Ngôn Tình Chim Trong Lồng - Kỷ Anh

[BOT] Dịch

Ban Quản Trị
24/9/25
107,613
0
36
AP1GczP96I0efC_xM6hgO7s3iu4uWRmc6Ay0KIqP9QN8aHdOqocSlmO7emdTdmUxZX0IdJLywmE_ElM5pS7XjoE0VnUrko71T8S4NKxZNDZl0sj5hlds0dhqJ2I1UupS8Cem2GF_Ell3rlMnFK-Qz79W2squ=w215-h322-s-no-gm

Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Tác giả: Kỷ Anh
Thể loại: Ngôn Tình, Trinh Thám, Khác
Trạng thái: Full


Giới thiệu truyện:

Tên gốc: 困鸟

Hán Việt: Khốn điểu

Tác giả: Kỷ Anh

Số chương: 31 chương

Thể loại: Nguyên sang, Ngôn tình, Hiện đại, Chính kịch, HE, Trinh thám, Góc nhìn từ hai phía, Trưởng thành

Editor: Qin | Team Sel

Giới thiệu

Nhân viên cửa hàng tiện lợi dưới lầu có nước da trắng trẻo, vóc dáng gầy gò, im lặng u ám, thường xuyên bị đám lưu manh bắt nạt.

Khương Nhu động lòng trắc ẩn, chủ động ra tay giúp đỡ.

Khi nhận lấy tờ khăn giấy từ tay cô, anh ta gật đầu cảm ơn đầy cứng nhắc, vành tai ửng đỏ.

Ngày ngày làm việc trong cửa hàng tiện lợi, Lý Hoài Chu luôn lặng lẽ dõi theo Khương Nhu.

Cô thẳng thắn thân thiện, tràn đầy sức sống, lúc nào cũng nói chuyện với anh bằng thái độ lễ phép, luôn mỉm cười dịu dàng, mỗi khi anh bị bọn côn đồ kiếm chuyện, cô sẽ cẩn thận đưa cho anh một tờ giấy lau.

Đêm đen yên ắng, ánh mắt giao nhau, y như khúc dạo đầu của một câu chuyện cứu rỗi.

Đáng tiếc, Lý Hoài Chu chẳng hề để tâm.

Là một kẻ giết người hàng loạt từng gây ra nhiều vụ án mạng, Khương Nhu chính là con mồi thứ tư mà anh tỉ mỉ tuyển chọn.

Còn về phía Khương Nhu, nụ cười của cô ngây thơ yếu ớt, trông như đã hạ quyết tâm sẽ trao cho anh chút ấm áp, kéo anh ra khỏi bóng tối và đưa vào ánh mặt trời.



Hướng dẫn đọc:

Truyện ngắn, toàn văn miễn phí.

Không phải kiểu tình yêu chữa lành, mà là truyện trinh thám đấu trí với kẻ giết người, ác giả ác báo, một câu chuyện về tự cứu và tình chị em tương trợ nhau.

Từ khóa: Nhầm lẫn oan nghiệt | Trinh thám suy luận | Trưởng thành | Chính kịch

Nhân vật chính: Khương Nhu, X

Nhân vật phụ: Trần Ấu Nghi, Lý Hoài Chu

Một câu tóm tắt: Sau khi bị kẻ giết người hàng loạt để mắt đến.

Chủ đề chính: Chim trong lồng cũng có ngày thoát thân.​
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 1


Hiện tại là tám giờ năm phút tối.

Màn hình điện thoại phát ra ánh sáng xanh mờ từ ống tay áo khoác lông vũ, Khương Nhu liếc nhìn giờ rồi tắt màn hình, bước vào cửa hàng tiện lợi, kéo theo một luồng gió lạnh buốt thấu xương.

Đêm đông sâu hun hút, lạnh đến rợn người. Vừa bước vào bên trong, hơi ấm lẫn theo mùi thơm nồng của oden ập đến, ánh đèn từ trần nhà rọi xuống khiến cô nheo mắt lại.

Không biết là ai đang bật loa ngoài tin tức xã hội, từng câu từng chữ vang lên rõ ràng bên tai: “Đã phát hiện nạn nhân thứ ba, cảnh sát đã thành lập tổ chuyên án, bước đầu xác định là cùng một nghi phạm gây án…”

Lạnh quá đi mất.

Khương Nhu co mặt nép vào khăn choàng, định như mọi ngày, chọn vài món kẹo và đồ ăn sẵn.

Đáng lẽ đêm nay cũng sẽ bình thường như bao đêm khác, cho đến khi một tiếng chửi rủa đột ngột vang lên:

“Đệt! Ông đây kêu vị việt quất cơ mà? Sao lại đưa vị dâu? Mù à hay điếc đấy?!”

Tiếng quát quá đanh, quá dữ, khiến Khương Nhu giật nảy mình. Cô nhìn theo hướng phát ra âm thanh, thấy mấy bóng người đứng trước quầy tính tiền.

Cả đám cao lớn lực lưỡng, mặc áo khoác da đen sì, chính là đám côn đồ hay lảng vảng ở con phố này.

Đối diện với chúng là một chàng trai mặc đồng phục cửa hàng tiện lợi.

Anh ta quá gầy gò, đứng lọt thỏm trong bóng đám côn đồ như con linh dương bị bầy linh cẩu vây lấy.

Nhân viên cửa hàng nói: “Anh chọn kẹo cao su vị dâu mà.”

Giọng không lớn, đều đều, bình thản đến mức không hề có lấy một gợn sóng.

Anh ta không sợ sao?

Khương Nhu nghĩ bụng. Rõ ràng mấy gã kia cố tình gây sự, mặt mũi hung tợn, không giấu nổi ác ý.

Đây cũng không phải lần đầu cô chứng kiến chuyện như vậy.

Từ khi đăng ký lớp học vẽ ở tòa văn phòng gần đó cách đây một tuần, hầu như đêm nào Khương Nhu cũng ghé qua cửa hàng tiện lợi này. Nhân viên cửa hàng là một thanh niên có vẻ ngoài thư sinh, ít nói, da dẻ trắng bệch, thân hình gầy gò. Ngoài những câu giao tiếp cần thiết, chưa từng nói chuyện với khách hàng một câu dư thừa.

Có lẽ vì biết anh ta sẽ không phản kháng, nên mấy gã côn đồ cứ ba bữa nửa tháng lại mò tới, khi thì buông lời mỉa mai, khi thì bóp vụn gói mì ăn liền rồi cười hề hề bỏ đi.

Đi nhiều thành quen mặt, đến cả Khương Nhu cũng dần nhận ra họ.

Phản ứng lạnh nhạt của nhân viên hiển nhiên khiến đám côn đồ không hài lòng.

Tên tóc vàng dẫn đầu nhe răng vung tay định đấm, nhưng còn chưa kịp ra tay đã bị đàn em bên cạnh giữ tay lại, khẽ liếc về phía cửa, ra hiệu có người đến.

Một nhắc nhở đơn giản: có người khác bước vào.

Và thật không may, ánh mắt của Khương Nhu ngay lúc ấy chạm phải cái nhìn của gã tóc vàng.

Cô thấy rõ bản thân khẽ run lên, lập tức cúi đầu, chỉ sợ rước họa vào thân.

Sự xuất hiện của người ngoài đã phá vỡ niềm vui bắt nạt, đám côn đồ tỏ ra biết điều không tiếp tục gây chuyện, trước khi rời đi còn giơ ngón giữa trêu ngươi nhân viên cửa hàng.

Khương Nhu bước ngang qua bọn chúng, theo bản năng nép về phía tường vài bước, cố gắng giảm thấp cảm giác tồn tại của mình xuống mức tối thiểu.

Những bóng người khoác áo da đen lũ lượt rời khỏi, bên trong cửa hàng tiện lợi lại trở về tĩnh lặng.

Vài giây sau, bản tin kia bắt đầu vòng phát sóng mới:

“Được biết, các nạn nhân đều là nữ giới trong độ tuổi từ hai mươi đến ba mươi, trước khi chết đã bị giam giữ suốt mười lăm ngày, sau đó bị sát hại dã man…”

Nhân viên không nói gì, tắt video ngắn đang mở trong điện thoại.

Chuyện đến nhanh, đi cũng nhanh. Là một người xa lạ đến mức thậm chí không biết tên anh ta, lựa chọn tốt nhất với Khương Nhu là đừng dính dáng vào.

Cô đã quyết tâm không nhúng tay vào chuyện gì, lặng lẽ chọn đủ những món có trong danh sách cần mua, đi đến quầy tính tiền, nhưng rồi lại khựng lại.

Trên quầy có một bát mì ăn liền bị ai đó làm đổ, nước súp đục ngầu văng khắp mặt bàn. Nhân viên đang dùng khăn lau từng chút một, từ tay áo rộng thùng thình lộ ra cổ tay gầy guộc, xương xẩu, cùng mấy vết sẹo cũ giống như do bỏng để lại.

Nhìn qua vừa mỏng manh, vừa đáng thương.

Bản năng đồng cảm của con người bất giác lấn át sự thờ ơ.

Không rõ vì sao, Khương Nhu bỗng dưng cất tiếng hỏi: “Là do mấy người kia làm đổ à? Tôi giúp một tay nhé?”

Nghe giọng cô, nhân viên ngẩng mắt nhìn lên.

Chỉ lúc này, Khương Nhu mới nhận ra đôi mắt anh ta đen kịt, dưới ánh đèn hiện lên thứ ánh sáng lạnh lẽo như thủy tinh.

“Không cần.”

Anh ta đứng thẳng người, để lộ vết bẩn ướt sũng trên tay áo, trông có vẻ không quen giao tiếp với người khác, ngập ngừng một chút mới bổ sung thêm hai chữ: “Cảm ơn.”

Thái độ không hề tệ, khiến Khương Nhu có thêm dũng khí tiếp lời: “Họ thường xuyên đến gây sự đúng không? Tôi thấy mấy lần rồi đấy.”

“Ừm.”

“Không gọi quản lý xử lý được à? Hoặc báo công an chẳng hạn.”

Dưới ánh nhìn của cô, nhân viên lau sạch vết súp, đặt khăn sang một bên, sắc mặt lộ ra chút bất lực dịu dàng: “Quản lý không quản được, báo cảnh sát cũng vô ích, tại chuyện nhỏ quá mà.”

Vài viên cơm bị bóp méo, mấy gói mì bị bóp nát, cùng đôi ba câu hăm dọa không đủ để cấu thành thương tích, với ai cũng chẳng đáng nhắc đến.

Ngoại trừ người liên tục bị làm nhục một cách ác ý.

Ngay cả Khương Nhu, người có lòng muốn giúp, cũng chẳng nghĩ ra cách nào hiệu quả.

Cô chỉ còn biết lục túi, lấy ra mấy tờ khăn giấy, đưa cho cậu nhân viên tay còn dính bẩn: “Lau tay đi.”

Anh ta không nhận ngay.

Có thể là ảo giác, trong khoảnh khắc Khương Nhu cúi xuống nhìn vết bẩn trên tay anh, cô có cảm giác có một ánh mắt lướt qua gương mặt mình, nhẹ như sợi tơ nhện bị làn gió khẽ lay, thoáng qua rồi biến mất.

Khi cô ngẩng lên, chàng trai sau quầy đã nhận lấy khăn giấy, giọng nói dịu dàng xen chút lúng túng, so với trước đó mang theo vài phần ấm áp: “Cảm ơn.”

Trông anh có vẻ rất ngại ngùng, lông mi rủ thấp, bỗng dưng buột miệng hỏi: “Hôm nay cũng mua đồ ăn sẵn à?”

Khương Nhu ngẩn ra.

Tan học vẽ về trúng ngay giờ cơm tối, trong năm lần thì hết ba lần cô ghé qua cửa hàng tiện lợi, đều mang đi một phần đồ ăn nóng hổi cùng mấy gói kẹo.

“Dạo này cô thường xuyên đến.”

Thấy cô ngơ ngác, anh càng lúng túng hơn, vành tai lộ ra chút đỏ nhè nhẹ: “Tôi nhớ cô đấy.”

Khóe mắt Khương Nhu khẽ cong, nụ cười lan ra trong đáy mắt: “Anh nhớ tôi à?”

Sợi dây kết nối giữa người với người, kỳ thực lại đơn giản và trực tiếp đến vậy.

Dù một phút trước còn là hai đường thẳng song song chẳng hề liên quan, một khi đã giao nhau, sẽ bắt đầu sản sinh vô vàn khả năng giao thoa tiếp diễn.

“Lấy hai xiên viên sụn sốt Teriyaki.”

Khương Nhu đặt cả túi lớn túi nhỏ kẹo bánh lên quầy thu ngân: “Tôi học lớp năng khiếu ở tòa nhà bên cạnh, sau này chắc sẽ thường xuyên ghé mua đồ, mùa đông thì phải ăn đồ nóng mới được.”

Nói đến đây, cô đổi giọng: “Tôi tên là Khương Nhu.”

Không ngờ cô lại tự giới thiệu tên họ, lần này, nhân viên im lặng lâu hơn cả.

Đáng tiếc là anh cúi đầu, Khương Nhu không nhìn rõ được trong mắt anh ẩn giấu cảm xúc gì, chỉ nghe anh đáp: “Lý Hoài Chu.”

Lý Hoài Chu.

Cô âm thầm nhẩm lại cái tên ấy vài lần trong lòng, ánh mắt dõi theo anh lần lượt quét mã hàng các món đồ: sữa tươi, snack vị dưa chuột, kẹo dẻo vị cola…

“À đúng rồi.”

Khương Nhu hỏi: “Ở cửa hàng có bán dao tự vệ không?”

“Dao?”

“Vụ giết người hàng loạt dạo này ấy, anh chắc cũng nghe qua rồi chứ?”

Chủ đề này vốn đã kèm theo bầu không khí u ám. Khương Nhu thu lại nụ cười: “Là vụ lúc tôi vào cửa hàng, điện thoại cậu đang phát đó.”

Trước khi hỏi, cô đã biết chắc câu trả lời, Lý Hoài Chu nhất định sẽ nói “có nghe”.

Cả Giang thành này, không ai là không biết vụ án chấn động toàn quốc đó.

Vụ giết người đầu tiên xảy ra hơn hai tháng trước.

Nạn nhân là một sinh viên đại học mồ côi cha mẹ. Vì mất liên lạc quá lâu, bạn bè đã kịp thời báo cảnh sát. Mười lăm ngày sau khi mất tích, thi thể của cô ấy được tìm thấy bên bờ sông.

Theo các bản tin, thi thể nạn nhân có vô số dấu vết trói buộc, va đập và bị đánh đập, khả năng cao là bị giam giữ rồi sát hại, sau đó bị vứt xác nơi hoang vắng.

Ban đầu cảnh sát nghiêng về hướng thù hằn cá nhân hoặc tình cảm. Nhưng đến khi nạn nhân thứ hai được tìm thấy, với cách thức tàn nhẫn tương tự, thì mọi chuyện đã không còn là trùng hợp.

Mới đây, xuất hiện thêm nạn nhân thứ ba.

Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một vụ án giết người hàng loạt cực kỳ hung ác.

“Nạn nhân đều là phụ nữ trong độ tuổi hai mươi.”

Nghĩ lại những tin tức đã xem vài ngày qua, Khương Nhu siết chặt áo khoác, như muốn từ hơi ấm mơ hồ đó tìm kiếm chút cảm giác an toàn:

“Đáng sợ thật. Tôi nghe nói họ toàn là sinh viên hoặc nhân viên văn phòng, bình thường im lặng, dịu dàng, và tên sát nhân chỉ nhắm vào những kiểu người như vậy.”

Cô cau mày: “b**n th**.”

“Phải cẩn thận.”

Lý Hoài Chu liếc nhìn sắc trời bên ngoài, rồi quay đầu dặn: “Cửa hàng không bán dao nằm trong danh mục cấm. Trời tối rồi, cố đi đường có đèn, có người.”

Cũng khó trách Khương Nhu cảnh giác.

Vì từ khuôn mặt đến khí chất của cô, hoàn toàn phù hợp với mô tả nạn nhân.

Cô có vẻ ngoài dịu dàng, vóc dáng nhỏ nhắn, mái tóc đen dài vừa qua vai xõa tự nhiên, bên trong chiếc áo lông màu sáng là váy len, sau lưng đeo chiếc ba lô da kiểu học viện chỉnh tề.

Không có chút cảm giác công kích nào, lại pha thêm vài phần khí chất tri thức, như nhành trúc non mềm mại.

Mà với một tên đồ tể cầm dao, bẻ gãy một nhánh trúc, dễ như trở bàn tay.

Lý Hoài Chu hỏi: “Nhà cô xa đây không?”

“Tôi học năm tư, ở ký túc xá trường.” Khương Nhu đáp: “Trường Giang Đại, cách đây năm trạm tàu điện, cũng không xa lắm.”

Lý Hoài Chu khẽ “ừ” một tiếng, đưa túi đồ và hai xiên viên sụn sốt cho cô: “Đi đường nhớ cẩn thận.”

“Cảm ơn.”

Khương Nhu đưa tay đón lấy, ngón tay cái hơi rút lại, chỉ cầm một xiên.

Từ đầu cô vẫn cúi mặt, lúc này mới ngẩng đầu lên, chiếc khăn quàng cổ tuột xuống, lộ ra bờ môi khẽ cong. Đôi mắt mang theo ý cười, tựa như vì sao chợt lóe.

Nồi oden sôi lục bục, hơi nóng bốc lên kéo thành màn sương mỏng giữa hai người.

Khương Nhu nói: “Một xiên của tôi, một xiên của anh. Cầm đi, đừng để đám người kia ảnh hưởng đến tâm trạng.”

Một chút thiện ý không hề báo trước, khép lại cuộc trò chuyện đêm nay.

Lý Hoài Chu theo bản năng muốn từ chối: “Không cần đâu, tôi…”

Còn chưa nói hết câu, Khương Nhu đã lùi lại hai bước.

“Tôi đi đây.”

Túi nilon bị cô nhẹ nhàng nhấc lên, Khương Nhu quay người rời đi. Cửa cảm ứng tự động mở ra, vài hạt tuyết rơi lất phất lên mái tóc cô.

Cô vẫy tay: “Tạm biệt.”

Cô không quay đầu lại, để lại Lý Hoài Chu đứng một mình tại chỗ, tay cầm lấy xiên đồ ăn còn lại.

Anh không nói gì, cũng không nhúc nhích, cứ đứng đó hơn nửa phút, đến khi viên sụn nguội hẳn, mới khẽ cắn một miếng.

Tiếng nhai nhỏ đến mức gần như không nghe thấy, cửa hàng tiện lợi trở nên im ắng đến kỳ lạ.

Không còn ai bên cạnh để trò chuyện, nên lý ra phải làm gì đó để lấp vào khoảng trống im lặng kéo dài này.

Vì vậy, điện thoại được bật lại.

Màn hình vẫn dừng ở bản tin vụ án giết người hàng loạt.

Lý Hoài Chu nhìn chằm chằm vào hình ảnh tĩnh trên màn hình, nhấn nút phát.

“Thủ phạm có xu hướng kiểm soát rất mạnh, đồng thời thể hiện hành vi bạo lực rõ rệt.”

Trong video, người dẫn chương trình với nét mặt nghiêm nghị nói: “Vật dụng cá nhân của nạn nhân đều bị mất, nghi ngờ bị hung thủ giữ lại. Giáo sư Lý, việc thu thập những vật thể cụ thể như vậy có mang tính nghi lễ không?”

Bên cạnh người dẫn là một cố vấn hình sự lên tiếng: “Trong rất nhiều vụ án trước đây, sau khi gây án, hung thủ thường giữ lại cơ quan nội tạng hoặc vật dụng của nạn nhân để lưu trữ làm kỷ niệm.”

“Cho đến nay, đã có ba nạn nhân.”

Hình ảnh hiện trường được làm mờ bằng mảng đỏ thẫm gắn mác cảnh báo, người dẫn nói tiếp: “Mời ông phân tích từ góc độ tâm lý tội phạm.”

“Trước tiên, phương thức phạm tội vô cùng tàn bạo, hành vi tra tấn dài ngày với nạn nhân thể hiện rõ xu hướng trút giận cảm xúc cực đoan.”

Hai giọng nói thay phiên phát ra từ loa điện thoại, trong đêm đông lạnh giá, cũng mang theo vẻ lạnh lẽo máy móc.

Lý Hoài Chu nghe rất chăm chú, một tay đút túi áo khoác, vẻ mặt không biểu cảm.

Nghe đến mệt, anh ngáp một cái.

“Còn việc giữ lại vật dụng cá nhân của nạn nhân…”

“Có thể ví như thợ săn treo đầu thú trong nhà. Trong mắt hung thủ, đây cũng là một dạng ‘chiến lợi phẩm’, có thể mang lại sự thỏa mãn về mặt tâm lý.”

“Thông qua chúng, hắn đạt được cảm giác kiểm soát và thống trị, ví dụ như chuỗi hạt tay và ví tiền của nạn nhân đầu tiên, hay vòng cổ ngọc trai của nạn nhân thứ hai…”

Bóng đêm nặng trĩu dần buông xuống, gió mùa đông ngoài cửa sổ vẫn rít gào không ngừng.

Lý Hoài Chu nuốt nốt miếng cuối cùng của xiên sụn, khẽ cười.

Video kết thúc.

Tay phải anh rút ra khỏi túi, vang lên âm thanh trong trẻo như ngọc va vào nhau.

Trong lòng bàn tay Lý Hoài Chu là một chuỗi hạt đeo tay hình bùa hộ mệnh.

Chuỗi hạt trong suốt lấp lánh, ở giữa là miếng ngọc khắc chữ “Bình An”, nhỏ nhắn tinh xảo, ấm áp dịu dàng như nước.

Chỉ cần bỏ qua vệt máu nâu sẫm đã khô trên mặt ngọc.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 2


Trước khi giết người phụ nữ đầu tiên, Lý Hoài Chu chưa bao giờ nghĩ đến chuyện cuộc đời tẻ nhạt như nước đọng của mình lại có ngày nổi lên sóng lớn, cuốn cả Giang Thành vào vòng xoáy kinh hoàng.

Anh ta trầm lặng ít nói, sống trong căn nhà tự xây cũ kỹ nơi rìa thành phố, làm nhân viên cho một cửa hàng tiện lợi, không bạn bè, không người thân, không quan tâm đến ai, cũng chẳng ai quan tâm đến anh tta.

Thức dậy, đi làm, tan ca, đi ngủ, cuộc sống của Lý Hoài Chu cứ thế lặp đi lặp lại không chút gợn sóng. Những sở thích ít ỏi đếm trên đầu ngón tay của anh ta là đọc tiểu thuyết trinh thám và làm tiêu bản chim chóc.

So với việc chế tác một tiêu bản hoàn hảo, giết người còn dễ hơn nhiều.

Gây án là kế hoạch anh ta đã ấp ủ từ lâu. Khi chọn đối tượng giết người đầu tiên, Lý Hoài Chu không tốn quá một giây do dự.

Tối hôm đó, khi đã hạ quyết tâm cầm dao lên, anh ta lang thang khắp khu phố cũ không có camera giám sát, và rồi như số mệnh sắp đặt, anh ta lướt qua một người phụ nữ trông quen mặt.

Cô ấy từng đến cửa hàng tiện lợi vài lần, Lý Hoài Chu có chút ấn tượng, da trắng, nét mặt thanh tú, giọng nói nhỏ nhẹ, dịu dàng khiến người ta khó tưởng tượng được lúc nổi nóng thì sẽ ra sao.

Sở dĩ chọn cô ấy, chỉ vì sau khi hai người vô tình va vai nhau, cô ấy quay đầu lại, mỉm cười nói với anh ta một câu: “Xin lỗi.”

Lý Hoài Chu không ghét cô ấy, cũng chưa từng có cảm xúc yêu hay ghét gì với người này, chỉ là khi anh ta muốn giết người, thì người phụ nữ đó vừa khéo xuất hiện.

Mà nụ cười nhẹ nhàng của cô ấy, giống hệt lúc ở cửa hàng tiện lợi mỉm cười với anh ta, lại càng chói mắt đến gai người.

Quá trình ra tay không hề phức tạp, đánh ngất, giam giữ, cuối cùng rạch cổ.

Lạ lùng là từ đầu đến cuối, Lý Hoài Chu không hề sợ hãi hay hoảng loạn, trái lại còn có một cảm giác bình thản đến quái dị. Cảm giác ấy không khác gì mỗi ngày anh ta sắp xếp lại kệ hàng, máy móc, lạnh nhạt, ngăn nắp.

Thậm chí, anh ta còn thảnh thơi mà nghĩ: thì ra cắt da người cũng chẳng khác gì phân thớt cá thịt trong bếp.

Tiếp theo đó, là người thứ hai, rồi thứ ba.

Với nạn nhân đầu tiên, anh ta đôi lúc còn hơi vụng về. Nhưng về sau, tất cả đã thuần thục như lúc anh ta kiểm kê hàng hóa ở cửa tiệm.

Lý Hoài Chu quan sát nét mặt hoảng loạn hay tuyệt vọng của họ, thưởng thức cảnh họ sụp đổ trong nỗi sợ tột cùng. Mỗi khi nghe tiếng họ khóc lóc cầu xin, anh ta lại khẽ nở nụ cười.

Và rồi vấn đề đặt ra.

Mục tiêu thứ tư, nên chọn ai đây?

Người dân Giang Thành sống trong nơm nớp lo sợ, phụ nữ đi lại một mình vào ban đêm ngày càng hiếm, đến cả khu ngoại ô vắng vẻ cũng được lắp thêm vô số camera theo dõi.

Làm thế nào để gây án mà không để lại dấu vết, đó là nan đề mà Lý Hoài Chu buộc phải tìm cách phá giải.

Nhưng anh ta không vội.

Dù đã trở thành tên sát nhân hàng loạt khiến cả nước chấn động, nhưng nói thật lòng, sinh hoạt thường ngày của Lý Hoài Chu vẫn chẳng khác gì mấy, đi làm về, ngủ dậy, điểm khác biệt duy nhất là thi thoảng phải tranh thủ giết người và xử lý xác chết.

Bọn côn đồ ngoài phố vẫn lâu lâu đến kiếm chuyện với anh ta, điều đó cũng không thay đổi.

Chúng cố tình bới móc bắt bẻ, hắt đổ tô mì đang ăn, mắng chửi anh ta là “thằng hèn không dám phản kháng”…

Những màn bắt nạt vô nghĩa ấy, anh ta đã quá quen. Trước đám ăn bám hung hăng giả tạo kia, anh ta luôn chọn cách lờ đi.

Cũng chính vì vậy, khi Khương Nhu chủ động bắt chuyện an ủi, Lý Hoài Chu thật sự sững người.

Khương Nhu là kiểu người hoàn toàn trái ngược với anh ta.

Tính cách dễ mến, tấm lòng lương thiện, khuôn mặt phúc hậu. Cô học ở đại học danh tiếng nhất thành phố, còn có dư sức và thời gian tham gia mấy lớp học ngoại khóa vì sở thích.

Nếu ví Lý Hoài Chu là mảng rêu mốc tăm tối, thì cô chính là loài hoa hướng dương vươn mình đón nắng, chỉ cần đứng gần bên là đã có thể cảm nhận được sự dịu dàng ấm áp như gió xuân.

“Dịu dàng.”

Lý Hoài Chu lặp đi lặp lại từ ấy trong đầu.

Tối đó, Khương Nhu đưa anh ta một xiên viên, khi xoay người nói lời tạm biệt, cơn gió nhẹ nhàng thổi qua.

Lạnh thật. Không hiểu sao, khoảnh khắc ấy lại khiến Lý Hoài Chu nhớ đến ba người phụ nữ đã chết trong tay mình, làn da họ sau khi trút hơi thở cuối cùng cũng lạnh lẽo giống hệt thế.

Bất chợt, anh ta nảy ra một thôi thúc mãnh liệt.

Có nên chọn Khương Nhu làm người thứ tư không?

Giết một người phụ nữ mà anh ta hiểu biết rõ ràng, nhìn vẻ tự tin trên gương mặt cô bị kinh hãi thay thế, cảm xúc bị sợ hãi bóp nghẹt, hẳn sẽ là một trải nghiệm hoàn toàn mới, đầy k*ch th*ch.

Lý Hoài Chu nghiêm túc suy nghĩ.

Camera ở cửa hàng tiện lợi đã ghi lại cảnh anh ta nói chuyện với Khương Nhu, khác hẳn ba vụ án trước đó vốn hoàn toàn ngẫu nhiên. Chuyện này gọi là gì nhỉ, “giết người quen”? Tuy nói hai người họ chỉ biết tên nhau, chưa từng thân thiết, nhưng cũng coi là quen mặt.

Cảnh sát liệu có thể lần theo manh mối mà tra ra anh ta không? Chắc là không đến nỗi thế đâu. Giữa anh ta và Khương Nhu chỉ là vài lần gặp gỡ, không đủ cấu thành động cơ giết người, khả năng bị nghi ngờ gần như bằng không.

Nên giết cô ở đâu, dùng cách nào, vẫn là câu hỏi chưa có lời giải.

Đã không rõ ràng, thì cứ khoan đã.

Lý Hoài Chu tự nhủ, anh ta vẫn còn rất nhiều thời gian.

Sau đêm đó, Khương Nhu vẫn thường ghé cửa hàng tiện lợi. Có khi mua mấy món dễ tiêu hoá, có khi chỉ cầm một bịch kẹo. Mỗi lần nhìn thấy Lý Hoài Chu, cô đều mỉm cười thân thiện với anh ta.

Lý Hoài Chu cố nhìn ra sau nụ cười ấy là gì, phải chăng là toan tính, thương hại, hay một thứ cảm xúc sâu xa nào đó. Nhưng hoàn toàn vô ích.

Sống hơn hai mươi năm, lần đầu tiên anh ta tiếp xúc với kiểu người như vậy. Đối diện với thiện ý của Khương Nhu, đôi lúc anh ta thậm chí không biết phải phản ứng ra sao.

Nhưng dù chưa quen, song ở bên Khương Nhu, Lý Hoài Chu lại không thấy chán ghét.

Tựa như kẻ săn mồi quan sát con thú trước họng súng, anh ta càng hiểu rõ Khương Nhu bao nhiêu, thì kế hoạch giết cô lại càng mạch lạc bấy nhiêu.

Điều đó khiến Lý Hoài Chu cảm thấy phấn khích.

“Dạo này mấy tối liền không thấy anh đâu.”

Giờ là tám giờ tối, Khương Nhu đứng trước quầy thu ngân thanh toán: “Bên anh chia ca à? Làm ban ngày rồi ban đêm thay nhau?”

Lý Hoài Chu đáp gọn: “Ca xoay.”

“Làm vậy đảo lộn ngày đêm, chắc khó thích nghi lắm?”

Cô nhanh chóng tiếp lời, trong giọng nói có thể nghe ra sự quan tâm: “Buổi tối có nhiều loại người nguy hiểm lắm, anh cũng phải cẩn thận đấy nhớ.”

Lý Hoài Chu khẽ gật đầu, tay cầm máy quét lia qua mã vạch, tia đỏ sáng lên rồi tắt, kèm theo tiếng “tít” ngắn ngủi.

Khác với mấy hôm trước toàn mua đồ ăn mặn cay, lần này Khương Nhu chọn toàn món nhạt, là thịt ức gà luộc.

“Cho mấy con mèo hoang ở đầu phố ăn đấy.”

Khương Nhu giải thích: “Tôi hay gặp chúng ở ga tàu điện ngầm. Trời lạnh thế này, phải cho tụi nó ăn tí thịt cho ấm bụng.”

Lý Hoài Chu mỉm cười, thầm đánh giá: Một kiểu bố thí tầm thường, vô ích.

“Lúc anh đi làm hay tan ca, chắc cũng hay gặp tụi nó nhỉ?”

Khương Nhu bỗng hỏi.

Lý Hoài Chu: “… Gặp rồi.”

Hiếm hoi lắm mới thấy anh ta chủ động nói thêm: “Chúng nó sợ tôi.”

“Sợ anh á?” Khương Nhu ngạc nhiên: “Vì sao?”

“Không biết.” So với sự ngạc nhiên của cô, giọng điệu của Lý Hoài Chu vẫn chậm rãi, nắm chắc tiết tấu cuộc trò chuyện: “Có lẽ vì tôi trông dữ dằn, không giống người tốt.”

“Anh? Dữ dằn á?” Đúng như dự đoán, Khương Nhu đưa mắt đánh giá anh ta từ đầu tới chân hai lượt, rồi bật cười không nhịn được: “Dữ chỗ nào? Cái chữ đó chẳng dính dáng gì đến vẻ ngoài của anh cả.”

Ngây thơ. Ngu ngốc. Tự cho mình là đúng.

Cô gái này đang biểu lộ thiện ý với một tên sát nhân hàng loạt. Thật nực cười.

Nhìn cô, Lý Hoài Chu cảm thấy một thứ kh*** c*m vặn vẹo dâng lên. Anh ta đang nắm mọi thứ trong tay, còn Khương Nhu chẳng hay biết gì cả. Nếu một ngày cô phát hiện kẻ đứng trước mặt đã gây ra ba vụ án mạng máu me tàn bạo, liệu nét mặt cô sẽ ra sao? Còn lúc lưỡi dao cứa vào cổ họng cô thì…

Không thể nghĩ tiếp nữa.

Lý Hoài Chu thu lại suy nghĩ: “Thật sao?”

Anh ta cụp mi mắt rất đúng lúc, lông mày hơi rũ xuống, mang theo một tia mất mát mơ hồ.

“Thật mà.” Quả nhiên, Khương Nhu nghiêm mặt, vội vàng an ủi: “Chẳng qua là anh sống nội tâm, ít nói chuyện thôi, thực ra hiền lắm. Muốn nói ‘không giống người tốt’ ấy hả, thì phải nói bọn lưu manh tới gây chuyện hôm nọ ấy, còn có…”

Không khí bỗng khựng lại. Cô rùng mình một cái, kéo chặt cổ áo.

Lý Hoài Chu để ý, đây là hành động nhỏ quen thuộc mỗi khi Khương Nhu căng thẳng hoặc sợ hãi.

Cô hạ giọng rất nhỏ: “…Còn cả tên giết người kia nữa.”

“Hử?” Lý Hoài Chu ngẩng đầu nhìn cô.

“Hắn giết người dã man như vậy, chắc chắn đầu óc có vấn đề.” Thấy anh ta hơi có phản ứng, Khương Nhu được khích lệ, liền nói tiếp: “Tôi nghe nói mèo chó có giác quan rất nhạy, gặp người xấu sẽ rất cảnh giác. Thấy hắn là phải né xa ấy chứ.”

Từ nãy đến giờ nói chuyện đã lâu, phải đến lúc này, lông mày của Lý Hoài Chu mới giãn ra, lần đầu tiên lộ ra nụ cười chân thành thực sự.

Chuyện này Khương Nhu đoán đúng. Lần vứt xác nạn nhân thứ ba xuống sông, một con mèo hoang từng nhìn chằm chằm anh ta rất lâu. Lý Hoài Chu vừa bước tới gần, nó đã rít lên một tiếng rồi phóng mất dạng.

“Hiền à…” Anh ta nói: “Cô là người đầu tiên miêu tả tôi như thế.”

Không phải nói dối. Trong ký ức của Lý Hoài Chu, từ nhỏ tới lớn, đánh giá mà anh ta nhận được nhiều nhất là “âm u”.

Hồi tiểu học, vì tính cách cô lập nên bị bạn bè tẩy chay, tụi nhỏ sau lưng thì thầm anh ta là đứa dị hợm, anh ta chỉ cần cau mày nhìn một cái đã dọa người ta khóc thét.

Ông chủ cửa hàng tiện lợi này cũng không dưới vài lần nhắc anh ta đổi tính đi, đừng cứ lạnh như băng với khách, nhìn không giống nhân viên thu ngân mà giống dân đòi nợ. Ngay cả bố mẹ ruột cũng thường xuyên mắng: “Mặt mày lúc nào cũng như người chết, trưng ra cho ai xem hả? Xui xẻo!”

Khi những cái tên như “thằng dị”, “thằng câm”, “người vô hình” bám theo anh ta như bóng với hình, thì đi kèm với chúng là những con giun bò trong hộp bút, vở bài tập bị bôi đầy chữ chửi rủa bằng bút màu, là cái bát sứ vỡ tan trong cơn thịnh nộ của bố. Mảnh vỡ sắc lẻm từng cứa rách tay anh ta, đến giờ vẫn để lại một vết sẹo trong lòng bàn tay.

Tán gẫu đến đây, thấy chiếc xúc xích cầm trong tay sắp nguội ngắt, Khương Nhu rốt cuộc cũng nhận ra đã trễ, vội chào tạm biệt: “Tôi đi trước đây, mai gặp lại.”

Cô có thói quen vừa nói vừa cười, âm cuối nhấn cao như đốm lửa hoang trên đồng tuyết, buộc mùa đông lạnh lẽo phải rẽ lối. Cũng khiến cho những lời Lý Hoài Chu muốn nói bị nghẹn lại nơi cổ họng, không biết phải đáp lại thế nào mới gọi là “hợp tình hợp lý”.

So với việc giết người, thì ứng phó với Khương Nhu lại thật sự khó hơn nhiều.

Dưới ánh đèn lặng gió, Lý Hoài Chu lặng lẽ nhìn theo bóng lưng cô dần khuất, khóe môi vẫn giữ nguyên độ cong. Cửa kính tự động của cửa hàng tiện lợi mở ra rồi khép lại, chờ đến khi cô hoàn toàn biến mất khỏi tầm mắt, nụ cười kia cũng rụng rơi như lớp sơn nứt trên vách tường cũ.

Giả vờ quá lâu, các cơ mặt anh ta đã đau rát tê dại.

Bốn phía yên ắng, chỉ còn lại nồi lẩu oden lục bục sôi trước mặt, Lý Hoài Chu không phát ra bất kỳ âm thanh nào, ánh mắt dừng trên một viên cá đang trôi lềnh bềnh trong nước súp.

Trắng bệch, tròn trịa, vô thức chìm nổi trong thứ nước đục ngầu. Anh ta không tránh được mà nhớ đến cái đầu người lững lờ trôi trên mặt sông.

Mái tóc dài đen nhánh tỏa ra trong nước, như rong rêu đong đưa, che khuất gương mặt trắng bệch của xác chết. Từng đường nét của các nạn nhân trước kia giờ đã mờ nhạt, trong tưởng tượng của anh ta, tất cả đều đang dần dần biến thành Khương Nhu.

Ngón tay phải run nhẹ một cái. Anh ta siết lại bàn tay, theo bản năng tạo thành tư thế cầm dao.

Vậy nên…

Lý Hoài Chu bình tĩnh nghĩ: Phải sớm tìm cơ hội, giết cô ấy thôi.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 3


Hôm nay tuyết rơi dày đặc hơn hẳn mọi khi.

Khương Nhu kết thúc buổi học vẽ ký họa, vừa chống chọi với cơn gió lạnh thổi tạt ra từ con phố trước tòa văn phòng, vừa than thở với cô bạn đi cùng: “Vẽ tranh khó thật đó, phối cảnh với ánh sáng của mình rối tung cả lên, hoàn toàn không có chút thiên phú nào như cậu.”

Trần Ấu Nghi đi bên cạnh bật cười: “Bởi vì mình học từ nhỏ rồi. Cậu chịu qua được giai đoạn mới bắt đầu thì sau này cũng sẽ ngày càng thuần thục thôi.”

Hai người quen nhau đã nhiều năm, hồi bé là hàng xóm đối diện cửa nhà nhau, giờ đều đang học đại học ở Giang Thành, quan hệ rất thân thiết.

Trần Ấu Nghi hỏi: “Lát nữa cậu còn ghé cửa hàng tiện lợi không?”

“Ừ. Trời kiểu này, gọi đồ ăn về cũng khổ mấy anh shipper, chi bằng mình đến đó ăn luôn món gì nóng cho ấm.”

“Không phải lần trước cậu nói đã quen với anh nhân viên ở đó rồi à? Anh ấy thế nào?”

Trần Ấu Nghi liếc cô một cái, thấy khăn quàng của Khương Nhu đang xộc xệch, bèn dừng bước, nghiêng người giúp cô chỉnh lại: “Khăn lại lệch rồi, không sợ bị cảm à?”

“Tính tình anh ấy khá tốt.”

Khương Nhu ngoan ngoãn mỉm cười, ngẩng cằm lên để bạn dễ chỉnh khăn: “Ít nói, rất kiên nhẫn, không biết bọn lưu manh lần trước có còn định gây sự với anh ấy không, quá đáng thật.”

“Dù là lưu manh hay anh nhân viên kia thì đều chưa rõ lai lịch. Gần đây Giang Thành hơi loạn, cậu mà đi một mình bên ngoài thì nhớ an toàn là trên hết, biết chưa?”

Trần Ấu Nghi học khác trường với cô, thắt chặt khăn quàng xong còn véo nhẹ má Khương Nhu, dịu giọng dặn dò: “Tuyết to thế này, nhớ về ký túc sớm.”

“Biết rồi mà.” Khương Nhu mỉm cười gật đầu: “Cậu cũng phải chú ý an toàn đấy.”

Như bao lần trước, cô và Trần Ấu Nghi vẫy tay tạm biệt, bước vào màn đêm.

Gió to, tuyết lớn, quãng đường từ lớp ký họa đến cửa hàng tiện lợi vốn chẳng xa, nhưng Khương Nhu đi chật vật đến mức khó nhọc.

Vừa bước vào cửa, hơi ấm lập tức ập đến bao trùm lấy cô. Cô vừa ngẩng đầu liền chạm ánh mắt với Lý Hoài Chu.

Bộ đồng phục trên người anh ta phẳng phiu tươm tất, gương mặt tĩnh lặng như tượng, như thể mọi xáo động ngoài kia đều bị cánh cửa chắc chắn của cửa hàng chắn lại.

Còn mái tóc cô thì rối bời như tổ chim, nước tuyết tan chảy men theo lọn tóc nhỏ xuống, trông hết sức nhếch nhác.

Bây giờ trông mình chắc thảm hại lắm đây.

Khương Nhu cúi đầu, vội vàng chỉnh lại mái tóc dài bị gió thổi loạn, giọng nói nhanh hối hả: “Bên ngoài gió to quá…”

Mấy lọn tóc bị nước tuyết đông lại, càng chải càng rối tung và vểnh lên.

Cô khổ não vô cùng.

Giọng Lý Hoài Chu từ quầy thu ngân vang tới, không lớn nhưng rõ ràng: “Dự báo thời tiết nói mấy ngày tới sẽ tiếp tục rét đậm.”

“Cái thời tiết quỷ quái này.”

Khương Nhu lẩm bẩm oán than: “Lúc trưa ra khỏi nhà là gió đã ghê gớm lắm rồi. Ban đầu còn định xin nghỉ, nhưng hôm nay học phần quan trọng nên vẫn phải đi…”

Thời gian từng chút trôi qua, cơ thể dần thích nghi với nhiệt độ trong phòng, cô mới hít sâu một hơi, cảm giác dòng máu trong mạch lại chảy ấm lên.

Bên ngoài, tiếng gió rít như dã thú gào thét, từng đợt từng đợt khiến người ta bất an. Khương Nhu sờ vào chóp mũi đỏ ửng của mình, rồi quyết định thương lượng: “Tôi có thể ngồi đây đợi gió nhỏ bớt rồi hẵng đi được không?”

Lý Hoài Chu không do dự: “Ừ.”

Khương Nhu thở phào: “Cảm ơn anh nhé.”

Số lần cô và Lý Hoài Chu tiếp xúc đếm trên đầu ngón tay, dù có gặp nhau thì cũng không bao giờ trò chuyện sâu.

Qua mấy ngày quan sát, trong mắt cô, anh chàng nhân viên này càng thêm trầm mặc, bí ẩn.

Không nghi ngờ gì, Lý Hoài Chu là người khép kín. Khách quan mà nói, công việc hiện tại rất hợp với anh ta.

Đối với anh ta, cảm giác yên tĩnh khi một mình sắp xếp hàng hóa, trông coi cửa hàng dễ chịu hơn nhiều so với giao tiếp xã hội.

Đã có mấy lần, Khương Nhu bắt gặp ở anh ta một chút kháng cự mơ hồ, tưởng đâu sẽ bị đuổi khéo, nhưng thứ cảnh giác ấy lại lặng lẽ biến mất, như hòn sỏi rơi xuống đáy hồ, chỉ gợn mấy vòng sóng rồi lại chìm vào tĩnh lặng.

Lý Hoài Chu sẽ mỉm cười rất nhẹ, ra hiệu cho cô tiếp tục nói.

Sau nửa ngày liền ngồi học ký họa, Khương Nhu vừa mệt vừa đói. Cô xoa xoa những ngón tay tê cứng, đi lại quanh quầy đồ nóng, tìm thứ gì đó lót dạ cho bữa tối.

Ánh đèn tủ lạnh hắt lên những bao bì đủ sắc màu, khiến cô nhìn hoa cả mắt, bỗng nhiên nổi hứng:

“Chắc anh biết ở đây món gì bán chạy nhất đúng không? Có thể giới thiệu cho tôi được không?”

“Cơm nắm gà teriyaki, sandwich, bánh dứa, ba món này bán chạy nhất.”

“Ba món đó tôi ăn thử hết rồi.”

Đôi mắt lướt từng hàng đồ ăn trên kệ, Khương Nhu quay đầu: “Còn anh thì sao? Anh thích ăn gì nhất?”

Đây là một câu hỏi đã vượt ra khỏi ranh giới “nhân viên – khách hàng”, khẽ cạy mở bức tường vô hình, lập tức kéo gần khoảng cách giữa hai người.

“Tôi à?” Lý Hoài Chu nhướn mắt.

Lần này anh ta không giữ được vẻ ung dung thường ngày, giống như một chiếc radio cũ tiếp xúc kém, phải điều chỉnh vài giây mới đáp:

“Tôi ăn no là được, không quá để ý hương vị.”

“Nhưng chắc cũng phải có món mình thích chứ?”

Cửa hàng tiện lợi lặng đi năm, sáu giây.

Như một sự thỏa hiệp, Lý Hoài Chu nói thật: “Cơm bò sốt và xiên gà rán.”

Khương Nhu lập tức nghe theo, mua cả hai món.

Giữa mùa đông, sau khi bị bão tuyết hành hạ, chẳng có gì dễ chịu hơn một bát cơm nóng hổi.

Cơm bò sốt được bỏ vào lò vi sóng hâm nóng, vừa mở ra liền tỏa mùi mặn thơm, hơi nóng bốc lên, quấn lấy hàng mi của cô.

Khương Nhu ngồi xuống bàn, nuốt một miếng, hạt cơm thấm đẫm nước sốt thịt bò bung nở trong miệng, khiến cô chân thành cảm thán: “Món này ngon thật!”

Lý Hoài Chu không đáp, bóng anh ta in trên cửa kính, hòa vào màn tuyết trắng xóa bên ngoài, mơ hồ khó thấy.

Khương Nhu cắn thìa, tò mò quan sát.

Người này rất gầy, trong mắt chẳng có bao nhiêu ánh sáng, đen sâu thẳm.

Bàn tay cũng như cả con người anh ta, dài và gầy yếu, các ngón khẽ cong đặt trên quầy thu ngân, mạch máu hơi nổi lên.

Khương Nhu nhớ lần đầu tiên trò chuyện với Lý Hoài Chu là vào một buổi tối, cô vô tình thấy anh ta có một vết sẹo nằm im lìm nơi xương cổ tay, tựa như lớp vỏ cây bị nứt.

Vết sẹo dài, mang sắc nâu nhạt cũ kỹ, khiến cô không kìm được mà tự hỏi: nó để lại từ khi nào, và vì điều gì?

“Sao vậy?”

Giọng nói trầm thấp khiến cô giật mình, nửa thìa cơm rơi trở lại bát.

Không biết từ khi nào, Lý Hoài Chu đã hơi nghiêng người, đôi mắt đen thẳm nhìn thẳng vào cô.

Khương Nhu bỗng thấy như mình vừa bị bắt quả tang làm chuyện xấu, thoáng hoảng loạn nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh:

“Hôm nay bài tập lớp ký họa là vẽ một đôi tay.”

Lý Hoài Chu yên lặng nghe cô nói.

“Tôi mới học thôi, những thứ phức tạp chưa vẽ được, nên chỉ có thể luyện từng bộ phận cơ thể một.”

Cô thở dài đầy chán nản: “Nhưng vẫn khó lắm.”

Lý Hoài Chu khẽ cười: “Vậy nên… cô cứ nhìn tay tôi mãi thế à?”

Câu hỏi thẳng thắn ấy khiến Khương Nhu bối rối, đôi tai đỏ lên. Cô chỉ còn cách gật đầu: “Bàn tay anh… có khớp xương đẹp lắm.”

Được khen, Lý Hoài Chu chỉ phản ứng nhạt nhẽo, nâng cánh tay phải lên, tùy ý liếc qua.

Một bàn tay trắng bệch, nhìn kỹ có không ít vết chai và sẹo nhỏ.

“Hay là..”

Ý nghĩ lóe lên như tia chớp, Khương Nhu lấy hết can đảm: “Dù sao tôi cũng định ở đây chờ gió ngớt, anh cho tôi vẽ tay anh thử nhé?”

Lý Hoài Chu cau mày: “Vẽ tôi?”

“Tôi vẫn chưa nắm rõ hướng cơ của bàn tay, vẽ cứ lệch lạc mãi. Anh chỉ cần đặt tay lên mặt bàn thôi, coi như giúp tôihoàn thành bài tập về nhà, được không?”

Cô mở to mắt nhìn, trong ánh mắt là sự mong chờ không che giấu, khiến người ta khó mà từ chối.

Đây vốn không phải yêu cầu gì khó, Lý Hoài Chu gật đầu: “Được thôi.”

Khương Nhu mừng rỡ, lấy từ ba lô ra quyển sổ ký họa và bút chì, bước tới gần quầy thu ngân.

Lý Hoài Chu đặt mu bàn tay lên quầy: “Thế này à?”

“Tư thế tùy anh, thoải mái thôi, đừng căng thẳng.”

Khương Nhu mỉm cười: “Chỉ là luyện tập thôi mà.”

Hôm nay anh ta không để lộ cổ tay, ống tay áo ngay ngắn, ôm sát xương cổ tay, che đi vết sẹo dữ tợn bên dưới.

Từ góc nhìn của Khương Nhu, cô chỉ thấy những ngón tay thon dài và lòng bàn tay hơi thô ráp, vài đường sẹo mảnh vắt ngang như từng bị vật gì sắc cứa qua.

Cô ngắm một lúc rồi cúi đầu bắt đầu vẽ: “Tôi mới học nên tay nghề vụng lắm, anh đừng kỳ vọng gì nhé.”

Ngòi bút chì lướt đi, bên tai chỉ còn lại tiếng ma sát sột soạt trên giấy, giống như tiếng tằm xuân gặm lá dâu. Đúng như cô nói, vì kỹ thuật chưa thuần, đường nét ngắt quãng, khó tạo thành những nét liền mạch.

Lý Hoài Chu để hai tay trên quầy, chẳng làm gì khác, bèn tiện miệng trò chuyện để giết thời gian: “Cô học bao lâu rồi?”

“Tầm hơn hai tuần.”

Khương Nhu thở dài: “Tôi chẳng có chút thiên phú nào, học cả chục ngày rồi mà tiến độ vẫn giậm chân tại chỗ.”

“Tại sao lại học ký họa?”

Trong lúc bị ánh mắt cô dò xét, Lý Hoài Chu cũng đang nhìn cô: “Không đi học ở Giang Đại à?”

“Cả học kỳ năm tư gần như chẳng có tiết.”

Cô nghiêm túc giải thích, ngòi bút hơi khựng lại, để lại một chấm tròn xám nhạt trên giấy: “Thời gian rảnh nhiều quá, nên tôi muốn học thêm cái gì đó. Thật ra từ nhỏ tôi đã thích vẽ, nhưng tiếc là thần nghệ thuật chẳng đoái hoài.”

Nói xong câu tự giễu ấy, Khương Nhu không hề ủ rũ, mà còn bật cười: “Tôi có một người bạn rất có năng khiếu, hồi trước nhìn cậu ấy tiện tay là vẽ xong một bức phác họa phong cảnh, tôi cứ tưởng chuyện này dễ lắm, ai ngờ khi tự mình làm thì ngay cả đường thẳng cũng không kẻ nổi.”

Lý Hoài Chu không giỏi an ủi người, chỉ nói một câu: “Luyện nhiều sẽ khá thôi.”

Khương Nhu nhướng mày: “Tôi xin nhận vía lành của anh.”

Tâm trạng cô tốt lên, động tác trên tay cũng dần nhanh hơn. Tuy vẫn chưa thuần thục, nhưng cuối cùng cũng miễn cưỡng phác được đường viền bàn tay của Lý Hoài Chu.

Vì giữ lễ độ và khoảng cách, dù rất tò mò, cô cũng không hỏi nguồn gốc những vết sẹo ấy.

Tờ giấy trắng dần được lấp đầy, đến khi nét bút cuối cùng hạ xuống, chiếc bút chì đã được hơi ấm từ lòng bàn tay ủ đến nóng lên.

Khương Nhu ngắm nghía bức vẽ tới lui mấy lần, hài lòng giơ quyển sổ ký họa lên, như khoe báu vật đưa tới trước mặt Lý Hoài Chu: “Xem này!”

Tuy tay nghề chưa tinh xảo, nhưng từng nét đều rất chăm chút. Lý Hoài Chu nhìn những đường bút đậm nhạt không đều trên giấy, vẻ mặt như có chút khó xử.

Tệ đến vậy sao?

Khương Nhu lập tức cụt hứng, còn chưa kịp mở miệng thì đã bắt gặp khóe môi anh ta khẽ cong lên, nhẹ như chuồn chuồn lướt nước.

“Rất tốt.” Giọng Lý Hoài Chu khẽ vang: “Có lẽ… cô còn có nhiều năng khiếu hơn cô tưởng.”

Trái tim lơ lửng bấy lâu của cô rốt cuộc cũng hạ xuống.

Khương Nhu đỏ mặt cười khẽ, liên tục xua tay: “Thôi thôi thôi, đừng tâng bốc tôi, không khéo tôi tin thật đấy.”

Bất tri bất giác, sương mù ngoài cửa sổ đã nhạt bớt, cơn gió bắc gào thét suốt cả ngày cuối cùng cũng mỏi mệt. Cô liếc thời gian trên điện thoại, giật mình nhận ra mình đã ở cửa hàng tiện lợi tròn một tiếng đồng hồ.

Khương Nhu không vội về, nghĩ một chút rồi quay người đi tới giá hàng: “Đợi tôi một lát.”

Đến đây quá nhiều lần, cô thuộc làu cách bày biện trong cửa hàng. Chẳng mấy chốc, cô đã quay lại quầy thu ngân với một món đồ mới trên tay.

Đó là một tuýp kem dưỡng tay màu xanh bạc hà.

Lý Hoài Chu vẫn thản nhiên quét mã, lặp lại động tác đã làm cả ngàn lần, thì bất ngờ nghe cô nói: “Tặng anh đấy.”

Anh ta chưa kịp phản ứng: “Gì cơ?”

“Quà.” Khương Nhu nói: “Cảm ơn anh đã chịu làm người mẫu cho tôi.”

Anh ta vẫn chưa động đậy.

“Nhận đi.”

Giống như lần đầu đưa cho anh ta xiên thịt viên, Khương Nhu đẩy tuýp kem vào phía trong quầy, kèm theo vài viên kẹo sữa cô hay mua: “Trời lạnh thế này, đừng để bị cóng hay nứt nẻ tay.”

Cô không cho anh ta cơ hội từ chối, quấn khăn lại quanh cổ, xách ba lô bên cạnh: “Tôi đi đây, mai anh vẫn làm ca tối à?”

Thấy Lý Hoài Chu gật đầu, nụ cười của cô càng rạng rỡ: “Mai gặp nhé.”

“… Chờ đã.”

Tiếng gọi khẽ giữ chân cô lại, Khương Nhu nghiêng đầu ngoảnh lại.

Vì đứng ngược sáng nên gương mặt Lý Hoài Chu hơi mờ: “Cô có mang ô không?”

Cô lắc đầu.

Lý Hoài Chu nâng cánh tay, đưa ra một chiếc ô trong suốt.

Đôi vai anh ta khẽ căng, trông không được tự nhiên: “Ô dự phòng của cửa hàng, cô có thể dùng để chắn gió.”

Ý là cho cô mượn?

Khương Nhu khựng lại một thoáng, nhận lấy chiếc ô, nụ cười lấp lánh từ khóe mắt lan ra: “Cảm ơn anh.”

Bước chân cô ra khỏi cửa nhanh hơn thường lệ, tán ô bung ra giữa màn tuyết, như một đóa hoa đang nở.

Trước khi cửa cảm ứng khép lại, Khương Nhu ngoái đầu nhắc: “Đừng quên bôi kem dưỡng tay nhé.”

Khoảng cách quá xa, qua màn đêm, cô không thấy rõ gương mặt đen tối của Lý Hoài Chu.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 4


Từ sau khi quen biết Khương Nhu, Lý Hoài Chu bắt đầu hưởng thụ trò chơi mèo vờn chuột.

Trước đó, anh ta vốn khinh thường những câu xã giao hời hợt, phép tắc giả dối, sự tiếp cận đầy mục đích… tất cả đều khiến anh ta thấy vừa nhàm chán vừa ồn ào.

Sự xuất hiện của Khương Nhu là một ngoại lệ.

Không phải vì Lý Hoài Chu nảy sinh thứ tình cảm thân thiết dịu dàng gì với cô, mà là vì anh ta đã không còn coi Khương Nhu là một “con người” nữa.

Trong mắt anh ta, cô đã biến thành một con mồi sống động, đầy thách thức, bị anh ta nắm gọn trong lòng bàn tay mà đùa bỡn.

Thú vị hơn nhiều, phải không?

Tối hôm đó, Khương Nhu đứng bên quầy thu ngân, vụng về vẽ tay anh ta, tiếng bút chì sột soạt vang mãi không ngừng. Lông mày cô lúc thì hơi nhíu lại, lúc lại giãn ra, toàn tâm toàn ý.

Cùng lúc ấy, Lý Hoài Chu cúi đầu, suýt nữa thì không nhịn nổi ý cười.

Khương Nhu đang chăm chú quan sát một phần của anh ta, mà chẳng hề biết chính bản thân mình đang bị Lý Hoài Chu ghi nhớ kỹ hơn nữa, từ thói quen, sở thích cho đến nỗi sợ hãi, không bỏ sót điều gì.

Càng không thể ngờ, đôi bàn tay chỉ cách mình gang tấc ấy đã từng giết người, giấu xác, vô số lần nhuộm đầy máu và nước mắt, để rồi Lý Hoài Chu phải tốn công tẩy rửa sạch sẽ, không để lại dấu vết.

Cô còn nói: “Xương tay rất đẹp.”

Như một con nai lạc bước vào hang sói, chẳng hay biết gì về cái chết đang đến gần, còn chủ động cọ vào nanh vuốt của kẻ săn mồi.

Lúc sắp đi, cô tặng anh ta kem dưỡng tay và vài viên kẹo.

Kem dưỡng tay.

Khương Nhu vậy mà lại lo bàn tay anh ta sẽ bị nứt nẻ vì lạnh.

Một đôi bàn tay sẽ dùng để kết thúc mạng sống của cô.

Lý Hoài Chu chậm rãi thưởng thức sự châm biếm đen tối ấy, rồi trước khi cô bước ra màn gió tuyết, đưa cho cô một chiếc ô.

Mục đích của anh ta không phải vì quan tâm.

Đó là miếng mồi mà anh ta thả xuống.

Cho mượn ô, nghĩa là đã có một lý do hợp tình hợp lý để quay lại trả.

Tức là Khương Nhu sẽ lại đến, chủ động và tất yếu trở về trong tầm mắt anh ta, để anh ta một lần nữa nắm quyền khống chế.

Lý Hoài Chu thích cái cảm giác được bao quát toàn cục.

Một ngày trôi qua nhanh chóng, tối nay anh ta vẫn trực ca đêm. Khoảng tám giờ, Khương Nhu đúng hẹn bước vào cửa hàng tiện lợi.

Tâm trạng cô đang rất tốt, vừa vào đã thẳng tiến tới quầy thu ngân, niềm vui ánh rõ trên gương mặt: “Bức vẽ hôm qua được thầy khen đó, nói là tiến bộ nhiều lắm.”

Lý Hoài Chu: “Chúc mừng nhé.”

Hai chữ kèm theo nụ cười nhạt, là toàn bộ nhiệt tình anh ta dành cho cuộc trò chuyện này.

“Phải cảm ơn anh đấy. À đúng rồi, còn ô của anh.”

Khương Nhu trả lại chiếc ô nguyên vẹn, thuận miệng hỏi: “Anh đã dùng kem dưỡng tay chưa? Thấy thế nào?”

Kem dưỡng tay?

Lý Hoài Chu nhớ tới màu xanh bạc hà ấy.

Anh ta quả thật đã dùng nó rất cẩn thận, chậm rãi, tỉ mỉ xoa kem lên từng ngón tay, từng đốt tay, từng vết sẹo mới hay cũ.

Để rồi, đến một ngày khi anh ta bóp chặt cổ Khương Nhu, bịt kín miệng mũi cô, biết đâu cô còn có thể ngửi thấy mùi hương quen thuộc này.

Dĩ nhiên, những lời này không thể nói thẳng ra. Lý Hoài Chu biết rõ đâu mới là phản ứng nên có.

Nụ cười nhẹ hiện lên, vừa giống ngượng ngùng lại vừa như cảm kích: “Có dùng, mùi rất thơm. Cảm ơn cô nhé.”

Vừa nói, anh ta vừa đưa tay phải qua quầy thu ngân, trao cho Khương Nhu một ly sữa nóng hổi.

“Cho cô đấy.”

Lý Hoài Chu: “Giữ ấm.”

Khương Nhu mở to mắt kinh ngạc:

“Cho… tôi?”

“Ừ, không cần trả tiền.”

Nhận được câu trả lời chắc nịch, Khương Nhu mới nâng ly lên, vừa mừng vừa ngại khẽ nói một tiếng cảm ơn.

Ngón tay cô bị lạnh đến đỏ ửng, vội vàng ngửa đầu uống một ngụm, nhưng bất ngờ lại khẽ nhíu mày.

Lý Hoài Chu: “Ngọt quá à?”

Anh ta nhớ Khương Nhu hay mua kẹo, nên đã cố ý bỏ thêm khá nhiều đường cát trắng.

“Không phải.”

Khương Nhu nuốt chỗ sữa trong miệng xuống:

“Mùi vị rất ngon, chỉ là tôi uống vội quá nên bị bỏng.”

Ngây thơ, bộc trực, chẳng có chút phòng bị.

Lý Hoài Chu vẫn giữ nguyên vẻ mặt không đổi, nhìn cô khẽ cúi đầu, men theo miệng ly mà thổi cho nguội bớt, đợi sữa không còn sôi, mới “ực” một hơi lớn.

Dòng sữa ấm áp theo thực quản lan tỏa khắp tứ chi, Khương Nhu thỏa mãn khẽ thở dài: “Tuyệt thật. Ngoài kia lạnh tê người, uống chút gì nóng, cảm giác như cả người sống lại vậy.”

Vừa uống, cô vừa trò chuyện: “Tối qua lúc tôi về trường, gió thổi như tiếng quỷ khóc sói gào vậy. May mà có cái ô anh cho, nếu không chắc tôi cũng như mấy đứa bạn cùng phòng, sốt cao mãi không hạ rồi phải vào viện truyền nước.”

Khương Nhu ngẩng lên nhìn anh ta, trong giọng mang theo quan tâm: “Còn lúc anh tan ca thì sao? Có lạnh không?”

“Cũng tạm.”

Lý Hoài Chu nói: “Tôi tan ca vào buổi sáng, ấm hơn ban đêm.”

Cuộc trò chuyện dừng lại ở đó.

Bụng Khương Nhu đói cồn cào, uống xong sữa liền đi về phía quầy đồ nóng.

Lý Hoài Chu lặng lẽ không lên tiếng, đợi cô hoàn toàn quay lưng lại mới để ánh mắt tùy ý lướt qua chiếc cổ mảnh mai ấy.

Tựa như cọng sậy nơi tuyết trắng, sắp bị gió bẻ gãy.

Bất chợt, cửa tiệm bật mở, kèm theo một giọng nam hống hách quen thuộc: “Này, lấy cho ông đây bao thuốc đắt nhất.”

Là đám lưu manh vẫn thường đến gây sự.

Sắc mặt Lý Hoài Chu chợt sa sầm.

“Ông đây đang nói chuyện với mày đấy, không nghe à?”

Tên tóc vàng ngậm điếu thuốc, mất kiên nhẫn đá mạnh một cú vào kệ hàng, phát ra tiếng chói tai ken két.

Lý Hoài Chu ngửi thấy mùi rượu nồng nặc tràn ra trong không khí.

Đây là điềm xấu. Say rượu khiến con người ta trở nên nóng nảy, dễ mất lý trí.

Anh ta không muốn tự chuốc thêm rắc rối, kéo theo cảnh sát đến.

Tên đàn em đầu đinh có vẻ biết điều hơn, vội kéo tay áo tóc vàng: “Anh đừng nóng. Em biết hôm nay anh bực, mình về nhà nói chuyện cho hạ hỏa.”

Không ngờ mặt mũi tên tóc vàng càng khó coi, hắn cao giọng: “Hạ hỏa? Hạ cái gì mà hạ? Tao có say đâu!”

Đàn em gượng cười dỗ: “Phải phải, anh tỉnh lắm, hoàn toàn tỉnh táo.”

“Còn mày.” Hắn liếc sang Lý Hoài Chu: “Bao thuốc tao bảo đâu?”

Đối mặt với chúng, Lý Hoài Chu ngay cả giả vờ cũng lười, rút một bao thuốc: “Quét mã thanh toán.”

Có lẽ bị thái độ dửng dưng của anh ta chọc giận, hoặc là bao nhiêu bực dọc tích tụ lâu nay bỗng bùng nổ, tên tóc vàng loạng choạng mất một lúc mới hiểu được ý anh ta, rồi sau vài giây im lặng, bỗng như núi lửa phun trào: “Ra vẻ cái quái gì?”

Cơn giận đến nhanh không kịp trở tay, hắn lao thẳng tới quầy thu ngân, nghiến răng túm lấy cổ áo Lý Hoài Chu, đôi mắt đỏ ngầu như muốn lồi ra: “Lần nào cũng cái bộ dạng sống dở chết dở này. Mày cũng coi thường ông hả?”

Đám đàn em bị dọa choáng váng, cuống quýt chạy tới khuyên can.

Mặt Lý Hoài Chu vẫn không đổi sắc, vừa định xoay tay nắm lấy cổ tay hắn thì trong khóe mắt, một tia sáng trắng vụt qua.

Là Khương Nhu.

Cô giơ cao điện thoại, đang quay video, ống kính nhắm thẳng vào gương mặt méo mó của tên tóc vàng.

“Đồn công an cách đây không xa đâu.”

Giọng Khương Nhu căng chặt như dây cung, Lý Hoài Chu nghe rõ sự run rẩy trong đó: “Nếu các người còn gây rối, tôi sẽ báo cảnh sát đấy.”

Nhìn kỹ mới thấy cả người cô cũng đang run.

Ý nghĩ của Lý Hoài Chu khựng lại trong giây lát.

Qua mấy ngày tiếp xúc, anh ta đã nắm được bảy, tám phần tính cách của Khương Nhu.

Hiền hòa, vô hại, dễ tin người, là một cô gái lớn lên trong nhà kính, chưa từng bị ác ý trên đời này bào mòn.

Không nghi ngờ gì, đối mặt với đám say xỉn gây sự, nỗi sợ trong lòng cô lớn hơn tinh thần chính nghĩa rất nhiều.

Trong lúc sợ đến mức run rẩy, Khương Nhu vẫn bước lên một bước để giúp anh ta thoát khỏi tình huống này.

Điều đó khiến anh ta dấy lên một cảm giác kỳ lạ, thứ cảm xúc nghẹn lại trong lồng ngực, không trồi lên cũng chẳng tan đi.

Không khí căng như dây đàn, một câu của Khương Nhu đã chọc giận tên tóc vàng, gân xanh nổi đầy trán: “Con đàn bà chết tiệt, lo chuyện bao đồng!”

Đám đàn em giữ chặt lấy cánh tay hắn, cố sức kéo về:

“Anh, bình tĩnh, con nhỏ này đang quay phim đấy!”

Tên lưu manh say rượu giống như con sói phát điên, tiếng gào của hắn khiến Khương Nhu lùi liền hai bước, mặt mày tái nhợt.

Cô sợ chết khiếp, nhưng để tỏ ra khí thế hơn, vẫn cố gắng đứng thẳng lưng: “Tốt nhất là sau này các người đừng tới gây chuyện nữa. Có đoạn video này ở đây, tôi có thể báo cảnh sát bất cứ lúc nào.”

Có một tên đàn em chửi thề một tiếng.

Chúng chưa say đến mất trí, vẫn phân biệt được nên làm gì và không nên làm gì. Dù trong lòng có khó chịu thế nào với Khương Nhu, cũng chỉ có thể nuốt xuống, dịu giọng khuyên tên tóc vàng: “Anh, anh uống nhiều rồi, mình về trước đi. Hả? Muốn thuốc lá? Được, được…”

Tên đàn em liếc xéo Lý Hoài Chu: “Tính tiền! Bao thuốc này bao nhiêu?”

Lý Hoài Chu báo đúng giá.

Tên tóc vàng chửi bới vài câu, bị mấy đàn em lôi đi mất.

Tiếng cãi vã ồn ào biến mất, cửa hàng lại chìm vào yên tĩnh, chỉ còn vương mùi rượu nồng nặc đầy bạo khí.

Khương Nhu rốt cuộc buông xuống vẻ bình tĩnh giả tạo, vẫn chưa hết bàng hoàng, nghiêng người tựa vào giá hàng kim loại gần nhất.

“Sợ chết mất…”

Cô vỗ ngực, trên mặt là vẻ nhẹ nhõm xen lẫn mỏi mệt sau khi thoát nạn: “Anh không sao chứ?”

Sắc mặt Lý Hoài Chu hơi khó đoán, đáp mà như lạc đề: “Cô không nên xen vào chuyện này.”

“Tại sao lại không nên?” Khương Nhu buột miệng: “Chỉ cần quay video là giải quyết được, tôi đâu thể giả vờ như không thấy.”

Giọng cô bình thản như thể chuyện đứng ra đối đầu với đám lưu manh vì anh ta chỉ là điều hiển nhiên.

Lý Hoài Chu tránh ánh mắt cô, không nói thêm gì.

Kết thúc màn kịch bất ngờ, mọi chuyện sau đó vẫn diễn ra như thường lệ.

Khương Nhu mua đồ ăn nóng, ăn xong ngay tại cửa hàng, trước khi đi còn trấn an anh ta mấy câu, rồi nghiêm túc dặn dò: “Video này tôi giữ trước, nếu họ còn quay lại thì báo cảnh sát. Anh mà không quen ở đây một mình thì tôi có thể tới cùng, được không?”

Lý Hoài Chu mỉm cười có phần ngượng ngùng: “Được, cảm ơn cô.”

Khác với mọi khi, sau khi tính tiền xong, anh ta nhét vào tay Khương Nhu mấy miếng miếng dán giữ nhiệt: “Giữ ấm đi, mấy hôm nữa trời sẽ lạnh hơn.”

Như một lời cảm ơn, cũng như một cử chỉ thiện ý.

Khương Nhu mỉm cười cong mắt nói cảm ơn, chào “tạm biệt” rồi đi ra.

Lý Hoài Chu dõi theo bóng cô xa dần, cái bóng của chính mình lẻ loi in chặt xuống nền.

Anh ta vẫn không ngừng tự hỏi, sao Khương Nhu lại giúp mình?

Đã quen sống một mình, khi Khương Nhu chủ động bước ra đứng về phía mình, phản ứng đầu tiên của Lý Hoài Chu là bất ngờ, cảnh giác, và chút bối rối khi cục diện thoát khỏi tầm kiểm soát.

Ngay sau đó, một cảm giác lạ tràn tới, không mãnh liệt, cũng không rõ rệt, như có chiếc lông vũ khẽ lướt qua, thứ ngứa ngáy dính nhớp khiến từng sợi lông tơ sau gáy anh ta dựng đứng.

Ban đầu, Lý Hoài Chu không phân định được cảm giác đó là gì, nhưng khi một mình suy nghĩ, anh ta đã hiểu ra.

Cảm giác đó là ghê tởm.

Khương Nhu đang nghĩ gì?

Chứng kiến toàn bộ cảnh anh ta bị đám lưu manh gây chuyện, liệu cô có đang thương hại anh ta, khinh thường anh ta, cảm thấy anh ta cần cô “cứu giúp”?

Bề ngoài thì quan tâm, chu đáo, nhưng trong lòng chắc chắn nghĩ anh ta chỉ là một thằng hèn nhát không dám phản kháng, đúng không?

Nếu không phải vì ngại bị cảnh sát chú ý, anh ta đã sớm đâm dao vào tim đám khốn đó rồi.

Lý Hoài Chu mím chặt môi, tay phải thò vào túi áo ngoài, chạm vào chuỗi tràng hạt bằng ngọc lạnh lẽo.

Kỷ vật của những nạn nhân, được anh ta mang bên mình như chiến lợi phẩm.

Đầu ngón tay lướt qua từng viên ngọc tròn, anh ta cảm nhận rõ, phân biệt được cả những vết máu khô loang lổ bám trên ngọc.

Anh ta nhớ lại đôi mắt sáng rực của Khương Nhu khi cười, nhớ lại gương mặt nghiêng hiền hòa khi cô cúi đầu, và cả dáng vẻ cô đối mặt đám lưu manh, ngẩng cằm để không bị lép vế.

Trong sáng đến vậy, can đảm đến vậy, rực rỡ đến vậy.

Nhưng dựa vào đâu?

Dựa vào đâu mà những đau khổ chưa từng giáng xuống cô? Dựa vào đâu mà cô được sống sung túc, bình yên? Dựa vào đâu mà cô có thể đứng ở vị trí cao hơn mà thương hại anh ta?

Kẻ đang hạnh phúc hưởng thụ cuộc sống như Khương Nhu, càng khiến anh ta giống một con chuột cống chui rúc nơi ống cống.

Anh ta nên mổ ra lớp da thịt ấm áp đó, xem khi mũi dao kề vào cổ họng, liệu cô còn có thể nhìn mình bằng ánh mắt thương hại hay không.

Cảm giác hưng phấn quen thuộc gào thét trong cơ thể, đó là khát vọng tra tấn và giết chóc.

Lý Hoài Chu khẽ l**m đôi môi khô khốc, mở lịch trên điện thoại.

Tính ra, đã rất nhiều ngày kể từ lần gây án trước.

Qua những cuộc trò chuyện thời gian qua, anh ta đã nắm rõ hành trình sinh hoạt của Khương Nhu, mỗi ngày chỉ xoay quanh ba điểm: Đại học Giang Thành, lớp ký họa, và cửa hàng tiện lợi, khó mà tìm được cơ hội ra tay.

Cách duy nhất là trước tiên kéo gần quan hệ, rồi hẹn cô tới một nơi vắng người.

Việc này cần tốn chút thời gian, nhưng đối với một trò chơi giết người mới mẻ, đầy thú vị, Lý Hoài Chu có thừa kiên nhẫn.

Huống hồ trong những ngày từng bước tiếp cận cô, từng bước dẫn cô vào bẫy…

Cửa cảm ứng bỗng mở ra, ba cô gái trẻ ríu rít bước vào cửa hàng, tràn đầy sức sống, tiếng cười trong veo như bầy chim bất chợt sà xuống rừng.

Ánh mắt Lý Hoài Chu im lặng dõi theo.

Cô gái đầu tiên có vóc dáng gầy nhỏ, đeo kính gọng tròn, giọng nói nhỏ nhẹ.

Như chim sẻ cánh ngắn, lông xù, ưu điểm là xương nhẹ, xử lý gọn gàng.

Cô gái thứ hai, dáng người cao, tóc dài ngang hông, trong mắt ẩn giấu chút kiêu ngạo khó thấy.

Thiên nga. Anh ta kết luận trong lòng, dáng vẻ tao nhã, chiếc cổ dài, là đối tượng thích hợp nhất để bị bẻ gãy chiếc cổ mảnh khảnh ấy.

Cô thứ ba, tóc xoăn buộc thành búi, hoạt bát nhất, tiếng cười to nhất.

Giống một con vẹt lông vằn sặc sỡ ồn ào, tràn đầy năng lượng, huyên thuyên không dứt. Muốn bịt miệng thế nào đây? Dùng băng keo? Dùng dây trói? Hay trực tiếp hơn, cứa toạc cổ họng?

Lý Hoài Chu thu hồi tầm mắt, khóe môi khẽ nhếch một độ cong khó thấy.

Trong lúc chờ Khương Nhu cắn câu, đi giết vài người phụ nữ khác để giải khuây cũng không tệ.

Chẳng mấy chốc sẽ tới lượt anh ta trực ca ngày, để ban đêm có thể tìm kiếm con mồi mới.

Lần này, người bị anh ta giam trong tầng hầm sẽ là ai đây?
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 5


Khương Nhu cảm thấy, hình như Lý Hoài Chu không mấy vui.

Tuy anh ta không thể hiện rõ rệt, nhưng sau khi cô dùng đoạn video quay lại để đuổi bọn lưu manh đi, vẻ mặt anh ta vẫn thoáng trầm xuống mấy giây.

Tại sao chứ? Là vì cô tự ý xen vào sao?

Nhưng lúc chia tay, Lý Hoài Chu còn tốt bụng đưa cho cô miếng sưởi giữ ấm, nhìn thế nào cũng chẳng giống dáng vẻ tức giận hay nổi cáu.

Khương Nhu nghĩ mãi không ra, nên khi gặp Trần Ấu Nghi liền kể sơ lại chuyện vừa rồi.

Đây vốn là thói quen từ nhỏ của cô: hễ gặp phải chuyện gì khó đoán khó hiểu, cô đều tìm người bạn đáng tin nhất này để hỏi xem có ý kiến gì.

“Cậu giúp anh ta, vậy mà anh ta lại sầm mặt?”

Trần Ấu Nghi phân tích: “Có thể là vì tự tôn đấy. Cậu tận mắt thấy anh ta bị đám lưu manh gây khó dễ, Lý Hoài Chu có lẽ cảm thấy mất mặt, nên mới chọn cách giữ khoảng cách với cậu để tránh lúng túng.”

Khương Nhu khó hiểu: “Thật sẽ như vậy sao?”

“Anh ta là đàn ông mà.” Trần Ấu Nghi nói: “Người ta thường kỳ vọng đàn ông phải mạnh mẽ, đáng tin hơn, đúng không? Họ rất coi trọng ‘thể diện’ và ‘nam tính’, mà ở phương diện này, lòng tự tôn của họ rất cao, cậu nghĩ xem, trong phim hay trong truyện, đa phần đều là nam chính cứu nữ chính, bảo vệ nữ chính, chứ mấy khi thấy ngược lại đâu.”

Đây thật sự là nguyên nhân khiến Lý Hoài Chu thấy gượng gạo ư?

Khương Nhu vẫn không đoán ra.

Đám mây mù bất chợt này còn khó giải hơn câu hỏi cuối trong đề thi.

Cô và Trần Ấu Nghi bàn bạc mãi cũng không ra được kết luận.

Xui hơn nữa là, một ngày sau đó, Giang Nhung bị cảm.

May mắn là cơn bệnh không nặng, chưa đến mức sốt hay phải nhập viện, chỉ khiến toàn thân cô rã rời, yếu ớt, ho thì như cái ống bễ thủng.

Khi xuất hiện ở cửa hàng tiện lợi, Khương Nhu quấn mũ, đeo khẩu trang, bên trong bên ngoài mặc ba lớp áo len, trông chẳng khác gì một quả cầu tuyết tròn vo.

Dáng vẻ ấy trông thật tội nghiệp, đến cả Lý Hoài Chu cũng không giấu nổi vẻ kinh ngạc trên gương mặt vốn luôn bình thản: “Cô bị sao thế?”

“Ho chút thôi.”

Giọng mũi của cô khàn khàn: “Không sao đâu.”

Nhiệt độ trong cửa hàng quá cao, khiến tai cô nóng bừng. Cô liền vụng về kéo khăn quàng và khẩu trang xuống.

“Đã đi khám chưa?”

“Cảm nhẹ thôi, không cần tới bệnh viện… khụ khụ!”

Khương Nhu khoát tay: “Uống vài ngày siro ho là khỏi.”

Nghe giọng điệu, rõ ràng là cô chẳng mấy để tâm đến bệnh tình của mình.

Trên quầy thu ngân, một chiếc cốc giấy được đẩy tới trước mặt, hơi nóng bốc lên, bên trong là nước ấm.

Giọng Lý Hoài Chu trầm thấp: “Uống chút nước đi.”

Khương Nhu cầm lên nhấp thử một ngụm, nhiệt độ không nóng cũng không nguội, vừa vặn ấm áp, như đang nhẹ nhàng v**t v* qua cổ họng.

Cô ngẩng đầu, nở nụ cười chân thành: “Cảm ơn.”

“Không cần.”

“Bên ngoài lạnh quá, hôm nay tôi cũng ngồi đây lâu thêm chút được không?”

So với thường ngày, giọng Khương Nhu yếu đi không ít. Nói xong câu đó, cô liền uể oải ngồi xuống chiếc ghế ở góc, đặt balô cạnh bên.

Bình thường cô lúc nào cũng tràn đầy sức sống, còn bây giờ lại ốm yếu co ro trong vùng bóng tối, ngay cả mái tóc cũng mềm rũ xuống bên cổ áo, cả người trắng bệch và mỏng manh.

Lý Hoài Chu đưa sang một ánh nhìn dò hỏi:

“Không ăn gì sao?”

“Không có sức.”

Giọng Khương Nhu khàn đặc: “Để lát nữa xem đã, tôi mệt lắm, vừa tan học thôi.”

Vì triệu chứng cảm khá nhẹ nên ban đầu cô không để tâm, đến khi học xong một tiết vẽ ký họa mới nhận ra sức lực trong người gần như bị rút cạn.

Bên ngoài gió tuyết gào thét, Khương Nhu mệt rã rời, chẳng còn hơi sức để vòng vèo đi tàu điện ngầm, bèn ghé cửa hàng tiện lợi nghỉ một lúc.

Hơi ấm từ máy sưởi nhẹ nhàng quấn lấy cơ thể kiệt quệ, cô lơ mơ buồn ngủ, khóe mắt thoáng thấy một bóng người tiến lại gần.

Nước trong cốc giấy sớm đã bị cô uống cạn, Lý Hoài Chu lại rót đầy, đặt ngay trong tầm tay cô:

“Đói không?”

Anh ta nói: “Nếu muốn ăn gì, tôi hâm nóng cho.”

Khương Nhu gắng ngẩng đầu lên.

Phần lớn ấn tượng của cô về Lý Hoài Chu đều là dáng người cao gầy đứng sau quầy thu ngân, từ lần đầu gặp đến giờ chưa bao giờ gần như thế này.

Lúc này, anh ta đứng ngay trước mặt, chỉ cách cô chừng nửa mét

Bóng dáng cao gầy phủ trùm lên người cô, giọng nói trầm thấp vang ngay sát bên: “Muốn không?”

Khương Nhu vốn định nói là không.

Nhưng cơn đói cồn cào trống rỗng trong bụng chợt dâng lên, lời còn chưa ra khỏi cổ họng, cô đã đổi giọng: “Cho tôi một cơm nắm là được.”

Lý Hoài Chu nhanh chóng mang cơm nắm trở lại.

Đa số người thường chỉ giỏi nói hơn làm, miệng hứa đủ điều nhưng chẳng mấy khi thực hiện được. Còn Lý Hoài Chu thì hoàn toàn ngược lại.

Anh ta không thích trò chuyện, bề ngoài lạnh nhạt, dường như chẳng mấy để tâm đến mọi thứ, nhưng lại dùng hành động để chăm sóc người khác.

Khương Nhu khàn giọng cảm ơn, ôm trong tay cơm nắm còn nóng hổi.

Lý Hoài Chu hỏi: “Cô bệnh đến mức này mà chỉ uống mỗi siro ho thôi sao?”

“Uống thử hai ngày đã. Không đỡ thì mới mua thuốc khác.”

Đối phương không đáp, ánh mắt dừng lại ở mí mắt hơi xanh tái của cô.

“Thật sự không sao.”

Khương Nhu nuốt miếng cơm, cổ họng đau rát như có lưỡi dao cứa qua. Cô cố ngồi thẳng lưng như muốn chứng minh điều gì, nhưng lại bật ho: “Khụ khụ… Mỗi lần bệnh, tôi chỉ cần chịu vài hôm là khỏi.”

“Chịu?”

Khương Nhu không trả lời ngay.

“Gần như vậy thôi.”

Ngẩng đầu lần nữa, cô khôi phục nụ cười dịu dàng:

“Chỉ là bệnh vặt thôi, tôi còn chẳng sợ, sao anh lại lo hơn cả bệnh nhân thế?”

Cô cố tình né tránh, vì hỏi thêm nữa là vượt quá giới hạn.

Lý Hoài Chu vốn không phải người thích truy hỏi đến cùng.

Anh ta chẳng mấy quan tâm đến chuyện riêng của người khác, chỉ lẳng lặng rót cho cô cốc nước ấm lần thứ ba, rồi quay lại quầy thu ngân: “Muốn ngủ một lát không?”

Khương Nhu lắc đầu: “Tôi ngồi một lúc rồi đi. Muộn quá tôi không dám ra ngoài một mình.”

“Vẫn còn lo chuyện tên sát nhân liên hoàn kia sao?”

“… Cũng gần như vậy.”

Cô nhìn ra màn đêm ngoài cửa sổ, tối đen đến mức đưa tay không thấy năm ngón: “Mấy ngày nay, tin tức không đưa tin ai mất tích nữa. Anh nói xem, liệu hắn có dừng ra tay rồi không?”

“Có thể.”

Lý Hoài Chu nói: “Trên đường toàn là camera giám sát, hắn muốn gây án thì sẽ rất khó.”

“Hy vọng sẽ không xuất hiện thêm nạn nhân nào nữa.”

Nghĩ đến những người vô tội bị hại, Khương Nhu khẽ thở dài: “Vì chuyện này mà hai bạn cùng phòng của tôi bị bố mẹ gọi về nhà hết, còn một người thì đang nằm viện dưỡng bệnh, cả ký túc xá chỉ còn mỗi tôi ở lại.”

Từ quầy thu ngân vang lên tiếng xu rơi khẽ khàng.

Lý Hoài Chu vừa sắp xếp ngăn tiền lẻ, vừa cất tiếng hỏi, giọng nói xen lẫn âm thanh va chạm của kim loại: “Chỉ một mình?”

“Ừ.”

Chữ đơn âm vừa thoát ra, hình như cô còn mỉm cười.

Làn hơi ấm trắng mờ lướt qua đôi mày, Khương Nhu nghiêng đầu, khóe môi khẽ cong: “Nên… cảm ơn anh đã chịu chăm sóc tôi.”

Ánh mắt hai người chạm nhau trong thoáng chốc rồi lập tức rời đi.

“Không có gì để cảm ơn cả, chỉ là tiện tay thôi.”

Anh ta nói: “Cô là khách quen.”

“Khách quen…”

Khương Nhu kéo dài giọng: “Chỉ là khách thôi à? Tôi còn tưởng chúng ta đã tính là bạn rồi chứ.”

Cô không cần nghĩ cũng biết, Lý Hoài Chu chắc chắn sẽ khó đỡ trước cú “bóng thẳng” này.

Quả nhiên, anh ta sững lại, bàn tay phải khựng giữa không trung, thoáng có chút lúng túng.

“Phải không?” Cô hỏi.

Sự im lặng dần lên men trong làn gió ấm.

Chỉ trong chớp mắt, Lý Hoài Chu khẽ giọng đáp: “Phải.”

Nghe được câu trả lời mình muốn, Khương Nhu khẽ cong mắt, không cẩn thận lại ho mấy tiếng.

Lý Hoài Chu dịch chân định bước lại gần, nhưng rồi chần chừ, dừng hẳn tại chỗ.

Đợi hơi thở bình ổn lại, Khương Nhu mỉm cười với anh ta: “Nếu không quen anh, chắc giờ tôi đang nằm co ro một mình trên giường ký túc, ngay cả một cốc nước ấm cũng chẳng có, cũng chẳng có ai để nói chuyện.”

Dưới quầng sáng, gương mặt cô trở nên mềm mại lạ thường, khẽ đưa tay vén mấy sợi tóc rối ra sau tai: “Cảm ơn.”

Phía quầy thu ngân, hồi lâu vẫn không vang lên âm thanh nào.

Gió đông chẳng biết từ khi nào đã ngừng, nhưng chỉ trong mấy giây ngắn ngủi, sự tĩnh lặng không ai mở lời ấy lại bị kéo dài vô tận, như một sợi dây căng giữa hai người.

Cuối cùng, nó được khép lại bằng một tiếng “Ừ” nhạt của Lý Hoài Chu.

Anh ta vẫn giữ dáng vẻ thản nhiên, mọi vui buồn giận dữ đều giấu tận đáy lòng, khó nắm bắt hơn cả làn hơi mỏng manh bốc lên từ cốc giấy.

Lúc chia tay, Lý Hoài Chu lại đưa cho Khương Nhu mấy miếng sưởi ấm, trên lớp bao nhựa mơ hồ còn vương hơi ấm của anh ta.



Dưới tác dụng kép của miếng sưởi và siro ho, hai ngày sau, triệu chứng ho của Khương Nhu đã giảm rõ rệt.

Cô như bụi cỏ dại chẳng bị sương giá quật ngã, chỉ cần tĩnh dưỡng một thời gian là lại lấy lại sức sống, nhanh chóng rời khỏi trạng thái uể oải, trở về dáng vẻ rực rỡ như trước.

Khác với mọi ngày, hôm nay mới năm giờ chiều, Khương Nhu đã xuất hiện trước cửa hàng tiện lợi.

Thấy cô, Lý Hoài Chu hơi khựng lại: “Tan học sớm?”

“Đừng nhắc nữa.”

Khương Nhu giũ mấy hạt tuyết bám dưới đế giày, đi thẳng tới tủ lạnh: “Thầy dạy vẽ ký họa cũng bị sốt, dạy được một nửa thì không trụ nổi nữa, cho bọn tôi về sớm.”

Rất nhanh, trước quầy thu ngân đã chất đống chiến lợi phẩm của cô: khoai tây chiên vị dưa chuột, sữa nóng đóng lon, và một chai trà lài xanh.

Lý Hoài Chu để ý thấy khi cô vặn nắp chai, các đầu ngón tay đỏ ửng vì lạnh, hơi dùng lực thôi cũng đã thấy đau.

“Đưa đây.”

Anh ta chủ động nhận lấy, bàn tay kẹp chặt vào thân chai lạnh buốt, dễ dàng xoay mở nắp nhựa.

Nụ cười nở nơi khóe môi Khương Nhu: “Mấy hôm trước ban đêm không thấy anh, dạo này anh làm ca ngày à?”

“Ừ.”

“Sáu giờ tan?”

“Ừ.”

Khương Nhu đảo mắt một vòng, đây là thói quen mỗi khi suy nghĩ.

“Tan ca rồi…” Giọng cô mang chút dò hỏi, “Anh có rảnh không?”

Lý Hoài Chu suýt tưởng mình nghe nhầm: “Gì cơ?”

“Hôm tôi bệnh, may nhờ anh cho đồ ăn với miếng sưởi.”

Khương Nhu nói: “Hay là để tôi mời anh một bữa? Coi như trả ơn.”

Chỉ là ăn một bữa thôi, cô chẳng thấy có gì to tát.

Trong quan niệm của Khương Nhu, đã nhận ân tình của người khác thì phải báo đáp đàng hoàng. “Cho đào thì trả mận”, nếu cô vờ như chưa từng có chuyện gì, thì thật quá vô tâm.

Hơn nữa, nhìn Lý Hoài Chu lúc nào cũng đơn độc, cô muốn giúp thì giúp.

Nhưng Lý Hoài Chu lại lắc đầu: “Không cần, tôi vừa ăn rồi.”

“Ăn rồi à…”

Ánh sáng trong mắt Khương Nhu thoáng tối đi.

Cô vốn là người giấu cảm xúc không giỏi, nét thất vọng hiện rõ trên gương mặt. Chỉ ba giây sau, cô lại ngẩng lên, ánh nhìn đầy mong chờ: “Anh đi tàu điện ngầm về nhà?”

“Ừ.”

“Chúng ta cùng đường.”

Cô hăng hái: “Anh có hứng đi cùng tôi cho mèo ăn không? Ngay cạnh ga tàu điện, không mất nhiều thời gian đâu.”

Cô vẫn thường tranh thủ thời gian rảnh để cho mèo hoang ăn, từng nhiều lần tới mua ức gà luộc, việc này Lý Hoài Chu biết.

Anh ta đáp thật lòng: “Tôi chưa từng cho mèo ăn.”

“Cái gì cũng phải có lần đầu chứ, hơn nữa cho mèo ăn dễ lắm.”

Bỗng như nghĩ ra gì đó, Khương Nhu chớp mắt với anh ta, trong nụ cười hiếm thấy thấp thoáng ý trêu: “Anh chẳng bảo mèo sợ anh sao? Biết đâu lần này sẽ khiến chúng hiểu ra anh không phải người xấu.”

Sự mong đợi nóng hổi như từng đợt sóng vô hình trào lên, mang theo nhiệt độ khó phai.

Cô vốn hiếm khi chủ động mời ai, giờ lại thấy hơi căng thẳng, bèn lấy hết can đảm nhìn thẳng vào mặt anh ta: “Được không? Cùng tôi đi nhé.”
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 6


Khương Nhu bị ốm. Cả một đêm, Lý Hoài Chu đều đang cố gắng “giải phẫu” cô trong tâm trí.

Những ngày qua, giữa anh ta và Khương Nhu chỉ dừng lại ở vài câu xã giao lễ phép. Dù nói chuyện cũng coi như hợp ý, nhưng vẫn giống như cách nhau một lớp màng mỏng, không chạm tới được cái chân thật nằm ngoài khoảng cách xã hội ấy. Trận cảm mạo bất ngờ lần này, lại vô tình làm tan chảy ranh giới đó.

Trong lời nói, Khương Nhu cố ý tránh nhắc tới gia đình. Vì lo sợ vụ án giết người hàng loạt, hai người bạn cùng phòng của cô đã trở về sống dưới vòng tay che chở của cha mẹ. Thế còn cô thì sao? Ốm liệt giường, nhưng lại “đến một người nói chuyện cũng không có”.

Cha mẹ cô dù không ở trong thành phố, không thể lập tức tới chăm sóc, nhưng biết con gái bệnh cũng nên hỏi han vài câu mới phải. Khương Nhu còn nói, khi bệnh chỉ biết tự mình cắn răng chịu đựng.

Từ từng mảnh vụn câu chữ rời rạc ấy, Lý Hoài Chu ghép nên được thêm nhiều mảnh ghép của Khương Nhu: Sự độc lập được tạo ra bởi thiếu thốn quan tâm, sự cứng cỏi khi tự mình vượt qua cơn bệnh, và cả khao khát âm thầm đối với chút hơi ấm từ người khác.

Điều này tất nhiên dẫn tới một sự thật: cô mong được quan tâm, và cũng ỷ lại vào sự chăm sóc mà người khác trao cho. Trước khi nhận ra điều này, Lý Hoài Chu vẫn thấy khó hiểu, tuy cửa hàng tiện lợi có đủ đồ ăn, nhưng các quán ăn tối ngoài phố cũng đầy rẫy, vậy tại sao Khương Nhu cứ cách hai ba hôm lại ghé qua một lần?

Giờ thì thắc mắc ấy đã có lời giải hợp lý. Có lẽ thứ cô cần, không phải oden hay cơm nắm, mà là một khoảng không gian sáng đèn, nơi giữa hơi nóng nghi ngút của đồ ăn có người hỏi “Hôm nay thế nào?”, cái cảm giác được thuộc về ở một nơi nào đó.

Khi bạn cùng phòng đều đã rời đi, bạn bè trong trường chẳng còn lại mấy, lại không có sự ấm áp từ gia đình, cô quá đỗi cô đơn, cấp thiết cần một chỗ để gửi gắm cảm xúc và tìm kiếm sự an ủi. Và hiện tại, người đó chính là Lý Hoài Chu.

Nghĩ thông tất cả, Lý Hoài Chu lại có thêm một góc nhìn mới. Trước đây, ấn tượng của anh ta về Khương Nhu gần như hoàn hảo: gia đình hòa thuận, tính cách hoạt bát, như một cô gái được trời ưu ái… Nhưng giờ xem ra, hoàn toàn không phải vậy.

Thì ra cô cũng có lúc thất bại, khốn khó.
Thì ra cô cũng chỉ có một mình.
Thì ra cha mẹ cô cũng…

Gia đình của Khương Nhu, rốt cuộc là thế nào?

Đó là một tình thế tệ hại.

Một khi anh ta nảy sinh những suy nghĩ kiểu này, Khương Nhu sẽ không còn là một con mồi thuần túy nữa, không còn là cái nhãn mác có thể xé bỏ bất cứ lúc nào, mà trở thành một con người thật sự, sống động và ba chiều.

Lý Hoài Chu buộc bản thân phải chặn lại h*m m**n tìm hiểu sâu hơn.

Sau khi khỏi bệnh, Khương Nhu mời anh ta đi cho mèo ăn. Khác với cô, Lý Hoài Chu vốn chẳng sinh nổi chút thiện cảm nào với động vật, chuyện cho mèo ăn kiểu này, từ trước đến giờ đều không liên quan tới anh ta.

Lời từ chối đã lên đến miệng, nhưng vừa định mở lời, lý trí như chiếc kìm sắt siết chặt cổ họng anhta. Không đúng. Đây là cơ hội.

Cơ hội để tiếp cận cô, quan sát cô, tìm hiểu thói quen đi lại một mình của cô trong môi trường tự nhiên hơn, để tiện ra tay.

Cửa hàng tiện lợi có quá nhiều camera giám sát, lời trò chuyện cũng bị giới hạn bởi mối quan hệ giữa nhân viên và khách hàng; còn cửa ga tàu điện vắng vẻ vào buổi tối lại là nơi lý tưởng để chuyển cảnh. Quan trọng hơn, thông qua việc cho mèo ăn, có thể thắt chặt mối liên hệ, khiến Khương Nhu quen với sự hiện diện của anh ta, từ đó hạ thấp cảnh giác sau này.

Trong khoảnh khắc như tia chớp lóe, Lý Hoài Chu đưa ra quyết định.

“Được.” Anh ta nói: “Đợi chút, tôi tan ca ngay.”



6 giờ tối.

Từ khi quen nhau tới nay, đây là lần đầu tiên Lý Hoài Chu và Khương Nhu cùng bước ra khỏi cửa hàng tiện lợi. Gió rét quất thẳng vào mặt, anh ta kéo chặt áo khoác.

“Lạnh quá, đến xương cũng muốn đóng băng…” Khương Nhu run run, hà hơi vào lòng bàn tay: “Đi theo tôi.”

Cô từng cho mèo ăn nhiều lần, nên thuộc đường phố quanh đây như lòng bàn tay. Chẳng mấy chốc, cô dẫn Lý Hoài Chu tới một con hẻm nhỏ.

Hẻm không sâu, hai bên là những tòa nhà tập thể cũ cao ngất. Ánh sáng và bóng tối hắt ra từ những khung cửa sổ hình ô, chia mặt tuyết thành ô sáng tối đan xen như bàn cờ. Một con mèo đen liếc hai người ánh nhìn cảnh giác, rồi nhanh như chớp lẩn sát mép tường.

Khương Nhu mở balo, lấy ra mấy cái bát giấy đã chuẩn bị sẵn, múc đầy thức ăn cho mèo, đặt từng cái vào các góc tường.

“Cho mèo ăn nhất định phải dùng đồ đựng sạch.” Cô hạ giọng, sợ quấy nhiễu sự yên tĩnh nơi này: “Nếu đổ thẳng đồ ăn xuống đất, có thể khiến miệng mèo bị viêm.”

Lý Hoài Chu hờ hững “ừ” một tiếng, ánh mắt nhẹ như lông vũ, lướt qua gương mặt nghiêng của cô. So với mèo, anh ta hứng thú với Khương Nhu hơn nhiều.

Ra ngoài, sự tươi tắn của cô vẫn không hề suy giảm. Con hẻm này không sạch sẽ gì cho cam, khắp nơi là những túi nilon đen đựng đầy rác, rau thối bị ai đó ném từ cửa sổ xuống, nước tuyết bị giẫm đến xám đen, hai bức tường cao đổ xuống những bóng tối dày đặc, ánh sáng lửng lơ chập chờn. Duy chỉ chỗ Khương Nhu đứng, ngay cả lớp tuyết đọng cũng trắng muốt.

Một cơn gió bắc quét qua hẻm, làm mái tóc tơ của cô rối tung, bồng bềnh như một nhánh bồ công anh hoang dại.

Bày xong bát, Khương Nhu lùi lại vài bước.

“Mùa đông lạnh quá, thức ăn lại ít, là khoảng thời gian khó khăn nhất với mèo hoang.” Cô nói: “Cho chúng chút đồ ăn, có lẽ sẽ giúp chúng qua được trận tuyết này.”

Những điều Khương Nhu nói, Lý Hoài Chu chưa từng để tâm. Anh ta sống ngày nào hay ngày ấy, ngay cả đời mình còn chẳng buồn quan tâm, huống hồ là mấy con mèo chết trong đêm tuyết.

Một con mèo đen từ từ bước tới gần thức ăn. Khương Nhu mỉm cười: “Nó tên là Socola, là con mèo đầu tiên tôi gặp ở đây. Không lâu trước, tôi đã đưa nó đi triệt sản rồi.”

Lý Hoài Chu khẽ đổi sắc mặt: “Triệt sản?”

“Socola là mèo cái, sinh quá nhiều con thì cả mèo mẹ lẫn mèo con đều không tốt.” Khương Nhu giải thích: “Mèo hoang đến bản thân còn khó nuôi, con sinh ra phần lớn cũng khó sống nổi, mèo mẹ trong quá trình này cũng rất vất vả, tuổi thọ cực ngắn, làm triệt sản cho mèo hoang là một cách cứu trợ hiệu quả.”

Sau khi con mèo đầu tiên bắt đầu ăn, từng con một nối tiếp xuất hiện, dấu chân hằn xuống tuyết như những bông mai nở rộ với sắc độ đậm nhạt khác nhau. Màu đen, màu trắng, màu vàng cam, và cả những bộ lông loang đủ kiểu…

Lý Hoài Chu nghe Khương Nhu giới thiệu từng con: “Con bên trái là Náo Náo, mèo tam thể, lanh lợi nghịch ngợm, kêu lên cứ như hát; bên phải nó là Viên Hoàn, tròn vo như viên bánh vậy…”

Ban đầu cô vẫn cười mà nói, chẳng hiểu sao, dần dần lại im bặt. Lý Hoài Chu thấy lạ, nghiêng đầu nhìn sang.

Vừa khỏi bệnh, sắc mặt Khương Nhu trắng bệch như giấy, vành mắt lại ửng đỏ.

“Xin lỗi nhé, để anh chê cười rồi.” Cô lập tức hoàn hồn, dụi khóe mắt: “Tôi… mấy hôm trước trời trở lạnh, có ba con mèo bị chết cóng, còn bé xíu như vậy thôi.”

Giọng cô nhỏ dần: “Trước đây tôi tới, có một con lúc nào cũng phải cọ vào tôi.”

Lý Hoài Chu khẽ nói: “Đừng buồn quá.” Anh ta cố gắng bày ra vẻ cảm thông, nhưng trong lòng thì hoàn toàn chẳng phải vậy.

Sao lại có người vì mấy con mèo chết mà khóc được chứ? Đúng là khó tin.

Thậm chí Lý Hoài Chu còn hoài nghi, liệu Khương Nhu có đang cố tình diễn không, thế nhưng vành mắt hoe đỏ ấy thì không thể giả được.
Anh ta lạnh nhạt nghĩ, đây là cái tật chung của phụ nữ, đa sầu đa cảm, gặp chút chuyện vặt vãnh chẳng đáng là lại phải rơi nước mắt.

“Giờ ký túc xá cấm nuôi thú cưng.” Khương Nhu cụp hàng mi: “Tôi định sau khi tốt nghiệp sẽ nhận nuôi nhiều mèo hoang hơn, đem về nhà.”

Một câu nói rất hợp với tính cách của cô. Lý Hoài Chu thầm đưa ra nhận định, có lẽ sự nhạy cảm và cảm tính trong con người Khương Nhu còn mạnh hơn anh ta tưởng.

Vậy thì, đối diện với một Khương Nhu như vậy, anh ta nên phản ứng thế nào?

Tiếng mèo nhai thức ăn sột soạt, khắp mặt đất là những mảng lông đủ màu trong ánh trăng lay động, như một hộp màu bị hất đổ. Gió lạnh xoáy qua, lướt ngang mặt Khương Nhu, buốt như dao cắt.

Ngay sau đó, vai cô khẽ bị vỗ nhẹ: “Đừng buồn.”

Động tác của Lý Hoài Chu vụng về nhưng có chừng mực: “Lúc nào cần giúp, có thể tìm tôi.”

Thần thái phải trầm ổn, giọng nói phải hạ thấp, vừa để lộ ý an ủi, lại không tỏ ra lả lơi. Anh ta kiên nhẫn như đang lau đi vết máu, tin chắc Khương Nhu sẽ không từ chối.

Khoảng cách giữa hai người gần trong gang tấc, động tác này như ấn nút tạm dừng, Khương Nhu ngẩng lên, trong mắt phản chiếu bóng dáng dịu dàng được anh ta tỉ mỉ che giấu.

Một giây, hai giây, ba giây.

Thần sắc cô như tuyết xuân bắt đầu tan: “Cảm ơn anh.”

Trên gương mặt ấy, Lý Hoài Chu thấy được sự tin tưởng và xúc động thuần khiết, như một chú chim non từng được anh ta nâng niu khi còn nhỏ, tưởng rằng có thể yên ổn trú ngụ trong lòng bàn tay anh ta, không hay biết số phận sẽ bị làm thành tiêu bản.

Chưa từng có ai dành cho anh ta ánh mắt như thế này. Đó là một loại kh*** c*m khác với giết người. Nếu giết chóc giống như đi săn, thì cái anh ta hưởng thụ là sự bạo lực và khống chế tột cùng; còn đối diện với Khương Nhu, đây là một cuộc thuần dưỡng kéo dài.

Thú vị hơn cả anh ta tưởng.

Lý Hoài Chu không khỏi tò mò, rốt cuộc cô có thể tin anh ta đến mức nào? Giới hạn của niềm tin này ở đâu? Khi sự tin tưởng bị phản bội, khi lưỡi dao lạnh buốt áp lên cổ Khương Nhu, liệu kh*** c*m trong khoảnh khắc ấy có vượt qua tất cả những lần giết chóc trước đây, khiến anh ta khoan khoái hơn không?

Anh ta hít sâu một hơi, bàn tay trái trong túi áo khoác khẽ run lên.

Cho mèo ăn xong, Lý Hoài Chu tiễn Khương Nhu lên chuyến tàu điện ngầm hướng về Giang Đại, lúc tạm biệt, cô cười rất tươi: “Hôm nay cảm ơn anh nhé, anh về nghỉ sớm đi!”

Lý Hoài Chu ngoan ngoãn đáp lại, bắt chuyến tàu khác về nhà mình. Nhưng anh ta không “nghỉ sớm”.

Mười phút sau, Lý Hoài Chu đeo khẩu trang, toàn thân một màu đen bước ra cửa, trong túi áo khoác thêm một vật nặng trịch. Là cây gậy ngắn anh ta tự chế, một loại vũ khí va đập, may bằng da, bên trong nhồi cát chì, khi đánh có thể khiến người ta bất tỉnh nhanh chóng mà khó gây gãy xương hay chết ngay tại chỗ.

Làm sao anh ta có thể đi ngủ sớm, để lãng phí một đêm quý giá thế này?

Nhân mấy ngày gần đây phải làm ca ngày, cứ đến tối là Lý Hoài Chu lại cẩn thận tránh camera giám sát, lang thang ở những nơi hẻo lánh tìm bóng người.
Đáng tiếc, vận may không tốt, liên tiếp hai đêm đều không thu hoạch gì.

Tuyết dày vùi lấp dấu chân, là đồng minh tốt nhất của anh ta. Lý Hoài Chu đi từ con phố sau ra tới cuối con đường nhỏ, cuối cùng dừng lại ở bờ sông Thanh Thủy ngoài rìa thành phố.

Ánh trăng nhợt nhạt, nơi này không có đèn đường. Mặt sông phản chiếu những ánh đèn thưa thớt bên kia bờ, lặng lẽ lay động theo gợn nước, như vô số vong hồn từng giãy giụa dưới đáy sông.

Không gian im ắng, mọi giác quan đều được phóng đại, Lý Hoài Chu bắt được từng tiếng động khẽ trong gió, bỗng dừng bước. Có vẻ hôm nay là ngày may mắn của anh ta.

Bên bờ đê, một nữ sinh mặc đồng phục đang cúi đầu chậm rãi bước, quay lưng về phía anh ta, không hay biết có người đang đến gần.

Chính là cô ấy. Khóe môi Lý Hoài Chu bất giác cong lên, nhịp thở cũng hạ xuống.

Anh ta như hòa làm một với bóng đêm, siết chặt gậy ngắn, âm thầm rút ngắn khoảng cách.

Mười mét, năm mét, ba mét.

Cảm giác lạnh buốt của cán gậy ngấm vào da thịt, gợi lại ký ức về mỗi lần nó nện vào hộp sọ, phát ra âm thanh trầm đục. Giống như nhịp tim, cũng giống như tiếng trống, thúc giục anh ta tiếp tục cuộc săn không bao giờ dừng.

Bịch.

Bịch bịch.

Tựa như một con báo săn đã dồn nén đủ lâu. Ngay khoảnh khắc đối phương nhận ra điều bất thường, quay đầu lại, Lý Hoài Chu bất ngờ tăng tốc!

Không báo trước, không cảnh cáo, chỉ có cánh tay quất lên, xé toạc không khí.

Đế giày nghiền nát lớp tuyết trắng, âm thanh vụn vỡ bị tiếng nước sông cuồn cuộn nuốt trọn.

Anh ta vung gậy, nhắm thẳng sau gáy cô gái mà giáng xuống thật mạnh.

Bịch!
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 7


Từ lâu Từ Tĩnh Như vẫn nghĩ, trong cơ thể mình có một con dã thú khao khát được chạy.

Khi cô ấy đặt chân lên đường chạy nhựa đỏ sẫm, gió rít qua tai, mọi ồn ào của thế giới rút xuống như triều, chỉ còn lại nhịp tim của cô ấy như trống trận: thình, thình, thình.

Đó là âm thanh nguyên sơ nhất, chân thật nhất của sự sống, khiến Từ Tĩnh Như say mê.

Cô ấy muốn thả con dã thú ấy ra hoàn toàn, trên đường đua, dưới muôn vàn ánh mắt dõi theo, lao về vạch đích tượng trưng cho cực hạn.

Vì thế, Từ Tĩnh Như nói với bố mẹ rằng mình muốn học thể thao, sau này làm vận động viên chạy bền.

“Không lo làm ăn gì cả!”

Nghe xong, bố cô ấy giận dữ gầm lên: “Con gái con đứa, không lo học hành cho tử tế, ngày ngày chạy lông nhông trên sân thì ra cái thể thống gì? Phơi nắng cho đen thui, thô kệch ra, sau này lấy chồng thế nào?”

Mẹ đứng cạnh tiếp lời, đau lòng trách móc: “Chạy có ăn được không? Con nhìn chị họ con đi, ngoan ngoãn thi sư phạm, giờ làm giáo viên ổn định, thể diện biết bao.”

“Con thích vậy đấy! Lấy chồng hay không, con chẳng thèm bận tâm!”

Từ Tĩnh Như dồn hết sức hét ra câu ấy, giọng run run: “Đây là chuyện của con, đừng ai can thiệp!”

“Con dám!”

Bố cô ấy đập mạnh bàn: “Chúng ta vất vả cho con ăn học, không phải để con mơ mộng những thứ vớ vẩn đó! Nếu còn dám chạy đến đội điền kinh, tao sẽ đánh gãy chân mày!”

Lại nữa.

Lại là kiểu uy h**p ấy, kiểu độc đoán không cho cãi lại ấy.

Ngực như bị nhét một búi bông, nghẹt đến mức Từ Tĩnh Như sắp nghẹt thở.

Cô ấy không muốn cãi vã nữa, càng không muốn nhìn vẻ thất vọng và khinh bỉ trên mặt họ, quay người giật cửa, lao thẳng ra ngoài.

Cô ấy cần thở.

Nhà Từ Tĩnh Như xây bên bờ sông Thanh Thuỷ, lối đi dọc bờ là nơi cô ấy chạy từ bé, cũng là bến tránh gió của cô ấy.

Bất kể thi cử thất bại hay xích mích với ai, cô ấy đều đến đây. Nước sông lặng lẽ trôi, như thể có thể mang đi mọi phiền não.

Đêm nay bờ sông vắng lạ thường, trên mặt nước phủ một lớp sương mỏng, đèn bên kia bờ xa xăm và mờ ảo.

Từ Tĩnh Như nghe tiếng nước vỗ bờ, òa òa vang dội, không còn là sự vỗ về như mọi khi, trái lại khiến người ta liên tưởng đến những tiếng thở dài chẳng lành.

Cô ấy bước chậm rãi, luồng khí lạnh tràn vào phổi, xoa dịu trái tim đang đập cuồng.

Huấn luyện viên thể thao ở trường từng nói cô ấy rất có thiên phú, chỉ cần kiên trì tập luyện, đại hội thể thao thành phố năm sau có hi vọng vào top ba.

Chỉ top ba thôi sao?

Cô ấy phải tranh hạng nhất trăm phần trăm.

Ý nghĩ ấy như một đốm lửa nhỏ, lại bùng lên trong tim.

Từ Tĩnh Như nghĩ, mình không thể bỏ cuộc, tuyệt đối không thể.

Nhưng nên nói với bố mẹ thế nào?

Trong quan niệm của họ, thể thao chỉ là một con đường lệch lạc, không hợp với cái gọi là “học sinh giỏi”, cũng không hợp với con gái.

Hồi nhỏ, mỗi lần Từ Tĩnh Như chạy nhảy chơi đùa bên sông, thế nào cũng bị mắng mấy câu: “Con gái con đứa, điên rồ như thế coi được à?”

Cô ấy cứ đi, đi mãi, dần thất thần, chẳng để ý đến sự tĩnh mịch đáng sợ xung quanh, bên tai chỉ còn tiếng gió, tiếng nước và nhịp tim của chính mình.

Không.

… Không đúng.

Còn một loại âm thanh khác.

Một thứ tiếng rất khẽ, hòa trong gió, là tiếng sột, sột, sột ma sát.

Là tiếng bước chân.

Rất nhẹ, rất nhanh, như loài mèo lớn rình rập trong đêm.

Có người đang bám theo cô ấy!

Trong giây phút ấy, máu trong người như đông cứng lại, hàn ý từ xương cụt xông thẳng l*n đ*nh đầu.

Từ Tĩnh Như khựng bước, đột ngột ngoảnh đầu.

Cô ấy không kịp nhìn rõ mặt người đó.

Chỉ kịp liếc nơi khóe mắt.

Một bóng đen tách ra khỏi đêm tối, như một quỷ ảnh bị kéo dài, lặng như không, đã ở ngay sau lưng cô ấy!

Bộp!

Có vật gì nặng nề giáng xuống.

Trước mắt nứt toác một mảng sáng trắng, sau gáy đau nhói ập đến.

Tiếng vang bên tai không giống tiếng gõ, mà giống hơn một quả dưa hấu chín mọng bị búa sắt bổ toang, nơi phát ra âm thanh, ở ngay trong hộp sọ cô ấy.

Thế giới quay cuồng.

Từ Tĩnh Như hoàn toàn mất ý thức.

……

Đau.

Đầu đau như muốn vỡ ra.

Không biết ngất bao lâu, Từ Tĩnh Như khổ sở mở mắt.

Trong tầm nhìn không phải trần nhà bệnh viện trắng toát, mà là bóng tối thuần khiết.

Bóng tối đặc quánh đến mức như nhựa đường lạnh, đè nặng lên nhãn cầu, khiến cô ấy thở không nổi.

Không khí có mùi mốc và mùi tanh ngọt như rỉ sét.

Đây là đâu?

Kí ức của Từ Tĩnh Như bị đứt đoạn trong chốc lát.

Cô ấy chỉ nhớ mình cãi nhau với bố mẹ, ra bờ sông xả stress, bắt lấy được một động tĩnh mơ hồ… rồi thì sao?

Rồi là cái bóng người quỷ dị kia, và một cú đập nặng như trời giáng.

Bắt cóc.

Từ này như tia chớp, chém xuyên suy nghĩ hỗn độn của cô ấy.

Từ Tĩnh Như thử cử động thân thể, đúng như dự liệu, tay chân bị xích sắt trói chặt, nối vào đường ống ở góc tường.

Chiều dài xích không tới một mét, đó là phạm vi hoạt động duy nhất còn lại của cô ấy.

“Có ai không?”

Từ Tĩnh Như gọi khẽ, vì sợ hãi và khát khô nên giọng cô ấy khàn đặc.

Đáp lại cô ấy chỉ có sự tịch mịch.

“Cứu tôi với! Có ai không? Cứu với!”

Bản năng cầu sinh đè bẹp tất cả.

Gần như sụp đổ, Từ Tĩnh Như gào khản cổ, chửi rủa, khóc lóc, cho đến khi cổ họng khô rát, kiệt sức.

Căn phòng giam này như một cỗ quan tài cách âm, cắt đứt cô ấy khỏi toàn bộ thế giới.

Tuyệt vọng như nước biển dần dần nhấn chìm cô ấy.

Từ Tĩnh Như hiểu, mình đã gặp phải điều gì.

Là tên sát nhân khét tiếng kia.

Vụ án giết người hàng loạt ở Giang Thành.

Ngược đãi tàn nhẫn vô nhân tính, thủ pháp giết người rợn tóc gáy, ba người phụ nữ vô tội chết uổng…

Những tin tức chỉ tồn tại trên bản tin, vào khoảnh khắc này biến thành lưỡi đao chực rơi trên đỉnh đầu cô ấy.

Có phải cô ấy cũng sẽ chết?

Cơ thể Từ Tĩnh Như run rẩy không sao kiềm chế.

Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, cô ấy nghĩ đến gương mặt bố mẹ, ánh mắt động viên của huấn luyện viên, và đường chạy mình đã đặt chân vô số lần.

Tất cả kết thúc rồi sao?

Cô ấy còn chưa hòa giải với bố mẹ, còn chưa chạy lên đại hội thành phố, thậm chí là những đấu trường lớn hơn, đáng chú ý hơn, còn chưa giành được tấm huy chương vàng mơ ước, đã phải lặng lẽ chết trong cái góc ẩm mốc, bẩn thỉu này ư?

Từ Tĩnh Như không cam lòng.

Cô ấy nghiến chặt răng, nước mắt lem đầy mặt.

Không được…

Hạn chót vẫn chưa tới, biết đâu vẫn còn cơ hội.

Chỉ khóc thì vô ích, trên đường đua, chẳng ai vì nước mắt mà giành chiến thắng.

Từ Tĩnh Như bấu mạnh một cái vào đùi, cơn đau dữ dội khiến não tỉnh táo hơn đôi chút.

Cô ấy điều chỉnh nhịp điệu, hít vào, thở ra, ép mình bình tĩnh.

Đừng sợ.

Cô ấy nói với chính mình: Từ Tĩnh Như, nghĩ xem mỗi lần chạy tới cực hạn, thấy không thể cố thêm được nữa, mình sẽ làm gì?

Sau gáy liên tục nhói đau, như vô số kim thép nung đỏ đang khuấy vào óc.

Một cái tên bật vào đầu.

Wilma Rudolph.

Từng mắc bại liệt, sốt tinh hồng nhiệt, viêm phổi hai bên, bị bác sĩ tuyên án tàn phế suốt đời, vậy mà cuối cùng vẫn chiến thắng bệnh tật, trở thành nữ vận động viên chạy cự ly ngắn được ghi vào sử sách.

Cơn đau bây giờ so với đôi chân phải đeo nẹp của bà ấy thì tính là gì?

Vì chấn thương sau gáy, cơn choáng ập đến từng đợt, mạnh hơn từng đợt, Từ Tĩnh Như buồn nôn muốn ói.

Cô ấy cố hít sâu, tiếp tục nhớ lại.

Diana Nyad.

Ở tuổi sáu mươi tư, giữa đại dương mịt mù nguy hiểm, bà bơi suốt năm mươi ba giờ, một trăm bảy mươi bảy cây số, trở thành người đầu tiên không dùng lồng chống cá mập, vượt biển từ Cuba đến vùng biển Florida.

Những gì bà đối mặt là thứ bóng tối và cô độc rộng lớn, sâu thẳm hơn căn phòng đen kịt này nhiều.

Dạ dày co thắt một cái, sức lực như bị rút cạn, chẳng phân nổi là vì đói hay vì sợ.

Từ Tĩnh Như run rẩy giơ tay, mạnh mẽ lau đi nước mắt đục ngầu.

Trương Vĩ Lệ.

Từng làm cô giáo mầm non, lễ tân, nhân viên bán hàng, dựa vào nhiệt huyết và đôi nắm đấm sắt, cô ấy tự mình mở đường vào võ đài, trở thành nhà vô địch thế giới UFC đầu tiên của châu Á.

Cô ấy đã bị đánh gục, rồi lại đứng dậy, theo cách còn dữ dội hơn.

Họ đều là vận động viên.

Từ Tĩnh Như tự nhủ: mày vẫn luôn ngưỡng mộ họ, tôn phục họ, lấy họ làm mục tiêu phải không?

Họ đã chịu bao nhiêu khổ, qua bao nhiêu nạn, mày học theo họ, nghiến răng chịu đựng mà bước qua.

Được không?

……

Đúng rồi, như thế, thả lỏng chậm rãi, hít vào thật dài, thở ra thật đều.

Giống như thủ tục kiểm tra trước trận, phân tích tình thế hiện tại.

Trước tiên đảm bảo chức năng cơ thể ổn.

Ngoài đau đầu, đau dạ dày, buồn nôn, ngực nặng nề, còn chỗ nào khó chịu không?

Từ Tĩnh Như cử động một chút, cũng may là tạm thời chưa phát hiện vết thương mới.

Rồi xem xích sắt trói tay chân, trong giới hạn của nó, liệu có khả năng phản kích hung thủ không?

Cô ấy kéo thử, không nhúc nhích.

Tự tay vùng thoát xác suất bằng không, muốn thoát thì cần thời cơ và công cụ.

Còn môi trường xung quanh……

Đừng vội, đưa tay dò từng tấc không gian, tường lạnh ngắt, sàn thô ráp, ống sắt rỉ sét.

Nơi đây trống trơn, chẳng tìm được vật gì có thể tận dụng.

May trong rủi, không có những dụng cụ tra tấn đáng sợ thường thấy trong phim kinh dị mà kẻ b**n th** hay dùng.

Từ Tĩnh Như tự giễu mà an ủi mình.

Phải làm thế nào mới sống sót dưới cái bóng tử thần của tên sát nhân liên hoàn?

Từ Tĩnh Như không biết.

Cô ấy chỉ là một nữ sinh cấp ba sống trong tháp ngà, đây là vùng mù kiến thức mà bố mẹ và nhà trường chưa từng dạy.

Thời gian từng phút từng giây trôi đi, hung thủ vẫn chưa lộ diện, Từ Tĩnh Như ngây dại nhìn vào khoảng tối trước mặt.

Cô ấy quyết định dùng một cách ngốc, để mình có thể trụ nổi.

Từ nhỏ đến lớn, trong mấy chục năm đời người hữu hạn, Từ Tĩnh Như luôn là đứa bình thường nhất, đứng trong đám đông cũng chẳng ai nhìn thấy đầu tiên.

Tướng mạo không nổi bật, tính cách tầm thường, thành tích quanh quẩn ở mức trung bình, không lên cũng chẳng xuống.

Thứ duy nhất cô ấy giỏi là thể thao.

Đặc biệt là chạy bền.

Đó là một môn thể thao cô độc, trên đường đua, chỉ có tiếng bước chân nhàm chán, hơi thở ngày càng nặng, và cơn đau vì cơ thể chạm ngưỡng cực hạn.

Phổi bỏng rát, đôi chân nặng như chì, não sẽ phát đi hàng vạn mệnh lệnh, gào thét bảo cô ấy từ bỏ.

Nhưng Từ Tĩnh Như biết chỉ cần điều chỉnh hô hấp, làm rỗng đầu óc, rồi bước thêm một bước, chịu thêm một giây, là có thể phá được nó, để cơ thể đi vào giai đoạn ổn định gần như tê dại.

Đau đớn không biến mất, là cô ấy học cách điều khiển nó.

Khoảnh khắc này, trong căn phòng giam chết lặng, Từ Tĩnh Như thử tháo gỡ một cách vụng về.

Xem cái trải nghiệm kinh hoàng mang tên “cầu sinh” mà cô ấy hoàn toàn mù tịt ấy, như thứ thân thuộc và sở trường nhất của mình.

Một chặng chạy bền.

Cô ấy đã phạm sai lầm đầu tiên, xuất phát quá nhanh, dùng tiếng gào tiêu hao mất thể lực quý giá.

Bây giờ phải lập tức chậm lại, tìm đúng nhịp.

Đây chắc chắn là cuộc thi bền bỉ khó khăn và bất công nhất đời cô ấy.

Từ Tĩnh Như nhắm mắt, như thấy đường chạy dài dằng dặc.

Cô ấy chỉ có một mình, cô đơn đứng tại vạch xuất phát.

Còn đích đến? Đích nằm ở đâu?

Những chi tiết trong bản tin bỗng trở nên vô cùng rõ trong đầu cô ấy.

Hung thủ của vụ án giết người hàng loạt ở Giang Thành sẽ giam nạn nhân mười lăm ngày.

Từ Tĩnh Như nắm chặt tay, lòng bàn tay ướt lạnh mồ hôi.

Trong lúc đếm ngược mười lăm ngày đến cái chết ấy, nếu không ai tìm được nơi này, phát hiện ra cô ấy đang bị giam giữ.

Trong bản tin của ngày thứ mười sáu, cái tên “Từ Tĩnh Như” sẽ xuất hiện ở cột người chết.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 8


Tâm trạng Khương Nhu rất tốt.

Sau lần cho mèo ăn, quan hệ giữa cô và Lý Hoài Chu có tiến triển thực chất, ở cạnh nhau không còn gượng gạo.

Xem như thành bạn rồi nhỉ?

Không biết Lý Hoài Chu nghĩ sao, ít nhất cô là thấy vậy.

Trần Ấu Nghi hay tin, giấu chẳng nổi ngạc nhiên: “Cậu vậy mà dẫn anh ta đi cho mèo ăn à?”

“Một mình thì chán, có thêm bạn đồng hành cũng hay. Chỉ là…”

Nghĩ đến lúc mình thất thố, Khương Nhu ngại mở miệng: “Tớ lại suýt khóc ngay trước mặt anh ấy, mất mặt quá.”

Trần Ấu Nghi đã đi cùng Khương Nhu cho mèo ăn không ít lần, đoán ra nguyên do cô buồn, lặng nhìn cô hồi lâu, xoa đầu: “Chẳng có gì đáng xấu hổ cả. Cậu chỉ là nhớ chuyện cũ thôi, dần dần quen rồi sẽ không buồn nữa.”

Nhưng Giang Nhu lại nghĩ, cô không quen được.

Nếu quen, chẳng phải có nghĩa là từng ngày một quên đi, không còn ai để tâm nữa sao?

Dấu vết còn sót lại của một sinh mệnh vốn chỉ có chút ít, nếu chẳng được ai ghi nhớ, thì khác gì chưa từng tồn tại?

“Mùa đông lạnh thế, anh ấy còn đi cho mèo với tớ, tớ định gửi ít quà cảm ơn.”

Khương Nhu do dự: “Nhưng không rõ tặng gì thì hợp.”

Cô không có mấy kinh nghiệm chuẩn bị quà.

“Quá đắt lại thành gánh nặng, bày tỏ tấm lòng vừa phải là được.”

Trần Ấu Nghi rành khoản này, bày kế: “Để tớ nghĩ… bánh ngọt thì sao? Tinh xảo mà hợp túi tiền, còn no bụng nữa.”

Thế nên tối nay, trước khi bước vào cửa hàng tiện lợi, Khương Nhu cố tình giấu tay ra phía sau.

Cô lúc nào cũng tan học vào khung giờ này, Lý Hoài Chu đã quen, chào một tiếng: “Buổi tối tốt lành.”

Khương Nhu thấy tia máu trong mắt anh ta: “Mấy hôm nay mệt lắm à?”

“Cũng tạm. Ca ngày ca đêm thay nhau, đồng hồ sinh học loạn thôi.”

Khương Nhu mỉm cười.

Như làm ảo thuật, cô đưa tay phải sau lưng lên, giơ ra một hộp bánh nhỏ xinh: “Tiệm này đồ ngọt ngon lắm, tiện đường nên tôi mua cho anh, nếm thử nhé.”

Cô khẽ nhấc ngón trỏ đang xách hộp, giọng nhẹ bẫng như suối reo: “Là quà cảm ơn vì đã đi cho mèo ăn với tôi.”

Lý Hoài Chu lưỡng lự một chút, nhận lấy và cảm ơn: “Lớp vẽ ký họa của cậu thế nào?”

“Cũng thường thôi, bình bình.”

Khươnv Nhu tháo balo, nửa đùa nửa thật tự trào: “Không có gen nghệ thuật, nét vẽ của tôi cứ như gã say nhảy múa á, thật muốn quay về quát cho cái tôi một tháng trước một trận, không biết trời cao đất dày, tưởng vẽ là phẩy tay vài nét.”

Cô đổi giọng: “Chỉ có lần phát huy ổn là lần vẽ tay anh… có lẽ tôi thiên về không khí và cảm giác hơn?”

“Cảm giác?”

“Trong lớp ký họa, mọi người xúm vòng tròn quanh cùng một vật mà vẽ, là hoàn thành nhiệm vụ theo quy trình.”

Khương Nhu nói: “Tôi thích phong cách tự do phóng khoáng hơn, không bị gò bó, theo cảm hứng mà đặt bút. Với lại ở cạnh anh, tôi thấy thoải mái, thả lỏng hơn.”

Lý Hoài Chu trầm ngâm lắng nghe, đưa cho cô một cốc nước ấm: “Sao lại muốn học vẽ?”

Khương Nhu nhận ra số lần anh ta chủ động đặt câu hỏi nhiều hơn hẳn trước đây. Trước đó, phần nhiều đối thoại là anh ta trả lời, rất ít khi khơi chuyện.

Đây có phải là dấu hiệu cho thấy anh ta có ý định tiến xa hơn?

“Bạn quanh tôi có người học, tôi thấy cô ấy vẽ trông thảnh thơi.”

Khương Nhu uống ngụm nước: “Với lại, tôi rất hứng thú với chân dung.”

Lý Hoài Chu không nói, ra hiệu cô nói tiếp.

“Tôi thích quan sát diện mạo và biểu cảm của người khác, đặc biệt là những chi tiết không dễ thấy ngay.”

Khương Nhu nói: “Số lượng sẹo, độ cong của miệng và mắt, da thô hay mịn, có thoáng qua vi biểu cảm nào không… trên mặt ai cũng có câu chuyện, thú vị lắm.”

Có điều…

Cô thở dài khổ sở: “Ý tưởng thì có, mà đến giờ tôi còn chưa sờ được đến ngưỡng cửa ký họa.”

Trước kệ hàng, Lý Hoài Chu đẩy một bịch khoai tây chiên vào phía trong cho ngay ngắn, lớp nhựa cọ vào nhau phát tiếng lạo xạo.

Anh ta mở miệng, như chỉ hỏi bâng quơ: “Còn tôi thì sao?”

Khương Nhu: “Sao cơ?”

Cô nhìn về phía kệ hàng, đúng lúc Lý Hoài Chu cũng nghiêng người.

Ánh đèn hắt lên gương mặt trắng bệch gầy gò của anh ta, đôi mắt còn đen hơn màn đêm.

“Trên mặt tôi.” Lý Hoài Chu hỏi, “Cô nhìn thấy gì?”

Đây không phải câu hỏi đơn giản.

Im lặng chốc lát, Khương Nhu cười ranh mãnh: “Anh muốn biết à?”

“Ừ.”

“Đúng lúc tôi muốn luyện đường nét khuôn mặt.”

Có sẵn “mẫu” thì tội gì không dùng, Khương Nhu nói: “Hay là thế này nhé, tôi vừa vẽ anh vừa quan sát, rồi nói anh nghe đáp án, được không?”

Sợ anh ta không đồng ý, cô vội bổ sung: “Giống lần trước ý, anh đứng yên đừng động là được, tôi vẽ nhanh thôi.”

Việc gì qua một lần thì lần hai sẽ quen, Lý Hoài Chu từng làm người mẫu của cô, lần này cũng gật đầu nhận lời: “Được.”

Anh ta đồng ý nhanh đến mức khiến Khương Nhu hơi ngạc nhiên, cô lập tức reo khẽ, lôi giấy bút từ trong túi ra:

“Lúc tôi vẽ, tốt nhất anh đừng có động tác hay biểu cảm gì. Cố đừng nghịch điện thoại, nếu chán thì xem video nghe nhạc cũng được.”

Hai người nhanh chóng chốt.

Lý Hoài Chu đứng ở một góc nơi ánh đèn và ánh trăng giao nhau, Khương Nhu mở sổ ký họa, dùng ánh mắt phác thảo khuôn mặt anh ta.

Gầy gò, u uất, đường nét góc cạnh.

Cô dần tìm ra những tính từ vừa vặn.

Lý Hoài Chu cầm điện thoại mở một video đỡ buồn: “Bắt đầu đi, cô cứ tự do phân tích.”

Tiếng thuyết minh trong điện thoại chảy nhẹ, là một bản tin xã hội.

“Anh rất gầy, khả năng lớn là do ăn uống thất thường dẫn đến thiếu dinh dưỡng.”

Khương Nhu đặt bút, vẽ nét đầu tiên: “Trán có một vết sẹo, xương lông mày bên trái cũng có, chắc để lại từ vài năm trước.”

Lý Hoài Chu muốn đưa tay sờ những vết sẹo cô nói, nhớ lời dặn “đừng động” của Khương Nhu, đành cố nhịn.

Ánh nhìn của Khương Nhu dời lên mắt anh ta: “Trong mắt có tia máu, dạo này rất mệt, hoặc ngủ ít.”

Đó là một đôi mắt bình lặng, đồng tử sâu như giếng, thoạt trông tưởng như mặt nước phẳng lặng, đến khi cô dồn toàn bộ chú ý mà nhìn, mới phát hiện dưới đó còn có những dòng chảy ngầm.

Cô không khỏi tò mò, dưới bề ngoài dửng dưng ấy, rốt cuộc anh ta đang nghĩ gì?

Không ai lên tiếng, tiếng bút chì sột soạt hòa cùng âm thanh video ở quầy thu ngân.

Khương Nhu khựng lại.

Bản tin trước vừa dứt, người dẫn bắt đầu đọc tin tiếp theo: “Đêm qua, nữ sinh mười bảy tuổi Từ Tĩnh Như mất tích gần sông Thanh Thủy, đã mất liên lạc hai mươi bốn giờ, nghi kẻ giết người hàng loạt im ắng suốt nhiều ngày lại ra tay.”

“Kính mong đông đảo người dân nếu có manh mối liên quan xin gọi đường dây nóng cảnh sát.”

“Người thứ tư rồi à?”

Khương Nhu dừng tay, không giấu được kinh ngạc: “Không phải hung thủ đã lâu không gây án sao? Có khi nào chỉ là bỏ nhà đi bụi, cô bé này giận dỗi nên không liên lạc với nhà không?”

So với nỗi bất an của cô, Lý Hoài Chu điềm tĩnh hơn nhiều: “Dù có giận, thấy tin tức tràn ngập cũng phải về. Đến giờ vẫn không có tin, chứng tỏ đã xảy ra chuyện.”

Anh ta liếc gương mặt phủ đầy mây sầu của Khương Nhu: “Còn vẽ nữa không?”

Khương Nhu gật đầu, siết bút lại: “Mong là cô ấy không sao…”

Từ nhỏ cô đã có khả năng giữ bình tâm, có thể nhanh chóng bình ổn cảm xúc, tập trung làm một việc.

Tiếng sột soạt như tằm xuân gặm lá dâu dần vang lên, thỉnh thoảng Khương Nhu ngẩng đầu, in kỹ gương mặt Lý Hoài Chu vào trong óc.

Gò má cao, đường viền hàm hơi cứng, thói quen mím môi, là một người ít cười.

Đối với cô gái mất tích kia, dường như anh ta chẳng hề đồng cảm, từ đầu đến cuối vẫn giữ một vẻ bình thản lạnh lùng, ngay cả cau mày cũng keo kiệt, là một kẻ đứng ngoài điển hình.

So với anh ta, Khương Nhu giống một con chim sợ cành cong.

Bởi nạn nhân đều là phụ nữ, còn anh ta là đàn ông, phải chăng trong vụ án giết người tàn độc này anh ta đứng ngoài cuộc?

Lý Hoài Chu hỏi: “Còn nhìn ra gì nữa?”

Khương Nhu giật mình hoàn hồn.

“Ánh mắt anh rất đặc biệt.”

Cô cân nhắc từ ngữ: “Không giống người khác.”

“Có thể nói cụ thể không?”

“Khi anh nhìn người khác…”

Khương Nhu nghĩ một lúc: “Rất điềm tĩnh, thường mang theo sự xét đoán, không phải kiểu một đường thẳng.”

Lý Hoài Chu không đáp.

“Đôi khi tôi thật sự tò mò, trong đầu anh đang nghĩ gì.”

Hứng chí nổi lên, Khương Nhu hỏi: “Vụ án mạng này, anh thấy sao?”

Lý Hoài Chu không trả lời mà hỏi ngược: “Còn cô?”

“Tôi á?”

Cô nói thẳng: “Hung thủ là một kẻ b**n th** thuần túy, bắt được thì nên xử tử ngay.”

Ngày hai người trò chuyện lần đầu, Khương Nhu cũng từng hùng hổ chửi “b**n th**”.

Tiếng cười khẽ tràn ra từ cuống họng Lý Hoài Chu: “Còn gì nữa không?”

“Tôi không rành điều tra hình sự các thứ, nhưng mấy hôm nay xem rất nhiều phân tích.”

Khương Nhu trầm ngâm suy nghĩ: “Tám phần hung thủ là nam, bắt cóc giết hại các cô gái trẻ là để thỏa mãn d*c v*ng chinh phục.”

“d*c v*ng chinh phục?”

“Nếu chỉ theo đuổi chuyện giết người, hắn chẳng cần phải giam nạn nhân mười lăm ngày để tra tấn.”

“Có một blogger khoa phổ nói, hung thủ bị dồn nén nội tâm, tự ti rất nặng, cảm xúc tiêu cực tích lũy tới mức bùng nổ, thúc đẩy hắn chọn giết người để trút xả.”

“Giam cầm và tra tấn bởi vì trong đời sống hắn không có được sự tôn trọng và cảm giác kiểm soát mong muốn, nên dùng cách này để đặt mình lên trên nạn nhân, hắn tận hưởng cảm giác làm chủ sống chết của người khác.”

Tuôn một tràng xong, Khương Nhu chốt hạ: “Tổng kết lại, đây là một thằng khốn tâm lý vặn vẹo, đời thực trắc trở, yếu đuối đến tột cùng, đáng xuống địa ngục.”

Cửa hàng tiện lợi rơi vào tĩnh mịch quái lạ.

Không nghe thấy hồi đáp, cô ngẩng đầu nhìn Lý Hoài Chu.

Anh ta vẫn không lộ sắc thái, yên tĩnh, lãnh đạm, lặng im.

Nhưng Khương Nhu lại bỗng rùng mình, như bị con rắn ẩn nơi tối đen cắn một phát vào sống lưng.

“Rất có lý.”

Cảm giác quái dị chỉ kéo dài hai giây, Lý Hoài Chu mỉm cười với cô: “Tất cả nạn nhân đều bị giam mười lăm ngày, hắn hẳn có nhà riêng độc lập.”

“Đúng.” Khương Nhu đón lời, “Và sống một mình.”

Giết người và vứt xác ắt có động tĩnh, nếu nhà hung thủ còn người khác, nhất định sẽ thấy có điều khả nghi.

“Những gì chúng ta nghĩ ra, chắc cảnh sát đều biết rồi.”

Cây bút chì xoay một vòng trong tay, Khương Nhu nói: “Nhà tự xây ở Giang Thành nhiều vô kể, chỉ dựa vào chừng này manh mối, căn bản không thể định vị chính xác.”

Hung thủ của vụ này cực kỳ cảnh giác.

Nơi gây án chọn chốn hoang vu, một là không nhân chứng, hai là không camera, trên thi thể nạn nhân lại không tìm thấy dù chỉ chút DNA hay dấu vân tay.

Không một bằng chứng, ai cũng bó tay.

Càng nghĩ, Khương Nhu càng nản: “Mong cảnh sát sớm bắt hắn về quy án đi. Đáng sợ quá, tôi đến một mình quay về trường còn chẳng dám, ngày nào cũng nơm nớp lo sợ.”

“Cô cứ đi đường lớn, đi tàu điện ngầm, theo chỗ có đèn, đừng tới nơi hẻo lánh vắng người.”

Lý Hoài Chu nói: “Đợi tôi chuyển sang ca ngày…”

Cửa cảm ứng bất chợt mở ra, gió đêm cuốn theo bông tuyết ập vào, có khách mới bước vào cửa hàng.

Anh ta im bặt.

Đợi khách đi về dãy kệ bên cạnh, Lý Hoài Chu lên tiếng, giọng vừa đủ cho hai người nghe: “Khi tôi trực ca ngày, ban đêm rảnh. Cô tan học, tôi có thể đưa cô về.”

“Vậy phiền anh quá.”

Khương Nhu mừng đến bối rối.

“Không phiền. Tôi ở một mình, tan ca về nhà chẳng có việc gì làm, cũng chán lắm.”

Lý Hoài Chu cười, trấn an cô khỏi căng thẳng: “Cứ coi như tiện đường đi dạo.”

Giờ đây Giang Thành người người hoang mang, phụ nữ đi một mình ngoài đường rốt cuộc có rủi ro.

Có người chịu đưa cô về tận nơi, đúng là niềm vui ngoài dự liệu.

“Cảm ơn anh, tôi…”

Không muốn nhận không phần tốt của anh, Khương Nhu gãi đầu, vành tai đỏ hồng: “Vậy thế này nhé, anh đưa tôi về trường, đổi lại khi rảnh tôi mời anh bữa cơm, anh thấy được không?”

Không biết câu nào chạm vào, Lý Hoài Chu lặng lẽ nhìn cô.

Bóng sáng đan xen, bóng anh ta in trên tường như con rắn độc ẩn náu chầm chậm ngẩng đầu, nhìn xuống từ trên cao.

Chạm mắt với Khương Nhu, anh ta cười dịu dàng: “Ừ. Đừng sợ, tôi nhất định… sẽ bảo vệ cô.”

Lời tác giả:

Sắp vào giai đoạn diễn biến mới rồi! (xoa tay). Có chị em hỏi sao Lý Hoài Chu không ra tay với bọn du côn: chủ yếu là giết chúng thì anh ta sẽ thành đối tượng tình nghi, bị cảnh sát điều tra, hơn nữa rất có thể không đánh lại nam thanh niên khỏe mạnh; chọn mục tiêu ngẫu nhiên dùng dao mới an toàn hơn ~

Khương Nhu: Tâm lý vặn vẹo, đời thực không suôn sẻ, yếu đuối đến cực hạn, đáng xuống địa ngục.

Lý Hoài Chu: Rất tức nhưng chỉ có thể mỉm cười [nhún vai]
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 9


Lý Hoài Chu cười lạnh trong lòng.

Nạn nhân đã bị theo dõi lại tự cho rằng mình được bảo vệ, nào hay người sắp ở riêng với cô mới chính là hung thủ, đây đúng là trò cười thú vị nhất anh ta từng nghe.

Nhân lúc Khương Nhu vẽ ký họa, anh ta cố ý bật tin tức về vụ án giết người liên hoàn. Lý Hoài Chu muốn bắt trọn khoảnh khắc thoáng qua trên gương mặt cô.

Là sợ hãi, kinh ngạc, phẫn nộ, hay là bi thương xót thương cho cô học sinh cấp ba kia?

Phản ứng của Khương Nhu không làm anh ta thất vọng. Cô bộc lộ trọn vẹn trạng thái đúng như hắn trông đợi, khiến anh ta nảy sinh kh*** c*m như mèo đùa chuột.

Đề nghị đưa Khương Nhu về trường tất nhiên cũng chẳng phải vì “nghĩ cho cô” mà lòng tốt trào dâng, mà là để đi thăm dò địa bàn trước.
Ngoài ra còn một lý do nữa.

Đối với Khương Nhu, Lý Hoài Chu tuyệt đối không hề hoàn toàn buông lỏng cảnh giác. Một người phụ nữ bỗng nhiên tỏ ra thiện ý với anh ta, vì đề phòng, anh ta buộc phải thử thăm dò: liệu Khương Nhu có phải là cảnh sát ngụy trang không.

Nếu thực sự là sinh viên, cô nhất định phải có thẻ trường, lại có thể qua nhận diện khuôn mặt mà vào cổng Đại học Giang. Lý Hoài Chu phải tận mắt xác nhận mới có thể yên tâm trăm phần trăm.

Phần lớn thời gian ở cạnh Khương Nhu, Lý Hoài Chu đều ung dung thong thả, điểm duy nhất cụt hứng chính là cô lại tiến hành một kiểu phân tích giống lập hồ sơ chân dung thủ phạm về vụ án. Nghe xong bài độc thoại dài dằng dặc của Khương Nhu, Lý Hoài Chu suýt nữa bật cười khẩy.

Anh ta có bị đè nén không? Có khao khát khống chế không? Có cần trút xả không? Có lẽ là có.

Lý Hoài Chu hiểu rất rõ, anh ta trông chờ được nghe lời van xin của từng nạn nhân, hưởng thụ từng giọt nước mắt họ rơi xuống, tạm thời giữ lại cái mạng của Khương Nhu, cũng là vì còn muốn đùa bỡn cô một phen.

Anh ta vốn là đồ khốn kiếp, thì đã sao. Lý Hoài Chu chưa từng tự phong mình là người tốt.

Bất cứ lời lẽ bẩn thỉu nào anh ta cũng có thể làm như không nghe, vậy mà Khương Nhu còn nói, hung thủ ngoài đời không thuận, sở dĩ gây án là vì tự ti đến cùng cực. Khi ấy, Lý Hoài Chu phải dốc sức kìm nén mới không để lộ vẻ khinh miệt trên mặt. Anh ta thấy vừa nực cười vừa buồn cười, đồng thời nếm trải cơn phẫn nộ bị sỉ nhục và bị xem nhẹ, âm thầm siết chặt nắm tay.

Một kẻ liên tục giết ba phụ nữ, làm sao có thể tự ti, làm sao có thể “yếu đuối đến cực điểm”? Anh ta khống chế tất cả, ngay cả mạng người cũng có thể nắm gọn trong tay, tùy ý vò nát, hủy diệt.

Lý Hoài Chu nhìn Khương Nhu, như đang xem một màn độc diễn vụng về đầy lỗ hổng. Anh ta không thể phản bác để lộ thân phận, đành cưỡng ép đè nén cảm xúc, ép xuống nỗi bực bội nơi ngực, cùng Khương Nhu bàn luận về hung thủ, thưởng thức vẻ bối rối bất an mà bất lực của cô.

Đêm ấy gió yên sóng lặng, Khương Nhu vẽ xong tranh tốc họa, chào một tiếng rồi rời đi.

Hôm sau, Lý Hoài Chu trực ca ngày. Vốn mấy hôm nay anh ta phải làm liền mấy ca đêm, đồng nghiệp đổi ca xin nghỉ, Lý Hoài Chu làm xong ca đêm lại bị điều tạm sang ban ngày, thức trắng cả đêm.

Tan ca xong, anh ta cố ý nán lại đến tám giờ, đúng lúc Khương Nhu tan học.

Khương Nhu vẫn như thường lệ bước vào cửa hàng tiện lợi, không thấy Lý Hoài Chu ở quầy thu ngân thì ngẩn ra một thoáng. Mãi đến khi liếc thấy bóng người bên cửa sổ, cô mới nở nụ cười: “Sao lại có nhân viên khác thế? Hôm nay anh không làm à?”

“Đồng nghiệp ca ngày xin nghỉ, tôi thay ca cho cậu ấy.” Lý Hoài Chu giải thích: “Giờ tôi tan ca rồi, vừa ăn tối xong.”

“Vừa ăn tối xong” là cái cớ anh ta tự đặt ra cho chuyện đợi cô đến tận bây giờ.
Dù sao cũng đâu thể nói toạc ra rằng anh ta đã sớm nôn nóng muốn theo Khương Nhu ra ga tàu điện ngầm để thăm dò.

“Nhưng tối qua anh cũng ở đây…” Khương Nhu hỏi: “Anh đã hai mươi tư tiếng chưa ngủ rồi à?”

Lý Hoài Chu không ngờ điều đầu tiên cô quan tâm lại là chuyện này. Sự quan tâm thẳng thắn như thế với anh ta quá đỗi xa lạ, trong lòng như bị gãi khẽ một cái, kéo theo cổ họng cũng ngứa ngáy.

“Không sao.” Anh ta nói: “Tôi quen rồi.”

“Dẫu vậy cũng phải nghỉ ngơi cho tử tế.” Khương Nhu không tán đồng ra mặt: “Anh ăn xong thì mau về nhà chợp mắt đi, bảo sao quầng thâm còn nặng hơn hôm qua.”

Lý Hoài Chu mỉm cười: “Còn cô? Cô định đi đâu?”

“Tôi á?” Khương Nhu hích lại quai balo lên vai: “Tôi đi cho mèo ăn, rồi ngồi tàu điện ngầm về trường. Anh đi cùng không?”

Hóa ra cô vẫn còn cho bầy mèo đó ăn.

Lý Hoài Chu khó mà hiểu nổi, mấy con vật chẳng biết nhân tính thì có thể nuôi nấng thành tình cảm sâu đậm được bao nhiêu? Nhưng anh ta vẫn gật đầu: “Chẳng phải đã nói rồi sao? Tôi mà trực ban ngày thì sẽ đưa cô về.”

Đợi Khương Nhu mua ít đồ ăn vặt xong, hai người sóng vai bước ra khỏi cửa hàng tiện lợi, men theo con hẻm mà đi. Lý Hoài Chu đi cạnh Khương Nhu, sắc bén nhận ra so với lần đầu cho mèo ăn, lần này cô đứng sát hơn. Một khoảng cách vừa không quá thân mật, cũng chẳng xa cách.

Bị ảnh hưởng bởi vụ án giết người liên hoàn, trong lòng Khương Nhu không yên, âm thầm dịch lại phía anh ta, thỉnh thoảng còn đảo mắt nhìn quanh, xác nhận gần đó không xuất hiện kẻ khả nghi.

Lý Hoài Chu hỏi: “Cô rất sợ hắn à?”

Không cần nghĩ nhiều, Khương Nhu đã đoán ra “hắn” là ai.

“Tất nhiên là sợ.” Cô ậm ừ đáp: “Hắn đã giết ba người rồi.”

Câu nói bỗng khựng lại, cô đột ngột dừng chân. Đằng trước vang lên tiếng lăn của kim loại, đợi nhìn rõ đó là một chiếc lon bị gió thổi qua, Khương Nhu mới thả lỏng, nói nốt phần dang dở: “Giờ rất có thể sẽ gây ra vụ thứ tư, cả Giang Thành ai mà chẳng sợ?”

Bước vào trong hẻm, có hai con mèo nhận ra Khương Nhu, thấy cô liền “meo meo” mấy tiếng.

Khương Nhu cười tít mắt, thân thiết như đang đối đãi với bạn cũ: “Nhớ chị hả? Đừng vội, cho các em ăn ngay đây.”

Lý Hoài Chu không hiểu: “Chúng nghe hiểu à?”

“Nghe nói là hiểu.” Khương Nhu nói: “Mèo chó đều có trí khôn, cỡ trẻ con chừng hai tuổi.”

Làn gió lạnh thổi qua, cô rụt mặt vào trong khăn quàng, đôi mắt lộ ra ngoài sáng long lanh: “Anh cũng có thể nói chuyện với chúng, biết đâu lại có hồi đáp.”

Lý Hoài Chu không nói có cũng chẳng nói không, khẽ gật đầu: “Cho mèo ăn đi.”

Qua mấy ngày qua lại, Khương Nhu đã gần gũi với anh ta hơn nhiều. Trước khi rải đồ ăn cho mèo, cô ngoắc ngoắc tay với Lý Hoài Chu: “Anh cũng thử xem.”

Thế là anh ta cũng ngồi xổm bên bát mèo, cùng Khương Nhu đổ những hạt cám tròn trịa vào trong.

Bọn mèo hoang ở đây biết Khương Nhu, không cảnh giác với cô, còn Lý Hoài Chu là người hoàn toàn xa lạ, khiến mấy con mèo sinh lòng đề phòng.

Trong bóng tối dưới mái hiên, mắt mèo như lửa quỷ lập lòe. Lý Hoài Chu lạnh lùng đối mắt với chúng.

“Đừng sợ, anh ấy là bạn chị.” Khương Nhu vẫn tiếp tục cuộc độc thoại vô nghĩa với mèo, đẩy cái bát lên phía trước: “Nào, ăn đi.”

Thật lạ, có lẽ vì cảm nhận được thiện ý của cô, con mèo ẩn dưới mái hiên vểnh tai, dò dẫm tiến lại gần. Chẳng mấy chốc, trên nền tuyết nở rộ từng bông “mai” nhỏ, năm sáu con mèo hoang từ nhiều hướng túm tụm, l**m láp đồ ăn trong bát.

Khương Nhu đắc ý ra mặt: “Thấy chưa, tôi đã bảo rồi mà, chúng ngoan lắm.”

Vừa nói, cô vừa đưa tay phải ra xoa đầu một con mèo đen. Mèo kêu “meo meo” hai tiếng, chóp đuôi quét qua mặt đất phủ tuyết, lười nhác nheo mắt, cọ cọ vào lòng bàn tay cô. Đêm đông, ánh sáng mờ, tiếng mèo gừ êm từ trong cổ họng.

Cơn gió lùa qua con hẻm cuốn theo một mùi hương nhè nhẹ, chính là mùi tóc vừa gội của Khương Nhu. Lý Hoài Chu chưa từng nghĩ, cảnh tượng như thế này lại xảy đến với mình.

Tiếng bầy mèo ăn uống dần lấp đầy con hẻm, bên tai anh ta vang lên tiếng cười khẽ của người đứng cạnh: “Anh không sờ thử à? Mèo sạch lắm, tự nó chải chuốt vệ sinh, không bẩn đâu.”

Anh ta nghiêng đầu, chạm vào gương mặt hứng thú ngời ngời của Khương Nhu. Cô bĩu bĩu môi, ra hiệu anh ta nhìn xuống.

Ánh sáng trong hẻm vàng vọt, cái bóng của Lý Hoài Chu đổ xuống như mực, vừa khéo trùm lên một con mèo vằn ở ngay bên chân. Trước đây anh ta đã từng sờ mèo chưa?

Lý Hoài Chu mặt không biểu cảm mà nhớ khô, hồi bé chắc là có. Quãng thời gian ấy anh ta không bạn bè, cũng chẳng đồ chơi, chỉ còn biết bắt chuồn chuồn, bắt chim để giải trí.

Đa số động vật đều không ưa anh ta. Lý Hoài Chu cũng chẳng ưa đám động vật ấy, chuồn chuồn bắt được, anh ta sẽ từng chút một xé cánh, nhốt vào hộp giấy mặc cho tự sinh tự diệt. Còn chim, anh ta nhổ lông, bẻ gãy xương, làm thành tiêu bản để chơi.

Khương Nhu chủ động gợi ý, Lý Hoài Chu không từ chối. Con mèo vằn ở ngay tầm tay, chỉ cần đưa tay ra là chạm được.

Không ngờ, khi Lý Hoài Chu khom người, con mèo kia nhe răng ré lên một tiếng, vọt nhanh vào bóng tối.

“Không sao không sao, chuyện này bình thường lắm.” Khương Nhu vội trấn an: “Mèo hoang không thân người, thấy người lạ tới gần là hoặc gầm gừ với anh hoặc chạy mất. Mấy lần đầu tôi tới, bọn nó cũng hờ hững với tôi, cáu lên còn giơ vuốt cào, gặp vài lần là thân hơn ngay.”

Đồ súc sinh đáng chết.

Lý Hoài Chu giấu đi vẻ bực bội, khẽ nhếch khóe môi: “Ừ.”

Mùa đông, mèo hoang rất khó kiếm ăn, bụng đói cả ngày nên chạm vào hạt là ăn lấy ăn để. Vài cái bát sắp trơ đáy, hai người chuẩn bị dọn thì đầu hẻm vang lên tiếng chân.

Nghe động tĩnh, không chỉ một người.

Vài bóng người dập dềnh như sóng ngầm, tràn vào con hẻm chật hẹp, chiếm gần hết lối. Chuông cảnh báo trong đầu bất chợt rú lên, Lý Hoài Chu ngoảnh lại. Sắc mặt anh ta lập tức lạnh hẳn.

Kẻ đứng ở miệng hẻm chính là đám du côn hay mò vào cửa hàng tiện lợi gây sự. Từ lần bị Khương Nhu cảnh cáo, chúng chưa dám quậy nữa, ai ngờ oan gia ngõ hẹp, tối nay lại chạm mặt đúng chỗ này.

Sắc mặt Khương Nhu cũng đổi, khẽ dịch người áp sát về phía Lý Hoài Chu.

“Lâu ngày không gặp.” Gã thanh niên đầu đinh bên trái cười giả lả, nụ cười không tới mắt: “Cho mèo ăn hả? Có gu ghê.”

Một tên vạm vỡ khác gằn giọng: “Nói nhảm với bọn nó làm gì.”

Tiếng “rắc rắc” bẻ khớp tay vang lên rành rọt trong hẻm.

“Càng nghĩ tao càng tức.” Tên tóc vàng đứng giữa đám, mắt mũi âm u độc địa: “Còn muốn quay clip báo cảnh sát à? Lần trước không phải tao say, đến lượt tụi bây làm màu chắc?”

Giọng Khương Nhu run run: “Các người muốn làm gì?”

“Chẳng làm gì cả.” Tóc vàng nhếch mép: “Sao, hôm nay không quay không báo nữa hả? Vốn định chặn mỗi mày thôi, cơ mà thằng nhóc này cũng có mặt thì…”

Rõ ràng chúng có chuẩn bị, cố ý chờ sẵn trong hẻm để chặn người.

Khương Nhu gần như tối nào cũng ra cho mèo ăn, nắm thóp lịch trình của cô chẳng khó.

Đám khách không mời mà tới ai nấy trông dữ như quỷ, bầy mèo hoang cảm thấy nguy, đồng loạt cong lưng dựng tai. Giữa một tiếng mèo ré sắc, Khương Nhu run tay lôi điện thoại, định gọi cảnh sát.

Tóc vàng: “Đập điện thoại nó cho tao.”

Đầu đinh lập tức nhào lên, sải chân dài bổ thẳng về phía Khương Nhu, theo phản xạ, cô nghiêng người nép vào Lý Hoài Chu. Đó là phản ứng đầu tiên do tiềm thức dẫn dắt, Khương Nhu đang cầu mong anh ta che chở.

Lý Hoài Chu hiểu mình nên làm gì. Chưa đợi đầu đinh chạm tới Khương Nhu, Lý Hoài Chu bước chéo sang phải, chắn chặt cô ra phía sau lưng.

Mấy lần va chạm với bọn côn đồ trước đây cùng lắm cũng chỉ dừng ở trêu chọc với chửi rủa, lần này, Lý Hoài Chu không nghĩ chúng sẽ thật sự động thủ. Không ngờ bị chặn đường ngay lúc này, đầu đinh tức điên, từ động tác giật điện thoại liền đổi sang giơ tay đấm, nhắm thẳng vào mặt.

Bộp!

Tiếng nắm đấm nện lên da thịt đục nặng. Cùng lúc là tiếng mèo dựng lông rít lên và tiếng Khương Nhu quát: “Dừng tay! Ở đây có camera giám sát!”

Chắc là cô nói vậy, nhưng Lý Hoài Chu nghe không rõ.

Cú đấm kèm theo luồng gió rít, phang mạnh vào cạnh mặt anh ta. Cơn đau như pháo hoa nổ tung trong hộp sọ: mặt rát, xương cũng rát, tai ong ong không dứt, âm thanh bên ngoài hóa thành một mớ tạp âm trắng.

Không biết qua bao lâu, đến khi đau đớn dần dịu, Lý Hoài Chu mới nghe được tiếng Khương Nhu lo lắng dồn dập: “Anh thế nào rồi? Còn tỉnh táo không?”

Lý Hoài Chu quỳ nửa gối trên đất, chớp mắt ngây dại, nói cũng khó: “Không sao.”

Dĩ nhiên đó không phải sự thật, anh ta đau đến muốn chết.

Đồ ngu, anh ta thầm chửi mình, sao còn làm liều bước ra chắn một bước ấy? Sớm biết đầu đinh sẽ không nói không rằng vung nắm đấm, Lý Hoài Chu đã chẳng manh động như thế.

Nhìn lại đầu hẻm, bóng đám côn đồ đã biến mất.
Cơn đau lan dọc chân răng, đầu lưỡi nếm vị rỉ sắt, chắc lợi đã rỉ máu.

Lý Hoài Chu hỏi: “Chúng đâu rồi?”

“Tôi bảo ở đây có camera, là tụi nó chạy sạch.” Khương Nhu áy náy bất an, đồng tử ngân ngấn nước: “Ban đầu chúng định ra tay với tôi, kết quả anh lại lao tới chắn…”

Lý Hoài Chu cắt ngang: “Không sao.”

Nhịp thở đứt quãng đã tố cáo lời nói dối của anh ta.

Mây đen tản bớt, ánh trăng lại rỏ vào con hẻm, Lý Hoài Chu chạm lên chỗ bị đánh, đau đến muốn nổ tung.

“Sưng to quá.” Ngón trỏ Khương Nhu lơ lửng cách má anh ta nửa tấc, muốn chạm mà không dám: “Còn sức đứng dậy không? Tôi đưa anh tới bệnh viện.”

Lý Hoài Chu: “Không cần.” Anh ta vịn tường đứng lên: “Không nặng lắm, tôi về nhà bôi thuốc là được.”

Đầu đinh khựng tay vào giây chót, không nện quá độc.

“Nhưng mà…” Khương Nhu luống cuống tay chân, thấy anh ta loạng choạng, bèn lấy hết can đảm bước tới, đỡ lấy cánh tay Lý Hoài Chu.

Lần đầu gặp chuyện thế này, mặt cô trắng bệch đến dọa người: “Để tôi dìu anh, mình ghé hiệu thuốc trước nhé.”

Qua lớp áo dày mùa đông, cảm giác từ lòng bàn tay Khương Nhu mơ hồ mỏng nhẹ, không thật rõ ràng. Ngay sau đó, mùi dầu gội thoang thoảng ập đến gần. Lại gần hơn nữa, Lý Hoài Chu nhận ra toàn thân cô đang run. Thì ra cô đã sợ hãi đến tột cùng.

Đêm tĩnh lặng, ánh trăng xẻ chéo giữa hai người, cả thế giới chỉ còn những đường viền lờ mờ. Khương Nhu áp sát bên hông anh ta, đầu ngón tay níu chặt tay áo Lý Hoài Chu: “Tôi hơi sợ… cho tôi bình tâm một lát, được không?”

Cô đang dựa dẫm vào anh ta ư?

Sự thật ấy khiến máu trong người Lý Hoài Chu sôi nóng. Một thứ kh*** c*m lạ hoắt lao thẳng l*n đ*nh đầu, anh ta cố nén cơn thôi thúc muốn bóp cổ cô, khẽ “Ừ” một tiếng.

“Cảm ơn anh.” Giọng Khương Nhu vẫn run không dừng: “Nếu không có anh thì…”

“Là vì tôi nên bọn chúng mới ám lấy cô.” Lý Hoài Chu nói: “Có trách, cũng nên trách tôi.”

“Không đúng, sao tự dưng chúng ta lại ôm phần trách nhiệm của nhau vậy?”

Khương Nhu mạnh tay lau khóe mắt: “Là lỗi của đám du côn đó! Đi, mình tới báo án. Đầu hẻm với cuối hẻm đều có camera, việc chúng làm tối nay, tất tần tật đều được ghi lại.”

Không được. Anh ta không thể dây dưa với cảnh sát.

Lý Hoài Chu: “Không cần.”

Khương Nhu không hiểu nổi: “Vì sao? Bọn họ tính là cố ý gây thương tích, mình có giám sát, báo là chắc như bắp.”

“Rắc rối lắm. Tôi bị nhẹ thôi, cùng lắm bọn chúng bồi thường chút tiền. Đến khi ầm ĩ lên, mâu thuẫn leo thang, sau này càng khó giải quyết.” Anh ta bịa ra một cái cớ cho hợp lý: “Giờ mình có video làm chứng, chỉ cần nó không bị tiêu hủy, đám đó sẽ không dám dễ dàng ra tay nữa.”

Khương Nhu lặng lẽ ngậm miệng.

Đêm nay người ăn đòn là Lý Hoài Chu, anh ta không muốn báo cảnh sát, cô không thể ép.

Cạnh ga tàu điện ngầm có một hiệu thuốc, hai người ghé mua ít thuốc, nhân viên xem qua nói anh ta không bị nặng.

Lý Hoài Chu quen đòn đau từ nhỏ, chẳng mấy để tâm, còn Khương Nhu thì nhíu mày, lo lắng thấy rõ.

Qua tấm gương ở cửa hiệu thuốc, Lý Hoài Chu trông rõ mặt mình. Anh ta thức trắng cả đêm, làm việc quay như chong chóng suốt một ngày một đêm, hai mắt giăng đầy tơ máu đỏ như mạng nhện, thêm vết thương, cả mảng sưng to chiếm nửa bên mặt, trông hơi rợn.

Khương Nhu nhìn anh ta, phải đến mười giây liền.

Cô nói: “Để tôi đưa anh về nhà nhé.”

“Đưa tôi?”

“Trông anh,” Khương Nhu hạ giọng, “Không được ổn cho lắm.”

Chính xác mà nói là chực chờ đổ sụp. Ai nhìn cũng phải lo, không khéo Lý Hoài Chu đang đi lại choáng váng ngã sõng soài.

Cô mang vẻ áy náy: “Anh là vì chắn cho tôi mới bị thương, không nhìn anh về nhà đàng hoàng, lương tâm tôi cắn rứt lắm.”

Đến nhà anh ta? Lý Hoài Chu ho khẽ hai tiếng, che đi nụ cười vừa trào lên cổ họng. Trong tầng hầm nhà anh ta, vẫn đang giấu cô nữ sinh cấp ba tên Từ Tĩnh Như kia.

Lý Hoài Chu không lên tiếng, Khương Nhu coi sự im lặng ấy là ngầm cho phép, rút điện thoại nhắn tin: “Anh chờ chút. Bạn cùng phòng tôi khỏi bệnh rồi về lại rồi, để tôi báo một tiếng, hôm nay tôi về ký túc trễ.”

Cô lầm rầm: “Có nên bật chia sẻ vị trí với cô ấy không nhỉ? Chờ anh về đến nhà, tôi còn phải một mình về trường…”

Thế thì mất vui rồi. Sao phải báo cáo hành trình cho người khác? Nhỡ Khương Nhu gặp chuyện, phía cảnh sát sẽ nghi anh ta đầu tiên.

Lý Hoài Chu liếc cô một cái, không ưng cái sự cảnh giác không đúng lúc này.
Để anh ta nghĩ đã.

Khóa ở tầng hầm không thể mở từ bên trong, cách âm tuyệt đối, Từ Tĩnh Như không thể phát ra tiếng động, càng không thể thoát. Tuy nói đêm nay sẽ chưa động thủ với Khương Nhu, nhưng dẫn cô đến căn nhà đó xem qua cũng hay.
Cô chẳng phải vẫn canh cánh lo cho an nguy của Từ Tĩnh Như, “hy vọng cô ấy không sao” ư?

Đợi đến một ngày, Lý Hoài Chu nhốt luôn Khương Nhu vào tầng hầm, anh ta có thể thành thật kể với cô: Khi Từ Tĩnh Như bị hành hạ đến sống dở chết dở, thì cô ở ngay trên mặt đất, cách đó vài mét, hết mực quan tâm, hết mực dịu dàng, chăm sóc cho một tên sát nhân với những vết thương trên người như hắn.

Ha. Bi hài nhân gian, nghe mà buồn cười.

Đã lâu lắm rồi Lý Hoài Chu mới lại nôn nóng đến vậy.

Tiếng ngón cái gõ lên màn hình dần nhỏ đi, Khương Nhu bấm tắt điện thoại, mỉm cười với anh ta: “Tôi nhắn xong rồi.”

“Đi thôi.” Khóe môi Lý Hoài Chu nhúc nhích: “Về nhà tôi.”

Lời tác giả:
Sắp tới rồiii~ [OK] Chị em ra ngoài cũng phải giữ cảnh giác nhé!
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 10


Khương Nhu lên chuyến tàu điện ngầm hướng về nhà của Lý Hoài Chu.

Theo quy luật cô rút ra, tên sát nhân liên hoàn có chu kỳ gây án cố định: trong mười lăm ngày hắn bắt cóc giam giữ một nạn nhân, sẽ không ra tay với người khác. Tính thời gian, cô nữ sinh cấp ba tên Từ Tĩnh Như đã mất tích hai ngày, không biết hiện cô ấy có bình an không.

Nhận thức ấy nặng như quả cân rơi vào lòng, Khương Nhu âm thầm cầu nguyện cho cô ấy.

Dĩ nhiên, tuy khả năng hung thủ gây án lúc này không lớn, cô vẫn giữ cảnh giác, để phòng bất trắc, cô bật chia sẻ vị trí với bạn cùng phòng.

Lên tàu rồi, Lý Hoài Chu có vẻ hiếu kỳ hỏi cô: “Nghe nói sinh viên Giang Thành có ưu đãi giao thông à?”

“Tàu điện thì không, là xe buýt.” Khương Nhu thành thật nói: “Sinh viên có thẻ liên thông riêng, quẹt thẻ thì giảm nửa giá.”

“Thẻ liên thông riêng? Khác với thẻ của bọn tôi à?”

“Chắc cũng không khác gì lớn đâu…” Khương Nhu nghiêng đầu, rút từ túi ra chiếc thẻ xe buýt mang theo bên người: “Nó thế này này, in logo của trường.”

Thân thẻ vuông vức, giữa là tên và ảnh của người sở hữu.

Trong ảnh, Khương Nhu mặc sơ mi trắng, như mọi ảnh giấy tờ khác, gần như không biểu cảm. Góc trái phía trên là bốn chữ ngay ngắn “Đại học Giang Thành”.

Lý Hoài Chu nhìn mấy giây, cười với cô: “Làm sinh viên sướng ghê, ăn Haidilao cũng rẻ hơn, phải không?”

Nói xong câu đó, câu chuyện lái sang hướng khác, Khương Nhu cùng anh ta tán gẫu về các món ngon vặt khắp Giang Thành, bầu không khí hòa hợp.

Nhà Lý Hoài Chu ở rìa Giang Thành, xuống tàu điện ngầm xong còn phải đi bộ một đoạn. Khương Nhu đi sát bên anh ta, đảo mắt nhìn khắp.

Ở đây đa phần là nhà tự xây cao hai ba tầng, càng xa ga tàu, nhà cửa càng thưa. Đèn đường mờ ám, rải những quầng sáng vỡ vụn ở các ngã hẻm, mấy đốm đỏ ẩn nấp trên đỉnh cột điện, như đồng tử của loài động vật sống về đêm.

Là camera giám sát.

Lý Hoài Chu nói: “Sau khi xảy ra án, ở đây lắp thêm kha khá mắt giám sát.”

Vừa dứt lời, gió đêm cuốn lá khô lướt qua cổ chân.

Khương Nhu bồn chồn chẳng yên, giật thót người, lại dịch về phía Lý Hoài Chu nửa tấc.

Anh ta khẽ cười: “Vẫn sợ à?”

“Gọi là cảnh giác ấy.”

Khương Nhu vỗ vỗ ngực, nghiêm túc tự biện hộ cho mình: “Giữ đề phòng chặt chẽ một chút, rốt cuộc cũng không phải chuyện xấu.”

Giọng Lý Hoài Chu u uất vang tới: “Cũng phải. Biết đâu hung thủ vụ kia đang sống ngay quanh đây.”

Khương Nhu giật mình nhìn anh ta, ngẫm kỹ ra, câu này quả có mấy phần hợp lý. Trước đó khi cô và Lý Hoài Chu phân tích đặc trưng hung thủ, đã nói đến chín phần hắn ở nhà riêng độc lập, lại không nằm trong nội thành.

Sống một mình, vắng vẻ, hành tung khó bị người khác để ý… chẳng phải chính là chỗ này sao?

Trí tưởng tượng là thứ đáng sợ nhất. Khi nhận ra điều đó, sau một khung cửa sổ đen kịt nào đó quanh đây như thực sự xuất hiện ánh nhìn rình rập, khiến người ta tê dại cả da đầu.

“Dừng dừng.” Khương Nhu kéo chặt áo phao, giơ tay làm dấu cấm: “Tôi nổi hết cả da gà rồi này.”

Lý Hoài Chu không nói nữa, đưa cô tới một tòa nhà hai tầng cũ kỹ: “Tới rồi.”

Anh ta móc chùm chìa khóa: “Vào uống ly trà nóng rồi hãy đi.”

Đề nghị này không tệ.

Khương Nhu rút mấy đầu ngón tay đỏ bừng vào trong tay áo, quyết định tạm tránh gió tuyết: “Được.”

Cô theo Lý Hoài Chu vào nhà, tiện mắt liếc tấm biển số nhà, phố Bạch Dương, số 23.

Cửa lớn mở toang, mùi chanh hòa với mùi gỗ cũ phả vào mặt, chắc đã xịt không ít dung dịch làm thơm không khí. Khương Nhu chợt nhớ tới gương mặt lạnh nghiêm túc của Lý Hoài Chu.

Anh ta cũng dùng mấy thứ này ư?

Cô thấy lạ lẫm trong bụng, ngó sang chiếc tủ giày sơn đã bong tróc: “Có cần thay giày không?”

“Không cần, cứ vào thẳng là được.”

Khương Nhu đứng ngoài cửa cọ kỹ tuyết bám dưới đế giày, rồi bước vào phòng khách.

Đây là một căn nhà có tuổi đời khá lâu, đồ đạc không nhiều nhưng được bày rất ngay ngắn, tivi, bàn ghế, bàn trà, mấy khung ảnh đều đâu vào đấy. Trong nhà rất yên tĩnh, rơi kim chắc cũng nghe được.

Khương Nhu nhớ Lý Hoài Chu từng nói hắn sống một mình: “Ở đây không còn ai khác à?”

“Ừ.”

Lý Hoài Chu rót cho cô một cốc nước nóng: “Tôi ở một mình.”

Câu ấy được anh ta nhả rõ từng chữ, đâu đâu cũng vương chút rờn rợn.

Khương Nhu một tay đón lấy cốc, tay kia đè vai Lý Hoài Chu, ép người ta ngoan ngoãn ngồi xuống sofa: “Anh là bệnh nhân, tôi chăm anh mới phải. Để tôi xem nào… thuốc bôi ngoài, thuốc uống trong, mấy thứ này dùng thế nào ấy nhỉ?”

Cô bộc lộ bản năng chăm sóc ân cần, còn không quên hỏi kỹ: “Mặt anh còn đau không?”

Lý Hoài Chu tựa vào sofa, hơi ưỡn cổ ngước nhìn cô: “Không sao.”

Anh ta không đáp là đau hay không đau, chỉ nói không sao.

Vừa không tỏ ra quá đáng thương, lại vừa khéo phô ra thế yếu, ngoan ngoãn khác hẳn thường ngày.

Giọng Khương Nhu càng mềm: “Anh nghỉ cho tử tế đi, tôi đi pha thuốc.”

Sau cú đấm của đầu đinh, Lý Hoài Chu vẫn cứ lâng lâng choáng váng, sợ anh ta dầm lạnh mà nhiễm cảm, Khương Nhu đặc biệt mua thêm vài gói cốm phòng cảm ở hiệu thuốc. Bên phía sofa khẽ “ừm” một tiếng trầm đục.

Vừa nhìn anh ta rót nước xong, Khương Nhu bắt chước y chang, căn nước vừa ấm tay. Cô bưng cốc quay lại phòng khách, thấy Lý Hoài Chu đã nhắm mắt chìm vào gối tựa, bóng người quện trong mảng tối, không rõ là ngủ thật hay giả vờ lim dim.

Anh ta còn thức không?

Khương Nhu dè chừng tiến thêm một bước. Chân cô đi rất khẽ, tiếng động nhỏ như không, vậy mà Lý Hoài Chu vẫn nhạy như mèo, bắt được nhịp chân tiến gần, liền mở mắt. Anh ta quá mệt quá buồn ngủ, đáy mắt đầy tia máu, như loài máu lạnh vừa tỉnh khỏi giấc đông miên.

“Thuốc này.” Khương Nhu lắc lắc chiếc cốc sứ trong tay, “Uống đi.”

Cốm đã tan trong nước, Lý Hoài Chu cụp mắt uống một hớp, rồi ngửa cổ tu cạn.

Đứng cạnh nhìn, Khương Nhu bật “oa” một tiếng.

Cô chịu không nổi vị đắng của thuốc, lần nào uống cũng phải xây dựng tinh thần, làm một trận liều chết mới dám dốc. Vậy mà Lý Hoài Chu mặt không đổi sắc, trong mười giây nuốt trôi nguyên cốc.

“Thấy thế nào?” Khương Nhu moi trong túi ra mấy viên kẹo trái cây, một hơi dúi hết cho anh ta: “Có nhức đầu không? Có choáng không? Người có nóng sốt không?”

Cô lo đến viết cả lên mặt, dẫu thấy buồn cười, Lý Hoài Chu vẫn nhận kẹo, nhẫn nại trả lời: “Không sao, đỡ hơn lúc nãy nhiều rồi.”

Nhìn cái bộ dạng ấy, thế nào cũng chẳng giống “đỡ hơn”. Khương Nhu nghe thừa cái xã giao trong lời: “Hay là, để tôi sờ trán anh nhé?”

Lý Hoài Chu bảo “được”.

Mu bàn tay chạm lên da anh ta, Khương Nhu giật mình: “Nóng quá! Anh sốt rồi.”

Cô chau mày: “Lát nữa tôi đi thì anh nhớ uống thuốc, thay thuốc đúng giờ. Mai ngủ dậy mà vẫn khó chịu thì đi bệnh viện.”

Lý Hoài Chu ừ từng điều một, chẳng biết đang nghĩ gì, rồi đẩy đề tài sang phía cô: “Trông cô có vẻ có kinh nghiệm chăm người bệnh ghê.”

“Thật à?” Khương Nhu liếc đám hộp thuốc xếp ngay ngắn trên bàn, cười nhạt: “Trước đây có người quen bị thương, tôi túc trực bên cạnh chăm, dần dần cũng quen tay. Thế nào, chuyên nghiệp đấy chứ?”

Đang nhìn, ánh mắt cô dừng lại trên mặt bàn, không rời đi nữa. Vừa vào phòng khách, Khương Nhu đã thấy trên bàn có hai khung kính, trong khung không phải ảnh, mà là lông chim. Khi ấy bận pha cốm cảm cho Lý Hoài Chu, dẫu hiếu kỳ cũng chẳng tiện hỏi, giờ rảnh tay, cuối cùng mới cất tiếng: “Đây là tiêu bản à?”

“Ừ.”

“Mua hay anh tự làm?”

“Tự làm.”

“Anh còn biết làm cả cái này á?”

Khương Nhu thấy lạ, nghiêng người lại gần, ngắm kỹ hai khung. Khung bên trái lấy nâu sẫm làm chủ, lông khá nhiều, phác ghép đại khái thành hình một chú chim con; khung bên phải nền đen xám, xen vài điểm xanh lục đậm, phối màu hài hòa, ánh lên sắc diễm lệ.

Khương Nhu lại hỏi: “Đây là hai loài gì?”

“Chim sẻ với diệc lục.”

“Diệc lục?” Cô ngắm đi ngắm lại lông vũ trong khung, chân thành tán thưởng: “Màu xanh này đẹp quá. Trước giờ tôi chưa nghe về loài này, anh kể tôi nghe được không?”

“Diệc lục thân hình không lớn, thường đậu ở các lùm cây ven sông, quen hoạt động một mình.” Lý Hoài Chu nghĩ nghĩ, nói thật: “Điều thú vị là chúng có một biệt hiệu, gọi là ‘chàng chài’.”

“Vì biết bắt cá à?”

“Diệc lục rất khôn, biết dùng côn trùng và bánh mì làm mồi, chờ cá tự tìm đến.” Giọng Lý Hoài Chu khàn khàn mơ hồ, bất giác lắng dần: “Cá ở dưới nước, chỉ nhìn thấy đồ ăn nổi trên mặt sông, vừa bơi lại gần, sẽ bị con diệc lục rình sẵn đớp gọn.”

Khương Nhu nghe rất chăm chú, càng thêm hứng: “Màu nó giống lá thế kia, nấp trong bụi chắc khó mà nhìn ra.”

Qua lớp kính trong, cô đưa ngón trỏ khều nhẹ ngay chỗ lông vũ: “Mấy con cá bị nó đớp, chắc đến lúc sắp chết mới hiểu là mắc lừa nhỉ? Thú vị ghê. Nhà anh còn tiêu bản nào khác không?”

Không ai đáp lời. Lý Hoài Chu ngửa đầu tựa vào sofa, mắt nhắm im lìm.

Khương Nhu hạ giọng gọi: “Lý Hoài Chu, anh ngủ rồi à?”

Anh ta không trả lời.

Cô lại hỏi: “Lý Hoài Chu?”

Đáp lại cô, chỉ có nhịp thở dài và đều.

Xem ra là ngủ thật rồi. Lý Hoài Chu làm liền một mạch hai mươi bốn tiếng, lại còn bị thương rồi phát sốt, có lẽ lúc nãy nói chuyện với cô cũng chỉ đang gắng gượng. Trong mơ anh ta vẫn âm u không vui, mày chau chặt, toát ra vẻ lạnh lẽo “người lạ chớ gần”.

Khương Nhu quyết định không gọi anh ta dậy, để anh ta nghỉ cho trọn.

Đêm lạnh, Lý Hoài Chu ngủ trên sofa, cô không nhấc nổi anh ta, đành vào phòng ngủ lấy chăn đắp lên người.

Áo khoác anh ta đã cởi từ sớm, tiện tay vắt bên cạnh. Để chừa chỗ nằm, Khương Nhu ôm áo khoác lên, định đặt sang phía còn lại của sofa.

Áo khoác gấp lại, túi úp xuống, bất cẩn, có vật gì đó rơi ra. Là gì vậy?

Theo quỹ đạo rơi, Khương Nhu đưa mắt nhìn.

“Meo…”

Ngoài cửa sổ vang lên tiếng mèo hoang ré lên, rờn rợn như tiếng trẻ sơ sinh khóc. Dưới đèn, món đồ rơi ở góc sofa khúc xạ một quầng sáng.

Là một móc treo điện thoại thấy đâu cũng có, đầu sợi xích sắt mòn vẹt treo một con mèo trắng bông mềm. Đồ xinh xinh mười mấy đồng là mua được, trông cũng sạch sẽ, chẳng có gì đặc biệt.

Khương Nhu cúi người nhặt lên, hồi lâu không nhúc nhích. Cô hiểu, mình không nên nghĩ quẩn. Nhưng ngay lúc này, bản tin cô đã xem đến thuộc lòng lại vang dội trong đầu, Khương Nhu nhớ đến những thi thể chết không nhắm mắt của các nạn nhân, và từng tấm ảnh đã che mờ khuôn mặt.

Tai cô ù lên, cái móc trong lòng bàn tay nóng rẫy đáng sợ. Cô nhớ người dẫn bản tin đã nói:”Tính đến hiện tại, vụ án giết người liên hoàn ở Giang Thành đã có ba người thiệt mạng. Nạn nhân vụ thứ nhất: vòng tay ngọc, ví tiền bị mất. Nạn nhân vụ thứ hai: dây buộc tóc, kẹp tóc, vòng cổ ngọc trai bị mất. Nạn nhân vụ thứ ba… Móc treo mèo trắng bị mất.”

Trong nhà yên lặng đến rợn người. Tim đập thình thịch, Khương Nhu nín thở.

Đôi mắt màu hổ phách của con mèo trắng vô thần, không chớp, đang nhìn thẳng vào cô.

Như một lưỡi dao đâm thẳng vào đáy mắt.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 11


Lý Hoài Chu vẫn đang tỉnh.

Giả vờ ngủ là một màn thăm dò anh ta dành cho Khương Nhu. Nếu cô là cảnh sát, coi anh ta là nghi phạm để điều tra, chờ anh ta ngủ say nhất định sẽ lục soát căn nhà này.

Lý Hoài Chu đợi xem cô sẽ làm gì.

Khương Nhu gọi anh ta mấy tiếng trước. Rồi bước chân xa dần, hướng về phía hành lang.
…Cô sắp ra tay rồi sao? Cô thật sự là cảnh sát ư?

Trong lòng Lý Hoài Chu lạnh hẳn. Anh ta sớm đã quét sạch mọi đầu mối liên quan tới vụ án, còn tầng hầm, Khương Nhu tuyệt đối không thể tìm thấy.

Thế nhưng rất nhanh, Khương Nhu quay lại. Một tấm chăn bông phủ lên người anh ta, xua đi cái rét giữa đông sâu. Thì ra cô là đi lấy chăn.

Lý Hoài Chu thoáng bối rối, nghe tiếng vải áo sột soạt. Rồi là tiếng “cạch” của vật gì rơi xuống. Anh ta lập tức đoán ra chuyện gì: Khương Nhu ôm áo khoác của anh ta lên, chiếc móc mèo trắng theo thế rơi ra.



Yên tĩnh như chết.

Lý Hoài Chu dỏng tai, lắng nghe mọi âm thanh cô tạo ra.

Khả năng thứ nhất Khương Nhu là cảnh sát. Dù có lau rửa kỹ đến đâu, trên di vật đại khái vẫn còn DNA của người chết. Nhìn thấy móc mèo trắng, cô nhất định sẽ coi nó là chứng cứ, mang về đồn để giám định dấu vết sinh học của nạn nhân.

Ha. Đáng tiếc, đó là cái bẫy anh ta bày sẵn.

Mang theo di vật bên người là thói quen của anh ta, nhưng xét tới khả năng Khương Nhu là cảnh sát, Lý Hoài Chu đã giữ lại một nước, tạm thời cất chúng vào dãy hành lang dưới tầng hầm.

Không sờ được “chiến lợi phẩm”, trống rỗng quá. Anh ta đành lùi một bước, đến tiệm phụ kiện mua một chiếc móc mới, cùng mẫu với di vật của nạn nhân thứ ba, mang kè kè bên mình.

Đêm nay, ngẫu hứng nổi lên, sao không dùng nó để thử Khương Nhu?

Một khi Khương Nhu đem đi xét nghiệm, cảnh sát có tra kiểu gì, kết luận nhận được cũng sẽ là “nó thuộc về Lý Hoài Chu, không liên quan vụ án giết người”.

Tiệm phụ kiện còn lưu lịch sử mua hàng của anh ta.

Bằng đó, Lý Hoài Chu không chỉ có thể rút êm, mà còn phơi bày chân diện của Khương Nhu.

Khả năng thứ hai, Khương Nhu không phải cảnh sát.
Nếu cô đủ lanh, vì chiếc móc mà sinh nghi anh ta, lập tức bỏ chạy hoặc báo án.

Thì xin lỗi nhé.

Móc mèo trắng từng là món hot một thời, hàng vạn người đã mua.

Chỉ là một món phụ kiện “cháy hàng”, Khương Nhu không đưa ra được chứng cứ nào khác ngoài việc thấy ai đó đeo nó, thì làm sao cảnh sát thụ lý?

Chỉ cần cô đã sinh nghi, sau đó Lý Hoài Chu có vô số cách trả đũa. Con mồi không biết nghe lời, chơi không vui.

Còn nếu cô không nhận ra chiếc móc giống hệt di vật của người chết, hoặc chỉ thấy đó là món “cùng mẫu” bình thường… Lý Hoài Chu còn có thể giữ cô lại chơi thêm dăm bữa nửa tháng.

Anh ta kiên nhẫn chờ.

Trong khoảng lặng kéo dài, Khương Nhu khẽ “ủa” một tiếng. Cô không bỏ chạy, cũng không tiếp tục lục lọi, chỉ nhét chiếc móc mèo trắng về chỗ cũ, đặt áo khoác sang bên.

Tiếng bước chân lại vang lên. Tiếp đó là tiếng ghế kéo kêu kẽo kẹt.

Mi mắt Lý Hoài Chu hé ra một đường, thấy Khương Nhu ngồi cạnh bàn, có vẻ định gục xuống ngủ.

Cô đang nghĩ gì vậy?

Kim giây trên đồng hồ xoay hết vòng này tới vòng khác, Khương Nhu vẫn không có động tĩnh gì khác, nhịp thở dần đều.

Cô ngủ rồi.

Với chiếc móc mèo trắng, Khương Nhu hoàn toàn không để tâm, coi nó như món phụ kiện tầm thường nhất.

Ngoan thật.

Lý Hoài Chu cười, khoái trá.

Đây là kết cục đẹp nhất, đồng nghĩa ngây thơ, ngu dại, dễ bề thao túng. Một nữ sinh đại học đơn thuần.

Có lẽ vì lên cơn sốt, đêm nay Lý Hoài Chu mệt rũ. Giữ thêm nửa tiếng nữa, cơn buồn ngủ như tấm chăn ướt trùm chết lấy thân thể. Cuối cùng anh ta khép mắt.

Giấc này Lý Hoài Chu ngủ chẳng yên. Mộng cảnh vỡ vụn, khi là những người đàn bà đã chết vô cảm nhìn chằm chằm anh ta, khi lại là mảnh ký ức cha mẹ cãi vã ẩu đả hồi nhỏ, cuối cùng mọi khung hình sụp đổ thành một chiếc lồng chim quay tít, và Lý Hoài Chu nhìn thấy Khương Nhu.

Cô hóa thành một con chim, bị nhốt trong chiếc lồng chật hẹp, lao trái nhào phải không tìm thấy lối, đôi cánh đập vào song sắt tóe giọt máu đỏ tươi.

Chú chim tưởng có thể dựa vào anh ta để phá lưới, lặng lẽ nhìn anh ta bằng đôi mắt vô tội quen thuộc.

Và Lý Hoài Chu nắm lấy đôi cánh ấy. Chạm vào, siết chặt, vặn gãy. Đốt tay khép lại, xương vỡ rắc rắc, huyết nóng bắn lên mi mắt.

Dưới ánh nhìn lạnh lùng của anh ta, lông chim la liệt hóa thành máu thịt và tứ chi người.

Lý Hoài Chu giật bắn tỉnh. Rèm không che kín mặt trời, ánh ngày rọi vào làm anh ta nheo mắt, còn chưa hoàn hồn khỏi mộng, bên tai vang tiếng Khương Nhu: “Đêm qua ngủ ngon không?”

Lý Hoài Chu ngẩng đầu. Anh ta lún sâu vào sofa, trên người đắp chăn bông dày, Khương Nhu ngồi phía đối diện chiếc bàn trà.

Cô lúng túng, ấp a ấp úng: “Tối qua anh ngủ thiếp đi đột ngột, vốn dĩ tôi định về trường, nhưng nghĩ tới mấy lời đã nói sau khi xuống tàu điện…”

Những lời nào? Trong cơn đau âm ỉ dai dẳng, Lý Hoài Chu sực nhớ câu cảnh tỉnh nửa thật nửa đùa của mình tối qua, có khi nào tên sát nhân liên hoàn đang sống ngay trong khu này.

Bảo sao cô không về. Thì ra là bị dọa.

“Tôi gục trên bàn mà ngủ.” Khương Nhu ngại ngùng: “Anh không để bụng chứ?”

“Không sao.” Lý Hoài Chu kéo ra một nụ cười giả lả: “Cảm ơn cô tối qua đã chăm sóc tôi.”

“Không cần đâu.” Khương Nhu cũng mỉm cười: “Anh đi rửa mặt đi, còn phải bôi thuốc lên mặt nữa. Hôm nay đỡ chưa? Còn sốt không?”

Lý Hoài Chu: “Không sao.”

Anh ta giữ vẻ ôn hòa, đứng dậy khoác áo, làm bộ hờ hững thò tay vào túi. Xem như chào hỏi, với chiếc móc mèo trắng bên trong và với nạn nhân thứ ba đã chết.

Lý Hoài Chu vào phòng tắm, đóng chặt cửa. Anh ta nhìn người đàn ông trong gương.

Đêm qua anh ta trôi qua như kẻ mộng du, lúc này mắt đỏ lòm, hốc mắt ám xanh b*nh h**n, má trái sưng vêu, trông như một con thủy quỷ tái nhợt.

Lòng bàn tay thấm mồ hôi lạnh, ngón trỏ giật hai cái, cảm giác xương cánh chim vỡ vụn dường như vẫn còn vương lại.

Cơn mộng vừa rồi… Quang cảnh chi chít tay chân đứt rời ùa về, Lý Hoài Chu siết chặt bàn tay phải, rồi chậm rãi buông lỏng.

Mãi đến lúc này, ngoài tầm mắt Khương Nhu, anh ta mới cho phép mình nở một nụ cười rờn rợn.



Hôm qua đã đủ mệt nhoài, Lý Hoài Chu tỉnh dậy vẫn còn nhức đầu, bôi xong thuốc mỡ tiêu sưng hoạt huyết, lại uống thêm một cốc thuốc cảm.

Thấy anh ta ngửa cổ nuốt ực, Khương Nhu không nhịn được hỏi: “Anh không sợ đắng à?”

“Cái này chưa tính là đắng.” Lý Hoài Chu rút một tờ giấy, lau sạch vệt nước bên môi: “Cô ghét uống thuốc lắm hả?”

“Có ai thích đâu.” Khương Nhu nhăn mặt: “Từ nhỏ tôi đã sợ cái thứ này, để trốn uống thuốc tôi với bố mẹ đấu trí đấu dũng, chiêu gì cũng bày, giấu trong chậu cây, đổ xuống nhà vệ sinh…”

Nói đến đây, giọng cô nhỏ dần. Nụ cười vốn treo trên môi cũng nhạt đi quá nửa, Khương Nhu khẽ bảo: “Sau này họ mất, chẳng còn ai quản tôi nữa, tôi lại càng không muốn uống thuốc.”

Lý Hoài Chu sững người. Anh ta vốn không can dự vào đời tư người khác, quen biết từng ấy ngày, lần đầu anh ta hỏi một câu phá vỡ ranh giới: “Bố mẹ cô qua đời rồi sao?”

“Tai nạn xe, lúc đó tôi mười lăm tuổi.” Khương Nhu nói: “Anh yên tâm, sau đó tôi ở nhà dì, cũng không đến mức vô gia cư.”

Ẩn ý là không cần phải buồn vì cô.

Ánh mắt Lý Hoài Chu u tối khó đoán.

“Còn bố mẹ anh thì sao?” Khương Nhu hỏi, “Không sống cùng anh à?” Cô dùng giọng điệu hời hợt như vô tình.

Khương Nhu cũng bước thêm một bước tới ranh giới của khoảng cách xã giao.

Không ai đáp lời, trong phòng khách chỉ còn tiếng tíc… tắc… khẽ khàng phát ra từ chiếc đồng hồ treo tường kiểu cũ.

Một lúc lâu, Khương Nhu mới nghe thấy câu trả lời của Lý Hoài Chu: “Cũng qua đời rồi.”

Cô há miệng kinh ngạc, không biết nên nói gì: “Sao lại…”

Lý Hoài Chu nhìn vẻ mặt của cô, im lặng mấy giây. “Quên không rõ là tôi mấy tuổi, lúc còn học cấp ba.”
Giọng anh ta bình tĩnh hơn nhiều: “Mẹ tôi đâm một dao vào tim bố tôi, rồi tự sát ở ngay chỗ đó. Hôm sau, tôi đi ngang phòng họ, thấy máu rịn ra từ khe cửa.”

Chuyện này cả con phố ai cũng biết, chẳng cần giấu.

Lý Hoài Chu không thấy cái chết của cha mẹ có gì to tát, lúc mở miệng còn mang ác ý giễu cợt.

Anh ta không sợ những cảnh máu me rùng rợn, nhưng Khương Nhu thì khác. Chỉ vì mấy câu buột miệng ấy, cô đã bất an căng cả người, thoáng liếc thật nhanh về phía hành lang, bị dọa không nhẹ.

Điều đó khiến Lý Hoài Chu thấy buồn cười. Huống hồ, phụ nữ chẳng phải vẫn “ăn” chiêu này sao? Người đàn ông thần bí, lận đận, có quá khứ bi thảm là thu hút họ nhất.

“Bị dọa à?”

“Một chút thôi.” Khương Nhu nghiêng lại gần anh ta hơn, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi khẽ hỏi như thì thầm: “Xảy ra ở ngay căn nhà này à?”

“Ừ.”

Anh ta thong dong, hưởng thụ vẻ mặt ngày càng phức tạp của Khương Nhu. Chốc lát sau, cô hỏi: “Sau trung học, anh sống một mình luôn ư?”

Lý Hoài Chu gật đầu.

Cô nói: “Hẳn là khó mà chịu nổi…”

Người ngoài thường thích thú với những vụ án giật gân lẫn lộn yêu hận, Lý Hoài Chu không ngờ điều cô bận tâm lại là điều này.

Anh ta ngập ngừng, một âm tiết gượng gạo bật khỏi cuống họng: “…Không.”

Anh ta ngửa đầu tựa vào gối, nhìn cô, dưới những sợi tóc rối là đôi mắt u tối. Những lời thừa thãi, anh ta chẳng biết phải nói sao.

“Nghĩ kỹ thì ở vài phương diện, chúng ta cũng khá giống nhau.” Khương Nhu ngồi xuống sofa, để mặc thân mình chìm vào lớp đệm mềm: “Bảo sao lại hợp nhau đến thế.”

Nói tới đây, Lý Hoài Chu cũng hỏi ra mối nghi trong lòng: “Còn cô?”

“Gì cơ?”

“Cô.” Anh ta nói, “Dạo này sống thế nào?”

“Cũng ổn.” Khương Nhu mỉm cười: “Sau vụ tai nạn, bạn bè trong lớp chăm lo cho tôi nhiều lắm, dì tôi cũng đối xử rất tử tế. Nhìn chung thì tôi không gặp chuyện gì tệ, chỉ là…”

Tựa như bị bóp nghẹt cổ họng, cô bỗng tắt tiếng. Trước khi Lý Hoài Chu kịp hỏi, Khương Nhu đã hờ hững phẩy tay: “Không có gì đâu, thỉnh thoảng vài chuyện lặt vặt bực mình, rồi cũng giải quyết nhanh thôi.”

Cô tuy đang cười, nhưng Lý Hoài Chu nhìn ra nụ cười chẳng chạm tới đáy mắt, gượng gạo vô cùng.

“Chỉ là” Trong mạch kể của Khương Nhu, sau hai chữ ấy rốt cuộc là gì?

Càng là điều cô cố sức giấu đi, càng khiến người ta muốn xẻ toang nhìn cho rõ, Lý Hoài Chu vì thế sinh lòng hiếu kỳ. Đáng tiếc lúc này không tiện truy hỏi tới cùng, vì phép lịch sự, anh ta dừng câu chuyện lại, đưa Khương Nhu ra ngoài ăn sáng.

Ban đầu anh ta chọn một quán thịt dê, tới cửa, Khương Nhu nói cô ngửi không nổi mùi gây của dê, thế là đổi sang một tiệm mì khác.

Ông chủ là người đàn ông trung niên nhiệt tình, bưng ra hai bát mì bò nóng hôi hổi: “Lấy thêm món nguội miễn phí không? Tôi múc cho hai người ít nhé.”

Có vẻ Khương Nhu bị tiếng ông chủ cất lên đột ngột hù cho giật mình, rõ ràng run nhẹ, dịch vào ngồi sâu hơn: “Cảm ơn ạ.”

Giọng cô nhỏ, né tránh ánh mắt ông chủ: “Làm phiền anh.”

Lý Hoài Chu nhận ra một chi tiết đáng ngẫm. Đối diện người lạ, Khương Nhu chẳng hề hoạt bát như anh ta tưởng, trái lại có chút gò ép, thậm chí bồn chồn.

Vì sao?

“Ở đây không phải trung tâm, chẳng có gì ngon đâu.”
Lý Hoài Chu đẩy một bát mì về phía cô: “Quán này cũng ổn, nếm thử đi, cẩn thận bỏng.”

Khương Nhu nếm một miếng, nụ cười nở trên mặt: “Ngon.”

Lý Hoài Chu nửa đùa nửa thật: “Đêm qua tôi không nói mớ gì chứ?”

Tối qua anh ta hẳn là không để lộ sơ hở gì. Dù về sau lên cơn sốt, đầu óc lơ mơ, Lý Hoài Chu vẫn giữ tỉnh táo, chỉ trò chuyện với Khương Nhu về mấy tiêu bản chim trong nhà.

Diệc lục là loài anh ta rất thích. Trông chẳng có gì nổi bật, nhưng đó là kiểu ngụy trang tinh khôn: khi con mồi dần buông lỏng cảnh giác mà đớp lấy miếng mồi, cũng là lúc nó ra tay trong chớp mắt.

Lý Hoài Chu giết người, cũng vậy.

“Không.” Khương Nhu cười: “Thật ra lúc đó tôi cũng buồn ngủ lắm, anh vừa chợp mắt không bao lâu là tôi đã cuộn bên cạnh cái bàn ngủ gà ngủ gật rồi, sau này nhất định phải để ý nghỉ ngơi nhé, lần đầu tôi thấy anh mệt đến thế đấy.”

“Ừ.”

“À đúng rồi.” Khương Nhu nhướng mày trêu: “Hôm qua tôi ôm áo khoác của anh sang một bên, phát hiện bên trong có cái móc mèo nha, anh cũng khoái kiểu này á?”

Lý Hoài Chu lặng lẽ nhìn cô: “Cũng thường thôi.”

Anh ta nói: “Đi cho mèo ăn với cô hai lần, thấy chúng có chút dễ thương, nên tiện tay mua một cái.”

Nói chữ “dễ thương” khiến anh ta nổi hết da gà, không nhịn được bật cười khẽ.

“Còn nữa.” Khương Nhu nuốt mì, nâng giọng, “Đừng có dọa tôi nữa nhé! Hôm qua ngủ rồi, tôi mơ mấy cơn ác mộng liền.”

“Mơ gì?”

“Vụ sát nhân liên hoàn ấy.” Cô khổ sở: “Cảnh tôi nhớ rõ nhất là hung thủ đuổi tôi trong nhà, dồn tôi vào góc tường, giơ con dao trong tay.”

Mơ quá chân thực, Khương Nhu rùng mình: “Tôi sắp ám ảnh con phố này mất… Tối đó âm u ghê rợn, tôi chỉ dám ở nhà anh, ra cửa cũng không dám.”

“Nhà tôi?” Lý Hoài Chu buột miệng, giọng phẳng một cách quái dị: “Ở trong nhà tôi, cô không sợ à?”

Khương Nhu không cần nghĩ: “Sợ gì chứ? Chẳng lẽ sát nhân còn phá cửa xông vào nhà anh à?”

Cô nên sợ mới phải. Lý Hoài Chu nói thầm trong lòng với cô. Kẻ ngoài không vào được, người trong muốn chạy cũng chẳng chạy nổi. Như con sẻ mắc lồng, cứ tưởng cái chốt khoá là bùa hộ mệnh.

Đối diện Khương Nhu, tâm thế của anh ta cực kỳ quái lạ. Lý Hoài Chu vừa khinh miệt sự ngây thơ ngu dại của cô, vừa theo bản năng khoái lạc vì điều đó. Mỗi khi Khương Nhu tin anh ta, dựa dẫm anh ta, anh ta vừa mỉa mai cười thầm, vừa đón lấy trọn vẹn sự thân cận ấy, còn nôn nóng muốn có nhiều hơn, để cô càng sa sâu vào chiếc lồng anh ta đan.

Anh ta mê mẩn cảm giác nắm trọn ai đó trong tay, và được người ấy toàn tâm toàn ý đặt để.

Sự mong manh và ngoan thuận của Khương Nhu, chính là thứ Lý Hoài Chu khao khát.

“Hơn nữa, cho dù có ngày thực sự chạm mặt tên hung thủ đó…” Khương Nhu cắn đứt sợi mì, ngước mắt nghênh ánh nắng.

Lý Hoài Chu tưởng cô sẽ nói: “Còn có anh bảo vệ tôi.”

Nhưng Khương Nhu lại hất cằm về phía anh ta, nhẹ vung nắm đấm phải: “Tôi chắc chắn sẽ đấm một cú thật mạnh vào mặt hắn.”

Nắng sớm rọc qua màn mây, dát những mảnh vàng li ti lên hàng mi cô.

Lý Hoài Chu ngắm một chốc, như thể nghe một câu chuyện lố bịch mà thú vị: “Được.”

Khóe môi cong lên kéo theo vết thương, anh ta khẽ “xuỵt” một tiếng.

Khương Nhu vội nghiêm mặt: “Vết thương còn chưa lành, hôm nay cố đừng cười.”

Cô càng nói càng bực: “Đám lưu manh đó cũng lạ… ra vẻ hùng hổ, nghe tôi bảo trong hẻm có camera là một mạch chuồn sạch, đúng là hổ giấy ngoài mạnh trong yếu.”

Cô là học trò ngoan từ nhỏ, suốt ngày cạ sách cạ vở, đến lúc bức xúc mắng người cũng giữ chừng mực, không văng một câu tục.

Lý Hoài Chu vừa ăn mì vừa đợi Khương Nhu nói xong, khẽ hỏi: “Lúc ra cửa, cô có phải còn điều gì chưa nói hết không?”

“Gì cơ?”

“Cô nói, ‘thỉnh thoảng có chuyện lặt vặt bực mình’ ấy.”

Đúng đà, Lý Hoài Chu thuận miệng đẩy tiếp: “Có ai làm cô không vui à?”

Bàn tay phải đang kẹp đũa của Khương Nhu khựng lại.

Hơi nóng từ bát mì bốc lên, tụ lại thành một bức tường mỏng giữa hai người, trên mặt cô, Lý Hoài Chu không chộp được chút ý cười nào.

Nếu ví con người như một chiếc bình, thì chuyện xưa giấu tận đáy lòng chính là một vết sứt hở rịn ánh, người ngoài chỉ có thể nhòm thấu bên trong qua đúng cái kẽ ấy.

Lý Hoài Chu muốn khống chế cô trọn vẹn, bóc từng lớp dối trá và lớp son phấn tô vẽ.

“Cũng không phải buồn lắm…”

Khương Nhu cười gượng đặt đũa, trước nay Lý Hoài Chu chưa từng thấy cô có kiểu sắc mặt này: “Chuyện hồi trước của tôi, anh có muốn nghe không?”

Anh ta gật đầu.

Ngay sau đó, trong nụ cười của Khương Nhu lóe lên vẻ tinh quái: “Chỉ mình tôi kể thì hơi bất công, hay là mình đổi đi?”

“Đổi?”

“Từ nhỏ tới lớn, đã có biết bao chuyện xảy ra.”

Khương Nhu nói: “Tôi kể một chuyện tôi nhớ nhất, rồi anh kể một chuyện của anh, cứ thế thay phiên, được chứ?”

Lý Hoài Chu bỗng lặng thinh.

Không phải vì không muốn, mà là chưa kịp phản ứng. Chưa từng có ai tò mò về quá khứ của anh ta. Chia sẻ với người khác vốn là việc anh ta không quen.

Nhưng Lý Hoài Chu vẫn nói: “Được.”

“Để tôi nghĩ… bắt đầu từ tiểu học nhé.”

Ăn uống no nê, Khương Nhu lười biếng tựa lưng ghế: “Bố mẹ tôi đều là giáo viên, cả nhà ở khu tập thể giáo viên. Họ khá nghiêm với tôi, tôi thấy chắc là ‘bệnh nghề’ của đa số thầy cô, đặt chuẩn mực cho con cái hơi cao.”

“Điểm của cô rất tốt.” Lý Hoài Chu nói.

Anh ta nhớ cô học ở Đại học Giang Thành, trường top nhất tỉnh.

“Chính sách áp lực cao, không học là ăn đòn, đáng tiếc, phần lớn thời gian tôi chỉ đứng nhì khối.” Khương Nhu đùa: “Nhất khối cũng là con nhà giáo, là con gái, ở ngay đối diện nhà tôi.”

Tính ganh đua giữa phụ huynh phơi bày triệt để trong những lúc thế này.

“Bạn ấy ngoài đọc sách ra chẳng làm gì, bố mẹ muốn gỡ gạc nên đăng ký đủ kiểu lớp năng khiếu cho tôi.”

Khương Nhu kể: “Nói chung thời tiểu học cũng ổn. Thỉnh thoảng gặp vận may thì tôi thi được nhất khối, mỗi năm Ngày Thiếu nhi lên sân khấu đàn một bài, còn lại là ở nhà cắm đầu tập đàn… Ấn tượng nhất chắc chừng đó.”

Cô nói liền một mạch, không giấu mong chờ: “Còn anh?”

Một câu chuyện đơn điệu y hệt quỹ đạo đời cô mà hắn đã đoán. Lý Hoài Chu thấy nhạt.

Điều anh ta tò mò nhất là cái cảm giác đơn độc mà Khương Nhu đôi lúc để lộ lại không hề xuất hiện trong đoạn kể này. Nhưng nghĩ lại, học sinh tiểu học biết thế nào là “cô đơn” chứ.

Còn chuyện của anh ta có nên nói thật không?

Lý Hoài Chu cúi mắt nghĩ ngợi. Qua quan sát, cô dễ đồng cảm, dễ nảy sinh phụ thuộc, rất có thể dễ bị “câu chuyện sang chấn” chạm tới. Mà trùng hợp thay, thứ anh ta không thiếu chính là những câu chuyện sang chấn.

Hé lộ vừa đủ để cô tưởng rằng đã nhận được sự tin cậy của anh ta, nhờ thế tự buông phòng bị, tự tìm đến gần, đó là cách.

“Hồi nhỏ.” Lý Hoài Chu nói, “Tôi cũng sống trong căn nhà đó.”

Anh ta kể bình tĩnh: “Bố tôi có xu hướng bạo lực khá nặng.”

Nói cho chính xác thì không phải “khá nặng”, mà là đạt đến mức bất thường.

Suốt một quãng dài thời thơ ấu, ký ức của Lý Hoài Chu về chữ “cha” luôn đi kèm rượu đổ khắp sàn, tiếng chửi khản đặc, và những cú đấm vù vù mang theo gió.

Phản kháng là điều bị cấm. Chỉ cần thấy anh ta le lói ý nghĩ phản kháng, người cha sẽ đáp lại bằng trận đòn còn dữ hơn. Có lúc anh ta chỉ liếc một cái, cũng bị vin vào “ánh mắt khiêu khích” mà tra tấn suốt hơn mười phút.

“Còn mẹ tôi ấy à” Anh fa nói, “Cũng giống tôi, bà cũng thường xuyên bị ông ta bạo hành.”

Bỏ chạy vô dụng, cầu xin vô dụng, đánh trả cũng vô dụng. Có lần cha say lưng lửng, vô cớ đấm thẳng vào mặt mẹ, bà cố chống, bị gã đàn ông say nắm cổ tay, vặn một cú thật mạnh. Đến giờ, Lý Hoài Chu vẫn nhớ tiếng rắc giòn của xương gãy.

Cũng ngày đó, anh ta hiểu ra giữa đàn ông và phụ nữ tồn tại một chênh lệch thể lực khách quan, khó lòng đảo ngược.

“Không thể ly hôn sao?” Khương Nhu mãi mới khẽ hỏi.

Không thể ly hôn sao, câu hỏi này, Lý Hoài Chu từng hỏi riêng mẹ.

“Đi kiểu gì? Chúng ta ăn gì, ở đâu?”

Anh ta không nhớ rõ nét mặt mẹ khi ấy, chỉ nhớ tiếng thở dài ở cuối câu: “Đợi đi, đợi con vào đại học… không, đợi con đi làm rồi, muốn đi đâu thì đi.”

Bà cứ nói “đợi thêm”, đặt cược cả quãng đời còn lại vào sự chờ đợi, cuối cùng ngay cả kỳ vọng hão huyền ấy cũng hóa trống không.

“Bà không có bằng cấp, kiếm tiền bằng việc lặt vặt,” Lý Hoài Chu giải thích. “Ly hôn một cái là bà chẳng còn chỗ ở.”

Huống chi thời ấy coi trọng ‘phu xướng phụ tùy’, câu mẹ hay treo trên miệng là “lấy chồng theo chồng”.

Hàng xóm thấy mắt bà sưng đỏ chỉ buông: “Vợ chồng đầu giường cãi nhau cuối giường làm hòa,” hoặc “vợ chồng nào giữ thù qua đêm”.

Không rõ đó có phải tự an ủi khi đường cùng hay không.

Ánh mắt Khương Nhu xao động: “Khi ấy anh với mẹ… chắc khổ lắm nhỉ?”

“Khổ ư?” Lý Hoài Chu nhai đi nhai lại hai chữ ấy trong lòng. “Cũng tạm.”

Ít nhất sau khi mẹ bị đánh bầm dập, còn có anh ta làm bao cát để bà trút giận.

Khác với nắm đấm quen tay của cha, mẹ lại chuộng tát, một thứ đau rát sắc nhọn như lửa áp lên da. Phần nhiều, ngay giữa cơn bạo, bà chợt sực tỉnh, vừa khóc vừa xin lỗi anh ta.

Những câu chữ cũng chỉ quanh “xin lỗi”, “sau này sẽ không thế nữa”, “tha cho mẹ”; anh ta nghe đến chai cả tai, rốt cuộc vẫn lần nào cũng mềm lòng, đáp “không sao”.

Đến đây, hồi ức bị anh ta bấm ngắt. Lý Hoài Chu điềm nhiên: “Hết tiểu học rồi, nói tiếp chứ?”

“Rồi tới chuyện cấp hai.” Khương Nhu vừa nói vừa bấm sáng màn hình điện thoại, thấy giờ, cô thở dài chán nản: “Chết rồi… sắp đến buổi học ký họa.”

Câu chuyện buộc phải gián đoạn, từ giọng cô, Lý Hoài Chu nghe ra lần này họ không thể nói hết. Như con thú đói vừa cắn miếng đầu đã phải dừng bữa, anh ta khó chịu nhưng chỉ có thể làm bộ rộng rãi: “Hay là mình tạm dừng?”

“Tôi đi học trước, chuyện nữa để lần sau.” Cô đứng dậy, trên mặt vốn còn vương chút tiếc nuối, chợt nghĩ ra điều gì, mày giãn ra: “Dù sao tối nay mình còn gặp lại mà, phải không?”

Dưới nắng rực rỡ, cô cười vẫy tay với anh ta như một ngọn đèn ấm vừa bật lên, sống động đến mức ấy.

Khương Nhu quay người. Luồng sáng xiên hòa vào bóng trong phòng, cô đứng ngay ranh giới, vệt sáng tối như lằn ranh sắc nét, rạch qua sống mũi và đường hàm.

Giây tiếp theo, nụ cười trên mặt cô tan biến sạch.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 12


Hơn tám giờ tối, Khương Nhu đúng hẹn bước vào cửa hàng tiện lợi.

Mọi thứ trong tiệm chẳng khác mọi khi. Lý Hoài Chu đứng trước quầy thu ngân, thấy cô thì khẽ mỉm cười: “Muốn ăn gì?”

Bộ đồng phục sạch sẽ gọn gàng ôm lấy thân hình gầy mảnh, mày mắt anh ta tuấn tú, giọng điệu ôn hòa, nhìn không ra chút công kích nào.

Khương Nhu chào anh ta, quen tay ra kệ chọn đồ ăn, tiện đưa cho Lý Hoài Chu một cây xúc xích phô mai: “Cảm ơn anh đã đãi tôi bát mì sáng nay.”

Bát mì bò sáng nay là Lý Hoài Chu giành trả tiền trước.

Đồ ăn lần lượt được hâm nóng, Khương Nhu ngồi xuống bàn bóc đũa, lo lắng ngước nhìn mặt anh ta: “Vẫn còn hơi sưng, anh có đau không? Hôm nay nghỉ ngơi được chưa? Có ho sốt gì không?”

“Không đau, cảm mạo đỡ nhiều rồi. Cô đi rồi, tôi lại chợp mắt bù.”

“Đám lưu manh đó,” Cô lại hỏi, “Không quay lại gây sự với anh chứ?”

“Không.” Lý Hoài Chu cười: “Chẳng phải cô nói rồi sao? Cả điện thoại lẫn camera trong hẻm đều có ghi, chúng không dám đến nữa.”

Bộ dạng thì hung hăng đấy, nhưng thực ra chỉ là mấy con hổ giấy. Lần trước chặn Khương Nhu trong hẻm chắc cũng chỉ để ép cô xóa video trong máy. Kết quả Lý Hoài Chu bị thương, chuyện không chỉ ầm ĩ mà còn lọt vào camera, thế là chúng chuồn một mạch.

Hai người giờ đã coi như quen, chuyện trò dăm câu bâng quơ một lúc, Lý Hoài Chu hỏi cô: “Tiếp không?”

“Gì cơ?”

“Chuyện ban sáng ấy.” Anh ta nói: “Bây giờ chính là ‘lần gặp sau’ mà.”

Lúc ăn sáng hai người đã nói dở chuyện thuở nhỏ, vốn nên kể tiếp, nhưng vì Khương Nhu phải vội đến lớp ký họa đành tạm dừng.

“Chuyện của tôi hả?” Khương Nhu cong môi, chậm rãi đùa, “Anh háo hức muốn biết lắm à?”

Có lẽ chưa từng gặp câu hỏi thẳng như ruột ngựa như thế, nét mặt Lý Hoài Chu thoáng trống rỗng.

Giọng anh ta hơi cứng: “Ừ.”

“Lần này đổi thứ tự đi, anh nói trước nhé.” Khương Nhu chỉ vào cây xúc xích nướng và phần cơm kiểu Thái trước mặt: “Vừa hay tôi vừa nghe vừa ăn cho xong.”

Lý Hoài Chu đồng ý.

Anh ta không giỏi ăn nói, ngẫm lời một lát: “Đời tôi rất… nhạt.”

Khương Nhu cắn một miếng xúc xích, mắt không rời anh ta, ánh nhìn như khuyến khích.

“Lên cấp hai rồi, tôi ít nói nên không có mấy bạn bè.”

Khương Nhu bật cười: “Hết rồi á? Chỉ vậy thôi?”

Quả thực điều cô tò mò tập trung ở gia cảnh của Lý Hoài Chu.

Lần trước anh ta nói bố mình “khá” bạo lực. “Khá” là đến mức nào? Sách bảo tính cách con người chịu ảnh hưởng lớn từ gia đình nguyên sinh, trong cảnh bố bạo hành, mẹ giết người như thế, rốt cuộc Lý Hoài Chu được “nhào nặn” thành kiểu người gì?

Khương Nhu muốn biết.

Nhưng anh ta không chủ động nhắc, cô cũng chẳng có cớ chọc vào vết sẹo cũ của người ta.

Lý Hoài Chu cúi đầu: “Chẳng có gì đáng kể, tôi sống rất tẻ nhạt.”

“Sao lại thế được?” Khương Nhu kiên nhẫn gợi chuyện: “Ngoài sưu tầm tiêu bản lông chim, anh còn thích làm gì không?”

Đối phương im một chốc, mới chậm rãi đáp: “Đọc sách.”

“Thể loại gì?”

“Trinh thám,” Lý Hoài Chu nói, “Và suy luận.”

“Wow…” Khương Nhu cười: “Tôi ít đọc mấy thứ đó, trước thử một cuốn, cốt truyện khô quá, cách giết người thì rối, đọc không hiểu thế là thôi luôn.”

“Đa phần không khó, tĩnh tâm đọc là hiểu.”

“Hay thế này đi.” Khương Nhu hứng khởi, một tay chống cằm: “Đúng lúc dạo này tôi ít môn chuyên ngành, thời gian rảnh nhiều lắm, anh gợi ý cho tôi vài cuốn nhé? Loại nhập môn ấy.”

Có thể thấy rõ trên mặt Lý Hoài Chu hiện lên vẻ lúng túng. Anh ta thật sự không thạo ứng phó xã giao.

“…Được.”

Rất nhanh, Lý Hoài Chu kể ra mấy nhan đề, Khương Nhu chăm chú nghe, ghi cả vào ghi chú trong điện thoại.

Nhắc đến sở thích, lần đầu anh ta nói liên một mạch lâu đến vậy: “《Đầu Vào》 là trinh thám dân quốc, 《Một đoá hoa cát cánh》 thiên về kể chuyện……” Lời kể chợt khựng lại.

Nhận ra mình lắm lời, Lý Hoài Chu ngoảnh đi, nuốt phần chưa nói xuống cổ.

“Tôi ghi rồi.” Khương Nhu nhìn vẻ gượng gạo của anh ta, thấy thú vị nên bật cười: “Tôi sẽ đọc cho đàng hoàng từng cuốn một.”

“Ừ.”

“Vậy.” Cô nuốt miếng cơm cuối, cầm khăn giấy lau sạch khóe miệng, “Thời thanh thiếu niên của anh phần lớn nằm trong sách.”

“Đại khái thế. Chán lắm phải không?”

“Đấy không gọi là chán.” Khương Nhu không đồng tình: “Người ta bảo đọc sách mở rộng bề rộng của đời sống. Lúc tôi còn ở nhà cày đề tới đêm, thì anh đã ‘đi khắp thế giới’ phá án rồi, à mà truyện trinh thám cũng có thể viết từ góc độ tội phạm nữa chứ nhỉ? Hồi hộp hơn ấy.”

Cô hỏi: “Anh thích phá án hay là phạm án hơn?”

Một câu vô tâm nhưng Lý Hoài Chu không đón lời.

Đèn trần đổ những khoảng tối sáng bất đều lên giữa mày anh ta, trông hơi âm u.

“Mỗi dòng đều có sách đáng đọc, chỉ cần chất lượng tốt thì tôi đều chấp nhận.”

Anh ta không cho đáp án dứt khoát, mà lái đề tài: “Chắc cấp hai của cô thú vị hơn tôi nhiều.”

“Đến lượt tôi rồi nhỉ?”

“Đến lượt cô.”

“Để tôi nghĩ đã…” Khương Nhu chậm rãi nhớ lại: “Bố mẹ tôi đều là giáo viên, cái này anh nhớ chứ? Tôi học cấp hai ngay trường họ dạy.”

Hoàn cảnh như vậy khó tránh khỏi chút vi tế.

“Trong ngôi trường ấy, các thầy cô thường đem con cái nhau ra so.” Cô cố làm giọng nhẹ tênh: “Tất nhiên không nói thẳng ra, ngoài mặt êm ấm, sau lưng dạy tôi thì luôn lôi con người ta ra làm ví dụ, như ai đoạt giải nhất thi học sinh giỏi, ai có sản phẩm thủ công được đem đi triển lãm, ai lại đứng nhất khối…”

“Người lúc nào cũng nhất khối là cô bé ở đối diện nhà tôi.”

Đèn neon ngoài cửa chớp tắt chớp sáng, Khương Nhu nhìn lớp sương mù mờ trên kính, dần ngẩn ngơ. Cô nói: “Bọn tôi bằng tuổi, nên tất nhiên bị phụ huynh coi là đối thủ, cái gì cũng phải so, điểm số, tính cách, sở thích, rồi đủ thứ lặt vặt khác. Tôi không muốn thua, chỉ còn cách cắm đầu học, túi áo đồng phục lúc nào cũng nhét một cuốn từ vựng… Nghĩ lại thì ngày nào tôi cũng tự ép mình mệt rũ.”

Lý Hoài Chu khẽ an ủi: “Vất vả rồi.”

“Qua hết rồi mà.” Khương Nhu mỉm cười: “Vui cũng nhiều chứ! Năm lớp 8 trường tổ chức đi dã ngoại leo núi…”

Cô không muốn bầu không khí quá nặng, bèn kể lể mấy chuyện ăn chơi: du lịch, công viên giải trí, đại hội thể thao.

Nói đến tiêu khiển thường ngày, Khương Nhu hơi ngượng: “Học căng quá nên tôi không mê đọc, xem anime nhiều hơn… kiểu ‘Thủy thủ Mặt Trăng’ ấy.”

Nghe đến đây, Lý Hoài Chu cười hiểu ý: “Ừ, nhiều bạn nữ lớp tôi cũng xem.”

Tối nay nói chuyện phiếm rất vui, Khương Nhu thao thao bất tuyệt hơn mười phút, đến khô cả miệng.

Trời đã khuya, Lý Hoài Chu còn trực ca không thể tiễn cô, để an toàn, đúng chín giờ, Khương Nhu lưu luyến chào anh ta.

Chuyện khác lại hẹn lần sau nói tiếp.

Cửa cảm ứng mở dần, gió lạnh lẫn bụi tuyết ập vào ầm ào. Khương Nhu vẫy tay rời đi, cánh cửa khép lại sau lưng cô, chặn đứt luồng sáng ấm trong tiệm.

Cô bước đi như thường. Băng qua đường, rẽ qua góc phố, cho tới khi thân hình hoàn toàn chìm vào bóng tối của các khối nhà, thoát khỏi tầm mắt của cửa hàng tiện lợi. Khương Nhu đưa tay, đầu ngón tay ghì chặt lên bức tường thô ráp bên cạnh, hít một hơi dài, thật sâu. Không khí băng buốt như vô số kim nhỏ xuyên vào phổi, mang theo một luồng đau nhói.

Cô lặp đi lặp lại trong đầu chuyện đêm qua, chiếc móc mèo trắng rơi khỏi áo khoác của Lý Hoài Chu.

Giống hệt.

Trùng khớp y hệt món đồ bị mất của nạn nhân thứ ba trong bản tin thời sự.

Khi ấy, hàng ngàn ý nghĩ lướt qua đầu cô. Phản ứng đầu tiên là trùng hợp. Có khi chỉ là cùng mẫu? Dù sao móc mèo trắng mới hot dạo gần đây, đầy đường đều có, Lý Hoài Chu tình cờ mua một cái cũng quá bình thường.

Nhưng ý nghĩ thứ hai lập tức ập tới, như một chậu nước đá dội vỡ mọi ảo tưởng vô hại. Tại sao anh ta lại mua?

Khương Nhu chắc chắn, Lý Hoài Chu không ưa mèo. Cô nhớ rất rõ, hai lần dẫn anh ta đi cho mèo hoang ăn, lũ mèo chỉ cần ngửi thấy mùi anh ta là như gặp kẻ địch, cong lưng rít gào cảnh cáo.

Còn anh ta từ đầu tới cuối chỉ đứng lạnh mắt nhìn, trong ánh mắt không có chút yêu mến hay thương xót nào.

Một người chẳng hề hứng thú với mèo, tại sao lại mua móc mèo, còn giữ sát bên trong túi?

Đúng rồi. Còn bản “lập hồ sơ” về tên sát nhân liên hoàn. Cô độc, khó hòa nhập, không được tôn trọng, ở một căn nhà riêng lẻ…

Tất cả đầu mối, ngay khoảnh khắc đó như đang chỉ vào một sự thật rợn người.

Nhưng thế thì võ đoán quá chăng? Khương Nhu tự phản bác mình. Trong Giang Thành, người khớp ba tiêu chí ấy ít nhất cũng cả chục ngàn, xác suất Lý Hoài Chu là kẻ giết người, nhiều lắm chỉ một phần vạn.

Vậy… cộng thêm cái móc mèo trắng thì sao? Đồng thời thỏa cả bốn điều kiện, xác suất có phải tụt còn một phần nghìn, thậm chí một phần trăm, một phần mười?

Rồi lại nghĩ, làm gì có sát thủ liên hoàn nào như anh ta? Hiền lặng, bị du côn bắt nạt mấy lần mà lần nào cũng nhẫn nhịn. Tính khí Lý Hoài Chu quá mềm, cả khí chất lẫn hành vi đều cách xa hình tượng “sát nhân”.

Khương Nhu tiếp tục tranh luận với chính mình. Lỡ đâu là ngụy trang thì sao? Đời thực có phải phim đâu, tốt xấu của một người sao nhìn mặt đoán ngay được?

Cô cầm cái móc, theo bản năng muốn chạy, chạy ngay tức khắc khỏi căn nhà ấy, tới một nơi có đèn có người. Cô còn nghĩ đến chuyện báo án. Ý nghĩ vừa nhen nhóm liền bị nỗi sợ sâu hơn đè bẹp.

Cô lấy gì để báo? Một món móc treo thấy đâu cũng có? Cảnh sát có tin không? Họ có thể vì một vật nhỏ nhặt đến mức còn chẳng đáng gọi “chứng cứ” mà tin Lý Hoài Chu là kẻ sát nhân chấn động cả nước sao?

Hơn nữa nếu Lý Hoài Chu đúng là hung thủ, dám mang theo bên người, nhất định đã xử lý cái móc, rất khó giám định dấu vết.

Đến lúc đó báo không xong, Khương Nhu còn tự rước lấy trả thù.

Vậy cô có thể chạy không? Giả thuyết đáng sợ nhất như con rắn độc cuộn quanh tim.

Lý Hoài Chu thực sự ngủ rồi ư? Có khi nào đang giả vờ ngủ không?

Kẻ đã giết ba phụ nữ, lý ra phải cảnh giác cực cao. Nhỡ anh ta vẫn còn thức thì sao? Nhỡ anh ta đang hé mắt qua mí mắt khép hờ, lặng lẽ dõi theo từng động tác của cô thì sao?

Toàn thân Khương Nhu lạnh toát. Cô như cảm thấy cái nhìn ấy đang dính chặt trên lưng mình, săm soi, chờ đợi, chỉ cần cô dám cầm cái móc lao về phía cửa… Người đàn ông trông vô hại nằm trên sofa kia có bật dậy trong chớp mắt, làm với cô điều anh ta đã làm với ba người phụ nữ trước, biến cô thành nạn nhân ngay trong chính nhà anh ta?

Khương Nhu không dám đánh cược. Tiến thoái lưỡng nan, đi trên băng mỏng.

Trong khoảnh khắc ấy, cô buộc phải chọn. Một quyết định lý trí đến gần như lạnh lùng.

Bất kể Lý Hoài Chu có phải hung thủ hay không, cô không được chạy, cũng không được lộ ra khác thường.

Cô phải giả bộ như chẳng phát hiện gì, tiếp tục đóng vai “Khương Nhu” ngây thơ, vô tri, hơi dựa dẫm, coi anh ta là chỗ nương tựa, diễn cho trọn, không sứt mẻ.

Cái móc mèo trắng trong tay như nặng cả ngàn cân, lớp lông mịn chạm vào tay mà lạnh như chạm trúng xác chết. Cô nuốt cơn sợ cuộn trào trong dạ, nhét nó lại vào túi áo Lý Hoài Chu, rồi, như một người bạn biết điều, gấp phẳng phiu áo khoác, nhẹ nhàng đặt sang đầu kia của sofa.

Tiếp theo phải làm gì? Khương Nhu nghĩ vài giây, gắng gượng đôi chân mềm nhũn bước tới bàn, kéo ghế, nhắm mắt nằm gục xuống.

Đó là ám hiệu cô gửi cho Lý Hoài Chu: Bên cạnh anh, tôi thấy rất an toàn. An toàn tới mức, ở một nơi xa lạ, tôi vẫn có thể ngủ quên không hề phòng bị. Tôi chưa từng nghi ngờ anh.



Giờ phút này áp lưng vào tường, Khương Nhu chầm chậm thở ra một luồng khí đục. Gió lạnh quật rát mặt, cũng khiến mớ suy nghĩ hỗn loạn của cô bỗng sắc lạnh, tỉnh táo lạ thường.

Cô biết, mình đã không còn đường lui. Báo cảnh sát thì không khả thi, ít nhất là hiện tại.

Cô cần chứng cứ, một món “bằng sắt” có thể đóng đinh Lý Hoài Chu, và để lấy được nó, Khương Nhu buộc phải ở lại bên anh ta.

Nghĩ tới đây, cô tự giễu bật cười. Nói đúng hơn, Khương Nhu không thể không ở bên Lý Hoài Chu.

Nếu anh ta đúng là hung thủ, chỉ cần thái độ cô bỗng đổi khác, cố tình xa cách, đối phương sẽ dễ dàng đoán ra cô đã nghi ngờ.

Một kẻ coi mạng người như cỏ rác sẽ xử lý nhân chứng dám nghi ngờ mình thế nào?

Xác chết là thứ giữ bí mật giỏi nhất.

… May trong cái rủi, đến giờ phút này, cô vẫn an toàn.

Tình huống xấu nhất hiện tại là liệu Lý Hoài Chu có coi cô là con mồi tiếp theo? Sau Từ Tĩnh Như, sẽ đến lượt cô ư?

Khương Nhu ngẩng đầu, nhìn về phía cửa hàng tiện lợi, tấm biển trên cửa mờ sáng, như con mắt độc nhãn rình trong đêm. Trong vụ án giết người liên hoàn ở Giang Thành, hung thủ mỗi lần chỉ giam giữ một nạn nhân, thời gian là mười lăm ngày.

Còn mười hai ngày nữa.

Đó là đồng hồ đếm ngược tới lúc ra tay của hung thủ, cũng là giới hạn sống còn duy nhất của Từ Tĩnh Như.

Lý Hoài Chu có phải hung thủ không?

Trong mười hai ngày này, Khương Nhu buộc phải làm rõ.

Biết đâu cô có thể cứu được Từ Tĩnh Như.

Về sau, những người phụ nữ có khả năng thành nạn nhân nữa cũng sẽ không phải chết.

Vì vậy sáng nay, cô chủ động nhắc chuyện cha mẹ mất sớm, để hạ bớt cảnh giác của Lý Hoài Chu, nhân thể đề nghị hai người “đổi vai kể chuyện”.

Biết đâu có thể moi được sợi chỉ mảnh nào đó từ những cuộc trò chuyện.

“Anh thích phá án hay là phạm án hơn?”

Đêm gặp lại, cô thậm chí ném thẳng câu ấy ra, nhìn gương mặt anh ta chìm xuống, tim cô run bắn, nhưng trên mặt vẫn phải giữ vẻ hiếu kỳ vừa đủ.

Lý Hoài Chu.

Cô lặng lẽ đọc cái tên ấy.

Người ít lời, cô độc, đôi khi bộc lộ chút thiện ý và dịu dàng đó có phải hung thủ không?

Khương Nhu không chắc câu trả lời. Cũng như cô không biết cuộc đối thoại qua lại tối nay với Lý Hoài Chu rốt cuộc là cô lo xa, đa nghi quá mức, hay là cuộc đấu thử từng bước giữa thợ săn và con mồi.

Nhưng rồi sẽ biết thôi.

Khương Nhu hít sâu một hơi, đứng thẳng dậy, vuốt lại mái tóc bị gió đánh rối.

Gió tuyết ập vào, lạnh thấu xương.

Cô không né tránh, ngược gió, từng bước đi vào đêm đen vô tận.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 13


Từ Tĩnh Như không phân biệt được, bây giờ là ngày thứ mấy bị giam giữ.

Nơi này quá ngột ngạt, quá chật hẹp, không có cửa sổ, tường ngấm mùi mốc không lọt nổi ánh sáng, bốn bề đen kịt, không thể phán đoán thời gian.

Cô ấy ở trong đó, như con chim trong lồng.

Chắc là ngày thứ ba, hoặc ngày thứ tư.

Thế nhưng từ khi bị bắt cóc đến giờ, Từ Tĩnh Như chỉ ăn có hai bữa.

Cơn đói như con dao cùn, cứ đảo qua đảo lại trong ổ bụng, còn khổ hơn là những vết thương chằng chịt trên người.

Hung thủ vụ án giết người liên hoàn ở Giang Thành là một kẻ b**n th** tâm lý triệt để.

Hồi tưởng những gì mấy ngày nay đã trải qua, Từ Tĩnh Như lạnh toát cả người.

Ngày thứ hai sau khi cô ấy bị bắt cóc, hung thủ có tới một lần, mang theo một bát cơm chiên trứng.

Đa phần là ngày thứ hai, Từ Tĩnh Như không nắm chắc, chỉ biết mình đã ngủ một giấc.

Người đàn ông đẩy cửa, mang theo một vệt sáng mỏng.

Khác với hình tượng hung thần ác sát, âm u độc địa mà cô ấy tưởng tượng, kẻ sát nhân là một thanh niên gầy gò tái nhợt, mặc một chiếc áo mưa kín mít.

Từ Tĩnh Như thầm ngạc nhiên nghĩ, đây chính là tên sát thủ khiến cả thành phố người người lo lắng hay sao? Hắn trông quá đỗi bình thường, đứng ở cửa không nói một lời, chẳng khác gì phần lớn người qua đường.

Chẳng bao lâu, cái “bình thường” ấy bị chính đối phương xé tan tành.

Trong ánh nhìn im lặng mà căm phẫn của Từ Tĩnh Như, người đàn ông chầm chậm bước tới gần, bàn tay phải nắm lấy cổ cô ấy.

“Biết tôi là ai không?”

Giọng hắn bằng phẳng, không một gợn sóng.

“Anh đừng giết tôi.”

Răng Từ Tĩnh Như va vào nhau lập cập: “Anh muốn gì? Nhà tôi có thể cho anh tiền… tôi sẽ không báo cảnh sát.”

Bình tĩnh.

Cô ấy tự nhủ trong lòng.

Vừa tỉnh lại Từ Tĩnh Như đã kiểm tra, điện thoại của cô biến mất, trên người không có thứ gì có thể liên hệ bên ngoài hoặc chống cự.

Sau đói khát và mất nước kéo dài, cô ấy không thể đánh lại một gã đàn ông trưởng thành, huống hồ còn có một đoạn xích sắt kiềm chế cô ấy vào tường.

Giãy giụa chỉ làm đối phương nổi giận, thà bình tĩnh lại, dò xét ý đồ của hắn, còn hơn vô nghĩa mà chửi ầm lên.

Trái với mong muốn, kẻ sát nhân chẳng biểu hiện gì, thậm chí vì Từ Tĩnh Như dám nhìn thẳng vào mắt hắn mà dường như nảy sinh giận dữ.

Bàn tay đang bóp cổ cô dần dần siết chặt.

Hắn nói: “Trả lời câu hỏi của tôi.”

Câu hỏi nào?

Cổ đau nhói, hô hấp khó khăn, nước mắt Từ Tĩnh Như ào ạt tuôn, cô ấy dùng chút lý trí còn sót lại để đáp: “Anh… là hung thủ vụ án giết người liên hoàn ở Giang Thành.”

Cô ấy nhớ ra rồi.

Bản tin có nói, kẻ sát nhân đối với nạn nhân mang h*m m**n khống chế và bạo ngược rất mạnh, nói cách khác, hắn muốn nhận được sự phục tùng của nạn nhân.

Người đàn ông lạnh lùng nhìn cô ấy, không giống đang nhìn người, mà như đang đánh giá một con súc vật chờ làm thịt.

Bàn tay siết cổ vẫn chưa buông, hõm ngón cái chặn ngay động mạch cảnh đang đập, như thể đang đánh giá phản ứng tiếp theo của cô ấy.

Từ Tĩnh Như lờ mờ hiểu ra, tạm gác lòng tự trọng sang một bên: “Xin anh tha cho tôi được không? Tôi có thể cho anh bất cứ thứ gì, thật đấy.”

Phản ứng này hiển nhiên hợp ý hắn hơn lúc trước, lực khóa cổ lơi đi một chút, đủ để cô ấy hít không khí vào.

Một thằng khốn khoái trá trước nỗi sợ của người khác, lấy việc hành hạ phụ nữ để bù đắp tự tôn.

Từ Tĩnh Như ở trong lòng chửi hắn cả ngàn vạn lần, ngoài mặt vẫn ngoan ngoãn đáng thương.

Đây là phép thử nhỏ cô ấy làm ra để bớt chịu đau đớn.

Người đàn ông buông cô ấy ra, ném một hộp cơm xuống đất: “Ăn.”

Từ Tĩnh Như gắng nín cơn run, ngồi xổm nhặt hộp cơm lên, nhân ánh sáng từ hành lang hắt vào, nhanh chóng quan sát gian phòng giam này.

Rất nhỏ, chừng sáu mét vuông, tường loang lổ, trống trơn không vật dụng.

Không đúng.

Ánh mắt cô ấy dừng ở một chỗ, da đầu bỗng chốc nổ tung.

Đó là máu sao?

Những mảng chất lỏng nâu sẫm đã đông đặc rơi vãi thành từng mảng lớn dưới đất, rìa có những đường cung đứt quãng do bị kéo lê tạo thành.

Từ Tĩnh Như hiểu ra vì sao ở đây lại phảng phất mùi hanh hanh của rỉ sắt thối rữa.

Cô ấy không kìm nổi, đưa tay bịt miệng khô khốc.

Giọng người đàn ông lạnh ngắt: “Ăn.”

Đây là bữa cơm dằn vặt và đau đớn nhất cô ấy từng ăn.

Bên hông là vết máu của những nạn nhân trước kia sau khi bị hành hạ, trước mặt là hung thủ chân chính gây ra tất cả cái chết.

Còn bản thân Từ Tĩnh Như, sau đầu đau nhói không ngừng, xé toạc từng sợi thần kinh.

Cô ấy vừa rơi nước mắt vừa máy móc nuốt xuống những hạt cơm khô cứng, sau đó thật sự buồn nôn ăn không nổi nữa, cắn răng hỏi người kia: “Có thể… cho ít nước không?”

Cô ấy đã rất lâu không được uống nước rồi.

Âm điệu yếu ớt này được cô ấy cầm chừng rất khéo, giữ đúng nỗi kinh hoàng mà nạn nhân nên có.

Còn trong lòng Từ Tĩnh Như nghĩ, phải dùng nước và thức ăn dự trữ đủ năng lượng, thì mới có thể ra tay phản công vào lúc thích hợp.

Nghe vậy người đàn ông khẽ cười, quay người đi về phía cửa.

Từ góc chết ngoài cửa mà Từ Tĩnh Như không nhìn thấy, hắn xách lên một chai nước khoáng.

Từ Tĩnh Như chợt hiểu, hắn cố ý.

Như mèo chìa vuốt trêu chuột, rõ ràng mang nước theo mà hắn vẫn phải đợi mình chủ động mở miệng xin.

Vừa là trò đùa giỡn, cũng đủ hành hạ lòng tự tôn của cô ấy.

Hắn tùy tiện ném chai nước khoáng qua, Từ Tĩnh Như chẳng kịp nghĩ nhiều, vặn nắp uống.

Nước mát tưới dịu cổ họng khô rát, động tác nuốt của cô ấy gần như ngấu nghiến, một hơi uống hết quá nửa chai, sặc đến ho không dứt.

Hắn nhìn cô một lúc, quay người rời đi, đóng sập cửa sắt.

Lần chạm mặt đầu tiên với tên sát nhân trong phòng giam kết thúc như thế.

Không phải đối diện hắn nữa, Từ Tĩnh Như thở phào, lần mò lùi về góc tường, đầu ngón tay vô tình chạm vào một chỗ gồ ghề không rõ.

Đó là cục máu đã đông lại trên nền.

Cô ấy giật bắn rụt tay, gắng hết sức kìm ý nghĩ miên man, nhưng đầu óc vẫn vô thức tản ra.

Ở đây, nghĩ là việc duy nhất có thể làm.

Máu của ai? Của mấy nạn nhân trước ư? Hắn đã làm gì với họ? Họ… đã chết trong căn phòng tối này sao?

Giả thiết cuối khiến cô ấy rợn tóc gáy.

Đau đớn và sợ hãi bị bóng tối phóng đại vô hạn.

Từ Tĩnh Như thấy mình đang chìm xuống một biển sâu không đáy, tứ chi dần tê dại, dần dần, cô ấy không thở nổi.

Chính trong tình cảnh ấy, tên sát nhân lần thứ hai đẩy cửa bước vào.

Nghe tiếng khóa xoay lách cách, Từ Tĩnh Như đáng thương sinh ảo giác, thấy bố mẹ và cảnh sát mặt đầy lo lắng lao về phía mình.

Chớp mắt lần nữa, nơi cửa chỉ còn cái bóng gầy dài thuộc về tên sát nhân.

Mọi chuyện xảy ra sau đó, không nghi ngờ gì, là một cơn ác mộng bất ngờ ập tới.

Tát, đấm, đá… Người đàn ông đấm đá cô ấy, Từ Tĩnh Như như biến thành một mảnh vải đẫm máu, bị vò xé tùy tiện rồi quẳng bừa xuống đất.

Thì ra đây là dụng ý hắn mặc áo mưa, quấn kín người để tránh vệt máu văng tung tóe.

Đau quá.

Dưới bạo lực tuyệt đối, lý trí tan tác, cô ấy chỉ nhớ mình hết lần này đến lần khác cầu xin, mà chẳng được đáp lại.

Nói chính xác thì nỗi đau của Từ Tĩnh Như là chất k*ch th*ch của đối phương.

“Trong lòng đang chửi tôi, đúng không?”

Giọng hắn như nhúng băng: “Các người đều khinh thường tôi…”

Hắn đang nói gì? Hắn nói với ai?

Từ Tĩnh Như không biết.

Đến khi cô ấy gượng khỏi cơn đau, người đàn ông đã đóng cửa bỏ đi.

Máu trào ra từ mũi, Từ Tĩnh Như quệt một cái, đặc và nóng.

Cô ấy hiểu nguồn gốc những vệt máu trong phòng tối.

Nước mắt gần như khóc khô, toàn thân đều đau.

Từ Tĩnh Như nhắm mắt, chầm chậm tựa vào bức tường phía sau, co người lại, cố gắng giữ sức.

Ngón tay vô thức lướt qua mặt tường, cô ấy bỗng khựng lại.

Cảm giác trên tường không đúng.

Không phải chất liệu thô phẳng, mà là những chỗ lõm có quy luật, rất nông, gần như khó nhận ra, như là…

Vết khắc.

Khắc gì?

Tim Từ Tĩnh Như hẫng một nhịp.

Trong bóng tối tuyệt đối này, xúc giác trở thành mắt cô ấy. Từ Tĩnh Như duỗi ngón trỏ, như người mù đọc chữ nổi, cẩn thận lần trên tường mà nhận.

Đầu ngón lướt qua một nét rạch thẳng đứng, rồi một phẩy ngắn.

Dấu vết đứt quãng, khắc rất sâu, mang sức mạnh liều lĩnh, tuyệt vọng.

Là một chữ.

Nhịp tim bắt đầu dồn dập.

Hết lần này đến lần khác, Từ Tĩnh Như dùng đầu ngón tay viền theo chữ ấy, trong đầu mù mịt ráp lại từng nét vỡ vụn.

“Sống”

Là chữ “Sống”!

Như có luồng điện chạy vọt từ đầu ngón tay, Từ Tĩnh Như bật mở mắt.

Còn nữa… còn nữa!

Ở sát bên, cô ấy lại sờ thấy những vết khắc tương tự.

Lộn xộn hơn, cẩu thả hơn.

Cô ấy có thể hình dung từng có một người phụ nữ, dùng móng tay gần như gãy rớm máu, liều mạng khắc lại lời trăn trối.

Từ Tĩnh Như dồn hết chú ý, cẩn thận phân biệt.

“… tiếp…”

Môi cô ấy mấp máy không thành tiếng, thầm đọc hai chữ ấy trong lòng.

Sống… tiếp…

Sống tiếp.

Không phải “cứu tôi”, cũng không phải trút xả tuyệt vọng và oán hận, vào khoảnh khắc cuối đời, điều người phụ nữ để lại cho kẻ đến sau chỉ là ba chữ ấy.

Cô ấy biết mình đã hết đường sống, nhưng cô ấy hy vọng người tiếp theo bị nhốt ở đây có thể sống tiếp.

Hốc mắt Từ Tĩnh Như cay xè, cố nuốt cục nghẹn trong cổ, ngón trỏ tiếp tục dịch chuyển.

Trên mặt tường, còn nhiều nét chữ khắc từng nét một.

“Bố mẹ, con yêu hai người.”

“Đừng sợ.”

“Nhất định phải trốn ra ngoài!”

Những dòng chữ này là ai khắc?

Trong thoáng chốc, vô số mảnh tin tức ùa về trong óc, Từ Tĩnh Như nhớ ra mấy cái tên ấy.

“…Phùng Doanh, nhân viên ngân hàng… Trang Trúc Thanh, nhân viên công tác xã hội…”

Trước khi trở thành những cái tên lạnh ngắt trong bản tin, họ đều từng là những con người bằng xương bằng thịt, biết chảy máu, biết khóc.

Máu mũi vẫn đang chảy ròng, lướt qua cổ áo, rơi xuống đất.

Như có ma xui quỷ khiến, Từ Tĩnh Như đưa tay sờ nền nhà trước mặt.

Quả nhiên, ở đó cũng chi chít dấu máu các nạn nhân trước để lại, hòa vào máu của cô ấy không một tiếng động.

Ấm nóng, lạnh băng.

Tươi mới, cũ kỹ.

Máu của họ chảy chung làm một.

Tự dưng Từ Tĩnh Như nghĩ, người phụ nữ để lại vũng máu này, khi đó hẳn cũng đau lắm.

Cô ấy có phải cũng đã sợ đến rơi nước mắt không? Có phải cũng từng ôm một tia hy vọng, nắm chặt khả năng được sống tiếp?

Vào giây phút cuối cùng của đời mình, những người phụ nữ ấy đã nghĩ gì?

Tựa như một thứ cộng hưởng vi tế nào đó.

Trong căn phòng tối nơi thời gian như ngừng chảy này, bốn người phụ nữ ôm chung một tâm trạng, chịu chung một nỗi đau, khao khát chung một phép màu để sống tiếp.

“Hức…!”

Từ Tĩnh Như ôm mặt, nước mắt rốt cuộc trào ra.

Vì chính mình, vì từng người phụ nữ đã khuất, vì mọi tiếng kêu cứu chẳng bao giờ còn vang lên nổi trong căn phòng này.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 14


Có thể giữ Khương Nhu lại lâu hơn một chút.

Đêm nằm trên giường, Lý Hoài Chu nghĩ vậy.

Không biết từ khi nào, anh ta dần quen với sự tồn tại của Khương Nhu, đôi lúc thấy cứ thế giữ cô bên cạnh như một con thú cưng, hình như cũng không tệ.

Nhưng vẫn chưa đủ.

Hiện giờ nhiều lắm cô chỉ xem anh ta như một người bạn quan hệ tạm ổn, còn cách rất xa cái “kiểm soát” mà Lý Hoài Chu muốn.

Có cách nào khiến Khương Nhu ỷ lại anh ta hơn, tin anh ta hơn không?

Tốt nhất là như mẹ ngày xưa bám vào cha, trong mắt chỉ có mỗi ông ta, răm rắp nghe lời, cam tâm tình nguyện.

Lý Hoài Chu nghĩ rất lâu mà không có đáp án, bèn quyết định nghĩ mấy chuyện thiết thực hơn.

Việc thu thập phân tích chứng cứ của cảnh sát tiến hành đến đâu, mấy blogger tội phạm học trên mạng lại vẽ cho anh ta cái chân dung tâm lý kiểu gì, còn nữa, xử lý cô gái đang bị giam dưới tầng hầm thế nào.

Chỗ ở của Lý Hoài Chu là căn nhà bố mẹ tự xây hơn hai mươi năm trước, nhìn bên ngoài tổng cộng hai tầng.

Vì từng xảy ra một vụ án mạng rùng rợn, nơi này thành “hung lâu” lừng danh gần xa, bán không ai mua, thuê không ai thuê, Lý Hoài Chu dứt khoát ở một mình.

Anh ta chuộng tiện, từ sau khi bố mẹ qua đời, dọn phòng khách, phòng ngủ, bếp núc cả xuống tầng một, khỏi phải lên xuống bôn ba.

Tầng hai trước kia là phòng ngủ riêng của ba người, giờ đổi hết thành phòng chứa đồ, gian phòng ngủ chính nơi bố mẹ cùng chết, Lý Hoài Chu tròn năm năm chưa mở ra lần nào.

Một mình ở căn nhà lớn thế này, lãng phí diện tích là điều tất nhiên.

Trước khi giam giữ nạn nhân đầu tiên, Lý Hoài Chu từng có lúc quên mất sự tồn tại của tầng hầm.

Tầng hầm từng là nơi anh ta sợ hãi nhất.

d*c v*ng bạo ngược của người cha không được kiềm chế, khi xây nhà, lại dựng ngay trong nhà một căn phòng không thấy ánh mặt trời, không có cửa sổ, chỉ một cánh cửa để ra vào.

Ánh nắng chẳng lọt nổi sợi nào, bốn bề âm u, thích hợp nhất để hành hạ người.

Sau khi bạo hành Lý Hoài Chu, cha anh ta luôn khóa trái cửa sắt, mặc bóng tối nuốt chửng tiếng khóc gào của anh ta.

Lý Hoài Chu không cách nào cầu cứu, chỉ có thể cắn răng chịu đau, chờ cha lại đến, có khi khóa vang “cạch” sau vài giờ, có khi phải cắn răng chịu đựng hơn hai chục tiếng đồng hồ dài đằng đẵng.

Đợi đến lúc ông bố ngà ngà say mở cửa, khom người nhìn ngang với anh ta, hơi rượu đục ngầu phả vào mặt anh ta: “Đây là dạy mày nhớ đời, sau này đừng phạm lỗi tương tự nữa, biết chưa?”

Khi đó nếu rơi nước mắt, sẽ bị mắng là yếu đuối, “không giống đàn ông”.

Nếu im lặng không nói, sẽ chọc giận cha triệt để, bị cho là không chịu phục tùng quản giáo.

Cách làm thích đáng nhất là tỏ ra cung kính mà hèn mọn, cha nói gì, anh ta đáp ứng nấy.

Ký ức bị giam giữ, bị đánh đập chất chồng, khiến Lý Hoài Chu nảy sinh nỗi sợ với tầng hầm, đến mức trưởng thành rồi, anh ta cũng chưa từng chủ động lại gần cánh cửa sắt đó.

Cho đến khi anh ta quyết định giết người.

Giết người là chuyện rất đơn giản.

Tay phải vững, lực phải mạnh, nắm chặt chuôi dao, dồn sức lia ngang, như giết con cá trên thớt.

Toàn bộ quá trình quá nhanh, nhanh đến không kịp hồi vị. Lý Hoài Chu không thể lấy được đầy đủ kh*** c*m từ hành vi tàn sát, anh ta mê đắm hơn là cơn run rẩy trước khi sự sống tắt lịm.

Giống như lúc xem phim kinh dị, thứ anh ta tua đi tua lại không phải cảnh máu thịt bắn tung tóe ở khoảnh khắc tử vong, mà là sự giãy giụa thoi thóp của nhân vật chính khi bị dồn đến đường cùng từng bước một.

Thế nên trước khi xuống dao, anh ta chọn bắt cóc.

Địa điểm ra tay cách nhà không xa, quá hẻo lánh, không lắp camera, rất dễ xuống tay.

Gần nhà có mấy chỗ gắn camera, Lý Hoài Chu không mấy bận tâm, anh ta muốn vào nhà thì đâu chỉ mỗi cửa chính.

Nhà tự xây đa phần đều có sân riêng, nhà Lý Hoài Chu cũng không ngoại lệ, không chỉ phía trước có một khoảng trống nhỏ, mặt sau còn tựa hẳn vào một ngọn núi hoang.

Đó là vùng mù tuyệt hảo đối với giám sát.

Cỏ dại mọc điên cuồng cao đến ngang hông, như bức bình phong tự nhiên, vừa khéo che dấu bước chân và vết kéo lê. Anh ta lôi thân thể người phụ nữ bất tỉnh, men theo sườn dốc rậm rạp xuyên qua bãi cỏ, thẳng tới cửa sổ sau nhà mình.

Lý Hoài Chu chỉ cần trèo qua cửa sổ là vào nhà, lặng như mèo, không để lại dấu vết.

Tầng hầm là nơi anh ta giam giữ nạn nhân.

Lần này, kịch đã đổi vai, Lý Hoài Chu cầm chìa khóa đứng ngoài cửa, trở thành kẻ nắm quyền đóng mở cánh cửa sắt.

Vì kế hoạch giết Khương Nhu bị hoãn, anh ta buộc phải chọn lại con mồi thứ tư.

Án mạng liên hoàn làm Giang Thành dậy sóng, phụ nữ đi một mình ban đêm ngày càng ít, Lý Hoài Chu phục kích mấy ngày, cuối cùng mới thấy Từ Tĩnh Như bên bờ sông Thanh Thủy.

Cách đưa Từ Tĩnh Như về nhà giống hệt ba lần ra tay trước, anh ta không khiến ai để ý, chỉ có tiếng cửa sổ khép “bụp” dọa một con mèo đen phóng mất.

Lý Hoài Chu không lập tức đánh thức cô ấy, mà khóa cửa rời đi, để Từ Tĩnh Như trong tầng hầm, phải chờ tròn một ngày sau, anh ta mới giáp mặt cô ấy.

Đó là quy luật anh ta mò mẫm từ nhỏ.

Đôi khi bóng tối và điều chưa biết còn đáng sợ hơn nỗi đau thuần túy, còn đói khát thì có thể nghiền nát phòng tuyến cuối cùng. Không nước, không ánh sáng, không thức ăn, để Từ Tĩnh Như một mình trong hoàn cảnh như vậy một ngày, tinh thần ắt ở bờ vực sụp đổ.

Anh ta đẩy cửa bước vào, thưởng thức nét mặt hoảng sợ nhất của cô ấy.

Đồng tử rung giật thu nhỏ, môi khô nứt mấp máy không thành tiếng, kinh hãi, mờ mịt, bi thống, và cả tia hy vọng bùng lên khi gặp ánh sáng.

Rất nhanh, đôi mắt Từ Tĩnh Như bị nỗi sợ chiếm trọn.

Ha.

Thú vị thật.

Vài ngày nay ngày đêm đảo lộn mệt bở hơi tai, Lý Hoài Chu chợp được giấc ngủ chập chờn, rốt cuộc cũng tới ngày nghỉ.

Trước đó anh ta đã hẹn với Khương Nhu, Giang Thành dạo này án liên tiếp, nếu ban đêm anh ta không đi làm ca, sẽ đưa cô ra ga tàu điện ngầm về trường.

Anh ta không quên chuyện này, tám giờ liền tới cửa hàng tiện lợi, đứng sau cánh cửa chờ cô.

Không bao lâu, Khương Nhu từ tòa văn phòng cách đó không xa bước ra.

Cô mặc chiếc áo phao dài màu nhạt, vùi mặt trong chiếc khăn quàng màu ngà, dáng chạy vội trong gió tuyết khiến người ta liên tưởng tới một chú chim cánh cụt lắc lư.

Cửa cảm ứng mở, cô liếc một cái đã thấy Lý Hoài Chu, khựng lại: “Anh…”

Lúc chia tay tối qua, Lý Hoài Chu có nhắc qua, hôm nay anh ta nghỉ, không tới cửa hàng làm.

Khương Nhu nhớ lại lời hứa: “Anh là đặc biệt tới đưa tôi à?”

Lý Hoài Chu “ừ” một tiếng.

“Hôm nay anh nghỉ mà còn cố từ nhà qua đây.”

Khương Nhu áy náy: “Phiền anh quá.”

“Không sao.”

“Cảm ơn anh nhé.”

Gió ấm trong nhà hong sau gáy, cô tháo khăn, lộ gương mặt bị rét làm đỏ bừng: “Ăn tối chưa?”

Lý Hoài Chu thật thà đáp: “Chưa.”

Không nằm ngoài dự đoán, Khương Nhu nghe xong liền cười: “Vừa hay, tôi cũng đang đói. Hôm nay đừng tạm bợ ở cửa hàng nữa, để tôi dẫn anh đi ăn cái khác nhé?”

Trong mắt Khương Nhu, họ đã là mối quan hệ có thể rủ nhau đi ăn riêng rồi sao?

Lý Hoài Chu cân nhắc cảm giác thân mật trong lời cô, khẽ nhếch môi: “Muốn ăn gì?”

Vậy là đồng ý rồi.

Nụ cười trên môi Khương Nhu càng sâu, cô bẻ ngón tay đếm tên quán: “Để tôi nghĩ… gần đây có đồ Tứ Xuyên, Quảng Đông, tiệm mì, quán nướng…”

Lý Hoài Chu không kén vị, ăn gì với anh ta cũng chẳng khác nhau là bao. Bình thường đói thì hoặc giải quyết ở cửa hàng tiện lợi, hoặc tìm đại quán gần đó mà ăn, miễn rẻ là được.

Khương Nhu còn đang nghĩ bữa tối nay, rút điện thoại ra tìm món ngon quanh đây, anh ta lặng lẽ liếc nghiêng, ánh nhìn dừng trên gương mặt cô.

Đứng gần mới thấy, trên da Khương Nhu có mấy nốt tàn nhang nhỏ, dưới mắt là quầng thâm nhạt.

Cô hay thức khuya sao? Ừ thì, cô từng nói nhà quản việc học rất nghiêm, sau này đỗ vào Đại học Giang Thành, chắc hẳn cô đã khổ luyện ngày đêm.

Dòng suy nghĩ của Lý Hoài Chu bị cắt ngang.

Nhận ra anh ta đang lơ đễnh, Khương Nhu giơ tay quơ quơ trước mặt anh ta: “Tôi quyết định rồi! Đi ăn cơm nhà đi, nghe nói gần đây có một quán ổn lắm, anh theo tôi.”

Dưới sự dẫn đường của Khương Nhu, hai người tới một quán nhỏ ven đường không mấy nổi bật.

Lý Hoài Chu để cô toàn quyền gọi món, Khương Nhu gọi hai món xong thì nhất quyết bắt anh ta gọi thêm một món mình thích.

Anh ta đành chịu thua, đảo mắt xuống dòng cuối cùng của bảng giá, khẽ khoanh tròn vào cải bắp xào.

“Thơm ghê, chắc đồ xào ở đây ngon lắm.”

Món còn chưa bưng ra, dưới đèn đã phảng phất mùi khói dầu, Khương Nhu hít hít: “Tiếp chứ? Chuyện ban nãy.”

Hơi thở ấm ngưng thành làn sương trắng trong không khí lạnh, đợi sương tan, cô mỉm cười nói: “Kể chuyện sau này của anh đi.”

Cô thẳng thắn, hứng thú không hề che giấu. Bị nhìn bằng ánh mắt tràn đầy mong đợi như thế, ai cũng sẽ thấy hơi ngượng ngập.

Nhất là Lý Hoài Chu, người hiếm khi giao tiếp với ai.

Anh ta cúi đầu xuống.

Lý Hoài Chu không có hứng thú phơi bày quá khứ với người khác, dẫu đối phương là Khương Nhu, anh ta cũng chỉ nói vắn tắt, không muốn tiết lộ thêm.

Ví như bạo lực b*nh h**n của bố mẹ, các kiểu bắt nạt của bạn học, hay sở thích nhiều năm bắt côn trùng và chim chóc rồi hành hạ đến chết của anh ta.

Một điều cũng không thể tiết lộ.

Nhưng anh ta lại muốn biết quá khứ của Khương Nhu.

Xem như trao đổi, Lý Hoài Chu đành qua loa: “Nói đến thời cấp ba hả?”

Khương Nhu gật đầu.

Lý Hoài Chu nói: “Để tôi nghĩ đã.”

Anh ta bắt đầu nhớ lại.

Thành tích của Lý Hoài Chu bình bình, cấp ba học một trường công, vì gần nhà nên chọn đi-về.

Đó chỉ là lý do bề ngoài, nguyên nhân thực là bố anh ta không chỉ nghiện rượu mà còn dần sa vào cờ bạc, nhà túng đến mức không đủ ăn, ngay cả tiền ký túc cũng thành khoản xa xỉ.

Lên cấp ba rồi, việc bắt nạt trắng trợn không còn nữa, cùng lắm cũng chỉ có người thì thào sau lưng, bảo anh ta là kẻ lập dị hay lủi thủi một mình.

Còn gì nữa?

Ký ức như lưỡi dao gỉ, cứa qua cắt lại trong đầu.

Lần đầu trong đời, Lý Hoài Chu đối mặt với cái chết của người ngay bên mình.

Đó là một đêm hè bình thường, anh ta tan tự học tối trở về.

Đèn phòng khách tầng một vẫn sáng, lại chẳng thấy bố mẹ. Cả nhà tình cảm nhạt nhẽo, Lý Hoài Chu sớm quen kiểu chung sống lạnh tanh ấy, không nghĩ gì nhiều mà lên lầu.

Đèn hành lang chưa tắt, bướm đêm lượn quanh vòng sáng đập cánh lốp bốp, phát ra những tiếng rất nhỏ.

Tĩnh lặng như mạng nhện dính lên da, anh ta cúi đầu, thấy chất lỏng đỏ sẫm sền sệt rỉ rả men theo sàn, tràn qua mép dép lê.

Nguồn của máu là phòng ngủ chính nơi bố mẹ ở.

Khoảnh khắc đẩy cửa, Lý Hoài Chu biết mình sẽ không bao giờ quên.

Mùi sắt gỉ nồng nặc nổ tung, tanh hôi ập thẳng vào mặt, phòng ngủ bắn đầy sắc đỏ chói mắt.

Bố anh ta bị trói chặt bốn chi, nằm ngửa ngay cửa, trên ngực nở toang hơn chục vết dao, như chiếc bao tải bị xé toạc bằng bạo lực.

Đôi mắt vốn luôn trợn giận với anh ta giờ vẫn mở trừng trừng, trong đồng tử đông cứng lại là sự bất cam cuối cùng.

Thi thể còn lại ngồi dựa đầu giường, máu nhuộm đỏ lòm ga trải.

Đó là mẹ anh ta, giết chồng xong, bà dùng chính con dao ấy cắt toạc cổ mình.

Giữa căn phòng ngập máu, chiếc đầu cúi xuống của bà lộ vẻ an bình kỳ dị, vết rạch trên cổ vẫn òng ọc trào máu, tí tách tí tách.

Lý Hoài Chu nghĩ, hình dạng của vết thương ấy giống như một nụ cười lạnh bị xẻ toạc.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 15


Sau khi hạ quyết tâm điều tra Lý Hoài Chu, Khương Nhu kể chuyện này với Trần Ấu Nghi.

Nghe xong, Trần Ấu Nghi cau chặt mày: “Không được, nguy hiểm quá! Nếu cậu nghi ngờ hắn thì đi báo cảnh sát, sao lại tự mình liều như vậy?”

“Không có chứng cứ xác thực, cảnh sát không thể bắt hắn, nhiều nhất chỉ âm thầm điều tra.”

Khương Nhu đã nghĩ qua rất nhiều khả năng, cân nhắc cả kết quả tệ nhất: “Nhỡ Lý Hoài Chu phát hiện thì sao? Hắn chắc chắn đoán được là mình báo cảnh sát. Nhỡ đâu hắn đúng là hung thủ, cấp bách lên làm liều cá chết lưới rách, người đầu tiên bị trả thù sẽ là tớ.”

So với việc chết không rõ ràng, cô thà nắm chủ động trong tay, trước tiên ổn định cục diện, rồi từng bước tìm chứng cứ sắt đá.

Bảo là không sợ đương nhiên là nói dối.

Khương Nhu không định làm anh hùng đơn độc, đã tính sẵn đường lui, mở chia sẻ vị trí với Trần Ấu Nghi.

“Tớ sẽ nói với hắn dạo này Giang Thành loạn quá, bạn bè lo cho an toàn của tớ nên chia sẻ định vị liên tục. Bất kể Lý Hoài Chu có phải kẻ giết người hay không, biết chuyện này rồi thì cũng không dám làm gì manh động đâu.”

Khương Nhu nói: “Mỗi tối tầm tám giờ, tớ sẽ nhắn cho cậu một tin; chỉ cần đứt đoạn…”

Chỉ cần đứt đoạn tức là có chuyện.

Trần Ấu Nghi báo cảnh sát kịp thời, Khương Nhu vẫn còn cơ may sống lớn.

“Nhưng mà…”

Sắc mặt Trần Ấu Nghi đầy lo lắng, muốn nói lại thôi.

“Khả năng Lý Hoài Chu là hung thủ, đến phần nghìn cũng chưa tới, tra đến cuối, tám phần là tớ nghĩ nhiều, tự dọa mình, hơn nữa còn có cậu ở đây nữa mà.”

Khương Nhu mỉm cười với cô ấy: “Có cậu làm hậu thuẫn, nhất định sẽ không sao.”

Hồi ức dừng lại, suy nghĩ quay về hiện tại.

Trong quán cơm nhỏ, cuộc đối thoại giữa Khương Nhu và Lý Hoài Chu vẫn tiếp diễn.

Đĩa thịt xào ớt xanh vừa xào nóng hổi được bưng ra, sứ chạm mặt bàn gỗ “cộp” một tiếng trầm.

Lý Hoài Chu dõi theo bóng lưng ông chủ khuất nơi góc rẽ, rốt cuộc mở lời thuật lại.

“Đại để chẳng có gì để kể.”

Anh ta nói: “Thành tích bình thường, giao du không rộng. Chuyện vụ án của bố mẹ tôi, cô có muốn nghe không?”

Khương Nhu đang uống nước, nghe vậy khựng lại: “Hả?”

Nói thẳng thừng thế này, thật sự không sao chứ? Lý Hoài Chu bàn về vụ án ấy bình thản như đang kể chuyện của người khác.

Khương Nhu gật đầu.

“Bố tôi từ rất sớm đã có xu hướng bạo lực, mẹ tôi luôn nhẫn nhịn.”

Lý Hoài Chu nói: “Về sau có một ngày chịu hết nổi, bà cầm dao đâm vào ngực ông ấy, tròn mười hai nhát. Cảnh sát nói bà đã bỏ thuốc ngủ vào trà từ trước, để chắc chắn sẽ không bị phản kháng.”

Anh ta dừng một nhịp, cố ý quan sát cảm xúc của Khương Nhu: “Cụ thể hơn nữa, còn muốn nghe không?”

Khương Nhu lại gật đầu lần nữa.

Thế là giọng nói nhàn nhạt của Lý Hoài Chu vang lên: “Đợi bố tôi ngủ, bà ấy dùng dây trói chặt, rồi đánh thức ông ta dậy một cách sống sượng.”

“Để hả giận?”

“Phải.”

Lý Hoài Chu nói: “Bà hành hạ ông ta một thời gian, như sự trả đũa cho bấy nhiêu năm bạo hành gia đình, đợi khi bố tôi chỉ còn thoi thóp hơi tàn, bà nhấc dao xuống tay, nhát thứ ba là chí mạng, về sau thuần túy là trút cảm xúc.”

Khương Nhu thử hình dung cảnh máu chảy lênh láng đêm đó, sống lưng rùng mình: “Là anh báo cảnh sát à?”

“Là tôi.”

Giọng Lý Hoài Chu vẫn như thường: “Còn muốn biết gì nữa?”

Chắc chắn anh ta nhìn ra cô rất tò mò về chuyện này.

Khương Nhu im rất lâu, mới khẽ hỏi: “Lúc đó, anh bị dọa lắm phải không?”

So với mấy chi tiết ly kỳ của vụ án, cô chú ý tới cảm xúc của Lý Hoài Chu nhiều hơn.

Yết hầu Lý Hoài Chu nhúc nhích: “Cũng tạm. Quan hệ của họ vốn dĩ… “

Anh ta mím môi, không còn hứng nói tiếp, Khương Nhu biết điều không truy đến cùng, chuyển hướng: “Sau đó anh sống với ai?”

“Tôi ở một mình.”

Khương Nhu kinh ngạc: “Một mình?”

“Nhà tôi chẳng có mấy họ hàng.”

Lý Hoài Chu nói: “Tôi không có khiếu học, sau này không đến trường nữa, dựa vào đủ loại việc làm thêm để kiếm tiền.”

Sắc mặt anh ta mang vẻ u uất mà Khương Nhu chưa từng thấy, kế đó lại cười như chẳng màng: “Không giống như sinh viên đại học các cô.”

Không ai nói thêm gì, hai người im lặng ăn, cho đến khi tiếng chân ông chủ phá vỡ bầu không, bưng nốt hai đĩa xào còn lại.

Khương Nhu nghiêng người, né làn hơi nóng bốc lên từ đĩa.

Đợi ông chủ đi rồi, Lý Hoài Chu lại mở miệng: “Đến lượt cô rồi. Ăn rồi nói hay vừa ăn vừa nói?”

“Vừa ăn vừa nói đi.”

Khương Nhu gắp đũa: “Chuyện tôi có thể kể không nhiều.”

Một miếng sườn xào chua ngọt được cô gắp vào bát, Khương Nhu nói: “Bố mẹ tôi mất khi tôi học lớp 10.”

“Là tai nạn xe.”

Cô cụp mắt: “Hôm đó tôi đang học tự học buổi tối, bỗng bị thầy gọi ra ngoài lớp, một người mặc cảnh phục nói với tôi, họ bị xe tải…”

Khương Nhu nhìn trân trân vào tâm bát sứ trắng, giọng nhỏ hẳn: “Họ lái xe tới đón tôi tan học.”

Lý Hoài Chu há môi không nói nên lời, mọi câu an ủi mắc cứng nơi cổ họng.

Anh ta quá hiểu, lúc thế này thì lời nói bạc bẽo đến mức nào.

“Tôi ổn mà.”

Thấy anh ta nhíu chặt mày, Khương Nhu mỉm cười phất tay: “Sau tang lễ của họ, tôi được dì nhận nuôi.”

“Dì?”

“Chị gái của mẹ tôi.”

Khương Nhu nói: “Bà là một bậc trưởng bối rất tốt, vừa nghe tin bố mẹ tôi qua đời, lập tức tới nhà an ủi, chăm sóc tôi, tang lễ cũng do bà một tay lo liệu.”

Nhắc tới dì, sống lưng căng cứng của cô dần thả lỏng.

“Rồi sau đó tôi chuyển về nhà dì ở. Tôi học cật lực đỗ vào Đại học Giang Thành, phần lớn là muốn nên người để báo đáp ân nghĩa này.”

Lý Hoài Chu đã hiểu: “Bà ấy đối xử tốt với cô?”

“Dì và dượng không có con, xem tôi như con ruột.”

Khương Nhu gật đầu: “Có lần nửa đêm tôi sốt cao, dì thức trắng cả đêm, vừa đưa đi bệnh viện vừa ngồi bên truyền dịch uống thuốc, chăm tôi tới hừng sáng.”

Cô xới mấy miếng cơm, dùng sự im lặng che cảm xúc, khóe mắt hoe đỏ nhạt.

Lý Hoài Chu: “… Vẫn còn buồn à?”

Khương Nhu hoàn hồn, luống cuống dụi mắt một cái. “Đương nhiên là buồn rồi. Lúc đầu tối nào tôi cũng trốn trong chăn khóc vụng, không dám nghĩ tới bố mẹ, đến cả di vật của họ cũng chẳng dám chạm vào.”

Cô chớp mắt, ánh đèn rơi trong đồng tử, yên tĩnh mà sáng: “Sau bạn tôi bảo, di vật mang tình cảm và ký ức của người đã khuất, với người đang sống, nó giống như một sự đồng hành. Giờ tôi đỡ nhiều rồi, năm lớp 11 còn dùng cây bút máy bố để lại để đoạt giải lớn bài luận nữa cơ.”

Nói đến khô cả miệng, Khương Nhu bưng chén trà ực cạn, chợt nhận ra mình lỡ kể hơi nhiều, có chút đỏ mặt: “Lâu lắm tôi không nói với ai chuyện này, nên lỡ… nói nhiều quá.”

Lý Hoài Chu lắc đầu: “Không sao.”

Có lẽ thấy chỉ nói hai chữ thì thiếu thành ý, anh ta vụng về an ủi: “Cứ kể đi, tôi nghe nghiêm túc.”

“Lên cấp ba rồi, mọi người biết bố mẹ tôi mất, ai cũng chăm tôi chu đáo lắm. Nhưng tôi không thích bị thương hại như thế, nên từ đại học trở đi, tôi không bao giờ nói chuyện gia đình với ai.”

Vừa nói, Khương Nhu bỗng ngẩng đầu.

Bàn tay trái vô thức miết mép bát sứ, ánh mắt chạm vào đôi mắt đen như nam châm của Lý Hoài Chu.

“Trừ anh ra.”

Khương Nhu nói: “Anh hiểu cảm xúc của tôi, đúng không?”

Cùng là tuổi còn trẻ đã mất cả cha lẫn mẹ, những gì cô nghĩ, hẳn anh ta sẽ hiểu.

Sau mấy giây nhìn nhau, Lý Hoài Chu gật đầu rất khẽ.

Khương Nhu lúc này mới cười: “Ăn đi, nguội hết rồi.”

Cộng thêm thời gian trò chuyện, bữa này ăn lâu bất thường.

Khương Nhu ăn khỏe, khen ba món xào không ngớt miệng, trước khi đi còn lễ phép chào ông chủ quán.

Ra cửa, gió tuyết tạt thẳng mặt, Khương Nhu lạnh đến va răng, liếc qua Lý Hoài Chu.

Anh ta mặc khá mỏng, áo phao trắng lấm tấm vết cũ.

Nhưng Lý Hoài Chu không co ro cũng chẳng run, mặt không cảm xúc bước giữa gió, như không thấy lạnh chút nào.

Khương Nhu tò mò: “Anh không lạnh à?”

“Không lạnh.”

Lý Hoài Chu nói: “Quen rồi.”

“Không lạnh” với “quen rồi” là hai nghĩa hoàn toàn khác nhau.

Khương Nhu nhìn chóp mũi đỏ ửng của anh ta, tầm mắt lệch đi, hướng tới quầy khoai nướng ở góc phố.

“Anh đợi nhé.”

Cô nói: “Tôi đi mua hai củ, cầm tay ấm lắm.”

Nói là làm, Khương Nhu chạy lon ton ra quầy, Lý Hoài Chu thủng thỉnh theo sau, trên tuyết in hai hàng dấu chân sâu cạn.

Mùa đông quá rét, khoai nướng bán chạy, đã có mấy người xếp hàng.

Khương Nhu trả tiền mua hai củ, ôm túi giấy nóng hôi hổi quay lại, không ngờ dưới chân trượt trên lớp băng tuyết, loạng choạng một cái.

“Á!”

Túi giấy trên tay không giữ chắc, khoai lăn lốc xuống đất, dính đầy bùn tuyết.

Tệ hơn là cô đâm sầm vào một gã trai, bàn chân phải giẫm thẳng lên đôi giày da đen bóng loáng mới toanh của người đó.

“Không có mắt à?”

Gã bị húc xiêu vẹo, trợn mắt quát: “Đi đường không chịu nhìn? Giày ông đây mới mua!”

Giọng điệu dữ dằn quen quen khiến Khương Nhu nhớ đến một người mình từng biết.

Đầu óc quay cuồng một chốc, giọng cô khẽ run: “X–xin lỗi.”

“Xin lỗi là xong hả?”

Gã không chịu, thấy cô dễ bắt nạt thì càng bốc hỏa, bước sầm tới: “Mù thì đừng ra đường vướng mắt người ta!”

Mùi khói thuốc hăng hắc xộc tới.

Mặt Khương Nhu tái mét, đang định mở miệng thì một bóng người gầy gầy đã đứng sát lại, chắn trước mặt cô.

Là Lý Hoài Chu.

“Cô ấy nói xin lỗi rồi.”

Giọng anh ta không to, phẳng như băng lạnh: “Chỉ là tai nạn. Dẫm bẩn giày thì chúng tôi đền phí làm sạch.”

Gã không ngờ Khương Nhu đi cùng người khác, ngọn lửa dịu ngay, không muốn rắc rối, bực bội văng một câu: “Xúi quẩy!”

Gã chửi bới vài tiếng rồi quay lưng, bước nhanh khuất cuối con phố dài.

Khương Nhu rốt cuộc thả lỏng cả người, thở phào.

Cô khẽ run.

“Xin lỗi, tôi…”

Mới bật ra ba chữ, Khương Nhu như hụt lực: “Cảm ơn.”

Lý Hoài Chu nhíu mày: “Ổn không?”

Nhìn phản ứng của cô, thật sự không giống chỉ là bị dọa bình thường.

“Ổn… tôi chỉ…”

Nhiều lời kẹt ở cổ, không lên không xuống, như con dao thô ráp.

Khương Nhu chần chừ, cắn chặt môi dưới.

Sự sợ hãi trong mắt còn chưa tan, mặt trắng bệch như giấy, cô đứng giữa tuyết, giống một con thú nhỏ đáng thương, cô độc không nơi nương tựa.

Đợi lâu đến khi thân thể hết run, Khương Nhu nâng cánh tay phải, khẽ vén một góc tay áo.

Mất lớp vải che, cổ tay phơi giữa gió đông, một vết sẹo dài dữ tợn hiện rõ, như con rắn uốn lượn.

Đó là vết thương do người tạo nên.

Cô thấy xấu hổ, chẳng mấy chốc kéo tay áo lại, che kín mít vết sẹo.

Giọng Lý Hoài Chu trầm hẳn: “Là… dượng cô?”

Anh ta chỉ liếc một cái mà đã đoán trúng, Khương Nhu ngạc nhiên, chạm vào ánh mắt dò xét của anh ta.

……

Tốt lắm, cứ thế.

Đừng căng thẳng quá.

Vừa rồi mày diễn rất ổn.

Khương Nhu tự nhủ trong lòng.

Cố tình đụng vào gã mặt mũi hầm hầm kia, cố tình giẫm lên giày gã, cố tình khi gã nổi nóng thì khơi lại ký ức cũ, phơi ra nỗi sợ không bình thường giống y như trước.

Chắc chắn Lý Hoài Chu sẽ hỏi có chuyện gì.

Anh ta đã cắn mồi.

Trả lời thế nào đây?

……

Khương Nhu nhắm mắt, hít sâu.

Nếu Lý Hoài Chu đúng là hung thủ vụ án giết người liên hoàn ở Giang Thành, kiểu phụ nữ nào sẽ hợp gu anh ta nhất?

Yếu đuối, bất lực, chỉ biết dựa vào anh ta.

Chỉ vậy thì chưa đủ.

Nghe xong câu chuyện từ nhỏ đến lớn của Lý Hoài Chu, gần như ngay tức khắc, Khương Nhu đã hiểu phải làm sao để tiếp cận anh ta, rút ngắn khoảng cách thật nhanh.

Đồng cảm.

Những cú đòn thô bạo, những lời nhục mạ thô lỗ, một mái nhà ngạt thở.

Những trải nghiệm tương tự, Khương Nhu quá quen.

Cô không ngại lật vết thương đẫm máu ấy ra, để hình tượng mình trong mắt Lý Hoài Chu thấp đi, yếu đi chút nữa.

Cho đến khi anh ta không còn đề phòng.

Cho đến khi mạnh – yếu đảo ngược hoàn toàn.

Môi cô mấp máy rất khẽ hai lần.

Khương Nhu như chịu thua mà cười, giọng mảnh như tơ, mong manh mềm nhũn: “Đúng… là dượng. Tôi kiếm quán cà phê ngồi nhé? Tôi từ từ kể anh nghe.”
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 16


Khương Nhu tự thuật [1].

Tôi sinh ra trong một gia đình giáo viên bình thường ở Giang Thành. Bố mẹ hy vọng tôi ngoan ngoãn dễ mến, nên đặt tên tôi là “Khương Nhu”.

Thật lòng mà nói, suốt một quãng rất dài, tôi cách xa kỳ vọng của họ.

Bố mẹ tuy nghiêm khắc, nhưng quan hệ gia đình vẫn xem như hòa thuận. Nếu như không xảy ra vụ tai nạn xe ấy…

Thôi, đừng nói những giả thiết vô nghĩa như thế.

Năm lớp 10, bố mẹ tôi qua đời, dì nhận nuôi và đưa tôi về nhà dì sống.

Dượng là một người đàn ông nghiêm nghị. Khi bố mẹ tôi còn sống, quan hệ giữa họ và dượng không tốt, ít qua lại, nên làm họ hàng bao nhiêu năm, tôi vẫn chẳng có ấn tượng gì về dượng.

Ngay từ ngày đầu dọn vào nhà dì, tôi đã nhận ra dượng không hoan nghênh tôi.

Thái độ ấy cũng dễ hiểu, dù sao tôi với dượng chẳng ruột rà máu mủ, giữa hai bên hoàn toàn không có tình cảm. Trong mắt dượng, tôi là một kẻ vướng víu thuần túy.

Tôi bắt đầu có ý thức thân phận “ở nhờ”.

May mắn miễn cưỡng mà nói là, tuy dượng không ưa tôi, nhưng cũng không bộc lộ sự bài xích quá rõ rệt, cùng lắm là mặt lạnh, thỉnh thoảng mỉa mai châm chọc vài câu.

Về sau tôi dần phát hiện, không chỉ với tôi, dượng đối với dì cũng là thái độ tương tự, thậm chí còn hạch sách sai khiến hơn, như thể dì phải làm bất cứ việc gì cho dượng là lẽ đương nhiên.

Cơm canh không hợp khẩu vị thì sưng sỉa, đánh bài thua tiền là về nhà trút giận lên dì, tối nào ăn xong, dượng cũng nằm dài trên sofa, ra lệnh người đã vất vả cả ngày như dì vào bếp rửa bát.

Đúng vậy, là giọng điệu hoàn toàn ra lệnh.

Rõ ràng là vợ chồng, mà cư xử với nhau cứ như chủ tớ.

Cấp ba tôi ở ký túc, chỉ cuối tuần và kỳ nghỉ đông hè mới về. Dì đối xử với tôi rất tốt, mỗi kỳ nghỉ đều nấu đầy một bàn chờ tôi tan học.

Nói thế nào nhỉ, dì tôi là mẫu “người hiền lành” điển hình, với ai cũng hòa ái, kể cả khi bị dượng vô cớ mỉa mai chì chiết, dì chưa từng nổi giận, chỉ cúi đầu lặng thinh.

Bây giờ nghĩ lại, có lẽ đó cũng là một kiểu “quen rồi”.

Một thói quen làm người ta quên mất phản kháng, tôi thấy điều ấy thật đáng sợ.

Ban đầu tôi tưởng sự áp bức bất bình đẳng ấy chính là toàn bộ đời sống hôn nhân của dượng dì, cho đến một chủ nhật, sau một tháng được nhận nuôi, tôi phát hiện điều khác lạ.

Hôm ấy là mùa hè, cả Giang Thành nóng muốn ngạt thở. Tôi nghỉ học về nhà, dì như lệ thường nấu không ít món.

Tôi nhớ rất rõ, dì mặc một chiếc sơ mi trắng, tay dài.

Nhưng mà nhiệt độ cao như vậy, dì ở trong bếp chạy đi chạy lại, vừa mệt vừa nóng, sao lại mặc tay dài?

Không bao lâu sau, tôi biết đáp án.

Dì niềm nở tiếp đãi tôi, gắp thức ăn đưa vào bát tôi, lúc đến tay tôi, ống tay áo tự nhiên kéo lên.

Tôi thấy nơi cổ tay lộ ra một đoạn ngắn, có vết bầm khủng khiếp.

Dì lập tức kéo ống tay xuống, giải thích với tôi là tối qua vô ý va vào cạnh bàn.

Một cú va chạm đơn giản, có thể gây ra mảng sưng đỏ và bầm tím lớn như vậy sao?

Nhìn hình dạng, trái lại giống vết do bị ai đó bóp chặt mạnh tay để lại.

Lúc ăn cơm dượng có mặt, tôi không hỏi nhiều. Ăn xong, dượng đi đánh bài với bạn, dì ở nhà rửa bát, tôi theo dì vào bếp.

Tôi hỏi dì, vết thương trên tay thật sự là do va chạm sao?

Dì im lặng rất lâu, rồi mới gượng cười qua loa bảo tôi: “Đương nhiên, chẳng lẽ còn là cái gì?”

“Cho con xem được không?” Tôi lại hỏi.

Dì nói: “Không có gì đâu, chỉ đụng một cái, có gì mà xem?”

Dì càng che giấu, càng chứng tỏ có vấn đề, dù khi ấy tôi mới mười sáu, cũng hiểu đây là một đáp án quá dễ đoán: Dượng đang bạo hành gia đình với dì.

Một thời gian sau, đến kỳ nghỉ hè, tôi tận mắt chứng kiến toàn bộ quá trình.

Khởi đầu là một chuyện tầm thường hết sức.

Dượng đánh bài thua mất nửa tháng lương, cả ngày tâm trạng tệ hại, vừa khéo dì nấu bữa tối hơi thiếu muối, liền trở thành mục tiêu để dượng trút giận.

“Ông đây ở ngoài kia cực nhọc kiếm tiền, về nhà ăn cái thứ này, khác gì nước rửa máng lợn?”

Có lẽ vì tôi có mặt, dì hiếm hoi phản bác một câu: “Thiếu muối thì thêm vào là được, anh nói năng gì mà gắt gỏng thế? Đừng dọa con bé.”

Họ về sau còn cãi nhau những gì, tôi chỉ còn ấn tượng mơ hồ, thứ duy nhất nhớ rõ là cảnh dượng giơ tay phải, tát một phát vào mặt dì.

“Bốp” một tiếng, dì loạng choạng vịn mép bàn, trên má hiện hằn dấu tay đỏ như máu.

Tôi sợ đến choáng váng.

Khi đó tôi còn chưa biết phản kháng sẽ kéo theo nhiều bạo lực hơn.

Tôi thử lấy lẽ phải tranh luận với dượng, đứng chắn trước dì, nói với ông ta rằng ông ta không nên làm vậy.

Rồi tôi mở mắt nhìn ông ta cũng giơ tay phải lên về phía tôi.

Bạo lực mang tính áp chế tuyệt đối, là thứ không nói lý.

Tôi ăn một bạt tai của dượng, dì sợ đến mức ôm tôi vào sau lưng mà khóc. Dượng còn chửi không ngừng, từ nhỏ tôi được dạy kính trên nhường dưới, lần đầu tiên nghe nhiều lời bẩn thỉu tục tĩu đến thế.

Khi ông ta chửi mệt rồi đập cửa bỏ đi, lúc ấy tôi mới chợt nhận ra, thì ra mình vẫn run bần bật, nước mắt cứ chảy, không sao dừng lại được.

Xin lỗi… tôi nói năng có phần lộn xộn, đã rất lâu rồi tôi không nhớ lại những chuyện năm ấy.

Dượng đi rồi, dì nói với tôi rất nhiều câu “xin lỗi”.

Mỉa mai phải không? Kẻ bạo hành là dượng thì chẳng một lời áy náy, còn dì là người bị hại lại áy náy với tôi.

Tôi hỏi dì, những trận bạo hành như thế kéo dài bao lâu rồi?

Dì bảo “rất lâu”.

Một câu trả lời mập mờ.

Tôi truy hỏi: “Năm năm? Mười năm?”

Dì không đáp.

Tôi lại hỏi: “Báo cảnh sát thì sao? Trên người dì có thương tích, ông ta tính là cố ý gây thương tích chứ?”

Dì cuống lên xua tay lia lịa: “Báo cảnh sát? Thế sao được? Dù gì vợ chồng cũng hơn chục năm, là người chung sống với nhau. Hơn nữa đây là chuyện nhà, có phạm pháp đâu, cảnh sát nào thèm quản?”

Tôi không tài nào hiểu nổi: “Nhưng ông ta vẫn luôn đánh dì! Nếu không báo, dì có nghĩ đến ly hôn không?”

Dì nhìn tôi, khẽ lắc đầu: “Cái chân này của dì, một tháng kiếm được bao nhiêu? Ly hôn rồi, dì với con sống kiểu gì?”

Hồi nhỏ dì gặp tai nạn, dây thần kinh ở cẳng chân phải bị tổn thương, mất cảm giác.

Dì đi cà nhắc, thêm chuyện nhà ngoại trọng nam khinh nữ, dì không có bằng cấp, tìm không nổi công việc tử tế, chỉ có thể làm dăm ba việc lặt vặt, lương rất thấp.

Một khi ly hôn, chuyện sinh hoạt của tôi và dì đều thành bài toán khó.

Ban đầu tôi định bụng sẽ an ủi dì, rốt cuộc lại thành ra dì dỗ dành, giải thích cho tôi không ngừng.

“Sau này ở trong phòng nhiều vào, đừng ra ngoài, cũng đừng cãi. Con càng bướng, tay ông ấy càng nặng.”

“Con còn hai năm nữa mới tốt nghiệp cấp ba, đợi thi đỗ đại học, tìm được việc là qua khỏi rồi. Ngoan, đừng sợ.”

Tôi hỏi dì: “Thế… dì thì sao?”

Dì không lên tiếng.

Thế là tôi nói: “Đợi con đi làm, dì ly hôn với ông ta, theo con rời Giang Thành, ra ngoài kia xem cho biết nhé?”

Dì vẫn không nói.

Ngẩng lên tôi mới phát hiện, không biết từ khi nào nước mắt đã tràn mặt dì, dòng lệ lăn qua gò má bầm tím, thấm vào những nếp nhăn.

Dì đưa tay vuốt má tôi, bảo: “Được. Đợi con kiếm được tiền, thì đón dì về hưởng phúc.”

Bàn tay lao lực ấy đầy vết chai, giữa từng kẽ nứt là những thương tích tích tụ theo năm tháng.

Trước kia tôi chưa từng để ý.

Từ đó về sau, tôi cố ý tránh mặt dượng.

Nhưng cũng từ ngày ấy, dượng không còn cố kỵ chuyện tôi có mặt, bạo hành dày hơn, trắng trợn hơn.

Cuối tuần và các kỳ nghỉ đông hè trở thành khoảng thời gian tôi sợ nhất.

Dượng quen thói nổi trận lôi đình trên bàn ăn, ai dám cãi một câu, hoặc chỉ cần lộ chút bất mãn, là phải hứng chửi rủa và đòn roi.

Trước đó tôi chưa từng nghĩ, thì ra có lắm cách để hạ nhục con người đến vậy.

Ông ta sẽ đẩy ngã dì xuống đất, đứng trên cao nhìn cái chân tập tễnh của dì, dồn hết sức mà mạt sát: “Ngoài tao ra thì chẳng ai thèm mày.”

“Tao bằng lòng nuôi mày với Khương Nhu, bọn mày phải biết ơn đội ơn. Rời khỏi tao thì hai đứa chúng mày sống kiểu gì?”

“Vợ thằng bạn tao hiền mà đảm đang, sao mày không học người ta?”

“Tao đây là dạy mày phép tắc, biết không?”

Lố bịch đến hết nói nổi.

Trong miệng ông ta, dì như một thứ gánh nặng vô dụng. Nhưng giặt giũ nấu nướng là dì, quán xuyến chuyện nhà lắt nhắt là dì, đi làm cực nhọc kiếm thêm tiền cũng là dì. Sao ông ta có thể chỉ bằng vài câu nhẹ hều mà xóa sạch tất cả của dì?

Còn tôi… tôi cũng bị đánh.

Ban đầu vì tôi che cho dì lúc ông ta bạo hành nên bị vạ lây, về sau đánh nhiều thành thói quen, ra tay thuận miệng thuận tay.

Tất nhiên ông ta cũng chửi tôi: “đồ của nợ”, “đồ vướng víu”, “đồ xúi quẩy”… Dì muốn can thì bị một cú đấm thẳng vào mặt, máu mũi chảy lênh láng.

Lần tôi bị đánh nặng nhất là hôm chịu hết nổi, tôi nói thẳng rằng nếu còn động tay, tôi sẽ báo cảnh sát.

Vẻ mặt của dượng sau khi nghe xong, cả đời này tôi cũng quên không nổi.

Ông ta vậy mà nhếch miệng cười.

“Báo cảnh sát? Mày đi đi.”

Ông ta nói: “Loại chuyện vớ vẩn này, mày tưởng nhốt được tao bao nhiêu ngày? Đợi tao ra thì người đầu tiên tao xử chính là mày.”

…Tôi hoàn toàn không biết phải làm sao.

Không trốn được, không phản kháng nổi, dần dần, chuyện thi đại học, tìm việc, sớm đưa dì rời khỏi cái nhà ấy trở thành chỗ bấu víu duy nhất cho tinh thần tôi. Chỉ cần nghĩ tới điều đó, tôi mới cắn răng mà chịu đựng tiếp.

Chính trong quãng thời gian này, tôi bắt đầu bài xích mọi sự tiếp cận của đàn ông xa lạ.

Khoảng cách quá gần, tôi sẽ vô thức tránh xa, đột ngột bị bắt chuyện, tôi thấy nghẹt thở, nếu đối phương giơ tay phải về phía tôi, tôi chắc chắn sẽ vào thế phòng vệ.

Đến giờ tôi vẫn còn nhớ, có lần bạn nam cùng bàn vỗ vai tôi mượn bút, tôi sợ đến suýt hét toáng lên, khoảnh khắc cậu ta đưa tay, tôi tưởng mình lại sắp ăn một cái tát.

Nỗi sợ dượng như khắc vào xương tủy.

May thay, từng ngày từng ngày, tôi cũng gắng gượng qua được lúc tốt nghiệp cấp ba.

Khi đăng ký nguyện vọng đại học, tôi do dự rất lâu, kế hoạch ban đầu là ra tỉnh ngoài, càng xa Giang Thành càng tốt.

Nhưng về sau nghĩ lại, nếu tôi đi quá xa, nhỡ dì lại bị bạo hành, bị thương bị ốm thì ai sẽ chăm dì?

Vậy nên tôi chọn Đại học Giang Thành.

Bạn hỏi bây giờ ư? Bây giờ tôi sống cũng ổn, sáng thì đi dạo, đọc bài vở, chiều tới lớp ký họa thư giãn, cái này bạn biết rồi.

Dì và tôi vẫn giữ liên lạc, cách vài hôm tôi lại gọi video cho dì, hoặc đưa dì đi ăn quán ngon. Chúng tôi đã hẹn rồi, đợi tôi tốt nghiệp, có công việc ổn định, dì sẽ ly hôn và dọn ra ngoài ở.

Nếu nói có chuyện phiền não, thì tôi vẫn sợ tiếp xúc với đàn ông.

Tôi từng gặp bác sĩ tâm lý, họ nói tôi có biểu hiện rối loạn stress sau sang chấn, hình thành phản xạ có điều kiện trước bạo lực của dượng, từ đó khái quát hóa thành sự kháng cự cả với nhóm nam giới nói chung.

Những lời khuyên nhận được rất nhiều, nào là tham gia nhóm hỗ trợ, tích cực tạo dựng kết nối với người khác, luyện tập thư giãn…

Tôi đang cố gắng làm, nhưng hiệu quả rất ít. Bạn hiểu chứ? Nỗi sợ chồng chất bao năm rất khó để nhổ tận gốc.

Nghĩ lại thì anh là người đàn ông thân nhất với tôi hiện giờ.

Cảm giác ở cạnh anh khác với những người khác.

Ở bên anh, tôi có thể tạm quên những ký ức ba năm cấp ba, có thể như một người bình thường mà nói cười. Thời gian này, có anh chăm tôi lúc ốm, đưa tôi an toàn về trường, tối nào cũng chuyện trò cùng tôi, tôi thật sự rất vui.

Cảm ơn anh.

Tôi muốn nói đại khái chỉ có bấy nhiêu, anh còn muốn hỏi gì nữa không?

Cứ hỏi đi, không sao đâu, nếu là anh… thì tôi chẳng có gì phải giấu.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 17


Lý Hoài Chu ngồi bên cửa sổ quán cà phê, nghe Khương Nhu ngắt quãng kể lại chuyện xưa.

Dù đã sớm đoán được, nhưng khi tận tai nghe hết từng điều ấy, anh ta vẫn dấy lên một cảm giác khác lạ.

Kinh ngạc, bừng ngộ, xót xa, và một thứ khoái ý khó tả.

Thì ra là vậy.

Nhờ lời mở lòng của Khương Nhu, vô số chi tiết từng khiến anh ta băn khoăn rốt cuộc đã có đáp án.

Nỗi sợ hãi bất thường khi đối diện người lạ, thói quen né tránh tiếp xúc thân thể với đàn ông, động tác thỉnh thoảng kéo chặt áo khoác…

Ngay cả lúc ăn ở quán cơm hay tiệm mì, Khương Nhu cũng luôn khép người vào phía trong, tránh chạm vào ông chủ bưng đồ ăn tới.

Tất cả đều bắt nguồn từ phản ứng căng thẳng của cô, cô khao khát cảm giác an toàn hơn.

Lý Hoài Chu lặng lẽ phân tích.

Khương Nhu là đồng loại của anh ta, nhưng lại trái ngược anh ta hoàn toàn.

Cả hai đều từng nếm trải bạo lực và sỉ nhục, khác chăng là Khương Nhu đến giờ vẫn run rẩy sống trong cái bóng do dượng để lại, còn anh ta đã trở thành kẻ nắm quyền chủ động.

Dù người cha cuồng bạo kia có trở lại y nguyên như trước, Lý Hoài Chu cũng sẽ không do dự mà đâm thẳng một dao vào tim ông ta.

Nói chính xác thì điều nuối tiếc lớn nhất đời Lý Hoài Chu là chưa tự tay giết ông ta, cái đồ hỗn đản tự cao tự đại, chỉ dám trút giận lên trẻ con.

“Bố mẹ cô mất, đáng lẽ phải để lại tài sản và khoản bồi thường tai nạn.”

Lý Hoài Chu hỏi: “Không đủ cho cô và dì rời khỏi hắn để sống riêng à?”

“Ông nội tôi trước đây mắc bệnh nặng, tiền trong nhà dùng cả để bù chi phí thuốc men, còn nợ thêm mấy người họ hàng.”

Khương Nhu cười khổ: “Còn bồi thường… gia cảnh tài xế xe tải túng thiếu, không có khả năng chi trả, tôi chỉ nhận được khoản bồi thường cơ bản theo bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự. Dì mà ly hôn với dượng, rời Giang Thành sang nơi khác an cư thì số tiền ấy không đủ, còn ở lại Giang Thành thì chắc chắn sẽ bị dượng quấy rối đeo bám.”

Tiến thoái lưỡng nan, đành đợi đến khi Khương Nhu lớn lên, đủ sức kiếm tiền tự nuôi mình.

“Sau khi cô lên đại học, hắn còn đánh cô không?”

“Bớt nhiều rồi. Nghỉ đông nghỉ hè tôi gần như không về nhà, ít chạm mặt ông ta.”

Nụ cười gượng không giữ nổi, khóe môi cô cũng khó mà nhếch lên: “Nhưng… vài tháng trước, ông ta vì rượu chè mà mất việc, cách vài bữa lại tới đòi tiền, gọi điện nhắn tin như điên, rình ở cổng trường chặn tôi, còn liên tục liên hệ cố vấn học tập của tôi. Tôi sắp bị hành đến phát điên rồi.”

“Thế cô có đưa tiền không?”

Khương Nhu gật đầu, sắc mặt lạnh đi: “Lên đại học tôi làm không ít việc làm thêm, dành dụm được chút tiền. Ông ta từng cho tôi ở nhờ ba năm, nên khi ông ta đến đòi, tôi đưa phần lớn tiền tiết kiệm, xem như từ nay sòng phẳng, cắt đứt ranh giới.”

Cô nghiến răng: “Nhưng ông ta là con bạc.”

Có lần đầu thì sẽ có vô số lần sau.

Số tiền moi từ tay cháu gái chóng vánh tiêu sạch, được một lần hời, về sau hễ túng thiếu là ông ta lại nhắn cho cô.

Lặp đi lặp lại, chẳng biết điểm dừng.

Đó là quãng ký ức chẳng thể gọi là dễ chịu. Có lúc Khương Nhu nói không nổi, hốc mắt đỏ hoe.

Nói đến cuối, cô dần bình tĩnh lại, còn khẽ cười: “Nên khi nghe anh nhắc chuyện nhà, phản ứng đầu tiên của tôi là…”

“Chúng ta giống nhau, anh nhất định có thể thấu cảm cảm giác của tôi. Anh không thấy dượng tôi và bố anh rất giống nhau à?”

Giống chứ, Lý Hoài Chu nghĩ.

Bề ngoài hung hăng tự cao, bên trong yếu ớt bất lực, chỉ biết dựa bạo lực gia đình để miễn cưỡng níu giữ chút tự tôn nực cười.

Ngoài cửa sổ bỗng quét qua một trận gió dữ, mặt kính bị đập vang rầm rầm.

Khương Nhu giật mình run vai, nâng cốc cà phê nóng hổi, đầu ngón tay áp vào thành cốc tìm chút ấm áp.

Thật đáng thương.

Cô là kẻ hi sinh dưới bạo lực, đáng để người ta thương xót.

Lý Hoài Chu dịu giọng an ủi mấy câu, Khương Nhu ngoan ngoãn gật đầu, ánh mắt nhìn anh ta đầy tin cậy và biết ơn.

Điều cô không biết là, ngay lúc này, Lý Hoài Chu phải cố ép khóe môi xuống, bằng không sẽ bật cười thành tiếng.

Cảm giác đùa bỡn cho Khương Nhu quay như chong chóng, thật quá thú vị.

Cô như một con chim ngây ngô, vô thức sà vào lãnh địa của rắn độc, trên đầu là chiếc nanh chí tử, vậy mà còn nghĩ đến chuyện làm tổ ở đây.

Nhưng phải nói rằng, Lý Hoài Chu rất hài lòng với ánh nhìn cô dồn về phía mình.

Cô không có mấy người bạn, càng chẳng có người thân để nương tựa, việc bằng lòng kể tuốt tuồn tuột chuyện bị bạo hành cho anh ta nghe đồng nghĩa là Khương Nhu đã đủ tin anh ta.

Hơn một bước nữa, là cô đang vô thức dựa vào anh ta, coi anh ta là người duy nhất để trút lòng.

Nhận ra điểm này, thứ kh*** c*m quen thuộc bò lên, khiến anh ta phấn khích đến run rẩy.

Y hệt như khi Lý Hoài Chu nắm sinh sát của những người phụ nữ trong tầng hầm, vào lúc này, anh ta cũng đang nắm trọn Khương Nhu.

Có thể tiến sâu hơn nữa không?

Anh ta nghĩ.

Kề dao lên cổ những người phụ nữ kia, đúng là anh ta có thể chiêm ngưỡng dáng vẻ họ vì kinh sợ mà khuất phục, nhưng điều đó chưa đủ “thuần”.

Trong những cặp mắt ấy, Lý Hoài Chu nhìn thấy chán ghét, thù hận, thậm chí là một thứ bất cam gần như thách thức.

Dẫu sinh mạng bị anh ta kẹp chặt, họ vẫn khinh anh ta, như thể anh ta chỉ là con bọ hôi trong rãnh cống.

Ánh mắt kiểu đó, thật khiến người ta buồn nôn.

So ra, Khương Nhu ngoan hiền và không phòng bị, như một con mèo hoang khát cầu chở che.

Một con mồi may gặp chứ khó tìm, dường như được đo ni đóng giày cho riêng anh ta.

Không, là thú cưng.

Lý Hoài Chu nghiêm mặt, khiến bản thân trông có vẻ đồng cảm hơn: “Nếu hắn còn tới gây phiền, nhớ gọi hoặc nhắn cho tôi, tôi nhất định sẽ tới.”

Đúng như anh ta mong, Khương Nhu lộ vẻ xúc động.

“Cảm ơn anh.”

Cô xoa vành tai, đầu tai đỏ bừng, mượn động tác uống cà phê để che đi vẻ ngượng: “Anh chịu nghe tôi giãi bày là tốt quá rồi.”

“Cô hiếm khi nói chuyện này với người khác à?”

“Ừ.”

Khương Nhu nói: “Kể ra chỉ để người ta thương hại, tội nghiệp.”

Cô gượng cười: “Điều đó cũng khiến trong mắt đa số nam sinh, tôi là quái thai. Họ bảo tôi lạnh lùng cao, kiểu cách, mắt để lên đầu, chỉ cần bị bắt chuyện là tôi né xa ba trượng.”

Lý Hoài Chu im lặng mấy giây: “Tôi hiểu.”

Anh ta nói: “Hồi học cấp hai, mặt tôi thường có vết thương. Bọn trong lớp thấy tôi âm trầm đáng sợ, phụ huynh họ cũng âm thầm dặn con cái rằng, tôi có người cha như thế, chắc chắn di truyền xu hướng bạo lực, đừng bén mảng tới gần.”

Làm sao để Khương Nhu càng phụ thuộc vào anh ta?

Cách đơn giản nhất là khơi gợi cộng hưởng nơi cô, ám chỉ hết lần này tới lần khác: Thấy không, chỉ có tôi hiểu cảm giác của cô.

Cà phê bốc lên làn khói trắng lững lờ, lướt qua hàng mày đôi mắt thanh tú của Khương Nhu, ngũ quan cô dần mềm lại, như một khối băng đang tan.

Dưới ánh nhìn của Lý Hoài Chu, cô vươn tay phải, đặt phẳng lên mặt bàn.

Khương Nhu hạ giọng, thì thầm chỉ đủ hai người nghe: “Chỉ cho anh xem thôi.”

Trong ánh đèn mờ của quán, cổ tay áo được cô kéo lên, Lý Hoài Chu nhìn rõ toàn bộ vết sẹo.

Nâu sẫm, kéo dài thành vệt, như một con rết quấn trên phía trên xương cổ tay, hằn nguyên hình dáng bị bạo lực xé rách.

Lý Hoài Chu: “Dây lưng?”

“Ừ.”

Khương Nhu bất ngờ trước sự nhạy bén của anh ta, kéo tay áo che lại vết sẹo: “Năm lớp 11, tôi bắt gặp dượng đang bạo hành dì. Tôi nóng đầu quá, lao lên đối chất thì bị ông ta cầm dây lưng, tôi theo phản xạ giơ tay lên đỡ, vừa khéo bị quật trúng cổ tay.”

Cô bật cười khẽ, như tự giễu: “Tôi tưởng nó sẽ tự lành, bôi ít thuốc rồi mặc kệ, ai ngờ bao năm vẫn không mờ.”

Lý Hoài Chu dõi nhìn khóe môi đang hơi cong của cô.

Đó chính là điều khác biệt nhất ở Khương Nhu, cũng là điểm khiến anh ta hứng thú hơn cả. Ký ức bị bạo hành đâu có đẹp đẽ, vết sẹo xấu xí gồ ghề vắt ngang cổ tay, vậy mà kể tới những chuyện này, cô lại mỉm cười.

Trong cô có một luồng sức sống ngạo nghễ, không chịu khuất phục, cũng bởi thế, một khi thuần hóa hoàn toàn, kh*** c*m có được sẽ càng dữ dội.

Lý Hoài Chu ước lượng, mình đã thành công đến đâu rồi? Được khoảng… sáu mươi phần trăm chưa?

“Nếu cô bận tâm, có thể làm phẫu thuật sửa sẹo.”

Anh ta nói: “Không làm cũng được, nó chẳng hề xấu.”

Như bị lời ấy làm bỏng, Khương Nhu lại đưa tay sờ vành tai đang ửng đỏ.

“Lao lên đỡ dây lưng,” Lý Hoài Chu hỏi tiếp, “Không sợ à?”

“Tất nhiên là sợ.”

Hồi tưởng quá khứ nhơ nhớp, Khương Nhu siết chặt các ngón tay: “Nhưng lúc đó đầu óc tôi trống rỗng, quên cả sợ hãi, trong đầu chỉ còn một ý nghĩ là không thể để dượng đánh dì nữa.”

Lý Hoài Chu không đáp.

Thuở đầu, anh ta cũng từng chắn trước mặt mẹ, bị cha đánh đến mình mẩy bầm dập. Vậy mà đêm đó, thứ anh ta nhận lại là lời quở lạnh băng của mẹ: “Mày khoe bản lĩnh cái gì? Tưởng mình giỏi lắm à? Đừng có rước thêm rắc rối cho tao!”

Khác với dì của Khương Nhu, mẹ của Lý Hoài Chu cô độc và cố chấp, chưa từng nói một câu mềm mỏng, như một hòn đá ấp mãi chẳng ấm. Trong mắt bà, đứa con trai chẳng ra gì, yếu đuối vô dụng, là cái gánh níu chặt bà vào cái gia đình ấy.

Người cha nóng nảy bạo tàn không ngớt giày vò, chà đạp mẹ anh ta, mọi thứ trong căn nhà đó đều khiến Lý Hoài Chu buồn nôn.

Mỗi lần giết một người phụ nữ, dường như qua đôi mắt họ, anh ta thấy bóng dáng người mẹ. Vào khoảnh khắc họ hấp hối, Lý Hoài Chu rốt cuộc cũng có cơ hội hỏi thẳng: Còn khinh thường tao không? Còn thấy tao là đồ bỏ đi không? Tất cả chúng mày đều phải bò dưới chân tao mà cầu xin.

“Anh đang nghĩ gì thế? Sắc mặt anh xấu quá.”

Bên kia mặt bàn gỗ, Khương Nhu áy náy: “Có phải tôi nói chuyện u ám quá làm anh khó chịu không? Xin lỗi nhé, lâu quá không được giãi bày nên tôi không kìm được…”

Lý Hoài Chu lắc đầu: “Không. Cảm ơn cô vì chịu kể những chuyện này cho tôi nghe.”

Khương Nhu cau mày, trong mắt in bóng gương mặt anh ta đang trĩu tối. Cô thoáng lộ vẻ tự trách, quay nhìn ra ngoài cửa sổ, quầng sáng đèn neon chớp tắt tan trong màn tuyết mỏng, người qua kẻ lại dọc vỉa hè, đúng lúc phố xá đông vui nhất.

“Tôi than vãn với anh lâu như vậy, phải là tôi cảm ơn anh mới đúng. Hay là…”

Ngập ngừng chốc lát, Khương Nhu lấy can đảm: “Tôi dẫn anh đi làm chút chuyện vui nhé? Có một món quà, tôi vẫn muốn tặng anh.”

Quà ư?

Lý Hoài Chu ngẩng lên, chạm ngay đôi mắt trong trẻo, đầy mong chờ của cô. Anh ta hiểu, lời mời này đối với Khương Nhu tuyệt không chỉ là “xin lỗi” hay “cảm ơn”, mà giống như trên căn phòng trái tim chằng chịt vết thương, cô chủ động mở một khung cửa nhỏ cho người mình tin tưởng.

Một thứ tình ý quý giá biết bao.

Đêm dịu mềm, hương cà phê lẩn quẩn, khúc nhạc lững lờ.

Ánh vàng ấm như một lớp voan mỏng, phủ lên mầm non đang nhú giữa hai người.

Lý Hoài Chu mỉm cười nhìn cô.

Ha.

Khương Nhu đang mơ mộng gì thế? Một câu chuyện lãng mạn về cứu rỗi ư? Hai người cùng chịu bạo lực giày xéo, dốc bầu tâm sự rồi trở thành chỗ dựa cho nhau?

Chán ngắt và cũ mèm.

Nhưng, Lý Hoài Chu không ngại cùng cô diễn nốt vở kịch sến sẩm ấy.

Hãy tin anh ta hơn nữa, gần anh ta hơn nữa đi.

Sợi dây cứu trợ cô tự tay đưa ra, cuối cùng sẽ siết chặt trên chính chiếc cổ của cô.

Chỉ còn thiếu bước cuối cùng, bước then chốt nhất.

Lý Hoài Chu đã nghĩ ra cách trói chặt Khương Nhu rồi.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 18


Khương Nhu đưa Lý Hoài Chu rời quán cà phê, đích đến là cửa hàng bách hóa cách đó không xa.

Chín giờ tối, khu thương mại sáng rực, dãy đèn neon chớp tắt liên hồi như một chuỗi sao treo lơ lửng giữa không trung.

Đêm mới bắt đầu, người qua kẻ lại không dứt. Theo thói quen, Khương Nhu né dòng người, men theo bóng cây ven đường, thấy một chàng trai lạ đi ngược chiều, cô khẽ nép lại phía Lý Hoài Chu.

Bước vào bách hóa, luồng khí ấm áp xua sạch giá lạnh. Cô ra hiệu cho anh ta theo sát: “Đi, lên tầng hai.”

Tầng hai chuyên đồ nam. Khương Nhu đảo mắt nhìn quanh, rồi rẽ về phía bên phải.

Trước dãy giá trưng bày, treo kín các kiểu khăn quàng.

Lý Hoài Chu đi cạnh cô, giọng dửng dưng: “Cô hay tới đây à?”

Cô đúng là tỏ ra rất rành rẽ.

“Tôi…”

Khương Nhu định nói rồi lại nuốt xuống, do dự một lúc mới thú thật: “Tôi ít thấy anh quàng khăn. Mùa đông lạnh thế này, tôi nghĩ hay là mua cho anh một chiếc. Cửa hàng này nổi tiếng lắm, tôi có ghé dò trước, đã chấm mấy chiếc, nhưng lại sợ màu không hợp, nên dứt khoát dẫn anh tới thử luôn.”

Cô hạ giọng, hơi tiếc nuối: “Ban đầu định cho anh một bất ngờ cơ.”

Lý Hoài Chu khựng lại: “Mua cho tôi?”

“Ừ.”

Khương Nhu nói: “Anh chọn đi, thích cái nào?”

Đoán anh ta lại sắp từ chối, cô liền cắt ngang thật nhanh: “Nhận đi, coi như quà cảm ơn vì anh đã giúp tôi nhiều lần. Không thì tôi thấy áy náy vì cứ hưởng của anh.”

Lý Hoài Chu không nói, đưa mắt lướt qua một vòng khăn trước mặt.

“Cửa hàng này thiên về độ thoải mái, chất tốt mà còn ấm.”

Khương Nhu nhấc hai chiếc, một đen, một xám, giơ cho anh ta xem: “Đây là hai cái tôi ưng, anh thấy sao?”

Theo quan sát của cô, Lý Hoài Chu không thích phô trương, quần áo anh ta chủ yếu là đen với xám, toàn mẫu cơ bản ít chi tiết, như cố ý xóa mờ sự hiện diện.

Khi chọn, Khương Nhu dựa theo phong cách ấy của anh ta: đơn giản, mộc mạc, không màu mè, chỉ cần vừa mắt và dễ chịu là được.

“Cái nào cũng được.”

Lý Hoài Chu không giỏi đối mặt những tình huống thế này, giọng khản lại: “Cảm ơn cô.”

“Cảm ơn gì chứ?”

Khương Nhu giũ chiếc màu đen: “Anh muốn thử không?”

Lý Hoài Chu nhận lấy từ tay cô.

Động tác quàng khăn của anh ta hơi vụng về, lớp vải đen tuyền phủ lên cổ áo phao, bất ngờ làm dịu đi vẻ u ám quen thuộc, bật lên nét sắc lạnh rắn rỏi.

Khương Nhu vòng quanh anh ta nửa vòng, thẳng thắn nhận xét: “Chiếc này ổn đấy. Đổi cái kia thử so xem?”

Cô đưa tiếp chiếc màu xám.

Khăn xám bạc quấn lên, đường xương hàm vốn căng chặt của Lý Hoài Chu bỗng mềm lại, tông xám dịu trung hòa màu da, trông không còn quá lạnh lẽo.

Khương Nhu lặng lẽ ngắm anh ta.

Ngũ quan anh ta thanh tú, chỉ tiếc quá gầy, góc cạnh lộ rõ, thoạt nhìn, đường nét sắc như lưỡi dao, khiến người ta ngại đến gần.

“Anh thích cái nào hơn? Hay xem thêm nữa không?”

Cô đưa ánh nhìn thân thiện sang, lúc này mới nhận ra Lý Hoài Chu cũng đang nhìn mình.

Ánh mắt chạm nhau, Khương Nhu bỗng áp lại: “Đợi đã, anh đừng động.”

Cô bước lên, mang theo một luồng hơi mát.

Lý Hoài Chu quàng khăn hơi lỏng tay, Khương Nhu nắm lấy mép khăn, từng vòng tháo ra rồi kiên nhẫn quàng lại cho anh ta.

Khoảng cách này hơi quá gần, hơi ấm hai người quyện vào nhau, sợi len xám lướt qua yết hầu, Lý Hoài Chu nín thở.

“Xong rồi.”

Khương Nhu lùi vài bước: “Khăn phải đeo thế này, nhớ nhé.”

Chiếc khăn vừa được quàng lại ôm gọn lấy cổ, dưới lớp vải, làn da vẫn hầm hập nóng.

Lý Hoài Chu khẽ “ừ”.

Cuối cùng anh ta chọn chiếc màu xám.

“Nó rất hợp với anh.”

Thanh toán xong, Khương Nhu làm bộ nghiêm: “Dù gì cũng là tấm lòng của tôi, anh đừng để nó nằm xó tủ bám bụi đấy.”

Lý Hoài Chu gật nhẹ, ngón cái khẽ miết lên đầu khăn mềm mịn: “Ừ.”

Đã muộn, hai người sóng vai đi về ga tàu điện ngầm.

Không biết đang nghĩ gì, Lý Hoài Chu cụp mắt, im lặng một lúc lâu rồi chợt hỏi: “Lúc quàng khăn, cô lại gần tôi có còn thấy sợ không?”

Ý anh ta là chứng sợ tiếp xúc gần với đàn ông của cô.

“Có chút, nhưng tốt hơn trước nhiều rồi.”

Khương Nhu khép tay, nắm lại rồi buông ra, nhớ lại cảm giác khi nãy: “Nói đúng ra, tôi không sợ anh. Chỉ là… nói sao nhỉ, chưa quen lắm.”

Lý Hoài Chu liếc sang, đáy mắt đen kịt như thấm mực.

Anh ta hỏi: “Chưa từng làm vậy với người khác à?”

Câu hỏi khiến bước chân Khương Nhu khựng lại.

“Chưa.”

Cô đáp khẽ: “Nói chuyện còn chẳng được mấy câu, sao tôi có thể đối xử tốt với họ đến vậy.”

Khi nói, cô không ngẩng đầu, lờ mờ, cô nghe bên cạnh vang lên một tiếng cười khẽ gần như không nghe thấy.

Lý Hoài Chu bỗng hỏi bâng quơ: “Bác sĩ tâm lý bảo cô sao? Là nên giao tiếp với đàn ông nhiều hơn à?”

“Mấu chốt là tiến dần từng bước. Đầu tiên phải ở trong những bối cảnh ít đe dọa, cùng ở chung với mấy bạn nam thân thiện, dần dần thả lỏng, rồi từ từ thích nghi.”

Khương Nhu giải thích: “Khi đã xây được kết nối với một người nào đó, thì có thể rút ngắn khoảng cách, thử tiếp xúc bộ nhiều hơn.”

Lý Hoài Chu hiểu ra: “Tiến dần từng bước… như bây giờ của chúng ta?”

“Cũng coi là vậy.”

Gió lạnh thốc từ hướng ga tàu điện ngầm tới, Khương Nhu rút nửa dưới gương mặt vào khăn quàng: “Anh còn nhớ không? Trước khi quen anh, dù đứng đối diện tính tiền, tôi cũng tuyệt đối không chủ động đưa đồ tận tay, để lỡ mà chạm phải ngón tay anh.”

Mỗi lần tới cửa hàng tiện lợi, cô đều đặt thẳng mấy túi to nhỏ lên quầy thu ngân, tránh mọi tiếp xúc cơ thể, cùng lắm chỉ nói một câu “cảm ơn” sau khi thanh toán.

“Ngày đầu tiên chủ động bắt chuyện với anh, tôi phát hiện cảm giác không tệ hệt như tôi tưởng.”

Khương Nhu mỉm cười: “Thế nên hôm sau tôi lại lấy can đảm chào anh lần nữa, nói cũng lạ, trước đây tôi gặp bao nhiêu người, câu chưa hợp đã thấy thừa, chỉ mình anh là khác họ.”

Lý Hoài Chu nhìn khoảng cách hai người vô thức rút ngắn: “Khác chỗ nào?”

“Khó nói lắm.”

Khương Nhu nghĩ một chốc: “Có lẽ vì anh không khiến tôi có cảm giác lãnh địa bị xâm phạm.”

“Hửm?”

“Rất nhiều người tôi gặp luôn thích chỉ trỏ, nhét suy nghĩ của họ lên người tôi. Có người thấy tôi làm quá: ‘Chẳng phải chỉ nói chuyện với người lạ thôi à? Có gì khó? Tôi thấy tinh thần cô yếu đuối quá, nên thế này thế kia…'”

Khương Nhu ngẩng giọng, bắt chước điệu bộ của họ: “Một phần khác thì thấy tôi đáng thương, bày ra cái gọi là ‘khí khái đàn ông’ trước mặt tôi: ‘Trời ơi, cô có bóng ma tâm lý à? Đừng sợ, tôi bảo vệ cô, cô cứ đứng sau lưng tôi là được.'”

Bắt chước xong, ngay cả cô cũng không nhịn được cười: “Ngộp thật đúng không? Anh thì khác. Anh rất yên tĩnh, mỗi lần đều nghe tôi nói hết, đáp lại vừa phải. Anh không lên mặt dạy dỗ, lại hiểu được ý tôi, ở bên anh là vùng an toàn của tôi.”

Lý Hoài Chu: “Vậy bước tiếp theo?”

“Gì cơ?”

“Bây giờ coi như đã ‘thiết lập kết nối’ rồi chứ?”

Lý Hoài Chu nói: “Muốn vượt qua chướng ngại tâm lý, cô còn phải làm gì nữa?”

Anh ta nói không nhiều nhưng đủ êm ái, Khương Nhu chợt hiểu ra anh ta đang định giúp cô.

Trong mắt cô ngân lên nụ cười biết ơn: “Để tôi nghĩ xem nào. Bác sĩ tâm lý bảo tôi hãy nói chuyện với nam giới nhiều hơn, đến khi thân rồi, có thể rút ngắn khoảng cách, thử vài tiếp xúc thông thường, như bắt tay, mấy phép tắc xã giao ấy.”

Nói xong cô mới nhận ra, mình và Lý Hoài Chu gần như vai kề vai từ lúc nào, chẳng rõ từ bao giờ, anh ta đã chắn cho Khương Nhu phần lớn dòng người.

Giây tiếp theo, Khương Nhu thấy một bàn tay thon dài, trắng nhạt.

Bàn tay ấy lơ lửng giữa hai người, dưới ánh đèn đường, cô nhìn rõ độ cong thư thái của từng ngón tay, và một vết bỏng cũ mờ ở kẽ giữa ngón cái với ngón trỏ.

Cổ tay Lý Hoài Chu hạ xuống đôi chút, dừng lại ở một khoảng cách an toàn vừa đủ.

Anh ta hỏi: “Muốn thử không? Bắt tay.”

Một cử chỉ thân thiện, không mang hàm ý trêu ghẹo.

Khương Nhu đứng im tại chỗ như bị khựng lại.

Có lẽ đoán được cô còn chần chừ, Lý Hoài Chu rút bàn tay vào trong ống tay áo, nhưng vẫn giữ nguyên tư thế vươn tay.

Như vậy tránh được tiếp xúc trực tiếp, loại trừ mọi khả năng mạo phạm.

“…Cảm ơn anh.”

Khương Nhu khẽ hít một hơi.

Cô nâng tay phải, cách qua lớp tay áo, cẩn thận nắm lấy các ngón tay của Lý Hoài Chu.

Ống tay áo anh ta vương vài hạt tuyết chưa tan, sờ vào lại phảng phất hơi ấm, Khương Nhu hiểu đó là nhiệt độ cơ thể anh ta còn lưu trên sợi vải.

Ngón trỏ cô khẽ run, nhưng không buông.

Từng chút một, Khương Nhu khép lòng bàn tay lại, như mọi người bình thường vẫn làm, lịch sự, đúng mực, bắt tay với Lý Hoài Chu.

Lần này, cô không vì khoảng cách quá gần mà run rẩy nữa.



“Thấy chưa.”

Khương Nhu khẽ cười: “Tôi nói rồi, anh là người đặc biệt.”

Cô ngẩng mặt, đồng tử hắt bóng đèn neon xoay vần, sáng rỡ lạ thường.

Lý Hoài Chu cúi đầu, mắt sâu như hồ, cuộn lấy cái bóng của Khương Nhu.

Phố xá ồn ã, người đến kẻ đi, chỉ có hai người họ nhìn nhau không rời.

Sự mơ hồ ấm áp đang lên men.

Vậy thì. Khương Nhu nghĩ, lúc này đây, Lý Hoài Chu đang nghĩ gì?

Bạo lực gia đình là chuyện cả đời cô không muốn nhớ lại, lấy nó làm “mồi”, từng chữ một kể cho Lý Hoài Chu nghe, nỗi đau của Khương Nhu là có thật, sự căm hận dành cho dượng, lòng xót thương dành cho dì, hết thảy đều không giả.

Cô moi ký ức nặng nề ra khỏi đáy lòng, nói rất khó nhọc, người nghe ắt cũng cảm nổi bi thương trong đó mà sinh thương cảm.

Nếu Lý Hoài Chu chỉ là một công dân trong sạch vô tội, thực sự coi cô là bạn, có lẽ sẽ vì cô từng bước bước khỏi bóng tối mà thấy an ủi phần nào.

Còn nếu là một trường hợp tệ hơn…

Với tư cách một kẻ sát nhân, trong đầu anh ta liệu đang dựng nên một câu chuyện về thuần dưỡng, lệ thuộc và khuất phục?

Giống như cách Lý Hoài Chu bắt từng con chim, nhốt vào lồng, bẻ gãy cánh, nhổ sạch lông, biến chúng thành vật sở hữu của mình.

Một kịch bản không tệ.

Khương Nhu rất hài lòng, chẳng ngại để nó tiếp tục.

Hãy càng xem thường cô hơn đi, càng quen với sự yếu mềm của cô đi.

Sợi dây cương trong mắt Lý Hoài Chu dùng để khóa cô, biết đâu một ngày kia, sẽ hóa thành giàn treo cổ cắt đứt mạng anh ta.

Chỉ còn thiếu bước cuối cùng, bước then chốt nhất.

Khương Nhu đã nghĩ ra cách điều tra Lý Hoài Chu đến nơi đến chốn rồi.
 
Chim Trong Lồng - Kỷ Anh
Chương 19


Đêm đó như một chiếc chìa khóa, mở ra cái ổ khóa không ai nhìn thấy.

Lý Hoài Chu cảm nhận rõ rệt, sự dựa dẫm của Khương Nhu với anh ta ngày một tăng.

Hai người đã thêm nhau trên WeChat, lúc còn chưa thân, mỗi ngày nhiều lắm cũng chỉ đôi ba câu chào hỏi, cuộc đối thoại không quá mười lượt.

Dần dần, khung chat bị Khương Nhu lấp đầy liên tục.

Video ngắn về mấy con mèo lăn lộn, quán ăn vỉa hè đầu đường cuối ngõ, sách phim mới xem gần đây…

Thỉnh thoảng đi mua sắm mà phát tác chứng “sợ lựa chọn”, cô cũng sẽ qua hỏi ý kiến Lý Hoài Chu.

Chỉ vì để cô nắm tay một lần thôi mà, đúng là dễ cắn câu.

Lý Hoài Chu thấy buồn cười, lại không tránh khỏi bị cô làm cho vui.

Không phải “đồ vô dụng ngu ngốc” trong miệng bố mẹ, trong mắt Khương Nhu, giá trị của anh ta là không thể thay thế.

“Cảm giác ở bên anh khác hẳn mọi người.”

Trước sự thân cận của cô, Lý Hoài Chu không phủ nhận cũng chẳng tự khoe, dùng dáng vẻ lúng túng không biết phải làm sao, đáp lại bằng một nụ cười ngượng ngập.

Trông có vẻ thụ động, nhưng thực ra là anh ta chủ động ngầm cho phép.

Lý Hoài Chu chính là muốn khiến Khương Nhu cảm thấy anh ta là độc nhất vô nhị, không giống ai, chỉ có anh ta mới sẵn lòng hoàn toàn tiếp nhận cô.

Ngoài anh ta ra, tất cả những người khác đều không cần xuất hiện trong vòng giao tế của cô.

Anh ta giả bộ như vô tình dẫn dắt:

“Bởi họ không hiểu cô.”

“Bên ngoài người muôn hình vạn trạng, tôi cũng từng gặp không ít cặn bã, cô phải luôn giữ cảnh giác.”

“Có gì muốn nói thì cứ tới tìm tôi, đừng sợ.”

Tai Khương Nhu mềm, nghe cái là gật đầu liên hồi, chưa từng phản bác.

Cô thiếu yêu thương quá lâu, trong ánh mắt nhìn Lý Hoài Chu mang theo sùng bái: “Anh sẽ bảo vệ tôi, đúng không?”

Lý Hoài Chu nói: “Ừ.”

Chuyện này thú vị quá đỗi.

Anh ta bắt đầu lên kế hoạch tỉ mỉ hơn.

Bất tri bất giác, quan hệ của anh ta và Khương Nhu ngày càng gần, vượt xa dự tính ban đầu, một khi cô xảy ra chuyện, Lý Hoài Chu khó tránh khỏi bị điều tra.

Lúc này giết Khương Nhu, rất không an toàn.

Vả lại, giờ đây khắp Giang Thành nơi nơi đề phòng, cảnh sát cũng đã lập chuyên án điều tra, Lý Hoài Chu rất khó tái phạm.

Không thể nếm lại kh*** c*m tàn sát, trong quãng đời dài dằng dặc sau này, anh ta cần một cách thay thế khác.

Tỷ như từ trên người Khương Nhu, thu được cảm giác khống chế bền bỉ, lâu dài.

Lý Hoài Chu thử biến cô thành đồ của riêng mình.

Mọi chuyện đều đang đi đúng hướng anh ta dự tính, nào ngờ đến ngày thứ ba, Khương Nhu không đến cửa hàng tiện lợi.

Quỹ đạo sinh hoạt của cô một thành bất biến, mỗi tối hơn tám giờ, nhất định xuất hiện trước cửa hàng tiện lợi.

Lý Hoài Chu nắm rõ quy luật này, hôm nay tan ca ngày anh ta ở cửa hàng đợi cô, đến gần chín giờ mà vẫn chưa thấy bóng dáng Khương Nhu.

Anh ta gửi mấy tin nhắn, không nhận được hồi âm, gọi điện cho cô, đầu dây bên kia chỉ có giọng nữ nhắc “máy đã tắt”.

Không liên lạc được với Khương Nhu, chín giờ rưỡi Lý Hoài Chu về nhà, trong lòng nói không rõ là cảm giác gì.

Cô không phải ngày nào cũng đến sao? Tối nay không thấy tăm hơi, vì sao ngay cả điện thoại cũng không nghe? Hay là, cô gặp chuyện rồi?

Khương Nhu là kiểu người ngay cả bữa sáng ăn gì cũng phải chụp ảnh báo cáo, lần đầu tiên thoát khỏi sự khống chế của anh ta mà không hề báo trước, như con diều đứt dây.

Cảm giác mất kiểm soát ập đến dữ dội, Lý Hoài Chu bứt rứt khó chịu.

May là, anh ta còn có cách khác để giải khuây.

Hôm nay là ngày anh ta dự tính xuống tầng hầm.

Nữ sinh cấp ba ấy đã bị nhốt trong tầng hầm gần tám ngày, Lý Hoài Chu tính toán thời gian, như thường lệ quyết định đến ngày thứ mười lăm thì giết cô ấy, ném xác xuống sông.

Mười lăm ngày đêm, không hơn không kém, đó là nghi thức của anh ta với tư cách một kẻ giết người hàng loạt.

Kẻ giết người hàng loạt.

Thành thật mà nói, Lý Hoài Chu rất thích thân phận này, nhất là lúc rảnh rỗi mở mấy tin xã hội liên quan, nhìn thấy phần bình luận kín đặc những “sợ quá”, “cầu bình an”, “mong sớm đưa hung thủ ra trước pháp luật”.

Anh ta tạo ra nỗi hoang mang cho cả Giang Thành, thậm chí lan ra cả nước;l, nhà nhà đều biết sự tồn tại của anh ta, không ngoại lệ mà bàn tán anh ta, dõi theo anh ta, khiếp sợ anh ta.

Thế hỏi có ai mà không thích?

Trong tĩnh lặng như tờ, Lý Hoài Chu đẩy cửa sắt của tầng hầm.

Ánh đèn hành lang rỉ vào căn phòng chật chội, thân thể đang ngồi dựa một góc khẽ động, là Từ Tĩnh Như đã hai ngày hai đêm chưa được ăn.

Cô ấy ở trong bóng tối lâu, không thích ứng nổi ánh sáng bất ngờ ập tới, theo phản xạ nhắm mắt.

Khoảnh khắc sau, cô ấy hoảng sợ trốn sâu vào góc.

Lý Hoài Chu cúi mắt nhìn cô ấy.

Hai ngày trước anh ta đã tới, giống như thời thơ ấu chọc ghẹo chuồn chuồn với chim chóc, cùng Từ Tĩnh Như trải qua hơn một tiếng đồng hồ.

Đến giờ má cô ấy vẫn còn sưng, vài vệt rạch loạn đã đóng vảy, từ gò má chéo xuống khóe môi;l, quá lâu không rửa ráy, mấy lọn tóc mai dính bết, chẳng rõ đông lại là máu hay mồ hôi.

Từ Tĩnh Như là một con mồi nhàm chán.

Vài người phụ nữ bị giam trước đó kẻ thì chửi ầm, kẻ thì vừa khóc vừa giãy, so ra, Từ Tĩnh Như quá đỗi yên lặng, như một xác chết bất động.

Cô ấy gần như chẳng phản kháng, lúc đầu còn cầu xin Lý Hoài Chu thả mình ra, sau phát hiện van nài vô dụng, dứt khoát im miệng, tê liệt chấp nhận đòn đánh.

Những phản ứng anh ta trông đợi, cô ấy chẳng hề nghe theo.

Nhàm chán.

Cửa sắt mở toang, đụng tường bật ra một tiếng nặng nề, Lý Hoài Chu tiến lên một bước, lắc lắc thùng mì ly trong tay: “Muốn ăn không?”

Khống chế việc ăn uống, là thủ đoạn anh ta học từ bố hồi nhỏ.

Hễ chọc bố nổi giận là bị tước quyền ngồi vào bàn ăn, đói lâu, bụng dưới quặn đau liên miên.

Còn bố sẽ cố tình ăn ngay trước mặt anh ta, trong hương nóng ấm của thức ăn, lạnh mặt quở trách: “Biết sai chưa?”

Khi lớn, Lý Hoài Chu nghĩ, làm sai thì không cho xương, giống thật như dạy chó.

Nhưng không thể phủ nhận, dạy chó kiểu này rất hiệu quả.

Đối với những người phụ nữ trong tầng hầm, nếu anh ta mang đến chỉ có đau đớn, họ sẽ chỉ còn chán ghét anh ta.

Nếu kèm thêm bữa ăn trong trạng thái đói cồn ruột cực hạn, không cần nghi ngờ, họ sẽ nảy sinh mong chờ đáng thương.

Quả nhiên, Từ Tĩnh Như gật đầu.

Lý Hoài Chu tiện tay quẳng mì xuống đất, Từ Tĩnh Như cố sức kéo lê thân thể đầy thương tích, nhích lại từng chút một.

Trên người cô ấy chi chít bầm tím, lại thêm ăn uống nghiêm trọng thiếu thốn, dạ dày co thắt liên tục, nuốt cũng đau.

Lý Hoài Chu hứng thú quan sát biểu cảm của cô ấy: “Cô nói xem, vài hôm nữa, khi người nhà nhìn thấy xác cô, mặt họ sẽ thế nào nhỉ?”

Từ Tĩnh Như vốn đang ngấu nghiến ăn mì, nghe vậy khựng lại, chợt ngẩng phắt lên.

Đèn hành lang hắt trong tròng mắt đầy máu của cô ấy, đỏ đến dọa người.

“Xác ngâm nước sẽ sưng phù hơn bình thường.”

Lý Hoài Chu thong thả, từ tốn giảng giải: “Ngũ quan phù nề, nhãn cầu như chùm nho thối. À đúng rồi, còn cái mùi hôi thối tỏa ra sau khi phân hủy nữa…”

Anh ta hài lòng bắt được cơn run rẩy của Từ Tĩnh Như, cô ấy không ăn mì nổi nữa, khụng khụng muốn nôn.

“Dạng thi thể như thế, gần như mọi thân nhân đều không thể chấp nhận.”

Lý Hoài Chu nhớ lại các bản tin liên quan: “Tôi nhớ có người ngất ngay tại chỗ, có người bên bờ trầm uất, cũng có kẻ miệng năm miệng mười nói nhất định phải bắt được hung thủ…”

Anh ta nhún vai cười cợt: “Mà tôi chẳng phải đang đứng sờ sờ ở đây sao?”

Một giọt nước trong veo lăn qua mặt Từ Tĩnh Như, rơi xuống nước mì, không gợn lấy một tiếng động.

Cô ấy cuối cùng ngẩng đầu, đôi mắt đầy tia máu lạnh lẽo rợn người: “Anh là một thằng khốn.”

Những lời loại này, Lý Hoài Chu đã quen. Bị Từ Tĩnh Như rủa xả ngay lúc này, anh ta chẳng những không tức giận, trái lại có kh*** c*m kín đáo.

Nên là như thế.

Anh ta sơ bộ đã thao túng được cảm xúc của người phụ nữ này, tiếp theo phải làm, là thông qua bạo lực, tăng cường hơn nữa tuyệt vọng của cô ấy.

Lý Hoài Chu bước thong thả, khép tay phải, xoa xoa đôi găng cao su che dấu vân tay.

Từ Tĩnh Như từng chứng kiến không ít lần anh ta ra tay, liếc là nhận ra đó là tín hiệu sắp động thủ.

Cô ấy bỏ cuộc không cầu xin, bỏ cuộc không phản kháng, cuộn người lại thành một khối, che chở phần đầu.

Ngoài dự tính, nắm đấm không giáng xuống.

Trong tầng hầm trống vắng, tiếng rung điện thoại bật lên thật chướng tai.

Không chỉ Từ Tĩnh Như, ngay cả Lý Hoài Chu cũng cau mày.

Đó là một cú gọi cụt hứng, lẽ ra anh ta phải mặc kệ, song vì một sự kỳ vọng mơ hồ, anh ta nhìn vào màn hình hiển thị cuộc gọi đến.

Là Khương Nhu.

Có nên nghe không?

Lý Hoài Chu thoáng chần chừ.

Anh ta ngần ngừ quá lâu không nhấn nút nghe, cuộc gọi bị xử lý như cuộc gọi nhỡ, bị ngắt đi.

Tiếp đó, Khương Nhu gọi lần thứ hai.

Lý Hoài Chu lạnh mặt liếc về phía Từ Tĩnh Như, quay người ra ngoài, lên tầng một cách biệt tiếng động của tầng hầm.

Anh ta chọn kết nối: “A lô?”

Thanh âm của Khương Nhu vang từ đầu bên kia: “Lý Hoài Chu.”

Giọng cô khàn, nghèn nghẹn như vừa khóc xong.

“Xin lỗi, điện thoại của tôi bị rơi hỏng, giờ mới sửa xong.”

Khương Nhu không giải thích thêm, trong điện thoại vang lên tiếng nức nở đè nén: “Anh về nhà chưa?”

“Ừ.”

Lý Hoài Chu hỏi: “Cô làm sao thế?”

“Tôi…”

Hơi thở của cô đứt quãng: “Tôi tới tìm anh, được không?”

Tìm anh ta? Đến nhà anh ta ư?

Ánh mắt Lý Hoài Chu dừng trên đôi găng cao su, nếu không bị cú gọi của Khương Nhu cắt ngang, lúc này chúng đã dính đầy máu.

Giọng anh ta vẫn ôn hòa, hoàn toàn trái ngược với sự lạnh lùng khi ở tầng hầm: “Được. Đã xảy ra chuyện gì vậy? Cô còn ổn chứ?”

Anh ta nghe thấy Khương Nhu miễn cưỡng kéo ra một tia cười: “Ổn rồi, không sao nữa.”

Cô nói: “Cảm ơn anh.”

Kế hoạch đã định không thể tiếp tục, Lý Hoài Chu cúp máy, cởi găng tay và áo mưa dùng một lần.

Anh ta rất rành chuyện che giấu dấu vết, vân tay, DNA và máu tuyệt đối không được dính lên người, nếu không sẽ bại lộ thân phận. Để khử mùi tanh của máu, anh ta cố ý tắm một lượt, kiểm tra rồi cất kỹ tất cả vật có thể gây nghi ngờ. Chẳng bao lâu sau, vang lên tiếng gõ cửa.

Lý Hoài Chu mở cửa.

Nhìn rõ cảnh tượng ngoài cửa, anh ta bỗng nghẹn lời.

Khương Nhu đứng trong bóng hoàng hôn, không ngừng run rẩy.

Cô chưa từng chật vật đến vậy, nửa bên mặt sưng đỏ nhô lên, rõ ràng phân biệt được dấu bàn tay dữ tợn. Ánh mắt chạm nhau, viền mắt cô đỏ bừng, trong đồng tử là những tia máu như mạng nhện, cùng những giọt lệ sắp rơi.

Chuông báo động trong lòng Lý Hoài Chu reo inh ỏi: “Xảy ra chuyện gì…”

Tiếng vừa cất đã khựng lại.

Thân thể run rẩy của Khương Nhu đột ngột áp sát, như kẻ sắp chết đuối nắm chặt cọng rơm cứu mạng, chộp lấy cánh tay Lý Hoài Chu.

“Là ông ta…”

Giọng cô vỡ vụn tơi tả, chan chứa tiếng khóc: “Ông ta lại đến trường tìm tôi.”

Ông ta.

Dượng của Khương Nhu.

“Hắn lại đánh cô?”

Giọng Lý Hoài Chu hơi khàn.

Khương Nhu nức nở: “Dượng tôi… ông ta thua sạch tiền, ra cổng trường chặn tôi.”

Lúc này nên làm gì?

Vụng về đến buồn cười, Lý Hoài Chu đặt lòng bàn tay lên vai cô, khẽ vỗ nhẹ: “Sau đó thì sao?”

“Ông ta đến đòi tiền tôi mấy tháng liền, tôi nói không thể đưa nữa, nên ông ta…”

Việc tiếp theo khỏi cần cô nói, Lý Hoài Chu cũng đoán được.

Gã đàn ông ấy tức giận mất khôn, lại ra tay với cô.

“Phải làm sao đây?”

Khương Nhu nghiến răng: “Ông ta nói cả đời này tôi cũng không thoát khỏi ông ta… Tôi sắp phát điên rồi.”

Cô khóc dữ quá, lại đứng ngoài gió tuyết đã lâu, cổ họng khản đặc chẳng ra hơi, cả gương mặt ửng lên thứ đỏ ốm o quái dị.

Lý Hoài Chu đỡ chắc vai cô, cố ý hạ giọng dịu đi: “Vào nhà trước đã, ngoài này lạnh.”

Khương Nhu ngoan ngoãn làm theo, loạng choạng bước vào.

Trong nhà ấm hơn bên ngoài rất nhiều, vừa vào, hơi ấm từ hệ thống sưởi đã quấn trùm khắp người.

Tứ chi trăm cốt dần hồi sức, lý trí cũng “rã đông”, không còn mơ mơ hồ hồ như lúc đầu.

Khương Nhu chợt thấy hành vi vừa rồi của mình quá mất mặt, luống cuống lau khô nước mắt: “Cảm ơn anh.”

“Ông ta tát tôi một cái, còn ném vỡ điện thoại của tôi.”

Cô giải thích: “Lúc đó điện thoại hỏng, trên người lại không mang tiền mặt, đến thuốc cũng không mua nổi. Là một bạn nữ đi ngang thấy dáng vẻ của tôi hoảng quá, mới giúp tôi đi mua thuốc bôi.”

Cô nâng tay chạm vào má trái, vẫn sưng vù cao cao, đau nhức khôn tả.

“Xin lỗi, muộn thế này còn đến quấy rầy anh.”

Khương Nhu nói: “Tôi…”

Khó nói nên lời, viền mắt lại ửng đỏ thêm: “Ngoài anh ra, tôi không biết tìm ai nữa.”

“Không sao.”

Lý Hoài Chu rót nước ấm đẩy qua: “Tôi không thấy phiền, chỉ là trước đó không liên lạc được với cô nên rất lo.”

Khương Nhu ôm cốc nước, mỉm cười rất nhạt: “Tôi thấy rồi, anh cứ gọi điện nhắn tin cho tôi mãi.”

Hai chân cô bủn rủn, thuận thế ngồi xuống sofa, thân thể nghiêng nghiêng tựa lên gối tựa, ánh mắt vẫn đuổi theo bước chân Lý Hoài Chu. Vì nhìn chăm chú quá, sự nương cậy non nớt như chim con tràn ra từ đôi mắt ướt át, như thể chỉ trên người Lý Hoài Chu, Khương Nhu mới có thể rút lấy an ủi.

Lý Hoài Chu hỏi: “Sự việc giải quyết thế nào? Cô có đưa tiền cho hắn không?”

“Không.”

Sắc mặt Khương Nhu ảm đạm: “Ông ta gây chuyện ở cổng trường, bị bảo vệ chặn lại, nói còn ầm ĩ nữa là đưa ông ta lên đồn cảnh sát. Nhưng lời cảnh cáo kiểu đó, với ông ta hoàn toàn vô dụng, vài hôm nữa, ông ta lại giở đủ trò…”

Nghèn nghẹn dâng lên cổ, cô uống một ngụm nước: “Ông ta biết trường tôi với cách liên lạc của tôi, tôi trốn không nổi.”

Lý Hoài Chu nghĩ một lúc: “Báo cảnh sát thì sao? Lần này bảo vệ có thể làm nhân chứng.”

Lặng im một chốc.

Cổ cô cúi gằm, nét mặt vùi trong bóng tối, là sự u ám tuyệt vọng chưa từng bộc lộ.

Cô nói: “Anh còn nhớ không? Trước đây tôi cũng hỏi anh cùng một câu như vậy.”

Hồi hai người mới thân, Lý Hoài Chu bị bọn côn đồ gây sự, Khương Nhu từng hỏi anh ta, đã thử báo cảnh sát chưa. Câu trả lời của anh ta là, báo cũng vô ích.

“Dù có chứng cứ, dượng cùng lắm chỉ bị tạm giam vài ngày.”

Lưng Khương Nhu run lên: “Đợi ông ta ra thì sao? Tôi với dì sẽ bị ông ta đánh chết… Ông ta từng nói nếu dám báo cảnh sát là ông ta sẽ giết tôi.”

Ký ức ấy như một công tắc, mỗi lần nhớ lại, cô không kìm được mà run cầm cập.

“Anh hiểu mà, phải không? Tôi chỉ cần trừng mắt nhìn ông ta một cái, cãi lại một câu thôi là đã bị ông ta… Nếu báo cảnh sát, lúc ông ta nổi điên lên, sẽ làm gì với chúng tôi?”

“Tôi đã xem rất nhiều trường hợp bị trả thù sau khi báo cảnh sát, đa số kẻ bạo hành bị tạm giam ngắn ngày rồi thả, có kẻ đánh mắng nạn nhân còn ác hơn, có kẻ bịa đặt tung tin, có kẻ bám đuôi theo dõi dai dẳng… Chỉ cần ông ta còn ở Giang Thành, là né không nổi.”

Trong phòng khách, dần dần bị tiếng khóc lấp đầy.

Khương Nhu dùng hai tay che mặt, lúc đầu còn c*n m** d*** cố nén tiếng nấc, sau không thể kìm lại, buông thả khóc òa lên.

Lý Hoài Chu dõi nhìn cô, đôi mắt không lộ vui buồn.

Một lúc sau, anh ta đưa tay, vỗ nhẹ lên vai Khương Nhu: “Không sao rồi, ở đây của rất an toàn.”

Lực đạo dịu dàng truyền qua lớp vải, mang đến một sự an ủi ấm áp, dần dần, Khương Nhu ngừng rơi lệ.

“Cảm ơn anh.”

Đợi cảm xúc hơi lắng xuống, cô lấy hết can đảm, rụt rè hỏi: “Mấy ngày tới… tôi có thể ở nhờ nhà anh không?”

Lý Hoài Chu khựng lại, không đáp mà hỏi ngược: “Ở nhà tôi ư?”

Phản ứng ấy khiến Khương Nhu càng thêm bất an, cô thấp giọng giải thích: “Dượng tôi có thể lại xuất hiện bất cứ lúc nào, còn bên trường… thời gian ngắn này tôi không dám về.”

“Khách sạn thì sao?”

“Một mình ở… tôi sợ…”

Khóe lệ vừa nén xuống lại ào lên, cô ngước đôi mắt ươn ướt nhìn sang: “Xin anh đó… Bạn tôi không nhiều, anh là người duy nhất tôi tin, có thể… ở bên tôi không?”

Đây là lần đầu tiên cô nói với Lý Hoài Chu những lời thẳng thắn đến mức gần như cầu khẩn như vậy.

Khương Nhu quá hoảng loạn, quá luống cuống.

Nước mắt tí tách rơi, lông mi bị thấm ướt dính lại thành từng chùm, mỗi lần run khẽ, những hạt lệ chưa rơi hết lại bị rung xuống.

Từ trong mắt cô, Lý Hoài Chu bắt lấy sự tin cậy trọn vẹn và sự phó thác liều lĩnh.

Có nên để cô ở lại không?

Lý Hoài Chu bình tĩnh đánh giá.

Thứ nhất, tầng hầm giấu ở nơi người ngoài khó ngờ tới, cách âm cực tốt, trong tay Khương Nhu không có chìa khóa, không thể phát hiện Từ Tĩnh Như.

Thứ hai, cứu cô khỏi tay gã dượng bạo hành là cơ hội tuyệt hảo để khiến Khương Nhu hoàn toàn dựa dẫm, không rời khỏi anh ta.

Ngược lại nếu mặc kệ cô, niềm tin của Khương Nhu với anh ta sẽ sụp đổ, mọi công sức thuần phục trước đây coi như đổ sông.

Thứ ba…

Trước mặt Khương Nhu, hình tượng anh ta dày công dựng lên luôn là một người bảo hộ dịu dàng.

Nếu từ chối che chở, sẽ trái hẳn logic hành xử trước nay, rất dễ khiến người ta nghi ngờ, liên tưởng căn nhà này có vấn đề.

Huống hồ, Lý Hoài Chu từng dùng mặt dây mèo trắng để thử thăm dò cô một lần, hai chuyện cộng lại, khác nào tự bóc trần thân phận.

Thuần phục hay uổng công, đây là bước ngoặt quan trọng trong mối quan hệ giữa anh ta và Khương Nhu.

Có nên đồng ý không?

Không khí đông cứng trong chốc lát.

Hơi thở của Khương Nhu cũng nhẹ dần, không dám quấy nhiễu quyết định của anh ta, chờ mãi không được đáp lời, ánh sáng trong mắt cô dần tối đi.

“Không được sao?”

Một giọt lệ rơi xuống không tiếng động, cô vội lau thật mạnh.

Khương Nhu khẽ kéo khóe môi, muốn che đi bộ dạng chật vật, đáng tiếc nụ cười còn chưa thành hình đã tắt ngóm: “Không sao… nếu anh không muốn thì…”

Cô đang sợ, sợ bị anh ta vứt bỏ.

Cảm giác này.

Quá đã rồi.

Một luồng khoái ý nữa dâng từ lồng ngực, Lý Hoài Chu cứ thế nhấm nháp thứ k*ch th*ch chưa từng có ấy, cố ý im lặng thêm mấy giây, để nỗi bất an của Khương Nhu lên men đến cực hạn.

Anh ta chậm rãi mở miệng: “Ở lại đi.”

Khương Nhu ngẩng đầu, viền mắt còn đỏ, dường như vẫn chưa kịp phản ứng.

Lý Hoài Chu đưa tay, lau đi vệt lệ chưa khô trên mặt cô, đầu ngón tay ấm áp, động tác dịu dàng.

Như chủ nhân nhìn từ trên xuống, vỗ về một thú cưng yếu mềm.

“Tôi nói rồi, cô có thể ở lại.”
 
Back
Top Bottom