Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Bồ Tát Man - znvznv

Bồ Tát Man - znvznv
Chương 140: Ngoại truyện 4


Giang Vân Lâu là tửu quán xa hoa bậc nhất thành Giang Châu, chủ quán tự hào rằng rượu của mình dù đem so với rượu ở Trường An cũng chẳng kém cạnh chút nào. Giữa tiết trời đông giá rét, rượu hổ phách ủ ấm trong bình lưu ly quả là thức uống không thể thiếu, dù là trong những buổi tiệc tùng náo nhiệt hay khi lặng lẽ nhâm nhi một mình.

Thời trẻ, Du Túc thường cùng bạn bè chè chén thâu đêm suốt sáng, khi thì tại nhà, khi thì trên thuyền, say sưa nâng chén ngọc, tỉa hết nến hồng, nào hay ngân hà chuyển dời. Cho đến khi sương sớm giăng mờ, đám công tử say khướt mới lần lượt tản đi.

Lúc này, trước mắt chàng vẫn là những tà áo đỏ lượn lờ, hương thơm thoang thoảng, tiếng đàn hát vẫn như xưa. Kỹ nữ trẻ đẹp khéo mời rượu, thấy Du Túc uống cạn chén, lại mỉm cười rót thêm một chén nữa. Du Túc tựa nhẹ vào bờ vai thơm tho bên cạnh, nét mặt ngà ngà say, chàng không chút do dự đón lấy chén rượu, uống cạn một hơi.

Mấy kỹ nữ khác cười khúc khích, lại rót rượu mời vị quản gia phủ Biệt giá đang ngồi ngay ngắn ở cửa. Ông ta là người của hoàng đế, được lệnh trông nom Du Túc, đương nhiên không thể uống rượu. Ông đẩy chén lưu ly mà kỹ nữ đưa tới, nói: “Cô nương tha cho tôi, đừng trêu tôi nữa.”

Du Túc vẫn điềm nhiên, mím môi cười nhạt, rồi nói với đám kỹ nữ: “Ông ta là người của hoàng đế, nếu chọc giận ông ta, ông ta mà tâu lên hoàng đế, e là các cô khó giữ được mạng sống đấy.” Giọng chàng pha chút mỉa mai, không biết là cười vị quản gia kia hay cười chính mình.

Quản gia càng cung kính cúi đầu, Du Túc khẽ cười khẩy, không để ý đến ông ta nữa, lại quay sang nói cười với đám kỹ nữ.

Một cô gái nũng nịu hỏi: “Lang quân nói ông ấy là người của hoàng đế, vậy chẳng lẽ ông ấy đã gặp thánh nhân rồi sao?”

Một cô khác nghe vậy liền trêu chọc: “Uyển Nô, chẳng lẽ cô cũng muốn gặp thánh nhân à?”

Uyển Nô khẽ đánh vào người cô bạn, rồi cười hỏi Du Túc: “Lang quân đã từng gặp thiên tử chưa ạ?” Nàng chỉ biết vị lang quân này là Biệt giá của châu, không rõ thân phận địa vị trước đây của chàng, nên mới hỏi như vậy.

Du Túc nhắm mắt không nói, khóe môi như cười như không. Uyển Nô thấy chàng không còn hào hứng như lúc nãy, vội im lặng. Một cô gái khác liền tiếp lời hỏi: “Dạo này chúng ta có mấy điệu múa mới, lang quân có muốn xem không?”

Du Túc từ từ mở mắt, cười nói: “Gặp hoàng đế nào sánh được với gặp các nàng.” Chàng nắm lấy cổ tay mảnh khảnh của Uyển Nô, tự tay đút cho nàng một chén rượu, nói: “Nàng múa cho ta xem.” Uyển Nô cười duyên đứng dậy, ném quả cầu thơm trong tay cho bạn mình, rồi theo tiếng sáo nhịp nhàng múa.

Du Túc nhìn chằm chằm vào chiếc vòng vàng lắc lư trên cổ tay Uyển Nô, bỗng cảm thấy bản thân lúc này cũng chẳng khác gì họ. Những kỹ nữ này ra vào đều là nơi cao sang rộng rãi, nhưng cũng bị má mì, cha nuôi quản thúc, khó mà thoát thân; còn chàng thì bị giam cầm ở Giang Châu, chịu sự khống chế của Lý Ương. Chỉ có điều, kỹ nữ nếu gặp được khách làng chơi tốt bụng thì có thể rời khỏi chốn lầu xanh, làm người lương thiện. Còn người giam cầm chàng lại là bậc chí tôn thiên hạ.

Chàng cầm lấy bình rượu, tu ừng ực hai ngụm lớn. Kỹ nữ vội lấy khăn lau rượu cho Du Túc, khẽ cười nói: “Lang quân uống từ từ thôi, uống vội dễ say.”

Khi Du Túc rời khỏi tửu quán, đã say mèm. Đêm khuya sương giá, quản gia vội khoác áo lông chồn lên người chàng, nhưng Du Túc lại khó chịu hất ra. Chàng uống rượu say, nhất thời đứng không vững, loạng choạng hai bước. Lúc này, có một bàn tay vững vàng đỡ lấy eo chàng. Chàng càng thêm khó chịu, đẩy ra phía sau, cũng không nhìn người đó, cứ thế lên xe. Nhưng sắc mặt quản gia lại biến đổi, định lên tiếng thì Lý Ương khẽ lắc đầu, ra hiệu cho ông ta im lặng.

Sau khi lên ngôi vài năm, Lý Ương có lệ tuần du mỗi mùa đông, hoặc đi săn bắn, hoặc đến hành cung núi Ly Sơn. Trong nửa tháng rời khỏi Trường An, hắn nhất định phải dành ra hai ba ngày đích thân đến Giáng Châu, năm nào cũng vậy. Du Túc không chịu gặp hắn, Lý Ương cũng không ép buộc, nên dù đến Giáng Châu, hắn cũng không làm kinh động đến chàng. Nếu có thể nhìn từ xa một cái, coi như cũng không uổng công chuyến đi này. Hôm nay Lý Ương đến lúc hoàng hôn, lại đợi ở tửu quán cả một đêm, thấy Du Túc say mèm như vậy, về nhà chắc cũng lăn ra ngủ, chẳng nhận ra ai, Lý Ương mới xuất hiện.

Lý Ương mặc áo mão chỉnh tề, trên người không hề vương mùi son phấn, hắn nãy giờ vẫn ở ngay phòng bên cạnh Du Túc, ngồi lặng lẽ suốt đêm. Hắn nói với quản gia: “Mau đưa chàng ấy về.” Lý Ương không biết Du Túc đã uống bao nhiêu rượu, chỉ là vừa rồi khi chưa đến gần, đã ngửi thấy mùi rượu nồng nặc trên người chàng. Uống nhiều rượu sinh nóng trong người, lại thêm gió lạnh, e là không tốt.

Về đến phủ, Du Túc cũng chẳng buồn thay quần áo, liền ngã vật xuống giường. Hai má chàng đỏ ửng, lông mày hơi cau lại, lại như sợ nóng, đến chăn cũng không chịu đắp.

Lý Ương cho lui hết người hầu, nhẹ nhàng cởi áo ngoài cho Du Túc, rồi dùng khăn thấm nước ấm lau tay lau mặt cho chàng. Xong xuôi, hắn lại đứng dậy, lấy một chiếc chăn mỏng từ tủ thấp bên cạnh bình phong. Hắn dường như có chút quen thuộc với căn phòng này, dễ dàng tìm được thứ mình muốn.

Đắp chăn cho Du Túc xong, hắn mới nhẹ nhàng ngồi xuống bên giường. Lý Ương không có nhiều thời gian, trời chưa sáng hắn đã phải quay về Kỳ Sơn săn bắn. Hương thơm trong phòng là mùi hương quen thuộc của Lý Ương. Hắn hít một hơi thật sâu, hương thơm ngọt ngào lan tỏa trong lồng ngực, xua tan phần nào mệt mỏi sau một ngày rưỡi cưỡi ngựa phi nước đại.

Mấy năm không ngủ cùng giường với Du Túc, Lý Ương bỗng có chút tham luyến nhìn khuôn mặt say ngủ của chàng. Trước đây, mỗi khi nửa đêm tỉnh giấc, nhìn thấy khuôn mặt kiều diễm này, hắn luôn có chút lo lắng. Nhưng những ngày tháng lo nghĩ, trăn trở ấy đã trôi qua hết, chỉ còn lại sự im lặng và bất lực sâu thẳm.

Nghĩ rằng Du Túc say rượu chắc cũng không tỉnh lại, Lý Ương đưa tay sờ lên má chàng. Du Túc khó chịu khẽ rên một tiếng, khiến Lý Ương vội rụt tay lại.

Tay áo Du Túc xắn lên một nửa, để lộ vết sẹo dài đáng sợ trên cánh tay phải. Lý Ương biết những vết sẹo như vậy còn có một vết trên vai trái và một vết ở bụng bên phải của Du Túc. Hắn lặng lẽ nhìn chằm chằm vào vết sẹo trên cánh tay chàng, như muốn dùng ánh mắt v**t v* nó, nhưng hắn hiểu, đó chỉ là vô ích. Dù có dùng cả phần đời còn lại, những vết sẹo này cũng không thể phai mờ.

Du Túc ngủ say hơn, nhưng giữa hai hàng lông mày vẫn không giãn ra được, vẫn hơi nhíu lại như bị ác mộng đeo bám. Lý Ương không biết ngày thường Du Túc có ngủ không yên giấc như vậy không. Mấy năm nay, Du Túc ở lại Giáng Châu một mình, không chịu lấy vợ, cũng không muốn có con nối dõi. Thái hậu nhiều lần thúc giục nhưng chàng vẫn không hề lay chuyển. Lý Ương ngồi dưới đất, gối đầu lên tay, tựa vào cạnh giường, ngây người nhìn Du Túc, nghĩ thầm: Nếu Du Túc có vợ, có lẽ sẽ được chăm sóc tốt hơn.

Lý Ương thấy nhói đau trong lòng. Trước đây Du Túc hỏi hắn có thích chàng không, hắn chỉ trả lời một lần, còn xé toạc ra nỗi đau đẫm máu, chỉ vì sợ Du Túc nắm được điểm yếu, nắm được mạch sống của mình. Giờ đây hắn đã nắm giữ thiên hạ, lại càng đẩy Du Túc vào đường cùng, điều có thể làm cũng chỉ là lặng lẽ đến thăm. Hoa mộc lan nở rồi lại tàn, rồi lại nở, còn tình cảm thì thay đổi theo thời thế. Tình yêu ngày xưa không được đáp lại cuối cùng đã biến thành yêu hận đan xen, rồi lại im lặng niêm phong, khiến người ta tuyệt vọng. Nỗi đau khổ thấm vào máu thịt, ngày qua ngày cứ lặp đi lặp lại, Lý Ương mới giật mình nhận ra, có lẽ hắn và Du Túc đều chưa từng thực sự hiểu cách yêu một người, hoặc là cái giá của tình yêu quá đắt, không phải thứ họ có thể gánh vác được. Cũng giống như ngày hôm đó Du Túc nói chàng hối hận rồi.

Canh tư đã qua, Lý Ương khẽ thở dài, lại đưa tay vuốt tóc Du Túc, nhưng vẫn cảm thấy chưa đủ, liền hơi cúi người xuống, nín thở hôn nhẹ lên trán chàng. Mùi rượu còn vương trên người Du Túc cùng với hương thơm ấm áp khiến trái tim Lý Ương thắt lại, như một xoáy nước cuồn cuộn, muốn kéo hắn vào giấc mộng đẹp. Lý Ương vội vàng đứng dậy, lùi lại vài bước, cắn môi nhìn Du Túc đang ngủ say. Một lát sau, hắn mới buông hàm răng ra, vết cắn trên môi không nhẹ, nhưng lại khiến tâm trí hắn càng thêm tỉnh táo. Hắn nhìn Du Túc lần cuối, rồi quay người rời đi.

Căn phòng lại trở về yên tĩnh, Du Túc từ từ mở mắt. Chàng không cử động, cũng không ngồi dậy, chỉ lặng lẽ nhìn vào khoảng không. Một lúc lâu sau, chàng mới nhắm mắt lại, như thể chỉ là vừa mới tỉnh giấc sau một giấc ngủ bình thường.

————————————————————————

Bức tranh đó, người mặc áo trắng là Lý Ương, còn người mặc áo đen là c** nh*, hahaha. Vì trước đó trong quá trình đăng tải đã đăng hai phần ngoại truyện, nên tôi đã đánh số tiếp theo luôn. Thực ra, ngoại truyện sau khi kết thúc không có nhiều tình tiết, mà chủ yếu là bổ sung thêm về mặt tình cảm của Lý Ương (thường gọi là làm anh ấy đau khổ), sau này có lẽ còn một hai phần ngoại truyện nữa. Chúc mọi người ngày Rằm tháng Giêng vui vẻ! ~
 
Bồ Tát Man - znvznv
Chương 141: Ngoại truyện 5 Ngựa xa khuất nẻo bụi mờ bay, người về gần trăng tỏ soi đầy


Tết Thượng Nguyên năm ấy đúng vào ngày nghỉ. Đến quá trưa, tuyết rơi lất phất suốt nửa ngày cũng dần tạnh. Trong vườn tuy không thấy đèn hoa, nhưng cảnh hồng mai điểm tuyết cũng rất nên thơ.

Tấm rèm dày nặng ngăn cái giá lạnh buốt của sương giá lại bên ngoài. Lý Ương vừa từ trong cung về, nội thất ấm áp, hắn cởi bỏ quan phục, chỉ mặc áo bào cổ tròn thường ngày, thắt lại đai da, ngẩng đầu nói với Du Túc: “Ngươi đến đây làm gì, chán chết, chi bằng ở phủ ngươi còn náo nhiệt hơn.”

Du Túc tựa vào sập, đang cúi đầu xem cờ phổ, đáp: “Năm nay huynh trưởng không phải trực, huynh ấy ở nhà rồi, nên ta sang thăm ngươi.” Chàng đến Chí An Quán khi Lý Ương chưa về, rảnh rỗi không có việc gì làm nên lấy một quyển cờ phổ ra xem.

Lý Ương liếc nhìn bàn cờ, thở dài: “Đã lâu nghe danh cờ nghệ của đại huynh ngươi, đáng tiếc chưa có dịp được cùng huynh ấy đánh cờ.”

Du Túc đặt cờ phổ xuống, ngẩng đầu nói: “Cờ của ta là do huynh trưởng dạy, giờ huynh ấy không còn nữa, vậy đành làm phiền Điện hạ, cùng ta đánh một ván vậy.”

Trước khi đặt quân cờ, Lý Ương bỗng mỉm cười: “Nếu ta thắng, ngươi lấy gì làm phần thưởng cho ta?”

Du Túc không biết cờ nghệ của Lý Ương nông sâu thế nào, bèn nói đùa: “Vậy nếu ta thắng thì sao?”

“Thắng được thì tùy ngươi.”

Du Túc càng thêm hào hứng, chàng ngồi thẳng dậy, cười nói: “Điện hạ đã hào phóng như vậy, ta cũng không thể để ngươi coi thường. Nếu ngươi thắng ta, ngươi muốn gì ta cũng đáp ứng.”

Vừa rồi thấy Lý Ương có vẻ tự tin, Du Túc biết cờ nghệ của hắn hẳn không tệ, nhưng khi thực sự giao đấu, chàng mới giật mình, Lý Ương nào chỉ là không tệ, e rằng ngay cả Du Uẩn đến cũng phải khổ chiến một phen.

Ưu thế của Lý Ương trên bàn cờ ngày càng rõ ràng, hắn điềm tĩnh, từng bước ép sát, khác hẳn với dáng vẻ ôn hòa thường ngày. Khi hắn đặt quân cờ cuối cùng, Du Túc đã không còn cách nào xoay chuyển, thua cuộc đã định.

Thấy Du Túc vẫn cau mày suy nghĩ, Lý Ương cười nói: “Đừng xem nữa, dù ngươi có nhìn thủng cả bàn cờ cũng không thắng được đâu.”

Lúc này Du Túc mới ngẩng đầu lên, cười khổ: “Ngươi đã biết trước ta sẽ thua, nên mới muốn đánh cược với ta, phải không?” Chàng dựa lại vào sập, cử động cổ, cười nói: “Điện hạ cờ nghệ cao siêu, ta thua tâm phục khẩu phục.”

“Ngươi đợi chút.” Lý Ương nói xong, liền đứng dậy đi ra ngoài. Du Túc không hiểu tại sao, lại ngồi đợi hồi lâu, vẫn không thấy hắn quay lại, đang định gọi người hỏi thì Lý Ương đã trở về. Hai tay hắn không cầm gì, nhưng lại cười đầy ẩn ý, Du Túc càng thêm khó hiểu, hỏi hắn cũng không chịu nói.

Khoảng nửa canh giờ sau, hai tỳ nữ bưng đồ vào, Du Túc nhìn mới phát hiện toàn là y phục và trang sức nữ nhân.

Lý Ương giải thích: “Nghe nói đời trước có tục lệ, đêm Thượng Nguyên, nam giả nữ trang, người người đeo mặt nạ thú, xem đèn dạo phố. Hôm nay muốn mời Tam lang thử xem, ngươi dung mạo xuất chúng, trang điểm lên chắc chắn phi phàm.” Hắn khẽ cắn môi, ra vẻ nhịn cười.

Du Túc cười gượng, xem ra Lý Ương đã sớm định trêu chọc chàng, nhưng người vừa rồi mạnh miệng hứa hẹn cũng là chàng, bây giờ muốn nuốt lời, e là không kịp nữa. Thấy Lý Ương hứng thú bừng bừng, Du Túc đành thôi, đã có thể khiến hắn vui, giả nữ một lần cũng chẳng sao.

Áo dài tay gấm, áo khoác ngắn màu vàng, váy dài sáu mảnh phối màu, chỉ là chiếc váy dài chấm đất của nữ tử bình thường, đến Du Túc lại ngắn cũn cỡn, để lộ đôi hài thêu mây bên dưới. Du Túc vốn xinh đẹp, nhưng thân hình so với nữ tử thì quá cao lớn, một thân váy áo mặc trên người chàng tuy lộng lẫy, lại có phần không hợp lẽ thường.

Đã muốn giả nữ, búi tóc là điều không thể thiếu, tỳ nữ đang lấy trâm cài muốn cài lên tóc Du Túc. Trâm cài ngọc bích nạm vàng tinh xảo quý giá, khẽ rung rinh theo từng bước đi, nhưng Du Túc sao chịu nổi, bèn chỉ một chiếc lược bạc, nói: “Dùng cái này là được rồi.”

Lý Ương cho tỳ nữ lui ra, mỉm cười tự tay vẽ mày cho Du Túc, nói: “Tam lang mày xếch, mày lá liễu đều không vẽ được.” Hắn lại lấy miếng dán trán bằng vàng, tỉ mỉ dán lên trán Du Túc, khẽ nói: “Sắc diện ngươi quá rực rỡ, không cần son phấn cũng được, nhưng miếng dán trán và má lúm đồng tiền này lại rất hợp với ngươi.” Hắn dùng son điểm má lúm đồng tiền lên má Du Túc, hài lòng nhìn một lượt, cười nói: “Tuy có mặt nạ thú che, nhưng cũng không thể qua loa được.”

Du Túc đã sớm ngồi không yên, chỉ là đã đánh cược thì phải chịu, không tiện nổi cáu. Chàng đưa tay ôm Lý Ương, nũng nịu nói đùa: “Tay nghề lang quân thành thạo thế này, e là không chỉ vẽ mày điểm má lúm đồng tiền cho mình thiếp đâu nhỉ?”

Lý Ương tựa vào ngực Du Túc, sợ mình làm lem má lúm đồng tiền của chàng, cười nói: “Không có, chỉ mình ngươi thôi.”

Khóe môi Du Túc mỉm cười, cùng với sắc đỏ của má lúm đồng tiền, càng thêm rực rỡ. Nụ cười của Lý Ương chợt khựng lại, giữa mày khẽ động, rồi cúi xuống hôn lên chấm son đỏ ấy. Màu đỏ nhuộm lên môi hắn, còn kinh tâm động phách hơn cả son. Du Túc không ngờ Lý Ương lại có hành động như vậy, nhưng sau khi hơi ngạc nhiên thì không chút do dự hôn trả, nhấm nháp hương vị của người kia.

Tuyết trên đường không dày, đã sớm được quét dọn sạch sẽ. Đêm xuống, đèn hoa mới lên, người người chen chúc, tiếng ca hát nhảy múa rộn ràng từng đợt, thành Trường An không giới nghiêm náo nhiệt vô cùng.

Du Túc đeo mặt nạ thú xanh lè dữ tợn, nhưng thân hình cao lớn của “nàng” vẫn khiến người qua đường phải ngoái nhìn. Lý Ương nắm chặt tay Du Túc, ghé sát người chỉnh lại áo choàng nhẹ khoác ngoài cho chàng, cười nói: “Đi sát ta, nương tử đừng lạc nhé.”

Du Túc khẽ hừ một tiếng: “Năm sau Tết Thượng Nguyên, ngươi giả nữ, chúng ta đổi lại.” Lý Ương mỉm cười đáp: “Chờ khi nào ngươi thắng được cờ của ta rồi hãy nói.”

Ánh đèn trần gian rực rỡ, khiến ánh trăng càng thêm dịu dàng, êm ái. Nhưng tình cảm giữa người với người còn đẹp đẽ hơn cả ánh trăng kia.

—————————————————————————————————

Đã đăng trước giờ khuya! Mới đây tôi lướt thấy một bài đăng trên Weibo, nói về truyền thống trong dịp lễ Thượng Nguyên thời nhà Tùy Đường có việc đàn ông hóa trang thành phụ nữ để dạo chơi và ngắm đèn lồng, nên tôi viết bài này để xem sao, coi như là bài chúc mừng lễ Rằm tháng Giêng gửi đến mọi người (thực ra là một viên kẹo đã quá hạn). Thời gian được đặt là năm Kiến Hòa thứ nhất, khi đó họ vẫn còn ở Trường An.
 
Bồ Tát Man - znvznv
Chương 142: Ngoại truyện 6


Cung điện nguy nga tráng lệ chìm trong màn mưa bụi mịt mù, nhưng vẫn không làm giảm đi vẻ xa hoa của bậc đế vương. Tiếng mưa rì rầm như đang thì thầm kể lể những nỗi u sầu, những tiếng thở dài chất chứa bao năm tháng, ẩn giấu trong những cung điện rộng lớn. Quan binh canh gác vẫn giữ vẻ mặt nghiêm nghị, hòa lẫn với cái lạnh giá của mùa đông, dường như ngay cả màn mưa đa tình cũng chẳng thể lay động họ. Chỉ có những chiếc chuông đồng treo dưới mái hiên đung đưa theo gió, hòa cùng tiếng mưa rơi, như khóc như than.

Tấm rèm xe được vén lên một góc, hương thơm thanh khiết lan tỏa vào cơn gió lạnh lẽo. Hương thơm nồng nàn của cây uất kim hương, hương thơm thoang thoảng của gỗ bá hương và hương thơm dịu nhẹ của cây nhũ hương, tầng tầng lớp lớp, hòa quyện vào nhau một cách hài hòa tuyệt diệu, khiến người ta không khỏi trầm trồ khen ngợi sự tinh tế của người pha chế.

Cung nữ khẽ hít hà hương thơm tỏa ra từ trong xe, cúi đầu nhẹ nhàng nói: “Kim chân nhân, mời.”

Người bước xuống xe là một nữ tử trẻ tuổi mặc đạo bào màu trắng sữa, dáng người mảnh mai đoan trang, tĩnh lặng mà ung dung. Nàng trông chỉ chừng đôi mươi, nhưng ánh mắt lại trong veo không chút bụi trần, thấu suốt như một vị đạo cô lánh đời. Trên người nàng giản dị, chỉ có một bông trà màu vàng nhạt cài trên búi tóc đen nhánh, điểm thêm một chút hơi thở của thế tục.

Kim Vân Ngưng là người được Hoàng đế triệu kiến, nên cung nữ và thái giám không dám chậm trễ, cung kính dẫn nàng đến điện Thanh Tư, nơi Hoàng đế đang ngự.

Trong điện thoang thoảng mùi hương liệu, làn khói xanh lượn lờ trên đỉnh lư hương hình hoa sen năm cánh bằng vàng, ngăn cách hoàn toàn hơi nước bên ngoài. Kim Vân Ngưng vốn giỏi pha chế hương liệu, nên nàng cũng chú ý đến hương thơm đang được sử dụng trong điện. Hương thơm này lấy trầm hương làm nền, thêm xạ hương và mật ong, tạo nên mùi hương nồng nàn quyến rũ, lại có chút ngọt ngào. Kim Vân Ngưng còn ngửi thấy một chút hương thơm mát lạnh, tuy nhạt nhưng không thể bỏ qua. Nàng âm thầm suy đoán xem hương thơm mát lạnh này là từ loại hương liệu nào, hình như là long diên hương, nhưng lại không rõ ràng lắm. Nàng lại khẽ ngửi thêm một lần nữa, rồi mỉm cười nhẹ, là đinh hương. Đinh hương vốn có mùi cay nồng, có tác dụng tỉnh táo, nhưng trong hương thơm này, đinh hương được sử dụng rất ít, ẩn mình trong hương thơm nồng nàn, nên không còn thấy mùi cay nồng nữa, chỉ còn lại chút mát lạnh như màn trướng hoa văn bảo tướng đang từ từ được cuộn lên. Giọng nói ôn hòa mà mệt mỏi của Hoàng đế cũng vang lên: “Tuy ở trong cung, nhưng trẫm cũng đã nghe danh Vân Ngưng chân nhân là bậc thầy về chế hương.”

Kim Vân Ngưng hành lễ xong, Hoàng đế ban cho nàng một chỗ ngồi. Mãi đến khi nàng ngồi xuống đệm, mới được nhìn thấy dung nhan thật của Hoàng đế. Dung mạo của bậc quân vương trông khá trẻ trung, quả là được sống trong nhung lụa nhiều năm, trông không giống người đã bốn mươi tuổi. Tuy có uy nghi, nhưng khóe môi hắn lại nở nụ cười, như một tia sáng trong đêm trăng sao, kín đáo mà xa cách, tinh tế mà cô độc.

“Bệ hạ quá khen, thiếp thật hổ thẹn.”

Kim Vân Ngưng tuy tu hành ở đạo quan, nhưng nàng nổi tiếng xa gần nhờ kỹ thuật pha chế hương liệu tuyệt vời. Hương liệu do nàng điều chế thường có giá cao gấp nhiều lần, thậm chí gấp hàng chục lần. Kim Vân Ngưng xuất thân từ gia đình giàu có, không ham mê tiền tài, nếu có hương liệu thượng hạng cũng hiếm khi bán ra, phần lớn chỉ dùng để tặng người quen. Vì vậy, hương liệu của nàng càng trở nên khan hiếm, đúng là “một hương khó cầu”.

Hoàng đế lại mỉm cười, khẽ phất tay, thái giám liền dọn hết lư hương trong điện Thanh Tư. Kim Vân Ngưng hiểu ý, tự tay lấy ra một chiếc hộp sơn mài từ trong chiếc hộp do thái giám bê đến. Thái giám lại dâng lên cho nàng một lư hương.

Lư hương mà Kim Vân Ngưng sử dụng không phải là loại lư hương bằng vàng bạc dát ngọc trai thông thường, mà là một lư hương men xanh nhạt tao nhã, với vân mây màu nâu uốn lượn quanh thân lư, trông giống như đồ gốm sứ vùng đất Việt.

“Chắc hẳn đây là vật quý của chân nhân.” Hoàng đế khen ngợi. Kim Vân Ngưng mỉm cười tự hào, mở nắp hộp hương, dùng thìa bạc lấy hương hoàn bỏ vào lò. Động tác của nàng thuần thục, nhẹ nhàng uyển chuyển. Kim Vân Ngưng chăm chú loay hoay với hương liệu, ngay cả trước mặt Hoàng đế cũng không hề cố ý lấy lòng hay nịnh nọt.

Theo làn khói nhẹ dần bay lên, thân hình Hoàng đế hơi nghiêng về phía trước, những ngón tay thon dài trắng nõn bám chặt vào mép bàn. Hắn gạt bỏ vẻ mặt có phần lơ đãng ban đầu, thay vào đó là vẻ mặt lo lắng bất an, trong mắt chất chứa nỗi nhớ nhung và đau buồn, lại ẩn chứa chút hy vọng.

Chẳng mấy chốc, hương thơm ban đầu trong điện đã tan biến hoàn toàn, một mùi hương nồng nàn sâu lắng lại lan tỏa khắp cung điện. Hương thơm ấy mãnh liệt cuồn cuộn, nhưng lại mang theo vẻ hư ảo mông lung, rõ ràng ở ngay trước mũi, nhưng khi ngửi kỹ, lại như thoảng qua từ tiên sơn ngoài biển cả. Hai thái cực này hòa quyện trong làn khói mờ ảo, như tạo nên một cảnh tượng huyễn hoặc, ngắn ngủi như hoa trong gương, trăng dưới nước. Giống như một tình yêu vừa khao khát mà không thể với tới, vừa nồng nàn mãnh liệt đến tuyệt vọng. Đây chính là loại hương liệu khiến Kim Vân Ngưng nổi danh khắp Trường An – hương Phản Hồn.

Truyền thuyết về hương Phản Hồn bắt nguồn từ thời nhà Hán. Tương truyền, hương này xuất xứ từ đảo Cù Châu ở Tây Hải, ngửi thấy nó có thể khiến người chết sống lại. Vua nước Nguyệt Thị Tây Hồ từng sai sứ sang triều kiến vua Hán Vũ Đế, dâng lên bốn lạng hương này, nhưng Hán Vũ Đế lại không để ý, cất vào kho ngoài.

Bảo vật linh thiêng từ hàng trăm năm trước đã không còn tung tích, dĩ nhiên không phải là hương liệu mà Kim Vân Ngưng đang cầm trong tay. Hương của nàng vốn không có tên là Phản Hồn, chỉ là có nhiều người kể lại rằng khi ngửi thấy hương này, họ đã được gặp lại hồn phách của người xưa. Dần dần, lời đồn đại ngày càng nhiều, tên thật của hương liệu này lại không ai nhắc đến nữa, mọi người đều chỉ biết đến cái tên Phản Hồn.

Mãi đến khi khói tan lửa tắt, Hoàng đế mới hơi hoàn hồn, hắn khẽ “a” lên một tiếng, rồi tựa người vào gối dựa. Vẻ mặt hắn càng thêm mệt mỏi, khép hờ mắt như đang trầm tư. Một lúc sau, hắn mới thở dài: “Là trẫm si tâm vọng tưởng rồi.” Giọng nói mang theo sự mỉa mai không hề che giấu.

Vừa rồi Kim Vân Ngưng chuyên tâm dâng hương, không nhận ra sự thay đổi trong thần sắc và cử chỉ của Hoàng đế, nhưng nàng lại nghe rõ lời này. Nàng ngẩng đầu lên nói: “Chẳng lẽ Bệ hạ cũng nghe theo lời đồn về hương Phản Hồn, nên mới triệu thiếp vào cung, đốt lên lò hương “Khuy Mộng” này?”

“Khuy Mộng?”

“Vâng, hương này vốn có tên là “Khuy Mộng”, chỉ là sau này do miệng truyền miệng, mới có tên là Phản Hồn.”

Vẻ mặt Hoàng đế đã trở lại bình thường, chỉ là trong mắt vẫn còn vương chút u sầu. Hắn mỉm cười nói: “Theo lời chân nhân, việc chiêu hồn chỉ là bịa đặt, chứ không phải sự thật?”

Kim Vân Ngưng vẫn giữ thái độ khiêm tốn, nàng mỉm cười dịu dàng nói: “Người khác có thể dựa vào hương này để gặp lại người xưa hay không, thiếp không biết. Thiếp chỉ biết, ban đầu khi thiếp chế tạo hương này, tuyệt đối không có công hiệu phản hồn. Hương này nhiều lắm chỉ có thể khuấy động tâm tư của người ta mà thôi. Chiêu hồn phản hồn, chỉ là truyền thuyết xưa, nếu Bệ hạ có ý này, thì nên giống như vị Hoàng đế nhà Hán kia, tìm kiếm khắp thiên hạ thuật sĩ, chứ không phải để thiếp đốt lên lò hương này.” Hương Phản Hồn chỉ là một lời đồn đại hoang đường, người đã khuất, sao có thể dựa vào một làn hương ở nhân gian mà sống lại được.

Nhìn nụ cười hiu quạnh của Hoàng đế, Kim Vân Ngưng nghĩ thầm: Hóa ra nắm giữ giang sơn, được muôn dân ca tụng cũng chỉ đến thế này. Ngay cả vị Hoàng đế tối cao vô thượng cũng có những ảo tưởng hoang đường như vậy, có thể thấy trên đời này quả thực không có gì là hoàn hảo.

Lúc này, trên ngón tay của Hoàng đế mà Kim Vân Ngưng không nhìn thấy, có một lọn tóc đen như mực, mềm mượt nằm gọn trong tay hắn, rồi lại bị giấu kín trong tay áo.

Hoàng đế nói: “Chân nhân đặt tên rất hay, “Khuy Mộng”, đúng vậy, ngửi thấy hương này, quả thực khiến người ta có cảm giác như đang mộng du. Trẫm nghĩ những người nói rằng đã gặp lại cố nhân, chắc hẳn cũng là vì quá si tình, đến mức không phân biệt được ảo ảnh và thực tại, nên mới có một giấc mơ tỉnh.”

Đã được chứng kiến hương Phản Hồn trong truyền thuyết, Kim Vân Ngưng cũng đã hoàn thành nhiệm vụ lần này. Khi nàng sắp rời đi, Hoàng đế cho phép nàng được tùy ý lựa chọn hương liệu trong kho báu mang về phủ, để thưởng công nàng dâng hương hôm nay.

Kim Vân Ngưng đứng dậy hành lễ từ biệt, cuối cùng nói: “Thiếp có một lời, mạo muội muốn nói với Bệ hạ. Hương thơm vừa rồi trong điện tuy ngửi thì ngọt ngào, nhưng lại mang theo hơi lạnh. Giữa mùa đông, Bệ hạ nên cho người đổi sang loại hương liệu khác, sẽ tốt cho sức khỏe hơn.”

Hoàng đế vẫn mỉm cười nhạt, nhưng không đáp lại, chỉ nói: “Khanh đi đi.”

Khi Kim Vân Ngưng ra khỏi cung, trời vẫn âm u như cũ. Mưa tuy đã tạnh, nhưng gió bắc vẫn rất mạnh, như báo hiệu sắp có tuyết rơi. Khi lên xe ngựa, nàng chợt hỏi người thái giám đi theo: “Hương thơm vừa rồi trong điện, Bệ hạ rất thích sao?”

Thái giám cười đáp: “Vâng ạ. Vân Ngưng chân nhân không biết đấy thôi, ngày thường Bệ hạ chỉ cho nô tài đốt hương đó, không dùng hương khác.”

Kim Vân Ngưng gật đầu trầm ngâm, cuối cùng liếc nhìn về phía cung điện nơi Hoàng đế đang ngự. Cung điện nguy nga tráng lệ sừng sững dưới bầu trời, nhưng trong bóng tối lại mang vẻ u ám, khiến nàng không khỏi kéo chặt chiếc áo khoác ngoài đạo bào. Kim Vân Ngưng không nói thêm gì nữa, rồi bước lên xe ngựa.
 
Bồ Tát Man - znvznv
Chương 143: Truyện Du Túc


Du Túc, tự Quý Hạ, người Lũng Tây, Tương Vũ. Ông nội là Du Hối, làm đến chức Thứ sử Quắc Châu, hàm Chính Nghị đại phu. Cha là Du An, Trung thư lệnh, được truy tặng chức Thái sư. Vợ Du An là quận chúa Vĩnh Gia, trưởng nữ của Lương Vương, sinh ra Du Túc. Túc mồ côi mẹ từ nhỏ, được Văn Thuận Hoàng hậu thương xót, nuôi dưỡng trong cung. Túc từ bé đã thông minh lanh lợi, giỏi ứng đối, được Hiển Tông hoàng đế yêu mến, đích thân dạy bảo, thường nói với Hoàng hậu: “Túc thông minh hơn người, sau này sẽ trung thành mẫn tiệp như cha ngươi.” Nhiều năm liền, Đế Hậu hết mực yêu chiều, rất coi trọng Túc, thường xuyên mang theo bên mình. Túc có dung mạo tuấn tú, phong thái hơn người, khi làm quan Chư tác lang[1], cậy sủng sinh kiêu, nhiều lần phạm lỗi, tính tình khó lường khiến người ta e sợ, Ngự sử ghét chàng, nhưng Hoàng thượng không để ý.

Năm Khánh Thành thứ mười lăm, Túc được thăng làm Đại lý tự Thiếu khanh[2], chủ trương dùng hình luật nghiêm khắc, xử lý công việc khốc liệt, nhiều lần bị tố cáo. Hoàng thượng nghi ngờ có sự oan sai, bèn sai cận thần ở Hình bộ điều tra, chứng cứ đầy đủ nên bãi bỏ lời chỉ trích. Túc tâu rằng: “Thánh thượng nhân đức, thần sao dám mượn danh lơ là công việc?” Năm sau, chàng hành quân đến Doanh Châu, quét sạch giặc cướp, lần đầu tiên thể hiện sự cương quyết. Chẳng bao lâu sau, chàng được thăng làm Hoàng môn Thị lang[3], đồng thời là Trung thư môn hạ Bình chương sự[4], tham gia quyết định việc quân quốc, danh tiếng dần nổi lên nhờ tài ứng biến. Lúc bấy giờ, tiền giả lưu hành tràn lan khắp nơi, nạn đúc tiền tư tràn ngập như phong trào, khiến giá cả hỗn loạn. Giang Nam đạo là nơi đúc tiền giả nhiều nhất, triều đình nhiều lần hạ lệnh cấm đoán tiền giả. Túc xin xuất ba vạn quan tiền từ Thái phủ[5], hai mươi vạn thạch lương thực để đổi lấy tiền giả, khôi phục lại chế độ cũ, đồng thời ban hành lệnh nghiêm khắc: phàm kẻ nào lén lút đúc tiền giả sẽ bị xử cực hình, cả họ bị lưu đày. Túc vào tâu rằng: “Tình trạng tiền giả tồn tại đã lâu, không thể giải quyết trong một sớm một chiều. Thần vốn chủ trương hình luật nghiêm khắc, nhưng việc thu nộp tiền giả khiến dân oán khắp nơi, việc này đã lan truyền đến kinh thành không chỉ một hai lần. Kính xin Bệ hạ tạm cho phép tiền có trọng lượng từ hai thù[6] trở lên được lưu hành, xử lý từ từ. Trước tiên cần phải triệt phá những kẻ cầm đầu đúc tiền giả.” Lệnh ban ra, kẻ bị tội không dưới trăm người, dân sợ phép nước của Túc, nhiều người đem tiền giả vứt xuống sông hồ.

Năm thứ mười bảy, địa vị của Túc càng cao, trở thành tai mắt của Hoàng thượng, giỏi luồn cúi, thích xa hoa, tuy không có vinh dự mở phủ đệ[7] nhưng thực tế lại chiêu mộ rất nhiều tân khách, có lời bàn tán về việc chàng chuyên quyền. Đầu niên hiệu Tuyên Hòa, có người dân đến trước mặt Văn Thuận Hoàng hậu tố cáo Túc phóng túng, dùng thủ đoạn chiếm đoạt tài sản, ngỗ ngược, mất đức. Hiển Tông không vui, Hoàng hậu rơi lệ tạ tội: “Thiếp được Thánh ân, thân phận tôn quý, thiên hạ đều biết thiếp yêu thương đệ đệ, nên mới có lỗi lầm ngày hôm nay.” Lúc bấy giờ, Ngự sử đại phu Văn Trân cùng quần thần dâng tấu, vạch trần tội lỗi của Túc, Hoàng thượng ra chiếu chỉ: bãi chức Hoàng môn Thị lang, giáng xuống làm Tư môn giám[8]. Cùng năm đó, chàng được phục chức làm Giang Hoài chuyển vận đô sứ[9].

Hai năm sau, được bổ nhiệm làm Tiết độ sứ Sóc Phương, kiêm chức Kiểm hiệu Linh Châu đô đốc. Túc tự phụ, xin được xuất binh đánh thành Thạch Bảo. Cao Thừa Ân, Tiết độ sứ Lũng Hữu, tâu rằng: “Túc kiêu ngạo, muốn giành chiến thắng. Nhưng quân Thổ Phồn chiếm đóng thành Thạch Bảo đã mười bốn năm, thành kiên cố dị thường, dễ thủ khó công, nếu muốn chiếm được phải đổi bằng sinh mạng của hàng ngàn người. Thần đẳng ăn lộc của triều đình, sao có thể lấy tính mạng của đồng đội để cầu danh lợi?” Túc nói: “Thần được Bệ hạ thương xót, dạy dỗ trong cung, không cầu danh lợi, chỉ muốn tận trung. Ba quân đóng giữ biên cương, mỗi năm tiêu tốn rất nhiều ngân khố, dùng tiền thuế của dân chúng, giữ thành như vậy thực sự rất tốn kém. Thành Thạch Bảo vốn là lãnh thổ của nước ta, đương nhiên phải chiếm lại.”

Hiển Tông đồng ý. Túc nhanh chóng đánh hạ thành Thạch Bảo, đại thắng. Tháng mười một năm đó, Thánh Tông khi ấy còn là Ung Vương, ban chiếu tuần tra ba trấn, đặc biệt tuyên dương khen thưởng, Túc được thăng làm Vân Hồi tướng quân, quyền quản lý công việc ở Lũng Hữu. Ba năm sau, Thổ Phồn bội ước, đi đường vòng qua Hà Tây, Lương Châu và Cam Châu nhanh chóng thất thủ. Tháng sáu, ba trăm quân Sóc Phương mặc áo giáp của địch, đêm khuya tập kích quân Thổ Phồn ở Phong Cốc, khiến địch tự rối loạn, ba quân bao vây tiêu diệt, đại thắng, chém hơn tám nghìn thủ cấp. Túc trị quân nghiêm khắc, đối với tướng sĩ dưới quyền, phàm kẻ nào rút lui, bỏ chạy đều bị giết ngay tại trận, mọi người đều khiếp sợ uy thế của chàng, không ai dám trái lệnh. Cuối năm đó, hai châu được thu phục, Túc lập công lớn nhất, danh tiếng lừng lẫy khắp vùng Tây Bắc. Vẫn giữ chức Tiết độ sứ Sóc Phương, được phong làm Lộ Châu đại đô đốc, quản lý cả Lũng Hữu và Hà Tây, nắm giữ ba trấn. Túc bản tính gian trá, thích giết chóc, bắt được hàng vạn tù binh, trái lệnh giết hại, tự mình nắm giữ trọng binh, chưa từng thất bại, càng thêm tự mãn. Vì khinh địch ở Trường Thạch cốc, dẫn đến tiền quân đại bại. Hoàng thượng nhiều lần nổi giận, hạ chiếu: Túc đã vất vả nhiều năm ở ngoài, nên triệu về triều. Trở về kinh thành, chàng bị kết tội kết bè kết đảng, chuyên quyền, kiêu ngạo ngông cuồng, lạm dụng quyền hành, tổng cộng hai mươi tư tội, bị bãi chức.

Năm sau, Hiển Tông băng hà, Thánh Tông lên ngôi, nói: “Túc lớn lên bên cạnh Tiên đế, rất được sủng ái. Tuy trước đây phạm tội, nhưng có công lớn với triều đình, Tiên đế cũng không nỡ trách phạt nặng.” Tháng ba, chàng bị giáng xuống làm Biệt giá[10] Giáng Châu. Năm Nghi Nguyên thứ mười một, Túc bệnh mất, hưởng dương ba mươi sáu tuổi. Mười lăm năm sau, được truy tặng chức Phụ quốc đại tướng quân, Thánh Tông đích thân chọn thụy hiệu là Nguyên Liệt.



Năm Giáp Thìn, mừng sinh nhật Tam Lang. Khi Du Túc trở về phủ trời đã xế chiều, chẳng bao lâu nữa sẽ giới nghiêm. Mấy hôm nay, Hoàng thượng mới ban tặng một con ngựa con trắng muốt, Du Túc vô cùng yêu thích, hai ngày nay đều chơi đùa bên ngoài đến tận chiều tối. Dù cưỡi ngựa giỏi đến đâu, chàng cũng chỉ là một đứa trẻ bảy, tám tuổi, đám người hầu trong phủ đương nhiên không dám để Du Túc ra ngoài một mình, nên tiền hô hậu ủng, cả thảy tám chín người.

Thường ngày, Du An về nhà vào giờ Mùi, hôm nay sau khi rời khỏi triều, lại ghé qua chùa Từ Ân, đến tận giờ Dậu mới xuống ngựa trước cửa phủ. Chưa kịp vào cửa, đã thấy đoàn người của Du Túc hùng hổ đi tới, liền lộ vẻ không vui.

Đám người hầu vừa thấy Du An liền biết có chuyện chẳng lành, vội vàng ghìm cương ngựa, xuống ngựa, nhanh chóng bước đến chỗ Du An, định nói gì đó, nhưng đã bị Du An ngắt lời: “Ngày nào cũng chỉ lo chơi bời lêu lổng, chẳng làm việc gì ra hồn.”

Du Túc cũng đã xuống ngựa, mặt lạnh tanh, cung kính chào: “Cha.” Du An thấy chàng ra ngoài với thế lực như vậy, lạnh lùng nói: “Con theo ta vào trong.”

Cả đám người đi vào phủ, dọc đường A Bích lén kéo tay áo Du Túc, ra hiệu chàng nhất định phải nhẫn nhịn, đừng cãi lại cha.

Sau khi ngồi xuống trong đại sảnh, Du An trách mắng: “Kêu con đọc sách, con đọc kiểu gì vậy? Còn nhỏ tuổi đã chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, con muốn cả Trường An đều biết gia phong nhà họ Du ta không nghiêm khắc hay sao?”

Du Túc nào phải người hiền lành, chàng biết rõ cha chỉ đang kiếm cớ gây sự, nhưng càng như vậy, chàng càng không phục, hôm nay cha vô cớ gây chuyện càng khiến chàng cảm thấy không thể chịu đựng được. Du Túc ngẩng đầu nói: “Cha nói đúng, con ngu dốt, việc đọc sách quả thực có chỗ chưa hiểu, mong cha chỉ dạy.”

Du An biết con trai út từ trước đến nay luôn tự cao tự đại, thấy hôm nay chàng nhận lỗi nhanh như vậy, dường như đã thay đổi tính tình, liền cười khẩy, nói: “Con đã đọc sách gì rồi?”

Du Túc không hề sợ hãi, lớn tiếng nói: “Hôm nay tiên sinh giảng một đoạn trong Đại Học, có một câu con không hiểu, ‘Làm vua thì dừng ở nhân, làm tôi thì dừng ở kính, làm con thì dừng ở hiếu;’” chàng dừng lại một chút, rồi nói tiếp: “Đặc biệt là sáu chữ ‘làm cha thì dừng ở từ’, con thực sự không biết phải hiểu như thế nào.”

Ý nghĩa của câu này quá rõ ràng, làm sao Du Túc lại không hiểu? Du An đương nhiên nghe ra chàng đang mỉa mai mình, liền sa sầm nét mặt, xắn tay áo ngồi xuống, nhìn con trai út từ trên cao xuống, lạnh lùng nói: “Kẻ bất hiếu như vậy, giữ lại cũng chỉ là tai họa, chi bằng hôm nay ta đánh chết con, coi như làm một việc thiện.”

Du Túc ngồi dưới không hề cầu xin, chàng khẽ hừ một tiếng, lời lẽ cay nghiệt của người cha uy nghiêm dường như không khiến chàng sợ hãi chút nào, chàng vẫn lạnh lùng nhìn thẳng vào chủ nhân của phủ đệ này.

Đôi lông mày và ánh mắt giống nhau đến vậy, sống động đến vậy, xinh đẹp đến vậy, khiến Du An vừa yêu thích vừa chán ghét. Tại sao dung mạo này lại do đứa con này thừa hưởng? Tại sao không phải là chị gái và anh trai của nó?

Ánh mắt của đứa trẻ ấy cứng cỏi, dường như lóe lên ánh nước, Du An nghi ngờ mình hoa mắt, hắn muốn nhìn kỹ lại một lần nữa, nhưng Du Túc lại cười lạnh, cúi đầu xuống, nói: “Cha còn chờ gì nữa?” Ánh mắt chàng lướt qua đám người hầu đang đứng bên cạnh, “Các ngươi còn không mau đi chuẩn bị roi, chuẩn bị dây thừng.” Giọng nói của chàng vẫn còn non nớt, nhưng ngữ khí lại già dặn, dường như đã không còn quan tâm đến sự trách mắng và lạnh nhạt của cha, chàng lại nhìn thẳng vào Du An, nói ra lời kinh người: “Mạng này, con trả lại cho cha vậy.”

Du An nổi giận lôi đình, hất tay áo quét sạch bộ đồ trà trên bàn xuống đất, chén trà bằng sứ trắng quý giá vỡ tan tành, nước trà nóng hắt hết lên vạt áo của con trai út, kèm theo đó là tiếng quát của Du An: “Trả? Con cũng xứng sao? Ta tự lấy!”

Người hầu trong đại sảnh không ai dám động đậy, càng không dám xin tha cho cậu chủ nhỏ, đều quỳ rạp xuống im lặng. Du An thấy vậy, mắng: “Còn không mau đi lấy roi tới đây, hôm nay nếu không đánh chết đứa đứa con trời đánh này, các ngươi cũng đừng hòng sống!”

“Cha!” Du Uẩn vội vàng chạy đến, chàng đã nghe thấy tiếng cha nổi giận từ ngoài cửa, biết có chuyện chẳng lành, vừa vào cửa đã quỳ xuống bên cạnh Du Túc, dập đầu nói: “Cha bớt giận! Tam Lang còn nhỏ, có gì sai trái, cũng là do con làm anh chưa làm gương, mong cha rộng lượng tha thứ, nếu cha thực sự tức giận, cứ đánh con là được.”

Du An đối với cậu con trai cả tuấn tú, nho nhã luôn yêu thương quý trọng, lúc này cũng nổi giận với chàng, mắng: “Con đừng nói mấy lời sáo rỗng đó với ta, nó thành ra như ngày hôm nay, biết đâu là do chị gái và con chiều chuộng? Ta thật không ngờ đứa con trời đánh này lại bị các con chiều hư đến mức này! Con đừng vội vàng nhận lỗi thay nó, ta tự sẽ tính sổ với con!”

Nghe thấy cha trong cơn giận dữ nói năng không suy nghĩ, Du Uẩn cúi đầu khuyên giải: “Hoàng hậu điện hạ hết lòng chăm sóc Tam Lang, nhưng dù sao cũng không thể dạy dỗ thường xuyên, đều là lỗi của con, cha nói rất đúng.”

Dù đang tức giận, Du An cũng hiểu được lời nhắc nhở trong lời nói của Du Uẩn. Con gái đã không còn là con gái của hắn nữa, nàng là vua, còn hắn là cha ruột, lại là thần tử, vua sao có thể để thần tử bàn tán? Hắn cố gắng kìm nén cơn giận, nói: “Là ta hồ đồ rồi. Nuôi con không dạy, lỗi của cha mẹ, các con có lỗi gì? Vốn là ta làm cha không xứng chức, hôm nay ta sẽ dạy dỗ nó thật tốt. Các con không cần nhúng tay vào, roi ta tự đánh, đánh chết cũng đáng!”

Du Uẩn không đứng dậy, vẫn giữ nguyên tư thế cũ, giọng điệu buồn bã nói: “Cha muốn dạy dỗ con trai là lẽ thường tình. Nhưng mong cha vì mẹ mà tha thứ cho đệ ấy lần này. Nếu mẹ biết được tình cảnh của cha và Tam Lang ngày hôm nay, linh hồn trên trời làm sao yên nghỉ?”

Người vợ quá cố là nỗi đau lớn nhất trong lòng Du An, Du An nhớ lại dáng vẻ của phu nhân lúc lâm chung, không khỏi đau lòng, chỉ biết ôm mặt không nói gì.

Im lặng hồi lâu, Du Túc liếc nhìn anh trai bên cạnh, rồi lại liếc nhìn cha đang ngồi trên, nỗi đau buồn của họ dường như không liên quan gì đến chàng. Chàng hiểu rõ những đau khổ đó, nhưng không hề cảm nhận được, chàng và người phụ nữ xinh đẹp ấy có lẽ đã từng gặp mặt một lần, bà đã cho chàng sự sống, còn chàng lại phải gánh chịu vô vàn oán hận. Danh xưng “mẹ” lúc gần lúc xa, giống như bàn thờ Phật, chàng có thể nhìn thấy, nhưng không bao giờ chạm được.

Vì vậy, Du Túc lạnh lùng nói: “Con biết cha hận con vì cái chết của mẹ, cho rằng là con đã hại bà ấy.”

Trong phủ từ lâu đã lưu truyền câu chuyện về sự thông minh và nhân từ của phu nhân ngày xưa, trên dưới đều ca ngợi tất cả những gì liên quan đến bà, nhưng không ai dám nhắc đến cái chết của bà, nhưng lúc này lại bị người không nên nhắc đến kết cục này nhất nhắc đến.

Giọng nói của Du Túc vẫn còn mang nét trẻ con, ngữ điệu lạnh lùng kiên quyết: “Vậy nên không phải hôm nay, thì sau này cũng sẽ có một ngày, anh trai dù sao cũng không thể lúc nào cũng trông nom con, chi bằng hôm nay cứ để cha đánh chết con, coi như xong chuyện. Chỉ là dù có lấy mạng con, cũng không thể đổi lại mạng của mẹ.”

Vừa dứt lời, một cái tát mạnh mẽ đã giáng xuống má Du Túc, cái tát quá mạnh, lại không hề phòng bị, khiến cả người chàng ngã xuống đất.

Cho đến khi đánh xong, tay Du Uẩn vẫn còn run rẩy, chàng nhìn chằm chằm vào em trai, nghiến răng nghiến lợi nói: “Im miệng!” Lúc này đến lượt Du Túc kinh ngạc, anh trai luôn luôn nghiêm túc, nhưng chưa bao giờ nặng lời như vậy, huống chi là đánh người, Du Túc nhất thời ngây người ra, ngay cả đứng dậy cũng quên mất.

Du An sững sờ một lúc, trong lòng đau đớn tột cùng, cơn giận đã tan biến, lắc đầu nói: “Nó vô tình vô nghĩa như vậy, con cũng thấy rồi, sao còn phải bảo vệ nó? Thôi, thôi, đều lui xuống đi.”

Du Túc là người đứng dậy đầu tiên, không nhìn cha và anh trai, quay người bỏ chạy. Du Uẩn hoàn hồn, trong lòng vô cùng hối hận, nhìn thấy em trai chạy ra khỏi đại sảnh, thực sự không yên tâm, nhưng cha vẫn còn ở đó, lại không tiện cáo lui. Đang tiến thoái lưỡng nan, Du An nhìn ra sự lo lắng của con trai cả, nói: “Con cũng đi đi,” hắn dừng lại một chút, cuối cùng cũng nói một câu: “Đi xem nó thế nào.”

Du Uẩn như được đại xá, vội vàng đứng dậy, một chân bước qua cửa, lại quay lại nhìn cha, giọng điệu không đành lòng: “Cha đừng giận Tam Lang nữa, dù sao nó cũng chỉ là một đứa trẻ.” Du An lắc đầu, thở dài nói: “Đều là nghiệt duyên. Đi đi, đi đi.”

Đợi Du Uẩn đuổi theo ra ngoài, đã không còn thấy bóng dáng của em trai đâu nữa, vội vàng sai người đi tìm khắp nơi trong phủ, cuối cùng cũng tìm thấy chàng ở góc tường bên cạnh vườn hoa. Du Uẩn đã dặn dò người hầu dù có tìm thấy Tam Lang cũng đừng làm phiền chàng, mọi người đương nhiên không dám trái ý thiếu chủ, huống chi Tam Lang là một nhân vật ngang ngược, cần gì phải chọc giận chàng lúc này.

Đứa trẻ nhỏ bé ngồi ở góc tường, tay cầm một cành cây không biết nhặt được ở đâu, đang chọc chọc vào bồn hoa, trước mặt đã lật lên một mảng đất.

Thấy anh trai đến, Du Túc chỉ liếc nhìn một cái, rồi lại cúi đầu tự mình nghịch đất. Du Uẩn ngồi xổm xuống, thấy trên má trái của em trai in hằn năm dấu tay đỏ ửng, nhíu mày dịu dàng nói: “Là huynh sai, không nên đánh đệ.” Du Túc làm như không nghe thấy, Du Uẩn thở dài nói: “Huynh đánh đau đệ rồi, sau này huynh sẽ không đánh đệ nữa.”

“Huynh biết cha đối xử không tốt với đệ, huynh cũng biết sự bất mãn trong lòng đệ, đệ oán trách cha cũng là lẽ thường tình, nhưng đệ không nên nói những lời như vậy.”

Du Túc đột nhiên ngẩng đầu lên, tức giận hỏi ngược lại: “Chẳng lẽ đệ nói sai sao? Đệ chết rồi, mẹ có thể sống lại sao?”

“Đệ không sai,” Du Uẩn dừng lại một chút, khó khăn nói ra nửa câu sau, “là cha sai.”

Du Túc khẽ hừ một tiếng, “Cha sai là đã không b*p ch*t đệ ngay từ đầu, nếu lúc đó đi theo mẹ, thì hôm nay cha cũng đỡ tốn công tốn sức.”

Nghe chàng nói hờn dỗi, Du Uẩn dịu dàng nói: “Năm đó mẹ đã liều mạng bảo vệ đệ bình an, dùng mạng sống của mình để đổi lấy mạng sống của đệ, làm sao cha lại không biết? Sao có thể thực sự muốn lấy mạng đệ? Cha chỉ là không biết phải đối mặt với đệ như thế nào.”

Du Túc vẫn im lặng, Du Uẩn tiếp tục an ủi: “A Túc, đợi đến khi đệ lớn lên, có người mình yêu thương, tự nhiên sẽ hiểu được những lời này đau lòng đến mức nào, dù nó không phải là lời nói dối.”

Nước mắt nóng hổi lưng tròng, cay xè khó chịu. So với sự lạnh nhạt của cha, cái tát của anh trai càng khiến Du Túc đau lòng hơn. Chàng biết mình không được cha yêu thương, nên khi chàng lựa chọn nói những lời ngỗ nghịch với cha, chàng đã biết mình sẽ phải đối mặt với cơn thịnh nộ như thế nào. Nhưng chàng chưa bao giờ nghĩ rằng anh trai sẽ đánh chàng.

Du Túc lẩm bẩm: “Đệ không muốn hiểu, cũng không muốn biết.”

Chỉ cần chàng chịu nói chuyện là tốt rồi, Du Uẩn mỉm cười nhẹ nhàng, trìu mến vuốt tóc Du Túc, nói: “Phải rồi, không hiểu có lẽ lại là chuyện tốt. Cha chính là quá cố chấp, nên mới như vậy. Cầu xin trời phật, đừng để Tam Lang của chúng ta phải chịu khổ sở này.”

Du Uẩn vẫn đang mặc trường sam của Thái học, y vén tay áo lau nước mắt cho Du Túc, dặn dò: “Đừng luôn nghĩ đến chuyện cãi lại cha, cố ý chọc giận ông ấy.” Thấy Du Túc không nói gì, Du Uẩn kéo chàng đến trước mặt mình, hai tay nắm lấy vai chàng, buộc chàng phải nhìn thẳng vào mình, một lần nữa nghiêm túc nói: “Nhớ chưa? Trận đòn đó có dễ chịu đựng đâu? Không phải là đánh đến mức đệ ba bốn ngày không xuống giường được. Đệ luôn luôn hiếu thắng, không sợ người ta truyền ra ngoài rồi cười nhạo sao?”

Nói đến đây, Du Túc mới lên tiếng: “Ai dám cười nhạo ta! Đợi ta khỏi, ta nhất định cũng đánh cho kẻ đó không xuống giường được.”

“Cả ngày chỉ biết hô hào đánh đấm, thật không ra thể thống gì.” Du Uẩn nói qua loa, lúc này y mới có cơ hội nhìn kỹ vết đỏ trên mặt em trai, xót xa nói: “Huynh sai người đi lấy thuốc bột thuốc mỡ đến, phải bôi lên mới được.”

Du Túc đẩy tay anh trai ra, cau mày than phiền: “Đệ không đau, con trai sao lại bôi phấn? Nhị ca mà nhìn thấy, sẽ cười chết mất!” Du Uẩn nghiêm mặt nói: “Nếu A Dung dám cười nhạo đệ, đệ cứ nói với huynh, huynh sẽ giúp đệ trả thù.”

Du Túc lại lộ ra vẻ mặt cà lơ phất phơ như mọi ngày, nói: “Đây là lời huynh nói đấy nhé!” Vẻ mặt đắc ý như vừa nhận được thánh chỉ.

Du Uẩn gật đầu, đứng dậy nắm tay em trai, dẫn chàng đi vào trong sân.

“Mấy ngày nay đừng vào cung nữa, cứ nói là người hơi khó chịu.”

“Huynh sợ A Tỷ trách phạt đúng không? Sợ nàng nhìn thấy bộ dạng này của đệ rồi hỏi han, huynh lại không giấu được.”

“Nói bậy.”

“Là vậy đó!”

“Là do đệ tự chuốc lấy, gặp Hoàng hậu anh tự có cách nói, biết đâu điện hạ còn thấy anh đánh nhẹ quá.”

“Vậy sáng mai đệ sẽ vào cung.”

“Không được đi.”

“Đệ nhất định phải đi!”

“Ngoan ngoãn nghe lời, lát nữa anh sẽ bảo nhà bếp làm súp bánh cho đệ.”

“Lại ăn cái này nữa, năm nào sinh nhật cũng ăn cái này.”

“Ừ, hôm nay ăn súp bánh, A Túc của chúng ta sẽ sống lâu trăm tuổi, không lo không nghĩ.”

“Đệ không tin.”

Những lời thủ thỉ bị gió chiều ấm áp thổi vào đêm hè sắp đến, đúng lúc mặt trời lặn về tây, bầu trời phía tây còn lưu lại một vệt mây chiều hồng tím tuyệt đẹp, phản chiếu bóng dáng hai anh em, chậm rãi đi xa dần.

Hôm nay là ngày mười chín tháng sáu, sinh nhật của Du Túc. Cảm hứng cho bài mừng sinh nhật này đến từ việc có độc giả ở phần bình luận nhắc đến daddy issues của Du Túc, cách cư xử của chàng quả thực có liên quan mật thiết đến những gì chàng trải qua khi còn nhỏ (Nhưng đây tuyệt đối không phải là lý do chính đáng cho nhiều việc làm sai trái của chàng, tính cách tồi tệ của chàng có nhiều nguyên nhân, yếu tố gia đình chỉ chiếm một phần).

“Bồ Tát Man” đã ký hợp đồng xuất bản với Lục Thương, do công ty văn hóa Miểu Tuyệt sản xuất, gần đây bìa sách đã được duyệt, độc giả nào quan tâm xin vui lòng truy cập Weibo @znvznv để biết thêm chi tiết, cảm ơn mọi người.

[1] Chư tác lang: Quan chức chuyên lo việc biên soạn, ghi chép trong triều đình.

[2] Đại lý tự Thiếu khanh: Phó quan đứng đầu Đại lý tự, cơ quan tư pháp thời xưa, có chức năng xét xử các vụ án hình sự.

[3] Hoàng môn Thị lang: Quan thị tòng Hoàng đế.

[4] Trung thư môn hạ Bình chương sự: Tể tướng, chức quan rất cao trong triều đình.

[5] Thái phủ: Cơ quan quản lý tài chính của triều đình.

[6] Thù: Đơn vị đo lường trọng lượng thời xưa.

[7] Mở phủ đệ: Được phép xây dựng phủ đệ riêng, là một đặc ân dành cho các quan lại cao cấp.

[8] Tư môn giám: Cơ quan phụ trách việc canh gác cửa cung.

[9] Giang Hoài chuyển vận đô sứ: Chức quan phụ trách vận chuyển lương thực và các vật tư khác ở khu vực Giang Hoài.

[10] Biệt giá: Chức quan địa phương nhỏ.
 
Back
Top Bottom