Cập nhật mới

Dịch Full Charlie Bone 8: Charlie Bone Và Hiệp Sĩ Đỏ

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Trong đồng hoang


Suốt đêm, sương mù bò vô phủ kín thành phố trong một đám mây xám mù mịt. Lũ người hội hè đình đám ở đường Piminy ngủ vật tại chỗ mà bọn chúng té xuống, trên vỉa hè văng vãi ly bể, và tàn tro bay lơ lửng trong không gian. Đồng hồ Nhà Thờ Lớn ngân bảy tiếng vang đi khắp thành phố đang nơm nớp chờ đợi một ngày nữa đến

Bên trong tiệm sách cô Ingledew, Dagbert đã lăn ra ngủ say sưa. Tiếng chuông nhà thờ ngân không hề đánh thức nó dậy, cả Emma xách cái túi nhựa màu trắng đựng chiếc áo gi-lê rón rén đi ngang qua cũng không đánh thức được nó. Sau khi đã tự lên dây cót tinh thần cho mình bằng một ly sữa, cô bé kẹp cái túi dưới nách và rời khỏi nhà bằng cửa sau. Ra ngoài trời, cô bé đứng sựng trong sân một lát. Mùi sương mù và mùi rác cháy đâm sâu tận cuống họng Emma, khiến cô bé phải đưa tay lên bịt mũi, bịt miệng. Cô bé sẽ phải bay qua bầu không khí độc hại đó, vì vậy cô bé cần một thoáng để trấn tĩnh bản thân

Cuối cùng, quyết định làm một con quạ gáy xám, cô bé hấp tấp thay hình đổi dạng sau bức tường bao quanh sân, xong rồi dùng mỏ gắp cái túi nhựa lên. Nhà Olivia ở đường Rồng Tinh, chỉ cách nhà Charlie hai dãy phố. Nếu cô Alice còn không được gia đình Vertigo chào đón thì Emma còn lâu mới có cơ hội, cho nên cô bé phải tìm một biện pháp thay thế cho việc đi vô nhà bằng cửa trước. Cô Vertigo thường than phiền về bọn quạ gáy xám dơ dáy, cẩu thả, hay thả cành cây xuống ống khói nhà cô. Đã hai lần cả nhà trông thấy một con quạ gáy xám dính bồ hóng đen thùi lùi vỗ cánh lọt vô phòng khách nhà mình.

Khi sải cánh phía trên những mái nhà, Emma có thể nghe thấy những tiếng nói xuyên qua màn sương mù: tiếng hậm hực, tiếng cười văng vẳng, và cả tiếng vũ khí khua chan chat. Emma chúi đầu, nghiêng cánh sà xuống đường Rồng Tinh

Nhà Olivia đấu lưng với nhà cũ của cô Alice, và không ai là không nhận ra vườn cây ăn trái ở giữa hai nhà. Vài cây mận đã nhú ra những búp hoa trắng tinh

Lao mình xuống ống khói nhà Olivia, Emma hú hồn phát hiện ra một con quạ gáy xám đã cư ngụ ở trong đó rồi. Tuy nàng ta chưa đẻ trứng, nhưng một cái ổ xinh xắn đã đan xong một nửa. Xem ra nàng quạ kinh ngạc hơn là giận dữ khi nhìn thấy Emma đậu nơi mép nhà của mình

“Xin lỗi,” Emma lẩm bẩm rồi bổ nhào xuống, lao đầu qua những nùi cành cây và rơm, sau đó xuyên thẳng qua ống khói dơ hầy. Cô bé đáp hẳn vô trong lòng lò sưởi phòng khách của gia đình Vertigo, với cái túi nhựa vẫn ngậm chặt trong mỏ. Khúc củi của đêm qua vẫn còn ấm nhưng may mắn là không còn cháy nữa.

Sau hồi thu gọn lông cánh, Emma bước ra khỏi lò sưởi, một lần nữa là bé gái. Mãi đến lúc bắt đầu nhón gót đi lên cầu thang Emma mới để ý thấy chân mình để lại những dấu bồ hóng trên thảm lót sàn. Không thể khác được, Emma nghĩ. Có lẽ mọi người sẽ đổ thừa đó là do quạ gáy xám!

Có một tủ âm tường được sưởi nóng để đựng chăn, tấm trải giường và khăn tắm ở chiếu nghỉ, Emma vội vã lẻn vô đó, chui xuống gầm cái kệ tháp nhất, và kéo cửa đóng lại. Bây giờ cô bé chri còn cách chờ đợi

Cô chú Vertigo luôn dậy trễ vào sáng Chủ nhật, thành thử Olivia sẽ là người đầu tiên thức dậy. Emma hy vọng trên đường tới nhà tắm Olivia không cần ghé vô tủ này để lấy cái gì

Thời gian lừ đừ trôi lâu ơi là lâu khi ta phải chờ đợi trong tư thế bất tiện tại một nơi tối tăm. Ngay lúc Emma bắt đầu nghĩ rằng mình không bao giờ chịu dựng thêm được phút nào nữa thì cô bé nghe thấy tiếng một cánh cửa mở ra. Ai đó đi ngang qua tủ để khăn trải giường và đi vô nhà tắm. Emma nghe thấy tiếng cửa nhà tắm đóng lại, nhưng không có tiếng ổ khóa bấm lại. Cô bé hồi hộp bước ra khỏi tủ và lắng nghe. Ai đó đang tắm. Chắc chắn người đó là Olivia

Emma lom khom chạy tới cửa nhà tắm. Cô bé chầm chậm vặn nắm cửa tới khi nó mở ra, vừa đủ rộng để nhìn thấy một đống quần áo để trên một chiếc ghế thấp. Không thấy chiếc áo gi-lê. Có lẽ nó nằm bên dưới đống đồ kia? Hay nó ở trong phòng ngủ của Olivia? Emma vù lẹ tới phòng ngủ. Chẳng thấy chiếc áo gi-lê ở đâu. Cô bé cấp tập lật tung vải trải giường và gối lên. Nhìn xuống gầm giường, mở các ngăn kéo, bới tìm trong tủ đứng. Không thấy. Có khi Olivia mặc áo gi-lê ngay cả trong khi tắm?”

Emma chạy trở lại nhà tắm. Giờ Olivia đang vừa ngâm nga một giai điệu rề rề vừa gội đầu. Vồ lấy xấp quần áo, Emma lật úp chúng lại. Và đó, là chiếc áo gi-lê. Khi lôi chiếc áo gi-lê mới ra khỏi túi nhựa, bàn tay Emma bắt đầu run lẩy bẩy. Giờ thì không thể dừng lại được nữa, cho dù cô bé không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu Olivia phát hiện chiếc áo gi-lê lộng lẫy của mình bị đánh tráo. Cầm chặt cái áo bị ếm bùa, cô bé nhét nó vào cái túi nhựa, thay cái mới vô chỗ của nó và đặt mớ quần áo trở lại ghế

“Ai đó?” Olivia gọi sau tấm rèm che vòi sen. “Mẹ, phải mẹ đó không?”

Emma nằm thụp xuống sàn đằng sau chiếc ghế. Olivia ngó ra khỏi tấm rèm. Mắt con nhỏ dính bọt xà bông kín mít nên nó không thấy cái người đang nằm mẹp sau ghế. Khi con nhỏ thụt đầu lại tắm tiếp, Emma bò ra khỏi nhà tắm và chui vô tủ âm tường để khăn trải giường, ở đó nó nhét cái túi nhựa ra đằng sau nồi hơi. Quá trễ để trở lại đóng cửa nhà tắm, Olivia đã khóa vòi sen

Emma chờ. Chờ và đợi. Một người phải mất bao lâu để lau khô người và mặc đồ? Bất thình lình một tiếng rú hoảng loạn vang lên, tiếp nữa là một tiếng thịch. Emma chạy bắn trở lại nhà tắm. Olivia, đã mặc đồ xong, đang nằm ngửa dưới sàn. Mắt con bé trợn trừng và tay nó ôm ghì lấy ngực. Trông bộ như nó bị khó thở. “Á! Áaa! Áaaa!” con nhỏ rên rỉ. Dưới những ngón tay của nó, hết thảy những vòng bạc đính trên chiếc áo gi-lê mới đều đang biến thành những vòng cầu vòng. Chúng bắn tóe ra những tia lửa nổ lép bép, lép bép trong khi Olivia gào thét “Cứu! Ối cứu con! Con sắp chết”

Emma quỳ thụp xuống bên cạnh bạn. “Không phải bồ sắp chết đâu, Liv”, cô bé nói. “Bồ đang sống lại đó chứ”. Emma cầm tay Olivia và giữ chặt lấy trong hai tay mình. Không dễ gì thoát khỏi vòng kìm kẹp của cái ác, cô bé nhận ra vậy, và không sao tưởng tượng nổi cơn đau mà Olivia có lẽ đang cảm thấy

Olivia bắt đầu giãy giụa, quơ tay đạp chân, cánh tay trống của nó vung lên đập thình thình xuống sàn nhà trong khi Emma vẫn cố giữ chặt tay kia

“Gì thế, gì thế?” cô Vertigo lao bổ vô nhà tắm và cúi xuống con gái. “Liv, cái gì vậy con? Có chuyện gì?”

Emma đắn đo không biết làm thế nào để kể sự thật cho cô Vertigo. Cô bé sợ tấm áo gi-lê sẽ bị cởi phắt ra khỏi Olivia trước khi con nhỏ được chữa lành. Nhưng Olivia đột nhiên nằm bất động. Mắt nó nhắm lại, trông cứ như đang yên bình trong một giấc ngủ say

“Nó xỉu rồi à?” cô Vertigo hỏi Emma. “Ố, nó mỉm cười kìa. Emma, sao vậy?”

“Con không biết, cô Virtigo”, Emma nói với chút tội lỗi. “Nhưng con nghĩ giờ thì Liv ổn rồi”

Olivia mở mắt ra. “Chào, Em”, nó nói. “Wow! Đây cảm thấy quái quá”

“Con vừa xỉu đó, cưng!” cô Vertigo nói. “Mẹ nghĩ chắc tại con dậy sớm quá đấy”

“Con cũng nghĩ vậy”, Olivia nói. Nó ngồi lên. “Sao con ngố thế không biết:

Quá sức cho Emma giả đò cư xử như không có gì xảy ra. Bất thần nó ôm chặt lấy nhỏ bạn, reo to. “Ồ, Liv, mình vui là bồ khỏi rồi”

“Mình cũng vậy”, Olivia nói, coi bộ chưa hiểu chuyện cho lắm

Không ai hỏi làm sao Emma vô nhà được, và những dấu bồ hóng trên thảm được cho là do một con quạ gáy xám nữa chui qua ống khói. Không lâu sau Emma và gia đình Vertigo cùng nhau dùng bữa điểm tâm thân mật. Khi chuông cửa reng, bọn con gái vẫn ríu rít chuyện trò, trong khi cô Vertigo ra cửa trước trong tấm áo choàng mầu trắng

Khi cô Vertigo trở lại, trông nắc nỏm lo âu. “Có ba cậu trai tới”, cô bảo bọn con gái, “Bạn của các con”

Trước khi cô nói gì thêm, Tancred Torsson thò đầu vô cửa và nói “Chào, Em. Tìm thấy em tụi anh mừng quá xá. Charlie nói chắc là em ở đây”

Mặt Emma đỏ bừng lên khi cô bé nở với Tancred một nụ cười hân hoan chào đón

“Cả em cũng ở đây” Olivia lên tiếng. “Thật ra, em sống ở đây”

“Anh thấy như là em đã trở lại là em rồi” Tancred nói. “Anh nghe nói dạo gần đây em hành xử kỳ lạ lắm”

Olovia nhăn mặt. “Em bị lừa chứ bộ. Viêc đó sẽ không xảy ra nữa đâu”

Đúng lúc này thì Lysander đẩy Tancred vô sâu trong bếp để bước vô, theo sau là Gabriel Silk. Và cũng đúng lúc này chú Vertigo mới chạy ào xuống cầu thang trong quần jeans và cái áo pyjama màu hồng, nhưng đâu phải ai cũng có dịp nói chuyện với chú ấy, bởi vì chú là một đạo diễn điện ảnh lừng danh

Vậy là lúc này trong nhà bếp tiện nghi của gia đình Vertigo đã hình thành một đám đông chen chúc, nhưng rồi bằng cách nào đó mọi người cũng xoay xở ngồi vô được cái bàn tròn, lại quá hên nữa là vẫn còn đủ nước cam cho ba cậu trai. Lysander chờ cho tới khi chú Vertigo ăn xong quả chuối mới bắt đầu giải thích tại sao mấy cậu lại đến sớm bạch vào một buổi sáng Chủ nhật như vậy

“Đó là nhờ bác Silk trai”, anh nói, liếc nhìn Gabriel một cái. “Cô chú thử tưởng tượng xem ở khu Đồi Cao sương mù dày đặc đến cỡ nào. Chúng cháu không thể nhìn thấy xa hơn hai, ba xăng-ti-mét đằng trước mawtk. Bác Silk gọi điện cho ba cháu và ba của Tancred, nói rằng... ờm, bác ấy thông báo một sự kiện rất kỳ quặc, mặc dù nó đều dễ hiểu đối với chúng cháu, với cháu và Tancred”

“Hừm, không gì trong những sự việc gần đây làm chú hiểu được cả”. Hai bên chân mày chú Vertigo nhíu lại, đan vào nhau. “Dường như tất cả mọi người đang rời khỏi thành phố, đó là một việc làm ngớ ngẩn, theo ý chú thì thế”

“Có chuyện đã xảy ra, chú Vertigo ạ”, Lysander nhiệt thành nói. “Cháu cho là chú đã từng nghe nói đến bá tước Harken?”

Ba mẹ của Olivia tuy làm trong ngành phim ảnh, nhưng điều đó không có nghĩa là họ tinh tường lịch sử của thành phố. Nhưng không ngờ, cô chú lại rất rành rẽ về lãnh vực này, và tất nhiên họ đã từng nghe về thầy bùa bá tước Harken. Họ cũng biết rằng, một ngày nào đó tài phép độc đáo của cô con gái cưng của họ sẽ được cần tới cho một sứ mạng quan trọng hơn là hù dọa mấy đứa trẻ bị xúi làm bậy nhiều

“Chú tưởng tượng là lão ta đã trở lại”, chú Vertigo nói, đoạn nhìn màn sương mù đang bò lan vô khu vườn nhà mình.

“Đúng vậy.” Lysander nhẹ nhõm khi hiểu ra mình sẽ không phải giải thích một tình huống rối rắm hơn. “Chuyện là, cha của Gabriel khuyên tụi cháu hãy đi tới vùng đồng hoang”

“Tại sao?” ba của Olivia hỏi

Mẹ của con nhỏ quan tâm hơn nhiều, “Ai đi?”

“Chúng cháu ak”. Lysander nhìn Gabriel

Hiểu ra ngụ ý, Gabriel tiếp lời, “È, gia đình cháu luôn giữ tấm áo chùng của Vua Đỏ nhưng, chỉ mới gần đây thôi, cha cháu đã trao nó cho người khác, à...è...” cậu hắng giọng. “E...hèm... hiệp sĩ bấy lâu nay luôn bảo vệ tụi cháu, nhưng giờ ba cháu bảo rằng tụi cháu phải tự làm gì đó cho chính mình. Tất cả tụi cháu”. Cậu liếc nhìn Emma và Olivia. “Tất cả những hậu duệ của Vua Đỏ. Hiệp sĩ cần sự giúp sức của tụi cháu để cứu thành phó

“Hiệp sĩ này là ai?” chú Vertigo chất vấn. “Có thể nào ông ta dụ các cháu đến một cái bẫy”

“Cháu không nghĩ thế, chú ạ”. Gabriel nói chắc chắn

Chú Vertigo đứng lên. “Để chú khoác áo vô cái đã. Cô chú sẽ đi với các cháu. Chú không thể các cô gái đi một mình”

“Các bạn ấy đi với chúng cháu rồi, chú ạ”. Tancred nói, “với lại, chúng cháu nghĩ tốt nhất cô chú nên ở lại đây”. Cậu phả một luồng gió nhẹ qua bàn để nhấn mạnh câu nói của mình. “Chúng cháu có tài phép. Chúng cháu có thể tự bảo vệ mình tốt hơn cô chú, nếu cô chú không tự ái khi cháu nói vậy. Ông Yewbeam sẽ tới đó, cả bà Kettle và cô Alice Angel nữa”

“Cô Alice ư?” cô Vertigo nhìn con gái

“Cô Alice Angel? Sao mẹ không nói cho con biết?” Olivia kêu lên. “Con sẽ an toàn tuyệt đối nếu có cô Alice ở bên con”

“Nếu con nói vậy thì...” cô Vertigo úp mặt vô tay. “Ý con là ba mẹ sẽ phải ngồi nhà và chờ á?”

“Đúng thế đó, cô Vertigo”, Tancred hồ hởi. “Cháu nghĩ, tốt hơn giờ chúng cháu nên đi đây, vậy nếu hai bạn nữ....”

“Sẵn sàng trong một giây” Olivia phóng vèo ra khỏi phòng, lên làu. Vài giây sau nó trở lại trong cái áo phi công màu xám bạc, giày ống đen và mũ trắng có vành che tai lót lông thú giả. “Là-lá-la! Em sẵn sàng!” con nhỏ tuyên bố

Emma mỉm cười. Thật dễ chịu khi lại nhìn thấy đúng con nhỏ bạn Olivia của mình

Hôn chào từ biệt ba mẹ thật lẹ xong, Olivia theo cả bọn ra ngoài trời mù sương. Trạm kế tiếp của chúng là nhà số 9 đường Filbert

Charlie đang chờ bọn chúng ở khung cửa mở toang trước nhà. Ngay khi thấy đám bạn rẽ sương mù hiện ra, nó liền gọi toáng lên cầu thang và ông cậu nó xuất hiện tức thì, với mũ phớt và áo khoác dài như thường lệ. Tay ông cầm một cây ba-toong vững chãi mà Charlie chưa từng trông thấy bao giờ

Cô Alice Angel từ cầu thang lầu thứ hai đi xuống, theo sát nút cô là Billy. Khi cô xuống tới hành lang, Olivia trông thấy cô thì lao bổ lên cầu thang, hét lớn, “Cô Alice! Cô Alice! Gặp cô con mừng quá!”

Cô Alice ôm chầm lấy con nhỏ. “Cô cũng sung sướng lắm, Olivia, cưng”

Ngoại Maisie và bà bếp trưởng ra khỏi nhà bếp, và ngoại Maisie than thở, “Còn chúng tôi, bà bếp trưởng và tôi sẽ phải làm gì đây? Chỉ việc ngồi chờ và đoán già đoán non thôi ư? Thế bà Bone thì sao?”

“Bà ấy chằng gây phiền hà được cho bà nữa đâu”, cô Alive bảo bà. “Chúng tôi sẽ trở về ngay thôi, bà Maisie thân mến à. Đừng lo lắng nhé”

“Tôi sẽ ở bên bà”. Bà bếp trưởng khoác cánh tay ngoại Maisie. “Chúng ta sẽ cũng nhau giữ thế cân bằng”

Ngoại Maisie tỏ ra yên lòng lập tức. Tuy vậy bà vẫn phập phồng đứng ở cửa bếp nhìn hai nhóm gặp nhau ở chân cầu tang để rồi cùng nhau tiến ra đường Filbert.

“Chúc may mắn!” ngoại Maisie và bà bếp trưởng cùng nói to

Bảy đứa trẻ và hai người lớn quay lại, vẫy tay với họ

Đoàn quân khởi hành trong im lặng, một trạng thái khác thường đối với một số người trong đoàn. Ngay cả Olivia cũng không nói gì, mặc dù nó bóp chặt bàn tay của Emma. Tính trọng đại của sự kiện cuối cùng đã đạt tới đỉnh điểm, và tất cả mọi người ai nấy đều vướng bận với những suy nghĩ của riêng mình

Đi được nửa quãng đường Đồi Cao, có thêm hai người nữa đâm thủng sương mù hiện ra, một người cao lừng lững và một người thấp hơn. Bà Kettle và Dagbert đang chờ mọi người tại đây. Khi họ tiến tới găp nhau, vẻ mặt rạng rỡ và dáng người vững chãi của và Dettle thình lình khuấy động lên tiếng nói cười rộn rã trong nhóm, thế rồi cùng nhau họ dấn bước đi tới

“Julia mạng khỏe chứ?” Ông cậu Paton hỏi thăm bà Kettle

“Khỏe,” bà đáp. “Đường Piminy bây giờ hoang vu. Chẳng còn ai ở đó để mà quấy nhiễu cô ấy nữa”

“Vậy có nghĩa là tất cả bọn chúng cũng đi vô vùng đồng hoang” Ông cậu Paton suy luận

“Quá đúng”, bà Kettle đồng ý, “Mà chúng ta có thể đương đầu với bọn chúng được quá đi chư?” Bà phẩy vạt áo khoác ra sau, vỗ vô đùi mình, và tất cả mọi người liền trông thấy cái cán bằng đồng của một thanh gươm lớn, tra trong vỏ gươm hình tròn, đính vô dây thắt lưng của bà

Charlie bỗng nhận ra, ngoài bà Kettle, cả đoàn không ai có một tấc khí giới nào trong tay. “Mỗi người chúng ta có nên có một món thế này?” nó hỏi, nhìn chằm chằm vô thanh gươm

“Mấy cưng có tài phép của mình rồi, cưng yêu”, bà Kettle bảo

“Xem ra như vậy là không nhiều” Charlie lầm bầm. Nó nghĩ về chính nó. Đi vô tranh không hữu dụng để chiến đầu, cả tài thần giao cách cảm của Gabriel cũng chẳng ích chi. Lại còn Billy thì nữa? Liên lạc với thú vật để làm gì khi mà xung quanh cahwnrg có con thú nào

“Nghe đây, mấy cưng”, bà Kettle nói sang sảng. “Mấy cưng là con cháu của Vua Đỏ. Đó là tất cả những gì mấy cưng cần khi thời cơ tới. Tôi nói vậy có đúng không, Alice?”

Cô Alice mở một nụ cười bí hiểm. “Đương nhiên!”

Và thế là đoàn quân lại đi tiếp, Dagbert nhịp bước đi bên cạnh Charlie. Bọn mình phải xưng hô với nó thế nào bây giờ? Charlie tự hỏi. Bởi vì Bagbert không còn mùi tanh cá như trước kia, khiến người ta phải bịt mũi mỗi khi nó đến gần. Da của nó đã mất đi màu xanh như tàu lá, cho dù vẫn còn tái. Charlie không thể tưởng tượng nổi biến cố mất cha theo cách thức kịch tính như trường hợp của Dagbert là thế nào. “Thằng đại dương”, Charlie lầm bầm với Dagbert, “Mày vẫn còn có thể... ờm, mày biết đấy?”

Dagbert gật đầu. “Tao vẫn chưa mất cái đó!”

Chợt có tiếng hò hét từ xa. Quay lại, Charlie thấy Hạt Đậu đang lao phầm phập về phía họ. Benjamin và Fidelio chạy gấp rút đằng sau

“Ông cậu!” Charlie gọi Ông cậu Paton, đang cùng với bà Kettle dẫn đầu cả đoàn. “Chúng ta có thêm hai người nữa... và một con chó”

Ông cậu Paton dừng bước và đoàn quân theo sau ông cũng khựng lại. Tất cả cùng ngoái nhìn hai thằng bé đang phóng như bay tới chỗ họ. Fidelio và Benjamin tới nơi, thở hồng hộc và cười tươi tỉnh, trong khi Hạt Đậu nhảy chồm chồm vòng quanh, tí tởn sủa ầm ĩ cả lên

“Mọi người đi mà không gọi bọn cháu!” Benjamin than phiền

“Ngoại Maisie bảo cho tụi cháu biết mọi người đang đi đâu”, Fidelio thêm. “Đáng ra mọi người phải cho tụi cháu biết với chứ”

Lysander bước lên trước và nói, “Xin lỗi hai em. Hai em không thể đi được. Các em không được ban phép thuật”

“Thì sao?” Fidelio phản đối

“Các em sẽ không an toàn,” Tancred tiếp tời. “Các em cần phải được bảo vệ”

“Tụi em có Hạt Đậu”, Benjamin nói đầy thách thức, “Và tụi em không thể bị gạt ra ngoài”

“Thế còn ba mẹ các con thì sao?” cô Alice dịu dàng hỏi. “Các con có nói cho ba mẹ biết các con định làm gì không?”

“Tụi cháu đã viết lại mẩu thư nhắn rồi”. Fidelio nhìn mọi người đầy tự tin. “Tụi cháu sẽ đi. Thế thôi”

“Rất tiếc các cậu”, Ông cậu Paton bắt đầu. “Nhưng các cậu...”

Lời ông bị cắt ngang bởi một tiếng ầm, vang trời từ phía sau. Trụ đèn giao thông vừa mới bị tróc đổ, nằm vắt ngang vỉa hè. Những bóng đèn tín hiệu bể nát và thân cột nằm toài ra tận giữa đường. Có thể thấy những dáng hình lờ mờ của mụ Branko và hai chị em sinh đôi đang đứng bên cạnh đống bóng đèn

“Giờ tụi cháu không thể rút lui rồi”, Fidelio hớn hở la lên. “Tốt nhất ông hãy cho tụi cháu gia nhập mọi người”

Ba người lớn đành chấp nhận tình thế này, thế là Benjamin và Fidelio nối đuôi đi sát gót Cahrrlie. Nó phải thú thật rằng nó vui mừng khôn xiết khi có hai thằng bạn thân nhất đi kèm, vào cái ngày mà nó đoán sẽ là ngày dài nhất trong cuộc đời nó. Quân số của toàn đoàn bây giờ là mười bốn, nếu tính luôn cả con Hạt Đậu

Đoàn quân đi. Tất cả mọi người một lần nữa lại im lặng, nhưng phía sau họ gia đình Branko đang điên cuồng chống phá, thể hiện đỉnh điểm tài phép của bọn chúng. Những ống khói đổ kềnh, những biển hiệu trên cửa sổ các tiệm bán hàng rớt xuống, những cánh cửa gãy bung. Charlie cố phớt lờ những tiếng động ấy. Tiếp theo, một cây cột đèn đường ngay trước mặt đoàn quân thình lình đổ ầm xuống vỉa hè, bóng thủy tinh nát vụn thành hàng ngàn mảnh. Thế này là quá đủ đối với Ông cậu Paton. Phóng bật ra giữa đường, ông nhìn xoáy vô mẹ con nhà Branko, rồi ngước mắt lên một cửa sổ sáng đèn trên cao một tòa nhà bên cạnh gia đình siêu năng. Và một tiếng nổ đinh tai, kính cửa sổ vỡ toang, trút một trận mưa thủy tinh xuống nhà Branko. Vừa kêu thét vừa nguyền rủa, bọn chúng vội cút thẳng ra khỏi đường phố

“Chúng ta sẽ có một chút yên bình trong khi bọn chúng liếm vết thương”, Ông cậu Panton nói, rồi lại hiên ngang bước lên đường Đồi Cao

Khi đoàn đi nagng qua quảng trường dẫn vô Học viện Bloor, Charlie thắc thỏm sợ Manfred và mụ tilpin sẽ xổ ra. Nhưng không ai xuất hiện. Một lát sau nó nhận ra là đã có thêm hai người nữa gia nhập hàng ngũ của mình. Ngoái nhìn ra sau vai, Charlie kinh ngạc khi thấy giáo sư Saltweather và xê-nho Alvaro

“Giáo sư Saltweather, em không biết....” Charlie há miệng

Lysander, Gabriel và Tancred quay lại và ngó trân trân hai thầy giáo. Emma và Olivia kêu hốc một tiếng

Xê-nho Alvaro mỉm cười với Charlie, nói, “Tiến lên, Charlie Bone”

Bọn học trò chạy lên để bắt cho kịp Ông cậu Paton, bà Kettle và cô Alice – tất cả đang thẳng bước rầm rập về trước, mặc dù Billy có dừng lại, một thoáng thôi, để nói chuyện với Hạt Đậu

Vùng đồng hoang nằm ở phía bên trái họ, ngay bên kia Học viện Bloor. Đó là một khu đất trải dài cả dặm, cỏ mọc um tùm và cây bụi gió lùa nghiêng ngả. Ở đằng xa, có một dải đá tảng nhô lên khỏi mặt đất, trông như những đốt sống của một con rắn biển khổng lồ. Sương mù khiến cho dải đá như đang nổi lềnh bềnh phía trên mặt đất. Toàn bộ nơi đó hoang vu. Không thấy tăm hơi Hiệp sĩ Đỏ. Cả đoàn đứng lại bên vệ đường, ngóng và chờ

Một tiếng gừ báo động trong cổ họng Hạt Đậu, và rồi họ thấy đàn chó. Hai con chó săn giống Rottweiler đang lao hùng hổ về phía họ từ hướng khu Đồi Cao. Chúng hiển hiện là cặp chó khát máu nhất Charlie từng thấy. Tưởng tượng nững hàm răng nhọn hoắt kia bập vô da thịt mình, bập vô da thịt của tất cả mọi người đang đứng đó, nó choáng sốc đến nỗi gần như không nhúc nhích được. Đằng sau cặp chó là Dorcas Loom và hai thằng anh to xác của con này

“Tiến lên, Cục Súc! Tiến lên, Tê Giác! Bắt chúng!” Hai thằng anh thục giục lũ chó

Hạt Đậu gầm gừ một cách dũng cảm, quay lấy người bên phe của chú ta theo hình bán nguyệt để bảo vệ họ; nhưng tất cả ai cũng đều biết chú ta không thể có cơ may địch lại lũ chó săn Rottweiler kia. Trong chớp nhoáng, không ai nghĩ được phải làm gì. Bà Kettle rút gươm ra, Tancred chuẩn bị gọi bão, nhưng đúng lúc mưa lác đác rơi, Billy Raven bất thần bước lên trước, rú rít, sủa và tru tréo về phía hai con chó hung tàn

Cặp chó giống Rottweiler dừng sựng lại, ngồi thụp xuống và bắt đầu tru rú đáp trả Billy

“Nó nói gì đó? Dagbert thì thào

“Không thể biết được”, Charlie đáp. “Nhưng hình như đang hiệu nghiệm”

Bọn nhà Loom điên giận gào thét, thúc hối lũ chó tấn công, nhưng, bất thình lình, lũ chó giống Rottweiler quay ngoắt lại, chồm tới vồ chính chủ nhân của chúng. Những hàm răng mạnh bạo cắm ngập vô xương và cơ bắp. Với tiếng la xói óc, Dorcas đổ sụp xuống đất, kế tiếp đến hai thằng anh gục nhào, thằng này té chồng lên thằng kia. Hai con chó giống Rottweiler chạy vòng quanh ba tấm thân, gừ gầm đầy nguy hiểm. Khi đã hài lòng rằng đám nạn nhân này không còn khả năng đe dọa chủ nhân mới của mình nữa, chúng bước lại gần Billy và liếm hai tay thằng bé

“Giỏi lắm!” Billy khen, ban đầu bằng tiếng người, sau đó bằng tiếng thú

“Giỏi lắm, Billy”, Ông cậu Paton nói và cả đoàn quân cùng đồng thanh, reo hò, “Giỏi lắm, Billy! Giỏi lắm!”

Billy cười toe toét và vỗ vỗ đầu mấy con chó

“Ba đã gục, còn hai nữa”, Charlie lẩm bẩm một mình

“Em ngụ ý tới Manfred và Joshua phải không”, Tancred nói, “nhưng đừng quên mụ tilpin

“Eric nữa. Tụi mình không thể quên nó. Coi kìa!” Lysander chỉ về phía mảng sương mù đang bay dạt ùn ùn phía trên vùng đồng hoang. Và đoàn quân thấy những hình thù mà lúc nãy họ tưởng là đá bây giờ đang chuyển động tới trước. Khi đến gần hơn, những hình thú đó hiện rõ là những sinh vật kềnh càng, lê bước

“Eric!” Charlie thét. “Giờ chúng ta phải làm gì?”

“Ngăn chúng lại”, Tancred bảo

Tức thời một tiếng sấm long trời cùng một luồng chớp băn xuyên qua sương mù, đâm nứt sọ của một trong những con thú bằng đá. Không suy suyển gì. Những sinh vật khác vẫn tiến tới, và giờ mọi người có thể thấy một thân hình bé tẹo nhảy loi choi đằng trước hàng thú vật, hò hét chúng xông tới, làm chúng sống động tới mức không còn lê bước nữa mà là chạy, những bàn chân khổng lồ dậm những cơn sóng chấn động xuống mặt đất

Tancred cởi áo khoác ra, quay tít trên đầu. Mái tóc vàng của cậu tóe lửa khi một cơn gió giật cấp mạnh xe toạc màn sương mù. Màn sương mỏng vẹt đi, bay cao lên, để lộ cảnh tượng mà lúc nãy họ đã không trông thấy

Sương mù đã giấu một đội quân quỷ lùn và những sinh vật mà chỉ có thể gọi là nửa người nửa thú. Từng con đều trang bị vũ khí. Thương, đao, rìu sáng loa lóa trong ánh mặt trời yếu ớt. Vài tên vung dùi cui, có nhiều tên xài giằng ná

“Lính đánh thuê của bá tước Harken” Ông cậu Paton làu bày, đoạn từ cây ba-toong của mình, ông rút ra một thanh gươm lưỡi mỏng, trông tựa như một thanh trường kiếm. Ngay khi thanh gương gặp không khí, một luồng điện phóng ra từ tay ông, chạy dọc suốt chiều dài của thanh thép. “Phải thế chứ”, ông nói với vẻ mãn nguyện. “Chúng ta đi”

“Ôi chao, Paton Yewbeam, ông cao thêm ba tấc nữa đấy”, bà Kettle tán dương và bước tới sát cánh bên ông

Quả vậy, Ông cậu Paton đã biến thành một người khổng lồ.... một người khổng lồ hơi gầy, Charlie nghĩ, nhưng dù sao cũng là một người khổng lồ, với vũ khí bảo đảm bất cứ kẻ nào chạm vô sẽ chết chắc

Cơn bão của Tancred vẫn vũ phía trên bọn thú đá và, mặc dù những sinh vật đó vẫn xông tới nhưng chúng đã bị cản bước đáng kể, còn đội quân quỷ lùn thì chật vật lê lết trong làn gió băng giá đánh vỗ mặt chúng

Đoàn quân dàn thành một hàng xộc xệch phía sau hai thủ lĩnh của mình và Charlie thấy nụ cười quyết đoán nở trên vài gương mặt tươi tắn xung quanh. Mọi người đã bắt đầu tin chắc quân mình sẽ chiến thắng

Bỗng từ đâu đó đằng sau đoàn quân, một hòn đá phóng vút qua không khí, và rống lên một tiếng đau đớn, Dagbert đổ ập xuống đất. Những người khác hình như không để ý, nhưng khi Charlie quỳ xuống bên cạnh Dagbert, nó thấy một hàng những hình nhân hoang dại đang trên đường tiến vô vùng đồng hoang. Đó là bọn du côn đường Piminy. Một mụ già tóc đỏ đang giương cái giằng ná thiện xạ của mụ, miệng cười lục khục, khoái trá. Bọn khác kẻ cầm dùi cui, đứa cầm dao, cầm búa

Charlie không biết phải làm gì. Nếu nó báo động cho bạn bè thì tất cả họ sẽ quay lại và đội quân quỷ lùn sẽ bay tới tấn công họ. Nhưng đã quá trễ. Olivia cũng đã trông thấy cái bọn trên dường. “Coi kìa!” con nhỏ la lên. “Chúng ta bị bắt rồi”

Khi đoàn người quay lại, bọn lưu manh trên đường xông tới đón họ. Nhưng trước khi Charlie đứng lên được, nó bị một dùi cui quất ngang người, dúi nó vập mặt xuống cỏ lẫn với đá.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Trận quyết tử


Khi Charlie mở mắt ra, nó không thể thấy hết chiến trường sôi sục quanh mình. Nó đã đọc sách mô tả những trận chiến ác liệt, nhưng không trận nào giống với trận này. Khắp chốn nó nhìn tới đều đang diễn ra một cuộc quyết đấu sinh tử

Nó thấy những tổ tiên tâm linh của Lysander bao vây một toán quỷ lùn rống la; nó thấy Olivia làm hiện lên một cánh quân quái vật, chỉ để bị bốc hơi bởi một mụ Tilpin hể hả. Mụ phù thủy này đang phóng mưa đá ra khỏi những ngón tay dài, trắng trợt của mụ. Nó thấy Gabriel đang vờn Josshua, và một con chim khổng lồ đâm bổ xuống, quắp lấy cổ Joshua, tha nó ra khỏi vùng đồng hoang. Ông Torsson đã tới và đang cùng với con trai Tancred dội sấm chớp xuống bọn thú đá

Charlie lăn lê qua đấu trường gào thét giao chiến. Nó không còn thấy Dagbert đâu, sau đó nó thấy một con báo ngồi canh thân thể của một thằng bé. Phải thằng đó là Dagbert? Nó thấy hai con báo khác đang tấn công bọn thú đá, rồi tới Hạt Đậu và hai con chó săn giống Rottweiler vù chíu qua, cùng với Billy Raven sát sạt đằng sau, sủa lên những mệnh lệnh

Bà Kettle đang san phẳng tất cả mọi thứ lọt vô bước tiến của bà. Thanh gươm nặng vung chém những cái đầu, những cái cẳng và thân mình. Bên cạnh, Benjamin, Fidelio và Gabriel dùng nắm đấm và cú đá để hạ gục luôn những nạn nhân của bà

Charlie đứng dậy. Chân cẳng nó run, thấy khó đứng vững được và nó cảm thấy mình vô dụng vì không có vũ khí. Một sinh vật gớm ghiếc chột mắt lù lù xông tới nó, vung cao một cái rìu. Charlie lùi vô đám đông, chờ cái rìu bổ xuống. Nhưng một người đàn ông tóc trắng như mây tóm nang thắt lưng tên cướp, đẩy hắn ra xa. Tên mắt chột rống lên điên tiết và lại vung rìu lên, chỉ để cho bàn tay bị chặt rời bởi một nhát chém bén ngọt từ thanh gươm bạc mảnh mai của xê-nho Alvaro

Charlie chớp mắt. “C..” nó há miệng, nhưng hai đấu sĩ đã lùi sâu vô chiến trận. Charlie nhìn quanh tìm bạn bè cầu cứu. Nhưng bạn bè nó đều đã bị cuốn mất hút vào thế giằng co của chiến trường

Một đòn phang mạnh lên vai nó, nó quay lại và dụng sát ngay bọ mặt của mụ Tilpin. Mà có đúng là mụ Tilpin? Bởi mắt mũi mồm miệng trên miệng của con mụ này tất cả đều xệch xẹo, quái đản đến nỗi nó không dám nhìn vô

“Đây là kết cục cho mày, Charlie Bone!” mụ phù thủy rít nhức óc. Mụ cắm những móng tay nhọn vô vai nó. Sâu hơn, sâu nữa. Và khi cơn đau nhưng, Charlie nghĩ mình sẽ chết, nhưng chưa chết hẳn để còn thấy cô Alice Angel cúi sát gần mình và xỉa một luồng sáng tinh khiết vô cặp mắt thần chết của mụ Tilpin

Mụ phù thủy hai tay bưng lấy mặt, quay lùi lại, rú lên thảm thiết. Một giây sau, mụ nằm ngay đơ dưới đất. và cô Alice tiếp tục tiến lên

“Charlie!” Tiếng gọi đó là từ Ông cậu Paton, đang xông xáo qua trận tiền về phía Charlie. Thanh gươm tóe lửa của ông làm tê liệt mọi kẻ thù chạm vô nó, và trên đường ông đi tới đâu nạn nhân của ông đổ la liệt xuống đất tới đó

Niềm hy vọng dâng cao, Charlie lao về phía ông cậu, thét lớn. “Chúng ta chiến thắng, Ông cậu Paton! Chúng sắp thắng rồi”

Một mũi tên bay ra không biết từ đâu. Mới thoáng trước nụ cười chiến thắng của ông cậu còn ở trước mặt Charlie, thì thoáng sau nó đã vụt tắt và Ông cậu Paton nằm dài ngay dưới chân Charlie, với mũi tên cắm trên ngực

Tiếng thét của Charlie át cả những âm thanh chiến trận, và dội âm đi mãi, đi mãi. Tiếng thét vẫn không dừng, ngay cả khi Charlie đã ngậm miệng lại và đổ gục bên cạnh thân thể bất động của ông cậu. Nhưng đến khi tiết thét ngừng vang thì một bầu im lặng rợn người rơi tòm xuống vùng đồng hoang. Và nó cảm nhận một sự rùng chuyển quái dị, không gây tiếng động ở đâu đó không xa mình. Khi nó ngước nhìn lên, đám quân quỷ lùn và bọn thú đá, tụi du côn đường Piminy và tất cả lũ lính đánh thuê của lão thầy bùa đều đã rút lui. Charlie được vây quanh bởi bạn bè, chính xác là hầu hết bạn bè. Nó không thể thấy Fidelio hay bà Kettle hay Dagbert hay xê-nho Alvaro. Gabriel đâu?

“Chúng ta đã thắng rồi à?” Charlie đau khổ hỏi, bởi vì làm sao gọi là thắng cho được nếu như ông cậu nó đã chết?

“Chưa đâu, Charlie” Lysander đáp

Và đột nhiên Charlie thấy, ở phía bên kia vùng đồng hoang, một hiệp sĩ cưỡi ngựa mắc giáp sáng ngời. Hắn ta khoác áo chùng xanh lá cây và cái chum hình lá trang trí trên mũ giáp của hắn xoáy tít trong không khí, trông tựa như chùm lá cây độc cần màu xanh. Ngựa hắn cưỡi là một con ngựa chiến màu đen, con vật khịt ra một hơi thở nóng như lửa và phóng đôi móng guốc dữ tợn màu trắng lên bổ vào không khí

Lực lượng của lão thầy bùa dàn thành một hàng đằng sau hắn. Nhưng bọn sinh vật đá nằm thành những đống bất động giữa hai phe. Chúng bị đánh gục bởi ai? Charlie tự hỏi. Những luồng chớp cấp tập của cha con nhà Torsson đã bắn chúng thành từng mảnh, hay Eric, kẻ phà hơi tiếp sức cho chúng, cuối cùng đã bị hạ?

“Đi, Charlie!” cô Alice đỡ nó đứng dậy

“Chuyện gì đang diễn ra vậy?” nó hỏi mà mắt vẫn không rời con ngựa chiến lồng lộn và kỵ sĩ xanh lá cây từ đầu đến chân

“Chúng ta tiêu đời, thế thôi”, Olibia nói

Cô Alice bắn vô con bé một ánh nhìn nghiêm khắc. “Không”

Nhưng Olivia nhìn những thân hình lộn xộn nằm vương vất quanh đồng hoang. Lũ báo đang di chuyển con thoi giữa những thi thể, cào và rú lên với họ. “Không còn bà Kettle và ông Yewbeam... và không còn.. không còn...” Olivia bị nghẹn lời, và con chim khổng lồ bên cạnh Olivia dúi đầu vô ống tay áo con nhỏ

“Chúng ta phỉa chiến đấu đến cùng”, cô Alice nói. “Chúng ta không cho phép hắn chiếm thành phố dễ dàng như vậy. Chúng ta không cho phép hắn đưa chúng ta trở về cuộc đời không đáng sống. Không đời nào”

“Không bao giờ”, giáo sư Saltweather uy nghiêm cất tiếng

“Không!” Tancred và Lysandeer hòa giọng, mặt các anh lộ rõ vẻ quyết chiến

Nhưng Charlie thấy nước mắt lóng lánh trong mắt cô Alice và nó biết rằng cô không tin chắc hoàn toàn vào kết cục của trận chiến này

Một tràng cười rợn tóc gáy rền khắp vùng đồng hoang – nghe ầm ầm ngạo nghễ và chết chóc. Giọng lão thầy bùa dộng mạnh vô tai mọi người như thể lão đang đứng sát bên họ

“Về nhà đi!” lão rống. “Chấm hết. Thành phố này là của ta”

“Không” cô Alice thì thầm

“Không”, tất cả đồng thanh cùng thì thầm, mặc dù mỗi người đều tự hỏi tại sao mình đứng đây, chờ chết

Lão thầy bùa đá thúc con ngựa của lão, và con thú to xác lồng lên phi nước đại về phía họ. Họ cố giữ nguyên hàng ngũ, nhưng Hạt Đậu và lũ chó săn Rottweiler bắt đầu tru tréo. Chúng nằm mẹp bụng xuống và ngó ngoáy chuồn đi. Ai có thể trách chúng nào?

Lão thầy bùa vẫn xông tới, đám quân của lão theo sau. Phe thiện lùi xuống một bước, rồi một bước nữa

Tại sao? Charlie tự hỏi. Những ánh chớp và những tổ tiên tâm linh đâu cả rồi? Tại sao con chim khổng lồ rúc sát vô người bạn của nó? Tại sao Billy không nói chuyện với lũ chó? Tại sao nước mắt lăn giọt trên má cô Alice?

Tất cả họ đã tê liệt, Charlie nhận thấy vậy. Thế tức là chúng ta đã thua.

Bất thình lình một luồng chớp sáng rực chiếu xuống lối mòn vắt ngang qua vùng đồng hoang. Ba con báo nhảy bật dậy, tai chúng dựng về trước, con ngựa chiến màu đen đột ngột lồng dựng thân trước lên, như thể luồng chớp kia là một luồng điện chết chóc hiện ra trước mặt nó

Lũ báo bây giờ đang đồng loạt phóng như bay về phía nguồn phát ra ánh chớp và Charlie thấy, trên đồi nơi rìa vùng hoang, ánh chớp sáng loáng của thanh gươm do một hiệp sĩ trên lưng bà ngựa trắng giơ lên. Lũ báo tới được chỗ bà ngựa khi bà bắt đầu phi xuống đồi; tấm áo chùng đỏ của hiệp sĩ tung bay đằng sau ngài và lũ báo hòa nhịp phong stheo sau bà ngựa trắng

Lão thầy bùa quay ngựa của lão lại. Môt lần nữa rú lên tràng cười. “Cuối cùng cũng tới!” lão gầm lên. “Chúng ta sẽ kết thúc thù này”

Ở chân đồi Hiệp sĩ Đỏ ghì cương. Và giờ họ đối mặt nhau – Hiệp sĩ Đỏ và Kỵ sĩ Xanh Lá Cây – chỉ với một trăm mét ngăn cách giữa họ. Họ tuốt gươm ra và bắt đầu xông tới.

Bất thần Charlie thấy mình đang chạy, bị thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi ghê gớm nhất mà nó chưa từng bao giờ cảm thấy. Nó có thể nghe thấy tiếng bạn bè gọi nó trở lại, nhưng nó không thể dừng. Nó cần phải chạy tới giữa hai con ngựa. Bởi vì nó biết rằng Hiệp sĩ Đỏ là một người đàn ông. Có thể ông ấy khoác tấm áo chùng nhiệm màu và mang thanh gươm bất khả chiến bại, nhưng ông không phải là thầy pháp, vì vậy làm sao ông có thể đánh bại cái kẻ mà mỗi ngón tay đều xoắn đầy những thứ ma thuật chết người?

Charlie đã quá trễ. Một tiếng chát của thép và vào nhau, báo hiệu hai hiệp sĩ đã giao đấu và trận chiến bắt đầu. Charlie khụy gối xuống, lũ báo lập tức vây quanh nó, hích vai nó và rù rì vô tai nó. Hay là chúng biết điều gì đấy mà nó không biết?

Cuộc đối đầu diễn ra thần tốc và quyết liệt. Mọi thế lừa, mọi ngón đòn đều được lão thấy bùa đem ra sử dụng chống lại đối thủ. Vũ khí của lão hết nóng đỏ lại lạnh băng đi; lão đâm dồn dập lên mũ giáp của Hiệp sĩ Đỏ và chém xối xả vào những mắt xích của bộ giáp, trong khi con ngựa chiến màu đen khác lửa vô mắt bà ngựa trắng

Hiệp sĩ Đỏ đang dần đuối sức. Đầu ngài đổ trước, thân ngài lắc lư trên yên ngựa, thanh gươm hạ thấp. Kỵ sĩ Xanh Lá Cây chuẩn bị xông tới thực hiện nhát đâm tàn cuộc

“Không!” Charlie thét to và một lần nữa nó bật chạy. Vận tất cả sức mạnh, nó phóng chộp lấy bộ yên của con ngựa chiến, húc vô đầu con vật. Lão thầy bùa vung khí giới lên. “Thằng đáng nguyền rủa!” lão gầm. Và, bất thình lình, lão kêu hực một tiếng khi thanh gươm bất khả chiến bại đâm trúng đích, thọc qua tấm giáp che ngực, thẳng vô tim Kỵ sĩ Xanh Lá Cây

Con ngựa chiến lồng lên, lão thầy bùa tuột khỏi lưng nó. Lão rơi xuống đất một tiếng xèng, hệt như chuỗi hòa âm của những não bạt1 khổng lồ, thanh gươm vẫn cắm trên ngựa lão

Charlie té bật ngửa ra cỏ. Phía trên nó, màn sương mù bay lên cao và nó có thể thấy bầu trời xanh và mặt trời rực rỡ. Đội quân ma quái hình như đã bốc hơi cùng với sương mù, và lũ ma cà bông đường Piminy đang cà thọt biến đi; đầu gục rũ, trang phục lòe loẹt rách te tua. Trông chúng thảm hại đến nỗi Charlie suýt nữa thì thấy tội nghiệp bọn chúng

Khi ngồi dậy, nó thấy những người bạn đã ngã xuống của nó không bị thương nghiêm trọng. Cô Alice Angel đang nâng đầu Ông cậu Paton. Fidelio đã đứng lên. Ba con báo đang di chuyển vòng quanh những người bị thương, rừ rừ và hích họ trở về với cuộc sống

Lysander và Tancred nhào tới bên Charlie. “Hắn tiêu rồi!” Lysander rao vang

“Không một dấu vết”, Tancred phụ họa. “Chết tươi!”

Đúng vậy thật. Không hề có một tàn tích nào về lão thầy bùa, mặc dù thanh gươm bất khả chiến bại đang nằm ở chỗ lão vừa ngã xuống và kê sbene là con ngựa chiến màu đen đang nhai cỏ rào rạo

“Nhưng còn Hiệp sĩ Đỏ!” Charlie nói, đứng lên

Ngài nằm ngửa, chỉ cách nó vài mét. Bà ngự trắng đứng kề bên ngài. Chốc chốc bà lại hất chiếc mũ giáp méo mó, hít hít động viên ngài. Máu rỉ ra qua những vòng thép trên ngực và hai cánh tay hiệp sĩ. Máu cũng ụa ra bên dưới mũ giáp của ngài. Ngài đã chết trong khi thực hiện cú đòn quyết tử vô tim lão thầy bùa?

Charlie chạy đến bên nài. “Chúng ta phải làm gì đây?” nó nhìn bạn bề

“Nên cởi mũ giáp ra!” Lysander để xuất

Charlie sợ. Bất giác nó không muốn biết nhân dạng của Hiệp sĩ Đỏ. Phép bùa có thể đã chấm dứt. Nhỡ hiệp sĩ chết rồi? Nhưng mình phải biết, nó nghĩ. Nó quỳ xuống cỏ và nhẹ nhàng tháo mũ giáp ra

Một gương mặt quen thuộc mỉm cười lên với nó

Charlie không thốt nên lời. Cơn sửng sốt, cộng với niềm vui của nó quá lớn. Nó cảm thấy bạn bè quây đằng sau nó lẩm bẩm, “Không thể nào!” “Ối, thật ư?” “Sao chúng ta không biết?”

“Ba!” Charlie thở hốc lên

(1): Não hạt (cymbol) là một nhạc cụ trong bộ trống hoàn chỉnh, phát ra những tiếng “xèng”. Lão thầy bùa mặc áo giáp té xuống nên phát ra tiếng động giống như vậy. (ND)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: Sào huyệt của quỷ


Thành phố vẫn chưa hoang vắng hoàn toàn. Cảnh sát Singh và cảnh sát Wood đến vùng đồng hoang ngay sau khi trận chiến chấm dứt. Thêm nhiều cảnh sát nữa đến. Xe cứu thương đậu ở rìa cỏ và nhân viên cứu hộ chạy ùa đến chỗ những thương binh.

Chú Lyell Bone được khiêng lên một chiếc băng ca và được đưa vô một xe cứu thương. Charlie được phép đi cùng ba nó. Ngay trước khi cửa xe đóng lại, cảnh sát Singh đến bên Charlie và hỏi thăm tình trạng của nó thế nào. “Trông cậu bầm dập đầy mình đấy, cậu trẻ”, ông nói. Rồi ông nhìn xoáy vô Charlie như thể ông thích thú đặc biệt về nó lắm

“Cháu không sao”, Charlie nói. “Cháu chỉ lo cho ba cháu thôi. Và cả mẹ cháu nữa. Mẹ cháu chắc chắn phải biết những chuyện đã xảy ra”

“Biết chứ”, cảnh át Singh nói. “Chú vừa mới gọi điện cho cô ấy xong”

Charlie bối rối. “Chú biết mẹ cháu ở đâu à? Nhưng sao chú biết?”

“À”, ông cảnh sát trả lời. “Chính mẹ cháu sẽ phải trả lời câu hỏi này của cháu”

Mẹ Charlie đang đợi nó ở bệnh viện, và sau khi ôm nó đến gần nghẹt thở, cả hai mẹ con tới đợi trong hành lang, trong khi chú Lyell được rửa vết thương

“Con không hiểu”, Charlie lặp đi lặp lại. “Ba mẹ đã ở đâu bấy lâu nay? Mỗi khi nghĩ về ba mẹ con luôn thấy có một chiếc thuyền ở tít ngoài biển khơi. Sau đó còn có những tấm bưu ảnh dán tem nước ngoài nữa”

“Charlie, mẹ xin lỗi”. Mẹ nó lại ôm nó. “Mẹ rất ghét phải làm như vậy với con. Nhưng ba mẹ phải đảm bảo chắc chắn cho gia đình Bloor không được để cho bọn chúng biết bằng hình thức thôi mien, bằng thần giao cách cảm hay bằng bất cứ trò lừa nguy hại nào của chúng”

“Thế có làm nên chuyện gì khác biệt không?”

Cô Amy Bone nâng gương mặt bầm tím của con trai và nhìn vô mắ nó. “Bọn chúng có thể đã bắt con đòi tiền chuộc, Charlie. Rất có thể chúng đã bắt cóc con, giam giữ con, thậm chí đe dọa tra tấn con nếu ba Lyell không từ bỏ sứ mạng của mình. Vì vậy chúng cần phải tin rằng ai đó khác mặc áo chùng đỏ và cưỡi ngựa trắng”

“Con đã nghĩ đó là ông Bartholomew Bloor”, Charlie nói, “Bởi vì ông ấy hay mặc áo khoác ngắn liền mũ màu xanh da trời, và Gabriel đã thấy cha anh ấy trao tấm áo chùng cho một người mặc áo khoác liền mũ”

Mẹ nó mỉm cười. “À, bác Silk biết rất rõ sự thật. BÁc ấy là người duy nhất biết, ngoài ông Bartholomew”

“Sao ông ấy cần phải biết?”

“Bởi vì chính ông ấy đã ở trên con thuyền đó, Charlie. Đúng thật là có một con thuyền tên là Cánh Xám, và nó đang dong buồm ngoài biền khơi nước Úc. Ông Bartholomew đã chẳng luôn muốn đi xem cá voi là gì. Ông là một thủy thủ tài ba và hoàn toàn tin mình sẽ sống sót qua khỏi bão tố của gã Lord Grimwald. Lúc này ông ấy và gia đình đang trên đường trở lại thành phố, con à”

“Phù!” Charlie vẫn chưa hiểu thông tỏ mọi việc. “Bất cứ khi nào con nghĩ đến ba mẹ là con đều thấy một chiếc thuyền. Nhưng tại sao lại thế, nếu ba mẹ không ở trên thuyền?”

Cô Amy lắc đầu. “Mẹ xin lỗi, Charlie. Ba mẹ cần phải làm cho con tin chắc là ba mẹ ở ngoài biển, đề phòng con bị thôi miên và Manfred moi được sự thật”

“Con đã bị thôi miên”, Charlie nhíu mày, “Vậy lại phải có ai đó đi vô đầu con để làm cho con tin rằng ba mẹ đang ở trên thuyền. Hừm. Con ước gì mình biết được người đó là ai”

Mẹ nó đắn đo. Hình như là một tình thế khó xử, vì vậy Charlie nhìn sát gương mặt của mẹ nó, nhất quyết đòi phải có câu trả lời

“Đó là xê-nho Alvaro”, cuối cùng me nó nói. “Thầy rất giỏi về phương diện này”

“Ra vậy” Charlie gần như không tin nổi

Một bác sĩ tiến đến chỗ hai mẹ con. Nụ cười hân hoan của ông cho họ biết rằng chú Lyell không hề bị nguy hiểm đến tính mạng. Họ được dẫn vô một phòng nhỏ, nơi chú Lyell đang ngồi trên giường. Đầu chú quấn băng trắng toát và một cánh tay quàng trong băng đeo. Charlie muốn ôm chầm lấy ba nhưng nó không biết cách nào, bèn hôn lên má và nắm chặt bàn tay không bị thương của ba

“Tha lỗi cho ba, Charlie”. Đôi mắt đen của chú Lyell long lanh. “Ba không xứng với con”

“Mẹ đã kể cho con nghe hết mọi việc rồi” Charlie bẽn lẽn. Nó cảm thấy mắc cỡ vì đã nghi ngờ ba nó, trong khi chính ba là một anh hùng

Chú Lyell bóp chặt tay con. “Hẳn là con tức giận ba mẹ lắm nhỉ”

Charlie lắc đầu nguầy nguậy. “Lão thầy bùa thì cần phải bị giết chứ? Để lão không bao giờ, không bao giờ còn bén mảng hiện về lại thành phố nữa”

“Suýt nữa là ba không xong rồi. Con đã cứu ba đó, Charlie”

“Vậy à?” Đến từ Charlie vẫn không nghĩ như vậy

“Còn nhiều việc phải làm nữa trước khi toàn thành phố được thanh lọc hoàn toàn,” ba nói nói, nhăn mặt

“Học viện Bloor?” Charlie hỏi

Chú Lyell mỉm cười nghiêm nghị. “Vài ngày nữa ba sẽ bình phục, và chúng ta, hai ba con mình sẽ sắp xếp mọi việc, được không?”

“Chắc chắn rồi”, Charlie nói

Charlie và mẹ nó ở lại với bệnh nhân thêm một tiếng đồng hồ nữa, và Charlie được biết về chỗ mẹ nó đã ở trong khi ba nó đi khắp thành phố trong vai trò của Hiệp sĩ Đỏ.

“Con có nhớ dạ tiệc một trăm hiệu trưởng không?” cô Amy hỏi

Làm sao Charlie quên được. “Đó là khi con phát hiện ra mụ Tilpin và lão thầy bùa”

“Có một người đàn ông đội khăn màu xanh da trời”

“Đúng rồi, Ông ấy đã trông thấy con và Billy trốn dưới gầm bàn nhưng ông ấy không chỉ điểm tụi con”

“Tên ông ấy là ông Singh”, cô Amy nói. “Ông ấy chính là cha của cảnh sát Singh, và ông ấy để cho mẹ sống ở nhà của ông ở miền Nam. Mẹ rất muốn ở nhà với con, Charlie, nhưng sẽ rất dễ sinh nghi ngờ nếu ba và mẹ lại xa nhau trong khi cả hai vừa mới đoàn tụ. Ông Singh tất nhiên là một hậu duệ của Vua Đỏ”

“Vậy là cả cảnh sát Singh nữa!”

Một cô y tá đẩy xe mang thuốc tới, Cahrrlie và mẹ chào tạm biệt ba Lyell, hứa sẽ trở lại vào ngày hôm sau. Trên đường ra khỏi bệnh viện họ bắt gặp cô Ingledew đang rời khỏi một phòng khác. Trông cô hơi đỏ mặt. Charlie chạy đến bên cô, la lớn, “Ông cậu của con ở đâu? Cô có gặp ông chwua?” Bỗng sực nhớ ra là họ đang giận nhau, nó ngập ngừng, “Hay là cô đi thăm người khác?”

Cô Ingledew mỉm cười. “Cô đi thăm ông Paton. Ông ấy không bị nặng ghê gớm đâu. Ông ấy nói về sự trợ giúp của những con báo, cô nghe mà chẳng hiểu gì cả. Nhưng có một chút phiền toái với bóng đèn. Họ phải chuyển chỗ cho ông ấy hai lần rồi, nhưng lần nào cũng lai có chuyện”

Charlie bụm tay lên miệng che nụ cươi. “Có ai bị thương không?”

“Hên là không”, cô Ingledew bảo. “Nhưng vụ việc gây bừa bãi kinh khủng. Thủy tinh vương vãi khắp nơi. Ông ấy được đưa vô một phòng riêng rồi, ở ngay sát cửa. Ngày mai ông ấy ra viện, cô tưởng tượng mọi người nhẹ nhõm phải biết”

Charlie không đợi để nghe thêm nữa. Bươn qua cánh cửa đang còn đu đưa, nó không thấy phòng của ông cậu và quàng tay ông người đàn ông cao gầy, đang gãi vô mảng băng lòi ra chiếc áo pyjama của mình

“Chết tiệt, ngứa như điên”, Ông cậy Paton phàn nàn khi Charlie buông tay ra. “Chào, Charlie. Tất cả giỏi hết xẩy luôn. Quả là một ngày hay ho nhỉ? Cuối cùng chúng ta cũng biết được vài bí mật. Trời ơi, ba của con là chú ngựa được biết đến ít nhất trong cuộc đua”

Charlie gật đầu lia lịa. Khi nó nghĩ ông cậu đã nói tất tật những gì ông muốn nói, nó hỏi. “Ông và cô Ingledew...?”

“Vẽ ra trận cãi cọ ngớ ngẩn à? Phải đấy. Cô ấy rất tốt bụng. Cứ tự trách mình, mặc dù tất cả là do lỗi tại ta, không nghi ngờ gì – chạy rông khắp đất nước, chõ mũi vô chuyện gia đình người ta”. Ông giả bộ ho một tiểng rồi tiếp. “Bị thương làm nên những phép mầu, khi nó đến...è, những mối quan hệ, con biết đấy. Người ta sẽ là kẻ tồi tệ hơn khi tự làm mình suy kiệt, Charlie.” Ông cậu Paton lại ho một tiếng kỳ kỳ nữa. “À, cô y tá sắp đến rồi. Khách khứa ra đi, Charlie. Nhưng trước khi con đi”, ông nắm lấy bàn tay Charlie, “ta muốn con là người đầu tiên biết...”

Má ông bất chợt đỏ nhừ lên.

“Biết gì ạ?” Charlie ỏi

“Cô... è....Julia... e hèm...” Ông cậu Paton dường như hôm nay có vấn đề với cái cổ họng, mặc dù ông bị thương ở ngực. Charlie kiên nhẫn chờ cơn co thắt trôi qua. “Ừ, Cô ấy...è... đã đồng ý lấy ta”

“WOW!” Charlie hét lên. “Một sự kiện bất ngờ”

Một cô y tá chạy vội về phía nó và mắng, “Đi ra, cậu kia!”

Đến lúc Charlie và mẹ nó về nhà, có bao nhiêu chuyện xảy ra ở nhà số 9. Trước hết là nội Bone đã ra đi

“Bà ta đến sống với các bà em rồi”. ngoại Maisie bảo họ. “Mặc dù ta không biết việc này sẽ kéo dài bao lâu”

Cô Alice Angel chuẩn bị về lại ngôi nhà cũ của mình. Cô quyết định sẽ bán cửa hàng hoa ở Đá Kê Chân và trở về sống trong ngôi nhà xưa

Vào tối Chủ nhật, mọi người bắt đầu trở lại thành phố. Họ hành xử cứ như họ vừa đi nghỉ cuối tuần mà thôi. Màn sương mù tai họa đã bao phủ nhà họ chỉ đơn thuần được coi như là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Không ai bóng gió gì tới trận chiến trong vùng đồng hoang. Đó là sự kiện mà hầu hết cư dân đều không can dự. Tất cả mọi người đồng ý rằng sắp tới sẽ là một ngày lễ Phục sinh tuyệt vời. Hoa thủy tiên và hoa diễn vĩ đã nở trong những bồn hoa trên đường và các đại lộ tràn ngập hoa anh đào thơm ngát. Bầu không khí lạc quan đầy tính chất huyền bí tràn ngập mọi nẻo đường.

Đám khách lạ man rợ từng xâm nhập đường Piminy dường như đã biến mất một cách bí hiểm hệt như khi bọn họ xuất hiện. Bà Kettle giờ là cư dân duy nhất ở đó. Bà tin chắc những hàng xóm dễ chịu chẳng mấy chốc sẽ quay trở lại. Thanh gươm vĩ đại của bà bây giờ treo trở về chỗ của nó trên tường lò rèn và con trăn xanh da trời một lần nữa lại bò thanh nhàn khắp các hàng ấm – có lúc người ta trông thấy nó, có lúc không. Bà Kettle đã đề nghị Dagbert Endless một mái ấm và nó sung sướng nhận lời. Nó suy ngẫm đến một cuộc đời hạnh phúc, ngày dài tháng rộng rèn nên những đồ dùng bằng sắt đẹp mắt. “Không nhất thiết phải rèn vũ khí,” nó bảo bà Kettle, “mà rèn những thanh gươm ngày lễ, những cánh cổng hoành tráng và những thứ đại loại như thế”

“Còn ấm thì sao?” bà Kettle hỏi

“Đương nhiên,” Dagbert nói

Không đứa học trò nào muốn trở lại Học viện Bloor vào ngày thứ Hai. Có tin đồn lan rộng rằng hiện thời nơi đó không phải là nơi an lành

Đến chiều thứ Hai, chú Lyell Bone và Ông cậu Paton về nhà ở đường Filbert. Bà bếp trưởng tạm thời ngủ ở phòng của nội Bone. Có rất nhiều việc phải làm, bởi vì chú Lyell và cô Amy muốn dọn về Góc Kim Cương, nhà của mình, càng sớm càng tốt. Nhưng trước khi dọn nhà, có một bí mật cần giải tỏa: bản di chúc của bà Maybelle

Tối hôm sau, chú Lyell đưa Charlie và ông cậu tới Nhà Thờ Lớn, nơi chú hiện nay vẫn là tay chơi organ chính thức. Họ bước dọc theo lối đi rộng, vòng qua các ngăn của ca đoàn tới chiếc organ lớn, những ống khung của nó chĩa thẳng lên mái trần hình vòm. Charlie tự hỏi không biết ba nó có thể giấu chiếc hộp khảm xà cừ ở đâu. Chú Lyell cười ranh mãnh và nhấc bề mặt bọc nệm của chiếc ghế dành cho nhạc công organ lên. Trong một cái ô vuông vức bên dưới là chiếc hộp

“Ối, tôi không bao giờ ngờ!” Ông cậu Paton kinh ngạc. “Giấu vậy mới là giấu chứ. Ai mà đoán cho được?” ông nhấc nó ra. “Nhưng không có chìa khóa, làm sao mở hả?”

“Chúng ta có thể phá khóa,” chú Lyell đề nghị, ‘nhưng làm vậy thì hoa văn của nó có thể bị phá hỏng”

Charlie cầm lấy chiếc hộp từ tay ông cậu. Nó lật úp chiếc hộp xuống và nghiên cứu những hình khảm xà cừ tinh xảo: những ngôi sao tí xíu, chim chóc, lá và hoa trang trí quanh đáy và thân hộp. Nó ngó đăm đăm những vì sao và thấy mình chu du rất chậm, rất êm, vô một căn phòng thắp nến, ở đó có một người thợ thủ công đang tỉ mẩn ghép những mảnh xà cừ tí hon vô mặt đáy của chiếc hộp. Người đàn ông này quay qua nhìn Charlie, và giơ một ngón tay lên. Charlie sửng sốt, bởi vì đó chính là bạn cũ của nó, Skarpo, thầy pháp, trên ngón tay giơ lên của ông ta có một con mèo nhỏ xíu bằng ngọc trai đang ngồi

“Charlie!” ba nó lay cánh tay nó. “Cái gì vậy? Con đang ở đâu thế?”

Charlie chớp mắt. Skarpo đã đi rồi. “Ngón tay của ông ta,” Charlie thở hổn hển, “Ngón tay”

Ông cậu Paton và ba nó hoảng hồn trố mắt nhìn Charlie.

“Nó là một con mèo!” Charlie nhìn mặt sau của chiếc hộp. Nó nhìn thấy lá và hoa, chim và ngôi sao, nhưng không có mèo. Nó đưa chiếc hộp lên sát mặt. Và thế là nó trông thấy. Có một con mèo. Tai của nó thò ra từ đằng sau một ngôi sao, đuôi nó để bên dưới một bông hoa. Charlie nhẹ nhàng ấn cái đuôi mỏng mảnh đó. Và nắp hộp bật mở ra

“Charlie! Phi thường làm sao!” Ông cậu Paton trầm trồ

“Thông minh quá!” chú Lyell khen

Charlie giữ bí mật chu du cho riêng nó

Bên trong hộp không chỉ có một bản di chúc mà có rất nhiều, bắt đầu từ bản di chúc của ông Septimus Bloor. Ông đã để lại tất cả mọi thứ cho bà Maybelle. Có cả một bản di chúc do bà Maybelle lập khi bà lo sợ mình đang bị đe dọa đến tính mạng. Bà để lại toàn bộ bất động sản cho con trai, Daniel Raven. Sau đó tới bản di chúc của Daniel, để lại toàn bộ của cải cho...

“Con gái ông ấy, Ita?” chú Lyell nói. “Bà ấy là ai trên đời này cơ chứ? Cháu đã từng nghĩ là ông Daniel để lại tất cả cho con trai, là Hugh, người đã trao chiếc hộp này cho cha của Billy, để chứng minh rằng anh ấy sẽ thừa kế tài sản của dòng họ Bloor, nếu bản di chúc thật của ông Septimus được tìm thấy”

“Đúng là tôi cũng đã tưởng như vậy,” Ông cậu Paton tán thành. “Tôi muốn hai người xem cái này.” Ông dẫn cha con Charlie ra ngồi xuống băng ghế đằng trước, họ ngồi hai bên ông trong khi ông lôi từ trong túi áo ra một tờ giấy gấp lại. “Đây là những gì tôi đã khám phá trong những chuyến nghiên cứu dài ngày của mình”, ông nói, trải rộng tờ giấy lên đùi

Charlie bà ba nó chụm đầu vô tờ giấy. Không có gì để xem ngoài môt đường thẳng theo hàng dọc những cái tên, bắt đầu từ người con cả của ông Daniel Raven, Ita, bà này sinh vào năm 1899 đã cưới một người tên là Simon Bone

“Bone!” Charlie và ba nó cùng ồ lên

Và đó, bên dưới Ita và Simom, là tên con trai của họ, Eamon, ông này cưới một bà tên là Clara Lyell. Rồi bên dưới Calra và Eamon là tên con trai của hai người, Montague Bone, người đã cưới Grizelda Yewbeam vào năm 1961, và chết vài năm sau đó

“Cha của cháu,” chú Lyell nói chậm rãi

“Ông ấy đã để lại tất cả mọi thứ ông sở hữu cho anh”, Ông cậu Paton bảo

Họ ngồi thật lâu trong ngôi thánh đường yên ắng, cố hiểu cái tin tức trọng đại này

“Vậy là Học viện Bloor là của ba, ba à”, cuối cùng Charlie nói

Ba nó nhăn mặt. “Ba nghĩ là vậy. Nhưng chúng ta sẽ chứng minh điều đó bằng cách nào?”

“Đơn giản thôi, tôi hy vọng vậy”, Ông cậu Paton nói. “Tôi đã có hẹn gặp thẩm phán Sage vào sáng mai”

Ngày hôm sau, chú Lyell Bone và Ông cậu Paton đem chiếc hộp đựng giấy tờ tới gặp cha của Lysander, thẩm phán Sage. Ông nổi danh là một trong những thành viên uyên thâm và không có thành kiến nhất trong hệ thống tòa án, và ông không cần mất nhiều thời gian đã tuyên bố rằng chú Lyell Bone là người thừa kế không thể chối cãi khối tài sản của ông Septimus Bloor. Dĩ nhiên ông sẽ phải đưa vụ việc này ra tòa, nhưng thẩm phán nghĩ rằng chú Lyell sẽ có cơ hội tuyệt vời để thắng kiện hoàn toàn

“Chúng ta buộc phải báo cho những người chủ hiện tại của Học viện Bloor rồi,” Ông cậu Paton nhận xét một cách hài hước

Charlie muốn hộ tống cha và ông cậu trong chuyến đi tới Học viện Bloor, nhưng chú Lyell e ngại không muốn cho nó đi theo. “Tất cả những nỗi thống khổ gần đây thành phố phải gánh chịu đều bắt nguồn từ gia đình đó,” chú Lyell nói, đặt tay lên vai con trai. “Đó là sào huyệt của quỷ, Charlie à, ba không biết bọn chúng sẽ còn giở trò gì khi chúng vỡ lẽ ra bản di chúc của ông Septimus đã được tìm thấy”

“Cho con đi mà!” Charlie năn nỉ. “Con muốn tới đó. Dù sao con cũng là người mở chiếc hộp chứ bộ”

Chú Lyell bật cười. “Thôi được. Con đã thắng ba, Charlie, nhưng hãy nhớ là chỉ được làm những gì ba bảo thôi đấy”

Charlie long trọng hứa. Thế là đến xế chiều, trước khi đèn đường bật sáng, Ông cậu Paton, Charlie và ba nó đi tới học viện Bloor. Họ vừa đi tới quảng trường thì một chiếc xe hơi mầu đen xồ ra. Nó khựng lại một thoáng để rẽ vô đường Đồi Cao và Charlie thấy gã Weedon ở đằng sau tay lái. Bên cạnh gã là bà vợ, và trong hàng ghế sau là thân hình không thể lầm lẫn được của Norton Cross trong áo jacket vẽ voi. Bên cạnh gã này nữa là một người ngồi tùm hụp, che mạng bằng bải đen kín mít. Cho tới khi chiếc xe lái xa khỏi họ Charlie mới thấy hành khách thứ tư. Một gương mặt trắng bợt, nhỏ quắt ngó ra đằng sau cửa sổ và rồi vụt biến khỏi tầm nhìn

“Joshua”, Charlie lầm bầm

“Và hình như là mẹ nó”, Ông cậu Paton nói. “Tất cả bọn chúng đang tẩu thoát”

“Chuột và tàu chìm đi với nhau”, chú Lyell nói hờ hững

Gã Weedon đã không thèm đóng cửa Học viện Bloor sau khi đi ra. Ba vị khách bước vô tiền sảnh tối tăm mà không mất công gõ cửa. Và lần cuối cùng trong đời, Charlie rùng mình trước âm khí dường như bao trùm toàn bộ tòa nhà. Quả đúng đây là sào huyệt của quỷ, và chủ mưu của tất cả mọi trò hiểm độc đang ngồi trong xe lăn của lão, đang trừng mắt ngó xuống họ từ chiếu nghỉ trên đỉnh dãy cầu thang. Cứ như là lão đang chủ ý đợi họ

“Tao nghĩ chúng mày đến để khoe khoang”, lão quát. “Nhưng chúng mày chưa thắng đâu. Chúng mày đã kết liễu bá tước Harken. Nhưng vẫn còn tao ở đây, mà tao thì đừng hòng lay chuyển”

“Chúng tôi có bản di chúc, ông Ezekiel”, chú Lyell nói. “Bản di chúc thật. Tất cả đã kết thúc rồi”

“Không bao giờ!” lão già rú gào.

“Tôi e rằng, ông Ezekiel”, Ông cậu Paton nói, “ông sẽ phải sống những ngày cuối đời trong nhà dưỡng lão”

“Không đời nào. Tao quyết ở lại!” lão Ezekiel bắt đầu cười khùng khục, không sao kìm chế được. “Manfred sẽ bảo đảm cho điều đó. Nếu bọn bay nhích thêm một bước nào nữa, nó sẽ thiêu rụi nơi này, tụi mày nào có muốn thế, phải không?”

Những lời của lão vừa dứt, Manfred bước ra khỏi bóng tối dưới gầm cầu thang. Hai tayhawns giơ lên không, mỗi ngón tay đều có lửa đang cháy rực như một ngọn đuốc. “Không được lại gần”, hắn cảnh báo. Tài phép kinh khủng của tổ tiên hắn, Borlath, con trai cả của Vua Đỏ, cuối cùng đã hiển linh ở Manfred.

Chú Lyell dũng cảm tiến một bước về phía Manfred.

“Ba, không!” Charlie thét,ngó chòng chọc những ngọn lửa đang nhảy nhót trên những ngón tay của Manfred.

“Húuu!” Manfred rít lên nhức óc, và những ngọn lửa cháy cao hơn nữa. “Đám mèo chết nhát!”

Sự việc xảy ra tiếp theo quá kinh hoàng, đến nỗi Charlie không thể tin vô mắt mình. Vì bỗng nhiên lão Ezekiel bắn vèo xuống cầu thang. Những bánh xe lăn đáp thịch, thịch, xuống từng bậc thang, một bậc, hai bậc, rồi lão bật tưng trên không. Choáng sốc đến nỗi không né được, Manfred chỉ biết khiếp đảm tại chỗ, nhìn sững cái khối đang bay trên không. Khi bị cái khối đó đáp trúng người, hắn phọt ra một tiếng thét lộng óc mà mãi về sau này vẫn còn âm vang trong đầu Charlie.

Lão Ezekiel lăn ra khỏi ghế ngồi của lão, hự lên một tiếng dài, sau đó nín bặt. Những ngọn lửa đang cháy èo uột trên một bàn tay thò ra từ cái đống lộn xộn ấy kêu xèo một cái rồi tắt ngúm

Ba vị khách tức thời cũng bàng hoàng đến không thể nói được, sau đó Ông cậu Paton lắp bắp. “Cái quái gì thế?”

Charlie đã nhìn thấy thủ phạm, hay đúng hơn, vị cứu tinh của họ, tùy theo người ta nhìn nhận nó thế nào. Một con chó ú ị, lún chún đứng ở bậc cầu thang trên cùng, ngúc ngoắc cái đuôi ốm tong teo. “May Phúc!” Charlie thét to. “Chú chó trong ngày!”

Ông cậu Paton rút điện thoại di động ra và bấm số gọi xe cứu thương. Trong khi ông gọi điện, Charlie để ý thấy một dáng người đậm chắc đứng bên cánh cửa dẫn vô chái phía Tây. Tiến sĩ Bloor tiến về phía cái đống gỗ và xương lùng nhùng. Thật khó mà đọc được biểu cảm của ông ta, nhưng ông ta không chạm vô cái nào trong hai cái xác

“Ấy là con chó,” chú Lyell nói. “Chắc nó đã đẩy chiếc xe”

“Từ lâu tôi đã biết rằng một ngày nào đó nó sẽ làm điều này”, tiến sĩ Bloor nói với vẻ chán nản. Ông ta ngước lên nhìn May Phúc,vẫn đang khoái chí ngoáy đuôi. “Tôi phỏng đoán là các người đã tìm thấy bản di chúc”

“Đúng thế”, chú Lyell đáp

Tiến sĩ Bloor thở dài đánh thượt. “Tôi sẽ không gây bất lỳ phiền toái nào cho anh. Giờ chỉ vô ích thôi. Tôi sẽ đi đóng gói hành lý”

“Cảm ơn ông”, chú Lyell nói

Vào ngày lễ Phục sinh, ông Paton Yewbeam và cô Ingledew cưới nhau tại một nhà thờ nhỏ ở ngoại ô thành phố. Người tham dự đông đến nỗi phải dứng ra tới tận cửa; bên ngoài nhiều người hát hò dưới những bóng cây anh đào nở rộ. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng về sống hòa thuận trong một gian phòng thắp nến ở trên lầu của tiệm sách Ingledew. Emma vô cùng sung sướng với sự sắp đặt mới này

Billy Raven không hề hay biết gì về việc nó là người thừa kế hụt khối tài sản của gia đình Bloor. Trong khi Charlie và ba mẹ đang thu dọn đồ đạc ở nhà số 9, Billy sống với Benjamin. Nhưng sau vài ngày bị Hạt Đậu rượt đuổi khắp nhà, Rembrandt bảo với Billy rằng chú ta không thể chịu đựng nổi thêm một ngày nào nữa ở ngôi nhà ấy. Vì vậy Billy chuyển tới tiểu trang trại của gia đình Silk ở khu Đồi Cao. Nó mê mải nói chuyện với rất nhiều thú nuôi của gia đình Silk, nhưng các chị của Gabriel không ngừng than vãn rằng họ cần chỗ rộng hơn, cho dù ông và bà Onimous đã dọn về lại quán cà phê Thú Kiểng. Nhà của Fidelio Gunn là mái ấm tạm thời tiếp theo của Billy, gia đình Gunn là một gia đình đông đúc, họ kết luận rằng thêm một đứa trẻ nữa cũng chẳng khác gì, sau đó đề nghị những dịch vụ xã hội xúc tiến các thủ tục nhận con nuôi.

Billy có hạnh phúc với những sự dàn xếp này? Thật khó nói. Nó mỉm cười vào những thời điểm thích hợp, và gật đầu khi nó được hỏi ý kiến. Nhưng liệu nó có hạnh phúc?

Nó hay đi tới nhà thờ khi chú Lyell Bone đang dợt đàn organ. Nó rúc vô ngồi trong một chiếc ghế khuất đằng sau một trong những cây cột lớn, nhắm mắt lại và lắng nghe. Nhưng sự hiện diện của nó không phải là không bị phát hiện. Một ngày nọ chú Lyell gọi Billy và hỏi nó có thích học chơi đàn organ không

Billy bẽn lẽn chui ra khỏi chỗ núp và tiến tới chỗ cây đàn organ lớn. Chú Lyell chỉ cho nó đặt những ngón tay lên các phím đàn thích hợp, và Billy sướng mê tới trước âm thanh phát ra từ khối đàn đồ sộ đó. Sau bài học đàn, hai chú cháu dắt nhau bước ra khỏi nhà thờ. Trời bất chợt đổ mưa. Đó chỉ là một cơn mưa rào mùa xuân, nhưng cũng đủ để hai người phải trú một lát trong mái hiên

Khi họ nhìn những hạt mưa nảy trên những viên sỏi bóng loáng, chú Lyell đặt tay lên vai Billy và nói, “Billy, con có muốn đến sống với gia đình chú không?”

Billy nhướng mày. Nó tháo đôi mắt kính mới của nó ra và dùng ngón cái lau lau mặt kính. “Trong bao lâu ạ?” nó hỏi

Chú Lyell mỉm cười. “Mãi mãi”

Billy đeo kính trở lại và nhìn đăm đăm ra trước. Nó hầu như không thể tin được những lời nó vừa nghe. Nó cảm thấy hụt thở, cổ họng nó co thít và nó tự hỏi có phải mình sắp chết không.

Lo lắng trước sự im lặng của Billy, chú Lyell nói. “Chú sẽ cố hết sức để là một người cha tốt”

Bằng giọng lí nhí, nghẹn ngào, Billy hỏi. “Thế còn Charlie?”

“Đây là ý kiến của nó,” chú Lyell nói. “Cô Amy và chú nghĩ, ờm, cô chú nghĩ cô chú thật sự muốn có thêm một đứa con trai nữa”. Chú Lyell ngó xuống gương mặt nghiêm trang của Billy. “Con thấy thế nào?”

Billy không thể tin nổi. Người đàn ông dũng cảm nhất, tốt bụng nhất trên thế giới đã đề nghị nó đến sống với một gia đình mà nó yêu mến. Không lời, nó vung tay ôm choàng lấy thắt lưng chú Lyell mà ghì chặt

“Chú coi như đó là lời đồng ý”, chú Lyell bảo

“Chỉ có một điều”, Billy thầm thì, và nó thò tay vô túi quần. Nó cảm thấy cuộc đời nó phụ thuộc vào câu trả lời của chú Lyell. “Thế còn con chuột của cháu?”

Chú Lyell cầm lấy con vật đen bóng được trao vô tay mình. “Đương nhiên chú rất thích chuột”, chú nói. “Chào mừng Rembrandt”

“Cảm ơn nhiều”, Rembrandt đáp

Một tuần sau ngày lễ Phục sinh, Học viện Bloor mở cửa lại dưới sự quản lý mới. Nó cũng có một cái tên mới – Học viện Bone. Việc chỉ định giáo sư Saltweather làm hiệu trưởng dường như rất được mọi người ủng hộ, xê-nho Alvaro thay vị trí trưởng khoa Nhạc của thầy. Một số giáo viên cũ ra đi, trong đó có thầy Paltry già và thầy Pope. Họ được coi là những tổn thất không đáng kể. Bà bếp trưởng trở lại căn phòng cũ của bà bên dưới nhà bếp, có điều lần này bà tuyên bố rằng cánh cửa âm tường dẫn tới nơi ở của bà sẽ luôn mở rộng cho bọn trẻ cần uống ca-cao và cần sự an ủi. May Phúc trải qua hầu hết ngày của nó nằm bên cạnh lò sưởi của bà, và giáo sư Saltweather thường xuyên đến thăm bà

Bà bếp trưởng mời bà bạn cũ của bà, ngoại Maisie Jones, trở lại học viện cùng với mình. Và ngoại Maisie bây giờ trở thành Nữ hoàng căn-tin xanh lá cây, thay cho mụ Bertha Weedon hay gắt gỏng. Chỉ sau vài ngày học hành trong điều kiện mới này mà mọi học sinh đều tuyên bố rằng Học viện Bone là ngôi trường tốt nhất và hạnh phúc nhất trong nhiều dặm

Hiện thời thành phố là một nơi khác hẳn. Nó mang bầu không khí mùa xuân vĩnh cửu. Ba ngôi nhà số 13 ở Ngách Tối đã trống trơn. Không ai biết bốn chị em và Eric đã đi đâu. Gia đình Loom cũng rời thành phố, cửa hàng và tiệm cà phê của nhà Branco vắng tanh. Nhưng quán cà phê Thú Kiểng thì không vậy. Quán đã mở cửa lại bằng một bữa tiệc linh đình. Nhiều thú vật tham dự đến nỗi hầu như không có chỗ cho chủ nhân của chúng. Gabriel đến, mang theo đủ chuột cảnh cho tất cả bọn bạn, kể cả cho Dagbert. Lysander đi với con vẹt của anh, Homer, còn chị Lauren, bạn gái của anh thì mang theo con vẹt Cassandra của chị

Ba con mèo lửa theo dõi sự kiện này từ trên quầy. Không ai dám đề nghị chúng nên đi chỗ khác.

Charlie và bạn bè xoay xở xí được chỗ ưa thích của chúng ở bên cửa sổ. Tất cả có mười hai con thú cưng và mười một đứa trẻ. Bà Onimous đã vượt lên chính bà – làm bánh ngon hơn hẳn trước đây – và sáu cái đĩa cao tú hụ đựng đủ loại món ăn mê ly dành cho thú và bánh nướng chễm chệ ở giữa bàn

Sau khi ních căng bánh trái, Rembrandt lăn ra ngủ và tuột khỏi đùi Billy. Billy lật đật cúi xuống gầm bàn để kịp thời giải cứu nó khỏi Hạt Đậu. Khi Billy chui lên khỏi gầm bàn, đôi mắt nó mở tròn xoe và một nụ cười rộng tướng ngự ở trên mặt nó. Cúi sát vô Charlie, nó thì thầm, “Tancred và Emma đang nắm tay nhau đó”

* * *

[1] Nguyên văn Hooligan: tức những người cổ vũ bóng đá một cách bạo lực

[2]. Tượng điêu khắc, thường là hình người hoặc hình thú, gắn lên tường bên ngoài một tòa nhà để trang trí. (ND)

[3] Stace là tên thường gọi của bà cô Eustacia. (ND)
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom