Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
420,166
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
AP1GczPrJIWw-MXnCU4mRFHz8nKej6qsqOsWk74UuKOmXjtmGmhm24UQ3s5QLa90z2eRDWHg1L8A2hgHz6guhD007z2WRW-ag7ILpKhjN1dLsYNztKyKoG9sXxM9nI-aeTi5VVI6Zy62m8XDw1IgI02t5R3l=w215-h322-s-no-gm

Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng
Tác giả: Lại Lạnh Lùng
Thể loại: Đô Thị, Đam Mỹ, Khác, Đoản Văn
Trạng thái: Đang ra


Giới thiệu truyện:

Tên: Có Gió Thổi Qua

Tên gốc: 有风吹

Tác giả: Lại Lạnh Lùng / 又盐

Editor: Ngủ đến khờ

Thể loại: Nguyên tác, Đam mỹ, Hiện đại, He, Tình cảm, Gương vỡ lại lành, Tình yêu nơi đô thị, Truyện ngắn, Đời thường, Điền viên

GIỚI THIỆU TRUYỆNKhi hôn anh, bốn mùa đều trở nên tươi đẹp, toàn thân tôi cũng trở nên ẩm ướt.

Đó là một trò chơi trẻ con giữa chúng tôi. Ban đầu, Trần Vọng Trì không cho tôi hút thuốc. Nhưng mỗi khi bị tôi mè nheo đến hết cách, anh sẽ giữ lấy cằm tôi, nghiêng đầu hôn tới. Mùi khói thuốc nồng xộc, anh bịt chặt môi tôi, siết rất căng. Vị khô ráp trên môi anh quyện với hương thuốc lá cứ thế men dọc khoang miệng xuống sâu, làn khói lượn lờ thấm vào tận đáy phổi, mang theo cả mùi hương đặc trưng trên người Trần Vọng Trì.

Thỉnh thoảng tôi có hút trộm, những lúc bị anh bắt gặp, anh sẽ cầm điếu thuốc của mình chạm nhẹ vào điếu của tôi rồi nói: “Cụng ly.”

“Con nít chỉ được uống một ly thôi.”

Rõ ràng anh cũng chỉ hơn tôi một tuổi mà thôi.

Tóm tắt trong một câu: Có gió thổi qua.

Thông điệp: Đừng ngồi chờ gió đến, hãy chủ động chạy theo ngọn gió của riêng mình.​
 
Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng
Chương 1


Trước thềm Tết Nguyên đán năm hai không hai tư, cha gọi một cuộc điện thoại, réo tôi từ Cam Túc xa xôi ngàn dặm trở về. Mấy ngày đó, thời tiết ở Cam Túc tệ vô cùng. Tôi đã đến Cam Túc không biết bao nhiêu lần, nhưng đó là trận bão cát lớn nhất tôi từng gặp.

Tôi kẹp điện thoại vào vai, đầu óc trống rỗng lắng nghe giọng nói đã nhuốm màu tuổi tác không thể che giấu của cha qua điện thoại. Trước mắt tôi, cát vàng mịt mù giăng kín cả đất trời. Xe của tôi chết máy giữa đường, và lúc cha gọi tới, tôi đã chờ bên vệ đường được ba tiếng đồng hồ rồi.

Thời tiết khắc nghiệt, đài khí tượng đã phát cảnh báo, cao tốc bị phong tỏa. Vô số người xa xứ buộc phải dừng chân tại thành phố này. Bão cát siết chặt lấy những đôi mắt đang mong ngóng ngày về, nhưng trong đó không có đôi mắt của tôi.

Lẽ ra tôi phải phiêu bạt nơi đất khách, bị cuồng phong và mưa lớn cuốn đi rồi quật ngã, đôi mắt phải ngâm trong nước biển và mưa rào.

Đó mới là cuộc sống của tôi.

Trong điện thoại, tôi nói với cha rằng năm nay tôi vẫn không về được, dự án của công ty đã mở rộng sang Nam Mỹ, tôi cũng đã nộp đơn đăng ký. Chỉ hai tháng nữa thôi, tôi sẽ vào sâu trong rừng rậm, theo chân đoàn làm phim để quay một bộ phim tài liệu.

Người đàn ông trung niên với dáng vẻ ngang ngược và giọng nói thô lỗ ấy lần đầu tiên im lặng trước mặt tôi. Hai đầu điện thoại cách nhau bởi vô số những dãy núi trập trùng, chúng tôi quay lưng lại với nhau, cứ thế xa dần qua từng ngọn núi, để rồi cuối cùng chẳng ai còn thấy được bóng lưng của ai nữa.

Sau đó, ông nói rằng ông và dì Hà sắp đăng ký kết hôn, hy vọng tôi có thể trở về.

Ông không nhắc đến việc muốn tôi chứng kiến hạnh phúc của mình khi đã ngoài năm mươi mà vẫn có thể rung động, chỉ nói: “Con với Trần Vọng Trì rồi sẽ thành người một nhà, không thể cả đời không gặp mặt.”

Lúc ấy, tôi đang dừng chân ở Hà Tây, nếu không có gì bất trắc, tôi sẽ sớm đến được Tân Cương. Và nếu không phải vì xe chết máy, có lẽ tôi đã không nghe điện thoại của ông, cũng sẽ không nghe được tin ông sắp tái hôn, và càng không thể nghe thấy cái tên Trần Vọng Trì thốt ra từ miệng ông.

Cha vừa dứt lời, chưa đầy vài giây sau tôi đã cúp máy.

Trận bão cát ngày hôm đó như thể vừa thoát ra từ trong một bức tranh, khiến mắt tôi nhòa đi trong phút chốc.

Tên của một người nào đó, bất giác đã trở thành một bóng cây mờ nhạt, tan chảy trong những con sóng nhiệt bỏng rát.

Tôi nhớ đến nụ hôn của mùa hè năm ấy. Nó không nên xảy ra, và cũng không nên tồn tại.

Trên bức tường thấp lè tè, những cây cỏ dại không tên vươn mình mọc lên, nh** h** màu vàng rụng xuống những hạt phấn li ti, lấp lánh ánh vàng, hệt như chiếc kẹp tóc màu vàng trên đầu mẹ của Trần Vọng Trì.

Cha tôi khom lưng, bước một chân qua tường, lặng lẽ không một tiếng động trèo vào nhà mẹ của Trần Vọng Trì. Bức rèm cửa sổ màu xanh da trời được kéo lại, những âm thanh rời rạc, không liền mạch khe khẽ vọng ra.

Trên đầu, lá cây ngô đồng khẽ lay động, tôi thấy ánh nắng chói chang của ngày hè gay gắt đậu trên mắt anh. Thế rồi tôi nhắm mắt lại, giữa những âm thanh quấn quýt của cha tôi và mẹ anh, trong khu rừng ngô đồng sau nhà anh, tôi đã đón nhận nụ hôn ẩm nóng ấy.

Nó còn ẩm nóng hơn cả cơn mưa rào mùa hạ.

Đó là cơn bão dữ dội mà cũng dịu êm nhất tôi từng trải qua, còn lớn hơn cả trận bão cát khi tôi nhận được điện thoại của cha.

━━━━━━。゜✿ฺ✿ฺ゜。━━━━━━

Mùng sáu Tết năm hai không hai tư, tôi đi nhờ xe của một người lạ để về nhà. Trên con đường quốc lộ vừa tắc nghẽn vừa hoang vắng, tôi và anh ta thay phiên nhau lái xe suốt mười ba tiếng đồng hồ. Khi đến địa phận của tỉnh, cả hai chúng tôi đều đã mệt nhoài. Chúng tôi nói đùa với nhau, hỏi tại sao lại chọn về nhà vào đúng lúc người khác đang quay trở lại làm việc.

Anh ta nói không phải về nhà, chỉ là ghé qua một vài nơi. Mấy năm nay, anh ta cứ đi rồi lại dừng, ở mỗi thành phố vài ngày rồi lại lên đường. Điểm dừng chân trước đó của anh ta là ở Trùng Khánh, anh ta bán đồ nướng vỉa hè được mấy ngày rồi quyết định đi về phía bắc, thế nên mới gặp tôi ở Cam Túc.

Chúng tôi ngồi xổm ở trạm dừng chân lúc đêm khuya, hút thuốc cho tỉnh ngủ. Tôi nhìn gương mặt anh ta ẩn hiện trong làn khói, hỏi anh ta có tâm sự gì không.

Anh ta liếc nhìn tôi, cười cười không nói gì.

Những lời chực trào ra khỏi miệng lại bị tôi nuốt ngược vào trong. Tôi cười đáp lại, giơ điếu thuốc trên tay lên, nói một tiếng: “Cạn ly.”

“Cạn ly.” anh ta đáp.

Khi về đến nơi thì đã là sáng sớm mùng bảy. Lúc đó, cha tôi và dì Hà đã đăng ký kết hôn xong.

Trên bức tường mới sơn lại có dán hai chữ Phúc, chứ không có chữ Hỷ. Họ không tổ chức đám cưới, thậm chí cũng không mời khách. Họ kín đáo đến mức chẳng bằng cả cành non vừa nhú lộc xanh ở đầu làng. Con chó vàng nhà bác hàng xóm vểnh đuôi lên sủa inh ỏi về phía tôi, trông vô cùng oai vệ.

Nó không biết tôi, vì lúc tôi rời nhà, bác ấy còn chưa nhận nuôi nó.

Tôi đứng ở cửa đối đầu với nó, cuối cùng tiếng sủa đã gọi cha tôi ra, ông ăn mặc chỉnh tề, gương mặt rạng rỡ niềm vui.

Nét mặt ông cứng lại, rồi cố nở một nụ cười gượng gạo. Nụ cười ấy như những giọt nước nhỏ ngưng tụ trên đám mây đen kịt rồi từ từ rơi xuống.

“Về rồi à con.”

“Dạ.”

Ngoài ra không còn lời nào khác.

Bầu không khí gia đình ở các nước Đông Á dường như không được tốt cho lắm. Những người tôi quen, ít nhiều đều có vấn đề trong mối quan hệ thân mật với người nhà. Tôi có một người chị học trên tôi một khóa, đang học tiến sĩ ở Mỹ, năm mười sáu tuổi suýt bị gia đình ép đi lấy chồng sinh con. Chị ấy đã dùng mười tám năm để lên kế hoạch cho một cuộc đào thoát, đến nay vẫn chưa liên lạc lại với gia đình. Tôi còn có một người bạn làm việc ở Bắc Kinh, vì xu hướng tính dục của mình mà vẫn luôn ở trong một cuộc chiến giằng co với cha mẹ. Lần cuối tôi gặp cậu ấy là vào năm hai không mười chín, hồi đó mấy đứa chúng tôi lập một nhóm, lái xe đến cao nguyên Pamir. Lúc ấy, hoàng hôn đẹp hùng vĩ, cậu ấy nói với tôi rằng có lẽ sắp phải chia tay người bạn trai đã ở bên nhau nhiều năm. Vừa dứt lời, cậu ấy lại nói tiếp, nụ cười trông rất khó khăn, nhuốm một vị đắng chát. Cậu ấy bảo cha mình vừa nhận được giấy báo bệnh tình nguy kịch, có thể không qua khỏi mùa hè năm nay, và sau khi ngắm xong hoàng hôn này, cậu ấy sẽ từ chức để về nhà.

Sự im lặng của chúng tôi trở nên nhỏ bé không đáng kể giữa trời đất bao la. Hoàng hôn chầm chậm buông xuống, màn đêm nuốt chửng ánh sáng, chỉ còn lại vầng trăng đơn độc.

Tôi và cha đã quá lâu không gặp mặt, nên khi gặp lại, cả hai đều có chút gượng gạo và khó xử. Sự dũng mãnh, hiếu thắng cùng tính khí nóng nảy thời trẻ của ông đều đã bị năm tháng bào mòn hết cả. Những nếp nhăn hằn sâu trên mặt ông đã biến thành những cành cây khô khốc của mùa đông. Cành cây còn có thể đón một mùa xuân mới, còn ông tuy không còn trẻ nữa, nhưng cuối cùng cũng xem như được toại nguyện.

Dì Hà có vẻ ngại ngùng, đứng nép bên cạnh cha, vén lọn tóc rủ xuống sau vành tai rồi nói với tôi rằng Trần Vọng Trì lát nữa mới về tới nhà, chuyến bay của anh bị hoãn, xe lại còn kẹt xe giữa đường.

Tôi nhìn gương mặt xinh xắn và những cử chỉ thiếu tự nhiên của dì, rồi lại nghĩ đến khuôn mặt của Trần Vọng Trì.

Nét mặt anh không bao giờ sinh động như mẹ mình. Chỉ khi anh hôn tôi, tôi mới có thể bắt được những gợn sóng không thể kìm nén trong mắt anh.

Khi đôi môi quấn quýt lấy nhau, trái tim cũng trở nên ẩm ướt.

