Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
652,728
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Bãi Gió Cồn Trăng

Bãi Gió Cồn Trăng
Tác giả: Hồ Trường An
Tình trạng: Đã hoàn thành

--- oOo ---


Tập Truyện ma kinh dị của tác giả Hồ Trường An. Không nên đọc truyện vào ban đêm.
 
Sửa lần cuối:
Chương 1


Hôm nay ông Nam Tảo đi lên Tân Ngãi đặt làm ba cái bài vị cho ông bà nội mình và cho bà đích mẫu của cha mình để thờ tại trung đường. Ông khôngngại tốn kém, đặt làm bài vị sơn son thế vàng rực rỡ.

Nhà ông mái ngói móc, vách ván, gồm ba gian hai chái. Gian giữa, ông thờ bức tranh A Di Đà Tam Tôn. Gian bên trái ông thờ cha mẹ mình. Gianbên mặt ông thờ ông bà nội và bà tổ đích mẫu. Còn chái bên trái ông đặtcác hộc tủ chứa dược thảo cùng kệ sách. Chái bên mặt ông kê hai chiếc tủ kiếng bày đồ cổ ngoạn. Trước bàn thờ cha mẹ, ông bà, là bô ngựa bằng gỗ giáng hương. Nơi gian giữa ngoài bàn thờ Phật là chiếc bàn dài bằng gỗnu nổi vân, hai bên có hai chiếc trường kỷ chạm chim, sóc, trái nho.

Bà Năm Tảo đang soạn một mâm cơm nho nhỏ để cúng cô em nhà chú dùhôm nay không phải là ngày giỗ của cô. Cô n ày từ trần cách đây mườinăm. Số là cô chị bị gã sở khanh dụ dỗ đến mang bầu. Hắn hứa cưới cô vàkhuyên cô dưỡng thai. Ai dè chén thuốc hắn ân cần đứa cô uống, nói làthuốc dưỡng thai đó, thật sự là Càn Nguơn sắc đặc, chuyên dùng phá thai. Cô uống vào, thai ra cùng lúc với cơn băng huyết. Mất máu nhiều nên côvong mạng. Đêm qua trong cơn chiêm bao, bà Năm thấy cô hiện hồn về máchbảo:

- Tuổi em hạp với con Ba Tây Nguyệt. Từ nay em sẽ là vong cô phù hộcháu gặp duyên ưa phận đẹp. Còn bà đích mẫu của anh Năm là vong cô củacon Hai Túy Ngọc đó.

Mười năm qua rồi, tên sở khanh kia đã trải hai đời vợ nhưng người em gái yểu mạng bạc phước của bà vẫn chưa đi đầu thai. Tía má bà người gốc Quảng Nam, còn cha mẹ ông Năm gốc Quảng Ngãi. Mâm cơm cúng phải có mộtmón ăn ở hai tỉnh đó.

Hôm nay cô Hai Túy Ngọc mua được một mớ cá đối. Cá này kho lạt, rắchành và chan mỡ xát hột lựu ngon phải biết! Ông Năm thích ăn bánh bèoQuảng Nam chan nước cá nục kho với ớt gừng sừng trâu. Không có cá nục,dùng cá đối thay thế cũng được. Món bánh béo quê hương của bà làm bằngbột gạo, lớn cỡ miệng chén đựng trôi nước, trắng mềm, thoa mỡ hành coithiệt ngon. Ngoài món bánh béo ăn cặp với cá đối kho, bà còn làm thêmmón bánh bèo lục tỉnh lớn cở đồng xu, trét nhưng đậu xanh và rắc tôm bằm nhuyễn. Mâm cơm cúng có thêm một canh sườn heo nấu với củ cải muối rắcngò gai xắt nhuyễn, dĩa dưa kiệu xé tơi xào tôm thịt và tộ cá bống cátkho nước đặc sánh..

Ông Năm Tảo là một thầy lang giỏi, nhờ nghề xem mách hốt thuốc mà dư ăn đư để. Nhưng đối với người xung quanh, ông là kẻ trái đời. Vào những thập niên đầu thế kỷ, vợ không sanh con trai mà ông không nạp thiếp,nạp hầu. Chẳng những vậy, ông còn dùng những chữ huê mỹ đặt tên cho cáccon, và cho con học thêm chữ nho, chữ nôm, làm thơ làm phú ngoài việchọc bếp núc, vá may.

Cô Hai Túy Ngọc trắng da dài tóc, nhan sắc bóng bẫy, phẩm cách caosang. Cô Ba Túy Nguyệt nước da tuy mởn nhưng không trắng bằng chị, dungnhan mặn mòi, ăn nói có duyên.

Bà Năm Tảo nhìn bóng nắng nơi ngạch cửa, gọi hai cô con gái cưng đang xới líp huệ bên hông nhà:

- Trời sắp đúng ngọ rồi, bay liệu mà vô nhà đi!

Cô Hai vừa bước tới ảng nước điểm loáng thoáng bông cau rụng bởi trận gió đêm qua, vừa giục em gái:

- Thôi chớ. Tạm nghỉ để ăn cơm cái đã. Chiều mát, chị em mình làm tiếp.

Bà Năm bưng mâm cơm từ bếp lên chái bên trái, đặt trên bàn hột xoàibằng gỗ thao lao quang dầu bóng lộn. Bà ngó qua tấm phên mắt cáo, thấycon gái còn lảng vảng ngoài nắng, liền hét:

- Mau vô nhà nghe chưa! Bây còn làm giống gì ở ngoài vậy? Giờ đúngngọ là giờ cực dương. Hễ cực dương thì hóa âm. Tao nói ít bây phải hiểunhiều.

Cô Ba Túy Nguyệt lật đật xách chiếc cuốc vào nhà. Cô Hai Túy Ngọc cũng đã rửa tay chưn xong, nối ót em.

Khắp xóm lặng ngắt. Cây cỏ thiêm thiếp say nắng rực rỡ màu vàngròng. Thỉnh thoảng có tiếng gà gáy lẻ tẻ vọng lên từ trong xóm. Đây làxóm Chuồng Gà nằm bên mặt con lộ Trần Minh Tại, ngoại ô tỉnh Vĩnh Long.Con lộ này từ dốc cầu Thiềng Đức đưa tới làng Long Thành, băng qua xómThiềng Đức, xóm Bánh Phồng, xóm Chuồng Gà, xóm Cầu Kè. Bắt đầu từ cuốixóm Thiềng Đức, con lộ đã xuyên vào vùng miệt vướn rợp bóng mát.

Nhà bà Năm Tảo ở đối diện với khu vườn làng nằm kế vùng tha ma mộđịa. Tuy mồ mả nơi bãi tha ma này làm bằng vôi trộn nhựa cây ô đước rấtxưa, tròm trèm cả trăm năm chớ không ít, và người chết chắc đã đi đầuthai cả rồi, nhưng lúc chạng vạng tối cũng chẳn mấy ai dám băng qua conlộ trải đá xanh để qua bên kia vườn làng. Vườn làng đây là khu vườn công cộng của làng, do ban hương chức hội tề cai quản. Mấy ông đó chẳng nghĩ gì tới việc khẩn hoang, đốt lau sậy, bứt dây mây dây choại để trồng cây ăn trái. Khắp vườn mọc đầy cây đủng đỉnh, cây dầu, cây sao, cây thị,cây giá tị, bụi tre gai, cụm tầm vông, khóm nứa. Lác đác có vài cây dâumiền dưới, cây phù quân, cây cốc, cây ô môi, vài bụi chuối hột mà tụichăn trâu thường ghé vô hái trái, cạp ăn nghe rào rạo.

Ven đường là những cây còng lớn cỡ vòng ôm, các loại chùm gởi bámđầy, thân phủ rêu xanh. Tàn cây còng tỏa bóng mát thâm u cả một khúc lộ. Trong bóng mát như chập chờn ẩn hiện bón u linh.

Sau nhà bà Năm là bên sông Long Hồ, cạnh cây da xà sống trên támchục năm rồi. Thân cây cao vút, tàn là tỏa rộng, rễ phụ buông xuống nhưnhững con rắn lớn cỡ cườm tay. Dưới gốc cây, cà ràng cũ, ông táo, hỏalò, nồi, ơ, trách, trả, vịm, chậu lủng, bể...bày la liệt.

Bà Năm lấy chén gạo lưng thay thế bát nhang đặt lên bàn, cắm cây nhang huyền đàn vừa mới thắp. Bà vái van:

- Ưng ai, vong hồn dì nó sống khôn thác thiêng, nghĩ tình máu mủ mà phù hộ cho hai con cháu gái của dì.

Đúng ngọ, thời khắc ma quỉ xuất hiện cho tới đầu giờ mùi tức khoảngmột giờ trưa. Ai sao không biết chờ cô Hai và cô Ba đã có lần gặp ma vào lúc đúng ngọ. Cách đây ba năm, khi ông bà Năm Tào mới dọn về khu này,hai chị em sau khi dùng cơm trưa xong, vô vườn làng câu cá. Ở đây có một bàu nước trong vắt lớn cỡ hai sào đất. Giữa bàu là những khóm ông súng, lá lớn cỡ cái dĩ a bàn trải trên mặt nước. Ven bàu, chỗ nước sâm sấp là những cọm bèo cánh tròn xinh xinh. Cả hai ngồi dưới bóng cây dâu miềndưới, buông cần câu, chăm chú nhìn vào mặt ao. Ngồi mãi, không hiểu vìsao hôm ấy cà không chịu cắn câu. Thời tiết nòng nực, chung quanh hoangvằng, cô Ba Túy Nguyệt cởi áo, kéo chiếc quần lá nem rộng đáy lên tớingực, với chiếc rổ nhảy xuống bàu để xúc cá tép. Trời đang nắng changchang bỗng đâu một cơn gió thổ tới, xua áng mây đen che khuất mặt trời.Cơn trốt nổi lên làm kẻ trên bờ, người dưới nước cảm thấy rát mí mắt.Đến khi con trốt thoảng xa và dịu lại, thì cả hai thấy trong bàu nước có một bà già tuổi ngoài sáu mươi cũng đang xúc cÿ tép. Sự xuất hiện độtngột của bà làm hai chị em xững vững. Cô Hai Túy Nguyệt lễ phép hỏi:

- Thưa bác, bác từ đâu tới?

Bà già nét mặt xanh xao, da dùn, tóc bạc dã dượi, cái nhìn lộ vẻlãnh đạm, thờ ơ và đặc biệt có một nút ruồi đen, lớn bên mép. Bà nhìn kẻ trên bờ, người dưới nước, ấp úng:

- Tui hả? Tui ở đây, cạnh cái bàu này.

Câu trả lời có vè kỳ cục, bí mật. Cô Ba Túy Nguyệt hỏi nà:

- Bác tới hồi nào mà cháu không thấy? Bác xuống nước cách nào mà cháu không hay?

Bà già lãnh đạm:

- Làm sao cô thấy được! Nhưng thôi, tui không thể ở đây lâu. Mình xúc cả thôi kẻo trễ.

Bà cầm chiếc rổ xúc một cái, được ngay một con cá bông lớn, vảy ửngxanh lè, một mớ tôm càng và hai con cÿ sặt bướm. Lúc nãy nước trong bàuâm ấm vì nhốt hơi nóng suốt ba ngày nắng liên tiếp, giờ đây bỗng giálạnh. Ham bắt cá nên cô Ba cứ xẩn bẩn bên bà. Cô cũng xúc được ba con cá lóc bằng cườm tay, bốn con cá rô mề và một mớ tép bạc cùng tôm trứng.Đôi lúc bà già xáp lại gần cô, hơi thở của bà lạnh như gió tháng chạp.

Bỗng một con chim thằng chài lông xanh bay lướt qua bên kia đám điên diển trổ bông vàng sát mé nước. Bà già bảo hai chị em:

- Tui phải đi, đã tới giờ có người kêu tui đó! Vậy tui cho mấy cô mớ cá tôm này.

Bà trút cá tôm vô giỏ cá của hai chị em. Và trong nháy mắt, bóngdáng bà đâu mất biệt. Hai chị em sững sốt nhìn nhau, da thịt mọc ốc. CôHai hỏi em:

- Hồi bà bước lên bờ, sao tao không nghe thấy tiếng khuấy nước, tiếng lau sậy khua động?

Cô Ba rùng mình:

- Bả biến đi thiệt lẹ. Hay là...

Cô không dám nói tiếp, hối hả bước lên bờ mặc áo vào. Bỗng cô nhìn vô giỏ cá, ré lên:

- Chị Hai! Chị coi đây nè! Trời ơi, sao lạ như vầy!

Cô Hai Túy Ngọc dán mắt vào đáy giỏ. Cá tôm đâu không thấy, chỉ có rác rến và vài cánh bèo mà thôi.

Hai chị em vội vã về nhà, thuật lại cho mẹ mình nghe. Lúc đó bà NămTảo đang ngồi nói chuyện với bà Chín Thẹo ở bộ ngựa giáng hương. Bà Chín Thẹo vụt hỏi:

- Có phải hai đứa bay gặp bà già có mụt ruồi bên mép không?

Hai chị em gật đầu xác nhận. Bà Chín Thẹo vỗ đùi một cái bép:

- Vậy là hai con nầy gặp ma rồi! Hồn ma bà Bảy Cúc đó! Số là hồi năm Nhâm Tuất gì đó, quan Tây Bô- na đem quân đánh chiếm thành Vĩnh Long,đội hỏa pháp vô thành. Quan tổng đốc cho đốt trại lính rồi rút lui. Tâyđuổi theo. Một số quân mình vừa chống cự vừa chạy tháo thân tới rạchNước Lạnh, bỏ mình hàng chục người. Con rạch đó ở sau vườn làng, cáchbàu một đám sậy rộng cỡ hai mẫu. Trong số nghĩa quân liệt sĩ đó có ôngHai Phụng. Ổng chưa lấy vợ, nhà chỉ có một mẹ một con. Bà mẹ sau cáichết của con, đau đớn quá nên tới rạch Nước Lạnh khóc lóc than thở. Bàphải mượn rượu giải sầu. Một đêm nọ bà uống say rồi toan tới rạch khócthan với vong hồn con. Ai dè mới tới bàu nước, bà té quị, nhiễm sương mà chết. Dân trong xóm bèn chôn cất bả vẫn chưa siêu sanh, còn lẩn quẩnbên bàu.

Vụ quân Pháp đánh chiếm Vĩnh Long, sau đó hai cô Túy được cha thuậtlại như sau: Tháng hai năm Nhâm Tuất (1862), thiếu tướng Bonard đem 11chiếc pháo hạm lẫn tuần dương đĩnh gồm một ngàn quân đậu phía trên đồnVĩnh Long, đổ bộ sát lũy. Thế giặc rất mạnh, trúc chẻ ngói tan. Đồn Vĩnh Tùng thất thủ. Nghĩa quân ta tử thương rất nhiều. Lãnh binh Tôn ThấtThoan, Quyền Lãnh Binh Nguyễn Thái. Chánh quản cơ Lê Đình Cửu phải dồntất cả vào đồn Thanh Mỹ. Quân Pháp dội hỏa hổ (trái nổ để phá và đốt)vào thành. Tổng đốc Trương Văn Uyển túng thế phải đốt doanh trại, đốtkho lương rồi rút về huyện Duy Ninh, không kịp thủ tiêu kho võ khí. Lãnh binh Hồ Lực tiếp ứng mặt trận chạy sau. Một cánh quân của ông do Phólãnh binh Ngô Thành Riêng điều động bị tản lạc vào ven rạch Nước Lạnh và bị bắn gục tại đây.

Vừa vào nhà, bà Năm Tảo bắt hai cô xức dầu cù là ngay. Tiết trờiviêm nhiệt, bịnh thơi khí xảy đến biết đâu mà lường, cho nên bà phải đềphòng, không cho cả nhà uống nước mưa chứa trong lu bầu, trong mái đầmđể ngoài hành ba phải uống nước trà huế pha gừng, quế.

Bà nhắc nhở:

- Con Hai ăn cơm xong nhớ khuấy bột trứng sam cho tía bây đùng. Con Ba thì nấu cho má nồi chè đậu xanh khổ tai bột bán.

Vừa từ bép đi lên, tay bưng dĩa bàn đựng rau sam luộc và chén mắmnêm giã tỏi ớt, thì bà nghe cô Ba Túy Nguyệt kêu nhỏ, giọng run rẩy, nặt tái xanh:

- Má, chị Hai coi kìa!

Bà Năm Tảo đật dĩa rau và chén mắm cạnh mâm cúng rồi cùng cô Haibước ra hàng ba ngó về phía cây da xá. Quỉ thần thiên địa ơi! Cô em connhà chù của bà hiện về đó chăng? Cô ta nằm vắt vẻo trên hai nhánh câyda, tóc buông xõa phất phơ trong gió, mặt xanh chành như lúc lâm chung.Cô ta ôm một đức con trai cỡ ba tuổi mập mạp xinh xắn. Đứa bé bú tay, áp đầu vào ngực mẹ.

Bỗng cô Út Thoại Huê, tên cô em nhà chú của bà Năm Tảo, ngóc đầu ngồi dậy, ngoắc bà Năm:

- Chị và hai cháu lại gần đây cho em bày tỏ câu chuyện. Tới giờ mùi hai mẹ con em phải trở về cõi âm.

Bà năm Tảo ngó hai con rồi cả ba bước lại gần gốc cây da. Nắng bênngoài chang chang như đổ lửa, nhưng vũng bóng mát cây da sao mà rờn rợn, gây gây lạnh! Bà Năm ấp úng:

- Dì về ở luôn hay ghé chơi một chút rồi đi?

- Thân em đây vốn vô định sở, nhưng vẫn ở trong cuốc đất Vãng nầy.Chỗ nào trong đất nầy cũng là nhà của em, vì bởi nghiệp lực oan trái emkhông ở một chỗ lâu dài. Thằng Hai Luyện khốn nạn dụ dỗ em cho tới mangbầu. Má con nhà nó còn bày mưu lập kế phá thai khiến em phải băng huyếtmà vong mạng. Trót nười năm nay cái ác quả của gia đình nó chưa chín mùi nên ác báo chưa hiện hành. Ai gieo mạ tháng ba thì tháng chạp sẽ gặtlúa. Riêng dòng họ mình tu nhơn tích đức nhiều, anh chị ăn ở hiền lươngsẽ gặp nhiều sung sướng về sau. Em về thăm chị và cầu xin chị một điều:Cây da nầy hạp với vong hồn các sản phụ chết trong lúc lâm bồn và cácthai nhi lỗi giờ sanh. Xin chị lập dưới gốc da một miếu nhỏ cao haithước, ngang một thước rưỡi, dài hai thước, có hướng án bên trong, liễnđối bên ngoài. Mỗi kỳ rằm Vu Lan nhớ cúng kiếng cho các vong hồn đượchưởng. Có vậy em mới theo con Ba để phù hộ cho nó.

Bà Băm Tảo suýt soa khấn vái:

- Dì nó đã dạy thì mẹ con tui xin vưng. Chỉ mong rồi đây không lâu, vong linh mẹ con dì mau được tiêu diêu siêu thoát.

Cô Út Thoại Huê bảo:

- Chị nên giữ kín chuyện này, đừng để lối xóm hay biết. Thôi, chị và các cháu vô nhà đi. Em và các bạn ở đây vui chôi chốc lát rồi sẽ về cõi u linh.

Mẹ con bà Năm ngậm ngùi quay vô nhà. Cả ba nhìn qua tấm vách, vềhướng cây da. Trên ngọn cây, khắp các cành, vài chị đàn bà xỏa tócchuyền qua chuyền lại. Còn lũ con nít thì bay lượn như chim, cười nóilíu lo nhưng âm vang chỉ văng vẳng mơ hồ, lẫn trong tiếng gió xôn xao từ cánh đồng bên kia con lộ đá thổi tới.

Cô Út Thoại Huê cất tiếng hát:

- Nắng lên cho là héo hon

Cho đáng kiếp chàng phụ rẫy nghĩa xưa

Một chị đàn bà ru theo:

- Thuở xưa quả báo thời chầy

Thời nay quả báo một giây nhãn tiền...

Những lúc hát những câu trách móc đó, cơn giận làm mặt họ xanh nhưchàm đổ, răng nanh dài ra, mắt sáng quắc như hai cục than ngún lửa. Rồiđám trẻ nít dần dần biến mất, sau đó mới đến lượt các chị đờn bà. Sự yên tĩnh rờn rợn phủ xuống.

Ông Năm Tảo tác người roi roi. Nhờ ông dượt võ Bình Định đều đặn,cũng như chịu khó làm vườn cuốc đất mỗi khi rỗi rảnh nên thân thể cườngtráng, bụng săn chắc chia làm sáu múi. Mặt ông bặm trợn nhưng hòa huỡn,cằm vuông, mày sắc. Ông lớn hơn vợ một tuổi nhưng không giữ nét trẻtrung bền dai bằng vợ. Gần tới tuổi năm mươi mà tóc bà Năm vẫn đen lángnhư huyền, mặt không một vết nhăn, vóc mình hơi mập, tươi mát. Thươngyêu vợ nên dù vợ không có con trai, ông vẫn không chịu nạp hầu, nạpthiếp. Nhớ ơn đó, bà chiều chuộng, săn sóc ông từng chút.

Trong khi cô Ba xuống bếp lấy đường cát mỡ gà và bột huỳnh tinhkhuấy trứng cá cho cha thì bà Năm Tảo thuật lại giấc chiếm bao đêm trước và vận sự các oan hồn hiển diện cho chồng nghe. Ông cứ gật đầu chấmcâu, không hề ngắt lời vợ. Nghe xong câu chuyện, ông nói:

- Má nó thấy tui có lý hay không? Hồi tui tính dọn về đây ở, má nócứ cằn nhằn tui sao chọn nhà gần chốn tha ma mộ địa. Nay má nó rõ rồiđó: đức trọng quỉ thần kinh. Tui noi gương ông bà, giữ vững khí tiết. Má nó thì giữ dạ hiền lương, lại dạy con cái hiếu thảo, tiết trinh. Vậythì ma quỉ nào nỡ lòng khuấy phá, hãm hại mình.

Bà Năm Tảo hạ thấp giọng:

- Để rồi ông coi, gia đình ông Bang biện Huỡn sẽ trả quả!

Ông Bang biện Trần Văn Huỡn là cha của cậu Hai Luyện, nhà ở xóm CầuĐào, gần chùa Bảy Phủ. Ông nội của ông Bang biện vốn là bạn đồng hươngvới ông nội ông Năm Tảo, quê làng Mỹ Khê, huyện Sơn Tịnh tỉnh QuảngNgãi. Cả hai ông cùng vào Nam lập nghiệp. Nhưng trong khi ông nội ôngNăm Tảo sống bằng nghề xem mạch hốt thuốc thì ông nội ông Bang biện theo tên Việt gian trần Bá lộc chuyên đánh dẹp, bắt bớ các nghĩa quân chốngPháp ở vùng Tiền Giang.

Vào năm 1862, trong trận đánh chiếm Vĩnh Long, nhờ ông nội ông bangBiện Huỡn điềm chỉ mà quân Pháp đã tiêu diệt đám nghĩa quân của Lãnhbinh Hồ Lực. Để trả ơn, ông ta được Pháp cho làm tri huyện tại huyên Duy Ninh. Cha ông Bang biện Huỡn là con trai duy nhứt, thừa hưởng một giatài khổng lồ, ruộng đất cò bay thẳng cánh, trong tủ có trên ba trămlượng vàng. Ông Bang biện Huỡn là thứ nam, không được coi sóc nhà thừatự và hưởng ruộng đất hương hỏa. Nhưng ông thọ hưởng được tánh gian áccủa ông nội cung như quyền biến và biển lận của tía ông nên ông lập cơnghiệp to tát chẳng mấy chốc.

Nhà ông bang biện Hưỡn ở sâu trong rạch Cầu Đào, giữa khu vườn trồng cây ăn trái. Nhà lợp ngoái lưu ly màu ngọc thạch, nền đá da qui cao tới ngực, tường đúc, nền nhà lót gạch bông, sân trước, sân sau, sân bên đều lót gạch tàu. Trong nhà bàn ghế bằng ỗ nu, gỗ cẩm lai. Bàn thờ bằng gỗtrắc khảm ốc xa cừ lóng lánh. Các gian bầy đầy đồ ngoạn khí: chậu, chóe, đôn đều bằng sứ quí giá. Đó là chưa kể hai chiếc tủ kiếng, đĩa, độcbình cổ thời Gia Tĩnh, Khương Hy, Càn Long... Đáng kể nhựt là cái lẫmlúa ba gian dài 12 thước đập vào mắt lối xóm, chứng tỏ ông là bực đạiđiện chủ có tới 300 mậu ruộng tốt.

Ông bà Bang biện Hưỡn tuy giàu có nhưng cư xử rất khắc bạc với tôitớ, tá điền tá thổ. Bà cho vay ăn lời cắt cổ. Hễ con nợ túng hụt, khôngkịp trả tiền lời đúng hạn là bà mắng nhiếc chửi bới. Có lần bà dám nhảylên bàn thờ ông bà của một con nợ tá điền. Ông khoái ngủ với những đờnbà có chửa mà dân sành việc gối chăn gọi là "núp gò mối đâm heo".

Cậu Hai Luyện trải qua hai đời vợ. Người vợ trước của cậu chết trong buồn rầu, thất vọng vì lấy phải người chồng bạc bẽo, ưa đào đĩ. Ngườivợ sau vốn là con ông tri huyện, tánh bướng bỉnh. Khi về làm dâu, mợ tagây gổ với cha mẹ và hai cô em chồng. Hễ cậu vắng nhà lâu là mợ ó réchửi mắng. Nếu cậu cự lại là mợ xách dao rượt cậu chạy vắt giò lên cổ.Cô Ba Cẩm Tú, em kế của cậu, có trổi giọng chảnh lỏn là mợ lập tức ghịtđầu, vả lịa lịa vô miệng. Sau đó, mợ mượn cớ về thăm nhà rồi ở luôn. Cậu qua rước, mợ chẳng những không về còn đon ren chửi xéo cha mẹ chồng.

Cô Ba Cẩm Tú chơi thân với một cô bạn học cùng lớp trường Áo Tím.Thấy cô nọ có ông thầy thuốc tốt nghiệp trường y khoa Hà nội đi hỏi, côtìm cách rù quyến vị lang tây kia khiến cô bạn thất vọng uống á phiệntrộn dấm tự tử.

Cô Tư Cẩm Lệ, con gái út của ông Bang biện, nhảy vô làm bé một ôngthầy kiện ở Sài gòn rồi lấn quyền vợ lớn khiến bà kia buồn rầu mà chết.Khi nắm quyền chủ phụ trong nhà, cô đối xử với con ghẻ tàn tệ còn hơnđối với kẻ thù.

Ông Bang biện Hưỡn và ông Năm Tảo vốn là đôi bạn thơ ấu. Dù tánh khí khác nhau, nhưng cả hai vẫn giữ tình giao hảo. Lý do thứ nhứt là bởiông Năm coi mạch hột thuốc mát tay. Lý do thứ hai cũng là lý do chánh,ông Bang biện cần có người để khoe khoang. Riêng bà Năm và hai cô Túychưa hề đặt chưn tới nhà ông Bang biện bao giờ! Hễ vô tình đụng đầu nhau ngoài đường, hai cô Túy chỉ chào hỏi lễ phép, nói vài câu rồi đường ainấy bước.

Cơm nước xong, ông Năm Tảo sao khử thổ hột muồng thơm, lá hắc phàndiệp, thân, cành và rễ cây mật nhãn. Bà Năm cũng không quên nấu mónthang trị ho gồm bách bộ, gừng khô, bông sứ cùi phơi khô, rau tần dầy lá cho mình.

Cô Hai Túy Ngọc mở nắp thố sứ, múc bột huỳnh tinh khuấy trứng samvào cài chén sứ nhỏ bày lên mâm rồi mời ông Năm Tảo dùng. Bên ngoài,trời vừa tắt nằng. Ông Năm vừa ăn bột, vừa lắng nghê tiếng bìm bịp vẳngngoài bến sông. Ông bảo cô trưởng nữ:

- Tía phải qua bên xóm Lò Rèn để trị bệnh cho cô Bảy Thược, con ông Hương bộ Hành, cuối canh hai tía mới về.

Cô Hai Túy Ngọc không nói gì. Ba tiếng "Xóm Lò Rèn" như vọng một ấntượng có một thoáng bàng hoàng. Nói là xóm Lò Rèn, nhưng ở đó chẳng cómột cái lò rèn nào. Muốn rèn dao, mác, xuổng, cuốc... dân xóm Cầu Kè nầy phải bơi xuồng vào tận làng Long Thanh.

Bà Chín Thẹo kể rằng, cách đây bảy năm, có gia đình người thợ rèngồm hai vợ chồng tuổi cở 30 và thằng con trai tuổi chừng 13. Hằng ngày,vợ thụt ống bể, chồng rèn dao mác. Đứa con trai xẩn bẩn bên cha để họcnghề. Ai dè một hôm trời mưa, sét đánh chết cả ba. Chòm xóm và họ hàngnhững người bất hạnh đó chôn họ trong miếng đất, cạnh lò rèn. Trải quahai mùa mưa nắng nền lò rèn mọc đầy cỏ ống, cỏ đuôi chồn, cây ké, câyvòi voi, dây choại, dây nhãn lồng. Nhưng đêm đêm, những người neo xuồngbên kia bến Lò Rèn để câu tôm thường thấy cảnh lò rèn hiện ra, đèn thắpleo lét, lửa đỏ rực. Người vợ vẫn thụt ống bể, người chồng vẫn đập búalên thỏi sắt nung đỏ đặt trên đe, còn đứa con trai vẫn ngồi chồm hổm bên cha. Tiếng búa nện không chan chát như tiếng búa thường, nó chỉ văngvẳng mơ hồ, vọng vào cõi âm u từng loạt mong manh rời rạc. Cảnh lò rènma và ba chiếc bóng u lin cứ sinh hoạt như thế tới lúc gà gáy hiệp haimới tan.

Mỗi khi nớ tới vận sự gia đình người thợ rèn, cô Hai Túy Ngọc naonao tấc dạ. Cái chết giáng xuống thình lình biến hai vợ chồng và đứa con kia thành ba oan hồn uổng tử, tâm thần hoang mang mờ mịt. Bởi họ khôngbiết rằng họ đã bước vào cõi chết, họ không hay xương thịt họ đã vùitrong lòng đất và đã vữa nát, hư hoại. Cho nên, nhiều đêm họ tái diễncảnh sinh hoạt mà họ vẫn làm thuở còn sanh tiền. Có ai tụng cho họ bàichú vãng sanh và kinh cầu siêu để vong linh họ nhận biết được tình trạng của mình hầu sớm đầu thai kiếp khác!
 
Chương 2


Bên nhà ông bà Bang biện Hưỡn tôi hôm đó đang chộn rộn. Chiếc đèn măng-sông thay thế chiếc đèn năm ngọn treo ở trung đường tỏa ánh sáng trắngnhư nước suối.

Ông Bang biện Hưỡn thả dài trên ghế xích- đu đọc quyển Đông ChâuLiệt Quốc. Bà Bang biện ngồi trên bộ đi- văng chơn quỳ ăn trầu. Trướcmặt bà, khay tần khảm xa cừ đựng chiếc bình vôi và chiếc chén ngâm caukhô bằng sứ nước men trắng in bông chầm đậm. Phía bộ ván cẩm lai, cô TưCẩm Lệ đang đạp máy may rột rột. Giữa trung đướng là bộ xa lông khảm xacừ gồm chiếc bàn hình hột xoài, một chiếc trường kỷ và bốn cái ghế dựa.Cầu Hai Luyện ngồi trên trường kỷ đọc tờ Nam Phong tạp chí.

Bà Bang biện Hưỡn ngó về phía nhà bếp, phàn nàn:

- Cái thằng Bửu là thứ đò làm biếng nhớt thây! Trưa hôm qua nó quênbẻ cau, báo hại tối nay phải ăn trầu với cau khô ngâm nước như vầy!

Bà Bang biện đã ngoài năm mươi, vóc vạc cau lớn, thân mình phóppháp, nước da ngâm đen. Kể ra trong bốn cái tướng đáo để của con ngườilà nhứt lé nhì lùn, tam hô, tứ lộ thì bà chiếm hai cái chót. Răng hàmtrên của bà hơi dài nên miệng ba hô, không khép kín được. Cặp mắt bàlớn, tròng trắng húng hiếp tròng đen, mu mắt nổi cộm. Nếu ai đó nhìn bàhơi chăm chú là bà vội khép kín miệng lại, mắt trở nên lim dim để khôngai thấy cái lộ trao tráo của mình. Bà nhờ ăn trầu vén khéo nên răng cỏcủa bà hãy còn chắc. Nói nào ngay, hồi còn trẻ bà không thuộc hạng xấugái. Bà chỉ có tướng dữ tợn. Đồi với kẻ quyền thế giàu sang, bả lễ phép, mềm mỏng, ngọt ngào; nhưng đồi với người thấp thỏi, cái miệng đó trởnên thô lỗ, hỗn hào, rổn rảng.

Ông Bang biện hơi nhỏ n gười, mặt lưỡi cày, mắt láo liên rất nhanh, miệng luôn luôn nở một nụ cười cầu tài.

Hôm nay tiết trời oi bức nên bà Bang biện mặc chiếc áo túi bằngxuyến trắng, quần lụa trắng. Dù ở trong nhà, bà vẫn vàng đeo ngọc khảmnhững nữ trang thuộc kiểu xưa. Tai bà đeo đôi bông cẩm thạch khoét lỗgiữa đẻ nhận cập hột xoàn ba ly rưỡi. Cổ bà đeo dây chuyền vàng, miếngmề đay cẩm thạch tạc hình trái lựu nút vỏ lòi hột. Hai cườm tay bà đeođôi neo quai chảo. Hai ngón tay trỏ bà là cặp cà rá cửu khúc liên huờn.Búi tóc bà hình trái cam hồng mật giắt chiếc trâm hình trăng khuyết nhận hột xoàn lấp lánh.

Ông Bang biện mặc bộ pyjama màu cà phê sữa sọc đen, tóc hớt ca- rê,sợ tóc cứng chĩa thằng lên trời như lông bàn chải tắm ngựa. Ông đặt tờbáo xuống bắp đùi, bảo vợ:

- Ờ tui quên nói cho bà biết, kỳ tới tui sẽ úng cử hội đồng quảnhạt. Anh Huyện có hứa giúp tui. Anh Huyện đây là ông Huyện Ngô Văn Toại, anh kế của bà Bang biện. Bà không nói không rằng, miệng nhai trầu rauráu nhưng nét mặt lộ vẻ suy nghĩ lung lắm. Bà vốn thích chồng mình cóquyền cao tước trọng, nhưng ra ứng cử thì phải tốn kém. Vả lại anh kếcủa bà chỉ là một ông huyện hàm, không có thực quyền dù ông ta thuộcloại "ăn cơm bảy phủ, dạo đủ mọi nơi", quen biết nhiều chốn quyền môn.

Ngày một nhà có đám giỗ cụ bà thân mẫu của ông Bang biện Hưỡn. Thiệt ra, cụ không phải là chánh thất của cụ Cai tổng Nhiều, cha công Bangbiện Hưỡn, cho nên người trưởng nam dòng đích không chịu thờ phụng cụ ởngôi tứ đường. Phần giỗ chạp do ông Bang biện Hưỡn đảm nhiệm từ khi ôngra riêng, cưới vợ và lập nghiệp.

Cô Tư Cẩm Lệ từ khi gá nghĩa với thầy kiện Trần Hảo Hiệp thì cô đóng đô ở Sài gòn. Cô vốn son sẻ nên khi về viếng cha mẹ không có con bồng,con dắt. Cả cô Ba Cẩm Tú, từ khi kết hôn với thầy thuốc Lê Thạnh Mậucũng không chửa nghén gì ráo. Được một cái là chồng cô Ba mở phòng mạchgần Cầu Lầu nên cô thường về thăm tía má cô.

Cậu Hai Luyện kỳ hè nấy tốt nghiệp trường Kinh lý đạt điền ngoài HàNội, được nhà nước cấp bằng kinh lý, đem danh giá rỡ ràng cho gia đình,cha mẹ. Bà Bang biện bằng bụng lắm. Thằng con bà sau khi đậu bằng thànhchung, cứ ở nhà làm công tử bột, chơi bời thả giàn. Từ khi con vợ kế vềnhà cha mẹ, cậu buồn nên mới quyết chí học thêm và đỗ đạt như vậy.

Bà Bang biện tằng hắng, bảo::

- Thằng Hai, con Tư, luôn cả con Ba bấy lâu nay xưng hô coi không ổn chút nào! Giờ đây má yêu cầu các con phải chỉnh đốn cách xưng hô. ConTư không nên gọi anh mầy bằng anh Hai suông trơn mà phải gọi anh Haikinh lý. Còn thằng Hai phải kêu hai đứa em mầy là cô Ba thầy thuốc, côTư thầy kiện. Vậy mới là trọng phép nhà.

Ông Bang biện Hưỡng ngẩng mặt, bắt bẻ vợ:

- Còn bà, bà cũng phải bỏ cách kêu thằng Hai, con Ba, con Tư chớ?

Bà Bang biện têm cho mình một miếng trầu, chậm rãi bảo:

- Từ rày, ông và tui nên kêu tụi nó bằng thằng Hai kinh lý, con Bathầy thuốc, con Tư thầy kiện, kẻo thiên hạ chê cười nhà mình bội ơn xãhội làng nước!

Ông Bang biện Hưỡn cười cười trước cách xưng hô giỡn nhột của vợ,nhưng thấy bà lộ vẻ trang nghiêm thành khẩn lắm nên ông không dám chếgiễu.

Cô Tư đang may chiếc quần đáy giữa bằng cẩm nhung đen, bảo mẹ:

- Anh Ba thầy thuốc có khuyên chị em con nói Tây y đầu hàng thì đitìm thầy thuốc ta hoặc đi đến chùa cầu tự chớ lẽ nào tụi con chịu cảnhhiếm muộn hay sao?

Cô Tư Cẩm Lệ giống cha ở nước da mởn, giống mẹ ở vóc mình cao lớn,cái miệng hô và cặp mắt hơi lộ. Nhưng cái miệng cô hô duyên, răng cô đều đặn khít khao, cặp môi cô ửng hồng tự nhiên. Cặp mắt cô chỉ hơi lộ,tròng trắng tròng đen không lấn át nhau. Đã vậy sóng mắt cô còn ướtrượt, sáng ngời, linh hoạt. Kể ra cô đẹp trên trung bình. Tối hôm nay cô bận đồ xẩm bằng cẩm phụng trắng, áo tay cụt, quần ngắn lòi mắt cá. Tóccô không bới như đa số phụ nữ thị thành thời đó mà cuốn tóc bánh tay rếtheo kiểu mấy bà đầm, giắt lược đồi mồi phía trên tai, sống lược nạm hột trân châu. Cô đeo nữ trang nạm hột xoàn chấp chới, xức dầu thơm nựcnồng nhưng không tô son dồi phấn.

Bà Bang biện thở dài, giọng than thở:

- Dòng họ tao, đàn bà đẻ sai như cá lóc, như chuột bạch. Bà nội bâyvà các cô bây cũng đẻ ít nhất ba trự. Vậy mà hai chị em bây sượng ngắt,không đẻ đái gì hết! Còn thằng Hai kinh lý, con vợ mầy hỗn hào, chê baikhinh khi mày, lộn nài bẻ ống về nhà cha mẹ nó. Giờ đây mầy có chức tước quan quyền, mầy nên đề phòng, không cho nó trở về leo lên địa vị bàKinh lý. Đẻ tao nhờ thằng Ba thầy kiện lo thủ tục ly hôn cho mầy. Có vậy mầy mới rảnh chưn rảnh tay cưới con vợ khác để tao có cháu nội vớingười ta!

Cậu Hai buông tờ báo, ngửng đầu lên:

- Con đã chọn vợ rồi. Cổ là dân Bắc kỳ.

Ông Bang biện giựt mình, buông tờ báo, ngó thằng trưởng tử của mìnhtrân trối. Bà Bang biện cùng cô Tư Cẩm Lệ, kẻ quên nhai trầu, ngườingừng đạp máy may, sửng sốt nhìn cậu Hai Luyện lom lom. Cậu ở trần trùitrụi, chỉ bận khăn xà rông đen lộn chỉ đỏ, chỉ trắng. Vóc cậu vừa tầm,hơi mập mạp. Mặt cậu tròn, má phính, khi gặp điều không vừa ý là sưnglên chù bự. Điểm linh hoạt duy nhất trên khuôn mặt cậu là đôi mắt sángnhư sao, biểu lộ sự thông minh cũng như những toan tính, lọc lừa xảodiệu.

Ba Bang biện hỏi gằn:

- Mầy nghĩ sao mà đòi cưới vợ Bắc Kỳ?

Cậu Hai Luyện:

- Bởi con thương cổ, cổ thương con. Tía cổ làm tham tá chớ bộ lôithôi gì sao? Cổ lại có ăn học, tuy chưa đậu đíp- lôm nhưng cũng học tớinăm thú ba ban trung học.

Ông Bang biện Hưỡn khuyên ngăn:

- Con đừng có dại! Bọn Bắc Kỳ vốn người dị tộc với người Việt mình.Tuy họ cũng nói tiếng giống mình nhưng cách nói của họ ráo rẻ, môimiệng. Họ nói tuy ngọt xớt nhưng cái khoa nói đánh đầu xóc óc xuất sắclắm con ơi. Mấy cô con gái Bắc kỳ ăn mặc tuy hực hỡ mà vòng vàng, hộtxoàn chẳng có bao nhiêu đâu! Gái Nam kỳ thiệt thà, ăn nói không biết làm điệu uốn éo, những cô bực trung coi vậy chớ vòng vàng chuỗi hột xuêxoang.

Cậu Hai trà lời:

- Tại ba má cứ ngó vô gia đình ông Phán giây thép rồi tưởng đâu người Bắc nào, cô gái Bắc nào cũng giống như họ.

Thuở trước, người Bắc vào Nam định cư thường thuộc thành phần nhânviên bưu điện hay các phu cạo mủ cao su. Ở Vĩnh Long có ông Giám Đốc sởBưu điện người Bắc, nhà xéo xéo sở Trường tiền. Dân tỉnh lẻ hễ thấy aiđứng tuồi, mặc Âu phục cũng gọi là ông Phán. Bởi gặp nhiều ông Phán nhưvậy nên họ gọi ông là ông Phán giây thép hay ông Phán Bắc. Ông Bang biện hỏi tới:

- Mà mầy với con Bắc kỳ đó... tằng tịu với nhau rồi, phải không?

Cậu Hai lắc đầu:

- Nếu cổ và con đã hưởng thú gió trăng thì đời nào con tính chuyệnđá vàng với cổ! Con nhà lành đó đa! Ba má cổ giữ cổ khít rim còn hơn bamá giữ ruộng đất, hột xoàn. Nếu ba má không chịu ra ngoài Bắc coi dâuthì con sẽ nhở cậu Huyện. Bấy lâu nay cẩu ao ước đi thăm Huế, Hà Nội màchưa có dịp.

Bà Bang biện Hưỡn thừa biết con trai mình không thể bị gái dỗ dễdàng bởi cậu có tới ba lớp vảy bảy lớp da. Nhưng ra tới Hà Nội để thỉnhmộ cô gái "dị tốc" mang dị tục về làm dâu thì cũng ngặt cho bà. Chi bằng bà giục hưỡn cầu mưu. Cậu Hai vốn kẻ mai huế xế quảng, phóng đãng đổiđời, lòng dơi dạ chuột, lúc mắm ruốc khi mắm nêm. Biết đâu về làm việctỉnh nhà, cậu gặp được một ý trung nhơn khác mà quên cô Bắc kỳ nói tiếng ráo rẻ nghe lạ hoắc lỗ tai kia đi.

Bà Bang biện nói:

- Việc lý hôn của con chưa ngã ngũ ra sao. Để rồi ba má và thằngchồng con Tư thầy kiện tính gấp cho xong. Chừng đó má sẽ nhờ cậu Huyệncon đứng ra làm mai, tính việc trăm năm cho con được vuông tròn.

Ông Bang biện Hưỡn chùng hửng:

- Vậy là bà đành bụng cái đám ở Hà Nội đó hay sao?

Bà Bang biện rút cục thuốc lóng, chà qua chà lại hàm răng trên, nói giọng rời rạc:

- Con cái thời nay cứng đầu cứng cổ. Vợ chồng mình đã chọn cho nóhai đám rồi, rốt cuộc keo rã hồ tan hết trọi. Bây giờ nó đành đám nàothì tui cũng ưng đám đó, để nó khỏi đổ thừa...

Ông Bang biện nói xuôi:

- Ờ, bà tính sao cho gọn thì tính!

Thiệt tình, ông không lý gì đến chuyện dâu rể. Con trai con gái ôngđều biết quyền biến. Về vụ chọn vợ cho cậu Hai, vợ chồng ông tính giàtính non nên ông không muốn can dự vô nữa. Điều ông đang bận tâm là ôngphải làm tròng làm tréo cách nào để mua rẻ sở ruộng tám mẫu của ôngHương bộ Lạc ở vùng Phước Hậu. Điều bận tâm thứ hai của ông là làm thếnào ăn nằm với vợ Cai tuần Hạp, tá điền của ông. Chị đang có chửa bốntháng. Ông chỉ cần ăn mằm với chị vài lần rồi sẽ trả chị ta về vớichồng, để ông kiếm một mụ đờn bà có chửa khác.

Bà Bang biện quay qua cô Tư Cẩm Lệ:

- Thôi, con nên sửa soạn đi ngủ. Mai mẹ con mình dậy sớm để còn coi sóc bầy trẻ nấu nướng.

Cô Tư:

- Bọn con Lài, con Lý đã lo xong nồi thịt cá kho chung, nồi khổ qua dồn thịt bằm, nồi vịt tìm hột sen và bạch quả.

Nhân dịp đám giỗ, ông bà Bang biện Hưỡn mổ con heo để ăn mùng đạiđăng khoa cậu trưởng tử. Xong xuôi họ mới dắt cậu về nhà hương hỏa mổ bò ăn khao với họ hàng bên nội của ông Bang biện Hưỡng.

Cậu Hai Luyện bảo cha mẹ:

- Ăn khao xong, con bắt tay làm việc liền. Nhà nước muốn đào conkinh từ sông Cổ Chiên băng qua làn Mỹ An và con được phái đi đo đất.

Ông Bang biện:

- Ở làng Mỹ An cũng gần, đi ghe buồm gặp nước xuôi gió thuận chừnghơn tiếng đồng hồ là tới. Vùng An Hương, Hòa Mỹ, Mỹ An thuộc về quê bànội của con đó.

Cậu Hai lơ đãng:

- Vậy thì tốt lắm!

Rồi cậu lấy tay che miệng ngáp dã dượi, ủ ê bỏ vào buồng. Bà Bang biện quay qua cô con út:

- À quên, để má dặng thằng Bửu sáng mai bẻ cau cho má và chặt quầydừa xiêm chồng con và anh rể con uống. Con đi tìm nó, lôi cổ nó lên đâycho má dạy việc.

Bửu là con rơi của ông Bang biện Hưỡn. Mẹ ruột chết sớm nên được bàBang biện mang về nuôi từ thuở cậu lên tám. Người đích mẫu lòng dạ khôkhan. khắc bạc kia dạy dỗ đứa trẻ bất hạnh bằng roi vọt, bạt tai, ngắtvéo, chửi rủa. Bửu rất thông minh, được cha cho học tới lớp ba, thi đậubằng sơ học, rồi phải ở nhà giúp việc trong ngoài. Cậu đã chép tuổi ấuthơ và thời mới lớn bằng nước mắt, bằng mồ hôi.

Chùng giập bã trầu, cô Tư Cẩm Lệ cùng một cậu trai khoảng 15 tuổi,từ ngăn chái dưới nhà bếp đi lên. Cậu ta ốm yếu, mắt trõm lơ, da mặt đỏbừng vì cơn sốt, quần áo may bằng vải hột giền đen, vai áo vá một miếnglớn.

Bà Bang biện cất giọng rít róng:

- Từ hồi chiều tới giờ mầy chui lỗ nẻ nào mà biệt tăm biệt tích vậy? Hễ ăn xong ba hột cơm là mầy đánh lừa đánh đáo đi dạo xóm.

Bửu nhỏ nhẹ:

- Thưa má lớn, xế nầy con phụ với chú lực điền giở chà bắt tôm. Bởiđó con lên con nóng lạnh. Từ chiều tới giớ con nằm li bì ở vạt tre chớđâu có đi dạo xóm.

Bà Bang biện nguýt dài:

- Mầy đùng có lẽo lự! Hễ dầm nước đang nắng thì chỉ miệt sật sừ vậythôi. Sáng mai mầy phải dậy sớm bẻ cho tao một buồng cau xiêm, một quàydừa xiêm.

Bửu chỉ "dạ", sắc mặt mệt mỏi, ngầy ngật. Ông Bang biện liếc qua đứa con bật hạnh, can gián vợ:

- Nhìn qua mặt nó, tui cũng biết nó đang làm cữ. Thôi, bà nên châmchước cho nó nhờ. Nhà mình tôi trai tớ gái thiếu gì. Nó đang đau yếu, bà mà bắt nó leo cau leo dừa, rủi nó run tay té xuống đất thì sao!

Bà Bang biện liếc xéo chồng rồi hét:

- Đi đâu thì đi cho khuất mắt! Mà nhớ biểu thằng Đực hoặc thằng Xiêm hái cau, hái dừa thế cho mầy nghe chưa? Thừ đồ biếng nhác gì đâu á, mới đỏ đèn đã lo đi ngủ, y chang như gà vịt vậy.

Ông Bang biện Hưỡn bước tới bàn có nhiều ngăn hộc, mở một ngăn, lấy năm gói cảm mạo phát tán đưa cho Bửu, bảo:

- Kiếm nước trà uống liền một gói đi. Ngày mai, ngày một, mỗi ngàymầy nhớ uống hai gói. Uống trước bữa ăn thì thuốc mới công hiệu.

Bửu đỡ lấy gói thuốc, lí nhí cảm ơn người cha ruột rồi lủi thủi quay về buồng của mình gần kho chứa nông cụ.

Căn buồng của Bửu gồm một cái vạt tre trải chiếu đậu, một cái mùngmàu cháo lòng vá vài miếng lụn vụn, một cái mềm xám cũ mèm và một cáigối ống bằng cây đẽo.

Đêm đó Bửu bị hai cữ sốt rét làm cậu mệt nhoài. Lúc nóng, cậu muốncởi phăng hết quần áo ra mong mát mẻ được chút nào chăng. Lúc lạnh, cậurun cầm cập, hai hàm răng đánh bò cạp. Chiếc mền nỉ dày như vậy mà cậuvẫn cảm thấy như mình ăn mặc phong phanh đứng giữa buổi lập đông.

Chỉ có lúc bịnh hoạn như hôm nay, Bửu mới thấm thía hoàn cảnh mồ côi mẹ của mình. Lúc mạnh giỏi, sẵn tánh lạc quan, cậu không nhìn vào hoàncảnh hiện tại. Cậu nghê người chú của cậu, đã xuất gia đầu Phật hiện trù trì tại chùa Long Đức, cách cầu Đào một trăm thước. thường nói rằng:"Sông có khúc, người có lúc, lại nữa sông còn có lúc đục lúc trong, nước có lúc ròng lúc lớn". Câu nói đó tuy cũ kỷ của cổ nhơn, nhưng do mộtchiêu cảm đặc biệt, Bửu cảm thấy nó dội sâu vào tâm khảm và niềm tin của cậu. Nhờ đó sống với người cha hờ hững, với bà mẹ ghẻ tàn nhẫn và lũanh chị em don dòng đích hay hoạnh họe eo sèo mà cậu không buồn, khôngtủi thân. Cậu tin rằng kiếp trước cậu đã gây nhiều việc oan trái cho họnên kiếp nầy những lằn roi vọt của họ quất lên mình cậu chỉ là để trảquả. Còn những lới mắng nhiếc rủa sả của họ cũng chỉ là tiếng vọng củanghiệp chướng.

Bây giờ có lẽ vào giữa canh ba. Bửu choàng tỉnh giấc sau cơn mêngắn. Ánh trăng từ miệng kiếng gắn trên mái nhà chiếu vào căn buồng.Ngoài hè, tiếng dơi ăn ổi kêu chí chóe. Bửu gắng định tâm niệm Bạch YQuán Thế Âm Thần chú và chú Tiêu Tai Cát Tường do pháp sư Chơn Huệ, chúcủa cậu, truyền dạy trước khi chìm vào cơn mê mệt li bì. Bửu không mongthần lực của kinh giúp cậu thoát ly cảnh nhọc nhằn cơ cực hiện giờ,nhưng ít ra nó cũng gõ vào nội giới cậu từng âm ba lảnh lót, xua hếtbóng đêm vá nỗi sợ hãi vu vơ.

Dưới mái nhà nầy, Bửu luôn luôn có cảm tưởng mình đứng trên bờ vựcthẳm. Cậu không thể lường đực những cơn giận bật chợt của bà đích mẫu.Khi bực dọc, dù bất cứ chuyện gì, do ai đi nữa, bà cũng chĩ a mũi dùi vô cậu. Từ nhỏ, cậu đã bị đối xử như hàng tôi tớ, ăn cùng bàn với tôi tớ,làm lụng như tôi tớ; đau đớn hơn nữa, cậu còn bị là bia nhận những lờihằn học, oán ghét không duyên cớ củ bà đích mẫu mình.

Cơn sốt lại nổi lên làm đầu óc Bửu lõng bõng khiến tâm trí cậu không buộc chặt vào từng tiếng niệm. Dần dà, Bửu lọt vào cơn ác mộng thậtmạch lạc. Cậu thấy mình bị một mụ đàn bà mặt đầy vết thẹo, tay cầm chiếc rựa sáng loáng đuổi theo. Những vết thẹo làm những bắp thịt trên khuônmặt mụ biến dạng, nét hung ác hiện ra lồ lộ. Miệng mụ mím chặt, hai cánh môi mỏng lét như hai sợi chỉ. Cặp mắt mụ trợn ngược, tròng trắng nhiềuhơn tròng đen. Cậu cứ chạy nhưng cảm thấy mình nặng như đeo đá, cặp giòyếu đuối lỏng lẻo như chực rời khỏi thân thể. Trước mặt cậu bây giờ làmột con sông rộng có thành cầu bắc ngang nhưng không lót ván. Cậu kinhhãi không biết xoay trở cách nào. Sau lưng cậu, tiếng hét của mụ giàhung ác chen với tiếng rống gầm của ác thú. Cậu tê điếng gần ngã quỵ thì bỗng nghe một giọng nói dịu dàng: "Con hãy theo má, bò theo thành cầuđể qua sông. Có má đây, con đừng sợ".

Cậu ngước lên. Trước mặt cậu là má ruột cậu, khuôn mặt buồn bã, nụcười hiền từ. Bà mặc chiếc áo bà ba bằng lụa trắng, quần lục xiêm, bộ yphục mà khi bà chết, bà ngoại cậu đã mặc cho bà trước khi nhập quan. Bửu chỗi dậy, rán vừa bám vừa bò theo sườn cầu. Má cậu thong thả đi trước,tay xác chiếc đèn tán chai rọi sáng bức màn sương mỏng phủ mờ cảnh vật.

Bửu đã vượt qua sông. Mẹ cậu dắt cậu đi một quãng đường nổi từng đám sương cuồn cuộn làm cậu có cảm tưởng hai mẹ con đang đi trên mây. Bàbảo cậu: "Má đưa con lên núi Cô Tô đây. Rồi đây con sẽ cùng chú con tutại chiếc am lá cất gần Điện Kín. Con sẽ đực thảnh thơi cho tới cuốiđời." Rồi sương mù tan dần. Hai mẹ con bước vô một thảo am có rào trúcquanh. Chú của cậu, pháp sư Chơn Huệ, từ trong bước ra, áo nhựt bình màu dà, cổ đeo xâu chuỗi kết bằng hột hổ phách...

Tới đây Bửu bừng tỉnh giấc vì tiếng hét của bà Bang biện Hưỡn:

- Dậy đi, thứ đồ thúi thây lầy lụa! Ở trong nhà nầy, nếu không xaylúa, giã gạo, chẻ củi thì cũng quét dọn chuồng heo, chuồng gà. Tao đâucó dư cơm để nuôi thứ đồ trôi sông lạc chợ như mầy! Mau dậy uống thuốcrồi theo thằng Đực, thằng Xiêm móc mương bồi liếp!

Bửu lồm cồm ngồi dậy. Nhưng cơn váng vất như choàng một tấm màn tốisẫm và lạnh ngắt lên tâm trí cậu. Rồi côn ho xé phổi kéo tới làm Bửu mửa một đốn máu tươi. Giờ đây bà Bang biên Hưỡn mới biết sợ. Bà chạy rangoài một mặt gọi thằng Xiêm mời ông Năm Tảo tới chẩn mạch cho thằng con ghẻ, một mặt kêu thằng Đực vô quét dọn đống máu tươi và xức dầu hơ lửacho Bửu.

Sau đó bà Bang biện bước lên trung đường thỏ thẻ thuật lại vận sự cho chồng nghe. Ông Bang biện nói:

- Ối, hỏa vọng trật đường rầy làm người bịnh lạc huyết đó thôi! Háilá chó đẻ giã nhỏ, vắt nước cốt cho nó uống là nó hết bịnh liền!

Nói xong, ông sai con Lài con Lý chuẩn bị trà nước. Cà nhà xúm lạiăn sáng. Cô Ba Cẩm Tú cùng chồng lúc hừng sáng đã từ cầu Lầu qua nha cha mẹ dùng điểm tâm với cả nhà.

Khách tới sau vợ chồng cô Ba là pháp sư Chơn Huệ và ông Năm Tảo. BàBang biện bảo dọn món cháy cho pháp sư dùng rồi mời ông Năm mau chẩnmạch hốt thuốc cho Bửu. Bà thiệt sự run sợ cho tính mạng cậu. Cách đốixử ác độc của bà đối với cậu con ghẻ mới lớn kia thì bà con, chòm xómđều rõ. Nhưng bà không muốn cậu chết. Trước hết bà không muốn mất mộttên tớ trai giỏi dắn; sau nữa bà cũng ngại miệng lằn lưỡi mối phao vu bà giết lần mòn đứa con ghẻ bạc phước kia.

Pháp sư Chơn Huệ khoảng 40 tuồi, da dẻ hồng hào, cặp mắt sáng, cáinhìn dịu dàng và trang nghiêm. Ông tiếp chuyện vợ chồng bác sĩ Lê ThạnhMậu nhưng thỉnh thoảng sắc mặt lại lộ vẻ nghĩ ngợi. Bác sĩ Lê Thạnh Mậutrắng trẻo, phương phi nhưng ánh mắt mệt mỏi, cái nhìn thờ ơ. Cô Ba CẩmTú đẹp sắc sảo, cao lớn hơn cô Tư, da tuy trắng nhưng không có vẻ mát mẻ nõn nòa bằng. Bù lại, ông trời lì xì cho cô đôi má lúm đồng tiền để côlàm duyên làm dáng với cuộc đời. Hôm nay cô Ba mặc áo dài nhung hường,quần sa- teng đen, đi dày quai nhung thêu cườm. Cổ đeo sưu bộ kim cươnglập lòe bảy sắc cầu vồng. Khi tới nhà tía má ruột mình, cô vào buồng mẹcởi áo dài, lấy trong giỏ xách chiếc áo bà ba bằng nhiễu tím than thêubông hường ở bâu cổ, lai áo ra thay cho tiện lúc làm bếp.

Cô Ba hỏi cô Tư:

- Chùng nào dượng Tư mới về tới?

Cô Tư Cẩm Lệ:

- Từ Sài gòn về đây ít nhứt cũng ba tiếng đồng hồ nếu không kẹt bắc Mỹ Thuận. Nhưng em tin ảnh sẽ về đây trước khi bày mâm cúng.

Cô Ba kể với em:

- Nè Tư, đêm qua chị nằm thấy chiêm bao thấy mình nuốt hột trái xálỵ, nhưng rồi từ dưới rún chị tuôn ra một luồng khói, bay lên trời tụlại thành mây rồi tản mác đâu mất. Chẳng biết điềm gì vậy?

Cô Tư nhìn chị:

- Sao lạ vậy? Còn em thì chiêm bao thấy con rắn chui vô bụng em rồichui ra, chín lần như vậy. Lần chót nó cắn bụng em nát tanh banh tétbét...

Bà Bang biện nói át ngay:

- Ối! Mộng triệu bá láp bá xàm! Hơi đâu bây thắc mắc cho hao tâm tổn trí! Bà con lối xóm sắp tới phụ giúp nấu nướng rồi, bây liệu mà chỉbiểu họ. Hôm qua tụi trẻ giỡ chà bắt được khá nhiều tôm càng, cá lóc,bây làm sao cho mâm cúng ê hề tươm tất thì làm! Má còn phải lo tiếpkhách danh giá trong tổng, trong làng.

Ông Năm Tảo sau khi chẩn mạch cho Bửu liền bước ra trung đường, nơiông bà Bang biện, bác sĩ Lê Thạnh Mậu, cậu Hai Luyện đang hầu chuyệnpháp sư Chơn Huệ. Ông bảo:

- Tui xin nói thiệt cho ông Bang biện lo liệu. Cậu Bửu bị chứng laosái. Lao sái mạch thường đi với Sác hoặc Sắc hoặc Tế. Chứng nầy phát ranhiều nhiệt, tuôn mồ hồi dầm dề, ho ra máu, da thịt gầy mòn, vóc mình ốm o so lại. Riêng mạch của cậu Bửu đây đi Sác Tế mà Sắc là chứng chết.Tuy biết vậy nhưng tui cũng gắng hốt vài thang thuốc cho cậu. Biết đâunhờ ơn Trời Phật, ông bà, mạch đi Vi Sắc thì cậu sẽ có hy vọng sống.Nhưng bịnh nầy thập tử nhất sinh, có sống thì cũng vướng bịnh nan y chotới chết. Đối với người lớn tuổi hai lá phổi rắn chắc hơn nên bệnh laolâu phá hư. Đằng nầy cậu Bửu mới tuổi trăng tròn, hai lá phổi còn nonyếu, tui không dám chắc cậu có sống được tới sang năm!

Bác Sĩ Lê Thạnh Mậu góp ý:

- Tuy tui không rõ ngành Đông y nhưng ông Năm đây luận bịnh rấtđúng. Ông Năm cứ trị bịnh cho cậu bằng thuốc bắc, tui sẽ trị bằng thuốctây.

Nãy giờ pháp sư Chơn Huệ lặng thinh theo dõi cuộc luận bịnh của ông Năm Tảo, bây giờ mới lên tiếng:

- Cứ để cho ông Năm đây điều trị. Ông bà mình thường nói, hễ nhiềuthầy thì hư bệnh. Lại nữa, anh chị lu bù công kia việc nọ, nếu để thằngcháu tui ở đây thì không ai săn sóc. Chi bằng anh chị cho người võngcháu về chùa, tui sẽ săn sóc cháu tiện hơn.

Bà Bang biện Hưỡn nói:

- Bạch thầy, thầy dạy rất phải. Vộ chồng tui xin cám ơn thầy.

Bà ngó qua chồng thấy ông cứ làm thinh, uống trà từng hớp. Bà biếtông đã khứng chịu vì chứa một thằng con nít mới lớn mắc bịnh truyềnnhiễm thì cực lòng cực trí cho bà biết bao!

Pháp sư Chơn Huệ nói:

- Tuy tui không biết sống chết ra sao nhưng tui có thể cứu mạng nóđược vì tui có rộng thì giớ. Tháng tới nữa tui đi Thất Sơn tu luyện, sẽđem nó heo luôn. Nó rủi có chết thì có tui trợ niệm hồng danh A di đàPhật để nó nhờ tha lực của Phật mà vong linh được vãng sinh về chốn Anbang Tịnh độ.

Sư vừa nói tới đây thì cô Tư Cẩm Lệ từ bếp bước lên nói nhỏ vào tai mẹ. Bà Bang biện lật đật xuống bếp. Cô xầm xì xụt xịt:

- Mới nãy con Lý thấy con chim tứ nhánh cây bằng lằng bên hè laoxuống dãy đành đạch chết liền tức khắc. Đã vậy, con Lài đi xán măng Mạnh tông gặp bụi trê bên miễu thổ thần trổ bông. Hễ tre trổ bông là tre sắp chết...

Bà Bang biện lại mắng lấp:

- Bây khéo tin chuyện bá láp! Chim sa cá lụy là chuyện thường. Còntre trổ bông là tre già, hễ có già thì chết, có gì lạ đâu? Nhà ông ngoại bà ngoại bây thiếu gì bụi tre trổ bông mà mấy cậu bây thâu góp huê lợidư muôn, thăng quan tiến chức, vẻ vang vô cùng. Riêng tao, tao thấy chim xa hà rầm. Vậy mà có sao đâu?

Sắc mặt bà vẫn lộ vẻ hoan hỉ như thường. Thằng con ghẻ bà đau nặng.Mấy cái điềm xấu điềm gở kia chắc chắn ứng vào cái chết sắp tới của nó,việc gì bà phải bận tâm? Cho nên bà bước lên nhà, bảo pháp sư Chơn Huệ:

- Thôi, từ rày vợ chồng tui giao luôn thằng Bửu cho thầy. Mỗi thángtui sẽ cấp cho nó năm đồng bạc, cho chùa mười đồng. Trước khi thầy đưanó đi Thất Sơn, tui sẽ sắm sửa cho hai chú tháu thầy không thiếu thứchi, kể cả lộ phí. Khi nào thầy trụ được nơi ăn chốn ở chắc chắn, nhớbiên thư cho vợ chồng tui biết, đặng hằng tháng tui gửi măng- đa chothầy.

Pháp sư Chơn Huệ nói:

- Tui chỉ nhờ anh chị lo thuốc men cho cháu để nó được chỏi hỏi rồitui sẽ dẫn nó lên tu trên núi Cô Tô. Ở đó có nhiều khách đàn việt lo cho hai chú cháu tui, khỏi phiền tới anh chị. Cháu có chết cũng có các đạohữu tụng niệm. Nếu may ra cháu sống sẽ tu hành. Dù rằng ai tu nấy chứngnhưng cả ba họ tuy không được phần huệ nhưng chắc chắn sẽ được phầnphước nhờ công tu của cháu.

Bà Bang biện Hưỡn nhai trầu rau ráu, mặt ngời sắc hân hoan. Bà thứabiết mình có độc căn, khó mà phát huệ. Vả lại bà cần phước chớ đâu lý gì tới cái thứ huệ bá láp tầm phào kia!

Sau đó, một mặt bà Bang biện sai cú Bảy lực điền cùng thằng Xiêmvõng Bửu đến chùa; một mặt bà sai con Lài chọn mùng mền, chiếu gối mớitoanh cùng bốn bộ quần áo cũng mới đem qua chùa cho Bửu. Bà còn cắt đặtthằng Đực mỗi ngày đem thuốc men và mọi thứ cần dùng khác cho bịnh nhơn.

Trong khi ở nhà ông Bang biện Hưỡn đang tưng bừng khách khứa đến dựtiệc thì ở bên chùa Long Đức, pháp sư tụng kinh Cầu An để cầu lành bịnhcho cháu. Uống hết hai thang thuốc do ông Năm Tảo hốt, Bửu bớt nóng, đổmồ hôi và ngủ một giấc êm đềm sảng khoái. Pháp sư Chơn Huệ nhủ thầm: "Từ rày thằng này sẽ phải nương nhờ cửa Phật để tránh roi vọt của nghiệpquả!"
 
Chương 3


Pháp sư Chơn Huệ rước Bửu về chùa cũng có nguyên nhơn dựa vào con mộnggiữa canh ba của sư. Trong cơn chiêm bao đó, sự thấy mình đi sâu vào xóm Bánh Phồng giữa vùng lau sậy bát ngát, đến một ngôi mộ đắp đất nằm giữa hai mương nước loáng thoáng những cánh béo tai lá tròn tròn. Một ngườiđàn bà mặc áo bà ba trắng, quần vài xiêm đen ngồi bên mộ dưới cây phùdung trổ bôn trắng. Nười đàn bà bảo:

- Bạch thầy, chắc thầy chưa quên tui. Tui là cô Hai Kim quê ở xómBánh Phồng nầy. Bởi tui bạc phước, mới lớn đã bị anh của thầy là ôngBang biện Hưỡn cưỡng bức cho tới mang thai. Sau đó bà Bang biện cho tuivề ở chung với bà ngoài Cầu Đào. Thời gian đó thầy đi vân du miệt Namnon Bảy núi, tầm sư học đạo nên thầy chưa gặp mặt tui lần nào. Trong bốn năm trời, tui bị bà lớn đối xử hà khắc thái thậm, chịu chửa mắng, đánhđập như cơm bửa. Sau đó, ông Bang biện còn mua sở ruộng mười mẫu ở HòaMỹ. tui được bà lớn cho phép đến đó cất nhà trông coi trâu lúa cùng cáctá thổ tá điền. Ai dè năm năm sau tui bị chứng huyết trắng. Không đượcthuốc thang điều trị châu đáo nên tôi chịu ốm o mòn mỏi nhắm mắt lìađời, bỏ thằng con dại cút côi cho bà má lớn nó hành hạ. Ngày mai thầytới nhà ông Bang biện xin cho con trai tui theo hầu thầy, bởi giữa thầyvà nó có mối túc duyên trải qua bốn kiếp. Cả hai nếu không làm cha conthì cũng làm chú cháu, thầy trò. Thầy an lòng, đừng sợ bà Bang biện tứchối vì đã tới lúc giữa bà Bang biện và con trai tui trả hết ác nghiệpoan oan tương báo, con tui sẽ theo thầy thoát vòng tục lụy.

Đúng như lời cô Hai Kim dặn, pháp sư đến nhà anh chị mình gặp lúcBửu đang lên cơn bịnh mê man và đang lúc bà Bang biện Hưỡn muốn trút của nợ cho sư.

Tối hôm đó, pháp sư Chơn Huệ tụng cho cháu chầu kinh Dược sư rồi mới ngồi tọa thiền. Sáng hôm sau, Bửu đã tỉnh táo, đòi ăn cháo. Pháp sưChơn Huệ mừng lắm, sai chú tiểu Như Pháp nấu cháo thiệt lỏng trộn vớisữa hộp cho cháu ăn.

Xong xuôi, đợi khi Bửu ngủ, pháp sư Chơn Huệ cuốc bộ vào nhà ông Năm Tảo. Ông đang phơi khô cá tra, khô cá sặt trong sân nắng. Bên thềm nhà, con mèo mun nằm sưởi nắng, cặp mắt trong veo màu ve chai chong về phíasư.

Thấy có khách đến viếng, mà lại là một bực cao tăng, ông Năm Tảođứng dậy chắp tay xá xá, miệng niệm hồng danh "Nam mô a di đà Phật" rồimời pháp sư vào nhà. Bà Năm Tảo từ bếp lên, rối rít:

- Bạch thầy tới chơi. Chiều nay xin thầy ở đây dùng bữa cơm chay với tụi con.

Phÿp sư Chơn Huệ bảo:

- Mô Phật, mỗi ngày tôi chỉ dùng một bữa ngọ traii mà thôi. Hôm naytui đến dùng trà với ông Nhăm và có việc cần tham vấn cùng ông đây.

Ông Năm Tảo mời pháp sư ngồi ở ghế trường kỳ, Bà Năm niêm nở:

- Trá thì lúc nào nhà cũng có, nhưng hôm qua có một bà ở miết An Hữu lặn lội tới đây biếu cho tía sắp nhỏ bốn lượng trà ngon gọi là thưởngtái đoán bịnh, trị bịnh của ổng.

Bà quày quả xuống bếp sai cô Hai súc bình và chén, cô Ba nhúm lữanấu nước, mà phải là nước mưa trong chiếc mái đầm tích trữ từ hối nămngoái.

Trong khi chờ trà, pháp sư hỏi ông Năm Tảo:

- Ông nhắm coi thằng Bửu có thể hết bịnh không?

Ông Năm trầm ngâm:

- Thưa thầy, tui chẳng biết có phải phước chủ may thầy hay không!Hồi sáng hôm qua, tui bắt mạch cậu Bửu thì thấy mạch đi sắc tế, tướngchết hiện ra. Vậy mà sáng nay thì mạch lại đi vi sác, có cơ may sốngđược. Nhưng cậu dứt được bịnh lao hay không thì tui không dám nói trước.

Khi bà Năm bưng khay trà lên, ông Năm Tảo lộ vẻ suy nghĩ lung lắm. Ông e dè nói:

- Căn bịnh của cậu Bửu thì lạ lắm thầy ôi! Tui nói ra đây không phải là muốn gieo hoang mang cho thầy, chớ bịnh của cậu lúc quỉ lúc ma, lúcchường lúc ẩn, tui không biết sao mà đoán! Lúc mới vô buồng cẩu, tuithấy quanh giường cẩu có nhiều kẻ mặt xanh nanh bạc, có cả một mụ giàmặt đầy vết rỗ vết thẹo gớm ghiếc. Tụi nó chập chờn ẩn hiện. Khi thấytui bước vô thì biến mất. Lúc đó cậu Bửu nằm mê man. Tui bắt mạch thìthấy trong sáu bộ mạch của cẩu, không mạch nào phát hiện. Tui biết cẩubị ma dựa nên đọc kinh trừ tà. Chừng giáp bã trầu, mạch bắt đầu máy động ở quan bộ nhưng không hiện rõ phù, trầm, trì, sác. Tui bèn đọc tiếp 105 biến Tiêu tai cát tường và 105 biến Phật mẫu chuẩn đề thần chú. Đó rồimạch lao sái hiện ra, nhưng đó là mạch của kẻ sắp chết. Vậy mà từ khi về chùa, mạch cẩu lại thay đổi. Thuốc thang do tui hốt đâu có hể hiệunghiệm mau như vậy được! Vậy xin thầy gắng chờ năm mười bữa hoặc nửatháng coi bịnh cẩu sẽ xoay chiều đổi hướng tốt đẹp hơn chăng!

Pháp sư Chơn Huệ nói:

- Những điều ông thấy, tui không lấy làm lạ đâu! Những bóng quỉ mặtxanh nang bạc cùng mụ quỉ mẫu mặt thẹo kia chỉ là những vong hồn baokiếp trước về báo oán cháu tui. Giớ đây, cháu tui đực vong linh má nóphù trợ, lũ ma quỉ kia khuấy phá lần chót cho sạch oan nghiệp để sau nầy nó hưởng phước quả tròn trận. Tui tin rằng khi nó theo tui lên tu trênnúi Cô Tô thì nó sẽ dứt bịnh.

Bà Năm Tảo ngó về phía bếp nói vọng xuống:

- Tụi bây mau đem bánh trái ra đây. Tụi bây làm gì lúc thúc ở trỏng mà không ra chào hầy?

Hai cô Túy từ bếp bưng mâm mận, xoài, đu đủ lẫn khóm xét miếng, mộtdĩa bánh phục linh, ba chén sương sa hột lựu. Hai cô chấp tay cúi chàopháp sư rồi xuống bếp nấu thêm nước châm trà.

Bà Năm Tảo lấy ba lượng bột huỳnh tinh, một lượng đường phèn, trao cho sư, ân cần bảo:

- Gọi là chút phẩm vật cho cậu Bửu. Thầy dặn chú Như Pháp khuấy bộttrong hoặc bột trứng cá cho cẩu ăn. Khuấy bọt trứng cá thì đẹp mắt nhưng ăn lâu tiêu hơn khuấy trong. Bột huỳnh tinh Mỹ Khê xứ Quảng phải khuấyđường cát trắng, đừng khuấy với đường thẻ hoặc đường cát mỡ gà mà kémmàu gương vẻ ngọc.

Ông Năm Tảo trách vợ:

- Má hai con Túy lôi thôi quá! Sao không tặng thầy một ít quế Trà Bồng xứ Quảng để thầy mài ra uống lỡ khi đau bụng.

Bà Năm Tảo liền vào trong mở thùng kẽm lấy quế ở ngăn trên. Thùngkẽm có hai ngăn, ngăn nầy cách ngăn dưới bằng một phên tre, bên dưới đổđầy mật ong. Chỉ có hương mật ong mới có thể xua tan ẩm mốc và giữ quếlâu dài.

Trước khi từ giã ra về, pháp sư Chơn Huệ tặng ông bà Năm Tảo bốn đạo bùa trừ tà chép Lăng Nghiệm thần chú bằng chữ Bắc Phạn trên giấy mỏng.Giấy chép được xếp thành một miếng hình vuông, bề dài một tấc, bề ngangba phân, bề dày một phân. Cô Hai Túy Ngọc đã may sẵn bốn đãy gấm để đựng bùa, mỗi người trong nhà giữ một đãy. Ông Năm Tảo dặn:

- Tuy là mỗi người giữ một đạo thần chú, nhưng mẹ nó và các conkhông nên cất giữ trong chốn buồng the là chỗ uế trược. Nên đặt bốn túigấm ở chỗ bàn Phật thì hơn.

Nhìn bóng nắng rút khỏi nửa giàn mướp trên vạt đất giáp sân trước, bà Năm giục hai con:

- Mau nấu cơm đi. Ba bây ăn cơm sớm để còn đi Cái Sơn Lớn cho kịp con nước.

Cô Hai xách nồi đồng đi đong gạo. Nhà nầy phải nấu ba lon một nhúm,cơm ăn không hết thì sẽ rang váo lúc sáng mai cho ông Năm Tảo ăn chắcbụng. Cô Ba xách rổ ra vườn hái một trái mướp hương, một mớ rau bồ ngót, rau giên gai, đọt mồng tơi để nấu canh tép bạc giã nhuyễn. Cô cũng đãướp sẵn mớ cá chạch với tiêu, tỏi, nước mắm trong cái tộ sành thô nặng.Ông Năm rất ưa món cá chạch kho nghệ, mà phải do tay cô Ba kho ông mớibằng bụng. Kho loại cá nầy là phải giữ nguyên mùi sông rạch thấm vào sớcá. Đó là mùi bùn, mùi cỏ năng, cỏ lác, cỏ song chằng. Mà ai nói cáchạch ăn độc? Xôi ơi, cá chạch ăn bọt nước để sống thì độc sao được! Màthịt cá dẫu có độc, cô chỉ dằn vào tộ cá một chút đọt gừng xát chỉ làbao nhiêu độc khí cũng bay ráo trọi, bao nhiêu độc chất cũng bị hóa giải tuốt luốt!

Đang lúc hai chị em làm bếp thì bên cửa hông vườn có tiếng gọi giựt ngược:

- Con Hai, con Ba đâu mở cổng ráo cho chị Út bây qua ngoạn cảnh một chút coi nào!

Cô Hai Túy Ngọc nhìn qua cô Ba Túy Nguyệt cười chúm chím. Rồi! Tạihọa đùng đùng tới rồi! Đúng như bà Năm Tảo hay phàn nàn: Nhắc vàng nhắcbạc thì khó thấy, chớ nhắc cô gái già Út Ngan kia là có ngay! Út Nganchê cái tên Ngan không êm tai, không văn huê đài các nên tự xưng là ÚtNgọc An. Út Ngọc An không xấu. Cái hại của cô ta là tưởng mình đẹp nênõng ẹo quá trớn, làm dáng làm điệu thả giàn. Cô ta lại có cái lưỡi đôichiều thiệt nguy hiểm. Hễ gặp hai đàng thù nghịch nhau, cô đâm bị thócchọc bị gạo, khen đàng nầy chê đàng kia, dùng lời khích bác cho mối thùhai bên càng thêm sâu đậm. Tuy nhiên, bà Năm Tảo lẫn hai chị em cô Túyđều thích cách nói chuyện pha lửng của cô ta dù họ công kích cái miệngđộc địa và cái lưỡi đêu xảo của cô. Thực tâm, cô Út Ngọc An không hiểmđộc, cô ta nói xấu chỉ vỉ nhu cầu mua vui một cách bịnh hoạn mà thôi.

Cô Hai cời đống than đỏ rực trong chiếc cà ràng đỏ để có cơm cháydưới đáy nồi. Xong xả, cô qua hông vườn, mở cửa cho cô Út Ngọc An bướcvào. Cô thấy cặp mắt cô Hai ướt sũng nước mắt vì khói bếp, liền cấtgiọng eo éo:

Hai tay nưng vạt áo dài,

Chặm lên con mắt, chặm hoài không khô.

Cô Hai Túy Ngọc hỏi:

- Chị nấu cơm xong chưa mà coi bộ rảnh rang quá vậy?

Cô Út liếc xéo cô bạn hàng xóm:

- Ông già tao với anh Ba đi ăn giỗ ở Lộc Hòa. Vợ chồng anh Hai thixuống Cá Mau làm mắm từ hai tháng nay. Nhà chỉ còn hai má con. Hôm quatao mua được mớ cá mục chở từ biển Ba Động về kho chan bún. Nấu cơm làmchi cho mắc công!

Hôm nay Út Ngọc An mặc quần cẩm quất trắng, áo bà ba bằng hàngbombay màu cà phê sữa. Về nữ trang, cô đeo chiếc cẩm thạch huyết ở taymặt, cẩm thạch xanh hoa lý ở tay trái. Tai cô đeo bông chạm tỉ mỉ, ngóntay đeo chiếc cà rá nhận cẩm thạch hột vuông.

Út Ngọc An nói:

- Cha chả, hôm nay trời nổi gió, nắng thì trong mà gió thì lồnglộng. Thời tiết kỳ cục! Tụi mình vô bếp đi. Hễ thời tiết tráo trở thìgió máy độc địa lắm, bịnh như chơi!

Cô Hai thừa biết cô Út muốn vô bếp để dòm hành coi chiều nay cả nhàăn cơm với những món gì. Tuy ghét cái tật tò mò tọc mạch của cô Út nhưng cô vẫn đưa cô Út vào bếp. Cô gái già đảo mắt qua những nồi, những soong thức ăn đang nấu trên mẻ than đỏ rực, phê bình:

- Cá chạch xứ nầy tuy mập nhưng không ngon bằng cá chạch ở sông VàmCỏ. Năm ngoái tao đi thăm dì Tám tao ở kinh Bà Bèo ăn cá chạch đã đời.Kinh Bà Bèo chảy qua quận Cai Lậy cũng là nhánh của sông Vàm Cỏ Tây đóđa! À, sao tụi bây kho cá đối mà không chiên? Con nầy quê quá. Nhà taothích ăn cá nục, cá thu kho hơn.

Cô Hai nhìn em. Cô Ba Túy Nguyệt có vẻ bực mình, sắc mặt lợt lạt, nguýt cô Út một cái bén ngót. Cô Hai êm ái giải thích:

- Cá thu, cá nục lâu lâu nới có bán ở chợ cá tỉnh mình. Bởi vì xứnầy xa biển, phương tiện giao thông từ biển Ba Động tới tỉnh mình chưađược dồi dào, cho nên muốn có cá biển kho nấu thiệt là khó. Mấy ai đượcnhư nhà chị!

Cô Út Ngọc An hãnh diện:

- Vậy mà nhà tao có cá biển ăn hoài hoài. Đời nào tao thèm ăn chả cá thác lác chiên. Tao làm chả bằng cá thu.

Cô Ba cự nự:

- Sao chị dại quá vậy? Thịt cá thác lác dẻo hơn, ngọt béo thần sầu.Cá thu mà đem làm chả thì thua cá thác lác một trăm cây số. Đành rằng cá thác lác nhiều xương, nhưng nếu mình khéo lóc thịt đem quết chả thì sẽngon gấp mười lần thịt lý ngư trong ao Dao Trì trên thương giới.

Thấy tình thế giữa cô Út và em mình có mòi găng, cô Hai kéo cô Út ra ngoài, bảo:

- Trong bếp hơi than nóng bức, chi bằng chị em mình ra bến sông ngồi chơi cho thảnh thơi tâm trí.

Cô Út đành bước theo cô Hai ra bến sông. Nơi đó, bên mé nước cónhững cây gừa buông rễ lồng thòng xuống mặt nước. Giờ nầy, nước dòn lênh láng đầy sông, xẻo. Màu nước nâu đục in vòm trời xanh trong, lơ thơ vài cụm mây trắng. Cả hai ngồi xuống chiếc băng cây đặt dưới tàn cây mãngcầu xiêm, sát bên mé nước. Cô Út chợt thấy một sợi óc vướng trên cổ áobà ba của cô Hai, bảo:

- Con nhỏ nầy chưa chi đã rụng tóc rồi. Mầy mà tới tuổi ba mươi coi chừng cái đầu sói sọi như đầu mấy con quạ tháng bảy cho coi!

Cô nhặt sợi tóc thổi vèo ra phía sông. Cô Hai Túy Ngọc hoảng hốt:

- Í, đừng chị ơi! Không nên đâu!

Cô Út Ngọc An tròn mắt:

- Sao không nên?

Sợi tóc bay ra khỏi đám lục bình hoa tím, rớt trên những lớp sóng lăn tăn rồi trôi ngược phía vàm sông. Cô Hai bảo:

- Bác Chín gái nói với má em rằng, ở dưới đáy biển, đáy sông có loài thũy tộc nhiều phép thần thông. Loài nầy ưa tìm cách lên cõi trần đểgian dâm với phụ nữ. Hễ cô nào bị tụi nó tư thông thì mang bịnh ốm o gầy mòn cho tới chết.

Cô Út cắt lời:

- Ai lại không biết đó là bịnh mắc đàng dưới!

- Bởi vậy con gái bắt đầu trổ mã thì đừng nên tắm ở sông rạch, cũngđùng giặt quần áo của mình ở khe rạch, sông ngòi, ao bàu, hay vũng...Nếu có giặt thì giặt trong thau chậu rồi đổ nước trên đất. Cũng khôngnên vứt tóc, móng tay, đờm, máu kinh nguyệt dưới nước. Có vậy mới khỏimắc bịnh đằng dưới.

Út Ngọc An ngơ ngẩn:

- Hại không! Tao lại quên cái chuyện mầy vừa nói chớ. Thiệt tao bậy quá chừng chừng!

Bỗng bên kia bờ rào, giọng bà Chín Thẹo rổn rảng vọng sang:

- Con Út đâu? Mau về nhà hâm cá. dọn bún cho tao ăn. Chèn đét ơi, ai coi nó bận quần trắng mà dám đứng gần mé nước chớ! Thánh thần ơi, congái người ta có ý có tứ, con gái tui thì u mê bạch tuột, không kiêngkhông cữ, chẳng biết dữ lành!

Cô Út Ngọc An đứng dậy phủi đít, bảo cô Hai Túy Ngọc:

- Bà già tao đang nổi máu sân rồi đó. Thôi, tao xin kiếu.

Bà Chín Thẹo mặc áo xuyến đen, quần lãnh đen, tóc bới ba vòng mộtnọn. Khuôn mặt bà lúc giận coi thiệt đanh đá, Bà liếc xéo cô Hai TúyNgọc, làm như có ai rù quyến con bà ra chỗ trống trải vậy.

Khi cô Út về bên kia khuôn viên bà Chín thì cô Hai khép cổng hôngrồi lững thững vào nhà. Trời đả nhá nhem tối. Cô Ba thắp đèn rồi dọncơm. Trong bữa cơm cô Hai thuật lại cho mẹ nghe vận sự cô Út thổi tóc cô xuống sông, việc cô Út mặc quần trắng đứng bên mé nước.

Bà Năm Tảo bảo:

- Có kiêng có cữ thì việc dữ hóa lành. Đất nước mình mới khẩn huânglập ấp mấy trăn năm nay nên có đủ thứ yêu tinh, ma quỉ, tà quái. Làm gái xinh tốt càng phải giữ kỹ hơn. Bây mặc quần áo trắng đứng bên mé nướcthì bọn Giang long, Hà bá, Thủy quan, Thủy quái thấy đít, ngực, hông,nách bây ráo trọi, tránh sao "họ" khỏi động lòng dâm dục, phựt ngọn lửatình. Cho nên có đi xuồng, đi ghe, đi dạo trên bờ sông nhớ bận quần áomàu sậm, nhứt là nên bận đồ đen cho chắc ăn, vì màu đen có hể che mắt"họ".

Ong Năm Tảo thêm vô:

- Tụi con gái chớ nên soi kiếng chải đầu ban đêm. Bởi mặt kiếng lánh như mặc nước lúc lặng sóng nên "họ" thường ẩn trong mặt kiếng ban đêmvì ban đêm thuộc giờ âm, giờ của cõi âm, giờ của dưới nước lên trần tácoai tác quái.

Cô Ba ngứa miệng:

- Thưa tía, tía nói vậy sao phải! Bọn đào hát đêm nào mà chẳng soi kiếng để tô son trét phấn?

Bà Năm nguýt cô con gái ương ngạnh:

- Nói bậy nói bạ mà cũng ưa chó chét! Mầy quên rằng tổ nghiệp hát bội có oai lục thường che chở cho đào hÿt hay sao?

Trong bữa cơm dù có cá chạch kho nghệ, món canh rau mướp hương, móncà đối kho còn dư hôm qua, món chả cá phác lác chiên dầm nước mắm tỏi,nhưng ông Năm chỉ ăn có hai lưng chén cơm rồi gác đũa trên miệng chén,cháp tay xá xá tạ ơn người làm ra hột gạo. Bà Năm ân cần:

- Ông nên ăn thêm ba hột nữa kẻo đêm dài thức khuya đói bụng.

Ông Năm Tảo cười:

- Tối nay tui xuống Cái Sơn ngủ đêm, gia chủ thế nào cũng dọn ăn khuya, không vịt thì gà, bà sao khéo lo!

Ông sửa soạn hành lý chất trên chiếc tam bản để chéo ra sông. Cổchiên cho kịp con nước suôi. Mảnh trăng thượng tuần méo xẹo méo xọ đãhiện ra ở phương đông. Bà Năm Tảo hối hai cô con gái tắm rửa rồi đốtnhang cúng nước trên bàn thờ Phật. Bà bước ra nơi hàng rào ngăn khuônviên nhà bà và mảnh đất có cây da xà. Bà sẽ trồng cây xương rồng và câyđộc trụ ở vòng rào ngoài, cây dâu tằm ăn ở vòng rào trong. Bà tin rằngxương rồng và dâu tằm ăn có thể trừ ma tróc quỉ như ông bà mình thườngnói. Tuy cô Út Thoại Huê là vong cô của cô Ba Túy Nguyệt nhưng cây da xà là nơi trú ngụ của bao âm hồn thì nó thuộc về cõi âm. Bà không muốncuộc đất của mình thông thương giao tiếp với cõi huyền bí đầy hung hiểmdọa dẵm ấy. Hai vòng hàng rào sẽ dựng nên cái biên giới giữa hai cõi âmdương. Nếu vong hồn nào rắn mắt toan qua khuôn viên bà để quấy phá, sẽbị hai vòng hàng rào kia ngăn cản.

Sáng hôm qua, bà Năm Tảo đã chuộc cái bùa bát quái vẽ bằng sơn đỏtrên miếng kiếng hình bát giác để treo trên khung cửa chánh. Vẫn chưa an lòng, bà còn treo những khúc xương rồng. Bà sẽ trồng thêm cây khuynhdiệp bên cổng, đám ngũ trảo trong sân dù ông Năm đã trồng ngũ diệp ở vạt đất trồng dược thảo. Loại cây cỏ có lá thơm kia chẳng những làm thôngkhí quản mà còn ngăn cản loài phong tinh vào khuấy phá.

Tối hôm đó, mãi tới đầu canh hai, ánh trăng mói soi khắp thềm sân.Cô Ba Túy Nguyệt tắm bằng nước nấu với lá từ bi, lá ổi, lá ngải diệp.Còn cô Hai Túy Ngọc thì đã tắm bằng xà bông sả và gội đầu bằng nước bồkết từ hối chiều. Cô thắp nhang cúng nước trên bàn phật, lấy bùa trừ tàđeo và cổ. Vận sự cô Út Ngọc An thổi sợi tóc cô bay xuống sông cứ làmcho cô bào xào xao xuyến. Trời nực, cô ngồi bên cửa sổ ngó mông. Còn côBa thì vừa đặt lưng xuống giường là ngủ được ngay.

Đấu đêm, bóng nguyệt quới tỏa hương ngào ngạt. Những cụm lài ventường cũng thoảng hương. Phải đợi tới canh ba, bông dạ lý mới bắt đầudậy hương, trong khi nồng độ hương nguyệt quới loãng dần. Nguyệt quới và lài dẫu có thành tinh đi nữa cũng không đủ oai lực hiện lúc ban đêm.Duy mấy cây dạ lý từ bày năm sắp lên, đêm đêm hóa thành hình người đidạo dưới trăng. Đó là những gì bà Chín Thẹo cam doan rằng mình đã mắtthấy tai nghe. Nhưng thiệt tình, hai cô Túy nghe thì nghe chớ làm saotin nổi cái miệng ưa thêu dệt, đặt chuyện của bà. Vậy mà canh năm hômnọ, hai cô gánh mắm và dưa gang từ Cầu Dài về nhà. Vừa khi tới cổng ràothì đã hừng sáng. Cả hai chợt thấy một cô gái cỡ mười bảy mười tám tuổiđứng phía trong bờ rào của khuôn viên ông bà Năm Tảo. Vốn tánh mau mắn,cô Ba Tuy Nguyệt chào trước:

- Chào cô. Cô ở đâu tới dây? Cửa ngõ khóa mà sao cô vô được?

- Cô gái ú ớ:

- Tôi... tôi đi xem mạch hốt thuốc. Tôi mới từ trong nhà bước ra...

Anh sáng lờ mờ của thời khắc bóng đêm sắp lui làm hai chị em khôngnhìn rõ mặt cô gái lạ, nhưng dáng dấp cô thiệt mảnh mai yểu điệu, chiếcáo màu xanh cẩm thạch của cô sự nức mùi hương dạ lý. Cô ta đi vào vùngtối lờ mờ của khu vườn rồi biến mất.

Khi cả hai vào nhà, cô Hai Túy Ngọc hỏi tía má mình:

- Mới hừng sáng mả đã có người tới coi mạch hốt thuốc rồi sao, tía?

Ông Nam Tảo chừng hửng:

- Ủa, ai đâu? Hồi canh năm má bây thức dậy lo nấu xôi, còn tía thì ngủ nướng mãi tới khi bây về chớ có ai tới đâu?

Cô ba thuật lại vận sự hai chị em vừa chứng kiến. Bà Năm không biếtgiải thích cánh nào, liền chạy lại bờ rào ngóng về phía nhà bà ChínThẹo, gọi:

- Chị Chín! Chị qua tui ăn lót lòng. Tui có chuyện muốn thưa với chị.

Bà Chín Thẹo tại mân điểm tâm ờ nhà ông Năm Tảo sáng hôm đó, giải thích sự xuất hiện của cô gái bên bụi dạ lý như sau:

- Có phải con nhỏ đó xõa tóc không? Đờn bà con gái xứ mình hễ bận áo dài là bới tóc đàng hoàng chớ đâu để tóc ngang lưng như vậy! Cô gái đókhông phải là" người ta" đâu! Cổ là con tinh của cây dạ lý, cũng áo màucẩm thạch, cũng tóc xõa ngang lưng như vậy. Hàng rào nhà tao cũng có mấy khóm dạ lý già như hàng rào bên đây vậy.

Hai cô con gái tái mặt. Bà Chín trấn an:

- Tinh cây dạ lý hiền lắm. Tụi nó sợ loài người, không dám hãm hạiphá phách gì đâu! Tinh loài ngải diệp thì ưa giả gái đẹp để chài bợm háo sắc. Còn loại cây lớn như cây da, cây mù u, cây sao, cây dầu, câydương... sống từ 50 năm sắp lên đều hành tinh cả. Tụi tinh đó không chọc ghẹo phá phách ai, nhưng loài người cũng đừng chọc tụi nó, đừng đẽothân hoặc tước vỏ, chặt nhánh, tỉa ngọn; đừng phóng uế dưới gốc nó màmang họa.

Cuộc đất miền đồng bằng sông Cửu khẩn hoang chưa đến 500 năm. Mật độ dân chúng ở miệt vườn còn thấp. Hễ người sống thưa thớt thì nhưng kẻcõi âm sẽ tác nghiệt lộng hành. Trời Phật ở xa, ma quỉ ở gần. Cố giữ cho khỏi đụng chạm tới chúng cũng đã mệt cầm canh rồi, có mấy ai đủ phépthần thông mà tróc quỉ, trừ ma, tấn công tà thần, áp đảo yêu quái?

Cô Hai Túy Ngọc có một nội lực vững vàng. Cô là một Phật tử thuầnthành, nắm vững hai vấn đề từ bi và trí tuệ. Đới với cô, bọn tà thần, ma quỉ, yêu quái dầu có thần thông thế mấy cũng vẫn là những chúng sinhkhông tìm được hạnh phúc nên phải tắc oai, lộng hành cho hả cơn tức củamình. Hễ người sống biết giữ tâm chí, giữ lòng thanh tịnh thì không cóâm binh, ma quỉ nào dám dựa, nhập, ốp vô mình được! Vẫn biết chúng tànác và rắn mắt, nhưng người sống phải mở lòng từ bi để đọc thần chú vãngsinh cho chúng, phải tụng kinh Phương đẳng Đại thừa chú nguyện cho chúng sớm giác ngộ, sớm siêu sanh. Với ý nguyện ấy, mỗi đêm cô thắp nhangtụng đọc bảy biến Đại bi thần chú trước khi ngủ. Nhưng từ bốn hôm rồi vì có kinh nguyệt nên cô không dám thắp nhang, cúng nước và tụng chú. Hômnay mình mẩy sạch sẽ, nhưng cô cảm thấy còn bải hoải ngầy ngật nên tạmgác đọc thần chú qua một bên. Ngài mai nhất định cô sẽ tụng kinh ĐịaTạng, hồi hướng cho những kẻ còn kẹt ở địa ngục và cầu cho dì Út ThoạiHuê của cô mở lượng từ bi, tha thứ tên sở khanh Hai Luyện kia. Cô muốnnhắc nhở với vong linh người dì u mê kia rằng, chắc kiếp trước dì đã gây oan trái cho cậu Hai Luyện nên kiếp nầy cậu đòi nợ. Thôi thì dì nênchấm dứt vòng vay trả ở kiếp nầy để kiếp sao khỏi sa vào vòng oan oantương báo.

Bỗng một cụm mây lớn vắt ngang qua mặt trăng làm cảnh vật tối sầm.Con trốt nổi lên. Cơn váng vất ùa tới làm cô Hai phải trở vào giường.Trống đã điểm canh ba. Khắp nơi lặng ngắt. Thỉnh thoảng có tiếng ếchnhái, tiếng nhóc nhen, tiếng vạt sành nổi lên ở bàu nước cuối vườn. CôHai Túy Ngọc chìm sâu vào cơn mê.

Cô thấy hai người đờn ông, một mặc loại vải dệt bông nổi như da sấu. Người mặc áo láng lẩy ẵm cô Út Ngọc An trên tay. Cô nằm mê man nhưnchết. Còn người mặc áo vải dệt bông nổi cầm sợi tóc trên tay ngắm nghíarồi nhìn cô Hai nheo mắt cười duyên. Người mặc áo láng lẩy nói:

- Thôi mầy, tụi mình nên về thủy phủ thì hơn.

Người mặc áo bông nổi chỉ cô Hai Túy Ngọc, bảo:

- Tao muốn bắt con nhỏ đó, nó xinh tốt như tiên nga. Lại nữa, taogiữ sợi tóc nó trong tay tức là tao đã cầm chắc cái bổn mạng nó rồi. Tao mà không bắt nó về làm vợ thì uổng lắm!

Người mặc áo láng lẩy can gián:

- Không được đâu! Con nầy có căn lành, có phước đức nên bổn mạngvững vàng. Lại nữa, tía má nó gây nhiều nhơn tốt, mầy không rớ tới nóđược đâu!

Người mặc áo bông nổi xốc tới tính ôm cô Hai. Nhưng tay hắn vừa chạm tới mình cô là hắn la hoảng lên như chạm phải gai nhọn lửa nóng:

- Con nầy có đeo đạo bùa ghi thàn chú kinh Lăng Nghiêm!

- Tao đã nói mà mầy không nghe. Dẫu nó không đeo đạo bùa thiêng đinữa, mầy cũng không rờ tới nó được đâu! Thôi, về thủy phủ với tao chorồi.

Cả hai bỏ đi. Cô Hai Túy Ngọc chạy theo la lớn:

- Mấy người bồng chị Út Ngọc An đi đâu? Sao mấy người làm ngang bắt con gái người ta đi vậy?

Cô xông tới, giành cô Út Ngọc An lại. Cả hai trì kéo nhau. Tên mặcquần áo dệt bông nổi nhào vào xô cô té một cái đụi để tên kia bồng cô Út chạy mất.

Tới đây cô Hai Túy Ngọc tỉnh dậy. Nhà ngoài có tiếng xôn xao. Cô Ba Túy Nguyệt từ ngoài chạy vào, gọi chị:

- Nguy rồi chị ơi! Chị Út con bác Chín bỗng dưng kếu đau bụng rồinăm mê man. Chị em mình mau theo má qua nhà bác Chín coi sao. liệu cógiúp được gì chăng!

Cô Hai Túy Ngọc liền chổi dậy rửa mặt xúc miệng, xức dầu cù là ởmàng tang, mặc thêm chiếc áo bà ba ngoài áo túi rồi cùng mẹ và em đóngkín cửa nẻo bước qua nhà bà Chín Thẹo.

Ở đây đèm đuốc sáng rực, chòm xóm tụ họp nhộn nhịp. Ba mẹ con bà Năm Tảo tức tốc vô buồng cô Út. Cô nằm trùm mềm tới cổ, sắc mặt lợt lạt,mắt nhắm nghiền. Thỉnh thoảng cô cong người ngồi dậy, mắt mở trao tráonhưng không nhìn ai. Cô rên: - Chu choa ơi! Đau bụng quá trời quá đất!Ai cứu tui với! Sao mấy người giữ tui ở đây, không để tui theo chồngtui!

Bà Chín Thẹo mếu máo kể với bà Năm Tảo:

- Con Út tui đang ngủ bỗng hét lên tỉnh dậy kêu đau bụng. Ông nhàtui cắt xương rồng, mài với nước mưa cho nó uống mà vẫn không bớt, cứnằm thiêm thiếp lúc tỉnh lúc mê.

Bà Năm Tảo chắc lưỡi:

- Hại quá! Ông nhà tui đi Cái Sơn Lớm chữa bịnh, tui biết liệu saođây! Nè Ba, con lẹ chơn chạy về nhà lấy khúc quế Trà Bồng để má mài vớinước mưa cho chị Út con uống. Đang lúc cấp bách như vầy, để tui trổ tàichâm cứu cho cháu, biết đâu phước chủ may thầy mà cháu khỏi bịnh chăng!

Cô Ba Túy Nguyệt trở về nhà lấy quế. Bà Năm Tảo hối gia chủ xắt chobà hai miếng gừng và đốt một cây nhang để bà đặt gừng lên huyệt và châmnhang vào huyệt. Khi cô Ba đem quế qua thì cô Hai mài quế để đổ vàomiệng bệnh nhơn. Mặt cô Út trở nên hồng hào, mồ hôi lạnh hết ra nhưng cô không tỉnh táo. Cô đảo mắt nhìn mọi người, cười ỏn ẻn rồi hát:

Con chim trả, ai vay ai trả?

Bụi cây sưng, ai vả mà sưng?

Đây người dưng, đó cũng người dưng.

Cớ sao giọt thảm rưng rưng ướt tròng?

Bà Chín Thẹo lay vai con gái, khóc tức tưởi:

- Út, má đây con, tỉnh lại đi con.

Cô Út nguýt mẹ:

- Ai là con của bà? Tui đây là con của bà Chúa khúc sông Bà Lại.Chồng tui ở phủ dưới đáy Cô Chiên, gần miệt vàm. Nhà chồng tui tường lót bằng kiếng soi mặt sáng trưng, mái lợp ngói lưu ly xanh biếc, trước nhà có hai cây bông đá một trắng một hường, cây nào cũng thiệt đẹp!

Bà Chín Thẹo khóc ngất, nhưng bà không hề xác nhận con gái mình mắc đàng dưới. Bà Năm Tảo an ủi:

- Chiều mai ông nhà tui về. Để rồi chị em bà con mình sẽ hiệp sức lo chạy chữa cho cháu. Chạy thuốc không hết thì chạy bùa, chạy ngải, cúngvái...
 
Chương 4


Xế hôm sau, ông Năm Tảo về tới nhà, được bà vợ thuật lại bịnh tình cô Út Ngọc An nên ông liền qua nhà ông bà Chín Thẹo. Lúc đó cô Út đang nóixàm, hát hò inh ỏi:

Tay tui che dù đầm, tay kia cầm quả banh

Chơn tui bước lên chùa, cửa chánh không vô.

Ông Năm Tảo bắt mạch cho cô Út. Rõ ràng là quỉ mạch chẳn sai, trong sáu bộ mạch, chẳn có mạch nào hiện ra. Ông liền bảo gia chủ:

- Cháu Út không có ịnh chi hết. Đây là ma dựa, quỉ áp đó thôi. Anhchị nên hỏi ý kiến pháp sư Chơn Huệ. Sư có nhiều bạn đồng tu ở miệt Nămnon Bảy núi. Họ tu theo Mật Tông có thể trục quỉ trừ tà. Phép ma rốtcuộc sao qua phép Phật!

Rồi ông ngận ngùi ra về. Ăn cơm tối xong, ông lên chùa Long Đức.Bệnh Bửu thuyên giảm rất mau. Bây giờ cẩu đã chỏi hỏi ngồi ăn bột huỳnhtinh. Ông đợi cậu ăn xong rồi bắt mạch. Sau đó, ông bảo pháp sư ChơnHuệ:

- Lạ dữ, bệnh của cậu Bửu nầy lui thật mau, triệu chứng lao cũng không rõ rệt nũa.

Pháp sư Chơn Huệ chắp tay niệm Phạt rồi bảo người thầy thuốc thân thiết:

- Nghiệp dữ của cháu đã dứt, và cũng nhờ má cháu phò hộ nên dù bịnhquỉ bịnh ma, bịnh trầm kha, bịnh nguy cấp cũng phải dứt. Điều đó thiệttình tui không lấy làm lạ chút nào hết.

Ông bà Bang biện Hưỡn sau khi làm đám giỗ cho bà mẹ ruột, liền giaonhà cho ông bà Năm Đặng tức em gái và em rể của bà Bang biện, để cùngcậu Hai, cô Ba, cô Tư đi về ngôi nhà đường của dòng họ ông mở tiệc khaocho cậu Hai Kinh lý. Bà Bang biện cho mổ một con bò và hai con heo, làmtiệc đãi ăn suốt bốn ngày ròng rã. Sau đó họ cùng về Cầu Đào. Tại đây có bác sĩ Lê Mạnh Mậu và trang sư Trần Hảo Hiệp vừa đánh cờ vừa chờ rướcvợ về nhà. Trạng sư Hiệp tuổi ngoài ba mươi, hơi thấp người, thịt da săn chắc, mặt mũi khôi ngô, nụ cười có lúm đồng tiền. Hôm nay ông mặc áo sơ mi trắng sọc nâu lợt, quấn tây bằng vải tít- so màu ngà, áo vét cùngthứ vải với quần, cổ thắt cà- vạt vàng kẻ vạch nâu. Còn bác sĩ Mậu mặcquần ga- bạc- đin màu cà phê sữa, áo bằng vải ba- tít trắng, không thắtca- vạt hoặc nơ bướm già ráo trọi.

Ông bà Bang biện Hưỡn hớn hở chào hỏi hai thằng rể và hối bày trẻ mang gà vịt, bánh trái vào trong bếp.

Cô Tư Cẩm Lệ vừa thất chồng là đổi sắc mặt vui tươi thanh thản thành bộ mắt chù ụ tối như đêm ba mươi. Cô bảo:

- Tui đã nói với mình, tui sẽ ở đây chơi với tía má tui năm bữa nửatháng, luôn tiện nhờ ông Năm Tảo coi mạch hốt thuốc. Mình rước tôi vềlàm chi?

Trạng sư Trần Hảo Hiệp gãi đầu, mặt khổ sở:

- Anh xuống Vĩnh Long thăm mình, mai anh về sớm.

Cô Ba Cẩm Tú bảo em rể:

- Tui xin cung hỉ dượng Tư. Con em tui có triệu chứng ốm nghén rồi đó.

Trạng sư Hiệp hỏi vợ:

- Có thiệt vậy không mình?

Cô Tư Cẩm Lệ:

- Ờ, thầy thuốc bắc ở chợ lách chẩn mạch nói em có thai được haithÿng rồi. Em cũng tin chắc em có thai, cứ tính theo kinh nguệt thì đủrõ. Bà đồng cốt ở Cầu Kè còn nói kỳ này em sinh con trai, rồi quen dạ đẻ tới chín lần.

Bác sỉ Lê Thạnh Mậu bảo:

- Chừng đó sẽ hay. Miễn sao kỳ tới dì sanh cho dượng Tư một thái tửcho dượng mừng. Vợ trước của dưỡng chỉ sanh hai cô công chúa mà thôi,nên dưỡng đang đợi cậu trưởng nam đặng nối dõi tông đường.

Bà Bang biện Hưỡn khuyên con trai và rể rửa mặt cho mát, rồi giục hai cô con gái bắt hai con cá bông nấu cháo với giò heo.

Cô Ba Cẩm Tú khi vào bếp, bảo em:

- Tối nay anh Hai sẽ rước thầy Mười Khói đến đoán điềm giải mộng. Em nên o bế nồi chè trứng gà nấu với trà và đường đen đi.

Cô Tư Cẩm Lệ bảo:

- Mấy hôm nay ăn tiệc nhiều phát ngán ngược, cho nên má mớ sai chịem mình nấu cháo gà giò heo. Nghe tới trứng gà là em nhợn rồi, thôi đểem nấu nồi che thưng vậy.

Hai chị em cùng hai con tớ gái lúi húi làm bếp. Trời đã xế bóng.Ngoài mé rạch xa, tiếng chim bìm bịp kêu văng vẳng. Bên thửa ruộng loáng nước, có tiếng cô thợ cầy hò:

Cây độc không trái,

Gái độc không con,

Lấy chàng đã chín năm tròn,

Ai dè phận thiếp còn son sẻ hoài

Một mai chồng vợ lìa đời

Cậy ai cúng giỗ, cậy ai nối dòng.

Cô Ba Cẩm Tú bảo:

- Nè Tư, coi vậy mà em có phước hơn chị. Nếu em không có con đi nữa thì cũng có lũ con ghẻ đó chi!

Cô Tư trề môi:

- Con ghẻ sao bằng con ruột? Em biết hai con quỉ cái đó không baogiờ ưa em, nếu không nói rằng tụi nó thù em tận xương tủy. Thấy bản mặttụi nó mà em ứ gan, con lớn con nhỏ đều giống hệt con gái mẹ tụi nó.

Cô Ba dịu giọng:

- Em đừng hà khắc với tụi nó mà mang tiếng mẹ ghẻ ác độc. Tụi nócũng đã mười bốn mười lăm rồi, em phải nới tay cho tụi nó mới được.

Cô Tư rùn vai:

- Chị chưa đút đầu vô cảnh mẹ ghẻ con chồng nên chị chẳng biết gìráo trọi! Hai đứa con ghẻ của em giống con gái mẹ tụi nó, lầm lì, cứngđầu cứng cổ, sâu hiểm khôn lường...

Cô Ba nhẹ nhàng:

- Nếu chị không lầm, vợ trước của dựng Tư địu dàng mềm mỏng lắm.

Cô Tư Cẩm Lệ xí một tiếng dài:

- Ở xa ngó qua tưởng là Bồ tát, tới chừng lại gần thì quỉ La sát không sai.

Trong khi cô Tư chặt giò heo thành từng khúc, cô Ba đơm bốn chiếcđĩa quả tử nào xoài, đu đủ, mãng cầu, mận, chuối cau, bánh ích, bánh in, bánh đậu xanh... để đặt trên cổ bồng mỗi bàn thờ.

Cô Tư Cẩm Lệ kể lể:

- Mụ ta muốn hại em nên em phải trở cờ lật ngược đòn phép của mụ -Tới đây cô ngập ngừng - Mà thôi, mụ cũng đã nhắm mắt lìa đời rồi, emkhông muốn nhắc lại chuyện cũ làm chi.

Khi con lý đi mua bún tươi về thì con Lài đã làm xong hai con cábông lớn. Cô Tư cẩm Lệ bắt đầu nấu cháo trong khi cô Ba sắp bún ra đĩavà xắt rau ghém trước khi làm món tương chấm. Có mặt hai con tớ gái, hai cô không dám bàn chuyện gia đạo nữa.

Ở nhà trên, bà Bang biện Hưỡn vừa têm trầu vừa suy nghĩ. Mới hồisáng, khi ghe bà vừa chèo ra khỏi vòm sông thì một con cá úc từ dướinước phóng lên khoang ghe dãy đành đạch rồi nằm ngửa phơi cái bụng trắng nõn. Cậu Hai Luyện săm soi con cá bạc phước kia rồi nói gọn: "Nó chếtrồi". Chim sa cá lặn nói lên vẻ đẹp của các mỹ nhơn nước Tàu, còn chimsa cá lụy đây báo điềm xui xẻo cho gia đình bà, chẳng biết ứng vào ai? Ờ ờ, chắc là nó ứng vào thằng con ghẻ bà. Nó bệnh lao vào tuổi mới lớn,chắc chắn Ngọc Hoàng sẽ giũ sổ nó trong vòng hai năm sau.

Ngay lúc đó thằng Đực từ bên chùa Long Đức về. Nó thưa với ông bà Bang biện Hưỡn:

- Thưa ông bà, bịnh cậu Bửu mười phấn giảm hết chín rưỡi. Con nghe ông thầy Năm nói chứng lao sái của cẩu cũng chỉ mập mờ.

Thầy thuốc Tây Lê Thạnh Mậu cười khì:

- Tui không tin. Bịnh lao là bịnh nan y, làm sao mà bịnh nhơn bìnhphục mau lẹ dường ấy. Họa chăng là bịnh gì đó mà ông Năm lầm là bịnh lao chăng?

Cậu Hai Luyện bảo:

- Ai biết đâu! Tui chỉ thấy bây giờ nó chỏi hỏi, ăn cơm lìm lịm.

Bà Bang biện Hưỡn têm trầu thiệt kỹ. Đó là động tÿc để bà che giấucơn bối rối của mình. Chu choa ơi, nếu thằng Bửu không chết thì cái điềm tre già trổ bông nọ cùng cá lụy chim sa kia ứng vào bổn mạng của aitrong vòng chồng con bà? Lại nữa, lúc Bửu đang cơn bịnh ngặt, bà liềngiao cậu ta cho phÿp sư Chơn Huệ, kể như bà đã thí một con chốt mà chẳng hốt được con xe nào trong ván cờ tướng. Vậy là bà mất một cách oan uổng tên tớ trai để sai vặt. Lam sao bà đòi Bửu lại được đây? Ừ, thôi thì bà đành mặt trơ trán bóng, mặt chai mày đá để bắt lại đứa con ghẻ siêngnăng giỏi dán, mặc lời ong tiếng ve, kệ sấm sét búa rìu dư luận. Bà tinchắc em chồng bà cũng phải nể nang uy lực của chồng con bà mà nhượng bộ.

Khi cả nhà ăn cơm xong thì bóng trăng mập nõn nà treo trên cành lácủa cây mít tố nữ. Vợ chồng cô Ba Cẩm Tú chưa về vội. Còn cô Tư Cẩm Lệđốc thúc con Lài con Lý chuẩn bị trà nước, hễ thầy đoán điềm giải mộngtới thì phải múc chè ra chén và châm trà vào bình. Hai cô Cẩm cùng đirửa mặt, chải tóc cho có vẻ sáng mát tươi tỉnh đôi chút.

Thầy Mười Khói tuổi trên sáu mươi, nhưng mặt chưa nhăn nhiều, khuônmặt hí hửng như mặt hề, mắt hấp háy, nụ cười rộng toàng hoạc. Hễ mỗi khi thầy cười thì đuôi mắt thầy bẻ cúp xuống coi thiệt tức cười.

Chè và trà bánh dọn lên. Cậu Hai Luyện đốt đèn măng- sông thay thếcây đèn huê kỳ đật giữa trung đường. Sau màn che bánh, đờn ông cùng thầy Mười Khói chia nhau ngồi trên hai chiếc trường kỷ đặt hai bên chiếc bàn dài. Bà Bang biện cùng hai cô con gái ngồi trên chiếc đi- văng chơn quỳ đặt bên trái trung đường.

Ông Bang biện Huỡn vô đề sốt dẽo:

- Chẳng dấu gì thầy Mười, lóng rày gia cảnh tui có nhiều điềm lạ. Trước hết là cây tre ở sau nhà trổ bông.

Thầy Mười Khói ngon lành:

- Trẻ già thì trổ bông để chết, chẳng có điềm gì ráo đối với giađình tu nhơn tích đức. Còn đối với gia đình thường thường, hễ ai trồngcây tre đó thì người đó gặp xui xẻo, có khi tánh mạng lâm nguy.

Bà Bang biện Hưỡn vui mừng:

- A di đà Phật. Cây tre đó do má chồng tui trồng đó đa. Nhưng bà đãngủm từ tám chín năm nay rồi. Còn chim sa cá lụy thì ứng vô điềm gì đây?

Thầy Mười Khói gãi đầu ra chiều suy nghĩ lung lắm:

- Đó là điềm tang tóc. Hễ chim sa, cá lụy vào giờ nào thì người trong gia đình mang tuổi cùng tên với giờ đó sẽ vong mạng.

Cả nhà đều buồn rầu lo lắng. Thầy Mười Khói an ủi:

- Ông bà nên nhờ thầy chùa cô vãi tụng kinh Cầu An và kinh Dược Sưrồi tới ngày rằm ngày vía đức Địa Tạng Vương Bố Tát nên mua chim cá vềphóng sanh thì tai nạn dầu lớn cách mấy cũng nhẹ bớt đi nhiều.

Bà Bang biện thành khẩn:

- Cám ơn thầy có lời khuyên bảo. Vợ chồng tui sẽ làm đúng lời thầy chỉ dạy.

Cô Ba Cẩm Tủ đợi cho cuộc đoán điềm lắng dịu và thoảng lui, liền rời khỏi bộ divan chơn quỳ, bước tới sau lưng chồng, nói với thầy MườiKhói:

- Thưa thầy, tui có giấc chim bao lạ lắm. Tui thấy mình nuốt hộttrái xá lị, nhưng từ rún tôi xịt ra luồng khói mỏng. Khói bay lên trờitụ lại thành mây. Rồi con trốt nổi lên, đánh giạt cho mây rời rã. Chẳngbiết điềm gì đây?

Thầy Mười Khói hớp một ngụm trà Liên Tâm, có vẽ lưỡng lự:

- Cái hột tượng trưng cho dòng giống. Giống trái xá lỵ tức là giốngtrái lê, bởi vì người Bắc kêu trái xá lỵ là trái lê. Giống họ lê chui vô bụng cô rồi thì cũng rã rời như khói như mây. Kỳ đậu thai tới. thai nhì vừa tượng hình thì cũng không có dịp chào đời sau chín tháng mười ngày.

Cô Ba Cẩm Tú xụ mặt, trở về bộ divan chơn quỳ, không nói không rằng. Cô Tư Cẩm Lệ vẫn ngồi tên divan, cất tiếng rổn rảng hỏi thầy Mười Khóivề giấc mộng con rắn chui vô bụng cô rồi chui ra tới chín lần, lần saunó cắn bụng cô cho tới nát bấy. Thầy bảo:

- Đây là thai quỉ, thai yêu. Cô coi chừng con ranh con lộn khuấy phá cô đó. Hễ tới chín lần là nó hại cô cho tới mạng vong.

Bà Bang biện Hưỡn hứ một tiếng bất bình rồi tuột xuống divan, hằnhọc liếc xéo thầy Mười trước khi phủi đít, ngoe ngoảy bỏ vô nhà trong.

Khi ba mẹ con bà Bang biện Hưỡn vừa vô nhà trong thì con LÝ bưng lên hiệp trà sâm cho cả ba giải lao. Cô Ba Cẩm Tú cằn nhằn mẹ:

- Mà nóng nảy quá, chưa chi làm hư bột hư đường ráo trọi. Mộng điềmxấu như vậy thì mình nên nhờ thầy Mười Khói chỉ cách cúng vái để hóagiải bớt điềm hung tướng ác, cớ sao má vùng vằng bỏ vô nhà ra cái điềuhờn lẫy như vậy?

Bà Bang biện liếc xéo con gái:

- Thằng cha đó có cái miệng nói xàm, bây tin thằng chả có ngày bánlúa giống! Mai, tao sẽ sai thằng Đực thỉnh thầy Bảy Lục và cô bóng MườiHai về đây cúng trừ họa căn.

Cô Bà và cô Tư không nói gì thêm. Sau đó, gần tới nửa đêm, thầy Mười Khói từ giả ra về. Cô Ba Cẩm Tú cũng theo chồng về nhà riêng ở bên cầuLầu. Cậu Hai Luyện liền hạ đèn măng- sông xuống, đố đèn huê kỳ lên rồimới xả hơi đèn măng- sông để tắt. Cô Tư Cẩm Lệ mời chồng đi rửa ráy mình mẩy và súc miệng. Cô còn mở tủ cẩm lai lấy chiếc gối nhiều màu cánh sen thêu bông mẫu đơn trắng bày lên chiếc giường của cô để chốc nữa chồngco kê đầu.

Bà Bang biện Hưỡn khi về buồng riêng, bảo chồng:

- Nghe nói thằng Bửu giờ đây đã mạnh rồi, ông liệu cách nào bắt nóvề đây. Tui nuôi nó, tui mến nó. Để nó ở chùa ăn chay lạt, sống khamkhổ, tui không đành lòng.

Ông Bang biện e dè:

- Hồi nào bà nói vời thầy Chơn Huệ giao đứt thằng Bửu cho thầy, bây giờ bà còn mặt mũi nào đòi nó lại?

Bà Bang biện háy chồng:

- Được rồi tôi sẽ nghĩ ra kế bắt nó về hủ hỉ với vợ chồng mình.Chuyện nầy là chuyện của tui, không mắc mớ gì tới ông, ông chớ bàn ralàm chi.

Ông Bang biện cười:

- Ừ, bà làm sao cho vuông tròn thì thôi tui hơi sức đâu nghĩ tời mầy chuyện lặt vặt đó. Tôi đã làm trành làm tréo mua được tám mẫu đất củaanh Hương bộ Lạc tại Phước Hậu, giá chỉ có bốn ngàn đồng. Khi chồngtiền, làm giấy tờ xong, tui sẽ đi đóng bách phần đất. Hễ xong vụ cắtđất, tôi mới rành tâm rảnh trí lo ứng cử hội đồng quản hạt.

Vụ đất cát kể như xong, nhưng vụ ứng cử hội đồng ông thấy sao bấpbênh. Mấy tay ứng cử viên khác nếu không có bà con trong soái phủ Nam Kỳ thì cũng có bạn bè lẫn tay trong tay ngoài với những thế lực lớn nhưông Chánh tham biện tỉnh nhà, ông phủ nầy, ông đốc phủ nọ... Chuyên lokế iếp của ông là nhờ Cai tuần Xướng, kẻ nha trảo tâm phúc của ông, làmsao cho ông có dịp ân ái với cô vợ chửa của Cai tuần Hạp. Ông chỉ thíchăn nằm với đàn bà chửa từ ba tháng tới năm tháng. Cái thai lớn vừa phảithì ông ham nhưng cái bụng bự chang bang của đàn bà mang bầu từ bảytháng sắp lên thì ông không hứng thú chút nào.

Khi trống vừa điểm canh ba thì khắp nhà yên lặng gắt. Thỉnh thoảngcó tiếng các kè ở chiếc miễu nhỏ cuối xóm vọng sang. Cô Tư Cẩm Lệ bắtđầu đay nghiến chồng:

- Tui không về nhà đâu! Bà già cứ trấn ngự nơi đó làm tui không dámho lớn. Chừng nào bả trở về Thủ Dầu Một thì tui mới dám xách va- li vềnhà.

Luật sư Trần Hảo Hiệp than:

- Em ở lì đây lâu quá, đồ khỏi bà già nghi em giận bả.

Cô Tư cười khẩy:

- Bả nghi trúng đó, mình à. Ối, cứ để bả nghĩ sao cũng được. Mình là thầy kiện, giỏi khoa cãi lý biện hộ, mình liệu lời nói với bả cách nàođể trong ấm ngoài êm thì nói. Em bây giờ chán đời quá, ở đây hủ hỉ vớitía má em được lúc nào hay lúc nấy. Lại nữa, hai đứa con ghẻ coi bộ muốn chống đối trả treo với em rồi đó.

Luật sư Hiệp cười:

- Làm gì có chuyện đó! Tụi nó trước sau vễn yêu kính mình như má ruột tụi nó.

Cô Tư Cẩm Lệ rùn vai:

- Mình nói thì mình tin. Hai con đó... trời biển lắm. Mình phải đểtui uốn nắn kẻo có ngày vợ chồng mình nuôi thứ cháu ngoại không cha.

Hai vợ chồng cùng trèo lên giường. Cô Tư Cẩm Lệ mãi tới đồng hồ Oét- minh- tơ gõ hai tiếng mà vẩn không sao đỗ giấc nồi. Lời giải mộng củathầy Mười Khói cứ ám ảnh cô hoài. Bốn bề yên tĩnh. Ngoài hè, tiếng côntrùng sôi lên từng chặp. Thỉnh thoảng có tiếng dế gáy sương. Trên váchván quét vôi trộn a dao màu trứng sáo, con thằn lằn chắc lưỡi từng loạtngắn, dội sâu và cái thăm thẳm của đêm khuya.

Cô Tư Cẩm Lệ bỗng cảm thấy đầu nặng. Cơn váng vất làm cô thấy chungquanh tối đen. Ánh đèn chong như lùi xa vào tận đáy vựa thẳm nào. Bổngcó tiếng chì chiết:

- Con giựt chồng người! Con sát nhơn!

Trước mặt cô hiện ra một người đờn bà mặc quần áo trắng, óc xõa dãdượi. Bà ta ốm nhom như con khô cá hố, da dẻ xanh chành, ánh mắt longlên sòng sọc. Người đờn bà nghiến răng:

- Con kia! Mầy biết tao là ai không?

Cô Tư Cẩm Lệ thều thào:

- Chị Tư Thục!

Người đờn bà gằn từng tiếng:

- Phải, tao là Tư Thục, người phối của thầy kiện Trần Hảo Hiệp đây!Mầy lấy chồng khính của tao, làm cho chồng tao lợt lạt với tao. Sau đómầy còn hại tao tới chết oan chết ức.

Cô Tư Cẩm Lệ ngồi bẹp xuống lạy cô Tư Thục lia lịa:

- Lạy chị Tư, bởi vì em biết chị Tư ếm em nên em phải ra tay trước.Giờ đây, chị đến đòi mạng em, em xin chị nghĩ chút tình cũ hồi chị emmình còn chung sống hòa hiệp thuận thảo mà buông tha cho em nhờ. Bởi chị dồn em vô ngõ bí nên em lỡ tay hại chị.

Hồn cô Tư Thục bảo:

- Thiệt tình tao có nhờ thầy pháp thư ếm cho mầy lìa xa chồng tao.Đó cũng chỉ là việc bảo vệ hạnh phúc của bất cứ người đờn bà nào bị sansẻ tình chồng vợ. Tao cho mấy biết, mầy đừng mong ăn đời ở kiếp vớichồng tao. Rồi đây mầy sẽ bị kẻ khác giựt chồng. Đó chỉ là cái hoa báo,còn quả báo thì ly kỳ rùng rợn lắm, có vậy thiên hạ bá tánh mới lấy cáigương tối độc phụ nhơn tâm ra để soi rọi đêm ngày. Hoa báo trổ trước,quả báo tượng hình sau... nghe chưa con sát nhơn?

Cô Tư Cẩm Lệ giựt mình dậy trống vừa điểm canh tư. Bên ngoài, ánhtrăng tái ngắt lòn qua khe cửa lá sách. Chim heo kêu eng éc sau vườnnhà. Cô lăn qua nửa vòng, nằm nghiêng về phía trái lắng nghe tiếng timđập mạnh trong lồng ngực. Một ý thức sáng lòa trong đầu óc cô: mình phải gồng mình đối phó với những diễn biến trầm trọng trong những ngày sắptới.

Các đây ba năm, giữa lúc hai bà vợ lớn vở nhỏ ông thầy kiện Trần Hảo Hiệp cồng chung dưới một mái nhà ở Đa Kao Đấy Hộ ra vẻ thuận thảo lắmthì một hôm con Đương, đứa ở gái của cô Tư Thục tiết lộ với cô Tư CẩmLệ:

- Nè cô Tư, em nói ra đây để cô đề phòng. Bà lớn ((chỉ cô Tư Thục) hay về Phú Nhuận để lập bàn trù ẻo ông chủ và cô.

Nguyên cô Tư Thục là con ông bà Huyện Tịnh ở Phú Nhuận. Cô Thư Thụcvốn hiền lành khờ khạo, hễ gặp chuyện gì trục trặc cũng về nhà tía má cô vấn kế. Con Đường tuy là tớ gái thân tín của cô Tư Thục nhưng nó bị côTư Cẩm Lệ bỏ tiền ra mua chuộc để thuê nó dò la cô chủ đã từng hết lòngtin cậy nó. Thế rồi nhờ con Đương, cô Tư Cẩm Lệ móc nối Chín Đáng, mụnấu bếp của ông bà Huyện Tịnh để dò biết rằng bà Huyện Tịnh đã đến quậnlỵ Tịnh Biên tỉnh Châu Đốc nhờ tên Thổ Sơn Eng lập cách trù ếm luật sưHiệp và cô. Mụ không biết mục đích của cuộc trù ếm đó, chỉ biết rằng bàHuyện Tịnh mang vế hai cái hình nhơn bằng sáp. một đờn ông và một đờnbà. Bà cho hai cái hình nhơn đó đâu lưng với nhau, đặt trên bàn thờ ởcăn buồng gần kho chứa nông cụ. Mỗi ngày bà vào căn buồng đó, thắp đènnhang, đọc thần chú Miên rồi kêu tên Trần Hảo Hiệp và Tư Cẩm Lệ bảy lần. Mỗi khi rời phòng, bà đều khóa cửa cẩn thận.

Thiệt tình khi nghe Chín Đáng báo cáo, cô Tư Cẩm Lệ hoang mang sợsệt lắm. Hèn chi trọn tháng rồi, thầy kiện tỏ ra bẳn gắt với cô và hễ đi làm về là chỉ quấn quít với vợ cái con cột của ổng. Mà hễ một khi ngủtrong buồng co là thầy lại bị chứng xây xẩm, có khi rên la vì nhức đầu.Do đó cả hai không thể ân ái được.

Cô Tư Cẩm Lệ nhứt định phải trả đũa. Cô lựa lời bảo chồng và cô Tư Thục:

- Má em bị chứng ban trắng, nhà lại neo người. Xin anh chị cho em về Vĩnh Long săn sóc má em một thời gian. Chừng nào bả chỏi hỏi, em sẽ vềđây.

Khi về tới Cầu Đào, cô Tư Cẩm Lệ khóc kể việc trù ếm vơi bà Bang biện và cô Ba Cẩm Tú. Bà Bang biện bàn tận gốc ý nghĩ của mình:

- Giờ đây con Tư Thục trù ếm cho thằng thầy kiện và mầy xa lìa nhau. Nhưng mầy nên nhớ con Tư Thục không vừa đâu. Cứ coi tướng mạo của cỏn,tao biết đây là thừ đờn bà khẩu Phật tâm xà, sâu hiểm khó lường. Một khi nó trù cho duyên tình giữa mầy và thằng thầy kiện keo rã hồ tan rồi thì nó có ngại ngùng gí mà không thư ếm cho mầy vong mạng để báo thù cáichuyện mầy lấy chồng khính của nó. Tốt hơn, mầy phải ra tay trước đểtránh hiểm họa về sau. Tiên hạ thủ vi cường, ông bà mình thường dạy nhưvậy, chẳng sai chút nào!

Bà dắt cô Tư Cẩm Lệ đi Tịnh Biên, tìm tới nhà vợ chồng người Miênchuyên về thư ếm, chồng tên Thạch Lợn, vợ tên Cà Nựng. Chồng làm nghềnắn đồ gốm, vợ thì sáng sáng gánh bún nước lèo ra bán ngoài chợ.

Khi cô Tư Cẩm Lệ trở về Sài gòn thì cô Tư Thục đã bị lớn bụng. Đúngnhư lời cam đoan của Thạch Lọn, trong bụng cô Tư Thục đã có miếng datrâu dày cụi. Thạch Lọn làm phép cho miếng da trâu ấy nhỏ cỡ hột bụi,đem gắn vô tờ giấy trắng, bỏ bao thơ gởi cho bà Nguyễn Trinh Thục. Khicô Tư Thục nhận được lá thơ, khui phong bì, hột bụi đó bay trong khôngkhí quanh quẩn theo cô. Khi cô hả miềng là nó chạy tọt vô miệng cô đểxuống tận bao tử cô, bắt đầu nở ra, lấy lại tầm vóc cũ. Suốt bốn ngày cô Tư Thục đau đớn vì miếng da trâu kia. Cô mửa ra từng lọn máu, đi cầucũng ra máu. Máu cứ theo miệng và hậu môn thoát ra ngoài, vắt khô sinhlực cô. Đến ngày thứ năm, cô Tư Thục trút linh hồn. Phép thư của ThạchLọn đã giúp cô Tư Cẩm Lệ trừ được tình địch và đưa cô lên địa vị chủ phụ gia đình luật sư Trần Hảo Hiệp. Ông ta có hứa nếu cô sanh cho ông mộtcậu quí tử thì sẽ làm hôn thú với cô, nâng cô lên hàng chánh thất.

Cô Tư Cẩm Lệ đôi lúc thấp thỏm không an. Cái chuyện "tiên hạ thủ vicường" đó có thê đi quá xa. Chắc gì cô Tư Thục có ý hại cô cho tới tuyệt mạng? Cho nên cô đâm ra sợ hai đứa con ghẻ. Tụi nó có khuôn mặt giốnghệt cô Tư Thục. Ngày nào tụi nó còn chàng ràng trước mặt cô, cô còn bịám ảnh bởi người chết, có cảm tưởng người chết hiện hồn về đòi mạng. Lại nữa, chúng có vẻ hỗn xược, lì lợm, lúc nào cũng như sẵn sàng ứng chiếnvới cô. Bởi đó cô phải

đày đọa, xéo xắt chúng một cách ồn ào, để lương tâm bị những bận rộn huyên náo kia không có thời giờ cắn rứt cô, để bóng ma cô Tư Thục không có cơ hội ám ảnh cô.

Cô Tư Cẩm Lệ duỗi chơn tay, thở từng đợt dài. Tuy tâm trí cô bị dàyvò bởi giấc chiêm bao vừa rồi nhưng vẫn dễ ngủ, chỉ một lát sau cô đãbắt đầu ngáy se sẽ.

Trong cơn chiêm bao hứ hai, cô thấy mình cùng cô Ba Cẩm Tú đứngtrước cây da xà ở xóm Chuồng Gà. Lúc bầy giờ trăng sáng trải khắp bãiđất trống ven sông. Sông gợn sóng bạc sóng vàng lấp loáng. Bên kia sông, lò rèn đốt đèn leo lét và lửa trui sắt cháy đỏ rực trong lò. Dưới bếnsông bên này bãi đất, xuồng câu tôm đốt đèn tán chai, chấm lửa vàng khècỡ hột đậu phọng. Hai chị em cô Cẩm đứng trên dấu cầu nhủi. Cô Ba Cẩm Tú bảo em:

Khuya quá rồi, vạy mà gia đình người thợ rèn bên kia sông cũng còn làm việc.

Cô Tư Cẩm Lệ chợt giật mình bảo chị:

- Ừ, khuya quá rồi, sao chị em mình còn thơ thẩn ở đây?

Bỗng trong tàn cây da, có tiếng lanh lảnh vọng ra:

- Hai con kia, bây toa rập với hàng anh sở khanh khốn kiếp của bâygạt tao uống thuốc phá thai làm tao phải vong mạng. Sát nhơn thì giả tử. Nhưng tao không làm bay chết đâu! Bây phải sống không ra sống, chếtkhông ra chết, khổ sở khốn nạn nhiều phen tao mới đã nư cho...

Từ trên cây da, một bóng trắng tuột xuống. Đó là một người đờn bàbận đồ trắng, tóc bỏ xõa, dáng ẻo lả. Y thị tiến về phía hai cô Cẩm, mắt trợn trắng xác, miệng mím chặt. Cô Tư Cẩm Lệ toan kéo chị mình chạytrốn nhưng chơn cẳng cô như bị chôn cứng, hai cánh tay tê liệt. Hồn mahét:

- Tía mà bây là quân cường hào ác bá. Anh em bây là phường lang tâmcẩu hạnh. Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt. Bây có chạy xa bay cao cũngkhó mà tránh được!

Y thi xốc lại ghịt tóc hai chị em. Cô Tư Cẩm Lệ la bài hải, lọt rakhỏi cơn ác mộng. Thầy kiện Trần Hảo Hiệp ôm chặt lấy vợ, ân cần hanhỏi:

- Cưng nằm chiêm bao thấy chuyện gì mà khóc lóc la hét om sòm dữ vậy? Coi kìa, mình mẩy em lạnh ngắt như ướp nước đá.

Cô Tư Cẩm Lệ còn run lẩy bẩy. Tuy nhiên cô nói trớ:

- Ối, chiêm bao bị tầm ruồng, hơi đâu em nhắc lại.

Ánh ban mai trắng đục lòn qua khe cửa lá sách. Luật sư Hiệp buông vợ ra, vươn vai ngáp rồi bảo:

- Dùng điểm tâm xong, anh sửa soạn về Sài gòn.

Cô Tư Cẩm Lệ soạn khăn mặt, xà bông, bàn chải chà răng, phấn đánhrăng cho chồng làm thủ tục buổi sáng. Riêng cô, cô chải sơ mái tóc, thay chiếc áo túi cụt tay vải ba- tít trắng bằng chiếc áo bà ba lụa tím rồixuống bếp.

Tại căn bếp bà Bang biện Hưỡn đang trông coi con Lài con Lý sửa soạn bữa điểm tâm. Cô sai con Lài:

- Lài, sẵn nước sôi, mầy pha cho tao ly cacao sữa uống chơi. Nhớ chế sữa hộp ít ít thôi.

Bà Bang biện đang hấp bánh ướt nhưn tôm khô. Trên chiếc chỏa lò lớn, cháo bồi đang sôi trong chiếc trả lớn bằng đất mỏng. Bả bảo cong ái:

- Món cháo bồi nầy má nấu bằng bột báng chớ không bằng bột gạo nàng hương. Tôm, thịt, cá bông, môn ngọt cắt khúc, đủ hết...

Cô Tư Cẩm Lệ hỏi:

- Bữa điểm tâm thịnh soạn như vầy, chắc là nhà có khách?

Bà Bang biện:

- Có ai đâu lạ, Chỉ có chồng của mầy. À, mới hồi tảng sáng con Ba có sai con ở qua đây biếu má một thố cá chái kho mẳn để dành ăn với bún.Nó có nhắn lát nữa nó qua Hạnh Huê Đường bổ thang thuốc bắc cho má chồng nó, sẵn dịp nó ghé đây ăn lót lòng luôn.

Cô Tư không nói gì. Cô uống từng ngụm sữa pha cacao, lòng bàng hoàng về lời đoán mộng của thầy Mười Khói và hai giấc chiêm bao vừa qua.Trước mặt mẹ, cô không dám để lộ cái lo sợ của mình ra. Chùng nào chồngcô rời khỏi nơi đây, cô sẽ tỏ rõ mọi sự cho mẹ hay để đối phó.

Qua tấm vách mắt cáo của căn bếp, mọi người nhìn ra có thể thấy xẻodừa nước đang ngập nước lai láng. Ven bờ xẻo, cây khế trổ rực rỡ hoatím. Giáp mé nước, bầy vịt xiêm đang lặn ngụp tìm mồi. Tại sàn nước,thằng Đực đang chùi rửa bộ đồ trà bằng xơ dừa và tro mặn. Còn thằng Xiêm đang cho mấy con gà sao, gà lôi ăn lúa...

Bà Bang biện Hưỡn nói vọng ra:

- Xiêm! Đực! Lát nữa tụi bây xẹt qua chùa Long Đức bạch với thầyChơn Huệ rằng giờ đây cậu Bửu đã mạnh giỏi trở lại, xin thầy cho cậu vềnhà, vì cậu Hai Kinh Lý tụi bây đang nhớ thương cậu Bửu, không đành lòng xa cẩu. Bây cứ tom hết quần áo cậu Bửu đem về đây cho tao.

Cô Tư Cẩm Lệ xững vững bảo mẹ:

- Má làm gì kỳ vậy? Má không sợ thầy phiền sao?

Ba Bang Biện Hưỡng:

- Mầy nói niếc! Thầy là kẻ tu hành. Thầy mà phiền tao thì làm saothầy tu hành tinh tấn cho đặng? Tao già rồi, hai thứ tóc trên đầu rồi,đừng có dạy khôn tao, vô ích lắm!

Vừa lúc đó cô Ba Cẩm Tú từ nhà trên bước xuống, tay cầm dù, tay ômbóp đầm da láng. Cô mặc chiếc áo bằng lụa tầm màu nguyện bạch thêu bôngcúc tím lớn cỡ đồng xu. Cô bảo mẹ:

- Con đã bổ thuốc rồi. Con tới đây cho kịp ăn sáng.

Rồi cô quay qua bảo cô Tư Cẩm Lệ:

- Em ra ngoài hè, chị có chút việc muốn bàn với em.

Khi hai chị em cùng đi song song dưới hàng cây phù quân, sa bô chê, cô Ba Cẩm Tú bảo:

- Em ơi, đem qua chị nằm chiêm bao thấy hai chị em mình trong đêmtrăng đứng ở đầu cầu nhủi, gần cây da xà. Lúc đó con Út Thoại Huê từ cây da xà tuột xuống đòi mạng. Rồi nó xốc lại ghịt tóc hai chị em mình.

Cô Tư Cẩm Lệ tái mặt, nắm chặt tay chị:

- Đêm qua em cũng nằm mộng như vậy. Trong chiêm bao, em còn thấy cái lò rèn bên kia sông. Lúc đó chị có nói câu: "khuya quá rồi, vậy mà giađình người thợ rèn hãy còn làm việc".

Cô Ba Cẩm Tú thảng thốt:

- Đúng vậy, chị có nói câu ấy. Còn em, em nói: "Ừ, khuya quá rồi, sao chị em mình còn thơ thẩn ở đây?"

Hai chị em nhìn nhau, có cảm tường sắp bị đưa lên máy chém. Té ra cả hai cùng nằm chiêm bao chung, cùng gặp gỡ nhau trong cõi ác mộng.

Cô Ba Cẩm Tú ngồi phệt xuống gốc cây phù quân, nước mắt tuôn như suối. Cô rên rỉ:

- Chị sợ lắm em ơi! Làm sao bây giờ đây?

Cô Tư Cẩm Lệ ngồi gần bên chị:

- Phải tỏ bày tự sự cho má hay. Hồn oan dẫu có muốn khuấy phá mình,nếu gặp thầy pháp cao tay ấn thì cũng không làm trò trống gì được.

Cô Tư Cẩm Lệ thuật lại giấc chiêm bao ban đầu cho chị mình nghe. Cô buồn thảm:

- Tình cảnh em còn khó khăn gấp đôi ba tình cảnh chị nữa. Em có tới hai oan hồn đòi mạng.

Hai chị em cùng lau nước mắt trở vô bếp. Bà Bang biện Hưỡn quét cặp mắt tò mò khắp mình mẩy hai cô con gái cưng, quở:

- Bây làm giống gì mà như bàn bạc hội kín vậy? Thôi, lên nhà trên dùng điểm tâm với cả nhà.

Bàn ăn hình hột xoài bằng ỗ cẩm lai, mặt nạm đá hoa cương trắngbóng, có trải nắp bàn bằng vải trắng thêu đục lỗ. Giữa bàn là chiếc thốlớn đựng cháo bồi, kế bên là hai dĩa bàn hình hột xoài đựng bánh ướt tôm khô. Lại còn thêm một dĩa bàn thiệt lớn đựng trứng gà chiên ốp la.

Mọi người vừa ngồi vào bàn thì con Lý đem bình cà phê và bánh mìlên. Mọi người bắt đầu dùng cháo trước hết, sau đó mới qua bánh ướt. BàBang Biện Hưỡn bảo chồng:

- Tui đã bắt thằng Bửu về được rồi. Ai dè thầy Chơn Huệ không làm khó dễ gì hết. Thôi vậy cũng mừng.

Cả nhà không ai nói gì thêm. Sau cùng thầy kiện Trần Hảo Hiệp hỏi mẹ vợ:

- Sao cậu Bửu không ra ăn sáng luôn?

Bà Bang Biện:

- Kệ nó, để nó ăn chung với tụi thằng Xiêm, thằng Đực cũng được mà.

Và như chợt nhớ ra, bà dặn chồng:

- Kỳ góp lúa vừa rồi, thằng Cai tuần Ích, thằng Thường xuyên Họctrộn nhiều trấu vô lúa. Kỳ tới ông phải bắt tụi nó giê lúa vô vịm nước,hễ thấy còn trấu nổi lên là ông phải bắt tụi nó giê lại cho thiệt sạch.Ông cứ ỷ y với tụi tá điền tá thổ, có ngày bị tụi nó bán đứng chớ khôngchơi đâu!

Cậu Hai Luyện hỏi mẹ:

- Chốc nữa má có đi chợ không?

Bà Bang biện nhìn cậu Hai:

- Không. Má đi ra Cầu Dài để đòi nợ. Con vợ thằng Năm Kình cứ hẹnlữa mà chưa trả tiền lời. Không lẽ hăm he nó hoài hay sao. Phen nầy máxiết đồ đạc cho nó tởn.

Rồi bà hỏi cậu con trai cưng:

- Mà con hỏi chi vậy?

Cậu Hai trả lời:

- Hôm nào má đi chợ, con sẽ đưa má tới nhà bà Huyện Huỳnh Kim Lầucoi cặp bông tai nhận hột xoàn. Con không ránh giá trị của ngọc nênkhông dám thương lượng giá cả với bả.

Bà Bang biện Hưỡn:

- Má bằng lòng mua hột xoàn cho con, nhưng nếu con muốn dùng đôibông để cưới vợ thì má có sẵn một đôi hột ba ly rưỡi. Còn hột cỡ năm lysắp lên thì con nên để làm của hộ thân.
 
Chương 5


Bửu trở lại kiếp tôi đòi như cũ. Trong mấy ngày đầu, bà Bang biện Hữucòn nới tay với cậu con trai đáng thương kia, tức là chỉ xay lúa, giãgạo mà thôi. Sau đó bà trở về tật cũ, bắt cậu bồi líp, móc,ương, tátnước vào ruộng. Hễ gặp chuyện bực bội, bà trút giận vào cậu, roi vọt,tát vả thường đi song song với lời mắng chửi.

Pháp sư Chơn Huệ sửa soạn đi núi Cô Tô,. Trước khi đi, sư cho chú tiểu Như Pháp tìm đến Bửu trấn an:

- Thầy dạy tui khuyên em nên ẩn nhẫn một hoặc hai tháng. Cái ác quảem cần phải trả cho sạch. Chừng đó, sư điệt của thầy là cô Thiệt Nguyệnsẽ giúp em đi theo thầy.

Trước khi đi về miền năm non bảy núi, pháp sư Chơn Huệ có đến thămông bà Chín Thẹo và lập đàn tràng cầu đảo đức Dược Sư Ly Quang Như Lai p hù hộ cho cô Út Ngọc An khỏi bịnh. Sư khuyên ông bà Chín thọ trì bátquan trai giới, cúng đường các tỳ kheo, sư tụng bốn chín biến kinh BổnNguyện Công Đức, đốt bốn mươi chín ngọc đèn trước bảy bức hình tượng đức Như Lai va khuyên gia chủ mua chim, cá về phóng sanh.

Nói về cô Út Ngọc An, từ hôm lỡ bận quần trắng đi dạo dọc mé sôngvới cô Hai Túy Ngọc thì đâu chừng một giờ sau cô cảm thấy chóng mặt vàbợn dạ. Chiều hôm đó, cô bỏ cơm nước, vào phòng nằm thiêm thiếp. Cô cócảm tưởng có chất gì nhớt nhớt bao quanh mình cô và một mùi tanh tưởiphảng phất trong phòng.

Trong cơn choáng váng ngầy ngật, cô thoáng nghe có tiếng xì xào:

- Con đó để dành cho tao.

- Ừ, xáp đại vô đi.

Cô Út bỗng thấy ngọc đèn dầu chong trên bàn gần cửa sổ tắt phụt rồi có tiếng chân khua tình thịch ở ngoài hè. Cô la lớn:

- Ăn trộm! Có ăn trộm bớ bà con!

Bà Chín Thẹo cầm thếp đèn huê kỳ bước vô, hỏi gặng:

- Út con, cả nhà còn thức, ăn trộm nào dám vô! Con có đói bụng không? Má nấu cháo cá, ngon lắm!

Nghe nói tiếng "cá", cô Út Ngọc An bỗng bợn dạ muốn mửa. Bây giờ khô lân chả phụng hay nem bát trân cũng không làm sao giúp cô quên mùi tanh tưởi khi nãy, cho nên cô lắc đầu từ chối.

Bà Chín Thẹo bước ra khỏi buồng thì chừng nửa tiếng đồng hồ sau côÚt bỗng nghe có tiếng thở phì phò như tiếng thở của trâu bò. Mở mắt tra, cô thấy một bóng đen to lớn đứng an ngữ ngọn đèn dầu dừa. Cô toan mởmiệng la thì bóng đen thổi một luồng hơi lạnh ngắt và tanh tưởi vào mặtcô, mình mẫy hắn lầy lụa những nhớt trơn ướt. Cô cảm thấy khúc cây cứngxoáy vào hạ bộ, làm cô đau đớn chết giấc liền.

Từ đó thần thức cô Út thường chìm trong tình trạng nủa mê nửa tỉnh.Đôi lúc cô tỉnh dậy, cảm thấy bụng mình đau đớn như bị ai banh xé. Vàkhi cơn đau dịu đi nhờ những chén thuốc do ông Năm cắt cho, cô lại cảmthấy mình mẩy, tóc tai mình như bị bôi keo, và chất keo đó tuy khô vẫntanh mùi nhớt cá, nhớt lươn. Không chịu nổi cảm giÿc nhờm gớm, cô vàobuồng tắm xối nước. Mới xối một gáo, lớp keo gặp nước biến thành nhớtrớt nhễ nhại từng vũng trắng như nước cơm loãng. Do đó cô phải gội đầuthiệt kỹ bằng nước bồ kết và nước cốt trái chánh, phải tắm bằng xà bôngsả, lượt thứ nhì bằng xà bông cô Ba ngáy mùi bông sứ. Cô phải chà răngsúc miệng, ngậm kẹo bạc hà, xức sầu bông lài để báng mùi tanh lúc nàocũng phưởng phất quanh cô, chập chờn trong ảo giác cô.

Cô Út Ngọc An sợ nhứt khi mặt trời vừa lặn. Đó là lúc bóng đen trởvề ôm ấp cưỡng bức cô. Cho nên cô ngỏ ý với mẹ, mời hai cô em bạn dì tới kê giường ngủ chung trong buồng cô. Mấy đêm đầu, không việc gì xảy ra.Cô Út mừng khấp khởi. Nhưng tới tối thứ bảy, trong lúc Kim Huê và KimLiên – hai cô em bạn dì của cô – đang chuyện trò tào lao vớ vẩn thì côÚt nằm im trên giường, thần trí lơ mơ dật dờ dật dưỡng. Bỗng cô thấyngọn đèn chong tr ên bàn bị án ngữ. Hơi thở lạnh ngắt và tanh tười củakẻ vô hình phà tới làm miệng lưỡi cô tê liệt. Hắn xốc lại ôm cô. Cô dùng hết sức bình sanh vật lộn với nó. Một tiếng rầm vang lên. Cô té rớtxuống giường. Kim Huệ và Kim Liên vội lay gọi:

- Chị Út! Mau tỉnh dậy chị!

Cô Út Ngọc An mở mắt thầy mình nằm sóng sượt trên nền nhà lót gạch tàu. Cô bàng hoàng nói:

- Có bóng đen vô đây. Nó xáp lại cưỡng bức tao. Lại nó nữa!...

Kim Liên cười:

- Có ai đâu! Tụi em tuy nói chuyện khào với nhau nhưng mắt không rời khỏi giường chị. Bỗng khi khổng khi không chị dãy đành đạch như cá mắccạn rồi rớt xuống chơn giường.

- Rõ ràng nó vừa vô đây. Nó hôi tanh như dính nhớt cá. Mùi tanh giờ đây còn lảng vảng khắp buồng nầy.

Kim Huệ lắc đầu:

- Không có ai vô hết. Mà em cũng chẳng ngửi thấy mùi tanh nào. À, mùi hương nguyệt quới ở ngoài cửa sổ thoảng vào thì có.

Lúc đó cô Út Ngọc An mới biết rằng chỉ có mình cô cảm ứng được"người đàng dưới" chốn thủy cung. Hắn lên đây cốt cưỡng dâm cô nên cômới thấy được hắn, mới ngửi được mùi tanh tưởi trên thân thể hắn. Chỉ có cô do nghiệp thức chiêm cảm nặng nề từ thuở tiền kiếp xa xăm nào dộilại nên mới bị hắn đeo đuổi khuấy phá. Người nhà thuật lại cơn mê sảng,khi thì cô nói cô theo chồng về nhà dưới đáy sông nầy, khi thì ở thủycung nọ. Trước nhà có cây san hô hường, cây san hô trắng. Trong cơn hônmê, cô còn tả nhiều giống cá đủ màu đẹp đẽ như chim đậu trên các nhánhsan hô, nhưng thường thì chi tiết nầy tương phản chi tiết nọ. Khi tỉnhtrí, cô không nhớ chi tiết nào hết. Mọi hình ảnh trong những giấc hôn mê như gió chuồi qua vùng ký ức nhão nhừ mệt mỏi của cô để rồi mất húttrong cõi hư vô đen đặc.

Ông bà Chín Thẹo chạy tới chạy lui lo mời thầy pháp, thầy bùa tìmcách trục con quỉ đàng dưới cho cô. Bụng cô Út Ngọc An càng lúc càng nởlớn như người bị chứng chai gan, như đờn bà mang bầu. Nhưng ông Năm Tảokhông cho đó là triệu chứng ốm nghén. Cô chợt nhớ tới dì Mười Hai củacô, tức là người em út của bà Chín Thẹo. Bà bị một kẻ dị loại khuấy phá. Chẳng biết nó là âm binh hay cô hồn nhưng nó đã làm cho bà Mười Haiđiên cuồng. Đêm đêm tắt đèn là bà thấy nó vào cưỡng dâm. Bà ăn đèn sáp,uống nước cống, nước đường mương. Bụng bà cũng chương lên, và sau chíntháng mười ngày bà đẻ ra một cục máu. Theo lời bà mười Hai kể, kẻ đó dầu không rõ mặt mủi nhưng lông lá khét nghẹt, hơi thở hôi hám. Người chođó là xà niên, khỉ đột đội lốt; kẻ bảo là cọp mun, heo gấm thành tinh.Nhưng lời cắt nghĩa nghe không xuôi chút nào. Ở đây là vùng châu thổ, xa cách núi rừng thì làm sao có những loài dã thú thành tinh ấy. Buồng bàMười Hai dù có gài chặt cửa nẻo, thắp nhang, dán đủ thứ bùa ếm quỉ trừtà, nhưng cứ cách đêm là loài dị tộc lại theo bóng tối vào buồng. BàMười Hai cứ hết chửa đẻ hết cục máu nầy sang cục máu khác, hình vóc càng ngày càng hao gầy, mặt mày thỏn mỏn, da dẻ xanh chành. Cả nhà rước thầy trấn ếm riết nên hơn một năm nay, kẻ dị loại lâu lâu mới đến viếng bàmột lần, nhưng không biết tới chừng nào hắn mới chịu phép rút lui hẳn.

Cô Hai Túy Ngọc và cô Ba Túy Nguyệt thường lui tới thăm nom cô ÚtNgọc An và an ủi bà Chín Thẹo. Đối với cô Hai, cô Út vẫn là bạn lối xómthân hiết nhứt dù cả hai trái tánh nhau. Cô Út hời hợt, bốc đồng, haythẻo lẻo; còn cô Hai thì thâm trầm, kín đáo, nhu mì. Cô Ba thì tuy khắckhẩu với cô Út nhưng không vì lẽ đó mà cô để bụng thù hằn, ghét bỏ côÚt. Dưới mắt cô Ba, cô Út được cha mẹ nuông chiều quen thói nên ưa nhõng nhẽo, ỏn ẻn nhưng không có tâm địa làm hại ai. Cô nghĩ thần: "Chị Útkhông rõ kiếp trước có tội gì mà số mạng đẩy đưa chỉ tới bước đường cùng như vậy. Như bà Mười Hai vốn hỗn hào, dữ tợn, biến lũ cháu ở nhờ củamình thành tôi mọi không công, hùn hạp mở động đĩ, dụ dỗ gái sa cơ bướcvào chốn bán phấn buôn hương thì mới đáng bị trừng phạt, chớ như chị Útđây, cảnh ế muộn lỡ thời cũng đủ làm chỉ đau khổ rồi. Bị vụ nầy, chắcchỉ chết mòn chết mỏi!"

Lật bật mà đã tới tháng sáu âm lịch, mùa mưa đang độ vào sâu. Câydiệp tây đầu xóm đơm bông đỏ rực như cây đuốc lửa khổng lồ. Hôm đó ôngNăm Tảo bơi xuồng vào Long Thanh đẻ coi mạch hốt thuốc cho con traingười bạn thân, bà Năm Tảo đang chao mắm và gài dưa mắm ở nhà sau, cònhai cô Túy nấu cơm kho cá rong bếp. Bỗng có tiếng con chó Vện sủa ngoàingõ. Nhìn qua mắt cáo, hai cô thấy thấp thoáng dưới khung cây bông giấyuốn vòm cung ngoài cửa ngõ một người đờn bà mặc áo màu xanh da trời. CôBa vội rửa tay rồi bương bả ra cổng. Một người đờn bà tuổi cở ba mươi,dung nghi đề đạm, mặt mày sáng rỡ, vóc mình thanh cảnh, tay che dù đâm,tay xách chiếc va- li da láng. Chị ta hỏi:

- Thưa cô, đây có phải là nhà thầy Năm Tảo hay không?

Cô Ba Túy Nguyệt gật đầu:

- Dạ đúng vậy. Đây là nhà tía của em.

Người đàn bà tự giới thiệu:

- Tui đây là đồ đệ của huề thượng Chơn Tánh, sư huynh thầy Chơn Huệ. Tui tu theo giới ưu bà di, tức là cận sư nữ, chớ không thọ giới sa dinữ, pháp danh là Thiệt Nguyện. Su thúc Chơn Huệ tui có gửi thơ lên TriTôn nhắn tui về đây trị bịnh chô con gái một khách đàn việt. Ngặt vìchùa Long Đức toàn là sư sãi nên sư thúc tui gửi tui lại đây ở một thờigian.

Cô Ba Túy Nguyệt bãi buôi:

- Thưa cô, ba má em đã chuẩn bị phòng ốc cho cô rồi. Cÿch đây vài bữa, thầy Chơn Huệ có tới đây gởi gấm cô cho ba má em.

Cô Ba mở chửa cho cô Thiệt Nguyện vào nhà. Nghe có khách, bà Năm Tảo bương bả gài hũ mắm chót. Còn cô Hai Túy Ngọc nhắc nồi cơm xuống, đặtấm nước lên bếp rồi bước ra trung đường chào khách. Cô Thiệt Nguyện ngỏ ý xin ra nhà sau để chào bà Năm. Vừa thấy cô, bà Năm niềm nở:

- Mời cô Hai rửa mặt, nghỉ ngơi rồi dùng cơm trứa với mẹ con tui. Tui cũng ăn chay nửa tháng với cô cho có bạn.

Cô Thiệt Nguyện mở va- ly lấy ra keo mứt ổi và gói kẹo sầu riêng bụtổ chảng gọi là làm quà biếu gia chủ. Cô cũng tặng cho mỗi cô Túy mộtxấp lụa cẩm trắng, một thứ tơ lụa nổi tiếng ở Châu Đốc. Cô bảo mẹ con bà Năm Tảo:

- Đã không biết thì thôi, chớ biết nhau thì đôi đàng nên coi nhaunhư họ hàng. Cháu xin kêu ông bà gia chủ bằng chú Năm thím Năm, còn gộihai cô Túy bằng em cho thân mật.

Bà Năm cảm động:

- Cháu có tấm thạnh tình ấy, thím rất bằng bụng. Thôi, cháu đi rửmặt cho mát. Thím phải đi tắm bằng xà bông sả cho báng hết mùi mắm đồngrồi sẽ hàn huyên. Thầy Chơn Huệ đã làm lệ vu qui y cho hai con em cháuđây. Con lớn có pháp danh là Thiệt Hạnh, con nhỏ là Thiệt Niệm. Tụi nólà sư muội của cháu đó.

Tổ dòng tu Mật Tông của huề thượng Chơn Tánh và pháp sư Chơn Huệ làNguyện Hương trưởng lão. Dòng tu sẽ truyền theo các hệ lấy pháp danh từcâu kệ "Nguyện Giải Như Lai Chơn Thiệt Nghĩa". Những danh tăng và bổnđạo có pháp danh khởi đầu bằng chữ Chơn tức là thuộc vào đời thứ năm. Cô Thiệt Nuyện tuy không phải là sư nữ nhưng thấy của cô là ông Chơn nêncô được pháp danh khởi đầu bằng Thiệt. Hai cô Túy chỉ là Phật tử thuầnthành nhưng vì giốc lòng làm công quả cho chùa, dẫu cam go gian khổ cũng không hế quản ngại nêm sư thương mến, ban cho hai cô pháp danh khởi đầu bằng chữ Thiệt.

Khi ba mẹ con bà Năm Tảo dùng cơm với cô Thiệt Nguyện xong thì ôngNăm Tảo vừa về tới. Để làm vui lòng khách, hai cô Túy cũng ăn chay.Ngoài món tào hũ, đậu đũa, đậu ve, khổ qua, bí đao kho với tương hột, bà Năm còn làm thêm món đặc biệt là xác đậu hũ xào với gía, rau càng cua,gói bánh tráng nhúng nước, rau sống chấm nước tương giã tỏi ớt. Nhưngmâm cơm dành cho ông Năm Tảo thì có một tô cá mè vinh nấu ngót với càchua và rau cần, một dĩa cá chi, muối chiên giòn.

Cô Thiệt Nguyện nói với ông chủ nhà:

- Sư thúc cháu mai mốt sẽ đi Tri Tôn tìm đường lên núi Cô Tô tuhành. Cháu ở đây tụng kinh Dược Sư cho cô Út Ngọc An tới khi nào cổ taiqua nận khỏi mới thôi. Vả lại cháu cũng có vài công chuyện riêng cầngiải quyết cho xong.

Ông Năm Tảo nói:

- Việc đó chú cũng được thầy Chơn Huệ cho biết rồi. Thím Năm cháuđang may hai bộ cà sa, hai bộ nhựt bình cho thầy, còn chú thì đang soạnhai giỏ thuốc để thẩy đem theo phòng thân.

Bà Năm Tảo mời cô Thiện Nguyện nghỉ trưa. Bà nhứt định nấu nồi bánhtrôi nước trước để đãi khách, sau nữa đãi hai cô Kim Liên, Kim Huệ vìtrưa hai cô qua đây phụ giúp may quần áo cho pháp sư Chơn Huệ. Vào thậpniên 30, máy may không được thạnh hành nên dân vùng quê hoặc vùng nửachợ nửa quê đều may bằng tay. Bà Năm và hai cô kim có mũi chi khít khaođều đặn cũng như hai cô Túy, nhưng hai cô Túy phải lo làm tương chao cho chùa. Hai cô còn xay lúa giã gạo, chẻ củi chuẩn bị cho kỳ rằm tới.

Ăn cơm xong, ông Năm tảo xẩn bẩn bên vợ ở trong bếp. Ông thì thầm:

- Bữa đi An Hương chẩn bịnh, tui có ghé qua Hòa Mỹ để thăm cô MườiHai. Cổ tuy bớt bịnh nhưng tầm hần hoảng hốt lắm. Cổ cứ than không hiểusao hễ nghe chó sủa chó tru là cổ rùng mình mọc óc... Chồng cổ rủ tụinhậu rượu đế cá khoai với mấy ông bạn lối xóm. Cũng dịp nầy, tôi nghedồn nhiều gia đình ven sông có con gái mắc bịnh đằng dưới...

Bà Năm Tảo mơ màng hình dung lại con sôn Cổ Chiên, từ nhánh TiềnGiang chẻ ra, chảy qua tỉnh Vĩnh Long. Sông rộng minh mông, sóng bủa lao xao. Hễ gặp ngày gió lộng, sóng gối đầu lượng cao cỡ luống khoai luốngđậu, ầm ầm như thét như gào. Bên hữu ngạn sông là phố Vĩnh Long, rồi Cầu Dài, cái Sơn Bé, Cái Sơn Lớn, An Hương,, Hòa Mỹ, Mỹ An. Bên tả ngạn làcù lao An Thành, cù Lao Minh... Ven cù lao chỉ có rặt cây bàn, một loạicây trầm thủy mà có người gọi là cây thủy liễu mọc trên các bãi lài. Ven bãi lài không có nhà cửa chi hết. Phải đi sâu hai chục thước mới gặpvùng đất cao, có làng mạc, thôn xóm, vườn ruộng, rảy bái. Còn ven sôngthì vườn cây nối với đồng ruộng, thôn xóm càng lúc càng đông. Người taxây lò gạch, lò rèn, xưởng mộc, trại đóng hòm, trại đóng xuồng, vựa mắm, vựa củi... Dân bên hữu ngạn trù mật nhìn qua vùng tả ngạn quạnh hiubằng sự thèm thuồng lẫn kinh sợ.

Nơi các bãi lầy của cù lao có nhiều ốc gạo và bến mập tròn, thịtngọt suốt từ tháng ba cho tới tháng chín. Hến cồn, ốc gạo cồn nổi tiếngkhắp vùng Tiền giang, nhứt là ở Tân Phong, ở các bãi lầy Phú Đa và PhúPhụng. Nhưng ở đó lầu lâu xuất hiện một vài con sấu. Đêm đêm chỉ có cácghe thương hồ loại ớn cỡ ghe chài đi biển mới dám cắm sào gần các bãihẩm và họ thường nghe tiếng sấu rống thâu đêm như tiếng trâu bò. Sấukhông thích ra biển, mà lọi lên nguồn thì quá xa, các bãi hẩm ở các cùlao nằm giữa sông là nơi thích hợp chủa chúng. Trâu tắm trong nước bùn ở các bãi hẩm để trờ thành mồi ngon cho chúng. Người ta đồn nới đó có con sấu mũi đỏ thành tinh biến thành cô gái mặc áo đỏ đứng chàng ràng gầnchỗ bầy tâu thả ăn cỏ trên gò gần bãi hẩm. Lũ trâu thấy màu đỏ, hăng máu chạy bổ tới. Co gái liến lùi về phía mé nước, lũ trâu nhào theo lầm mồi ngon cho bầy con cháu của con sấu thành tinh kia. Vài người đi mót củibần, đi mò ốc hến bị sấu ăn thịt trở thành oan hồn uổng tử không đi đầuthai được, phải quanh quẩn chầu chựa sấu để sấu sai khiến. Muốn đi đầuthai, họ phải tìm kẻ thế mạng, tức là dụ dỗ người khác cho sấu ăn thịt.

Về sau, ông Chánh tham biện Pháp cho lính tuần giang cỡi tàu xà lan, tàu xà lúp mang súng đi săn sấu ráo riết, trước là trứ hại cho dân, sau là lột da sấu bán cho các xưởng làm bóp phơi, bóp đầm. Sau khi lũ sấurời bỏ cù lao An Thành và cù lao Hinh, dân cù lao mới dám mò về mồ ốc ởcác bãi lài, trong lòng các con rạch chảy len lỏi chằng chịt khắp cùlao. Vậy nhưng đâu đã hết! Sấu đi mà vong hồn đâu có chịu đi theo! Những oan hồn đó cứ quanh quẩn ở chỗ tử nạn kiếm người chết thế hầu đi đầuthai. Từ ma sấu họ biến thành ma da, dụ người mò ốc ra sông cái, xúikhiến cho bị vọp bẻ, chết chìm trong sóng nước. Vào những này lộng gió,những người từ hữu ngạn bơi xuồng ba lá qua tả ngạn thường bị sóng lưỡibúa nhận chìm. Sóng nầy không giống như sóng gối đầu, không di chuyểntừng lượn nối tiếp nhau, mà chỉ trồi lên hụp xuống ở một chỗ. Vô phướcghe thuyền nào lạc vào chổ sóng có sóng lưỡi búa là bị nhận chìm ngay.Lũ ma da thường dùng loại sóng nầy để tìm người thế chưn cho mình.

Con sông Cổ Chiên là con sông âm hồn từ bao đời. Vào triều vua TâySơn, vong hồn càng thêm đông. Đó là các vong hồn của lũ giặc cướp XiêmLa từ cửa biển dùng chiến thuyền vào sông cướp phá dân chúng sống nờivùng cù lao, bị quân triều đình đánh bại. Tử thi của giặc và của quânTây Sơn trôi dạt dờ trên sông nước, rã dần và nắm xương vô định chìm sâu nơi đáy sông. Vong hồn của những người nầy vì u uất hay vì u minh vọngđộng, không biết mình đã chết nên đêm đêm, vào những lúc trời quang mâytạnh, cuộc thủy chiến lại tái diễn trên sông, tiếng chiêng trống thúcquân vang lên văng vẳng hòa với tiếng hò hét mơ hồ trong gió. Một vàivong hồn nghĩa quân đạp đồng lên đòi dân địa phương cất miếu thờ cúng;đổi lại, họ thường phò hộ dân chúng trong việc trồng tỉa, chài lưới.Vong hồn lũ cướp thì không biết nói tiếng Việt nên không thể đạp đồng.Chúng tranh ăn với vong hồn nghĩa quân. Cho nên vào những đêm đông gióbão bùng, hai bên lại đánh nhau... Vong hồn lũ cướp cũng nương theo bọn"đàng dưới" cững dâm các cô xử nữ, làm cho các cô điên dại, ốm o gầy mòn cho tời chết. Vong hồn các cô gái đáng thương này bị dụ dỗ, bắt buộctheo phù tá những kẻ "đàng dưới", xúi giục các cô gái khác đổ nước giặtquần áo lót xuống sông ngòi, ao rạch hoặc để móng tay, tóc rớt xuốngnước khiến bọn ma quỉ kia có cơ hội lân la đấn gần.

Năm ngoái, có ông Đạo Chuối từ vùng Tân Châu vân du qua cù lao AnThành. Sở dĩ ông mang danh ấy vì ông không ăn cơm như mọi người mà chỉan chuối và uống nước lã để sống. Ông ta trạc tuồi lục tuần, mặt màytươi nhuận hồng hào, mắt sáng như sao, tóc rậm và dài bới một cái bí bobự chèm bẹp sau ót. Tuy để tóc nhưng ông mặc áo nhựt bình màu dà hoặcmàu khói nhang. Ông tự xưng là giáo dân của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương,khi đi ngang thấy yêu khí bốc lên ngùn ngụt dái theo mé cù lao An Thànhnên ông muốn lập đàn giải oan giải thác cho các cô hồn phưởng phất trênsông nước. Hiện giờ ông cư ngụ tại am Tịnh Liên của ông Hương Cả Hành,gần ngôi đình, bên kia chiếc cầu cột gỗ căm xe lót ván.

Bà Năm Tảo thường bơi tam bản qua cù lao An Thành để đến nhà ôngHương cả Hành mua đinh hương. Từ khi cất am tu hành, ông ta dọn bốn công đất để trồng đinh hương bán cho các tiệm thuốc bắc. Bà Năm ngoài chuyện mua đinh hương còn thích món mắm cá cơm và cá linh do bà Hương cả cùnglũ con dâu làm để bỏ mối cho các tay bán lẻ bên chợ tỉnh. Bởi lui tớinhà ông Hương cả Hành thương xuyên nên bà được họ đối đoãi thân mật. Vàcũng nhờ ông Năm Tảo mát tay coi mạch hốt thuốc nên gia đình ông Hươngcả coi ông Năm như thần sư, coi thuốc ông Năm hốt như thánh dược. Haigia đình qua lại giao hảo như thân thích. Hễ nhà ông Hương có giỗ chạplà bà Năm qua phụ giúp hai ngày từ hôm giỗ tiên cho tới sau bữa giỗchánh mới về nhà.

Qua sự quen biết đó, bà Năm Tảo được yết kiến ông Đạo Chuối. Mỗingày, ông chèo xuồng đi ven cồn bãi hoặc vào các rạch, các ngòi đốt bùarải tro để ếm những kẻ "đàng dưới" hoặc vong hồn những người chết đuốichết chìm. Có lần, trong một cuộc chuyện trò với bà Năm và bà Hương cả,ông thuật lại một vận sự như sau:

- Như bà con rõ đó, ở vùng nầy có bãi Tiên. Hễ vào đêm rằm thánggiêng thường có các tiên nữ trên trời xuống tắm. Nhưng mấy lúc gần đây,mấy cô gái chết vì bịnh mắc đàng dưới quá đông, vong hồn họ lang thangdọc theo các cồn các bãi, yêu khí quá thạnh nên các tiên nữ đâu thèm đến bãi để tắm như xưa. Vậy mà có hai gã trai trẻ ương ngạnh, vào kỳ rằmngươn tiêu vừa tối bơi xuồng chơi trăng ở bãi Tiên. Tới canh ba, trăngtreo vành vạch trên đỉnh ngọ, cả hai vừa bơi tắm vừa cười hát om sòm.Chừng giập bã trầu, nơi khóm lau rậm ven bãi, một bầy con gái tuôn ra,cởi hết quần áo để cùng tắm với hai anh chàng nọ. Họ xưng là tiên nữtheo hầu đức Diêu Trì Kim Mẫu ở Tây Huê Cung. Hai chàng nọ nghe qua mừng húm, bơi lội với họ đã đời rồi còn lựa hai cô đẹp nhất ra ân ái. Sánghôm sau, dân đi mò ốc gạo bắt gặp hai chàng lõa lồ năm phơi trên bãibiển liền tri hô lên. Thấy ngực cả hai còn ấm, họ xúm lại hơ lửa xoa bóp rồi đưa về xóm. Tại đây, may nhờ có ông thầy thuốc nam cạy miệng đổthuốc, châm huyệt với củ ngải nên cả hai đã hồi tỉnh sau khi ọc ra mộtđống nhớt sền sệt như keo và mấy con cá chốt, cá thòi lòi, cá rói cònnguyên xương thịt.

Chiều hôm đó, bà Chín Thẹo mời cô Thiệt Nguyện qua dùng cơm chay với gia đình bà. Sau đó cô đi tắm gội, chà răng súc miệng, mặc áo tràng vàbắt đầu tụng kinh Bổn Nguyện Công Đức Dược Sư cho đúng bảy biến. Cô tụng từ đầu canh một cho tới cuối canh ba, khi bóng trăng mười hai nằm tậnchót đỉnh vòm trời mới chịu trở về nhà ông bà Năm Tảo.

Đêm hôm đó cô Út Ngọc An không thấy gì lạ xảy ra nên cô ngủ một giấc thiệt êm đềm óng chuốt. Trước đó bốn hôm, pháp sư Chơn Huệ cũng đã tụng kinh nầy cho cô mỗi tối bảy biến. Kẻ đàng dưới kia vẫn tới cưỡng dâm cô nhưng lần đó khá ngắn so với thời gian trước. Cô hy vọng bắt đầu từ tối thứ năm nầy, nhờ tấm lòng thành của gia đình cô cùng tha lực của Phật,bịnh quỉ ám của cô sẽ bớt dần.

Cho tới hôm chót, sau khi cô Thiện Nguyện tụng xong biến thứ bảy, cô Út Ngọc An thấy tâm thần nhẹ nhàng, châu thân thơ thới, máu huyết lưuthông sảng khoái. Cô cảm thấy mắc tiểu nên tìm chiếc bô nhôm để tiểutiện. Từ cửa mình cô. nhớt tuôn ra từng đợt trắng như lòng trắng trứnggà. Chất nhớt tuôn bao nhiêu thì cái bụng bự thè lè của cô xẹp xuống bấy nhiêu, cho tới lúc bụng cô thon nhỏ như chầu xưa mới thôi. Đêm đó cô Út Ngọc An nằm chiêm bao thấy mình đứng giữa một hang động được thắp sángbởi những dĩa dầu mù u, ánh đèn vàng vọt và ảm đạm. Bỗng có kẻ mặt màybặm trợn và hung ác sông tới ôm cô thì có tiếng đá nứt và nóc hang vỡtung ra. Ánh nằng từ phương đông tràn tới làm vỡ tan hang động. Nướccũng ùa vào, nâng cô lên cao từ đáy lên tới mặt đất. Kẻ hung ác kia toan đuổi theo cô nhưng những tia sáng mặt trời biến thành những lưỡi kiếmđâm tới khiến kẻ đó phải nhảy xuống nước lặn mất.

Từ đó cô Út Ngọc An hết bịnh, nhưng cô lợm giọng khi ngửi mùi cáthịt và cô xin mẹ cho trường trai. Cô sanh lòng mộ đạo, cứ quanh quẩntheo cô Thiệt Nguyện. Người cậu sư nữ kia chưa về vùng năm non bảy núi.Cô bảo ông bà Năm Tảo:

- Cháu phải ở đây thời gian để chữa bịnh cho các cô gái mắc đàngdưới. Cháu sẽ qua gặp ông Đạo Chuối ở am Tịnh Liên bên cù lao An Thành,hiệp sức với ổng để trục bọn tà mà yêu quái, đuổi chúng về chốn thủycung.

Ông Năm Tảo bảo:

- Khi nào về xóm nầy, cháu cứ tới nhà chú thím. Nhà chú thím rộng rãi, cháu muốn ở bao lâu cũng được.

Bà Năm Tảo niềm nở:

- Cháu đem công sức ra cứu nhơn độ thế, chú thím rất quí mến cháu. Cứ coi nhà nầy như nhà của cháu, đừng ngại gì hết.

Cô Thiệt Nguyện đi đi về về cù lao An Thành và xóm Chuồng Gà. Phápsư Chơn Huệ sửa soạn đi núi Cô Tô. Trước khi đi, sư có ghé nhà ông bàNăm để căn dặn cô vài điều cần thiết.

Mội khi từ An Thành về xóm Chuồng Gà, cô Thiệt Nguyện đều được giađình ông bà Năm Tảo và ông bà Chín Thẹo tiếp đãi rất thân tình, ấm áp.Cô Út Ngọc An và hai cô Túy thường xẩn bẩn theo cô để tâm tình. Trongnhững dịp như vậy, co thường bảo hai cô Túy đem tập thờ của họ cho côthưởng thức. Thơ của hai chị em thuộc loại thất ngôn bát cú, không cổlắm, đọc nghe xuôi tai vậy thôi. Lời lẽ họ tuy đoan trang mực thước,ngôn từ bóng bẩy nhưng không có vẻ nghệ sĩ, khác hẳn với thơ bà TrầnNgọc Lầu hiện cư ngụ ở căn phố trong dãy nhà gần nhà việc Long Châu, mặt quay ra bến sông Long Hồ. Cô Thiệt Nguyện nghiên cứu từng câu thơ củahai cô Túy rồi bảo:

- - Chị không rành về nghệ thuật thơ phú. Cứ theo lời lẽ cẩn tác, nề nếp trong thơ em Ngọc, chị đoán sau nầy em sẽ lấy chồng giàu sang nhưng lớn tuổi hơn em khá nhiều. Còn lời thơ của em Nguyệt biểu tỏ tánh ý,tinh nghịch ngấm ngầm. Em sẽ lấy chồng khá, đồng trang lứa với em nhưngkhông quí hiển bằng chồng em Ngọc.

Cô Ba Túy Nuyệt nhõng nhẽo:

- Tụi em tâm sự với chị khá nhiều, nhưng bấy lâu nay chị chẳng chotụi em biết chút gì về đoạn đời của chị trước khi chị lên núi học phéptu Mật Tông.

Mặt cô Thiệt Nguyện đổi ra buồn bã. Cô Hai Túy Ngọc vói tay đánh nhẹ vào vai em, mắng:

- Con quỉ nầy khéo chòi mói tọc mạch đi. Em muốn biết gốc gác, tiểu sử chị Thiệt Nguyện để làm giống gì?

Cô Thiệt Nguyện cười buồn:

- - Thì em Ba ỷ lại chỗ tụi mình là sư tỉ sư muội cùng chung một sưtổ nên mới kỳ kèo như vậy chớ có gì lạ đâu! Chị vốn là con gái út củaông Hội đồng Võ Trọng Quyền làn An Hương đây. Tên thiệt của chị là VõThị Tố Mai. Hồi chị 12 tuổi đực cha mẹ cho lên Sài Gòn học trường ÁoTím. Người bạn gái thân thiết nhất của chị là con Ba Cẩm Tú, con gái ông bà Bang biện Hưỡn. Chị coi nó như em ruột. Ba má chị giao du thân mậtvới ông bà Cai tổng lê Phước Hải ở làng Tân Ngãi nên hứa gả chị chotrưởng nam của họ là cậu Lê Thạnh Mậu. Cẩu ra ngoài Há Nội học trườngthuốc, khi trở về Sai Gòn thì bị con Ba Cẩm Tú rù quến, hồi hôn với chị. Chị đau khổ tuyệt vọng, mua á phiện trộn dấm thanh toan tự vận nhưng bị mấy mụ chị kịp thời phát giác. Từ đó họ canh giữ chị từng chút nhưng ýđịnh trốn lánh nợ đời lúc nào cũng ám ảnh chị. Một sáng nọ, sau khi ănđiểm tâm, chị bắt gặp chai thuốc xức vết thương teinture d'iode. Chịnghĩ, hễ uống vô chắc bao tử sẽ cháy xém nên chị hòa thuốc vô to trà ựcmột hơi. May phước cho chị là nhờ chị mới ăn cơm chiên, chất Iode gặptinh bột bị hóa giải ngay. Tuy nhiên sau khi ực tô trà kia, chị lại...sợ chết nên la hoảng lên. Cả nhà đưa chị nhà thương tỉnh súc ruột. Quahai cơn tự tử hụt, chị không còn can đảm để tự tử lần thứ ba. Chị xinphép ba má chị cho chị theo người cậu họ là huề thương Chơn Tánh tu trên núi Trà lơn vùng Năm Non Bảy Núi.

Cô Ba Túy Nguyệt nói:

- Vậy mà thiên hạ đồn rùm rằng chị tự tử bằng á phiện trộn giấm thanh.

Cô Thiệt Nguyện lắc đầu:

- Uống thứ oan nghiệt đó họa có thuốc tiên thuốc thánh mới cứu nổi!Nhắc lại chuyện sau khi lên núi, chị toan cắt tóc xuất gia thì huềthương bảo rằng chị không thể nào trở thành sư nữ được vì lòng trần củachị chưa dứt, chị còn nhiều món nợ đời ràng buộc. Do đó mà chị thọ giớiưu bà di mà thôi. Giờ đây chỉ trở về cuộc đất Vãng nầy không phải là đểđòi lại chồng và để báo oán kẻ đã làm cho chị bầm dập đau đớn. Chị vềđây cốt cứu nhơn độ thế, gây ruộng phước nhơn lành cho mình. Còn con bạn cũ của chị sớm muộn gì rồi nó cũng bị ác quả hiện hành. Đó là chuyệncủa nó. Đáng lẽ cái ác quả đó chưa tới với nó trong kiếp nầy đâu, ngặtchỗ toàn thể gia đình nó đều ăn ở bất nhơn ác đức, cái công nghiệp củahọ và của nó giúp cho cơ duyên hiện hành kia mau chín muồi.

Hai cô Túy không nói không rằng. Họ tự hỏi về sắc, cô Thiệt Nguyệnvượt xa cô Ba Cẩm Tú khá nhiều. Vậy mà sao cô bị cô Ba giựt được chồng?Cô Thiệt Nguyện vóc dáng thanh cảnh, dung mạo đoan trang, phẩm cách caosang quý phái. Vậy mà cô bị cô Ba lấn lướt bởi vẻ lẳng lơ, điệu bộ õngẹo, giọng nói nhõng nhẽo điệu đà. Có lẽ ông thầy thuốc tây Lê Thạnh Mậuchuộng thứ gái nồng nàn khêu gợi hơn mẫu phụ nữ đức hạnh chăng?
 
Chương 6


Bà Bang biện Hưỡng và hai cô Cẩm sử soạn đi lên Ti Tôn để chuộc bùangải, trấn ếm những oan hồn sắp theo báo mẹ con bà. Ông bang biện Hưỡnvà cậu Hai Kinh lý Luyện thở phào một cái thơ thới nhẹ nhàng. Ông Bangbiện thì lo thủ tục giấy tờ để mua rẻ miếng đất của ông Hương bộ Lạc vàtìm cách đem mụ vợ chửa của Cai tuần Hạp về tổ quỉ để "núp gò mối đâmheo".

Vào sáng hôm nọ, ông Bang biện Huỡn hẹn với ông Hương Bộ Lạc ra sởtrước bạ để ký giấy bán đất và ghi sổ hộ điền tên chủ nhơn mới miếngđất. Sau đó, ông bang biện Hưỡn đóng bách phân cho miếng đất sở hữu mớicủa mình. Nhìn ông Hương bộ Lạc nước mắt doanh tròng. ông Bang biện giảnhơn giả nghĩa:

- Xin anh Hương bộ hạc chớ buồn. Tui dầu có kẹt tiền, giúp anh muamiếng đất đó kể cũng quá sức tui rồi! Anh chị còn khỏe mạnh, các cháu đã lớn khôn, người còn thì của còn.

Rồi ông ỡm ờ:

- Tui nghe nói chồng cô Ba Tính đau ốm sao đó mà nhắm mắt xuôi tayquá sớm, để cho cổ cù bơ cù bất trong cảnh góa bụa như vậy anh?

Cô Ba Tính là em kế ông Hương bộ Lạc, lấy chồng người Triều Châu cóhai mẫu đất trồng rẫy. Tháng vừa rồi, anh ta bị mụn bạc đầu trên mặt,không gặp thầy gặp thuốc giỏi nên phải chết tức tưởi, để lại người vợtrẻ mang thai ba tháng và hai đứa con trai tuổi chưa lên mười. Ông bangbiện Hưỡn nghe vậy ưa lắm, tìm cách "núp gò mối đâm heo" với cô ta,nhưng tánh ông kỳ quặc, ông thích thông dông với thứ đàn bà chửa nhưngchồng còn sống hơn. Đờn bà góa có chửa không kích thích ông nhiều bằng.Theo ông, còn gì thích cho bằng vừa tráng men đứa hài nhi vừa cặm mộtcặp sừng cong vút lên đầu thăng tía bạc phước của ông:

- Mầy liệu lời mà nói với Cai tuần Hạp. Nếu nó bằng lòng thì tao sẽthưởng cho con vợ nó chiếc kiềng chạm bằng vàng nặng một lượng, lại đểcho nó tiếp tục làm mướn hai dãy ruộng như cũ. Còn bằng không thì saumùa gặt, nó hãy giở chòi, tuốt mùng bỏ vô thúng rồi vợ chồng cùng xuốngghe đền xứ khác mướn ruộng làm ăn.

Hơm qua ông Bang biện Hưỡn đả ăn nằm với thím Bảy Bảnh. Y thị bị cậu Hai Luyện đem tiến bạc và cái mã hào huê dủa dân tỉnh thành ra dụ dỗ.Thiệt tình cậu khác tính cha ở chỗ rất sợ ăn nằm với đờn bà chửa. Cậu ưa phá trinh con gái hơn. Cậu chỉ giống tánh cha thích ăn nằm với đàn bàcó chồng. Thím Bảy trắng trẻo, mình dây, cặp giò dài, cặp mông trònhoay, bộ ngực cao và săn chắc, cặp mắt thiệt lẳng, cặp môi thiệt tươi.Uổng cho thím lấy nhắm ông chồng thiệt thà, chỉ biết lo làm ăn, lo cưngvợ mà không biết đua đòi cách sống hào huê.

Cậu Hai Luyện gặp thím như mèo gặp mỡ, như rồng gặp nây, chinh phụcthím tuy khó khăn nhưng rồi nước chảy hoài thì đá cũng hao mòn. Khôngphải thím sợ chồng hành hung, mà thím chỉ ngại việc tằng tịu của thím đổ vể ra thì bà Bang biện Hưỡn sẽ lấy đất lại, không cho chồng thím làm tá điền nữa. Năm ngoái, chú Bảy Bảnh bỏ nghề làm ruộng mướn ở An Hương, về cất chòi ơ Cái Sơn Bé, mở quán bán trà huế và hàng xén như gạo củi,than, dầu lửa, nước mắm, kim chỉ kẹo bánh... Cạu Hai Luyện đi chùa SơnThắng để ve vãn các cô đi chùa dưng hương ngầy rằm, tình cờ gặp chỗ dung thân mới của vợ chồng người t á điền cũ. Nhờ ở trong quán tối ngày nênda dẻ thím Bả hồng hào. Tuy thím mặc quần áo vải bô, hai bàn chơn to phè nhưng cậu đã thấy trong cái đẹp thiên chơn ấy một ngọn lửa kích dục hào hứng. Cậu tìm cách ve vãn, hứa cho thím một chiếc vòng cẩm thạch và một sợi dây chuyền vàng. Chiếc vòng tặng chỉ là chiếc vòng mã não tuy xanhlặt lìa nhưng ửng ánh vàng nghệ. Còn sợi dây chuyền tặng bằng vàng tám,miếng mề đay hình trái tim nhỏ xíu chớ không phải là sợi dây chuyền bằng vàng mưới, miếng mề đay lớn cỡ đồng xu lá bài in hình chữ phước nhưthím hằng ao ước.

Tuy nhiên, người đàn bà quê mùa kia một khi đã sa chơn vào chuyệnphong tình nguyệt trái rồi thì đâm ra ghiền cái mùi đờn ông thị thành.Chồng thím dù có tinh lựa như sói cọp nhưng vẫn là kẻ quê mùa, khôngrành chuyện gối chăn. Khi cậu Hai Luyện ngỏ ý đưa thím cho cha cậu hú hí một đêm thì thím làm mặt giận. Ông Bang biện tuổi tuy năm mười mà damặc chưa dùn, thân vóc còn dẻo, tóc chỉ điểm vài sợi hoa râm. Vả lại mặt mày ông cũng khá khôi ngô. Đã lỡ hư thì thím cho hư luôn. Khi ông Bangbiện nhét vào tay ghím chiếc cà rá cẩm thạch cắt hình hột dưa thì thímchịu tiếp ông ở cái tổ quỉ của cậu Hai bên cầu Kinh Cụt..

Sau khi hú hí đã đời với thím Bảy Hành, hai cha con theo đuổi mụcđích riêng. Cậu Hai Luyện chuẩn bị đi Mỹ An để đo đất và cậu đã saithằng tớ trai tâm phúc tên Yêm dò la kiếm gái trinh, mặt xinh đẹp để cậu dụ dỗ. Còn ông Bang biện Hưỡn thì muốn mua bộ divan bằng gỗ cảm lai đãgiồi bóng lộn. Bộ divan đó mà đặt trong cái tổ quỉ của thằng con trờibiển của ông, để ông đưa vợ Cai tuần Hạp lên nằm và "núp gò mối đâm heo" thì thập phần khoái lạc! May mắn thay, chủ bộ divan là thầy giáo Lạc.Thầy đang gặp nhiều sự bối rối trong gia đình: mẹ thầy bị xơ gan phảinằm nhà thương ba tháng, vợ thầy sanh đôi, đứa em gái bị úp hụi... ÔngBang biện Hưỡn liền làm trành làm tréo mua rẻ món danh mộc kia.

Khi mấy người lực điền thân tín đật chiếc divan vào trong tổ quỉ thì ông Bang biện Hưỡn leo lên nằm ngủ trưa. Vì tiết tiết viêm nhiệt, ôngkhông trải chiếu, chỉ kê chiếc gối lên đầu rồi mình trần, nằm lăn trênmặt gỗ bóng loáng để nghe cái mát rượi từ mặt gỗ thấm vào châu thân. Căn nhà đã đóng kín cửa, chìm trong bóng mờ xóm nhạt. Thần trí ông lún dầnvào cơn nửa thức nửa ngủ, nhưng ông vẫn nghe rõ tiếng gà gáy trong xómgáy te te, tiếng chó sủa ăng ẳng... Tay chân ông bỗng nặng chĩu như dánxuống mặt gỗ, như bị từng tảng đá nặng đè lên. Máu huyết ông dần dà nhưbiến thành keo đặc sệt, khó thể lưu thông. Tâm trí ông chìm vào từnggiấc ngủ lụn vụn, nhưng khi tan giấc, ông vẫn không thể mở mắt để thoátkhỏi trạng thái lơ mờ nặng nề kia. Vía ông lúc đó bình bồng trôi dạt vào một vùng lầy lụa nhì nhằng như trong chiếc lưới ướt nước. Ông thét thật lớn, nhưng tiếng thét chỉ dội vào vào thần trí mỏi mệt của ông chớkhông thể vọng ra cõi ngoài. Một tia sáng vắt qua óc ông: Hay là mình bị mộc đè? Ông già bà cả ở thôn quê thường bảo rằng thứ cây đóng vángiương nếu có con vật gì nằm chết trên đó thường gây cho người nằm ngủchứng mộc đè. Kẻ nào xẻ gỡ quan tài làm bộ ván ngủ là vô tình nuôi vonghồn cho bộ ván ấy. Loại gỗ của những cây sống trên nửa thề kỷ, đã thànhtinh thành yêu, cũng gây tình trạng mộc đè như gỗ đóng quan tài hay gỗcó vật chết trên đó.

Khi ông Bang biện Huỡn nghĩ tới đây thì một khuôn mặt già, da nhănnheo, mốc mốc như vỏ cây lâu đời đóng men, tóc trắng như bún tàu, áp kềkhuôn mặt ông. Bà già le cái lưỡi đỏ lòm, hả họng tác hoác la lờn:

- Thằng ôn dịch! Sao mầy mua thân tao về đây để cha con bay rước pbụ nữ về hành lạc? Tao nói cho mầy biết, tao là con tinh cây cẩm lai. Sốtao phải tới một trăm năm mới mãn, ai dè thằng Tây kiểm lâm đốn tao, cưa từng đoạn xẻ gỗ đóng tủ, đóng đi- quăng. Tao chết tức tưởi, hồn pháchkhông tan nên nương theo khúc gốc là khúc xẻ ra đóng đi- quăng nầy. Bâymà làm ô uế thân tao, tao sẽ vặn họng hai tía con cho tới trặc ổ mới đãnư tao!

Tới đây ông Bang biện Hưỡn tỉnh giấc mộng giữa ngày, mồ hôi tháo ranhư tắm. Suốt khoảng ngày còn lại hôm đó, ông cứ bần thần suy nghĩ. Theo như lời thầy giáo Lạc kể lại thì thầy đã mua bộ divan này hối hai nămtrước. Thầy kê nó trong pòng đọc sách và không có hiện tượng gì xảy ra.Giờ đây, ông chỉ mới đặt lưng trên divan có một lần mà đã gặp thần câyvề hăm dọa. Hay là mình chỉ chiêm bao quàng xiên? Chi bằng đợi thằng quí tử về, để nó nằm vài keo thì sẽ rõ hư thực!

Cuối tuần, cậu Hai Luyện từ Mỹ An quá giang ghe lúa về nhà. Bà Bangbiện Hưỡn và hai cô Cẩm vẫn chưa về tới. Nhà chỉ có ông bà Năm Đặngtrông coi mọi việc. Ông bang Biện Hưỡn ngỏ ý với bà Năm Đặng:

- Thằng Hai về nghỉ cuối tuần, đì nên làm bữa ăn đặc biệt đặng ối nay tía con tui cụng ly với dượng Năm.

Bà Năm iền xách giỏ đi chợ mua thịt cá, tôm cua. Cậu Hai Luyện mộtkhi về thành phố như rồng gặp mây, lân gặp pháo. Cậu đến thăm các có gái chịu chơi trong tỉnh trước khi về nhà dùng cơm trưa với cha và dìdượng. Sau đó, cậu lơn tơn thả bộ ra tiệm may của cô Bảy Cẩm Thạch ởhông nhà lồng chợ. Cô nầy vốn là nhơn tình cũ của cậu, từ khi hóa chồngcứ thậm thụt ăn nằm với cậu hoài.

Vừa thấy cậu, cô ré lên rủa:

- Mắc dịch mắc gió thằng cha đoản hầu nầy! Từ cả tháng nay, thằngchả chui rúc ở lỗ nẻ nào mà biệt tăm biệt dạng vậy cà? Hôm nay thằng chả tới đây, chắc gió bào sắp thổi tới thành phố nầy chớ chẳng không!

Cậu Hai Luyện bãi buôi:

- Mạnh giỏi, em Bảy! Bấy lâu nay qua bận việc nhà nước nên lột lạt tình em, chớ thiệt ra lòng dạ qua trước sao sau vậy!

Cô Bảy hôm nay bận bộ đồ xẩm bằng lục cẩm châu, lai áo lai quần thêu bông bằng chỉ ngũ sắc. Tóc cô đánh bím con rít rồi bới thành cái bánhtiêu bự chèm bẹp sau ót. Cô đeo sưu bộ cẩm thạch xanh lặt lia gồm đôivòng tay, đôi bông tai, xâu chuổi hột, cà rá, trâm giắt búi tóc. Tênthiệt của cô là Bảy Thành nhưng vì cô ưa đeo cẩm thạch nên mới có tênBảy Cẩm Thạch như vậy. Tiệm cô chuyên may y phục phụ nữ lẫn áo đầm chomấy đứa con gái nhỏ.

Cô Bảy Cẩm Thạch chúm chím miệng cười, long lanh sóng mắt, lẳng sao mà lẳng nhức nhối, ác ôn! Cô trề môi:

- Anh là chúa xạo, lòng dạ quanh co khúc mắc, ai mà dò đặng lònganh! Anh thắm chỗ nào, phai chỗ nào, lợt lạt lúc nào sao em biết đặng!Lâu lâu em phải xóc miểng sành của anh, anh mới động tâm tới đây.

Cô buông chiếc kéo xuống bàn cắt, xếp khúc lụa màu xanh da trời bỏ vô hộc tủ rồi rót trà mời cậu Hai Luyện. Cậu vào đề ngay:

- Xế nay em có rảnh không?

Cô Bảy lắc đầu liếc vế hai cô thợ may:

- Em phải coi tiệm chiều tối mới rảnh.

Cậu Hai Luyện kèo nài:

- Em không thu xếp để có đôi chút thời giờ sống cho... đôi ta haysao? Đi xa, anh nhớ thành phố này có một, nhớ em tới mười, tới trăm lận!

Cô Bảy Cẩm Thạch thò bàn tay trắng trẻo mịn màng vả vô miệng tình nhơn một cái chách, rủa:

- Đồ xạo! Đồ yêu lồi! Đờn bà con gái bị cái miệng tía dốc của anh mà có ngày chửa hoang đẻ lạnh chớ không chơi! Để em lên lầu dặn con em kếvài việc rồi sẽ đi chơi với anh.

Cô Thám Thiệt, em kế cô Bảy Cẩm Thạch, đang nằm đọc báo. Cô được bạn bè gọi là cô Tám Cẩm Vân vì chẳng những cô thích đeo cẩm thạch mà cònưa bận áo dài bằng cẩm vân màu tím than khi đi ra ngoài mua sắm. Cô Támcũng là gái chịu chơi nhưng ưa cặp xách với ông Tây như quan chánh thambiện, quan cò- mi, ông chủ đề- bô nước đá nước ngọt, ông biện lý. Vừathấy chị mặt mày hớn hở, cô hỏi liền:

- Thằng kép mắc dịch nào đến thỉnh chị đó?

Cô Bảy Cẩm Thạch cười:

- Quan Kinh lý Luyện chớ ai!

Cô Cẩm Vân xí dài một tiếng:

- Quan (hoan) đàng chi địa đó mà! Thằng cha đó keo kiệt rít róng, đi chơi với nó mật thì giờ, rồi nằm ngữa cho nó chơi càng uổng công uổngsức. Cái tướng mặt của nó lóng rày coi hắc ám lắm đa chị. Thứ môi tromặt bùn là tướng tàn mạt, phi bần ắc yểu.

Cô Bảy Cẩm Thạch nguýt dài, mắng em:

- Con đĩ hổ mang nầy hễ mở miệng là phun nọc độc tùm lum! Ảnh có cầm vuông tai Phật, yểu mạng sao được!

Cô trút bô áo xẩm bằng lụa cẩm châu, mặc áo dài gấm màu dưa cải, quần sa- teng tuyết nhung đen, dặn em:

- Rán xách đít xuống từng trệt trông coi tiệm giùm tao.

Cả hai cùng bước xuống lầu. Cô Tám lạnh lùng chào cậu Hai Kinh lýLuyện rồi kéo ghế bên bàn ắt để ngồi đọc báo. Cô Bảy Cẩm Thạch cùng cậubước ra ngoài để đi ăn cơm trưa ở chiếc quán gần chợ cá.

Cô Bảy thỉnh thoảng nhìn lên tình nhơn. Quả thiệt mặt cậu sậm nhưbùn, môi cậu xám như tro. Cô không rành tướng số, nhưng cô nghĩ rằng sắc diện u ám dường ấy là triệu chứng của một thể chất đang hồi bịnh hoạn.

Sau chẩu cơm chiên căn cặp với gà rô- ti, cả hai cùng leo lên xe kéo về cái tổ quỉ của cậu ở cầu Kinh Cụt. Ở đây bàn ghế ván giường đượcthằng Xiêm quét dọn từ sáng sớm.

Sau hai hiệp mây giăng mù mịt mưa rớt dầm dề, cô Bảy Cẩm Thạch vụtcảm thấy bào xào xao xuyến với một cảm giác khó hiều. Cô vụt chổi dậymặc quần áo và bảo tình nhơn:

- Không hiểu tại sao em hồi họp quá, chắc ở tiệm có chuyện gì xảy ra. Thôi để em về. Tối nếu anh rảnh, tới tìm em.

Cậu Hai Luyện vẫn nằm dài thây trên chiếc divan cẩm lai. Cậu thấmmệt vì hai keo ân ái nên chỉ muốn nằm một mình ở đây đánh một giấc trưa, không có con đờn bà nào lằng nhằng vương vấn bên cạnh cậu. Cậu liền nói đẩy đưa:

- Ừ, nếu em cảm thấy bất an thì cứ về.

Mí mặt cậu nặng chĩu. Con lười biếng bạc nhược làm thể xác cậu mềmnhũn. Cô Bảy Cẩm Thạch liếc qua cậu, kín đáo trề môi nguýt háy rồi mởbóp lấy hộp phấn hồng tô lên má, lấy thỏi son thoa cặp môi. Khi cô tangđiểm xong thì cậu Hai Luyện đã ngáy lảnh lót. Xời ơi, đờn ông gì mà...thiếu tế nhị. Nó chơi mình xong là lăn kình ra ngủ, không biết ve vuốtmình, không biết ngọt bùi gì ráo! Nó coi mình như con điếm, một món đồchơi không bằng. Chiều nay mà nó xách đít tới tiệm may, tui sẽ đạp đítnó đuổi ra cửa rồi hốt gạo muối vãi vô nó như đuổi phong long, đuổi tà.

Cô Bảy Cẩm Thạch vùng vằng mở cửa bước ra ngoài, cuộc bộ một khúc đường mới tìm được xe lôi để về nhà.

Trong tổ quỉ, cậu Hai luyện chìm trong giấc ngủ nặng như chì. Taychơn cậu như đóng đinh vào mặt gỗ. ngực cậu nặng chĩu nhưng cận vẫn ýthức được cậu đang bị mộc đè, chỉ cần có người khua động bên tai là cậusẽ ra khỏi cơn nửa mê nửa tỉnh đó. Bồng một khuôn mặt đờn bà già nua xấu xí nhăn nheo gớm ghiếc áp gần mặt cậu. Mụ hét:

- Quân dâm dục dắt gái về đây xỏ lỗ làm dơ nhớp thân tao. Tao sẽ vả cho mày trẹo quai hàm.

Cậu Hai Luyện hét lên và tỉnh dậy, nghe đau buốt cả hàm. Cậu bướclại kiếng soi mặt thì thấy một bên cằm mình sưng vù và đỏ ửng, nhưng may miệng cậu không méo và quai hòm không trẹo.

Tuy vậy cậu Hai Luyện chưa tin hẳn mình bị mộc đè, bởi cậu nhiễm Tây Học. luôn nghĩ rằng mình không nên tin dị đoan. Cậu tỉm khăn lau sửasoạn đi tắm, đánh răng, chải đầu. Nhìn vào gương, cậu thấy mặt mình sáng láng, cặp mắt linh hoạt, nụ cười láng ánh men rực rỡ. Ngặt một nỗi vếtsưng đang từ màu đỏ ửng chuyển sang màu đỏ bầm pha chút tím tím nên cậumở chai dầu phong ra thoa lên vết bầm. Cậu diện quần áo mới, quần vảikaki trắng, áo bành tô cũng bằng kaki trắng tra nút hổ phách, giày tâyda vàng. Sau đó cậu đóng cửa tổ quỉ, khóa cẩn thận rồi ngoắc xe kéo đếntiệm cô Bảy Cẩm Thạch. Lúc đó cô Tám Cẩm Vân đang coi tiệm. Vừa thấy cậu Hai Luyện, mặt cô ta chù ụ liền. Cậu Hai dả lả:

- Nè em Tám, chẳng hay em Bảy đâu rồi?

Cô Tám Cẩm Vân dấm dẳn:

- Anh đưa mụ chị tui đi ngao du sơn thủy đâu không biết, rồi đànhđoạn để mụ về nhà một mình, mặt mày đỏ rần vì lên cơn sốt. Bây giờ mụnằm trùm mền nắm trên lầu. Tui có sai con ở rước thầy y tá ở dãy phốtrên Cầu lộ, chích cho mủ hai mũi thuốc, vậy mà cơn nóng sốt chưa chịuhạ xuống.

Cậu Hai Luyện năn nỉ:

- Cho anh lên thăm chị Bảy em một chút.

Cô Tá, Cẩm Vân nguýt cậu Hai một cái dài sộc rồi cắm cúi đơm nút kết khuy. Cậu Hai Luyện xững vững bước lên lầu, lòng ngổn ngang những cảmnghĩ khó chịu. Cái divan cẩm lai gieo vào ý nghĩ cậu những ám ảnh lờ mờtrên suốt đường từ tổ quỉ đến đây, bỗng dưng làm cậu cảm thấy tay chơnmình lạnh ngắt vì sợ hãi.

Cô Bảy Cầm Thạch đang nằm thiêm thiếp trên giường, chiếc mền nỉ đỏkéo tới cổ. Cậu Hai Luyện rón rén bước lại giường, đặt tay lên trán cô.Chà chà, bịnh này không nhẹ đâu! Cơn sốt đang lên cao nên mặt mũi y thịđỏ như say rượu. Cô Bảy Cẩm Thạch mở mắt ra, mệt nhọc bảo:

- Em vừa ngủ một giấc ngắn. Trong chiêm bao em thấy một mụ già cùnghung cực ác đến hăm he em rằng: "Mầy và thằng quỉ dâm cục kia dám lênthân tao bày chuyện gió trăng, tao sẽ hành cho mầy bị huyết trắng hoặcsa tử cung cho đã tức". Khi tỉnh dậy, em ớn lạnh khắp mình mẩy, sẵn cảmgió say nắng, em phát bịnh rồi anh ạ.

Cậu Hai Kinh Lý nói át:

- Hồi sáng trời mưa, giờ nắng lên chói chan, cho nên khí độc từ đấtxông lên nghi ngút. Ai mà sẵn nhược chất liễu bồ như em dễ bị cảm cúmlắm! Hễ lúc đau ốm, người ta thường nằm mê man, gặp toàn ác mộng. Hơiđâu mà em thắc mắc cho mệt!

Miệng cậu tuy nói cứng, nhưng lòng cậu đã bắt đầu dao động. Cậuquanh quẩn bên cô Bảy thêm một chặp nữa rồi mới kiếu từ ra về. Cậu nghĩmình phải thú thiệt cùng cha, bán cái divan ác ôn đó đi.

Ra khỏi tiệm may, cậu Hai luyện thấy trời uôi uôi nắng nên thả bộ rề rề về nhà. Khi tới nơi sở Công Chánh, cậu gặp chiếc xe hơi Renault chạy chầm chậm về phía ngược chiều. Chiếc xe bỗng ngừng lại bên lề đường,một người đàn ông tuổi cỡ ngoài ba mươi mặc Âu phục bước xuống

gọi:

- Cậu Luyện đó hả? Anh Ba đây!

Cậu Hai Luyện mừng rỡ:

- Ủa, anh Ba! Anh lên đây hồi nào?

- Hồi sáng, anh có qua thăm chú thím Bang biện ở Cầu Đào.

Nguyên ngưởi đàn ông nầy vốn là chồng của người chị con nhà bác củacậu Luyện. Ông ta tên là Nguyễn Văn Khải, gốc người quẫn Tam Bình. Chacủa ông trước kia làm Biện cho thầy Cai tổng Nhung. Sau đó, gia đìnhthầy biện Nguyễn Văn Khảo đem gia đình về ở gần xóm Khương Hữu Phụng.Nghe nói giữa cậu Khải và cô Minh Ngọc, trưởng nữ của thầy Cai tổngNhung có tư ước tư tình với nhau. Vộ chồng thầy Cai tổng chê gia đìnhchú Biện Khảo thấp thỏi hơn mình nên tìm cách chặt đứt mối tình giữa con gái cưng và anh học trò nghèo tên Khải. Thầy hách dịch bảo chú Biện:

- Mầy muốn làm suôi với tao thì gắng mà làm giàu, gắng chạy chọtquan trên để làm thầy bang. Tao không thích suôi của tao được thiên hạkêu bằng chú biện trơn lu. Thầy cai tổng phải làm suôi với thầy bangbiện mới xứng!

Cô Minh Ngọc thất vọng quá, mua á phiện trộn giấm thanh tự tử, saukhi gửi bức thư tuyệt nạng cho tình quân. Cậu Khải đau khổ muốn phátđiên, bỏ nhà đi lang thang một dạo. Sau đó cậu được ngưới bác ruột cócửa tiệm bán đèn măng- sông, dàn hát máy và dĩa hát ở Sài gòn nuôi ănhọc thành tài, lần hồi lên tới tri huyện. Sáu năm trước, ông Khải kếthôn với cô Ba Kim Chưởng, con gái ông Cai tổng Chất. Ông nầy là anh mộtcha khác mẹ với ông Bang biện Hưỡn. Tuy nhiên cuộc hôn nhơn đó không đem lại hạnh phúc cho đôi bên. Cô Ba ít lầu sau từ trần vì bịnh lao. Tứ đóông Huyện Khải không nghĩ tới việc tục huyền nữa. Hiện giờ ông được bổvề làm việc ở huyện Tiểu Cần thuộc tỉnh Trà Vinh.

Cậu Hai Luyện mừng rỡ:

- Nè anh Ba, chốc nữa anh có về nhà tía em không? Hay là anh về thẳng Tiểu Cần?

Ông Huyện Khải trả lời:

- Sáng mốt anh mới về Tiểu Cần. Anh lên Vĩnh Long để lo vài ba việc. Chú Bang biện giữ anh ở Cầu Đào chớ không cho anh ở chỗ nào khác.

Cậu Hai nói xuôi:

- Thôi để em về Cầu Đào trước. Lÿt nữa anh em mình mặc sức cụng ly và hàn huyên với nhau.

Quanh mâm cơm chiều hôm đó, cậu Hai Luyện thuật cho cha và ông huyện Khải nghe quái trạng về chiếc divan cẩm lai. Ông Bang biện Hưỡn cũng kể cho con và cháu rể nghe giấc chiêm bao vào hôm ông ngủ trưa lần đầutiên trên chiếc divan ấy. Ông Huyện Khải khuyên:

- Vậy thì nên đốt cái divan đó đi, để cho tinh linh cây cẩm lai được siêu sanh.

Ông Bang biện Hưỡn lắc đầu:

- Cháu đừng nghĩ vậy. Để rồi chú tìm cách bán rẻ cho kẻ thích xài bàn ghế xưa.

Ông Huyện Khải chỉ cười cười không nói gì thêm. Sau cùng, ông tỏ thiệt với cha con ông Bang biện Hưỡn:

- Cháu lên đây cũng có chút việc. Số là người em bà con nhà chú củacháu mấy năm gần đây được bác sĩ cho biết nó có triệu chứng bị bịnh cùi. Tía má nó sợ nó bị nhà nước bắt vô trại cùi ở cù lao Rồng gần chợ MỹTho. Cháu có nghe ông Năm Tảo ở gần đây là tay thần y, biết đâu nhờ ổngđiều trị mà bịnh nan y được thuyên giảm chăng!

Cậu Hai Luyện chắc lưỡi:

- Coi bộ khó đó đa! Bịnh lao, bịnh cùi là bịnh ngặt. Đông y Tây y đều bó tay, anh quên rồi sao?

Ông Huyện Khải chẩm rãi:

- Biết vậy, nhưng bịnh nó chưa phát tác, vậy thì mình cũng nên hyvọng chút ít chớ. Vả lại ngành Đông y đôi khi đôi khi cũng trị được bịnh lao, bịnh cùi vậy. Bộ em chưa coi tuồng hát bội Kim Thạch kỳ duyên củanhà chí sĩ Bùi Hữu Nghĩa hay sao? Chàng Kim Ngọc được ông thầy thuốcThạch Đạo Toàn trị dứt bịnh cùi để sau nầy đi đánh giặc lập công, đượcvua phong vương tước đó. Em nên nhớ cụ Bùi Hữu Nghĩa thông hiểu y lýcũng như nho y Nguyễn Đình Chiểu vậy.

Ông Bang biện Hưỡn đề nghị:

- Ừ, cứ cho người em nhà chú của cháu đến đây trị cầu may. Phải kiếm nhà cho y ta ở vì bịnh cùi phải được điều trị qua năm nầy tháng nọ, chớ không phải chỉ trị một vài ngày đâu.

Ông Huyện Khải tán thành:

- Lời chú bàn rất hiệp ý cháu. Nhưng làm sao kiếm nhà choa thằng em cháu ở đây?

Ông Bang biện có vẽ suy nghĩ:

- Ở xóm Chuồng Gà có túp nhà lá của bà Bảy Lực bỏ hoang từ một nămnay. Bả dời ra Cầu Dài để mở vựa mắm. Để rồi chú tính cho cháu.

Nói tới đây, ông Bang biện thầm tính trong bụng, sau khi sửa chữatúp nhà lá cho người em con nhà chú của ông Huyện Khải, ông sẽ gạ gẫmđương sự bán tống chiếc divan ác ôn kia đi.

Cơm nước xong, chị bếp lo nấu cháo gà và ché thưng để các tay binhxập xám và xoa mạt chược ăn giải lao lúc khuya. Ông Bang biện Hưỡn hỏicháu rể:

- Tối nay có mấy tay chơi tới đây chơi bài, cháu có quen tiếng ồn ào không?

Ông Huyện Khải cười gượng. Cậu Hai Kinh lý thấy vậy hiểu ý ông anh rể họ của mình, bèn đề nghị với cha:

- Nếu anh Huyện sợ ồn ào, con sẽ đưa ảnh lên tổ quỉ của cha con mình tên cầu Kinh Cụt. Ở đó yên tĩnh lắm, chỉ sợ anh Huyện gán cái divan maquỉ vả cái bãi tha ma mộ địa trước cửa đó thôi.

Ông Huyện Khải tươi nét mặt:

- Anh không sợ đâu. Cổ nhân có câu: "đức trọng quỉ thần kinh", emhãy đưa anh tới đó ngủ đêm. Ma quỉ anh không sợ, chỉ sợ tiếng ồn.

Ông Bang biện Hưỡn vui vẻ:

- Được vậy thì tốt lắm! Chú cũng nghĩ rằng tử sanh hữu mạng. Gầnnghĩa địa thiếu gì nhà cất san sát. Để chú sai thằng Xiêm đem mùng mềnchiếu gối mới thay lớp cũ. Nó sẽ ở đó hủ hỉ với cháu và thằng tài xế.Trước ba người đàn ông nặng bóng vía thì ma nào dám lộng, quỉ nào dámphá?

Ông Huyện Khải ngon lành:

- Ngủ một mình tại đó, cháu cũng chẳng sợ!

Ông Bang biện cười:

- Cứ để thằng Xiêm ở đó phục dịch cháu. Ở đó có nước tắm, có nước mưa để pha trà, pha cà phê.

Vậy là đêm đó ông huyện Khải ngủ ở cầu Kinh Cụt. Ông đành nằm trênchiếc divan cẩm lai. Còn thằng Xiêm và anh tài xế thì ngủ trân giườngđồng. Thằng Xiêm xợ bị tía con ông Bang biện Hưỡn trách mắng nên cuốngối nệm và drap bày trên giường đồng, thay thế bằng chiếc gối rơm và cái chiếu đậu.

Ông Huyện Khải bằng lòng chỗ ngủ đơn giản. Trời nực, được nằm trênmặt cẩm lai bóng láng, ông cảm hấy mát mẻ dễ chịu như nằm trên mặt đáhoa cương. Bên hông nhà, dòng nước từ con kinh Công- xi heo đổ ra kinhHuỳnh Tá rì rào. Thằng Xiêm và anh tài xế rủ nhau ra trước nhà xem đènma từ các ngôi mộ bốc ra phất phơ rồi tản mạn trước gió. Thằng Xiêm bảo:

- Coi vậy chớ đèn ma hiền lắm, chẳng hại ai hết.

Con chó ở cuối xóm phía sau đình Tân Giai thỉnh thoảng sủa ăng ẳng.Một chị thương hồ khi chèo ghe qua bến nước sau nhà, cất giọng hò:

Con cá đối nằm trên cối đá

Con cò lửa đứng trước của ló

Ghét anh lòng dạ quanh co

Ngặt em còn tưởng giọng hò dễ thương

Ủa lạ, mấy câu hát nầy hôm nay sao lại trổi lên? Ông Huyện Khải nhớlại hồi mười tám năm trước, cô Minh Ngọc mỗi khi nằm trên võng để ruthằng cháu kêu bằng dì đi ngủ cũng thường ru bằng mấy câu hát đó. Giờđây thịt cô đã rã tan, nhưng xương cô còn vùi sâu dưới nắm mộ cẩn đá lục lăng trong cuộc đất hương hỏa của dòng họ cô. Ông cứ mỗi năm đến đó đặt lên một bó bông sen trắng, thắp một nén nhang để tưởng niệm người yêucũ. Ông bà Cai tổng Nhung đã lần lượt qua đời hồi bảy năm trước. Contrưởng ông là thầy Hương quản Gấm vẫn còn ở chăm nom ngôi nhà thừa tự,bề sinh sống cũng khá vững vàng.

Ông Huyện Khải lẩm nhẩm đọc lại bức thư tuyệt mạng của cô Minh Ngọcmà ông đã thuộc làu từ mười tám năm qua. Ông khe khẽ ngâm lại hai câuthơ trong bức thư nầy::

Tái sanh bướm lại gặp hoa

Thề xưa hẹm cũ ai mà dám quên!

Ôi, trời đất mênh mông, nẻo u minh xa lắc, càn khôn vũ trụ tối mờ, làm sao ông dám tin tưởng sẽ có ngày tái ngộ với người yêu?

Khi trống điểm canh ba, thần trí ông Huyện Khải mới chìm dần vàogiấc ngủ. Bỗng dưng ông thấy mình đứng giữa căn nhà lợp lá cũ của tía má ông hồi mười tám năm về trước. Nhà đó đã bị giỡ từ lâu, mười công đấtcũ của chú Biện Khảo cũng đã bán mất. Một bà già mặt mũi nhăn heo dữ tợn đến gần ông. Ông chợt lùi lại vì ánh hung quang từ cặp mắt bà ta làm dạ ông bồn chồn. Bà già liền trấn an:

- Quan huyện chớ sợ! Tui là con tinh già của cây cẩm lai trên rừngXuân Lộc. Thân tui bị đốn, bị cưa xẻ làm bàn, làm tủ, làm bộ "đi- quăng" chân quỳ mà quan huyện đang nắm đó. Bởi khúc làm "đi- quăng" nầy làkhúc gốc nên hồn tui cứ theo bộ "di- quăng" hoài hoài. Ai là kẻ tu nhântích đức, ai là người quân tử hiền nhơn, ai là bực trinh liệt tiết tháomà nằm trên "đi- quăng" thì hồn tui sớm được đấu thai vào cảnh giới tốt. Ngặt là bọn cường hào ác bá như tên Bang biện Hưỡn, phường tham dâm háo sắc như thằng con hắn cứ đem gái về hành lạc trên mình tui thì làm saohồn tui sớm đi đầu thai cho được! Nay gặp được người làm quan thanh liêm như quan đây, tui mới hiện hồn trong giấc chiêm bao của quan để thổ lộvài điều. Xin quan bỏ tiền ra mua chiếc "đi- quăng" rồi đặt vào nhàngười em con nhà chú đang mắc bịnh cùi của quan. Ông ta tuy mang bệnhnan y nhưng là kẻ minh tâm kiến tánh, biết trọng Phật kính tăng. Có vậytui sẽ phò hộ ổng để bịnh ngặt có cơ hội chữa lành. Mà tui cũng có cơhội rời cõi trần gian uế trược nầy để thác sanh vào cõi trời Tứ ThiênVương làm cây quỳnh trổ bông ngũ sắc cho chư tiên cúng Phật.

Vía ông Huyện Khải bảo:

- Nếu bà có lòng chỉ dạy như vậy thì lẽ nào tôi chẳng vưng lời!

Hồn con tinh cây cẩm lai lại nói thêm:

- Luôn tiện đây, tui báo cho quan rõ: Hồn tôi đêm nay sẽ đưa víaquan tới nơi cư ngụ cũ để chỉ cho quan thấy ở góc nhà cũ, tức là trongbụi cây mua hoa tím, chủ đất bốn đời trước có chôn một hũ vàng ngọc.Quan hãy tìm cách mua lại đất cũ và moi hũ lên, lấy cặp vòng cẩm thạchtrong hũ làm sính lễ cưới vợ.

Ông huyện Khải lắc đầu:

- Nếu tôi đào được hũ châu báu đó thì tôi phải tìm con cháu chủ cũ đặng giao trả lại, lẽ nào tôi hưởng của phi nghĩa cho đành!

Bà già cười:

- Tui biết cái tâm quang minh chính đại của quan lắm, nhưng xin quan yên lòng! Bởi người chủ cũ là thứ cường hào ác bá, tánh bòn tro đãitrấu, rút rỉa của cải dân lành để sắm vàng ngọc, cho nên khi họ chết đithì con cháu tứ tán mai một dần dần. Đôi vàng ngọc cũng là của tổ tiênquan bị họ tròng tréo để mua rẻ. Giờ đôi vòng đó trở lại tay quan làtheo lẽ Hiệp Phố hườn châu chớ có gì lạ! Còn các món vàng ngọc châu báukhác thì quan muốn cho ai tùy ý!

Ông Huyện Khải lại hỏi:

- Bà biết nơi nào để tôi chọn người phối ngẫu không?

Bà già cười thiệt tươi:

- Sáng mai đây quan sẽ rõ người đó là ai. Vốn là hậu thân của cốnhơn quan, tức là cô Trịnh Thị Minh Ngọc đầu thai chớ không ai xa lạđâu!

Bà già biến mất. Ông Huyện Khải giựt mình thức giấc thì trời đã sáng trắng. Ngoài đường có tiếng bạn hàng bán rau cải, cá mắm, bánh trái lui tới rộn ràng. Thằng Xiêm ân cần:

- Mời quan lớn rửa mặt rồi về nhà ông Bang biện dùng điểm tâm.

Ông Huyện Khải:

- Vậy chớ cậu Hai Kinh lý có còn ở Cầu Đào hay đi Mỹ An rồi?

Thằng Xiêm lễ phép:

- Thưa quan lớn, cậu Hai con chiều tối mới đi ghe buồm về Mỹ An.Sáng nay cậu con đi thăm người quen rồi sẽ về dùng cơm trưa với quan lớn và cả nhà.

Ông Huyện Khải bước ra nhà sau thì thấy có thau nước đặt trên cáichạc ba chân dưới gốc cây kế. Gần đó có chiếc sào tre vắt chiếc khănlông trắng tinh. Bên cạnh, trên chiếc băng xi- măng, anh tài xế đã đặtsẵn cái hộp đựng đồ cạo râu, dầu thơm, bàn chải chà răng, phấn đánh răng hiệu Kool, gương lược...

Sau khi làm xong thủ tục buổi sáng, ông HuyệnKhải cầm hai tờ giấy một đồng đưa cho người tài xế, dặn:

- Em cầm tiền ăn sáng và ăn cơm trưa. Trước hết, hãy đưa tôi và cháu Xiêm đây về Cầu Đào rồi hẵng đi tiệm nước. Ăn điểm tâm xong, nhớ trởlại Cầu Đào nghe!

Tại nhà ông Bang biện Hưỡn, sau khi cùng tía con ông ngồi và bàn điểm tâm, ông Huyện Khải dặn:

- Sáng nay nếu có rảnh, chú đưa cháu đến nhà ông Năm Tảo, luôn tiệnchú dắt cháu tới nhà bà Bảy Lược để thuê nhà và sửa sang cho tươm tất.

Ông Bang biện rót cà phê vào tách ông Huyện Khải:

- Nhà đó ở khít bên cạnh nhà anh chị Năm Tảo, cách cái hàng rào bằng cây trà tươi. Chuyện thuê nhà cũng dễ thôi vì bà Bảy Lược hiện giờ dờivề xóm Cầu Dài, gần chùa Bà thờ đức Thiên Hậu mà dân vùng nầy gọi làchùa Minh Hương. Sở dĩ nhà đó không ai thuê vì xóm Chuồng Gà có nhiều mồ mả, thiên hạ ngại cư ngụ ở vùng lảng vảng bóng âm hồn.

Bữa điểm tâm thịnh soạn với món bánh canh bột gạo nấu tôm cua, mónxôi lục xưởng, cà phê, trà... Sau đó ông Bang biện Hưỡn rủ ông HuyệnKhải đến nhà bà Bảy Lược trước khi đến nhà ông Năm Tảo. Cuộc ngã giácũng dễ dàng. Bà Bảy Lực cần hai chục đồng để tu bổ mái lợp lá xé, vÿchván, làm cỏ sân trước và hai bên hè. Ông Huyện Khải móc bóp lấy hai tấmgiấy hai chục đồng in hình con công đưa ông Bang biện và ông đến xómChuồng Gà để viếng ông bà Năm Tảo.

May mắn làm sao, sáng hôm đó ông Năm Tảo có nhà. Ông đang o bế mấychậu cây kiểng và hòn non bộ trong sân. Còn bà thì đang bày cối để giãgạo bên hè. Thấy khách sang tới, bà Năm Tảo tạm dẹp chày cối vào nhàsau, òn ông Năm thì mời khách bước vào trung đường uống trà.

Ông Bang biện Hưỡn liền nói ngay mục đích chánh cuộc thăm viếng củachú cháu ông. Ông Năm Tảo lắng tai chăm chú nghe, rồi quay vào tronggọi:

- Con Hai đâu? Mau pha trà đem ra đây để chào bác Bang biện cùng quan lớn.

Bên trong có tiếng dạ thiệt ngọt ngào thanh tao. Ông Năm Tảo trầm ngâm:

- Quả thiệt là bịnh nan y đó. Tuy nhiên tui cũng cần xem mạch, xemsắc diện bịnh nhơn mới biết được phải dùng y phương nào, trị liệu nào.Còn ngôi nhà chị Bảy Lược cũng chẳn hư hao gì nhiều vì chị Bảy mới dọnvề Cầu Dài chừng một năm thôi. Lát nữa tui sẽ đưa quan lớn tới viếng coi cái mặt tiền và khu đất chung quanh.

Ông Huyện Khải lộ vẻ buồn:

- Chẳng dấu gì bác Năm, thằng em tui là dân ăn học, có tương lai hứa hẹn vì nó đậu bằng bác vật canh nông ở bên Tây. Nay nó vướng bịnh ngặtthì kể như cuộc đời nó gãy đổ ráo trọi. Mong bác tìm tòi sách vở thamcứu cách trị liệu để cứu vớt nó.

Ông Năm Tảo trầm ngâm:

- Thì mình cứ hết sức mình. Trị lành bịnh hay không vẫn so sức trời. Nhưng ông bà mình cũng có khuyên đôi khi nhơn định thắng thiên mạng như thường.

Cô Hai Túy Ngọc bưng trà ra. Vì khách sang tới nhà nên cô vâng lờimẹ, mặc áo dài, mang giày nhung và chọn bộ ấm chén Vương Khải trân ngoạn để đãi trà. Cô dạn dĩ, đi đứng khoan thai. Vừa tới bộ trường kỷ màkhách đang ngồi đàm đạo với cha cô, cô cất tiếng chào:

- Kính chào quan lớn! Thưa bác Bang biện tới chơi.

Vừa khi cô Hai đặt khay trà trên chiếc bàn dài bằng cẩm lai giữa hai chiếc trừng kỷ thì ông Huyện Khải ngó cô lom lom, mặt trắng bệch bạc.Trời ơi, có phải cô Trịnh thị Minh Ngọc hiện hồn về đó chăng? Rõ ràngđây là chiếc áo dài bằng lụa bạch Duy Xuyên mà cô Minh Ngọc thường mặcđi chợ. Chu choa ơi, đây là giọng nói, khuôn mặt, dáng đi, điệu đứng của cô Minh Ngọc không sai một nét. Cô Hai Túy Ngọc khi đó cũng nhìn lạiông. Mặt cô xanh dờn, cô lảo đảo gắng gựng dựa lưng vào thân cột gỗ căm- xe để khỏi ngã. Co ôm ngực như chết điếng. Bỗng như do một động lực vôhình xui khiến, cô thều thào:

- Anh Khải! Anh Nguyễn Văn Khải đó phải không?

Cũng bị sức vô hình đẩy tới, ông Huyện Khải đứng dậy bước tới cô, kêu lớn::

- Em Minh Ngọc! Có phải em hay không?

Cô Hai Túy Ngọc la lớn:

- Phải, em là Minh Ngọc, Trịnh thị Minh Ngọc con của thầy Cai tổng Trịnh Văn Nhung ở Tam Bình đây!

Rồi cô xỉu nằm dài. Dù đang ở thời đại nam nũ thọ thọ bất thân nhưng ông Huyện Khải quên tị hiềm, đỡ cô lại bộ ngựa bằng gỗ giáng hương. BàNăm Tảo và cô Ba Tây Nguyệt ở trong nhà túa ra xức dầu. giựt tóc mai,kêuu cô lai tỉnh. Ông Huyện Khải đứng nhìn, nước mắt như mưa.

Khi hồi tỉnh, cô Hai Túy Ngọc chắp tay thưa:

- Thưa bác Bang biện, thưa tía má, hôm nay vừa thấy mặt ông Huyệnđây, con vụt nhớ lại tiền kiếp của con. So là kiếp trước hai đứa tụi con có tư ước với nhau, nhưng duyên nợ không thành nên con tự vận. Trướckhi cầm chén thuốc phiện trộn giấm thanh đưa lên miệng, con có cầu Phậttrời cho con đầu thai kiếp sau được kết duyên với người tình xưa. Cũngbởi ba má kiếp trước của con bức ngặt con phải lấy thằng chồng dại vì nó là con ông tri phủ Tam Bình nên con quẫn trí lánh nợ đời đó thôi.

Nghe thuật lại mọi sự xảy ra hồi mười tám năm về trước, mọi người đều xửng sốt. Ông Huyện Khải hỏi:

- Em còn nhớ hai câu thơ em viết trong bức thư tuyệt mạng gởi cho anh không?

- Cô Hai Túy Ngọc có vẻ suy nghĩ:

- Anh thử nhắc câu đầu, rồi em sẽ tiếp câu kế:

Ông Huyện Khải đọc:

- Tái sanh bướm lại gặp hoa...

Cô Hai Túy Ngọc tươi cười:

- Thôi em nhớ rồi! Thề xưa, hẹn cũ ai mà dám quên... Có phải vậy không anh?

Ông Huyên Khải mủi lòng quá, nắm tay cô Hai Túy Ngọc và cùng khócvới cô. Trừ ông Bang biện Hưỡn ra, ai cũng giọt vắn giọt dài theo cặptình nhơn qua suốt hai kiếp được tái hội với nhau.

Ông Huyện Khải nói::

- Ai dè trong cõi minh mông, có ngày anh lại được gặp em, nhưng anh đã già rồi!

Ông Năm Tảo bảo:

- Thưa quan lớn, trông quan lớn chỉ cỡ 30 là cùng.

Ông Huyện Khải thú thật:

- Tôi đã ba mươi tám tuổi rồi!

Cô Hai Túy Ngọc lau nước mắt:

- Anh đừng nói vậy. Dù anh ruổi tới 60 và xấu xí như ông tiên LýThiết Quày trong hàng bát tiên đi nữa, em cũng nguyện nâng khăn sửa túicho anh.

Ông Năm Tảo tán thành:

- Con gái tui phân rất chí lý. Xin quan lớn chớ ngại.

Bà Năm Tảo tiếp lời:

- Chỉ sợ quan lớn chê nhà vợ chồng tui nghèo hèn nên không cưới con gái tui thôi.

Ông Huyện Khải khẳng khái bảo::

- Dù phải từ quan để được cưới con gái ông bà tôi cũng không nề hà.Xin đừng tị hiềm vè giai cấp thấp cao. Cũng tại ba cái giai cấp mà suốtmười tám năm qua tôi tốn bao nhiêu là nước mắt, còn em Ngọc phải chịuvùi dập qua hai kiếp luân hồi!

Lại hỏi về tuổi tác ông bà Năm Tảo, ông Huyện vui vẻ bảo:

- Vậy là ông đây lớn hơn tui 6 tuổi, bà lớn hơn 5 tuổi. Dù sao tui cũng là phận rể, xin kêu ông bà bằng tía má cho phải đạo.

Bà Năm Tảo mau mắn:

- Chùng nào con gái tui trở thành vợ quan lớn sẽ hay. Giờ đây, xinmời ông Bang biện và quan lớn ở lại dùng bữa cơm đạm bạc với vợ chồngtui để đánh dấu ngày tái hiệp này.

Bà quay qua cô Hai Túy Ngọc:

- Con ở hầu chuyện quan lớn cùng bác Bang biện và tía con, để má và em con nấu nướng cũng được.

Bà cùng cô Ba Túy Nguyệt xuống bếp. Bà sai cô Ba qua nhà chị Tám Khéo mua tôm càng, còn bà bắc nước làm vịt.

Ở tại trung đường, ông Huyện Khải yêu cầu ông Bang biện Hưỡn và ông Năm Tảo:

- Xin các bậc tiền bối giữ kín vụ nầy. Nếu mình tiết lộ ra thì thiên hạ bu lại hỏi tới hỏi lui, lôi thôi phiền phức lắm! Mình cứ bị kẻ tò mò quấy nhiễu hoài thì làm ăn gì được!

Ông Bang biện Hưỡn tán thành:

- Cháu nói phải đó.

Co Hai Túy Ngọc cùng ông Huyện Khải nhắc những chuyện quen thân ởTam Bình ngày trước, nhắc về gia cảnh ông bà Cai tổng Nhung. Cô Hai tỏra ngậm ngùi lắm. Ông Huyện Khải hỏi:

- Em muốn về thăm lại xóm cũ làng xưa không?

Cô Hai Túy Ngọc bảo:

- Để làm chi hả anh? Tía má kiếp trước của em đã mãn phần rồi. Vềnhắc chuyện cũ, những người bà con kiếp trước chưa chắc tin, mà nếu họtin thì chuyện sẽ đổ bể ra, gây ồn ào. Chắc họ hàng cũ chẳng ai muốnnhắc lại chuyện tự vận của em hồi kiếp trước để thiên hạ mai mỉa ông bàCai tổng Nhung đâu!

Thừa lúc ông Bang biện Hưỡn ra hè đi tiểu, ông Huyện Khải nói nhỏ với ông Năm Tảo:

- Thưa ba, con không muốn cậy chú Bang biện làm mai. Để con cậy vợchồng thầy giáo cũ của con ở Tam Bình làm mai tốt hơn vì họ biết tu nhơn tích đức. Con cũng mời hai bác con đứng vai chủ hôn cho tiện.

Khi thấy ông Bang biện trở vào, ông Huyện Khải vụt xoay qua chuyệnkhác. Vừa lúc đó bà Năm Tảo bước ra trung đường mời khách dùng bữa. ÔngHuyện yêu cầu bà Năm cùng hai cô Túy ngồi chung bàn vì đây là bữa ăn đặc biệt. Bà Năm và hai cô Túy đành chiều lòng ông.

Trong bữa ăn, ông Huyện Khải nhận thấy hai cô mỗi người một vẻ. Haichị em gợi nên cái đẹp của bông bụp và bóng lồng đèn, không bông nàotrội hơn bông nào. Cả hai như chim hoàng oanh và chim bạch yến, khôngchim nào kém chim nào...
 
Chương 7


Cô Thiệt Nguyện buông chiếc lược sừng trâu xuống chiếc bàn hình hột xoài, bảo cô Hai Túy Ngọc:

- Khuôn mặt em đúng là có hồng quang phát hiện. Em có tướng sang bẩm sinh. Trời sanh em ra để em làm mạng phụ phu nhơn đó.

Cô Hai Túy Ngọc nhìn lom lom bóng mình trong kiến. Tóc cô chải bảyba, đen bóng như huyền giồi, mặt cô ửng hồng và sáng rỡ, môi cô mọngthắm, mắt ngời ngợi sóng thu. Hôm nay cô Thiệt Nguyện dạy cô bới đầulèo, cái búi tóc hình bánh tiêu được bao lưới giắt trâm nhấp nháy.

Cách đây ba ngày, ông Huyện Khải cậy hai bác của mình là ông bà HaiTrưởng đứng chủ hôn và vợ chồng thầy giÿo Thiệt làm mai đi coi mắt côHai Túy Ngọc. Bà Chín Thẹo và cô Thiệt Nguyện lãnh phần lo trà rượu tiệc tùng. Đàng trai đưa cho đàng gái hai trăm đồng lo lễ cưới. Sình lễ gồmđôi vòng cẩm thạch xanh nước lý mà ông Huyện Khải đào được ở nền nhà cũ, một đôi bông hột xoàn cỡ năm ly rưỡi, một chiếc kiềng vàng nặng mộtlượng, một chiếc trâm cẩn sáu hột xoàn hai ly, một chiếc cà rá nhận hộtngọc lựu. Ngoài ra ông còn tặng cô dâu xấp gấm đỏ, xấp nhiễu xanh datrời để may áo cặp, một xấp cẩm nhung trắng để may quần.

Cô Ba Túy Nguyệt được chị mình tặng những món nữ trang do ông bà Năm Tảo sắm cho gồm chiếc vòng vàng chạm bát bửu, sợi dây chuyền có miếngmề đay cẩm thạch tạc hình tượng Quan Âm. Cô rất mừng cho chị mình lấyđược chồng sang.

Bà Bang biện Huỡn cùng hai cô con gái đi Tịnh Biên về, mặt mày cả ba đều hớn hở. Thạch Eng và Cà Nựng đã dắt bà đến thầy của họ là Lâm Xâuđể chuộc bùa, chuộc niệc đeo cổ hầu chống lại sự báo oán của các oanhồn. Kỳ về nầy, bà mua nào là lụa cẩm châu, lãnh tân châu, mắm thái, khô sặt, mắm cá trèn để dùng và biếu xén những nơi quen biết.

Ông Huyện Khải cậy ông Năm Tảo sắm bàn ghế khi túp nhà lá gần bên đã sử chữa xong. Ông cũng bỏ tiền ra mua chiếc divan cẩm lai đặt ngăn bênchái túp nhà. Sau đó ông mới chở ông Bác vật Cảnh, người em họ nhà chúcủa ông về dưỡng bịnh.

Ông Năm Tảo có qua chẩn mạch, hốt thuốc cho người đờn ông bất hạnhkia để ngăn bịnh cùi chậm phát tác và làm giảm đau. Ông khuyên đương sự:

- Bịnh chửa khỏi hay không chi do thấy thuốc có một, nhưng do sốtrời, do nghiệp quả tới mười.. Ông Bác vật nên tụng thêm kinh Phổ Môn và kinh Dược sư Lưu ly quang để nhờ tha lực của đức Đại bi Quán Thế Âm Bồtát cùng đức Dược Sư độ trì.

Bác vật Cảnh làm thinh, không nói gì.. Ông Năm Tảo đi thăm thú khắpvườn sao ngõ ngoài, chỗ ẳn cư mới của Bác vật Cảnh. Đâu đó được làm cỏvà quét tước sạch sẽ. Buồng ngủ có tủ áo nạm kiếng hình hột xoài, divancẩm lai. Phòng khách có bảy bàn tròn và ghế bằng dây mây bện rất mỹthuất. Bên chái là tủ kính đựng đầy sách báo và những món ngoạn khí bằng sành, sứ, gỗ quang dầu bóng lộn. Ông Năm Tảo mở gói giấy lấy hai tấmrèm màn bằng vải do cô Ba Túy Nguyệt may và thêu đục lỗ, bảo ông Bác vật căng ở hai bên xửa sổ. Ông cũng không quên mở cần xé, lôi ra nào ấmnhôm, hỏa lò, than cần đước, bộ đồ trà... và bảo:

- Ông chỉ phải sắc thuốc, pha trà, còn cơm nước thì ngày ba bữa, con gái tui sẽ đem qua cho ông dùng:

Khi tiễn ông Năm Tảo ra ngõ, Bác vật Cảnh buồn rầu bảo:

- Ông Năm thiệt chu đáo trong việc sắp xếp chỗ ăn chỗ ở cho tôi. Ơnông không biết bao giời tôi mới trả nổi đây! - Và ông nhấn mạnh - Tôikhông phải là kẻ duy tâm nên không tin tưởng Trời Phật, song tôi vẫnhằng tâm niệm giữ tròn nhân lễ nghĩa trí tin. Mắc bịnh ngặt nghèo nầy,tôi chỉ tin tưởng vào thuốc thang mà thôi.

Cô Thiệt Nguyện vẫn đi doọc theo cồn bãi nắm trong lòng sông CôChiên để chửa bịnh mắc đàng dưới cho phụ nữ. Cô lập đàn tràng cầu nguyện cho các oan hồn mà thân thể đã chìm sâu đáy nước. Cô cũng ếm bùa ngănbọn thủy quái lộng hành, phá phách bá tánh cư ngụ ven sông.

Cậu Hai Kinh lý Luyện vẫn tiếp tục đo đất ở Mỹ An, Hòa Mỹ, An Hương. Cậu đang nhắm vào cô Ba Hưởng, con gái chú Thường xuyên Hiếu ở Hòa Mỹvà cô Hai Thiều, con gái Hương nhứt Điều ở An Hương.

Cô Ba Cẩm Tú ốm nghén được ba tháng. Chồng cô khám thai cho cô vàbảo rắng cái thai bình thường. Vì cẩn trọng, sợ lỡ trợt té mà sảo thainên cô bắt chồng dời phòng ngủ vốn lở lầu trên xuống từng trệt cho chắcăn.

Cô Tư Cẩm Lệ theo chồng về Sài gòn sau khi từ Tịnh Biên về Vĩnh Long một tuần. Vô cậy có bùa niệc trấn ếm nên vẫn giữ thói xéo xắt và hànhhạ con ghẻ. Cô tìm cách lên đất Hộ, tỉm mả cô Tư Thục, đem bốn cọc trevó vẽ bùa cắm lút cán ở đầu, chân và hai bên hông mộ. Cái thai cô lậtbật đã được bốn tháng. Cô ăn được ngủ được. Trong giấc chiêm bao, côkhông hế thấy cô Tư Thực hiện hồn về đòi mạng nữa.

Còn ông Bang biện Hưỡn đã được Cai tuần Xướng dàn xếp để ăn nằm vớivợ Cai tuần Hạp. Ngặt vì bịnh cúm làm ông tối tăm mày mặt mãi nên ôngchưa đưa vợ Cai tuần đến tổ quỉ của mình ở cầu Kinh Cụt mà thôi.

Chú Cai tuần Hạp làm mướn hai dãu ruộng của ông Bang biện Hưỡn, mỗinăm phải đóng cho chủ điền 300 giạ lúa, năm nào được mùa thì còn dư 150giạ. Cách đây ba năm, vì bà Chín Én, mẹ vợ của chú đau nặng, nên vợchồng chú phải bán rẻ 50 giạ lúa lấy tiền lo thuốc thang. Nhưng thuốcthang không qua số mạng. Khi bà Chín Én chết đi, chú phải bán thêm 50 dạ lúa nữa để làm ma chay cho nhạc mẫu. Tới chùng đóng thuế thân thì chúchới với vì số lúa còn dư không đủ cho hai vợi chồng và bốn đứa con sống trọn năm. Bởi đó, vợ chú phải đem thân ở đợ cho gia đình ông Bang biệnđể trừ số lúa vay của họ.

Hôm nay Cai tuần Xướng có dịp đi Cái Sơn Bé, ghé qua nhà Cai tuầnHạp. Nhà chú ở cuối xóm, cách xa con liên tỉnh lộ cỡ 500 thước, cạnh một dòng rạch nhỏ iền cây dừa nước rậm rạp. Nhà vách lợp lá xé, mái lợp láchầm gồm một gian và một chái. Cái chái sát gần bên ao đầy điên điển trổ hoa vàng. Rạch dừa nước thì ở phía trước, cách hàng rào bông bụp khoảng năm thước. Song song với dòng rạch là con đường đắp đát. Nhà nằm giữabốn công đất nhỏ có trồng vài bụi chuối, vài cây ổi, dăm cây khế. Trongnhà, ngoài bàn thờ bằng gỗ thao lao, còn có bộ ngựa gỗ tạp, chiếc bàndài bằng gỗ mù u và bốn chiếc ghế đẩu mỗi bên.

Cai tuần Hạp tuổi cỡ ba mươi ngoài, đen đúa, mặt mũi hiền lành, ởtrần trùi trụi, bận quần xà lỏn đen đã phai màu. Còn vợ Cai tuần Hạptuổi gần ba mươi, dung nghi nghiêm chỉnh, nước da khá mởn, ngặt vì đangchửa nên mặt mũi chao vao. Trong nhà lúc đó còn có một người đờn bà trạc tuổi thím Cai nhưng mặt mũi sáng sủa, nước da trắng trẻo. Cai tuần Hạpbảo Cai tuần Xướng:

- Ne anh Bảy, chắc anh cũng biết cô Thiệt Nguyện đây thường qua bên Cồn trị bịnh mắc đàng dưới cho đờn bà đất Vãng mình.

Cai tuần Xướng gật đầu khen:

- Có, tui có nghe. Làm phước thì để đức cho con cháu.

Cô Thiệt Nguyện mỉa mai:

- Còn a tòng theo bọn cường hào bác ác bá để xúi phụ nữ đi vô đường quấy thì để cái già cho con cháu đây?

Cai tuần Xướng trâng tráo:

- Ối, việc đời mà cô! Ai cũng có cái chỗ kẹt! Như tui đây là kẻ ăncơm chúa nên tui phải múc tối ngày. Đâu có ai muốn làm chuyện quấy đểcho miệng đời dèm siểm!

Cô Thiệt Nguyện làm thinh, mặt mày chầm dầm. Thấy mình ngồi hoài coi trơ quá nên Cai tuần Xướng đứng dậy kiếu từ. Trước khi bước ra khỏinhà, hắn hăm he chú Cai tuấn Hạp:

- Thầy Bang biện nhắc chú mày nhớ hai dãy ruộng, mầy cư xử sao chovuông tròn thì xử. Tao như thiên lôi, thầy sai đánh đâu tao đánh đó. Tội lỗi gì đối với Trời Phật nhơn quả, tao không có chịu trách nhiệm đa!

Khi tên thiên lôi kia đã đi khuất mắt, thím Cai tuần Hạp từ trong buồn bước ra, mặt mày bùng thụng bùng thiu:

- Cái thứ đi dụ dỗ đàn bà đó đời nào tui thèm tiếp! Nếu nó còn ở đây cù cưa cù nhầy nói chuyện nhơn nghĩa bao đồng, tui sẽ lấy chổi tẩm cứtgà quét nó ra ngoài sân cho mang xấu!

Cô Thiệt Nguyện cười hòa nhả:

- Thiệt tình chị giận cũng phải, nhưng nếu chị sanh sự vời nó thìmọi chuyện hư hết! Bây giờ, chị cứ hẹn tuần sau tiếp thằng già dê tạiđây. Mốt, anh chị hãy gố gắng dọn dẹp hết bàn ghế đồ đạc chở qua nhà ông Năm Tảo, rồi hai bữa sau xuống tàu đi Bạc Liêu. Xứ đó ruộng nhiều, nhơn công ít. Nếu anh chị chí thú làm ăn thì dẫu không giàu cũng có của ăncủa để.

Cô lấy một tờ giấy 20 đồng và một tờ 5 đồng:

- Ông bà Năm Tảo chịu mua bàn ghế của anh chị và nhờ tui đưa chị 20đồng để hộ thân, còn đây là 5 đồng của tui tặng anh chị làm lộ phí.

Cai tuần Hạp xúc động;

- Mấy thứ bán ghế gỗ tạp đấy giá đáng là bao mà ông bà Năm Tảo chotụi tui tới 20 đồng.. Hôm qua, tui cũng đã bán hết lúa trong bồ được 30đồng.

Cô Thiệt Nguyện đưa phong thơ cho Cai tuần Hạp, bảo:

- Ôi, bước đầu, tiền càng nhiều càng tốt chớ sao! Anh chị còn phảilo cất chòi ở yên đợi tới mùa gặt. Chừng đó anh chị có thể kiếm chácthêm trước khi mướn ruộng. Hãy đưa bức thư nầy cho người anh bạn dì tuilà anh Hương hòa Hiệp, ảnh sẽ chỉ dẫn anh chị đường đi nước bước. Ở xứđó lo gì chết đói! Cá tôm có sẵn trong rạch sông, ao bàu: lúa mót cũngđủ nuôi sống cả nhà anh chị nửa năm.

Vợ Cai tuần Hạp ứa nước mắt:

- Ơn cô lớn quá, vợ chồng tui biết lấy gì đền đáp dây!

Chị chấp tay toan xá cô Thiệt Nguyện nhưng cô xua tay:

- Chị đừng làm vậy khiến tui tổn thọ! Nếu chị nghĩ rằng từ đây vềsau không có dịp nào trả ơn tui thì trên đường đời, hễ gặp người hoannạn, xin anh chị cứu giúp họ, đó cũng là cách trả cho tui đó.

Vợ chồng xúc động khóc rấm rứt. Số là cÿch đây một tuần, có ThiệtNguyện có dịp đi xuống Cÿi Sơn chữa bịnh mắc đàng dưới cho con gái ôngHương kiểm Lợi, nghe được vận sự về cô Út Thoại Huê bèn tìm xuống CáiSơn Lớn để thăm má cô Út. Khi cô đem bó nhang huyền đàn tới mả cô Út hìgặp một chị đàn bà ngồi trước mộ cô Út vừa khấn vái vừa khóc lóc. Chịđờn bà đó chính lá vợ Cai tuần Hạp. Sau khi biết khúc nôi nguồn ngọc, cô khẳng khái hứa giúp đỡ cho vợ chồng Cai tuần Hạp. Cứ cách hai ngày, côđến viếng thăm gia đình anh ta để bàn bạc.

Vậy là mọi việc đã trù tính xong xuôi. Cai tuần Hạp dù có tha thiếtchốn chôn nhau cắt rún mấy đi nữa, cũng phải tìm chốn dung thân mới,trước hết là để tránh điều sỉ nhục, hai là lìa kiếp làm ruộng mướn chịusự bóc lột suốt đời cha qua đới con.

Trước khi ra về, cô Thiệt Nguyện nhờ vợ chồng Cai tuần Hạp đưa mìnhra thăm mộ cô Út Thoại Huê lần chót. Mưa cuối mùa dù có thưa hơn mưangâu tháng bảy, nhưng vẫn làm cho đám cỏ tranh trên mộ thêm rậm thêmcao, vẫn làm đám dây choại, dây bìm, dây săn thêm dài... Cô Thiệt Nguyện đánh diêm châm nén nhang bạch đàn thơm ngát cắm trước mộ, khấn vái:

- Cô Út ôi, cô là nạn nhân của ba anh em cậu Hai Luyện, còn tui lànạn nhân của cô Ba Cẩm Tú. Tui sống mà mang sầu chuốc não cũng như côchết mà ngậm oán nuốt hờn. Song nếu cô hiểu rằng oán chớ cưu mang còn ân phải tìm cách báo đáp thì nên sớm giác ngộ để vong linh được siêusanh...

Đang khấn vái, cô bỗng cảm thấy tối tăm mặt mũi như bị một tấm mànđen thẳm và lạnh ngắt trùm kín. Trong cơn váng vất, cô thấy một ngườiđờn bà mặt mày tiều tụy xanh xao đến trước mặt mình, nghiến răng:

- Sát nhân thì giả tử, đó là lẽ thừng của luật nhơn quả trả vay, đólà chuyện đương nhiên của tội phước báo ứng! Giờ đây là ban ngày, khídương đang thạnh, tui sẽ nương theo cô mà thanh toán mối cừu hận đây!

Vía cô Thiệt Nguện hỏi:

- Thưa cô cô là ai?

Người đàn bà dằn từng tiếng:

- Tui là Út Thoại Huê. Cám ơn cô đã tới đây hai lần đốt nhang cho ấm vong linh tui. Nhưng xin cô đừng can thiệp vô chuyện của tui. Cô tuhành, cô lấy ơn báo oán, nhưng đó là chuyện của cô, còn báo cừu rửa hậnlà chuyện củ tui. Lát nữa đây cô sẽ rõ!

Tới đây cô Thiệt Nguyện vụt tỉnh. Trời đã quá ngọ, cô kiếu từ vợchồng Cai tuần Hạp để đi bộ về chùa Sơn Thắng nằm giữa Cái Sơn Lớn vàCái Sơn Bé, cách bến Bắc Cỗ Chiên năm trăm thước. Chùa đang làm lễ cúnghạ nguơn nên dập dìu thiện nam tín nữ. Khi cô men theo con đường đất rải ngói vụn từ liên tỉnh lộ đưa vào sát chùa thì thấy cô Ba Cẩm Tú đangđứng hóng gió bên gốc dừa tam qua, nên cô đưa tay vẫy.

Số la hôm nay cô Ba Cẩm Tú bưng quả bánh nướng gồm bánh gai, bánhcon duông, bánh hạnh nhơn đi dâng hươn g lạy Phật rồi ở chùa làm côngquả. Cô đi chùa cầu Phật Quan Âm phù hộ cho cô sanh con trai để chồng cô mừng. Sau khi dùng bữa ngọ trưa xong, khách hành hương lục tục ra về.Cô còn đợi chồng đến rước nên cô đứng dựa gốc dưa, trước là hứng gió,sau là nhìn ra con lộ coi xe chồng cô tới hay chưa. Vừa lúc cô ThiệtNguyện trờ tới đưa tay vẫy vẫy nhưng cô chỉ thấy cô Út Thoại Huê, taycầm roi cá đuối hươi lên sẵn sàng đánh cô. Trời ơi, làm sao cô lầm được! Rõ ràng là cô Út Thoại Huê, mặt trẹt có nút ruồi duyên bên mép, mặcchiếc áo bà ba bằng lụa cẩm cúc màu vàng, chiếc áo mà cô mặc hôm uốngchén thuốc phá thai sắc bằng cỏ càn ngươn! Kinh tâm táng đởm, cô Ba CẩmTú chạy trối chết vào sân chùa, miệng la bài hải. Thình lình cô trượt té vì miếng vỏ dưa gang ai vừa liệng trên lối đi...

Cô Thiệt Nguyện chạy lại đỡ cô lên:

- Sao em bỏ chạy vậy? Chị có làm gì em đâu?

Cô Ba Cẩm Tú vụt mở mắt:

- Ủa, chị là... Sao mới đây em thấy con Út Thoại Huê đến đây lấy roi cá đuối đánh em?

Bầy giờ cô Thiệt Nguyện mới hiểu lời nói của cô Út Thoại Huê: "Látnữa đây cô sẽ rõ". Cô vừa an ủi vừa đỡ cô Ba Cẩm Tú dậy thì thấy máuloang đỏ ối từ đũng chiếc quần sa teng tuyết nhung trắng của cô Ba. Vừalúc đó thì bác sĩ Lê Thanh Mậu lái xe tới, nhưng cô Ba đã chết giấc khithấy máu tuôn ướt quần mình.

Cô Ba Cẩm Tú cầm được máu vì gần chùa có bà xẩm chuyên nghề châm cứu nhưng về nhà, bụng cô cứ đau âm ỉ. Cũng hôm đó, cô đang nằm nghỉ trongphòng thì bên ngoài trời nổi cơn mưa lớn, sấm sét rầm rĩ. Bỗng một cúsét đánh quát vào trung đường, tiếp theo là tiếng nổ thiệt lớn khiến tai cô muốn điếc, đầu óc thiếu điều rạn nứt. Sau đó con Hiệu, đứa tớ gái,từ ngoài chạy vào báo cáo:

- Thưa bà, cái trang thờ bùa bị sét đánh bể tan nát hết rồi!

Cô Ba Cẩm Tú rụng rời. Gói bùa gồm những củ ngải trong vuông lụa đỏcó vẽ hình và chữ ngoằn ngoèo bằng kim nhũ lóng lánh cô vừa thỉnh từTịnh Biên về được đặt trong một chiếc trang thờ, nời đó bóng đèn trứngvịt được tháp sáng cả ngày lẫn đêm.

Khi cô Ba bước ra trung đường thì chiếc trang đã bị đánh rớt xuốngbàn thờ ông bà, mấy mảnh ván bằng gỗ thùng thông đè sập bức họa truyềnthần tía má chồng cô, làm kiếng bể tung tóe. Gói bùa bọc lụa đã cháy,bốc mùi khét nghẹt. Cô dập tắt lửa, kinh hoảng thấy chẳng những lớp lụabên ngoài cháy thành tro mà mấy củ ngải bên trong cũng đã thành thanđen!

Tuần lễ sau, cô Ba Cẩm Tú đau bụng kinh khủng, Bác sĩ Lê Thạnh Mậuvội đưa cô vô nhà thưng tỉnh, hiệp cùng bác sĩ trực tháo máu ứ đọngtrong tử cung cô. Và đau khổ cho ông biết bao, cái thai cũng theo máu ra ngoài! Cô phải nằm nhà thương mất một tuần. Chồng cô không dám tiết lộchuyện sẩy thai cho cô biết.

Khi về nhà, bác sĩ Lê Thạnh Mậu lực lúc cô tỉnh táo minh mẫn, mới nói hệt tự sự cho cô nghe. Cô khóc rấm rứt:

- Mình tuy chưa nói, em cũng đoán ra sự việc rồi, từ lúc sét đánh sập trang thờ bùa.

Từ đó cô sầu não, ăn không ngon ngủ không yên. Rồi cô nghi cô ThiệtNguyện dùng bùa phép đội lốt đội hình cô Út Thoại Huê để nhát cô. Chẳngcần phải chạy trợt té, nội cơn sợ khủng hiếp cũng đủ làm cô hư thai rồi! Cô tự hứa mình phải trở lại Tịnh Biên để chuộc bùa đậu thai, luôn tiệnchuộc luôn bùa ếm cô Thiệt Nguyện cho cô nọ phải chết thảm thiết.

Ba Bang biện Hưỡn được con gái báo tin sẩy thai, song bà không khiếp sợ lậu. Bà nghĩ rằng Thạch Eng tuy già tay ấn nhưng chưa phải thứ xuấtchúng. Bà phải đem hai cô con gái cưng xuống Tịnh Biên thêm lần nữa vìbà nghe tiếng phù thủy Kim Ba ở gần bến chợ có tài làm đá hóa ra vàng,biết điều khiển âm binh giết kẻ thù ở xa, các cả ngàn cây số. Cho nên bà vẫn tạo ác nghiệp đều đều, vẫn hành hạ tôi tớ và thằng con riêng củachồng, vẫn đánh chửi con nợ, vẫn xéo xắt với tá điền tá thổ.

Một hôm bà Bang biện Hưỡn gọi Cai tuần Xướng tới truyền lịnh:

- Nè Tuần, con vợ thằng Hai Hoạch ở gần đến Văn Thánh nợ tao bốnchục đồng từ hồi đầu năm tới giờ chưa trả. Mày rình coi nhà nó có mónchi đực giá thì cho tao hay, để tao tới xiết mang về, chừng nào nó trảcà vốn lẫn lời, tao mới cho chuộc.

Cai tuần Xướng ra công rình rập nhà Hai Hoạch nhưng suốt tuần bàBang biện vẫn chưa thấy hắn báo cáo. Sáng hôm đó cô Ba Cẩm Tú từ Cầu Lầu qua Cầu Đào thăm tía má mình. Bà Bang biện bày bánh khoai lang chiên ăn cặp với rau sống chấm nước mắm giấm ớt. Cô Ba bảo mẹ:

- Con qua đây hỏi má định coi chừng nào má con mình đi Tịnh Biên?

- Con nên viết thư cho con Tư, rủ nó cùng đi. Cái bùa của thằng Thạch Eng coi bộ hơi yếu, phải đổi bùa khác cho chắc ăn.

Giữa lúc đó Cai tuần Xướng mặt mày hí hửng từ ngoài cửa ngõ bước vào, chấp tay xá xá má con bà Bang biện Hưỡn, Bà quở:

- Hổm rày mầy chui ngõ ngách nào mà biệt tăm biệt dạng vậy? Nhờ mầycó chút việc mà mầy đánh lừa đánh đảo lánh mặt tao thì còn nước non gì?

Cai tuần Xướng gãi đầu:

- Xin bà chớ phán như vậy mà tội nghiệp tui. Tui ra sức rình rập nhà Hai Hoạch, biết được nó có giàn máy hát và một chồng dĩa. Tối nào vợchồng nó cũng mở máy hát cho người trong nhà và lối xóm cùng nghe.

Ba Bang biện Hữn mừng rỡ, gọi thằng Xiêm, thằng Đực sắp đặt kế hoạch để tối nay cùng ào vô nhà Hai Hoạch xiết nợ, Bà không quên thửng Caituấn Xướng hai nải chuối sữa, một trái mảng cầu xiêm và dặn y ta ngầymai rình nhá thím Bảy Ớt ở Cầu Dài vì thím còn thiếu bà ba chục đồng màcả bốn tháng nay chưa trả tiền lời chớ nói gì tiền vốn.

- Thưa bà, thưa cô Ba, hỗng phả đêm nào anh Hai Hoạch cũng cho chạydĩa hát máy đâu! Nghe nói mốt đây ảnh làm đám giỗ cho ông nhạc, ảnh sẽchạy dĩa hát trong hai bữa giỗ tiên lẫn giỗ chánh cho xôm tụ, chừng đóbà tới xiết mới chắc ăn.

Vậy là hôm giỗ chánh tại nhà Hai Hoạch, thừa lúc gia chủ cho chạydĩa hát thì bà Bang biện Hưỡn cùng thằng Xiêm, thằng Đực xông vào. Trong khi bọn đờn ông kẻ ôm chồng dĩa, người ôm giàn hát máy thì bà cất tiếng rổn rảng, chửi:

- Mồ tổ cha tụi bay, thiếu nợ tao cả năm không trả còn bày đặt làmđám giỗ rình rang! Tao nói cho bây biết, mốt bây không đem 40 đồng bạcvốn, bốn đồng bạc lời tới nhà tao thì giàn hát máy nầy và chồng dĩa kiathuộc về tao luôn!

Bà bước tới mâm cúng trên bàn thờ, cầm bát nhang còn cháy đỏ liệng ra ngoài sân rồi hét bọn tùy tùng ra về.

Riêng cô Tư Cẩm Lệ, vừa được thơ chị mình, liền sắm sửa quà cáp chờchồng lái xe đưa mình ra bến tàu Nguyễn Văn Kiệu (Sau gọi là bến BạchĐằng) để cô đáp tàu thủy đi Vĩnh Long. Cái thai cô được năm tháng nênbụng cô đã đội áo, ngó lum lúp như cái gò mả đã lạn. Cô đem về nhà chamẹ mình toàn những món ngon đương mùa, nào là cá chái kho sẵn đựng trong thố sành, náo sầu riêng, măng cụt, lôm chôm, bòn bon...

Tối hôm đó, thừa lúc ông Bang biện Hưỡn và bác sĩ lê Thạnh Mậu đinhậu, bà Bang biện dặn con Lài nấu cho mẹ con bà nồi cháo thập cẩm vàpha thêm một bình trà thiệt ngon. Ba mẹ con trải chiếu bông trên bộdivan cẩm lai rồi bày gói thêu ra vừa nằm vừa trò chuyện.

Cô Tư Cẩm Lệ trách mẹ:

- Má có thấy thầy Mười Khôi đoán điềm giải mộng hay thần sầu không? Vậy mà bữa hổm má tỏ ra giận ghét thẩy!

Cô Ba Cẩm Lệ sực nhớ:

- À quên, con có nghe thầy Mười Khói quen nhiều tay thầy bùa, thầylỗ ban ở Long Xuyên, vậy má nên đật một mâm nhậu nho nhỏ để đãi thầy,luôn tiện nhờ thầy chỉ đường đi nước bước để má con mình tìm thầy giảinạn trừ hung.

Ba Bang biện nói xuôi:

- Lời con nói nhằm lẽ lắm! Thiệt tình bữa hổm má có hơi nóng!

Bà kêu con Lý,, đưa nó hai đồng bạc, dặn nó sáng mai mua bốn ký tômcàng thiệt ngon để dọn mâm rượu, phần thì trộn gỏi, phần làm chả huế,còn thì làm món tôm bún. Bà cũng dặn nó mời thầy Mười Khói xế mai đếnCầu Đào dể nhậu nhẹt với chồng bà.

Sau khi con Lý trở xuống bếp, cô Tư Cẩm Lệ lo lắng bảo mẹ và chị:

- Con cũng báo cho má với chị Ba hay, cái trang bùa của con bị sét đánh tan tành hết trọi.

Hỏi ra thì cái trang thờ bùa của cô Tư chịu chung số phận với cáitrang thờ bùa của cô Ba cùng một ngày một giờ. Mặt mày ba mẹ con tái mét vì sợ. Cô Tư bồi thâm một tin khủng khiếp nữa:

- Chưa hết đâu má! Sau đó ba hôm, hai đứ con ghẻ của don đi viếng mả mẹ tụi nó, thấy sét đánh cách nào không biết mà ngôi mộ vẫn còn ynguyên, duy bốn cây cọc vẽ bùa bị bạt tung lên, nằm ngổn ngang quanh mộ.

Bà Bang biện Hưỡn chết lặng một giây, song bà trấn tĩnh liền:

- Còn nước còn tát, khuyên con chớ quá kinh hãi mà động tới cáithai. Đẻ má xuất tiền cho sư dô Trí Năng ở am Thường Tịnh làm chay vàcầu siêu sanh cho con vợ trước của chồng con, để nó siêu sanh nơi anbang tịnh độ, khỏi theo quanh quẩn mà báo oán con hoài!

Thiệt tình bà Bang biện nói liều để an ủi hai cô con gái, nhưng nóixong bà chợt thấy mình cao kiến. Tuy mẹ con bà không rành kinh kệ nhưngcả ba đều có nghe đâu đó sự linh ứng của việc lập trai đàn cầu siêu. CôBa Cẩm Tú cũng an ủi em:

- Má nói phải đó Tư à! Chị nghe nói vong linh người chết được thânnhơn lập đàn chay cầu siêu, thừng hiện hồn về cảm tạ trước khi được sanh vào nơi giàu sang phú quí.

Hôm sau thầy Mười Khói xáchh dù đến Cầu Đào dự tiệc. Vì có cậu HaiLuyện về nghỉ cuối tuần nên bà Bang biện cho làm thêm con vịt cà cuốngđể nấu cháo. Tới lúc thực khách ngà ngà, bà Bang biện Hưỡn mới đem ýđịnh của mình ra bày tỏ. Thầy Mười Khói cười, nói:

- Ở chợ Ba Si làng phước Thạnh, tỉnh Trà Vinh có thầy Năm vốn là một địa tiên chuyên làm thuốc cứu nhơn độ thế, làm bùa đối trị bùa ếm đểgiải nguy cho bá tánh. Chẳng ai biết gốc gác thầy ở đâu, nhưng thầy vềchợ Ba Si hồi năm Mậu Dần, không có mang theo gia đình, bạn hữu gì ráo!Thầy xưng là thầy Năm Lê Thái Sanh, tu theo pháp Mật Tông, tuy ăn chaynhưng chỉ ăn rau cỏ và trái cây chớ không dùng ngũ cốc. Thầy thường tỏra cho những thân chủ hết lòng giúp đỡ thẩy biết rằng thầy của thẩy làđức Đông Hoa đế quân, thường hiện xuống núi Tà Lơn vào mỗi kỳ rằm nguyên tiêu, dạy thẩy tu theo phép hút lấy thần khí mùa xuân và của cỏ cây,trước là làm cho mình mạnh khỏe, trẻ mãi không già, sau là để làm tiênđơn thánh dược giúp đỡ người khác...

Ông Bang biện hỏi:

- Còn bùa đối trị bùa ếm thì thẩy học ai?

- Cũng do đưa Đông Hoa đế quân dạy chớ ai vô đó! Cái sứ mạng cứanhơn độ thế của thầy Năm là 24 năm. Sang năm Ất Dậu, gặp lúc thế gianchịu cảnh nắng lửa mưa dầu, thầy sẽ qui tiên, giao sứ mạng cho ngườikhác.

Cô Tư Cẩm Lệ mừng lắm, bảo mẹ:

- Nếu vậy thì hay lắm. Trà Vinh gần tỉnh mình, chồng con có cô emcon nhà chú ở chợ Ba Si, tiện chỗ cho ba má con mình tá túc vì nhà củacổ mát mẻ rộng rãi lắm.

Bà Bang biện Hưỡn liền tặng thầy Minh Khói một con gà mái dầu, mộtcân lạp xưởng, một cân mì xạ, một chụa quít đường. Bà sai hai cô con gai làm bốn ngăn quả đựng bánh hấp như bánh bò bông, bánh thuẩn, bánh bộtlọc, bánh qui, bánh da lợn để con Lý đem tới am Thường Tịnh. Kèm với bốn ngăn quả bánh, bà giao cho sư cô Trí Năng năm chục đồng bạc để làm chay đàn cầu siêu cho cô Tư Thục, cố thê của thầy kiện Trần Hảo Hiệp.

Ông Bang biện Hưỡn thấy mình phong phú sức khỏe, dào dạt sóng tình, hực hừng lửa dục, bèn kêu Cai tuần Xướng:

- Mầy phải giao hẹn với vợ chồng thằng Cai tuần Hạp cho chắc. Taokhông muốn tụi nó trì hưỡn chuyện đó. Cái bụng cỏn chỉ chừng một thàngnữa là bự chang bang như cái chảo úp thì... hư bột hư đường ráo trọi!Mầy nói với tụi nó là tao muốn gặp con vợ nó tối mai.

Cai tuần Xướng liền tới nhà Cai tuần Hạp. Nhà cửa đóng im lìm. Ngoài hàng ba, là rụng ngổn ngang. Lúc đó trời đã xế trưa, ánh nắng vàng vọtnhuộm buồn cảnh vật chung quanh. Một con mèo muôn nằm gần áng nước, thấy có người lạ liền chậm rãi bước về phía hàng rào xương rồng rồi chui qua lộ hổng ra ngoài. Cai tuần Xướng lớn tiếng gọi:

- Có ai ờ nhà không?

Trong nhà có tiếng đờn bà vọng ra:

- Anh Bảy đó hỏa? Cửa không gài, mời anh vô.

Cai tuần Xướng đẩy cửa bước vào. Nhà trống trớn, chỉ còn trơ chiếcchõng tre trải chiếu đậu. Một thép dầu mù u đặt ở đầu giường. Vợ Caituần Hạp mặc bộ đồ trắng ngồi bên mép chõng, tóc tai dã dượi, bảo:

- Đồ đạc trong nhà đã bán hết để chồng tui lấy tiền đóng thuế thân.Ảnh đem sắp nhỏ về viếng thăm bà dì của ảnh ở Lộc Hòa, nhà chỉ còn cómình tui. Vậy anh nên về nói với ông Bang biện Hưỡn tối nay ổng tới đậytiện hơn. Tôi cũng đã giặt sẵn chiếu mùng đợi ổng.

Cai tuần Xướng tán thành:

- Tối nay có trăng, tiện lắm.

Rồi anh ta hỏi cho có chuyện:

- Thím có đau ốm gì không? Sao lại nằm dã dượi một mình trong căn nhà đóng cửa tối mờ như vậy?

Vợ Cai tuần Hạp cười gượng:

- Tui có đau ốm chi đâu! Bởi vì thai hành nên tui cứ sật sừ sậtsưỡng vậy mà! Tui cũng mới vừa uống thang thuốc dưỡng thai do ông NămTảo hốt nên cũng thầy đỡ.

Rồi chị ta giục:

- Thôi, anh kíp về báo tin cho ông Bang biện mừng. Tui vừa sắm cục xà bông sả, sẽ tắm gội cho da thịt thơm tho, để... tiếp ổng.

Giọng người đàn bà vừa lẳng lơ vừa se sắt làm Cai tuần Xướng rợn cảngười, nhưng biết chị ta bằng lòng tiếp ông Bang biện Hưỡn là anh ta đủmừng rồi.

Xế đó, ông Bang biện Hưỡn sai con Lý, con Lài dọn ông một tiệc tượunhỏ để ông cùng Cai tuần Xướng cụng ly. Ông cao hứng bảo tên nha trảotâm phúc:

- Xong cái vụ vợ thằng Cai tuần Hạp, mầy nên bắt tay lo vụ em gái anh Hương bộ Lại cho tao.

Ông đặt vào tay Cai tuần Xướng một phong bao:

- Mầy cứ ăn nhậu cho đã đời đi. Còn tao, tao chỉ có thể nhậu sươngsương thôi. Tối nay nếu say li bì thì còn làm ăn giống gì được! Tao tặng mầy hai chục bạc này để uống trà.

Ông lôi chai rượu thuốc ngâm xác con chim bìm bịp phơi khô ra nhâmnhi. Đó là rượu tráng dương mà Cai tuần Xướng bổ cho ông hồi Tết vừarồi. Trong tủ buýp- phê của ông cũng đã có hủ rượu ngâm cắc kè bông, một thứ rượu dương khác.

Sau bữa tiệc, Cai tuần Xướng say hoắc cần câu, phải vịn vai thằngĐực để về nhà. Còn ông Bang biện Hưỡn đánh một giấc thiệt đã. Khi ôngthức dậy thì trời đã chạng vạng. Mâm cơm chiều cọn lên, ông ăn thiệtngon miệng vì có món canh cá khoai nấu ngót mà ông rất ưa. Xong xuôi ông đi tắm, cạo râu, xịt dầu thơm và mặc bộ đồ bà ba bằng lục soạn trắng.

Tay xách đèn tán chai, ông chậm rãi đến nhà Cai tuần Hạp. Lúc đóvầng trăng mười ba khá tròn, rải ánh sáng khắp nơi. Vùng ngoại ô tỉnh lỵ dập dìu người đi chơi trăng. Ông Bang biện Hưỡn đi sâu hướng xóm ĐìnhKhao, bước qua cầu sát lót ván, rẽ vô vùng thôn ổ tận rạp cây dâu miềndưới, bụi tre gai, khóm tầm vông.

Đây rồi! Nhà Cai tuần Hạp đây rồi! Mái lá lợp nhô khỏi chòm cây đenthẳm, bên kia lối đi đắp đất lươn song song với dòng rạch lấp loáng ánhtrăng. Cửa ngõ không gài, ông đẩy cánh cửa bước vào lối đi ngắn và hẹpviền những cây kim quát trổ bông thơm ngát để bước vào vuông sân ngổnngang là vàng. Mái hiên tối mờ mờ, nhưng có ánh đèn chong le lói qua mắt cáo. Ông Bang biện Hưỡn tằng hắng:

- Có ai trong nhà không?

Tiếng đờn bà lảnh lót vọng ra:

- Ông Bang biện đó phải không? Cửa không có gài chốt, mời ông vô kẻo lạnh.

Một trận gió lốc nổi lên, lá vàng bay thốc. Ông Bang biện đẩy cửa vô. Vợ Cai tuần Hạp nhõng nhẽo:

- Sao trể vậy? chờ ông xốn xang tấc dạ vậy đó!

Ông Bang biện cười mơn:

- Qua đây cũng trông đứng trông ngồi, mong trời mau tối...

Ông ồm chầm lấy chị ta, vuốt ve cái bụng chửa lùm lùm của chị, hun hít. Mà ủa lạn, sao mình mẩy chị ta lạnh ngắt. Ông hỏi:

- Sao mình mẩy em như ướp nước đá vậy?

Vợ Cai tuần Hạp háy ông bằng cặp mắt có đuôi:

- Thì em phải tắm rửa sạch sẽ để tiếp ông. Ngặt vì lóng rầy em yếutrong người, gặp nước lạnh về chiều nên da thịt mới như vậy. Ông úm emmột đỗi thì em ấm lại liền!

Ông tiếp tục hun hít, ấp ủ người đàn bà. Quả nhiên da thịt chị ấmlại dần. Nhưng khi ông muốn bóc hết lớp quần áo che thân chị thì chị đềnghị:

- Ngoài sau vườn em có một cây rơm, chỗ đó quanh năm suốt thángchẳng ai lai vãng. Đêm nay có trăng, tụi mình ra đó gẫm có thú vị hơnkhông?

Ông Bang biện Hưỡn khoái quá, gật gù khen ngợi:

- Thiệt qua không ngờ em... cao kiến như vầy, hiểu chuyện phong lưu tao nhã lắm. Vậy thì mình cùng đi!

Cả hai sóng bước ra ngoài nhà sau. Quả thiệt có cây rơm bên cạnh cái ao. Ven ao là cây gừa, Đom đóm bám vào từng chiếc là, ánh sáng chớp tắt liên hồi. Trăng bây giờ lên cao, thu nhỏ lại, sáng như phiến gương làulàu nước thủy. Quanh ao tiếng vạt sành kêu râm ran. Chốc chốc có tiếngcá ăn móng.

Ông Bang biện Hưỡn bước cạnh người đờn bà, chốc chốc lại quay quanhìn chị cười mơn. Bỗng ông lạnh mình. Ô hay! Người đàn bà đi cạnh ôngrõ ràng là cô Út Thoại Huê. Ông buốt miệng kêu: "Trời ơi!" rồi đưa taydụi mắt. À thì ra ông nhìn lầm, vợ Cai tuần Hạp chớ không ai khác. Người đờn bà gặng ông:

- Ủa, sao ông kêu trời vậy?

Ông Bang biện Hưỡn nói lảng:

- Không, có gì đâu! Tại qua thấy em đẹp nên buột miệng vậy mà!

Vợ Cai tuần nhìn ông đăm đăm như thôi miên:

- Thiệt không đó? Hay ông tưởng em là cô nào khác?

Ông Bang biện cười dã lã:

- Thôi mà em, em nói chi chuyện tầm phào cho mất vui!

Người đờn bà khi tới gốc cây rơm, nằm dài ra, giọng ỏn ẻn thẽo thợt:

- Mình ơi, em đây nè. Mình có chiên xào, kho nấu em cách nào, em cũng vui lòng hết.

Chị lột hết quần áo ông, ôm sát vào người chị rồi bất ngờ siết thiệt chặt làm ngực ông muốn vỡ vụn. Chị ta cười hăng hắc, sắc lạnh như từnggáo nước dội lên mặt, lên sống lưng ông. Ông Bang biện sững sờ nhìn chị. Trời ơi, rõ ràng là Út Thoại Huê đây mà! Quả nhiên người đờn bà thethé:

- Con quỉ dâm dục, con quỉ súc sanh từng làm nhơ các thai phụ để họphải chịu nhục nhã vì ô danh xủ tiết! Cả nhà Cai tuần Hạp đã vì mầy màlìa quê lìa quán, đem thân cầu thực xứ người! Bọn họ đi Bạc Liêu từ haihôm rồi, tao phải giả dạng chị vợ để răn dạy mầy!

Nói tới đây, cô Út Thoại Huê thổi một làn hơi lạnh buốt lên mặt ông bang biện Hưỡn khiến ông lịm đi.

Sáng hôm sau, mấy người đờn bà hái rau dại trong xóm phát giác ôngBang biện Hưỡn nằm im lìm bên mộ cô Út Thoại Huê, liền tri hô lên. Mấylực điền xúm lại, lấy chiếu đắp lên thân thể trần truồng của ông, rồi hơ lửa cạo gió, xức dầu... Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, ông bắt đầu thởthoi thóp.

Sau khi hỏi han gốc tích, họ đưa ông Bang biện Hưỡn ra bến sông CổChiên, dùng xuồng đưa ông về bến chùa Bảy Phủ và võng ông về Cầu Đào.Sau đó ông bị á khẩu, câm luôn.. Ông còn bị bán thân bất toại, nằm ngồimột chỗ. Khi mắc tiêu tiểu, ông phải lết tới cầu xí một cách khó nhọc.

Bà Bang biện Hưỡn khi đi chợ Ba Xi chuộc bùa về chẳng những khôngvui mà còn thấy chồng bịnh hoạn như vầy thì vừa rầu vừa lo. Thầy Năm LêThái Sanh vừa khi diện kiến mẹ con bà, đã bảo:

- Trị bịnh là chuyện nhỏ, còn trị được cái ác nghiệt hay không làmột chuyện tỉ như hột muối thả xuống dông, nước sông làm sao mặn chođược! Tui coi qua sắc diện bà và hai cô đây từ ấn đường đã có vệt đenửng ra rồi! Đây là ác quả hiện hành, ác báo phát tác. Bà và hai cô nêntụng kinh niệm Phật cho siêng, làm việc bố thí cho nhiều thì họa may mới cạy gỡ được phần nào móng vuốt của ác quả ác báo đó.

Bà Bang biện dù lo dù rầu bởi lời nói của thầy Năm Lê Thái Sanhnhưng vẫn không ngưng việc bòn tro đãi trấu, hành hạ xéo xắt kẻ dưới tay mình. Hễ việc làm ăn không trôi chảy, bà kiếm chuyện đánh chửi Bửu, coi việc nuôi cậu trong nhà là nuôi kẻ đem oan nghiệt và xui xẻo cho mình.

Một hôm, cô Tư Cẩm Lệ từ Sài gòn hớt hơ hớt hải báo tin:

- Nguy rồi má ơi, sáng hôm qua con đốt nhang trang thờ bùa thì thấy gián cắn lá bùa lam nham. Làm sao đây má?

Ha mẹ con ngồi lo rầu không biết gỡ rối cách nào thì tới xế chiều,cô Ba Cẩm Tú tay che dù, tay xách bóp từ Cầu Lầu qua thăm. Cô vừa khócvừa thuật:

- Hổm rày, tối tối con nghe chuột kêu chít chít ở mấy bàn thờ nênmừng thầm vì nghĩ đó là điềm hên. Ai mà dè sáng nay con ở của con chưngbông, cúng nước trên trang thờ thì thấy gói bùa bị chuột cắn nát ráotrọi rồi!
 
Chương 8


Cứ mỗi ngày cô Ba Túy Nguyệt đem cơm cho Bác vật Cảnh. Lúc đầu bà NămTảo sợ con mình vì tiếp xúc với kẻ phong hủi lâu ngầy chầy tháng sẽ bịlây bịnh ngặt nghèo kia, nhưng ông Năm Tảo khuyên:

- Sanh lão bịnh tử đều có số mạng cả, má nó chớ lo. Con Ba nhà mìnhđem cơm cho ông Bác vật chớ có tiếp xúc kề cận với ổng đâu mà má nó sợlây bịnh.

Cô Ba Túy Nguyệt cũng trấn an mẹ:

- Thưa má, con mang cơm nước cho ổng con chỉ đứng đàng xa nói chuyện chớ không chà lết, quết xảm lên bộ ván gõ của ổng, con cũng không uốngnước, ăn bánh ổng mời thì làm sao lây bịnh được. Ăn uống xong, ổng tựtay rửa gào- mên, phơi cho ráo để bữa sau con tời lấy đem về.

Vậy là ngày ba bữa, dù nắng hay mưa, cô Ba cũng đem cơm qua túp nhàlá nơi ông Bác vật Cảnh thuê. Tuy nhiên bà Năm tự nhủ để hưỡn hưỡn bà sẽ xúi ông Bác vật Cảnh thuê một đứa trẻ trong xóm lo việc đem cơm nướccho ông.

Lần đầu chạm mặt ông Bác vật Cảnh, cô Ba Túy Nguyệt bàng hoàng khôntả. Trừ làn da đỏ thén vì bịnh, đường nét trên khuôn mặt ông thiệt khôivĩ: Mũi dọc dừa, cầm vuông, trán đứng thẳng vách thành, cặp môi đầy đặnvà rõ nét.. Chèn ơi, mặt gì mà thanh tú từng nét một! Đã vậy, vóc mìnhông còn cân đối. Hôm đó ông mặc quần đùi, sơ- mi màu cháo lòng có vá vài mảnh để tiện việc vun xới líp huệ bên hè và mấy khóm bông tang, bôngngọc trâm trong sân. Cả hai chào nhau. Cô gái nhỏ nhẹ thưa:

- Thưa ông bác vật, ba má em sai em đem cơm qua đây. Từ rày về sau,hễ ông muốn ăn món chi xin cho em biết trước một ngày để em đi chợ muasắm rồi nấu nướng cho ông ăn sốt dẽo.

Ông Bác vật trả lời:

- Để rồi đêm đêm, tôi nằm gác tay lên trán coi mình thèm ăn món chi, sẽ nói cho cô biết.

Cô Ba Túy Nguyệt đặt gào- mêm xuống bàn, lôi tùng ngăn ra để bày lên mâm. Bốn ngăn, trừ một ngăn đựng đầy cơm gạo nanh chồn trắng như bôngbưởi và thơm ngào ngạt, ba ngăn kia gồm món canh rau cao kỷ nấu thịt,món sườn nướng thơm điếc mũi, món lòng gà xào thuốc vừa sắc cùng haitrái xoài cát làm món tráng miệng.

Bác vật Cảnh xoa tay, trầm trồ:

- Cơm sốt canh nóng, chỉ ăn bằng mắt thôi tôi cũng đã biết ngon dở ra sao rồi. Ai làm bếp vậy cô?

Cô Ba rụt rè:

- Thường thị chị Hai em cùng em làm bếp, nhưng hôm nay chỉ theo máem đi vô ngọn rạch CÁ Trê thăm người quen nên em làm bếp mình em. Mongông không chê món dở mà chiếu cố cho em mừng.

Co rót thuốc vào chiếc tô sành, rồi bày trên chiếc dĩa sứ trái táotàu và trái cà na tẩm đường. Xong xuôi, cô xin phép ra về. Ông Bác vậtCảnh vừa ăn cơm vừa hình dung lại nhân diện vóc dáng sô gái. Chu choaơi, cô nầy là gái giữa chợ nửa quê mà sao có tướng sang dường ấy! Khuônmặt trái xoan, sóng mũi giọt mật, vàng trán cao, mắt xếch thuộc loạiphụng nhỡn sáng long lanh, cặp môi trái tim ửng màu san hô, hàn răngngọc trai dều đặn trắng bóng, mái tóc óng ả như mua nhuộm huyền giồi! Đã vậy vóc mình cổ còn cao ráo, yểu điệu. Khi bước đi, tay cổ đánh đàng xa dịu nhiễu. Giọng cổ còn ấm áp lảnh lót, phát âm ráo rẻ ra người ăn học. Phải chi mình không mang bịnh nan y, mình sẽ cưới cổ, cất nhà lầu haitừng cho cổ ở mới xứng đáng cái huê dung nguyệt mạo của cô.

Trưa hôm đó, cứ nghĩ tới cô Ba Túy Nguyệt, rồi nghĩ tới hoàn cảnhcay nghiệt của mình, Bác vật Cảnh thêm thao thức, không tài nào ngủ trưa được. Theo trí lan man, ông nghĩ hết chuyện nọ qua chuyện kia. Gia đình ông thanh bạch, tuy không theo đạo nào nhưng thường tu nhơn tích đức,thờ cúng ông bà. Ông thì nhiễm Tây học, tin khoa học chớ không tin mộtđấng tạo hóa nào. Sống trong buổi giao thời, nhận thấy nước nhà khôngđược khai hóa mở mang nên ông tích cực tham gia vào các hội phước thiện, hội chống mù chữ, hội chống hủ tục, hội khuyến nông cùng các hoạt độngnâng cao dân trí. Vậy mà từ khi vướng bịnh nghiệt nầy, ông đành bỏ dởhết mọi hoạt động, cam sống ẩn dật nơi thôn ổ tịch mịch.

Bên ngoài trời xáng một trận mưa, lúc đầu tầm tã rồi sau cứ rỉ rảdai nhách. Mưa điệu nầy, làm sao ông ra ngoài sân để o bế bông kiểng vàchăm bón vạt đất trồng rau cho được! Bởi đó ông đốt rề- sô nấu nước, pha cho mình một bình trà. Uống trà xong, ông lấy quyển Đường thi ra ngâmrồi thử dịch ra tiếng Việt. Bên ngoài, thỉnh thoảng gió lùa vào bụi trekêu rào rào hoặc khua mấy nhánh bằng lăng, nhánh trúc bách diệp phầnphật. Sau đó ông bỏ vào giường nằm gác tay lên trán, mắt lim dim.

Bóng chiều xám tro kéo về. Mưa vẫn chưa ngớt. Ngoài mé ruộng sâm sấp nước, ngoài ao bàu lũng vũng, tiếng ếch nhái, nhóc nhen, chàng hiu, bồtọt cưa kêu nềnh oang buôn sao mà buồn thúi ruột! Ông bèn chổi dậy đirửa mấy ngăn gào- mên và súc ấm. Xong, ông đem phơi trên vì tre cho ráonước.

Bỗng ngoài sân có tiếng lăng líu:

- Xin thưa, có ông Bác vật trong nhà hay không?

Bác vật Cảnh đi thắp đèn và nói vang ra:

- Tôi ở trong nhà đây. Trời mưa ướt át, tôi có dám ra ngoài sân, ngoài hè, ngoài vườn đâu!

Cô Ba Túy Nguyệt đem hai gào- mên kháÿc đựng cơm và thức ăn qua.Chiều nay cô đổ bánh xèo. Món cơm nóng ăn với tôm kho tàu là đề ăn dặmthêm kẻo đêm dài ông sẽ đói bụng. Cô lôi giỏ lấy bánh xèo và rau sốngbọc trong lá chuối để bày ra mâm. Cô mở nút chai đựng nước mắm giấm ớtrót ra chén nhỏ để ông chấm bánh xèo.

Bác vật Cảnh than:

- Trời chiều mưa gió, nằm đọc sách hoài nên tinh thần tôi trì trệlắm. Sẵn bánh xèo nóng hổi bù thổi bù ăn nầy, ăn xong chắc tinh thần tôi sẽ phấn chấn được chút nào chăng!

Cô Ba chắc lưỡi:

- Chết chưa! Nằm mà đọc sách hoài thì đầu óc tránh sao khỏi loõngbõng, tinh thần làm sao khỏi sa sút đây! Ông Bác vật nên tìm kinh kệ màđọc có hơn không?

Bác vậy Cảnh cười cười::

- Ý gì cô khuyên tôi như vậy?

Cô Ba sắp mấy trái mận xanh, đỏ vào dĩa, nhoẻn nụ cười ranh mảnh:

- Thưa, em có ý gì đâu. Ông thử đọc vài phẩm kinh Đại Thừa thử coicó hạp với nhu cầu tâm linh của ông hay không! Nếu hạp thì đọc tiếp, còn không thì ông cứ đọc sách khác để mở mang trí thức.

Bác vật Cảnh ỡm ờ:

- Được rồi, tôi sẽ đọc kinh Phật cho cô vui.

Cô Ba nghiêm ngay sắc mặt, thái độ lạnh lùng nên Bác vật Cảnh khôngnói gì thêm. Cô chồng những ngăn gào- mên, xỏ vào tay xách, còn chiếc ấm đất thì cô bỏ vào giỏ mây. Bên ngoài mưa đã tạnh, trời nạm đầy sao đêmlấp lánh. Bóng trăng tròn vành vạnh đã ló dạng ở phương đông. Bác vậtCảnh bảo:

- Chắc cô không rõ, tôi đã có lần thưa với bác Năm rằng tôi vốnkhông duy tâm nên không tin đấng tạo hóa. Theo tôi, tôn giáo chỉ lập ranhững lý thuyết khiến con người cần an. thiếu ý chí tiến thân.

Cô Ba Túy Nguyệt lắc đầu:

- Đó chỉ là thành kiến. Nếu ông đọc kinh Phật, ông sẽ có những suy nghĩ khác.

Và cô vẫn giữ vẻ lạnh lùng:

- Thôi, xin chào ông. Đêm nay ông có suy nghĩ muốn ăn món chi thì sáng mai cho em biết.

Cô bước ra ngoài, men theo lối nhỏ băng qua khoảng đất trống mọc đầy cỏ đuôi chồn, cây ké, cây mua, cỏ mực để tiến vè phía hàng rào ngăn đôi khuôn viên nhà cô và ngôi nhà thuê này, mở cửa rào bước vào khuôn viênnhà mình.

Hôm nay cả nhà ăn cơm trễ phải chờ cô Thiệt Nguyện đi An Hữu về.Cũng như thường lệ, bàn ăn được cọn hai mâm. Mâm mặn dành cho cả nhà,mâm chay dọn riêng cho cô Thiệt Nguyện. Món bánh xèo chay được đúc nhưnbằng giá, nấm mối, đậu hũ chiên... Hôm nay lại có ông Đạo Chuối đếnviếng, và cũng như thường lệ ông chỉ ăn chuối chớ không ăn cơm. Bởi đó,bà Năm Tảo đãi ông bằng chuối cau vàng óng, ngọt và thơm. Ngoài ra ôngNăm Tảo còn pha cho ông một bình trà Ô Long thiệt ngon.

Trong lúc dùng bữa, bà Năm Tảo mang ý định thuê trẻ mang cơm cho ông Bác vật Cảnh ra tỏ với cả nhà. Cô Ba Túy Nguyệt lộ vẻ bất bình, bảo mẹ:

- Má nghĩ coi, nếu má sợ con lây bịnh rồi đi mướn một thằng nhỏ đemcơm cho ông Bác vật thì té ra mình ỷ có tiền đưa nó vào chỗ hiểm nghèohay sao? Gia đình mình là Phật tử thuần thành, con đâu thể để má làm như vậy được. Vả lại con vốn dè dặt kỹ lưỡng, gẫm chẳng hại chi. Còn bọncon nít lòng dạ hời hợt, ăn chưa no lo chưa tới, khó mà gìn giữ kỹ,không sớm thì chầy tụi nó cũng bị lây bịnh.

Cô Hai Túy Ngọc biểu đồng tình:

- Em con nói phải đó má. Thôi, để con với nó thay phiên nhau đem cơm cho ổng. Ông ta kể vai vế và thứ tự họ hàng là em chồng của con đó, chớ có phải người dưng nước lã đâu!

Cô Thiệt Nguyện ngăn cản:

- Em lãnh phần đem cơm cho ổng sao tiện. Thôi để cho con Ba cũng được.

Cô Hai cười:

- Tiện hay không tiện là chuyện thị phi. Mình hơi nào để tâm tớimiệng lằn lưỡi mối cho mệt! Cứ làm theo lương tâm, theo lẽ phải. Hễ đứctrọng thì quỷ thần kinh.

Bà Năm Tảo làm thinh, không dám chêm vào một tiếng bàn ra nào nữa.Cơm nước xong, cả nhà ra trung đường hầu chuyện ông Đạo Chuối.

Ông Đạo than phiền:

- Tui vừa đi An Hương về. Bịnh tình bà Mười Hai có mòi tái phát. Tui có dán mấy đạo bùa ở cửa buồng bả, vậy mà đêm đêm yêu quái cứ chui vôbuồng cưỡng dâm bả. Tui biết ngay là con yêu nầy bản lĩnh cao cườngtrong khi tui còn non tay ấn. Chồng bả cho tui hay bả lại lớn bụng thêmmột lần nữa. Ồng khóc lóc xin tui cứu mạng bả, cho nên ngày mai tui phải đi đò máy về Châu Đốc tìm sư huynh tui là ông Đạo Xiêm để xin vài lábùa. Sư huynh tui có học luyện bùa ngải và trừ tà tận bên Xiêm.

Bà Năm Tảo thở dài bảo chồng:

- Ông coi đó, nếu vợ chồng bà Mười Hai từ trước biết tu nhơn tíchđức thì đâu phải lãnh cái ác bào như vầy Thừ khi ị yêu mà tà quái quấynhiễu, bả đã phải bỏ thành thị để về An Hương, vậy mà có thoát đâu!

Cô Thiệt Nguyện kể thêm:

- Thưa thím, cháu đi An Hương, nghe đâu xóm bên cạnh đình kể rằngtrước đây bà Mười Hai lâu lâu từ chợ Vãng về các làng quê lân cận dụ dỗgái quê ra thành, trước hết bắt họ làm đầy tớ, sau đó bà mua sắm quầnhàng áo lụa cùng son phấn vòng vàng cho họ, bắt họ tiếp khách. Ăn quentheo kiểu đó, bà dụ dỗ gái chú Thường xuyên Lê Văn Hai ở An Hương khiếnchú tức giận, vốn mang bịnh lao nặng nên chú hộc máu tươi ra mà chết.Con trai chú sau đó bỏ nhà ra đi, thề sẽ trả thù. Ít lâu sau, hắn lảngvảng ở xóm Lò Tương ngoài chợ Vãng là nơi bả mở động điếm. Hắn tò tí với chị bếp bả, bỏ bùa vô thức ăn của bả sao đó nên bả phát điên. Chồng con bả đưa bả về An Hương tịnh dưỡng. Sau đó công việc làm ăn thất bại, họđành bán nhà, bán động đĩ ở xóm Lò Tương về xóm cạnh đình làng An Hương. Càng lúc cơn điên của bà Mười Hai càng nặng, bà thường đổ hô có yêuquái đêm đêm vô buồng cưỡng dâm bà, nhưng chồng con bà thì nghĩ rằng bảđiên chớ có yêu quái gì đâu!

Ông Đạo Chuối nhấn mạnh từng tiếng:

- Bà điên trước, sau đó yêu quái thừa lúc tâm thần bà dao động, nhập vô quấy phá. Tiếc rằng tui chưa dò dẫm được tung tích con yêu đó màthôi!

Cô Thiệt Nguyện bảo:

- Dạo sau nầy hễ nghe chó sủa là bả hoảng kinh hồn vía, tay chân run lẩy bẩy, sống lưng bả đổ mồ hôi lạnh ngắt. Con chó nào sủa dai thì bảlăn đùng ra chết giấc.

Mưa lại kéo về. Câu chuyện xoay qua đề tài khác. Bà Năm Tảo lau bộván cẩm lai, trải chiếu bông, bày mền nỉ, gối ống để dọn chỗ ngủ cho ông Đạo Chuối. Sau đó ai nấy rút về buồng riêng. Bà Năm Tảo dặn hai cô congái:

- Con Hai con Ba hãy đi ngủ sớm để đầu canh năm thức dậy bắt nướclàm gà nấu cháo. Bay cũng đừng quên nấu cháo chay cho chị Thiệt Nguyệnbây dùng. Nhà có sẵn nấm rơm, mì căn, tào hũ ky, đủ bộ vận hết...

Mưa bên ngoài không ngớt, hễ trận nầy vừa tạnh là đám khác kéo về.Sau đó mưa cứ tuôn rỉ rả, trùn dế bên nhà tỉ tê từng loạt. Cô Ba TúyNguyệt thay bộ quần áo rộng rồi vào giường, buông mùng xuống. Ngọn đènchong vẫn cháy sáng mà cô không buồn vặn nhỏ. Thời tiết mát lạnh làmgiấc ngủ mau tới.

Bỗng dưng cố Ba thấy mình đang đứng dưới mái hiên túp nhà lá mà Bácvật Cảnh vừa thuê. Cô đang đứng gần lu nước có chiếc gáo dừa gác trênmiệng lu. Kế lu nước la khóm trang trổ bông đỏ như ráng chiều hè. Bỗngmột người đàn bà mặc chiếc áo dài trắng, có khoát khăn san the trắng,dáng đi thướt tha yểu điệu tới gần bên cô. Tửng ai té ra cô Út ThoạiHuê. Cô Ba Túy Nguyệt hoảng kinh toan chạy trốn thì cô Út trấn an liền:

- Cháu đừng sợ. Dì tuy là hồn ma bóng quế nhưng là vong cô của cháu, thường theo phù hộ cháu chớ có làm hại cháu bao giờ. Nè, hôm nay dìhiện hồn vào giấc chiêm bao của cháu để báo cho cháu một điều: ông bácvật Cảnh là người có duyên nợ với cháu đó. Cháu phải gắng mà săn sócổng.

Cô Ba Túy Nguyệt thắc mắc:

- Thưa dì, ổng đang mắc bệnh nan y, lẽ nào ba má cháu chịu gả cháu cho ổng?

Hồn cô Út cười:

- Việc đời biết ra sao mà lường! Rồi đây cháu sẽ rõ, thiên cơ bấtkhả lậu, cháu ôi!! Dì chỉ muốn biết một điều: cháu có tình ý gì với ổngkhông?

Cô Ba Túy Nguyệt mắc cỡ:

- Dì hỏi trớ trêu quá, nhưng cháu cũng xin thưa cháu kính mến ổng vì ổng là người ăn học, có dự phần vào xã hội tân tiến. Cháu lại cònthương xót ai hoài cho thân phận ổng vì bịnh ngặt nghèo mà phải bỏ hếtcông việc, chí hướng để về chui rúc nơi thôn ổ quạnh hiu như xóm ChuồngGà nầy.

Hồn cô Út:

- Cháu là kẻ có lòng. Nội việc cháu không muốn mướn kẻ khác đem cơmnước cho ổng đã có thể gieo nhơn lành cho cháu rồi. Vậy cháu hãy săn sóc ổng cho chu đáo, và nhứt là phải thuyết phục ổng trọng Phật kính tăng,có vậy mới ngó lại cháu.

Nói xong cô Út Thoại Huê biến mất. Cũng vừa lúc đó, cô Ba Túy Nguyệt thức giấc. Nằm ôn lại giấc chiêm bao, lòng cô ngổn ngang trăm mối. Câucủa cô Út: "Việc đời biết ra sao mà lường" lại đập vào tâm trí cô. Nếuvậy Bác vật Cảnh sẽ có ngày hết bịnh? Nhưng hết bịnh bằng cách nào đây?Họa chăng nhờ phép lạ. Săn sóc ông, cô Ba không quản ngại. Cô chỉ ngạimình không thể cảm hóa ổng tin tưởng đạo Phật, trau giồi phương tiện tâm linh!

Thiệt tình, tù khi Bác vật Cảnh dọn về đây, cô Ba Túy Nguyệt khônghề có cảm tình gì đặc biệt với ông ta. Không phải tại cô chê ông vướngbịnh ngặt. Cô chỉ nhận thấy giữa ông ta và cô, mỗi người có một thế giới khác, một xã hội khác, một hoàn cảnh khác nên tâm tính, ý chí, tình cảm phải khác nhau. Nhưng từ sáng hôm nay, giáp mặt ông, nói chuyện vớiông, cô cảm thấy lòng mình bâng khoâng khó tả. Lúc đầu cô cho rằng tạivì ông ta gợi ở cô lòng trắc ẩn, nhưng giờ đây cô mang máng thấy rằng,sau tấm lòng trắc ẩn kia còn có một tình cảm khác nữa. Thôi thì cô đànhphó mặc cho nghiệp quả đẩy đưa, chớ làm sao cô lường được diễn biến sắptới! Quý hồ là cô giữ được tấm lòng trong sạch, ý chi kiên trinh vànương theo Tam Bảo mà sống đời khiêm tốn nhưng sáng danh Phật tử. Cóđược như vậy thì dù tai ương hoạn nạn bủa giăng, cô vẫn bình tâm trảquả, gây dựng nghiệp tốt, tấm lòng tự tại sẽ lần lược sáng lòa như gương báu.

Cô Ba Túy Nguyệt nối lại giấc ngủ cho tới lúc chùa xóm bên gióngtrống dóng chuông làm lễ công phu. Cô cùng mẹ và chị nấu nước pha tràrồi cho vào chai lít. Bà Năm Tảo lấy hai nải chuối sứ, chai lít đựngnước trà và hai bộ quần áo vải xiêm vừa giặt sạch bỏ vào bao cà ròn, một loại bao đươn bằng lá bàng. Đây là hành lý của ông Đạo Chuối.

Vào lúc bà Năm và hai cô con gái đốt đèn làm việc trong bếp thì ôngĐạo Chuối cùng ông Năm Tảo thức dậy. Uống xong tuần trà, ông Năm hối ông đạo đi ra bến tàu. Chiều hôm trước, ông đã mua giấy tàu để sáng nay ông đạo đi Châu Đốc.

Từ xóm Chuồng Gà muốn đi tới bến tàu phải đi bộ ra giốc cầu ThiềngĐức, ở đó có xe kéo, xe lôi, xe xích lô để qua bên kia khu chợ và đi một mạch tới bến tàu. Vừa lúc đó, ông Chín Thẹo và cô Út Ngọc An từ bên kia hàng rào bước qua. Ông Chín Thẹo nói với ông Đạo Chuối:

- Má bầy trẻ có thuê hai chiếc xe lôi để cùng đưa ông đạo ra bến tàu. Giờ nầy chưa xe nào có mặt ở giốc cầu Thiêng Đức đâu!

Cô Út Ngọc tha thiết:

- Bạch ông Đạo, nếu nhờ tha lực của thập phương chư Phật cùng tàitróc quỉ trừ yêu của ông mà dì Mười Hai con hết bịnh thì con sẽ thuyếtphục dì con qui y Tam Bảo và noi gương ông cùng chị Thiệt Nguyện để cứunhơn độ thế.

Ông Đạo Chuối mở đãy bằng vải nâu, lấy ra ba quyển kinh đưa cho cô Ba Túy Nguyệt:

- Tặng cháu ba quyền kinh nầy, biết đâu sẽ có ích lợi cho cháu.

X

X X

Sáng hôm đó, khi đem liễn cháo gà cho Bác vật Cảnh, cô Ba mang theoba quyển bửu kinh mà ông Đạo Chuối vừa tặng cô đưa cho ông Bác vật. Côchờ đợi phản ứng của ông. Ông cầm quyển kinh Viên Giác lên lật vàitrang, mặt không hề đổi sắc.

Chiều hôm sau, khi cô Ba xách cơm canh qua thì bắc gạp Bác vật Cảnhđang chăm chú xem kinh Lăng Nghiêm. Vừa thấy cô, ông xếp sách lại. Côvừa bày thức ăn ra mâm, vừa hỏi:

- Quyển kinh ông đang xem đó, ông thấy ra sao?

Bác vật Cảnh trả lời:

- Ngay từ hai phần đầu, tôi đã bị quyển sách này lôi cuốn. Đẻ tôiđọc xong, sẽ cho cô biết sau. Bây giờ, tôi có thể nói với cô điều nầy:Triết thuyết nhà Phật không phải là tà thuyết mà là để giúp chúng sanhgiải phóng tâm thức. Lâu nay tôi đã lầm tưởng, thiệt bậy quá xá!

Từ đó tới suốt nửa tháng sau, Bác vật Cảnh ngoài thú làm vườn,thường đọc kinh và tư duy. Ông có nhờ ông Năm Tảo mua cho ông bức tượng A Di Đà Tam Tôn và tượng Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Đêm đêm ông tụngkinh Dược sư, nhưng đó là chuyện về sau.

Sau khi tìm gặp ông Đạo Xiêm ở Tân Châu, ông Đạo Chuối đem bùa trừtà tróc yêu về đất Vãng. Ông Chín Thẹo sắm sửa ghe rồi cùng ông ĐạoChuối, cô Thiệt Nguyện và cô Út Ngọc An đi An Hưng để trị bịnh cho bàMười Hai.

Ông bà Mười Hai ở tong ngôi nhà lợp ngói âm dưng, vách vÿn bổ khocách ngôi đình làng một con rạch nhỏ, có chiếu cầu khỉ bằng tre bắcngang. Xung quanh nhà là ngôi vườn thập cẩm trồng nào chuối, ổi, mận,nho cam, xoài, chanh, bưởi...

Thấy khách chợ Vãng đến, ông Mười Hai mừng lắm, sai trưởng nam làcậu Hai Thanh dọn hai căn buồng, một dành cho ông Đạo Chuối và ông ChínThẹo, một dành cho cô Thiệt Nguyện và cô Út Ngọc An. Ông cũng sai congái là cô Ba Hồng bắt con vịt cà cuống nấu cháo, cùng dọn cơm chay chocô Thiệt Nguyện và cô út.

Ông Chín Thẹo hỏi người em cột chèo:

- Dì Mười Hai có đỡ chút nào chăng vậy dượng?

Ông Mười Hai buồn rầu:

- Từ mười bữa nay, má sắp nhỏ lại trở bịnh, cứ hô bị quái vật hãmhiếp rồi hát lý tối ngày. Cả nhà phải giữ bả kẻo bả uống nước bùn sìnhmà bả cho rằng ngon còn hơn cam lộ của Phật bà.

Bà Mười Hai nghe có khách tới liền từ trong buồng bước ra. Đó làngười đờn bà tuổi ngoài bốm mươi, da dẻ xanh chành, mình vóc gầy mòn khô héo, tóc rụng xơ xác. Vừa thấy mặt ông Đạo Chuối là bà ré lên chửi:

- Tiên nhơn tổ đường cái quân tả đạo bàng môn nầy! Tao bị nó hành mà mầy còn dắt phường đầu trâu mặt ngựa tới đây quấy rầy không cho taotịnh dưỡng phải không?

Bà xốc lại ông Đạo Chuối toan hành hung, nhưng cậu Hai Thanh hiệpsức cùng ông Mười Hai và ông Chín Thẹo xúm lại cản ngăn và dùng lời dịungọt an ủi bà. Bà ngoe ngoảy bỏ vô buồng, miệng hát:

- Tay thiếp ôm chiếc gối vuông, mắt thiếp tuôn giọt ngọc. Buồng vắng chàng rồi, bụi mốc nhện giăng...

Ông Mười Hai nói với ông Đạo Chuối:

- Vợ tui từ khi điên về đây tịnh dưỡng, úng thuốc bắc do thầy NămTrợ gần đây hốt như uống nước lã! Tối hôm đó, bả bèn chạy ra ngoài giữacơn mưa lâm râm. Cả nhà xách đèn tán chai đi kiếm, thì thấy bả ngồi trên mả con chó bẹc- giê của ông Cai tổng Huyền...

Ông Chín Thẹo chận lại hỏi:

- Chó chết mà cũng có mả nữa sao?

Ông Mười Hai vừa vấn thuốc rê vừa đáp, vẻ mặt đăm chiêu:

- Số là ông Cai tổng Huyền có cậu trưởng nam tên là Hai Biểu. Củđược cha cho qua Tây học, đậu bằng tú tải rồi trở về nước. Cẩu về vườnsống đời công tử. Sau khi ông bà Cai tổng lần lượt qua đời, cẩu bán nhà, bán vườn, bán ruộng lên Lèo lập nghiệp rồi cưới vợ ở luôn bên đó. Nhàông Cai tổng trước đó bị thợ mộc ếm bùa Lỗ Ban nên ai ở cũng mần ăn thất bại cho tới tán gia bại sản mới thôi. Cho nên nhà đó bị bỏ hoang. Hồicòn ở đây, cậu Hai Biểu có nuôi một con chó tây, cưng nó lắm, cho nó ăntoàn thịt bò, thịt heo. Khi nó chết, cẩu chôn nó sau vườn, bốn bên mả có tấn đá ong.

Cậu Hai Thanh tiếp lời cha:

- Má cháu hôm đó trong cơn điên, đến ngồi trên mả con chó. Sau khiđược đưa về nhà, mỗi lần bả nghe chó sủa là bà nổi da gà, tay chân lạnhngắt. Rồi từ đó đêm đêm, bả đổ hô là có kẻ vô buồng hãm hiếp bả.

Ông Đạo Chuối ngồi im. Vận sự về bà Mười Hai, ông đã nghe nhiều rồi. Ông hỏi ông Mười Hai lập đàn để ông làm phép trấn quỉ trừ ma. Cô ThiệtNguyện thì lập bàn thờ, bày tranh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai rồi treophấn lụa năm màu và đốt 49 ngọn đèn để tụng kinh Dược Sư.

Ông Đạo Chuối treo tấm lụa đỏ vẽ hình bát quái bằng kim nhũ lónglánh ở đàn tràng rồi vừa đốt mười đạo bùa thả mười phương vừa đọc thầnchú. Đọc xong, ông bước xuống đàn tràng thì cô Thiệt Nguyện cũng vừatụng xong 49 biến Dược Sư Lưu Ly Quang Dà La Ni. Cả hai tạm ngưng côngviệc, ngồi uống trà giải lao ở trung đường với gia chủ.

Cậu Hai Thanh và cô Ba Hồng cúng đường hai nải chuối lá. Thứ chuốinầy tuy vỏ có nhiều sớ nhưng thịt thì khá ngon, ngọt hơn chuối sứ, chỉkhông thơm bằng chuối cau mà thôi.

Sau đó cô Ba Hồng dọn cơm chay cho cô Thiệt Nguyện và cô Út Ngọc An, ngồi bồi tiếp hai cô một chốc rồi mới xin phép dọn tiệc thịt vịt choông Chín Thẹo và cả nhà.

Hôm sau, cô Thiệt Nguyện bắt đầu tụng nguyên bộ kinh Dược Sư, cònông Đạo Chuối lên đàn tràng tiếp tục trấn ếm yêu ma quỉ quái. Sau khimọi việc xong xuôi, cô Thiệt Nguyện tụng hết bộ kinh và ông Đạo Chuối đã cuốn lá bùa bát quái bỏ vào đãy gấm, tất cả chủ khách đều tụ lại ởtrung đường đàm đạo. Ông Đạo Chuối bảo:

- Tui đã biết tung tích con quỉ quấy nhiễu bà Mười Hai rồi. Tui chỉcó thể trấn áp con quỉ đó, còn việc chữa bịnh điên của bả, phải nhờ thalực của đức Dược Sư cùng thập vị đại tướng Dược Xoa vậy.

Đem đó bà Mười Hai vẫn nói nhảm, lúc khóc lúc cười làm cả nhà không ai ngủ nổi. Ông Mười Hai bảo ông Đạo Chuối:

- Lạ chưa, hổm rày cơn điên của bả hơi bớt thì bữa nay lại có mòi tăng thêm.

Ông đạo trấn an:

- Cơn mưa trước khi tạnh tuôn ào ào hơn lúc mới rớt hột, xin gia chủ an tâm:

Canh năm vừa mãn, cô Út Ngọc An, cô Thiệt Nguyện cùng cô Ba Hồngthức dậy xuống bếp nấu cơm nếp và chuẩn bị bữa điểm tâm thì bà Mười Haitừ trong buồng bước ra, miệng hát:

- Đêm khuya tim lụn dầu hao,

Chồng tui say rượu, anh vào chi đây?

Rồi bà khóc sướt mướt:

- Lại "nó" nữa! Nó cứ theo bóng tối đêm về để chui vô buồng hãm hiếp tao. Tao già rồi, thịt da dai nhách mà nó không tha! Chèn ơi, mình mẩynó đấy lông lá khét nghẹt làm tao muốn nghẹt thở, bụng tao bào xào muốnmửa thốc mật xanh mật vàng! Phen nầy chắc tao tự vận chết cho mát thân!

Ông Đạo Chuối đem bùa dán ở cửa buồng và trên bốn vách buồng. Tất cả gồm năm đạo bùa. Đêm hốm đó, trong phòng bà Mười Hai có tiếng hét lẫntiếng ạch đụi. Bà la chói lói:

- Nó đó, nó hãm hiếp tui lại còn cắn tui nữa... Cứu tui bớ bà con! Cứu tui bớ lối xóm!

Ông Đạo Chuối chỗi dậy hô lớn:

- Mau thắp đuốc lên! Đêm nay tui bứng con yêu tinh ra khỏi cuộc đất nầy!

Cậu Hai Thanh vội thắp đèn măng- sông treo giã nhà. Cậu cũng thắpcho ông Chín Thẹo, ông mười Hai, ông Đạo Chuối và cho cậu mỗi người mộtcây đuốc. Cả bốn cùng vào buồng bà Mười Hai thì thấy bà nằm lõa lồ trêngiường, bất tỉnh hôn mê. Ông mười Hai kéo tấm mềm nỉ xám trùm cho vợ.Còn ông Đạo Chuối cầm đuốc rọi cửa buồng và bốn tấm vách thì thấy đạobùa bị lột tróc hết, xác bùa bị xé tả tơi nằm trên nên gạch.

Cậu Hai Thanh chắc lưỡi:

- Con yêu nầy phép thuật cao cường thiết! Bùa của ông đạo đây chẳng nhằm nhò gì đối với nó!

Ông Đạo Chuối moi chiếc kiếng trong tay nải ra. Đây là một phiếngưng tròn đường kính cỡ một tấc, sau lưng có dán đạo bùa vẽ chữ Phạn.Ông bảo:

- Cháu đừng tưởng năm đạo bùa không hiệu nghiệm Con yêu kia trướcđây vô buồng nầy khi rút lui không để lại dấu vết, nhưng năm đạo bùa nầy đã làm cho dấu chơn nó tỏ lộ. Phải có cái kiếng chiếu yêu này mới thấydấu chơn để theo về sáo huyệt của nó.

Ông khuyên mọi người thủ sẵn xà beng, cuốc, búa và cây tre vó nhọn.Ông đốt đèn cầy rồi áp gần kiếng chiếu yêu. Lùng ánh sáng phản chiếu soi rõ dấu chân chó từ cửa buồng ra tới ngoài hè. Mọi người cùng theo ôngdò dấu chân chó, vượt qua hàng rào tre bao quanh khuôn viên, qua haimương nước nhỏ, qua chiếc cầu khỉ, đến khuôn viên ông Cai tổng Huyền vàdừng lại bên mộ con chó bẹc- giê của cậu Hai Biểu. Ông Đạo Chuối reolên:

- Đây rồi, sào huyệt của con yêu tinh đây rồi!

Ông dán đạo bùa lên tấm mộ bia con chó, đoạn sai mọi người dùng xàbeng nạy những phiến đá ong tấn hai bên và đào mộ lên. Gần hai tiếngđồng hồ sau, chiếc hòm gỗ huỳnh đàn bày ra.

Ông Đạo Chuối vẽ bùa Lỗ Ban trên nắm hòm rồi vỗ tay một cái, nóc hòm văng ra xa, bày thi thể con chó. Thịt nó không hư vữa hôi thúi, chỉrụng một ít lông mà thôi. Nó nằm thở hoi hóp, bụng phập phồng. Ông ĐạoChuối lại đọc thần chú, rồi cầm cây tre vót nhọn, dùng hết sức bình sanh đâm vào ngực con chó. Nó quằn quại lên tru một tiếng dài. Máu từ ngựcnó tuôn ra đỏ ối nhưng không có mùi tanh của máu mà là mùi dầu lửa bốcnống nặc. Màu đỏ trong phút chốc biến thành màu xanh như chàm rồi ngảthành màu đen như hắc in. Ông Đạo Chuối lấy dao moi bụng chó thì chỉthấy tóc cuộn từng lọn từng chàm chớ chẳng có ruột gan chi hết. Ông liền đưa cây đuốc vô vũng máu yêu tinh, máu mà bén lửa còn hơn xăng, cháyphùng lên. Mùi dầu hắc trộn mùi tóc cháy khét nghẹt. Đợi xác con yêutinh thành tro, ông mới bảo cậu Hai Thanh lấp mộ lại, rồi ông quay quaông mười Hai:

- Thôi, xin mừng ông. Bà Mười Hai sẽ không bị con yêu tinh quấy rầy nữa.

Rồi ông dặn cô Thiệt Nguyện:

- Ngày mai tui về chợ Vãng với ông Chín và cô Út, còn cô cứ ở đây tụng thêm cho đúng 98 biến kinh Dược Sư rồi hẵng về.

xxx

Khi về tới chợ Vãng, ông Đạo Chuối dùng đò ngang từ bến Dinh ôngChánh qua bên kia cù lao An Thành. Còn ông Chín Thẹo và cô Út Ngọc An về xóm Chuồng Gà. Lối xóm bu lại nhà ông bà Chín Thẹo để nghe hai cha conông Chín kể rạch ròi tự sự. Có người còn hiếu kỳ chèo ghe, bơi xuống tới An Hương để ngó tận mắt bà Mười Hai và mả con chó quỷ.. Dân xóm nghechuyện, kéo qua An Thành viếng Tịnh Liên am, nơi ông Đạo Chuối cư ngụ.Họ cúng đường am rất hậu rồi hùn tiền may hai tấm áo nhựt bình và haichiếc quần vải cho ông Đạo Chuối.

Bà Năm Tảo và hai cô con gái càng giốc lòng ăn chay niệm Phật. Chừng hai tuần lễ sau, cô Thiệt Nguyện trở về xóm Chuồng Gà báo tin:

- Thưa chú thím Năm, thưa ông bà Chín, giờ đây bà Mười Hai hết điênrồi. Bà hứa sẽ tìm những cô gái mà bà dụ dỗ làm nghề buôn hương bán phấn để giúp đỡ họ hoàn lương và tìm chỗ xứng đối vừa lứa gả họ. Dù có phảitốn ba phần tư gai sản, bà cũng không nề hà.

Bà Chín Thẹo và cô Út Ngọc An chỉ biết chấp tay niệm Phật, không nói không rằng. Riêng cô Ba Túy Nguyệt trong dịp đem cơm nước cho Bác vậtCảnh hôm đó, thuật lại vận sự bà Mười Hai cho ông nghe. Cô nhấn mạnh:

- Tha lực của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khó mà lường được. Ông cứ trì chí tụng kinh Dược Sư sẽ thấy ứng nghiệm.

Bác vật Cảnh thành thật:

- Sự hiểu biết của nhơn loại về khoa học nào có nhằm nhò chi với sựhiểu biết của Phật. Cám ơn cô đã đem kinh lại cho tôi đọc. Lúc đầu vìchiều theo ý cô, vì tò mò nữa, nên tôi rờ tới kinh Lăng Nghiêm. Nhưng có lẽ tôi có túc duyên với Phật pháp hay sao đó mà chỉ mới đọc hai phầnđầu là tôi say mê, trí óc thân nhiếp Phật pháp không mấy khó khăn. Thiệt cô là một thiện tri thức của tôi vậy!

Cô Ba Túy Nguyệt cười:

- Kiến thức của em về Phật pháp nào có bao nhiêu! So với chị ThiệtNguyện, ba em và với các Phật tử thần thành thường làm công quả cho chùa Long Đức, em chỉ là con đom đóm sánh với ngọn đèn. Giờ đây, nghe ôngluận về kinh kệ, em chợt thấy lợi căn của ông thù thắng là dường nào.Rồi đây biết đâu ông sẽ trở thành bực đa văn. Với cái biện tài vô ngạikia, ông sẽ đi đây đó giảng kinh cho các Phật tử nghe, làm lợi cho biếtbao kẻ thành tâm cầu đạo.

Trước khi ra về, cô Ba hứa:

- Để em lên chùa Long Đức thỉnh kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho ông xem. Trong quyển đó có phẩm Phổ Môn nói về công đức của đức Quán Thế Âm BồTát. Ông nên tụng phẩm nầy để cầu xin đức đại từ đại bi đem nước cam lộgội rửa trần cấu cho thân tâm ông được khinh an và lành mạnh.

Chiều hôm đó, cô Ba đem cơm cho Bác vật Cảnh, không quên mang theo quyển kinh Pháo Hoa.

Tối hôm đó, sau khi cơm nước xong, Bác vật Cảnh đi tắm rồi pha tràcúng Phật. Trời đêm tạnh ráo. Vầng trăng bạc đã lên khỏi ngọn xoài ởcuối vườn. Ông cuốn lớp chiếu trải trên divan cẩm lai để nằm chơi chomát, dè đâu ông ngủ hồi nào không hay.

Trong cơn chiêm bao, Bác vật Cảnh thấy một mụ già mặt mũi xấu xí đứng bên giường. Ông hỏi:

- Bà ở đâu tới đây? Cửa nẻo đã gài chặt, sao bà vô đây được?

Bà già cười thân thiện:

- Tui ở trong nhà này chớ đâu! Cho ông rõ, tui vốn là con tinh câycảm lai mà thiên hạ xé gỗ đóng chiếc đi- quăng ông đang nằm đó. Hiềm vìtrước đây ông mê cái văn minh duy vật mà báng bổ trời thần, thóa mạ Phật pháp nên mang ác nghiệp. Nay ông biết quy y Tam Bảo, tu dưỡng thân tâmthì rồi đây, nhờ tha lực của Phật, ông sẽ thoát khỏi bịnh ngặt mà sánhduyên cùng trang thục nữ để rồi cả hai trợ tu cho nhau, ăn cơm có canh,tu hành có bạn là vây đó!

Nói xong bà già xốc lại, xô Bác vật Cảnh té chúi nhủi. Vừa lúc đóông cũng giật mình tỉnh giấc. Bên tai ông, trống canh vừa điểm ba tiếng. Ông liền chỗi dậy mặc áo tràng tử tế, chà răng súc miệng sạch sẽ, đốtnhang trên bàn thờ Phật và bắt đầu tụng kinh Pháp Hoa từ phẩm đầu chotới phẩm chót.

Vừa dứt quyển kinh thì bên ngoài trời đã sáng trắng. Cô Ba TúyNguyệt đem các món điểm tâm qua. Cô bày bánh canh bột gạo và bánh tầm bì ra mâm trong khi Bác vật Cảnh nấu nước sôi để pha cà phê. Ông bảo:

- Từ canh ba tôi tụng kinh Pháp Hoa cho tới sáng trắng, chắc cô lạ lắm?

Cô Ba Túy Nguyệt cười thiệt tươi, sóng mắt ướt rượt nhưng cái nhìn thật nồng ấm. Cô bảo:

- Đối với ai thì em lấy làm lạ, chớ đối với ông, em biết cơ duyên cầu đạo của ông tới lúc chín mùi rồi!

Bác vật Cảnh nhìn sững cô gái. Đây có phải là trang thục nữ mà bà già trong chiêm bao đã tiên đoán ông sẽ cưới làm vợ chăng?
 
Chương 9


Ông Huyện Khải, trong thời gian chờ đợi ngày đám cưới, thường từ Tiểu Cầnlên thăm cô Hai Túy Ngọc và ông Bác vật Cảnh. Cùng đi với ông có Đốc học Hạnh, vốn là anh em chú bác của người vợ trước ông, cũng là cháu kêuông Bang biện Hưỡn bằng chú. Thiệt ra, ông Cai tổng Chất, tía cô Ba KimChưởng (vợ trước ông Huyện Khải) và ông Chánh bái Chơn, tía ông Đốc họcHạnh, đều là anh một cha khác mẹ với ông Bang biện Hưỡn. Ông nội của họlà phường mãi quốc cầu vinh, tía và chú họ đều là cường hào ác bá, anhem con nhà chú nhà bác họ nếu không là thứ đâm heo thuốc chó thì cũng là phường giá áo túi cơm.

Tuy nhiên cây đắng vẫn trổ trái ngọt. Ông Đốc học Hạnh từ nhỏ vốnbịnh hoạn èo uột nên bà mẹ ông liền ký bán ông cho gia đình người chịcon nhà cô của bà. Nhờ sống trong gia đình hiền đức lẫn đạo hạnh của dihọ mà ông nhiễm được hai đức tánh cao quý đó. Ông càng lớn càng bất mãncách ăn ở khắc bạc của thân tọc mình đối với kẻ nghèo hèn cô thế nên ông ít đi lại với họ. Nội trong vòng bà con, ông chỉ thấy cô Ba Kim Chưởnglà hiền lành thùy mị nên ông có bụng thường yêu nể vì. Sau đó cô Ba sánh duyên với ông Huyện Khải, ông cũng thường giao thiệp với người em rể họ của mình. Nhận thấy ông Huyện thanh liêm, khiêm tốn, cách ăn nói mềmmỏng nên ông mến thương ông Huyện còn hơn em ruột. Từ khi cô Ba KimChưởng qua đời, ông Huyện Khải và ông Đốc học Hạnh vẫn giữ tình em rểanh vợ như cũ.

Ông Đốc học Hạnh hóa vợ hồi hai mươi lăm tuổi. Năm nay ông đã bốnmươi. Cậu con trai độc nhất của ông năm nay mười tám tuổi, đã đậu bằngtú tài bán phần và hiện học tại trường Chasseloup Laubat ở Sài gòn đểchuẩn bị thi tú tài toàn phần.

Mỗi khi ông Huyện Khải đi thăm gia đình hôn thê của ông đều có ông Đốc học Hạnh tháp tùng theo.

Cô Út Ngọc An từ khi hết bịnh đàng dưới cũng thường lui tới nhà ôngNăm Tảo. Ai dè cô lọt vào mắt xanh ông Đốc học Hạnh. Năm nay cô đã bamươi hai tuổi, coi như lỡ thời. Còn ông thì tuổi đã bốn mươi mốt. Songông còn tươi, còn trẻ nhờ năng vận động. Cô thì về sau nầy nhờ bầu tâmcảnh sáng làu làu nên mặt mày cô rạng rỡ, vóc vạc uyển chuyển. Thiệttình, thuở chưa bị nạn, cô không xấu gái. Hiềm vì lòng cô không an ổn,tánh cô đầy sân hận nên mặt cô dữ dằn u ám. Giờ thì cô sống thảnh thơitự tại nên mặt cô trở nên hiền hậu dịu dàng, thần sắc cô sáng như gươngnga đêm rằm.

Khi nghe ông Đốc học Hạnh muốn cưới cô Út Ngọc An thì cả nhà ông Năm Tảo mừng rỡ lắm. Bà Chín Thẹo cũng mừng, nhưng lại lo vì bà nghĩ rằngcon gái mình lòng dạ thưa thớt, sợ cô không rành lễ nghi phong cách đểlàm vợ một bực tân học.

Bà Năm Tảo trấn an:

- Con Út thông minh lắm. Khi nó về với ông Đốc học rồi thì nó sẽthích ứng với ổng, chị Chín chớ lo! Vả lại chắc chắn ổng sẽ chỉ vẽ chonó cách ăn ở của dân tỉnh thành tân tiến.

Cô Hai Túy Ngọc cười chúm chím:

- Bác Chín chưa biết đâu! Chị Út con giờ đây yểu điệu mỹ miều chớđâu phải như chầu xưa. Ông Đốc học cưới chỉ về, cưng chỉ không hết chớlý đâu xét nét để chê đè chỉ xuống!

Ông bà Bang biện Hưỡn được tin đó, tỏ ra bất mãn lắm. Bà vỏ vảnh cái miệng nói với chồng:

- Thằng cháu ông có thể cưới hạng đờn bà có tiền của, có ăn học. Aidè y ta lại mê say đứa con gái hạ tiện, lỡ thời đó. Gia tộc ông có lẽhết thời hay sao rồi nên mới có người rước thứ cùng đinh mạt hạng đó về!

Ông Huyện Khải và ông Đốc Hạnh cứ mỗi tháng hai lần, lui tới xómChuồng Gà thăm vị hôn thê. Vì ông Chánh bái Chơn đã qua đời, mà ông ĐốcHạnh trên không có anh chị đứng làm chủ hôn nên ông phải nhờ dì dượng họ của mình. Dù sao hai ông bà nầy cũng đã nuôi dưỡng ông lúc ông còn thơdại. Ông cũng cậy vợ chồng người bác của ông Huyện Khải đứng làm mainhơn. Lễ hỏi được tổ chức trong vòng thân mật.. Ông Đốc Hạnh có mời ôngbà Bang biện Hưỡn, ông bà Bác sĩ lê Thạnh Mậu và cậu Hai Kinh lý Luyện,nhưng họ kẻ kiếm cớ nầy, người kiếm cớ nọ, không đi.

Đàng trai đi sính lễ gồm một đôi bông hột xoàn năm ly, một cặp vòngchạm phụng giao đầu, một cây kiềng vàng chạm nặng cỡ một lượng, mộtchiếc cà rá hột xoàn, một sợi dây chuyền nạm tám hột xoàn, mỗi hột cỡ ba ly, một cặp cà rá vàng chạm cửu khúc liên hườn. Nữ trang có kiểu xưa,có kiểu kim thời.

Bà Chín Thẹo hôm đám hỏi mời đủ mặt họ hàng bên bà lẫn bên ông trong lãnh thổ tỉnh nhà. Xong xuôi, bà may sẵn cho cô dâu tương lai nột cáiáo dài gầm đại hồng hoa bạc hình mặt nguyệt, mốt áo dài nhiễu màu đọtchuối, một áo dài lụa mỏng trắng. Ba chiếc áo đó để hôm đám cưới, cô dâu sẽ mặc áo cặp ba.

Bà Bang biện Hưỡn bảo cậu Hai Luyện:

- Ông anh con nhà bác con không chịu kiếm phấn giồi mặt cho bà conhọ hàng đâu! Nó kiếm máu hòe, bùn, cứt, để trây trét lên mặt cả dòng cảhọ nhà mình đó đa con!

Cũng vậy, từ hôm ông Huyên Khải đi coi mát cô Hai Túy Ngọc, bà Bangbiện Hữn tỏ ra lợt lạt với ông. Riết rồi khi ông tới viếng Cầu Đào, bàBang biện bẹo hình cho ông thấy rồi quày quả vào trong buồng để mặc ôngchồng bán thân bất toại nằm trên ghế trường kỷ tiếp khách.

Ông Huyện Khải than thở với ông Đốc Hạnh.

- Thím Bang biện có vẻ ghét bỏ tụi mình lắm, anh Đốc à. Cho nên từ rày sắp tới, tui hết dám tới Cầu Đào.

Ông Đốc Hạnh hít một tiếng bất bình:

- Cầu cho bả ghét! Cái thứ bả càng lui tới thân mật với mình, càng làm mình bận rộn thêm!

Cậu Hai Luyện cũng bắt chước tía má mình, tỏ vẻ lợt lạt với ôngHuyện Khải và ông Đốc Hạnh. Không hiểu cậu vì lo việc hay vì lười biếngmà cứ ở miết Mỹ An. Nếu có rảnh thì cậu đi An Hương, đi Hòa Mỹ. Bà Bangbiện Hưỡn bao phen nhắn nhe cậu về thăm nhà mà cậu chỉ hứa hẹn cầmchừng. Thì ra cậu vừa chài bẩy được hai cô thôn nữ. Cô thứ nhứt là BaHửng, con gái chú Thường Xuyên Hiếu, ỡ Hòa Mỹ. Cô thứ hai là Hai Thiều,con chú Hương nhứt Điêu ỡ An Hương. Khéo làm sao hai cô cùng có thai một lượt. Dì ruột cô Ba Hưởng là bà Tư Nghệ, một hôm đi Mỹ An tìm tới cậuHai báo tin.

- Cậu ôi,, cậu dụ con cháu tui cách nào không biết mà giờ đây nó mang bầu rồi!

Cậu Hai Luyện trợn mắt:

- Bà chớ nói xàm! Cháu của bà lấy ai mang bầu rồi bà đổ hô tui dụdỗ! Cô cháu bà là hạng người nào mà tui phải tò tí với cổ? Bà liệu hồnđi khuất mắt tui cho sớm, nếu bà còn lảng vảng ở đây tui sẽ sai thầyHương quản Mít còng đầu bà với cô cháu gái bà đem ra nhà việc đóng trăncho mang nhục! Tui là quan Kinh lý, ai cho phép bà kêu tui bằng cậu?

Bà Tư Nghệ đành nuốt hận ra về. Cô Ba Hưởng buồn tủi nhục nhã liềnbỏ làng xóm đi lên chợ Vãng sanh con. Sau đó cô gặp chú Chệt Woòng Coóng bán tiệm chạp phô ở Cầu Lầu. Y ta chịu cưới cô và nhận con cô làm con.Nhưng đó là chuyện về sau.

Riêng cô Hai Thiều, khi nghe đồn cậu Hai Luyện dùng oai quyền đểchối phắt việc làm tác tệ của mình với cô Ba Hưởng thì đành chịu nhịn,không dám tìm tới cậu. Cô uống lọ xạ chồn hương để phá thai và bị bănghuyết dầm dề. Khi ra khỏi nhà thương, tóc cô rụng nhiều. Cô đành tìm đến Sơn Thắng thí phát quy y. Nhưng đó cũng là chuyện về sau.

Chuyện bây giờ là công việc cậu Hai Kinh lý Luyện đo đất để đào conrạch Mỹ An. Dài theo phần đất của ông Hương sư Chiêm cũng bị lọt vàotrong vùng đất bị đào. Cậu Hai Khiết, trưởng nam ông Hương sư Chiêm mộthôm bưng mâm trà, bánh và rượu đến nhà trọ cậu Hai Luyện, khúm núm thưa:

- - Bẩm quan Kinh lý, đây là phẩm vật của tía tui kính lên quan để quan dùng lấy thảo. Tía tui là ông Hương sư Chiêm.

Cậu Hai Luyện cười::

- Tui có nghe ông Hương sư hiếu khách lắm nên cũng tính sẽ có ngàyđến viếng ổng. Dè đâu ổng lại sai chú tới đây tặng phẩm vật để mở đầucuộc giao hảo. Vậy khi về nhà, chú nhớ chuyển lời cám ơn của tui nghe!

Cậu Hai Khiết dạ dạ. Còn cậu Hai Luyện giở tấm vải hồng điều đậytrên mâm quà tặng thì thấy hai chai rượu cỏ- nhác, một họp trái vải, một hộp bánh bích qui, hai hộp trà Thiết quan âm, một chục trái cam tàu vàmột phong bao giấy hồng. Cậu liền hỏi cậu Hai Khiết:

- Cái gì vậy chú.

Cậu Hai Khiết thưa:

- Bẩm quan Kinh lý, tía tui nhờ quan đo đất lấn qua ranh cuộc đấtchú Xã Miễn và cuộc đất thầy Hương hào Liệt để đào kinh. Có vậy phần đất của tía tui mới giữ nguyên vẹn. Nếu được vậy, tía con tui đội ơn quanKinh lý vô cùng. Sau vụ nầy, tía tui sẽ đền ơn thêm cho quan lớn.

Cậu Hai Luyện cười hề hề:

- Được rồi, để tui tính. Chú cũng nên thưa với ổng, chiều mai tối sẽ đến nhà ổng bàn bạc thêm.

Tối hôm đó, cậu Hai Luyện cứ loay hoay với tấm địa đồ. Cậu dùng biết chì đỏ vạch lấn qua phần đất của Xã Miễn và Hương hào Liệt để đào kinhvà quyết định chiều mai sẽ đến nhà Hương sư Chiêm, kèo nài ông ta đưathêm hai lượng nữa.

Mãi tới đầu canh ba, công việc xong, cậu trở về buồng và lên giường. Cậu thở dài khoan khoái. Thấy chưa! Nhờ phá được trinh cô Ba Hưởng vàcô Hai Thiều mà tiền bạc tự dưng tới cậu. Hèn chi tụi phú thương HuêKiều rất chuộng phá trinh con gái để được ăn nên làm ra.

Đến giữa canh ba, cậu Hai Luyện mới ngủ được. Trong chiêm bao, cậuthấy một người đờn ông da đen như da người Chà và, mặt đầy mụn, miệngrộng, răng lởm chởm. Y ta mặc bộ đồ xám nổi vảy như vảy cá sấu. Y tabảo:

- Kính chào quan Kinh lý. Tui là thần Hắc Giao đại vương nằm trongcuộc đất nầy. Đầu tui ló gần tới ranh giữa đất của Xã Miễn và của Hươngsư Chiêm. Nếu quan lớn cho đào kinh y theo bản đồ đã vạch thì đầu tuikhông bị đứt, tui sẽ yên lòng tu niệm để chừng năm mươi năm sau, tuithoát kiếp con sấu vảy đen mà biến thành con xích long bay về Nam Hải.Nếu quan lớn ăn tiền hối lộ, đào kinh lấn qua phần đất Xã Miễn thì đầutui bị đứt còn đâu mà kể! Xin quan Kinh lý giữ đức hiếu sanh, đứng đểtui bị tán mạng bởi mấy lượng vàng do ông Hương sư Chiêm lo lót. Khi tui tu thành chánh quả rồi, sẽ có ngày tui tìm được cách trả ơn quan lớn.

Vía cậu Hai Luyện hỏi:

- Đào kinh là việc của tui, mắc mớ gì tới ông? Có phải ông ăn hối lộ đồ cúng của Xã Miễn rồi cản trở tui đó chăng?

Người đàn ông bảo:

- Đó là cuộc đất theo thế Hắc Giáo Vọng Hải, có nghĩa là con sấu đen ngóng ra biển. Tuy là đất, nhưng nó là cái thịt xương, cái thể chất của một vị thần như tui. Quan lớn khi đào kinh phá hỏng nó tức là giết mộtsanh mạng vậy.

Tới đây cậu Hai Luyện giựt mình tỉnh đạy. Cậu bần thần suy nghĩ:

- Mình mà giết thần sấu đen trong khi đào kinh tức là giết một kẻkhông thù không oán với mình. Nhưng bất quá đó cũng chỉ là thứ quỉ thứma, chẳng phải tiên thánh gì đó. Mình đã lỡ nhận quà biếu và hai nénvàng của ông Hương sư Chiêm rồi, không lẽ trả lại. gày mai mình tới nhàông hương sư Chiêm, kèo nái ổng đưa thêm sáu lượng nữa. Nếu ổng thuậnthì mình cho đào qua phần đất Xã Miễn.

Nghĩ vậy cậu an lòng ngủ tiếp.

Sáng hôm sau, cậu Hai Luyện sai bạn chèo ghe trương buồm đưa mình về chợ tỉnh. Ông Bang biện Hưỡn tuy nói được nhưng giọng ú ớ, cổ họng nhưbị trám nghẹt, cho nên khi nói ông phải gồng cổ hét lớn, vậy mà tiếngnói cũng không vang lộng được bao nhiêu. Ông vẫn nằm trong lòng ghế bành có thành dựa kê chiếc gối, mặt ông mệt mỏi, mắt ông trõm lơ.

Bà Bang biện Hưỡn vừa thấy mặt cậu trưởng nam, quở:

- Con dựa vô chuyện nhà nước, đi hoang đàng chi địa suốt cả thángnay, giờ mới mò về nhà. Tía con giờ thành phế nhân rồi, việc nhà conkhông chịu coi sóc thì bỏ cho ai đây? Nhà mình có tiền có ruộng, nếu con chăm chỉ mần ăn thì có thể sống dư dả ngỏa nguê suốt đời. Má chỉ muốncon từ chức để ở nhà hú hí với tía má và trông coi mọi việc trong ngoài. Con lớn rồi, cứ chạy theo mấy con lành thuộc phường hạ lưu hạ tiện thìcòn non nước gì?

Hôm đó cô Ba Cẩm Tú từ bến Xầu Lộ qua chi. Trời mưa sùi sụt. Khuvườn chung quanh ướt loi ngoi lóp ngóp. Hàng chuối bên hông nhà đâm ranhiều chồi chuối con. Mấy bụi tre mạnh tông ở cuối vườn, mụt măng trỉtua tủa. Cô Ba Cẩm Tú nhìn hàng câu đu đủ trồng trên vồng đất cao gầnsát hàng rào tre, nói:

- Mưa hoài mưa hủy, không khéo mấy cây đu đủ úng thủy thúi gốc cho mà coi.

- Cậu Hai Luyện bảo mẹ:

- Con về đây trước là thăm bệnh tình tía con, sau nữa là để nhờ thầy Mười Khói tìm thầy ếm trấn mấy vong hồn đất đai trước khi cho đào kinh. Má biết đó, hễ mình đào mương, đào ao, đào kinh là thế nào cũng phạmtới mạch thổ địa, mạch sấu, mạch kỳ đà nằm trong đất. Bởi vậy con phảinhờ thầy pháp ếm trấn trước cho chắc ăn.

Bà Bang khen ngợi:

- Con cẩn thận như vậy là tốt. Má đợ con về đây cũng là để bàn việc đó. Con nói ra má mới yên bụng. Để má lo việc nầy cho.

Bà sai con Lý giết con gà mái dầu làm thịt để dọn cơm, sai con Làipha trà, pha cà phê và dọn mâm bánh nếp nhưn thịt để ba mẹ con bà điểmtâm.

Sau đó, cậu Hai Luyện xin phép mẹ ra chợ mua sắm. Đợi thằng con trai đi ra tới ngõ, bà Bang biện Hữn mới cằn nhằn cô Ba Cẩm Tú:

- Tao nghe đồn lúc rày vợ chồng mầy tới thứ bãy nào cũng đắt nhau vô dinh quan Chánh tham biện để nhảy đầm.

Cô Ba Cẩm Tú cười mơn:

- Con đi với ảnh, chớ có đi mình ên đâu mà má lo! Nếu ảnh không rủ rê thì con đời nào dám vô mấy chỗ đó.

Ba Bang biện nguýt:

- Tao còn nghe mày ưa lui tới con mèo quan Chánh tham biện là con Ba Thuận và con mèo của quan Cò mi là con Năm Định nữa. Trời ôi, thấy mặthai con chơi bời đó tao muốn thượng thổ hạ tả rồi chớ huống hố nói nănggiao thiệp vời tụi nó! Nghe nói quan Chánh tham biện và quan Cò mi thânnhau, mượn vợ đổi vợ với nhau hà rầm. Chồng mầy mà bày đặt giao thiệpvới hạng Phiên tặc Phiên tướng đó, có ngày nhiễm thói hư tật xấu của họcho mà coi.

Cô Ba Cẩm Tú cười hăng hắc:

- Má thiệt! Chồng con có sạn trong đầu có sỏi trong óc, đời nào ảnhlàm chuyện dại dột như vậy! Má cứ lo bao đồng nên má hao tâm tổn trí, ăn ngủ không ngon là vây đó.

Bà ngó chăm bẳm con gái:

- Thời buồi nây đờn bà thiệt khó hiểu! Không chịu lấy chồng cùnggióng họ, dám cặp xách với tụi ngoại bang dị chủng. Như quan Chánh thambiện kia râu rìa, mắt ốc bươu, miệng cá chẽm, mũi mỏ két, lưng lớn nhưtấm đi- quăng, tướng tá ô dề cục nịch, vậy mà có đứa nhà vô lấy chođược! Chắc là nó mê tiền tham dâm chớ gì?

Cô Ba Cẩm Tú đỏ mặt ú ớ toan nói điều gì nhưng lại thôi. Bà Bangbiện Hữn sai thằng Xiêm, thằng Đực đi đòi nợ. Thằng Xiêm ra Cầu Dài, đến nhà chị Tám Thiệt; còn thằng Đực thì quẹo qua dãy phố Khương Hữu Phụngđể tới nhà thím Bảy Định. Bà nói vói:

- Bây dặn cái quân trây nợ đó, tháng nầy mà tụi nó không trả lời trả vốn cho tao là tao cào nóc nhà, đạp nàm thờ tụi nó đó!

Bà kêu Bửu lại dặn:

- Mầy đến nhà thầy Mười Khói, nói với thẩy tối nay tới đây có việccần. Đi xong rồi về liền để giã cho tao hai cối gạo, đừng có đi một chút lút một ngày mà chết với tao.

Bỗng có người phát thơ đến ngoài cổng, gọi ơi ới. Cô Ba Cẩm Tú lật đật chạy ra. Người phát thơ chìa bức thơ ra:

- Thưa cô Ba, đây là thơ từ Sài gòn về.

Cô Ba Cẩm Tú nói "cám ơn" rồi bắt lỗi liền:

- Chú Năm à, sao chú thưa thớt vậy? Giờ tui là vợ ông quan thầythuốc rồi, chớ có còn son giá gì nữa đâu mà chú kêu tôi bằng cô Ba hoàivậy?

Cô nguýt dài rồi ngoe ngoảy vào nhà, bảo mẹ:

- Có thơ con Tư gửi về.

Bà Bang biện Hưỡn bảo:

- Con đọc cho má nghe đi. Không chừng nó đập bầu rồi viết thơ báo tin chớ gì!

Cô Ba Cẩm Tú xé phong bì, moi thơ ra đọc:

Sài gòn, ngày...

Kính thưa tía má,

Trước hết con xin vấn an tía có bớt bịnh hay không? Còn má có được xuôi chèo mát mái trong việc làm ăn sanh lợi hay không?

Tới nay con cũng chưa đạp bầu. Không chừng con mắc chứng chửa trâu,nên con có đến nhà lũ bạn xin mỗi đứa một nhúm gạo về nấu cháo ăn chomau đẻ. Hễ con đập bầu xong thì con sẽ nhờ chồng đánh gây thép về chotía má mừng.

Sở dĩ con biên thơ này cốt là báo cho tía má rõ: thằng chồng khốnnạn của con lóng rày ưa chà lết ở nhà tía má vợ trước của nó. Con chongười dò la biết rằng, em con nhà chú của mụ Tư Thục là con Hai Tố Trinh mấy tháng nay từ Cái Răng lên nhà hai bác nó là ông bà Huyện Tịnh ở trọ để học làm bánh và thêu đan. Nghe đâu con nọ đã có bằng thành chung,lại có bóng sắc. Đằng ông bà Huyện Tịnh muốn câu thằng chồng oan gia của con nên bắt con nọ nhởn nha quần hàng áo lụa, tô son trét phấn để chưng bươm bướm trước mặt thằng chồng trâu tria rắn rít của con.

Giờ đây con mang bầu, vóc mình lệch lạc, sắc mặt chao vao, tướng điột ệt, chuyện vợ chồng chẳng những không nồng mặn như xưa mà thằng khốnkhiếp đó còn sanh sự với con luôn. Thế nào mà bà Huyện Tịnh chẳng nói vô nói ra. Chưa hết đâu! Hễ má chồng con có dịp về Sài gòn là ở miết bênbà Huyện Tịnh, tình nghĩa đôi bên ra vẻ mặn nồng lắm. Bấy lâu nay, cáibà mẹ chồng ó đâm đó đời nào chịu xuống Vĩnh Long thăm tía má? Càng nghĩ chừng nào, con càng buồn tủi, càng run sợ chừng nấy. Biết đâu họ đangtoa rập nhau hất con ra? Bấy lâu nay con muốn theo lẽ thường: đờn bà hễsanh con đầu lòng thì phải về nhà cha mẹ ruột. Song con cứ nơm nớp lo sợ hễ con mà rời nhà rồi thì khó mà bồng con trở về lắm. Vậy má có kế chigiúp con với. Giờ đây con bồi rồi, không biết tính toán lo liệu ra sao!

Cuối thơ con chúc tía má, anh Hai, chị Ba, anh Ba được an khương.

Kính thư

Tư Cẩm Lệ

Cô Ba Cẩm Tú sượng trân khi nghe mẹ mình xóc xỉa bon Tây tà. Thiệtra cô không ngoại tình tư ước với quan Chánh tham biện Jean Delarue. Côhiện đang dan díu với tên Thierre Lemur, chủ đè bô rượu Tây, nước ngọt,la- de, nước đá trong tỉnh. Qua vài lần gặp gỡ và nhảy nhót với hắn nơicác buổi dạ hội trong dinh quan Chánh tham biện, cô bị tên Pháp kiều nầy dụ dỗ vào con đường quấy. Lúc đầu cô chê hắn là thứ ngoại bang dịchủng, tròng mắt xám như mắt đui, thân to lớn dềnh dàng thô kệch. Vậy má hắn tán tỉnh cô ngọt ngào du dương quá, cọ quẹt cô sành điệu quá nên cô động tình. Một phần cô buồn vì đường chửa nghén của cô kể như đứt tuyệt sau lần xảo thai kia, một phần chồng cô lợt lạt với cô về chuyện hươnglửa, và một phần lớn do oan nghiệt đẩy đưa nên cô muốn tìm cách giảitrí.

Giữa lúc cô Ba Cẩm Tú lén lút cắm sừng lên đầu chồng; giữa lúc cô Ba Cẩm Lệ phập phồng lo sợ mình bị chồng bỏ; giữa lúc nhà ông Bang biệnHưỡn lung lay nền móng thì gia đình ông Năm Tảo sống hòa thuận, được lân lý thương mến, các đạo hữu tin cậy tới lui. Vì hốt thuốc coi mạch máttay nên ông Năm Tảo có nhiều thân chủ, tiền của vô nườm nượp, quà cápbiếu xén đến ông dập dìu.

Lật bật mà sắp tới rằm tháng bảy. Cô Hai Túy Ngọc bơi xuồng ra chợmua đường, đậu, nếp, bột nếp, bột gạo ê hề đem về làm xôi bánh. Bà NămTảo mở gói đừng cát trắng, bảo cô trưởng nữ:

- Mình gói bánh ếch, đúc bánh bò chẳng cần đường cát trắng làm chi.Bánh ếch ngon nhờ dẻo, bánh bò ngon nhờ xốp, con dùng đừng thẻ cũng đủrồi. Nhưng má đã thủ sẵn đường om thơm hơn. Cái om đất đựng đường mátreo trên giàn bếp.

Cô Ba Túy Nguyệt nhắc nhở

- Còn phải chuẩn bị làm gà làm vịt để làm mâm cỗ cúng cô hồn cácđẳng nữa. Ông bà mình thường nói: Trời Phật ở xa, quỉ ma ở gần. Câu đócoi vậy chớ lẩm rẩm mà đúng y chang.

Bà Năm Tảo liếc xéo cô thứ nữ:

- Ngày rằm tháng bảy, Diêm Vương xá tội vong nhơn, tất nhiên mìnhcũng phải cúng cô hồn các đẳng. Nhưng mình là Phật tử thuần thành màgiết gà giết vịt để cúng sao phải! Cúng họ bằng cháo trắng đựng trongcác bồ đài mo cau là được rồi!

Bên bà Chín Thẹo thì làm bánh cúng rằm đơn giản hơn. Bà đặt chị BảyThia làm một chục bánh bò đường đỏ, một chục bánh bò bông nõn nà để cúng đường cho chùa Long Đức. Còn bà đợi trước rằm một ngày sẽ nấu một nồichè đậu cùng một trả xôi nghệ để cúng đất đai viên trạch.

Bởi rảnh rang, cố Út Ngọc An cùng hai cô Kim Liên và Kim Huệ, em bạn dì của cô, qua bên bà Năm Tảo làm giúp. Từ sàng nước thoáng gió cho tới căn bếp rực hồng ánh lửa, kẻ đãi đậu xanh cho sạch vỏ, người vút nếpcho hột nếp trong ngọc trắng ngà, người khác nạo dừa vắt lấy nước cốt,người khác nữa nhồi bột gạo cho mịn và nhồi nếp cho dẻo. Tiếng cưới nóivui vẻ, lạc quan...

Giữa lúc các cô khác đía dốc, lòng cô Bà Túy Nguyệt mang trăm mốingổn ngang. Lóng rày, Bác vật Cảnh không được vui, sắc mặt luôn luôn đăm chiêu, nụ cười gượng gạo. Hai cánh tay, mu bàn tay ông thường dán thuốc dán. Có thể là bịnh cùi đang phát tác, cho nên da thịt ông lở lóichăng? Mà đáng sợ thay, da mặt ông trở thành dầy và sần sùi như vỏ tráicam sành, lại còn đỏ ửng như vỏ trái chuối cau lửa. Mái tóc ông thưathớt, đôi mày rậm và sắc như nét mực Long Tể cũng rụng bớt đi nhiều.

Thật tình cô Ba Túy Nguyệt chẳng mấy tin tưởng lời báo mộng của dìÚt Thoại Huê cô về cuộc chung thân mai sau của mình. Biết đâu hồn matiên đoán lầm lạc. Bịnh tình Bác vật Cảnh chẳng những không bớt mà còncó mòi phát tác mạnh. Những thang thuốc do ông Năm Tảo sắc, Bác vật Cảnh uống như uống nước lã. Còn vàng lá mà ông mài ra uống cũng không làmcăn bịnh chai lì. Cái trớn lao tới của bịnh sao mà mau lẹ khủng khiếp.Không khéo trong tương lai không mấy xa, các ngón tay ngón chơn của ôngrụng từng lóng chớ không chơi!

Có đêm trăng tròn cô Bà mở cửa rào qua bên khuôn viên ông để coi ông có đọc hay tụng kinh không. Nhưng vừa tới bên hè, cô chợt nghe tiếngông rên rỉ thống thiết. Ông nói một mình:

- Trời ôi, tui sống không được mà chết cũng không được! Sao mà bịnh hành tui quá quắt, thiệt khó kham khó nhẫn!

Trong giây phút đó, cô Ba Túy Nguyệt không dám đường đột gõ cửa vàothăm. Cô đứng chết lặng bên hè nhà, mà ướt đẫm nước mắt. Nơi tấm lòngtrắc ẩn của cô, tình yêu đang mọc nảy mầm mà cô không hay. Cô không biết mình đã yêu Bác vật Cảnh mà chỉ nghĩ rằng mình tiếc cho một nhân vậtlỗi lạc, có chí hướng mà bị vướng bịnh oan nghiệt.

Hôm nay là ba mươi tháng bảy âm lịch. Mấy khóm bông tang đỏ, trangtrắng, trang hường trổ thôi ê hề, từng chùm lún phún như pháo bông. Vàdễ thường chưa, cây diệp tơ bên hông nhà cũng đơm bông đỏ rực. Rồi mắcmớ chi không biết, lũ chim rẻ quạt, chim chèo bẻo cùng bay về xẻo lá dừa nước kế nhà hót thôi véo von! Bông trổ thạnh như vầy, chuyên về huyênnáo như vậy, có phải đây là điềm đất phước trổ bông, đất lành chim đậuđó chăng? Bỗng cô Ba thoáng bàng hoàng bởi ý nghĩ: Trước khi mưa tạnhthường trút mạnh. Bịn ổng trước khi rút lui, phải hành thân hoại thể ổng cho đã nư? Ừ, biết đâu đó! Không lẽ một người nhơn đức, biết tin theoPhật pháp như ổng lại đoản mạng hỏi căn bịnh gớm ghiếc ấy?

Nghĩ tới đây, cô Ba Túy Nguyệt lau gào- mên múc canh, đơm cơm, đồkho, đò xào váo bốn ngăn. Cô cũng không quên đặt ấm thuốc vào chiếc giỏmây, rồi tay xách giỏ, tay xác gào- mên, cô xâm xâm đi về phía cổng rào. Cửa lúc nào cũng mở sẵn. Cô men theo con đường rải vỏ hến bên hè nhàBác vật Cảnh. Coi kìa, con chim khách đậu trên cành cậy bông công chúahót lăng líu một tràng dài. Vách trái của căn nhà chỉ cách cô chừng nămthước. Sát bên hè là đống cây vụn mà ông Nam Tảo chưa bê về nhà bửa hômlàm củi chụm. Bỗng, cô Túy Nguyệt rụng tời. Từ trong đống cây, một conrắn dài cỡ một sải tay bò ra, mình lớn cỡ cườm tay cô, vảy nó màu nâuchạy một vạch bạc lấp lánh và một vạch vàng rực rỡ như vàng diệp.

Người và rắn nhìn nhau. Côi như bị thôi miên, đứng tê liệt như trờitrồng. Còn rắn chong cặp mắt hung cữ dò xét. Nhưng sau đó, nó chui vàođống cây vụn kia. Một chặp sau sô Ba mới hoàn hồn. Cô bước vào mái hiên, gọi:

- Thưa Bác vật, có em đem cơm qua đây

Bác vật Cảnh giọng yếu ớt:

- Tui đã dậy rồi, đang chờ cô đây.

Cô Ba Túy Nguyệt đặt gào- mên và chiếc giỏ mây xuống bàn, dịu dàng hỏi:

- Chẳng hay ông có được khỏe không?

Bác vật Cảnh sắc mặt sật sừ, uể oải bảo:

- Nhờ ông Năm cho uống thuốc an thần nên tui đỡ đau, nhưng thuốc đó làm tui bễ nghễ trong người, tay chơn bải hoải.

Cô Ba Túy Nguyệt bày cơm canh ra mâm, rót thuốc ra tô như thường lệ. Nhìn vẻ mặt ủ ê của ông, cô chạnh lòng, bảo:

- Để em nấu nước pha trà cho ông uống cho tỉnh người.

Cô xách chiếc ấm nhôm ra hiên mú c nước mưa rồi đốt rề- sô nấu nước. Cô bỏ trà vô ấm, soạn khay chén và bảo:

- Ở trong đống cây vụn bên hè có con rắn, ông chớ nên ra đó đi tiểu. Để em về nhà lấy rượu hùng hoàng phun vô đống cây cho con rắn bỏ đi.

Bác vật Cảnh uể oải ăn cơm như ăn sỏi sạn. Hơn lúc nào hết, ông biquan tuyệt vọng. Bịnh này khi thì hành đau nhức, khi thì hành ngứa ngáy. Lúc ngứa, ông lấy khăn lông quấn quanh gậy hơ lên lủa than cho nóng rồi áp vô chổ ngứa. Nhưng lúc đau, ông phải nhờ thuốc an thần. Thuốc nầylàm ông dịu được cơn đau đôi chút thì lại làm tinh thần ông mệt mỏi, nỗi bi quan vọt lên cao. Những lúc đó ông chỉ đọc thần chú Dược Sư QuánĐảnh chớ không thể tụng kinh tràng giang đại hải được.

Cô Ba Túy Nguyệt ra về, bảo cha:

- Có con rắn trong đống cây vụn bên nhà ông Bác vật Cảnh, xin cha cho con rượu hùng hoàng để con phun vô đống cây đuổi rằn đi.

Ông Năm Tảo lật đật đi lấy hũ rượu. Cô Ba liền bưng hũ bương bả quabên khôn viên nhà Bÿc vật Cảnh. Cô bước lại đống cây, hớp từng ngụm rượu phun đều khắp. Chưa yên tâm, cô còn phun rượu chung quanh nhà. Mùi rượu nồng ngát bay tới chỗ Bác vật Cảnh uống trà. Ông than:

- Công ơn cô săn sóc tui như vậy, nếu tui không hết bịnh mà chết đi thì tui chỉ nguyện kiếp sau đầu thai trả ơn cô.

Cô Ba Túy Nguyệt chỉ cười, nhưng cặp mắt cô sáng mọng nước mắt. Côkhông thèm lau, chỉ cuối xuống thu dọn bàn ăn rồi te tái đi một mạch rakhỏi nhà, không cất tiếng giả từ ông như mọi khi.

Khi cô Ba đi rồi. Bác vật Cảnh nhìn theo, nước mắt chảy ròng ròng.Lúc ươn yếu trong người, ông nhạy cảm hẳn lên, lòng mếm đi. Ông liềnđánh răng súc miệng để sửa soạn nghi thức tụng kinh Dước Sư. Bên ngoài,trang sáng vằng vặc. Dưới sông, ghe thương hồ qua lại, tiếng đối đápvăng vẳng.

Khi ông tụng kinh xong, trăng đã tuột khỏi đỉnh ngọ, tà tà ngả vềtây. Ông liền tắt đèn đi ngủ. Song chén trà ông uống hồi chiều khá mạnh, khiến ông trằn trọc mãi. Không lẽ cứ nằm lăn trở trên giường, ông liềnchỗi dậy thắp nén nhang ngọc quế trên bàn Phật và thắp ngọn đèn huê kỳđể đọc lại quyển kinh Viên Giác. Vào thời khắc nầy, tư bề yên lặng.Ngoài kia trăng sáng mênh mông. Tiếng mõ ở điếm canh chốc chốc nổi lênvăng vẳng. Tiếng dơi ăn trái chín kêu chóe bên vườn.

Càng đọc kinh, Bác vật Cảnh càng sanh hứng, quên đi cơn đau âm ỉ ởthể xác. Con đường tu của các bậc Bồ tát trong kinh mở cho tâm ông biếtbao cánh cửa để ông nhìn thấp thoáng vô số góc cạnh của chân giác ngộ.Thần trí ông lăng tăng. Ông tạm xếp kinh lại, tìm cái ấm nhom đem rahiên múc nước. Giây phút nầy mà uống một tách cà phê thì ngon phải biết! Ngoài hiên gió từng đợt thổi qua, cuốn thốc một mớ là vàng rồi hất vàohiên Ánh đèn huê kỳ từ trong hắt ra chỗ lu nước mưa. Và trời đất quỉthần ơi, dưới chơn lu, một con rắn vảy nâu có vạch hoàng kim và vạchngân bạch đang nghểnh cổ nhìn ông. Và không để ông phản ứng, nó phóngtới, cắn vào trên mắt cá chơn ông làm ông đau điếng. Niềm kinh hoàng làm miệng lưỡi ông tê liệt. Cơn xây xẩm làm ông suýt ngất đi. Ông cố gượnglê vào divan và ngã người trên đó, thần trí chìm dần vào cơn hôm mê dầyđặc. Bỗng một bà già hiện ra, mặt mày tuy vẫn xấu xí nhưng không hungác. Bà ta cười:

- Cung hỉ ông Bác vật. ừ đây ông sẽ lần hồi lành bịnh, cũng tỉ như cây khô trổ bông, rau héo gặp mưa vậy.

Vía Bác vật Cảnh bảo:

- Tui bị rắn cắn, chắc phải chết, lành bịnh mà chi?

Bà già vẫn tươi cười:

- Trong sách Đông y có viết rằng nọc độc của loại rằn Kim Ngân HoaXà có thể trị được bịnh cùi. Bởi trước kia tuy ông có phỉ báng TrờiPhật, nhưng ông biết làm việc thiện, biết tụng kinh sấm hối, giốc lòngtin tưởng Trời Phật nên các đại tướng Dược Xoa động tâm, sai con rắn Kim Ngân nầy cắn ông. Nọc rắn bắt đầu phát tác để tiêu diệt các mầm mốngphung hủi trong thân ông. Sáng mai rồi ông sẽ rõ:

Bác vật Cảnh chỉ biết chấp tay niệm Phật.

- Trong mấy tuần nay, ông bị bịnh hành dữ dội. Bịnh cùi đâu có phátmau dữ vậy. Đây chỉ là cái quả báo hiện hành gấp rút để ông mau trả hếtoan gia nghiệp chướng đó thôi. Lại nữa, mới nãy đây rắn cắn ông, chưachi mà ông đã xây xẩm hôn mê. Đó là do tui dùng phép mọn để ông bất tỉnh nhơn sự, không thể kêu cứu. Nếu ông tri hô kêu cứu, ông Năm Tảo cũng là tay giỏi trị rắn cắn, sẽ dùng thuốc hóa giải hết nọc rắn thì làm sao có thứ dĩ độc trị độc để tiêu hủy mầm mống bịnh cùi kia được!

Vía Bác vật Cảnh liền quỳ xuống tạ ơn bà già.

Bà già xua tay ngăn cản, rồi bảo:

- Thấy ông là kẻ hiền lương nên tui giốc lòng phù hộ ông. Việc tuilàm thấu đến đức Quán Thế Âm Bồ Tát nên lát nữa đây, tui sẽ thác sanhlàm cây hoa quỳnh ở từng trời Tứ Thiên Vương, mười năm trổ bông ngũ sắcmột lần cho chư tiên cúng Phật. Vậy tui xin từ giả ông. Bắt đầu từ đây,bộ đi- quăng ông nằm sẽ chỉ thứ gỗ tầm thường, vô tri vô giác.

Bà già biến mất và Bác vật Cảnh cũng vừa tỉnh giấc chiêm bao. Trờibên ngoài đã sáng lờ mờ. Ông chợt thấy niềm sảng khoái thấm nhuần châuthân nên vào nhà tắm, tắm để tẩy đi mồ hôi nhớp nháp. Xong ông trở vềphòng khách vừa hút thuốc vừa đọc báo và chờ cô Ba Túy Nguyệt đem điểmtâm qua.

Chùng giập bã trầu, Cô Ba Túy Nguyệt đến, theo sau là cô Hai Túy Ngọc xách một cái giỏ lớn.

Cô Hai bảo:

- Xế hôm qua, em tui đã mua đủ thứ cần dùng cho chú, vậy mà chiếu qua nó quên đem.

Cô lôi ra nào là đường, cà phê, xà bông đá để giặt quần áo, xà bôngthơm để rửa mặt, hai gói trà tàu, hai bánh thuốc rê, xấp giấy quyến vấnthuốc, hai tờ nhật báo, hai tờ nguyệt san... Cô ân cần hỏi han:

- Chú khỏe không? Đêm qua ngủ có ngon không?

Bác vật Cảnh đáp:

- Thưa chị, dù đêm qua ngủ ít nhưng tui an giấc và cảm thấy dễ chịu lắm.

Cô Hai Túy Ngọc sắp làm vợ ông Huyện Khải. Kể vai vế, cô đứng vàohàng chị ông Bác vật Cảnh. Đây là lần thứ hai cô qua thăm ông. Cô dịudàng bảo:

- Chú cần chi, muốn ăn món gì cứ nói con em tui biết. Ngày mốt, anhHuyện cùng ông Đốc Hạnh sẽ tới chơi, để dự lễ cúng rầm Vu Lan.

Cô Ba đặt mâm điểm tâm xuống bàn, so đũa, ân cần mời:

- Mời ông dùng điểm tâm cho nóng.

Mâm cháo sáng thật tươm tất. Cháu trắng nấu bằng gạo nàng hương thơm phức. Hai trứng vịt muối xẻ đôi bày trên chiếc dĩa màu trứng sáo. Mộtdĩa nhỏ đựng dưa mắm trộn tỏi ớt. Một dĩa cá lóc muối mặn và chiên vàng. Một tô thịt nạc dăm và cá lóc kho chung, nước kho đặc quánh sặc mùitiêu hành Một dĩa bắp chuối luộc trộn dấm ớt.

Cô Hai nhìn từ trong ra ngoài, khen:

- Ở đây từ trong ra ngoài đều ngăn nắp đẹp đẽ, chỉ thiếu mấy chậu bông cho vui mắt. Để tui mua tặng chú cặp chậu bông ngọc nữ.

Cô quay qua em:

- Em ở đây hàn huyên với chú Bác vật, chị có việc phải ra ngoài Cầu Dài.

Và cô kiếu từ. Đợi chị mình đi khuất, cô Ba mới nhìn sững người đàn ông tân học, bảo:

- Lạ dữ không, da mặt ông coi bộ bớt đỏ...

Bác vật Cảnh úp úp mở mở:

- Tui sẽ hết bịnh. Để rồi cô coi.

Cô Ba cười:

- Dĩ nhiên rồi. Em tin chắc như vậy.

Cô Ba nghiêm sắc mặt:

- Đêm hôm qua, em nằm chiêm bao thấy ông cùng em ngồi nói chuyệndưới mái lá nầy. Tư dưng ông biến mất. Chỗ của ông ngồi là một nhánh cây nhỏ trồng trong chậu. Một cơn gió hắt vào một làn sương mát, cây bỗngnãy lộc non, lá mới và trổ bông rườm ra lắm.

Bác vật Cảnh nhìn sâu vào mắt cô gái:

- Cô chiêm bao thấy cây khô trổ bông thì chuyện vui ứng vào cô chớ sao lại ứng vào tui?

Cô Ba đỏ mặt, ấp úng:

- Nhưng bấy lâu nay em tụng kinh Phổ Môn để cầu ông được lành bịnh.Cứ theo mộng triệu mà suy thì điềm hên phải ứng vào ông mới phải.

Rồi không nói gì thêm, cô thu xếp gào- mên bỏ vào tay xách, bỏ ấm đất vô giỏ mây rồi kiếu từ.

- Em phải đi chợ mua sắm lặt vạt.

Khi cô đi rồi, Bác vật Cảnh vẫn tiếp tục dùng điểm tâm. Hôm nay côBa mặc áo nhiễu màu tím than, càng làm tôn sắc da trắng trẻo, hồng hàocủa cô lên bội phần. Khi cô mắc cỡ, sượng sùng, má cô càng hồng tươithắm đượm, càng rạo rực lộng lẫy. Tim ông bỗng đập mạnh, miệng ông cườibâng khuâng...

Bên ông Năm Tảo, lễ cúng rằm được tổ chức thiệt lớn. Bà Năm ngoàichè bánh còn làm một mâm cỗ chay thịnh soạn. Cô Ba bưng qua Bác vật Cảnh một mâm chay vĩ vèo nào là chả giò, mắm thái, cà ri chay để ăn với bún, bánh tráng, rau sống. Mâm chè bánh gồm các loại bánh luộc như bánh ú,bánh dừa, bánh qui; chè đậu trắng, xôi nhuộm nước cốt lá cẩm màu tímtươi, xôi vị mau nâu mã não thơm mùi ngũ vị hương ngào ngạt.

Ông Huyện Khải tháp tùng ông bà Năm Tảo, cô Thiệt Nguyện, hai cô Túy đi chùa Long Đức và chùa Sơn Thắng. Kỳ rằm này bà Năm Tảo, ngoài mườingăn quả đựng mười thứ bánh, còn cúng đường mỗi chùa năm chục đồng, rấthậu hĩ.

Tiền cơm, tiền tiêu xài dành cho Bác vật Cảnh được người bác ông vàông Huyện Khải cung cấp đều đặn. Và cũng đều đặn ngày ba lần, cô Ba TúyNguyệt đem cơm nước cho ông. Mỗi lần như vậy cô đều ngồi nán chừng nửatiếng đồng hồ để trò chuyện. Bác vật Cảnh vẫn trì tụng kinh Pháp Hoa vàkinh Dược Sư đều đều. Chừng nửa tháng sau, cô Ba chăm chăm nhìn ông,bảo:

- Lạ quá đi, da mặt ông sáng mịn hơn bao giờ!

Ông đưa tay xoa xoa lên má mình. Quả vậy, áp dưới lòng bàn tay, damặt ông láng như da trẻ thơ. Khi cô Ba ra về, ông soi gương và thấy lớpxù xì trên mặt không còn nữa. Đôi mày lưa thưa của ông đã mọc rậm lại.Những vết lở lói ở tay ở cẳng đã khô mặt dần.

Rồi đến một hôm, ông nấu lá thạch xương bồ đề tắm thì thấy mình đãhoàn toàn bình thường. Tóc ông rập rạp xanh tốt trở lại, những vết lởlói biến mất không để lại vết thẹo nào.

Chiều hôm đó ông Năm Tảo sau khi xem mạch cho Bác vật Cảnh, bảo:

- Bấy lâu theo dõi bịnh trạng ông, thấy bịnh lần lượt rút lui. Naytóc, mày ông đã mọc rậm trở lại, chứng tỏ ông đã hoàn toàn bình phục.Vậy ông hãy lên Sài gòn khám bịnh coi có đúng như lời tui nói hay không.

Tới lúc đó Bác vật Cảnh mới thuật tỉ mỉ cho ông Năm nghe những lầncon tinh cẩm lai báo mộng, lần con Kim Ngân Hoa Xà cắn ông. Ông Năm chỉbiết chắp tay niệm Phật.

Sau cùng, Bác vật Cảnh bảo:

- Thưa ông Năm, tiện đây tui cũng xin thưa với ông. Ông là danh y,đoán bịnh khó mà trật được. Như vậy là tui đã lành bịnh rồi, không cònhồ nghi gì nữa. Trong thời gian về đây dưỡng bịnh, tui được cô Ba sănsóc, an ủi. Cổ lại còn khuyên tui tham khảo kinh điển và trì tụng kinhkệ. Ơn cổ lớn biết chừng nào! Tấm lòng cổ đối với tui tận tụy tha thiếtbiết mấy! Cô vừa đẹp vừa hiền, lại có tấm lòng vàng, nên tui muốn cướicổ để đáp đền ơn cổ. Xin ông nhận lời tui, cho tui được làm rể ông.

Ông Năm Tảo ngần ngại:

- Ông lành bịnh thì tui mừng, nhưng về việc cầu hôn thì xin ông suy nghĩ lại.

Bác vật Cảnh tha thiết:

- Đực làm rể người hiền đức như ông, được làm chồng cô gái ngọc diện băng tâm như cô Ba, thì đó là tam sanh hữu hạnh cho tui vậy!

Ông Năm Tảo chau mày:

- Tui biết tánh ý con gái tui nhiều. Nếu vì mang ơn nó mà ông đòi cưới nó thì nó không ưng đâu!

Nghe vậy Bác vật Cảnh cười xòa:

- Đó là cách nói thôi, chớ thiệt tình tui đã thương thầm nhớ trộm cổ từ những ngày được gần gũi và trò chuyện với cô kia...
 
Chương 10


Bác sĩ Lê Thạnh Mậu tiễn Hai Dần, người anh bạn dì của mình ra cửa, bảo:

- Phải bố trí các nào để bắt quả tang đôi gian phu dâm phụ kia, cótrưởng tòa làm biên bản. Có vậy tôi mới lôi cổ con vợ khốn nạn của tuira tòa xin ly dị.

Từ hơn tháng nay, bác sĩ Lê Thạnh Mậu nghe đồn vợ mình tư tình vớitên Thierry Lemur, giám đốc đề- bô nước ngọt, la- de và rượu tây kiêmđề- bô nước đá. Ông nhờ Hai Dần làm thám tử dò la xem tin đồn có đíchxác hay không. Ông tặng quà cáp, tiền bạc cho đương sự rất hậu hĩ. HaiDần vốn bảnh trai, lanh lợi, quyền biến. Anh ta đã cặp xách được với côSáu Bạch Huệ, người chứa chấp và dắt mối cho cặp trai gái ngoại tìnhkia.

Thierry Lemur đã có vợ, một người đờn bà Pháp, cho nên y ta khôngthể dắt cô Ba Cẩm Tú về nhà hú hí được. Cô Ba Cẩm Tú sực nhớ tới cô SáuBạch Huệ vốn thiếu nợ cô một món tiền lớn, chạy tiền lời trả cô cũng hụt hơi huống chi trả vốn. Cô Ba bèn đề nghị nếu cô Sáu chịu cho cô mượnnhà để cô hú hí với Thierry Lemur thì số tiền nợ lẫn lời kể như bỏ.Trước hết, cô Ba Cẩm Tú xé giấy nợ cũ, làm giấy nợ mới, coi như cô Sáuđã trả cho cô phân nửa. Phân nửa còn lại, cô Ba hứa sẽ tha luôn nếu côSáu làm y theo lời cô.

Nhưng xui cho cô Ba Cẩm Tú. Ở đời, tiếng gọi của trái tim vẫn thường làm cho con người lung lay thay đổi lập trường và đạo đức. VaÛ lại côBa chưa hề làm ơn cho cô Sáu Bạch Huệ, nếu không nói là trước kia đã bóc lột cô Sáu qua lối cho vay cắt cổ. Hai Dần biết được điều đó nên cứdùng lời súc siểm, túc ráy cô Sáu. Vậy là cô Sáu bằng lòng nhận hai trăm năm chục đồng của bác sĩ Mậu để gài bẩy và bêu xấu cô Ba Cẩm Tú cùngtên Pháp kiều Thierry Lemur kia. Hai Dần nói:

- Xong vụ nầy, em trích ra một trăm đồng trả dứt nợ cô Ba Cẩm Tú,còn một trăm năm chục đồng thì để dành làm vốn mở tiệm cơm tây với anh.

Nhận tiền rồi, cô Sáu Bạch Huệ cùng Hai Dần bố trí giăng lưới, đặtbẫy rình rập chờ đón đôi gian phu dâm phụ. Cái xui xẻo, vận rủi rothường không mấy khi đi một mình có phải! Quan Chánh tham biện chơi thân với bác sĩ Lê Thạnh Mậu và không ưa Thierry Lemur. Chắc chằn việc điếmnhục nầy có đổ bể ra, quan cũng sẽ không bao che kẻ đồng hương đồngchủng với mình.

Khi Hai Dần đi rồi, bác sĩ Mậu vào giường làm một giấc trưa chokhỏe. Hôm nay ông đóng cửa phòng mạch và nghỉ cuối năm như thường lệ. Từ sáng sớm cô Ba Cẩm Tú đã lấy cớ đến nhà Agnès Thuận và Isabell Định,hai ả chơi bời nổi tiếng trong tỉnh, để tìm, cách mua đi bán lại vài món nữ trang. Ông cũng không thèm hỏi lui hỏi tới công việc củ a vợ nữa.Tình vợ chồng giữa ông và cô Ba trở nên lợt lạt vì từ khi bị sảo thai,cô Ba Cẩm Tú xuống sắc thấy rõ. Mình mẩy cô tuy không ốm o nhưng bắt đầu khô khan. Dung nhan cô lợt lạt nên cô đánh phấn dày cui, trang điểm lòe loẹt, đeo nữ trang rườm rà, phúc sức choáng lộn. Tuy hết yêu vợ nhưngông vẫn ghen vì tự ái bị xúc phạm. Và để làm cho lợi gan, ông muốn bứngvợ ra khỏi nhà, làm cho lớn chuyện để bên vợ phải ê mặt với dân trongtỉnh. Thanh danh ông có trầy trụa chút đỉnh mà nhằm nhò chi! Cả hai chưa có con với nhau thì lẽ nào ông cần phải nới tay cho con vợ lăng loànkia!

Cốt nhứt là mình phải bình tĩnh, giả đò mắt đui tai điếc ở lớp đầu.Khi chim đã sa lưới, cá đã vô nò, trong rọ, trong ó thì mình sẽ thẳngtay. Tuy nghĩ vậy nhưng lòng ông sôi sục sục. Ông không thể nằm đây đểnghiền ngẫm cơn hờn ghen đang nung nấu tâm can ông. Ông liền chổi dậygọi chị ở pha cho ông một tách cà phê, còn ông thì đi tắm, chải đầuthiệt láng, xịt dầu thơm nực nồng và ăn mặc thiệt bảnh bao. Ông dùng càphê xong liền lái xe chạy rong thành phố. Trời buổi xế nắng uôi uôi. Gió tạt vào xe làm ông cảm thấy nguôi dịu sự ray rứt đôi chút. Bây giờ ôngmới cảm thấy đói vì hồi trưa nầy mảng lo bàn bạc gài bẫy vợ với Hai Dần, ông chỉ căn chấm chút bụng như no vì suy tính nọ kia. Ông sực nhớ tớiquán bà Bảy Thông cất ở giữa khoảng chợ cá và Bungalow, sàn quán gie rasông. Bà Bảy có món chả giò, bì bún, bì cuốn, gỏi cuốn, nem nướng, chạo, bánh cống ngon tuyệt vời. Tuy nhiên hôm nay là ngày rằm, quán bà sẽ bán đồ chay. Nhưng đồ chay của bà cũng nổi tiếng hàng đầu trong tỉnh.

Bác sĩ Mậu cho xe đậu trước dãy khách sạn gần bên chợ hàng bông,ngoắc đứa nhỏ đứng sớ rớ gần đó, nhét vào tay nó năm xu, dặn cho coichừng xe cho ông. Xong, ông vượt qua đường, qua khu bán nước ngọt, chètới quán bà Bảy Thông. Quán lúc nào cũng đông khách. Ông chọn chiếc bànđặt sâu bên trong, gần cửa sổ để ngó xéo xéo ra sông Cổ Chiên và vùng cù lao An Thành. Bỗng ông ngập ngừng chùn bước. Người đàn bà ngồi cạnhchiếc bàn ông chọn chẳng ai xa lạ mà chính là cô Võ thị Tố Mai pháp danh Thiệt Nguyện, người yêu cũ của ông.

Hôm nay cô Thiệt Nguyện vẫn như thường lệ mặc chiếc áo dài trắng,quần trắng. Nhưng áo dài bằng lụa cẩm nhung, còn quần thì bằng cẩm quất. Tai cô đeo đôi bông nhận hột trân châu, cổ cô đeo giây chuyền vàng cómiếng mề đay cẩm thạch tạc tượng Quan Âm. Cô không son phấn, không tỉachơn mày, nhưng da mặt cô trắng hồng, môi cô mọng thắm, mày cô thanhthanh.

Bác sĩ Lê Thạnh Mậu nghĩ thầm: "Mèn ơi, sau sáu năm xa cách, cổ còngiưa y nét trẻ trung. Hôm gặp lại ở chùa Sơn Thắng, vì mảng lo bịnhtrạng con vợ mình nên không có dịp quan sát cổ. Màu trắng của y phục làm cô kiều diễm thanh cao bội phần. Đây là vẻ đẹp thiên chơn. Son phấn hực hỡ, nũ tang hòa nhoáng chỉ tổ làm hư hoại bóng sắc đi".

Thiệt tình bởi trước kia ông hành xử quấy với cô Thiệt Nguyện nêngặp lại ông hơi ngường ngượng. Tuy nhiên vì quen giao thiệp, lại thêmtánh tự tin bặt thiệp nên ông ré lên liền:

- Tố Mai, mạnh giỏi hả em?

Cô Thiệt Nguyện vẫn giữ sắc điềm đạm:

- Em vẫn mạnh. Còn anh?

Bác sĩ Mậu hơi cau mày nhưng vẫn giữ vẻ tươi cười:

- Ờ thì cũng mạnh, nhưng hồi này anh có mấy việc không vui nên ít đi đâu.

Ông kéo ghế ngồi vào bàn rồi hỏi:

- Em cho phép anh ngồi với em không?

Cô Thiệt Nguyện cười:

- Thiệt ra em đợi mua đồ chay đem về nhà chớ không phải ngồi ăn ở đây. Đồ chay lấy xong, em về liền.

Bác sĩ Mậu nhìn cô trân trối:

- Nghe nói dạo này em ở đàng nhà ông Năm Tảo, phải không? Anh muốn tới đó thăm em, em nhắm coi có tiện không?

Cô Thiệt Nguyện vẫn cười:

- Anh phải hỏi con Ba Cẩm Tứ, chớ sao lại hỏi em? Mà anh tới thăm em làm chi? Anh không sợ kẹt cho đôi bên hay sao?

Bác sĩ Mậu ngẫm nghĩ:

- Ờ, kẹt thiệt đó chớ. Nhưng mà... chu choa ơi, lóng rày sao em đẹpquá! Em làm anh nhớ huở nào anh còn học trường Petrus Ký, còn em họctrường Áo Tím.

Cô Thiệt Nguyện chỉ cười:

- Thì đó là hồi xưa. Xưa khác, nay khác. Hoàn cảnh của anh và của em thay đổi nhiều rồi.

Bác sĩ Mậu bỗng xúc động:

- Tại anh ráo trọi! Nhưng trong thâm tâm anh nếu quá khứ là giấc mơ thì anh xin giữ những giấc mơ đẹp.

Cô Thiệt Nguyện lắc đầu:

- Cám ơn anh. Nhưng mà quá khứ không phải là giấc mơ. Tuy nhiên nếunó quả là giấn mơ thì trong đó cũng có nhiêu cơn ác mộng mà em đã trảiqua.

- Tại anh hết. Nhưng để ảnh thu xếp. Mốt đây anh sẽ đến xóm Chuồng Gà thăm em.

Cô Thiệt Nguyện xua tay:

- Thôi anh ạ. Em có phiền trách anh đâu! Việc gì cũng đều do nghiệplực đưa đẩy. Đừng có léo hánh tới em mà sanh nhiều tiếng thị phi.

Bác sĩ Mậu buồn so. Bà Bảy Thông đem năm ngăn gào- mên đựng thức ănlại cho cô Thiệt Nguyện kèm theo tiền thối. Cô cám ơn bà chủ quán rồichào bác sĩ Mậu.

- Anh ở lại, em về.

Cô uyển chuyển xách gào- mên bước ra cửa, xuyên qua khu nước ngọt,đồ ngọt, bước ra lề đường ngoắc chiếc xe lôi về xóm Chuồng Gà.

Bác sĩ Mậu kêu một ly nước dừa xiêm, một tô bún chả giò, ba cuốn bì. Ông cảm thấy tim mình đập theo nhịp điệu lạ lẫm. Ngoài cửa sổ, con sông Cổ Chiên trải rộng tầm nhìn từ vàm sông. Bên kia là cù lao An Thành với hàng cây xanh tươi. Một chiếc ghe giương buồm trắng lướt qua. Sông gợnsóng bạc lấp lánh dưới ánh nắng bắt đầu rạng rỡ. Màn mây mỏng che bầutrời bắt đầu tan rã vì cơn gió lao xao thổi mạnh, trả lại màu xanh lamngọc ửng sáng.

Riêng cô Thiệt Nguyện trên đường về, cảm thấy tâm hồn mình lay độngkhiến cô quên phứt mình đang là một ưu bà di. Trái tim cô ấm áp với niềm rung động xưa cũ. Ôi, đây là cảm giác 0trong những lúc cô nép mìnhtrong vòng tay anh chàng Mậu năm nào. Tới bây giờ cô vẫn yêu anh ta, một người tuy thông minh nhưng tâm địa tầm thường, không chí hướng cao cả,không có đời sống tâm linh như cô hàng mong mỏi. Nhưng cô biết làm saohơn! Cô yêu đương sự qua một mối đam mê oan nghiệt, theo một nghiệp lựctai ác đẩy đưa. Cho tới bây giờ mà ảnh còn nói tới mộng nầy mơ nọ khituổi đã quá nửa chừng xuân. Hồi tám năm trước, cái miệng xạo đía nhữngmộng đó đã làm tui mê man đắm đuối. Khi bị ảnh lộng nài bẻ ống từ hôn,tui chỉ nghĩ tới tựn tử để chạy trốn đớn đau nhục nhã...

Hôm nay là ngày rắm Trung Thu. Kỳ rằm này, gia đình ông Năm Tảo làmtiệc thưởng trăng thiệt lớn. Một phần bởi ông Nam Tảo làm ăn phát đạt,nhưng phần lớn là tại ông sắp có hai chàng rể chẳng những thuộc hàng tân học mà còn đứng vào giai cấp thượng lưu trong xã hội. Các thân chủ củaông Năm biếu xén ông nhiều hộp bánh trung thu thựng hạng, cho nên bà Năm chia bớt cho ông bà Chín Thẹo và ông Mười Thiệp ăn lấy thảo.

Bà Năm Tảo sử soạn hai mâm tiệc. Mâm mặn dành cho ông Năm, ông ĐốcHạnh, ông Huyện Khải, ông Bác vật Cảnh và hai cô Túy. Còn mâm chay dànhcho cô Thiệt Nguyện cô Út Ngọc An và bà.

Khi cô Thiệt Nguyện về tới nhà thì cô Hai Túy Ngọc đã quét dọn trung đường và sắp đặt bàn ăn. Chén sứ, dĩa sứ, đũa mun được bày ra.

Vừa thấy cô Thiệt Nguyện, bà Năm Tảo cười:

- Không dè năm nay cháu ăn Tết Trung Thu với chú thím và hai con Túy.

Cô Thiệt Nguyện bày năm ngăn gào- mên, bảo:

- Cháu thấy quán bà Bảy Thông có món mắm thái chay, món kiểm và mónmắm chưng chay nên cháu mua về để hai thím cháu mình cùng em Út Ngọc Anăn cho vui.

Bà Năm mừng rỡ:

- Thím có nấu kiểm, nhưng không có làm hai món mắm chay kia.

Bà quay qua dặn cô Hai Túy Ngọc:

- Con có nấu nước thạch xương bồ phải không, nhớ nấu thêm cho má và chị Thiệt Nguyện nữa.

Hai cô Túy đã gội đầu bằng nước bồ kết, nhưng phải đợi nấu nướngxong họ mới tắm rửa. Trong căn bếp oi bức ánh lửa nầy, mồ hôi của họ cứrịn mãi dưới lớp y phục bằng vải xiêm.

Tuần rồi, đám hỏi cô Ba Túy Nguyệt được cử hành trong vòng thân mật. Đàng trai đưa sính lễ gồm những món nữ trang y như những món ông HuyệnKhải đi hỏi cô Túy Ngọc, chỉ thiếu đôi vòng ngọc thạch. Bù lại, ông bácvật Cảnh tặng cô Ba Túy Nguyệt một chiếc cẩm thạch huyết đỏ như trái càchua giồi mắt bóng lộn, một chiếc nhẫn vàng nạm ngọc kim sa nâu đỏ lấplánh những hột vàng.

Cô Ba Túy Nguyệt soạn bộ ấm chén Vương Khải trân ngoạn để quí ônguống trà Xuân Long Tỉnh. Riêng phần các bà, cô lôi trong tủ ra cái bìnhtích bằng sành lớn cỡ nửa vòng ôm vẽ hình con đại cẩm kê cùng tám cáichén cũng bằng sành vẽ các món bát bửu để các bà uống trà thường hiệuCon Cua Xanh cho khỏi mất ngủ.

Bà Năm Tảo dặn hai cô con gái:

- Mấy cái khạp chứa nước mưa năm ngoái để dành pha trà, sắc thuốc,chưng yến thì cái chót dành để pha trà cho dem rằm Trung thu nầy đó đa.Bây xếp than Cần đước vô hỏa lò sẵn, hễ khách vừa ngồi vào bàn là má con nình châm lửa đốt than nấu nước liền.

Hai Cô Túy lo xem xét những măm trái cây và các dĩa bánh sắp sẵntrên chiếc bàn dài đặt trước tủ chè. Măm chất đầy bánh trung thu, mâmchất đầy cam tàu, quít núm, hồng tươi, bôm, nho, xá lỵ. Dĩa cốc, ổi dầmcam thảo. Dĩa đựng đầy thơm tây xè từng miếng dài. Dĩa sâu lòng đựng đuđủ xắt từng miếng vuông, hễ khách ăn tiệc xong là ướp nhưng phiến đá lụn vụn để khách tráng miệng. Ba chiếc dĩa được đậy lòng bàn để tránh ruồi.

Cả hai cùng đi tắm bằng nước thạch xương bồ. Xong, cô Hai mặc chiếcáo bà ba hàng lụa màu nguyệt bạch, chiếc quần đáy giữa bằng cẩm tự. Còncô Ba mặc chiếc áo bà ba bằng cẩm châu trắng, quần xá xị đen. Hai côchải đầu thiệt láng, xức dầu bông lài thiệt thơm, giắt chiếc trâm nạmhình trăng khuyết cẩn hột xoàn tấm nhấp nhánh. Cô Hai đeo sợi dây chuyền vàng, mề đay cũng bằng vàng chạm hình chữ Phước. Cô Ba đeo chiếc kiềngtrơn. Họ cũng đeo bông đầm bằng vàng, vòng vàng, cà rá cẩm thạch cắthình hột dưa.

Cô Thiệt Nguyện tám gội xong, mặc quấn vải xiêm đen, áo nhựt bìnhmàu khói nhang. Bà Năm Tảo thì mặc bộ đồ bằng xuyến đen xâu chuổi hộtvàng, đôi bông mù u vàng và đôi neo quai chảo cũng bằng vàng. Riêng ôngNăm từ sáng sớm đã mặc bộ quần áo bằng lụa lèo cho ra vẻ phong lưu. Đoán chừng khách sắp đến, ông rửa mặt cho tươi tỉnh và chải tóc cho láng,không một sợi nào bung ra.

Vừa tắt nắng, xe ông Huyện Khải tới. Tháp tùng có ông Đốc học Hạnh,không kể anh tài xế. Nghe tiếng xe đậu trước cửa ngõ nhà ông Năm Tảo,Bác vật Cảnh vội xỏ chơn vào đôi xăng- đan, đi về cửa rào ngăn đôi haikhu công viên để qua nhà ông Năm. Lúc đó, cô Út Ngọc An cũng từ bên nhàmình bức qua. Cô mặc áo bà ba bằng vải ba tít trắng thêu bông cúc tím,quần sa- teng tuyết nhung đen.

Ông Huyên Khải mặc âu phục bằng tít- so màu ngà, thắt cà- vạt đỏ sọc đen, đi giày da vàng. Ông Đốc học Hạnh mặc áo bành tô bằng vải xi- mi-li trắng, quần đồng thứ vải. Điểm nổ bậc trên áo là bộ nút bằng đồng chù bóng nhả ánh vàng diệp lóng lánh. Vì là ngày đậc biệt, ông Năm Tảo âncần mời anh tài xế cùng chung tiệc thưởng trăng.

Mâm mặn ê hề món phổ thông: cháo gà và gỏi gà trộn rau răm, thịt vịt nấu cà ri ăn với bún, tôm nướng trộn gỏi bồn bồn, chim vỏ vẻ, chim ốccao rô ti với nước dừa xiêm, cá đuối xào với cải rổ tưới tương hột. Mâmchay ngoài những món cô Thiệt Nguyện mua ở quán bà Bảy Thông, còn có chả giò chay ăn với bún và rau sống, món tàu hủ chiên kho với đậu ve, đậuđũa.

Lúc mọi người dùng tráng miệng với trái cây, vừng trăng rằm đã leolên ngọn cây sa kê ở hướng đông,, cao cỡ ba sào rồi. Tuy nhiên chưa tắthẳn. Một chút ánh tà dương bạc nhược còn nấn nuối ở phương tây tô lênnền trời màu xám biếc như thiếc lạnh.

Ông Năm Tảo đốt đèn măng- sông, treo ở trung đường. Bây giờ mọingười đờn ông đã ra ngoài trung đường. Còn đờn bà thì lo rửa chén và nấu nước pha trà. Đời cho trăng dãi sáng sân thềm, các bà các cô xong xuôimọi việc trong bếp, ông Huyện Khải mới bảo người yêu:

- Sẵn đêm rằm Trung thu, cả nhà đoàn viên, em hãy đem tập thơ ra cho qua đọc cùng để tía má và anh chị em đây thửng thức.

Cô Hai Túy Ngọc trở về buồng lấy tập thơ đưa cho ông Huyện Khải. Đọc tới bài Đêm trăng thôn dã, ông kêu lên::

- Trời đất ơi, đây đúng là bài cô Trịnh Thị Minh Ngọc đã làm hồi 18năm về trước, chỉ khác có cái tựa mà thôi! Tựa thuở trước là Đêm rằmmông đẹp,

Và ông cất giọng ngâm:

Trăng nõn nà treo trên mái đình

Ngày mùa rơm lúa ngát thâu canh

Sáng khung cử ngõ, in phên liếp

Vàng lối vườn sau, loáng lá cành

Phiến trắng cũ soi tình tuổi dại

Vầng trong nay rực mộng ngày xanh

Sân ngoài trải chiếu nằm đâu mặt

Em chị hàn huyên chuyện chúng mình.

Ông sai anh tài xế ra xe lấy tập thơ của cô Trịnh Thị Minh Ngọc đểso sánh với tập thơ của Tần Thị Túy Ngọc. Thế rồi mọi người cùng chuyềnnhau đọc qua hai tập thơ. Hai tập đều có một tuồng chữ viết bằng mựctím. Dấu khoanh, dấu móc, nét bung xuống đá lên y chang như nhau. Bácvật Cảnh lặng cả người, mới rõ rằng cái tàng thức của mỗi cá nhơn kỳdiệu biết bao, nhiệm mầu biết mấy! Ông Huyện Khải cảm xúc quá, cổ họngtắt nghẹn không đọc được nữa. Cô Hai Túy Ngọc cũng xúc động lắm nhưngchỉ rươm rướm nước mắt chớ không khóc sướt mướt như hôm tái ngộ lần đầuvới người yêu.

Ông Đốc học Hạnh an ủi ông Huyện Khải:

- Hết ly tới hiệp, đó là điều đÿng mừng. Vậy qua xin các em hãy vuilên. Tình duyên càng lận đận thì cuộc tái hiệp mới càng hạnh phước ê hề.

Bà Năm Tảo tán thành:

- Lời ông Đốc phân r ất phải. Vậy để tui châm trà bày bánh để mọingười cùng ăn bánh thửng trăng, sau đó ai muốn tức cảnh mần thơ tuikhông dám cản đâu nghen!

Mọi người vỗ tay cười inh ỏi. Bây giờ bóng trăng rằm vắt vẻo lưngchừng trời màu xanh nước biển, giữa muôn sao nhấp nháy. Trùn dế ngoàivườn kêu râm ran. Hàng bụi bông lài bát ngát đưa hương. Ngoài đường cái, thiên hạ đi chơi trăng, tiếng cười nói văng vẳng đưa tới bàn tiệc.

Trong giây phút nầy, cô Thiệt Nguyện nghĩ rất nhiều về bác sĩ LêThạnh Mậu cùng buổi hội ngộ vào hồi xế. Trí tưởng của cô trôi xa vào cái thuở đầu mùa yêu đương, vào thời kỳ say đắm cũ. Cô cứ để cho phút hồitưởng lôi kéo cô chạy sa đà vào những chặng đời say đắm hoan lạc có, khổ đau tuyệt vọng cũng có. Cô quên phứt đi hoàn cảnh của một cận sư nữhiện tại. Tất cả những gì đè nén từ đáy sâu khảm cô vụt chổi dậy, layđộng cô, réo gọi cô trở về cô Võ Thị Tố Mai của năm xửa năm xưa...

x

x x

Cô Tư Cẩm Lệ sanh được đứa con trai tại nhà bảo sanh ở Bà Chiểu.Luật sư Trần Hảo Hiệp đánh dây thép cho ông bà Bang biện Hưỡn báo tin.BÀ liền mướn xe lô- ca- xông đi cho mau lên Sài gòn để thăm con gái. Vừa gặp mẹ, cô Tư Cẩm Lệ bảo:

- Đứa nhỏ chào đời hành hạ con đau đớn khủng khiếp. Con sanh nhauchằng mà bà mụ không biết, sau cùng nhờ thầy thuốc gỡ nhau thì đứa nhỏmới chui ra.

Rồi cô dặn mẹ:

- Trong thời gian má ở đây hủ hỉ với con, xin má đừng ở nhà chồngcon để khỏi gai mắt. Lóng rày hai đứa con ghẻ của con coi bộ lộng quyền!

Bởi đó bà Bang biện Hưỡn phải ở nhơ nhà ông Tư Khánh, người em connhà chú của bà tại Phú Nhuận. Mỗi khi vào nhà bảo sanh thăm con gái, bàcũng thường gặp mặt chàng rể, nhưng Luật sư Hiệp có vẻ xa cách với bà và không có vẻ săn đón con, dù đứa trẻ nặng tới ba ký lô, mặt mũi sáng sủa lắm.

Tuần lễ sau, bà Bang biện Hưỡn đi đò máy về Vĩnh Long. Trong lòngbuồn bực, bà linh cảm cô thứ nữa của mình rồi đây sẽ gặp nhiều trục trặc trong cuộc sống lứa đôi. Trước khi từ giã con, bà dặn dò:

- Con đã sanh cho chồng con một chút trai để nối dõi tông đường nhànó rồi, con nên làm trành làm tréo cách nào để nó chịu làm hôn thú vớicon, và nhứt là phải làm khai sanh cho đứa nhỏ.

Cô Tư Cẩm Lệ xụ mặt:

- Coi bộ khó rồi đa má! Bà mẹ chồng con coi ngày sanh thằng nhỏ, nói rằng nó chào đời phạm giờ độc nên bà cản không cho làm khai sanh liền.Bà nói hãy chờ nó tới giáp tuổi tôi mới có thể làm khai sanh sụt mộttuổi để tránh xui. Đứa nhỏ chưa được thằng khốn nạn đó nhìn là con, thìcái thân con đây cũng khó mà được chính thức làm vợ nó trên mặt pháp lý.

Về tới nhà, gặp cảnh ông chồng tàn phế cứ ngồi lì một chỗ ngủ từnggiấc lụn vụn, bà Bang biện Hữn rầu thúi ruột. Cậu Hai Luyện đã đến nhàông Hương sư Chiêm ăn tiệc và nhận thêm phân nửa số vàng mà cậu đòi, hễkhi đào kinh xong thì ông Hương sư sẽ trả dứt vạt số vàng còn lại. Sauđó, thầy Mười Khói được thỉnh đến để trấn ếm quỉ ma khắp dải đất đàokinh, nhứt là để trấn ếm Hắc Giao đại vương.

Đang lúc bà Bang biện Hưỡn rầu về chuyện cô Ba Cẩm Tú tuyệt đườngsanh nở, về chuyện cô Tư Cẩm Lệ bị chồng lạnh nhạt, và nhứt là về chuyện ông chồng bán thân bất toại, thì một sáng kia cậu Hai Luyện ngồi ghelườn từ Mỹ An về thăm nhà. Dữ ác! Nửa tháng nay chẳng hiểu thằng contrai ương ngạnh của bà mê sa con lủng nào mà ở miết chốn quê mùa hẻolánh kia, quên ông cha bịnh tật, quên bà mẹ thất thẻo đợi chờ! Bà quở:

- Quỉ ơi, con còn nhớ nhà để về thăm, chắc là Phật Di Lạc sắp đản sanh rồi đó!

Cậu Hai báo tin:

- Con dọ hỏi người quen biết ỡ Mỹ An mới hay rằng Xã Miễn vì thấtmấy vụ kiện hồi năm ngoái, lại mần ăn lụi xụi nên muốn bán sở đất giápvới con kinh mà con đang cho đào. Má thử xúng Mỹ An coi ra sao, rồi vềbàn với ba mua rẻ sở đất cho con đứng tên.

Nghe chuyện lợi lộc, bà Bang biện bớt cơn bất bình, kêu con Lý làmbữa cơm thịnh soạn cho thằng con mình ăn. Đêm hôm đó, hai mẹ con bà Bang biện bàn bạc cho tới giữa canh ba mới đi ngủ. Cậu cũng cho mẹ biết rằng cuộc đào kinh đã khởi đầu từ mười hôm trước.

Sáng hôm sau, cậu Hai Luyện và mẹ ngồi ghe lườn, trương bườm xuôi một mạch đến Mỹ An. Thầy Cai Nhậm vừa thấy cậu liền báo cáo:

- Bẩm quan kinh lý, hôm qua dân phu đào khúc kinh từ đầu cuộc đất Xã Miễn cho tới cuộc đất thầy Hương Hào Liệt thì thấy máu từ trong mạchtuôn ra đỏ ối.

Cậu Hai Luyện lật đật tới chỗ đào thì thấy nước đỏ lênh láng trộnvới bùn trở thành màu nâu đỏ như đất miệt Hớn Quản, Lộc Ninh, Bù Đấp.Cậu cười ngất, giải thích:

- Máu gì đâu! Đây là chất sắt trong đất đó thôi. Biết đâu hồi tạo thiên lập địa, vùng Mỹ An nầy là vùng đất đỏ.

Nhưng khi nhìn những nhát xuổng, nhát cuốc cắm vô đất để vỡ đất, làm tuôn trào chất nước đỏ như son, bốc lên mùi tanh tưởi, cậu cũng bắt đầu rùng mình mọc ốc. Bỗng dưng mây từ đâu kéo về giăng kín bầu trời thànhmột màu xám xịt. Rồi cơn mưa như thác trút xuống. Dông cuốn vùn vụt, gió thổi ào ào. Lẫn trong tiếng gió có tiếng gầm thét, tiếng than khóc. Mọi người tạm gác công việc bỏ về nhà.

Mưa như cầm tĩn đổ từ xế cho tới chiếu tối. Thím giÿo Thạnh, vợngười chủ nhà, dọn cơm mời mẹ con bà Bang biện Hưỡn dùng và khuyên bàhôm sau sẽ đến nhà ông Xã Miễn cũng không muộn.

Sau khi cơm nước xong xuôi, cạu Hai Luyện cảm thấy ớn lạnh, trongngười bễ nghễ. Bà Bang biện khuyên con uống gói thuốc Cảm mạo Phát tánđể ngừa cảm. Uống thuốc xong, cậu liền vào giường, vì con sốt bắt đầuphát tác. Cậu lấy làm bực mình vì ở ngoài trung đường, vợ chồng thầygiáo Thạnh cứ bàn ngang tán dọc, kể tới kể lui với bà Bang biện Hưỡn vềchuyện máu trào trong khúc kinh đào. Thím giáo cứ niệm Phật liền liền,còn bà Bang biện thì kêu trời luôn miệng...

Rồi cậu Hai Luyện thiếp đi. Trong giấc chiêm bao cậu thấy một ngườiđờn ông đen đúa, đầu đã cụt, tay trái cầm cái thủ cấp của mình, tay mặtcầm cây gậy. Thủ cấp trợn mắt hét lớn:

- Quân tham lam khốn nạn! Mầy đành đoạn ăn tám lượng vàng để làm tao thiệt mạng! Mầy hãy chong mắt ra coi tao trả thù!

Tay mặt người cụt đầu cầm gậy phang vào hai đầu gối cậu Hai Luyệnlàm cậu đau điếng. Cậu giựt mình thức giấc thì thấy hai đầu gối mình bầm tím và sưng vù. Mưa gió hai ngày liên tiếp bủa giăng mịt mù. Cậu bèngiao việc điều khiển công cuộc đào kinh cho hầy Cai nhậm và thầy CaiÍch. Đầu gối hành cậu đau quá thể nhưng cậu không dám thuật lại giấcchiêm bao cho mẹ nghe. Cậu sai thằng Yêm đi Hòa Mỹ rước thầy thuốc tàuTrương Gia Minh để bó thuốc lên hai chỗ sưng kia.

Hôm sau bà Bang biện Hưỡn nhờ thím giáo Thạnh đưa bà tới nhà ông XảMiễn để bà điều đình mua đứt miếng đất, nhưng chậm quá rồi. Xã Miễn đãtìm được người bán nên bà đành bẽ bàng uể oải trở về Cầu Đào.

Về tới nhà, bà Bang biện Hưỡn đâm vực bội, nóng nảy, oán ghét vu vơ. Bà cần phải xéo xắt, hành hạ, chửi bới ai đó để thần kinh bà bớt căngthẳng. Do đó mà lũ tôi tớ và Bửu trở thành nạn nhân của bà.

Tối hôm nọ, cô Ba Cẩm Tú từ Cầu Lâu qua thăm, mang theo hai con cá chái. Cô bảo mẹ:

- Con vừa mua được hai con cá chái thiệt tươi nầy để tía má kho mắmchan bún ăn chơi. Sau nửa con muốn hỏi thăm anh Hai con có bớt đau đồigối chưa?

Bà Bang biện tức tối:

- Từ hôm tao về tới nay có được tin tức gì của nó đâu! Cho nên chiều hôm qua, tao sai thằng Xiêm chèo tam bản xuống Mỹ An hỏi thăm rồi.

Rồi ba ngó cô trưởng nữ, gườm gườm:

- Mầy cứ đánh đôi đánh đọ với hai con chơi bời húi thây lầy lụa BaThuận và Năm Định mà bỏ bề chuyện nhà đi! Tao nghe nói thằng chồng mầyưa chà lết nhà anh Năm Tảo. Ngoài mấy đứa con ảnh còn có mấy con lủng bà con, làng xóm tới lui nữa. Mầy liệu hồn mà giữ chồng. Con Bảy Tố Mai,con anh Hội đồng Quyền, cũng thường đi đi về về nhà anh Năm hoài. Biếtđâu nó chẳng bày mưu sâu kế độc để chiếm lại thằng chồng mầy!

Cô Ba Cẩm Tú chỉ nói ba tiếng "Má kỳ ghê!" rồi cười lỏn lẻn. A di đà Phật, thì ra bà già tui chưa hay biết gì về việc ngoại tình của tui!Sau đó cô đến nhà mát để vấn an cha vì lúc sau nầy hễ gặp đêm oi bức,ông Bang biện thường ra đó ngủ. Bà Bang biện

sắp vào giỏ con gái một chục quít đường và một chục cam hồng mật, một chai mật ong. Bà dặn cong gái:

- Tối tối nhớ vắt cam trộn với mật ong cho chồng mầy giải lao. Cáithân mầy giờ đây sượng ngắt không thể chửa đẻ gì nữa thì mấy phải ránchiều chuộng o bế chồng cho nhiều mới được, kẻo không nó sẽ cho mầy ăncơm nguội, uống nước lã, nằm ngủ chèo queo sau bếp!

Cô Ba Cẩm Tú cười:

- Má cứ tưởng tượng chuyện dữ không hè!

Bên ngoài gió từng cơn khua cành cây lắc cắc. Cô Ban Cẩm Tú kiếu ừra về vì cô sự mưa xáng một đám lớn và kéo dài tới khuya thì kẹt cho cô.

Khi cô Ba Cẩm Tú đi rồi, bà Bang biện bảo thằng con ghẻ:

- Bửa đâu rồi? Mau lấy chiếc dĩa quả từ trên bàn thờ bà nội mầyxuống lau chùi cho thiệt sạch rồi đơm năm thứ trài để cúng nghe chưa?

- Bửu "dạ" một tiếng, bước lại bàn thờ lấy chiếc dĩa quả tử lớn cỡchiếc mâm đã đặt sẵn trên cổ bồng. Bỗng một tiếng "cảng" vang lên. Cậulõ mắt nhìn xúng đất, lòng bàng hoàng khủng khiếp. Thôi rồi, cậu lỡ chạm vào chiếc khay đựng mấy chung trà nên cả khay và chung rớt xuống đất.Khay bằng cây thì không sao hết, nhưng sáu cái chung đã bể nát.

Nghe tiếng rơi vỡ, bà Bang biện chong mắt hướng về chỗ Bửu. Thấy miểng chung văng tung tóe, bà hét lớn:

- Thôi rồi, bộ chung quí của tui bị thằng chết đâm chết chém chếtcháy chết chìm nầy làm bể nát rồi! Trời ơi là trời! Trời cao đất dày cóthấu không hử trời!...

Bà rút chổi lông gà, dùng cán chổi quất tới tấp vào Bửu, làm cổ, mặt, cánh tay cậu bật máu. Bà vừa đánh vừa hét:

- Tao giết mầy chết, cho mầy theo con đĩ mẹ mầy.

Bửu vừa khóc vừa lạy van, nhưng bà Bang biện xót của, đời nào chịu tha. Bỗng bên tai cậu có tiếng văng vẳng:

- Chạy ra ngoài vườn đi, kẻo không bả sẽ đánh con chết.

Bên ngoài mưa bắt đầu tầm tã. Bửa đau đớn rát bỏng khắp thân thể,không còn biết tính sao hơn nên cứ lao ra ngoài hàng ba, rồi chạy vòngra sau vườn. Bà Bang biện Hưỡn bỏ guốc đuổi theo. Khi Bửu biến mất trong man đêm dày đặc, bà thở hồng hộc quay trở về. Bỗng bà cảm thấy đau thốn nơi bàn chân. Ngó xuống,, trời đất ôi, một cây đinh ở tấm ván cũ lòilên đâm thấu trong gót chân bà. Bà hét lên. Tối tớ chạy ra dìu bà vônhà, nhổ cây đinh ra. Bà vừa khóc vừa nguyền rủa Bửu và kêu thằng Xiêm,thằng Đực xách đèn tán chai đi kiếm Bửu về cho bà trị tội. Con lý nặnmáu bầm ở vết đâm cho bà, tồi giã nhỏ lá lưỡi cọp đắp lên. Đêm ấy bàBang biện Hưỡn đau nhức ở gót chân không tài nào ngủ được. Bà hết chửiBửu lại xoay qua chửi chồng và thóa mạ luôn vong hồn cô Hai Kim, mẹ ruột của Bửu.

Nói về Bửu, sau khi lao vào màn đêm đen đặc dưới cơn mưa tầm tã thìchẳng thấy đường sá đâu. Bỗng cậu thấy một người đờn bà cầm đèn tán chai nói khe khẽ vừa đủ cho cậu:

- Hãy theo má, đừng sợ!

Biết hồn ma của mẹ, Bửu liền lẽo đẽo theo sau. Người đàn bà cưa cậuta ra cửa vườn sau, tận con đường đắp đất lượn song song cái rạch CầuĐào. Mưa vẫn tuôn hoài tuôn hủy, tuy không rầm rồ như thác đỗ nữa, nhưng vẫn còn nặng hột. Giờ nầy mới khoảng đầu canh hai, nhưng nhà nhà đãđóng cửa, ánh đèn lù mù lọt qua mắt cáo. Khi cả hai ra tới con đường LêMinh Thiệp thì điện bị cúp, hàng cột đèn tối thui. Hồn ma cô Hai Kim bảo con:

- Má đưa con tới một nơi ngủ đỡ đêm nay. Sáng sớm mai sẽ đưa con qua bên cùa lao An Thành, tìm đến Tịnh Liên am để gặp ông Đạo Chuối.. Ổngsẽ đích thân đưa con đi Châu Đốc, rồi tìm đường lên núi Cô Tô trong dãyThất Sơn gặp chú Chơn Huệ con.

Hồn cô Hai Kim xách đền đi trước, cách Bửu năm thước. Dù cậu muốn đi mau để được giÿp mặt mẹ nhưng không tài nào tới gần được. Hễ cậu đimau, bóng ma đi mau; cậu đi chậm, bóng ma đi chậm. Ánh đèn ma lù mùtrong màn mưa cũng đủ cho cậu thấy dáng đi thong dong uyển chuyển củamẹ. Qua chùa Bảy Phủ, quẹo qua cầu Thiềng Đức, cả hai đã qua bên kiathành phố, cô Hai Kim rẽ về phía Cầu Lầu bắt qua kinh Huỳnh Tá nối liềnvới rạch Cá Trê. Từ Cầu lầu, cả hai theo quốc lộ nối liền hai tỉnh VĩnhLong- Trà Vinh đến khúc quẹo Long hồ tức là vào vùng ngoai ô miền quêtrù mật.

Vong hồn cô Hai Kim sụt sịt bảo:

- Con ôi, như má đã nói, kiếp trước má con ta đã gây việc oan tráicho má lớn con cùng ba con. Má đã trả hết nợ vay trước khi nhắm mắt lìađời, điều đó chẳng nói làm chi. Nhưng về phần con, con cũng đã trả hếtnợ khi má lớn con đưa con về chùa Long Đức. Ngặt vì bả tham lam tìm bắtcon lại, để tròng trở lại cai con cái ách tôi đòi nô lệ. Đó là bả vaythêm nợ oan khiên ở con. Nhưng mà con ôi, má không muốn kiếp sau con đòi nợ bả nữa. Con người không bao giờ đòi nợ đủ, mà vì tham lam họ cứ gâythêm cảnh oan oan tương báo từ kiếp nầy sang kiếp khác. Con đừng thamluyến cõi trần uế trực nầy, hãy theo chú Chơn Huệ của con tu hành đểthoát khỏi vòng quả báo luân hồi, vay trả trả vay nghe con!

Tới một cái lò rèn đang đỏ rực ánh lửa, cô Hai Kim bảo Bửu:

- Con cứ đến đó xin ngủ qua đêm. Đầu canh tư má sẽ đến tìm con và bơi xuồng chở con qua cù lao An Thành.

Căn lò rèn nầy đít giáp với khu vườn quay qua quốc lộ, mặt tiềnhướng ra dòng Long hồ. Bên kia sông, xóm Chuồng Gà chìm trong màu mưalất phất.

Vào giờ nầy mà cả nhà người thợ rèn vẫn cắm cúi làm việc. Bà vợ thụt ống bể, người chồng rèn và đập sắt chí chát. Còn đứa bé trai cỡ mườituổi xẩn bẩn bên cha để học nghề. Chị vợ nước da trắng trẻo, mặc chiếcáo túi màu hường lợt, quần vải ú đen. Người chồng chỉ mặt chiếc quầnđùi, ở trần trùng trục. Cả hai cỡ ba mươi tuổi ngoài, mặt mũi hiền hậu.

Khi nghe Bửu xin được ngủ nhờ qua đêm, người đàn ông bảo đứa con trai:

- Con đưa chú đây vô buồng, biểu chú cởi hết quần áo để má con hơ cho mau khô.

Đứa bé dạ rồi đưa Bửu vào chiếc buồng gói chỉ có chiếc giường tre,một chiếp nóp bày lên trên. Nó vặn lu ngọn đèn mù u chong đầu giường,đưa cho Bửu chiếc khăn, bảo:

- Anh cởi hết quấn áo ướt, lau khô mình rồi chui vô nóp ngủ đi, để má em hơ quần áo anh cho mau khô.

Nửu làm theo lời thằng bé, nhưng khi nằm trong nóp ấm áp, những vếtroi hành hạ cậu đau nhức khiến cậu không cầm được tiếng rên rỉ. Bênngoài lò rèn, tiếng người đàn ông có vẻ hoảng hốt:

- Chết chưa, quần áo sao dính máu vầy nè!

Tiếng người vợ::

- Chắc cậu em bị đánh đòn rách da tét thịt chớ gì! Tội nghiệp quá!Thôi đẻ tui giặt quần áo nầy cho sạch, còn ba nó ra vườn sau hái là lưỡi cọp giã nát và mấy trái lình lịch đem ngâm nước cho nứt vỏ lấy hột. Hai thứ nầy đem trộn, hòa với nước miếng thằng con mình để đắp lên vếtthương thì sẽ hết nhức và mau lành.

Người chồng gật đầu làm theo. Cỡ chừng nhai dập bã trầu có tiếngchày khua vào cối đá lụp cụp lạc cạc, rồi đứa nhỏ bưng thếp đèn theo cha nó vào buồng. Người đờn ông ngọt ngào bảo Bửu:

- Cậu chui ra khỏi nóp để tui xức thuốc cho.

Bửu cảm động ứa nước mắt:

- Ơn ông bà và cậu em, biết chừng nào tui trả được đây!

Cậu chui ra khỏi nóp, phơi thân thể lõa ồ đầy vết rướm máu chằngchịt. Người đàn ông gọi vói ra ngoài, bảo vợ lấy khăn lông và thau nướcấm để ông ta rử sạch máu vết thương.

Sau khi các viết thương được rửa ráy và xức thuốc, Bửu buồn ngủ rũ ra. Lúc đó người vợ ở ngoài réo đứa nhỏ:

- Ty ơi, mau ra lấy áo quần cho chú đây mặc, má vừa hơ khô rồi.

Sau khi mặc quần áo xong, Bửu ngủ một giấc óng chuốt và thanh thản. Bỗng có tiếng gọi bên tai:

- Bửu! dậy đi con!

Bửu giật mình tỉnh giấc. Trời vẫn chưa sáng. Nhìn kỹ lại, cậu thấymình nằm ngủ dưới gốc mù u. Lò rèn, buồng ngủ biến đâu mất. Cơn mưa đãtạnh. Bên phương tây, vầng trăng hạ huyền treo lơ lững giữa muôn saonhấp nháy trên nền trời màu xa cừ lạnh lẽo.

Bửu chợt thấy mẹ đứng gần bến nước, tay vẫn cầm chiếc đèn chai. Cô Hai Kim gọi:

- Con mau xuống xuồng để má đưa con qua bên cù lao An Thành. Tới khi gà gáy hiệp nhì là má không thể nấn ná ở cõi dương gian được nữa.

Bửu tiến lại bến nước, thấy chiếc xuồng buộc vào câu nhủi bằng sợi lòi tói sắt. Cậu hỏi mẹ khi bước xuống xuồng:

- Lò rèn đâu rồi? Sao con nằm ngủ dưới gốc mù u?

Cô Hai Kim đặt chiếc đèn tán chai xuống giữa khoang xuồng, trả lời:

- Cái lò rèn mà con qua đêm chỉ là cảnh ma đó thôi. Hồi mười nămtrước, vợ chồng người thợ rèn và đứa con bị sét đánh thiệt mạng, xácchôn ở nền lò rèn cũ. Trải bao năm, họ đâu nghĩ rằng họ đã qua đời nênđêm đêm cứ hiện lên tái diễn cảnh sanh hoạt cũ. Tội nghiệp quá! Vậy khivề am chú con, con nên tụng cho họ 77 biến kinh Địa Tạng và 77 biến kinh Cầu Siêu thì vong hồn họ mới siêu sanh.

Cô đọc tên tuổi và năm sanh của cả ba, rồi dặn:

- Khi tới Tịnh Liên am, con nên ghi tên tuổi và năm sanh của họ vào giấy để khỏi quên. Đó cũng gọi là báo đáp ơn họ vậy.

Xuồng lướt vo vo trên dòng sông hiện lờ mờ dưới ánh trăng tà. Bửuthử rờ những vết thương thì không thấy đau nữa. Cô Hai Kim bảo:

- Bấy lâu nay má không muốn đi đầu thai để ở lại giúp con thoát khỏi tay bà đích mẫu độc dữ. Nhưng má không thể can thiệp vào luật nhơn quả. Má đau lòng để con trả hết ác nghiệp, chỉ phù hộ con đủ sức nhẫn nhụcthôi. Nay thì niềm mong mỏi của má đã thỏa. Má có thể đi đầu thai đượcrồi. Đây là đêm chót má con ta gặp nhau.

Bửu khóc thút thít, cô Hai Kim cũng khóc nhưng tay không ngừng bơixuồng. Vượt qua sông, cô Hai Kim cho xuồng rẽ vào con rạch nhỏ. Qua badoi đất là tới một ngôi nhà lợp ngói cất gần mé rạch. Cô Hai Kim bảoBửu:

- Tới Tịnh Liên am rồi đó con. Thôi con cứ lên gõ cửa am. Mọi việcmá đã sắp sẵn rồi. Má là hồn ma, không thể vào am được vì có thần hộpháp canh giữ am. Hồn mà chỉ có thể đến cành già lam nghe kinh mà thôi.

Khi Bửu bước lên bờ thì hình bóng cô Hai Kim đã tan trong ánh trăngbàng bạc. Cậu ngó lại chiếc xuồng thì thấy đó chỉ là mảnh ván nhỏ nổidật dờ trên mặt nước. Cậu gạt nước mắt, đếm am gõ cửa. Tiếng đờn ôngvọng ra:

- Cháu Bửu đó hả?

Bửu dạ một tiếng. Cửa am liền mở rộng. Am chủ mời cậu vào, chánhdiện thắp đèn nến sáng lờ mờ. Am chủ chỉ một người đờn ông mặc áo nhựtbình màu dà và một cô gái mặc áo xuyến đen, quần lãnh đen, bảo:

- Đây là ông Đạo Chuối. Hồn ma má cháu kỳ rằm Vu Lan vừa qua báomộng, yêu cầu ông Đạo đêm nay đưa cháu đến bến tàu để lối bốn giờ sángđáp tàu đi Châu Đốc. Còn đây là cô Thiệt Nguyện, kẻ đã lập đàn giải oancho má cháu.

Đèn măng- sông được thắp sáng.. Ông Hương cả Hành tức am chủ, cầm xấp bạc trao cho ông Đạo Chuối:

- Khi tới Châu Đốc, ông Đạo nên sắm sửa cho cháu Bửu quần áo và các thức cần dùng trước khi qua Thất Sơn để lên núi Cô Tô.

Ông Đạo Chuối từ giã am chủ, giục Bửu đi theo ông, men theo conđường đắp đất ra tận bến đò. Trăng trên trời vẫn sáng quạnh hiu. Bến đòtối lờ mờ. Ông Đạo vác tay nải lên lưng, bảo Bửu ngồi vào thúng. Thúngtuy nhỏ nhưng khi cậu ngồi vào thì nó lớn rộng ra. Ông Đạo đặt thúngxuống nước thổi một hơi dài. Thúng lướt vo vo trên mặt nước. Bửu hé mắtnhìn thì thấy ông Đạo đứng trên cây gậy trúc, lướt song song với chiếcthúng, đè sóng để vượt qua sông rộng mênh mông.

Khi qua sông, ông Đạo Chuối giải thích:

- Đây là thứ bùa Lỗ Bang của người tu theo pháp môn Mật Tông do ôngĐạo Lập và ông Thợ Đức ở vùng Hậu Giang truyền lại cho ta. Còn bùa LỗBang của thợ mộc chỉ để trị những kẻ bị hóc xương cá, giúp đờn bà chửaqua chứng đẻ ngược hoặc để ếm đối nhà cửa lặt vặt thôi. Giớ thì cháutheo ta đến bến tàu. Cháu phải rời khỏi đất nầy càng sớm càng tốt. Vàcháu cũng phải nhớ ơn cô Thiệt Nguyện. Nhờ cô tụng kinh Kim Quang Minhvà nhiều thần chú Mật Tông mà má cháu mới hiện hồn được để giúp cháu.
 
Chương 11


Từ hai tháng qua, cậu Hai Luyện thường nằm chiêm bao thấy thần Hắc Giaođại vương hiện hồn về đòi mạng nên c ậu ăn ngủ không ngon, tâm thầnhoảng hốt. Đêm đêm cậu không dám tắt đèn. Riết rồi cậu xuống tinh thầnthê thảm, phải xin tạm nghỉ việc về Cầu Đào dưỡng bệnh.

Suốt một tuần bị hành nhức vì vết đâm của đinh nhọn, bà Bang biệnHưỡn càng tỏ ra bực bội nóng nảy, chửi rủa tôi tớ ra rả suốt ngày. Bàbắt Cai tuần Xướng, thằng Xiêm, thằng Đực, thằng Yêm đi dọ tung tích của Bửu để bắt cậu đem về cho bà trị tội. Họ còn phải đi đòi nợ giùm bà,nếu được thì bà chẳng thèm thưởng công, bằng nếu không được còn bị bànhiếc móc, óc eo, chửi bới.

Rồi một sáng hôm nọ, ngủ dậy bà cảm thấy xương sống mình cứng đơkhông thể chổi dậy nổi. Bà cứ nằm lì trên giường, bảo con Lý mời bà NămĐặng tới. Bà cầm tay em, dặn:

- Dì coi sóc việc nhà giùm tui. Hôm nay tui đau đớn khắp mình mẩy,đầu nhức như búa bổ. Dì mời ông Năm Tảo tới chẩn mạch hốt thuốc cho tui.

Nhưng hôm đó ông Năm Tảo đi Vũng Liêm thăm người bạn thân. Ông Bangbiện Hưỡn không nói được, lấy giấy viết: "Bà lôi thôi quá, kêu thằng rểđốc - tờ tới điều trị cho bà có hơn không!". Nghiệt thay, hôm đó bác sĩLê Thạng Mậu cũng đã đi An Hương thăm tía má mình. Tới trưa thì bà Bangbiện đái ra máu, bất tỉnh nhơn sự. Mỗi lúc lên cơn, lưng bà ểnh lên,răng cắn chặt vào nhau, miệng méo xẹo, tay chơn co giật. Cô Ba Cẳm Tú từ Câu Lâu qua thăm, thấy vậy biết mẹ mình bị phong đòn gánh nên vội hốithằng Xiêm, thằng Đực võng bà ra đường lộ đá, kêu xe lôi đưa bà đi nhàthương.

Suốt bảy tiếng đồng hồ, bà Bang biện vật vã với con bịnh. Trong hônmê, bà thấy mình đứng giữa căn hầm chứa nước đá. Từng khối băng dài cỡsải tay và lớn cỡ vòng ôm tiết ra hơi lạnh nghi ngút. Bà cố sức bìnhsanh tìm cách thoát khỏi căn hầm kia để tới chỗ ấm áp. Chung quanh bàlởn vởn những hình ma bóng quế. Tiếng than van nổi lên từng chặp. Bỗngmột kẻ hơ hải chạy đến báo tin: "Mấy người hãy theo tui tới đàng kia,chẳng những có nắng ấm mà còn có cơm canh sốt dẻo nữa". Theo sóng ngườilôi cuốn, bà Bang biện Hưỡn chạy tới một tòa nhà thắp đèn sáng trưng.Nhưng khi cả bọn vừa bước vào nhà thì cánh cửa bằng sắt khép chặt lại.Một cảnh tựng khủng khiếp bày ra. Lửa cháy khắp nơi. Lửa đốt cột đồng,lửa nung giường sắt, lửa hầm trong lò gạch... Mỗi nơi đều có tội nhânchịu hành hình bởi lũ quỉ đầu trâu mặt ngựa. Kẻ bị leo cột đồng cháy đỏ, người nằm dài triên giường sắt nung lửa, kẻ khác bị hầm trong lò, kẻkhác nửa bị nuốt than nóng..., mùi thịt da bị cháy bốc lên khét nghẹt.

Hôm an táng bà Bang biện Hưỡn, bác sĩ Lê Thạnh Mậu bảo luật sư Trần Hảo Hiệp:

- Bà nhạc tụi mình đạp đinh, vậy mà con vợ tui không nói gì với tuiđể tui khuyên bả chích ngừa phong đòn gánh. Thứ đinh rỉ sét là ổ vitrùng của căn bịnh tán mạng kia!

Mặt luật sư Trần Hảo Hiệp lạnh tanh như cái cối đá, không nói không rằng.

Bà Bang biện Hưỡn chết đi, cảnh nhà trở nên rối loạn. Tôi tớ khôngcó người điều khiển sanh ra biếng nhác. Cậu Hai Luyện liền mới ông bàNăm Đặng về ở chung. Ý là hai ông bà không con nhưng vẫn âm mưu ăn chặnăn xén, ăn cắp ăn trộm của anh rể mình làm của riêng. Cậu Hai Luyện tuytham lam của người, lại không quen thói bòn tro đãi trấu nhưng lòng dạthưa thớt, không làm sao bắt được việc làm tác tệ của dì dựng mình. Còncô Ba Cẩm Tú thì say mê chuyện tò tí với tên Pháp kiều nên ít khi vềthăm nhà.

Cô Tư Cẩm Lệ sau khi dự lễ an táng mẹ xong, cùng chồng trở về Sài gòn. Chị vú báo tin:

- Hôm qua em nhỏ ấm đầu, ho khóc suốt đêm. Bà Phán (chỉ má chồng cô) có đứa em bÿc sĩ. Em được chích thuốc nên bây giờ mới ngủ được.

Cô Tư vội vào buồng thăm con. Đứa bé say ngủ, nét mặt thanh thản. Cô đặt tay vào trán con thấy mát rượi, yên lòng đi tắm gội.. Nhưng sao đứa nhỏ ngủ say quá, tới chiều tối vẫn chưa thức. Cô vào buồng thăm con lần nữa, rờ tay vào trán con thì thấy lạnh ngắt. Cô đặt tay lên ngực nó thì không thấy phập phồng. Thánh thần thiên địa ơi, đứa hài nhi tắt thở tựbao giờ!

Sau cái chết của con, cô Tư Cẩm Lệ như kẻ mất hồn. Cậu Hai Luyệnthương tình xin phép thầy kiện Trần Hảo Hiệp đưa em gái mình về Cầu Đàodưỡng sức. Cô Tư lúc đó không còn thiết gì nữa. Trong căn nhà của chồng, giữa lúc tình chăn gối lạt lẽo, còn có kỷ niệm và bóng ma đứa nhỏ lảngvảng nên cô muốn đi xa, về nhà cha mẹ để lấy lại sự thăng bằng của nãocân, để cứu vãn tinh thần đang độ xuống dốc. Bởi đó cô nghe lời anh, đáp tàu thủy về Vĩnh Long. Tuy nhiên khi về Cầu Đào được một tuần lễ, côbỗng linh cảm rằng lần ra khỏi nhà chồng đó cũng là lần cô bước ra khỏicuộc đời luật sư Tràn Hảo Hiệp. Và càng nghĩ sâu cô càng nhận ra rằng cô đã ra khỏi cuộc đời chồng trước khi sanh con, từ khi có sự hiện diệncủa cô Hai Tố Trinh ở nhà bà Huyện Tịnh.

Riêng cô Ba Cẩm Tú thừ thuở còn là nữ sinh trường Áo Rím, cô đã mêhát bóng, cải lương. Tuy nhiên chưa cô bao giờ nghĩ là mình có thể ănnằm với một tên Tây tà ngoại chủng. Loại kép vóc voạc vừa tầm, mắt xanhnhư ve chai còn có thể được cô ưa chuộng, đằng nầy mắt tên Thierry Lemur kia xám xịt, thân mình hộ pháp, tướng tá ô đề, lọt ra khỏi vòng mơ mộng hoài bảo của cô xa lơ xa lắc. Vậy mà không hiểu do oan nghiệt gì xuikhiến để cô sa ngã vào vòng tay nó, để nó vầy vọc tấm thân cô. Và chuchoa ơi, nó vầy vọc cô khéo quá, tuyệt vời quá nên cô đâm ra say mê nó,phó mặc cho thanh danh vùi chôn xuống bùn, thây kệ cho tiết hạnh lấm lem giữa bụi.

Sáng hôm sau, sau khi đi chợ về, Cô Ba Cẩm Tú thay đồ mát bằng lụasoạn trắng, nằm trên ghế xích đu buồn dàu dàu và nhớ tên Pháp tặc kiathất thẻo. Đang lúc cô Ba nghĩ ngợi lan man thì cô Sáu Bạch Huệ tớichơi. Chèn ơi, bộ con nầy trúng số độc đắc hay sao mà nó ăn diện choánglộn nhức mắt: nào áo rằn ri xanh đỏ, nào vòng vàng chuỗi hột rườm rà,nào son phấn diêm dúa... Cô Ba Cẩm Tú quở:

- Có tin tức gì về thằng mọi rợ phiên tặc đó không? Sao cả tuần nay mầy không cho tao biết ất giáp gì hết vậy?

Cô Sáu Bạch Huệ ỏn ẻn:

- Cả tuần nay không có tin, giờ có tin nên em tới cho chị hay nè,vậy chị có vừa bụng chăng? Không lẽ em xách đít tới đây để bàn với chịchuyện đạo giáo, đạo đức? – Rồi cô Sáu nheo mắt nhìn cô Ba – Đang nhớthằng dâm tặc đó phải không? Mặt mũi chị sao mà ủ dột như trời chuyểnmưa! Vui lên chị! Sáng hôm nay tên Thierry có sai anh loong toong tớinhà em cho biết xế nay cỡ 2 giờ hắn rảnh, muốn gặp chị ở nhà. Chẳng haychị có rảnh không?

Cô Ba Cẩm Tú nguýt:

- Tao... tự do như gió như mây. Dẫu có bận việc thế mấy, nhưng một khi cao hứng, tao cũng gác việc qua một bên.

Rồi cô mở bóp đầm lấy ra hai tờ giấy năm đồng cưa cho cô Sáu Bạch Huệ, dặn:

- Nhớ làm bữa ăn dậm cho nó.

Khi cô Sáu Bạch Huệ ra về, cô Ba Cẩm Tú hối con Xinh, đứa tớ gái của cô, nấu cơm để cô ăn cho sớm. Rồi đó, sau bữa ăn trưa, cô đi tắm bằngthứ xà bông đặc chế bằng mật ong trước khi trang điểm.

Còn cô Sáu Bạch Huệ bưng bả về tới nhà đã thấy Hai Dần ngồi chờ. Cô trách móc:

- Anh thiệt là... ương ngạnh, không chịu nghe lời em! Trong thờigian mụ Ba Cẩm Tú léo hánh tới đây, anh cứ chừng mặt tò tí công khai với em, đố sao mủ khỏi nghi nan chuyện âm mưu đưa mụ vào bẫy của tụi mình!

Hai Dần cười mơn:

- Nhớ em thắt thẻo tim đỏ gan vàng nên qua mạo mụi tới đây, mong emxá tội cho qua nhờ. Qua chỉ mong xế nay là buổi chót mủ tới đây bày tròtư thông với tên Pháp tặc rậm râu kia!

Cô Sáu cười:

- Em cũng mong vậy. Thôi, anh về nói cho ông thầy thuốc Mậu rõ tự sự và dặn ổng cỡ hai giờ trưa nay nhớ dắt ông trưởng tòa cùng mấy chú mãtà tới quán nước trước hẻm nhà em nghe chưa! Hể em cho thằng ở của em ra mời là họ phải tới lập tức đặng tông cửa buồng bắt quả tang tụi nó.

Cô Sáu Bạch Huệ cùng tình nhơn kéo nhau ra quán ăn bánh mì. Xongxuôi, Hai Dần cỡi xe đạp đi tìm bác sĩ Lê Thạnh Mậu, còn cô Sáu đi muasắm bánh trái, la ve, nước ngọt...

Lối 1 giờ trưa, cô Ba Cẩm Tú đến nhà cô Sÿu bạch bạch Huệ. Nhìn mâm bánh trái ê hề bày bàn ăn, cô Ba quở:

- Chèn ơi,, mâm bánh ăn dặm sao mà ê hề như vậy? Thằng Thierry và tao ăn sao hết!! Hay là mầy dùng để cúng cô hồn?

Cô Sáu háy thiệt lẳng:

- Nó với chị ăn không hết thì để cho em và mấy tay đánh xá ỏ, đánh tứ sắc ăn ké.

Cô Ba ngoe ngoảy bỏ vào buồng dành cho cô. Nơi đây nệm drap trắngtinh, thoảng mùi long não. Cô cởi áo dài máng lên móc rồi vào giừng nằmnghỉ. Cô tính nằm chơi, ai dè ngủ hồi nào không hay. Bỗng một chiếc cằmlám nhám gốc râu chạm vào đôi má mịn màng của cô, rồi cặp môi ấm áp đèlên cặp môi cô. Cô mở mắt ra thì thấy Thierry đang nằm bên cô, thân thểkhông mảnh vải che. Cô siết chặt tấm thân hắn, làm bội hỏi:

- Ai? Ai vậy?

Tên Pháp kiều rên rỉ:

- Kiếm được dịp tốt để đến đây khó quá! Anh nhớ em lắm!

Hắn hun hít cô, rồi cả hai nhẩn nha vuốt ve nhau cho đến lúc têngian phu không chịu nổi lửa dục nữa, bắt đầu giao hoan với cô. Cô nhắmnghiền mắt hửng ứng, quên phứt đi tấm vách có một lỗ nhỏ để cặp mắt côSáu Bạch Huệ theo dõi, chờ lúc họ mê man nhục dục sẽ ra tay.

Khi cô vẫy tay ra hiệu thì năm người đàn ông tiến tới cửa buồngtrong khi cặp trai gái ngoại tình đang ái ân nồng đượm, quên luôn trờiđất, quên cả thời gian. Rầm! Một tiếng đạp long trời đất vang lên. Bácsĩ Lê Thạnh Mậu, Trưởng Tòa Hiệp, Hai Dần và hai người lính mã tà àovào. Thieery vừa ngóc đầu dậy thì Hai Dần nhảy tới đánh vào ngực, vào hạ bộ hắn chết giấc. Bác sĩ Mậy chụp lấy tóc cô Ba Cẩm Tú ghịt xuống, taykia vả vào mặt cô làm cô là chói lói. Rồi bản năng sinh tồn trổi dậy, cô ba cắn mạnh vào tay chồng, hai tay bóp ghịt cục thịt giữa hai đùi chồng làm ông ngã ra trợn trắng. Cô Ba hằn học ngó cô Sáu Bạch Huệ, nghiếnrăng hỏi:

- Có phải mầy gài bẫy tao không, hả Sáu?

Cô Sáu đỏ tía tai gục đầu không nói được lời nào.. Cô Ba Cẩm Tú mặcquần áo vào, vẽ mặt kiêu hãnh và lạnh như tiền. Nhìn chồng nằm thở dốc,mặt trắng bệch bạc, cô khinh bỉ phun nước miếng vô mặt ông, chửi:

- Đồ khốn nạn! Có vợ mà không biết o bế tưng tiu, để cho nó cắm sừng lên đầu mà không biết nhục!

Hai viên mã tà còng tay cô và tìm cách cứu tỉnh tên Thierry Lemur.Trưởng tòa Hiệp tiếp tục làm biên bản. Nhục quá hóa liều và đâm ra trơ,cô Ba Cẩm Tú chửi chồng tắt bếp, không từ nan một ngôn từ tục tĩu, lỗmãng nào.

Từ bót mã tà bước theo anh mình bảo lãnh ra về, cô Ba Cẩm Tú đựcchồng cho phép về nhà lấy quần áo và tư tang để về Cầu Đào. Còn bác sĩLê Thạnh Mậu tuy đắc thằng vẻ vang như ý, nhưng trong bữa ăn chiều ôngcảm thấy rõ ràng sự đắng cay chua chát, cuốn sạch hết kỷ niệm đẹp saunăm năm chung sống với cô vợ. Ông ta ăn cơm như ăn sỏi sạn, húp canh như húp thuốc bắc.

Đêm hôm đó bác sĩ Lê Thạnh Mậu vào giường rất sớm. nhưng mãi tớicanh tư ông mối ngủ được. Sáng hôm sau ông dậy trễ, sai con Xinh mua cho ông một tô hoành thánh và ly cà phê sữa. Điểm tâm xong, ông chải đầuláng, diện sơ- mi cụt tay bàng vải ba- tít màu trứng sáo, quần vải ga-bạc- din xanh đậm, thắt nơ bướm ở cổ và mang giày tây đen đánh xi- rabóng loáng. Nhìn bóng mình trong kiếng, ông thầm nghĩ: "Đờn ông bốn mươi tuổi vẫn còn làm lại cuộc đời một ách ngon lành, huống chi mình mới băm ba tuổi!"

Từ khi vợ chồng bác sĩ lê Thạnh Mậu gặp cảnh đồng sàng dị mộng thìnhà cửa ông như bao bọc một làn không khí lạnh lẽo. Cô Ba Cẩm Tú săn sóc nhà cửa lấy lệ nên bàn ghế không được lau chùi kỹ lưỡng, đồ đạt bàybiện thiếu mỹ thuật, kém ngăn nắp; ngoài sân, các chậu cây kiểng khôngđược tỉa lá, bông trồng trong bồn thiếu nước héo queo, và ngoài xa nữa,hàng rào cây trà tươi không được cắt bàng. Ông phải tiến hành cuộc li dị với cô Ba Cẩm Tú càng mau càng tốt, càng sớm càng thuận lợi cho ông.Rồi ông sẽ tìm một cô gái nết na, có học thức về làm vợ, để ngôi nhà nầy có người chủ phụ coi sóc trong ngoài.

Suy nghĩ miên mang đưa ông về người đẹp năm xưa có cái tên Võ Thị Tố Mai, người thiếu nữ đã cho ông tình yêu đầu đời mà vì yêu ngôn quỉ kếcủa cô Ba Cẩm Tú đã khiến ông hồi hôn đưng sự, làm đương sự lao đao suốt năm măm trời! Ờ! tại sao hôm nay ông không đến xóm Chuồng Gà tìm cô,coi cô có nhà ông Năm Tảo hay không? Nếu cô bằng lòng kết hôn cùng ôngthì ông sẽ có cơ hội săn sóc yêu thưng cô, để ông chuộc lỗi lầm thuởtrước. Mường tượng tới khuôn mặt bầu bĩnh của cô với đôi mắt lá râm, đôi mày vòng nguyệt, sống mũi dọc dừa, cặp môi thanh tú mà tim ông đậpkhoan khoái. Ôi cặp mắt cô tuy không lớn nhưng cái nhìn bao la vòi vọi.Sắc mặt cô tươi sáng thấm nhuần vẻ hiền hậu dịu dàng. Năm năm qua mà côvẫn giữ được nét trẻ trung trên khuôn mặt và vóc mình thanh cảnh tươimát.

Bác sĩ Lê Thạnh Mậu ra tiệm Hảo Xướng mua một hộp trà Ô Long, haiphong bánh in hiệu Huê Phong, hai chai rượu chát hiệu con bò, một kí nho tươi rồi lái xe tới nhà ông bà Năm Tảo. May phước, hôm đó hai ông bà và cô Thiệt Nguyện đều có ở nhà.

Bác sĩ Mậu ngập ngừng bảo ông Năm Tảo:

- Hôm nay tui tới đây trước thăm ông bà, sau có chút việc muốn bàytỏ cùng với cô Bảy Tố Mai, vốn là vợ chưa cưới cũ của tôi. Gia đạo tuiđang rối rắm, tui với vợ tui sắp ra tòa li dị nên tui muốn cùng em Bảytính chuyện chung thân về sau.

Ông Năm Tảo cho gọi cô Thiệt Nguyện đang lúc thúc ở nhà sau. Chỉchừng dập bã trầu, cô bưng khay trà ra chào khách. Cô cũng vừa rửa mặtcho tươi tỉnh. Hôm nay cô mặc chiếc áo xuyến trắng bó eo, chiếc quần đáy giữa bằng lãnh trơn, tóc chải láng, cái bí bo được bọc lưới. Cô cũngđeo một xâu chuỗi ngọc trai,, đôi bông tai cẩm thạch và giắt chiếc trâmkết hột cẩm thạch lớn cỡ trái trứng cá trên búi tóc.

Cô Thiệt Nguyện vui vẻ bắt chuyện với khách, không cay đắng, khôngbợ ngợ. Dung quang cô sáng rỡ như trăng rằm, nụ cười cô nở tộng bày hàmrăng đều đặn và khít khao, sóng mặt cô ướt rượt. Tuy nhiên, mắt cô sángmà dịu hiền, nụ cười cô điềm đạm đoan trang, sóng mắt cô chỉ có vẻ âuyếm mà không lẳng lơ. Ông Năm Tảo bảo:

- Quan thầy thuốc hôm nay tới đây có chút việc muốn nói với cháu,vậy để chú ra ngoài vườn o bế mấy cây cau xiêm vừa trồng để cho cả haiđàm đạo thoải mái.

Rồi ông ngó qua bác sĩ Mậu:

- Quan thầy thuốc đã tới chơi, xin ở lại dùng cơm trưa với vợ chồng tui và cháu Thiệt Nguyện đây.

Biết rằng câu chuyện mình sắp bàn với người yêu cũ còn dài nên bácsĩ Mậu nhận lời và chắp tay cảm ơn ông Năm. Sau khi ông năm đi khỏi, ông nhìn trân trối cô Thiệt Nguyện, ngập ngừng:

- Qua đến đây không ngoài mục đích kể hết gia đạo của qua cho em rõ. Nếu em không còn hờn qua, và nếu em còn yêu thương qua như chầu xưa thì qua sẽ cưới em sau khi ra tòa xé hôn thú với con vợ cũ.

Cô Thiệt Nguyện kinh hoảng:

- Anh muốn thôi vợ để cưới em hả? Sao lại có chuyện ác đức vậy?

Bác Sĩ Lê Thạnh Mậu liền kể khúc nôi vụ vợ ngoại tình và vụ bắt ghen quả tang cho cô Thiệt Nguyện nghe. Cô lặng yên nghe với ánh mắt cảmthông, chia sẻ. Nhưng khi thấy ông nước mắt đoanh tròng thì cô cũng khóc theo. Biết cô Thiện Nguyện vẫn còn yêu thương mình, bác sĩ Mậu mũi lòng khóc nhiều hơn. Nước mắt làm ông quên mối hờn ghen con vợ lăng loàn cũ, khiến ông phấn khởi khi nghĩ tới việc làm lại cuộc đời trong những ngày sắp tới.

Cô Thiệt Nguyện thở dài:

- Việc tác tệ xảy ra như vậy anh thử nghĩ lại mà coi, con Ba Cẩm Túcó lỗi đã đành, mà anh cũng có lỗi nữa. Anh đã lợt lạt lửa hương với nó, anh đã dắt nó vào chốn ăn chơi để nó tiếp xúc với phồn tham dâm háosắc. Nay đôi bên không còn thương yêu nhau nữa thì xa nhau cũng là giảipháp hay. Còn việc anh muốn cầu hôn em, xin hãy đợi công việc li dị giữa anh và con Ba dứt khoát đã.

Cô đứng dậy xin phép ông vào trong. Ông Năm Tảo từ vườn bước vào với trái đu đủ hườm chín trên tay. Ông đặt trái lên dĩa quả tử rồi gọi thêm bình trà mới để ông ngồi tiếp chuyện bác sĩ Lê Thạnh Mậu.

Bà Năm Tảo bước ra, mời khách:

- Bây giờ cũng đã trưa trờ trưa trật rồi, xin mời quan thầy thuốc dùng cơm.

Mâm cơm dọn trên chiếc bàn tròn ở phòng ăn, giáp với căn bếp. Trênbàn chỉ bày có ba chiếc chén và ba đôi đũa. Bác sĩ Mậu và ông Năm Tảovừa ngồi vào mâm thì bác vật Cảnh cũng vửa tới. Qua ông Năm, hai đàngbắt tay chào nhau. Bác sĩ Mậu hỏi:

- Sao không mời cô ra đây ăn luôn thể?

Bà Năm Tảo vui vẻ:

- Tui và cháu Thiệt Nguyện ăn chay. Hai con Túy ăn ở dưới bếp cho thoải mái. Thôi kệ tụi nó!

Mâm cơm tươm tất. Một tô canh chua cá lóc nấu bông súng. Một dĩa gỏi ngó sen trộn tôm thịt rắc rau răm xắt nhuyễn. Một dĩa sườn nướng thơmphức. Một dĩa cá bống tượng chưng kim châm nấm mèo.

Dưới nhà bếp, cô Thiệt Nguyện thuật lại chuyện gia đạo bác sĩ Mậu cho hai cô Túy nghe. Rồi cô than thở:

- Hồi đó khi chị lên Tri Tôn toan cắt tóc quy y thì sư phụ chị không cho, bảo rằng mai sau nếu tánh sân hận của chị được tiêu trừ thì tìnhchủng của chị vẫn còn nguyên gốc rễ. Bởi đó nên huề thượng chỉ cho chịthọ giới cận sư nữ. Lời phán dạy ấy nay sắp thành sự thật. Chị mắc nợbác sĩ Mậu về cuộc vợ chồng. Oan gia nghiệp chướng trong sáu năm qua đãtrả dứt, nhưng vòng tình nghĩa ái ân trong tương lai không mấy xa xôi sẽ hủy hết năm năm tu hành của chị.

Cô Hai Túy Ngọc:

- Ai nói với chị khi lấy chồng rồi sẽ không có pháp môn nào để tu?Còn có pháp môn Tịnh Độ vốn dành cho mọi thiện nam tín nữ vì nó dễ tu,chỉ cần niệm hồng danh đức A Di Đà Phật cho tới nhứt tâm bắt loạn là đủ.

Cô Thiệt Nguyện thở dài:

- Đường tu vốn lắt léo, đâu có dễ như em tưởng. Trong một triệu người, họa may mới có một người niệm nhứt tâm bất loạn!

x

x x

Năm tháng chưa dài xa lâu lắc gì mà bao nhiêu biến cố bi thảm cứ dồn dập xảy tới gia đình ông Bang biện Hưỡn. Ông Bang biện bị bán thân bấttoại. BÀ Bang biện đã chết vì phong đòn gánh. Cô Ba Cẩm Tú bị chồng xuara khỏi nhà vì tội ngoại tình và đang chờ ra tòa để nhận án ly hôn. CôTư Cẩm Lệ thì buồn vì mất đứa con đầu lòng khi còn trứng nước.

Sau khi về Cầu Đào chừng hai tuần, cô Tư nhận được thư của chồng cho biết ông đã bán nhà và dọn về ở chung với ông bà Huyện Tịnh. Ông nhắncô nên lấy những đồ đạc mà cô chưa mang về Cầu Đào. Nhưng khi cô lên Phú Nhuận thì luật sư Trần Hảo Hiệp lánh mặt, chỉ có bà Huyện Tịnh tiếp cômà thôi. Bà Huyện cho biết luật sư Hiệp đã kết hôn vơi cô Hai Tố Trinh.Bà còn giả nhơn giả nghĩa khuyên cô nên kiếm chồng khác làm ăn. Sau cùng bà lôi hai chiếc va ly ra, bảo:

- Đây là quần áo của cháu. Riêng hộp nữ trang thì cháu đã mang theo khi về Cầu Đào rồi.

Cô Tư Cẩm Lệ vì tức tối, nói nhiều câu hằn học vô lễ với bà Huyện Tịnh nên bà hét lên:

- Cô là thứ đàn bà vô giáo dục. Cô tức giận rể tui rồi giở giọnghàng tôm hàng cá với tui sao được! Tui đuổi cô ra ngoài cho cô coi!

Bà liệng hai cái va- ly ra ngoài rồi thét đầy tớ tống cô ra khỏi cổng.

Cậu Hai Luyện thấy tình cảnh hai cô em như vậy thì cứ rầy rà luôn,đưa đến cãi cọ nhưng rồi cậu lại tha thứ, cưu mang họ. Sau vụ ly dị, côBa Cẩm Tú được cô Agnès Thuận giới thiệu với quan chánh tham biện Tâymới đổi về, còn Isabell Định thì tiến cử cô Tư Cẩm Lệ với gã biện lý Tây tên Jean Beauregard. Hai chị em chẳng khác nào người mang dép đi trêncon đường bùn sình, lúc đầu còn thận trọng bước sợ dính bùn, nhưng khiđã dính bùn rồi thì họ đi càn, mặc kệ sình bùn bao nhiêu lớp cũng khôngthèm đếm xỉa nữa.

Một tối nọ, sau khi nằm trò chuyện với cô Ba Cẩm Tú trên chiếc divan bằng gỗ giáng hương, cô Tư Cẩm Lệ thiếp ngủ. Bỗng cô thấy cô Tư Thục từ ngoài bước vào, điểm mặt cô, mắng:

- Đứa con ranh của mầy mới chết, nó đợi mầy dan díu với bất cứ thằng đàn ông nào là nó chui vô bụng mầy thành bào thai, đúng chín lần rồimới đoạt mạng mầy, nghe chưa con sát nhơn!

Cô Tư Cẩm Lệ giận quá hóa khùng, trả treo lại:

- Chị đừng có nói đỏng! Tui sẽ tìm thầy bùa, thầy pháp cao tay ấn để nhốt đứa con ranh con lộn đó trong tĩn rồi đem chôn trong hầm chứa máuchó và phân heo, nói cho chị biết!

Cô Tư Thục vả vào mặt cô Tư Cẩm Lệ:

- Đừng có nói điên! Chừng mười năm nữa rồi mầy sẽ rõ!

Rồi cô xô cô Tư Cẩm Lệ té nhủi. Cô Tư la lên một tiếng, giựt mìnhtỉnh dậy. Cô Ba sau khi nghe em thuật lại giấc chiêm bao, trầm ngâm:

- Còn nước còn tát! Thế gian này thiếu gì thầy pháp, thầy bùa giỏi.

Từ khi cặp xách với ngoại kiều, hai cô có tiền nhiều nhưng vì nghelời anh nên hai cô không dọn ra riêng. Họ xuất tiền sửa sang vườn tược,kho lẫm.

Từ khi có hai cô cháu gái về coi sóc việc nhà, bà Năm Đặng không dám ăn xén ăn bớt lộ liễu nữa. Bà nịnh bợ hai cô cháu, chỉ họ cách nịch áinhững gã đàn ông đi lại với hai cô:

- Muốn cho đàn ông say sưa mê đắm mình, hai cháu nên để dì đi mua cá bông, ca lóc nuôi trong vịm đựng nước pha máu kinh nguyệt của hai cháu. Rồi hai cháu dùng thứ cá đó làm món ăn cho tụi nó thì tụi nó sẽ càng mê hai cháu hơn nữa.

Lụi hụi mà đã tới đám cưới của cô Hai Túy Ngọc. Đám cưới của cô ÚtNgọc An và của cô Ba Túy Nguyệt cũng diễn tiến tốt đẹp. Cô Hai và cô Útcùng theo chồng về Tiểu Cần, trong khi đó Bác vật Cảnh vì còn nghỉ dữngsức cho nên cô Ba Túy Nguyệt không buồn vì phải xa nhà.

Việc ly dị của bác sĩ Lê Thạnh Mậu và cô Ba Cẩm Tú kết thúc tốt đẹp. Cô được tòa bắt chồng cô cấp dưỡng mỗi tháng bốn chục đồng, trong khisố tiền lương của một thầy giáo lớp nhứt chỉ được sáu chục đồng.

Đám cưới của cô Thiệt Nguyện tổ chức long trọng nhứt. Gia đình côvốn giàu có lớn ở An Hương. Hai người chị của cô lấy chồng giàu, bốnngười anh của cô cũng nên danh phận, cậu em kế cô thì đang học dược bênPháp. Cũng như cô Út Ngọc An, lấy chồng rồi cô vẫn ăn chay, nhưng khácvới cô Út ưa ăn mặc lòe loẹt, Cô Thiệt Nguyện luôn ăn mặc nhã đạm, không son phấn, không tỉa chơn mày hay chải đầu phùng theo kiểu chín lượnmười mồng của thời trung thập niên 30.

Dù sao hai cô Cẩm cũng còn chút an ủi là tuy mất danh giá nhưng họkiếm được nhiều tiền. Tiền do tình nhân cung cấp, tiền do họ chạy ápphe. Họ quyết lòng nịch ái hai tên ngoại kiều mà họ đang dan díu. Món cá lóc do bà Năm Đặng nuôi được họ chiên vàng rồi phết bơ Bretel vẫn làmón lạ miệng được tên Chánh tham biện Henri và tên Biện lý Jean chiếu cố tận tình.

Nhưng mà, cô Ba Cẩm Tú mỗi khi soi kiếng để tô son dồi phấn chợtthấy mặt mũi mình càng lúc càng chao vao. Coi kìa, lững quyền cô nhôcao, ánh mắt cô lộ vẻ mệt mỏi, nụ cười cô không sao giấu được vẻ chuachát. Cũng vậy, cô Tư Cẩm Lệ nhận thấy vóc mình cô lệch lạc, khô khan;dung nhan cô mờ ố, thần sắc cô lu câm. Ái tình của hai kẻ Pháp kiều đốivới họ cũng chẳng nồng đượm gì hơn. Trước sau, tụi nó chỉ coi họ là mónđồ chơi chứ không hề đặt họ lên vị trí người tình, nói gì là hạng giànhơn nghĩa non vợ chồng! Trong khi đó, tại tỉnh thấp thoÿng mấy cô chơibời mới đầy đủ màu xinh vẻ lịch cùng các món phong lưu.

Phần cậu Hai Luyện, từ khi về Cầu Đào, cậu thường đến tiệm cô BảyCẩm Thạch để tái diễn cuộc dán díu với cô. Chẳng hiểu do duyên nợ gìràng buộc mà cô Bảy vẫn còn say mê cậu. Cô Tám Cẩm Vân thường lựa lờikhuyên chị:

- Như chị em mình đây sa lầy trong nghiệp dâm đã là cái tội rồi, còn thằng cha Luyện bủn xỉn nổi tiếng bạc tình kia vốn xuất thân từ một gia đình ác đức, gây nghiệp xấu từ ba bốn đời nay, chị mà cứ cặp xách vớihắn hoài, đố khỏi ngày cháy vạ lây.

Cô Bảy mắng em:

- Con đĩ mãng xà nầy ngày tối cứ rình dịp để cắn mổ anh Kinh lýLuyện hoài! Chắc kiếp trước ảnh có gây việc oan trái đảo điên chi đó với mầy nên kiếp nầy mầy mới thù ghét ảnh thái thậm như vậy!

Cô Bảy cứ xách đít đến tổ quỉ của cậu Hai Luyện đều đều. Cô dùng đủngón nghề để chiều chuộng cậu, cốt làm cho cậu say tình, cảm nghĩa màcưới cô. Nhưng nghiệt thay, cậu Hai Luyện là mẫu người chỉ tìm được hứng khởi khi tốn công tốn sức để được ăn nằm với cô nào đó. Giao hoan vớihạng gái dễ dãi như cô Bảy Cẩm Thạch làm sao cậu hào hứng cho được! Cậulại nghĩ tới thím Bảy Bảnh. Ái ân với đàn bà có chồng bất hạnh kia, điêu đó làm cậu như được dấn thân vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm đầy thú vị. Do đó mà thằng Yêm cứ phải làm môi giới đưa thím Bảy Bảnh lên tổ quỉ củacậu ở cầu Kinh Cụt. Nhưng nếu cậu Hai tạm hài lòng vui thú với vợ người ở tổ quỉ thì tai họa đâu tới nỗi giáng xuống đầu cậu như một cú sét. Mộthôm cậu ngỏ ý với thím Bảy Bảnh:

- Tui ăn nằm với mình ở đây tuy có sướng thiệt, nhưng tui vẫn ao ước ân ái với mình tại nhà mình kìa!

Thím Bảy Bảnh ngạc nhiên:

- Sao lạ vậy? Đường bằng phẳng mà mình không chịu đi, lại chọn đường đầy dẫy chông gai hầm hố làm chi không biết!

Cậu Hai Luyện cười trơ trẽn:

- Tánh tui kỳ lạ lắm! Hễ gặp chuyện dễ ột tui không nhớ dai. Phảigiặp chuyện khó khăn, đòi hỏi lao tâm tổn trí, phải đem mưu mẹo ra đốiphó thì tui mới nhớ đời đời. Mình có thiệt bụng yêu thương tui thì nêndàn xếp các nào để tui được hú hí với mình trên cái giường của mình thìtui mới có hứng.

Nói xong, cậu giúi vào tay tình nhơn một xáp lụa cẩm phụng trắng.Thìm Bảy Bính nhìn cậu thở dài. Thím chỉ nghĩ cậu hơi khật khùng chứ làm sao rõ được tâm trạng bất lương phức tạp của cậu!

Thế rồi thím Bảy Bảnh và thằng Yêm cố công dàn xếp để đưa cậu HaiLuyện về nhà vợ chồng thím ở Cái Sơn. Ở đời, ai mà lấy thúng úp voiđược! Cây kim giấu trong bọc cũng có ngày lòi ra! Dân chúng ở xóm ĐìnhKhao, dài theo ngọn rạch Cái Sơn Bé bắt đầu xì xào bàn tán, nói tỏi nóihành mụ đờn bà lẳng lơ trắc nết kia..

Chú Bảy Bảnh vốn ngu độn và chập chạp, lại cả tin vợ nhà, cho nên ai nói bóng gió về thím Bảy chú cũng không hiểu được. Anh ruột chú là chúSáu Tốt hét vô mặt chú, vạch bày cho chú biết việc làm tác tệ của vợchú, nhưng chú vẫn không tin. Tuy nhiên, một đêm nọ trong lúc đầu gốitay ấp với vợ, chú nhẹ nhàng bảo:

- Người ta nói với tui rằng mình đang tò tí với cậu Hai Luyện!

Thím Bảy liền ré lên chửi:

- Mồ tổ cha quân đặt điều! Tiên nhơn tổ đường thứ ăn môn ngứa miệng! Mình phải chỉ cho tui biết đứa nào dám bêu xấu tui để tui tròng quầnmáu hòe lên đầu nó! Còn mình, sao mình để người ta nói xấu vợ mình màmình im re, không dám bửa đầu họ? Thiệt tình bởi tui nghiệp dày đức mỏng cho nên mới lấy nhằm thằng chồng ngu si đần độn như vầy!

Rồi thím bù lu bù loa, làm trận làm thượng đủ trò, khóc lóc quằngquại thảm thê, báo hại chú Bảy Bảnh phải gãy lưỡi tốn nước miếng năn nỉthím, thím mới chịu bỏ qua.

Riêng cô Bảy Cẩm Thạch vì ở ngoài chợ tỉnh nên không nghe tiếng đồn ở làng Cái Sơn Bé. Lâu lâu cậu Hai Luyện ghé thăm, rủ cô tới tổ quỉ củacậu thì cô nhận lời, chấp nhận hoàn cảnh làm tình nhơn tạm bợ của cậuchớ không dám đèo bòng hoàn cảnh sáng sủa hơn.

Hôm đó đang lúc cô Bảy kho tô cá bống kèo trong bếp thì cô Tám Cẩm Vân đi chợ về, miệng véo von như con chim chèo bẻo:

- Mèn ơi, hồi nãy em xẹt lại tịm Đồng Hính ăn mì, gặp tên Kinh lýninh Hai Luyện ở đó. Lóng rày sắc diện hắn u ám xanh xao như mặt đờn bàbị huyết trắng, chỗ ấn đừng hắn có một bớt đen. Thứ nầy không bao lâunữa sẽ gặp tai ương, nếu không tán nạng thì cũng sút càng gãy gọng chớkhông chơi!

Co Tám Cẩm Thạch tối hôm trước vừa ở tổ quỉ hú hí với cậu Hai Luyệnthâu đêm suốt sáng, giờ mệt mỏi nên cô nổi quạu. Cô trợn mắt nhìn em,mắng:

- Con đĩ tinh ma yêu quái, con đĩ khỉ cái mắc kinh phong! Mầy nên lo cho thân mày, chớ việc gì mà mầy cứ xét nét rồi trù ẻo toàn chuyện dữcho cẩu vậy? Coi chừng mắc khẩu nghiệp đa!

Nói về chú Sáu tốt, bởi thằng em chú dại dột ngu đần nên chú tức ấmách, không biết cách nào trừ khử cặp gian phu dâm phụ cho đã nư chú. Đãvậy, nhà chú chỉ cách tiệm hàng xén của chú Bảy Bảnh một cái hàng ràotre xịch xạc, có dây bìm bìm leo kín lớp tre đan; mỗi ngày gặp lúc vắngkhách, thím Bảy Bảnh từ tiệm chõ miệng qua chửi xỏ chửi xiên xoáy vàotâm não chú, làm chú nhức rêm cả mình mẩy, tức ngực lói hông.

Một bữa nọ, chú nằm chơi trên chiếc chõng tre rồi ngủ quên hồi nào không hay. Bỗng có tiếng thanh tao của một người đờn bà:

- Xin đại vương chớ ngại, bùa ém dù sao cũng phải bứng cho xong. Chú Sáu đây cũng là một tay giỏi bùa ém.

Tiếp theo đó, một người đờn bà nhan sắc xinh lịch, dáng dấp yểu điệu xăm xăm đi về phía chú. Y thị dắt một người đàn ông mặc áo đen, hai tay ôm cần cổ đẫm máu. Người đờn ông nói:

- Tui là thần Hắc Giao đại vương, nằm trong cuộc đất của Xã Miễn ởMỹ An, giáp ranh với đất của Hương sư Chiêm. Khi quan Kinh lý Luyện đođất đào kinh, có nhận của hối lộ của Hương sư Chiêm, đào lấn qua đất XãMiễn nên thế đất Hắc Giao vọng hải bị phá hỏng, tui bị đứt đầu. Tui muốn báo thù, ngặt vì trước đó nó mướn thầy Mười Khói ở Cần Đào trấn ém tuinên thần lực tui bị giảm hết bảy phần mười. Nay tui đến đây nhờ chú giúp tui rửa thù. Đêm mốt đây, chú hãy rủ em chú đi Long Hồ câu tôm. Thế nào con đờn bà đó cũng rước tên dâm dật kia về nhà hú hí. Thừa lúc nửa đêmchú cùng về với chú Bảy, hiệp với thầy Hương quản Dần, mấy chú cai tuần, mấy chú thường xuyên ào vào nhà hô hoán lên ăn trộm, bớ người ta ăntrộm! Thế nào mụ em dâu chú cũng mở cửa sau cho nó thoát ra. Chừng đó có một người rình sẵn, y ta cứ lấy gậy mà đập vô cẳng nó. Nó té quỵ rồi,chừng đó chú muốn xử sự sao đó tùy ý.

Người đờn bà nói:

- Còn tui là Út Thoại Huê, em con nhà chú của bà Năm Tảo. Tui bịthằng khốn nạn đó dụ dỗ tới mang bầu, gạt tui uống thuốc phá thai đểbăng huyết mà vong mạng. Nay tui sẽ nhơn cơ hội này mà báo thù rử hận.Nó bị đập vào cẳng đâu có gì làm trượng, nhưng đây là lúc báo hiện hành, nó sẽ lãnh đủ thứ rùng rợn lắm, để rồi chú coi!

Chú Sáu Tốt gật đầu, bảo Hắc Giao đại vương:

- Sau vụ nầy, tui sẽ xuống mỹ An nhổ hết bùa ếm cho ông.

Thế là thím Bảy Bỉnh sáng hôm sau được chồng cho biết:

- Xế mai mình nấu cơm cho sớm, ăn uống xong tui sẽ theo anh Sáu bơi xuồng vô sông Long Hồ câu tôm, sáng mốt mới về.

Thím Bảy Bảnh nghe nói, mừng rơn trong bụng. Thím cho người nhắnthằng Yêm tới, dặn đêm sau hãy đưa cậu Hai Luyện tới thím. Xong, thím đi chợ mua một con mắm lóc và một ký tôm càng thiệt tươi. Xế hôm sau, thím nấu cơm và chưng mắm lóc để dọn bữa cho chồng. Còn tôm càng, mớ thìthím lăn bột chiên, mới thì trộn gỏi bồn bồn. Xong, thím cất lên giànbếp. Đến khi chồng thím theo chú Sáu Tối đi rồi, thím mới bày hai mónkia lên bàn, lấy thêm chai rượu thuốc trong tủ thờ ra.

Trời tối mịt, cậu Hai Luyện mới cỡi xe đạp chạy tới. Thím đóng chặtcửa ngõ rồi mới cậu uống rượu cho giãn gân cốt và ấp áp huyết mạch.Trong khi cậu ăn nhậu thì thím đi tắm rồi xức dầu bông lài trên tó. Khithím tươi mát bước lại châm rượu thì cậu đã ngà ngà say. Thím liền bưngmâm xuống bếp rồi bước tới tình nhơn ỏn ẻn:

- Nhớ mình em muốn ngật người ngật mẩy. Vậy mà chẳng biết mình co nhớ em không đây? Hay là mê man tàng tịch con lủng nào rồi?

Cạu Hai Luyện cười, hun tình nương chùn chụt:

- Có con lủng nào ngoài con lủng ưa xức dầu bông lài này?

Hai người cười giỡn nói trây thêm một chập nữa rồi mới cùng nhau vôbuồng. Quần thảo hiệp đầu xong thì trống mới điểm canh một. Thím Bảymuốn cậu ra về, Cậu nói:

- Ái ân chưa toại dạ phỉ lòng, lẽ đâu qua về gấp! Để qua cưng mìnhthêm một keo nữa, đợi tới đầu canh tư rồi qua về Cầu Đào cũng khôngmuộn. Mà mình sao có vẻ bất an vậy?

Thím Bảy Bảnh nhõng nhẽo:

- Không hiểu sao bụng dạ em cứ bào xào hoài, khó chịu quá!

Cậu Hai Luyện cười khì:

- Em cứ giở cái mửng đó hoài.. Thôi, lại đây để qua cưng.

Cậu kéo thím lại gần vuốt ve. Rồi cả hai vùi dập nhau tưng bừng.Bỗng ngoài cổng có tiếng la hét. Ánh đuốc đỏ rực như đám cháy. Tiếngđộng cổng ngõ ầm ầm. Thím Bảy hoang kinh bảo tình nhơn:

- Chết cha! Có chuyện gì rồi! Mình nên bận quần áo le lẹ rồi chui ngã sau, đi về hướng chuồng heo ông bà Bảy Võng cho mau!

Cả hai vừa run lập cập vừa mặc quần áo. Có tiếng chú Bảy Bảnh gọi cửa ngoài hàng ba:

- Mình ơi, mau mở cửa! Có ăn trộm rình nhà!

Thím Bảy Bảnh mở cửa sau cho cậu Hai Luyện đào thoát xong, liền bưng thếp đèn ra nhà trước, mắng vãi chồng:

- Đồ khùng! Ăn trộm ở đâu mà nói ẩu nói càn! Tui còn thức đơm khuykết nút chiếc áo dài của tui trong buồng đây mà, có thấy động tịnh gìđâu!

Thím mở cửa. Bọn người tràn vào. Thím tiếp tục mắng như tát nước:

- Mấy người túc ráy chồng tui điều gì mà chưa tới nửa đêm nó lộn trở về ăn nói quàng xiên? Bộ mấy người điên rồi sao?

Chú Sáu Tốt sau khi cầm đuốc rọi khắp nhà trên nhà dưới, buồng trong buồng ngoài, liền chỉ chiếc xe đạp, hỏi:

- Chiếc xe đạp nầy của ai vậy?

Thím Bảy lanh trí, nói lẻo nói lụ ngay:

- Của cậu Kinh lý đó đa. Hồi chiều cẩu tới đây mua hộp diêm quẹt gởi xe lại để đi bộ vô ngọn rạch. Sáng mai cẩu sẽ ghé lại đây lấy xe để vềCầu Đào.

Mọi người tản mát rút lui. Thím Bảy Bảnh chửi chồng tắt bếp thêm một chặp nữa rồi mới chịu ngủ.

Nói về cậu Hai Luyện chui ra ngã sau để nương theo ánh trăng hạhuyền đi về hướng chuồng heo của ông bà Bảy Võng. Vừa tới ngã ba đườngđất thì có tiếng hét:

- Ăn trộm! Ăn trộm đó bà con ơi!

Một người trờ tới dùng gậy quất tới tấp vào chơn cậu làm cậu sụmxuống. Cậu toan la lên nhưng một cú đấm như trời giáng tống vào quai hàm khiến cậu chết giấc!

Sáng hôm sau, những người đi chợ sớm thấy cậu nằm gục bên đống phânheo, thở thoi thóp, mắt nhắm nghiền. Họ xúm lại hơ lửa cho cậu, cởi quần áo dính cứt heo của cậu đem gột sạch rồi đưa cậu về Cầu Đào. Hai cô Cẩm hỏi han nguồn cơn thì cậu chỉ nói mình té rào chứ không nói gì thêm.

Vết thương từ hai đầu gối cậu trở xuống tuy được rửa ráy sạch sẽnhưng ba hôm sau vẫn sưng phồng khủng khiếp làm cậu đau nhức dữ tợn.Túng thế, hai cô Cẩm phải chở cậu đi nhà thường. Cậu bị chứng gangrène,phải cưa hết hai chơn. Bác sĩ Lê Thạnh Mậu biết tin, vô nhà thương thămcậu. Ông trách hai cô Cẩm:

- Sau tai nạn, đáng lẽ em và dì Tư phải đưa anh Hai vô nhà thương liền thì đâu đến nỗi!

Cô Tư khóc ngất:

- Tụi em có khuyên ảnh nên đi nhà thương nhưng ảnh không chịu, nói rằng không hề gì.

Riêng cậu Hai Luyện lúc chụp thuốc mê trên bàn giải phẩu thì thấy cô Út Thoại Huê hiện về. Cô chỉ mặt cậu, hét:

- Quân sở khanh khốn kiếp! Giờ đây mầy đã thành phế nhơn thì hồn tao mới hết uất ức, có thể đi đầu thai được. Nhưng hai con em mầy còn đó,tao phải theo trù ẻo cho tụi nó điêu đứng thì tao mới bằng bụng!

Tin dữ bay tới tiệm cô Bảy Cẩm Thạch. Cô khóc rống lên thảm thiết. Cô Tám Cẩm Vân cũng chạnh lòng, hỏi:

- Chị có định đi thăm cậu Hai Kinh lý không?

Cô Bảy tức tưởi:

- Không. Nếu chị thấy thân thể tàn phế của cẩu, thì hình ảnh hào hoa phong nhã của cẩu trong tâm tưởng chị sẽ bị bôi xóa hết.

Cô Tám khuyên:

- Bấy lâu nay cẩu cứ chàng ràng bên chị nên chị không chịu lấychồng. Vậy từ giờ trở đi, chị nên tính phần chị đi chớ. Chị có cơ sở làm ăn, lại còn trẻ đẹp, nếu chị tằng hắng một tiếng thì thiếu gì người tới cầu hôn chị!

Cô Bảy không nói không rằng, vịn vai em khóc thêm một hồi nữa.

Còn thím Bảy Bảnh chẳng hiểu túc ráy chồng cách nào mà hai thángsau, hai vợ chồng dọn về Mỹ An. Chồng trồng khoai mỡ, khoai từ, khoaisọ, khoai tím, vợ mở tiệm bán hàng xén.

Ông Bang biện Hưỡn từ khi được tin con bị cưa hai cẳng thì ông chếtđiếng. Đêm đó ông cứ lục đục hoài trong buồng. Sáng hôm sau thằng Xiêmbưng thau nước ấm cho ông rửa mặt thì thấy ông nằm gục trên bàn kê gầncửa sổ, cánh tay mặt ông buông xuôi, máu từ cườm tay rót đọng vũng trênnền gạch bông. Ông đã tự tử chết bằng cách lấy dao cạo cắt đứt mạch máu ở cườm tay.

Từ nhà thương về, nghe tin sét đánh ấy, cậu Hai Luyện khóc như mưa.Lần đầu tiên cậu chấp tay niệm Phật và ôm chầm lấy hai cô em gái. Cả bagục đầu cùng khóc với nhau, họ bám chặt vào vai nhau....
 
Chương 12


Thời gian vẫn dằng dặc tiếp nối. Máy tạo hóa luôn cần mẫn xoay vần. Lớpsóng phế hưng cứ tái diễn không ngừng nghỉ. Thăm thoắt mà tám năm trờitrôi qua.

Ông Năm Tảo vẫn tiếp tục nghề xem mạch hốt thuốc. Bà Năm Tảo ngoàiviệc nội trợ, thương viếng thăm hai cô con gái và hai chàng rể để có dịp hủ hỉ với lũ cháu ngoại. Ông Chín Thẹo qua đời. Bà Chín Thẹo tuy cóbuồn đôi chút nhưng rất hãnh diện vì lũ con trai mình ăn nên làm ra, còn cô con gái út của bà được làm vợ một bực ăn học, trở nên ngươi đàn bàtrung lưu có tư cách. Bà Mười Thiệp và ông bà Mười Hai cất am bên bờrạch Tân Giai tu hành, ra công giúp đỡ người trong làng, trong xóm.

Cô Út Ngọc An sanh cho chồng một trai hai gái. Cô càng sanh đẻ, máuhuyết càng thay đổi, càng lồ lộ vẻ tươi mát nuột nà. Ông Đốc học Hạnhxoay qua viết biên khảo về kinh điển Phương Đẳng Đại thừa. Cô Hai TúyNgọc sanh cho chồng ba cậu con trai. Vóc vó cô vẫn thanh cảnh, thần thái cô vẫn giữa vẻ xán lạn tươi tỉnh. Ông Huyện Khải vẫn trẻ trung và dẻodai. Ông giữ vẹn nếp thanh liêm cho nên lương bổng ông không đủ trangtrải những nghi thức hào nhoáng cần thiết. Mấy năm sau này, song songvới việc làm quan, hễ rảnh rang là ông viết tiểu thuyết loại nghiêng vềgiải trí, rất ăn khách, riết rồi cô Hai Túy Nguyệt coi sóc luôn việcxuất bản sách cho chồng. Ông bác vật Cảnh dắt vợ lên Sài gòn cư ngụ, lập trường tư thục Kiến Thiết, chủ trương tờ Khuyến Nông nguyệt báo nhắmmục đích khuyến khích nông nghiệp và cổ võ việc canh tân nếp sống mớicho dân quê. Cô Ba Túy Nguyệt sanh cho chồng một trai hai gái. Cô đượcngười chồng cô truyền dạy các món môn bánh xưa, nghệ thuật thêu xưa. Rồi cô còn được dì phước Marie vốn là chị con nhà bác bên chồng dạy các Ônthêu đan kiểu Tây và các món bánh nay. Sau đó cô mở nữ công học hiệu đểdạy các lương gia nữ tử các món nữ công phụ xảo. Cô cũng xin bà MườiThiệp cho hai cô Kim Liên và Kim Huệ lên Sài gòn theo học trường cô đểrồi sau này hai cô trở thành giáo sư nữ công trẻ tuổi, được hai thầygiáo lớp nhứt tiểu học Cầu Kho cầu hôn.

Cô Thiệt Nguyện từ khi làm vợ bác sĩ Lê Thạnh Mậu rồi thì được chồng cưng như trứng mỏng. Cô tận tụy săn sóc chồng, coi sóc mọi việc trongnhà châu đáo. Hễ có thời giờ rảnh rang là cô đi săn sóc trẻ em mồ côi,đi làm công quả cho chùa, lo việc đúc tượng in kinh. Cô sanh cho chồnghai cô con gái xinh như mộng, đẹp như tranh.

Hai cô Agnès Thuận và Isabelle Định thỉnh thoảng có về thăm cô BaCẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ. Họ đã đứng tuổi, tuy chưa phấn lạt hương phainhưng họ sớm lo liệu trước. Cô Agnès Thuận làm vợ kế một thương gia HuêKiều ở Tân An, đối xử với lũ con chồng tử tế nên chiếm được cảm tình của họ. Còn cô Isabelle Định lấy thầy giáo góa vợ dạy lớp nhứt cở Gò Đen.Cô sanh cho chồng một cậu con trai xinh đẹp.

Hai Dần cưới cô Sáu Bạch Huệ, cọn về chợ Phú Quới cách chợ tỉnh sáu cây số. Cô sanh cho chồng cặp hổ bôn hổ bịch kháu khỉnh.

Đã liếc qua gia đạo kẻ hiền lương hoặc bình thường, thì chúng ta nên ghé mắt nhìn qua gia đạo những kẻ vì vô minh mà gây ác nghiệp... chocông bình.

Cậu Hai Luyện tuy trở thành phế nhơn nhưng không vì vậy mà tráchtrời oán đất và giận ghét người đời. Hồi tưởng lại bao chặng đời dĩvảng, cùng ngắm nhìn thói tham lam tán ác của gia đình mình, cậu giựtmình kính sợ cho lẽ thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cho nên cậu ăn nănlung lắm. Cậu tìm kiếm cô Ba Hưởng, giúp đỡ đứa con rơi của cậu ăn học.Cậu cũng tìm cô Hai Thiều, cất am cho cô ở gần nhà tía má cô để cô có kẻ săn sóc. Cậu ăn chay trường, làm nhiều công quả và Phật sự cho các chùa chiền. Cậu cộng tác với cô Thiệt Nuyện giúp đỡ trẻ mồ côi, đóng góptiền cho trường mù, cho nhà thương cùi ở cù lao Rồng, Mỹ Tho. Đều đềucậu tụng kinh cầu siêu cho vong linh cha mẹ sớm thác sanh vào cõi Anbang Tịnh độ.

Hơn lúc nào hết, ba anh em cậu Hai Luyện sát cánh nương tựa nhau sau bao tai biến. Trong năm đầu chịu tàn phế, cậu Hai Luyện có cho người dò la tin tức Bửu. Mãi tới ba năm sau cậu mới nhận được tin tức về ngườiem cùng cha khác mẹ kia. Bửu tu hành trên núi Cô Tô, dưới mái hảo am của pháp sư Chơn Huệ, bên Điện kín, pháp danh Thiệt Tánh. Trong thư viếtcho cậu Hai, sư Thiệt Tánh cho biết năm tới sư sẽ đi Anh Quốc để diễnthuyết tại các cơ sở và các trung tâm Phật giáo cùng với Paul Carlson,một ký giả người Anh rất am tường Phật pháp.

Cậu Hai Luyện bảo hai cô Cẩm:

- Dòng họ mình chỉ có ba người đáng kể. Đó là pháp sư Chơn Huệ, anh Đốc học Hạnh và sư Thiệt Tánh.

Cô Ba Cẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ nhìn nhau dửng dưng. Thiệt tình hai côcũng sợ quả báo, nhưng không vì lẽ đó mà họ thích chuyện tu tâm dưỡngtính, bởi nghiệp tham dục của họ còn nặng lắm. Tuy thương yêu anh mình,sát cánh với đương sự để chống chỏi với hoạn nạn tai ương, nhưng làm sao họ bỏ được chuyện làm giàu cùng thú vui nhục dục! Năm nay cô Ba Cẩm Túđã ba mươi lăm tuổi, còn cô Tư Cẩm Lệ đã ba mươi bốn. Cô Ba chuyền từtay ông Chánh tham biện Leblond qua ông Cò mi Carrière khi ông Chánhtham biện về Pháp. Còn cô Tư ăn ở với ông Biện lý Beauregard được bốnđứa con, đứa nào cũng chưa đầy ba tuổi là vong mạng.

Mỗi khi cấn thai, cô đi xin bùa phép trừ tà ếm quỉ để đứa con trongbụng cô không phải là con ranh, nhưng làm sao cô cải được cái ác nghiệphiện hành! Khi đứa con thứ hai chết đi, trước khi chôn, cô thử lấy mựcđỏ vẽ một vết nhỏ cỡ hột đậu ở háng nó. Đứa con thứ ba vừa chui ra khỏibụng mẹ đã có vết son đó. Rồi khi đứa con thứ ba từ trần, cô vẽ thêm một chữ thập nhỏ bằng mực đen trên mông nó. Thế là đứa con thứ tư chẳngnhững mang vết son ở háng mà còn mang chữ thập đen trên mông. Rõ ràngđây là đứa con ranh đầu thai qua năm kiếp.

Đau đớn vì trải qua năm lần chửa đẻ con ranh con lộn nên lần có chửa thứ sáu, cô Tư Cẩm Lệ đi phá thai trong căn nhà một mụ xẩm già có nhàđâu đít với trường học Huê kiều, giáp với miễu Quốc công. Mụ dùng chiếcđũa sắt bọc dây thun ở đầu, bôi lên đầu một chút dầu cho trơn rồi thọcsâu vào tử cung cô. Dây thun quấn vào bào thai vừa tượng hình trong bụng mẹ, bị rút ra khỏi cơ thể của mẹ nó. Cuộc phá thai không quá đau đớnnhư cô tưởng. Cô thầm mong rằng từ đây về sau, bởi trận phá thai kia côsẽ bặt luôn đường chửa đẻ. Nhưng hai ngày sau, trong cơn chiêm bao côthấy Cô Tư Thục hiện về, mắng:

- Đồ khốn nạn! Mầy tưởng đâu phá thai là hết chuyện sao! Thai nhi dù có chết đi thì cũng kể như mầy đã sanh lần thứ sáu rồi vậy. Còn thêm ba lần sanh nữa là đủ chín lần, đứa con ranh con lộn kia sẽ vật mầy chếttươi. Khi nó vừa ra đời là mầy sẽ bị băng huyết sối xả, đố ai cứu được!!

Cô Tư Cẩm Lệ sầu não lắm, thường cùng chị thì thầm than thở rồi khóc sụt sùi. Cậu Hai Luyện khuyên dứt cô em út:

- Nấu mầy sợ sanh đẻ thì cữ kiêng việc chung chạ với chồng. Mầy đãgây ác nghiệp thì chi bằng lo tụng kinh sám hối, dứt chuyện tham dục,bình tĩnh mà trả quả. Có lý đâu mầy cứ huê kia nguyệt nọ hà rầm, lo chạy áp phe chơn không bén đất. Mầy cũng đã trải qua hai tên bạn chăn gối,thôi thì dứt hết nợ phong tình nguyệt trái đi cho khỏe thân...

Và cậu quay qua trách cô Ba Cẩm Tú:

- Còn em, em đã dùng đủ mưu đen chước đỏ đẻ kiếm được người chồngthuộc hạng thượng lưu trong xã hội, vậy mà em không chịu giữ vững hạnhphúc, để rồi giờ trở thành thứ vợ ngày vợ bữa cho bọn ngoại kiều! Em cứcoi cặp chơn cụt của anh đây mà hành xử sao cho khỏi vướng vào vòng taikia họa nọ.

Cô Ba khóc lóc:

- Ai cũng muốn đẹp mặt nở mày chớ ai có muốn làm bia cho miệng đờichê cười sỉ nhục đâu! Bởi em dại dột, nên giờ có muốn kiếm một ông chồng tử tế cũng như mò kim đáy biển mà thôi!

Cô Tư Cẩm Lệ tuy đồng ý với anh mình, nhưng cô đang độ trẻ trungsung sức, lẽ nào cô chịu cảnh cám treo để heo nhịn đói cho được! Bởi đóphá thai chưa trót năm mà cô đã có chửa lần thứ bảy. Cô sợ quá, thỉnhkinh Từ Bi Thũy Sám và Lưng Hoàng Sám Pháp về tụng ra rả.

Một sáng kia, cô Ba Cẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ, kẻ từ nhà ông Cò mi,người từ nhà ông Biện lý, không hẹn mà cùng về Câu Đào để thăm anh. BàNăm Đặng dọn lên bàn bữa đểm tâm ê hề, nào bánh canh giò heo, nào bánhđúc tôm khô, nào cà phê sữa, nào khoai luộc, bắp luộc.

Giũa lúc đó, một tăng sĩ mặt mũi thanh tú, dáng dấp oai nghi, từngoài cửa thung dung bước vào. Ba anh em chưng hửng, ngờ ngợ là ai rồi.Tăng sĩ chiếu cặp mắt sáng như sao nhìn họ, sang sảng bảo:

- Chắc anh chị không nhận ra em. Bửu đây mà. Bây giờ em là Đại đức Thiệt Tánh rồi.

Cậu Hai Luyện cảm động:

- Mừng thầy về thăm nhà sau tám năm tầm sư học đạo.

Cô Ba Cẩm Tú cảm xúc quá, vừa khóc vừa bệu bạo:

- Thầy ôi, gia đình mình tai nạn cứ tới dập dồn. Thầy về đây thăm nhà và ở chơi được bao lâu?

Sư Thiệt Tánh nén xúc động:

- Em ở chơi được hai tháng. Anh ký giả Paul Carlson hiện đang ở bênTịnh Liên am với ông Đạo Chuối. Tuần tới ổng sẽ cùng em lên Sài gòn đểlo giấy tờ và mua vé tàu qua Hồng Kông, từ đó mới đáp tàu đi Luân Đôn.

Cô Tư Cẩm Lệ cũng giọt vắn giọt dài nhưng cô nén được ngọn trào lòng sớm hơn anh và chị mình. Cô xuống bếp đốc thúc con Lài, con Lý dọn mâmchay cho Bửu. Ông bà Năm Đặng và tôi tớ trong nhà cùng kéo ra chào sưThiệt Tánh, mừng mừng tủi tủi dạt dào.

Sư Thiệt Tánh nói:

- Em sẽ lập đàn cầu siêu cho ba, má lớn, má ruột của em cùng là những kẻ quen biết có bài vị đặt tại Tịnh Liên am.

Đêm đó, quanh bàn tròn, bốn anh em kể lể đủ mọi chuyện tai biên trong gia đình. Cô tư Cẩm Lệ than thở:

- Thầy ôi, cứ theo cái vèo nầy, tui đẻ thêm ba đứa nữa thì còn gi tánh mạng tui? Xin thầy nghĩ tình chị em, cứu vớt tui với!

Sư Thiệt Tánh nhìn anh chị mình thong thả và êm ái bảo:

- Em về đây biết được anh chị có ý định cải ác tùng thiện thì điềuđó còn quí hơn là cảnh nhà con đàn cháu đống, tiền của dư muôn. Em sẻgiúp anh và hai chị thoát khỏi tai họa rình rập để an lòng qui y TamBảo. Vậy anh Hai cần cầu siêu thêm những ai, xin biên tên cho em. Ngườisống nào cần ban bùa tặng niệc, xin cũng cho em biết luôn.

Khi tiễn sư Thiệt Hạnh ra ngủ ở nhà thủy tạ và cắt đặt thằng Đực túc trực để lo cho sự xong, cậu Hai Luyện về buồn riêng, chong đèn ngồinhìn bóng mình in trên vách. Ngoài song cửa sổ đêm mùa hè oi bức và đennhư nhuộm mực. Trên nền trời, sao sáng hiện như rải gạo rắc tấm. Đêmngoại ô chưa tới giữa canh hai mà bắt đầu yên lặng. Bên hàng xóm cótiếng xay lúa rào rào. Ngoài xa nữa là tiếng giã gạo cắc cum. Ngoài rakhông có tiếng nào khác, họa chăng là tiếng dế rỉ rả khóc sương.

Rồi vầng trăng hạ huyền méo xẹo như miệng con cá lưỡi trâu hiện lênphía trên mấy ngọn cau hòn dừa lửa, in trên nền trời chàm đậm. Ngọn đènlạnh ở trong này, bóng tà nguyệt ngoài kia làm cho tâm trí cậu Hai Luyện bát ngát bao cảm khái về cuộc đồi dâu bể, về thế sự mị thường.

Khi Sáu Tốt gở các lá bùa trấn ếm xong, thần Hắc Giao đại vương vàobuổi chiều hôm sau, nổi cơn lốc lớn, xoáy một vực không khí lớn cỡ cáigò đất kéo từ vàm rạch tạt qua nhà ông Hương sư Chiêm, cuốn hết nóc nhà, rui kèo. Con lốc kéo dài 3 phút, cũng đủ cho lối xóm thấy trên thinhkhông, chỗ con lốc đương lộng hành, một con sấu đen bay lượn, miệng hátác hoác, đuôi vùng vẫy đùng đùng như sấm nổ. Khi con lốc ngưng thì ngôi nhà hương hỏa một căn hai chái của ông Hương sư Chiêm sụp đỗ tan hoang, còn ông bị cây đè nằm chết nhăn răng.

Riêng thầy Mười Khói, một đêm nọ thầy nằm chiêm bao thấy một con quỉ cụt đầu, một tay bưng thủ cấp, một tay chỉ vào mặt thầy hét lớn:

- Mầy dùng bùa trấn ếm tao. Để rồi mầy coi, con cháu tao sẽ báo thù thay cho tao!

Tỉnh dậy thầy kinh sợ lắm, lền cùng đứa con chèo ghe lườn từ sôngLong Hồ ra sông Cổ Chiên để đi Mỹ An. Thầy tính phen nầy sẽ dùng thứ bùa mạnh hơn để trấn ếm thần sấu đen kia. Khi ghe gần đến An Hương thì thầy thấy có khúc cây vỏ xủ xì xám mốc nổi lập lờ bên hông ghe. Thầy liềnngưng chèo, thò tay toan vớt. Ai dè đó là con sấu. Nó lẹ như chớp, quãyđuôi há miệng táp cụt hai bàn tay thầy. Máu ra quá nhiều nên giữa đường, thầy trút linh hồn.

Chú Bảy Bảnh từ khi thiên cư về Mỹ An thì được sự chiều chuộng ngọtbùi. Năm sau chú bị bịnh bạo, được vợ săn sóc châu đáo cho tới ngày từtrần. Thím Bảy có lên Cầu Đào thăm cậu Hai Luyện, yêu cầu cậu nối lạiduyên xưa nhưng cậu dùng lời trong kinh kệ để cảm hóa thím, được thímnghe lời, tìm đến am Huệ Tịnh làm kẻ trợ tu cho sư cô Diệu Trí.

Cô Ba Hưởng từ khi lấy chồng khách trú thì được chồng cưng lắm. Côsanh cho chồng hai trai ba gái. Còn thằng con đầu lòng của cô, cũng làcon cậu Hai Luyện, vẫn được tía ghẻ nó coi như trưởng nam. Anh chàngkhách trú về sau thấy cậu Hai thành tâm cải hối nên cho đứa nhỏ tới luivới cậu, làm cho cậu được an ủi nhiều. Thịnh, tên đứa nhỏ, tỏ ra hiếuhạnh với cha ruột lẫn cha nuôi, nên lối xóm khen ngợi lắm.

Hai đứa con ông Mười Hai là cậu Hai Thanh và cô Ba Hồng về sau ănnên làm ra, có gia đình hạnh phúc. Cả hai vâng lời mẹ, tìm kiếm những cô gái trước kia bị bà Mười Hai dụ dỗ làm nghề buôn hương bán phấn, giúphọ làm lại cuộc đời. Đó cũng là cách báo hiếu để ác nghiệp của đấng sinh thành ra họ mỗi ngày một mỏng, và phúc quả của họ càng lúc càng trònđầy.

Cai tuần Xướng, thằng Yêm, thằng Xiêm, thằng Đực, con Lý, con Làivẫn ở với cậu Hai, được cậu trả công xứng đáng. Vợ Cai tuần Xướng quađời, anh xin cưới con Lài. Thằng Đực thì cưới con Lý. Thằng Yêm và thằng Xiêm vì mê cậu Hai thuyết pháp nên xin cùng tu với cậu, không chịu cưới vợ để bận bịu tấm thân.

Ông bà Năm Đặng từ khi thấy cậu Hai bị tai nạn thì lòng tràn ngậpthương xót. Rồi khi thấy cậu Hai tu hành tinh tấn, họ noi gương thằngXiêm, thằng Đực, sanh lòng mộ đạo nên không chịu nuôi thứ cá bằng máukinh nguyệt cho hai cô Cẩm nữa. Họ cũng không ăn cắp tiền bạc của cháumình mà còn để dành, giúp đỡ người cùng khó.

Còn hai chị em cô Bảy Cẩm Thạch thì sao? Dù có thương cậu Hai Luyệncách mấy, cô Bảy vẫn không thể vì đó mà hy sinh làm vợ hay làm ngườitình cậu được. Cho nên năm sau cô kết hôn với thầy thông ngôn LươngPhùng Xuân hóa vợ mà không con. Cô sanh cho thầy một con trai kháukhỉnh. Niềm vui duyên mới cùng tấm tình chơn thật của chồng đã giúp côbứng hết gốc rể kỷ niệm những ngày tò tí với cậu Hai. Còn cô Tám Cẩm Vân thì làm bé ông Quận Dần.

Ngồi ôn qua bao nhiêu chuyện của những người trong tỉnh lỵ nầy, cậuHai nhớ lại thầy kiện Trần Hảo Hiệp. Thầy ta đã tái hôn với cô Hai TúTrinh, đã cho hai cô gái lớn xuất dương du học bên Pháp, nhưng cô Hai cứ son sẻ hoài, không chịu đẻ cho thầy một cậu con trai để nối dõi tônđường. Nghe nói cô Hai hiền quá hóa ra trơ, không biết thủ đoạn nào đểnịch ái chồng nên thầy mèo mỡ tùm lum.

Riêng vợ chồng Cai tuần Hạp đi tha phương cầu thực ở Bạc Liêu vậy mà nhờ đất lạ đãi người dưng, họ thoát khỏi cảnh eo nghèo ót ngọt, lìaphận tá điền tá thổ để làm chủ tám chục mẫu đất. Cai tuần Hạp dùng tiềnmua chức gương thân. Chị vợ khéo tay làm thêm đủ thứ mắm, thứ khô để đếm cho các ghe thương hồ nên kiếm được khá tiền. Họ vẫn còn nhớ ơn côThiệt Nguyện nên thường viết thơ hỏi thăm cô. Hôm được tin cô sanh contrai, họ lặn lội về Vĩnh Long để dự tiệc ăn mừng. Họ còn mừng cho mẹ con cô Thiệt Nguyện chiếc khánh vàng và cho riêng đứa nhỏ chiếc lắc vàng cỡ nửa lượng để khi lớn sẽ đeo.

Cái thành tâm tu hành của cậu Hai Luyện lẩm rẩm vậy mà chinh phụcđược nhiều người. Cô Bảy Cẩm Thạch và cô Tám Cẩm Vân thường đến thămcậu, hỏi ý kiến cậu lúc hai cô gặp chuyện trặc trẹo nan giải. Cô ThiệtNguyện cũng thường đàm đạo với cậu trong những công việc trùng tu chùaam trong vùng hay đúc chuông, tạc tượng, in kinh.

x

x x

Sư Thiệt Tánh có đưa ký giả Paul Carlson lại thăm anh mình. Anh tađộ bốn mươi ngoài, mặt mũi khôi ngô hiền hậu, thái độ điềm đạm, cử chỉthong dong. Paul nói được tiếng Pháp nên có thể đàm đạo với cậu HaiLuyện về Phật pháp, về đất nước Hậu Giang, về vùng Năm Non Bảy Núi, vànhứt là về các ông đạo gốc giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương hay gốc Hòa Hảo tu theo Mật Tông.

Paul Carlson bảo:

- Con sông Vàm Cỏ ở miền đông và con sông Cửu Long chảy qua miền tây xứ Nam kỳ là hai con sông thiêng. Nhánh Vòm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây chảytới đâu thì đạo Cao Đài lưu hành tơi đó. Rất đỗi một con kinh ráp vàonhánh Vàm Cỏ Tây là kinh Bà Bèo khi đâm qua vùng Cai Lậy thuộc tỉnh MỹTho mà cũng có giáo dân Cao Đài cư ngụ. Còn sông Cửu Long bắt nguồn từdãy Tuyết Sơn thuộc Tây Tạng nên hai bên lưu vực nó có biết bao tu sĩ tu theo Mật Tông. Khi sông chảy qua Miến Điện, Lào Cao Miên, khí thiêngmang từ nguồn không phát tác, không hiện hành. Phải đợi khi nó chảy quavùng Năm Non Bảy Núi, khí thiêng nó mới hiện hành bành trướng. Tôi tu ởTây Tạng bốn năm, thầy tôi là một vị lạt ma áo đỏ. Khi ông viên tịch códặn tôi đi hành đạo theo sông Cửu Long về vùng Thất Sơn và sẽ gặp ngườiđiểm đạo cho tôi. Từ nguồn men theo sông ra cửa biển, tôi tốn mất mườinăm để rồi sau hết gặp pháp sư Chơn Huệ. Ông là vị thầy thứ hai của tôi, truyền ấn chứng và pháp môn cho tôi. Tôi có pháp danh là Thiệt pháp.

Sư Thiệt Tánh nói với cậu Hai Luyện:

- Gần ngày rằm tháng bảy, em sẽ cho lập đàn tràng ở Tịnh Liên Am đểcầu siêu cho người chết và cầu an cho người sống. Xin anh Hai hiệp cùngcô Thiệt Nguyện lo giùm cho.

Sư đi viếng mộ cô Hai Kim. Trước đây bốn năm. cậu Hai Luyện đã bốcmộ và cải táng cô trong cuộc đất của dòng họ cậu. Sư thắp nhang cho mộmẹ, mộ cha và mộ bà đích mẫu, nước mắt đoanh tròng, nhớ lại tuổi thơ mànếu chép lại chắc phải dùng nước mắt pha mực mới nói hết tinh ý. Sư cũng đi viếng bà con họ hàng, dùng chánh pháp để khuyên họ ăn hiền ở lành.Sau đó sư cùng ký giả Paul Carlson đi Sài gòn lo giấy tờ.

Khi trở về Vĩnh Long, sư Thiệt Tánh bảo anh mình lập một bàn hươngán chưng ngũ hoa ngũ quả và thắp đèn bảy ngọn. Sư cũng bảo hai cô Cẩmtắm rửa sạch sẽ, tụng cho xong hai bộ kinh Lương Hoàng Sám và Từ Bi Thủy Sám cùng chú tâm phát nguyện.

Cô Ba Cẩm Tú khấn vái:

- Lạy thập phương chư Phật. Xin phù hộ cho con thành tâm mến đạo,chí thành tìm về ánh đạo vàng. Con sẽ đem tiền của giúp đỡ kẻ cô thế, lo làm Phật sự, săn sóc anh con cho tới ngày anh nhắm mắt từ biệt cõi đời.

Cô Tư Cẩm Lệ cũng nguyện:

- Lạy thập phương chư Phật, lạy chư Bồ tát, lạy chư hiền thánh tăng, cho con đủ sức kham nhẫn trả ác quả. Xin Đức Quan Thế Âm Bồ tát ban cho con tấm lòng vô úy, con sẽ tu tại gia.

Hôm sau nữa, sư Thiệt Tánh đặt lên hương án tấm kiếng mà sư đã chúnguyện 108 biến Chuẩn Đề Phật Mẫu Đà La Ni bên cạnh hai chén nước mưa.Sư thắp nhang rồi bảo hai chị em mình quì trước bàn thờ. Sư đọc thần chú Mật Tông một hồi rồi bảo mỗi người bưng một chén nước uống cạn.

Cô Ba Cẩm Tú sau đó cảm thấy ruột gan mình như được gọt rửa Nhữngtham dục trong cuộc sống dật lạc như lắng xuống dần. Cùng với ý hướnghoàn lương đang manh nha, chén nước như giúp có thần lực làm lại cuộcđới sau mọi đổ vỡ. Ngày xưa khi còn học ở trường Áo Tím, cô cũng đã từng suy nghĩ về huyền hoại một con phụng hoàng tái sanh từ tro than của hài cốt nó. bây giờ, nhờ tha lực của thần chú Mật Tông, cô cảm thấy mìnhsẵn sàng làm theo thiên lương với niềm phấn khởi kỳ diệu. Thì đó, haihôm sau, cò mi Maurice Carrière cho cô biết hắn sẽ đổi lên Hà Tiên. Vậymà cô vẫn dửng dưng khi thấy hắn không rủ cô theo, không cảm thấy hờngiận tủi thân trước thói ăn ở bạc bẽo của hắn.

Cô Tư Cẩm Lệ cũng vậy. Chén nước đã làm ngọn lửa thân xác cô tắtrụi. Cô chợt thấy hơn lúc nào hết. cuộc sống thế tục đầy bon chen sao mà vô nghĩa quá. Đồng thời sự hướng thượng bừng sáng mạnh mẽ trong cõi tâm linh cô. Tuần lễ sau, cô cảm thấy đau bụng. Từ cửa mình cô, huyết từngcục, từng lọng thoát ra làm cái bụng chửa bảy tháng của cô xẹp hẳn đi.Lấy làm lạ, cô hỏi sư Thiệt Tánh.

- Bộ thầy trộn thuốc phá thai trong chén nước hay sao? Bây giờ cáithai hóa huyết chui ra, vậy kể như tui đã sanh lần thứ bảy rồi.

Sư Thiệt Tánh mĩm cười:

- Làm gì có chuyện sát nhơn đó! Thai của chị là quái thai. Em đãđọc thần chú khuyến dứt nó thoát khỏi vòng oan oan tương báo. Em chỉ hỏi gặng nó, nếu nó bằng lòng làm con chị thì để cho chị sanh nó bìnhthường và nuôi nó tới ngày khôn lớn. Còn nếu nó không chịu thì nên hóahuyết mà chui ra ngoài và vĩnh viễn không theo chị báo oán nữa. Việc hóa huyết là do nó chọn lựa đó thôi.

Lật bật mà ngày rằm đã tới. Cô Thiệt Nguyện, ông Đốc Hạnh, sư côDiệu Trí, hiệp với ông Hương cả Hành lập đàn tràng, tổ chức lễ Vu Lantrọng thể tại Tịnh Liên am. Vợ chồng ông Đốc Hạnh, vợ chồng ông HuyệnKhải từ Tiểu Cần sang, vợ chồng ông Bác vật Cảnh từ Sài gòn về. Bác sĩLê Thạnh Mẫu bỏ ra một số tiền lớn để nhà trù dọn tiệc chay đãi thiệnnam tín nữ đến dưng hương. Các bà các cô bận rộn lo việc bánh trái, cỗbàn túi bụi.

Chiều ngày mười bốn là lễ tụng kinh Vu Lan và kinh Địa Tạng. Tối đến là lễ huê đang. Thiện nam tín nữ đi dưng hương thả xuống rạch quanh amnhững búp đèn hoa sen. Sáng ngày rằm, lễ phóng sanh chim cá, lễ tụngkinh cầu an và kinh cầu siêu bắt đầu. Sau đó là lễ thí thực. Dùng cơmtrưa xong, các Phật tử dự buổi thuyết pháp do sư Thiệt Tánh đảm nhiệm.

Tới ba giờ chiều, mọi lễ lạc chấm dứt. Các Phật tử lần lượt ra về.Sư Thiệt Tánh mời anh và hai chị em mình ở lại am đêm nay để xem chuyệnlạ.

Khoảng 5 giở chiều, trai tráng thu dọn đàn tràng xong xuôi, ai vềnhà nấy. Các bà các cô rửa chén dĩa nồi niêu và lau chùi căn bếp xongcũng rút lui hết. Cô Ba Cẩm Tú nấu một nồi cháo chay để mọi người giảilao. Trong am giờ đây chỉ còn ông bà Hương cả Hành, ông Đạo Chuối, sựThiệt Pháp, sự Thiệt Tánh cùng anh em cậu Hai Luyện. Sư Thiệt Tánh lạiđặt bàn hương án ở giữa am, bày hương đăng trà quả. Sau đó sư bước vàotrung đường bảo mọi người:

- Hôm nay tôi sẽ cùng sư Thiệt Pháp triệu thỉnh những vong hồn cóbài vị thờ tại am về đây luận việc tội phước báo ứng cùng việc nhơn quảtrả vay. Xin quí vị chớ có kinh hãi khi thấy điều lạ.

Rồi đó sư Thiệt Pháp và sư Thiệt Tánh bắt đầu làm lễ chiêu hồn,triệu thỉnh âm binh. Trên nền trời màu xanh nước biển, trăng tròn vàsáng vàng vặc. Trong khuôn viên của am, bốn bề quạnh quẽ, tàn cây, khómchuối tô những khối bóng bí mật trong biển trăng. Gió lúc đầu reo từngđợt phơi phới. Nhưng rồi câu thần chú, lời kinh, tiếng hú đầy âm vangrờn tợn làm cho ánh trăng trở nên lạnh lẽo, tiếng gió hóa ra thê thiếtvà cảnh vật chung quanh như huyền ảo và rờn rợn bóng âm hồn...

Khi cuộc chiêu hồn chấm dứt, nhị vị pháp sư trở về bàn tròn với mọingười. Ông Đạo Chuối tắt ngọn đèn măng- sông trong chánh điện, rồi cùngmọi người chong mắt ngó ra sân, chỗ đạt bàn hương án.

Một trận gió tanh nồng mùi máu thổi tới, một người mặc áo đen cụt đầu, tay xách thủ cấp mình, hổn hển nói:

- Tôi là thần Hắc Giao đại vương. Bởi ông Kinh lý Luyện tham vàngnên tôi bị cụt đầu. Nay nhờ nhị vị pháp sư cầu siêu nên tôi sẽ được đầuthai làm con Nam Hải Long Vương.

Ông ta ráp đầu vào cổ rồi biến đi. Một người đàn bòa mặc áo trắng, mặt mày xanh chành, theo gió hiện đến, bảo:

- Tui là Đỗ thị Thoại Huê, vì uống lầm thuốc phá thai của ba ngườicon ông Bang biện Hưỡn mà vong mạng. Nhờ pháp sư Thiệt Tánh khuyên dứtnên tui dẹp bỏ oán thù, sẽ theo đức Thiên Hậu chùa Minh Hương cứu nhơnđộ thế để mai sau thác sanh vào cảnh giới tốt lành.

Hình bóng chị mờ dần để thay vào là một người đờn bà trạc ba mươi tuổi, dáng dấp yêu kiều. Bà ta thở khò khè một cách khó nhọc:

- Tui tên Nguyễn Trinh Thục, con gái ông Huyện Tịnh ở Phú Nhuận.Chồng tôi là thầy kiện Trần Hảo Hiệp. Bởi con vợ bé của chồng tui là con Tư Cẩm Lệ ghen ngược, mướn Thạch Lọn thu da trâu vô bụng tui nên tuichết tức tưởi. Suốt tám năm nay tui a tòng với đứa ma ranh báo oán nó.May nhờ có nhị vị pháp sư soi rõ, tui mới vỡ lẽ rằng hồi kiếp trước tuiđã ác độc dùng bột tì sương đầu độc con Tư nên kiếp này nó hại mạng tuiđể báo thù. Vậy để chấm dứt chuyện oan oan tương báo, tui xin tìm nẻođầu thai, chớ làm oan hồn thì thường chịu đói khát, lãnh lẽo.

Hồn cô Tư Thục vừa biến mất thì gió lốc nổi lên, một áng sương nhưkhói đặc thoảng qua mang theo tiếng khóc tỉ tê. Rồi khi sương tan thìmột cặp vợ chồng trung niên hiện ra. Ông chồng nói:

- Tui là Bang biện Vương Văn Hưỡn, vợ tui là Trịnh Thị Thiệt. Bởi vợ chồng tui ăn ở ác đức nên bị sa địa ngục, chịu khổ hình qua một tiểukiếp rồi mới đi đầu thai được. May nhờ có thằng con trưởng tui cải tàqui chánh, thường tụng kinh Vu Lam và kinh Địa Tạng cho cha mẹ nó. Lạinữa thằng con út tôi xuất gia, thường tụng thần chú Mật Tông cho vợchồng tui nên nghiệp ác của tụi tui tiêu bớt khá nhiều. Tụi tui chỉ phải chịu khổ hình chừng 5 năm nữa rồi sẽ được đầu thai.

Ông bà Bang biện Hưỡn biến mất. Trăng sáng vằng vặc bỗng chiếu xuống sân một luồng như dải lụa bạch. Một người đàn bà mặc áo trắng, sắc diện phúc hậu đoan trang hiện ra, kể lể:

- Tui là Phùng thị Kim, nàng hầu ông Bang biện Hưỡn và là mẹ củapháp sư Thiệt Tánh. Sau khi phù hộ con tui lên núi Cô Tô tu hành, đánglẽ tui được đầu thai vào gia đình lương thiện, nhưng đức Cứu Thiên Huyền Nữ cảm thương thói nhẫn nhục của tui, cho tui làm thị nữ hầu hạ ngài để rồi kiếp sau tôi sẽ thác sanh vào quốc độ tốt lành hơn cõi uế độ hồngtrần nầy.

Luồng sáng mờ dần để từ bóng tối bước ra một người đàn ông mặt thỏn, râu ngạnh trê. Đương sự khai:

- Tui tên Bùi Văn Khói tức Mười Khói, chuyên làm bùa chú. Bởi tôi ếm trấn Hắc Giao Đại Vương nên ổng sai con sấu ở sông Cổ Chiên táp cụt tay tui khiến tui mất máu chết. Hồn tui không thể đi đầu thai được mà phảiluẩn quẩn theo phò con sấu đó. May nhờ nhị vị pháp sư lập đàn giải oannên đêm nay tui sẽ tới quán cháo lú của Mạnh Bà bên cầu Nại Hà ăn cháoxong mới đi đầu thai.

Thầy Mười Khói vừa biên mất thì một luồng gió tanh tưởi thổi đến.Mặt trăng bị cụm mây đen án ngữ nên cảnh vật tối sầm lại. Khi cụm mâytrôi đi thì một người mập mạp, mình mây ướt sũng hiện ra, nói:

- Tui là con cá nược đực thành tinh, thường gây chứng bịnh mắc đàngdưới cho các bà các cô bên lưu vực sông Bà Lai, sông Hàm Luông và sôngCổ Chiên, trong đó có cô Út Ngọc An nữa. Vì ông bà Chín thỉnh ông ĐạoChuối và cô Thiệt Nguyện tụng kinh Dược Sư nên tui bị các tướng Dược Xoa đánh đuổi rồi bị Nam Hải Long Vương đánh chết, hồn sa vào địa ngục ATì.. May nhờ tui đã từng cứu vớt ông Đạo Chuối và sư Thiệt Tánh hồi kiếp trước khỏi chết chìm trên sông nước nên họ tụng kinh cho tui thườngxuyên. Giờ tui đã thoát khỏi địa ngục A Tỳ chỉ còn ở ngục phanh thâychừng mười năm nữa sẽ được đi đầu thai.

Hồn con thủy quái biến đi thì một người đàn ông ở trần, tay và ngực đầy lông lá khét nghẹt hiện đến, buồn rầu nói:

- Tui là con chó ngao thành tinh, đêm đêm lén vô phòng cưỡng dâm bàBành Thị Mười Hai, nhưng rồi bị ông Đạo Chuối đào mả khiến tui phải chết luôn. Hồn tui bị đọa địa ngục phân dơ, đàm nhớt tanh hôi. May nhờ đượcnghe kinh nên tui đã thoát khỏi địa ngục, sẽ đầu thai làm chó nhà nghèohai kiếp, kiếp thứ ba làm chó nhà giàu cho sung sướng tấm thân.

Gió càng lúc càng mạnh, cuốn lá vàng trên sân lào xào, xua tan mùihôi hám, tánh tưởi của các thú vật thành tinh kia đi. Trăng đã ngả vềtây, sáng long lanh ánh nước. Rồi một cụm tường vân đẹp như ren thêu ômquanh mặt trăng. Một mùi hương lạ sực nức khắp khuôn viên am. Một mỹnhân áo trắng vàng đeo ngọc khảm chấp chới, hương xông xạ ướp ngạt ngào, tay cầm bình ngọc xanh hiện ra:

- Tui trước kia là con tinh cây cẩm lai, có làm một vài việc thiệnnên tui được thác sanh lên cõi trời Tứ Thiên Vương làm cây quỳnh trổbông ngũ sắc cho chư tiên cúng Phật. Giờ, tui hiện về đây để chúc mừngcác con ông Bang biện Hưỡn đã quyết tâm phá mê trừ khổ.

Mỹ nhơn kê miệng vào bình ngọc uống một ngụm nước rồi phun thành một áng sương thơm mát càng lúc càng tỏa rộng. Khi sương tan thì đương sựcũng biến mất. Trên không trung văng vẳng tiếng nói trong trẻo và vanglộng như chuông ngân:

- Ngày mai các huê kiểng trong khuôn viên này sẽ thạnh phóng, báohiệu Phật pháp nơi vùng đất Vãng được lưu hành xa rộng dài lâu.

Khi tiếng nói im thì pháp sư Thiệt Tánh hỏi vọng ra:

- Còn ai nữa không? Xin mời ra hội kiến!

Một giọng nói non ớt trổi lên:

- Có tui đây!

Một đứa nhỏ cỡ bốn, năm tuổi hiện ra, nhìn về phía cô Tư Cẩm Lệ:

- Có một kiếp nọ tui là con cô Tư đây. Tía tui vừa chết, cổ tái giávới một tên hào phú kia. Ga này không thích vợ có con riêng nên cô Tưtrấn nước cho tui chết. Bởi đó nên tui theo báo oán cổ hoài. Giờ đây, cô Tư đã quyết tâm cải tà qui chánh nên tui cởi bỏ oán hận, hóa huyết chui ra, kết thúc mối thù truyền kiếp cho xong.

Nói xong đứa trẻ vói tay cười khanh khách rồi biến mất. Lúc đó gàtrong xóm bắt đầu lác đát gáy hiệp nhứt. Trên trời sao sáng vẫn nhấpnháy. Mặt trăng sáng quạnh hiu treo lơ lửng ở phương tây. Mùi bông làivẫn thơm sực nức bên thềm.

Bỗng một cặp vợ chồng tuổi trạc ba mươi ngoài, dắt một đứa nhỏ cỡ mười tuổi, mặt mày tươi rói. Người chồng bảo:

- Tụi tui là gia đình người thợ rèn ở gần Cầu Lầu bị sét đánh chết.Bởi tui có làm chút ơn với sư Thiệt Tánh nên sư thường giải kinh ThậpNhị Nhơn Duyên cho tụi tui nghe, giờ tụi tui sắp thác sanh lên cung trời Đao Lợi để hưởng ngũ dục cùng dân quốc độ ấy.

Gió lốc nổi lên, cả ba biến mất. Trời trong trăng tỏ hơn bao giờhết. Sư Thiệt Tánh dẹp bàn hương án, khiêng vào trong. Ba anh em cậu Hai Luyện chắp tay niệm Phật không ngớt. Cô Tư Cẩm Lệ nước mắt ràn rụa bảosư Thiệt Tánh:

- Bạch đại đức, gia đình mình gặp bao tai biến mà cuối cùng còn cóthể nương theo đạo pháp chính là nhờ đại đức vậy. Chị em tui từ đây sẽvững lòng tu hành và làm kẻ trợ tu cho anh Hai.

Sư Thiệt Tánh chỉ chắp tay niệm Phật. Ông Đạo Chuối bảo:

- Dưới nhãn quan người đời thì gia đình ông Bang biện Hữu suy sụp,ba người con dòng chánh xuống dốc thảm thê. Nhưng qua cặp mắt giác ngộ,chưa chắc có gia đình nào hơn gia đình ông kể từ đây.

Ông Hương cả Hành tiếp lời:

- Cô Thiệt Nguyện thì từ đạo trở về đời, côn hai cô Cẩm đây từ đời trở về đạo. Thiện tai! Thiện tai!

Trời sáng trắng bên ngoài. Nắng bắt đầu lên. Bỗng sư Thiệt Pháp chỉ ra sân:

- Quí ông quí bà xem kìa!

Bồn hoa giữa sân gồm bông cúc, sao nhái, nở ngài, móng tay, huệ lantưng bừng nở. Bên thềm những khóm ngọc đơm trắng hoa thơm ngát. Ngoàixa, các cây sứ cùi, cây dành dành trổ bông trắng, bằng lăng trổ hoa tím, ô môi hoa hường, điệp tây hoa đỏ. Và kìa những khóm trang đỏ, tranghường, trang vàng, trang trắng trồng giáp mé vườn cũng trổ bông ê hề.Nơi vòm cổng, màu vàng bông huỳnh anh chói rực giữa màu trắng và đỏ củagiàn bông giấy. Ông Hương cả Hành theo chân ông Đạo Chuối và nhị vị pháp sư bước ra sân, tới mấy gốc quỳnh trồng trong chậu thì thấy mỗi cây đãtrổ bảy búp lớn cỡ bụm tay. Ông Đạo Chuối niệm Phật rồi bảo:

- Đây là nhờ thần lực của tinh linh cây quỳnh trên cõi trời Tứ Thiên Vương vậy.

HẾT
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom