Tâm Linh Biệt Kính Chúa Từ Bi

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
182569544-256-k554753.jpg

Biệt Kính Chúa Từ Bi
Tác giả: Avemariasaobien
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Hoàn thành


Giới thiệu truyện:

Biệt Kính Chúa Từ Bi - Divine Mercy Devotion
Sự Biệt Kính Chúa Từ Bi là dựa theo cuốn nhựt ký dày 600 trang của Thánh Nữ Faustina Kowalska, người Polish (Balan).

Thánh Nữ là người thất học, nhưng nổi bật nhân đức vâng lời và khiêm nhượng.

Chị đã vâng lời cha linh hướng viết lại những soi động nội tâm được mạc khải về lòng Thương Xót Chúa.

Sự Biệt kính này được bắt đầu truyền bá và phổ biến rộng rãi ngay cả trước khi chị Thánh qua đời vào năm 1938.​
 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
Các Biệt Sủng được ban vào Chúa Nhật Kính Chúa Tình Thương Có Giống Nhau Không


Các Biệt Sủng được ban vào Chúa Nhật Kính Chúa Tình Thương và Ơn Đại Toàn Xá: Có Giống Nhau Không

Dr.

Robert Stackpole, STD Ông Dwyer đã đặt câu hỏi là: Có điều gì khác nhau giữa các biệt sủng được Chúa Giêsu hứa ban cho những ai sống sắng biệt kính ngày Chúa Nhật Lễ Chúa Tình Thương, và ơn đại toàn xá mà Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Paulô II đã ban vào Ngày Chúa Nhật kính Chúa Thương Xót cách đây mấy năm?

Chúng giống hay là chúng khác nhau?

Thưa, tất nhiên là chúng KHÔNG giống nhau.

Sự khác biệt đó chính là, một "ơn xá" là một cái gì đó được Giáo Hội ban cho các giáo hữu, coi như là của kẻ được giữ chìa khóa thiên quốc, có quyền được "tháo gỡ hay cầm buộc" (coi trong Mt 16:17-19).

Còn các biệt sủng vào Ngày Chúa Nhật Kính Chúa Tình Thương, nói một cách khác, chính là điều đã được Thiên Chúa trực tiếp hứa ban, qua vị thụ khải là Thánh Nữ Faustina (Nhựt ký số 699).

Tuy Giáo Hội vẫn chưa chính thức thừa nhận về lời hứa đặc biệt này và cho đó là một mạc khải siêu nhiên đích thực (và không buộc các tín hữu Công Giáo phải tin như là một vấn đề thuộc về đức tin), nhưng Giáo Hội có nhiều cách khác nhau, đã nhận định rõ, lời hứa ấy không có gì vi phạm với Giáo Lý Công Giáo hết.

Tóm lại, đây mới chính là những khác biệt giữa "các biệt sủng" ChúaGiêsu đã hứa ban vào ngày Chúa Nhật Kính Chúa Tình Thương, và ơn đại toàn xá đượcGiáo Hội ban cho những ai biệt kính Chúa Tình Thương vào Ngày Chúa Nhật Lễ KínhChúa Thương Xót như sau:

1) Các biệt sủng mà Thiên Chúa đã hứa ban vào Ngày Chúa Nhật Kính Chúa Thương Xót chỉ hiệu lực qua việc Rước Lễ vào chính ngày đó, đối với những ai vẫn còn đang sống trong tình trạng thánh sủng (nghĩa là không mắc tội trọng), cùng với sự tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa.

Còn bất cứ ơn đại toàn xá nào được Giáo Hội ban, thường bao gồm việc phải thực hiện một số điều kiện như: cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng, xưng tội và Rước Lễ, và đặc biệt buộc phải tham gia việc đạo đức nào đó đi kèm theo việc lãnh nhận ơn đại toàn xá này (chẳng hạn như: thực hành việc sùng kính Chúa Thương Xót vào chính Ngày Lễ Kính Chúa Tình Thương.)2) Các biệt sủng Chúa Giêsu hứa ban vào ngày Lễ Kính Chúa Tình Thương mà các linh hồn có thể được lãnh nhận, là chỉ cần linh hồn đó vẫn còn đang sống trong tình trạng thánh sủng (không vướng mắc tội trọng), nhưng vẫn còn bất toàn trong việc kính yêu Chúa, và không vẹn toàn trong việc ăn năn tội cách trọn- miễn là bao lâu các linh hồn chỉ cần tín thác vào Lòng Thương Xót Chúa, thì còn được hưởng các biệt sủng Người đã hứa ban.Tuy nhiên, ơn đại toàn xá thì lại khác, các linh hồn chỉ có thể được lãnh nhận qua việc thực hành một số các điều kiện mà Giáo Hội đòi buộc tựa như m̉ột biểu hiện để chứng tỏ tình yêu thuần khiết dành cho Thiên Chúa.

Nếu người lãnh nhận ơn đại toàn xá không có ý ngay lành (chẳng hạn như họ lãnh nhận chỉ vì, sợ sa hỏa ngục hay luyện tội, và chê ghét mình, hoặc chỉ để khoe hay lấy le với bạn bè và người thân!

Chứ không phải vì thực lòng yêu mến Chúa), thì ơn xá này chỉ còn lại là tiểu xá phần nào thôi, chứ không phải ơn Đại Toàn Xá.3) Các biệt sủng mà Thiên Chúa hứa ban vào Ngày Chúa Nhật Lễ Kính Chúa Tình Thương chỉ có thể được lãnh cho riêng mình, qua việc Rước Lễ vào chính ngày Chúa Nhật Kính Chúa Tình Thương (như đã nói ở trên mục số 1).

Tuy nhiên, ơn đại toàn xá có thể được lãnh cho mình, hoặc nhường lại cho các đẳng linh hồn còn đang đau khổ nơi luyện ngục.

4) Hầu hết các biệt sủng Thiên Chúa hứa ban cho vào ngày Chúa Nhật Kính Chúa Tình Thương cũng không thua kém gì so với ơn linh hồn được thánh tẩy đổi mới trọn vẹn: "linh hồn hoàn toàn được tha bổng (được giảm) hình phạt".

Một phương thế ân sủng hữu hiệu như vậy chỉ có thể được lãnh nhận một lần duy nhất trong đời qua bí tích rửa tội, hay qua phép giải tội như là một hành động ăn năn đền tội cách trọn, vì yêu mến Chúa hết tình.

Như quý vị thấy đó, đề tài này không dễ giải thích chút nào.

Tuy nhiên, quý vị có thể bấm vào đây trong cùng đề mục với trang wéb này, để tìm hiểu tường tận hơn cũng về đề tài này tại Viện Chúa Tình Thương , trong mục tài liệu Suy về Chúa Nhật Chúa Tình Thương Kính Chúa Tình Thương

Ngày 12/4/2015Sóng Biển
 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
Ngôn Ngữ "Chúa Thương Xót" Thực Ra Có Ý nghĩa gì?


Bài viết dưới đây được trích trong tập sách "Chúa Thương Xót: Cẩm Nang hướng dẫn kể từ Lúc Khởi Nguyên cho tới Đức Bênêđíctô Thứ XVI (Divine Mercy: A Guide from Genesis to Benedict XVI)", nguyên tác của Tiến sĩ Robert Stackpole, STD, Nhà Xuất Bản "Marian Press" phát hành.

Trước khi bước vào câu chuyện Thiên Chúa tỏ tình thương xót đối với nhân loại, chúng ta cần phải hiểu biết đôi chút về ngôn ngữ "Chúa Thương Xót/ Chúa tình thương (Divine Mercy) quả thực có ý nghĩa gì.

Câu nói này cho thấy một khó khăn về ngữ học.

Xét ra, ngôn ngữ "thương xót (mercy)" sử dụng trong Anh Ngữ hiện thời có một ý nghĩa rất giới hạn.

Thực ra nó được dùng để nói đến cử chỉ xá lỗi, chẳng hạn như "xin quan tòa tha cho tôi; xin thương xót tôi!" hoặc, "Hắn trông cậy vào lòng thương xót của tòa án."

Tuy nhiên, trong thần học Công Giáo chân truyền, thương xót không chỉ có ý nghĩa là hủy bỏ án phạt, mà còn nhiều hơn thế nữa.Chúa Thương Xót có nghĩa là Thiên Chúa hạ cố xuống để [thỏa mãn] những nhu cầu và loại bỏ những đau khổ của các thụ tạo của Ngài.

Thánh Kinh, những huấn dạy của Thánh Thômas Aquinô, và của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Paulô II đều quả quyết với chúng ta điều này.

Cựu Ước cho chúng ta khá nhiều hình ảnh đau khổ của con người và Thiên Chúa vì xót thương nên luôn tìm cách giảm nhẹ nỗi đau khổ đó.

Chẳng hạn một trong những hình ảnh đau xót là hoàn cảnh khốn khổ của một phụ nữ đơn chiếc đang đau đớn vì cảnh đơn chiếc không chồng, không con – hoàn toàn bị bỏ rơi trên thế gian.

Đây cũng là hoàn cảnh tinh thần của hết thảy chúng ta khi thiếu vắng Thiên Chúa.

Các ngôn sứ trong Cựu Ước lấy việc đó để cho thấy rằng dân Israel bị đẩy vào tình trạng vô cùng khốn quẫn vì tội lỗi và sự bất trung của họ đối với Thiên Chúa.

Nhưng câu chuyện chưa kết thúc ở đây.

Yawêh Thiên Chúa động lòng trắc ẩn xót thương người thiếu phụ nên đã kết ước với bà và ban cho bà nhiều con cái.

Ngài hạ cố đến với người thiếu phụ đang đau khổ và nâng bà trỗi dậy.

Nơi xưa kia chỉ có tuyệt vọng, đơn chiếc, và tâm hồn tan nát thì nay là hoan hỷ, con cái đầy đàn và tình yêu chung thủy.

Có thể tìm thấy trong Cựu Ước một tỉ dụ đầy cảm hứng về mối tình chung thủy thần thiêng xoa dịu người đang đau khổ trong bút ký của vị ngôn sứ được biết với danh hiệu là [Tiểu] Nhị Isaiah.

Ông khích lệ dân Do Thái đang bị lưu đày ở Babylon đừng mất hy vọng vào Thiên Chúa và Ngài sẽ động lòng thương sẽ giải cứu họ: "Hỡi người hiếm muộn son sẻ, không sinh con, hãy hát mừng cất cao tiếng nói; hỡi người bị đau đớn chuyển dạ sinh con!

Thiên Chúa phán: vì người phụ nữ bị bỏ rơi sẽ có đông con hơn người phụ nữ có chồng.

Hãy nới rộng lều ở của ngươi, và kéo những liều bạt cho căng ra; đừng ghìm giữ lại, nối giây thừng cho dài thêm và đóng liều cọc của ngươi cho chắc.

Vì tả hữu ngươi sẽ tràn lan ra ngoài, và dòng dõi ngươi sẽ chiếm hữu các nước và sẽ an cư trong các thành hoang phế."

Ðừng sợ, đừng hổ thẹn, vì ngươi sẽ không bị xấu hổ, vì ngươi sẽ không bị làm cho tủi nhục; vì ngươi sẽ quên hết nỗi hổ nhục thời xuân trẻ, và ngươi không còn nhớ đến bao điều sỉ nhục thời goá bụa nữa.

Vì Đấng Tác Thành ngươi là chồng của ngươi, danh Người là Thiên Chúa các đạo binh; và Đấng Thánh của Israel là Đấng Cứu Chuộc ngươi, Người được gọi là Đức Chúa trời đất.

Vì Thiên Chúa kêu gọi ngươi như gọi người vợ bị ruồng rẫy hồi xuân trẻ, như gọi người vợ bị bỏ rơi và tinh thần đang đau buồn, Thiên Chúa ngươi phán.

Ta ruồng bỏ ngươi trong chốc lát, nhưng vì hết sức thương ngươi ta sẽ gom góp các ngươi lại.

Đấng Cứu Chuộc ngươi, Thiên Chúa phán, trong lúc bừng bừng phẫn nộ ta lánh mặt ngươi trong chốc lát, nhưng vì tình nghĩa đời đời Ta động lòng xót thương ngươi.

"Vì đối với Ta cũng giống như những ngày của thời Nôah: Khi Ta thề với Nôah rằng nước sẽ không còn ngập lụt trên mặt đất nữa, nay Ta cũng thề như vậy, Ta sẽ không còn nổi giận với ngươi và sẽ không wuở trách ngươi nữa.

Vì Đấng động lòng thương xót ngươi, Thiên Chúa phán, cho dầu núi có chuyển và đồi có bị dời đi, nhưng tình nghĩa chung thủy của Ta đối với ngươi sẽ không lay chuyển, và giao ước bình an của ta sẽ chẳng chuyển lay." (Isaiah 54:1-10)

Trong Sách Cựu Ước, tiếng Do Thái có hai từ chính mà chúng ta thường dịch ra là thương xót.

Trước hết, đó là từ ngữ "hesed", dịch nghĩa là "tình yêu chung thủy, giao ước tình yêu."

Người nào có biểu tượng hesed là người luôn luôn có thể trông cậy được, người không bao giờ bỏ rơi bạn.

Theo học giả Thánh Kinh Công Giáo John L.

Mckenzie, thì chữ hesed dùng trong tiếng Do Thái thường đi đôi với một chữ khác để thêm rõ nghĩa, chẳng hạn như hesed-emet (bền vững - tình yêu đáng tin cậy, hesed-sedekah (công chính- tình yêu thánh thiêng, và hesed-yesua (cứu vớt – tình thương cứu độ).

Trong phần chú giải của tông thư Dives in Misericordia (Giàu Tình Thương Xót), Đức cố Giáo Hoàng Gioan Paulô II dạy rằng chữ hesed hàm chứa ý nghĩa là trung tín với bản thân, trung tín với lời hứa và những cam kết của mình đối với tha nhân (thế nên, cuốn sách Thánh Kinh thịnh hành của Giáo sư Scott Hahn có nhan đề "Người Cha Giữ vững Lời Hứa của mình - The Father Who Keeps His Promises".

Đức Thánh Cha viết: Trong Sách Cựu Ước chữ hesed khi được dùng để chỉ Thiên Chúa, thì chữ này luôn liên kết với giao ước mà Thiên Chúa đã thiết lập với dân Israel.

Giao ước này là, thuộc một trong những phần tặng sủng và ơn huệ của Thiên Chúa ban cho dân Israel...

Thiên Chúa đã thiết lập cùng với sự tôn trọng cam kết đó...

Giao ước này về phần Thiên Chúa từng là một tặng sủng và là một ân huệ cho Israel....

Thiên Chúa đã đưa ra một cam kết để tôn trọng cam kết ấy... [ chữ hesed thiêng liêng này] tự phô bày cho thấy những gì đã có từ khởi nguyên, nghĩa là, tình thương ban phát, tình thương mạnh hơn phản bội, ân sủng mạnh hơn tội lỗi (số 52).

Như chúng ta đã thấy trong tỉ dụ mở đầu, toàn bộ kinh nghiệm của dân Israel đối với Thiên Chúa cũng là hậu quả hesed-yêu thương của Ngài (Isaiah 54:10): "Đấng động lòng thương xót ngươi, Thiên Chúa phán, ví dầu núi có chuyển và đồi có lay đi nữa, nhưng tình nghĩa chung thủy [hesed] của Ta đối với ngươi sẽ không lay chuyển, và giao ước bình an của ta sẽ chẳng chuyển lay."

Theo John L.

Mckenzie đã chép: "toàn bộ lịch sử về cách đối xử của Yahweh với dân Israel có thể được tóm gọn trong từ hesed; đó là động lực chủ yếu thể hiện trong những việc Ngài làm, và là động cơ có tính thống nhất và có thể hiểu được trong những việc Ngài làm đối với mọi người." (Tự điển Thánh Kinh)***

Từ ngữ thông dụng thứ hai để chỉ về tình thương xót của Thiên Chúa trong Cựu Ước theo ngôn ngữ Do Thái là rachamim: có nghĩa là trìu mến, động lòng thương xót, một thứ tình trắc ẩn xúc động đến độ tuôn trào lòng thương xót.

Những ai có rachamim có nghĩa là người ấy cùng đồng cảm thương với hoàn cảnh của bạn và động lòng thương xót đến giúp đỡ bạn.

Rachamin thường cặp đôi với hesed.

Bắt nguồn từ chữ rechem, có nghĩa là cung dạ mẹ.

Vì thế, thứ tình yêu này có quan hệ mật thiết với nhau và sẵn sàng bổ túc lẫn nhau [thương thay chịu thay], và nhất là để ý quan tâm săn sóc lo lắng cho những đau khổ của tha nhân.

Đức Thánh Cha coi hesed như là, một cảm xúc, một thứ tình yêu nam giới (chung thủy, tin yêu, công chính, thành thực với chính mình và chân thành giữ lời thề với ai đó), trong khi Rachamin lại thuộc nữ giới (quan tâm, động lòng trắc ẩn, cảm thương, như người mẹ đang đau khổ xót thương đứa con một của bà).Theo Tân Ước, thì chữ "thương xót" dịch ra Hylạp (Greek) là eleos.

Cũng có thể phiên dịch ra là từ bi lân tuất hoặc quan tâm chăm sóc.

Chữ dầu (oil) có nguồn gốc Hy lạp nghĩa là đổ ra.

Vì thế, khi Giáo Hội hát kinh xin Chúa thương xót [lúc đầu lễ] bằng tiếng Hy lạp Kyrie Eleison và Christie Eleison (xin Chúa thương xót chúng con) trong phụng vụ của mình, là Giáo Hội đang van xin tình thương xót của Thiên Chúa đổ xuống trên con cái giáo hội, tương tự như đổ dầu thánh trên đầu vậy.

Theo các Giáo Phụ của Giáo Hội thời xưa, thì Giáo Hội được sinh ra từ cạnh sườn của Chúa Kitô, khi Thánh Tâm Ngài chảy máu và nước ra, là biểu hiệu của hết mọi ân sủng, là biểu hiệu của hai Bí tích cột trụ Rửa Tội và Thánh Thể (Gioan 19:34).

Tóm lại, eleos có nghĩa là Thiên Chúa tuôn đổ tình thương xuống trên dân Người.

Theo truyền thống Latin, thì nguyên ngữ thương xót là misericordia, có nghĩa là, "tâm thần đau khổ (miserable heart)".

Cha George Kosicki, CBS, thuyết pháp rất hay về Chúa Thương Xót, đã đúc kết nguyên ngữ Latin : misericordia có nghĩa như sau "tâm thần bạn đang đau thương vì tha nhân, và bạn gánh lấy đau thương đó để mưu sự vì nỗi đau của họ." [người dịch xin tóm gọn: thương thay, chịu thay, đền thay, mưu ích thay bù đắp thay.]Quyền Giáo Huấn (Magisterium) để giải nghĩa về Chúa Tình Thương hầu hết được tìm thấy trong tông thư Dives in Misericordia (Giàu Tình Thương Xót, viết năm 1981) của Ðức Cố Giáo Hoàng Gioan Paulô II.

Trong tông thư đó, Ðức Thánh Cha trình bày thành hai tông văn rất quan trọng về Chúa Tình Thương.

Bản thứ nhất ngài viết, "Thương Xót là danh hiệu thứ nhì của Chúa tình thương".

Bản thứ hai, ngài dạy rằng Chúa thương xót có nghĩa là "Thiên Chúa đại lượng".Chúng ta hãy xem xét lại những văn bản tông thư này.Thương Xót là Danh Hiệu Thứ Nhì của Chúa Tình ThươngĐức Cố Giáo Hoàng không có nói điều gì mới mẻ trong thông điệp này.

Theo thần học chân truyền Công Giáo, thương xót là một loại tình thương son sắt, là một sự biểu lộ tình thương chung thủy bền vững.

Thường thì tình thương được định nghĩa như là một sự chia sớt / bù đắp và cho đi/trao ban chính mình /thí mạng vì tha nhân, là người có lòng vị tha không ích kỷ chỉ muốn mưu ích cho kẻ khác.

Theo thần học gia Balan (Polish) Ignacy Rozycki giải thích: Thần Học Tín Lý Chân Truyền Công Giáo minh giải nhân đức thương xót là khi người lân cận cảm thấy xót xa đau lòng đến độ động lòng trắc ẩn tuôn trào tình thương.

Sự đau xót đó tác động chúng ta sẵn lòng trợ giúp những ai đang lâm cảnh hoạn nạn khó khăn thiếu thốn và cùng khổ.

Theo thần học luân lý gọi "tình thương xót" này...là không những chỉ biết thương đến quên mình nhưng còn biểu lộ kết quả tình thương tiềm ẩn ấy thấu xuyên ra ngoài nữa (trích trong "Pillars of Fire in my Soul: the Spirituality of St.

Faustina" (Hỏa trụ Hồn tôi: Linh đạo của Thánh Nữ Faustina), Marian Press xuất bản, 2003, trang 95).Vậy, đang lúc chơi đùa với trẻ nít, hoặc đang khi vui thú tình yêu phu phụ, hoặc hát lên bài ca chúc tụng Thiên Chúa nơi Bàn Tiệc Thánh, thì đa loại hành động "yêu thương" này được coi như bộc phát bình thường thế thôi, chứ chúng ta không thể nào gọi những loại "yêu thương" này là hành vi "thương xót" được.

Mặt khác, khi đang cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho kẻ trần truồng rách rưới ăn mặc, và cho kẻ vô gia cư trú- hoặc thành tâm đem Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô đến cho kẻ đang bị tuyệt vọng và hư mất- mọi tác hành này đều là xót thương bác ái: xót thương đến độ hạ mình xuống nâng đỡ người đang quằn quại đau khổ về cả thể lý lẫn tâm thần. [xin đọc lại kinh thương xót người có 14 mối]Thương Xót là Thiên Chúa Đại Lượng Đức cố Giáo Hoàng Gioan Paulô II đã viết trong thông điệp "Dives in Misericordia-Giàu Tình Thương Xót" rằng: Duy chỉ có Thánh Kinh, Truyền Thống, và toàn bộ đời sống đức tin của Dân Thiên Chúa mới hội đủ bằng chứng ... cho biết Thiên Chúa đại lượng xót thương và là Thiên Chúa thiện hảo"(số 13).

Đức cố Giáo Hoàng đã nhắc lại lời huấn dạy của Thánh Âugústine và Thánh Thômas Aquinnô.

Nhưng ai nấy trong chúng ta đều muốn biết sự thực sẽ thế nào.

Liệu có Thiên Chúa trọn hảo "đại lượng" hơn ai nào khác chăng?

Theo truyền thống triết học của Kitô Giáo và của Công Đồng Vatican Đệ Nhất định nghĩa về Thiên Chúa rộng ban, là chỉ có một Thiên Chúa, duy nhất, linh thiêng [vô hình], tác hành Sống Động trọn hảo vô cùng.

Ngài không có "chi thể" như chi thể của các thụ tạo.

Hơn nữa, mỗi sự thiện hảo của Ngài- chẳng hạn như Tình thương, sự trọn lành, quyền năng và sự khôn ngoan của Ngài- chỉ là những danh hiệu khác thay cho chính danh Ngài.

Thần học gia Balan là Cha Ignacy Rozycki giải thích như thế này:Theo nhận thức, mọi thuộc tính của Thiên Chúa đều là Chúa, duy nhất và như nhau.

Vì vậy, mọi sự tuyệt đối khác đều bằng nhau.

Chúa Thương Xót cũng giống như là Chúa trọn hảo [toàn thiện toàn mỹ toàn ái] Chúa quyền năng và Chúa Khôn Ngoan vậy, bởi lẽ cùng một Chúa và là Thiên Chúa, y hệt như Chúa Khôn Ngoan và Chúa Quyền năng đều là Thiên Chúa vậy (Hỏa Trụ "Pillars of Fire", trang.

96).Hay nói cách khác,Thiên Chúa không chỉ có thể hiện đôi điều thương xót, và Người cũng không có tính "phe phái" khi thể hiện tình thương xót, như nhân tính loài người ta.

Trái lại, Người luôn hiển hiện ở khắp mọi nơi và thương xót khắp mọi giờ khắc.

Hết thảy những gì Người làm đều tỏ lộ tình thương xót của Người, và mọi thuộc tính của Người cũng vậy.

Hết thảy đều là một-như nhau.

Mọi thuộc tính của Người đều vĩnh cửu!

Nhưng mặt khác cha Rozycki viết tiếp:Mặt khác, nếu, tình thương xót được hiểu theo nghĩa Thánh Kinh như là chức năng, thế thì, ngay cả khi điều đó được gọi là một thuộc tính, thì kết quả trên hết của thuộc tính đó đều có nghĩa là vô biên vô cùng và là tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa xuyên suốt lịch sử thế gian, và nhất là nơi lịch sử cứu độ của nhân loại.

Thực ra, cả hai hesed (tình thương xót trong Cựu Ước), cũng giống như eleos (tình thương xót trong Tân Ước) đều biểu lộ hành động yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Cựu Ước biểu lộ Thiên Chúa trực tiếp kêu gọi và hướng dẫn dân Người tuyển chọn, còn trong Tân Ước biểu lộ Người phái gởi Con Thiên Chúa xuống thế gian trong công việc cứu độ trọn vẹn.

Thánh Kinh trình thuật thật rõ ràng mối liên hệ giữa thương yêu và thương xót đã được thánh Faustina thổ lộ khi chép: 'thương yêu là hoa, thương xót là trái' (Nhật ký, số 948)

Như vậy, nếu chúng ta hiểu được ý nghĩa thương xót trong Thánh Kinh, thì chúng ta không còn sợ lỗi nghịch với đức tin nữa, có thể nói rằng thương xót là thuộc tính cao trọng nhất của Thiên Chúa ...[hay nói cách khác] sự thông hiểu Thánh Kinh này hàm chứa, những kết quả hoạt động từ bi bác ái xót thương và cao trọng nhất trên thế gian, tình thương xót trỗi vượt trên mọi thuộc tính Thần Thiêng khác (Hoả Trụ "Pillars of Fire", trang 96).

Theo chú giải khác gần giống với lối giải thích này tương tự như sau: Chúa Thương Xót đã biểu lộ tột cùng mọi hoạt động của Thiên Chúa đối với nhân loại, và để trở nên cớ dẫn đàng chỉ lối, buộc chúng ta phải lưu ý đến tình thương xót tiềm ẩn đằng sau mọi hoạt động của Thiên Chúa nơi thế gian.

Ðể rút ra từ ngữ thương xót dựa trên Thánh Kinh, và dựa theo những huấn giáo của Ðức Cố Giáo Hoàng Gioan Paulô II, vì thế, chúng ta cố gắng phúc trình cách chính xác về "Chúa Thương Xót" mà chúng ta nói đó nghĩa là sao.

Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan (4:8).

"Thiên Chúa là Tình Yêu".

Người hằng hữu, vô biên vô tận, thí mạng vì yêu bằng chính nhân tính của Người, giữa Ba Ngôi Chí Thánh – Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.

Vì thế, từ muôn đời, Người vẫn vô biên hằng có đời đời, Người hưởng niềm hoan lạc tình yêu hiến trao sung mãn, yêu nên nhận lãnh, và yêu nên trở lại.

Người đã hoan hưởng sự sung mãn yêu đương trọn hảo đó trước khi thế gian được tạo thành – và thậm chí nếu Người chưa hề tạo dựng nên bất cứ thế giới nào, thì Người vẫn hoan hưởng tình thương yêu trọn vẹn vĩnh phúc này, bởi lẽ "Thiên Chúa là tình yêu."

Trong cõi đời đời, tình yêu hằng hữu mà Người hằng có, ở trong Chúa Ba Ngôi Chí Thánh hằng sống, thì Người không cần phải "thương xót," khi không "muốn" hoặc "đau khổ" hoặc "hy sinh" để khắc phục nhu cầu Hữu Thể Vô Biên Trọn Hảo.

Thế thì Chúa Thương Xót có nghĩa là sao nữa?

Thánh Thômạs Aquinô giải nghĩa thương xót cách thông thường như "tâm hồn chúng ta thương đau chỉ vì thấy người lân cận đau khổ, một sự thương đau đến độ đánh động chúng ta làm bất điều gì để có thể để cứu giúp người ấy" (ST II-II.30.1).

Cho nên, Chúa Thương Xót, là Người gánh nguyên khuôn tình thương vĩnh hằng của Thiên Chúa khi hạ cố đến với chúng ta đáp ứng nhu cầu trọng yếu và đổ vỡ của chúng ta.

Bất kể bản chất của chúng ta là gì hoặc đau khổ thế nào đi chăng nữa – như tội lỗi, sai quấy, chịu đau khổ, hoặc chết chóc đi nữa - Người luôn sẵn lòng tuôn đổ tình thương xót của Người, đến phù giúp chúng ta lúc cần kíp, chỉ vì động lòng thương chúng ta.

Thực ra, Thiên Chúa tình thương đối xử với các thụ tạo của Người thương xót luôn mãi.

Như khi chúng ta đọc trong Thánh Vịnh (25:10) "mọi nẻo đường của Thiên Chúa đều là chân lý và thương xót," và Thánh Vịnh (145:9), "Tình thương xót của Người vượt trên hết mọi công việc của Người."

Vì thế, khi Người tạo dựng thế gian từ hư vô ex nihilo, và giữ gìn nó trong mọi giờ khắc, thì đó là tác hành tình yêu thương xót: tình yêu thương của Người thắng vượt vô khả tính, thắng vượt mọi sự không thể hiện hữu.

Khi Chúa Con nhập thể và ngự giữa chúng ta, thì đó cũng là tác hành tình yêu thương xót: tình yêu thương của Người bù đắp những mất mát thiệt hại của chúng ta, Người chỉ đường cho chúng ta đến với Chúa Cha, và Người kết thành của lễ tiến dâng hoàn hảo để đền vì tội lỗi chúng ta.

Khi Người đổ Thánh Thần vào tâm hồn chúng ta để đổi mới và thánh hóa chúng ta, thì đó cũng là tình tình yêu thương xót của Người: tình yêu thương của Người đổ vào tâm hồn chúng ta để làm động lực bật nút đức tin, đức cậy và đức mến tăng trưởng, và để chúng ta hoan hỷ phụng sự Người.

Thánh Vịnh 136 ca vãn rất hay.

Đang khi chúng ta mừng lễ mọi công việc sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa, thì thánh vịnh không ngớt tung hô: "vì tình thương xót của Người đời đời chẳng cùng", "muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Robert Stackpole, Jesus, Mercy Incarnate, Marian Press, 2000, trang.112).Lễ Kính Chúa Tình Thương Chúa Nhật Phục Sinh 27/4/2014.

Sóng biển dịch thuật
 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
Có Phải Chuỗi Kinh Chúa Tình Thương Ví Bằng Bí Tích Sức Dầu Bệnh Nhân Không?


Có Phải Chuỗi Kinh Chúa Tình Thương Ví Bằng Bí Tích Sức Dầu Bệnh Nhân Không?

Rober Stackpole, STD Gần đây, tôi nhận được hai câu hỏi có cùng một chủ đề.

Cả hai câu hỏi đều bận tâm đến giữa việc niệm Chuỗi Kinh Chúa Tình Thương và việc lãnh nhận Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân.Một trong những độc giả của chúng tôi, tên của ông là Rose, thắc mắc rằng, Thiên Chúa chúng ta đã hứa với Thánh Faustina rằng bất cứ ai niệm Chuỗi Kinh Chúa Tình Thương thì sẽ nhận được tình thương xót vĩ đại của Người trong giờ lâm tử (Nhật ký thánh Faustina, số 687).

Thế thì, ông Rose chỉ đơn sơ đặt câu hỏi: "Có phải sự sùng kính này có quyền thế hơn so với Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân chăng?"

Cùng khoảng thời gian đó, tôi nhận được câu hỏi từ một vị phó tế phục vụ như là một tuyên úy bệnh viện như sau:Giáo Hội dạy chúng ta rằng có bảy phép bí tích.

Tuy nhiên, để mời được một linh mục đến bệnh viện Xức Dầu cho bệnh nhân thì quả thực là điều rất khó không mấy dễ dàng.

Theo Thánh Faustina, nếu niệm Chuỗi Kinh Chúa Tình Thương cho người hấp hối thì họ sẽ được tha tội.

Ít ra đó là những gì mà tôi hiểu.

Tại sao Giáo Hội không quảng bá cho biết việc niệm Chuỗi Kinh này [cho người hấp hối] có phải hay hơn không?Thưa, câu trả lời ngắn gọn là không có sự gì sánh ví được với các phép bí tích hết - Ngay cả kinh nguyện đặc biệt được Chúa Giêsu Kitô khuyến dạy các tín hữu thành kính khẩn nguyện có kèm theo lời hứa đi nữa cũng không thể nào sánh ví bằng với các Phép Bí Tích.

Chuỗi Kinh Chúa Tình thương ư.

Kinh Mai Khôi ư, đều không phải.

Thậm chí Kinh Lạy Cha cũng không phải luôn!Tại sao vậy?

Thưa, bởi vì khi cầu nguyện là chúng ta mở lòng ra cùng với ân sủng của Thiên Chúa nhờ nhân đức tín thác trong tâm hồn của những ai đang khẩn nguyện và những ai đang là đối tượng chúng ta cầu xin.

Càng có nhiều linh hồn tín thác, thì ơn sủng càng nhiều mà ai đó có thể xin cho mình và cho tha nhân, mà hễ càng có nhiều linh hồn tín thác, thì càng có thêm nhiều linh hồn nhận được ơn sủng từ tình Chúa Giêsu xót thương khoan dung hơn nhờ bởi những kinh nguyện mà người khác thương thay cầu thay cho.Vì vậy, nếu Chúa Giêsu khuyến dạy cầu nguyện, và có kèm theo sự hứa ban ân sủng đặc biệt cho những ai chân thành khẩn cầu những kinh nguyện này, thì nên hiểu rằng nhờ ơn Hội Thánh mà chúng đạt hiệu quả trong việc thông truyền ơn sủng thiêng liêng cho những linh hồn nào không còn đủ sức "linh động" để van xin, nhưng trong hầu hết mọi trường hợp đều có liên hệ trực tiếp đến mức độ tín thác của những ai đang cầu nguyện, và những ai đang là nhân vật được cầu thay.Các bí tích dẫu có khác nhau đi nữa.

Chúng đều thông chuyển ân sủng của Thiên Chúa tác động cho linh hồn ex opere operato (nghĩa là,"do chính việc đã làm").

Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo giải thích trong mục số 1127-1128 như sau:"[Các bí tích] thì hữu hiệu, bởi vì chính Chúa Kitô hành động nơi các bí tích. ...

Nhân đó, "bí tích không được thực hiện do sự công chính của người ban hoặc lãnh nhận bí tích, nhưng do quyền năng của Thiên Chúa".

Bởi vậy khi một bí tích được cử hành đúng như ý định của Giáo Hội, thì quyền năng của Chúa Kitô và của Chúa Thánh Thần tác hành trong và qua bí tích đó, bất chấp sự thánh thiện bản thân của thừa tác viên."

Mặt khác, ngay cả khi linh mục đang cử hành bí tích mất hết tin tưởng vào Thiên Chúa (nói đúng ra, linh mục ấy đang bị rơi vào tình trạng bị khủng hoảng tinh thần và khi vị ấy thi hành sứ vụ của mình vào thời điểm này là chỉ để nhận lãnh tiền công) và thậm chí khi người lãnh nhận bí tích chẳng còn tin tưởng vào Thiên Chúa gì hết cả, thì bí tích vẫn thành sự nơi họ, bí tích thông ban ân sủng thiêng liêng trong linh hồn: tất nhiên, không phải do bởi "ảo thuật", nhưng chỉ đơn thuần do bởi Thiên Chúa hứa ban.

Các bí tích đều là những giao ước ân sủng của Thiên Chúa: đã trao ban cho chúng ta như là các dấu hiệu ân sủng bề ngoài làm phương tiện cứu rỗi độc nhất và chắc chắn mà chúng ta có thể lãnh nhận ơn thánh sủng được hiển hiện qua các bí tích ấy.Chắc chắn các bí tích ít nhất sẽ giúp cho chúng ta một chút thiện lành bước đầu [để bật nút cho linh hồn khởi động] mà lúc mới đầu linh hồn thiếu sự tín thác và thiếu sự sẵng sàng cộng tác với ơn thánh nhận được.

Như Giáo Lý huấn dạy, "hoa trái của các bí tích cũng còn tuỳ thuộc vào sự chuẩn bị của người lãnh nhận bí tích."(1128).

Tuy nhiên, Thiên Chúa sẵn sàng trao ban cho chúng ta ơn Thánh sủng của Ngài qua các bí tích là dựa trên lời hứa trung tín của Người, chứ không phải dựa trên ý muốn của chúng ta.

Đó là lý do tại sao ngay cả dù chỉ một linh hồn những ai đó đang ở trong tình trạng mắc tội trọng mà rước Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu là tặng sủng thực sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, thì họ cũng giống như bao người rước lễ khác – Dẫu người đó rước lễ như vậy là phạm sự thánh, là tự kết án chính mình đi nữa (xem 1 Cor 11:27).[Người dịch xin chú thích thêm, là tuy linh hồn mắc tội trọng vẫn lãnh nhận ơn sủng của Chúa đầy đủ như bao nhiêu người khác, nhưng vì còn ở trong tình trạng mắc tội trọng, họ đã tự mình đánh mất ơn thánh sủng, cho nên ơn thánh sủng tuy vẫn có đó nhưng không thể sinh ích nơi họ, giống như nước sạch đổ vào bình dơ vậy.

Thành ra chúng ta thấy đa số trong chúng ta tuy rước lễ đó, chịu các phép bí tích thường xuyên đó, nhưng tính tình và sự thánh thiện thì hình như vẫn y nguyên như cũ -dậm chân tại chỗ, và không thấy thay đổi mấy hay tiến triển lên sự hoàn thiện cao hơn để sống thánh, hoặc nếu có thì rất chậm hoặc lại trở về thói quen xấu do thiếu quyết tâm, thiếu kiên nhẫn và thờ ơ vô thức với ơn thánh.

Nói tóm lại, Ơn Sủng Chúa ban cho chúng ta thì vẫn đầy đủ như lời Ngài đã phán hứa, tuy nhiên mức độ ơn thánh phát triển còn tùy theo mức độ tội trạng bám dính nơi mỗi người bị nó kéo ghì xuống.

Đó là lý do mà Giáo hội dạy "hoa trái của các bí tích cũng còn tùy thuộc vào sự chuẩn bị của người lãnh nhận bí tích." (1128)]Khi chúng ta đọc thấy Lời Thiên Chúa hứa trong Nhựt Ký của Thánh Faustina về việc niệm Chuỗi Kinh Thương Xót cho người hấp hối, thì chúng ta phải nên nhớ có hai ơn thánh sủng thiêng liêng khác biệt này là; ơn sủng Ngài tuôn đổ cho chúng ta bởi nhờ qua các bí tích và ơn sủng Ngài sẵn ban cho chúng ta nhờ bởi sự thành kính khẩn cầu của chúng ta.

Mỗi một lời hứa mà Chúa Giêsu hứa ban đối với những ai hiện diện bên cạnh linh hồn người đang hấp hối tín thác Niệm Chuỗi Kinh tình thương, dẫu linh hồn người đang hấp hối đó không phải là nhân vật đang được chuyển cầu đi nữa thì vẫn được Chúa động lòng đoái thương:Vào giờ chết của họ.

Những ai niệm chuỗi kinh này; hoặc những ai nguyện cầu chuỗi kinh này cho người hấp hối, đều nhận được ân xá như nhau, Ta sẽ bảo vệ từng linh hồn họ như chính vinh quang của Ta.Mỗi khi niệm chuỗi kinh này bên cạnh người đang hấp hối, Thiên Chúa mủi lòng nguôi giận, và vì sự thương khó đau khổ của Con Ta, tình thương vô biên vô tận của Ta sẽ động lòng thương xót và bao bọc linh hồn ấy. (Nhật Ký: 811, 687, và 1541)Thế thì tất nhiên Bí tích xức dầu cho người hấp hối cũng như việc niệm chuỗi kinh Thương Xót cho người hấp hối đảm bảo đều có thể cứu rỗi linh hồn ấy.

Bởi lẽ ơn cứu rỗi còn tùy thuộc vào chính thiện ý của người có muốn lãnh nhận ơn thánh Chúa ban với hết lòng biết ơn hay không.

Những gì mà bí tích đảm bảo thì hết thảy đều là ơn thánh cần thiết sẽ được Thiên Chúa đổ ra cho linh hồn kẻ ấy trên hành trình cuối đời về nhà Cha.

Chuỗi Kinh Tình Thương cũng có thể chuyển cầu các ơn thánh này, nhưng với điều kiện nếu Chuỗi Kinh này phải được nguyện cầu với lòng tín thác tuyệt đối vào Tình Thương Xót của Chúa.

Trong bất kể trường hợp nào, phần rỗi các linh hồn không những phụ thuộc vào ơn thánh sủng Chúa ban, mà còn tùy vào thiện ý của người đón nhận nữa.

Như Thánh Faustina đã giải thích, ngay cả khi thiên Chúa ban ơn hữu hiệu dồi dào hơn vào phút cuối cho người hấp hối thì cũng vẫn còn tùy vào ý họ tự quyết định lựa chọn.Rồi sau đó lòng thương xót của Thiên Chúa mới bắt đầu sinh ích nơi họ, Thiên Chúa luôn ban ơn vào phút cuối và miễn trừ cho linh hồn ấy khỏi bất cứ sự cộng tác nào.

Nhưng nếu họ vẫn chối bỏ ơn thánh này, thì Thiên Chúa cũng sẽ vĩnh viễn rời bỏ họ theo như ý họ muốn.

Ân sủng này phát sinh từ Trái Tim nhân hậu của Chúa Giêsu và Ngài ban tặng cho các linh hồn một ơn soi sáng đặc biệt để nhờ đó mà linh hồn bắt đầu giác ngộ và thấu hiểu những nỗ lực của Thiên Chúa muốn cứu họ, nhưng sự hoán cải vẫn còn tùy vào chính ý họ muốn.

Linh hồn biết rằng, đối với họ, đây là một cơ hội ơn huệ cuối cùng, chỉ cần họ có tí tia thiện chí thôi, thì Chúa tình thương sẽ hoàn tất phần còn lại (Nhật ký, 1486).
 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
Làm sao chúng ta có thể dâng lên Chúa những gì không phải của mình?


Làm sao chúng ta có thể dâng lên Chúa những gì không phải của mình?

Dr.

Robert Stackpole, STD Ông Miller đặt câu hỏi về câu nguyện niệm "dâng lên" Chúa trong Chuỗi Kinh Chúa Thương Xót có ý nghĩa gì.

Làm sao chúng ta có thể dâng lên Chúa những gì không phải của mình?

"Lạy Cha Hằng Hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, Linh hồn và Thiên Tính Chúa Giêsu Kitô, Con Yêu dấu Cha, Chúa chúng con.

Để đền vì tội lỗi chúng con và cả thế gian.

Cậy vì sự thương khó đau khổ của Người.

Xin thương xót chúng con và cả thế gian.Lạy Thiên Chúa Chí Thánh, Lạy Thiên Chúa Toàn Năng Chí Thánh, Lạy Thiên Chúa Hằng Hữu Cực Thánh.

Xin thương xót chúng con và cả thế gian.Lạy Chúa Giêsu, con tin cậy Chúa.

"

Đây là một câu hỏi khá hay và sâu sắc.

Tôi nghĩ cách hay nhứt là nên chia câu trả lời ra thành ba phần.

1) Theo nhận thức, Người không có thuộc về chúng ta, chỉ có chúng ta mới tùy thuộc vào Người; Tân Ước cho biết rằng mối liên hệ của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người rất ư là thắm thiết, đến độ cho chúng ta được thực sự trở nên "thân thể" màu nhiệm của Người trên thế gian, và Người đổ đầy vào chúng ta thần khí của Người (xem Thư Corintô thứ I đoạn 12).

Thế nên, khi chúng ta nguyện chuỗi kinh để dâng Người lên Thiên Chúa Cha, thì chúng ta cũng đang cùng với Người và trong Người dâng lên chính mình, và Người cũng đang dâng chúng ta cùng với Người và trong Người lên Thiên Chúa Cha nữa.

Linh hồn, chúng ta vì vậy khó mà thoát khỏi lưới thương xót Ngài giăng bắt (hẳn nhiên, Ngài cứu cấp đang khi chúng ta chưa kịp ăn năn tội trọng).

2) Tân Ước cũng tường thuật cho chúng ta biết rằng mối liên hệ của chúng ta với Chúa Kitô cũng rất ư là thắm thiết tựa như tình yêu phu phụ vậy: Chúa Kitô chính là Chàng Rể, và Giáo Hội chính là Nàng Dâu của Người (xem trong Êphêsô 5:25-32).

Tỉ như bất cứ mối quan hệ phu phụ nào, trong sự ý thức, người chồng hoặc vợ, đều phải lệ thuộc vào nhau.

Cả hai trở thành một "huyết nhục - một thân thể" (Sách Khởi Nguyên 2:24)

3) Chúng ta có thể hiểu theo nghĩa đó, dâng Chúa Kitô lên Thiên Chúa Cha, cũng có nghĩa là dâng chính Người đang lưu ký trong phụng vụ Công Giáo chân truyền, và đang hiển hiện trong Thánh Lễ Misa tận đến ngày nay.

Hãy mở coi lại Kinh Nguyện Tiền Tụng Thánh Thể phần thứ 1 trong Sách Lễ Rôma sẽ thấy: " Chúng con xin dâng lên Cha, hy lễ hoàn hảo và thánh thiện này, là Thiên Chúa vinh hiển và uy quyền: để trở nên bánh hằng sống và chén cứu độ" (như vậy chúng ta dâng lên Chúa Cha những của lễ đã được thánh hiến, và không còn là bánh và rượu nữa, nhưng bây giờ là "bánh hằng sống" và "Chén cứu độ."

Hay nói cách khác, là chúng ta dâng chính Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô).Hoặc trong Kinh Tiền Tụng Thánh Thể phần thứ 4: "Chúng con dâng lên Cha Mình và Máu Người, xin Cha chấp nhận hiến lễ sinh ơn cứu độ cho cả thế gian.

Lạy Cha, xin đoái nhìn đến hiến lễ này mà Cha đã ban cho Hội Thánh Cha; và quy tụ tất cả những ai thông phần cùng một bánh và chén này đều trở nên một Thân Thể, một hiến lễ chúc tụng sống động trong Chúa Kitô" (nhắc tới "chấp nhận hiến lễ" đây nhằm ám chỉ đến lời ngôn sứ Malakhi 1:11, mà các Giáo Phụ Hội Thánh đã coi như là một lời tiên báo về Hiến Lễ Thánh Thể - là một hiến lễ tinh tuyền dâng lên Thiên Chúa - để một mai cũng sẽ được dâng lên Chúa khắp nơi trần thế: "Từ hừng đông cho tới hoàng hôn danh ta thực vĩ đại giữa muôn dân nước, và khắp mọi nơi sẽ dâng kính danh ta của lễ hy sinh và tinh tuyền, vì danh ta quả thực cao trọng giữa muôn dân nước, Thiên Chúa các đạo binh phán").

Đây quả thực là màu nhiệm thâm siêu và cao quý: khi chúng ta dâng Chúa Kitô lên trong Thánh Thể, và Người liền dâng chúng ta lên, và chúng ta được hiệp nhất trong Người cùng dâng chính mình lên, và Người dâng chúng ta lên trong sự hiệp nhất cùng với Người dâng lên Thiên Chúa Cha.

Nhưng tôi nghĩ đó là kiểu nói ẩn ý liên quan đến Thánh Kinh, và phô bày rõ phụng vụ chân truyền của Hội Thánh, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Chúng ta không thể nào thấu hiểu đủ màu nhiệm thánh như vậy, nhưng chúng ta có thể cảm thấy được theo một nghĩa thích hợp nào đấy, và chúng ta tin có Thánh Thần minh chứng, cho những ai được ơn linh hứng viết Thánh Kinh, và các lễ nghi phụng vụ truyền thống của màu nhiệm Thân Thể Chúa Kitô là Giáo Hội qua mọi thời đại.[người dịch xin ghi chú thêm: sau khi Cha chủ tế truyền phép cho bánh trở nên Mình Người và rượu trở nên Máu Người.

Tuy chúng ta nhìn thấy dưới sắc hình vẫn là bánh và rượu, khi chúng ta nếm và ăn vẫn là mùi của bánh và rượu.

Nhưng thực chất bánh và rượu đã được biến đổi thành Mình và Máu cực Thánh Chúa Giêsu Kitô đang thực sự ẩn dật bên trong đó, mà mắt trần tục của chúng ta không thể nào trông thấy Người.

Cho dù dưới mỗi hình bánh và rượu có bị bẻ nhỏ và bị phân chia cho nhiều người cùng rước ăn và uống đi nữa, thì Chúa Giêsu vẫn hiện diện toàn thân nguyên hình, Người không hề bị bẻ nát hay bị phân chia (xin đọc thêm trong bài "ca tiếp liên" vào ngày lễ Kính Mình và Máu cực Thánh Chúa Giêsu Kitô).

Và Chúng ta được hiệp nhất với Người và trong Người mỗi khi rước lễ. (tiến sĩ Robert Stackpole trong bài này đã ví như thú vui tình yêu phu phụ), để chúng ta dễ bề tưởng tượng mà suy tưởng đến sự hiệp nhất thần thiêng cao cả với Chúa Kitô, nhưng ví như thế thì quá hơi hớm phàm tục, mà không ai có thể tưởng tượng hoặc mô tả được sự hiệp nhất thiêng liêng, ngay cả những vị thánh đã từng trải nghiệm sự hiệp nhất thiêng liêng với Chúa...cũng không dám sánh ví sự hiệp nhất thần thiêng này với bất cứ sự gì phàm tục.

Giáo Hội thì ví như Nàng Dâu đón Chàng Rể.

Thụ tạo phàm tục chúng ta không thể hiếu thấu và giải thích chi nổi sự hiệp nhất cao siêu này, có lời Thánh Vịnh chỉ dám thi vị hóa như "Đấng Tình Quân".

Ngay cả Giáo Hội khi giải thích những sự cao siêu Thiên Chúa mặc khải, giáo dân cũng không thể nào hiểu thấu hết, nên gọi đó là "Màu Nhiệm".

Giáo Hội cũng gọi là "Màu Nhiệm" khi không thể giải thích nổi những sự cao siêu thần thiêng vượt ngoài khả năng của mình.

Chẳng hạn: "Màu Nhiệm Đức Tin", ai tin đạo, cảm nhận Thiên Chúa thì vào và tuân giữ đạo mình tin, nhờ Thiên Chúa ban ơn và linh hứng cho, chẳng hạn qua các biến cố cuộc sống, hoặc qua các ngả học hỏi về Hội Thánh...ai không tin thì thôi, chứ không thể giải thích...v.v, mà có giải thích thì bao nhiêu cũng chẳng vừa đối với người cứng tin, chai đá và kiêu hãnh và những tâm hồn đại loại như vậy, "Của Thánh đừng quăng cho loài khuyển..."

đối với những ai không chịu phục thiện.

Philatô hỏi, "Chân lý là gì".

Chúa Giêsu chỉ đáp, "ai nghe tiếng chân lý thì...theo ta".

Chúa Giêsu không có giải nghĩa cho câu hỏi của Philatô.

Giáo Hội cũng thế, thân thể luôn hiệp nhất với Đầu là Chúa Kitô, và thi hành chức năng Đầu sai khiến.]Sóng biển dịch
 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
Thông Điệp Chúa Từ Bi qua Nhựt Ký Thánh Nữ Faustina


Thông Điệp Chúa Từ Bi qua Nhựt Ký Thánh Nữ Faustina

Dr.

Robert Stackpole, STDNhựt Ký của Thánh Nữ Faustina, hết trang này sang trang khác, công bố các thông điệp của Chúa tình thương như là trọng tâm của Phúc Âm.

Thông điệp ấy không giảng dạy điều gì mới, nhưng rõ ràng: các thông điệp ấy giống như một sự diễn giải mới mẻ và rõ ràng quy chú vào trọng tâm của Đức Tin Công Giáo: là tình thương / tình khoan dung tha thứ / tình dung thứ và lòng trắc ẩn của Thiên Chúa.

Theo các mạc khải tư đã được ghi chép trong nhật ký của Thánh Faustina, Chúa Giêsu đã nói với chị những lời này chẳng hạn (NK số 1074, 699, 1485, 1578):"Chính Cha là tình yêu và là Đấng từ bi-thương xót. ...

Đừng để linh hồn nào sợ đến gần Cha, cho dù tội lỗi của nó có đỏ thẫm đi nữa. ...

Vì tình Thương Xót của Cha cao trọng hơn tội lỗi của các con, và của cả thế gian. ...

Cha đã để lưỡi đòng đâm thâu Trái Tim Cực Trọng của Cha, cũng chỉ vì muốn mở toang nguồn mạch thương xót cho các con.

Các con hãy chạy đến tín thác cùng hứng lấy nguồn phúc sủng này. ...

Các ơn phúc của lòng thương xót Cha chỉ được kín múc bằng một cái thùng, và cái thùng đó là sự tín thác.

Càng có nhiều linh hồn tín thác, thì càng được hưởng nhiều ơn phúc hơn."

Đời sùng nguyện của Sơ Faustina đã được thúc đẩy bởi chị chân thành khao khát sự phó thác trọn vẹn vào lòng thương xót Chúa hết mọi nẻo đời.

Vì đối với chị, Chúa Giêsu chính là "Hiện Thân của lòng Thương Xót," và Thiên Chúa đã trao cho chị một sứ vụ: để công bố thông điệp Chúa Từ Bi cho khắp thế giới, đặc biệt là phổ biến Ảnh Niệm Chúa Từ Bi, và Lễ Mừng Kính Chúa Từ Bi.

Hơn nữa, thông điệp và sự sùng kính này đã biến thành lời hiệu triệu rõ ràng với chị, và với tất cả dân chúng, là phải thương xót lẫn nhau.

Chúa Giêsu nói với chị như sau (NK 1688):

"Con ơi, hãy ngắm nhìn vào Thánh Tâm Thương Xót của Cha và suy gẫm về lòng từ bi lân tuất ấy bằng chính tâm hồn con, và bằng chính các hành vi cử chỉ của con, để rồi chính con sẽ là người tuyên bố lòng thương xót của Cha cho thế giới cũng là cho chính con cùng được bốc cháy với lòng thương xót ấy."

Kết quả là, cộng đoàn của Sơ Faustina đã để ý đến Sơ vì thấy Sơ đặc biệt quan tâm đến các kẻ túng quẫn đến gõ cửa tu viện xin lương thực, và với cả kẻ ốm đau, yếu đuối và đang hấp hối nữa.

Cả các trẻ nữ khốn khó đã được các sơ huấn luyện và dạy dỗ tại các tu viện của họ cũng đặc biệt quý mến Sơ.

Sự tôn sùng Chúa Giêsu Kitô của Thánh Nữ Faustina đã phát sinh nơi tâm điểm là suối nguồn Thánh Thể như chị đã chép trong Nhật Ký (số 1392, 1489, 1037, 223) như sau:

"Tất cả mọi sự tốt lành tôi có là nhờ Rước Lễ. ...

Đấy là toàn bộ bí mật về sự thánh thiện của tôi. ...

Một điều duy nhất chấn giữ tôi đứng vững ấy là nhờ Rước Lễ.

Tôi kín múc được nguồn sức mạnh từ đó; nơi ấy là tất cả nguồn an ủi của tôi. ...

Chúa Giêsu ẩn thân trong hình bánh là tất cả mọi sự của tôi. ...

Tôi không biết làm sao tôn vinh Chúa nếu tâm hồn tôi không có Mình Thánh Chúa ngự trị. ...

"Ơi Bánh hằng sống, nguồn sức mạnh duy nhất của con, nguồn suối tình thương và từ bi, bao phủ cả thế gian, và củng cố các linh hồn yếu đuối.

Ôi phúc thay vào ngay lúc chúng con được Chúa Giêsu lưu ký Trái Tim cực khoan cực nhân của Người!

Nói tóm lại, đối với Sơ Faustina thì Thánh Thể chính là nguồn mạch của tất cả mọi ơn phúc, vì duy chỉ có Chúa Giêsu từ bi, Hiện Thân của Lòng Thương Xót hiện diện ở đó, và Người trào đổ mọi ân sủng Người từ Trái Tim nhân hậu của Người trên chúng ta.Sr.

Faustina đã nhận Rất Thánh Trinh Nữ Maria, Thân Mẫu Chúa Giêsu, như là người hướng dẫn đáng tin cậy nhất để tiến đến Trái Tim Con của Mẹ.

Cho nên, Sơ đã phó dâng cho Mẹ Thiên Chúa mọi sự âu lo toan tính của sơ (NK 79):

"Lạy Đức Maria, là Mẹ con và là Đức Bà của con, con xin dâng Mẹ hồn xác, sự sống, sự chết của con, cùng tất cả những gì sẽ xảy đến.

Con xin phó dâng hết mọi sự vào tay Mẹ.

Ơi Mẹ của con, xin tà áo trinh khiết của Mẹ bao phủ hồn con và ban cho trái tim cùng hồn xác con được ơn thanh sạch.

Xin quyền phép Mẹ bảo vệ con chống lại hết mọi kẻ thù.

Công bằng mà nói, thì ba chữ: Từ Bi, Thánh Thể, và Đức Maria - được tìm thấy trong nhật ký của Sr.

Faustina chính là sự tóm tắt cốt lõi tinh thần huấn giáo.

Hơn thế nữa, Cha Sopocko (linh hướng của Sr.

Faustina) ghi nhận, vì nó phát xuất từ bút ký của Sơ viết hết tuần này sang tuần khác, làm cha cảm thấy được ảnh hưởng sâu sắc hơn qua thông điệp này.Tuy thế, ngài vẫn chưa hoàn toàn xác tín về tính xác thực những mạc khải của sơ.

Dù gì, Cha Sopocko cũng là một thần học gia uyên bác, và có một số điều mà Sr.

Faustina đã viết ra rất đáng được chú ý đến độ chính cha cũng thắc mắc ngạc nhiên tự hỏi không biết chúng hoàn toàn có tính chính thống hay không.

Đầu tiên, Thánh Faustina khai nhận là Chúa Giêsu đã khẳng định không những Thiên Chúa chỉ thương xót các tội nhân - thực ra, trong một ý nghĩa nào đấy Người thương xót các kẻ có tội còn hơn cả người công chính nữa.

Sr.

Faustina đã viết như sau (NK 1507) "Tất cả mọi luồng ơn thương xót... cho dù ngay cả khi tội lỗi của ai đó có bẩn đen như ban đêm đi nữa, thì lòng thương xót Chúa còn mạnh thế hơn cả sự khốn nạn của chúng ta nữa.

Chỉ có một điều cần thiết duy nhất là: chỉ cần kẻ có tội hơi hé mở cửa lòng họ ra, dù chỉ một chút xíu thôi, để ơn Chúa thương xót chiếu lọt vào, đoạn Đức Chúa Trời sẽ hoàn tất việc còn lại.

Chúa Giêsu phán bảo Sơ (NK 1146):"Hãy để những kẻ mắc tội nặng trầm trọng phó thác sự tin cậy của họ vào lòng thương xót Cha.

Họ được quyền ưu tiên trước bất kỳ ai khác để phó thác vào biển vực thương xót vô cùng khôn dò khôn thấu của Cha ...

Các linh hồn nào mà thỉnh cầu đến lòng thương xót của Cha làm Cha hoan hỷ lắm.

Những linh hồn nào như vậy, Cha thậm chí sẽ ban thêm nhiều ơn phúc hơn cả sự họ thỉnh cầu.

Rõ ràng, thông điệp của Chúa Kitô ban cho Sr.

Faustina là một thông điệp tình thương xa hoa: Người nói rằng Người đã đổ ra một đại dương ơn phúc xuống cho những linh hồn nào ăn năn hối cải chạy đến cùng Người với sự tín thác thực sự, thậm chí hơn cả sự họ thỉnh cầu nữa.

Thực tình mà nói, Người đặc biệt có lòng trắc ẩn đối với những tội nhân tệ bạc nhất, chỉ vì họ rất cần đến lòng Chúa thương xót hơn.

Tuy nhiên, Cha Sopocko đã rất đỗi ngạc nhiên, vì một trong những thông điệp của Chúa ban cho Sr.

Faustina trỗi hơn tất cả mọi thông điệp được ban cho các kẻ khác.

Vì vậy cho nên, cha đã làm cuộc trắc nghiệm cuối cùng về tính xác thực tất cả những mạc khải của sơ.

Cuộc trắc nghiệm này xác nhận "sự thương xót là đặc tính cao cả nhất của Thiên Chúa."

Chúa Giêsu thực sự đã cho Sr.

Faustina biết điều này nhiều lần, nhưng có lần cha cho biết là một trong thông điệp ấy trực tiếp dành thẳng cho cha Sopocko - tất nhiên điều ấy làm cha cẩn thận chú ý!

Chúa Giêsu phán bảo sơ (NK 300):

"Cha muốn Chúa Nhật thứ nhất sau Phục Sinh sẽ là Lễ Kính Lòng Thương Xót.

Hãy yêu cầu vị tôi trung của cha [Cha Sopocko] là vào ngày lễ kính này, ngài ấy hãy nói cho cả thiên hạ biết về lòng thương xót cao cả của Cha; Để bất cứ ai đến gần nguồn sống này vào hôm ấy sẽ được tha hết mọi tội vạ và cả mọi hình phạt.

Nhân loại sẽ chẳng được bình yên cho tới khi nao chịu quay về tín thác vào lòng thương xót của Cha. ...

Trái Tim Cha nhảy mừng theo danh hiệu Từ Bi này.

Tuyên xưng lòng thương xót chính là đặc tính cao trọng nhất của Thiên Chúa.

Mọi công việc tay Người tạo nên đều đội bằng triều thiên thương xót.

Sự phản ứng của cha Sopocko đối với thông điệp này được tìm thấy trong chính các hồi ký của cha, đã được viết ra mấy năm sau đó.

Cha viết: "Có những chân lý đức tin mà chúng ta cần phải biết và cái mà chúng ta thường xuyên nhắc tới, mà chúng ta chưa hiểu rõ chúng, cũng không phải chúng ta sống vì chúng.

Thì nó đã xảy ra với tôi liên quan tới Lòng Thương Xót Chúa.

Tôi đã nghĩ đến chân lý này rất nhiều lần khi suy gẫm, nhất là trong các buổi cấm phòng.

Tôi hay nói về nó trong các bài giảng và hay nhẩm đi nhắc lại trong các kinh nguyện phụng vụ, nhưng tôi chưa có đi tới nội dung cốt lõi và ý nghĩa về đời sống thiêng liêng của nó; đặc biệt là, tôi chưa có hiểu, và cho tới lúc này tôi thậm chí vẫn còn bất đồng, ấy là Lòng Thương Xót Chúa là đặc tính cao trọng nhất của Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hóa, Đấng Cứu Chuộc và là Đấng Thánh Hóa.

Chỉ đến khi tôi gặp gỡ được một linh hồn đơn sơ thánh thiện hiệp thông mật thiết với Chúa, người mà, tôi tin là, có ơn thần hứng đã cho tôi biết điều ấy, sơ ấy là động lực đã thúc đẩy tôi phải đọc, phải nghiên cứu và suy tư về vấn đề này. ...

"Tôi bắt đầu tìm kiếm trong các bài viết của các Giáo Phụ để xác nhận rằng đấy là đặc tính cao trọng nhất của Thiên Chúa, như Sr.

Faustina đã nói, vì tôi chẳng tìm đâu ra đề tài này trong các tác phẩm của các thần học gia cận đại hơn.

Tôi rất vui mừng khi tìm thấy các văn bản tường trình tương tự của Thánh Fulgentius, Idelphonse, và nhiều nhất là của Thánh Thomas Aquinô, Augustinô, người, chú giải về các Thánh Vịnh, có biết bao điều để nói về Lòng Thương Xót Chúa, và gọi các đặc tính cao trọng nhất của Thiên Chúa là sự cao trọng tuyệt vời nhất - vĩ đại nhất.

Kể từ đó trở đi, tôi không còn nghi ngờ gì về những mạc khải siêu nhiên của Sr.

Faustina nữa.Giêsu ơi, con tin cậy Chúa.Thánh Nữ Faustina, cầu cho chúng con.Kính Mừng Đại Lễ Chúa Từ BiNgày 23/4/2017Sóng Biển Phỏng Dịch
 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
Ảnh Niệm Chúa Thương Xót


Ảnh Niệm Chúa Thương Xót

Vào buổi tối ngày 22 tháng 2 năm1931, lúc Thánh Nữ Faustina ở một mình trong phòng của chị tại tu viện Đức BàThương Xót ở Plóck, Polan, chị thấy ChúaGiêsu hiện ra trong chiếc áo trùng trắng, với bàn tay phải đang giơ lên ban phéplành.

Còn bàn tay trái chạm vào áo ở phía trước ngực bên Trái Tim, mà từ đóphát ra hai luồng sáng huy hoàng, một luồng mầu đỏ và luồng kia có mầu xanh nhợt.Thánh Faustina bất động chiêm ngắm Chúa, linh hồn chị khiếp run và ngây ngất mừngvui.

Chúa Giêsu nói với chị:

"Hãy vẽ một bức ảnh phỏng theo dung mạo con đang thấy Cha, kèm với giòng chữ ký: Giêsu ơi, con tin cậy Chúa.

Cha ước muốn bức ảnh này được tôn kính, trước hết tại nguyện đường của con, rồi sau đó, phổ biến/truyền bá khắp thế giới.

Cha hứa cho linh hồn nào tôn kính bức ảnh này sẽ không bị trầm luân - hư mất.

Cha hứa ban chiến thắng trên kẻ thù ngay khi còn ở thế gian, nhất là trong giờ lâm tử - hấp hối.

Chính Cha sẽ bảo vệ linh hồn ấy như chính vinh quang của Cha. (Nhật Ký, số 47-48) Thể theo lời yêu cầu của cha linh hướng, Thánh Faustina đã thưa với Chúa cho biết ý nghĩa của hai luồng sáng trên thánh ảnh.

Chị bỗng nghe thấy Chúa đáp lời như sau:"Hai luồng sáng biểu hiện cho Máu và Nước.

Luồng sáng nhợt tượng trưng cho Nước để làm công chính hóa các linh hồn.

Luồng sáng đỏ tượng trưng cho Máu là sự sống của các linh hồn.

Hai luồng sáng này được đổ ra từ vực thẳm Thánh Tâm thương xót Cha do một lưỡi đòng đâm thủng lúc Cha quằn quại đau thương trên Thánh Giá.

Phúc cho những ai lấy Thánh Tâm Cha làm nơi trú ẩn của họ, vì cánh tay công bình của Thiên Chúa sẽ không động đến họ (nhựt ký số 299).

Cha sẽ giáng muôn ơn phúc cho linh hồn nào tôn kính Cha qua ảnh niệm này.

Con buộc phải nhắc lại việc tôn kính tình thương xót ấy của Cha, vì ngay cả nếu có đức tin vững vàng nhất mà không có việc làm thì cũng vô dụng chẳng ích gì." (nhựt ký số 742)Những lời nhắn nhủ này cho chúng ta thấy các ảnh niệm biểu hiện cho những ân sủng tình thương xót Chúa đổ xuống trên thế gian, nhất là qua Bí Tích Rửa Tội và Bí Tích Thánh Thể.Có rất nhiều kiểu ảnh niệm họa vẽ khác nhau đã ra đời, nhưng Chúa chúng ta đã cho biết rõ là các bức vẽ ấy không quan trọng.

Vì Thánh Faustina không phải là họa sĩ, nên cha linh hướng của chị đã đảm nhận chọn một họa sĩ để vẽ trong suốt thời gian chị còn tại thế.

Nhưng Khi Thánh Nữ Faustina ngắm thấy bức ảnh lần đầu tiên được vẽ dưới sự hướng dẫn trực tiếp của chị, chị đã thất vọng bật khóc và phàn nàn cùng Chúa Giêsu:"Ôi!

Cha ơi, ai sẽ họa nên được vẻ đẹp giống như Cha vậy đây?".

Chúa Giêsu đáp: "Sự vĩ đại của bức ảnh không hệ tại ở vẻ đẹp của màu sắc hay bút vẽ, nhưng ở nơi ân sủng cha ban" (nhật ký số 313).

Do đó, bất kể là chúng ta có tôn kính kiểu ảnh niệm Chúa Thương Xót nào đi nữa thì cũng không thành vấn đề, chúng ta nên yên tâm, bởi lẽ ảnh niệm ấy tựa như là một máng thông chuyển ân sủng của Thiên Chúa nếu chúng được tôn kính cùng với sự tín thác vào tình thương xót Người.Một Bức Ảnh Đại Kết Mỗi khi chúng ta chiêm ngắm Ảnh niệm Chúa Thương Xót này, gợi giúp chúng ta nhớ lại truyền thống cao quý của nghệ nhân Kitô hữu.

Nếu ai đó ngắm kỹ bức ảnh, sẽ khám phá ra rằng bức ảnh thánh hầu như hài hòa pha lẫn cả hai đặc tính Đông và Tây.

Rõ ràng đó là một chuỗi phép lạ - đại kết hợp hai truyền thống.

Trong ảnh niệm, Chúa Giêsu rực sáng cùng vinh quang thiên đàng, và ánh sáng như quang chiếu ra khỏi Thân Mình, áo trùng trắng và nhất là từ phía ngực của Ngài.

Đây chính là Con Thiên Chúa đã sống lại từ cõi chết trong thể xác vinh hiển, hầu như hòa một cùng ảnh thánh đông phương.

Hơn thế nữa, Ngài cũng được thể hiện qua ba khía cạnh, xác thịt và huyết thống con người, cùng với các dấu đanh ở hai Tay của Ngài vào ngày Thương khó, và (trong bức Ảnh tuyệt tác) đó là một sự biểu lộ tình thương và lòng trắc ẩn đối với chúng ta qua gương mặt của Ngài.

Hay nói cách khác, cũng giống như ảnh Thánh Nhan (Holy Face) và Ảnh Thánh Tâm (Sacred Heart) Chúa Giêsu bên Tây phương vậy.

Giống như một bức hình lộ ba sắc cạnh (3D) vậy; đó là một ảnh thánh hàm chứa hết tổng bộ màu nhiệm cứu độ của chúng ta – Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy (Tuần Thánh) và Phục sinh –hết thảy nên một.

Cái gì đến với tâm trí trước, có lẽ, là vào đêm Chúa Nhật Phục sinh.

Lúc Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ trong Căn phòng trên lầu.

Ngài mới đi xuyên qua cửa đã khóa kỹ của nhà tiệc ly, liền đó với bàn tay giơ lên chúc lành bình an: Ngài chỉ cho họ thấy các dấu đinh, Ngài chiếu tỏa ánh sáng và phủ lấp các cơn sợ hãi của họ (Ga 20:19-23).

Bức Ảnh còn là một Ảnh niệm của ngày Thứ Sáu (tuần thánh).

Trên đỉnh Calvariô, lúc cạnh sườn của Chúa Kitô mở toang vì lưỡi giáo đâm thâu.

Máu và Nước liền phun chảy ra, một nguồn mạch của lòng thương xót để rửa chúng ta sạch tội và chữa lành chúng ta khỏi mọi thương tích bởi tội.

Máu và Nước chảy ra cho thấy tình thương xót của Ngài tuôn đổ cho chúng ta vô hạn trên Thập giá (Ga 19:34).Hơn nữa, ảnh niệm này cũng ám chỉ đến ngày Thứ Năm (tuần thánh), ngày thiết lập Hy Lễ Misa – hay nói đúng ra, bất cứ Thánh Lễ nào.

Điều này thực rõ ràng từ Chiếc áo Chúa Giêsu đang mặc.

Áo Ngài mặc hết thảy trắng tinh phủ trùm qua mắt cá chân, loại áo trắng của Thượng Tế trong đền thờ Do-thái.

Theo Cựu ước, chỉ có Thượng Tế mới được phép mặc một loại áo như thế.

Mặc áo này vào rồi, vị Thượng Tế mới được phép đi vào tận nơi Cực Thánh trong Đền thờ để tế lễ máu, và từ thẩm cung uy linh xuất hiện với bàn tay giơ lên thay mặt Đấng Chí Cao ban phép lành cho dân chúng (Lv 16:1-4; Hc 50:18-21).Cùng một thể thức ấy, Ảnh niệm Chúa Giêsu tựa như hiến lễ Chiên Thiên Chúa.

Ngài hiến dâng chính Ngài và mọi công nghiệp cho chúng ta trong nơi Cực Thánh thực sự, trước ngai Thiên Chúa trên trời (Dt 7:24-25, 9:23-28).

Chúa Giêsu Chính là Vị Thượng Tế Cao Cả; là nguồn cội tinh tuyền và là hiến lễ hoàn hảo, giờ đây Ngài có thể chúc lành cho các môn đệ của Ngài với trọn vẹn phép lành: hay nói cách khác – máu và nước, nhất là – Phép Thánh Tẩy – Rước Mình Thánh Chúa, được mật thiết thánh hoá hiệp nhất trong Ngài.Đây là tổng thể màu nhiệm cứu độ của chúng ta – Thứ Sáu Tuần Thánh, Phục Sinh, Rửa tội, và Hiến Lễ Thánh Thể - hết thảy được đúc kết trong một Ảnh niệm!

Hay nói cách khác, với một Ảnh niệm mà mô tả hai khoảnh thời khắc khác nhau, ngày càng cho thấy đông và tây chẳng khác gì một bức ảnh thực tại lịch sử.

Khoảnh khắc thực tại trước tiên mới vừa nói qua trên đây, ngược trở lui về năm 1931 lúc Chúa Giêsu hiện ra với Thánh Nữ Faustina và bảo chị: "Hãy vẽ một bức ảnh phỏng theo dung mạo con đang thấy Cha ...."

Một Ảnh Niệm cho Thời Điểm Chúng TaĐiều quan trọng nhất là không phải ở thời điểm nào khác.

Nhưng là hôm nay; ở thời điểm của chúng ta.

Bức ảnh có vẻ không giống như Ảnh niệm bên đông phương thường hay tôn kính: Ảnh niệm "Chúa Thương Xót" này cho thấy, Chúa Giêsu hầu như toàn xuất hiện trong đêm đen!

Thậm chí không có đến cả một cái "cửa sổ để lọt thoát vào thiên đàng vinh phúc," cũng không có vàng bạc rơi rớt ở đây.

Chỉ có Mình Chúa Giêsu thôi, là Thiên Chúa Thương Xót Nhập Thể, đang xuyên qua màn đêm rùng rợn vào thời điểm chúng ta với giòng sáng Xót Thương và cứu rỗi.

Phải chăng để mô tả chính xác hơn về thời điểm của chúng ta thì dễ hơn, bọc bóng tối?

Thế kỷ vừa qua, nhân loại đã phải chịu đựng hai cuộc chiến tranh, độc tài cộng sản và fásxíst chuyên chế, nạn cảnh sát tra tấn và những cuộc đàn áp tinh vi mới mẻ, khủng bố và bạo lực cách mạng, thánh chiến và dịch hoạn.

Chúng ta đang sống trong một thế giới mà ngay cả thiên nhiên cũng phải rùng mình bị đả thương và chảy máu, và (mặc dù trong lãnh vực y khoa, nông nghiệp và nền dân chủ lan rộng có tiến bộ) nhân loại dường như vẫn cứ quay gót bỏ chạy thục mạng khỏi Thiên Chúa lao mình vào đêm đen càng nhanh càng tốt: chối bỏ nền văn minh sự sống, quay lưng lại ánh sáng, và đang trình diễn thời trang dưới bóng đêm của nền văn minh chết chóc – đó đây sặc mùi tử khí của nền văn hóa tử vong giết phá thai nhi, trợ tử, và tự tử, tham lam vật chất, hưởng thụ khoái lạc chủ nghĩa, và niềm vui vô nghĩa - rỗng tuếch, của các gia đình và những tâm hồn tan vỡ.

Mà Chúa Giêsu chẳng hề cấp ban trên chúng ta!

Tình thương của Thiên Chúa Nhập Thể thực vĩ đại, và đại dương thương xót của Ngài thì vô tận, mà Ngài đã xé toang màn đêm cùng mang ánh sáng của Ngài đến tìm chúng ta.

Trong một thời điểm mà thấu ảnh đã được tháp nhập trở nên trung gian hiệp thông mạnh mẽ nhất của con người – dù qua truyền hình, truyền thông đại chúng hoặc Internét – Chúa Kitô đã ban tặng cho chúng ta, qua Thánh Faustina, một Ảnh niệm của Chính Ngài, đầy quyền năng, công bố thông điệp Chúa tình thương đến thế giới đang buốt nhói thương đau và mất mát.

Ảnh Niệm Chúa Tình Thương

Vào đầu thế kỷ thứ 20, một số cácđức giáo hoàng đã lên tiếng kêu gọi thế giới hãy mau quay về với Thánh Tâm ChúaGiêsu.

Đức Giáo hoàng Lêô thứ 13 đã hiếndâng toàn thế giới cho Thánh Tâm Chúa vào năm 1899, và Đức Giáo hoàng Piô thứ11 tha thiết xin Giáo hội hoàn vũ, vì tội lỗi của nhân loại đã xúc phạm đếnThánh Tâm Ngài, hãy vì tình thương hành động tu sửa cuộc sống.

Qua sự mạc khải đã được ban cho Thánh NữMaria Margaret hồi thế kỷ thứ 17, Giáo hội đã chấp nhận Ảnh niệm Thánh Tâm ChúaGiêsu làm trung tâm sùng kính thiêng liêng: Chúa Giêsu đã mô tả bằng cách chỉ tayvào Thánh Tâm bốc lửa sốt mến vì yêu thương chúng ta, bị đâm thủng và thươngtích vì tội lỗi ta, và tay kia Ngài giơ ra như đang vẫy gọi thế giới hãy quay vềvới Thánh Tâm Ngài, Ngài kêu gọi toàn thể nhân loại hãy trở về để được thươngyêu vì chính Ngài tự bản chất là tình yêu.

Rốt cùng, dù Ngài có khẩn khoản cáchnào đi nữa, thế giới vẫn cứ như giả điếc ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọicủa Ngài.Giờ đây Đấng Cứu Thế lại giơ tay ra cho chúng ta thêm một lần nữa (để chúng ta níu lấy tay Ngài).

Ngài ban cho chúng ta một Ảnh niệm mới của Ngài – không phải chỉ đòi chúng ta trở về với Ngài, mà như là nơi cho chúng ta tìm đến tựa nương.

Trong Ảnh niệm Chúa Thương Xót, cho thấy Ngài đang bước tới phía trước với tay giơ lên ban phép lành ngay cả trước khi chúng ta hối cải và xin Ngài chúc lành nữa.

Đây là Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Vị Mục Tử Nhân Lành, đang đi tìm chiên lạc nơi thung lũng tối.

Và tình thương từ Thánh Tâm Ngài đang phủ chiếu trên chúng ta, lan rộng ra khắp thế gian.

Tóm lại, tất cả mọi sự về Ảnh niệm này đều nói lên Lòng Chúa Kitô khoan dung đã sống lại đang tìm kiếm những linh hồn lạc lối trong đêm đen.

Như Ngài từng nói với Thánh Faustina, (Nhật ký số 1485):"ôi, Linh hồn tội lỗi đáng thương ơi, đừng sợ Đấng Cứu Rỗi của con.

Cha đích thân tới với con trước, là vì Cha biết tự sức con không thể nào vươn mình lên được cùng Cha."

Lời kêu Gọi Tín ThácPhía dưới bức Ảnh Chúa Thương xót có ghi chữ: Giêsu ơi, con tin cậy Chúa!

Đây không phải là loại chữ được ghi thêm để tạo cho tranh vẽ có vẻ gì huyền bí; Chính Chúa Giêsu đòi buộc Ảnh phải mang chữ ký này (nhật ký số 47).

Những từ ngữ này hệ trọng là vì chính chúng ta đóng trọn vai đáp trả lại lời Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta đến với tình thương của Ngài.

Chúa Giêsu đã đoan chắc nhiều lần với Thánh Faustina về sự tín nhiệm vô biên của Ngài.

Ngài nói:"Cha đang ban cho con người một cái thùng để họ đến mà kín lấy ơn sủng từ nguồn mạch tình thương xot.

Thùng đó chính là bức Ảnh này với hàng chữ ký: Giêsu ơi, Con tin cậy Chúa. (Nhật ký số 327).

Ơn sủng của Cha chỉ được kín bằng cái thùng này, đó là – sự tín thác/tin cậy vào Cha.

Hễ càng có nhiều linh hồn tín thác, thì càng lãnh nhận được nhiều ơn sủng (nhật ký số 1578).Cũng lưu ý thêm là chữ ký ở phía dưới bức Ảnh không phải là "Giêsu ơi, chúng con tin cậy Chúa", nhưng là "Giêsu ơi, con tin cậy Chúa."

Có ý chỉ riêng cho từng cá nhân một.

Đó là lý do tại sao mà Chúa Giêsu nói nó đúng ra giống như một chữ ký hơn là chữ viết (Nhật ký số 47).

Bằng cách thốt lên lời, "Giêsu ơi, Con tin cậy Chúa," khi ai kêu xin, là của riêng người ấy, là họ đang đích danh ký thác đời mình cho Chúa Giêsu.

Như Chúa Giêsu đã nói trong Phúc-âm Thánh Gioan, Ngài gọi chiên của Ngài đích danh bằng tên từng con một, và chúng nhận ra tiếng Ngài (Ga 10:1-21).

Qua Ảnh niệm và chữ ký khắc ghi, Ngài gọi đích danh từng người một.

Mỗi một linh hồn thực hết sức là quý giá trước tôn nhan Ngài, và Ngài khẩn thiết mỗi một người trong chúng ta hưởng ứng lời kêu gọi tín thác hằng ngày.Sự Bí Ẩn của Ảnh Niệm Chúa Thương XótẢnh niệm Chúa tình Thương khôngcó nghĩa là chỉ dành riêng cho sự hiếu kỳ của thần học.

Chúa Giêsu mời gọi mọi con dân của Ngài hãyđến gần Thánh Ảnh này, bất kể nơi nào chúng ta sống, bế tắc đức tin và khắckhoải vì tình thương.

Ảnh niệm Ngài bancho chúng ta được coi như là một á bí tích, là suối nguồn ơn sủng đang tràotuôn ra từ Trái Tim nhân hậu của Chúa Giêsu.

Khi chiêm ngắm Ảnh niệm, chúng ta sẽ được mở lòng ra cho quyền năng vàsự hiện diện của Ngài thấm nhập vào.

Sự tiềm ẩn của Ảnh niệm thánh tác động trên linh hồn con người quả thực là khôn dò khôn thấu.

Không ai và cũng chẳng có lời lẽ - miệng lưỡi - ngôn ngữ nào có thể giải thích nổi về quyền lực của thánh ảnh này.

Đó là lý do tại sao chúng ta thường nói, trăm nghe không bằng mắt thấy, dù chỉ nhìn vào một bức ảnh trần tục thôi, cũng đã thay cho cả nghìn lời rồi - phương chi là ảnh niệm thánh (do chính Chúa Giêsu mạc khải qua thánh Faustina).

Cùng ý này, Thiên Chúa chúng ta đã tạo hứng qua nghệ thuật các ảnh niệm thánh.

Bởi lẽ Ảnh niệm thánh có thể thu hút hồn trí chúng ta thẳm thiết hơn là những lời nói suông mà chẳng làm nên tích sự gì.

Một Thánh Ảnh tuyệt tác có sức hoán chuyển – thông tri nhiều hơn là một thông điệp tín điều; Nhờ đó chúng ta được giáp mặt Đấng Thực Tại Thần linh và đánh thức các cõi lòng thầm kín của chúng ta.

Chắc chắn đây là một sự bí ẩn phía sau Ảnh niệm Chúa tình thương.

Thực ra, tự tâm điểm trung của các tâm hồn, ai nấy đều như nhau.

Ai cũng ước muốn được xem thấy Chúa diện đối diện, để có cho được tình thương ngài ban, và thờ kính Ngài đời đời.

Đó là một tình thương ẩn dấu trong tâm hồn con người ta: Sự nếm trải kinh nghiệm cùng Chúa Giêsu mà Thánh Âugústine đã được thiên Chúa chạm tới có lẽ là những lời than thở bất hủ khi ngài viết: "Lạy Chúa, Chúa tạo nên chúng con cho Chúa, và hồn con khắc khoải khôn nguôi cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa" (Tự thú quyển 1, Lời nguyện mở đầu).Tâm hồn chúng ta thổn thức tìm gặp Chúa diện đối diện, để được bắt gặp ánh mắt từ bi của Ngài thấu chạm và biết rằng chúng ta được Thiên Chúa yêu thương, tha thứ và chúc lành vô tận, để chính mình được chìm ngập - bao phủ bởi ánh sáng vinh quang của Ngài.

Đích thực, Ảnh niệm Chúa Tình Thương có sức thu hút mãnh liệt bí ẩn khôn tả: khiến cho không biết bao nhiêu tâm hồn bộc phát thương đau và bùng cháy niềm vui khi nhìn thấy vinh quang và tình thương xót của Chúa Giêsu, và được lãnh nhận ân sủng và tình thương của Ngài.

Cứ như là nếm trải trước phần nào thứ ánh sáng thiên đàng vậy.

Xin cho Ảnh niệm mở toang những ước vọng thầm kín ẩn dấu trong tâm hồn chúng ta hiện nay, để nhờ Ảnh niệm chúng ta cùng được hoan hưởng tình thương của Chúa Giêsu, và xin cho nước Cha mau trị đến, đây là ánh sáng Chúa Kitô, nào chúng ta hãy đến hưởng kiến đời đời.

Amen. (Phỏng theo báo "The Divine Mercy Time" năm 2005)17/4/2009Sóng Biển
 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
Thánh Tâm Chúa và Thánh Margarita María


Thánh Tâm Chúa và Thánh Margarita María

Dr.

Robert Stackpole, STD

Thánh Tâm Chúa Giêsu hiển linh với Thánh nữ Margarita Maria lần thứ ba là vào tháng Bẩy năm 1674:

"Có hôm, tôi đang quỳ chầu trước tôn nhan Thánh Thể được đặt trên bàn thờ cung thánh, sau đấy nội tâm tôi bỗng đắm chìm trong một trạng thái chiêm niệm lạ thường thấm nhập hết mọi quan năng, Đấng Chí Thánh dịu dàng Giêsu Kitô, đã tỏ Mình ra với tôi, ngời chói hào quang, cùng với năm dấu Thánh Người chói sáng như những tia nắng mặt trời.

Từ hết mọi dấu thương tích trên Thánh Thể Người đều bừng bừng phát ra những tia sáng chói chang, nhưng nhất là nơi lồng ngực kính yêu của Người, bốc cháy ngùn ngụt như cái lò lửa.

Lồng ngực Người mở ra, tỏ cho tôi thấy Trái Tim yêu thương và đáng mến của Người chính là nguồn sống của những ngọn lửa đang bốc cháy ấy.

Rồi Người tỏ cho tôi thấy hết mọi sự kỳ diệu không thể tả được về tình yêu thương tinh tuyền và tột cùng của Người mà Người đã cưu mang vì quá đỗi yêu thương con người là những kẻ chẳng biết báo đáp Người ngoài sự vô ơn bội bạc và khinh dể Người.

Người bảo, "điều này càng làm Người quặn đau hơn tất cả những sự Thương Khó Người đã phải chịu."

Nếu như họ có thể bồi đáp tình thương cho Cha dù chỉ một ít thôi, thì Cha sẽ chẳng ngại tiếc làm bất cứ điều gì cho họ, và Cha sẽ còn làm hơn thế nữa.

Nhưng họ chỉ có lạnh nhạt và khinh dể cho dù cha có cố hết sức để làm họ được nên tốt hơn.

Con ơi, ít ra, con còn có thể cho Cha niềm hạnh phúc để bù đắp thay cho những vô ơn bội bạc của họ, càng nhiều chừng nào càng tốt chừng nấy."

"Trước tiên, con phải thường xuyên tiếp rước Cha ngự trong Phép Thánh Thể nếu phải phép vâng lời, bất kể con có bị xảy ra chuyện sỉ nhục hay bị hạ nhục gì đi nữa.

Hơn nữa, con phải năng rước lễ vào các ngày Thứ Sáu Đầu Tháng, và vào mỗi tối Thứ Năm rạng Thứ Sáu Cha sẽ cho con cùng được thông phần vào cuộc khổ nạn cho tới khi chịu chết mà Cha đã ước ao phải gánh chịu trong Vườn Cây Dầu.

Sự khổ sầu này sẽ làm con suy nhược, nếu như con chẳng hiểu gì, về cơn hấp hối thảm thương hơn sự chết ấy.

Để dâng lời cầu nguyện khiêm tốn cùng với Cha như Cha đã dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha trong cơn hấp hối thế nào, thì con cũng phải tỉnh giấc quãng từ 11 đến 12 giờ đêm , và ở lại với Cha trong một tiếng đồng hồ, quỳ mọp sấp mặt xuống đất, để làm cho Cha Hằng Hữu Ta nguôi giận, và để van xin Người tha thứ cho các kẻ có tội.

Vì như vậy con mới có thể thông phần với Cha, và xoa dịu bớt phần nào nỗi bi thương Cha đã phải chịu vì bị các môn đồ bỏ rơi mà Cha đã buộc phải khiển trách họ vì họ không thể canh thức nổi với Cha dù chỉ có một giờ.

Suốt trong một giờ ấy Cha sẽ dạy cho con biết phải làm gì."

Chúa Giêsu đã nói rõ với Thánh Margarita Maria trong lần mặc khải này rằng, Phép Thánh Thể chính là phương linh nghiệm mà qua đó Người trào đổ mối tình từ bi nhân ái của Người cho linh hồn bà.

Hơn nữa, Chúa yêu cầu chị thánh phải dành riêng một "Giờ Thánh" vào mỗi tối Thứ Năm, để rồi từ đó, bằng cách này hay cách khác, chúng ta cùng đồng hành với Chúa trong cơn hấp hối của Người ở Vườn Giệtsimani xưa kia.

Thực ra, trong hai lần mặc khải này Chúa Giêsu đã quả quyết với bà là nhờ những giờ thánh như vậy, bà mới có thể mang lại sự khuây khỏa và an ủi Thánh Tâm Chúa, đã bị xúc phạm vì những tội vô ơn bội bạc của cả hai giới nam lẫn giới nữ.

Dường như Thánh Margarita Maria là người đầu tiên trong lịch sử của đạo Công Giáo am hiểu rõ mối tình thân thuộc của chúng ta với Chúa Giêsu, "Trái Tim" Người không những chỉ là nguồn từ bi nhân ái cho chúng ta, mà còn có thể làm cho chúng ta, giác ngộ cảm thấy, mủi lòng thương Người cũng như an ủi Người bằng cách trở về với mối tình thương yêu của Người. (*)

Thánh Tâm Chúa hiển linh với Thánh Margarita Maria lần thứ tư và cuối cùng là vào Tháng Sáu năm 1675.

Lần mặc khải này nổi tiếng đến độ thánh nhân đã nói lên được ước nguyện của Chúa Kitô muốn thiết lập ngày Lễ Kính Thánh Tâm Chúa trong niên lịch phụng vụ (Thánh Gioan Eudes đã phát giác ra ý tưởng ấy, trong phần còn lại ở Pháp, quãng năm 1668) như sau:

"Có lần, trong tuần bát nhật kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô, lúc đang chầutrước tôn nhan Thánh Thể, Chúa đã cho tôi lĩnh hội được những bằng chứng tình yêu lạthường của Người.

Khi tôi tha thiết mong được trở lại với tình yêu ấy, thì Ngườibảo tôi: "Sao con không tỏ cho Cha thấy nhiều tình yêu thương hơn bằngcách làm những gì mà Cha đã yêu cầu con làm rất nhiều lần."

Rồi [mở] Thánh TâmNgười ra với tôi: "Đây Trái Tim này đã từng yêu thương con người tha thiếtchẳng ngại tiếc gì, ngay cả đến khi hơi lực sức tàn, để chứng minh cho họ thấytình yêu ấy.

Nhưng ngược lại Cha chẳng được báo đáp gì từ phần đông người họngoài những sự vô ơn bội bạc, khinh dể, bất kính, xúc phạm và thờ ơ mà họ lấy đốiđãi với Cha trong Bí Tích Tình Yêu này.

Nhưngđiều làm cha đau đớn hơn ấy là ngay cả những linh hồn đã được thánh hiến chocha cũng hành xử kiểu này.

Cho nên Chaxin con ngay sau Tuần Bát Nhật Mừng Lễ Kính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, làngày Thứ Sáu Đầu Tháng dành để tôn kính Thánh Tâm Cha, và nguyện (Được ơn đại xá nếunguyện vào ngày lễ kính Trái Tim Chúa),cũng như Rước Lễ trong ngày ấy, để đền bù phạt tạ vì những tội lăng nhục phạmthánh đang diễn ra trên các bàn thờ khắp thế gian.

Cha hứa với các con là Trái Tim Cha sẽ rộng mởvà chẳng tiếc trào đổ hết mọi uy lựcyêu thương Thần Thiêng cho hết thảy những ai sẽ làm việc đền bồi và mưu tìm chođược việc sùng kính này."

"Nhiêu bấy thế hệ của Cha, bằng cách này hay cách khác, đã làm cho người ta được nhận biết ra tình thương yêu của Cha: Cha đã tỏ cho họ thấy Cha tha thiết muốn cứu rỗi họ biết bao.

Cha đã mạc khải Thánh Tâm Cha ra cho họ.

Sự tôn sùng này tựa như ánh chớp lóe sáng soi cả thế gian, và ngày nay là một phương thế linh nghiệm để đoạt lấy các linh hồn, và mở rộng thêm vương quốc của Cha.

Bây giờ Cha muốn nhiều hơn nữa, vì nếu Cha khát mong được lấy tình đáp tình, thì đấy không hẳn chỉ có sự đền đáp các linh hồn cha khao khát thôi đâu: Nhưng Cha còn muốn tất cả bọn họ hãy tin cậy vào lòng thương xót của Cha, hãy hết sức cậy trông vào lòng khoan dung của Cha, và đừng bao giờ nghi ngờ việc Cha sẵn sàng tha thứ."+ + + + + + +

(*) .

Tác giả đã viết luận án tiến sĩ về chủ đề này cho trường Angelicum ở Rome.

Luận án của ông đã được tóm tắt trong một cuốn sách đã được nhà xuất bản "Marian Press" phát hành, với nhan đề, "Jesus, Mercy Incarnate" (2000), trang 61-64 và 95-96.

Mừng Đại Lễ Kính Thánh Tâm Chúa GiêsuNgày 23/6/2017

Sóng Biển dịch thuậthttps://youtu.be/ZsyHW9zvqiY


 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
Thánh Nữ Faustina Được Thấy Trước điềm báo


Thánh Nữ Faustina Được Thấy Trước, điềm báo, một Vị Giáo Hoàng,

và Chúa Sắp Đến Lần Thứ Hai Như Thế Nào

Cho dù chúng ta có thận trọng cảnh giác về sự bùng nổ các lời tiên tri kinh khủng về ngày tận thế mấy đi nữa, (và nhất là dù có cố gắng cân nhắc những lời tuyên bố hay những tin đồn gì kịch tính như Chúa sắp quang lâm hay Chúa Sắp đến Lần Thứ Hai chẳng hạn), chẳng còn nghi ngờ gì nữa, một trong những lời tiên báo như thế đã đến từ một vị thánh mới được tôn phong hiển thánh vào năm 2000.

Đó là Thánh Nữ Maria Faustina Kôwálska, đã được mạc khải cho biết Lòng Thương Xót Chúa mừng kính vào ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh.Chúa Giêsu đã phán bảo chị Thánh là, "Hãy nói cho cả thế giới biết về lòng thương xót của Ta."

"Sau ngày đó sẽ là Ngày Công Lý.

Con hãy chuẩn bị cho thế giới về lần đến cuối cùng của Ta.

Hãy bảo các linh hồn về lòng thương xót vĩ đại của Ta, vì ngày kinh hoàng, ngày công lý của Ta, gần đến."

Ngày "Công Lý" đã được nhắc đến trong những mạc khải của Thánh Faustina có lẽ liên quan đến Thế Chiến Hai, xảy ra khoảng cuối giữa năm 1930, lúc ấy Faustina, một cư dân Balan (Poland), đang tiếp nhận các thông điệp - nhưng khi nói tới sự trở lại của Chúa Kitô cũng có nghĩa là nói tới một chuyện gì đó có tính lâu dài và bao quát hơn.Xin nhớ cho là chúng ta không bị buộc phải tin hay chấp nhận các thông điệp ấy; lúc mà Thánh Faustina được phong hiển thánh, thì những lời tiên báo của chị chưa chính thức được công nhận hay phê chuẩn (ngay cả những thông điệp đại loại như vậy, đến từ một vị thánh, cũng hiếm khi được công nhận).

Nhưng chắc chắn chúng có giá trị khảo sát thiệt kỹ, và báo hiệu cho biết Thiên Chúa coi trọng việc thanh tẩy không kể những ai có khuynh hướng chỉ tập trung vào Lòng Thương Xót Người.Chúa Giêsu đã bảo Faustina, "Trước Ngày Công Lý.

Cha sẽ gởi tới Ngày từ bi/Thương Xót", "Cha đang gia hạn thời gian thương xót để mưu ích cho những kẻ có tội.

Nhưng khốn cho ai không chịu nhận biết giờ Cha đến viếng thăm."

Thánh Faustina nói trong trang mục đầu (của nhật ký), "Lúc tôi đang cầu nguyện, tôi nghe Chúa Giêsu nói những lời như sau: 'Cha cưu mang một tình thương đặc biệt đối với Poland, nếu như nó chịu tuân theo Ý Cha, Cha sẽ nâng nó lên địa vị phi thường và thánh thiện.

Từ Poland sẽ phát ra một tia sáng để sửa soạn thế giới cho lần đến sau cùng của Cha.'"Có phải là nói đến Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Paulô II không? [hay là cả hai gồm có Thánh Faustina nữa]Tất cả chúng ta đều biết Vị Giáo Hoàng xuất xứ từ Poland, và ngài đã hoàn thành một vai trò quan trọng chủ chốt trong việc công nhận Chúa Từ Bi/Thương Xót, lên đến cực điểm là việc ngài phong thánh cho Faustina.

Dù là "tia lửa" bắt nguồn từ Poland, đưa đến sự sụp đổ của Chủ Nghĩa Cộng Sản, điều này cũng dính chặt với Thánh Gioan Paulô II, là người từng có thời tác động phía sau một lực lượng bí mật (cùng liên minh để lật đổ chế độ cộng sản.) [Đội quân bí mật: ""]

Và theo như tiết lộ khác nữa, ngài đã được chính Đức Trinh Nữ, là Đấng mà ngài biệt kính "cẩn thận chọn lựa".

Trong một cuộc hiện ra ở Medjugorje (Mễ Du) vào ngày 3 tháng 9 năm 1981, Rất Thánh Đức Mẹ đã trực tiếp đến với bức ảnh Gioan Paulo II thiệt lớn rồi ôm ghì nó, mỉm cười.

Mẹ bảo các thị nhân hãy ngước mắt trông lên ngài như là người cha của tất cả mọi người, và thị nhân Marjana Soldo đã nhận xét là, "sự chói sáng trong con mắt ngài cũng tương tự như của Đức Bà chúng ta."

Trong khi đó, lời tiên tri nổi danh của thánh Faustina cho biết là bầu trời sẽ trở nên tối tăm và sẽ xuất hiện một cây thập tự giá rất lớn chiếu sáng chói lọi thực kỳ lạ có liên quan với một biến cố bí ẩn đã xảy ra vào thế kỷ thứ tư.Những lờitiên tri, được cho là của chính Chúa Giêsu đã truyền cho Thánh Faustina vàoquãng năm 1930, cũng đã được chị ghi lại trong nhật ký như sau: "Trước khi Cha tới với tư cách là một Vị Thẩm Phán Chí Công, Cha sẽ đến với tư cách là một Thánh Vương Từ Bi/Thương xót trước đã.

Trước ngày công lý xảy đến, Cha sẽ ban cho dân chúng một dấu chỉ báo hiệu ở trên trời như thế này: Mọi ánh sáng ở trên trời sẽ tắt hết, và sẽ có bóng tối vĩ đại bao trùm trái đất.

Rồi mọi người sẽ được trông thấy dấu thánh giá ở trên trời, và ánh sáng huy hoàng phát ra từ các lỗ dấu đinh nơi chân tay của Đấng Cứu thế sẽ chiếu soi trái đất trong khoảng một thời gian.

Dấu này sẽ xảy ra không lâu (shortly) trước ngày cùng tận."[Trong : Các trẻ thị nhân cũng được tiên báo không bao lâu (shortly) sau "Thượng Hội Nghị về Gia đình", sẽ có cảnh báo.

Lời nói "không lâu" (shortly) sau đó, tính theo thời gian của Chúa, chúng ta không thể biết được là bao lâu, có thể hôm nay, tuần tới, 2 năm sau hoặc 100 năm sau, hay 1.600 năm sau như Thánh Cyril đã được tiên báo trước về "giờ của Lòng Thương Xót Chúa"..., "Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cuộc" (Máccô 13:7)]

Dấu chỉ báo hiệu trước ấy cũng có liên quan với một sự kiện ở mãi tận bên Giêrusalem được thánh Cyril ở Giêrusalem, là một tiến sĩ Hội Thánh, đã ghi lại vào thế kỷ thứ tư, trong một bức thư ngài viết gởi Hoàng Đế Constantius như sau: "Vào ngày nhất định "nones" của Tháng Năm, quãng giờ thứ Ba, một cây thánh giá rất lớn sẽ xuất hiện trên trời, ngay trên đồi Golgotha, cách núi thánh cây dầu không xa, không chỉ có một hoặc hai người được, trông thấy, nhưng là cả thành đều được trông thấy rõ rệt.

Chuyện này không phải, như có thể suy đoán được, cũng không phải như một chuyện lạ lùng nhất thời phát sinh và xuất hiện thoáng qua trong phút chốc: nhưng nó cứ tiếp diễn như thế trong nhiều giờ liên tục, chói sáng hơn cả mặt trời mà con mắt của chúng ta có thể trông thấy được.

Cả thành Giêrusalem, đều hoảng sợ lẫn vui mừng về điềm báo này, liền chạy ngay đến nhà thờ, tất cả cùng đồng thanh dâng lời ngợi khen Chúa Giêsu Kitô, là Con Một Thiên Chúa duy nhất."

Ngày "nhất định" (nones) có thể rơi vào ngày mùng 7 Tháng Năm, và khi đã liên quan đến các ngày giờ cổ xưa trong Giáo Hội cũng có nghĩa là giờ kinh thứ năm trong giờ kinh bảy cộng lại thành giờ thứ chín trong ngày, tức là khoảng 3 giờ chiều.

Giờ mà Thánh Faustina công bố là "giờ của lòng xót" ngót 1.600 (một ngàn sáu trăm) năm sau.[Nếu ghép thêm đầu đuôi vài chữ, chúng ta sẽ có một câu tiên báo thú vị ở thế kỷ thứ tư mà mà nay đã ứng nghiệm như sau: Vào lúc 3 giờ chiều "giờ của Lòng Thương Xót Chúa", tất cả các tín hữu "liền chạy ngay đến nhà thờ", hoặc ngưng đọng khoảng một thời gian vừa đủ, "tất cả cùng đồng thanh" Cầu Kinh Thương Xót "dâng lời ngợi khen Chúa Giêsu Kitô, là Con Một Thiên Chúa duy nhất."]

[Ghi chú: theo lịch Lamã (Roma) cổ xưa, họ không có số ngày thứ tự nhất định cho mỗi ngày, mỗi tuần như hiện nay, nhưng có ba mốc ngày nhất định: "Nones" là thời gian 9 ngày trước "Ides", tức là ngày mùng 7 của tháng Ba, tháng Năm, tháng Bảy, tháng Mười hoặc ngày mùng 5 của các tháng.

"Ides" là ngày 13 hoặc ngày 15.

"Kalends" là ngày đầu tiên của tháng kế tiếp.] "...sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện." (Luca 21:11) (Máccô 13)"Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến." (Mátthêw 24:30)(Coi thêm trong Thời Cánh Chung - thử thách của Giáo Hội: Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo 1992, số 1001, 673-682).Kính Mừng Lễ Chúa Tình ThươngNgày 3/4/2016

Sóng Biển dịch thuật

Source: https://spiritdaily.org/blog/mystics/saint-faustina-and-the-second-coming
 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
Chân Phước Sopocko Người đầu tiên có công truyền bá Lòng Chúa Thương Xót


Đó chính là linh mục Micae Sopocko (Ba Lan).

Ngài là một linh mục nhiệt thành, sống tâm linh, hạnh phúc với sứ vụ mục tử (pastoral duties).

Nhưng Lm Sopocko không thể tưởng tượng được cuộc đời ngài thay đổi thế nào từ năm 1933, khi ngài được bổ nhiệm làm tuyên úy cho Dòng Nữ tử Đức Mẹ của Lòng Thương Xót (Sisters of Our Lady of Mercy) ở Vilnius, nay là Lithuania.

Tại đó, ở tòa giải tội, ngài gặp nữ tu Maria Faustina (1905-1938), một nữ tu khiêm nhường nhưng có trách nhiệm nặng nề.

Thiên Chúa đã bắt đầu mạc khải LCTX cho nữ tu này – một sứ điệp khẩn cấp Ngài muốn chị chia sẻ với toàn thế giới.

Nhưng ai tin chị đây?

Mới đầu không ai tin chị.

Không bề trên nào trong dòng và không linh mục tuyên úy nào tin chị.

Nữ tu Faustina cầu xin vị linh hướng, và vị linh mục này đã tin thật những gì chị cảm nghiệm.

Lm Sopocko là lời đáp lại yêu cầu của chị, và cuối cùng ngài là người chính thức thúc đẩy những điều chị được mạc khải, chính điều cốt lõi theo lời mời gọi của Chúa là truyền bá LTX khắp thế giới.

Lm Micae Sopocko (1888-1975) được đương kim giáo hoàng Bênêđictô XVI tôn phong chân phước vào Chúa Nhật 28-9-2008 tại Bialystok, Ba Lan.

Như vậy, thế giới bắt đầu biết đến một con người mà Chúa Giêsu đã bảo đảm với thánh nữ Faustina là "sẽ được giúp đỡ ngay trên thế gian, và người đó sẽ giúp con thực hiện ý nguyện của Cha trên thế gian này" (NK, 53).

Một phép lạ được coi là có sự can thiệp của CP Sopocko đã được ĐGH Bênêđictô XVI chuẩn nhận ngày 17-12-2007.

Trong khi đó, còn nhiều điều chúng ta biết về CP Lm Sopocko.

Lm Seraphim Michalenko, MIC (Congregation of Marians Immaculate Conception hoặc Marian Father, Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm hoặc Dòng các Linh mục Mẹ Maria), nói: "Ngài [Lm Micae Spocko] là linh mục của các linh mục.

Ngài là giáo sư thần học, là mentor thầy dạy cho nhiều người.

Ngài là linh hướng cho nhiều tu viện, và cũng là tuyên úy quân đội (military chaplain).

Ngài đã viết nhiều cuốn sách.

Sau khi là linh hướng cho nữ tu Faustina, ngài đã viết 4 cuốn sách lớn về LCTX, và nhiều bài về việc xuất bản của tôn giáo".

Lm Sopocko sinh tại Nowosady, gần Vilnius.

Ngài học thần học tại ĐH Vilnius, rồi học tại Warsaw.

Ngài có học vị tiến sĩ về thần học luân lý năm 1926.

Một trong các nhiệm vụ của ngài là làm tuyên úy cho Dòng Nữ tử Đức Mẹ của Lòng Thương Xót.

Tại Vilnius, ngài được nữ tu Faustina chia sẻ về những điều chị được mạc khải.

Lm Seraphim nói: "Mới đầu, ngài muốn chạy trốn, không muốn làm tuyên úy ở đó vì sợ những điều nữ tu Faustina nói".

Mẹ bề trên hỏi Lm Sopocko: "Chúng ta phải làm gì đây?", ngài trả lời: "Hãy đưa chị Faustina đi khám bệnh tâm thần".

Khám xong, bác sĩ nói trí óc của nữ tu Faustina hoàn toàn ổn định.

Lm Seraphim nói: "Cha Sopocko thấy chị Faustina là nữ tu tốt nhất trong các nữ tu của dòng.

Nhưng khi xưng tội, chị đã nói với ngài những điều mà không ai có thể biết.

Điều đó khiến ngài sợ thôi".

Thánh nữ Faustina được học ở trường chưa đầy 3 năm, nhưng chị được soi sáng về đời sống thần bí của linh hồn và có khả năng hiểu tường tận về mầu nhiệm của LCTX.

Lm Sopocko phải xem lại những bài viết của thánh Tôma Aquinô và thánh Augustinô, để xác định tính xác thực đối với các mạc khải của chị Faustina mà thuộc tính vĩ đại nhất của Chúa là LTX.

Lm Seraphim nói: "Nơi tòa giải tội, rõ ràng là nữ tu Faustina biết những điều mà không ai biết trong những trường hợp bình thường.

Chẳng hạn trong một mùa Chay, người ta yêu cầu Lm Sopocko nói trên đài phát thanh.

Chị Faustina có nghe buổi nói chuyện đó.

Nhưng lần giải tội kế tiếp, chị nói với ngài về việc Chúa Giêsu rất không vui về buổi nói chuyện đó trên đài phát thanh vì Lm Sopocko không có "ý định thuần khiết (pure intention).

Sau đó Lm Sopocko viết rằng chị Faustina đúng, ngài phải cố gắng gây ấn tượng với mọi người về những gì ngài đã nói và cách ngài nói đó là ý định không thuần khiết.

Lm Seraphim cười to và nói: "Vậy là Chúa Giêsu đã chỉ điểm cha Sopocko!

Một lần khác, có một buổi họp của các linh mục tại dòng nữ này.

Họ thảo luận về Chúa Ba Ngôi.

Họ tranh luận sôi nổi.

Cha Sopocko cho tạm ngưng buổi họp và yêu cầu một nữ tu đi mời chị Faustina đến.

Khi chị vào phòng, cha Sopocko hỏi chị, và câu trả lời của chị khiến các linh mục quá đỗi ngạc nhiên vì họ không hiểu sao chị lại biết những điều như vậy".

Chính Lm Sopocko là người đầu tiên bảo thánh nữ Faustina ghi lại những cảm nghiệm về LCTX và sứ vụ của chị là chia sẻ LCTX với thế giới.

Khi nữ tu Faustina nói với Lm Sopocko về các lần gặp Chúa Giêsu và Ngài yêu cầu vẽ một bức hình mới và phân chia khắp thế giới, chính Lm Sopocko đi tìm họa sĩ E.

Kazimirowski để vẽ linh ảnh LCTX.

Ngài không dừng lại ở đó.

Khi hành động để đánh dấu bước khởi đầu truyền bá việc sùng kính LCTX, Lm Sopocko chắc chắn phải thấy linh ảnh LCTX được trưng bày vào Chúa Nhật sau lễ Phục sinh năm 1935, ngay trên cổng nổi tiếng Ostra Brama dẫn vào thành phố Vilnius.

Và ở một nhà thờ gần đó, ngài giảng về sứ điệp của LCTX.

Sau khi nữ tu Faustina qua đời, và vào lúc bùng nổ Đệ nhị Thế chiến, Lm Sopocko trao những vật liên quan LCTX cho Lm Joseph Jarzebowski, MIC, người đã thoát khỏi tay Đức quốc xã.

Lm Jarzebowski không biết có thể đến được Hoa Kỳ hay không, Lm Sopocko nói: "Khi cha đến Hoa Kỳ thì cố gắng truyền bá LCTX".

Lm Joseph Jarzebowski đã đến được Hoa Kỳ, thành lập cơ sở Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm gần một bờ biển và truyền bá LCTX đến khắp thế giới.

Trong khi đó, Lm Sopocko bị chế nhạo vì truyền bá LCTX, như thánh nữ Faustina đã tiên báo.

Thánh nữ Faustina viết trong Nhật Ký:

Một ngày nào đó, tôi sẽ thấy tâm hồn các vị linh hướng phải chịu đau khổ biết bao: Bạn bè xa lánh, mọi người nổi lên chống đối và sức khỏe suy nhược.

Tôi thấy các cha linh hướng là chùm nho được Chúa tuyển chọn và đưa vào máy ép đau khổ.

Linh hồn các cha đôi khi đầy sự nghi ngờ về công việc này và về tôi.

Tôi thấy chính Thiên Chúa cũng có vẻ bị chống đối, và tôi hỏi Chúa tại sao Ngài hành động theo cách này, như thể Ngài đặt chướng ngại vật trên hành trình những việc họ làm và những gì Ngài yêu cầu làm.

Và Thiên Chúa nói: "Cha hành động như vậy với vị linh hướng để minh chứng đó là công việc của Cha.

Hãy nói với vị linh hướng đừng sợ gì hết; ánh mắt Cha luôn theo dõi suốt ngày đêm.

Sẽ có nhiều triều thiên khi có những linh hồn được cứu thoát nhờ việc này.

Đó không vì thành công của công việc, mà vì đau khổ mà Cha ban thưởng" (90).

Trong gần 20 năm LCTX bị cấm (1959-1978, vì hiểu sai cuốn Nhật Ký), Lm Sopocko cảm thấy thoải mái tin vào lời tiên tri của thánh nữ Faustina rằng lòng sùng kính LCTX có vẻ còn hoàn toàn dang dở (x.

NK, 378).

Năm 1935, thánh nữ Faustina thị kiến về một con đường phía trước dành cho linh mục linh hướng:

Khi tôi nói với cha linh hướng của tôi, tôi thấy được nội tâm – nhanh hơn chớp – của ngài rất đau khổ, trong nỗi đau khổ đến nỗi Thiên Chúa chạm đến rất ít linh hồn bằng ngọn lửa như vậy.

Đau khổ vì công việc.

Thiên Chúa yêu thương vô cùng, không ai có thể từ chối.

Ngài muốn mọi người biết điều này trước khi Ngài đến trong cương vị Thẩm phán.

Ngài muốn các linh hồn biết Ngài là Vua LTX.

Khi có chiến thắng này, chúng ta sẽ được vào sự sống mới, không còn đau khổ ở đó.

Nhưng trước đó, linh hồn ngài [ám chỉ Lm Sopocko] sẽ phát ngấy (surfeited) vì đau khổ khi thấy các nỗ lực bị hủy hoại.

Tuy nhiên, điều này sẽ chỉ có vẻ vậy thôi, vì điều Thiên Chúa đã quyết định, Ngài không thay đổi.

Nhưng dù sự hủy hoại này chỉ là bề ngoài như vậy, sự đau khổ là thật.

Khi nào điều này xảy ra?

Tôi không biết.

Xảy ra bao lâu?

Tôi không biết.

Nhưng Thiên Chúa đã hứa ân sủng đặc biệt cho con và những người đó...

"Ai tuyên xưng LTX của Ta thì Ta sẽ bảo vệ họ trong giờ lâm chung vì vinh danh Ta" (1738).

Lm Sopocko qua đời năm 1975, trước khi lòng sùng kính LCTX của ngài được chứng minh là đúng.

Ba năm sau khi ngài mất, nhờ sự giúp đỡ của TGM giáo phận Kracow, lúc đó là Hồng y Karol Wojtyla, lệnh cấm mới được bãi bỏ.

ĐHY Wojtyla trở thành Giáo hoàng Gioan-Phaolô II năm 1978, cũng là người phong chân phước và phong thánh cho nữ tu Faustina.

ĐGH Gioan-Phaolô II đã tuyên bố: "Không có gì cần thiết hơn LCTX.

Tình yêu đó đại lượng, trắc ẩn, và nâng con người lên khỏi sự yếu hèn để lên tới đỉnh cao thánh thiện cảu Thiên Chúa".

Từ đó, LCTX trở thành điều mà Lm Seraphim gọi là "phong trào bình dân vĩ đại nhất trong lịch sử giáo hội".

Không ai có thể được như ngày nay nếu không có CP Lm Sopocko, người đã tin tưởng thánh nữ Faustina.TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ www.thedivinemercy.org )
 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
Luận thần học về Lòng Chúa Thương Xót


Luận thần học về Lòng Chúa Thương XótPHI LỘ – Bài này trích từ một cuốn sách của tác giả Robert Stackpole, STD.

Đây là dạng bài "cao cấp" về lý luận thần học về Lòng Chúa Thương Xót của một vị Thánh Tiến sĩ Giáo hội, rất sâu sắc và uyên thâm, rất cần đọc để hiểu biết thêm, và để có thể thực hành đúng lòng thương xót.

Kiến thức về Lòng Chúa Thương Xót cần thiết suốt đời cho mọi người, không trừ ai, nhưng thực sự cần thiết hơn đối với những người đang trực tiếp tham gia hoạt động trong các cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót.Ai cũng là tội nhân, vì thế ai cũng cần đến Lòng Chúa Thương Xót.

Được thương xót rồi thì phải biết thương xót người khác, chứ đừng như con nợ không biết xót thương (x.

Mt 18:23-35).Thánh Thomas Aquinas (Tiến Sĩ Giáo Hội, 1225-1274, Linh mục Dòng Đa-minh) đã giải thích rất sâu sắc về lý do Lòng Chúa Thương Xót là trung tâm của Đức Tin Công giáo.

Trong bộ Tổng Luận Thần Học (Summa Theologiae), Thánh Thomas định nghĩa nhân đức "thương xót" thế này: "Thương xót là lòng trắc ẩn trong trái tim chúng ta vì sự đau khổ của người khác, lòng trắc ẩn này khiến chúng ta làm những gì có thể để giúp đỡ người đó" (Tổng luận Thần học, II-IỊ30.1).Đối với Thánh Thomas, nhân đức thương xót có hai phương diện: "lòng thương xót xúc động" (affective mercy) và "lòng thương xót tác động" (effective mercy).Lòng thương xót xúc động là một cảm xúc: Cảm thương nỗi khốn khổ của người khác.

Đối với vấn đề này, Thánh Thomas nói rằng lòng thương người có nền tảng về "nhược điểm" trong bản chất: Sự khiếm khuyết của con người về tính dễ bị đau khổ.

Chúng ta cảm thấy thương những người chịu đau khổ vì chúng ta cũng là người bị những đau khổ như vậy.

Như vậy, sự cảm thông với người khác nảy sinh từ khả năng thấu cảm.

Thánh Thomas nói: "Những người tự nhận mình hạnh phúc và khỏe mạnh đến nỗi không bị bệnh thì có thể họ không biết động lòng trắc ẩn" (Tổng luận Thần học, II-IỊ30.2).Tuy nhiên, ở mức độ nào đó, cường độ của "lòng thương xót xúc động" ở chúng ta đối với sự đau khổ của người khác cũng tùy vào mối quan hệ thân thiết với người khác: "Ai yêu thương thì coi bạn mình như chính mình, và coi đau khổ của người bạn như của mình, cảm thấy thương họ như thương mình" (Tổng luận Thần học, II-IỊ30.2).

Chúng ta có thể nói rằng mối quan hệ tình cảm dễ hình thành giữa bạn bè với nhau, và điều này tạo nên những người bạn tốt có thể cảm thông nỗi khổ của nhau.

Ví dụ, khi chúng ta nghe nói người bạn, người thân hoặc người yêu sẽ phải đại phẫu, tự nhiên chúng ta cảm thấy thương họ, và chúng ta tự nhủ: "Tôi có thể hình dung bạn tôi lo lắng thế nào trước khi phẫu thuật".

Chúng ta có thể "hình dung" điều đó vì chúng ta đã từng bị bệnh và cần được điều trị.

Sự thấu cảm này là điều mà Thánh Thomas có ý nói về "lòng thương xót xúc động".Mặt khác, "lòng thương xót tác động" là điều chúng ta làm, đó là hành động tích cực vì điều tốt của người khác, cố gắng giảm bớt đau khổ hoặc thỏa mãn nhu cầu của người khác.

Theo Thánh Thomas, từ Latin misericordia có nghĩa đen là "có trái tim khổ sở" – cả về "xúc động" và "tác động" – về nỗi khổ của người khác.

Ví dụ, khi chúng ta nghe nói người bạn của chúng ta sắp chịu phẫu thuật, chúng ta không chỉ cảm thông mà chúng ta còn có thể có kế hoạch đi thăm trước và sau phẫu thuật để an ủi người bạn đó.

Đây là "lòng thương xót tác động" vì nó thỏa mãn nhu cầu của người khác.

Nói cách khác, đó là sự cảm thông "xúc động" chuyển thành "tác động" vì điều tốt của người khác.Thánh Thomas nhận thấy có ba "nỗi khổ" trong cuộc đời:• Thứ nhất, nỗi khổ trái ngược với lòng khao khát tự nhiên về sự hiện hữu và sự sống: Nỗi khổ của người bệnh.• Thứ nhì, nỗi khổ xảy đến bất ngờ: Nỗi khổ do tai nạn.• Thứ ba, nỗi khổ cực độ: Nỗi khổ khi người ta theo đuổi điều tốt, nhưng lại gặp điều ác.Ở đây Thánh Thomas nghĩ về những nỗi khổ và những điều bất hạnh khiến người ta đành lòng ráng chịu, những nỗi khổ không đáng phải chịu của người vô tội và người đạo đức.

Trong Cựu ước, Thánh Gióp là tấm gương điển hình về dạng đau khổ này.

Ngài bị đủ thứ khổ sở dù không đáng phải chịu.Thánh Thomas tranh luận rằng lòng thương xót của con người cần phải là cả "lòng thương xót xúc động" và "lòng thương xót tác động".

Tuy nhiên, để là nhân đức thương xót đích thực, phải có hai đặc tính.• Thứ nhất, phải có căn nguyên "đúng lý".

Nghĩa là, về sự thật đau khổ của người khác, và thực sự đó là "điều tốt" khách quan đối với người khác mà chúng ta tìm cách giúp đỡ.

Ví dụ, người nghiện rượu có thể bị chao đảo và run rẩy vì thiếu rượu, nhưng "lý do chính đáng" đề nghị rằng cách tốt nhất đối với vấn đề của người này không là cho họ ly rượu, dù nghĩ rằng điều đó tạm thời làm giảm nỗi khổ của họ – và dù họ có thể xin rượu!

Điều thương xót cần làm là cung cấp cho người nghiện rượu cái gì thực sự cần thiết theo khách quan: Cai rượu.• Thứ nhì, nhân đức thương xót được chứng tỏ trong hành động hiệu quả (lòng thương xót tác động) đối với điều tốt của người khác, khi có thể.

Nếu chúng ta chỉ "cảm thông" với nỗi khổ của người khác và "chia sẻ nỗi đau khổ của họ" mà không tìm cách thức hiệu quả để giúp đỡ họ, thì nhân đức thương xót không tồn tại trong chúng ta tới mức độ cao.Thánh Thomas đưa ra hai câu hỏi liên quan:1.

Lòng thương xót có là nhân đức cao cả nhất?

Chắc chắn bao hàm sự cao thượng và sự cao quý, đến nỗi "lòng thương xót tác động" là sự giảm bớt nhu cầu và nỗi khổ của người khác để không "thừa thãi".

Chúng ta giúp người khác bằng của cải, kiến thức, kỹ năng hoặc sức mạnh khi chúng ta thấy người khác cần sự giúp đỡ như vậy.

Theo nghĩa đó, lòng thương xót là hành động chiếu cố của người có "dư" sự may mắn nào đó để mà chia sẻ với người kém may mắn hơn mình.

Nếu người có lòng thương xót lại "có điều kiện" (nghĩa là có điều gì đó hoặc thứ gì đó để chia sẻ), rồi nhân đức chính của họ sẽ là điều nối kết họ với sự "có điều kiện" của họ.

Trong trường hợp con người, nhân đức "bác ái" là điều kết hiệp họ với Thiên Chúa (vì Thiên Chúa không cần lòng thương xót): "Do đó, vì con người có Thiên Chúa ở trên cao, đức ái kết hiệp với Thiên Chúa là điều lớn hơn lòng thương xót, làm giảm cảnh khổ của người khác" (Tổng luận Thần học, II-IỊ30.4).

Mặt khác, khi chúng ta cân nhắc nhân đức nào sẽ "quản lý" các mối quan hệ của chúng ta với tha nhân, rõ ràng lòng thương xót đó trực tiếp đến với những người thiếu thốn chính là nhân đức cao thượng nơi con người (Tổng luận Thần học, II-IỊ30.4).2.

Lòng thương xót có là thuộc tính cao cả nhất của Thiên Chúa?

Thánh Thomas nói rằng vì Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối, là Đấng sáng tạo tự hữu và hoàn hảo, Ngài không bao giờ vị kỷ, nhưng luôn luôn và chỉ hành động với lòng đại lượng vị tha, tuôn đổ điều tốt dư đầy lên các thụ tạo của Ngài.

Do đó, tỏ lòng thương xót là điều phù hợp với Thiên Chúa theo cách đặc biệt, vì điều đó thể hiện sự hoàn hảo vô tận của Ngài, sự dư đầy vô hạn và sự đại lượng vô hạn của Ngài.

Thánh Thomas viết: "Nếu chúng ta cân nhắc một nhân đức theo sự sở hữu của nó, chúng ta có thể nói rằng lòng thương xót là nhân đức lớn nhất trong các nhân đức nếu chính nhân đức đó lớn nhất, không ai ở trên ngài và mọi người đều ở dưới Ngài" (Tổng luận Thần học, II-IỊ30.4).

Dĩ nhiên, điều này chỉ đúng về Thiên Chúa.

Như vậy, theo nghĩa đó, lòng thương xót là thuộc tính quan trọng nhất của Thiên Chúa.Vậy theo Thánh Thomas, Lòng Chúa Thương Xót là gì?

Đó không thể là cảm xúc hoặc tình cảm vì Thiên Chúa hoàn hảo vô cùng và bất biến, Ngài không thể thay đổi các cảm xúc "xảy ra" với Ngài, "khắc phục" Ngài, hoặc làm giảm sự viên mãn của Ngài bằng bất cứ cách nào.

Như vậy, Thánh Thomas nói rằng Lòng Chúa Thương Xót "tác động", chứ không "xúc động".

Nói cách khác, lòng thương xót của Ngài được diễn tả trong hành động tích cực mà tình yêu là liệu pháp chữa trị đau khổ và thỏa mãn nhu cầu của các thụ tạo, chia sẻ với họ trong sự hoàn hảo của Ngài.

Thánh Thomas viết: "Cảm thấy buồn về nỗi khổ của người khác không là thuộc tính của Thiên Chúa, nhưng loại trừ đau khổ mới là thuộc tính của Ngài, và ở đây chúng ta có ý nói tới bất kỳ nhược điểm nào.

Các khuyết điểm không được loại bỏ để cứu vớt mà để đạt được sự thiện, và như chúng ta nói: Thiên Chúa là nguồn mạch sự thiện" (Tổng luận Thần học, Ị21.3).Theo Thánh Thomas, trên hết mọi điều, sự tha tội là biểu hiện Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Tha tội là quyền tuyệt đối của Thiên Chúa: Tình yêu Thiên Chúa chứng tỏ mạnh hơn tội lỗi và sự dữ.

Khi con người tha thứ cho nhau, chúng ta kiềm chế cơn giận dữ, đè nén sự phẫn uất, và hủy bỏ mọi cách trả thù.

Nhưng chúng ta không thể miễn giảm chính các khuyết điểm.

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thay đổi ý muốn của kẻ bất lương và làm cho họ ăn năn.

Theo nghĩa này, chỉ có Thiên Chúa mới có thể miễn giảm tội lỗi.

Như vậy, Lòng Chúa Thương Xót vô cùng mạnh mẽ để triệt tiêu tội lỗi, tái sinh và thánh hóa tội nhân.Ví dụ, chúng ta thấy quyền phép của Lòng Chúa Thương Xót trong Tân ước, vì Chúa Giêsu không chỉ tha tội cho người bại liệt được người ta khiêng đến với Ngài, mà Ngài còn chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa làm như vậy bằng cách chữa lành thể bệnh của người đó: "Để các ông biết ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội: Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác lấy chõng của anh mà đi về nhà!" (Mc 2:10-11).Thật vậy, Thánh Thomas nói: "Tha thứ cho người khác là thương xót họ, đó là việc to lớn hơn việc tạo dựng thế giới" (Tổng luận Thần học, I-IỊ113.9).

Hành động đưa thế giới vào hiện hữu là công trình vĩ đại, nhưng theo sự vĩ đại của công trình được thực hiện, sự bào chữa cho người không công chính là việc làm vĩ đại hơn, vì điều đó có giá trị hiệu quả vĩnh viễn.

Các linh hồn được thánh hóa và được công chính hóa sẽ sống mãi trong Nước Chúa, vì rồi thế giới này sẽ qua đi mà thôi – chẳng chóng thì chày!Thom.

Aq.

TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ Marian.org)
 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
TUẦN CỬU NHẬT KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA


TUẦN CỬU NHẬT KÍNH LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

(Bắt đầu Thứ Sáu Tuần Thánh) Ngày thứ sáu Tuần Thánh năm 1937, Chúa Giêsu yêu cầu nữ tu Faustina làm tuần cửu nhật trước lễ Kính Lòng Thương Xót, khởi sự từ thứ sáu tuần thánh tới hết thứ bảy tuần tiếp theo, Chúa đích thân chỉ định ý nguyện cho từng ngày cho mỗi loại người .Sau khi đọc lời xin ý chỉ cho từng ngày, Dùng chuỗi hạt Môi khôi 50 KinhMở Đầu Nguyện: 1 kinh lạy Cha, 1 Kính mừng, 1 Kinh Tin kính– Lạy Cha chúng con ở trên trời chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ Amen!– Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giesu con lòng Bà gồm phúc lạ.

Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử Amen!– Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất.

Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh; chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây Thánh giá, chết và táng xác; xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại; lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.

Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần.

Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các Thánh thông công.

Tôi tin phép tha tội.

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại; tôi tin hằng sống vậy.

AmenMỗi hạt lớn Nguyện:Lạy Cha Hằng Hữu, Con xin dâng lên Cha, Mình, Máu, Linh Hồn và Thiên Chúa Tính Chúa Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu Cha, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và cả thế gian.Mười hạt nhỏ, mỗi hạt Nguyện:Cậy vì sự thương khó đau khổ của Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và cả thế gian.Kết thúc 5 chục kinh nguyện 3 lần :Lạy Thiên Chúa Chí Thánh,

Lạy Thiên Chúa Toàn Năng Chí Thánh,

Lạy Thiên Chúa Hằng Hữu Cực thánh, xin thương xót chúng con và cả thế gian.

Nguyện 3 lần: Ôi, máu và nước tuôn ra từ trái tim Chúa Giêsu

là nguồn mạch Lòng Thương Xót, chúng con trông cậy ở nơi Ngài.

Giêsu ơi, con tin cậy ChúaThánh Nữ Faustina, cầu cho chúng con.Kinh Đức Bà Của Mọi Quốc Gia"Dưới Danh Hiệu này Mẹ sẽ cứu vớt thế gian" (20 Tháng 3, 1953)."

Lạy Đức Chúa Giêsu Kitô, Con Đức Chúa Cha,Xin Chúa giờ đây sai Thánh Thần Chúa xuống thế gian.Xin cho Thánh Thần ngự vào tâm hồn tất cả các quốc gia,Để bảo vệ họ khỏi mọi sa đọa, hiểm họa và chiến tranh.Xin Cho Bà của Mọi Quốc gia,mà xưa kia từng là Đức Maria, bầu cử cho chúng con.

Amen."

Ý chỉ cầu nguyện Ngày Thứ NhấtCầu cho tội lỗi nhân loại"Hôm nay chúng con hãy dâng lên Cha toàn thể nhân loại cách riêng mọi tội nhân, hãy nhận chìm họ trong đại dương thương xót của Cha.

Bằng cách đó, chúng con đã an ủi Cha trong nỗi đắng cay do sự hư mất của linh hồn tội lỗi".

Lạy Chúa Giêsu đầy lòng thương xót, bản tính Chúa là trắc ẩn, yêu thương và tha thứ.

Xin Chúa đừng nhìn đến tội lỗi chúng con, nhưng hãy nhìn xem chúng con tín thác vào lòng nhân hậu của vô cùng của Chúa.

Xin hãy đón nhận hết thảy chúng con vào Trái tim từ bi lân tuất của Chúa, đừng bao giờ để chúng con thoát khỏi nơi đó.

Chúng con cầu xin nhân danh tình yêu kết hiệp Chúa làm một cùng Chúa Cha và Chúa Thánh ThầnÔi lòng lân tuất Thiên Chúa toàn năng,

Hãy cứu rỗi các linh hồn tội lỗi,

Chúa là biểu cả tình thương và nhân hậu,

Chúa cứu giúp những ai khiêm nhường kêu cầu Chúa.Lạy Cha hằng hữu, xin Cha ghé mắt xót thương toàn thể nhân loại, cách riêng các tội nhân khốn khổ.

Họ đang ẩn mình trong Trái tim từ bi vô cùng lân tuất của Chúa Giêsu.

Vì cuộc tử nạn của Người, xin Cha tỏ bày Tình thương của Cha cho chúng con, để chúng con ngợi khen quyền năng Lòng thương xót Cha đến muôn đời.

Amen.V.

Ðọc Kinh Cầu Xin Lòng Thương Xót ChúaÔi Thiên Chúa, Ðấng đầy lòng trắc ẩn, Ðấng duy nhất tốt lành, chúng con chạy đến van xin lòng thương xót Chúa, mặc dù tội lỗi chúng con to lớn và sự xúc phạm thì quá nhiều. chúng con vẫn tín thác vào tình thương xót Chúa, bởi vì Chúa là Ðấng xót thương.

Từ xưa tới nay, chưa từng nghe có người nào tín thác vào Chúa mà bị thất vọng.Ôi Thiên Chúa từ bi, chỉ có mình Chúa mới phán xét chúng con, Chúa không bao giờ từ chối khi chúng con thống hối ăn năn chạy tới Lòng Thương xót Chúa, nơi mà chưa một linh hồn nào bị từ chối, mặc dù họ là một linh hồn vô cùng tội lỗi.

Lời Chúa Giêsu Con của Cha đã bảo đảm với chúng con rằng: "Thà rằng trời đất này biến ra không, nhưng lòng thương xót của Cha luôn ấp ủ một linh hồn tín thác".Lạy Chúa Giêsu là bạn tri kỷ của những trái tim lẻ loi cô độc, Chúa là thiên đàng, là Ðấng cứu rỗi, là sự an bình trong những giây phút buồn phiền giữa biển hoang mang nghi ngại.

Chúa là áng sáng chiếu soi bước đường chúng con đi.

Chúa là tất cả của một linh hồn cô độc.

Chúa biết sự yếu mền của chúng con, và giống như một danh y tốt, Chúa an ủi và chữa lành những đau đớn của chúng con.

Amen.Ngày Thứ Hai

Cầu cho các linh mục, tu sĩ nam nữ" Hôm nay, con hãy đem đến cho Ta linh hồn các Linh Mục và Tu Sĩ nhận chìm họ trong Lòng Thương Xót hải hà của Ta.

Chính họ là những người đem đến cho Ta nghị lực để gánh chịu cuộc khổ nạn đầy đắng cay của Ta.

Họ là những ống máng để Lòng Thương Xót của Ta tuôn chảy qua họ xuống trên toàn thể nhân loại "Ôi !

Chúa Giêsu đầy Lòng Thương Xót, căn nguyên mọi sự tốt lành, xin Chúa ban ơn thánh cho các Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ hiến dâng cuộc đời phục vụ Chúa, ngõ hầu họ có khả năng thực hiện các nghĩa cử từ bi bác ái cho xứng đáng, và để mọi người thấy việc họ làm mà tôn vinh Thiên Chúa là Cha đầy Lòng Thương Xót đang ngự trên trờiLạy Cha Hằng Hữu, xin ghé mắt xót thương nhóm môn đồ được tuyển chọn, nhân danh tình yêu bắt nguồn từ Trái Tim Con Chí Thánh của Cha.

Trái Tim Chúa là chốn náu thân cho các Linh Mục, Tu Sĩ.

Xin Cha ban cho họ quyền năng và ánh sáng của Cha để họ có khả năng dẫn dắt kẻ khác trên đường cứu độ, và cùng nhau ca ngợi Lòng Thương Xót vô biên của Cha muôn đời Amen.IV.

Ðọc Kinh Cầu Xin Lòng Thương Xót ChúaNgày Thứ Ba

Cầu cho những người trung thành, đạo đức" Hôm nay, con hãy đem đến cho Ta hết thảy những tâm hồn trung thành đạo đức, nhận chìm họ vào trong đại dương thương xót của Ta.

Các linh hồn này đem đến niềm an ủi cho Ta trên chặng đường Thập Giá.

Chính họ là những giọt nước ủi an giữa đại dương xót xa cay đắng của Ta "Lạy Chúa Giêsu đầy Lòng Thương Xót, từ kho tàng thương xót của Chúa, Chúa đổ dồi dào các ân huệ để phân phát cho mỗi người và mọi người.

Xin hãy đón nhận chúng con vào dưới mái nhà từ bi lân mẫn của Chúa, và đừng bao giờ để chúng con thoát ly khỏi đó, chúng con cầu xin Chúa, nhân vì Tình Yêu kỳ diệu khôn cùng của Trái Tim Chúa đối với Cha trên trời .Lạy Cha Hằng Hữu, xin ghé mắt từ bi đoái thương đến các linh hồn trung nghĩa, họ là gia nghiệp của Con Chí Thánh.

Nhân danh cuộc khổ nạn đau thương của Người , xin Cha chúc lành và che chở họ luôn mãi, có như vậy họ mới không bị sa sút trong tình yêu và không đánh mất kho tàng đức tin thánh thiện.

Thay vào đó, cùng cả đạo binh Thần Thánh, họ sẽ tôn vinh Lòng Thương Xót vô bờ bến của Cha đến muôn đời.

AmenNgày Thứ BốnCầu cho những người chưa tin nhận Chúa" Hôm nay, con hãy đem đến Ta các người ngoại giáo và những kẻ chưa nhận biết Ta .

Ta đã nghĩ đến họ trong cuộc khổ nạn đau thương của Ta.

Lòng nhiệt thành của họ sẽ an ủi Trái Tim Ta.

Con hãy nhận chìm họ trong đại dương Lòng Thương Xót của Ta "Lạy Chúa Giêsu giàu lòng từ bi lân mẫn, Chúa là ánh sánh chiếu soi toàn thế giới.

Xin hãy đón nhận vào trong Trái Tim vô cùng từ bi của Chúa, linh hồn các người ngoại giáo và vô tín ngưỡng đến nay chưa hề biết Chúa .

Nguyện xin ánh sáng ơn thiêng của Chúa chiếu soi họ, để cả họ nữa cũng được cùng với chúng con tôn vinh Lòng Thương Xót kỳ diệu của Chúa, xin đừng để họ thoát ly khỏi mái nhà của Chúa là Trái Tim vô cùng từ bi lân ái .Lạy Cha Hằng Hữu, xin Cha ghé mắt đoái nhìn linh hồn những người ngoại giáo và những ai đến giờ này chưa nhận biết Cha .

Đó là những con người mà Trái Tim vô cùng từ bi lân ái của Chúa Giêsu vẩn ôm ghì lấy họ, xin Cha dẫn họ tới ánh sáng Phúc Âm, cho họ hiểu biết được yêu mến Cha là phúc trọng dường bao.

Xin ban cho họ cũng được yêu mến Cha để họ cũng được tung hô Lòng Thương Xót Cha đến muôn đời.

Amen.Ngày Thứ Năm

Cầu cho những người lạc giáo và ly giáo" Hôm nay, con hãy đem đến Ta linh hồn những người ly giáo và lạc giáo.

Con hãy nhận chìm họ trong đại dương thương xót của Ta.

Khi Ta chịu khổ nạn xót xa cay đắng, chính họ đã xé nát Thân Mình và Trái Tim Ta, tức là Giáo Hội của Ta.

Khi nào họ trở về hiệp nhất với Giáo Hội, lúc đó các thương tích của Ta sẽ được lành lặn và nhờ đó, họ làm dịu bớt cuộc khổ nạn của TaÔi Chúa Giêsu đầy Lòng Thương Xót, Chúa không hề từ chối lòng lân ái cho những ai tìm kiếm ánh sáng của Chúa.

Xin đón nhận dưới Trái Tim vô cùng từ bi lân mẫn của Chúa linh hồn của người lạc giáo và ly giáo, xin lấy ánh sáng Chúa dẩn dắt họ về hiệp nhất với Giáo Hội.

Đừng để họ thoát ly khỏi Trái Tim từ bi lân mẫn vô bờ của Chúa, nhưng xin dẩn họ về, để họ củng được phúc tôn vinh lòng quảng đại xót thương của Chúa .Lạy Cha Hằng Hữu, xin Cha ghé mắt nhìn đến linh hồn những người lạc giáo và ly giáo – từng làm tổn thương đến các phúc lành Cha ban, từ chối các ân huệ của Cha , khi họ cố tình ở lại trong sự lầm lạc của mình, xin Cha đừng xem các lầm lổi của họ, mà hãy nhìn đến tình yêu của Con yêu dấu Cha, và cuộc khổ nạn cay đắng chua xót mà Người đã gánh chịu vì họ, bởi vì Trái Tim vô cùng từ bi lân ái Chúa Giêsu vẩn bao bọc lấy họ.

Nguyện xin Cha hãy làm cho họ sớm trở về hiệp nhất để cùng chúng con đồng thanh tôn vinh lòng quảng đại thương xót của Cha muôn đời.

Amen .Ngày Thứ SáuCầu cho những người khiêm nhường, trẻ thơ" Hôm nay con hãy đem đến Ta các tâm hồn hiền hoà, khiêm tốn và những tâm hồn trẻ thơ, hãy nhận chìm họ vào đại dương thương xót của Ta.

Những tâm hồn này giống Trái Tim Ta hơn hết .

Họ tăng thêm nghị lực cho Ta để Ta bước vào cơn hấp hối đau thương.

Ta thấy họ như những Thiên Thần trần thế, chầu chực chung quanh các bàn thờ của Ta.

Ta đổ tràn trên họ những giòng thác lũ ân sủng.

Duy chỉ những tâm hồn khiêm nhường mới có khả năng đón nhận ân huệ cuả Ta.

Ta đặc biệt tín nhiệm nơi những tâm hồn đó "Ôi !

Chúa Giêsu đầy Lòng Thương Xót, Chúa phán: " Hãy học nơi Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường " (Mt 11 :29 ) Xin đón nhận vào nhà Thánh Tâm từ bi lân mẫn của Chúa, mọi tâm hồn hiền hoà, khiêm tốn, cùng các tâm hồn trẻ thơ.

Những tâm hồn này khiến cả Thiên Đàng ngây ngất , họ được Cha trên trời nhìn đến đặc biệt.

Họ là những đoá hoa thơm ngát trước ngai Thiên Chúa.

Chính Thiên Chúa lấy làm vui thích được tận hưởng hương thơm của họ.

Các linh hồn này thường xuyên nương mình trong Trái Tim từ bi vô cùng lân mẫn của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, họ không ngừng hát lên bài ca yêu thương và lòng lân tuất của Chúa .Lạy Cha Hằng Hữu , xin ghé mắt nhìn đến các linh hồn hiền lành khiêm nhường và tâm hồn các trẻ thơ đang nương náu trong Trái Tim từ bi lân mẫn của Chúa Giêsu.

Các tâm hồn này giống như Con Một Cha.

Làn hương thơm của họ bay từ trần gian lên thấu tận Ngai Cha ngự.

Ôi, lạy Cha giàu Lòng Thương Xót và tốt lành, nguyện xin vì lòng Cha yêu thương các linh hồn đó và lấy làm vui thỏa được gần gủi họ, xin Cha chúc lành cho toàn thế giới, để hết thảy các linh hồn đều chung tiếng ngợi ca Lòng Thương Xót của Cha muôn đời.

Amen.Ngày Thứ Bảy

Cầu cho những người tôn sùng Lòng Thương Xót" Hôm nay con hãy đem đến Ta những linh hồn tôn sùng va ca ngợi Lòng Thương Xót của Ta .Những linh hồn này đau xót cảm thương cuộc khổ nạn của Ta.

Họ đang sống theo hình ảnh Trái Tim từ bi lân mẫn của Ta.

Những linh hồn đó sẽ tỏ rạng những luồng sáng đặc biệt ở đời sau.

Không một ai trong họ sẽ sa hỏa ngục.

Ta sẽ bảo vệ họ từng người một cách đặc biệt vào giờ lâm chung.Ôi !

Chúa Giêsu đầy Lòng Thương Xót.

Trái Tim Chúa là hiện thân của tình yêu, nguyện xin Chúa đón nhận trong mái ấm Trái Tim từ bi lân mẫn của Chúa, các linh hồn tôn sùng và thờ kính lòng thương xót hải hà của Chúa, những linh hồn này được nhiều quyền năng bởi quyền phép của chính Thiên Chúa, giữa mọi cơn gian nan thử thách, họ vẫn tiến bước vì họ tín thác vào Lòng Thương Xót, và hiệp nhất với Chúa Giêsu gánh vác toàn thể loài người trên đôi vai của họ.

Họ sẽ không bị xử án nghiêm khắc ,trái lại, lòng thương xót của Chúa sẽ xiết chặt lấy họ khi họ lìa bỏ cuộc đời này .Lạy Cha Hằng Hữu, xin Cha ghé mắt nhìn đến các tâm hồn luôn luôn tôn vinh và bái thờ căn tính vĩ đại nhất của Cha là Lòng Thương Xót vô biên, được bao bọc trong Trái Tim vô cùng từ bi lân mẫn của Chúa Giêsu.

Những linh hồn này chính là Sứ Điệp Tin Mừng sống động.

Bàn tay họ luôn thi thố các nghĩa cử từ bi phúc đức.

Linh hồn họ tràn đầy hoan lạc.

Họ luôn ca ngợi lòng thương xót của Cha.

Ôi Thiên Chúa tối cao, xin Cha tỏ tình thương xót của Cha theo lòng hy vọng tin tưởng họ đặt nơi Cha.

Xin Cha hãy thực hiện lời Chúa Giêsu đã hứa với họ: " Đích thân Ta sẽ bảo vệ họ như bảo vệ vinh quang của Ta trong suốt cuộc sống họ, và cách riêng vào giờ lâm chung, bởi họ là những tâm hồn sùng kính Lòng Thương Xót bao la vô tận của Ta ''Ngày Thứ Tám

Cầu cho những linh hồn nơi luyện ngục'' Hôm nay, con hãy đem đến cho Ta các linh hồn trong luyện ngục, nhận chìm họ trong hố thẳm Lòng Thương Xót của Ta.

Hãy để suối máu Thánh Ta làm dịu mát ngọn lữa hồng đang thiêu đốt họ .

Những linh hồn ấy đều được Ta hết dạ thương yêu.

Họ đang phải đền trả sự công bằng của Ta.

Chính chúng con mới đủ khả năng đem lại sự giải thoát cho họ .

Hãy rút hết kho tàng Ân Xá Hội Thánh của Ta đem trao lại cho các linh hồn đó.

Ôi, nếu con hiểu thấu những cực hình mà họ phải chịu dựng, chắc con sẽ không ngừng làm việc phúc đức dâng hiến thay cho họ để đền trả sự công bằng của Ta "Ôi !

Chúa Giêsu giàu Lòng Thương Xót, chính Chúa đã nói rằng Chúa chỉ muốn Lòng Thương Xót mà thôi, vì thế con xin đem vào mái ấm Trái Tim từ bi vô biên của Chúa tất cả các linh hồn trong luyện ngục, bởi các linh hồn đó rất thân thương với Chúa.

Ước gì giòng Máu và Nước tuôn vọt từ Trái Tim Chúa dập tắt ngọn lửa thanh luyện kia, thay vào đó, quyền năng của Lòng Thương Xót cũng được tuyên dương ca ngợi .Lạy Cha Hằng Hữu , xin Cha ghé mắt đoái nhìn các linh hồn đang phải trải qua những khổ hình luyện tội, bởi chính họ cũng đã được ôm ấp trong Trái Tim vô cùng từ bi lân mẫn của Chúa Giêsu.

Con nài xin Cha, cậy nhờ cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu, Con Cha, và vì muôn nổi đắng cay dày vò linh hồn Chí Thánh Người, xin Cha hãy tỏ Lòng Thương Xót cuả Cha cho các linh hồn đang được Chúa thẩm xét trong công lý quang minh của Cha, xin Cha ghé mắt đoái nhìn các linh hồn qua những thương tích đớn đau của con Yêu Dấu Cha mà thôi , bởi lẽ chúng con tin chắc rằng lòng nhân hậu và lượng từ bi của Cha không giới hạn , Amen.Ngày Thứ ChínCầu cho những linh hồn nguội lạnh" Hôm nay , con hãy đem đến Ta những linh hồn khô khan nguội lạnh , nhận chìm họ vào hố thẳm Lòng Thương Xót của Ta, các linh hồn này làm thương tổn, xé nát Trái Tim Ta trong cay đắng xót xa, Linh Hồn Ta phải chịu đựng nổi dày xé khủng khiếp tại Vườn Cây Dầu do những tâm hồn này gây ra.

Chính họ là những nguyên do khiến Ta phải thốt lên :Lạy Cha, xin hãy cất chén đắng này, nhưng đừng bao giờ theo ý con mà theo ý Cha " Hy vọng cuối cùng để họ được cứu vớt là biết chạy đến cầu cứu Lòng Thương Xót của Ta "Ôi!

Chúa Giêsu vô cùng từ bi lân mẫn, đích thân Chúa là Lòng Thương Xót, con xin đen các linh hồn khô khan nguội lạnh đến dưới mái ấm Trái Tim từ bi lân mẫn của Chúa.

Xin Chúa hãy dùng ngọn lửa tình yêu tinh tuyền của Chúa đốt cháy các linh hồn lạnh giá đó.

Họ giống như các xác chết khiến Chúa bị dày xé đau thương thể ấy.

Nguyện cho ngọn lửa tình yêu một lần nữa bốc cháy trở laị.

Ôi !

Chúa Giêsu vô cùng từ bi lân mẫn, xin hãy tỏ quyền năng Lòng Thương Xót Chúa mà kéo họ vào trong lò lửa nóng bỏng tình yêu Chúa, Xin Chúa khấn ban cho họ ân huệ tình yêu Chí Thánh, vì không có gì vượt ngoài giới hạn khả năng vô biên quyền phép của Chúa.Lạy Cha Hằng Hữu, xin Cha ghé mắt từ nhân nhìn đến các tâm hồn thờ ơ lạnh giá.

Dẫu sao họ cũng đã được ôm ấp trong Trái Tim vô cùng từ bi lân mẫn của Chúa Giêsu.

Ôi, Lạy Cha giàu Lòng Thương Xót, cậy vì cuộc khổ nạn đắng cay của Con Yêu Dấu Cha, và cậy nhờ cơn hấp hối đớn đau trong 3 tiếng đồng hồ trên thập giá của Người, xin cũng để cho họ được tôn vinh Lòng Thương Xót vô bờ bến của Cha, Amen .
 
Biệt Kính Chúa Từ Bi
Từ Nào Đúng: "Cả Thế Gian", "Toàn Thế Giới", "Cả Loài Người" hay "Cả Thiên Hạ"


Từ Nào Đúng: "Cả Thế Gian", "Toàn Thế Giới", "Cả Loài Người" hay "Cả Thiên Hạ"

Lạy Cha Hằng Hữu, Con xin dâng lên Cha,

Mình và Máu, Linh Hồn và Thiên Chúa Tính Chúa Giêsu Kitô,

Con Yêu Dấu Cha, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và cả thế gian.Cậy vì sự thương khó đau khổ của Người, xin thương xót chúng con và cả thế gian.

Cụm từ "The Whole World", nếu dịch là "Toàn thế giới", có phải là dịch vội quá không?

Trong tiếng anh cũng có nghĩa là "Cả Thế Gian hay Cả Thiên Hạ" nữa, chứ không chỉ có nghĩa "toàn thế giới" hay "cả loài người".

Cụm từ "Cả Thế Gian hay Cả Thiên Hạ" nó bao gồm cả trên không gian thiên giới cũng như hạ giới Chúa dựng nên như: không gian vạn vật "dưới đất cũng như trên trời vậy", con người và môi trường thiên nhiên...v.v, có nghĩa là "muôn loài thọ tạo" (Rm 8:22), chúng ta van xin chúa thương xót là van xin sự Thanh Tẩy, đổi mới và cứu rỗi muôn loài Chúa tạo dựng nên.Bởi lẽ "muôn loài" thế gian đều đã bị chịu sự hư hỏng và sa ngã chung với Ađam, và đã bị ác thần trói buộc và khống chế. cho nên chúng ta mới van xin lòng Chúa thương xót giải thoát muôn loài thế gian, gồm cả âm phủ (những kẻ đã chết như các linh hồn đang đền trả phép công bằng chờ được lên thiên đàng), lẫn dương gian (như chúng ta, không gian và vạn vật) quanh chúng ta đang sống nữa.Hoặc Thánh Paulô chép: "muôn loài thọ tạo cùng rên siết trông ngóng và quằn quại như sắp sinh nở.

Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta nữa...(Rm 8:22)".Hay trong Thánh Thư (1 Gioan 2:2) chép: "Chính Người là của lễ đền tội chúng ta, không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian."

Còn trong sách Công Vụ Tông Đồ chép: "Thiên Chúa ban cho anh em thời kỳ thư thái, và sai Ðức Giêsu Kitô, Ðấng mà Chúa đã phán hứa cùng anh em trước, Ðấng phải về trời (được giữ lại trên trời) cho đến thời phục hồi vạn vật, như Chúa đã dùng miệng các thánh tiên tri Ngài mà phán từ ngàn xưa." (Cv 3, 20-21) Cụm từ "toàn thế giới": không lột tả được hết muôn vật Chúa dựng nên đều cần được cứu thoát và thanh tẩy đổi mới, nó chỉ có ý nói đến một khía cạnh nào đó, có tính cách chính trị trần thế trên toàn thế giới, chẳng hạn như chỉ giới hạn ở nước này hoặc giữa nước kia với nhau thôi.Cụm từ "cả loài người", không sát nghĩa lắm.

Đã "thương xót chúng con" tức là loài người rồi, tức là "chúng con" người đang van xin lòng thương xót Chúa đó chứ đâu phải loài nào khác, câu "chúng con"...rồi lại lặp lại "loài người", như vậy có phải là cà lăm không?Nếu chúng ta có dịp đọc lại hết toàn bộ các Sách Cựu Ước và Tân Ước bằng tiếng Việt, và căn cứ theo ngôn ngữ trong Sách Thánh Tiếng Việt, đã được các nhà dịch thuật chuyên môn dày công sưu khảo và dịch thuật, tôi thấy, các dịch giả Sách Thánh đều dùng cụm từ "Thế Gian" (the world) hoặc cả thế gian (the whole world).

Chẳng hạn trong sách phúc âm thánh Gioan tông đồ chép đầy chữ "thế gian" như sau:

"Thầy không thuộc về thế gian (the world) cũng như các con không thuộc về thế gian, xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần/sự dữ/quỷ dữ (devil) [Hot devil = cay như quỷ], "thế gian ghét người...người đã đến nhà...mà người nhà không nhận biết người...thế gian chuộng bóng tối và ghét ánh sáng...."

Hoặc trong các sách kinh bổn mà giáo dân hay nguyện hàng ngày thường dùng chữ "Thiên Hạ", chẳng hạn, trong mùa chay có câu nguyện:

"Chúng con thờ lạy và ngợi khen Chúa Kitô, vì Chúa đã dùng Thánh Giá Chúa mà chuộc tội cho Thiên Hạ"Nhưng mà, không hiểu sao mấy năm nay, các đấng ông bà trùm trong cộng đồng Công Giáo VN ở giáo xứ tôi bỗng nhiên đổi chữ "Thiên Hạ" thành "Nhân loại" ("cả loài người")...

Chúa Giêsu chỉ có chuộc tội cho loài người thôi sao? nghe mà buồn...., trong khi Thánh Paulo quả quyết, "muôn loài thọ tạo cùng rên siết trông ngóng và quằn quại như sắp sinh nở...cho đến thời (Chúa Giêsu Kitô) phục hồi vạn vật"

(Rm 8:22) (Cv 3, 20-21).

Eternal Father, I offer you the Body and Blood, Soul and Divinity of Your Dearly Beloved Son, Our Lord, Jesus Christ, in atonement for our sins and those of the whole world.Lạy Cha Hằng Hữu, Con xin dâng lên Cha, Mình và Máu, Linh Hồn và Thiên Chúa Tính Chúa Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu Cha, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và cả thế gian.For the sake of His sorrowful Passion, have mercy on us and on the whole world.Cậy vì sự thương khó đau khổ của Người, xin thương xót chúng con và cả thế gian.(chữ "His- của Người",để chỉ câu trên đã nêu Danh Thánh của Người "Chúa Giêsu Kitô" rồi, nên không lặp lại nữa.

Nếu nguyện "của Chúa Giêsu" thì cũng được vì giáo dân đã quen nguyện như thế).Holy God, Lạy Thiên Chúa Chí Thánh, Holy Mighty One, Lạy Thiên Chúa Toàn Năng Chí Thánh, Holy Immortal One, Lạy Thiên Chúa Hằng Hữu Cực thánh, have mercy on us and on the whole world. xin thương xót chúng con và cả thế gian.Ngày 9 Tháng 4, 2015Sóng Biển
 
Back
Top Bottom