Họ tiếp đãi tôi rất khách sáo, cứ như đang tiếp khách vậy. Sau khi tôi nói đến lần thứ ba rằng mình không đói, cha mới sực tỉnh, cười bảo tôi đừng câu nệ.

“Đây vốn dĩ là nhà của con mà.” ông nói với tôi như vậy.

Hai bức tranh trong phòng khách đã được thay bằng tấm ảnh cưới giản dị của hai người. Tôi đứng trước tấm ảnh nhìn một lúc, dì Hà có chút ngượng ngùng nói rằng thợ chụp ảnh chụp dì không đẹp, chiếc mũi nhỏ xinh cao thẳng của dì bị chụp thành hơi tẹt. Ngược lại, chính cái vẻ hơi tẹt đó lại càng làm nổi bật nét ngây thơ đáng yêu như một cô bé của dì.

Dì vẫn rất đẹp, nếu không thì cha tôi đã chẳng vào những buổi trưa hè oi ả hay những đêm trăng treo cao mà lén lút hẹn hò với dì, bất chấp cả nguy cơ gãy chân cũng phải trèo tường để được ôm ấp người đẹp trong lòng.

Trần Vọng Trì có tướng mạo rất giống mẹ mình.

Khoảng hơn bảy giờ tối, cánh cổng lớn màu son bị hai luồng đèn xe chiếu rọi. Con chó vàng vẫn tận tâm tận lực gào sủa, điều này khiến lòng tôi cân bằng hơn đôi chút. Tôi dụi tắt điếu thuốc hút dở, đứng dậy đi lên lầu.

Tiếng động cơ xe tắt lịm, tôi nghe thấy giọng dì Hà không giấu được niềm vui mừng, dì hỏi Trần Vọng Trì đã ăn cơm chưa, có lạnh không.

“Không lạnh ạ.” Trần Vọng Trì đáp lời mẹ.

Anh vẫn luôn ít lời như vậy, trước nay vẫn thế, cho nên ngày trước tôi mới lặp lại cái trò đùa ác ý của trẻ con, ép anh phải nói yêu tôi mỗi khi chúng tôi hôn nhau. Anh chưa bao giờ làm vậy, chỉ dùng đôi mắt sẫm màu đó lặng lẽ nhìn tôi. Khung cảnh bốn mùa của thị trấn lặng lẽ lướt qua đáy mắt anh, tôi không phân biệt nổi là anh đã vây lấy cả bốn mùa, hay là khi anh nhìn tôi thì vốn dĩ chẳng còn phân biệt được bốn mùa nữa. Chúng tôi đã mê man chìm đắm trong vô số những mùa xuân, hạ, thu, đông, và Trần Thành Hạ đã vô số lần hỏi Trần Vọng Trì rằng anh có yêu mình không.

Khi hôn anh, bốn mùa đều trở nên tươi đẹp, toàn thân tôi cũng trở nên ẩm ướt.

Dưới lầu, sau vài câu hỏi han, giọng nói sang sảng của cha đột ngột vang lên, nói rằng tôi đã về đến nhà, hiện đang nghỉ ngơi trên lầu.

Đó là năm giây im lặng và tám nhịp tim đập, rồi tôi nghe thấy Trần Vọng Trì nói: “Vâng, con biết rồi.”

Tôi hiểu mong muốn của cha là muốn tôi và Trần Vọng Trì làm hòa với nhau. Ông và dì Hà không rõ nguyên nhân vì sao quan hệ của chúng tôi khi xưa lại đột nhiên trở nên tồi tệ, chỉ cảm thấy rằng, muốn cả nhà sống cùng nhau thì những ân oán trước kia cần phải được xóa bỏ sạch sẽ. Họ kết hôn, lại đúng vào dịp Tết, nếu tôi và Trần Vọng Trì có thể hòa giải thì đúng là song hỷ lâm môn. Trong mắt họ, Trần Vọng Trì là anh trai tôi, còn tôi là em trai của anh.

Anh em là một mối quan hệ rất tốt.

━━━━━━━━━━━━

Anh lên lầu, người quyện trong một mùi thuốc lá rất nhạt. Giữa những ngón tay anh kẹp một đốm lửa đỏ, gương mặt chìm trong bóng đêm. Anh quay về phía tôi, đốm lửa đỏ rực ấy từ từ di chuyển đến bên môi, tôi nghe anh rít một hơi, rồi lại chậm rãi nhả ra.

Những con thuyền nơi xa bắt đầu giương buồm, chim thanh điểu cách ngàn dặm bắt đầu rũ bộ lông, một con bướm trong rừng rậm nhiệt đới Nam Mỹ khẽ rung đôi cánh tuyệt đẹp. Tất cả đều có dấu vết để lần theo. Cách tôi hút thuốc chính là học từ anh, và trước mặt anh, tôi lúc nào cũng như một kẻ học lỏm vụng về. Tôi làm cách nào cũng không thể học được cái phong thái điềm nhiên, tự tại đó của anh.

Khi anh nhìn về phía tôi, tôi cũng đang châm thuốc. Một mùi cam thanh mát, không quá nồng. Nếu không có gì thay đổi, thì mùi thuốc lá của hai chúng tôi hẳn là giống hệt nhau. Thế nên khi anh từng bước tiến lại gần, tôi đã không hề nhận ra mùi cam trong khoang mũi mình đang dần trở nên đậm đặc hơn.

Dưới lầu, tiếng nói chuyện đứt quãng của cha và dì Hà vọng lên. Đôi mắt của Trần Vọng Trì vẫn đen thẳm như cũ, anh hỏi tôi: “Trần Thành Hạ, tại sao em lại về?”

Tại sao tôi lại về ư? Dĩ nhiên tôi không thể nói ra lý do cụ thể. Suốt cả chặng đường, tôi vẫn luôn nghĩ về câu hỏi này. Chẳng lẽ lại là vì cha tôi tái hôn.

Lúc ấy, tôi không thể nào ngờ được rằng bên dưới ngọn núi lửa tĩnh lặng, dung nham đang tích tụ sức mạnh. Tôi chỉ có thể cảm nhận được ánh mắt của Trần Vọng Trì sâu quá đỗi.

Anh gạt điếu thuốc bên môi, dùng thân điếu chạm nhẹ vào điếu thuốc của tôi.

Tôi hỏi: “Anh không nói với em một tiếng cạn ly à?”

Anh dùng một tay kẹp điếu thuốc, tay kia vươn ra dập tắt điếu thuốc của tôi. Tôi có thể thấy ngón tay anh vê vê trên đầu lọc, cuối cùng ném nó đi, không nói một lời.

Đây là trò chơi trẻ con giữa chúng tôi. Ban đầu, Trần Vọng Trì không cho tôi hút thuốc, nếu bị tôi mè nheo không chịu nổi thì anh sẽ kẹp lấy cằm tôi, nghiêng đầu hôn tới. Mùi thuốc lá xộc vào mũi, anh chặn môi tôi lại, ép rất chặt. Vị khô ráp trên môi anh cùng mùi khói thuốc cứ thế trượt dọc theo khoang miệng tôi đi xuống, làn khói lượn lờ tiến vào tận cùng phổi, mang theo cả mùi hương trên người Trần Vọng Trì.

Thỉnh thoảng tôi hút trộm, bị anh bắt gặp, anh sẽ dùng thân điếu thuốc chạm vào điếu của tôi rồi nói: “Cạn ly.”

“Con nít chỉ được uống một ly thôi.”

Rõ ràng là anh chỉ hơn tôi có một tuổi.

Tôi rất muốn hỏi anh rằng đầu lọc thuốc có ẩm ướt không, cảm giác vê vê đầu lọc có giống như đang m*n tr*n môi tôi không. Chỉ là lời này còn chưa kịp hỏi, Trần Vọng Trì đã làm như rất nhiều lần trước đây, ngón tay kẹp chặt lấy cằm tôi, cúi đầu hôn xuống.

Mùi thuốc lá trở nên nồng nàn, sức của anh khiến tôi không thể động đậy. Màn đêm buông xuống bao trùm. Ngay khoảnh khắc chạm vào đôi môi lạnh giá của anh, cả người tôi lại trở nên ẩm ướt, ngâm mình trong nước biển và mưa rào, bên tai là cuồng phong gào thét.

Đây mới là cuộc sống của tôi.

Thế nhưng giữa tôi và Trần Vọng Trì, từ lâu đã bị ngăn cách bởi cơn mưa của cả một mùa hè.
 
Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng
Chương 2


Mùa xuân năm hai nghìn không trăm linh tư, ông bà ngoại lần lượt qua đời, mẹ tôi cuối cùng cũng không kham nổi cuộc hôn nhân không tình yêu, bèn quyết định ly hôn. Hành động này đã giáng một đòn nặng nề vào cha tôi. Người đàn ông mang nặng tư tưởng phong kiến truyền thống này nhốt mình trong căn phòng chật hẹp, uống rượu đến tối tăm mặt mũi. Gương mặt ông đỏ bừng trong đêm tối, những lời chửi rủa tuôn ra từ miệng ông là tất cả những từ ngữ dơ bẩn và tối tăm nhất mà ông gom góp được trong nửa cuộc đời. Cuối cùng, ông ôm cái chai rỗng vào lòng, lí nhí gọi tên mẹ tôi qua tiếng nấc nghẹn.

Mẹ tôi không yêu ông. Năm đó, nhờ gia cảnh có phần hơn người mà ông được ông bà ngoại tôi chấp thuận. Sính lễ vừa trao, người mẹ mười chín tuổi của tôi đã bị khiêng vào ngôi mộ chôn vùi hơn mười năm dài. Tiếng trống chiêng và kèn xô-na hỉ hả át đi cả tiếng nấc nghẹn đau thương.

Tôi đã không được gặp mẹ lần cuối, bà hận tôi đến tận xương tủy. Thi thoảng, tôi lại ngẫm về mối quan hệ giữa mình và mẹ. Bà là cành cây vươn lên, còn tôi là dây leo quấn chặt lấy người bà.

Những ngày tháng ấy mốc meo, mùi ẩm mốc len lỏi khắp căn phòng của chúng tôi. Những loại nấm mốc khác nhau bay lượn dưới ánh nắng tàn úa, mỗi một hơi thở ra vào đều là một cơn ác mộng chìm trong mê man.

Tôi nuôi một con cá đuôi đỏ rất nhỏ, tình cờ gặp nó ở một gánh hàng rong ven đường. Cái đuôi đỏ như máu xòe ra trông rất đẹp. Bể cá đặt ngoài ban công, tôi thường hay nằm bò ra ban công ngắm cá. Nó quẫy đuôi bơi ngược lên trên, hoặc lượn lờ tấm thân khéo léo quanh chiếc bể chật chội. Vì nhát gan nên mỗi lần tôi đến gần, nó lại lặn xuống, trốn vào đám rong màu ô liu.

Tôi nhìn nó qua lớp kính bể cá, một sự đồng cảm không tên khẽ nảy mầm. Vô số lần tôi muốn thả nó đi, nhưng lần nào cũng chỉ thay nước cho nó rồi lại cho ăn, ích kỷ và lạnh lùng biến nó thành chiến hữu của mình.

Nó đớp miệng, quẫy đuôi, nuốt chửng mẩu thức ăn sắp tan vào trong nước.

Trần Vọng Trì bảo tôi đừng có lúc nào cũng nằm bò trước bể cá mà ngắm nó.

Tôi hỏi anh tại sao, anh không nói.

Khi ấy, cha tôi và mẹ của anh đã bắt đầu liếc mắt đưa tình.

Cái vẻ nát rượu nóng nảy trước kia đã biến mất tăm. Ông bắt đầu để ý đến đám râu ria lởm chởm quanh mép, lôi ra đôi giày da màu đen bám bụi dưới đáy tủ, ngón tay vụng về cạo râu, rồi dùng ánh mắt vô cùng thành kính ngắm nhìn vóc dáng thời trai trẻ của mình. Sau đó, ông cẩn thận xỏ đôi giày vào chân, đi đi lại lại trong nhà.

Tiếng giày da chạm đất nghe như tiếng hạt bàn tính đứt dây, lộp cộp cao thấp, vọng từ nhà tôi sang đến tận nhà Trần Vọng Trì.

Chưa đầy nửa năm, ông đã bước từ bãi cát hoang vu sang vùng đất ẩm ướt xanh tươi. Trước kia không biết ngoài tường có gì, đến khi trèo qua rồi mới phát hiện ra đó là một cánh đồng bao la, trên đồng mọc đầy những đóa hoa xinh đẹp.

Ông phải lòng mẹ của Trần Vọng Trì, một góa phụ xinh đẹp, đa tình. Về chuyện này, ông chẳng bao giờ nói với tôi. Khi trăng lên cao, ông lại lôi đôi chân phấn khích của mình trèo lên bức tường thấp ấy, ngã cũng chẳng sao, vì sau tấm rèm cửa màu xanh da trời kia đã sớm chuẩn bị sẵn cho ông một giấc mộng dịu êm.

Tôi và Trần Vọng Trì bèn ngồi thụp sau nhà, lắng nghe những âm thanh dồn dập vọng ra từ bên trong. Anh vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên, không cau mày khó chịu như tôi. Tôi hỏi anh cảm giác khi đàn ông và đàn bà lên giường là thế nào, nếu thấy thoải mái tại sao lại khóc lóc r*n r*, còn nếu không thoải mái thì tại sao lại có nhiều người đắm chìm trong đó đến vậy, cấu tạo cơ thể con người sao lại kỳ diệu thế.

Anh chỉ nói vỏn vẹn mấy chữ, thực ra chẳng hề trả lời nghiêm túc.

Tiếng trong nhà lúc có lúc không, thỉnh thoảng xen lẫn tiếng cười khẽ và tiếng mắng yêu. Tôi và Trần Vọng Trì như đang lênh đênh trên biển, con thuyền nhỏ cứ dập dềnh, trôi ngày một xa bờ. Một h*m m**n không thể tả thành lời từ bốn phương tám hướng ùa vào cơ thể tôi. Khoảnh khắc ấy, dòng nước biển trong người tôi không ngừng cuộn trào, như thể có được sinh mệnh rồi cứ thế tuôn ra khỏi cơ thể tôi, làm ướt cả áo của Trần Vọng Trì.

Khi những thanh âm dập dềnh ấy cuối cùng cũng dừng lại, tôi đột nhiên hỏi Trần Vọng Trì, l*m t*nh có cảm giác gì.

Gương mặt Trần Vọng Trì chìm trong ánh trăng, đôi mắt đen láy của anh như đang trêu đùa mà quyến rũ tôi. Bầu không khí xung quanh trở nên đặc quánh, dòng nước biển ẩm ướt lại cuộn trào mãnh liệt. Tôi cảm nhận được một sự rung động khe khẽ, thái dương căng phồng của tôi giật lên những nốt nhạc bất an. d*c v*ng còn sót lại trong phòng cùng với những nốt nhạc ấy đã định hình cho tất cả những h*m m**n ban nãy của tôi.

Khi tôi lờ mờ nhận ra đó là gì, tôi đã bỏ lại sau lưng người cha đang thỏa mãn th* d*c của mình, run rẩy đứng dậy. Trái tim đang rung lên của tôi bị ánh trăng chiếu cho tan tác.

“Đàn ông với đàn ông cũng l*m t*nh được.”

Trần Vọng Trì nhìn tôi nói: “Sao em không hỏi l*m t*nh với đàn ông thì có cảm giác gì?”

Tôi không biết.

Cỏ dại cuối hè mọc um tùm, mùi nhựa cây đắng chát vương đầy người. Tôi là con chim rơi, chỉ dừng chân chốc lát khi bay ngang qua cánh rừng rậm rạp mang tên Trần Vọng Trì. Chỉ có chim mới biết đêm trong rừng hoang liêu đến nhường nào, nhưng cánh rừng lại dùng chính sự hoang liêu ấy để bao dung cho sự ngây ngô của con chim.

Ánh mắt anh vẫn kiên định, tôi nói tôi không biết.

Tôi không biết trong lời nói của Trần Vọng Trì có ẩn ý gì không, cũng không biết h*m m**n bộc phát lúc ấy của tôi có phải là ái dục với người đồng giới hay không.

Cỏ dại và dây leo bùng cháy điên cuồng trong mùa hạ. Cùng cháy rực với chúng, còn có sự đồng cảm không tên trước con cá đuôi đỏ và nỗi quyến luyến của tôi dành cho Trần Vọng Trì.
 
Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng
Chương 3


Số lần cha ra ngoài vào buổi tối ngày một nhiều hơn. Không chỉ buổi tối, thỉnh thoảng trên đường về nhà, giữa cánh đồng xanh rì, tôi cũng bắt gặp bóng lưng căng cứng của cha.

Ánh nắng gay gắt như trát lên tấm lưng đen bóng của ông. Ông ra sức lau mồ hôi, rồi quay sang dì Hà nở một nụ cười ngô nghê như trẻ con. Mùi thuốc trừ sâu lan tỏa trong không khí. Bàn tay trắng nõn của người phụ nữ vặn mở nắp chai, đưa qua cùng lúc là chiếc khăn tay màu vàng nhạt. Người đàn ông nhắm mắt tận hưởng cảm giác được lau mồ hôi, sau khi liếc nhìn bốn phía, bèn vội vàng rướn mặt lại gần.

Bà mặc một chiếc váy dài bằng voan điểm hoa đỏ li ti, chân đi đôi giày vải đen, tóc tết thành một bím dày và đen nhánh. Khi bà ngước mắt nhìn cha tôi, tôi lập tức nghĩ đến Trần Vọng Trì.

Cái đẹp luôn có những điểm tương đồng.

Sách từng viết, trong giới tự nhiên, phần lớn con đực dùng đủ mọi cách để tìm bạn tình, con cái sẽ lựa chọn một trong số rất nhiều kẻ theo đuổi, vì vậy ngoại hình của động vật giống đực thường nổi bật hơn.

Tôi không biết điều này có thật hay không, nhưng khi áp dụng lên loài người, tôi lại thấy không hẳn là như vậy.

Cha tôi không đẹp trai, vóc dáng cũng chẳng cao lớn, tướng mạo lại quá thô kệch. Vậy mà ông lại yêu mẹ của Trần Vọng Trì. Bà ấy rất đẹp. Khi bà lựa chọn cha tôi giữa vô vàn những người đàn ông săn đón, người đàn ông ấy đã ưỡn ngực, hừng hực khí thế lao vào cuộc sống xuân thì thứ hai của mình, gần như quên bẵng mất rằng mình vẫn còn một đứa con trai đang tuổi thiếu niên. Ban đầu, họ còn mượn màn đêm để che đậy, sau này thì mặc kệ những lời trêu chọc, đùa cợt của người ngoài mà bắt đầu công khai sánh đôi. Thế là tôi và Trần Vọng Trì không chỉ gặp nhau vào ban đêm nữa.

Vào thời điểm đó, cả tôi và anh cũng đều là những hạt mầm hoang bị buộc phải trôi giạt ra ngoài.

Chúng tôi không đến lớp, trốn học là chuyện thường tình. Trần Vọng Trì là khách quen của quán net ngoài phố, nơi tập trung những thứ mới mẻ nhất của cả thị trấn. Đi theo anh, tôi học được cách chơi game, cũng học được cả cách hút thuốc.

Bấy giờ tôi mới biết thì ra Trần Vọng Trì có hút thuốc, cũng mới biết một Trần Vọng Trì đơn độc lại cô đơn đến nhường nào.

Loại thuốc anh hút rất rẻ, thứ sợi thuốc rẻ tiền tỏa ra một mùi vị vàng khè. Khói thuốc lượn lờ bay lên rồi tan ra, cuộc đời hư vô mờ mịt của chúng tôi cũng biến thành một màu vàng cháy, cái màu của trái cam bị nướng qua lửa. Quán net sau nửa đêm vắng tanh, tôi và anh ngồi xổm trước cửa, lắng nghe tiếng mưa mùa hạ gào thét. Tôi ngẩng đầu nhìn màn đêm đen kịt, còn anh thì vô định nhìn về phía xa xăm. Thỉnh thoảng chúng tôi nhìn nhau, thỉnh thoảng lại bị quây trong vầng sáng tỏa ra từ chiếc bóng đèn kiểu cũ dưới mái hiên.

Tàn thuốc rơi xuống đất, chẳng ai trong chúng tôi mở lời trước.

Mãi cho đến khi tiếng mưa mỗi lúc một lớn, tôi mới lên tiếng hỏi anh: “Cho em hút một hơi được không?”

Trần Vọng Trì ngậm điếu thuốc, ngước mắt nhìn sang phía tôi, im lặng dùng ngón tay gắp điếu thuốc ra rồi đưa cho tôi.

Tôi đưa tay ra đón lấy, nhưng anh lại rụt tay lại, nói: “Chỉ lần này thôi.”

Có những chuyện một khi đã có lần đầu thì ắt sẽ có lần thứ hai, giống như cha tôi vậy, sau khi nếm trải được chốn dịu dàng thì chẳng thể nào dứt ra được nữa. Tôi cũng giống ông.

Tôi nói với Trần Vọng Trì rằng tôi chỉ muốn nếm thử mùi vị thôi.

Anh khẽ cười một tiếng, có lẽ là cười, mà cũng có lẽ là không. Ngay khoảnh khắc môi tôi chạm vào đuôi thuốc, anh đã rút nó ra khỏi miệng tôi.

Đuôi thuốc đã bị ngậm qua ẩm ướt, đôi môi nứt nẻ của tôi biết rõ điều đó.

“Lần sau đi.”

Anh nói với tôi bằng cái giọng hệt như lúc nhìn mưa.

“Hết thuốc rồi.”

Tôi nói tôi đi mua.

Quán net đã đóng cửa từ lâu, các cửa hàng trên phố đều đã kéo cửa cuốn xuống, chẳng còn chút ánh sáng thừa thãi nào. Ngũ quan của Trần Vọng Trì nhòe đi trong tiếng mưa. Không bao lâu sau, tôi lại ngửi thấy mùi cam cháy vàng khè.

Anh nhét mẩu thuốc còn lại vào miệng tôi, rồi đột nhiên hỏi: “Có phải em muốn hôn tôi không?”

Mùi thuốc lá nồng gắt xộc lên mũi, đầu thuốc ẩm ướt lướt qua khoang miệng tôi. Một cảm giác phấn khích và kích động kỳ lạ khó mà che giấu nổi dâng lên trong tôi, đi kèm với đó là một d*c v*ng cũng sắp lụi tàn như điếu thuốc này.

Tôi nhìn thấy đôi mắt quá đỗi xinh đẹp của anh, một đôi mắt giống hệt mẹ anh. Chỉ là từ trong ánh mắt anh, tôi chẳng hề nhận ra chút rung động nào giống như của mẹ anh.

Tôi nghĩ, mình không thể trở thành cha được rồi.

Câu nói của Trần Vọng Trì đã lật tung lòng tự tôn vô dụng của tôi, dễ dàng hạ xuống cánh buồm mà tôi vừa mới căng lên.

Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, tôi vậy mà có chút ghen tị với người đàn ông trung niên da đen hay cười ngô nghê kia. Nghĩ đến cha và mẹ anh, tôi bất giác thấy ghê tởm, và sự ghen tị vùng vẫy thoát ra từ cơn ghê tởm ấy gần như khiến tôi phát điên. Trần Vọng Trì tất nhiên không hiểu được sự giằng xé và đau khổ của tôi, nhưng lúc đó tôi đã quên mất rằng, cả tôi và anh đều là những hạt mầm hoang đang phiêu bạt bên ngoài.

Tôi ngậm nửa điếu thuốc, ngây ra nhìn anh, không biết phải trả lời thế nào.

Hút chung một điếu thuốc rất giống hôn nhau. Môi của chúng tôi cùng đi qua một vùng, nước bọt khiến vùng đó trở nên ướt át vô cùng. Tôi nén cơn ho sặc sụa, rít mạnh một hơi vị vàng cháy ấy vào sâu trong phổi, đầu lưỡi quấn chặt lấy đuôi thuốc, cứ ngỡ như có thể hôn được lên môi Trần Vọng Trì.

Sau đó anh cúi người về phía tôi. Anh từ trên cao nhìn xoáy vào mắt tôi, bắt tôi lựa chọn giữa học hút thuốc và hôn nhau.

Tôi nhớ đến trò chơi tìm bạn tình trong giới tự nhiên. Dì Hà lựa chọn người cha tháo vát của tôi giữa những kẻ theo đuổi, còn tôi lựa chọn vế sau giữa việc hút thuốc và hôn nhau.

Chỉ có điều Trần Vọng Trì không hề nói cho tôi biết, rằng hôn nhau thực ra cũng cần phải học.

Sự ẩm ướt nhấn chìm con người ta. Tôi không phân biệt được đó là hơi thở hay là máu đang tuôn trào khỏi cơ thể mình. Khi môi anh áp lên, tôi bắt đầu suy nghĩ không biết con cá đuôi đỏ trong bể có đang quẫy đuôi bơi lội không, cha tôi có còn mê mẩn chiếc rèm cửa màu xanh da trời không, và Trần Vọng Trì bây giờ có đang nhìn tôi bằng ánh mắt mà dì Hà nhìn cha tôi không.

Tiếng mưa nhỏ dần, Trần Vọng Trì đưa tay bịt tai tôi lại, để tôi có thể chuyên tâm hôn.

Tôi không nghe thấy âm thanh phát ra khi chúng tôi hôn nhau, nhưng tôi lại nghe rất rõ anh nói: “Giống thật.”

Giữa những lúc th* d*c, tôi hỏi anh giống cái gì.

“Ánh mắt của em bây giờ, giống hệt lúc em hỏi tôi l*m t*nh là cảm giác gì.”

Thì ra là anh vẫn nhớ.

Và rồi tôi lại suy nghĩ, trong trò chơi tìm bạn tình này, tôi và Trần Vọng Trì, mỗi người đảm nhận vai trò gì.

