Cập nhật mới

Dịch Full Một Phát Một Mạng

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


“Tại sao?”

“Hắn giết cô gái tối hôm qua. Gã lớn tuổi quá già và có vẻ như Charlie rất nhỏ con. Và chứng cứ vật lý cho biết rằng đó là một cú đấm tay trái.”

“Và bốn là kẻ giật dây.”

Reacher lại gật đầu. “Ở một nơi đâu đó trong bóng tối, lập kế hoạch, giật dây. Chúng ta có thể đoán rằng hắn không chạy quanh và tự tay thực hiện những việc loại này.”

“Nhưng làm thế nào để chúng ta tiếp cận hắn đây? Nếu hắn đã rút mất tên theo dõi ông, thì chúng ta có thể cho rằng hắn cũng rút Charlie luôn. Chúng đang thủ thế.”

“Có một con đường khác. Một xa lộ rộng mênh mông.”

“Ở đâu?”

Reacher đáp, “Chúng ta bỏ qua một điều rất hiển nhiên. Chúng ta trước giờ đã nhìn lầm đầu khẩu súng. Tất cả những gì mà chúng ta đã làm là nhìn xem ai đã bắn nó.”

“Lẽ ra chúng ta nên làm gì?”

“Lẽ ra chúng ta cần suy nghĩ nhiều hơn.”

“Về chuyện gì?”

“James Barr bắn bốn phát ở Kuwait City. Và hắn bắn sáu phát ở đây.”

Helen nói, “OK. Hắn bắn nhiều hơn hai phát ở đây. Vậy thì sao nào?”

Reacher đáp, “Nhưng không phải vậy. Thật sự không. Khác hoàn toàn nếu ta nhìn từ bên lề. Sự thật là ở đây hắn đã bắn ít hơn bốn phát.”

“Thật buồn cười. Sáu so với bốn là nhiều hơn hai. Không phải ít hơn bốn.”

“Kuwait City rất nóng. Vào ban trưa thật không thể chịu nổi. Có khùng mới đi lang thang ra ngoài. Đường phố phần lớn thời gian vắng vẻ.”

“Thì sao nào?”

“Thế nên ở Kuwait City, James Barr giết mọi người mà hắn thấy. Một, hai, ba, bốn, chấm dứt. Con đường hoàn toàn vắng trừ bốn anh chàng của ta. Chỉ có mỗi họ ngu ngốc đến nỗi đi ra ngoài trong nhiệt độ ấy. Và Barr làm thịt cả bốn. Hắn làm láng. Lúc đó câu chuyện có vẻ trở nên hợp lý với tôi. Hắn muốn nhìn thấy máu phụt ra thành màn sương màu hồng. Điều làm tôi sực tỉnh là lẽ ra hắn có thể thỏa mãn sau một lần nhìn nó thôi, nhưng rõ ràng hắn không thỏa mãn. Vậy thì hợp lý sẽ là nếu hắn không dừng lại ở một vụ, thì hắn sẽ làm tới cho đến khi không còn mục tiêu nào nữa. Và hắn đã làm như vậy. Ở Kuwait City, hắn không tìm được thêm mục tiêu.”

Helen không nói gì.

Reacher nói, “Nhưng ở đây thì hắn không hết mục tiêu. Phải có cả chục người trong đoạn cổ chai đó. Hay mười lăm người. Dù sao thì cũng nhiều hơn mười người. Và hắn có băng đạn mười viên. Nhưng hắn ngừng bắn sau phát thứ sáu. Cứ thế ngừng. Hắn chừa lại bốn viên trong khẩu súng. Chúng được ghi lại trong quầy triển lãm của Bellantonio. Và đó là điều tôi muốn nói. Hắn đã bắn xả láng ở Kuwait City, vậy mà ở đây ít hơn bốn viên so với mức xả láng. Đó là sự khác biệt về mặt tâm lý ở đây. Hắn quyết định không làm láng ở đây. Vì sao vậy?”

“Vì hắn đang vội chăng?”

“Hắn có bộ phận nạp đạn tự động. Băng ghi âm trong máy tính ra sáu phát trong bốn giây. Có nghĩa là lẽ ra hắn có thể bắn mười viên trong chưa đến bảy giây. Ba giây sẽ không tạo ra sự khác biệt nào đối với hắn.”

Helen không nói gì.

Reacher nói, “Tôi đã hỏi hắn. Khi tôi gặp hắn trong bệnh viện. Tôi hỏi hắn sẽ làm chuyện đó như thế nào, về mặt lý thuyết. Như là một dự thảo chiến thuật. Nên hắn suy nghĩ về nó. Hắn rành khu vực đó. Hắn nói rằng mình sẽ đậu xe trên xa lộ. Sau lưng thư viện. Hắn nói sẽ quay kính xe xuống và trút hết băng đạn.”

Helen không nói gì.

“Nhưng hắn đã không trút hết băng đạn. Hắn ngưng bắn ở phát thứ sáu. Cứ thế ngưng. Một cách lạnh lùng và bình tĩnh. Điều này khiến toàn bộ động cơ trở nên khác biệt. Đây không phải là một gã điên xuất hiện để khủng bố cả thành phố vì một trò thách đố nữa. Hắn không bị đẩy vào nó vì niềm vui được giết chóc. Helen, chuyện này không phải là ngẫu nhiên. Không phải là rối loạn tâm thần. Mà có một mục đích rõ ràng, giới hạn và chặt chẽ ở phía sau. Điều này khiến tiêu điểm hoàn toàn đảo ngược. Lẽ ra chúng ta phải nhận ra nó. Lẽ ra chúng ta phải nhận ra rằng toàn bộ chuyện này là ở các nạn nhân chứ không phải ở người bắn. Họ không phải là những kẻ bất hạnh đã chọn nhầm chỗ, nhầm thời điểm.”

Helen hỏi, “Họ là những mục tiêu?”

Reacher đáp, “Được chọn lựa kỹ lưỡng. Và ngay khi chắc ăn rằng họ bị hạ gục thì Barr thu dọn và chuồn đi. Với bốn viên đạn vẫn còn lại. Một hồi kịch về kẻ loạn trí bắn bừa sẽ không rẽ ngang theo kiểu đó. Hắn sẽ tiếp tục kéo cò cho tới khi hết đạn. Thế nên vụ này không phải là do lên cơn. Mà nó là một vụ ám sát.”

Căn phòng chìm trong im lặng.

Reacher nói, “Chúng ta cần xem các nạn nhân là những ai. Và cần tìm hiểu xem ai muốn họ phải chết. Đó là con đường sẽ dẫn chúng ta đến nơi cần đến.”

Helen không cử động.

Reacher nói tiếp, “Và chúng ta cần làm điều này thật nhanh. Vì tôi không có nhiều thì giờ và chúng ta đã phí phạm hết ba ngày tốt nhất để xem xét mọi sự đảo ngược hết cả.”

Tay bác sĩ mệt mỏi trạc ba mươi tuổi ở tầng sáu của bệnh viện hạt đang kết thúc tua khám buổi chiều của anh ta. Anh ta đã chừa James Barr lại sau cùng. Một phần vì anh ta không chờ đợi một thay đổi đột ngột nào trong tình trạng của hắn, một phần vì dù sao anh ta cũng không thèm quan tâm. Chăm sóc cho bọn trộm cắp bịp bợm cũng đã quá tệ rồi, nhưng chăm sóc cho một tên giết người hàng loạt thì thật là vô lý. Vô lý bội phần, bởi ngay khi Barr khỏe hẳn thì hắn sẽ bị đè ra trói xuống giường và một bác sĩ nào khác sẽ đến giết hắn.

Nhưng những ràng buộc về nguyên tắc thì khó mà làm ngơ. Thói quen cũng vậy. Chưa kể bổn phận, thủ tục, và sự ổn định. Thế nên viên bác sĩ bước vào phòng của Barr và nhặt tờ biểu đồ bệnh trạng của hắn lên. Anh ta lấy bút ra. Liếc nhìn các máy móc. Liếc nhìn bệnh nhân. Hắn đang thức. Đôi mắt hắn chuyển động.

Viên bác sĩ viết. Tỉnh táo.

Anh ta hỏi, “Vui không?”

Barr đáp, “Vui vẻ gì.”

Viên bác sĩ viết. Có phản ứng.

Anh ta nói, “Đồ khốn kiếp sống dai.” Và cất cây bút.

Chiếc còng trên tay phải của Barr va lắc leng keng vào thanh chắn giường. Bàn tay phải đang run và hơi cụm lại, ngón cái và ngón trỏ đang nhúc nhích liên tục, như thể hắn đang cố lăn một viên bi tưởng tượng bằng sáp cho thật tròn.

Viên bác sĩ nói, “Ngưng cái trò đó đi.”

“Ngưng cái gì?”

“Bàn tay anh.”

“Tôi không thể.”

“Tình trạng đó là mới có à?”

“Một hay hai năm rồi.”

“Không phải là chỉ có từ khi anh tỉnh dậy à?”

“Không.”

Viên bác sĩ nhìn tờ biểu đồ bệnh trạng. Tuổi: Bốn mươi mốt.

Anh ta hỏi, “Anh có uống rượu không?”

Barr đáp, “Không nhiều. Thỉnh thoảng một ngụm, để dễ ngủ.”

Viên bác sĩ tất nhiên không tin hắn, anh ta giở biểu đồ đến kết quả kiểm tra độc tố trong máu và thử nghiệm chức năng gan. Nhưng kiểm tra độc tố thì sạch sẽ còn chức năng của gan thì rất tốt. Không phải là dân nhậu. Không phải là kẻ nghiện rượu. Thậm chí không uống nữa.

Anh ta hỏi, “Gần đây anh có đi khám bác sĩ riêng không?”

Barr đáp, “Tôi không có bảo hiểm y tế.”

“Có tê cứng ở tay chân không?”

“Chút ít.”

“Tay kia của anh có bị như vậy không?”

“Đôi khi.”

Viên bác sĩ lại lấy bút ra và ghi vào dưới cùng của biểu đồ: Tay phải có dấu hiệu run rẩy, không phải là hội chứng hậu chấn thương, chẩn đoán sơ bộ không nghiện rượu, tay chân cứng, có khả năng PA giai đoạn đầu?

Barr hỏi, “Tôi bị gì vậy?”

Viên bác sĩ đáp, “Câm miệng.” Rồi xong việc, anh ta cặp biểu đồ trở lại chân giường và bước ra khỏi phòng.

Helen Rodin lục hết các thùng giấy đựng chứng cứ và lấy ra bản liệt kê chính thức những lời cáo buộc dành cho James Barr. Giữa nhiều vi phạm luật pháp có tính hình thức khác, thì bang Indiana đã đưa ra năm điểm buộc tội giết người bậc một với tình tiết tăng nặng, và theo quy định của nguyên tắc đúng pháp trình đã liệt kê năm nạn nhân theo tên tuổi, giới tính, địa chỉ và nghề nghiệp. Helen lướt qua trang giấy, dò theo địa chỉ và nghề nghiệp.

Cô nói, “Tôi không thấy có mối liên hệ rõ ràng nào cả.”

Reacher nói, “Tôi không có ý muốn nói rằng tất cả bọn họ đều là các mục tiêu. Chắc hẳn chỉ một người trong số họ thôi. Nhiều nhất là hai người. Những người khác chỉ là để ngụy trang. Vụ ám sát được giả như một vụ xả súng. Tôi đoán thế.”

Cô nói, “Tôi phải đi làm việc đây.”

Ông nói, “Ngày mai tôi sẽ gặp lại cô.”

Ông dùng lối cầu thang thoát hiểm thay vì dùng thang máy và trở lại nhà để xe mà không bị ai thấy. Ông bước vội lên con dốc, băng qua đường và lại đi dưới xa lộ. Kẻ tàng hình. Sống trong bóng tối. Ông mỉm cười. Ông dừng chân.

Ông quyết định đi tìm điện thoại công cộng.

Ông tìm thấy một trạm trên bức tường bên hông của một tiệm tạp hóa nhỏ có tên là Martha's, nằm cách tiệm bán áo quần rẻ tiền mà ông đã mua hai khối phố. Trạm điện thoại đối mặt với một con hẻm rộng được dùng làm một bãi đậu xe hẹp. Có sáu lô chéo đã đậu đủ sáu chiếc xe. Bên ngoài chúng là một bức tường gạch cao có gắn mảnh chai bên trên. Con hẻm rẽ chín mươi độ phía sau tiệm tạp hóa. Ông đoán là nó rẽ lại ở một chỗ nào đó và dẫn ra khối phố kế bên về hướng Nam.

Ông nghĩ, Khá an toàn.

Ông lấy tấm danh thiếp bị xé của Emerson ra khỏi túi. Chọn số điện thoại di động. Dựa vai vào bức tường và quan sát cả hai đầu của con hẻm cùng một lúc, lắng nghe tiếng chuông reo.

Emerson nói, “Vâng?”

Reacher nói, “Đoán xem ai đây nào?”

“Reacher?”

“Ông nói đúng chóc.”

“Ông ở đâu?”

“Tôi vẫn trong thị trấn.”

“Ở đâu?”

“Không xa lắm.”

“Ông biết là chúng tôi đang truy tìm ông phải không?”

“Tôi có nghe.”

“Vậy thì ông nên ra đầu thú đi.”

“Tôi không nghĩ vậy.”

Emerson nói, “Thế thì chúng tôi sẽ tìm ra ông.”

“Ông nghĩ tìm được hả?”

“Dễ dàng thôi.”

“Ông có biết một người có tên là Franklin không?”

“Tôi biết chứ.”

“Hãy hỏi xem dễ đến mức nào.”

“Lúc đó khác. Ông có thể đang ở bất cứ nơi nào.”

“Ông đã theo dõi cái nhà trọ rồi phải không?”

Im lặng trong một thoáng. Emerson không trả lời.

Reacher nói, “Cứ để người của ông ở lại đó. Có thể tôi sẽ quay lại. Mà cũng có thể không.”

“Chúng tôi sẽ tìm ra ông.”

“Không hy vọng đâu. Ông không đủ giỏi để làm chuyện đó.”

“Có thể chúng tôi đang lần theo cú gọi này.”

“Tôi sẽ đỡ cho ông một tay. Tôi đang ở bên ngoài một tiệm tạp hóa tên là Martha's.”

“Ông nên vào trong tiệm đi kẻo lạnh.”

Reacher đáp, “Ta sẽ trao đổi nhé. Hãy tìm xem ai đã đặt cái trụ chắn đường trong bãi đậu xe và rồi tôi sẽ nghĩ đến việc ra nộp mình.”

“Barr đã đặt cái trụ.”

“Ông biết là hắn không đặt. Chiếc xe của hắn không hiện diện trong các cuốn băng.”

“Vậy thì hắn dùng xe khác.”

“Hắn không có xe nào khác.”

“Thì hắn mượn xe.”

Reacher nói, “Mượn của một người bạn? Có thể. Hay có thể là người bạn đặt cái trụ cho hắn. Dù thế này hay thế khác, ông tìm ra người bạn đó thì tôi sẽ nghĩ đến việc tới nói chuyện với ông.”

“Có hàng trăm chiếc xe trong những cuốn băng đó.”

Reacher nói, “Ông được hỗ trợ mà.”

Emerson nói, “Tôi không trao đổi gì cả.”

Reacher nói, “Tôi nghĩ tên hắn là Charlie. Một gã nhỏ con, tóc đen thô và xoăn.”

Emerson lặp lại, “Tôi không trao đổi gì cả.”

Reacher nói, “Tôi không giết cô gái đó.”

“Đó là ông nói.”

“Tôi mến cô ấy.”

“Ông đang làm tôi đau lòng đấy.”

“Và ông biết là tôi không ngủ ở khách sạn Metropole tối qua.”

“Đó là lý do vì sao ông vứt cô ấy ở đó.”

“Và tôi không thuận tay trái.”

“Tôi không hiểu ý ông.”

“Hãy bảo Bellantonio nói chuyện với nhân viên pháp y của ông.”

Emerson nói, “Chúng tôi sẽ tìm ra ông.”

Reacher nói, “Các ông không tìm ra đâu. Trước đây chưa từng có ai làm được.”

Rồi ông cúp máy và đi trở ra đường. Băng qua đường và cuốc bộ lên nửa khối phố về hướng Bắc rồi núp sau một chồng cọc chia làn bằng bê tông chưa sử dụng trong một khu đất trống. Ông chờ. Sáu phút sau hai xe tuần tra dừng lại trước tiệm tạp hóa. Bật đèn, nhưng không hụ còi. Bốn tay cảnh sát nhảy ra. Hai người vào tiệm, hai người kia đi tìm trạm điện thoại công cộng. Reacher quan sát họ gặp lại nhau trên vỉa hè. Quan sát họ lục soát con hẻm và góc phố của nó. Quan sát họ trở lại. Quan sát họ chấp nhận thua cuộc. Ông thấy một trong bốn người gọi máy bộ đàm nói chuyện vắn tắt gì đó đầy những cử chỉ thanh minh. Giơ tay lên, nhún vai. Rồi cuộc đàm thoại chấm dứt và Reacher chuồn đi về hướng Đông, nhắm hướng trở lại khách sạn Marriott.

* * *

The Zec chỉ có một ngón cái và một ngón duy nhất nữa còn lại trên mỗi bàn tay. Trên bàn tay phải là phần còn lại của ngón trỏ, đen lại và teo quắt vì giá lạnh. Có lần lão đã sống một tuần ngoài trời trong mùa đông, mặc một chiếc áo choàng Hồng quân cũ, và do người chủ cũ của nó đeo bình toong nước trên dây thắt lưng nên đã làm mòn phần vải túi bên phải nhiều hơn là túi bên trái. Sự sống còn đã treo trên những khác biệt nhỏ mọn ấy. Bàn tay trái của lão đã thoát, và bàn tay phải mất đi. Lão đã cảm thấy từng ngón tay chết đi từ ngón út trở vào. Lão đã rút bàn tay ra khỏi túi áo và để cho nó đông cứng lại đủ để không còn cảm thấy gì nữa. Rồi lão cắn đứt những ngón tay đã chết trước khi chứng hoại thư kịp lan ra. Lão vẫn nhớ đã nhả chúng xuống đất, từng ngón một, như những nhánh cây con màu nâu.

Bàn tay trái của lão còn ngón út. Ba ngón giữa đã mất. Hai ngón bị một tên bạo dâm cắt đứt bằng kéo làm vườn. Chính tay The Zec cắt đi ngón còn lại, với một chiếc thìa được mài sắc, để được tính là thiếu khả năng lao động trong một xưởng máy nào đó.

Lão không thể nhớ lại các chi tiết, nhưng vẫn nhớ một lời đồn rất thuyết phục rằng thà mất thêm một ngón tay còn hơn là làm thứ công việc đó. Có vấn đề gì đó với tay đốc công.

Hai bàn tay hư hoại. Chỉ là hai trong nhiều kỷ vật về một thời điểm khác, một nơi chốn khác. Lão không còn để tâm nhiều đến chúng, nhưng chúng làm cho đời sống thời hiện đại trở nên khó khăn. Điện thoại di động trở nên quá bé. Số của Linsky dài đến mười con số, bấm được nó thật là khốn nạn. The Zec chẳng bao giờ giữ lại một chiếc điện thoại đủ lâu để đáng lưu lại một con số. Giữ lại là một chuyện điên rồ.

Rốt cuộc lão cũng bấm được số và cố tập trung, và bấm nút gọi bằng ngón út của bàn tay trái. Rồi lão chuyển chiếc điện thoại vào lòng bàn tay kia và úp nó vào tai. Lão không cần giữ sát nó vào tai. Thính giác của lão vẫn còn rất tuyệt, điều này quả là một phép lạ.

Linsky nói, “Vâng?”

The Zec nói, “Chúng không thể tìm ra hắn. Lẽ ra ta không nên bảo mày chấm dứt việc tự theo dõi đi. Lỗi của ta.”

“Chúng đã tìm ở đâu?”

“Đây đó. Tối qua hắn ngủ ở nhà trọ. Chúng đã cho người giám sát khu đó, nhưng ta tin chắc là hắn sẽ không quay lại đó. Chúng cắt một người ở phòng luật sư. Ngoài chuyện đó ra, chúng đang va vấp mò mẫm trong bóng tối.”

“Thầy muốn em làm gì đây?”

“Ta muốn mày tìm hắn. Dùng Chenko và Vladimir. Và ta sẽ phái Raskin tới mày. Hợp tác với nhau. Hãy tìm ra hắn trong tối nay và gọi cho ta.”

Reacher dừng chân cách khách sạn Marriott hai khối phố. Ông biết Emerson sẽ làm những gì. Ông đã từng là Emerson trong mười ba năm. Emerson sẽ duyệt lại một danh sách trong đầu mình. Những nơi có khả năng thường lui tới, những mối quan hệ đã được biết. Những nơi có khả năng thường lui tới vào giờ này sẽ bao gồm những quán ăn. Thế nên Emerson sẽ điều xe đến các quán ăn, nhà hàng, quán cà phê, gồm luôn quán ăn nhẹ mà Helen Rodin thích và quán bar thể thao. Rồi ông ta sẽ tính đến những mối quan hệ được biết, như thế là hạn chế lại chỉ còn bản thân Helen Rodin. Ông ta sẽ phái tay cớm ở khách sảnh lên tầng bốn và gõ cửa văn phòng.

Rồi ông sẽ thử thời vận với Eileen Hutton.

Vì thế Reacher dừng chân cách khách sạn Marriott hai khối phố và nhìn quanh tìm nơi để chờ. Ông tìm thấy một chỗ phía sau một tiệm giày. Có một tường quây cao ba mặt bằng gạch, chắn một hộc chứa rác bằng nhựa cao ngang vai khỏi mắt thiên hạ. Reacher bước vào và phát hiện ra rằng nếu ông dựa vai vào thùng rác thì ông có thể thấy một khoảnh cửa chính của Marriott rộng chừng một thước. Tư thế đó không phải là không thoải mái. Và nó là đống rác có mùi dễ chịu nhất mà ông từng gặp. Cái thùng tỏa mùi giấy bìa và giày mới. Khá hơn những nơi có thể gặp ở phía sau một tiệm bán cá.

Ông nghĩ rằng nếu Emerson là người năng nổ thì ông sẽ phải chờ ít hơn ba mươi phút. Rất năng nổ, thì ít hơn hai mươi phút. Trung bình, thì chừng gần một giờ. Ông dựa vào thùng rác giết thì giờ. Chưa muộn lắm nhưng đường phố đã vắng ngắt. Rất ít người ra ngoài lang thang. Ông quan sát, và chờ. Rồi mùi da mới từ những hộp giày vứt đi làm ông phân tâm. Nó khiến ông nghĩ đến giày dép. Có lẽ một lúc nào đó ông nên ghé lại tiệm mua một đôi giày mới. Ông duỗi chân ra và nhìn xuống. Đôi giày thuyền ông đang mang mềm, nhẹ và đế mỏng. Nó hợp với Miami. Nhưng không tốt cho tình cảnh hiện tại chút nào. Ông có thể hình dung được mình sẽ cần đến một đôi khác nặng hơn.

Rồi ông lại nhìn xuống. Đu người về phía sau, khép hai bàn chân lại với nhau và bước tới trước cùng một nhịp. Rồi dừng lại. Ông làm lại với chân kia, rồi dừng lại, như khuôn hình bất động một người đang bước đi. Ông nhìn chăm chăm xuống, lờ mờ nghĩ một điều gì đó trong đầu. Một điều gì đó từ mớ chứng cứ của Bellantonio. Một điều gì giữa hàng trăm tờ giấy được in ra đó.

Rồi ông lại ngẩng lên, vì ông cảm thấy có sự chuyển động trong khóe mắt cạnh cánh cửa của khách sạn Marriott cách hai khối phố. Ông thấy một mui xe tuần cảnh. Nó chạy vào tầm nhìn của ông và chúi xuống một thoáng khi phanh và dừng lại. Rồi hai tay cảnh sát mặc đồng phục xuất hiện, bước tới trước. Ông liếc nhìn đồng hồ. Hai mươi ba phút. Ông mỉm cười. Emerson giỏi, nhưng không đến nỗi xuất sắc. Các viên cảnh sát bước vào cửa. Họ sẽ mất năm phút với tay nhân viên đứng quầy tiếp tân. Tay lễ tân sẽ cho họ số phòng của Hutton mà không tranh cãi gì. Nói chung, những tay lễ tân khách sạn ở những thành phố nhỏ miệt trong không phải là những nhà hoạt động trong Liên hiệp tự do dân sự Hoa Kỳ. Và ngày mai thì khách sẽ đi, nhưng sở cảnh sát địa phương thì luôn luôn còn đó.

Vậy là các tay cảnh sát sẽ lên phòng của Hutton. Họ sẽ gõ cửa. Hutton sẽ để cho họ vào. Bà không có gì giấu giếm. Các tay cớm sẽ nhìn ngó quanh phòng rồi trở xuống. Mười phút là cao nhất, từ đầu cho đến cuối.

Reacher lại ngó đồng hồ lần nữa, và chờ.

Các viên cảnh sát trở ra sau tám phút. Họ dừng lại bên ngoài cửa, những dáng người nhỏ tí xa xa. Một người trong bọn chúi đầu xuống cổ áo và dùng máy truyền tin, gọi báo cáo tiến trình thất bại, lắng nghe địa chỉ kế đến là ở đâu. Nơi có khả năng thường lui tới kế tiếp. Mối quan hệ được biết đến kế tiếp. Hoàn toàn thủ tục. Reacher nghĩ, Chúc mấy em trai một buổi tối vui. Vì tôi sẽ vui. Điều đó là chắc chắn. Ông nhìn họ lái xe đi và chờ thêm một phút phòng hờ họ chạy về phía mình. Rồi ông bước ra khỏi bức tường quây bằng gạch và đi thẳng đến chỗ Eileen Hutton.

Grigor Linsky ngồi chờ trong xe tại một lối thoát hiểm ở một bãi đậu xe của siêu thị, đối diện với một cửa sổ dán nguyên một tấm quảng cáo thịt bò xay hạ giá khổng lồ màu cam. Linsky nghĩ, Cũ và hỏng rồi. Hay đầy nhóc vi khuẩn. Loại thịt mà có thời mình và The Zec sẽ giết người để có mà ăn. Và giết người là sự thật. Linsky không có chút ảo tưởng nào cả. Không một chút nào. The Zec và hắn là những kẻ xấu bị cuộc sống làm cho tồi tệ hơn. Những nỗi khổ nhục chung của chúng không sinh ra tình cảm khoan dung hay cao thượng nào cả. Mà hoàn toàn ngược lại. Những kẻ trong hoàn cảnh của chúng mà xem trọng sự khoan dung và cao thượng đã chết ngay trong vài giờ. Nhưng The Zec và hắn đã sống sót, như những con chuột cống, bằng cách vứt bỏ mọi ức chế, bằng cách chiến đấu và cắn xé, bằng cách phản bội những kẻ mạnh hơn mình, bằng cách khống chế những kẻ yếu hơn mình.

Và chúng đã học nằm lòng. Điều gì thành công một lần sẽ luôn thành công trong những lần sau đó.

Linsky nhìn vào kính chiếu hậu thấy xe của Raskin đang chạy đến. Đó là một chiếc Lincoln Town Car kiểu cũ dáng vuông, màu đen và bụi bặm, nghiêng ngả như một tàu chiến bị thủng lỗ. Nó đậu nối đuôi xe hắn và Raskin bước ra. Hắn giống y như trước kia, một thằng lưu manh hạng hai của Moscow. Đậm người, mặt dẹt, áo khoác da rẻ tiền, mắt lờ đờ. Trên bốn mươi. Theo quan niệm của Linsky thì hắn là một thằng đần độn, nhưng hắn đã sống sót qua chiến thắng cuối cùng của Hồng Quân ở Afghanistan, việc này cũng có ý nghĩa chút đỉnh. Khối kẻ khôn ngoan hơn Raskin không trở về được nguyên vẹn, hay chẳng trở về là đằng khác. Điều làm cho Raskin thành một kẻ sống sót là phẩm chất có ý nghĩa hơn bất cứ phẩm chất nào khác, đối với The Zec.

Raskin mở cửa sau và chui vào băng ghế ngay sau lưng Linsky. Hắn không nói lời nào. Chỉ chìa ra bốn bản sao tờ áp phích lệnh truy nã của Emerson. Do The Zec gửi. Làm thế nào mà The Zec có được mấy tờ áp phích thì Linsky không biết chắc. Nhưng hắn có thể đoán. Những tờ áp phích trông khá được. Nhìn rất giống. Nó sẽ thực hiện được mục đích của mình.

Linsky lịch sự nói, “Cám ơn.”

Raskin không đáp.

Hai phút sau, Chenko và Vladimir đến trong chiếc Cadillac của Chenko. Chenko cầm lái. Chenko luôn luôn cầm lái. Hắn đậu xe sau chiếc Lincoln của Raskin. Ba chiếc xe lớn màu đen đậu thẳng hàng. Đoàn xe tang dành cho Reacher. Linsky cười thầm. Chenko và Vladimir ra khỏi xe và bước tới, một gã nhỏ con da sậm, gã kia to con da sáng. Chúng lên chiếc Calillac của Linsky, Chenko ngồi ghế trước, Vladimir lên ghế sau kế bên Raskin, đếm theo chiều kim đồng hồ thì Linsky trên ghế tài xế, rồi Chenko, rồi Vladimir, và Raskin. Đúng tôn ti trật tự, được tuân thủ một cách bản năng. Linsky lại mỉm cười và đưa ra ba bản sao áp phích. Hắn giữ lại cho mình một bản, cho dù hắn không cần nó. Hắn đã thấy Jack Reacher quá nhiều lần rồi.

Hắn nói, “Chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu. Ngay từ khởi điểm. Chúng ta có thể tin rằng cảnh sát sẽ bỏ sót một điều gì đó.”

* * *
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Reacher mở cánh cửa thoát hiểm và lấy miếng chêm bằng giấy bìa ra khỏi hốc khóa rồi cất nó vào túi. Ông bước vào và để cánh cửa tự khóa lại sau lưng. Ông theo hành lang phía sau đến thang máy và lên tầng ba. Gõ cửa phòng Hutton. Trong đầu vang vang một câu thoại, do tài tử Jack Nicholson đóng vai một tay đại tá thủy quân lục chiến lão luyện trong một bộ phim nào đó nói về những tay luật sư của Hải quân: Không có điều gì thắng nổi người đàn bà mà bạn phải cúi chào vào buổi sáng.

Hutton không vội mở cửa. Ông đoán rằng bà đã ổn định lại một nơi nào đó sau khi thoát được đám cảnh sát. Bà không mong mình lại bị quấy nhiễu sớm như vậy. Nhưng sau cùng thì cửa cũng mở ra và bà đứng ngay đó. Bà mặc áo choàng tắm, rõ ràng vừa mới tắm xong. Ánh sáng phía sau làm tóc bà sáng lên. Hành lang mờ tối và căn phòng trông ấm cúng và mời mọc.

Bà nói, “Anh đã trở lại.”

“Em nghĩ rằng anh sẽ không trở lại à?”

Ông bước vào và bà đóng cửa lại.

Bà nói, “Cảnh sát mới ở đây.”

Ông nói, “Anh biết. Anh quan sát họ cả buổi.”

“Anh ở đâu?”

“Trong một bồn rác cách đây hai khối phố.”

“Anh muốn tắm rửa chút không?”

“Bồn rác này rất sạch. Sau lưng một tiệm giày.”

“Anh muốn đi ăn tối không?”

Ông đáp, “Anh khoái được phục vụ tại phòng hơn. Anh không muốn đi lòng vòng nhiều hơn cần thiết.”

Bà nói, “Được thôi. Có lý đấy. Phục vụ tại phòng vậy.”

“Nhưng chưa phải bây giờ.”

“Em có nên thay đồ không?”

“Chưa đâu.”

Bà ngưng một thoáng.

Bà hỏi, “Tại sao không?”

Ông đáp, “Còn việc chưa hoàn tất.”

Bà không nói gì.

Ông nói, “Anh rất vui được gặp lại em.”

Bà nói, “Chỉ mới chưa đầy ba giờ thôi mà.”

Ông nói, “Ý anh muốn nói là hôm nay. Cả ngày hôm nay. Sau ngần ấy thời gian.”

Rồi ông bước đến ôm lấy gương mặt bà trong lòng bàn tay. Chuồi những ngón tay vào tóc như ông từng làm trước kia và dùng ngón cái lần theo đường viền xương má bà.

Bà hỏi, “Chúng ta có nên làm chuyện này không?”

“Em không muốn sao?”

Bà nói, “Đã mười bốn năm rồi.”

Ông nói, “Có nhảy lên xe đạp vẫn sẽ bon như trước.”

“Anh nghĩ là vẫn như cũ à?”

“Nó sẽ hay hơn.”

Bà hỏi, “Hay hơn thế nào?”

Ông nói, “Mình luôn luôn hay. Không phải sao? Nó còn có thể hay đến mức nào đây?”

Bà giữ yên một lúc lâu. Rồi bà vòng tay ra sau đầu ông. Bà kéo, ông cúi xuống và họ hôn nhau. Rồi lần nữa, say đắm hơn. Rồi lần nữa, lâu hơn. Mười bốn năm tan biến mất. Cùng mùi vị cũ, cùng cảm nhận cũ. Cùng háo hức cũ. Bà kéo áo ông ra khỏi quần và cởi nút nó từ dưới lên, nôn nả. Khi chiếc khuy sau cùng mở xong, bà vuốt lòng bàn tay lên khắp ngực ông, vai ông, lưng ông, xuống thắt lưng, vòng ra trước. Đôi giày ông trượt ra dễ dàng. Và đôi tất. Ông đá hất chiếc quần ngang qua phòng và cởi dây lưng của bà. Chiếc áo mở toang ra.

Ông nói, “Trời ạ, Hutton. Em không thay đổi chút nào cả.”

Bà nói, “Anh cũng vậy.”

Rồi họ đi tới giường, ngã nhào xuống, nhanh vội, khóa cứng lấy nhau như một con thú bốn chân kỳ dị.

Grigor Linsky theo hướng sườn Nam của thị trấn. Hắn kiểm tra quán ăn nhanh rồi xuôi xuống bến tàu. Rẽ quanh và chạy cắt ngang dọc những con đường hẹp, bao hết ba mặt của từng khối phố, ngừng lại ở mỗi ngã rẽ để quan sát các vỉa hè trên mặt thứ tư. Chiếc Cadillac bò chầm chậm. Bộ tiếp lực rít lên ở mỗi góc phố. Một công việc chậm chạp và kiên nhẫn. Nhưng đây không phải là một thành phố lớn. Không huyên náo rộn ràng. Không đám đông. Và không một ai có thể trốn tránh được mãi mãi. Điều đó là kinh nghiệm của Grigor Linsky.

Sau đó Hutton nằm trong vòng tay của Reacher và dò những ngón tay làm một cuộc kiểm kê dài và chậm thân thể mà bà đã quá thân thuộc. Nó đã thay đổi trong mười bốn năm. Ông đã nói Em không thay đổi chút nào cả và bà nói Anh cũng vậy, nhưng bà biết cả hai đã rộng lượng với nhau. Không một ai giữ nguyên như cũ. Gã Reacher mà bà đã biết trong sa mạc trẻ hơn và được cái nóng nung cho săn chắc lên, uyển chuyển duyên dáng như một con chó nòi. Giờ đây ông nặng nề, với những bắp thịt rắn như gỗ gụ. Những vết sẹo mà bà nhớ đã phẳng lại và phai mất đi, và được thay thế bằng những vết mới. Trên trán ông có những đường nhăn. Chân chim trên khóe mắt. Nhưng mũi của ông vẫn thẳng và không bị gãy. Răng trước của ông còn nguyên vẹn, như những huy chương. Bà vuốt xuôi xuống tay ông và mân mê những khớp ngón tay. Chúng to và rắn, như vỏ quả óc chó phủ đầy thớ sẹo. Bà nghĩ,Vẫn còn là một tay võ sĩ. Vẫn hy sinh đôi bàn tay cho mũi và răng nguyên vẹn. Bà lần lên ngực ông. Ông có một cái lỗ thủng ở đó, về bên trái. Bắp thịt bị rách, miệng đủ rộng để bỏ đầu ngón tay của bà vào. Một vết đạn. Cũ rồi, nhưng là mới đối với bà. Chắc là một viên cỡ 38 li.

Reacher nói, “Ở New York. Nhiều năm trước. Ai cũng hỏi.”

“Ai là ai?”

“Những ai thấy nó.”

Hutton rúc vào sát hơn. “Có bao nhiêu người thấy nó?”

Ông mỉm cười, “Em biết mà, trên các bãi biển, đại loại như thế.”

“Và trên giường?”

Ông nói, “Phòng thay đồ.”

Bà lặp lại. “Và trên giường.”

Ông nói, “Anh đâu phải là nhà tu.”

“Nó đau không?”

“Anh không nhớ. Anh mê man trong ba tuần.”

“Nó ngay trên tim của anh.”

“Nó là một khẩu súng ngắn. Chắc là loại đạn không mạnh. Lẽ ra hắn nên nổ vào đầu. Bắn vậy thì tốt hơn.”

“Tốt cho hắn. Không phải cho anh.”

“Anh là kẻ may mắn. Trước đã vậy, sau này vẫn vậy.”

“Có thể. Nhưng anh nên thận trọng hơn.”

“Anh vẫn cố hết sức.”

* * *

Chenko và Vladimir đi với nhau lên hướng sườn Bắc của thị trấn. Chúng tránh cái nhà trọ. Có thể đoán là cảnh sát đã bố trí nơi ấy đâu vào đó rồi. Do đó điểm dừng đầu tiên của chúng là quán bar thể thao. Chúng vào và đi vòng quanh. Bên trong tối và không đông lắm. Có lẽ chừng ba mươi khách. Không có ai giống với bức chân dung phác họa. Không có ai là Reacher. Vladimir đứng ở gần cửa còn Chenko vào xem nhà vệ sinh. Một buồng vệ sinh đóng cửa. Chenko chờ cho tới khi có tiếng giật nước và một người bước ra. Không phải Reacher. Chỉ là một người bình thường. Chenko đi ra với Vladimir và cả hai trở lại xe. Lại chạy cắt ngang dọc những con đường hẹp, bao hết ba mặt của từng dãy phố, ngừng lại ở mỗi ngã rẽ để quan sát các vỉa hè trên mặt thứ tư.

Hutton chống cùi chỏ nhỏm người lên và nhìn xuống gương mặt của Reacher. Đôi mắt ông vẫn như trước. Có lẽ hằn sâu hơn một chút, và hơi sụp hơn. Nhưng chúng vẫn sáng xanh như những mảnh nước đá dưới mặt trời miền Bắc cực. Như một tấm bản đồ màu của hai cái hồ tuyết tan giống y nhau trong phong cảnh ở vùng núi cao. Nhưng biểu cảm của chúng đã thay đổi. Mười bốn năm trước chúng viền đỏ vì những cơn bão cát sa mạc và mờ đi do một cảm giác khinh bạc cay đắng nào đó. Chúng là đôi mắt lính. Mắt cảnh sát. Bà nhớ cái kiểu chúng quét lười biếng và chậm rãi ngang căn phòng như một viên đạn khói chết chóc cuốn về phía mục tiêu. Giờ đây chúng trong hơn. Trẻ trung hơn. Hồn nhiên hơn. Ông già đi mười bốn tuổi, nhưng ánh mắt lại trở lại trẻ thơ.

Bà nói, “Anh mới cắt tóc.”

Ông đáp, “Mới sáng nay. Cắt vì em.”

“Vì em?”

“Hôm qua anh giống một gã người rừng. Họ nói là em sắp đến. Anh không muốn em nghĩ anh là một kiểu ma cà bông nào đó.”

“Anh không phải như thế sao?”

“Một kiểu nào đó, anh đoán vậy.”

“Kiểu gì nào?”

“Kiểu tự nguyện.”

Bà nói, “Mình ăn thôi.”

Ông nói, “Nghe cũng hay đấy.”

“Anh muốn ăn gì đây?”

“Bất cứ gì em gọi. Mình ăn chung. Hãy kêu một phần ăn lớn.”

“Anh có thể chọn món cho mình nếu anh muốn.”

Ông lắc đầu. “Một tháng nữa thì một tay thư ký nào đó của Bộ Quốc phòng sẽ xem qua những chi tiêu của em. Tốt hơn là hắn chỉ thấy có mỗi một phần ăn thay vì hai.”

“Anh lo cho tiếng tăm của em sao?”

“Anh lo về lần thăng chức sắp tới của em.”

“Em sẽ không thăng chức đâu. Em lên đến chuẩn tướng là hết mức thôi.”

“Giờ sẽ khác vì gã Petersen này nợ em một cú khá lớn.”

“Không thể chối cãi là hai sao sẽ rất oách.”

Reacher nói, “Oách cho anh nữa. Anh bị các tay hai sao phang cho nhiều trận rồi. Cứ nghĩ chính mình phang lại một tay thì cũng khoái lắm.”

Bà nhăn mặt.

Reacher nói, “Gọi thức ăn đi.”

Bà nói, “Em thích sa lát.”

“Ai đó phải nhường thôi, anh nghĩ thế.”

“Anh không thích à?”

“Hãy bắt đầu với một sa lát gà Caesar và theo sau là bít-tết. Em ăn mớ rau cỏ, anh sẽ ăn bít-tết. Rồi lấy một suất tráng miệng thật nhiều. Và một bình cà phê lớn.”

“Em thích trà.”

Reacher nói, “Không thể làm vậy. Có một số thỏa hiệp mà anh không thể đồng ý. Thậm chí có là cho Bộ Quốc phòng cũng mặc kệ.”

“Nhưng em khát.”

“Họ sẽ mang nước trà đá. Lúc nào chẳng có.”

“Em cấp cao hơn anh.”

“Em luôn luôn ở cấp cao hơn anh. Có bao giờ em thấy anh uống trà vì điều đó không?”

Bà lắc đầu và xuống giường. Khỏa thân bước ngang qua căn phòng. Xem thực đơn và quay điện thoại. Gọi sa lát gà Caesar, bốn trăm rưỡi gam thịt thăn bò, và một cái bánh to phủ kem. Và một bình cà phê sáu tách. Reacher mỉm cười với bà.

Bà nói, “Hai mươi phút. Mình đi tắm thôi.”

Raskin nhận khu thương mại. Hắn đi bộ, tay cầm tờ chân dung phác thảo và trong đầu có một danh mục: nhà hàng, bar rượu, quán ăn, tiệm bánh mì, tiệm tạp hóa, khách sạn. Hắn bắt đầu ở khách sạn Metropole Palace. Khách sảnh, quầy rượu. Không gặp may. Hắn tiếp tục đến một nhà hàng Tàu cách hai khối phố. Vào rồi trở ra, nhanh chóng và kín đáo. Hắn cho rằng mình rất giỏi trong loại việc này. Hắn không phải là một người dễ gây chú ý. Loại người không đáng nhớ. Cao trung bình, nặng trung bình, gương mặt không đặc điểm. Chỉ là con số không trên đời, điều mà xét về mặt này là sự thất bại, nhưng mặt khác lại là một lợi thế rất lớn. Người ta nhìn hắn, nhưng thật sự họ không thấy hắn. Mắt họ trượt ngay qua.

Reacher không có mặt trong nhà hàng Tàu. Cũng không có mặt trong tiệm bánh mì, hay quán rượu của người Ái Nhĩ Lan. Nên Raskin dừng chân trên vỉa hè và quyết định đi về hướng Bắc. Hắn có thể kiểm tra văn phòng của ả luật sư và đến khách sạn Marriott. Vì theo Linsky thì các bà các cô ở những nơi đó. Và theo kinh nghiệm của Raskin thì những kẻ không phải là con số không trên đời ưa la cà với đàn bà nhiều hơn mức trung bình.

Reacher bước khỏi phòng tắm và mượn bàn chải, kem đánh răng, và lược của Hutton. Rồi ông lau khô và đi quanh nhặt lại áo quần. Mặc chúng vào, nhét áo vào trong quần. Ông đã mặc đồ xong và ngồi trên giường khi nghe tiếng gõ cửa phòng.

Một giọng ngoại quốc vang lên, “Phục vụ phòng.”

Hutton thò đầu ra khỏi cửa phòng vệ sinh. Bà đã mặc đồ rồi nhưng đang sấy tóc giữa chừng.

Reacher nói, “Em ra đi.”

“Em?”

“Em phải ký nhận mà.”

“Anh có thể ghi tên em.”

“Trong hai giờ nữa bọn cớm cũng sẽ chưa tìm ra anh và chúng sẽ quay lại đây. Tốt hơn là chúng ta không để cho kẻ nào bên dưới kia biết là em không ở một mình.”

“Anh chẳng bao giờ thư thả cả sao?”

“Anh càng ít thư thả thì càng được may mắn.”

Hutton vuốt tóc cho gọn lại rồi đi ra cửa. Reacher nghe tiếng leng keng của chiếc xe đẩy và chén đĩa va nhau và tiếng sột soạt của ngòi bút trên giấy. Rồi ông nghe tiếng cửa đóng lại và ông bước qua phòng khách, bắt gặp một chiếc bàn có bánh xe đẩy được dọn ra ở giữa phòng. Người bồi đã đặt một chiếc ghế bên nó.

Hutton nói, “Một dao, một nĩa, một thìa. Mình không nghĩ đến chuyện đó.”

Reacher nói, “Mình sẽ thay phiên nhau. Càng lãng mạn.”

“Em sẽ cắt thịt của anh ra và anh dùng tay bốc nhé.”

“Em có thể đút cho anh. Lẽ ra chúng ta nên gọi nho.”

Bà mỉm cười.

Ông hỏi, “Em có nhớ James Barr không?”

Bà đáp, “Quá lâu rồi. Nhưng em vừa đọc lại hồ sơ của hắn hôm qua.”

“Hắn bắn giỏi đến đâu?”

“Không phải là người giỏi nhất mà chúng ta từng có, cũng không phải là người tệ nhất.”

“Anh cũng nhớ vậy. Anh vừa vào bãi đậu xe xem lại. Thật là bắn quá tuyệt. Rất ấn tượng. Anh không nhớ rằng hắn bắn giỏi đến vậy.”

“Có rất nhiều chứng cứ ở đó.”

Ông gật đầu, không nói gì.

Bà nói, “Có thể hắn tập ghê lắm. Hắn trong quân ngũ sáu năm nhưng đã xuất ngũ gần gấp ba lần thời gian. Có thể sau này hắn mới phát triển tài năng.”

Ông đáp, “Có thể.”

Bà nhìn ông. “Anh không ở lại phải không? Anh định đi ngay sau khi ăn. Vì có chuyện này với đám cảnh sát. Anh nghĩ rằng họ sẽ quay lại phòng.”

Reacher nói, “Họ sẽ quay lại. Tin thế đi.”

“Em không bắt buộc phải để cho họ vào.”

“Một nơi như thế này thì bọn cớm muốn làm gì chẳng được. Và nếu chúng tìm thấy anh ở đây thì em rắc rối to.”

“Không rắc rối gì cả nếu anh vô tội.”

“Em không có cách gì chính đáng để bào chữa cho anh. Đó là điều họ sẽ nói.”

Hutton nói, “Em là luật sư mà.”

Reacher nói, “Và anh đã từng là một tay cớm. Anh hiểu họ như thế nào. Họ ghét những kẻ đào thoát. Những kẻ đào thoát làm họ điên đầu. Họ sẽ bắt nhốt em cùng lúc với anh và tháng sau mới phân giải xong mọi việc. Bằng vào lúc đó thì chiếc sao thứ hai của em sẽ tiêu tùng.”

“Vậy anh đi đâu đây?”

“Chưa biết. Nhưng anh sẽ nghĩ ra.”

Cánh cửa mở ra đường ở tầng dưới cùng của tòa cao ốc kính đen khóa lại vào ban đêm. Raskin gõ lên nó hai lần. Tay nhân viên bảo vệ ngồi ở bàn đặt trong khách sảnh ngước lên. Raskin dùng tờ phác họa vẫy anh ta.

Hắn la lên, “Giao hàng.”

Tay bảo vệ đứng dậy bước lại và dùng một chiếc trong xâu chìa khóa để mở khóa cửa. Raskin bước vào trong.

Hắn nói, “Rodin. Tầng bốn.”

Tay bảo vệ gật đầu. Văn phòng luật của Helen Rodin nhận rất nhiều gói hàng trong hôm đó. Hộp, thùng giấy, xe đẩy. Thêm một món nữa cũng là bình thường. Chẳng có gì ngạc nhiên. Anh ta trở về bàn mà không có ý kiến gì. Raskin bước vào thang máy, bấm số 4.

Điều đầu tiên hắn thấy trên tầng bốn là tay cớm của thành phố đang đứng bên ngoài cửa phòng ả luật sư. Raskin hiểu ngay lập tức điều đó có ý nghĩa gì. Nó có nghĩa là văn phòng của luật sư vẫn là một khả năng để ngỏ. Có nghĩa là Reacher không có mặt trong đó vào lúc này và trong thời gian gần đây chưa lúc nào vào đó. Do đó Raskin đi loanh quanh như thể hắn bối rối vì cách bố trí của hành lang và đi vào một góc. Chờ một lát rồi đi trở lại thang máy. Hắn gấp tờ phác thảo lại, cho vào túi. Trong khách sảnh hắn vẫy tay chào tay bảo vệ ra hiệu đã xong việc và đi ra ngoài bóng đêm. Rẽ trái, đi về hướng Bắc và Đông phía khách sạn Marriott.

Bình cà phê có dung tích sáu tách vượt quá khả năng của Reacher. Ông bỏ cuộc sau năm tách. Hutton có vẻ không quan tâm. Ông đoán bà nghĩ rằng uống hết năm trong sáu tách là đã giải thích được đòi hỏi nằng nặc của ông.

Bà nói, “Đến thăm em ở Washington nhé.”

Ông đáp, “Anh sẽ đến. Chắc chắn vậy. Lần tới anh đến đó.”

“Đừng để chúng bắt.”

Ông đáp, “Không đâu. Anh không để cho mấy thằng này bắt đâu.”

Rồi ông chỉ nhìn bà thêm một phút. Lưu giữ ký ức. Đính thêm một mảnh nữa vào bức khảm của mình. Ông hôn một lần lên môi bà và bước ra cửa. Đi ra hành lang và thẳng đến cầu thang. Ở tầng trệt ông đi tránh khách sảnh và lại dùng lối cửa thoát hiểm. Nó đóng sập và khóa lại sau lưng ông, và ông hít một hơi sâu và bước ra khỏi những bóng tối về phía hè phố.

Raskin thấy ông ngay lập tức. Ông cách hắn ba mươi bộ, rảo bước nhanh, ra khỏi Marriott từ phía hậu. Hắn thấy một ánh lóe lên của cửa kính trong ánh đèn đường. Một cửa thoát hiểm, đang mở. Hắn thấy một người đàn ông dáng cao bước ra. Đứng yên. Rồi cánh cửa đóng sập bằng bộ phận thủy lực, người đàn ông dáng cao quay nhìn nó khóa lại sau lưng và một luồng ánh sáng phản chiếu trên tấm kính đang di động rọi nhanh ngang mặt ông. Chỉ trong một thoáng giây, như một ánh đèn pin quét nhanh. Như là lia qua khung hình. Không nhiều. Nhưng đủ cho Raskin tin chắc. Kẻ vừa đi qua cánh cửa thoát hiểm là người trong bức phác thảo. Jack Reacher, chắc chắn, không nghi ngờ gì nữa. Đúng chiều cao, đúng cân nặng, đúng nét mặt. Raskin đã nghiên cứu những chi tiết rất lâu và rất kỹ.

Nên hắn đứng im, bước lui vào bóng đêm. Quan sát, và chờ. Thấy Reacher liếc nhìn bên phải, bên trái, rồi đi thẳng về phía trước, về hướng Tây, nhanh và thư thái. Raskin đứng yên tại chỗ và đếm thầm một, hai, ba trong đầu. Rồi hắn bước ra khỏi bóng tối băng ngang bãi đậu xe, và lại dừng rồi nhìn quanh góc phố về hướng Tây. Reacher cách hai mươi thước ở đằng trước. Vẫn bước đi thoải mái. Vẫn không cảnh giác. Đi giữa hè phố, bước sải dài, hai cánh tay đánh vung ở bên sườn. Ông là một người to con. Điều đó là chắc chắn. Dễ phải to ngang Vladimir.

Raskin lại đếm đến ba và để cho Reacher đi trước bốn mươi thước. Rồi hắn bắt đầu đi theo. Hắn nhìn dính vào mục tiêu và lục túi lấy điện thoại di động ra. Bấm số của Grigor Linsky. Reacher vẫn bước cách bốn mươi thước đằng trước. Raskin áp chiếc điện thoại vào tai.

Linsky nói, “Gì vậy?”

Raskin thì thầm, “Tôi tìm thấy rồi.”

“Ở đâu?”

“Hắn đang đi. Từ Marriott về hướng Tây. Giờ thì hắn sắp ngang với tòa án, hai khối phố về hướng Bắc.”

“Hắn đi đâu?”

Raskin thì thầm, “Gượm, chờ tí.”

Reacher dừng lại ở góc phố. Liếc nhìn bên trái và rẽ phải, về phía khoảng tối dưới xa lộ treo. Vẫn thoải mái. Raskin quan sát ông băng ngang cái bồn rác cao ngang hông trong một khu đất trống.

Hắn thì thầm, “Hắn rẽ về hướng Bắc.”

“Về đâu?”

“Tôi không biết. Có thể là cái quán bar thể thao.”

Linsky nói, “OK. Tụi tao sẽ đến hướng Bắc. Tụi tao sẽ chờ ở cách năm mươi thước đầu con đường từ cái quán thể thao. Đúng ba phút nữa gọi lại cho tao. Lúc này thì đừng rời mắt khỏi hắn nhé.”

Raskin đáp, “OK.” Hắn tắt điện thoại di động nhưng vẫn giữ nó áp vào tai và đi tắt băng ngang qua khu đất trống. Dừng lại dựa vào bức tường gạch trống và ngó ra quanh góc phố. Reacher vẫn đang phía trước, cách bốn mươi thước, vẫn đi giữa hè phố, tay vung, vẫn bước nhanh. Raskin nghĩ, một người tự tin. Có lẽ, quá tự tin là đằng khác.

Linsky ngưng cuộc nói chuyện với Raskin và lập tức bấm máy cho Chenko và Vladimir. Hắn bảo chúng đến gặp tại chỗ cách quán bar thể thao năm mươi thước về hướng Bắc, càng sớm càng tốt. Rồi hắn bấm cho The Zec.

Hắn nói, “Bọn em đã tìm thấy hắn.”

“Ở đâu?”

“Phía Bắc khu thương mại.”

“Ai đang theo hắn?”

“Raskin. Cả hai đang đi bộ trên đường.”

The Zec im lặng giây lát.

“Chờ cho tới khi hắn đến nơi nào đó. Rồi bảo Chenko gọi cho bọn cớm. Hắn có giọng nói chuẩn. Hắn có thể xưng là một thằng bồi pha rượu hay lễ tân hay là cái quái gì đó.”

Raskin giữ khoảng cách bốn mươi thước ở đằng sau. Hắn gọi cho Linsky lần nữa và mở máy để giữ liên lạc. Reacher vẫn bước đi, giữ nguyên nhịp sải chân. Áo quần ông sậm màu, rất khó nhận ra trong bóng tối. Cổ và tay ông rám nắng, nhưng hiện rõ hơn một chút. Và ông có một đường da hẹp nhợt nhạt vòng quanh mái tóc vừa cắt, trông ma quái trong ánh sáng mờ mờ. Raskin dán mắt vào đó. Nó là một vệt trắng hình chữ U, cách mặt đất sáu bộ, luân phiên nhấp nhô lên xuống hai phân theo nhịp Reacher bước. Raskin nghĩ, Thằng ngu. Lẽ ra hắn nên dùng xi đánh giày. Ở Afghanistan mình sẽ làm như thế. Rồi hắn lại nghĩ: Mà chẳng bao giờ giày mình được đánh bóng. Hay được cắt tóc.

Hắn dừng lại vì Reacher dừng lại ở bốn mươi thước đằng trước. Raskin bước lui vào bóng tối và Reacher liếc nhìn bên phải và rẽ trái vào một con đường cắt ngang, khuất tầm nhìn sau một tòa nhà.

Raskin thì thầm vào điện thoại di động, “Hắn lại đi về hướng Tây.”

Linsky hỏi, “Hướng đó đến quán bar thể thao vẫn được chứ?”

“Hay khu phòng trọ.”

“Chỗ nào cũng tốt cho chúng ta. Hãy tiến lên gần hơn. Giờ đừng mất dấu hắn nữa.”

Raskin chạy lên mười bước và chậm lại ở ngã rẽ. Tựa sát người vào góc của tòa nhà và nhìn quanh. Rắc rối to rồi. Không phải tại tầm nhìn. Con đường cắt ngang dài và rộng và thẳng và được thắp sáng ở đầu xa xa bởi những ngọn đèn sáng trên con đường bốn làn chạy về hướng Bắc đến xa lộ. Do đó hắn có một tầm nhìn tuyệt hảo. Kẹt cái là Reacher không còn nằm trong tầm nhìn đó. Ông đã hoàn toàn biến mất
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Có lần Reacher đọc được rằng giày thuyền do một người chơi du thuyền sáng chế, ông ta tìm loại giày có thể bám được trên sàn tàu trơn trượt. Ông ta đã dùng giày thể thao loại đế trơn thông thường và cắt những đường vạch nhỏ tí lên đế cao su bằng một dao lưỡi lam thẳng. Ông ta đã thử nghiệm và kết thúc bằng những đường cắt ở sát bên nhau và dợn sóng. Chúng cho kết quả khả quan, như một ta-lông lốp xe được thu nhỏ lại. Cả một ngành công nghệ phát triển từ đó. Mẫu hàng đã lan truyền từ du thuyền đến bến tàu đến bãi đậu du thuyền đến lối đi lót ván, đến lối đi dạo mùa hè. Giờ thì giày thuyền có mặt khắp nơi. Reacher không thích chúng lắm. Chúng mỏng nhẹ và mong manh.

Nhưng chúng không gây tiếng động.

Ông đã thấy gã mặc áo da ngay khi bước ra từ cửa thoát hiểm của khách sạn Marriott. Khó mà không thấy hắn. Khoảng cách ba mươi thước, góc hẹp, ánh sáng khá tốt từ những ngọn đèn trên các cột khắp nơi. Ông liếc nhanh về bên trái và thấy hắn rất rõ. Thấy hắn phản ứng. Thấy hắn dừng chân. Thấy hắn tự lộ mình là một đối thủ qua các hành vi đó. Reacher đã bước thẳng về phía trước và cân nhắc kỹ cái dư ảnh mà thị lực ban đêm của ông còn lưu giữ lại. Tên này thuộc loại đối thủ như thế nào đây? Reacher nhắm mắt lại và tập trung, hai hay ba bước chân.

Kiểu người vùng Cáp-ca-dơ, cao trung bình, nặng trung bình, mặt đỏ, và tóc sáng nhuốm màu cam và vàng bởi ánh đèn đường.

Phải cớm không?

Không. Vì chiếc áo khoác. Nó là chiếc áo kiểu hộp, vai vuông, hai hàng khuy làm bằng da màu hạt dẻ. Ban ngày nó sẽ có màu đỏ-nâu. Và nó lên nước bóng loáng. Nó sáng bóng lên. Không phải hàng của Mỹ. Thậm chí không phải từ loại cửa hàng bán giảm giá đồ da chỉ với giá bốn mươi chín đô la cho một món. Nó là kiểu ngoại quốc. Đông Âu, giống như chiếc bành tô mà gã lớn tuổi tật nguyền đã mặc trong quảng trường. Không phải đồ rẻ. Chỉ khác biệt. Nga, Bungari, Estonia, một nơi nào ở vùng đó.

Do đó, không phải là cớm.

Reacher bước tiếp. Ông cố bước thật êm và tập trung lắng nghe tiếng chân sau lưng, cách bốn mươi thước. Bước ngắn hơn, đế giày dày hơn, tiếng da sột soạt, tiếng đá dăm lạo xạo nho nhỏ, tiếng dội của đế giày cao su ba lớp. Đây không phải là Charlie. Không ai có thể cho rằng tên này là nhỏ con. Không to, nhưng dứt khoát là cũng không nhỏ. Và tóc hắn không đen. Và đây không phải là tên đã giết cô gái. Không to con đến thế. Vậy thì thêm một tên vào sổ. Không phải chỉ bốn tên. Mà là năm. Ít nhất. Có thể nhiều hơn.

Nên làm gì?

Tên này có mang vũ khí không? Có khả năng lắm, nhưng chỉ một súng ngắn. Hắn không mang thứ gì dài hơn. Và Reacher thấy lạc quan về cơ hội thoát của mình, một mục tiêu di động cách một trăm hai mươi bộ trước mặt một gã có khẩu súng ngắn. Súng ngắn là vũ khí dùng bắn ngang qua phòng, chứ không phải ứng cử viên để dùng dưới đường phố. Tầm bắn trung bình hiệu quả của một súng ngắn là chừng mười hai bộ. Ông ở xa hắn gấp mười lần. Và ông sẽ nghe được tiếng của bộ phận trượt trong sự yên lặng. Ông sẽ có thời gian để phản ứng.

Vậy thì nên làm gì đây? Việc thình lình quay ngược lại và hạ hắn thật cám dỗ biết bao. Chỉ cho vui. Để trả đũa. Reacher thích trả đũa. Trước tiên phải trả đũa là châm ngôn của ông. Cho chúng biết chúng đang đối đầu với ai.

Có lẽ.

Hay có lẽ không. Hay có lẽ sau này.

Ông bước tiếp. Ông bước thật êm. Ông giữ bước chân thật ngay ngắn. Ông để cho tên đang bám theo mình rơi vào điệu ru nhịp nhàng. Như thôi miên. Trái, phải, trái, phải. Ông xua đuổi mọi thứ khác ra khỏi tâm trí mình, ngoại trừ tiếng chân xa xa sau lưng ông. Ông ngắm chúng thật kỹ. Tập trung vào chúng. Chúng có đó, yếu ớt nhưng có thể cảm nhận được. Loạt soạt, loạt soạt. Trái, phải, trái, phải. Như thôi miên. Ông nghe tiếng bấm máy di động. Chỉ mười tiếng tích tích, rất khẽ, gần như không thể nghe thấy, vọng đến ông theo tiếng gió thoảng theo một chuỗi nhạc ngẫu nhiên.

Ông rẽ qua một lối ngẫu nhiên và đi tiếp. Trái, phải, trái, phải. Các con đường vắng ngắt. Khu thương mại lặng chết sau khi những giờ làm việc đã hết. Thành phố vẫn còn lâu mới phát triển thành một cộng đồng thành thị sống động. Điều đó là chắc chắn. Ông đi tiếp. Nghe tiếng thì thầm yếu ớt cách bốn mươi thước sau lưng. Điện thoại di động. Mày đang nói chuyện với ai đó, bạn hiền? Ông bước. Rồi dừng lại ở góc phố kế tiếp. Liếc bên phải rồi rẽ trái vào một con đường cắt ngang thẳng và rộng, phía sau một tòa nhà bốn tầng.

Rồi ông chạy. Năm bước, mười, mười lăm, hai mươi, nhanh và êm, băng ngang qua đường đến vỉa hè bên phải, qua con hẻm thứ nhất mà ông thấy, vào con hẻm thứ hai. Ông lại núp vào bóng tối, trong một ô cửa đôi màu xám trống trơn. Một lối thoát hiểm, có lẽ của một nhà hát hay một rạp chiếu phim. Ông nằm úp sát xuống. Tên kia đã quen với mục tiêu thẳng đứng. Một cách bản năng, hắn sẽ nhìn cách mặt đất sáu bộ. Một hình thù thấp trên mặt đất sẽ ít làm cho hắn chú ý.

Reacher đợi. Ông nghe tiếng bước chân trên hè phố đối diện. Tên kia đã thấy con mồi của mình rẽ một vòng gắt từ vỉa hè bên tay trái của một con đường lên vỉa hè bên tay trái của một con đường kế tiếp. Do đó theo tiềm thức hắn sẽ tập trung vào bên trái, mà không vào bên phải. Ý nghĩ đầu tiên của hắn sẽ là tìm những hình thể đứng yên theo chiều thẳng đứng trong các con hẻm và ô cửa bên tay trái.

Reacher chờ. Tiếng chân vẫn vọng đến. Giờ gần hơn. Rồi Reacher thấy tên kia. Hắn đang ở hè phố bên tay trái. Hắn di chuyển chậm. Hắn trông có vẻ do dự. Hắn đang nhìn về phía trước, nhìn qua trái, nhìn về phía trước. Hắn giữ điện thoại di động bên tai. Hắn dừng lại. Đứng yên. Ngó ra sau qua vai phải, nhìn vào những ô cửa và các con hẻm trên phía bên kia của con đường. Đáng xem xét không?

Có.

Hắn bước ngang và bước lui như một con cua, theo đường chéo, đối diện với con đường trước mặt và cùng lúc lùng soát vỉa hè bên tay phải. Hắn đi ra khỏi tầm mắt của Reacher như một đoạn phim chạy lùi. Reacher lặng lẽ đứng dậy và đi sâu vào con hẻm, vào bóng tối hoàn toàn ở cuối hẻm. Ông tìm thấy một lỗ thông gió thẳng đứng của nhà bếp và trườn quanh phía sau nó. Khom gập người lại và chờ.

Ông chờ khá lâu. Rồi tiếng chân quay lại. Trên vỉa hè. Vào con hẻm. Chậm, nhẹ, thận trọng. Hắn bước nhón trên đầu ngón chân. Không có tiếng động từ gót chân. Chỉ có tiếng cọ sát của đế da trên đá dăm. Chúng sột soạt nho nhỏ gây ra tiếng vọng trầm thấp dội lại từ các bức tường của con hẻm. Hắn đến gần hơn. Và gần hơn.

Gần đến nỗi ông ngửi thấy hắn.

Nước hoa, mồ hôi, da thuộc. Hắn đứng lại cách chỗ Reacher núp chỉ bốn bước và ngó một cách vô vọng vào bóng tối. Reacher nghĩ: Chỉ một bước nữa là mày tiêu nhóc ạ. Chỉ một bước nữa thôi là mày xong phim.

Hắn quay lại. Bước trở ra đường.

Reacher đứng lên và đi theo hắn, nhanh và êm. Đổi vai rồi. Giờ thì tao theo mày. Đến lúc để săn những gã thợ săn.

Reacher to con hơn phần lớn người ta và trong một số việc thì khá vụng về, nhưng ông có thể bước nhẹ nhàng khi cần và luôn luôn rất giỏi trong việc theo dõi âm thầm. Nó là một tài nghệ có được do tập luyện dài lâu. Phần lớn nó đòi hỏi sự thận trọng và tài dự đoán. Phải biết khi nào con mồi của mình sẽ chậm lại, dừng chân, quay lại, dò xét. Và nếu không biết, hãy nhớ cẩn tắc vô ưu. Thà ẩn núp và tụt lại thêm mười thước nữa còn hơn tự để lộ mình.

Gã mặc áo khoác da lục soát mọi con hẻm và ô cửa ở hai bên đường. Không kỹ lắm, nhưng cũng không tệ. Hắn rà soát và di chuyển về phía trước, làm mồi cho lỗi lầm mà tất cả những người hơi khá thường mắc phải. Mình vẫn chưa làm hỏng việc. Hắn còn đâu đó đằng trước. Hắn nói chuyện hai lần trên di động. Nói nhỏ, nhưng lộ rõ vẻ hoang mang khi giọng thì thầm của hắn vút lên. Reacher lẩn qua những mảng bóng tối đằng sau hắn, lùi lại khá xa vì những ánh đèn sáng ở cuối đường đang gần lại. Tên kia rà soát càng nhanh vội. Vô vọng và hoảng sợ cùng lúc. Hắn dò thêm trong vòng hai mươi bộ sau ngã rẽ kế tiếp và đứng sững lại, yên một lát.

Rồi chào thua. Bỏ cuộc. Hắn đứng giữa hè phố lắng nghe điện thoại di động và trả lời gì đó rồi thả hai tay thõng xuống bên sườn, tất cả sự cứng rắn và lặng lẽ biến khỏi thân thể hắn. Hắn rụt người lại một chút và bước thẳng tới trước. Nhanh, nặng nề, ồn ào và dễ thấy như mọi kẻ không còn mục đích gì trên đời ngoại trừ việc đi thẳng từ A đến B. Reacher chờ đủ lâu để tin chắc rằng nó không phải là một trò mánh. Rồi ông đi theo, lặng lẽ di chuyển trong bóng tối.

Raskin đi quá cánh cửa của quán bar thể thao và thẳng lên đầu đường. Hắn có thể thấy xe của Linsky từ xa. Và xe của Chenko. Hai chiếc Cadillac đậu nối đuôi nhau bên vệ đường chờ hắn. Chờ kẻ bại trận. Chờ kẻ số không. Hắn nghĩ, Vậy thì tao đây này.

Nhưng Linsky rất lịch sự trong chuyện này. Chủ yếu là vì phê phán một trong những kẻ được The Zec sai phái là phê phán chính The Zec, và không ai dám làm chuyện đó.

Linsky nói, “Chắc hẳn là hắn đã rẽ sai lối. Có thể từ đầu hắn đã không dự định đi trên con đường đó. Chắc chắn hắn quay ngược lại qua những con hẻm. Hay đi vào một trong số các hẻm đó để đi tè. Hắn chậm lại và đi ra phía sau mày.”

Vladimir hỏi, “Mày có kiểm tra sau lưng không?”

Raskin nói dối, “Dĩ nhiên là có.”

Chenko hỏi, “Giờ tính sao đây?”

Linsky nói, “Tao sẽ gọi The Zec.”

Vladimir nói, “Ông ấy sẽ giận ra trò đấy. Mình suýt tóm được thằng khốn đó rồi.”

Linsky bấm di động. Thuật lại cái tin tồi tệ và lắng nghe lời đáp. Raskin quan sát nét mặt hắn. Nhưng nét mặt của Linsky luôn luôn không tỏ lộ điều gì. Một kỹ năng do tập luyện dài lâu mà có, và nhu cầu sống còn. Cuộc gọi rất ngắn. Một lời đáp ngắn. Không giải đoán được. Chỉ là những âm thanh lạo xạo trong tai nghe.

Linsky tắt máy.

Hắn nói, “Chúng ta tiếp tục truy lùng. Trên bán kính nửa dặm từ chỗ Raskin nhìn thấy hắn lần cuối. The Zec đang phái Sokolov đến. Ông nói có năm đứa bảo đảm sẽ thành công.”

Chenko nói, “Chúng ta không bảo đảm được gì cả. Ngoại trừ một cú đá vào đít và không ngủ ngáy gì sất đêm nay.”

Linsky đưa chiếc di động ra, “Vậy mày gọi cho The Zec mà bảo ông ấy như thế đi.”

Chenko không nói gì.

Linsky nói với hắn, “Chenko, mày lo hướng Bắc. Vladimir, hướng Nam, Raskin, quay lại hướng Đông. Tao sẽ lo hướng Tây. Sokolov sẽ phụ ở nơi nào mà chúng ta cần khi hắn đến đây.”

Raskin đi trở lại hướng Đông, theo lối mà hắn đã đến, cố đi nhanh hết sức. Hắn hiểu được sự hợp lý trong kế hoạch của The Zec. Hắn đã thấy Reacher lần cuối khoảng mười lăm phút trước, và một kẻ đào thoát di chuyển thận trọng thì không thể đi xa hơn nửa dặm trong mười lăm phút. Do đó lôgic sơ đẳng cho biết hiện thời Reacher phải ở đâu. Ông đang ở một nơi nào đó bên trong vòng tròn đường kính một dặm. Chúng đã thấy ông một lần rồi. Chúng sẽ tìm ra ông lần nữa.

Hắn đi suốt xuống con đường cắt ngang thẳng và rộng, rồi rẽ về hướng Nam hướng đến đoạn xa lộ treo. Dò lại bước đã đi. Hắn đi xuyên qua khoảng tối bên dưới xa lộ và thẳng đến khu đất bỏ trống ở góc phố kế tiếp. Đi sát vào bức tường. Rẽ ngoặt.

Rồi bức tường đổ lên hắn.

Ít nhất là hắn cảm thấy như vậy. Hắn bị nện một cú choáng váng từ sau lưng và quỵ xuống không thấy gì nữa. Rồi hắn bị đánh lần nữa khiến đầu óc tắt lịm và ngã sấp mặt tới trước. Điều sau cùng mà hắn cảm thấy trước khi bất tỉnh là một bàn tay lục trong túi hắn và lấy đi chiếc điện thoại di động.

Reacher đi trở lại dưới đoạn cong của xa lộ, chiếc điện thoại di động còn ấm trong tay ông. Ông tựa vai vào một cột bê tông to như căn phòng trọ và trườn đi quanh nó cho tới khi thân thể ông chìm vào bóng tối và hai tay trong ánh sáng từ một ngọn đèn trên một cây cột tít trên cao. Ông lấy tấm danh thiếp bị xé của Emerson ra và bấm số.

Emerson nói, “Tôi nghe.”

Reacher nói, “Đoán xem ai nào?”

“Đây không phải là trò chơi, Reacher.”

“Chỉ vì ông đang thua thôi.”

Emerson không nói gì.

Reacher hỏi, “Tìm tôi có dễ không nào?”

Không lời đáp.

“Có giấy bút không?”

“Dĩ nhiên là tôi có.”

Reacher nói, “Vậy nghe này, và ghi lại nhé.” Ông đọc số của hai chiếc Cadillac. “Tôi đoán rằng một trong hai chiếc xe đó đã ở trong bãi đậu xe trước hôm thứ Sáu để đặt chiếc trụ chắn đường lại đó. Ông nên tìm các bảng số xe, xem lại các cuộn băng, và hỏi vài câu. Ông sẽ tìm thấy một thứ tổ chức nào đó có ít nhất sáu gã. Tôi nghe được vài cái tên. Raskin và Sokolov, mấy gã này hình như là cấp thấp. Rồi Chenko và Vladimir. Vladimir có vẻ đúng với gã đã giết cô gái. Hắn to như một con bò. Rồi có một tay phó nào đó mà tôi không biết được tên. Hắn khoảng sáu mươi tuổi và từng bị chấn thương cột xương sống. Hắn nói chuyện với sếp của hắn và gọi cha này là The Zec.”

“Những cái tên đó là tên Nga.”

“Ông nghĩ vậy?”

“Ngoại trừ Zec. Zec là thứ tên quái gì chứ?”

“Không phải là Zec. Mà là The Zec. Nó là một từ. Một từ được sử dụng như một cái tên.”

“Nó nghĩa là gì?”

“Tra thử xem. Đọc vài cuốn sách lịch sử.”

Im lặng. Tiếng giấy viết.

Emerson nói, “Ông nên ra đây. Nói chuyện trực tiếp với tôi.”

Reacher đáp, “Chưa được. Hãy làm việc của ông rồi tôi sẽ nghĩ về chuyện đó.”

“Tôi đang làm việc của mình. Tôi đang truy lùng một tên tội phạm đào thoát. Ông giết cô gái đó. Chứ không phải một người nào đó mà ông nói rằng ông nghe được cái tên, to con như một con bò.”

Reacher nói, “Còn một chuyện nữa. Tôi nghĩ gã có tên là Chenko cũng mang tên Charlie và là bạn của James Barr.”

“Vì sao?”

“Hình dáng. Nhỏ con, da sậm, tóc đen lởm chởm như cái bàn chải.”

“James Barr mà có bạn người Nga à? Theo những thẩm tra của chúng tôi thì không có.”

“Như tôi đã nói, hãy làm việc của mình đi.”

“Chúng tôi đang làm. Không ai nhắc nhở gì đến một tên bạn người Nga cả.”

“Hắn nói giọng Mỹ. Tôi nghĩ rằng hắn có dính líu với chuyện xảy ra hôm thứ Sáu, có nghĩa là cả nhóm này dính líu.”

“Dính líu như thế nào?”

“Tôi không biết. Nhưng tôi định sẽ tìm hiểu. Tôi sẽ gọi cho ông vào ngày mai.”

“Ngày mai ông sẽ nằm trong tù.”

“Vậy tôi đang ở tù lúc này sao? Đừng có mơ, Emerson.”

“Ông đang ở đâu?”

Reacher đáp, “Gần đây thôi. Chúc ông ngủ ngon, thanh tra.”

Ông tắt máy và cất số của Emerson trở vào túi rồi lấy ra số của Helen Rodin. Bấm điện thoại rồi đi vòng quanh cây cột bê tông vào sâu trong bóng tối.

Helen Rodin nói, “Vâng?”

“Reacher đây.”

“Ông có ổn không? Tay cảnh sát đang đứng ngay bên ngoài văn phòng tôi.”

Reacher đáp, “Tốt cho tôi. Mà cũng tốt cho anh ta, tôi nghĩ vậy. Anh ta chắc hẳn có bốn mươi tì cho một giờ phụ trội.”

“Họ chiếu mặt ông trên chương trình tin tức sáu giờ chiều. Chuyện lớn rồi.”

“Đừng lo lắng cho tôi.”

“Ông đang ở đâu?”

“Tự do và thoải mái. Đang có tiến triển. Tôi đã thấy Charlie. Tôi đã cho Emerson bảng số xe của hắn. Cô có gì tiến triển không?”

“Không hẳn. Tất cả những gì tôi có được là năm cái tên ngẫu nhiên. Tôi không thể thấy có lý do gì để kẻ nào đó bảo James Barr bắn bất cứ ai trong số họ.”

“Cô cần Franklin. Cô cần tiến hành nghiên cứu.”

“Tôi không có tiền trả cho Franklin.”

“Tôi muốn cô tìm cái địa chỉ ở Kentucky cho tôi.”

“Kentucky?”

“Nơi James Barr đi tập bắn.”

Reacher nghe cô gác điện thoại qua bên và giở giấy tờ. Rồi cô quay lại và đọc lên một địa chỉ. Nó vô nghĩa đối với Reacher. Một con đường, một thị trấn, một tiểu bang, một mã số vùng.

Helen hỏi, “Kentucky có dính gì tới chuyện này?”

Reacher nghe tiếng xe trên đường. Sát gần bên, phía trái của ông, bánh to chạy chậm. Ông trườn quanh cây cột để nhìn. Một xe tuần tiễu của sở cảnh sát, bò từ từ, đèn tắt. Hai tay cảnh sát ngồi ghế trên, vươn dài cổ nhìn phải, nhìn trái.

Ông nói, “Tôi phải chuồn đây.” Ông tắt máy và đặt nó xuống đất ở gốc cột. Máy nhận số gọi tới của Emerson có thể ghi được số, và bất cứ chiếc điện thoại di động nào cũng có thể bị dò ra địa điểm bởi tín hiệu nhận mà nó gởi đến mạng, cứ mỗi mười lăm giây một lần, đều đặn như máy đồng hồ. Do đó Reacher bỏ chiếc điện thoại di động lại dưới đất rồi đi về hướng Tây, bốn mươi bộ bên dưới mặt đường xa lộ treo.

Mười phút sau ông đứng đối diện với đằng sau tòa cao ốc kính đen, trong bóng tối bên dưới xa lộ, đối diện với con dốc xe lên. Một chiếc xe cảnh sát không người đậu bên lề đường. Nó trông im lìm lạnh lẽo. Yên ổn. Như thể nó đã có mặt ở đó một lúc rồi. Reacher nghĩ,Tay đứng bên ngoài cửa phòng của Helen đây. Ông băng qua đường và đi xuống con dốc. Vào nhà để xe ngầm dưới đất. Tường bê tông đều được sơn màu trắng bẩn và có những bóng đèn huỳnh quang sáng lóe cách mỗi mười lăm bộ. Có những vũng ánh sáng và những vũng bóng tối. Reacher có cảm giác như ông đang đi ra khỏi các cánh gà băng ngang qua một chuỗi sân khấu được thắp sáng rực rỡ. Trần nhà thấp. Có những cây cột vuông to chống đỡ tòa nhà. Dãy cửa hàng dịch vụ nằm ở trung tâm. Toàn bộ không gian lạnh lẽo, im lặng, sâu chừng bốn mươi thước và có thể rộng gấp ba lần số đó.

Sâu bốn mươi thước.

Giống như phần mới nới thêm trên đường số Một. Reacher bước đến và tựa lưng vào bức tường mặt trước. Bước đi ngang đến bức tường mặt sau. Ba mươi lăm bước. Ông quay người như một tay bơi ở cuối vòng bơi và bước trở lại. Ba mươi lăm bước. Ông đi chéo tới góc xa nhất. Nhà xe đằng đó rất tối. Ông đi giữa hai chiếc xe tải của NBC và tìm thấy chiếc Ford Mustang màu xanh mà ông đoán là của Ann Yanni. Chiếc xe sạch sẽ và láng bóng. Mới được chùi. Nó có các cửa sổ nhỏ vì có mui lật. Kính trước thoải. Các cửa xe màu tối.

Ông mở thử cửa bên ghế cạnh tài xế. Khóa rồi. Ông đi vòng qua mui xe và mở thử cửa bên ghế tài xế. Tay nắm nhúc nhích. Không khóa. Ông nhìn quanh và mở cửa.

Không có báo động.

Ông chồm vào bên trong và nhấn cái nút mở khóa. Có một tiếng cạch vang lên ba lần khi hai khóa cửa và khóa cốp xe bị đẩy lên. Ông đóng cửa bên ghế tài xế lại và bước ra sau cốp xe. Bánh xe sơ-cua nằm trên sàn xe. Bên trong bánh xe là cái kích và một đoạn ống tuýp kim loại vừa để dùng với cái kích vừa để mở bu lông bánh xe. Ông lấy đoạn ống tuýp ra và đóng cốp xe lại. Bước vòng sang bên ghế hành khách, mở cửa xe leo vào.

Trong xe thơm mùi nước hoa và cà phê. Ông mở táp-lô thấy một xấp bản đồ và một chiếc kẹp giấy tờ nhỏ, bằng da, cỡ một cuốn lịch nhớ bỏ ví. Bên trong chiếc kẹp là giấy bảo hiểm và giấy đăng ký xe ô tô, cả hai đều của cô Janine Lorna Ann Yanni ở một địa chỉ trong vùng của bang Idiana. Ông cất chiếc kẹp trở lại và đóng táp-lô. Tìm thấy những tay cần để điều chỉnh ghế, ông hạ chiếc ghế xuống hết cỡ. Ông chỉnh lưng ghế ra sau hết cỡ, vẫn không ra xa lắm. Rồi ông dịch nguyên cái ghế ra sau để đôi chân mình được thoáng chỗ. Ông kéo áo ra khỏi quần và để đoạn ống tuýp trên đùi rồi đặt lưng xuống ghế. Duỗi người. Ông có khoảng ba giờ để chờ. Ông cố ngủ. Hãy ngủ khi có thể là quy tắc cổ điển trong quân đội.

Điều đầu tiên Emerson làm là liên lạc với công ty điện thoại. Ông xác minh được rằng con số mà dịch vụ báo số gọi của ông ghi được là của một máy di động. Hợp đồng dịch vụ được đăng ký cho công ty hoạt động dưới tên Dịch vụ chuyên dụng của Indiana. Emerson phái một viên thám tử có một năm kinh nghiệm truy dấu cơ sở làm ăn này và yêu cầu công ty điện thoại truy tìm chiếc điện thoại di động. Những kết quả ban đầu thật dễ gây bối rối. Dịch vụ chuyên dụng của Indiana là một ngõ cụt, vì nó là tài sản của một quỹ tín thác hải ngoại ở Bermuda và không có địa chỉ trong vùng. Nhưng công ty điện thoại trả lời rằng chiếc điện thoại di động đang ở vị trí cố định và phát tín hiệu tới ba trạm cùng lúc, có nghĩa là nó phải ở trong vùng dưới phố và dễ dàng tìm ra bằng phép đo tam giác.

Rosemary ngọt nhạt với người phụ trách bàn giấy của Ủy ban Trừng giới ở tầng sáu bệnh viện và được cho phép vào thăm anh mình dù là ngoài giờ thăm viếng. Nhưng khi cô đến phòng thì thấy hắn đang ngủ say. Mất công nói ngọt vô ích. Cô ngồi ở đó ba mươi phút nhưng James Barr không thức dậy. Cô nhìn những chiếc màn hình. Nhịp tim của hắn mạnh và đều. Hơi thở ổn định. Hắn vẫn bị còng tay và đầu thì bị kẹp nhưng thân thể hoàn toàn yên tĩnh. Cô xem biểu đồ theo dõi của hắn để tin chắc rằng anh mình vẫn được chăm sóc đúng đắn. Cô thấy ghi chú của bác sĩ: có khả năng PA giai đoạn đầu? Cô không hiểu nó có nghĩa là gì, và đã khá khuya nên cô không thể tìm được ai sẵn lòng giải thích cho mình.

* * *

Công ty điện thoại đánh dấu địa điểm của chiếc điện thoại di động trên một bản đồ thành phố có tỷ lệ lớn và gửi cho Emerson qua fax. Emerson xé nó ra khỏi máy fax và mất năm phút cố lý giải nó. Ông đang mong tìm thấy ba mũi tên gặp nhau ở một khách sạn, hay một bar rượu, hay một nhà hàng. Thay vì vậy, chúng gặp ở một khu đất trống nằm dưới đoạn xa lộ treo. Ông hình dung thoáng qua trong đầu về cảnh Reacher ngủ khổ sở trong một cái thùng giấy. Rồi ông kết luận rằng chiếc điện thoại di động bị vứt bỏ, điều này được xác minh trong mười phút sau bởi chiếc xe tuần tiễu mà ông phái đi kiểm tra.

Rồi sau đó, chỉ để làm cho đúng thủ tục, ông mở máy vi tính và gõ xuống các số xe mà Reacher đã cho. Chúng cho kết quả là những chiếc Cadillac Devilles đời mới, cả hai cùng màu đen, cùng đăng ký cho Dịch vụ chuyên dụng của Indiana. Ông ghi ngõ cụt trên tờ giấy và bỏ vào một tập hồ sơ.

Reacher thức giấc mỗi khi nghe tiếng thang máy khởi động. Tiếng động rền xuống đường nâng, xuyên qua những dây cáp và các cabin đang lên xuống ầm ầm. Ba lần đầu là báo động giả. Chỉ là những nhân viên văn phòng nào đó về nhà sau một ngày dài làm việc. Cứ khoảng bốn mươi phút là họ đi xuống một mình, mệt mỏi bước đến xe và lái đi. Ba lần luồng khói xe lạnh phảng phất đến và ba lần nhà để xe im ắng trở lại và ba lần Reacher ngủ lại.

Lần thứ tư ông không ngủ. Ông nghe tiếng thang máy khởi động và xem đồng hồ. Mười một giờ bốn mươi lăm. Giờ trình diễn bắt đầu. Ông chờ và nghe tiếng cửa thang máy mở ra. Lần này không chỉ là thêm một người cô độc mặc đồ vest. Mà là một đám đông. Tám hay mười người. Huyên náo. Là nguyên cả nhóm nhân viên làm bản tin mười một giờ của chi nhánh NBC.

Reacher ép sát người xuống chiếc ghế kế bên tài xế của chiếc Mustang và giấu ống thép dưới vạt áo. Nó áp vào bụng ông lạnh buốt. Ông nhìn đăm đăm lên cái mui xe bằng vải bạt và chờ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Một gã to con mặc quần jeans rộng thùng thình đi xuyên ngang qua bóng tối cách cái chắn bùn phía trước của chiếc Mustang chừng năm bộ. Gã có một bộ râu xám bù rối và mặc một chiếc áo thun có in chữ Grateful Dead [28] dưới một chiếc áo len đan sờn rách. Không phải ngôi sao màn ảnh. Có lẽ là một tay quay phim. Gã bước về phía một chiếc xe tải nhẹ màu bạc và leo lên. Rồi đến một ông trong bộ đồ vest màu xanh da cá mập và khuôn mặt được hóa trang màu cam. Ông có mái tóc rậm và hàm răng trắng. Dứt khoát là ngôi sao màn hình, có thể về thời tiết, có thể là thể thao. Ông đi qua phía bên kia chiếc Mustang và leo vào một chiếc Ford Taurus màu trắng. Rồi đến ba phụ nữ đi cùng với nhau, trẻ trung, trang phục bình thường, có thể là giám đốc trường quay và chỉ đạo chương trình và đạo diễn hình ảnh. Họ đi ép lại giữa cốp xe Mustang và chiếc xe van của đài truyền hình. Chiếc xe rung lên ba lần khi họ va vào nó. Rồi họ tách ra và mỗi người đi về phía xe của mình.

[28]: Tên một ban nhạc Alternative.

Rồi ba người nữa đi tới.

Sau đó là Ann Yanni.

Reacher không nhận ra cô ta cho tới khi cô đặt tay lên nắm cửa xe. Cô ta dừng lại và nói to gì đó với một người trong nhóm khác. Cô nhận câu trả lời, nói một điều gì khác nữa, rồi mở cửa xe. Cô lên xe, đưa mông vào trước, xoay người và cúi đầu. Cô mặc một quần jeans cũ và chiếc áo lụa mới. Trông rất đắt tiền. Reacher đoán cô vừa ghi hình, nhưng ngồi ở bàn phát thanh viên, chỉ lộ từ hông trở lên thôi. Tóc cô cứng đờ vì xịt keo. Cô ngồi phịch xuống và đóng cửa. Rồi nhìn qua bên phải.

Reacher nói, “Im. Nếu không tôi bắn.”

Ông chĩa cái ống tuýp vào cô, sau lần vải áo. Rộng một phân, dài và thẳng, nhìn rất giống hàng thật. Cô nhìn nó kinh hoàng. Khi đối diện cách hai bộ trông cô gầy và già hơn khi trên ti vi. Có những nếp nhăn nhỏ quanh mắt trát đầy phấn. Nhưng cô ta rất đẹp. Cô ta có những đường nét tuyệt đối hoàn chỉnh, rõ ràng, sống động và vô cùng bắt mắt, như phần lớn những người trên ti vi. Áo cô có cổ đứng đắn nhưng lại mở ba khuy. Vừa nghiêm túc vừa quyến rũ.

Reacher nói, “Đặt tay ở chỗ mà tôi có thể thấy chúng. Trên đùi ấy.” Ông không muốn cô ta chồm đến bấm còi xe. “Đặt chìa khóa lên bảng đồng hồ.” Ông không muốn cô ta bấm nút báo động. Những chiếc Ford mới ông từng lái có một chiếc nút màu đỏ trên bộ phận điều khiển móc vào chìa. Ông nghĩ rằng nó dùng để kích hoạt hệ thống báo động.

Ông nói, “Ngồi yên đấy. Ngoan ngoãn và im lặng. Mọi chuyện sẽ ổn.”

Ông bấm nút bên phía mình khóa cửa lại.

Cô nói, “Tôi biết anh là ai.”

Ông đáp, “Tôi cũng biết cô là ai.”

Ông giữ yên cái ống tuýp và chờ. Yanni ngồi yên, tay đặt lên đùi, thở dồn, càng lúc càng sợ hãi khi chung quanh họ mọi chiếc xe của các đồng nghiệp bắt đầu nổ máy. Luồng khói màu xanh thoảng đến. Mọi người lái đi từng chiếc một. Không ai nhìn lại. Một ngày dài đã hết.

Reacher lại nói, như một lời nhắc nhở, “Giữ im lặng, rồi chúng ta sẽ ổn.”

Yanni nhìn qua trái, qua phải. Thân thể cô căng thẳng.

Reacher nói, “Đừng manh động. Đừng làm điều dại dột. Tôi sẽ bắn. Bắn vào bụng. Hay đùi. Cô sẽ chảy cạn máu trong hai mươi phút. Đau lắm.”

Yanni hỏi, “Anh muốn gì?”

“Tôi muốn cô im lặng và ngồi yên. Chỉ trong vài phút nữa thôi.”

Cô ta cắn chặt răng lại, im lặng và ngồi yên. Chiếc xe cuối cùng chạy đi. Chiếc Taurus màu trắng. Gã đàn ông tóc rậm. Người phụ trách chương trình dự báo thời tiết, hay bình luận thể thao. Tiếng bánh xe rít lên khi gã quẹo xe và tiếng máy rền lên khi leo ngược con dốc. Rồi những âm thanh đó nhỏ dần, nhà để xe trở nên hoàn toàn yên lặng.

Yanni lại hỏi, “Anh muốn gì?” Giọng cô ta run run. Mắt cô mở lớn. Cô ta đang run rẩy. Cô đang nghĩ đến hiếp dâm, giết người, hành hạ, chặt chân chặt tay.

Reacher bật đèn trên trần.

Ông nói, “Tôi muốn cô đoạt giải Pulitzer [29].”

[29]: Giải thưởng hàng năm của Hoa Kỳ dành cho báo chí, văn học và âm nhạc.

“Cái gì?”

“Hay giải Emmy [30] hay bất cứ giải gì của dân báo chí.”

[30]: Một giải thưởng dành cho các chương trình xuất sắc của Hoa Kỳ.

“Cái gì?”

Ông nói, “Tôi muốn cô nghe một câu chuyện.”

“Chuyện gì?”

Reacher nói, “Xem này.”

Ông giở áo lên cho cô xem cái ống tuýp nằm trên bụng mình. Cô nhìn nó trừng trừng. Hay nhìn cái sẹo do mảnh đạn của ông. Hay nhìn cả hai thứ. Ông không biếc chắc. Ông đặt cái ống tuýp thăng bằng trên tay. Giơ nó ra dưới ánh đèn.

Ông nói, “Trong cốp xe của cô đấy. Không phải là khẩu súng.”

Ông nhấn chiếc nút trên cửa xe mở khóa ra.

Ông nói, “Cô có thể tự do ra đi. Lúc nào cũng được.”

Cô ta đặt tay lên nắm cửa.

Reacher nói, “Nhưng nếu cô đi thì tôi cũng đi. Cô sẽ không gặp lại tôi. Cô sẽ bỏ mất câu chuyện. Một ai khác sẽ có nó.”

Cô nói, “Chúng tôi cho phát hình chân dung anh suốt đêm. Và cảnh sát đã dán lệnh truy nã khắp thị trấn. Anh đã giết cô gái.”

Reacher lắc đầu, “Thật sự tôi không giết cô ấy, và đó là một phần của câu chuyện.”

Cô lại hỏi, “Câu chuyện gì?”

Reacher đáp, “Câu chuyện hôm thứ Sáu vừa qua. Nó không phải như người ta tưởng đâu.”

Yanni nói, “Giờ tôi sẽ ra khỏi xe đây.”

Reacher nói, “Không. Tôi sẽ ra. Tôi xin lỗi nếu tôi làm phiền cô. Nhưng tôi cần sự giúp đỡ của cô và cô cũng cần tôi giúp. Thế nên tôi sẽ ra. Cô cứ khóa cửa lại, nổ máy xe, giữ chân trên bàn đạp phanh, và hạ cửa kính xuống chừng hai phân. Chúng ta sẽ nói chuyện qua cửa kính. Cô có thể lái đi bất cứ lúc nào cô muốn.”

Cô không nói gì. Chỉ nhìn thẳng ra trước như thể cô có thể làm cho ông biến mất bằng cách không nhìn ông. Ông mở cửa. Bước ra, quay lại và đặt cái ống tuýp nhẹ nhàng lên ghế. Rồi ông đóng cửa và đứng yên đó. Ông nhét áo vào quần. Ông nghe tiếng cửa xe bên cô khóa lại. Cô nổ máy. Đèn phanh bật đỏ. Ông thấy cô với lên tắt đèn trần. Gương mặt cô biến mất trong bóng tối. Ông nghe tiếng cô cài số xe khỏi vị trí Đỗ. Đèn báo lùi xe bật sáng trắng khi cô đẩy tay số từ Lùi qua Đi thẳng. Rồi đèn phanh tắt, máy xe gầm lên, và cô lượn một vòng rộng rất nhanh qua nhà xe trống. Bánh xe ken két. Cao su trên nền xi măng trơn. Tiếng bánh nghiến dội vang. Cô nhằm thẳng con dốc ở lối ra và nhấn mạnh chân ga.

Rồi cô đạp mạnh chân phanh.

Chiếc Mustang khựng lại, gác hai bánh trước lên chân đường dốc. Reacher bước về phía chiếc xe, ông hơi cúi xuống để có thể nhìn xuyên qua cửa kính nhỏ phía sau chiếc xe. Không điện thoại di động. Cô chỉ ngồi đó, nhìn thẳng đằng trước, tay đặt trên vô lăng. Các đèn phanh bật đỏ lòe, sáng chói mắt. Các ống xả thở phì phò. Những cụm khói trắng phun ra sau. Nước nhỏ giọt và đọng thành hai vũng giống y nhau trên nền.

Reacher vòng sang cửa sổ bên cô và đứng lại cách ba bộ. Cô bấm nút hạ kính xuống chừng ba phân. Ông cúi người xuống để có thể thấy mặt cô.

Cô hỏi, “Tại sao tôi cần anh giúp?”

Ông nói, “Vì câu chuyện hôm thứ Sáu chấm dứt quá sớm đối với cô. Nhưng cô có thể có lại nó. Còn một tầng ý nghĩa nữa. Nó là một câu chuyện lớn. Cô sẽ thắng nhiều giải thưởng. Cô sẽ có công việc tốt hơn. CNN sẽ trải thảm đến tận cửa phòng để rước cô.”

“Anh nghĩ là tôi nhiều tham vọng thế sao?”

“Tôi nghĩ cô là một nhà báo.”

“Như thế thì có nghĩa gì?”

“Nghĩa là suy cho cùng, các nhà báo thích các câu chuyện. Họ yêu thích sự thật.”

Cô dừng lại, gần cả phút. Nhìn đăm đăm phía trước. Chiếc xe kêu lách cách nhè nhẹ khi nóng máy. Reacher có thể cảm nhận bộ phận máy xe được cài ở chế độ chạy không đang gượng lại với các phanh xe. Rồi ông thấy cô liếc xuống và dịch tay bỏ cần số vào vị trí Đỗ. Chiếc Mustang lăn bánh lui lại mười lăm phân rồi dừng hẳn lại. Reacher bước xéo để ngang với cửa sổ xe. Yanni quay đầu lại và nhìn thẳng vào ông.

Cô nói, “Vậy kể cho tôi nghe câu chuyện đi. Kể sự thật.”

Ông kể lại câu chuyện với cô, kể sự thật. Ông ngồi xếp bằng trên nền xi măng, để ra vẻ bất động và vô hại. Ông không chừa lại chút gì. Lược qua tất cả các sự kiện, các kết luận, các giả thuyết, các suy đoán. Kể xong, ông ngừng lời và chờ phản ứng của cô.

Cô hỏi, “Anh ở đâu khi Sandy bị giết?”

“Ngủ ở nhà trọ.”

“Một mình?”

“Suốt đêm. Phòng số tám. Tôi ngủ rất say.”

“Không có bằng chứng ngoại phạm.”

“Không bao giờ có bằng chứng ngoại phạm khi người ta cần. Đó là quy luật tự nhiên phổ quát.”

Cô nhìn ông một lúc lâu.

Cô hỏi, “Anh muốn tôi làm gì đây?”

“Tôi muốn cô điều tra các nạn nhân.”

Cô lặng im một lúc.

Cô nói, “Chúng tôi làm được. Chúng tôi có nhân viên điều tra.”

Reacher nói, “Họ không đủ giỏi đâu. Tôi muốn cô thuê một người tên là Franklin. Helen Rodin sẽ cho cô biết về người này. Cô ta ở trong tòa nhà này, trên cô hai tầng.”

“Vì sao cô ta không tự mình thuê ông Franklin đó?”

“Vì cô ta không có tiền trả cho ông ta. Cô thì có thể. Một tuần thuê Franklin chắc chắn rẻ hơn tiền cắt tóc của một tay dự báo thời tiết của cô.”

“Và rồi thì sao nữa?”

“Rồi chúng ta ráp nối tất cả các dữ kiện lại với nhau.”

“Vụ này lớn đến cỡ nào?”

“Cỡ giải Pulitzer. Cỡ giải Emmy. Cỡ công việc mới.”

“Làm sao anh biết được. Anh đâu có trong nghề.”

“Tôi đã trong quân đội. Tôi đoán vụ này xứng đáng với một huy chương Sao Đồng. Cái đó chắc hẳn tương đương. Méo mó có hơn không.”

Cô nói, “Tôi không biết. Tôi nên mang anh nộp cho cảnh sát thì đúng hơn.”

Ông nói, “Cô không thể. Cô lấy điện thoại di động ra là tôi sẽ vọt lên con dốc. Họ sẽ không tìm ra tôi đâu. Họ đã gắng tìm suốt ngày rồi.”

Cô nói, “Tôi không quan tâm mấy những cái giải của anh.”

Ông nói, “Vậy thì cô làm cho vui thôi. Hãy làm vì sự thỏa mãn nghề nghiệp.”

Ông nghiêng người lấy ra mảnh khăn giấy có ghi số điện thoại của Helen Rodin. Tuồn nó vào khe qua cửa sổ. Yanni cầm lấy, thận trọng, cố tránh không để những ngón tay của hai người chạm vào nhau.

Reacher nói, “Hãy gọi cho Helen. Gọi luôn đi. Cô ấy sẽ xác nhận cho tôi.”

Yanni lấy điện thoại di động trong ví ra và mở máy. Cô nhìn màn hình, chờ cho tới khi nó sẵn sàng, rồi bấm số. Cô trả lại mảnh khăn giấy. Lắng nghe điện thoại.

Cô nói, “Cô Helen Rodin phải không ạ?” Rồi cô bấm nút quay kính xe lên hết cỡ và Reacher không nghe thấy cuộc đàm thoại. Ông đang liều mạng khi cho rằng người mà cô đang nói chuyện thật sự là Helen. Có thể là cô nhìn mảnh khăn giấy nhưng lại bấm một số khác hẳn. Không phải 911, vì cô đã bấm trọn mười con số. Nhưng có thể cô ta gọi văn phòng chính bên cảnh sát. Một phóng viên hẳn có thể thuộc lòng con số đó.

Nhưng chính Helen đang nghe máy. Yanni bấm nút quay kính xuống lại và đưa chiếc điện thoại di động qua khe cửa cho ông.

Helen hỏi ông, “Chuyện này thật à?”

Reacher nói, “Tôi không nghĩ là cô ta đã quyết định. Nhưng nó có thể thực hiện được.”

“Chuyện này liệu có tốt không?”

“Cô ta có phương tiện. Và việc có giới truyền thông trông chừng cho chúng ta có thể có ích.”

“Cho tôi nói chuyện tiếp với cô ấy.”

Reacher chuyền chiếc điện thoại di động qua cửa sổ. Lần này Yanni để nguyên kính xe hạ xuống nên Reacher có thể nghe tất cả những gì cô nói cho đến hết cuộc đàm thoại. Ban đầu cô có vẻ nghi ngờ, rồi do dự, và rồi có phần bị thuyết phục. Cô hẹn gặp Helen trên tầng bốn vào sáng sớm mai. Rồi tắt máy.

Reacher nói, “Có một tay cớm bên ngoài cửa văn phòng của cô ấy.”

Yanni nói, “Cô ấy có nói với tôi. Nhưng họ đang lùng anh, đâu có lùng tôi.”

“Chính xác là cô sẽ làm gì?”

“Tôi chưa quyết định.”

Reacher không nói gì.

Yanni nói, “Tôi nghĩ trước tiên tôi cần biết anh xuất phát từ động cơ nào. Rõ ràng là anh không quan tâm chút nào đến bản thân James Barr. Vậy thì tất cả chuyện này là làm cho cô em gái phải không? Rosemary?”

Reacher quan sát cô quan sát mình. Một phụ nữ, một nhà báo.

Ông nói, “Phần nào là cho Rosemary.”

“Nhưng?”

“Phần lớn là vì gã giật dây. Gã ngồi đó, nghĩ rằng mình khôn ngoan như một con cáo già. Tôi không thích điều đó. Không bao giờ. Điều đó khiến tôi muốn cho gã biết thật sự thế nào là khôn ngoan.”

“Như một sự thách thức?”

“Gã đã khiến cô gái bị giết, Yanni. Cô ấy chỉ là một cô bé ngờ nghệch ham vui chút thôi. Gã sai lầm ở chỗ đó. Do vậy, gã xứng đáng bị trừng phạt bằng một cách nào đó. Đó là sự thách thức.”

“Anh đâu biết gì nhiều về cô ấy.”

“Không vì thế mà cô ta bớt vô tội.”

“OK.”

“OK gì?”

“NBC sẽ trả tiền cho Franklin. Rồi chúng ta sẽ xem câu chuyện đưa ta đến đâu.”

Reacher đáp, “Cám ơn cô. Tôi cảm kích điều đó.”

“Chắc vậy.”

“Tôi xin lỗi lần nữa. Vì đã làm cô sợ.”

“Tôi sợ gần chết.”

“Tôi rất xin lỗi.”

“Còn chuyện gì nữa không?”

Reacher nói, “Còn. Tôi cần mượn chiếc xe của cô.”

“Mượn xe tôi?”

“Mượn xe cô.”

“Để làm gì?”

“Để ngủ trong đó rồi lái đi Kentucky.”

“Chuyện gì ở Kentucky?”

“Một phần của câu đố.”

Yanni lắc đầu, “Chuyện này điên quá.”

“Tôi lái xe rất cẩn thận.”

“Tôi đang tiếp tay và xúi giục một tội phạm đào thoát.”

Reacher nói, “Tôi không phải là tội phạm. Tội phạm là kẻ đã bị buộc tội sau một phiên tòa. Do đó tôi cũng không phải là kẻ đào thoát. Tôi chưa bị bắt hay buộc tội. Tôi chỉ là một nghi can thôi.”

“Tôi không thể cho anh mượn xe sau khi đã phát hình anh suốt đêm.”

“Cô có thể nói rằng không nhận ra tôi. Cái đó chỉ là một phác họa chân dung, không phải là một tấm ảnh. Có thể nó không chính xác hoàn toàn.”

“Tóc của anh khác.”

“Đó. Tôi vừa cắt tóc sáng nay.”

“Nhưng tôi nhận biết tên của anh. Tôi sẽ không cho một người lạ mượn xe mà ít ra không biết tên người đó, phải không nào?”

“Có thể tôi cho cô một cái tên giả. Cô đã gặp một kẻ có tên khác và trông không giống mấy với cái phác họa, vậy thôi.”

“Tên gì?”

Reacher đáp, “Joe Gordon.”

“Hắn là ai?”

“Cầu thủ giữ chốt hai của đội Yankees trong năm 1940. Họ về ba. Không phải lỗi của Joe. Ông ta có một sự nghiệp đáng kể. Ông chơi đúng một nghìn trận và ghi đúng một nghìn điểm.”

“Anh hiểu biết nhiều nhỉ.”

“Ngày mai tôi sẽ hiểu biết nhiều hơn nếu cô cho tôi mượn xe.”

“Tối nay làm sao tôi về nhà?”

“Tôi sẽ đưa cô về.”

“Vậy là anh sẽ biết nơi tôi sống.”

“Tôi đã biết nơi cô sống. Tôi đã xem giấy đăng ký xe của cô. Để biết chắc chiếc xe này là của cô.”

Yanni không nói gì.

Reacher nói, “Xin đừng lo. Nếu tôi muốn hại cô thì cô đã bị hại rồi, cô thấy có đúng không?”

Cô không nói gì.

Ông nói tiếp, “Tôi là một tài xế rất cẩn thận. Tôi sẽ đưa cô về an toàn.”

Cô nói, “Tôi sẽ gọi xe taxi. Làm vậy tốt cho anh hơn. Giờ đường thì vắng và chiếc xe này rất nổi. Cảnh sát biết nó là của tôi. Họ chặn tôi lại luôn. Họ nói là tôi chạy quá tốc độ nhưng thật ra họ muốn xin chữ ký hay họ muốn ngó xuống áo của tôi.”

Cô lại gọi điện thoại và nói người tài xế taxi đón cô trong nhà để xe. Rồi cô ra khỏi xe và để máy vẫn nổ.

Cô nói, “Hãy đậu lại trong một góc tối. Sẽ an toàn hơn nếu anh không đi trước giờ cao điểm của buổi sáng.”

Reacher đáp, “Cám ơn cô.”

Cô nói, “Và làm ngay đi. Mặt của anh có trên khắp các mục tin tức và tay tài xế taxi có xem đấy. Ít nhất thì tôi hy vọng là hắn đang xem. Tôi cần điểm xếp hạng.”

Reacher lại nói, “Cám ơn cô.”

Ann Yanni bỏ đi và đứng lại ở chân đường dốc như thể cô đang chờ xe buýt. Reacher ngồi vào ghế của cô và điều chỉnh nó ra sau, rồi lùi xe vào sâu trong nhà để xe. Rồi ông lái vòng lại và đậu đầu xe vào trước trong một góc xa. Ông tắt máy và nhìn vào kính chiếu hậu. Năm phút sau, một chiếc Crown Vic màu xanh-trắng chạy xuống đường dốc và Ann Yanni leo vào băng ghế sau. Chiếc taxi quay lại chạy ra đường, nhà để xe yên lặng trở lại.

Reacher ở lại trong chiếc Mustang của Ann Yanni nhưng ông không ở lại trong nhà để xe dưới tòa cao ốc kính đen. Quá nguy hiểm. Nếu Yanni đổi ý thì ông sẽ là cái bia ăn chắc. Ông có thể hình dung cô nhụt chí hay lương tâm dằn vặt, rồi nhấc điện thoại gọi cho Emerson.Hắn ngủ như chết trong xe tôi đậu ở trong góc nhà xe của sở làm. Ngay bây giờ. Do đó ba phút sau khi chiếc taxi chạy đi thì ông lại nổ máy xe và lái lên nhà để xe trên đường số Một. Nó trống không. Ông lên tầng thứ hai và đậu trong chỗ James Barr đã sử dụng. Ông không bỏ tiền vào đồng hồ tính tiền. Chỉ lấy xấp bản đồ của Yanni ra, tính đường đi của mình rồi đẩy tay lái lại và chỉnh ghế rồi ngủ lại.

Năm giờ sau ông thức giấc, trước rạng đông, và lái xe về hướng Nam đến Kentucky. Ông thấy ba chiếc xe của cảnh sát trước khi vượt qua ranh giới của thành phố. Nhưng họ không để ý. Họ đang quá bận rộn truy lùng Jack Reacher nên không có thì giờ làm phiền một phát thanh viên truyền hình xinh đẹp.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Bình minh bắt đầu đâu đó giữa con đường về hướng Đông khoảng một giờ sau khi ông lái đi. Bầu trời chuyển từ đen sang xám sang tía rồi ánh nắng màu cam nhẹ dâng lên khắp chân trời. Reacher tắt đèn xe. Ông không thích chạy xe để đèn sau khi ngày lên. Chỉ là một cử chỉ vô thức, vì những tay cảnh sát bang đậu xe gác trên vệ đường. Đèn bật khi trời đã sáng gợi ý đủ thứ chuyện, như những cuộc trốn chạy suốt một đêm bỏ lại rắc rối hàng trăm dặm sau lưng. Chiếc Mustang đã quá khiêu khích rồi. Nó ồn ào và hung hăng, và nó thuộc loại xe bị ăn trộm nhiều nhất.

Nhưng những người cảnh sát ông gặp vẫn đứng yên trên vệ đường. Ông lái với tốc độ bảy mươi dặm một giờ, ra vẻ không có gì mờ ám, và bấm nút CD trên bảng điều khiển. Nhận lại một luồng nhạc của Sheryl Crow [31] thời kỳ giữa, không khiến ông quan tâm gì mấy. Ông cứ để nó chạy. Mỗi ngày là một khúc quanh,Sheryl nói với ông. Ông nghĩ, Tôi biết vậy. Cứ nói nữa đi.

[31]: Một nhạc sĩ Blues Rook nổi tiếng của Mỹ.

* * *

Ông vượt qua sông Ohio trên một cây cầu sắt dài, mặt trời mới lên bên tay trái ông. Trong một thoáng, nó biến dòng nước chảy chậm thành chất vàng nấu chảy. Ánh sáng phản chiếu lên ông từ bên dưới chân trời và làm bên trong của chiếc xe sáng lên một cách không tự nhiên. Những trụ cầu lóe lên khi vượt qua như một ánh đèn chớp. Tác động thật là khó chịu. Ông nhắm con mắt trái và nheo mắt mà chạy vào Kentucky.

Ông giữ hướng Nam trên một con đường xuyên hạt và chạy cho đến sông Blackford. Theo bản đồ của Yanni thì nó là một nhánh phụ chảy trên một đường chéo từ Đông Nam sang Tây Bắc đổ vào sông Ohio. Gần phía đầu nguồn, nó tạo thành một tam giác đều hoàn hảo mỗi cạnh khoảng ba dặm với hai tuyến thư nông thôn. Và theo thông tin của Helen Rodin thì cái trường bắn mà James Barr ưa chuộng ở đâu đó trong vùng tam giác này.

Nhưng hóa ra trường bắn lại chính là cái tam giác. Thêm ba dặm nữa, Reacher thấy một hàng rào kẽm gai trên vệ đường bên trái của con đường bắt đầu ngay sau khi ông băng qua sông Blackford trên một cây cầu. Hàng rào chạy suốt đến ngã tư kế tiếp và cứ mỗi bốn cái cột thì lại có một tấm bảng: Coi chừng đạn lạc-Tránh xa. Rồi con đường xoay một góc sáu mươi độ và chạy thêm ba dặm về hướng Đông Bắc. Reacher chạy theo nó và ở nơi con đường gặp lại sông Blackford ông thấy một cái cổng và một khoảng trống rải đá dăm và một nhóm những căn chòi thấp. Cánh cổng được khóa bằng dây xích. Một tấm bảng sơn tay treo trên đó: Mở cửa từ 8 giờ sáng đến khi trời tối.

Ông xem đồng hồ. Ông đến sớm nửa giờ. Phía bên kia con đường là một toa xe bằng nhôm làm quán ăn có một khoảng đá sỏi án trước mặt. Ông tấp chiếc Mustang vào và dừng lại ngay kế bên cửa toa quán ăn. Ông đói. Miếng thịt bò phục vụ tại phòng của khách sạn Marriott dường như đã từ lâu lắm rồi.

Ông ăn một bữa điểm tâm chậm và dài ở chiếc bàn bên cửa sổ, và ngắm cảnh vật bên kia đường. Vào lúc tám giờ, đã có ba chiếc xe tải chờ vào trường bắn. Tám giờ năm phút, một người đàn ông đến trong một chiếc Humvee [32] màu đen chạy dầu diesel, ông ta ra hiệu xin lỗi vì đến muộn và mở cổng. Ông ta đứng tránh qua một bên cho khách bước vào trước. Rồi leo trở lại vào chiếc Humvee chạy theo họ. Ông ta lặp lại kiểu xin lỗi ấy ở cổng của căn chòi chính rồi cả bốn người bước vào trong và đi khuất tầm mắt. Reacher gọi thêm một tách cà phê. Ông nghĩ sẽ để cho ông ta làm việc với đợt khách sớm rồi mình mới tà tà đến, khi ông ta có thì giờ để trò chuyện. Và cà phê khá ngon. Quá ngon để không thể bỏ qua. Mới, nóng và đậm.

[32]: HMMWV (Hight Mobility Multipurpose Wheeled Vehicle): Một loại xe đa dụng của quân đội, có thay đổi kiểu dáng để dùng trong dân sự. Thường có kiểu dáng của loại xe jeep.

Lúc tám giờ hai mươi ông bắt đầu nghe tiếng súng trường. Những nhịp gõ đều đều, bị khoảng cách, gió và những gờ đất tước đi sức mạnh và tác động. Ông đoán các khẩu súng ở xa khoảng hai trăm thước Anh, bắn về hướng Tây. Những phát đạn chậm và đều, âm thanh của các tay súng có nghề nhắm vào các vòng bên trong. Rồi ông nghe một tràng nổ nhỏ hơn của một cây súng ngắn. Ông lắng nghe những âm thanh quen thuộc một lúc rồi bỏ lại hai đô la trên bàn và trả một hóa đơn mười hai đô la ở quầy tính tiền. Ông bước ra ngoài, leo lên chiếc Mustang rồi lái xuyên qua khoảng đất, leo qua gờ đường và vào thẳng qua cánh cổng mở.

Ông thấy tay lái xe Humvee đứng sau một cái quầy cao ngang thắt lưng trong căn chòi chính. Nhìn gần, ông ta trông già hơn so với khi nhìn từ xa. Trên năm mươi, dưới sáu mươi, tóc xám mỏng, da nhăn nheo, nhưng dáng đứng rất thẳng. Ông ta có cái cổ trông mệt mỏi to hơn cái đầu và cặp mắt tiết lộ ngay ông ta xưa là một tay hạ sĩ quan thủy quân lục chiến, ngay cả khi không có những hình xăm trên bắp tay và những kỷ vật treo trên bức tường sau lưng. Những hình xăm đã cũ và phai màu, các kỷ vật phần lớn là cờ hiệu và các huy hiệu của đơn vị. Nhưng trung tâm của những thứ trưng bày là một tấm bia đạn bằng giấy đang ngả vàng được lồng kính. Nó có một nhóm năm lỗ đạn ba ly nằm sát nhau trong vòng trong cùng của tấm bia và lỗ thứ sáu xén ngay rìa đường vòng.

Ông ta hỏi, “Tôi giúp gì cho anh đây?” Ông ta đang nhìn qua vai Reacher, ra ngoài cửa sổ, vào chiếc Mustang.

Reacher nói, “Tôi đến đây để giải quyết mọi rắc rối của anh.”

“Thật vậy à?”

“Không, không thật vậy. Tôi chỉ muốn hỏi anh vài câu thôi.”

Ông ta ngưng lại. “Về James Barr?”

“Anh đoán hay lắm.”

“Không.”

“Không?”

“Tôi không nói chuyện với bọn phóng viên.”

“Tôi không phải là phóng viên.”

“Ngoài kia là một chiếc Mustang năm lít, có một vài phụ tùng lắp sau. Do đó nó không phải là xe của cớm hay xe thuê. Và bảng số của nó là ở Indiana. Và nó có nhãn dán của NBC trên kính. Do đó tôi đoán anh là một phóng viên quyết tâm nặn ra một câu chuyện truyền hình về việc James Barr dùng chỗ của tôi để tập luyện và chuẩn bị như thế nào.”

“Hắn có làm vậy không?”

“Tôi đã nói với anh rồi. Tôi không kể đâu.”

“Nhưng Barr đã đến đây, đúng không?”

“Tôi không nói.” Ông ta lặp lại. Không có ác ý trong giọng nói của ông ta. Không thù hằn. Chỉ là sự cả quyết. Ông ta không nói. Hết chuyện. Căn chòi trở nên yên lặng. Không nghe thấy gì ngoài tiếng súng từ xa và tiếng o o trầm trầm lạch xạch từ một phòng khác. Có lẽ là từ một cái tủ lạnh.

Reacher nhắc lại, “Tôi không phải là phóng viên. Tôi mượn xe của một phóng viên, thế thôi. Để đi xuống đây.”

“Vậy anh là ai?”

“Chỉ là một người biết James Barr từ xưa. Tôi muốn biết về Charlie, bạn của hắn. Tôi nghĩ là gã bạn Charlie này dẫn hắn đi sai đường.”

Ông ta không hỏi: Bạn nào? Ông ta không hỏi: Charlie là ai? Ông ta chỉ lắc đầu và nói, “Tôi không thể giúp anh.”

Reacher chuyển ánh mắt sang cái bia đạn được đóng khung.

Ông hỏi, “Cái đó của anh à?”

“Mọi thứ anh thấy ở đây đều là của tôi.”

Ông hỏi, “Tầm bắn nào vậy?”

“Tại sao anh hỏi?”

“Vì tôi đang nghĩ nếu là sáu trăm thước thì anh bắn khá giỏi. Nếu là tám trăm thước thì anh rất giỏi. Còn nếu là một nghìn thước thì anh thuộc loại cực siêu.”

Ông ta hỏi, “Anh cũng bắn à?”

Reacher đáp, “Tôi từng bắn.”

“Trong quân đội?”

“Ngày xa xưa.”

Ông ta quay người nhấc cái khung ra khỏi đinh treo. Nhẹ nhàng đặt nó lên quầy và xoay nó lại để xem. Có một dòng chữ viết tay bằng mực phai màu ngang dưới cùng của tờ giấy: Giải Invitational 1000 thước, Quân đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ 1978 - Trung sĩ Samuel Cash, Giải Ba. Rồi có ba chữ ký của ba giám khảo.

Reacher hỏi, “Anh là trung sĩ Cash?”

Ông ta đáp, “Đã về hưu và đang vùng vẫy.”

“Tôi cũng vậy.”

“Nhưng không phải từ quân đoàn.”

“Anh chỉ nhìn thôi mà có thể biết được điều đó à?”

“Hẳn rồi.”

Reacher nói, “Lục quân. Nhưng cha tôi là lính Thủy quân lục chiến.”

Cash gật đầu. “Điều đó làm cho anh cũng được là nửa con người.”

Reacher di di đầu ngón tay trên mặt kính, trên những lỗ đạn. Một nhóm năm phát thật đẹp, và phát thứ sáu chỉ lệch ra chừng một cọng tóc.

Ông nói, “Bắn giỏi đấy.”

“Hôm nay mà bắn được như thế với chỉ nửa khoảng cách thôi thì tôi phải may mắn lắm.”

Reacher nói, “Tôi cũng vậy. Thời gian ghê quá!”

“Anh muốn nói rằng ngày xưa anh có thể bắn được như thế à?”

Reacher không trả lời. Thật ra ông đã thắng Giải Invitational 1000 thước, Quân đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ đúng mười năm sau khi Cash giành giải ba. Ông đã bắn tất cả số đạn xuyên qua đúng trung tâm của tấm bia, trong một cái lỗ bị xé rách mà người ta có thể bỏ ngón tay cái lọt qua. Ông đã bày chiếc cúp sáng lóa trên kệ từ văn phòng này qua văn phòng khác suốt mười hai tháng bận rộn. Đó là một năm đặc biệt. Ông đã lên đến một thứ đỉnh cao, sinh lý cũng như tâm lý, trong mọi mặt. Năm đó, ông không thể trượt, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhưng ông không bảo vệ danh hiệu của mình trong năm kế tiếp, mặc dù giới lãnh đạo Quân cảnh đã muốn ông làm thế. Về sau, khi nhìn lại, ông hiểu cái quyết định đó đánh dấu hai điều: khởi đầu của quá trình tách biệt ra khỏi quân đội dài và chậm, và khởi đầu của tình trạng bồn chồn không yên. Khởi đầu của việc luôn luôn xê dịch và không bao giờ nhìn trở lại đằng sau. Khởi đầu của việc không bao giờ muốn làm cùng một điều gì đó đến hai lần.

Trung sĩ Cash nói, “Một nghìn thước là một khoảng cách xa. Thật ra, từ khi rời quân đoàn, tôi chưa từng gặp ai có thể bắn trúng tấm bia nữa kìa.”

Reacher nói, “Tôi xưa chắc có thể bắn xém cái gờ của tấm bia.”

Cash nhấc cái khung lên khỏi mặt quầy, quay người và treo lại trên móc. Ông dùng ngón cái của bàn tay phải để chỉnh nó cân lại.

Ông nói, “Tôi không có đường bắn một nghìn thước ở đây. Nó chỉ phí đạn và làm khách hàng tự thấy hổ thẹn. Nhưng tôi có một đường ba trăm thước khá đẹp sáng nay đang để trống. Anh có thể thử xem. Một người có thể bắn xém tấm bia ở khoảng cách một nghìn thước sẽ bắn ngon lành ở ba trăm thước.”

Reacher không nói gì.

Cash hỏi, “Anh không nghĩ vậy sao?”

Reacher đáp, “Chắc vậy.”

Cash mở hộc lấy ra một tấm bia giấy mới toanh. “Anh tên gì?”

Reacher đáp, “Bobby Richardson.” Robert Clinton Richardson, hiệu suất ghi điểm.301 năm 1959, 141 điểm trong 134 trận, nhưng đội Yanks vẫn chỉ đạt hạng ba.

Cash lấy một cây bút bi trong túi áo ra và ghi R. Richardson, 300 thước, và ghi ngày tháng lên mảnh giấy.

Reacher nói, “Lưu trữ hồ sơ.”

Cash nói, “Thói quen thôi.” Rồi ông vẽ một chữ X bên trong vòng trong. Nó cao chừng hơn một phân và do độ nghiêng của nét bút, bề rộng của nó chỉ khoảng một phân. Ông ta để mảnh giấy trên quầy và bỏ vào căn phòng có tiếng tủ lạnh. Trở ra với khẩu súng sau một phút. Đó là một khẩu Remington M24, với ống nhắm Leupold Ultra và một giá đỡ hai chân. Một vũ khí của dân bắn tỉa theo tiêu chuẩn Thủy quân lục chiến. Nhìn qua, nó đã được dùng nhiều nhưng vẫn trong tình trạng rất tốt. Cash đặt khẩu súng nằm nghiêng trên quầy. Tháo băng đạn ra và giơ cho Reacher thấy nó rỗng. Vận hành cái chốt và cho Reacher thấy ổ đạn cũng rỗng luôn. Phản xạ, sự quen thuộc, cẩn trọng, thao tác chuyên nghiệp.

Ông nói, “Của tôi đó. Được tính tầm bắn đúng ba trăm thước. Do chính tay tôi.”

Reacher nói, “Tốt rồi.” Mà tốt thật. Một cựu Thủy quân lục chiến từng là tay súng giỏi thứ ba trên thế giới năm 1978 thì có thể tin cậy trong những việc như thế này.

Cash nói, “Một phát thôi.” Ông ta lấy từ túi ra một viên đạn duy nhất. Giơ nó lên. Đó là một viên.300 Winchester. Loại dùng cho thi đấu. Ông dựng nó đứng thẳng trên chữ X của tấm bia giấy. Nó che lấp hoàn toàn. Rồi ông mỉm cười. Reacher cười trả. Ông hiểu cuộc thách thức. Ông hoàn toàn hiểu. Bắn trúng X đi và tôi sẽ nói cho ông nghe về James Barr.

Ông nghĩ, Ít ra là không phải đấu tay đôi.

Ông nói, “Đi nào.”

* * *

Trời bên ngoài rất lặng, không nóng cũng không lạnh. Thời tiết hoàn hảo cho việc bắn. Không run, không rủi ro vì nhiệt độ hay các luồng khí hay ánh sáng mờ. Không gió. Cash mang súng và tấm bia, còn Reacher thì nắm viên đạn trong lòng bàn tay. Họ cùng leo lên chiếc Humvee, Cash nổ máy làm rộ lên một tràng tiếng động từ động cơ diesel.

Reacher hỏi, qua tiếng ồn. “Anh thích chiếc này à?”

Cash đáp, “Không hẳn. Tôi khoái chiếc bốn chỗ hơn. Nhưng nó là vấn đề hình tượng. Khách hàng thích nó.”

Khung cảnh chung quanh là những ngọn đồi thấp, phủ đầy cỏ và cây cối còi cọc. Ai đó đã dùng xe ủi đất để ủi những lối thẳng xuyên qua vùng đất. Những lối cách nhau hàng trăm thước và dài cũng hàng trăm thước, tất cả đều nằm song song. Mỗi lối là một đường bắn riêng. Mỗi đường bắn bị cách ly với những đường khác bằng những ngọn đồi tự nhiên và được đỡ bằng những gờ đất cao do xe ủi đùn lên. Nguyên cả vùng trông giống như một sân gôn xây dựng dở dang. Phần thì phủ xanh, phần thì để nguyên nham nhở, tất cả được phủ bằng những luống đất đỏ. Những hòn đá cuội và những tảng lớn được sơn trắng đánh dấu những lối đi qua đó, một số dành cho xe, một số cho người đi bộ.

Cash nói, “Mảnh đất này thuộc quyền sở hữu vĩnh viễn của gia đình tôi. Trường bắn là ý tưởng của tôi. Tôi đã nghĩ mình có thể làm như những tay chơi gôn chuyên nghiệp, hay quần vợt. Anh biết mấy cha đó mà, họ từng ở trong nghề, họ về hưu, về sau thì họ tổ chức dạy.”

Reacher hỏi, “Có thành công không?”

Cash đáp, “Không hẳn. Người ta đến đây bắn, nhưng để buộc được một thằng cha nào đó thừa nhận rằng hắn không biết bắn thì cũng như đi nhổ răng vậy.”

Reacher thấy ba chiếc xe tải đậu ở ba bãi bắn riêng. Mấy tay chờ lúc tám giờ sáng nay đã nhập hẳn vào buổi tập sáng của mình. Họ đều đã nằm bò trên những tấm thảm dừa, bắn, dừng lại, ngắm, lại bắn.

Cash nói, trả lời cho một câu hỏi mà Reacher không hỏi, “Chỉ là kiếm cơm thôi.” Rồi ông lái chiếc Humvee ra khỏi lối chính và lái ba trăm thước dọc theo một đường bắn không có người. Ông nhảy xuống và kẹp tấm bia giấy vào một cái khung, lên xe và quay ngược đầu xe theo hình chữ K và chạy trở lui. Ông đậu xe ngay ngắn rồi tắt máy.

Ông nói, “Chúc may mắn.”

Reacher ngồi im một lát. Ông hơi bị kích động hơn cần thiết. Ông hít vào, nén lại và cảm nhận sự kích thích của chất caffeine trong mạch máu. Chỉ là một cái run nhẹ rất vi tế. Bốn tách cà phê đậm liên tiếp không phải là một sự chuẩn bị lý tưởng cho phát súng chính xác trong khoảng cách xa.

Nhưng nó chỉ là ba trăm thước. Ba trăm thước với một khẩu súng tốt, không nóng, không lạnh, lặng gió. Hầu như giống hệt với ấn họng súng vào trung tâm của tấm bia mà bóp cò. Ông có thể nhắm mắt cũng làm được. Không có rắc rối cơ bản gì với tài thiện xạ cả. Rắc rối ở chỗ món cược. Ông muốn gã giật dây hơn nhiều so với mong muốn đoạt cúp của Thủy quân lục chiến những năm trước. Hơn rất nhiều. Ông không hiểu vì sao. Nhưng điều đó mới là rắc rối.

Ông thở ra. Chỉ có ba trăm thước thôi mà. Không phải là sáu. Không phải là tám. Không phải là một nghìn. Chẳng nhiều nhặn gì đâu.

Ông bước xuống chiếc Humvee và nhấc khẩu súng ra khỏi băng ghế sau. Mang nó đi băng ngang mặt đất gồ ghề đến tấm thảm xơ dừa. Nhẹ nhàng đặt nó vào chỗ, chân giá cách rìa tấm thảm một thước. Cúi xuống nạp đạn. Bước lui ra sau nó và canh thẳng người, cúi xuống, quỳ, nằm xoài thẳng người ra. Ông tì báng súng vào vai. Ngả cổ qua trái rồi qua phải để thư giãn và nhìn quanh. Có cảm giác như ông đang cô độc ở một nơi hoang sơ nào đó. Ông cúi đầu xuống. Nhắm mắt trái lại và dịch mắt phải vào ống ngắm. Úp bàn tay trái lên nòng súng, đè xuống và kéo ra sau. Giờ thì ông đã có một chỗ tựa ba chân. Cái giá súng, và vai ông. Rất vững. Ông dang hai chân và xoay bàn chân ra ngoài để chúng nằm áp vào tấm thảm. Kéo chân trái lên một chút và dúi đế giày vào sớ thảm để trọng tải của nó giữ thế. Ông thư giãn và nằm thả lỏng. Ông biết rằng mình phải trông giống như một kẻ đã bị bắn chết, thay vì một kẻ đang chuẩn bị bắn.

Ông nhìn qua ống ngắm. Thấy cái hình ảnh quá rõ ràng của một ống kính tuyệt vời. Ông tìm được tấm bia. Nó trông gần như có thể sờ được. Ông đặt đường chữ thập ngay chỗ hai đường vạch của chữ X gặp nhau. Bóp nhẹ cò súng để súng được sẵn sàng. Thư giãn. Thở ra. Ông có thể cảm thấy tim của mình. Có cảm giác như nó rời ra trong lồng ngực. Chất caffeine đang rạo rực trong những mạch máu của ông. Dấu chữ thập nhảy múa trên chữ X. Nó đang nhảy giật, qua trái qua phải, lên rồi xuống, trong một vòng tròn tùy tiện bé tí.

Ông nhắm mắt phải lại. Buộc tim mình dừng lại. Thở ra hết hơi trong phổi, một giây, hai giây. Rồi thở lại, hít vào, thở ra, giữ lại. Ông dồn hết năng lượng xuống dưới, vào bên trong đan điền. Để hai vai buông chùng. Để các cơ bắp thư giãn. Để chính mình an vị. Ông lại mở mắt ra và thấy cái dấu chữ thập vẫn đứng yên. Ông nhìn kỹ vào tấm bia. Cảm nhận nó. Muốn nó. Ông kéo cò. Khẩu súng nảy bật, gầm lên và luồng hơi từ nòng súng khuấy lên một đám bụi từ tấm thảm dừa và che khuất tầm nhìn. Ông ngẩng đầu lên ho một tiếng rồi cúi trở xuống ống ngắm.

Trúng hồng tâm.

Chữ X biến mất. Một cái lỗ tròn xoe khoan xuyên qua trung tâm của nó, chỉ để lại bốn vết bút bi nhỏ xíu hiển hiện, bốn vết ở hai đầu mỗi nét vạch. Ông lại ho và chống tay đứng dậy. Cash nhảy xuống chỗ của ông và dùng ống ngắm để kiểm tra kết quả.

Ông ta nói, “Bắn giỏi đấy.”

Reacher nói, “Khẩu súng tốt đấy.”

Cash kéo chốt, cái vỏ đạn rỗng rơi ra trên thảm. Ông ta quỳ lên, nhặt lấy nó, bỏ vào túi. Rồi ông đứng dậy, mang khẩu súng trở lại chiếc Humvee.

Reacher nói với theo, “Vậy tôi có đạt tiêu chuẩn không?”

“Cho cái gì?”

“Cho việc trò chuyện.”

Cash quay lại, “Anh nghĩ đó là một cuộc thi à?”

“Tôi thật lòng hy vọng như vậy.”

“Anh có thể không muốn nghe điều tôi phải nói đâu.”

Reacher nói, “Cứ thử xem.”

Cash gật đầu, “Ta sẽ nói chuyện trong văn phòng.”

Họ đi tới hết đầu kia đường bắn để Cash lấy lại tấm bia. Rồi họ vòng xe lại chỗ những căn chòi. Họ chạy ngang qua những tay lái xe tải. Họ vẫn đang bắn. Cash đậu xe lại, họ bước vào trong, và Cash cất tấm bia của Reacher vào trong một ngăn kéo, dưới vần R - Richardson. Rồi ông ta lần những ngón tay đến vần B - Barr và kéo ra một xấp giấy dày.

Ông hỏi, “Anh tìm cách chứng minh là ông bạn của anh không làm vụ đó phải không?”

Reacher nói, “Hắn không phải là bạn của tôi. Tôi từng biết hắn, có thế thôi.”

“Và?”

“Theo như tôi nhớ hắn không xuất sắc đến mức ấy.”

“Bản tin trên tivi nói rằng đó là một tầm bắn khá ngắn.”

“Với các mục tiêu di động và những góc lệch.”

“Tivi nói rằng bằng chứng rất rõ ràng.”

Reacher đáp, “Đúng vậy. Tôi có xem rồi.”

Cash nói, “Xem mấy thứ này đi.”

Ông ta chia những tấm bia như một cỗ bài, sắp dọc theo chiều dài của cái quầy. Rồi ông ta thúc chúng lại sát cạnh và xếp chúng lại để có thêm chỗ bỏ tiếp. Rồi ông ta sắp hàng thứ hai, ngay dưới hàng thứ nhất. Sau cùng ông ta có ba mươi hai tấm bia bày ra, hai dãy dài những vòng tròn đồng tâm lặp lại như nhau, tất cả đều ghi J. Barr, 300 thước, với ngày tháng ngược về cho đến ba năm trước.

Cash nói, “Xem đi rồi khóc.”

Mỗi tấm bia đều cho thấy một điểm số lão luyện.

Reacher nhìn chúng thật kỹ, từng tấm một. Mỗi vòng trong cùng đều ken chặt những lỗ gọn tròn và chính xác. Những nhóm chặt, lớn và rõ ràng. Ba mươi hai tấm bia, mỗi tấm mười viên đạn, ba trăm hai mươi viên, tất cả đều ngay chóc điểm tuyệt đối.

Reacher hỏi, “Tất cả những lần hắn bắn đều ở đây à?”

Cash gật đầu, “Như anh nói đấy, tôi là một người ưa lưu trữ mà.”

“Súng gì?”

“Khẩu Super Match của hắn. Khẩu súng tuyệt vời.”

“Cảnh sát có gọi cho anh không?”

“Một thằng cha tên Emerson. Hắn rất lịch sự về chuyện đó. Vì tôi phải lo bảo vệ cái mạng của mình chứ, vì Barr luyện tập ở đây. Tôi không muốn làm hỏng danh tiếng trong nghề của mình. Tôi đã bỏ ra rất nhiều công sức ở đây, và chỗ này có thể bị ô danh.”

Reacher xem kỹ lại các tấm bia thêm một lần nữa. Nhớ lời mình nói với Helen Rodin: Họ không quên đâu.

Ông hỏi, “Còn gã Charlie bạn của hắn thì thế nào?”

“Charlie thì vô vọng hoàn toàn.”

Cash dồn những tấm bia của James Barr lại thành một đống và cất trở lại vào ngăn B. Rồi ông ta mở một ngăn kéo khác ra, lần ngón tay đến vần S và lấy ra một xấp giấy.

Ông nói, “Charlie Smith. Hắn cũng là cựu quân nhân, thấy được qua dáng vẻ của hắn. Nhưng với tay này thì tiền của Chú Sam không đầu tư được gì dài lâu.”

Ông ta lặp lại động tác trước, trải những tấm bia của Charlie thành hai hàng dài. Ba mươi hai tấm cả thảy.

Reacher hỏi, “Họ luôn luôn đến đây cùng nhau à?”

Cash đáp, “Như hình với bóng vậy.”

“Những đường bắn riêng?”

“Những hành tinh riêng.”

Reacher gật đầu. Xét theo điểm số thành tích thì các tấm bia của Charlie kém xa bia của James Barr. Tệ hơn nhiều. Chúng là sản phẩm của một tay súng kém cỏi. Một tấm chỉ có bốn vết đạn, tất cả đều bên ngoài vòng ngoài cùng, mỗi phát nằm trong mỗi góc. Suốt tất cả ba mươi hai tấm bia hắn chỉ có bốn phát trúng bên trong vòng trong. Một phát ngay chóc hồng tâm. Chó ngáp phải ruồi, có lẽ vậy, hay do gió, đạn đi lệch, hay nhiệt độ bất thường. Bảy phát suýt chút trúng vành đen. Ngoài ra, Charlie vãi đạn ra khắp nơi. Phần lớn đạn của hắn chắc đã trượt hoàn toàn. Theo tỷ lệ phần trăm thì hầu hết những vết đạn của hắn nằm trong vành trắng giữa hai vòng ngoài cùng. Điểm rất thấp. Nhưng những vết đạn của hắn không phải do hoàn toàn ngẫu nhiên. Có một quy luật kỳ dị ở đó. Hắn có nhắm, nhưng vẫn bắn trật. Có lẽ mắt hắn bị một chứng loạn thị tồi tệ nào đấy.

Reacher hỏi, “Hắn thuộc kiểu người như thế nào?”

Cash nói, “Charlie? Charlie là một tấm bảng trống trơn. Không thể đoán định gì về hắn. Nếu hắn là một tay súng khá hơn thì chắc tôi đã gần như sợ hắn rồi đấy.”

“Một tay nhỏ con, phải không?”

“Bé xíu. Tóc rất quái.”

“Họ có trò chuyện nhiều với anh không?”

“Không mấy. Họ chỉ là hai người từ Indiana xuống, ghé bắn như một thú vui. Ở đây tôi có nhiều khách kiểu như vậy lắm.”

“Anh có xem họ bắn không?”

Cash lắc đầu, “Tôi đã hiểu được rằng đừng bao giờ quan sát bất cứ ai. Người ta xem đó như là chỉ trích. Tôi chờ cho họ đến với tôi, nhưng chưa có ai làm thế.”

“Barr mua đạn ở đây phải không?”

“Loại Lake City. Rất đắt.”

“Súng của hắn cũng không rẻ chút nào.”

“Hắn xứng với khẩu đó.”

“Charlie dùng súng gì?”

“Cũng cùng loại. Như một đôi hợp cạ vậy. Trong trường hợp của hắn thì đúng là hài hước. Như là một gã béo lại mua một chiếc xe đạp đua loại nhẹ vậy.”

“Ở đây anh có các đường bắn súng ngắn riêng biệt chứ?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


“Một đường trong nhà. Người ta dùng nó nếu trời mưa. Nếu không thì tôi để họ bắn bên ngoài trời, bất cứ nơi nào mà họ muốn. Tôi không quan tâm lắm đến súng ngắn. Chúng không có nghệ thuật gì cả.”

Reacher gật đầu và Cash gom những tấm bia của Charlie lại thành một đống, thận trọng xếp chúng theo đúng thứ tự ngày tháng. Rồi ông ta xếp chúng lại với nhau và cất trở lại vào ngăn vần S.

Reacher nói, “Smith là một cái tên phổ biến. Thật ra tôi nghĩ rằng nó là cái tên phổ biến nhất ở Mỹ.”

“Nó là tên thật. Tôi xem bằng lái xe trước khi nhận bất cứ người nào làm thành viên.”

“Hắn nguyên là người ở đâu?”

“Theo giọng nói? Ở đâu đó trên miền Bắc.”

“Tôi có thể lấy một tấm bia của James Barr không?”

“Để làm quái gì vậy?”

Reacher đáp, “Làm kỷ niệm thôi.”

Cash không nói gì.

Reacher nói, “Nó sẽ không bị phát tán đâu. Tôi sẽ không mang bán nó trên mạng.”

Cash không nói gì.

Reacher nói, “Barr sẽ không trở lại. Điều đó là chắc chắn. Và nếu anh muốn giữ cái mạng mình thì anh nên vứt hết chúng đi mới phải.”

Cash nhún vai và quay lại tủ hồ sơ.

Reacher nói, “Lấy cái mới nhất nhé. Cái đó sẽ là tốt nhất.”

Cash lần qua xấp giấy rồi lôi ra một tờ. Đưa qua quầy. Reacher nhận lấy và xếp lại cẩn thận rồi bỏ vào túi áo.

Cash nói, “Chúc bồ tèo của anh may mắn.”

Reacher đáp, “Hắn không phải bạn tôi. Nhưng cám ơn anh nhiều.”

Cash nói, “Không có gì. Vì tôi biết anh là ai. Tôi nhận ra anh ngay khi anh nằm xuống sau khẩu súng. Tôi chẳng bao giờ quên tư thế nằm sấp của ai cả. Anh đoạt giải mười năm sau khi tôi dự. Tôi đứng xem giữa đám đông. Tên thật của anh là Reacher.”

Reacher gật đầu.

Cash nói, “Anh lịch sự lắm. Vì đã không nhắc đến nó sau khi tôi kể với anh rằng tôi chỉ được giải ba.”

Reacher nói, “Cuộc đấu của anh gay go hơn. Mười năm sau chỉ toàn là một đám bất tài.”

Ông dừng lại tại trạm xăng cuối cùng ở Kentucky và đổ đầy bình xăng của Yanni. Rồi ông gọi cho Helen Rodin từ một điện thoại công cộng.

Ông hỏi, “Tay cớm còn ở đó không?”

“Hai tay. Một trong khách sảnh và một ở cửa phòng của tôi.”

“Franklin khởi sự chưa?”

“Làm ngay sáng sớm nay.”

“Có tiến triển gì không?”

“Không có gì cả. Họ là năm người rất bình thường.”

“Văn phòng của Franklin ở đâu?”

Cô cho ông một địa chỉ. Reacher xem đồng hồ. “Tôi sẽ gặp cô ở đó lúc bốn giờ.”

“Ở Kentucky thế nào?”

Ông đáp, “Rối rắm lắm.”

* * *

Ông lại băng ngang qua sông Ohio trên cùng một cây cầu, có Sheryl Crow nói đi nói lại với ông rằng mỗi ngày là một khúc quanh. Ông vặn nút tăng âm thanh và rẽ trái về hướng Tây. Bản đồ của Ann Yanni cho thấy có một giao lộ bốn vòng xoay ở bốn mươi dặm trước mặt. Ông có thể rẽ về hướng Bắc ở đó và một vài giờ sau ông có thể vượt qua nguyên thành phố, bốn mươi bộ trên không trung. Có vẻ như thế sẽ hay hơn là dùng những con đường bên dưới. Ông nghĩ Emerson sẽ rất bực mình. Rồi sẽ nổi điên lên, vào một thời điểm nào đó trong vòng hôm nay. Nếu là Reacher thì sẽ như vậy. Reacher đã là Emerson trong vòng mười ba năm, và trong tình cảnh này ông cũng sẽ phát khùng lên, rải lính ra khắp các đường phố, thử đủ các cách.

Ông tìm thấy cái giao lộ và nhập vào nhánh xa lộ chạy về hướng Bắc. Ông tắt máy CD khi nó chạy lại từ đầu và cài xe chạy theo chế độ tự động. Chiếc Mustang chạy rất tốt ở tốc độ bảy mươi dặm một giờ. Nó ầm ào lao đi, mạnh mẽ, không ho hen vờ vịt gì cả. Reacher nghĩ nếu ông có thể đặt cái động cơ đó vào một thân xe bốn chỗ cũ kỹ móp méo nào đó, thì nó sẽ là loại xe mà ông muốn có.

Bellantonio đã làm việc trong phòng phân tích chứng cứ từ bảy giờ sáng. Ông đã lấy dấu tay trên chiếc điện thoại di động bị vứt dưới xa lộ, và không có được kết quả gì giá trị cả. Rồi ông sao lại bảng ghi lại các cuộc gọi. Số điện thoại cuối cùng được gọi là số di động của Helen Rodin. Trước đó là số di động của Emerson. Hiển nhiên là Reacher đã gọi hai cuộc gọi đó. Sau đó là một chuỗi những cuộc gọi đến nhiều máy di động khác nhau được đăng ký cho Dịch vụ chuyên dụng của Indiana. Có thể Reacher cũng gọi những cuộc đó, hay có thể không phải hắn gọi. Không cách gì biết được. Bellantonio ghi chúng lại hết, nhưng ông biết Emerson sẽ không làm gì với chúng. Điểm duy nhất có thể khai thác tiếp là cuộc gọi cho Helen Rodin, và Emerson không thể nào làm khó một luật sư biện hộ về một cuộc đàm thoại với một nhân chứng, dù hắn có là nghi can hay không. Điều đó chỉ phí hơi sức thôi.

Do đó ông tiếp tục với các cuốn băng quay ở nhà để xe. Ông cần làm việc với bốn ngày, chín mươi sáu giờ, gần ba nghìn lượt xe riêng biệt. Người của ông đã ghi lại hết. Chỉ có ba chiếc là xe Cadillac. Indiana cũng giống như phần lớn các tiểu bang miệt trong. Người ta mua xe tải nhẹ trước tiên, rồi đến xe thể thao địa hình, rồi xe hai chỗ ngồi, rồi xe mui lật. Những chiếc xe con thông thường chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ, và phần lớn chúng là Toyota hay Honda hay xe nội địa cỡ trung. Xe cao tốc cỡ lớn thì rất hiếm, và những hãng danh giá là hiếm nhất.

Chiếc Cadillac đầu tiên trên băng là một chiếc Eldorado màu trắng ngà. Một chiếc hai chỗ ngồi, hai cửa, phải vài năm rồi. Nó đã đậu trước mười giờ trong buổi sáng ngày thứ Tư và đậu lại năm tiếng. Chiếc Cadillac thứ hai trên băng là một chiếc STS mới, có lẽ là màu đỏ hay xám, có khả năng là xanh nhạt. Khó mà biết chắc được với hình ảnh một màu mờ mờ trên băng. Dù là thế nào đi nữa, nó đã đậu ngay sau giờ ăn trưa ngày thứ Năm và ở đó trong hai tiếng.

Chiếc Cadillac thứ ba là một chiếc Deville màu đen. Băng ghi được cảnh nó chạy vào nhà để xe ngay sau sáu giờ sáng ngày thứ Sáu. Ngày thứ Sáu đen tối, như Bellantonio gọi nó. Vào sáu giờ sáng, nhà để xe sẽ gần như hoàn toàn trống. Cuốn băng cho thấy chiếc Deville chạy lên con dốc, nhanh và tự tin. Và cho thấy nó chạy trở ra chỉ sau bốn phút.

Đủ thời gian để đặt cái trụ chắn đường.

Người tài xế không lộ diện trong cả hai lần. Chỉ thấy một vệt mờ xám đằng sau cửa kính. Có thể đó là Barr, cũng có thể không phải hắn. Bellantonio ghi lại tất cả cho Emerson. Ông nhắc mình phải xem lại để biết có phải bốn phút là khoảng thời gian ngắn nhất một chiếc xe lưu lại trong những cuộn băng không. Ông ngờ rằng đúng vậy, rất có khả năng.

Rồi ông xem xét lại cuộc rà soát căn hộ của Alexandra Dupree. Ông đã điều một nhân viên cấp dưới làm việc này vì nó không phải là hiện trường tội ác. Không tìm được điều gì thú vị ở đó. Chẳng có gì cả. Ngoại trừ chứng cứ về dấu tay. Căn hộ có một mớ dấu tay hỗn độn, như mọi căn hộ chung cư khác. Phần lớn là của các cô gái, nhưng có bốn bộ dấu tay khác. Ba bộ trong số đó không thể xác định được.

Bộ dấu tay thứ tư là của James Barr.

James Barr đã có mặt ở căn hộ của Alexandra Dupree. Trong phòng khách, trong nhà bếp, trong phòng vệ sinh. Không nghi ngờ gì về điều này. Dấu rất rõ, hoàn toàn trùng khớp. Không thể lầm.

Bellantonio ghi lại cho Emerson.

Rồi ông đọc bản báo cáo mà nhân viên pháp y vừa đưa vào. Alexandra Dupree bị giết bởi một cú đấm rất mạnh ngay thái dương bên phải, do một kẻ thuận tay trái đấm. Cô đã ngã xuống mặt đất rải sỏi có những chất hữu cơ gồm cả cỏ và đất. Nhưng cô lại được tìm thấy trong một con hẻm lát đá vôi. Do đó xác của cô đã được mang đi ít nhất là một khoảng ngắn giữa nơi chết và nơi được tìm thấy. Những chứng cứ về sinh lý học khác xác minh điều này.

Bellantonio lấy một tờ giấy ghi chú mới và viết hai câu hỏi cho Emerson: Reacher có thuận tay trái không? Hắn có chiếc xe nào không?

The Zec dùng thời gian trong buổi sáng để quyết định làm gì với Raskin. Raskin đã thất bại ba lần riêng rẽ. Trước hết, vì bị theo dõi từ ban đầu, sau đó vì bị tấn công từ phía sau, và sau cùng là bị lấy mất chiếc điện thoại di động. The Zec không thích thất bại. Lão không thích thất bại chút nào. Ban đầu lão chỉ cân nhắc đến việc không cho Raskin ra đường và giới hạn hắn làm nhiệm vụ trong phòng video ở tầng trệt của ngôi nhà. Nhưng làm sao lão có thể giao cho một tên thất bại trông coi sự an ninh của mình?

Rồi Linsky gọi. Chúng đã tìm kiếm suốt mười bốn giờ liên tục mà không thấy bóng dáng thằng lính đâu cả.

Linsky nói, “Giờ chúng ta nên theo dõi con nhỏ luật sư. Nghĩ cho cùng thì không có nó sẽ chẳng có việc gì xảy ra. Nó là điểm tập trung. Nó là đứa điều khiển những động thái trong vụ này.”

The Zec nói, “Điều đó làm tăng thêm độ rủi ro đấy.”

“Độ rủi ro đã cao lắm rồi.”

“Có thể thằng lính đã bỏ đi mãi mãi.”

Linsky nói, “Có thể như vậy. Nhưng điều quan trọng là những gì hắn bỏ lại sau lưng. Trong đầu con luật sư.”

The Zec nói, “Ta sẽ nghĩ về điều này. Ta sẽ liên lạc lại với mày.”

“Chúng em có nên tiếp tục tìm kiếm không?”

“Mệt rồi à?”

Linsky đã kiệt sức và cột sống đau nhức vô cùng.

Hắn nói dối, “Không. Em chưa mệt.”

The Zec nói, “Vậy thì tiếp tục tìm. Nhưng điều Raskin về đây cho ta.”

Reacher giảm tốc độ còn năm mươi dặm một giờ khi xa lộ bắt đầu vươn lên trên những trụ đỡ. Ông theo làn đường ở giữa và bỏ qua đoạn rẽ phía sau thư viện bên tay phải của mình. Ông chạy tiếp lên hướng Bắc thêm hai dặm nữa và ra khỏi xa lộ ở nhánh vòng xoay đi xuống con đường bốn làn có các bãi bán xe và cửa hàng phụ tùng. Ông chạy về hướng Đông trên đường xuyên hạt và lại rẽ về hướng Bắc, trên tuyến thư nông thôn của Jeb Oliver. Sau một phút, ông dấn sâu vào vùng thôn dã tĩnh mịch. Những cột tưới xoay chầm chậm và mặt trời đang tạo ra những cầu vồng trong những giọt nước nhỏ xuống.

Vùng miệt trong. Nơi có những bí mật.

Ông tấp vào và dừng lại cạnh thùng thư của Oliver. Chiếc Mustang không cách gì chạy xuống lối vào được. Mô đất giữa đường sẽ giật cho rụng hết những bộ phận dưới gầm xe. Bộ phận giảm xóc, hệ thống xả hơi, trục xe, bộ phận truyền động, bất cứ thứ gì khác nằm dưới đó. Ann Yanni sẽ chẳng hài lòng tí nào. Nên ông chui ra, để chiếc xe lại đó, thấp nhỏ, chúi xuống và nhấp nháy màu xanh trong nắng. Ông đi xuống nhánh đường đất, cảm nhận từng hòn đá qua đế giày mỏng. Chiếc Dodge màu đỏ của Jeb Oliver chưa bị dời đi. Nó vẫn còn ở đó, đất đỏ dính lên chút ít và sương khô đọng thành vệt. Ngôi nhà chính im lặng. Cái nhà kho đóng cửa và khóa.

Reacher bỏ qua cửa trước. Ông đi quanh hông ngôi nhà đến sân sau. Mẹ của Jeb đang ở đó, ngồi trên chiếc xích đu. Bà ta mặc đồ như trước, nhưng lần này trên tay không có cái chai. Chỉ có ánh mắt điên dại từ đôi mắt to như hai cái đĩa nhỏ. Bà ngồi lên một chân và dùng chân kia đẩy chiếc xích đu nhanh gấp đôi lần trước.

Bà nói, “Chào.”

Reacher hỏi, “Jeb chưa về à?”

Bà chỉ lắc đầu. Reacher nghe thấy tất cả những tiếng động mà ông đã nghe lần trước. Tiếng vòi tưới rít, tiếng rin rít của cái xích đu, tiếng cọt kẹt của ván sàn.

Ông hỏi, “Bà có súng không?”

Bà đáp, “Tôi không dính đến chúng.”

Ông hỏi, “Có điện thoại không?”

Bà đáp, “Cắt rồi. Tôi nợ họ tiền. Nhưng tôi không cần điện thoại. Jeb cho tôi dùng di động của nó khi cần.”

Reacher nói, “Tốt lắm.”

“Điều đó thì tốt cái quái gì? Jeb không có ở đây.”

“Đó mới chính là điều tốt. Tôi sẽ phá cửa căn nhà kho và tôi không muốn bà gọi cảnh sát khi tôi làm. Hay bắn tôi.”

“Đó là nhà kho của Jeb. Ông không được vào đó.”

“Tôi chẳng biết bà sẽ làm thế nào cản được đây.”

Ông quay lưng lại bà ta và đi tiếp theo con đường đất. Nó hơi uốn cong và dẫn thẳng đến cánh cửa đôi của căn nhà kho. Các cánh cửa cũng như chính căn nhà kho được làm bằng ván cũ, luân phiên bị nung rồi lại làm cho mục nát bởi một trăm mùa hè rồi lại mùa đông. Reacher chạm khớp ngón tay vào chúng và cảm thấy chúng khô nẻ và rỗng ruột. Cái ổ khóa mới toanh. Nó là một cái khóa xe đạp hình chữ U giống như thứ người giao thư trong thành phố thường dùng. Một chân của chữ U xuyên qua hai yếm khóa bằng thép màu đen được bắt dính vào những tấm ván cửa. Reacher sờ cái khóa. Lay nó. Thép cứng, nóng lên dưới ánh nắng. Một kết cấu rất chặt. Không cách gì cắt được, không cách gì phá được.

Nhưng một cái khóa chỉ vững chắc được bằng vật nó gắn vào.

Reacher nắm lấy đầu thẳng của cái khóa, đáy của chữ U. Nhẹ nhàng kéo nó, rồi mạnh tay hơn. Cánh cửa oằn về hướng ông rồi ngưng lại. Ông chống lòng bàn tay vào lớp gỗ và đẩy lại. Giữ cho chúng vẫn đóng bằng cánh tay trái duỗi thẳng và ghì giật cái khóa bằng tay phải. Chốt cửa nhích ra một chút nhưng không nhiều. Reacher đoán hẳn Jeb dùng gioăng ở đằng sau, bên dưới những con ốc. Có lẽ là những cái gioăng to. Chúng phân tán bớt trọng lực.

Ông nghĩ: OK, thêm áp lực.

Ông giữ phần thẳng của cái khóa bằng cả hai tay và ngửa người về sau như trượt nước. Kéo mạnh và tống gót chân vào phần cánh cửa bên dưới cái khóa. Chân ông dài hơn tay, vì thế ông bị chuột rút và cú đạp không có nhiều lực. Nhưng thế là đủ. Tấm ván vỡ ra một ít và có gì đó hé chừng một phân. Ông chuẩn bị và cố sức lần nữa. Có tiến triển hơn. Rồi tấm ván bên tay trái cánh cửa tách ra hoàn toàn và hai cái then bật ra. Reacher đặt lòng bàn tay trái trên cánh cửa và luồn những ngón tay phải vào kẽ hở mà quặp chặt. Ông hít một hơi sâu và đếm đến ba rồi giật mạnh. Chốt cửa cuối cùng rơi ra, cả bộ khóa rơi xuống đất và cánh cửa mở toang ra hết cỡ. Reacher bước tránh ra và mở hai cánh cửa sát tới tường để cho ánh nắng tràn vào.

Ông đoán rằng mình sẽ thấy một phòng chế biến “hàng phê”, có lẽ có các bàn dài và chai lọ, cân, khí đốt, và nhiều đống túi nhỏ mới sẵn sàng nhận hàng. Hoặc một đống hàng lớn, sẵn sàng lên đường phân phối.

Ông không thấy thứ gì như thế cả.

Ánh nắng lọt vào xuyên qua những kẽ hở giữa những tấm ván cong vênh. Bên trong căn nhà kho có lẽ dài bốn mươi và rộng hai mươi bộ. Nền đất trơn, được quét và nện chắc. Hoàn toàn trống trơn ngoại trừ một chiếc xe tải nhỏ đã chạy nhiều đậu ngay chính giữa.

Chiếc xe tải hiệu Chevy Silverado, đã được vài năm. Nó màu nâu nhạt, như màu đất sét nung. Nó là một chiếc xe để làm ăn. Nó được làm theo những yêu cầu tối thiểu. Một mẫu mã cơ bản. Ghế nhựa, bánh thép, lốp xe không màu mè. Thùng xe sạch nhưng trầy trụa và móp. Không có bảng số. Các cửa xe bị khóa và không thấy chìa khóa ở đâu cả.

“Cái gì thế này?”

Reacher quay lại thấy mẹ của Jeb Oliver đứng sau lưng. Bà nắm chặt tay lên rầm cửa, như thể bà không muốn bước qua ngưỡng cửa.

Reacher nói, “Một chiếc xe tải.”

“Cái đó thì thấy rồi.”

“Nó là của Jeb?”

“Tôi chưa bao giờ thấy nó trước đây.”

“Hắn lái xe gì trước khi có chiếc xe to màu đỏ kia?”

“Không phải chiếc này.”

Reacher bước tới gần chiếc xe để nhìn vào trong qua cửa kính bên tài xế. Số tay. Bụi bẩn. Đồng hồ cho biết số dặm đã đi rất cao. Nhưng không có rác. Chiếc xe tải đã từng là người phục vụ trung thành của ai đó, họ sử dụng nhưng không hành hạ nó.

Người đàn bà lặp lại, “Tôi chưa từng thấy nó.”

Có vẻ như nó đã ở đó từ lâu lắm rồi. Bốn bánh xe đã gần xẹp. Nó không bốc mùi xăng dầu. Nó lạnh lẽo, trơ ì ra, phủ một màng bụi. Reacher quỳ xuống, xem bên dưới gầm xe. Chẳng có gì cả. Chỉ một bộ khung xe, đất cũ đóng bánh, trầy trụa do đá sỏi.

Ông hỏi vọng lên, “Chiếc xe này đã ở đây bao lâu rồi?”

“Tôi không biết.”

“Hắn gắn ổ khóa lên cửa khi nào?”

“Có lẽ hai tháng trước.”

Reacher lại đứng lên.

Người đàn bà hỏi, “Anh muốn tìm cái gì vậy?”

Reacher quay lại đối diện bà và nhìn vào mắt bà. Hai đồng tử mở lớn.

Ông nói, “Muốn biết thêm bà thường ăn điểm tâm hằng ngày thứ gì thôi.”

Bà mỉm cười, “Anh nghĩ là Jeb nấu ăn [33] trong này à?”

[33]: Nấu ăn (cook): tiếng lóng chỉ việc điều chế methamphetamine nghiệp dư.

“Không phải thế sao?”

“Cha dượng của nó mang qua.”

“Bà có chồng à?”

“Hết rồi. Nhưng ông ấy vẫn mang qua.”

Reacher nói, “Jeb đã sử dụng hôm tối thứ Hai.”

Người đàn bà lại mỉm cười. “Một bà mẹ có thể chia sẻ với con mình chứ. Phải không nào? Nếu không thì có mẹ để làm gì nữa?”

Reacher quay đi nhìn chiếc xe tải một lần nữa. “Tại sao hắn để chiếc xe cũ khóa lại trong này còn chiếc mới thì để ngoài trời mưa nắng như vậy?”

Người đàn bà nói, “Tôi chịu thua. Jeb luôn làm theo ý riêng của nó.”

Reacher trở ra khỏi căn nhà kho và dựng từng cánh cửa lại. Rồi ông dùng các ngón cái ấn các chốt cửa vào trong các lỗ bị vỡ của chúng. Sức nặng của cái khóa lại lôi chúng bật ra một nửa. Ông cố làm cho nó trông gọn gàng hết mức có thể, rồi ông bỏ nó đấy và bước đi.

Người đàn bà hỏi với theo, “Jeb có bao giờ trở về nữa không?”

Reacher không trả lời.

Chiếc Mustang đang quay mũi về hướng Bắc nên Reacher lái về hướng Bắc. Ông bật CD thật lớn và chạy tiếp mười dặm theo một con đường thẳng băng, nhắm đến một chân trời không bao giờ đến.

Raskin đào huyệt cho chính mình bằng một chiếc xe ủi đất Caterpillar. Nó cũng là chiếc xe ủi đã được dùng để san bằng khu đất của The Zec. Chiếc xe có một xẻng xúc nửa mét với bốn răng bằng thép. Chiếc xẻng chậm rãi ngoạm từng miếng đất xốp mềm và đổ chúng sang một bên. Tiếng máy hết gầm lên lại chậm lại, và những bụm khói diesel đều đặn tỏa đầy trời Indiana.

Raskin ra đời trong thời kỳ Liên bang Xô viết, và hắn đã chứng kiến nhiều điều. Afghanistan, Chechnya, cuộc biến động ngoài sức tưởng tượng ở Moscow. Một kẻ khác trong tình cảnh của hắn thì có lẽ đã chết nhiều lần rồi, và điều đó cộng với tư tưởng định mệnh tự nhiên của người Nga làm cho hắn tuyệt đối lãnh đạm với số phận của mình.

The Zec đã nói, “Ukase.” [34] Một mệnh lệnh từ một thẩm quyền tuyệt đối.

[34]: Nghiêm lệnh.

Raskin đã đáp, “Nichevo.” [35] Không có gì quan trọng.

[35]: Tuân thủ, không có gì quan trọng (tiếng Nga).

Tiếp đó hắn nổ máy chiếc xe ủi. Hắn chọn một điểm đám công nhân nghiền đá không thấy được bởi cái khối đồ sộ của ngôi nhà che chắn. Hắn đào một cái rãnh gọn gàng, rộng nửa mét, dài mét tám, sâu mét tám. Hắn đổ chỗ đất vừa đào chất đống bên tay phải, về hướng Đông, như một rào chắn giữa chính mình và quê nhà. Khi đã làm xong, hắn lui xe khỏi cái hố và tắt máy. Leo xuống khỏi buồng máy và chờ. Không có chuyện trốn chạy ở đây. Bỏ chạy là vô ích. Nếu hắn bỏ trốn, thì thế nào đi nữa họ cũng tìm ra, và lúc đó thì hắn sẽ không cần đến cái huyệt làm gì. Họ sẽ dùng bao đựng rác, năm hay sáu cái. Họ sẽ dùng dây điện để niêm phong các mảnh của hắn trong bao nhựa đen lạnh lẽo. Họ sẽ bỏ gạch vào chung với thịt của hắn và ném mấy cái bao xuống sông.

Trước đây hắn đã thấy chuyện này rồi.

Ngoài xa, The Zec đi ra khỏi ngôi nhà. Một lão già thấp bé, to bè, cổ lỗ, lom khom, bước đi với tốc độ vừa phải, tràn trề quyền lực và năng lượng. Lão băng ngang qua khoảng đất gồ ghề, nhìn xuống, nhìn về phía trước. Năm mươi thước, một trăm. Lão đến gần Raskin và dừng lại. Lão thọc bàn tay tàn phế vào túi và lấy ra một khẩu súng lục nhỏ, ngón cái tay trái và gốc của ngón trỏ kẹp qua vòng cò súng. Lão giơ súng ra, và Raskin nhận lấy.

The Zec nói, “Ukase.”

Raskin đáp, “Nichevo.” Một tiếng ngắn, hòa nhã, nhũn nhặn, như de rien trong tiếng Pháp, như de nada trong tiếng Tây Ban Nha, như prego trong tiếng Ý.Thưa ngài, tôi tùy thuộc vào mệnh lệnh của ngài.

The Zec nói, “Cám ơn.”

Raskin bước đến phần cuối hẹp của cái rãnh. Mở ổ đạn của khẩu súng lục và thấy một viên đạn duy nhất. Đóng ổ đạn lại, xoay cho tới khi nó nằm đúng chỗ. Rồi hắn kéo cò súng ra sau và đặt nòng súng vào miệng. Hắn quay lại để đối diện với The Zec và quay lưng lại cái rãnh. Hắn lùi lại sau cho tới khi gót chân đặt trên mép hố. Hắn đứng yên, thẳng, thăng bằng và điềm tĩnh, như một vận động viên lặn của Olympic đang chuẩn bị cho một cú nhảy lộn ngược rất khó từ tấm ván trên cao.

Hắn nhắm mắt lại.

Hắn bóp cò.

Trong vòng một dặm quanh đó, những con quạ đen bay lên huyên náo trong bầu trời. Máu, óc, và xương bắn lên qua ánh nắng theo một đường parabol tuyệt đẹp. Xác Raskin ngã ngửa ra sau và rơi xuống, duỗi thẳng và đờ ra dưới đáy rãnh. Bầy quạ lại sà xuống đất và tiếng động yếu ớt của những cái máy nghiền đá ngoài xa lại trở về và nghe như im bặt. Rồi The Zec trèo vào buồng lái chiếc xe ủi và mở máy. Những cần gạt có những cái núm to như viên bi-a, nên lão điều khiển chúng dễ dàng chỉ với lòng bàn tay mình.

* * *

Reacher dừng lại cách thành phố mười lăm dặm về hướng Bắc và đậu chiếc Mustang trên đoạn đường tránh rộng rải sỏi hình chữ V tạo thành ở góc của hai khoảnh ruộng hình tròn thật lớn gặp nhau. Những khoảnh ruộng nằm ở khắp nơi, Bắc, Nam, Đông, Tây, khoảnh này nối tiếp khoảnh khác thành hàng vô tận. Mỗi khoảnh có trụ tưới riêng. Mỗi trụ đều đang xoay cùng một nhịp chậm và nhẫn nại.

Ông tắt máy xe và bước xuống. Ông đứng vươn vai và ngáp. Không khí đầy hơi nước từ những chiếc trụ tưới. Nhìn gần, những trụ tưới như những cỗ máy công nghiệp khổng lồ. Như những phi thuyền của người ngoài hành tinh vừa đậu xuống. Có một cột lấy nước trung tâm đứng thẳng ở giữa mỗi khoảnh ruộng, như là một cái ống khói cao bằng kim loại. Cần của trụ tưới vươn ra theo chiều ngang và phun nước ra từ hàng trăm vòi đặt cách quãng theo chiều dài của nó. Ở đầu ngoài cùng của cần tưới có một cái chân thẳng đứng chống đỡ trọng lượng của nó. Ở dưới cùng của cái chân là một cái bánh xe vỏ bằng cao su. Cái bánh xe to như bánh máy bay. Nó lăn vòng quanh một vệt đã mòn, kiên trì không nghỉ.

Reacher nhìn và chờ cho tới khi chiếc bánh xe trong khoảnh ruộng gần nhất tiến đến gần. Ông đi lại và bước dọc theo nó. Giữ nhịp với nó. Chiếc bánh xe gần như ngang thắt lưng của ông. Còn cái trụ tưới thì cao quá đầu ông nhiều. Ông giữ cho bánh xe nằm bên phải của mình và theo nó đi suốt vòng tròn dài theo chiều kim đồng hồ. Ông đang đi qua đám sương mù mịn. Lạnh. Cái trụ tưới rít lên thật lớn. Chiếc bánh xe nhẹ nhàng vươn lên rồi hạ xuống thấp. Một vòng thật dài. Cần tưới có lẽ dài đến một trăm năm mươi bộ, do đó vệt đường mòn bao quanh dài hơn ba trăm thước. Pi nhân với đường kính. Diện tích là Pi nhân với bán kính bình phương, do đó nó sẽ lớn hơn sáu nghìn ba trăm mét vuông. Có nghĩa là những góc bỏ hoang cộng lại gần một nghìn bảy trăm mét vuông. Hơn hai mươi mốt phần trăm. Hơn bốn trăm mét vuông ở mỗi góc. Như những hình dạng trong các góc của một tấm bia. Chiếc Mustang đang đậu ở một trong bốn góc, xấp xỉ cùng cỡ với một lỗ đạn.

Như một trong những lỗ đạn của Charlie, trong góc của tờ giấy.

Reacher trở lại nơi ông đã khởi đầu, hơi bị ướt, đôi giày thuyền của ông lấm bùn. Ông bước ra khỏi vòng tròn và đứng yên trên lớp sỏi, nhìn về hướng Tây. Trên chân trời đằng xa, một đám quạ đột nhiên bay lên rồi hạ xuống. Reacher trở lại xe và mở máy. Tìm được mấy cái kẹp ở thanh chắn trên đầu và chiếc nút vặn trên bảng điều khiển, ông hạ mui xuống. Ông xem đồng hồ. Ông còn hai giờ nữa mới đến cuộc hẹn ở văn phòng của Franklin. Ông ngả lưng xuống ghế và để cho nắng hong khô áo quần. Ông lấy tấm bia giấy gấp tư từ trong túi ra và ngắm nó một lúc lâu. Ông ngửi nó. Giơ nó lên ánh mặt trời và để ánh nắng chiếu xuyên qua những chiếc lỗ tròn nhẵn nhụi. Rồi ông cất nó lại vào túi. Ông nhìn lên, không thấy gì cả ngoài bầu trời. Ông nhắm mắt cho khỏi chói rồi suy nghĩ về bản ngã và động cơ, ảo tưởng và thực tại, phạm tội và vô tội, và bản chất thật sự của sự ngẫu nhiên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Emerson đọc hết những báo cáo của Bellantonio. Thấy Reacher đã gọi cho Helen Rodin. Ông không ngạc nhiên chút nào. Chắc hẳn có nhiều cuộc gọi loại đó. Các luật sư và những người lắm chuyện, đang cần mẫn viết lại lịch sử. Không có gì quá ngạc nhiên ở đó. Rồi ông đọc cặp câu hỏi của Bellantonio: Có phải Reacher thuận tay trái không? Hắn có chiếc xe nào không?

Trả lời: Rất có thể, và Rất có thể. Người thuận tay trái không hiếm. Trong hai mươi người thì có bốn hay năm người là thuận tay trái. Và giờ đây Reacher đã có một chiếc xe, điều đó là chắc chắn. Hắn không có mặt trong thị trấn, và hắn không đi bằng xe buýt. Do đó hắn đang có một chiếc xe, và gần như chắc chắn đã có một chiếc từ trước.

Rồi Emerson đọc tờ sau cùng: James Barr đã có mặt ở căn hộ của Alexandra Dupree. Chuyện đó là cái quái gì vậy?

Theo bản đồ của Ann Yanni, văn phòng của Franklin là điểm chính giữa trong một mớ rối mù những con đường ngay giữa trung tâm thành phố. Không phải một địa chỉ lý tưởng. Không tốt chút nào. Công trường xây dựng, thời khắc bắt đầu giờ cao điểm, lưu thông chậm trên đường phía dưới. Reacher sẽ phải trông cậy rất nhiều vào những tấm kính đen của công ty Ford Motor. Chắc chắn là thế rồi.

Ông mở máy và nâng lại mui xe. Rồi ông chạy chầm chậm ra khỏi con đường sỏi và nhắm hướng Nam. Ông lại chạy ngang qua nơi ở của Oliver sau mười hai phút, rẽ về hướng Tây vào con đường xuyên hạt, rồi lại về hướng Bắc trên con đường có bốn làn xe vào thị trấn.

Emerson trở lại báo cáo của Bellantonio về điện thoại di động. Reacher đã gọi cho Helen Rodin. Họ có công việc. Họ có chuyện để thảo luận. Sớm muộn gì hắn cũng sẽ quay lại với cô ta. Hay cô ta sẽ đến với hắn. Ông nhấc điện thoại lên. Nói chuyện với nhân viên điều vận của ông.

Ông nói, “Cho một chiếc xe cải trang đến văn phòng của Helen Rodin. Nếu cô ta rời văn phòng thì hãy theo dõi.”

Reacher lái qua nhà trọ. Ông ngồi cúi thấp xuống và liếc nhìn ngang. Không có dấu hiệu hoạt động nào. Không có giám sát rõ ràng. Ông lái qua tiệm cắt tóc, rồi tiệm bán súng. Xe cộ lưu thông làm ông chậm lại khi tiến đến đoạn xa lộ treo. Rồi ông chậm lại hơn nữa, bằng với tốc độ đi bộ. Gương mặt ông chỉ cách người đi bộ bên tay phải ông vài bộ. Cách những tài xế bị ngưng lại bên tay trái ông vài bộ. Đường bốn làn xe, hai làn hướng vào thành phố chạy chậm, hai làn hướng ra khỏi thành phố đứng yên.

Ông muốn tránh xa khỏi vỉa hè. Ông bật đèn báo rẽ và lấn qua làn kế bên. Tay tài xế sau vai ông không hài lòng lắm. Reacher nghĩ, Đừng bận tâm. Tao đã tập lái bằng chiếc tải hai tấn rưỡi cơ đấy. Đã có thời lẽ ra tao cứ việc cán thẳng lên mày.

Làn xe bên trái chạy nhanh hơn một chút. Reacher bò qua những chiếc bên tay phải. Nhìn nhanh tới trước. Có một chiếc xe tuần tra ở phía trước, cách ba xe. Trên làn bên phải. Có đèn xanh ở đằng xa. Xe ở làn bên trái đang chậm chạp tiến đến nó. Xe trên làn bên phải tiến đến nó còn chậm hơn nữa. Từng chiếc xe nối tiếp nhau tiến đến lằn sơn, dừng lại một chút rồi vọt qua khoảng trống. Không ai muốn chặn đường cả. Giờ thì Reacher cách sau cái xe cảnh sát hai xe. Ông lần lữa. Gã phía sau ông cáu kỉnh nhấn còi. Reacher nhích tới trước. Giờ thì ông cách sau xe cảnh sát chỉ một xe.

Đèn vàng bật lên.

Chiếc xe trước Reacher phóng nhanh.

Đèn đỏ bật lên.

Tay cảnh sát dừng xe ngay ở vạch và Reacher dừng ngay bên hông xe hắn.

Ông chống cùi chỏ lên thanh gác tay và ôm lấy đầu. Duỗi rộng các ngón tay ra để cố che gương mặt mình càng nhiều càng tốt. Nhìn thẳng, ngay dưới thanh chắn đầu xe, nhìn đèn giao thông, cầu cho nó đổi màu.

Helen đi thang máy xuống hai tầng và gặp Ann Yanni trong khu tiếp tân của NBC. NBC đang trả lương cho Franklin, do đó lẽ công bằng là Yanni cần có mặt trong cuộc họp. Họ cùng đi thang máy xuống nhà để xe và lên chiếc Saturn của Helen. Chạy lên đường dốc rồi ra ngoài trời nắng. Helen nhìn qua phải rồi rẽ trái. Không nhận ra một chiếc Impala màu xám chạy ra từ vệ đường phía sau cách xe cô hai mươi thước.

* * *

Đèn đỏ bật lâu như một thế kỷ. Rồi đèn xanh bật lên và gã sau xe Reacher nhấn còi khiến tay cớm quay sang nhìn. Reacher chạy ra khỏi tầm nhìn của hắn và không ngoái lại. Ông len lỏi vào làn đường rẽ trái và chiếc xe cảnh sát chạy vụt ngang bên phải của ông. Reacher thấy nó lại bị kẹt ở phía trước. Ông không muốn lặp lại tình cảnh hai xe dừng sát bên nhau lần nữa nên ông vẫn theo làn bên trái. Ông nhận ra mình trở lại con đường có tiệm tạp hóa của Martha. Luồng xe trên đường này cũng nghẽn cứng. Ông nhổm người trên ghế và mò túi quần. Lần chọn những đồng xu. Tìm được một đồng hai mươi lăm xu. Cân nhắc, hai mươi thước, ba mươi, bốn mươi.

Có làm.

Ông tạt xe vào khu đất nhỏ xíu của Martha. Vẫn để máy nổ, bước xuống, bước vòng qua mui xe đến một máy điện thoại công cộng gắn trên tường. Ông bỏ đồng hai mươi lăm xu vào khe máy và lấy tấm danh thiếp bị xé của Emerson ra. Chọn số của sở cảnh sát và bấm số.

Nhân viên trực ban hỏi, “Tôi có thể giúp gì đây?”

Reacher hỏi, “Cảnh sát hả?”

“Nói đi, thưa ông.”

Reacher giữ giọng nói nhanh và nhỏ, vội vã và khẽ. “Kẻ trên tờ truy nã ấy? Tờ mà mấy ông đang phát cho mọi người đó?”

“Vâng, thưa ông?”

“Hắn đang ở ngay đây, ngay bây giờ.”

“Ở đâu?”

“Trong quán bán thức ăn nhanh của tôi, cái quán trên đường bốn làn ở phía Bắc thị trấn kế tiệm bán lốp xe. Giờ hắn đang ở bên trong, ở quầy, đang ăn.”

“Ông có chắc là tên đó không?”

“Trông giống như tấm hình.”

“Hắn có xe không?”

“Một chiếc Dodge to màu đỏ.”

“Thưa ông, ông tên gì?”

Reacher đáp, “Tony Lazzeri.” Anthony Michael Lazzeri, hiệu suất.273 trong 118 lần ra sân ở chốt hai trong năm 1935. Về nhì.

Reacher nghĩ rằng chẳng mấy chốc mà ông sẽ cần chuyển qua chốt kế tiếp. Đội Yankees không có đủ cầu thủ giữ chốt thứ hai, cũng không nhiều năm không đoạt vô địch.

Tay nhân viên trực ban nói, “Chúng tôi đang đến đó, thưa ngài.”

Reacher cúp máy và lên xe trở lại. Ngồi yên cho tới khi ông nghe hồi còi hụ thứ nhất đang chạy về hướng Bắc.

Helen Rodin chạy được nửa đường xuống đường số Hai thì cô bắt gặp một chuyển động bất thường trong kính chiếu hậu. Một chiếc Impala màu xám lạng ra khỏi làn xe cách phía sau cô ba chiếc rồi quay ngoặt một đường rồ dại qua đám xe cộ rồi lao ngược lại về lối mà nó đã chạy đến.

Cô nói, “Thằng điên.”

Ann Yanni xoay người lại.

Cô ta nói, “Xe cảnh sát. Nhìn mấy cái cần ăng-ten là biết ngay.”

Reacher đến văn phòng của Franklin muộn khoảng mười phút. Nó là một tòa nhà bằng gạch, hai tầng. Tầng dưới trông giống như một cơ sở công nghiệp nhẹ nào đó bị bỏ hoang. Nó có cửa chớp bằng thép trên khắp các cánh cửa và cửa sổ. Nhưng những cửa sổ trên lầu thì có những bức rèm che có đèn phía sau chúng. Có một cầu thang bên ngoài dẫn lên một cánh cửa tầng trên. Có một tấm bảng bằng nhựa màu trắng trên cửa:phòng điều tra Franklin. Có một khu đậu xe ngang với mặt đường, chỉ một khoảng đất rải nhựa sâu chừng một thân xe và đủ rộng cho sáu chiếc đậu. Chiếc Saturn màu xanh lá cây của Helen Rodin đang ở đó, một chiếc Honda Civic màu xanh lơ, và một chiếc Chevy Suburban màu đen dài tới mức nhô ra ngoài vỉa hè đến cả tấc. Reacher đoán chiếc Suburban là của Franklin. Có lẽ chiếc Honda là của Rosemary Barr.

Ông lái xe qua đó mà không giảm tốc độ rồi chạy vòng quanh khối phố. Không nhìn thấy gì đáng ngờ. Do đó ông đậu chiếc Mustang kế bên chiếc Saturn, bước xuống và khóa cửa lại. Chạy lên cầu thang và bước vào mà không gõ cửa. Ông thấy mình trong một hành lang ngắn có nhà bếp nhỏ bên tay phải và cái mà ông đoán là nhà vệ sinh bên tay trái. Ông có thể nghe tiếng nói trong một căn phòng lớn phía trước mặt. Ông bước vào, thấy Franklin ngồi ở bàn giấy, Helen Rodin và Rosemary Barr ngồi trên hai chiếc ghế kéo sát nhau đang trò chuyện, và Ann Yanni nhìn chiếc xe của mình qua cửa sổ. Cả bốn người quay lại khi ông bước vào.

Helen hỏi ông, “Ông có biết thuật ngữ y học nào không?”

“Cụ thể là gì?”

Cô đáp, “PA. Một bác sĩ viết thế. Một kiểu viết tắt sao đó.”

Reacher liếc nhìn cô. Rồi nhìn Rosemary Barr.

Ông nói, “Để tôi đoán xem. Bệnh viện chẩn đoán cho James Barr. Chắc chắn là một ca nhẹ.”

Rosemary nói, “Giai đoạn đầu. Dù là của cái gì đi nữa.”

Helen hỏi, “Làm sao ông biết?”

Reacher nói, “Do trực giác.”

“Nó là cái gì?”

Reacher nói, “Gượm đã. Hãy làm cho có thứ tự.” Ông quay qua Franklin, “Cho tôi biết những gì anh biết về các nạn nhân.”

Franklin nói, “Năm người ngẫu nhiên. Không có sự liên hệ nào giữa bất kỳ ai trong số họ. Không thực sự liên hệ với bất kỳ cái gì. Chắc chắn không có mối liên hệ nào với James Barr. Tôi nghĩ anh hoàn toàn đúng. Hắn không bắn họ vì một lý do nào của mình.”

Reacher nói, “Không, tôi đã sai hoàn toàn. Tình hình là, James Barr đã không bắn họ.”

Grigor Linsky bước lui vào trong một ô cửa tối và bấm điện thoại di động.

Hắn nói, “Em đã đi theo một linh cảm.”

The Zec hỏi, “Linh cảm nào?”

“Vì có cớm canh ở văn phòng con nhỏ luật sư, em nghĩ thằng lính sẽ không thể đến gặp nó. Nhưng rõ ràng là chúng vẫn còn công việc. Vì thế em nghĩ có lẽ con nhỏ sẽ đến với gã. Và nó đã đến. Em đã theo nó. Ngay bây giờ chúng đang ở trong văn phòng lão thám tử với nhau. Với con em gái nữa. Và mụ đàn bà ở chương trình tin tức trên ti vi.”

“Mấy thằng kia có đang đi với mày không?”

“Bọn em canh hết cả dãy phố rồi. Đông, Tây, Nam, Bắc.”

The Zec nói, “Ngồi yên đó. Ta sẽ liên lạc lại với mày.”

Helen Rodin nói, “Ông muốn giải thích lời khẳng định đó chứ?”

Franklin nói, “Chứng cứ quá vững chắc thế kia.”

Ann Yanni mỉm cười. Câu chuyện đây rồi.

Rosemary chỉ nhìn đăm đăm.

Reacher nói với cô, “Cô có mua cho anh cô một cái radio. Một cái hiệu Bose. Để nghe tường thuật các trận bóng. Hắn nói với tôi như vậy. Cô có mua cho hắn món gì khác không?”

“Ví dụ cái gì?”

“Áo quần chẳng hạn.”

Cô đáp, “Đôi khi.”

“Quần dài?”

Cô đáp, “Đôi khi.”

“Cỡ nào?”

Cô nhắc lại vô hồn, “Cỡ à?”

“Anh của cô mặc quần cỡ nào?”

“Vòng bụng ba mươi tư, ống dài ba mươi tư.”

Reacher nói, “Chính xác. Hắn khá cao.”

Helen hỏi, “Điều này giúp gì cho chúng ta?”

Reacher hỏi cô, “Cô biết gì về những trò chơi với con số không? Những con số bí mật quân sự ngày xưa, xổ số của tiểu bang, vé số Powerball, những thứ đại loại như thế?”

“Chúng thì có sao?”

“Cái gì là phần khó nhất của chúng?”

Ann Yanni đáp, “Việc thắng giải.”

Reacher mỉm cười, “Từ quan điểm của người chơi, thì đúng là vậy. Nhưng phần khó nhất của người tổ chức là việc chọn ra những con số thực sự ngẫu nhiên. Con người rất khó nắm bắt được sự ngẫu nhiên thật sự. Ngày xa xưa, những người chọn số sử dụng các trang kinh doanh trên báo chí. Họ sẽ thỏa thuận trước, có thể là trang thứ hai của giá chứng khoán, có thể cột thứ hai, hai con số sau cùng trong sáu giá đầu tiên được đưa ra. Hay sáu giá sau cùng, hay sáu giá ở giữa, hay bất cứ cái gì. Điều đó cũng khá gần với sự ngẫu nhiên thật sự. Hiện nay, những cuộc xổ số lớn sử dụng những máy móc phức tạp. Nhưng các bạn vẫn tìm được những nhà toán học có thể chứng minh rằng các kết quả không thật sự là ngẫu nhiên. Bởi vì con người làm ra máy móc.”

Helen hỏi, “Chuyện này giúp chúng ta thế nào đây?”

Reacher đáp, “Chỉ là một dòng suy nghĩ thôi. Tôi ngồi suốt buổi chiều trong xe của cô Yanni, sưởi nắng và suy nghĩ về việc thủ đắc được sự ngẫu nhiên thật sự thì khó khăn như thế nào.”

Franklin nói, “Dòng suy nghĩ của ông lạc lối rồi. James Barr bắn chết năm người. Chứng cứ rành rành ra.”

Reacher nói, “Anh đã từng là một tay cớm. Anh tự đặt mình vào nguy hiểm. Canh chừng, triệt hạ, những tình huống áp lực cao, những giờ phút cực kỳ căng thẳng. Anh sẽ làm điều gì đầu tiên sau đó?”

Franklin liếc nhìn đám phụ nữ.

Ông đáp, “Vào nhà vệ sinh.”

Reacher nói, “Chính xác. Tôi cũng vậy. Nhưng James Barr không làm vậy. Báo cáo của Bellantonio từ nhà của Barr cho thấy bụi xi măng trong nhà xe, nhà bếp, phòng khách, phòng ngủ và tầng hầm. Nhưng không có trong nhà vệ sinh. Vậy thì hắn về nhà, nhưng hắn không đi tiểu cho tới sau khi thay đồ và tắm? Và làm sao hắn lại có thể tắm mà không vào nhà vệ sinh đây?”

“Có thể hắn dừng lại trên đường.”

“Hắn chưa bao giờ có mặt ở đó.”

“Hắn đã có mặt ở đó, Reacher à. Còn chứng cứ thì sao?”

“Không có chứng cứ nào nói rằng hắn đã có mặt ở đó.”

“Anh khùng rồi à?”

“Chứng cứ cho biết rằng chiếc xe của hắn có mặt ở đó, và giày của hắn, và quần của hắn, và áo choàng của hắn, và súng của hắn, và đạn của hắn, và đồng hai mươi lăm xu của hắn, nhưng không có điều gì cho biết rằng hắn đã có mặt ở đó.”

Ann Yanni hỏi, “Ai đó đã giả mạo hắn sao?”

Reacher nói, “Cho đến từng chi tiết. Lái xe của hắn, mang giày và áo quần của hắn, dùng súng của hắn.”

Franklin nói, “Chuyện này là do anh tưởng tượng thôi.”

Reacher nói, “Nó giải thích về cái áo mưa. Một món đồ rộng thùng thình che phủ hết mọi thứ chỉ trừ chiếc quần jeans? Có lý do nào khác để mặc một chiếc áo mưa trong một ngày nắng ráo đây?”

Rosemary hỏi, “Hắn là ai?”

Reacher nói, “Hãy xem này.”

Ông đứng yên, rồi ông bước tới một bước.

Ông nói, “Quần của tôi ống dài ba mươi bảy inch. Tôi băng ngang phần mới làm của nhà để xe trong ba mươi lăm sải chân. Chân của James Barr dài ba mươi tư inch, có nghĩa là hắn sẽ mất khoảng ba mươi tám sải chân để đi như tôi. Nhưng theo Bellantonio thì người ta đếm được đến bốn mươi tám sải chân.”

Helen nói, “Vậy là một kẻ rất thấp.”

Rosemary nói, “Charlie.”

Reacher nói, “Tôi cũng nghĩ như thế. Nhưng rồi tôi đi Kentucky. Ban đầu là vì tôi muốn xác minh một chuyện khác. Tôi chỉ nghĩ rằng có lẽ James Barr không bắn giỏi thế. Tôi đã xem hiện trường. Bắn ra trò. Mà mười bốn năm trước hắn bắn giỏi, nhưng không phải là quá xuất sắc. Và khi tôi gặp hắn trong bệnh viện thì da trên vai phải của hắn không có hằn dấu. Và muốn bắn như hắn đã bắn thì phải tập luyện. Mà người tập bắn sẽ bị vết thâm bầm trên vai. Như một vết chai. Hắn không có vết chai đó. Vì vậy tôi nghĩ một kẻ khởi đầu trung bình thì chỉ có thể lụt nghề dần theo thời gian. Nhất là khi hắn không tập luyện nhiều nữa. Điều đó là hợp lý, phải không nào? Rất có thể hắn đã đi tới mức không thể làm được vụ giết người trong ngày thứ Sáu. Đơn giản là do thiếu khả năng. Đó là điều tôi đã nghĩ. Vì thế tôi xuống Kentucky tìm hiểu để biết chắc rằng hắn đã lụt nghề đến thế nào.”

Helen hỏi, “Và?”

Reacher đáp, “Hắn đã bắn giỏi hơn. Giỏi hơn nhiều. Không lụt nghề. Xem đây này.” Ông lấy tấm bia giấy ra khỏi túi áo và mở ra.

“Đây là tấm bia sau cùng trong ba mươi hai lần bắn trong suốt ba năm vừa qua. Và nó giỏi hơn nhiều nếu so với khi hắn còn ở trong quân đội mười bốn năm về trước. Thật là kỳ dị, phải không nào? Hắn chỉ bắn có ba trăm hai mươi viên trong ba năm qua, và hắn lại xuất sắc? Trong khi lúc trước hắn từng bắn hai nghìn viên một tuần mà hắn chỉ đạt đến mức trung bình thôi?”

“Vậy thì điều này có nghĩa gì đây?”

“Mỗi lần xuống đó hắn đều đi với Charlie. Điều hành trường bắn là một tay vô địch trong Thủy quân lục chiến. Một tay cực kỳ ưa nhặt nhạnh. Tay này lưu giữ tất cả các tấm bia đã được sử dụng. Có nghĩa là lần nào cũng vậy, Barr có ít nhất hai nhân chứng cho số điểm hắn bắn được.”

Franklin nói, “Nếu tôi bắn được như thế thì tôi cũng muốn có nhân chứng.”

Reacher nói, “Không thể trở nên giỏi hơn nếu không tập luyện. Tôi nghĩ sự thật là hắn đã trở nên rất tệ. Và cái tôi của hắn không thể chấp nhận điều này. Tay súng nào cũng có tinh thần đua tranh. Hắn biết rằng giờ đây mình dỏm quá rồi, hắn không thể đối mặt với điều này, hắn muốn che giấu nó đi. Hắn muốn phô trương.”

Franklin chỉ vào tấm bia, “Tôi không thấy thế này gọi là dỏm.”

Reacher nói, “Cái này là đồ giả mạo. Anh cứ đưa nó cho Bellantonio và ông ta sẽ chứng minh cho anh thấy.”

“Giả mạo như thế nào?”

“Tôi cá là cái này được tạo ra với một khẩu súng ngắn. Chín ly, từ một khoảng cách dưới một mét. Nếu Bellantonio đo những cái lỗ, tôi đoán là ông ta sẽ thấy chúng lớn hơn những lỗ đạn.308 bốn mươi sáu phần nghìn inch. Và nếu ông ta xét nghiệm tờ giấy, ông ta sẽ thấy thuốc súng còn dính lại trên đó. Vì tôi đoán là James Barr đã đi xuống cuối đường bắn và tạo ra những cái lỗ này từ khoảng cách chỉ hai phân, chứ không phải cách ba trăm thước. Lần nào cũng đều như vậy.”

“Anh nghĩ quá xa rồi.”

“Nó là suy luận đơn giản thôi. Barr chưa bao giờ bắn giỏi như thế này. Và cho rằng hắn bắn hẳn tệ hơn trước cũng là dễ hiểu thôi. Nếu hắn bắn tệ hơn ít thôi, thì hắn đã chịu thừa nhận điều đó. Nhưng hắn đã không thừa nhận điều đó, nên chúng ta có thể cho rằng hắn bắn tệ hơn rất nhiều. Tệ đến nỗi rất ngượng về điều đó. Có thể tệ đến nỗi hắn không thể bắn trúng tờ giấy phát nào cả.”

Không một ai lên tiếng.

Reacher nói, “Đó là một giả định có sức thuyết phục. Việc giả mạo thành quả vì ngượng đã chứng minh rằng hắn không thể bắn tốt nữa. Nếu hắn không thể bắn tốt nữa, thì hắn đã không làm vụ ngày thứ Sáu.”

Franklin nói, “Anh chỉ đang đoán thôi.”

Reacher gật đầu, “Trước tôi đã đoán. Nhưng giờ thì tôi không đoán. Giờ thì tôi biết chắc. Tôi đã bắn một phát ở Kentucky. Tay kia buộc tôi bắn, như là một nghi thức để thông qua. Tôi đã uống quá nhiều cà phê. Tôi run như điên. Giờ thì tôi hiểu là James Barr sẽ còn tệ hơn nhiều.”

Rosemary hỏi, “Vì sao vậy?”

Reacher đáp, “Vì hắn bị chứng Parkinson. PA có nghĩa là Paralysis Agitans [36], và đó là từ các bác sĩ dùng để gọi chứng Parkinson. Tôi e rằng anh của cô sắp bị bệnh này. Run rẩy và co giật. Và không ai trên đời bắn súng trường chính xác được khi bị chứng Parkinson. Theo quan điểm của tôi thì không những hắn không làm vụ ngày thứ Sáu mà hắn còn không có khả năng làm được điều đó nữa kìa.”

[36]: Chứng kích động tê liệt.

Rosemary không nói gì. Tin tốt và tin xấu. Cô nhìn ra cửa sổ. Lại nhìn xuống sàn. Cô mặc đồ như một quả phụ. Áo lụa đen, váy ôm đen, tất đen, giày da sơn đen gót thấp.

Cô nói, “Có lẽ đó là lý do khiến anh ấy luôn luôn cáu bẳn. Có lẽ anh ấy cảm thấy nó đang đến. Cảm thấy bất lực và vượt quá khả năng kiềm chế. Cơ thể bắt đầu phản lại anh ấy. Anh ấy hẳn căm ghét điều đó. Ai cũng cảm thấy như vậy.”

Rồi cô nhìn thẳng vào Reacher.

Cô nói, “Tôi đã nói với ông rằng anh ấy vô tội mà.”

Reacher nói, “Thưa cô, tôi xin tạ lỗi không do dự. Cô đã đúng. Anh ấy đã hối cải. Anh ấy giữ lời. Anh ấy đáng được tin cậy. Và tôi rất tiếc là anh ấy bị bệnh.”

“Giờ thì ông phải giúp anh ấy. Ông đã hứa như thế.”

“Tôi đang giúp anh ấy. Từ tối hôm thứ Hai tôi chỉ làm có điều này.”

Franklin nói, “Chuyện này thật là khùng.”

Reacher nói, “Không. Nó đúng y như những gì ta hình dung trước đó. Có ai đó gài cho James Barr rụng. Nhưng thay vì buộc anh ấy làm, thì họ chỉ dàn cảnh như thể anh ấy đã làm. Đó là sự khác biệt có ý nghĩa duy nhất trong chuyện này.”

Ann Yanni hỏi, “Nhưng nó có khả năng xảy ra như thế không?”

“Tại sao không? Hãy nghĩ kỹ đi. Hãy dò theo nó đi.”

Ann Yanni dò theo câu chuyện. Cô điểm lại từng động tác nhỏ, từ từ và cẩn trọng như một diễn viên. “Hắn mặc áo quần và giày của Barr, và có lẽ tìm thấy một đồng hai mươi lăm xu trong lọ. Hay trong chiếc túi nào đó. Hắn xỏ găng tay, để không làm lẫn lộn dấu tay của Barr. Hắn đã lấy cái trụ chắn đường trong nhà xe của Barr từ trước, có thể trong ngày hôm trước. Hắn lấy khẩu súng trong tầng hầm. Nó đã được chính tay Barr nạp đạn từ trước. Hắn lái chiếc xe minivan của Barr xuống phố. Hắn để lại mọi dấu vết. Tự làm mình vấy bụi xi măng. Trở về căn nhà và cất lại mọi thứ rồi chuồn. Nhanh vội, thậm chí không kịp đi vào phòng vệ sinh. Rồi một lúc sau James Barr về nhà, rơi vào chiếc bẫy giăng sẵn mà anh ta còn không biết là tồn tại.”

Reacher nói, “Chính xác là những gì tôi nghĩ.”

Helen hỏi, “Nhưng khi đó thì Barr đang ở đâu?”

Reacher nói, “Ra ngoài.”

Franklin nói, “Đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên thật hay.”

Reacher nói, “Tôi không nghĩ như vậy. Tôi nghĩ là chúng sắp đặt một chuyện gì đó để anh ấy không cản mũi kỳ đà. Anh ấy nhớ rất rõ là có đi đâu đó. Rồi lại rất hưng phấn, như một điều gì tốt đẹp sắp xảy đến. Tôi nghĩ chúng dàn cảnh cho anh ấy gặp ai đó. Tôi nghĩ là chúng sắp đặt một cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên có thể dẫn đến một kết quả nào đó. Tôi nghĩ là anh ấy có một cuộc hẹn hò trong ngày thứ Sáu.”

“Hẹn hò với ai?”

“Cô nàng tóc đỏ chẳng hạn. Chúng dùng cô ấy để dụ tôi. Có thể chúng cũng dùng cô ấy để dụ Barr. Anh ấy mặc đẹp trong ngày thứ Sáu. Bản báo cáo nói rằng ví của anh ấy trong một chiếc quần tươm tất.”

Helen hỏi, “Vậy thì ai thật sự làm vụ này?”

Reacher đáp, “Một kẻ nào đó lạnh như băng. Kẻ mà thậm chí không cần đi tè sau khi mọi chuyện xảy ra.”

Rosemary nói, “Charlie. Hẳn là hắn. Phải là hắn. Hắn nhỏ con. Hắn quái dị. Hắn biết căn nhà. Hắn biết mọi thứ ở đâu. Con chó quen với hắn.”

Reacher nói, “Hắn cũng là một tay súng rất tệ. Đó là lý do khác để tôi đi Kentucky. Tôi muốn thử nghiệm giả thuyết đó.”

“Vậy kẻ đó là ai?”

Reacher đáp, “Charlie. Chứng cứ của hắn cũng là giả mạo. Nhưng theo cách khác. Những cái lỗ trên các tấm bia của hắn ở khắp mọi chỗ. Ngoại trừ việc chúng không thật sự ở khắp mọi chỗ. Vị trí phân bố của chúng không hoàn toàn là ngẫu nhiên. Hắn cố gắng ngụy trang việc hắn bắn giỏi như thế nào. Hắn nhắm vào những điểm bất kỳ trên tờ giấy và bắn trúng, từng phát ngay chóc, tin tôi đi. Thảng hoặc thấy chán thì hắn cho một viên vào ngay hồng tâm. Hay hắn chọn một góc phần tư bên ngoài vòng ngoài cùng và bắn một phát xuyên qua nó. Có lần hắn khoan thủng cả bốn góc. Vấn đề là, anh nhắm điểm nào cũng không quan trọng, miễn là anh bắn trúng nó. Chỉ do quy ước nên chúng ta nhắm vào hồng tâm. Nhắm vào một điểm nào khác cũng là cách tập bắn tốt y như thế. Thậm chí một điểm nằm ngoài tấm bia, như cái cây chẳng hạn. Đó là điều mà Charlie thực hành. Hắn là một tay súng ghê gớm, chuyên cần tập luyện, nhưng lại cố ra vẻ lúc nào mình cũng bắn trượt. Nhưng như tôi đã nói, con người không thể thủ đắc được sự ngẫu nhiên thật sự. Luôn luôn có những mô thức để theo.”

Helen hỏi, “Tại sao hắn lại làm như thế?”

“Để có bằng chứng ngoại phạm.”

“Làm cho người khác nghĩ là hắn không biết bắn?”

Reacher gật đầu. “Hắn nhận thấy tay chủ trường bắn lưu giữ lại những tấm bia đã sử dụng. Hắn là một tay chuyên nghiệp máu lạnh biết tính trước mọi chi tiết nhỏ nhất.”

Franklin hỏi, “Hắn là ai?”

“Tên thật của hắn là Chenko và hắn cùng bọn với một băng người Nga. Có lẽ hắn là một cựu chiến binh Hồng quân. Chắc hẳn là một trong những tay bắn tỉa của chúng. Và chúng rất giỏi. Chúng luôn luôn giỏi.”

“Chúng ta làm thế nào để tiếp cận với hắn?”

“Qua nạn nhân.”

“Trở lại điểm xuất phát rồi. Các nạn nhân toàn là ngõ cụt. Anh sẽ phải tìm được một thứ gì hay ho hơn thế.”

“Sếp của hắn tự xưng là The Zec.”

“Tên gì mà kỳ quái vậy?”

“Nó là một từ, chứ không phải là cái tên. Tiếng lóng thời Xô viết ngày xưa. Zec có nghĩa là một tù nhân của trại lao động. Ở đảo Gulag thuộc Siberia.”

“Những trại tù đó là chuyện xưa như trái đất rồi.”

“Điều đó cho biết The Zec là một kẻ rất già. Nhưng là một tay già dữ dằn. Chắc chắn lão ghê gớm hơn là chúng ta có thể tưởng tượng được.”

The Zec thấm mệt sau khi vật lộn hết hơi với chiếc xe ủi. Nhưng lão đã quen bị mệt. Lão đã mệt suốt sáu mươi ba năm rồi. Lão đã mệt từ ngày kẻ bắt lính đến làng của lão, vào đầu mùa thu năm 1942. Làng của lão cách bốn nghìn dặm khỏi nơi có người gần nhất, và tay bắt lính thuộc tuýp người Nga ở Moscow mà trước đây chưa ai từng thấy. Hắn nhanh nhẹn, kiêu hãnh và tự tin. Hắn không cho phép tranh cãi. Không bàn luận. Tất cả đàn ông trong độ tuổi từ mười sáu đến năm mươi phải đi với hắn.

Lúc đó The Zec mười bảy. Ban đầu lão bị bỏ sót vì đang ở tù. Lão ngủ với vợ của một tay lớn tuổi hơn, và đánh thằng cha đó tơi tả khi hắn phàn nàn về chuyện đó. Thằng cha bị đánh thỉnh cầu xin được miễn quân dịch vì tình trạng thể chất của mình, rồi hắn nói với tay bắt lính về kẻ hành hung hắn đang ở trong tù. Tay bắt lính nôn nóng làm cho đủ số, vì thế The Zec bị lôi ra khỏi ngục và được bảo sắp hàng chung với những người khác ở sân làng. Lão vui vẻ làm theo. Lão nghĩ rằng mình được tặng một chuyến đi đến miền tự do. Lão nghĩ rằng chỉ cần ra đi thì sẽ có hàng trăm cơ hội chờ đón.

Lão đã lầm.

Các tân binh bị nhốt trong một chiếc xe tải, rồi trong một con tàu, trong một chuyến đi kéo dài năm tuần. Thủ tục tuyển quân chính thức vào Hồng quân diễn ra trên đường đi. Quân phục được phát ra, đồ len dày, và một áo choàng, và một đôi giày bốt bằng dạ nhăn, và một sổ lương. Nhưng không có lương bổng thật gì cả. Không vũ khí. Và cũng không huấn luyện, ngoài một lần tàu dừng nhanh trên một sân ga đầy tuyết phủ, nơi đó có một vị ủy viên cứ la the thé vào đoàn tàu khóa chặt qua một cái loa khổng lồ. Gã cứ lặp đi lặp lại một bài diễn văn đơn giản dài hai mươi ba từ mà sau đó The Zec nhớ mãi mãi: Định mệnh thế giới đang được quyết định ở Stalingrad, nơi các anh sẽ chiến đấu đến người cuối cùng cho quê hương.

Chuyến đi dài năm tuần kết thúc trên bờ Đông của con sông Volga, nơi đó các tân binh được đổ xuống như súc vật và buộc phải chạy thẳng đến một nhóm nhỏ giữa những chiếc phà cũ trên sông và những chiếc du thuyền. Cách nửa dặm trên bờ bên kia là một cảnh tượng từ địa ngục. Một thành phố, lớn hơn bất cứ thứ gì mà The Zec đã được nhìn thấy trước đây, đang đổ nát, ngun ngút khói lửa. Con sông đang bùng cháy và nổ tung vì đạn súng cối. Trên bầu trời máy bay vần vũ, chúng xếp hàng lao xuống thả bom, bắn súng. Xác người ngả nghiêng khắp nơi, và các bộ phận thân thể, và kẻ bị thương đang rên la.

The Zec bị đẩy xuống một chiếc thuyền nhỏ có một tấm mành mành sọc màu sắc tươi vui. Lính tráng chật ních trên thuyền. Không ai nhúc nhích vào đâu được. Không ai có vũ khí. Chiếc thuyền trôi vào dòng nước đông cứng và máy bay rơi trên đó như ruồi bu trên đống cứt. Cuộc qua sông kéo dài mười lăm phút và khi đến nơi thì người The Zec nhầy nhụa máu của các đồng ngũ.

Lão bị dồn lên một cầu tàu hẹp bằng gỗ và bị bắt buộc xếp thành hàng một, rồi chạy về hướng thành phố, ngang qua một trạm nghỉ chân nơi mà chặng thứ hai của cuộc huấn luyện quân sự diễn ra: hai sĩ quan hậu cần phân phát những khẩu súng đã nạp đạn và những băng đạn dự phòng trong một chuỗi luân phiên bất tận, và ngâm nga một câu mà sau này, với The Zec, nó biến thành một bài thơ, hay một ca khúc, hay một bài tụng ca về sự điên rồ hoàn chỉnh và trọn vẹn, lặp đi lặp lại không ngừng nghỉ:

Anh cầm súng bắn

Tôi không súng theo sau

Khi anh bị giết

Tôi nhặt súng xông lên bắn tiếp

The Zec được trao cho một băng đạn. Không có súng. Lão bị lùa xông tới, và mù quáng chạy theo sau lưng của một kẻ đi trước. Lão rẽ vào một góc phố. Ngang qua trước mặt một ổ súng máy của Hồng quân. Thoạt đầu, lão nghĩ là mặt trận rất gần. Nhưng rồi một viên chính ủy cầm cờ và một cái loa khổng lồ khác gào lên với lão: Không được quay lui! Nếu mày bước lui, dù chỉ một bước, thì chúng tao sẽ bắn hạ! Cho nên The Zec chạy thục mạng về phía trước và rẽ vào một góc phố khác, và lao vào một cơn mưa đạn của bọn Đức. Lão dừng lại, hơi quay người, và bị trúng ba phát vào tay và chân. Lão ngã xuống và nằm lại trên phần còn lại của một bức tường gạch bị phá hủy, và chỉ trong vài phút là bị vùi dưới một đống xác người càng lúc càng nhiều.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Bốn mươi tám giờ sau, lão đến một bệnh viện dã chiến và lần đầu làm quen với luật pháp quân đội Xô viết: khắc nghiệt, nặng nề, bám sát hệ tư tưởng, nhưng nghiêm khắc vận hành theo những luật lệ bí hiểm của nó. Vấn đề cần bàn cãi là do việc lão hơi quay người lại: có phải các vết thương của lão là do kẻ thù của Tổ Quốc gây ra hay không, hay là lão đã tháo lui về hướng súng của chính phe ta? Vì tình trạng nhập nhằng ấy, lão được bỏ qua án tử hình và thay thế bằng việc bị điều ra tiểu đoàn trừng giới. Từ đó khởi đầu một tiến trình sống sót kéo dài cho đến nay đã sáu mươi ba năm.

Một tiến trình mà lão quyết tâm tiếp tục.

Lão bấm số của Grigor Linsky.

Lão nói, “Chúng ta có thể tin rằng thằng lính đang tiết lộ. Điều gì hắn biết, giờ thì bọn chúng đều biết. Do đó, đã tới lúc chúng ta thực hiện cho mình một hợp đồng bảo hiểm.”

* * *

Franklin nói, “Chúng ta thật sự không có gì tiến triển cả. Phải không nào? Emerson sẽ không đời nào chấp nhận một chuyện gì cả, trừ phi chúng ta cung cấp cho hắn nhiều hơn những gì chúng ta có hiện nay.”

Reacher nói, “Vậy thì nghiên cứu cái danh sách nạn nhân đi.”

“Điều đó có thể kéo dài mãi mãi. Năm cuộc sống, năm tiểu sử đời người.”

“Vậy chúng ta hãy tập trung.”

“Tuyệt. Tuyệt lắm. Vậy hãy cho tôi biết anh muốn tôi tập trung vào ai đây.”

Reacher gật đầu. Nhớ lại mô tả của Helen Rodin về điều mà cô đã nghe được. Phát đầu tiên, rồi ngưng một tí, rồi hai phát kế tiếp. Rồi một khoảng ngừng khác, lâu hơn một chút, nhưng thật ra chỉ là một tích tắc, và rồi ba phát cuối cùng. Ông nhắm mắt lại. Trong tâm trí, ông hình dung ra cái biểu đồ âm thanh từ bộ phận ghi lời nhắn của chiếc điện thoại di động. Hình dung lại chính mình đã mô phỏng lại, trong ánh sáng tù mù của nhà đậu xe mới, cánh tay phải vươn ra như một khẩu súng: tạch, tạch-tạch, tạch-tạch-tạch.

Ông nói, “Không phải phát đầu tiên. Không phải phát đầu tiên khi súng còn lạnh. Không bảo đảm sẽ trúng vào bất cứ thứ gì với phát đó. Do đó, nạn nhân đầu tiên là vô nghĩa. Chỉ là góp phần ngụy trang. Cũng không phải là ba phát cuối. Đó là pằng-pằng-pằng. Phát bắn trượt có chủ ý, và ngụy trang thêm nữa. Lúc đó công việc đã hoàn tất rồi.”

“Vậy thì, phát thứ hai hay phát thứ ba. Hay cả hai phát luôn.”

Tạch, tạch-tạch.

Reacher mở mắt ra.

Ông nói, “Phát thứ ba. Ở đây có một nhịp điệu. Phát mở đầu thứ nhất, rồi phát bắt nhịp, và rồi phát ăn tiền. Mục tiêu. Rồi nghỉ. Mắt hắn đang dán vào sau ống ngắm. Hắn đang kiểm tra xem mục tiêu đã bị hạ chưa. Thấy rồi. Vậy thêm ba phát cuối.”

Helen hỏi, “Người thứ ba là ai?”

Franklin đáp, “Người phụ nữ.”

Linsky gọi cho Chenko, rồi Vladimir, và rồi Sokolov. Hắn giải thích nhiệm vụ và siết chặt lại hàng ngũ. Văn phòng của Franklin không có lối hậu. Chỉ có một cầu thang phô ra. Chiếc xe của mục tiêu ở ngay bên thềm kia. Dễ ợt.

Reacher nói, “Cho tôi biết về người phụ nữ đó.”

Franklin xóc lại mớ ghi chép. Sắp chúng theo một trật tự ưu tiên mới.

Ông nói, “Tên bà ta là Oline Archer, kiểu người Cáp-ca-dơ, có gia đình, không con, ba mươi bảy tuổi, sống ở một vùng ngoại ô về hướng Tây.”

Reacher nói, “Làm trong tòa nhà Sở Đăng kiểm. Nếu bà ta là mục tiêu xác định, thì Charlie phải biết bà ta ở đâu và khi nào bà sẽ đi ra.”

Franklin gật đầu. “Làm việc cho Sở Đăng kiểm. Đã được một năm rưỡi rồi.”

“Chính xác là làm về phần gì?”

“Quản trị văn phòng. Làm bất cứ việc gì mà họ làm ở trong đó.”

Ann Yanni hỏi, “Vậy thì chuyện này có dính líu đến công việc không?”

Franklin nói, “Do hồ sơ để quá lâu chưa xử lý à? Hình chân dung chụp xấu dán trên bằng lái xe chăng? Tôi ngờ quá. Tôi đã xem cơ sở dữ liệu của quốc gia. Thư ký của Sở Đăng kiểm không bị khách hàng giết bao giờ. Chuyện đó không xảy ra đâu.”

Helen Rodin hỏi, “Thế còn đời sống riêng của bà ta thì sao?”

Franklin đáp, “Không có điều gì làm tôi chú ý cả. Bà ta chỉ là một phụ nữ bình thường. Nhưng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu xem. Tôi sẽ đào sâu thêm một vài cấp độ. Phải có một điều gì ở đó.”

Rosemary Barr nói, “Hãy làm nhanh. Vì anh tôi. Chúng ta phải gỡ cho anh ấy ra.”

Ann Yanni nói, “Chúng ta cần có những ý kiến của y học về chuyện đó. Giờ thì cần những bác sĩ thông thường, không cần bác sĩ về tâm lý.”

Helen Rodin hỏi, “NBC có trả tiền cho việc này không?”

“Nếu nó có vẻ hiệu quả.”

Rosemary nói, “Nó phải có hiệu quả. Tôi muốn nói là, sao lại không? Chứng Parkinson là một điều có thật, phải không nào? Hoặc anh ấy bị, hoặc không bị.”

Reacher nói, “Nó có thể hiệu quả ở phiên tòa. Một lý do thuyết phục vì sao James Barr không thể thực hiện vụ này, cộng với một câu chuyện thuyết phục về một kẻ khác làm nó? Đó thường là cách người ta tạo nên một nghi vấn hợp lý.”

Franklin nói, “Thuyết phục là một từ rắc rối đấy. Và nghi vấn hợp lý là một khái niệm quá cầu may. Tốt hơn là làm cho Alex Rodin rút lời buộc tội đi hoàn toàn. Có nghĩa là thuyết phục Emerson trước.”

Reacher nói, “Trong hai người đó tôi không thể nói chuyện với ai cả.”

Helen nói, “Tôi có thể.”

Franklin nói, “Tôi cũng có thể.”

Ann Yanni nói, “Và tôi chắc chắn là mình có thể. Tất cả chúng ta đều có thể, ngoại trừ anh ra.”

Reacher nói, “Nhưng các anh chị có thể sẽ không muốn nói.”

Helen hỏi, “Vì sao lại không?”

“Cô sẽ không thích nghe câu này đâu.”

Helen hỏi lại, “Tại sao lại không?”

Reacher nói, “Thử nghĩ xem. Đi ngược lại nhé. Sự việc Sandy bị giết, và sự việc trong quán bar thể thao tối hôm thứ Hai, tại sao hai việc này xảy ra?”

“Để buộc tay ông lại. Để ngăn ông không làm hại đến vụ án.”

“Chính xác. Hai lần dụng công, cùng mục tiêu, cùng mục đích, cùng thủ phạm.”

“Rõ ràng là vậy.”

“Và vụ đêm thứ Hai khởi đầu với việc tôi bị theo dõi từ khách sạn của tôi. Sandy và Jeb Oliver và các chiến hữu của chúng chạy lòng vòng, trực chiến và chờ đợi, cho tới khi một kẻ nào đó gọi cho chúng thông báo tôi đang ở đâu. Cho nên nó khởi đầu với việc tôi bị theo dõi cho đến khách sạn. Cùng hôm đó nhưng từ trước.”

“Chúng ta đã duyệt qua tất cả chuyện này rồi.”

“Nhưng gã giật dây làm sao mà có được tên của tôi? Thậm chí, làm sao hắn biết được tôi đang có mặt trong thị trấn? Làm sao hắn biết rằng có một kẻ là mối rắc rối tiềm năng trong tương lai?”

“Ai đó cho hắn biết.”

“Ai biết, vào buổi sáng ngày thứ Hai?”

Helen ngưng một nhịp.

Cô nói, “Cha tôi. Từ sớm ngày thứ Hai. Và có lẽ Emerson nữa. Không lâu sau đó. Họ chắc sẽ trò chuyện về vụ án. Họ sẽ trao đổi ngay tức khắc nếu có khả năng các bánh xe trật khỏi đường.”

Reacher đáp, “Chính xác. Rồi một trong hai người đó gọi cho gã giật dây. Trước giờ ăn trưa ngày thứ Hai rất nhiều.”

Helen không nói gì.

Reacher nói, “Trừ phi một trong hai người đó chính là gã giật dây.”

“The Zec là gã giật dây. Chính ông nói như vậy mà.”

“Tôi nói hắn là sếp của Charlie. Chỉ vậy thôi. Chúng ta không có cách nào để biết hắn có thật sự là kẻ cao nhất trong bọn hay không.”

Helen nói, “Ông nói đúng. Tôi không thích kiểu nghĩ như thế này chút nào.”

Reacher nói, “Một kẻ nào đã gọi. Đó là điều chắc chắn. Hoặc là cha cô hoặc là Emerson. Tên tôi bị loan báo ra ngoài sau khi tôi xuống xe buýt hai giờ. Do đó một người trong bọn họ đã bị mua chuộc và người kia cũng không giúp chúng ta vì ông ta ưa vụ án theo đúng diễn biến hiện nay.”

Căn phòng im bặt.

Ann Yanni nói, “Tôi phải trở về làm việc rồi.”

Không ai lên tiếng.

Yanni nói, “Gọi cho tôi nếu có tin gì mới nhé.”

Căn phòng vẫn im lặng. Reacher không nói gì. Ann Yanni băng ngang căn phòng. Dừng lại bên ông.

Cô nói, “Chìa khóa.” Ông lục túi và đưa cho cô.

Ông nói, “Cám ơn đã cho tôi mượn xe. Xe đẹp lắm.”

Linsky nhìn chiếc Mustang chạy đi. Nó chạy hướng Bắc. Máy nổ lớn, ống khói xả lớn. Vang rền cả dãy phố. Rồi con đường im ắng trở lại. Linsky bấm điện thoại di động.

Hắn nói, “Con mụ tivi đi khỏi chỗ đó rồi.”

The Zec nói, “Tay thám tử tư sẽ ở lại làm việc.”

“Vậy làm gì đây nếu những đứa khác cùng đi với nhau?”

“Ta hy vọng chúng không làm thế.”

“Nếu chúng làm thì sao?”

“Thịt cả bọn.”

Rosemary hỏi, “Có cách gì để chữa cho chứng Parkinson không?”

Reacher đáp, “Không. Không cách chữa, không cách ngừa. Nhưng có thể làm cho nó chậm lại. Có các loại thuốc đặc trị. Vật lý trị liệu rất có ích. Và ngủ. Các triệu chứng biến mất khi bệnh nhân ngủ.”

“Có lẽ đó là lý do anh ấy cần thuốc ngủ. Để tìm quên.”

“Anh ấy không nên tìm quên nhiều quá. Tiếp xúc với bên ngoài sẽ tốt hơn.”

Rosemary nói, “Tôi nên vào bệnh viện.”

Reacher nói, “Cô hãy giải thích cho anh ấy. Nói với anh ấy chuyện gì đã thật sự xảy ra trong ngày thứ Sáu.”

Rosemary gật đầu. Băng ngang qua phòng và đi ra ngoài. Một phút sau Reacher nghe tiếng xe cô nổ máy và chạy đi.

Franklin đi ra nhà bếp pha cà phê. Reacher và Helen Rodin còn lại với nhau trong phòng. Reacher ngồi xuống chiếc ghế mà Rosemary đã ngồi. Helen bước tới cửa sổ nhìn xuống con đường bên dưới. Cô quay lưng vào phòng. Cô mặc đồ giống y như Rosemary. Áo đen, váy đen, giày da sơn màu đen. Nhưng trông cô không giống một góa phụ. Cô trông giống một cô bé đến từ New York hay Paris. Giày cô có gót cao hơn và chân cô dài, và để trần, rám nắng.

Cô nói, “Mấy tên mà chúng ta nói là người Nga.”

Reacher không nói gì.

Cô nói, “Cha tôi là người Mỹ.”

Reacher nói, “Một người Mỹ có tên là Aleksei Alekseivitch.”

“Gia đình tôi đến đây từ trước Thế chiến thứ nhất. Không có khả năng liên hệ nào đâu. Làm sao có thể có được? Những kẻ mà chúng ta đang nói là đám hạ đẳng trong xã hội Xô viết.”

“Cha cô làm gì trước khi thành công tố viên?”

“Ông là phụ tá công tố viên.”

“Còn trước đó?”

“Ông luôn làm việc ở đó.”

“Hãy nghĩ về cách pha cà phê của ông ấy.”

“Chuyện đó thì sao nào?”

“Ông ta dùng tách sứ và khay bạc. Chính phủ không mua mấy thứ đó cho ông ấy.”

“Thì sao nào?”

“Hãy nghĩ về bộ đồ vest của ông ấy.”

“Đồ vest của ông?”

“Hôm thứ Hai ông mặc một bộ vest giá cả nghìn đô la. Cô đâu thấy nhiều công chức mặc những bộ vest giá cả nghìn đô la.”

“Ông ấy có những sở thích đắt tiền.”

“Làm sao ông trả nổi cho chúng?”

“Tôi không muốn bàn về chuyện này.”

“Một câu hỏi nữa nhé.”

Helen không nói gì.

“Ông ấy có ép cô bỏ vụ án này không?”

Helen không đáp. Nhìn qua trái, nhìn qua phải. Rồi cô quay lại. “Ông ấy nói thua có thể là thắng.”

“Ông ấy quan tâm tới sự nghiệp của cô?”

“Tôi đã nghĩ vậy. Tôi vẫn nghĩ vậy. Ông ấy là một người trung thực.”

Reacher gật đầu, “Có năm mươi phần trăm cơ hội là cô đúng.”

Franklin mang cà phê trở lại, là loại hàng bán lẻ khá nhạt pha trong ba chiếc tách gốm không cùng bộ, hai chiếc bị mẻ, trên một chiếc khay bằng gỗ bần, với một hộp giấy đang mở đựng kem sữa half-and-half và một chiếc hộp vàng đựng đường, và một chiếc thìa bằng thép nén duy nhất. Ông đặt chiếc khay lên bàn, Helen nhìn nó chằm chằm, như thể nó đang minh họa quan điểm của Reacher: Cà phê được pha ở công sở là như thế này đây.

Cô nói, “David Chapman biết tên ông vào ngày thứ Hai. Ông ta là luật sư đầu tiên của James Barr. Ông ta đã biết về ông từ hôm thứ Bảy.”

Reacher nói, “Nhưng Chapman không biết tôi có đến hay không. Tôi nghĩ rằng không ai nói với ông ta.”

Franklin nói, “Tôi biết tên anh. Có lẽ tôi cũng nên ở trong các khả năng ấy.”

Reacher nói, “Nhưng anh biết lý do thật sự khiến tôi có mặt ở đây. Anh sẽ không để cho tôi bị tấn công. Anh sẽ buộc tôi ra hầu tòa.”

Không ai lên tiếng.

Reacher nói, “Tôi đã nghĩ sai về Jeb Oliver. Hắn không phải là dân bán ma túy. Không có gì bên trong căn nhà kho của hắn cả, ngoại trừ một chiếc xe tải cũ.”

Helen nói, “Tôi rất vui khi thấy ông có thể sai lầm về một chuyện gì đó.”

Franklin nói, “Jeb Oliver không phải người Nga.”

Reacher nói, “Hắn là Mỹ chính hiệu.”

“Do đó những kẻ này có thể làm việc với người Mỹ. Ý tôi là thế. Có thể là Emerson. Không nhất thiết phải là ông công tố viên.”

Reacher nói, “Năm mươi phần trăm. Tôi chưa buộc tội cho ai cả.”

“Nếu anh đúng đã.”

“Đám côn đồ đã tìm tới tôi rất nhanh.”

“Nghe không giống cả Emerson lẫn ông công tố viên, tôi biết cả hai người.”

Helen nói, “Ông có thể gọi tên của cha tôi, tên của ông là Alex Rodin.”

Franklin nói, “Tôi không nghĩ là một trong hai người ấy làm.”

Helen nói, “Tôi trở về văn phòng đây.”

Reacher hỏi, “Cho tôi đi nhờ nhé? Cho tôi xuống ở dưới xa lộ.”

Helen nói, “Không. Tôi cảm thấy không muốn làm thế chút nào.”

Cô nhặt ví và cặp da lên, bước ra khỏi phòng một mình.

Reacher ngồi yên, lắng nghe tiếng động ngoài đường phố. Ông nghe tiếng cửa xe mở ra và đóng lại. Nổ máy. Chiếc xe chạy đi. Ông nhấp ngụm cà phê và nói, “Tôi nghĩ là tôi làm cô ấy giận.”

Franklin nói, “Tôi cũng nghĩ thế.”

“Mấy tên này có ai đó làm tay trong. Điều này rõ quá, phải không nào? Đó là sự thật. Do đó chúng ta nên mang sự việc ra thảo luận.”

“Một tay cớm thì hợp lý hơn là một tay công tố viên.”

“Tôi không đồng ý. Một tay cớm chỉ kiểm soát những vụ án của chính mình thôi. Suy cho cùng thì một công tố viên kiểm soát mọi chuyện.”

“Được thế thì tôi mừng hơn. Tôi từng là một tay cớm.”

Reacher nói, “Tôi cũng vậy.”

“Và tôi phải nói, Alex Rodin đã bỏ rơi rất nhiều vụ. Người ta nói là do thận trọng, nhưng nó có thể là một điều gì khác.”

“Anh nên phân tích những vụ ông ấy bỏ rơi thuộc loại gì.”

“Anh làm như tôi thiếu việc để làm vậy.”

Reacher gật đầu. Đặt chiếc tách xuống. Đứng lên.

Ông nói, “Hãy bắt đầu với Oline Archer. Nạn nhân. Giờ thì bà ấy mới là điều quan trọng.”

Rồi ông bước đến cửa sổ xem xét con đường. Không thấy gì. Ông gật đầu với Franklin và bước xuống hành lang, ra khỏi cửa, đến bậc trên cùng của cầu thang bên ngoài.

Ông ngừng lại ở nấc thang trên cùng và vươn vai trong không khí ấm áp. Xoay hai vai, cong gập đôi tay, hít một hơi thật sâu. Ông bị tê mỏi sau một ngày chỉ có lái xe và ngồi. Và bị ức chế vì phải lẩn trốn. Thật là thoải mái khi chỉ phải đứng yên không làm gì cả, thẳng người và phô mình ra. Ra ngoài trời, trong ánh dương. Bên dưới ông, chếch về bên trái những chiếc xe đã đi mất, ngoại trừ chiếc Suburban màu đen. Con đường im ắng. Ông liếc nhìn bên phải. Xe cộ đang đông dần lên trên đường phố hướng Bắc-Nam. Bên trái ông thì ít xe hơn. Ông nghĩ mình sẽ đi về hướng Tây trước. Nhưng một đường dài về hướng Tây, bởi vì trạm cảnh sát phải gần đây. Ông cần phải đi vòng quanh nó. Rồi ông sẽ nhắm về hướng Bắc. Phía Bắc khu thương mại là một cái mạng nhện. Phía Bắc khu thương mại là nơi ông cảm thấy thoải mái nhất.

Ông bước xuống cầu thang. Khi ông bước lên vỉa hè từ bậc cuối thì nghe tiếng bước chân sau lưng ông, cách chừng mười lăm bộ. Một bước ngang. Đế giày mỏng trên mặt đá vôi. Im lặng. Rồi tiếng lách cách không thể lầm được của súng săn kiểu bơm đang lên đạn.

Rồi một giọng nói.

“Dừng ngay đó.”

Một giọng Mỹ. Nhỏ, nhưng dứt khoát. Đâu đó rất xa trên miền Bắc. Reacher ngừng lại. Đứng yên và nhìn thẳng tới trước, vào bức tường gạch trống không bên kia đường.

Giọng nói cất lên, “Bước qua phải.”

Reacher bước qua phải. Một bước lê chân ngang và dài.

Giọng nói tiếp tục, “Giờ thì quay lại, thật chậm.”

Reacher quay lại, thật chậm. Ông giữ hai tay cách xa thân người, lòng bàn tay hướng ra ngoài. Thấy một dáng người nhỏ con cách mười lăm bước. Chính là gã ông đã thấy vào đêm hôm trước, từ trong bóng tối. Không cao hơn một thước sáu lăm, và không nặng hơn sáu mươi lăm ký, mảnh khảnh, nhợt nhạt, với mái tóc đen cắt ngắn và dựng lên kỳ dị. Chenko. Hay Charlie. Tay phải của hắn nắm chặt một cây súng săn cưa nòng lắp báng súng ngắn. Trong tay trái là một vật gì đó màu đen.

Charlie nói, “Bắt này.”

Hắn tung vật màu đen. Reacher nhìn nó bay qua và lóe lên trong không gian thẳng đến mình và tiềm thức của ông nói: Không phải lựu đạn. Nên ông chụp lấy nó. Cả hai tay. Nó là một chiếc giày. Một chiếc giày da sơn, màu đen, có gót. Nó vẫn còn hơi ấm.

Charlie nói, “Giờ thì ném lại cho tao. Như tao vừa làm ấy.”

Reacher ngưng lại. Chiếc giày của ai đây? Ông nhìn xuống nó.

Gót thấp.

Rosemary Barr?

Charlie lên tiếng, “Ném nó lại. Nhẹ và chậm thôi.”

Ước lượng và đánh giá. Reacher không vũ trang. Ông đang cầm một chiếc giày.

Không phải là hòn đá. Chiếc giày nhẹ và không có sức công phá. Nó không làm hại gì ai. Nó sẽ bay tròng trành trong không khí và Charlie chỉ việc hất nó đi thôi.

Charlie lặp lại, “Ném nó lại.”

Reacher không làm gì cả. Ông có thể giật cái gót ra rồi phóng nó như một ngọn phi tiêu. Như một đầu đạn. Nhưng Charlie sẽ bắn ông trong lúc ông rụt tay ra sau và vung lên. Charlie đứng cách ông mười lăm bước, tư thế sẵn sàng, thăng bằng, không chớp mắt, với khẩu súng yên vị trong tay. Quá gần để hắn bắn trật, quá xa để ông nhào đến.

Charlie nói, “Cơ hội cuối cùng.”

Reacher ném nhẹ chiếc giày lại. Một cú ném dài theo đường vòng cung. Charlie bắt nó bằng một tay và tất cả lại như thể cảnh cũ được tua lại từ đầu.

Charlie nói, “Con nhỏ đó đang ở trong lớp bồi dưỡng. Cứ coi như thế. Nó đang làm quen với những sự thật trong cuộc sống. Nó sẽ sửa soạn các lời khai. Rằng anh của nó hoạch định trước kế hoạch hành động như thế nào. Rằng hắn đã hở ra điều hắn sắp làm. Nó sẽ là một nhân chứng rất tuyệt. Nó sẽ tạo ra vụ án. Mày hiểu điều đó, phải không?”

Reacher không nói gì.

Charlie nói, “Giờ thì trò chơi chấm dứt rồi.”

Reacher không nói gì.

Charlie nói, “Bước lui lại hai bước.”

Reacher bước lui hai bước. Ông đứng ngay trên vệ đường. Giờ thì Charlie cách ông hai mươi bước. Hắn vẫn cầm chiếc giày. Hắn đang mỉm cười.

Hắn nói, “Quay lại.”

Reacher hỏi, “Mày sắp bắn tao à?”

“Có lẽ.”

“Mày nên bắn.”

“Vì sao?”

“Vì nếu mày không bắn, tao sẽ tìm ra mày và khiến mày phải ân hận.”

“To mồm.”

“Tao không chỉ nói thôi đâu.”

“Vậy thì có lẽ tao sẽ bắn mày.”

“Mày nên bắn.”

Charlie nói, “Quay lại.”

Reacher quay lại.

Charlie nói, “Giờ thì đứng yên.”

Reacher đứng yên. Đối mặt con đường. Ông vẫn mở mắt. Nhìn ngắm nền nhựa đường. Nó được phủ lên mặt đường lát sỏi từ ngày xưa. Đầy những nếp gờ nhỏ đều đặn. Ông nhìn và đếm chúng, để lấp đầy những giây có lẽ là cuối cùng trong đời. Ông cố lắng nghe những tiếng động sau lưng. Lắng nghe tiếng xào xạc của vải khi cánh tay của Charlie vươn ra. Lắng nghe tiếng cách nhỏ khi cò súng bị kéo qua phần mười inch đầu tiên. Charlie sẽ bắn chứ? Theo như lẽ thường thì không. Những án mạng luôn luôn được điều tra.

Nhưng bọn người này đầu óc bất thường. Và có năm mươi phần trăm cơ hội là chúng nắm một tay cớm địa phương. Hay là hắn nắm chúng.

Im phắc. Reacher căng tai nghe các tiếng động sau lưng ông.

Nhưng ông không nghe thấy gì cả. Không có gì xảy ra. Tuyệt đối không có gì cả. Một phút. Hai phút. Rồi ông nghe tiếng còi hụ cách một trăm thước về hướng Đông. Chỉ có hai tiếng bíp nhỏ từ một xe cảnh sát đang lấn đường chạy đến.

Charlie lặp lại, “Đứng yên.”

Reacher đứng yên. Mười giây. Hai mươi. Ba mươi. Rồi hai xe tuần tiễu rẽ vào con đường cùng một lúc. Một chiếc từ hướng Đông và chiếc kia từ hướng Tây. Cả hai cùng chạy nhanh. Động cơ của chúng gầm vang. Lốp xe nghiến rít trên mặt đường. Tiếng động của chúng dội vào tường gạch. Chúng thắng két lại. Cửa mở. Cảnh sát tuôn ra. Reacher quay đầu lại nhìn. Charlie không còn ở đó nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Cuộc bắt giữ diễn ra nhanh và hiệu quả. Nó diễn ra theo cách thông thường. Giương súng, hô lớn, còng tay, luật Miranda. Reacher im lặng suốt thời gian đó. Ông biết như thế tốt hơn là nói. Ông từng là cớm suốt mười ba năm và ông biết nói năng có thể mang lại cho người ta những rắc rối gì. Lại còn gây trì hoãn nữa. Nói một điều gì đó, và cảnh sát phải dừng lại để ghi lại nó. Và Reacher không thể để cho một ai đó ngưng lại. Không phải bây giờ.

Chuyến đi đến sở cảnh sát may mắn thay lại rất ngắn. Không hơn bốn khối phố. Reacher nghĩ rằng điều đó là hợp lý khi một cựu cảnh sát như Franklin chọn vị trí văn phòng trong khu vực mà mình quen thuộc. Ông sử dụng thời gian trong khi xe chạy để vạch ra một chiến lược. Ông nghĩ rằng mình sẽ được mang thẳng đến chỗ Emerson, điều này cho ông năm mươi phần trăm cơ hội được nhốt vào phòng với phe xấu.

Hay với phe tốt.

Nhưng cuối cùng ông chắc chắn một trăm phần trăm là mình sẽ chung phòng với phe xấu bởi vì cả Emerson và Alex Rodin cùng ở đó với nhau. Reacher bị lôi ra khỏi xe tuần tra và đẩy thẳng đến văn phòng của Emerson. Emerson ngồi sau bàn giấy. Rodin ở trước bàn.

Reacher nghĩ, Không được nói lời nào, nhưng chuyện này phải thật nhanh.

Rồi ông nghĩ: Kẻ nào đây? Rodin? Hay là Emerson? Rodin đang mặc bộ đồ vest. Màu xanh, mốt mùa hè, đắt tiền, có lẽ cũng là bộ trong ngày thứ Hai. Emerson chỉ mặc sơ mi. Đang nghịch với cây bút. Búng cho nó nảy lên khỏi cuốn sổ, hết đầu này đến đầu kia.

Reacher nghĩ, Cứ thế mà làm.

Emerson nói, “Tìm ra mày đâu quá khó.”

Reacher không nói gì. Ông vẫn bị còng tay.

Rodin nói, “Hãy kể về đêm cô gái bị giết.”

Reacher không nói gì.

Emerson nói, “Kể xem cảm giác như thế nào. Khi cổ cô ấy bị nện gãy.”

Reacher không nói gì.

Rodin nói, “Bồi thẩm đoàn sẽ không ưa mày đâu.”

Reacher nói, “Tôi muốn gọi điện.”

Emerson nói, “Mày muốn gọi cho luật sư à?”

Reacher không nói gì.

Rodin hỏi, “Ai là luật sư của mày?”

Reacher đáp, “Con gái ông.”

Emerson hỏi, “Muốn bọn tao gọi cho cô ấy hả?”

“Có lẽ. Hay cho Rosemary cũng được.”

Ông quan sát mắt của họ.

Rodin hỏi, “Cô em gái?”

Emerson hỏi, “Mày muốn bọn tao gọi cho cô em gái?”

Reacher nghĩ, Một trong hai chúng mày biết rằng cô ấy sẽ không trả lời điện thoại.

Thằng nào?

Không thấy được gì trong mắt chúng.

Ông nói, “Gọi cho Ann Yanni.”

Rodin hỏi, “Ở đài truyền hình? Sao lại là cô ta?”

Reacher đáp, “Tôi được quyền gọi một cuộc. Tôi không phải giải thích điều gì. Tôi nói ai, các ông bấm số người đó.”

“Cô ta chắc đang chuẩn bị để phát hình. Bản tin địa phương phát lúc sáu giờ.”

Reacher nói, “Vậy thì chúng ta sẽ đợi. Tôi có dư thời gian mà.”

Thằng nào trong hai đứa mày biết rằng điều đó không đúng?

Họ chờ, nhưng hóa ra không phải chờ lâu. Emerson gọi cho NBC và nói với phụ tá của Ann Yanni rằng sở cảnh sát đã bắt được Jack Reacher, và Reacher yêu cầu Ann Yanni đến, không biết lý do. Quả là một lời nhắn kỳ dị. Nhưng sau đó chưa đến ba mươi phút, Yanni đã có mặt ở văn phòng của Emerson. Cô là một nhà báo đang theo dấu một câu chuyện. Cô ta hiểu rằng hệ thống truyền thông ngày mai thì hấp dẫn hơn là tin địa phương hôm nay.

Cô hỏi, “Tôi có thể giúp gì đây?”

Cô trông đầy uy lực. Cô là một ngôi sao sáng trong lãnh vực của mình. Và cô chính là hệ thống truyền thông. Cả Emerson và Rodin có vẻ hơi khớp. Không phải vì cá nhân cô ta. Mà vì cái mà cô đại diện.

Reacher nói với cô, “Tôi xin lỗi. Tôi biết cô sẽ không muốn, và tôi biết tôi đã hứa rằng mình sẽ không bao giờ nói ra, nhưng trong hoàn cảnh này cô sẽ buộc phải xác minh bằng chứng ngoại phạm cho tôi. Tôi e rằng không có lựa chọn nào khác.”

Ông liếc nhìn cô. Thấy cô đang dõi theo lời ông. Thấy sự bối rối thoáng hiện trên gương mặt cô. Cô không có phản ứng. Ông nhìn chăm chăm vào mắt cô. Không có phản ứng.

Giúp tôi thoát đi nào.

Một giây.

Hai giây.

Không phản ứng.

Reacher nín thở. Bắt kịp cái kế hoạch khốn nạn này đi nào, Yanni. Chỉ thêm một giây nữa thì mọi chuyện đổ bể hết.

Không phản ứng.

Rồi cô gật đầu. Cô đã bắt được. Reacher thở ra. Cú phôn có ích lắm. Kỹ năng nghề nghiệp. Cô là người đã quen với việc nghe các tin sốt dẻo trong tai nghe và sau nửa giây đã tường thuật trực tiếp trên sóng truyền hình như thể cô đã biết chuyện đó trong suốt cuộc đời mình rồi.

Emerson hỏi, “Bằng chứng ngoại phạm gì?”

Yanni liếc nhìn ông ta. Rồi nhìn Rodin.

Cô nói, “Tôi nghĩ các ông đang nói về Jack Reacher.”

Emerson nói, “Đúng vậy.”

Cô nói, “Nhưng đây là Joe Gordon. Ít ra, đó là điều mà anh ta nói với tôi.”

“Hắn nói với cô tên hắn là Gordon?”

“Khi tôi gặp anh ta.”

“Đó là khi nào?”

“Hai ngày trước.”

“Cô đã cho phát hình của hắn trên chương trình của mình.”

“Đó là hình của anh ta? Không giống anh ta. Mái tóc hoàn toàn khác. Không giống chút nào cả.”

Emerson hỏi lại, “Bằng chứng ngoại phạm gì?”

Yanni hỏi, “Cho lúc nào?”

“Đêm mà cô gái bị giết. Chúng tôi đang bàn chuyện đó ở đây.”

Yanni không nói gì.

Rodin nói, “Thưa cô, nếu cô có biết điều gì đó, thì cô cần kể cho chúng tôi ngay bây giờ.”

Yanni nói, “Không nói thì hơn.”

Reacher cười thầm. Cô nói như vậy là đã hoàn toàn bảo đảm rằng Emerson và Rodin chỉ muốn năn nỉ cô cho nghe câu chuyện. Cô đứng đó, mặt ửng đỏ lên tận thái dương, lưng thẳng, áo để mở ba chiếc cúc. Cô quả là một nữ diễn viên có hạng. Reacher nghĩ rằng có lẽ tất cả các phát thanh viên truyền hình đều như thế.

Emerson nói, “Đây là yêu cầu về bằng chứng.”

Yanni nói, “Rõ ràng là vậy. Nhưng các ông không thể tin lấy lời tôi thôi ư?”

“Về chuyện gì?”

“Rằng anh ấy không làm điều đó.”

Rodin nói, “Chúng tôi cần các chi tiết.”

Yanni nói, “Tôi phải nghĩ đến tiếng tăm của mình chứ.”

“Lời trình bày của cô sẽ được giữ kín nếu chúng tôi rút lời buộc tội.”

“Ông có bảo đảm rút lời buộc tội không?”

Emerson nói, “Chúng tôi không rút trước khi chúng tôi nghe lời trình bày của cô.”

Yanni nói, “Vậy ra đây là một tình huống không có đường lui.” [37]

[37]: Tác giả dùng thành ngữ Catch-22, Catch-22 là tên của một cuốn tiểu thuyết trào phúng và lịch sử của Joshep Heller, được ấn hành lần đầu tiên vào năm 1961. Catch-22 còn là một thành ngữ thông thường để chỉ một tình huống không thể lùi, không có đường thắng.

“Tôi e rằng như vậy.”

Reacher nghĩ. Đừng đẩy câu chuyện đi quá xa. Chúng ta không có nhiều thời gian.

Yanni thở dài. Nhìn xuống chân. Ngước lên. Nhìn thẳng vào mắt của Emerson, phẫn nộ, hổ thẹn, tuyệt đẹp.

Cô nói, “Đêm đó chúng tôi ở với nhau.”

“Cô và Reacher?”

“Tôi và Joe Gordon.”

Emerson chỉ tay, “Người này?”

Yanni gật đầu, “Người đó.”

“Suốt đêm?”

“Vâng.”

“Từ mấy giờ đến mấy giờ?”

“Từ khoảng mười một giờ bốn mươi. Khi hết phần tin tức. Cho tới khi tôi được nhắn tin vào sáng hôm sau, khi các ông tìm thấy cái xác.”

“Hai người đã ở đâu?”

Reacher nhắm mắt lại. Nhớ lại cuộc nói chuyện đêm hôm trước trong nhà để xe. Cửa kính xe, để mở ba phân. Ông đã kể cho cô chưa?

Yanni nói, “Ở nhà trọ. Phòng anh ấy.”

“Tay quản lý không nói rằng hắn có thấy cô ở đó.”

“Dĩ nhiên là tay quản lý làm sao thấy được tôi. Tôi phải tính đến những điều như vậy chứ.”

“Phòng nào?”

Ông đã kể cho cô chưa?

Yanni nói, “Phòng số tám.”

“Suốt đêm ông ấy không rời khỏi phòng chứ?”

“Không. Anh ta không rời phòng.”

“Hoàn toàn không?”

“Hoàn toàn.”

“Làm sao cô biết chắc như thế?”

Yanni nhìn lảng đi. “Vì chúng tôi không ngủ chút nào cả.”

Căn phòng trở nên im lặng.

Emerson hỏi, “Cô có thể cho thêm chứng cứ nào nữa không?”

Yanni hỏi ngược lại, “Chẳng hạn?”

“Những dấu vết đặc trưng? Dấu vết mà bây giờ tôi không thể nhìn thấy nhưng ai đó trong trường hợp của cô hẳn đã thấy?”

“Ô, thôi mà.”

Emerson nói, “Đó là câu hỏi cuối cùng.”

Yanni không nói gì. Reacher nhớ lại mình bật đèn trần của chiếc Mustang và kéo áo để cho cô thấy cái ống tuýp mở khóa. Ông dịch đôi tay bị còng và đặt chúng ngang thắt lưng.

Emerson hỏi, “Có dấu vết nào không?”

Rodin nói, “Điều này rất quan trọng.”

Yanni nói, “Anh ấy có cái sẹo. Nằm ở phần bụng dưới. Cái sẹo to ghê gớm.”

Cả Emerson và Rodin cùng quay sang nhìn Reacher. Reacher đứng lên. Nắm vạt áo bằng cả hai tay và kéo ra khỏi quần. Giở áo lên.

Emerson nói, “OK.”

Rodin hỏi, “Nó là cái gì vậy?”

Reacher đáp, “Một phần xương hàm của một tay trung sĩ Thủy quân lục chiến. Các bác sĩ cho rằng nó phải nặng tới hơn một lạng. Nó bay ở tốc độ một nghìn năm trăm mét một giây từ tâm của một vụ nổ TNT. Đu theo luồng khí áp cho tới khi chém vào tôi.”

Ông buông vạt áo xuống. Không nhét trở lại vào quần. Cái còng sẽ làm cho việc đó trở nên khó khăn.

Ông hỏi, “Quý vị thỏa mãn rồi chứ? Các ông làm khó cô ấy đủ chưa?”

Emerson và Rodin nhìn nhau. Reacher nghĩ, Một trong hai đứa mày biết chắc là tao vô tội. Và tao không quan tâm đến đứa kia nghĩ gì.

Emerson nói, “Cô Yanni sẽ phải xác nhận bằng văn bản.”

Yanni nói, “Ông đánh máy đi, tôi sẽ ký.”

Rodin nhìn thẳng vào Reacher. “Ông có thể cho chứng cứ không?”

“Chẳng hạn?”

“Một điều gì đó giống như cái sẹo của ông. Nhưng thuộc về cô Yanni.”

Reacher gật đầu, “Tôi có thể. Nhưng tôi sẽ không làm. Và nếu ông hỏi tôi lần nữa thì tôi sẽ đấm vỡ mặt ông ra.”

Căn phòng im lặng. Emerson lục túi và lấy ra chìa khóa chiếc còng. Đột ngột quay người và tung nó qua. Tay Reacher bị còng nhưng ông rất nhớ cần sử dụng tay phải. Ông bắt gọn chiếc chìa khóa trong lòng bàn tay phải, và mỉm cười.

Ông hỏi, “Bellantonio đã nói chuyện với ông chưa?”

Emerson hỏi, “Tại sao ông dùng tên giả với cô Yanni?”

Reacher đáp, “Biết đâu tôi đã không làm như vậy. Biết đâu Gordon là tên thật của tôi.”

Ông ném chiếc chìa khóa lại và bước đến, đưa cổ tay ra chờ Emerson mở còng.

Hai phút sau The Zec nhận một cú điện. Một giọng quen, nói thấp giọng và vội.

“Không có hiệu quả. Hắn có bằng chứng ngoại phạm.”

“Bằng chứng thật à?”

“Chắc là không. Nhưng chúng tôi sẽ không theo đến đó.”

“Vậy làm gì kế tiếp đây?”

“Cứ ngồi yên. Giờ thì hắn không thể bỏ đi đâu, dù chỉ một bước. Trong trường hợp này hắn sẽ mò đến ông sớm. Do đó hãy khóa cửa, nạp đạn và sẵn sàng đón hắn.”

* * *

Ann Yanni nói, “Họ đã không làm căng lắm, phải không nào?” Cô nổ máy chiếc Mustang trước khi Reacher kịp đóng cửa.

Ông nói, “Tôi cũng không nghĩ họ sẽ làm căng. Tên vô tội biết rằng khả năng buộc tội yếu. Còn tên có tội thì biết rằng giờ đây thả tôi ra là loại tôi khỏi cuộc chơi cũng nhanh không kém bỏ tôi vào tù.”

“Vì sao?”

“Vì chúng đã bắt được Rosemary Barr và chúng biết tôi sẽ đi tìm cô ấy. Do đó chúng sẽ chờ tôi, sẵn sàng đón tiếp nồng hậu. Tôi sẽ bị giết trước khi trời sáng. Đó là kế hoạch mới của chúng. Rẻ hơn là bỏ tù tôi.”

Họ lái thẳng đến văn phòng của Franklin, leo lên cầu thang bên ngoài và thấy Franklin đang ngồi ở bàn giấy. Đèn đóm tắt ngóm và gương mặt ông đẫm trong ánh sáng từ màn hình máy vi tính. Ông nhìn vào nó vô hồn, như thể nó không cho ông biết điều gì cả. Reacher báo tin về Rosemary Barr. Franklin trở nên rất đỗi im lặng và nhìn ra cửa. Rồi nhìn cửa sổ.

Ông nói, “Chúng ta đã ở ngay đây khi đó.”

Reacher gật đầu. “Ba người chúng ta. Anh, tôi, và Helen.”

“Tôi không nghe thấy gì cả.”

Reacher nói, “Tôi cũng không. Chúng thật là giỏi.”

“Chúng sẽ làm gì cô ấy đây?”

“Chúng sẽ làm cho cô đưa ra chứng cứ chống lại anh của mình. Kiểu một câu chuyện được bịa ra.”

“Chúng có làm hại cô ấy không?”

“Điều đó tùy thuộc vào việc cô ấy phục tùng nhanh hay chậm.”

Yanni nói, “Cô ấy sẽ không phục tùng. Triệu lần không. Các anh không thấy thế sao? Cô ấy hoàn toàn một lòng một dạ rửa sạch tên tuổi của anh mình.”

“Vậy thì chúng sẽ làm hại cô ấy.”

Franklin hỏi, “Cô ấy ở đâu? Nơi nào là nhiều khả năng nhất?”

Reacher đáp, “Bất cứ nơi nào chúng ở. Nhưng tôi không biết đó là nơi nào.”

Cô đang trong phòng khách trên lầu, bị dán cứng vào ghế bằng băng keo. The Zec đang nhìn cô. Lão bị đàn bà mê hoặc. Có lần suốt hai mươi bảy năm lão không nhìn thấy một ai. Tiểu đoàn trừng giới mà lão bị tống vào trong năm 1943 có một vài người, nhưng chỉ là một nhóm nhỏ và họ chết rất nhanh. Và sau khi cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại đã thành công, thì tiến trình ác mộng xuyên qua đảo Gulag của lão bắt đầu. Năm 1949, lão có nhìn thấy một bà nông dân ở gần kênh đào Biển Trắng. Bà ta là một bà già lưng còng và to lớn đứng cách xa gã hai trăm thước trên cánh đồng trồng củ cải đường. Rồi hết, cho mãi đến năm 1976 lão nhìn thấy một cô y tá trên một chiếc xe trượt tuyết băng qua vùng đất hoang ở Siberia giá lạnh. Khi đó lão là một lao công làm cho mỏ đá. Lão đã ra khỏi cái mỏ với cả trăm anh zec khác và đang lần về nhà thành một hàng người rách rưới theo một con đường thẳng và dài. Chiếc xe trượt của cô y tá đang tiến đến trên một con đường khác cắt ngang. Vùng đất bằng phẳng, không có địa hình và phủ đầy tuyết. Những anh zec có thể nhìn mãi mãi. Họ đứng lại nhìn cô y tá cả dặm đường. Rồi cùng quay đầu một lượt khi cô đi băng qua trước mặt rồi trông theo cô thêm một dặm nữa. Đêm đó, bọn lính gác không phát thức ăn cho họ như là một hình phạt vì đã dừng lại mà không được phép. Bốn kẻ bị chết, nhưng The Zec thì không.

Lão hỏi, “Cô có thấy thoải mái không?”

Rosemary Barr không đáp. Gã có tên là Chenko đã trả chiếc giày cho cô. Hắn đã sụp xuống trước mặt cô và mang chiếc giày vào chân cô như một tay bán hàng trong tiệm giày. Rồi hắn bước lui, ngồi xuống chiếc sofa kế bên một gã có tên là Vladimir. Gã có tên là Sokolov đã ở lại dưới nhà trong một căn phòng đầy những thiết bị giám sát. Còn gã có tên là Linsky đang bước quanh căn phòng, mặt trắng bệch ra vì đau. Lưng hắn bị đau sao đó.

Gã tên Vladimir nói, “Khi The Zec nói thì mày nên trả lời.”

Rosemary nhìn lảng đi. Cô sợ Vladimir. Sợ hắn hơn những đứa khác. Vladimir to lớn, và hắn toát ra một vẻ đồi bại, như một thứ mùi vậy.

Linsky hỏi, “Nó có hiểu địa vị của nó không?” The Zec mỉm cười với hắn, và Linsky cười lại. Đó là một trò đùa riêng giữa chúng với nhau. Bất cứ yêu sách nào về quyền lợi hay yêu sách được đối xử nhân bản trong các trại tù luôn được trả lời bằng một câu hỏi: Mày có hiểu địa vị của mày không? Câu hỏi luôn được theo sau bằng một lời tuyên bố: Mày không có một địa vị nào cả. Đối với Tổ Quốc thì mày không là cái gì cả. Lần đầu tiên Linsky nghe câu hỏi, hắn sắp sửa trả lời, nhưng The Zec đã lôi hắn đi. Vào thời điểm đó, The Zec đã có mười tám năm số má giang hồ trong tù rồi nên sự can thiệp này không có gì đặc biệt. Nhưng rõ ràng lão đã cảm thấy một điều gì đó với thằng bé chưa được uốn nắn kia. Lão đã bao che cho thằng bé. Chúng cặp kè với nhau từ dạo đó, qua một chuỗi dài những địa danh mà chẳng ai trong cả hai có thể kể tên ra. Nhiều sách vở được viết về quần đảo Gulag, và những tài liệu được khám phá, những bản đồ được lập ra, nhưng trớ trêu là những kẻ đã tham dự trong đó không biết rằng họ đã ở đâu. Không ai cho họ biết. Một trại tù là một trại tù, có dây thép gai, những căn chòi, rừng bạt nghìn, lãnh nguyên bạt nghìn, công việc vô tận. Một cái tên thì thay đổi được gì?

Linsky từng là một tay lính và tay trộm cắp. Ở Tây Âu hay ở Mỹ hắn sẽ ở tù, ở đây hai năm, ở kia ba năm, nhưng trong thời Liên bang Xô viết, trộm cắp là một trọng tội về mặt tư tưởng. Nó cho thấy một khuynh hướng có tính thiếu giáo dục và phản xã hội đối với tài sản riêng. Khuynh hướng đó được đáp lại bằng một sự thanh trừ nhanh chóng và vĩnh viễn ra khỏi xã hội văn minh. Trong trường hợp của Linsky, sự thanh trừ đó kéo dài từ 1963 cho tới khi xã hội văn minh sụp đổ và Gorbachev cho giải tỏa quần đảo Gulag.

The Zec nói, “Nó hiểu địa vị của nó. Và bước kế tiếp sẽ là chấp nhận.”

Franklin gọi điện cho Helen Rodin. Mười phút sau, cô trở lại văn phòng của ông. Cô vẫn còn giận Reacher. Điều đó thật rõ ràng. Nhưng cô quá lo lắng cho Rosemary Barr để biến cơn giận thành to chuyện. Franklin ngồi ở bàn giấy, một mắt nhìn vào màn hình vi tính. Helen và Ann Yanni ngồi với nhau ở bàn. Reacher nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Trời đang tối dần.

Helen nói, “Chúng ta nên gọi báo cho ai đó.”

Reacher hỏi, “Ai đây?”

“Cha tôi. Ông ấy là người tốt.”

Reacher quay lại. “Giả dụ ông ấy là người tốt đi. Chúng ta sẽ nói với ông ấy chuyện gì? Nói rằng chúng ta có một người mất tích? Ông ấy sẽ gọi cho cớm, bởi vì ông ấy còn có thể làm chuyện gì khác đây? Và nếu Emerson là kẻ xấu, cớm sẽ ngồi yên mặc chuyện ấy. Ngay cả nếu Emerson là người tốt đi nữa, thì cớm cũng vẫn ngồi im thôi. Việc một người trưởng thành bị mất tích không làm cho ai nôn nóng cả. Quá nhiều người mất tích như thế.”

“Nhưng cô ấy rất cần thiết cho vụ án.”

“Vụ án là về ông anh của cô ấy. Thế nên cớm chỉ nghĩ rằng cô ấy bỏ đi là điều tự nhiên. Người anh là một tội phạm khét tiếng làm cho cô ấy không chịu đựng được nỗi ô nhục.”

“Nhưng ông có thấy cô ấy bị bắt cóc. Ông có thể nói với họ.”

“Tôi thấy một chiếc giày. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói lại. Và ở đây tôi không được người ta tin. Tôi đã chịu đủ trò ngu ngốc suốt hai ngày nay rồi.”

“Vậy thì chúng ta làm gì đây?”

Reacher quay lại với cái cửa sổ.

Ông nói, “Chúng ta sẽ tự mình lo liệu lấy.”

“Lo liệu như thế nào?”

“Tất cả những gì chúng ta cần là một địa điểm. Chúng ta xem xét kỹ người phụ nữ bị bắn, chúng ta tìm những cái tên, chúng ta tìm cảnh huống, chúng ta tìm một nơi chốn. Rồi chúng ta đến đó.”

Yanni hỏi, “Khi nào?”

Reacher nói, “Mười hai tiếng. Trước khi trời rạng sáng. Chúng sẽ làm việc theo một kiểu thời khóa biểu. Chúng muốn tính chuyện với tôi trước, rồi chúng muốn bắt đầu sinh sự với Rosemary Barr. Chúng ta cần tìm đến cô ấy trước khi chúng không còn kiên nhẫn nữa.”

“Nhưng điều đó có nghĩa là ông sẽ lộ diện ngay khi chúng đang mong ông.”

Reacher không nói gì.

Yanni nói, “Điều đó như là bước thẳng vào bẫy vậy.”

Reacher không trả lời. Yanni quay sang Franklin nói, “Cho chúng tôi biết thêm về người phụ nữ bị bắn đi.”

Franklin nói, “Không có gì để nói thêm. Tôi đã dò đi dò lại. Bà ấy là một người rất bình thường.”

“Còn gia đình của bà ấy?”

“Tất cả đều ở lại bên miền Đông. Bà ấy từ bên đó dọn về đây.”

“Bạn bè thì sao?”

“Cơ bản thì có hai người. Một đồng nghiệp và một hàng xóm. Cả hai đều không có gì thú vị. Ví dụ, không có ai là người Nga cả.”

Yanni quay lại với Reacher. “Vậy thì có lẽ anh sai rồi. Có lẽ phát súng thứ ba không phải là phát chính.”

Reacher nói, “Đúng là phát đó thôi. Nếu không tại sao hắn lại ngừng lại sau khi bắn? Hắn ngừng vì muốn xem kỹ xem mình bắn có trúng không.”

“Hắn cũng ngừng sau phát thứ sáu. Ngừng hẳn luôn.”

“Hắn sẽ không chờ lâu như thế. Tới lúc đó mọi chuyện có thể đã hoàn toàn không còn kiểm soát được nữa. Mọi người có thể nháo nhào ngã dúi vào nhau.”

“Nhưng họ đã không hỗn loạn.”

“Hắn đã không thể tiên đoán được điều đó.”

Franklin nói, “Tôi đồng ý. Với một chuyện như thế, người ta không thực hiện bằng phát đầu tiên hay phát sau cùng.”

Rồi mắt ông trôi đi. Ông nhìn đăm đăm vào bức tường như thể ông không thấy nó.

Ông nói, “Gượm đã.”

Ông nhìn vào màn hình.

Ông nói, “Tôi quên bẵng một điều.”

Reacher hỏi, “Điều gì?”

“Điều anh vừa nói về cô Rosemary Barr. Những người mất tích.”

Ông quay lại với con chuột và bàn phím, bắt đầu bấm và gõ. Rồi ông bấm vào nút Enter và ngồi chồm ra trước chăm chú, như thể ngồi gần thêm có thể tăng tốc độ.

Ông nói, “Cơ hội cuối cùng.”

Từ những quảng cáo trên ti vi, Reacher biết rằng các máy vi tính hoạt động quanh mức vài tỷ héc, mà ông cho thế là rất nhanh. Nhưng ngay cả thế, màn hình của Franklin vẫn trống không trong một lúc lâu, rất lâu. Có một hình họa nhỏ tí xíu nằm ở góc. Nó đang xoay chầm chậm. Nó có nghĩa là đang có một cuộc rà soát kỹ lưỡng và kiên nhẫn qua một lượng dữ liệu nhiều vô tận. Nó xoay trong nhiều phút. Rồi ngừng. Có tiếng lách tách tĩnh điện từ màn hình rồi hình ảnh bị xóa và dồn lại trong một tài liệu được in dày đặc. Phông chữ vi tính đơn giản. Từ chỗ của mình, Reacher không thể đọc được.

Cả căn phòng im lặng.

Franklin ngước lên.

Ông nói, “OK. Đây rồi các bạn. Cuối cùng. Sau cùng cũng có một điều gì đó không bình thường. Sau cùng chúng ta cũng bắt được một manh mối.”

Yanni hỏi, “Điều gì vậy?”

“Oline Archer báo rằng chồng của bà mất tích từ hai tháng trước.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Franklin đẩy lui chiếc ghế để trống chỗ cho mọi người vây quanh màn hình. Reacher và Helen đứng kề vai bên nhau. Không còn thù địch. Chỉ có niềm hào hứng của sự truy đuổi.

Phần lớn tài liệu bao gồm phần mở đầu được mã hóa và thông tin nguồn. Chữ, số, thời gian, nguồn gốc. Thông điệp chính rất ngắn. Hai tháng trước, bà Oline Anne Archer đã nộp một bản báo cáo về người mất tích liên quan đến chồng bà. Tên của ông là Edward Stratton Archer. Ông đã rời ngôi nhà họ sống với nhau để đi làm sớm trong một ngày thứ Hai bình thường, và vẫn chưa trở về ở thời điểm cuối ngày thứ Tư, là khi bản báo cáo được viết.

Helen hỏi, “Ông ta vẫn đang mất tích à?”

Franklin nói, “Đúng vậy.” Ông chỉ vào một chữ A nằm giữa mớ mã số trên đầu màn hình. “Nó vẫn còn hiệu lực.”

Reacher nói, “Vậy chúng ta đi hỏi chuyện những người bạn của Oline. Chúng ta cần thêm thông tin ở họ.”

Franklin hỏi, “Ngay bây giờ à?”

Reacher nói, “Chúng ta chỉ có mười hai giờ thôi. Không có thời gian để bỏ phí đâu.”

Franklin ghi lại tên và địa chỉ của người đồng nghiệp và người hàng xóm của Oline. Ông chuyền mảnh giấy cho Ann Yanni vì cô là người trả lương cho ông.

Ông nói, “Tôi sẽ ở lại đây. Tôi sẽ xem xem ông chồng có xuất hiện trong các cơ sở dữ liệu không. Chuyện này có thể là một sự tình cờ. Có thể ông ta có một bà vợ ở mỗi tiểu bang. Chuyện này không phải là lần đầu.”

Reacher nói, “Tôi không tin vào những chuyện tình cờ. Do đó đừng phí thì giờ. Thay vì vậy anh hãy tìm giúp tôi một số điện thoại. Hắn tên là Cash. Cựu Thủy quân. Hắn làm chủ cái trường bắn mà James Barr đến. Ở dưới Kentucky. Gọi hắn cho tôi.”

“Nhắn gì?”

“Nói tên của tôi. Bảo hắn vác xác ngay lên chiếc Humvee. Bảo hắn lái lên đây ngay tối nay. Bảo hắn là có một giải Invitational mới đang diễn ra.”

“Giải Invitational ư?”

“Hắn sẽ hiểu. Bảo hắn mang theo khẩu M24. Và ống ngắm ban đêm. Và bất cứ thứ gì khác mà hắn vớ được quanh đó.”

Reacher đi theo Ann Yanni và Helen Rodin xuống cầu thang. Họ cùng vào chiếc xe Saturn của Helen, hai người phụ nữ ngồi trước, Reacher ngồi ghế sau. Reacher nghĩ chắc mọi người đều thích chiếc Mustang hơn, nhưng nó chỉ có hai chỗ.

Helen hỏi, “Đi đâu trước đây?”

Reacher hỏi lại, “Nơi nào gần hơn?”

“Người đồng nghiệp.”

“OK, tới bà ta trước.”

Lưu thông chậm. Các con đường bị cắt xé và xe thi công ra ra vào vào các khu vực đang xây dựng. Reacher liếc nhìn đồng hồ và nhìn ra cửa sổ. Ánh nắng chiều đang nhạt dần. Chiều tối đang đến. Thời gian đang nhích dần đi.

Người đồng nghiệp sống trong một khu ngoại ô đơn giản ở phía Đông thành phố. Những con đường thẳng tắp trong khu dân cư chạy theo lối bàn cờ. Hai bên đường là những nông trại giản dị. Những ngôi nhà trong các khoảng đất nhỏ, cờ treo trên cột, đai vòng trên cửa nhà để xe, chảo ăng ten trên ống khói bằng gạch. Một số cây trồng trên vỉa hè có những dải ruy băng màu vàng đã bạc phếch buộc quanh. Reacher đoán rằng chúng biểu trưng cho tình đoàn kết với những người lính đang phục vụ ở nước ngoài. Trong cuộc xung đột nào đó, ông không biết chắc. Làm thế thì được gì, ông không hiểu. Ông đã phục vụ ở nước ngoài trong gần mười ba năm và chưa từng thấy ai quan tâm đến những thứ được buộc lên cây ở quê nhà. Chỉ cần có người trả lương, cung cấp thực phẩm, nước nôi, đạn dược, và các bà vợ ở nhà vẫn chung thủy, là đủ cho hầu hết bọn lính tráng hạnh phúc rồi.

Mặt trời đang hạ xuống sau lưng họ và Helen lái chậm, đầu cô chúi tới trước để dễ nhìn thấy trước số nhà. Cô thấy được địa chỉ cô cần và tạt vào lối dành cho xe vào rồi đậu lại sau một chiếc xe con. Chiếc xe còn mới. Reacher nhận ra hiệu xe đã thấy lúc đi bộ trên con đường bốn làn: Bảo đảm tốt nhất nước Mỹ!

Người đồng nghiệp là một người đàn bà mệt mỏi và phiền muộn độ ba mươi lăm tuổi. Chị ta mở cửa rồi bước ra ngoài hiên nhà, rồi kéo cánh cửa đóng lại sau lưng để ngăn tiếng động nghe như cả chục đứa trẻ đang đùa phá bên trong. Chị ta nhận ra Ann Yanni ngay lập tức. Thậm chí còn nhìn ra sau cô xem có đoàn quay phim không.

Chị ta hỏi, “Vâng?”

Helen Rodin nói, “Chúng tôi cần hỏi chuyện về Oline Archer.”

Người đàn bà không nói gì. Chị ta có vẻ muốn phản đối, như thể biết mình nên nghĩ rằng trò chuyện về những nạn nhân của thảm họa với các nhà báo là một điều vô vị. Nhưng rõ ràng tiếng tăm của Ann Yanni đã thắng được sự ngại ngùng của chị ta.

Chị ta nói, “Vâng. Quý vị cần biết điều gì nào? Oline là một người đáng quý và tất cả nhân viên trong văn phòng chúng tôi đều nhớ chị ấy vô cùng.”

Reacher nghĩ, Bản chất của sự ngẫu nhiên. Những cuộc xả súng bừa bãi luôn luôn trúng vào những người về sau được mô tả là họ rất đáng quý. Chẳng bao giờ có ai nói, Bà ta là đồ con chuột khốn khiếp và tôi mừng vì bà ta đã ngủm. Dù là ai làm thịt bà ta đi nữa thì kẻ đó đã làm ơn cho chúng tôi. Điều đó chẳng bao giờ xảy ra.

Helen nói, “Chúng tôi cần biết đôi điều về chồng của bà ấy.”

Người đàn bà nói, “Tôi chưa bao giờ gặp chồng chị ấy.”

“Oline có kể về ông ấy không?”

“Chỉ chút ít, tôi nghĩ vậy. Thỉnh thoảng thôi. Tên ông ấy là Ted, tôi nghĩ vậy.”

“Ông ấy làm nghề gì?”

“Ông ấy kinh doanh. Tôi không rõ kinh doanh về ngành gì.”

“Oline có kể điều gì về chuyện ông ta mất tích không?”

“Mất tích?”

“Oline báo ông ta bị mất tích từ hai tháng trước.”

“Tôi biết chị ấy có vẻ lo lắng ghê lắm. Tôi nghĩ rằng ông ta gặp khó khăn trong việc làm ăn. Thật ra, tôi nghĩ ông ta đã gặp khó khăn trong vòng một hai năm nay. Đó là lý do vì sao Oline đi làm lại.”

“Không phải trước bà ấy vẫn đi làm sao?”

“Ô, không, thưa cô. Tôi nghĩ ngày xưa chị ấy có đi làm, rồi chị ấy nghỉ việc. Nhưng chị ấy phải đi làm trở lại. Do hoàn cảnh. Đi ngược hoàn toàn với con đường lên voi.”

Reacher nói, “Nghĩa là xuống chó.”

Người đàn bà nói, “Vâng, đại loại thế. Chị ấy cần công việc, vì lý do tài chính. Tôi nghĩ chị ấy cảm thấy ngượng ngùng về việc ấy.”

Ann Yanni hỏi, “Nhưng bà ấy không kể gì kỹ hơn sao?”

Người đàn bà nói, “Chị ấy là người rất kín đáo.”

“Điều này quan trọng lắm.”

“Chị ấy hay lơ đãng. Trước đây chị ấy không như thế. Khoảng một tuần trước khi chết, chị ấy đã đi đâu biệt tăm gần cả một buổi chiều. Trước đây chị ấy cũng không làm như thế bao giờ.”

“Chị có biết bà ấy đang làm gì không?”

“Không, tôi thật sự không biết.”

“Bất cứ điều gì mà chị nhớ được về chồng của bà ấy đều rất có ích đối với chúng tôi.”

Người đàn bà lắc đầu. “Tên ông ấy là Ted. Đó là tất cả những gì tôi có thể biết chắc.”

Helen nói, “Vâng, cám ơn chị.”

Cô quay đi và bước trở lại xe. Yanni và Reacher đi theo. Người đàn bà ở ngoài hiên nhìn chằm chằm theo họ, thất vọng, như thể chị ta vừa trượt một cuộc thử giọng.

* * *

Ann Yanni nói, “Gạch bỏ số một. Nhưng đừng lo. Đời luôn như vậy. Nhiều lúc tôi nghĩ chúng ta nên cứ thế bỏ qua người đầu tiên trên danh sách. Họ chẳng bao giờ biết chuyện gì cả.”

Reacher cảm thấy không thoải mái ở ghế sau xe. Chiếc túi quần kẹt bên dưới mông và cạnh của một đồng xu đâm vào đùi ông. Ông xoay qua xoay lại rồi lấy nó ra. Đó là một đồng hai mươi lăm xu, mới toanh và sáng giới. Ông ngắm nhìn nó trong một phút rồi bỏ nó vào túi kia.

Ông nói, “Tôi đồng ý. Lẽ ra chúng ta nên bỏ qua bà ta. Lỗi của tôi. Theo lôgic một đồng nghiệp sẽ không biết gì nhiều. Người ta thường kín đáo với các đồng nghiệp. Nhất là những người giàu gặp phải lúc khó khăn.”

Yanni nói, “Người hàng xóm sẽ biết nhiều hơn.”

Helen nói, “Chúng ta hy vọng vậy.”

Họ bị kẹt trong dòng xe đi ngang thị trấn. Họ đi từ vùng ngoại thành hướng Đông qua ngoại thành hướng Tây, di chuyển thật chậm. Reacher nhìn đồng hồ rồi lại nhìn qua cửa sổ. Mặt trời đã xuống rất thấp ở đường chân trời trước mặt họ. Phía sau họ trời đã chạng vạng tối.

Thời gian đang nhích đi.

Rosemary nhúc nhích trên ghế và cố vùng khỏi lớp băng keo quấn quanh hai cổ tay cô.

Cô nói, “Chúng tôi biết Charlie là kẻ làm vụ này.”

The Zec lặp lại, “Charlie?”

“Người được xem là bạn của anh tôi.”

The Zec nói, “Chenko. Tên hắn là Chenko. Đúng vậy, hắn làm đấy. Nói về chiến thuật thì đó là kế hoạch của hắn. Hắn thực hiện rất tốt. Tất nhiên, vóc dáng của hắn rất có lợi. Hắn có thể mang giày của mình bên trong giày của anh cô. Hắn phải xắn quần và ống tay áo mưa lên.”

Rosemary nói, “Nhưng chúng tôi biết.”

“Nhưng ai biết? Và chính xác là họ góp được phần gì đây?”

“Helen Rodin biết.”

“Cô sẽ cho cô ta thôi làm luật sư cho mình. Cô sẽ chấm dứt quyền đại diện của cô ta. Cô Rodin sẽ không thể lặp lại bất cứ điều gì cô ta biết bởi mối quan hệ của hai người được bảo mật. Linsky, ta nói thế có đúng không?”

Linsky gật đầu. Hắn ngồi trên sofa cách đó hai mét, dựa người trong một tư thế kỳ quặc để thư giãn cái lưng.

Hắn nói, “Đó là luật. Ở Mỹ này.”

Rosemary nói, “Franklin biết. Và Ann Yanni nữa.”

The Zec nói, “Tin đồn, các giả thuyết, sự suy đoán, lời ám chỉ. Hai người đó không có chứng cứ thuyết phục. Và cũng không có uy tín. Các thám tử tư và nhà báo chính xác là loại người bán rao các giải thích kỳ quặc cho những sự kiện như thế này. Người ta có thể lường trước việc đó. Không có nó mới là bất bình thường. Rõ ràng là có một vị tổng thống ở xứ sở này đã bị giết hơn bốn mươi năm trước, và những người như họ vẫn khăng khăng rằng sự thật vẫn chưa được khám phá.”

Rosemary không nói gì.

The Zec nói, “Lời khai của cô sẽ là tối hậu. Cô sẽ đến chỗ Rodin và sẽ tuyên thệ để khai về việc anh của cô đã lên kế hoạch như thế nào. Về việc hắn đã kể với cô những gì hắn dự định. Một cách chi tiết. Thời gian, địa điểm, mọi thứ. Cô sẽ nói rằng cô đã không coi những chuyện đó là nghiêm túc, và khiến cô giờ đây ân hận một cách thành thực và vĩnh viễn. Rồi một lý do không đáng kể nào đó để tay luật sư công ngó đến bằng chứng của cô một cái, và tuyên bố anh cô có tội, rồi mọi chuyện sẽ chấm dứt.”

Rosemary nói, “Tôi sẽ không làm chuyện đó.”

The Zec nhìn thẳng vào cô.

Lão nói, “Cô sẽ làm. Tôi hứa với cô điều đó. Hai mươi bốn giờ nữa cô sẽ van xin được làm thế. Cô sẽ phát rồ vì sợ rằng chúng tôi có thể đổi ý mà không để cho cô làm.”

Căn phòng trở nên im lặng. Rosemary liếc nhìn The Zec như thể cô có điều gì đó muốn nói. Rồi cô nhìn lảng đi nơi khác. Nhưng dù sao The Zec cũng trả lời cô. Lão đã nghe thấy thông điệp của cô rất lớn và rõ ràng.

Lão nói, “Không, chúng tôi sẽ không có mặt ở đó với cô khi cô cung khai. Nhưng chúng tôi chắc chắn sẽ biết những gì cô nói với họ. Chỉ trong vài phút. Và đừng nghĩ đến chuyện rảo một vòng qua bến xe buýt. Thứ nhất là, chúng tôi sẽ giết anh cô ngay. Và thêm nữa, không có nơi nào trên thế giới này mà chúng tôi không thể tìm thấy cô.”

Rosemary không nói gì.

The Zec nói, “Dù thế nào đi nữa, đừng tranh cãi. Không ích lợi gì. Và vô nghĩa. Cô sẽ nói với họ những gì chúng tôi bảo cô nói. Cô sẽ nói, cô biết mà. Cô sẽ thấy. Cô sẽ tha thiết được nói. Cô sẽ ao ước chúng tôi đã sắp xếp một cuộc hẹn sớm hơn cho cô. Ở tòa án. Cô sẽ dùng thời gian chờ đợi để quỳ xuống van xin một cơ hội để chứng tỏ cho chúng tôi thấy cô thuộc bài giỏi như thế nào. Chuyện thường sẽ xảy ra như thế. Chúng tôi rất giỏi trong những chuyện này. Chúng tôi đã được chân truyền từ các bậc sư phụ.”

Rosemary nói, “Anh của tôi bị chứng Parkinson.”

The Zec hỏi, “Đã khám khi nào?” vì lão đã biết câu trả lời.

“Nó đang phát triển.”

The Zec lắc đầu. “Chủ quan đến thế làm sao có ích được. Ai đảm bảo rằng nó không phải là một tình trạng tương tự giống do chấn thương mới đây gây ra? Nếu không, thì ai đảm bảo rằng tình trạng đó được tính là một cản trở thực sự? Khi bắn từ khoảng cách gần đến thế? Nếu tay luật sư bào chữa mang đến một tay chuyên viên, thì Rodin sẽ mang đến ba tay như thế. Ông ta sẽ tìm thấy những bác sĩ sẵn sàng tuyên thệ rằng Annie Oakley [38] nhỏ nhắn bị chứng Parkinson hành hạ từ ngày bà ấy mới ra đời kìa.”

[38]: Một tay thiện xạ nổi tiếng ở bang Ohio. Bà tên thật là Phoebe Moses, sinh năm 1860, một trong những ngôi sao trong đoàn Wild West Show của Buffalo Bill.

Rosemary nói, “Reacher biết.”

“Thằng lính ấy à? Thằng lính sẽ chết vào sáng mai. Chết hay bỏ chạy.”

“Ông ấy sẽ không bỏ chạy.”

“Vậy thì hắn sẽ chết. Hắn sẽ tới để giải thoát cho cô tối nay. Chúng tôi sẽ sẵn sàng chào đón hắn.”

Rosemary không nói gì.

The Zec nói, “Trước đây từng có những kẻ tìm đến chúng tôi vào ban đêm. Nhiều lúc, nhiều nơi. Và cho tới nay thì chúng tôi vẫn ở đây. Da [39], Linsky?”

[39]: Tiếng Nga: Đúng không.

Linsky lại gật đầu.

Hắn nói, “Chúng ta vẫn ở đây.”

The Zec hỏi, “Khi nào thì hắn sẽ đến?”

Rosemary đáp, “Tôi không biết.”

Linsky nói, “Bốn giờ sáng. Hắn là người Mỹ. Chúng được huấn luyện rằng bốn giờ sáng là thời gian tốt nhất cho một cuộc tấn công bất ngờ.”

“Theo hướng nào?”

“Tấn công từ hướng Bắc là hợp lý nhất. Nhà máy nghiền đá sẽ che chắn cho việc chuẩn bị của hắn và chỉ bắt hắn vượt qua một khoảng trống hai trăm thước. Nhưng tôi nghĩ hắn sẽ lừa chúng ta ở đó. Hắn sẽ tránh hướng Bắc, bởi vì hắn biết đó là hướng tốt nhất.”

The Zec nói, “Không phải từ hướng Tây.”

Linsky lúc lắc đầu. “Tôi đồng ý. Không thể đi thẳng theo lối xe vào. Hướng đó quá thẳng và trống trải. Hắn sẽ đến từ hướng Nam hay hướng Đông.”

The Zec nói với hắn, “Điều Vladimir vào với Sokolov. Bảo chúng nó quan sát hướng Nam và hướng Đông thật cẩn thận. Nhưng nói chúng để ý hướng Bắc và hướng Tây luôn. Cả bốn hướng phải được giám sát liên tục để đề phòng. Rồi điều Chenko mang súng lên hành lang tầng trên. Hắn có thể sẵn sàng triển khai đến bất cứ cửa sổ nào cần thiết. Với Chenko, chỉ cần một phát là đủ.”

Rồi lão quay lại với Rosemary Barr.

Lão nói với cô, “Trong lúc này chúng tôi sẽ để cô ở một nơi an toàn. Bài phụ đạo của cô sẽ bắt đầu ngay khi thằng lính được chôn xong.”

Những khu ngoại ô phía Tây là nơi sinh sống của những người làm việc trong thành phố, do đó lưu thông suốt lối ra rất tệ. Những ngôi nhà đẹp đẽ hơn nhiều so với hướng Đông. Chúng đều hai tầng, đều khác nhau, đều được bảo trì tốt. Chúng đều thuộc những khu đất lớn, có hồ bơi và cảnh trí cây xanh khoảng khoát. Với những tia nắng cuối cùng sáng lên phía sau, chúng trông giống như các bức hình trong một tờ quảng cáo.

Reacher nói, “Đám tư sản keo kiệt.”

Yanni nói, “Thứ mà tất cả chúng ta đều ao ước.”

Reacher nói, “Họ sẽ không muốn nói. Không phải kiểu của họ.”

Yanni nói, “Họ sẽ nói. Ai cũng sẽ nói với tôi.”

Họ từ từ lái qua nhà của Archer. Có một tấm biển đúc bằng kim loại treo trên dây xích mảnh ở dưới hộp thư: Ted và Oline Archer. Đằng xa phía sau nó, ngang qua một sân cỏ thoáng rộng, ngôi nhà trông khép kín, tối và im lặng. Nó là một ngôi nhà lớn kiểu Tudor [40]. Những thanh xà nhà màu nâu u ám, vữa màu kem. Nhà để xe đủ cho ba chiếc. Reacher nghĩ, Không có ai ở nhà.

[40]: Tên một vương triều của nước Anh.

Người hàng xóm mà họ đang tìm hiện sống ở bên kia đường, cách một lô đất về hướng Bắc. Nhà của bà ta khoảng cùng cỡ với nhà của Archer nhưng được dựng theo kiểu Ý. Những điểm nhấn bằng đá, những ngọn tháp nhỏ có lỗ châu mai, những mái hiên che nắng mờ tối trên các cửa sổ tầng trệt quay về hướng Nam. Ánh nắng chiều đang nhòa dần vào tối và đèn đang thắp lên phía sau các cửa sổ phủ rèm. Cả con phố trông ấm cúng, ngơi nghỉ, yên vắng, và rất thỏa mãn với chính mình. Reacher nói, “Họ ngủ bình yên trên giường vì những tay dữ tợn luôn túc trực trong đêm để giáng vũ lực vào những kẻ muốn làm hại họ.”

Yanni hỏi, “Anh cũng đọc George Orwell [41] à?”

[41]: Nhà văn người Anh, “Họ ngủ bình yên trên giường...” là biến thể của một câu thường được gán cho Orwell.

Reacher đáp, “Tôi có học đại học. Theo đúng định nghĩa thì West Point là một trường đại học.”

Yanni nói, “Cái trật tự xã hội đang hiện hữu là một sự bịp bợm và những niềm tin được nó ca tụng phần lớn là ảo tưởng.”

Reacher nói, “Không một kẻ biết suy nghĩ nào sống trong một xã hội như xã hội của chúng ta mà không muốn thay đổi nó.”

Helen nói, “Tôi tin rằng những người này hoàn toàn là những người tốt.”

“Nhưng liệu họ có nói với chúng ta không?”

Yanni nói, “Họ sẽ nói. Ai cũng sẽ nói.”

Helen lái xe vào một lối đi dài trải đá vôi và đỗ lại khoảng hai mươi bộ phía sau một chiếc xe thể thao đa dụng ngoại nhập có những bánh lớn bằng crôm. Cánh cửa trước của ngôi nhà làm bằng gỗ sồi xám rất cổ, có đai sắt với những đầu đinh to như những trái bóng chơi gôn. Nó tạo cảm giác đi qua nó là có thể bước thẳng vào thời Phục hưng.

Reacher nói, “Tư hữu là trộm cắp.”

“Proudhon [42]. Tư hữu đáng được khát khao, là một điều thiện tích cực trên trần thế.”

Reacher nói, “Abraham Lincoln. Trong bản Thông điệp liên bang đầu tiên khi ông làm Tổng thống.”

[42]: “Tư hữu là trộm cắp”: câu trích trong “Tư hữu là gì?” (1840) của Oierre-Joshep Proudhon.

Trên cửa có một chiếc vòng gõ cửa bằng sắt nằm trong miệng một con sư tử. Helen nâng nó lên đập vào cánh cửa. Rồi cô thấy một nút chuông điện ẩn, cô cũng bấm chuông luôn. Họ không nghe tiếng trả lời nào từ bên trong. Cánh cửa thì nặng, tường thì dày. Helen bấm chuông thêm lần nữa, và khi cô còn chưa nhấc ngón tay ra khỏi nút thì cánh cửa tách ra khỏi những dải chống gió bằng đồng dưới sàn và nâng lên như một hầm mộ. Một người đàn ông đang đứng sau cánh cửa, tay để trên nắm cửa bên trong.

Ông ta hỏi, “Vâng?” Ông trạc trên dưới bốn mươi, chắc nịch, thành đạt, chắc hẳn là thành viên của một câu lạc bộ chơi gôn, có thể là Elk, có thể là Rotary. Ông mặc quần nhung và áo len có nhiều hoa văn. Ông ta thuộc loại người vừa về đến nhà thì thay đồ ngay lập tức như một thói quen.

Helen hỏi, “Vợ ông có nhà không? Chúng tôi muốn nói chuyện với bà ấy về Oline Archer.”

Ông ta hỏi, “Về Oline?” Ông đang nhìn Ann Yanni.

Helen nói, “Tôi là luật sư.”

“Có chuyện gì để nói về Oline?”

Yanni nói, “Có thể có nhiều chuyện để nói hơn là ông nghĩ.”

“Cô không phải là luật sư.”

Yanni nói, “Tôi đến đây với tư cách một nhà báo. Nhưng không phải để kiếm một câu chuyện bên lề lâm ly. Không có gì là màu mè cả. Có thể có một vụ án oan. Vấn đề ở đây là thế.”

“Một vụ án oan theo kiểu nào?”

“Họ có thể đã bắt nhầm người trong vụ bắn tỉa. Đó là lý do tôi đến đây. Đó là lý do tất cả chúng tôi đến đây.”

Reacher quan sát người đàn ông. Ông ta đứng đó, giữ lấy cánh cửa, cố quyết định. Sau cùng ông ta chỉ thở dài và bước lui.

Ông ta nói, “Mời mọi người vào.”

Ai cũng sẽ nói.

Ông ta dẫn mọi người đi qua một hành lang sơn vàng im ắng đến một phòng khách. Căn phòng thật rộng và sạch bóng. Ghế bọc nhung, những chiếc bàn gỗ gụ nhỏ, lò sưởi bằng đá. Không có ti vi. Hẳn phải có một phòng riêng để xem ti vi. Một phòng nhỏ, hay một phòng chiếu phim riêng kiểu gia đình. Hay có lẽ họ không xem ti vi. Reacher thấy Ann Yanni đang cân nhắc tính toán các khả năng.

Người đàn ông nói, “Tôi đi gọi nhà tôi.”

Một phút sau ông ta quay lại với một người phụ nữ xinh xắn, trẻ hơn ông ta một chút. Bà ta mặc quần jeans ủi thẳng nếp và áo đan cùng màu vàng như trên các bức tường. Chân đi giày nhẹ. Không tất. Bà có kiểu tóc rất đắt tiền để trông như buông tự nhiên và rối tung vì gió. Bà ta có chiều cao trung bình và thân hình mảnh mai cho ta biết về những quyển sách ăn kiêng và khoảng thời gian đã bỏ ra trong các lớp aerobic.

Bà hỏi, “Chuyện gì đây?”

Helen nói, “Chuyện Ted Archer.”

“Ted? Tôi tưởng quý vị nói với ông nhà tôi là về Oline.”

“Chúng tôi nghĩ có thể có một sự liên hệ. Giữa tình cảnh của ông ấy và bà ấy.”

“Làm sao mà có sự liên hệ được? Chắc chắn những gì xảy đến cho Oline là hoàn toàn từ trên trời rơi xuống mà.”

“Có thể không phải vậy.”

“Tôi không hiểu.”

“Chúng tôi ngờ rằng Oline có thể là mục tiêu chính, được che đậy nhờ lẫn lộn vào bốn nạn nhân kia.”

“Không phải đó là việc của cảnh sát sao?”

Helen ngưng giây lát, “Ngay lúc này thì có vẻ cảnh sát hài lòng với những gì họ có được.”

Người phụ nữ liếc nhìn chồng.

Ông ta nói, “Vậy thì tôi không nghĩ rằng chúng tôi nên trao đổi gì về chuyện này.”

Yanni hỏi, “Không chút nào cả sao? Hay chỉ với tôi thôi?”

“Tôi không chắc rằng chúng tôi muốn lên ti vi.”

Reacher cười thầm. Mặt bên kia của đồng xu.

Yanni nói, “Đây chỉ là những thông tin bề sâu thôi. Có nêu tên ông bà hay không là hoàn toàn tùy thuộc ở hai người.”

Người phụ nữ ngồi xuống sofa, chồng bà ngồi kế bên, gần sát. Reacher lại cười thầm. Họ đã vô tình phỏng theo tư thế chuẩn cặp vợ chồng ngồi trên sofa luôn luôn sử dụng trong những cuộc phỏng vấn truyền hình. Hai gương mặt sát vào nhau, bố cục lý tưởng cho một cận cảnh. Yanni hiểu ngay điều đó và ngồi vào chiếc ghế bành đối diện với họ, ngồi ngay sát rìa, người ngả tới trước, cùi chỏ chống lên đầu gối, nét biểu cảm thân thiện và cởi mở hiện lên trên gương mặt cô. Helen ngồi xuống một chiếc ghế khác. Reacher bước tránh ra bên cửa sổ. Dùng một ngón tay dịch tấm rèm nhích ra. Bên ngoài trời tối như mực.

Thời gian đang nhích đi.

Yanni hỏi, “Xin kể cho chúng tôi biết về Ted Archer.” Một yêu cầu đơn giản, chỉ chín tiếng, nhưng giọng điệu cô lại nói rằng: Tôi nghĩ rằng ông bà là những người đặc biệt nhất trên đời và tôi rất mong được làm bạn của ông bà. Trong một thoáng, Reacher nghĩ rằng Yanni đã chọn nhầm nghề. Lẽ ra cô đã có thể làm một cảnh sát tuyệt giỏi.

Người phụ nữ nói, “Ted gặp khó khăn trong việc làm ăn.”

Yanni hỏi, “Có phải đó là lý do ông ta biến mất không?”

Bà ta nhún vai, “Đó là giả định ban đầu của Oline.”

“Nhưng?”

“Cuối cùng thì chị ấy từ bỏ cách giải thích đó. Và tôi nghĩ là chị ấy đúng. Ted không phải là loại người đó. Và khó khăn của ông ấy không phải là loại khó khăn đó. Thực tế là ông ấy đang bị rắc rối to và ông ấy điên lên về điều đó và ông ấy đang tranh đấu. Khi người ta tranh đấu thì người ta không lẳng lặng bỏ đi, phải không nào?”

“Ông ấy bị rắc rối như thế nào?”

Bà ta liếc nhìn ông chồng. Ông ta nghiêng tới trước. Chuyện đàn ông. “Khách hàng chính không mua hàng của ông ta nữa. Chuyện này vẫn thường xảy ra. Thế lực trong thương trường lúc trồi lúc sụt. Thế nên Ted đề nghị thương lượng lại. Đề nghị giảm giá. Không được. Thế nên ông ấy đề nghị giảm thêm nữa. Ông ấy nói với tôi rằng ông ấy đã xuống đến mức cho không. Vẫn không được. Họ không mua nữa, thế thôi.”

Yanni hỏi, “Ông nghĩ rằng điều gì đang xảy ra?”Nói tiếp đi, thưa ngài.

Ông ta nói, “Tham nhũng. Đi cửa sau. Điều này quá hiển nhiên. Một trong những đối thủ cạnh tranh của Ted đang tung tiền lại quả. Một người trung thực làm sao cạnh tranh lại được.”

“Chuyện này bắt đầu từ lúc nào?”

“Khoảng hai năm trước. Nó là một khó khăn rất lớn đối với họ. Họ xuống dốc rất nhanh về mặt tài chính. Không có thu nhập ổn định. Ted bán xe. Oline phải đi làm. Chị ấy chỉ tìm được mỗi công việc ở Sở Đăng kiểm. Họ cho chị làm quản lý sau khoảng một tháng.” Ông ta mím miệng lại trong một nụ cười, có vẻ tự hào về giai cấp của mình. “Thêm một năm nữa, chị ấy chắc sẽ điều hành nơi đó. Chị ấy sẽ là Ủy viên hội đồng.”

“Ted đã làm gì về việc này? Ông ta tranh đấu như thế nào?”

“Ông ấy đang cố tìm xem ai là đối thủ cạnh tranh.”

“Ông ấy có tìm ra không?”

“Chúng tôi không biết. Ông ấy đã cố gắng trong một thời gian dài, rồi biến mất.”

“Oline không nhắc đến điều này trong báo cáo sao?”

Ông ta ngồi lại và người vợ lại ngả người về phía trước. Bà ta lắc đầu, “Oline không muốn. Lúc đó thì không. Không có bằng chứng gì cả. Tất cả chỉ là suy đoán. Chị ấy không muốn đi buộc tội lung tung. Và nó không hẳn liên quan rạch ròi với nhau. Tôi nghĩ chúng tôi kể như thế này khiến nó nghe có vẻ rõ ràng hơn là thực tình lúc đó. Tôi muốn nói là, Ted không nhập vai Sherlock Holmes. Ông ấy không bỏ toàn bộ thời gian theo đuổi vụ đó. Ông ấy vẫn làm những công việc bình thường. Ông ấy chỉ hỏi han mọi người khi có thể, cô biết đó, hỏi thăm, so sánh các ghi chú, so sánh giá, cố sắp xếp các dữ kiện lại với nhau. Việc đó mất hai năm trời. Những cuộc trò chuyện, những cú điện thoại, những thẩm tra lúc có lúc không, đại khái thế. Chắc chắn là không có vẻ gì nguy hiểm cả.”

“Có bao giờ Oline tìm đến bất cứ ai về việc này không? Về sau, chẳng hạn?”

Bà ta gật đầu, “Chị ấy vô cùng hoảng hốt trong hai tháng sau khi ông ấy biến mất. Chúng tôi trò chuyện với nhau. Chị ấy phát rồ lên vì điều đó. Cuối cùng chị ấy cho rằng chắc chắn phải có liên quan giữa hai điều này. Tôi đồng ý với chị ấy. Oline không biết phải làm gì. Tôi khuyên chị ấy nên gọi báo cảnh sát.”

“Và bà ta gọi?”

“Chị ấy không gọi. Chị ấy tự đi đến chỗ họ. Chị ấy cảm thấy nếu nói trực tiếp họ sẽ lắng nghe mình nghiêm túc hơn. Nhưng rõ ràng là họ đã không làm thế. Không có điều gì xảy ra cả. Giống như ném viên đá xuống lòng giếng mà không nghe tiếng nước gì hết.”

“Bà ta đi khi nào?”

“Một tuần trước vụ hôm thứ Sáu vừa qua ở quảng trường.”

Không ai lên tiếng. Rồi Ann Yanni, ngọt ngào, nhỏ nhẹ, nêu ra câu hỏi tất cả đều chờ đợi, “Ông bà không nghi ngờ có một sự liên hệ nào à?”

Bà ta lắc đầu. “Tại sao phải nghi ngờ? Nó hoàn toàn có vẻ là trùng hợp ngẫu nhiên. Những phát súng là ngẫu nhiên, phải không nào? Chính cô cũng nói như vậy. Trên bản tin truyền hình. Chúng tôi nghe cô nói thế. Năm nạn nhân tình cờ, hiện diện nhầm chỗ và nhầm lúc.”

Không một ai nói gì.

Reacher quay khỏi cửa sổ.

Ông hỏi, “Ted Archer làm ăn về ngành gì vậy?”

Người chồng nói, “Xin lỗi, tôi cứ tưởng quý vị biết rồi. Ông ta làm chủ một mỏ đá. Một nơi rất lớn, cách đây khoảng bốn mươi dặm về hướng Bắc. Xi măng, bê tông, đá nghiền. Kết hợp với nhau theo mô hình dọc, rất hữu hiệu.”

“Và ai là khách hàng đã rút lui?”

Ông ta đáp, “Chính quyền thành phố.”

“Khách hàng lớn đấy.”

“Lớn như thần. Tất cả màn xây dựng đang hoạt động hiện nay là thứ bánh thánh từ trên trời rơi xuống cho những người trong ngành này. Thành phố đã bán ra chín mươi triệu đô la trái phiếu miễn thuế chỉ để trả phí tổn cho năm đầu tiên. Cứ cộng thêm những chi phí phát sinh không thể tránh và nó sẽ là miếng bánh bạc tỷ cho ai đó.”

“Ted bán đi chiếc xe gì vậy?”

“Một chiếc Mercedes-Benz.”

“Vậy ông ấy dùng xe gì?”

“Ông ấy dùng một chiếc xe tải ở nơi làm việc.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


“Ông có thấy chiếc xe đó không?”

“Trong hai năm ngày nào cũng thấy.”

“Nó là xe gì?”

“Một chiếc xe tải nhẹ. Hiệu Chevy, tôi nghĩ vậy.”

“Một chiếc Silverado cũ, màu nâu? Bánh bằng thép?”

Ông ta tròn xoe mắt, “Làm sao mà ông biết được?”

Reacher nói, “Thêm một câu hỏi nữa thôi. Cho vợ ông.”

Bà ta nhìn ông.

“Sau khi Oline đến gặp cảnh sát, bà ta có kể với bà là mình đã nói chuyện với ai không? Có phải là một thanh tra tên là Emerson không?”

Bà ta lắc đầu. “Tôi nói với Oline rằng nếu không muốn gọi điện thoại thì chị ấy nên đến sở cảnh sát, nhưng chị ấy nói nó ở xa quá, vì chị ấy không có giờ nghỉ trưa lâu như thế. Chị ấy nói sẽ đến gặp ông công tố viên quận. Văn phòng của ông ta gần Sở Đăng kiểm hơn nhiều. Và dù sao đi nữa, tính Oline là như thế. Chị ấy thích đi thẳng đến nơi cao cấp nhất. Do đó chị ấy đến trình bày với chính Alex Rodin.”

Helen Rodin hoàn toàn im lặng trên suốt quãng đường trở về thị trấn. Im lặng đến mức cả người cô bần bật run lên. Môi cô mím lại, hai má hóp vào và mắt thì mở lớn. Sự im lặng của cô làm cho Reacher và Yanni không thể nói năng gì. Như thể toàn bộ không khí đã bị hút khỏi xe và tất cả những gì còn lại là sự im lặng giống như một lỗ đen quá ồn ào đến mức làm người ta đau đớn.

Cô lái xe như một người máy, thành thạo, không nhanh, không chậm, máy móc tuân theo những vạch chia làn đường, đèn xanh đèn đỏ và biển báo nhường đường. Cô đậu lại trên thềm bên dưới văn phòng của Franklin, cứ để xe nổ máy, và nói, “Hai người cứ tiếp tục công việc. Tôi không thể làm gì nữa.”

Ann Yanni bước xuống và đi đến cầu thang. Reacher ngồi lại trong xe, ngả người lên trước qua ghế.

Ông nói, “Rồi sẽ ổn thôi mà.”

“Không đâu.”

“Helen, rút chìa khóa ra và đi lên trên kia ngay lập tức. Cô là nhân viên tòa án và cô đang có một thân chủ gặp khó khăn.” Rồi ông mở cửa, leo xuống xe, và lúc ông đi vòng quanh cốp xe thì cô đã đứng chờ ông ở chân cầu thang.

Như thường lệ, Franklin đang ngồi trước máy vi tính. Ông cho Reacher biết rằng Cash từ Kentucky đang trên đường đến đây, không thắc mắc gì cả. Rằng Ted Archer chưa xuất hiện ở bất cứ đâu trên các cơ sở dữ liệu. Rồi ông nhận ra sự im lặng và căng thẳng.

Ông hỏi, “Chuyện gì vậy?”

Reacher nói, “Chúng ta chỉ còn cách có một bước thôi. Ted Archer làm ăn trong ngành bê tông, và ông ta bị gạt ra khỏi tất cả những hợp đồng xây dựng mới của thành phố bởi có một kẻ cạnh tranh đưa hối lộ. Ông ta cố gắng chứng minh điều đó và hẳn sắp sửa thành công, bởi vì kẻ cạnh tranh đã hạ ông.”

“Ông có thể chứng minh điều đó không?”

“Chỉ bằng cách suy luận thôi. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra xác của ông ấy nếu không đào đường số Một lên. Nhưng tôi biết chiếc xe tải của ông ấy hiện đang ở đâu. Nó ở trong nhà kho của Jeb Oliver.”

“Tại sao ở đó?”

“Chúng sử dụng Oliver cho những việc mà chúng không thể tự làm. Những khi chúng không muốn chường mặt ra, hay không thể chường mặt ra được. Có lẽ Archer biết chúng và không đời nào đến gần chúng. Nhưng Oliver chỉ là một thằng bé trong vùng. Có thể hắn dàn cảnh một vụ bể bánh xe hay xin đi nhờ xe. Archer sẽ dính bẫy ngay. Rồi bọn côn đồ giấu cái xác và Oliver thì giấu chiếc xe tải.”

“Oline Archer không nghi ngờ gì sao?”

Reacher nói, “Sau cùng thì bà ta cũng nghi. Bà ta loay hoay với chuyện này suốt hai tháng, rồi có lẽ đã kết nối các dữ kiện lại với nhau đủ để suy ra một điều gì đó. Rồi bà ta bắt đầu mang nó ra công khai, và hẳn tất cả các chuông báo động bí mật đều đã réo lên, vì một tuần sau đó thì bà ta bị giết. Mọi chuyện được dàn cảnh như vậy, bởi vì một ông chồng bị mất tích và rồi hai tháng sau thì đến bà vợ bị giết sẽ đặt ra rất nhiều dấu hỏi. Nhưng chừng nào mà sự việc còn có vẻ tình cờ thì nó sẽ được xem là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên thôi.”

“Oline báo sự việc với ai? Emerson à?”

Reacher không đáp.

Helen Rodin nói, “Bà ta báo với cha tôi.”

Im lặng một lúc lâu.

Franklin nói, “Giờ thì làm gì đây?”

Reacher đáp, “Anh lại phải gõ bàn phím thôi. Kẻ nào có được hợp đồng của thành phố thì kẻ đó nói chung đã xác định chính mình là phe xấu. Do đó chúng ta cần phải biết hắn là ai. Và công ty của hắn ở đâu.”

Franklin nói, “Có trong kho dữ liệu công khai.”

“Vậy thì anh tìm đi.”

Franklin quay đi giữa cảnh im lặng và bắt đầu lướt ngón tay trên bàn phím. Ông di rồi nhấp chuột mất chừng một phút. Rồi có được kết quả.

Ông nói, “Dịch vụ chuyên dụng của Indiana. Họ nhận được tất cả những hợp đồng hiện thời của thành phố về xi măng, bê tông, và đá nghiền. Nhiều triệu đô la.”

“Chúng ở đâu?”

“Đó mới là tin tốt.”

“Còn tin xấu là gì?”

“Không có tư liệu gì cả. Chúng là một quỹ tín thác đặt trụ sở tại Bermuda. Chúng không phải làm hồ sơ gì cả.”

“Hệ thống kiểu quái gì vậy?”

Franklin không trả lời.

“Một quỹ tín thác ở Bermuda cần có một luật sư địa phương.” Giọng của Helen thấp, lặng lẽ, và kìm nén. Reacher nhớ lại tấm biển bên ngoài văn phòng của A.A Rodin: tên họ, theo sau là những chữ cái biểu thị bằng cấp luật.

Franklin bấm qua hai màn hình nữa.

Ông nói, “Có một số điện thoại. Đó là tất cả những gì mà chúng ta có được.”

Helen hỏi, “Số bao nhiêu?”

Franklin đọc con số.

Helen nói, “Đó không phải là số của cha tôi.”

Franklin bấm vào một thư mục tra ngược. Gõ con số vào, màn hình thay đổi và hiện ra một cái tên và một địa chỉ công ty.

Ông nói, “John Mistrov.”

Reacher nói, “Tên Nga.”

“Tôi nghĩ vậy.”

“Anh có biết hắn không?”

“Sơ sơ. Hắn là một tay chuyên làm về di chúc và ủy thác. Công ty một thành viên. Tôi chưa từng làm việc cho hắn.”

Reacher nhìn đồng hồ, “Anh có thể tìm được địa chỉ nhà không?”

Franklin vào một thư mục bình thường. Gõ cái tên vào và hiện ra một địa chỉ thuộc vùng này.

Ông hỏi, “Tôi có nên gọi cho hắn không?”

Reacher lắc đầu, “Chúng ta sẽ đến viếng hắn. Gặp trực tiếp thì tốt hơn khi không có nhiều thời gian.”

Vladimir xuống phòng giám sát ở tầng trệt. Sokolov đang ngồi trên một chiếc ghế có bánh lăn trước một dãy bàn dài đặt bốn màn hình ti vi. Từ trái qua phải chúng được dán nhãn Bắc, Đông, Nam, và Tây. Cách xếp đặt này rất hợp lý nếu người ta quan sát thế giới theo chiều kim đồng hồ. Sokolov đang trượt chiếc ghế chầm chậm theo dãy màn hình, xem xét từng hình ảnh, tiếp tục quay lại, từ Tây trở về Bắc nhờ một cú đẩy mạnh vào bức tường. Cả bốn màn hình đều nhiễu và phát hình màu xanh lá cây, vì bên ngoài trời tối và bộ ghi hình tầm nhiệt đã khởi động. Thỉnh thoảng có thể thấy một đốm sáng đang di chuyển nhanh ngoài xa. Một con thú. Ăn đêm. Cáo, chồn hôi, gấu trúc, hay một con mèo nhà, hay một con chó lạc mất đường về. Trên màn hình hướng Bắc hình ảnh từ khu nghiền đá sáng lòa. Nó sẽ nhòa đi khi những chiếc máy đã nguội đi. Ngoài ra, tất cả phần hậu cảnh chìm trong một màu ôliu sậm, bởi vì không có gì ở ngoài đó ngoại trừ nhiều dặm đồng cỏ nối tiếp nhau, phủ đầy sương mù lạnh phun ra từ những trụ tưới quay mải miết.

Vladimir kéo chiếc ghế có bánh lăn thứ hai và ngồi xuống bên trái Sokolov. Hắn sẽ xem chừng hướng Bắc và hướng Đông. Sokolov sẽ tập trung vào hướng Nam và hướng Tây. Theo cách đó, mỗi tên chịu trách nhiệm một hướng có khả năng có chuyện và một hướng ít khả năng. Phân công lao động thế là công bằng.

Trên hành lang tầng ba, Chenko nạp đạn vào khẩu Super Match của mình. Mười viên, loại Lake City.308. Một trong những thứ người Mỹ làm tốt là đạn dược. Hắn mở tất cả các cửa phòng ngủ để dễ dàng di chuyển các hướng khi cần. Hắn bước đến một cửa sổ và mở ống ngắm ban đêm. Đặt nó ở phạm vi bảy mươi lăm thước. Hắn cho rằng sẽ được cảnh báo khi thằng lính ở cách một trăm năm mươi thước. Đó là khoảng giới hạn hoạt động của các máy quay. Hắn sẽ bước đến cửa sổ cần thiết và ngắm vào mục tiêu khi nó vẫn còn xa hơn một trăm thước. Hắn sẽ theo dõi sự di chuyển của mục tiêu. Hắn sẽ đợi nó tiến đến mình. Khi nó cách bảy mươi lăm thước, hắn sẽ hạ nó.

Hắn nâng khẩu súng lên. Xem xét hình ảnh trong ống ngắm. Rất sáng và rõ. Hắn quan sát một con cáo băng ngang khoảng đất trống từ Đông qua Tây. Săn tốt nhé, chú bạn nhỏ. Hắn quay trở lại hành lang, dựng khẩu súng dựa vào tường và ngồi xuống đợi trên một chiếc ghế lưng thẳng.

Helen Rodin khăng khăng ở lại trong văn phòng của Franklin. Do đó chỉ có Reacher và Yanni đi với nhau, trong chiếc Mustang. Đường phố tối và vắng. Yanni lái xe. Cô biết đường quanh đây. Địa chỉ mà họ tìm là một tòa chung cư lớn, cải biến từ một nhà kho cũ nằm giữa đoạn đường từ cầu tàu đến ga dỡ hàng. Yanni nói rằng nó là một phần của quy hoạch thành phố mới. SoHo[43] đến miệt trong. Cô nói cô từng tính đến chuyện mua nhà trong chính tòa nhà đó.

[43]: Một khu phố nhộn nhịp ở vùng Mahattan của thành phốNew York.

Rồi cô nói, “Chúng ta nên coi chừng Helen tự tử.”

Reacher nói, “Cô ấy sẽ ổn thôi.”

“Anh nghĩ vậy à?”

“Tôi tin chắc như thế.”

“Nếu là cha của anh thì sao?”

Reacher không trả lời. Yanni chạy chậm lại khi một tòa nhà gạch thật to lù lù hiện ra trong bóng tối.

Reacher nói, “Cô cứ hỏi trước. Nếu hắn không trả lời, tới phiên tôi sẽ hỏi.”

Yanni nói, “Hắn sẽ trả lời. Tất cả mọi người đều trả lời.”

Nhưng John Mistrov thì không. Hắn là một tay gầy gò, khoảng bốn mươi lăm tuổi. Hắn ăn vận như thể đang chịu đựng cơn khủng hoảng vào tuổi trung niên của một người đã ly dị. Quần jeans quá chật tẩy bằng a-xit, áo phông đen, không mang giày. Họ gặp hắn đang ở một mình trong căn hộ sơn trắng khá lớn, đang ăn đồ ăn Tàu trong những hộp giấy. Ban đầu, hắn rất vui khi gặp Yanni. Có lẽ giao du với những người nổi tiếng cũng nằm trong lối sống đầy quyến rũ mà sự phát triển mới hứa hẹn. Nhưng nhiệt tình ban đầu của hắn phai đi rất nhanh. Nó biến mất hoàn toàn khi Yanni lược qua những mối nghi ngờ của cô và đòi hỏi được biết những cái tên nằm sau quỹ tín thác.

Hắn nói, “Tôi không thể nói với cô. Chắc chắn cô hiểu đây là những thông tin bảo mật. Chắc chắn cô hiểu điều đó.”

Yanni nói, “Tôi hiểu rằng những tội ác nghiêm trọng đã xảy ra. Đó là những gì tôi hiểu. Và ông cũng cần hiểu điều đó nữa. Ông cần phải chọn đứng về bên nào, ngay bây giờ, nhanh lên, trước khi chuyện này được công khai.”

Hắn nói, “Tôi không có gì để nói.”

Yanni nhỏ nhẹ, “Ở đây không có gì xấu hết. Những cái tên chúng tôi muốn, ngày mai chúng sẽ vào tù hết. Không đường trở lại.”

“Tôi không có gì để nói.”

“Ông thích chìm xuồng cùng chúng không?” Yanni hỏi. Đanh thép. “Như là một kẻ đồng lõa? Hay ông thích xoay xở thoát ra khi đã muộn? Tùy ông chọn. Nhưng thế nào đi nữa thì ông cũng sẽ lên bản tin tối mai. Hoặc diễu hành với đôi tay còng hoặc đứng đó làm dáng, kiểu như ôi Chúa ơi, tôi không biết chút gì, tôi quá sốt sắng muốn giúp đỡ họ.”

“Tôi không có gì để nói.” Hắn lặp lại lần thứ ba.

Lớn tiếng, rõ ràng và kênh kiệu.

Yanni chào thua. Nhún vai và đưa mắt nhìn Reacher. Reacher xem đồng hồ. Thời gian đang nhích đi. Ông bước gần lại.

Ông hỏi, “Mày có bảo hiểm y tế không?”

Hắn gật đầu.

“Bảo hiểm nha khoa?”

Hắn lại gật đầu.

Reacher đấm hắn trúng miệng. Đấm bằng tay phải, đường vung ngắn, khá mạnh.

Ông nói, “Nhớ chữa cả cái đó nữa.”

Hắn bật lui một bước, gập người lại, rồi nhổm lên ho, máu chảy ra khắp cằm. Môi rách, những chiếc răng lung lay nhuộm đỏ lòm.

Reacher nói, “Tên gì, nói ngay. Hay tao xé xác mày ra từng miếng một.”

Hắn ngần ngại. Sai lầm. Reacher đấm hắn lần nữa. Rồi hắn phun ra những cái tên, sáu cái, mô tả hình dáng, và một cái địa chỉ, tất cả đều từ vị trí thẳng cẳng trên sàn nhà và đều trong một giọng nói lúng búng và đặc lại với từng bụm máu trong miệng.

Reacher nhìn Yanni.

Ông nói, “Tất cả mọi người đều trả lời.”

Trong bóng tối khoang lái chiếc Mustang trên đường về, Ann Yanni nói, “Hắn sẽ gọi điện báo cho chúng.”

Reacher nói, “Hắn sẽ không gọi đâu. Hắn vừa phản bội chúng. Vậy nên tôi đoán hắn sẽ chuồn đi nghỉ một chuyến dài hạn vào ngày mai.”

“Anh hy vọng thế.”

“Chẳng quan trọng gì nữa. Chúng đã biết rằng tôi đang đến tìm chúng. Thêm một lời cảnh báo cũng không thay đổi gì.”

“Anh có một phong cách rất thẳng thắn. Kiểu mà người ta không nhắc đến trong Đại cương về nghề báo.”

“Tôi có thể dạy cho cô. Thật ra, quan trọng là ở chỗ bất ngờ. Nếu có thể làm cho chúng bất ngờ thì không cần phải đấm chúng quá mạnh tay.”

Yanni đọc cho Franklin những cái tên mà John Mistrov vừa thú. Bốn tên khớp với những cái tên mà Reacher đã nghe: Charlie Smith, Konstantin Raskin, Vladimir Shumilov, và Pavel Sokolov. Tên thứ năm là Grigor Linsky, Reacher nghĩ đó hẳn phải là gã đàn ông tàn tật mặc đồ vest, bởi vì cái tên thứ sáu đơn giản là Zec Chelovek.

Franklin nói, “Tôi nghĩ ông nói Zec là một từ.”

Reacher nói, “Đúng vậy. Và Chelovek cũng vậy. Nó là phiên âm của từ tiếng Nga có nghĩa là “con người“. Zec Chelovek có nghĩa là Con Người Tù. Như là Tù Nhân vậy.”

“Những kẻ khác không dùng tên mã hóa.”

“Chắc hẳn The Zec cũng không dùng. Có lẽ đó là tất cả những gì mà hắn còn lại. Có lẽ hắn đã quên tên thật của mình. Có thể tất cả chúng ta cũng sẽ quên, nếu chúng ta ở Gulag.”

Yanni nói, “Anh có vẻ thương cảm hắn.”

Reacher đáp, “Tôi không thương cảm gì cả. Tôi chỉ cố gắng tìm hiểu hắn.”

Helen nói, “Không lời nào nhắc đến cha tôi.”

Reacher gật đầu, “The Zec là kẻ giật dây. Gã là cấp cao nhất.”

“Có nghĩa cha tôi chỉ là một người làm thuê.”

“Đừng lo về chuyện đó lúc này. Hãy tập trung vào Rosemary.”

Franklin vào một bản đồ trên mạng và khám phá ra cái địa chỉ mà John Mistrov khai ra là một cơ sở nghiền đá được xây dựng kế bên một mỏ đá cách tám dặm về hướng Tây Bắc của thành phố. Rồi ông tìm trong hồ sơ khai thuế và xác định rằng Dịch vụ chuyên dụng của Indiana là chủ sở hữu có đăng ký của nó. Rồi ông xem lại các hồ sơ lần nữa và phát hiện rằng ngoài ra chỉ còn một bất động sản duy nhất đăng ký cho quỹ tín thác, đó là ngôi nhà trên khu đất kề sát bên nhà máy nghiền đá. Yanni nói rằng cô rất rành khu vực này.

Reacher hỏi cô, “Có cái gì khác ở ngoài đó không?”

Cô lắc đầu. “Không có gì cả ngoài đất nông nghiệp dài hàng dặm.”

Reacher nói, “OK. Đúng rồi đấy. Đó là nơi Rosemary có mặt.”

Ông xem đồng hồ. Mười giờ tối.

Yanni hỏi, “Giờ thì làm gì đây?”

Reacher đáp, “Giờ chúng ta chờ.”

“Chờ cái gì?”

“Chờ Cash đến đây từ Kentucky. Rồi chúng ta sẽ chờ thêm một lúc.”

“Chờ cái gì?”

Reacher mỉm cười.

Ông nói, “Chờ màn đêm nuốt đi tất cả.”

Họ cùng chờ đợi. Franklin pha cà phê. Yanni kể những câu chuyện truyền hình, về những người cô quen biết, về những chuyện cô từng thấy, về các bạn gái của thống đốc, người tình của vợ các chính khách, những vụ bỏ phiếu kín gian lận, những công đoàn bị mua chuộc, về hàng mẫu cần sa trồng phía sau những luống ngô cao quây tròn thành rào chắn trên rìa những cánh đồng Indiana. Rồi Franklin kể về những năm tháng ông còn là cảnh sát. Rồi Reacher kể về cuộc sống của ông từ khi rời quân đội, về chuyện lãng du, thám hiểm, đời sống vô hình không bắt rễ của mình.

Helen không nói một điều gì.

Đúng mười một giờ, họ nghe tiếng phành phạch của máy nổ chạy dầu diesel dội vào tường gạch bên ngoài. Reacher bước lại cửa sổ, thấy chiếc Humvee của Cash đang chúi mũi vào thềm đậu xe. Ông nghĩ, Ồn quá. Không thể dùng nó được.

Hay có lẽ là được đấy.

Ông nói, “Đội Thủy quân lục chiến đã đến.”

Họ nghe tiếng chân của Cash trên cầu thang bên ngoài. Nghe tiếng ông ta gõ cửa. Reacher bước ra hành lang để mở cửa. Cash bước vào, nhanh nhẹn, rắn chắc, tự tin. Ông ta mặc toàn đồ màu đen. Quần vải thô đen, áo khoác vải đen. Reacher giới thiệu mọi người với ông. Yanni, Franklin, Helen Rodin. Mọi người bắt tay và Cash ngồi xuống ghế. Trong vòng hai mươi phút là ông đã nắm được mọi chi tiết và sẵn sàng hành động.

“Chúng bịt miệng một cô nhỏ mười chín tuổi ư?” ông hỏi.

“Nếu gặp, ông sẽ ưa cô ta đấy,“ Reacher đáp.

“Chúng ta có kế hoạch chưa?”

Reacher đáp, “Chúng ta sắp tính một kế hoạch.” Yanni ra ngoài xe lấy mớ bản đồ. Franklin dẹp những tách cà phê cho trống bàn. Yanni chọn ra tấm cần thiết. Trải phẳng nó ra.

Cô nói, “Ngoài đó giống như là một cái bàn cờ khổng lồ. Mỗi ô vuông là một khoảnh ruộng bề ngang một trăm thước. Những con đường vạch thành các ô, từ Bắc đến Nam, Tây qua Đông, khoảng hai mươi khoảnh ruộng riêng rẽ nhau.” Rồi cô chỉ. Ngón tay thanh mảnh, móng sơn. “Nhưng ngay tại đây chúng ta có hai con đường gặp nhau, và ở phía Đông Nam giao điểm của hai con đường đó ta có một khoảng trống rộng bằng ba khoảnh ruộng và dài bằng năm khoảnh ruộng. Không có trồng trọt gì ở đó. Nửa Bắc khu đó là nhà máy nghiền đá và ngôi nhà nằm ở phía Nam. Tôi đã thấy nó, nó cách đường cái khoảng hai trăm thước, nằm một mình ở giữa khoảng trống tuyệt đối. Không cảnh vật, không hoa màu. Cũng không có hàng rào luôn.”

Reacher hỏi, “Bằng phẳng?”

Yanni nói, “Phẳng như mặt bàn bi-a.”

Cash nói, “Ngoài đó tối om.”

Reacher nói, “Tối đen như áo chẽn của Diêm vương. Và tôi đoán rằng nếu không có hàng rào có nghĩa là chúng dùng máy quay phim. Với một bộ tầm nhiệt vào ban đêm. Dùng tia hồng ngoại hay gì đó.”

Cash hỏi, “Anh chạy qua hai trăm thước mất bao lâu?”

Reacher nói, “Tôi ư? Đủ chậm để chúng có thể đặt hàng qua thư mua một khẩu súng để hạ tôi.”

“Cách tiếp cận tốt nhất là gì?”

Reacher nói, “Bước vào từ hướng Bắc. Không nghi ngờ gì cả. Chúng ta có thể thâm nhập thẳng vào khu vực nghiền đá từ đường cái và đi xuyên qua nó. Rồi chúng ta có thể nghỉ lại đó lâu chừng nào cũng được. Chỗ ẩn nấp khá tốt cho tới phút cuối.”

“Không thể bước vào từ bất cứ nơi đâu nếu chúng có máy quay phim tầm nhiệt.”

“Chúng ta sẽ lo chuyện đó sau.”

“OK, nhưng chúng sẽ lường trước hướng Bắc.”

Reacher gật đầu. “Chúng ta sẽ bỏ qua hướng Bắc luôn. Quá dễ bị phát hiện.”

“Hướng Nam hay hướng Đông sẽ khá hơn. Bởi vì có lẽ lối xe vào là hướng Tây. Chắc chắn là quá thẳng và trống trải.”

“Chúng cũng sẽ nghĩ như vậy.”

“Thì hai chúng ta cùng đúng.”

Reacher nói, “Tôi thích cái lối xe vào đấy. Nó như thế nào nhỉ? Có lát đá không?”

Yanni nói, “Đá vôi nghiền. Thứ này thì chúng có tha hồ.”

Cash nói, “Ồn lắm.”

Reacher nói, “Nó sẽ giữ lại một ít hơi nóng ban ngày. Nó sẽ ấm hơn đất. Nó sẽ vạch xuống hình ảnh hấp nhiệt một vệt màu. Nếu độ tương phản không tốt lắm thì nó sẽ tạo thêm một khoảng mờ cả hai bên.”

Cash nói, “Anh đùa đấy à? Anh sẽ nóng hơn nhiệt độ chung quanh từ năm đến mười độ. Anh sẽ sáng như một ngọn đuốc báo hiệu trên đường.”

“Chúng sẽ quan tâm đến hướng Nam và hướng Đông.”

“Không chỉ có thế.”

“Anh có ý kiến gì hay hơn không?”

“Tấn công thẳng vào mặt trước thì thế nào? Ta dùng xe?”

Reacher mỉm cười, “Nếu nó tuyệt đối và hoàn toàn phải bị tiêu diệt vào sáng mai, hãy gọi cho quân đoàn Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.”

Cash nói, “Rõ.”

Reacher nói, “Quá nguy hiểm. Chúng ta không thể cho chúng biết trước một giây nào và chúng ta không thể biến nơi đó thành một khu vực oanh kích tự do. Chúng ta phải nghĩ đến Rosemary nữa.”

Không ai lên tiếng.

Reacher lặp lại, “Tôi thích cái lối xe vào.”

Cash liếc nhìn Helen Rodin.

Ông nói, “Chúng ta có thể gọi cảnh sát. Các bạn biết đó, nếu viên công tố là kẻ xấu. Chỉ vài đội đặc nhiệm hành động là có thể làm việc này rồi.”

Reacher nói, “Cũng vậy thôi. Rosemary sẽ bị giết trước khi họ tiến vào đến cửa.”

“Vậy cắt dây điện? Triệt hạ máy quay?”

“Cũng vậy thôi. Nó cũng là báo động sớm cho chúng.”

“Ý của anh.”

Reacher nói, “Lối xe vào. Tôi thích cái lối xe vào.”

“Nhưng những chiếc máy quay phim thì thế nào đây?”

Reacher nói, “Tôi sẽ nghĩ ra điều gì đó.” Ông bước lại bàn. Nhìn đăm đăm xuống tấm bản đồ. Rồi ông quay lại với Cash. “Xe anh có máy CD không?”

Cash gật đầu. “Một phần của các trang bị tiện nghi trong xe.”

“Anh có phiền không nếu giao xe cho Franklin lái?”

“Franklin có thể lấy luôn nó. Tôi thích một chiếc xe con hơn.”

“OK, chiếc Humvee của anh là xe dùng để tiếp cận của chúng ta. Franklin có thể chở chúng ta đến đó, thả chúng ta xuống, rồi chạy thẳng về lại đây.”

Yanni nói, “Chúng ta? Tất cả chúng ta cùng đi à?”

Reacher nói, “Dĩ nhiên. Bốn người chúng ta sẽ ở đó, với Franklin ở lại đây làm trung tâm liên lạc.”

Yanni nói, “Tuyệt.”

Reacher nói, “Chúng ta cần điện thoại di động.”

Yanni nói, “Tôi có một cái.”

Cash nói, “Tôi cũng vậy.”

Helen nói, “Tôi cũng vậy.”

Reacher nói, “Tôi không có.”

Franklin lấy một chiếc Nokia nhỏ trong túi ra.

Ông nói, “Dùng cái của tôi này.”

Reacher nhận lấy. “Anh có thể cài đặt một cuộc gọi hội nghị không? Bốn chiếc điện thoại di động và điện thoại bàn của anh? Ngay khi anh về lại đây?”

Franklin gật đầu, “Được. Cho tôi số của các bạn.”

Reacher nói, “Và tắt chuông đi.”

Cash hỏi, “Khi nào thì chúng ta sẽ hành động đây?”

Reacher nói, “Bốn giờ sáng là giờ tôi ưa nhất. Nhưng chúng chắc đã lường trước điều này. Chúng ta học từ bên đó mà. Bốn giờ sáng là lúc KGB đi gõ cửa nhà. Ít kháng cự nhất. Nó là yếu tố thuộc nhịp sinh học. Do đó chúng ta sẽ làm chúng ngạc nhiên. Chúng ta sẽ hành động vào lúc hai giờ rưỡi.”

Yanni nói, “Nếu anh làm cho chúng ngạc nhiên thì anh không cần phải ra đòn mạnh tay, phải không?”

Reacher lắc đầu, “Trong tình huống này, nếu chúng ta làm chúng ngạc nhiên chúng sẽ không ra đòn mạnh tay với tôi.”

Cash hỏi, “Tôi sẽ ở đâu?”

Reacher nói, “Góc Tây Nam của nhà máy nghiền đá. Quan sát ngôi nhà nằm ở hướng Đông Nam. Anh có thể kiểm soát các mặt hướng Tây và hướng Bắc của ngôi nhà cùng lúc, với khẩu súng của mình.”

“OK.”

“Anh mang cho tôi thứ gì vậy?”

Cash lục trong túi áo khoác rồi lấy ra một lưỡi dao trong vỏ. Ông thảy nó ngang qua căn phòng. Reacher bắt lấy. Nó là loại dao tiêu chuẩn của hải quân đặc nhiệm. Loại dao cứu sinh của họ. Bằng thép, nhựa epoxi đen, lưỡi dài bảy inch. Không còn mới.

Reacher hỏi, “Cái này ấy à?”

Cash nói, “Tôi chỉ có thế. Tất cả vũ khí mà tôi có là khẩu súng và con dao đó.”

“Anh đùa.”

“Tôi là dân làm ăn, chứ không phải là kẻ nghiện bắn giết.”

“Chúa ơi, anh trung sĩ. Tôi sẽ mang con dao này đi đấu súng à? Chẳng phải lẽ ra phải ngược lại sao?”

Cash lặp lại, “Tôi chỉ có thế thôi.”

“Nhất rồi còn gì!”

“Anh có thể đoạt khẩu súng của thằng đầu tiên mà anh thịt được. Thực tế đi, nếu anh không đến gần đủ để thịt một thằng trong bọn chúng thì đằng nào anh cũng không thắng được.”

Reacher không nói gì.

Họ chờ. Nửa đêm. Mười hai giờ ba mươi. Yanni nghịch chiếc điện thoại di động rồi gọi cho ai đó. Reacher rà soát lại kế hoạch một lần nữa. Trước tiên ông nhẩm trong đầu, sau đó nói ra, cho đến khi mọi người hiểu rõ. Các chi tiết, cách bố trí, uốn nắn, chỉnh sửa.

Ông nói, “Nhưng chúng ta vẫn có thể thay đổi mọi chuyện. Khi chúng ta đến đó. Không gì bằng xem xét địa hình thật.”

Họ chờ. Một giờ. Một giờ ba mươi. Reacher bắt đầu cho phép mình nghĩ về kết thúc. Về điều gì sẽ đến sau khi chiến thắng. Ông quay qua Franklin.

Ông hỏi, “Ai là phó của Emerson?”

“Một bà tên là Donna Bianca.”

“Bà ta có giỏi không?”

“Bà ta là phó của ông ấy.”

“Bà ta cần có mặt ở đó. Sau đó ấy. Nó sẽ là một cảnh quân hồi vô phèng thực sự. Chỉ có chúng ta thì không đủ. Tôi muốn anh đưa Emerson và Donna Bianca tới đó. Và dĩ nhiên, Alex Rodin nữa. Sau khi chúng ta thắng.”

“Họ sẽ còn ngủ.”

“Thì đánh thức họ dậy.”

Franklin nói, “Nếu chúng ta thắng.”

Vào lúc một giờ bốn mươi lăm mọi người bắt đầu cảm thấy bồn chồn. Helen bước lại và ngồi xổm xuống bên Reacher. Nhặt con dao lên nhìn. Rồi lại bỏ nó xuống.

Cô hỏi, “Vì sao ông làm chuyện này?”

“Vì tôi có thể làm. Và vì cô gái.”

“Ông sẽ tự giết mình.”

Reacher nói, “Chưa chắc. Bọn chúng là các lão già và những thằng ngu. Tôi đã sống sót được qua những thằng khá hơn.”

“Ông chỉ nói thế thôi.”

“Nếu tôi đột nhập vào ổn thỏa, tôi sẽ khá an toàn. Tiến từ phòng này sang phòng khác không phải là khó. Người ta rất hoảng sợ khi có một kẻ săn mồi được thả lỏng trong nhà. Chúng ngán lắm.”

“Nhưng ông sẽ không vào được ổn thỏa. Chúng sẽ phát hiện ra ông.”

Reacher lục trong túi bên trái lấy ra đồng hai mươi lăm xu mới tinh đã làm cấn ông trong xe. Đưa nó cho cô.

Ông nói, “Cho cô đấy.”

Cô nhìn đồng xu. “Một món để nhớ đến ông à?”

“Một món để nhớ đến tối nay.”

Rồi ông xem đồng hồ. Đứng dậy.

Ông nói, “Hãy ra tay nào.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Họ đứng im lặng một lúc trong bóng tối ở nơi đậu xe, bên dưới những cửa sổ sáng đèn của Franklin. Rồi Yanni đi lấy chiếc đĩa nhạc của Sheryl Crow trong xe Mustang của mình. Cô đưa nó cho Cash. Cash mở khóa chiếc Humvee và chồm vào trong bỏ chiếc đĩa vào máy CD. Rồi ông đưa chùm chìa khóa cho Franklin. Franklin leo vào ghế tài xế. Cash lên ngồi kế bên ông, gác khẩu M24 ngang trên đầu gối. Reacher, Helen Rodin và Ann Yanni ép sát vào nhau ở băng ghế sau.

Reacher nói, “Mở máy sưởi lên đi.”

Cash chồm qua bên trái mở nhiệt độ lên cao hết cỡ. Franklin nổ máy xe. Lùi xe ra đường. Đánh tay lái và chạy về hướng Tây. Rồi chuyển về hướng Bắc. Máy xe nổ ầm ầm và đường rất gập ghềnh. Máy sưởi hoạt động và quạt thổi mạnh. Bên trong xe ấm dần rồi trở nên nóng. Họ rẽ hướng Tây, rẽ hướng Bắc, rẽ hướng Tây, rẽ hướng Bắc, thẳng hàng với những đường kẻ rồi sẽ chạy xuyên qua các khoảnh ruộng. Chuyến đi là một chuỗi những đoạn đường dài chạy đều đều được đánh dấu bằng những ngã rẽ vuông góc. Rồi họ rẽ lần cuối. Franklin ngồi thẳng người lên sau tay lái và nhấn ga.

Yanni nói, “Đây rồi. Thẳng tưng trước mặt, khoảng ba dặm nữa.”

Reacher nói, “Bật nhạc lên. Chơi bài số tám ấy.”

Cash bấm nút.

Mỗi ngày là một khúc quanh.

Reacher nói, “Mở lớn lên.”

Cash mở lớn lên. Franklin lái tiếp, sáu mươi dặm một giờ.

Yanni báo, “Còn hai dặm.” Rồi “Còn một dặm.”

Franklin lái tiếp. Reacher nhìn chằm chằm ra phía bên phải của mình. Quan sát những khoảnh ruộng vụt qua trong bóng tối. Những vệt sáng đèn xe ngẫu nhiên rọi vào, thắp sáng chúng lên. Những trụ tưới quay quá chậm đến nỗi trông như thể chúng bất động. Sương mù đầy không gian.

Reacher nói lớn, “Đèn pha trên.”

Franklin bật theo lời ông.

Reacher nói, “Vặn nhạc lớn hết cỡ đi.”

Cash vặn lên hết cỡ.

MỖI NGÀY LÀ MỘT KHÚC QUANH.

Yanni la lên, “Nửa dặm nữa.”

Reacher nói lớn, “Hạ các cửa sổ.”

Bốn ngón tay nhấn bốn cái nút và bốn cửa sổ hạ xuống hai phân. Hơi nóng và tiếng nhạc vang to tuôn ra ngoài đêm. Reacher nhìn qua bên phải thấy đường viền tối của ngôi nhà vụt qua, cô độc, cách biệt, vuông vức, đậm chắc, lập lòe ánh đèn bên trong. Quanh nó toàn là đất phẳng. Lối xe vào trải đá, nhợt nhạt, rất dài, thẳng tắp như một mũi tên.

Franklin nhấn mạnh thêm chân ga.

Yanni la lên, “Biển báo dừng còn bốn trăm thước.”

Reacher la lên, “Sẵn sàng. Vào cuộc nào.”

Yanni la lên, “Một trăm thước.”

Reacher thét, “Mở cửa.”

Ba cánh cửa hé ra vài phân. Franklin đạp mạnh thắng. Dừng ngay trên đường vạch. Reacher, Yanni, Helen và Cash tuôn ra. Franklin không hề ngần ngại. Ông lại vọt xe đi như thể chỉ là một biển báo dừng bình thường trong đêm thẳm. Reacher, Yanni, Cash và Helen phủi bụi trên người, đứng chụm lại với nhau giữa lòng đường và nhìn về hướng Bắc cho tới khi ánh đèn, tiếng máy xe và tiếng nhạc dội chìm mất trong bóng tối xa xăm.

Sokolov bắt được tín hiệu về hơi nóng của chiếc Humvee trên cả hai màn hình hướng Nam và hướng Tây khi nó còn cách ngôi nhà cả nửa dặm. Không thể không bắt được. Một chiếc xe to động cơ rất khỏe, chạy vùn vụt, tuôn ra những luồng hơi nóng hừng hực từ cửa kính mở, làm sao lại bỏ qua được? Trên màn hình, nó trông giống như một chiếc tên lửa hình cái chai đang bay ngang. Rồi hắn nghe thấy tiếng nó xuyên qua những bức tường. Máy xe lớn, nhạc mở to. Vladimir liếc nhìn về phía hắn.

Hắn hỏi, “Người qua đường à?”

Sokolov đáp, “Để tao xem.”

Chiếc xe không chậm lại. Nó phóng thẳng ngang qua ngôi nhà và tiếp tục chạy về hướng Bắc. Trên màn hình nó để lại vệt hơi nóng như một tên lửa rơi lại vào khí quyển. Chúng nghe tiếng nhạc chói tai rồi trầm xuống như còi xe cứu thương khi nó chạy ngang qua.

Sokolov nói, “Người qua đường.”

Vladimir nói, “Một thằng điên nào đó.”

Trên tầng ba Chenko cũng nghe thấy. Hắn đi qua một phòng ngủ trống đến cửa sổ đối mặt hướng Tây, nhìn ra. Thấy một cái bóng to màu đen chạy khoảng sáu mươi dặm một giờ, đèn pha trên, đèn hậu sáng lóa, nhạc đập ầm ầm làm hắn có thể nghe những tấm cửa dội oằn từ khoảng cách hai trăm thước. Nó gầm lên chạy ngang qua. Không giảm tốc độ. Hắn mở cửa sổ chồm ra ngoài, ngóng cổ nhìn vòng sáng theo về hướng Bắc ngoài xa. Nó chạy về phía sau mớ máy móc hỗn độn trong nhà máy nghiền đá. Nhưng vẫn có thể nhìn thấy nó, một vệt sáng di chuyển trong không trung. Sau một phần tư dặm vệt sáng đổi màu. Giờ thì màu đỏ, chứ không còn là màu trắng. Đèn thắng, sáng lên khi gặp bảng hiệu dừng xe. Vệt sáng dừng một giây. Rồi màu đỏ tắt đi và vệt sáng trở lại màu trắng mà vọt đi thật nhanh.

The Zec hỏi vọng lên từ tầng dưới. “Có phải hắn không?”

Chenko đáp lớn, “Không phải. Chỉ là thằng nhóc nhà giàu nào đó lái xe đi chơi thôi.”

Reacher dẫn đường qua bóng tối, bốn người đi theo hàng dọc trên rìa đường rải nhựa, có hàng rào dây thép cao của nhà máy đá bên tay trái và những khoảnh ruộng hình tròn thật lớn bên kia đường mé tay phải của họ. Sau tiếng gầm rú của máy xe diesel và tiếng nhạc vang dội, sự lặng yên trở nên rõ rệt. Không nghe thấy âm thanh gì, ngoại trừ tiếng rít của nước tưới. Reacher giơ cao tay ra dấu mọi người dừng lại ở chỗ cái hàng rào ngoặt một góc chín mươi độ và chạy về hướng Đông. Cây trụ ở góc dày gấp đôi và được chống bằng các cọc nghiêng. Bụi cỏ trên lề cao lùm xùm. Ông bước lên và quan sát chung quanh. Ông đang đứng ngay trên đường chéo hoàn hảo nhìn từ góc hướng Tây Bắc của ngôi nhà. Góc nhìn đến mặt tiền hướng Bắc và hướng Tây đều bằng nhau, bốn lăm độ. Vì là đường chéo nên khoảng cách chừng ba trăm thước. Tầm nhìn rất tệ. Chỉ có ánh trăng lờ mờ giữa bóng mây, ngoài ra không còn gì khác.

Ông bước lui. Chỉ vào Cash, chỉ vào gốc cây cột ở góc.

Ông thì thầm, “Đây là vị trí của anh. Xem xét nó đi.”

Cash tiến tới và quỳ xuống trong vạt cỏ dại. Cách xa chừng sáu bộ là không thấy được ông. Ông bật ống ngắm ban đêm ra và nâng súng lên. Từ từ rà súng từ trái qua phải, từ trên xuống dưới.

Ông thì thào, “Ba tầng và tầng hầm nữa. Mái nhà dốc lợp ván, tường bằng ván gỗ, nhiều cửa sổ, thấy một cửa ra vào ở hướng Tây. Hoàn toàn không che chắn gì ở hướng nào cả. Chúng ủi bằng mọi thứ chung quanh. Không cây cỏ gì mọc. Ở ngoài đó, anh sẽ hiện rõ như một con bọ trên tấm ga trơn.”

“Có máy quay không?”

Khẩu súng rê một đường rất thẳng từ trái qua phải. “Dưới mái chìa. Một cái ở mé Bắc, một ở mé Tây. Chắc hẳn cũng có như vậy ở hai mé còn lại.”

“Chúng chừng bao lớn?”

“Anh muốn chúng lớn chừng nào?”

“Đủ lớn cho anh bắn.”

“Giỡn hoài cha nội. Nếu chúng là máy quay gián điệp gắn trong bật lửa thì tôi vẫn có thể bắn chúng từ chỗ này.”

Reacher thì thầm, “OK, vậy thì nghe này. Chúng ta sẽ làm như thế này nhé. Tôi sẽ vào vị trí xuất phát. Rồi chúng ta sẽ chờ Franklin quay lại nhà thiết lập mạng liên lạc. Rồi tôi sẽ bắt đầu. Nếu tôi cảm thấy không ổn thì tôi sẽ gọi báo anh bắn các máy quay đó. Tôi nói là anh bắn liền. Hai phát, pằng pằng. Việc đó sẽ làm chúng chậm lại, có lẽ mười hay hai mươi giây.”

Cash nói, “Phủ nhận. Tôi khước từ việc bắn vào một công trình bằng gỗ đã được xác nhận có chứa một con tin phi quân sự.”

Reacher nói, “Cô ấy sẽ ở dưới tầng hầm.”

“Hay trên tầng thượng.”

“Anh sẽ bắn vào mái chìa.”

“Đúng vậy. Cô ấy trên tầng thượng, cô nghe tiếng súng, cô nằm xuống sàn nhà, ngay nơi tôi nhắm vào. Trần nhà của người này là sàn nhà của người kia.”

Reacher nói, “Tha cho tôi đi. Phải mạo hiểm thôi.”

“Phủ nhận. Tôi sẽ không làm đâu.”

“Chúa ơi. Trung sĩ, anh là một tay lính thủy quá câu nệ, anh biết điều đó không?”

Cash không trả lời. Reacher lại bước lên nhìn quanh góc hàng rào thật lâu và kỹ, rồi lui lại.

Ông nói, “OK, kế hoạch mới này. Hãy quan sát những cửa sổ ở hướng Tây. Nếu thấy ánh chớp đầu nòng ở đâu, anh hãy bắn trấn áp vào căn phòng đó. Chúng ta có thể tin rằng con tin sẽ không ở cùng phòng với tay bắn tỉa.”

Cash không nói gì.

Reacher hỏi, “Ít ra anh sẽ làm điều đó chứ?”

“Anh có thể đã vào trong rồi.”

“Tôi sẽ liều. Chấp nhận mạo hiểm một cách tự nguyện, được chưa? Helen có thể làm chứng cho sự đồng ý của tôi. Cô ấy là luật sư.”

Cash không nói gì.

Reacher nói, “Chẳng lạ gì việc anh chỉ đoạt giải ba. Anh cần được động viên tinh thần.”

Cash nói, “OK. Nếu thấy đạn từ phía địch, tôi sẽ bắn trả.”

“Anh sẽ chỉ thấy mỗi đạn của địch thôi, anh không nghĩ vậy sao? Vì anh chỉ trao tôi mỗi con dao khốn kiếp?”

Cash nói, “Đám lục quân. Luôn luôn chê bai một thứ gì đó.”

Helen hỏi, “Tôi làm gì đây?”

Reacher nói, “Kế hoạch mới.” Ông áp lòng bàn tay vào hàng rào. “Cúi người thấp, đi theo cái hàng rào quanh góc, dừng lại ở chỗ đối diện ngôi nhà. Ẩn mình thấp xuống ở đó. Chúng sẽ không tóm cô ở đó đâu. Xa quá. Hãy nghe điện thoại di động. Nếu tôi cần người đánh lạc hướng, tôi sẽ nhờ cô chạy một đoạn ngắn về phía ngôi nhà rồi chạy trở lại. Chạy zíc zắc hay chạy theo vòng tròn. Chạy ra rồi trở lại. Thật nhanh. Chỉ đủ để lóe lên trên màn hình của chúng thôi. Không nguy hiểm đâu. Khi chúng kịp rê súng lên thì cô đã trở lại hàng rào rồi.”

Cô gật đầu. Không nói gì.

Ann Yanni hỏi, “Còn tôi thì sao?”

“Cô ở lại với Cash. Cô là người trông nom nguyên tắc. Hắn mà rụt lại không muốn giúp tôi, cô cứ việc đá đít hắn, được chưa?”

Không ai nói gì.

Reacher hỏi, “Tất cả hiểu rõ chưa?”

Mọi người lần lượt trả lời, “Hiểu.”

Reacher bỏ đi vào bóng tối phía bên kia con đường.

Ông tiếp tục đi, ra khỏi đường trải nhựa, băng ngang vệ đường, băng ngang rìa trải sỏi của khoảnh ruộng, lên phía trước, thẳng vào khoảnh ruộng, đi mãi vào giữa đám cây trồng ướt đẫm. Ông chờ cho tới khi cột tưới từ từ xoay quanh và bắt kịp ông. Rồi ông quay chín mươi độ và đi về hướng Nam với nó, ngay bên dưới nó, giữ đúng nhịp, để cho dòng nước không ngừng phun xuống làm ướt đẫm mình mẩy áo quần. Cột tưới đi ra xa theo quỹ đạo tròn của nó và Reacher vẫn đi thẳng trên đường tiếp tuyến vào khoảnh ruộng kế tiếp. Chờ cột tưới bắt kịp ông một lần nữa, rồi bước vào bên dưới nó, di chuyển cùng một tốc độ với nó, giơ cao và dang rộng tay để được tưới ướt đẫm người. Rồi cột tưới đó xoay đi chỗ khác và ông đi tìm cột tưới kế tiếp. Rồi cứ thế, hết cột tưới này đến cột tưới khác. Sau cùng, khi đối diện với lối xe vào, ông chỉ bước theo một vòng tròn, dưới cột tưới cuối cùng, chờ cho chiếc điện thoại di động của mình rung lên, như một người kẹt trong cơn bão.

Điện thoại di động của Cash rung lên bên hông, ông lấy nó ra và mở lên. Nghe thấy giọng của Franklin, lặng lẽ và thận trọng vang lên bên tai.

“Xin xác nhận.”

Cash nghe Helen đáp, “Nghe đây.”

Yanni nói, “Nghe đây,“ sau lưng ông cách ba bộ.

Cash nói, “Tôi nghe.”

Rồi ông nghe tiếng Reacher, “Tôi nghe.”

Franklin nói, “OK, tất cả mọi người đều nghe rõ, bóng đã vào sân rồi đấy.”

Cash nghe Reacher nói, “Trung sĩ, anh kiểm tra ngôi nhà xem.”

Cash nhấc khẩu súng lên và rê từ trái qua phải. “Không có gì khác lạ.”

Reacher nói, “Tôi hành động đây.”

Rồi im lặng. Mười giây trôi qua. Hai mươi giây. Ba mươi giây. Một phút. Hai phút.

Cash nghe Reacher hỏi, “Trung sĩ, anh có thấy tôi không?”

Cash lại nhấc súng lên quét qua suốt chiều dài của lối xe vào, từ đầu đường đến tận ngôi nhà. “Không. Tôi không thấy anh. Anh đang ở đâu?”

“Vào khoảng ba mươi thước.”

Cash di chuyển khẩu súng. Ước lượng chừng ba mươi thước tính từ con đường, rồi chăm chú nhìn vào ống ngắm. Không thấy gì cả. Hoàn toàn không thấy gì. “Giỏi lắm, cậu lính. Tiếp tục đi.”

Yanni bò lên. Thì thầm vào tai Cash. “Vì sao anh không thấy anh ấy?”

“Vì hắn đã phát rồ.”

“Không, giải thích cho tôi đi. Anh có ống ngắm dùng ban đêm, phải không?”

Cash đáp, “Thứ tốt nhất mà ta có thể mua. Và nó hoạt động nhờ nhiệt độ, như máy quay của chúng vậy.” Rồi ông chỉ tay về phía bên phải. “Nhưng tôi đoán là Reacher đã đi xuyên qua các đám ruộng. Tự làm mình ướt đẫm. Nước đó lấy thẳng từ các suối ngầm, lạnh cóng. Do đó lúc này thân nhiệt của anh ta gần với nhiệt độ chung quanh. Tôi không thể thấy anh ta thì chúng cũng không thể thấy.”

Yanni nói, “Khôn ngoan thật.”

Cash nói, “Can đảm. Nhưng cực kỳ ngu ngốc. Vì anh ta khô dần theo từng bước đi. Và ấm người lên.”

* * *

Reacher đi xuyên qua bóng tối đường đất cách mười bộ hướng Nam từ lối xe vào. Không nhanh, không chậm. Giày của ông sũng nước và dính lẹp nhẹp bùn. Gần muốn tuột ra. Ông lạnh cóng, run cầm cập. Điều này thật tệ. Run là phản ứng sinh lý để làm ấm cơ thể đang lạnh cóng thật nhanh. Và ông không muốn ấm. Chưa phải lúc này.

Vladimir xử sự theo nhịp điệu. Hắn chăm chú nhìn màn hình hướng Đông bốn giây, rồi cái hướng Bắc ba giây. Đông, hai, ba, bốn, Bắc, hai, ba. Đông, hai, ba, bốn, Bắc, hai, ba. Hắn không xê dịch chiếc ghế. Chỉ nghiêng người một chút bên này, rồi trở qua bên kia. Cạnh hắn là Sokolov, cũng làm y như thế với màn hình hướng Nam và hướng Tây. Chỉ hơi khác về thời khoảng. Không hoàn toàn xảy ra đồng bộ. Nhưng cũng tốt bằng vậy, Vladimir nghĩ thế. Có lẽ thậm chí còn tốt hơn. Sokolov đã có khá nhiều kinh nghiệm giám sát rồi.

Reacher đi tiếp. Không nhanh không chậm. Trên bản đồ, lối xe vào dài khoảng hai trăm thước. Trên mặt đất ông cảm thấy nó như là một đường băng sân bay. Thẳng tắp. Rộng. Và dài thật dài. Ông đã bước đến cả thế kỷ rồi. Mà ông vẫn chỉ được chưa đến nửa đường tới ngôi nhà. Ông đi tiếp. Cứ tiếp tục bước. Nhìn phía trước trên mỗi bước chân, quan sát những cửa sổ tối om ngoài xa phía trước mặt.

Ông nhận ra tóc mình không còn nhỏ nước nữa.

Ông lấy tay này sờ lên tay kia. Khô ráo. Không ấm, nhưng không còn lạnh nữa.

Ông bước tiếp. Ông rất muốn chạy. Chạy sẽ làm ông đến đó nhanh hơn. Nhưng chạy sẽ làm người ông nóng người lên. Ông đang tiến đến điểm không thể quay trở lại. Ông ở ngay khu vực không người. Và ông không run rẩy. Ông nhấc điện thoại lên.

Ông thì thầm, “Helen, tôi cần cô đánh lạc hướng.”

Helen cởi giày ra và đặt chúng gọn gàng bên nhau ở chân hàng rào. Trong một thoáng kỳ dị, cô có cảm giác mình đang dồn đống tất cả áo quần lại trên bãi biển trước khi đi xuống biển cho chết đuối. Rồi cô áp hai lòng bàn tay xuống đất như một vận động viên nước rút ở điểm khởi hành và phóng tới trước. Cứ chạy như điên, hai mươi bộ, ba mươi, bốn mươi, rồi cô dừng phắt lại và đứng yên đối mặt với ngôi nhà, hai tay dang rộng ra như một cái bia. Bắn đi, cô nghĩ. Bắn tao đi. Rồi cô hoảng sợ với ý nghĩ có lẽ mình thật sự mong như vậy và quay lưng chạy ngược trở lại theo một vòng zíc-zắc rộng. Nhoài người xuống đất và lại bò dọc theo cái hàng rào cho tới khi tìm thấy đôi giày của mình.

Vladimir nhìn thấy cô trên màn hình hướng Bắc. Không thể nhận dạng được là cái gì. Chỉ thấy một ánh lóe ngắn mà kỹ thuật phốt-pho đã làm cho nhòa đi và hơi chậm so với thời gian thực. Nhưng hắn cũng cúi sát xuống xem kỹ cái dư ảnh. Một giây, hai giây. Sokolov cảm thấy sự gián đoạn trong nhịp điệu của hắn nên liếc qua. Ba giây, bốn giây.

Vladimir nói, “Cáo chăng?”

Sokolov nói, “Tao không thấy nó. Nhưng chắc là vậy.”

“Nó lại chạy đi rồi.”

Sokolov quay lại với hai chiếc màn hình của mình, “OK, để xem.” Nhìn vào hướng Tây, kiểm tra hướng Nam, rồi trở lại nhịp điệu thông thường của hắn.

Cash có nhịp điệu của riêng mình. Ông rê chậm chiếc ống ngắm ban đêm của mình theo tốc độ mà ông đoán là tương đương một người đang đi bộ. Nhưng cứ mỗi năm giây thì ông lại quét nhanh tới trước rồi trở lại ngừa trường hợp sự ước lượng của mình sai trật. Trong một trong những lần lướt ngang qua đó, ông ghi nhận được một cái bóng nhợt nhạt màu xanh lá cây.

Ông thì thào, “Reacher này, tôi có thể thấy anh. Anh lộ ra rồi đấy, anh lính ạ.”

Giọng của Reacher đáp lại, “Anh có loại ống ngắm gì thế?”

Cash nói, “Hiệu Litton.”

“Đắt lắm phải không?”

“Ba nghìn bảy trăm đô la.”

“Nó hẳn là tốt hơn một máy quay tầm nhiệt dởm.”

Cash không trả lời.

Reacher nói, “Dù sao đi nữa, tôi hy vọng là vậy.”

Ông đi tiếp. Chắc hẳn điều khác thường nhất mà một người có thể bắt mình phải làm là bước từ từ và chắc chắn về hướng một tòa nhà rất có khả năng có một họng súng đang nhắm thẳng vào mình. Nếu Chenko có chút khôn ngoan thì hắn sẽ đợi, và đợi, và đợi tiếp, cho tới khi cái bia của hắn đến thật gần. Và dường như Chenko rất khôn ngoan. Năm mươi thước là tốt rồi. Hay ba mươi lăm, như tầm bắn của Chenko ngoài bãi đậu xe. Chenko rất giỏi ở tầm bắn ba mươi lăm thước. Điều đó đã được chứng thực rõ ràng rồi.

Ông đi tiếp. Lấy con dao ra khỏi túi và rút ra khỏi vỏ, cầm thấp và thoải mái bên tay phải. Chuyển chiếc điện thoại di động qua tay trái và giữ nó bên tai. Nghe Cash nói, “Lính ơi, giờ thì anh đã lộ hẳn ra rồi. Anh đang sáng rực như sao Bắc đẩu. Trông anh như đang cháy lên vậy.”

Còn bốn mươi thước nữa.

Ba mươi chín.

Ba mươi tám.

Ông nói, “Helen? Làm lại đi.”

Ông nghe giọng của cô, “OK.”

Ông bước tiếp. Nín thở.

Ba mươi lăm thước.

Ba mươi tư.

Ba mươi ba.

Ông thở ra. Ông lì lợm bước tiếp. Còn ba mươi thước nữa. Ông nghe tiếng thở hổn hển trong tai. Helen, đang chạy. Ông nghe Yanni hỏi xa xa, “Anh ấy gần đến chưa?” Nghe Cash đáp, “Chưa đủ.”

Vladimir chồm lên nói, “Lại nó nữa kìa.” Hắn chỉ đầu ngón tay lên chiếc màn hình, như thể chạm vào nó thì có thể biết được một điều gì đó. Sokolov liếc nhìn qua. Sokolov đã ngồi trông chừng các màn hình lâu hơn Vladimir. Ban đầu, việc giám sát là việc của hắn. Của hắn, và của Raskin.

Hắn nói, “Không phải cáo. Nó to lắm.”

Hắn quan sát thêm năm giây nữa. Chiếc bóng chạy hết qua trái rồi qua phải ở ngay giới hạn của tầm nhìn của máy quay. Kích cỡ nhận biết được, hình thù nhận biết được, chuyển động không thể giải thích được. Hắn đứng dậy bước ra cửa. Bám vào khung cửa và thò người ra ngoài hành lang.

Hắn la lớn, “Chenko! Hướng Bắc!”

Sau lưng hắn, trên màn hình hướng Tây một hình thù lớn bằng ngón tay cái hiện ra càng lúc càng to dần. Nó trông giống như một bức tranh cho trẻ con tập tô được tô bằng màu huỳnh quang. Xanh vàng chanh bên ngoài, rồi đến một dải vàng kim, có lõi màu đỏ rực.

Chenko bước qua căn phòng ngủ để trống và mở cửa sổ cao hết cỡ. Rồi hắn bước lui vào trong tối. Làm như thế hắn sẽ không thể bị nhìn thấy từ bên dưới và không thể bị tấn công, ngoại trừ từ tầng thứ ba của một tòa nhà sát bên, nhưng không có tòa nhà nào nằm sát bên cả. Hắn mở ống ngắm ban đêm và nâng khẩu súng lên. Chia tư khoảng đất trống hai trăm thước bên ngoài, lên và xuống, trái và phải.

Hắn thấy một người đàn bà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Cô ta chạy cuống cuồng, chân trần, vọt qua trái rồi qua phải, chạy vụt ra rồi quay trở lại, như thể cô ta đang khiêu vũ hay chơi một trận bóng đá vô hình. Chenko nghĩ, Quái? Hắn siết nhẹ cò súng và cố gắng lường tính trước cú xoay kế tiếp của cô gái. Cố gắng đoán ngực cô ở chỗ nào trong một phần ba giây sau khi hắn bắn. Hắn chờ. Rồi cô ngừng di chuyển. Cô đứng yên hẳn lại, đối diện với ngôi nhà, hai tay dang ra như một tấm bia.

Chenko siết cò.

Rồi hắn hiểu ra. Hắn bước trở lại hành lang.

“Nghi binh!” hắn gào lên. “Nghi binh!”

Cash nhìn thấy ánh chớp đầu nòng và la lớn “Nó bắn” rồi chuyển ống ngắm sang cửa sổ hướng Bắc. Ô cửa bên dưới được kéo lên, ô cửa bên trên cố định. Bắn vào khoảng hở sẽ chẳng được tác dụng gì. Đường đạn đi lên bảo đảm sẽ trượt. Do đó ông bắn vào kính cửa. Ông tính rằng nếu ông tạo ra được một trận những mảnh kính sắc thì có thể gây khó khăn cho ai đó.

Sokolov đang nhìn hình ảnh nhiệt điên rồ trên màn hình của Vladimir thì nghe tiếng súng và tiếng la cảnh báo của Chenko. Hắn nhìn lại cánh cửa và trở lại màn hình hướng Nam. Ở đó không có gì. Rồi hắn nghe tiếng súng bắn trả và tiếng kính vỡ trên lầu. Hắn nhảy ra khỏi bàn và bước đến cửa.

Hắn hỏi lớn, “Mày có sao không?”

Chenko đáp lớn, “Nghi binh. Chắc là nghi binh.”

Sokolov quay đi, kiểm tra thật kỹ lại cả bốn màn hình.

Hắn nói lớn, “Không. Phủ nhận. Hoàn toàn không có thứ gì tiến vào cả.”

Reacher chạm vào bức tường trước của ngôi nhà. Ván lát cũ lót ngoài, đã sơn nhiều lần. Ông đứng cách lối xe vào mười bước về hướng Nam, mười bước về hướng Nam cửa trước, gần một cửa sổ nhìn vào một căn phòng trống và tối. Cửa sổ là một hình chữ nhật cao có ô kính dưới trượt được lên phía sau một ô kính cao. Có lẽ ô kính cao cũng trượt được xuống che lấy ô kính thấp. Reacher không biết tên của kiểu cửa này. Ông hiếm khi sống trong nhà và chưa bao giờ sở hữu ngôi nhà nào. Khung kính trượt? Cửa treo đôi? Ông không biết chắc. Ngôi nhà cổ hơn nhiều so với khi nhìn nó từ ngoài xa. Có lẽ cả trăm năm rồi. Ngôi nhà trăm tuổi, cửa sổ trăm tuổi. Nhưng ô cửa sổ có còn cái then cửa cũng trăm tuổi không? Ông tì má vào ô kính dưới và liếc nhìn lên.

Ông không thể thấy gì. Tối quá.

Rồi ông nghe tiếng súng nổ. Hai phát, một phát gần, một phát xa, kính vỡ tan tành.

Rồi ông nghe tiếng Cash trong tai, “Helen? Cô có sao không?”

Ông không nghe tiếng trả lời.

Cash hỏi lại, “Helen? Helen?”

Không tiếng trả lời.

Reacher bỏ điện thoại vào túi. Đẩy lưỡi dao len vào khe hở giữa đáy ô cửa trên và phần đầu của ô cửa dưới. Ông từ từ thận trọng dịch lưỡi dao từ phải qua trái, dò tìm cái chốt cửa. Ông tìm thấy một cái, ngay ở giữa. Gõ nhè nhẹ vào nó. Có vẻ là một cái lưỡi khóa bằng đồng thau nặng. Nó sẽ xoay một góc chín mươi độ, vào và ra khỏi một cái lỗ.

Nhưng theo chiều nào?

Ông đẩy nó từ phải qua trái. Chặt quá. Ông rút lưỡi dao ra rồi đưa nó vào lại bên trái, cách đoạn giữa chừng hai phân. Rê nó trượt trở lại cho tới khi lại gặp cái lưỡi. Đẩy nó, từ trái qua phải.

Nhúc nhích.

Ông đẩy mạnh, thúc nó bật ra khỏi cái lỗ.

Dễ dàng.

Ông nhấc ô kính thấp lên cao và trườn qua ngưỡng cửa vào trong phòng.

Cash thận trọng nhích người lên trước, vung khẩu súng chín mươi độ cho tới khi nó ngắm đúng về hướng Đông dọc theo cái hàng rào. Ông chăm chú nhìn qua ống ngắm. Không thấy gì cả. Ông trở lại núp. Đưa điện thoại lên.

Ông thì thào, “Helen?”

Không lời đáp.

Reacher di chuyển qua căn phòng trống đến cánh cửa. Cửa đóng. Ông áp tai vào nó. Cố lắng nghe. Không nghe thấy gì cả. Ông vặn nắm cửa, từ từ, thận trọng. Mở cửa thật chậm. Chồm ra ngoài. Kiểm tra hành lang.

Trống.

Có ánh đèn từ ô cửa để mở mười lăm bước phía trước về bên trái. Ông ngừng lại. Nhấc từng chân lên và chùi đế giày vào quần. Chùi hai lòng bàn tay. Ông bước một bước. Thử sàn nhà. Không tiếng động. Ông tiến lên phía trước, từ từ, thật êm. Giày thuyền. Có ích chút ít. Ông men sát theo tường, nơi đó sàn nhà vững nhất. Ông dừng lại một thước cách ô cửa sáng đèn. Hít một hơi. Tiến lên.

Dừng lại ở ô cửa.

Ông đang nhìn hai tên từ phía sau. Chúng đang ngồi cạnh nhau ở một dãy bàn dài, quay lưng lại phía ông. Đang nhìn chăm chú các màn hình ti vi. Vào những chiếc bóng ma quái màu xanh lá cây của bóng tối. Bên trái là Vladimir. Bên phải là một gã mà trước đây ông chưa từng thấy. Sokolov? Chắc là hắn. Bên phải Sokolov, cách hắn một thước, một khẩu súng ngắn nằm ở tận mép bàn. Một khẩu Smith & Wesson Model 60. Khẩu súng lục bằng thép không gỉ đầu tiên được sản xuất trên thế giới. Nòng hai inch rưỡi. Với năm viên đạn.

Reacher bước một bước dài vào trong phòng. Dừng lại. Nín thở. Đổi chiều con dao trên tay. Giữ lưỡi dao giữa ngón cái và khớp ngón trỏ, cách chuôi của nó hơn hai phân. Vươn cánh tay lên. Dựng nó lên sau đầu. Vung nó tới trước.

Phóng dao.

Con dao cắm sâu năm phân vào phía sau cổ của Sokolov.

Vladimir nhìn qua phải, về hướng có tiếng động. Reacher đã di chuyển rồi. Vladimir nhìn lại. Hắn thấy ông. Lùi lại khỏi cái bàn và gần bật dậy. Reacher thấy hắn ước lượng khoảng cách giữa hắn và khẩu súng. Thấy hắn quyết định tấn công. Reacher bước thẳng tới hướng tấn công của hắn, thụp người xuống tránh cú đấm móc bên trái đang vung ra, lao vai mình vào ngực hắn, vòng hai cánh tay quanh lưng hắn và nhấc bổng cả người hắn lên. Nhấc hắn lên và xoay tránh xa khỏi bàn.

Rồi siết lại.

Cách tốt nhất để giết một gã to như Vladimir một cách êm thấm là đơn giản siết hắn cho tới chết. Không đánh, không bắn, không đấm đá lòng vòng. Miễn là tay chân của hắn không thể chạm tới được cái gì vững chắc thì sẽ không có tiếng động. Không la, không gào. Chỉ một tiếng ằng ặc khó khăn không nghe rõ khi hơi thở cuối mà hắn hớp vào tuôn trở ra, chẳng bao giờ được thay thế bằng hơi thở khác.

Reacher giữ Vladimir trên mặt đất chừng một bộ và siết với tất cả sức mạnh của mình. Ông ép nát ngực của Vladimir bằng vòng tay gấu quá hung dữ, lâu và mạnh cho đến nỗi không một ai có thể sống sót. Vladimir không ngờ chuyện đó. Hắn cứ nghĩ đây chỉ là cú chào sân. Không phải là đòn chính. Khi hiểu ra, hắn kinh hoảng đến phát rồ. Hắn thụi những cú vô vọng như mưa lên lưng của Reacher và đá chân vào hai ống quyển của ông. Reacher nghĩ, Ngu xuẩn. Mày chỉ đốt thêm khí ô-xy. Và mày sẽ không có thêm chút nào đâu, chú em ạ. Hãy tin tao đi. Ông siết chặt gọng kiềm. Ép mạnh hơn. Mạnh hơn nữa. Và mạnh hơn nữa, theo một nhịp điệu vô thức tàn nhẫn đếm mãi nữa, nữa, và nữa.Răng ông nghiến chặt với nhau. Tim ông đập thình thịch. Những bắp thịt vồng to và rắn lên như đá tảng và bắt đầu bốc cháy. Ông có thể cảm thấy khung xương sườn của Vladimir dịch chuyển, lách cách, rời ra, rạn vỡ, gãy nát. Và hơi thở cuối của hắn rỉ ra khỏi buồng phổi đói hơi.

Sokolov nhúc nhích.

Reacher loạng choạng bên dưới trọng lượng của Vladimir. Vụng về xoay người trên một chân. Đá ra, gót chân ông nện trúng chuôi con dao. Sokolov ngưng nhúc nhích. Vladimir ngưng nhúc nhích. Reacher tiếp tục siết trong suốt một phút nữa. Rồi ông từ từ nới lỏng ra, quỳ xuống và nhẹ nhàng đặt cái xác xuống đất. Ngồi xổm xuống. Thở mạnh. Kiểm tra mạch đập.

Không có mạch đập.

Ông đứng dậy, rút con dao của Cash ra khỏi cổ của Sokolov và dùng nó cắt cổ của Vladimir, từ tai bên này sang tai bên kia. Vì Sandy, ông nghĩ vậy. Rồi ông quay lại cắt luôn cổ của Sokolov. Để phòng ngừa. Máu tuôn ướt đẫm mặt bàn và nhỏ giọt lên nền nhà. Nó không trào ra. Nó chỉ nhỏ giọt. Tim Sokolov đã ngừng đập. Ông ngồi xổm xuống, lau lưỡi dao vào áo của Vladimir, hết mặt này rồi qua mặt kia. Ông lấy điện thoại trong túi ra. Nghe Cash gọi: “Helen?”

Ông thì thầm, “Sao rồi?”

Cash đáp, “Chúng ta đã bị một viên đạn bắn tới. Tôi không thể nghe gì từ Helen.”

Reacher nói, “Yanni, di chuyển qua bên trái. Tìm cô ấy. Franklin, anh có đó không?”

Franklin nói, “Tôi đây.”

Reacher nói, “Sẵn sàng gọi xe cứu thương nhé.”

Cash nói, “Anh ở đâu vậy?”

Reacher nói, “Ở trong nhà.”

“Đối phương thế nào?”

Reacher đáp, “Thất bại. Súng bắn ra từ đâu vậy?”

“Cửa sổ tầng ba, hướng Bắc. Về mặt chiến thuật, điều này hợp lý. Chúng bố trí một tay bắn tỉa ở trên đó. Chúng có thể hướng dẫn hắn theo những gì chúng phát hiện được từ máy quay.”

Reacher nói, “Hết còn hướng dẫn rồi.” Ông bỏ chiếc điện thoại di động trở vào túi. Nhặt khẩu súng lên. Kiểm soát ổ đạn. Nó được nạp đầy. Năm viên Smith & Wesson.38 Specials. Ông đi ra hành lang, tay phải cầm con dao, tay trái cầm khẩu súng. Đi tìm cánh cửa dẫn xuống tầng hầm.

Cash nghe tiếng Yanni lẩm bẩm một mình khi cô di chuyển về bên trái của ông. Giọng thấp, nhưng rõ ràng, như đang đọc lời bình luận. Cô nói, “Giờ tôi đang đi về hướng Đông, cúi thật thấp, đi sát vào hàng rào trong bóng tối. Tôi đang đi tìm Helen Rodin. Chúng tôi biết chúng đã bắn cô ấy. Giờ cô ấy không trả lời điện thoại. Chúng tôi mong là cô ấy không sao, nhưng chúng tôi lo rằng cô ấy không ổn rồi.”

Cash lắng nghe cho tới khi ông không thể nghe thấy cô nữa. Ông lắc đầu không thể hiểu nổi. Rồi ông dán mắt vào ống ngắm, quan sát ngôi nhà.

* * *

Rosemary Barr không có mặt trong tầng hầm. Reacher mất chưa đến nửa phút để hoàn toàn chắc chắn điều đó. Đó là một khoảng không gian rộng thoáng, ẩm mốc, tối lờ mờ, liên tục và hoàn toàn trống ngoại trừ các lớp nền của ba cái ống khói bằng gạch.

Reacher dừng lại ở cái hộp ngắt điện. Ông suýt kéo công tắc. Nhưng Chenko có thiết bị nhìn trong bóng tối mà ông không có. Thế nên ông bò trở lại cầu thang.

Yanni tìm thấy đôi giày của Helen khi vấp phải chúng. Chúng được đặt ngay ngắn bên nhau ở chân hàng rào. Gót cao, da sơn đen, sáng lờ mờ dưới ánh trăng nhạt. Yanni tình cờ đá vào chúng và nghe tiếng đôi giày trống. Cô cúi xuống nhặt lên. Móc đế giày lên hàng rào.

Cô thì thào, “Helen ơi. Helen? Cô ở đâu vậy?”

Rồi cô nghe tiếng, “Tôi đây.”

“Ở đâu?”

“Ở đây. Đi tới nữa đi.”

Yanni bước tới. Cô thấy một bóng người nằm co sát vào chân hàng rào.

Helen nói, “Tôi đánh rơi điện thoại. Không tìm được nó.”

“Cô có sao không?”

“Hắn bắn trượt. Tôi nhảy cà tưng như một mụ điên. Nhưng viên đạn bay sát quá. Tôi hết hồn. Tôi thả cái điện thoại rồi bỏ chạy.”

Helen ngồi dậy. Yanni ngồi xổm bên cô.

Helen nói, “Xem này.” Cô đang cầm một món gì đó trong lòng bàn tay. Nó sáng lên. Một đồng xu. Một đồng hai mươi lăm xu mới tinh và sáng lấp lánh.

Yanni hỏi, “Cái gì vậy?”

Helen nói, “Một đồng hai mươi lăm xu.”

“Vậy thì sao nào?”

“Reacher cho tôi.”

Helen mỉm cười. Yanni thấy răng cô trắng ngời dưới ánh trăng.

Reacher bò theo hành lang tầng một. Mở các cánh cửa và lục soát các căn phòng hai bên đường ông qua. Chúng đều trống. Không dùng đến. Ông dừng lại ở chân cầu thang. Bước lui vào một khoảng trống hai mươi nhân hai mươi mà có thời từng là một phòng khách. Cúi xuống đặt con dao trên nền nhà rồi lấy điện thoại di động ra.

Ông thì thào, “Trung sĩ?”

Cash đáp, “Anh trở lại với chúng tôi à?”

“Tôi để điện thoại trong túi.”

“Yanni đã tìm được Helen. Cô ấy OK.”

“Tốt lắm. Tầng hầm và tầng một thoáng rồi. Tôi nghĩ là anh nói đúng. Rosemary hẳn ở trên gác thượng.”

“Giờ anh lên lầu à?”

“Tôi nghĩ vậy. Tôi phải đi thôi.”

“Số thương vong?”

“Tới giờ là hai.”

“Vậy thì trên lầu còn nhiều lắm.”

“Tôi sẽ cẩn thận.”

“Nghe rõ.”

Reacher bỏ điện thoại vào túi và nhặt con dao lên. Ông đứng dậy, lẻn ra hành lang. Cầu thang nằm ở phía sau ngôi nhà. Nó rộng, gồm hai nhánh chéo nhau và dốc thoải. Khá lớn. Có một chiếu nghỉ rộng nằm ở nửa đường đi lên, là nơi hai nhánh gặp nhau. Ông đi giật lùi lên nhánh thứ nhất. Theo cách này thì hợp lý hơn. Ông muốn biết ngay tức thì nếu có kẻ nào trên hành lang tầng hai nhìn xuống qua cái lan can. Ông đi men sát vào tường. Nếu cầu thang có kêu cọt kẹt, phần lớn đều kêu ở khoảng giữa mặt bậc thang. Ông bước chậm, dò dẫm bằng gót chân, đặt chúng xuống nhẹ nhàng và thận trọng. Và không tiếng động. Giày thuyền. Có ích chút ít. Sau năm bước chân lùi lên, đầu ông gần ngang bằng với sàn tầng hai. Ông nâng súng lên. Bước thêm một bước. Giờ thì ông có thể thấy cả hành lang. Vắng hoe. Nó là một khoảng trống được trải thảm, rất im ắng, thắp một bóng đèn công suất nhỏ duy nhất. Không có gì cả, ngoại trừ sáu cánh cửa đóng, mỗi bên ba cánh. Ông thở ra và di chuyển đến phần chiếu nghỉ. Nhón chân về bên trái rồi lẻn lên nhánh trên, lần này thì bước thẳng. Bước ra khỏi cầu thang. Vào tới hành lang.

Giờ thì sao đây?

Sáu cánh cửa đóng. Ai ở đó? Ông từ từ di chuyển về hướng mặt tiền ngôi nhà. Lắng nghe ở cánh cửa thứ nhất. Không nghe được gì cả. Ông tiếp tục đi tới. Cửa thứ hai cũng không nghe gì. Lại tiếp tục, nhưng trước khi đến cánh cửa thứ ba thì ông nghe tiếng động từ sàn nhà bên trên. Những tiếng động truyền xuống xuyên qua sàn nhà. Những tiếng động mà ông không hiểu. Những tiếng động do quét chân, lê chân, nghiền nát, được lặp lại nhịp nhàng, với một bước chân nhẹ ở cuối mỗi nhịp.

Quét chân, lê chân, nghiền nát, bước chân. Quét chân, lê chân, nghiền nát, bước chân. Ông nhìn chăm chăm lên trần nhà. Rồi cánh cửa thứ ba mở ra và Grigor Linsky bước ra hành lang ngay trước mặt ông. Và hắn đứng yên như trời trồng.

Hắn đang mặc chiếc áo bành tô hai hàng cúc quen thuộc. Màu xám, vai vuông, ống quần lên gấu. Reacher đâm trúng cổ họng hắn. Ngay tức khắc, bằng tay phải, một cách bản năng. Ông nhấn lưỡi dao vào sâu và kéo qua bên trái. Cắt đứt khí quản. Giữ hắn im lặng. Ông bước tránh qua bên để tránh vòi máu. Chộp hắn dưới nách từ phía sau rồi lôi hắn vào căn phòng mà hắn vừa bước ra. Đó là một nhà bếp. Linsky đang pha trà. Reacher tắt lửa dưới ấm đun nước. Đặt khẩu súng và con dao lên mặt bếp. Cúi xuống kẹp đầu của Linsky giữa hai bàn tay rồi vặn nó qua trái và giật mạnh qua phải. Bẻ gãy cổ hắn. Tiếng rắc đủ lớn để phải lưu ý. Ngôi nhà rất yên tĩnh. Reacher cầm súng và dao lên, lắng nghe ở cánh cửa. Không nghe thấy gì cả, ngoại trừquét chân, lê chân, nghiền nát, bước chân. Quét chân, lê chân, nghiền nát, bước chân. Ông bước trở lại vào hành lang. Rồi ông hiểu ra.

Kính.

Cash đã bắn trả xuyên qua vị trí thuận lợi ở hướng Bắc của Chenko, và như mọi tay bắn tỉa giỏi khác, ông đã gây tổn hại tối đa với phát súng duy nhất. Và đến phiên mình, như mọi tay bắn tỉa giỏi khác, Chenko đang làm sạch môi trường xung quanh của hắn để sẵn sàng sử dụng. Hắn đang dọn kính vỡ. Hắn có hai mươi lăm phần trăm khả năng bị lôi kéo lại chính cái cửa sổ đó, và hắn muốn lối đi qua căn phòng được thông suốt.

Quét chân, lê chân, nghiền nát, bước chân. Hắn đang dùng mu bàn chân để quét mảnh kính qua một bên. Vun thành một đống. Rồi hắn bước lên quét vòng tiếp theo. Hắn muốn có một lối đi rộng hai bước xuyên qua căn phòng. Không có nguy cơ trượt ngã.

Hắn đã được bao xa rồi?

Reacher bò đến lồng cầu thang kế tiếp. Nó giống y như cái trước. Rộng, thoải, hai nhánh. Ông bước lùi lên, cố lắng nghe. Quét chân, lê chân, nghiền nát, bước chân. Ông băng qua cái chiếu nghỉ ở lưng chừng. Tiếp tục đi tới. Hành lang tầng ba có cách bố trí giống như hành lang bên dưới, nhưng nó không được trải thảm. Chỉ để ván trần. Có một chiếc ghế thẳng lưng ở giữa hành lang. Tất cả các cửa đều để mở. Hướng Bắc nằm bên tay phải. Reacher có thể cảm thấy gió đêm đang lộng vào. Ông nép vào gần bức tường. Bò về phía trước. Tiếng động vang lớn hơn. Ông áp sát người vào tường. Hít một hơi. Chầm chậm xoay người và bước về bên trái. Vào trong một ô cửa.

Chenko cách ông mười hai bộ. Nhìn ra chỗ khác. Đối diện cửa sổ. Ô kính dưới đã được đẩy lên phía sau ô kính trên. Cả hai ô kính đều bị bắn vỡ vụn. Căn phòng lạnh lẽo. Nền nhà đầy mảnh kính. Chenko đang dọn một lối đi từ cửa chính đến cửa sổ. Hắn còn chừng ba bước nữa cần dọn. Khẩu súng của hắn dựng đứng vào tường, cách hắn sáu bước. Hắn lom khom, nhìn xuống, tập trung vào việc đang làm. Đó là một việc quan trọng. Bị trượt trên mảnh kính sẽ lấy mất đi thời gian quý báu của hắn trong cuộc đấu súng. Chenko có kỷ luật.

Và có mười giây để sống.

Reacher cất dao vào túi. Trả tự do cho tay phải. Siết nó lại. Bước tới. Bước chậm và êm xuống lối đi mà Chenko đã dọn. Bốn bước thật êm. Chenko cảm nhận được. Hắn đứng thẳng lên. Reacher chộp quanh cổ hắn từ phía sau. Một tay thôi. Ông siết mạnh. Bước thêm một bước dài và nhanh, rồi lẳng Chenko tới trước và ném hắn ra khỏi cửa sổ, đầu cắm xuống trước.

Ông thì thầm vào bóng tối bên dưới. “Tao đã cảnh cáo mày rồi. Lẽ ra mày nên hạ gục tao ngay khi có cơ hội.” Rồi ông lấy điện thoại di động ra.

Ông thì thào, “Trung sĩ?”

“Tôi đây.”

“Cửa sổ tầng ba, chỗ mà anh bắn trả đấy. Anh thấy nó chưa?”

“Tôi thấy rồi.”

“Một tên mới ngã xuống đó. Nếu hắn còn ngóc đầu dậy, cho hắn một phát nhé.”

Rồi ông cất điện thoại di động và đi tìm cánh cửa gác thượng.

Ông tìm thấy Rosemary hoàn toàn bình an, ngồi thẳng lưng trên nền nhà gác thượng. Chân dán băng, cổ tay dán băng, miệng dán băng. Reacher đặt ngón tay lên môi mình. Cô gật đầu. Ông cắt băng keo bằng con dao vấy máu và giúp cô đứng lên. Cô đứng loạng choạng giây lát. Rồi cô lắc mạnh người và hơi gật đầu. Rồi mỉm cười. Reacher đoán rằng những nỗi sợ mà cô đã cảm nhận và phản ứng của cô lúc này đều đã được đè xuống bởi quyết tâm sắt đá giúp anh của mình. Nếu cô vượt qua, thì anh ta cũng sẽ vượt qua. Niềm tin đó giúp cô đi tiếp.

Cô thì thầm, “Chúng đi hết chưa?”

Reacher thì thầm trả lời, “Hết rồi, ngoại trừ Raskin và The Zec.”

“Không, Raskin tự sát rồi. Tôi nghe chúng trò chuyện. The Zec buộc hắn tự sát. Bởi hắn đã để ông lấy mất điện thoại.”

“The Zec có khả năng đang ở đâu?”

“Phần lớn thời gian thì lão ở trong phòng khách. Tầng hai.”

“Cửa nào?”

“Cửa cuối cùng bên tay trái.”

Reacher thì thầm, “OK, ở đây nhé. Tôi sẽ đi bắt lão rồi quay lại ngay.”

“Tôi không thể ở lại đây. Ông phải mang tôi ra ngoài.”

Ông ngừng lại. “OK, nhưng cô phải thật im lặng. Và đừng nhìn hai bên.”

“Sao vậy?”

“Có người chết.”

Rosemary nói, “Tôi còn mừng nữa kìa.”

Reacher nắm tay dẫn cô xuống cầu thang đến hành lang tầng ba. Rồi ông đi trước một mình xuống tầng hai. Hoàn toàn yên lặng. Cánh cửa cuối cùng bên tay trái vẫn đóng. Ông vẫy tay ra hiệu cho cô xuống. Họ cùng nhau rẽ và hướng thẳng đến tầng một. Đến mặt trước của ngôi nhà. Đến căn phòng mà ông đã qua. Ông giúp cô vượt qua ngưỡng cửa và ra ngoài cửa sổ, xuống đất bên dưới. Ông chỉ tay và nói. “Cô đi theo lối xe ra đường. Rẽ phải. Tôi sẽ báo cho mấy người kia biết cô đang đến. Có một ông mặc đồ màu đen có súng. Ông ấy là phe mình.”

Cô đứng yên một giây. Rồi cúi xuống cởi đôi giày đế thấp ra, cầm chúng trên tay rồi vụt chạy như ma đuổi, nhắm hướng Tây, xuyên qua khoảng đất ra đường. Reacher lấy điện thoại di động ra.

Ông thì thầm, “Trung sĩ?”

“Tôi đây.”

“Cô Rosemary đang chạy về hướng của anh.”

“Xuất sắc.”

“Báo cho mọi người biết và đón cô ấy trên đường. Không còn ai quan sát màn đêm nữa đâu. Rồi hãy chuẩn bị. Tôi sẽ quay lại với các bạn.”

“Nghe rõ.”

Reacher cất điện thoại di động. Đi ngược trở lại vào ngôi nhà im lìm, đi tìm The Zec.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Cuối cùng, mọi việc còn lại là chờ đợi. Hãy chờ, rồi những điều lành sẽ đến với bạn. Và cả những điều xấu nữa. Reacher lẻn trở lại tầng hai. Cánh cửa cuối cùng bên trái vẫn đóng. Ông lui vào trong nhà bếp. Linsky nằm ngửa trên nền nhà trong một vũng máu. Reacher bật lại lửa dưới ấm nước. Rồi ông bước ra hành lang. Bước thật êm đến mặt trước ngôi nhà và tựa lên bức tường bên ngoài cánh cửa cuối cùng bên trái.

Và ông chờ.

Sau năm phút thì ấm nước sôi. Ban đầu tiếng còi báo trầm và nhỏ, rồi lớn dần và lên cao vút. Trong mười giây, tầng hai của ngôi nhà đầy ngập một tiếng rít nhức óc. Mười giây sau đó cánh cửa bên tay phải của Reacher mở ra. Một người nhỏ thó bước ra. Reacher để cho hắn ta bước tới trước một bước rồi ghì hắn xuống và ấn mạnh khẩu Smith 60 vào cổ họng hắn.

Và ngó chằm chằm.

The Zec. Lão là một lão già vai rộng, cổ lỗ, tật nguyền, lom khom, tàn phế. Một con ma. Khó có thể gọi là người. Thân thể lão phủ đầy những vết sẹo thâm tím và những mảnh da đã biến màu. Mặt lão đầy nếp nhăn và ủ rũ, trào dâng sự giận dữ, thù hận và man dại. Lão không mang vũ khí. Đôi tay tàn tật của lão dường như không thể cầm được vũ khí. Reacher đẩy lão xuống hành lang. Vào trong nhà bếp, bước giật lùi. Đến bếp lò. Tiếng động từ ấm nước quả không thể chịu đựng được. Reacher dùng tay trái tắt lửa đi. Rồi ông lôi The Zec trở lại phòng khách. Tiếng rít của ấm nước tắt đi, như hồi còi báo động máy bay oanh tạc tắt dần. Ngôi nhà im lìm trở lại.

Reacher nói, “Mọi chuyện chấm dứt. Mi thua rồi.”

The Zec đáp, “Chẳng bao giờ chấm dứt.” Giọng khàn khàn, thấp, trong yết hầu.

Reacher nói, “Cho mi nói lại.” Ông ấn mạnh khẩu Smith vào cổ họng The Zec. Quá thấp và quá gần, lão không thể thấy được. Ông thả lỏng cò súng lại. Từ từ, thận trọng. Cố tình. Vang lớn. Cách-cách-cách-cạch. Một thứ tiếng không nhầm lẫn được.

The Zec nói, “Ta đã tám mươi tuổi rồi.”

Reacher nói, “Mi mà một trăm tuổi ta cũng mặc kệ. Mi vẫn sẽ bị tóm cổ.”

“Thằng ngu,“ The Zec đáp trả. “Ta muốn nói là ta đã sống qua những thứ tệ hại hơn là mi. Từ trước khi mi ra đời rất nhiều.”

“Không có kẻ nào tệ hơn ta đâu.”

“Đừng huênh hoang. Mi chẳng là cái quái gì đâu.”

Reacher nói, “Mi nghĩ vậy à? Sáng hôm nay mi còn sống nhưng ngày mai thì không. Sau tám mươi năm. Như vậy ta cũng là một thứ gì đó chứ, mi không nghĩ vậy sao?”

Không lời đáp.

Reacher nói, “Chấm dứt rồi. Tin ta đi. Con đường dài và gian nan, OK, ta hiểu tất cả điều đó, nhưng đây là đoạn kết của nó. Rồi phải xảy ra vào một lúc nào đó thôi.”

Không lời đáp.

Reacher hỏi, “Mi có biết khi nào là sinh nhật của ta không?”

“Hẳn nhiên là không.”

“Trong tháng Mười. Mi biết ngày nào không?”

“Tất nhiên là không.”

“Mi sẽ biết bằng một cách không vui vẻ gì đâu. Ta đang đếm trong đầu. Khi nào đến ngày sinh nhật, ta sẽ siết cò súng.”

Ông bắt đầu đếm nhẩm trong đầu, Một, Hai. Ông quan sát đôi mắt của The Zec. Năm, Sáu, Bảy, Tám.Không có phản hồi. Mười, Mười một, Mười hai.

The Zec nói, “Mi muốn gì?”

Đến lúc thương lượng rồi đây.

Reacher nói, “Ta muốn trò chuyện.”

“Trò chuyện?”

Reacher nói, “Ngày Mười hai. Đó là khoảng thời gian mi chịu được. Rồi mi chịu thua. Mi biết vì sao không? Bởi vì mi muốn sống. Nó là bản năng sâu thẳm nhất mà mi có. Rõ ràng thế. Nếu không thì làm sao mi có thể sống lâu như vậy chứ? Chắc chắn nó là một bản năng sâu thẳm hơn là ta từng hiểu được. Một phản xạ, một thói quen, hãy lăn con xúc xắc, hãy cố sống còn, hãy đi bước tiếp, hãy chộp lấy ngay cơ hội. Nó nằm trong ADN của mi. Nó là con người mi.”

“Vậy thì sao nào?”

“Vậy thì giờ đây chúng ta có một cuộc thi đấu với nhau. Con người mi đấu với con người ta.”

“Vậy mi là kẻ nào?”

“Ta là kẻ vừa ném Chenko ra khỏi cửa sổ tầng ba. Sau khi siết Vladimir cho tới chết bằng hai bàn tay không. Bởi vì ta không thích những gì chúng làm với người vô tội. Thế nên giờ đây, mi phải mang cái khát vọng thèm sống mạnh mẽ của mi ra đấu với khát vọng mạnh mẽ của ta muốn bắn vào đầu mi rồi đái vào cái lỗ đạn đó.”

Không lời đáp.

Reacher nói, “Một phát súng. Ngay vào đầu. Xong tuồng. Chọn lựa của mi đấy. Một ngày nữa, một đợt gieo xúc xắc mới. Hoặc không. Cái đó thì cũng có thể.”

Ông thấy sự tính toán hiện ra trong mắt của The Zec. Ước lượng, đánh giá, suy xét.

Ông nói, “Ta có thể ném mi xuống cầu thang. Mi có thể bò đến để nhìn Vladimir cho biết. Ta đã cắt cổ hắn khi đã xong. Chỉ cho vui thôi. Ta là như thế đó. Vì vậy đừng nghĩ rằng ta không làm những gì ta nói. Ta sẽ làm mà suốt phần đời sau đó vẫn ngủ say như trẻ con.”

The Zec lại hỏi, “Mi muốn gì?”

“Muốn được giúp một việc.”

“Việc gì?”

“Ta cần cứu một người vô tội ra khỏi nhà tù. Vì thế ta cần mi kể lại sự thật với một viên thanh tra tên là Emerson. Sự thật, tất cả sự thật, và không điều gì khác ngoại trừ sự thật. Ta cần mi nêu rõ Chenko đã làm vụ nổ súng thảm sát, Vladimir vụ cô gái, và kẻ nào đó vụ Ted Archer. Và bất kể những gì khác mà mi đã làm. Tất cả. Bao gồm cả việc mi và Linsky sắp xếp mọi chuyện ra sao.”

Một tia sáng lóe lên trong đôi mắt của The Zec. “Vô nghĩa. Ta sẽ nhận án tử hình.”

Reacher nói, “Phải, mi sẽ nhận án tử hình. Đó là điều chắc chắn. Nhưng ngày mai mi vẫn còn sống. Và ngày mốt, và sau ngày mốt. Ở xứ sở này tiến trình kháng án kéo dài vô tận. Có khi đến cả mười năm. Mi có thể gặp may. Có thể là một vụ xử sai, có thể có một cú vượt ngục, mi có thể được ân xá, có thể có một cuộc cách mạng, hay một vụ động đất.”

“Khả năng rất ít.”

Reacher nói, “Có lẽ vậy. Nhưng đó không phải là bản chất của mi ư? Một kẻ sẵn sàng đón nhận một cơ hội dù bé xíu, mong manh nhất để được sống thêm một phút, còn hơn là không còn tia hy vọng nào cả?”

Không lời đáp.

Reacher nói, “Mi đã trả lời cho ta một lần rồi. Khi mi bỏ cuộc trò chơi sinh nhật ở ngày Mười hai tháng Mười. Thế là khá nhanh đấy. Có ba mươi mốt ngày trong tháng Mười. Quy luật bình quân cho biết mi sẽ bình an cho tới ngày Mười lăm hay Mười sáu. Một con bạc thực sự sẽ chờ cho tới ngày Hai mươi. Nhưng mi không qua nổi ngày Mười hai. Không phải do mi hèn nhát. Không ai trách mi về điều đó. Nhưng vì mi là một kẻ sống sót. Đó là con người mi. Giờ đây ta chỉ cần một chút xác nhận cụ thể.”

Không lời đáp.

Reacher đếm, “Mười ba, Mười bốn, Mười lăm, Mười sáu.”

The Zec nói, “OK. Mi thắng. Ta sẽ kể với tay thanh tra.”

Reacher dùng khẩu Smith đẩy lão ép vào tường hành lang. Ông lấy điện thoại di động ra. “Trung sĩ?”

“Tôi đây.”

“Vào đây đi, tất cả mọi người. Tôi sẽ mở cửa. Và, Franklin? Đánh thức mấy người đó dậy như chúng ta đã bàn trước đây.”

Điện thoại im bặt. Franklin đã tắt cuộc gọi kết nối để gọi đi.

Reacher trói cổ tay và cổ chân của The Zec lại bằng dây điện lấy từ đèn ngủ và để lão nằm trên nền nhà phòng khách. Rồi ông đi xuống lầu. Liếc nhìn vào phòng giám sát. Vladimir nằm ngửa trên vũng máu. Đôi mắt hắn mở toang. Cổ họng hắn cũng vậy. Reacher có thể thấy xương. Sokolov nằm sụp trên bàn, mặt úp xuống. Máu hắn vương khắp nơi. Một ít chắc đã thấm vào hệ thống dây điện, vì cái màn hình hướng Nam đã tắt mất. Ba cái màn hình còn lại vẫn còn đó, xanh lét ma quái. Trên màn hình hướng Tây có bốn dáng người đang hiện dần trên lối xe vào. Những vầng sáng màu vàng, lõi màu đỏ. Sát vào nhau, di chuyển nhanh. Reacher tắt đèn và đóng cửa phòng. Đi xuống hành lang và mở cửa trước.

Yanni vào trước tiên. Rồi đến Cash. Rồi Rosemary. Sau cùng là Helen. Cô đi chân không, tay xách đôi giày. Cô lấm lem bùn. Cô dừng lại ở ngưỡng cửa và ôm chầm lấy Reacher. Giữ như vậy một lúc lâu rồi đi tiếp.

Yanni hỏi, “Mùi gì vậy?”

Cash nói, “Máu. Và các thứ chất dịch khác trong phủ tạng.”

“Chúng chết hết rồi à?”

Reacher đáp, “Trừ một mạng.”

Ông dẫn đường lên lầu. Chặn Rosemary lại bên ngoài phòng khách.

Ông nói, “The Zec bên trong đó. Gặp lão cô có sao không?”

Cô gật đầu.

Cô nói, “Tôi muốn gặp lão. Tôi muốn hỏi lão một câu.”

Cô bước vào phòng khách. The Zec nằm trên sàn nhà, nơi mà Reacher đã đặt lão. Rosemary đứng bên lão, im lặng, trang nghiêm, không chút hả hê. Chỉ tò mò.

Cô nói, “Tại sao hả? Tôi có ý muốn nói là, ở mức nào đó tôi hiểu điều mà ông nghĩ rằng ông phải làm. Từ góc nhìn méo mó của ông. Nhưng tại sao ông không chỉ sử dụng Chenko từ xa lộ thôi. Tại sao ông phải lôi anh tôi vào chuyện này?”

The Zec không trả lời. Lão chỉ nhìn đăm đăm vào khoảng không, nhìn một cái gì đó, nhưng chắc chắn không phải là Rosemary Barr.

Reacher nói, “Vấn đề tâm lý.”

“Của lão?”

“Không. Của chúng ta. Của quần chúng.”

“Là như thế nào?”

Reacher nói, “Phải có một câu chuyện. Không, chắc chắn có một câu chuyện, và lão phải kiểm soát câu chuyện về cái gì. Nếu lão đưa ra một kẻ bắn, thì câu chuyện sẽ nói về kẻ bắn. Không có kẻ bắn, câu chuyện sẽ nói về các nạn nhân. Và nếu câu chuyện về các nạn nhân, thì sẽ có rất nhiều câu hỏi được đặt ra.”

“Vì thế hắn đưa James vào.”

“Đó là điều mà lão làm. Có một danh sách dài.”

“Vì sao?”

“Một người chết là bi kịch, nhưng một triệu người chết là một con số thống kê.”

Yanni nói, “Joseph Stalin.”

Reacher đạp The Zec qua một bên và kéo chiếc sofa ra khỏi cửa sổ chừng bốn bộ. Nắm cổ áo của The Zec, dựng lão lên và ấn xuống một đầu ghế. Bắt lão ngồi thẳng dậy, tựa vào tay ghế.

Ông nói, “Nhân chứng chính của chúng ta đây.”

Ông bảo Cash ngồi lên bậu cửa sổ phía sau sofa. Bảo Yanni đi tìm ba chiếc ghế tựa. Đẩy mấy chiếc ghế bành dựa vào bên tường. Yanni trở lại ba lần, kéo lê từng chiếc ghế. Reacher đặt chúng thành một hàng đối mặt với chiếc sofa. Ông kết thúc với một hình vuông, sofa, ba chiếc ghế tựa, ghế bành ở hai bên.

Áo quần của ông đã gần khô. Chỉ còn hơi bị ẩm ở các khâu nối dày. Ông luồn những ngón tay qua mái tóc. Vuốt lại cho phẳng. Xem đồng hồ. Gần bốn giờ sáng. Ít kháng cự nhất. Yếu tố thuộc nhịp sinh học.

Ông nói, “Giờ thì chúng ta đợi.”

Họ đợi chưa đến ba mươi phút. Rồi nghe tiếng xe trên đường ngoài xa. Lốp xe nghiến trên mặt đường, tiếng máy xe, ống khói. Tiếng động lớn dần. Các xe chậm lại. Chúng chạy lạo xạo trên lối vào trải đá. Bốn chiếc tất cả. Reacher đi xuống lầu mở cửa. Thấy chiếc Suburban đen của Franklin. Thấy Emerson trèo ra khỏi một chiếc Crown Vic màu xám. Thấy một phụ nữ gọn gàng, tóc ngắn sậm màu ra khỏi một chiếc Ford Taurus màu xanh dương. Donna Bianca, ông nghĩ vậy. Ông thấy Alex Rodin trèo ra khỏi một chiếc BMW màu bạc. Rodin khóa xe lại bằng thiết bị điều khiển từ xa. Ông ta là người duy nhất làm thế.

Reacher đứng qua một bên để họ nhóm lại trong hành lang. Rồi ông dẫn họ lên lầu. Ông đặt Alex Rodin, Donna Bianca và Emerson ngồi ở những chiếc ghế tựa, từ trái qua phải. Ông để Franklin ngồi ở một chiếc ghế bành kế bên Yanni. Rosemary và Helen Rodin thì ở hai chiếc ghế bành phía bên kia của căn phòng. Helen đang nhìn cha cô. Ông nhìn lại cô. Cash trên bậu cửa sổ. Reacher bước tránh ra và đứng tựa vào ngưỡng cửa.

Reacher nói, “Bắt đầu kể đi.”

The Zec vẫn im lặng.

Reacher nói, “Ta có thể bảo mấy người này đi ra khỏi đây. Cũng dễ dàng như là mang họ đến đây vậy. Rồi sẽ bắt đầu đếm lại. Từ mười bảy.”

The Zec thở dài. Bắt đầu kể. Ban đầu chậm rãi, rồi sau đó nhanh hơn. Lão kể một câu chuyện dài. Quá dài và quá phức tạp đến nỗi nó trở nên lộn xộn. Lão phun ra những chi tiết của các tội ác không liên quan trước đó. Rồi lão đi vào tiến trình đấu thầu cho những hợp đồng của thành phố. Lão khai ra tên viên quan chức mà lão đã hối lộ. Không chỉ có tiền mà thôi. Còn có cả gái nữa, cung cấp theo từng nhóm nhỏ trong một biệt thự vùng Caribbe. Một số còn rất trẻ. Lão kể về nỗi phẫn nộ của Ted Archer, cuộc truy tìm trong hai năm của ông ta, việc ông ta đã tiếp cận gần đến sự thật. Lão mô tả cuộc phục kích, vào một buổi sáng thứ Hai. Jeb Oliver được điều động. Chiếc Dodge Ram màu đỏ là trả công cho hắn. Rồi The Zec ngừng lại, quyết định, rồi tiếp tục. Lão mô tả chúng quyết định nhanh chóng hạ thủ Oline Archer hai tháng sau đó, khi cô ta trở nên nguy hiểm. Lão mô tả thủ đoạn của Chenko, một kế hoạch vội vã nhưng kỹ lưỡng, chúng đã dụ James Barr ra với lời hứa về một cuộc hẹn hò với Sandy Dupree như thế nào. Lão mô tả khi Jeb Oliver không còn có ích. Lão cho họ biết nơi tìm xác hắn. Lão kể về chuyện Vladimir giết Sandy để cố gắng ngăn cuộc truy tìm của Reacher. Lão kể tất cả trong ba mươi hai phút, tay bị trói sau lưng, rồi lão dừng đột ngột và Reacher thấy được sự tính toán hiện ra trong đôi mắt lão. Lão đã nghĩ về bước kế tiếp rồi. Mặt xúc xắc tiếp theo. Một phiên tòa xử sai. Một cuộc vượt ngục. Một tiến trình kháng án mười năm.

Căn phòng trở nên yên lặng.

Donna Bianca nói, “Không thể tin được.”

Reacher nói, “Nói tiếp đi.”

The Zec chỉ nhìn ông.

Reacher nói, “Một điều mi còn chừa lại. Mi phải cho mọi người biết về tay trong của mi. Đó là điều mà mọi người ở đây chờ đợi.”

The Zec chuyển ánh mắt đi. Lão nhìn vào Emerson. Rồi vào Donna Bianca. Rồi vào Alex Rodin. Từ phải qua trái, dọc theo hàng người. Rồi lão lại nhìn sang Reacher.

Reacher nói, “Mi là kẻ sống sót. Nhưng mi không phải là một thằng ngu. Sẽ không có phiên tòa xử sai. Sẽ không có cuộc vượt ngục. Mi đã tám mươi tuổi và sẽ không sống nổi qua tiến trình kháng án dài mười năm. Mi biết hết mọi chuyện đó. Nhưng mi vẫn đồng ý khai ra. Vì sao?”

The Zec không nói gì.

“Bởi mi biết sớm hay muộn thì mi cũng sẽ nói chuyện với một tay bạn cánh hẩu của mình. Một kẻ mi nắm được. Một kẻ mi đã mua và trả tiền. Ta nói thế có đúng không?”

The Zec gật đầu, rất chậm.

Reacher nói, “Đó là một kẻ đang có mặt ngay ở đây, ngay lúc này, thật vậy.”

The Zec lại gật đầu.

Reacher nói, “Có một điều luôn làm tôi băn khoăn. Từ lúc khởi đầu. Ban đầu tôi không biết là mình đúng hay là mình đã để cái tôi chen vào công việc. Tôi cứ trăn trở về nó. Cuối cùng, tôi cho rằng mình đúng. Chuyện đó là, khi còn trong quân ngũ thì tôi là một tay điều tra viên rất chiến. Có lẽ tôi là người giỏi nhất mà họ từng có. Tôi sẽ đứng lên chống lại bất cứ ai. Và các bạn biết sao không?”

Helen Rodin hỏi, “Sao?”

“Tôi sẽ không bao giờ nghĩ đến việc dốc hết cái đồng hồ tính tiền đó ra. Chẳng đời nào. Tôi chẳng đời nào nghĩ phải làm chuyện đó. Do đó tôi vấp phải một thắc mắc. Có phải Emerson là một tay điều tra viên giỏi hơn tôi không? Hay là ông ta đã biết đồng hai mươi lăm xu ấy có ở trong đó?”

Không ai nói gì.

Reacher nói, “Emerson không giỏi hơn tôi lúc trước. Đơn giản là không thể như thế. Đó là điều tôi kết luận.” Rồi ông quay sang The Zec, “Cái đồng xu là một dấu vết thừa. Giờ đây mi thấy điều đó chưa? Nó không tự nhiên. Có phải nó là ý của Chenko không?”

The Zec gật đầu.

Reacher nói, “Lẽ ra mi phải gạt hắn đi.” Ông quay qua Emerson, “Hay lẽ ra ông nên để yên nó ở đó. Xem ra ông không cần có nó mới làm nên vụ án.”

Emerson nói, “Chuyện này thật ngu xuẩn.”

Reacher lắc đầu, “Rất nhiều chi tiết khớp vào đúng chỗ sau chuyện đó. Tôi đã xem bản chép từ băng ghi âm 911 và bản ghi các cuộc gọi giữa các xe tuần tra. Ngay từ khởi đầu ông đã quyết định nhanh quá mức. Ông có cả chục cuộc gọi kinh hoảng rời rạc nhưng chỉ trong hai mươi giây thôi là ông lên radio báo cho lính của ông rằng đây là một tên điên hành động một mình có khẩu súng trường tự động. Không có cơ sở nào cho kết luận đó. Sáu phát bắn ra, nhịp không đều, nó có thể là do sáu thằng nhóc mỗi đứa một khẩu súng lục, cùng bắn một lượt. Nhưng ông biết không phải thế.”

Emerson lại nói, “Ngu xuẩn.”

Reacher lại lắc đầu. “Bằng chứng cuối cùng là khi tôi đang thương lượng với ông chủ của ông ở đây. Tôi bảo lão phải kể sự thật với một tay thanh tra tên là Emerson. Lẽ ra tôi có thể nói cớm một cách chung chung, hay tên công tố viên Alex Rodin. Nhưng tôi không làm thế. Tôi nói cụ thể tên ông ra, và thấy một tia sáng lóe lên trong mắt lão. Lão nói loanh quanh thêm một phút nữa, cho đúng thủ tục, nhưng về cơ bản thì lão đồng ý khá nhanh bởi lão nghĩ rằng miễn là ông lo vụ này thì lão sẽ được an toàn.”

Im lặng. Rồi Cash nói, “Nhưng Oline Archer đã đến tìm Alex Rodin đây. Ông ta ỉm chuyện đó luôn. Đó là điều mà anh phát hiện được.”

Reacher lại lắc đầu. “Chúng ta phát hiện rằng Oline đến văn phòng của công tố viên. Chính tôi cũng đã đến đó, ngay khi tôi đến thị trấn. Và các bạn biết gì không? Ông Alex đây có đến mấy bà chằn lửa canh cửa cho mình. Họ biết rằng ông không thích khách không mời. Cá một trăm ăn một họ đã đuổi Oline xéo đi. Đó là chuyện của cảnh sát, họ hẳn đã nói với bà ấy như thế. Người đồng nghiệp của bà ấy nói rằng bà ấy đi gần hết buổi chiều. Tôi đoán là các bà chằn đã bắt bà ấy đi suốt qua thị trấn đến sở cảnh sát, nơi mà bà ấy gặp gỡ với ông Emerson đây.”

Căn phòng chìm trong yên lặng.

The Zec bức bối cục cựa trên sofa. “Emerson, vì Chúa, làm một điều gì đi chứ?”

Reacher nói, “Ông ta chẳng thể làm được gì đâu. Tôi không ngu. Tôi đã dự liệu trước rồi. Tôi biết là ông ta có đeo một khẩu Glock dưới nách, nhưng tôi ở ngay sau lưng ông ta với một khẩu.38 và một con dao, và Cash ngồi đối diện ông ta với một khẩu bắn tỉa được cất phía sau sofa, và dù sao thì ông ta có thể làm được gì nào? Tôi đoán ông ta có thể thịt hết chúng ta và nói rằng ở đây đã xảy ra một vụ thảm sát đẫm máu, nhưng điều đó sẽ giúp gì ông ta với NBC chứ?”

Emerson trừng trừng nhìn ông.

Cash lặp lại, “NBC?”

“Tôi thấy Yanni loay hoay với chiếc điện thoại di động của cô ấy từ lúc nãy. Tôi nghĩ rằng cô ấy đang truyền tất cả câu chuyện này về phòng thu.”

Yanni lấy chiếc Nokia của mình ra.

Cô nói, “Kênh mở. Ghi âm kỹ thuật số trên ba đĩa cứng khác nhau, cộng thêm hai cuốn băng từ dự phòng. Tất cả chúng đều chạy từ rất lâu trước khi chúng ta lên chiếc Humvee.”

Cash nhìn cô chăm chăm. “Đó là lý do cô hỏi tôi câu hỏi ngớ ngẩn về chiếc ống ngắm ban đêm. Đó là lý do cô lẩm bẩm một mình như là một bình luận viên thể thao.”

Reacher nói, “Cô ấy là nhà báo. Cô ấy sẽ giành giải Emmy.”

Không ai nói gì. Tất cả mọi người chợt cảnh giác từng lời lẽ.

“Thanh tra Bianca,“ Reacher nói lớn. “Bà vừa được đề bạt làm trưởng đội Phòng chống tội phạm nghiêm trọng. Bà thấy thế nào?”

Yanni nhăn mặt. Reacher bước tới trước và chồm qua lưng ghế của Emerson rồi luồn tay vào dưới áo choàng của ông ta. Lấy ra khẩu Glock chín ly. Giao nó cho Bianca.

Ông nói, “Bà phải bắt giữ người rồi đây.”

Rồi The Zec mỉm cười, và Chenko bước vào phòng.

Chenko lấm lem bùn khắp người và cánh tay phải bị gãy, hay vai, hay xương đòn, hay có lẽ cả ba thứ. Cổ tay của hắn bị nhét chặt vào trong áo như một cái băng đeo tay. Nhưng cánh tay trái thì không hề hấn gì. Không sao cả. Reacher quay lại đối mặt với hắn và thấy khẩu cưa nòng cầm chắc trong tay hắn. Ông nghĩ, một cách không hợp lúc: Nó lấy đâu ra khẩu súng vậy? Trong xe ư? Mấy chiếc xe đậu ở hướng Đông sao?

Chenko liếc nhìn Bianca.

Hắn nói, “Thưa quý bà, bỏ súng xuống.”

Bianca đặt khẩu Glock của Emerson xuống sàn nhà. Nó chạm xuống thảm không gây một tiếng động.

Chenko nói, “Cám ơn.”

Không ai lên tiếng.

Chenko nói, “Tao nghĩ là tao vắng mặt trong một lúc. Nhưng tao phải cho bọn mày biết rằng giờ tao cảm thấy khỏe nhiều rồi.”

The Zec lên tiếng từ bên kia căn phòng, “Chúng ta sống sót. Chúng ta luôn như vậy.”

Reacher không ngó lại lão già. Ông chỉ nhìn vào khẩu súng của Chenko. Nó vốn là một khẩu Benelli Nova Pump. Báng bị cưa mất ngay sát báng súng ngắn lắp thêm. Nòng súng bị cưa ngay trước bộ phận trượt. Đường kính 12 gauge. Ổ đạn bốn viên. Một thứ vũ khí tuyệt đẹp, đã bị tùng xẻo.

The Zec gọi, “Emerson, tới đây cởi trói cho ta.”

Reacher nghe tiếng Emerson đứng dậy. Ông không ngó lại hắn. Mà chỉ bước ngang lên một bước nhỏ, gần bên Chenko. Ông cao hơn hắn một cái đầu và to gấp hai.

Emerson nói, “Tôi cần một con dao.”

Chenko nói, “Thằng lính có dao. Tao biết chắc như vậy, nhìn mấy thằng bạn tao dưới kia là biết.”

Reacher nhích đến một chút gần với hắn hơn. Một người to con và một người nhỏ con đối mặt với nhau, cách nhau khoảng ba bước, khẩu Benelli chiếm gần hết khoảng cách đó. Hông của Reacher ngang tầm với ngực của Chenko.

Emerson nói, “Đưa dao đây.”

Reacher nói, “Đến đây mà lấy.”

“Đẩy nó ngang qua sàn nhà cho tao.”

“Không.”

Chenko nói, “Tao sẽ bắn. 12 gauge, ngay bụng.”

Reacher nghĩ: Sau đó thì sao? Một khẩu súng săn kiểu bơm không hữu dụng mấy với một kẻ còn một tay.

Ông nói, “Vậy thì bắn đi.”

Ông cảm thấy những ánh mắt chiếu vào mình. Ông biết mọi người đang nhìn mình. Nhìn chằm chằm vào mình. Sự im lặng lùng bùng trong tai ông. Đột nhiên ông nhận thấy mọi thứ mùi trong căn phòng. Bụi bặm từ tấm thảm, mùi đồ đạc cũ kỹ, mùi sợ hãi, sự căng thẳng, không khí ban đêm ẩm ướt thốc vào qua cánh cửa để mở dưới lầu và cửa sổ bị vỡ trên lầu, mang theo mùi đất ngầy ngậy, mùi phân bón và sự sống mới đang ra lộc.

Ông nói, “Cứ việc. Bắn tao đi.”

Chenko không nhúc nhích. Đứng im ở đó. Reacher đứng ngay trước mặt hắn. Ông biết chính xác cách bố trí của căn phòng. Chính ông đã sắp xếp nó. Ông hình dung nó trong đầu. Chenko ở ngưỡng cửa đối diện cửa sổ. Mọi người khác đang quay mặt về phía ngược lại. Bản thân Reacher đứng ngay trước mặt Chenko, mặt đối mặt, gần đến độ có thể chạm vào nhau. Cash thẳng phía sau lưng ông, mãi về sau, sau chiếc sofa, trên bậu cửa sổ, nhìn về phía trước. Tiếp đó là The Zec trên sofa, nhìn về cùng một hướng. Còn Emerson ở giữa phòng, gần The Zec, đang đứng lên, lưỡng lự, nhìn ông. Rồi Yanni, Franklin, Helen, và Rosemary Barr ngồi trên những chiếc ghế bành dựa vào các bức tường bên hông, quay đầu lại. Còn Donna Bianca và Alex Rodin ngồi trên ghế tựa, ngoái cả nửa thân trên lại, mắt mở lớn.

Reacher biết mỗi người đang ở đâu, và ông biết họ đang nhìn gì.

Ông nói, “Bắn đi. Nhắm vào thắt lưng của tao. Như vậy sẽ chắc ăn. Chơi đi.”

Chenko không nhúc nhích, chỉ nhìn lên ông chằm chằm. Reacher ở quá gần và quá to lớn, Chenko không thể nhìn thấy gì khác. Chỉ có hai người họ thôi, như thể chỉ có họ trong căn phòng.

Reacher nói, “Tao sẽ giúp mày. Tao sẽ đếm đến ba. Rồi mày siết cò.”

Chenko chỉ đứng yên.

Reacher nói, “Mày hiểu không?”

Không lời đáp.

Reacher đếm, “Một.”

Không phản ứng.

“Hai.”

Rồi ông bước ra khỏi lối đi. Cứ thế tránh một bước nhanh và dài qua bên phải. Cash bắn từ phía sau sofa vào vị trí vừa là thắt lưng của Reacher một phần giây trước và ngực của Chenko bị phá toang.

Rồi Cash đặt khẩu súng xuống sàn nhà êm ru cũng như khi ông lấy nó lên.

Hai chiếc xe tuần tra ca đêm đến mang The Zec và Emerson đi. Rồi bốn chiếc xe cứu thương đến chở những kẻ thương vong. Bianca hỏi Reacher thật sự thì điều gì đã xảy ra với ba tên đầu tiên. Reacher trả lời bà rằng ông không biết gì hết. Hoàn toàn không. Ông phỏng đoán rằng có lẽ có một cuộc tranh cãi trong nội bộ gì đó. Một vụ phản thùng giữa đám giang hồ với nhau chăng? Bianca không hỏi dồn nữa. Rosemary Barr mượn điện thoại di động củaFranklin để gọi cho những bệnh viện địa phương, tìm một giường bệnh an toàn cho trai của cô. Helen và Alex Rodin ngồi sát bên nhau trò chuyện. Trung sĩ Cash ngồi trên ghế ngủ gật. Một thói quen của tay lính cũ. Hãy ngủ khi có thể. Yanni bước lên gần Reacher nói, “Những tay dữ tợn luôn túc trực trong đêm.” Reacher thấy mình rất ý thức về chiếc micro đang mở. Ông chỉ mỉm cười và nói, “Tôi thường đi ngủ đúng mười hai giờ.”

Yanni nói, “Tôi cũng vậy. Một mình. Anh nhớ địa chỉ của tôi chứ?”

Reacher lại mỉm cười, gật đầu. Rồi ông đi xuống lầu và bước ra khoảng sân trước, rồi đi một lúc về hướng Nam xuyên qua khoảng đất cho tới khi ông có thể nhìn ra sau tòa nhà lớn để thấy bầu trời phương Đông. Bình minh đang đến. Màu đen nhòa dần thành màu tía ở chân trời. Ông quay lại nhìn chiếc xe cứu thương cuối cùng đang chuyển nạn nhân lên. Chuyến đi sau cùng của Vladimir, có thể biết vậy qua kích cỡ của hình thù nằm dưới tấm ga trên chiếc xe đẩy. Reacher lộn những chiếc túi ra và xếp tấm danh thiếp bị xé của Emerson, miếng khăn giấy của Helen Rodin, và chiếc chìa khóa to bằng đồng thau của nhà trọ, và khẩu Smith 60, con dao cứu hộ đặc nhiệm hải quân của trung sĩ Cash, tất cả thành một đống gọn gàng bên cửa trước. Rồi ông hỏi các nhân viên cứu thương xin đi nhờ xuống phố. Ông nghĩ rằng ông có thể đi bộ về hướng Đông từ bệnh viện và đến trạm xe buýt trước khi mặt trời mọc. Ông có thể đến Indianapolis trước buổi trưa. Rồi ông có thể mua một đôi giày và có mặt ở một nơi bất kỳ nào đó trước khi ngày hết.

Thực hiện bởi

Chimcanhcut100786 – Du Ca – nangmualachuyencuatroi

(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom