Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Wattpad  [Cảm Hứng Lịch Sử] Nguyện Ước Hạnh Duyên - Phương Nghiên

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
442,990
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
400976104-256-k816734.jpg

[Cảm Hứng Lịch Sử] Nguyện Ước Hạnh Duyên - Phương Nghiên
Tác giả: phuongnghien52
Thể loại: Tiểu thuyết
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Gặp nhau là một mảnh duyên
Tiếc rằng chẳng đặng thuyền quyên, anh hùng
Những mong một dạo tương phùng
Mà rồi mỗi ngả, muôn trùng cách xa.

Người xa kia hỡi người xa
Kiếp này chẳng thể gọi ta với mình.

Mẹ tôi gặp cha trong cơn hoạn nạn, binh biến.

Mẹ đặt tên tôi là Hạnh Duyên, với ngụ ý tôi chính kết tinh của đoạn duyên ngắn ngủi mà cả đời mẹ luôn nâng niu, trân quý.

Hạnh Duyên, ấy cũng là nguyện ước mẹ dành cho tôi.

Hạnh Duyên, là những mong tôi gặp được mối duyên tốt đẹp, là hy vọng tôi hạnh phúc bên người mình thương yêu.

Nhưng vào phủ nhà họ Ngô, con gái đều lót chữ Ngọc.

Một chữ "Hạnh Duyên" bỗng dưng trở thành sự khác biệt đau đớn so với phần còn lại của chị em trong phủ, là khoảng cách thân phận tôi không thể vượt qua.

Chữ "Hạnh Duyên" mang tôi đến những lần gặp gỡ bất ngờ.

Chữ "Hạnh Duyên" cũng vô tình chia cắt tôi với những người tôi thương yêu, trân trọng, đưa chúng tôi bước tới những ngã rẽ không ngờ mai sau.

Để rồi đến cuối cùng, dẫu ngã rẽ ấy là chọn lựa hay bất đắc dĩ - Hạnh Duyên, chỉ còn là những mảnh duyên dở dang, đứt đoạn, chỉ là những cuộc trùng phùng ngắn ngủi để lại biết bao thương tổn, đớn đau...

 
[Cảm Hứng Lịch Sử] Nguyện Ước Hạnh Duyên - Phương Nghiên
Nguyện ước hạnh duyên - Giới thiệu tiểu thuyết


Gặp nhau là một mảnh duyên
Tiếc rằng chẳng đặng thuyền quyên, anh hùng
Những mong một dạo tương phùng
Mà rồi mỗi ngả, muôn trùng cách xa.

Người xa kia hỡi người xa
Kiếp này chẳng thể gọi ta với mình.Mẹ tôi gặp cha trong cơn hoạn nạn, binh biến.

Mẹ đặt tên tôi là Hạnh Duyên, với ngụ ý tôi chính kết tinh của đoạn duyên ngắn ngủi mà cả đời mẹ luôn nâng niu, trân quý.

Hạnh Duyên, ấy cũng là nguyện ước mẹ dành cho tôi.

Hạnh Duyên, là những mong tôi gặp được mối duyên tốt đẹp, là hy vọng tôi hạnh phúc bên người mình thương yêu.Nhưng vào phủ nhà họ Ngô, con gái đều lót chữ Ngọc.

Một chữ "Hạnh Duyên" bỗng dưng trở thành sự khác biệt đau đớn so với phần còn lại của chị em trong phủ, là khoảng cách thân phận tôi không thể vượt qua.

Chữ "Hạnh Duyên" mang tôi đến những lần gặp gỡ bất ngờ.

Chữ "Hạnh Duyên" cũng vô tình chia cắt tôi với những người tôi thương yêu, trân trọng, đưa chúng tôi bước tới những ngã rẽ không ngờ mai sau.

Để rồi đến cuối cùng, dẫu ngã rẽ ấy là chọn lựa hay bất đắc dĩ - Hạnh Duyên, chỉ còn là những mảnh duyên dở dang, đứt đoạn, chỉ là những cuộc trùng phùng ngắn ngủi để lại biết bao thương tổn, đớn đau...
 
[Cảm Hứng Lịch Sử] Nguyện Ước Hạnh Duyên - Phương Nghiên
Đôi lời tác giả (5/9/2025)


Đôi lời tác giảCảm ơn nếu bạn đã ở đây để ngó qua "Nguyện ước hạnh duyên", đứa con tinh thần tuổi 22 của mình.

Mình viết "Nguyện ước hạnh duyên" trong khoảng thời gian hơi khó khăn và chông chênh.

Ban đầu chỉ muốn gửi gắm một vài nỗi niềm qua câu chuyện, nhưng sau đó cảm thấy rất hứng thú nên mình đang nỗ lực hoàn thành tác phẩm này.

Nếu mọi người đến "Nguyện ước hạnh duyên" để tìm một nhân vật nam/nữ chính hoàn mỹ, toàn tài, cái gì cũng có thể biết và xử lý thì rất tiếc ở đây không có đâu.

Truyện dựa trên cảm hứng lịch sử, bao gồm một số sự kiện diễn ra vào thời Lê sơ.

Tuy nhiên, truyện không phản ánh chính sử, bao gồm những tình tiết, nhân vật, địa danh... không có thật trong lịch sử.

Đối với những tình tiết có sự thay đổi cho phù hợp nội dung truyện, mình sẽ cố gắng ghi chú đầy đủ.

"Nguyện ước hạnh duyên" được đăng tải duy nhất trên Wattpad, sau này có thể là Wordpress để mình tiện điều chỉnh và bổ sung các tình tiết nội dung chưa phù hợp.

Mình không phải một nhà văn chuyên nghiệp, cũng không từng học chuyên ngành/lớp chuyên nào liên quan tới văn chương.

Với hạn chế về kiến thức và khả năng tra cứu, truyện không tránh được những sai sót về mọi mặt.

Độc giả nếu cảm thấy có nội dung nào chưa phù hợp có thể bình luận dưới các chương để mình được biết và kịp thời điều chỉnh cho phù hợp nhé.

Mình sẽ xem xét các góp ý và sửa đổi sao cho hợp lý, cho nên đừng vội chê trách hay mang lên các confession, tội mình. :
 
[Cảm Hứng Lịch Sử] Nguyện Ước Hạnh Duyên - Phương Nghiên
Nguyện ước hạnh duyên - Mục lục


Ghi chú: Tên chương của Nguyện ước hạnh duyên được đặt bằng tên câu thơ lục bát đầu tiên trong bài thơ đề mỗi chương mình viết.

Mình sẽ đăng từ từ các chương nhé!Chương 1: Thiệu Thiên non núi trập trùng
Chương 2: Bông súng với cá lóc đồng
Chương 3: Tiểu thư lá ngọc cành vàng
Chương 4: Gặp nhau là một cái duyên
Chương 5: Bước qua gian khó khốn cùng
Chương 6: Ngọc trao tay, giữ mai này
Chương 7: Vắng mẹ, tủi lắm mẹ ơi!

Chương 8: Gặp nhau từ thuở thiếu thời
Chương 9: Ước mong cuộc sống ấm êm
Chương 10: Ngẫu nhiên buổi rằm tháng Giêng
Chương 11: Tầm thường e cũng khó cầu
Chương 12: Lỡ làng đôi lứa chia phôi
 
[Cảm Hứng Lịch Sử] Nguyện Ước Hạnh Duyên - Phương Nghiên
Nguyện ước hạnh duyên - Chương 1: Thiệu Thiên non núi trập trùng


Nguyện ước hạnh duyên - Chương 1: Thiệu Thiên non núi trập trùngThiệu Thiên non núi trập trùng
Đường xa cách trở về cùng với ai?

Rằng: một mình tới phủ đài
Tìm cha, tìm chị khỏi hoài những mong.
__________________________"Cha ơi, cha ơi!"

Tháng bảy năm Thuận Thiên thứ 5.

Trời Thiệu Thiên mưa rơi tầm tã, làm ướt sũng bộ đồ thô kệch tôi mặc trên người.

Chiếc khăn tôi lấy cột tóc đã tuột từ bao giờ không biết, để rồi mái tóc dài loà xoà đã che kín nửa gương mặt.

Nước mưa xối dội cay xè đôi mắt khiến cổng phủ Chương Khánh công mờ mờ ảo ảo trước mắt tôi.

Mỗi bước đi của tôi lúc này nặng nề như đeo thêm đá, mỗi nhịp thở cũng kèm theo những nhịp ho sặc sụa vì ngấm nước.Vào đến mái hiên dốc trước cửa phủ cũng là khi tôi ngã nhào xuống thềm đá cứng vì đuối mệt.

Đây là nhà tôi rồi.

Đã tới nhà tôi rồi.

Bên lỗ tai ù ù, ong ong vì ngấm nước của tôi lúc ấy, như đã thoáng văng vẳng lời mẹ tôi trước khi trút hơi thở cuối cùng: "Duyên, con nhất định phải xuống miền Thiệu Thiên, tìm cha con là ông Ngô Từ.

Nhất định..."

Dù có kiệt quệ mà chết ngay tại đây, tôi cũng phải chết ở nhà của mình, nhà họ Ngô.

Nghĩ đến những lời của mẹ, tôi dùng hết phần sức lực và chút nhận thức cuối cùng gọi lớn, lại đập tay lên cánh cổng to lớn trước mặt, không ngừng gọi: "Cha ơi, cha ơi!

Mở cửa cho con với."

Lặp lại không biết bao nhiêu lần, tôi thoáng nghe tiếng chân mấy người từ sau cánh cửa chạy tới mỗi lúc một gần hơn, nghe thấy cả tiếng quở lẫn vào trong tiếng mưa rơi lộp bộp: "Ai giữa trời mưa gió này còn đến phủ ông Chương Khánh nữa?"

Cửa từ từ mở, tôi đang bám vào cánh cửa thoáng chốc ngã nhào theo lực kéo của những người bên trong.

Mắt không còn mở được, đầu không còn nghĩ được điều gì nữa.

Trước khi hoàn toàn bị mất đi tri giác, tôi chỉ thấy mấy người kia nửa kéo, nửa lay mà gọi tôi: "Này, này, này, ai đây, ai..."

Khung cảnh quanh tôi thật mơ hồ, khói sương lẫn lộn, ảo ảo mờ mờ.

Tôi nhác thấy bóng mẹ tôi, người mặc áo giao xanh thẫm đứng bên đầm sen chỉ cách tôi chừng mười bước.

Thấy mẹ, trong lòng tôi sung sướng vô ngần, liền cất tiếng gọi lớn: "Mẹ, mẹ ơi!

Đợi con với."

Nhưng mẹ cứ thế chìm vào trong màn sương, khiến tôi từ ngẩn ngơ chuyển sang xót xa, rồi sợ hãi.

Trong giây lát sau khi định thần, tôi không nhìn rõ dáng vẻ của mẹ tôi nữa, vội cất gọi tiếng "Mẹ ơi" thêm mấy lần.

Chẳng thấy mẹ đâu.

Chỉ thấy xung quanh man mác mùi sen dịu ngọt, thấy cả tiếng mẹ tôi văng vẳng giữa không gian u ám: "Duyên con, mẹ phải đi rồi.

Phần đời còn lại, con phải sống thật tốt.

Tìm về bên cha con, sống thật tốt."

"Mẹ, mẹ ơi!"

Tôi vừa gọi, vừa muốn nhấc chân chạy về phía bóng mẹ, nhưng chẳng hiểu sao đôi chân này cứ chẳng nghe theo ý mình, chẳng thể bước đi.

Tiếng mẹ cứ thế nhỏ dần, nhỏ dần.

Bóng dáng mẹ cũng nhạt nhoà rồi khuất hẳn.

Xung quanh chỉ còn mình tôi với bóng tối bao trùm, với hương sen vẫn còn ngọt dịu.

"Mẹ, mẹ, mẹ ơi!"

Chỉ có tiếng vọng lại trong không gian u tối.

Tôi một mình đứng giữa bao la trời đất mà ngỡ như nỗi cô đơn đã hòa trong bóng đen rợn người.

"Em, em!"

Có sức người vừa lay vừa nói sát tai, khiến hồn phách tôi như được gọi về với thân xác.

Tuy vẫn chưa hoàn toàn thoát hẳn ra khỏi những nỗi kinh hoàng, nhưng tôi đã cảm nhận được đang có người đang bên cạnh.

Tôi chưa dám mở mắt, nhưng đã dần thấy được sự an toàn, lại bớt đi tủi thân, đơn độc giày vò bởi bóng đen kia.

Trong mơ màng, tôi nhận ra không gian xung quanh ấm áp hơn, mà có cả hương sen thoang thoảng như bước từ giấc mộng của tôi ra cùng.

Tôi bắt đầu từ từ hé mắt, đưa những ánh sáng đầu tiên lọt vào đánh thức các giác quan.

Vẫn như tỉnh như mơ, bên cạnh tôi là một thiếu nữ đẹp động lòng người.

Xung quanh cũng là chăn gấm đệm êm khiến tôi những tưởng giấc mơ vừa rồi là một nghi thức chuyển dời thực tại nhằm đưa tôi tới một chốn bồng lai để gặp tiên nhân nào đó.

Nét mặt thiếu nữ kia vừa dịu hiền, vừa trang nhã, lại mặc một giao lĩnh gấm hoa đẹp động lòng người.

Tóc vấn đỉnh đầu, lại cài thêm những thứ nữ trang bắt mắt, thực sự chẳng khác gì tưởng tượng của tôi về cô tiên qua những câu chuyện mẹ tôi hay kể.

Nàng ấy thở phào rồi nở một nụ cười dịu dàng cũng hệt như nụ cười của mẹ tôi thuở trước: "Ơn trời, em tỉnh lại rồi."

Theo bản năng tôi cựa người muốn ngồi dậy.

Nàng ấy lại vội vàng chạm vào tay tôi, bảo: "Ấy, em hãy còn yếu lắm.

Vừa ngấm nước mưa, vừa bị đói, phải nhiều giờ mới tỉnh lại, cứ nằm nghỉ trên giường thôi."

Đây là thực, chẳng phải mơ.

Đây vẫn là trần, chứ không phải cõi bồng lai nào hết.

Chỉ là khung cảnh lạ lùng này khiến tôi nhất thời vẫn chưa hoàn hồn, miệng mấp máy: "Cô..."

Thiếu nữ trước mặt dường như hiểu ý, lại mỉm cười từ tốn mà nói với tôi: "Không phải cô, gọi là chị thôi.

Chị là Ngọc Dao, con gái ông Chương Khánh công Ngô Từ.

Đây là phòng của chị, em đói rồi phải không?

Để chị sai người hầu mang cháo nóng tới cho em."

Bụng tôi trống rỗng đã lâu.

Dù toàn thân đã ấm hơn nhưng cái đói đúng là vẫn như giày vò thân thể này, khiến tứ chi mềm nhũn, hai hàm cũng như lỏng ra, môi dưới môi trên cũng run rẩy, phải gắng sức lắm mới thở đều nhịp.

Ấy là kết quả của việc ba ngày liên tục không uống không ăn, đi ròng rã qua núi lội đèo đến miền Thiệu Thiên này.

Vẫn may, tôi còn tới được cửa phủ Chương Khánh công, gặp được người nhà, nếu không thì ngày mai, chắc nơi tôi nằm đây không phải khuê phòng của chị gái, mà là bãi tha ma mất.

Mưa gió tháng bảy lớn đến thế, chẳng ai muốn ra ngoài đường, càng không mấy ai muốn dừng lại cứu một kẻ không rõ lai lịch như tôi.

"Chị... chị ơi."

Trong cổ họng tôi dường như có rất nhiều từ, nhiều chữ, nhiều câu muốn bộc bạch.

Đều là những lời tôi đã nghĩ đi nghĩ lại bấy lâu, rằng khi gặp người thân tôi sẽ nói.

Nhưng đúng là "có thực mới vực được đạo", cái đói đã nén chặt những thứ tôi chưa kịp thốt ra vào lại trong cái bụng trống rỗng.

Chị Ngọc Dao bật cười, như đi guốc trong bụng tôi, quở rằng: "Em cứ ăn xong đã, rồi nói gì với chị sau cũng chẳng muộn mà."

Ngay lúc ấy, có tiếng cửa mở, một cô gái nhỏ mặc áo thô, tóc búi song nha, bưng khay tới bên chị Ngọc Dao, cúi người nhỏ nhẹ: "Thưa cô, cháo đây ạ."

Mùi cháo thơm nức khiến tôi như được hồi sinh thực sự.

Tôi như mất hết liêm sỉ, tự mình gượng dậy.

Chị Ngọc Dao đưa hai tay đỡ lấy tôi, lại cẩn thận để cái gối gấm thơm thơm mùi sen phía sau trước cho tôi dựa.

Xương cốt tôi vẫn ê ẩm, mỏi nhừ.

Cô gái nhỏ kia đưa khay đến gần.

Ngửi rõ hơn, tôi biết đó là cháo gà với ngải cứu.

Gà mềm lại dễ ăn, ngải cứu điều hòa thân nhiệt, hợp với người ốm nhất.

Chị Ngọc Dao lại tỉ mỉ đỡ lấy bát cháo, cầm lấy cái muỗng sứ khuấy đều và thổi cho nguội bớt.

Tôi ngồi cạnh thèm thuồng, hẳn là trông chẳng khác gì một con quỷ đói.

Chị chỉ cười hiền, đưa chiếc bát sứ hoa xanh cho tôi: "Em tự ăn hay để chị bón cho?"

Tôi vẫn còn hơi gượng gạo, mi mắt hơi chớp, chưa biết đáp sao cho hợp với sự dịu dàng của chị.

Chị lấy chiếc khay đặt lên bên trên chiếc chăn dày tôi đang đắp, rồi để bát lên và bảo: "Em tự ăn nhé."

Tôi sững người trong chốc lát rồi gật nhẹ đầu, lại theo bản năng ngước nhìn chị thêm một lần, nhìn sang cả cô gái nhỏ bên cạnh chị.

Chị như hiểu hết những gì tôi đang nghĩ trong bụng, từ cái đói, cái gượng gạo của một kẻ dưới, tới cả cái sĩ diện tầm thường của một con người.

Chị quay sang cô gái nhỏ kia nói: "Thanh Linh, ra ngoài cửa đi, khi nào cần, ta sẽ gọi em."

Cô hầu Thanh Linh kia đi hẳn, tôi mới cầm bát cháo lên húp ngấu húp nghiến.

Hạt gạo mềm nhừ tan dần trong cổ họng, vị gà thơm lừng trong cháo đi dần vào người, lan khắp tứ chi, như mang sinh khí trở lại trong thân thể tạ tàn của tôi.

Vị ngọt của gạo nếp hương, vị tê tê của ngải cứu quyện vào nhau khiến tôi chẳng còn bận tâm đến việc chị Ngọc Dao nhìn mình thế nào.

Chỉ trong một thoáng, bát cháo đã chẳng còn gì nữa.

Tôi để bát lên khay, lấy tay áo qua quýt lau miệng như bình thường vẫn hay làm.

Nhưn lúc bấy giờ tôi mới để ý quần áo của mình đều đã được thay đổi thành một bộ lụa giao lĩnh mỏng mặc trong màu lam nhạt, cực kỳ mềm mà còn rất êm người.