Con cá đuôi đỏ chết vào năm thứ hai tôi nuôi nó. Cái đuôi cá đẹp như một chiếc quạt co quắp lại một cách rệu rã. Lúc mua nó, ông chủ đã bảo tôi loài cá này tuổi thọ rất ngắn, tôi không ngờ lại nhanh đến thế. Có lẽ những gì đẹp đẽ đều chóng tàn. Tôi vẫn thay nước trong bể cá thủy tinh vài ngày một lần như thường lệ, vẫn sẽ nằm bò trên ban công ngắm nhìn rong rêu và sỏi đá bên trong. Mặt nước không gợn sóng phản chiếu bóng hình tôi. Tôi là con cá bên trong.

Trần Vọng Trì là người bên ngoài bể cá.

Khi ấy, chúng tôi thích chạy đến rừng cây ngô đồng sau nhà, viện cớ người lớn hẹn hò để hôn nhau. Thật là một lẽ tự nhiên. Trần Vọng Trì châm thuốc, tôi đưa tay giật lấy, anh bèn như rất nhiều lần khác, nhân lúc tay tôi đang cầm thuốc mà rít một hơi, rồi ấn gáy tôi xuống và hôn lên môi tôi. Khoang miệng của chúng tôi trở thành một vùng biển đưa đò, vị cam cháy vàng khè trượt từ đầu này sang đầu kia. Trong những nụ hôn với anh, tôi đã lờ mờ thấy được vô số lần hoàng hôn trên biển. Thường thì không lâu sau đó, áo của anh sẽ nằm dưới người tôi, những chiếc lá cỏ răng cưa cứa vào da thịt, mắt cá chân của chúng tôi xuất hiện từng vệt xước đỏ.

Tôi và anh đều mang màu xanh của cỏ lá.

Động vật sau khi tìm được bạn đời sẽ nhanh chóng thực hiện bản năng sinh sản, chúng giao phối theo quy luật tự nhiên để duy trì sự sống.

Cuốn sách đó có đề cập đến một trường hợp thực tế về việc bạn đời khác của động vật là đồng giới. Vậy thì, mối quan hệ giữa tôi và Trần Vọng Trì rốt cuộc là gì?

Tôi đã dành rất nhiều thời gian để suy nghĩ về câu trả lời, đem tất cả những quy luật tự nhiên mà mình học được áp lên người tôi và Trần Vọng Trì, nóng lòng, thậm chí là sốt ruột muốn tìm ra sự hợp lý cho hành vi hôn hít, l*m t*nh giữa đồng giới này. Khoảng thời gian đó tôi trở nên cáu kỉnh, và đã vô tình đá hỏng đôi giày da màu đen của cha, đôi giày da đã cùng ông đi đến mùa xuân của đời mình.

Tôi bị ông đánh cho một trận nên thân, cuối cùng ông lại rệu rã ngồi xuống bên cạnh, nói lời xin lỗi tôi.

Ông quá giống con cá đuôi đỏ đã chết.

Cả chúng tôi cũng vậy.

Sau này, tôi cầm cuốn sách đi tìm Trần Vọng Trì, hỏi anh liệu chúng tôi có giống như những loài động vật kia không.

Anh lắc đầu, rồi nhìn tôi một lúc, bảo rằng tôi không nên có thắc mắc như vậy.

Anh không muốn nói nhiều, nên tôi cũng không hỏi nữa.

Thực ra tôi cũng không biết, bản thân mình và Trần Vọng Trì có được coi là bạn đời hay không. Có lẽ việc tôi học hôn, học l*m t*nh, thực chất cũng chẳng khác gì học hút thuốc. Thực chất, tôi hoàn toàn không biết tình yêu là gì.

Sau khi hỏi Trần Vọng Trì, tôi đã không đi tìm anh một thời gian dài. Tôi co mình trong phòng, trăn trở suy nghĩ như cha tôi trước đây. Ông suy nghĩ về lý do mẹ rời bỏ ông, còn tôi suy nghĩ xem giữa mình và Trần Vọng Trì có tồn tại tình yêu hay không. Tôi bị mắc kẹt trong câu hỏi của chính mình, tại sao một vấn đề tồn tại hợp lý trong giới tự nhiên lại không thể tìm thấy minh chứng trong xã hội loài người.

Định nghĩa về mối quan hệ của tôi và Trần Vọng Trì, liệu tình yêu có tồn tại giữa tôi và anh hay không, tôi cần phải tìm ra câu trả lời. Nếu không, nó sẽ trở thành một sự ẩm ướt mà tôi chẳng bao giờ thoát ra được.
 
Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng
Chương 4


Kỳ nghỉ hè năm cuối cấp ba, tôi và Trần Vọng Trì thường dành rất nhiều thời gian trong khu rừng sau nhà. Giữa bạt ngàn cây lá, anh nằm trên một thân cây to, khép hờ đôi mắt, để những vệt nắng nhảy nhót từ vầng trán xuống đến cằm.

Tôi thích ngắm gương mặt anh, ngắm đến mê mẩn. Anh chẳng bao giờ hỏi tôi đang nhìn gì, chỉ dùng đôi mắt ấy nhìn lại tôi, nhắm vào, rồi lại mở ra, cất lời: “Trần Thành Hạ, em lại muốn làm bậy thêm lần nữa phải không?”

Sau khi nhận được câu trả lời chắc chắn, những đốm nắng trên mặt anh khẽ rung động. Rồi anh buông thõng cánh tay, túm lấy tóc tôi, chậm rãi ví tôi như một chú ngựa non bất kham.

Tôi chẳng hiểu điều đó nghĩa là gì. Vốn kiến thức nông cạn không đủ để tôi lý giải được ẩn ý trong lời anh nói.

Tôi chỉ nhớ cảm giác mà giọng nói của anh mang lại. Âm thanh ấy có hình dáng, có màu sắc, và có cả hương vị. Trong những ngày xa cách, tôi vẫn thường ngửi thấy mùi hương đó.

Đó là mùi của gió biển lùa qua kẽ lá, thứ gió cuốn phăng người ta từ tán lá xanh um vào lòng đại dương. Tôi sẽ ngâm mình trong làn nước biển, bên tai là tiếng nước chảy róc rách, là giọng Trần Vọng Trì đang trò chuyện cùng tôi.

Tôi thường lờ đi những gì anh nói, chỉ mải mê ngắm nhìn gương mặt anh, chỉ nghe thấy tiếng sóng biển vỗ về không ngớt. Cả người tôi như trải qua một trận bão biển.

Khi ấy, tôi không biết rằng sự mê đắm thân thể Trần Vọng Trì của mình thực chất là một thứ tình cảm tr*n tr**. Những cảm giác anh mang lại cho tôi quá đỗi diệu kỳ, khó mà diễn tả chính xác. Nếu tưởng tượng bản thân là một cái lọ thủy tinh rỗng tuếch, thì mỗi khi hôn anh, một cơn gió đêm no đủ lại từ bốn phương tám hướng lấp đầy cơ thể tôi. Tôi thấy mãn nguyện, chẳng thể phân biệt được đâu là hơi thở và mồ hôi của ai.

Tôi thấy mãn nguyện.

Và rồi Trần Vọng Trì sẽ hỏi tôi: “Trần Thành Hạ, sao em khóc?”

“Em không biết, vì quá vui, quá hạnh phúc, hay là quá đau lòng.”

Cảm xúc của tôi trước giờ vẫn luôn thẳng tuột như thế, cần một thứ gì đó lấp đầy cơ thể mình, giống như con cá tôi mang về mấy năm trước, mọi cảm xúc của tôi đều ký thác trên chiếc đuôi của nó. Con cá chỉ có chiếc đuôi là tự do, và tôi cũng vậy, mỗi khi được sống với cảm xúc của chính mình.

“Trần Vọng Trì.”

Tôi nói với anh: “Em cảm nhận được chiếc đuôi của con cá đó rồi.”

Anh chẳng bận tâm đến câu nói của tôi, cũng không trách tôi ăn nói lộn xộn. Anh chỉ xoa tai tôi, hỏi tôi có muốn về nhà không.

Tôi không muốn.

Ánh nắng xanh rì của mùa hạ lại một lần nữa biến thành bóng đèn trên chiếc thuyền con.

“Em chỉ là không muốn rời xa anh thôi.”

Anh nói với dáng vẻ của một người lớn, nhưng tôi lại ghét cái vẻ người lớn ấy.

Hầu hết ký ức của tôi đều đã trở nên mơ hồ, như thể được phủ một lớp màng lọc mờ ảo từ ánh nắng trong khu rừng năm ấy. Cả tôi và Trần Vọng Trì đều không nói rõ lý do không muốn về nhà. Dường như những đứa trẻ thiếu thốn tình thương thì không xứng đáng nhắc về quá khứ. Thế nên, sau khi thứ tình cảm không thể để ai biết nảy sinh với Trần Vọng Trì, sự dựa dẫm của tôi dành cho anh ngày một lớn dần.

Dưới cùng một gốc cây, chúng tôi là những con thú l**m láp vết thương cho nhau.

Tôi đã từ bỏ việc tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi lúc trước, ngay khi tôi nhận ra rằng dù câu trả lời có là gì đi nữa, tôi vẫn bằng lòng hôn Trần Vọng Trì.

Sau này, Trần Vọng Trì dạy tôi tất cả những chuyện tương tự như hôn môi. Vị đắng chát của trái cam nướng từ cơ thể anh truyền sang cơ thể tôi, chúng tôi như dùng chung một bộ giác quan.

Cha tôi vô cùng hài lòng với tình trạng này, bởi mối quan hệ của tôi và Trần Vọng Trì thực sự rất thân thiết.

“Chúng nó thân nhau như anh em ruột vậy.”

Ông đứng trên bờ ruộng, vẻ mặt đầy tự hào nói với người hàng xóm bên cạnh.

Anh em ruột, tôi thường lẩm nhẩm ba chữ này vào mỗi tối. Thật ra tôi không hề căm ghét ba chữ này, ngược lại, tôi còn thấy tiếc nuối. Tiếc rằng tôi và anh không có quan hệ máu mủ. Nếu trong người tôi và anh cùng chảy một dòng máu, đó hẳn là ân huệ trời ban, bởi vì như thế, tôi và Trần Vọng Trì cả đời này sẽ không bao giờ tách rời. Đối với những người như chúng tôi, huyết thống chính là sự bảo bọc tốt nhất.

Sự thật đã chứng minh, một mối quan hệ không nên tồn tại ngay từ đầu đã có điềm báo, chúng tôi rốt cuộc không phải anh em ruột.

Không lâu sau khi cha thông báo sẽ kết hôn với dì Hà, Trần Vọng Trì bắt đầu từ chối lời đề nghị hôn môi của tôi. Anh dùng đôi mắt sâu thẳm nhìn tôi, bảo rằng anh sắp trở thành anh trai của tôi, rằng chúng tôi sẽ có tên trong cùng một cuốn sổ hộ khẩu.

Vào mùa đông năm đó, sương trắng giăng kín thị trấn nhỏ nơi chúng tôi ở, khu rừng sau nhà cũng chất đầy tuyết trắng. Tôi đẩy anh vào thân cây, ngẩng đầu van nài.

Tôi hỏi anh có thể hôn tôi không.

Mũi Trần Vọng Trì đỏ ửng vì lạnh, tay anh cũng vậy, buốt giá vô cùng. Nhưng tất cả những điều đó đều không thể sánh bằng ánh mắt dửng dưng xa cách của anh khi nhìn tôi. Phía sau anh là bầu trời tuyết rơi phủ đầy ánh trăng, bên trái là những cành cây khẳng khiu, bên phải là một dòng sông hoang phế.

Tôi còn hoang vu hơn cả dòng sông đó.

Chúng tôi đã đi từ màu xanh của mùa hạ đến bầu trời tuyết trắng chói lòa, tay anh lạnh buốt, nhưng tôi vẫn nhớ hơi thở ấm nóng của anh.

“Lần cuối cùng thôi.”

Anh hôn lên môi tôi, tuyết trắng như tan chảy tức thì trong khoang miệng của cả hai. Ánh trăng ấy hệt như những đêm hè rất lâu về trước, hòa cùng vị đắng chát của dây leo và mùi cam nướng ngày nào, quyện với sóng biển và gió hoang cùng lúc ập về phía anh.

Tôi thấy đôi mắt anh mở to khi hôn, thấy tiết trời âm u không sao kìm nén được trong anh, và cả sự im lặng nhạt nhẽo giữa chúng tôi.

Lần cuối cùng, tôi tự nhủ, Trần Vọng Trì sắp rời xa tôi mãi mãi.

Nhưng vấn đề là, chúng tôi đâu có chung huyết thống, vậy tại sao lại không thể tiếp tục hôn nhau?
 
Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng
Chương 5


Sau nụ hôn mà cả hai chúng tôi đều ngỡ là lần cuối cùng, tôi bước lên một chuyến tàu gầm rú lao về phương Bắc, một chuyến đi có thể gọi là dứt khoát.

Từ khi sinh ra, tôi chưa từng đi xa đến thế. Con tàu vỏ xanh cứ lộc cộc lăn bánh về phía trước, và máu trong huyết quản tôi dường như cũng biến thành màu xanh ấy.

Đó là màu xanh um tươi mà tôi đã nhắc đến rất nhiều lần, trong cơ thể tôi trôi chảy những tán lá và bóng cây xanh biếc. Rễ của những cành lá ấy hóa thành những mạch máu xanh nổi lên dưới da tôi. Trần Vọng Trì đã hôn lên những mạch máu xanh ấy không biết bao nhiêu lần, đôi môi ẩm ướt của anh vừa chạm tới, tôi và anh đã chân trần lội qua con sông đầy cỏ và bèo tấm.

Tôi không có điện thoại, trên người chỉ có độc một tấm thẻ căn cước và ba trăm đồng trong ví. Ba trăm đồng đó tôi đã để dành như thế nào, tôi không còn nhớ nữa. Tôi chỉ nhớ lúc đó mình ngồi ở một ghế cạnh cửa sổ, đầu tựa vào tấm kính lạnh buốt, nhìn vô số cảnh vật trắng xóa lùi lại phía sau. Tôi có thể cảm nhận được hơi ấm đang dâng lên trong hốc mắt mình.

Thế nhưng tôi đã không khóc. Tôi cảm thấy một sự nhẹ nhõm như thể vừa được ngâm mình trong suối nước nóng giữa trời băng tuyết.

Những ngày tháng ở thị trấn nhỏ giống như ánh đèn đường hư ảo, thứ ánh sáng mông lung chiếu rọi trên con đường nhựa đen kịt. Tôi và Trần Vọng Trì đã dùng sự im lặng không lời để chống lại những ngày tháng đó. Hoặc có lẽ, chúng tôi chẳng hề chống lại.

Phần lớn thời gian, chúng tôi ngồi xổm trước cửa một quán net trong thị trấn, đùa nghịch với sự lãng mạn của màn đêm dưới ánh đèn, hoặc ngồi dưới gốc cây ngô đồng sau nhà, mặc cho những mầm cỏ sắc nhọn cứa vào mắt cá chân, để những giọt máu rỉ ra đổi màu dưới vòm lá. Tôi chẳng thấy đau chút nào, so với nỗi đau thể xác mà Trần Vọng Trì mang lại, rất lâu sau này tôi mới biết, những vết xước ấy chẳng đáng để nhắc tới.

Dưới bóng cây, chúng tôi l**m láp vết thương cho nhau. Ánh mắt anh đặt trên người tôi, còn ánh mắt tôi lại xuyên qua những kẽ lá trên đầu. Qua những kẽ lá ấy, tôi tưởng tượng ra hơi ấm của những tầng mây mềm mại, tưởng tượng xem mùa hè ở phương xa có ẩm ướt không, và cả sự tự do phóng khoáng đang ẩn mình nơi một góc nào đó.

Thế nên mỗi khi bước ra khỏi nơi ấy, tôi đều có một cảm giác nhẹ nhõm đến ngẩn ngơ trong chốc lát.

Vốn dĩ tôi không định dùng cách bỏ nhà ra đi này để phản đối quyết định tái hôn của cha. Thực ra, tôi chẳng hề bận tâm việc ông có tái hôn hay không, hay tại sao ông có thể nhanh chóng thoát khỏi nỗi đau mất mẹ đến thế. Người tôi bận tâm, chỉ có Trần Vọng Trì.

Chuyến tàu đi về phía Bắc được một tiếng, tôi bắt đầu tưởng tượng phản ứng của Trần Vọng Trì khi biết tôi đã bỏ đi. Nhưng thật ra, mục đích của tôi cũng không phải là chuyện đó.

Tôi thực sự không biết làm thế nào để tỏ ra bình tĩnh trước mặt Trần Vọng Trì, cũng thực sự không rõ phải xem anh như anh trai của mình bằng cách nào.

Anh trai, người anh trai sẽ có tên trong cùng một cuốn sổ hộ khẩu. Tôi khẽ lẩm nhẩm trong miệng.

Tấm kính cửa sổ bị hơi thở của tôi làm mờ đi một khoảng. Ngoài cửa sổ, tuyết bay tứ tung. Tôi nguệch ngoạc viết hai chữ “anh trai” lên vệt hơi ẩm đó.

Rồi lại nhẹ nhàng lau đi. Ngẩng đầu lên, toa tàu màu xanh dừng lại. Sân ga đã chật ních những hành khách vai mang túi lớn. Giữa những người đó, tôi thấy một người đàn ông cao gầy, đeo một cặp kính gọng trong suốt, vẻ mặt nhàn nhạt như thể có thể hòa tan vào một ly nước. Người bên cạnh anh ta đang khóc, tay níu nhẹ lấy áo anh ta. Cả hai đều im lặng, không ai nói một lời nào, nhưng chúng tôi đều biết đó là một cuộc chia ly.

Tôi vội quay đi, không dám nhìn thêm lần thứ hai.

Tôi không muốn rời xa Trần Vọng Trì.

━━━━━━━━━━

Lần đầu tiên rời khỏi thị trấn là để đuổi theo người mẹ đã bỏ đi, lần đó tôi làm mất một đôi giày. Lần thứ hai là một cuộc trốn chạy không mục đích.

Tại nơi mình đến, tôi tìm được một chỗ ở. Lúc đang ăn mì, tôi thấy ông chủ quán đang tuyển người, thế là sau khi được hỏi tuổi và quê quán, tôi lập tức ở lại trong cái quán nhỏ chưa đầy mười mét vuông ấy.

Ban ngày tôi làm việc trong quán, tối đến thỉnh thoảng lại chạy đến một ngôi chùa bỏ hoang cách đó hơn mười dặm. Tôi có một chiếc xe đạp bị người ta vứt đi, tình cờ nhặt được ở bãi rác. Để sửa nó, tôi đã tốn mất hai ngày tiền công.

Ngôi chùa hoang ấy được người ta gọi là “thảo nguyên”, và mỗi người đến đó vào ban đêm đều được gọi là “mục dân”. Theo như tôi biết, đó là một dạng mật hiệu.

Ngay lần đầu đến đó, tôi đã chú ý đến những ánh mắt sáng rực như lửa lân tinh, tựa như những đốm lửa hoang bùng lên giữa thảo nguyên. Những người mục dân của màn đêm giơ cao đuốc lửa đi xuyên qua thảo nguyên bao la. Tôi nghĩ, điều đó đã trở thành một dạng tín ngưỡng và chỗ dựa tinh thần.

Người dẫn tôi đến đó là một thanh niên tên Đậu Nha, lớn hơn tôi hai tuổi, người gầy gò như một đứa trẻ mười ba, mười bốn. Cậu ta không có gia đình, hai năm trước đã chạy đến thủ đô làm thuê, hiện đang phụ việc cho tiệm bột mì bên cạnh. Cậu ta bảo rằng, ngay từ lần đầu gặp tôi, cậu ta đã quyết định sẽ dẫn tôi đến ngôi chùa.

“Cậu sẽ thích cho mà xem.”

Cậu ta nói với tôi.

Sau này, trong ngôi chùa ấy, tôi để ý thấy ánh mắt của những người đó khi nhìn tôi, một ánh mắt dò xét, đánh giá và xác nhận. Cũng chỉ vài giây như vậy thôi, rồi họ lại tiếp tục việc của mình. Đậu Nha dẫn tôi đến một nơi hẻo lánh ít người, lấy ra hai điếu thuốc, đưa cho tôi một điếu.

“Tôi không hút thuốc.”

Tôi nói với cậu ta.

Cậu ta không tin, vì cách đó không lâu, cậu ta đã bắt gặp tôi đang trốn ở bức tường sau bếp để hút thuốc.

“Tôi thấy cậu hút rồi mà.”

Tôi lắc đầu, lặp lại câu nói đó.

“Tôi không hút thuốc.”

Đậu Nha không truy cứu tính xác thực trong lời nói của tôi nữa. Cậu ta châm một điếu thuốc, nhả ra một làn khói, rồi hỏi tôi tại sao lại đến đây.

Tôi ngửi thấy mùi thuốc lá rẻ tiền, nồng nặc đến khó chịu, nhưng lại không thấy khó ngửi chút nào.

“Đi bụi chứ gì.”

Cậu ta nói chen vào trước khi tôi kịp lên tiếng.

Tôi nhìn cậu ta. Cậu ta nhún đôi vai gầy gò, lắc cái đầu to hơn hẳn người thường.

“Chuyện thường thôi, ở đây nhiều người như vậy lắm.”

Cậu ta chỉ về phía đám đông ẩn mình trong bóng tối.

“Không ít người bất hòa với gia đình đâu.”

Tôi lại phản bác: “Tôi không bất hòa với gia đình.”

Tôi không bất hòa với Trần Vọng Trì.

Một điếu thuốc bị cậu ta rít vài hơi đã hết. Cậu ta tự nói với chính mình: “Đi bụi thì kiểu gì cũng sẽ về thôi. Tôi không có gia đình nên chẳng cần phải về.”

Nói xong câu đó, Đậu Nha liền đứng dậy rời đi. Cậu ta còn có việc khác ở đây, không thể chuyên tâm ngồi cùng tôi được.

Ngôi chùa đã đổ nát từ lâu, nhưng cây cối bên trong vẫn phát triển tốt. Khi đó là cuối đông đầu xuân, gió xuân lạnh lẽo của phương Bắc thổi về tứ phía. Tôi nhìn lên bầu trời đêm đen kịt, nhẩm tính xem mình đã rời thị trấn được bao lâu.

Đêm đông ở phương Bắc rất lạnh. Ông chủ đối xử với tôi rất tốt, dúi cả chăn nệm ông không dùng đến vào giường tôi, nhưng tôi vẫn thấy lạnh. Nửa đêm tỉnh giấc, ngón chân cứng đờ, tôi bắt đầu tưởng tượng về những mùa hè năm ấy, những mùa hè đã được niêm phong trong ký ức, năm hai nghìn không trăm linh tư, hoặc hai nghìn không trăm linh năm, hoặc hai nghìn không trăm linh sáu.

Hai tháng sau khi đến thủ đô, tôi có được chiếc điện thoại đầu tiên trong đời. Dù chỉ là một chiếc điện thoại cũ ông chủ không dùng nữa, tôi vẫn vô cùng biết ơn. Ngay khi mở máy, tôi mở danh bạ, bấm mấy con số.

– 0620

Sau đó tôi gõ tên Trần Vọng Trì.

Hai mươi tháng sáu là sinh nhật anh.

Không biết bao nhiêu lần tôi đã cuộn mình trong chăn, lật danh bạ tìm tên Trần Vọng Trì, gọi đến một số điện thoại không bao giờ có người bắt máy. Giọng nữ máy móc vang lên hết lần này đến lần khác. Tôi chưa bao giờ cảm thấy mùa đông lại lạnh lẽo đến thế.

Tôi như sắp chết trong mùa đông năm đó, chết ở thành Bắc Kinh.

Sau khi Đậu Nha đi, có một người đàn ông lại gần, ngồi xổm cạnh tôi. Thấy tôi nhìn trời, anh ta cũng ngẩng đầu lên, cuối cùng không nhịn được bèn hỏi tôi đang nhìn gì.

Tôi nói đang nhìn trăng.

Nửa vầng trăng bị mây dày che khuất, ánh trăng mờ ảo bị giam cầm trong đêm đen vô tận.

Anh ta hỏi có muốn chơi một chút không.

Mỗi người đến thảo nguyên đều là mục dân, họ có quy tắc sinh tồn và giao tiếp của riêng thảo nguyên.

Những cảm xúc căng phồng lúc trước lại trỗi dậy. Tôi nhớ đến những mầm cỏ đã đâm vào mắt cá chân mình, và gật đầu.

Thế nhưng khi người đàn ông đó sáp lại gần, tôi ngửi thấy mùi hôi thiu trên người anh ta, mùi thuốc lá xộc lên nồng nặc. Trong ánh đêm yếu ớt, tôi thoáng thấy chiếc răng sứt trên miệng anh ta.

Cuối cùng tôi vẫn đẩy anh ta ra và bỏ chạy.

Tôi chạy thục mạng ra khỏi cánh đồng hoang đó. Tôi không phải là một mục dân đủ tiêu chuẩn.

Tôi dừng lại trước một sạp bán quýt và mua hai quả.

Chủ sạp là một chị gái khoảng ba mươi tuổi, đứng sau có lẽ là con gái nhỏ của chị. Trời đêm quá lạnh, lúc tôi đến, hai mẹ con đang quây quần bên lò lửa sưởi ấm, trên vỉ sắt là hai trái quýt được nướng cháy vàng.

Chị chủ nhiệt tình hỏi tôi có muốn thử loại nóng không.

Trái quýt nóng bỏng vào miệng, vị đắng cháy thơm lừng lan vào tận tâm can.

Khoảnh khắc ấy, cơn gió lạnh của đêm đông và ánh trăng thanh nhã đều lặng lẽ len vào cơ thể tôi. Tôi biến thành một chiếc túi ni lông trắng bay phất phơ.

Một mùi hương khơi gợi cả một vùng ký ức. Tôi vẫn luôn cho rằng đây là một cách tự hành hạ bản thân rất hữu hiệu. Tôi thỉnh thoảng hút thuốc, mê đắm cái mùi vị của nó.

Cam cũng vậy.

Mặc dù cam và quýt là hai loại quả khác nhau.

Thế nhưng khi ngửi thấy mùi quýt nướng, những buổi hoàng hôn trên mặt biển và mùi tanh nồng của nước biển ẩm ướt lập tức hiện về.

Tôi nắm chặt trái quýt trong tay, những mảnh vỏ quýt đen rơi xuống chân. Tôi cắn miếng thịt quýt, và cuối cùng không kìm được nữa, gập người xuống bật khóc.

Khi đó, tôi đã rời xa Trần Vọng Trì hơn bốn tháng.
 
Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng
Chương 6


Sau khi rời xa Trần Vọng Trì, tôi học được rất nhiều cách giải khuây, kế thừa những mầm mống xấu xa từ cha hoặc mẹ tôi, sống một cuộc đời đảo lộn ngày đêm. Tôi nghĩ chúng tôi đang sống trong một chậu nước, và trong làn nước ấy là hình ảnh phản chiếu của cả thế giới.

Đám người đó thường xuyên hút thuốc, hàm răng ố vàng đi cùng mái tóc rậm rạp bù xù. Tôi thường lén gọi họ là những kẻ nhặt rác.

Tôi cũng là một thành viên trong số đó, và còn lấy làm tự hào vì điều này, vì để xua tan đi nỗi hoảng loạn không tên trong lòng. Tôi bắt đầu hoài nghi những kiến thức trong sách vở. Loài người sống quần cư, mãnh thú đi một mình. Trong vô số những đêm đen, tôi cảm thấy một nỗi cô độc đang sinh sôi xung quanh mình.

“Thảo nguyên” nằm ở phía bắc thành phố, quê tôi lại ở hướng nam. Mỗi lần đạp xe đến đó, tôi đều cảm thấy mình đang ngày một rời xa Trần Vọng Trì.

Đậu Nha sai tôi đi mua rượu và thuốc lá. Đám ma men nghiện ngập đó đang bán mạng để chạy trốn khỏi kiếp nạn.

Nửa chai rượu cuối cùng bị tôi uống cạn. Đậu Nha nói với tôi, uống rượu vào sẽ không nhớ đến bất cứ chuyện buồn nào nữa.

Khoảnh khắc ấy, tôi chợt nhớ đến cha mình. Ông cũng đã từng nhốt mình trong phòng tối để nghiện rượu, nhưng chưa đầy nửa năm sau đã tìm lại được sức sống.

Tôi bước theo con đường cũ của ông, mong rằng có thể được như ông, quên đi Trần Vọng Trì như cách ông đã quên đi mẹ tôi.

Chất cồn rẻ tiền xộc lên não, tôi loạng choạng bước ra ngoài, thế giới trước mắt méo mó và quay cuồng. Bức tường thành cũ kỹ tróc từng mảng vôi vữa, một con mèo hoang đen thui nằm thu mình bên cạnh, canh giữ nửa cây xúc xích, gầm gừ cảnh giác với tôi. Ánh đèn vàng của xe cộ chói mắt, dòng xe gào thét lướt qua. Tôi nghe thấy một người đàn ông lạ mặt chửi tôi là đồ không muốn sống.

Ở ngã tư phía trước có một cây cột điện, trên đó dán đủ các loại thông báo tìm người và quảng cáo khoan cắt bê tông. Tôi tìm thấy ba tờ thông báo tìm người, nhưng không thấy ảnh của mình trên đó. Có lẽ vì một nỗi ghen tị và ngưỡng mộ khó nói, tôi xé một góc của một tờ thông báo, rồi dừng lại khi nhìn thấy ảnh của cậu bé bị lạc.

Mắt tròn, môi dày, trên cổ là một chiếc yếm màu vàng nhạt. Cậu bé đang nhìn tôi.

Tôi lấy tiền ra mua thuốc lá. Ông chủ nhìn tôi từ trên xuống dưới một lượt, hỏi tôi muốn loại nào.

“Loại vị cam, có không ạ?”

“Làm gì có thuốc lá vị cam, có kẹo vị cam thì bán cho cậu.”

“Nhóc con, mua thuốc lá không bằng mua kẹo.”

Chỉ có trẻ con mới ăn kẹo.

Tôi nắm chặt tờ tiền, hỏi ông có bán băng dính không.

Đi qua ngã tư đó, tôi xách chai rượu và thuốc lá quay đầu lại. Tờ thông báo tìm người đã được dán lại trên cột điện, dưới ánh đèn mờ ảo là một cái bóng nhạt nhòa không rõ hình thù.

Ngọn lửa xanh của chiếc bật lửa bùng lên. Tôi chầm chậm nhả một hơi khói về phía ánh đèn đường vàng cam, làn khói tan ngay ra giữa không trung.

Tôi đang bắt chước dáng vẻ của Trần Vọng Trì.

Những tờ báo cũ bị gió thổi kêu sột soạt. Tôi nhún vai, quay trở về theo lối cũ, và bắt đầu nghĩ về Trần Vọng Trì.

Nghĩ về dáng vẻ của anh, nghĩ về ánh mắt anh khi nhìn tôi, và cả mùi hương hỗn tạp trên người anh khi lại gần. Không biết là vì rượu hay vì thuốc lá, tóm lại những ngày đó tôi sống trong hỗn loạn, uống rượu, hút thuốc, chạy đến ngôi chùa để giao du với đám người đó cả ngày. Có lúc tôi đã tưởng mình không thể nhớ nổi tên của Trần Vọng Trì nữa, cho đến một hôm Đậu Nha bất thình lình hỏi tôi bắt đầu hút thuốc từ khi nào.

Là Trần Vọng Trì.

Tôi nhìn vào màn đêm thăm thẳm, cắn một cọng cỏ dại xanh non. Là Trần Vọng Trì đã dạy tôi. Anh bắt tôi chọn một trong hai, học hôn hoặc học hút thuốc. Tôi đã chọn vế trước, và sau khi rời xa anh, tôi đã học được vế sau.

Nhớ đến Trần Vọng Trì là một việc vô cùng dễ dàng. Chỉ cần châm điếu thuốc, rít hơi đầu tiên là có thể nhớ ra ngay. Tôi không kìm được mà bắt chước tư thế hút thuốc của anh, bắt chước cách anh nhả khói, dùng ánh mắt anh từng nhìn tôi để nhìn về phía ngọn đèn đường. Vệt sáng đó biến thành muôn vàn vì sao, rồi hóa thành một dải ngân hà tuôn chảy xuống, nhắc nhở tôi đừng hòng quên được Trần Vọng Trì.

Vậy thì làm sao tôi dám không thừa nhận nỗi nhớ của mình dành cho anh? Những vì sao ấy, dải ngân hà ấy, đã đập tan mọi ý định thoái lui của tôi, khiến tôi hiểu ra rằng tình cảm dành cho Trần Vọng Trì là tình yêu.

Chúng bắt tôi phải thành thật với chính mình, rằng thứ tình cảm này phải được phép tồn tại, được phép xảy ra, cho dù không được chúc phúc thì nó vẫn có lý lẽ để hiện hữu. Tình yêu giữa tôi và anh không liên quan đến huyết thống hay thân phận, không liên quan đến mỗi hòn đá, mỗi cái cây trên thế gian này, thậm chí cũng chẳng liên quan đến chính Trần Vọng Trì.

Thế rồi vào một khoảnh khắc nào đó, những cơn mưa và giọt nước mắt tôi đã tích tụ, những giọt sương âm thầm ngưng đọng trong đêm, cuối cùng cũng bốc hơi thành một buổi sớm mai bình thường và tẻ nhạt. Tôi đã vượt qua một mùa đông dài gần ngàn dặm, để rồi bị nuốt chửng bởi những mầm xanh trên đầu cành.

Trần Thành Hạ, cuối cùng mày vẫn bại dưới tay mùa xuân.

Tôi vứt rượu và thuốc lá ở cổng chùa rồi rời đi, không nói với Đậu Nha một lời.

Tôi đi dọc theo một con đường chật hẹp, len lỏi qua một khu rừng rậm đen kịt, và nghe thấy tiếng nước chảy. Đó là một con sông sắp cạn. Tôi bước xuống, dòng nước ngập quá đầu gối, lạnh thấu xương.

Cây cối càng cao, màu sắc càng trở nên đen kịt, hòa làm một với màn đêm ở trên cao.

d*c v*ng cuộn trào mãnh liệt, d*c v*ng của tôi thôi thúc tôi mau đi tìm Trần Vọng Trì, thúc giục tôi nói cho anh biết tôi nhớ đại dương vị cam trong khoang miệng anh đến nhường nào. Phần th*n d*** từ đầu gối trở xuống đã cứng đờ, nhưng tôi không cảm thấy khó chịu chút nào. Hai tay tôi run rẩy, chân cũng run lên. Mặt nước gợn sóng từng vòng từng vòng bao bọc lấy tôi, như thể đang cảnh cáo, bắt tôi phải nhớ kỹ xem khi gặp lại Trần Vọng Trì phải nói những gì.

Phải nói gì đây.

Nói với Trần Vọng Trì, em đã học được cách hút thuốc, đã học được cách hôn rồi.

Hỏi anh còn có thể hôn em không.
 
Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng
Chương 7


Mỗi khi nỗi nhớ ùa về, tôi lại mơ thấy con cá đuôi đỏ đã chết. Đuôi nó quẫy nhẹ, mặt nước gợn sóng lan xa. Thế giới dưới nước tĩnh lặng đến độ có thể nghe thấy tiếng ve sầu trên đất liền, và cả giọng Trần Vọng Trì đang khẽ gọi tên tôi.

Tôi biết rõ đó chỉ là một giấc mơ, bởi vì Trần Vọng Trì rất ít khi gọi cả họ lẫn tên của tôi. Sau khi rời quê hương, cái tên của tôi dường như đã bị chôn sâu dưới trận tuyết lớn trên đường về phương Bắc.

Trong mơ, tôi bị dòng nước níu giữ, điều này mang lại cho tôi một cảm giác an toàn đã lâu không có được. Nước sông hay nước biển cứ rì rào chảy qua tai tôi.

Và tôi lại nhớ về hình hài trong giọng nói của Trần Vọng Trì.

Khi thế giới chuyển sang một màu xanh non, tôi thường vào rừng để tìm lá cây. Lá cây có muôn hình vạn trạng, tôi đã dành rất nhiều thời gian trong khu rừng ấy, nhưng trước sau vẫn không thể tìm thấy một chiếc lá nào giống hệt chiếc lá trong tay Trần Vọng Trì.

Sau đó, tôi nhớ ra một vĩ nhân từng nói rằng, trên đời này không có hai chiếc lá nào hoàn toàn giống nhau.

Điều này khiến tôi có chút bực bội. Cuối cùng, tôi chỉ tìm được một chiếc tương tự.
Bởi vì giữa chiếc lá ấy có một khoảng trống hình ngôi sao do sâu cắn, mà Trần Vọng Trì đã từng dùng một chiếc lá tương tự để nhìn vào mắt tôi.

Những đường gân của chiếc lá uốn lượn, mỏng manh, yếu ớt. Tôi nghĩ đến những mao mạch trên mí mắt Trần Vọng Trì, nơi mà tôi đã từng khẽ cắn, hệt như một con sâu đang gặm nhấm chiếc lá.

Ánh nắng đầu xuân xuyên qua chiếc lá này rắc xuống mặt đất. Ban ngày, mặt đất cũng có một bầu trời sao, cũng nở ra những đóa pháo hoa.

Tôi cẩn thận cất giữ chiếc lá ấy, viết lên đó ba con số “620”, rồi đặt vào trong tủ của căn phòng, không dám chạm vào, không dám nhìn nhiều.

Trên phố thường có người bày hàng bán rong. Có một người đàn ông trung niên đeo kính bày một sạp hàng dưới gốc đa đối diện tiệm mì. Ông bán sách, những cuốn sách cũ nát.

Bản thân ông lại tỏ ra chẳng hề quan tâm đến việc buôn bán. Dù có khách hay không, tay ông vẫn luôn cầm một tờ báo cũ hoặc một cuốn sách đã ố vàng, đọc một cách say sưa và đắm chìm.

Tôi bắt đầu tò mò về ông, tò mò về những suy nghĩ đằng sau đôi mắt xám xịt, và cả nguồn năng lượng bên trong cơ thể gầy gò của ông.

Những lúc quán vắng khách, tôi sẽ giả vờ đi ngang qua, ngồi xổm trước sạp hàng của ông để lật sách. Thỉnh thoảng tôi sẽ bắt chuyện với ông, hỏi ông những câu chữ trong sách có nghĩa là gì.

Ông chỉ thỉnh thoảng mới nói chuyện với tôi, phần lớn thời gian đều không để ý đến tôi.

Tôi nghĩ chắc là do câu hỏi của tôi quá ngớ ngẩn, vì tôi thực sự đọc không nhiều sách.

Tôi đã mua lại cuốn sách cũ đó. Lúc trả tiền ông không nhận, chỉ bảo tôi mời ông một tô mì ramen là được.

Tôi đã xem ông như một người tốt.

━━━━━━━━━━

Đêm đó sấm sét vang trời, một trận mưa lớn đột ngột trút xuống. Khung cửa sổ gỗ cuối cùng cũng không chịu nổi, bị gió lớn thổi bung ra. Cơn mưa vội vã cuốn theo gió, làm ướt sũng những tờ báo tôi trải trên mặt bàn.

Tôi chân trần bước xuống giường, vội vàng cứu chữa, nhưng những dòng chữ với nét mực đen ấy cuối cùng vẫn nhòe đi.

Như một dòng sông đang khóc.

Tôi chỉ có thể gắng gượng nhận ra một vài thông tin. Đó là những lời tôi viết cho Trần Vọng Trì. Vì biết sẽ không bao giờ gửi đi, nên chúng vô cùng nồng cháy, thành thật và không hề giữ lại chút gì. Tôi cảm thấy thật tiếc.

Những lời câm lặng đã bị cơn mưa xuân dịu dàng nuốt chửng, đến cả chính tôi, người đã viết ra chúng, cũng không tài nào viết lại được lần thứ hai.

Trần Vọng Trì sẽ không bao giờ biết được.

Tiết trời mưa bão thế này làm tôi nhớ đến vô số những ngày tôi và Trần Vọng Trì ngồi xổm dưới ánh đèn quán net. Khi ấy trước mặt chúng tôi cũng là mưa, những cơn mưa triền miên và dữ dội.

Đốm lửa đỏ giữa những ngón tay của Trần Vọng Trì là một cái lỗ thủng mục ruỗng trên tim tôi. Tôi và anh ngồi đó không nói một lời, thỉnh thoảng ánh mắt chạm nhau, tựa như hai cái cây lặng lẽ sinh trưởng nhưng lại quấn quýt rễ cành. Mưa rơi trên người, ướt sũng. Tôi sẽ hỏi anh liệu có thể ôm không, liệu có thể hôn không.

Chúng tôi trốn tránh cơn mưa rào mùa hạ, trốn tránh những lời dò xét vô tình hay hữu ý của cha mẹ, cam tâm tình nguyện bị vây quanh dưới ánh đèn đường, trở thành bến đỗ của nhau.

Và rồi tôi ôm lấy tờ báo cũ ướt đẫm ấy mà khóc, khóc cho những suy nghĩ trống rỗng và lệch lạc của mình. Tôi không nghĩ ra được cách giải quyết nào tốt hơn, làm sao tôi có thể vừa thừa nhận mình yêu Trần Vọng Trì, lại vừa phải giả vờ xem anh như anh em.
Tôi đã ngây thơ tuân thủ mọi quy tắc của xã hội, mặc cho nội tâm có nổi loạn đến đâu.

Cơn mưa lần đó rất lớn, kéo dài đến tận sáng. Bầu trời hửng sáng được phủ lên một lớp màn ám màu u tối, ngột ngạt, không chút không khí.

Tôi nhớ đến cuốn sách cũ và chiếc lá nhặt về từ khu rừng, bèn vội vàng mở ngăn kéo để kiểm tra xem chúng có bị mưa làm ướt không.

Chiếc lá đã được tôi dùng băng dính trong dán lại, kẹp vào trong cuốn sách đó. Trang đầu của cuốn sách cũ có viết tên Trần Vọng Trì. Tôi dùng cách này để tưởng nhớ anh.
Đối với tôi, chỉ có ý nghĩa của cái tên Trần Vọng Trì mới là mùa hạ.

Nhưng chúng tôi lại gặp lại nhau vào mùa xuân.

Ngay khoảnh khắc tôi ngẩng đầu lên, Trần Vọng Trì đã đứng ở phía bên kia con đường cách đó không xa. Điếu thuốc trên tay anh đã bị nước mưa làm ướt từ lâu, nhưng anh không vứt đi. Giữa chúng tôi là một sự đối mặt câm lặng mà dữ dội. Đôi mắt vừa tĩnh lặng vừa phiền muộn ấy cuối cùng vẫn không kìm nén được tiết trời âm u, nếu không thì sao giữa chúng tôi lại có cả một đại dương ngăn cách.

Nếu tôi không nhìn thấy gò má gầy gò của Trần Vọng Trì, có lẽ tôi đã không sớm biết đến cái cảm giác mang tên đau lòng. Mọi cảm xúc và sự hỗn loạn không thể phân định đều theo cơn mưa gió này mà ướt nhòe nơi đáy mắt.

Tôi thấy được sự ẩm ướt trong đáy mắt Trần Vọng Trì.

Đôi tay anh run rẩy, nâng lấy mặt tôi. Động tác không vững, nhưng lại ào đến dữ dội.

Vậy là anh đã khóc sao?

Trần Vọng Trì không trả lời. Vì không có cửa sổ, anh một tay đẩy tôi đến trước bàn, tay kia kéo rèm cửa lại.

Tấm rèm chẳng mấy chốc đã ướt sũng, màu sắc vốn nhạt nhòa trở nên thẫm lại và nặng trĩu.

Tôi ngửi thấy mùi nước mưa trên người anh, rất ẩm. Khi anh hôn tôi, thời gian như trôi thật chậm, giống như lớp rêu xanh đang từ từ mọc trên phiến đá.

Sắc xanh nhạt của buổi sớm mai xuyên qua rèm cửa, hơi thở của chúng tôi lại biến thành màu xanh lam, một màu xanh lam mờ ảo.

Vậy nên Trần Vọng Trì à, chúng ta hà tất phải nhắc về quá khứ, tương lai thì chông chênh bất định, chỉ có hiện tại mới là sâu sắc nhất.

Cuốn sách cũ trên bàn rơi xuống đất, những trang giấy khẽ lay động, rồi dừng lại ở nơi tôi dùng chiếc lá để đánh dấu. Trang đó có một đoạn văn mà tôi đã thuộc nằm lòng.

– Một nửa ý nghĩa cuộc đời tôi là ở chỗ giành cho được tình yêu của em. Tôi biết em cũng yêu tôi, nhưng chưa bao giờ tôi dám mong rằng con người kiêu hãnh như em có lúc nào đó lại nói với tôi điều này. Bây giờ thì em đã nói với tôi, và lại nói đúng vào lúc tôi chẳng còn gì cả, lúc mà cuộc đời lang bạt, tự do, thế giới và đàn bà đã hoàn toàn ruồng bỏ tôi. Tôi xin nhận tấm thịnh tình của em và xin cảm ơn em. [Trích từ sách Narcissus và Goldmund.]

Tôi dùng ngón tay che lên mí mắt anh, che đi những mao mạch trên đó. Hơi ẩm trên đầu ngón tay không phân biệt được là mưa hay là gì khác. Tôi do dự không biết có nên gọi anh là “anh trai” không.

“Trần Thành Hạ.”

Trần Vọng Trì đột nhiên gọi tôi như vậy.
Ngay giây phút ngắn ngủi anh gọi tên tôi, cơn mưa xuân từ trên trời rơi xuống đã gột rửa đi lớp tuyết tích tụ, và cái tên của tôi bị chôn sâu dưới tuyết đã một lần nữa lộ ra trên mặt đất.

Sáng hôm nay, chúng tôi chìm đắm trong biển sâu, xuyên qua khu rừng mù sương, và bước lên chuyến tàu vỏ xanh chòng chành ấy.
 
Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng
Chương 8


Nụ hôn của Trần Vọng Trì giống như nước biển vào một buổi chiều xuân. Tấm rèm cửa cuối cùng cũng không chống chọi nổi sức nặng của mưa mà biến thành một tấm phông nền sẫm màu. Lưng tôi bị mép bàn gỗ làm trầy xước, cơn đau xuyên qua lớp áo mỏng, xộc thẳng vào tủy sống, khiến tôi nhớ đến những chuyện hỗn loạn đã xảy ra với Trần Vọng Trì trong khu rừng vào mùa hè năm ngoái.

Nỗi đau này không thể so sánh với cảm giác bị mầm cỏ đâm vào mắt cá chân, lại càng không thể sánh bằng sức lực của Trần Vọng Trì.

Tôi gần như ngã quỵ trong vòng tay anh.

Căn phòng thuê thực sự quá nhỏ, đến hơi thở của hai người cũng khó mà chứa hết.

Ngày hôm đó chúng tôi không ra ngoài. Khi ông chủ tiệm mì gọi điện tìm tôi, tôi vẫn đang suy nghĩ xem phải trả lời câu hỏi của Trần Vọng Trì như thế nào. Mới một giây trước, anh hỏi tôi khi nào về nhà, nói rằng cha tôi đang rất lo lắng
.
Không phải “nhà em”, mà chỉ hỏi tôi khi nào về nhà, cứ như thể chúng tôi đã là người một nhà từ lâu.

Điếu thuốc kẹp giữa những ngón tay anh ở ngay bên cạnh vai trái của tôi, hơi nóng phả ra lúc gần lúc xa. Tôi nằm úp ở đó, nói dối với ông chủ rằng hôm qua dầm mưa nên bị bệnh, đành phải xin nghỉ.

Sau đó, tôi nghe thấy một tiếng cười rất khẽ, như thể khói thuốc tan vào trong màn mưa ngoài kia. Cúp điện thoại, tôi nghiêng đầu hỏi có phải anh đang cười tôi không.

Trần Vọng Trì ngậm điếu thuốc, hai tay ấn lên vai tôi, bảo tôi đừng quên trả lời câu hỏi của anh.

“Về nhà sao?”

Tôi hỏi lại anh.

Anh nghe ra sự do dự trong giọng nói của tôi, động tác dần dần dừng lại, rồi nói với tôi: “Họ không kết hôn.”

Tôi không biết anh đã mang tâm trạng gì khi nói ra câu này. Đằng sau câu nói ấy, ẩn giấu một sự thật, rằng Trần Thành Hạ vì cha tái hôn nên đã quyết định bỏ đi.

Vậy thì, lý do thực sự là gì? Tôi không tin Trần Vọng Trì không biết. Anh luôn có thể dễ dàng nhìn thấu suy nghĩ của tôi. Trước mặt anh, tôi không có bí mật nào, cả thân thể và trái tim đều phơi bày, hoàn toàn thuộc về anh.

Mùa hè năm ngoái, có một lần tôi nằm trên bãi cỏ, ánh mắt dừng lại ở cổ tay Trần Vọng Trì. Ở đó có một vết răng rất dễ thấy, là do tôi mới cắn cách đó không lâu. Bởi vì lúc đó tôi đọc được trong một cuốn sách khoa học thường thức rằng, một số loài động vật sẽ dùng cách cắn xé để đánh dấu vật sở hữu của mình.

Trần Vọng Trì không ngăn tôi, hai chân quỳ hai bên người tôi, bình tĩnh cúi mắt nhìn động tác gần như điên cuồng của tôi, thậm chí còn đưa cổ tay lại gần hơn, thô bạo nhét vào miệng tôi bắt tôi cắn.

Tôi nếm được vị máu của anh, rồi lập tức thu lại sức lực.

Những tình tiết trong phim quả không có thật, vết cắn để lại cũng không giữ được lâu. Tôi để ý thấy vết hằn trên cổ tay anh đã nhạt đi, tựa như dấu chân của một chú chó, chú mèo khẽ bước qua vũng bùn. Tôi thất vọng nhìn anh, hỏi anh có phải thuộc về tôi không, và hỏi liệu chúng tôi có thể ở bên nhau mãi mãi không.

Tôi đã hỏi đi hỏi lại câu hỏi này, Trần Vọng Trì sẽ không bao giờ trả lời nghiêm túc, nhưng tôi cũng chưa bao giờ thấy vẻ mất kiên nhẫn trên mặt anh. Điều này khiến tôi có một cảm giác vừa tức giận lại vừa bất lực.
Ngay lúc tôi định nắm lấy cổ tay anh để cắn thêm lần nữa, anh đã ấn đầu tôi lại, nói: “Có rất nhiều cách để ở bên nhau.”

Khoảnh khắc ấy, tôi đột nhiên hiểu ra ý nghĩa của rất nhiều lần anh im lặng.

Có rất nhiều cách để ở bên nhau, không phải chỉ có mối quan hệ người yêu. Còn tôi lại chỉ chấp nhất vào một mối quan hệ duy nhất.

Và bây giờ, ngay phía sau lưng tôi, Trần Vọng Trì hỏi tôi khi nào về nhà.

“Em không biết.”

Tôi nói với anh: “Em cảm thấy từ ‘nhà’ này quá trừu tượng.”

Trần Vọng Trì trở mình nằm sang một bên, cánh tay dài gần như chạm đất. Một làn khói bay lên, anh khẽ nói một câu: “Đồ trẻ con.”

Anh đang nói tôi ngây thơ.

Ngay lập tức, tôi bật khóc.

Tôi nghĩ ai cũng có những lúc như vậy, đột nhiên không kìm được mà rơi lệ, vì một vài thứ đã mất đi hoặc có cố gắng cũng không thể nắm giữ. Tôi nhìn chúng từ từ trôi đi từ bên này sông, với một tốc độ rất chậm. Tôi biết rõ níu kéo cũng chẳng có ích gì, nhưng vẫn cứ vùng vẫy trong nỗi đau của chính mình. Tiếng khóc như vỡ đê ấy giống như phát ra từ trong một cái trống, vừa âm u lại vừa nặng nề. Phải làm sao đây, tôi hoàn toàn bất lực.

Thế nên chỉ có thể khóc.

Trần Vọng Trì đã quá quen với nước mắt của tôi. Một lát sau, anh dang tay ra, nói với tôi: “Lại đây, anh ôm em.”

Nhiệt độ cơ thể anh vẫn mang theo hơi ẩm của mưa, hơi ấm khô ráo bao bọc lấy sự ẩm ướt ấy, biến thành một cảm giác vừa ẩm ướt lại vừa ấm áp. Rất lâu sau này, trong vô số những đêm tôi nhớ Trần Vọng Trì, tôi đều sẽ nhớ đến cái ôm của chúng tôi trên chiếc giường chật hẹp, mới biết rằng từ ngày hôm đó, tôi đã biến thành một chú chó hoang lang thang trên phố, mãi đi tìm một nơi trú ẩn vừa ẩm ướt lại vừa ấm áp.

Hai ngày sau, Trần Vọng Trì đưa tôi về nhà. Dù tôi không hài lòng với quyết định này, nhưng vẫn theo anh bước lên chuyến tàu vỏ xanh ấy. Cùng một chuyến tàu, chỉ khác chỗ ngồi.

Tôi nghỉ việc ở tiệm mì, cảm thấy rất áy náy với ông chủ, bèn để lại tất cả những thứ không mang về được trong phòng cho ông.

Tôi đặc biệt tìm Đậu Nha, muốn tạm biệt cậu ta, nhưng bà chủ tiệm bột mì lại bảo tôi rằng, mấy hôm trước cậu ta vẫn chưa về, không biết đã đi đâu. Tôi nhớ đến ngôi chùa bỏ hoang, nhớ đến tín ngưỡng và quy tắc ở nơi đó, bèn nhờ bà chủ chuyển cho cậu ta một lá thư. Người chủ sạp sách cũ vẫn chưa đến, thế nên tôi đã mang cuốn sách đó về, cuối cùng nằm phủ đầy bụi trong tủ của tôi.

Từ đó đến nay, tôi chưa từng gặp lại họ.

Trên đường đi, một hành khách ngồi cạnh hỏi về mối quan hệ của chúng tôi. Tôi vùi đầu giả vờ ngủ, nghe thấy Trần Vọng Trì trả lời, là em trai tôi.

Lúc đó tôi rất muốn mở mắt ra chất vấn anh, rốt cuộc em trai kiểu gì lại ngủ chung một giường. Nhưng cuối cùng tôi đã không làm vậy. Tôi hiểu lần này Trần Vọng Trì đưa tôi về có ý nghĩa gì.

Anh không hề đề cập đến việc có muốn cùng nhau bỏ trốn không. Thực ra trước đó, tôi đã hỏi anh không dưới năm lần, đáp lại tôi chỉ có đôi mắt không chút gợn sóng ấy, rồi anh khẽ lắc đầu, bảo tôi đừng quậy.

Tôi tức giận, tôi im lặng, đơn phương chiến tranh lạnh với Trần Vọng Trì, nhưng cũng không ngờ rằng, cái ôm lần đó là lần cuối cùng. Ít nhất trong mắt tôi lúc đó, Trần Vọng Trì sẽ không bao giờ quay trở lại nữa.

Mấy tháng sau, tôi cũng lại một lần nữa rời khỏi thị trấn nhỏ ấy. Chúng tôi không ai nói khi nào sẽ gặp lại.

Tôi thường nhớ về khoảng thời gian đó, tôi và Trần Vọng Trì đều tự thỏa hiệp. Trước cửa quán net, ngồi xổm dưới cùng một ánh đèn, chúng tôi im lặng chống lại cuộc sống cay đắng. Khi ấy, không ai trong chúng tôi sống tốt cả. Mùa xuân qua đi, mùa hạ lại đến. Đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu hai người rốt cuộc đã thỏa hiệp điều gì, cũng không biết rằng khoảng cách đến năm hai nghìn không trăm hai mươi tư khi chúng tôi gặp lại, vẫn còn một quãng thời gian rất dài.
 
Có Gió Thổi Qua - Lại Lạnh Lùng
Chương 9


Soda nho, sáu đồng một chai.

Chai soda đó tôi mua ở một trạm xăng ven đường trên đường về quê. Đêm ấy, tôi và Tang Cách ngồi xổm hút thuốc cách trạm xăng vài chục mét. Chai soda nằm bên chân tôi, bên trong là một lớp bọt khí trắng xóa.

Tôi uống một ngụm rồi đặt xuống, vặn chặt nắp chai mặc cho nó lăn đi, cuối cùng bị Tang Cách chặn lại. Anh ta đặt chai soda trở lại bên chân tôi, hỏi tôi có chuyện gì buồn phiền một cách không chút nghĩ ngợi, thậm chí còn chẳng hề ngạc nhiên.

Đêm khuya khó ngủ, người ta không thể không kể chuyện xưa.

Điếu thuốc cháy được một nửa, tôi nhìn tàn thuốc rơi xuống, lắc đầu cười. Trong hai giây lắc đầu ấy, tôi nghĩ đến Trần Vọng Trì, thế là tôi giơ điếu thuốc lên, nói một câu “cạn ly”.

Anh không cạn ly với em sao?

Tôi vẫn hỏi như vậy ngay cả sau khi anh hôn tôi. Vị cam trong khoang miệng của cả hai tựa như hai chùm pháo hoa bất chợt bừng nở. Đuôi pháo hoa vẫy vùng bay lượn, và tôi ngửi thấy mùi cam quen thuộc đến nao lòng.

Bên chân vang lên tiếng chai nhựa lăn lốc, nhưng cả tôi và Trần Vọng Trì đều không để tâm. Phía sau anh là bầu trời đêm xanh thẳm, đôi mắt đang nhìn tôi chằm chằm không che giấu được những con sóng cuộn trào mãnh liệt. Sau khi tôi lặp lại câu hỏi đó, đầu lưỡi tôi nhói đau, sau đó một vị gỉ sắt nhàn nhạt lan ra. Cái cảm giác tê dại cứng đờ ấy làm tôi nhớ đến những cơn đau thể xác nhiều năm về trước. Mỗi lần đau, tôi đều sẽ ngẩng đầu nhìn lên bầu trời rộng lớn. Bầu trời sâu thẳm, bao la như thế, luôn có thể dung chứa được chút đau đớn tê dại này của tôi. Nếu thực sự không chịu nổi, tôi sẽ cắn vào hổ khẩu của Trần Vọng Trì. Anh luôn để tôi cắn, trước giờ vẫn vậy.

Nhưng lúc này lại là Trần Vọng Trì đang cắn tôi rất mạnh. Bạn biết không, cái cảm giác ấy rất kỳ diệu, tựa như khoảnh khắc một viên kẹo nổ vỡ tan trong miệng, làm tôi nhớ đến vô số những khoảnh khắc tương tự, như tiếng hét vút bay lên tận trời xanh khi Trần Vọng Trì dẫn tôi chạy trên đồng cỏ um tùm, hay tiếng pháo đầu tiên nổ vang ngày Tết.

Thế giới của chúng tôi biến thành một thước phim câm đen trắng, chậm rãi mà sâu sắc. Đất trời đều lạnh, gió cũng lạnh, chỉ có hơi thở giữa đôi môi là ấm nóng.

Xa cách quá lâu, nụ hôn quá nặng nề. Cuối cùng, tôi và Trần Vọng Trì ngồi trên một góc mái nhà, tiếng thở bị cơn gió bắc gào thét cuốn đi. Chút hơi ấm ấy tan ra, và biến mất rất nhanh.

Cha gọi chúng tôi xuống ăn khuya, nhưng không ai trong chúng tôi nhúc nhích. Sau một trận chiến gần như dốc cạn toàn lực, chúng tôi đều không còn hơi sức để đáp lại thế giới bên ngoài. Những vì sao trên đầu như sắp rơi xuống, tôi bất chợt đưa tay níu lấy vạt áo của Trần Vọng Trì, đổi lại là một ánh nhìn không rõ ý tứ của anh.

Một cảm giác lành lạnh mà chân thực.

Trần Vọng Trì không hề biến mất, không giống như rất nhiều lần trước đó chỉ là ảo giác của tôi.

Những tấm ảnh cưới đỏ rực trong phòng khách luôn nhắc nhở tôi rằng cha đã tái hôn. Điều đó cũng có nghĩa là tôi và Trần Vọng Trì đã thực sự trở thành anh em trên danh nghĩa, mặc dù cả tôi và anh đều đã sớm tự lập, không còn chung một cuốn sổ hộ khẩu.

Trước đó tôi nghe cha kể, anh hiện đang làm việc cho một công ty công nghệ ở Bắc Kinh, mỗi năm chỉ về một lần vào dịp Tết, và ở trong căn phòng trên tầng hai.

Mà tầng hai chỉ có một phòng, là phòng của tôi.

Tôi giữ thái độ im lặng trước chuyện này, và kinh ngạc nhận ra rằng, tôi không hề cảm thấy tức giận vì cha đã dọn phòng của tôi ra. Thực ra tôi hiểu đó là một cách ông lấy lòng Trần Vọng Trì, hay nói một cách mỹ miều hơn, đó là biểu hiện của việc yêu ai yêu cả đường đi lối về.

Buổi chiều tôi nghỉ ngơi trong phòng, nằm trên chiếc giường đã nhiều năm không ngủ, quay đầu là có thể thấy được ngọn núi xanh bên ngoài cửa sổ. Dưới rèm cửa có một hàng sách không thuộc về tôi, trong đó có một cuốn đặt ngược. Tôi cầm lên thì phát hiện đó là một tập thơ của một nhà thơ người Ba Lan. Một trang sách để lộ ra màu xanh cỏ úa, thế là tôi lật ra, phát hiện kẹp bên trong là một chiếc bookmark làm bằng lá cây. Những đường gân của chiếc lá đã sớm mờ đi, nhưng lớp băng dính trong suốt bọc ngoài vẫn còn sạch sẽ.

Tôi nhận ra chiếc bookmark đó ngay lập tức, chính giữa chiếc lá là một khoảng trống hình ngôi sao.

Trên bàn ăn, chúng tôi bề ngoài thì khách sáo, lịch sự mà xa cách. Cha uống rượu xong, gò má hơi ửng đỏ, lắp bắp kể lại chuyện ngày bé của tôi và Trần Vọng Trì. Dì Hà ngồi bên cạnh dịu dàng khuyên ông đừng nói nhiều.

Nếu không phải vì ký ức của tôi quá sâu sắc, tôi gần như đã tin lời cha nói. Câu “hai đứa bọn con thân nhau như anh em ruột vậy” tôi đã nghe rất nhiều lần. Đằng sau dáng vẻ say xỉn của ông là một nỗi nghi hoặc không nói thành lời: đã từng thân như anh em ruột, tại sao sau này lại như nước sông không phạm nước giếng, chẳng bao giờ liên lạc.

Thế là tôi lại một lần nữa nhớ về ngày Trần Vọng Trì đưa tôi về nhà. Tôi căm ghét sự trốn chạy của anh. Theo tôi, trốn chạy sau khi hôn nhau là một hành động hèn nhát.

Trên bàn ăn, cha hỏi về dự định tương lai của Trần Vọng Trì, hỏi anh đã có đối tượng nào chưa. Tôi vặn chai soda nho, rót vào ly của mình. Một chiếc ly thủy tinh rỗng được đưa đến trước mặt.

Trần Vọng Trì không nhìn tôi, đôi mắt không chút ý cười nhìn về phía cha, dùng giọng điệu nói chuyện với người lớn mà đáp, hiện tại chưa có đối tượng nào.

Tôi đã rót hết cả chai soda nho vào ly của mình, rồi tôi để ý thấy trên hổ khẩu của Trần Vọng Trì có một vết sẹo rất mờ. Không kìm được, tôi rót bớt soda trong ly mình cho anh.

Hai chiếc ly thủy tinh chạm vào nhau, phát ra một tiếng “cạch”. Tôi nghe thấy Trần Vọng Trì nói một tiếng “cạn ly”.
 
Back
Top Bottom