa bé quay đầu sang, thấy lúc Trần Bình An rời đi cũng không quên đóng cửa viện lại.

---------

Trấn nhỏ giống như một đồng ruộng vào năm được mùa, đã đến thời kỳ thu hoạch.

Nhưng có một số người chỉ là cỏ dại xen lẫn trong đám lúa, người khác nhìn qua một lần thì không nhìn lại lần hai.

Chẳng hạn như thiếu niên giày cỏ cô đơn đi trong ngõ Nê Bình.
 
Back
Top Bottom