Nguyện ước hạnh duyên - Chương 1: Thiệu Thiên non núi trập trùngThiệu Thiên non núi trập trùng
Đường xa cách trở về cùng với ai?
Rằng: một mình tới phủ đài
Tìm cha, tìm chị khỏi hoài những mong.
__________________________"Cha ơi, cha ơi!"
Tháng bảy năm Thuận Thiên thứ 5.
Trời Thiệu Thiên mưa rơi tầm tã, làm ướt sũng bộ đồ thô kệch tôi mặc trên người.
Chiếc khăn tôi lấy cột tóc đã tuột từ bao giờ không biết, để rồi mái tóc dài loà xoà đã che kín nửa gương mặt.
Nước mưa xối dội cay xè đôi mắt khiến cổng phủ Chương Khánh công mờ mờ ảo ảo trước mắt tôi.
Mỗi bước đi của tôi lúc này nặng nề như đeo thêm đá, mỗi nhịp thở cũng kèm theo những nhịp ho sặc sụa vì ngấm nước.Vào đến mái hiên dốc trước cửa phủ cũng là khi tôi ngã nhào xuống thềm đá cứng vì đuối mệt.
Đây là nhà tôi rồi.
Đã tới nhà tôi rồi.
Bên lỗ tai ù ù, ong ong vì ngấm nước của tôi lúc ấy, như đã thoáng văng vẳng lời mẹ tôi trước khi trút hơi thở cuối cùng: "Duyên, con nhất định phải xuống miền Thiệu Thiên, tìm cha con là ông Ngô Từ.
Nhất định..."
Dù có kiệt quệ mà chết ngay tại đây, tôi cũng phải chết ở nhà của mình, nhà họ Ngô.
Nghĩ đến những lời của mẹ, tôi dùng hết phần sức lực và chút nhận thức cuối cùng gọi lớn, lại đập tay lên cánh cổng to lớn trước mặt, không ngừng gọi: "Cha ơi, cha ơi!
Mở cửa cho con với."
Lặp lại không biết bao nhiêu lần, tôi thoáng nghe tiếng chân mấy người từ sau cánh cửa chạy tới mỗi lúc một gần hơn, nghe thấy cả tiếng quở lẫn vào trong tiếng mưa rơi lộp bộp: "Ai giữa trời mưa gió này còn đến phủ ông Chương Khánh nữa?"
Cửa từ từ mở, tôi đang bám vào cánh cửa thoáng chốc ngã nhào theo lực kéo của những người bên trong.
Mắt không còn mở được, đầu không còn nghĩ được điều gì nữa.
Trước khi hoàn toàn bị mất đi tri giác, tôi chỉ thấy mấy người kia nửa kéo, nửa lay mà gọi tôi: "Này, này, này, ai đây, ai..."
Khung cảnh quanh tôi thật mơ hồ, khói sương lẫn lộn, ảo ảo mờ mờ.
Tôi nhác thấy bóng mẹ tôi, người mặc áo giao xanh thẫm đứng bên đầm sen chỉ cách tôi chừng mười bước.
Thấy mẹ, trong lòng tôi sung sướng vô ngần, liền cất tiếng gọi lớn: "Mẹ, mẹ ơi!
Đợi con với."
Nhưng mẹ cứ thế chìm vào trong màn sương, khiến tôi từ ngẩn ngơ chuyển sang xót xa, rồi sợ hãi.
Trong giây lát sau khi định thần, tôi không nhìn rõ dáng vẻ của mẹ tôi nữa, vội cất gọi tiếng "Mẹ ơi" thêm mấy lần.
Chẳng thấy mẹ đâu.
Chỉ thấy xung quanh man mác mùi sen dịu ngọt, thấy cả tiếng mẹ tôi văng vẳng giữa không gian u ám: "Duyên con, mẹ phải đi rồi.
Phần đời còn lại, con phải sống thật tốt.
Tìm về bên cha con, sống thật tốt."
"Mẹ, mẹ ơi!"
Tôi vừa gọi, vừa muốn nhấc chân chạy về phía bóng mẹ, nhưng chẳng hiểu sao đôi chân này cứ chẳng nghe theo ý mình, chẳng thể bước đi.
Tiếng mẹ cứ thế nhỏ dần, nhỏ dần.
Bóng dáng mẹ cũng nhạt nhoà rồi khuất hẳn.
Xung quanh chỉ còn mình tôi với bóng tối bao trùm, với hương sen vẫn còn ngọt dịu.
"Mẹ, mẹ, mẹ ơi!"
Chỉ có tiếng vọng lại trong không gian u tối.
Tôi một mình đứng giữa bao la trời đất mà ngỡ như nỗi cô đơn đã hòa trong bóng đen rợn người.
"Em, em!"
Có sức người vừa lay vừa nói sát tai, khiến hồn phách tôi như được gọi về với thân xác.
Tuy vẫn chưa hoàn toàn thoát hẳn ra khỏi những nỗi kinh hoàng, nhưng tôi đã cảm nhận được đang có người đang bên cạnh.
Tôi chưa dám mở mắt, nhưng đã dần thấy được sự an toàn, lại bớt đi tủi thân, đơn độc giày vò bởi bóng đen kia.
Trong mơ màng, tôi nhận ra không gian xung quanh ấm áp hơn, mà có cả hương sen thoang thoảng như bước từ giấc mộng của tôi ra cùng.
Tôi bắt đầu từ từ hé mắt, đưa những ánh sáng đầu tiên lọt vào đánh thức các giác quan.
Vẫn như tỉnh như mơ, bên cạnh tôi là một thiếu nữ đẹp động lòng người.
Xung quanh cũng là chăn gấm đệm êm khiến tôi những tưởng giấc mơ vừa rồi là một nghi thức chuyển dời thực tại nhằm đưa tôi tới một chốn bồng lai để gặp tiên nhân nào đó.
Nét mặt thiếu nữ kia vừa dịu hiền, vừa trang nhã, lại mặc một giao lĩnh gấm hoa đẹp động lòng người.
Tóc vấn đỉnh đầu, lại cài thêm những thứ nữ trang bắt mắt, thực sự chẳng khác gì tưởng tượng của tôi về cô tiên qua những câu chuyện mẹ tôi hay kể.
Nàng ấy thở phào rồi nở một nụ cười dịu dàng cũng hệt như nụ cười của mẹ tôi thuở trước: "Ơn trời, em tỉnh lại rồi."
Theo bản năng tôi cựa người muốn ngồi dậy.
Nàng ấy lại vội vàng chạm vào tay tôi, bảo: "Ấy, em hãy còn yếu lắm.
Vừa ngấm nước mưa, vừa bị đói, phải nhiều giờ mới tỉnh lại, cứ nằm nghỉ trên giường thôi."
Đây là thực, chẳng phải mơ.
Đây vẫn là trần, chứ không phải cõi bồng lai nào hết.
Chỉ là khung cảnh lạ lùng này khiến tôi nhất thời vẫn chưa hoàn hồn, miệng mấp máy: "Cô..."
Thiếu nữ trước mặt dường như hiểu ý, lại mỉm cười từ tốn mà nói với tôi: "Không phải cô, gọi là chị thôi.
Chị là Ngọc Dao, con gái ông Chương Khánh công Ngô Từ.
Đây là phòng của chị, em đói rồi phải không?
Để chị sai người hầu mang cháo nóng tới cho em."
Bụng tôi trống rỗng đã lâu.
Dù toàn thân đã ấm hơn nhưng cái đói đúng là vẫn như giày vò thân thể này, khiến tứ chi mềm nhũn, hai hàm cũng như lỏng ra, môi dưới môi trên cũng run rẩy, phải gắng sức lắm mới thở đều nhịp.
Ấy là kết quả của việc ba ngày liên tục không uống không ăn, đi ròng rã qua núi lội đèo đến miền Thiệu Thiên này.
Vẫn may, tôi còn tới được cửa phủ Chương Khánh công, gặp được người nhà, nếu không thì ngày mai, chắc nơi tôi nằm đây không phải khuê phòng của chị gái, mà là bãi tha ma mất.
Mưa gió tháng bảy lớn đến thế, chẳng ai muốn ra ngoài đường, càng không mấy ai muốn dừng lại cứu một kẻ không rõ lai lịch như tôi.
"Chị... chị ơi."
Trong cổ họng tôi dường như có rất nhiều từ, nhiều chữ, nhiều câu muốn bộc bạch.
Đều là những lời tôi đã nghĩ đi nghĩ lại bấy lâu, rằng khi gặp người thân tôi sẽ nói.
Nhưng đúng là "có thực mới vực được đạo", cái đói đã nén chặt những thứ tôi chưa kịp thốt ra vào lại trong cái bụng trống rỗng.
Chị Ngọc Dao bật cười, như đi guốc trong bụng tôi, quở rằng: "Em cứ ăn xong đã, rồi nói gì với chị sau cũng chẳng muộn mà."
Ngay lúc ấy, có tiếng cửa mở, một cô gái nhỏ mặc áo thô, tóc búi song nha, bưng khay tới bên chị Ngọc Dao, cúi người nhỏ nhẹ: "Thưa cô, cháo đây ạ."
Mùi cháo thơm nức khiến tôi như được hồi sinh thực sự.
Tôi như mất hết liêm sỉ, tự mình gượng dậy.
Chị Ngọc Dao đưa hai tay đỡ lấy tôi, lại cẩn thận để cái gối gấm thơm thơm mùi sen phía sau trước cho tôi dựa.
Xương cốt tôi vẫn ê ẩm, mỏi nhừ.
Cô gái nhỏ kia đưa khay đến gần.
Ngửi rõ hơn, tôi biết đó là cháo gà với ngải cứu.
Gà mềm lại dễ ăn, ngải cứu điều hòa thân nhiệt, hợp với người ốm nhất.
Chị Ngọc Dao lại tỉ mỉ đỡ lấy bát cháo, cầm lấy cái muỗng sứ khuấy đều và thổi cho nguội bớt.
Tôi ngồi cạnh thèm thuồng, hẳn là trông chẳng khác gì một con quỷ đói.
Chị chỉ cười hiền, đưa chiếc bát sứ hoa xanh cho tôi: "Em tự ăn hay để chị bón cho?"
Tôi vẫn còn hơi gượng gạo, mi mắt hơi chớp, chưa biết đáp sao cho hợp với sự dịu dàng của chị.
Chị lấy chiếc khay đặt lên bên trên chiếc chăn dày tôi đang đắp, rồi để bát lên và bảo: "Em tự ăn nhé."
Tôi sững người trong chốc lát rồi gật nhẹ đầu, lại theo bản năng ngước nhìn chị thêm một lần, nhìn sang cả cô gái nhỏ bên cạnh chị.
Chị như hiểu hết những gì tôi đang nghĩ trong bụng, từ cái đói, cái gượng gạo của một kẻ dưới, tới cả cái sĩ diện tầm thường của một con người.
Chị quay sang cô gái nhỏ kia nói: "Thanh Linh, ra ngoài cửa đi, khi nào cần, ta sẽ gọi em."
Cô hầu Thanh Linh kia đi hẳn, tôi mới cầm bát cháo lên húp ngấu húp nghiến.
Hạt gạo mềm nhừ tan dần trong cổ họng, vị gà thơm lừng trong cháo đi dần vào người, lan khắp tứ chi, như mang sinh khí trở lại trong thân thể tạ tàn của tôi.
Vị ngọt của gạo nếp hương, vị tê tê của ngải cứu quyện vào nhau khiến tôi chẳng còn bận tâm đến việc chị Ngọc Dao nhìn mình thế nào.
Chỉ trong một thoáng, bát cháo đã chẳng còn gì nữa.
Tôi để bát lên khay, lấy tay áo qua quýt lau miệng như bình thường vẫn hay làm.
Nhưn lúc bấy giờ tôi mới để ý quần áo của mình đều đã được thay đổi thành một bộ lụa giao lĩnh mỏng mặc trong màu lam nhạt, cực kỳ mềm mà còn rất êm người.
Đây rõ ràng chẳng phải quần áo của tôi, vì thế khi làm động tác thô tục kia xong tôi liền thấy vô cùng mất mặt, ái ngại nhìn chị Ngọc Dao.
Chị Ngọc Dao không trách, chỉ cười bảo: "Không sao đâu.
Em có ăn nữa không, chị sai người hầu xuống lấy thêm cho em một bát."
Tôi gật gật đầu thật mạnh.
Cứ thế, tôi ăn liền bốn bát cháo gà ngải cứu.
Tôi nhìn rõ vẻ khinh thường của Thanh Linh khi tới mang khay và bát đi, càng rõ hơn những ý tứ trách móc khi cô ấy nói: "Thiên hạ thái bình đã lâu, vậy mà không ngờ vẫn có người đói tới cỡ đó."
Dến khi chị Ngọc Dao liếc mắt nhìn, Thanh Linh mới tự biết mình đã lỗ mãng, cúi đầu mang bát khay lùi xuống.
Chị đưa tôi chiếc khăn xanh thêu hoa đỗ quyên màu đỏ, tôi hiểu ý cầm lấy và lau sạch khóe miệng mình.
Ngây người người nhìn chị Ngọc Dao, tôi như cảm thấy có mẹ bên mình thêm một lần nữa, dù tuổi chị chắc cũng chỉ chạc tôi.
Tôi đưa khăn lại cho chị đem cất, bấy giờ mới nhìn kỹ không gian phòng của chị.
Nó rộng hơn cả cái nhà nhỏ tôi từng sống với mẹ ở ven sông Đông Mai, có cái kệ cao chứa rất nhiều sách, bình sứ, bút lông, nghiên mực.
Quanh tường treo mấy bức họa cổ, tranh chữ.
Phía trái khuất mắt tôi nhìn còn có cái bàn trà, có bình cắm hoa, đúng bài trí của khuê phòng của một tiểu thư đài các trong những gì tôi tưởng tượng.
Lúc ban đầu tôi không nghĩ nhà cha mình giàu có và to lớn tới vậy.
Trước khi lâm chung, mẹ tôi chỉ nói tên, nói nguyên quán, chứ không nói cho tôi chức quan hay gì khác.
Mãi đến khi tôi được tiên sinh Ức Trai cứu vớt ở Lạng Giang rồi sống ở nhà thầy nửa năm, vừa dưỡng bệnh, vừa theo học, tôi được biết nhiều hơn về người mà tôi phải gọi là "cha" ấy.
Giã từ với tiên sinh, tôi khăn gói đi xuống tới lộ Thanh Hóa, phủ Thiệu Thiên, đem tên tuổi cha tôi hỏi đường về nhà, và đúng là ai cũng biết danh tính ông ấy.
Không chỉ là mệnh quan có tiếng, cha còn được vua xem như khai quốc công thần bậc nhất, là người đã có nhiều đóng góp trong những năm kháng chiến kéo dài.
Cha cùng ông nội cung cấp quân lương, vừa lao động, vừa chiến đấu bên cạnh nhà vua trong giai đoạn loạn lạc.
Năm xưa, cha cũng là người đã giúp đỡ nhiều cho thầy tôi - tiên sinh Ức Trai, cả ông Bùi Bị, ông Đinh Liệt, những danh tướng lẫy lừng của Đại Việt trong thời bình Ngô, được ví như Sầm Bành, Mã Võ của nhà vua khi ấy.
Cha tôi còn là người được Tuyên Tổ Hoàng đế, phụ thân của nhà vua đương triều, cậy nhờ việc nuôi dưỡng nhà vua trong thuở ấu niên.
Suy xét đến cùng, khéo tôi còn được xem như anh em nuôi với vua nữa chứ!Đó mới chỉ là những gì tôi được nghe từ những người qua đường.
Công trạng của cha tôi chắc chắn còn nhiều hơn gấp bội.
Nghe kể những điều này, dù chưa gặp cha lần nào, tôi vẫn thấy tự hào lắm.
Là con của ông Chương Khánh công nức tiếng cả một vùng Thiệu Thiên, mai này tôi cũng sẽ trở thành tiểu thư con quan, giống chị Ngọc Dao, giống những cô gái ăn vận xinh đẹp, đoan trang mà tôi từng ao ước ngắm nhìn theo khi bán hàng rong trên phố chợ.
Tưởng tượng bản thân trong những bộ đồ gấm vóc lụa là, tôi không nhịn được mà mỉm cười sung sướng.
"Em đang nghĩ gì mà sao lại vui như vậy?"
Tiếng chị Ngọc Dao đem tôi từ chín tầng mây về lại với hiện thực.
Tôi tự nhắc bản thân, mình còn chưa gặp cha, chưa kể rõ ngọn ngành cơ mà.
Chỉ nên tính từng bước trước mắt thôi.
"Em... em nghĩ xem nên nói chuyện như thế nào."
Tôi trả lời một câu tối nghĩa, lời vừa thốt ra liền cảm thấy bản thân đúng là một đứa ngốc nghếch, vô tri.
Chị Ngọc Dao cười: "Vui như vậy rồi, liệu có thể nói cho chị xem, em là ai, em từ đâu đến, sao lại gọi cổng phủ nhà chị được chưa?"
Mỗi lời chị Ngọc Dao nói ra đều khiến trong lòng tôi cảm thấy hổ thẹn.
Phong thái, ngôn hành, cử chỉ của chị đều vô cùng mẫu mực, giống như đã thoát hoàn toàn khỏi cảnh giới phàm nhân như tôi.
Nếu thực sự trở thành tiểu thư nhà ông Chương Khánh, chẳng biết đến bao giờ tôi mới có được tư thái giống như chị.
Tôi nén lại những ý tứ vẩn vơ kia, hít một hơi thật sâu, nghĩ thật kỹ rồi trịnh trọng nói: "Chị, em là Hạnh Duyên, là con của cha.
Mẹ em..."
Nói đến đây, tôi hơi nghèn nghẹn vì nghĩ đến mẹ, người gần gũi thương yêu tôi nhất trong phần trước cuộc đời.
Nước mắt không kìm được mà tuôn ra.
Chị Ngọc Dao từ từ lấy khăn lau nước mắt cho tôi, lại yên lặng lắng nghe tôi nói tiếp: "Trong tay nải em đem theo, có mấy cuốn sách, có cả tín vật của cha từng tặng mẹ."
Tay nải đó đã ướt, sách có lẽ cũng đã ướt nhiều nhưng đồ bên trong hẳn vẫn còn nguyên.
Tôi tin rằng khi đưa tôi vào, khi thay xong trang phục cho tôi, chị Dao đã xem qua tay nải.
"Là miếng ngọc có tên của cha trên đó sao?"
Chị Ngọc Dao cẩn trọng hỏi lại.
Như tôi nghĩ, chị quả thực đã xem qua tay nải đó.
Tôi gật đầu nói tiếp: "Chị, mẹ em mất đã một năm rồi.
Mẹ nói em tới tìm cha, tìm lại người thân để nửa đời sau không phải côi cút.
Chị, em rất muốn gặp lại cha, gửi lại cha ngọc bội để hoàn thành ý nguyện của mẹ."
Cứ thế, nước mắt tôi tuôn ra lã chã, tiếng nấc cùng tiếng nghẹn mỗi lúc một rõ ràng.
Chị Ngọc Dao ôm tôi vào lòng, lại vỗ về tôi bảo: "Tội nghiệp cho em của chị, còn nhỏ mà phải lưu lạc tứ phương.
Đừng khóc, đừng khóc nữa, em đã về đây, có chị, có cha, còn có nhà, em sẽ không phải lo lắng điều gì nữa."
Trong lời của chị còn có cả tiếng nức nở.
Cái ôm của chị nhẹ nhàng và ấm áp như mẹ của tôi thuở sinh thời.
Mẹ thương tôi hơn chính mạng sống của mình, kể cả khi nhắm mắt xuôi tay, mẹ vẫn nghĩ ngợi chu đáo cho tôi của sau này.
Dựa vào chị Ngọc Dao, tôi cứ vậy mà khóc lớn.
Khóc vì nhận lại được một người thân.
Khóc vì nhớ mẹ tôi nữa.
Mẹ..."
Ngọc Dao, con, đứa trẻ lúc nãy tỉnh chưa?"
Một tiếng nói phụ nữ vang lên từ ngoài cửa.
Tôi khẽ đẩy chị Ngọc Dao ra, lại lấy tay áo lau qua loa cho vơi nước mắt.
Chị cũng khẽ lấy ngón tay lau nhẹ khóe mi, xoay người qua rồi thưa rằng: "Em ấy tỉnh rồi ạ.
Con đã lấy cháo em ăn cho lại sức để chuẩn bị uống thuốc rồi."
Người phụ nữ kia tiến vào, là một mệnh phụ nhìn rất sang trọng.
Nhìn qua, bà ấy còn khá trẻ tuổi, khó có thể là mẹ của chị Dao.
Nhưng chị Dao xưng con, nhiều khả năng là cô dì, hoặc là một trong các phu nhân của cha tôi.
Bà ấy nhìn kỹ tôi như để đánh giá kỹ càng rồi bảo: "Trời cũng ngớt mưa rồi, xong xuôi cho nó ra về đi, đừng để ở nhà lâu.
Cha con cũng biết chuyện rồi đấy."
Nghe đến "cha", tôi bất giác rùng mình, lại hơi cúi đầu không biết nói sao cho nên, cho phải.
Mà chị Dao sau đó cũng nói giúp nỗi lòng của tôi: "Dì Luân, em ấy là em gái của con, là con của cha.
Mẹ em ấy đã mất rồi, giờ em ấy đến nhà mình để nhận lại cha và gia đình."
Tôi nhìn thấy rõ vẻ thảng thốt hiện trên gương mặt người phụ nữ mà chị gọi là "dì Luân".
Bà ấy "hừ" một tiếng tỏ vẻ nghi ngờ: "Có đúng là như vậy không thế?
Mấy người thấy sang bắt quàng làm họ ở vùng Thiệu Thiên này có nhiều lắm."
Nét mặt và câu nói này của bà đã mang đến cho tôi một ấn tượng xấu, một dự cảm chẳng lành về tương lai của tôi khi bước chân vào phủ Chương Khánh công.
Chị Ngọc Dao đứng bên chau mày giải thích: "Dì ơi, em ấy đúng là em của con.
Em ấy có miếng ngọc của cha là tín vật.
Mà dì nhìn xem, không phải em ấy rất giống con, giống cha, giống cả em Hạ, em Đức hay sao?"
Mấy lời của chị Dao khiến tôi an tâm hơn về thân phận của mình.
Ít nhiều gì trong nhà này cũng đã có một người tin tưởng tôi là người nhà họ Ngô.
Tuy vậy, dì Luân kia vẫn ngoa ngoắt cười khẩy một tiếng: "Trời ơi, vật còn có thể làm giả, càng huống gì người ta cũng mò tới tận cửa nhà, lẽ nào không có sự chuẩn bị?
Con ơi, bây giờ hãy cứ phải lên gặp cha con, mọi thứ mới được ra nhẽ."
Tôi siết tay mà trong lòng ấm ức, nhìn người đàn bà kia nghiến răng nghiến lợi.
Được thôi, dù có đi tới gặp cha, tôi cũng chẳng có gì phải sợ.
Tôi không chỉ có vật chứng, mà khi nói mẹ ra, hẳn cha cũng sẽ nhớ ngay ra mẹ.
Thời thế loạn lạc, thiên hạ chỉ vừa mới thái bình, việc hai người biệt tích nhiều năm là không hề khó hiểu.
Chỉ có những người cố ý không muốn nhận nhân thân, chỉ có những người cạn nghĩa cạn tình mới nói ra mấy lời cay nghiệt đến thế.
"Phải đi ngay bây giờ hay sao dì?
Em... em con vẫn còn chưa uống thuốc."
Chị Ngọc Dao băn khoăn hỏi lại.
"Cha con bận nhiều việc, phải đi ngay thôi."
Nói đoạn dì Luân quay ngoắt để chị Dao quay qua nhìn tôi ái ngại.
Tôi né tránh ánh nhìn của chị, chép miệng gật đầu rồi gỡ chăn, xuống giường.
Vậy là tôi đã sắp được gặp lại cha rồi. _____________________Thuận Thiên: niên hiệu của nước ta dưới thời vua Lê Thái Tổ.
Năm Thuận Thiên thứ 5 là năm 1432.
Thiệu Thiên: tên một phủ thuộc đạo Hải Tây thời Lê, nay thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Thời Lê Thái Tổ chưa có phủ Thiệu Thiên, nhưng trong "Nguyện ước hạnh duyên", tạm hư cấu Thiệu Thiên là một phủ.
Thời Lê Thái Tổ, đất nước chia thành 5 đạo, dưới đạo là lộ, phủ, châu, huyện...
Lạng Giang: tên một lộ cũ thuộc Tây đạo thời Lê, nay thuộc địa phận tỉnh Hải Dương.
Thanh Hóa: tên lộ thuộc đạo Hải Tây thời Lê Thái Tổ, nay là tỉnh Thanh Hóa.