Đây rõ ràng chẳng phải quần áo của tôi, vì thế khi làm động tác thô tục kia xong tôi liền thấy vô cùng mất mặt, ái ngại nhìn chị Ngọc Dao.

Chị Ngọc Dao không trách, chỉ cười bảo: "Không sao đâu.

Em có ăn nữa không, chị sai người hầu xuống lấy thêm cho em một bát."

Tôi gật gật đầu thật mạnh.

Cứ thế, tôi ăn liền bốn bát cháo gà ngải cứu.

Tôi nhìn rõ vẻ khinh thường của Thanh Linh khi tới mang khay và bát đi, càng rõ hơn những ý tứ trách móc khi cô ấy nói: "Thiên hạ thái bình đã lâu, vậy mà không ngờ vẫn có người đói tới cỡ đó."

Dến khi chị Ngọc Dao liếc mắt nhìn, Thanh Linh mới tự biết mình đã lỗ mãng, cúi đầu mang bát khay lùi xuống.

Chị đưa tôi chiếc khăn xanh thêu hoa đỗ quyên màu đỏ, tôi hiểu ý cầm lấy và lau sạch khóe miệng mình.

Ngây người người nhìn chị Ngọc Dao, tôi như cảm thấy có mẹ bên mình thêm một lần nữa, dù tuổi chị chắc cũng chỉ chạc tôi.

Tôi đưa khăn lại cho chị đem cất, bấy giờ mới nhìn kỹ không gian phòng của chị.

Nó rộng hơn cả cái nhà nhỏ tôi từng sống với mẹ ở ven sông Đông Mai, có cái kệ cao chứa rất nhiều sách, bình sứ, bút lông, nghiên mực.

Quanh tường treo mấy bức họa cổ, tranh chữ.

Phía trái khuất mắt tôi nhìn còn có cái bàn trà, có bình cắm hoa, đúng bài trí của khuê phòng của một tiểu thư đài các trong những gì tôi tưởng tượng.

Lúc ban đầu tôi không nghĩ nhà cha mình giàu có và to lớn tới vậy.

Trước khi lâm chung, mẹ tôi chỉ nói tên, nói nguyên quán, chứ không nói cho tôi chức quan hay gì khác.

Mãi đến khi tôi được tiên sinh Ức Trai cứu vớt ở Lạng Giang rồi sống ở nhà thầy nửa năm, vừa dưỡng bệnh, vừa theo học, tôi được biết nhiều hơn về người mà tôi phải gọi là "cha" ấy.

Giã từ với tiên sinh, tôi khăn gói đi xuống tới lộ Thanh Hóa, phủ Thiệu Thiên, đem tên tuổi cha tôi hỏi đường về nhà, và đúng là ai cũng biết danh tính ông ấy.

Không chỉ là mệnh quan có tiếng, cha còn được vua xem như khai quốc công thần bậc nhất, là người đã có nhiều đóng góp trong những năm kháng chiến kéo dài.

Cha cùng ông nội cung cấp quân lương, vừa lao động, vừa chiến đấu bên cạnh nhà vua trong giai đoạn loạn lạc.

Năm xưa, cha cũng là người đã giúp đỡ nhiều cho thầy tôi - tiên sinh Ức Trai, cả ông Bùi Bị, ông Đinh Liệt, những danh tướng lẫy lừng của Đại Việt trong thời bình Ngô, được ví như Sầm Bành, Mã Võ của nhà vua khi ấy.

Cha tôi còn là người được Tuyên Tổ Hoàng đế, phụ thân của nhà vua đương triều, cậy nhờ việc nuôi dưỡng nhà vua trong thuở ấu niên.

Suy xét đến cùng, khéo tôi còn được xem như anh em nuôi với vua nữa chứ!Đó mới chỉ là những gì tôi được nghe từ những người qua đường.

Công trạng của cha tôi chắc chắn còn nhiều hơn gấp bội.

Nghe kể những điều này, dù chưa gặp cha lần nào, tôi vẫn thấy tự hào lắm.

Là con của ông Chương Khánh công nức tiếng cả một vùng Thiệu Thiên, mai này tôi cũng sẽ trở thành tiểu thư con quan, giống chị Ngọc Dao, giống những cô gái ăn vận xinh đẹp, đoan trang mà tôi từng ao ước ngắm nhìn theo khi bán hàng rong trên phố chợ.

Tưởng tượng bản thân trong những bộ đồ gấm vóc lụa là, tôi không nhịn được mà mỉm cười sung sướng.

"Em đang nghĩ gì mà sao lại vui như vậy?"

Tiếng chị Ngọc Dao đem tôi từ chín tầng mây về lại với hiện thực.

Tôi tự nhắc bản thân, mình còn chưa gặp cha, chưa kể rõ ngọn ngành cơ mà.

Chỉ nên tính từng bước trước mắt thôi.

"Em... em nghĩ xem nên nói chuyện như thế nào."

Tôi trả lời một câu tối nghĩa, lời vừa thốt ra liền cảm thấy bản thân đúng là một đứa ngốc nghếch, vô tri.

Chị Ngọc Dao cười: "Vui như vậy rồi, liệu có thể nói cho chị xem, em là ai, em từ đâu đến, sao lại gọi cổng phủ nhà chị được chưa?"

Mỗi lời chị Ngọc Dao nói ra đều khiến trong lòng tôi cảm thấy hổ thẹn.

Phong thái, ngôn hành, cử chỉ của chị đều vô cùng mẫu mực, giống như đã thoát hoàn toàn khỏi cảnh giới phàm nhân như tôi.

Nếu thực sự trở thành tiểu thư nhà ông Chương Khánh, chẳng biết đến bao giờ tôi mới có được tư thái giống như chị.

Tôi nén lại những ý tứ vẩn vơ kia, hít một hơi thật sâu, nghĩ thật kỹ rồi trịnh trọng nói: "Chị, em là Hạnh Duyên, là con của cha.

Mẹ em..."

Nói đến đây, tôi hơi nghèn nghẹn vì nghĩ đến mẹ, người gần gũi thương yêu tôi nhất trong phần trước cuộc đời.

Nước mắt không kìm được mà tuôn ra.

Chị Ngọc Dao từ từ lấy khăn lau nước mắt cho tôi, lại yên lặng lắng nghe tôi nói tiếp: "Trong tay nải em đem theo, có mấy cuốn sách, có cả tín vật của cha từng tặng mẹ."

Tay nải đó đã ướt, sách có lẽ cũng đã ướt nhiều nhưng đồ bên trong hẳn vẫn còn nguyên.

Tôi tin rằng khi đưa tôi vào, khi thay xong trang phục cho tôi, chị Dao đã xem qua tay nải.

"Là miếng ngọc có tên của cha trên đó sao?"

Chị Ngọc Dao cẩn trọng hỏi lại.

Như tôi nghĩ, chị quả thực đã xem qua tay nải đó.

Tôi gật đầu nói tiếp: "Chị, mẹ em mất đã một năm rồi.

Mẹ nói em tới tìm cha, tìm lại người thân để nửa đời sau không phải côi cút.

Chị, em rất muốn gặp lại cha, gửi lại cha ngọc bội để hoàn thành ý nguyện của mẹ."

Cứ thế, nước mắt tôi tuôn ra lã chã, tiếng nấc cùng tiếng nghẹn mỗi lúc một rõ ràng.

Chị Ngọc Dao ôm tôi vào lòng, lại vỗ về tôi bảo: "Tội nghiệp cho em của chị, còn nhỏ mà phải lưu lạc tứ phương.

Đừng khóc, đừng khóc nữa, em đã về đây, có chị, có cha, còn có nhà, em sẽ không phải lo lắng điều gì nữa."

Trong lời của chị còn có cả tiếng nức nở.

Cái ôm của chị nhẹ nhàng và ấm áp như mẹ của tôi thuở sinh thời.

Mẹ thương tôi hơn chính mạng sống của mình, kể cả khi nhắm mắt xuôi tay, mẹ vẫn nghĩ ngợi chu đáo cho tôi của sau này.

Dựa vào chị Ngọc Dao, tôi cứ vậy mà khóc lớn.

Khóc vì nhận lại được một người thân.

Khóc vì nhớ mẹ tôi nữa.

Mẹ..."

Ngọc Dao, con, đứa trẻ lúc nãy tỉnh chưa?"

Một tiếng nói phụ nữ vang lên từ ngoài cửa.

Tôi khẽ đẩy chị Ngọc Dao ra, lại lấy tay áo lau qua loa cho vơi nước mắt.

Chị cũng khẽ lấy ngón tay lau nhẹ khóe mi, xoay người qua rồi thưa rằng: "Em ấy tỉnh rồi ạ.

Con đã lấy cháo em ăn cho lại sức để chuẩn bị uống thuốc rồi."

Người phụ nữ kia tiến vào, là một mệnh phụ nhìn rất sang trọng.

Nhìn qua, bà ấy còn khá trẻ tuổi, khó có thể là mẹ của chị Dao.

Nhưng chị Dao xưng con, nhiều khả năng là cô dì, hoặc là một trong các phu nhân của cha tôi.

Bà ấy nhìn kỹ tôi như để đánh giá kỹ càng rồi bảo: "Trời cũng ngớt mưa rồi, xong xuôi cho nó ra về đi, đừng để ở nhà lâu.

Cha con cũng biết chuyện rồi đấy."

Nghe đến "cha", tôi bất giác rùng mình, lại hơi cúi đầu không biết nói sao cho nên, cho phải.

Mà chị Dao sau đó cũng nói giúp nỗi lòng của tôi: "Dì Luân, em ấy là em gái của con, là con của cha.

Mẹ em ấy đã mất rồi, giờ em ấy đến nhà mình để nhận lại cha và gia đình."

Tôi nhìn thấy rõ vẻ thảng thốt hiện trên gương mặt người phụ nữ mà chị gọi là "dì Luân".

Bà ấy "hừ" một tiếng tỏ vẻ nghi ngờ: "Có đúng là như vậy không thế?

Mấy người thấy sang bắt quàng làm họ ở vùng Thiệu Thiên này có nhiều lắm."

Nét mặt và câu nói này của bà đã mang đến cho tôi một ấn tượng xấu, một dự cảm chẳng lành về tương lai của tôi khi bước chân vào phủ Chương Khánh công.

Chị Ngọc Dao đứng bên chau mày giải thích: "Dì ơi, em ấy đúng là em của con.

Em ấy có miếng ngọc của cha là tín vật.

Mà dì nhìn xem, không phải em ấy rất giống con, giống cha, giống cả em Hạ, em Đức hay sao?"

Mấy lời của chị Dao khiến tôi an tâm hơn về thân phận của mình.

Ít nhiều gì trong nhà này cũng đã có một người tin tưởng tôi là người nhà họ Ngô.

Tuy vậy, dì Luân kia vẫn ngoa ngoắt cười khẩy một tiếng: "Trời ơi, vật còn có thể làm giả, càng huống gì người ta cũng mò tới tận cửa nhà, lẽ nào không có sự chuẩn bị?

Con ơi, bây giờ hãy cứ phải lên gặp cha con, mọi thứ mới được ra nhẽ."

Tôi siết tay mà trong lòng ấm ức, nhìn người đàn bà kia nghiến răng nghiến lợi.

Được thôi, dù có đi tới gặp cha, tôi cũng chẳng có gì phải sợ.

Tôi không chỉ có vật chứng, mà khi nói mẹ ra, hẳn cha cũng sẽ nhớ ngay ra mẹ.

Thời thế loạn lạc, thiên hạ chỉ vừa mới thái bình, việc hai người biệt tích nhiều năm là không hề khó hiểu.

Chỉ có những người cố ý không muốn nhận nhân thân, chỉ có những người cạn nghĩa cạn tình mới nói ra mấy lời cay nghiệt đến thế.

"Phải đi ngay bây giờ hay sao dì?

Em... em con vẫn còn chưa uống thuốc."

Chị Ngọc Dao băn khoăn hỏi lại.

"Cha con bận nhiều việc, phải đi ngay thôi."

Nói đoạn dì Luân quay ngoắt để chị Dao quay qua nhìn tôi ái ngại.

Tôi né tránh ánh nhìn của chị, chép miệng gật đầu rồi gỡ chăn, xuống giường.

Vậy là tôi đã sắp được gặp lại cha rồi. _____________________Thuận Thiên: niên hiệu của nước ta dưới thời vua Lê Thái Tổ.

Năm Thuận Thiên thứ 5 là năm 1432.

Thiệu Thiên: tên một phủ thuộc đạo Hải Tây thời Lê, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.

Thời Lê Thái Tổ chưa có phủ Thiệu Thiên, nhưng trong "Nguyện ước hạnh duyên", tạm hư cấu Thiệu Thiên là một phủ.

Thời Lê Thái Tổ, đất nước chia thành 5 đạo, dưới đạo là lộ, phủ, châu, huyện...

Lạng Giang: tên một lộ cũ thuộc Tây đạo thời Lê, nay thuộc địa phận tỉnh Hải Dương.

Thanh Hóa: tên lộ thuộc đạo Hải Tây thời Lê Thái Tổ, nay là tỉnh Thanh Hóa.
 
[Cảm Hứng Lịch Sử] Nguyện Ước Hạnh Duyên - Phương Nghiên
Nguyện ước hạnh duyên - Chương 2: Bông súng với cá lóc đồng


Nguyện ước hạnh duyên - Chương 2: Bông súng với cá lóc đồngBông súng với cá lóc đồng
Cùng trong một cõi nhưng không thể bằng
Người ta hương ngát một đằng
Còn ta tanh đục cớ chăng so bì? _________Chị Ngọc Dao hơn tôi đúng một tuổi, dáng người cao ráo và đầy đặn hơn tôi.

Tất cả quần áo và cả đôi giày chị đưa để tôi mặc tạm lên gặp cha đều hơi rộng.

Nhưng sợ phiền phức, tôi cũng không nói với chị, chỉ cố gắng mặc đồ cẩn thận, cột lại mái tóc dài bằng khăn lụa chị đưa sao cho dễ nhìn nhất có thể.

Xong xuôi, tôi thuận mắt nhìn lại mình trong tấm gương trang, quả thực cũng có những nét duyên dáng, xinh đẹp.

Tuy gương mặt không toát ra khí chất thanh nhã, cao sang như chị Ngọc Dao, nhưng cũng có những nét xinh xắn, hoạt bát, tự nhiên.

Tôi và chị Ngọc Dao có nhiều điểm giống nhau, vậy hẳn là tôi giống cha hơn giống mẹ rồi.Mẹ sinh tôi trong những năm cuối chiến loạn.

Mẹ lạc cha tôi khi mẹ vừa mới mang thai vài tháng, đã một mình sinh ra và nuôi tôi tới giờ đây.

Từ lúc biết nhận thức, tôi chỉ có thể biết về cha qua những lời mẹ kể.

Cha tôi hơn mẹ tới hơn chục tuổi, là người có khí chất mạnh mẽ, tính tình cương trực, suy nghĩ chu toàn, lại có tấm lòng lương thiện.

Rất gần thời khắc được gặp cha lần đầu, những thứ tôi hình dung về cha từ xưa tới nay lại hiện về trong tâm trí một cách hỗn độn.

Mãi đến tận khi chị Ngọc Dao gọi, tôi mới định thần lại để bước theo chị ra khỏi căn phòng.

"Chị... chị ơi, em... em sẽ gặp cha ở đâu vậy?"

Tôi vẫn chưa quen với việc có một người chị ruột.

Khi chữ "chị" thốt ra, cảm giác vẫn còn nghèn nghẹn nơi cổ họng.

Chị Dao sóng bước cùng tôi, quay qua mỉm cười bảo: "Đi hết sân sau này, lên mé sân trước là tới phòng của cha rồi."

Tôi chỉ biết gật gật đầu, dạ vâng một tiếng rồi im lặng, đảo mắt nhìn quanh.

Phủ Chương Khánh công mang kết cấu tứ hợp viện, nghĩa là bốn dãy phòng hợp lại thành hình chữ nhật, nhìn ra sẽ đều thấy một khoảng sân sau thoáng rộng.

Trời vừa mưa xong, trên sân vẫn còn vài vũng nước đọng.

Góc sân có một cây tùng La Hán cao nhiều trượng, tán cây um tùm, nhìn không thấy hết.

Sát các hành lang cũng có mấy bồn hoa, trồng cây hoa đỗ quyên, hải đường, trà mi, thạch lựu, mùa nào cũng sẽ đơm những bông hồng thắm.

Thấp dưới các bồn cũng trồng lẫn những bông đồng tiền, bóng nước, dừa cạn, mười giờ màu sắc rực rỡ.

Sau cơn mưa đêm qua, trời vẫn chưa hửng nắng nhưng cũng khiến hoa cỏ trong hậu viện phủ Chương Khánh công mang sức sống dâng trào.

Phủ Chương Khánh rộng lắm.

Trong tầm nhìn của một đứa trẻ lên mười chưa được thưởng thức bao nhiêu mỹ cảnh, kiến trúc, thì nơi đây thật là một chốn mà người thường khó mơ: vừa đẹp đẽ, khang trang, vừa rộng rãi, bề thế.

Tôi và chị Dao đang đi trên hành lang rất dài, nối giữa hậu viện và tiền viện.

Phải đi gần hết hai cạnh của phủ mới tạm qua "hậu viện" mà chị Ngọc Dao nói, vừa đi vừa ngắm, hẳn một lúc lâu vẫn chưa thấy điểm dừng.

Lối đi này rộng tới ba, bốn thước, được bao bởi lan can, chạm khắc tỉ mỉ, thơm thơm mùi gỗ quý; được ngăn chia bởi những cột trụ vững chắc.

Phía đỉnh cột giáp sát mái hiên nhô ra, còn có những chi tiết trang trí tỉ mỉ chạm khắc hình hoa sen uyển chuyển để treo thêm mấy lồng đèn gấm hoa tinh xảo, màu sắc sặc sỡ.Tôi cứ bước theo chị Ngọc Dao một cách vô thức, vừa đi vừa há hốc mồm ngoái nhìn trên, dưới, trái, phải, để ngắm nghía mọi thứ chung quanh.

Đến khi chị Ngọc Dao nói một tiếng "tới rồi", tôi còn giật thót mình như vừa tỉnh mộng, suýt chút nữa thì ngã sấp ngay trước cửa phòng của cha.

Chị Ngọc Dao nhìn dáng vẻ ngốc nghếch của tôi mà bật cười: "Tới rồi, em vào đi."

Nói đoạn chị đưa tay đẩy hai cánh cửa đang khép nửa, bước vào trước tôi.

Còn tôi nhắm mắt trong giây lát, hít một hơi thật sâu như để lấy lại sự tự tin và tâm trạng bình ổn nhất, rồi mới trịnh trọng bước qua ngưỡng cửa.

Căn phòng trước mắt tôi rộng gấp hơn căn phòng của chị Ngọc Dao rất nhiều, khiến tôi thoáng chốc đã choáng ngợp, mất luôn đi sự bình tĩnh mà mình vừa cố gắng lấy về.

Trước mắt tôi hẳn là cha, ông ngồi ngay ngắn trên tràng kỷ.

Phía đối diện cha là một ông lão râu tóc bạc phơ, tôi đoán, đó chính là ông nội.

Dì Luân cũng mang khay trà tiến vào, cẩn thận đặt lên trên bàn gỗ rồi tiến ra phía sau cha, đứng bên cạnh chị Ngọc Dao.

Không gian yên ắng, nghiêm nghị này làm tôi cảm thấy sợ.

Những hào hứng trước kia giờ vụt tan, chỉ còn cảm giác xa lạ, trống rỗng.

Đôi chân tôi như hóa đá, cứ đứng đó không nhấc được lên, mà dù có nhấc được lên không biết phải ngồi đâu, đứng đâu mới là phải phép.

Hít thêm một hơi thật sâu, tôi cứ đành theo phép dân gian, cúi đầu chắp tay: "Con thưa cha, con thưa ông..."

Tôi vẫn không dám ngẩng cao đầu nhìn người mà tôi mới gọi.

Chỉ thấy hình như cả hai cầm chung trà lên nhấp nhẹ.

Giây lát sau, cha mới cất tiếng: "Con... con xưng là con gái của ta, có phải không?"

Tôi cố gắng trấn tĩnh, nói từng chữ rành mạch rõ ràng: "Bẩm ông... bẩm cha, con là Hạnh Duyên, là con của mẹ Chu Hồng Nghi.

Năm xưa mẹ con gặp cha ở xứ Lạng nhưng hiềm nỗi chuyện binh biến bấy giờ rối ren, mẹ và cha lạc nhau, chỉ còn lại một tín vật này.

Trước khi bạo bệnh lâm chung, mẹ dặn dò con mang vật này tìm cha ở Thanh Hóa.

Khi thấy được, cha sẽ nhận ra mẹ, nhận ra con."

Nói xong xuôi tôi lấy miếng ngọc từ tay áo ra và bước đến đặt ngay ngắn lên bàn.

Đó là miếng ngọc xanh rất điển hình được chạm khắc thành bông hoa sen, là loài hoa mẹ tôi thích nhất, trên ngọc còn có tên cha tôi, Ngô Từ, không thể nhầm lẫn.

Cha cũng cầm miếng ngọc lên xem xét, nét mặt ông thay đổi, thoáng có những nét buồn bã, xót xa.

Bấy giờ tôi mới nhìn rõ cha của mình.

Ông năm nay cũng đã sáu mươi, đầu đã điểm những sợi bạc và trên gương mặt cũng đã có những nếp nhăn thấy rõ.

Thế nhưng ngũ quan và thần thái của cha, thật giống với những gì tôi đã nghĩ trong suốt hơn một năm nhọc nhằn vừa qua.

"Nói như vậy, đây chính là con gái của con và phụ nữ người Hán năm xưa?"

Mấy chữ "phụ nữ người Hán" ông nội nói làm tôi hơi rùng mình và sau đó nỗi lo bắt đầu nhen nhóm.

Mẹ tôi không phải người Đại Việt, chỉ là người lưu lạc tới đây.

Mẹ tôi nói tiếng Hán rất giỏi, cũng giỏi cả chữ, thậm chí thi văn của người Hán.

Nếu không biết chữ Hán, có lẽ tôi cũng không tránh được mấy phen khốn cùng trong thời loạn để tồn tại đến tận ngày hôm nay.

Nhưng ánh mắt ông nhìn tôi rất hiền hòa, và rồi ông nội tấm tắc: "Hạnh Duyên, trông rất duyên dáng, rất xinh đẹp, mà trông cũng rất giống với Ngọc Dao.

Nào lại đây, ngồi cạnh ông nội."

Câu nói ôn tồn của ông khiến gánh lo vẩn vơ trong lòng tôi được hạ xuống.

Tôi mạnh dạn bước đến ngồi bên cạnh ông.

Khi ngẩng đầu lên, tôi thấy rõ chị Dao nhìn tôi mỉm cười, còn dì Luân đứng bên cạnh, rõ ràng là vẻ không cam tâm.

Nét mặt cha tôi lúc này hơi băn khoăn.

Ông mân mê miếng ngọc nhưng không nhìn thẳng vào tôi, chỉ trầm giọng mà rằng: "Đây đúng là tín vật của ta và Hồng Nghi."

Ngừng lại một lát, cha mới nói tiếp.

"Huyết thống là thứ khó nhầm lẫn, nhất là khi vẻ ngoài của con cũng đã phần nào chứng minh cho lời nói.

Con đúng là con cháu của nhà họ Ngô chúng ta."

Lời khẳng định này khiến tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm.

Tôi đưa mắt nhìn sang dì Luân theo bản năng.

Có cha tôi khẳng định như vậy rồi, dì Luân chắc không còn gì để bắt bẻ tôi nữa.

Chỉ có điều, lần nhận lại này không giống lắm với những gì tôi đã nghĩ.

Không có ôm tôi vào lòng sau hơn mười năm xa cách, cũng không có những lời nhớ thương, âu yếm, tất cả chỉ gói gọn trong một câu nhằm khẳng định thân thế của tôi.

"Đã là cháu gái họ Ngô chúng ta mà lại phải lưu lạc ngoài dân gian nhiều năm, thật là vất vả cho cháu quá."

Nói rồi, ông ho khan vài tiếng.

Tôi ở bên cạnh liền thuận tay xoa nhẹ lưng cho ông đỡ khó chịu.

Nhưng ông nội lại xua tay bảo.

"Được rồi, được rồi, ta không sao.

Đã về lại nhà được rồi là chuyện mừng, là chuyện vui lớn.

Phải có bữa tiệc nhỏ, báo với anh chị em nó, rồi lại lập cả bài vị cho thân mẫu họ Chu của con để thờ phụng nhang khói, ấy mới là phải đạo."

Những lời trầm nhẹ của ông nội giống như xoa dịu hết những vết thương lòng của tôi suốt một thời thơ bé.

Không có cha, bị chúng bạn đồng trang trêu chọc, bị người ta đánh đập, chửi rủa cũng chỉ biết im lặng, nhẫn nhịn.

Mẹ tôi mất đi, tôi thêm một năm trải đủ những nghiệt ngã từ cả thiên tai và nhân họa.

Nhưng những lời ông nội nói kia, chẳng phải chính là một sự công nhận sao?

Để tôi thấy rằng những khổ đau mà mình trải qua đều là xứng đáng.

Nhưng có lẽ chỉ ông nội mới muốn đón nhận tôi về lại với nhà họ Ngô này.

Vẻ bất mãn lộ dần trên gương mặt của dì Luân.

Dì ta thấy cha tôi vẫn đăm chiêu hồi lâu, liền lên tiếng: "Thưa cha, con dâu có lời này, con nghĩ là trước sau gì cũng cần phải nói."

Vừa tới đó thôi, tôi đã biết những câu sau sẽ chẳng phải tốt lành gì.

Tôi thoáng nhìn sang dì, lại nghe ông nội ho ho mấy tiếng, bảo: "Con nói đi."

Dì Luân giọng nhỏ nhẹ bảo: "Dạ thưa cha, con nghĩ việc Hạnh Duyên tìm về được Ngô gia thật là một chuyện tốt cho con bé.

Nhưng việc nhận tổ tông, lại làm rầm rộ tiệc tùng, con e sẽ không thỏa đáng.

Mẹ của Hạnh Duyên là người Hán.

Dù thời điểm này thiên hạ đã thái bình, Đại Minh và Đại Việt cũng đã thiết lập lại bang giao, nhưng trăm họ vẫn phẫn uất người Minh tàn bạo, vô nhân tính, vẫn mang mối hận giết anh em, cha mẹ, chia cắt gia đình họ.

Chưa kể thời cai trị, người Minh còn đốt không biết bao nhiêu miếu mạo, đền đài của đất Thiệu Thiên ta, tiêu hủy nhiều thư tịch giá trị của chúng ta hòng mưu đồng hóa.

Nếu như biết ông Chương Khánh công nức tiếng một vùng, đệ nhất công thần lập cõi lại có một người vợ người Hán, con chỉ lo lắng rằng tiếng tăm Ngô gia chúng ta sẽ bị ảnh hưởng phần nào.

Dân chúng Thiệu Thiên sao còn tin vào ông quan Ngô Từ vốn luôn tận tâm, cương trực.

Mà mai sau hậu duệ của Ngô gia chúng ta, liệu có thể chắc chắn không bị liên lụy, nghi ngờ vì điều đó hay không?"

Tôi hiểu những điều mà dì Luân nói.

Nó không phải vô lý, nhưng qua tai rồi vào tới trái tim non nớt chưa trưởng thành, lẽ dĩ nhiên tôi thấy chua xót và đớn đau như kim đâm ngàn mũi.

Mẹ tôi là người Minh, nếu không nhờ đó, tôi không sống được đến bây giờ.

Nhưng cũng vì điều đó, tôi cũng chưa biết mình sẽ sống phần đời phía sau ra sao, sống bằng thân phận nào.

"Còn con nghĩ sao?"

Ông tôi nhìn thẳng về phía cha, người nãy giờ vẫn luôn im lặng.

Tôi đợi mong câu trả lời của cha, nhưng rồi ông lại nghiêm giọng bảo: "Thưa cha, ý của Ngọc Luân và con cũng có vài phần tương tự.

Kể cả Chu thị có không phải người Hán, việc con và nàng chưa có hôn thú vẫn là việc khó giải thích.

Nay nàng đã ra đi, hôn thú không thể lập và phả tộc chúng ta cũng rất khó để cân nhắc chuyện này.

Con e rằng phải để nàng, để Hạnh Duyên chịu thiệt thòi."

Tôi hụt hẫng đến mức chân tay mềm nhũn, dù cũng đã đoán biết được phần nào, thế nhưng lòng tôi, ngăn không được sự tủi thân và nước mắt tôi cũng đã lăn dài trên má tự lúc nào.

Một đứa trẻ mười một tuổi ngồi đây, lắng nghe trưởng bối nói về người mẹ đã mất dưới thái độ không tích cực, dù có mạnh mẽ tới đâu cũng rất khó mà chịu đựng được.

Bấy giờ, chị Ngọc Dao lên tiếng rằng: "Thưa ông, thưa cha, thưa dì, nhưng chúng ta không thể không đón nhận Hạnh Duyên.

Em con đã lưu lạc bên ngoài nhiều năm, chịu đủ những thiệt thòi.

Đáng lẽ khi tìm về nhà, đây là thời gian để cả nhà yêu thương và bù đắp cho em ấy.

Nói quanh co một hồi cả dì, cả cha cũng đều băn khoăn về chuyện của em con.

Vậy nếu bây giờ để em Duyên làm con của người khác, thêm vào phả tộc dưới danh nghĩa là em cùng mẹ với con, như thế có được không ạ?"

"Dao à, con còn nhỏ nên lẽ đời khắc nghiệt con cũng chưa hiểu được là bao nhiêu đâu.

Nhận nuôi một đứa con, thêm vào phả tộc mà không biết căn nguyên nào, đời sau sẽ đánh giá sao?

Mẹ con cũng mất nhiều năm rồi, giờ để bà ấy nhận một đứa con khác dòng, có phải tủi thân cho vong hồn của bà ấy không?"

Dì Luân nói từng câu từng chữ đều rất cay nghiệt.

Ông nội tôi cũng bắt đầu trầm tư, ông nói: "Con dâu nói cũng không sai, việc này đúng là khó khăn vô cùng.

Chuyện thay đổi phả tịch cũng là chuyện lớn, nếu không công cáo trong nhà, lại báo lên cả bên trên, mai này sẽ để lại hậu họa.

Nhưng tất nhiên cũng không thể vì thế mà để cháu ta bị thiệt.

Từ, con có cách nào không?"

Cha tôi thưa với ông: "Thực ra chuyện thay đổi phả tịch này không phải không thể.

Chỉ là con đang là thần tử của triều đình vừa nhận bổng lộc lớn, những kẻ nhìn vào nhà họ Ngô chúng ta cũng đang rất nhiều.

Lúc này, chỉ một chút sơ sảy, không lưu tâm sẽ hại tới trên dưới trăm người của họ Ngô ta.

Để mai này khi thực sự từ giã quan trường, khi các con của con đều ổn định được gia thất và địa vị, không bị nhìn ngó tới, con sẽ thêm Hạnh Duyên vào hàng gia nữ đời thứ 21 của họ Ngô ta, đổi thành Ngô Thị Ngọc Duyên giống với những đứa khác."

Ông nội tôi gật gù, dì Luân dù vẫn còn những nét bất mãn, nhưng vẫn nhìn tôi đắc ý.

Ông nội lại bảo: "Con tính thế là đúng.

Nếu đã không thể để mẹ của Hạnh Duyên vào ban thờ nhà ta, chúng ta cũng nên để con bé được hưởng những gì xứng đáng.

Nhưng gia phả cũng chỉ là giấy tờ, ghi chép, là chuyện của mai này.

Còn trước mắt đây thì sao, Hạnh Duyên sẽ sống trong nhà ta như thế nào mới là quan trọng."

Những gì ông nội nói cũng là những gì tôi còn trăn trở từ nãy đến giờ.

Tôi cũng không dám tính xa, chỉ muốn bản thân có gia đình, có cha, có những người thân mà tôi từng rất muốn gặp lại.

Dì Luân bèn lên tiếng: "Con cũng thấy chuyện này khó khăn.

Con gái nhà ta đến cỗ bàn, yến tiệc nào cũng sẽ được để mắt tới.

Mà Hạnh Duyên nhỡ bị chú ý, e rằng sẽ không hay.

Không để con bé ra ngoài tham dự những lễ nghi đó cũng thật là không nên, nhưng cũng khó có thể để Duyên làm cô chủ của phủ Chương Khánh công giống như mấy đứa Ngọc Dao, Ngọc Đức, Ngọc Phúc được."

Không có một biện pháp nào, nhưng trước tiên dì Luân vẫn phải cắt giảm những quyền lợi của tôi trước đã.

Giống như nếu không lên tiếng sẽ ngứa ngáy miệng, dì Luân cũng phải đón trước tất cả những ý kiến của cha, của ông nội phía sau.

Cha lúc ấy mới nhìn tôi lên tiếng: "Thích hợp nhất là ở nhà, mọi người sẽ đối đãi với con như với chị Ngọc Dao.

Còn khi ra ngoài, đến những nơi yến tiệc đông người, cha sẽ dặn chị Ngọc Dao đưa con theo.

Dưới danh nghĩa là hầu gái của chị sẽ khiến con thấy tủi thân, nhưng đi tới những nơi ấy, con cũng được mở mang tầm mắt hơn.

Lớn lên chút nữa, cha và dì cũng sẽ để ý những mối hôn sự tốt cho con."

Tôi chỉ biết gật đầu rồi hỏi: "Vậy... vậy mai này con sẽ ở đâu ạ?"

Dì Luân có lẽ là người quản lý chính trong gia đình này, dì nói: "Nhà cũng không còn nhiều phòng trống.

Còn mấy phòng ở mé gian tây, lát nữa dì đưa con qua xem."

Nghe đến mé gian tây là đủ biết là nơi mùa hè thì nóng, mùa đông thì lạnh.

Nhưng tôi nào còn quyền lựa chọn lúc này?

Vái cha, vái ông, vái dì, tôi đi cùng chị Ngọc Dao về phòng.

Tôi lại đi bên cạnh chị Ngọc Dao trên hành lang thênh thang ban nãy, nhưng cảm xúc lúc này đã hoàn toàn trái ngược.

Những háo hức, mong chờ đều hóa thành sự tủi thân và đau xót.

Có lúc tôi lén đưa mắt nhìn qua chị.

Chị Ngọc Dao cũng nói mấy điều, đại khái như kể về chuyện nhà cho tôi nghe, nhưng tâm trí tôi vẫn còn quẩn quanh trong những suy nghĩ khi nãy.

Từ lúc tôi đến đây, không lúc nào chị Ngọc Dao tạo ra khoảng cách với tôi, luôn dịu dàng và ân cần y hệt như mẹ tôi thuở trước.

Tôi cũng đã những mong sẽ được giống như chị, thanh nhã và cao sang như thế.

Nhưng đến giờ tôi biết, điều đó gần như là không thể.

Chị tôi và tôi đã lớn lên ở những hoàn cảnh khác nhau, giờ cũng sống ở những thân phận không giống nhau, làm sao tôi có thể giống như chị được.

Cho dù có cùng đứng dưới một mái nhà, có cùng một người cha thì những gì mọi người nhìn vào tôi, vào chị Ngọc Dao cũng sẽ luôn có những cách biệt.

Cũng giống như bông súng với cá lóc đồng, thứ ngát hương vươn trên mặt nước, thứ vẩn tanh lội dưới bùn sâu.
 
[Cảm Hứng Lịch Sử] Nguyện Ước Hạnh Duyên - Phương Nghiên
Nguyện ước hạnh duyên - Chương 3: Tiểu thư lá ngọc cành vàng


Nguyện ước hạnh duyên - Chương 3: Tiểu thư lá ngọc cành vàngTiểu thư lá ngọc cành vàng
Mấy ai đối đãi chẳng màng điều chi.

Dẫu rằng tôi phận hàn vi
Ấy mà chị vẫn chi li ân cần. _______________Trở thành một tiểu thư không danh chính của nhà họ Ngô, tôi cũng được sắp xếp một hầu gái tên Thanh Hà.

Vì đây là một trong hai người đã từng theo chị Ngọc Dao từ nhỏ, nên rất ngoan ngoãn, hiểu chuyện, cũng không có ý chê bai hay ghét bỏ tôi.

Tôi cũng lấy đó làm may mắn, đối đãi với Thanh Hà như chị em.

Nhưng bởi trước nay tôi không quen có người kè kè hầu hạ từng chút một cho nên chỉ khi nào cần lắm, tôi mới gọi Thanh Hà vào nhờ vả thôi.

Nhưng ở một mình trong cái phòng mé tây được một thời gian, tôi liên tục bị bóng đè, bị ác mộng, gọi Thanh Hà vào ngủ cùng ít hôm cũng không hết.

Nói ra cũng thật lạ, cái thời lưu lạc khắp nơi, ngủ bụi cây, bìa rừng, trong hang, hốc đá tôi chẳng bao giờ thấy khó ngủ.

Ấy vậy mà khi làm tiểu thư nhà quyền quý, ở trong căn phòng cũng sạch sẽ, gọn gàng, nệm giường đủ đầy, tự nhiên những chứng kỳ lạ này lại xuất hiện bất ngờ.

Tôi nói với chị Ngọc Dao, chị liền xin cha cho tôi ở cùng phòng.

Thoạt đầu, tôi còn hơi ngại ngùng, nhưng khi thoáng nghĩ lại cảm giác bị hù cho sợ ở căn phòng cuối dãy tây, tôi vội vàng dọn hết quần áo, tư trang qua phòng chị Ngọc Dao.

Căn phòng vẫn như thế, vẫn đẹp và gọn gàng như ngày đầu tiên tôi bước vào, được chị Ngọc Dao chăm sóc, quan tâm.

Chỉ khác là lúc này đây, tôi tiến vào với một thân phận khác, tư cách khác, cho nên xúc cảm của bản thân cũng không giống như lần đầu.

"Lát nữa để chị sai người hầu trong phủ kê lại mấy thứ đồ, đặt thêm một chiếc giường phía bên kia cho em ngủ."

Chị Ngọc Dao vừa nói, tay vừa chỉ vào phía phải cửa ra vào, nơi đặt mấy cái bình sứ hoa xanh lớn có cắm vài cuộn tranh chữ bên trong.

Tôi gật đầu nhưng vẫn hỏi lại: "Chứ... chứ không phải em sẽ ngủ ở đây cùng chị ạ?"

Chị Ngọc Dao cười bảo: "Khi nào em thấy vẫn còn sợ thì qua bên này ngủ với chị cũng được mà.

Nhưng nhà mình là vậy, những phòng có hai người đều sẽ kê hai giường thôi."

Tôi ồ một tiếng rồi lại gật gù.

Rất nhanh, giường mới đã được các anh gia đinh đưa tới.

Họ xếp gọn lại những bình sứ qua một góc, để lại một phần trống khá lớn rồi mới đưa chiếc giường mới vào.

Giường của tôi và chị tôi đều là loại giường bốn khung, đặt đối xứng nhau ở hai góc phải trái trong phòng.

Cả hai chiếc đều được trang trí rèm, mành, đệm, gối... hầu như chẳng có chỗ nào khác biệt.

Chị Ngọc Dao còn cẩn thận dặn người hầu treo thêm ở đầu giường mấy túi gấm đựng hương thảo, quế chi, bạc hà... vừa để xua muỗi, vừa giúp dễ ngủ."

Em thử ngồi lên xem đã vừa vặn chưa?

Có cảm thấy gì chưa ổn không?

Còn cần gì thêm, em cứ nói để chị sai người chuẩn bị thêm cho em."

Chị Ngọc Dao nhẹ nhàng nói với tôi.

Theo lời chị, tôi vẫn tiến lại tới để ngồi thử lên chiếc giường mới đặt.

Đây là chiếc giường được mang từ phòng cũ bên mé tây qua, nhưng được trải thêm đệm mềm, xếp thêm chăn gối có mùi thơm nhè nhẹ, vừa ngồi lên là đã thấy êm dịu vô cùng.

Chỉ nhìn bằng mắt thường thôi, trong lòng tôi đã thấy phấn khích, đợi mong; còn cần yêu cầu thêm gì nữa?

Về nhà họ Ngô, dù đãi ngộ của tôi không hoàn toàn giống một tiểu thư, nhưng thực sự bấy nhiêu cũng đã là quá tốt so với hồi trước.

Chưa kể chị Ngọc Dao còn cố gắng sắp xếp những thứ tốt nhất có thể cho tôi, để tôi không phải chịu thua kém quá nhiều so với những chị em khác trong nhà.

Nghĩ đến đó, trong lòng tôi thật cảm kích sự bao dung của chị.

"Chị... em cảm ơn chị đã sắp xếp hết mọi thứ cho em."

Tôi lắp bắp.Tôi đến nơi này đã được gần hai tháng, đối với người trên, kẻ dưới trong phủ Chương Khánh công vẫn còn nhiều khoảng cách.

Nó chủ yếu đến từ những mặc cảm thân phận mà tôi chôn giấu tận sâu trong lòng chưa dám nói với ai.

Mấy ngày qua, cùng ăn một mâm cơm, cùng sống trong một phủ, nhưng tôi với những người khác trong nhà này vẫn luôn xa lạ, đối đãi vẫn gượng gạo và khó xử.

Trong nhà này, cũng chỉ có chị Ngọc Dao mới chủ động nói chuyện, an ủi, lo toan hết mọi thứ cho tôi.

Chị Ngọc Dao tiến lại giường, ngồi bên cạnh nắm lấy tay tôi và bảo: "Em là người nhà mình, là em của chị mà.

Suốt từ hôm em đến phủ, em cứ e dè, sợ sệt, chị cũng đã nghĩ trước sau gì cũng đưa em lên đây ở cùng cho có chị có em."

Đúng là xúc cảm bình thường của một đứa trẻ rất dễ để mọi người nhận thấy.

Tới chị Ngọc Dao, chị hơn tôi có một tuổi cũng biết tôi đang sống ở phủ Chương Khánh công như thế nào.

Những người khác như dì Luân, như các chị, các em của tôi hẳn cũng đều biết được, nhưng chỉ có chị Ngọc Dao là không bàng quan, bỏ mặc.

Chị vẫn luôn ở cạnh để hiểu và để quan tâm tới tôi ngay từ khi chưa biết tôi là em của chị.

Tôi dựa vào chị giống như dựa vào mẹ của mình ngày trước, nước mắt lại vô thức tuôn ra vì nhớ mẹ.

Trên đời này nếu ngoài mẹ, ngoài tiên sinh, chắc chỉ có mình chị Ngọc Dao là đối xử dịu dàng với tôi như thế.

"Chị ơi, chị thật tốt với em.

Chị đã không giống những người khác, không nghĩ em là thứ con hoang, thứ..."

Chị Ngọc Dao mỉm cười, ngăn giữa câu nói chưa hết của tôi: "Trong nhà này mọi người cũng đều thương em thôi, thật đó.

Chỉ là nhà ta cũng đông người nhiều việc, đến cả chị ở trong này cũng không tránh khỏi những lúc thấy cô đơn, tủi thân.

Mẹ chị cũng đã đi lâu rồi, các anh chị cùng mẹ cũng đều đã lập thất ra riêng.."

Đó là lần đầu tôi nghe chị Ngọc Dao nhắc về mẹ của chị ấy.

Những ngày qua, tôi giống như cái bóng vật vờ trong phủ Chương Khánh công, chẳng nói chuyện với mấy người, cũng chẳng để tâm đến thứ gì cả.

Đi ra đi vào, đi quanh quanh cũng không ai để mắt, thậm chí có lúc tôi trốn khỏi phủ cũng chẳng ai hỏi han.

Người trong này không quan tâm đến tôi, vậy nên tôi cũng không để ý đến họ.

Nhưng chị Ngọc Dao là ngoại lệ.

Dù hai tháng qua, tôi với chị cũng chưa phải nói chuyện thân thiết, song tôi vẫn cảm thấy ít có khoảng cách khi đối diện với chị.

Nay nghe chị nói về mẹ chị, người cũng đã mất sớm, tôi lại thấy cảm thông vô cùng.Ngừng một chút hẳn vì xúc động, chị nói tiếp: "Cha cũng bận nhiều công việc, lại thường phải tới Đông Kinh và ở lại nhà các anh trên đó.

Thời gian chị gặp cha cũng không phải nhiều.

Các anh chị em còn ở trong phủ này, chị cũng không nói chuyện nhiều với ai cả.

Nên có em bên cạnh, chị cũng cảm thấy căn phòng này bớt trống trải hơn."

Tôi thở dài.

Hóa ra một người nhã nhặn, thanh tao như chị tôi, cũng có những tâm tư như vậy.

Sẵn nghe chị nhắc đến chuyện nhà, tôi buột miệng hỏi: "Chị ơi...

Vậy nhà mình có bao nhiêu anh chị em thế ạ?"

Đến đây cũng được gần hai tháng nhưng người trong nhà, trên dưới có đến mấy chục người, tôi gặp còn chưa hết được.

Chưa kể đến có những anh, chị lớn hơn tôi rất nhiều nay đã thành gia lập thất, dọn ra riêng từ lâu rồi.

Chị Dao lén đưa tay lau đi giọt nước mắt bên khóe mi, rồi kéo tôi ra bàn: "Kể bằng miệng chắc khó đấy, để chị viết ra cho em dễ hình dung."

Chị trải ra một tờ giấy viết, lại lấy một ít nước ra nghiên nhờ tôi mài mực.

Tôi tuy cũng biết chữ, biết bút giấy, nghiên mực, nhưng làm vẫn còn rất vụng về.

Chị Ngọc Dao chỉ bật cười, lấy lại thanh mực và nói: "Em cứ xoay đều đặn theo chiều này, nhẹ nhàng, nhẹ nhàng thôi là được."

Tôi như khám phá được một điều thú vị, bắt đầu niệm niệm những chữ chị nói trong đầu để làm ra động tác tương tự.

May quá, cũng đã có mực để chị tôi chấm viết.

Chị tôi cầm bút rất khéo, động tác vừa đỡ tay vừa viết rất giống tiên sinh của tôi.

Còn tôi tập bao nhiêu cũng không học được cái nét nho nhã như vậy.

Cứ cầm bút như cầm cuốc, cầm xẻng, chữ viết ra mãi không thể mềm mại, dịu dàng.

Chị tôi viết tên bằng chữ Hán, ban đầu là tên ông nội tôi, Ngô Kinh rồi tới cha tôi, Ngô Từ.

Chị Dao tỉ mỉ giải thích, cha là hậu duệ đời thứ hai mươi của họ Ngô, còn chúng tôi là con cháu đời thứ hai mươi mốt.

Ông nội tôi chỉ có một người vợ là bà Đinh Thị Mại.

Bà vẫn còn sống, nhưng ở cùng với em của cha, là chú Ngô Khiêm.

Trên giấy tờ hôn thú, cha có tới năm người vợ, ba người đã theo các con trai về nhiều xứ.

Mẹ của chị Ngọc Dao cũng là người Thiệu Thiên, họ Đinh, tên Ngọc Kế, hơn cha đến bảy tuổi, đã mất từ khi chị còn nhỏ.

Bên nhà mẹ của chị Ngọc Dao cũng đều là dòng trâm anh thế phiệt, mà dì Luân cũng là người bên họ ngoại của chị tôi.

Cha của dì Ngọc Luân là anh của mẹ ruột chị Ngọc Dao, hay nói cách khác, chị Ngọc Dao và người mẹ kế này thực tế chính là chị em họ ngoại.

Dây mơ rễ má này khiến tôi bắt đầu thấy nhức não.

Nhưng đó chưa phải là điều ghê gớm nhất.

Sự thật, ngoài chị Ngọc Dao, tôi còn mười tám anh chị em khác.

Tính cả tôi, cha tôi có cả thảy mười một con trai và tám con gái.

Vừa nghe con số chị Ngọc Dao kể tôi đã không thể tin nổi.

Đến khi chị Dao viết lần lượt tên các anh chị em ra, tôi vẫn còn sững người, chẳng biết liệu tôi có nhớ được hết những cái tên này không.

Các anh Ngô Việt, Ngô Ký đã hi sinh trong thời loạn.

Anh Ngô Hồng, Ngô Lộc, Ngô Lương, Ngô Nhạn, Ngô Nạp, Ngô Hộ đã được phong tước và lập gia đình riêng.

Trong số họ cũng có mấy người hơn tôi đến cả mấy chục tuổi, nay đã có con cái đề huề.

Các anh trai dựng phủ riêng ở Đông Kinh, có người ở Lam Kinh, có người ở ngay Thiệu Thiên này, thỉnh thoảng mới về phủ Chương Khánh công.

Dưới tôi và chị Ngọc Dao còn có ba người em trai Ngô Khế, Ngô Lan, Ngô Hựu, là con của dì Ngọc Luân.

Hai người theo các anh trai lên Đông Kinh học, một người theo mẹ về xứ Lạng sống, khi được nghỉ sẽ về lại phủ.

Các chị tôi là Ngọc Điệp, Ngọc Liêu đã được gả đi, rất ít khi về nhà.

Chị cả Ngọc Xuân hơn tôi và chị Dao tới gần hai mươi tuổi.

Con gái chưa gả lúc này, ngoài tôi và chị Ngọc Dao chỉ còn lại Ngọc Phúc, Ngọc Hạ, Ngọc Đức là ba người em nhỏ, con của dì Ngọc Luân.

Trong phủ này còn vài người anh em họ hàng ở lại và đôi khi cũng có các anh chị về chơi.

Nhìn tờ giấy kín chữ được chị Ngọc Dao viết những chữ Hán đẹp đẽ lên, tôi vẫn thực sự ong ong trong đầu vì loạn, lại hơi hối hận vì đã hỏi chị Ngoc Dao về người trong nhà này.

Người ta quan niệm đông con là nhiều phúc, tôi chỉ cảm thấy mệt vì nhớ không hết nổi tên các anh chị em trong nhà.

Ngoài mấy đứa con gái của dì Ngọc Luân, cộng thêm chị Ngọc Dao, tôi cũng chưa gặp những người còn lại.

Mà dù có gặp thì thân phận của tôi cũng không khiến họ phải để tâm tới.

Tiểu thư chẳng phải tiểu thư, mà người hầu cũng không phải người hầu.

Trong nhà này tôi cũng chẳng có ai cùng cha cùng mẹ.

Họ nhiều anh chị em như thế, đâu cần thiết đếm xỉa đến đứa con ngoài giá thú như tôi.

Chị Ngọc Dao biết tôi nhớ không nổi mấy cái chị vừa kể, chỉ cười cười gấp lại tờ giấy mới viết, bảo tôi rằng: "Tháng sau là mừng thọ bà nội, tổ chức tiệc bên nhà chú Khiêm.

Khi ấy các anh, các chị, các cháu đều về đông đủ cả, em sẽ được gặp hết mọi người thôi."

Tôi cười ngây ngốc, cũng háo hức yến tiệc, cỗ bàn, nhưng nghĩ đến việc gặp người thân nhưng giống như xa lạ, tôi lại thấy nửa buồn, nửa tủi.

Nhà này, tôi nhận lại được ông, cha, găp được chị Ngọc Dao cũng đã là đủ lắm rồi.

Sự quan tâm của chị giúp tôi dần hiểu được tình cảm gia đình, người thân, những ấm áp đã lâu mà tôi chưa từng được thấy lại.

Những ngày sau đó, tôi ở cùng chị Ngọc Dao, được chị cho mượn sách, dạy vẽ tranh, dạy cả những ngôn hành của tiểu thư đài các.

Tôi là đứa sống hoang dại từ nhỏ.

Dù có biết chữ, biết thơ, cũng có thể gọi là biết nhiều, nhưng phong thái điềm đạm, nhẹ nhàng giống như chị, chắc chắn không thể thay đổi trong chốc lát.

Tôi tiếp thu những lễ nghi cơ bản như nước đổ lá khoai, như là rửa hoài không ráo được phèn.

Mặc dù vậy, sống cùng với chị Ngọc Dao, những mặc cảm thân thế trước đó, khi tôi bị cha, bị dì Ngọc Luân nói những lời đắng cay ở tiền viện, cũng đã dần dần nhạt đi.

Kể cả khi không thể giống một tiểu thư lá ngọc cành vàng, tôi vẫn cảm thấy mình dần giống với con của cha, tiểu thư của nhà họ Ngô nhiều hơn trước, không bị lạc lõng khỏi môi trường sống mới này.

Tháng mười một là mừng thọ bà nội, người tôi chưa gặp lần nào từ lúc đến Thiệu Thiên.

Theo lẽ thường, tôi là cháu gái, phải chuẩn bị lễ vật bằng tấm lòng, nhưng cả cha và chị đều nói rằng tôi vừa mới trở về nhà, không cần chuẩn bị gì cả.

Nghe cha nói vậy, tôi cũng hơi sầu não.

Thực ra tôi hiểu, là bởi tôi chưa danh chính ngôn thuận là con cháu họ Ngô, cho nên ở những buổi tiệc lớn như vậy sẽ không được xuất đầu lộ diện.

Phụ nữ Đại Việt cũng rất xem trọng xuất thân, nếu biết cha tôi có thêm một đứa con, mà mẹ nó còn là người Minh, hẳn là sẽ mất thêm nhiều thời gian để được chấp thuận.

Bà nội không sống chung nhà, có lẽ cha suy nghĩ thêm một chuyện, chi bằng bớt một chuyện.

Một mặt khác, kể cả tôi có được yêu cầu mang tới lễ vật chúc thọ bà nội, tôi cũng không biết sẽ mang tới thứ nào.

Cầm, kỳ, thi, họa tôi không biết gì, nữ công gia chánh cũng không tính là giỏi giang, biết dùng thứ gì để thể hiện lòng thành kính?

Nếu nói tôi làm tốt nhất thứ gì, chắc chỉ là học được từ mẹ tôi cách làm các món bánh, món chè.

Xưa kia khi còn cùng mẹ lưu lạc khắp chốn, cũng nhờ vào cái tài ấy mà mẹ tôi và tôi sống được qua ngày.

Nhưng chắc chẳng ai tự nhiên đem dâng một hũ chè, đĩa bánh làm quà chúc thọ.

Tôi ngẩn người ngày này qua ngày khác, đi ra lại đi vào, chán đọc sách lại trốn khỏi phủ chơi.

Trong khi đó suốt tháng qua, chị Ngọc Dao cẩn thận may một chiếc áo viên lĩnh bằng vải tía, lại tự tay thêu nhiều chữ thọ bằng chỉ bạc, từng đường kim mũi chỉ đều hết sức tỉ mỉ.

Tôi vốn là đứa thô kệch, cho nên chẳng cảm thụ được những công việc may vá, thêu thùa, chỉ biết nhìn ngắm và ngưỡng mộ đôi tay của chị Ngọc Dao thôi.

Lễ mừng thọ cũng đã tới.

Vì nhà chú Ngô Khiêm cũng gần, cách phủ Chương Khánh công có năm dặm, tôi, chị Ngọc Dao và nữ quyến trong nhà đều đi bộ sang bên đó.

Dì Ngọc Luân đi trước, chị Ngọc Dao cùng ba đứa con của dì là Ngọc Hạ, Ngọc Phúc, Ngọc Đức nối tiếp phía sau, cuối cùng là tôi cùng đám hầu gái trong nhà.

Trên tay họ cầm rất nhiều lễ vật, được đặt trong khay gỗ, phủ lên một tấm nhung đỏ có thêu chữ "Thọ".

Từ lúc đi dọc đường đến tận khi sang tới nhà chú, Ngọc Hạ, Ngọc Phúc, Ngọc Đức đều ríu rít chuyện trò không ngớt, lại kéo chị Ngọc Dao vào câu chuyện khuê tú của bọn họ.

Tôi dường như hòa lẫn vào đám người hầu, chẳng hề liên quan gì tới các tiểu thư nhà họ Ngô như họ.

Nhà chú tôi nhỏ hơn so với phủ Chương Khánh công, chỉ có một dãy nhà trước là phòng tiếp khách, phòng thờ, song song với một dãy phía sau là phòng ở của chú, thím và bà nội tôi.

Khoảng sân trước dẫn từ cổng tới tiền viện bày biện nhiều bàn tiệc trải vải gấm hoa, bên trên bày sẵn nhiều món ăn bắt mắt.

Lát nữa khi tới phần tiệc, ở sân trước chủ yếu là nam giới, hoặc các vị có thân thế đặc biệt.

Bởi hôm nay là tiệc mừng thọ, xung quanh các bàn tiệc cũng treo đầy đèn hoa, lụa đỏ, lại dán chữ "Thọ" màu đỏ, màu xanh ở khắp cửa nẻo nơi tiền viện, vào tới tận sân sau.

Đó cũng chính là nơi tổ chức phần lễ mừng thọ, là nơi con cháu và khách khứa gặp gỡ, chúc tụng bà tôi.
 
Back
Top Bottom