Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Đến khoảng một giờ thì hai cô gái bắt đầu ngáp. Trong phòng khách có mấy chiếc chõng bạt, nhưng không ai muốn đặt chân ra khỏi phòng Julie cả. Cái khối vuông sơn màu sặc sỡ này giống như một hầm trú ẩn ấm áp giữa lãnh nguyên băng giá của nam cực. Nora chiếm chiếc giường. Julie và tôi nằm trên sàn. Nora lúi húi chép bài tập về nhà chừng một tiếng, rồi tắt đèn và bắt đầu ngáy nhè nhẹ như một cái cưa xích nhỏ. Julie và tôi nằm ngửa ra, đắp một cái chăn dày, dùng đống quần áo của nàng làm đệm trên mặt sàn cứng như đá. Thật là một cảm giác kì lạ khi khắp xung quanh tôi chỗ nào cũng là nàng. Mùi sự sống của nàng bám vào tất cả. Nàng ở trên người tôi, ở bên dưới tôi, và bên cạnh tôi. Như thể cả căn phòng được xây bằng mùi vị của nàng.

“R này,” nàng thì thầm, mắt nhìn lên trần. Trên đó đầy những chữ và hình vẽ nghuệch ngoạc bằng sơn lân tinh.

“Sao.”

“Tôi ghét nơi này.”

“Tôi biết.”

“Đưa tôi đến đâu dó khác đi.”

Tôi nhìn lên trần. Tôi ước mình có thể đọc được những gì nàng đã viết lên. Thay vào đó, tôi giả vờ những chữ cái là các ngôi sao, còn các từ ngữ kia là các chòm sao.

“Muốn… đi đâu?”

“Tôi không biết. Một nơi thật xa. Một lục địa xa xôi nào đó nơi những chuyện này không xảy ra. Nơi người ta sống trong hòa bình.”

Tôi im lặng.

“Một anh bạn của Perry từng là phi công… chúng ta có thể đi bằng ngôi nhà máy bay của anh ấy. Nó sẽ giống như ở trong một căn nhà di động biết bay ấy, mình muốn đi đâu cũng được!” Nàng nằm nghiêng sang bên và cười với tôi. “Anh nghĩ sao, R? Mình có thể đi đến tận đầu bên kia thế giới.”

Sự phấn khích trong giọng nói của nàng làm tôi đau nhói. Tôi hi vọng nàng không thấy được vẻ tuyệt vọng trong mắt tôi. Tôi không biết chắc, nhưng gần đây có điều gì đó trong không khí, một sự im lìm chết chóc khi tôi đi qua thành phố và khu ngoại ô, nó cho tôi biết rằng cái ngày ta có thể chạy trốn mọi rắc rối đã qua rồi. Sẽ không còn nghỉ ngơi, không còn những chuyến du lịch, không còn lánh đến một vùng nhiệt đới nào được nữa. Dịch bệnh dã lan khắp thế giới.

“Cô nói…” tôi mở lời, cố chuẩn bị để nói ra một ý nghĩ phức tạp. “Cô nói.. cái…”

“nào,” nàng động viên. “Dùng từ của anh xem nào.”

“Cô nói… máy bay… không là thế giới riêng.”

Nụ cười của nàng sững lại. “Gì cơ?”

“Không thể… bay trên… mọi rắc rối.”

Nàng nhíu mày. “Tôi đã nói thế ư?”

“Bố cô… hộp bê tông… tường và súng… Trốn chạy… không hay hơn… lẩn tránh. Có khi tệ hơn.”

Nàng nghĩ một lát. “Tôi biết,” nàng nói, và tôi thấy có lỗi vì đã làm giấc mơ chóng vánh của nàng tan biến. “Tôi biết thế. Tôi đã tự bảo mình như thế suốt bao nhiêu năm nay, rằng vẫn còn hi vọng, rằng chúng ta vẫn có thể tìm ra cách để thay đổi tình thế, vv và vv. Chỉ có điều… càng ngày chuyện đó càng khó tin hơn.”

“Tôi biết,” tôi nói, cố che giấu vết rạn trong vẻ chân thành của mình. “Nhưng không được… bỏ cuộc.”

Giọng nàng trở nên u sầu. nàng đã phát hiện ra lời phỉnh phờ của tôi. “Sao tự dưng anh lạc quan thế? Anh đang nghĩ gì vậy?”

Tôi không nói gì, nhưng nàng đọc được khuôn mặt tôi như đọc tít báo trên trang nhất, những tít báo về bom nguyên tử và tàu Titanic và tất cả các cuộc đại chiến thế giới với phông chữ ngày một nhỏ hơn.

“Không còn nơi nào khác, phải không,” nàng nói.

Tôi lắc đầu khẽ đến mức gần như không nhìn thấy.

“Toàn bộ thế giới,” nàng nói. “Anh nghĩ tất cả đã chết? Tất cả đã bị tàn phá?”

“Phải.”

“Làm sao anh biết được?”

“Tôi không biết. Nhưng tôi… cảm thấy.”

Nàng thở ra một hơi dài và nhìn lên những chiết máy bay đồ chơi lơ lửng trên đầu chúng tôi. “Thế chúng ta phải làm gì bây giờ?”

“Phải… sửa lại.”

“Sửa cái gì?”

“Không biết… Tất cả mọi thứ.”

Nàng chống khuỷu tay nhỏm dậy. “Anh đang nói cái gì thế?” Nàng không hạ thấp giọng xuống nữa. Nora cựa mình và thôi ngáy. “Sửa tất cả mọi thứ ư?” Julie hỏi, mắt lóe lên trong bóng tói. “Chính xác là chúng ta phải làm thế nào bây giờ? Nếu anh có phát kiến vĩ đại nào thì hãy chia sẻ đi, vì đâu phải là tôi không nghĩ về chuyện này suốt ngày. Đâu phải là nó đã không đốt cháy tâm trí tôi hàng sáng và hàng đêm kể từ khi mẹ tôi đi. Làm sao chúng ta sửa được mọi thứ? Tất cả đều đã quá đổ vỡ. Tất cả mọi người đều đang chết, chết đi chết lại bao nhiêu lần, mỗi lần lại khủng khiếp, đáng sợ hơn. Chúng ta biết phải làm gì bây giờ? Anh có biết cái gì đã gây ra chuyện này không? Bệnh dịch ấy?”

Tôi ngần ngừ. “Không.”

“Thế thì sao anh biết phải làm gì được? Tôi muốn biết, R ạ. Làm sao chúng ta có thể sửa lại nó được?”

Tôi vẫn nhìn lên trần nhà. Tôi nhìn những chòm sao từ ngữ sáng xanh lấp lánh giữa không trung xa vời. Trong khi tôi nằm đó, để cho trí não mình vươn tới tận những thiên đường tưởng tượng đấy, hai ngôi sao bắt đầu thay đổi. Chúng xoay tròn, hiện rõ dần, và hình thù của chúng trở nên dễ nhận hơn. Chúng biến thành… các chữ cái.

T

H

“Th…” tôi thì thầm.

“Cái gì cơ?”

“ Thờ…” tôi nhắc lại, cố phát âm cho rõ. Nó là một âm thanh. Nó là một âm tiết. Chòm sao mờ nhòa kia đang biến thành một từ. “Cái gì… kia?” Tôi hỏi, chỉ lên trần nhà.

“Cái gì? Cái câu trích dẫn ấy á?”

Tôi đứng dậy và chỉ vào câu đó. “Cái này.”

“Là một câu trong bài ‘Imagine’. Bài hát của John Lennon đấy.”

“Câu.. nào?”

“Cũng dễ thôi nếu bạn thử.”

Tôi đứng đó một phút, ngước nhìn lên như một nhà du hành mạo hiểm khám phá vũ trụ. Rồi tôi lại nằm xuống và bắt tay ra sau đầu, mắt vẫn mở to. Tôi không có câu trả lời mà nàng dang tìm kiếm, nhưng tôi cảm nhận được sự hiện diện của chúng. Những đốm sáng lung linh trong bóng tối xa xăm.

BƯỚC CHN NHẸ NHÀNG. Bùn dưới gót ủng. Đừng nhìn vào đâu cả. Những câu khẩu hiệu kì lạ lặp đi lặp lại trong đầu tôi. Như tiếng lầm bầm của những lão già râu ria xồm xoàm vọng ra từ những ngõ tối. Mày đi đâu vậy, Pery? Đồ ngốc. Đồ óc bã đậu. Đi đâu? Mỗi ngày vũ trụ lại rộng thêm ra, tối hơn, lạnh đi. Tôi dừng lại trước một cánh cửa màu đen. Một cô gái sống trong ngôi nhà kim loại này. Tôi có yêu nàng không? Tôi không biết nữa. Nhưng nàng là tất cả những gì còn lại. Vầng mặt trời đỏ rực cuối cùng trong một khoảng không gian bao la không ngừng giãn nở. Tôi bước vào nhà và thấy nàng đang ngồi trên cầu thang, hai tay ôm gối. Nàng đặt một ngón tay lên môi. “Bố,” nàng thì thầm.

Tôi ngước lên cầu thang nhìn về phía buồng ngủ của vị tướng. Tôi nghe thấy giọng ông lè nhè trong bóng tối lờ mờ.

“Bức ảnh này, Julie. Công viên nước, con có nhớ công viên nước không? Phải kéo lên mười xô nước mới đủ cho một lần trượt. Hai mươi phút vất vả chỉ để cho mười giây sung sướng. Nhưng hồi đấy thấy cũng đáng, phải không? Bố đã thấy rất vui khi thấy mặt con lao ra khỏi dường ống. Ngay từ khi đó con đã giống hệt mẹ rồi.”

Julie lặng lẽ đứng dậy, đi ra cửa trước.

“Con giống hệt mẹ, Julie ạ. Con chẳng giống bố chút nào, con chỉ giống mẹ thôi. Sao mẹ lại có thể làm thế?”

Tôi mở cửa và lùi ra ngoài. Julie đi theo tôi, bước chân nhẹ nhàng không một tiếng động.

“Sao mẹ con lại có thể mềm yếu như thế? Ông nói bằng giọng như thép tan chảy. “Sao mẹ có thể để chúng ta lại đây?”

Chúng tôi im lặng bước đi. Làn mưa lâm thâm đọng lên tóc và chúng tôi lắc đầu rũ nước như những con chó hoang. Chúng tôi đến nhà đại tá Rosso. Bà Rosso ra mở cửa, nhìn Julie một cái, rồi ôm lấy nàng. Chúng tôi bước vào căn nhà ấm áp.

Tôi thấy đại tá Rosso đang ngồi trong phòng khách nhấm nháp tách cà phê, giương mục kính đọc một quyển sách cũ ố nước. Trong khi Julie và bà Rosso khe khẽ trò chuyện với nhau trong bếp, tôi ngồi xuống đối diện với vị đại tá.

“Perry,” ông chào.

“Chào đại tá ạ.”

“Cháu thế nào?”

“Cháu còn sống.”

“Một khởi đầu tốt. Cháu đã ổn định ở nhà mồ côi rồi chứ?”

“Cháu ghét nó.”

Đại tá Rosso im lặng hồi lâu. “Cháu đang băn khoăn điều gì à?”

Tôi cố tìm lời. Hình như tôi đã quên mất phần lớn vốn từ của mình. Mãi rồi tôi mới khẽ nói, “Bố đã nói dối cháu.”

“Sao lại thế?”

“Bố nói chúng ta đang sửa lại mọi thứ, và nếu chúng ta không bỏ cuộc thì tất cả sẽ ổn hết.”

“Bố cháu tin như vậy. Và ta cũng thế.”

“Nhưng rồi bố cháu đã chết.” Giọng tôi run run, và tôi gắng sức bắt nó rắn rỏi trở lại. “Và đó là một cái chết vô nghĩa. Không có chiến đấu, không có sự hi sinh cao cả nào cả, chỉ là một tai nạn lao động ngu ngốc có thể xảy ra với bất kì ai, ở bất kì đâu, vào ất kì lúc nào trong lịch sử.”

“Perry…”

“Cháu không hiểu nổi, thưa đại tá. Cứu thế giới này thì có ích gì khi mà cuộc sống của chúng ta ngắn ngủi như vây? Tất cả việc làm ấy có ý nghĩa gì khi kết quả sẽ biến mất? Mà chẳng có gì báo trước? Như một hòn gạch khốn kiếp rơi lên đầu.?”

Đại tá Rosso không nói gì. Những giọng lầm rầm trong bếp trở nên rõ ràng hơn khi chúng tôi ngừng lời, vì vậy họ chuyển sang thì thầm, cố giấu vị đại tá điều mà tôi dám chắc là ông đã biết. Thế giới nhỏ bé của chúng tôi đã quá mệt mỏi để còn để tâm đến tội lỗi của những người lãnh đạo.

“Cháu muốn tham gia ban An ninh,” tôi tuyên bố.

Đại tá Rosso thở ra một hơi chậm rãi và bỏ cuốn sách xuống. “Vì sao, Perry?”

“Bởi vì đó là điều duy nhất đáng làm.”

“Ta tưởng cháu muốn viết văn chứ?”

“Đó là chuyện vô dụng.”

“Vì sao?”

“Giờ ta còn nhiều mối quan tâm lớn hơn. Tướng Grigio nói đây là những ngày cuối cùng rồi. Cháu không muốn dùng những ngày cuối cùng của mình phí thời giờ của mình viết những thứ lăng nhăng trên giấy.”

“Viết văn không chỉ là các thứ lăng nhăng trên giấy. Nó là mối liên lạc. Nó là kí ức.”

“Tất cả cái đó không còn quan trọng gì nữa. Đã quá muộn rồi.”

Ông ngắm nhìn tôi. Rồi ông cầm quyển sách lên và chìa cái bìa cho tôi. “Cháu có biết câu chuyện này không?”

“Là Gilgamesh ạ.”

“Đúng. Sử thi Gilgamesh, một trong những tác phẩm văn học đầu tiên trên thế giới. Ta có thể nói nó là cuốn tiểu thuyết đầu tay đầu tiên của nhân loại.” Đại tá Rosso lật lật những trang giấy mỏng manh ố vàng. “Tình yêu, tình dục, máu và nước mắt. Một hành trình tìm kiếm cuộc sống vĩnh hằng. Tìm kiếm cách trốn thoát cái chết.” Ông với tay qua bàn, đưa quyển sách cho Perry. “Nó được viết hơn bốn ngàn năm trước trên những phiến đất sét bởi những người cày cấy trong bùn và ít khi sống quá bốn mươi tuổi. Nó đã sống sót qua vô vàn cuộc chiến, thảm họa, bệnh dịch, và cho đến ngày nay vẫn tiếp tục mê hoặc chúng ta, bởi vì ta đây, giữa cảnh hoàng tàn hiện đại này, đang đọc nó.”

Tôi nhìn đại tá Rosso mà không nhìn quyển sách. Những ngón tay tôi bấm vào tấm bìa da.

“Thế giới sinh ra câu chuyện này biến mất từ lâu rồi, cư dân của nó đã chết, nhưng nó vẫn tiếp tục chạm tới thời hiện tại và tương lai, bởi vì có người quan tâm đến thế giới đó đủ để bảo tòn nó. Để viết lại nó. Để ghi nhớ nó.”

Tôi mở đến giữa sách. Các trang giấy đầy những dấu ba chấm, đánh dấu những từ và dòng bị mất, đã nát vụn và bị lịch sử quên lãng. Tôi nhìn chúng và để cho các dấu chấm tràn ngập mắt mình. “Cháu không muốn ghi nhớ,” tôi nói, và gập quyển sách lại. “Cháu muốn gia nhập ban An ninh. Cháu muốn làm những việc nguy hiểm. Cháu muốn quên đi.”

“Cháu nói vậy là có ý gì, Perry?”

“Cháu không có ý gì cả.”

“Nghe như là có đấy.”

“Không ạ.” Những cái bóng trong phòng tụ vào các nếp nhăn trên mặt chúng tôi, rút cạn màu sắc trong mắt chúng tôi. “Chẳng còn gì đáng kể để nói nữa.”

* * *
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Tôi đờ đẫn cả người. Trôi nổi cùng những ý nghĩ đen tối của Perry, tôi rung động cùng những nỗi đau khổ của gã như tiếng trầm vang của tiếng chuông nhà thờ.

“Cậu có đang hoạt động không, Perry?” Tôi thì thầm vào khoảng không. “Cậu có đang đảo ngược cuộc sống của mình không?”

Suỵt, Perry nói. Đừng làm hỏng bầu không khí. Ta cần để giây phút này trôi qua.

Tôi bồng bềnh trong những giọt nước mắt bị kiềm nén của gã chờ đợi trong bóng tối mằn mặn ấy.

* * *

Ánh mặt trời buổi sáng tràn qua cửa sổ ban công phòng ngủ cúa Julie. Những nét vẽ màu xanh lân tinh đã chìm lại vào trần nhà màu trắng. Hai cô gái vẫn đang ngủ, nhưng tôi cứ nằm thức chong chong, chỉ chập chờn ngủ được mấy tiếng. Không thể nằm im được nữa, tôi chui ra khỏi chăn và co duỗi những khớp xương kẽo kẹt, để cho mặt trời rọi lên một bên mặt này, rồi bên mặt kia. Nora nói mê mấy từ chuyên ngành y tá, “phân bào có tơ” hoặc là “phân bào giảm nhiễm”, cũng có thể là “hoại tử” và tôi nhận ra cuốn sách giáo khoa đầy nếp quăn đang để mở trên bụng cô. Tôi tò mò cúi xuống, rồi cẩn thận nhấc quyển sách lên.

Tôi không đọc được tựa sách. Nhưng tôi lập tức nhận ra cái bìa. Một khuôn mặt đang ngủ bình thản chìa cái cổ hở đầy mạch máu cho người xem. Đó là cuốn sách tra cứu y khoa, Sách giải phẫu của Gray.

Lo lắng liếc qua vai, tôi cầm quyển sách nặng trịch ra ngoài hành lang và lật qua các trang. Những bức tranh phức tạp vẽ hình cơ thể, nội tạng và bộ xương của con người đều rất quen thuộc với tôi, mặc dù trong sách những thân thể này vẫn sạch trơn và hoàn hảo, các chi tiết không bị xóa nhòa bởi rác bẩn hay chất lỏng. Từng phút trôi qua trong khi tôi săm soi từng hình minh họa, bị xô đẩy bởi cảm giác tội lỗi pha lẫn với mê hoặc như chú bé Công giáo với quyển tạp chí Playboy vậy. Tất nhiên tôi không đọc về các dòng chú thích, nhưng trong khi tôi ngắm các hình vẽ, một vài từ Latin lại hiện lên trong óc tôi, có lẽ là nhớ lại từ cuộc sống trước kia của tôi, một bài giảng ở trường đại học hay một bộ phim tài liệu trên TV mà tôi đã thu thập được ở đâu đó. Những kiến thức này có vẻ thật ghê tởm trong não tôi, nhưng tôi vẫn ăn lấy chúng, giữ chặt chúng, khắc sâu chúng vào trí nhớ của mình. Tại sao tôi phải làm vậy? Tại sao tôi lại muốn biết tên và chức năng của những kết cấu đẹp đẽ mà tôi đã xâm phạm suốt bao lâu nay? Bởi vì tôi không đáng được để cho chúng vô danh. Tôi muốn nỗi đau khi biết về chúng, và qua đó cũng để biết về chính mình: chính xác tôi là ai và là cái gì. Có lẽ với con dao mổ đỏ rực được tiệt trùng bằng nước mắt ấy, tôi có thể bắt đầu khoét hết từng phần ung thối trong cơ thể mình.

Hàng giờ trôi qua. Khi tôi đã xem hết từng trang một và nặn hết từng âm tiết từ trí nhớ của mình, tôi nhẹ nhàng đặt quyển sách lại chỗ cũ trên bụng Nora và rón rén bước ra ban công, hy vọng mặt trời ấm áp sẽ phần nào xoa dịu cơn nôn nao tinh thần đang cào cấu trong tôi.

Tôi dựa người vào lan can và nhìn ngắm khung cảnh chật hẹp của thành phố nơi Julie ở. Đêm qua nó tối tăm và im lìm đến thế, vậy mà giờ lại ồn ào vầ tấp nập chẳng khác gì quảng trường Thời Đại. Tôi băn khoăn tự hỏi, mọi người đang làm gì? Sân bay của các Xác Sống có đám đông, nhưng không có hoạt động thực sự. Chúng tôi không làm gì cả, chúng tôi chỉ đợi cho mọi chuyện xảy ra. Bao nhiêu ý chí của những Người Sống gộp lại thành một hỗn hợp say sưa, và tôi đột nhiên mong được hòa nhập vào đám người kia, chạm vai và huých khuỷu tay để giành chỗ giữa những mùi mồ hôi và hơi thở đó. Nếu các câu hỏi của tôi có câu trả lời thì chắc chắn chúng phải nằm dưới kia, dưới gót chân nện rầm rập của những bàn chân bẩn thỉu ấy.

Tôi nghe thấy hai cố cái cuối cùng cũng thức giấc và đang nói chuyện nho nhỏ ở trong buồng. Tôi quay vào và luồn vào dưới chăn cạnh Julie.

“Chào buổi sáng, R,” Nora nói, có vẻ không chân thành lắm. Tôi nghĩ cô thấy việc nói chuyện với tôi như với người bình thường hẵng còn khá mới mẻ; trông như thể cô muốn cười khúc khích mỗi khi thừa nhận sự có mặt của tôi. Thật là bực mình, nhưng tôi cũng hiểu được phản ứng đó. Tôi là một điều nực cười cần phải mất thời gian mới quen được.

“Chào,” Julie lên tiếng và nhìn tôi từ đầu kia của cái gối. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nàng kém xinh như thế, mắt sưng húp, tóc rối bù. Tôi tự hỏi đêm đêm nàng ngủ có ngon không, và giấc mơ của nàng thế nào. Tôi ước mình có thể bước vào chúng được như nàng bước vào giấc mơ của tôi.

Nàng nghiêng người sang bên và chống khuỷu tay lên đỡ lấy đầu. nàng hắng giọng. “Thế đấy, anh đang ở đây. Giờ thì sao?”

“Muốn được xem… thành phố.”

Nàng nhìn mặt tôi dò xét. “Vì sao?”

“Muốn xem… sống như thế nào. Người sống ấy.”

Nàng mím môi lại. “Quá nguy hiểm. Sẽ có người chú ý đến anh.”

“Thôi nào, Julie,” Nora nói. “Hắn đã đi bộ đến tận đây, cứ cho hắn đi tham quan đi. Bọn mình có thể hóa trang cho hắn để không ai nhận ra. Hắn đã qua mặt được Ted thì tớ dám chắc để hắn đi lại một chút cũng không sao đâu, nếu bọn mình cẩn thận. Anh sẽ cẩn thận chứ, phải không R?”

Tôi gật đầu, mắt vẫn nhìn Julie. Nàng im lặng một hồi lâu. Rồi nàng nằm vật ra và nhắm mắt lại, thở ra một hơi chậm rãi nghe như tiếng chấp thuận.

“Hoan hô!” Nora reo lên.

“Bọn mình có thể thử. Nhưng R này, nếu sau khi hóa trang mà trông anh vẫn không giống thì không tham quan gì hết. Và nếu tôi thấy có ai nhìn anh quá chăm chú thì cũng dừng tham quan ngay. Đồng ý chứ?”

Tôi gật đầu.

“Không được gật đầu. Nói đi.”

“Đồng ý.”

Nàng chui ra khỏi chăn và trèo lên giường. Nàng ngắm tôi từ đầu đến chân. “Được rồi,” nàng nói, tóc xù ra khắp mọi hướng. “Sửa sang cho anh nào.”

* * *

Tôi ước gì cuộc đời mình là một bộ phim, để tôi có thể dựng được một phim ngắn. Một chuỗi cảnh phim với nền là một bài nhạc Pop nhàm chán nào đó sẽ dễ chịu hơn nhiều so với hai giờ đồng hồ khốn khổ mà hai cô gái bỏ ra để biến đổi tôi, để làm tôi trở thành thứ tạm giống con người. Họ gội đầu và tỉa tóc cho tôi. Họ đánh răng tôi đến mòn một cái bàn chải mới tinh, nhưng nụ cười của tôi cũng chỉ được bằng nụ cười của một anh chàng người Anh nghiện cà phê thôi. Họ thử mặc cho tôi mấy thứ quần áo hơi nam tính của Julie, nhưng Julie bé như một con yêu tinh và tôi xé toạc áo phông, làm khuy áo bay tứ tung như một vận động viên thể hình. Cuối cùng họ đành bỏ cuộc, và tôi trần như nhộng đứng đợi trong phòng tắm trong khi họ ném bộ quần áo công sở của tôi vào máy giặt.

Trong lúc chờ đợi, tôi quyết định tắm một cái. Đây là một việc tôi đã quên từ lâu, và tôi tận hưởng nó như tận hưởng một ngụm rượu hay nụ hôn đầu tiên. Nước nóng phả lên tấm thân bị tàn phá của tôi, rửa sạch bụi đất và máu me đã bám lên trong bao nhiêu tháng hay bao nhiêu năm, một phần trong số máu me ấy là của tôi, nhưng chủ yếu là của người khác. Những chất bẩn đấy xoáy tròn đổ xuống cống, xuống đất ngầm nơi nó thuộc về. Làn da thật của tôi hiện ra, tái xám, đầy những vết cắt, vết xước và vết đạn sượt qua, nhưng giờ đã sạch sẽ.

Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cơ thể mình.

Khi quần áo tôi đã khô và Julie đã vá lại những lỗ rách to nhất, tôi mặc đồ vào, thích thú với cảm giác sạch sẽ mới lạ. Áo sơ mi tôi không còn dính người nữa. Quần tôi cũng không còn chà xát lên da nữa.

“Ít nhất thì anh cũng nên bỏ cà vạt ra,” Nora gợi ý. “Với bộ đồ bảnh chọe như thế trông anh lỗi mốt đến mười cuộc chiến tranh đấy.”

“Không, cứ đeo nó đi,” Julie nói, nhìn mảnh vải ấy với nụ cười kì lạ. “Tôi thích cái cà vạt. Nó là thứ duy nhất giúp cho người anh không chỉ toàn một màu xám.”

“Nhưng chắc chắn nó sẽ không giúp hắn hòa nhập đâu, Jules. Cậu có nhớ mình đã bị nhìn ngó như thế nào khi bọn mình đi giày thể thao thay vì ủng lao động không?”

“Chính thế đấy. Mọi người đã biết tớ với cậu không mặc đồng phục, chừng nào R còn đi với bọn mình thì anh ấy cũng có thể mặc quần sooc thun đội mũ chóp cao mà cũng chẳng bị ai để ý.”

Nora cười. “Tớ thích ý tưởng ấy đấy.”

“Vậy là cái cà vạt lụa đỏ chói mắt được giữ lại. Julie giúp tôi thắt nó vào. Nàng chải tóc cho tôi và bôi lên một ít keo. Nora phun nước hoa đàn ông khắp người tôi.

“Eo ơi, Nora,” Julie phản đối. “Tớ ghét thứ này lắm. Và anh ấy cũng có bốc mùi đâu.”

“Cũng hơi bốc mùi một chút.”

“Ừ, bây giờ thì có bốc mùi rồi đấy.”

“Thà rằng hắn cứ bốc mùi nhà máy hóa chất còn hơn là bốc mùi xác chết, phải không? Như thế này thì lũ chó sẽ tránh xa.”

Họ bàn cãi có nên cho tôi đeo kính râm để che mắt không, nhưng rốt cuộc họ quyết định như thế là còn đáng chú ý hơn là để cặp mắt xám kì dị của tôi tự hiển hiện.

“Trông cũng không dễ nhận lắm,” Julie nói. “Chỉ cần anh đừng đấu nhãn với ai là được.”

“Anh sẽ ổn thôi,” Nora thêm vào. “Dù sao thì ở đây mọi người cũng chẳng nhìn nhau bao giờ.”

Bước cuối cùng trong kế hoạch trùng tu là trang điểm. Trong khi tôi ngồi trước gương như một nữ minh tinh Hollywood chuẩn bị cho cú quay cận cảnh, họ trát phấn cho tôi, họ bôi son cho tôi, họ tô màu cho làn da đen trắng của tôi. Khi họ làm xong, tôi trố mắt nhìn vào gương một cách kinh ngạc.

Tôi là người sống.

Tôi là một anh chàng công chức điển trai, vui vẻ, thành đạt, đang ở độ sung sức nhất, vừa rời khỏi một cuộc họp để đến phòng tập thể thao. Tôi cười phá lên. Tôi nhìn bóng mình trong gương và sự kì cục nực cười của hình ảnh ấy cứ thế trào ra.

Cười. Lại là một điều đầu tiên khác đối với tôi.

“Ôi trời…” Nora nói, lùi lại nhìn tôi, và Julie nói, “Hờ,” nàng ngoẹo đầu sang một bên. “Trông anh…”

“Trông anh nóng bỏng!” Nora buột ra. “Cho tớ mượn hắn được không, Julie? Chỉ một đêm thôi?”

“Ngậm cái mồm bậy bạ của cậu lại,” Julie vừa cười vừa ngắm tôi. Nàng chạm vào trán tôi, vào cái khe hẹp không một giọt máu nơi nàng đã từng ném con dao vào. “Chắc mình phải che chỗ đó lại. Xin lỗi nhé, R.” Nàng dán một miếng băng dính lên vết thương và nhẹ nhàng ép nó xuống. “Rồi.” Nàng lại lùi lại và ngắm tôi như một nhà họa sĩ cầu toàn, đã hài lòng nhưng vẫn còn một chút băn khoăn.

“Được… chứ?” tôi hỏi.

“Hừm,” nàng nói.

Tôi tặng nàng một nụ cười lấy lòng đẹp hết mức, môi nhệch ra.

“Ôi Chúa ơi. Nhất quyết là không được làm thế.”

“Cứ tự nhiên đi,” Nora nói. “Giả vờ như anh đang ở nhà mình, ở sân bay, xung quanh là bạn bè, nếu như anh có bạn bè.”

Tôi nhớ lại giây phút Julie đặt tên cho tôi, nhớ lại cảm giác ấm áp đã tràn lên mặt tôi lần đầu tiên khi chúng tôi chia nhau một chia bia và một đĩa đồ ăn Thái.

“Đấy, tốt hơn rồi,” Nora nói.

Julie gật đầu, áp nắm tay lên nụ cười trên miệng như để giữ một luồng cảm xúc nào đó. Một sự pha trộn giữa thích thú, tự hào và âu yếm. “Trông anh được lắm, R ạ.”

“Cảm… ơn.”

Nàng hít một hơi thật sâu vẻ quyết tâm. “Được rồi.” Nàng đội một cái mũ len lên đầu để che mớ tóc bù xù và kéo khóa chiếc áo nỉ lên. “Sẵn sàng để xem nhân loại đã làm gì kể từ khi anh rời bỏ nó chưa?”

TRONG NHỮNG NGÀY săn tìm ở thành phố trước kia, tôi thường nhìn lên tường Sân vận động và tưởng tượng ra trong đó là một thiên đường. Tôi mặc nhiên cho rằng nó là một nơi hoàn hảo, rằng mọi người sống trong đó đều sung sướng, đẹp đẽ và không thiếu thứ gì, và theo cái cách đờ đẫn, hạn hẹp của mình, tôi thấy ghen tị và càng muốn ăn thịt họ hơn. Nhưng hãy nhìn nơi này xem. Những tấm mái tôn sóng phản quang chói mắt dưới ánh nắng. Những cái chuồng đầy ruồi nhốt gia súc bị bơm đầy hooc môn và miệng không ngừng la rống. Những thứ quần áo cáu bẩn không sao giặt sạch được phơi trên những sợi dây chằng giữa các tòa nhà, phất phơ trong gió như cờ trắng đầu hàng.

“Chào mừng đến thành phố Sân vận động,” Julie nói và giang rộng hai tay. “Nơi cư trú lớn nhất của loài người ở vùng trước kia là nước Mỹ.”

Tại sao chúng ta lại ở lại? Những giọng nói thì thào sâu thẳm trong tôi trong khi Julie chỉ ra các địa giới và những nơi đáng chú ý. Thành phố là cái gì và tại sao chúng ta lại cứ tiếp tục xây chúng? Vứt bỏ đi nền văn hóa, sự thông thương, các cửa hàng mua bán và giải trí, thì cái gì còn lại? Chỉ là một dãy các con phố vô danh với những người vô danh ư?

“Có hơn hai mươi ngàn người chui rúc trong cái bể cá này,” Julie nói khi chúng tôi chen qua đám đông đặc cứng ở quảng trường trung tâm. “Chẳng mấy chốc nữa, nó sẽ đông đến mức chúng tôi sẽ dính sát vào nhau. Loài người sẽ chỉ còn là một con amip khổng lồ không trí não.”

Tại sao chúng ta không tản ra? Đi về những vùng cao và định cư ở những nơi không khí cùng nguồn nước trong lành hơn? Chúng ta cần gì ở nhau trong cái đám thân thể lúc nhúc đầy mồ hôi này?

Tôi cố giữ mắt mình luôn nhìn xuống đất, hòa vào đám đông và không thu hút sự chú ý của ai. Tôi lén nhìn những tháp canh, bể nước và những tòa nhà mới đang mọc lên dưới tia lửa điện lóe sáng của những người thợ hàn, nhưng chủ yếu tôi chỉ nhìn dưới chân mình. Mặt đường nhựa. Những góc sắc cạnh mềm đi vì bùn và phân chó.

“Chúng tôi chỉ nuôi trồng chưa được một nửa những gì chúng tôi cần để sống sót,” Julie nói khi cả bọn đi qua khu vườn, một mảng xanh thoáng qua như một giấc mơ đằng sau các bức tường trong mờ của nhà kính. “Vì vậy thức ăn thật được chia thành khẩu phần rất nhỏ, vì chúng tôi bù vào chỗ thiếu trong suất ăn bằng Carbtein.” Ba cậu thiếu niên mặc áo liền quần màu vàng bê một thùng cam ngang qua chúng tôi, và tôi nhận thấy một gã trong bọn có những vết lở loét rất lạ chạy dọc một bên mặt, những mảng nâu trũng xuống như chỗ bị nhũn trên quả táo, như thể các tế bào đã bị sụp đổ vậy. “Đấy là chưa kể đến việc mỗi tháng chúng tôi dùng hết số thuốc bằng của cả một hiệu thuốc. Các đội tìm kiếm không thể cáng đáng đủ. Chẳng mấy chốc nữa chúng tôi sẽ phải gây chiến với các vùng định cư khác vì một lọ Prozac[1] cuối cùng.”

[1] Thuốc an thần dùng để trị bệnh trầm cảm

Có phải là chỉ vì sợ hãi hay không? Những giọng nói băn khoăn. Vào những thời khắc tốt đẹp nhất chúng ta vẫn sợ, thì làm sao chúng ta có thể chống chọi được với thời khắc tồi tệ nhất? Vì vậy chúng ta đã đi tìm những bức tường cao nhất và dồn vào trốn phía sau chúng. Chúng ta cứ dồn cho tới khi chúng ta trở nên lớn nhất và mạnh nhất, bầu được những vị tướng giỏi nhất và tìm thấy nhiều vũ khí nhất, bởi vì chúng ta cho rằng những cái nhất ấy sẽ tạo nên hạnh phúc. Nhưng một điều hiển nhiên như thế sẽ không bao giờ có tác dụng.

“Tôi thấy lạ nhất một điều,” Nora nói khi lách qua cái bụng to tướng của một bà chửa vượt mặt, “là bất chấp những nhu cầu và sự khan hiếm này, người ta vẫn đẻ sòn sòn. Họ cứ liên tục tuồn ra những bản sao của chính mình chỉ vì đó là truyền thống, vì từ trước tới giờ chúng ta luôn làm vậy.”

Julie liếc nhìn Nora và mở miệng, rồi lại ngậm miệng vào.

“Và mặc dù chúng tôi đang sắp chết đói dưới một núi tã lót bẩn, thì không có ai đủ can đảm thậm chí chỉ để gợi ý là mọi người nên kế hoạch hóa ít lâu.”

“Ừ, nhưng mà…” Julie lên tiếng, giọng rụt rè khác hẳn bình thường. “Tớ không biết nữa… việc sinh con cũng rất tuyệt, cậu không thấy thế ư? Khi chúng ta vẫn tiếp tục sống và sinh trưởng mặc dù thế giới đã biến thành xác chết?”

“Chuyện loài người cứ tiếp tục quay lại thì có gì là tuyệt chứ? Bệnh mụn rộp cũng luôn quay lại đấy thôi.”

“Thôi đi Nora, cậu yêu nhân loại mà. Chỉ có Perry mới là kẻ chán đời thôi.”

Nora cười và nhún vai.

“Đây không phải là chuyện tăng dân số, mà là truyền lại lịch sử và kiến thức của con người để tất cả có thể tiếp tục. Để chúng ta không kết thúc. Tất nhiên là theo một cách nào đó thì nghe có vẻ ích kỉ thật, nhưng nếu không thế thì cuộc sống ngắn ngủi của chúng ta có ý nghĩa gì đâu?”

“Tớ đoán là đúng thế thật,” Nora nhượng bộ. “Chúng ta chẳng còn di sản nào khác trong cái thế giới sau-tất-cả-mọi-thứ này.”

“Đúng đấy. Tất cả đều đang biến dần đi. Tớ nghe nói quốc gia cuối cùng trên thế giới vừa sụp đổ hồi tháng một.”

“Thế à? Là nước nào đấy?”

“Không nhớ. Hình như là Thụy Điển thì phải.”

“Tức là quả đất đã chính thức bị xóa sổ? Buồn thật.”

“Ít nhất thì cậu vẫn còn chút di sản văn hóa chứ. Bố cậu là người Ethiopia phải không?”

“Ừ, nhưng cái đó thì có nghĩa gì với tớ chứ? Bố tớ không nhớ đất nước cũ của mình, tớ chưa bao giờ đến đó, và giờ nó không còn tồn tại nữa. Tớ chỉ còn lại nước da nâu này, mà bây giờ thì ai còn để ý màu da nữa?” Cô phẩy tay về phía mặt tôi. “Một hai năm nữa là tất cả bọn mình sẽ trở thành màu xám ngoét hết.”

Tôi tụt lại phía sau trong khi họ tiếp tục tranh luận. Tôi ngắm họ nói chuyện và đưa tay chỉ trỏ, lắng nghe giọng nói của họ mà không chú ý xem họ đang nói cái gì.

Chúng ta còn lại những gì? Những hồn ma rên rỉ, lùi dần vào bóng tối trong tiềm thức của tôi. Không quốc gia, không văn hóa, không chiến tranh, nhưng cũng không có hòa bình. Cái gì nằm trong thâm tâm chúng ta? Cái gì vẫn còn vặn vẹo trong từng khúc xương khi tất cả những thứ khác đã bị lột bỏ?

* * *
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Chiều muộn hôm đó, chúng tôi đến con đường trước kia có tên là phố Ngọc. Ngôi trường đứng đợi chúng tôi ở cuối phố, dáng bè bè đầy tự đắc, và tôi thấy bụng mình thắt lại. Julie ngần ngừ ở ngã tư, nhìn về phía những ô cửa sáng đèn của trường vẻ trầm tư. “Đó là chỗ huấn luyện,” nàng nói. “Nhưng anh không muốn nhìn thấy trong đó đâu. Đi tiếp thôi.”

Tôi nhẹ người đi theo nàng rời khỏi con đường tối tăm đó, nhưng vừa đi tôi vừa nhìn kĩ tấm bển tên phố mới sơn xanh. Tôi dám chắc chữ cái đàu tiên là chữ J.

“Phố ấy… tên gì?” Tôi chỉ tấm biển nói.

Julie mỉm cười. “Thì là phố Julie chứ còn gì nữa.”

“Trước kia nó là hình một viên kim cương hay đại loại như thế.” Nora nói, “nhưng bố cô ấy đặt nó theo tên con gái khi xây trường. Dễ thương nhỉ?”

“Đúng là dễ thương thật,” Julie thừa nhận. “Thỉnh thoảng bố tôi cũng có những cử chỉ như thế.’

Nàng dẫn chúng tôi đi vòng quanh tường đến một đường hầm rộng, tối, đối diện cổng chính. Tôi nhận ra đây là đường hầm mà các đội bóng thường đi qua để kiêu hãnh tiến vào sân vận động, từ cái hồi mà hàng ngàn người còn có thể reo hò cổ vũ cho những điều vặt vãnh như thế. Và vì đường hầm ở đầu bên kia dẫn vào thế giới của Người Sống, cũng thật hợp lí khi đường hầm này lại dẫn vào nghĩa địa.

Julie chìa thẻ căn cước cho mấy lính gác và họ cho chúng tôi đi qua cổng sau. Chúng tôi bước vào một cánh đồng trập trùng bao quanh là hàng trăm mét hàng rào dây thép. Những cây táo gai đen ngòm vặn cành vươn tới bầu trời lốm đốm màu xám vàng, đứng canh những bia mộ kiểu cổ có cả thập tự và tượng thánh. Tôi đoán chừng được lấy về từ một nhà tang lễ bỏ hoang nào đó. Vì những cái tên và ngày tháng được khắc lên đó đã bị phủ lấp những chữ tô vụng bằng sơn trắng. Những tấm bia nhìn giống hệt chữ kí trên các bức tranh tường.

“Đây là nơi chúng tôi chôn… những gì còn lại.” Julie nói. Nàng bước tới trước mấy bước trong khi tôi và Nora đứng ở ngoài cổng. Ngoài đây, với cánh cổng đóng lại sau lưng chúng tôi, những âm thanh ồn ào của sự sống đã biến mất, thay thế bởi cái tĩnh lặng khắc nghiệt của những người đã chết hẳn. Mỗi thi thể yên nghỉ ở đây đều không có đầu, bị bắn vào óc, hoặc chỉ là những mẩu xương thịt còn sót lại nhét trong một cái hộp. Tôi có thể hiểu vì sao họ lại xây Nghĩa địa ở bên ngoài Sân vận động; không chỉ bởi nó chiếm nhiều đất hơn tất cả những đồng ruộng ở bên trong, mà chắc hẳn còn vì nó không có ảnh hưởng tốt đến tinh thần của mọi người. Đây là một điều nhắc nhở đáng sợ hơn nhiều so với những nghĩa địa sáng sủa của thế giới cũ, với những cái chết yên bình và requiem eternum[2]. Đây là một ý niệm về tương lai của chúng ta. Không phải là tương lai của từng cá nhân, vì cái chết của từng cá nhân chúng ta có thể chấp nhận được, mà là tương lai của loài người, của nền văn mình, của toàn bộ thế giới.

[2] Tiếng Latin, nghĩa là: yên nghỉ vĩnh hằng.

“Cậu chắc là hôm nay cậu muốn đi vào đó đấy chứ?” Nora khẽ hỏi Julie.

Julie nhìn những ngọn đồi điểm mấy ngọn cỏ màu nâu. “Ngày nào tớ chẳng đến đây. Hôm nay cũng là một ngày. Hôm nay là thứ Ba.”

“Ừ, nhưng… cậu có muốn bọn này đợi ở đây không?”

Nàng quay lại nhìn tôi và ngẫm nghĩ một lát. Rồi nàng lắc đầu. “Không. Đi nào.” Nàng bước đi và tôi bám theo. Nora theo sau cách một quãng dài, với vẻ sững sờ không thốt nổi nên lời.

Trong nghĩa địa này không có lối đi. Julie bước thẳng qua các tấm bia và ngôi mộ, nhiều cái đất hãy còn mềm và ẩm ướt. Mắt nàng tập trung vào một ngọn thác cao, trên đỉnh là một bức tượng thiên thần bằng cẩm thạch. Chúng tôi dừng lại trước ngôi mộ, tôi và Julie đứng cạnh nhau, Nora vẫn cách một quãng phía sau. Tôi cố đọc tên ngôi mộ nhưng không đọc nổi. Ngay cả những chữ cái đầu tiên tôi cũng không luận ra được.

“Đây là… mẹ tôi.” Julie nói. Hơi gió lạnh buổi tối thổi tóc bay vào mắt nàng, nhưng nàng không gạt ra. “Mẹ đi năm tôi mười hai tuổi.”

Sau lưng chúng tôi Nora có vẻ lúng túng, rồi cô bỏ đi và giả vờ ngắm các tấm bia.

“Tôi đoán là mẹ đã phát điên,” Julie nói. “Một đêm mẹ một mình chạy vào thành phố, và thế là xong. Họ tìm thấy mấy mảnh còn lại của mẹ, nhưng… trong mộ này không có gì.” Giọng nàng vẫn bình thường. Tôi chợt nhớ đến khi nàng bắt chước những Người Chết trong sân bay, cái cách nàng cường điệu hóa mọi cử động, chiếc mặt nạ mỏng tang của nàng. “Tôi đoán những cái này quả quá sức chịu đựng của mẹ, tất cả mọi thứ.” Nàng khoát tay về phía nghĩa địa và Sân vận động phía sau. “Mẹ tôi là người rất tự do tự tại, anh biết không? Một nữ thần bohemian hoang dại rực lửa. Mẹ gặp bố tôi lúc mới 19 tuổi. Kể cũng khó tin, nhưng lúc ấy bố tôi là nhạc sĩ, chơi piano trong một ban nhạc rock, chơi cũng khá giỏi. Họ lấy nhau khi còn rất trẻ, và rồi… tôi không biết nưa… thế giới sụp đổ, và bố thay đổi. Tất cả đều thay đổi.”

Tôi cố dò mắt nàng nhưng tóc nàng vẫn che khuất chúng. Tôi nghe thấy một thoáng run rẩy trong giọng nàng. “Mẹ đã cố. Cố gắng thực sự. Mẹ nỗ lực tham gia giữ gìn trật tự, hoàn thành phần việc hàng ngày được giao, rồi chỉ còn có tôi. Mẹ trút tất cả vào tôi. Bố chẳng mấy khi có nhà nên lúc nào cũng chỉ có mẹ và con nhóc này. Tôi còn nhớ hai mẹ con đã rất vui, mẹ thường dẫn tôi đến công viên nước ở…” Một tiếng nấc nhỏ bật ra khiến nàng ngạc nhiên, nghẹn ngào không nói tiếp được, và nàng đưa tay lên che miệng. Đôi mắt đằng sau những món tóc cáu bẩn nhìn tôi cầu khẩn. Tôi nhẹ nhàng gạt tóc ra khỏi nàng. Nàng tránh nhìn tôi và quay về phía ngôi mộ. “Mẹ tôi sinh ra không phải để dành cho cái nơi khốn kiếp này.” Nàng nói, giọng run run thành ra the thé. “Mẹ biết làm gì ở đây? Tất cả những thứ mang lại sự sống cho mẹ đều đã biến mất rồi. Mẹ chỉ còn một con bé mười hai tuổi ngủ ngốc răng khấp khểnh đêm đêm lại đánh thức mẹ dậy để ôm ấp xua đi một cơn ác mộng. Thảo nào mà mẹ muốn thoát ra.”

“Thôi đi,” tôi cương quyết nói, và xoay người nàng lại đối mặt với tôi. “Thôi ngay.” Nước mắt đang tràn xuống mặt nàng, những giọt nước mặn chát tiết ra qua các ống và tuyến lệ, xuyên qua những tế bào sáng rực còn phập phồng và những mô đổ ngầu. Tôi lau chúng đi và kéo nàng vào người mình. “Em… còn sống,” tôi thì thầm vào tóc nàng. “Em… đáng người ta sống vì mình.”

Tôi cảm thấy nàng run rẩy trên ngực tôi, bám chặt lên ngực tôi trong khi tay tôi vòng quanh người nàng. Không khí im lìm chỉ còn tiếng gió rít khe khẽ. Nora giờ đang nhìn về phía chúng tôi, cuốn tay qua mớ tóc xoăn. Cô bắt gặp mắt tôi và mỉm cười buồn bã, như muốn xin lỗi vì đã không cảnh báo cho tôi. Nhưng tôi không sợ những bộ xương trong tủ[3] của Julie. Tôi mong được gặp nốt những bộ xương còn lại, nhìn thẳng vào mắt chúng, và siết chặt tay chúng đến gãy.

[3] Thành ngữ chỉ những việc xấu xa hay bí mật phải che đậy

Khi nàng đã làm ướt cả áo tôi bằng đau buồn và nước mũi thì tôi nhận ra mình sắp làm thêm điều mà tôi chưa từng làm. Tôi hít một hơi và chuẩn bị hát. “Em… thật tuyệt vời..” tôi cất giọng khàn khàn, cố tìm một chút giai điệu của Siinatra. “Thật tuyệt vời… thế thôi.”

Im lặng, rồi Julie thay đổi thái độ. Tôi chợt nhận ra nàng đang cười.

“Ôi trời,” nàng khúc khích ngước lên nhìn tôi, bên trên nụ cười ấy mắt nàng vẫn còn long lanh ướt. “Nghe hay lắm, R ạ, thật đấy. Anh và Xác Sống Sinatra nên thu âm đĩa Song ca, tập 3 đi.”

Tôi húng hắng ho. “Chưa… khởi động trước.”

Nàng vén lại tóc tôi. Nàng quay nhìn ngôi mộ. Nàng thò tay sau túi lôi ra một bông hoa cúc hái ở sân bay đã héo rũ và chỉ còn bốn cánh. Nàng đặt nó lên nền đất trước tấm bia. “Xin lỗi mẹ,” nàng khẽ nói. “Con chỉ tìm được bông này thôi.” Nàng nắm lấy tay tôi. “Mẹ, đây là R. Anh ấy rất tốt, mẹ sẽ thích anh ấy cho mà xem. Hoa này cũng là của cả anh ấy nữa.”

Mặc dù ngôi mộ trống, tôi vẫn thoáng nghĩ rằng tay mẹ nàng sẽ thọc lên khỏi nền đất túm lấy cổ chân tôi. Dù sao thì tôi cũng là một tế bào trong khối u đã giết chết bà. Nhưng nếu lấy Julie làm bằng thì tôi đoán mẹ nàng sẽ tha thứ cho tôi. Những người này, những phụ nữ người Sống tuyệt đẹp này, dường như họ không liên hệ tôi với những sinh vật đang giết hết những gì họ yêu quý. Họ coi tôi là một điều ngoại lệ, và tôi thấy mình quá tầm thường so với món quà ấy. Tôi muốn làm cách nào để đáp trả lại, để xứng đáng với lòng vị tha của họ. Tôi muốn sửa lại thế giới mà tôi đã góp phần tàn phá.

Nora quay lại với chúng tôi khi chúng tôi rời khỏi mộ bà Grigio. Cô xoa vai Julie và hôn lên đầu nàng. “Cậu không sao chứ?”

Julie gật đầu. “Vẫn ổn như mọi khi.”

“Cậu có muốn nghe một tin hay không?”

“Muốn cực kì.”

“Tớ nhìn thấy một bụi hoa dại gần nhà. Chúng mọc trong một cái rãnh.”

Julie mỉm cười. nàng dụi mắt cho khô nốt những giọt lệ cuối cùng và không nói gì nữa.

Vừa đi tôi vừa ngắm nghía các tấm bia. Chúng được đặt vẹo vọ, không ra hàng lối gì, khiến nghĩa địa có vẻ hết sức cổ kính, bất chấp mấy chục ngôi mộ mới đào. Tôi nghĩ về cái chết. Tôi nghĩ cuộc sống thật ngắn ngủi biết bao khi đem so với cái chết. Tôi tự hỏi rằng nghĩa địa này sâu bao nhiêu, có bao nhiêu lớp quan tài chồng lên nhau, và bao nhiêu phần đất được tạo nên bởi thân xác thối rữa của chúng ta.

Rồi một điều gì đó cắt ngang những suy nghĩ đen tối của tôi. Tôi thấy bụng bỗng thót lại, một cảm giác kì lạ mà trong trí tưởng tượng của tôi cũng chẳng khác gì người mẹ cảm thấy thai nhi đá trong bụng. Tôi dừng bước và quay lại. Một tấm bia hình chữ nhật đơn giản dõi theo tôi từ một đỉnh đồi gần đó.

“Đợi đã,” tôi nói với hai cô gái, rồi đi lên đồi.

“Hắn làm gì thế?” Tôi nghe thấy Nora thì thào hỏi. “Có phải đó là…?”

Tôi dừng lại trước ngôi mộ, nhìn trừng trừng vào cái tên trên tấm bia. Một cảm giác nôn nao chóng mặt xuyên qua chân tôi, như thể một vực thẳm há toác đang mở ra trước mặt tôi, kéo tôi về phía nó với một sức mạnh đen tối, không sao cưỡng lại nổi. Bụng tôi lại thót lên, tôi cảm thấy cuống não mình bị giật một cái… tôi ngã xuống.

TÔI LÀ PERRY KELVIN, và đây là ngày cuối đời của tôi.

Thật là một cảm giác kỳ lạ khi thức dậy với ý nghĩ ấy. Cả đời mình tôi đã chống lại cái đồng hồ báo thức, không ngừng bấm nút “ngủ” với nỗi chán ghét bản thân mỗi lúc một dâng cao cho tới khi sự hổ thẹn đẩy tôi ngồi dậy. Chỉ trong những buổi sáng rực rỡ nhất, những ngày hiếm hoi đầy sinh lực, quyết tâm, và có lý do rõ ràng để sống, tôi mới có thể bật dậy một cách dễ dàng. Thật lạ làm sao, tôi lại có thể làm như thế vào ngày hôm nay.

Julie khẽ rên một tiếng khi tôi gỡ mình khỏi cánh tay nổi da gà của nàng và chui ra khỏi giường. Nàng quấn nửa chăn của tôi quanh mình và cuộn tròn lại áp lưng vào tường. Nàng sẽ ngủ thêm hàng giờ nữa, mơ về những phong cảnh bất tận và những tân tinh đầy màu sắc vừa đẹp đẽ vừa đáng sợ. Nếu tôi ở lại, nàng sẽ thức dậy và miêu tả chúng cho tôi. Tất cả những cốt truyện thắt nút điên rồ và những hình ảnh siêu thực ấy, vô cùng sống động đối với nàng nhưng lại chẳng có ý nghĩa gì với tôi. Đã từng có thời tôi trân trọng việc được lắng nghe nàng, khi tôi thấy những rung động trong tâm hồn nàng thật tuyệt vời, vừa cay đắng vừa ngọt ngào, nhưng giờ thì tôi không chịu nổi nữa. Tôi cúi xuống định hôn tạm biệt nàng, nhưng môi tôi cứng lại và tôi rúm người tránh xa khỏi nàng. Tôi không thể. Tôi không thể. Tôi sẽ khuỵu xuống đây mất. Tôi lùi lại và bỏ đi mà không chạm vào nàng.

Tròn hai năm trước bố tôi bị đè nát dưới bức tường mà chính ông đang xây nên, và tôi trở thành trẻ mồ côi. Tôi đã nhớ bố suốt bảy trăm ba mươi ngày, nhớ mẹ tôi còn lâu hơn thế, nhưng ngày mai tôi sẽ không nhớ ai nữa. Tôi nghĩ về điều này khi bước xuống các bậc thang xoáy ốc của trại trẻ, ngôi nhà khốn nạn chất chứa những kẻ bỏ đi, và vào thành phố. Bố, mẹ, ông, các bạn bè của tôi... ngày mai tôi sẽ không nhớ ai nữa.

Còn sớm và mặt trời chưa lên hết đỉnh núi, nhưng thành phố đã tỉnh dậy từ lâu. Các con phố đông nghẹt người lao động, các đội sửa chữa, những bà mẹ đẩy những chiếc xe cũ kỹ và các bà mẹ nuôi dắt theo hàng đàn trẻ con như dắt gia súc. Đâu đó ở xa xa ai đang chơi kèn clarinet, những nốt nhạc run rẩy tràn qua bầu không khí buổi sáng như tiếng chim, và tôi cố ngăn không cho nó lọt vào tai. Tôi không muốn nghe tiếng nhạc, tôi không muốn thấy ráng hồng của bình minh. Thế giới này là kẻ dối trá. Sự xấu xa của nó đã át hết tất cả; những mẩu vụn đẹp đẽ chỉ làm nó tệ hơn mà thôi.

Tôi đi đến tòa nhà hành chính ở phố Đảo và nói với nhân viên lễ tân là tôi có buổi hẹn lúc bảy giờ với Tướng Grigio. Chị ta dẫn tôi đến văn phòng của ông rồi đóng cửa lại. Vị tướng không ngẩng lên khỏi đống giấy tờ trên bàn. Ông chỉ giơ một ngón tay lên với tôi. Tôi đứng đợi, đưa mắt nhìn vơ vẩn những thứ treo trên tường. Một bức ảnh chụp Julie. Một bức ảnh chụp mẹ Julie. Một bức ảnh đã phai màu chụp chính ông và Đại tá Rosso hồi còn trẻ, mặc quân phục Mỹ chính quy, đang hút thuốc trước một đường chân trời ngập trong biển nước của thành phố New York. Cạnh đó là một bức ảnh khác cũng chụp hai người đang hút thuốc, lần này là trước một thành London nát vụn. Rồi Paris bị bom san phẳng. Rồi Rome đang còn âm ỉ cháy.

Cuối cùng vị tướng cũng đặt giấy tờ xuống. Ông bỏ kính ra và ngắm nhìn tôi. “Cậu Kelvin,” ông nói.

“Thưa ngài.”

“Hôm nay là buổi thu gom đầu tiên của cậu với tư cách là trưởng nhóm.”

“Vâng, thưa ngài.”

“Cậu đã sẵn sàng chưa?”

Lưỡi tôi ngập ngừng một giây trong khi những hình ảnh nào là ngựa, nào là nghệ sĩ chơi cello, nào là dấu son môi đỏ thắm trên miệng ly rượu tràn qua óc tôi, cố làm tôi sẩy bước. Tôi đốt cháy chúng như đốt đống phim cũ. “Đã sẵn sàng, thưa ngài.”

“Tốt. Đây là giấy phép ra vào của cậu. Giờ cậu đến trung tâm cộng đồng gặp Đại tá Rosso để nhận danh sách nhóm.”

“Cảm ơn ngài.” Tôi cầm lấy tờ giấy và quay lưng định đi. Nhưng tôi dừng lại ở ngưỡng cửa. “Thưa ngài?” Giọng tôi hơi run run mặc dù tôi đã thề là sẽ không để chuyện đó xảy ra.

“Gì vậy, Perry?”

“Cho phép cháu được nói thoải mái ạ?”

“Cháu cứ nói đi.”

Tôi liếm đôi môi khô khốc. “Có lý do cho tất cả những việc này không ạ?”

“Cháu nói sao cơ?”

“Có lý do nào bắt chúng ta phải tiếp tục làm những việc này không ạ? Việc thu gom và... tất cả các việc khác ấy ạ?”

“Ta e là ta không hiểu câu hỏi của cháu, Perry ạ. Những gì chúng ta thu gom được đang giúp chúng ta sống sót.”

“Có phải chúng ta đang cố sống sót vì chúng ta nghĩ một ngày kia thế giới sẽ tốt đẹp hơn không ạ? Đó có phải là mục đích của chúng ta không?”

Nét mặt ông không biểu lộ điều gì. “Có thể.”

Giọng tôi nghẹn lại, không đường hoàng chút nào, nhưng tôi không còn kiểm soát được nó nữa. “Thế còn ngay bây giờ thì sao ạ? Có điều gì mà bác yêu đến mức muốn sống vì nó ngay bây giờ không ạ?”

“Perry...”

“Bác nói cho cháu biết được không ạ? Xin bác?”

Mắt ông lạnh như hai viên mã não. Một âm thanh trôi lên cổ ông như âm tiết nào đó, rồi dừng lại. Ông mím chặt môi. “Cuộc trò chuyện này không thích hợp.” Ông đặt cả hai tay lên bàn. “Cậu nên đi đi. Cậu có việc phải làm.”

Tôi khó khăn nuốt xuống. “Vâng, thưa ngài. Xin lỗi ngài.”

“Đến gặp Đại tá Rosso ở trung tâm cộng đồng để nhận danh sách nhóm.”

“Vâng, thưa ngài.”

Tôi bước qua cửa và đóng nó lại.

Trong văn phòng của Đại tá Rosso tôi cư xử một cách cực kỳ chuyên nghiệp. Tôi xin danh sách và ông giao chúng cho tôi, đưa cho tôi chiếc phong bì với vẻ tự hào nồng ấm trong cặp mắt nheo nheo đang kém dần. Ông chúc tôi may mắn và tôi cảm ơn ông, ông mời tôi đến ăn tối và tôi lịch sự từ chối. Giọng tôi không hề run. Tôi không hề mất bình tĩnh.

Khi đi qua sảnh của trung tâm cộng đồng, tôi liếc mắt về phía phòng tập thể dục và thấy Nora đang nhìn tôi qua ô cửa sổ cao. Cô mặc quần soóc đen vừa khít và áo ba lỗ trắng, cũng như đám trẻ con dưới mười ba tuổi trên sân bóng chuyền sau lưng cô. “Đội” của Nora, một cố gắng thảm hại của cô để mỗi tuần hai lần giúp bọn trẻ quên đi thực tại. Tôi đi qua cô mà không buồn gật đầu, và khi đang đẩy cửa ra thì tôi nghe thấy tiếng giày thể thao của cô lẹp kẹp trên mặt sàn lát gạch sau lưng mình.

“Perry!”

Tôi dừng lại và để cho hai cánh cửa tự đóng vào. Tôi quay lại đối diện với cô. “Chào.”

Cô đứng trước mặt tôi, hai tay khoanh trước ngực, mắt rắn đanh. “Hôm nay là ngày trọng đại đấy nhỉ?”

“Tớ đoán vậy.”

“Cậu sẽ đi đến khu nào? Cậu đã lên kế hoạch hết rồi chứ?”

“Tòa nhà Pfizer cũ trên đại lộ 8.”

Cô gật đầu lia lịa. “Tốt, kế hoạch ổn đấy Perry ạ. Và cậu sẽ xong việc rồi về nhà vào lúc sáu giờ chứ? Vì tối nay bọn này sẽ dẫn cậu xuống Vườn Quả, nhớ đấy. Bọn này sẽ không để cậu ủ ê suốt cả ngày hôm nay như năm ngoái đâu.”

Tôi ngắm lũ trẻ trong phòng tập, chuyền - giao - đập bóng, vừa cười vừa chửi thề. “Tớ không biết có về kịp không. Vụ thu gom này có thể muộn hơn bình thường.”

Cô vẫn gật đầu. “À. Được rồi. Bởi vì tòa nhà đó đã bị nghiêng và đầy vết nứt cùng ngõ cụt và cậu phải cẩn thận hơn bình thường, đúng không?”

“Đúng”

“Được.” Cô hất hàm về phía chiếc phong bì trong tay tôi. “Cậu đã kiểm tra chưa?”

“Chưa.”

“Thế thì cậu nên kiểm tra đi, Perry.” Chân cô nhịp nhịp trên sàn; cả người cô run lên vì cơn giận nén lại. “Cậu cần biết chắc là mình nắm được tiểu sử, điểm mạnh, điểm yếu của mỗi thành viên trong đội và các thứ đại loại thế. Của tôi chẳng hạn, bởi vì tôi cũng có mặt đấy.”

Mặt tôi ngớ ra. “Cái gì?”

“Đúng mà, tôi sẽ đi cùng, Rosso đã cho tôi vào nhóm hôm qua. Cậu có biết điểm mạnh và điểm yếu của tôi không? Trong chương trình của cậu có việc gì mà cậu nghĩ là sẽ quá khó với tôi không? Vì tôi không muốn làm hỏng cuộc thu gom đầu tiên với tư cách trưởng nhóm của cậu đâu.”

Tôi xé toạc chiếc phong bì và bắt đầu lướt qua những cái tên.

“Julie cũng tham gia đấy, cô ấy có bảo cậu thế không?”

Tôi trợn mắt rời khỏi tờ giấy.

“Đúng thế đấy, đồ khốn, có rắc rối gì với cậu không?” Giọng cô gằn xuống đến mức gần như vỡ òa. Những giọt lệ long lanh trong mắt cô. “Có bất kỳ vấn đề gì không?”

Tôi đẩy cửa lao vào bầu không khí se lạnh buổi sớm. Chim bay trên đầu. Những con bồ câu mắt lờ đờ, những con hải âu gào thét, những con ruồi và bọ ăn phân - khả năng bay lại được tống cho những sinh vật hèn kém nhất của Trái đất. Nếu như tôi biết bay thì sao? Cảm giác tự do hoàn hảo, không trọng lượng ấy. Không hàng rào, không tường, không ranh giới; tôi sẽ bay đi khắp mọi nơi, bay qua đại dương và lục địa, núi đồi và rừng rậm và thảo nguyên bất tận, và đâu đó trên thế giới, đâu đó giữa những vẻ đẹp nguyên sơ xa vời ấy, tôi sẽ tìm ra được một lý do.

* * *
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Tôi đang trôi nổi trong bóng tối của Perry. Tôi đang chìm sâu trong lòng đất. Đâu đó xa tít bên trên tôi là rễ cây, giun, và một nghĩa địa đảo ngược nơi các quan tài đánh dấu mộ phần còn các tấm bia lại bị chôn chặt xuống một khoảng không xanh biếc, che kín mọi cái tên và mọi văn bia đẹp đẽ, để tôi lại với nơi thối rữa này.

Tôi cảm thấy mặt đất quanh mình động đậy. Một bàn tay thò ra túm lấy vai tôi.

“Xin chào, thây ma.”

* * *

Chúng tôi đang ở trong chiếc 747. Đồng đồ lưu niệm của tôi đã được phân loại và xếp đặt thành từng hàng gọn ghẽ. Lối đi giữa hàng ghế được trải những tấm thảm phương Đông mềm mại. Chiếc máy quay đĩa đang khe khẽ phát ra giọng hát của Dean Martin.

“Perry?”

Gã ngồi trong khoang lái, trong ghế phi công, hai tay đặt lên bộ điều khiển. Gã đang mặc bộ đồng phục của phi công, chiếc áo sơ mi trắng loang máu. Gã mỉm cười với tôi, rồi chỉ vào cửa sổ, nơi những mảng mây đang lướt qua. “Chúng ta đã lên đến đủ độ cao. Bạn có thể đi lại trong khoang.”

Một cách chậm rãi, thận trọng, tôi đứng dậy và đi vào khoang lái với gã. Tôi lo ngại nhìn gã. Gã toét miệng cười. Tôi đưa ngón tay quệt lớp bụi quen thuộc bám trên bảng điều khiển. “Đây không phải là ký ức của cậu, phải không?”

“Không. Đây là ký ức của anh. Tôi muốn anh thoải mái.”

“Có phải tôi đang đứng trên mộ của cậu không?”

Gã nhún vai. “Chắc vậy. Tôi nghĩ trong đó chỉ có cái sọ rỗng của tôi thôi. Anh và bạn bè đã đem phần lớn xác tôi về nhà để ăn dần, nhớ không?”

Tôi mở miệng ra định xin lỗi lần nữa, nhưng gã nhắm mắt lại và gạt tôi đi. “Đừng, xin anh đấy. Chúng ta đã qua tất cả chuyện đó rồi. Hơn nữa, không hẳn là anh đã giết tôi, mà là giết Perry già hơn - khôn ngoan hơn. Tôi nghĩ giờ anh đang nói chuyện với Perry - học cấp hai, còn trẻ và lạc quan và đang viết một cuốn tiểu thuyết tên là Ma đấu Người Sói. Giờ tôi không muốn nghĩ đến chuyện chết.”

Tôi băn khoăn liếc nhìn gã. “Cậu có vẻ vui hơn nhiều so với trong ký ức của cậu.”

“Ở đây tôi có tầm nhìn xa hơn. Khó mà coi trọng cuộc sống của mình đến thế khi ta có thể thấy nó một cách toàn bộ.”

Tôi chăm chú ngắm gã. Trông gã rất giống thực, đủ cả trứng cá và các thứ. “Cậu... có phải là cậu thật không đấy?” tôi hỏi.

“Anh hỏi thế là thế nào?”

“Những lúc tôi nói chuyện với cậu từ trước đến giờ, có phải cậu chỉ là... những gì còn sót lại trong não của cậu không? Hay đó thật sự là cậu?”

Gã bật cười. “Cái đó thì có quan trọng gì?”

“Cậu là linh hồn của Perry à?”

“Có thể. Cũng gần như thế. Anh muốn gọi là gì cũng được”

“Cậu có lên... Thiên đàng không?”

Gã cười phá lên và kéo chiếc áo đẫm máu. “Ờ, không hẳn đâu. Cho dù tôi là cái gì đi chăng nữa, ‘R’ ạ, thì tôi cũng đang ở trong anh.” Gã lại cười giễu vẻ mặt của tôi. “Nghe kinh nhỉ? Nhưng Già hơn - Khôn ngoan hơn đã rời bỏ cuộc đời này một cách khá đen tối. Có lẽ đây là cơ hội để chúng ta bắt kịp hắn và giải quyết một số chuyện trước khi... anh biết đấy. Trước khi bất kỳ chuyện gì xảy ra tiếp theo.”

Tôi nhìn ra cửa sổ. Không thấy đất liền hay đại dương nào cả, chỉ những rặng núi mây mượt mà trải dài bên dưới và chất cao bên trên chúng tôi. “Ta đang đi đâu đây?”

“Tới bất kỳ nơi nào tiếp theo đây.” Gã ngước nhìn lên trời với vẻ nghiêm trang giễu cợt, rồi lại toét miệng cười. “Anh sẽ giúp tôi tới đó, và tôi sẽ giúp anh.”

Tôi thấy bụng mình thót lại khi chiếc máy bay lao qua những luồng không khí thất thường. “Sao cậu lại muốn giúp tôi? Chính tôi đã giết chết cậu cơ mà.”

“Thôi nào, R, anh vẫn chưa hiểu ra ư?” Gã tỏ ra bực bội vì câu hỏi của tôi. Gã nhìn thẳng vào mắt tôi và tôi thấy trong đó là một vẻ dữ dội nồng nhiệt. “Anh và tôi là nạn nhân của cùng một căn bệnh. Chúng ta đang chiến đấu trong cùng một cuộc chiến, chỉ có điều là tham gia vào các trận đánh khác nhau trên những mặt trận khác nhau mà thôi, và đã quá muộn để tôi tìm lý do ghét anh rồi, bởi vì chúng ta giống nhau. Linh hồn của tôi, lương tâm của anh, cái gì còn lại trong tôi đã được đan cài vào những gì còn lại trong anh, tất cả đã hòa trộn với nhau không thể tách rời được nữa.” Gã vỗ mạnh lên vai tôi đến mức gần như đau. “Chúng ta phải sát cánh bên nhau, thây ma ạ.”

Chiếc máy bay rung lên nhè nhẹ. Cần điều khiển lắc lư trước mặt Perry, nhưng gã lờ nó đi. Tôi không biết phải nói gì, nên tôi đành nói, “Được thôi.”

Gã gật đầu. “Được.”

Sàn máy bay lại khẽ rung lên, như dư chấn của một quả bom mới phát nổ ở xa.

“Thế đấy,” gã nói. “Chúa đã biến chúng ta thành đôi bạn cùng tiến. Chúng ta phải bàn bạc về bài tập của mình thôi.” Gã hít một hơi dài và nhìn tôi, ngón tay gõ gõ lên cằm. “Gần đây tôi đã nghe được rất nhiều ý nghĩ đầy cảm hứng nhảy nhót trong đầu chúng ta. Nhưng tôi không dám chắc là anh thực sự hiểu được cơn bão chúng ta đang bay vào.”

Trong khoang máy bay mấy ngọn đèn đỏ nhấp nháy bật lên. Ngoài máy bay có một tiếng quẹt dài.

“Tôi đang không hiểu cái gì?” tôi hỏi.

“Thử nghĩ chiến lược xem nào. Chúng ta đang lang thang quanh thành phố này như một chú mèo con lạc vào chuồng chó. Anh cứ nói đến chuyện thay đổi thế giới, nhưng anh chỉ biết ngồi đó liếm chân trong khi lũ chó chiến binh đang xáp lại gần. Kế hoạch là gì đây, mèo con?”

Bên ngoài, những đám mây trắng bông đã chuyển sang màu xám sắt. Đèn lập lòe, và đống đồ lưu niệm của tôi khẽ rung lên lạch cạch.

“Tôi chưa có... kế hoạch gì cả.”

“Thế thì bao giờ anh mới chịu nghĩ kế hoạch? Anh đang thay đổi, những Người Chết bạn anh đang thay đổi, thế giới đã sẵn sàng cho một phép mầu rồi. Chúng ta còn đợi gì nữa?”

Máy bay rung mạnh rồi bắt đầu bổ nhào xuống. Tôi loạng choạng ngã vào ghế phi công phụ, cảm thấy tim như đã thọt lên tận cổ. “Tôi không đợi gì cả, tôi đang hành động đấy chứ.”

“Hành động cái gì? Anh đang làm gì?”

“Tôi đang cố.” Tôi nhìn vào mắt Perry và bám chặt hai bên ghế trong khi chiếc máy bay rung lắc, rên rỉ. “Tôi muốn có nó. Tôi đang bắt mình phải quan tâm.”

Mắt Perry nheo lại và miệng gã mím chặt, nhưng gã không nói gì.

“Đó là bước thứ nhất, phải không?” tôi hét át tiếng gió và tiếng động cơ gầm rú. “Đó là nơi mọi sự phải bắt đầu.”

Chiếc máy bay tròng trành và đống đồ lưu niệm của tôi rơi xuống, làm tranh ảnh, phim, đĩa, búp bê và thư tình bay tứ tung. Trong khoang lái, thêm nhiều ngọn đèn nữa lóe sáng, và một giọng nói lách tách vang lên từ bộ đàm.

R? Xin chààààào? Anh ổn chứ?

Mặt Perry đã trở nên lạnh băng, mọi vẻ đùa cợt đã biến mất. “Nhiều điều xấu đang đến, R ạ. Một số đang đợi anh ngay bên ngoài nghĩa địa này. Anh nói đúng, muốn được thay đổi là bước thứ nhất, nhưng bước thứ hai phải là nắm lấy nó. Khi cơn lũ kéo đến, tôi không muốn anh mơ màng đi qua nó. Giờ anh còn có cả cô bé của tôi nữa đấy.”

Được rồi, anh làm tôi phát sợ lên rồi đấy. Tỉnh dậy đi!

“Tôi biết tôi không xứng với nàng,” Perry nói, giọng trầm trầm nhưng không hiểu sao tôi vẫn nghe được giữa những tiếng ồn ào khác. “Nàng đã cho tôi mọi thứ ấy vậy nhưng tôi lại nhổ vào nó. Vì thế giờ thì đến lượt anh đấy, R. Đi bảo vệ nàng đi. Nàng mềm yếu hơn anh tưởng nhiều.”

Chết tiệt, đồ khốn này! Tỉnh dậy đi không thì tôi bắn bỏ bây giờ!

Tôi gật đầu. Perry gật đầu. Rồi gã quay lại đối diện với cửa sổ và khoanh tay trước ngực trong khi cần điều khiển rung lên bần bật. Đám mây dông tách ra và chúng tôi lao xuống đất, thẳng về phía Sân vận động, và họ kia, cặp đôi khét tiếng R và J, đang ngồi trên một tấm chăn trên mái nhà ướt nước mưa. R ngước lên và nhìn thấy chúng tôi, mắt hắn mở to đúng lúc chúng tôi...

* * *

Tôi mở choàng mắt và chớp chớp mấy cái để định thần trở lại. Tôi đang đứng trước một ngôi mộ nhỏ giữa một nghĩa địa nghiệp dư. Tay Julie đang đặt trên vai tôi.

“Anh đã tỉnh rồi chứ?” nàng nói. “Chuyện quái quỷ gì vừa xảy ra thế?”

Tôi hắng giọng và nhìn quanh. “Xin lỗi. Đang mơ mộng.”

“Trời ạ, anh kỳ cục thật đấy. Đi nào, tôi không muốn ở đây nữa.” Nàng bước nhanh về phía cổng ra.

Nora và tôi theo sau. Nora đi ngang hàng với tôi, đưa mắt liếc nhìn tôi. “Mơ mộng ấy à?” cô hỏi.

Tôi gật đầu.

“Anh còn nói một mình nữa cơ.”

Tôi nhìn cô.

“Nhiều từ phức tạp ra phết. Tôi nghĩ là tôi đã nghe thấy cả từ ‘phép mầu’.”

Tôi nhún vai.

Tiếng ồn của thành phố như một dòng thác ùa vào tai chúng tôi khi những người lính gác mở cổng và chúng tôi quay lại với Sân vận động. Cổng vừa đóng lại sau lưng thì tôi lại thấy như có một đứa bé đang đạp trong bụng. Một giọng nói thì thầm, Nó đến rồi đây, R. Anh đã sẵn sàng chưa?

“Ôi tuyệt thật,” Julie lầm bầm.

Ông ấy kia rồi, đang đi vòng qua góc phố trước mặt chúng tôi: bố của Julie, Tướng Grigio. Ông bước thẳng về phía chúng tôi, kèm hai bên là hai sĩ quan gì đó, mặc dù họ không mặc quân phục chính quy. Đồng phục của họ bao gồm áo và quần lao động màu xám nhạt, không có trang trí hay phù hiệu cấp bậc gì, chỉ toàn túi và các móc để treo dụng cụ và thẻ căn cước ép plastic. Trong bao súng ở thắt lưng họ, súng nòng lớn lấp lánh ánh mờ đục.

“Bình tĩnh nhé, R,” Julie thì thào. “Đừng nói gì cả, cứ, ờ... giả vờ như là anh rất nhát ấy.”

“Julie!” Còn một quãng xa, Tướng Grigio đã cất tiếng gọi.

“Con chào bố,” Julie nói.

Ông và hai sĩ quan tùy tùng dừng lại trước mặt chúng tôi. Ông khẽ bóp vai Julie. “Con thế nào.”

“Ổn ạ. Con vừa qua thăm mẹ.”

Cơ hàm của ông giật giật, nhưng ông không trả lời. Ông nhìn Nora, gật đầu với cô, rồi nhìn tôi. Ông nhìn tôi rất kỹ. Ông lôi ra một chiếc bộ đàm. “Ted. Người đã vượt qua chỗ anh hôm qua. Anh nói là một chàng trai đeo cà vạt đỏ phải không? Người cao, gầy, da xấu?”

“Bố,” Julie nói.

Chiếc bộ đàm kêu quang quác. Tướng Grigio cất nó đi và lôi một đôi còng ngón tay ra khỏi thắt lưng. “Cậu bị bắt vì tội nhập cảnh trái phép,” ông nói như đọc thuộc lòng. Cậu sẽ bị giam ở...”

“Trời ơi, bố.” Julie bước tới và gạt tay ông sang bên. “Bố bị làm sao thế? Anh ấy không phải là kẻ xâm phạm, anh ấy từ Nhà thi đấu Goldman sang chơi mà. Và anh ấy đã suýt chết trên đường đến đây nên bố tha cho anh ấy mấy vụ pháp luật đi được không?”

“Cậu ta là ai?” vị tướng gặng hỏi.

Julie nhích lên phía trước tôi như muốn ngăn tôi trả lời. “Tên anh ấy là... ờ... Archie - là Archie, phải không?” Nàng liếc nhìn tôi và tôi gật đầu. “Anh ấy là bạn trai mới của Nora. Mãi hôm nay con mới được gặp đấy.”

Nora cười và siết chặt cánh tay tôi. “Bác có tin được là anh ấy bảnh bao đến thế không? Cháu còn không nghĩ là con trai thời nay còn biết cách đeo cà vạt nữa cơ.”

Tướng Grigio ngần ngừ, rồi cất đôi còng đi và nặn ra một nụ cười miễn cưỡng. “Rất vui được gặp cậu, Archie. Tất nhiên cậu biết là nếu cậu muốn ở lại quá ba ngày thì cậu sẽ phải đăng ký với nhân viên nhập cư của chúng tôi.”

Tôi gật đầu và cố tránh không nhìn vào mắt ông, nhưng tôi không thể rời mắt khỏi mặt ông. Mặc dù bữa tối căng thẳng tôi nhìn thấy trong ảo ảnh ký ức nọ chắc chắn mới xảy ra cách đây vài năm, nhưng giờ trông ông già hơn cả chục tuổi. Da ông mỏng và khô như giấy. Đôi lưỡng quyền của ông nhô ra. Trên trán ông mạch máu nổi lên xanh lét.

Một trong hai sĩ quan đi cùng ông hắng giọng. “Xin chia buồn về chuyện Perry, cô Cabernet ạ. Chúng ta sẽ rất nhớ cậu ấy.” Đại tá Rosso già hơn Grigio nhưng tuổi già đã thân thiện hơn với ông. Ông dáng thấp, mập, với đôi tay khỏe mạnh và lồng ngực vạm vỡ bên trên cái bụng phệ không tránh khỏi của các ông già. Mái tóc mỏng của ông chỉ còn lại mấy sợi bạc trắng, và đôi mắt xanh thì ướt rượt sau cặp kính dày cộp. Julie tặng cho ông một nụ cười khá thành thực.

“Cảm ơn bác Rosy. Cháu cũng thế.”

Câu chuyện của họ nghe thì bình thường nhưng lại có vẻ giả tạo, như chỉ khoát mái chèo bên trên những luồng chảy ngầm sâu hoắm. Tôi đoán là họ đã cùng nhau than khóc một cách kém máy móc thế này hơn nhiều, cách xa cái nhìn nhiễu sự của Grigio. “Chúng tôi rất biết ơn sự chia buồn của ông, Đại tá Rosso,” ông nói. “Nhưng tôi xin cảm ơn ông nếu ông đừng thay tên họ của chúng tôi khi nói chuyện với con gái tôi, cho dù nó đã ‘sửa sang’ cái tên ấy như thế nào đi chăng nữa.”

Ông già kia đứng thẳng người lên. “Xin ngài tha lỗi. Tôi không có ý gì.”

“Chỉ là biệt danh thôi ạ,” Nora nói. “Cháu với Perry nghĩ cô ấy giống rượu vang đỏ[1] hơn là...”

[1] Pinot Grigio là tên một giống nho dùng làm rượu vang trắng, Cabernet Sauvignon là tên giống nho dùng làm rượu vang đỏ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Cô lúng túng ngừng lại dưới cái nhìn của Grigio. Ông chầm chậm lướt mắt sang tôi. Tôi lại tránh mắt ông cho tới khi ông thả cho tôi đi. “Chúng ta phải đi đây,” ông nói vu vơ. “Rất vui được gặp cậu, Archie. Julie, bố phải họp hết tối nay rồi đến sáng sẽ sang Goldman để bàn về vụ liên kết hai nơi. Vài ngày nữa bố sẽ về.”

Julie gật đầu. Không nói thêm một lời, vị tướng cùng các sĩ quan của ông quay đi. Julie nhìn xuống đất vẻ xa vắng. Sau một hồi lâu, Nora phá vỡ sự im lặng. “Sợ thật đấy.”

“Đến Vườn Quả đi,” Julie khẽ nói. “Tớ cần làm một ly.”

Tôi vẫn đang ngó xuống cuối phố, nhìn theo cha nàng trong khi ông nhỏ dần lại đằng xa. Ngay trước khi rẽ qua góc quanh, ông quay lại nhìn tôi, và tôi nổi da gà. Liệu trận lũ của Perry sẽ là làn nước nhẹ nhàng sạch trong, hay nó sẽ là một trận lũ kiểu khác? Tôi cảm thấy một sự chuyển động dưới chân mình. Một đợt xung chấn nhè nhẹ, như thể xương của mỗi người đàn ông và đàn bà đã được chôn từ bao đời nay đang rung động trong lòng đất. Đập vỡ nền đá. Khuấy đảo dung nham.

VƯỜN QUẢ hóa ra không thuộc vào hệ thống trồng trọt của Sân vận động. Nó là quán rượu duy nhất của nơi này, hay ít ra là thứ gần với quán rượu nhất mà họ có thể có được giữa thành trì cấm rượu mới này. Để đến được nó, chúng tôi phải khổ sở bò dọc theo những con phố như trong tranh Escher[1] của Sân vận động. Trước tiên, chúng tôi trèo bốn tầng thang gác trong một tòa nhà xiêu vẹo trong khi những người trong nhà lườm nguýt chúng tôi qua cửa căn hộ của họ. Tiếp theo là vượt qua quãng đường chóng mặt đến căn nhà đối diện - đám con trai ở dưới đất cứ tìm cách nhòm lên váy Nora trong khi chúng tôi loạng choạng bước trên một lối đi căng bằng lưới thép giữa cột chống của hai tòa tháp. Sau khi vào được căn nhà thứ hai rồi, chúng tôi lại trèo thêm ba cầu thang nữa thì mới đến được một ban công thoáng đãng nằm cao bên trên phố phường. Tiếng ồn ào của đám đông vang lên qua cánh cửa ở đầu bên kia: một tấm ván sồi rộng vẽ hình một cái cây màu vàng.

[1] M.C.Escher (1898-1972), nghệ sĩ đồ họa người Hà Lan, được biết đến với những tác phẩm vẽ những kiến trúc bất khả thi, khám phá về chiều vô tận, v.v.

Tôi vụng về chạy lên trước Julie để mở cửa cho nàng. Nora toét miệng cười và Julie đảo mắt. Họ bước vào trong và tôi đi theo sau.

Trong quán đông chật người, nhưng không khí lại trầm lắng một cách kỳ lạ. Không có ai hò hét, đập tay, không có gã say nào lè nhè hỏi xin số điện thoại. Mặc dù vị trí của quán ít người biết và bí mật như một quán rượu lậu, Vườn Quả lại không bán rượu.

“Tôi hỏi nhé,” Julie nói trong khi chúng tôi chen qua đám đông lịch sự, “có điều gì ngớ ngẩn hơn là một đám cựu chiến binh và công nhân xây dựng đến uống cho quên sầu ở một quán nước ngọt khốn kiếp không? Ít nhất thì nó cũng cho phép người ta tự đem rượu đến.”

Vườn Quả là tòa nhà đầu tiên tôi thấy trong thành phố này có chút nét đặc sắc. Những đồ linh tinh thường thấy trong quán rượu đều có ở đây: bia ném phi tiêu, bàn bi - a, ti vi màn hình phẳng phát các trận bóng bầu dục. Mới đầu tôi rất kinh ngạc khi thấy chúng - ngành giải trí vẫn còn tồn tại ư? Ngoài kia vẫn có những người chơi các trò vô bổ này bất chấp thời cuộc ư? Nhưng rồi, vào hiệp thứ ba được khoảng mười phút thì hình ảnh trên ti vi trở nên méo mó như trên băng video và chuyển sang một trận đấu khác, hai đội và tỉ số thay đổi ngay giữa một cú chặn bóng. Năm phút sau chúng lại chuyển, hình chỉ hơi rung rung một chút để đánh dấu chỗ nối. Hình như không có fan thể thao nào để ý cả. Họ theo dõi những trận đấu bị cắt xén và bật đi bật lại không ngừng này với cặp mắt đờ đẫn trong lúc nhâm nhi ly nước như những diễn viên đang đóng lại một cảnh trong lịch sử.

Một số khách hàng thấy tôi trố mắt nhìn họ, và tôi vội quay đi. Nhưng rồi tôi lại quay lại. Có điều gì đó trong cảnh tượng này đang xuyên thấu vào đầu tôi. Một ý nghĩ đang hình thành như bóng ma trên tấm ảnh chụp lấy ngay.

“Ba nước bưởi,” Julie nói với người phục vụ quầy, anh ta có vẻ hơi ngường ngượng trong lúc chuẩn bị đồ uống. Chúng tôi ngồi xuống ghế và hai cô gái bắt đầu nói chuyện. Giọng nói trầm bổng của họ thay thế tiếng nhạc rock inh ỏi trên máy hát, nhưng rồi ngay cả giọng họ cũng nhòe đi thành một tiếng lầm bầm không rõ. Tôi nhìn các màn hình ti vi. Tôi nhìn những người khác. Tôi có thể thấy xương của họ hằn lên dưới các múi cơ. Những đốt xương nhô lên dưới lớp da căng. Tôi nhìn thấy khung xương của họ, và cái ý tưởng đang hình thành trong óc tôi hóa ra lại là một điều tôi không hề ngờ tới: đây là một bản thiết kế của bọn Xương Khô. Một các nhìn thoáng qua vào bộ não khô đét, méo mó của chúng.

Vũ trụ đang thu hẹp lại. Mọi ký ức và mọi tiềm năng đang co bóp dần thành những điểm nhỏ nhất cho tới khi da thịt của chúng rữa đi hết. Tồn tại trong điểm kỳ dị này, bị mắc kẹt trong tình trạng vĩnh hằng không bao giờ thay - đổi đó là thế giới của bọn Xương Khô. Chúng là những bức ảnh thẻ đờ đẫn, bị đông cứng vào đúng cái lúc chúng từ bỏ nhân tính của mình. Cái giây phút tuyệt vọng khi chúng cắt bỏ sợi dây cuối cùng để mình rơi xuống vực thẳm. Giờ thì chẳng còn lại điều gì. Không ý nghĩ, không tình cảm, không quá khứ, không tương lai. Không còn gì tồn tại ngoài cái nhu cầu điên cuồng là phải giữ cho mọi việc luôn như vậy, như mọi việc vốn đã thế. Chúng phải bám trụ lấy những thanh ray của đường vòng, nếu không chúng sẽ bị lấn át, bị thiêu cháy và nuốt chửng bởi những màu sắc, âm thanh, và bầu trời rộng mở.

Và ý nghĩ nọ âm ỉ trong đầu tôi, thì thầm qua các dây thần kinh của tôi như những giọng nói truyền qua dây điện thoại: giả sử chúng ta có thể làm chúng trật bánh thì sao? Chúng tôi đã phá vỡ cấu trúc của chúng đến mức khiến chúng giận dữ mù quáng. Giả sử chúng tôi có thể tạo ra một thay đổi sâu sắc, mới mẻ và kinh ngạc đến nỗi chúng sẽ sụp đổ? Đầu hàng? Vỡ vụn thành bụi cát và bị gió cuốn ra khỏi nơi này?

“R,” Julie chọc chọc tay tôi gọi. “Anh đâu mất rồi? Lại mơ mộng à?”

Tôi cười và nhún vai. Một lần nữa vốn từ của tôi lại không đủ cho tôi thốt ra điều mình muốn. Tôi phải sớm tìm ra cách làm cho nàng hiểu suy nghĩ của tôi. Cái điều tôi định làm đây, tôi biết mình sẽ không thể đơn thương độc mã thực hiện được.

Người phục vụ quay lại mang theo đồ uống của chúng tôi. Julie cười với tôi và Nora trong lúc chúng tôi ngắm ba ly nước màu vàng nhạt. “Cậu có nhớ hồi bé thì nước bưởi nguyên chất là thứ đồ uống ngầu nhất không? Giống như là rượu whiskey dành cho trẻ con ấy?”

“Ừ,” Nora bật cười. “Nước táo với nước Capri Sun, đấy là dành cho lũ õng ẹo.”

Julie nâng cốc. “Mừng Archie, anh bạn mới của chúng ta.”

Tôi nâng ly nước của mình lên cách mặt quầy chừng hai phân và hai cô gái cụng ly của họ vào đó. Chúng tôi uống. Tôi không nếm thấy vị của nó, nhưng nước chua lọt vào những vết thương cũ trong má tôi, những vết cắt mà tôi không nhớ, làm miệng tôi xót điếng.

Julie gọi một chầu nữa, và khi người phục vụ đem nước đến, nàng xốc cái túi dết lên vai và ôm lấy cả ba ly nước. Nàng cúi xuống nháy mắt với tôi và Nora. “Tớ quay lại ngay.” Tay cầm ly, nàng biến vào buồng vệ sinh.

“Cô... ấy làm gì thế?” tôi hỏi Nora.

“Chịu. Ăn trộm nước của bọn mình chắc?”

Chúng tôi ngồi im ngượng nghịu, hai người quen sơ sơ thiếu vắng mối nối là sự hiện diện của Julie. Sau mấy phút, Nora ngả người về phía tôi và thì thầm. “Anh biết tại sao cô ấy lại bảo anh là bạn trai của tôi chứ?”

Tôi nhún một bên vai. “Biết.”

“Chẳng có ý gì đâu, cô ấy chỉ muốn để mọi người không chú ý đến anh thôi. Nếu nói anh là bạn trai của cô ấy, hay bạn của cô ấy, hay bất kỳ cái gì liên quan đến cô ấy thì ông Grigio sẽ hành anh thôi rồi. Và tất nhiên nếu ông ấy thực sự nhìn anh thì... lớp trang điểm không được hoàn hảo lắm.”

“Tôi... hiểu mà.”

“Mà này, nói để anh biết nhé? Việc cô ấy dẫn anh đến thăm mộ mẹ là to chuyện lắm đấy.”

Tôi nhướng mày lên.

“Cô ấy không bao giờ kể cho ai nghe chuyện đó. Thậm chí cả với Perry mà cũng phải mất gần ba năm cô ấy mới kể hết sự tình. Tôi không biết chắc cái đó có nghĩa gì với cô ấy nhưng... nó rất khác.”

Tôi nhìn chằm chằm xuống quầy, ngượng chín mặt. Một nụ cười âu yếm kỳ lạ nở trên mặt Nora. “Anh có biết là anh hơi giống Perry không?”

Tôi gồng người lên. Tôi bắt đầu thấy cảm giác hối hận nóng bỏng lại đang trào lên trong họng.

“Tôi không biết cụ thể là gì, ý tôi là rõ ràng anh không phải cái kiểu chém gió như cậu ấy, nhưng anh có một chút... linh lợi giống như cậu ấy hồi trước.”

Tôi nên khâu kín miệng mình lại. Sự thành thực là một thôi thúc đã khiến tôi gặp rắc rối nhiều lần. Nhưng tôi không thể im lặng mãi được. Những lời nói thành hình và buột ra khỏi miệng tôi như một tiếng hắt hơi không thể kìm nén nổi. “Tôi giết cậu ấy. Ăn... óc cậu ấy.”

Nora mím môi và chậm rãi gật đầu. “Ờ... tôi cũng đoán thế.”

Mặt tôi ngớ ra. “Sao cơ?”

“Tôi không tận mắt chứng kiến nhưng tôi đã đoán chừng. Cũng có lý thôi.”

Tôi sững sờ nhìn cô. “Julie... biết ư?”

“Tôi không nghĩ thế. Nhưng nếu có biết thì tôi cũng nghĩ là cô ấy sẽ không sao đâu.” Cô khẽ chạm vào tay tôi đang đặt trên mặt quầy. “Anh có thể nói với cô ấy, R ạ. Tôi nghĩ cô ấy sẽ tha thứ cho anh.”

“Vì sao?”

“Vì cùng một lý do khiến tôi tha thứ cho anh.”

“Vì sao?”

“Vì đó không phải là anh. Đó là bệnh dịch.”

Tôi đợi cô nói thêm. Cô nhìn cái ti vi bên trên quầy, ánh sáng xanh của nó lập lòe trên khuôn mặt ngăm ngăm của cô. “Julie có kể cho anh nghe về cái lần Perry ngủ với một cô gái mồ côi không?”

Tôi ngần ngừ, rồi gật đầu.

“Ờ... đó là tôi đấy”

Tôi liếc mắt về phía buồng vệ sinh, nhưng Nora có vẻ không muốn che giấu gì cả. “Hồi ấy tôi mới đến đây được một tuần,” cô kể. “Còn chưa quen Julie. Tôi đã gặp cô ấy như thế đấy. Tôi ngủ với bạn trai cô ấy, và cô ấy ghét tôi, và rồi khi thời gian trôi qua, rất nhiều chuyện xảy ra, và chẳng biết thế nào mà chúng tôi lại trở thành bạn. Điên thật, phải không?” Cô dốc ngược ly nước để giọt cuối cùng rớt lên lưỡi, rồi đặt cái ly sang bên. “Điều tôi định nói là, đây là một thế giới tệ hại và có khối chuyện tệ hại xảy ra, nhưng chúng ta không phải chìm ngập trong những chuyện ấy. Mười sáu tuổi đầu, R ạ - bố mẹ tôi nghiện ma túy và đã ném tôi vào giữa một khu ổ chuột đầy Người Chết vì họ không nuôi nổi tôi nữa. Tôi đã lang thang một mình hàng năm trời trước khi tôi tìm thấy thành phố Sân vận động, và tôi không còn đủ đầu ngón tay để đếm những lần tôi đã suýt chết.” Cô giơ tay trái lên và vẫy vẫy ngón tay cụt một nửa như một cô dâu mới phô chiếc nhẫn kim cương của mình. “Ý tôi là, khi ta có những gánh nặng như thế trong đời mình, ta phải nhìn vào toàn cảnh, nếu không ta có thể chết chìm.”

Tôi nhìn vào mắt cô, nhưng như một kẻ mù chữ, tôi không thể dò nổi ý nghĩa trong lời nói của cô. “Toàn cảnh... của chuyện... tôi giết Perry... là gì?”

“Kìa, R,” cô nói, khẽ vỗ đùa vào một bên đầu tôi. Anh là Xác Sống. Anh mang dịch bệnh trong mình. Hay ít nhất là anh đã mang nó lúc anh giết Perry. Có thể giờ anh đã khác rồi, tôi rất hy vọng là thế, nhưng khi đó anh không có lựa chọn nào khác. Đây không phải là ‘tội ác’, là ‘sát nhân’, nó là một điều gì đó sâu xa hơn, không thể tránh khỏi.” Cô gõ gõ lên thái dương. “Tôi và Julie hiểu được điều đó, anh biết không? Có một câu nói của Thiền phái như thế này, ‘Không ngợi khen, không chê trách, chỉ có thế thôi.’ Chúng tôi không quan tâm đến chuyện ai đáng bị buộc tội vì một căn bệnh của loài người, chúng tôi chỉ muốn chữa khỏi nó thôi.”

Julie ra khỏi nhà vệ sinh và đặt ba ly nước xuống quầy với một nụ cười ranh mãnh. “Ngay cả nước bưởi cũng cần thêm tí chút đưa cay.”

Nora nhấp thử một ngụm và vội quay đi che miệng. “Thánh thần... thiên địa ơi!” cô ho sặc sụa. “Cậu cho vào bao nhiêu thế?”

“Chỉ mấy chai vodka con con thôi,” Julie thì thầm với vẻ trẻ thơ vô tội. “Nhờ có anh bạn Archie của chúng ta đây và Hãng hàng không Xác Sống.”

“Giỏi lắm Archie.”

Tôi lắc đầu. “Xin đừng... gọi tôi là...”

“Thôi được, được rồi,” Julie nói. “Không gọi là Archie nữa. Nhưng lần này chúng ta nâng cốc chúc mừng điều gì đây? Là rượu của anh mà, R, anh quyết định đi.”

Tôi cầm ly nước trước mặt mình. Tôi ngửi nó, tự bắt bản thân tin rằng mình có thể ngửi được những mùi khác ngoài mùi cái chết và hấp hối, rằng mình vẫn còn là con người nguyên vẹn. Một mùi cam quýt chua chua phả vào mũi tôi. Những vườn quả ở Florida sáng rực dưới ánh mặt trời. Lời chúc tụng xuất hiện trong đầu tôi nghe sến kinh khủng, nhưng tôi vẫn thốt ra. “Mừng... cuộc sống.”

Nora nén một tiếng cười. “Thật sao?”

Julie nhún vai. “Sến kinh khủng, nhưng thế thì đã sao.” Nàng nâng ly lên chạm vào ly của tôi. “Mừng cuộc sống, ngài Xác Sống ạ.”

“L’chaim![2]” Nora hét to và uống cạn ly.

[2] Tiếng chúc tụng lúc nâng cốc của người Do Thái

Julie cạn ly.

Tôi cũng cạn ly.

Vị vodka xộc vào óc tôi như một luồng đạn. Lần này nó không phải là thứ thuốc tinh thần nữa. Rượu mạnh thực sự và tôi cảm nhận được nó. Tôi đang cảm nhận được nó. Làm sao có thể như thế được?

Julie gọi một chầu nữa và ngay tức thì thêm rượu vào. Tôi những tưởng hai cô gái cũng kém sức rượu như tôi, vì ở đây rượu bị cấm, nhưng tôi chợt nhận ra chắc họ thường xuyên ghé các hàng rượu mỗi khi ra ngoài thành phố để thu gom hàng hóa. Họ nhanh chóng vượt xa tôi trong lúc tôi nhâm nhi ly rượu thứ hai, kinh ngạc với cảm giác đang truyền khắp cơ thể mình. Âm thanh của quán rượu nhòe đi và tôi chỉ ngắm Julie, tâm điểm của bức tranh mờ mịt trước mắt tôi. Nàng đang cười. Một tiếng cười thoải mái, không dè dặt mà hình như tôi chưa nghe thấy bao giờ, nàng vừa cười vừa ngả đầu về phía sau cho tiếng cười cứ tuôn ra. Nàng và Nora đang nhắc lại một kỷ niệm chung nào đó. Nàng quay sang tôi và nói một câu, mời tôi cùng chia sẻ niềm vui với một tiếng nói và một nụ cười để lộ hàm răng trắng muốt, nhưng tôi không đáp lại. Tôi cứ nhìn nàng trong lúc tay đỡ lấy cằm, khuỷu tay chống lên quầy, miệng mỉm cười.

Mãn nguyện. Cảm giác ấy là như thế này ư?

Sau khi uống hết ly rượu, tôi thấy thân dưới mình có sức ép, và tôi chợt nhận ra mình cần đi tiểu. Vì Người Chết không uống, việc đi tiểu là hết sức hiếm hoi. Tôi hy vọng là mình còn nhớ cách làm.

Tôi lảo đảo đi vào buồng vệ sinh và áp trán lên tường phía trước bồn cầu. Tôi kéo khóa quần, nhìn xuống, và trông thấy nó. Cái cơ quan huyền bí của sự sống và cái chết và những cuộc trăng gió ở-ghế-sau-xe-trong-buổi-hẹn-đầu. Nó nằm cù rũ, vô dụng, im lặng phán xét tôi vì bao lần tôi đã lạm dụng nó trước kia. Tôi nghĩ đến vợ tôi và nhân tình mới của cô ta, đập thân xác lạnh ngắt vào nhau như những miếng thịt gà trong nhà máy đóng gói. Tôi nghĩ đến những dáng người vô danh mờ nhạt trong quá khứ của mình, có lẽ giờ đã chết hẳn hoặc là Người Chết cả rồi. Rồi tôi nghĩ đến Julie nằm cuộn tròn cạnh tôi trên chiếc giường lớn. Tôi nghĩ đến thân thể nàng trong bộ lót cọc cạch đến buồn cười, hơi thở của nàng phả vào mắt tôi trong khi tôi ngắm nghía từng đường nét trên mặt nàng, tự hỏi điều bí ẩn nào nằm ở nhân của từng tế bào trong người nàng.

Trong lúc đứng đó trong buồng vệ sinh, giữa mùi hôi thối của phân và nước tiểu, tôi tự hỏi: Đã quá muộn đối với tôi chưa? Liệu tôi có thể giật được một cơ hội mới từ hàm răng nghiến mạnh của bầu trời há hoác kia không? Tôi muốn một quá khứ mới, những ký ức mới, một cái bắt tay mới với tình yêu. Tôi muốn bắt đầu tất cả mọi thứ lại từ đầu.

Khi tôi ra khỏi buồng vệ sinh thì sàn nhà đã quay cuồng. Mọi giọng nói đều nghẹt đi. Julie và Nora đang mải trò chuyện, ngả sát người vào nhau và cười. Một tên đàn ông chừng ba mươi tuổi đi đến quầy và nói một câu tục tĩu với Julie. Nora trừng mắt với hắn và vặc lại bằng câu gì đó có vẻ mỉa mai, và Julie đuổi hắn đi. Tên đàn ông nhún vai quay lại bàn bi - a nơi bạn hắn đang đợi. Julie gọi với theo bằng một câu chửi, nhưng tên đàn ông chỉ lạnh lùng nhe răng cười và đáp trả một tiếng. Julie sững người ra một lát, rồi nàng và Nora quay lưng lại với bàn bi - a, và Nora bắt đầu thì thầm vào tai Julie.

“Sao... thế?” tôi tiến lại quầy rượu hỏi. Tôi có thể cảm thấy cả hai tên bàn bi - a đang theo dõi tôi.

“Không có gì,” Julie nói, nhưng giọng nàng run run. “Ổn cả.”

“R, cho bọn tôi nói chuyện riêng một phút được không?” Nora hỏi.

Tôi nhìn đi nhìn lại hai người. Họ đợi. Tôi quay lưng và đi ra khỏi quán, với bao cảm giác lẫn lộn trong lòng. Ở ngoài ban công, tôi gục người tựa vào lan can, nhìn xuống con phố dưới mặt đất cách đến bảy tầng nhà. Phần lớn đèn trong thành phố đã tắt, nhưng những ngọn đèn đường vẫn đang lập lòe như lân tinh. Chiếc máy ghi âm mi ni của Julie nằm trong túi áo tôi trĩu nặng. Tôi lôi nó ra, nhìn chằm chằm. Tôi biết là mình không nên nhưng tôi... tôi cảm thấy như mình chỉ cần...

Tôi nhắm mắt lại, khe khẽ đảo người với một cánh tay bám lấy lan can, và tua băng ngược lại vài phút rồi nhấn nút “play”.

“... điên đến mức ấy không? Chỉ bởi vì anh ta là... cho dù anh ta là cái gì đi chăng nữa? Ý mình là, chẳng phải ‘Xác sống’ chỉ là một cái tên ngu ngốc chúng ta...”

Tôi lại nhấn nút tua. Tôi chợt nghĩ ra rằng khoảng cách giữa khúc đầu đoạn băng này và khúc cuối của đoạn băng trước đó là toàn bộ quãng thời gian tôi đã quen Julie. Tất cả những giây phút ý nghĩa trong đời tôi chỉ vừa khít trong mấy giây cuộn băng rít lên như thế.

Tôi dừng cuộn băng lại, rồi bật lên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


“... nghĩ là không ai biết, nhưng tất cả mọi người đều biết, họ chỉ sợ không dám làm gì thôi. Mà bố cũng đang ngày một tệ hơn. Tối nay bố nói là bố rất yêu mình. Thật sự nói ra những từ ấy. Nói mình thật xinh đẹp và là tất cả những gì bố yêu ở mẹ và nếu có chuyện gì xảy ra với mình thì bố sẽ phát điên. Và mình biết bố nói thực lòng, mình biết tất cả những điều đó đều có trong bố... nhưng chỉ khi nào say túy lúy không còn biết trời đất là gì nữa bố mới có thể nói ra được thì... nghe thật bệnh hoạn. Mình ghét cay ghét đắng chuyện đó.”

Một quãng im lặng kéo dài trên cuộn băng. Tôi liếc qua vai nhìn về phía cửa quán, cảm thấy vừa hổ thẹn vừa cuống quít. Tôi biết đây là những điều bí mật tôi chỉ có thể được biết sau nhiều tháng từ từ tìm hiểu, nhưng tôi không thể ngăn mình được. Tôi chỉ muốn nghe giọng nàng nói.

“Mình đã nghĩ đến chuyện báo cáo lại,” nàng tiếp tục. “Đi thẳng vào trung tâm cộng đồng và bắt bác Rosy bắt bố. Ý mình là, mình hoàn toàn ủng hộ chuyện uống rượu, mình rất thích là đằng khác, nhưng với bố... chuyện đấy lại khác hẳn. Với bố uống rượu không phải là để ăn mừng, uống rượu là một cái gì đó thật đau đớn và đáng sợ, như thể bố đang uống để quên đau, để chuẩn bị cho một ca phẫu thuật khủng khiếp kiểu thời Trung cổ ấy. Và ừ... mình biết vì sao, cũng đâu phải như mình chưa từng làm những chuyện còn tệ hơn cũng vì cùng những lý do ấy, nhưng nó thật là... nó quá...” Giọng nàng run run rồi nghẹn lại, và nàng sụt sịt thật to như tự trách mình. “Trời ơi,” nàng thì thầm. “Chết tiệt.”

Lại thêm mấy giây im lặng. Tôi nghe kỹ hơn. Rồi cửa bật mở và tôi quay ngoắt lại, ném chiếc máy ghi âm vào bóng tối. Nhưng không phải là Julie. Là hai tên bàn bi - a. Họ lao qua cửa, vừa xô đẩy nhau vừa cười qua khóe miệng trong lúc châm thuốc.

“Này,” tên đã nói chuyện với Julie lên tiếng gọi tôi, và hắn cùng bạn bắt đầu tiến về phía tôi. Hắn khá cao, đẹp trai, hai cánh tay cuồn cuộn cơ bắp đầy hình xăm: rắn, xương xẩu và biểu tượng của những ban nhạc rock đã tan rã từ lâu “Thế nào, anh bạn? Bồ mới của Nora phải không?”

Tôi ngần ngừ, rồi nhún vai. Họ cười phá lên như thể tôi vừa đùa một câu rất bậy.

“Ờ, với cô ả thì ai mà biết được, phải không?” Hắn đấm vào ngực tên bạn trong khi vẫn tiếp tục vênh vang bước về phía tôi. “Thế anh cũng quen Julie à? Anh là bạn của Julie phải không?”

Tôi gật đầu.

“Quen lâu chưa?”

Tôi nhún vai, nhưng tôi cảm thấy trong mình như có một chiếc lò xo đang nén lại.

Tên nọ dừng lại trước mặt tôi vài bước và dựa lưng vào tường, chậm rãi rít một hơi dài từ điếu thuốc lá. “Cách đây mấy năm cô nàng cũng hoang dã lắm. Tôi là thầy giáo dạy bắn súng của cô ta đấy.”

Tôi cần phải ra khỏi đây. Tôi cần quay đi ngay và rời khỏi đây.

“Cô nàng ra vẻ trinh trắng sau khi hẹn hò với thằng nhóc Kelvin đấy, nhưng trời ạ, trong khoảng một năm trước đấy thì cô nàng đúng là chín nẫu.” Làn khói thuốc hắn phả ra làm cặp mắt khô khốc của tôi cay sè. “Tờ một trăm giờ còn chẳng mua nổi một bao thuốc, nhưng với con chó cái ấy thì được khối trò.”

Tôi lao tới và dập đầu hắn vào tường. Rất dễ, tôi chỉ việc áp tay lên mặt hắn rồi đẩy tới trước, dùng phía sau sọ hắn để đấm bức tường. Tôi không biết mình có giết chết hắn hay không, nhưng tôi cũng chẳng cần. Khi bạn hắn định túm lấy tôi, tôi cũng làm như vậy với tên này, để lại hai vết lỏm trên lớp nhôm ép bên ngoài quán Vườn Quả. Cả hai tên gục xuống đất. Tôi lảo đảo đi xuống cầu thang và bước lên lối đi giữa hai tòa nhà. Một lũ nhóc đang dựa lưng vào dây cáp phì phèo hút thuốc và trố mắt nhìn tôi khi tôi lao qua chúng. Xin lỗi, tôi cố nói, nhưng không tìm ra nổi những âm tiết đó. Tôi tuột xuống bốn tầng nhà và lao ra phố Tiên hay là phố Tinkerbell hay là cái quái gì đại loại thế. Tôi chỉ muốn tránh ra những người này trong phút chốc để tập trung suy nghĩ. Tôi đói quá. Chúa ơi, tôi đói đến chết đi được.

Sau khi lang thang mấy phút, tôi đã hoàn toàn mất phương hướng và lạc đường. Một màn mưa nhẹ đang đổ xuống và tôi chỉ có một mình trên một con phố hẹp tối tăm nào đó. Nhựa đường ướt lấp lánh đen bóng dưới ngọn đèn đường xiên xẹo. Phía trước, hai lính gác đang nói chuyện dưới một khoảng sáng hình nón lâm râm mưa, dùng cái giọng hầm hè với vẻ cứng cỏi giả tạo của những chú nhóc khiếp hãi ra bộ là những người đàn ông trưởng thành.

“... suốt tuần trước ở ngoài Hành lang 2 để đổ móng. Chỉ còn cách Nhà thi đấu Goldman có hơn một cây số mà chẳng còn nhân công nữa. Grigio cứ lôi người ra khỏi ban Xây dựng để nhét vào bên An ninh.”

“Thế còn bên đội Goldman thì sao? Họ làm đến đâu rồi?”

“Goldman dở ẹc. Còn chưa ra hết cửa trước. Tao đã nghe nói là vụ liên kết này chẳng đi đến đâu cả, vì Grigio ngoại giao quá tệ. Chẳng hiểu sao lão còn muốn liên kết làm gì, cứ nhìn cái cách lão xử lý Hành lang 1 cũng đủ thấy. Nếu có nói là chính lão đã dựng lên vụ sụp nền ấy thì tao cũng chẳng ngạc nhiên.”

“Mày biết đấy là chuyện vớ vẩn mà. Đừng có đi tung tin nhảm nhí.”

“Ờ, dù thế nào thì bên Xây dựng cũng đã thối nát hết kể từ khi Kelvin bị đè. Giờ bọn tao chỉ biết đào hố rồi lấp lại thôi”

“Chó chết. Tao chẳng thà đi xây cái gì đó còn hơn là đứng đây cả đêm chơi trò làm cảnh sát. Ngoài kia có gì hay ho không?”

“Chỉ mấy tên Xác Thối lang thang mò ra khỏi rừng thôi. Păng, păng, thế là xong.”

“Không có Xương Khô à?”

“Phải đến cả năm nay tao chưa thấy con nào. Giờ chúng cứ ở lì trong tổ thôi. Cứt thật.”

“Cái gì, mày thích gặp bọn chúng à?”

“Hay hơn nhiều so với Xác Thối. Bọn chúng còn biết chạy.”

“Hay? Mày đùa đấy à? Những thứ ấy là lũ quái thai, tao còn không muốn phí đạn bắn chúng nữa cơ.”

“Có phải vì thế mà cứ hai mươi con mày mới bắn trúng có một không?”

“Nhưng nhìn chúng còn chẳng giống xác người nữa, mày hiểu không? Cứ như là người ngoài hành tinh ấy. Làm tao sởn cả gáy.”

“Ờ, đấy chắc là vì mày là thằng chết nhát.”

“Đồ chó. Tao phải đi giải quyết một cái đây.”

Tên lính biến vào bóng tối. Bạn hắn đứng dưới ngọn đèn, khép chặt chiếc áo gió quanh mình trong khi mưa đổ xuống. Tôi vẫn đi tiếp. Tôi không quan tâm tới những kẻ này. Tôi chỉ đang tìm một góc yên tĩnh nơi tôi có thể nhắm mắt vào và bình tĩnh lại. Nhưng khi tôi tiến vào quầng sáng, tên lính gác chú ý đến tôi, và tôi chợt nhận ra là có vấn đề. Tôi đang say. Những bước chân cẩn thận của tôi đã bị thay thế bởi dáng đi lảo đảo. Tôi lê bước về phía trước, đầu đảo sang hai bên.

Nhìn tôi giống... hệt như bản chất của mình.

“Dừng lại!” tên lính gác quát.

Tôi dừng lại.

Hắn bước về phía tôi. “Anh làm ơn đi vào chỗ sáng này.”

Tôi bước vào quầng sáng, đứng ở mép vòng tròn vàng rực ấy. Tôi cố đứng thật thẳng, cố không nhúc nhích. Rồi tôi nhận ra một điều nữa. Mưa đang nhỏ giọt từ tóc tôi xuống. Mưa đang chảy tràn trên mặt tôi. Mưa đang rửa sạch lớp phấn trang điểm của tôi, để lộ lớp da xám ngoét bên dưới. Tôi lảo đảo lùi lại một bước, tránh khỏi quầng sáng.

Tên lính gác chỉ còn cách tôi chừng năm bước chân. Tay hắn thủ thế trên súng. Hắn bước lại gần hơn và nheo mắt nhìn tôi. “Có phải tối nay anh đã uống rượu không?”

Tôi mở miệng ra định nói, Không, không hề, chỉ là mấy ly nước bưởi rất ngon và có lợi cho tim mạch với cô bạn tốt Julie Cabernet của tôi thôi. Nhưng tôi không thốt ra nổi những lời đó. Cái lưỡi tôi dày cộm và cứng đờ trong miệng, và tôi chỉ phát ra được một tiếng, “Ưưưưm...”

“Cái quái gì...” Mắt tên lính mở to, hắn rút đèn pin ra chĩa vào khuôn mặt chỗ xám chỗ trắng của tôi, và tôi không còn lựa chọn nào khác. Tôi chồm ra từ bóng tối và lao vào hắn, làm khẩu súng của hắn bắn đi, rồi cắn vào họng hắn. Sức sống của hắn tràn vào cơ thể và bộ óc đói khát của tôi, làm dịu nỗi đau đớn từ cơn đói ghê tởm của tôi. Tôi bắt đầu xé thịt hắn, nhai những bó cơ tam giác và cơ bụng mềm dịu trong lúc máu vẫn còn đang bơm qua chúng - nhưng rồi tôi dừng lại.

Julie đứng ở ngưỡng cửa buồng ngủ, ngắm nhìn tôi với nụ cười rụt rè.

Tôi nhắm nghiền mắt và nghiến chặt răng. Không, tôi gầm gừ trong đầu. Không!

Tôi ném cái xác xuống đất và lùi ra xa. Giờ tôi đã hiểu ra rằng mình có sự lựa chọn, và tôi chọn sự thay đổi cho dù phải trả giá cao đến thế nào. Nếu tôi là một cành đang mọc trên Cây Cái Chết thì tôi sẽ giũ bỏ hết lá. Để giết tận gốc cái cây ấy thì dù có phải nhịn đói cho tới chết, tôi cũng sẵn sàng.

Bào thai trong bụng tôi lại đá, và tôi nghe thấy giọng nói của Perry, nhẹ nhàng và đầy khích lệ. Anh sẽ không chết đói đâu, R. Trong quãng đời ngắn ngủi của mình tôi đã lựa chọn rất nhiều điều chỉ bởi vì tôi nghĩ mình bắt buộc phải làm thế, nhưng bố tôi đã đúng: không có luật lệ cụ thể nào cho thế giới cả. Nếu có thì chính chúng ta là người tạo ra chúng. Chúng ta có thể thay đổi chúng bất cứ khi nào chúng ta muốn.

Tôi nhổ miếng thịt trong miệng ra và lau sạch máu trên mặt. Perry lại đá vào bụng tôi, và tôi nôn thốc nôn tháo. Tôi gập người xuống và nôn sạch hết. Thịt, máu, rượu vodka. Ngay khi đứng lên và lau miệng, tôi thấy tỉnh táo trở lại. Cảm giác lơ mơ đã biến mất. Đầu tôi sáng sủa như một chiếc đĩa hát mới vậy.

Người tên lính bắt đầu giật giật sống dậy. Hai vai hắn từ từ nhấc lên, kéo theo tay chân của hắn, như thể hắn đang bị lôi kéo bởi những ngón tay vô hình. Tôi cần giết hắn. Tôi biết tôi cần giết hắn, nhưng tôi không thể. Sau lời thề tôi vừa tuyên bố, chỉ nghĩ đến việc lao vào cắn xé kẻ này và nếm thứ máu vẫn còn nóng hổi của hắn cũng đủ khiến tôi lạnh người đi vì kinh hãi. Hắn run rẩy, ói mửa, hai tay cào cào đất và vặn người ọe khan, hai mắt lồi to trong khi màu xám bùn của cái chết mới tràn vào trong mắt hắn. Một tiếng rên rỉ khàn đục đáng sợ tuôn ra từ miệng hắn, và tôi không chịu nổi nữa. Tôi quay người bỏ chạy. Ngay cả trong giây phút can đảm nhất, tôi cũng chỉ là một tên hèn.

* * *
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Mưa đã trở nên nặng hạt. Chân tôi giẫm lép nhép trên phố, làm bùn bắn tứ tung lên bộ quần áo mới giặt. Tóc tôi rũ xuống mặt như rong biển. Đến trước một tòa nhà lớn xây bằng nhôm với một cây thánh giá gỗ ép trên mái, tôi quỳ xuống một vũng nước và vốc nước phả lên mặt. Tôi súc miệng bằng thứ nước cống bẩn thỉu ấy và nhổ cho đến khi tôi không thấy có vị gì trong miệng nữa. Cây thánh giá hình chữ T bằng gỗ vươn cao trên đầu tôi, và tôi tự hỏi liệu Chúa có tìm ra được lý do gì để chấp nhận tôi không, cho dù người có là cái gì và đang ở đâu đi chăng nữa.

Cậu đã gặp Người chưa, Perry? Người có còn sống không? Hãy nói với tôi rằng Người không chỉ là một cái miệng há hoác của bầu trời. Hãy nói với tôi rằng có cái gì đó khác đang nhìn xuống chúng ta, chứ không chỉ là cái hộp sọ xanh biếc trống rỗng.

Perry khôn ngoan không trả lời. Tôi chấp nhận sự im lặng đó, tôi đứng lên, và tôi tiếp tục chạy.

Tránh những ngọn đèn đường, tôi lần về nhà Julie. Tôi cuộn tròn người dựa vào tường, cố trú mưa dưới cái ban công trên đầu, và tôi đứng đợi ở đó trong khi mưa tuôn xối xả lên mái tôn. Hình như tôi đã đợi mấy tiếng đồng hồ liền thì mới nghe thấy giọng hai cô gái từ đằng xa, nhưng lần này nhịp điệu trong giọng nói của họ không hề khiến tôi vui thích. Điệu nhảy ấy chỉ còn là một bản điếu ca, và tiếng nhạc là một nốt giáng.

Họ chạy tới cửa trước, Nora trùm lên đầu cái áo khoác vải bò, Julie thì thắt chặt cái mũ của chiếc áo nỉ đỏ quanh mặt. Nora đến cửa trước và lao vào trong. Julie dừng lại. Tôi không biết là nàng đã nhìn thấy tôi trong bóng tối hay chỉ là vì nàng ngửi thấy mùi nước hoa sặc sụa của tôi, nhưng có cái gì đó đã khiến nàng nhìn sang phía bên ngôi nhà. Nàng thấy tôi ngồi co ro trong bóng tối như một chú chó con sợ sệt. Nàng từ từ tiến đến, tay nhét vào túi áo nỉ. Nàng quỳ xuống và nhìn tôi qua khe hở hẹp của cái mũ. “Anh không sao chứ?” nàng hỏi.

Tôi gật đầu mặc dù không phải thế.

Nàng ngồi xuống cạnh tôi trên khoảnh đất khô nhỏ và dựa lưng vào tường. Nàng bỏ mũ trùm xuống và cởi chiếc mũ len bên dưới ra để gạt mớ tóc ướt ra khỏi mắt, rồi lại đội cái mũ lên. “Anh làm tôi sợ quá. Tự nhiên anh biến đi đâu mất.”

Tôi khổ sở nhìn nàng, nhưng không nói gì.

“Anh có muốn kể cho tôi nghe xem chuyện gì đã xảy ra không?”

Tôi lắc đầu.

“Có phải anh đã, ờ... có phải anh đã đánh gục Tim và bạn anh ta không?”

Tôi gật.

Một nụ cười thích thú ngượng ngùng hiện lên mặt nàng, như thể tôi vừa tặng nàng một bó hoa hồng to tướng hoặc viết cho nàng một bản tình ca dở tệ vậy. “Anh... tốt quá” nàng nói, cố nén một tiếng cười khúc khích. Một phút trôi qua. Nàng chạm vào đầu gối tôi. “Hôm nay bọn mình đã rất vui, phải không? Mặc dù có những lúc hơi rắc rối?”

Tôi không cười nổi, nhưng tôi gật đầu.

“Tôi hơi ngà ngà say rồi. Anh thế nào?”

Tôi lắc đầu.

“Chán quá. Say thích lắm.” Nụ cười của nàng mở rộng hơn và mắt nàng nhìn xa vắng. “Anh có biết lần đầu tiên tôi uống rượu là hồi tôi lên tám không?” Giọng nàng hơi lè nhè. “Bố tôi rất sành rượu, và bố mẹ thường tổ chức những buổi tiệc nếm rượu khi nào bố không phải chinh chiến. Họ mời các bạn đến, mở một chai rượu nổi tiếng đắt tiền, và uống say túy lúy. Tôi cứ ngồi đó, ở giữa ghế xô pha và nhấp từng ngụm nhỏ từ nửa ly rượu tôi được phép uống và cười những người lớn ngốc nghếch mỗi lúc một ngớ ngẩn hơn. Bác Rosy cứ uống vào là mặt đỏ phừng phừng! Chỉ một ly thôi là trông bác ấy đã như Ông già Noel rồi. Có lần bác ấy với bố đã thi vật tay trên bàn nước và đánh vỡ một cái đèn. Hồi ấy... thật là vui.”

Nàng dùng một ngón tay vạch vạch xuống đất. Nụ cười của nàng có vẻ tiếc nuối, vu vơ. “R ạ, mọi chuyện không phải lúc nào cũng đen tối thế này đâu, anh biết không? Bố cũng có lúc rất dễ thương, và ngay cả khi thế giới sụp đổ chúng tôi vẫn có những khi vui vẻ. Cả nhà chúng tôi thường cùng nhau làm những chuyến thu gom nho nhỏ và nhặt về đủ loại rượu kỳ quái. Những chai Dom Romane Conti năm ‘97 đáng giá cả ngàn đô la, nằm lăn lóc trên sàn một hầm rượu bỏ hoang nào đó.” Nàng khẽ cười một mình. “Hồi đấy gặp những chai như thế là bố tôi lại điên lên. Đến khi chúng tôi chuyển vào đây thì bố đã có vẻ... im hơi lặng tiếng hẳn. Nhưng Chúa ơi, chúng tôi đã uống nhiều thứ rượu rất đắt tiền.”

Tôi ngắm nhìn nàng nói. Nhìn quai hàm nàng cử động và gom từng từ của nàng trong khi chúng tuôn ra khỏi miệng nàng. Tôi không đáng nhận được chúng. Những ký ức ấm áp của nàng. Tôi muốn dùng chúng tô vẽ cho những bức tường trát vữa trống trơn của tâm hồn mình, nhưng bất kỳ thứ nước sơn nào tôi tô lên cũng bong ra hết.

“Và rồi mẹ tôi bỏ đi.” Nàng nhấc ngón tay lên, ngắm nghía tác phẩm của mình. Nàng đã vẽ một ngôi nhà. Một ngôi nhà tranh xinh xắn với khói tuôn ra từ ống khói, một vầng mặt trời hiền từ mỉm cười nhìn xuống mái nhà. “Bố tôi nghĩ chắc mẹ đã say, nên mới đưa ra lệnh cấm rượu, nhưng tôi đã nhìn thấy mẹ, và mẹ không say. Mẹ hoàn toàn tỉnh táo.”

Nàng vẫn mỉm cười như thể đây là một hoài niệm bình thường, nhưng giờ nụ cười của nàng đã trở nên lạnh lùng, đờ đẫn.

“Tối hôm ấy mẹ vào buồng tôi và đứng ngắm tôi một lúc. Tôi giả vờ ngủ. Rồi đúng lúc tôi đang định chồm dậy kêu ‘hù’ thì... mẹ bước ra.”

Nàng đưa tay ra định xóa bức vẽ, nhưng tôi nắm cổ tay nàng ngăn lại. Tôi nhìn nàng lắc đầu. Nàng im lặng ngắm tôi một lát. Rồi nàng nhích sang bên để đối diện với tôi và cười, chỉ cách mặt tôi mấy phân.

“R này,” nàng nói. “Nếu tôi hôn anh thì tôi có chết không?”

Mắt nàng vẫn nhìn chăm chú. Nàng hầu như không say.

“Anh đã nói là không, đúng không? Tôi sẽ không bị lây nhiễm phải không? Bởi vì tôi rất muốn hôn anh.” Nàng cựa người. “Và nếu anh có lây cái gì cho tôi thì có lẽ cũng không tệ lắm. Ý tôi là, giờ anh đã khác rồi mà, đúng không? Anh không phải là Xác Sống. Anh là... một cái gì đó mới.” Mặt nàng gần sát mặt tôi. Nụ cười của nàng xịu xuống. “Thế nào, R?”

Tôi nhìn vào mắt nàng, nhìn trong làn nước lạnh băng của chúng như một thủy thủ đắm tàu cố với lấy cái bè. Nhưng chẳng có cái bè nào cả.

“Julie,” tôi nói. “Tôi phải... cho cô thấy cái này.”

Nàng ngoẹo đầu vẻ tò mò. “Cái gì?”

Tôi đứng lên. Tôi nắm lấy tay nàng và bắt đầu bước đi.

Đêm tĩnh lặng, chỉ trừ tiếng xào xạc nguyên sinh của màn mưa. Mưa nhỏ ướt đẫm nền đất, làm mặt đường nhựa trơn trượt, làm những cái bóng tan chảy ra thành những vết mực đen loang loáng. Tôi bám theo những con phố sau nhỏ hẹp và những ngõ ngách không có đèn. Julie đi theo sau tôi một quãng, mắt không rời mặt tôi.

“Mình đang đi đâu đây?” nàng hỏi.

Tôi dừng một ngã tư để dò tấm bản đồ trong ký ức đánh cắp được của mình, nhớ lại hình ảnh những nơi chốn tôi chưa bao giờ đến, những người tôi chưa bao giờ gặp. Sắp... đến rồi.”

Sau khi cẩn thận nhìn qua mấy góc quanh và lén lút lao qua các giao lộ, chúng tôi đã đến nơi. Một ngôi nhà năm tầng vươn lên trước mặt chúng tôi, cao gầy lênh khênh và xám xịt như tất cả những ngôi nhà khác trong cái thành phố xương xẩu này, những ô cửa sổ lập lòe ánh đèn vàng như những con mắt cảnh giác.

“Cái quái gì thế này, R?” Julie ngước lên nhìn ngôi nhà và thì thầm. “Đây là...”

Tôi kéo nàng đến cửa trước và chúng tôi đứng dưới hàng hiên nhô ra, trong khi mái nhà rung lên dưới màn mưa như đánh trống trận. “Cho tôi mượn... cái mũ nhé?” tôi hỏi mà không nhìn nàng.

Nàng không cử động hồi lâu, rồi nàng cởi mũ ra đưa cho tôi. Mũ len xanh sẫm với một sọc đỏ quanh vành...

Bà Rosso đã đan cái mũ này cho Julie làm quà sinh nhật năm mười bảy tuổi. Perry nghĩ khi đội nó trông nàng giống một con yêu tinh và mỗi khi nàng đội nó lên là gã lại nói với nàng bằng tiếng của Tolkien. Nàng gọi gã là tên ngộ chữ ngớ ngẩn nhất nàng đã từng biết, và gã cũng đồng tình trong khi vừa cười vừa hôn lên cổ nàng và...

Tôi kéo cái mũ len sụp xuống mặt và khe khẽ gõ cửa, mắt dán xuống đất như một đứa bé nhút nhát. Cửa hé mở. Một người phụ nữ trung niên mặc quần thể thao ngó ra nhìn chúng tôi. Mặt bà sưng húp, đầy nếp nhăn, cặp mắt đỏ ngầu thâm quầng. “Cô Grigio à?” bà lên tiếng.

Julie liếc nhìn tôi. “Chào bác Grau. Ờ...”

“Cháu làm gì ở đây? Nora có đi cùng cháu không? Quá giờ giới nghiêm rồi mà.”

“Cháu biết, chúng cháu... bị lạc sau khi ra khỏi Vườn Quả. Tối nay Nora sẽ ở lại nhà cháu nhưng ờ... chúng cháu vào một phút được không ạ? Cháu cần nói chuyện với các em.”

Tôi vẫn cúi đầu xuống trong khi bà Grau liếc qua tôi một cái. Bà mở cửa cho chúng tôi với một tiếng thở dài bực bội. “Cháu biết là cháu không thể ở lại đây được. Đây là trại trẻ chứ không phải là quán trọ, và anh bạn của cháu thì quá lớn để xin vào đây rồi.”

“Cháu biết, xin lỗi bác, chúng cháu sẽ...” Nàng lại liếc nhìn tôi. “Chúng cháu chỉ ở lại một phút thôi.”

Lúc này tôi không chịu nổi những lời xã giao nữa. Tôi đi qua người phụ nữ và tiến vào nhà. Một đứa bé mới lẫm chẫm biết đi ngó qua cửa buồng ngủ và bà Grau lườm nó. “Ta vừa nói gì hả?” bà quát, đủ to để đánh thức những đứa còn lại. “Quay về giường ngay lập tức.” Thằng bé biến vào bóng tối. Tôi dẫn Julie lên cầu thang.

Tầng hai cũng giống hệt tầng một, chỉ khác là có một đám trẻ độ dưới mười ba tuổi ngủ trên những tấm đệm nhỏ xếp thành hàng trên sàn. Nhiều quá. Những trại trẻ mới mọc lên chẳng khác nào nhà máy trong khi các ông bố bà mẹ biến mất, bị nhai và nuốt chửng bởi dịch bệnh. Chúng tôi bước qua những tấm thân nhỏ bé của chúng để lên cầu thang và một cô bé yếu ớt với tay về phía cổ chân Julie.

“Em bị ác mộng,” nó thì thầm.

“Chị xin lỗi, cưng ạ,” Julie thì thầm đáp lại. “Giờ thì em an toàn rồi, được chưa?”

Cô bé lại nhắm mắt vào. Chúng tôi lên cầu thang. Bọn trẻ trên tầng ba vẫn còn thức. Bọn thiếu niên và thanh niên râu đã bắt đầu lún phún đang ngồi trên những chiếc ghế xếp, cúi gập người bên bàn viết lia lịa vào vở hoặc giở qua những quyển sách hướng dẫn. Có mấy đứa đang ngáy khò khò trên những chiếc giường tầng trong các buồng ngủ hẹp. Tất cả cửa đều mở trừ một chiếc.

Một nhóm thanh niên lớn hơn ngạc nhiên ngước lên khỏi đống bài tập. “Ơ, chào Julie. Mọi chuyện thế nào rồi? Chị ổn chứ?”

“Chào các em. Chị...” Giọng nàng kéo dài dần, và dấu ba chấm trong lời nói của nàng biến thành dấu chấm hết. Nàng nhìn cánh cửa đóng kín. Nàng nhìn tôi. Tôi siết chặt tay nàng, tiến về phía trước, mở cửa ra, rồi đóng nó lại sau lưng chúng tôi.

Căn buồng tối om, chỉ trừ ánh đèn đường vàng vọt bên ngoài hắt vào qua cửa sổ. Trong buồng không có gì ngoài một cái tủ bằng gỗ dán, một cái giường trống trơn, với mấy bức ảnh của Julie dán lên trần nhà bên trên giường. Không khí trong buồng ngột ngạt, và lạnh hơn nhiều so với phần còn lại của ngôi nhà.

“R...” Julie nói bằng giọng run run đầy nguy hiểm. “Vì lý do khốn kiếp gì mà chúng ta lại đây?”

Tôi quay lại đối mặt với nàng. Trong cảnh tranh tối tranh sáng vàng vàng, chúng tôi trông như hai diễn viên trong một bộ phim câm bi kịch. “Julie,” tôi nói. “Giả thiết... về việc tại sao... chúng tôi lại... ăn óc người.”

Nàng bắt đầu lắc đầu.

“Là sự thật.”

Tôi nhìn vào đôi mắt đang đỏ dần lên của nàng một thoáng, rồi quỳ xuống và mở ngăn kéo dưới cùng của tủ. Trong đó, dưới hàng đống tem cũ, một cái kính hiển vi, một đội lính chì, là một xấp giấy buộc bằng dây đỏ. Tôi lôi nó ra đưa cho Julie. Theo nhiều cách kỳ lạ và bệnh hoạn nào đó thì tôi cảm thấy như bản thảo ấy là của mình. Như thể tôi vừa đưa cho nàng trái tim rướm máu của tôi trên một cái đĩa. Tôi đã sẵn sàng chờ đợi nàng cào xé nó.

Nàng đón lấy tập bản thảo. Nàng tháo sợi dây ra. Nàng nhìn trang bìa suốt một phút đồng hồ, hơi thở run rẩy. Rồi nàng lau mắt và hắng giọng.

“Răng Đỏ,” nàng đọc. “Tác giả Perry Kelvin.” Nàng nhìn xuống cuối trang. “Tặng Julie Cabernet, ánh sáng duy nhất còn lại.” Nàng đặt tập bản thảo xuống và nhìn đi chỗ khác hồi lâu, cố nén một tiếng nghẹn ngào trong họng, rồi lấy lại tinh thần và giở sang chương một. Trong khi nàng đọc, một nụ cười yếu ớt hiện ra qua hàng nước mắt. “Chà,” nàng nói, đưa một ngón tay lên quẹt mũi rồi sụt sịt. “Thật ra cũng... khá hay đấy. Anh ấy thường viết những truyện khô khan xa vời chán chết. Cái này... hơi sến... nhưng sến theo kiểu rất chân thật. Giống bản chất của anh ấy hơn.” Nàng lại nhìn vào trang bìa. “Anh ấy bắt đầu viết cách đây chưa đầy một năm. Tôi không biết là anh ấy vẫn còn viết cơ đấy.” Nàng giở đến trang cuối. “Chưa xong. Một câu bị bỏ dở giữa chừng. ‘Bị bất lợi cả về sức người lẫn vũ khí, cận kề với cái chết, chàng vẫn tiếp tục chiến đấu, bởi vì...’”

Nàng xoa xoa ngón cái lên tờ giấy, cảm nhận bề mặt của nó. Nàng áp tập giấy lên mặt và hít một hơi. Rồi nàng nhắm mắt, gập bản thảo vào, và buộc lại sợi dây. Nàng ngước lên nhìn tôi. Tôi cao hơn nàng cả một cái đầu và có lẽ nặng hơn gần ba chục ký, nhưng tôi cảm thấy mình thật bé nhỏ, nhẹ cân. Tựa hồ nàng có thể đánh ngã tôi và đè bẹp tôi chỉ với một lời thì thầm.

Nhưng nàng không nói gì. Nàng đặt tập bản thảo trở lại vào trong ngăn kéo và nhẹ nhàng đóng ngăn kéo vào. Nàng đứng thẳng dậy, lau mặt vào tay áo, rồi ôm lấy tôi, áp tai lên ngực tôi.

“Thình - thịch,” nàng khẽ nói. “Thình - thịch. Thình - thịch.”

Hai tay tôi buông thõng bên người. “Tôi xin lỗi,” tôi nói.

Mắt vẫn nhắm nghiền, giọng nghẹt đi vì vướng cái áo của tôi, nàng nói, “Tôi tha thứ cho anh.”

Tôi đưa tay ra chạm vào mớ tóc vàng rơm của nàng. “Cảm ơn.”

Ba câu nói ấy, thật đơn giản, thật nguyên sơ, nhưng chưa bao giờ chúng lại trọn vẹn đến thế. Không gì chối bỏ được ý nghĩa cơ bản của chúng. Tôi cảm thấy má nàng cử động trên ngực tôi, cảm thấy cơ má nàng kéo miệng nàng thành một nụ cười mủm mỉm.

Không nói thêm một lời, chúng tôi đóng cửa phòng Perry Kelvin và rời khỏi nhà của cậu ta. Chúng tôi bước xuống cầu thang, đi qua những thiếu niên đầy lo lắng, những đứa trẻ đang trằn trọc, những em bé đang mơ màng say ngủ, và ra ngoài phố. Tôi cảm thấy có gì đó thúc trong ngực mình, gần tim hơn là bụng, và một giọng nói nhẹ nhàng trong đầu.

Cảm ơn, Perry nói.

* * *
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Tôi muốn câu chuyện kết thúc ở đây. Thật tuyệt làm sao nếu tôi có thể biên tập lại cuộc đời của chính mình. Nếu tôi có thể dừng lại ở giữa câu và cất phần còn lại vào một cái tủ ở đâu đó, để đắm mình vào chứng mất trí nhớ và quên hết những gì đã xảy ra, đang xảy ra, và sẽ xảy ra. Nhắm mắt lại và vui vẻ ngủ thiếp đi.

Nhưng không, “R” ạ. Không có ngủ giấc ngủ của những kẻ vô tội. Không dành cho mi. Mi đã quên rồi ư? Có máu vấy trên tay mi. Trên miệng mi. Trên răng mi. Cười lên để chụp ảnh nào.

“Julie,” TÔI NÓI, chuẩn bị tinh thần để thú nhận tội lỗi cuối cùng của mình. “Tôi phải… nói với cô…”

BANG

Những ngọn đèn halogen tần suất cao của Sân vận động bừng lên như mặt trời và nửa đêm biến thành ban ngày. Tôi có thể thấy từng lỗi chân lông trên mặt Julie.

“Cái quái gì thế?” nàng hổn hển quay ngoắt đầu nhìn khắp mọi hướng. Một tiếng còi báo động chói tai phá vỡ hoàn toàn sự im lặng của buổi đêm, và rồi chúng tôi nhìn thấy: màn hình lớn đã được bật lên. Lơ lửng ở khoảng trên của mái vòm để ngỏ như một tấm bảng hạ xuống từ Thiên đàng, màn hình chiếu một đoạn phim hoạt hình thô sơ vẽ một cầu thủ bóng bầu dục đang chạy khỏi một Xác Sống, hai tay vươn ra cố níu kéo. Màn hình lập lòe xen kẽ giữa đoạn phim và một từ mà tôi nghĩ là:

XM PHẠM

“R..” Julie kinh hoàng nói, “anh đã ăn ai đó à?”

Tôi tuyệt vọng nhìn nàng. “Không còn l… không còn lư… không còn lựa chọn,” tôi lắp bắp, mất cả khả năng diễn đạt vì quá hoảng hốt. “Lính gác… ngăn tôi lại. Không… định thế. Không… muốn thế.”

Nàng mím môi, mắt nhìn như xuyên suốt qua tôi, rồi nàng khẽ lắc đầu một cái như muốn rũ bỏ một ý nghĩ và quyết định một điều gì khác. “Được rồi. Thế thì chúng ta nên vào nhà ngay thôi. Chết tiệt, R ạ.”

Chúng tôi chạy vào trong nhà và nàng đóng sập cửa lại. Nora đang đứng trên đầu cầu thang. “Hai người đã đi đâu thế? Ngoài kia có chuyện gì vậy?”

“Xâm phạm an ninh,” Julie nói. “Có Xác Sống trong Sân vận động.”

“Ý cậu là hắn ấy à?”

Sự thất vọng trong câu trả lời của nàng khiến tôi nhói đau. “Vừa đúng vừa không đúng.”

Chúng tôi vội đi vào buồng của Julie và nàng tắt hết đèn. Chúng tôi ngồi trên những đống quần áo bẩn trên sàn, và không ai nói gì một hồi lâu. Chúng tôi cứ ngồi đó lắng nghe mọi âm thanh. Tiếng lính gác chạy và hò hét. Tiếng súng. Hơi thở nặng nhọc của chính chúng tôi.

“Đừng lo,” Julie thì thầm với Nora, nhưng tôi biết lời an ủi ấy dành cho tôi. “Nó sẽ không lan rộng đâu. Tiếng súng ấy chắc có nghĩa là An ninh đã đẩy được chúng đi rồi.”

“Thế chúng ta đã thoát ra chưa?” Nora hỏi. “Liệu R có sao không?”

Julie nhìn tôi. Mặt nàng tối sầm. “Cho dù họ có gán vụ xâm phạm cho một người lên cơn đau tim thì người lính gác kia cũng rõ ràng là không thể tự ăn mình được. An ninh sẽ biết là vẫn còn ít nhất một Xác Sống chạy thoát.”

Nora nhìn theo mắt Julie về phía tôi, và tôi gần như có thể tưởng tượng ra mặt mình đang đỏ bừng lên. “Là anh à?” cô hỏi, cố lấy giọng bình thường.

“Không… cố ý. Định… giết… tôi.”

Cô không nói gì. Mặt cô vô cảm.

Tôi nhìn vào mắt cô, hết lòng mong sao cô cảm nhận được nỗi hận vô bờ của tôi. “Đây là lần cuối cùng,” tôi nói, cố bắt ngôn từ quay trở lại với cái lưỡi ngu ngốc của mình. “Cho dù thế nào đi chăng nữa. Thề có cái mồm trên trời.”

Mấy phút đau đớn trôi qua. Rồi Nora chậm rãi gật đầu và quay sang Julie. “Vậy thì bọn mình phải đưa hắn ra khỏi đây thôi.”

“Khi có xâm phạm là họ đóng tất cả lại. Cổng sẽ bị khóa và canh gác. Họ thậm chí có thể sẽ đóng cả mái vòm lại nếu họ thấy sợ đến mức ấy.”

“Thế bọn mình phải làm thế quái nào bây giờ?”

Julie nhún vai, cử chỉ ấy ở nàng trông thật ảm đạm, thật không phù hợp. Nàng nhìn tôi và nói, “Tớ không biết. Một lần nữa, tớ lại không biết.”

* * *

Julie và Nora ngủ thiếp đi. Họ đã gắng gượng thức suốt mấy tiếng đồng hồ, cố nghĩ ra kế hoạch gì đó để cứu tôi, nhưng rốt cuộc thì họ cũng đành chịu thua cơn buồn ngủ. Tôi nằm trên một đống quần và nhìn lên trần nhà điểm những ngôi sao xanh. Không dễ thế đâu, ngài Lennon. Cho dù ngài cố thử.

Chuyện này giờ nghe thật vớ vẩn, một vẩn bạc mỏng manh giữa một đám mây dông đen sì, nhưng tôi nghĩ là tôi đang bắt đầu học đọc. Khi tôi nhìn lên thiên hà lân tinh kia, những chữ cái trở nên liền mạch, ghép thành các từ. Tôi vẫn chưa biết ghép các từ lại thành câu, nhưng tôi tận hưởng cảm giác thích thú khi những ký hiệu nhỏ kia khớp vào với nhau và bùng nổ như những bong bóng xà phòng đầy âm thanh. Nếu tôi còn gặp lại vợ tôi… thì ít nhất tôi cũng sẽ đọc được biển tên của cô ấy.

Thời gian chậm chạp trôi qua. Đã quá nửa đêm từ lâu, nhưng bên ngoài vẫn sáng như ban ngày. Đèn halogen phả ánh sáng trắng vào ngôi nhà, len lỏi qua những khe hở giữa mành cửa. Tai tôi dỏng lên lắng nghe từng tiếng động quanh mình. Hơi thở của hai cô gái. Những cựa quậy của họ. Và rồi, đến khoảng bốn giờ sáng, có tiếng chuông điện thoại.

Julie thức giấc, chống khuỷu tay ngồi dậy. Ở một căn phòng đâu đó bên trong nhà, điện thoại lại reo vang. Nàng lật chăn ra và đứng lên. Thật lạ khi nhìn nàng từ góc độ này, vươn cao bên trên tôi thay vì co rúm bên dưới. Giờ tôi mới là người cần được bảo vệ. Một lỗi lầm nhỏ, một vấp váp tức thời trong cái lương tri tôi mới tìm lại được đây - chỉ cần có thế là mọi sự sẽ sụp đổ. Cuộc sống của một con người thật là một trách nhiệm nặng nề biết bao.

Điện thoại vẫn tiếp tục reo. Julie ra khỏi phòng và tôi theo nàng đi qua căn nhà tối, âm vang. Chúng tôi bước vào một căn buồng nhìn có vẻ là một văn phòng. Có một bàn viết lớn đầy giấy tờ và sơ đồ, và trên tường, vô số các loại điện thoại được gắn vào một phiến đá, mỗi cái một kiểu một nhãn hiệu, mỗi cái thuộc về một thời kỳ khác nhau.

“Họ đã chỉnh lại đường dây điện thoại,” Julie giải thích. “Bây giờ nó hoạt động giống điện đài hơn. Chúng tôi có dây nối trực tiếp đến những điểm quan trọng.”

Mỗi chiếc điện thoại có một biển tên dán bên dưới và địa điểm viết bằng bút dạ lên chỗ trống. Xin chào, tên tôi là:

VƯỜN

BẾP

NHÀ KHO

GA RA

KHO VŨ KHÍ

HÀNH LANG 2

NTĐ GOLDMAN

ĐẤU TRƯỜNG AIG

SVĐ LEHMAN

Vân vân.

Cái điện thoại đang reo, một chiếc kiểu quay số màu xanh cốm phủ đầy bụi, được dán nhãn:

BÊN NGOÀI

Julie nhìn cái điện thoại. Nàng nhìn tôi. “Lạ thật. Đường dây này là của điện thoại từ các vùng bị bỏ hoang bên ngoài. Giờ có bộ đàm rồi nên không ai dùng nó nữa.”

Điện thoại cứ reo hoài, tiếng chuông to, thúc giục. Tôi không thể tin được là Nora lại vẫn ngủ được.

Một cách chậm rãi, Julie nhấc ống nghe lên áp vào tai. “A lô?” Nàng đợi. “Gì cơ? Tôi không hiểu…” Nàng nhíu mày chăm chú. Rồi mắt nàng mở to. “Ồ.” Mắt nàng lại nheo lai. “Anh. Phải, là Julie đây, anh cần…” Nàng đợi. “Được rồi. Vâng, anh ấy ở ngay đây.”

Nàng chìa ống nghe cho tôi. “Điện thoại gọi anh đấy.”

Tôi nhìn cái điện thoại trong tay nàng. “Cái gì cơ?”

“Là bạn anh. Gã béo ở sân bay ấy mà.”

Tôi chộp lấy cái điện thoại. Tôi kề ống nghe vào miệng. Julie lắc đầu và giúp tôi quay ống nghe lại. Tôi thốt ra một tiếng sững sờ, “M?”

Giọng nói trầm trầm của anh lao xao vọng vào tai tôi. “Chào… chàng Tương Tư.”

“Cái gì… Anh đang ở đâu?”

“Trong… thành phố. Không biết… điện thoại… có được không, nhưng phải… thử. Cậu… ổn chứ?”

“Ổn nhưng… mắc kẹt. Sân vận động… bị đóng cửa.”

“Chết tiệt.”

“Có chuyện… gì thế? Ở ngoài ấy.”

Im lặng một hồi lâu. “R này,” anh nói. “Người Chết… vẫn đang đến. Từ sân bay. Các nơi khác. Giờ chúng tôi… đông lắm.”

Tôi im bặt. Cái điện thoại tuột khỏi tai tôi. Julie nhìn tôi vẻ chờ đợi.

“A lô?” âm nói.

“Xin lỗi. Tôi đây.”

“Thế bọn tôi… đến đây rồi. Sao bây giờ? Nên… làm gì?”

Tôi gác ống nghe lên vai và nhìn vô định lên tường. Tôi nhìn đống giấy tờ và sơ đồ trên bàn của Tướng Grigio. Mọi chiến lược của ông đối với tôi đều là vô nghĩa. Tôi không nghi ngờ rằng chúng rất quan trọng - kế hoạch phân phát thức ăn, bản đồ xây dựng, cách chia vũ khí, sách lược chiến đấu. Ông đang cố giữ cho mọi người sống sót, và đó là điều tốt. Đó là nền tảng. nhưng như Julie nói, phải có điều gì đó sâu xa hơn thế. Mặt đất bên dưới nền tảng ấy. Không có mặt đất vững chắc thì tất cả sẽ sụp đổ, liên tục sụp đổ cho dù ông có đặt bao nhiêu gạch đi chăng nữa. Đó là điều tôi quan tâm. Mặt đất bên dưới lớp gạch.

“Có chuyện gì thế?” Julie hỏi. “Hắn nói gì?”

Trong khi nhìn vào khuôn mặt lo lắng của nàng, tôi lại cảm thấy bụng mình giần giật, nghe thấy giọng nói trẻ trung, háo hức trong đầu mình.

Chuyện đang xảy ra rồi, thây ma ạ. Cái điều mà mi và Julie đã châm ngòi, giờ nó đang chuyển động. Một căn bệnh tốt, một con virus đem đến sự sống! Mi có hiểu không, đồ quái vật ngu ngốc khốn khiếp? Nó đang ở trong mi! Mi phải ra khỏi bốn bức tường này và truyền nó đi khắp nơi!

Tôi hướng cái điện thoại về phía Julie để nàng cũng nghe thấy. Nàng áp lại gần.

“M,” tôi nói.

“Sao.”

“Nói với Julie đi.”

“Cái gì?”

“Nói với Julie… chuyện đang xảy ra.”

Một quãng lặng. “Thay đổi,” anh nói. “Nhiều người chúng tôi… đang thay đổi. Giống R.”

Julie nhìn tôi và tôi gần như cảm thấy tóc sau gáy nàng đang dựng đứng lên. “Không chỉ có anh thôi ư?” nàng hỏi, dịch ra xa cái điện thoại. “Chuyện… sống lại ấy?” Giọng nàng nhỏ bặt, rụt rè, như một cô bé thò đầu ra khỏi hầm tránh bom sau bao nhiêu năm sống trong bóng tối. Nó gần như run lên vì niềm hy vọng được nén chặt. “Anh định nói là bệnh dịch đang tự khỏi?”

Tôi gật đầu. “Chúng tôi đang… sửa mọi thứ.”

“Nhưng bằng cách nào?”

“Không biết. Nhưng chúng tôi phải… làm thêm. Ngoài kia… chỗ âm ấy. ‘Bên ngoài’.”

Vẻ háo hức của nàng nguội dần, đanh lại. “Tức là chúng ta phải ra đi.”

Tôi gật đầu.

“Cả hai chúng ta ư?”

“Cả hai,” giọng của âm vẳng đến qua ống nghe như một bà mẹ đang nghe lỏm. “Julie là… một phần trong đó.”

Nàng nghi ngờ nhìn tôi. “Anh muốn tôi. Một cô gái loài người gầy còm. Ra ngoài kia giữa hoang vu với một đàn Xác Sống?”

Tôi gật đầu.

“Anh có hiểu là nghe chuyện đó điên đến mức nào không?”

Tôi gật.

Nàng im lặng một lát, nhìn xuống sàn. “Anh có thật sự nghĩ là anh sẽ bảo vệ được tôi không?” nàng hỏi tôi. “Ở ngoài kia, với bọn họ ấy?”

Sự thành thực không chữa nổi của tôi khiến tôi ngần ngừ, và Julie nhíu mày.

“Có,” âm trả lời hộ tôi, vẻ bực dọc. “Cậu ấy có thể. Và tôi sẽ… giúp.”

Tôi vội gật đầu. “M sẽ giúp. Những người khác… sẽ giúp. Hơn nữa,” tôi nói thêm với một nụ cười tủm tỉm, “cô có thể… tự bảo vệ mình.”

Nàng thờ ơ nhún vai. “Tôi biết. Tôi chỉ muốn nghe xem anh sẽ nói gì.”

“Vậy là cô sẽ…?”

“Tôi sẽ đi với anh.”

“Cô… chắc chứ?”

Mắt nàng xa xăm nhưng đanh thép. “Tôi đã phải chôn cái váy không người của mẹ tôi. Tôi đã đợi điều này từ lâu lắm rồi.”

Tôi gật đầu. Tôi hít một hơi thật sâu.

“Vấn đề duy nhất trong kế hoạch của anh,” nàng nói tiếp, “đó là hình như anh đã quên mất anh vừa ăn ai đó tối qua, và chỗ này sẽ bị đóng kín cho đến khi họ tìm ra anh và giết anh.”

“Chúng tôi… tấn công nhé?” âm hỏi. “Cứu… cậu ra?”

Tôi đặt điện thoại lên tai, siết chặt ống nghe. “Không,” tôi bảo anh.

“Có… quân đội rồi. Trận chiến… đâu?”

“Không biết. Không ở đây. Đây là… con người.”

“Thế nào?”

Tôi nhìn Julie. Nàng nhìn xuống sàn và miết tay lên trán.

“Đợi đã,” tôi bảo M.

“Đợi á?”

“Thêm chút nữa. chúng tôi sẽ… nghĩ ra cách.”

“Trước khi… họ giết cậu?”

“Hy vọng thế.”

Một quãng im lặng kéo dài, đầy hồ nghi. Rồi, “Nhanh lên.”

* * *
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Julie và tôi thức suốt đêm. Trong bộ quần áo vẫn ướt nước mưa, chúng tôi không nói một lời. Cuối cùng mắt tôi trĩu xuống, và trong sự bình thản kỳ lạ này, trong khoảng thời gian có lẽ là những giờ khắc cuối cùng của tôi trên Trái Đất, trí não tôi đã tạo ra ước mơ mở cánh cửa trong bóng tối long lanh như một bông hồng được quay chậm.

Trong giấc mơ này, giấc mơ của tôi, tôi đang trôi dọc một dòng sông trên cái đuôi bị cắt rời từ ngôi nhà máy bay của mình. Tôi đang nằm ngửa dưới bầu trời nửa đêm xanh ngắt, ngắm những ngôi sao lướt qua trên đầu. Dòng sông chưa được thăm dò, ngay cả giữa thời kỳ đầy bản đồ và vệ tinh này, và tôi không biết nó sẽ đổ về đâu. Không khí tĩnh lặng. Đêm ấm áp. Tôi chỉ đem theo hai thứ: một hộp mì Thái và cuốn sách của Perry. Cuốn sách dày. Cổ kính. Bọc bằng da. Tôi mở đến đoạn giữa. Một câu bỏ dở viết bằng một thứ ngôn ngữ tôi chưa bao giờ thấy, và sau đó chẳng còn gì nữa. Một cuốn sách khổng lồ toàn giấy trắng, trống trơn, chờ đợi. Tôi gập cuốn sách lại và đặt đầu lên lớp thép lạnh. Mùi mì Thái xộc vào mũi tôi, ngọt ngào, cay cay, nồng đượm. Tôi cảm thấy dòng sông đang rộng dần ra, nước chảy xiết hơn.

Tôi nghe thấy tiếng thác đổ.

* * *

“R.”

Tôi mở mắt ra và ngồi dậy. Julie đang ngồi xếp bằng bên cạnh tôi, ngắm nhìn tôi với vẻ thích thú dữ dằn.

“Anh nằm mơ hay chứ?”

“Không… chắc,” tôi lầm bầm, đưa tay dụi mắt.

“Anh có mơ được giải pháp nào cho vấn đề nho nhỏ của chúng ta không?”

Tôi lắc đầu.

“Ừ, tôi cũng không.” Nàng liếc nhìn đồng hồ treo tường và rầu rĩ mím môi. “Mấy tiếng nữa là tôi phải đến trung tâm cộng đồng để đọc truyện. David và Marie sẽ khóc nếu tôi không có mặt.”

David và Marie. Tôi nhắc lại những cái tên ấy trong đầu, tận hưởng từng đường nét của chúng. Tôi sẵn sàng cho cô chó Trina ăn cả cái chân mình để được gặp lại hai đứa trẻ ấy. Để được nghe mấy âm tiết vụng về thốt ra từ miệng chúng trước khi tôi chết. “Cô đang… đọc truyện gì?”

Nàng nhìn qua cửa sổ ngắm thành phố, mỗi vết rạn và chỗ hỏng đều nổi hẳn lên dưới ánh sáng trắng chói lòa. “Tôi đang cố làm chúng thích bộ Tường Đỏ[1]. Tôi nghĩ những bài hát và yến tiệc và các chàng chiến binh chuột dũng cảm sẽ giúp chúng quên đi cơn ác mộng giữa cuộc sống của chúng. Marie cứ xin đọc sách về Xác Sống và tôi cứ phải bảo nó là tôi không thể đọc sách người thật việc thật trong giờ đọc truyện được, nhưng…” Nàng nhận thấy vẻ mặt tôi và ngừng lại. “Anh không sao chứ?”

[1] Redwall, bộ truyện thiếu nhi của nhà văn Anh Brian Jacques (1939 - 2011), kể về những cuộc phiêu lưu mạo hiểm của các con vật nhỏ đã được nhân cách hóa như chuột, sóc, thỏ, chồn, v.v.

Tôi gật đầu.

“Anh đang nghĩ về hai đứa con ở sân bay phải không?”

Tôi ngần ngừ, rồi gật,

Nàng vươn tay ra chạm vào đầu gối tôi và nhìn vào cặp mắt cay sè của tôi. “R này? Tôi biết mọi chuyện giờ có vẻ tệ, nhưng nghe này. Anh không được bỏ cuộc. Chừng nào anh còn thở - xin lỗi, chừng nào anh còn cử động, thì mọi chuyện chưa kết thúc. Được chứ?”

Tôi gật đầu.

“Được chứ? Chó chết, nói ra đi, R.”

“Được.”

Nàng mỉm cười.

“HAI. TÁM. HAI MƯƠI TƯ.”

Chúng tôi giật bắn người buông nhau ra khi một cái loa trên trần bỗng ré lên một loạt con số, tiếp theo là một tiếng còi báo động chói tai.

“Đây là Đại tá Rosso với một thông báo cho toàn thành phố,” cái loa nói. “Vụ xâm phạm an ninh đã được kiểm soát. Nhân viên bị lây bệnh đã được vô hiệu hóa, và không có thêm thương vong nào.”

Tôi thở phào ra.

“Tuy nhiên…”

“Chết tiệt,” Julie thì thầm.

“… nguồn gốc của vụ xâm phạm vẫn còn tự do bên trong thành phố của chúng ta. Đội tuần tra an nình sẽ bắt đầu lục soát từng nhà một trong Sân vận động. Vì chúng ta không biết vật này đang trốn ở đâu, tất cả mọi người nên ra khỏi nhà và tập trung ở một nơi công cộng. Xin đừng tự nhốt mình trong một nơi chật hẹp.” Rosso dừng lại hắng giọng. “Rất xin lỗi các bạn vì điều này. Chúng tôi sẽ xử lý mọi việc, xin các bạn hãy… bình tĩnh.”

Có một tiếng cách, rồi loa phóng thanh im bặt.

Julie đứng bật dậy và chạy vào phòng ngủ. nàng kéo rèm lên cho ánh đèn tràn qua cửa sổ. “Đến giờ dậy rồi, cô Greene, chúng ta không còn nhiều thời gian nữa đâu. Cậu có nhớ lối ra cũ nào trong đường hầm trên tường không? Có đúng là có lối thoát hiểm cứu hỏa đâu đó gắn lô ghế trên không nhỉ? R này, anh đã trèo được thang chưa?”

“Đợi đã, cái gì?” Nora cất tiếng khàn khàn hỏi và cố che mắt. “Có chuyện gì thế?”

“Theo như bạn của R thì cái thế giới Xác Sống tệ hại này kết thúc rồi, đấy là nếu bọn mình không bị giết trước đó.”

Cuối cùng thì Nora cũng tỉnh hẳn. “Xin lỗi, cái gì cơ?”

“Tí tớ sẽ kể cho cậu sau. Họ vừa mới thông báo tuần tra. Bọn mình có khoảng mười phút. Bọn mình cần phải tìm…” Giọng nàng nhòe đi và tôi chỉ biết ngắm miệng nàng chuyển động. Hình dáng môi nàng tạo thành từng từ, cách cái lưỡi nàng đập đập vào hàm răng trắng lấp lánh. Nàng đang bám lấy niềm hy vọng còn tay tôi thì đang tuột dần. Nàng vừa nói vừa quấn một lọn tóc quanh ngón tay, lọn tóc vàng bết lại cứng đơ và đang cần được gội.

Mùi cay cay từ dầu gội đầu của nàng, các thứ hoa, thảo mộc và quế trộn cùng mùi dầu tự nhiên của nàng. Nàng không bao giờ chịu nói mình dùng loại dầu gội nào. Nàng thích giữ bí mật về mùi hương của mình.

“R!”

Julie và Nora đang nhìn tôi chờ đợi. Tôi mở miệng định nói, nhưng không biết nói gì. Và rồi cửa trước của ngôi nhà bật mở mạnh đến nỗi nó vang vọng khắp các bức tường kim loại đến tận chỗ chúng tôi. Tiếng ủng dậm mạnh kêu rầm rầm trên cầu thang.

“Ôi Chúa ơi,” Julie hốt hoảng thốt lên. Nàng dẫn chúng tôi ra khỏi phòng và vào nhà tắm ngoài hành lang. “Trang điểm lại cho anh ấy đi,” nàng rít lên với Nora, và đóng sầm cửa lại.

Trong khi Nora luống cuống mở hộp phấn để tô lại bộ mặt ướt nước mưa của tôi nghe thấy hai giọng nói ngoài hành lang.

“Bố, có chuyện gì thế? Đã tìm ra Xác Sống đó chưa ạ?”

“Chưa, nhưng sẽ tìm được thôi. Con có nhìn thấy gì không?”

“Không, con vẫn ở nhà mà.”

“Con có một mình thôi à.”

“Vâng, con đã ở đây từ tối qua.”

“Sao đèn trong nhà tắm lại bật?”

Có tiếng chân bước về phía chúng tôi.

“Đợi đã, bố! Đợi một giây!” Nàng khẽ hạ giọng xuống. “Nora và Archie đang ở trong đấy.”

“Thế sao con lại nói là con chỉ có một mình? Đây không phải là lúc để đùa, Julie ạ, không phải là lúc để chơi trốn tìm.”

“Họ đang… bố biết đấy… ở trong ấy.”

Một thoáng ngần ngừ rât ngắn. “Nora và Archie,” ông quát vọng qua cửa, giọng gấp gáp và rất to. “Các cháu vừa nghe loa thông báo có vụ xâm phạm rồi đấy. Ta không thể nghĩ ra được một thời điểm ít thích hợp hơn để ân ái. Ra khỏi đó ngay.”

Nora đẩy tôi dựa vào bồn rửa mặt và dúi mặt tôi vào ngực cô đúng lúc ông Grigio giật tung cửa ra.

“Bố!” Julie thét lên, liếc Nora một cái thật nhanh khi cô đẩy tôi ra.

“Ra đây ngay lập tức,” ông Grigio nói.

Chúng tôi ra khỏi nhà tắm. Nora chỉnh lại quần áo và vuốt tóc, tỏ vẻ ngượng ngùng khá giống thật. Tôi cứ nhìn ông Grigio không chút hối lỗi, chuẩn bị sẵn thanh quản cho bài kiểm tra quan trọng đầu tiên và có lẽ cũng là cuối cùng. Ông nhìn lại tôi với bộ mặt căng thẳng, góc cạnh ấy, mắt xoáy vào mắt tôi. Chúng tôi cách nhau chưa đầy hai bước chân.

“Chào cậu, Archie,” ông nói.

“Chào bác ạ.”

“Cậu và cô Greene đang yêu?”

“Vâng ạ.”

“Tuyệt lắm. Cô cậu đã nghĩ đến chuyện cưới xin chưa.”

“Chưa ạ.”

“Còn chần chừ gì nữa. Có gì phải đợi đâu. Đây là những ngày cuối rồi. Cậu sống ở đâu, Archie?”

“Sân… Goldman ạ.”

“Nhà thi đấu Goldman chứ?”

“Vâng ạ. Xin lỗi bác.”

“Cậu làm việc gì ở nhà thi đấu Goldman.”

“Làm vườn ạ.”

“Việc đó có đủ cho cậu và Nora nuôi con không?”

“Chúng cháu không có con ạ.”

“Con cái sẽ thay thế khi chúng ta chết. Khi có con, cậu sẽ cần phải nuôi chúng. Tôi được biết là mọi chuyện ở Nhà thi đấu Goldman rất xấu. Tôi được biết là các cậu đang hết tất cả mọi thứ. Chúng ta đang sống trong một thế giới thật đen tối, phải không Archie.”

“Thỉnh thoảng ạ. Không phải luôn luôn.”

“Chúng ta cố gắng hết sức với những gì được Chúa ban cho. Nếu Chúa cho chúng ta đá trong khi chúng ta xin bánh mì, thì chúng ta sẽ mài sắc răng mà ăn đá.”

“Hoặc là tự làm… bánh mì ạ.”

Ông Grigio mỉm cười. “Cậu bôi phấn đấy à, Archie?”

Ông Grigio đâm tôi.

Tôi thậm chí còn không nhận ra lưỡi dao bị rút khỏi vỏ. Con dao dài mười hai phân đâm lút vào vai tôi rồi xuyên sang phía bên kia, ghim tôi vào tường. Tôi không cảm thấy gì và cũng không giật mình. Vết thương không chảy máu.

“Julie!” ông Grigio gầm lên, lùi ra khỏi tôi và rút súng, mắt trợn ngược trong hố sâu hoắm. “Con đã đem Người Chết vào thành phố này sao! Vào nhà của ta! Con đã để Người Chết chạm vào mình sao!”

“Bố, nghe con đã!” Julie nói, chìa tay về phía ông. “R rất khác! Anh ấy đang thay đổi!”

“Người Chết không thay đổi, Julie! Chúng không có trí não và không có tâm hồn!”

“Làm sao chúng ta biết được? Chỉ vì họ không nói chuyện với chúng ta và kể cho chúng ta nghe về cuộc sống của họ ư? Chúng ta không hiểu được ý nghĩ của họ và vì thế chúng ta cho rằng họ không có ý nghĩ nào ư?”

“Chúng ta đã kiểm tra! Người Chết không hề có dấu hiệu tự nhận thức hay có phản ứng tình cảm nào hết!”

“Chính bố cũng không, bố ạ! Trời đất ơi - R đã cứu mạng con! Anh ấy đã bảo vệ con và đưa con về nhà! Anh ấy là người! Và còn nhiều người khác giống anh ấy nữa!”

“Không,” ông Grigio nói, đột nhiên bình tĩnh lại. Tay ông không run nữa và khẩu súng được giữ chắc, cách mặt tôi chỉ vài phân.

“Bố, xin bố hãy nghe con? Xin bố đấy?” Nàng tiến lại gần hơn. Nàng đang cố tỏ ra bình tĩnh, nhưng tôi có thể thấy là nàng đang hết sức hoảng sợ. “Khi con ở sân bay, một chuyện gì đó đã xảy ra. Chúng con đã châm ngòi cho một điều gì đó, và cho dù nó là cái gì đi chăng nữa thì nó cũng đang lan tỏa ra. Người Chết đang sống lại, họ đang rời khỏi tổ và đang cố thay đổi bản chất, và chúng ta phải tìm cách giúp họ. Bố thử tưởng tượng là chúng ta có thể chữa khỏi bệnh dịch này xem! Thử tưởng tượng là chúng ta có thể dọn sạch những rắc rối này và bắt đầu lại từ đầu!”

Ông Grigio lắc đầu. Tôi có thể thấy các cơ hàm của ông cuộn lên dưới lớp da trắng bệch. “Julie, con còn trẻ. Con không hiểu nổi thế giới này. Chúng ta có thể sống sót và chúng ta có thể giết những thứ muốn giết chúng ta, nhưng không có giải pháp tổng thể nào hết. Chúng ta đã tìm kiếm suốt bao năm nay mà không tìm được gì, và giờ thì thời hạn đã hết. Thế giới đã kết thúc. Nó không thể được chữa lành, nó không thể được vá víu lại, nó không thể được cứu vãn.”

“Có chứ!” Julie hét lên với ông, mất hết mọi vẻ bình tĩnh. “Ai là người có quyền quyết định cuộc sống la một cơn ác mộng? Ai viết nên những điều luật khốn kiếp ấy? Chúng ta có thể sửa chữa được nó, chỉ là chúng ta chưa bao giờ thử mà thôi! Chúng ta đã quá bận bịu, ích kỷ và sợ sệt!”

Ông Grigio nghiến chặt răng. “Con là người mơ mộng. Con còn là trẻ con. Con chẳng khác nào mẹ con.”

“Bố, nghe con đi!”

“Không.”

Ông lên cò súng và gí nó vào trán tôi, ngay trên miếng băng dính của Julie. Nó đây. Cái sự trớ trêu thường trực của âm đây. Cái chết không thể tránh khỏi, vốn đã bỏ qua tôi suốt bao nhiêu năm trong khi tôi ngày ngày thèm khát nó, giờ lại xuất hiện đúng lúc tôi muốn sống vĩnh viễn. Tôi nhắm mắt lại và chuẩn bị tinh thần.

Máu ấm bắn lên mặt tôi - nhưng không phải là máu của tôi. Tôi mở choàng mắt đúng lúc con dao của Julie sượt qua tay ông Grigio. Khẩu súng bắn ra khỏi tay ông và cướp cò lúc nó rơi xuống sàn, rồi lại nhả ra một tràng đạn nữa khi nó bị dội ngược trở lại giữa những bức tường hẹp của hành lang như một quả bóng nảy bật khắp nơi. Tất cả co dúm người tránh đạn, và cuối cùng khẩu súng quay tít chạm vào chân Nora. Trong sự im lặng như tờ, cô trố mắt nhìn nó, rồi nhìn sang vị tướng. Ông lao đến, ôm lấy bàn tay bị đâm. Nora chộp lấy khẩu súng trên sàn và chĩa nó vào mặt ông. Ông đứng im. Quai hàm ông nghiến chặt và ông tiến tới như thể vẫn định lao đến. Nhưng rồi Nora đẩy băng đạn đã hết ra lôi một băng mới từ trong túi xách ấn nó vào khẩu súng và lên một viên vào ổ đạn, tất cả bằng một động tác nhuần nhuyễn mà không rời mắt khỏi ông. Ông Grigio lùi lại.

“Đi đi,” cô nói, đưa mắt nhìn Julie. “Tìm cách ra khỏi đây đi. Cố lên.”

Julie nắm lấy tay tôi. Chúng tôi lùi ra khỏi phòng trong khi bố nàng đứng đó run lên vì giận dữ.

“Tạm biệt bố,” Julie khẽ nói. Chúng tôi quay người chạy xuống cầu thang.

“Julie!” ông Grigio gào lên, và âm thanh ấy khiến tôi nhớ đến một âm thanh khác, tiếng hú trống rỗng của một cái tù và hỏng, giống tới mức tôi run rẩy trong chiếc áo ướt.

* * *
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Chúng tôi chạy. Julie chạy trước, dẫn đường xuyên qua những con phố hẹp. Sau lưng chúng tôi, những tiếng hò hét giận dữ vang ra từ nhà Julie. Rồi tiếng bộ đàm hú lên. Chúng tôi chạy, và chúng tôi đang bị đuổi. Julie dẫn đường không lấy làm quyết đoán cho lắm. Chúng tôi phải liên tục chạy thành hình dích dắc hoặc đi ngược lại. Chúng tôi như những con chuột lồng lên trong cũi. Chúng tôi chạy trong khi những mái nhà vươn cao xoay tít trên đầu.

Rồi chúng tôi bắt gặp bức tường. Một bức tường chắn bằng bê tông gắn đủ loại giàn giáo, thang và lối đi chẳng dẫn đến đâu hết. Những ghế ngồi đã biến mất, nhưng vẫn còn lại một cái cầu thang; một con đường tối tăm mời gọi chúng tôi trèo lên trên. Chúng tôi chạy tới đó. Mọi thứ hai bên cầu thang đã bị gỡ bỏ hết, nó lơ lửng giữa không trung như chiếc thang của Jacob[2] vậy.

[2] Cầu thang dẫn lên thiên đường trong Kinh thánh.

Chúng tôi vừa lên đến lối ra thì một tiếng quát vọng lên từ mặt đất bên dưới. “Cô Grigio!”

Chúng tôi quay nhìn lại. Đại tá Rosso đang đứng ở bậc thang dưới, vây quanh là một đội sĩ quan An ninh. Ông là người duy nhất không giương súng lên.

“Xin đừng chạy!” ông gọi Julie.

Julie kéo tôi vào hành lang và chúng tôi lao vào bóng tối.

Khoảng trống bên trong rõ ràng là vẫn đang xây dựng dở, nhưng phần lớn vẫn còn nguyên hình dáng như khi nó bị bỏ hoang. Hàng bán xúc xích, ki ốt đồ lưu niệm, và những quầy bán bánh vòng giá tám đô la nằm im lìm lạnh lẽo trong bóng mờ. Tiếng quát tháo của đội An ninh vang vọng sau lưng chúng tôi. Tôi chờ đợi một ngõ cụt chặn đường chúng tôi, bắt tôi phải quay lại đối mặt với điều không thể tránh khỏi.

“R!” Julie vừa chạy vừa hổn hển nói. “Chúng ta sẽ thoát, anh hiểu không? Chúng ta sẽ làm được!” Giọng nàng vỡ ra, vừa vì mệt vừa vì những giọt nước mắt đang dâng lên. Tôi không thể trả lời nổi.

Hành lang kết thúc. Trong ánh sáng mờ nhạt xuyên qua những cái lỗ trên lớp bê tông, tôi thấy một tấm biển trên cửa đề chữ:

LỐI THOÁT HIỂM

Julie chạy nhanh hơn, kéo tôi theo. Chúng tôi lao người vào cánh cửa và nó mở tung ra…

“Ôi chết t…” nàng hức lên một tiếng và quay ngoắt lại, nắm chặt lấy khung cửa trong khi một chân lơ lửng từ độ cao tám tầng.

Gió lạnh gào rú quanh khung cửa, nơi cầu thang thoát hiểm đã bị gỡ mất, chỉ còn lại một mẩu ngắn nhô ra từ bức tường. Chim bay qua. Dưới chân chúng tôi, thành phố trải rộng như một nghĩa địa mênh mông với các tòa nhà chọc trời là những tấm bia.

“Cô Grigio!”

Rosso và các sĩ quan của ông dừng lại cách chúng tôi chừng hai mươi bước. Rosso thở nặng nhọc, rõ ràng ông đã quá già để đuổi bắt như thế này.

Tôi nhìn xuống mặt đất bên dưới. Tôi nhìn Julie. Tôi nhìn xuống một lần nữa, rồi lại nhìn Julie.

“Julie,” tôi nói.

“Gì cơ?”

“Cô có chắc là muốn… đi với tôi không?”

Nàng nhìn tôi, cố hít thở qua những thanh phế quản đang nhanh chóng bóp nghẹt lại. Trong mắt nàng hiện lên vô số câu hỏi, có cả nỗi nghi ngờ, hình như cả sự sợ hãi nữa, nhưng nàng gật đầu. “Có.”

“Xin đừng chạy nữa,” Rosso rên lên, chống tay vào đầu gối. “Đường đó không ra được đâu.”

“Cháu phải đi,” nàng đáp.

“Cô Cabernet. Julie. Cháu không thể để bố cháu lại đây được. Ông ấy chỉ còn có mình cháu.”

Nàng cắn môi dưới, nhưng mắt vẫn lạnh băng. “Bố cháu đã chết rồi, bác Rosy ạ. Bố chỉ chưa rữa ra đấy thôi.”

Nàng nắm tay tôi, bàn tay tôi đã làm gãy khi đấm vào mặt M, và siết chặt đến nỗi tôi sợ nàng sẽ làm gãy nó lần nữa. Nàng ngước lên nhìn tôi. “Thế nào, R?”

Tôi kéo nàng lại gần. Tôi vòng tay quanh người nàng và ôm chặt như muốn gien của chúng tôi hòa vào nhau. Chúng tôi đứng đối diện nhau và tôi gần như có thể hôn nàng, nhưng thay vào đó tôi chỉ lùi lại hai bước và chúng tôi ngã qua khung cửa.

Chúng tôi lao xuống như một con chim bị bắn hạ. Tay và chân tôi vòng quanh nàng, gần như ôm trọn cả tấm thân nhỏ nhắn của nàng. Chúng tôi rơi qua một mái nhà chìa ra, một thanh chắn xuyên vào đùi tôi, đầu tôi đập vào một cái rầm, chúng tôi vướng vào một tấm áp phích quảng cáo điện thoại di động làm nó rách đôi, và rồi, cuối cùng thì chúng tôi cũng rơi xuống đất. Một loạt những tiếng răng rắc dội qua người tôi trong khi lưng tôi đập xuống đất và sức nặng của Julie đè lên ngực tôi. Nàng lăn xuống, vừa nghẹn vừa cố hít thở, còn tôi nằm đó nhìn lên trời. Thế đấy.

Julie chống tay và đầu gối ngồi dậy rồi lục túi tìm ra ống thuốc hít, hít một hơi rồi nín thở, một tay vẫn chống xuống đất để đỡ lấy cơ thể. Khi đã thở lại được bình thường, nàng quỳ xuống bên tôi với ánh mắt kinh hoàng. Mặt nàng che cả vầng mặt trời mờ ảo. “R!” nàng thì thầm. “Này!”

Chậm rãi và run rẩy như cái ngày mới đội mồ sống dậy, tôi lảo đảo đứng lên. Các khúc xương khắp người tôi kêu kẽo kẹt. Tôi mỉm cười, và với giọng nam cao hổn hển, lạc điệu của mình, tôi hát, “Em khiến… tôi thấy… thật trẻ trung…”

Nàng cười phá lên và ôm lấy tôi. Cái ôm của nàng khiến mấy khớp xương của tôi bật về chỗ cũ đánh rắc một cái.

Nàng nhìn lên khung cửa mở. Nó đóng khung lấy Rosso, ông đang nhìn xuống chúng tôi. Julie vẫy tay với ông, và ông biến vào trong Sân vận động rất nhanh, chứng tỏ ông sẽ đuổi theo chúng tôi. Tôi cố không tức giận vì tính nguyên tắc của ông - trong thế giới của ông, mệnh lệnh vẫn là mệnh lệnh.

Vậy là Julie và tôi chạy vào thành phố. Với mỗi bước, tôi cảm thấy cơ thể mình vững vàng hơn, các đốt xương thẳng hàng trở lại, nhưng mô cơ cứng lại quanh các chỗ rạn để tôi không rã ra thành từng mảnh. Tôi chưa bao giờ cảm thấy như thế này. Có phải là tôi đang lành lại không?

Chúng tôi lao qua những con phố vắng hoe, qua vô số xe hơi gỉ sét, hàng đống lá rụng và rác rưởi. Chúng tôi chạy ngược những con đường một chiều. Chúng tôi bỏ qua biển dừng đỗ. Trước mặt chúng tôi: ranh giới của thành phố, ngọn đồi cao đầy cỏ nơi thành phố mở rộng ra và xa lộ dẫn đến những nơi khác. Đằng sau chúng tôi: tiếng gầm rú không ngừng của các loại xe tấn công đang rồ máy chạy ra khỏi Sân vận động. Việc này không thể chấp nhận được! Cái miệng thép của những nhà chức trách tuyên bố. Tìm những hòn than nhỏ ấy và dập tắt chúng ngay lập tức! Với những tiếng gào rú ấy sau lưng, chúng tôi đi lên đồi.

Chúng tôi đối mặt với một đội quân.

Họ đứng trên một đồng cỏ bên cạnh đường dẫn lên xa lộ. Có hàng trăm người. Họ đi lang thang trong đám cỏ, ngước lên nhìn trời hoặc không nhìn gì cả, những bộ mặt xám ngoét teo tóp có vẻ bình thản đến lạ lùng. Nhưng khi những người đứng đầu nhìn thấy chúng tôi họ im sững, rồi quay ngoắt về phía chúng tôi. Vẻ tập trung của họ truyền đi như một đợt sóng cho đến khi cả đám đông đều đứng nghiêm. Julie nhìn tôi như muốn cười, ý nói, Thật ư? Rồi hàng người bỗng rẽ ra và một Xác Sống to con, đầu trọc, cao hơn một mét chín, tiến đến trước.

“M,” tôi chào.

“R,” anh đáp lại. Anh gật đầu với Julie. “Julie.”

“Chààào…” nàng nói, dựa sát vào tôi vẻ nghi ngại.

Những chiếc xe đuổi theo chúng tôi phanh lại đánh kít, và chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ rồ lên. Chúng đã ở rất gần rồi. Âm bước lên đỉnh đồi và đám đông đi theo anh. Julie bám sát lấy tôi trong khi họ vây quanh chúng tôi, bao bọc chúng tôi giữa đội quân nặng mùi, giữa những hàng lối hôi thối của họ. Không hiểu do tôi tưởng tượng hay là do ánh sáng mà da của âm có vẻ đỡ xám hơn thường lệ. Đôi môi rách toạc của anh cũng có vẻ sinh động hơn. Và lần đầu tiên kể từ khi tôi quen anh, bộ râu ria tỉa kỹ của anh không vấy máu.

Những chiếc SUV rầm rập lao về phía chúng tôi, nhưng khi đám đông Người Chết hiện ra trên đỉnh đồi thì đoàn xe chậm dần rồi dừng lại. Chỉ có bốn chiếc tất cả. Hai chiếc Hummer H2, một chiếc Chevy Tahoe và một chiếc Escalade, tất cả đều được phun sơn màu xanh cỏ úa kiểu quân sự. Từ chỗ chúng tôi đứng, những cỗ máy khổng lồ ấy nom thật nhỏ bé và thảm hại. Cửa chiếc Tahoe bật mở và Đại tá Rosso từ từ bước ra. Tay nắm chặt khẩu súng trường, ông lướt nhìn qua những hàng người đang chao đảo, tính toán chênh lệch lực lượng và lên kế hoạch. Mắt ông mở to sau cặp kính dày. Ông nuốt nước bọt, rồi hạ súng xuống.

“Cháu xin lỗi, bác Rosy,” Julie nói với xuống chỗ ông, và chỉ về phía Sân vận động. “Cháu không thể ở đó được nữa, bác hiểu không? Toàn là một lời dối trá khốn kiếp. Chúng ta nghĩ chúng ta đang sống sót trong đó, nhưng không phải vậy.”

Rosso chăm chú nhìn những Xác Sống xếp hàng quanh ông, nhìn xoáy vào mặt họ. Ông đã già rồi, nên có lẽ ông đã được chứng kiến buổi ban đầu của những điều này. Ông biết Người Chết nhìn như thế nào, và ông có thể thấy ở đây có gì đó khang khác, cho dù cái khác ấy có mờ nhạt, khó nhận đến thế nào đi chăng nữa.

“Cháu không thể một mình cứu cả thế giới được!” ông nói to. “Hãy quay lại đi và chúng ta có thể bàn bạc việc này!”

“Cháu không có một mình,” Julie nói, chỉ vào rừng Xác Sống đang lảo đảo quanh mình. “Cháu còn có những người này.”

Miệng Rosso co rúm lại một cách khổ sở, rồi ông nhảy lên xe, đóng sầm cửa lại và rồ máy quay trở về Sân vận động với ba chiếc xe kia nối đuôi theo sau. Đây chỉ là một quãng giải lao ngắn, như một hơi thở hít vào, bởi vì tôi biết họ sẽ không bỏ cuộc, họ không thể bỏ cuộc, họ chỉ đang thu thập sức lực, vũ khí và quyết tâm tàn bạo của họ mà thôi.

Và họ nên làm vậy, bởi vì nhìn chúng tôi mà xem. Chúng tôi là hàng trăm con quỷ và một cô gái nặng bốn mươi lăm cân, đứng ở rìa thành phố của họ với những cặp mắt rực lửa. Sâu thẳm dưới chân chúng tôi Trái đất đang kìm nén hơi thở nóng chảy, trong khi bộ xương của hàng bao thế hệ nhìn theo chúng tôi và chờ đợi.

CHÚNG TÔI TẬP TRUNG lại trên đường dẫn lên xa lộ. Sau lưng chúng tôi là thành phố. Trước mặt chúng tôi là những ngọn đồi gồ ghề đầy cổng quán sủi và những dải phân cách có trồng hoa dẫn về sân bay. Julie đứng sát bên tôi, nhìn kém tự tin hơn nhiều so với hình ảnh nhà cách mạng liều lĩnh mà nàng vừa phô ra với Rosso. Tôi đặt tay lên vai nàng và quay ra nói với đám đông.

“Julie!”

Đám đông rùng mình, và tôi nghe thấy tiếng một hai hàm răng nghiến ken két. Tôi cao giọng hơn. “Julie! Chúng ta bảo vệ cô ấy.”

Một vài người trong số họ có vẻ thèm mồi lắm, nhưng phần lớn những người khác đều không thấy cái vẻ đói khát trong mắt. Tôi chỉ thấy sự kinh ngạc như khi ở sân bay, nhưng sâu sắc hơn. Tập trung hơn. Họ không chỉ nhìn nàng, họ đang quan sát nàng. Thấm hút lấy nàng. Cứ mỗi giây lại có những đợt run rẩy kỳ lạ xuyên qua cơ thể họ.

Tôi bắt gặp âm nhìn nàng theo một kiểu khác, và tôi búng tay trước mặt anh.

“Thôi nào,” anh nói, như thể tôi đang tỏ ra quá quắt lắm vậy.

Tôi ngồi xuống trên tường chắn bằng bê tông, cố suy nghĩ. Tiếng gầm từ đoàn xe của Rosso đã mờ dần về đằng xa. Tất cả mọi người đang nhìn tôi. Những cái nhìn đầy sốt ruột từ tất cả mọi hướng. Cái nhìn ấy như muốn nói, Thế nào? Và tôi chỉ muốn hét lên Thế nào cái gì? Tôi không phải là một vị tướng hay đại tá hay người xây dựng thành phố. Tôi chỉ là một thây ma không muốn làm thây ma nữa.

Julie ngồi xuống cạnh tôi và đặt tay lên đầu gối tôi. Bây giờ tôi mới nhìn thấy những vết xước và thâm tím trên người nàng vì cú nhảy không dù của chúng tôi. Thậm chí có cả một vết trên má nàng, một vết cắt nông khiến nàng phải nhăn mặt mỗi khi cười. Tôi ghét nó.

“Cô bị thương rồi,” tôi nói.

“Không sao đâu.”

Tôi tức giận vì nàng bị thương. Tôi tức giận vì nàng đã bị tổn thương bởi tôi và những người khác trong suốt cuộc đời nàng. Tôi hầu như không còn nhớ nổ cảm giác đau, nhưng khi nhìn nàng bị đau tôi thấy như mình cũng đau lây, một nỗi đau lớn hơn nhiều so với nỗi đau của nàng. Nó len lỏi vào mắt tôi, làm mắt tôi cay sè.

“Sao cô… lại đến đây?” tôi hỏi nàng.

“Để giúp anh mà, nhớ không? Và để bảo vệ anh nữa.”

“Nhưng tại sao?”

Nàng khẽ mỉm cười, nhưng vết cắt trên má nàng lại ứa máu. “Bởi vì tôi quý anh, Ngài Xác Sống ạ.” Nàng lau máu trên mặt, nhìn nó, rồi quệt nó vào cổ tôi. “Đấy. Thế là bọn mình hòa nhé.”

Nhìn nàng ngồi cạnh tôi, thiên thần tóc vàng mắt xanh này, bao quanh là những Người Chết đang nhỏ dãi, cô gái yếu ớt đang mỉm cười với đôi môi rướm máu, nhìn về một tương lai vô định, tôi cảm thấy có cái gì đó trào lên trong mình. Mắt tôi nhòe đi, và một dòng nước chảy xuống mặt tôi. Cảm giác cay sè trong mắt tôi dịu hẳn.

Julie chạm vào má tôi và nhìn ngón tay nàng. Nàng nhìn tôi với vẻ kinh ngạc đến nỗi tôi không thể đáp trả cái nhìn ấy. Thay vào đó tôi đứng dậy và buột miệng nói, “Chúng ta sẽ quay về sân bay.”

Những Người Chết nhìn tôi. Họ nhìn M.

“Vì sao?” âm hỏi.

“Vì đó là nơi… chúng ta sống. Nơi chúng ta… bắt đầu.”

“Bắt đầu… gì? Chiến tranh ư? Đánh Xương Khô?”

“Không phải chiến tranh. Không phải… kiểu như thế.”

“Thế là cái gì?”

Trong khi tôi đứng đó cố nghĩ câu trả lời, cố chưng cất những hình ảnh đang đảo lộn trong đầu, nào là tiếng nhạc trong những dãy hành lang tối của sân bay, hai đứa con tôi chui ra khỏi chỗ trốn và phủi bụi trên làn da đang hồng hào dần, một cử động, một thay đổi nào đó - trong khi tôi đứng đó mơ màng thì bầu không khí im lìm của thành phố bỗng rung động vì một tiếng thét. Một tiếng hú khàn đặc hoảng hốt như một con bò đang bị xẻ thịt dở.

Một người đang từ bên dưới xa lộ lao về phía chúng tôi. Anh ta chạy, nhưng bước chạy không vững chứng tỏ anh ta là Xác Sống. Âm bước ra đón người mới tới. Tôi nhìn họ nói chuyện với nhau, người mới đến vẫy tay và làm điệu bộ với vẻ khiến bụng tôi thót lại. Chắc chắn anh ta đem tin xấu tới.

Anh ta đứng vào cùng chúng tôi và âm chầm chậm quay lại chỗ tôi, vừa đi vừa lắc đầu.

“Sao thế?” tôi hỏi.

“Không… về nhà được.”

“Sao không?”

“Xương Khô… điên rồi. Đến từ… khắp mọi nơi. Giết tất cả những ai… khác biệt.”

Tôi nhìn người mới đến. Thoạt đầu tôi đã ngỡ anh ta thối rữa nặng, nhưng hóa ra đó là những vết thương nghiêm trọng, vô số vết cắn và vết cào. Dưới đường còn nhiều người khác giống anh ta. Một số người đi trên xa lộ, một số khác loạng choạng bò qua đất bùn và cỏ của các dải phân cách, một đám đông chừng vài trăm người rải rác khắp nơi.

“Người như chúng ta… tìm cách trốn,” âm nói tiếp. “Và Xương Khô… đuổi theo.”

Anh vừa dứt lời thì, như thể được gọi bởi tên của chúng, những nhà quảng cáo của thần Chết xuất hiện. Một, rồi hai, rồi năm hay sáu bóng trắng lao ra từ những hàng cây ở đằng xa và xông vào hai Xác Sống đang bỏ chạy. Tôi nhìn những bộ xương ấy kéo họ xuống rồi đập đầu họ xuống nền đường. Tôi nhìn chúng giẫm nát óc họ như giẫm quả thối. Và tôi nhìn chúng mỗi lúc một đông lên, hiện ra từ đám cây và những con dốc trên xa lộ, xa hết tầm mắt, tập trung lại trên đường thành một bầy lúc nhúc, xương kêu lắc rắc.

“Ôi chó chết thật…” Julie thì thào.

“Kế hoạch mới?” âm cố tỏ ra bình tĩnh hỏi.

Tôi đứng đó băn khoăn không biết làm sao. Tôi lại như đang ở trong phòng Julie, nằm cạnh nàng trên đống quần áo bẩn trong khi nàng nói, Chúng ta không còn chạy đi đâu được nữa, phải không? Và tôi lầm lì lắc đầu, nói với nàng rằng giờ cả thế giới đã bị bao phủ bởi cái chết. Đâu đó trong tiềm thức, tôi nghe thấy tiếng động cơ xe SUV, hơn bốn chiếc nhiều, đang lao xuống phố Chính để khử tôi và lôi Julie quay lại hầm mộ bê tông của họ, ướp xác nàng như một cô công chúa và đặt nàng nằm vĩnh viễn trong một cái quách sáng đèn neon nào đó.

Vậy đó. Chúng tôi đang mắc kẹt ở vực thẳm giữa cái nôi và nấm mồ, không thích hợp với cả hai nơi.

“Kế hoạch mới!” âm nói, cắt ngang dòng suy tưởng của tôi. “Đi vào… thành phố.”

“Chúng ta vào đó làm cái quái gì?” Julie hỏi.

“Dụ Xương Khô vào. Để Người Sống xử lý.”

“Nhầm rồi,” nàng quát. “Đội An ninh sẽ không phân biệt giữa Xương Khô với Xác Thối đâu. Họ sẽ tiêu diệt sạch cả hai.”

“Chúng tôi… sẽ trốn,” âm nói. Anh chỉ xuống con dốc xa lộ, về phía một thung lũng rộng gồm những căn nhà nằm trải dài và những bùng binh đầy cỏ dại - góc phía Bắc của khu ngoại ô mà tôi và Julie đã nghỉ lại một đêm tự ngày xửa ngày xưa trong một câu chuyện cổ tích cũ kỹ mốc meo.

“Cái gì, cứ trốn kỹ và hy vọng là An ninh cùng những bộ xương kia sẽ tự xử lẫn nhau ư?”

Âm gật đầu.

Julie ngừng lại hai giây. “Một kế hoạch dở tệ, nhưng được rồi, đi thôi.” Nàng quay người định chạy, nhưng âm đặt tay lên vai nàng. Nàng gạt ra và quay ngoắt lại nhìn anh. “Làm cai gì thế? Đừng có đụng vào tao!”

“Cô… đi với R,” âm nói.

“Cái gì?” tôi giật mình hỏi anh, và anh chăm chú nhìn tôi bằng cặp mắt xám khô khốc trong khi cố tìm từ.

“Chúng tôi… dụ chúng đường này. Cậu dẫn cô ấy… đi đường kia.”

“Cái gì cơ?” Julie kêu lên. “Anh ấy sẽ không ‘dẫn tôi’ đi đâu hết, tại sao chúng ta lại tách riêng ra?”

Âm chỉ vào một vết thương bầm tím vẫn đang rỉ máu trên tay nàng, rồi chỉ vào vết xước trên má nàng. “Vì cô… yếu ớt,” anh nói bằng giọng dịu dàng khác thường. “Và… quan trọng.”

Julie nhìn M. Nàng không nói gì. Không hiểu sao nàng và tội lại đã ở ngoài rìa đám đông, và tất cả mọi người đều nhìn chúng tôi. Bọn Xương Khô đã đến gần tới mức chúng tôi nghe được chúng. Tiếng những bàn chân khô giòn của chúng lê xào xạc và tiếng rền vang trầm trầm của thứ năng lượng đen tối đang tiếp sức cho chúng. Tiếng của thứ tủy đen ngòm cuồn cuộn trong từng ống xương của chúng.

Tôi gật đầu với âm và anh gật đầu đáp lại. Tôi nắm tay Julie. Nàng cưỡng lại một thoáng, mắt không rời đám đông, rồi nàng quay sang nhìn tôi, và chúng tôi chạy đi. Âm cùng những người khác biến khỏi tầm mắt trong khi chúng tôi lao xuống bờ lũy và tiến vào khi trung tâm đổ nát. Những bóng ma cũ trong đầu tôi thức dậy và chạy cùng chúng tôi, hăng hái động viên chúng tôi.

Một điều chúng tôi không biết, một điều chúng tôi chưa từng nhìn thấy. Ký ức không thể lấn át được hiện tại; lịch sử cũng có giới hạn của nó. Chúng ta chỉ là những thầy thuốc thời Trung cổ khăng khăng giữ lấy những con đỉa của mình chăng? Chúng ta thèm muốn một khoa học tiên tiến hơn. Chúng ta muốn được chứng tỏ rằng chúng ta đã sai.

* * *
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Chỉ mấy phút sau chúng tôi đã nghe thấy tiếng trận chiến. Tiếng súng máy vang vọng khắp những khe hẻm hẹp của các con phố. Những tiếng nổ nhỏ đập mạnh vào ngực chúng tôi như tiếng đàn bass từ xa vẳng lại. Thỉnh thoảng lại có tiếng thét của một bộ Xương Khô, tiếng the thé chói tai đến độ xuyên qua cả một khoảng cách dài như điện truyền qua nước.

“Chúng ta có nên trốn vào một trong những chỗ kia không?” Julie hỏi, chỉ mấy tòa tháp bằng gạch và thép. “Để đợi đến khi yên ổn ấy?”

Tôi gật đầu nhưng vẫn ngần ngừ đứng lại trên phố. Tôi không hiểu tôi còn chần chừ điều gì. Chúng tôi còn biết làm gì khác ngoài chạy trốn?

Julie chạy đến tòa nhà gần nhất. Nàng thử mở cửa. “Khóa.” Nàng đi sang bên kia đường đến một tòa chung cư. “Cũng khóa.” Nàng đến gần một căn nhà cổ kính xây bằng đá sa thạch và lắc lắc cửa. “Cái này có khi…” Một ô cửa sổ vỡ tan trên đầu nàng; một bộ xương bò xuống bức tường như con nhện và nhảy lên lưng nàng. Tôi lao qua phố túm lấy xương sống sinh vật ấy kéo ra khỏi nàng, nhưng những ngón tay nhọn hoắt của nó găm chặt lấy da thịt nàng như những mấu gai. Tôi ôm lấy sọ nó bằng cả hai tay và gồng mình ngăn không cho nó cắn vào cổ nàng. Mặc dù cổ nó chỉ còn là những sợi gân khô héo, bộ xương ấy vẫn khỏe đến không ngờ. Quai hàm nó táp táp về phía nàng.

“Dựa vào… tường!” tôi gắng bảo Julie. Nàng loạng choạng lùi lại và đập bộ xương vào tường. nó đuối sức vừa đủ lâu để tôi vặn đầu nó khỏi người nàng rồi đập nó lên bục cửa sổ. Hộp sọ nứt rạn. Bộ mặt không còn da thịt nằm giữa hai bàn tay tôi như đang nhìn thẳng vào tôi. Và mặc dù vẻ mặt nó lúc nào cũng là một nụ cười nhăn nhở, tôi vẫn nghe được tiếng gào tức tối của nó trong đầu mình:

DỪNG LẠI. DỪNG LẠI. CHÚNG TA LÀ TOÀN BỘ NHỮNG NĂM THÁNG CỦA CÁC NGƯƠI.

Tôi lại đập đầu nó vào tường. Hộp sọ nứt ra và sinh vật ấy không còn túm chặt lấy Julie được nữa.

CÁC NGƯỜI SẼ TRỞ THÀNH CHÚNG TA. CHÚNG TA SẼ THẮNG. LUÔN LUÔN LÀ THẾ, LUÔN LUÔN SẼ…

Tôi ném nó xuống mặt đường và dận giày lên đầu nó. Những khúc xương vỡ nát im lìm. Tiếng rền vang ngưng bặt.

Tôi đang định nắm tay Julie và lao người qua cánh cửa cũ kỹ của căn nhà đá sa thạch thì một điều mà tôi không hiểu nổi xảy ra. Hộp sọ dưới chân tôi giật giật, và khi bộ não bị giẫm bẹp trong đó tan rữa, thì cái miệng bỗng mở rộng, phát ra một tiếng kêu đau đớn thảm thiết như một con chim bị thương. Tiếng kêu ấy nghe khác hẳn tiếng xương rền vang hay tiếng tù và réo hay tiếng thét của những bộ xương, và tôi kinh hoàng tự hỏi không biết có phải đó là con người trước kia của nó, là linh hồn khô quắt của nó vừa trút hơi thở cuối cùng trước khi tan biến vào hư vô không. Tóc gáy tôi dựng đứng. Julie rùng mình. Và như để đáp lại tiếng kêu ai oán ấy, một âm thanh vang lên từ dưới những con phố đằng xa. Một thứ tiếng lạch cạch kéo từ khắp mọi hướng, như một vòng tròn khép chặt dần lại quanh chúng tôi. Qua khóe mắt, tôi nhìn thấy cái gì đó cử động, và tôi nhìn lên. Sau cửa sổ của tất cả các tòa nhà toàn là những bộ mặt với cặp mắt trống rỗng. Hàm răng trần trụi của chúng nhe qua những ô cửa, hằm hè nhìn xuống chúng tôi như một bồi thẩm đoàn trong ác mộng.

“Chuyện gì thế?” Julie hỏi van vỉ, sự mệt mỏi bao trùm lấy cả khuôn mặt nàng.

Tôi không muốn trả lời. Tôi lo nàng đã cạn kiệt sức lực, và câu trả lời của tôi thì chẳng lấy gì làm lạc quan. Như khi nhìn lên những cái đầu lâu không chớp mắt đằng sau các ô cửa sổ kia, tôi không biết phải làm gì khác. “Tôi nghĩ chúng muốn… chúng ta,” tôi nói. “Cô và tôi. Chúng biết… chúng ta là ai.”

“Chúng ta là ai ấy à?”

“Những người đã… bắt đầu mọi chuyện.”

“Chó chết, anh đùa tôi đấy chăc?” nàng thét lên, mắt đảo điên nhìn xuống phố trong khi tiếng giậm chân lạch cạch tiến lại gần hơn. “Anh định bảo tôi là những thứ này biết thù dai hay sao? Chúng sẽ ‘săn đuổi chúng ta’ chỉ vì chúng ta vô tình đảo lộn cái ngôi nhà ma ám ngu ngốc của chúng ở sân bay sao?”

Julie, Julie, Perry thì thầm trong đầu tôi. Tôi có thể nghe thấy nụ cười trong giọng nói của gã. Nhìn anh đi, cưng. Nhìn mặt R và hãy đọc câu trả lời ở đó. Đây không phải là chuyện thù hằn. Những sinh vật này quá thực tế để quan tâm đến việc trả thù. Chúng đã phát hiện ra hai người. Không phải vì hai người đã bắt đầu chuyện này, mà bởi vì chúng biết hai người sẽ kết thúc nó.

Vẻ hoảng hốt của Julie bỗng sững lại khi nàng chợt hiểu ra. “Ôi Chúa ơi,” nàng thì thào.

Tôi gật đầu.

“Chúng sợ chúng ta ư?”

“Phải.”

Nàng ngẫm nghĩ điều đó hồi lâu, rồi gật đầu lia lịa và nhìn xuống đất, cắn môi, mắt đảo tới lui. “Được rồi,” nàng nói. “Được rồi, được rồi, ừ, tôi hiểu rồi. Đi nào.”

Nàng nắm lấy tay tôi và chạy. Chạy thẳng về phía đám đông đang đi tới.

“Cô làm… gì thế?” tôi vừa chạy theo nàng vừa hổn hển hỏi.

“Đây là phố Chính,” nàng nói. “Đây là chỗ đội của bố tôi đã gặp lúc tôi lái xe về nhà. Tức là ngay sau góc này sẽ là…”

Nó đang ở đó. Chiếc Mercedes cũ màu đỏ, đỗ ở giữa đường, nằm đó đợi chúng tôi như một người tái xế trung thành. Và cách chúng tôi ba khối nhà là tiền tuyến của bọn Xương Khô, chúng đang đổ xuống phố và lao về phía chúng tôi với một ý định duy nhất. Chúng tôi nhảy lên xe, Julie khởi động, và chiếc xe xoay tít một cái thành hình chữ u, lượn giữa các xe cộ khác bị bỏ lại trên đường - vụ tắc đường cuối cùng của thành phố. Bọn Xương Khô lao đến sau lưng chúng tôi, nhảy tới trước với quyết tâm không khoan nhượng của chính thần Chết, nhưng chúng tôi đang bỏ chúng lại.

“Chúng ta… đi đâu đây?” tôi hỏi trong khi mặt đường đầy ổ gà làm quai hàm tôi đánh đàn.

“Quay về Sân vận động.”

Tôi trố mắt nhìn nàng. “Cái gì?”

“Nếu những bộ xương này đang đuổi theo chúng ta, cụ thể là chúng ta mà thôi, thì chúng sẽ đuổi theo chúng ta đến đó, phải không? Chúng sẽ bỏ qua các bạn của anh và đuổi theo chúng ta. Chúng ta có thể dẫn chúng thẳng đến cổng.”

“Và sau đó… thì sao?”

“Chúng ta trốn trong khi An ninh xử lý bọn chúng. Chúng không thể vượt qua tường Sân vận động được, trừ phi chúng biết bay hay là đại loại thế.” Nàng liếc nhìn tôi. “Chúng không biết bay đấy chứ?”

Tôi nhìn thẳng về phía trước, qua kính chắn gió, bám chặt lấy bảng đồng hồ trong khi Julie lao xe qua những có phố đổ nát với tốc độ kinh người. “Quay về… Sân vận động,” tôi nhắc lại.

“Tôi biết anh nghĩ gì. Với anh quay lại đó chẳng khác nào tự sát, nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể thoát được.”

“Bằng cách nào? Bố cô…”

“Bố tôi muốn giết anh, tôi biết. Ông chỉ… bố tôi không còn nhìn thấy được mọi chuyện nữa. Nhưng tôi nghĩ bác Rosy thì có thể. Tôi đã quen bác ấy không mù đâu, mặc dù phải đeo đôi đít chai ấy. Tôi dám chắc là bác ấy hiểu được sự tình.”

Sau khi cắt đuôi bọn Xương Khô ở những phố bên ngoằn ngoèo, chúng tôi vòng trở lại phố Chính, chui qua một khoảng Hành lang 1 chưa xây xong. Giữa hai bức tường bê tông, phố đã được dọn sạch hết xe cộ và rác rưởi, dẫn thẳng về Sân vận động như một đoạn đường băng Julie vào số và tăng tốc cho tới khi động cơ cũ kỹ của chiếc xe rên lên. Mái vòm của Sân vận động vươn cao ở đường chân trời, chồm lên như một con thú khổng lồ. Trèo vào miệng ta đi, nó mơn trớn mời gọi. Nào hai cô cậu, đừng sợ hàm răng của ta.

Với cái chết chắc chắn ở sau lưng, chúng tôi lao qua trung tâm thành phố về phía một cái chết khác không chắc chắn bằng. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã nghe thấy những âm thanh quen thuộc. Tiếng động cơ lớn rồ máy và tiếng súng nổ như bắp rang, nhưng giờ đã ở rất gần chứ không còn xa nữa. Khi tường Hành lang biến thành những khung sắt trống rỗng và tầm nhìn của chúng tôi được mở rộng ra, thì tôi và Julie chỉ còn biết kinh hoàng nhìn trân trối.

Thành phố Sân vận động đã bị bao vây. Như thể đoán trước được kế hoạch của chúng tôi, nhiều toán Xương Khô đã xông tới các bức tường từ những hướng khác nhau trong thành phố, nhảy qua xe cộ và bò bằng cả bốn chân như những con mèo giơ xương. Ban An ninh đang hết sức mình xả súng và ném bom làm mặt tiền các cửa hàng nổ tung và các cột đèn giao thông đổ xuống, nhưng những bộ xương vẫn đang đổ tới từ mọi hướng, không cần đến sự trợ giúp của đội quân đang tiến tới sau lưng chúng tôi. Tôi chợt nhớ đến lần trước khi tôi ngồi trong chiếc xe này. Frank và Ava du ngoạn giữa một truyện tình lãng mạn thời Hoàng Kim, trong một cái bong bóng ấm áp đầy hoa, tiếng chim, và những cặp mắt tươi cười xanh biếc màu xanh Technicolor. Có phải cái cảnh địa ngục rực lửa này đã luôn có ở đó, đảo lộn bên ngoài cái bong bóng của chúng tôi không? Với hàng đàn quỷ dữ đang cào cấu tìm cách chui vào trong?

Thật là sai trái. Tất cả đều sai trái hết. Tôi trân trân nhìn đội quân đang đông dần lên như thể tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cái xác biết đi vậy. Chúng từ đâu đến? Với những gì tôi nghĩ là mình biết về quá trình thối rữa của chúng tôi, thì con số này là không thể có được. Phải mất hàng bao nhiêu năm trời chúng tôi mới rữa hết thịt. Cho dù chúng có đang đáp lại một tiếng gọi khiêu chiến nào đó và đổ đến từ các thành phố gần bên… thì cũng không thể có nhiều đến thế này được.

Đây là bộ mặt mới của dịch bệnh ư? Mạnh mẽ hơn, tàn bạo hơn, mỗi lúc một khỏe và nhanh hơn ư? Cái lỗ trong chiếc đồng hồ cát đang rộng ra ư?

Julie nhìn tôi với một nỗi sợ mới nhen nhóm lên trong mắt. “Anh có nghĩ là…?”

“Đừng,” tôi bảo nàng. “Cứ đi tiếp thôi. Quá muộn để… thay đổi kế hoạch rồi.”

Nàng đi tiếp. Nàng vòng xe qua những hố lựu đạn, nhảy qua các vỉa hè, lái xe trên lề đường và đâm vào những tên Xương Khô đi bộ như một gã tài xế say xỉn. Chiếc Mercey lịch lãm đã bắt đầu rúm ró cả lại, như một bi kịch bên vệ đường.

“Kia rồi!” đột nhiên nàng reo lên. “Bác ấy đấy!” Nàng rồ máy lao về phía cổng, vừa đi vừa nhấn còi inh ỏi. Khi đến gần, tôi nhận ra Đại tá Rosso đang đứng ở cổng chính ra lệnh sau một lô cốt dựng bằng những chiếc Suburban bọc thép. Julie phanh két lại trước đoàn xe và nhảy ra. “Bác Rosy!” nàng vừa kêu vừa chạy về phía cổng với tôi theo sát phía sau. “Cho chúng cháu vào cho chúng cháu vào!”

Đám lính giơ súng lên, nhìn tôi rồi nhìn Rosso. Tôi chuẩn bị tinh thần đón viên đạn sẽ xuyên đầu và kết thúc tất cả mọi sự. Nhưng Rosso vẫy tay với họ. Họ hạ vũ khí xuống. Chúng tôi chạy đến cổng và những người lính vây quanh chúng tôi, nhằm về phía những kẻ đang đuổi theo chúng tôi.

“Cô Cabernet,” Rosso bối rối nói. “ Cháu đã cứu được thế giới rồi ư?”

“Chưa hẳn ạ,” nàng hổn hển đáp. “Bọn cháu gặp chút rắc rối.”

“Bác thấy rồi,” ông nói, mắt nhìn đội quân xương khô đang kéo đến.

“Các bác có thể xử lý được chúng chứ ạ?”

“Bác nghĩ là được.” Ông quan sát lính của mình hạ đợt sóng đi đầu, rồi loay hoay nạp đạn trước khi đợt tiếp theo kéo đến. “Bác hy vọng là được.”

“Bác đừng nói với bố cháu là chúng cháu đang ở đây.”

“Julie… cháu quay về đây làm gì?”

Nàng siết chặt bàn tay nổi gân của ông. “Cháu đã bảo với bác rồi mà.”

Ông hé mở cánh cổng khổng lồ ra. “Về bố cháu thì bác không thể hứa gì với cháu được. Ông ấy… không còn là người mà bác biết nữa.”

“Chuyện gì phải xảy ra thì nó sẽ xảy ra thôi ạ. Cảm ơn bác Rosy.” Nàng hôn nhẹ lên má ông và lách qua cánh cổng để ngỏ.

Tôi ngần ngừ đứng trên ngưỡng cửa. Tay vẫn đặt trên cánh cổng, Rosso nhìn tôi chăm chú, cặp mắt nheo lại không sao dò nổi. Tôi nhìn lại ông. Không nói một lời, ông mở cổng ra cho tôi và bước sang một bên. Tôi gật đầu với ông và đi theo Julie.

* * *
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Một lần nữa chúng tôi lại lẩn lút đi trên những con phố như mê cung của Sân vận động, đến đâu cũng là những kẻ phải chạy trốn. Julie đi rất nhanh, mắt nhìn tên phố để quyết định xem nên rẽ vào đâu. Hơi thở của nàng có vẻ khó nhọc nhưng nàng không dừng lại để hít thuốc. Khắp người đầy máu me, bẩn thỉu, quần áo rách nát và phổi khò khè, nàng với tôi chưa bao giờ giống nhau đến thế.

“Cô đi… đâu vậy?” tôi hỏi.

Nàng chỉ lên màn hình lớn. Một bức ảnh chụp Nora đang lập lòe trên đó cùng với dòng chữ sau:

NORA GREENE

TẤN CÔNG CÓ VŨ KHÍ

BẮT NGAY KHI PHÁT HIỆN

“Chúng ta sẽ cần đến cô ấy,” Julie nói. “Cho dù chuyện gì xảy ra tiếp theo thì tôi cũng muốn chắc là cô ấy ở bên chúng ta chứ không bị nhốt trong một buồng giam nào.”

Tôi nhìn lên khuôn mặt khổng lồ nhòe nhoẹt các điểm ảnh của Nora. Nụ cười vui vẻ của cô chẳng hợp chút nào với bức hình truy nã ấy. “Có phải vì thế… mà ta quay về không?” tôi hỏi với về phía Julie. “Vì cô ấy?”

“Năm mươi - năm mươi thôi.”

Một nụ cười nở ra trên mặt tôi. “Cô đã có… kế hoạch,” tôi cố lấy giọng bóng gió nói. “Không chỉ là… bảo vệ cho an toàn… mà thôi.”

“Tôi cứ tưởng tôi đã thoát nợ với cái nơi này,” nàng nói, không chậm bước, và không giải thích gì thêm.

Chúng tôi đi bên lề Sân vận động, bám theo bức tường bao quanh vành đai của nó. Những sợi dây cáp chống đỡ bằng thép dày cột vào lớp bê tông trên đầu chúng tôi khẽ kêu tưng tưng như tiếng súng laser trong phim viễn tưởng, trong lúc những tòa nhà chao đảo kẽo kẹt giữa cơn gió. Những con phố bùn lầy đều vắng hoe. Đội An ninh chắc đang ở hết ngoài kia đấu với bọn Xương Khô, trong khi người dân thường co rúm trong những căn nhà mỏng manh của họ đợi cho mọi chuyện qua đi. Bầu trời buổi chiều hôm nay tuyền một màu vàng cam nhàn nhạt, với những đám mây cao bay vun vút qua mặt trời. Khung cảnh gần như có vẻ yên bình, nếu như không có đội quân ngoài kia với tiếng náo loạn vọng qua bức tường, như những người hàng xóm bất lịch sự.

“Tôi đoán được cô ấy đang ở đâu rồi,” Julie nói và dẫn đường qua một ô cửa tối. “Hồi nhỏ chúng tôi rất hay trèo lên tường chơi. Chúng tôi hay lên ngồi ở buồng VIP giả vờ mình là siêu sao hay đại loại thế. Lúc ấy thế giới cũng đã gần tận thế rồi, nên tưởng tượng ra mình là người quan trọng cũng vui.”

Chúng tôi trèo lên mấy bậc thang cao dẫn đến một tầng trên. Phần lớn các cánh cửa đã bị bịt kín, nhưng Julie không buồn để ý đến chúng. Nàng tìm ra một khe hở hẹp trên tường đã được che bởi một tấm nhựa, và chúng tôi lách qua một kẽ nứt vừa đủ cho một cô gái chui lọt.

Chúng tôi bước vào một chỗ chắc hẳn là lô hạng sang của Sân vận động. Những chiếc ghế bọc da đắt tiền nằm lật ngửa quanh những cái bàn mặt kính đã nứt. Những khay đồ ăn bằng bạc chỉ còn toàn nấm mốc. Trên quầy rượu, những ly martini đang nằm đợi bên cạnh những chiếc ví bỏ lại như những người bạn trai kiên nhẫn, không hề hay biết rằng bạn mình sẽ không bao giờ quay về từ buồng vệ sinh nữa.

Nora đang ngồi trước ô cửa sổ khổng lồ hướng xuống nền Sân vận động xa tít bên dưới. Cô nhấp một ngụm từ chai rượu vang trong tay và toét miệng cười với chúng tôi. “Nhìn kìa,” cô nói, chỉ vào màn hình lớn đang chiếu ảnh cô. “Tớ được lên ti vi rồi.”

Julie chạy đến ôm chầm lấy cô, làm rượu sánh cả ra ngoài. “Cậu ổn chứ?”

“Ổn. Cậu quay về làm gì?”

“Cậu có biết chuyện gì đang xảy ra ở ngoài kia không?”

Một loạt lựu đạn nổ ngắt quãng câu hỏi của nàng.

“Nhiều Xương Khô lắm à?”

“Ừ. Chúng đuổi tớ với R về đây. Chúng đang săn lùng bọn tớ.”

Nora vẫy tôi. “Chào R.”

“Chào.”

“Anh muốn làm một ngụm rượu vang không? Một chai Mouton Rothschild từ năm 86 đấy. Tôi xin được miêu tả là nó rất ngon, điểm thêm một chút vị ngon kinh tởm.”

“Không, cảm ơn.”

Cô nhún vai và quay lại nhìn Julie. “Săn lùng các cậu ấy à? Tại sao?”

“Tớ nghĩ bọn chúng biết bọn tớ định làm gì.”

Ngưng một lát. “Thế các cậu đang định làm gì?”

“Tớ cũng không biết nữa. Chắc là sửa lại thế giới?”

Vẻ mặt Nora nhìn giống hệt Julie tối qua lúc nàng nói chuyện điện thoại với M, lắng nghe một tin tức mà nàng không nghĩ là mình sẽ nhận được. “Thật ư?” cô nói, chai rượu đung đưa giữa mấy ngón tay.

“Ừ.”

“Bằng cách nào?”

“Bọn tớ cũng chưa biết. Bọn tớ sẽ chỉ cố thử thôi. Trong lúc thử thì bọn tớ sẽ nghĩ ra.”

Đúng lúc đó màn hình lớn phụt tắt, và giàn loa to tướng gắn trên mái Sân vận động bật lên. Một giọng nói quen thuộc vang vọng khắp bầu trời như tiếng một vị thần điên rồ.

“Julie. Bố biết con đang ở đây. Cơn giận dỗi làm mình làm mẩy này của con phải chấm dứt ngay lập tức. Bố sẽ không cho phép con biến thành mẹ. Da thịt mềm yếu sẽ bị cắn xé bởi những hàm răng cứng rắn. Mẹ con đã chết vì mẹ con không chịu cứng rắn theo.”

Trên mặt đất bên dưới, tôi có thể thấy mấy người lính gác còn lại ngước lên nhìn dàn loa rồi nhìn nhau vẻ lo ngại. Họ nghe được điều gì đó trong giọng nói của ông. Chỉ huy của họ không còn bình thường nữa.

“Thế giới của chúng ta đang bị tấn công và đây có thể là ngày cuối cùng của chúng ta, nhưng con vẫn là điều quan trọng nhất đối với bố, Julie ạ. Bố nhìn thấy con rồi.”

Khi tiếng nói của ông vang vọng qua giàn loa, tôi cảm thấy một cặp mắt lạnh lẽo đang dán vào lưng mình, và quay lại. Ở đầu bên kia Sân vận động, tôi thoáng nhìn ra một dáng người đang đứng đằng sau cửa kính của buồng thông báo tối đen, tay nắm chặt chiếc micro. Julie nhìn qua khoảng cách giữa hai bên một cách chán chường.

“Khi tất cả những điều có thực đã tan biến, sẽ chẳng còn lại gì ngoài nguyên tắc và bố sẽ giữ lấy nó. Bố sẽ khiến mọi chuyện ổn thỏa trở lại. Đợi đấy, Julie. Bố sẽ đến ngay.”

Giàn loa im lặng.

Nora đưa chai vang cho Julie. “L’chaim,” cô khẽ nói. Julie uống một ngụm. Nàng chuyển chai rượu cho tôi. Tôi cũng uống một ngụm. Vị rượu vang đỏ nồng ấm trong dạ dày tôi, chẳng màng gì đến sự im ắng trang nghiêm trong phòng.

“Giờ sao đây?” Nora hỏi.

“Tớ không biết,” Julie gắt trước khi Nora kịp hỏi xong. “Tớ không biết.” Nàng giật chai rượu từ tay tôi và lại làm một ngụm to nữa.

Tôi đứng trước cửa sổ và nhìn xuống những con phố cùng những mái nhà bên dưới, bản sao vi mô của một thành phố thanh bình. Tôi đã mệt mỏi với nơi này quá rồi. Những căn buồng chật hẹp và những hành lang như bóp nghẹt lấy ta. Tôi cần chút không khí.

“Lên mái đi,” tôi nói.

Cả hai cô gái nhìn tôi. “Để làm gì?” Julie hỏi.

“Bởi vì đó là… nơi duy nhất còn lại. Và bởi vì tôi thích chỗ ấy.”

“Anh đã lên đó bao giờ đâu,” Julie nói.

Tôi nhìn vào mắt nàng. “Có rồi đấy.”

Im lặng một hồi lâu.

“Đi thôi,” Nora nói, băn khoăn nhìn tôi sang Julie. “Đó chắc sẽ là chỗ cuối cùng họ tìm, nên ít nhất thì nó cũng… tớ không biết nữa… cho chúng ta thêm thời gian.”

Không rời mắt khỏi tôi, Julie gật đầu. Chúng tôi đi qua những dãy hành lang tối, càng đi chúng càng trở nên kém tiện nghi hơn, có vẻ công nghiệp hơn. Lối đi kết thúc ở chỗ một cái thang. Ánh sáng trắng xóa rọi xuống từ bên trên.

“Anh có trèo lên được không?” Nora hỏi tôi.

Tôi nắm lấy cái thang và rụt rè đu người lên. Tay tôi run rẩy trên những nấc thang bằng thép lạnh ngắt, nhưng tôi có thể trèo được. Tôi trèo thêm một nấc nữa, rồi nhìn xuống hai cô gái. “Được,” tôi đáp.

Họ trèo lên sau tôi và tôi tiếp tục lên cao hơn, trèo thang như thể tôi đã trèo hàng trăm lần rồi vậy. Thật tuyệt biết bao khi cảm giác được đôi tay đờ đẫn của chính mình đang kéo mình về phía ánh sáng ban ngày, còn thích hơn cả khi đi thang cuốn nữa.

Chúng tôi trèo lên một ô cửa sập, và chui qua đó để lên mái Sân vận động. Những tấm ván lát trắng bóng len dưới vầng mặt trời đang lặn. Trên đầu, những rầm xà chống đỡ uốn vòng như một tác phẩm điêu khắc. Và tấm chăn vẫn nằm kia, ướt và hơi mốc vì bị bỏ dưới mưa suốt mấy tuần, nhưng vẫn trải ra đúng như tôi nhớ, đỏ rực trên nền mái trắng.

“Ôi Chúa ơi…” Nora thì thầm, nhìn xuống thành phố bao quanh. Mặt đất bên dưới lúc nhúc đầy những bộ xương, đông hơn hẳn so với đội An ninh. Chúng tôi đã tính toán sai ư? Chúng tôi đã nhầm chăng? Trong đầu mình tôi có thể nghe thấy giọng đắc thắng của ông Grigio trong lúc chúng trèo qua tường và tràn qua cổng để giết hết từng người một. Lũ mơ mộng. Lũ trẻ con vớ vẩn. Lũ càn quấy nhảy nhót điên rồ. Tương lai tươi sáng của bọn mày đấy. Niềm hy vọng chân thành sến đặc của bọn mày đấy. Vị của nó thế nào khi nhỏ giọt xuống từ cổ họng những người mà bọn mày yêu quý?

Perry! Tôi gọi trong đầu mình. Cậu có đó không? Chúng ta phải làm gì bây giờ?

Tiếng nói của tôi vọng lại như lời cầu nguyện trong một nhà thờ tăm tối. Perry không trả lời.

Tôi nhìn những bộ xương giết và ăn thịt một người lính nữa, rồi tôi quay mặt đi. Tôi bịt tai trước những tiếng la hét, tiếng nổ, tiếng súng bắn tỉa tanh tách từ tầng nhà ngay bên dưới chúng tôi. Tôi bịt tai trước tiếng rền vang của những bộ xương, mặc dù bây giờ nó đã biến thành một hợp xướng chói tai gào thét từ khắp mọi hướng. Tôi bịt tai với tất cả mọi thứ và ngồi xuống trên tấm chăn màu đỏ. Trong khi Nora đi đi lại lại trên mái nhà quan sát trận chiến thì Julie chậm rãi đi tới chỗ tấm chăn ngồi xuống cạnh tôi. Nàng co gối vào sát ngực, và chúng tôi cùng nhìn về phía đường chân trời. Chúng tôi có thể nhìn thấy rặng núi. Chúng xanh biếc như mặt biển. Chúng thật đẹp.

“Bệnh dịch này…” Julie nói giọng rất khẽ. “Lời nguyền này… tôi đã đoán được là nó từ đâu đến.”

Những đám mây mỏng màu hồng trên đầu chúng tôi tản ra thành những cuộn dài mềm mại. Một luồng gió lạnh nổi lên ngang qua mái nhà, làm chúng tôi phải nheo mắt lại.

“Tôi không nghĩ nó là do phép thuật hay virus hay tia hạt nhân nào hết. Tôi nghĩ nó đến từ một nơi sâu xa hơn. Tôi nghĩ chính chúng ta đã tạo ra nó.”

Vai chúng tôi tựa vào nhau. Người nàng lạnh ngắt. Như thể hơi ấm trong cơ thể nàng đang rút về, co lại sâu thẳm bên trong nàng để khỏi bị ngọn gió kia thổi tắt.

“Tôi nghĩ chúng ta đã tự đè nát chính mình suốt bao thế kỷ qua. Tự chôn vùi mình dưới lòng tham, căm thù và tất cả những tội lỗi khác, cho tới khi linh hồn chúng ta chìm tới tận đáy vũ trụ. Và rồi chúng đã đào qua cái đáy ấy để tới một nơi… đen tối hơn.”

Tôi nghe thấy tiếng chim bồ câu gù gù trên mái hiên. Chim sáo vút qua chao liệng trên nền trời xa xa, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi việc nền văn mình ngu ngốc của chúng ta đang tận thế.

“Chúng ta đã giải phóng nó. Chúng ta đào qua lớp đá ngầm và dầu phụt lên, nhuộm đen tất cả chúng ta, lôi tâm bệnh của chúng ta ra ngoài cho tất cả cùng thấy. Giờ thế giới của chúng ta chỉ còn là một cái xác khô, rữa nát dưới chân chúng ta cho tới khi chẳng còn lại gì ngoài xương và tiếng ruồi vo ve.”

Mái Sân vận động chuyển động dưới chân chúng tôi. Với một tiếng rung trầm trầm, kẽo kẹt, toàn bộ khung thép bắt đầu khép lại để che chắn cho những người bên trong khỏi cuộc tấn công đang nhanh chóng biến thành một vụ xâm lăng thực sự. Khi mái Sân vận động đóng vào đánh rầm một cái thì có tiếng chân trèo lên thang về phía chúng tôi. Nora lôi khẩu súng lục của ông Grigio ra khỏi túi và lao đến ô cửa sập.

“Chúng ta làm gì bây giờ, R?” Julie rốt cuộc cũng ngước mắt nhìn tôi. Giọng nàng run run và mắt thì hoe đỏ, nhưng nàng không chịu đầu hàng trước những giọt nước mắt. “Chúng ta có ngu ngốc không khi nghĩ rằng mình có thể làm được điều gì đó? Anh đã khiến tôi hy vọng trở lại, nhưng giờ chúng ta đang ở đây, và tôi nghĩ là chúng ta sắp chết rồi. Vậy ta nên làm gì bây giờ?”

Tôi nhìn vào mặt Julie. Không chỉ là nhìn khuôn mặt ấy, mà nhìn thấu vào bên trong. Mọi lỗ chân lông, mọi vết tàn nhang, mọi sợi lông tơ mỏng mảnh. Rồi tôi nhìn đến những lớp bên dưới. Lớp thịt và xương, máu và não, cho tới tận cái năng lượng không ai biết được cuồn cuộn trong cốt lõi của nàng, sự sống, linh hồn, cái ý chí nóng bỏng khiến nàng không chỉ là một khối thịt, lan truyền tới từng tế bào của nàng và gắn kết hàng triệu tế bào ấy lại để tạo thành nàng. Nàng là ai, cô gái này? Nàng là cái gì? Nàng là tất thảy mọi thứ. Cơ thể nàng chứa đựng lịch sử của sự sống, ghi chép lại trong từng hợp chất hóa học. Trí óc nàng chứa đựng lịch sử của vũ trụ, ghi chép lại bằng nỗi đau, niềm vui và nỗi buồn, bằng lòng căm ghét và hy vọng và những thói quen xấu, bằng mọi ý nghĩ về Chúa, quá khứ - hiện tại - tương lai, cùng một lúc vừa nhớ lại, vừa cảm nhận, vừa mong mỏi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


“Chúng ta làm gì đây?” nàng hỏi như van lơn, khiến tôi choáng váng bởi cặp mắt của nàng, bởi đại dương mênh mông trong đôi đồng tử kia. “Chúng ta còn lại điều gì?”

Tôi không có câu trả lời dành cho nàng. Nhưng tôi nhìn vào mặt nàng, đôi má tái nhợt, đôi môi đỏ đầy sức sống và mềm mại như môi trẻ con, và tôi chợt hiểu ra rằng tôi yêu nàng. Và nếu như nàng là tất cả, thì có lẽ đó đã là câu trả lời đầy đủ.

Tôi kéo Julie vào lòng và hôn nàng.

Tôi áp môi nàng vào môi tôi. Tôi áp người nàng vào người tôi. Nàng vòng tay quanh cổ tôi và ôm chặt lấy tôi. Chúng tôi hôn nhau mà vẫn mở mắt, để nhìn thẳng vào chiều sâu trong mắt nhau. Lưỡi chúng tôi chạm vào nhau, nước miếng hòa lẫn, và Julie cắn môi tôi, làm lớp da toạc rách, rồi hút lấy từng giọt máu rỉ ra. Tôi cảm thấy cái chết trong tôi động đậy, cái chống - sự sống trào tới những tế bào rực sáng của nàng đẻ dập tắt chúng. Nhưng khi nó nhào đến ranh giới, tôi chặn nó lại. Tôi ghìm lấy nó và dúi nó xuống, và tôi cảm thấy Julie cũng làm theo. Chúng tôi giữ chặt lấy con quỷ dữ đang lồng lộn ấy, chúng tôi cùng đè lấy nó bằng tất cả lòng quyết tâm căm giận, và một điều gì đó đã xảy ra. Nó thay đổi. Nó vặn vẹo uốn éo và lộn trái ra. Nó trở thành một cái gì đó hoàn toàn khác. Một cái gì đó mới mẻ.

Một nỗi đau đớn đê mê xuyên suốt qua tôi, và chúng tôi buông nhau ra với một tiếng kêu. Mắt tôi nhức nhối bởi một cơn đau sâu thẳm, buốt nhói. Tôi nhìn Julie và thấy mắt nàng đang lấp lánh. Những bó cơ giật giật, rồi màu mắt nàng thay đổi. Màu da trời xanh biếc chuyển sang màu xám kẽm, rồi run rẩy, chần chừ, lập lòe, và lóe lên thành màu vàng. Một màu vàng rực như ánh mặt trời mà tôi chưa từng thấy ở bất kỳ con người nào. Đúng lúc đó, xoang mũi tôi cũng sực lên một mùi mới, một mùi giống như mùi sự sống của Người Sống nhưng cũng rất khác. Nó tỏa ra từ Julie, nó là mùi của nàng, nhưng cũng là mùi của tôi nữa. Nó tỏa ra từ người chúng tôi như một luồng pheromone[1] bùng nổ, mạnh tới nỗi tôi gần như nhìn được.

[1] Những chất được tiết ra ngoài cơ thể và được sử dụng như những tín hiệu hóa học giữa các cá thể cùng loại (chủ yếu là ở côn trùng).

“Cái gì…” Julie thì thầm, nhìn tôi với khuôn miệng hé mở, “… vừa xảy ra vậy?”

Lần đầu tiên kể từ khi ngồi lên tấm chăn này, tôi mới nhìn quanh và trông thấy cảnh vật xung quanh. Có điều gì đó đã thay đổi ở mặt đất bên dưới. Những đội quân xương khô đã thôi không tiến lên nữa. chúng đứng hoàn toàn bất động. Và mặc dù nhìn từ đây không rõ, nhưng hình như chúng đang nhìn thẳng vào chúng tôi.

“Julie!”

Tiếng gọi phá vỡ sự im lặng siêu phàm. Grigio đang đứng trước ô cửa sập trong khi Rosso trèo lên sau lưng ông, thở hổn hển, mắt dán vào vị tướng. Nora ngồi gục xuống dựa lưng vào ô cửa, tay còng vào thang, đôi chân trần duỗi ra trên nền mái bằng thép lạnh. Khẩu súng của cô nằm dưới chân Grigio, vừa ngoài tầm với.

Quai hàm ông Grigio nghiến chặt như muốn vỡ tung. Khi Julie quay lại và ông nhìn thấy đôi mắt khác thường của nàng, cả người ông gồng lên. Tôi có thể nghe thấy tiếng ông nghiến răng ken két.

“Đại tá Rosso,” ông nói bằng giọng khô khan nhất tôi đã từng nghe. “Bắn chúng đi.”

Mặt ông xám ngoét, da khô khốc, tróc vảy.

“Bố,” Julie nói.

“Bắn chúng đi.”

Rosso nhìn từ Julie sang bố nàng. “Thưa ngài, con bé không bị nhiễm bệnh.”

“Bắn chúng đi.”

“Con bé không hề nhiễm bệnh, thưa ngài. Tôi còn không chắc là thằng bé cũng nhiễm bệnh nữa. Nhìn mắt chúng mà xem, chúng…”

“Chúng đã nhiễm bệnh!” Grigio gầm lên. Tôi có thể thấy dấu răng ông hằn lên đôi môi mím chặt. “Dịch bệnh lan truyền như thế đấy! Đây chính là cách lây bệnh! Không có…” Ông nghẹn lời, như thể quyết định rằng mình nói thế là đủ.

Ông rút súng ra và chĩa vào con gái.

“John! Không!” Rosso túm lấy tay Grigio và giật xuống để cố với lấy khẩu súng. Với sự chính xác do được rèn luyện, Grigio túm lấy cổ tay Rosso bẻ mạnh, rồi thúc mạnh vào sườn ông. Ông già gục xuống trên hai đầu gối.

“Bố, thôi đi!” Julie hét lên, và ông đáp lại bằng cách lên cò súng và lại chĩa nó vào nàng. Mặt ông giờ hoàn toàn trống rỗng, không biểu lộ một chút cảm xúc gì hết. Chỉ còn là lớp da kéo căng trên hộp sọ mà thôi.

Rosso đâm một con dao vào cổ chân ông.

Grigio không kêu lên hay phản ứng lại, nhưng chân ông khuỵu xuống và ông ngã ngửa ra sau. Ông trượt xuống mái dốc, lăn lộn vặn người cố tìm một chỗ bám víu trên nền thép mịn. Khẩu súng trượt qua ông rồi rơi xuống mép mái, và ông cũng suýt nữa rơi theo nó - nhưng ông kịp dừng lại. Tay ông bam vào mép mái trong khi người lơ lửng giữa khoảng không. Tôi chỉ nhìn thấy những ngón tay nổi rõ từng đốt trắng bệch của ông và khuôn mặt căng thẳng vì gắng sức nhưng vẫn đờ đẫn đến rợn người.

Julie chạy lại định giúp ông, nhưng mái quá dốc và nàng cũng bắt đầu trượt chân. Nàng khom người ngồi đó và bất lực nhìn bố mình.

Rồi một điều kỳ lạ xảy ra. Khi bàn tay gầy guộc của ông Grigio bám lấy mép mái, một bàn tay khác vươn lên nắm lấy tay ông. Nhưng những ngón tay này không có thịt. Nó chỉ là xương khô, ố nâu ố vàng vì bụi bặm, thời gian, và lớp máu vương lại từ những vụ giết chóc tự bao giờ. Nó bám lấy mái nhà, giữa chặt lớp thép, và kéo lên một bộ xương nhăn nhở phát tiếng kêu trầm đục.

Nó không đi nhanh. Nó không lao hay nhảy. Nó di chuyển một cách từ tốn, không có cái tốc độ khát máu không ngừng nghỉ đã săn đuổi chúng tôi qua thành phố. Và mặc dù nó đã săn đuổi chúng tôi qua thành phố. Và mặc dù nó đã săn đuổi hết sức điên cuồng, dường như bây giờ nó lại chẳng vội tấn công tôi hay Julie. Nó hầu như còn không để ý đến chúng tôi. Nó cúi xuống đưa móng vuốt ra túm lấy áo Grigio và kéo ông lên gờ mái. Grigio cố đứng dậy, và bộ xương kéo ông đứng thẳng lên.

Grigio và bộ xương nhìn nhau, mặt chỉ cách nhau vài phân.

“Bác Rosy!” Julie thét to. “Bắn nó đi!”

Rosso đang cố lấy lại hơi, ôm lấy cổ tay và xương sườn, không cử động nổi. Ông nhìn Julie như muốn cầu xin nàng tha lỗi, không chỉ vì đã làm nàng thất vọng lần này, mà còn bởi vì tất cả những thất bại trước kia dồn lại. Tất cả những năm tháng ông biết rõ sự tình mà không làm gì cả.

Bộ xương nắm lấy tay Grigio hết sức nhẹ nhàng, dịu dàng, như thể sắp sửa dẫn ông vào một điệu nhảy. Rồi nó kéo ông lại gần, nhìn vào mặt ông, và cắn một miếng lên vai ông.

Julie thét lên, nhưng tất cả những người khác đều sững sờ. Grigio không cưỡng lại. Mắt ông mở to rực lên như đang trong cơn sốt, nhưng mặt ông vẫn chỉ là một tấm mặt nạ vô cảm trong khi sinh vật kia ngấu nghiến nhai ông, cắn từng miếng chậm rãi, thưởng thức gần như với vẻ khoái cảm. Những mẩu thịt rơi qua bộ hàm trống rỗng của nó và rớt xuống mái.

Tôi đứng như trời trồng. Tôi nhìn ông Grigio và bộ xương trong nỗi kinh hoàng mê hoặc, cố hiểu cho ra điều mình đang thấy. Họ đứng đó trên gờ mái, in hình trên nền trời đầy những đám mây hồng và sương mù màu cam rờn rợn, và dưới ánh sáng ma quái ấy, hình hài của cả hai không thể phân biệt được. Chỉ là một bộ xương đang nuốt một bộ xương khác.

Julie lao đến ô cửa sập. Nàng nhặt súng của Nora lên và nhằm vào bộ xương. Đến lúc ấy nó mới nhìn nàng, mới tỏ ra biết đến sự có mặt của chúng tôi, và nó ngửa đầu về phía sau để phát ra một tiếng gào chói tai như tiếng kèn báo ngày tận thế, một thứ âm thanh khàn đục, gỉ sét, và vĩnh viễn lạc điệu.

Julie bắn. Nàng bắn trượt mấy phát đầu tiên, rồi một viên đạn trúng vào sườn bộ xương, phá vỡ xương đòn và một khúc xương hông.

“Julie.”

Nàng dừng lại, khẩu súng run rẩy trong tay. Cha nàng đang trân trân nhìn nàng trong lúc máu chảy hết khỏi người ông. “Bố xin lỗi,” ông khẽ nói.

“Bố, đẩy nó ra đi! Đánh lại nó đi!”

Ông Grigio nhắm mắt lại và nói:

“Không.”

Bộ xương nhăn răng ra với Julie, và ăn họng cha nàng.

Julie hét lên với tất cả nỗi đau khổ và giận dữ trong trái tim non trẻ bị vùi giập của nàng và bắn một phát nữa. Hộp sọ của sinh vật kia biến mất giữa một đám bụi và xương vụn. Với những ngón tay vẫn bám chặt vào vai ông Grigio, nó lảo đảo lùi lại và ngã qua gờ mái.

Ông Grigio ngã theo nó.

Họ rơi cùng nhau, người quấn vào nhau, và thân thể ông Grigio run rẩy quằn quại trong không trung. Ông đang biến chuyển. Lớp thịt còn lại của ông tan ra trong gió, những mẩu khô khốc bay lên như tàn tro, để lại lớp xương trắng nhợt bên dưới, và trong những khúc xương ấy là một lời nhắn mà cuối cùng thì tôi cũng đọc được. Một lời cảnh báo khắc vào từng khúc xương đòn, từng khúc xương cánh tay, từng khúc xương bàn tay đang cố bấu víu:

Đây là dịch bệnh. Đây là lời nguyền. Giờ nó đã mạnh mẽ, đã hằn sâu và thèm khát linh hồn đến nỗi nó không muốn đợi cái chết nữa. Nó sẽ vươn ra đoạt lấy cái nó muốn.

Nhưng hôm nay đã có một quyết định. Chúng tôi sẽ không để mình bị chiếm đoạt. Chúng tôi sẽ giữ chặt lấy điều mình có, cho dù lời nguyền kia có cố sức lôi kéo đến đâu đi chăng nữa.

Trên mặt đất bên dưới, bọn Xương Khô nhìn xác ông Grigio lao xuống đất và vỡ vụn. Chúng nhìn những mẩu còn lại trên nền đất, những mảnh xương trắng, nát nhừ, chẳng còn ý nghĩa gì. Rồi bất thình lình, với những cử động không còn chủ ý hay quyết tâm gì nữa… chúng bỏ đi. Có con đi thành vòng tròn, có một số con khác đâm vào nhau, nhưng dần dần chúng tản đi hết và biến vào giữa những tòa nhà và cây cối. Tôi cảm thấy một nỗi phấn khích nhỏ bé lan vào trong cơ thể. Chúng đã nhận được tín hiệu gì vậy? Giữa bộ xương vừa rơi xuống kia và nguồn năng lượng mới kỳ lạ đang tỏa ra từ mái nhà này như những đợt sóng radio, có phải những hộp sọ trống rỗng của chúng đã nhận được một thông báo? Rằng thời kỳ của chúng đã chấm dứt?

Julie thả rơi khẩu súng. Nàng nhích đến gờ mái và ngồi đó, nhìn xuống đống xương bên dưới. Mắt nàng đỏ ngầu, nhưng vẫn không có một giọt nước mắt. Âm thanh duy nhất trên mái Sân vận động là tiếng gió thổi phần phật vào những lá quốc kỳ và cờ của bang đã rách tả tơi. Rosso nhìn Julie một thoáng rồi tháo còng cho Nora và giúp cô đứng lên. Nora xoa xoa hai cổ tay rồi họ nhìn nhau, một cái nhìn khiến lời nói trở thành không cần thiết nữa.

Julie đi về phía chúng tôi, chân kéo lê, đờ đẫn. Rosso chạm vào vai nàng. “Bác rất xin lỗi, Julie ạ.”

Nàng sụt sịt mũi và nhìn xuống chân. “Cháu không sao.” Giọng nàng cũng như mắt nàng, khô khốc, kiệt quệ. Giờ thì tôi đã có thể, tôi chỉ muốn khóc thay cho nàng. Julie đã là trẻ mồ côi, nhưng nàng còn hơn cả một đứa bé bi thảm mà cái từ ấy gợi nên. Nỗi đau của nàng rồi sẽ bắt kịp nàng và đòi hỏi nàng phải trả giá, nhưng trong lúc này thì nàng vẫn ở bên chúng tôi, còn sống và đứng thẳng.

Rosso đưa bàn tay trái gạt tóc nàng, vén một lọn tóc ra sau tai. Nàng áp lòng bàn tay chai sần của ông vào má và thoáng mỉm cười.

Rosso quay sang tôi. Tôi có thể thấy mắt ông ta đảo sang phải rồi sang trái, quan sát đồng tử của tôi. “Cậu là Archie phải không?”

“Chỉ là R thôi ạ.”

Ông chìa tay ra với tôi, và sau một thoáng bối rối, tôi cũng chìa tay ra. Rosso bắt tay tôi, nhăn mặt chịu cơn đau ở cổ tay. “Tôi không biết vì sao,” ông nói, “nhưng tôi rất mừng được quen cậu, R ạ.”

Ông quay lại chỗ cửa sập.

“Liệu mai chúng ta có họp cộng đồng không ạ?” Nora hỏi.

“Bác sẽ tuyên bố ngay khi xuống khỏi cái thang này. Chúng ta có một số thay đổi cấp bách cần được bàn bạc.” Ông nhìn đội quân xương khô đang lùi dần. “Và bác rất muốn nghe các cháu giải thích xem chuyện quái quỷ gì đã xảy ra hôm nay.”

“Chúng cháu cũng có một vài giả thiết đấy ạ,” Nora nói.

Rosso trèo xuống thang, cẩn thận chỉ dùng tay trái. Nora nhìn Julie. Julie gật đầu. Nora mỉm cười với nàng, rồi với tôi, và biến qua ô cửa sập.

Chúng tôi chỉ còn lại một mình trên mái. Julie nheo mắt nhìn tôi, quan sát tôi như thể nàng chưa bao giờ thấy tôi vậy. Rồi mắt nàng mở to, và nàng hít vào một hơi. “Ôi trời ơi,” nàng nói. “R, anh đang…” Nàng với tay lên bóc miếng băng dính ra khỏi trán tôi. Nàng chạm vào chỗ nàng đã đâm tôi tự thuở nào, vào cái ngày chúng tôi gặp nhau. Ngón tay nàng đỏ thắm. “Anh đang chảy máu!”

Nàng vừa dứt lời thì tôi cũng nhận ra nhiều điều. Những cơn đau nhói khắp người. Tôi đang đau. Tôi sờ soạn người mình và thấy quần áo đang đầy máu. Không phải thứ máu đen sì nhớp nháp đã tắc trong mạch tôi. Mà là thứ máu tươi, đỏ rực rỡ.

Julie áp tay vào ngực tôi mạnh đến nỗi như đánh bằng võ kungfu. Dưới sức ép của tay nàng, tôi đã cảm nhận được. Một chuyển động sâu thẳm trong tôi. Một nhịp đập.

“R!” Julie gần như ré lên. “Em nghĩ là… anh đang sống!”

Nàng nhảy xổ vào tôi, ôm lấy tôi và ghì chặt đến nỗi tôi cảm thấy những khúc xương đang lành dở kêu lên răng rắc. Nàng lại hôn tôi, nếm vị máu mằn mặn trên môi dưới của tôi. Hơi ấm của nàng truyền khắp người tôi, và tôi cảm thấy một luồng cảm giác mới khi rốt cuộc thì hơi ấm của chính tôi cũng đáp lại.

Julie đột nhiên đứng yên. Nàng buông tôi ra và lùi lại một chút, liếc nhìn xuống dưới. Một nụ cười kinh ngạc hiện lên trên mặt nàng.

Tôi cũng nhìn xuống, nhưng thực ra là chẳng cần. Tôi đã cảm thấy nó. Dòng máu nóng hổi của tôi đang truyền đi khắp cơ thể, tràn vào các mao mạch và thắp sáng tế bào như pháo hoa ngày mùng Bốn tháng Bảy. Tôi có thể cảm thấy mỗi nguyên tử trong da thịt mình đều đang ngất ngây vui sướng, đầy nỗi biết ơn vì đã được trao một cơ hội thứ hai mà chúng không hề mong đợi. Cơ hội để bắt đầu lại từ đầu, để sống cho đúng, để yêu cho đúng, để cháy rực lên thành một đám mây nóng bỏng và không bao giờ bị chôn vùi trong bùn nữa. Tôi hôn Julie để giấu việc tôi đang đỏ mặt. Mặt tôi đỏ bừng và nóng đến độ có thể làm tan cả thép.

Được rồi, thây ma, một giọng nói trong đầu tôi lên tiếng, và tôi lại thấy bụng mình giần giật, như một cú huých nhẹ nhàng chứ không còn là một cú đá nữa. Tôi sẽ đi đây. Tôi rất tiếc vì đã không có mặt trong trận chiến của anh; nhưng tôi cũng phải chiến đấu cho bản thân mình. Nhưng chúng ta đã thắng, phải không? Tôi có thể cảm nhận được. Chân chúng ta run rẩy như mặt đất đang tăng tốc, vùn vụt phóng tới những quỹ đạo chưa từng ai biết đến. Sợ quá phải không? Nhưng có điều kỳ diệu nào mà lại không bắt đầu một cách đáng sợ? Tôi không biết trang tiếp theo của anh sẽ ra sao, nhưng với tôi thì tôi xin thề là tôi sẽ không làm hỏng nó. Tôi sẽ không ngáp dài mà bỏ dở giữa câu và cất nó vào ngăn kéo. Lần này thì không. Hãy bóc bỏ những tấm chăn len bụi bặm của sự thờ ơ và ác cảm và sự lạnh nhạt yếm thế. Tôi muốn cuộc sống với tất cả những cái sống sượng dính nháp ngu ngốc của nó.

Được rồi.

Được rồi, R.

Nó đến rồi đây.

Bước ba: Sống

Nora Greene đang đứng trên quảng trường bên cổng chính của Sân vận động, cạnh Tướng Rosso, đối diện với một đám đông khổng lồ. Cô thấy hơi lo lắng. Cô ước mình đã làm một hơi thuốc trước khi ra đây, nhưng hút thuốc lúc này có vẻ không hợp chút nào. Cô muốn đầu óc mình tỉnh táo cho dịp trọng đại này.

“Được rồi, các bạn,” Rosso nói, chất giọng khàn khàn của ông cố căng ra để những người đứng ở cuối, mãi tận những con phố ở đằng xa, cũng nghe được. “Chúng tôi đã hết sức chuẩn bị tinh thần cho các bạn, nhưng tôi biết việc này vẫn có thể hơi… đáng ngại một chút.”

Không phải tất cả mọi người trong Sân vận động đều đến đây, nhưng những ai muốn đến đều có mặt đầy đủ. Những người còn lại đang trốn sau những cánh cửa đóng chặt với khẩu súng giương cao, nhưng Nora hy vọng rốt cuộc họ cũng sẽ bước ra để xem đang có chuyện gì.

“Cho phép tôi nhắc lại một lần nữa là các bạn không gặp nguy hiểm gì hết,” Rosso nói tiếp. “Tình thế đã thay đổi.”

Rosso nhìn Nora và gật đầu.

Lính canh mở cổng ra, và Nora hét lên, “Vào đi, các bạn!”

Từng người một, vẫn còn vụng về nhưng đã đi thẳng thớm hơn phần nào, họ bước vào Sân vận động. Những Người Chết Dở. Những Người Sắp Sống. Đám đông thì thào lo lắng và cụm lại trong khi đám Xác Xống xếp thành một hàng trước cổng.

“Đây chỉ là một số ít bọn họ mà thôi,” Nora nói, bước tới trước để lên tiếng với toàn thể mọi người. “Ngoài kia họ đang đông lên mỗi ngày. Họ đang cố tìm cách tự chữa lành cho bản thân. Họ đang cố tìm cách chữa lành dịch bệnh, và chúng ta cần làm hết sức mình để giúp họ.”

“Như thế nào?” một người hỏi.

“Chúng ta sẽ nghiên cứu nó,” Rosso nói. “Quan sát nó kỹ càng, nhào trộn và nắn bóp nó cho đến khi câu trả lời hiện ra. Tôi biết nghe có vẻ thật mơ hồ, nhưng chúng ta phải bắt đầu từ đâu đó.”

“Hãy nói chuyện với họ,” Nora nói. “Tôi biết mới đầu sẽ khá là sợ, nhưng hãy nhìn vào mắt họ. Cho họ biết tên bạn và hỏi tên họ.”

“Đừng lo,” Rosso nói. “Mỗi người sẽ có một lính gác đi kèm mọi lúc mọi nơi, nhưng các bạn hãy cố tin rằng họ sẽ không làm hại các bạn. Chúng ta phải sẵn sàng xem xét khả năng việc này có thể thành công.”

Nora lùi lại cho đám đông tiến lên. Họ tiến lên một cách thận trọng. họ bước tới chỗ đám Xác Sống trong khi những người lính gác cảnh giác giương cao súng. Về phần mình, những Xác Sống đang đối mặt với tình huống khó xử này với vẻ kiên nhẫn đáng khâm phục. Họ cứ đứng đó đợi, một số gắng mỉm cười thân thiện trong lúc không để ý tới những đốm laser đang chĩa vào trán họ. Nora cũng hòa mình vào đám đông, bắt tréo ngón tay sau lưng và hy vọng vào điều tốt đẹp nhất.

“Xin chào.”

Cô quay sang phải. Một Xác Sống đang quan sát cô. Anh bước tới trước và mỉm cười với cô. Môi anh mỏng và hơi rách bên dưới bộ râu vàng tỉa ngắn, nhưng có vẻ như chúng, cùng với vô số vết thương khác trên người anh, đang lành dần.

“Ờ… xin chào…” Nora nói, liếc nhìn chiều cao đáng kể của Xác Sống nọ. Chắc là anh phải cao đến một mét chín mươi lăm. Anh có vẻ hơi nặng nề, nhưng đôi cánh tay rắn chắc như muốn xé rách cả chiếc áo tả tơi. Cái đầu trọc nhẵn của anh sáng lên như một viên ngọc trai xám.

“Tôi là Nora,” cô nói, giật giật một lọn tóc quăn của mình.

“Tên tôi là Mm…arcus,” anh nói, giọng trầm ấm mượt như nhung. “Và cô là… cô gái xinh đẹp nhất… mà tôi đã từng gặp.”

Nora bật cười khúc khích và xoắn những lọn tóc nhanh hơn. “Ôi trời.” Cô chìa tay ra. “Rất vui được gặp anh… Marcus.”

* * *

Thằng bé đang ở sân bay. Các hành lang tối đen, nhưng nó không sợ. Nó chạy qua khu ăn uống chìm trong bóng tối, chạy qua những biển hiệu không được thắp sáng và những món ăn thừa mốc meo, bia uống dở và mì Thái nguội ngắt. Nó nghe thấy tiếng một bộ xương đơn độc lách cách ở một hành lang gần đó và vội đổi hướng, vòng qua một ngã rẽ mà không chậm bước. Bọn Xương Khô bây giờ rất chậm chạp. Ngay khi bố và mẹ kế của thằng bé quay về đây, một điều gì đó đã xảy ra với chúng. Giờ chúng đi lảo đảo vô định như ong bay trong mùa đông. Chúng đứng im lìm, như những cỗ máy lỗi thời đang chờ được thay thế.

Thằng bé đang bê một cái hộp. Cái hộp giờ đã trống rỗng, nhưng tay nó rất mỏi. Nó chạy vào lối đi nối liền hai hành lang và đứng lại để dò đường.

“Anh Alex!”

Em gái thằng bé chạy lại sau lưng nó. Con bé cũng đang ôm một cái hộp. Khắp tay con bé là những mẩu băng dính.

“Xong hết chưa Joan?”

“Xong rồi!”

“Được rồi. Mình đi lấy thêm đi.”

Hai anh em chạy xuôi hành lang. Khi chúng đến chỗ băng chuyền, điện bật lên và dải băng chuyển động dưới chân chúng. Thằng bé và con bé chạy chân trần nhanh như gió, lao xuống hành lang như một cặp hươu trong khi ánh nắng buổi sớm tràn vào sau lưng chúng. Ở cuối hành lang, chúng suýt nữa đâm sầm vào một đám trẻ con khác, tất cả đều bê hộp.

“Xong hết rồi,” bọn trẻ nói.

“Được,” Alex nói, và chúng cùng nhau chạy. Nhiều đứa trong bọn vẫn còn mặc quần áo rách tả tơi. Một vài đứa vẫn còn xám ngoét. Nhưng phần lớn đã sống lại. Bọn trẻ thiếu cách lập trình bản năng của người lớn. Chúng phải được dạy làm tất cả mọi thứ. Cách giết sao cho nhanh, cách đi lang thang vô định, cách lảo đảo người và rên rỉ và thối rữa sao cho đúng. Nhưng giờ các bài học đã ngưng. Không ai dạy chúng nữa, và như những củ cây lưu niên khô quắt nằm đợi trong lòng đất qua mùa đông, giờ chúng đang tự mình bừng lên sống dậy.

Ánh đèn neon lập lòe kêu xè xè, và có tiếng kim chạy trên đĩa hát vang lên từ những chiếc loa trên đầu. Một đứa nào đó đã bạo gan chiếm lấy bộ loa phóng thanh của sân bay. Tiếng đàn dây ngọt ngào êm dịu tràn ngập bầu không khí u ám, và giọng hát của Francis Albert Sinatra vang vọng cô đơn khắp những dãy hành lang trống trải.

Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè… khi bầu trời xanh thẳm như thiên đường…

Bộ loa bụi bặm kêu rè rè lục đục, rồi nổ lốp bốp và bóp méo tiếng. Đĩa hát bị nhảy. Nhưng đây là lần đầu tiên trong bao nhiêu năm bầu không khí ứ trệ ở đây mới được khuấy động bởi tiếng nhạc.

Khi bọn trẻ chạy ra Cổng Đến để lấy thêm hộp và băng dính mới, chúng đi qua một dáng người xanh xám đang lê bước dọc hành lang. Xác Sống ấy nhìn đám trẻ Người Sống khi chúng chạy qua, nhưng không đuổi theo. Dạo này cô ta ăn không thấy ngon nữa. Cô ta không còn cảm thấy cơn đói như trước kia. Cô ta ngắm lũ trẻ biến mất sau khúc quanh, rồi đi tiếp đường của mình. Cô ta cũng không biết rõ mình đang đi đâu, nhưng ở cuối hành lang này có một quầng sáng trắng xóa trông thật dễ chịu. Cô ta lê bước về phía đó.

Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè… khi vầng trăng khiến ta bừng sáng… Ta đã yêu, ta đã yêu… và ta muốn cả thế giới đều biết…

Cô ta bước vào phòng đợi ở Cổng 12, tràn ngập ánh mặt trời buổi sáng rực rỡ. Ở đây có cái gì đó khác trước. Trên những cửa sổ cao từ trần đến sàn nhìn ra đường băng, ai đó đã dán những tấm ảnh nhỏ lên lớp kính. Chúng được dán cạnh nhau và chồng lên nhau chừng năm hàng, tạo thành một dãy kéo dài đến tận hết phòng.

Một điều tuyệt diệu xảy ra trong mùa hè… và nó chỉ xảy ra với một vài người. Nhưng khi nó xảy ra… phải, khi đó…

Xác Sống nọ thận trọng đến gần những bức ảnh. Cô ta đứng trước chúng và trố mắt nhìn với cái miệng hé mở.

Một cô bé trèo lên cây táo. Một chú bé xịt nước vào anh trai bằng vòi phun. Một người phụ nữ chơi đàn xen lô. Một cặp vợ chồng già âu yếm nắm tay. Một chú bé với một con chó. Một chú nhóc đang khóc nhè. Một em bé sơ sinh đang ngủ say. Và một bức ảnh cũ hơn, nhàu nhĩ, mờ nhạt: một gia đình ở công viên nước. Người bố, người mẹ, và một cô con gái tóc vàng, mỉm cười nheo mắt dưới ánh mặt trời.

Xác Sống nó nhìn bức bích báo khổng lồ đầy bí hiểm ấy. Mặt trời lấp lánh trên biển tên gắn ở ngực cô ta, sáng đến nỗi làm cô ta chói mắt. Cô ta đứng đó hàng giờ bất động. Rồi cô ta hít một hơi thật sâu. Hơi thở đầu tiên sau bao nhiêu tháng ròng. Những ngón tay rũ xuống bên mình cô ta bắt đầu động đậy theo nhịp nhạc.

* * *

“R này,”

Tôi mở mắt ra. Tôi đang nằm ngửa, tay vòng sau đầu, nhìn lên một bầu trời mùa hạ hoàn hảo. “Gì cơ?”

Julie cựa mình trên tấm chăn đó, nằm dịch vào gần tôi hơn. “Anh có nghĩ là rồi một ngày mình sẽ lại thấy máy bay trên trời không?”

Tôi nghĩ một lát. Tôi ngắm những phân tử nhảy nhót trong tròng mắt mình. “Có.”

“Thật à?”

“Có lẽ bọn mình thì không. Nhưng anh nghĩ bọn trẻ con sẽ thấy.”

“Anh nghĩ bọn mình có thể đẩy nó xa tới đâu?”

“Đẩy cái gì cơ?”

“Xây dựng lại mọi thứ ấy. Cho dù mình có thể xóa sạch bệnh dịch… anh có nghĩ là chúng ta có thể đưa mọi việc trở lại như cũ được không?”

Một con sáo đơn độc chao liệng ngang qua bầu trời xa xăm, và tôi tưởng tượng ra một cái đuôi khói máy bay trắng xóa hiện ra phía sau nó, như chữ ký bay bướm trên một bức thư tình. “Anh mong là không,” tôi đáp.

Chúng tôi im lặng một lát. Chúng tôi đang nằm trên cỏ. Đằng sau chúng tôi, chiếc Mercedes cũ kỹ méo mó đang kiên nhẫn chờ đợi, thì thầm với chúng tôi bằng những tiếng tanh tanh, xèo xèo, trong lúc động cơ của nó nguội dần. Julie đặt tên cho nó là Mercey. Người phụ nữ đang nằm cạnh tôi đây là ai mà tràn đầy sinh lực đến độ nàng có thể tăng sự sống cho một cái xe?

“R này,” nàng nói.

“Sao.”

“Anh đã nhớ ra tên mình chưa?”

Trên sườn đồi này, bên rìa một xa lộ nứt vỡ, những con côn trùng và chim muông trong cỏ đang tạo nên một bản sao thu nhỏ của tiếng xe cộ. Tôi lắng nghe bản giao hưởng hoài cổ của chúng, và lắc đầu. “Chưa.”

“Anh biết không, anh có thể tự đặt tên cho mình mà. Anh chọn một tên đi. Tên gì cũng được.”

Tôi ngẫm nghĩ. Tôi lướt qua bản danh mục những cái tên trong đầu mình. Những nguyên từ, ngôn ngữ và ý nghĩa phức tạp đã truyền theo văn hóa truyền thống của bao thế hệ. Nhưng tôi là một vật mới. Một tờ giấy trắng. Tôi có thể chọn bất kỳ lịch sử nào để xây dựng tương lai của mình, và tôi chọn một lịch sử mới.

“Tên anh là R,” tôi khẽ nhún vai nói.

Nàng quay đầu lại nhìn tôi. Tôi có thể cảm thấy cặp mắt vàng rực như ánh mặt trời của nàng ở bên mặt mình, nhưng đang muốn xuyên vào tai tôi để nghiền ngẫm não tôi. “Anh không muốn quay về cuộc đời cũ của mình ư?”

“Không.” Tôi ngồi dậy, vòng tay ôm đầu gối và nhìn xuống thung lũng bên dưới. “Anh muốn cuộc đời này.”

Julie mỉm cười. Nàng ngồi dậy cùng tôi và quay mặt về hướng tôi đang nhìn.

Sân bay trải dài dưới chân chúng tôi như một cái găng tay bị ném xuống. Một lời thách thức. Không có sự thay đổi toàn cầu nào sau khi những bộ xương đầu hàng. Một số người trong chúng tôi đã quay về với sự sống, một số vẫn là Người Chết. Một số còn nán lại ở sân bay này, hoặc ở các thành phố khác, các lục địa khác, lang thang, chờ đợi. Nhưng để sửa chữa là một vấn đề bao trùm cả thế giới thì sân bay là một điểm khởi đầu tốt.

Chúng tôi có những kế hoạch lớn. Đúng thế. Chúng tôi vẫn đang thăm dò trong bóng tối, nhưng ít nhất thì chúng tôi cũng đã bắt đầu. Giờ ai cũng phải làm việc; Julie và tôi chỉ dừng lại một phút để ngắm cảnh vì hôm nay là một ngày đẹp trời. Trời xanh. Cỏ xanh. Mặt trời tỏa hơi ấm trên da chúng tôi. Chúng tôi mỉm cười, bởi vì chúng tôi sẽ cứu thế giới bằng cách này. Chúng tôi sẽ không để Trái đất trở thành một nấm mồ, một ngôi mộ tập thể xoay tròn trong vũ trụ. Chúng tôi sẽ tự khai quật chính mình. Chúng tôi sẽ chống lại lời nguyền và phá vỡ nó. Chúng tôi sẽ khóc và đổ máu và ham muốn và yêu, và chúng tôi sẽ chữa lành cả cái chết. Chính chúng tôi sẽ là phương thuốc. Bởi vì chúng tôi muốn thế.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom