Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Có Giọt Mưa Xuân Sà Vào Lòng Sông

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
665,144
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Có Giọt Mưa Xuân Sà Vào Lòng Sông

Có Giọt Mưa Xuân Sà Vào Lòng Sông
Tác giả: Giang Thiên Tuyết Ý
Tình trạng: Đã hoàn thành




Giới thiệu:

Anh dấn thân vào chốn không lối về, xuyên qua bóng tối như một vì sao băng.

Thời gian bắc ngang từ cuối triều nhà Thanh cho đến thời kỳ kháng chiến, trải dài từ Quảng Châu, Hán Khẩu, London tới Nam Kinh.

Bằng chặng đường báo thù của Ngân Xuyên – chàng trai ôm trái tim tràn ngập tham vọng cùng thứ tình cảm bi kịch, bằng mối tình say đắm nghiệt ngã của anh và nữ chính, cuốn sách đã khắc hoạ bức tranh muôn màu muôn vẻ của giới mại bản thời cận đại Trung Quốc, vẽ nên những truyền kỳ thương chiến đầy bão táp đằng sau cuộc sống xa hoa của họ.

Ân oán tình thù của hai gia tộc lớn, câu chuyện hoàng tử báo thù lay động tâm hồn, nỗi đau và tình yêu trên cõi đời biến ảo khôn lường.

Tình nữ nhi, mộng quốc gia, chuyện xưa bụi phủ, mịt mù khói mây.
 
Quyển 1 - Chương 1


Mùa đông năm 1925, Phan Cảnh Sâm mười bảy tuổi bừng tỉnh khỏi giấc mộng.

Cơn rét lạnh ập tới, làn nước mưa đậu trên mái tóc anh. Anh đưa mắt nhìn ra con đường nhỏ thông với vườn hoa ngoài cửa sổ, nơi đó chẳng có lấy một bóng người, chỉ rậm rạp những cây những hoa cùng sương mù phủ dày, mưa xuân buông xuống, hơi nước ngập khắp không gian.

Anh khẽ lau nước mưa vương trên gương mặt và đầu tóc, đóng cánh cửa sổ bị gió thổi bật tung lại, lớp thủy tinh in rõ gương mặt thanh tú của người thiếu niên, ánh mắt sâu thẳm như biển sâu lúc đêm về, thủy triều lẳng lặng dâng trào.

“Cậu cả…”

Cửa phòng đọc sách khẽ hé mở, cậu người làm Vân Thăng ló mình vào, nhìn anh bằng ánh mắt đầy quan tâm.

Cảnh Sâm liếc nhìn những mảnh vỡ dưới đất, anh nở nụ cười áy náy: “Tôi lỡ thiếp đi, không cẩn thận lại huých cùi chỏ làm rơi tách trà.”

Vân Thăng gọi cô hầu gái vào phòng đọc sách quét dọn, phần mình thì châm thêm tách trà mới đặt lên bàn rồi dịu giọng:

“Mấy hôm nay cậu bận bịu quá rồi, khó khăn lắm mới có thời gian nghỉ ngơi mà còn nhốt mình trong phòng đọc sách. Cậu về phòng ngủ ngả lưng đi ạ.”

Cảnh Sâm cười khổ: “Tôi vốn đã chẳng lanh lợi, nếu còn không gắng siêng năng thì cha lại càng khó an lòng.”

Vân Thăng cười: “Ông chủ có bao giờ yên tâm ai đâu, chỉ yên tâm nhất với mình cậu cả thôi.”

Cảnh Sâm nâng tách trà nhấp một ngụm, rồi lại mở đồng hồ ra nhìn: “Cô Địch tới rồi nhỉ, Ninh Ninh đã dậy chưa?”

“Tiểu Quân đang trông cô chủ, cậu cả cũng đã dặn rồi, Tiểu Quân sẽ không để cô ấy ngủ nướng đâu.”

Có tiếng piano loáng thoáng vọng vào phòng, Cảnh Sâm nghiêng đầu lắng nghe, cũng thấy yên dạ.

Vân Thăng nói: “Thời đại này người ta làm gì thì hầu như cũng chỉ mong qua loa đại khái, được cái bề ngoài là đủ, có mình cậu cả là dốc hết tâm sức, cẩn thận đến giọt nước cũng không để lọt, cả nhà ai ai cũng biết, khen cậu không ngớt lời.”

Gương mặt Cảnh Sâm thoáng ửng đỏ.

Dẫu sao Vân Thăng cũng hơn anh đôi tuổi, dù có là người làm thì vẫn lõi đời hơn anh nhiều, biết cậu chủ mình trẻ tuổi non nớt, nghe người khác khen chỉ biết ngại chứ chẳng mấy tin, Vân Thăng bèn bảo: “Cậu cứ ngủ một lát đi, có gì cần làm thì cậu báo giờ cho tôi, tôi sẽ gọi cậu dậy.”

“Tôi không ngủ đâu, tôi phải đọc sách thêm lát nữa.”

Trên bàn uống trà có mấy cuốn sách, vài cuốn là sách giáo khoa tiếng Anh trên trường học, Vân Thăng không hiểu tiếng nước ngoài, nhưng anh ta biết cuốn sách nằm chếch bên mé, trên bìa ngoài có in dòng chữ Đoạn hồng linh nhạn ký (*), đây là cuốn tiểu thuyết đang rất thịnh hành, trông thì thấy quyển sách đã được lật giở rất nhiều lần rồi, trang giấy cũng hằn nếp gấp.

(*) Đoạn hồng linh nhạn ký: Tựa truyện của Đại sư Tô Mạn Thù, được biết đến với cái tên “Nhà sư vướng lụy” tại Việt Nam.

Cảnh Sâm dọn gọn sách giáo khoa trên bàn rồi đặt lên trên cuốn tiểu thuyết.

Vân Thăng nói: “Cậu cả phải học thì tôi không quấy rầy nữa, có chuyện gì cậu cứ gọi tôi nhé.”

Những ngón tay trắng trẻo thon dài của Cảnh Sâm căng thẳng mân mê góc bàn, anh gật đầu.

Vân Thăng cúi người chào Cảnh Sâm rồi bước khỏi phòng đọc sách, trước khi đi anh ta khẽ khàng khép cửa lại.

Tiếng đàn piano vang lên đứt quãng, thời gian từ từ vỡ vụn trong làn mưa rơi và tiếng dương cầm, ánh mắt chàng thiếu niên dần trở nên lạnh lẽo.

Phòng đọc sách là một tòa nhà được cất riêng ở phía nam dinh thự, nối liền lầu chính bằng một hành lang dài quanh co, chính giữa được ngăn bởi vườn hoa.

Tiết kinh trập vừa qua, những đóa diên vĩ mang sắc trắng xanh đan xen mới bung nở, có màn mưa tưới tắm, trông chúng lại càng đẹp đẽ thanh tươi. Nhưng thật ra vườn hoa này đẹp nhất là vào ngày hè, bốn bề phủ kín những giàn hoa hồng leo tươi mơn mởn, cạnh đài phun nước cũng lại có thêm một vườn hồng nữa, cứ đến chớm tháng Năm, hoa hồng sẽ đua nhau hé nở, chúng là những giống hồng được nhập từ Pháp về, có hồng phấn, đỏ đậm, tím phớt, vàng mượt, trắng muốt, đua nhau khoe sắc như ráng chiều sau mưa.

Mưa đã tạnh, đám người làm đang quét dọn nước đọng và mớ lá rụng dưới bậc thềm. Cảnh Sâm bước đi trên hành lang, anh thấy mấy bụi thường xuân ló ra từ đỉnh bệ hoa hồng, nhánh đã leo lên tới tận hàng gạch trắng của tòa lầu chính, anh gọi một người làm tới, dặn dò: “Cắt dây mây đi, cẩn thận chúng đâm vào đám hoa hồng làm hỏng mất hoa, rồi lại bẩn tường.”

Người làm nọ lấy dụng cụ cắt cành, Cảnh Sâm đứng nhìn họ cắt sạch đám dây leo rồi mới gật đầu: “Ừ, thế này được rồi, cha tôi ghét nhất là thấy đám cành lá bò đầy tường.”

Mọi người cùng tấm tắc: “Cậu cả chu đáo quá!”

Cảnh Sâm mỉm cười: “Chú Hà không có ở đây nên tôi để ý giúp chú, kẻo lúc chú về mọi người lại bị quở trách.”

Đám người làm cười bảo: “Cậu cả là người quan tâm tới chúng tôi nhất đấy!”

Anh là con trai trưởng dòng chính của nhà họ Phan.

Cuối Minh đầu Thanh, tổ tiên nhà họ Phan chỉ là một gia đình làm nông bình thường bên bờ biển Phúc Kiến, rồi có một năm gặp họa ngoài biển, cả nhà tán gia bại sản, không còn đường xoay xở, rồi lại gặp chiến loạn, nhà họ Phan đành chạy sang Quảng Đông, bắt đầu hành nghề buôn bán lặt vặt, nào đan chiếu rơm, bện thùng, bán hải sản. Người nhà họ Phan tính tình thận trọng, đầu óc lanh lẹ, có tài kinh doanh bẩm sinh, sau trăm năm, họ đã có một hiệu buôn nằm trong khu Chợ Mười Ba của Quảng Châu.

Chợ Mười Ba không chỉ là khu chợ gồm mười ba cửa hàng. Có người nói cái tên này lấy theo danh xưng cũ thời nhà Minh, lúc hưng thịnh nhất nơi đây có đến mười mấy cửa tiệm, khi suy bại chỉ còn sót lại bốn nhà, nhưng dù có gọi thế nào thì những hãng buôn trong Chợ Mười Ba cũng là những cửa hàng duy nhất được chính phủ Trung Quốc cho phép tiến hành giao thương với người nước ngoài vào thời bấy giờ.

Thời Càn Long, triều đình nhà Thanh khống chế việc buôn bán trong phạm vi mình tự cho là hợp lý. Để tránh việc người phương Tây tìm cớ gây sự, triều đình ban chỉ dụ, chỉ cho phép đất Quảng Châu được làm cảng giao dịch với nước ngoài, tất thảy hàng hóa từ các thành phố duyên hải đồ dồn hết về Quảng Châu, gần như mọi chuyến hàng được chuyển đi của các quốc gia trọng yếu trên thế giới chỉ có thể bắt đầu lưu hành từ đây, thông qua Chợ Mười Ba để rồi gửi đến các tỉnh trong đất liền. Từ đó, Chợ Mười Ba đã nắm lấy quyền ngoại thương của Trung Quốc suốt 85 năm.

Nhà họ Phan chen chân được vào Chợ Mười Ba trong thời kỳ hoàng kim của nó, khi ấy giới kinh doanh Quảng Châu đang nghênh đón một cơ hội phất lên làm giàu vô tiền khoáng hậu, họ lao vào xâu xé quyết chiến, các hiệu buôn có thực lực lũ lượt trổ hết tài năng. Hiệu buôn Phổ Huệ của nhà họ Phan gom được tương đối vốn liếng, bèn mua một vườn chè ở vùng quê Phúc Kiến, bắt đầu những thương vụ buôn bán lá chè nhỏ lẻ với thương nhân người Mỹ và Thụy Điển, từng bước tiến tới lũng đoạn tất cả những phi vụ giao thương lá chè với nước ngoài tại Quảng Châu, về sau, họ lại làm đại lý đường và tơ lụa cho một công ty Đông Ấn Độ. Nhưng sau chiến tranh thuốc phiện, Chợ Mười Ba chịu thiệt hại nặng nề, hầu hết các hiệu buôn đều phá sản vỡ nợ, hiệu Phổ Huệ cũng chẳng thể may mắn sống sót qua cơn sóng gió.

Cuối năm Quang Tự, cháu đích tôn nhà họ Phan, Phanh Thịnh Đường thừa kế việc làm ăn của gia tộc, nhân lúc giá đường cát tăng vọt, các quốc gia châu Âu lại buông lỏng kiểm soát đường ăn, nhu cầu đường ăn tăng cao, Phan Thịnh Đường liên tục thu mua bán lại, kiếm được một khoản tiền lớn, tạo bước ngoặt đổi đời cho nhà họ Phan.

Phan Cảnh Sâm là con trai người vợ đầu họ Vinh của Phan Thịnh Đường, lúc Cảnh Sâm bốn tuổi rưỡi, bà Vinh mắc bệnh rồi nhắm mắt xuôi tay. Phan Thịnh Đường vội vã trở lại Quảng Châu lo liệu hậu sự cho vợ, nhiều năm nay ông không thể chăm lo vợ chu đáo nên lòng đâm áy náy, từ đó bắt đầu ăn chay. Một năm sau, để tiện cho việc phát triển kinh doanh, Phan Thịnh Đường đưa theo Cảnh Sâm chuyển từ Quảng Châu tới Hán Khẩu.

Từ nhỏ Phan Cảnh Sâm đã thích đọc tạp thư, có lẽ đây là khuyết điểm duy nhất của Cảnh Sâm, vì lòng dạ anh không hướng về chuyện làm ăn, nhưng nhà họ Phan vốn là những người bỏ hết tâm huyết vào kinh doanh, đương nhiên họ sẽ không đồng ý. Cảnh Sâm từng đọc vô số những cuốn tiểu thuyết, anh nhớ có nhà văn người Pháp nọ từng nói một câu thế này:

“Sau lưng món của cải kếch xù của mỗi gia tộc là một tội ác trĩu nặng.”

Dù anh không nghĩ của cải anh có được từ gia tộc bắt nguồn từ thứ tài năng bịp bợm, cướp đoạt và đấu đá vượt trội hơn hẳn người thường, cái thứ tài năng mà thành viên nhà họ Phan bán linh hồn cho quỷ để đổi lại. Dẫu sao đó đều là bản tính của loài người, chúng tồn tại ở mảnh đất phồn hoa sầm uất, nhưng cũng lan khắp nơi xóm dân nghèo như một thứ dịch bệnh. Chỉ là câu nói ấy khiến anh luôn giữ thái độ cảnh giác và hời hợt với cái nơi gọi là nhà của mình.
 
Quyển 1 - Chương 2


Dinh thự của nhà họ Phan tại Hán Khẩu nằm ở khu Tô giới Pháp (*), đó là một tòa biệt thự mang màu trắng, được bao kín bởi những gốc đa cùng những rừng long não. Đây là một thế giới bí mật biệt lập với đời, người ngoài trông vào chẳng thể nhìn thấy cây cầu nhỏ bắc qua dòng nước, hay những khóm hoa mọc trên mặt hồ, họ chẳng tưởng tượng nổi nơi đây xa hoa lộng lẫy tới nhường nào.

(*) Tô giới Pháp: Trong đây có ý chỉ vùng đất thuộc Trung Quốc nhưng bị nhượng cho Pháp quản lý.

Cỏ cây tản mát thứ hương vị say đắm lòng người, những chú bồ câu hoang mang chiếc bụng màu xanh khói thong dong tản bộ trên mặt đất, mưa phùn thấm qua những ngọn cỏ cây đang dần trở sắc xanh ngắt rồi sà xuống đất. Đất trời cùng dệt nên một thước lụa mềm mại uyển chuyển.

Anh chuyển tới đây vào một ngày mùa xuân, trời cũng lất phất đổ mưa như hôm nay, khi ấy vườn hoa còn chưa được tỉa tót đẹp đẽ như bây giờ. Giờ nhìn lại, đó cũng đã là chuyện của hơn mười năm về trước rồi.

Cậu bé Cảnh Sâm từng phát hiện ra một gốc thủy tiên dại màu vàng dưới tán đa tươi tốt, sinh thời mẹ cậu thích nhất là thủy tiên. Cũng từng có một khoảng thời gian, mỗi năm trước khi Tết đến, mẹ lại nắm lấy bàn tay bé nhỏ của cậu, hai mẹ con cùng tới vườn hoa, trông chú Ngô – người làm vườn bị câm – đào từng hạt giống đã bắt đầu trổ mầm ra khỏi những hố đất hẵng còn đang ẩm ướt, dùng nước sạch rửa lại cẩn thận, rồi lại gieo chúng xuống chiếc bồn sứ Thanh Hoa be bé, hai mẹ con sẽ cùng đếm ngày, chờ những nụ hoa thơm dịu lần lượt bung nở, khi cả vườn hoa đã cùng trổ bông cũng là lúc bố cậu trở về nhà ăn Tết.

Đây là lần đầu Cảnh Sâm bắt gặp một bông thủy tiên cắm rễ dưới đất, phủ sắc vàng óng ánh thế này.

Đóa thủy tiên vàng này lớn hơn nhiều so với những bông thủy tiên khác cậu từng bắt gặp. Nó không có hương thơm, như thứ ánh sáng lấp lánh đọi đèn tỏa ra, soi sáng cho cậu bé lạnh lùng lặng lẽ nọ. Mưa phùn thả dọc mình theo hàng dây leo mà nhỏ giọt xuống đất, cậu bé vùi mặt vào đầu gối, cất nhịp thở nặng nề.

Chẳng biết Thịnh Đường đã đứng sau cậu từ bao giờ, ông khẽ kêu tên cậu, cậu rụt rè dùng mu bàn tay gạt lệ, rồi lại ngước mắt nhìn ông.

“Nếu mẹ con còn ở đây bà sẽ không muốn thấy con đau lòng đâu. Đợi khi nào con lớn, cha sẽ cho con theo cha kinh doanh, đàn ông có sự nghiệp rồi lòng dạ cũng trở nên khoáng đạt rộng lớn, mà một khi lòng con đã khoáng đạt, con sẽ không còn cảm thấy đau lòng nữa.”

Cậu ngước mắt nhìn người đàn ông ấy, dường như trong mắt ông cũng thấp thoáng ánh lệ, hoặc có lẽ đó chỉ là nước mưa.

Thịnh Đường xoa đầu cậu: “Đời người có vô vàn biến số, không ai biết trước được tương lai, và cũng chẳng ai thay đổi nổi quá khứ. Con trai, chúng ta đều phải tập làm quen, tập chấp nhận một cuộc sống khác xưa.”

Cảnh Sâm nghe lời gật đầu.

Chẳng mấy chốc, cuộc sống khác ấy đã bắt đầu. Gia đình họ có thêm thành viên mới.

Trước đó Cảnh Sâm không hề biết mình còn có một cậu em trai cùng một cô em gái nữa, cũng không biết mẹ của em trai em gái mình sẽ thay thế người mẹ đã khuất của cậu, trở thành nữ chủ nhân nhà họ Phan. Biến cố cuộc đời ập tới quá nhanh, khiến Cảnh Sâm của ngày thơ bé không kịp chuẩn bị, lại càng chẳng biết mình phải xoay xở ra sao.

Nhưng cậu rất hiểu chuyện. Thịnh Đường lên tiếng, dặn cậu phải yêu quý tôn trọng người mẹ mới, vậy là cậu bị buộc trở thành một đứa trẻ ngoan, vì cậu biết nếu mẹ còn sống, bà sẽ không cho phép cậu tỏ vẻ ngỗ ngược trước cha. Mà với tư cách con trai trưởng nhà họ Phan, mỗi hành động mỗi lời nói của cậu đều không thể có dù chỉ một chút sai lầm.

Cậu quan sát vị khách mới tới, lòng cậu tràn ngập cảm giác rối bời như mới tỉnh khỏi cơn mộng, ẩn chứa trong đó là cả nỗi sợ hãi bất an.

Bà Vân là mẹ mới của cậu, bà là một người phụ nữ Hồ Bắc xinh đẹp mảnh dẻ. Làn da bà trắng muốt, vẻ mặt ôn hòa dễ gần, giọng nói trong veo, âm cuối mỗi câu đều được bà kéo dài với vẻ nhu mì. Bà mỉm cười với Cảnh Sâm, gương mặt Cảnh Sâm thoắt đỏ, cậu cúi đầu. Người đàn ông mặc vest đen cười bảo: “A Sâm ngượng à. Anh rể, ngày mai em sẽ đưa hai thằng nhóc tới hiệu buôn Tây chơi, đây là lần đầu A Sâm tới Hán Khẩu, để cho thằng bé quen dần cũng hay.”

“Hai đứa còn bé lắm, cậu đừng dẫn nó đến hiệu buôn Tây, phải hiểu chuyện đã rồi mới đi học hỏi được.” Thịnh Đường vẫy tay với Cảnh Sâm, “Con qua đây.”

Cảnh Sâm tiến lại, Thịnh Đường nói: “Đây là em trai của mẹ mới, chú ấy là trợ thủ đắc lực nhất của bố tại Hán Khẩu, con phải gọi là cậu nhé, con chào cậu đi.”

Cảnh Sâm khẽ cúi người, giọng nói lí nhí như tiếng muỗi kêu: “Cậu.”

Vân Tú Thành vỗ vai khen cậu: “Đúng là một đứa trẻ ngoan.”

Thịnh Đường dịu dàng mỉm cười, rồi ông lại nhớ ra chuyện gì đó mà khẽ buông tiếng thở dài. Tú Thành hiểu ý, bèn cảm thán: “E là giờ cũng khó có cơ hội qua lại với họ hàng bên Quảng Châu nhỉ?”

Thịnh Đường gật đầu: “Người nhà mẹ thằng bé đi được thì đi, tan được cũng tan từ lâu rồi, dù có ở lại Quảng Châu cũng khó gặp mặt. Nhưng giờ anh có thể ở bên thằng bé nhiều hơn, coi như bù đắp cho nó phần nào.”

Bà Vân xen vào: “Nhất định em sẽ đối xử với thằng bé như con ruột của mình.”

Cảnh Sâm bứt rứt đứng kẹt giữa bọn họ, hai tay cậu đút túi quần đầy căng thẳng, đôi mắt đen láy đầy nỗi khiếp sợ, dè dặt quan sát vẻ mặt mỗi người ở đây. Cậu đã phát hiện trừ người quản gia Hà Sĩ Văn theo từ nhà cũ ở Quảng Châu tới, hầu hết người làm đều chẳng còn là những gương mặt quen thuộc nữa rồi, hôm nay nhà họ Vân cũng đem vài người ở tới cùng.

Ngoài cửa sổ là ánh mặt trời rực rỡ sau mưa, vạn vật bên ngoài đều như mang theo quầng sáng, loáng thoáng thấy vài bóng người rẽ quầng sáng ấy tiến lại: Hai vú nuôi lớn tuổi dắt theo cặp trai gái trắng trẻo mềm mại như hai cục bột bước từ ngoài vào.

Một đứa bé trai độ chừng năm tuổi, còn thêm cả bé gái hai tuổi, bé gái bước đi xiêu vẹo lảo đảo, vẫy cánh tay nhỏ mũm mĩm với Thịnh Đường, bé nũng nịu kêu lên: “Cha ơi, cha ơi!”

Thịnh Đường mỉm cười nói: “A Sâm, đây là em trai em gái con, giờ con có bạn chơi cùng rồi, con có vui không?”

Cảnh Sâm bừng tỉnh. Hóa ra em trai em gái cậu đã lớn nhường này. Ban đầu cậu tưởng bố mình vừa tìm mẹ mới được một hai năm nay thôi, ai ngờ xem ra bố đã có một gia đình tại Hán Khẩu rồi. Vậy thì cái gia đình của cậu và người mẹ đã khuất ở Quảng Châu là gì đây?

Cậu chỉ đứng im trong chốc lát rồi đã vội vã tiến lại bên chiếc bàn vuông kê cạnh cửa sổ, dưới chân bàn là chiếc hòm nhỏ đựng đồ chơi của cậu, cậu quỳ xuống, chậm rãi kéo nó lại, rồi mở ra, cậu cầm chiếc xe ô tô đồ chơi mình rất thích, bước tới trước mặt cậu bé con xa lạ mà cha nói là Cảnh Huyên, em hai của cậu.

Cảnh Sâm đặt chiếc xe ô tô đồ chơi vào tay cậu bé, nói: “Anh tặng em này.”

Tất cả mọi người có mặt ở đó cùng ngây ra như phỗng, sau khi bừng tỉnh, họ khen ngợi cậu luôn miệng.

Cậu em trai cất lời cảm ơn anh mình một cách rất đỗi tự nhiên, rồi cũng chia sẻ hai món đồ chơi xếp gỗ cùng cậu lính chì của mình cho anh, nói muốn chơi cùng anh. Hai anh em vừa gặp mặt mà như thân thiết đã lâu, mọi người đều rất hài lòng. Bà Vân muốn tỏ ý thân cận, bèn khẽ thơm lên má đứa con riêng, Cảnh Sâm ngẩn ra, không kịp phản ứng, một bàn tay be bé đã chợt đẩy mạnh vào hông cậu, đẩy cậu ra xa khỏi bà Vân, rồi gương mặt nhỏ xinh mang sắc hồng phấn lấn tới: “Không được không được! Không được thơm!”

Đây là câu đầu tiên cô nói với cậu.

Phan Cảnh Ninh hai tuổi mặc chiếc váy vải sa màu trắng, ống tay áo xếp nếp màu xanh lam, mái tóc đen óng mềm mại phủ xuống vai, thắt chiếc nơ bướm xanh to bự bằng lụa, lúc đẩy cậu, chiếc nơ cụp xuống, rủ lên phần tóc mái dày của cô, che mất hàng lông mày cong cong, cô ngúng nguẩy lắc đầu.

Cô có một cặp mắt đen láy to sáng, vốn nó chất chứa sự tức giận, nhưng lúc giao mắt với cậu, ánh mắt ấy lại dần biến thành sự tò mò.

“Ơ!” Cô nói.

“Ninh Ninh, đây là anh cả, con phải lễ phép chứ.” Bà Vân khẽ trách mắng, Cảnh Sâm đã cúi đầu lẳng lặng đứng im.

Cô bé quan sát người “anh cả” xa lạ này, cậu đứng đó, xem chừng rất tủi thân.

Cô thì thầm hỏi mẹ: “Mẹ anh ấy đâu rồi?”

Bà Vân khẽ nói: “Anh cả không có mẹ, con đừng làm anh cả buồn, biết chưa?”

Cảnh Ninh ậm ừ vâng một tiếng, không biết có hiểu hay không. Cảnh Sâm thoáng ngước mắt nhìn cô, cô bé con vùng khỏi tay mẹ, thích thú chạy khắp phòng khách, lại không chịu để bà vú dắt, cô bé phát hiện ra một thiên đường mới lạ thuộc về mình, bé muốn tự thám hiểm nó.

Cô bé chạy về phía chiếc hòm chứa đầy đồ chơi, nửa quỳ trên lớp thảm thêu hoa vàng, cô bé tìm được một chiếc cân trang trí bằng bạc, bèn dùng ngón tay bé xíu ngoắc nó lên, bàn cân và quả cân va phải nhau, phát ra tiếng vang lanh lảnh.

Cảnh Sâm cắn môi, lòng cậu nôn nao, đó là quà sinh nhật Thịnh Đường tặng cậu, nó từng là món đồ chơi cậu thích nhất, cậu vội vã đưa mắt liếc những người xung quanh, bọn họ đều nhìn cô bé kia bằng ánh mắt cưng chiều, vậy nên cậu chỉ im lặng.

Cuối cùng vẫn chỉ có Thịnh Đường chu đáo tỉ mỉ, ông cau mày nói: “Ninh Ninh, đây là đồ chơi của anh, anh không cho phép con thì con không được chạm vào.”

Cảnh Ninh còn chẳng buồn nhìn cha mình, một tay cô bé cầm cân, một tay nghịch ngợm lay cho quả cân đung đưa, rồi đột nhiên cô bé bò dậy, giơ chiếc cân trước mặt Cảnh Sâm, cô bé chớp đôi mắt to tròn: “Cho em nhé?”

Nụ cười của cô bé vô hại, chỉ có nét trong veo không đáy.

Thật ra có cho hay không thì bắt đầu từ bây giờ, tất cả đồ chơi trong cái nhà này sẽ không còn chỉ thuộc về mình cậu. Vậy là cậu gật đầu.

Nhưng chuyện xảy ra sau đó lại nằm ngoài dự liệu của cậu. Cô bé đặt món đồ chơi xuống thảm, bé kiễng chân lên, hai cánh tay vòng qua chân cậu, rồi lại kéo vạt áo cậu, cậu cúi người xuống, thứ hương thơm ngạt ngào trên người cô bé lan tới. Cô bé chu môi, vẫy tay, ý bảo cậu tiến lại gần, cậu nghe lời ghé lại, cô bé bèn vươn tay giữ đầu cậu, cặp mắt tròn xoe như nguồn suối trong, in cả vẻ mặt ngơ ngác của cậu, cô bé thình lình thơm một cái lên gò má cậu, bé híp mắt, vỗ tay hoan hỉ cất tiếng: “Thưởng này! Thưởng này!”

Mọi người cùng bật cười ha hả, ánh mắt họ tràn ngập sự ấm áp và vẻ khích lệ, Cảnh Sâm cũng không nén nổi nụ cười. Thịnh Đường nhìn cậu, đây là lần đầu tiên ông thấy đứa trẻ này cười kể từ khi bà Vinh qua đời.

Đám trẻ nô đùa cùng nhau, lúc trời trong, chúng phơi nắng, đá bóng ngoài vườn hoa, ánh mặt trời chiếu lên bãi cỏ, những ngọn cỏ xanh tươi cọ vào lòng bàn chân, khi đó Cảnh Sâm còn là một cậu bé mặc quần yếm và áo sơ mi caro.

Cảnh Ninh hai tuổi ngồi trong xe đẩy, chân đắp tấm thảm hoa nhỏ xinh bằng dạ, tay cầm ngọn cỏ đuôi chó, mỗi khi có chú bướm trắng bay qua, cô bé sẽ rụt ngọn cỏ lại, sợ làm phiền chuyến hành trình của đám bướm, ánh mắt lấp lánh lặng lẽ đuổi theo cánh bướm, nhưng chú bướm lại cứ nghịch ngợm bay đến trước mặt Cảnh Ninh, trêu đùa cô bé, cô bé vội vã rụt đầu vào, nhưng cũng chỉ có thể nấp sau tay vịn, bé kêu lên khe khẽ: “Trốn, trốn trốn!”

Các anh trai gọi bé con trong xe đẩy là “công chúa”, “con nhóc”, “em bé”, “chíp bông”, “đậu đậu”, dùng tất cả những danh xưng dễ thương nhất, lúc tâm trạng Cảnh Ninh tốt, cô bé sẽ mỉm cười gật đầu để đáp lại, hoặc là thẳng thừng vỗ hai tay, vui vẻ kêu lên: “A ha!”

Gió nhẹ thoảng qua, hoa trinh nữ lả tả rơi xuống tựa những bông tuyết, đóa hồng Pháp đẹp rực rỡ như tỏa ra thứ quầng sáng mềm mại, những tia sáng đẹp chẳng khác cảnh trong mộng. Ba đứa trẻ cùng chia nhau ăn chiếc bánh hạt dẻ, vì người lớn đã dặn không được để chúng ăn nhiều đồ ngọt quá nên mỗi đứa chỉ được nếm chút xíu. Cảnh Ninh muốn độc chiếm hạt dẻ trên bánh, nhưng các anh trai can, sợ cô bé không tiêu hóa nổi, Cảnh Ninh không được chiều ý liền khóc váng lên: “Hạt dẻ! Hạt dẻ bé cơ! Hạt dẻ bé của em!”

Nhưng chẳng những không ăn được hạt dẻ, cuối cùng cô bé còn bị gọi là “Bé Hạt Dẻ”.

“Xấu! Xấu!” Chân Bé Hạt Dẻ khua loạn lên trên xe đẩy, một chiếc giày rơi cả xuống đất.

Cô bé càng giận, hai anh trai lại càng vui, các bà vú trêu cô bé: “Ai xấu?”

Cô bé kêu to: “Xấu! Xấu!” Rồi chỉ hai cậu bé.

“Anh thấy con bé vui không?” Cảnh Huyên cười hỏi, rồi vò mái tóc đen dày của Cảnh Ninh, mặc cho cô bé vùng vẫy phản kháng, “Thuốc pháo!”

“Cậu hai tinh nghịch quá, cứ trêu em gái suốt!” Các bà vú cười mắng.

“Làm người ta tức lộn cả ruột!” Cậu hai học giọng nghiêm túc của quản gia Hà Sĩ Văn, cầm lọn tóc đuôi sam của em gái chỉ hướng anh mình, “Đúng là làm người ta tức lộn ruột! Lộn ruột!”

Cảnh Sâm cười, đánh tay cậu bé.

Cảnh Ninh sốt sắng tới độ đứng bật dậy, khiến xe đẩy khẽ nhúc nhích, Cảnh Sâm đỡ lấy cơ thể bé xinh mũm mĩm của cô bé, cô bé ngước mắt nhìn cậu, xem chừng đang rất tủi thân, Cảnh Sân bèn dịu giọng dỗ dành cô bé, vuốt gọn mái tóc rối bù của bé, rồi lại nhặt giày lên xỏ cho em, da thịt ấm sực nơi bàn chân giống hệt như ánh dương ấm áp.

“Cậu cả thương em gái, tốt quá rồi!” Các bà vú đồng loạt cảm thán, chỉ mình cô hầu A Mai là mặt lạnh tanh, ánh mắt sắc lẹm.

A Mai là cô hầu được bà Vinh đưa từ nhà mẹ đẻ theo khi lấy chồng, Cảnh Sâm được A Mai chăm sóc từ thuở lọt lòng cho đến tận năm ba tuổi, A Mai từng xin thôi việc một lần để về quê chăm sóc người mẹ góa bệnh liệt giường ở quê nhà. Sau khi mẹ ruột Cảnh Sâm qua đời, A Mai lại chủ động trở về chăm lo cho cuộc sống thường ngày của cậu. Gia đình bà Vân chuyển tới chưa được bao lâu thì A Mai tìm lý do xin thôi làm, vốn Thịnh Đường không để cô đi, vì cậu cả cần có một người được việc chăm sóc, nhưng A Mai rất kiên quyết, nói dù bà chủ mới rất hiền lành, chắc chắn sẽ đối xử rất tốt với cậu cả, nhưng mình lại nhớ thương chủ cũ, khó tránh khỏi có lời không đúng mực với bà chủ mới, chủ rộng lòng không tính toán, nhưng có khi các cô cậu trong nhà lại thấy không được thoải mái, vậy là Thịnh Đường không ngăn A Mai đi nữa.

A Mai bỏ đi rất dứt khoát, không mảy may lưu luyến. Người làm nhỏ to với nhau, bảo cậu cả thân thiết với gia đình bà chủ mới quá, khiến A Mai lạnh lòng, dù có là ai thì ở vào địa vị A Mai cũng khó thấy thoải mái nổi. Dẫu sao cậu cả do một tay A Mai chăm lo từ thuở lọt lòng, thế mà lúc đi cũng chẳng buồn tới tiễn.

Cậu cả chỉ ngồi trên chiếc giường nhỏ của mình, vẻ mặt vô cùng bình tĩnh, dưới giường có một đôi giày đá bóng bẩn thỉu, trước đó A Mai luôn là người mang chúng đi giặt.

Cảnh Sâm không hề thấy buồn, bà chủ mới của nhà họ Phan chăm sóc cậu như ruột thịt, cậu nên phụng dưỡng bà như mẹ cả, nếu cậu có thể có quan hệ hòa thuận mỹ mãn với anh em cùng cha khác mẹ thì chẳng khác nào dệt hoa trên gấm.

Trước giờ cậu chỉ làm những chuyện mình cho là đúng.
 
Quyển 1 - Chương 3


Cảnh Sâm thích nhất là ngắm Bé Hạt Dẻ ngủ trưa cùng em hai.

Buổi trưa những ngày cuối xuân, cô bé con cuộn tròn trong lòng mẹ, chân đắp tấm chăn nhỏ xinh điểm hoa mà bé rất thích, đầu cô bé ngửa ra sau, hàng mi dài khẽ rung rung, lông mày nhíu chặt.

Cô bé thích quấy khóc, chẳng ai dỗ nổi, tới ngủ trưa cũng phải đến tay mẹ.

Hai anh em rón rén tiến vào phòng, mùi hương dìu dịu phảng phất, từng tia sáng bên ngoài rọi lên lớp rèm cửa, gió vừa thổi khẽ, vô số những quầng sáng mơ hồ đã hiện lên như một đứa trẻ bướng bỉnh đang huơ tay đùa nghịch.

Bà Vân biếng nhác tựa mình bên giường, gương mặt hiện rõ vẻ mệt mỏi, bà khẽ cất lời: “Sâm Nhi, con lại đây ôm em đi, con bé ngủ cũng sâu rồi, lát nữa con đặt em xuống giường là được, mẹ muốn ra vườn hoa hóng gió.”

Cảnh Sâm trịnh trọng đón lấy cô bé vừa nhẹ vừa mềm từ tay bà.

Bà Vân đứng dậy, bà vươn vai rồi chậm rãi bước khỏi phòng, Cảnh Sâm nhìn bóng bà, một thứ cảm giác kỳ lạ thoáng lướt qua lòng cậu, bóng lưng duyên dáng dịu dàng được điểm tô bởi ánh sáng ngoài kia trông thật quen thuộc. Đợi mẹ đi rồi, Cảnh Huyên lại đùa nghịch, vờ cào lên gương mặt em mình.

Cảnh Sâm vội vàng toan ngăn Cảnh Huyên lại, Cảnh Huyên cười hì hì, cúi đầu thơm lên trán em gái.

Cảnh Sâm giận dữ liếc cậu bé, rồi khi cúi đầu ngó Cảnh Ninh, gương mặt cậu đã trở nên dịu dàng, cô bé trong lòng cậu mềm mại nhẹ bẫng, thoang thoảng mùi thơm ngòn ngọt, hệt như cây kẹo bông mẹ và cậu mua ngoài ao sen khi đi dạo công viên, không biết người ta bỏ thứ phẩm màu gì vào mà cây kẹo được nhuộm sắc hồng nhạt như một đám mây, lại cũng giống một đóa hoa.

Thật ra cậu cũng muốn thơm cô bé, không biết vị có ngọt giống như kẹo bông không, đang suy nghĩ thì Cảnh Huyên lại cuồng tay cuồng chân, cởi mất chiếc nơ trên đầu bé ra: “Để anh thắt lại cái khác đẹp hơn cho.”

Cảnh Sâm ngăn cậu bé lại, nhưng đã muộn mất rồi, chiếc nơ bị cởi mất, mấy sợi tóc đã rủ xuống lông mày cô bé, Cảnh Ninh chun mũi, chầm chậm mở đôi mắt long lanh ra, thoáng vẻ tức giận.

Lỡ như đang ngủ trưa lại bị người khác quấy rầy, kiểu gì Cảnh Ninh cũng dằn dỗi quậy phá một trận, hai anh em lập tức nín thở.

Cảnh Huyên đã chuẩn bị cắp đuôi chạy mất, còn Cảnh Sâm thì đang khổ tâm nghĩ cách thu dọn bãi chiến trường, nào ngờ Cảnh Ninh lại chỉ ngẩng đầu mơ màng nhìn cậu một lát, cựa tay tìm vị trí dễ chịu hơn, cô bé siết bàn tay nắm chặt thứ gì đó, rồi rúc vào lòng cậu ngủ tiếp.

Hơi thở ấm áp phả vào lồng ngực cậu, bàn tay mũm mĩm trắng hồng của cô bé đang nắm lấy một chiếc thìa.

Bộ đồ ăn của nhà họ được đặt làm theo kích cỡ và hoa văn riêng, thìa của Cảnh Ninh có hình đóa hoa màu hồng phấn, nhưng cô bé không thích, cứ đòi cướp mất thìa hoa xanh của anh cả, Cảnh Sâm bèn đưa cô bé thìa của mình. Mấy hôm nay đi đâu Cảnh Ninh cũng cầm theo nó, như một người lính đang giữ lấy vũ khí của mình.

Cảnh Sâm mỉm cười, nghe thấy tiếng em thì thầm: “Anh có biết chỗ nào của em ấy vui nhất không?”

“Không muốn biết.”

Cậu nhìn em gái không chớp mắt, chỉ mong cô bé có thể ngủ thật bình yên an lành.

“Chân Bé Hạt Dẻ có một cái xoáy!” Cảnh Huyên nói.

“Cái gì cơ?”

“Cái xoáy! Xoáy nước ý!”

Cuối cùng Cảnh Sâm cũng đã cảm thấy tò mò, cậu nhìn em trai mình cẩn thận lật chiếc chăn hoa lên, cặp chân nhỏ trắng muốt của Cảnh Ninh lộ ra.

Đôi chân bé xíu của Cảnh Ninh rất xinh xắn, mu bàn chân trắng trẻo tới độ trong suốt, ngón chân mũm mĩm cong cong trông rất đỗi hài hước, nhìn mập mạp, hệt như ngó sen vậy. Mắt cá chân bé có nếp nhăn mờ mờ, cạnh nếp nhăn này là một xoáy tròn nho nhỏ rất đáng yêu.

“Anh nhìn này!” Cảnh Huyên nói.

Vậy là Cảnh Sâm cứ nhìn chằm chằm cái xoáy nhỏ.

Bé Hạt Dẻ của cậu là một đứa trẻ mũm mĩm nên có xoáy cũng chẳng lạ, nhưng cậu không dám chắc tất cả những đứa trẻ mũm mĩm trên đời đều có chiếc xoáy nhỏ dễ thương như cô bé.

Cảnh Huyên vươn ngón tay gãi gãi xoáy tròn.

Cảnh Ninh vẫn còn đang ngủ say sưa, nhưng ngón chân hồng hào của cô bé chợt co lại, Cảnh Huyên cào tiếp, ngón chân tiếp tục nhúc nhích.

“Anh thấy có giống…” Cảnh Huyên cười rúc rích, thì thầm hỏi, “có giống con cún không? Lúc ngủ bọn cún con cũng ngọ nguậy thế này.”

Có cố kiềm chế nữa thì lúc này Cảnh Sâm cũng đã cười tới nhăn nhó mặt mày, tay cậu còn đang bế Cảnh Ninh, không dám nhúc nhích, Cảnh Sâm thấy vô cùng sốt ruột. May là Cảnh Huyên cũng không đủ nhẫn nại để ngồi đây nữa, chẳng mấy chốc đã lén chạy vào phòng cha lục tìm mấy món đồ hay ho, không quấy rầy họ nữa.

Cảnh Sâm ngắm nghía một hồi, chẳng hiểu vì sao mà tim cậu bé lại đập thình thịch, xung quanh không có ai trừ cậu và cô công chúa nhỏ đang say ngủ.

Cậu lấy dũng khí, đây là lần đầu tiên trong đời cậu biến thành một đứa bé nghịch ngợm. Cảnh Sâm cẩn thận đặt Cảnh Ninh xuống giường, cũng học theo Cảnh Huyên vươn ngón tay, chậm rãi gãi nhẹ vào xoáy tròn trên chân cô bé.

Cái chân nhỏ đáng yêu khẽ lắc lắc.

Cảnh Sâm đưa mắt nhìn quanh, rồi cậu nhẹ nhàng, nhẹ nhàng cúi đầu, đặt một nụ hôn lên cái chân mũm mĩm bé nhỏ ấy.

Xúc cảm nơi làn da trơn bóng hệt như đóa sen buổi sớm hè, mang theo độ ấm của ánh mặt trời, yên ả, bình lặng, ấm áp.

Cậu ngơ ngác một hồi rồi đắp lại chăn cho Cảnh Ninh, đầu ngón tay lướt qua bờ trán nhẵn nhụi, cậu thì thầm: “Cảm ơn em, Bé Hạt Dẻ…”

Có những lúc Hà Sĩ Văn dắt cậu tới trung tâm thương mại mua đồ chơi, lúc nào cậu cũng chọn đồ cho em gái trước. Có lần, thấy một con búp bê vải tóc vàng kim mặc váy công chúa ngoài tủ kính, mắt cậu bừng sáng, bèn mang con búp bê nọ về nhà tặng cho cô bé.

“Meo Meo!” Cảnh Ninh ôm búp bê, đặt ngay cho nó một cái tên kỳ lạ, “Em là Meo Meo, Meo Meo!”

Cô bé chải đầu, thay giặt quần áo cho búp bê như một bà mẹ nhí, đi đâu cũng mang nó theo. Năm bốn tuổi bắt đầu ngủ riêng, Meo Meo đã xua tan nỗi sợ của cô bé. Thỉnh thoảng Cảnh Sâm đùa Cảnh Ninh, giả bộ cướp mất Meo Meo, giấu nó đi, để Cảnh Ninh phải lật bật chạy đi tìm khắp nơi.

Cô bé tội nghiệp năn nỉ: “Anh cả ơi, Meo Meo đâu?”

Cảnh Sâm bèn hỏi: “Meo Meo trông như thế nào?”

Cô bé làm ra vẻ dịu dàng ngoan ngoãn, ngón tay nhỏ xinh nâng tà váy lên, nghiêng đầu nở nụ cười thẹn thùng.

Cảnh Sâm hỏi tiếp: “Lúc dữ tợn trông Meo Meo thế nào?”

Cô bé nhe răng trợn mắt, cất tiếng “grào grào” như một chú hổ con, bàn tay bé nhỏ vồ xuống.

“Thế lúc ngủ thì trông thế nào?”

Cô bé ngửa ngay đầu ra sau, hai mắt nhắm lại, hé môi giả vờ ngáy.

Cậu bật cười ha hả, trả lại búp bê cho cô bé, cô bé ôm chặt nó vào lòng, dặn búp bê:

“Meo Meo phải trốn đi, đừng để anh cả tìm thấy!”

Anh vươn ngón tay chọc gương mặt mũm mĩm của cô bé con: “Ha ha, nó có trốn đi đâu anh cũng vẫn tìm được!”

Có lần đang ngủ trưa lại bị Cảnh Huyên chọc phá, vì muốn khẳng định rằng giấc ngủ của mình là điều đáng được tất cả mọi người coi trọng, cô bé vừa khóc vừa quấy, bắt mẹ phải đuổi anh hai nghịch ngợm đi, Cảnh Huyên cố tình đứng lì ở đó không chịu ra ngoài, cô bé quẫy đạp rơi cả chăn, lăn lộn khóc lóc trên giường, cuối cùng còn không thở được, bà Vân thấy vậy bèn kéo Cảnh Huyên đi, rồi gọi Cảnh Sâm tới dỗ cô bé.

Cảnh Sâm nhặt Meo Meo lên, đặt xuống gối, Cảnh Ninh bò trên giường như một chú cún con, lưng rịn đầy mồ hôi, đang hè nên cô bé chỉ mặc áo ngoài màu trắng cùng một chiếc quần cụt, đôi chân nhỏ mập mạp in hằn vết chiếu trúc.

Cậu ngồi xuống giường, chọc vào lưng cô bé: “Em đá anh hai, còn đá cả mẹ nữa, không ngoan tí nào.”

Cô bé chẳng buồn để tâm tới cậu.

“Em còn ném Meo Meo đi kìa. Trông này, Meo Meo buồn lắm đấy, bảo là Bé Hạt Dẻ thật nhẫn tâm, đối xử không tốt với bạn bè chút nào.”

“Hu hu, hu hu.” Cô bé lại bật khóc, giọng khản đặc, đôi chân nhỏ cọ vào giường.

“Bé Hạt Dẻ hung dữ quá, lại còn suốt ngày khóc nhè, thôi để anh đưa Meo Meo đi.”

Cậu vươn tay chạm vào Meo Meo đặt trên gối, cô bé vội vã giữ con búp bê vải lại, không cho cậu mang nó đi, bé thút thít ngồi dậy, cau mày như đứa trẻ đang mắc cỡ vì làm sai, mái tóc rối bù xõa bên vai cô bé.

Có lẽ cô bé cảm thấy trút giận lên người bạn bé nhỏ mình yêu mến là không tốt nên một lúc sau, bé đã vươn tay dụi cặp mắt to đỏ hoe, kéo chăn đắp cho Meo Meo.

Cậu mỉm cười, vỗ đầu cô bé tỏ ý động viên: “Được rồi, Bé Hạt Dẻ nghe lời lắm, vậy có nghĩa em chính là một cô bé ngoan. Em và Meo Meo cùng ngủ đi.” Cảnh Ninh nước mắt đầm đìa, tủi thân bĩu môi, vươn cánh tay mũm mĩm ôm lấy cổ cậu, tỏ ý muốn được cậu dỗ, cậu chỉ đành ngồi lại, ôm lấy tấm lưng ấm áp của bé, mùi hương nóng hổi của đứa trẻ nhỏ tràn ngập trong khoang mũi cậu. Em bé dụi vào vai cậu, chỉ chốc lát sau đã thiếp đi. Lúc này cậu mới ngoảnh mặt lại, nhìn đứa bé đang ngủ thật chăm chú, gương mặt nhỏ bé thật xinh xắn, hồn nhiên sạch sẽ, như thể vừa mới bước chân vào nhân thế. Cậu cứ nhìn, nhìn mãi, nhìn mà cảm thấy kinh khiếp.

Khi nhớ đến thời thơ ấu, trừ những ký ức về mẹ ra thì chỉ còn những mảnh vụn hồi ức ít ỏi này còn sót lại, hệt như một lữ khách áo đơn quần mỏng đang lang thang trong ngày đông rét mướt, lưu luyến luồng hơi ấm áp của mặt trời ngày xuân như một thứ bản năng.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, giờ anh đã mười bảy, đã đến cái tuổi phải học sắp xếp chuyện làm ăn của dòng họ. Phan Thịnh Đường đã có ý để anh ra vào hiệu buôn Tây từ trước rồi, nhưng dường như anh không mấy hứng thú, chỉ miễn cưỡng tới thực tập vài hôm, tuy có thừa chững chạc, nhưng lại khuyết thiếu lanh lẹ, thua xa đầu óc thông minh nhạy bén của cậu hai, nhưng Thịnh Đường thích sự thận trọng chắc chắn của anh, thường bảo dù con trai cả của mình không có tài buôn bán bẩm sinh, nhưng được sự bảo ban của ông và bậc cha chú thì chắc chắn dần dà sẽ thành tài.

Cảnh Sâm đã hoàn thành chương trình trung học trước thời hạn, anh ngày ngày học thêm tiếng Anh tại nhà, chuẩn bị ra nước ngoài du học, đồng thời còn giúp đỡ quản gia Hà Sĩ Văn quản lý dinh thự, cứ học dần học dần, dù không xuất sắc nhưng cũng nề nếp, không để xảy ra sai sót gì.

Một tuần trước, nhà tổ Phan gia ở Quảng Châu bị cháy, cháy lan ra nhà chính, mấy gian buồng cùng căn phòng kho, Thịnh Đường thấy lạ, bèn đưa Hà Sĩ Văn đi xem xét tình hình, tiện xử lý chút chuyện dưới nhà cũ, đương nhiên bà Vân cũng phải đi theo chồng. Chuyện làm ăn ở Hán Khẩu tạm để Vân Tú Thành quản lý thay, còn việc nhà thì giao hết cho con trai trưởng.
 
Quyển 1 - Chương 4


Tiết dương cầm kết thúc, Phan Cảnh Ninh và Địch Huệ Lan cùng bước khỏi phòng nhạc, cô nhìn thấy anh mình đang ngồi trên chiếc xô pha ngoài phòng khách, anh mặc áo sơ mi trắng mềm mại, dưới ánh sáng dịu dàng, trông điệu bộ anh ung dung, mắt mày đẹp như vẽ.

Anh nở nụ cười với giáo viên dương cầm đứng cạnh cô: “Hôm nay em gái tôi có nghịch ngợm gây chuyện gì không? Cô Địch cứ nói với tôi nhé, khi nào cha về tôi sẽ bảo ông cho con bé một trận.”

Cảnh Ninh giả bộ giận dữ, làm mặt quỷ với anh.

Huệ Lan mỉm cười: “Hôm nay cô Phan rất chăm chỉ, trước đó chương trình học có bị trễ nhưng giờ đã theo kịp rồi, cậu cả đừng lo.”

“Con bé bảo mệt không muốn đi học, tôi sợ nó lại ham chơi giở trò lười biếng nên mới nhờ cô tới đốc thúc con bé luyện đàn. Nếu nó chịu học thì tốt, mấy hôm nay cha mẹ tôi không có nhà, tôi chỉ sợ con bé lại gây chuyện làm phiền cô.”

Cảnh Ninh bĩu môi: “Cô Địch ơi, anh trai em không bao giờ nghĩ tốt về em đâu. Cô nói mấy lời hay cho em đi, anh ấy thích cô nhất đấy! Anh ấy sẽ nghe lời cô.”

Địch Huệ Lan cũng mới chỉ chớm hai mươi, nghe Cảnh Ninh nói vậy, cô ngượng ngùng đỏ bừng mặt, khóe môi Cảnh Sâm khẽ cong lên, ánh mắt ấm áp của anh rọi lên gương mặt cô gái.

Xe đã đỗ ngoài dinh thự từ lâu rồi, Vân Thăng xách một một hộp bánh ngọt tới, Cảnh Sâm nhận lấy chiếc hộp, cầm hai tay đưa cho Huệ Lan: “Đây là bánh xốp đào và bánh ga tô phòng bếp mới làm, mời cô Địch mang về nếm thử, nếu thích thì cứ gọi điện thoại cho tôi, tôi sẽ cử người đưa đến tận nơi.”

“Cậu cả khách sáo quá.”

Cảnh Sâm đóng cửa xe lại giúp Huệ Lan, lúc này cô mới ngẩng đầu lên trông anh, cặp mắt sâu thẳm của anh nhìn cô chăm chú, khiến tim cô đập như trống bỏi.

Anh khẽ cất tiếng: “Ngày mai cô Địch có rỗi không?”

“Có…” Huệ Lan bật thốt, “Có… có chuyện gì không?”

Cảnh Sâm nở nụ cười dịu dàng: “Cuốn sách lần trước cô cho mượn tôi đã đọc xong rồi, tôi muốn trả lại cô.”

Huệ Lan khẽ gật đầu: “Mai tôi ở trường học cả ngày.”

“Vậy chiều tôi sẽ tới tìm cô.” Anh vẫn giữ nụ cười mỉm thường trực, nụ cười của anh như một liều thuốc bỏ bùa kẻ khác, Huệ Lan ngoảnh đầu đi không dám nhìn anh nữa.

Cảnh Ninh đưa mắt nhìn chiếc xe xa dần, cô kéo tay Cảnh Sâm, cười bảo: “Cô Địch thích anh quá nhỉ, vừa thấy anh đã đỏ bừng mặt, anh cưới cô ấy đi!”

“Bác đầu bếp bán chân giò muối ngoài cổng trường em thấy anh cũng đỏ mặt đấy thôi, chẳng lẽ anh cũng phải cưới bác ấy?”

“Là tại bác ấy uống rượu mà! Nhưng như vậy cũng hay, anh mà cưới bác đầu bếp thì hôm nào em cũng được ăn chân giò muối.”

Cảnh Sâm cúi đầu nhìn gương mặt tinh nghịch bướng bỉnh: “Toàn ăn nói linh tinh, khi nào cha về anh sẽ mách cha em trốn học.”

“Em có trốn học đâu, em khó chịu thật mà! Bụng em đau.”

“Đừng bốc phét nữa. Em và Cảnh Huyên giống nhau y đúc, toàn nhân lúc cha mẹ không có nhà để gây chuyện. Cũng may thằng nhóc kia bị anh kéo đến trường rồi, còn mỗi em là nằm lì trong nhà làm loạn.” Cảnh Sâm quay người bước vào nhà, Cảnh Ninh vẫn cứ giữ rịt lấy tay anh không buông, cô chọc: “Anh, em phát hiện ra hình như anh lại cao hơn rồi, đúng là càng lúc càng phong lưu phóng khoáng, khôi ngô tuấn tú!”

Cảnh Sâm chẳng buồn lên tiếng đáp lại.

Vân Thăng đứng sau nhắc nhở: “Cẩn thận vũng nước kìa.”

Cơn mưa mới ban nãy khá nặng hạt, hai bên con đường lót đá cuội ứ đầy nước đọng, phải đi thẳng ra giữa đường mới không bị ướt, hai người đi song song chắc chắn sẽ có một người đạp phải vũng nước, một lúc sau, đôi giày sa tanh mới của Cảnh Ninh lấm ướt thật.

Cảnh Sâm bèn đẩy hai bàn tay nhỏ xinh bám chặt lấy cánh tay mình ra, Cảnh Ninh bèn dứt khoát níu chặt lấy eo anh, cười bảo: “Anh cõng em đi!”

“Không biết ngượng!”

“Dù sao sau này anh cũng phải đi, em sẽ không làm phiền anh nữa, anh cõng em thêm một hai lần thì có đáng gì đâu?” Giọng cô vương vẻ buồn bã mơ hồ.

Vân Thăng cười bảo: “Cô thương cậu cả lắm, cậu cả chiều cô đi.”

Cảnh Sâm cau mày: “Dạo này càng ngày nó càng mập, lần trước tôi cõng một lúc thôi mà đã thở không ra hơi, đâm sợ mất rồi.”

Cảnh Ninh nhìn Vân Thăng, rồi lại liếc Cảnh Sâm, gương mặt bé nhỏ đanh lại, cô cắm đầu tiến thẳng về phía trước, cứ thế giẫm cho nước đọng bắn tung tóe, Cảnh Sâm thở dài, anh đuổi theo cô, khuỵu chân xuống, nói: “Em lên đi.”

Cảnh Ninh quay người lại, leo lên lưng anh, tay cô vòng qua cổ anh, không cẩn thận đạp chân vào bộ quần áo gọn gàng sạch sẽ của Cảnh Sâm nhưng anh cũng không hề để tâm, chỉ nhẹ nhàng giữ lấy chân cô: “Em đừng có ngọ nguậy, cẩn thận kẻo bị trầu bà cứa vào người.”

Anh cõng Cảnh Ninh đi được mấy bước, cô lại chợt thở dài bảo: “Anh đưa em đi du học cùng được không?”

“Em còn bé lắm, cha không nỡ để em đi đâu.”

“Em sắp mười ba rồi đấy!”

“Ôi chà, lớn quá rồi nhỉ.”

“Anh, anh xin cha giúp em đi, cha nghe lời anh nhất mà.”

Cảnh Sâm khẽ quay đầu lại, vừa khéo chạm phải gương mặt mũm mĩm của cô, cặp mắt to tròn xoe của cô rất gần, ánh mắt trong veo tràn ngập vẻ bịn rịn, anh dịu giọng bảo: “Em đàn một bài cho anh nghe nhé, anh hơi mệt rồi.”

“Thế cuối cùng anh có xin cha không?” Cô bướng bỉnh không chịu nghe.

“Anh đồng ý, được chưa nào? Đừng ngọ nguậy nữa.”

Cảnh Ninh ngả đầu xuống lưng anh.

Cô là công chúa nhà họ Phan, là viên ngọc trai của cha, sự nuông chiều yêu thương của cả nhà đổ dồn hết lên cô. Hai năm trước tự dưng cô lại đòi học dương cầm, cha bèn đập thông ba căn phòng ở dưới tầng một lầu chính để làm phòng nhạc cho cô.

Trời âm u, tuy vậy, phòng dương cầm không bật đèn mà vẫn sáng, cửa sổ nằm hướng phía tây, vì muốn bảo vệ thị lực của Cảnh Ninh mà Thịnh Đường đã cơi tường ngoài, thay cửa sổ thành loại cửa thủy tinh cỡ lớn, khiến căn phòng ngập tràn ánh sáng tự nhiên cho đến tận lúc chạng vạng. Trong phòng có rất nhiều sách vở, nào là truyện cổ tích, rồi truyện phiêu lưu, ngoài ra còn có cả hơn trăm tập sách tranh ghép hình, những tờ nhạc phổ bằng chất giấy tuyệt đẹp mua từ Ý về, hầu hết những món này đều do Cảnh Sâm đích thân chọn lựa đặt mua cho em gái.

Mưa đã tạnh, màn sương mỏng ngập tràn vườn hoa, đáp trên đám cây cối cùng những đóa hoa tươi tắn, nhìn từ khung cửa sổ lớn ra ngoài, trông khung cảnh hệt như một bức tranh màu nước, Cảnh Ninh đưa mắt nhìn phím đàn, cô hít một hơi, ngồi thẳng lưng, vươn tay, ngón tay cô khẽ đáp xuống phím đàn, tiếng đàn bắt đầu như làn nước róc rách ùa ra.

Cảnh Sâm ngồi cạnh, lấy khăn tay lau bụi bám trên những tập sách tranh, động tác của anh chợt ngưng bặt, anh ngẩng đầu.

Cô bé luôn tinh nghịch lúc này lại trở nên vô cùng nghiêm túc, hệt như đang làm chuyện nghiêm túc nhất đời mình vậy. Mà nhịp điệu ấy, nhịp điệu ấy bay bổng đẹp tuyệt tới lạ.

Cảnh Sâm nghĩ: Mình nên gọi nó là gì đây? Mùi hương, đúng vậy, là mùi hương.

Mùi hương thoang thoảng bắt đầu tuôn ra từ ngón tay, từ khóe môi, từ cặp mắt lấp lánh đẹp đẽ của thiếu nữ, lan tỏa khắp chốn, rồi lại buông dọc mình theo mái tóc đen nhánh của cô, tỏa ra, tỏa ra không trung, bay lên, rồi quay về, rồi lại cuộn lên.

Cảnh Sâm sững sờ, đến tận khi khúc nhạc đã kết thúc, cô quay người, cười tủm tỉm nhìn anh.

“Hóa ra… em đã giỏi tới thế này rồi.”

“Thật hả?” Cô rất mừng, cười như nụ hồng nhỏ, “Ít khi anh khen em lắm.” Chẳng buồn đợi anh giải thích, cô bồi thêm một câu ngay, “Đương nhiên là vì em có quá nhiều ưu điểm nên anh không biết phải khen thế nào.”

Cảnh Sâm mỉm cười: “Tên khúc nhạc này là gì?”

“Đây vốn là một khúc vĩ cầm, tên là ‘Love’s Sorrow’, em sửa lại thành dương cầm đấy.”

Nỗi buồn của tình yêu.

Cụm từ ấy thốt từ miệng của một cô bé nghe sao mà hồ hởi, ngây thơ, anh nhìn chằm chằm gương mặt nhỏ nhắn xinh đẹp, rồi anh tiến lại, kìm lòng không đậu vươn tay khẽ áp vào lớp tóc mái dày thật dày của cô.

“Em đàn lại lần nữa đi, anh vẫn muốn nghe.”

“Vâng!”

Thời gian dừng lại, không có quá khứ, cũng chẳng có tương lai, chỉ có hiện tại, hiện tại với trái tim như mặt hồ lăn tăn gợn sóng.

Anh đắm chìm trong sự thanh thản hiếm có, giờ phút ấy, thậm chí anh còn mang máng cảm nhận được một thứ cảm giác gần như ngọt ngào, dù nó đã nhanh chóng biến thành nỗi đau đắng ngắt, biến thành cơn lạnh thấu tim.

Anh nói: “Cũng sắp tới giờ tan học rồi, anh đi đón A Huyên đây, em cứ nghỉ đi.”

Nốt nhạc ngưng bặt. “Em đi với anh!”

“Em ở nhà ngoan đi, lát anh mua tào phớ về.”

Cảnh Ninh định bảo “Em không muốn ăn tào phớ”, song anh đã vội vã rời khỏi phòng nhạc rồi.

Tuy vậy, Cảnh Huyên đã được người nhà họ Vân đưa đi, nghe bảo là tới hiệu buôn Tây.

“Vậy ta tới thẳng nhà họ Vân nhé?” Vân Thăng nói.

Cảnh Sâm thoáng do dự: “Cha mẹ vẫn chưa về, cậu Tú Thành lại là bậc cha chú, chúng ta đường đột ghé tới như vậy lại thành ra thiếu lễ phép. Không đi vẫn hơn. Anh Vân Thăng, anh thấy sao?”

Cậu chủ thành khẩn hỏi xin ý kiến của mình như vậy, tức là coi trọng mình lắm đây, Vân Thăng không khỏi đắc ý, bèn gật đầu:

“Cậu cả nói sao thì cứ làm vậy ạ.” Rồi chợt nhớ ra chuyện gì, anh ta nói, “Hôm nay có hai cậu học sinh mang thư giới thiệu tới tìm ông chủ, lúc ấy cậu cả lại đang trong phòng nhạc, tôi đã định để họ tới tìm thẳng cậu rồi, nhưng hình như họ ngại nên để thư lại rồi đi luôn.”

“Chắc là họ thiếu tiền học, định tới vay chút học phí. Ai giới thiệu vậy?”

“Cử nhân Trình ở Vũ Xương ạ.” Vân Thăng đưa anh lá thư giới thiệu.

Cảnh Sâm mở ra đọc, anh thở dài: “Đúng vậy thật. Bọn họ đã trúng tuyển đại học bên Anh rồi, có trợ cấp học phí, nhưng lại thiếu tiền đi đường và sinh hoạt phí. Thầy Trình là người có tiếng bên Vũ Xương, đã là học trò nghèo do thầy tiến cử thì chắc chắn nhân phẩm và tài cán phải rất đáng khen. Nếu cha có nhà ắt ông cũng sẽ hỗ trợ hết mình. Nhưng…” Anh nghĩ ngợi trong chốc lát, rồi lại mỉm cười, “Nếu cha không có ở đây thì tôi phải giúp ông ấy xử lý chuyện này vậy.”

“Ý cậu cả thế nào ạ?”

“Tiền để tôi trả, cứ tính vào phần của tôi, lấy từ khoản tôi tiết kiệm tiền dùng hằng ngày ấy, dù sao cũng chỉ mua sách thôi, có biết tiêu gì đâu?”

Vân Thăng cười nói: “Cậu đúng là con người lương thiện nhân ái. Mai tôi sẽ gọi họ tới nhận.”

“Không. Nên đưa tiền tới nhà họ, dù gia cảnh khó khăn nhưng họ là người đọc sách, ít nhiều gì cũng phải tôn trọng họ.” Cảnh Sâm nghiêm túc cất lời.

Lúc đi ngang qua đường Hâm Sinh, Cảnh Sâm rẽ vào một cửa hàng văn phòng phẩm, mua hai chiếc bút máy, nhờ chủ cửa hàng gói lại cẩn thận rồi dặn Vân Thăng hôm sau đưa cho hai học sinh nọ làm quà. Cửa hàng văn phòng phẩm này nằm cạnh hiệu buôn Tây Phổ Huệ, đó là một tòa nhà cao lớn rộng rãi sơn màu gạo, ánh sáng rọi nơi góc phòng, hệt như gợn sóng vẩy trên đá ngầm, khiến tia nắng tóe ra tứ phía, Cảnh Sâm híp mắt, cúi đầu sải bước nhanh chóng rời đi.

Đến tối, đã quá giờ cơm rồi nhưng Cảnh Huyên vẫn chưa về, Cảnh Sâm không gọi điện thoại cho nhà họ Vân mà dùng bữa với em gái luôn.

Ăn xong, họ nghỉ ngơi trong phòng sinh hoạt, Cảnh Ninh ôm chiếc hòm nhỏ đựng đồ chơi của mình, đặt nó trên tấm thảm Ba Tư cạnh bàn trà, cặm cụi ngồi chơi. Đọc sách một lúc, Cảnh Sâm mới ngẩng đầu lên, thấy cô trang điểm cho “Meo Meo” như thật, cô mặc váy, thắt nơ cho nó, rồi lại cầm sợi dây chuyền năm ngoái anh mua tặng đeo lên cổ Meo Meo, có lẽ thấy dây chuyền chưa đủ khiến Meo Meo trở nên xinh đẹp, cô lại chăm chú lựa hộp trang sức. Một cô bé con thì lấy đâu ra trang sức thật, toàn là những chuỗi ngọc trai đồ chơi bố mẹ hay anh cả tặng mà thôi.

Cảnh Sâm thấy vui, bèn mỉm cười đặt sách xuống, nhưng chẳng mấy chốc, nụ cười của anh đã cứng đờ. Anh đứng dậy bước lại, lấy một chuỗi khóa ra từ chiếc hòm.

Cảnh Ninh quay đầu, vội vã định giật lại, Cảnh Sâm đứng thẳng người giơ sợi dây khóa bạc lên cao.

Đây là một chiếc khóa bạc nhỏ vô cùng tinh xảo, có khắc hình dơi và mẫu đơn trang trí, tua khóa hình cá và hoa quả bằng bạc, phát ra những tiếng tinh tang lanh lảnh, sau khóa có khắc bốn chữ: Thiên trường địa cửu.

“Của em của em chứ! Ai tìm được thì là của người ấy!” Cảnh Ninh sốt sắng tới đỏ bừng mặt, “Cái này em tìm được, trả lại em đây!”

Cảnh Sâm trầm lặng hồi lâu, đặt chuỗi khóa bạc vào lòng bàn tay trắng như tuyết của cô, rồi anh lại ngồi xuống xô pha, tiếp tục đọc sách.

Cảnh Ninh len lén liếc anh, cô lè lưỡi, một lúc lâu sau lại quay đầu ngó Cảnh Sâm. Anh đang cúi đầu, hàng lông mi dài cụp xuống, phủ kín ánh mắt anh.

“Anh ơi…” Cảnh Ninh thì thầm, “Anh giận em à?”

Cảnh Sâm lắc đầu.

Cảnh Ninh cười khanh khách, cô nhào lên đầu gối anh, vươn tay giở sách của anh: “Anh đang đọc gì thế?” Tay vừa chạm vào góc sách, Cảnh Sâm đã chợt quăng mạnh cuốn sách xuống xô pha, tay cô còn đang vịn đầu gối anh, cô hoảng sợ tròn mắt nhìn Cảnh Sâm, ánh mắt anh sắc lẹm, tràn ngập sự ghét bỏ mà cô chưa từng bắt gặp.

Anh hất mạnh tay cô ra, giận dữ trách: “Con gái mà sao không biết lịch sự gì hết? Không hiểu phép tắc, càng ngày càng chẳng ra gì!”

Cảnh Ninh ngẩn ra, mắt ầng ậc nước, thật ra vẻ ngơ ngác của cô rất đáng yêu, gương mặt mũm mĩm hệt như một quả táo đỏ, nhưng anh dằn lòng, quay đầu đi không nhìn cô.

Từ nhỏ cô đã thích tỏ vẻ ương ngạnh trước anh, anh bảo thế nào cô cũng làm trái ngược, anh biết cô không có ác ý, cô làm vậy cũng vì biết anh chiều chuộng cô.

Hồi nhỏ khi học thuộc lòng thơ Đường, cô chắp tay sau lưng, gật gù đắc ý đọc: Ngỗng, ngỗng, ngỗng…

Thầy dạy sai, dạy thành “Cong cổ hướng lên trời mà ca”. Vậy nên anh chủ động sửa lại giúp cô, là “Cong gáy hướng lên trời mà ca”, còn cầm cả sách chỉ cho cô xem. Cô lại trợn trừng hai mắt, cố tình bảo: “Em không nghe anh, không nghe anh!” Anh chẳng bao giờ giận, anh biết về sau cô sẽ lặng lẽ sửa lại, miệng thì bảo không nghe anh, nhưng lúc nào cô cũng nghe lời nhất.

Anh có gì cô cũng cướp mất, từ chiếc thìa bình thường anh vẫn dùng để ăn cơm, cho đến đồ chơi, đến sách vở, khăn tay của anh, anh không thấy cô ngang bướng, vì từ lâu rồi lòng anh đã nghĩ mình sẽ sẵn lòng cho cô mọi thứ. Anh luôn nuông chiều cô, luôn yêu cô, chưa từng mảy may làm trái ý cô. Nhưng hôm nay là ngoại lệ.

Đó là món đồ mẹ để lại cho anh. Sợi dây khóa bạc.
 
Quyển 1 - Chương 5


Khi chết, mẹ anh chỉ có một mình, đám người hầu là một lũ ton hót nịnh bợ, bao năm nay ông chủ và bà chủ bên nhau thì ít, xa nhau thì nhiều, bọn họ đã thấy rõ cả rồi. Dù rằng lòng có phần thương hại cho người phụ nữ nằm trên cáng, nhưng đồng thời họ cũng coi khinh bà.

Thật ra, khi ấy chắc cha anh cũng từng đau đớn. Một tháng sau khi mẹ qua đời, có đêm anh thấy Thịnh Đường vịn tảng đá non bộ trong vườn hoa mà mẹ yêu nhất, khóc như xé gan xé phổi. Nhưng vậy thì sao? Người đã chết đâu thể quay lại, quãng thời gian đánh mất cũng mãi mãi chẳng bao giờ trở về.

Mùa hè ở Quảng Châu ẩm ướt oi bức, xác phải được khâm liệm ngay, mọi người che miệng không dám tiến lên, khi ấy anh mới năm tuổi, anh đứng đó, nước mắt đầm đìa, rồi chầm chậm tiến lại, rút khăn tay ra khỏi túi áo, khẽ khàng lau mặt cho người mẹ đã khuất.

Rất nhiều người đứng quanh đó đang nhìn. Họ chỉ nhìn.

Nhưng nhìn thôi cũng đủ kinh sợ.

Thứ chất lỏng màu vàng ứa ra khỏi mắt bà chủ đã khuất, cái xác đã bắt đầu phân hủy rồi, nhưng cậu bé vốn rất nhát gan trầm lặng nọ lại dùng khăn tay nhẹ nhàng lau những giọt chất lỏng ấy đi, cậu bé lau rất cẩn thận tỉ mỉ, như thể chỉ cần lau sạch sẽ là mẹ cậu có thể sống lại.

Cậu đợi, đợi mãi, nhưng mẹ cậu không bao giờ mở mắt nữa.

Cậu bé quay đầu, chầm chậm quỳ xuống trước đám người làm, cậu nói: “Cháu xin mọi người, mọi người giúp cháu với, cháu xin mọi người!”

Quản gia Hà Sĩ Văn đến nơi sớm hơn Thịnh Đường, vừa khéo ông bắt gặp cảnh này, sau cơn kinh hãi, ông vội vã chạy tới bế cậu chủ lên, để cậu dựa vào lòng mình, vuốt ve tấm lưng bé nhỏ run rẩy của cậu, ông dịu dàng an ủi: “Cậu chủ ngoan, cậu chủ đừng buồn, chú Hà về rồi, chú Hà đã về rồi, cha cậu cũng sắp về tới nơi rồi! Ngoan, đừng khóc nữa!”

Đến lúc ấy cậu mới có thể bật khóc thật lớn, giọng cậu khản đặc, như đã thút thít suốt bao đêm ròng, nhưng cậu vẫn cứ lẩm bẩm: “Xin mọi người đấy, hãy giúp cháu với! Xin hãy giúp cháu với!”

Dường như chuyện xưa cũ ấy đã xảy ra từ rất lâu, rất lâu rồi, nhưng tiếng vọng của hồi ức vẫn giày xéo âm vang khiến đầu anh chực nứt vỡ, vậy là anh dứt khoát cắt đứt chúng.

Cảnh Sâm gọi cô hầu gái Tiểu Quân của Cảnh Ninh lại, anh ra lệnh: “Dọn sạch đồ cho cô chủ rồi đưa cô về phòng ngủ đi.”

Cảnh Ninh nhìn bóng lưng anh rời đi, anh thậm chí còn chẳng buồn nhìn cô lấy một lần, cô tức giận thét lên:

“Đáng ghét, em ghét anh!”

Anh khựng bước, rồi lại chợt quay người. Cảnh Ninh nhìn anh trừng trừng, rõ ràng cô đã sợ phát khiếp trước vẻ mặt của anh, nhưng lại vẫn tỏ vẻ cố chấp cứng đầu. Cảnh Sâm tiến lại, nhìn thẳng vào mắt cô bé, gằn từng chữ: “Phan Cảnh Ninh, em mà cứ tiếp tục bướng thế này thì anh sẽ mặc kệ em. Không muốn đi học cũng được, chú Hà sẽ tìm gia sư cho em, em thích ngồi nhà chơi thế nào thì chơi, chẳng liên quan gì đến anh nữa.”

“Em đã làm gì sai chứ? Em bướng thế nào? Anh chưa bao giờ mắng em cả, em ghét anh! Em ghét anh!”

Anh nhìn gương mặt đầm đìa nước mắt của cô, hờ hững nói:  “Tùy em.” Rồi anh quay người bước xuống nhà chẳng buồn do dự, thấy vậy, Cảnh Ninh bật khóc nức nở.

Vân Thăng đứng ngoài căn phòng cạnh đó nghe thấy tiếng họ cãi nhau bèn tiến lại, Cảnh Sâm luôn rất tôn trọng anh ta, thấy Vân Thăng im lặng đi theo sau mình, anh bèn quay lại nhìn, chỉ là vẻ mặt vẫn hơi u ám.

Vân Thăng cân nhắc lựa lời, dịu dàng khuyên anh: “Cô chủ hơi tùy tiện nghịch ngợm, nhưng bình thường cô gần gũi với cậu nhất, xưa nay cậu lại thương cô, chưa bao giờ giận cô, cô chủ chỉ là một cô bé con thôi, cậu đừng chấp nhặt với cô.”

Cảnh Sâm nở nụ cười ẩm đạm: “Anh cũng cảm thấy tôi đang cáu kỉnh sao? Hôm nay cha mẹ không ở nhà, A Huyên thì đến chỗ cậu, cũng vì tôi gần gũi với cô em gái này nhất nên tôi mới nhân cơ hội để được cáu kỉnh.”

Vân Thăng thoáng sững sờ, anh ta có thể cảm nhận được vẻ đau khổ lẩn khuất trong lời Cảnh Sâm, đâm không biết nên khuyên giải ra sao.

Nhưng Cảnh Sâm lại như đã nhẹ nhõm hơn, anh cười: “Anh yên tâm đi, mai tôi sẽ dỗ con bé.”

Vân Thăng im lặng một lát rồi lại chợt ôn hòa cất tiếng: “Cậu cả… cứ từ từ thôi, cậu nghĩ gì thì cứ làm vậy đi.”

Ánh mắt Cảnh Sâm phẳng lặng như màn nước mùa thu, anh khẽ thốt: “Anh Vân… ngày thường anh giúp tôi rất nhiều. Tôi có ngốc nghếch thật, nhưng nhờ có sự giúp đỡ của anh nên mọi chuyện cũng nhẹ nhàng hơn nhiều. Nói chung, tôi phải cảm ơn anh.”

Tim Vân Thăng thoáng rung động.

Trong ba đứa trẻ nhà họ Phan, nếu xét về khoản thông minh lanh lẹ, cậu cả không phải người xuất sắc nhất, anh lại mất mẹ từ nhỏ, dù là con trưởng dòng chính nhưng dù sao cũng thiếu bàn tay người mẹ chăm lo, anh chẳng có nơi nương tựa vững chắc như hai đứa bé còn lại. Giờ anh lại coi trọng mình, về tình về lý chắc chắn là đang có ý lôi kéo, nhưng nghĩ kỹ lại thì cũng có phần đáng thương thật. Nghĩ tới đây, Vân Thăng nở nụ cười ôn hòa: “Đương nhiên Vân Thăng hiểu tấm lòng của cậu. Về sau cậu cả có gì sai bảo xin cứ nói, Vân Thăng nguyện làm trâu làm ngựa cho cậu.”

Cảnh Sâm gật đầu.

Lúc Phan Cảnh Huyên trở lại nhà, trời cũng đã về khuya, cậu bước lên cầu thang tầng hai, thấy có ánh đèn mờ mờ hắt ra từ khe cửa phòng ngủ anh mình. Cậu rón rén tiến lại, đẩy cửa bước vào.

Cảnh Sâm ngồi bên bàn, đưa mắt nhìn ra cửa, đầu anh khẽ cúi xuống như đang lim dim ngủ, nhưng vừa nghe tiếng bước chân anh đã ngẩng lên ngay, Cảnh Huyên biết anh đợi mình, đâm áy náy, cậu lúng túng chào: “Anh cả.”

Cảnh Sâm không có ý trách cứ cậu, anh chỉ túi giấy trong tay Cảnh Huyên: “Em mang gì về vậy?”

“Em mua hạt dẻ rang cho Bé Hạt Dẻ.” Nói rồi, Cảnh Huyên không khỏi bật cười, thấy ánh mắt anh cả cũng vương nét cười, cậu thầm thở phào nhẹ nhõm rồi đặt túi giấy xuống bàn, kéo ghế ra ngồi.

“Cha không có nhà, hai đứa không chịu coi anh ra gì. Dặn bao nhiêu cũng vào tai nọ ra tai kia. Một đứa không chịu đi học, một đứa thì bỏ về sớm mà đến nửa đêm mới tới nhà.”

“Anh đừng giận, lần sau em không thế nữa đâu.”

Cảnh Sâm khẽ nhíu mày: “Đương nhiên là không có lần sau. Mấy hôm nữa cha về rồi, anh không xử lý được em thì để cha xử lý.”

Cảnh Huyên than thở.

Cảnh Sâm khoát tay: “Về ngủ đi nhanh lên, anh không còn lòng dạ nói chuyện với em đâu, em ăn hạt dẻ một mình đi, nguội hết cả rồi, mà dù nóng thì cũng chẳng ngon, Ninh Ninh kén ăn lắm.”

Cảnh Huyên vẫn không chịu đứng dậy, cậu ngả đầu ra lưng ghế, khẽ thốt: “Anh, anh biết không, hôm nay em được dắt đi mở mang tầm mắt đấy. Cậu đưa em tới hiệu buôn Tây, vừa khéo lại gặp được cả ngài Weston, cựu thành viên hội đồng quản trị của hiệu buôn Thịnh Xương đấy.”

“Thịnh Xương?” Cảnh Sâm băn khoăn.

“Anh nghe bao giờ chưa?”

“Nghe thì nghe rồi, nhưng anh không biết rõ lắm.”

“Anh không hứng thú với chuyện kinh doanh nên đương nhiên là không rõ rồi. Quá nửa các giao dịch doanh châu báu của Trung Quốc và người nước ngoài đều là thông qua hiệu buôn này đấy.”

Cảnh Sâm ngạc nhiên thốt: “Ông ấy đến hiệu Phổ Huệ nhà chúng ta, vậy có nghĩa…”

Cảnh Huyên nở nụ cười đắc ý: “Khi nào cha về anh khắc biết, sau này Phổ Huệ nhà mình lại có thêm một khoản thu rồi, ha ha.” Cậu mở túi giấy ra, nhón một miếng hạt dẻ bóc ăn, tấm tắc khen, “Ngọt, ngọt thật!” Rồi lại dáo dác nhìn quanh.

“Khỏi phải nhìn nữa, trà lạnh cả rồi.” Cảnh Sâm nói.

“Em khát mà. Lạnh cũng uống.” Cảnh Huyên nhồm nhoàm.

“Đợi anh một chút.” Cảnh Sâm đứng dậy, ra ngoài gọi người làm đi đun nước pha ấm trà nóng, rồi anh lại quay về, ngồi xuống ghế bảo, “Hôm nay Bé Hạt Dẻ mệt, nếu em cũng ốm nữa thì chỉ khổ anh.”

“Anh đừng tin nó, nó giả vờ đấy, sáng nay lúc ra khỏi nhà em thấy nó còn nhảy nhót tung tăng, con bé này chỉ không muốn đi học thôi.”

“Mấy thứ khác thì anh chịu, không ép nổi mấy đứa, nhưng ít ra anh cũng phải lo được chuyện ăn uống chứ?”

Cảnh Huyên biết anh muốn tốt cho mình nên cũng không nói gì, cậu bóc thêm mấy miếng hạt dẻ nữa mà không ăn, đẩy hết sang cho anh cả, lát sau, Vân Thăng đã đích thân mang một bình nước nóng lên, thấy hai anh em kề vai tâm sự, Vân Thăng cười bảo: “Hai cậu ngủ sớm nhé.” Anh ta đặt nước xuống rồi đi.

Cảnh Sâm tìm hũ trà trong ngăn bàn, rồi lại lấy thêm hai cái chén, Cảnh Huyên vừa bóc hạt dẻ vừa nói: “Hôm nay khách Mỹ mang mấy món hàng châu báu mẫu tới, những thứ tốt tốt toàn là đồ cổ, Đông có Tây có, nghe bảo là vật quý của hoàng thất nhà Thanh đấy.”

“Ừ.” Cảnh Sâm thả lá trà vào chén.

“Bọn họ đã làm ăn với người Trung Quốc từ trước thời Thanh rồi, cũng là bạn cũ với nhà họ Trịnh ở Quảng Châu, giờ nhà họ Trịnh đã sớm lụi bại, Thịnh Xương lại tới lôi kéo chúng ta.”

Cảnh Sâm nở nụ cười hờ hững: “Sự đời khôn lường, chuyện làm ăn lại càng bấp bênh khó đoán, cũng chẳng phải điều gì lạ.”

“Hôm nay ông Weston cũng kể chuyện, bảo là Trịnh Đình Quan…”

Hơi nước nóng rẫy bốc lên, khiến Cảnh Sâm phải bỏng rụt tay lại, anh phẩy ngón tay, lấy một chiếc khăn sạch ra bao lấy bình nước, chầm chậm rót nước nóng vào chén.

Cảnh Huyên thỏa mãn khép hờ mắt trong làn hơi trà: “Đúng thật trà trong phòng anh cả là thơm nhất trần đời.”

“Sai rồi. Nghề chính của Phan gia là kinh doanh lá trà, anh cũng chỉ được thơm lây nhà mình thôi. Mà trà trong phòng anh với phòng em thì khác gì nhau?”

“Khác chứ, em thấy khác.” Cảnh Huyên mê mẩn hớp một ngụm.

“Em nói tiếp đi, ông người Mỹ kia kể chuyện gì hay ho vậy?”

“Ông Weston bảo, năm ấy có một giám đốc người Anh thiếu vốn lưu động, bèn vay của hiệu buôn Vĩnh Hòa nhà họ Trịnh tương đối tiền, nhưng tình hình kinh doanh năm ấy không khởi sắc, ông chủ người Anh phá sản, cuối cùng nợ hiệu buôn Vĩnh Hòa tổng cộng bảy 70.000 lượng bạc, số tiền quá lớn, ông này không trả nổi, phải ở lại Quảng Châu không thể về nhà, khổ không sao tả xiết.

Về sau Trịnh Đình Quan biết chuyện, bèn gọi người Anh nọ tới, bảo: ‘Năm năm trước lúc làm ăn với tôi, ông là một nhà kinh doanh thật thà thành thực, giờ ông chỉ đang thiếu vận may mà thôi. Tiền bạc cũng chẳng phải chuyện gì to tát, tôi tin ông, ông cứ về nhà đi.’ Sau đó Trịnh Đình Quan xé luôn giấy vay nợ trước mặt người này. Bảy mươi nghìn lượng bạc đấy, một con thuyền chất đầy hàng hóa cũng chỉ có giá một trăm nghìn lượng thôi. Chuyện này đã lưu truyền trong giới ngoại thương suốt hơn hai mươi năm!”

Cảnh Sâm vuốt ve ngón tay vừa bị bỏng, anh cảm khái: “Nhà họ Trịnh giàu nứt đố đổ vách, tiếc là nhà nghiêng thì ngói cũng đổ, giờ chỉ còn mấy người nước ngoài nhớ đến họ.”

Gió đêm thổi tung rèm cửa, ánh đèn ấm áp chập chờn trên mặt bàn, khi nóng rực, lúc lạnh ngắt. Hai anh em uống trà trò chuyện, túi hạt dẻ đã còn lại mỗi vỏ từ lúc nào chẳng hay.

Sáng sớm hôm sau, Cảnh Huyên rất tự giác, ăn xong cơm là đến trường ngay, Cảnh Ninh lại đóng chặt cửa không cho ai vào, Cảnh Sâm đứng trước cửa phòng cô một lúc, rồi cau mày rời đi.
 
Quyển 1 - Chương 6


Hai ông cụ đang ngồi chơi cờ dưới gốc ngô đồng sum suê, khi thì giằng co quyết liệt, lúc lại tĩnh lặng điềm nhiên, một chàng trai tuấn tú ngồi trên bậc thang, bên anh là một cuốn sách, một chân anh khẽ gập, cánh tay vắt lên đầu gối, xem chừng rất ung dung khoan thai.

“Anh tới rồi sao…” Huệ Lan thì thầm, giọng cô chan chứa tình cảm, gò má trắng nõn chợt phơn phớt rặng hồng.

Cảnh Sâm quay đầu mỉm cười.

Bọn họ băng qua khu xóm sâu tít tắp, lúc dạo trên con đường chất đống những thứ đồ tạp nham ngổn ngang, anh bước phía trước, thỉnh thoảng lại đẩy đám mắc áo ra cho cô đỡ vướng. Huệ Lan cúi đầu, tim đập thình thịch như trống bỏi.

Họ đi đến bãi đất rộng rãi, dừng chân bên một căn nhà nhỏ, dây thường xuân leo đầy hàng rào trước cửa, vại đá xanh chứa ngập nước mưa, bên bục giặt đồ có vài chậu hoa nhỏ bằng sứ, trồng mấy cây lá móng màu hồng.

“Anh tới mà không sợ người nhà biết à?” Huệ Lan vừa tìm chìa khóa vừa khẽ quở trách.

“Tôi tới trả sách cho em, tiện đưa cả học phí của em gái tôi, người ta còn có thể nói gì được nữa? Chỉ cách một con sông thôi mà, đâu xa xôi gì?”

“Sao anh biết khi nào em về?”

“Tôi đoán, hôm nay Đàm Hoa Lâm có buổi giảng kinh, tôi đoán chắc chắn em sẽ tới.” Cảnh Sâm cười đáp, anh đưa mắt nhìn cuốn Kinh Thánh trong tay cô, nhướng mày đắc ý thốt, “Quả là vậy, tôi đoán đúng rồi.” 

Huệ Lan liếc anh, cô mở khóa, vừa định mở cửa Cảnh Sâm đã cướp trước, tiện đà kéo cả cô vào luôn.

Trong nhà rất tối, cô không nhìn thấy gì, chỉ nghe được tiếng cửa khẽ khàng khép lại, anh ôm chặt lấy cô, bàn tay anh lướt như thân rắn, cởi bỏ vạt áo cô.

Cô dần thích ứng với ánh sáng mờ nhạt trong phòng, dưới vệt sáng tối đan xen hiển hiện, gương mặt anh dần áp sát cô, cô ngửi thấy mùi hương thanh dịu như mùi rừng rậm sau cơn mưa, đôi mắt đang nhìn cô sáng bừng, còn chủ nhân của chúng lại như một yêu tinh trong câu chuyện thần thoại phương Tây, cô kìm lòng không đậu, vươn tay ôm lấy cổ anh, anh cúi đầu hôn lên môi cô.

Tính cô bình lặng tẻ nhạt, chưa từng ngờ tới chuyện mình sẽ gặp được mối tình lãng mạn như hoa trong gương, như trăng dưới nước thế này. Triền miên quấn quýt, hẵng còn ngây thơ ngô nghê, nhưng cũng lại vô cùng quỷ quyệt xảo trá. Anh phủ phục trên cơ thể cô, hơi thở nặng nề, nhiệt độ cơ thể nóng rực như thiêu đốt cô, cô chợt có cảm giác dường như mình đã say đắm chàng trai này rồi, cô say đắm sự lạnh lùng trong tâm hồn anh, sự ngông nghênh được anh kiềm chế, cô đã phủ phục đắm chìm trước tất thảy của con người này.

Ánh sáng như những chiếc chổi nhung, khẽ phe phẩy quét mình nơi góc tối. Cô nhẹ nhàng vuốt ve mái tóc đen dày của anh, thì thầm hỏi:

“Tiểu Sâm, anh ngủ rồi sao?”

“Tôi chưa.” Anh ngồi dậy, vươn tay áp đầu cô lên vai mình, buông tiếng thở dài rất nhẹ.

“Anh sao vậy?” Huệ Lan âu yếm hỏi.

“Tôi mong có thể thế này mãi mãi…”

“Đúng là đứa trẻ ngốc nghếch.”

“Lúc nào em cũng nói tôi trẻ con,” hàng lông mày anh cau lại, đôi mắt đen sâu thẳm lấp lánh ánh sáng, “em cũng chỉ hơn tôi ba tuổi thôi, hừ, tôi…” anh chợt ghé sát lại bên tai cô, nhỏ giọng thì thầm vài câu.

Mặt cô đỏ bừng, hồi lâu mới khẽ bảo: “Anh cứ từ từ thôi. Chuyện kinh doanh của gia đình và việc học hành vẫn là quan trọng nhất, chúng ta còn nhiều thời gian mà.” Cô chợt thoáng vẻ thương cảm, “Thật ra em chỉ mong anh hạnh phúc, chỉ cần anh hạnh phúc, dù chúng ta có thể bên nhau hay không em đều vui vẻ.”

Anh khẽ hôn lên gương mặt cô: “Tôi muốn ở bên em.”

“Anh là cậu cả nhà họ Phan, cha anh và cả dòng họ đều gửi gắm bao hy vọng ở anh. Em rất sợ sẽ ghìm chân anh lại.”

Cảnh Sâm trầm lặng như đang nghiêm túc suy tư, hồi lâu anh mới cất tiếng chắc nịch: “Kể ra cũng lạ, tính cách tôi rất khác với mọi người trong nhà, nhất là cậu em hai của tôi, nó rất thông minh lanh lợi, xử lý mọi chuyện độ lượng chu đáo, tôi thua kém thằng bé nhiều lắm, hơn nữa nó còn có khiếu kinh doanh. Mấy năm nay cha và mẹ kế ra sức giục giã tôi tới hiệu buôn Tây, tôi gây ra không biết bao nhiêu phiền phức, làm ra không biết bao nhiêu trò cười, phàm là người có trí tuệ bình thường, gặp phải cảnh này ắt phải xấu hổ không để đâu cho hết, huống chi là tôi? Tôi không thích qua lại với mọi người, chỉ mê đọc sách, làm những điều khiến mình cảm thấy tự do thanh thản, nghĩ tới việc phải trò chuyện cùng người khác, có lúc tôi còn thấy sợ. Huệ Lan, thật ra tôi cũng giống em, chỉ muốn làm một giáo viên, sống với tri thức cả đời, đọc sách, dạy trò, chẳng lẽ như vậy không tốt sao?”

Huệ Lan im lặng không nói.

Cảnh Sâm khẽ nghiêng đầu: “Sao, em không đồng ý ư? Đến giờ mà em vẫn chưa hiểu lòng tôi ư?”

“Em hiểu, em hiểu mà.” Cô kéo anh vào lòng, mỉm cười bảo, “Anh muốn đôi ta bên nhau, nương tựa vào nhau, sao em lại không hiểu chứ?”

Anh lại thở dài.

“Trời ạ, em không cho anh thở dài nữa!” Huệ Lan vuốt ve vầng trán trơn nhẵn của anh.

Cảnh Sâm nở nụ cười nhạt: “Thật ra bọn họ đã buông bỏ kỳ vọng với tôi từ lâu rồi. Nhưng như vậy cũng hay… Em trai tôi có khả năng gồng gánh gia nghiệp tốt hơn tôi nhiều.”

Ngủ một giấc ngắn, bọn họ rửa mặt chải đầu, ra ngoài tìm một nhà hàng nhỏ tử tế để dùng bữa trưa. Dù Cảnh Sâm còn trẻ nhưng nói năng hành xử rất chín chắn nhã nhặn, có phong độ của một công tử con quan, Huệ Lan cúi đầu khuấy cà phê, miệng cứ mỉm cười suốt, Cảnh Sâm chọc khẽ trán cô: “Em nghĩ gì mà vui vậy?”

Cô ngẩng đầu, cười đùa: “Cậu Phan, nghe bảo chiếc xe hơi và dinh thự có thang máy đầu tiên ở Quảng Châu đều thuộc về gia đình anh, có phải không vậy?”

Cảnh Sâm rót thêm hồng trà cho cô, gương mặt anh ôn hòa, cất giọng nhẹ bẫng: “Châu Giang có vô số phú thương giàu cự phách, nhà họ Phan chẳng đáng là gì.”

Huệ Lan phì cười.

Cảnh Sâm giải thích: “Hồi ấy, người ta đi lại ngoài đường bằng kiệu là chính, mua xe hơi cũng chỉ coi như mua hư danh thôi, một năm sau nhà tôi đã bán lại xe cho một người nước ngoài rồi chứ chẳng đi được mấy lần. Còn dinh thự có thang máy…” Nét đau buồn lại chợt thoáng hiện trên gương mặt anh, “Gia đình tôi thường ở đó vào dịp nghỉ hè, nó được xây trên núi, đường từ sảnh vào đến phòng chính phải bước qua rất nhiều bậc thang, mẹ tôi từng bó chân, đi lại không tiện, cha thương bà nên mới lắp thang máy.”

Huệ Lan biết mẹ anh đã qua đời từ sớm, cô hối hận vì đã nhắc tới chuyện này. Nhưng Cảnh Sâm lại vô cùng bình tĩnh: “Khi ấy tình cảm giữa cha mẹ tôi rất khăng khít, nhưng chỉ tiếc số trời đã định, duyên phận không phải do người quyết. Nhưng nếu mẹ tôi trên trời có linh, thấy gia đình tôi hạnh phúc hòa thuận như vậy, chắc bà cũng được thanh thản.”

Huệ Lan siết chặt lấy tay anh: “Chắc chắn là vậy.”

Cảnh Sâm trở lại Hán Khẩu, anh tới gặp Vân Thăng tại cửa hàng văn phòng phẩm mình thường ghé, vừa tiến vào cửa đã thấy hai anh chàng học trò trẻ nọ bên trong, hai người chào hỏi anh: “Cậu Phan.”

Vân Thăng vội giới thiệu: “Đây là hai học sinh thầy Lâm tiến cử đấy ạ.”

Cảnh Sâm mỉm cười, chắp tay chào: “Xin chào hai anh.”

Hai cậu học sinh vội vã đáp lễ, điệu bộ vô cùng kính cẩn: “Rất cảm ơn sự tương trợ nhân nghĩa của cậu Phan.”

Hai người họ lớn hơn Cảnh Sâm chừng một hai tuổi, rất chín chắn thận trọng, nói năng đúng mực. Hai cậu học sinh bắt đầu tự giới thiệu, một người tên Lý Nam Gia, một người tên Vu Tố Hoài, gia cảnh cả hai đều bần hàn, thường liên tục qua lại giữa trường học và tiệm cầm đồ, may là thành tích học tập xuất chúng nên đã trúng học bổng.

Cảnh Sâm mừng thay cho họ, bèn gọi Vân Thăng chuẩn bị xe, muốn mời họ tới quán trà dùng trà trò chuyện.

Lý Nam Gia kiệm lời, nghe Cảnh Sâm bảo muốn tới quán trà, anh ta cười lắc đầu, Vu Tố Hoài khéo léo từ chối:

“Thưa cậu Phan, hôm nay chúng tôi tới đây chỉ để biểu đạt lòng biết ơn chân thành dành cho cậu. Cậu đã nhân nghĩa giúp đỡ, tạo cơ hội cho chúng tôi học hành, chúng tôi phải quý trọng từng phút từng giây một mới phải, càng không thể lãng phí thời gian quý báu của cậu được.”

Nói rồi, anh ta lấy hai bức thư ra từ túi áo, trịnh trọng đặt vào tay Cảnh Sâm: “Đây là giấy vay nợ tôi và Nam Gia tự tay viết, chúng tôi sẽ cố gắng hoàn trả khoản tiền vay cậu nhanh nhất có thể, xin cậu Phan cứ yên tâm, nhất định chúng tôi sẽ gắng sức học hành trau dồi, không phụ tấm lòng quý của cậu.”

Lý Nam Gia nói: “Cậu Phan, chúng tôi dùng cây bút máy cậu tặng để viết giấy vay nợ đấy ạ.”

Cảm Sâm sinh lòng cảm phục, không khách sáo nữa, anh mỉm cười bảo: “Vậy tôi xin chúc hai anh chóng học thành tài, lúc rảnh mong hai anh viết thư gửi tôi, được kết giao với những người bạn như các anh quả là vinh hạnh to lớn của Cảnh Sâm.”

Hai học trò Vu Lý từ biệt rời đi, Cảnh Sâm đứng trước cửa đưa mắt dõi theo họ, đến tận khi bóng lưng cả hai biến mất trong dòng người đông đúc như nước, anh mới chầm chậm quay mình lại.

Thấy Vân Thăng nửa cười nửa không, Cảnh Sâm hỏi: “Anh sao vậy?”

“Cậu cứ về nhà là biết.”

“Ninh Ninh hả?”

“Còn ai vào đây được nữa?”

Về đến nhà, Tiểu Quân đã ủ ê chạy ra ngay: “Cậu cả, cậu về rồi.”

“Con bé vẫn dỗi hả?” Cảnh Sâm cau mày.

“Cả sáng nay cô chủ không chịu ra khỏi phòng, cũng chẳng ăn gì cả.”

Cảnh Sâm nghiêm mặt bước lên nhà, Tiểu Quân cũng bám theo sau. Anh gõ cửa phòng Cảnh Ninh, ban đầu không ai trả lời, lúc sau mới nghe tiếng đáp nức nở vọng ra: “Đi đi, đừng có làm phiền tôi!”

“Ra ngoài!” Cảnh Sâm nói.

Vốn trong phòng có tiếng nấc nghẹn nho nhỏ, nhưng anh vừa lên tiếng căn phòng đã lại im bặt.

Cảnh Sâm nói tiếp: “Em dỗi Tiểu Quân làm gì? Ra ngoài, có gì thì nói với anh.”

Căn phòng vẫn lặng như tờ.

“Anh có chìa khóa đấy.”

Cảnh Ninh vẫn im lặng.

“Anh mở cửa đây, em tự liệu đi.” Cảnh Sâm quay lại nói với Tiểu Quân, “Cô vào phòng đọc sách, ngăn kéo thứ ba chuyên đựng thư của tủ sách có một chiếc hộp bạc, trong đó có chìa khóa.”

“Vâng ạ!” 

Cảnh Ninh chợt thét lên: “Không được vào! Không cho anh vào!”

Cảnh Sâm chắp tay mỉm cười, một lúc sau, anh cầm lấy chiếc chìa khóa Tiểu Quân đưa, rồi khẽ đẩy cửa phòng.

Vốn Cảnh Ninh đang đứng cạnh giường, thấy cửa mở, cô kêu lên rồi nhảy tót lên giường, chui vào trong chăn, che kín cả mặt mũi. Cảnh Sâm tiến lại vén chăn lên.

“Đừng có giả vờ nữa.” Anh cười, vươn tay định kéo cô lên, nhưng rồi lại chợt sững sờ.

Cô bé co tròn mình lại, người run lẩy bẩy, gương mặt tái mét, trán rịn đầy mồ hôi lạnh.

Anh sợ hãi giữ lấy bờ vai run rẩy của cô: “Ninh Ninh, em sao thế…”

Cảnh Ninh bật khóc, vươn tay đẩy anh ra, lúc này anh mới phát hiện váy ngủ cô có dính vệt đỏ.

“Ôi…” Tiểu Quân khẽ kêu lên, gương mặt đỏ bừng, lúng túng nhìn Cảnh Sâm.

“Em sắp chết rồi, mặc kệ em đi!” Cảnh Ninh khóc nức nở, anh siết chặt lấy tay cô bé, cảm giác ấm áp vững vàng khiến cô càng khó chịu hơn, cô ra sức giãy giụa, đôi mắt to đỏ bừng giận dữ nhìn anh, “Giờ em sắp chết rồi, anh vui lắm phải không!”

“Không đâu, em không chết đâu…” Anh nhẹ nhàng vuốt tóc cô, ánh mắt dịu dàng, giờ cô như một con cún con đang run rẩy, đáng thương vô cùng.

Tiểu Quân đi lấy quần áo cho Cảnh Ninh thay, anh buông cô ra, bảo Tiểu Quân: “Lát nữa cô nói chuyện với cô chủ đi.”

Tiểu Quân lúng túng: “Cậu chủ… em… em cũng không biết phải nói thế nào… Hay để em gọi mẹ em, mẹ em…”

Cảnh Sâm im bặt.

“Em đi tắm rửa đi.” Anh khẽ đẩy Cảnh Ninh.

Cảnh Ninh cứng đầu: “Em không đi! Anh mà không xin lỗi em thì em sẽ không đi! Em muốn chết ở đây, mọi người mặc kệ em!”

“Được rồi, anh sai rồi.”

“Anh sai thế nào?”

“Hôm qua anh không nên mắng em, anh xin lỗi.”

“Vậy sao anh lại thở dài? Lòng anh không muốn xin lỗi, anh không cảm thấy mình sai, em biết thừa!” Cô nức nở trách anh.

Anh vươn ngón tay gạt nước mắt cho cô bé: “Anh xin lỗi, anh sai rồi, về sau anh sẽ không làm em buồn nữa. Em đi tắm rửa thay quần áo đi, lát anh sẽ nhận lỗi đàng hoàng với em, vậy có được không?”

“Hôm nay em không muốn đi học!” Cô bé chớp ngay lấy cơ hội, được đằng chân lân đằng đầu.

Cảnh Sâm ngẩng đầu nhìn trần nhà: “Sắp quá trưa rồi, còn học hành gì nữa!”

Anh ngồi bên mép giường mà cứ lo ngay ngáy không yên, không biết Tiểu Quân đã giải thích với Cảnh Ninh chưa, Tiểu Quân cũng chỉ là một cô nhóc ngơ ngác không biết gì, làm sao giải thích nổi cho Cảnh Ninh? Mẹ kế không có nhà, gặp phải mấy chuyện khó xử của con gái thế này làm đầu anh đau như búa bổ.

Lát sau, Cảnh Ninh bước ra từ phòng tắm, cô đã thay quần áo, bước tới ngồi xuống trước mặt anh chậm rì rì. Cảnh Ninh cúi đầu, mái tóc đen ánh lên quầng sáng dịu dàng.

Im lặng trong chốc lát, cuối cùng anh vẫn mở lời, chỉ khay đồ ăn đặt trên bàn đọc sách của cô, anh nói: “Em ăn đi.”

Cô không thích ăn vỏ bánh mì, anh bèn xé hết lớp vỏ ngoài vừa cứng vừa dai của mấy lát bánh mì nướng, chấm phần ruột mềm mại vào sữa ấm đưa cho cô. Cô nhận lấy lát bánh, nhai từng miếng một.

Anh im lặng nhìn cô bé, khẽ thốt: “Chiếc khóa bạc đó… là của mẹ anh.”

“Em không biết.” Mắt Cảnh Ninh đỏ hoe, “Khi đó em không biết. Em tưởng đồ của mẹ anh ở Quảng Châu cả… Em nhặt được cái này trong nhà kho.”

“Không phải anh trách em, hôm qua tâm trạng anh không được tốt. Bình thường anh sợ nhìn thấy nó sẽ lại nhớ tới mẹ nên mới cất trong kho. Giờ căn nhà ở Quảng Châu cháy rồi, rất có thể đồ đạc mẹ anh để lại cũng đã mất hết.”

“Anh ơi, em xin lỗi… Về sau em sẽ không động vào nó nữa đâu.” Mắt cô ầng ậc nước, “Em không muốn làm anh buồn.”

“Ừ, anh biết. Anh giữ chìa khóa nhà kho, sao em lại vào được?”

“Hôm đó nhà mình thay bàn trang điểm, lúc ra ngoài Vân Thăng quên không khóa cửa.”

“Về sau em không được tùy tiện vào nhà kho nữa, bụi bặm lắm.”

“Em không vào nữa đâu.” Cô móc chiếc khóa bạc ra khỏi túi áo, đặt vào lòng bàn tay anh, “Đây là món đồ quý giá nhất của anh, em trả lại anh này.”

Anh không nhận lấy nó, chỉ nhìn chằm chằm cô rồi khẽ thốt: “Anh tặng em đấy.”

“Nhưng…” Vẻ mặt cô bé rất ngoan ngoãn hiểu chuyện.

“Thôi được rồi, vậy để anh cất lại vào nhà kho.” Cảnh Sâm bèn chìa tay ra.

Cô chợt rụt tay về, đút chiếc khóa bạc vào túi, thì thầm: “Thôi để em giữ nó vẫn tốt hơn, anh yên tâm đi, em sẽ trân trọng nó.”

Cảnh Sâm bật cười, xoa đầu cô.

Cảnh Ninh nhìn anh, cô chợt thốt: “Anh ơi, trên đời này chỉ có mình anh đối xử tốt với em thế này thôi.”

“Đồ ngốc. Thế còn bố mẹ thì sao? Anh hai của em thì sao? Họ không đối xử tốt với em à?”

Cảnh Ninh nở nụ cười ngô nghê.

Trái tim anh lăn tăn gợn sóng, nhưng không biết đó là cơn sóng ấm áp hay là của một niềm buồn thương không tên. Thấy sắc mặt cô bé không ổn lắm, anh lo lắng nói: “Bụng em khó chịu à? Nào, em uống thêm sữa ấm đi.”

Cảnh Ninh cầm cốc ngoan ngoãn uống sữa nóng, khẽ khàng ngọ nguậy đổi vị trí trên ghế, một lúc sau, chắc thấy vẫn khó chịu nên cô lại nhúc nhích, ngẩng đầu thấy anh ngơ ngác nhìn mình, cô bé ngạc nhiên hỏi: “Sao vậy?”

Cảnh Sâm cúi đầu, xé rìa bánh mì, anh hỏi: “Sao em lại không thích đi học? Ai bắt nạt em à?”

Cảnh Ninh hừ một tiếng: “Ai dám bắt nạt em? Chỉ là có một tên nhãi đáng ghét thôi.”

Anh không có lòng dạ quan tâm tới chuyện kèn cựa nghịch ngợm của đám trẻ con, chỉ hờ hững mỉm cười.
 
Quyển 1 - Chương 7


Ngày hôm sau, Vân Tú Thành dắt cô con gái Vân Lang 15 tuổi của mình tới biệt thự nhà họ Phan. Cảnh Sâm đang nghe Vân Thăng báo danh sách món ăn bữa tối thì Tú Thành tiến vào, cười cắt ngang: “Đừng lo cơm tối nữa, cậu dẫn mấy đứa ra ngoài ăn.”

Cảnh Ninh vỗ tay hoan hô, Cảnh Huyên luôn miệng hỏi cậu định cho mọi người đi ăn gì, Tú Thành không vội đáp mà chỉ bảo con gái: “Sao không chào hỏi ai thế, cứ đòi cha dắt đến bằng được, tới nơi lại thành đứa câm.”

“Ai bảo con đòi đến.” Gương mặt trái xoan xinh xắn của Vân Lang lộ vẻ tức giận, bàn tay thon dài níu góc áo, những viên đá đính trên cổ áo Vân Lang lấp lánh, cô căng thẳng liếc nhìn Cảnh Sâm, rồi bẽn lẽn thốt: “Anh Cảnh Sâm.”

Cảnh Sâm dịu dàng mỉm cười: “Vân Lang.”

“Còn anh thì sao?” Cảnh Huyên đùa, “Trong mắt con bé này chỉ có mình anh Cảnh Sâm thôi.”

Vân Lang tiến lại kéo tay Cảnh Ninh, bảo: “Bên Tô giới Nga có một quán cơm Tây mới mở, cha chị bảo định đưa chúng mình tới đó ăn.”

“Có ngon không chị?” Cảnh Ninh hỏi.

“Quán cậu chọn thì đương nhiên khỏi phải bàn rồi.” Cảnh Sâm nói, rồi lại nhìn Vân Lang với ánh mắt ôn hòa, trong cặp mắt Vân Lang tràn ngập niềm vui sướng.

Cảnh Sâm tự lái xe, Tú Thành ngồi ghế phụ lái, Cảnh Ninh, Vân Lang và Cảnh Huyên ngồi hàng sau, cười nói suốt cả chặng đường.

Vân Thành hỏi: “A Sâm, cháu định bao giờ thì đi Anh thế?”

“Đầu tháng Bảy là xuất phát ạ, đi thuyền cũng mất nhiều thời gian.”

“Đường xa lắm đấy, cháu có bị say tàu không?”

“Không ạ. Sinh ra ở Châu Giang mà lại say tàu thì người ta cười cháu chết mất.”

“Đầu óc của cậu thật là!” Tú Thành khẽ vỗ trán, rồi lại ngạc nhiên thốt, “Ồ, mà cậu nhớ hình như cháu bảo muốn đi du học từ năm ngoái, sao năm nay mới đi vậy?”

Cảnh Sâm nở nụ cười bất đắc dĩ: “Cha mong cháu đi trễ một năm nên cứ lần lữa mãi, ông biết cháu không thích học kinh tế, từ đầu đã không tán thành chuyện cháu đi du học rồi. Thật ra bây giờ cháu vẫn đang lo ngay ngáy đây.”

“Vậy cháu định học gì?”

“Cháu chỉ muốn học ngôn ngữ thôi, cháu đăng ký ngành Anh văn rồi.”

Tú Thành gật đầu: “Cháu là con cả, cha quan tâm tới cháu lắm, không nỡ để cháu đi xa.”

“Cháu vẫn còn trẻ, cháu không muốn quyết định chuyện mình phải làm suốt cả phần đời còn lại quá sớm, cậu à, có khi sau này cháu phải chờ cậu khuyên cha cháu đấy, lỡ như ngay phút chót ông lại đổi ý không cho cháu đi nữa.”

Tú Thành nghiêm mặt bảo: “Học hành là chuyện lớn, cháu còn trẻ, nên có chính kiến. Cậu sẽ đứng về phía cháu, ủng hộ cháu hết mình!” 

Cảnh Ninh lớn tiếng phản đối: “Cậu đừng có nghe anh ấy, tốt nhất phải để anh ấy ở lại thêm hai năm nữa hẵng cho đi!” Rồi cô lại bồi thêm, “Như vậy cũng vì muốn tốt cho chị Vân thôi! Đúng không chị Vân?”

Vân Lang cúi đầu: “Chị nghe anh Cảnh Sâm.”

Cảnh Ninh trừng mắt: “Không phải chị không nỡ để anh ấy đi sao? Hôm đó chị còn vừa nói vừa đỏ hoe cả mắt cơ mà!”

“Ai bảo thế?” Vân Lang vừa thẹn thùng vừa sốt ruột.

“Anh có thể làm chứng, có người khóc đỏ cả mũi vì chuyện này!” Cảnh Huyên cười che miệng vào.

Cảnh Sâm lái xe, chỉ mỉm cười chứ không nói gì. Tú Thành liếc nhìn gương mặt tuấn tú của anh, làn da chàng trai này trắng bóc, lông mi dài rậm, vẻ khôi ngô đậm nét nho nhã, viền mắt rõ ràng, mang rõ đặc trưng của người Lĩnh Nam, trông vô cùng thân thiện mềm mỏng, sự ôn hòa này chẳng có lấy một nét phong sương, đúng với cái dáng vẻ của một cậu ấm trẻ trung khỏe mạnh, sống trong nhung lụa. Vân Tú Thành thầm nghĩ: Đứa trẻ này bảo mình là người Quảng Đông quả không sai. Thời Càn Long, nhà họ Phan chuyển từ Phúc Kiến tới Quảng Châu, dù mẹ thằng bé là người Hồ Nam chính gốc, nhưng đã đến định cư ở Lĩnh Nam vào thời Quang Tự, gương mặt thằng bé giống mẹ hơn là cha.

Quán cơm Âu nằm tại Tô giới Nga, không gian rộng rãi, trang hoàng lộng lẫy, vì vừa khai trương nên ngoài cổng có bày vài lẵng hoa lớn. Tú Thành đã đặt bàn trước rồi, nhân viên phục vụ dẫn đoàn người lên bàn gần cửa sổ trên tầng hai, nhìn ra ngoài khung cửa sổ lớn tinh xảo chạm hoa, giữa buổi hoàng hôn chỉ thấy một mảng ngô đồng rậm rịt, rải tà dương lên lớp tường gạch đỏ.

Trước khi vào bàn, Vân Tú Thành khẽ gập người chào hỏi mấy vị khách bàn bên, bàn có một người đàn ông trung niên lịch thiệp ngồi cùng vợ, họ đưa theo hai đứa trẻ, đứa lớn mười ba, mười bốn, đứa nhỏ chắc còn chưa đầy ba tuổi. Người đàn ông xem chừng rất hiền hòa thân thiện, mỉm cười đáp lễ Tú Thành. Cảnh Ninh vốn đang đùa nghịch với đôi khuyên ngọc trai Vân Lang vừa tháo xuống, mới đưa mắt nhìn theo cậu mình, gương mặt nhỏ nhắn đã chợt đanh lại, hàng lông mày cong cong cau chặt.

Vân Lang hỏi: “Sao thế?”

Cảnh Ninh bĩu môi: “Có đồ quỷ đáng ghét bên kia! Nhìn kìa, là tên nhóc ma lanh kia đó, nó học cùng trường với em, tên là Mạnh Tử Chiêu, đáng ghét không chịu được.”

Thấy mặt mày cậu nhóc nọ thanh tú, trắng trẻo lịch sự, mặc áo sơ mi trắng, cài nơ rất ngay ngắn chỉnh tề, sống lưng thẳng tắp, trông đúng là một đứa trẻ ngoan, rồi lại quay đầu nhìn cô em họ mình, Vân Lang thầm cười trong lòng: Bảo mình nghịch ngợm làm phiền người ta nghe còn được.

“Em từng gặp ngài Mạnh kia ở hiệu buôn Tây đấy.” Cảnh Huyên thì thầm với Cảnh Sâm đứng cạnh mình. Cảnh Sâm lại không đáp lời, như chẳng nghe được lời cậu.

Vân Tú Thành đáp thay: “Ông ấy là người sở hữu hãng tàu Đại Quân, bảo là vua thuyền của Hán Khẩu cũng chẳng quá lời, trước giờ ông Mạnh thường hay qua lại với Phổ Huệ chúng ta. Anh cháu không hứng thú với chuyện làm ăn, không biết cũng phải thôi.”

Cảnh Sâm đang xem thực đơn, dường như lúc này anh mới ý thức được họ đang nói chuyện với mình, anh ngẩng đầu áy náy: “Cháu xin lỗi, cậu nói gì vậy ạ?”

Tú Thành cười ha hả, bảo: “Cậu nói, đầu bếp nhà hàng này là đầu bếp nổi tiếng Cáp Nhĩ Tân được mời tới Hán Khẩu, lát nữa chúng ta phải thưởng thức món bít tết xốt Béchamel nổi tiếng của ông ấy mới được.”  Dường như Tú Thành rất vui, nhắc đến mấy nhà hàng Tây ông quen ở Hán Khẩu, thuộc làu như lòng bàn tay, nhà hàng nào có đầu bếp đến từ ‘Vạn Gia Xuân’, nhà nào học theo tiệm ‘Miramar’ tại Thượng Hải của nhà họ Từ, kết hợp với khách sạn nhà hát, làm rất giống nhà hàng cơm Trung, nhưng đồ ăn lại chỉ thường thường; rồi Tú Thành lại nói có lần mình được Thịnh Đường đưa đi Thượng Hải, tự nhiên lại muốn vào quán nhỏ ăn thử, họ tìm được một tiệm đồ ăn cũ kỹ ở đường Bắc Tứ Xuyên, một bát salad trứng chỉ có bảy hào, bánh mì đen hai hào năm xu, bỏ một đồng ra thôi là đủ cho hai người ăn no, về sau hôm nào họ cũng dùng cơm ở đây, ăn đủ các món, một tuần trôi qua, hai người chỉ tốn hơn hai mươi đồng.

Cảnh Huyên bật thốt: “Cậu ơi, cha cháu lúc nào cũng keo kiệt lắm, ông ấy không nỡ bỏ tiền nên mới dắt cậu tới quán nhỏ đấy.”

Tú Thành và Vân Lang cùng bật cười, Cảnh Sâm liếc Cảnh Ninh, thấy hồn phách cô bé lạc đi đâu, khác hẳn so với mọi khi mà không khỏi lấy làm lạ.

Từng món ăn được bưng lên bàn, hương vị đậm đà nhưng thơm ngon vô cùng, Cảnh Ninh thoáng ngơ ngác, vừa uống được hai hớp canh đã bất giác liếc nhìn bàn bên, Mạnh Tử Chiêu mắt nhìn thẳng, nho nhã lễ phép, vẻ bướng bỉnh ở trường đã bay biến đi đâu. Cô nhớ tới chuyện cậu ta bỏ sâu lên bàn mình, vo gỉ mũi thành viên cho vào chai tặng bạn nữ, đến là buồn nôn, Cảnh Ninh cười lạnh: “Giả vờ giả vịt giỏi ra phết.”

Vân Lang bèn ghé tai Cảnh Ninh, trêu: “Thôi em ra thẳng đó mà ngồi đi, cứ đầu mày cuối mắt làm gì?”

“Em thế bao giờ?” Cảnh Ninh bực bội thốt, cứ liên tục đâm dĩa vào chiếc bánh nhân thịt.

“Ninh Ninh,” Cảnh Sâm khẽ nhăn mày nhắc cô, “em ăn cho ý tứ vào, đừng để người ta cười.”

Cảnh Ninh cúi đầu xuống ngay, cô im lặng ăn một lát, rồi lại liếc mắt nhìn bàn bên, nhân viên phục vụ đang dọn đĩa, chẳng biết tại sao mà cậu bé hai tuổi bên cạnh Mạnh Tử Chiêu lại khóc ré lên, người phụ nữ dỗ: “Chiêm Chiêm không khóc, không khóc nhé, ôi, ngượng quá ngượng quá!”

Đứa bé huơ tay, khóc tới độ mọi người trên bàn phải giật mình, các thực khách tò mò đưa mắt ngó họ, lại nghe người phụ nữ trách: “Chiêu Chiêu, sao con lại cho hạt tiêu vào canh của em?”

“Con đâu có làm!” Mạnh Tử Chiêu cự cãi.

Chiêm Chiêm khóc lóc, bàn tay bé nhỏ chỉ Tử Chiêu: “Anh! Anh!”

“Ranh con này! Còn định cãi nữa.” Ông Mạnh cốc lên trán Mạnh Tử Chiêu.

Mạnh Tử Chiêu kêu “á” lên, mắt đảo liên hồi, cậu chủ nhỏ điềm đạm lịch sự ban nãy đã biến thành thằng nhóc bướng bỉnh chỉ trong tích tắc.

Cảnh Ninh phì cười, thầm nói: “Hiện nguyên hình rồi đó hả? Ha ha.”

Dùng cơm xong, mọi người ra đại sảnh lấy áo khoác, chẳng mấy chốc người nhà họ Mạnh cũng xuống tầng, Vân Tú Thành khẽ vỗ vai Cảnh Sâm: “Cháu ra chào hỏi với cậu đi.”

Lòng Cảnh Sâm thoáng kinh ngạc, nếu là bình thường, Tú Thành sẽ gọi em trai anh, nhưng lần này ông lại để Cảnh Huyền ra ngoài chờ xe, giới thiệu anh với ông Mạnh: “Đây là cậu cháu ngoại của tôi, là trụ cột sau này của nhà họ Phan đấy!” Giọng ông vang vọng, tỏ rõ vẻ tán thưởng dành cho Cảnh Sâm, khiến khách khứa ngoài sảnh phải tò mò ghé mắt nhìn, Vân Lang vốn đã thấy tự hào trước vẻ khôi ngô lịch thiệp của anh họ mình, giờ lòng cô lại càng khấp khởi mừng vui. Ông Mạnh cũng khen ngợi: “Đúng là một chàng trai tuấn tú tài giỏi.”

Cảnh Sâm ngại ngùng, khẽ cất tiếng cảm ơn, thấy nhiều người đưa mắt nhìn, anh tỏ vẻ vô cùng bứt rứt.

Cảnh Ninh buồn chán ngồi trên chiếc ghế dài, bàn tay bé nhỏ vuốt ve hoa văn trên chiếc bình sứ Thanh Hoa đặt bên bàn trà, chợt cô thấy bả vai mình nhói đau, có thứ gì đập vào người cô, rồi lại rơi ngay xuống đùi, hóa ra đó là một viên kẹo trái cây được bọc vỏ sặc sỡ.

“Cô nàng nhà họ Phan,” Mạnh Tử Chiêu đứng trước mặt cô, hai tay thi nhau ném kẹo, “không phải cậu ốm à, sao khỏi nhanh thế? Hôm nay cậu ăn rõ lắm, giả ốm trốn học đấy hả?”

Cảnh Ninh giận dữ nói: “Tôi ăn ít! Chứ ai như cái thùng nước gạo cậu!”

“Bít tết này, bánh nhân thịt này, bánh mì nguyên cám này, bánh ga tô này, gà viên tiêu này,…” Mạnh Tử Chiêu nhớ lại từng món một, “So với sức ăn của mấy cô bé bình thường thì cậu đúng là một thùng nước gạo hàng thật giá thật.”

Cảnh Ninh không ngờ cậu ta lại len lén để ý xem mình ăn bao nhiêu, cô bé hơi ngạc nhiên, nhưng giọng điệu mỉa mai của Mạnh Tử Chiêu lại khiến Cảnh Ninh tức giận, mặt Cảnh Ninh đỏ rực, vứt mạnh chiếc kẹo lên người cậu ta, Mạnh Tử Chiêu cười hì hì đón lấy viên kẹo rồi ném trả lại, viên kẹo văng trúng vào vai phải Cảnh Ninh, rơi xuống tay cô.

“Cậu giận cái gì chứ? Cậu không tới trường làm tôi ngày ngày lo lắng cho cậu, ai bảo cậu là bạn gái của t… Ối!”

Cậu ta chợt la lên oai oái, hóa ra bà Mạnh đã tiến lại véo tai con trai mình: “Mẹ biết ngay con chuyên đi bắt nạt bạn mà, hôm nay mẹ bắt được quả tang rồi nhé! Còn không mau xin lỗi cô Phan đi.”

“Cô Phan cái gì chứ… Chỉ là một con nhóc… Á!” Mạnh Tử Chiêu vẫn còn già mồm, bà Mạnh bèn ghì chặt tay, khiến cậu ta không thể không khuất phục, mặt nhăn như bị rách, “Được rồi, xin lỗi cô Phan! Mẹ, mẹ buông tay ra, buông tay ra đi! Đau quá!”

Cảnh Ninh nhìn vẻ chật vật cậu ta, cô bé giậm chân cười phá lên.

Bà Mạnh đưa hết những viên kẹo trong tay Mạnh Tử Chiêu cho Cảnh Ninh, cười bảo: “Sau này Chiêu Chiêu còn bắt nạt cháu nữa thì cứ bảo cô nhé.”

“Cháu cảm ơn cô ạ.” Cảnh Ninh cười tươi như hoa.

Bà Mạnh nhìn Cảnh Ninh, lòng thấy rất thích cô bé: “Chiêu Chiêu nghịch lắm, chắc chắn thằng nhóc này làm phiền cháu nhiều rồi phải không? Hay cuối tuần này cháu gọi mấy bạn thân đến nhà cô chơi, cô sẽ chuẩn bị đồ ăn ngon cho các cháu nhé, có được không?”

Cảnh Ninh bật cười khúc khích, thầm nghĩ, cái tên của con trai cô đúng là như trẻ con, buồn cười chết đi được; rồi lại cảm thấy mình không thể tỏ vẻ bất lịch sự trước mặt người lớn, trông Mạnh Tử Chiêu nháy mắt ra hiệu, có vẻ rất không muốn cô nhận lời mời của mẹ mình, Cảnh Ninh bèn cố tình bảo: “Vậy thì hay quá, cháu cảm ơn cô! Cháu rất muốn tới nhà cô để chơi với Chiêu-Chiêu!” Cảnh Ninh kéo dài giọng thật ngọt ngào.

“Cháu hứa rồi đấy nhé!”

“Ninh Ninh, xe tới rồi kìa.” Vân Lang đứng ngoài cửa gọi Cảnh Ninh, cô vội chào tạm biệt bà Mạnh rồi chớp mắt với Tử Chiêu đang mặt ủ mày chau, quay đầu thấy Cảnh Sâm đang ra ngoài theo cậu Tú Thành, cô vội vã tiến lại, nắm chặt mấy viên kẹo trong tay, nghĩ tới chuyện khi nào đến trường mình phải trêu chọc Mạnh Tử Chiêu một phen ra trò, cô lại nở nụ cười đắc ý.

“Cậu bé là tên nhóc đáng ghét mà em bảo đó hả?” Chờ Cảnh Ninh tiến lại gần, Cảnh Sâm bèn hỏi.

Cảnh Ninh cười hì hì: “Hôm nay cậu ta thành tên nhóc xui xẻo rồi.”

“Cho anh một viên nhé?” Cảnh Sâm chỉ mấy viên kẹo trong tay cô.

Không biết vì cớ gì, Cảnh Ninh lại do dự trong chớp mắt, rồi chẳng mấy chốc cô đã lại cười tươi, đưa cho anh mình một viên kẹo.

“Anh đùa em đấy.” Cảnh Sâm không nhận, quay sang cười với Vân Lang bên cạnh, “Em gái anh thích nhất là ăn đồ ngọt, về sau có khi lại mập giống mấy cô gái Belarus.”

Vân Lang bật cười.

Cảnh Ninh đang định cãi lại thì chợt một người đứng cạnh lao ra, Cảnh Sâm vội vã tiến lại chắn trước mặt Cảnh Ninh, người đó đâm sầm vào tay anh, khiến anh lảo đảo lùi về sau mấy bước. Người nọ quay đầu lại, đó là một người đàn ông trung niên gầy gò xanh xao, ăn mặc như nhân viên văn thư, luôn miệng cất lời xin lỗi rồi lại vội vã chạy mất.

“Anh, anh không sao chứ?” Cảnh Ninh sốt sắng hỏi. Cảnh Sâm lắc đầu, Vân Lang rút khăn tay định lau quần áo cho anh, anh vươn tay toan cản lại, nhưng nghĩ một hồi, cuối cùng anh vẫn để Vân Lang lau tay cho mình. Gò má Vân Lang ửng đỏ, cô nở nụ cười tươi tắn với anh.
 
Quyển 1 - Chương 8


Màn đêm nặng nề buông, anh tựa vào đầu giường, lật cuốn album ảnh trong tay. Tấm đầu tiên là ảnh chụp anh khi mới ra đời: anh đội mũ hổ, mặc chiếc áo khoác be bé xinh xinh, khi ấy anh là một đứa trẻ mũm mĩm với cặp mắt to tròn, mẹ cũng còn rất trẻ, bà ôm lấy anh, lúc đó bà chỉ mới mười bảy mười tám, vẻ mặt bà điềm tĩnh khoan thai, đôi mắt đẹp tuyệt chứa nét cười trong trẻo, môi điểm son nhạt, chân mày như họa, búi tóc bóng mượt, đeo trang sức bạc rất tinh xảo.

Lật sang trang sau.

Ba tuổi: Bọn họ chụp một bức ảnh cả gia đình. Cha mặc âu phục tối màu, trông vô cùng khôi ngô tuấn tú, khi ấy ông là một người đàn ông rất mạnh mẽ, tự tin, mẹ lại dịu dàng mềm yếu, dù bà có vẻ đẹp kiều diễm hiếm có, nhưng khi đứng trước cha, bà lại tỏ ra rất lép vế nhún nhường. Còn anh khi ấy mặc bộ đồ Tây, nở nụ cười ngốc nghếch, tựa mình bên chân mẹ.

Bốn tuổi: Đó vẫn là một bức ảnh cả gia đình, bức ảnh ấy rất đặc biệt, cha ôm chầm lấy anh, vì vậy nên trông anh vừa kinh ngạc lại vừa mừng rỡ, còn mẹ thì mệt mỏi rệu rạc tới lạ. Sau khi chụp tấm ảnh này một thời gian, mẹ anh lâm bạo bệnh, chưa được bao lâu thì qua đời.

Sáu tuổi rưỡi: Mẹ đã mất được gần hai năm. Đây vẫn là ảnh chụp cả nhà. Chỗ ngồi của mẹ bị thay thế bởi một người phụ nữ khác, bên cạnh anh cũng có thêm hai đứa trẻ nữa. Ba đứa bé con đứng thành hàng, trước khi chụp ảnh Cảnh Ninh đã khóc nhè, mũi còn hồng hồng như quả táo, tiếc là nhìn trên ảnh lại không thấy được. Cô bé phồng má thở hổn hển, may là anh dỗ nổi, khi đó anh đã học được cách ngoan ngoãn và ẩn nhẫn.

Sau đó bọn họ không còn chụp ảnh gia đình nữa, nhưng ba anh em vẫn có rất nhiều ảnh chung. Bọn họ từng diễn tư thế thịnh hành nhất để chụp ảnh, anh đứng bên trái, một tay chống nạnh, mặt đưa thẳng về phía trước, Cảnh Huyên ở giữa, dáng đứng của cậu giống anh, chỉ bàn tay khoác trên vai anh là khác, còn Cảnh Ninh đứng bên phải, khoác tay lên vai Cảnh Huyên, tiếc là cô bé quá lùn, phải kiễng cả chân lên. Tư thế của bọn họ khôi hài tới độ khó tưởng tượng nổi, vì họ còn mặc cả bộ đồng phục thủy thủ, đội mũ thủy thủ, sau mũ có buộc hai dải băng, chẳng biết là trang phục của quốc gia nào. Bộ đồ thủy thủ không có kiểu nữ, vậy nên Cảnh Ninh phải ăn mặc hệt như một cậu bé con.

Rửa xong ảnh, Cảnh Ninh bảo: “Chúng ta là ba đứa ngố!”

Cô thò tay định xé ảnh trong tay anh, anh lại vươn tay lên thật cao, không để cô chạm vào tấm hình.

Thật ra nếu bảo buồn cười thì anh mới là kẻ đáng cười nhất. Khi ấy anh đã mười ba rồi, có thể coi như đang chớm người lớn, theo lý mà nói, anh không nên chụp kiểu ảnh ấu trĩ như vậy, mà đâu chỉ ấu trĩ thôi, nó ngu ngốc tới mức khó tin. Nhưng không biết vì sao anh lại giữ gìn tấm ảnh này thật cẩn thận cho tới tận giờ này.

Mười ba tuổi… Giờ đây, ngay cả Cảnh Ninh bé nhất nhà cũng đã mười ba tuổi, trở thành một cô thiếu nữ xinh đẹp, rồi dần dần, cô bé sẽ biến thành một người phụ nữ lộng lẫy, như đóa hoa đang nở rộ.

“Tách… tách…”

Một con thiêu thân thấy ánh sáng mà vỗ cánh lao tới, mù quáng đâm sầm vào ngọn đèn lưu ly, anh ngẩng đầu nhìn nó, một làn sóng trầm lắng gờn gợn nơi đáy mắt anh.

Anh đứng dậy bước vào phòng tắm, trong phòng có một kệ tủ âm tường nho nhỏ, được dùng để chứa đồ rửa mặt, kệ tủ bé nhỏ, khép chặt, Cảnh Sâm bật ngọn đèn lắp trong tủ ra, rồi anh trở vào phòng ngủ, tắt đèn phòng.

Con thiêu thân mau chóng lần theo ánh đèn, bay vào phòng tắm, Cảnh Sâm bước theo nó, tắt đèn phòng tắm đi, vậy là nó lập tức bay vào chiếc tủ đang sáng đèn, cứ vỗ cánh quanh quẩn mãi, rồi lại đậu trên vách mà nghỉ ngơi chốc lát. Cảnh Sâm kéo dây đèn tủ, tất cả cùng chìm vào bóng tối, anh đóng sập cửa tủ, rồi lại thong thả bật đèn phòng tắm và phòng ngủ.

Đêm lặng như tờ, im lặng tới nỗi có thể nghe được tiếng thiêu thân liên tục đâm sầm vào cửa, nó cứ lao vào, lao vào, lao vào mãi, vì nhìn thấy ánh sáng rọi vào từ khe cửa nên nó mới ngoan cố đâm đầu vào, nhưng nó sẽ không còn cơ hội tắm mình trong ánh sáng nữa, mà chỉ có thể dần bị bóng đêm nuốt chửng.

Cảnh Sâm nằm trên giường, ném cuốn album sang một bên, tiếng thân thể bé nhỏ lao vào cửa nghe sao yếu ớt đã hoàn toàn biến mất, anh cũng say sưa chìm vào giấc mộng.
 
Quyển 1 - Chương 9


Cuối cùng vợ chồng Phan Thịnh Đường cũng từ Quảng Châu trở lại Hán Khẩu. Sảnh nhà chất đầy hành lý, Cảnh Sâm đưa mắt trông đám người làm thu dọn đồ đạc, quản gia Hà Sĩ Văn đứng bên mỉm cười nhìn nhưng chẳng lên tiếng can thiệp, cứ thế một lúc, ông mới lên tiếng hỏi Vân Thăng tình hình trong nhà.

Thịnh Đường rất mệt mỏi, cặp mắt chăng kín tơ máu, ông gọi ba đứa con lại, hỏi chuyện học hành của từng đứa một rồi mới lên nhà nghỉ ngơi. Cảnh Sâm nhìn bóng lưng ông, vẻ mặt anh đầy lo âu, bà Vân bèn an ủi: “Trước khi lên đường trở về cha con có uống vài ly với các chú các bác, con cũng biết mà, ở Quảng Đông nửa đêm người ta vẫn còn đang ăn cơm, lâu lắm ông ấy chưa về quê nên không quen, lúc lên tàu còn bị mệt, nhưng không có gì đáng lo đâu, cứ để cha con nghỉ một lát đi.”

“Vâng.” Cảnh Sâm mỉm cười, “mẹ cũng vất vả nhiều rồi.”

Bà Vân ngồi xuống sô pha, dịu dàng nhìn cô con gái đang lục soát quà trong vali, Cảnh Huyên thì mải mê đứng trước gương thử bộ đồ mới mẹ cậu đặt may cho ở Quảng Châu, hai anh em trai mỗi người một bộ, vì Cảnh Sâm sắp phải ra nước ngoài nên bà Vân còn mua riêng cho anh một chiếc cặp da lớn rất bền. Cảnh Sâm thấy bà Vân có vẻ mệt mỏi bèn khuyên bà đi nghỉ, bà Vân cười bảo: “Mẹ đi xa, không được gặp mấy đứa, giờ dù không nói gì mà chỉ nhìn các con thế này thôi mẹ cũng thấy vui. A Sâm, con có thích chiếc cặp mẹ mua không? Chiếc cặp này là của thợ lành nghề làm đấy, vừa bền vừa dễ dùng, còn đẹp nữa, cả người nước ngoài cũng thích mua.”

“Cảm ơn mẹ, con thích lắm.” Cảnh Sâm mỉm cười nói.

“Mẹ ơi, đây là vị thần tiên nào thế?” Cảnh Ninh lôi bức tượng sứ hình người cao chừng năm tấc ra khỏi vali, đó là một bức tượng hình cụ già mập mạp, ăn mặc như quan viên ngoại, tay cầm một chữ “Như ý”.

Bà Vân cười bảo: “Đây là đồ gốm trên Phật Sơn đấy, mẹ trông nó tinh xảo đáng yêu nên mới mua, một bộ có ba bức, Phúc – Lộc – Thọ Tam Tinh, con đang cầm Phúc Tinh, trong vali còn hai bức Thọ Tinh và Lộc Tinh nữa.”

Cảnh Ninh ồ lên, cô bé lôi hai bức tượng sứ đáng yêu từ trong vali ra, quặp vào khuỷu tay ôm cả lại, bà Vân dặn: “Cẩn thận, cẩn thận không vỡ.”

Cảnh Sâm vươn tay nhận lấy, Cảnh Ninh đút bức tượng Phúc Tinh mập mạp vào túi áo: “Em thích cái này, em lấy đây. Em không làm quan, cũng chưa có ý định biến thành bà cụ già, hai anh cứ thoải mái chọn Thọ Tinh với Lộc Tinh đi!”

Bà Vân chợt biến sắc, bà trách: “Phỉ phui cái miệng, con nói gì đấy!” Rồi bà vươn tay vỗ lên khóe môi cô, “Làm gì có ai tự rủa mình như con.”

Lời của Cảnh Ninh hoàn toàn là lời vô tâm, ngẫm nghĩ lại, cô cũng thấy nói vậy không hay thật, bèn sờ vạt áo đỏ thẫm của mẹ: “Con chạm vào màu đỏ là hết xui xẻo!”

“Lần sau nói gì cũng phải nghĩ cho kỹ, có kiêng có lành!” Bà Vân trừng mắt nhìn cô.

“Con biết rồi!” Cảnh Ninh cười hì hì.

Lúc này Cảnh Huyên cũng tiến lại, hỏi: “Có món gì hay ho đấy? Cho anh xem với!” Cậu khom lưng, cùi chỏ va phải vai em gái, thế là Thọ Tinh rơi thẳng xuống sàn, vỡ làm đôi.

Căn sảnh lặng ngắt như tờ.

Gương mặt bà Vân trở nên khó coi tới tột cùng, bà trỏ con gái mình, giận dữ thốt: “Con trông kìa, trông chuyện tốt con làm kìa!” Rồi bà lại quay sang Cảnh Huyên, giận đỏ cả mắt, “Hai anh em con đúng là, đến bao giờ mấy đứa mới làm mẹ bớt lo đây, hả?!”

Cảnh Huyên cự nự: “Đồ trang trí thôi mà mẹ, mua thêm một cái nữa là được, mẹ cần gì phải giận.”

Cảnh Ninh ngây ra như trời trồng, cô nhớ ban nãy mình mới bảo không cần “Thọ” và “Lộc”, giờ đến cả “Phúc” cũng bể nát rồi, đây đúng là điềm gở, Cảnh Ninh cắn môi hồi lâu không lên tiếng. Cảnh Sâm thấy cô ỉu xỉu bèn dọn gọn mảnh vỡ rồi bảo bà Vân: “Ông trời và Bồ Tát thần phật không nhỏ nhen vậy đâu mẹ, các ngài so đo với một đứa trẻ làm gì? Mẹ, mẹ đừng lo.” Không biết vì sao mà anh lại buột miệng thốt, “Nếu Ninh Ninh gặp phải tai họa con sẽ gánh thay em.”

Cảnh Ninh xúc động ngẩng đầu nhìn chằm chằm anh cả, ngơ ngác không thốt nổi thành lời.

Bà Vân thở dài, nói: “Lúc nào con cũng là đứa chín chắn!”

Thấy bầu không khí đã dịu đi rồi, Cảnh Huyên bèn cất hai bức tượng sứ còn lại trên xô pha đi rồi cười đùa:

“Mẹ, mẹ đừng sợ, anh cả mới nói rồi đấy, nếu con và Ninh Ninh có gặp họa anh ấy sẽ cáng đáng thay.”

Bà Vân nói: “Cái thằng nhóc vô lương tâm này, anh con có phải ông Hanh ông Cáp canh miếu đâu, mà nếu có vậy thật cũng chẳng đến lượt con dính lấy.”

Cảnh Sâm mỉm cười bảo: “A Huyên, anh bảo anh gánh cho Ninh Ninh, liên quan gì đến em đâu.”

Cảnh Huyên nện thình thịch vào ngực, giả vờ khóc lóc: “Đau lòng quá đi mất!”

Bà Vân phì cười, còn Cảnh Ninh ủ dột nói: “Con không muốn gặp họa, lại càng không muốn anh cả gánh họa giúp. Mẹ ơi, chúng ta nghĩ cách gì đi. Đi nhà thờ nhé? Hay tới chùa miếu? Mình làm lễ cúng được không mẹ?”

Bà Vân vuốt lại lọn tóc mái rối bù trước trán con gái: “Đợi mấy hôm nữa mình sẽ tới chùa Quy Nguyên cầu phúc giải họa.”

Bà bảo con trai con gái mình về phòng, rồi gọi Cảnh Sâm lại dặn dò: “Ba đứa phải chú ý an toàn trong khoảng thời gian này, nhà họ Phan không bình yên đâu, bố mẹ lo nên mới về sớm đấy.”

Cảnh Sâm ngạc nhiên hỏi: “Chẳng lẽ đã có chuyện xảy ra ạ?”

Bà Vân lẳng lặng đáp: “Nhà tổ Phan gia bị cháy rụi chẳng lẽ không phải là chuyện sao? Mà việc này thì thôi bỏ đi, chuyện gì cần xử lý cha con cũng đã xử lý rồi, những thứ còn lại mới thật sự là phiền phức.”

Cảnh Sâm thấy khó hiểu, bèn bật cười bảo: “Người nhà họ Phan toàn dân kinh doanh thật thà, sao lại chuốc lấy phiền được?”

“Con đúng là đứa trẻ ngốc nghếch, chẳng trách cha lại không yên tâm về con.”

Lòng Cảnh Sâm thoáng gờn gợn, nhưng anh vẫn chỉ mỉm cười.

Bà Vân cau mày, rồi thật lòng thật dạ cất lời như kìm nén đã lâu: “Trên đời này, kẻ dễ chuốc lấy phiền vào thân nhất chính là con buôn. Kiện cáo, thị phi, cướp bóc, làm gì có người làm ăn nào tránh được những điều này? Chẳng phải Trịnh Đình Quan giàu có bậc nhất đất Quảng Đông khi xưa cũng ngã ngựa sau hai ải đầu đó sao? Nhà cháy, cha con vừa về Quảng Châu đã có ai gửi cho ông một viên đạn, làm mẹ sợ mất mật!”

Cảnh Sâm biến sắc: “Đạn ư? Thế này thì đúng là ghê người thật.”

“Mối làm ăn của nhà họ Phan càng lúc càng lớn, với Hán Khẩu, chúng ta là người ngoài, mà ở Quảng Đông thì lại càng bị kẻ khác ghen ghét, nhiều người có ý xấu với nhà chúng ta lắm, chuyện này có gì lạ đâu? Năm ấy cha con mua ô tô rồi lại phải bán đi cũng vì không muốn phô trương mà mang vạ vào thân. Con có nhớ về sau chiếc xe này rơi vào tay ai không?”

Cảnh Sâm ngại ngùng cười bảo: “Khi đó con mới bốn tuổi thôi, trẻ con có biết gì đâu.”

Bà Vân vuốt lớp tua rủ của tấm rèm cửa nhung thiên nga, chầm chậm thốt: “Mẹ lo quá nên đầu óc cũng lú lẫn mất rồi. Ôi, qua tay biết bao nhiêu người, cuối cùng cũng bán cho nhà họ Trịnh, vì nó có tấm giấy phép đầu tiên của Quảng Châu, cũng là chiếc xe đầu tiên trên toàn Quảng Châu, đâm ra gây chú ý quá, cuối cùng Trịnh Đình Quan bị cướp cả người lẫn xe, chết bất đắc kỳ tử chốn đồng không mông quạnh, rồi nhà họ Trịnh cũng lụi bại. Giờ cha mẹ cũng đang lo chuyện này.”

“Cha mẹ lo lắng cũng phải.”

Bà Vân nhìn anh: “Sâm Nhi, trong khoảng thời gian này con hãy lo cho các em nhé, con trông chúng nó chặt vào, đừng để hai đứa nó chạy lung tung, có đi đâu con cũng phải đi theo chúng, có con ở bên ít nhiều gì cha mẹ cũng yên tâm hơn.”

“Mẹ đừng lo lắng.”

Nói nhiều tới vậy nhưng thực chất bà Vân vẫn còn giấu lòng riêng. Dù bà đối xử thân mật với Cảnh Sâm, nhưng dù sao thân sơ cũng khác, người bà Vân thật sự quan tâm yêu thương vẫn là hai đứa bé mình rứt ruột đẻ ra. Tuy là thế, cậu con trai trưởng nhà họ Phan cũng chững chạc hiểu biết, từ nhỏ tới lớn đã chăm lo hai em kỹ càng từng li từng tí, có những lúc Cảnh Huyên Cảnh Ninh mắc lỗi, anh cũng đứng ra chịu phạt thay em. Bà Vân lại đưa mắt nhìn Cảnh Sâm đang đứng cúi đầu kính cẩn khiêm nhường, vẫn hệt như dáng vẻ của cậu nhóc ngoan ngoãn nghe lời mà bà gặp lần đầu nhiều năm về trước, không biết vì sao lòng bà lại thoáng cuộn lên nỗi áy náy mơ hồ.
 
Quyển 1 - Chương 10


Phan Thịnh Đường có thói quen ngủ trưa xong sẽ uống trà bên ban công ngoài vườn hoa, Cảnh Sâm đã ngồi đây chờ ông từ sớm. Lúc Thịnh Đường tới, Cảnh Sâm đang cầm kéo chăm chú tỉa tót lại chậu bùm sụm nhỏ trên chiếc bàn vuông gỗ tử đàn, ánh mặt trời phản chiếu trên lưỡi kéo trông sắc lẹm, còn chàng trai cầm cây kéo trên tay lại dịu dàng tuấn tú, đặc biệt là cặp mắt trong veo của anh, khi nhìn nghiêng, đôi mắt ấy vừa trong vừa sâu như thủy tinh. Trà cụ đã chuẩn bị xong xuôi, đặt sẵn trên bàn, tờ báo sáng nay được là phẳng, đặt ngay ngắn nơi góc bàn, Phan Thịnh Đường dừng bước trong chốc lát rồi khẽ hắng giọng.

Nghe thấy tiếng, Cảnh Sâm buông kéo, quay người kính cẩn chào cha mình.

Thịnh Đường ngồi xuống, nhìn chậu cây nhỏ, ông mỉm cười nói: “Lần nào thấy nó cha cũng nhớ tới căn nhà cũ của chúng ta ở Lĩnh Nam. Con thì sao? A Sâm, con có muốn trở lại ngắm nó không?”

“Mùa hè dưới đó nóng ẩm, ở đây vẫn hay hơn, thời tiết và con người đều rõ ràng phân minh.”

“Ừ, cũng đúng.”

“Cha ngồi một lát nhé.” Cảnh Sâm rút chiếc khăn tay từ ngực ra, bọc gọn đám cành vụn trên bàn ném vào thùng rác, xong xuôi, anh vào nhà rửa tay rồi trở lại ngồi đối diện Phan Thịnh Đường, anh nhẹ nhàng xắn  tay áo lên, vừa đun nước trên chiếc bếp gốm đun trà nhỏ vừa cười bảo, “Mấy hôm trước có người ở vườn trà Phúc Kiến ghé, đây là mẻ Phật Thủ Vĩnh Xuân mới nhất đấy ạ.”

Thịnh Đường gật đầu.

Nước đã sôi, Cảnh Sâm lấy nước tráng chén, pha trà châm trà, động tác vô cùng gọn gàng, điệu bộ lại càng đẹp mắt, Thịnh Đường nhìn anh chăm chú hồi lâu rồi mới dời mắt, hít hương trà cảm thán: “Giờ này ở Quảng Châu đã rất nóng rồi nhưng về đến đây mùa xuân chỉ như mới bắt đầu.”

“Mấy hôm trước mưa liên miên nên hơi lạnh, nhưng cha vừa về trời đã lại tạnh ráo.”

Cảnh Sâm tươi cười, ánh mặt trời dao động, sáng rực chói lòa, nhưng cây rừng lại um tùm xanh tươi, phủ lấp đi cả những huyên náo tấp nập, anh không khỏi cất tiếng ngâm, “Bóng nùng trải đất thanh như nước, mây mù che lối lặng như người.”

Thịnh Đường nhấp một ngụm trà, ông chầm chậm thốt, “Trông con nho nhã thế này cha vừa thích lại vừa rầu, Sâm Nhi à, có những lúc cha nghĩ không biết con giống cha ở điểm nào?”

Cảnh Sâm không biết vì sao đột nhiên ông lại nói những lời này, anh ngạc nhiên nhìn ông.

Thịnh Đường nghiêng đầu, híp mắt quan sát vẻ mặt cậu con trai: “Con giống cha nhất ở điểm nào? Đến chính con cũng không biết ư?”

Ánh mắt chàng trai trong veo như nước, anh nhận lấy chén trà cha mình đưa, tiếp tục châm trà cho ông rồi đột nhiên lại khẽ bật cười.

“Con cười gì vậy?” Thịnh Đường nhướng mày.

Cảnh Sâm cầm chắc lấy chén trà bằng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa, nước trà trong veo sóng sánh, không rơi vãi dù chỉ một giọt, anh chầm chậm đặt chén trà xuống trước mặt Thịnh Đường: “Giống ở điểm này.” Anh chợt nghiêng đầu, cặp mắt chứa đầy nét cười, “Cha à, hơn mười năm nay con luôn dốc hết sức để làm một việc, mà vừa khéo đây lại là việc cha giỏi nhất.”

“Ồ? Là việc gì vậy?”

“Chỉ một chữ thôi: Vững.”

Dường như Thịnh Đường rất mừng: “Vậy thành quả của con ra sao rồi?”

“Con kém xa chẳng bằng một phần của cha, vẫn còn phải cố gắng nhiều.”

“Sao con chỉ dốc hết sức vào riêng việc này?”

“Con ngốc nghếch chậm chạp, học được một chữ ấy thôi đã mừng lắm rồi, mà nếu học tốt thì chẳng khác nào phúc lớn. Cha cũng từng nói, người có thể thực sự hiểu hàm ý của chữ ‘vững’ chính là người khiến kẻ khác phải nể sợ nhất.”

“Cái đứa bé này, con muốn khiến người khác nể sợ hả?”

“Con không muốn người khác nể sợ mình, con chỉ muốn được giống cha, vững vàng, thận trọng… Không sợ hãi bất cứ điều gì.” Cảnh Sâm khẽ cong môi.

Thịnh Đường cúi đầu uống trà rồi chợt bật cười: “Tốt, tốt lắm. Tiếc là con không thích kinh doanh, đúng là đáng tiếc.”

Nói tới đây, Cảnh Sâm cũng không tiếp lời nữa.

Thịnh Đường nói: “Trước giờ cha không phản đối chuyện học hành của con, trước kia ông nội con cũng là người từng đọc qua vạn cuốn sách. Ông từng tới Nam Dương, đi Âu Mỹ, tinh thông nhiều ngôn ngữ, còn là một nhân tài lớn của giới kinh doanh. Cha chỉ mong con hiểu, học hành đương nhiên là tốt, nhưng con không nên đắm chìm mê muội quá, con phải học cách ngẩng đầu lên khỏi sách vở, đưa mắt nhìn thế giới nơi con đang sống, con phải học cách thực tế, biết về sau mình nên phấn đấu theo con đường nào. Cha không muốn nhìn thấy một chàng trai trẻ trì trệ bảo thủ, nhất mực bài xích những điều mình không thích.”

Cảnh Sâm nhỏ giọng: “Thật ra con cảm thấy kinh doanh bài xích con mới đúng. Trong mấy tháng ở hiệu buôn Tây, con thật sự đã toàn tâm toàn ý học hỏi nhưng chỉ có thể trách bản thân kém tài, ở đó một tháng mà chẳng bằng A Huyên đến chơi một ngày.”

Thịnh Đường liếc nhìn gương mặt tĩnh mịch của anh bằng ánh mắt sâu lắng: “Tú Thành vẫn hay đưa Cảnh Huyên tới hiệu buôn Tây sao?”

Cảnh Sâm cười bảo: “Không, không, ít lắm ạ. Sau khi cha tới Quảng Châu cậu mới đón A Huyên tan học, đưa em ấy đi chơi, A Huyên vui quá, lúc về thằng bé nói mình được mở mang tầm mắt, còn bảo Phổ Huệ nhà chúng ta sắp có một mối buôn châu báu lớn.”

“Hiệu buôn Mỹ này muốn kiếm chút tiền ở lục địa nên mới tới tìm nhà mình. Nhưng người Anh không ưa dân Mỹ, nếu chúng ta gần gũi quá với hiệu buôn vốn Mỹ như Thịnh Xương, có khi mấy ông chủ người Anh lại không vui, vậy nên tạm thời phải giữ bí mật chuyện này để tránh thị phi. Em trai con không giữ được miệng, chuyện này không đùa được đâu. Con phải nhắc nhở em đấy.”

“Vâng ạ!”

Uống trà xong, Cảnh Sâm dọn bàn, Thịnh Đường lại chợt bảo: “Sao con không hỏi cha chuyện căn nhà cũ?”

Ống tay áo Cảnh Sâm thoáng run lên.

Thịnh Đường vỗ vai anh: “Con không cần trả lời cha, cha biết con đang nghĩ gì. Mấy căn phòng của mẹ con không hề hấn, mà dù có thì cha cũng sẽ khiến chúng hồi phục nguyên dạng. Đồ của bà ấy, quần áo đồ chơi của con ngày nhỏ đều được cất cẩn thận rồi, không ai dám động vào chúng đâu.”

Vườn hoa lộng lẫy thanh tươi, có cơn gió nhẹ thoảng qua, cuốn theo cả hơi lạnh, những hình ảnh rời rạc bồng bềnh trong trí óc Cảnh Sâm: Cậu bé con nhỏ xíu chơi đùa trên chiếc giường hồi môn chạm hoa của mẹ, chiếc giường ấy rộng vô cùng, có tới tận ba vách ngăn, tấm bình phong tinh xảo ngăn tách không gian bên trong với phòng ngoài, bước vào là thấy bàn trang điểm, sâu trong cùng là sạp giường, càng vào sâu hương thơm càng đậm, đó là thứ hương da thịt ấm áp bừng lên trong bầu không khí nóng bức ẩm ướt, cậu bé nằm bò trên giường, nhìn người mẹ hẵng còn rất trẻ trung của mình, mái tóc đẹp dày dặn của bà rối tung, tay áo được vén lên, để lộ cổ tay trắng muốt như tuyết, bà lười biếng rửa mặt, chải đầu rồi trang điểm, thỉnh thoảng lại quay đầu mỉm cười với cậu bé, như bông sen lộng lẫy mọc giữa ao.

Một bên giường chất đầy đồ chơi của cậu bé: Chiếc xe gỗ, dao kiếm nhỏ xíu, bàn tính bé xinh, thậm chí là cả bóng da, cậu bé vươn bàn chân nhỏ mập mạp đá quả bóng, bóng bay lên, va phải bức vách giường chạm trổ thần tiên và mây lành, bật ngược trở lại lòng cậu bé. Chiếc giường khổng lồ ấy là vương quốc của cậu bé, có mẹ ở đó, cậu an toàn, vững vàng như một quả thông được bọc trong lớp vỏ kiên cố, có mẹ ở đó, cậu chính là hoàng tử, dù chỉ có một xó nhỏ để nô đùa nghịch ngợm, nhưng cậu cũng vui tựa dạo chơi trên thiên đường. Nhưng sau đó hoàng tử trưởng thành, cũng dần ý thức được sau lưng tất thảy những điều này có một nguyên do thực tế tới tàn nhẫn, đó là sự cô độc, là trống trải lạnh ngắt tới tận xương tủy của cả anh lẫn mẹ.

Cái thứ cô độc cùng trống trải này chẳng mảy may dính dáng đến người trước mặt anh đây, cha của anh.

Cảnh Sâm khẽ thót: “Mẹ đã luôn đợi cha, luôn chờ đợi cha, đợi đến tận khi chết.”

Lông mày Thịnh Đường nhíu chặt như phải bỏng, cơn phẫn nộ thoáng qua mắt ông trong tích tắc, nhưng gương mặt khôi ngô của chàng trai này đây lại như chồng chéo vừa khít với người phụ nữ tựa đóa sen trong ký ức ông, ánh mắt ông trở nên dịu dàng.

“Khi ấy con còn nhỏ, nhưng con đã hiểu hết tất cả.” Cảnh Sâm nhìn thẳng vào mắt ông, bờ môi anh lạnh dần.

“Con vẫn hận cha sao?” Thịnh Đường khẽ hé môi.

Cảnh Sâm lại tiếp tục thu dọn bàn trà, vừa dọn anh vừa chầm chậm thốt: “Mẹ từng nói với con, hồi mẹ chưa cưới chồng, ông ngoại có nói với mẹ rằng: Nếu người ta không tốt, chi bằng ông không để mẹ cưới chồng. Mẹ là đứa con gái độc nhất của ông ngoại, là đứa con ông ngoại yêu nhất, thương nhất, ý ông ngoại bảo nếu về sau người mẹ cưới không phải người chồng tốt, thì chi bằng đừng cưới, nhà mẹ đẻ sẽ nuôi bà ấy cả đời. Nhưng mẹ con vẫn cưới cha.” Anh ngẩng đầu, nở nụ cười nhàn nhạt, “Đến tận khi chết mẹ cũng không hận cha, đến chết mẹ vẫn coi cha là người chồng tốt, cha, cha nói xem, tại sao con phải hận cha chứ?”

Lòng Thịnh Đường cay đắng rối bời, nỗi đau đớn mơ hồ thoáng qua trong đôi mắt ông, phản chiếu nơi cặp con ngươi sáng bừng tựa pháo hoa của chàng trai trẻ. Dù Thịnh Đường đã giấu nỗi đau ấy rất kỹ, nhưng cũng chẳng thể giấu nổi cặp mắt của Cảnh Sâm. Ông ấy đang đau đớn. Bao năm trôi qua rồi, ông ấy vẫn đau đớn, cũng giống như Cảnh Sâm vậy, dù rằng có lẽ nỗi đau trong lòng họ chẳng hề giống nhau.

Hai cha con lặng lẽ đối mặt, chẳng ai nói gì thêm.

Hồi lâu sau, Hà Sĩ Văn bước lại báo tin: “Ông chủ, ngài Đồng tới rồi, ngài ấy đang chờ ông ở phòng đọc sách.”

Ngài Đồng tên Đồng Xuân Giang, là người đứng đầu Hội Đồng bào Hán Khẩu.

Hội đảng vốn được thành lập để tập hợp lực lưỡng nghĩa sĩ cả nước, lật đổ nhà Thanh, nhưng tiếc là tuyển người vơ bèo gạt tép, thành viên hỗn tạp đủ loại, vàng thau lẫn lộn, danh thì xưng là quốc gia cộng hòa, đáng ra không nên thu nạp đám tệ nạn suy đồi mới phải, giờ tai hại dần hiển hiện, dân chúng cũng phải buông lời oán thán. Nhưng ngài Đồng lại có phần khác biệt so với đám du côn xã hội đen ngoài kia, đầu óc người này sáng suốt, lời lẽ lịch sự ôn tồn, hệt như một quý ông lịch lãm, chừng mười năm trước ông từng góp sức ủng hộ cuộc khởi nghĩa Vũ Xương đầu tiên, sau, đến thời Dân Quốc, các hội kín trong dân gian hục hặc lộn xộn, tự kiêu giành công, huênh hoang gây chuyện, ngài Đồng bèn thể hiện thái độ đúng lúc, chủ động lôi kéo quan hệ với quân đội, chính phủ, giúp bọn họ xử lý cục diện hỗn loạn, ngoài ra ông còn bỏ một khoản tiền lớn để chấn hưng giáo dục, cảm hóa bằng dạy dỗ, đổ công đổ sức vào từ thiện, ngầm bồi dưỡng thế lực lớn mạnh tại các Phòng Tuần bộ Tô giới. Dù giờ ngài Đồng đang quy ẩn, nhưng ông vẫn là một sếp sòng có máu mặt ở cả hai giới trắng đen.

Mà giờ Thịnh Đường lại mời người này tới nhà.

Thịnh Đường bình tĩnh lại, ông đứng dậy, trước khi đi lại chợt quay đầu.

“A Sâm.” Ông gọi tên anh như thời anh còn nhỏ.

“Vâng, thưa cha.”

“Con vẫn còn nhỏ lắm.” Thịnh Đường cười, vỗ vai anh rồi quay người bỏ đi.

Cảnh Sâm vẫn thờ ơ đứng đó, ánh mắt anh lướt qua vẻ đẹp ngày cuối xuân trong khu vườn, nở nụ cười hờ hững theo thói quen, nhưng nụ cười ấy chỉ thoáng hiện lên rồi đã biến mất ngay, cái sự tỉnh táo nguội lạnh chẳng hề phù hợp với tuổi như khiến chính anh cũng phải ghét bỏ. Anh lại tiếp tục tỉa tót chậu cây cảnh, âm thanh giòn giã của lưỡi kéo ma sát với cành cây cứng khô vọng vào tai, cuối cùng cũng khiến người ta thoáng cảm giác sảng khoái.

Từ sau hôm ấy, đội ngũ canh gác ngoài dinh thự nhà họ Phan trở nên hoành tráng hơn rất nhiều, vài người bảo đó là thuộc hạ của ngài Đồng, lính tuần Tô giới Pháp cứ thỉnh thoảng lại dạo quanh một vòng dinh thự, thậm chí lúc Thịnh Đường đưa bà Vân tới nhà hàng Đức Minh gần đó uống trà trưa, lơ đãng lại bắt gặp lính tuần bước ra từ khúc ngoặt, vừa mỉm cười chào hỏi cả nhà, rồi vừa như vô tình như cố ý đi theo sau lưng họ.

Cảnh Sâm đã chuẩn bị sẵn tâm lý nên hoàn toàn không có vấn đề gì, chỉ là cơ hội gặp riêng Huệ Lan lại ít đi, nhưng cả hai vẫn có thể gặp mặt trong giờ dương cầm của Cảnh Ninh. Cảnh Huyên và Cảnh Ninh hoạt bát bướng bỉnh bị quản thúc chặt chẽ, hàng ngày chỉ được đi học rồi về ngồi lì trong nhà, lên tiếng phản đối thì bị mắng, đến cả bà Vân vốn yêu thương hai đứa con này cũng chỉ đứng nhìn.

Cảnh Huyên thấy rất bất mãn: “Có chút chuyện vặt ở Thượng Hải thôi mà, ở đây sóng yên biển lặng là thế, sao phải việc bé xé ra to.”

Thịnh Đường siết chặt an ninh trong nhà, nhưng chỉ đưa ra lý do thời cuộc hỗn loạn, phải coi cẩn thận là trên hết, mà chẳng ai chấp nhận được lời giải thích này. Vừa khéo mấy hôm nay có vụ việc một ông chủ người Nhật của công xưởng tại Thượng Hải đánh chết thợ làm công, đám học sinh và công nhân bắt đầu gây rối, lính tuần Tô giới tại Thượng Hải bắt được cả mớ người, phía Hán Khẩu cũng có nghe phong thanh, bầu không khí đâm căng thẳng lây.

Nhà họ Phan là dân kinh doanh, từ thời Càn Long họ đã vừa đối phó với triều đình vừa tiếp xúc với người nước ngoài, trong thời kỳ giao thương, nhà họ Phan kiếm được cả núi vàng núi bạc, nhưng sau khi “Hiệp ước Nam Kinh” được ký kết, Trung Quốc thông thương năm cảng khẩu (*), thành phố kinh thương Quảng Châu bắt đầu trượt dốc, thương nhân Chợ Mười Ba nhọc nhằn mưu sinh giữa kẽ hở của chính phủ và thương buôn nước ngoài, năm Hàm Phong thứ 7, chiến hạm Anh – Pháp oanh tạc Quảng Châu, khiến thương quán Chợ Mười Ba cháy sạch chẳng còn một mống, người nhà họ Phan đành tay trắng làm lại từ đầu. Người làm kinh doanh luôn rất nhạy cảm trước sự biến hóa của thời cục, huống chi là người nhà họ Phan đã từng kinh qua thăng trầm nhiễu nhương? Vậy nên dù tuổi còn nhỏ nhưng Cảnh Huyên và Cảnh Sâm cũng chẳng phải loại hồn nhiên không hiểu chuyện, Cảnh Huyên chẳng qua chỉ than phiền đôi câu mà thôi.

(*) Một điều khoản trong Hiệp ước Nam Kinh: Trung Quốc phải mở cửa cho tàu thuyền nước ngoài vào buôn bán ở Quảng Châu, Phúc Châu, Hạ Môn, Ninh Ba, Thượng Hải. 
 
Quyển 1 - Chương 11


Chủ nhật, bãi đất trống ngoài xưởng sản xuất thuốc lá đã rộn ràng tấp nập từ sớm. Các nghệ sĩ dân gian dựng chỗ biểu diễn, sạp bán đồ ăn vặt bắt đầu buôn bán, trời quang gió mát, liễu rủ phất phơ, thứ hương thơm ấm áp ẩm ướt phiêu đãng trong không gian, đây là mùi hương đặc trưng của một thành phố kề sông cận biển, ngập tràn nhựa sống hừng hực của cây cỏ, hòa trộn cũng mùi thơm của đám đồ ăn vặt, nào bánh hành, nào bánh vòng, len lỏi ngập tràn phố phường và cả lòng người.

Tất cả những thứ này đều khiến Cảnh Ninh cảm thấy vui vẻ, mà dường như có người lại chẳng hề vui như cô.

“Chọn xong chưa?” Cậu bé đứng sau lưng Cảnh Ninh bứt rứt ngó trái liếc phải.

Cảnh Ninh ngồi xổm dưới đất, cô đang lựa mấy món đồ chơi trong chiếc giỏ trúc của sạp hàng rong: hồ lô gỗ, lược gỗ, dây chuyền chỉ đỏ, ví tiền bằng vải bông, chọn xong rồi, cô bé đặt chúng lên chiếc khăn tay vải hoa trên đầu gối, vầng trán trắng nõn lấm tấm mồ hôi, Cảnh Ninh cúi đầu, rèm mi dài được ánh mặt trời nhuộm thành sắc ráng chiều, cô nói: “Sắp xong rồi, sắp xong rồi”.

Mạnh Tử Chiêu rất sốt ruột: “Mệt rứa.”

Cảnh Ninh nở nụ cười láu cá: “Mùa này làm gì có dứa mà ăn!”

Cô cười giọng địa phương của cậu đây mà. Mạnh Tử Chiêu giận dữ, nhưng cậu chỉ cười lạnh, rồi lại chợt vươn tay định búng mũi cô, Cảnh Ninh há mồm: “Cắn này!”

Cậu cuống quýt rụt tay lại, Cảnh Ninh bật cười ha hả, tiếp tục chọn chọn lựa lựa đám đồ trong giỏ trúc. Mạnh Tử Chiêu xáp lại: “Hừ, hôm nay cậu bẫy tôi, tôi sẽ ghi thù đấy.”

Cảnh Ninh chẳng lên tiếng, tóc cô không thắt thành đuôi sam sau gáy như ở trường mà được xõa ra, thắt nơ phía trên mái, những lọn tóc mượt mà dày dặn, đuôi tóc quăn nhẹ, tắm trong nắng mà ánh lên những tia sáng mềm mại. Cuối cùng cậu cũng vươn tay cốc thật nhanh lên trán cô, rất nhẹ, cô cũng không phản ứng lại, cậu lại cốc thêm cái nữa, Cảnh Ninh bèn lựa một món tượng gỗ nhỏ nhét vào tay cậu: “Cảm ơn cậu, tặng cậu cái này, đợi tôi thêm lát được không? Nghe lời nhé.”

Cậu nói không sai đi đâu được, cô đang bẫy cậu.

Cô nhận lời mời của mẹ cậu, tới nhà cậu chơi, vừa khéo mượn cơ hội này để thoát khỏi sự ràng buộc của cha mẹ và anh trai, cô hệt như chú chim nhỏ sổ lồng, thậm chí Cảnh Ninh còn thấy tên kẻ thù ở trường trông cũng vừa mắt hơn nhiều.

Biệt thự nhà họ Mạnh là một tòa nhà kiểu Tây hai tầng nho nhỏ nằm gần Tuân Lễ Môn, phòng ốc nửa cũ nửa mới, đây là kiểu biệt thự Tây cỡ nhỏ bình thường tới độ không thể bình thường hơn được nữa tại đất Hán Khẩu, nhưng sau khi tiến vào cổng, vừa đi được mấy bước, Cảnh Ninh đã cảm nhận được sự khác lạ. Căn nhà được xây dựng theo kiểu rất phổ thông, nhưng vườn hoa lại nối liền với khu vườn của căn nhà bên cạnh, thậm chí còn chẳng có tường bao, ngoài vườn có đình đài lầu các, suối nước quanh co, còn có cả sân khấu, gác lửng và hành lang, đưa mắt nhìn sang hướng bắc, thấy có một chiếc hồ nhân tạo lăn tăn gợn sóng, giữa hồ có ngọn núi giả cùng cây cối rất tinh xảo khéo léo, rậm rạp tốt tươi, như một ốc đảo nhỏ, xét riêng vườn hoa này thôi, nếu so ra với nhà họ Phan, nơi đây lộng lẫy tráng lệ chỉ có hơn chứ không có kém.

Trước đây Cảnh Ninh cũng từng có dịp đi ngang qua căn nhà kế bên rồi, cha bảo cô đó là “Lưu Viên” tiếng tăm lẫy lừng tại Hán Khẩu, người sống ở đó chính là Địa vương Hán Khẩu, ông chủ Lưu này từng đứng trước mặt Lê Nguyên Hồng(*) dõng dạc nói: “Đô đốc dựng nên Dân Quốc, còn tôi thì kiến lập Hán Khẩu.” Quá nửa đất thổ cư của Hán Khẩu đều từng nằm trong tay người này. Vậy thì tại sao vườn hoa nhà họ Mạnh lại nối liền với vườn hoa của ông chủ Lưu?

 (*) Lê Nguyên Hồng: quân phiệt và chính khách quan trọng trong thời Thanh mạt và đầu thời Trung Hoa Dân Quốc, từng hai lần giữ chức vụ Đại Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc.

Cảnh Ninh vô cùng ngạc nhiên.

Trong nhà, đồ đạc bày biện trang trí giản dị nhưng không kém phần tao nhã, bà Mạnh cười tiến lại đón hai đứa, Cảnh Ninh chào hỏi bà, Mạnh Tử Chiêu lừ đừ lết tới, thấy Cảnh Ninh, cậu ta chỉ lạnh lùng thốt: “Ờ, đến rồi à?”

Bà Mạnh lườm cậu: “Giả vờ giả vịt cái gì? Mẹ vạch mặt cho bây giờ?” Tử Chiêu ho khan, miễn cưỡng bước lại bên mẹ mình, bà Mạnh lại bảo: “Phép lịch sự của con đâu rồi? Mau chào bạn tử tế đi.”

Dường như Mạnh Tử Chiêu rất sợ mẹ mình, cậu mím môi, chỉ đành nói: “Chào cậu, Phan Cảnh Ninh, chào mừng cậu tới chơi nhà tôi.”

“Thế mới ngoan chứ!” Bà Mạnh cười.

Gương mặt thanh tú Mạnh Tử Chiêu cứ thoắt trắng thoắt đỏ: “Mẹ, Chiêm Chiêm vừa tìm mẹ đấy.”

“Lan Nhi đâu rồi? Không phải còn có Lan Nhi trông thằng bé sao?”

“Không biết đi đâu mất rồi, ban nãy Chiêm Chiêm bò từ giường xuống đấy.”

“Sao con không nói sớm!”

Bà Mạnh vội vã bước lên tầng, miệng vẫn không quên dặn dò con trai phải thiết đãi cô Phan thật tử tế.

“Ngồi đi.” Mạnh Tử Chiêu cố tỏ vẻ già dặn, giơ tay chỉ sô pha.

Cảnh Ninh cũng chẳng khách khí, cô ngồi xuống hỏi: “Sao vườn hoa nhà cậu lại nối với Lưu Viên thế?”

Mạnh Tử Chiêu đẩy mâm trái cây tới trước mặt cô: “Mấy năm nay ông Lưu đầu cơ đất, đang mắc nợ, năm ngoái ông ấy gán nhà và vườn hoa cho gia đình chúng tôi. Dạo gần đây em trai tôi ho nhiều, căn nhà bên bờ sông ẩm quá nên mới chuyển sang đây.”

Cảnh Ninh ngẩng đầu nhìn cậu, thấy dường như Mạnh Tử Chiêu không có ý đùa, cô lại đâm chẳng biết tiếp lời ra sao, bèn hỏi: “Kỳ Kỳ và Trình Viễn đâu, sao tôi nghe bảo mấy bạn ấy cũng tới mà?”

Mạnh Tử Chiêu lười nhác vắt một tay lên tay vịn xô pha, nhìn cô bé như cười như không: “Cậu cứ tới hỏi chúng nó là biết, mà nói chung, người ta không tới, cậu thì lại tới, còn tới sớm thế này nữa chứ.”

Cảnh Ninh không thèm chấp Mạnh Tử Chiêu, lúc này cô cũng đã có dự tính riêng rồi, chẳng buồn quan tâm tới cậu ta nữa. Cô bé nhìn bức ảnh lồng khung treo trên tường. Ảnh chụp một ông già gầy gò mặc quan phục, bên cạnh là một dàn người khoác đồ Tây, tóc tết đuôi sam. Trong lúc Cảnh Ninh ngắm nghía, bà Mạnh đã bế Chiêm Chiêm xuống nhà, bà cười bảo: “Đứng giữa là đại học sĩ nội các Lý Hồng Chương, người thứ tư bên trái là ngài Thịnh Tuyên Hoài, Thịnh Tuyên Hoài đã cùng ông Lý Hồng Chương thực hiện phong trào Dương vụ (*)…”

(*) Dương vụ: Một trường phái, phong trào do quan lại cấp tiền thời nhà Thanh phát động, chủ trương liên kết với tư bản nước ngoài.

Bà Mạnh còn chưa dứt lời, Cảnh Ninh đã cười bảo: “Cô ơi, vậy người thứ sáu bên tay phải có phải ông nội của Tử Chiêu, vua thuyền Hán Khẩu lừng danh không ạ?”

Bà Mạnh cười: “Cảnh Ninh tinh mắt quá! Ảnh cũ thế này rồi mà cháu vẫn nhìn ra.”

“Mắt của Tử Chiêu rất giống mắt cụ Mạnh, vừa có tinh thần, vừa có khí phách, sáng rực rỡ!”

Bà Mạnh rất ưa lời nịnh hót này, bà ôm lấy vai Cảnh Ninh, nhiệt tình nói: “Cháu đúng là cô bé khéo miệng, cô chỉ muốn được đứa con gái như cháu thôi.” Chiêm Chiêm nằm trong lòng bà khúc khích cười, vươn tay ra nắm lấy ống tay áo Cảnh Ninh, Cảnh Ninh để mặc cho cậu nhóc siết, cô chạm vào gương mặt nhỏ xíu của Chiêm Chiêm, cười nói: “Cô ơi, cháu cũng muốn có một đứa em trai đáng yêu như Chiêm Chiêm.”

“Được được, nếu cháu làm con gái nuôi của cô thì Chiêm Chiêm sẽ là em trai cháu.”

Mạnh Tử Chiêu ho liền mấy cái thật to ngắt lời mẹ mình, bà Mạnh tủm tỉm cười liếc cậu, rồi lại quay sang nhìn Cảnh Ninh, Cảnh Ninh phát giác ra điều gì, gương mặt chợt đỏ bừng, cô cười: “Cô ơi, vườn hoa nhà cô đẹp quá, cháu có thể ra xem được không ạ?”

Bà Mạnh bèn điều Mạnh Tử Chiêu dắt Cảnh Ninh đi, rồi lại dặn đám người làm bưng trái cây và bánh ngọt theo, phần mình thì không làm phiền lũ trẻ nữa, bà mỉm cười nhìn hai đứa bé bước ra vườn hoa. Chú quản gia họ Trần đứng chờ bên cạnh từ đầu chí cuối, thấy vậy bèn cười: “Bà chủ, lo chuyện này ngay từ bây giờ có phải hơi sớm không? Mấy đứa vẫn còn nhỏ mà.”

Bà Mạnh sửa lại cổ áo cho Chiêm Chiêm, mỉm cười nói: “Giờ ở Hán Khẩu nhà họ Phan như mặt trời ban trưa, nhà họ Mạnh chúng ta lại sống dựa vào ngành vận tải đường biển, nếu hai nhà hợp lại thành một thật thì chẳng phải là chuyện tuyệt vời vẹn cả đôi đường sao? Chú Trần này, chắc chú không biết rồi, lũ nhóc càng nhỏ, tính toán trước lại càng tốt, tôi thấy chúng nó cũng quý nhau lắm. Chỉ cần lũ trẻ vui, người lớn cũng được mừng lây, cứ bảo người Quảng Đông xa cách khó giao thiệp, nhưng thật ra cũng dễ gần đấy chứ. Phải không?”

“Bà chủ nói phải.” Chú Trần cười.

Vườn hoa có đẹp nữa thì cũng chẳng níu được lòng dạ Cảnh Ninh, cô bé đứng bên hồ một lúc rồi hỏi: “Người ta gán cái vườn hoa này cho nhà cậu thật hả?”

Tử Chiêu ngẩn ngơ: “Tôi lừa cậu làm gì? Đừng nói là vườn hoa mà cả lầu diễn hí với phòng trà đều thuộc về nhà tôi cả.”

“Vậy chúng ta có thể đi qua lối mấy tòa nhà đó chứ?”

“Đương nhiên rồi, cổng hai nhà thông nhau, nhưng gia đình chúng tôi muốn tỏ ý tôn trọng ông Lưu nên bình thường không ra vào cửa nhà ông.”

“Nếu tôi muốn qua đó xem thì có phiền không?”

“Cậu muốn xem thì cứ xem đi. Tôi có phải người hầu của cậu đâu.”

“Thế cậu đứng đây chờ tôi, tôi qua ngó rồi lát sẽ về.” Cảnh Ninh chỉ chờ câu này của Tử Chiêu.

Cô nhân cơ hội bỏ lại Tử Chiêu phía sau, chạy thẳng tới xưởng sản xuất thuốc lá Nam Dương gần cổng Lưu Viên. Hồi trước, những lúc đẹp trời, Cảnh Sâm thường dắt cô và Cảnh Huyên tới khu chợ phiên ở đó xem xiếc, ăn quà vặt, mấy hôm trước trốn học ngồi nhà đáng ra cô cũng có thể đi chơi, nhưng thời tiết xấu quá, sức khỏe cô lại không được tốt nên đành nhịn. Cảnh Ninh vòng vèo qua mấy chỗ rẽ, hỏi đường hai người thợ làm vườn, cuối cùng cũng tìm tới cổng chính Lưu Viên. Người gác cổng Lưu Viên bắt gặp cô bé xinh xắn lạ mặt này, nghĩ đây là thân thích nhà họ Mạnh, còn nhiệt tình chào hỏi cô. Cảnh Ninh mừng rỡ, đang định bước khỏi cửa đã nghe người gác cổng nói: “Cậu Mạnh, cậu định đi đâu vậy?”

Cảnh Ninh thầm thốt một câu “Không hay rồi”, cô bé chẳng buồn quay đầu, cứ thế vắt chân chạy mất, nghe phía sau có tiếng bước chân dồn dập, cánh tay cô bị ai đó kéo lại.

“Cậu dám gài tôi hả? Cậu mà chạy mất tôi biết ăn nói thế nào với mẹ?” Trán Mạnh Tử Chiêu rịn đầy mồ hôi, chắc là đã đuổi theo cô một lúc rồi.

Cảnh Ninh bèn thuận đà níu lấy tay cậu: “Tôi chỉ muốn ra ngoài mua ít đồ thôi mà, sắp đến sinh nhật Phương Kỳ Kỳ, tôi phải tặng quà cho cậu ấy. Cậu đi với tôi đi, mua xong tôi sẽ theo cậu về.”

Cô chủ động ghé lại gần, cậu lại đâm ngượng. Cảnh Ninh biết thừa tính tình Tử Chiêu rồi. Quả như cô đoán, cậu khẽ rút tay lại, ngoẹo đầu nói: “Lại còn mua đồ hàng rong tặng bạn nữa, đúng là bủn xỉn.”

Cảnh Ninh chẳng hề xấu hổ, cô sải bước tiến phăm phăm về phía trước, vừa đi vừa nói: “Cái lược năm ngoái Phương Kỳ Kỳ tặng tôi cũng mua ở đó, còn lừa tôi là đồ tốt nữa, hừ, bỏ một đồng là mua được bốn cái liền. Kiểu gì năm nay cũng tăng giá rồi, dù giờ tôi mua mang tặng lại thì cũng lỗ vốn!”

Mạnh Tử Chiêu kinh ngạc trợn tròn mắt.

Cảnh Ninh nói tiếp ngay: “Tôi phải mua nhiều một chút, rồi về trường bán với giá rẻ hơn ngoài cửa hàng to 30%, thế là huề vốn. Tôi đã tìm sẵn cả khách, có nhiều người muốn mua lắm! Cậu có thể xem xem có món nào bán được cho đám bạn du thủ du thực của cậu không.”

Mạnh Tử Chiêu sợ điếng người: “Phan Cảnh Ninh, tôi phục cậu thật đấy.”

“Phục rồi hả? Để tôi nói cho cậu nghe thêm một bí mật.”

“Gì vậy?”

Cảnh Ninh đắc ý: “Từ hồi bốn tuổi tôi đã biết kiếm tiền rồi.”

Cô khoác lác kể rằng từ hồi còn nhỏ, người nhà đã dạy ba anh em cô lao động kiếm tiền, mùa hè ở Hán Khẩu ẩm ướt nhiều mưa, dưới bậc thang, rồi trên bờ tường có rất nhiều ốc sên, cha cô ra giá thu mua mỗi con ốc sên một xu, thế là cô và hai anh mình cùng hồ hởi đi bắt ốc sên, bỏ chúng vào bình đưa cho chú quản gia Hà, rồi chú Hà sẽ gửi lại cha, đổi lấy tiền cho chúng, anh hai bắt được nhiều nhất, anh cả bắt được ít nhất, cô xếp thứ hai.

“Sinh gớm(*)!” Mạnh Tử Chiêu bật lên tiếng cảm thán đậm giọng Vũ Hán, cậu vỗ ngực cau mày tỏ vẻ ghét bỏ, nhưng cặp mắt Cảnh Ninh lại cong lên, cô nở nụ cười thật nhẹ, thấy cô cười ngọt ngào là vậy, cậu cũng bất giác cười theo.

 (*) Sinh gớm: Tiếng địa phương, có nghĩa là ghê gớm.

Cảnh Ninh cúi đầu chọn đồ chơi, cô nhớ lại những chuyện cũ thời thơ ấu của mình mà lòng tràn ngập trong cảm giác ấm áp.

Thật ra bí mật thực sự chính là Cảnh Sâm, anh trai của cô.

Người bắt được nhiều ốc sên nhất chính là anh, anh đưa cô rất nhiều ốc sên, rồi lại chia một phần cho Cảnh Huyên, số còn lại anh không giao cho chú Hà mà bán cho một hiệu thuốc Đông y, số tiền anh kiếm được được lớn hơn nhiều so với tiền của cả cô lẫn anh hai cộng vào. Đây là bí mật giữa cô và anh cả, vì mỗi lần anh cả kiếm được tiền, anh sẽ lén dắt cô đi chơi, mua cho cô đồ ăn vặt rất ngon, còn có cả món hạt dẻ mà cô thích nhất. Anh cả đuổi người giúp việc đi, dắt cô rời Tô giới, vừa đi anh vừa kể chuyện cho cô, kể xong ba câu chuyện là tới hàng thuốc. Sau đó, cô nhìn anh cả cò kè trả giá với mấy ông chủ hàng thuốc, anh khéo ăn khéo nói, gương mặt tràn đầy nhựa sống, khiến cô nhìn không cũng sùng bái nể phục, thậm chí cô còn nghĩ sau này lớn lên, có khi anh cả sẽ trở thành một thương nhân đáng gờm hơn cả cha họ.

Trên đường về nhà, cô hỏi: “Anh ơi, anh có cõng em không?”

“Ha ha, anh kiếm được tiền rồi, chúng mình ngồi xe kéo về nhà nhé, có được không?”

Bọn họ ngồi trên xe kéo, vui vẻ băng qua làn nắng vàng trong suốt, trên đường đi, anh cô thoải mái phóng khoáng tới lạ, anh hát cô nghe điệu ca dân gian Quảng Đông, kể chuyện cười cho cô, khiến cô cười khanh khách mãi, lúc đi ngang qua đường Trường Xuân, người anh nói tiếng Hồ Bắc hẵng còn trúc trắc của cô chợt đứng thẳng dậy, anh rướn mình kêu lên với người đàn ông mặc quần áo Nhật Bản tay đang dắt một chút chó sư tử: “Ăng (ăn) chó của ông!”

Người đàn ông Nhật Bản ngơ ngác nhìn anh, chú chó nhỏ tức giận sủa ầm lên, anh cô cười ha hả. Cô thấy vui, cũng ghé lại thét: “Ăn chó của ông!”

Hai đứa bé làm loạn cả lên, phu xe cũng phải bật cười: “Hai đứa bé này, mau ngồi yên đi, đúng là nghịch quá thể!”

Cô cười tới độ thở hổn hển, gương mặt bé xinh đỏ bừng, anh ôm chặt cô vào lòng, vuốt lông mày cô: “Bé Hạt Dẻ, có vui không?”

“Vui!”

Anh bóc một miếng hạt dẻ bón cho cô, cặp mắt sáng long lanh của anh khẽ chớp.

“Em không được kể với ai đâu đấy, đây là bí mật của bọn mình.”

“Vâng!”

Rồi dần dần, anh cô trưởng thành, ít nhiều anh đã thay đổi, những bí mật chung giữa hai người cũng càng lúc càng ít đi, nhưng cô sẽ nhớ mãi không bao giờ quên hương vị ngọt ngào ấm áp của miếng hạt dẻ anh đút cho cô, rồi cả cái ôm ấm sực, hay tiếng cười vang vui vẻ ngày ấy.
 
Quyển 1 - Chương 12


Chọn đồ xong xuôi, Cảnh Ninh rút tiền trả cho chủ sạp, thật ra Tử Chiêu đã thò tay vào túi áo từ lâu rồi, nghĩ một hồi, cuối cùng cậu vẫn để cô trả tiền, miệng còn giải thích: “Không phải tôi không định trả đâu, là chính miệng cậu nói cậu tặng tôi đấy nhé.”

Cảnh Ninh lườm cậu: “Lằng nhà lằng nhằng, y như phụ nữ.”

Vẻ giận dữ thoáng xẹt qua mắt Mạnh Tử Chiêu, chỉ chực lên cơn tới nơi, nhưng cuối cùng cậu vẫn cắn môi, bực bội thốt: “Phan Cảnh Ninh, cậu mà khách sáo với tôi một chút xíu thôi là tôi đã chẳng ghét cậu thế này.”

Cảnh Ninh không biết mình nên đáp lại lời Mạnh Tử Chiêu ra sao, trong chớp mắt, cô lại hồi tưởng về chuyện khi trước.

Trường của bọn họ là ngôi trường trung học chung cho nam nữ duy nhất tại Hán Khẩu. Nam nhiều nữ ít, quá nửa số học sinh là con nhà giàu sang phú quý, chỉ hiếm hoi vài người có gia cảnh thường thường. Mạnh Tử Chiêu chẳng mấy khiêm tốn dè dặt, trưa nào cũng có người giúp việc đưa đồ ăn từ nhà tới, còn Cảnh Ninh thì ăn cơm trường cùng các bạn. Có một buổi trưa, người làm nhà họ Mạnh lại đưa đồ ăn đến như thường lệ, mấy cậu ấm ăn đồ nhà làm ngồi tụ tập quanh chiếc bàn riêng, nào móng giò nướng, nào bún thịt, nào vịt quay, nào cá Vũ Xương bày ê hề ngập bàn, toàn là sơn hào hải vị, đám trẻ con nhà bần hàn không khỏi liếc mắt ngó bàn ăn của các cậu ấm, ánh mắt chúng ngập tràn đủ những cảm xúc trên đời. Có một cô bé đưa mắt nhìn họ, Tử Chiêu bắt gặp bèn vẫy tay với cô bé, có lẽ cậu cũng có ý tốt, nhưng Cảnh Ninh nghe giọng điệu cậu ta chỉ thấy sao mà bức bối khó chịu. Mạnh Tử Chiêu cười khì khì, bảo:

“Cậu đừng nhìn nữa, lại đây ăn đi, ngồi đây này.”

Cô bé ngượng tới nỗi chuẩn bị bật khóc, Cảnh Ninh giận dữ nói: “Cậu đừng có mà ra đó, cha tớ bảo ăn càng nhiều đồ ngon sẽ càng ngốc đi, bụng to còn não thì teo.” Rồi cô lại bồi thêm một câu, “Thường thì cái đám thùng nước gạo học tệ lắm.”

Tử Chiêu nổi giận bừng bừng, nhoáng cái đã đỏ rực cả mặt cả tai, vì đúng là thành tích học tập của cậu không được xuất sắc. Kể từ đó trở đi, lúc nào cậu cũng đối nghịch với cô.

Lúc này, ngoài vẻ uất ức ra, trong mắt Mạnh Tử Chiêu còn thoáng cả nỗi tủi thân, Cảnh Ninh nhìn cậu, cô khẽ thốt: “Thực ra tôi cũng không có ác ý với cậu.”

Có lẽ Tử Chiêu không nghe được lời cô nói, vì lúc này cậu đã quay người bước vội đi rồi, Cảnh Ninh bèn cất bước đuổi theo, cậu quay đầu nhìn cô: “Làm cái gì đấy?”

“Tôi sợ không theo kịp.”

“Cậu giỏi thế cơ mà, đi theo tôi làm gì?”

“Tôi là khách nhà cậu mà, nhỡ tôi lạc cậu biết ăn nói sao.” Cô cười khanh khách.

“Đi kiểu gì thì về kiểu đấy đi, có phải cậu không biết đường đâu.” Dù nói vậy nhưng vẻ mặt cậu đã dịu đi nhiều.

Có tiếng đàn nhị du dương vọng lại.

Đó là một đôi ông cháu hát rong ngoài đường. Ông cụ áo quần lam lũ tả tơi gồng sức kéo đàn, cô cháu gái hát hí khúc tô son phấn rẻ tiền, bôi trát đỏ ửng cả mặt, tóc túm thành búi, buộc chặt đến độ lộ cả đường viền chân tóc màu trắng, Cảnh Ninh nhìn mà đau thay cô gái. Cô gái cứ khi khóc khi cười, thỉnh thoảng lại diễn vài biểu cảm thiếu tự nhiên, bàn tay trắng nõn bày dáng vẻ lả lướt quyến rũ, khẩu âm cô gái này rất nặng, Cảnh Ninh nghe hồi lâu mới hiểu ca từ:

“… Gió Đông hóa gió Tây Bắc, gia tài như nước, khèn ngọc sáo vàng, mới khó cho nàng làm sao, hồn đoạn rồi, hồn đoạn Qua Châu…”

Cô gái cứ hát, cứ hát mãi, như thể cô đã dùng tất thảy sức mạnh trong cái cơ thể gầy gò ốm yếu của mình, nhưng lại không mấy người chịu nghe tiếng cô hát, cô chẳng có bao nhiêu khách, chỉ mình Cảnh Ninh là rung động trước giọng hát thê lương của cô gái, cơn lạnh lẽo tịch mịch bủa vây trong Cảnh Ninh. Thấy Cảnh Ninh, cô gái nọ đưa mắt nhìn cô chăm chú, lại càng ra sức cất tiếng ca, Cảnh Ninh lẳng lặng nghe cô gái hát xong khúc “Đỗ Thập Nương giận ném hòm châu báu” (*), vừa định vỗ tay đã nghe có tiếng vỗ giòn tan vang lên trước, hóa ra là Mạnh Tử Chiêu, cậu vừa vỗ tay vừa kêu to: “Hay, hát hay quá! Hát thêm khúc nữa đi!”

(*) Đỗ Thập Nương giận ném hòm châu báu là thoại bản thứ 32 trong tập Cảnh thế thông ngôn của tác giả Phùng Mộng Long, kể về nàng Đỗ Thập Nương vốn là con nhà quyền quý nhưng bị bán vào lầu xanh sau khi cha thất thế, về sau có Đỗ Thập Nương yêu chàng sĩ tử Lý Giáp, qua nhiều biến cố và vấp phải sự phản đối của gia đình Lý Giáp thì cuối cùng Đỗ Thập Nương cũng đã chuộc thân thành công, những tưởng chuyện tình hai người sẽ được viên mãn thì một tên công tử nhà giàu lại bắt gặp Đỗ Thập Nương và say đắm trước dung nhan xinh đẹp của nàng. Tên công tử đưa tiền cho Lý Giáp, đổi lại tỏ ý muốn chiếm đoạt Đỗ Thập Nương. Biết chuyện, Đỗ Thập Nương đau khổ, trang điểm lộng lẫy rồi mở hòm châu báu, giãi bày với Lý Giáp xong, nàng ném hòm châu báu và nhảy xuống sông tự vẫn.

Cảnh Ninh mỉm cười nhìn Tử Chiêu, rồi cũng vỗ tay vang dội khen hay, mọi người dần vây quanh cặp ông cháu hát rong. Trong tiếng ồn ào huyên náo, lòng hai người lại bình tĩnh như mặt hồ, thoáng gờn gợn chút cảm xúc không tên, như một đóa hoa đẹp đẽ tĩnh lặng, đến nỗi buồn thương do giọng ca phiêu bạt nơi chân trời vừa gợi lên cũng dần tan biến.

Đột nhiên cậu ghé tai cô, khẽ nói: “Cậu cứ xem đi, tôi đi mua chút đồ ăn, chúng ta vừa ăn vừa xem nhé?”

Hiếm khi cậu lại nói năng với cô bằng giọng điệu săn sóc hiểu chuyện nhường này, để giấu đi sự ngại ngùng, cô chỉ “ừ” một tiếng mà chẳng buồn liếc cậu. Hồi lâu sau, cậu lại quay ngược về, nói: “Này, tôi không biết cậu muốn ăn gì, hay cậu đi với tôi đi?”

Nơi đáy mắt cậu thoáng có tia khó xử, cuối cùng cô vẫn đi cùng cậu, sạp đồ ăn vặt cách đây khá xa, cô chầm chậm bước đi sau lưng cậu, nhìn bóng lưng thẳng tắp và ánh nắng lấp lánh đậu trên mái tóc đen sẫm của cậu, bất giác khóe môi cô lại cong lên.

Họ mua một túi kẹo vừng và một túi hạt dẻ, lần này Tử Chiêu giành trả tiền, hai tay cậu cầm hai túi đồ ăn vặt, trông bộ dạng vô cùng đắc ý, cô cũng mặc cậu, ung dung nhón đồ ăn trong túi bỏ vào miệng, ăn xong kẹo vừng thì ăn hạt dẻ, cậu cười cô: “Mèo tham ăn! Thùng nước gạo!” Cái vẻ ăn miếng trả miếng thoáng trong giọng điệu cậu lại chẳng khiến cô giận. Nhưng lúc họ trở về nơi hai ông cháu nọ mãi nghệ thì người cũng đã tản hết, không biết ông cụ kéo đàn nhị cùng cô cháu gái hát hí khúc đã đi đâu. Vũ đài phiêu bạt, vũ đài của đời người hẵng còn chưa căng màn, vậy mà đột nhiên cả người diễn lẫn kẻ xem lại cùng biến mất.

“Mọi người đâu rồi?” Tử Chiêu ngạc nhiên thốt, rồi lại quay sang hỏi một chủ sạp sửa giày nhỏ, “Cô bé hát hí khúc ban nãy đâu rồi ạ?”

“Đi mất rồi, ban nãy ông cụ ho ra máu, cô bé dìu ông đi khám bệnh rồi.”

Cõi lòng Cảnh Ninh chợt trống rỗng, nỗi hối hận và đau khổ ập tới, cuộn trào trong cô, khiến cô nghẹt thở khôn tả, lệ dâng đầy khóe mắt.

“Sao cậu lại khóc?” Tử Chiêu hốt hoảng hỏi.

“Tôi vẫn chưa cho họ tiền,” Cảnh Ninh nghẹn ngào, những giọt nước mắt trong veo nhỏ xuống, “đáng ra lúc đi mua đồ ăn tôi nên đưa tiền cho họ trước, tôi đúng là đồ xấu xa!”

“Cậu đừng buồn, là tự họ đi đấy chứ, cậu đừng trách bản thân.” Cậu kẹp hai túi quà vặt nơi cánh tay, rồi vươn tay còn lại ra tìm khăn tay đưa cô, “Ai bảo họ đi chứ?”

Cảnh Ninh không nhận chiếc khăn, cô giận dữ nói: “Cậu là đồ ngốc à? Ban nãy cậu không nghe thấy sao? Ông cụ ho ra máu đấy, ông ấy bị ốm! Cậu nói ai bảo họ đi là sao chứ? Nếu không phải cậu rủ tôi đi mua đồ ăn, tôi đã có thể cho họ tiền rồi, cậu là cái đồ thùng nước gạo không biết đồng cảm!”

Mặt Mạnh Tử Chiêu tái mét, cậu cười lạnh: “Đúng, đúng, tôi là cái thùng nước gạo, còn cô nàng thối nhà cậu là người thông minh nhất tốt bụng nhất trên đời này!” Nói rồi cậu vươn tay, quăng luôn hai túi đồ ăn xuống đất, rút cả mấy món đồ chơi nhỏ cô tặng trong túi áo ra ném đi, nào hồ lô, nào tượng gỗ hình đậu phộng, cứ thế ném phịch xuống đôi giày gấm màu xanh của Cảnh Ninh.

Cảnh Ninh cúi đầu nhìn trong chốc lát, rồi cô lại chợt ngẩng phắt đầu lên, vươn tay đẩy vai Mạnh Tử Chiêu, căm tức thét: “Đồ quỷ đáng ghét! Tôi ghét cậu!”

Mạnh Tử Chiêu chẳng kịp đề phòng, bị cô đẩy lùi liền mấy bước, cậu tức giận: “Cậu còn dám đánh tôi à, cậu dám đánh tôi hả?” Sau khi đứng vững rồi, cậu chỉ chăm chăm nghĩ cách dạy cho cô nàng một bài học, nhưng con trai không được đánh con gái, cậu tiến lên mấy bước, một tay siết chặt thành nắm đấm, nhưng cũng chỉ siết thế thôi chứ chẳng dám làm gì, nỗi giận dữ ứ đầy trong bụng không biết phải trút bỏ thế nào, cậu chợt ngẩng đầu lên trời, thét lên đầy bực tức.

Tử Chiêu mới chỉ mười ba, mười bốn tuổi mà thôi, giọng nói vẫn còn trẻ con, tiếng thét của cậu vang lên lanh lảnh, Cảnh Ninh quệt nước mắt, bụng thầm thấy buồn cười, cứ ngơ ngác nhìn cậu với vẻ mặt vô cùng rối rắm. Thét xong, cậu vẫn chưa hết giận, thấy mắt cô vẫn còn ngấn nước, nhìn cậu như cười như không, cuối cùng cậu không chịu nổi, bèn kéo cô lại, cúi đầu cắn lên gò má trắng mềm của cô, dù cắn chẳng mạnh nhưng vẫn lưu lại một dấu răng nông. Thấy vẻ sửng sốt mắt trợn trừng, miệng há hốc của cô, nỗi giận dữ của cậu cũng vơi đi phân nửa, cậu ngẩng đầu nói: “Có còn dám bảo tôi giống phụ nữ không? Đồ nhóc thối.”

“Bốp!”

Mặt cô có vết răng, mặt cậu có dấu tay. Cô ném luôn chiếc túi đang cầm xuống rồi giáng cho cậu một cú bạt tai, cậu vội vã tránh né, nhưng cô nàng này đánh rất mạnh, khiến cậu không đứng vững nổi, cứ thế ngã nhào xuống đất, xô đổ mất cả chiếc hộp gỗ của sạp sửa giày, mấy món đồ nghề rơi vãi đầy đất.

Cảnh Ninh níu lấy cổ áo cậu, cô khóc ầm lên: “Đồ khốn kiếp, cậu dám bắt nạt tôi! Không ai dám bắt nạt tôi cả, đồ ngốc!” Cảnh Ninh khóc toáng lên, siết tay nện thùm thụp lên người cậu, Mạnh Tử Chiêu ôm mặt trốn chui trốn lủi.

Người qua đường thấy hai đứa bé ăn vận đẹp đẽ xông vào đánh nhau mà cùng bật cười khuyên nhủ, nhưng lại không lôi đám trẻ đang thượng cẳng chân hạ cẳng tay ra, chỉ coi như đang xem một màn kịch hài hước. Tử Chiêu xấu hổ, bèn kéo giật Cảnh Ninh ra rồi bò dậy chạy mất, Cảnh Ninh đuổi theo túm lấy áo quần cậu không chịu buông, cô bé vừa kéo vừa dùng chân đá, dấu giày in đầy trên quần cậu.

“Phan Cảnh Ninh, cậu buông tay ngay ra cho tôi! Cậu mà không buông tay thì tôi sẽ đánh cậu đấy! Đừng có tưởng tôi không dám…”

“Đồ ngốc!”

“Tôi đánh thật đấy!”

“Thùng nước gạo!”

“Con bé thối!”

Cậu gồng sức gỡ bàn tay bé xíu của cô ra, làm bộ định dọa cô, nhưng lại thấy có một người đang gạt đám đông sang, tiến về phía họ, anh xách cánh tay cậu lên, gương mặt tuấn tú nho nhã lạnh buốt như băng: “Cậu Mạnh, đánh con gái không phải điều mà một cậu chủ thế gia nên làm đâu, cụ ông chưa từng dạy cậu vậy sao?”

Mạnh Tử Chiêu ngẩng đầu, cậu biết người này, đó là anh trai của Phan Cảnh Ninh, cậu cả nhà họ Phan – Phan Cảnh Sâm. Chợt nhuệ khí của cậu lại cạn kiệt.

“Em không đánh cậu ấy, em chỉ…” Cậu chợt không biết giải thích ra sao, ấp úng thốt, “Em chỉ… cậu ấy đánh em trước, em không hề đánh cậu ấy!” Cậu hơi lo Cảnh Ninh sẽ giở trò xấu tố cáo mình, bèn vội vã đưa mắt nhìn cô.

“Ninh Ninh, chuyện này là sao vậy? Có phải thằng bé bắt nạt em không?” Cảnh Sâm buông Tử Chiêu ra, đưa mắt nhìn em gái mình.

Cảnh Ninh không trả lời anh, vẻ mặt cô trở nên vô cùng kỳ quặc.

Hai tay cô chắp sau lưng, môi khẽ run lên, cô chớp đôi mắt to đầy sợ sệt: “Anh ơi…”

“Ừ?”

“Em…” Cô lẩm bẩm mấy từ, anh không nghe rõ.

“Sao cơ?” Cảnh Sâm cúi xuống, ghé sát tai lại.

Cảnh Ninh nức nở, cô bé khẽ thốt: “Váy em rách rồi.” Nước mắt cô trào ra.

Cảnh Sâm giật mình, quay ra nhìn sau lưng cô, chẳng biết phần váy sau mông cô bé đã bị thứ gì kéo toạc đến tận đầu gối, hai tay cô che sau mình, dù cũng giấu được chút ít nhưng vẫn có thể loáng thoáng thấy chiếc quần cụt hồng và làn da trắng mịn như tuyết.

Thời tiết độ cuối xuân nóng bức như đầu hè, mọi người đều chỉ mặc áo đơn mỏng, Cảnh Sâm không có áo khoác để cởi ra choàng cho Cảnh Ninh, anh dời bước ra sau lưng cô bé theo bản năng, che mất tầm mắt mọi người. Mạnh Tử Chiêu thò đầu ra nhìn, khiến Cảnh Sâm không khỏi tức giận: “Cậu Mạnh, cậu lại muốn làm gì nữa? Cậu còn ngại chưa đủ chuyện rắc rối hay sao?”

Mạnh Tử Chiêu không nói gì, chợt cậu nghiến chặt răng, tháo từng chiếc cúc sơ mi, thấy cậu như vậy, Cảnh Ninh hiểu ngay, cô định che mắt lại, nhưng nếu che mắt thì mông sẽ bị lộ, vậy là Cảnh Ninh đành phải nhắm chặt mắt.

Mạnh Tử Chiêu cởi áo sơ mi ra, ném lên người Cảnh Ninh, cậu kêu to: “Cô nhóc thối, cho cậu che mông này!” Nửa thân trên gầy gò trần trùng trục, cậu bé ôm lấy hai tay, đỏ mặt chạy vụt đi trong giọng cười của đám người và tiếng khóc giận dữ xấu hổ của Cảnh Ninh.

Chiếc áo sơ mi trắng muốt khoác trên vai Cảnh Ninh, hơi thở ấm áp trong lành quẩn quanh, chẳng biết cậu ấm kiêu ngạo bướng bỉnh nọ đã trở về nhà với tâm trạng ra sao, chật vật tới nhường nào. Đương nhiên Cảnh Ninh biết cậu sẽ phải đối mặt với sự quở trách nghiêm khắc của bà Mạnh, nhưng cô không hề lo lắng. Cô đang nghĩ, có khi cái gương mặt đáng ghét của cậu cũng đang lặng lẽ nở một nụ cười nhỏ xíu như cô lúc này đây?

Cảnh tượng ngày hôm ấy khắc sâu vào tâm trí cô. Cô sẽ mãi nhớ mình từng nhìn bóng lưng Mạnh Tử Chiêu tháo chạy qua hàng nước mắt ầng ậc cùng dòng người hư ảo mơ hồ, sức sống hừng hực ấy, sự náo nhiệt ồn ã ấy hệt như điệu Menuet cô từng đàn, gấp gáp, sáng trong. Dù cô đang khóc, nhưng chỉ mình cô biết rằng những giọt lệ ấy chẳng vương chút buồn bã. Đó là những ngày tháng đẹp đẽ nhất, tất thảy những tiếng cười, những trận cãi vã, tất thảy những giọt lệ, những lời than vãn đều là niềm vui, là huyên náo, là ánh sáng. Chúng chẳng mảy may dính dáng đến cái thứ gọi là đau thương, đau thương chỉ có thể lặng lẽ nằm ở đầu bên kia cuộc đời, trộm nhìn bọn họ từ xa.

Cảnh Ninh chật vật vắt chiếc áo ngang hông, buộc tay áo lại với nhau, ngẩng đầu lên thấy vẻ mặt chẳng lấy gì làm vui vẻ của anh mình, cô bé gạt lệ, ngoan ngoãn cúi đầu xuống.

Đến khi lên xe rồi, tài xế cho xe chạy ra đường lớn, Cảnh Sâm mới đưa mắt nhìn cô: “Ở nhà em có bướng bỉnh thế nào cũng được, nhưng hôm nay em đến nhà người ta làm khách, em là con gái mà lại nghịch ngợm đến rách cả váy, người ta sẽ nhìn em thế nào đây? Người ta sẽ nghĩ sao về gia giáo nhà họ Phan chúng ta?”

Cô nhìn anh bằng đôi mắt to sưng đỏ vì khóc, cố gắng chuyển đề tài: “Anh ơi, sao anh lại tới đón em? Sao anh biết em ở chợ?”

Cô chẳng hề hay biết gò má phải mình còn có một dấu răng mờ mờ, vết răng in sâu cả vào mắt Cảnh Sâm. Cảnh Sâm thoáng nheo mắt, có tia sáng mờ nhạt vụt qua đôi đồng tử: “Sao hai đứa lại đánh nhau thế?”

Cảnh Ninh bèn kể đầu đuôi câu chuyện cho Cảnh Sâm, dù anh đang nghe, nhưng dường như lại thoáng vẻ lơ đãng, đến lúc cô nhắc tới chuyện hai ông cháu hát rong đáng thương, ánh mắt anh mới dần dịu lại: “Em là một cô bé tốt bụng, một cô bé rất tốt, rất rất tốt.”

Lòng Cảnh Ninh rung động, dường như cô từng nghe thấy câu nói này rồi, thoáng có vẻ lạnh lẽo cô độc lẩn khuất trong câu chữ, và trong cả ánh mắt anh, khiến cô ngơ ngẩn hoang mang. Trông cô ngơ ngác, Cảnh Sâm kìm lòng không đậu, vươn tay định chạm vào má cô bé, nhưng rồi anh lại bị thứ gì đó bó chặt lại, khiến cơ thể anh đông cứng. Cảnh Sâm rút tay về, cầm một cái bọc nhỏ bên cạnh lên, đặt xuống chân cô: 

“Ban nãy em vứt nó đi, lúc hai đứa đánh nhau anh đã nhặt lại giúp em.”

Đó là mấy món đồ chơi nhỏ cô mua ngoài sạp hàng rong, anh nhặt từng món một lên, phủi sạch bụi bặm bám trên chiếc khăn tay, rồi lại cất vào bọc mới cho cô, khi ấy cô chẳng hề để ý.

Chiếc xe hơi băng qua những con phố hai người từng rảo bước, phố xá vẫn là phố xá năm xưa, chỉ là dáng vẻ nó đã vô tình bị bóp méo đổi thay trong ký ức con người. Có lẽ một ngày nào đó cô sẽ quên đi tất cả, còn anh thì không thể không quên.

Anh từng là người đầu tiên đưa cô tới khu chợ ngoài xưởng sản xuất thuốc lá Nam Dương, có lẽ cô đã chẳng còn nhớ từ lâu rồi. Nhưng anh hiểu cô, khi nghe bà Mạnh bảo không biết Mạnh Tử Chiêu và cô chạy đi đâu chơi rồi, anh nghĩ tới nơi này đầu tiên.

Lần đầu anh đưa cô tới đây, cô vẫn còn nhỏ, mới chừng ba bốn tuổi, lúc anh bế cô, lúc thì cõng, khi lại để cô nghiêng ngả đi theo sau lưng mình như một chú vịt con vui vẻ. Anh là một đứa trẻ lầm lì, trước nay anh luôn giấu kỹ nỗi lòng, không để ai hay, chỉ có thể thỉnh thoảng để lộ tính cách thật của bản thân với mình cô em gái đáng yêu này.

Bọn họ tình cờ bắt gặp một nhà sư đang vân du. Bảo ông là nhà sư, nhưng lại cũng chẳng giống một nhà sư, áo đen dép cói, mái tóc đã ngả hoa râm, ông ngồi trên chiếc ghế dài trong quán trà, cạnh đó là nửa chén trà đã lạnh.

Cứ thấy người nào ăn mặt lam lũ, mà đặc biệt là người già, Cảnh Ninh lại sinh lòng thương xót, cô bé ghé sát lại, thì thầm bên tai Cảnh Sâm: “Anh cả ơi, mình mua gì cho ông La Hán ăn đi.”

Cảnh Ninh từng tới chùa Quy Nguyên, trong đầu cô bé, ông già để tóc, mặc áo nhà sư rất giống một vị La Hán mà cô bé từng chạm vào, vậy nên cô bé gọi ông là ông La Hán. Cảnh Sâm bế Cảnh Ninh, quay đầu nhìn cặp mắt rưng rưng của cô bé, anh thấy vô cùng xúc động, không cầm lòng nổi, anh thơm mạnh lên gương mặt mập mạp của Cảnh Ninh, nói: “Anh thích Bé Hạt Dẻ, Bé Hạt Dẻ là một cô bé tốt bụng, là một cô bé rất rất tốt.”

Anh mua hai chiếc bánh bao chay, đưa cho “ông La Hán”, nhà sư nhận bánh, cất tiếng cảm ơn rồi nhìn họ. Ông điềm tĩnh quan sát hai đứa bé bằng cặp mắt trong veo.

Cảnh Ninh hỏi: “Ông La Hán ơi, ông đi bộ nhiều lắm ạ?”

Nhà sư cười gật đầu.

Cảnh Ninh chỉ vào giày ông: “Giày của ông bị rách rồi.”

Nhà sư lại cười, lại gật đầu. Dù ông tiều tụy nhưng lại chẳng hề dơ dáy, mình thoang thoảng hương thơm quần áo được giặt hồ.

“Ông La Hán ơi, ông đến từ đâu vậy ạ?”

“Ta đến từ Nam Kinh, cô bé từng nghe tới Nam Kinh chưa?”

Cảnh Ninh lắc đầu, phần tóc mái dày bị gió thổi rối bù, Cảnh Sâm đứng bên cạnh vươn tay vuốt lại tóc cho cô bé.

Nhà sư nhìn Cảnh Sâm, rồi lại nhìn Cảnh Ninh, vẻ mặt ông bình tĩnh phẳng lặng như nước.

“Nam Kinh có vui không ạ?”

“Biết đâu sau này cô bé sẽ tới đó, tới nơi con sẽ biết.” Nhà sư ôn tồn đáp, ông đưa mắt nhìn Cảnh Sâm, “Chắc chắn là cậu bé có biết đến Nam Kinh rồi.”

Cảnh Sâm mỉm cười: “Nam Kinh có Phượng Hoàng đài, còn chỗ chúng ta lại có Hoàng Hạc lâu. Đài cũ Phượng Hoàng tạm ghé chơi, Hút bóng Trường An xót lệ rơi (*)… Người xưa cưỡi hạc đã về đâu, Khói sóng trên sông dạ khuất sầu (**). Cảnh vật hai nơi này đều khiến con người ta phải âu sầu!” 

(*) Trích bài thơ Lên đài Phụng Hoàng ở Kim Lăng, Lý Bạch, bản dịch của Hải Đà.

(**) Trích bài thơ Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu, bản dịch của Hoàng Giáp Tôn.

Nhà sư mỉm cười. Có cơn gió nhẹ thoảng qua, thổi bay một góc túi đồ bên cạnh nhà sư, trong đó có bút vẽ cùng tấm giấy. Nhà sư nói cho Cảnh Sâm và Cảnh Ninh hay ông tới từ Nam Kinh, gặp được một ngôi miếu nên mới nán lại đôi ngày. Ông có biết sơ về hội họa nên mấy hôm lưu lại đã giúp tu sửa tranh vẽ cùng tượng Phật trong miếu.

“Vậy nên cô bé à, ta không phải La Hán, nhưng ta từng vẽ rất nhiều những vị La Hán đấy.” Nhà sư nói với Cảnh Ninh.

Cảnh Ninh lẳng lặng kéo lấy vạt áo Cảnh Sâm. Cảnh Sâm cúi đầu nhìn cô, cô bé đưa mắt trông đôi giày vá chằng chịt của nhà sư. Cảnh Sâm liền móc một đồng bạc ra khỏi túi, đây là “tiền để dành” anh gom góp nhờ bán ốc sên cho hàng thuốc, anh kính cẩn đặt đồng bạc lên bàn, hạ giọng nói: “Xin ông nhận cho ạ, đây là tấm lòng của cháu và em gái cháu, ông hãy cầm lấy mua một đôi giày tốt.”

Gương mặt trắng bóc của anh ửng đỏ. Kiểu bố thí này khiến cả anh cũng phải thấy ngại, vì anh sợ nhà sư sẽ nghĩ mình coi thường ông, vậy là Cảnh Sâm bế Cảnh Ninh lên ngay, anh nói: “Ninh Ninh, chúng mình về nhà thôi.”

“Cháu chào ông La Hán!” Cảnh Ninh vẫy tay chào tạm biệt nhà sư.

“Cô bé, cậu bé, xin hãy dừng bước.” Nhà sư quay mình mở bọc đồ lấy giấy bút ra, ông nói, “Các con đã biếu ta đồ ăn và lộ phí, ta lại không có gì để tặng lại, đành vẽ cho các con một bức tranh coi như đáp lễ.”

Cảnh Ninh vỗ tay: “Vâng ạ vâng ạ!” Cảnh Sâm cũng rất vui mừng, bèn bế cô bé ngồi xuống trước mặt nhà sư.

Nhà sư trải phẳng tờ giấy trắng cỡ một thước, ông thoáng ngẫm nghĩ rồi phác họa mấy đường trên giấy.

Núi non xa xăm, sông nước khoáng đạt, một chiếc thuyền con, như đứng từ trên cao nhìn xuống, chiếc thuyền nhỏ trôi giữa núi sông trông trơ trọi bé nhỏ tới lạ. Nhà sư ngẫm nghĩ rồi lại điểm một đàn chim nhạn trên không, vẽ xong, ông quay đầu nhìn hai đứa bé: “Ta đã có tuổi nên nét bút đâm cũng lạnh lẽo thê lương, không hợp với các con. Nhạn Bắc bay về phương Nam, tìm tới nơi ấm áp trú đông, đông qua xuân tới, rồi lại quay về cố hương, tranh có chúng cũng tươi vui hơn, lại thêm ý nghĩa.”

“Vậy thì,” Cảnh Ninh trỏ đàn nhạn, “mấy chú chim này đang trên đường về nhà, hay là đang rời nhà đi về phương Nam vậy ạ?”

“Cô bé có thể tự nghĩ theo ý mình muốn.”

“Cháu mong chúng đang về nhà!” Cảnh Ninh hô vang.

Bức họa ấy được Cảnh Ninh giữ gìn, về sau chẳng biết tại sao lại không tìm thấy, nhưng Cảnh Sâm không bao giờ quên những câu thơ nhà sư đề trên bức vẽ:

Thuyền lớn muôn vạn bạc,

Đại dương sâu ngút ngàn,

Nhặt cỏ thơm về trễ,

Mưa xuân chìm lòng sông.

Nó như lời sấm, báo hiệu trước một điều gì đó.
 
Quyển 1 - Chương 13


Hoàng hôn buông, cơn mưa ào ào kéo tới, hơi nước mang theo hương hoa ập đến, thế giới huyên náo bị ngăn lại sau những lùm cây dày đặc, dinh thự nhà họ Phan nằm im trong cơn tĩnh mịch, tựa một tòa lầu các chỉ xuất hiện ở những giấc mộng.

Vân Thăng mở cửa xe cho Huệ Lan: “Mời cô Huệ Lan xuống.”

Huệ Lan xuống xe, cô siết lại tấm áo choàng. Mấy tay bảo vệ mới tới vẫn đang đi tuần xung quanh biệt thự nhà họ Phan. Vào đến cổng, Vân Thăng đi trước dẫn lối, những gốc thủy tùng cùng ngô đồng mọc sum suê hai bên đường, hương hoa hồng rất đậm, ánh trăng rọi lại, chiếu bừng những đụn mây trên không trung, hòa vào cùng ánh đèn, mà khuất dưới đám cây hoa, bóng tối lại trĩu nặng dày đặc.

“Cô Huệ Lan đã dùng bữa chưa? Chúng tôi đã chuẩn bị cơm nước xong xuôi, cô có thể ăn trước trong bếp.” Vân Thăng nói.

“Tôi đã ăn rồi, cảm ơn anh.”

“Cô Huệ Lan vẫn chưa quen hả?” Vân Thăng thoáng khựng bước, quay đầu nhìn Huệ Lan. Trong bóng tối mờ ảo, anh ta không thấy rõ ánh mắt của cô gái xinh đẹp này nên đành bước tiếp, vừa đi Vân Thăng vừa nói: “Nếu cô muốn ở lại cái nhà này lâu thì vẫn nên làm quen đi. Nói chung, chủ nhà này đối xử khá tốt với tôi tớ, cô Huệ Lan cũng từng làm thuê ở gia đình khác rồi, cô cứ so sánh là biết.”

“Tôi không phải tôi tớ của nhà họ Phan, tôi cũng không muốn ở lại đây lâu dài.” Giọng điệu Huệ Lan vẫn rất lịch sự, nghe chẳng rõ vui buồn.

Vân Thăng mỉm cười, không nói gì thêm.

Mặt Huệ Lan dửng dưng như không.

Cô cũng tạm được coi như giáo viên của Phan Cảnh Ninh. Một năm trước gia sư dương cầm của Cảnh Ninh trở lại Đức, trắc trở một phen, cuối cùng Huệ Lan cũng cầm được thư giới thiệu của Trường Trung học Nữ sinh St. Joseph, tới nhà họ Phan nhậm chức.

Cô bé Phan Cảnh Ninh 11 tuổi sống trong sự yêu chiều của cha mẹ cùng anh trai, lúc nào cũng toát lên vẻ vui tươi hạnh phúc đã để lại ấn tượng sâu sắc cho Huệ Lan. Cô chủ họ Phan lại chẳng hề kiêu căng, Huệ Lan hoàn toàn không lo lắng tới chuyện phải ứng phó với một thiên kim tiểu thư ngang bướng bất tuân, về điều này Huệ Lan công nhận mình phải cảm ơn Cảnh Sâm. Cậu cả nhà họ Phan đã đích thân giám sát mười buổi học đầu của họ. Trước mặt anh trai, Cảnh Ninh rất ngoan ngoãn, chỉ mong thể hiện tài năng và sự nhạy bén của mình trên phương diện âm nhạc, cô bé học hành rất hăng say, nhưng thỉnh thoảng vẫn hơi biếng nhác, mỗi lần cô bé giở chứng lười biếng, cậu cả Phan lại tự tay bưng đồ ngọt tới, có lúc là hạt dẻ rang mua bên ngoài, đôi khi là bánh ngọt nhà làm, rồi thỉnh thoảng anh lại nảy ra ý tưởng độc đáo, cho người làm qua Tô giới Đức mua bánh gừng, rồi anh vào phòng bếp lấy xi rô nóng, viết tên em gái lên bánh, dỗ cho em mình vui.

Anh luôn nở nụ cười thoáng vẻ bất lực với cô em gái: “Em trông kìa, nếu em mà còn không học hành chăm chỉ thì chẳng phải sẽ phụ lòng anh sao?”

Huệ Lan cũng nghĩ vậy.

Cảnh Ninh hào phóng chia một phần đồ ăn cho Huệ Lan, Cảnh Sâm chỉ mỉm cười nhìn họ ăn. Nghe nhắc đến tôn giáo của Huệ Lan, anh chủ động mượn vài cuốn sách về tín ngưỡng của cô, sự dịu dàng khiêm nhường của chàng trai tuấn tú này khiến Huệ Lan rung động, cô thường mang một cuốn Kinh Thánh theo mình, trang giấy cũng đã lấm tấm ngả vàng, trên có chọn viết vài giáo lý kinh văn mà cô hay đọc. Bắt gặp cuốn sách này, Cảnh Sâm bèn dò hỏi xem có thể mượn đọc không, Huệ Lan không từ chối, đến chính cô cũng lấy làm kinh ngạc, cô đã mang cuốn Kinh Thánh đó bên mình từ nhỏ, nó chẳng đáng bao nhiêu tiền, nhưng lại là một trong những món đồ quý giá nhất của cô. Vậy mà chàng trai ấy chỉ thuận miệng thốt một câu thôi, cô đã chẳng buồn nghĩ ngợi, cứ thế đưa ngay cho anh. Tại sao lại như vậy? Huệ Lan tự nhủ, có thể là vì anh có một hàng lông mi rất dài, khi cúi đầu đầu đọc sách, trông anh rất đẹp. Về sau, bọn họ đã âm thầm phát triển một mối quan hệ vô cùng khăng khít. Với Huệ Lan mà nói, dù trong đây cũng có một phần nỗ lực của cô, nhưng chắc có lẽ Chúa toàn năng đang giúp cô cũng nên. 

“Sao anh lại muốn ở bên em?” Cô từng hỏi anh như vậy, khi ấy anh đã thuê cho cô một căn nhà nhỏ ở Vũ Xương, lo liệu toàn bộ học phí của cô, anh hứa về sau anh sẽ cho cô nhiều hơn, dù rằng cô chưa từng mở miệng yêu cầu.

“Còn em thì sao?” Anh hỏi ngược lại.

Cô lúng túng tới độ chẳng biết đáp lời ra sao. Dù có dùng lý do gì thì khi thốt ra nghe cũng chẳng êm tai. Thân phận địa vị hai người quá khác biệt, lúc này họ bên nhau, nếu bảo mình chưa từng trù mưu tính toán, mà đơn giản chỉ dành lòng mến mộ anh thôi thì ai mà tin nổi?

Anh tiện tay cầm cuốn Kinh Thánh đã trả lại cô từ lâu lên, lật giở, rồi lẩm nhẩm vài đoạn. Sau đó anh ngước mắt nhìn cô, mỉm cười nói: “Tôi đã thuộc lòng những câu chữ trong cuốn sách này rồi. Đoạn nào cũng đầy ý nghĩa. Huệ Lan, tôi biết người có đức tin sẽ không nói dối. Em thích tôi là vì em thật lòng thích tôi. Thế nên tôi cũng thích em.”

“Sao anh biết người có đức tin sẽ không nói dối?”

Trông vẻ nghiêm túc của Huệ Lan, anh véo má cô: “Nghe bảo Thượng đế của các em có những hình phạt rất nghiêm khắc, người nói dối sẽ phải xuống địa ngục, bị phạt nuốt một vạn cây kim.”

Gương mặt cô lộ vẻ run sợ, anh cười ha hả, giơ cao cuốn sách, khẽ cất tiếng đọc:

“Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.” Anh tựa cằm vào mép tóc đen óng của cô gái, nghiền ngẫm cất giọng, “Câu này có nghĩa gì vậy, ‘…Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.’ Có phải nó nói thế gian này đầy rẫy những kẻ ngu ngốc cố chấp, đến Thượng đế cũng phải bó tay không? Ha ha.”

Cô khẽ lách mình khỏi lòng anh, ngẩng đầu nghiêm nghị nói: “Em không phải đứa ngốc, nhưng em cũng sẽ không hối hận.”

Anh khẽ nhướng mày, đôi mắt đong ý cười nhìn cô, ánh mắt lấp lánh.

“Ý em bảo,” cô nhìn thẳng vào mắt anh, “em không hối hận vì ở bên anh, em có thể chứng minh cho anh thấy.”

“Em đối tốt với tôi một phần, tôi trả lại em mười phần. Huệ Lan, tôi cũng sẽ chứng minh cho em thấy.” Anh hôn lên khóe môi cô.

Lúc này, Huệ Lan đang lẳng lặng ngồi trong sảnh phụ, chờ người nhà họ Phan ăn xong bữa tối, đợi bọn họ dùng hết trà, cười nói tiến lại phòng nhạc, cô mới có thể bước vào. Quản gia Hà Sĩ Văn đi ngang qua gật đầu chào cô, cô cũng mỉm cười đáp lại. Vân Thăng theo sau Hà Sĩ Văn, một lúc sau, anh ta tự tay mang trà và điểm tâm lên cho Huệ Lan.

“Quản gia Hà dặn tôi không được thất lễ với cô. Cô cứ dùng thong thả đi ạ.” Vân Thăng ngẩng đầu mỉm cười với cô, đôi mắt dài hẹp mang ý vị khó thốt thành lời, khiến Huệ Lan thấy vô cùng phản cảm. Có khi đám người làm cũng biết ít nhiều về mối quan hệ của cô và Cảnh Sâm, nhưng cô cũng chẳng sợ.

“Cảm ơn anh.” Huệ Lan thờ ơ thốt, cô đưa mắt nhìn bệ cửa sổ gỗ sồi màu nâu cùng đám vật dụng mang phong cách ArtDeco trong nhà.

Cứ chốc chốc lại có gió lùa vào phòng, tấm rèm tơ lụa nhấp nhô như sóng vỗ, vì đã là cuối xuân nên thời tiết cũng chẳng lạnh nữa. Tiểu Quân bước từ phòng nhạc ra, cười nói: “Cô Địch vào đi ạ.”

Huệ Lan đứng dậy, chỉnh trang lại áo quần, cô đã dạy kèm Phan Cảnh Ninh tròn một năm, hôm nay là ngày ông bà chủ nghiệm thu thành quả, vì ngày này mà cô đã bỏ công chọn một bộ đồ giản dị nhưng không kém phần nền nã, thần thái đúng mực, khung ảnh thủy tinh trên hành lang phản chiếu gương mặt mộc không chút son phấn của cô, xinh đẹp thanh tú vô cùng.

“Chào ông Phan, chào bà Phan.” Huệ Lan chào hỏi Phan Thịnh Đường và bà Vân, rồi lại gật đầu với hai anh em Cảnh Sâm đứng cạnh, nét cười mờ nhạt đã quá đỗi quen thuộc với cô lại hiện lên trong mắt Cảnh Sâm.

“Cô Địch,” Thịnh Đường mỉm cười, “thứ Năm tuần sau là sinh nhật 13 tuổi của Ninh Ninh, hôm ấy cô cũng phải tham gia nhé, con bé sẽ biểu diễn dương cầm trong tiệc sinh nhật, có cô ở đó nó mới không cuống.”

Bà Vân nói thêm: “Nếu có thời gian thì cô hãy dạy con bé thêm đôi ba khúc nhạc mới.”

Nghe những lời này, Huệ Lan biết một năm vất vả của mình đã được công nhận, công việc trong năm thứ hai cũng đã được quyết xong xuôi rồi.

Cảnh Ninh nháy mắt cười với Huệ Lan, hôm nay cô bé mặc một bộ váy mới, tóc tết đuôi sam sau gáy, làn da trắng trẻo láng mịn như cánh hoa loa kèn, cô bé này xinh đẹp đến nỗi Huệ Lan cũng phải kinh sợ. Chào hỏi Huệ Lan xong, Cảnh Ninh ngồi xuống trước cây đàn, Huệ Lan tiến lại lật bản nhạc cho cô. Trước khi chính thức trình diễn, Cảnh Ninh thì thầm: “Cô Địch, em đổi bản nhạc rồi.”

Huệ Lan khẽ hỏi: “Em không đàn ballad à?”

Vẻ mặt Cảnh Ninh đắc ý như đang giở trò đùa tai quái: “Em sẽ đàn sonata! Vì hôm nay em rất vui.”

Huệ Lan thầm nghĩ: “Có hôm nào em không vui đâu? Lần nào thấy em em cũng vui thế này.”

Đám trẻ con nhà giàu học nhạc phân nửa cũng là học làm sang, thật ra chẳng cần bỏ nhiều tâm sức, đàn thạo vài bản phổ biến là được rồi, mà với các thính giả trong nhà này, có lẽ nhịp khúc sôi động của sonata sẽ khó khiến họ cảm động được như giai điệu ballad chậm rãi du dương, mà xác suất xảy ra sai sót khi đàn những khúc nhạc có tiết tấu nhanh cũng cao hơn. Huệ Lan cảm thấy Cảnh Ninh chọn sonata có vẻ hơi nguy hiểm. Nhưng điều khiến cô kinh ngạc là Cảnh Ninh thể hiện rất tốt, cô bé đàn bản Sonata in A minor của Schubert một cách rất trôi chảy, không có bất cứ một sai sót nào, những nốt nhạc tung mình nhảy nhót, len lỏi vào cõi lòng con người, như thể tâm hồn tươi vui của cô bé đã hóa thành âm nhạc qua bàn tay bé nhỏ, rồi trút vào từng nhịp dương cầm.

Tất cả thành viên nhà họ Phan, bao gồm cả tốp người làm đều nhìn cô bé bằng ánh mắt tràn ngập yêu chiều, họ cảm thấy kiêu ngạo từ tận đáy lòng vì bản diễn tấu tuyệt vời của cô bé, cùng nhiệt liệt vỗ tay.

Cảnh Ninh nói mình rất vui. Sao cô bé lại không vui cho được? Huệ Lan nghĩ, nếu cô là Cảnh Ninh, nếu cô được nhiều người yêu thương tới vậy, chắc hôm nào cô cũng sẽ vui mừng nhoẻn miệng cười trong cả giấc mơ.

Hai vợ chồng Thịnh Đường rất hài lòng với sự tiến bộ của con gái, họ cùng tỏ lòng biết ơn tới Huệ Lan. Cảnh Ninh chạy khỏi phòng nhạc, bưng một chiếc hộp to trở lại, đặt lên tay Huệ Lan, cô bé cười nói: “Cô Địch, đây là chiếc váy em và mẹ đã đích thân đi mua cho cô đấy, hôm sinh nhật em cô hãy mặc nó nhé! Cô không phải sợ không có váy đẹp nữa rồi.”

Huệ Lan nói: “Cảm ơn em!” Rồi lại quay sang bà Vân, “Cảm ơn bà Phan!”

“Các cô gái trẻ nên ăn bận sáng sủa một chút, cháu mộc mạc quá.” Bà Vân mủm mỉm.

Huệ Lan cười, không tiếp lời.

Thịnh Đường ngồi một lúc rồi rời đi, bà Vân cũng không nán lại lâu với họ, chỉ dặn cô Địch ở lại chơi thêm chốc lát rồi hẵng đi. Huệ Lan song tấu dương cầm với Cảnh Ninh một hồi rồi đứng dậy xem hai anh em Cảnh Sâm chơi cờ tướng, Cảnh Ninh cũng ghé lại, nhào thẳng lên lưng anh hai mình, khiến Cảnh Huyên giật mình rơi cả cờ.

“Quà sinh nhật của em là gì vậy?” Cảnh Ninh nhéo tai Cảnh Huyên.

“Bí mật, không nói cho em đâu.” Cảnh Huyên để mặc cô bé bò trên lưng mình, oai oái kêu la, “Con heo mập ở đâu trèo lên lưng anh thế này, làm anh không nhúc nhích nổi.”

Đương nhiên Cảnh Ninh biết cậu đang ám chỉ gì, mặt cô nóng bừng, đứng thẳng người nói: “Cô Địch, phòng em có thứ này vui lắm, để em lấy cho cô xem nhé!” Nói rồi cô bé chạy vút đi như một làn khói.

Cảnh Huyên tò mò nói: “Con bé này làm sao vậy? Lâu lắm rồi không thấy nó xấu hổ.”

Cảnh Sâm cười ha ha, không đáp lời cậu.

Cảnh Ninh đi mất, Huệ Lan cũng ngại không dám ngồi riêng cùng hai cậu thiếu gia này, sau khi họ kết thúc ván cờ, cô bèn chào từ biệt trở về nhà. Cảnh Huyên hỏi: “Giờ không còn thuyền nữa đâu, cô Huệ Lan vẫn muốn về Vũ Xương sao?”

“Không, hôm nay tôi ngủ lại nhà một người họ hàng.”

“À.” Cảnh Huyên thuận miệng hỏi một câu rồi thôi, sau đó cậu lại chợt cười bảo Cảnh Sâm, “Bé Hạt Dẻ mà thấy quà mình tặng chắc sẽ vui đến mức nhảy cẫng lên!”

“Hôm nào con bé chẳng vui vẻ nhảy nhót tung tăng?” Cảnh Sâm nói.

Cảnh Sâm tiễn Huệ Lan tới cửa, lúc bước ngoài vườn hoa phủ đầy bóng râm, hai bàn tay họ lặng lẽ chạm vào nhau, không một tiếng động, Huệ Lan lùi về sau một bước: “Có phải Vân Thăng nhà anh biết chuyện chúng ta không? Ánh mắt anh ta lạ lắm.”

Cảnh Sâm khẽ thốt: “Nếu không ai biết thì mới to chuyện. Tiền thuê nhà cho em tôi lấy từ chỗ chú Hà, trước giờ chú Hà rất chiều chuộng tôi, về sau Vân Thăng sẽ là người tiếp quản vị trí của chú ấy, đương nhiên anh ta phải nghe lời chú Hà. Có biết cũng không sao đâu.”

“Em không muốn anh thuê nhà cho em,” Huệ Lan nghẹn ngào, “em không muốn mắc nợ bất cứ ai, cũng không muốn mắc nợ anh. Không có nhà em có thể ở lại ký túc trường, không có quần áo em cũng sẽ tự kiếm tiền mà mua.”

Bước chân Cảnh Sâm chậm lại: “Cảnh Ninh tặng váy cho em, em đừng nhạy cảm quá, trước giờ con bé luôn nói năng không suy nghĩ, thật ra con bé chẳng có ý coi thường gì đâu. Mà em cũng biết tấm lòng tôi dành cho em. Giờ năng lực của tôi chỉ được chừng này thôi, nhưng những thứ có thể cho em thì tôi cũng đã cho cả rồi.”

Huệ Lan nhìn anh bằng ánh mắt thoáng vẻ xót xa, tràn ngập tình cảm dịu dàng.

Anh lẳng lặng siết lấy tay cô: “Xin lỗi em, dạo này tôi không có nhiều thời gian ở bên em.”

Cô dịu dàng nói: “Rốt cuộc có chuyện gì vậy? Sao tự nhiên mọi người lại bị giám sát chặt thế.”

“Ai mà biết được? Chắc là lúc làm ăn gặp phải chuyện phiền phức gì đó, cha tôi cũng không nói rõ, qua một thời gian nữa là ổn thôi. Tôi rất nhớ em đấy.” Bước đến một khúc ngoặt, anh lại chợt cúi đầu hôn lên trán cô.

Hai mắt Huệ Lan ầng ậc nước: “Em cũng nhớ anh.” Đi được vài bước, cô hỏi, “Anh và cậu hai chuẩn bị tặng gì cho cô chủ Phan mà bí mật thế.”

“Bọn tôi đặt cho con bé một sợi dây chuyền, dù sao nó cũng lớn rồi, phải có ít trang sức tử tế.”

“Cảnh Ninh có phúc quá, được hai người anh trai chu đáo nhường này.”

Cảnh Sâm chỉ cười: “Dạo này nhà bọn tôi đang làm ăn với người Mỹ, tôi và Cảnh Huyên không phải bỏ tiền ra mua món quà này, người ta tặng không cho đấy, bọn tôi nhặt được món hời, tặng lại cho con bé, cũng hay nhỉ? Dù không mất tiền nhưng đoạn thiết kế cũng có tôi và Cảnh Huyên góp phần, thời gian hơi gấp nên không biết tuần sau có kịp tặng không. Đồ tuy nhỏ nhưng trước khi hợp đồng ký kết, ai lại dám tùy tiện nhận quà của người ta? Cha không biết chuyện này, cậu chúng tôi đã giấu giúp đấy.”

“Chắc là quà sẽ xong kịp lúc chứ?”

“Ừ, bọn tôi đã hẹn trước thứ Tư tới xem đồ, tôi dặn Cảnh Huyên đi rồi.”

“Sao anh không đi?”

“Nhà vẫn còn một số chuyện cần lo liệu. Hiệu buôn đá quý cũng gần trường Cảnh Huyên, lúc giữa tiết nó có thể lén chạy ra.”

Huệ Lan cười bảo: “Có chút chuyện cỏn con mà cứ như vụng trộm làm điều xấu không bằng. ”

Ngón tay Cảnh Sâm trượt theo lưng cô: “Không phải hai chúng ta cũng đang vụng trộm làm điều xấu đó sao?”

Huệ Lan cảm thấy người mình nóng rực, liếc anh bằng ánh mắt vừa mang giận, vừa mang cười.

Cảnh Sâm trở vào nhà, bước lên tầng, lúc đi ngang qua phòng Cảnh Huyên, anh thấy Cảnh Ninh cũng đang trong phòng, cô bé đuổi theo Cảnh Huyên, cười đùa ầm ĩ:

“Đưa em, đưa em xem nào!” Cảnh Huyên giơ cao món đồ trông như cuộn giấy trong tay, đó là bản thiết kế sợi dây chuyền. Cảnh Ninh cứ nhảy tót lên như một chút thỏ, nhưng vẫn chẳng thể với được.

Cảnh Sâm tiến lại, anh cầm lấy bản vẽ, nói với Cảnh Huyên: “Không biết giữ mồm giữ miệng gì cả! Cẩn thận cha biết là chúng ta lại cùng chịu phạt.”

Cảnh Huyên cười hì hì.

Cảnh Ninh lặng lẽ thò tay ra, Cảnh Sâm bèn giấu bản vẽ sau lưng: “Em đừng mơ. Giờ mà nhìn thì còn gì là niềm vui bất ngờ nữa, đợi đến hôm sinh nhật rồi ngắm vật thật.”

Cảnh Ninh nài nỉ: “Anh hai bảo bức tranh này là do tự tay anh cả vẽ, anh vẽ gì vậy? Anh cho em xem nhé, có được không anh?”

Tâm trạng Cảnh Sâm rất tốt, anh cố tình đáp: “Không cho em biết.”

“Đồ xấu xa, xấu xa!” Cảnh Ninh giậm chân kêu.

Hai cậu anh trai cùng bật cười ha hả, giọng Hà Sĩ Văn vọng vào phòng: “Nào các cô các cậu, muốn ông chủ ra xem trò vui hả?”

Ba người cùng im bặt, anh nhìn em, em ngó anh, mắt ai nấy tràn ngập nét cười.

Chẳng mấy chốc đã tới ngày xem trang sức, Cảnh Huyên và Cảnh Sâm đã bàn nhau rồi, dù dây chuyền được làm xong hay chưa, Cảnh Huyên vẫn sẽ gọi điện về nhà. Hôm ấy biệt thự nhà họ Phan phải tổng vệ sinh, giá sách, tủ âm tường, rèm cửa đều cần được dọn dẹp giặt giũ sạch sẽ. Tất cả người làm trong nhà đều cắm đầu vào làm việc, đài phun nước ngoài vườn hoa cũng đã hỏng, phải mời thợ đến thay máy bơm nước, Cảnh Sâm sợ người ta làm hỏng bức tượng Psyche và Eros trên đài phun nước nên đứng trông nom từ đầu chí cuối, đến lúc sắp tới giờ cơm mới về phòng khách nghỉ ngơi.

Đúng lúc này, điện thoại reo lên.

“Đây là điện thoại nhà ông Phan Thịnh Đường phải không?” Một giọng đàn ông hết sức xa lạ vang lên.

“Cho hỏi ông là ai ạ?”

“Tôi là ai hả?” Người nọ bật cười, “Ồ, cậu cả nhà họ Phan đấy phải không?”

Cảnh Sâm cau mày: “Xin hỏi có chuyện gì vậy?”

“Cậu hai nhà cậu đang nằm trong tay chúng tôi, phiền cậu chuyển lời cho ông Phan, năm nay kinh tế không mấy thuận lợi, chúng tôi không lấy giá cao, chỉ xin 500.000. Vụ làm ăn này rất đơn giản thôi.”

Hồi lâu sau Cảnh Sâm vẫn chẳng lên tiếng, kẻ nọ lại nói: “Cậu Phan hiểu ý tôi chứ?”

Cảnh Sâm hít sâu một hơi, anh nói: “Tại sao tôi phải tin ông đang giữ em trai tôi, ông dám đùa cợt với người nhà họ Phan ư? Không muốn sống nữa sao?”

Kẻ nọ cười khằng khặc, cất lời như đang nói với kẻ bên cạnh: “Thằng nhãi con này không tin, hay mình cho nó vật làm tin đi?”

Bàn tay giữ ống nghe của Cảnh Sâm dần run rẩy, đối phương bèn dứt khoát cúp máy.

Hà Sĩ Văn bước vào gọi anh ra ăn cơm, thấy anh ngồi ngây như phỗng trên sô pha, ông ngạc nhiên thốt: “Cậu cả sao vậy? Cậu thấy khó chịu chỗ nào à?”

Đôi mắt Cảnh Sâm trống rỗng: “Chú Hà…”

Tiết học buổi sáng vừa kết thúc, Cảnh Ninh đã được đón về nhà ngay, căn biệt thự nhung nhúc những người. Anh cả ủ dột tới lạ, còn không chào hỏi cô, cũng chẳng thèm nhìn cô lấy một cái, chỉ ngồi lặng đi trong phòng khách, không nói năng gì; gương mặt mẹ cô tái xám, bà dựa mình vào xô pha như ngã bệnh. Cha đang bàn bạc gì đó với vài người đàn ông trung niên xa lạ, thấy cô vào, ông nhíu mày bảo: “Ninh Ninh, con về phòng đi.”

Cảnh Ninh bất động, chẳng biết vì cớ gì mà sống lưng cô lạnh ngắt, tất cả thành viên trong nhà đều ở đây, trừ một người.

“Anh hai đâu ạ?” Cô sợ sệt hỏi.

Thịnh Đường im bặt, bà Vân bật tiếng khóc, bà ôm mặt gào lên: “Con trai tôi! Con trai đáng thương của tôi! Tại sao lại là con chứ!”

Đôi môi Cảnh Sâm khẽ run lên, ánh mắt anh len qua bả vai bà Vân, dừng lại trên chiếc khăn sợi gai trải trên mặt bàn vuông, phía trên là một chiếc hộp gỗ nhỏ được bọc lại bởi vải thô màu xám. Chiếc hộp này được đưa tới nhà họ Phan, Thịnh Đường vừa mở ra nhìn đã tức khắc gọi điện mời Đồng Xuân Giang tới, chẳng mấy chốc, các vị thanh tra nổi tiếng nhất Hán Khẩu đã tụ tập đông đủ. Ban đầu bà Vân không tin con mình lại bị bắt cóc, bà ôm tâm lý may mắn, hồn bay phách lạc liếc nhìn chiếc hộp, chỉ một cái liếc mắt thôi cũng đủ khiến người phụ nữ này gục thẳng xuống đất.

Cảnh Sâm cũng đã nhìn thấy thứ trong hộp.

Một cái tai, được rửa ráy sạch sẽ, chẳng có lấy một vết máu, đường viền ngoài gọn ghẽ sắc lẹm, có thể tưởng tượng được động tác hạ dao lưu loát tới chừng nào. Cái tai của cậu thiếu niên trắng bợt, dái tai có một nốt ruồi nhỏ màu đen. Tai của Cảnh Huyên.

Và đó cũng chính là thứ bằng chứng mà Phan Cảnh Sâm anh đã đòi kẻ ở đầu dây điện thoại bên kia.
 
Quyển 1 - Chương 14


Về đến phòng, toàn thân Cảnh Ninh ớn lạnh, nằm được một lúc, cô bắt đầu lên cơn sốt. Tiểu Quân chạy xuống nhà, thấy có vẻ như các chủ nhân trong phòng khách hoàn toàn chẳng còn lòng dạ quan tâm tới chuyện này, cô chỉ đành nhân lúc Hà Sĩ Văn ra ngoài, lẳng lặng báo cho ông.

“Cô chủ sợ quá nên vậy đấy, mau gọi điện thoại cho bác sĩ Lưu đi.” Rồi Hà Sĩ Văn lại thở dài, “Cô chủ mà có làm sao thì cái nhà này lại càng loạn hơn.” Suy ngẫm một hồi, cuối cùng ông vẫn thưa chuyện với Thịnh Đường.

Thịnh Đường nhíu mày phiền muộn, Hà Sĩ Văn bèn khẽ cất lời: “Từ nhỏ cô chủ đã thế này rồi, cứ căng thẳng là lại ngã bệnh, lát nữa tôi sẽ để ý cô cẩn thận. Ông chủ đừng nói với bà, không bà lại phải lo thêm.”

Thịnh Đường quay người nhìn Cảnh Sâm, thấy anh ngồi đờ đẫn như tượng, ông bèn vẫy tay gọi anh lại. Cảnh Sâm bước tới, Thịnh Đường liền bảo: “Con cũng đừng ngồi đây nữa, em gái con sợ đến ngã bệnh rồi, con qua coi sóc em đi.”

“Con muốn ở lại đây giúp đỡ mọi người.” Cảnh Sâm âu sầu nói.

“Nếu có chuyện gì cần con giúp, cha sẽ bảo chú Hà vào gọi con. Con đi đi. Có con ở bên Ninh Ninh cha mới yên tâm.”

Cảnh Sâm chần chừ do dự, nhưng lại không dám làm trái ý cha, chỉ đành lê bước khỏi phòng khách. Hà Sĩ Văn đi theo sau lưng anh, họ bước lên hành lang gấp khúc trên tầng hai, ánh dương sáng bừng xuyên qua ô cửa sổ thủy tinh, rọi vào nhà, điểm tô làm nền khiến gương mặt anh trông càng thêm u ám.

“Chú Hà, chú đã gọi bác sĩ chưa?”

“Bác sĩ Lưu đang trên đường tới rồi.”

“Vâng, vậy thì tốt.” Cảnh Sâm lơ đãng đáp lời.

Lúc bước tới lối rẽ, chợt Hà Sĩ Văn lại nói: “Cậu chủ, chú Hà đã bên cậu từ ngày cậu còn ẵm ngửa, chắc cậu chủ biết rõ chú đối xử với cậu thế nào, mà chú Hà cũng biết rất rõ lòng cậu chủ nghĩ gì.”

Hai tay Cảnh Sâm đang đút trong túi quần, anh đứng im chờ đợi ông nói tiếp.

Hà Sĩ Văn bước ra góc sáng, dưới ánh mặt trời soi chiếu, ánh mắt ông lại thoáng vẻ u tối, cũng phảng phất nét lạnh lẽo, nhưng chẳng mấy chốc ông đã lại mỉm cười: “Cậu chủ không phải lo lắng, tất cả đã có chú rồi.”

Đôi mắt Cảnh Sâm như anh ánh nước, hồi lâu sau anh mới khịt mũi, thì thầm cất lời: “Cháu sợ A Huyên gặp chuyện không may. Cháu sợ lắm. Cháu không biết bọn họ sẽ làm hại đến thằng bé, cháu…”

“Đừng sợ. Cậu chủ, cậu cứ làm cho tốt những việc mình cần làm đi. Giờ cậu hãy cứ chăm sóc cho em gái mình đã.”

Cảnh Sâm dụi mắt gật đầu.

Hà Sĩ Văn nhìn chàng trai này, như thể đang nhìn cậu bé bất lực tới tột cùng trước mặt mình nhiều năm về trước, ông không cầm lòng nổi, bèn vươn tay lên xoa đầu anh như đang vỗ về an ủi, hệt như ngày xưa vậy. Nhưng Hà Sĩ Văn không hề phát hiện cái lúc bàn tay ông còn chưa buông xuống, bóng mờ ảm đạm đã vút qua gương mặt Cảnh Sâm.

Bác sĩ tới tiêm cho Cảnh Ninh, cô mơ màng thiếp đi một lát, nhưng cũng chẳng thể ngủ sâu. Cảnh Ninh mơ thấy ác mộng liên tục, mãi đến lúc bật khóc tỉnh dậy. Cảnh Sâm nắm lấy bàn tay ướt rượt nước mắt của cô, khẽ gọi tên cô. Ban đầu Cảnh Ninh không nói gì, đôi mắt to đen láy đầy vẻ mơ màng: “Anh cả ơi, sao giờ anh mới đến gặp em? Ban nãy anh không quan tâm tới em, anh không chịu quan tâm tới em.”

Cõi lòng Cảnh Sâm như bị thứ gì đó đâm xé: “Anh xin lỗi…”

“Em sợ lắm. Anh hai có chết không? Liệu đám người đó có giết anh ấy không? Giờ anh hai thế nào rồi? Anh ấy là người tốt mà, anh ấy tốt lắm, giờ anh ấy thế nào rồi! Vì em nên anh hai mới bị người ta bắt cóc, anh ấy đi lấy dây chuyền cho em, hu hu. Nếu em không giục anh ấy đi lấy, nếu em không…”

“Đừng sợ, ” tim Cảnh Sâm như bị dao cứa, “chuyện này không liên quan gì tới em, cha sẽ cứu được A Huyên.”

“Anh hai nói ngày mai sinh nhật em, anh ấy sẽ tự tay đeo dây chuyền cho em. Anh ấy còn nói, anh ấy còn nói…” Cảnh Ninh nghẹn ngào.

“Thằng bé còn nói gì?”

Nhưng Cảnh Ninh lại im lặng.

Thật ra, sáng nay trước khi đi Cảnh Huyên đã cười bảo cô: “Bé Hạt Dẻ, mai sinh nhật em, anh sẽ đeo dây chuyền cho em, để anh cả em dạy em khiêu vũ. Sau này em kết hôn, bọn anh sẽ cùng cõng em tới nhà chồng, anh cả cõng đoạn đường trước, anh cõng quãng đường sau. Nhưng em không được khóc nhè đâu đấy!”

Cảnh Ninh hớn hở: “Sao em lại khóc?”

Hóa ra lớp Cảnh Huyên có một cậu bạn dân tộc Thổ Gia, cậu này kể cho mọi người nghe tập tục của người dân tộc mình, khi xuất giá, cô dâu sẽ được anh trai mình cõng tới nhà chồng, cô dâu vừa đi vừa khóc, tục xưng là khóc giá. Cảnh Ninh ngoẹo đầu suy nghĩ, bảo: “Em không khóc đâu! Em muốn hai anh cõng em, nhưng em sẽ cười! Vui thì tại sao phải khóc?”

Nhưng giờ cô chẳng vui chút nào, nỗi đau khổ và sợ sệt, hối hận cùng âu lo cứ liên tục dâng trào, cô khóc đến mức không thở nổi. Cảnh Sâm vỗ lưng cô, an ủi cô, khuyên nhủ cô, nhưng chẳng có tác dụng gì.

Cảnh Sâm cúi đầu nhìn cô hồi lâu, anh bất lực nói: “Ninh Ninh, em đừng khóc nữa, anh đưa em ra ngoài chơi nhé, có được không?”

Cảnh Ninh lắc đầu.

“Vậy em đợi anh một lát, anh sẽ mua hạt dẻ rang cho em nhé?”

Cô vẫn cứ lắc đầu, rồi bỗng nhiên lại nghẹn ngào thốt: “Em không muốn anh đi. Em sợ anh đi rồi cũng không trở lại như anh hai.”

Cảnh Sâm thấy tim mình mềm nhũn, hóa thành một bầu nước mắt, hơi cay dần dâng lên chóp mũi, anh thở dài một tiếng, khẽ cất giọng hát một bài đồng dao:

“Con bọ nho nhỏ, con bọ bay cao, bay lên gốc vải, quả vải đã chín, hái vải đầy nhà, nhà ngập màu đỏ, trong nhà có đứa bé con, con bọ nhỏ, con bọ bay cao…”

Anh hát, cứ hát mãi, như thể đã quay về mùa hạ của nhiều năm về trước, bầu trời phía xa có tia sáng phủ sắc ấm chiếu rọi, những ngày tháng khi mẹ còn bên anh như thể mới là hôm qua đây thôi. Bà sợ anh ở nhà buồn, bèn bế anh đi dạo, họ đi từ nhà thờ Tô giới Pháp, cứ đi, đi mãi, đi đến tận vịnh Lệ Chi, vì nơi đó người qua kẻ lại rất đông đúc. Cung đường nhỏ tràn ngập tiếng người, con đường lớn ầm ĩ tiếng chuông xe kéo, những xửng bánh bao, rồi sủi cảo tôm được nối đuôi nhau bưng ra, con gà hấp muối vàng ươm treo ngoài cửa quán, nó cứ chầm chậm quay vòng vòng, quay rồi lại quay, như đang cất lời chào với anh, nồi hoành thánh bốc khói nghi ngút, hoa sứ vàng bay liệng rồi sà xuống vũng nước đọng, đâu đâu cũng thơm nức mùi hương, đâu đâu cũng tươi tắn đẹp đẽ, cũng náo nhiệt.

Bài đồng dao được ngâm lên khe khẽ, bay bổng trong làn nắng dịu dàng, ngày ấy mẹ cũng hát như vậy ư?

Cô bé còn vương vệt nước mắt trên mặt, mệt mỏi chìm vào giấc mộng, Cảnh Sâm dém lại chăn cho cô, anh tựa lên đầu giường, lát sau cũng thiếp đi.

Hình như trời đổ mưa rồi, trong mơ, cơn mưa xuân từng xuất hiện không biết bao nhiêu lần. Mưa bay dày đặc, như vô số những bàn tay tí hon gõ vào ô cửa sổ, bầu bạn với chúng là tiếng sấm rầm vang.

“Tiểu Xuyên Nhi…”

Tiếng gọi khe khẽ dịu dàng bước vào cơn mơ quạnh quẽ, thời gian đã vuột mất và hơi nước ẩm ướt giao hòa với nhau, bầu không khí xung quanh như đóng băng, như trĩu nặng.

“Cách!” Gió thổi bật cánh cửa sổ, Cảnh Sâm ngẩng đầu.

Mảng cỏ cây xanh ngắt ngoài cửa sổ ào vào, con đường quanh co lát đá xanh trải đến tận nơi sâu thẳm của khu vườn, có một bóng người mảnh mai đứng đó, loáng thoáng thấy đây là một người phụ nữ yểu điệu tuyệt đẹp.

“A Xuyên…”

“Mẹ ơi…” Lệ dâng đầy trong mắt anh.

“A Xuyên, con ngoan của mẹ, mẹ rất nhớ con… Con sống đau khổ quá, mẹ đau lòng lắm.”

“Vậy mẹ hãy ở lại đi, để con được ở bên mẹ, để con làm tròn đạo hiếu với mẹ. Sau này trưởng thành con có thể chăm sóc cho mẹ! Mẹ ơi, sẽ không ai dám bắt nạt mẹ nữa đâu!” Anh cố gắng hết sức để thét lên, nhưng không hiểu vì sao, âm thanh phát ra lại nhỏ yếu như tiếng muỗi.

Một tia chớp giáng xuống, ánh sáng rọi thẳng lên gương mặt người phụ nữ, cặp mắt bà trống rỗng thê lương, mưa thấm ướt đẫm mái tóc dài xổ tung của bà, lướt dọc theo cần cổ trắng muốt như tuyết, mặt đất xanh rì nơi bà đứng có một vũng vẩn đục đặc màu máu.

Người phụ nữ nhẹ nhàng lắc đầu: “Không kịp rồi, mẹ không kịp chờ tới ngày con trưởng thành…”

Cảnh Sâm run rẩy đứng dậy, lòng anh đau đến cùng cực, đến chết lặng, anh muốn thét lên thật to, nhưng chỉ có thể phát ra thứ âm thanh nhỏ xíu.

Người phụ nữ tuyệt đẹp nhìn anh đầy buồn bã: “Hãy quên mẹ đi, hãy quên mẹ đi… Nếu không thì con hãy đi theo mẹ, chúng ta sẽ rời xa nơi này mãi mãi.”

Vẻ mặt bà bỗng trở nên dữ tợn, bà vươn đôi tay gầy gò tái nhợt, tóm chặt lấy cổ anh.

“Không! Không!” Cảnh Sâm thét lên, anh ra sức giãy giụa, nhưng hai bàn tay ấy lại siết chặt lấy cổ anh, có vùng vẫy thế nào cũng chẳng thoát nổi.

“Cậu cả, cậu cả!” Có người khẽ đẩy anh.

Cảnh Sâm chợt mở bừng mắt, tim anh đập rộn lên như trống bỏi.

Tay Hà Sĩ Văn đặt trên bản vai anh, ánh mắt ông tràn ngập sự săn sóc ân cần: “Cậu cả mơ thấy ác mộng sao?”

Cảnh Sâm thở dốc, hai mắt anh đỏ rực, bàn tay siết vạt áo Hà Sĩ Văn khẽ run rẩy, anh bình tĩnh lại, cúi đầu nhìn Cảnh Ninh, cô vẫn còn đang ngủ. Cảnh Sâm chầm chậm buông tay, cố dằn những cảm xúc cuồn cuộn trong lòng mình xuống, anh hạ giọng: “Cha có chuyện tìm cháu ạ?”

Hà Sĩ Văn nhìn anh chằm chằm, ánh mắt thoáng vẻ rối bời.

Cảnh Sâm vừa xuống nhà, bà Vân đang ngồi trên sô pha đã đứng bật dậy.

“Sâm Nhi…” Vẻ mừng rỡ, hay nói chính xác hơn là sự chờ mong, vụt xuất hiện trên gương mặt bà.

“A Sâm, con lại đây với cha.” Thịnh Đường nói.

Cảnh Sâm tiến lại.

Thịnh Đường vươn tay, xoay người Cảnh Sâm lại, để anh đối mặt với một người đàn ông trung niên mặc trường sam màu xanh đen.

“Đây là ngài Đồng, trước đó con từng gặp ngài ấy rồi.” Thịnh Đường nói, “Mấy ngày này ngài Đồng sẽ chăm lo cho con, lát nữa con hãy đi cùng ngài ấy, Sĩ Văn sẽ sắp đồ giúp con.”

Cảnh Sâm nhìn Thịnh Đường, rồi lại quay sang Đồng Xuân Giang. Đồng Xuân Giang có nước da ngăm đen, đó là màu sắc được ươm bởi ánh nắng, hai mắt ông sáng bừng tràn đầy tinh thần, khóe môi khẽ cong lên.

“Cậu cả cứ yên tâm, nhất định tôi sẽ bảo đảm cho an toàn của cậu.” Đồng Xuân Giang khẽ chớp mắt, như đang quan sát mọi biểu cảm bé nhỏ trên gương mặt chàng trai.

Thịnh Đường vỗ vai Cảnh Sâm: “Con hãy giúp cha, mà cũng là giúp cả em trai con một việc, đương nhiên nếu con có điều gì băn khoăn hay sợ hãi, cha tuyệt đối không ép buộc con, cha sẽ tìm cách khác.”

Cảnh Sâm không nói gì, như thể đang ngơ ngác không hiểu.

Thịnh Đường nói: “Ban nãy đám bắt cóc vừa gọi đến. Chúng muốn đổi tiền lấy em trai con tại trường đua ngựa phía Bắc ngoại ô vào tối mai.”

Lúc này Cảnh Sâm mới khẽ gật đầu, anh đã hiểu rồi.

Thịnh Đường nói: “Cha đã chuẩn bị tiền, sắp xếp người xong xuôi rồi. Đám bắt cóc đó nói phải để người nhà họ Phan đích thân mang tiền tới, A Sâm, con đi có được không?”

Tia sáng kỳ quái vút qua mắt Cảnh Sâm.

Thịnh Đường vẫn nhớ, nhiều năm về trước, mỗi lần ông xa nhà trở về, Cảnh Sâm đều sẽ vùng khỏi vòng tay mẹ, lao thẳng tới trước mặt ông như một chú cún con. Cậu bé vươn bàn tay nhỏ xinh ôm chặt lấy chân ông, bập bẹ cất tiếng hô: “Cha về rồi, cha về rồi!”

Cũng từng có một thời, cứ nhìn thấy nụ cười của đứa trẻ này, lòng dạ ông sẽ lại ngọt ngào như một hũ đường, ông ôm lấy cậu bé, cọ gương mặt bám đầy phong sương đường dài vào khuôn mặt bé nhỏ trơn nhẵn của con mình, thì thầm thốt: “A Sâm, A Sâm, con trai ngoan của cha, cục cưng của cha…”

Đứa trẻ rúc vào lòng ông, cất giọng bịn rịn: “Cha đừng đi nhé, cha ở lại đây có được không?”

Khi ấy ông liên tục hứa hẹn, hứa hết lần này tới lần khác, nhưng chẳng bao giờ làm tròn lời hứa. Nhiều năm trôi qua, từ lâu ông đã quên mất liệu khi ấy nỗi thất vọng và buồn bã có từng xuất hiện trong mắt đứa trẻ không, cũng đã quên tâm trạng khó diễn tả bằng lời của mình khi đối mặt với mẹ nó. Nhưng chưa bao giờ ông quên đứa trẻ này đang ngày một trưởng thành, cũng ngày một trầm lặng, rất ít khi ông bắt gặp nụ cười rạng rỡ của nó.

Giờ, ông lại nhìn thấy nụ cười mỉm thoáng dấu vết dĩ vãng trên gương mặt đứa trẻ ấy, đúng vậy, thằng bé đang cười, A Sâm của ông đang cười. Anh đồng ý cầm tiền chuộc đi thương lượng với đám bắt cóc, đây là chuyện nguy hiểm tới tính mạng, nhưng anh vẫn đồng ý, không chút do dự, như thể đang được khen thưởng.

Nụ cười ấy tràn đầy vẻ mừng rỡ.

“Cảm ơn cha, cảm ơn cha đã tin tưởng con.”

Vẻn vẹn một câu nói ngắn ngủi này đã khiến Thịnh Đường cảm động, nỗi áy náy thoáng dâng lên trong lòng ông, ông muốn nói vài lời khích lệ, nhưng Cảnh Sâm lại mở lời: “Con có chuyện này muốn xin, không biết cha có thể đồng ý không?”

“Con trai, con cứ nói đi.”

Hàng lông mi dài rậm của Cảnh Sâm rũ xuống, anh suy nghĩ trong giây lát, rồi cuối cùng vẫn ngẩng đầu: “Sau khi đưa Cảnh Huyên về, con muốn… con muốn tới Anh sớm hơn để thích nghi trước với hoàn cảnh.”

Thịnh Đường nhìn chằm chằm cặp mắt sáng trong của chàng trai.

“Được, cha đồng ý với con.”
 
Quyển 1 - Chương 15


Nếu mọi chuyện thuận lợi thì nhiều nhất cũng chỉ phải lo âu hai ngày, còn không, có lẽ kết quả tồi tệ nhất mà mọi người có thể tưởng tượng được sẽ xảy ra.

Cảnh Sâm rời khỏi biệt thự nhà họ Phan cùng Đồng Xuân Giang.

Vân Thăng đã xếp hết hành lý vào cốp sau, lúc ngẩng đầu, anh ta thấy gương mặt cậu cả nhà mình khoan thai trầm tĩnh, hệt như đang đi thăm hỏi một người bạn cũ, như tất thảy mọi chuyện đều nằm trong sự kỳ vọng của anh, chẳng có gì là mới lạ, là đáng bận lòng. Trước khi lên xe, cậu cả quay đầu lại một lần, gốc ngô đồng sum suê phủ bóng lên gương mặt dịu dàng như ngọc của anh, vậy nên chẳng ai biết rốt cuộc anh đang quay đầu nhìn về hướng nào, hay anh đang nhìn ai. Lúc ngoảnh lại, mũ anh va phải cửa xe, suýt thì rơi mất, anh bèn dùng ngón tay trắng muốt kéo lại mũ, ngại ngùng mỉm cười. Lúc này Thịnh Đường, bà Vân và Tú Thành đã chậm rãi tiến lại, Cảnh Sâm vẫy tay với họ, anh ngồi vào xe, vẻ mặt vẫn dịu dàng như thường.

Bọn họ thu xếp cho anh ở lại trong một căn nhà tại vùng ngoại ô phía Tây Hán Khẩu. Trông quanh hoàng hôn phủ khắp, người ta đang đốt rơm ngoài bờ ruộng, làn khói xanh xám bốc lên, chìm ngập trong không trung, phía xa lác đác có vài hộ gia đình.

“Yên tĩnh quá, rất hợp để đọc sách.” Cảnh Sâm khẽ cười.

Vừa dứt lời đã có tiếng “vút” vang lên, như dây pháo bị ai đốt, hay nói chính xác hơn, nó bén nhọn tựa tiếng súng. Cảnh Sâm cũng chỉ thoáng ngạc nhiên, thậm chí bước chân cũng chẳng khựng lại, Đồng Xuân Giang bèn đưa mắt liếc nhìn anh.

Tiến vào sân rồi, Cảnh Sâm mới biết âm thanh ban nãy không phải tiếng pháo, cũng chẳng phải tiếng súng. Phần tường phía Tây sân vườn được đắp bằng đá xanh, một người đàn ông cao lớn đang đứng bên bờ tường, người này để mình trần, buộc áo bên eo, tay phải vung chiếc roi da dài chừng ba mét, anh ta nện thật lực lên tường, roi da và lớp đá ma sát với nhau, cú quật vang dội phát ra âm thanh sắc nhọn, hao hao thứ hương vị như vị tanh nồng của đá lửa, một cú, rồi lại một cú nữa, vụt chừng mười nhát, người này lại đổi tay quất tiếp.

Còn vài người đàn ông khác đang đứng trong sân, thấy ngài Đồng cùng mọi người tiến vào, bọn họ mỉm cười chắp tay hành lễ, hô:

“Ngài Đồng!” Rồi họ lại lớn tiếng chào Cảnh Sâm, như đã quen biết anh từ lâu: “Cậu Phan!” Cảnh Sâm mỉm cười đáp lễ.

Người đàn ông vung roi da lại như không nghe thấy, anh ta vẫn đưa lưng về phía đám người, chuyên tâm quất từng nhát lên bức tường đá xanh.

Cảnh Sâm đưa mắt nhìn chăm chú, bức tường đá hằn từng đường từng đường roi, chắc cũng đã chịu đòn tùng xẻo của roi da suốt một thời gian dài rồi.

Đồng Xuân Giang nháy mắt với Cảnh Sâm: “Cậu Phan mà muốn đọc sách ở đây thì phải cân nhắc cho kỹ đấy.”

“Không biết người anh em mạnh mẽ phi phàm này định luyện tập tới lúc nào mới nghỉ?”

“Cũng phải chừng một tiếng nữa. Ồn ào thế này không phiền cậu chứ?”

“Không đâu ạ.”

“Cậu Phan, có câu này tôi không biết nên nói hay không.” Ánh mắt Đồng Xuân Giang dần trở nên sâu thẳm.

“Ngài Đồng cứ nói.”

“Nếu cậu sợ thì hãy cứ dũng cảm nói ra đi, nếu không thích, cậu không cần phải giấu trong lòng, cần nói gì cứ mặc sức nói, như vậy người ta mới không hiểu lầm cậu.”

“Hiểu lầm chuyện gì?”

“Một chàng trai trẻ tuổi như cậu mà chẳng hề sợ những điều nên sợ, thật là bất bình thường.”

Nụ cười trên gương mặt Cảnh Sâm càng đậm: “Ngài Đồng à, trước đây ít nhiều gì tôi cũng luôn phải giấu giếm kìm nén, nhưng lúc này tôi chính là tôi, cần gì phải giả bộ?”

Đồng Xuân Giang nhìn anh chăm chú một hồi, thốt lời như bùi ngùi xúc động: “Còn trẻ mà oán hờn quá sâu đậm, không ổn lắm đâu.”

“Oán hờn?” Cảnh Sâm lắc đầu, “Tôi không phát hiện ra mình có chút oán hờn gì. Ai chẳng biết tôi luôn là người khoan dung độ lượng, điềm đạm ôn hòa.”

“Trong mắt tôi, thực chất cái thứ mà cậu gọi là ôn hòa tràn đầy ác ý, tôi không đề cao điểm này ở cậu. Lần này tôi đi theo bảo vệ cậu đơn thuần chỉ vì tình xưa nghĩa cũ, không phải cam tâm tình nguyện.” Đồng Xuân Giang lạnh nhạt thốt.

“Có vì tình xưa nghĩa cũ hay không thì ngài Đồng nói sao cũng được, tôi cũng chỉ nghe vậy thôi. Tôi chỉ muốn nói cho ngài Đồng biết, hôm nay ngài giúp tôi cũng đồng nghĩa với giúp người thừa kế sản nghiệp sau này của nhà họ Phan.”

“Vút!”

Lại một roi quất vào tường, bầu không khí kỳ quặc dần dâng đầy khoảng sân. Hai trong số bốn người đàn ông trước đó vừa chào hỏi Cảnh Sâm đã bước vào nhà, một người đang cho ngựa ăn, người còn lại đứng bên kẻ mải miết quất roi, giúp anh ta đếm lượt hạ roi.

Chẳng ai nhận ra âm thanh của chiếc roi da chói tai tới nhường nào, chẳng ai cảm thấy lòng dạ mình có gì cấn cá. Cảnh Sâm và Đồng Xuân Giang im lặng nhìn nhau, tựa hai người đàn ông lịch sự văn nhã đang thưởng trà đánh cờ trên ngôi đình ven hồ, bốn bề là sóng nước, mọi âm thanh đều trở nên trong trẻo.

“Với những người khác mà nói thì e rằng em trai cậu mới giống người thừa kế của nhà họ Phan đó chứ? Đến cậu cũng phải mạo hiểm tính mạng để tới đón cậu ta.”

“Đương nhiên tôi phải đi.” Cảnh Sâm phủi bụi bặm bám trên tay áo, xem chừng rất dửng dưng, “Nếu cậu ta tàn phế thì sống cũng chỉ như chết. Mà nếu chết rồi, lòng tôi lại chẳng mấy dễ chịu. Nên dù có thế nào đi chăng nữa tôi cũng sẽ không để cậu ta chết, dù có thế nào đi chăng nữa, tôi cũng phải đón cậu em tàn phế này trở về.”

“Vậy nên cậu mới chẳng ngại ngần nói với cha mình muốn ra nước ngoài, vì cậu biết rõ đối thủ cạnh tranh của mình tại nhà họ Phan đã chẳng còn sức uy hiếp rồi.”

Cảnh Sâm cũng chỉ mỉm cười: “Tôi thành tâm thành ý muốn ra nước ngoài học hành.”

“Tề Phàm từng nhắc về cậu với tôi.” Đồng Xuân Giang lại quan sát Cảnh Sâm một cách kỹ càng, trong ánh hoàng hôn, gương mặt chàng trai này càng thêm dịu dàng đẹp đẽ, “Ông ấy nói cậu có dã tâm, biết nhẫn nại, lại đa mưu túc trí. Nhưng ông ấy chưa từng nói cho tôi hay một chàng trai quá trẻ như cậu lại tàn độc tới nhường này.”

“Đương nhiên chú Tạ sẽ không nói như vậy với ngài,” Cảnh Sâm cong môi mỉm cười, “vì chú ấy hiểu thế nào là tàn độc, hiểu hơn ngài nhiều, so với cái loại tàn độc ấy thì tôi có đáng là gì.”

Đồng Xuân Giang nhìn anh một lát rồi chợt khẽ cất tiếng thở dài: “Chắc chắn suốt bao năm nay cậu đã kìm nén quá nhiều, kể ra cũng đáng thương.”

Gương mặt Cảnh Sâm dần trở nên u ám, như thể đang muốn nói điều gì đó, nhưng cuối cùng anh vẫn không thốt thành lời.

Đồng Xuân Giang đưa anh vào nhà, chỉ cho anh phòng của mình, rồi lại để người pha trà bưng vào cho anh. Ông ngồi một lát, nhìn đồng hồ rồi bước ra ngoài, leo lên ngựa rong ruổi rời khỏi khoảng sân. Chừng một tiếng sau, một người đàn bà luống tuổi đến từ trang trại gần đó đưa cơm tới, cuối cùng người đàn ông vung roi ngoài sân cũng dừng lại. Cảnh Sâm cầm cuốn sách tựa bên cửa sổ, nghe đám đàn ông bên ngoài đang chào hỏi bà cụ, xem chừng rất thân quen, rồi anh lại thấy bà cụ dặn: “Cậu Lưu Ngũ, ngài Đồng dặn đồ trong giỏ nhỏ là dành riêng cho khách, nếu khách thấy không đủ, hoặc không ngon miệng thì cứ báo tôi, phòng bếp sẽ làm thêm mấy món khác.”

“Bà Từ, cháu thấy đồ trong giỏ to giỏ nhỏ như nhau hết mà.” Có người cất giọng vang dội, đó chính là người đàn ông vạm vỡ vừa hăng say vụt roi.

Bà Từ không đáp lời, chỉ có người đàn ông tên Lưu Ngũ cười bảo: “Ô, có bánh khoai chiên, hồi trước cứ Tết mẹ tôi lại làm món này.”

Bà Từ cười: “Bà chủ tự tay làm đấy. Mọi người cũng có phần, lát về ngài Đồng sẽ đem cho mọi người, còn đĩa này để khách ăn trước.”

“Vâng, vâng!”

Lưu Ngũ xách giỏ thức ăn gõ cửa phòng Cảnh Sâm. Cảnh Sâm vội buông sách ra mở cửa, Lưu Ngũ cười bảo: “Cậu Phan, cậu mau ăn cơm đi, chỗ chúng tôi không được như trong thành phố, nấu cơm cũng mất nhiều thời gian, để cậu phải chờ lâu rồi.” Người này chẳng có vẻ lỗ mãng cục cằn, lời ăn tiếng nói rất nhã nhặn lịch sự.

Cảnh Sâm bèn lên tiếng cảm ơn, Lưu Ngũ dọn từng đĩa thức ăn ra cho anh, đĩa bánh khoai chiên óng ánh trơn mượt, tỏa ra thứ hương thơm vô cùng hấp dẫn. Cảnh Sâm đưa mắt nhìn rồi khẽ thốt: “Ban nãy anh bảo dịp Tết mẹ anh thường làm món bánh khoai chiên này nhỉ?”

Lưu Ngũ ngơ ngác, cười gật đầu.

“Tôi chưa từng được ăn món bánh khoai chiên này.” Cảnh Sâm cầm đũa, gắp một gắp bỏ vào miệng chẳng hề khách khí, nhai mấy miếng rồi nuốt, anh khen, “Ngon, ngon lắm!”

“Vậy cậu cứ ăn từ từ thôi, tôi cũng ra ngoài ăn với các anh em đây.”

“Xin hỏi… mọi người có rượu không?” Cảnh Sâm chợt ngại ngùng mỉm cười, “Ngại quá, tôi đang hơi thèm rượu.”

Dù rất ngạc nhiên vì một chàng trai trẻ lịch sự ôn tồn nhường này lại hảo rượu, nhưng nghĩ ngày mai anh phải đối mặt với nguy hiểm, Lưu Ngũ cũng thấy dễ hiểu, bèn cười nói: “Cơm canh chỗ chúng tôi không phải loại hảo hạng thật, nhưng rượu ngon thì có đấy. Nếu cậu Phan không chê thì để tôi lấy cho cậu.”

“Hay tôi cùng uống cùng ăn với mấy anh luôn, như vậy có được không? Dù sao tôi cũng biết ngày mai lành ít dữ nhiều, chi bằng hôm nay cứ vui vẻ trước đã, coi như tiếp thêm can đảm, xong chuyện rồi tôi sẽ lại mời mọi người một chầu rượu tử tế. Anh thấy thế nào?”

Lưu Ngũ rất có thiện cảm với chàng trai này, bèn cười: “Được! Vậy cứ làm theo lời cậu Phan đi!”

Cảnh Sâm uống say bí tỉ.

Đồng Xuân Giang trở về hơi muộn, lúc này Cảnh Sâm đã thiếp đi trên giường, anh thở hổn hển, thỉnh thoảng lại phát ra những tiếng rên yếu ớt.

“Các cậu chẳng có chừng mực gì cả! Sao lại để cậu ấy uống rượu?!” Đồng Xuân Giang trách cứ.

Lưu Ngũ gãi đầu: “Cậu ấy cứ đòi uống, chúng tôi nào dám ngăn? Lúc đi ngài cũng bảo cậu ấy muốn ăn gì uống gì thì cứ đưa hết cho cậu ấy.”

Đồng Xuân Giang giận dữ lườm Lưu Ngũ. Lưu Ngũ thở dài, bảo: “Ngài Đồng, tôi thấy cậu ấy cũng đáng thương, ông chủ Phan đúng là nhất bên trọng nhất bên khinh, thiên vị cậu con thứ, chẳng buồn quan tâm tới sống chết của đứa con trai cả, để cậu ấy đi đàm phán với lũ bắt cóc. Nếu là cậu ấy thì tôi cũng buồn.”

Đồng Xuân Giang bước tới bên giường Cảnh Sâm, thấy trán anh rịn đầy mồ hôi, gương mặt đỏ bừng, ông bèn lật người để Cảnh Sâm nằm cho thoải mái, rồi lại đắp chăn cho anh. Cảnh Sâm đang lẩm bẩm câu gì đó.

Đồng Xuân Giang không nghe rõ, bèn ghé lại gần, ánh đèn mờ tối, chỉ thấy một giọt lệ ứa ra từ khóe mắt chàng trai, anh khẽ thì thào: 

“Mẹ…”
 
Quyển 1 - Chương 16


Năm Tuyên Thống thứ hai, giám đốc hiệu buôn Anh Di Hòa mua được tám trăm mẫu đất từ tay ông hoàng bất động sản Hán Khẩu Lưu Hâm Sinh với giá rẻ, mở “Trường đua ngựa Lục Quốc Dương Thương”, đây là chốn vui chơi của dân nước ngoài, người Hoa thì bị gạt ra ngoài, đến cả kẻ từng là chủ nhân của chốn này như Lưu Hâm Sinh cũng bị ngăn lại ngoài cổng, bà Lưu giận dữ, bèn xây thêm một “Trường đua ngựa Hoa Thương” tại Vạn Tùng Viên, địa vị ngang hàng với đối thủ nước ngoài này. Ban đầu còn có mấy tay nhà giàu không tin, bảo đám dân Tây lắm trò bịp bợm, nơi đó cũng chỉ là chốn tiêu tiền mua vui thôi, đưa họ tiền chẳng phải là xong chuyện sao? Người ta vẫn bảo người nước ngoài giỏi làm ăn lắm đấy thôi? Vậy nên những kẻ này xách túi tiền tìm đến thật, họ không chỉ xách túi tiền, mà còn ngồi chiếc xe hơi xịn nhất mua của người nước ngoài. Xe được cọ rửa sáng bóng, chạy thẳng tới trước cánh cổng sắt ngoài trường đua ngựa.

Ngoài cổng có treo biển: “Người Hoa và chó không được vào.” Sau đó mấy tay người Hoa lại nghe có tiếng chó sủa từ trong vọng ra, đám người nước ngoài này nói lời không giữ lời, rõ ràng bên trong có chó. Cùng với tiếng chó sủa inh ỏi, có vài tên đầy tớ Ấn Độ rất hung tợn xuất hiện, xua tay tỏ ý muốn đuổi đám người đi.

Người Hoa ngồi trong xe ấn tay thật lực, hạ cửa sổ xuống, nhưng cũng chỉ có thể nhổ toẹt một bãi nước bọt ra ngoài, kẻ này mắng: “Lũ tóc dài, đồ con gái điếm!”

Người đó tưởng mình khác biệt, ít nhất thì cũng phải có vài ba điểm khác biệt. Người trên xe mặc vest Tây, đi giày da chẳng kém quý ông Âu Mỹ nào, nhưng tới đây, ông ta vẫn biến thành một trò cười.

Trường đua ngựa cho thương nhân nước ngoài là nơi khiến thương buôn người Hoa tại Hán Khẩu thù ghét như vậy đấy. Trong sự thù ghét ấy còn thoáng những cảm xúc phức tạp không diễn tả nổi thành lời, mười năm đã trôi qua, cơn thù ghét cũng nhạt bớt nhiều theo sự biến đổi của thời thế, trong cuộc đua ngựa hai mùa xuân – thu, người ta cũng có thể bắt gặp bóng vài tay đua gốc Hoa, nhưng bầu không khí lại vẫn cứ chẳng mấy êm dịu.

Thứ được bao lại bởi lớp hàng rào chính là vinh hoa nhất thời, mà xung quanh nó, lại chỉ toàn những cỏ cây rậm rạp, những khoảnh đất bằng phẳng.

Cảnh Sâm xuống xe, anh cắn một miếng váng đậu, nghe nói đồ ăn sáng nay vẫn do đích thân vợ của Đồng Xuân Giang nấu.

Cảnh Sâm thấy váng đậu ngon, bèn cầm theo mấy miếng để nhấm nháp trên đường. Đồng Xuân Giang cảm giác đêm qua sau khi say rượu, chàng trai này như đã tắm rửa giữa dòng Vong Xuyên, vừa tỉnh dậy anh đã biến thành một con người khác, vẫn thanh tú lịch thiệp, nhưng lại tỏa sát khí rét lạnh.

Đoàn của họ có tổng cộng ba chiếc xe, một chiếc chứa 500.000 tiền mặt, Phan Thịnh Đường dặn Hà Sĩ Văn và Vân Tú Thành rút tiền từ ngân hàng mà nhà họ Phan nắm cổ phần, ngoài ra còn lãnh thêm tiền tại hiệu đổi tiền Sơn Tây trên đường Hán Chính, tổng cộng có mười vali da. Chiếc xe còn lại có vài người, không nhiều, chỉ vỏn vẹn mười gã đàn ông.

Đây là một mảnh đất hoang ở mặt Tây của trường đua ngựa, sắc trời trong veo, phóng mắt ra xa rợn ngợp chẳng có lấy một vật cản, không khí rất ẩm ướt, cơn gió nhẹ thổi qua mang theo mùi hương của đầm hồ, cách đó mấy bước có một khoảng hồ nhỏ, mặt hồ trải đầy lá sen, như một bữa tiệc hoa chuẩn bị đón hạ về. Cảnh Sâm ăn váng đậu, trông mấy người đàn ông vạm vỡ dỡ từng vali tiền xuống xe, rồi lại rút súng ống ra, anh thấy thật nực cười.

A Kỳ liếc bụi gai, rồi lại dạo quanh hồ mấy bước, Lưu Ngũ cười anh ta: “Họ chọn nơi này để chúng ta không có chỗ mai phục, mà họ cũng lâm vào cảnh giống mình thôi. Cậu muốn ngắm cảnh thì lựa hôm nào rảnh trèo đỉnh Quy Sơn là được, còn có thể nhân cơ hội nhận tổ quy tông nữa.”

A Kỳ dứ nắm đấm, trợn mắt bảo: “Anh mắng ai là con rùa đen?”

Lưu Ngũ cười ha hả.

A Kỳ liếc nhìn mặt hồ, anh ta chợt thốt “ồ” lên, tiến về phía trước vài bước, rướn người nhìn, xuýt xoa liền mấy tiếng rồi mắng: “Đúng là thất đức! Làm mất cả khẩu vị!”

“Sao thế?”

Lưu Ngũ vừa tiến lại đã biến sắc. Đồng Xuân Giang và Cảnh Sâm định bước đến, Lưu Ngũ bèn khoát tay nói:

“Đừng qua đó, không phải thứ hay ho gì đâu, đến gần chỉ tổ xúi quẩy. Cậu Phan, cậu còn đang ăn nữa, càng không nên lại đó.”

Đồng Xuân Giang cũng đã hiểu đại khái rồi, ông cười nhạt dừng bước, Cảnh Sâm vẫn chưa hiểu chuyện gì, lưỡng lự chốc lát, rồi anh cũng mau chóng tiến tới gần. Những đám rêu tảo phủ đầy dưới đáy khiến mặt hồ ánh sắc xanh khói dưới bầu trời trải dài màu lam, giữa mấy phiến lá sen to có một cái xác nhỏ xíu, trương phềnh tới độ chẳng nhìn rõ mặt mũi, mà cũng không phân biệt nổi giới tính, nhưng trông vóc dáng thì đứa bé nổi trên hồ cùng lắm cũng chỉ mới một hai tuổi, áo quần khoác trên mình nó đã rách bươm vì cơ thể trương to, tả tơi rải trên mặt nước, khiến lồng ngực tím bầm của nó lộ ra trần trụi.

Ánh nhìn của Cảnh Sâm chầm chậm dời xuống, dừng lại nơi cặp mắt đang trợn trừng của đứa bé, mắt đứa trẻ ấy trống rỗng, ngập trong thứ chất lỏng đục ngầu, tựa như nước mắt, mà cũng có thể chỉ là nước hồ. Cảnh Sâm lùi ra sau một bước, có cây kim đã bị giấu trong lòng anh từ lâu, giờ lại mượn cớ để ghim chặt nơi sâu thẳm cõi lòng. Mọi người đều tưởng cậu thiếu gia này sẽ sợ hãi, nôn mửa kêu thét, nào ngờ anh chỉ khẽ nghiêng người sang một bên, ánh mắt âm u lạnh lẽo như băng, anh tự nhủ với mình: “Nếu là con hoang thì có lẽ chết còn thoải mái hơn sống nhiều.” Hệt như đang nhắc đến một câu chuyện không thể tầm thường hơn được nữa, nhưng ngón tay anh lại run rẩy, váng đậu chỉ còn lại chút xíu, ăn một hai miếng là hết, anh bèn nhét nó vào miệng, nuốt thẳng xuống bụng, bàn tay trắng nõn vo viên lớp giấy bọc váng đậu, anh ném phứt nó xuống hồ, gợn nước lăn tăn dập dờn, vỗ lên những mảnh quần áo tả tơi.

Lúc này Đồng Xuân Giang đang đưa mắt dõi ra mặt Nam của con đường cái, có hai chiếc xe thong thả tiến lại gần.

Cảnh Sâm khẽ nâng cằm lên, híp mắt nhìn.

“Không sợ hả?” Đồng Xuân Giang cười nhìn anh.

“Cũng chỉ như diễn một màn kịch mà thôi.”

“Tề Phàm và ông chủ Phan tìm tôi nhờ xử lý chuyện phiền toái nhà cậu không phải vì tôi có tài gì, mà do tôi và kẻ đã bắt cóc em trai cậu có chút tình xưa.”

“Tình xưa?”

Đồng Xuân Giang hờ hững thốt: “Người này tên Hồng Toàn Căn, năm ấy sau khi phản lại Hướng Tùng Pha, cuộc sống của ông ta rất sa sút. Về sau vì chuyện tiền bạc mà Hồng Toàn Căn đã cầm xẻng đánh chết vợ mình, chạy tới Quảng Châu, tôi là người đã chôn cất vợ ông ta.”

Cảnh Sâm rung động: “Vì bao nhiêu tiền mà ông ta đánh chết vợ mình?”

“Năm đồng đại dương.”

Cảnh Sâm thầm hít sâu một hơi, im lặng không nói gì.

“Về sau Hồng Toàn Căn có một biệt danh, người ta gọi ông ta là ‘A Căn chặt đầu’, cậu biết tại sao không?”

Cảnh Sâm lắc đầu.

Đồng Xuân Giang vươn tay trái làm động tác cắt cổ: “Ông ta đã dùng xẻng chặt lìa đầu vợ mình. Tôi bỏ ra một khoản tiền mời người ta vá lại thi thể cho bà ấy. Hai năm sau, Hồng Toàn Căn phát tài nhờ buôn bán vũ khí và thuốc phiện ở Quảng Châu, còn quen biết vài người bên quân đội và chính phú, cũng được coi là đắc thế, có lẽ ông ta mang ơn tôi nên đã gửi tôi một tấm thiếp, cảm ơn vì đã giúp ông ta xử lý việc nhà.” Nói rồi, ông khựng lại, chắp tay mỉm cười, lớp áo khoác xanh nhạt khẽ đung đưa trong gió, “Em trai cậu đã rơi vào tay kẻ như vậy đấy…”

Tay phải Cảnh Sâm đút trong túi quần, siết chặt thành nắm đấm, bờ vai anh thoáng run rẩy.

Đồng Xuân Giang quan sát vẻ mặt anh chăm chú: “Tôi có hai điều thắc mắc. Dù sau lưng cha cậu có đối xử với hai anh em cậu thế nào thì ngoài mặt ai ai cũng biết cậu chính là trụ cột trong tương lai của nhà họ Phan, vậy mà ông ta lại chọn bắt cậu hai nhà họ Phan chứ không phải cậu. Thêm nữa, với địa vị của nhà họ Phan, dù em trai cậu có rơi vào tay Hồng Toàn Căn, ông ta cũng phải y theo khuôn phép giang hồ mà cư xử khách sáo với cậu hai, cuối cùng lấy được tiền rồi thì dừng tay, tại sao Hồng Toàn Căn lại lên cơn cắt mất tai em trai cậu.”

Lông mày Cảnh Sâm cau chặt.

Hồng Xuân Giang cười ha hả: “Nghĩ lại thì hai vấn đề này đều rất dễ giải thích. Chuyện thứ hai chắc chắn là do có kẻ đã biết tính Hồng Toàn Căn, hiểu ông ta là hạng yêu tiền như mạng, không từ bất cứ chuyện ác nào, vì vậy kẻ này mới kích động ông ta, khiến ông ta gửi bằng chứng đến nhà họ Phan để cha cậu không dám coi thường chuyện này. Còn vấn đề thứ nhất… Từ hồi căn nhà ở Quảng Châu của Phan gia bị cháy cho đến giờ cậu hai họ Phan bị bắt cóc, không biết đã dính líu tới bao nhiêu kẻ vàng thau lẫn lộn, chỉ cần giữ được tỉnh táo trước mớ bòng bong này là đã có thể lần ra đôi chút đầu mối.”

Cảnh Sâm đáp trả lại bằng sự lạnh lùng, Đồng Xuân Giang cười nhìn anh: “Cậu Phan, tôi và Tạ Tề Phàm có qua lại với nhau, vậy nên một người ngoài như tôi mới có thể hiểu đôi chút về nguyên do dẫn đến cơ sự hôm nay. Với năng lực cùng trí tuệ của cha cậu là ông Phan Thịnh Đường, nếu biết cậu và Tề Phàm lén lút giao thiệp với nhau, liệu ông ấy sẽ nhìn cậu bằng con mắt nào đây? Cậu có tưởng tượng được không?

Dù sau lưng có bao nhiêu người giúp đỡ cậu thì họ cũng chẳng giúp mãi được, về sau cậu phải bảo trọng.”

Cảnh Sâm khẽ đáp: “Dù có thế nào đi chăng nữa tôi cũng sẽ nhớ những lời ngài Đồng nói hôm nay, cảm ơn ngài.”

Tiếng động cơ xe hơi càng lúc càng gần, đám người Lưu Ngũ cũng đã tiến lại cả, cùng dàn trận nghênh đón.

“Ngài Đồng, họ tới rồi.”

Đó là Cảnh Huyên sao?

Cảnh Sâm không dám tin, đó là Cảnh Huyên sao?

Chàng trai khôi ngô tuấn tú, cậu hai nhà họ Phan còn chưa đầy mười sáu tuổi, gương mặt lúc nào cũng mang nụ cười rực rỡ như mặt trời, chính là kẻ mặt mũi nhoe nhoét máu tươi trước mắt anh sao?

Năm mười ba tuổi, Cảnh Huyên nhổ giò, đến tuổi mười lăm cậu đã cao bằng Cảnh Sâm, Cảnh Sâm từng thoáng ghen tỵ đùa cậu: “Anh không thể để em lớn thế này được, phải tìm thứ gì kìm em lại, lớn nữa lại cao hơn anh mất.” Khi ấy, Cảnh Huyên nghe còn vui vẻ cười ha hả.

Giờ chàng trai cao ráo khôi ngô lại như con ngỗng bị tước mất hai chân, bị bẻ mất đôi cánh, người ta lôi cậu từ xe xuống, cậu đứng cũng không vững, đi mấy bước cơ thể đã khuỵu ngã, người đàn ông vạm vỡ bên cạnh kẹp cậu dưới nách, thong dong vươn tay là đã nâng được cậu lên.

Tóc và máu dính bết bên tai trái cậu, có chỗ còn két lại thành vệt đen, có lẽ bọn chúng bôi thuốc cho cậu nên cả cần cổ lẫn cổ áo đều lấm tấm đầy vết thuốc đỏ tía, chúng rắc vôi lên đầu cậu, khiến gương mặt chàng trai loang lổ vệt trắng, mắt cậu khép hờ, đến tận khi có kẻ thét vào tai cậu: “Cậu hai nhà họ Phan, anh trai cậu tới rồi đấy.” Khi ấy cậu mới mở mắt, khẽ thốt một tiếng: “Anh ơi…”

Đáng ra anh đã phải dự liệu tất cả những chuyện này từ sớm rồi, thậm chí anh còn từng hy vọng được nhìn thấy nó. Nhưng lúc này đây không biết vì sợ hãi, tức giận, hay hối hận mà gương mặt Cảnh Sâm lại nóng rực như lửa đốt.

Anh đã đánh giá quá cao bản thân rồi.

Anh sải bước tiến vội về phía Cảnh Huyên, có người bật lên tiếng cười vang dội: “Trời, trời… Cậu cả, cậu cả à, đi chậm thôi đi chậm thôi! Đừng có sốt ruột!”

Đó là một người đàn ông trung niên gầy gò, ông ta mặc chiếc áo khoác ngoài màu xám, đi cùng quần đen, mái tóc mềm mại rủ xuống, cặp mắt dài hẹp của ông ta cong lên, rõ ràng ông ta đang cười, nhưng ánh mắt lại chẳng vương chút niềm vui. Ông ta chầm chậm tiến tới trước mặt Cảnh Huyên đang chật vật nghiêng ngả, khẽ khàng phủi bụi vôi vương trên vai cậu, rồi lại cười ha hả với Cảnh Sâm và Đồng Xuân Giang.

“Mình từng gặp người này rồi.” Cảnh Sâm lục tìm ký ức về gương mặt này trong đầu. Anh đã nhớ ra rồi. Hôm ấy Vân Tú Thành dắt ba anh em họ tới nhà hàng Nga dùng bữa tối, có một người đã va phải anh ngoài cổng.

“Là ông ta!” Cảnh Sâm thầm thốt, anh đưa mắt nhìn người đàn ông, “Hóa ra chính là ông ta!”

Hồng Toàn Căn cười khì khì, ánh mắt ông ta lại thêm phần lạnh lẽo, dời từ Cảnh Sâm sang Đồng Xuân Giang: “Từ ngày chúng ta từ biệt ở chùa Trường Xuân tới giờ cũng được tám năm rồi, ngài Đồng, người anh em này rất nhớ anh đấy.”

Đồng Xuân Giang cười tươi: “Anh Hồng phát tài ở đất Quảng Châu, tiền đồ xán lạn, các anh em ở Hồ Bắc đều thực lòng thực dạ mừng cho anh Hồng. Trước khi tôi lên đường gặp anh, anh Hướng có dặn riêng tôi thế này:

‘Xuân Giang à, chào hỏi A Căn giúp anh nhé, năm ấy anh đã để cậu ta phải chịu thiệt thòi, anh biết cậu ta oán anh, anh cũng biết lòng A Căn ghi thù ghi nợ, nhưng anh thì cũng vậy thôi, anh vẫn nhớ rõ từng khoản nợ một, sau khi lo chuyện xong xuôi thì mọi người hãy cùng ngồi lại, cậu thay anh kính người anh em họ Hồng một ly rượu, tính lại món nợ cũ, trước đây chúng ta nợ cậu Hồng bao nhiêu thì hôm nay chúng ta trả lại cả vốn lẫn lời cho cậu ta, để lòng dạ cậu Hồng không còn vướng bận đè nặng nữa.”

Nghe xong, Hồng Toàn Căn thở dài mà bùi ngùi vô cùng, ông ta quay đầu cười nói với đám người của mình: “Đấy, tôi đã bảo mấy cậu người Hồ Bắc trọng tình trọng nghĩa, giờ các cậu đã thấy chưa? Chúng ta phải lanh lẹ lên, giải quyết mọi chuyện cho ổn thỏa mới có thể uống rượu với những người anh em Hồ Bắc!” Lũ đàn ông sau lưng ông ta cùng gật đầu thưa vâng, ánh mắt họ tràn ngập sát khí. Đám A Kỳ, Lưu Ngũ đứng sau Đồng Xuân Giang lại như người ngoài cuộc, kẻ thì cạ chân vào đám cỏ dưới nền đất, người thì thẳng thừng rút cả thuốc lá trong túi ra hút. Ý cười trong mắt Hồng Toàn Căn dần nhạt bớt, ông ta lại quay sang nhìn Cảnh Sâm, quan sát một hồi, Hồng Toàn Căn chợt nâng tay phải ngoắc anh: “Cậu Phan, cậu dám lại đây không?”

Cảnh Sâm không nhúc nhích, anh cất giọng thỉnh cầu: “Tôi đã đem đủ số tiền ông yêu cầu tới rồi, bạc được cân bằng cân cũ tại hiệu đổi tiền Sơn Tây chứ không phải cân mới, không lẫn một chút nước nào. Xin ông hãy thả em trai tôi ra, cả nhà họ Phan sẽ vô cùng biết ơn ông.”

Hồng Toàn Căn cười khà.

“Cảnh Huyên là máu mủ ruột già của tôi, nếu thằng bé có thể lành lặn trở về nhà, tôi sẽ vô cùng biết ơn ông. Nhưng giả sử thằng bé có thêm một phân một ly bất trắc nào nữa thì ngài Hồng à, Phan Cảnh Sâm tôi xin thề tôi sẽ khiến ông, tôi sẽ khiến ông…”

Anh còn quá trẻ, lại không có kinh nghiệm qua lại với dân giang hồ như đám người này, dù rằng giọng điệu đầy phẫn nộ nhưng cuối cùng vẫn không thốt được lời uy hiếp.

Hồng Toàn Căn đẩy Cảnh Huyên lên trước nửa bước, cậu hai nhà họ Phan loạng choạng, hoảng hốt nhìn người anh trai đang đứng đối diện mình. Hồng Toàn Căn rút khẩu súng giắt bên hồng ra, kéo chốt nhắm thẳng vào lưng Cảnh Huyên: “Ngài Đồng, thôi không lãng phí thời gian nữa, chúng ta thỏa thuận thế này nhé: hai vali lên xe thì người tiến lên hai bước. Anh thấy sao?”

“Được!” Đồng Xuân Giang vung tay, A Kỳ và Lưu Ngũ mỗi người xách một vali tiến lại, người của Hồng Toàn Căn bước đến nhận lấy vali chất lên xe.

“Cậu hai, cậu bước hai bước đi.” Đồng Xuân Giang nói, Cảnh Sâm cũng đưa mắt nhìn Cảnh Huyên, ánh mắt anh dâng ý khích lệ.

Cảnh Huyên còn chưa xê xích, Hồng Toàn Căn đã bật cười: “Tôi không bảo cậu hai bước, mà là cậu ta.” Họng súng chếch sang, chỉ thẳng hướng Cảnh Sâm.

Cảnh Sâm khẽ híp mắt, Đồng Xuân Giang có thể nhìn thấy vẻ quả quyết tỉnh táo thấp thoáng trong mắt anh, ông biết chàng trai này không hề sợ hãi, bèn nhẹ giọng bảo: “Có tôi ở đây ông ta sẽ không hành động thiếu suy nghĩ đâu.”

Cảnh Sâm tiến lên hai bước, ánh dương phủ trên tóc mai anh, tỏa sáng lấp lánh, thấy anh chẳng hề sợ sệt, Hồng Toàn Căn gật đầu nói: “Nghe bảo năm đó ông ngoại của cậu Phan là Tiến sĩ tam giáp, hoàng đế ngự ban cho cưỡi ngựa vào Tử Cấm Thành, phong làm quan Tuần phủ Quảng Đông nhị phẩm. Cậu xuất thân danh môn, nếu xét về huyết thống cao quý, cậu vượt xa thằng em trai tàn phế chỉ được mẽ ngoài của mình, không biết tại sao cha cậu lại chẳng coi cậu ra gì, thật là quái lạ.”

Gương mặt Cảnh Sâm phẳng lặng như nước, anh đáp lại ông ta bằng sự im lặng. Đến khi hai vali cuối cùng được xếp lên xe, anh cũng đã tiến tới bên Hồng Toàn Căn và Cảnh Huyên.

“Xin hãy thả em trai tôi ra.” Anh tiếp tục cất lời, giọng điệu lễ độ nhưng vô cùng kiên quyết.

“Đương nhiên rồi.” Hồng Toàn Căn vươn tay, kéo lấy cánh tay Cảnh Sâm, họng súng dí vào hông anh, ông ta cười, “Cậu hai có thể đi rồi, còn cậu thì lưu lại đây đã.”

Cảnh Huyên thoáng ngơ ngác trong chốc lát, rồi lại chợt sực tỉnh như sét đánh, cậu co cẳng chạy thẳng về phía Đồng Xuân Giang, trong cơn hoảng loạn, cậu chẳng còn lòng dạ nào mà ban cho người anh trai đang thế chỗ con tin sau lưng mình một cái liếc mắt.

Hồng Toàn Căn nhìn bóng lưng Cảnh Huyên, ông ta mỉm cười nói: “Thứ bỏ đi thế này mà kiếm cho tôi được tận 500.000 đồng đại dương, cậu Phan à, cậu nói xem, cậu đáng giá bao nhiêu đây?”

Đối mặt với họng súng lạnh ngóm và cặp mắt tràn ngập sát ý, có bình tĩnh tới đâu, cuối cùng gương mặt Cảnh Sâm cũng vẫn dần tái nhợt, anh cố kiên trì nói: “Ông… dù ông có đòi được nhiều tiền thêm nữa mà không giữ nổi mạng trở về Quảng Châu thì còn nghĩa lý gì?”

“Đúng vậy, cậu Phan nói rất có lý. Có mạng để kiếm tiền mà không có mạng hưởng thì chẳng phải sẽ uổng phí lắm sao?”

Hồng Toàn Căn làm bộ sực tỉnh, rồi ông ta chợt cao giọng, “Ngài Đồng, nhờ anh chuyển lời xin lỗi của tôi đến anh Hướng nhé. Anh trông kìa, lời của cậu Phan đúng là chí lý. Tình nghĩa anh em quả là rất quý giá, nhưng quý nữa cũng chẳng bằng cái mạng rách của tôi. Thôi thì rượu để dành lần sau uống vậy. Anh đưa cậu hai về đi, tôi sẽ nhờ cậu cả tiễn tôi rời khỏi Hán Khẩu, sau khi tôi đi rồi, tôi đảm bảo sẽ để cậu cả lành lặn trở về.”

“A Căn, anh là đàn ông thì cứ làm theo quy củ đi, lằng nhằng thế làm gì? Anh còn ngại chuyện chưa đủ rắc rối hả?” Đồng Xuân Giang cau mày, lúc này Cảnh Huyên đã chạy tới bên ông, A Kỳ liền vươn tay đỡ lấy cậu.

Hồng Toàn Căn nở nụ cười lạnh lùng: “Tôi đây ngại rắc rối nên mới làm vậy đấy.”

Đồng Xuân Giang đang muốn cất lời, Cảnh Huyên đã chợt la lên: “Mau đưa tôi trở về đi, đưa tôi về nhà đi! Đừng để tôi ở lại đây thêm phút nào nữa! Tôi xin ông đấy, ông không phải là người được cha tôi cử đến sao? Ông còn đứng đây nói lời thừa thãi làm gì? Mau đưa tôi về nhà đi!”

Gương mặt Cảnh Huyên méo mó, vết thương bên tai bục ra, máu bắt đầu chảy ròng ròng.

Cảnh Sâm đưa mắt dõi từ xa, gương mặt anh trắng tới độ như trong suốt, khóe môi nở nụ cười khổ, ánh mắt cũng dần trở lạnh, tựa như lớp băng trôi trên mặt hồ cóng rét.

Đồng Xuân Giang nghĩ ngợi trong chốc lát rồi cao giọng: “A Căn, anh cũng chỉ muốn rời khỏi Hán Khẩu một cách an toàn thôi phải không. Vậy anh thả cậu cả ra đi, tôi sẽ thay cậu ấy.”

“Ngài Đồng, không được đâu ạ!” Đám A Kỳ, Lưu Ngũ kinh hãi, Đồng Xuân Giang bèn khoát tay với họ.

Gương mặt Cảnh Sâm thoáng xao động.

Đồng Xuân Giang rút súng giắt bên thân ra, giao cho Lưu Ngũ, rồi lại cởi áo khoác ngoài, để lộ bộ đồ vải đay bên trong, tỏ ý bản thân không mang vũ khí theo mình. Ông chầm chậm tiến về phía Hồng Toàn Căn: “Tôi cũng đã thể hiện thành ý của mình tới mức này rồi A Căn à. Dù có không niệm tình cũ thì anh cũng biết tôi là con người thế nào mà. Giả dụ ta trở mặt thật, liệu anh lường được hậu quả chứ?”

“Được!” Hồng Toàn Căn buông tay Cảnh Sâm ra, xúc động nở nụ cười, nói, “Vậy anh em ta hãy cùng uống rượu dọc đường. Ngài Đồng, A Căn không ra gì, nhưng anh thì đúng là một vị nam tử hán!”

Đồng Xuân Giang nở nụ cười nhạt.

“Cảm ơn ngài.” Cảnh Sâm nhìn ông.

Đồng Xuân Giang nói: “Tôi đã đồng ý với người ta sẽ đảm bảo cho sự an toàn của cậu, nói được thì phải làm được, ở chốn giang hồ tình cảm chính là nợ nần, đây là món nợ của tôi với người ta, không liên quan gì tới cậu cả. Cậu Phan không cần cảm ơn tôi. Cậu đi đi. Đám A Kỳ sẽ đưa cậu trở lại nhà họ Phan bình an.”

Cuối cùng hai anh em cũng lên xe, Cảnh Huyên run lẩy bẩy, vẫn còn chưa tỉnh táo, Cảnh Sâm rút một chiếc khăn tay sạch sẽ từ túi áo ra, lau máu vương trên tai cậu, im lặng chẳng nói lời nào.

“Anh ơi…” Cảnh Huyên run giọng, “Anh cả.”

“Ừ.” Cảnh Sâm cẩn thận lau mặt cho cậu, chỉ sợ làm cậu đau.

“Em xin lỗi…” Lệ ứa ra từ khóe mắt Cảnh Huyên.

Cảnh Sâm sững sờ: “Anh tới muộn, khiến em phải chịu khổ rồi. Anh mới là người có lỗi với em.”

Cảnh Huyên lắc đầu lẩm bẩm: “Không, không phải đâu… Anh cả, tại em sợ quá, tại em sợ quá…” Ánh mắt cậu tràn ngập hoảng loạn, muốn nói lại thôi.

“Đừng sợ,” Cảnh Sâm ngẩng đầu, nhìn cậu chăm chú, “em đã an toàn rồi.”

“Thật không?”

“Thật, Cảnh Huyên, em đã an toàn rồi. Chúng ta sắp về tới nhà, cha mẹ đều đang chờ chúng ta, Bé Hạt Dẻ cũng đang chờ chúng ta.”

“Bé Hạt Dẻ”, nụ cười mờ nhạt thoáng hiện bên khóe môi Cảnh Huyên, “em lại quên mất hôm nay là sinh nhật của Bé Hạt Dẻ…”

Rất nhiều người đang chờ đợi trong phòng khách, thấy hai người tiến vào, căn phòng ồn ào ầm ĩ chợt lặng ngắt như tờ.

Cảnh Huyên liếc mọi người bằng ánh nhìn trống rỗng, cha, mẹ, cậu, còn có cả cô em gái đang trông mình bằng cặp mắt ầng ậc nước. Bánh sinh nhật đặt giữa chiếc bàn bên cạnh Cảnh Ninh, 13 ngọn nến đã được cắm ngay ngắn phía trên.

Cảnh Huyên mỉm cười với Cảnh Ninh, Cảnh Ninh gắng gượng không để mình bật khóc, cô bé reo lên: “Anh hai, cuối cùng anh cũng về rồi.”

Cảnh Huyên tiến lại, cậu nói: “Hôm nay là sinh nhật em, dù có thế nào đi chăng nữa anh cũng phải trở về chứ.”

Cảnh Ninh lao vào lòng cậu, ôm chặt lấy cậu, Cảnh Sâm đứng bên nhìn họ, cảm thấy có điều gì đó không đúng lắm.

“Đây là quà của em, hai ông anh em đã dùng mạng để đổi lấy nó cho em đấy.” Cảnh Huyên xoa đầu Cảnh Ninh. Cảnh Ninh ngẩng đầu lên, Cảnh Huyên bèn rút sợi dây chuyền trong túi áo ra, mặt dây là một đóa hoa hồng bằng vàng đang chuẩn bị hé nở, đường nét duyên dáng, tỏa tia sáng dịu dàng như có ánh mặt trời phủ phía trên.

Cảnh Ninh cúi đầu, khẽ chạm lên mặt dây chuyền, Cảnh Huyên thả tay, thế là sợi dây rơi xuống, Cảnh Ninh vội vã vươn tay nhặt, nhưng cô còn chưa kịp phản ứng, Cảnh Huyên đã đạp thật lực xuống sợi dây chuyền.

Có người kéo cô ra sau. Cảnh Sâm đã nhanh chân bước ra cản Cảnh Huyên lại, nhưng Cảnh Huyên không có ý làm hại Cảnh Ninh, cậu chỉ muốn đạp đổ chiếc bánh sinh nhật xuống đất, đạp thỏa thuê rồi, cậu chà mạnh đôi giày da dây bẩn đầy kem bơ lên xô pha, vươn tay giật mạnh vải băng trên tai xuống, để lộ miệng vết thương lẫn lộn máu thịt.

Từ khi lọt lòng Cảnh Ninh đã sống trong nhung lụa, trong vô ưu vô lo, cô chưa bao giờ chứng kiến một cảnh tượng kinh hãi tới nhường này.

Anh hai vẫn luôn thân thiết với cô lại gào thét tới lạc giọng như một kẻ điên: “Ai trả lại cho tôi đây? Ai trả lại tai cho tôi đấy? Các người còn muốn tôi mừng sinh nhật với nó sao? Ai trả lại tai cho tôi?! Khốn kiếp!”

“A Huyên!” Bà Vân khóc nức lên, “Em gái con muốn chờ các con về mới tổ chức sinh nhật mà! Sao con lại trách em?”

Cảnh Huyên nghe chẳng lọt, cậu liên tục thét gào: “Trả lại cho tôi! Trả lại cho tôi!” Vừa thét cậu vừa đập phá, đám người làm không giữ được cậu, Thịnh Đường định tiến lại giúp đỡ nhưng Vân Tú Thành đã giành trước, ôm chặt lấy cánh tay cậu cháu trai. Cảnh Huyên ngoảnh đầu, đôi mắt cậu như một kẻ điên: “Cậu… cậu à, giờ cậu đã hài lòng chưa! Cậu có vui không?”

Tú Thành lấy khăn tay áp lên tai Cảnh Huyên, ông vỗ về cậu: “A Huyên, cháu mê sảng rồi, đừng sợ, đây là nhà mình mà, cháu đã về nhà rồi.” Cảnh Huyên vùng vẫy vung tay, Tú Thành gồng sức túm chặt lấy cậu, quay đầu bảo Thịnh Đường, “Thằng bé hoảng sợ quá nên vậy đấy, để em đưa nó lên tầng nghỉ ngơi.”

Thịnh Đường cau mày: “Để anh đi với cậu.” Ông đi được vài bước rồi lại quay đầu nhìn con gái bằng ánh mắt lo lắng, Cảnh Ninh đứng đờ ra như tượng gỗ, không nói một lời, bà Vân đang an ủi cô bé. Lúc này dường như Thịnh Đường mới nhớ tới Cảnh Sâm, ông nói: “A Sâm, vất vả cho con rồi, con hãy nghỉ ngơi đi. Lát nữa cha sẽ qua phòng con.”

“Vâng ạ.” Cảnh Sâm ngoan ngoãn đáp lời.

Bà Vân ôm lấy Cảnh Ninh, nức nở thốt: “Con gái ngoan, không sao đâu con. Anh hai con chịu nhiều tủi nhục quá, lòng nó đau khổ nên mới vậy, con đừng trách nó.”

Cảnh Ninh không khóc, cũng không nói gì, thậm chí còn chẳng để lộ bất cứ biểu cảm đau khổ nào.

Cảnh Sâm lẳng lặng quỳ xuống nhặt sợi dây chuyền đặt vào tay Cảnh Ninh, anh dịu dàng nói: “Ninh Ninh, đây là sợi dây chuyền anh tự tay vẽ rồi nhờ thợ làm cho em. Không phải em thích hoa hồng sao? Nào, để anh đeo cho em.”

Cảnh Ninh lắc đầu, như một con cún con giật mình, cô chợt vùng khỏi lòng mẹ, xô mạnh tay Cảnh Sâm ra, sợi dây chuyền lại rơi xuống đất, như tia sáng mặt trời chói lọi lóe sáng. Cảnh Ninh thét: “Em không thích! Ai bảo em thích! Em ghét hoa hồng! Em ghét anh!”

Cô quay mình chạy vụt đi, vừa chạy mấy bước người đã mềm nhũn, ngã phịch xuống đất.

“Ninh Ninh!”

Cảnh Sâm đuổi theo đỡ cô bé dậy, đôi mắt cô trừng lớn, đong đầy ánh lệ, nước mắt ứa ra, lúc ngã cô đã cắn toạc môi, vệt máu rơm rớm, đôi môi cô run run.

Cuối cùng cô cũng bật khóc.
 
Quyển 1 - Chương 17


Đến trưa, đột nhiên trời lại tối sầm sì, những đụn mây nhỏ giăng kín, không khí tràn ngập sương bụi, gió lạnh ẩm ướt thổi ào ào, dù đang vào hè nhưng lòng người vẫn thấy lạnh lẽo hoang vắng, thoáng hơi se se. Cửa sổ nửa hé, chẳng mấy chốc chiếc bàn đọc sách dày thật dày đã phủ một tầng bụi ảm đạm.

Cơn dông chuẩn bị kéo tới rồi.

Cảnh Sâm đi theo sau lưng hai mẹ con bà Vân, anh nghe bà Vân dịu giọng an ủi con gái, tiếng khóc thút thít Cảnh Ninh dần lặng đi, cô biết Cảnh Sâm đi theo họ, nhưng cô không muốn ngoảnh đầu lại, cô sợ phải ngoảnh đầu.

Vào phòng rồi, bà Vân toan khép cửa, vốn Cảnh Sâm đã định bước vào, nhưng thấy vậy anh vẫn lùi ra sau một bước. Bà Vân khẽ cất tiếng: “Con về nghỉ đi, Cảnh Ninh có mẹ rồi, con không phải lo cho nó. Hôm nay bếp nấu món gà luộc con thích ăn đấy, còn có cả cháo hải sản nữa, lát Vân Thăng sẽ mang lên phòng cho con.”

Rồi bà khép cửa lại.

Về đến phòng rồi, Cảnh Sâm ngã xuống giường, anh chỉ thấy sức lực trong cơ thể bay biến đi đâu hết, mình mẩy mệt rã rời, anh ngơ ngác nhìn chằm chằm nóc giường. Lát sau Vân Thăng mang cơm lên, Cảnh Sâm bèn xuống giường, món gà luộc rất tươi ngon, nhưng anh chẳng ăn được mấy, tuy vậy cũng húp được tương đối cháo.

Vân Thăng thì thầm: “Chiều nay ông chủ phải tới hiệu buôn Tây, cậu cả mà muốn ra ngoài cũng dễ dàng hơn.”

Cảnh Sâm nhìn chằm chằm đám cây cối đang đung đưa dữ dội ngoài cửa sổ.

“Họ sẽ xử lý cô ấy thế nào?” Cảnh Sâm ngoảnh đầu nhìn Vân Thăng, con ngươi anh trong vắt, bất giác Vân Thăng thấy người mình lạnh ngắt, anh ta cân nhắc hồi lâu không biết nên lựa lời thế nào, cuối cùng cũng nói: “Nếu hôm nay cậu cả tới gặp cô ta thì coi như là lần gặp cuối. Lập trường của cô ta quá lộn xộn, muốn giành món lợi từ cả hai bên, giờ âu cũng là gieo nhân nào gặt quả ấy thôi. Ông chủ và ngài Vân sẽ không giữ cô ta lại đâu.”

Cảnh Sâm chầm chậm đứng dậy, bước tới trước bàn đọc sách, tiện tay đóng cửa sổ lại. Anh tìm lấy chiếc khăn tay, lau sạch sẽ bụi vương trên mặt bàn, rồi lại ném khăn sang một bên. Sau đó Cảnh Sâm lật giở mấy chồng sách, rút ra được một cuốn vở mỏng. Vân Thăng nhìn anh không chớp mắt, lòng thầm thấy ngạc nhiên, Cảnh Sâm giơ cuốn vở trong tay lên: “Cái này là Huệ Lan tặng tôi, lát tôi sẽ trả lại cô ấy.”

“Cậu cả… cậu đừng buồn.” Vân Thăng an ủi.

“Người đâu phải cỏ cây, hơn nữa tôi lại quá để tâm tới cô ấy.” Cảnh Sâm khẽ thốt, im lặng một hồi, anh nghiêm giọng, “Anh Vân, lần này anh đã giúp tôi một việc lớn, đợi Hà Sĩ Văn đi rồi, tôi đảm bảo sẽ giúp anh một bước lên mây.”

Vân Thăng thầm mừng rỡ trong lòng, nhưng lời thốt lại ung dung thản nhiên: “Cậu cả ra nước ngoài cứ yên tâm học hành, tôi sẽ ở lại Hán Khẩu kiên nhẫn chờ cậu trở về.”

Cảnh Sâm cau mày nói: “Anh nói đúng. Có những việc, có những người dù ta cứ cố chấp, cứ khao khát nài ép cũng không được, ta trù tính đủ đường vẫn chẳng thể đạt được kết quả mình mong muốn. Nhưng nếu kiên nhẫn thì sẽ không còn mỏi mệt vì chuyện được mất.”

“Tôi đã an bài xong chuyện buổi chiều rồi, cậu cả cứ chờ tin của tôi ạ.” Trước khi rời khỏi cửa, Vân Thăng thoáng dừng chân trong chốc lát rồi bước lại vào phòng, anh ta nói, “Có chuyện này Vân Thăng không hiểu lắm, chẳng hay cậu cả có thể chỉ dạy Vân Thăng không?”

Cảnh Sâm cúi đầu, thong dong lật cuốn vở trong tay: “Anh cứ nói đi.”

“Thực ra thì quản gia Hà đã hao hết tâm sức để bảo vệ cậu, huống chi ông ấy còn trẻ, vẫn còn rất khỏe mạnh minh mẫn, sao cậu cả lại quyết tâm muốn để quản gia Hà rời nhà họ Phan?”

Cảnh Sâm cuộn cuốn vở lại, khẽ vỗ vào lòng bàn tay: “Vì tình cảm Hà Sĩ Văn dành cho tôi nên tôi mới mong ông ấy sớm được rời đi dưỡng già. Có điều này tôi muốn nói, cũng không sợ anh Vân chê tôi tính tình trẻ con, nhưng quả thực tôi có chút toan tính riêng. Con người ta chẳng ai thích bị kìm kẹp cả.”

Mắt Vân Thăng thoáng nét cười, anh ta không nhiều lời nữa, chỉ mở cửa bỏ đi.

Chừng bốn giờ chiều, cuối cùng trời cũng đổ mưa, sấm sét ghé tới bầu bạn, tia chớp chiếu rực bầu trời xám tro, ánh sáng hiện lên trong tích tắc ấy chẳng đủ để chiếu rọi căn phòng chật hẹp tối tăm. Cửa sổ đang khép chặt, cửa phòng cũng khóa kín, ngọn đèn nhỏ trong phòng tắt ngóm, vali được đặt dưới cửa sổ, cô gái quỳ bên chiếc vali, cuống quýt thu xếp đồ đạc dưới ánh sáng le lắt, cứ thỉnh thoảng cô lại ngẩng đầu ngó ra cửa, chốc chốc lại giật mình trước âm thanh cành cây rơi xuống đất hay tiếng sấm gầm vang.

Có thể đem gì theo đây? Trong vali chỉ có mấy món đồ tầm thường, chốc lát sau cô đã lại buông mình ngồi phịch xuống đất mà đờ đẫn, rồi kìm lòng không đậu vươn tay rút cuốn sổ tiết kiệm nhét dưới đáy vali ra. Nhưng cô không mở sổ, mà chỉ áp nó lên ngực, như thể trong đó có một thứ sức mạnh thần kỳ gì có thể giúp cô trở nên phấn chấn, sau khi đã bình tĩnh lại, cô chợt nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa.

Thoắt cái, gương mặt Huệ Lan đã trắng bệch, cô nín thở, gắng sức rạp mình xuống thấp thật thấp, sau đó có dường như có người nhìn vào qua cửa sổ thật, bóng người che mất ánh sáng, phòng ốc tối tăm, chẳng thấy được gì, vậy là người đó lại quay ra cửa. Tim Huệ Lan đập như trống bỏi, lưng cô lạnh ngắt, trán rịn đầy mồ hôi, rồi cô loáng thoáng nghe thấy tiếng Cảnh Sâm: “Huệ Lan, em mở cửa đi, là tôi đây! Tôi là Cảnh Sâm!”

Cô tưởng mình đang mơ. Cô cẩn thận lắng tai nghe thật kỹ tiếng người mơ hồ không rõ giữa làn sấm vang rền.

“Huệ Lan! Em đang ngủ sao?”

Đây đúng là giọng Cảnh Sâm rồi. Cô mừng chảy nước mắt, vô số cảm xúc cuộn trào trong lòng cô, nước mắt tràn ra, cô thầm nghĩ: “Anh ấy còn sống, anh ấy không sao, anh ấy vẫn còn nghĩ tới mình!” Cô hoảng loạn vươn tay lau nước mắt, cúi người xuống, rón rén bước trở lại phòng, giũ chăn ra, rồi lại đẩy cánh cửa vốn đã được mở tung, cửa kêu “cách”, cô cào rối tóc mình lên rồi mới bước ra ngoài mở cổng.

Cảnh Sâm đứng bên ngoài, mưa như trút nước, như rung trời, anh đứng ngược sáng nên cô không thấy rõ vẻ mặt anh, nhưng vai áo Cảnh Sâm đã ướt đẫm, Huệ Lan cố nén nước mắt chực trào, vươn tay kéo anh: “Anh mau vào đi không ướt.” Anh siết chặt lấy đầu ngón tay lạnh như băng của cô, để mặc cho cô kéo mình vào nhà, anh cười: “Sao trong nhà tối thế.” Anh vươn tay định kéo dây đèn bên cửa.

“Đừng!” Cô ngăn anh lại, khóa chặt cửa, “Chúng mình vào phòng trong đi.”

Cảnh Sâm dịu dàng thốt: “Sao lại không bật đèn? À đúng rồi, anh mang đồ ăn tới đấy.” Rồi anh đặt tay cô lên lòng bàn tay còn lại của mình. Huệ Lan sờ thấy một chiếc túi giấy, nhưng chẳng còn lòng dạ đoán bên trong có gì, cô nói:

“Vào phòng đã, anh cởi áo khoác ra đi, để em lau tóc cho anh, không lại cảm lạnh.”

Hai người vào phòng rồi, Huệ Lan đóng cửa xong mới dám bật ngọn đèn nhỏ, Cảnh Sâm cởi áo ngoài, ngồi xuống bên giường, anh cười bảo: “Đồ sâu lười, sao giờ em mới dậy vậy?”

Huệ Lan không nói gì, cô kéo chăn phủ lên chân anh, lấy khăn lau tóc cho anh, động tác hết sức dịu dàng:

“Hôm nay anh tới có chuyện gì vậy?”

“Anh lo em sợ, vừa mưa vừa sấm thế này mà. Em không biết đâu, thiếu chút nữa phà qua sông đều ngừng chạy cả, may là anh bắt kịp chuyến.”

Huệ Lan không kìm được nước mắt nữa, những giọt lệ nóng hổi rơi xuống tóc anh, Cảnh Sâm ngẩng đầu mỉm cười: “Không phải anh đã tới rồi đấy thôi? Sao còn phải làm nũng nữa? Mấy hôm trước nhà anh gặp phải chút chuyện, giờ có thời gian là anh tới tìm em ngay. Em đừng dỗi.”

Huệ Lan lắc đầu, nước mắt nhỏ tí tách: “Tiểu Sâm, em phải đi rồi.”

“Em đi đâu?” Giọng anh lại càng dịu dàng, anh kéo cô lại gần, “Em đừng nói lẫy.”

“Giờ em chưa thể ra nước ngoài du học cùng anh được.” Cô nghẹn ngào, lưu luyến vuốt tóc anh, “Về sau nếu có cơ hội em sẽ giải thích cho anh.”

Anh ngẩng đầu, nụ cười trên gương mặt dần đông cứng: “Còn nếu không có cơ hội thì sao?”

Huệ Lan tưởng anh giận, cô bèn an ủi: “Sao lại không có cơ hội được chứ? Còn nhiều thời gian mà, rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau thôi.”

Anh không nhìn cô nữa: “Sao đột nhiên em lại đòi đi?”

“Bác em ngã bệnh, em phải về chăm sóc cho bác.”

“Em định đi bao lâu?”

“Đến khi nào bác khỏi.”

“Không phải bác em còn người thân ư? Sao cứ bắt em về bằng được?”

“Bác nuôi em từ ngày còn nhỏ, tình cảm hai bác cháu như mẹ con vậy.”

Cảnh Sâm cúi đầu: “Giờ em đi không biết bao giờ mới có thể gặp lại nhau.”

Nước mắt Huệ Lan lặng lẽ ứa ra.

Anh đưa cho cô một món đồ: “Anh trả lại em, em cất đi.”

Cô không nhận, chỉ nói: “Em để lại cho anh làm kỷ niệm.”

Cảnh Sâm đặt cuốn vở lên chân cô: “Anh đã thuộc lòng những đoạn ghi chép trong đó rồi, em cứ lật bừa một trang đi, anh có thể đọc cho em nghe.”

Huệ Lan nở nụ cười buồn bã, cô giở một trang, khẽ nói: “Phúc âm Luca, chương 10, câu 28.”

“Đức Giê-su bảo ông ta: ‘Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.’, thực chất đây chỉ là giả thuyết. Nếu thứ luật pháp Chúa nhắc đến có thể thực sự giúp người thông luật đạt được ý muốn, người ấy nên nói: ‘Nếu đây là nguyện vọng của thánh thần, thì tôi cũng sắp đến đường diệt vong, tôi bất lực tuyệt vọng, xin được hướng về lòng thương và tình yêu mến của Thầy, cầu xin Thầy hãy ban ơn cứu giúp tôi.’”

Huệ Lan đọc cùng anh, đọc xong, cô tựa đầu vào vai anh, đau cắt từng khúc ruột.

Anh hỏi cô: “Huệ Lan, tại sao em lại tin vào tôn giáo?”

Huệ Lan nói: “Có phúc lành của Chúa, đời người sẽ có ánh sáng và hy vọng.”

“Vậy em thử nói xem, có phải người có đức tin đều là người tốt không? Ý anh bảo là người thật sự tin tưởng vào tôn giáo.”

“Đương nhiên rồi.”

Cảnh Sâm thở dài: “Trước đây anh cũng nghĩ vậy. Người có tín ngưỡng luôn là người tốt, thiện ác phân minh, đạo đức đáng nể, bao giờ cũng đối xử đầy thiện chí với người xung quanh. Nhưng về sau dần dần anh đã có thêm những cách nhìn khác, dù thật lòng có đức tin hay không thì dường như những người theo tôn giáo ít nhiều cũng phải mang lòng khao khát công danh lợi lộc, so ra còn tệ hơn cả kẻ khác, mà họ cũng chẳng thiếu ngôn từ hành vi giả nhân giả nghĩa.”

Huệ Lan im lặng lắng nghe, vuốt ve cuốn vở đặt trên đầu gối.

Cảnh Sâm lại bảo: “Nhưng anh tin vào câu ác giả ác báo, thiện giả thiện lai, tin hay không là một lẽ, nhưng nhân quả báo ứng là điều hiển nhiên, người làm việc thiện sẽ có phúc của riêng mình, người gây tội ác cũng sẽ bị trừng phạt đích đáng, kẻ có đức tin mà vẫn làm điều ác đương nhiên sẽ có báo ứng lớn gấp bội chờ đợi.”

Huệ Lan rùng mình, Cảnh Sâm vỗ đầu gối cô: “Khi nào em đi?”

“Em đi chuyến tàu hỏa sáng sớm ngày mai.”

“Vậy mai anh sẽ tới tiễn em.”

“Em đi sớm lắm, lát anh đưa em tới Hán Khẩu nhé, em có đặt phòng ở một nhà trọ, để sáng sớm mai đỡ mệt.”

Cảnh Sâm thoáng do dự: “Không phải em còn một người chú ở Hán Khẩu ư? Sao em lại ở nhà trọ? Em lạ thật đấy.”

“Chú em đưa cả nhà đi Hàng Châu rồi.”

“Vậy giờ anh sẽ đưa em đi. Anh lén ra ngoài, giờ cũng phải về rồi, không cha mẹ anh lại lo. Tối em nghỉ ngơi đi nhé, nếu có thời gian anh sẽ lại tới gặp em.”

Ra đến gian ngoài rồi, Cảnh Sâm bèn xách vali giúp Huệ Lan, cầm theo cả túi giấy nho nhỏ ban nãy vừa tiện tay đặt lên bàn. Huệ Lan cầm túi xách và ô bước ra khỏi phòng trong, Cảnh Sâm nói: “Ban nãy em không bật đèn, mà giờ thì lại không tắt đèn.”

Huệ Lan dửng dưng mỉm cười: “Không sao đâu, cứ để nó bật đi.”

Mưa đã ngớt nhiều, mây mù bắt đầu tản bớt, màu xanh tro dần hiện lên phía Tây chân trời, hai người đội cơn mưa phùn lên phà, trong tiếng trò chuyện huyên náo, họ siết lấy tay nhau, dựa sát vào nhau, không ai nói lời nào, thỉnh thoảng Huệ Lan lại ngẩng đầu nhìn Cảnh Sâm chăm chú, ánh mắt chứa đậm nỗi quyến luyến, Cảnh Sâm luôn đáp lại cô bằng một nụ cười khẽ.

Phà sắp cập cảng, cuối cùng Huệ Lan mới thốt: “Tiểu Sâm, mấy hôm nay anh thế nào?”

Cảnh Sâm áp trán vào trán cô, dịu dàng nói: “Nhờ phúc của em, có cuốn Kinh phúc âm của em phù hộ, anh vẫn rất ổn.”

Huệ Lan đau khổ vô cùng, cô không nén nổi lòng mình, chỉ chực rơi lệ, Cảnh Sâm dặn cô: “Lát vào nhà trọ em đừng quên ăn hết gói đồ ăn này đi, để đến mai là không ngon nữa đâu. Anh mua riêng cho em đấy.”

Huệ Lan dịu dàng đồng ý với anh.

Quán trọ nằm gần ga tàu hỏa, Cảnh Sâm đợi Huệ Lan đăng ký xong xuôi bèn vào phòng ngồi cùng cô một lát rồi mới về nhà. Phòng Huệ Lan nằm trên tầng hai, cô đứng bên cửa sổ, nhìn bóng lưng anh mà nước mắt giàn giụa, cô thực lòng mong anh có thể quay đầu nhìn mình, nhưng anh đi rất nhanh, vạt áo tung bay, không biết đến khi nào cô mới có thể gặp lại chàng trai tuyệt vời này, cô thấy lòng mình đau như dao cứa, ngã sụp xuống giường khóc nức nở.

Túi đồ ăn vặt anh mua đặt trên tủ đầu giường, Huệ Lan khóc mệt rồi, nhớ đến tình cảm, sự săn sóc của anh, cô lại ngồi dậy, khẽ khàng mở chiếc túi giấy ra.

Đồ ăn được bọc hai lớp, lớp đầu chỉ là giấy dai bình thường, lớp thứ hai cũng là giấy dai, nhưng có in thêm chữ “Hồng Ký”.

Tay Huệ Lan run rẩy, một ý nghĩ nặng nề dội vào lòng cô, khiến cô hít thở cũng không xong. Cô thầm lẩm bẩm trong lòng, cầu nguyện rằng: “Không, mình chỉ đang nghĩ xằng thôi, mình đang nghĩ ngợi linh tinh.”

Mùi thịt kho thơm ngào ngạt tỏa ra như mê hoặc lòng người. Huệ Lan đã mở hết lớp giấy bọc. Cô thét lên một tiếng, như thể đang chứng kiến món đồ đáng sợ nhất trên cõi đời, cô ném thẳng bọc giấy xuống đất, thịt đầu lợn được kho tới độ đỏ au rơi đầy đất.

Đúng vậy, thịt đầu lợn, đây chỉ là một gói thịt đầu lợn.

Lúc này đầu Huệ Lan tràn ngập ý nghĩ: “Anh ấy biết rồi! Anh ấy biết tất cả!”

Sau khi chặt đầu vợ mình, Hồng Toàn Căn không bao giờ ăn thịt đầu lợn nữa, mà thực ra phàm là những món ăn có dính tới từ “đầu” đều đã trở thành đại kỵ của gã họ Hồng, nếu liên tưởng cụm từ in trên lớp giấy bao với những miếng thịt đầu lợn thì chỉ có thể đưa ra một kết luận: Cảnh Sâm biết mối quan hệ giữa cô ta và “Hồng”.

Chắc chắn anh biết tại sao cô ta phải tìm trăm phương nghìn kế để tới nhà họ Phan làm giáo viên dạy dương cầm, anh đã biết tất cả rồi! Dù anh phát hiện ra chuyện này từ lúc nào, thì tất thảy những tình cảm dịu ngọt giữa hai người họ đều đã biến thành giấc mộng, một giấc mộng tuyệt đẹp do mình cô ta ảo tưởng nên! Lúc này giấc mộng đẹp đã biến thành một cơn ác mộng.

Anh đưa cô ta thịt đầu lợn là có ý gì?

Mong đời cô kết thúc ở đây, kiếp sau bắt đầu lại? Hay châm chọc cô ngu ngốc như một con lợn, chết tới nơi rồi còn không hay biết gì?

Huệ Lan thức tỉnh trong cơn lạnh thê lương trống rỗng, cô ta ý thức được mình đang lâm vào tình cảnh nguy hiểm nhất, mà một người chỉ cần có khao khát sống thôi thì mọi ái tình khờ dại đều sẽ biến thành mây trôi, cô ta nhét sổ tiết kiệm vào túi xách, bỏ lại hành lý trong phòng, gần như vừa chạy vừa bò xuống nhà. Trời đã tối rồi, cô ta chạy ào vào bóng đêm, vào ánh đèn, chỉ lựa chỗ nào có nhiều người mà đi, cô ta lảo đảo, cứ như đang chạy thoát thân, sống lưng cô ta tê dại, hệt như có cặp mắt sắc lẹm đang nhìn chằm chằm đằng sau.

Huệ Lan thở dốc, ngẩng đầu lên, mưa đã tạnh rồi, trời mang sắc một viên đá quý màu xanh đậm, Chúa mà cô ta rất mực tin tưởng kính yêu đang trên trời cao kia, nhưng Chúa sẽ ban phúc cho cô ta sao? Đúng như lời Cảnh Sâm nói, kẻ có đức tin mà làm điều ác sẽ phải nhận báo ứng gấp bội. Cô ta sợ sệt cúi đầu, không dám đối diện với cái nhìn nghiêm cẩn rét lạnh của Chúa. Ánh sáng chói mắt đằng trước rọi lại, cô ta chẳng nhìn thấy gì nữa, chỉ cảm giác có cơn gió tạt thẳng vào mặt, ánh sáng ấy lại càng lúc càng gần, phát ra tiếng rít sắc nhọn, chẳng để cô ta né tránh.

Chiếc xe lao vào thân thể mềm mại của cô gái, tiếng vang nặng nề vọng lại, cái chết đến dễ như bỡn, như cơn sóng dữ trong đêm đen, nuốt chửng sinh mệnh bé nhỏ yếu ớt chỉ trong nháy mắt.

Người đi đường dừng chân kinh hãi ngó nhìn, chiếc xe nọ nghiền qua cơ thể ngã rạp dưới đất rồi lùi ra sau mấy mét, lại nhấn ga phóng thẳng về phía trước, như thể thứ dưới bánh xe chỉ là đám áo quần cũ rách tả tơi và một bãi rác rưởi, khiến những kẻ đứng nhìn xung quanh ngờ rằng dưới bánh xe liệu có người thật hay không.

Gió thổi sau mưa thanh sạch là vậy, không gian ngào ngạt hương thơm khoai lang và đậu phụ nướng, quanh ga tàu là đầy những sạp ăn vặt nho nhỏ, có vài người không chịu nổi cám dỗ, bèn lần theo hương thơm mà đi.
 
Quyển 1 - Chương 18


Cơn dông trước đó giục giã khơi dậy mùi hương cỏ cây trong vườn, khu vườn giờ tràn ngập thứ hương thơm nồng nàn, tiếng nước trút như tiếng thác đổ, hàng bạch đinh hương đẹp đẽ ngăn cách kênh nước với con đường mòn, dưới ánh đèn đêm, những cánh hoa trắng muốt đầu cành được phủ một tầng sáng bàng bạc, cứ chốc chốc bụi cỏ lại khẽ rung lên, chắc là có chim chóc hay chú chuột nào nấp bên trong, nhưng cũng có thể chỉ là gió thổi, là tiếng thổn thức của màn đêm. Giọt mưa trượt theo lá cây, sà xuống vầng trán nóng hầm hập của Cảnh Sâm, anh thấy chân mình mềm nhũn. Trong màn sương mù, những tia sáng trải dệt chằng chịt dưới đất như đan lưới, nhưng anh vẫn phải bước vào, nhích từng bước về phía trước.

Thực ra, kể từ giờ khắc bước ra khỏi nhà trọ, không, từ khi anh biết cô ta bày mưu tính kế để thò chân vào nhà họ Phan, anh cũng đã đoán được kết cục của cô gái này rồi. Cái chết của cô ta đã được định sẵn, và anh cũng không thoát khỏi liên can. Thật ra anh nên cảm ơn cô ta, nếu không nhờ cô ta thì e giờ này anh đã mất mạng trước lưỡi dao nhọn, chứ chẳng phải chỉ trả giá bằng một cái tai. Anh thừa nhận Địch Huệ Lan đã cứu mạng anh vào thời khắc quan trọng nhất, có lẽ đến chính cô ta cũng không ngờ tới chuyện này. Cô ta đã trả giá, còn điều duy nhất anh có thể làm là thừa nhận với Địch Huệ Lan mình đang diễn kịch với cô ta, ngay trước thời khắc cô ta bỏ mạng.

Nghĩ tới đây, Cảnh Sâm rùng mình ớn lạnh, sự ẩn nhẫn suốt bao năm đã trở thành một con rắn độc chẳng ai chế ngự nổi, nó trú mình trong lòng anh, rồi cứ thế lớn dần, cứ thế gom góp tích cóp sức lực.

Đây không phải chủ ý của anh, nhưng anh không thể khống chế nó. Anh không biết những kẻ đó đã sát hại cô ta ra sao, cũng chẳng muốn tìm hiểu, thậm chí anh còn không muốn nghe bất cứ lời nào về người phụ nữ ấy. Nhưng anh tin chắc trước khi chết Địch Huệ Lan đã ôm nỗi hận thù sâu nặng tột cùng với anh, nghĩ tới đây, anh lại an ủi bản thân, mình cũng chẳng có lỗi với cô ta tới độ ấy.

Phan Thịnh Đường không có nhà.

Năm trăm nghìn hiện kim là một cú đòn trời giáng cho nhà họ Phan, hơn nữa giờ Hiệu buôn Tây Phổ Huệ còn đang trong giai đoạn then chốt, chỉ cần thiếu thận trọng một chút thôi cũng sẽ ảnh hưởng tới tương lai về sau của nhà họ Phan, xét ra thì chuyện vỗ về ba mẹ con còn chưa hoàn hồn là việc của sau này, vẫn có rất nhiều điều còn quan trọng hơn.

Phòng Cảnh Huyên rất yên tĩnh, bác sĩ đã tiêm thuốc an thần cho cậu, không biết trong cơn mê man, cậu có bị nỗi sợ hãi và đau đớn bủa vây không. Phòng Cảnh Ninh lại có tiếng trò chuyện, thỉnh thoảng giọng cười vui được cố nén xuống thật nhỏ lại vang lên, Cảnh Sâm ngạc nhiên dừng bước.

Tiểu Quân bưng khay bước khỏi phòng Cảnh Ninh, Cảnh Sâm bèn gọi cô ta lại, Tiểu Quân nói: “Mấy người bạn của cô chủ tới chúc mừng sinh nhật, hôm nay cô ấy buồn lắm, có người bên cạnh cũng tốt.”

Cảnh Sâm sực tỉnh, trở lại phòng nghỉ ngơi. Nằm trên giường, anh thấy người mình đau nhức như bị ai bẻ xương bẻ cốt, anh thở dốc, hơi thở nóng hừng hực, nếu ốm được một trận cũng tốt. Chưa được bao lâu đã có tiếng bước chân vọng lại từ ngoài hành lang, Cảnh Ninh tiễn bạn ra ngoài, mấy đứa nhóc đứng chào nhau bên cầu thang, anh nghe tiếng chúng láng máng, kìm lòng không đậu vươn tay lần bên gối, chạm vào sợi dây chuyền bị Cảnh Ninh vứt đi, anh chợt nảy ra một ý nghĩ cố chấp, muốn đưa món quà này cho Cảnh Ninh ngay, dù từ đầu cô đã không muốn nhận nó. Không muốn cũng phải nhận.

Anh tiến thật nhanh ra mở cửa, mấy vị khách nhỏ đang bước xuống cầu thang, Cảnh Sâm bắt gặp cậu nhóc tên Mạnh Tử Chiêu, cậu đi phía sau chót hàng, bước chậm rì rì, rồi chợt lại quay đầu toét miệng cười với Cảnh Ninh, rón rén đưa tay lên trước ngực, vẫy vẫy với cô, như thể đây là một thứ ám hiệu mà chỉ hai đứa mới biết, có lẽ Cảnh Ninh cũng đã đáp lại cậu bằng một nụ cười đáng yêu, cậu bạn bèn hài lòng quay người rời đi, Cảnh Ninh tựa cằm lên lan can, đưa mắt nhìn theo đám bạn, quyến luyến không nỡ rời.

Cảnh Sâm khẽ cất tiếng gọi cô.

Cảnh Ninh quay đầu, thấy anh đứng trước cửa, nụ cười trên gương mặt cô dần tắt, sóng nước đau buồn lập tức dâng lên trong đôi mắt đen láy, cô bất giác cúi đầu, vội vã chạy vào phòng mình, đóng rầm cửa lại như né tránh sự truy đuổi của một cơn ác mộng.

Nụ cười bên khóe môi Cảnh Sâm dần trở nên lạnh lẽo, lạnh đến tận tâm can. Anh hiểu cô, cô không dám đối mặt với anh cũng chỉ vì áy náy với anh hai mình, trong cơn tự trách, cô chuyển luôn nỗi oán hận lên “kẻ vô tội” là anh, lên người anh cả chiều chuộng nghe lời cô răm rắp. Anh không trách cô, nhưng anh biết rõ người duy nhất lưu luyến mình trong căn nhà này cũng đang bắt đầu chọn cách trốn tránh anh.

Lúc nào cũng vậy, tất cả mọi người đều đòi hỏi vô cớ từ anh, dù có là lúc nào, dù anh có bỏ ra bao nhiêu tình cảm cho họ, dù anh có đợi chờ họ bao lâu. Vào giờ khắc quan trọng nhất, tất cả bọn họ đều sẽ quên mất một chuyện, đó là Phan Cảnh Sâm không phải một con rối, không phải là gỗ đá, không phải kẻ ngu, không phải công cụ hay món đồ chơi, anh là con người, anh có máu có thịt, anh biết đau khổ, biết yếu mềm, anh biết sợ hãi, cũng biết co mình lại trước cô độc. Những kẻ ấy chỉ biết đòi hỏi. Vắt kiệt anh rồi, họ sẽ vứt anh đi.

Dây chuyền đã bị quẳng vào ngăn kéo, nằm dưới mấy bản thiết kế. Cảnh Sâm từng đăng ký mấy lớp mỹ thuật, ngây thơ cự tuyệt yêu cầu bắt đầu học từ căn bản của thầy giáo, đó đã là chuyện của hai năm trước, anh nói với thầy anh chỉ muốn vẽ hoa hồng. Vẽ nụ hoa đang chực hé, rồi nở bung rực rỡ, rồi lụi tàn, vẽ cánh đơn, cánh kép, vẽ đủ những loại màu sắc… Anh cố chấp vẽ, trong lúc phác họa những cánh hoa, anh cảm nhận được sự tĩnh lặng và ấm áp bên trong chúng.

Khi đối mặt với hiện thực, những ý nghĩ đẹp đẽ luôn khiến người ta phải thất vọng, giống như bông hồng anh tự tay vẽ vậy, nó biến thành bản vẽ, được đưa cho thợ làm trang sức, đánh ra một món quà sinh nhật, rồi cuối cùng lại gây nên một tai kiếp.

Ánh đèn mờ ảo, chiếu rọi cõi lòng lạnh băng như tuyết.

Chẳng còn gì đáng để lưu luyến nữa rồi.

Đã liền hai ngày không thấy bóng Hà Sĩ Văn đâu.

Bữa sáng, Cảnh Sâm châm một ly trà, nhẹ nhàng đặt cạnh Thịnh Đường, anh dịu dàng hỏi: “Chú Hà đi đâu rồi cha?”

Thịnh Đường phủi vụn thuốc vương trên quần, dửng dưng thốt: “Lát con đi với cha, cha có chuyện muốn nói với con, còn phải để con gặp vài người nữa.”

Lúc này Cảnh Sâm vừa ngồi xuống, anh thoáng kinh ngạc, bà Vân cũng đưa mắt nhìn chồng mình, vẻ không vui thấp thoáng nơi hàng mày nhưng bà lại không nói gì.

Thịnh Đường không mấy hài lòng với nét mặt của cậu con trai, ông nghiêm giọng: “Với tính cách của em trai con, có khi phải mất nhiều năm mới khiến nó phấn chấn lên được, chứ đừng nói đến chuyện để thằng bé giúp cha xử lý chuyện làm ăn. Cha già rồi, con cũng đã lớn, chẳng lẽ con lại nhẫn tâm không chịu lo lắng cho sản nghiệp của gia tộc mình?”

Cảnh Sâm gượng cười: “Cha không già, hơn nữa bên cạnh cha còn có bao nhiêu trợ thủ đắc lực mà.”

“Con còn giả bộ với cha hả!” Thịnh Đường vươn tay, gạt đổ ly trà xuống đất.

Bà Vân sợ hãi, bả vai run lên, bà ta xoa ngực, bất mãn thốt: “Sao mới sáng sớm ngày ra đã lên cơn giận thế?”

“Bà ra ngoài!” Thịnh Đường chỉ bà, đến lông mày cũng chẳng buồn nhướng, sự lạnh lùng khinh thường trong giọng điệu ông khiến Cảnh Sâm vô cùng kinh ngạc.

Mặt bà Vân đỏ gay, bà đứng phắt dậy, rời khỏi phòng ăn mà chẳng buồn nói một lời, Vân Thăng vốn im lặng đứng cạnh cũng đưa mắt ra hiệu cho hai người hầu rồi cùng lặng lẽ lui ra, khép cửa lại.

Cảnh Sâm cũng đứng dậy.

“Cha biết con hận cha.” Mắt Thịnh Đường sáng quắc, “Con chưa từng nói, cũng chưa từng oán thán, nhưng cha biết con hận cha. Con hận cha bỏ mặc Mẫn Huyên, con nghĩ cha hại bà ấy, khiến đời bà ấy lỡ dở.”

Chợt nghe thấy nhũ danh của mẹ mình, ngón tay Cảnh Sâm lạnh ngắt, ghì sâu vào lòng bàn tay: “Không. Cha không chỉ hại mẹ, khiến mẹ lỡ dở, cha đã giết mẹ! Chính cha đã giết mẹ!”

Cuối cùng anh vẫn nói ra, giờ khắc này đây dường như anh đã bằng lòng đánh cược tất thảy, chỉ cần nửa lời anh nói có thể khiến người đàn ông trước mặt này đây tổn thương thôi. Lồng ngực Thịnh Đường phập phồng, ánh mắt giận dữ chuyển từ kinh ngạc sang đau đớn, Cảnh Sâm thấy thật sung sướng.

“Con đã biết gì rồi?” Thịnh Đường nghiến răng, ánh mắt rét lạnh như sương tuyết.

“Con biết gì ư?” Cảnh Sâm nhếch môi, nở nụ cười thê lương, “Con chỉ biết cha đánh mẹ, khó khăn lắm mới về nhà được một lần mà cha chửi mắng mẹ, cha đánh đập mẹ, sau đó cha vứt bỏ bà, cho đến tận khi bà chết, đến khi xác bà thối rữa cha mới quay về!”

Thịnh Đường thở dài, chán nản tựa lưng vào ghế, vắt tay che trán.

“Con hận cha, nhưng con còn hận bản thân mình hơn! Con hận mình là con cha, con hận vì con không thể không kính trọng cha, yêu thương cha, vì mẹ muốn con làm đứa con ngoan của cha!” Lệ dâng đầy trong mắt Cảnh Sâm, gò má anh nóng bừng, chẳng biết có phải anh đang xấu hổ quẫn bách vì đã để lộ cảm xúc thật của mình không, “Ban nãy lúc rót trà, nhìn thấy người phụ nữ ngồi bên cạnh cha, người phụ nữ mà cha bắt con gọi là mẹ, con nghĩ, nếu mẹ đẻ con mà còn sống thì thốt, nếu gia đình thật sự của mình có thể bên nhau thì tốt. Con nghe lời cha, đi gặp lũ bắt cóc để chuộc Cảnh Huyên về, lúc đối mặt với họng súng lạnh băng, con cũng nghĩ, nếu mẹ còn sống thì tốt biết bao, ít ra mẹ còn có thể rơi một giọt lệ vì con, mẹ sẽ lo lắng cho con, sẽ thức trắng đêm vì con, giống như mẹ kế lo cho Cảnh Huyên vậy! Rồi khi con trở lại an toàn, chắc chắn mẹ sẽ lao tới, giang hai tay trao cho con những cái ôm, những vỗ về ấm áp nhất, mẹ sẽ không bắt con phải tỉnh táo mạnh mẽ trở lại ngay sau khi trải qua bao nhiêu hiểm nguy, bắt con phải gượng cười trước mặt tất cả mọi người. Mẹ sẽ không trách móc con, không oán hận con, sẽ không mặc cho chuyện đi tới nước này mà vẫn ép con làm những điều mình không muốn. Con hận cha, con ghét tới hiệu buôn Tây, con chỉ mong nó chết quách đi cho rồi, vì nó chính là thứ quan trọng nhất trong lòng cha, nó cướp mất tình yêu của cha với mẹ, nó cướp mất mẹ con!”

Thịnh Đường lẳng lặng nghe anh nói xong, màn sương trong mắt dần tan đi, hồi lâu sau ông mới dịu dàng thốt: “Con lại đây.”

Cảnh Sâm cất hơi thở nặng nề, anh bất động, sự bướng bỉnh hiện rõ trên gương mặt tuấn tú.

Gió sớm lùa qua song cửa, đem theo cả thứ mùi thanh thanh man mát ngoài vườn hoa, gợi lại từng góc cơn mộng cũ tản mác, gương mặt như ngọc của chàng thiếu niên lại tiếp tục chồng chéo lên khuôn mặt từng xuất hiện trong cơn mê của ông vô số lần, trong thoáng chốc, lòng Thịnh Đường chất chồng nỗi xót xa, ông dịu giọng: “Mẹ con chính là nỗi đau đớn và sai lầm cha muốn quên đi nhất, nhưng vĩnh viễn không thể quên nổi. Có lẽ sau này con sẽ hiểu được tâm trạng của cha bây giờ.” Ông nở nụ cười đau thương, “Nhưng cha thà rằng con mãi mãi không bao giờ hiểu được.”

Căn phòng vô cũng yên tĩnh, yên tĩnh tới mức nghe được cả tiếng ù trống rỗng trong lỗ tai, đó là tiếng gì vậy, không thể dùng từ ngữ để hình dung, mà chỉ có thể nghe được nó vào thời khắc tĩnh lặng nhất, nó là tiếng âm vang từ nơi sâu kín trong não bộ:

Đó là tiếng rung động khe khẽ của một sợi dây đàn mong manh, đánh thức hồi ức đang say ngủ, khiến nó dần thức tỉnh.

“Năm đó chuyện làm ăn của gia đình khó khăn, cha thường phải bôn ba bên ngoài, cha không để mẹ con theo một phần vì sợ bà ấy chịu khổ chịu sở, nhưng thực ra cũng giấu chút lòng riêng. Người làm ăn trên thương trường nước ngoài không tránh khỏi việc phải giao thiệp đi lại với đủ loại người. Mẫn Huyên là người phụ nữ như hoa như ngọc, ngoài kia lại vô số những kẻ phong lưu cợt nhả, cha muốn giấu Mẫn Huyên đi cũng vì để tâm tới bà ấy, vì quá để tâm, thà ép Mẫn Huyên lụi tàn như một đóa hoa trong bốn bức tường chứ không nỡ để bà ấy được bất cứ kẻ nào ngoài kia mến mộ. Dần dần, thậm chí cha còn quên mất nguyện vọng ban đầu của mình, quên mất lời hứa hẹn với Mẫn Huyên. Cha chỉ mong bà ấy ở nhà, toàn vẹn, vô khuyết, nhưng, nhưng…”

Thịnh Đường thốt liền hai chữ “nhưng”, mà vẫn không thể nói cho dứt, như thể đang bị giày vò bởi nỗi đớn đau ẩn núp nơi sâu nhất cõi lòng.

Cảnh Sâm nhếch môi, nở nụ cười nhạo báng dửng dưng: “Toàn vẹn, vô khuyết? Linh hồn mẹ đã sớm chằng chịt vết thương trong cái nhà này rồi. Ông ngoại bị cách chức lưu đày, các cậu người thì chết, người ngồi tù, nếu cha không bỏ ra khoản tiền lớn để chạy vạy thì e đến mẹ cũng không thoát nổi liên đới. Trừ cha ra mẹ còn có thể nương tựa vào ai? Ở nhà mẹ bị ruồng rẫy thì thôi cũng đành, bà nội nghĩ cha không đưa mẹ theo vì mẹ thiếu đức hạnh, mà tính mẹ lại cao ngạo, chưa từng biện bạch cho mình, cha không biết ở nhà mẹ đã chịu bao nhiêu cực khổ, bị bao nhiêu người gây khó dễ đâu. Các cô ngày ngày châm chọc khích bác mẹ, đám người làm cũng đã học được cách gió chiều nào xoay chiều ấy, nếu không phải vì còn có đứa con trai này đây thì e đời mẹ đã chấm dứt từ lâu rồi.”

“Đừng nói nữa…”

“Khi ấy, cha đã có một gia đình khác bên ngoài, nếu con đoán không nhầm thì lúc này Ninh Ninh và A Huyên đều đã ra đời rồi. Vậy mà con và mẹ chẳng hay biết gì.”

Thịnh Đường cau mày, trầm giọng: “Bà ấy biết. Cha từng nói với bà ấy, chỉ là khi đó con còn nhỏ, bà ấy không nói cho con thôi. A Sâm, con cũng không phải kiểu người đầu óc đơn giản. Những gia đình như chúng ta ở Quảng Châu được mấy nhà là không có phòng nhì? Tính tình mẹ con bướng bỉnh, bà ấy không thể nghĩ thông, cảm thấy vì nhà ông ngoại con xảy ra chuyện nên cha ruồng bỏ bà ấy. Về sau cha và mẹ con cũng đã cãi cọ rất nhiều lần vì chuyện này.”

“Vậy nên cuối cùng cha thậm chí còn ra tay với mẹ, đây là cái thứ mà cha gọi là ‘để tâm’ sao?”

Thịnh Đường day trán, im lặng không nói gì.

Mặt Cảnh Sâm đã trắng bệch, anh phẫn nộ nói: “Lần ấy sau khi cha bỏ đi, nếu cha dặn dò người trong nhà một câu, bảo họ chăm sóc cho mẹ con thì có lẽ mẹ đã chẳng ra đi thảm thương tới thế. Trước khi qua đời, mẹ sốt cao liền mấy ngày, nhà chỉ có một con hầu trong phòng chứa củi chăm sóc bà, trời nóng, con khóc lóc cầu xin các cô lấy ít đá cho mẹ, cuối cùng họ sai người làm xách một xô nước lạnh đã dùng cáu bẩn vào phòng mẹ. Cha, chẳng phải tất cả đều vì có cha ngầm ưng thuận đó sao?”

Bả vai Thịnh Đường khẽ run lên.

“Sau đó, càng lúc mẹ càng mê man, không còn tỉnh táo, mẹ thường nói những lời con không hiểu, cho tới cái ngày cuối cùng ấy, dường như mẹ chợt minh mẫn trở lại, mẹ còn ôm con vào lòng, con mừng lắm, con tưởng cuối cùng mẹ cũng khỏi bệnh rồi, nhưng mẹ chỉ gom góp hết chút sức lực cuối còn dư lại để ôm con thật chặt, rồi cứ khóc mãi. Đó là lần cuối mẹ ôm con.

Cha có biết mẹ nói gì với con không?”

Nỗi đau buồn trong mắt Thịnh Đường bị chiếm cứ bởi ánh sáng rét lạnh, sắc bén như một lưỡi dao: “Bà ấy nói gì?”

Cảnh Sâm dửng dưng quay mặt đi, né tránh ánh nhìn của ông: “Mẹ nói: ‘A Sâm, con trai đáng thương của mẹ, mẹ xin lỗi con, cha con sẽ không bao giờ trở lại đâu.’”

Liếc thấy bàn tay Thịnh Đường siết chặt thành nắm đấm, mu bàn tay nổi đầy gân xanh, Cảnh Sâm khẽ nở nụ cười: “Nhưng mẹ sai rồi. Cuối cùng cha vẫn về, chỉ là hơi muộn thôi.”

“Bà ấy không sai.” Thịnh Đường lẩm bẩm.

Mặt Cảnh Sâm đanh lại, anh quay đầu, Thịnh Đường không nhìn anh, ông lẩm bẩm: “Bà ấy chết rồi, cha không được gặp mặt bà ấy lần cuối, mà trong giờ khắc cuối cùng của bà ấy, cha thật sự đã mãi mãi không bao giờ trở lại. Bà ấy nói không hề sai.” Nói rồi ông nở nụ cười đau đớn.

Cảnh Sâm chầm chậm tiến lại bên ông, vươn tay đặt lên vai ông. Thịnh Đường kìm lòng không đậu, kéo anh vào lồng ngực mình, hơn mười năm rồi, đây là lần đầu ông ôm đứa trẻ này, cái ôm ấy khiến cõi lòng ông rung động, ở những năm tháng chất chồng trong hồi ức, người trước mặt ông đây dường như vẫn là đứa bé sẽ lao vào lòng ông để kiếm tìm ấm áp.

Cảnh còn người mất, chỉ nỗi tiêu điều còn đọng lại. Gần như vậy, mà lại chẳng chút chân thực, như một đốm lửa hư ảo mờ nhoà, bùng lên trong tích tắc đêm đen, mà tựa như chưa từng chớp lóe, Thịnh Đường chầm chậm buông tay: “Về sau lòng con có nghĩ ngợi gì thì đừng giấu giếm, dù có oán giận cũng cứ nói hết cho cha. A Sâm, chắc con cũng biết cha thương con không khác gì A Huyên, thậm chí còn hơn cả thằng bé.”

Cảnh Sâm gật đầu.

Thịnh Đường yêu thương xoa gò má anh, ông âu lo cất tiếng: “Con đang sốt.”

“Con bị cảm nhẹ. Nhưng không sao cả, cha đừng lo.”

“Con nghỉ ngơi đi, hôm nay nếu không muốn tới hiệu buôn Tây thì thôi. Nhưng trước khi con ra nước ngoài, cha cần con gánh vác vài chuyện cùng cha, đây cũng là trách nhiệm của con với tư cách con trai cả nhà họ Phan.”

“Vâng.”

Thịnh Đường tiến ra cửa, rồi lại chợt dừng bước, ông nói: “Nếu cha nói cho con biết Hà Sĩ Văn đã bị điều tra ở cục cảnh sát thì con nghĩ sao?”

Cảnh Sâm sửng sốt, anh buột miệng: “Dù có thế nào đi chăng nữa, con vẫn tin chú ấy.”

Thịnh Đường nhướng mày: “Tại sao? Vì ông ta để con nuôi đàn bà bên ngoài ư?”

Gương mặt Cảnh Sâm đỏ bừng, đỏ đến tận vành tai, như đang xấu hổ không sao kể xiết.

Thịnh Đường nói: “Người trẻ có phạm chút lỗi lầm cũng là điều dễ hiểu, cha sẽ không hỏi tới những chuyện ấy. Nhưng có thể Hà Sĩ Văn liên quan đến vụ bắt cóc lần này, trước khi làm rõ mọi chuyện, tạm thời ông ta sẽ không quay lại.”

Cảnh Sâm sốt sắng: “Đáng ra cha phải tin chú Hà còn hơn cả con chứ, sao chú ấy có thể làm chuyện tổn hại tới nhà họ Phan được? Năm ấy, năm ấy chú Hà…”

“Ông ta làm gì?”

“Năm ấy tất cả mọi người trong nhà đều gió chiều nào xoay chiều ấy, để mặc mẹ con cô quạnh. Chỉ mình chú Hà chạy đôn đáo tìm thầy tìm thuốc cho mẹ, sau khi mẹ mất, chú ấy cũng là người trở về nhà đầu tiên để khâm liệm cho bà.

Con tin vào nhân phẩm của chú Hà, chắc chắn chú ấy là một con người quang minh lỗi lạc.”

Thịnh Đường im lặng trong chốc lát, rồi lại chợt bật cười, mở cửa sải bước rời đi thật nhanh.

Cảnh Sâm đứng một lát, kiệt sức ngồi xuống ghế, cổ họng anh sưng đỏ ngứa ngáy, không nén nổi tiếng ho khan, anh ho tới độ bờ trán nóng bừng, khó khăn lắm mới kéo lê được chân bước lên tầng, vừa khéo Cảnh Ninh lại đang xách cặp bước khỏi phòng, cô ngơ ngác, ánh mắt lộ ý thân mật, cô khẽ chào hỏi anh: “Anh cả.”

Giọng điệu Cảnh Sâm lạnh nhạt tới độ không thể lạnh nhạt hơn được nữa: “Muộn thế này rồi, em không sợ trễ học à.”

Cảnh Ninh lí nhí: “Em xin nghỉ tiết một, em…”

Cô còn chưa dứt lời anh đã bước vào phòng. Cảnh Ninh bước theo anh, nhưng anh đã đóng cửa lại. Cô nhìn ngọn đèn vỏ sò trên lớp gỗ giá tỵ ốp tường, đôi mắt đen láy ngân ngấn nước.

Cảnh Sâm nhắm mắt nghỉ ngơi trên giường, nghe tiếng bước chân xa dần ngoài cửa, gương mặt anh lạnh lùng không một biểu cảm.
 
Quyển 1 - Chương 19


Vân Thăng đưa cho Cảnh Sâm một cuốn sổ: “Cậu cả, ông chủ dặn tôi đưa cậu thứ này.”

Cảnh Sâm khẽ lướt ngón tay trên lớp bìa da: “Ông ấy còn nói gì nữa?”

“Ông chủ chỉ bảo tốt nhất xem xong thì cậu hãy thuộc lòng tập tài liệu này, khoảng vài hôm nữa cậu sẽ gặp những người được nhắc tới bên trong.”

“Chắc cha sợ tôi mất bình tĩnh.”

“Trừ Tạ Tề Phàm ra, ba người còn lại đều đã tới Hán Khẩu rồi. Thiệu Từ Ân là người Quảng Đông, chuyên mua bán đường, trước đây ông ấy và ông chủ nhà chúng ta đều là mại bản cho công ty Thái Cổ, giờ người này đã về cùng một phe với ông Vân. Thiệu Từ Ân thuộc hàng thông minh xuất chúng, nhưng vì vậy cũng là kẻ không đáng tin cậy nhất. Hứa Tĩnh Chi, người Tứ Xuyên, cũng là một lão cáo già, chuyên buôn dầu trẩu, ít khi chủ động tấn công, giỏi chờ đợi quan sát tình hình. Mẫn Bách Xuyên là người Thiểm Tây, hệt như một con lạc đà, không quan tâm đến cái lợi trước mắt, chỉ cần cho Mẫn Bách Xuyên món lợi ông ta muốn, ông ta có thể nhận bất cứ ai làm chủ. Còn Tạ Tề Phàm… cứ điểm của ông ta không phải ven bờ Trường Giang, mà là ở cửa sông Châu Giang, ông ta là kiểu người thủ cựu, thường không can thiệp nhiều vào chuyện làm ăn, ngày kia sẽ có mặt ở Hán Khẩu.”

Đôi mắt trong vắt của Cảnh Sâm hướng thẳng về phía gương mặt tên người làm đang đĩnh đạc cất lời, anh tựa cười tựa không, nói: “Anh Vân, anh có biết giờ trông anh giống ai không?”

Tim Vân Thăng đập rộn lên, biết rõ Cảnh Sâm ám chỉ mình giống Hà Sĩ Văn, nhưng anh ta vẫn cười tỏ vẻ không hiểu:

“Giống ai ạ?”

Cảnh Sâm không đáp lời, anh cúi đầu lật giở cuốn sổ, nói: “Đây là bốn đại công thần từng giúp cha tôi có chỗ đứng vững vàng tại Phổ Huệ, bốn thanh kiếm sắc nổi danh của Hiệu buôn Tây Phổ Huệ. Nhưng Hiệu buôn Tây lớn là vậy, dính dáng đến đủ các lĩnh vực, nào tàu thuyền, nào bảo hiểm, nào thông quan, các quản lý bậc trung của kho hàng, bến tàu, cửa hàng, nhà xưởng cũng đã quá một trăm người, chỉ đọc tư liệu về bốn người này thôi thì chắc chắn không thể đủ.” Anh nhắm mắt suy nghĩ hồi lâu rồi nhẩm đếm, “Nếu tôi nhớ không nhầm thì trừ đi mấy mặt hàng tự sản xuất tự tiêu thụ như dầu trẩu, giày bốt, mảng đại lý tiêu thụ có bột mì, đường trắng, thổ sản, trứng gà, tất vớ, nón rơm… À, chắc về sau còn phải cộng thêm cả mảng đá quý và thuốc lá. Mấy năm nay hiệu buôn đã mở rộng tới chừng này rồi, nghĩ mà sợ.”

Miệng thì bảo sợ, như anh lại cứ nói cười như không.

“Cha chỉ để tôi tìm hiểu về bốn người này, nhưng tư liệu về người quan trọng nhất lại không có ở đây.”

“Chẳng lẽ… người quan trọng nhất mà cậu bảo là…”

“Đương nhiên là chủ tịch của Hiệu buôn Tây Phổ Huệ – nhà kinh doanh người Anh Edmund Johnson rồi.” Đôi mắt đen láy của Cảnh Sâm sáng ngời, “Đúng là cha đặt nhiều kỳ vọng vào tôi thật. Ông để tôi giúp ông xử lý người Trung Quốc, phần mình thì dốc toàn lực ứng phó với người nước ngoài.”

Vân Thăng thầm cảm thấy kinh ngạc, anh ta không ngờ chàng trai này lại thấu tỏ mọi chuyện tường tận tới vậy. Đương nhiên Hà Sĩ Văn đã bỏ không ít công sức dạy dỗ anh, nhưng trừ ông ta ra, chắc chắn còn có người đứng trù mưu sau anh, hơn nữa kẻ này không phải hạng tầm thường, liệu đó sẽ là ai đây? Vân Thăng băn khoăn nghĩ mãi không ra. Ban nãy Cảnh Sâm nói mình giống Hà Sĩ Văn, nhưng đây chẳng phải câu tán dương hay ho gì, mà như một lời cảnh cáo anh ta đừng tìm cách khống chế mình như lão họ Hà, hay “dạy dỗ” anh với điệu bộ của kẻ bề trên. Cảnh Sâm muốn anh ta biết thân biết phận mình. Vân Thăng đổi ý, cất lời dò hỏi: “Cậu cả, cậu nghĩ ông chủ sẽ xử lý quản gia Hà thế nào?”

Cảnh Sâm cười: “Làm sao tôi biết được. Nhưng chú Hà đã đi rồi, về sau phải nhờ anh Vân giúp đỡ tôi thôi.”

Vân Thăng giả bộ ngờ vực: “Dù sao quản gia Hà và ông chủ cũng có tình cảm chủ tớ suốt hai mươi năm, đáng lý quản gia Hà đã có thể gạt phắt chuyện lần này đi, dù thế nào ông chủ cũng sẽ không…”

Cảnh Sâm gật đầu: “Ừ, anh nói cũng đúng, dù không màng tới tình cảm chủ tớ thì cha cũng sẽ nể mặt ông ấy từng chăm lo mẹ tôi tỉ mỉ chu đáo mà nhẹ tay ít nhiều.”

Vân Thăng ngẫm nghĩ ý tứ trong lời anh mà chợt sực tỉnh.

Chắc chắn Phan Thịnh Đường tuyệt đường sống của Hà Sĩ Văn là vì họ Hà đã chạm đến giới hạn của ông, mà theo như sự quan sát của Vân Thăng tại nhà họ Vân và nhà họ Phan trong suốt mấy năm nay, giới hạn đó chính là bà vợ đầu ngã bệnh lìa đời một cách hết sức khó hiểu của Phan Thịnh Đường. Chẳng lẽ… chẳng lẽ chuyện đi hay ở của Hà Sĩ Văn đã được quyết định trong cuộc trò chuyện ban nãy của hai cha con nhà họ Phan?

Vân Thăng mừng rỡ, nhưng sự kinh ngạc còn lấn lướt cả niềm vui. Chàng trai thong dong bình tĩnh này đây lúc thì tỏ ra vô cùng đơn giản ngô nghê, hẵng còn ngây thơ, không thể tồn tại mà thiếu đi sự giúp đỡ của người khác, khi lại thông minh thấu tỏ, từng lời nói từng hành động đều ẩn giấu tâm tư trù tính, khống chế anh chắc chắn không phải chuyện dễ dàng, mà thậm chí còn là một việc hết sức nguy hiểm. Trông cặp mắt phẳng lặng như nước hồ xuân của Cảnh Sâm, Vân Thăng thầm nghĩ: “Kẻ đang tâm lợi dụng cả người mẹ đã khuất của mình lại không nguy hiểm được sao? Huống chi cậu ta vẫn còn trẻ thế này!”

Anh ta những tưởng sớm muộn gì mình cũng có thể dựa vào Phan Cảnh Sâm để bò lên vị trí quản gia của nhà họ Phan, dù không đạt được mục đích thì cũng chẳng đến nỗi ra đi tay trắng hay mất cả chì lẫn chài. Nhưng giờ đây, dường như anh ta đã chủ động nhảy vào một cái bẫy, hơn nữa cái bẫy này lại được cài cắm không biết bao nhiêu những lưỡi dao sắc lẹm, hoàn toàn không thể tính toán trước được, chỉ có thể đi một bước, liệu một bước, để đôi bên cùng đạt được thứ mà mình mong muốn, nhưng nếu cậu ấm này gặp phải chuyện rắc rối gì, e rằng người đầu tiên bị tuẫn táng theo chính là anh ta. Quản gia Hà gần như đã trút hết tâm tư lên tên thiếu gia này, nhưng nào ngờ cậu ta không những không cảm kích, mà còn tự tay tiễn họ Hà vào đường chết. Tài cán trí tuệ mình không bì được một phần của Hà Sĩ Văn, lỡ đi sai một bước, có lẽ kết cục của lão họ Hà chính là kết cục ngày sau của mình. Nghĩ đến đây, sống lưng Vân Thăng lạnh ngắt.

Bao nhiêu suy nghĩ quay cuồng trong đầu Vân Thăng, nhưng gương mặt anh ta lại vô cùng bình tĩnh, anh ta cảm thấy chuyện quan trọng nhất hiện giờ là khiến cậu cả nhà họ Phan yên tâm, vậy nên anh ta hắng giọng, định nói mấy lời tỏ lòng trung thành, nhưng nghĩ lại, cảm thấy hành động mới là thứ khiến người ta yên tâm nhất, nên nói ít làm nhiều thì hơn, vậy là khóe miệng anh ta run run, cuối cùng vẫn chẳng thốt lời nào.

Cảnh Sâm cúi đầu, dường như anh cũng đã nhìn thấu sự quẫn bách lúng túng trong lòng Vân Thăng, bèn nở một nụ cười đầy ẩn ý. Hồi lâu sau anh mới mở lời: “Vì cứu tôi mà giờ Đồng Xuân Giang không biết sống chết ra sao, anh hãy giúp tôi nghe ngóng tình hình, nhất mực để ý đến ngài Đồng. Tôi là người biết báo ơn đền nghĩa, phàm là người từng giúp đỡ tôi, nhất định tôi sẽ dốc toàn lực để báo đáp.”

Nghe xong, Vân Thăng cũng thấy lòng mình dễ chịu hơn nhiều, bèn vội vã đáp lời ngay. Cảnh Sâm ngẩng đầu, nở nụ cười cảm kích với anh ta: “Cảm ơn anh.”

“Không, không có gì đâu ạ.” Vân Thăng vội đáp, cảm thấy dù nụ cười của anh ôn hòa, nhưng chẳng hiểu vì cớ gì lại khiến lòng người khiếp sợ.

Chợt Cảnh Sâm lại thở phào như một đứa trẻ nghịch ngợm, anh nhăn mặt nói: “Tôi thật lòng mong có thể mau chóng rời khỏi đây, khoảng thời gian này thật mệt mỏi, đúng là mệt muốn chết.”

Vân Thăng cười: “Ra nước ngoài rồi cậu hãy đi du lịch một chuyến trước, tạm nghỉ ngơi cái đã.”

“Đi rồi có muốn về cũng không phải chuyện một sớm một chiều, cứ nghĩ là lại thấy vui. Anh Vân, mọi chuyện trong nhà phải cậy nhờ anh rồi.”

Vân Thăng thành thật cất lời: “Cậu cả, tôi vẫn nhắc lại lời khi trước, tôi sẽ làm tốt những chuyện mình cần làm, yên tâm chờ cậu học hành xong trở về.” Anh ta khựng lại rồi bổ sung thêm một câu, “Không biết cậu cả có thể đồng ý với tôi một chuyện không?”

“Anh cứ nói đi.”

“Cậu đừng gọi tôi là anh Vân nữa. Cứ gọi Vân Thăng là được ạ.”

“Được, Vân Thăng. Vậy giờ anh có thể giúp tôi một chuyện không?”

Vân Thăng kính cẩn đáp: “Cậu cứ dặn dò ạ.”

“Không biết mùa này đã có rau dền chưa, tự nhiên tôi lại thèm ăn.”

“Cậu yên tâm, chắc chắn cậu sẽ được ăn ạ.”

Đến bữa trưa, quả đúng trên bàn ăn có một đĩa rau dền xào, nước canh đỏ tía bốc hương thơm thanh dịu, Cảnh Sâm vô cùng hài lòng, biết Cảnh Huyên vẫn đang ngồi lì trong phòng không chịu ra, anh bèn bảo Vân Thăng bưng một phần lên cho cậu, đang dặn dò thì bà Vân tiến vào phòng ăn, kéo ghế ngồi xuống, bà cau mày nói: “Đừng để A Huyên ăn thứ này, hồng hồng đỏ đỏ nhức cả mắt, nhìn thôi đã không muốn ăn.”

Cảnh Sâm bèn cười: “Trời đang nóng, ăn chút rau dền thanh nhiệt giải độc cũng giúp A Huyên mau hồi phục.”

Bà Vân chẳng buồn để tâm tới anh, chỉ lườm Vân Thăng: “Đã nghe thấy chưa? Vân Thăng!” Bà cố tình kéo chữ “Vân” thật dài, Vân Thăng chỉ đành ngoan ngoãn đặt đĩa rau dền trong khay trở lại bàn. Cảnh Sâm cũng không để bụng, anh bình tĩnh ngồi xuống, bưng bát cơm lên, đang định vươn đũa về phía đĩa rau dền, bà Vân lại nói:

“Mang rau dền đi, nhìn mà không nuốt nổi cơm.”

Vân Thăng do dự một lát, gương mặt bà Vân đanh lại, thấy anh ta đứng đó không nhúc nhích, bà lại càng cáu giận, đứng dậy vươn tay bưng hai đĩa rau dền đặt vào khay, nước canh sánh ra, hệt như máu đỏ.

“Bưng đi!” Bà Vân nghiêm giọng ra lệnh.

Vân Thăng nhìn Cảnh Sâm. Cảnh Sâm đang gắp một miếng cá nho nhỏ, chậm rãi đặt vào bát mình, thong dong như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Vân Thăng bèn đặt đĩa lớn xuống bàn, cười nói: “Bà chủ, vậy để tôi mang đĩa của cậu hai xuống trước.”

Bà Vân giáng cho anh ta một cú bạt tai: “Mày là chó nhà ai? Lời của chủ mình mà cũng không nghe hả?”

Mặt Vân Thăng xanh mét, anh ta đứng im bất động.

Lúc này Cảnh Sâm mới ngẩng đầu, anh mỉm cười nói: “Rau dền bữa nay tươi thật, tôi rất thích. Vân Thăng, cảm ơn anh, anh xuống trước đi, tôi và mẹ sẽ ăn từ từ.”

Vân Thăng lui xuống với gương mặt cứng ngắc, hai người giúp việc đứng phục vụ bên cạnh thấy tình hình không ổn cũng lặng lẽ lui ra. Bà Vân quay lại, giận dữ nhìn Cảnh Sâm, thấy anh cười híp mắt, úp bát cơm lên đĩa rau dền, dùng thìa trộn lên rồi lại xúc một miếng bỏ vào miệng, nhai nuốt chầm chậm.

Bà Vân giận tới độ muốn ngất đi, đến giọng nói cũng run rẩy: “Cậu đừng có tưởng em trai cậu thành ra thế này thì cậu có thể mừng được…”

Cuống rau tươi non phát ra những tiếng sồn sột trong miệng Cảnh Sâm, ăn xong mấy miếng, anh mới thong thả thốt: “Cô Địch mà cậu giới thiệu cho con chết rồi, con còn chưa hết đau lòng, lấy đâu ra vui mừng?”

Bà Vân biến sắc, gương mặt đỏ bừng giờ trắng bệch, bà ta ngồi phịch xuống, bàn tay cầm đũa run lên bần bật.

Cảnh Sâm: “Mẹ à, mẹ trông kìa, mẹ giận tới hồ đồ rồi đấy. Vân Thăng là chó nhà ai? Giờ mẹ đang ở nhà ai? Nhà họ Phan đấy! Chẳng phải đến chính trước họ Vân của mẹ cũng vẫn phải chen thêm chữ Phan đó sao? Nếu cha mà nghe được lời mẹ, chuyện lại thành ra không hay đâu.”

Những lời căm giận chất đầy bụng bà Vân bị anh đè nghẹt lại, tiếng hít thở của bà nặng dần, vành mắt đỏ lên.

Cảnh Sâm liếc bà, anh thản nhiên cất tiếng: “Trên đời này có rất nhiều chuyện, dù ban đầu nghĩ là hay, là tốt, nhưng cuối cùng cũng vẫn sẽ xuất hiện vô số rắc rối, người tính chẳng bằng trời tính, tất cả đều phải thuận theo tự nhiên. Dù sao đây cũng là chuyện ngoài ý muốn, xảy ra rồi thì thôi, không đáng để nghĩ ngợi nhiều quá. Huệ Lan chết rồi, con đau lòng một bận là hết, Cảnh Huyên bị thương, tĩnh dưỡng một thời gian là lại không sao. Mẹ còn lo lắng gì nữa?”

Khóe môi bà Vân run run, bà ta lẩm bẩm: “Cậu đừng nói linh tinh trước mặt bố cậu.”

“Con có biết gì đâu, còn có thể nói gì được chứ?” Cảnh Sâm cẩn thận gắp một chiếc xương cá ra.

Bà Vân ngước mắt nhìn anh, khẩn khoản cất lời như kẻ yếu thế: “A Sâm, con cũng biết rõ mấy năm nay mẹ đối xử với con thế nào mà. Vì em trai con bị thương nên mẹ mới không dằn lòng nổi, giận cá chém thớt con.”

Cảnh Sâm thông cảm đáp: “Con biết. Càng là người thân cận thì người ta càng không nỡ trách móc. Mẹ, về sau mẹ có giận gì thì cứ trút hết lên người con, không sao đâu. Mẹ ăn cơm đi, đồ ăn nguội cả rồi. Mẹ mà cũng sinh bệnh thì cái nhà này sụp mất.”

Lòng bà Vân thấp thỏm không yên, bình tĩnh lại rồi, bà ta múc một bát canh, uống từng thìa nhỏ, thỉnh thoảng lại có tiếng bát đũa lách cách vang lên trong phòng ăn. Một lát sau, bà ta lặng lẽ quan sát Cảnh Sâm, thấy dường như anh đang rất có khẩu vị, đôi môi được rau dền nhuộm đỏ, hệt như đang thèm khát máu tươi, đôi mắt lại sâu không thấy đáy tựa hai khoảng hồ băng, thứ cảm giác sợ hãi không tên vút qua trong lòng bà ta. Bà Vân quay mặt đi, nghĩ đến vệt máu dính bên tai khi Cảnh Huyên được đưa về, lòng bà ta lại đau đớn khôn xiết, nhai cơm cứ như nhai đất nhai đá. Cảnh Sâm gọi người làm xới cho mình thêm một bát cơm, bưng nốt đĩa rau dền nhỏ còn thừa lên, bắt đầu trộn vào cùng cơm.

Bà Vân đứng dậy, bà ta không nói lời nào, bước khỏi phòng mà gương mặt trắng bệch. Cảnh Sâm nói như đang tự lẩm bẩm với mình: “Màu đẹp thật, bảo sao người ta lại gọi là cơm Trạng nguyên, ai ăn vào thì người đấy sẽ được làm Trạng nguyên.” Anh bật cười ha ha, lại nói, “Chỉ tiếc là A Huyên lại không được ăn.”

Một tiếng “rầm” vang lên, bà Vân va phải khung cửa, Tiểu Quân đứng ngoài phòng ăn kinh ngạc thốt:

“Ôi, bà chủ, bà có đau không, bà đụng vào đâu rồi?”

Bà Vân ôm trán, không nói lời nào, Vân Thăng lẳng lặng đứng phía cuối hành lang, im bặt hệt như một cái bóng, bà ta buông tay, nén cơn đau, nén cả cơn giận bước về phía anh ta, gượng nở nụ cười lấy lòng: “Mặt cậu còn đau không?”

Vân Thăng chầm chậm lắc đầu.

Bà Vân nói: “Xét theo vai vế thì cậu còn là em trai tôi nữa kìa, chúng ta là người một nhà, người một nhà lại càng phải giúp đỡ nhau mới đúng. Lát cậu ra ngoài với tôi, tiện tôi mua thêm cho cậu bộ đồ, cậu đừng giận nhé.” Giọng điệu bà ta hệt như đang dỗ dành một đứa trẻ.

“Cảm ơn bà chủ.” Vẻ mặt Vân Thăng rất mực cung kính, nhưng hàng lông mày lại khẽ nhíu.

“Sao, cậu còn gì khó xử ư?”

Dường như Vân Thăng rất khốn cùng, anh ta nhỏ giọng: “Mảnh ruộng phía Tây ngoại ô của tôi thất bát, người nhà định làm thêm ao cá để bù chi tiêu trong gia đình, tôi…”

“Đừng lo, chỉ thiếu tiền vốn thôi mà, đúng không?” Bà Vân thầm mừng trong lòng, người có thể chủ động mở miệng đòi tiền cũng là kẻ dễ sai khiến, ban nãy đúng là bà ta không nên xúc động lôi kẻ khác ra trút giận, phải lung lạc chính con chó nhà mình mới đúng, khi nào cần quăng cho nó khúc xương thì cũng không thể keo kiệt.

“Cậu thiếu bao nhiêu tiền?” Bà ta hào phóng hỏi.

“Gia đình tôi có vay chút tiền của hàng xóm, tôi cũng góp được thêm chút ít, vẫn còn thiếu 300 đồng đại dương.”

“Tôi cho cậu 500 đồng.”

“Nhiều quá rồi, nhiều quá rồi ạ. Không cần nhiều thế đâu bà chủ.”

“Cậu khách sáo với tôi làm gì?” Bà Vân nở nụ cười hòa nhã, vỗ vai anh ta như đang an ủi rồi quay người bước lên tầng.

Vân Thăng nhìn bóng lưng bà ta, khóe môi nở nụ cười lạnh lùng khinh miệt, anh ta thì thầm: “Ngu xuẩn!”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom