Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Có Giọt Mưa Xuân Sà Vào Lòng Sông

Quyển 2 - Chương 80


Trường Sinh Đường là tiệm làm đầu được giới nhà giàu ưa thích nhất tại Tô giới Pháp, Vũ Hán. Năm Tân Hợi, chủ tiệm Trương Tụ Niên – tay kéo vàng của Dương Châu – đã dẫn dắt các thợ làm đầu tài năng vượt trội, dùng cây kéo để tạo ra làn sóng kéo dài suốt hàng chục năm không dứt tại Hán Khẩu. Ở Vũ Hán, rất nhiều những đứa trẻ nhà giàu sau khi chào đời đã được đưa tới Trường Sinh Đường để “cắt tóc máu”, giúp chúng sống thọ, gặp nhiều may mắn trong tương lai.

Tiểu Quai vừa đầy tháng đã được Cảnh Ninh và Đức Anh đưa tới Trường Sinh Đường. Khách khứa rất đông, hai vợ chồng bế con đợi trong phòng nghỉ một lát.

Thời gian quả là liều thuốc thần, nó hủy hoại, đày đọa, nhưng đồng thời cũng cứu vớt con người ta. Cảnh Ninh cúi đầu nhìn gương mặt ngây thơ trong sáng của con gái, lòng cô như mặt nước phẳng lặng.

Cô không yêu đứa trẻ này ngay từ ban đầu, thậm chí còn có ý nghĩa bỏ rơi nó, thoát khỏi nó, có lẽ đây là sự hồ đồ của người lần đầu làm mẹ, cũng có lẽ nó xuất phát từ nỗi đau đớn bị trói buộc không thể thoát thân. Nhưng giờ đây tất cả đều không còn quan trọng nữa, vì mỗi ngày trôi qua, thân phận “người mẹ” đã lặng lẽ thay đổi cô lúc nào không hay. Sự xoa dịu đứa bé dành cho cô chậm tới mức gần như không phát hiện nổi, nhưng đúng thực đã có thay đổi.

Cô chăm chú ngắm nhìn mái tóc đen dày ngay từ lúc mới lọt lòng, làn da trắng muốt như tuyết, sống mũi nhỏ tinh tế và đôi mắt trong veo sống động của con gái, còn cả vẻ mặt đáng yêu kia nữa, vẻ mặt vui tươi, đòi mẹ mỗi lần nhìn thấy khiến cô vừa buồn vừa vui.

“Mình có một đứa con gái, mình là một người mẹ.”

“Mẹ có thể cho con gì đây?” Cảnh Ninh thầm nghĩ trong lòng, “Nhưng Tiểu Quai của mẹ, mẹ bằng lòng cho con tất cả những gì mẹ có thể.”

Tiểu Quai đang hưng phấn mở cặp mắt đen láy của mình ra nhìn mẹ, rồi lại nhìn cái nơi hoàn toàn không giống nhà mình, mỗi lần một cô hay một chú ưa nhìn nào bước qua, cô bé đều tò mò liếc xem, nếu nghe thấy tiếng máy sấy hay tiếng kéo, bé cũng sẽ vểnh đôi tai nhỏ nghe ngóng, như hiểu như không.

“Để anh bế.” Đức Anh đón lấy đứa bé, cẩn thận đặt bé lên cánh tay mình. Tiểu Quai ngơ ngác, rồi lại chợt toét miệng cười với cậu ta, Đức Anh thơm mạnh bé một cái, Cảnh Ninh nhắc: “Anh nhẹ thôi.” Đức Anh vội bảo: “Ừ, ừ!” Rồi lại hạ giọng, “Lâu lắm mới có dịp mẹ Tiểu Quai ra ngoài, lát nữa em muốn ăn gì? Mẹ Tiểu Quai ăn no thì Tiểu Quai của anh mới được ăn no.”

Gương mặt Cảnh Ninh ửng đỏ: “Giờ anh cũng học được thói lẻo mép rồi à.”

Đức Anh ngồi sát lại gần cô, dịu dàng nói: “Chúng ta sẽ luôn hạnh phúc thế này nhé, được không?” Cảnh Ninh im lặng, cậu ta biết có lẽ cô đang âu sầu nên cũng không nói nữa. Cơn gió ngoài hành lang lay động tấm khăn trải bàn đăng ten phía đối diện, Cảnh Ninh khom người, che lấy trán con gái.

Đức Anh nói: “Anh đã nghĩ rất nhiều tên cho con bé, nhưng cái nào cũng thấy chưa đủ hay.”

“’Tiểu Quai’ hay lắm mà.” Cảnh Ninh để con gái nắm lấy ngón tay mình, ngẩng đầu lên thấy Đức Anh đang tủm tỉm cười nhìn cô, “Sao, sao lại cười kỳ lạ thế.”

Đức Anh thở dài nói: “Em không biết anh vui tới mức nào đâu.”

Một buổi chạng vạng sau tiệc đầy tháng, Ngân Xuyên tìm tới nhà họ Từ. Người làm dẫn anh tới vườn hoa. Dưới gốc long não, dành dành và nguyệt quế đang đung đưa theo gió, anh bước vào sâu trong vườn, thấy có một mảnh đất trồng hoa nhỏ mới được quây, Đức Anh xắn tay áo lên đến cùi chỏ, đang tưới nước cho mấy khóm hồng dưới tường rào, Cảnh Ninh bế con đứng nhìn bên cạnh, ánh tà dương trải trên bả vai họ, cành hồng no nước như phát sáng lấp lánh.

Đức Anh buông xô nước trong tay xuống, cậu ta đứng thẳng dậy chào hỏi Ngân Xuyên, Cảnh Ninh cũng quay người lại nhìn, Tiểu Quai giãy giụa trong tã lót, bàn chân nhỏ đạp mạnh như muốn nhảy ra ngoài, Cảnh Ninh bế đứa bé lại cho vững, cười nói: “Đứa trẻnày ưa náo nhiệt, cứ có khách là lại hớn hở.”

Ngân Xuyên nói: “Rất giống em hồi nhỏ.”

Cảnh Ninh cười: “Cũng phải xem là gặp ai nữa, không phải thấy người nào em cũng vui.”

Ngân Xuyên cúi đầu nhìn những bông hoa hồng, nói: “Đẹp lắm.”

Cảnh Ninh nói: “Toàn là Đức Anh chăm đấy.”

Niềm vui tràn ngập trong mắt Đức Anh, cậu ta lau tay, nói: “Hiếm khi anh cả tới chơi, chúng ta vào nhà đi, em sẽ pha một ấm trà ngon.”

“Không cần đâu, anh tiện đường tới đưa cái này cho Ninh Ninh thôi.” Ngân Xuyên rút chiếc ống thư chạm ngà voi ra từ túi áo, đưa cho Cảnh Ninh, Tiểu Quai đã kịp vươn tay nhận trước, Ngân Xuyên nhìn bàn tay bé nhỏ trắng mịn tới độ gần như trong suốt, anh khựng lại, nói, “Mạnh Tử Chiêu nhờ anh đưa nó cho em.”

Cảnh Ninh thuận tay trao đứa trẻ cho Ngân Xuyên bế rồi cầm lấy ống thư, mở bức thư pháp ra nhìn thật kỹ, ban đầu ánh mắt cô tràn ngập kinh ngạc và đau đớn, nhưng lại chậm rãi hóa yên ả nhẹ lòng.

Trong thâm tâm cô, Tử Chiêu đã bỏ đi thực chất vẫn chưa hề rời xa cô, dù mỗi lần nói tạm biệt cô đều cảm thấy một phần sinh mệnh mình như đã chết đi. Dù cậu đã mang đi một phần sinh mệnh cô, nhưng cậu cũng trao cô sinh mệnh của cậu. Cảnh Ninh nhớ cái đêm mưa đau đớn đày đọa đấy, biết Tử Chiêu tới gặp mình, bên mình suốt đêm, dù đó không phải mơ nhưng bọn họ vẫn phải tỉnh lại. Được yêu đương nhiên là rất hạnh phúc nhưng phải chăng yêu một người mới là điều ta có thể nắm chắc trong lòng bàn tay. Yêu một người, nhớ nhung một người mà không hề đòi hỏi, đây mới chỉ là thứ tình yêu tự do nhất, không ai có thể ngăn trở. Thế gian mênh mông vô cùng vô tận, thời gian chính là món tặng phẩm, trong quãng thời gian đẹp nhất của đời mình, bọn họ đã trao nhau món quà quý giá nhất trên đời này. Dù kiếp này vĩnh biệt nhưng trong tim họ từng có nhau, vậy là đã đủ rồi.

Ngân Xuyên chưa kịp chuẩn bị trước, đứa bé trong lòng anh vừa thơm vừa mềm, bàn tay bé nhỏ đập vào cằm anh, nó hơi híp đôi mắt, như đang cười với anh, mùi hương thơm ngọt khiến những chuyện xưa cũ ẩn sâu trong một góc ký ức chợt ùa tới, như tia sáng lóe lên, hòa với cảm nhận về mọi tiểu tiết bé nhỏ, trong tích tắc, mọi cảm xúc ùa tới, cuốn lấy anh, trêu chọc anh, rồi lại vung tay vứt bỏ anh. Động tác của Ngân Xuyên trở nên cứng ngắc, hơi nóng xộc lên mắt.

Đức Anh vươn tay: “Để em bế cho, làm vậy con bé không thoải mái.”

Ngân Xuyên sực tỉnh, hóa ra hai tay anh ôm lấy hông đứa trẻ, khiến đầu bé ngửa ra sau. Quả nhiên chưa được bao lâu Tiểu Quai đã há miệng, bé khụt khịt rồi khóc òa lên.

Đức Anh đón lấy đứa trẻ, dịu dàng dỗ dành, Cảnh Ninh tiến lại, lắc ống thư chạm ngà voi trước mặt con: “Quai Quai có muốn cái này không? Con xem trên này khắc hoa gì thế, có hoa hồng mà mẹ thích nhất đấy.”

Tiểu Quai khóc không ngừng, thút thít vươn tay lần sờ hoa văn chạm ngà voi, Đức Anh nhìn bức tranh chữ trong tay Cảnh Ninh, cậu ta chợt nói: “Hay là thế này đi.”

Cảnh Ninh và Ngân Xuyên cùng ngẩn ra, Đức Anh cười: “Đặt tên đi học cho con bé là ‘Tĩnh An’ đi! Từ Tĩnh An, cái tên này rất hay.”

Cảnh Ninh hé môi, vô thức muốn từ chối nhưng lại không tìm ra bất cứ lý do nào để cự tuyệt, Đức Anh nói: “Đương nhiên chúng ta vẫn sẽ gọi con bé là Tiểu Quai, Tĩnh An là tên khi ở trường, sau này mình có thêm một Tiểu Quai nhỏ nữa thì lại lấy tên mới cho con.”

Cảnh Ninh liếc nhìn cậu ta, không nói gì. Ngân Xuyên đứng im một lúc bèn từ biệt định đi, Cảnh Ninh nói: “Để em tiễn anh.”

Ngân Xuyên gật đầu.

Dường như cô đã hồi phục, không biết bắt đầu hồi phục từ khi nào, có thể là vào chính đêm thập tử nhất sinh ấy. Giờ phút này đây gương mặt cô vẫn thoáng vẻ tiều tụy nhưng đã có những nét mà một người mẹ trẻ cần có: dịu dàng, kiên cường, rực rỡ, đây là tính cách sâu trong cô được biểu hiện ra bề ngoài, có mong manh dễ vỡ, cũng có sự quyết liệt lúc nào cũng chực bùng cháy. Cô có vị ngọt của đường, đó là mùi hương mà đứa bé lưu lại cho cô, vẻ non nớt của cô đã tan hẳn, cơ thể trở nên lả lướt nở nang, đôi mắt to trong veo hiển hiện sức mạnh cứng rắn, thẳng thắn, vừa toát lên sự vững vàng của một người phụ nữ trường thành, lại mang cả nét ngây thơ khờ khạo của trẻ con. Anh biết mọi sự thay đổi này đều là do đứa trẻ kia mang tới. Sự có mặt của đứa trẻ ấy khiến cô buông bỏ được cả Mạnh Tử Chiêu.

“Em muốn nhờ anh giúp một chuyện.” Cảnh Ninh do dự một lát mới mở lời.

“Em nói đi.”

“Đức Anh rất muốn có một ngoại trang của riêng mình. Từ lâu anh ấy đã rất mong mua lại được một xưởng bông ở Vũ Xương, anh biết anh ấy là người thật thà, trước nay chưa từng tranh giành với ai mà. Nghe nói đối thủ trong lần đấu giá này rất mạnh, em đang nghĩ… hay là anh ra mặt lấy xưởng bông đó rồi tìm cớ sang lại cho Đức Anh.”

Ngân Xuyên nở nụ cười hờ hững: “Em không thật sự nghĩ cậu ta thật thà mà chỉ sợ cậu ta không có năng lực tranh của người ta mà thôi.”

Câu nói này rất chướng tai, vậy mà anh chẳng buồn suy nghĩ, cứ thế bật thốt.

“Tiền trung gian phát sinh vợ chồng em sẽ trả từ từ cho anh.”

Cô bình tĩnh trả lại anh một câu đau lòng.

“Em quả thực là hết lòng với cậu ta.”

“Anh ấy là cha của con em, em hết lòng với anh ấy là lẽ đương nhiên.”

Ngân Xuyên điềm tĩnh quan sát cô, không bỏ qua bất cứ một sự thay đổi biểu cảm tinh vi nào của cô.

Cảnh Ninh ngoảnh mặt đi.

“Em không hạnh phúc.” Anh dửng dưng.

“Sao anh biết.”

“Ban nãy em ngây ra suốt. Madame Hardy, Madame Isaac Pereire và Madame Gregoire Staechelin đều là loài hoa hồng leo, em lại trồng tách chúng ra, Madame Knorr phải trồng tách, em lại để Từ Đức Anh dựng giàn. Anh bỏ bao công sức mang “Cardinal de Richelieu” từ Anh về cho em, loài hoa hồng mà em thích đó không ưa uống nước, vậy mà em lại để cậu ta tưới đẫm nước cho chúng.”

“Anh vừa khen chúng đẹp mà.”

“Anh nói dối. Em cũng nói dối.”

Nỗi tức giận của Cảnh Ninh khó lòng kìm nén, mặt cô hơi tái đi.

Gương mặt cóng lạnh của Ngân Xuyên không một gợn sóng, giọng anh lại càng trầm lặng, hà tiện bộc lộ cảm xúc: “Anh muốn nói cho em biết nhà họ Phan các em có anh, nếu không thì cũng còn anh hai em, không cần đến nhà họ Từ làm hậu thuẫn. Em không cần phải phó thác đời mình cho một người hoàn toàn không xứng với em.”

“Không xứng?” Cô bướng bỉnh, “Em và cha của con em thì có gì mà không xứng?”

Tiếng bồ câu hót từ xa vọng lại gần sát, bọn họ không hẹn mà cùng ngẩng đầu. Tiết hạ ngày dài, đàn bồ câu vỗ cánh bay về nhà trong vòm sáng, dáng điệu nhẹ nhàng mềm mại, nhưng trong lòng lại trĩu nặng những xung đột, cuồn cuộn những hy vọng.

Khi ngẩng đầu lên, họ chợt nảy sinh một thứ cảm xúc tựa như ảo giác, hệt như đàn bồ câu trên trời của mỗi ngày, mỗi năm, mỗi thế kỷ, vẫn cứ luôn là đàn bồ câu ấy. Cùng một màu sắc, cùng một tiếng hót, cùng một dáng điệu khoan thai, mỗi lần vỗ cánh, mỗi khi chao liệng chúng đã lại hoàn thành một vòng luân hồi sinh tử.

Ánh mắt dõi theo chặng bay của đám bô câu, mượn lấy từ đó một tích tắc tự do, rồi lại chậm rãi chìm sâu xuống. Lòng anh tràn ngập niềm đau không rõ nguồn cơn, đó là nỗi đau không thể khống chế, đến từ một cõi vô biên. Linh hồn anh như theo cánh chim bay tới nơi cao chót vót của thành phố này, nhìn muôn nghìn tia hào quang bao phủ lấy nó và cõi hồng trần cuồn cuộn đang sục sôi, nhưng dù có kéo bản thân ra xa tới đâu, thứ anh nhìn thấy vẫn chỉ là trái tim của mình.

Trái tim ấy vẫn bị vây khốn tại một nơi, tại một toà thành cô độc vững chắc như sắt thép.

Anh mở cửa xe, chần chừ trong chốc lát, anh lấy một chiếc túi nhỏ ra từ túi áo rồi đưa cô: “Cho con bé.”

Cảnh Ninh mở ra, bên trong có hai món đồ, một trong số đó là chiếc khóa bạc thuở nhỏ anh từng đeo. Mẫu đơn hé nở, thiên trường địa cửu, sau bao bận long đong, cuối cùng chiếc khóa bạc vẫn trở lại tay cô. Món đồ con lại là chuỗi vòng tay nhỏ xinh dây đỏ xỏ ngọc lưu ly ngũ sắc, những viên ngọc mang hình bí ngô, đậu phộng, quả đào và quả hồng.

“Anh sửa dây khóa bạc cho ngắn lại rồi, con bé có thể đeo được. Mấy viên ngọc trên vòng tay là anh tự xâu.” Anh khẽ thốt.

Hàng mi dài của cô rũ xuống, ngân ngấn ánh lệ, nhưng chẳng mấy chốc tâm trạng cô đã trở lại như cũ. Cô ngẩng đầu, mỉm cười nói: “Hay quá! Lát về em sẽ đeo cho Tiểu Quai.”

Ánh mắt anh nấn ná trên gương mặt cô chốc lát, thoáng có tia sáng vui mừng lăn tăn.

Ngân Xuyên nói: “Ninh Ninh, anh đồng ý với em, anh sẽ giúp Từ Đức Anh đoạt được xưởng bông, chỉ là anh không cần tiền của bọn em.”

Cô muốn nói một lời cảm hơn, nhưng vào giờ phút ánh mắt hai người giao nhau, cô lại đánh mất tiếng nói của mình.
 
Quyển 2 - Chương 81


Ngân Xuyên luôn xử lý mối quan hệ với Đồng Xuân Giang một cách hết sức thận trọng, không quá gần gũi nhưng cũng tuyệt không dám lạnh nhạt. Anh cố gắng hết sức để lập kế hoạch nguồn vốn và lo liệu sản nghiệp cho ông. Đồng Xuân Giang là ân nhân cứu mạng của anh, ông đã giúp anh rất nhiều, Ngân Xuyên biết ơn ông, nhưng quan trọng hơn là anh cần có một người đồng minh vững chắc đáng tin trong thời buổi loạn lạc hiểm ác này. Ở Hán Khẩu không hiếm người có thân phận phức tạp giống Đồng Xuân Giang, nhưng kẻ có thể khiến người khác kiêng dè như ông lại rất ít ỏi.

Dù Đồng Xuân Giang đã rửa tay gác kiếm nhưng tiếng tăm trên giang hồ vẫn vang dội, ông có mối quan hệ mật thiết với Hằng Xã, còn nhậm chức trưởng thanh tra an ninh của Tô giới Anh và Tô giới Pháp, đến người nước ngoài cũng không thể không cúi đầu trước ông. Tài sản nhà họ Đồng có một phần tới từ kinh doanh sòng bạc và sàn nhảy tại tô giới, một phần khác được rót vào ngành công nghiệp và tài chính hợp pháp dưới sự hỗ trợ của Ngân Xuyên. Ông không chỉ trở thành thành viên hội đồng quản trị thường vụ và cổ đông lớn của vô số ngân hàng, công ty công thương nghiệp mà còn nghe lời Ngân Xuyên góp vốn cho rất nhiều những tòa soạn, nhà in, rất có phong cách của một “quý ông văn minh”.

Dữ Kỳ Trai tọa lạc tại bờ sông ngoại ô Hán Khẩu là một tòa nhà Ngân Xuyên âm thầm mua đứt sau khi trở về Anh, khi ấy anh còn chưa ngả bài với Phan Thịnh Đường. Ngoài mặt, Dữ Kỳ Trai là một quán ăn kiêm nơi thưởng trà, nhưng thực chất Ngân Xuyên lại dùng nó làm chỗ gặp mặt bàn công chuyện với phe Tạ Tề Phàm, Đồng Xuân Giang. Giờ đây mọi chuyện đã đổi khác nhưng chức năng của Dữ Kỳ Trai cũng không thay đổi nhiều, nó không được sử dụng với mục đích chính là kinh doanh mà trở thành chốn chiêu đãi các vị khách trên thương trường, bàn việc làm ăn quan trọng. Tình hình lỗ lãi sản nghiệp của Đồng Xuân Giang mỗi quý cũng sẽ được Ngân Xuyên đích thân trình bày rõ tại đây.

Hôm nay, ánh mặt trời rải trên mặt sông như những lá vàng lác đác. Hải âu nhẹ nhàng bay xuống, có con tàu băng qua, kéo một đợt sóng nhấp nhô khiến thuyền đánh cá chòng chành lay động. Ngoài đồng ruộng bên bờ sông, lúa mì đã được thu hoạch cả, những cành lúa mì vàng óng được bó lại thành từng bó, giữa là những con đường nhỏ quanh co trồng đầy anh túc đỏ. Ngân Xuyên lái xe qua, cảnh tượng đẹp như tranh nhưng không sao xoa dịu nổi nỗi ưu phiền của anh.

Xe của Đồng Xuân Giang đang đỗ ngoài bờ tường Dữ Kỳ Trai, thấy mấy tay bảo vệ đang đứng ngoài cổng, trong đó có một người cao lớn vạm vỡ, bả vai căng chắc dưới lớp áo, bề ngoài trông rất thật thà chất phác, thậm chí còn hơi có phần cù lần, phần eo cuốn một chiếc roi sắt.

Ngân Xuyên mỉm cười, chắp tay chào: “Anh A Kỳ!”

A Kỳ nở nụ cười ngờ nghệch: “Cậu Trịnh, ngài Đồng chờ cậu được một lúc rồi đấy.”

Nhiều năm về trước khi Phan Cảnh Huyên bị Hồng Toàn Căn bắt cóc, Ngân Xuyên và A Kỳ đã từng uống rượu với nhau, A Kỳ và Lưu Ngũ là những trợ thủ đắc lực nhất của Đồng Xuân Giang, gần tới mức theo ông như hình với bóng, bọn họ kiên định trung thành, đồng thời cũng bạo tàn nhẫn tâm, khiến người ta không khỏi e sợ.

Đồng Xuân Giang đặt một gian phòng lớn tại Dữ Kỳ Trai, bày một bàn bài nhưng phần mình không hề đánh, chỉ ngồi uống trà, nói chuyện với một người đàn ông trẻ tuổi. Thấy Ngân Xuyên tiến vào, ông cười gật đầu với anh: “Ông chủ Trịnh!”

Đồng Xuân Giang vẫn ôn hòa như mọi khi, nhưng sắc mặt người đàn ông trẻ bên cạnh ông lại khá khó coi. Ngân Xuyên tươi cười niềm nở, chào hỏi từng người: “Chào ngài Đồng, chào anh Tống.”

Hàng mày người đàn ông nọ khẽ nhướng lên, xem chừng rất ngạo mạn: “Anh biết tôi là ai?”

Ngân Xuyên chỉ cười, chào mọi người xung quanh mới quay lại dặn người làm: “Đun một ấm trà mới mang lên đây, thêm cả điểm tâm và hoa quả nữa.” Rồi anh ghé lại ngó chiếu bạc, bốn người đang chơi bài là hai quản lý có thâm niên của Phổ Huệ cùng hai quản lý đến từ Ngân hàng Phú Hưng, họ đã buông xấp bài trong tay để đứng dậy từ sớm, Ngân Xuyên bèn ngồi xuống vị trí được một người nhường lại, quay đầu liếc người đàn ông trẻ nọ, anh cười, nói: “Để tôi thay mặt anh Tống chơi mấy ván.”

Đồng Xuân Giang vỗ ống tay áo, nháy mắt với người nọ: “Duẫn Đoan, trước giờ cậu Trịnh không chơi bài cửu đâu, giờ đồng ý chơi giúp là xem trọng cậu lắm đấy.”

Tống Duẫn Đoan khẽ hừ một tiếng.

Chơi được vài ván, Ngân Xuyên thắng được hơn hai nghìn đồng, mọi người khen anh may mắn, anh cười: “Nào có, tất cả là nhờ có vận may của anh Tống đây. Anh Tống…”

Tống Duẫn Đoan không đợi anh dứt lời đã đứng dậy, chắp tay nói: “Thưa các vị, tôi xin cáo từ trước.” Đoạn, anh ta tự ý bỏ đi.

Cả căn phòng chợt lúng túng.

Đồng Xuân Giang buông ly trà trong tay xuống, mỉm cười nói: “Hay cậu Trịnh đi dạo một vòng vườn hoa với tôi nhé?”

Đến quãng vắng, Ngân Xuyên mới áy náy nói: “Thành thật xin lỗi ngài Đồng, không ngờ anh Tống và ngài lại có tình cảm sâu đậm với nhau như vậy, tôi nhất định sẽ nghĩ cách bù đắp cho anh ấy.”

“Không ngờ ư?” Đồng Xuân Giang dửng dưng, “Cậu Trịnh khiêm nhường quá, tôi thì lại thấy hình như trên đời này không có chuyện gì mà cậu không ngờ tới được.”

Ngân Xuyên mỉm cười, thở dài: “Thật sự rất xin lỗi.”

Đồng Xuân Giang nói: “Bù đắp cho cậu ta, lấy gì để bù đắp đây, tiền sao? Nhà họ Tống không bao giờ thiếu tiền, thằng bé này bị cha quản thúc từ nhỏ, tính khí không được hòa nhã cho lắm, cậu ta đã bỏ không ít công sức cho xưởng bông kia, đến tôi muốn chủ động giúp đỡ cũng bị cậu ta gạt đi. Giờ cậu lại đột nhiên nhúng tay vào phá đám, còn sang xưởng bông cho đối thủ của cậu ta, cơn tức tối oán hận của cậu ta không tan ngay được đâu. Giờ đến tôi cũng chẳng biết phải làm gì với cậu ta.”

Ngân Xuyên nghĩ ngợi trong chốc lát rồi nói: “Tôi bằng lòng để lại cho anh ấy hai kho dầu có vị trí tốt, kinh doanh ổn định, có thể làm ăn lâu dài được.”

Đồng Xuân Giang như cười như không: “Cậu quả là không tiếc gì cho cậu em rể kia nhỉ.”

“Cũng không chỉ vì mình cậu ta. Tôi không mong việc của anh Tống làm ảnh hưởng tới tình cảm giữa tôi và ngài Đồng.” Ngân Xuyên chuyển chủ đề, anh nói, “Giờ Phan Thịnh Đường vẫn chưa rõ tung tích, sống phải thấy người chết phải thấy xác, đáng sợ nhất chính là cảnh bặt tăm bặt tín thế này, có khi một ngày nào đó lão rắn độc này sẽ đột ngột ngoi lên cắn tôi, còn phải phiền ngài Đồng lưu ý giúp cho.”

Đồng Xuân Giang nói: “Phan Thịnh Đường còn sống được bao lâu nữa? Ông ta ôm một khoản tiền lớn bỏ trốn, số tiền này đủ để sống phần đời còn lại một cách tử tế rồi, còn cậu thì vướng bận cái tính cách và tình cảm của mình nên không thể buông tay phó mặc nhà họ Phan, cũng chẳng nửa đường vứt bỏ phòng kế toán Hoa Phổ Huệ được, khoan bàn đến việc cậu suýt ngồi tù vì chuyện này, mà thậm chí đến bây giờ cậu vẫn không thể toàn tâm toàn ý kinh doanh hiệu buôn của mình. Nếu muốn báo thù, ông ta đã đạt được mục đích từ lâu, giờ xông ra đâu giúp được gì cho Phan Thịnh Đường?”

Gió nổi, bóng cây lay động, Ngân Xuyên nhìn mặt đất chằm chằm hồi lâu, anh nói: “Con người ta luôn rất tham lam, thắng rồi lại muốn thắng nữa, thua rồi lại chẳng bao giờ chịu phục. Thận trọng một chút không bao giờ sai. Nguồn lực của ngài Đồng lớn mạnh là vậy mà sau bao lâu vẫn không nghe ngóng được tin tức của ông ta và Ngô Phong Lâm, tôi cảm thấy rất bất an.”

Đồng Xuân Giang cười nhạt: “Có khi bây giờ Phan Thịnh Đường còn mất ăn mất ngủ hơn cả cậu, mà có thể ông ta đã chết rồi cũng nên. Ai biết sẽ có chuyện gì xảy ra giữa ông ta và Ngô Phong Lâm, bắt tay trục lợi thì lấy đâu ra lòng trung thành dài lâu.”

Ngân Xuyên cau mày, trầm tư không lên tiếng.

Có tiếng ồn ào vọng lại, cả hai người thoáng biến sắc, chẳng mấy chốc Lưu Ngũ đã vội vã tiến vào. Thấy cả hai vẫn bình yên vô sự, Lưu Ngũ thở phào nhẹ nhõm. Tiếp sau đó, A Kỳ xách một người đàn ông mặt dài, gò má nhọn hoắt bước vào như xách một con gà, trán người này tướp táp mồ hôi lạnh, tay trái bủn rủn rũ xuống, cổ tay sưng vù, xem chừng đã bị gãy xương. A Kỳ trao con dao bao xanh đồng cho Đồng Xuân Giang: “Hỏi lai lịch hắn, hắn không chịu nói, tôi lục soát được trên người hắn có thứ này.”

Đồng Xuân Giang chỉ liếc qua mà mắt đã tối sầm, ông nói: “Cứ làm theo quy tắc đi.”

Ngân Xuyên chậm rãi lùi về sau một bước. A Kỳ bịt miệng người nọ lại, tay phải bị tóm giật lên trên, rắc một tiếng, hai chân người nọ quẫy đạp trên mặt đất, rên rỉ gào khóc, ánh mắt đau đớn cùng cực, đôi mắt như cặp chuông đồng của A Kỳ chẳng có lấy một gợn sóng, tiếp tục bẻ phần gãy đứt trên cánh tay phải của kẻ này, lại một tiếng rắc nữa vang lên. Hai tay người này đã bị phế, anh ta ngất xỉu vì đau đớn, miệng chảy máu ròng ròng, xem chừng đã cắn phải lưỡi.

“Kéo hắn tới Tô giới Nhật. Lưu Ngũ, cậu chọn mấy người đi theo A Kỳ đi.” Đồng Xuân Giang nói. Lưu Ngũ đáp vâng, A Kỳ khom người, tóm cổ áo kẻ nọ kéo đi, quá trình ấy vừa nhanh vừa im ắng, trái hẳn với tiếng xào bài trò chuyện trong những gian phòng riêng, sao mà đáng sợ tới kỳ lạ.

Đồng Xuân Giang liếc nhìn Ngân Xuyên, thấy gương mặt chàng trai trẻ này vẫn bình tĩnh như nước, không mảy may sợ sệt, như thể chẳng gì có thể khiến lòng anh gợn sóng, ông không khỏi thầm khen ngợi. Đồng Xuân Giang giải thích: “Từ cuối năm ngoái đã có vài tên lãnh khách Nhật Bản mua chuộc phản đồ của Thanh Bang, triệu tập đám côn đồ du đãng để thành lập Viện Nghiên cứu Thương mại Viễn Đông, nghe nói tiền của chúng được chính phủ Nhật trợ cấp, chúng ngấm ngầm kinh doanh ma túy và mại dâm, thu thập tin tình báo, việc gì cũng dám làm. Chúng muốn kéo tôi nhập bọn nhưng đương nhiên tôi không đồng ý. Tên ban nãy là thám tử của người Nhật, hằng ngày chúng đều đổi mấy người theo dõi tôi, có lẽ đang muốn nhổ cái gai trong mắt là tôi đi.”

Hoàn cảnh vô cùng hung hiểm nhưng lại được ông miêu tả một cách nhẹ nhàng hờ hững tới vậy, Ngân Xuyên nghe mà thầm kinh hãi, anh nghiêm nghị nói: “Nghe nói đến cả hiệu buôn Tây vốn Nhật cũng kiêm nhiệm vụ nghe ngóng tin tình báo, dù chỉ là lời đồn thôi nhưng tôi vẫn phải cảnh giác, dạo gần đây tôi đã bắt đầu hạn chế qua lại làm ăn với họ.”

“Ừ, làm vậy là đúng. Dân kinh doanh mà có nhận thức như vậy là rất hiếm thấy.”

Ngân Xuyên nói: “Dân kinh doanh cũng nên rõ đúng sai. Trước nay phúc họa quốc gia luôn gắn bó mật thiết với phúc họa con người, tổ đã rơi thì trứng cũng chẳng còn. Ngài Đồng, xem ra ngài vẫn rất có thành kiến với dân kinh doanh, quả thực trên đời này còn vô số gian thương thấy lợi quên nghĩa, nhưng vẫn có người làm ăn náu thân mà không bỏ nghĩa khí đang tồn tại. Hơn nữa, không phải ngài cũng là ‘dân kinh doanh’ đó sao?”

Đồng Xuân Giang mỉm cười nói: “Ngân Xuyên, cậu tài hoa hơn người, bản tính lương thiện, có tài năng, có sự quyết đoán, nếu vào thời thái bình, chắc chắn cậu sẽ có được những thành tựu không đong đếm nổi. Tiếc là thời thế càng lúc càng loạn lạc. So với Phan Thịnh Đường, những chuyện phiền lòng cậu không khống chế được sẽ mỗi lúc một nhiều, mong rằng cậu hãy nhìn xa hơn, đừng đánh mất tâm tính mình vì những điều không như ý trong nhất thời.”

Ngân Xuyên xúc động gật đầu: “Tôi sẽ ghi nhớ lời của ngài Đồng. Nhưng tình cảnh ngài đang rất nguy hiểm, nhất định phải cẩn thận hơn.”

Đồng Xuân Giang bật cười: “Bị quấy nhiễu là chuyện khó tránh, nhưng nếu muốn động đến Đồng Xuân Giang này thì e không dễ dàng tới vậy đâu. Bang hội đã đề cao cảnh giác, các tô giới cũng bắt đầu tấn công đám người này để bảo vệ trật tự, cậu không cần lo lắng quá.” Ông vỗ vai Ngân Xuyên, “Đầu tháng sau là sinh nhật ba tuổi của con trai tôi, tới nhà tôi uống rượu nhé.”

Ngân Xuyên cười: “Nhất định tôi sẽ tới chúc mừng.”

Những ngày giữa hạ đã qua đi, thời tiết bắt đầu bước vào độ thu sang với nhiều thay đổi, trời cứ lúc mưa lúc nắng. Khu ngoại ô Hán Dương có một vài công xưởng, Đức Anh bước ra từ một trong số đó, khi ấy trời đang mưa như trút nước. Cậu ta che đầu bằng chiếc cặp da, men theo con đường nhỏ lầy lội để bước lên làn đường đá sỏi cho xe chạy. Trước khi bước lên xe, cậu ta không buồn lau nước mưa trên mặt mà chỉ giậm chân, lôi một tờ báo trong xe ra lau bùn đất dính trên giày. Đến Hán Khẩu, cậu ta cũng không về nhà ngay. Đức Anh lái xe tới Tô giới Đức, men theo một dãy nhà kiểu Âu màu ngà để tìm ra tòa nhà nơi Ngân Xuyên đang sinh sống.

Mưa rơi không ngớt, nhưng khi cánh cổng tòa nhà đóng lại, tiếng mưa lại chợt đứt đoạn. Bước khỏi thang máy, men theo mặt đá hoa đào bước vào hành lang phía Nam, bắt gặp một căn hộ rất rộng. Mở cửa ra thấy Ngân Xuyên đang đứng trước cửa sổ, tay bưng bộ trà cụ sứ, những tiếng lách cách trong veo vang lên.

Đức Anh gõ cửa, Ngân Xuyên quay người lại, gật đầu với cậu ta:

“Hợp đồng ở kia, cậu xem đi, nếu không có vấn đề gì thì nội trong ba ngày là có thể chuyển nhượng.”

Sắc trời nhá nhem, cửa sổ thủy tinh anh ánh sắc mưa lất phất, phản chiếu đồ nội thất trong căn hộ. Đèn đang mở, cánh cửa hông bên cửa sổ chắc nối thông với phòng ngủ, ánh đèn chiếu lên lớp viền vàng của đồng hồ treo tường, sợi kim tuyến trên hoa văn xô pha rực rỡ chói mắt, sàn gỗ không lấm một hạt bụi. Đức Anh do dự trong chốc lát, cậu ta mở chiếc cặp táp trong tay, rút một tờ giấy vụn ra lau đế giày rồi mới bước vào phòng. Đức Anh cầm lấy bản hợp đồng trên bàn lật xem. Ngân Xuyên đặt ly trà xuống rồi ngồi lên xô pha, thờ ơ đánh giá cậu ta, anh hỏi: “Cậu tới Hán Khẩu từ bao giờ?”

“Khoảng mười mấy tuổi, chắc là năm mười hai, mười ba.” Đức Anh vừa xem vừa nói.

“Cậu thích nơi này không?”

Đức Anh nói: “Cũng không tới mức thích, nhưng gia đình đã an cư ở đây nên cũng từ từ có cảm tình.”

“Tôi rất thích thành phố này.” Ngân Xuyên quay đầu nhìn ra cửa, “Tôi tới đây năm sáu tuổi, trừ mấy năm du học thì gần như không bao giờ rời khỏi nơi đây. Tôi gắn bó với căn nhà ở Hán Khẩu từ nhỏ tới lớn, quen thuộc với nó tới mức không thể quen thuộc hơn được nữa, tôi ghi tạc trong lòng mỗi viên gạch, mỗi miếng ngói, mỗi cây cột, mỗi xó xỉnh nơi đây. Đây là một nơi rất đặc biệt, tô giới của năm quốc gia nằm ngay bên bờ Trường Giang, chỉ cần bước lên bất cứ con thuyền chở hàng nước ngoài nào là coi như đồng nghĩa với rời khỏi lãnh thổ. Nó nằm giữa trung tâm Trung Quốc, nhưng dường như không chỉ thuộc về mình Trung Quốc, chúng ta như bị giới hạn giữa hai bờ Trường Giang, nhưng thực chất không phải như vậy. Thật sự rất thú vị.”

Đức Anh nói: “Anh là con người xuất chúng, còn trẻ nhường này mà đã có một hiệu buôn Tây của riêng mình, đương nhiên anh sẽ thích Hán Khẩu. Anh nói nơi đây thú vị cũng chỉ vì nó giúp anh đạt được mọi thứ anh muốn mà thôi.” Cậu ta lật tới trang cuối của tập tài liệu, xem kỹ một lát rồi ngẩng đầu, nói, “Ổn rồi. Cảm ơn anh.”

“Vậy thì chúc mừng cậu. Cậu chuẩn bị trở thành chủ nhân của xưởng bông rồi… Không phải cậu cũng đã có được thứ mình muốn rồi sao?”

“Nhờ phúc của anh, em biết ơn còn không hết.”

Lúc nói khuôn miệng vẫn nở nụ cười, nhưng nghe lại như đang nghiến răng nghiến lợi.

“Nghe nói vì giúp em mà anh đã đắc tội với rất nhiều người, em không có gì để báo đáp anh, nếu anh đồng ý nhận cổ phần của xưởng bông…”

Ngân Xuyên nhún vai: “Tôi không nghĩ cậu thật sự bằng lòng cho tôi cổ phần.”

“Anh sai rồi, thật ra em đã không còn muốn có xưởng bông này cho lắm.”

Ngân Xuyên nở nụ cười dửng dưng: “Tại sao? Cậu còn sợ tôi báo thù ư? Cậu không cần để bụng chuyện trước kia nữa, với tôi nỗi đau xác thịt chẳng đáng là gì, hơn nữa… tôi thật sự có lỗi với cậu, cậu có oán hận tôi cũng là lẽ đương nhiên.”

Đức Anh cười khà khà.

Ngân Xuyên chân thành nói: “Tôi biết cậu muốn có sự nghiệp của riêng mình, tôi cũng bằng lòng giúp cậu toại nguyện. Tôi đoạt xưởng bông đó hoàn toàn là vì muốn giúp đỡ cậu, những chuyện còn lại tôi tuyệt đối không nhúng tay vào. Nhưng tôi muốn nhắc cậu chuyện này.”

“Anh nói đi.”

“Một xưởng bông bé nhỏ giá trị mười thỏi vàng sẽ không có triển vọng đâu, tôi lập cho cậu một danh sách, trong đó là các tiền bối đức cao vọng trọng đang có tiền bạc dư dả, cậu nên thành lập ban hội đồng quản trị cho xưởng bông, để những tiền bối này đầu tư cho cậu, mở rộng quy mô xưởng, như vậy mới có thể tính kế lâu dài.”

“Vậy sao? Vậy em muốn hỏi anh một câu, tại sao lại giúp em?”

“Tôi là người làm ăn, tôi sẽ không giúp ai không công. Trước đó xưởng bông của cậu phải mua lượng máy xử lý bông trị giá hai mươi nghìn thỏi vàng và ba trăm chiếc máy xử lý sợi giá bốn trăm nghìn đồng của tôi. Để giảm áp lực cho cậu, khoản tiền này có thể thanh toán dần trong vòng năm năm.”

Đức Anh ngơ ngác rồi lại chậm rãi nở một nụ cười ẩn ý: “Đây mới chính là Trịnh Ngân Xuyên mà tôi biết, thật ra cổ phần xưởng bông với anh có cũng được mà không có cũng chẳng sao, thứ anh thật sự mong muốn là quyền khống chế tôi, khiến tôi không thể rời anh ra, cũng như người nhà họ Phan không thể rời khỏi anh vậy.”

Ngân Xuyên thờ ơ: “Tôi không có ý gì khác, chỉ mong cậu có thể lưu lại Hán Khẩu, có một sự nghiệp thật vững chắc.”

“Sự nghiệp của tôi vững chắc hay không thì liên quan gì đến anh?”

Ngân Xuyên không nói thêm lời thừa, anh bước tới trước bàn làm việc, mở ngăn kéo rút một tập tài liệu khác ra, vứt mạnh xuống bàn: “Đây là hợp đồng mua máy xử lý bông và máy xử lý vải, cậu có thể từ chối, dù sao nếu sau này cậu có ngã đau thì cũng có người tới cầu xin tôi giúp cậu.”

Đức Anh siết chặt tay, gân xanh nổi chằng chịt, cậu ta nhìn Ngân Xuyên chằm chằm, gằn giọng: “Vậy thì, hẳn anh cũng biết rất rõ không phải tôi không có cách khiến người đó hận anh suốt đời đâu.”

Căn phòng chợt chìm vào im lặng trong phút chốc, đó là sự im lặng sắc bén, đầy mùi thuốc súng. Ngân Xuyên chậm rãi ngước mắt.

Đức Anh phe phẩy bản hợp đồng: “Tôi ký hợp đồng này, tôi có thể mua lô máy móc đó, nhưng xin anh hãy nhớ lời tôi nói ban nãy, đừng có ép tôi.”

Ngân Xuyên phì cười: “Em rể à, từ nãy tới giờ tôi chỉ bàn chuyện làm ăn với cậu, cậu lại cứ liên tưởng sang những việc khác. Cậu cứ không chịu hiểu thế này thì e cuối cùng chẳng làm ăn được gì đâu.”

Tay Đức Anh không ngừng run rẩy, nhưng cậu ta vẫn cố gắng kiềm chế cơn phẫn nộ, khẽ khom mình rồi quay người bỏ đi. Ngân Xuyên ngồi bất động hồi lâu rồi chợt cầm ly trà bên tay lên, ném mạnh vào hốc tường đối diện.

Sau khi thuận lợi mua được xưởng bông Lợi Sinh, sự sầu não và kiềm nén Đức Anh tích tụ lâu ngày cũng dần tan biến nhờ sự nghiệp khởi sắc. Đến Cảnh Ninh cũng phát hiện ánh hào quang trong mắt cậu ta vào những ngày tân hôn cũng không rực rỡ được như bây giờ.

Việc kinh doanh vừa được bàn giao, Đức Anh đã vội vã lợi dụng quan hệ với hiệu buôn Tây Thịnh Xương để nhận lấy một đơn đặt hàng lớn xuất khẩu sang Mỹ, nhưng việc tiêu thụ tại Trung Quốc lại rất khó khăn. Sau năm 1931, người Nhật Bản thừa lúc sản lượng cây bông vải Hồ Bắc giảm đột ngột để thúc đẩy bán phá giá một cách trắng trợn, khiến giá thị trường của sợi bông giảm mạnh. Xưởng bông vốn Hoa bị hủy hoại bởi giá bán rẻ mạt, để chiến đấu trực diện với công xưởng vốn Nhật, Đức Anh quyết định thành lập điểm tiêu thụ tại Thường Đức, Trùng Khánh. Do nhà xưởng còn đang trong giai đoạn chuyển giao, hội đồng quản trị vừa mới thành lập nên phân chia cổ quyền cùng lợi ích vẫn tồn tại nhiều tranh cãi, cậu ta chỉ đành bận rộn chạy quanh hiệu buôn Tây và xưởng bông, có lúc làm việc tới tận nửa đêm mới về nhà. Nhưng dù có về muộn tới mức nào cậu ta cũng sẽ tới phòng em bé để ngắm con gái. Có lần Cảnh Ninh nửa đêm thức dậy cho con bú, thấy cậu ta đang nằm nhoài ra ngủ trên thành chiếc giường nhỏ, phát ra tiếng ngáy khe khẽ, tay còn đang đặt trên người đứa bé. Nhìn hai gương mặt một lớn một nhỏ đang say ngủ, Cảnh Ninh cũng không khỏi rung động.

Trong thực tế, chữ “nhà” thực chất chỉ là cuộc sống thường nhật. Từ một khái niệm mơ hồ lúc mới đầu, thậm chí là sự nhục nhã thất bại không sao diễn tả được thành lời, ngày tháng qua đi, đến lúc này nó mới hóa thành một tia hy vọng.

Dù đã có ngoại trang độc lập nhưng nghề chính quản lý hiệu buôn Tây vẫn liên quan tới giao dịch, Đức Anh phải có một nơi làm việc tiện trao đổi công chuyện ở trung tâm thành phố Hán Khẩu, đây cũng là văn phòng làm việc để giữ thể diện cho cậu ta. Cảnh Ninh quyết định giúp chồng mình tìm một căn nhà phù hợp tại tô giới, chuyện này không cần cô đích thân ra tay, dù sao cô cũng là con nhà mại bản nức tiếng, hỏi han thân thích hay bạn bè là sẽ có đủ tin tức, chỉ tiếc những căn nhà nọ thường quá đắt đỏ, hoặc có vị trí không đẹp, Đức Anh đưa người đi xem mấy chỗ nhưng đều chưa ưng ý lắm.

Tuy vậy, Đức Anh vẫn có vẻ rất thoải mái, cậu ta dịu dàng an ủi cô: “Không phải sốt ruột đâu, dù sao giờ còn nhiều chuyện vặt chưa xử lý, mấy hôm nay anh còn phải tới Trùng Khánh một chuyến, cứ dùng tạm phòng làm việc ở xưởng đã.”

Cảnh Ninh cau mày, nói: “Trên thương trường, mặt mũi của dân kinh doanh vô cùng quan trọng, văn phòng là trang phục, là đạo cụ của anh, không thể tạm bợ được.”

Đức Anh nắm lấy tay cô: “Ninh Ninh, anh biết mà, em đừng lo lắng nữa.”

Cảnh Ninh thấy dường như cậu ta vẫn không để tâm, cô không nén nổi, nói: “Anh phải nghĩ cho kỹ, người như cha hoặc anh cả em dù kiếm được nhiều tiền nhưng ngày ngày phải bày mưu tính kế với người khác, sống khổ sở lắm. Anh hà tất phải học theo họ? Thật ra em thấy anh chỉ cần yên tâm lo liệu công xưởng, hoặc là an phận làm quản lý, nếu muốn chiếm lợi từ cả hai phía ắt sẽ được cái nọ mất cái kia, anh xem anh mệt tới mức gầy rộc cả…”

Cô còn chưa nói xong đã thấy lòng bàn tay Đức Anh lạnh ngắt như băng, ngẩng đầu lên, mắt cậu ta còn lạnh lẽo hơn.

“Em…” Cô muốn nói rồi lại thôi, “Đức Anh, em thật lòng nghĩ cho anh mà.”

Đức Anh buông tay cô, quay mặt đi, trầm lặng hồi lâu mới nói: “Anh đi xem Tiểu Quai thế nào.”

Cậu ta vào phòng em bé, chẳng mấy chốc đã lại nghe thấy tiếng ê a của trẻ con, sau đó là âm thanh bước chân đi xuống nhà, cậu ta bế Tiểu Quai ra vườn hoa. Cảnh Ninh ngồi đơn độc một lát, đầu óc cô trống rỗng.

Cuối thu, thời tiết thanh mát, Đức Anh trải tấm đệm lót lên bãi cỏ trong vườn hoa rồi đặt Tiểu Quai xuống. Tiểu Quai mặc áo lót màu vàng tơ, đội một chiếc mũ nhỏ, bé phấn chấn bò trên đệm, cứ chốc chốc lại vươn tay lần sờ những bông bồ công anh bên cạnh, chuỗi vòng ngọc nhiều màu kêu tinh tang, khi những cánh bồ công anh bị gió thổi bay tứ phía, cặp mắt đen láy của bé lại tròn xoe, kinh ngạc ngắm nhìn, không biết nên phản ứng ra sao.

Đức Anh nở nụ cười, đôi mắt trong veo không vương bụi trần của đứa bé như mang một thứ sức mạnh vỗ về trấn an người ta.

Tiểu Quai nghiêng đầu ngơ ngác, rồi lại chợt vui vẻ vung tay khua khoắng, bé vừa nhìn thấy mẹ. Cảnh Ninh tiến lại, tay cầm chai nước hoa, mỉm cười nói: “Dù trời mát nhưng vẫn có côn trùng nhỏ, đừng để nó cắn cục vàng của chúng ta.”

Đức Anh cầm chai nước hoa, rót một ít ra tay rồi nhẹ nhàng xoa lên cùi nhỏ như ngó sen của Tiểu Quai: “Da cục vàng đẹp quá, giống như hoa hồng vậy.”

Cảnh Ninh nằm xuống, nhẹ nhàng bế con gái lên, kéo bé lại trước mình, để đôi chân nhỏ mềm mại dẫm lên người mình. Đứa bé nhỏ xíu mềm mại là thế, đứng cũng không vững, cứ ngã xuống trước ngực cô suốt, Cảnh Ninh bật cười.

Đức Anh cụp mắt nhìn cô, đôi mắt cậu ta ánh lên cả tình yêu và nỗi đau khổ.

“Khi nào thì anh tới Trùng Khánh?” Cảnh Ninh khẽ hỏi.

“Đầu tháng sau, anh muốn nhân hiện tại hiệu buôn Tây vẫn chưa nhiều việc lắm để quyết định điểm tiêu thụ cho sớm, như vậy cũng đỡ tốn công hơn.”

“Vậy chắc em cũng nên tiếp tục nghe ngóng tin tức bất động sản, anh cứ lo chuyện của anh, em cũng tìm chút việc để làm.”

Đức Anh khẽ thở than: “Ninh Ninh, anh đúng là rất cứng đầu.”

Cảnh Ninh khẽ vỗ bờ vai bé nhỏ của con gái: “Tiểu Quai, Tiểu Quai à, đợi cha có văn phòng mới mẹ sẽ bế Tiểu Quai đi xem cha làm việc nhé, có được không?”

“A ha!” Tiểu Quai vui vẻ reo lên, bàn chân bé nhỏ giẫm xuống nhưng lại loạng choạng suýt đá vào miệng mẹ, Đức Anh vội vươn tay bé bé lên.

Đêm đó, Cảnh Ninh đột nhiên giật mình tỉnh giấc, tay Đức Anh lần vào lớp váy ngủ lụa crepe de chine trắng muốt của cô, men theo đôi chân cô, cô rùng mình theo bản năng, nhưng lần này Đức Anh không từ bỏ như trước, trái lại, cậu ta đè lên người cô, siết chặt lấy cô.

Cậu ta hôn cô, vụng về nhưng cương quyết, miệng cậu ta có mùi thuốc lá rất hắc. Cậu ta không hề ngủ, còn lén đi hút thuốc. Cô không biết cậu ta bắt đầu biết hút thuốc từ bao giờ. Sau phút sợ hãi ngắn ngủi, cô từ bỏ việc giãy giụa, giữ im lặng, chỉ cố gắng thuận theo, cậu ta thở gấp, gọi tên cô, lúng búng bày tỏ tình yêu và nỗi tương tư dành cho cô, đây không phải lần đầu tiên, ánh trăng phác họa cái bóng đang nhấp nhô phập phồng, không phân biệt được ai với ai, nhưng cậu ta chưa từng thành công.

Lần này cũng vậy.

Nếu đã định trước là sẽ giá lạnh như băng, tại sao lần nào đến đêm lại gần cô cũng sẽ nóng bừng như lửa đốt? Nếu đã định trước là sẽ nuốt cay đắng vào lòng, tại sao cứ để cậu ta nếm được ảo giác ngọt ngào? Đức Anh buông Cảnh Ninh, thất bại trở mình, đưa lưng về phía cô, cô nhẹ nhàng đặt tay lên vai cậu ta, mong có thể an ủi, nhưng lại bị cậu ta bực bội gạt đi, “cốp” một tiếng, tay cô va vào tủ đầu giường.

Nghe tiếng cô kêu đau, Đức Anh lập tức có cảm giác như đang bị tạt một gáo nước lạnh vào đầu, cậu ta chợt bừng tỉnh, vội vã quay người lại: “Anh sai rồi, anh xin lỗi, trời ơi, sao anh lại làm vậy với em.”

Cảnh Ninh nhịn đau, gượng cười: “Em không sao.”

“Chắc em đau lắm, để anh xem,” cậu ta vươn người định bật đèn bàn, cô lại ấn tay cậu ta lại: “Bỏ đi, đi ngủ thôi.”

Đức Anh ngơ ngác thu tay lại, rồi dừng lại giữa không trung như không biết mình nên đặt tay ở đâu, sau đó, cậu ta chợt tát cho mình một bạt tai.

Cảnh Ninh ngồi phắt dậy, cô vô cùng sợ hãi. Thấy cô nhìn, cậu ta lại tát cho mình thêm một cái, lần này còn mạnh hơn.

Cảnh Ninh co mình ra sau, tuyệt vọng, thất vọng, đau khổ và bất lực, những cảm xúc phức tạp này đan xen quấn quýt, chèn ép cô tới độ chỉ muốn bật khóc, nhưng cô gắng gượng kiềm chế, run rẩy thốt: “Anh đừng như vậy.”

“Giờ anh có thể bật đèn nhìn tay em được chưa?” Đức Anh bình tĩnh hỏi.

“Anh bật đi.” Môi cô run rẩy, “Anh muốn làm gì cũng được.”

Đức Anh bật đèn, nhìn kỹ cổ tay cô, mu bàn tay mềm mại trắng nõn đã bị xước, cậu ta chán nản nói:

“Anh nói một đằng làm một nẻo, anh đã bảo sẽ đối xử tốt với em, vậy mà cuối cùng lại làm em bị thương.”

Cảnh Ninh hé môi nhưng không thể phát ra âm thanh, cô lo bất cứ tiếng động nào, bất cứ cử chỉ nào của mình cũng sẽ kích động cậu ta. Hơi lạnh buổi đêm men theo vách tường, mỗi lúc một giá buốt, một con thiêu thân bay vòng quanh chiếc đèn bàn. Cô ngồi đó, đầu bù tóc rối, trông thật chật vật, cô biết rõ cuộc hôn nhân này còn gượng gạo, còn thảm hại hơn cả bộ dạng của cô lúc này.

Đức Anh ngơ ngác nhìn vết thương trên tay cô, cậu ta không nói năng gì, đến tận khi tiếng khóc của Tiểu Quai vọng lại từ căn phòng trẻ con cách vách cậu ta mới sực tỉnh. Thấy Cảnh Ninh định xuống giường, cậu ta ngăn lại: “Em đừng đi, để anh.” Cậu ta vào phòng tắm chỉnh trang lại thật nhanh rồi ra ngoài bế con vào. Cảnh Ninh cho con bú sữa, cậu ta tự giác tránh đi, ra đứng trước cửa sổ, bên ngoài cửa là màn đêm vô tận, nỗi cô độc  chói lòa như ánh trăng, gió thổi lá cây xào xạc, hai thế giới được kết nối bởi ánh trăng cứ thoắt sáng thoắt tối, như đang bể nát, tan tành.

Cảnh Ninh nhìn bóng lưng cậu ta, nói: “Anh lấy cho em một chiếc khăn sạch trong giỏ trúc.”

Đức Anh đi lấy một chiếc khăn nhỏ, những chiếc khăn này là của cậu ta mua cho con. Chất vải rất mềm mại, đều có màu hồng nhạt. Cậu ta mua hai hộp khăn lớn như vậy để lau mặt, lau nước miếng cho Tiểu Quai. Ai cũng có thể thấy được tình yêu gần như cố chấp của cậu ta dành cho con gái, cậu ta cũng trở nên rất sạch sẽ, luôn đích thân giám sát người làm đun sôi bình sữa của Tiểu Quai lên ba lần, yếm dãi vừa ướt là sẽ thay cái mới ngay.

Cảnh Ninh sửa sang lại quần áo, vươn tay nhận lấy khăn. Đức Anh không đưa cô, cậu ta cầm một góc khăn cẩn thận lau khuôn miệng và chiếc mũi mềm mại của Tiểu Quai, Tiểu Quai hài lòng ợ một tiếng, đôi mắt đen nhìn cậu ta. Đức Anh cảm thấy lòng mình như được sưởi ấm bởi ánh dương. Đứa bé này thật lòng yêu cậu ta, ỷ lại cậu ta. Chỉ khi đối mặt với đứa bé ấy cậu ta mới quên mất mình thất bại tới mức nào.

Cậu ta đón lấy đứa trẻ, ôm bé trong lòng mình. Ánh mắt Đức Anh trở nên ấm áp, cậu ta khẽ đung đưa tay, đến khi bé thoải mái nhắm mắt lại.

“Đi ngủ thôi.” Cậu ta quay đầu, dịu dàng nói.

Cảnh Ninh chậm rãi vươn tay, ôm eo Đức Anh: “Em sẽ sống thật bình yên với anh, em sẽ làm vậy, tin em đi.”

“Nhưng anh không cần em xót thương anh, anh đã không còn là Từ Đức Anh của ngày nhỏ nữa rồi,” cậu ta nhắm mắt, đau khổ nói, “anh có lòng tự trọng, có hoài bão của mình, Ninh Ninh, anh rất yêu em, anh hy vọng em cũng yêu anh như vậy, như một người vợ yêu chồng của mình.”

Yêu là gì? Cậu ta nói yêu cô, nhưng cô chỉ thầm tự hỏi mình câu này. Cô từng cho rằng cô đang rất gần với chữ yêu, gần tới mức không có khoảng cách, đến tận khi cơ thể cô chằng chịt vết thương, cô mới bắt đầu nghi ngờ, rốt cuộc tình yêu có ý nghĩa gì. Người đàn ông bên cạnh là chồng cô, là cha của con cô, cô không thể bài xích cậu ta, nhưng mỗi đêm khi cậu ta bước vào phòng, cô đều không thể kìm lòng mà nghĩ: Cậu ta lại tới rồi, liệu cậu ta có chạm vào mình không, liệu cậu ta có lại đau khổ như vậy không. Sự ghét bỏ và sợ hãi, phiền não và đồng cảm như một bầy chim liên tục vỗ cánh, giày vò cô hằng đêm. Hôn nhân khiến hai người họ phải ngủ bên nhau, nhưng rốt cuộc vị trí của tình yêu ở đâu?

Cô không biết mình nên trả lời cậu ta ra sao, cô tựa trán lên lưng cậu ta, chìm sâu vào tĩnh lặng.

- -----oOo------
 
Quyển 2 - Chương 82


Mùng mười tháng Tám, Đồng Xuân Giang tổ chức tiệc sinh nhật cho con trai tại tư gia, khách mời không có người trong bang hội, đa phần là bè bạn cũ giới kinh doanh đi cùng với gia quyến. Sáng sớm hôm ấy, mây nặng một màu khói giăng kín trời, tiết thu nay đã rõ mồn một. Ngân Xuyên gặp Cảnh Ninh trong đoàn khách khứa, lúc ấy cô đang ngồi cùng bà Đồng.

Gặp cô cũng không phải chuyện lạ, chỉ là mỗi lần thấy nhau, cô luôn tránh né ánh mắt anh trong một khoảnh khắc, như thể đang lẩn tránh một mối phiền muộn khổng lồ.

Đồng Xuân Giang cho dựng sân khấu kịch ngoài sân, để khách khứa ngồi uống trà xem kịch. Ngân Xuyên gửi Đồng Xuân Giang quà mừng, phong bao thì tạm giữ để lát giao cho bà Đồng. Nói chuyện với Đồng Xuân Giang được một lúc, anh tiến về phía Cảnh Ninh và bà Đồng.

Cảnh Ninh cười, nói: “Anh cả cũng tới rồi à, em còn chưa cảm ơn anh đã giúp Đức Anh một việc lớn, hôm nào anh về bọn em sẽ mời anh ăn cơm!”

Anh cũng cười, nhưng cặp mắt lạnh băng: “Nhắc tới chuyện này em cũng phải tự kiểm điểm đấy, làm mẹ rồi mà còn chưa mời anh được bữa nào.”

Bà Đồng nhạy cảm phát giác được sự xa lạ và gương gạo khó diễn tả thành lời giữa đôi “anh em” này, cô muốn nói gì đó nhưng cuối cùng vẫn im lặng, đẩy cậu con trai Tiểu Hỉ ra chào Ngân Xuyên. Ngân Xuyên muốn đi, nhưng bàn chân lại như cắm rễ dưới đất, không sao nhúc nhích nổi. Cảnh Ninh đang bế con, lúc này cô mới đổi tư thế ngồi. Tiểu Quai buộc một chiếc yếm dãi xanh nhạt thêu vịt vàng và lá sen xanh trước cổ, bé nhìn Ngân Xuyên tủm tỉm cười thật ngây thơ, rồi huơ bàn tay bé nhỏ với anh, những viên ngọc hình trái cây trên chiếc vòng lay động, phát ra âm thanh tinh tang. Thật ra gương mặt cô bé giống Cảnh Ninh ngày nhỏ y như đúc, da trắng muốt như tuyết, lông mày mảnh nhạt như khói, cái xinh xắn hết sức hoạt bát, cánh môi phớt hồng như màu trái mơ, cặp mắt sáng ngời đen láy tựa một chú nòng nọc con, khóe môi hơi trễ xuống, dù đã trưởng thành như vẫn mang thần thái ngây thơ vô tội.

Nỗi chua xót từ tim lan lên sống mũi, Ngân Xuyên ngoảnh mặt đi, vẫy chiếc phong bao trước mặt Tiểu Hỉ, anh mỉm cười: “Tiểu thọ tinh, chú tặng cháu này.”

Tiểu Hỉ lắc đầu: “Không thích, cháu không thèm đâu.”

Ngân Xuyên bèn móc một đồng bạc ra đùa thằng bé: “Vậy chú đưa mẹ phong bao rồi cho cháu đồng tiền nhé?”

Đôi mắt tròn xoe của Tiểu Hỉ sáng bừng: “Vâng vâng, cháu muốn đồng tiền!”

Thằng bé từng nghịch tiền đồng ngươi lớn cho, chỉ có vài xu vài hào mà thôi. Trong lòng đứa trẻ ngây thơ, một đồng đại dương đã là một khoản tiền khổng lồ rồi, nó hấp dẫn hơn nhiều so với phong bao đỏ rực. Ngân Xuyên đặt đồng bạc vào tay Tiểu Hỉ rồi lại trao mợ Đồng phong bao. Bà Đồng cười, cất tiếng cảm ơn rồi xoa đầu Tiểu Hỉ: “Giờ con phát tài rồi đấy, con định làm gì với đồng tiền này?”

Tiểu Hỉ thật thà: “Con, con muốn mua hoa cho mẹ!”

Cảnh Ninh phi cười, cô đưa mắt nhìn Ngân Xuyên, anh chắp tay đứng đó, thờ ơ nhìn về phía sân khấu kịch.

Anh đã sớm không còn lại con người ôn hòa dễ gần trong ký ức cô rồi, xung quanh náo nhiệt là thế, nhưng anh vẫn im lặng hờ hững nhường này.

Nụ cười trên khóe môi cô dần đóng băng, lòng cô đau đớn.

Ngồi được một lát, bà Đồng dắt cô vào phòng Tiểu Hỉ để cho con bú. Sắp mở tiệc, cô để Tiểu Quai trong phòng, nhờ bà vú họ Châu theo từ nhà họ Từ chăm sóc con. Lát sau Tiểu Hỉ cũng được người làm dắt vào thay quần áo, bà Đồng chỉnh lại cổ áo cho con trai, ngẩng đầu lên thì thấy có người tiến từ ngoài cửa vào, cô biến sắc.

Cảnh Ninh bước khỏi phòng, thấy bà Đồng đứng sững người, mặt trắng bệch, bờ môi run rẩy, ánh mắt chất chứa muôn nghìn cảm xúc phức tạp. Cô lấy làm lạ, hỏi: “Bà Đồng, sao vậy?”

Bà Đồng sực tỉnh, dụi mắt lắc đầu: “Không sao, bụi bay vào mắt thôi.”

Cảnh Ninh biết bà Đồng không muốn nói, bèn cười: “Sắp mở tiệc rồi, mọi người đang đợi tiểu thọ tinh đấy, chúng ta đi thôi.”

Bà Đồng ngơ ngác gật đầu rồi lại chợt cất tiếng: “Mợ Từ, hay cô dắt Hỉ Hỉ ra trước đi, tôi đi vệ sinh, lát sẽ vào ngay.”

Cảnh Ninh đồng ý, dắt Tiểu Hỉ vào phòng tiệc. Nơi này cách chái nhà trong hơi xa, phải băng qua một hành lang dài, ra tới chỗ ngoặt hành lang, thấy có mấy người đàn ông vạm vỡ như đám côn đồ đang đứng bên cổng vòm, những người này hông giắt súng, gương mặt rất dữ dằn. Vì biết thân phận của Đồng Xuân Giang nên Cảnh Ninh không mấy kinh ngạc, chỉ thấy hơi lạ. Đang đi thì một người đàn ông phía đối diện vội bước lại, hỏi một người khác rằng: “Có thấy A Kỳ không? Anh Ngũ tìm anh ấy suốt.”

“Không, sáng nay có lô sợi gai cần chuyển tới Trường Sa, anh ấy bảo phải ra bến tàu xem hàng.”

“Thế sao giờ vẫn chưa về?” Giọng người hỏi rất sốt sắng, người nọ quay mình vội vàng bước đi, lúc ngang qua Cảnh Ninh và Tiểu Hỉ, anh ta khom mình chào họ rồi lại vội vã bỏ đi.

Cảnh Ninh dắt Tiểu Hỉ tới chỗ Đồng Xuân Giang rồi ngồi xuống bàn cho nữ quyến. Ngân Xuyên ngồi cùng bàn với Đồng Xuân Giang, anh đang bóc mấy hạt lạc, trước sau không ngẩng đầu dù chỉ một lần.

Bà Đồng trở lại ngay trước khi buổi tiệc chính thức bắt đầu. Nét mặt lành lạnh khác hẳn so với mọi ngày. Cô ngồi xuống ghế trống cạnh Cảnh Ninh, uống một ngụm trà lớn rồi quay đầu cười với Cảnh Ninh đang nhìn mình.

Tiếng trống, tiếng nhạc vang lên, pháo nổ rộn ràng, Đồng Xuân Giang mỉm cười đứng dậy nâng ly rượu, lớn tiếng nói với mọi người: “Các vị có thể dành thời gian tham dự sinh nhật con trai tôi, tôi đây thực lòng…”

Giọng ông chợt bị cắt ngang bởi tiếng súng đinh tai, ban đầu mọi người cứ ngỡ đó là tiếng pháo còn chưa nổ hết, nào ngờ lại nghe thấy tiếng thét thảm thiết, một thương nhân trung niên ngồi ngoài cùng phòng tiệc ngã xuống đất, đầu người này trúng đạn, máu tươi và dịch não văng vào mặt người bên cạnh.

Đám phụ nữ ôm mặt thét toáng lên.

Đồng Xuân Giang biến sắc, ông gào to: “Nằm xuống! Mau nằm xuống!” Ông kéo Tiểu Hỉ vào lòng, đưa lưng về phía cửa, dùng thân thể bảo vệ con trai rồi vội vã đẩy con xuống dưới bàn tiệc, phần mình cũng lập tức quỳ xuống, cùng lúc đó, đã có đạn bay từ ngoài vào, đoàng một tiếng bắn rơi bàn thờ thần nằm phía bắc ông.

Lưu Ngũ lao vào, vừa nổ súng bắn ra ngoài cửa vừa ném cho Đồng Xuân Giang một khẩu súng. Đồng Xuân Giang hơi nhỏm dậy, vươn tay tiếp súng. Có bốn, năm người mang súng đang lao vào, Đồng Xuân Giang bóp cò, bắn trúng ngực một người, người nọ ngã về phía trước, xô đổ chậu Thanh Hoa ngoài cửa, một tiếng xoảng vang lên, chậu hoa đã vỡ tan dưới đất.

Cả phòng tiệc lâm vào hỗn loạn.

Mợ Đồng kéo Cảnh Ninh thật mạnh, hai người ngã xuống đất, họ bò vào sâu trong phòng theo bản năng, nhưng hầu hết khách khứa đang kinh hoàng tủa ra, Cảnh Ninh bị người ta giẫm vào tay, xương ngón tay đau thấu tim, thấy lại có người chuẩn bị đạp vào mình, cô không thể lùi lại, cũng chẳng bò về phía trước để tránh nổi, chỉ đành vươn hai tay ôm đầu, cố gắng hạ thấp người xuống, áp sát bờ trán xuống mặt đất lạnh băng.

Không có cú đạp nào cả, Cảnh Ninh thoáng giương mắt, tầm nhìn lại bị che khuất, không chỉ là tầm nhìn, cả cơ thể cô đều đã được bao bọc.

Gương mặt Ngân Xuyên trắng bệch, anh mím chặt môi, phủ phục trên người Cảnh Ninh, dùng cơ thể mình bảo vệ cô.

Nhịp tim gấp rút của anh vang bên tai, cơ thể cô run rẩy, chưa khi nào cô sợ hãi như bây giờ, cũng chưa bao giờ cảm thấy an toàn như lúc này. Cô tìm kiếm bàn tay Ngân Xuyên đang chống bên vai cô, nắm chặt lấy nó, lúc này đầu óc cô trống rỗng, cô chỉ muốn nắm chặt lấy tay anh.

Có người giẫm mạnh vào lưng Ngân Xuyên, hoặc đạp vào đầu anh, mỗi lần như vậy cơ thể anh lại run rẩy vì đau đớn, nhưng anh vẫn vững vàng bảo vệ cô.

“Anh cả!” Cô run rẩy kêu lên.

“Bé Hạt Dẻ, đừng sợ.” Ngân Xuyên thở gấp, nhưng giọng anh vô cùng bình tĩnh, hệt hồi còn nhỏ khi cô sợ hãi vì nhìn thấy sâu róm, anh lại vỗ về trấn an cô, “Đợi lát nữa tiếng súng yếu dần, chúng ta sẽ chạy vào phòng trong thật nhanh.”

Cảnh Ninh ngơ ngác đáp vâng.

Người đàn ông mặt mũi tái nhợt đứng im, y nới áo khoác ngoài, thở hổn hển, góc tã gấm xanh đậm được y dùng hai cùi chỏ kẹp chặt trong quần áo cũng lộ ra. Y xốc nó, bế trên tay, có lẽ do không quen nên y phải thay đổi tư thế tới mấy lần.

Khi đại sảnh lâm vào hỗn loạn khiến đám người lao vào buồng trong, y đã thành thạo phân biệt phương hướng, tìm được lối cửa ra. Vốn dĩ nơi đó có người canh gác nhưng sau khi nghe tiếng súng nổ bên ngoài, họ đã chạy ra đại sảnh chi viện. Vào khoảnh khắc tiếng súng nổ quyết liệt nhất, y nắm bắt được một cơ hội quý giá. Y chạy qua lối cửa sau, men theo con đường nhỏ chỉ rộng chừng một mét để lao vào rừng cây chếch mé phải. Có mấy người chạy xa xa sau lưng y, họ là khách dự tiệc đang thất kinh, nhưng họ không chạy cùng hướng với y mà chỉ cố gắng lao về phía làn xe rộng rãi bên tay trái.

Trong tiếng ô tô nổ máy và lác đác âm thanh đạn bắn, y, Tống Duẫn Đoan, đã băng qua khu rừng, tìm được xe hơi của mình tại nơi cách nhà họ Đồng chưa tới hai trăm mét.

Hơn ba năm trước, y từng trú tại căn nhà này một thời gian, đây là nơi đã quá đỗi quen thuộc với y. Y rất có cảm tình với nơi đây, dẫu sao nó cũng từng là chốn thu nhận cưu mang y. Nhưng hôm nay cảm tình đã cạn, thứ dục vọng muốn hủy diệt tất cả, hủy diệt luôn chính bản thân mình nhấn chìm y.

Y đặt bọc tã lót xuống ghế ngồi bên cạnh. Chắc hẳn đây là một đứa bé gái, nhìn áo quần và đường nét gương mặt nó là biết. Giờ phút này đây, đứa trẻ nhỏ xíu hệt như một ngọn cỏ non yếu ớt, gương mặt xinh xắn tái nhợt không còn chút huyết sắc, đôi mắt con bé nhắm nghiền, hàng mi đen dài ướt nhẹp rũ xuống mí mắt, chắc chắn nó từng gào khóc, nhưng lại không thể phát ra âm thanh.

Tống Duẫn Đoan đặt tay sát gần chiếc mũi trắng muốt ấy, hồi lâu y mới ngạc nhiên: “Nó vẫn còn sống.” Khi ấy sợ bé khóc nên y đã thật sự định khiến bé ngạt thở tới chết.

Xe nổ máy. Y hạ kính cửa sổ xuống, mưa phùn và gió lạnh ào tới, tạt vào mặt, vào vai y, trời mưa to rồi. Y đang chờ mong thứ khoái cảm chuẩn bị dâng lên nhanh chóng sau khi gây tội ác, y khao khát được nếm thử hương vị của nó. Y vừa lái xe vừa chờ đợi, rồi cơn phẫn uất cùng tủi thân chợt cuộn trào mãnh liệt.

Tống Duẫn Đoan siết nắm đấm, đấm mạnh vào vô lăng ướt rượt.

Hôm nay y mang quà tới dự tiệc, vì trước kia từng trú tại nhà họ Đồng nên y đến sớm hơn phần đông khách khứa. Sau khi chào hỏi Đồng Xuân Giang, y rảnh rỗi ra dạo bộ ngoài vườn hoa, ôn lại chuyện xưa. Đồng Xuân Giang để một cậu người làm đi theo sau y, giữ khoảng cách không xa không gần. Ban đầu y còn thấy là lạ: “Thế này thì khách khí quá nhỉ, dẫu sao mình cũng từng sống ở đây, chẳng lẽ lại sợ mình lạc?”

Mưa không nặng hạt, có rơi cũng đã được bóng cây rậm rạp cản bớt, mặt đường đá cuội chỉ hơi ẩm ướt. Vườn hoa rất rộng, rộng gấp đôi so với trước kia, thì ra họ đã mua luôn căn nhà bên cạnh rồi đập thông thành một. Khách khứa người thì đang uống trà, người lại đang chơi bài, Tống Duẫn Đoan chọn con đường thưa khách nhất để đi thăm khu vườn mới mua, sau đó mới vòng lại, trên đường đi y bắt gặp bà vú già đuổi theo cậu bé đang nghịch ngợm chạy khắp nơi, bà vú cứ kêu lên cậu ơi, cậu ơi, đứa bé mặc bộ áo dài đen, cổ cài bông hoa đỏ lớn bằng nhung. Cậu bé chạy rất nhanh, nó dừng lại bên chân y trong tích tắc, nở nụ cười ngây ngô rồi lại lao đi như một làn khói.

Một thứ cảm giác quái lạ ùa tới khiến Tống Duẫn Đoan chấn động, cặp mắt trong veo ngây thơ của đứa bé này rất giống một người phụ nữ nào đó.

“Hỉ Hỉ!”

Giọng nói trong trẻo mềm mại vang lên, một người phụ nữ bước khỏi buồng trong, đứng trên hành lang vẫy tay với cậu bé. Cậu bé hớn hở chạy tới bên cô. Người phụ nữ bế cậu bé lên thơm một cái, hai mẹ con cùng tiến về phía đại sảnh.

Ban đầu y còn không tin vào mắt mình, lưng y lạnh ngắt, như vừa nhìn thấy ma.

Không, không, cô ấy không thể là Kim Kim được. Sao cô ấy có thể là Kim Kim?

Đúng là cô ấy! Y đã chắc chắn ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cô là người phụ nữ y từng rất thích, đương nhiên cũng chỉ là thích mà thôi, còn xa mới có thể gọi là yêu được. Chẳng qua cô chỉ là một kẻ thấp kém không có địa vị trong gia tộc, là đứa con dâu nuôi từ nhỏ của gia đình chèo thuyền. Y chỉ say đắm vẻ đẹp động lòng người của cô trong phút chốc. Cô cũng từng rất si mê y, si mê tới mức rước họa vào thân, cuối cùng còn bị người trong tộc chôn sống. Kẻ chôn sống cô chính là cha y.

Vì cái chết của Kim Kim mà Tống Duẫn Đoan sa sút trong một thời gian dài, dù chuyện đã qua được ba năm nhưng Kim Kim luôn sống trong ký ức y, khiến y hễ nhớ tới là đau lòng, là tự trách. Khi gặp lại cô, trong cơn khiếp sợ, y chợt hiểu ra tất cả, y cũng chẳng còn đau lòng hay tự trách nữa.

Đến khi cô và một thiếu phụ quay trở lại buồng trong, y mới cố ý bước về phía gian phòng ấy, để cô nhìn thấy y.

“Cậu cả.”

Cuối cùng cô cũng tìm cớ để đến gặp y. Cô đứng ngoài khung cửa tò vò giả sơn, khách khí nở nụ cười với y, không hề có ý tiến gần thêm mà chỉ đứng nhìn y với khoảng cách đủ để đám hộ vệ bao quanh có thể hành động kịp thời.

Cô nói: “Cậu cả, cậu tới rồi.”

“Kim Kim,” y đứng một bên, nở nụ cười lạnh, “em không chết.”

“Em không chết.”

“Thằng chồng nhỏ của em đâu? Mẹ chồng em đâu?”

“Trường Sinh còn phải đi học, đến tối cậu ấy sẽ qua cùng mẹ.”

Y gật đầu: “Ra là vậy. Cuối cùng tôi cũng hiểu tại sao ba năm trước Đồng Xuân Giang lại đột nhiên bảo tôi chuyển đi, tìm chỗ ở khác cho tôi, tại sao ông ta không tới trấn Tống gia nữa, tại sao ông ấy không bao giờ để tôi tiếp xúc với người nhà mình. Tôi hiểu cả rồi, hóa ra tất cả đều là vì cô. Hóa ra bà Đồng chính là cô!”

“Khi ấy cậu cả suýt đã hại chết em,” cô bình tĩnh nói, đôi mắt đẹp tuyệt nhìn y không có lấy một gợn cảm xúc, “ngài Đồng là ân nhân cứu mạng em, cũng là chồng em, là cha của con em.”

“Cô sống tốt quá nhỉ,” y cười, “cô biết không? So với cô thì tôi xui xẻo lắm. Vợ tôi chết khi đang sinh con cho tôi, con cũng mất, đến giờ cha vẫn không vừa mắt tôi.”

Gương mặt cô lộ vẻ đồng cảm: “Lần này ngài Đồng mời cậu tới là vì chuyện làm ăn của cậu dạo gần đây không được thuận lợi, muốn cậu đến uống rượu giải sầu, tâm sự với bạn bè, tiện giải quyết luôn vướng mắc ba năm trước.”

Ả tiện nhân này còn dám thương hại mình. Y thầm nghiến răng. Đến cả động cơ Đồng Xuân Giang mời y tới làm khách cũng bị y bóp méo thành một kế hoạch đầy ác ý.

“Tôi chẳng có vướng mắc nào cả, chỉ gặp xui xẻo mà thôi.” Y châm chọc, “Chuyện kinh doanh dạo gần đây cũng không tới nỗi không thuận lợi, chỉ là anh bạn của ngài Đồng nhà cô bày cho tôi một vố đau, chuyện nhỏ thôi mà. Chỉ là kể ra thì khi ấy trấn Tống gia cũng đã giúp ngài Đồng nhà cô phát tài, cả trấn dốc hết sức lực giúp ông ta, giờ xem ra cũng chẳng bằng một kẻ uống với ông ta mấy ly trà là muốn gì cũng có.”

“Em là phụ nữ, không hiểu chuyện làm ăn.” Cô khom người làm lễ, “Cậu cả cứ đi dạo đi, ở Tảo Lâm Hiên có bàn ghế, điểm tâm và trà nước, em không dẫn đường nữa. Lát mở tiệc em sẽ dắt Tiểu Hỉ tới kính rượu cậu. Em xin phép đi.”

Y ngồi xuống chiếc đôn đá, nhìn về phía căn buồng mình từng ở, đầu y bắt đầu trống rỗng. Tay người làm theo sát y đứng phía xa, vẫn còn đang canh chừng y. Tống Duẫn Đoan đưa mắt nhìn xung quanh, khách khứa ngoài vườn chỉ còn lại mình y, y sực tỉnh, nói với người làm: “Cảm phiền cậu báo với ngài Đồng một tiếng, thứ lỗi cho tôi không thể uống rượu cùng ông ấy, tôi ngồi một lát rồi sẽ về bằng cổng tây.” 

Người làm suy nghĩ rồi cũng đồng ý, trở lại đại sảnh. Tống Duẫn Đoan thầm cười lạnh: “Quả nhiên lão họ Đồng đang đề phòng mình cướp vợ lão, đã thế thì sao phải mời mình tới xem họ diễn trò. Hừ, lão muốn khoe khoang sao? Có gì đáng khoe? Không có nhà họ Tống, có khi lão còn đang mò cá ở Hán Giang.”

Càng nghĩ y càng tức, nhưng lại không thể xả được cơn bực bội bất mãn trong lòng. Y đứng dậy, băng qua hàng cổng tò vò nối dài giữa những hòn non bộ, nhìn thấy bà vú cầm bình sữa bước khỏi gian buồng phía chính nam, tiến vào nhà bếp. Trước đó y từng nhìn thấy một thiếu phụ xinh đẹp bước vào căn buồng này cùng Kim Kim, thiếu phụ ấy bế một đứa bé, cười nói rất vui vẻ với Kim Kim, xem chừng đôi bên vô cùng thân thiết. Y biết thiếu phụ nọ chính là con dâu của thị trưởng Hán Khẩu Từ Chúc Linh, y đã từng nhìn thấy ảnh gia đình họ trên một tờ báo, người phụ nữ ấy chính là em gái nuôi của Trịnh Ngân Xuyên. Vì muốn giúp chồng cô ta mà Trịnh Ngân Xuyên giở trò cướp mất xưởng bông vốn thuộc về y.

Y vô thức bước đi trên hành lang, đám bảo vệ và lũ côn đồ đều nhận ra Tống Duẫn Đoan, bèn gật đầu mỉm cười với y. Y cảm thấy ánh mắt những kẻ này hiển hiện sự giễu cợt và thương hại, lại càng thêm tức giận. Bước tới lối vào đại sảnh, y đưa mắt nhìn, mọi người gần như đã an vị cả, Trịnh Ngân Xuyên ngồi ngay bên cạnh Đồng Xuân Giang, còn Kim Kim thì ngồi cùng với ả mợ Từ nọ. Tống Duẫn Đoan cảm thấy cảnh tượng trước mắt như có mối quan hệ thù hằn với y, nó đang kích động y, giễu cợt y, thương hại y, lợi dụng y.

Thù mới hận cũ đồng loạt trỗi dậy.

Y không rời đi qua cổng tây. Trái lại, y là ngươi nhìn thấy kẻ lẻn vào đại sảnh sớm nhất. Ngay khi tiếng súng đầu tiên vang lên, y đã chạy về phía sân sau trước nhất.

Y chạy vào gian buồng không có người coi sóc nọ.

Y bế đứa bé vô tội kia theo làm gì? Tất cả chỉ do y không có khả năng đem đứa bé trai kia đi thôi. Người kẻ yếu có thể báo thù thực nhất vẫn chỉ là kẻ yếu. Vào khoảnh khắc cạn kiệt lý trí, linh hồn méo mó vặn vẹo tới cực hạn, nó đã chọn cho y một phương thức báo thù tệ hại và ác độc nhất.

Y buộc phải hủy diệt tất cả. Hủy diệt một gia đình, hủy diệt cả tình cảm giữa Đồng Xuân Giang và Trịnh Ngân Xuyên.

Xe đã lăn bánh tới ranh giới Hán Khẩu, men theo thôn xóm ven sông, chẳng có mục đích, cũng không có phương hướng, chẳng ai biết liệu y sẽ đi đâu. Đồng Xuân Giang có tài giỏi hơn nữa thì chắc lúc này lão cũng không hơi đâu để tâm tới y. Đứa bé bên cạnh đã tỉnh khỏi cơn hôn mê ngắn ngủi, sau khi ho khan vài tiếng, con bé bắt đầu khóc òa lên, bàn chân nhỏ mập mạp liên tục quẫy đạp, đá bung cả tã lót, gió sông thổi vù vù, gương mặt con bé lạnh tới đỏ bừng, nước mưa tí tách rơi trên mặt bé.

Tống Duẫn Đoan sầm mặt, nôn nóng nhìn về phía trước, đứa trẻ này khóc toáng lên làm y rất phiền lòng, chỉ muốn ném nó khỏi cửa xe cho rồi. Có lẽ con bé sợ lạnh đây nhỉ. Nghĩ vậy, y vươn tay, bọc bừa tấm tã lót lại, nào ngờ hai bàn chân nhỏ cứ liên tục ngọ nguậy, tiếp tục đạp văng tã ra, thật buồn cười, khóc mà cũng khỏe thế này sao? Bàn tay đứa bé siết thành nắm đấm, liên tục vung vẩy, chuỗi hạt đỏ trên tay con bé kêu tinh tang.

“Đừng có gào lên nữa! Còn gào lên tao sẽ bóp chết mày đấy!” Y không kiềm chế được bèn thét lên. Đứa bé sợ hãi ngưng bặt tiếng, rồi sau đó lại cất tiếng khóc lớn hơn.

“Được, được lắm!”

Đến con nhóc này cũng bắt nạt y. Trong cơn giận dữ, y dừng xe, mở cửa, tóm lấy đứa bé, gần như xách ngược bé tiến về phía bờ sông, y sẽ ném nó, ném nó xuống sông! Nửa người đứa bé lộ ra ngoài, đôi tay bé nhỏ bất lực quờ quạng, Tống Duẫn Đoan đi được mấy bước thì thấy không thuận tay, y bèn nâng tay trái, ôm con bé vào lòng, đứa bé chợt thấy ấm áp hơn nhiều, bèn vội vã vùi vào lòng y, đôi mắt đen láy như chú nòng nọc nhỏ, khóe miệng trễ xuống thật đáng thương, mày cau chặt, con bé thật sự đang rất sợ, cuối cùng cũng sợ tới mức không dám khóc nữa, chỉ biết run rẩy như một chú vịt con yếu ớt, thút thít những tiếng nhỏ xíu.

Trong mưa, cây cối khói vây mịt mờ, nước và trời hòa cùng một sắc, có mấy chiếc thuyền đánh cá nhỏ đang đậu bên bờ, không thấy ngư dân đâu, Tống Duẫn Đoan bước thẳng tới bờ sông mới phát hiện có một người phụ nữ đang ngồi trên thuyền. Nghe thoang thoảng mùi thuốc. Người phụ nữ khoác áo tơi, đưa lưng về phía bờ sông, ngồi bên bếp lò nhỏ để quạt lửa, bếp lò được đặt giữa phần tiếp giáp của khoang thuyền với sàn thuyền, trên là một siêu thuốc đang bốc hơi nóng. Tống Duẫn Đoan hơi biến sắc, y đành quay người trở lại xe, lúc này đứa bé trong lòng y chợt khóc váng lên, tiếng khóc lọt vào tai người phụ nữ trên thuyền, người nọ quay đầu nhìn.

“Này! Anh gì ơi!”

Người phụ nữ gọi Tống Duẫn Đoan lại ngay lúc y đang dợm bỏ đi. Giọng người này nghe rất lạ, ra là dân vùng khác. Tống Duẫn Đoan thở phào nhẹ nhõm, y ôm đứa trẻ với động tác cứng đờ, quay sang người phụ nữ nọ. Người này thấy y tay chân luống cuống bèn buông quạt xuống, vội vàng lau nước mưa trên mặt, cầm cây sào đẩy thuyền lại gần, đến khi thuyền cập bờ, người phụ nữ mới lớn tiếng: “Đứa bé cứ khóc mãi không nín, chắc đói rồi hả?”

Tống Duẫn Đoan im lặng hồi lâu, chẳng biết nên đáp lời ra sao, thấy người phụ nữ nhìn mình với vẻ ngờ vực, y bèn gật đầu, nói: “Tôi thấy ở đây có bóng người nên qua tìm ít nước nóng cho con bé uống.”

Người phụ nữ bèn vươn tay: “Để tôi tìm tấm khăn bọc con bé, lau lại mặt cho nó, anh nhìn con bé kìa, mặt mũi toàn là nước mưa.”

Tống Duẫn Đoan nhìn người phụ nữ chằm chằm, không nói năng gì, nhưng tiếng khóc của đứa bé mỗi lúc một lớn, con bé khóc long trời lở đất, bàn tay tái nhợt run rẩy trong sợ hãi, người phụ nữ nọ thấy rất thương, Tống Duẫn Đoan lại cứ lưỡng lự không chịu quyết, biết y không yên tâm, chị bèn cười, nói: “Vậy anh cứ đợi ở đây một lát, tôi vào lấy cái khăn, gió sông ngoài này sắc như dao, con bé mà ốm thì chết.”

Tống Duẫn Đoan chợt nói: “Vậy chị bế nó vào, cho nó uống chút gì ấm ấm đi. Mẹ nó không ở đây, tôi thật sự chẳng biết chăm nó thế nào.” Nó rồi y trao đứa bé cho chị. Người phụ nữ đón lấy bé, cười: “Mấy cậu chủ mợ chủ trẻ làm sao mà biết chăm trẻ con được.”

“Nhà chị ở gần đây sao?” Tống Duẫn Đoan hỏi.

“Chúng tôi đi ngang qua đây thôi. Anh nhà tôi lên chợ, lát anh ấy về chúng tôi sẽ đi.”

“Chợ ở đâu vậy chị?”

“Cách đây hai dặm ạ, đi thẳng về phía đằng kia là tới.” Người phụ nữ cẩn thận ôm lấy đứa trẻ, chỉ tay về hướng bắc.

“Chị này, tôi cũng muốn đi mua ít đồ, tôi gửi tạm con bé ở chỗ chị được không?”

“Vâng anh đi đi, đồ ăn đồ dùng trên đường mà không đủ thì cả người lớn lẫn trẻ con đều khổ.” Người phụ nữ nói, “Anh đi đi, tôi giúp anh trông con bé.”

Tống Duẫn Đoan gật đầu, y nói phải đi, nhưng dường như còn đang do dự. Lúc này mưa lại chợt tạnh, mây dày hé một khe hở, thấp thoáng có ánh dương soi chiếu, y ngẩng đầu nhìn trời rồi cất tiếng thở dài.

“Thôi cứ vậy đi.” Y nói, y chỉ có thể làm tới bước này thôi, tiến một bước hay lùi một bước đều khó. Cứ như vậy đi. Khi quay người rời đi, không biết vì sao hai chân y lại mềm nhũn.

Người phụ nữ bước vào thuyền, tìm một tấm khăn bông sạch sẽ lau khô mặt và tay cho đứa bé. Chị cởi chiếc tã ướt đẫm ra, bọc bé bằng khăn sạch. Đứa trẻ vừa mềm vừa nhẹ, như một cục bông nhỏ trắng muốt, mặt mũi lại rất xinh xắn. Ánh mặt trời len qua cửa sổ, chiếu lên gương mặt lóng lánh của cô bé, hồng hồng đỏ đỏ, đáng yêu vô cùng, vợ người chèo thuyền rất thích cô bé, bèn đặt một nụ hôn khẽ lên trán bé. Chị quay người, bế bé quay mặt ra cửa sổ, khẽ cất tiếng hát vỗ về bé.

Non xanh nước biếc, bầu trời dần sáng, mọi thứ hóa yên ả tĩnh lặng trong bài ca làng chài, đứa trẻ từ từ ngưng tiếng khóc, đôi mắt đen lúng liếng tò mò chớp, có lẽ khóc mệt rồi nên đứa trẻ chậm rãi nhắm mắt lại, chẳng bao lâu đã say giấc nồng. Người phụ nữ cẩn thận đặt bé xuống giường, tiện tay cầm lấy chiếc ghế nhỏ ngồi xuống, chống tay trên giường, ngơ ngác nhìn gương mặt say ngủ đáng yêu của bé. Gió thổi hàng trúc xanh bên bờ nghe xào xạc, trời lại trong rồi, có người đàn bà bưng chậu nước ra bờ sông giặt đồ, vung chày gỗ giặt quần áo, anh nông dân đuổi vịt cầm cây sào trúc quát đám vịt trên bờ.

Bờ sông càng lúc càng náo nhiệt, người qua lại mỗi lúc một đông đúc, nhưng người đàn ông trẻ mặc áo quần sang trọng không quay trở lại.

Đến tối khuya chồng người phụ nữ nọ mới quay về, lúc này vợ anh ta đang ngơ ngác ngồi trên sàn thuyền ngắm trăng sáng dập dờn trên mặt nước. Người phụ nữ thấy chồng nhảy lên thuyền mà còn chẳng buồn ngẩng đầu.

Người đàn ông buông hai chiếc giỏ trúc trong tay xuống, nói với vợ giá gạo tăng cao hẳn so với bữa trước, đi mua dầu ở cửa hàng quen thì hình như người ta đổi nhân viên mới, táy máy giở trò cân thiếu. Nếu là mọi khi, người phụ nữ chắc chắn sẽ tức giận tiếp lời, nhưng hôm nay chị lại im lặng tới kỳ lạ.

Người chèo thuyền nói hồi lâu, thấy vợ trước sau không lên tiếng, cuối cùng anh ta cũng nhận ra có gì đó là lạ: “Mình làm sao đấy? Sao cứ im lặng thế?”

Người vợ ngẩng đầu, ngơ ngác nhìn chồng: “Sao giờ mình mới về?”

“Tôi còn chưa đòi xong tiền lương. Chúng ta phải ở lại đây thêm mấy bữa, đòi đủ tiền rồi mới về.”

“Không! Hôm nay đi luôn đi!”

Người chèo thuyền ngạc nhiên: “Tại sao?”

Người phụ nữ nức nở: “Có người vứt em bé lại thuyền chúng ta, mình vào mà xem, em bé xinh xắn lắm. Tôi sợ người ta hối hận quay về tìm nên đến cơm tối cũng chẳng có tâm trí mà nấu.”

Người chèo thuyền kinh hãi, vội vã bước vào trong khoang thuyền, một lúc sau, anh ta bần thần bước ra. Người vợ nhìn chồng mình, chờ chồng đưa ra quyết định. Người chồng không nói tiếng nào, chỉ đi châm đèn báo bão, treo trước mũi thuyền. Người vợ nhìn chồng mình tất bật, bèn cầu khẩn: “Chúng ta luôn muốn có một đứa bé, giờ ông trời tặng nhà mình một đứa, làm sao tôi nỡ để nó đi.”

“Trông đứa trẻ đó có vẻ là con nhà giàu có, lỡ có khi lại bị ai đó bắt cóc cũng nên, đến lúc đó cha mẹ nó sẽ tìm tới, mình đừng rước họa vào thân.”

“Người vứt con bé lại đây hình như là cha nó, đó là một thanh niên rất nho nhã lịch sự, bảo sẽ về đón nhưng đến giờ vẫn chưa thấy.”

“Cứ đợi đi đã, đợi ngày mai nếu người ta không tới tìm thì mình đi. Hà tất phải tạo nghiệt.”

“Người ta mà đến tìm thật thì mình có bằng lòng trả lại không?” Mắt người phụ nữ ầng ậc nước.

Người chèo thuyền cắn môi, cau mày, nếp nhăn trên trán lại càng sâu: “Vẫn nên đợi đi, đợi sáng mai nếu anh ta không tới thì mình sẽ đi ngay.”

Tống Duẫn Đoan mãi mãi không bao giờ quay lại.

Y men theo đường cái ven sông, tiến thẳng về phía bắc, vốn y định về quê mình là trấn Tống gia một thời gian, lúc đi trời đã sắp tối, lo không đủ xăng nên y tìm đến công sở của một thị trấn nhỏ để mua ít xăng, tiện đường ghé tiệm cơm dùng bữa.

Lúc đổ xăng vào bình, có trận gió tạt qua, ánh trăng trốn sau đám mây, ven đường cỏ dại mọc um tùm, cây bào đồng hai bên đường bị gió thổi cất tiếng vang như đang vỗ tay, mặt đường trải đầy những viên đá vụn, gió gạt sát đất, như có người đang chạy tới.

Tống Duẫn Đoan run bắn người, y quay đầu nhìn ra sau, có ngọn đèn bão treo ngoài công sở, gió thổi đèn đung đưa, thoắt sáng thoắt tối, y vội vã đổ hết xăng vào bình, đang chuẩn bị lên xe thì lại nghe thấy tiếng bước chân. Lần này y không quay đầu, ngỡ vẫn là tiếng gió. Y mở cửa xe, nhưng lại không bước lên nổi.

Có người nhảy bổ lên, cổ họng y chợt bị siết chặt bởi một sợi dây thừng. Theo bản năng, y vươn tay vùng vẫy nhưng vừa nhúc nhích đã bị người ta tóm lại. Không chỉ có một hai kẻ, mà có thể là tới bốn năm tên. Chúng liên tục móc túi áo, túi quần y, chúng móc hết ví tiền, tiền lẻ, chìa khóa, bút bi ra. Cốp sau được mở ra rồi lại đóng vào. Cửa xe vang lên những tiếng bịch bịch, Tống Duẫn Đoan sực tỉnh: Y gặp phải cướp rồi. Đường tới Giang Bắc rất nguy hiểm, sao mình lại bất cẩn thế này?

Lúc này đầu óc y rất tỉnh táo, mọi sự gian ác, thù hằn, tủi hờn đều đã bị nỗi đau và cơn nghẹt thở đuổi tan. Nỗi sợ hãi và mối nguy hiểm chân thực lọc sạch mọi suy nghĩ y. Y chỉ muốn sống, y gom hết sức lực để hô hoán kêu cứu, nhưng cổ y đau vô cùng, đau như gãy làm đôi.

Dây thừng siết rất chặt, Tống Duẫn Đoan không tài nào thở nổi, rồi dần dần, hai cánh tay y buông thõng xuống, kẻ đang giữ y cũng mệt chẳng muốn dùng sức nữa, bèn buông y ra. Tên này không cam lòng, lục lọi chiếc xe thêm lần nữa. Chỉ có tên đàn ông đứng sau lưng Tống Duẫn Đoan vẫn cứ siết dây thừng không buông, có lẽ tay này không định giết người thật nên khi bàn chân giẫm phải thứ gì ươn ướt, kẻ này sợ hãi buông lỏng tay rồi nhảy bắn lên, nhìn rõ rồi, tên này bèn thì thầm một tiếng rủa “Mẹ kiếp”.

Những tên còn lại cũng quay sang, dưới ánh trăng mờ nhạt, chúng nhìn thấy mặt đường đá ướt nhẹp trơn nhẫy, mùi hôi gay mũi bốc lên, chất thải của tên xui xẻo nọ tiết hết ra ngoài, y như một cái túi vải rỗng, cuộn tròn mềm oặt dưới đất.

Bọn họ kéo y tới một cái đầm vắng vẻ, trước khi đi còn rút mất thắt lưng y. Bụi cây tỏa ra một thứ mùi thối rữa, trong đêm đen, mọi hình ảnh đều như đánh mất bóng dáng mình, những bụi gai như một mê cung chồng lên nhau giờ hóa thành một cái bóng đen. Không còn mưa nữa, vào trước buổi sáng tinh mơ, do mấy ngày trước đã âm u mưa dầm, mây đen tích tụ cuối cùng cũng đã tan bớt quá nửa, chỉ còn lưu lại chút gợn xám, bầu trời trở nên trang nghiêm tráng lệ tới kỳ lạ, ngọn cành ngọn cỏ đắm trong sương mù buổi sớm, được chiếu ánh mặt trời mới mọc, tỏa ra ánh sáng như màu hoa hồng.

Ba ngày sau, người ta phát hiện ra xác của Tống Duẫn Đoan, y đã không thể ngắm nhìn buổi bình minh đẹp tuyệt ấy nữa.

Không gian ngập ngụa mùi lưu huỳnh và hơi mưa ẩm ướt. Nhà họ Đồng ở gần sông, khung nhà làm bằng gỗ, hơi ẩm len vào những khe hở của kết cấu nhà suốt nhiều năm, tiếng súng gầm lên tiếng sắc bén, găm vào cột nhà, như bị thớ gỗ hút vào, kêu lên những tràng thật nặng nề, hệt tiếng mưa đáp xuống hàng ngói.

Người của Đồng Xuân Giang tạm thời khống chế được cục diện, tiếng súng yếu đi, đám người xông vào đã chết hai, số còn lại bị thương, vội vã rút khỏi. Lưu Ngũ dắt người truy đuổi, tiếng súng vang lên ngoài phòng, dày đặc như cơn mưa xối xả.

Tất cả chỉ diễn ra trong vài phút ngắn ngủi, nỗi sợ hãi và căng thẳng tột độ đã kéo dài cảm giác về thời gian, hầu hết mọi người đều chưa kịp nhận ra rốt cuộc chuyện gì vừa xảy ra. Ngân Xuyên kéo Cảnh Ninh dậy, thuận tay lôi cả bà Đồng lên. Tiểu Hỉ đang cuộn tròn dưới gầm bàn, sau khi hoàn hồn, thằng bé sợ hãi khóc toáng lên, Đồng Xuân Giang vội vã bế con, dịu dàng an ủi đứa trẻ.

“Hỉ Hỉ!” Bà Đồng lao về phía con mình.

Đầu Cảnh Ninh nổ tung, gương mặt cô chợt trắng bệch, hai mắt lóe lên tia sáng điên cuồng, cô giãy khỏi tay Ngân Xuyên, run rẩy kêu lên: “Tiểu Quai!” Cô hoàn toàn không quan tâm liệu có đạn lạc bay tới không, cứ thế lao vào trong phòng, nhưng hầu hết mọi người đều đang chạy về phía đó, cô bị xô mạnh mấy lần, ngã nhào xuống đất.

“Ninh Ninh!” Ngân Xuyên thất thanh kêu lên.

Anh tưởng cô bị bắn trúng, khoảnh khắc ấy sức lực toàn thân anh như bị rút kiệt, máu huyết trào lên họng, rồi dồn tới thái dương, nỗi sợ hãi che kín đôi mắt anh, mỗi bộ phận, mỗi tế bào trên cơ thể anh đều đang co giật, như một bệnh nhân thất bại sau cuộc vận lộn với chứng nan y, chỉ còn adrenalin chạy khắp cơ thể, khiến anh còn đủ sức để lao về phía cô.

Cảnh Ninh vật lộn bò dậy, nức nở kêu lên: “Anh cả, Tiểu Quai đang ở trong phòng! Anh mau vào tìm con bé đi!”

“Em có sao không, có bị thương không?” Anh nôn nóng hỏi, kéo lấy tay cô.

“Anh mau đi tìm Tiểu Quai đi! Con bé ở trong căn phòng phía chính nam,” gương mặt yếu ớt của Cảnh Ninh chỗ xanh chỗ tím, đó là dấu vết do giày đạp phải, nhưng cô không hề cảm thấy đau, chỉ liên tục lặp lại, “em không sao, anh mau đi tìm Tiểu Quai đi! Mau đi đi!”

Ngân Xuyên chỉ đành buông cô ra: “Vậy em đi theo anh, để ý mọi người đấy, nhất định phải cẩn thận!”

Một tốp người đang chạy trốn trên hành lang chật hẹp dẫn tới buồng trong, họ điên cuồng lao đi, xô đẩy nhau, những người đàn ông, phụ nữ ấy hệt như bóng ma lay động, rồi lại như những cánh cửa, đẩy một cánh rồi lại thêm cánh nữa, đẩy mãi vẫn không hết, họ cứ muốn chặn hai người lại, muốn xô hai người sao cho đầm đìa máu tươi. Ngân Xuyên vừa chạy vừa quay đầu nhìn xem Cảnh Ninh có còn phía sau không, có lần quay đầu, thấy bóng một người đàn ông ở cuối con đường đá dẫn ra cửa, người nọ không hề chạy loạn không mục đích mà như rất quen thuộc với căn nhà này, nhìn cùi chỏ thì thấy có vẻ y đang ôm một món đồ gì đó.

“Tống Duẫn Đoan… tại sao anh ta lại ở đây?”

Lúc này Ngân Xuyên cũng không có thời gian để phân tích mổ xẻ, anh chỉ chạy vào buồng trong như lời Cảnh Ninh nói, cửa căn phòng chính nam mở toang, lúc nhìn thấy cánh cửa mở, Ngân Xuyên sững lại vì một thứ linh cảm bất an, nhưng chỉ ngay giây sau anh đã trấn tĩnh lại rồi lao vào trong.

Má Chu không trong phòng, đứa trẻ cũng không có trên giường.

Cơn rét lạnh từ từ len lên sống lưng.

Anh quay người, đỡ lấy Cảnh Ninh đang lao tới, run giọng: “Không sao, Ninh Ninh, chắc chắn không sao đâu, chắc là má Chu dắt con bé đi trốn rồi, không sau đâu, chúng ta sẽ tìm ra Tiểu Quai.”

Cảnh Ninh quay đầu, nhìn chiếc giường trống không chằm chằm, nỗi sợ đông cứng trong mắt cô, thành giường khắc hình sóc vờn nho, chim khách ngậm cành, hoa văn tốt lành may mắn là vậy, mà giờ phút này lại chỉ khiến người ta lặng đi, buốt cứng người.

“Mợ ơi!” Má Chu chạy từ ngoài vào, tay còn cầm bình sữa thủy tinh, thấy Ngân Xuyên đang ôm Cảnh Ninh đứng trong phòng chẳng chút tị hiềm, bà không khỏi thất thanh.

Cảnh Ninh thấy vậy bèn lao tới tóm lấy bả vai bà như phát điên, cô lạnh lùng hỏi: “Má vừa đi đâu? Tiểu Ngoan đâu?”

“Cô chủ đến giờ uống sữa nên tôi đi đun bình cho cô, nghe bên ngoài có tiếng ồn ào, tôi chạy ra hành lang xem, mợ à, sao lại có nhiều người chạy vào vậy?” Má Chu huyên thuyên không dứt.

“Tiểu Quai đâu? Tiểu Quai đang ở đâu?!” Giọng Cảnh Ninh đã khẳn đặc.

“Cô chủ nằm trên giường…” Má Chu chỉ lên giường, rồi lại nín thở, gương mặt già nua trắng bệch, “Sao… sao lại không thấy cô chủ đâu?”

Cảnh Ninh chợt lặng đi, không chỉ vậy, cô thậm chí còn mất đi cảm nhận về âm thanh xung quanh, cô chỉ nghe thấy tiếng máu cuộn trào trong huyết quản, phát ra những tiếng dồn dập.

Ánh sáng khúc xạ ngoài cửa sổ chiếu lên gương mặt đỏ rực của cô như ánh lửa, rồi lại chầm chậm đốt cháy cả cơ thể cô, như muốn thiêu cô thành tro. Lòng Ngân Xuyên đau nhói, anh nhìn bàn tay run rẩy của cô, tay cô siết thành nắm đấm, mạch máu xanh nổi lên trên mu bàn tay trắng muốt, môi cô cũng đang run rẩy, chẳng có lấy một chút huyết sắc.

“Bé Hạt Dẻ!” Anh đau đớn gọi cô.

Lòng bàn tay ứa máu, cô không nghe thấy tiếng anh, không nghe thấy bất cứ âm thanh nào, cô cảm thấy mình đang từ từ vụn vỡ, quá trình vỡ nát ấy không cần một tiếng động nào.

Dường như có một màn sương mù dày đặc đang vọt qua tầm mắt cô, mà cũng như sải cánh của một đàn chim đen tuyền.

Sáng tinh mơ hôm ấy Đức Anh đi Trùng Khánh, cô bế Tiểu Quai ra tiễn cậu ta, cùng cậu ta lên xe ra bến tàu, trên đường đi cô nghe thấy tiếng quạ kêu.

Khi đó cô cau chặt mày, ngó ra ngoài cửa, trời lác đác mưa bụi, một con quạ đang đứng vỗ cánh trên cành liễu.

“Tiếng kêu thật đáng ghét.” Cô nói.

Đức Anh chỉ cười: “Nó đâu kêu cho em nghe, em xem ở đây nhiều người như vậy, ai biết nó kêu cho nhà nào nghe, cứ kệ nó đi.”

Khi ngất xỉu, cô lại nghe thấy tiếng quạ kêu.

Quả thực con quạ ấy đang kêu cho cô nghe.
 
Quyển 2 - Chương 83


Vệt nắng rọi vào phòng càng lúc càng thu ngắn, cõi mơ lại mỗi lúc một dài. Cảnh Ninh cứ luôn mơ thấy những cảnh như đã từng trải qua.

Lúc nào trong mộng cũng có một con thuyền và một cây cầu không bao giờ sửa xong, cây cầu bồng bềnh trên con sông mờ mịt hơi nước. Cảnh Ninh luôn muốn bước lên con thuyền ấy, nhưng người chèo thuyền không bao giờ chịu cập bờ; cô thử băng qua cầu, nhưng cây cầu mãi chẳng bao giờ sửa xong.

Còn có cả con, con của cô.

Con luôn xuất hiện vào cuối giấc mơ, nó cách cô rất xa, nó xuất hiện với đủ những dáng hình khác nhau, lúc thì là đứa bé sơ sinh, lúc lại là đứa trẻ tết tóc đuôi sam năm, sáu tuổi, thi thoảng nó hóa thành thiếu nữ yểu điệu thướt tha, thiếu nữ ấy độ mười sáu, mười bảy rồi. Cảnh Ninh đứng từ xa nhìn con bé nhưng không hề thấy xa lạ, cô chắc chắn thiếu nữ ấy là Tiểu Quai, thậm chí cô còn thầm nghĩ, Tiểu Quai đã lớn thế này rồi, mình không thể cứ gọi tên mụ nó mãi được, nếu không nó sẽ ngượng. Khi ấy giấc mơ của cô rất hạnh phúc. Cảnh Ninh sẽ vui vẻ mỉm cười, nhưng cứ cười, cười mãi, rồi cô chợt ý thức được: “Không phải, chắc chắn đây là mơ, Tiểu Quai mất tích rồi, Tiểu Quai bị người ta bế đi rồi!”

Cơn đau sắc nhọn lập tức ập tới, rồi cô tỉnh giấc. Dù trong mộng cô cười hay khóc thì khi tỉnh dậy bên gối vẫn luôn vương vệt nước mắt ẩm ướt.

Vậy nên mỗi lần chìm vào giấc ngủ, Cảnh Ninh đều hy vọng con sẽ xuất hiện trong mơ muộn một chút, như vậy cô có thể tỉnh giấc chậm hơn một chút, nỗi đau cũng sẽ tới trễ vài phút.

Mùa đông, khu vườn không cần hoa hồng, không cần chim hót, đợi đến khi lá rụng hết, nó cũng chẳng cần những hàng cây phát ra tiếng kêu phiền não. Nỗi đau thương phủ một màu đen nặng trịch đè lên thời gian, biến nó thành một thứ danh từ mong manh, một khái niệm mù mờ hư ảo. Thời gian dừng lại, trở nên phẳng lỳ, trống rỗng, những vạch chia của nó từ giây, từ phút, từ giờ hóa thành đêm đen và ban ngày. Ánh mặt trời, ánh trăng hay bóng tối đã trở thành dấu hiệu duy nhất của thời gian. Cứ như vậy, thời gian mênh mang vĩnh hằng đợi ở trước mặt, nhắc nhở người đang hướng về phía nó bằng một cặp mắt cay nghiệt lãnh đạm, nhắc họ rằng họ cần có đủ dũng khí mới có thể tiến về phía trước.

Vào một buổi sớm tinh mơ cuối tháng Mười một, Cảnh Ninh bừng tỉnh khỏi giấc mộng, yếu ớt như một đứa bé sơ sinh. Cô rời giường, bước tới trước cửa sổ, kéo rèm ra theo thói quen để xác định liệu trời đã sáng chưa, xem một ngày mới đã thật sự bắt đầu chưa.

Phải rồi, cô mất con rồi, cô dám chắc là vậy. Cô đã mất tất cả, nhưng cuộc sống thì vẫn phải trôi.

Vườn hoa sương giá dưới trời xanh trông sao khô khan dễ vỡ, ánh mặt trời chan hòa, dù chẳng hề ấm áp nhưng nó vẫn mặc sức soi chiếu, như thể đã tích cóp đủ sức lực suốt mấy ngày trời âm u, chỉ đợi mây tan là không gì có thể ngăn trở ánh dương trút xuống.

Cảnh Ninh đứng trước cửa sổ, cô quay đầu lại, phần giường của Đức Anh trống không, cô không biết đêm qua cậu ta có về nhà chăng, trên thực tế cậu ta đã gần như không về nhà nữa rồi. Sau khi Tiểu Quai gặp chuyện không may, Đức Anh tức tốc trở về Hán Khẩu, cậu ta như phát điên, vận dụng mọi mối quan hệ để tìm con. Mấy ngày đầu có đủ các loại tin tức, cậu ta thường xuyên ngủ qua đêm tại sở cảnh sát, dù về nhà cũng không thay đồ, có điện thoại là đi ngay. Nhưng lần nào cậu ta cũng trở về cùng nỗi thất vọng ủ ê.

Vốn dĩ trên chiếc tủ nhiều ngăn của phòng bếp có một bình hoa sứ. Chiếc bình này không đẹp, thậm chí còn hơi quê mùa, thân bình có hình một con gà trống to màu đỏ. Trước kia Đức Anh thường bế Tiểu Quai ra đứng trước bình hoa, chỉ con gà trống cho Tiểu Quai xem, Tiểu Quai rất thích con gà trống xinh đẹp nọ, lúc nào con bé cũng ghé sát lại. Đức Anh cố tình bế con ra xa, Tiểu Quai bèn sốt sắng vươn tay năn nỉ cha bế mình lại gần, sau khi đã được thỏa mãn, con bé sẽ cười thật vui vẻ.

“Đây là gì nhỉ? Tiểu Quai Tiểu Quai, cha đang chỉ cho con xem cái gì thế?”

“O o!” Tiểu Quai vỗ tay, vui vẻ reo lên.

“Đúng rồi, Tiểu Quai nhà mình thông minh nhất đấy, con biết nó là o o, o o là gà trống, nó là bạn của Tiểu Quai!”

“Ha ha!”

Bé con chỉ biết phát ra những âm tiết đơn giản nhất, nhưng đó đúng là thứ âm thanh êm tai nhất trên đời. Đức Anh yêu tiếng cười của con bé vô cùng, nhưng có lẽ cậu ta sẽ không bao giờ được nghe thấy nó nữa.

Mọi món đồ có liên quan tới Tiểu Quai, nào bình hoa, nào chiếc khăn vải, nào yếm dãi, áo quần giày dép, tất cả đều gợi lại những ký ức ngọt ngào nhất nhưng cũng đau khổ nhất cho Cảnh Ninh và Đức Anh. Bọn họ sợ chúng, nhưng lại không nỡ ngoảnh mặt đi, như thể trên đó có một tia hy vọng, như Tiểu Quai còn có thể quay về.

Lúc lau dọn, người làm không cẩn thận làm vỡ bình hoa, Đức Anh chưa bao giờ nổi giận trong nhà bèn lạnh lùng tiến lại, tát cho bà người làm một bạt tai, khiến bà trố mắt không tin nổi, khóc sướt mướt chạy xuống mách Từ Chúc Linh. Từ Chúc Linh rất giận nhưng cũng không hơi đâu dạy dỗ con trai mình, ông cũng đang bận rộn bù đầu.

Vụ nổ súng tại nhà họ Đồng không phải chỉ là trận bắn giết đơn giản của bang phái xã hội đen, trong số những người bị thương nặng có Tôn Bình – tổng biên tập “Sở báo”. Sau khi sự kiện không chiến 128 xảy ra, ông từng viết rất nhiều bài báo lên án chính phủ Nhật Bản gay gắt, về phần Đồng Xuân Giang thì luôn giữ thái độ phản đối Nhật Bản dứt khoát, trợ thủ tên A Kỳ của ông bị người ta chém ngang lưng ngay buổi sáng hôm xảy ra nổ súng, một nửa thi thể được vứt tại cửa phòng tuần bộ Tô giới Pháp, nửa còn lại được phát hiện tại một hiệu buôn kim khí ngoài Tô giới Nhật. Mọi dấu vết đều chỉ ra rằng đây là một cuộc báo thù, đã có thể khẳng định rằng kẻ thủ ác đứng sau sân khấu chính là đám lãng khách Nhật Bản tại Hán Khẩu.

Cục quản lý Tô giới của Tô giới Pháp mới bắt đầu chống lại hành động phạm tội của nhóm lãng khách Nhật, Đồng Xuân Giang có mối quan hệ rất mật thiết với Tô giới Pháp, ấy vậy mà trợ thủ đắc lực nhất của ông lại bị vứt xác ngoài phòng tuần bộ, chẳng khác nào đang công khai “động thổ trên đầu Thái Tuế”. Khi cảnh sát hình sự quốc tịch Pháp nhận lệnh điều tra truy bắt hung thủ, một lá thư nặc danh đã được gửi tới một cảnh sát hình sự của phòng tuần bộ, cảnh cáo anh ta đừng đâm đầu vào phiền phức, hãy ngưng truy cứu chuyện này, nếu không thì phải tự chịu lấy hậu quả. Thư được gửi kèm cùng một ngón tay đầm đìa máu. Cục diện trở nên vô cùng rối rắm gay go. Trong cơn thịnh nộ, phía Pháp quyết định đẩy trách nhiệm cho Trung Quốc, để chính quyền thành phố Hán Khẩu tự đi chọc tổ ong vò vẽ, cho họ một câu trả lời rõ ràng.

Vụ nổ súng tại nhà họ Đồng khiến cả Nam Kinh điêu đứng, Viện Hành chính hạ lệnh điều tra vụ án này thật nghiêm ngặt, nhưng đồng thời còn ra lệnh nhất định phải xử lý thận trọng, không được phóng đại quá mức sự kiện, không thể để lộ bất cứ tin tức nào có khả năng kích thích mối quan hệ ngoại giao vốn đã căng thẳng này.

Vụ mất tích của Tiểu Quai không thể liên hệ trực tiếp với người Nhật. Vì chuyện này mà Đức Anh cùng cha mình đã có một cuộc cãi vã rất căng thẳng. Cậu ta yêu cầu cha nhất định phải dùng nguồn lực của chính phủ để bắt hết các lãng khách Nhật Bản, nếu bọn họ không khai ra tung tích Tiểu Quai thì bắn bỏ toàn bộ.

Nhưng Từ Chúc Linh sao có thể làm vậy?

“Cha rất hiểu cho tâm trạng của Đức Anh, cha mẹ cũng biết dạo gần đây hai vợ chồng con đang rất đau khổ,” Từ Chúc Linh nhờ bà Từ gọi Cảnh Ninh vào phòng làm việc, ông bất lực nói, “cha chỉ có thể nói cha sẽ dốc mọi nguồn lực lớn nhất của bản thân để tìm kiếm Tiểu Quai, tuy nhiên cha không thể làm được những việc vượt khỏi trách nhiệm và khả năng của mình… Công ra công, tư ra tư, hai chuyện này không thể nhập nhằng, giờ có dắt díu tới cả quan hệ quốc tế nữa, không thể có bất cứ sơ xuất nào được.”

“Giờ Đức Anh vừa phải tìm con vừa phải lo chuyện làm ăn, cha chưa từng thấy nó suy sụp đau khổ như vậy, Cảnh Ninh, con hãy san sẻ thêm với nó nhé.”

Cảnh Ninh không nghĩ nổi cách nào có thể giúp vơi bớt nỗi đau khổ của Đức Anh, nhưng cô biết trạng thái chết lặng đờ đẫn mỗi ngày của mình đã không còn nhận được sự thông cảm và khoan dung của cha mẹ chồng nữa rồi. Họ muốn cô phải vực dậy, làm tròn trách nhiệm của một người con dâu và một người vợ. Dù bà Từ hiểu cho cô, là một người mẹ, bà biết trên đời không có nỗi đau nào bì được với nỗi đau mất con, nhưng với lập trường của mình, bà chỉ có thể nói:

“Ninh Ninh, con cứ giam mình trong nhà mãi cũng không tốt, đi tìm chút việc để làm thì có khi tâm trạng sẽ khá hơn đấy.”

Làm ư? Làm gì bây giờ?

Ban đầu cô và Đức Anh đều như nhau, họ cùng như phát điên, thậm chí cái hôm chuyện xảy ra, cô còn mặc cho nhà họ Đồng đang lâm nguy, nhất quyết ở lại không chịu đi.

Con cô bị bắt cóc tại nhà họ Đồng. Họ đã điều tra tất cả mọi người, hỏi tất cả mọi người, trừ mình Tống Duẫn Đoan đã mất tích ra. Y đã trở thành nghi phạm lớn nhất. Nhưng Cảnh Ninh hoàn toàn không biết người này, cô không hiểu nếu người này bắt cóc Tiểu Quai thì rốt cuộc lý do của y là gì?

“Xưởng bông của Đức Anh được lấy từ tay người này,” Ngân Xuyên nhẹ giọng, anh cố gắng lựa lời sao cho ôn hòa nhất, thực tế đó không phải là “lấy”, để giành giật xưởng bông, thủ đoạn anh sử dụng thực chất chẳng khác “cướp” là bao.

“Mặc dù không đến mức phải bắt cóc một đứa trẻ vô tội nhưng trong số khách khứa chỉ có mình anh ta là có chút quan hệ với chúng ta.”

Phải, lỡ là Tống Duẫn Đoan thì sao?

A Kỳ đã chết, Đồng Xuân Giang như mất đi một cánh tay, nhưng ông vẫn san sẻ một phần sức lực, phái người đi khắp nơi tìm kiếm Tống Duẫn Đoan, chừng hơn một tuần sau, cái xác đã chẳng còn rõ mặt mũi của Tống Duẫn Đoan được đưa về Hán Khẩu, đầu mối loáng thoáng mang một tia hy vọng này cũng đứt đoạn.

Hy vọng của Cảnh Ninh cũng nát tan.

Những tháng ngày ấy ngập tràn trong nỗi lo và sự hỗn loạn, nó bị chiếm cứ bởi tờ rơi, quảng cáo tìm người và tiếng chuông điện thoại liên miên, bị quấy rầy bởi những manh mối đã được xác thực và chưa được xác thực. Những nguồn lực có thể huy động của nhà họ Vân và nhà họ Từ đều được huy động cả, đến Vân Tú Thành cũng đôn đáo tới đồn cảnh sát mấy lần. Thậm chí bà Đồng vì thương cảm và áy náy với Cảnh Ninh cũng nghĩ đủ mọi cách thúc giục Đồng Xuân Giang tìm kiếm đứa bé. Ngày nối ngày trôi đi, sau khi từng tia hy vọng một bị dập tắt, mọi người chuyển sang an ủi mẹ đứa bé, điều đó có nghĩa bọn họ đã chấp nhận hiện thực rằng có thể sẽ vĩnh viễn không tìm thấy đứa trẻ, dù cho đôi vợ chồng bất hạnh ấy vẫn không chấp nhận được điều này.

Còn có một người nữa không từ bỏ hy vọng, đó chính là Ngân Xuyên. Dù Tống Duẫn Đoan đã chết, Ngân Xuyên vẫn nắm lấy manh mối này không buông, vì xét trên mọi phương diện, Tống Duẫn Đoan là kẻ có khả năng bắt cóc đứa bé nhất. Lúc này Đồng Xuân Giang muốn chuyển sang tập trung đối phó với người Nhật, tình cảnh của nhà họ Đồng vẫn đang rất nguy hiểm, nguồn trợ giúp của ông có giới hạn, Ngân Xuyên gạt hầu hết công việc của mình để thuê người chăng lưới điều tra, lấy trọng tâm là nhà họ Đồng. Tuy nhiên vẫn không tìm được gì.

Đức Anh và Cảnh Ninh bám lấy mọi tin tức có liên quan đến đứa bé mất tích. Dù đó có là trò đùa, là lừa gạt, họ vẫn chạy đi xác thực bằng mọi giá. Có người viết thư nặc danh nói từng nhìn thấy một bà già ôm theo đứa bé bọc tã lót xanh đậm, nhưng nếu muốn gã tiết lộ tung tích bà già nọ, Từ Đức Anh phải chuyển trước năm nghìn đồng đại dương cho gã vào một số tài khoản. Đức Anh không hề do dự, lập tức chuyển tiền ngay. Nhưng sau đó vẫn bặt tin. Họ gặp phải những tình huống như vậy không chỉ mới một hai lần. Hy vọng và tuyệt vọng đan xen, thay nhau hành hạ họ. Từ sáng sớm tới đêm khuya, từ lúc thời tiết mát mẻ cho đến khi bước vào ngày đông giá lạnh, Tiểu Ngoan vẫn không rõ tung tích.

Cứ như vậy, hai tháng đã trôi qua, đúng như Từ Chúc Linh nói, Đức Anh đã sụp đổ.

Lần đầu tiên Đức Anh đánh Cảnh Ninh.

Đêm, cậu ta uống say túy lúy trở về nhà, kéo Cảnh Ninh đang nằm trên giường dậy, kéo cô tới trước mặt cậu ta, để cô nhìn cậu ta.

“Nếu không phải tại cô thì con đã không mất tích!” Cậu ta lẩm bẩm, siết lấy cằm cô, “Đồ đàn bà mất nết không an phận, nếu hôm đó cô không bế Tiểu Quai đi thì con bé đã không bị bắt cóc! Sao cô lại đi?! Con trai Đồng Xuân Giang tổ chức sinh nhật sao? Cô đi chúc mừng sinh nhật con trai kẻ khác rồi đánh mất luôn con gái mình, đồ đê tiện!”

Cậu ta tát cô, rồi đè lên người cô, hai người cùng ngã xuống giường, cậu ta cố định tay cô sau lưng, tiếng lụa rách chói tai vang lên, chiếc váy ngủ bị cậu ta xé tới tận eo. Cô chưa từng thấy cậu ta khác thường như vậy, gương mặt cậu ta vặn vẹo, động tác thô bạo. Ký ức ùa tới như nước xiết, cô nhớ rõ thời họ còn nhỏ, cậu ta là cậu bé yếu ớt mà cô rất thương xót, cậu ta từng nói với cô: “Ninh Ninh, cậu là người tốt với tớ nhất, cảm ơn cậu.” Cậu ta cũng là người đàn ông dịu dàng từng thề sẽ đối xử tốt với cô suốt đời, giờ người đàn ông đó đang đánh cô, cắn cô, giày xéo cô, cậu ta thét lên bên tai cô: “Tôi chỉ muốn con tôi quay về, trả con lại cho tôi, trả lại cho tôi!”

Ban đầu cô vẫn còn giãy giụa, nhưng sau đó lại quyết định từ bỏ, mặc cho cậu ta trút bỏ mọi nỗi oán giận và tủi thân lên cô, báo thù cô, đây là một con người đáng thương, có lẽ cậu ta còn đáng thương hơn cô, vì cô chưa từng yêu cậu ta. Cậu ta như như một đứa trẻ sống trong bong bóng xà phòng, Tiểu Quai chính là bong bóng của cậu ta, bong bóng bay lên trời cao rồi vỡ tan, và cậu ta thì cũng nát vụn theo.

Sáng sớm, cậu ta tỉnh dậy trong cơn rã rời, nhìn thấy gương mặt và cơ thể chằng chịt vết thương của cô, cậu ta sợ hãi không thốt nổi nên lời. Nhưng người phụ nữ ấy vẫn nhìn cậu ta bằng cặp mắt lặng như nước. Trước kia, cậu ta yêu cô chính bởi cặp mắt đẹp tuyệt ấy, nhưng giờ đây cậu ta cảm giác mình nên hận cô mới đúng. Cặp mắt cậu ta từng yêu vô cùng giờ đại diện cho sự đê hèn và dối trá. Con gái ruột cô không rõ sống chết, vậy mà cặp mắt chết tiệt ấy vẫn không nhỏ nổi một giọt lệ.

Phải, dù là lúc cô tỏ ra đau khổ nhất, dù vầng trán trắng nõn nhẵn bóng bắt đầu xuất hiện những nếp nhăn ưu phiền, cô cũng không khóc. Tại sao cô không khóc? Chẳng lẽ cô không có lương tâm sao? Cốt nhục cô thất lạc, cô không đau lòng chút nào ư?

Cô còn có tâm trí mà quan tâm tới chuyện nhà, làm việc vặt, còn có tâm trí để thông cảm cho cậu ta! Cô khinh miệt cậu ta bằng ánh mắt cao ngạo của kẻ bề trên ấy! Cậu ta không muốn cô như vậy.

Đức Anh túm lấy cổ áo Cảnh Ninh, gương mặt cô lập tức thấp thoáng nỗi sợ, nhưng chẳng mấy chốc đã lại lặng đi. Cô không giận, không cau mày, không khóc lóc đập phá, quyết tâm chịu đựng mọi điều cậu ta sắp làm. Nhưng đây không phải phản ứng cậu ta muốn, cậu ta cần cô đau lòng, cần cô khóc, cần cô bộc bạch cõi lòng mình! Nhưng cậu ta sẽ không bao giờ thành công, không bao giờ.

Cậu ta buông cô ra, chán nản ôm đầu, run giọng: “Con mất tích rồi, anh biết em sẽ càng không muốn ở bên anh, giờ đến lý do duy nhất để anh giữ em lại cũng không còn nữa.”

Đây mới là cõi lòng của cậu ta. Cõi lòng đầm đìa máu chảy, ảm đạm thê lương.

“Đức Anh…”

“Em chưa từng yêu anh, anh biết. Vốn anh còn ôm một tia hy vọng, cuộc đời chúng ta còn rất dài, còn có Tiểu Quai, chúng ta mới có thể được coi là một gia đình. Anh đối xử tốt với Tiểu Quai em mới trân trọng anh.”

“Em trân trọng anh.” Cô nói, ánh mắt và giọng điệu yếu ớt mệt mỏi.

Cô thật sự đã chết lặng, tê liệt, lòng dạ cô như sắt đá.

Đức Anh bật khóc nức nở, bờ vai cậu ta run lên.

Cô sửa lại cổ áo nhăn nhúm, lùi về phía sau. Cô nhìn Từ Đức Anh, lúc này chồng cô khóc đau đớn như một đứa trẻ bất lực. Thế gian muôn nghìn khổ đau, cô thật sự không có cách nào khác. Cô cũng muốn khóc, nhưng cô thậm chí còn không tìm được cách để khiến mình bật khóc.

Đến cuối tháng, Cảnh Ninh nhận được điện thoại của môi giới bất động sản, họ nói đã tìm được một cửa hàng phù hợp, cô chợt sực tỉnh: Vì tìm kiếm con gái mà chuyện làm ăn của Đức Anh cũng chịu ảnh hưởng, mãi chưa mở được văn phòng, ngoài ra cũng có rất nhiều đơn đặt hàng bị hủy bỏ. Vẫn phải tiếp tục tìm con, nhưng cuộc sống cũng cần quay về với quỹ đạo bình thường. Cảnh Ninh lập tức tới đường Lợi Tế xem mấy căn nhà nọ, rất sáng sủa sạch sẽ, không gian rộng rãi, trang trí đơn giản, sửa chữa lại cũng chẳng khó. Lằng nhằng suốt một thời gian dài, cuối cùng coi như cũng tìm được một căn nhà phù hợp. Cô vội vã giao tiền cọc, chủ nhà trao chìa khóa cho cô, cô vào trong ngồi một lát.

Mặt trời ngả về tây, màu hoàng hôn bao trùm trời đất, căn nhà bắt đầu trở nên lành lạnh, Cảnh Ninh đi tìm đường ống nước nóng. Tòa nhà này có phòng nồi hơi sưởi ấm, cô hỏi nhân viên quản lý, đun chừng hai tiếng đồng hồ là phòng sẽ rất ấm. Đức Anh làm việc trong này sẽ không bị lạnh, cô cũng thấy yên tâm.

Cô vào phòng, xách túi chuẩn bị về nhà, đầu óc chợt như nổ tung, bàn chân tựa đông cứng trên mặt đất: Làm việc một cách mù quáng thế này làm gì? Làm những việc này có ý nghĩa gì không? Mà sống cũng có ý nghĩa gì không? Mất con rồi, đứa con gái đáng yêu mình hạ sinh biến mất rồi! Tại sao mình còn sống hết ngày này qua ngày khác một cách vô nghĩa thế này, sao còn như một kẻ đang cố gồng sức mà tiếp tục sống qua ngày? Mình muốn gì chứ?

Vách tường đung đưa, trần nhà cũng như sập xuống, tay chân cô lạnh ngắt, run rẩy quỳ xuống, từ từ ngồi liệt trên nền đất. Tim cô rất đau, đau tới mức chỉ muốn cầm dao mổ ra xem rốt cuộc có thứ gì đang khuấy động bên trong. Cô muốn khóc nhưng không khóc nổi, nghĩ tới việc về nhà phải đối mặt với Đức Anh, đối mặt với thời gian dài đằng đẵng vô vọng, cô lại chỉ muốn treo cổ bằng sợi dây đèn trong căn phòng này. Nhưng cô không thể chết.

Khóc đi, Phan Cảnh Ninh, sao mày lại không khóc được? Mày thật sự không có lương tâm sao? Tiểu Quai sống chết không rõ, con bé còn nhỏ như vậy, yếu ớt như vậy, chỉ ném nhẹ một cái thôi là sinh mệnh nó sẽ chấm dứt. Mày để con bé lạc mất rồi, mày để sinh mạng yếu ớt nhỏ bé ấy đối mặt với cuộc sống tàn nhẫn này một mình, sao mày còn chưa khóc?

Gương mặt cô nóng hầm hập, cô nằm rạp xuống đất, mặt áp lên sàn nhà, khẩn cầu bằng tư thế khúm núm nhất: “Ông trời ơi, Thượng Đế ơi, Phật Tổ ơi! Xin hãy cứu con, xin hãy cứu con với! Hãy trả lại con gái cho con! Hãy để con được sống, con muốn sống tiếp!”

Cô há to miệng, nện vào ngực mình, cứ từng đấm từng đấm một, miệng cô phát ra những tiếng kêu khản đặc, nhưng vẫn không sao khóc nổi, đôi mắt cô như đã khô cạn, nóng bừng đau đớn, nhưng vẫn không có lấy một giọt lệ.

Đêm đó Đức Anh vẫn về rất muộn, cậu ta lại tới đồn cảnh sát, đương nhiên lần này cũng ra về tay trắng. Mỗi lần như vậy tâm trạng cậu ta lại vô cùng sa sút, huống chi trên đường cậu ta còn gặp Ngân Xuyên. Ngân Xuyên hỏi tình hình Cảnh Ninh, Đức Anh bèn trả lời đối phó mấy câu. Ngân Xuyên nói với cậu ta anh tìm được một vài thông tin, có người ở Giang Bắc nhìn thấy Tống Duẫn Đoan, hình như y có bế theo một đứa bé thật, mấy hôm nữa anh sẽ đích thân tới Giang Bắc tìm người ta hỏi chuyện. Rồi anh dặn: “Cậu hãy ở bên chăm sóc Cảnh Ninh, cùng con bé đi đâu đó giải sầu, tôi sẽ tiếp tục tìm Tiểu Quai giúp hai người.”

Khi ấy, Đức Anh xụ mặt xuống, cậu ta cười lạnh: “Giờ xưởng bông còn đang nợ nần anh Trịnh, dù anh Trịnh cố gắng giúp chúng tôi tìm con, để chúng tôi có thời gian thì tôi vẫn phải chăm chỉ mà làm ăn, lấy đâu ra thì giờ chăm lo cho vợ. Chuyện giữa hai vợ chồng tôi không cần anh phải dạy.”

Ngân Xuyên khẽ cau mày: “Giờ Ninh Ninh là người đau lòng nhất, cậu là chồng con bé, cậu nên quan tâm tới con bé nhiều hơn, sao có thể nói những lời châm chọc như vậy?”

“Vậy sao?” Hễ thấy anh nổi giận, Đức Anh lại cảm nhận được một niềm khoái cảm quái lạ, “Tôi thì lại thấy cô ấy không đau lòng chút nào đâu, cô ấy nghĩ thoáng lắm, sinh thêm một đứa là được mà? Mấy hôm nay cô ấy rất nhiệt tình với tôi, chỉ chực lao vào lòng mà ôm ấp, tôi cũng khó chống đỡ nổi.”

Ngân Xuyên không nhịn nổi nữa, anh vung nắm đấm. Đức Anh không hề trả đòn, mặc cho anh đánh, đến khi Lý Nam Gia xông lại kéo Ngân Xuyên ra, cậu ta mới lau máu mũi, chỉ Ngân Xuyên, nói: “Trịnh Ngân Xuyên, anh còn đáng thương hơn tôi, giờ tôi không thèm chấp với anh, anh là kẻ lẻ loi không có gia đình, tôi về nhà còn có vợ thương, tôi sẽ để vợ tôi sinh con trai cho tôi.”

“Từ Đức Anh!” Mắt Ngân Xuyên như bốc lửa, anh lại định lao vào, Nam Gia ôm chặt anh, thét lên với Đức Anh: “Mau đi đi, cậu còn sợ mọi chuyện chưa đủ loạn sao?!”

Đức Anh trở về nhà trong tình trạng như vậy.

Thấy mặt cậu ta bị thương, Cảnh Ninh rất ngạc nhiên, cô vội lấy rượu thuốc bôi cho cậu ta. Cậu ta gạt tay cô, giật lấy chai thuốc, lạnh lùng nói: “Để tôi tự làm.”

“Sao lại bị thương?” Cô lo lắng nhìn cậu ta.

Cậu ta không quan tâm tới cô, chỉ tự soi gương bôi thuốc. Cảnh Ninh ngồi xuống xô pha, tiếp tục gấp lại những bộ đồ sạch người làm vừa bưng vào phòng. Cô cẩn thận gấp từng chiếc áo sơ mi của Đức Anh, xếp vào ngăn tủ.

Đức Anh quay đầu liếc nhìn cô, cô gầy đi nhiều rồi, vai mảnh eo thon, như thể sắp bị gió cuốn mất, mái tóc vốn mượt mà óng ả giờ rũ xuống vai một cách tùy tiện, có mấy sợi đan rối vào nhau.

Lòng cậu ta đau như phải bỏng, cuối cùng cũng gượng cười hỏi cô: “Ninh Ninh, hôm nay em có gì vui không?”

Giọng cậu ta chợt trở nên thân mật, khiến cô vừa mừng vừa sợ, cô vội vàng quay lại, mỉm cười nói: “Em đi xem nhà.”

Cậu ta ngạc nhiên, không hiểu cô đang nói gì.

Cảnh Ninh kể chuyện nhà cửa cho cậu ta nghe, rồi cho cậu ta xem cả hợp đồng thuê nhà. Ban đầu Đức Anh như không nghe thấy lời cô nói, cầm hợp đồng cô đưa xong, cậu ta lại tiện tay đặt xuống. Cảnh Ninh dè dặt nhắc cậu ta phải mau chóng xử lý chuyện xưởng bông, phải nhập hàng, phải nhờ cậy vào mối quan hệ của hiệu buôn Tây, phải trở lại với công việc.

“Nếu không công việc của anh sẽ bị ảnh hưởng.”

Đức Anh chợt quăng luôn chai rượu thuốc trong tay, cậu ta nói: “Sao cô cứ lải nhải mãi thế? Giờ làm những việc này còn nghĩa lý gì nữa? Nhập hàng ư? Nhập con khỉ! Ảnh hưởng thì ảnh hưởng, mẹ kiếp cô!”

Đây là lần đầu tiên cậu ta thốt những lời tục tĩu trước mặt cô.

Cảnh Ninh ngây ra, sau đó gương mặt cô đanh lại, cô quay đầu đi, không nhìn cậu ta, cũng không nói gì nữa. Cô cũng chưa từng nổi nóng trước mặt cậu ta. Phản ứng lúc này đã là dáng vẻ tức giận nhất của cô rồi.

Đức Anh xách một chiếc ghế, đập vào bàn trang điểm, trong tiếng đổ vỡ nối dài không dứt, cậu ta đã đập tan mọi thứ có thể.

Cảnh Ninh chỉ có thể cúi đầu ngồi đó, túi nước nóng cô rót được đặt ở ngay bên chân, chỉ có vài centimet thôi nhưng cô cũng lười chẳng buồn với tay nhặt.

Vợ chồng Từ Chúc Linh vốn còn đang ngủ, nghe tiếng động lớn cũng bừng tỉnh, họ chạy vào mắng Từ Đức Anh dừng lại rồi kéo cậu ta ra phòng khách. Cảnh Ninh ngồi bất động. Người làm vào thu dọn phòng, cô như sực tỉnh khỏi giấc mộng, nói: “Để sáng mai hẵng dọn, tôi muốn đi ngủ rồi.”

Lúc rời phòng, ngươi làm nọ quay đầu nhìn cô mấy lần, gương mặt cô trắng bệch tới phát sợ.

Cô lại mơ thấy con, con đã được hai, ba tuổi rồi, nó tết tóc đuôi sam, mặc chiếc quần bông hoa trắng nền xanh, ngồi vui đùa trên chiếc thuyền gỗ, Cảnh Ninh cảm giác như mình và con chưa từng chia lìa, dù không thấy rõ gương mặt con khi lớn lên ra sao nhưng có thế nào đi chăng nữa cô vẫn rất vui. Trong mơ, cô là một người phụ nữ làm nông, đang rửa rau bên bờ sông, nước sông kết thành băng, lúc nước chảy có thể nghe được tiếng những viên đá va vào nhau. Cô ngẩng đầu, thấy Tiểu Quai đang vươn người nghịch nước, hoàn toàn không biết khe băng có thể nuốt chửng bé. Cảnh Ninh kinh hoàng, lập tức thét lên: “Tiểu Quai, đừng nhúc nhích, cẩn thận ngã đấy! Đừng nhúc nhích!” Tiểu Quai lại chỉ cười khì khì, lại vươn người ra xa thêm, Cảnh Ninh nôn nóng thở hổn hển, khi cuối cùng Tiểu Quai cũng rơi xuống nước, cô thét lên.

Một đôi tay ôm lấy cô, Cảnh Ninh sực tỉnh, cô còn đang khàn giọng kêu thét, cơ thể run cầm cập như kẻ chết cóng. Đức Anh không biết đã về từ bao giờ, cậu ta đắp lại chăn cho cô, đắp thật kỹ rồi lại ôm cô vào lòng, cằm cậu ta kề tóc cô, dịu dàng nói: “Đừng sợ, đừng sợ, Ninh Ninh đừng sợ, Ninh Ninh à.”

Cậu ta dỗ dành, vỗ về cô như một đứa trẻ. Dịu dàng mà tuyệt vọng.

Cảnh Ninh siết chặt lấy cánh tay cậu ta, hồi lâu sau hơi thở cô mới trở lại bình thường. Đức Anh hôn lên gò má và vầng trán lạnh cóng của cô, để cô gối lên vai mình, cậu ta ôm cô thật chặt, như thể họ là hai sinh mạng luôn nương tựa vào nhau.

Sáng hôm sau, Đức Anh ra ngoai mua xíu mại và rượu gạo, về nhà, cậu ta đích thân xuống bếp, làm món mỳ khô cho mọi người ăn, Cảnh Ninh cũng dậy rất sớm, cô thu dọn phòng ốc cùng người làm, dặn quản gia tìm thợ về thay kính bàn trang điểm.

Hai vợ chồng ăn sáng cùng ông bà Từ Chúc Linh xong thì về phòng ngủ, Cảnh Ninh thấy dường như Đức Anh không định ra ngoài đâm lạ, nhưng không dám hỏi.

Đức Anh ngơ ngác nhìn cô hồi lâu, cậu ta bước tới trước mặt cô, chợt muốn nói với cô những lời trong lòng mình, những lời cậu ta chưa từng giãi bày với cô. Nhưng chưa kịp thốt đã lại cảm thấy có nói ra cũng chẳng có nghĩa lý gì, hơn nữa cũng chỉ hủy hoại ước nguyện ban đầu của cậu ta.

Ánh mắt cậu ta dịu dàng, không có giận dữ, cũng chẳng còn trách móc hay châm chọc. Lòng cậu tràn ngập nỗi đau và sự tha thứ. Phải, cuối cùng cậu ta cũng hiểu rồi. Cô kiêu ngạo, im lặng chịu đựng tất cả một mình, còn cậu ta thì chẳng có lấy một lời an ủi cô. Đây là sai. Từ Đức Anh, mày yêu cô ấy, nhưng cuối cùng mày lại giày vò cô ấy. Mày yêu cô ấy nhưng lại đánh mất chính bản thân mày. Đây chính là sai.

Cảnh Ninh im lặng chờ đợi, cậu ta vẫn im lặng. Khi cô cúi đầu xuống, cô nghe thấy tiếng thở dài của cậu ta, cậu ta nói”

“Phan Cảnh Ninh, chúng ta ly hôn đi, em được tự do rồi.”
 
Quyển 2 - Chương 84


Vào một ngày trung tuần tháng Mười hai, Cảnh Ninh bước khỏi phòng trực của sở cảnh sát, một chiếc xe lướt trên đường chợt dừng lại trước mặt cô. Cô không buồn ngẩng đầu, chẳng thèm liếc nhìn chiếc xe tới một lần, cứ thế men theo vỉa hè, bước về hướng Tô giới Pháp. Trời rất lạnh, tiếng giày cao gót lách cách trên mặt đường cũng giống như biểu cảm của cô lúc này: bướng bỉnh, cứng cỏi.

Ngân Xuyên xuống xe, tiến nhanh tới kéo cô lại: “Em đi đâu? Anh đưa em đi.”

Cô thoáng tức giận, giãy mạnh tay ra, chỉnh lại tay áo khoác lông cừu nhăn nhúm, cô dửng dưng nói: “Tiếp tục tới hỏi phòng tuần bộ Tô giới Pháp.”

“Nếu có tin họ sẽ chủ động báo cho em, em nên nghỉ ngơi đi.” Anh nói, “Đi thôi, anh đưa em về nhà.”

“Không!” Cô nhất quyết giằng co với anh, “Em không về!”

Ngân Xuyên chẳng buồn phí lời với cô, anh kéo cô lên xe, cô bèn đánh anh bằng túi xách, dây xích kim loại quật vào thái dương lập tức làm xước da anh, máu bắt đầu chảy ra. Ngân Xuyên chỉ quay đầu sang để tránh, tay anh hơi rụt lại, Cảnh Ninh tưởng anh định buông mình ra, nào ngờ anh chỉ đang đổi tư thế để ôm ngang cô lên.

“Buông ra! Buông ra!” Cô kêu lên, “Anh cút đi! Cứu với! Cứu tôi với!”

Ngân Xuyên bỏ ngoài tai.

Có người đi đường nhìn thấy, định tiến lại thật nhưng viên cảnh sát gác cổng ngoài cục cảnh sát lại mỉm cười lắc đầu với anh ta, người này hiểu ngay đây chỉ là một màn kịch vui mà thôi. Cảnh Ninh nóng nảy, lại càng thét to hơn nhưng không một ai muốn giúp cô nữa.

Ngân Xuyên bế cô, vừa đi vừa đưa mắt ra hiệu với cảnh sát gác cổng. Viên cảnh sát nọ tiến lại, Ngân Xuyên đẩy Cảnh Ninh vào xe, viên cảnh sát bèn lập tức đóng cửa lại. Cảnh Ninh không chạy ra được, cô sốt sắng thét lên: “Tôi sẽ kiện các người! Các người cấu kết với kẻ xấu định bắt cóc tôi!”

Tay cảnh sát nọ vẫn đứng vững như bức tượng đá, mặc cho Cảnh Ninh đập cửa rầm rầm. Ngân Xuyên lên xe, vươn tay khỏi cửa vẫy viên cảnh sát. Xe bắt đầu nổ máy, nghênh ngang rời đi.

“Ăn cơm!” Ngân Xuyên dúi đôi đũa vào tay Cảnh Ninh.

Cô ném đũa xuống đất.

Anh lại điềm tĩnh nhặt lên rồi tìm một đôi đũa sạch khác: “Anh tới quán hải sản em thích nhất ở Vũ Xương để mua cá, còn canh là của Tiểu Quân mang từ nhà tới, cô ấy còn dọn dẹp phòng, thay rèm và chăn cho em rồi. Hồi trước em thích sạch sẽ, giờ thì lại thành ra lôi thôi.”

Anh lại nhét đũa vào tay cô, Cảnh Ninh tiếp tục ném đi.

Ngân Xuyên không giận, anh khom lưng nhặt đũa lên, nói mà chẳng buồn để tâm tới hành động của cô: “Em đừng thắc mắc tại sao anh lại vào được nhà em, anh nhờ quản lý tòa nhà mở cửa, anh còn cho người ta tiền, đủ để mời thêm một nhân viên quản lý nữa.”

Cảnh Ninh cười lạnh: “Anh ngốc à?! Cầm tiền đi làm chuyện không đâu.”

Ngân Xuyên cũng cười, dịu dàng nói: “Đúng, anh ngốc. Anh là ngốc nhất.”

Cảnh Ninh ngoảnh mặt đi không chịu nhìn anh, cô siết chặt tay lại. Ngân Xuyên lại lấy thêm một đôi đũa, chỉ chực bật cười, anh nói: “Em mà còn ném nữa thì hết…” Chưa kịp dứt lời thì giọng anh đã đứt đoạn vì một cơn đau.

Phải, cô chỉ có ba đôi đũa. Sau khi ly hôn, cô chuyển tới ở một mình tại căn hộ đường Lợi Tế, chỉ mang theo đúng ba đôi đũa. Gia đình ba người, ba đôi đũa là đủ rồi.

Nhưng cô chỉ có một thân một mình.

“Ninh Ninh,” Ngân Xuyên thở dài nói, “anh thật sự rất vô dụng, anh không biết phải làm sao mới khiến em vui lên được.”

“Anh để em đi tìm Tiểu Quai đi, để em đi tìm con bé.” Cô bất lực nói, đứng dậy bước tới trước lò sưởi, ngơ ngác nhìn khung ảnh phía trên, bên trong là ảnh Tiểu Quai hôm đi cắt tóc tại Trường Sinh Đường vào dịp đầy tháng, Cảnh Ninh bế bé đến tiệm Tân Sinh Hoạt để chụp hình.

“Anh cả, anh nhìn xem, cái đầu trọc lốc của nó thật đáng yêu, trông thật ngoan ngoãn.” Cô vươn ngón tay ước lượng, “Lúc bị bắt cóc, tóc nó mới dài được chừng này.”

“Chúng ta sẽ tìm được con bé mà, anh vẫn không ngừng tìm nó. Anh chưa từng dừng lại.” Anh bước tới bên cô, cùng cô xem tấm ảnh, “Anh đã tìm ra người nông dân đó rồi, ít nhất chúng ta cũng biết Tống Duẫn Đoan thực sự đã bắt cóc Tiểu Quai, phải không? Chắc chắn anh ta đã đưa Tiểu Quai cho ai đó, anh sẽ tới Trường Giang tìm từng gia đình một, tìm xong Giang Bắc thì đến Giang Nam.”

Cô đau đớn nhìn anh, ánh mắt trống rỗng: “Bên ngoài kia hỗn loạn như vậy, liệu Tiểu Quai có gặp chuyện bất trắc không?”

“Không đâu, con bé sẽ không gặp phải chuyện gì, con bé đáng yêu như vậy, ngoan ngoãn như vậy, ai nỡ khiến nó bị thương chứ? Cưng con bé còn không hết nữa là.”

Cảnh Ninh lắc đầu: “Anh nghĩ một đằng nói một nẻo, em biết anh không thích Tiểu Quai, anh rất ghét con bé, anh không thấy nó đáng yêu chút nào.”

Cô đã xé toạc tâm sự của anh, anh không khỏi ngẩn ngơ.

Đúng vậy. Anh từng rất không thích Tiểu Quai, thậm chí còn nguyền rủa cho con bé biến mất, khi nghi ngờ Tống Duẫn Đoan có thể đã bắt cóc con bé, anh còn do dự không biết có nên nói ra không.

Phải, đứa bé này đã khiến Cảnh Ninh mất đi tự do, khiến cô bị trói buộc trong cuộc hôn nhân vô vọng với Từ Đức Anh. Anh mong Cảnh Ninh được giải thoát, anh từng mù quáng cho rằng chỉ khi đứa trẻ ấy biến mất, Cảnh Ninh mới có thể tìm lại tự do.

Nhưng anh sai rồi. Anh đã phủ nhận chính ý nghĩ của mình từ lâu. Anh tìm kiếm con bé điên cuồng hơn bất cứ ai, thậm chí anh còn bỏ mặc cả công việc, thậm chí còn rút lui khỏi cuộc chơi trong lúc trận giằng co với Edmund đang trong giây phút căng thẳng nhất, khi cuối cùng phòng kế toán Hoa Phổ Huệ cũng đã giành được quyền độc lập. Anh dồn hết tâm trí vào việc tìm kiếm đứa bé.

Vì anh hiểu rằng đứa trẻ ấy chính là sinh mạng của Cảnh Ninh.

“Ninh Ninh, tin anh đi, anh hy vọng em có thể tìm thấy Tiểu Quai hơn bất cứ ai,” anh khẽ thốt, “anh hiểu rõ mọi thứ tình cảm trên đời này đều không bì được với tình mẫu tử máu mủ ruột thịt, anh bằng lòng đánh đổi mọi thứ mình có để đưa đứa trẻ về, dù anh có mãi mãi không được ở bên em, chỉ cần em có thể tươi tỉnh, có thể khỏe mạnh, có thể vui vẻ trở lại.”

Tim cô thắt lại, cô quay sang, nhìn anh chăm chú.

“Sao anh lại đối xử tốt với em như vậy. Sao anh còn đối xử tốt với em như vậy? Anh cả, anh thậm chí còn không có thời gian để lo việc kinh doanh.”

“Vì…” Anh ngập ngừng, dù lòng anh vẫn rất bình tĩnh, nhưng đây là một biểu hiện của sự yếu đuối tột cùng, giờ anh chỉ muốn bật khóc thật to. Sự hối hận khó cất thành lời cứ cuốn lấy anh mỗi phút mỗi giây, thấy cô bất lực tuyệt vọng như vậy, anh lại chẳng thể làm gì cho cô. Anh chỉ mong sao có thể trở về ngày còn nhỏ, khi ấy cô tự do phóng khoáng, vô ưu vô lo, nếu không vui thì cứ thế òa khóc, nhưng giờ đây trông dáng vẻ trống rỗng chết lặng của cô, anh lại đau đớn tột cùng. Anh muốn nói cho cô biết đánh đổi tất cả vì người mình yêu là khoản đầu tư lý trí hơn việc kinh doanh gấp nghìn lần vạn lần. Có núi vàng núi bạc cũng không quý giá bằng em. Nhưng anh không cất nổi thành lời, không biết bao giờ anh mới có thể thật sự nói ra, anh sợ mọi chuyện cũng sẽ giống như lúc trước, anh bộc bạch tấm chân tình nhưng đáp lại chỉ là sự cự tuyệt đầy kiên quyết của cô.

Cô nhìn anh.

Vết thương trên thái dương anh là do cô gây nên, miệng vết thương trông rất đáng sợ, nhưng gương mặt anh lại mang nụ cười mỉm, nụ cười ngậm nước mắt, anh thật dịu dàng, khiến cô chợt như trở về những ngày tháng tươi đẹp quá khứ, trở về với cái tiết hương hoa ông lão nồng nàn, hoa hồng mỉm cười trên giàn dây leo.

“Anh cả…” Cô khẽ thốt, sự áy náy và yêu thương xót xa thoáng hiện trong mắt cô.

Lòng anh chấn động. Thứ cảm xúc mừng rỡ gần như chỉ chực thét lên bị một cảm xúc mãnh liệt khác cuốn đi.

Đó là một dự cảm. Là phản ứng khi hai con tim đang cùng chung một nhịp đập gấp rút nhất.

Ngón tay mảnh dẻ của cô chạm vào trán anh, thương xót ướm lên vết thương của anh. Anh chợt nắm lấy tay cô, cô giãy giụa theo bản năng nhưng anh không hề buông tha. Anh kéo tay lại, ôm chặt lấy cô, như con rắn của dục vọng đã siết chặt lấy anh trong tâm thức.

Đau đớn biến mất, thống khổ biến mất, lý trí cũng tiêu tan.

Đôi môi anh chen ép môi cô, ép cô phải mở miệng, để anh có thể đoạt lấy cô, đoạt lấy càng nhiều càng tốt. Cô đứng bất động trong một phút rồi cơ thể từ từ trượt xuống, anh kéo cô lên, ấn cô trên tường, bàn tay lần vào cổ áo cô, mở cúc áo. Cô đánh anh, cắn anh, như một con dã thú bé nhỏ đang bướng bỉnh giãy giụa, nhưng cuối cùng vẫn bị khuất phục, cả cơ thể cô mềm nhũn, như hóa thành một con cá. Anh bế cô lên, bước vào phòng ngủ.

Giây phút ngã xuống, cô phát ra tiếng kêu yếu ớt, thay vì bảo đây là tiếng thở dốc đau đớn, chi bằng gọi nó là sự lôi kéo không thể cưỡng lại với anh. Cô trao anh cần cổ, bờ vai và toàn bộ cơ thể mình. Da thịt cô còn lạnh lẽo trơn bóng hơn cả tơ lụa, anh sa vào sự lạnh buốt như nước, vào sự ấm áp như lụa, nghẹt thở, căng thẳng, bất lực. Sự phóng túng trong giác quan là thứ máu huyết như rượu mạnh, mang theo mùi hương của tình yêu, anh nghĩ dù có say túy lúy đến chết trong đó cũng chẳng phải hối hận. Họ quấn quýt lấy nhau, chèn ép nhau, đòi hỏi nhau, cô nghĩ mình là một nỗi nhục nhã phóng đãng, nhưng vẫn mặc sức hưởng thụ cảm giác trống rỗng được sự buông thả đánh mất lý trí này đem lại. Anh hôn mạch máu mờ nhạt trên phần ngực trắng muốt của cô, hôn gương mặt cô, đôi môi mím chặt của cô, vành tai như trân châu của cô, cô đang gần sát đôi mắt anh, hơi thở của cô và của anh không hề có khoảng cách.

Dưới cơ thể anh là cô, bị anh chiếm hữu và khống chế, còn dưới cô là vực sâu. Anh mạnh mẽ đẩy cô xuống bằng sự cuồng nhiệt, bất kham của mình, cô từ từ chìm xuống, cuối cùng cũng rơi xuống đáy vực. Vào giờ phút anh đạt tới đỉnh điểm của hạnh phúc, cô đã chìm xuống địa ngục.

Cuối cùng cô cũng bật khóc, thỏa sức khóc, không còn đếm xỉa tới điều gì khác, nước mắt cô khiến sự kiềm chế của anh nổ tung, anh siết chặt cô, cõi lòng đau đớn, nhưng lại vẫn thỏa mãn tới kỳ lạ.

Trong địa ngục liệu còn có ai sẽ được cứu vớt? Vào giây phút này, linh hồn chằng chịt vết rách cuối cùng cũng đã hóa vẹn nguyên.
 
Quyển 2 - Chương 85


Ngân Xuyên có thức giấc một lần, anh tưởng giấc mộng kéo dài, mình đã ngủ một mạch tới sáng ngày hôm sau, ngoài cửa sổ là ánh dương sáng rực. Nhưng sau khi tỉnh táo lại, anh mới biết đó không phải nắng mặt trời, cũng chẳng phải ánh trăng, mà là tuyết, tuyết bay rợp trời. Đèn đường chiếu sáng những bông tuyết trắng muốt, bầu trời ngoài cửa sổ trắng xóa, sáng rực.

Tuyết rơi rất dày, gió thổi ào ào, dây điện thoại nối trên tường đã bị gió thổi đứt đoạn, cố chấp gõ từng nhịp lên cửa sổ thủy tinh. Anh sợ tiếng động đáng ghét ấy sẽ đánh thức người trong lòng, bèn ôm cô chặt hơn, tay anh che kín tai cô, cô khó chịu giãy giụa nhưng vẫn tựa vào anh, những lọn tóc mềm mại chạm vào lồng ngực anh,hơi thở ấm áp phả ra. Cảm giác ấy khiến anh cảm thấy thân mật gần gũi hơn cả sự quấn quýt ban nãy. Cảnh Ninh đang say ngủ, hàng mi dài rợp bóng trên gò má trắng nõn, đôi môi đầy đặn hơi cong lên, cô tin tưởng anh, không hề đề phòng hay dè chừng, cô là cô bé mà anh luôn đem lòng yêu.

Nằm trên cùng một chiếc giường với cô, kề cận gắn bó, tay chân quấn quýt, đây là một cảm giác vô cùng lạ lẫm. Hệt như một giấc mộng. Dù nó có đang thật sự diễn ra, anh cũng không dằn lòng nổi mà lặng lẽ cắn vào môi hay ngón tay mình, để chắc chắn xem đây có là sự thật không.

Đúng là không phải mơ, cô đang ở bên anh.

Cơn bão tuyết khóa họ lại trong một tiết điểm thời gian, cho họ lý do để thuyết phục mình dừng lại ngay khoảnh khắc này. Họ co mình trong phòng, mọi thứ ngập trong màn tuyết mờ ảo khó đoán hơn là thế giới hiện thực mông lung trong bóng đêm. Cô sẽ để anh nhìn cô chăm chú, quan sát cô, thưởng thức cô, để ánh mắt anh dừng lại trên mỗi tấc da thịt cô. Cô cũng sẽ đột ngột đẩy anh xuống, chống cùi chỏ trên ngực anh, quan sát anh bằng đôi con ngươi đen láy sáng ngời, hệt như đang tìm lại một thuở ban đầu đã rất xa. Thời gian trôi đi, vẻ ngoài anh vừa quen thuộc vừa xa lạ, mũi, mắt, hàng mày đẹp, cặp môi với những đường nét rõ ràng, bắp thịt làn da căng chắc bóng loáng, cơ thể đẹp đẽ cao lớn, mọi hành động của anh đều như bị kìm kẹp trong xiềng xích, trong nỗi đau đớn và dục vọng như số kiếp đã định. Có thể cô hiểu được anh, cũng có thể không. Dù sao anh cũng đã khiến cô rơi xuống vực thẳm của anh. Cô cúi đầu nhìn gương mặt anh, cô đã quen với tình cảm và sự lưu luyến trong mắt anh, từ thời còn nhỏ, ánh mắt anh đã từng cho cô ấm áp, cho cô ý chí, ánh mắt của anh còn ẩn chứa sự mệt mỏi rệu rã, nó không chỉ đến từ thân thể mà còn đến từ linh hồn anh, giờ đây mọi sự kiệt quệ đều cháy bừng lên, hóa thành những chòm sáng.

Khi cô nhìn anh chăm chú, anh lập tức cảm nhận được cảm giác hạnh phúc và ấm áp. Anh cảm thấy mình chưa từng hạnh phúc, anh điểm lại thật kỹ càng những ký ức vui vẻ hiếm hoi của mình, phải, đây chính là giờ phút anh hạnh phúc nhất, hồn xiêu phách lạc. Khi mái tóc dài đen nhánh của cô xổ ra, lướt trên cơ thể anh, anh cảm thấy càng lúc hít thở càng khó khăn hơn, niềm khát vọng mãnh liệt và sự tham lam không có điểm dừng cuồn cuộn trong anh, không gì có thể ngăn cản anh, anh phải nắm chặt lấy cô, nắm chặt trong tay mình, khóa cô trong căn nhà này, như một con chó sói hoang độc chiếm bạn đời của mình. Họ cuốn lấy nhau, lần nào cũng như sự bùng nổ sau những tháng năm dài kìm nén, cô là tờ giấy Tuyên Thành mềm mại, còn anh là nét mực cứng cáp.

Tuyết ngoài cửa sổ rơi không ngớt, đêm nay dài đằng đẵng, nhưng dường như anh đã cùng cô trải qua bao ngày đêm luân phiên, mọi giác quan đều bén nhạy hơn, âm thanh được phóng đại, động tác cũng rõ ràng, cô và anh lưu lại trong cùng một tấc thời gian, cùng nhau phạm một thứ tội lỗi bí ẩn. Với anh đây là tội, còn với cô có lẽ còn thêm cả sự hổ thẹn.

Con người ta có thể sống trong sự hổ thẹn không?

Mỗi lần anh rời đi, cô đều đứng trước cửa sổ nhìn anh, nhưng cô không biết anh sẽ đỗ xe bên một góc đường rồi lặng lẽ men theo những mái hiên của dãy cửa hàng để quay lại, anh tìm tới toà nhà của cô, đứng chờ nửa tiếng trong gió lạnh rồi mới yên tâm rời đi. Có lần rời nhà, cô phát hiện anh đi theo mình, nếu không phải anh thì cũng có người khác, tất cả đều là thân tín của anh. Có lúc anh sẽ đột nhiên quay lại, mang cho cô thứ gì đó hoặc nói cho cô hay việc tìm kiếm Tiểu Quai có tiến triển gì. Còn có thể có tiến triển gì chứ, đến kẻ bắt cóc Tiểu Quai cũng chết rồi, có lẽ Tiểu Quai đã lành ít dữ nhiều. Cảnh Ninh biết Ngân Xuyên chỉ đang mượn cớ để tiếp cận cô mà thôi. Cô cũng biết anh đang sợ điều gì, sợ cô nhảy lầu, sợ cô tự sát, sợ cô chạy mất. Mà cô tìm tới cục cảnh sát và phòng tuần bộ mỗi ngày cũng chỉ vì thứ hy vọng mù quáng bức bách, không có tia hy vọng này, cô không biết mình sống còn có ý nghĩa gì nữa.

Chỉ trong vài ngày ngắn ngủi, cô đã khiến bản thân quen với sự có mặt của Ngân Xuyên trong cuộc đời mình, dù nó chỉ có tác dụng như một liều thuốc mê, nhưng quả thực anh đã khiến cô tạm quên đi nỗi đau.

Sau một lần khi những cảm xúc mãnh liệt trôi đi, Ngân Xuyên đang chìm đắm trong ảo tưởng cuối cùng cũng không dằn lòng nổi, anh nói với Cảnh Ninh: “Ninh Ninh, cưới anh đi, chúng ta hãy kết hôn, sinh con, sống bên nhau suốt đời này.”

Chính câu nói này đã đánh thức cô, kéo cô trở lại hiện thực, đám mây mù trong đầu cô tan đi, sự thật tàn khốc mà cô cố gắng lãng quên lại sừng sững trước mắt như một bức tường.

Luân hồi là gì? Chẳng qua chỉ là tự gây nghiệt, không thể sống tiếp mà thôi. Khi gây tội, chẳng ai nghĩ mình sai cả, ai mà chẳng có lý do đường hoàng chính đáng? Anh lại trở về làm anh cả, anh luôn là anh cả.

Cô và anh đang phạm tội.

Tuyết rơi tròn hai ngày, tan cũng mất đầy hai ngày. Khoảng thời gian như đóng băng trong tâm trí cuối cùng cũng đã đi tới hồi kết.

Gần tới Giáng sinh, cô nói muốn về nhà mẹ đẻ mừng lễ, bảo anh đi mua chút quà, Ngân Xuyên vui vẻ rời đi. Nhưng anh vẫn không thay đổi, rời cửa rồi lại lập tức vòng về, lặng lẽ quan sát cô có lén bỏ đi không. Biết anh sẽ làm vậy nên ngày hôm ấy cô chỉ cầm một chiếc túi xách, ngoài ra không mang theo thứ gì, trông như đang thảnh thơi đi dạo phố. Cô tới vườn hoa gần nhà mua một đóa hoa hồng trước, sắp tới Giáng sinh, muốn mua hoa phải đặt trước. Đặt xong hoa, cô gọi xe kéo tới cục cảnh sát rồi lại đến phòng tuần bộ Tô giới Pháp, dù biết rõ sẽ không có tin của Tiểu Quai nhưng cô vẫn đi hỏi.

Ngân Xuyên chỉ bám theo đến cửa hàng hoa là đã yêu tâm, nếu cô muốn đi thì còn đặt hoa làm gì? Anh quyết định sẽ tới cửa hàng cô dặn để mua đồ, công việc của anh còn rất nhiều vấn đề cần xử lý, mua sắm xong anh lại trở về hiệu buôn Tây.

Sau khi rời Tô giới Pháp, Cảnh Ninh tới thẳng nhà Đồng Xuân Giang.

Cô tìm thấy bà Đồng, nhờ người phụ nữ này đưa mình tới gặp Đồng Xuân Giang, sau đó nói với họ rằng: “Con tôi bị bắt cóc tại nhà họ Đồng, tôi có trách nhiệm, nhà họ Đồng cũng có trách nhiệm. Con mất rồi, nhà họ Đồng không trả được con lại cho tôi, gia đình tôi tan nát, nhà họ Đồng cũng không thể trả lại gia đình cho tôi.”

Đồng Xuân Giang cau mày: “Cô Phan, tôi chưa từng chối bỏ trách nhiệm của mình, đến giờ tôi vẫn đang nghĩ cách giúp cô tìm con. Chuyện xảy đến với gia đình cô quả thực rất bất hạnh, nhưng nếu cô cứ ôm lấy nỗi bất hạnh này mãi, yêu cầu người khác phải gánh chịu nó cùng cô thì quá bất công với cả cô lẫn mọi người. Cô là một người phụ nữ trưởng thành, đỗ đạt học cao, cô không nên ngang ngạnh không nói phải trái như vậy.”

Cảnh Ninh cười hờ hững: “Ngài Đồng từng nuôi chó bao giờ chưa?”

Đồng Xuân Giang khá ngạc nhiên, ông gật đầu: “Tôi có.”

Cảnh Ninh cười, bình tĩnh nói: “Năm tôi bảy tuổi, mẹ dắt tôi và hai anh trai tới nghỉ hè ở vùng nông thôn quan san, chúng tôi tá túc vài ngày tại một gia đình khá giả. Nhà đó có nuôi một con chó chăn cừu lớn, sau khi mấy đứa nhóc chúng tôi đến chơi, chủ nhà lo chúng tôi sợ chó nên đã nhốt nó sau hàng rào, còn xích cả cổ nó lại nữa. Chú chó đó là một con chó mẹ đang có mang, chúng tôi tới được ba ngày thì nó hạ sinh sáu chú chó con, có hai con chết, thế là nó dồn mấy con cún còn lại nằm cạnh mình, liên tục liếm người cho chúng nó, sợ chúng nó chết. Đến một tối, có kẻ lẻn vào trộm chó con, đám người này rất ác, đứng ngoài hàng rào sắt lén lút quăng lưới vào trong, lặng lẽ câu mất hai chú chó, đến chú thứ ba thì chó mẹ phát hiện ra, bèn sủa ầm lên, muốn xông ra cứu mấy con cún con của nó. Nhưng hàng rào sắt rất chắc chắn, nó không lao ra được, đến khi mọi người giật mình tỉnh dậy, chạy ra ngoài vườn xem có chuyện gì thì hàng rào sắt đã méo vẹo vì những cú đâm, còn con chó nọ thì như lên cơn điên, đầu nó chảy máu ròng ròng, cuối cùng thì đâm đầu vào rào đến chết. Ngài nói xem nó có sợ đau không? Ngài nói xem nó có nghĩ đâm vào hàng rào là một chuyện vô ích, một chuyện thiếu lý trí không? Nhưng vì con mình, nó bằng lòng làm vậy, nó không thấy hành động của mình ngu ngốc chút nào, dù có chết nó cũng thấy đây là lẽ đương nhiên. Đến súc sinh còn vậy huống chi là con người. Trong lòng người mẹ, con cái quan trọng hơn tính mạng cả nghìn vạn lần, đến mạng cũng bỏ được, nào còn hơi sức đâu mà nghĩ tới phải trái ương ngạnh. Vậy nên ngài Đồng đừng nói chuyện phải trái với tôi.”

Bà Đồng nghe mà xúc động, mắt đỏ hoe ứa lệ. Đồng Xuân Giang im lặng hồi lâu, nét mặt cũng dịu đi, ông nói: “Hôm nay cô Phan tới là muốn tôi giúp cô chuyện gì? Cô cứ nói đi, chỉ cần có thể làm được, nhất định tôi sẽ cố gắng hết sức.”

Cảnh Ninh nói: “Vậy tôi xin phép bỏ mặc chuyện phải trái nốt lần này. Ngài Đồng, ngài là người bản lĩnh cao cường, chuyện gì cũng có thể làm được, tôi muốn nhờ ngài đưa tôi rời khỏi Hán Khẩu trong hôm nay. Dù tôi có đi đâu thì ngày ngày vẫn sẽ mua một tờ ‘Sở báo’, xin ngài Đồng hãy đồng ý với tôi, hễ có tin tức gì của con tôi thì hãy đăng lên trang bìa ‘Sở báo’.”

Đồng Xuân Giang kinh ngạc: “Vậy cô… cô muốn đi đâu?”

Cảnh Ninh lắc đầu: “Tôi không biết. Tôi chỉ nghĩ nếu là việc tìm con, các ngài đủ năng lực để lật tung cả Hồ Bắc lên tìm, tôi không cần lãng phí thời gian lưu lại đây. Còn về phần đi đâu… Tôi chỉ có thể đi theo trực giác của mình, đi tới đâu tính tới đó.”

Đồng Xuân Giang thở dài, ông gật đầu: “Được, tôi sẽ lo liệu và chuẩn bị cả tiền lộ phí lẫn sinh hoạt phí cho cô, cô không cần lo lắng.”

Có tia sáng lạ lùng lóe lên trong mắt Cảnh Ninh, cô nghiến răng, nói tiếp: “Ngoài ra tôi muốn xin ngài Đồng hãy hứa với tôi một chuyện: Anh Trịnh Ngân Xuyên – bạn tốt của ngài – sẽ không tìm thấy tôi.”

Đồng Xuân Giang đang cầm điện thoại, chuẩn bị bảo phòng kế toán mang tiền tới, nghe được câu này, động tác ông khựng lại vài giây.

Chiếc xe hơi băng qua trường trung học của cô, Cảnh Ninh nhờ tài xế dừng xe một lát. Bác bảo vệ già vẫn nhớ cô, ông nở nụ cười hiền hậu, để lộ hàm răng khuyết mất một chiếc rồi mở cửa cho cô. Cảnh Ninh trao cho bác bảo vệ một cái ôm rồi bước thẳng vào tòa giáo đường nhỏ trong trường.

Có tiếng đàn organ vọng lại từ góc sâu giáo đường.

Sau vài nốt thử đàn, nhịp điệu êm ái vang lên, những đứa trẻ trong dàn hợp xướng hát vang thánh ca bằng chất giọng trong trẻo ngân vang của mình, âm thanh thuần khiết vang vọng trong không gian rộng rãi. Chúng đang luyện tập cho tiết mục trong buổi lễ sắp tới của mình. Cũng có vài học sinh tới làm thính giả, chúng nhắm mắt, cúi đầu với tư thế sám hối, tiếng ca đã đánh thức nỗi buồn và sự khoan dung trong chúng.

Cảnh Ninh không cúi đầu, tượng Jesus phía trước lấp lánh tỏa sáng nhờ ánh mặt trời rọi vào qua lớp cửa thủy tinh, cô nhìn chăm chú gương mặt đại diện cho nỗi đau khổ và sự cứu chuộc, hồi tưởng lại rất nhiều chuyện và rất nhiều con người trước kia. Giờ phút ấy, cô tạm không nghĩ ngợi về nỗi đau của mình nữa, cô chỉ cầu nguyện cho những người đã để lại dấu vết sâu đậm trong cuộc đời mình, cô cầu nguyện cho Tử Chiêu, cho Đức Anh, cho mẹ và anh trai, cho người cha mất tích, cho Tiểu Quai, cô cũng cầu nguyện cho cả Ngân Xuyên. Cô cầu nguyện với Thượng đế – người có lẽ thật sự tồn tại – rằng hãy khoan thứ cho tội lỗi của Ngân Xuyên, vì linh hồn anh đã luôn bị giày vò trong địa ngục đau khổ, mà anh thì đã lầm tưởng rằng cô là điều duy nhất có thể khiến nỗi đau ấy vơi đi.

Còn cô thì sao? Có lẽ thứ tội lỗi cô mang sẽ vĩnh viễn không gột sạch được, nhưng cô vẫn bướng bỉnh cho rằng đó không phải lỗi của mình. Cô không hy vọng, mong mỏi Thượng đế có thể tha thứ cho cô, cô cũng không để tâm tới chuyện này.

Đầu cô lúc thì trống rỗng, lúc lại như những đám mây lộn xộn xếp chồng trên trời cao, ký ức lướt qua như đèn kéo quân, nhưng cô không thể tiếp tục dừng lại. Cô có chuyện buộc phải làm. Cô tin chắc rằng Tiểu Quai còn sống, mỗi lần niềm tin ấy dâng lên, cô đều cảm nhận được cơ thể nóng hổi, mềm mại của Tiểu Quai đang tựa vào lồng ngực mình. Cô tin chắc rằng rồi một ngày cô sẽ gặp lại Tiểu Quai, cô phải tin vào trực giác của một người mẹ. Cô muốn đi tìm con cô, muốn tìm lại cả chính cô.

Cảnh Ninh đứng dậy, quay người bước vội khỏi giáo đường.

Gió sông như dao, trăng lạnh treo cao, mặt sông không một vệt sáng.

Trời đêm sau cơn tuyết lạnh lẽo, lạnh đến nỗi không khí cũng trở nên cứng rắn, hơi thở đình đốn, lạnh đến mức tốc độ máu chảy trong huyết quản chậm lại, khiến người ta gần như bỏ quên nhịp đập của mình. Ánh đèn đường trở nên sắc lẹm, găm xuống mặt đất thật dữ dội, rồi ánh đèn xe lại va vào chúng thật gấp gáp, khiến chúng hóa thành những tia vun lạnh băng, bắn tung tóe trên bức tường bạc phơ của khu quần thể kiến trúc kiểu Âu.

Anh ta mở cửa xe, tìm từng lối phố một, trông từng con đường một. Ngoài đường chẳng có những tên say, kẻ ăn mày hay đám du côn gây chuyện, không có lấy một bóng người.

Đã là ba giờ sáng rồi, đến chuột cũng không muốn chạy trong đêm lạnh.

Tố Hoài chỉ đành trở lại khu nhà ở Tô giới Đức, ủ dột bước qua cánh cổng vòm gothic. Ngân Xuyên đã mua tầng ba và tầng bốn của tòa nhà này. Tầng ba là văn phòng mới dành cho hiệu buôn Vĩnh Hòa, tầng bốn là nơi ở cho nhân viên quản lý cấp cao của hiệu buôn Tây. Tố Hoài dụi đôi mắt khô rát, nhìn hành lang vắng tanh, cửa phòng Ngân Xuyên đang khép chặt.

Anh ta trở lại phòng mình, đun một cốc trà rất đậm, uống mấy hớp lớn. Còn phải đợi tin của Nam Gia nữa, anh ta không định ngủ luôn, đợi đến khi trời sắp sáng, tiếng chuông điện thoại chợt reo lên, anh ta nhào phắt tới, chất giọng trầm lắng của Nam Gia vọng lại: “Tới đường Lợi Tế đi.”

Ngân Xuyên cuộn tròn trên san, như một bóng đen mờ nhòa, người anh nồng nặc mùi rượu, đang lẩm bẩm vài câu gì đó, Tố Hoài thấy rõ mặt mũi người ngợm anh bắn đấy bùn, bùn dưới ống quần đã két cứng lại. Anh ta chưa bao giờ thấy Ngân Xuyên thế này, dù năm ấy vào tù gặp anh, anh cũng không sa sút đến vậy. Dù người ta đạp gãy xương sườn anh, đau đến độ không nói năng nổi thì khi đi lại anh vẫn cứ ngẩng đầu ưỡn ngực. Nhưng sau khi Phan Cảnh Ninh bỏ đi, linh hồn anh cũng đi theo cô. Lòng tự trọng và sự kiêu ngạo của anh, lý trí và sự nhạy bén của anh biến mất. Anh dần đổ sập xuống trong sự tĩnh lặng im ắng, cõi lòng mà anh cất giấu không để ai hay biết, thứ sức mạnh tinh thần mà anh che lấp kỹ càng nát vụn như tảng băng bị vùi trong lửa cháy rồi hòa tan. Từ lâu Nam Gia đã lo sớm muộn gì tình trạng này cũng sẽ xảy ra, anh ta cũng từng cảnh cáo rồi. Ban đầu Tố Hoài không tin, giờ thì không thể không tin được.

Vậy còn kẻ đã đưa ra lời tiên đoán thì sao? Tố Hoài đưa mắt nhìn Nam Gia đang đứng một góc, anh ta nghiêng người tựa vào khung lò sưởi, khoanh tay, vẻ mặt hờ hững thờ ơ, như thể Ngân Xuyên là một kẻ hoàn toàn xa lạ với mình.

“Anh đứng đó làm gì? Kéo cậu ấy dậy đi!” Tố Hoài sốt sắng, anh ta tiến lại, vươn tay toan dìu Ngân Xuyên dậy, nhưng lại bị Ngân Xuyên gạt đi.

“Cút đi!” Hai mắt Ngân Xuyên đỏ lừ, anh dữ dằn thét, “Cút đi cho tôi!”

Tố Hoài chỉ có thể lùi bước, Nam Gia nhún vai: “Tìm thấy cậu ấy đã khó khăn lắm rồi, giờ cậu ấy thì làm gì thì mặc. Kệ cậu ấy đi.”

“Anh tìm được cậu ấy ở đâu?”

“Ở mảnh đất hoang ngoại ô phía tây,” Nam Gia lạnh nhạt nói, “cũng may tôi biết trước đây cậu ấy thường tới đó, nhưng đêm đông rét như cắt, tìm cậu ấy cũng chẳng dễ.”

Tố Hoài vừa lo vừa tò mò: “Cậu ấy tới ngoại ô phía tây làm gì?”

Nam Gia cười lạnh: “Cậu ấy bảo muốn đi tìm mấy con vịt! Cậu ấy muốn tìm mấy con vịt mình thả đi cho cô Phan!” Nói rồi, anh ta cao giọng, to tiếng với Ngân Xuyên, “Cậu Trịnh, cậu không chết rét là may mắn lắm rồi đấy! Cậu trông cái bộ dạng điên điên khùng khùng của cậu đi, có thấy có lỗi với người mẹ đã khuất của mình không? Có thấy có lỗi với nỗi khổ cực bao năm nay của cậu không? Cậu trông mình hèn kém chưa!”

Ngân Xuyên vươn tay, chầm chậm che tai lại. Anh không nghe.

Nam Gia chẳng buồn cảm thông, nói: “Cậu Trịnh cũng giống mọi người, đều là một đám vô dụng ích kỷ! Cậu chẳng những không bằng Mạnh Tử Chiêu mà còn kém cỏi hơn cả Từ Đức Anh!”

“Im đi!” Ngân Xuyên bịt mắt, thét lên.

“Cậu đừng có chối.” Ánh mắt lãnh đạm mệt mỏi của Nam Gia thoáng có tia đau đớn trĩu nặng, “Ngay cả Mạnh Tử Chiêu và Từ Đức Anh cũng hiểu cách từ bỏ hơn cậu, đến họ cũng bằng lòng trả lại tự do cho cô Phan, chỉ mình cậu giữ chặt cô ấy không buông, chẳng lẽ phải nhìn thấy cô Phan bị cậu hủy hoại thì cậu mới vừa lòng sao? Giờ cô ấy gần như đã bị cậu hủy hoại mất rồi! Sao cậu không chịu quay đầu vậy!”

“Nam Gia!” Tố Hoài kinh ngạc, vội khoát tay ý bảo bạn mình đừng nói tiếp.

Đôi môi Nam Gia run rẩy vì tức giận, căn hộ trở nên vô cùng yên tĩnh, chỉ có chiếc đồng hồ để bàn mạ vàng kêu tích tắc.

Ngân Xuyên buông hai bàn tay đang bịt lấy tay, hai bàn tay ấy đã sây sát vì cái lạnh trong đầm lầy, móng tay đỏ sậm, khớp ngón tay nứt tím bầm. Tố Hoài chỉ cúi đầu thoáng liếc qua rồi không dám nhìn nữa, nước mắt ứa ra.

Nam Gia chậm rãi bước tới bên Ngân Xuyên, anh ta quỳ xuống, khẽ nói: “Cậu Trịnh, buông tha cho cô ấy đi, như vậy cô ấy mới có thể hạnh phúc, nếu hai người gặp lại nhau, cả hai sẽ chỉ tạo nên bi kịch, khi ấy không thể…”

Anh ta chợt ngưng bặt, không nói tiếp nữa, vì anh ta nhìn thấy Ngân Xuyên đang rơi lệ. Họ chưa từng thấy anh khóc. Anh là một con người kiên cường, bướng bỉnh. Anh đang rơi nước mắt, nhưng anh không khóc.

Anh chỉ liên tục rơi nước mắt, những giọt nước mắt tích tụ trong bao năm giờ như nước lũ vỡ đê, liên tục tràn ra, tràn vào tim, khiến tim anh đập rộn lên; tràn vào đầu, khiến anh choáng váng trĩu nặng; tràn vào huyết quản, khiến máu huyết sôi sục; tràn vào tứ chi, khiến đầu ngón tay, đầu ngón chân, từng khớp xương đau đớn.

Ngân Xuyên đang rơi lệ vì sai lầm của anh. Vì sự tự phụ và dã tâm của anh. Vì thứ tình yêu anh có được rồi cuối cùng lại đánh mất, đó là đóa hoa hồng của tuyệt vọng nở trong mảnh đất hận thù. Anh khóc vì tòa thành cô độc đang giam cầm anh.

Anh từng cho rằng mạch đập của toà thành này và trái tim của anh cùng chung một nhịp, nhưng giờ anh chợt thấy nghẹt thở, hóa ra là vì cô đã bỏ đi. Cô là trái tim của anh, cô đã rời khỏi tòa thành này.

Cảnh Ninh mang ảnh của Tiểu Quai theo, cô kẹp một mảnh giấy bên dưới khung ảnh.

Trên đó có viết: “Anh cả, em rất muốn sống tiếp, nhưng em buộc phải rời xa anh, vì em phát hiện chỉ có rời xa anh, rời xa thành phố này em mới có thể thôi đau khổ. Anh đừng giận em, vì anh là người thương em nhất trên đời này, đừng buồn, nếu được thì hãy cứ coi như đang chơi trốn tìm cùng em, coi như đang cùng em chơi một trò chơi.”

Anh đồng ý với cô, chuyện gì cũng đồng ý, nhưng anh không thể không đau lòng. Anh gọi tên cô, cố chấp đeo đuổi như một đứa trẻ tuyệt vọng bướng bỉnh.

“Hạt Dẻ, Hạt Dẻ! Em mau ra đây đi, chúng ta không chơi nữa có được không? Anh không chơi trốn tìm với em, anh không tìm được em! Em mau về đi! Anh sai rồi, anh sẽ không làm em tức giận nữa, anh sẽ không làm vậy nữa!”

“Anh bằng lòng làm tất cả vì em, em muốn gì anh cũng đồng ý, nhưng đừng rời bỏ anh, anh không có nhà, anh không còn nhà nữa rồi! Anh không còn nhà nữa!”

Nghe vậy, Nam Gia im lặng, dường như không thể thấy được gợn cảm xúc nào trên gương mặt anh ta. Anh ta tưởng mình đã lòng gan dạ sắt lắm rồi, có đủ lý do để cho rằng Ngân Xuyên không đáng được cảm thông, nhưng cổ họng và xoang mũi anh ta vẫn cứ cay cay, có lẽ vì cửa sổ để mở nên mặt anh ta cũng lạnh cóng, lạnh tới phát đau, cơn lạnh ấy dần thấm vào xương cốt, lướt lên xuống bên tai, trượt trên cổ họng, anh ta vươn tay chạm thử, hóa ra là nước mắt.

Vầng trăng lạnh buông những quầng sáng tĩnh lặng, như đôi mắt dịu dàng đang nhìn thế gian chăm chú đầy buồn đau. Bó hoa Cảnh Ninh đặt trước khi đi nằm trên chiếc bàn bên cửa sổ, cánh hoa sẫm đỏ đã héo khô.

Đây là chuyện xảy ra vào những ngày cuối cùng của năm 1933.

Năm 1934, một tháng sau dịp năm mới, Lý Nam Gia bước khỏi tòa nhà của hiệu buôn Tây Phổ Huệ, bắt gặp Lưu Ngũ đã đứng đợi mình từ lâu dưới bậc thềm đá.

“Ngài Đồng muốn gặp cậu Lý.” Lưu Ngũ khẽ khom người chào Nam Gia, không đợi anh ta đáp lời đã mở cửa chiếc xe con, vươn tay, “Mời cậu.”

Đồng Xuân Giang ngồi phía hàng ghế sau. Ông gật đầu với Nam Gia vừa bước lên xe. Trước khi đóng cửa xe, Lưu Ngũ ấn chiếc mũ trên đầu Lý Nam Gia xuống, che khuất lấy mắt anh ta một cách khá thô lỗ. Nam Gia rất tự giác, ngồi bất động mặc cho chiếc xe vòng vèo trên đường phố Hán Khẩu, anh ta không hề tò mò, cũng chẳng sợ hãi điểm đến của chuyến xe này.

Đồng Xuân Giang liếc nhìn anh ta, thoáng tỏ vẻ tán thưởng, ông ta hiểu rất rõ chàng trai này. Lý Nam Gia xử lý công chuyện rất nhanh nhẹn quyết đoán, suy nghĩ chín chắn, không hay thể hiện. So với Vu Tố Hoài, anh ta phải tiếp xúc với những công việc tế nhị và phức tạp hơn. Dù vậy nhưng anh ta lại ít khi tự ý qua lại với đối tác làm ăn, đồng thời còn giữ khoảng cách nhất định với người trong bang hội, không bao giờ chủ động tiếp cận.

“Tôi biết thói quen của cậu Lý, lúc nào cũng phải bàn công chuyện ở văn phòng, không bao giờ tới quán trà hay nhà hàng, cũng không bao giờ lên xe người khác. Hôm nay tôi cũng rất xin lỗi vì đã gượng ép cậu Lý phải lên xe mình.”

“Ngài Đồng, ngài khách khí quá.” Giọng điệu Nam Gia lễ phép nhưng lạnh lùng.

“Xin cậu Lý đừng lo tới vấn đề an toàn. Thứ nhất là dạo gần đây không ai dám ám sát tôi ngoài đường giữa ban ngày ban mặt; thứ hai, cửa sổ làm bằng kính chống đạn.”

“Tôi không lo. Vừa khéo gần đây Phổ Huệ đang làm đại lý cho một lô kính tốt nhất toàn cầu, trong đó có cả kính chống đạn. Nếu ngài Đồng bằng lòng, chúng tôi có thể mang hàng mẫu tới nhà ngài.”

Đồng Xuân Giang phì cười, ông gật đầu liên tục: “Tôi còn tưởng cậu Lý là người hướng nội, cứng nhắc, nào ngờ lại lanh lợi khôn khéo, nhanh mồm nhanh miệng như vậy. Tướng tài dưới trướng Ngân Xuyên quả là danh bất hư truyền.”

“Ngài Đồng quá khen rồi. Thời gian của ngài quý giá, ngài có chuyện gì muốn nhờ Nam Gia thì xin cứ nói.”

“Được. Cậu Lý là người thân tín nhất của Ngân Xuyên, tôi có vài chuyện quan trọng liên quan tới cậu ấy muốn bàn với cậu Lý.”

Đồng Xuân Giang xoay người, mỉm cười với anh ta, hàng mày kiếm nhướng lên, để lộ nét cười đầy ẩn ý.

- -----oOo------
 
Quyển 2 - Chương 86


Đồng Xuân Giang nói: “Phần lớn tiền bạc của tôi tới từ nguồn bất hợp pháp, cái thì là vùng xám, cái thì là vùng đen, nhờ cậu Trịnh giúp đỡ mà càng lúc số tiền sạch sẽ đổ vào túi tôi càng nhiều, tôi rất cảm ơn các cậu. Nhưng thương trường biến ảo khôn lường, tôi không còn trẻ nữa, tôi phải nuôi gia đình, lo liệu kế sinh nhai cho các anh em dưới trướng, còn phải đối phó với rất nhiều tai vạ, vậy nên dù là đầu tư hay nhìn người tôi đều cảm thấy càng vững chắc đáng tin càng tốt… Dạo gần đây tình trạng của Ngân Xuyên không ổn định, tính tình trở nên khó đoán, khác xa khi xưa, các cổ đông đã bất mãn từ lâu, có người cũng bắt đầu lung lay. Phạm vi hợp tác giữa tôi và họ rất rộng, theo như sổ sách mấy tháng gần đây, nhiều khoản lợi nhuận đang tụt dốc trầm trọng, nếu tôi bảo mình không lo lắng chút nào thì chỉ e cậu Lý cũng chẳng tin nổi. Trên thương trường tôi là kẻ ngoại đạo, vì tin tưởng vào năng lực của cậu Trịnh nên tôi mới giao cho cậu ấy xử lý tài sản của mình, nhưng tình hình hiện tại khiến tôi không sao vui nổi. Tôi muốn nhờ cậu Lý cho tôi một lời khuyên dưới góc nhìn của người trong ngành: Tôi nên rút vốn hay để các cậu mau chóng nghĩ giúp tôi xem có cách nào ngăn chặn tổn thất không?”

Nam Gia nghiêm túc nghe hết lời Đồng Xuân Giang, ngẫm nghĩ hồi lâu, anh ta nghiêm mặt, nói: “Dù tôi là trợ thủ của cậu Trịnh nhưng thực chất mối quan hệ giữa tôi và cậu ấy cũng là một dạng quan hệ hợp tác như ngài Đồng. Xuất phát điểm của sự hợp tác giữa con người với nhau đến từ lòng tin, chắc niềm tin của tôi dành cho cậu Trịnh cũng giống như ngài Đồng. Làm ăn thì phải thu lợi, đương nhiên cũng cần bỏ tiền tài và công sức, lắm lúc khó tránh khỏi mạo hiểm, ngài Đồng là người từng trải qua sóng to gió lớn, tầm nhìn của ngài sẽ không bị giới hạn bởi chuyện trước mắt. Cậu Trịnh là người cực kỳ xuất sắc, có tài làm ăn buôn bán, đây là chuyện chúng ta không thể phủ nhận, nhưng cậu ấy vẫn đang trong giai đoạn gây dựng sự nghiệp, nếu lúc này tất thảy đều thuận lợi, tương lai chưa chắc đã khả quan. Ngài đã quan sát cả chặng đường trưởng thành của cậu Trịnh, ngài hiểu con người cậu ấy, dù trông qua thì dường như cậu ấy có cách làm việc không từ thủ đoạn, nhưng thực ra cậu Trịnh làm vậy không chỉ vì bản thân. Cậu ấy muốn mình và tất cả những người đã giúp đỡ mình cùng thành công, áp lực của cậu ấy rất lớn. Nhân vô thập toàn, cậu Trịnh cũng có nhược điểm của mình, vừa khéo có thể nhân lúc này mà kiểm tra lại, phát hiện thêm các vấn đề, trải nghiệm thêm vài cơn sóng gió, chỉ cần có thể vượt qua được, giải quyết được, sự nghiệp của cậu ấy mới bền vững. Ngài Đồng có thể kiên nhẫn chờ đợi thêm một thời gian.”

Đồng Xuân Giang nói: “Ừ, tôi không vội. Tôi chỉ hơi lo lắng thôi. Tôi sợ cậu ấy sẽ vướng bận chuyện tình cảm, hành động theo cảm tính.”

“Lo lắng là điều cần thiết, nhưng chưa chắc đã hữu dụng bằng tin tưởng. Có lẽ chỉ vài hôm nữa thôi cậu Trịnh sẽ cho ngài Đồng một câu trả lời thỏa đáng.”

“Tình hình cậu ấy sao rồi?”

Nam Gia nói: “Thời gian vừa qua quả thực đã có vài chuyện bị trì hoãn, giờ cậu ấy đang thu xếp từ từ.”

“Tôi còn có chuyện này muốn hỏi cậu Lý.”

“Mời ngài cứ nói.”

“Có phải giữa Ngân Xuyên và cô Phan Cảnh Ninh tồn tại một uẩn khúc lớn gì không?”

Nam Gia chấn động, anh ta ngẩng đầu, mắt đối mắt với Đồng Xuân Giang nhưng không trả lời, chỉ hỏi ngược lại: “Chẳng lẽ ngài biết tung tích của cô ấy?”

“Nếu tôi nói là có thì cậu mong tôi nói với Ngân Xuyên chứ?”

Nam Gia cúi đầu, rành rọt đáp: “Hiện giờ cả việc làm ăn của cậu Trịnh lẫn ngài Đồng đều cần nhất là ổn định và bình yên. Ngài Đồng đã có quyết định từ sớm, giờ hỏi tôi chẳng qua chỉ là muốn quyết định thêm một lần nữa thôi.”

Đồng Xuân Giang kinh ngạc rồi bật cười thích thú. Chàng trai tên Lý Nam Gia này còn trẻ nhưng tâm tư kín kẽ, khéo léo đưa đẩy, như thể ẩn chứa trong thân xác trẻ trung ấy là một kẻ có tuổi đã trải đủ sự đời, không hổ là trợ thủ đắc lực được tin tưởng nhất của Ngân Xuyên. Dù có thế nào đi chăng nữa, lời nói trông như một câu trả lời qua loa của Lý Nam Gia thực chất lại là sự thể hiện thái độ rõ ràng.

Phải, ông đã ra quyết định, sau khi nghe Lý Nam Gia, một thoáng do dự của ông đã hoàn toàn tan biến. Đây cũng là lời hứa của ông với Phan Cảnh Ninh: Ông sẽ không để Trịnh Ngân Xuyên gặp lại cô ấy nữa, ít nhất là trong mấy năm dầu sôi lửa bỏng này.

Chiếc xe đã lăn bánh vào khu vực thành phố, đỗ trước một căn nhà ở vùng ngoại ô. Lưu Ngũ xuống xe, mở cửa giúp Lý Nam Gia.

Nam Gia lấy làm lạ.

Đồng Xuân Giang nói: “Chuyện thứ ba tôi muốn nói với cậu Lý trong hôm nay nằm trong căn nhà này, cậu vào là sẽ biết. Lưu Ngũ, dẫn đường cho cậu Lý đi.”

Nét mặt Đồng Xuân Giang bình tĩnh, mắt ông phẳng lặng không một gợn sóng, nhưng Nam Gia chợt thấy căng thẳng, anh ta chưa từng nghi ngờ dũng khí của mình, nhưng lúc này cảm giác căng thẳng ấy lại khiến sự ngờ vực phiền não càng thêm sâu đậm.

Anh ta vào nhà cùng Lưu Ngũ. Đây là một căn nhà kiểu nông thôn tầm thường, phơi đầy hạt ngô dưới đất, có dây ớt đỏ treo dưới mái hiên, lớp rèm cửa nặng nề được vén lên, một bà đầy tớ già bưng chậu nước bước ra, thấy họ, bà khom người chào hỏi: “Ngài Lưu!”

“Ông ta đâu?” Lưu Ngũ hỏi.

Người phụ nữ vừa định cất lời thì đã thấy tấm rèm cửa phía sau lục đục như có người đang chuẩn bị bước ra. Tấm rèm này may từ chăn bông để giúp cản gió, giữ ấm, vô cùng dày dặn, vén bằng một tay cũng khó vất vả, xem ra người đang định bước ra không được khỏe mạnh cho lắm. Nam Gia đoán chừng người phía sau có thể là Phan Cảnh Ninh, cô ấy đang trốn bên trong! Vô vàn ý nghĩ xoay chuyển trong đầu anh ta, tất cả đều là làm cách nào để đưa người phụ nữ ấy đi thật xa. Vào thời điểm quan trọng như hiện giờ, Ngân Xuyên buộc phải dồn hết tâm trí vào sự nghiệp, anh cần hóa thành một đầm nước lặng, tích lũy sức lực để chịu trách nhiệm với bản thân và với rất nhiều người. Còn Phan Cảnh Ninh là gợn gió duy nhất có thể khiến đầm nước ấy lăn tăn.

Nam Gia vươn tay, đầu ngón vừa chạm vào đường hoa văn trên tấm rèm cửa, tim anh ta đã đập điên cuồng. Đúng lúc này, người đứng trong nhà chợt hất tung tấm rèm bước ra, toét miệng cười với Nam Gia rồi lảo đảo bước tới giữa sân, ngồi xuống chiếc ghế nằm trơ trọi trên mặt đất.

Khoảnh khắc đối mặt với người này, Lý Nam Gia chợt biến sắc, anh ta lùi về phía sau, chân run rẩy không đứng vững, suýt thì giẫm hụt xuống bậc thềm trước cửa, đương lúc anh ta chuẩn bị ngã xuống, một người đã vươn tay đẩy lưng Nam Gia, giữ thăng bằng cho anh ta.

“Cẩn thận!”

Nam Gia quay đầu, giọng run run: “Ngài Đồng, sao lại…”

Đồng Xuân Giang bình tĩnh đáp: “Phải, là ông ta. Chúng tôi tìm được ông ta vào tuần trước.”

Họ cùng quay đầu nhìn kẻ đang ngồi ngoài sân.

Kẻ này luôn miệng lẩm bẩm, không rõ đang nói gì, mái tóc bạc phơ khẽ bay theo gió. Ông ta ngẩng đầu, híp mắt như đang tận hưởng ánh mặt trời ấm áp phủ kín mặt đất, nhưng hôm đó là một ngày trời râm lạnh lẽo, nào có nắng mặt trời. Ông ta vươn tay, đưa lên kề sát bên miệng như đang cầm tẩu thuốc, nâng tẩu thuốc tưởng tượng của mình lên với điệu bộ hết sức nho nhã, cứ hệt như “hút thuốc” thật. Lát sau, ông ta lại nghiêm túc đưa mắt nhìn xung quanh, gật đầu như thể có người đang đứng phía trước nghe lời chỉ dạy oai nghiêm của ông ta.

Ông ta là Phan Thịnh Đường. Mại bản lừng danh Hán Khẩu, Phan Thịnh Đường.

Vẻ kinh ngạc vẫn hiển hiện trên gương mặt Nam Gia, anh ta tiến lại mấy bước hòng xem cho rõ, sau đó, đôi mắt anh ta mở to.

Ngón cái bàn tay phải cầm “tẩu thuốc” của lão già đó chỉ còn lại phần gốc dài chừng một tấc được bao bọc bởi lớp da nhăn nhúm.

Gương mặt Nam Gia tái mét: “Sao ông ta lại thành ra thế này. Tại sao ông ta… Ngài Đồng, hãy nói cho tôi biết đây không phải sự thật đi!”

“Nhận được tin, người của tôi tới Thượng Hải tìm được Ngô Phong Lâm trước tiên rồi mới thấy ông ta. Ngô Phong Lâm giam Phan Thịnh Đường trong một chiếc lồng sắt lớn chừng cái bồn tắm, ăn uống đại tiểu tiện ngay trong đó, lúc mới nhìn thấy ông ta, thậm chí tôi còn không nhận ra.”

“Còn Ngô Phong Lâm thì sao?”

“Chết rồi, ngã trong lúc chạy trốn, gãy cổ chết.”

“Tay của ông Phan bị làm sao vậy?”

“Đàn em của Ngô Phong Lâm nói trước khi Phan Thịnh Đường phát điên, ông ta đã cầm kéo cắt đứt ngón tay cái của mình để Ngô Phong Lâm không lấy được dấu điểm chỉ. Chúng tôi không điều tra được nhiều lắm, Ngô Phong Lâm chết rồi, giờ chỉ mình Phan Thịnh Đường là người biết rõ chuyện đã xảy ra nhất.”

“Ngô Phong Lâm muốn cướp hai nghìn lượng vàng tại HSBC của ông ta.” Nam Gia cười khổ, sống lưng anh ta lạnh ngắt, “Nhưng nếu ông ta cắt mất ngón cái, Ngô Phong Lâm vẫn sẽ lấy được dấu điểm chỉ mà!”

Đồng Xuân Giang lặng đi chốc lát rồi nói: “Sau khi cắt mất ngón cái, Phan Thịnh Đường đã lập tức nuốt luôn nó.”

Nam Gia lắc đầu khó tin, chân anh ta mềm nhũn, khuỵu xuống, hai tay ôm đầu, vò tóc.

Đồng Xuân Giang thở dài, chậm rãi thốt: “Hơn mười năm trước, tôi và thủ lĩnh Hội Đồng bào Hướng Tùng Pha tới Ân Thi, tham gia buổi lễ chúc mừng quan thổ ty mới nhậm chức. Vị quan thổ ty này là anh em kết nghĩa với anh Hướng Tùng Pha, sau khi buổi lễ kết thúc, ông ấy mời chúng tôi tới tư gia uống rượu, kể một câu chuyện hết sức chấn động. Quan thổ ty này là con thứ tư trong nhà, ba người anh trai của ông lần lượt qua đời trong vòng một tháng trước khi ông nhậm chức. Nguyên nhân đều liên quan tới một món đồ là tảng ngọc phỉ thúy cao gần nửa mét. Ba người anh trai này phát hiện ra tảng ngọc tại biên giới Vân Nam, khi ấy, số công nhân đào mỏ cùng tôi tớ họ mang theo ước chừng phải tới một trăm người. Vào cái ngày đào được tảng ngọc quý, ba anh em đã âm mưu đặt thuốc nổ khiến hơn một trăm người nào chết trong mỏ rồi chở ngọc về Hồ Bắc. Họ ngày đêm không ngủ, dù nghỉ ngơi cũng phải có hai người ngồi gác, một người chợp mắt, cứ thế luân phiên nhau. Tuy nhiên đi được chừng nửa đường, ba anh em đều nổi lòng tham, muốn giết hai người còn lại, anh cả của viên quan thổ ty là kẻ sống sót trong cuộc tàn sát nhưng lại mang trọng thương, không thể chở tảng ngọc phỉ thúy về Hồ Bắc một mình được, vậy là người này chỉ có thể gọi cậu em tư của mình tới chỗ hẹn để hỗ trợ, giấu giếm nguyên nhân cái chết của hai người kia. Khi tảng ngọc phỉ thúy sắp đến Hồ Bắc, người anh cả lại muốn giở trò cũ, hại chết cậu em tư, cuối cùng vì tự vệ mà cậu em tư đã giết anh cả mình. Có thể cậu nghĩ vậy là tảng ngọc này sẽ thuộc về em tư rồi. Nhưng tiếc là không phải. Sau khi người em tư chuyển phỉ thúy vào Hồ Bắc, có một tên quân phiệt đã cướp mất nó, chưa đầy một tháng sau, tên quân phiệt cũng phải nhận cái kết bi thảm, người ta phát hiện ra gã chết bên một con sông, đầu trúng đạn. Sau khi hại chết bao mạng người, tảng ngọc nọ cũng không rõ tung tích. Thật ra những chuyện xảy ra với Phan Thịnh Đường trong vài chục năm nay về bản chất cũng không khác câu chuyện của bốn anh em nọ là bao.”

Đồng Xuân Giang nhìn chằm chằm gương mặt đang nghiêng sang một bên của Phan Thịnh Đường, dù chỉ là một góc mặt, ông vẫn thấy được nếp nhăn chằng chịt trên làn da họ Phan. Ngày đầu tiên khi Phan Thịnh Đường được đưa về Hán Khẩu, Đồng Xuân Giang cũng từng vô cùng kinh ngạc, nhưng chẳng mấy chốc sự kinh ngạc ấy đã hóa thành nỗi bùi ngùi. Chẳng ai đoán nổi ý trời. Phận người bé nhỏ hèn mọn, ném đá ao bèo, đến Phan Thịnh Đường mưu mô tính toán trăm bề cũng có kết cục như vậy, chỉ có thể than rằng vận mệnh khó lường, ý trời và sự tàn khốc của cuộc đời khiến sự hiểu biết của con người ta trở nên thật ít ỏi, nông cạn.

“Trước khi người nhà họ Phan biết chuyện, phải để Ngân Xuyên gặp ông ta trước. Còn trước khi Ngân Xuyên gặp ông ta, có lẽ gọi cậu Lý tới đây sẽ hợp lý hơn.”

Nam Gia dụi mắt, đứng dậy, giọng anh ta đã điềm tĩnh trở lại: “Chỉ cần ông Phan không bao giờ tỉnh lại thì dù khoản tiền nọ có kẹt lại trong kho bạc Ngân hàng HSBC, ông ta cũng chẳng còn tác dụng gì nữa. Ngài Đồng muốn cậu Trịnh gặp ông ta nhất định phải có dụng ý đặc biệt nào đó.”

Nói tới đây, lại nghe tiếng chiếc ghế kêu lên lách cách, Phan Thịnh Đường đứng phắt dậy, run rẩy bước tới trước mặt Nam Gia, nở nụ cười ngờ nghệch với anh ta, nước miếng chảy ròng ròng.

Ông ta chỉ Nam Gia, lúng búng kêu lên vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “A Sâm, con về rồi!”

Nam Gia ngoảnh đầu không nhìn ông ta, Phan Thịnh Đường lại vòng tới trước mặt Nam Gia, “A Sâm, sao con lại không chịu nói chuyện với cha thế? Con nhìn cha này, quay sang nhìn cha đi! Cha dắt con đi tìm mẹ nhé!” Ông ta chợt nghĩ ra chuyện gì, bèn nện thùm thụp lên đâu, “Mẫn Huyên đâu? Để cha gọi Mẫn Huyên ra! Mẫn Huyên, Mẫn Huyên, em mau ra đây mà xem này, A Sâm dỗi anh rồi!”

Ông ta định bước vào nhà, nhưng lại bị tấm rèm cửa nặng trịch cản đường. Tuy vậy, hai tay ông ta thật sự không còn sức, ông ta cuống quýt sốt ruột, cuối cùng đành vén một khe nhỏ, định cúi xuống thò đầu vào, nào ngờ lại đập bốp vào tường.

Lưu Ngũ không đứng nhìn nổi nữa, bèn vén rèm cho ông ta, dìu ông ta vào.

Nam Gia cắn môi, gân xanh trên trán nổi lên, Đồng Xuân Giang nhìn anh ta, nói: “Cậu nói xem liệu ông ta còn nghĩ đến chuyện gì được nữa? Tiền tài sao? Lợi lộc sao? Nếu còn tỉnh táo, e là đến chính ông ta cũng không ngờ mình có thể thốt lên hai cái tên ấy, rằng đó lại là thứ duy nhất còn sót lại trong đầu ông ta. Ngân Xuyên nên tới nhìn người này, nếu cậu ấy muốn đi cùng một con đường với Phan Thịnh Đường thì nên tới mà nhìn ông ta.”

Nam Gia lắc đầu: “Cậu Trịnh đi trên con đường của riêng cậu ấy. Nhưng ngài nói đúng, cậu ấy nên là người được nhìn thấy bộ dạng lúc này của Phan Thịnh Đường hơn ai hết.”
 
Quyển 2 - Chương 87


Cửa sổ đang mở, tiết trời đầu xuân dần chuyển ấm áp, bầu không khí ẩm ướt, những gốc đa và ngô đồng cao lớn ngoài kia đã chuẩn bị nảy những mầm non mới, tầng sương mù vàng nhạt phủ nơi đầu cành, bên đường cái là bãi cỏ hình chữ nhật được chăm sóc gọn gàng sạch sẽ, thay tầng cỏ mới, mọi thứ cũng trở nên căng tràn sức sống, tuy vậy, bầu không khí khu chung cư lại như buổi hoàng hôn xâm xẩm. Sàn gỗ đã lâu không được lau dọn giờ bám bụi mờ, ánh lửa trong lò sưởi chiếu lên mặt đất cũng tối mờ đi. Đồ đạc, vải bọc xô pha, rèm cửa trở nên buồn bã trĩu nặng.

Tố Hoài rút đồng hồ bỏ túi: lúc này là 8 giờ 40 phút. Anh ta sốt ruột cau mày, nhắm mắt lại trong tích tắc rồi mở ra, thở dài, sốt sắng gõ nhịp ngón tay trên đùi.

“Cậu sao vậy?” Nam Gia thắc mắc.

“8 giờ 40 rồi!” Tố Hoài nói, “Tôi lại nhớ tới chuyện gia đình của Miss Havisham! Tôi thấy đây không phải là trùng hợp. Chuyện này có ổn không?”

Nam Gia liếc nhìn anh ta: “Cậu ấy bảo chúng ta đợi thì ta cứ ngồi đây đợi đi. Cậu ấy bảo sẽ nghĩ ra cách thì chắc chắn sẽ có cách.”

Tố Hoài thì thầm: “Lúc này cậu lại tin tưởng cậu ấy quá nhỉ, hồi trước cậu nói cậu ấy thế nào?”

Nam Gia lấy mất chiếc đồng hồ bỏ túi trong tay Tố Hoài rồi tiến lại gần bạn mình: “Nhìn đi, đã qua hai phút rồi, 8 giờ 42 rồi đấy, thời gian vẫn đang trôi chứ không hề dừng lại! Cậu ấy cũng như vậy!”

Chín giờ, Ngân Xuyên bước khỏi phòng ngủ, lúc này anh đã thay quần áo, anh mặc chiếc sơ mi trắng được hồ phẳng phiu cùng áo gile, vest đen. Gương mặt sạch sẽ sáng ngời, trông như đã được nghỉ ngơi đầy đủ, ánh mắt sáng rực, trông anh vẫn vững vàng và nhanh nhẹn như trước. Tố Hoài và Nam Gia cùng đứng dậy.

Ngân Xuyên vươn tay: “Đưa tôi xem lại sổ sách.”

Tố Hoài vội mở cặp táp, đưa anh sổ sách. Ngân Xuyên xem kỹ một lượt rồi gật đầu, nói: “Đi thôi.”

Tố Hoài hỏi ngay: “Nhưng có cần chuẩn bị thêm tài liệu không? Thế này liệu có đủ không?”

Vẻ mất kiên nhẫn thoáng lướt qua đôi mắt đen của Ngân Xuyên, anh bỏ lơ Tố Hoài, bước thẳng đi.

Nam Gia nở một nụ cười kín đáo, khẽ vỗ vai Tố Hoài. Tố Hoài lè lưỡi, hai người theo sau Ngân Xuyên, sải những bước dài rời khỏi căn phòng. 

Mùa đông năm ngoái, quản lý chi nhánh Hiệu buôn Vĩnh Hòa tại Trùng Khánh nhân lúc Ngân Xuyên lơ là công việc để lôi kéo vài nhân viên cốt cát thoát ly hiệu buôn Tây cùng mình, tự thành lập nên “Công ty Dầu trẩu Ba Thục” rồi nhờ cậy quân phiệt Tứ Xuyên Tống Hiếu Cơ làm chỗ dựa cho công ty, chuyên tiến hành thu mua và tiêu thụ dầu trẩu. Ban đầu, Công ty Ba Thục này chủ yếu kinh doanh trong phạm vi quốc nội, còn Hiệu buôn Vĩnh Hòa coi xuất khẩu là chủ đao nên hai bên tạm thời không có xung đột lớn. Nhưng chẳng bao lâu sau, Công ty Ba Thục đã móc nối quan hệ với một hiệu buôn vốn Mỹ, bắt đầu xuất khẩu dầu trẩu. Vậy là mâu thuẫn của họ dần trở nên gay gắt. Đặc biệt là khi thu mua dầu trẩu, Công ty Ba Thục đã mượn thế lực của quân phiệt để tìm tới vùng sản xuất dầu trẩu, miệng thì bảo là mua nhưng thực chất lại đi ‘cướp bóc’, nhà cung cấp chỉ có thể ưu tiên bán dầu trẩu cho họ, Hiệu buôn Vĩnh Hòa luôn tới chậm một bước. Xuất khẩu dầu trẩu là một trong những nguồn thu quan trọng nhất của Hiệu buôn Vĩnh Hòa, cũng bởi lý do nêu trên mà nghiệp vụ này đã chịu ảnh hưởng lớn.

Thủ đoạn ứng phó với kẻ thù của Ngân Xuyên rất tàn nhẫn, đồng thời cũng vô cùng liều lĩnh: Anh lấy 30% lợi nhuận của Hiệu buôn Vĩnh Hòa bù vào giá thành sản phẩm để tiến hành cuộc chiến giá cả với Công ty Ba Thục cho tới tận khi công ty này gục ngã. Lúc mua dầu, anh lấy giá cao để đoạt nguồn hàng trước, khiến Ba Thục không thể ra tay nổi, Ba Thục bán mỗi 50kg dầu trẩu với giá 35 đồng, Vĩnh Hòa thì giới hạn trong mức 35.5 tới 36. Trước khi dầu trẩu của Vĩnh Hòa chỉ được xuất khẩu ra nước ngoài, không tiêu thụ tại đại lục, nhưng vì muốn chặn đường Ba Thục, Vĩnh Hoa đã bắt đầu kinh doanh tiêu thụ trong nước, giá cả lại có khuynh hướng giảm mạnh. Ba Thục bán 30, Vĩnh Hòa chỉ bán 29, dần dà, Công ty Ba Thục không thu được lợi lộc gì, cuối cùng đã xuất hiện những khoản lỗ. Song, Vĩnh Hòa mới thành lập chưa lâu, khả năng quay vòng vốn cũng không được tốt, bị Ba Thục quấy rối, chẳng mấy chốc Vĩnh Hòa đã phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt vốn. Mùa thu mua dầu trẩu mới sắp đến, nếu không có đủ vốn mua dầu, rất có khả năng kho sẽ không còn hàng mà bán nữa.

Ngoài đường người qua kẻ lại rộn ràng, tiếng còi xe hơi inh ỏi cứ lởn vởn bên tai, những chiếc xe chăng mạng ngoài đường, xe kéo cũng luồn lách dày đặc trong những khe hở. Nam Gia ung dung lái chiếc Ford cũ kỹ, có mấy lần còn dừng hẳn bên đường một lúc để tránh đụng chạm với người ta. Tố Hoài tính tình nóng nảy, luôn miệng giục Nam Gia nhanh nhanh cho kịp giờ, Ngân Xuyên nhắm mắt tựa lưng trên hàng ghế sau, lặng thinh không nói, hàng mi cụp xuống.

Dường như những ồn ào huyên náo trong và ngoài lớp cửa xe chẳng hề dính dáng tới anh, không, anh chỉ đang coi mình là một phần của cảnh tượng này, anh lặng lẽ xếp mình ở một góc, như một bó lửa bập bùng trong hàng dọi đèn xếp dài trên đàn thờ, đốt lên ánh lửa phục tùng, chiếu sáng cho bóng đêm của riêng anh. Đây là cách anh tồn tại, tĩnh lặng, gọn gàng. Ở Hán Khẩu, ở thành phố lớn thứ tư Trung Quốc, sự lộng lẫy, phô trương và chật chội là lẽ vĩnh hằng mãi tồn tại như ánh dương. Những kẻ sống nơi đây cũng nên quen với chúng như quen với ánh nắng mặt trời. Mưu cầu tiền tài đã trở thành một thứ luân lý mới không có ràng buộc hạn chế, chỉ cần thành phố này còn tồn tại, đôi chân sẽ không thể dừng bước, sẽ không thể ngừng bùng cháy.

“Có phải mình nên sám hối rồi không?” Ngân Xuyên thầm châm chọc bản thân. Anh không người theo đạo, tín ngưỡng của anh chỉ có cái đúng và sai do anh tự nhận định, anh luôn gắng sức phấn đấu, những gì anh có được chẳng lớn hơn nổi tội nghiệt anh mang. Anh không nghĩ mình nên sám hối. Hơn nữa, giờ đây ngoài những thứ trách nhiệm mình không thể không gánh vác ra, anh chẳng còn gì hết.

Cuối cùng chiếc xe cũng vượt khỏi cung đường tắc nghẹt, những khối nhà đứng hiên ngang bên con đường lớn ven sông, các tòa nhà sát đường được xây dựng đảm bảo tiêu chuẩn khoảng cách chặt chẽ, rất rộng rãi thoáng đãng. Cái giá để đổi lấy sự dồi dào về vật chất và tiền tài chính là sinh mạng con người và năng lượng của thành phố này. Thành phố bơm đầy của cải, dục vọng và hay vọng, đồng thời cũng ôm theo tội ác, hủy diệt và tái sinh. Cũng như tòa nhà cao lớn trước mắt họ, nó được dựng lên trong đống phế tích, cuối cùng cũng đứng sừn sững tại đây với một dáng vóc hoàn toàn mới mẻ.

Đây là Ngân hàng Đại Thanh Hán Khẩu từ thời Tiền Thanh, giờ thì thành chi nhánh Hán Khẩu của Ngân hàng Trung Quốc, là tác phẩm nổi danh nhất của đơn vị thiết kế – Công ty Thông Hòa. Nó chính là Tòa nhà McBain sừng sững giữa Bến Thượng Hải, được biết tới với cái tên tòa nhà số một Bến Thượng Hải. Nó, Tòa nhà Ngân hàng Đại Thanh Hán Khẩu với phong cách chủ nghĩa cổ điển, đã như một cơn chấn động hào hoa trang nghiêm, đánh thẳng vào thị giác mỗi người dân ngay từ khoảnh khắc nó cắm rễ tại đây.

Nhóm của Ngân Xuyên bước vào thang máy cửa hông tầng một, lên thẳng tầng bốn, giẫm lên những tấm sàn gỗ phủ một tầng sáng nhu hòa như lớp lông thiên nga, họ băng qua hành lang dài rộng rãi sâu hun hút, chân tường gỗ nâu và lớp ván che gỗ hoa tỏa thứ hương thoang thoảng, ánh dương đằng trước rọi tới như đèn pha, đó là phòng họp, cửa đang mở, những bữa cơm sáng, trưa và tiệc rượu đều được tổ chức tại đó.

Trần Quang Phủ – chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng Thương mại Tiết kiệm Thượng Hải, thành viên hội đồng quản trị thường vụ Ngân hàng Trung Quốc tới Hán Khẩu, được Đặng Hiến Huy là giám đốc chi nhánh Hán Khẩu của Ngân hàng Trung Quốc tổ chức một buổi tiệc rượu chào mừng. Rất nhiều khách khứa đều có mặt sớm để được gặp gỡ Trần Quang Phủ. Trần Quang Phủ trước đây vốn là người học việc tại hiệu buôn Tây, khởi nghiệp với số vốn 100.000 đồng, chỉ trong 20 năm ngắn ngủi, ông đã biến một ngân hàng nhỏ có lượng vốn ít ỏi thành ngân hàng thương mại tư nhân lớn nhất Trung Quốc. Ông lần lượt đảm nhận các chức vụ quan trọng như ủy viên Chính quyền tỉnh Giang Tô, quản lý Ngân hàng Trung ương, thành viên hội đồng quản trị thường vụ Ngân hàng Trung Quốc và thành viên hội đồng quản trị Ngân hàng Giao Thông. Ba năm trước, ông liên doanh với hiệu buôn Tây Thái Cổ để thành lập công ty bảo hiểm, bảo hiểm chuyên chở hàng hóa của các cảng mở trên Trung Quốc đều có mối quan hệ mật thiết với công ty này. Nhiều người đến đương nhiên cũng do ngưỡng mộ tiếng tăm của ông, ngưỡng mộ tới độ muốn tận mắt thấy ông một lần, nhưng quan trọng hơn vẫn là vì tiền.

Ban đầu, khi Ngân hàng Thương mại Tiết kiệm Thượng Hải của Trần Quang Phủ mới thành lập, nó chỉ thu hút, gom góp dần những khoản tiền gửi nhỏ, thậm chí còn từng tung ra chương trình quảng cáo “Bạn có thể mở tài khoản chỉ với một đồng”, vậy nên ngân hàng nhận được sự hoan nghênh của đông đảo cư dân thành phố, đặc biệt là người dân nghèo. Khi ấy, rất nhiều các ngân hàng tại Thượng Hải xem thường không muốn hợp tác với ngân hàng này. Thậm chí còn cười nhạo ngân hàng này phát sổ tiết kiệm, cộng lãi cho các khách hàng chỉ gửi vỏn vẹn vài trăm đồng. Tuy vậy, từ khoản vốn hơn mười nghìn đồng khi mới thành lập, đến giờ ngân hàng bị thị trường tài chính hoa mỹ bài xích này đã tích lũy được hơn ba mươi ba triệu đồng, đồng thời trở thành ngân hàng sở hữu lượng tiền gửi lớn số một toàn Trung Quốc, tạo nên một kỳ tích trong giới tài chính. Riêng Trần Quang Phủ cũng trở thành một nhân vật đáng gờm trong giới kinh doanh và tài chính Trung Quốc, được nhiều nhà đầu tư cùng chủ doanh nghiệp tán tụng là thần tài.

Lúc này có rất nhiều người đang vây lấy thần tài, trong đó chẳng thiếu những gương mặt quen thuộc, bao gồm cả Tử Chiêu.

Mảng chuyên chở viễn dương của Hãng thuyền Đại Quân đã vào guồng nhưng vận tải trong nước còn gặp nhiều khó khăn. Sau khi hợp tác với Công ty Dân Sinh, các công ty chuyên chở có vốn đầu tư khác đuổi theo Đại Quân sát sao, thậm chí tình cảnh của Đại Quân đang khá khó khăn. Đơn vị hợp tác lớn nhất của Đại Quân là Công ty Dân Sinh đang phải đối mặt với tình hình tài chính tồi tệ, sau những thương vụ thu mua sáp nhập các tuyến chuyên chở Xuyên Giang trong nhiều năm liên tiếp, dòng vốn lưu thông của họ đình trệ do còn phải gánh những khoản nợ của các công ty khác. Đến đầu năm nay, lượng nợ đã lên tới vài trăm nghìn đồng. Trong tình cảnh cạnh tranh chuyên chở đường thủy nội địa khốc liệt, Dân Sinh và Đại Quân không hề có quân chi viện do Luân thuyền Chiêu thương Cục cũng đã đứng về phía Di Hòa và Thái Cổ, kết bè kéo cánh với các công ty chuyên chở vốn đầu tư nước ngoài, chặn đứng đối thủ thân cô thế cô của mình. Hôm nay Mạnh Tử Chiêu tới đây hòng tìm kiếm nguồn vốn và sự hỗ trợ của Trần Quang Phủ. Cậu không bưng trà, rót nước, nói những lời ton hót với ông như những người khác mà chỉ lặng lẽ đứng bên ngoài, nghiêm túc lắng nghe cuộc trò chuyện giữa Trần Quang Phủ với mọi người, chỉ khi đến thời điểm thích hợp mới lịch sự thể hiện quan điểm của mình. Cậu đã không còn là cậu ấm ngỗ ngược bất kham năm ấy rồi. Tất cả những kẻ ở đây đều là dân làm ăn, cậu cũng chẳng phải ngoại lệ. Thấy Ngân Xuyên tới, đôi mắt cậu thoáng tối đi nhưng chẳng mấy chốc đã trở lại như thường, dù vợ cậu đang đứng bên cửa sổ ăn bánh, trò chuyện của vài nữ quyến, dù cậu biết Ngân Xuyên đang liếc nhìn cậu với ánh mắt rối bời cảm xúc, cậu cũng vẫn lãnh đạm, bình tĩnh. Đây là nơi bàn chuyện kinh doanh của người làm ăn, cậu là một “doanh nhân” chân chính, doanh nhân không nên vướng bận chuyện quá khứ. Tuy nhiên, khoảnh khắc hai cặp mắt giao nhau, thứ cảm giác bể dâu khiến cậu cảm thấy bất lực vẫn cứ ngập trong tim cậu.

Ngân Xuyên đưa mắt quan sát xung quanh, chào hỏi mọi người một cách tự nhiên, nở nụ cười lễ độ nhã nhặn. Anh đã tránh mặt người ngoài một thời gian, mối duyên phức tạp rối rắm với nhà họ Phan, những sóng gió vướng mắc trên thương trường giữa nhà họ Trịnh với nhà họ Phan khiến anh tự động trở thành tâm điểm chú ý ngay khi bước vào sảnh. Giới thương nhân đang bàn tán xôn xao về Phòng Kế toán Hoa Phổ Huệ cùng Hiệu buôn Tây Vĩnh Hòa, lần này sự xuất hiện của Ngân Xuyên đã khiến mọi người càng thêm chắc chắn rằng: Xem ra cậu chàng này gặp phiền phức to rồi, đến người như cậu ta cũng phải đến xin tiền.

Trong phòng họp rộng rãi có chín chiếc cột vuông lớn, cửa sổ thủy tinh giúp sáng ùa khắp phòng, làm dịu bớt bầu không khí nặng nề, căn phòng trở nên sáng sủa, trang nhã hơn, cũng giúp đôi mắt Ngân Xuyên sáng rực như viên bảo thạch nóng cháy. Anh thong dong cất bước, hai người trợ thủ đi sát phía sau, họ tiến thẳng tới trước mặt Trần Quang Phủ. Những người đang trò chuyện đều dừng lại, đến Trần Quang Phủ cũng nhìn anh chăm chú.

Đây là một chàng trai có dáng vẻ lịch lãm, mái tóc đen óng và đôi mắt trong veo khiến anh trông rất đỗi tuấn tú, chắc chắn anh cũng hiểu rõ mình sở hữu ngoại hình vượt trội, nếu không nhờ có vẻ lo âu và mỏi mệt không che giấu nổi trong đôi mắt anh, gương mặt này sẽ khiến ông cảm thấy anh là người chưa từng biết khổ cực là gì. Sự kiêu ngạo trong mắt anh làm người ta lơ đãng có thành kiến với anh, cũng may mọi người rất hiểu cách làm việc và đối nhân xử thế của anh, vậy nên thành kiến đã biến thành ngạc nhiên: Anh làm vậy bằng cách nào? Sao có thể hòa trộn vẻ ngoài và linh hồn đầy mâu thuẫn để tạo nên một chỉnh thể hoàn hảo tựa tôi luyện trong lò nung như vậy.

“Chào ông Trần!” Giọng nói sáng rõ và ánh mắt trong veo đồng thời xuất hiện.

“Cậu Trịnh, sau lần hội họp tại Thượng Hải đầu năm ngoái, chúng ta đã không gặp nhau một thời gian rồi.” Gọng kính vàng kim của Trần Quang Phủ lóe sáng dưới ánh mặt trời, ông chậm rãi nở nụ cười, “Quy mô Ngân hàng Phú Hưng của cậu Trịnh đã mở rộng hơn hẳn, chúc mừng cậu!”

“Để ông Trần phải cười chê rồi, Phú Hưng còn đang trong giai đoạn lập nghiệp gian nan, nào dám tự hào về quy mô, giờ chủ yếu chỉ có duy trì khách gửi tiền, không còn dư thừa sức lực và tiền tài để đầu tư. Còn phải phiền ông Trần dìu dắt đám hậu bối chúng tôi.” Anh không hề giấu giếm tình trạng kinh doanh của mình, chẳng hề nói một lời khách sáo. Cách ăn nói thẳng thừng của anh khiến người đứng bên cạnh không khỏi kinh ngạc.

Trần Quang Phủ nhướng mày, không nói tiếng nào.

Tử Chiêu vô cùng kinh ngạc, cậu liếc nhìn Ngân Xuyên khí thế bừng bừng, chắc chắn hôm nay anh đã quyết lấy được tiền từ tay thần tài rồi. Quả nhiên, Ngân Xuyên quay sang cầm một cuốn sổ bìa da cứng từ tay Tố Hoài, anh cười, nói với Trần Quang Phủ: “Chẳng mấy khi ông Trần ghé chơi Hán Khẩu, tôi đã chuẩn bị cho ông Trần một món quà để ông không uổng phí chuyến này, mong ông vui lòng nhận cho.”

Trần Quang Phủ hờ hững: “Lần này tôi tới đây không nhận quà, không bàn chuyện kinh doanh, cũng không định đầu tư.”

Ông thốt, chặn đứng lời Ngân Xuyên, đồng thời cũng chặn cả đường những người khác. Bốn bề lập tức lặng ngắt, Tử Chiêu khẽ nhíu mày.

Ngân Xuyên thong dong cất lời: “Ông Trần là người được trọng vọng mến mộ, đương nhiên chưa chắc đã coi trọng món quà của hậu bối. Nhưng trong lòng hậu bối, ông Trần luôn giữ lối xử thế lánh xa quan trường, gần gũi thương nhân, chắc chắn không phải người sẽ lãng phí thời gian vô ích trong những buổi tiệc xã giao. Chắc hẳn ông Trần tới buổi tiệc chiêu đãi hôm nay không chỉ để uống trà đen, ăn bánh ngọt cùng mọi người. Người làm ngân hàng luôn bén nhạy sắc sảo, nắm chắc cơ hội tới từng phút từng giây, kiến tha lâu đầy tổ, tuy vậy, sai một ly lại đi một dặm. Thời ông Trần mới thành lập ngân hàng tiết kiệm, thậm chí còn chẳng buông tới một phân một ly, giờ há có thể bỏ qua một cơ hội làm ăn khổng lồ?”

Trần Quang Phủ bật cười: “Cậu thật là! Bảo sao người ta bảo Trịnh Ngân Xuyên là con thạch sùng của chốn thương trường Hán Khẩu, cậu mà đã chú ý tới ai là người đó không thoát nổi!”

Ngân Xuyên cúi đầu như đang mỉm cười: “Ông Trần quá khen rồi.”

Căn phòng họp này có một lối cửa hông, cột cửa chạm khắc tinh xảo từ bậu đến tận đỉnh, mở ra dẫn tới một căn phòng khác. Đây là lối thiết kế thường thấy trong những tòa nhà kiểu Âu, Tòa nhà Ngân hàng Hoa – Nga và Tòa nhà Ngân hàng HSBC cũng có lối kiến trúc tương tự. Trần Quang Phủ và nhóm Ngân Xuyên tiến vào căn phòng cách vách, Tố Hoài trình bày cho Trần Quang Phủ về những khó khăn tài chính gần đây của Hiệu buôn Tây Vĩnh Hòa. Nghe xong, Trần Quang Phủ nâng kính, cười nói: “Đây chính là cơ hội làm ăn của cậu Trịnh ư? Chẳng lẽ các cậu và những người khác không giống nhau sao? Các cậu lâm vào tình cảnh này, chẳng lẽ lại không muốn vay tiền tôi?”

Tố Hoài thoáng lo lắng, không khỏi đưa mắt nhìn Ngân Xuyên.

Ngân Xuyên cười nói: “Phải trình bày rõ khó khăn của mình trước thì mới thể hiện được thành ý, người có thành ý mới đáng tin cậy. Giờ thì tôi xin được đề cập tới ưu thế của chúng tôi. Dầu trẩu là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Trung Quốc với khả năng tiêu thụ cực kỳ khả quan tại nước ngoài, có thể kiếm về một lượng ngoại tệ lớn, mức giá của một khoang dầu trẩu vào khoảng 70.000 USD. Về khâu bảo hiểm, chúng tôi mua bảo hiểm của công ty Mỹ, sử dụng loại hình bảo hiểm bao, tiết kiệm được một khoản phí tương đối so với mua bảo hiểm riêng cho từng chuyến, giảm đáng kể chi phí bỏ ra. Về mặt thuế quan, chúng tôi sẽ tự khai báo hải quan, cũng tiết kiệm được cả tiền nộp thuế. Xét về vận chuyển, chỉ cần nhận được vận đơn chúng tôi sẽ lập tức trả tiền ngay, tuyệt đối không khất lần, nhanh chóng hơn rất nhiều so với các hãng buôn có thời hạn kết toán chung vào ba dịp lễ lớn là Tết Nguyên đán, Đoan ngọ, Trung thu. Các công ty tàu thủy khác tranh cướp nhau muốn vận chuyển cho chúng tôi, vậy nên thực lực kinh doanh của Hiệu buôn Tây Vĩnh Hòa rất đáng tin cậy, sở hữu triển vọng xán lạn.”

Trần Quang Phủ mỉm cười: “Nhưng đó là với tiền đề các cậu phải có vốn để thu mua dầu trẩu, phải chứ? Còn không, không bột đố gột nên hồ.”

Ngân Xuyên gật đầu: “Trước đó chúng tôi cạnh tranh với đối thủ do bên phe quân phiệt kiểm soát, để hao hụt một khoản vốn, đúng thực hiện nay đang lâm vào cảnh hiểm nguy, nhưng lần này chúng tôi không chỉ nhờ cậy ông Trần bù đắp vốn kinh doanh, mà còn hy vọng tạo nên bước đột phá mới, bước đột phá này rất có ý nghĩa tích cực với ông Trần và với cả Ngân Hàng. Thực chất chúng tôi đã thảo luận với một ngân hàng khác rồi, bọn họ cũng rất hứng thú.”

“Ồ? Liệu tôi có thể hỏi đó là ngân hàng nào không?”

Ngân Xuyên nhìn thẳng vào mắt ông: “Hoa Kỳ.”

“Packing Finance, tín dụng ứng trước.” Ngân Xuyên ung dung nói, “Chúng tôi xin vay một khoản tiền từ ngân hàng ông Trần, khoản ngoại tệ nhận được sau khi hàng xuất khẩu sẽ được bán thẳng cho quý ngân hàng, muốn chuyển đổi tỉ giá theo giá niêm yết khi kết toán ngoại hối hay định giá ngoại hối trước rồi chuyển tiền khi xuất khẩu là tùy ông Trần, lãi hằng năm cũng do ông quyết định. Chúng tôi không can thiệp.”

Tình hình chính trị trong nước không ổn định, nhiều ngân hàng Trung Quốc điều chỉnh đồng tiền bản vị thành ngoại hối, gửi sang nước ngoài để bảo toàn thực lực. Lời Ngân Xuyên nhằm thẳng vào quyết sách quan trọng của Trần Quang Phủ. Ông trầm ngâm hồi lâu, gật đầu: “Tôi đã hiểu ý cậu, ban nãy tôi cũng đã xem qua báo cáo tài vụ và giới thiệu tình hình, tôi phát hiện ra có một điểm kỳ lạ.”

“Lão Hà Khẩu là vùng trọng địa sản xuất dầu trẩu, tại sao các cậu không lập chi nhánh tại nơi này?”

Ngân Xuyên mỉm cười: “Chúng tôi đã có kho dầu và chi nhánh ở Trùng Khánh, Vạn Huyện, Nghi Xương, Kinh Môn. Hơn nữa phạm vi kinh doanh của một vài thương nhân bán dầu nhỏ lẻ ở Hán Khẩu đều tập trung tại Lão Hà Khẩu là chính. Nếu đến một địa điểm cũng không nhường lại cho họ, kinh doanh bằng cách thức triệt hết đường lùi thì không được hay cho lắm. Vậy nên tôi quyết định bỏ qua nơi này.”

Nghe anh nói tới đây, Tố Hoài và Nam Gia sực tỉnh, cuối cùng vấn đề khiến họ băn khoăn nhưng chưa từng nhận được lời giải thích từ Ngân Xuyên cũng đã có đáp án. Họ biết Ngân Xuyên chưa hề vượt qua nỗi đau, ánh mắt và nụ cười bình tĩnh của anh chỉ là sự gượng ép gồng gánh. Từ nhỏ Ngân Xuyên đã phải vùng vẫy tìm cách sống sót trong hiểm cảnh, lúc nào cũng như đang đi trên băng mỏng, sau khi anh gặp phải những biến cố lớn trong sự nghiệp và tình cảm, họ cũng từng hoài nghi nghị lực hay thậm chí là nhân phẩm của anh. Nhưng giờ phút này, Ngân Xuyên khiến họ cảm thấy quá đỗi xa lạ, nhưng cũng vô cùng thân quen. Hóa ra những quầng sáng náu trong bản tính anh vẫn còn ở đây. Đồng thời còn có rất nhiều điều mà họ không biết, hay thậm chí là kính sợ đang ẩn náu trong đó. Chúng chẳng hề liên quan tới trí tuệ, tài năng hay sự tinh anh. Đó là một thứ sức mạnh khổng lồ bẩm sinh, hòa quyện với nhựa sống.

Trước khi đi, Trần Quang Phủ gọi Ngân Xuyên lại: “Nghe nói cậu đang giằng co quyết liệt với ông chủ của Hiệu buôn Tây Phổ Huệ, đòi tách ra làm riêng, hà cớ gì phải làm khổ mình như vậy? Giờ cậu đã tiến hành tới bước nào rồi?”

Ngân Xuyên nói: “Trước kia người Trung Quốc chỉ có thể mượn danh nghĩa hiệu buôn Tây để nhận ưu đãi thuế quan và xuất nhập khẩu, nhưng sau này dù là ngoài quốc tế hay ở trong nước, tình thế cũng sẽ trở nên phức tạp hơn nhiều. Thậm chí hiện giờ tôi cũng đã không cần mượn danh nghĩa người Anh để kinh doanh nữa rồi. Sớm muộn gì Trung Quốc cũng sẽ thay đổi, sau khi nước nhà vững mạnh, chúng ta có kinh doanh cũng không cần phải cúi đầu trước người nước ngoài, thời đại của người nước ngoài rồi cũng sẽ kết thúc, chắc chắn trên thương trường sẽ chẳng còn ranh giới Hoa – Dương nữa. Có lẽ ông Trần nghĩ tôi lý tưởng hóa thái quá, có lẽ ông cảm thấy phải rất nhiều năm nữa tình cảnh mà tôi nhắc đến mới trở thành hiện thực. Nhưng ông Lư Tác Phù của Công ty Dân Sinh và chủ nhân của Hãng thuyền Mạnh Quân – chàng trai trẻ đang đứng ngoài kia, đã đối đầu quyết liệt với công ty nước ngoài tới mức thương tích đầy mình, suy cho cùng họ làm vậy cũng chỉ vì thứ lý tưởng ấy. Người Trung Quốc làm ngành nghề nào, gây dựng sự nghiệp gì thì có những lúc thực chất cũng chỉ là khác đường cùng đích mà thôi.”

Đôi mắt Trần Quang Phủ lóe sáng, cuối cùng gương mặt ông cũng thay đổi.

Đó là năm 1934, giới công thương và tài chính Trung Quốc vẫn có thể lóe lên một tia sáng kinh tế tự do bé nhỏ. Có lẽ trong năm ấy, Ngân Xuyên và Trần Quang Phủ thực chất đã linh cảm được sự biến đổi khôn lường trong tương lai. Bốn chữ “Khác đường cùng đích” đã đẩy bánh xe vận mệnh đầy mâu thuẫn khỏi quỹ tích của mình, nó tràn ngập lý tưởng phục hưng dân tộc của phần tử tri thức ngành thương mại mới trỗi dậy, đồng thời cũng ẩn giấu một thứ ý thức khủng hoảng không thể đảo chiều trước hiện thực. Vì trong một năm sau đó, tư bản quan liêu đã thâm nhập sâu vào nền kinh tế Trung Quốc, mạch sống của nền kinh tế tự do đứt đoạn. Ngay đến chính Trần Quang Phủ khi nhìn thấy những tập đoàn lợi ích dần dần nuốt trọn các tư bản và xí nghiệp nhỏ lẻ, dù có lòng muốn tương trợ nhưng cũng chỉ lực bất tòng tâm. Tuy thế, đó là chuyện của sau này. Trước khi sự kiện này xảy ra, những con người nhạy bén quả thực cần phải nắm lấy thời cơ.

Ngày hôm sau, chi nhánh Hán Khẩu của Ngân hàng Tiết kiệm Thượng Hải đưa sổ tiết kiệm và séc tới trụ sở chính của Hiệu buôn Vĩnh Hòa trên đường Bảo Thuận. Khoản vay trị giá khoảng một triệu, lãi suất hằng năm 7%, thấp hơn rất nhiều so với thị trường, nguy cơ thiếu hụt vốn ngắn hạn của Vĩnh Hòa coi như đã được giải quyết.

Cùng lúc đó, Công ty Dân Sinh và Hiệu buôn Vĩnh Hòa đã ký một hợp đồng ba năm, Dân Sinh sẽ chịu trách nhiệm chuyên chở các mặt hàng như sợi bông, dầu trẩu và đường mía cho Vĩnh Hòa. Sau khi hợp đồng này được ký kết, người phụ trách công ty Dân Sinh tại Hán Khẩu nhận được ủy thác của chủ tịch Lưu Tác Phù đã mang biếu Vĩnh Hòa những món đặc sản của Tứ Xuyên như quýt đỏ, tần bì gai, đậu cà vỏ để tỏ lòng biết ơn, sau đó lại mời Ngân Xuyên một bữa cơm. Bữa cơm này được tổ chức tại Toàn Cung. Khi nhóm Ngân Xuyên và Nam Gia tới, thấy các quản lý của Dân Sinh đang cầm thực đơn bàn nhau nên gọi món gì, xem chừng rất băn khoăn lo lắng, một chàng trai trẻ mặc trường sam chống cùi chỏ, cười khổ nhìn họ, chẳng phải Tử Chiêu thì còn ai vào đây?

“Không có cá thì không được, với lại cũng phải thêm mấy món hấp chứ?”

“Đã đủ mấy món nguội thập cẩm chưa nhỉ?”

“Để tôi đếm lại xem có mấy người, gọi nhiều thì không ổn, gọi ít lại sợ không đủ.”

“Mình tôi ăn một con cá hấp thì có hơi quá không?” Ngân Xuyên tiếp lời.

Mọi người vội buông thực đơn, đứng dậy chào hỏi: “Cậu Trịnh.”

Tử Chiêu cũng đứng lên.

“Cậu Mạnh,” Ngân Xuyên mỉm cười, “tôi đoán có thể cậu cũng sẽ tới.”

“Dân Sinh chia cho Đại Quân cùng tham gia chuyên chở một nửa số hàng hóa trong ba năm này,” Tử Chiêu chắp tay chào anh, mỉm cười, “trước kia không đủ tư cách để mời anh Trịnh dùng cơm, giờ nhờ phúc của Công ty Dân Sinh, cuối cùng em cũng tìm được cơ hội rồi. Anh Trịnh đừng tiết kiệm tiền cho em, dù anh có muốn ăn thịt rồng em cũng sẽ nghĩ cách kiếm cho anh. Nhưng các anh bên Công ty Dân Sinh cứ bướng bỉnh đòi ăn ở sảnh nhà hàng, lại cứ muốn giành thực đơn bằng được.”

Ngân Xuyên chào hỏi từng người, nghiêp mặt nói: “Mấy năm gần đây Công ty Dân Sinh và Hãng thuyền Đại Quân luôn nêu gương tiết kiệm, nhân viên làm việc hết mình, chủ động hoãn lĩnh hoặc giảm lĩnh lương, nhất quyết muốn cùng vượt qua khó khăn với công ty. Một phần số tiền tiết kiệm được dùng để phát triển công ty, phần còn lại dành cho hội kháng Nhật cứu nước. Hôm nay các anh mở tiệc chiêu đãi khiến tôi vừa hổ thẹn vừa vinh dự, nào dám để các anh tốn kém.”

Tử Chiêu rót cho Ngân Xuyên một ly trà, trịnh trọng bưng cho anh bằng hai tay: “Anh Trịnh, cảm ơn anh vì lần này đã giúp các hãng thuyền tư nhân chúng tôi.”

Ngân Xuyên nhận ly trà, uống cạn.

“Tôi cũng cảm ơn mọi người.” Anh nói.
 
Quyển 2 - Chương 88


Sau bữa cơm, Ngân Xuyên và Tử Chiêu men theo đường cái, băng qua những dãy nhà kiểu Tây mọc san sát nhau, tiến về phía bờ sông.

“Tôi biết quan hệ giữa hai bên vô cùng thân thiết nhưng thật sự không ngờ Đại Quân sẽ giao một nửa mối làm ăn trên Xuyên Giang cho Dân Sinh.”

“Đành chịu thôi,” Tử Chiêu thở dài, “Đại Quân già cả rồi, phương diện quản lý của Đại Quân có nhiều điểm lạc hậu, dù em đề xuất thay đổi thì những khó khăn trong nội bộ công ty vẫn rất lớn. Nhiều khi ta buộc phải từ bỏ những gì mình xem trọng mới có thể bảo vệ chúng dài lâu. Chuyên chở chặng Xuyên Giang là thế mạnh của Công ty Dân Sinh, 70% nghiệp vụ thượng du cũng là của họ, em giao phần nghiệp vụ này của Đại Quân cho ông Lư, cả công ty từ trên xuống dưới không ai nói một lời. Như vậy em có thể dồn tâm trí vào hạ du Trường Giang và viễn dương.”

Ngân Xuyên gật đầu, nói: “Phân rõ nặng nhẹ, cách làm của cậu rất chính xác.”

Gió thổi tiếng động cơ tàu thủy âm vang ghé lại, Tử Chiêu khẽ nhướng mày: “Vào thời điểm khó khăn loạn lạc này, Đại Quân và Dân Sinh đồng khí tương cầu, đồng sinh cộng tử cũng chẳng lạ. Nhưng em không hiểu tại sao anh Trịnh lại từ bỏ Di Hòa, Thái Cổ, thậm chí bỏ qua cả ban vận tải đường thủy của Hiệu buôn Tây Phổ Huệ để giao cho bọn em chuyên chở lô hàng lớn của Vĩnh Hòa?”

Ngân Xuyên mỉm cười: “Cậu không cần vòng vo như vậy. Phải, tôi không đồng khí tương cầu với các cậu. Trong mắt các cậu, tôi đứng cùng một phe với các hiệu buôn Tây nước ngoài, nhưng cậu cũng đã nói rồi, đây là thời điểm khó khăn loạn lạc, tôi cũng là người Trung Quốc, dù làm kinh doanh nhưng tôi cũng hiểu lòng dân mới là thứ đáng tin.”

Càng vào lúc quốc gia lâm nguy, người dân lại càng ra sức ủng hộ các doanh nghiệp nội địa, nếu lợi dụng thứ sức mạnh này để kiếm lời, có lẽ ta sẽ gặt hái được lợi ích ngắn hạn, nhưng cuối cùng vẫn sẽ chỉ đi trên con đường sai trái bị người ta sỉ nhục. Sự sống còn của doanh nghiệp và tự tôn của dân tộc gắn bó mật thiết với nhau, phải thật sự nắm được lòng dân mới có thể nhận được ủng hộ mà đột phá vòng vây trong tình cảnh ngặt nghèo.

Những xí nghiệp tư nhân như Công ty Dân Sinh và Hãng thuyền Đại Quân vốn rất khó gượng dậy trong cảnh bị doanh nghiệp nước ngoài và tư bản quan liêu Trung Quốc chèn ép. Sau Sự kiện Phụng Thiên, tinh thần yêu nước của nhân dân Trung Hoa dâng cao mãnh liệt, ấy vậy mà hai công ty này không có ý định mượn sức dân chúng chặn đứng hàng hóa phương Tây cùng hàng hóa Nhật Bản, để nhu cầu phục vụ bản thân lên ngôi, ngược lại còn tích cực chăm sóc nguồn hàng, cải thiện chất lượng phục vụ, cải tiến trang thiết bị máy móc, không ngừng củng cố danh tiếng của mình, tuyệt nhiên không dám biếng nhác, cũng chính vì vậy mà họ phải mang trên vai những gánh nặng kinh tế khổng lồ. Nguồn vốn càng eo hẹp, họ càng nỗ lực thu mua nguyên vật liệu, thiết bị cứu hộ và tủ khử trùng, quạt máy, tủ lạnh, đảm bảo trang thiết bị phong phú nhất có thể. Khách hàng hễ lên tàu sẽ có người làm điện báo, thu nhận bưu kiện giúp họ. Cho dù có là thuyền thuộc công ty lớn của Đức thì một khi hàng hóa lên bờ, sẽ có phu khuân vác chen chúc nhau xông tới, tranh cướp vận chuyển hàng và hành lý, ép thu phí vận chuyển. Nhưng mọi con tàu của Dân Sinh và Đại Quân đều có nhân viên phục vụ phụ trách vận chuyển hành lý, tìm nơi ở và sắp xếp việc xếp dỡ hàng hóa giúp khách hàng.

Hợp tác với những công ty như vậy chẳng khác nào tiến một bước lại gần dân tâm. Dân tâm là gì? Dân tâm, có những lúc là thứ danh dự vượt qua cả tiền tài, là tinh thần mong mỏi sự thay đổi, là sự nỗ lực mà người ta có thể nhìn thấy được, chạm vào được, kề cận được.

Chính trị dơ bẩn vô cùng, nó mang thứ quyền lực công tư lợi, hủy hoại nguyên tắc đạo đức kinh tế của một quốc gia. Trong tình cảnh ấy, nguồn vốn tư nhân yếu thế được gom góp từng chút từng chút một từ mồ hôi và nước mắt đã nỗ lực hết mình trong mỗi lĩnh vực cũng đang dần liên kết lại với nhau. Kẻ thù trước kia giờ kết thành đồng minh, đối thủ khi xưa cũng có thể trở thành bè bạn. Gạt bỏ lòng thù địch và thành kiến, Trịnh Ngân Xuyên cùng Mạnh Tử Chiêu thong dong trò chuyện với nhau bên bờ sông Hán Khẩu mà thoáng thấy cảm xúc ngổn ngang trăm mối.

Họ đều không nhắc tới câu chuyện ấy, câu chuyện sẽ khiến lòng người đau đớn. Nhưng khi chuẩn bị chia tay, cuối cùng Tử Chiêu vẫn không dằn lòng được:

“Ninh Ninh vẫn khỏe chứ?”

Có tia sáng lóe lên trong đôi mắt trầm lặng hờ hững của Ngân Xuyên: “Cậu chưa từng nghe ngóng tin tức của cô ấy sao?”

Tử Chiêu gật đầu: “Em không dám, cũng không muốn.” Vốn cậu định tìm kiếm một chút tin tức có thể xoa dịu bản thân từ gương mặt Ngân Xuyên, nhưng cậu đã thất bại, cõi lòng chán chường buồn bã, “Em biết chuyện cô ấy đã ly hôn, cũng nhìn thấy tin tức tìm người rồi, nhưng ngoài nghĩ cách giúp cô ấy tìm con ra thì em không làm được gì cả.”

Ngân Xuyên thấy có cơn đau thiêu đốt trong mắt mình, anh quay mặt đi.

“Cảm ơn cậu đã nghĩ cách giúp cô ấy.”

“Em hy vọng cô ấy có thể hạnh phúc.”

“Tiếc là cô ấy rất bất hạnh, cô ấy rời Hán Khẩu từ lâu rồi, tôi cũng không biết cô ấy đã đi đâu.” Ngân Xuyên nghẹn ngào, hàng nước mắt không sao kiềm giữ nổi ứa khỏi mắt anh.

Tử Chiêu mở to mắt, cậu chưa từng nghĩ người đàn ông này sẽ để lộ diện mạo yếu ớt như vậy trước mặt mình.

“Anh… anh yêu cô ấy!” Tử Chiêu nhìn Ngân Xuyên, cô sực tỉnh, sau cơn kinh ngạc và đau khổ, nỗi giận dữ bừng lên trong cậu, “Nếu đã yêu cô ấy thì sao lại để cô ấy đi?!”

Ngân Xuyên không đáp, có nếp nhăn hằn lên trán anh, đôi mắt đen láy lại càng tĩnh mịch, anh lặng im nhìn dòng nước sông cuồn cuộn trước mắt.

Những tháng đầu tiên vô cùng đáng sợ, cố kìm nén khát khao tìm kiếm Cảnh Ninh, ép mình quên đi, gạt đi cơn đau cứ chốc chốc lại ùa tới như lốc xoáy. Anh biết rõ cô rời đi là đúng, ánh sáng trong tim anh cũng biến mất theo cô, nhưng anh không thể ích kỷ tổn thương cô vì lý do này. Anh sai như vậy còn chưa đủ ư? Những gì đã bị hủy diệt, đã đánh mất sẽ không bao giờ có thể vẹn nguyên trở lại, thậm chí cũng không thể bồi thường bổ khuyết. Dù hiện tại thái độ của anh với việc kinh doanh đã thay đổi thì đó cũng chỉ như hành động ăn năn tỉnh ngộ của anh mà thôi.

“Mạnh Tử Chiêu, cậu không hiểu đâu.” Ngân Xuyên nghĩ, cảm giác tội lỗi len lỏi trong tim anh, “Tôi đã hủy hoại tương lai của cậu và Cảnh Ninh, tôi có được cô ấy, cũng đã đánh mất cô ấy, sự mất mát khiến tôi đau khổ còn hơn là những gì tôi chưa từng có được. Đây là báo ứng của tôi. Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc từ bỏ, tôi sẽ không từ bỏ.”

Chiều tà ngả Tây, vườn hoa được bao bọc dưới bóng râm khổng lồ của cây đa và long não, những bụi cây không còn bị kiềm giữ, cứ thế vươn mình tốt tươi, quấn quýt lấy những giàn hồng leo, lũ chuột đồng đào những cái hố trên bãi cỏ, nhìn sao mấp mô gồ ghề. Có ông già ngồi bên đài phun nước, phần đầu gối quần lấm bụi, nhìn là biết vừa vấp ngã. Ông ta ngẩng đầu, trong vườn hoa chỉ có vị trí này là có thể nhìn bầu trời mà không bị ngăn cách, lúc này bầu trời mang sắc hoa hồng dịu dàng.

Có người men theo con đường đá cuội, tiến về phía ông già, ông già quay đầu, nhìn người nọ bằng cặp mắt đục ngầu, nhìn thật chăm chú, mà cũng đầy hoang mang, như thể một người quay lại sau những ngày viễn hành lênh đênh vừa nhìn thấy bến tàu đã không còn dáng vẻ của quá khứ. Có cơn gió nhẹ thổi qua, bầu không khí sao trong lành tươi mát, thấm một sự vắng lặng sâu sắc. Ngân Xuyên ngồi xuống bên ông già. Ông già sợ hãi, co rúm mình né người đi.

Bọn họ chưa từng ngồi với nhau thế này. Lúc ngồi sát lại gần ông già, anh nhớ tới một câu nói mình đã từng đọc từ rất lâu, rất lâu trước đây:

“Sau lưng món của cải kếch xu của mỗi gia tộc là một tội ác trĩu nặng.”

Bánh xe khổng lồ của vận mệnh nghiền một số người thành cát, biến số còn lại thành kẻ điên. Phan Thịnh Đường lúc này đây bạc trắng tóc, gương mặt chất chứa tang thương sa sút, đây là thương nhân lừng danh khắp Hán Khẩu, ông ta từng điều khiển kẻ khác, thao túng kẻ khác, có được mọi thứ mà người ta ao ước. Giờ ông ta chỉ còn lại mình cái xác thịt điên khùng ngớ ngẩn, ông ta từng leo lên đỉnh cao tiền tài mà bao kẻ phải ngước nhìn, ông ta dùng mọi thủ đoạn, tội lỗi trên hai bàn tay Phan Thịnh Đường cuối cùng cũng quay lại cắn trả ông ta.

Một thời vinh quang, cuối cùng cũng hóa khói mây, tro tàn chất chồng.

“Không phải ông nằng nặc đòi tìm tôi sao?” Ngân Xuyên lạnh lùng nói, nhưng đôi mắt anh không có sự cay nghiệt lạnh lùng, cũng chẳng mang yêu hận hay đau thương, “Tôi tới rồi đây.”

“Cậu là…” Thịnh Đường gắng suy nghĩ, mong nhớ ra được điều gì đó, nhưng ông ta đã thất bại, chàng trai trước mắt sao mà lạ lẫm. Hễ nhìn thấy thanh niên trẻ tuổi nào là ông ta sẽ vồ lấy người ta mà gọi A Sâm, nhưng khi “A Sâm” thật sự xuất hiện trước mắt, ông ta lại hoàn toàn chẳng nhận ra.

Ngân Xuyên kéo tay Thịnh Đường: “Đến giờ ăn cơm rồi, về phòng đi, đi thôi!”

Thịnh Đường run rẩy, hất tay anh ra: “Tôi phải đợi A Sâm!”

“Tôi phải đợi A Sâm, thằng bé vẫn chưa về!” Người đàn ông già cả chợt bật khóc, hai bàn tay khua khoắng run rẩy, “Mẫn Huyên cũng không còn ở đây nữa rồi, tôi đánh Mẫn Huyên, Mẫn Huyên giận tôi, đem A Sâm đi mất rồi.”

“Về với tôi!” Ngân Xuyên túm chặt lấy Thịnh Đường, kéo ông ta dậy. Thịnh Đường gào khóc, nước mắt đầm đìa, cơ thể ông ta run lẩy bẩy bất lực, như một con chó già cả sắp bị giết thịt, vào giờ phút đồ tể hạ dao, nó biết sự sống của mình sắp chuẩn bị kết thúc, chẳng cách nào trốn chạy. Ngân Xuyên cau mày, đưa cho ông ta chiếc khăn tay, Thịnh Đường không nhận, chỉ lúng búng khóc, nói: “Tôi không đi, tôi không đi đâu hết! Giờ bộ dạng tôi thế này mà vào thì thể nào Mẫn Huyên cũng sợ, cô ấy nhát gan lắm. Tôi không muốn chết, đừng giết tôi! Đừng giết tôi mà!”

Lòng Ngân Xuyên đau nhói, anh kéo ông ta khỏi đài phun nước, vừa lôi vừa túm ông ta trở lại nhà. Vân Thăng đang đứng chờ ngoài cửa đại sảnh, gương mặt thấp thoáng nỗi sợ. Thấy họ vào, anh ta lập tức dặn người hầu chuẩn bị nước rửa mặt và rửa chân cho ông chủ. Phần mình cũng tức tốc bưng đồ ăn đã chuẩn bị sẵn vào phòng ngủ của Thịnh Đường.

Giọng Thịnh Đường khản đặc, ông ta vừa khóc vừa thở hổn hển. Gương mặt Ngân Xuyên lạnh tanh, anh siết chặt cánh tay ông ta không buông, cả tòa nhà chìm trong tiếng khóc nghe như rên rỉ bi ai.

Con của Phan Cảnh Huyên vừa ra đời, mấy ngày nay cậu túc trực trong viện, tạm thời không lo được chuyện ở nhà. Bà Vân cũng tất bật lúc thì trong viện, khi lại về nhà. Lúc không có họ, Thịnh Đường được người làm chăm sóc, giờ đây cái nhà này đến vườn hoa cũng chẳng ai lo, chứ đứng nói là một ông già điên điên dở dở.

Ngân Xuyên nhìn người làm đút cơm, rửa mặt, rửa chân, thay quần áo cho Thịnh Đường. Anh dặn dò Vân Thăng phải quản lý người ở cho tử tế, chăm lo cẩn thận cho chủ nhân. Lời lẽ mang cả uy hiếp lẫn dỗ dành, ánh mắt lại lạnh lẽo băng giá. Vân Thăng vâng vâng vâng dạ dạ đáp lại. Nhưng họ đều biết nhà họ Phan đất Hán Khẩu đã tan đàn xẻ nghé từ trong ra ngoài, có chăm lo che chở thế nào cũng chẳng vẹn toàn cho nổi.

Bầu trời ngoài kia đã ngả sẫm, bà Vân và Cảnh Huyên còn chưa về. Căn nhà này không có chủ nhân, chỉ có khách qua đường.

Thịnh Đường lẩm bẩm mấy tiếng, khom người với lấy đôi dép lê bị đá ra một xó. Ngân Xuyên tiến lại, nhặt dép để bên chân Thịnh Đường. Thịnh Đường đặt đôi bàn tay khô gây lạnh lẽo của mình lên vai anh, vuốt phẳng vết nhăn của lớp vải trên bả vai anh.

“A Sâm…”

Ông già ấy khẽ gọi cái tên thời còn thơ của anh. Ngân Xuyên ngẩng đầu, Thịnh Đường ngơ ngác nhìn anh, có một giọt lệ chậm rãi nhỏ xuống, giọt lệ ấy lăn xuống chóp mũi như một hàng nước mũi, trông tức cười vô cùng.

“A Sâm…” Thịnh Đường lúng búng, cuối cùng ông ta cũng nhận ra anh, ông ta cố nói cho ra chữ, “A Sâm… con đã lớn thế này rồi…”

Ông ta định vuốt ve mái tóc Ngân Xuyên. Anh quay đầu né tránh.

“Cha đi mua kẹo, mua cháo hải sản, mua da cá trộn cho con.” Thịnh Đường mỉm cười, ứa nước mắt.

Ngân Xuyên không đáp lời, gương mặt anh lạnh tanh, dìu Thịnh Đường nằm xuống giường. Cuối cùng ông già ấy cũng có thể yên lòng chìm vào giấc ngủ, ít nhất trong giấc mơ, ông ta sẽ không cần đến sự tha thứ của bất kỳ ai.

Ngân Xuyên rời phòng, chầm chậm bước trong hành lang. Tiếng bước chân vang vọng bên tai, dãy hành lang này như dài không điểm kết, một bước, rồi lại một bước, tuổi thơ của anh, những ký ước và gương mặt thân quen từng in hằn trong cuộc đời anh chất chồng lên nhau hiện lên. Bầu không khí vẫn hệt như khi xưa. Anh băng qua nơi từng là phòng ngủ, băng qua phòng làm việc, băng qua phòng khách và phòng sinh hoạt, rồi đẩy cửa phòng dương cầm của Cảnh Ninh.

Vòm trời xanh thẳm, ánh trăng dịu dàng, sao sáng long lanh, ánh trăng sao vĩnh hằng rọi vào qua khung cửa sổ dài rộng, vẩy lác đác những vệt sáng trên nền nhà, buông mình xuống chiếc bàn hình vuông đặt cây cối trang trí. Bóng hoa chồng chất ngổn ngang, mép khung cửa sổ và lớp cửa kính sáng ngời loe lóe thứ màu sắc như dạ quang. Có chú mèo hoang đang nằm bên bệ cửa sổ ma gà gật, lớp lông mềm mượt của chú ta cũng phát sáng. Rèm cửa sột soạt kêu.

Thứ sức mạnh chi phối vạn vật cũng đang bị một điều gì đó chi phối, nó cũng có nỗi bất lực của riêng mình. Ít nhất vào giờ phút này, nó không thể khống chế được nỗi nhớ nhung cố chấp của một người dành cho người khác, nó không thể xóa đi những ảo vọng trong tim một con người. Phải mượn những ảo vọng ấy anh mới có thể cắn răng mà gắng gượng bước tiếp.

Anh đang nghĩ, có lẽ cô cũng yêu anh, dù chỉ một chút thôi. Anh đang nghĩ, có lẽ lúc này cô cũng đang nhớ anh, dù chỉ là một tích tắc thôi. Anh nghĩ anh và cô cùng sở hữu một trời trăng sao, vào khoảnh khắc hai người được chúng chiếu sáng, có lẽ phút tương phùng cũng sẽ tới.

“Bé Hạt Dẻ, anh sẽ không bao giờ buông tay em.”

Nếu thật sự có thể gặp lại cô, nhất định anh sẽ nói như vậy.

Ngân Xuyên lẳng lặng ngồi trong bóng tối, chưa bao giờ bóng tối lại soi sáng anh bây giờ.
 
Quyển 2 - Chương 89


Đương độ giao mùa đông – xuân, những giọt sương lóng lánh treo trên cành tùng cành bách, hoa mai rơi đầy đường.

Người phụ nữ xinh đẹp mặc một bộ áo dài bông cũ, cô ngồi trước cửa sổ, cúi đầu, đưa những nét bút trên trang giấy viết thư mềm mại:

Trình Viễn:

Mùa đông ở Nam Kinh và Hán Khẩu rất giống nhau. Chúng đều có sương mù, hễ sương buông là sẽ bao phủ nửa dãy núi; hai nơi đều có Trường Giang, có hoa mai, có cơn gió sắc như dao, có trận mưa rả rích không ngừng. Nếu là ngày hạ, những trận mưa phùn liên miên sẽ khiến tớ trở nên rất vui vẻ. Còn nhớ ngày còn bé, cứ mỗi lần tiết trời thay đổi tớ lại ra vườn hoa, ngồi xổm trên con đường nhỏ xem có thể bắt gặp chú ếch xanh be bé hay đám chuột đồng lúc nào cũng hốt hoảng cuống quýt không. Giờ nghĩ lại mà ngỡ chỉ mới là chuyện của hôm qua.

Chung quy, mưa móc phương nam quá u buồn, xứng với cái tên “mưa sầu”. Nhiệt lượng chốn thành phố cũng không thể khiến nó ấm áp hơn. Tuy vậy, âu sầu cũng có cái hay riêng của nó. Mùa đông đất phương bắc lạnh cắt da cắt thịt, chắc chắn trong màn tuyết trắng ngần sẽ không có nỗi thê lương này. Nhưng tớ nghĩ cậu ở Bắc Bình đã lâu, có lẽ cũng sẽ rất nhớ mùa đông và cơn mưa sầu phương nam.

Tớ có những cảm xúc yêu thích mâu thuẫn với cơn mưa đông phương nam. Vài ngày trước tớ đọc được một bài văn, tác giả trích dẫn lời một nhà văn Nhật Bản, câu nói ấy khá tương đồng với cảm nhận của tớ:

“Cảnh đêm khi ngọn đèn giấy của sạp mì khuya dừng lại bên bờ sông khiến tôi túy lúy. Đỗ quyên mưa đêm hót trăng, những chiếc lá thu lả tả trong mưa, tiếng chuông hoa rơi gió thổi, tuyết trên sườn núi buổi hoàng hôn đang ngả, phàm là những gì vô thường, vô ngôn, vô vọng, khiến con người ta bỗng dưng than thở đời nay chỉ là giấc mộng, tất thảy những thứ ấy đều hết sức gần gũi với tôi, là nỗi hoài niệm của tôi. Nó ngầm gợi nên sự kinh hoàng, đau thương và mệt mỏi của thời đại đen tối ấy… Là sắc điệu bi ai không nói nổi thành lời, sâu sắc không sao quên được.”

Trình Viễn, tớ xa quê hai năm, trằn trọc trong tuyệt vọng và hy vọng, tớ từng bị thứ sắc điệu “đau đớn không nói nên lời” ám ảnh, thật ra có mưa hay không thì với tớ cũng vậy.

Hôm nay Nam Kinh lại mưa, nhưng tớ không còn thấy đau buồn, chỉ là quá khứ cứ hiện lên trong tớ, khiến tớ nhớ lại người anh cả chờ đợi trong phòng dương cầm mỗi sớm, nhớ lại khoảng thời gian niên thiếu vô ưu vô lo, nhớ đến mối tình từng ngọt ngào mà cuối cùng lại hóa đứt từng khúc ruột, tới cuộc hôn nhân thất bại, nhớ nỗi giày vò triền miên của cuộc sống, sự mất mát, không cam lòng, hỗn loạn và sa sút cứ liên tiếp ập tới… Lúc này, khi đã xa cách những người và việc ấy một thời gian, khi đã hoàn toàn sở hữu sự tự do mà tớ ao ước, tớ nghĩ tớ cũng nên nhìn lại trái tim mình. Cuối cùng tớ vẫn vượt qua được, dù rằng không tìm ra tung tích Tiểu Quai nhưng tớ vẫn nên ôm hy vọng mà tiếp tục sống. Từ Hồ Bắc tới Giang Tây, lại từ Giang Tây đến Nam Kinh, tớ miệt mài đi không ngừng bước, tớ không ngừng đau đớn trên mỗi chặng đường mình băng qua, giả dụ tớ gửi gắm toàn bộ ý chí sống lên việc tìm kiếm con, e rằng tớ sẽ tự làm tổn thương bản thân trong thất bại. Tớ được cho ăn học tử tế, tớ từng lãng phí những điều tốt đẹp xã hội cho tớ, dù không thể lập tức cống hiến thứ gì đó cho cuộc đời nhưng sao tớ có thể trở thành một người phụ nữ tầm thường chỉ biết lãng phí cơm gạo và sinh mệnh, khóc than đau khổ hết ngày này qua ngày khác?

Tớ hơi mệt mỏi rồi, tớ muốn nghỉ ngơi, định tạm thời lưu lại Nam Kinh, điều duy nhất tớ lo là mình sẽ chìm đắng trong sự yên ổn mà không chịu tiến bước, hoặc là thời gian trôi đi quá nhanh. Nếu Tiểu Quai còn sống, đang ngày một trưởng thành, chắc chắn vẻ bề ngoài con sẽ đổi khác, nếu có một ngày con bé bước về phía tớ, có khi tớ sẽ không nhận ra nó. Nghĩ tới đây, tớ không khỏi kinh sợ.

Trình Viễn, cảm ơn cậu đã giới thiệu cho tớ làm quen với cô Quách Tú Vân, những ngày ở Nam Kinh tớ đã được cô Quách và anh trai cô ấy chăm sóc rất chu đáo. Nói ra cũng là cái duyên. Năm mười tuổi gia đình đổi dương cầm cho tớ, cây đàn Steinway & Sons ấy được mua từ chính cửa hàng dương cầm Moutrie nơi anh Quách Kình Tùng – anh trai của cô Vân làm việc. Anh Quách Kình Tùng có nhiều năm công tác tại cửa hàng dương cầm Moutrie lâu đời, là người vô cùng thông minh tháo vát, dù người Anh Quốc giữ những bí mật về thiết kế cũng như lên dây dương cầm hết sức nghiêm ngặt nhưng anh Quách vẫn học được nhiều kỹ thuật, sau khi rời Moutrie, anh tới Nam Kinh, mở một cửa hàng dương cầm bên lầu canh, không chỉ nhập khẩu mà còn thử tự lắp đặt, thiết kế và chế tác dương cầm, dù rằng hiện giờ anh vẫn chưa thành công (điều này khiến tớ dở khóc dở cười, nhưng cũng vô cùng khâm phục). Trong mấy ngày tá túc tại nhà hai anh em họ Quách, lần đầu tiên tớ nhìn thấy một chiếc dương cầm được tháo rời, đúng vậy, để hiểu rõ cấu tạo chính xác của cây đàn dương cầm, họ đã tháo chiếc Steinway & Sons cổ ra. Khi dỡ đàn, nghe tiếng lách cách vang lên, tim tớ cũng như muốn vỡ tan. Nhưng lạ là họ có thể lắp nó lại nguyên vẹn như cũ, chỉ có âm điệu bị lệch mất phân nửa mà thôi, nhưng sau khi lên dây lại thì mọi thứ cũng tạm ổn.

Trình Viễn thân mến, người bạn thân thiết nhất của tớ, cuối cùng tớ cũng có thể tìm lại cây dương cầm mà tớ từng vứt bỏ. Chỉ là giờ đây tớ vẫn chưa đủ dũng khí để đàn lại, nghe thì được, nhìn cũng không sao, dù âm nhạc có thể xoa dịu tâm hồn, khiến cơn giận nguôi đi, âu lo tan biến, nhưng hễ đụng tới phím đàn, tớ sẽ lại nhớ đến sự đau đớn tủi hổ mình từng trải qua. Nó vẫn quét qua như một cơn cuồng phong.

Nhưng dường như cuộc sống xung quanh không để tớ tiếp tục trốn tránh nữa, có mấy đứa bé cứng đầu cứ chạy vào phòng đàn cách vách, bấm loạn phím dương cầm, sợ chúng làm hỏng đàn nên tớ quyết định sẽ dạy chúng.

Dương cầm là “vua của các loại nhạc cụ”, không gì có thể sánh được khả năng thể hiện âm nhạc của nó. Âm vực rộng, âm sắc phong phú đa dạng, kỹ xảo trình diễn thiên biến vạn hóa. Có lẽ người diễn tấu dương cầm là những con người duy nhất không cần phải nhìn hay nghe mình đàn, chỉ cần dựa vào cảm xúc là có thể biết được âm điệu sai hay đúng, khoảnh khắc ngón tay đặt lên phím đàn, họ lập tức biết mình có đàn sai không, thứ quy luật nghe như máy móc ấy khiến người học dương cầm có thể luyện tập trên những phím đàn câm, không quấy rầy tới người khác… Tớ vừa vẽ xong phím đàn vào giấy cho đám nghịch ngợm, đã đưa cho bọn trẻ rồi, không biết lũ chúng nó có chịu học đàn “câm” cùng tớ không…

Đừng trách tớ quá nhiều lời, đã rất lâu, rất lâu rồi tớ không viết dài như vậy, không nói nhiều tới thế. Mấy hôm nữa là tới sinh nhật cậu, tớ gửi kèm thêm hai hộp đồ ngọt Giang Nam, một tấm ảnh mới chụp gần đây của tớ, chúc cậu sinh nhật vui vẻ.

Cảnh Ninh

Kim Lăng, năm Dân Quốc thứ 26, một ngày đầu xuân năm mới.

Tái bút: Làm ơn hãy tiếp tục giữ kín địa chỉ và tình hình của tớ. Phiền cậu nhờ người báo tin bình an cho gia đình tớ. Hiện giờ tớ không gặp khó khăn về tài chính, công việc rất ổn định, cõi lòng an ổn. Đừng nhớ tớ.

Cô cẩn thận gấp lá thư lại, đặt vào phong thư, xòe ngón tay thư giãn. Khi chuẩn bị nhét tấm ảnh vào phong thư, cô lại cầm nó lên xem, đôi mắt đẹp thoáng vẻ kinh ngạc.

Bức ảnh chụp lại cảnh tượng ấm áp của một ngày đông dưới ánh nắng mặt trời: Có hơn mười đứa trẻ cả trai cả gái chừng bốn, năm tuổi đang đứng thành vòng tròn, lũ trẻ cùng mặc trang phục mùa đông mới được quyên tặng. Cô đứng giữa đám trẻ, nắm lấy một cánh tay bụ bẫm, cùng chạy thành vòng tròn với chúng.

Đứa bé hoạt bát nhất cũng là đứa thấp lùn nhất, tên thằng bé là Phi Phi, thằng bé mặc chiếc áo bông eo cao đang rất hợp mốt. Hôm ấy thằng bé vui vẻ cất cao tiếng ca, rồi sau đó lũ trẻ cùng hát vang như một bầy chim.

Đó là bài hát cô dạy chúng, vừa đàn vừa dạy.

Đúng, cuối cùng cô cũng chơi đàn, một lần duy nhất.

Vì muốn cô chơi đàn, Quách Tú Vân đã nhiều lần khích lệ cô, muốn cô chấp nhận nỗi đau mất đi đứa con, đối mặt với hiện thực, cô ấy còn giới thiệu cô tới Học viện Nghệ thuật Khoa học Nữ giới Kim Lăng, làm giáo viên cho đám trẻ mồ côi trong học viện, chăm sóc bầy trẻ thơ không có cha mẹ.

Quách Tú Vân chính là cô gái đã cùng anh trai dỡ cây đàn Steinway & Sons. Cô ấy nói: “Từ nhỏ cô đã thích âm nhạc, cô nên hiểu ý nghĩa của âm nhạc với linh hồn con người mới phải. Người xưa có nói ngũ âm và ngũ hành tương ứng, cung, thương, giác, chủy, vũ tương ứng với thổ, kim, mộc, hỏa, thủy, trong ngũ hành có ý ám chỉ lá lách, phổi, gan, tim và thận của con người. Âm luật khi hùng vĩ hồn hậu, lúc ôn hòa thanh tịnh, khi bay bổng nhẹ nhàng, lúc du dương trầm bổng, những âm điệu khác nhau có thể mang đến những tác dụng khác nhau cho tâm hôn và cơ thể chúng ta. Cô là người thông minh tỉnh táo, sao lại vứt bỏ tài năng âm nhạc của mình mà không để nó chữa trị cho bản thân?”

“Cảnh Ninh, âm luật là do hai bàn tay ta khống chế, cô muốn nó cao, nó sẽ cao, cô muốn nó thấp, nó sẽ thấp, cô muốn nó dừng, nó không thể không dừng. Tâm trạng cô là do trái tim cô điều khiển. Tại sao cô lại để ký ức đau khổ chiếm hữu cuộc sống mình? Cô là một người phụ nữ được học cao, cô nên để cuộc sống của mình có những giá trị mà nó đáng có, đừng uổng phí nữa. Những đứa bé ấy rất thích cô, chúng cần cô, cô sẽ là một cô giáo tốt. Có lẽ cô từng mất đi rất nhiều, thậm chí mất cả thứ quan trọng với cô nhất, nhưng tin tôi đi, khi cô cống hiến cho cuộc sống, cho xã hội bằng tất cả tâm hồn, niềm hạnh phúc khi cho đi sẽ từ từ tới với cô.”

“Những niềm hạnh phúc khi cho đi sẽ từ từ tới.”

Thật ra cô không mong hạnh phúc sẽ tới, cô chỉ muốn nhìn thấy hy vọng và tương lai. Vậy nên cô hít thở thật sâu, để không khí tràn ngập nơi sâu nhất trong lồng ngực, cô thử mở cánh cửa trái tim để tiếp nhận nỗi đau mình từng không sao trốn nổi.

Cuối cùng thì âm nhạc cũng vang lên, đó là tiếng dương cầm đã rất lâu không gặp. Ban đầu nó lác đác, rời rạc, như những giọt mưa tích tách do dự không chịu buông mình. Nỗi đau khổ ập tới, cô chấp nhận nó, xoa dịu nó, trái tim cô dần phẳng lặng, cuối cùng ngón tay cô không run rẩy nữa, cuối cùng nốt nhạc cũng không rời rạc, chúng tìm thấy vị trí của mình, chúng rung lên, ngâm nga, nhịp điệu như những gợn sóng dài đang phô bày, lúc sục sôi, khi rộn ràng, như nguồn cảm xúc nơi trái tim mênh mông cuộn trào.

Ánh mặt trời buổi chiều chạm lên bệ cửa sổ như rải bụi vàng, từng phiến lá trên cây phong cao lớn ngoài cửa đều như hóa trong suốt, những ảo ảnh như có sinh mệnh của riêng mình sừng sững trong dòng thời gian trống rỗng, lộng lẫy, lặng im, thoáng qua rồi trôi đi. Cô đàn “Love’s Sorrow”, cảm nhận nỗi đau mãnh liệt, tìm lại bản thân vỡ nát khó khăn như vậy đấy, nhưng âm nhạc cho cô sự ấm áp và dũng khí, khiến ngọn đèn trong tim cô bừng sáng trở lại.

Đám trẻ chưa từng nghe cô đàn, tiếng đàn thu hút chúng tiến lại. Chúng tíu tít bao quanh cô như những con thú nhỏ, sau khi bản nhạc kết thúc, chúng vỗ tay năn nỉ cô đàn thêm một bài nữa.

Cô nhìn đôi mắt to đen trắng rõ ràng, nhớ tới đứa con gái đáng thương của mình, Tiểu Quai chưa từng nghe thấy tiếng hát và đàn của mẹ, giờ không biết nó đang phiêu bạt nơi đâu.

Trước khi nước mắt ứa ra, cô lại đặt tay lên phím đàn, đàn một khúc ca dao xưa, cậu nhóc Phi Phi trèo lên ngồi trên chiếc ghế bên cô, cơ thể bé nhỏ đung đưa, vỗ nhịp cho cô.

Cô hát:

“Hãy kể tôi nghe câu chuyện thân thương ấy, từ rất lâu, rất lâu rồi.

Hãy ca cho tôi khúc hát mà tôi thích nghe, từ rất lâu, rất lâu rồi.

Khi người quay về, mọi âu sầu trong tôi tan biến, khiến tôi quên rằng người đã phiêu bạt bao năm.

Khiến tôi tin người vẫn yêu tôi như trước, từ rất lâu, rất lâu trước kia.

Khiến tôi nhớ về con đường nhỏ nơi ta gặp nhau, từ rất lâu, rất lâu trước kia.

Người nói tôi hay người sẽ mãi mãi không quên, từ rất lâu, rất lâu rồi.

Nụ cười tôi hồn nhiên khiến người lưu luyến, mỗi lời người nói lại chạm vào tiếng lòng tôi.

Những lời tán dương vẫn giấu trong lòng tôi, từ rất lâu, rất lâu rồi.

Tình yêu của người khơi dậy hy vọng trong tôi, từ rất lâu, rất lâu rồi.

Có bao người từng ca ngợi tôi, từ rất lâu, rất lâu trước kia.

Chia ly bao năm, tình yêu của người vẫn không đổi khác, giọng người vẫn khiến tôi bịn rịn.

Tôi hạnh phúc như khi bên người, từ rất lâu rất lâu rồi.”

Đám trẻ rất thích bài hát này, hôm chụp ảnh chúng đã cùng hát vang nó, càng là lúc nên thấy vui, thực ra cô lại càng buồn. Nhìn những gương mặt hồn nhiên ngây thơ của đám trẻ mà cô chỉ muốn khóc, thậm chí cô còn nghĩ khi ấy chắc chắn mình đã khóc.

Nhưng tấm ảnh không bao giờ nói dối, quả thực trên gương mặt cô là nụ cười.

“Tình yêu của người khơi dậy hy vọng trong tôi, từ rất lâu, rất lâu rồi.

Có bao người từng ca ngợi tôi, từ rất lâu, rất lâu trước kia.

Chia ly bao năm, tình yêu của người vẫn không đổi khác, giọng người vẫn khiến tôi bịn rịn.

Tôi hạnh phúc như khi bên người, từ rất lâu rất lâu rồi…”

- -----oOo------
 
Quyển 2 - Chương 90


Năm Dân quốc thứ 26, Bắc phạt đã kết thúc được gần chín năm, Chính phủ Dân quốc Nam Kinh thành lập được mười năm. Để đón mừng ngày kỷ niệm đóng đô Nam Kinh, những buổi lễ, buổi triển lãm cứ nối đuôi nhau không dứt. Chỉ riêng tại Thượng Hải đã có tới không dưới mười buổi “triển lãm thành tựu” với cả chục nghìn lượt người tham dự, các thành phố lớn khác cùng lần lượt tổ chức hoạt động chúc mừng quy mô lớn.

Năm ấy, công xưởng của tay cự phách của ngành công nghiệp hóa chất – Phạm Húc Đông – đã sản xuất ra lô acid sulfuric đầu tiên của Trung Quốc. Nước nhà thành công sản xuất loại hóa chất công nghiệp quân sự trong thời điểm quân địch đang ngấp nghé dòm ngó khiến người dân trong nước vô cùng phấn khởi. Hai nhân vật đi đầu ngành dệt may và bột mì của Trung Quốc là anh em Vinh Tông Kính, Vinh Đức Sinh cuối cùng cũng vượt qua đợt suy thoái kéo dài ba năm như địa ngục để gầy dựng lại công ty, tìm được đường sống. Năm ấy, Trịnh Ngân Xuyên dõng dạc tuyên bố tại Hán Khẩu rằng nhà họ Trịnh đã nắm trong tay 55% cổ phần của Hiệu buôn Tây Phổ Huệ chi nhánh Hán Khẩu, khiến Hiệu buôn Phổ Huệ thực sự trở thành một hãng buôn vốn Hoa, mài mòn nhuệ khí của doanh nhân Anh, nâng cao ý chí cho thương nhân Hoa. Năm ấy, địa vị của Hãng thuyền Đại Quân vẫn sừng sững giữa dòng trung – hạ du Trường Giang. Năm ấy cũng là kỷ niệm 10 năm thành lập của Công ty Dân Sinh, người sáng lập Lư Tác Phù lần đầu đứng lên phát biểu trong buổi kỷ niệm, ông nói: “Ta cần có những con người vượt muôn khó khăn hiểm trở để làm trụ cột cho sự nghiệp, vì sự nghiệp mà quên cả bản thân, vì gây dựng sự nghiệp mà tự nuốt gian khổ vào bụng. Nếu cả công ty chúng ta sở hữu tinh thần ấy, ta có thể tạo nên một sự nghiệp kiên cố, nếu cả dân tộc có tinh thần ấy, ta có thể xây dựng một quốc gia vững bền.” 

Rất nhiều những hạng mục sản xuất và kiến thiết dần được triển khai, một lượng lớn máy móc mới được đưa vào sử dụng, nguồn vốn cuồn cuộn đổ vào thị trường, xã hội Trung Quốc giờ đã mang dáng dấp của sự phồn vinh êm ả. Vạn vật không ngừng tuần hoàn, thịnh cực tất suy, giờ phút huy hoàng chính là khởi đầu của sự suy bại. Cái xác phồn vinh êm ả ấy chẳng mấy chốc sẽ bị nghiền nát bởi sự đời vô thường. Sự kiện cầu Lư Câu (*) nổ ra, kéo theo đó là một cuộc chiến tranh thay đổi vận mệnh của toàn bộ những người dân Trung Quốc, cả dân tộc Trung Hoa đã bước vào thời khắc nguy cấp nhất.

(*) Sự kiện cầu Lư Câu: Sự kiện quân Nhật Bản tập trận không thông báo trước tại cầu Lư Câu dẫn đến việc phía Trung Quốc nổ súng cảnh cáo, khiến một cuộc đấu súng xảy ra giữa hai bên. Sau đó do một người lính Nhật không trở về doanh trại, quân đội Nhật Bản yêu cầu được tiến vào thị trấn Uyển Bình tìm kiếm binh sĩ mất tích. Hai bên giằng co về vấn đề này dẫn đến cuộc tấn công cầu Lư Câu của Nhật Bản. Sau đó tuy đã có thỏa thuận ngừng bắn nhưng quân Nhật tiếp tục tấn công, chiếm cầu Lư Câu, thị trấn Uyển Bình và là ngòi nổ cho trận Bắc Bình – Thiên Tân sau này.

Bình Tân rơi vào tay giặc, Hasegawa Kiyoshi – tư lệnh hạm đội 2 của hải quân Nhật Bản dẫn chiến hạm chỉ huy “Xuất Vân” thần tốc tiến đánh sông Hoàng Phổ, chiến đội số 10 và thủy lôi chiến đội số 5 thuộc hạm đội này lần lượt đổ bộ cửa Trường Giang và duyên hải Hoa Nam Trung Quốc. Đầu tháng Tám, các tàu chiến khảo sát của Trung Quốc gồm tàu “Cam Lộ”, “Hạo Nhật”, “Thanh Thiên” cùng pháo hạm “Tuy Ninh”, “Uy Ninh” hủy hoại các phao tiêu chủ chốt, khiến quân Nhật mất đi ký hiệu dẫn đường, các tàu chiến “Dật Tiên”, “Trung Sơn”, “Kiến Khang”, “Vĩnh Tích” được tư lệnh hạm đội 1Trần Quý Lương chỉ huy, từ Hồ Bắc tụ họp với chủ lực hạm đội 2đến từ Hạ Quan tại Giang Âm, 49 chiếc tàu chiến tiến vào Trường Giang đợi lệnh, mang sứ mệnh “bảo vệ kinh kỳ”.

Trận chiến ngăn sông đằng đẵng oanh liệt đang lặng lẽ khai màn. Khu vực có nền tài chính và công thương nghiệp thịnh vượng nhất Trung Quốc, miền đất gấm vóc sung túc của Trung Hoa đã bị bao trùm bởi rặng mây đen hủy diệt. Song, trước khi ma quỷ vươn dài nanh vuốt, trước khi thời khắc thật sự phải đối mặt với chiến tranh thảm khốc ập đến, bách tính sống trong cảnh thái bình hoàn toàn không biết rằng cả những cá thể bé nhỏ lẫn quốc gia khổng lồ, rằng món tài sản tích lũy được sau muôn gian khó hiểm trở sắp bị hủy diệt chỉ trong nay mai.

Những ngày cuối tháng Tám, đầu tháng Chín, Nam Kinh hừng hực thiêu đốt con người ta trong tiết hè oi ả. Phong trào kiến thiết thủ đô mới vẫn chưa qua, cả thành phố còn đang ngập trong không khí xây dựng nô nức, từ ải Hùng Cứ cao nhất đất Tây Bắc cho đến Long Bàn, từ Bắc đến Tây rồi lại hướng sang Nam, đường hẹp điểm mấy khóm trúc, nhà cửa kiểu tân thời mọc san sát nhau. Tại khu vực sầm uất trong trung tâm thành phố, băng rôn chúc mừng ngày đóng đô còn chưa kịp gỡ xuống đã bị lớp biểu ngữ yêu quốc chống giặc phủ lên.

Đã mấy ngày liên tiếp trời khô hanh không mưa, cho tới tận một ngày mây dày mang tiếng sấm cuồn cuộn ùa lên từ dãy núi bao quanh thành phố.

Sắc trời thoáng vẻ đáng sợ bí ẩn tới lạ kỳ, nền trắng điểm khói xám, trong khói lại tản mát vệt đen. Mùi lưu huỳnh ngập trong bầu không khí, lại thấy thêm cả thứ hương khó phân biệt trộn lẫn từ thực vật và bùn đất, dường như mọi tế bào của mặt đất đều bị trận lôi đình giận dữ sắp ập tới này đâm cho rách tan. Rừng cây ngoài xa cũng như đang lấp lánh một thứ ánh sáng nhạt màu hô ứng cùng. Cảnh tượng kỳ lạ này đã bắt đầu từ lúc 2, 3 giờ và kéo dài đến tận hoàng hôn, đến khi vầng dương trốn sau dãy núi, mọi thứ lại quay về với tăm tối, chỉ thi thoảng lại có tiếng sấm rền vang. Mọi người đã có thể tạm yên lòng trong bầu không khí bất an này, nhưng tâm trạng vẫn cứ thấp thỏm lo âu vì trông mãi chẳng có giọt mưa nào chịu buông.

Khoảng 8 giờ tối, những tia chớp bắt đầu sát phạt nơi đỉnh núi và đường chân trời, tiếng gió phập phồng như sóng sông, những đụn mây cuồn cuộn bao lấy màn đêm đen kịt, ánh chớp chăng kín màn trời, cứ mỗi tích tắc lại có tới cả chục tia chớp cùng lóe lên trong chớp nhoáng rồi biến mất, sau đó lại bất chợt kéo về, nhảy múa trên tầng mây. Cuồng phong cuốn theo bụi đất, trời và đất đột ngột biến sắc, sấm rền nổ vang cuồng nộ như xé toạc thế giới thành từng mảnh.

Trong phòng hóa trang tại cánh gà Hội trường Đại học Trung ương, có mấy đứa bé chừng bốn, năm tuổi đang run rẩy bịt lấy tai, đứa to gan hơn chút đỉnh tò mò ngẩng đầu nhìn cửa sổ thủy tinh to lớn, rồi khi có tia sét xẹt qua, nó lại sợ hãi thét toáng lên.

“Đừng sợ.” Có giọng nói dịu dàng vang lên bên tai đứa bé, rồi lại nhanh chóng bị vùi lấp bởi tiếng sấm. Đứa trẻ lập tức lao vào vòng ôm đem lại cho nó cảm giác an toàn, ấm áp. Thấy nó làm vậy, mấy đứa khác cũng ghé lại, lúc nhúc thành đám.

Cảnh Ninh vươn tay, để tất cả những đứa bé này có thể chạm vào mình. Cô dịu dàng an ủi chúng một hồi rồi khẽ khàng lùi ra sau, chỉnh trang lại áo quần cho chúng. Bé trai mặc sơ mi, quần đen, thắt nơ, bé gái cùng diện váy liền trắng, tay áo có đăng ten xếp nếp. Đám trẻ được trang điểm nhẹ, gương mặt hây hây hồng, cũng có đứa đổ mồ hôi trôi cả lớp phấn, trông lại càng dễ thương hơn. Cảnh Ninh mang phấn son ra trang điểm lại cho chúng. Đứa bé giật thót bởi tiếng sấm ban nãy thấy cô bình tĩnh như vậy bèn nhút nhát hỏi: “Cô Phan ơi, Thiên Lôi có vào bắt chúng con đi không ạ?”

Cảnh Ninh phì cười: “Ai bảo với con là trên đời có Thiên Lôi?”

“Bác Vương ở phòng sưởi ạ.”

“Được rồi, nếu thật sự có Thiên Lôi thì ông ấy chỉ bắt người xấu thôi, không bắt em bé ngoan đâu. Phi Phi là bé ngoan nên không phải sợ, Thiên Lôi sẽ không bắt con.”

Mấy đứa khác nhao nhao hô to: “Thế còn con ạ?”

“Con nữa!”

“Cô Phan ơi con có phải bé ngoan không?”

Cảnh Ninh trịnh trọng gật đầu: “Tất cả các con đều là bé ngoan, nhưng em bé ngoan thì phải dũng cảm, nghe tiếng sấm cũng không được sợ đâu!”

Cô lôi vài món đồ ra từ trong túi xách, cười tinh nghịch: “Các con đoán xem đây là gì?”

Mấy cái đầu dễ thương xúm vào, Cảnh Ninh cười khanh khách xòe tay, hóa ra là một vốc kẹo sữa.

“Ban nãy cô lén lấy trong lúc ăn cơm đấy, giờ đây sẽ là phần thưởng của các bé dũng cảm, ai là bé dũng cảm nào?”

Đám trẻ reo hò vươn tay, tranh nhau hô: “Con! Con ạ!”

Giọng chúng vang dội, mọi người trong phòng nghỉ bật cười quay sang nhìn chúng. Cảnh Ninh đang phát kẹo cho đám trẻ, một nữ sinh chạy vào, hô to: “Cô Phan ơi, chuẩn bị lên sân khấu rồi!”

Đám trẻ lập tức cảm thấy rất căng thẳng, Cảnh Ninh bỏ lại kẹo vào túi, dịu dàng cười: “Biểu diễn xong mình sẽ ăn kẹo nhé!”

Sở Giáo dục tổ chức một buổi trình diễn tổng kết tại Đại học Trung ương, mời những nhân vật nổi tiếng thuộc nhiều lĩnh vực tại Nam Kinh tham dự, vừa để kỷ niệm mười năm định đô Nam Kinh, vừa nhằm quyên góp cho tiền tuyến. Đây là hội trường thường được dùng để tổ chức vũ hội và diễn kịch nói, không phải là hội trường lớn nhất, khách khứa tới đông đâm ra hơi chật chội. Tấm màn đỏ ngăn cách không gian, tạm tạo thành sân khấu. Chiếc dương cầm đặt ở một góc khuất sáng, đèn đóm được thiết kế tập trung ở trung tâm hội trường và chỗ ngồi của khách mời. Ban tổ chức chuẩn bị hoa quả, điểm tâm cùng rượu, thức uống. Khách khứa hầu như đều mặc lễ phục chỉnh tề, nếu không phải ngoài trời còn đang sấm rền chớp giật, có khi người không biết chuyện lại cho rằng đây chỉ là một đêm ca múa mừng cảnh yên vui trong thời đại phồn vinh.

Quan chức chính phủ đang phát biểu, dường như họ đã đẩy âm lượng của mình lên cao nhất để lấp đi âm thanh của cơn bão táp ngoài kia, giọng nói hùng hồn mạnh mẽ. Cứ chốc chốc lại có tràng vỗ tay nồng nhiệt vang lên dưới sân khấu, Cảnh Ninh dắt đám trẻ đứng im lặng ngoài cửa vào, dặn chúng lát nữa phải bình tĩnh bước lên sân khấu, rồi lại nắm chặt tay từng đứa bé một. Có lẽ trừ cô ra, chẳng một ai sẽ đi quan tâm tới sự sợ hãi của đám trẻ này. Bài phát biểu của vị quan chức kết thúc, ông bước xuống sân khấu, hòa vào đám đông, thời cuộc đương lúc nguy cấp, dường như mọi người đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho chiến tranh, nhưng họ vẫn cứ hoang mang bối rối, bèn vội ùa tới hỏi han viên quan nọ. Đám trẻ lặng lẽ bước lên, ánh đèn rọi theo gương mặt căng thẳng của chúng. Đây là lần đầu chúng biểu diễn trên sân khấu, hơn nữa đây còn là tiết mục mở màn, chắc hẳn chúng phải căng thẳng lắm. Thật ra Cảnh Ninh cũng rất lo, càng lúc tiếng trò chuyện dưới sân khấu càng lớn, rõ ràng đây chẳng phải sự cổ vũ với những đứa bé nhạy cảm nhút nhát.

Góc khuất nơi cô ngồi khá tối tăm, chỉ có phím dương cầm trắng muốt tỏa ra ánh sáng nhè nhẹ. Cô vươn tay nhưng không có ý đứng dậy chào hỏi quan khách, cũng chẳng ra bất cứ ký hiệu nào, cổ tay khẽ buông, ngón tay cô nhẹ nhàng đặt lên phím đàn, tiếng đàn bắt đầu bay bổng.

Tiếng nói chuyện ngưng bặt. Những nốt nhạc ấy không buông tha cho họ, không cho họ một quãng nghỉ để hít thở, tiết tấu dồn dập, như những sợi tơ trong suốt mà sắc bén chăng tứ phía bỗng chợt căng chặt.

Cô biên Love’s Sorrow và Long, long ago thành một khúc. Đây là tính toán của Cảnh Ninh. Cô đã cố gắng hết sức để trình diễn và biên soạn khúc nhạc vì lũ trẻ. Giai điệu khi thì nhẹ nhàng, lúc lại sôi nổi, sau những nốt nhạc rực rỡ tươi sáng, họ lại trở về với khúc dạo đầu nguyên bản của Long, long ago, lúc nào đám trẻ đã được tiếng đàn xoa dịu. Phi Phi ưỡn ngực, bắt đầu lĩnh xướng khúc ca dao đẹp đẽ xưa cũ, tiếng trẻ con bay bổng trong veo như thủy tinh, ngâm nga những nốt hy vọng và tình thương, hồi tưởng lại quãng thời gian quá khứ hạnh phúc.

Trừ tiếng nhạc du dương và giọng hát trẻ con như vọng từ cõi thiên đàng ra, cả hội trường không còn một tạp âm nào khác. Khúc nhạc kết thúc, tiếng vỗ tay vang dội như sấm, Cảnh Ninh cuối cùng cũng chậm rãi ngẩng đầu, đôi mắt sáng rực như ánh sao long lanh. Đám trẻ con cúi chào khách khứa, xếp hàng bước xuống sân khấu, nở nụ cười thoải mái với cô. Cảnh Ninh cũng mỉm cười. Cô đứng dậy, đi theo sau đám trẻ bước vào cánh gà, rồi chợt bước chân cô khựng lại.

Cô nhìn thấy một người.

Người đó đứng bên hộp đèn, sát gần hành lang dẫn ra cánh gà. Ánh đèn sáng như tuyết sau lưng khiến anh hóa thành một bóng đen cao lớn. Anh mặc lễ phục tinh xảo, tay cầm ly rượu thủy tinh, nước uống bên trong nhỏ giọt xuống đất, chiếc ly nghiêng ngả. Gương mặt anh tái xám, run rẩy như phát sốt. Đội hợp xướng Đại học Trung ương phải lên sân khấu, mỗi người bước qua đều sẽ đụng phải anh, anh mặc cho họ xô, đứng đó như một bức tượng.

Dáng vẻ anh vẫn hệt như ba năm trước, hàng mày thanh tú, đường nét như chạm khắc, đôi mắt trong, nhìn cô với tình yêu và khát vọng cuồn cuộn. Nếu nói anh có gì đó thay đổi thì đó chính là thần thái đã trở nên cố chấp, cương quyết hơn cả khi xưa.

“Bé Hạt Dẻ!” Anh gượng cười với cô nhưng lại như chực khóc.

Cảnh Ninh binh tĩnh lại, cô nghiêng người nhường đường cho các sinh viên rồi tiếp tục bước nhanh ra cánh gà. Lúc đi ngang qua Ngân Xuyên, cô không hề đưa mắt nhìn anh. Đám trẻ đang đứng chờ Cảnh Ninh ngoài phòng trang điểm, thấy cuối cùng cô cũng xuất hiện, chúng ào tới đòi ăn kẹo. Cô mỉm cười phát kẹo cho đám trẻ, khen ngợi: “Hôm nay các con đều làm rất tốt, còn hay hơn khi luyện tập!”

Đám trẻ ngó nghiêng nhìn ra sau lưng cô, thấy người đàn ông với gương mặt trắng bệch, bám riết sau lưng cô Phan, còn vươn tay kéo cánh tay cô. Chúng chưa từng thấy cô Phan tức tới độ đỏ gay cả mặt như vậy, đến mắt cô cũng đỏ hoe, trông như đang rất giận, rất đau lòng.

“Buông ra!” Cô nói.

“Đi với anh,” Ngân Xuyên sốt sắng, “Mạnh Tử Chiêu cũng tới rồi, anh đưa em đi tìm cậu ta! Đi ngay bây giờ!”

Cảnh Ninh không ngờ anh sẽ nói vậy, cô ngơ ngác, trong tích tắc ánh mắt hai người giao nhau, những buổi sớm chiều tan tành vụn vỡ cùng bao cảm xúc ngổn ngang không diễn tả được thành lợi chợt ùa vào lòng cô.

Tia chớp lóe lên ngoài cửa sổ, sau một đợt sấm nổ vang, cuối cùng mưa cũng trút như thác đổ.

Phi Phi ngồi trong chiếc xe hơi lăn bánh trở lại học viện, tức giận chỉ Ngân Xuyên đang ngồi cùng lũ trẻ, thét: “Sao chú cứ kéo tay cô Phan mãi thế?”

Ngân Xuyên ngó lơ thằng nhóc, càng siết chặt tay Cảnh Ninh, Cảnh Ninh có giằng thế nào cũng không được, anh vẫn không chịu buông. Anh đã thề nếu trời cao cho mình cơ hội gặp lại cô, anh sẽ không buông tay cô nữa, không bao giờ.

Cảnh Ninh hạ giọng: “Anh đừng làm em khó xử trước mặt đám trẻ.”

Anh nhìn cô: “Mình đưa bọn trẻ về trước rồi anh sẽ dắt em đi gặp Mạnh Tử Chiêu. Cậu ta đang ở Nam Kinh, anh biết địa chỉ của cậu ta.”

“Em không gặp bất cứ ai hết. Anh buông em ra, anh làm em đau đấy!” Cô cao giọng, Phi Phi nghe cô bảo đau bèn nhoài tới cạy tay Ngân Xuyên, mấy đứa bé trai khác cũng xông tới: “Buông cô Phan ra! Buông cô Phan ra!” Ngân Xuyên ngồi im không nhúc nhích. Mấy đứa bé gái thấy, cũng muốn cứu cô Phan nhưng không giúp được gì, thế là sốt ruột khóc òa lên.

Ngoài trời đổ mưa lớn, xen lẫn với tiếng sấm chớp. Tài xế và nhân viên trường học trong buồng lái không nghe thấy tiếng ồn ào, xe cứ lao phăm phăm trên con đường núi. Cảnh Ninh sợ lũ trẻ va người, bèn vừa giãy giụa vừa dặn chúng ngồi yên, cố gắng kiềm chế cơn giận mà xin Ngân Xuyên buông tay. Ngân Xuyên vẫn không chịu buông.

“Chú là ai! Chú buông cô Phan ra đi!” Đám trẻ la hét, những nắm đấm nhỏ rơi xuống người Ngân Xuyên như mưa. Cảnh Ninh vừa sốt ruột vừa khó chịu, không biết vì sao còn thấy hơi tức cười. Vừa định năn nỉ thêm lần nữa, Ngân Xuyên đã chợt lớn tiếng: “Chú là chồng của cô Phan! Cô Phan là vợ chú!”

Phi Phi đang chuẩn bị há miệng ngoạm tay anh, nghe vậy tức khắc đần ra, thằng bé ngẩng đầu lên: “Chồng? Vợ?”

Ngân Xuyên chẳng buồn chớp mắt, giải thích như lẽ đương nhiên: “Nếu các cháu coi cô Phan là mẹ mình thì chú cũng chính là cha các cháu!”

“Mẹ? Cha?!”

Đám trẻ tròn xoe mắt nhìn anh.

Cảnh Ninh run lẩy bẩy, thét lên: “Trịnh Ngân Xuyên, anh là đồ vô liêm sỉ!” Cô chợt tắt tiếng, hóa ra anh đã ôm cô vào lòng.

Anh run run nói: “Bé Hạt Dẻ, anh rất vui, đây là lần đầu tiên em gọi tên anh.”

Gương mặt cô áp lên lồng ngực anh, tiếng tim anh đập vang dội bên tai cô, thứ hương thoang thoảng quen thuộc vấn vít bên chóp mũi, đó là mùi bạch đàn và cỏ hương lau anh thích nhất.

Từ nhỏ tới lớn cô chưa từng thấy anh lưu manh như vậy. Cảnh Ninh sắp tức tới phát ngất, cô siết tay nện xuống người anh mấy cái, anh mặc cho cô đánh, mặt không biến sắc, anh nhìn thẳng về phía trước, ngực áo đã thấm ướt nước mắt cô, rồi anh ghì chặt cánh tay, ôm siết lấy cô.

Nước mưa chảy xiết trong rãnh nước dưới mái hiên, những đụn mây mỏng dần, màn trời đêm như tấm phông nền xanh sẫm sau sân khấu, oi bức bị quét sạch, bầu không khí dính dấp ẩm ướt, từng hơi thở tràn ngập hơi lạnh.

Cảnh Ninh thay quần áo ngủ cho bọn trẻ trong ký túc. Ngân Xuyên đợi ngoài hành lang, mặt và vai anh ướt đẫm nước mưa nhưng anh chẳng hề nhận ra. Tiếng sấm vẫn không yếu đi, nhưng cô đã trở lại thế giới của anh, anh đã có nơi nương tựa. Cái nhìn của anh với vạn vật, tình cảm và xúc giác của anh đều đã biển đối. Mưa rền gió dữ với anh lúc này cũng chính là sự bình yên nghìn vàng khó đổi.

Đèn ngủ trong phòng đã tắt, tim Ngân Xuyên đập thình thịch, anh vô thức tiến về phía trước nhưng cửa phòng còn đang đóng chặt, Cảnh Ninh vẫn chưa bước ra.

Cây cối trong trường học sum suê rậm rạp, mưa gió tan đi, sương mù phủ khắp, trời dần sáng. Anh đợi ngoài hành lang một đêm, lòng ngập trong niềm vui tìm lại được điều mình đánh mất. Đời này gặp được người mình thật lòng yêu mới khó làm sao, nhưng anh đã gặp được cô, anh thật may mắn vì đã gặp được cô từ rất sớm. Giờ đây cô đang ở bên anh.

Không yêu chính là không yêu, quay lưng có thể quên ngay được, sấm rền chớp giật cũng có thể lập tức chấm dứt trong tích tắc.

Yêu chính là yêu, biến thành lửa, cháy thành tro, hóa bướm cũng muốn được bên nhau.

“Rốt cuộc anh muốn gì?” Cô nói.

Khi trời sắp sáng, cuối cùng cô cũng bước ra. Ngân Xuyên ngồi trong góc tường sực tỉnh, anh đứng bật dậy. Do đứng lên vội vàng nên mắt anh tối sầm, anh vịn tường, lúng túng nở nụ cười.

Đường nét mờ ảo của cô dần rõ nét, cao gầy thướt tha, gương mặt vẫn xinh đẹp như xưa nhưng lại thêm phần tiều tụy, bực bội.

Cảnh Ninh bất lực nhìn Ngân Xuyên, sự xuất hiện của anh đảo lộn tất cả, như lưỡi rìu nặng nề sắc nhọn, cố chấp xẻ tan những chuyện quá khứ được niêm phong nơi đáy lòng. Vậy cô sẽ để anh cho cô một lời xác nhận, ít nhất như vậy cũng giúp cô chắc chắn được một điều, một điều mơ hồ chẳng có dáng hình, nhưng có lẽ lại vô cùng quan trọng với đời cô.

“Rốt cuộc anh muốn gì?” Cô chất vấn.

Ngân Xuyên dụi mắt, cương quyết nói: “Ninh Ninh, anh muốn ở bên em.”

“Không thể.”

“Anh sẽ bám riết lấy em đến khi em đồng ý mới thôi.”

Cô phát điên: “Vậy sao anh còn bảo đưa em đi gặp Mạnh Tử Chiêu!”

Câu nói ấy đã đánh thức anh, anh lập tức cất lời: “Đúng rồi, em phải đi gặp cậu ta. Giờ anh sẽ đưa em đi.”

Không biết là may mắn hay bất hạnh, đây quả thực là thời đại tràn ngập mâu thuẫn và nhiệt huyết.

Người quân tử dễ kết giao mà khó kết thân, gần gũi sự đời nhưng lại ôm hoài bão riêng, Trịnh Ngân Xuyên trên thương trường vô cùng kiêu ngạo cô độc, anh có đồng minh lợi ích nhưng không có bạn bè tri kỷ. Nhưng hiện giờ, tất cả mọi người đều đang giữ mối liên hệ mật thiết nhất với vận mệnh quốc gia, chung tay giúp nước nhà thoát cơn nguy khốn đã trở thành lựa chọn và trách nhiệm tất yếu.

Nhà công nghiệp Phạm Húc Đông từng hợp tác với Hiệu buôn Vĩnh Hòa trong lĩnh vực xuất nhập khẩu sở hữu một xưởng hóa chất với trình độ tiên tiến bậc nhất Á Châu tại Nam Kinh. Người Nhật Bản sớm đã nhăm nhe, nghĩ bao cách cướp mất công xưởng từ tay họ Phạm. Phạm Húc Đông thà ngọc nát đá tan cũng không chịu để công xưởng rơi vào tay kẻ thù. Sau sự kiện câu Lư Câu, Phạm Húc Đông lập tức ra chỉ thị cho nhân viên tháo dỡ máy móc thiết bị, chuyển toàn bộ bản vẽ, vật liệu và mô hình đi, những thiết bị cỡ lớn không thể mang theo thì phải tháo rời phá hỏng, thậm chí là ném xuống sông. Máy móc cùng bản vẽ trong công xưởng được bốc lên tàu, vận chuyển từng phần theo hướng Tây tới Trường Sa và Vũ Hán, quá trình này đã phải nhờ tới sự giúp đỡ của Hiệu buôn Vĩnh Hòa nhà họ Trịnh cùng Hãng thuyền Đại Quân nhà họ Mạnh.

Lần này Ngân Xuyên tới Nam Kinh không chỉ vì chuyện công xưởng của Phạm Húc Đông. Ngay từ tháng Tư, Ngân Xuyên đã tìm đến Nam Kinh vài lần để hưởng ứng lời hiệu triệu của chính phủ, anh cùng nhiều nhân vật trong giới kinh doanh, ngân hàng họp mặt tại thủ đô, thảo luận xem có nên đồng loạt nhận mua hơn mười triệu “công trái yêu nước” để phục vụ cho an ninh quân sự hay không. Đây không phải một con số nhỏ, với rất nhiều những thương nhân cần cù thận trọng, đây chính là bát nước hắt đi không tìm lại được. Nhưng hiện giờ họ không thể không rút hầu bao. Tổ rơi trứng cũng chẳng còn, nước sắp mất, dân biết sống sao? Trong hơn chục năm nay Ngân Xuyên đã làm giàu nhờ kinh doanh, anh bày mưu tính kế, một khi đã ra tay ắt sẽ có kẻ trầm trồ, điềm nhiên như không hốt núi vàng núi bạc. Đây là lần đầu tiên trong đời anh không cò kè giá tiền, không có bất cứ toan tính nào, cứ thế hoàn toàn chấp nhận sự sắp đặt của tình hình vận mệnh quốc gia với sự nghiệp của bản thân.

Anh gặp Mạnh Tử Chiêu ngay từ lần đầu tới Nam Kinh, dù về cơ bản mục đích chuyến đi của hai người là giống nhau, nhưng Tử Chiêu tận tay nhận được thông báo khẩn cấp của chính phủ, cậu không nói rõ Hãng thuyền Mạnh Quân được giao nhiệm vụ cụ thể gì. Trước kia chia tay, cậu đã cho Ngân Xuyên hay địa chỉ của mình tại Nam Kinh.

Sau đêm mưa bão, Trịnh Ngân Xuyên đưa Phan Cảnh Ninh đi tìm Mạnh Tử Chiêu. Còn Mạnh Tử Chiêu đang từng bước tiến về phía điểm kết của đời mình.

Gió biết, mưa biết, trời biết.

Còn họ lại chẳng hay.
 
Quyển 2 - Chương 91


Bàn làm việc chất chồng văn kiện và giấy báo, chiếc ly còn dư lại bã trà, gạt tàn đầy ắp tro thuốc, đầu lọc còn dư hơi ấm, vừa có một cuộc hội đàm xuyên đêm không nghỉ diễn ra trong phòng họp. Giờ căn phòng chỉ còn lại mình Mạnh Tử Chiêu cùng Lư Tác Phù – người sáng lập Công ty Dân Sinh. Hiện Lư Tác Phù đã là thứ trưởng Bộ Giao thông, giờ đây gương mặt ông chất chồng sự tang thương của thời đại.

“Đắm tàu ngăn nước…” Tử Chiêu lặp lại bốn chữ này, nỗi hoang mang và trống rỗng ập tới trong chớp mắt, cậu như bị rút kiệt sức lực, rồi lại chợt mỉm cười, tia sáng kỳ lạ lóe lên nơi cặp mắt.

“Tôi đưa hơn mười con tàu Tinh Nguyệt men theo vùng ven Trường Giang, tôi những tưởng hoàn thành nhiệm vụ khai thác đá giúp quân đội là có thể trở lại Hồ Bắc. Ha ha, nào ngờ họ chuẩn bị đánh chìm chúng xuống Trường Giang! Sinh tiền cha hay mắng tôi bất tài, sớm muộn gì cái nhà này cũng bại trong tay tôi, ông mắng đúng lắm, quả thật không ngờ lần này tôi tới Nam Kinh lại là để hủy hoại gia nghiệp nhà họ Mạnh!”

Vẻ áy náy thoáng hiện lên trên gương mặt Lư Tác Phù, nhưng sự tin tưởng trông cậy vẫn chiếm phần hơn: “Tôi cảm thấy rất có lỗi, cũng rất đau buồn, nhưng Tử Chiêu à, xin cậu hãy cân nhắc thử xem. Ban nãy cậu cũng đọc điện mật của Bộ trưởng Trần rồi, chắc hẳn cậu phải biết rõ những cuộc đánh úp ở vùng biển và ven Trường Giang của quân ta gần như không có cơ hội đem lại thắng lợi, giờ ta cần gấp rút di chuyển tài sản quốc gia về hướng tây nhằm đảm bảo mạch máu của cải đất nước, phải chặn cứng tuyến đường thủy của địch, đắm thuyền ngăn sông là lựa chọn duy nhất, cũng là lựa chọn tốt nhất.”

Ngay khi chiến tranh nổ ra, Công ty Dân Sinh vốn cắm rễ ở vùng đất liền Trung Quốc đã tích cực tham gia chiến sự, cung cấp tàu thủy hộ tống hàng trăm nghìn quân Tứ Xuyên ra tiền tuyến không điều kiện. Bộ trưởng Trần được Lư Tác Phu đề cập tới chính là Bộ trưởng Bộ Hải quân Trần Thiệu Khoan.

Tiếng súng nổ ra trên cầu Lư Câu, chiến tranh bùng lên tại vùng Hoa Bắc, không bao lâu nữa chiến hỏa ắt sẽ đốt rụi phương Nam. Thực lực hải quân Nhật quá mạnh, đối lập hoàn toàn với sự yếu ớt của hải quân Trung Quốc. Bộ trưởng Bộ Hải quân Trần Thiệu Khoan bất đắc dĩ phải đưa ra một phương thức tác chiến bi tráng mà cũng bi thảm: Đắm thuyền ngăn sông. Cũng trong giai đoạn này, đoàn cố vấn Đức của chính phủ Dân quốc cũng lập ra một phương án chỉ đạo tác chiến, trong đó có viết rất rõ răng: “Trong khoảng thời gian chiến tranh bùng nổ tại Tùng Hộ (*), cần khai hỏa tấn công tàu địch tại Ngô Tùng Khẩu, nhằm mục đích khống chế tuyệt đối tuyến đường băng qua Giang Âm hướng về phía tây của địch, chung sức hiệp lực với cuộc tác chiến của bộ đội tại các cứ điểm và lục địa.” Ngày 28 tháng 7, cuối cùng Hội nghị Quốc phòng tối cao cũng thông qua kế hoạch ngăn sông, quyết định nắm bắt thời cơ khống chế địch, ngăn chặn lộ trình trên Trường Giang của quân thù, ngừa trường hợp địch vượt ngược dòng, chặn đứt đường về của 13 con tàu thuộc chiến đội số 11 cùng một lượng kiêu dân Nhật Bản lớn, đoạt lấy điều kiện đàm phán với Nhật Bản. Thời gian hành động được định vào ngày 12 tháng Tám. Kế hoạch phong tỏa dưới nước bí mật này chia binh làm hai đường, hoạt động theo hai tuyến như sau: Tuyến thứ nhất dọc theo chân Trường Sơn, Giang Âm đến cảng cầu La Gia, Tĩnh Giang, thuộc bắc ngạn Trường Giang với mục đích chính là đánh chìm một loạt tàu chiến cũ kỹ. Tuyến thứ hai là tuyến đường thủy chuyên chở phía bắc Giang Âm, với nhiệm vụ đánh chìm các tàu buôn đủ các kích cỡ. Luân thuyền Chiêu thương Cục, Công ty Dân Sinh, các hãng tàu thủy vùng Tam Bắc (**), trong đó bao gồm cả Công ty Đại Đạt của Đỗ Nguyệt Sênh cùng nhận được thông báo trưng dụng, 24 con tàu, khối lượng tổng cộng lên tới hơn mười nghìn tấn sắp bị đánh chìm theo một mốc thời gian đã được định trước.

(*) Tùng Hộ: ý chỉ Thượng Hải.

(**) Tam Bắc là tên gọi của ba khu vực thuộc miền Bắc Trung Quốc bao gồm Đông Bắc, Hoa Bắc và Tây Bắc.

Không những vậy, thời điểm này Trường Giang đang vào mùa lũ, nước sông chảy xiết, mực nước lên cao, lòng sông rộng, sau khi những con tàu cỡ lớn bị đánh đắm, tuyến phong tỏa dưới nước vẫn sẽ tồn tại khe hở, phải có cần tàu buôn, thuyền dân cỡ nhỏ chở đầy đá và bùn cát tiến vào hải đạo chật hẹp, lấp đầy những khe hở ấy. Đêm qua, Hãng thuyền Đại Quân nhà họ Mạnh hay tin mình sẽ đảm nhận nhiệm vụ này. Đất nước cần một công ty chuyên chở đường thủy lâu đời sử dụng sức mạnh “đại quân”, sử dụng phương thức tự sát để vạch nên một nét bút oanh liệt vĩ đại trong chiến dịch trên con sông mẹ Trung Quốc.

Chỉ còn bốn ngày nữa là kế hoạch sẽ bắt đầu, công việc tiền kỳ về cơ bản đã hoàn thành, hầu hết các phao tiêu đều bị hủy hoại, chủ lực hai hạm đội Trung Quốc đang tập hợp tại vùng sông Giang Âm, đây là hành động đối ngoại đầu tiên của hải quân Trung Quốc sau hải chiến Giáp Ngọ, thành bại của kế hoạch này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới vận mệnh Trung Quốc.

Sự lựa chọn trĩu nặng này đang được bày ra trước mặt Tử Chiêu. Bảo là lựa chọn nhưng thực chất ai cũng biết cậu không có cơ hội chọn.

Tử Chiêu chống cùi nhỏ trên bàn, vùi đầu giữa hai bàn tay, khẽ cất tiếng thở dài.

“Ông Lư, ông còn nhớ thời mới thành lập, Dân Sinh đã gặp phải bao nhiêu khó khăn không?”

Lư Tác Phù nói: “Tôi lập nghiệp chỉ với tám nghìn hiện kim, còn tìm đến nhờ ông cụ Mạnh bảo lãnh giúp. Con thuyền đầu tiên của chúng tôi là một con thuyền vỏ sắt nước cạn với trọng tải 70 tấn, men theo Trường Giang tiến về Trùng Khánh, mời chào khách hàng suốt chặng đường đi. Tôi tự lên thuyền tiếp khách, không đủ đầu bếp tôi cũng xông vào hỗ trợ, cuối cùng, rất nhiều lữ khách do thích ăn món thịt xào của tôi mà đã nhiều lần trở lại. Cứ như vậy, tôi gian nan cất từng bước, số tiền tích cóp được cũng lớn dần, chỉ chăm chăm muốn mua thêm thuyền, hết con thuyền nọ lại tới con thuyền kia, khó khăn lắm mới bước được tới ngày hôm nay. Sao có thể quên nổi!”

“Ông lập nghiệp trong cảnh bần hàn, còn tôi thì tiếp nhận gia nghiệp của cha với đôi bàn tay trắng. Ông đã trả giá hơn mười năm cho Dân Sinh, còn tôi mới chỉ làm việc cho Đại Quân được vài năm,” Tử Chiêu mỉm cười, “quả là đập nồi dìm thuyền. Tận mắt nhìn thấy tâm huyết của mình chìm xuống lòng sông, chắc hẳn ông còn nuối tiếc hơn tôi nhiều.”

“Không. Tôi cũng như cậu thôi, vì mỗi phút mỗi giây trong quá khứ đều được chúng ta đánh đổi bằng khoảng thời gian quý giá nhất của cuộc đời,” lệ ánh lên trong mắt Lư Tác Phù, nhưng từ đầu chí cuối ông vẫn nở một nụ cười ấm áp, “Tử Chiêu, chúng ta buông bỏ thứ mình quý trọng nhất, nhưng thứ ta lưu lại là công đức vô hạn, sự hy sinh của chúng ta hôm nay sẽ bảo vệ mạch máu Trung Hoa. Dù tôi vô cùng đau lòng nhưng tôi không hề nuối tiếc.”

Tử Chiêu gật đầu: “Ông Lư, tôi muốn xin nhờ ông giúp một việc.”

“Cậu nói đi.”

“Đại Quân có rất nhiều thợ thuyền, thuyền trưởng lớn tuổi gắn bó với công ty suốt hàng chục năm. Họ có kinh nghiệm phong phú nhưng nếu mất thuyền thì cũng tuyệt kế sinh nhai. Tổn thất lần này không hề nhỏ, Đại Quân sẽ không thể hồi phục trong một khoảng thời gian ngắn. Tôi muốn nhờ ông thu nhận những nhân công này, cho họ làm việc tại Dân Sinh, như vậy tôi mới dám nhìn mặt gia đình họ. Dù họ có xem tôi là tên phá gia chi tử hay không thì tôi cũng không thẹn với đất nước, không thẹn với họ. Xin ông hãy đồng ý giúp tôi.”

Lư Tác Phù xúc động: “Tôi đồng ý với cậu, nhất định tôi sẽ thu xếp ổn thỏa.”

Tử Chiêu nhìn đồng hồ rồi ngẩng đầu. Cặp mắt cậu sáng ngời, kiên định, ánh sáng như thủy tinh lấp lánh trong đôi đồng tử ấy.

“Được rồi, vậy thì ông Lư, năm nay tôi sẽ ngừng kinh doanh, lên tiền tuyến cùng ông!”

Thời gian cấp bách, cậu sắp xếp hành lý rồi lập tức lên đường tới Giang Âm. Trên xe, cậu lấy bút, viết những lá thư trên cuốn sổ mình thường dùng. Một bức cho mẹ, một bức cho vợ, bức còn lại gửi phó giám đốc của Đại Quân để thu xếp chuyên công ty sau này. Về sau chắc chắn Đại Quân sẽ gặp khó khăn lớn, cậu phân phó công ty phải làm những gì khi chiến sự ập tới… Dù đã hạ quyết tâm, nhưng nghĩ tới những chuyện này cậu vẫn không khỏi phiền muộn. Chiếc xe hơi lao vun vút trên con đường lớn thẳng tắp, bánh xe ma sát với mặt đất ẩm ướt, phát ra một thứ âm thanh trống trải xa xăm. Tử Chiêu cúi đầu vuốt ve cuốn sổ trên đầu gối, không nhìn thấy Ngân Xuyên và Cảnh Ninh đang bước trên đường.

Lúc chiếc xe đi ngang qua, nó cuốn theo những chiếc lá rơi bị nước mưa thấm ướt. Ngân Xuyên đứng che trước mặt Cảnh Ninh theo bản năng, chiếc lá bay tới, dính vào quần anh, rồi lại rơi xuống sau mấy bước anh cất. Có cơn gió thổi qua, những chiếc lá bay thành cụm trên đường, như chiếc móng vuốt cào xuống mặt đất.

Ngân Xuyên ấn chuông cửa rất lâu nhưng không có ai bước ra. Anh rút tờ giấy ghi địa chỉ trong túi áo, xem lại thật cẩn thận, sau khi xác nhận mình không lầm, anh tiếp tục gõ cửa. Lần này tay anh siết thành nắm đấm, hàng rào sắt kêu lách cách, đánh thức chú chó con nhà hàng xóm, chú chó sủa ăng ẳng, trong tích tắc, khu phố nhỏ đã trở nên huyên náo, có người mở cửa sổ nhìn họ, bất mãn trách cứ vài câu.

Ngân Xuyên buông tay, tiếp tục ấn chuông, nói: “Chắc cậu ấy còn đang ngủ, để anh thử lại.”

“Bỏ đi!” Cảnh Ninh nói, quay người bước đi.

Ngân Xuyên đuổi theo: “Hoặc có thể cậu ấy đã đi đâu rồi, mình đứng đợi xem thế nào.”

“Đợi anh ấy làm gì?” Cảnh Ninh lạnh lùng nói.

Lòng Ngân Xuyên ngổn ngang trăm mối, anh khẽ thốt: “Thật ra anh là người không muốn để hai đứa gặp nhau nhất trên đời này, nhưng… Ninh Ninh, anh chỉ muốn em vui thôi.”

Cảnh Ninh siết chặt áo choàng, đưa tay dụi mắt, không có lệ, không đến mức đau lòng, cô chỉ thấy hơi ngẩn ngơ. Ngân Xuyên thấy gương mặt cô buồn bã, anh tự cho mình hiểu lòng cô, nói: “Mình đi ăn sáng trước đã, sau đó em về nghỉ đi, anh sẽ giúp em tìm cậu ấy.”

“Em không gặp, có gặp cũng vô nghĩa.” Cô nói.

Suốt chặng đường về, cô không nói tiếng nào nữa, cũng không ngoảnh đầu lại, chỉ im lặng bước đi mà chẳng có mục đích, anh đi theo cô, thành phố đã tỉnh giấc, tiếng người náo nức. Bọn họ băng qua bến tàu bên sông, đường chân trời hạ thấp, gió ẩm ướt vút qua.

Cảnh Ninh chợt dừng bước.

“Anh có nghe thấy không?”

“Gì cơ?”

“Tiếng chim hót. Là tiếng chim hót của mùa xuân… Mỗi lần xuân về là lại nghe thấy, trước kia ở nhà em cũng thường nghe được tiếng chúng hót.”

Ngân Xuyên đứng thẳng lưng lắng nghe: “Không, chỉ có tiếng gió và nước thôi. Ý em bảo là chim đỗ quyên sao, chúng chỉ hót vào mùa xuân, giờ đã sắp sang thu rồi. Ninh Ninh, chắc em nghe nhầm thôi.”

“Rõ ràng có mà!” Cô ngoảnh đầu lại, lọn tóc đen nhánh bay bên sườn mặt trắng muốt của cô. Có ánh sáng lấp lánh trong mắt cô, nhưng chẳng mấy chốc nó đã lụi tắt, hồi lâu, cô mới bất lực nở nụ cười.

“Anh nói đúng, em nghe nhầm rồi.”

Năm Dân quốc thứ 26, năm 1937 như đã được định sẵn sẽ là một năm tràn đầy bi tình.

Ngày 11 tháng Tám, Bộ trưởng Bộ Giao thông Trần Thiệu Khoan nhận được điện lệnh, lập tức tiến hành kế hoạch đắm tàu ngăn sông, chạng vạng hôm ấy, cậu từ mặt sông Nam Kinh bước lên tàu chiến, tới Giang Âm nằm ven bờ Đông Hải vào lúc nửa đêm. Trong màn sương mù mông lung của buổi sớm tinh mơ, từng con thuyền quân dân chuẩn bị tự kết liễu đời mình đã cập bến, như một cái bóng khổng lồ trầm lặng đang tụ lại.

Những con thuyền đầu tiên tự đắm là tàu luyện tập “Thông Tế”, tàu tuần dương hạng nhẹ “Đại Đồng”, “Tự Cường”, mẫu hạm “Đức Thắng”, “Uy Thắng”, hầu hết là những con tàu cũ từ thời nhà Thanh, sớm đã đi đến những tháng ngày cuối cùng của cuộc đời. Hàng chục con tàu thương mại có lớn có nhỏ được chiêu mộ từ các công ty tàu thủy vốn nhà nước và tư nhân cũng lần lượt xếp hàng, chúng đã chuẩn bị để được đánh chìm.

Tám giờ sáng, những con tàu trên sông bắt đầu thực hiện nghi lễ kéo cờ với sự dẫn đầu của tàu tuần dương hạng nhẹ Bình Hải, những người lễ thực hiện nghi lễ bày tỏ sự kính trọng với quân kỳ trên mạn tàu. Tiếng quân nhạc vang lên, cờ tư lệnh chầm chậm được kéo lên tới đỉnh cột buồm, đón gió bay phấp phới.

Những con tàu lần lượt tiến về vị trí được quy định, Trần Thiệu Khoan tuyên bố lệnh ngăn sông, bắt đầu đắm chìm tàu, những con tàu đồng loạt mở cửa đáy, tàu chở hàng tự đục lỗ đắm sông, chòng chành trên mặt nước, đến tận hoàng hôn mới tuyên bố kết thúc. Cái bóng khổng lồ ấy từ từ chìm xuống, chìm vào tĩnh lặng, chìm vào phong ba, chìm xuống vĩnh hằng.

Còi hơi kêu thét, quân kỳ rủ xuống, bầu trời gào khóc không thành tiếng.

Đây là màn nhạc đệm cho một cuộc huyết chiến.

Ngày 16 tháng 8, cơn bão Nam Thái Bình Dương làm dấy lên những bão tố trên mặt sông, gió gào thét, sóng cuộn trào, nhiệt độ tụt xuống, cơn mưa lác đác đổ xuống mặt sông như những lưỡi dao sắc bay xéo. Điện thoại chòi gác bác cáo: Phát hiện phi cơ địch tại vùng trời hạ lưu ngoài tuyến phong tỏa, bảy chiếc phi cơ Nhật đâm vào tầng mây dày với tuyến đường gần như thẳng đứng, chúng che lấp hành tung rồi lại chợt vòng vèo bay trở lại. Tiếng còi báo động đinh tai vang lên, trận hải chiến Giang Âm chính thức khai màn.

Trận chiến này kéo dài 108 ngày, đây là cuộc đấu Trung – Nhật hiếm thấy với ba tầng bộ – hải – không, đồng thời cũng là chiến dịch hải quân duy nhất trong Kháng chiến chống Nhật. Kết quả vô cùng bi tráng. Hải quân Trung Quốc tử thủ gần ba tháng trên tuyến phong tỏa Giang Âm, che chở cho bảy trăm ngàn bộ binh tiền tuyến Thượng Hải, để kéo dài thời gian quân Nhật lội ngược dòng, cái giá phải trả là một phần hạm đội Trung Quốc chìm nghỉm dưới vùng duyên hải Sơn Đông, toàn bộ quân chủ lực nằm dưới đáy Giang Âm, Giang Tô. Chiến đội số 1 và số 2 bị tiêu diệt hoàn toàn, đây lại là thương tích mang tính hủy diệt nặng nề mà hải quân Trung Quốc phải hứng chịu sau trận Giáp Ngọ.

Và giờ thì hãy trở lại giai đoạn đầu của kế hoạch tuyến phong tỏa. Sau khi 12 chiếc tàu chiến cỡ lớn cũ kỹ tự đắm, 20 con tàu buôn lớn nhỏ chở đầy đá cũng chìm xuống lòng sông theo vị trí được chỉ định. Đang vào mùa lũ, nước chảy cuồn cuộn, quân đội phát hiện loạt thuyền đắm đầu tiên đã bị sóng nước đánh lệch khỏi vị trí lý tưởng ban đầu, gây ra những lỗ hổng trí mạng trên tuyến phong tỏa. Phong tỏa Trường Giang là kế hoạch vô cùng quan trọng của tuyến phòng ngự trung bộ, là điểm trọng yếu của quốc phòng. Để củng cố phòng ngự, họ buộc phải tiếp tục bổ khuyết cho những lỗ hổng này. Những con tàu chở hàng cỡ nhỏ của Hãng thuyền Đại Quân gần như đều được trưng dụng, chúng và những con thuyền dân khác lấp đầy khe hở bằng thân xác mình và hơn sáu nghìn gánh đá. Trong mấy ngày cuối, tàu cỡ nhỏ lần lượt tiến vào tuyến đường thủy còn lại, các kỹ sư chuyên nghiệp hợp sức với quân đội hạ toàn bộ cột buồm lộ trên mặt nước xuống, tránh cảnh sau này quân địch phát hiện mục tiêu dưới nước, quyết định lẩn tránh.

Tử Chiêu chết trong trận Giang Âm, vào ngày 16 tháng Tám.

Cậu chỉ còn lại một con tàu chở hàng nhỏ, đó là tàu Tinh Nguyệt năm ấy cha trao cho cậu, nó từng rong ruổi trên cung đường Xuyên Giang hiểm nguy, sở hữu thân mình nhẹ nhàng nhanh nhẹn nhất. Hôm ấy, Tử Chiêu trơ mắt nhìn từng con thuyền chìm xuống lòng sông, cậu như sinh ly tử biệt với con mình, anh em mình, người thân mình. Cậu thấp thỏm không ngủ được, cũng từng xót xa rơi nước mắt, nhưng để không uổng phí sự hy sinh này, cậu lau khô lệ, lưu lại cùng những kỹ sư của Đại Quân, tiễn những con tàu của mình một đoạn cuối. Tờ mờ sáng ngày 16 tháng Tám, Tử Chiêu dậy rất sớm, lái con tàu Tinh Nguyệt cuối cùng còn sót lại đi kiểm tra tuyến đường cùng binh sĩ quân đội thay một kỹ sư đã kiệt sức.

Quân địch đột ngột tập kích trên không, cuộc chiến bất ngờ khiến con tàu chở hàng nhỏ kẹt trong lửa trận. Họ không thể quay trở lại đường cũ, tiến lên cũng sẽ chỉ cản đường tàu chiến. Tinh Nguyệt – con tàu chở hàng cuối cùng vẫn còn trách nhiệm tự đánh chìm khỏa lấp lòng sông, nó sẽ là con tàu buôn cuối cùng bị đắm. Nếu lập tức đục lỗ cho tàu chìm, nhanh nhất cũng phải mất hai tiếng, cách duy nhất bây giờ là nổ tàu.

Thuốc nổ nằm trong khoang tàu, họ đã chuẩn bị từ sớm rồi, chuẩn bị cho tình hình xấu nhất như bây giờ. Nhưng nếu cho nổ lúc này, sẽ không có tàu chiến tới tiếp ứng.

Đầu óc Tử Chiêu chợt trống rỗng.

“Anh Tử Chiêu, anh ngồi thuyền nhỏ đi đi,” một người lính trẻ nói với Tử Chiêu, “cứ để chúng tôi lo.”

Tàu chở hàng vẫn còn một chiếc thuyền gỗ, vẫn còn cơ hội sống sót.

Tử Chiêu im lặng một lát, cậu lắc đầu, nói: “Hải đạo nguy hiểm, phải lái tàu đến đúng vị trí chỉ định mới cho đắm được, nếu không sẽ ảnh hưởng tới tàu chiến của chúng ta. Các cậu không quen với con tàu này, không lái được đâu, mau đi đi.” 

Cậu lính nọ hẵng còn rất trẻ, đôi mắt ngô nghê khờ khạo, phía trên môi còn phủ một tầng lông tơ, Tử Chiêu nhìn cậu ta, cười: “Cậu mới tí tuổi đầu mà đã ôm mộng làm anh hùng rồi ư? Chết trên chiến trường không tệ đâu, cũng khá, khá lắm, nhưng đừng chết trên tàu của tôi, tàu của tôi không phải chiến trường, các cậu mau đi đi, đi đánh quân Nhật Bản, đánh chết được tên nào hay từng đó.”

Cậu lính cắn răng, khẽ khom người chào Tử Chiêu rôi chạy lên boong tàu, cởi sợi dây buộc bên mạn tàu, thả con thuyền gỗ xuống sông.

Gió sông gào khóc, mưa gió bập bùng, làn khói đen bốc trên mặt sông giao hòa với ánh lửa giữa trời và nước, một cảnh tượng quá đỗi kỳ lạ, đây là lần đầu tiên trong đời Tử Chiêu chứng kiến hình ảnh này. Răng cậu run cầm cập, tay cũng run, cố gắng bình tĩnh nhìn bản đồ, tay nắm chắc bánh lái, giữ vững lực độ chuẩn xác, lái Tinh Nguyệt tới vị trí quy định. Xích sắt dưới đáy tàu khua vào cột con thuyền chìm nghỉm trong lòng sông, phát ra tiếng va chạm, thuyền hơi nghiêng, rồi lại vững vàng sau cơn sóng vỗ.

Chính là nơi này. Lòng Tử Chiêu chợt yên bình.

Một tích tắc được kéo dài, sao dài như vĩnh hằng.

Cậu kiểm tra dây thuốc nổ cẩn thận, sau khi chắc chắn không có vấn đề gì, cậu ngồi xuống, nhặt những viên bi sắt tán loạn trên mặt đất lên, cất chúng vào túi áo, chợt tay cậu chạm phải một món đồ bé nhỏ cứng rắn.

Đó là viên lạc gỗ đã ngả sắc nâu đậm. Cậu đặt nó và chùm chìa khóa nhà kề sát bên nhau. Đó là món quà Phan Cảnh Ninh tặng cậu năm 14 tuổi, hôm ấy họ đánh nhau, cô còn rách cả quần.

Cậu phì cười, sau đó cười thật to, rồi những giọt nước mắt ứa ra, cậu gian nan hít thở.

“Cô nàng thối,” cậu nghĩ, “giờ anh đang từ biệt em phải không? Chúng ta đã tạm biệt nhau từ năm năm trước, giờ anh lại tiếp tục từ biệt em. Vẫn đau đớn như xưa, nhưng đây là lần đầu anh thật sự cảm thấy nhẹ lòng. Từ ngày hôm nay trở đi, anh sẽ không phải chịu đựng nỗi đau mất em nữa.”

Trước khi chết 30 giây, 60 giây, một tiếng đồng hồ, hai tiếng đồng hồ, con người ta sẽ có cảm giác gì? Biết mình sắp chết, trong khoảng thời gian ngắn ngủi cuối cùng còn lại, họ sẽ nghĩ gì? Tử Chiêu nghĩ mà tràn đầy mâu thuẫn: Anh đang trải qua cảm giác ấy, Phan Cảnh Ninh, anh cảm thấy hơi hả dạ mà chẳng hiểu tại sao. Vì sự phù phiếm ư? Vì anh cảm động trước chính sự lựa chọn dũng cảm của mình ư? Hình như không phải, đều không phải.

Trên mặt sông mênh mang mờ mịt, trong trận khói lửa liên miên bao ngày, thật ra đã chẳng còn nghe nổi tiếng chim hót nữa, nhưng Mạnh Tử Chiêu lại nghe thấy tiếng chim hót véo von tới lạ chỉ có vào ngày xuân, đó là âm thanh hạnh phúc liên tục ùa vào ký ức cậu, là âm thanh vang lên ngày cậu còn niên thiếu, trong những năm tháng bình yên an ổn.

Cậu nhớ cô ngồi xổm dưới đất, nhớ cô ôm những chú vịt nhỏ vào lòng, mái tóc mềm như tơ phất phơ trước trán, cậu nói với cô bé ấy, anh yêu em.

Cậu nhớ những quấn quýt nửa đau đớn nửa ngọt ngào giữa họ, nhớ khóe môi ngậm cười của cô dưới nắng ban mai, gương mặt non nớt trong sáng của cô, anh nói với cô gái ấy, anh yêu em.

Cậu nhớ cô đuổi theo chiếc xe cậu xa dần, nhớ gương mặt nhạt nhòa nước mắt, ánh sáng cố chấp như một ngọn lửa bừng lên nơi đáy mắt cô, cậu nói với người phụ nữ tuyệt vọng ấy, anh yêu em.

Gặp gỡ nhau. Có được nhau. Chia xa nhau. Rồi ly biệt.

Cậu yêu cô. Giờ đây cậu cho phép bản thân mình nhớ lại tình yêu dành cho cô. Cậu yêu cô, như yêu một gia đình, như yêu mảnh đất dưới chân mình, yêu luồng không khí mình hít thở, yêu những làn nước mùa xuân lăn tăn sóng xanh của Đông Hồ. Cậu mong cô yên bình mỹ mãn, cho dù cậu đã rời đi mãi mãi.

Đã rất lâu, rất lâu rồi cậu không nhớ tới cô, nhưng giờ phút này, cậu khao khát có thể gặp lại cô. Phải, đây chính là từ biệt thật sự. Giờ phút cuối cùng đã đến.

Tử Chiêu nhắm mắt: Phan Cảnh Ninh, anh đã không còn nhớ em nữa rồi, dù nhớ tới em lòng anh cũng không đau nữa. Anh không muốn từ bỏ gia nghiệp, không muốn từ bỏ sự kỳ vọng của cha mẹ, không muốn từ bỏ rất nhiều điều vì em. Anh ngỡ mình sai, nhưng thật ra không phải. Vì hóa ra tất cả những lần không vứt bỏ ấy đều là vì sự từ bỏ của ngày hôm nay. Không chỉ vì em mà còn vì nhiều người khác, vì Thượng Hải, vì Nam Kinh, vì Vũ Hán, vì mảnh đất nơi em có thể sống yên bình, cuối cùng anh cũng có thể từ bỏ em và cả sinh mệnh của anh.

Khoảnh khắc ấy, cậu cảm nhận được sự thư thái và niềm vui đã lâu không được nếm, cậu không do dự nữa, rút diêm châm mồi dẫn lửa.

Bức tranh mệnh nước hùng vĩ, phủ đầy sợi tơ của thời gian, trên mỗi sợi tơ đều có một chấm nhỏ, chúng bé nhỏ là vậy, nhỏ tới mức người ta có thể dễ dàng bỏ quên, xem nhẹ, nhưng chúng cũng là một bộ phận tạo nên cuộn tơ ấy, từng sợi, từng chấm, nếu không có nó cũng chẳng có bức tranh này.

Ánh lửa chợt vươn tay chạm lên trời cao, ngọn lửa hừng hực, tỏa ánh muôn sắc, hóa ra sắc màu của cái chết lại lộng lẫy nhường này. Khói lửa của sinh mệnh đã cháy tới đỉnh điểm vào thời khắc ấy. Con tàu phát tiếng nổ vang rền, như đang tuyên một lời thề oanh liệt.
 
Quyển 2 - Chương 92


Trước khi thất thủ, Nam Kinh là một thành phố lạ kỳ.

Nhà hát vẫn cứ diễn kịch, rạp chiếu bóng vẫn cứ chạy phim đến nửa đêm; trước khi đại nạn ập xuống, người dân cần ăn một bữa cơm no, vậy là nhà hàng chật kín khách khứa. Họ ăn tống ăn tộ, cố ních đầy dạ dày, dòng người xếp hàng mua vịt muối cũng phải kéo dài đến vài chục mét. Lúc ngang qua cửa hàng tổng hợp, đám đông lại bất giác ngâm nga theo điệu nhạc bên trong. Người ngoài Tân Nhai Khẩu đông gấp đôi thường ngày, số dân dư ra là tốp “chạy giặc” tràn tới. Tất cả mọi người đều ùa vào thành phố này, kề sát bên nhau, nương tựa lẫn nhau.

Kế đắm thuyền chặn giặc của Giang Âm chỉ có tác dụng trì hoãn ngắn ngủi, chiến sự Lư Hộ thảm khốc, Tô Nam thất thủ, đường sắt Kinh Hộ gián đoạn, dù quân Nhật chưa thể đổ bộ vào bờ tây Trường Giang nhưng chúng vẫn men theo đường sắt Tân Phổ, thẳng tiến về phía nam bằng đường bộ, thủ đô Nam Kinh nguy hiểm trùng trùng.

Chiến tranh đã bật tung cánh cửa đình viện sâu thăm thẳm. Bất kể nghèo hèn sang quý, chỉ cần rời thành phố này, họ sẽ phải vứt bỏ gia đình, vứt bỏ sự nghiệp. Vật giá trượt dốc thê thảm, sau cơn lốc bán tháo là đợt tích trữ hàng hóa mang tính khủng hoảng. Thế là giá cả lại leo cao chóng mặt. Khi tiếng còi báo động tập kích trên không đầu tiên vang lên, sự tĩnh lặng ngoài mặt đã nát tan thành từng mảnh. Máy bay Nhật Bản liên tục thả bom, khu vực đầu tiên chịu thiệt hại chính là khu cư trú của dân thường và công trình của chính quyền thành phố, sau đó là trọng địa quân sự, công xưởng cùng đầu mối giao thông. Mới sớm mai còn phồn hoa tấp nập, khi chiều tàn đã hóa thành chết. Một người Đức đã cư trú tại Nam Kinh suốt thời gian dài, có vẻ ngoài không mấy đặc biệt đang cắm lá cờ Đảng Quốc xã Đức dài 6 mét, rộng 3 mét trong sân nhà mình, nhằm cảnh báo máy bay Nhật đổ bộ. Trong vòng ba tháng tới, người đàn ông quốc tịch Đức này sẽ cứu rỗi vô số những sinh mạng bách tính Trung Quốc bằng sự dũng cảm như một kỵ sĩ của mình.

Trong khoảng thời gian ấy, có rất nhiều hôn lễ diễn ra tại Nam Kinh. Phàm là nhà có con gái chưa chồng đều sẽ vò đầu bứt tai tìm cách gả con đi, “trinh tiết” là thứ gì đó rất được xem trọng trong thời loạn. Con gái được chồng che chở, người làm cha làm mẹ cũng tìm thấy niềm an ủi hư ảo. Chính quyền thành phố đã bắt đầu sơ tán công nhân viên, chuyển hết văn kiện tài liệu về miền tây, văn phòng lâm thời được xây dựng trên công trình phòng không đơn sơ, người dân tới công chứng kết hôn đông tới mức sắp chen gãy cả tấm cửa gỗ.

Ngân Xuyên và Cảnh Ninh kết hôn vào ngày Trung thu. Khi ấy ba mặt Nam Kinh bị bao vây, gần như nơi đây đã hóa tòa thành rỗng. Bọn họ tới nhận giấy chứng nhận, trở về căn nhà mới nằm trên đường Ninh Hải. Tố Hoài, Nam Gia, Phạm Húc Đông cùng mấy người phụ trách công xưởng của ông đều có mặt, mọi người cùng ăn một bữa cơm thịnh soạn. Tố Hoài còn tìm cách kiếm được mấy loại hoa quả rất khó mua như nho, đào mật. Cảnh Ninh diện bộ xường xám gấm cài nút san hô, sợi dây chuyền hoa hồng vàng tỏa ánh sáng dìu dịu, khiến gương mặt cô kiều diễm, ẩn hiện niềm vui. Ngân Xuyên dẫn cô đi may bộ đồ này, vốn họ đã đặt bốn bộ cho bốn mùa, nhưng khi tới lấy thì thợ may đã chạy mất, chỉ mang được bộ mùa thu và đông về. Áo vest và sơ mi của Ngân Xuyên là đồ cũ, nhưng mặc lên vẫn rất lịch lãm, anh chải tóc gọn gàng bóng mượt, gương mặt tuấn tú rạng rỡ, cứ chốc chốc lại nắm tay cô dâu, rõ ràng đây đã là niềm hạnh phúc bền chắc, nhưng anh vẫn có cảm giác như đang mơ.

Nhà máy của Pham Húc Đông đã hóa thành một bãi tàn tích, dù rất lo lắng âu sầu nhưng Phạm Húc Đông vẫn gượng cười, ăn xong cơm, ông lại chúc mừng đôi vợ chồng mới cưới rồi từ biệt các đồng nghiệp của mình. Chỉ còn lại mình Tố Hoài cùng Nam Gia, họ ngồi cười nói vui vẻ trên xô pha như thân thích trong nhà. Ngân Xuyên mua căn hộ này sau khi gặp lại Cảnh Ninh, anh bỏ ra một số tiền lớn, nhưng mới nực cười lắm sao, chỉ vài ngày sau, khi chiến dịch Lư Hộ bùng nổ, ngày 15 tháng Tám, Nam Kinh đón trận không kích đầu tiên, giá đất thổ cư giảm không phanh, căn nhà này tụt chỉ còn chưa đầy một nửa giá gốc.

Cảnh Ninh ngồi được một lát rồi lại đứng lên, Ngân Xuyên kéo cô: “Em đừng đi, hôm nay để anh phục vụ.” Anh cười, châm trà cho từng người, Tố Hoài và Nam Gia thấy anh rạng rỡ như vậy cũng mừng thay cho anh.

Bên cửa sổ có treo chuông gió, khẽ kêu tinh tang trong cơn gió nhẹ, bầu không khí trong căn hộ bình yên ấm áp, tương phản hoàn toàn so với cảnh tan hoang tiêu điều ngoài kia.

Tố Hoài nói: “Biết mợ thích nhất là hoa hồng nên chúng tôi đã chạy khắp Nam Kinh, nhưng chẳng mua nổi một bông hoa nào. Dùng hoa giả thì không phù hợp cho lắm, bất đắc dĩ phải tổ chức tiệc cưới đơn giản thế này, đến một đóa hồng cũng không có, thật là đáng tiếc.”

Cảnh Ninh áy náy: “Đến nhìn mâm cỗ này tôi cũng hổ thẹn, đất nước lâm nguy, còn mua hoa làm gì? Tôi khiến các anh phải vất vả nhiều rồi.”

Nam Gia nghiêm giọng: “Không, tôi không đồng ý với quan điểm của mợ. Tổ chức tiệc cưới là đúng, mua hoa cũng là đúng, chỉ có lũ bạo đồ giày xéo người dân, xâm phạm quốc thổ mới là sai. Trừ những kẻ ác độc ấy ra, trên đời này ai mà chẳng yêu hòa bình, ghét chiến tranh. Đạn bom lạnh lẽo, nhưng máu trong huyết quản chúng ta thì nóng hổi. Phải sống cho tốt, không được ngừng tiến về phía trước, chỉ cần có hy vọng là không được từ bỏ, rồi sẽ có một ngày chiến thắng thuộc về chúng ta!”

Nói đến cuối, giọng anh ta vô cùng kích động, Tố Hoài vỗ vai bạn mình: “Cậu nói đúng lắm! Nhất định chiến thắng sẽ thuộc về chúng ta! Dù kiếp nạn ập tới, hòa bình và hạnh phúc vẫn đáng được trân trọng.”

Ngân Xuyên gọt vỏ hai quả táo thật thành thạo, cắt làm bốn, cho mỗi người một miếng, cũng cho Cảnh Ninh một miếng. Lần đầu gương mặt anh tỏ vẻ nghịch ngợm, anh cầm miếng táo của mình, cụng phần của từng người như đang cụng ly: “Nào, tất cả chúng ta đều phải bình an nhé, cạn ly!”

“Cạn ly!”

Tố Hoài và Nam Gia bật cười, họ như trở về London, về với những tháng năm niên thiếu chong đèn đọc sách, quãng thời gian ấy thật hồn nhiên, vui vẻ.

“Chúc mừng cậu, Ngân Xuyên!” Nam Gia nói, bao năm nay, đây là lần đầu Nam Gia không gọi anh là “cậu Trịnh”.

“Ngân Xuyên, chúc cậu và vợ mình bên nhau tới đầu bạc răng long!” Tố Hoài cũng cất lời.

“Cảm ơn!” Ánh lệ long lanh trong mắt Ngân Xuyên, không cầm lòng nổi, tay anh siết chặt, nước táo dính trên móng tay anh. Vốn Cảnh Ninh chỉ mỉm cười ngồi cạnh anh, lúc này cô lấy khăn lau tay giúp anh, trong lúc lơ đãng, cô bắt gặp khoảnh khắc anh và Nam Gia chạm mắt, trong hai cặp mắt ấy như trăm mối cảm xúc ngổn ngang, cũng ẩn chứa một thứ hàm ý mà cô không sao lý giải nổi.

Việc kết hôn được quyết định chóng vánh, cuối cùng cô vẫn không thể trốn thoát, cuối cùng cô vẫn khuất phục. Không biết cô đang khuất phục anh hay khuất phục số mệnh.

Suốt những ngày ấy, Ngân Xuyên gần như ở lì trong trường, bám riết lấy cô, bám riết lấy lũ trẻ, lấy lòng nhân viên và giáo viên trong trường. Cuối cùng cũng có một ngày, Phi Phi lao như bay ra đón anh, hô: “Cha tới rồi!” Đến một cô sinh viên đi ngang qua cũng nhìn Cảnh Ninh với cặp mắt ngưỡng mộ, nói: “Cô Phan, chồng cô tốt thật đấy, còn theo cô đi làm nữa.” Dù Cảnh Ninh rất giận nhưng cô biết thành lũy vững chắc trong lòng mình đã rạn nứt.

Chiến tranh đang tới rất gần, Ngân Xuyên nghĩ cách tìm một con thuyền giúp Học viện Nữ sinh Kim Lăng, đưa tốp học sinh và giáo viên đi, đồng thời cũng sắp xếp ổn thỏa cho lũ trẻ.

Trước đó, dù Cảnh Ninh có chịu nghe hay không, anh vẫn cứ luôn miệng nhắc đến người nhà cô, sao mà phiền phức, anh nhắc tới bà Vân, Cảnh Huyên, còn cả Thịnh Đường, anh kể cô nghe tình hình gần đây của họ. Cô cố kìm nén nỗi đau khó thốt thành lời, không sao tránh né nổi, chỉ sợ ý chí mình sụp đổ trong cạm bẫy của anh.

Rồi một ngày, Lý Nam Gia tới trường học, người lấm đầy bụi đường mệt nhọc, anh ta vừa đáp xuống Nam Kinh ngay hôm ấy.

Gương mặt vốn thờ ơ của Nam Gia tràn ngập bất lực, anh ta đưa cho Cảnh Ninh một chiếc vali da cũ kỹ: “Cậu Trịnh gửi điện bảo tôi tới Nam Kinh, tôi tưởng trái khoản xảy ra sự cố tài vụ gì, nào ngờ cậu ấy lại bảo tôi tới dinh thự nhà họ Phan để lấy thứ này. Tôi biết chắc chắn thứ này là dành cho cô.”

Anh ta mở vali.

Cảnh Ninh cúi đầu. Trong vali có vài món đồ cũ, món nào món nấy được xếp ngay ngắn. Có quả bóng da nho nhỏ mà Cảnh Huyên rất thích chơi, có chiếc cân của Ngân Xuyên, có cả hộp trang sức đồ chơi, sách bỏ túi, album và con búp bê Tây “Meo Meo” của cô. Trong chiếc vali ấy là đầy ắp quá khứ của họ.

Nam Gia thở dài: “Cô Phan, cậu Trịnh một lòng si mê cô. Khi cô rời Hán Khẩu, cậu ấy như đánh mất một nửa sinh mạng. Cô và cậu ấy có duyên phận định sẵn, cậu ấy rất yêu cô, yêu suốt bao năm ròng, cô hà tất phải nhẫn tâm từ chối cậu ấy? Như vậy rất bất công với cô lẫn cậu Trịnh.”

Cảnh Ninh cau mày: “Việc đời không có gì là tuyệt đối, làm gì có công bằng chân chính? Hơn nữa tôi không thích người ta nhân danh tình yêu để uy hiếp tôi.”

Nam Gia bật cười: “Uy hiếp cô? Cậu ấy uy hiếp cô sao? Cậu ấy đã chẳng còn là Trịnh Ngân Xuyên khi xưa rồi, cậu ấy…”

“Chẳng lẽ không phải ư?” Cảnh Ninh nói, “Tôi chỉ mong được sống bình yên, nhưng anh ấy liên tục quấn lấy tôi không buông, anh ấy yêu tôi không đồng nghĩa với việc có thể bước vào cuộc sống của tôi như lẽ đương nhiên. Giờ anh ấy chẳng khác nào kẻ điên.”

“Phải, tất cả những việc thiếu lý trí mà cậu Trịnh gây ra trong đời đều liên quan tới cô Phan. Cô chính là sinh mạng của cậu ấy.”

Nam Gia nói với Cảnh Ninh, vô cùng kiên quyết, cũng vô cùng bình tĩnh.

Đám trẻ sẽ được đưa đi bằng con thuyền buôn vận chuyển hàng hóa về bờ tây của Phạm Húc Đông. Ngân Xuyên vừa quyết định hành trình xong bèn lập tức hào hứng nói với Cảnh Ninh:

“Ninh Ninh, chúng ta có thể cùng về nhà rồi!”

Cảnh Ninh nhìn anh, không nói một lời. Giờ anh lại mang đám trẻ ra uy hiếp cô, anh cho rằng lần này cô cũng sẽ không cự tuyệt.

Cả trăm nghìn người chen chúc ngoài bến tàu Hạ Quan, Cảnh Ninh dắt đám trẻ đi theo sau Ngân Xuyên, Ngân Xuyên chật vật dẫn trước mở đường, chỉ sợ họ bị người ta đẩy ngã. Chiếc áo dạ đen bị quệt lấm đầy bụi, đầu tóc anh rối bù, quần áo bị vật nhọn móc rách, lủng lẳng bên người. Anh chưa từng chật vật tới vậy. Thành lũy trong lòng Cảnh Ninh đang vỡ vụn từng chút, từng chút một, cô hiểu rõ nếu cứ tiếp tục như vậy, kết cục đời này của cô và Ngân Xuyên coi như đã định. Nỗi sợ không tên ập tới, cô quyết định tiếp tục bỏ trốn.

Bến tàu lúc nhúc toàn người là người, họ chen chúc nhau nhảy lên tàu. Con tàu không thể cập cảng, chỉ đành đứng im giữa sông, nếu muốn lên tàu, họ phải thuê một con thuyền nhỏ chèo ra tâm dòng sông. Ngân Xuyên nghĩ vô số cách mới tìm nổi một con đò dành riêng cho trường học, nhưng vẫn không ít kẻ liều mạng trèo lên. Có người suýt đã hất Phi Phi xuống nước, Ngân Xuyên giận dữ xông vào đánh nhau với người nọ. Cảnh Ninh chưa từng thấy anh ẩu đả, mà đây cũng là lần đầu cô nghe thấy âm thanh đáng sợ khi nắm đấm giáng xuống xác thịt. Đám trẻ sợ điếng người, Cảnh Ninh và vai thầy cô khác bảo vệ chúng, an ủi chúng. Cảnh Ninh ôm chặt Phi Phi, hôn lên gương mặt thằng bé: “Con phải ngoan nhé, phải nghe lời chú Trịnh nhé.” Phi Phi còn chưa hoàn hồn, chỉ thấy cô Phan buông mình ra, cô cắn răng, quay người lách xuống thuyền, Phi Phi khóc thoáng lên, thét: “Cô Phan, cô Phan ơi! Chú Trịnh, cô Phan!”

Ngân Xuyên còn đang giằng co với kẻ nọ, trong hỗn loạn, anh không còn hơi sức quan tâm tới tiếng khóc của đứa trẻ, chỉ có một giáo viên nghe xong bèn vội vã đưa mắt nhìn, nhưng bến tàu lúc nhúc những người, nào tìm thấy bóng Cảnh Ninh.

Đường về cũng trắc trở như lúc đi. Có quá nhiều người, thuyền không thể dừng lại chỉ vì mình cô, Cảnh Ninh nhớ lá cờ xanh trên cột cờ của con thuyền nhỏ xiêu vẹo áy. Cô leo lên mặt cao của bờ đê, nhìn con thuyền nhỏ đang tiến ra giữa sông, tiếng còi tàu lớn âm vang, bóng người dày đặc trên con thuyền ba lá như một bầy kiến đen sì.

Cây ngô đồng to lớn như chống đỡ cả vòm trời, nhà cửa dọc đường lặng ngắt im lìm, hơn trăm khung cửa sổ thủy tinh mở toang, phát ra ánh sáng yếu ớt như những bia mộ. Cảnh Ninh bước trên đường, như đã đánh mất một thứ gì đó, cảm giác trống rỗng không tên kéo tới, có lẽ là vì cô đã lưu lại thành phố chết đau thương này. Cô trở lại Học viện Nữ sinh Kim Lăng, dù vẫn còn một vài giáo viên và học sinh nhưng người của trường mẫu giáo đã chạy hết tới các tòa nhà trống, đến bác gác cổng cũng được điều sang Phòng Nhân học, tấm bảng vẽ hoa vàng được gỡ xuống, tựa bên vách tường, những mảnh giấy ngũ sắc rơi đầy đất, hôm qua có một bé tè dầm, phải thay quần, cô đã giặt sạch sẽ rồi phơi ngoài sân nhưng quên chưa rút xuống. Lúc này nó đang bay trong gió, xoay vòng xoay vòng mãi. Cảnh Ninh bước tới, chạm vào lớp vải, vẫn chưa khô, vậy thì phơi thêm lát nữa, nhưng khô rồi biết để ai mặc? Đám trẻ đi cả rồi.

Hai chân Cảnh Ninh mềm nhũn, cô bất lực quỳ xuống đất, có lẽ do nhớ nhung từng gương mặt ngây thơ ấy, nhưng dường như bị nỗi đau đớn chế ngự thì chính xác hơn.

Tiếng vang nặng nề vọng từ khung trời xa xôi, còn trầm, còn vang hơn cả tiếng sấm, còi báo động không kích vang lên, sàn nhà và cửa kính cùng rung bần bật, tay nắm cửa kêu leng keng, như đang kêu khóc trong đau đớn. Tim Cảnh Ninh thắt lại, cô bật dậy, một hàng bóng mờ trên không trung liệng thật thấp, bay ngang qua, khiến tầm mắt cô tối đen. Dù trước đó từng trải qua vài trận không kích nhưng đây là lần đầu cô nhìn thấy máy bay gần tới vậy. Nhiệt độ của gió tăng cao, nóc phòng học kế bên bốc cột khói tựa những tia mưa, cứ như có phép thuật, rồi cất tiếng hệt tiếng mưa đá. Cảnh Ninh vô thức chạy xuống hầm trú ẩn đơn sở ở góc tây bắc ngoài khoảng sân, vừa tiến vào đã nghe có tiếng vang lớn, ngọn lửa hừng hực cuốn cả bụi mù bốc lên, lửa vọt lên đến không trung, phòng ốc vườn trẻ nổ ruỳnh, sụp mất quá nửa.

Cảnh Ninh bịt tai, dù đang nhắm chặt mắt nhưng quá trình hủy diệt vạn vật vẫn hiện lên rõ ràng trong đầu cô. Cô như nhìn thấy cửa sổ, bàn ghế, cánh cửa và chiếc giường nhỏ của lũ trẻ cháy ngùn ngụt trong lửa, kêu lốp bốp như thể xào đậu Hà Lan hay nổ bỏng. Cô nhìn thấy sách giáo khoa và những chồng “Sở báo” cô tích cóp hằng năm trong ngọn lửa thiêu, cùng với đó là cả hồi ức, cả quá khứ đắng cay mặn ngọt của cô, tất cả đã hóa thành tro bụi. Nỗi đau đớn không thể kiềm chế, sự sợ hãi và cô độc khiến người ta không sao thở nổi và cả nỗi nhớ con gái vô vọng, không thốt nổi thành lời khiến cô chẳng thể tự chủ nổi, nước mắt ứa ra, sau đó cô nức nở, rồi gào khóc.

“Anh cả!”

Đến chính cô cũng không ngờ, người cô thét gọi vẫn cứ là người ấy, người đã luôn bên cô từ thuở ấu thơ, không xa, không rời.

“Anh cả! Anh ơi!” Cô dốc hết sức lực để kêu thét, dù sao anh cũng không biết hóa ra cô lại để tâm tới anh đến vậy, đau đớn và hạnh phúc đan xen, tràn ngập cơ thể cô, như một thức quả ngập tràn bóng tối và ngọt ngào, chẳng còn giận dữ và oán hận nữa, cũng không còn trói buộc. Dù sao anh cũng không nghe thấy, dù sao anh cũng đã rời đi, có lẽ là vĩnh viễn.

“Bé Hạt Dẻ!”

Không biết đã qua bao lâu, tiếng gọi vang bên tai cô rõ ràng như lời hồi đáp từ phương xa: “Bé Hạt Dẻ!”

Cô tưởng mình đang mơ, mở mắt, dụi mắt, bụi đá chất đầy trên cửa hầm trú ẩn, làn khói dày đặc len vào qua khe, tỏa thứ mùi gay mùi.

“Hạt Dẻ! Cảnh Ninh!” Tiếng gọi càng lúc càng rõ ràng, nức nở không sao giấu nổi, “Hạt Dẻ! Em đang ở đâu! Cảnh Ninh! Bé Hạt Dẻ!”

Cảnh Ninh hé môi, muốn đáp lời, nhưng chỉ phát ra những tiếng khản đặc, cô nhìn chằm chằm cánh cửa, không rời mắt, dù lệ đã khiến đôi mắt cô mờ nhòa.

Người bên ngoài mở cửa hầm, anh chạy vào. Đúng vậy, là anh, đúng là anh! Anh khựng lại vào khoảnh khắc nhìn thấy cô, rồi vội vã lao tới ôm chặt cô vào lòng. Ban đầu cô còn kháng cự, nhưng sau đó vẫn để anh ôm. Cơ thể anh run rẩy, áo quần ướt đẫm, sặc mùi tanh của nước sông. Đôi môi lạnh cóng in lên bờ trán cô, anh lẩm bẩm: “Em ở đây, may là anh tìm thấy em, anh tìm được em rồi, Ninh Ninh, em vẫn còn ở đây. Tốt quá, tốt quá rồi!”

Anh lặp lại câu “Tốt quá rồi” tới cả chục lần, những giọt nước mắt nóng hổi nhỏ xuống mặt cô. Lồng ngực Cảnh Ninh phập phồng, cô òa khóc.

“Không phải thuyền rời bến rồi sao, sao anh còn quay lại?”

“Anh nhảy xuống sông bơi về.” Anh thật thà đáp, “Không sao, nước ngoài cảng không sâu, không sâu chút nào, chỉ là lúc trèo lên bị người ta đạp mấy cái thôi.”

Lúc này cô mới để ý mặt anh, gương mặt thanh tú nho nhã ấy tím bầm từng mảng, mắt trái sưng vù như sắp nổ tung, không biết là bị đánh hay bị đạp, nhưng anh vẫn nở nụ cười nhẹ nhõm, như một cậu nhóc cứng đầu chẳng để tâm tới bất cứ điều gì.

“Đồ ngốc, đồ điên!” Cô khóc, vươn tay vuốt ve mắt anh.

“Ninh Ninh, mình về nhà thôi!” Anh nắm tay cô.

Đêm tân hôn, ánh trăng trong vắt sáng rực như ánh tuyết. Bước chân anh vang lên sau lưng cô, cánh tay ấm áp ôm lấy eo cô, cô quay người về phía anh, nhìn anh chăm chú.

Giờ cô chỉ có anh.

Anh bế cô lên, để cô quay vòng trên không trung, tứ chi anh tràn đầy sức lực, ngọn lửa nơi mắt anh đốt cháy niềm tương tư và bao cảm xúc. Anh như một con thú thoát khỏi xiềng xích, gầm thét lao ra. Không còn cấm đoán, ràng buộc, bọn họ mặc sức thổ lộ, giải phóng, bốc cháy, đây là ngọn lửa hủy diệt tất cả trong đêm đen rập rình hiểm nguy. Anh nghe thấy tiếng thở yêu kiều của cô, xen lẫn nhịp tim gấp rút của anh, chúng ngân lên những nỗi đau và niềm vui. Cô không nhắm mắt mà dùng đôi đồng tử sâu đen láy của mình để đáp lại cái nhìn chăm chú của anh, đáp lại nhiệt độ và sự rung động của anh. Trong sóng mắt trong veo chỉ còn lại gương mặt anh và linh hồn bị dục vọng, bị niềm vui và nỗi đau nuốt chửng của anh. Đôi môi anh lướt trên làn da mềm mại trắng muốt của cô, cứ dịch chuyển một tấc, hình ảnh trong quá khứ sẽ lại lóe lên trong đầu. Chỉ mình anh mới biết những giãy giụa, bất lực, đê hèn, tàn ác và thật tâm của mình. Chỉ có mình anh biết. Anh đã tự tay đưa người phụ nữ nay đã hoàn toàn thuộc về mình, đưa người mình yêu, người còn quan trọng hơn cả sinh mạng, vào địa ngục đau khổ. Nhưng anh may mắn có cơ hội quay đầu. Cô đã cho anh cơ hội đó. Phải làm sao để báo đáp ân tình và sự khoan thứ của cô đây? Ký ức anh không muốn nhớ lại có lẽ sẽ biến thành những gông cùm mới theo thời gian. Nhưng anh sẽ chứng minh cho cô thấy, anh sẽ dùng tấm lòng thuần khiết và chân thành nhất để yêu cô suốt đời nay.

Cơ thể cô khẽ cuộn lại, anh đẩy cô tới mép giường, vươn tay nắm lấy cột giường, cần cổ đẹp tuyệt ngửa lên, anh gọi tên cô, khiến từng tấc da thịt cô nóng rẫy, cô sa vào thứ tình cảm như một ngọn lửa của anh, phát ra tiếng than thở mà đến chính bản thân cũng khó lòng tin nổi.
 
Quyển 2 - Chương 93


Thượng Hải thất thủ, quân đội tháo chạy, ngay sau đó Tô Châu và Gia Hưng cũng rơi vào tay giặc. Ngày 20 tháng Mười một năm Dân quốc thứ 26, chính phủ quốc dân tuyên bố dời thủ đô tới Trùng Khánh. Những tuyến đường bộ thông ra tứ phương của Nam Kinh gần như đều bị phong tỏa bởi chiến loạn. Ngày 1 tháng Mười hai, trận chiến bảo vệ Nam Kinh nổ ra, quân Nhật bao vây thành phố, chiến sự giằng co quyết liệt. Binh lính lẫn người dân thành phố lâm vào cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Nhiều người ngoại quốc mang tinh thần nhân đạo, đồng thời cũng muốn chuẩn bị trước phòng trường hợp quân Nhật chiếm lĩnh thành phố nên đã lợi dụng việc Mỹ – Nhật vẫn chưa giao chiến cùng thân phận giáo hội đại học của mình để thành lập những khu an toàn quốc tế. Hai vợ chồng Ngân Xuyên mắc kẹt tại Nam Kinh, không nghĩ ra kế vùng thoát hiểm cảnh. Một hôm, có vị kỹ sư từ xưởng hóa chất của Phạm Húc Đông ghé tới, khẩn khoản nhờ Ngân Xuyên giúp họ tìm nơi bảo quản một vài linh kiện quan trọng không thể chuyển đi. Ngân Xuyên nghĩ tới hiệu buôn vốn Âu qua lại gần gũi với mình, bèn lập tức cùng kỹ sư nọ đi tìm người phụ trách hiệu buôn.

Gần nơi ở của họ có một bưu điện, ngày ngày Cảnh Ninh đều tới đó tìm kiếm cơ hội. Từ lâu tờ báo Hồ Bắc cô đặt mua đã chẳng còn được chuyển tới, nhưng bưu điện vẫn là nơi tập trung vô số tin tức, có khi cô lại tiếp tục nghe ngóng được vài ba thông tin hữu dụng tại đây cũng nên.

Có chiếc xe bưu điện cũ nát đang đỗ ngoài cửa, toa xe xanh lá chằng chịt dấu đạn, không biết nó từ vùng chiến hỏa nào trốn chạy tới Nam Kinh này. Những tờ báo rơi đầy mặt đất, mắt Cảnh Ninh sáng lên, cô lờ mờ nhìn thấy một chữ “Sở” lớn. Lúc nào cô cũng để tâm tới những thông tin liên quan đến Hồ Bắc, đến giờ cô vẫn còn ảo tưởng có lẽ một ngày mình sẽ tìm thấy bài báo về Tiểu Quai.

Cô khom lưng nhặt tờ báo lên, đúng là “Sở báo” thật, nhưng nó được phát hành từ hơn hai tháng trước. Trang đầu có đăng một mục tin tức, tựa đề rất dài.

“Lễ truy điệu anh Mạnh Tử Chiêu – tổng giám đốc Công ty Đại Quân được cử hành vào ngày 14 tháng Mười tại Hán Khẩu. Lòng son máu đào lưu nghìn đời, người anh hùng hy sinh vì tổ quốc! Đau xót tưởng nhớ anh linh!”

Mắt cô tối sầm, chân nặng như đổ chì, cơ thể lảo đảo, ngã ngồi xuống đất. Người ngoài đường qua lại như thoi đưa, cô cứ ngồi ngẩn trên nền đất, những tiếng vang hỗn loạn cứ vọng trong tai cô, mắt cô đau xót như đang đốt lửa, như mù lòa. Cô ra sức mở trừng mắt nhìn chằm cho rõ hàng chữ trên tờ báo. Từng ô vuông nhỏ màu đen như mọc chân, cô không sao nắm bắt nổi chúng, chỉ có đầu óc cô còn tỉnh táo, thật đáng buồn. Nó đã sắp xếp những con chữ rời rạc lại ngay ngắn, giúp cô hiểu rằng người yêu xưa cũ của cô đã lìa đời.

Cậu chết giữa lòng nước sông vào một ngày Thu, mà giờ trời đã chuyển Đông.

Cảnh Ninh chợt thấy lạnh ngắt, lạnh tới phát run, hai tay cô ôm chặt lấy vai. Có người gọi tên cô, giọng điệu dò xét như đang không dám tin.

Cô ngẩng đầu, đôi mắt trống rỗng, dáng hình người đó cũng mơ hồ, vặn vẹo.

“Phan Cảnh Ninh?” Người nọ tiến lại gần một bước, đôi mắt dài hẹp tỏa sáng lấp lánh, “Ninh Ninh? Là em thật ư?!”

Sắc mặt Cảnh Ninh trắng bệch, hồi lâu cô mới mỉm cười với cậu ta, nụ cười còn khó coi hơn khóc.

“Đức Anh… thật là, thật là trùng hợp.” Cô lại cười, “Trùng hợp quá!”

Đức Anh vừa bất ngờ vừa mừng rỡ, bèn vươn tay kéo cô dậy, cậu ta luôn miệng hỏi cô vô số câu, Cảnh Ninh chẳng nghe lọt lời nào, ý thức cô vẫn đang chết lặng.

Đức Anh nói cho Cảnh Ninh hay trước đó xưởng bông của mình hợp tác rất khăng khít với Công ty Thân Tân (*). Cuối tháng trước, Thượng Hải thất thủ, xưởng bông Toyoda của Nhật thuê lãng khách Nhật Bản và đám lưu manh bản địa tới phá hỏng toàn bộ số máy kéo sợi, cướp sạch bông vải và sợi bông, công xưởng cùng khu hàng bị thiêu trụi. Họ sơ tán công nhân tới khu vực an toàn, có một số người cũng theo cậu ta tới Nam Kinh, cả nhóm đã tới đây được gần năm ngày rồi. Nhưng rõ ràng Nam Kinh chẳng thể trụ nổi nữa. Hôm nay cậu ta tới bưu điện tìm bạn, nghe ngóng tin tức, nào ngờ lại gặp Cảnh Ninh.

(*) Công ty thuộc ngành công nghiệp dệt may vốn Trung Quốc lớn nhất thời cận đại. Được sáng lập tại Thượng Hải.

“Sao em lại ở Nam Kinh? Em có chỗ ở không? Có ai đi cùng em không?” Đức Anh lo lắng hỏi.

Cảnh Ninh không lên tiếng, cô hít một hơi, gập tờ báo nhét vào túi áo nhưng rồi lại thấy hành động của mình thật vô nghĩa, bèn rút nó ra, ném vào xe đưa thư.

Thấy cô ngơ ngác hoảng hốt, cử chỉ quái lạ, Đức Anh thầm kinh ngạc, nói: “Anh vừa nhận được tin mấy hôm nữa vẫn sẽ có tàu chiến từ Hán Khẩu xuôi nam tới Vu Hồ, đưa bộ đội tới chi viện Nam Kinh, số người còn lại của chính phủ và một bộ phận nhân viên nghiên cứu, giáo viên, sinh viên đại học sẽ được đưa tới Hồ Bắc. Dọc đường, tàu chiến cũng sẽ gián tiếp hộ tống thuyền dân đi sơ tán. Ninh Ninh, anh có bạn bè phía chính phủ, em đi với bọn anh nhé, tối nay mình xuất phát ngay.”

Cảnh Ninh lắc đầu.

“Em…” Đức Anh cau mày, cậu chợt nghĩ ra chuyện gì, sực tỉnh, nói, “Có phải em có thân thích ở đây không? Hay anh đợi họ đi cùng luôn. Họ đang ở đâu vậy, anh sẽ cùng em đi tìm.”

“Em kết hôn rồi,” Cảnh Ninh dứt khoát nói, “em đã kết hôn với Trịnh Ngân Xuyên, anh ấy cũng đang ở Nam Kinh, em phải đợi anh ấy, Đức Anh, anh đừng lo cho em.”

Đức Anh kinh ngạc hồi lâu rồi cất tiếng thở dài.

“Cuối cùng anh ta cũng được toại nguyện.”

Cảnh Ninh cười nhạt, cất bước trở về nhà. Đức Anh đuổi theo cô, khẽ hỏi: “Em và anh ta tìm thấy Tiểu Quai chưa?”

Cảnh Ninh tiếp tục lắc đầu.

Đức Anh cười khổ, nói: “Anh đã làm tất cả những gì có thể. Anh chỉ đành cầu nguyện cho đứa bé đáng thương, cầu nguyện cho em. Cảnh Ninh, anh luôn rất áy náy hổ thẹn, anh có lỗi với em.”

Bờ môi Cảnh Ninh khẽ run, cô nói: “Tại em mà anh mới mất đi đứa con gái mình yêu thương, người phải hổ thẹn là em mới đúng.”

Đức Anh ngưng bặt, sự giằng co rối bời hiện rõ trên gương mặt cậu ta. Cậu ta chợt túm lấy tay Cảnh Ninh, bắt cô phải nhìn mình: “Ninh Ninh, anh không biết mình phải nói với em thế nào, chuyện đã tới nước này, hôm nay gặp mặt nhau, sau khi tạm biệt có thể đời này sẽ không còn cơ hội trùng phùng nữa. Chiến tranh loạn lạc, chẳng nói trước được điều gì, nhưng anh buộc phải cho em biết chuyện này: Tiểu Quai không phải con gái anh, không phải. Anh chưa bao giờ, chưa một lần thật sự có được em. Anh giấu em vì sợ mất em, cuối cùng khi chúng ta ly hôn, anh vẫn chọn giấu giếm. Anh xin lỗi, hôm nay anh buộc phải nói thật với em.”

Cảnh Ninh đờ đẫn nhìn cậu ta: “Anh nói sao?”

“Xin em tha thứ cho anh vì đã giấu kín sự thật bao lâu nay, vì nếu nói ra em có hận anh cũng chẳng sao, nhưng chắc chắn em sẽ vô cùng đau khổ. Anh thật lòng yêu em, sợ em tổn thương, anh sợ em biết người đó chính là Trịnh…”

“Im đi!” Cảnh Ninh thét lên, cô bịt tai, kêu khản giọng, “Im đi! Im đi! Im đi!”

Rồi cô chợt bật cười ha hả, cười, cứ cười mãi, nước mắt đầy mặt, như đang phát điên.

Nam Gia đã đợi rất lâu ngoài cổng chung cư. Thấy bóng Cảnh Ninh xuất hiện hoài đầu ngõ, anh ta vội chạy tới. Cảnh Ninh ngước mắt liếc nhìn anh ta, im lặng mở cửa. Nam Gia theo cô bước vào nhà, đang định cất lời, Cảnh Ninh đã quay phắt lại, giáng cho anh ta một bạt tai, tiếng vang chát chúa, rồi cô tiếp tục vung túi xách đánh anh ta. Nam Gia che mặt lùi về phía sau, Cảnh Ninh chỉ nghiến răng, điên cuồng đánh tiếp, đến khi dây xích kim loại bật văng ra, trượt xa trên nền phòng khách.

“Mợ à!” Gương mặt Nam Gia chằng chịt vết máu, anh ta túm lấy cổ tay cô, kinh ngạc nhìn cô, nhưng chỉ trong tích tắc anh ta đã hiểu mọi chuyện.

“Các người giấu tôi kỹ lắm!” Cảnh Ninh khóc lạc giọng, chỉ thẳng mặt anh ta, “Lý Nam Gia! Anh giúp anh ta làm ra chuyện không bằng súc sinh, hại tôi thê thảm! Các người hại tôi! Các người là lũ súc sinh! Súc sinh! Súc sinh!”

Đúng, cô đã biết, cô biết cả rồi.

Chiều hôm ấy, Ngân Xuyên bỏ thuốc mê vào trà, khi hòa cùng rượu, loại thuốc mê này sẽ khiến đầu óc mất tỉnh táo, anh dùng cách đê hèn nhất để cướp đoạt trinh tiết của cô, còn Lý Nam Gia thì nối giáo cho giặc, giúp anh giá họa cho Từ Đức Anh.

Bọn họ đều cho rằng Từ Đức Anh không còn tỉnh táo, chỉ biết mặc cho họ đùa bỡn, nhưng không, Từ Đức Anh chưa từng tin Ngân Xuyên, cậu ta không nhấp dù chỉ một ngụm trà. Thứ duy nhất Từ Đức Anh uống là chai whisky mình mang từ Hiệu buôn Tây Thịnh Xương tới, chai rượu đó không có vấn đề! Vì người phụ nữ mình yêu, gã đàn ông ngu xuẩn hèn yếu trong mắt họ đã dùng trái tim u tối mà vững vàng để nuốt nỗi nhục, đạt được mục đích.

Phải, chính ba gã đàn ông này đã bắt tay nhau hủy hoại hạnh phúc cả đời của Phan Cảnh Ninh cô, mà Ngân Xuyên chính là kẻ đầu sỏ.

Nam Gia quỳ xuống, gương mặt tái nhợt tràn đầy sự áy náy và đau khổ: “Mợ à! Xin mợ hãy tha thứ cho cậu Trịnh, cậu ấy là người yêu mợ nhất trên đời này, khoảng thời gian ấy cậu Trịnh như phát điên, mợ muốn kết hôn với Mạnh Tử Chiêu, cậu ấy không còn cách nào khác nên mới…”

“Im đi! Tôi không muốn nghe!” Cảnh Ninh khóc, điên cuồng lắc đầu, “Cái người anh nói đã hủy hoại đời tôi! Anh ta hủy hoại cuộc đời tôi! Anh ta là tên súc sinh!”

“Cha mợ giết cha mẹ cậu ấy! Cậu ấy chưa từng cho mợ hay!” Nam Gia ứa nước mắt, nói, “Cậu ấy luôn muốn báo thù, nhẫn nhục gồng mình bao nhiêu năm trời, mợ không hiểu nỗi khổ trong lòng cậu ấy đâu! Tất cả chúng ta không ai hiểu cả! Nhưng tôi đã nhìn thấy, tôi nhìn thấy nỗi đau của cậu Trịnh, cậu ấy đau đến mức hằng đêm chỉ có giày vò và mâu thuẫn bủa vây, ngày ngày sống không bằng chết, chẳng khác nào đọa đày trong địa ngục. Cậu ấy không phải súc sinh, cậu ấy chỉ là một con người đáng thương thôi! Cậu Trịnh chỉ có mợ, hai người đã thành vợ chồng, tại sao không thể bắt đầu lại từ đầu? Không phải bây giờ hai người đang rất hạnh phúc sao? Mợ ơi, mợ tha thứ cho cậu ấy đi!”

Cơ thể Cảnh ninh run cầm cập, cô nở nụ cười sầu thảm: “Hạnh phúc ư? Sẽ không bao giờ có thể hạnh phúc được nữa.”

Màn tuyết trên trời cao chậm rãi buông mình sà xuồng, lác đác mấy nụ hoa đỏ thẫm nhú ra từ cành mai, chân trời chăng kín mây đen thấp thoáng thấy ánh lửa rừng rực, khói súng mỗi lúc một dày, tiếng đại bác mỗi lúc một âm vang.

Trong đa số những áng văn mô tả khoảng thời gian này, ta sẽ chẳng tìm được bóng dáng những cá thể, hay gia đình, không bắt gặp vui buồn hợp tan, sinh ly tử biệt, cũng chẳng thấy mâu thuẫn vướng bận, đau đớn tột độ. Chỉ nhìn thấy những con số, những dòng ghi chép, thấy sự sống, cái chết, thấy những sinh mệnh hoặc hèn mọn, hoặc đáng khinh, hoặc tầm thường, hoặc vĩ đại chất chồng lên nhau như tro bụi cuồn cuộn, như sóng cả nhấp nhô, như ánh lửa bập bùng trong cảnh địa ngục đọa đày này.

Bọn họ đang sống trong địa ngục.

Tử Kim cháy rụi, Kim Lăng thành tro.

Hôm ấy là ngày 12 tháng Mười hai năm 1937, sáng hôm đó, đội cảm tử thuộc sư đoàn số 6 của quân đội Nhật Bản tập kích Trung Hoa Môn, dù chưa thể thâm nhập sâu, phải tạm lui quân nhưng sư đoàn trưởng giữ trọng trách phòng thủ Trung Hoa Môn đã tự ý đưa một bộ phận binh lính tháo chạy, gây nên khủng hoảng lớn. Chiều hôm ấy, Đường Sinh Trí – tư lệnh trưởng bộ đội cảnh vệ thủ đô triệu tập các vị tướng cấp sư đoàn trở lên, bắt đầu bố trí rút quân. Đến tối, họ Đường cùng các thành viên bộ tư lệnh ngồi thuyền rút từ Hạ Quan tới Giang Bắc, khoảng năm nghìn binh sĩ thuộc quân đoàn số 74 và sư đoàn số 36 cũng lên thuyền vượt sông. Số còn lại chạy tới khu quân phòng thủ Hạ Quan, biến thành một đoàn tán binh hỗn loạn, một số lại ghép bè băng sông, có kẻ chết chìm, có kẻ chết dưới họng súng quân Nhật, còn phần đông lưu tán nơi phố xá Nam Kinh, vứt vũ khí, khoác thường phục lẩn trốn trong khu an toàn quốc tế.

Khi Ngân Xuyên trở lại, trên đường, anh bắt gặp đám lính đào ngũ đang đánh đập dân thường, nghe người qua đường nói quân Nhật đã tràn vào thành phố, bắt đầu giết chóc, cướp đoạt. Anh đã liên hệ với vài khu an toàn, vội vã trở về nhà trước khi trời tối.

“Ninh Ninh, anh về rồi!” Anh vội vã bước vào phòng, phòng khách không có ai, bếp cũng vậy, nhưng bếp ga bập bùng lửa cháy, có nồi canh đang đun, thoang thoảng mùi thịt. Lòng anh ấm áp, cô hiếm khi xuống bếp, tay nghề cũng không điêu luyện, dù gần đây thực phẩm khan hiếm nhưng cô vẫn luôn cố gắng học hỏi để anh có thể ăn những món cô nấu.

“Ninh Ninh!” Anh vội vã bước lên cầu thang, vào phòng ngủ tìm cô, rồi lại thở phào nhẹ nhõm. Cô còn ở đây, cô vẫn bình an.

Cô ngồi sưởi ấm bên lò sưởi âm tường, mặc bộ xường xám mới làm trước khi cưới. Xường xám tay dài, bằng gấm màu tím nhạt, vạt dưới thêu hoa thược dược, cúc áo san hô đỏ. Cô sợ lạnh, dù xường xám không mỏng, tay áo lại dài nhưng vào mùa này, ăn mặc như vậy vẫn không ổn lắm.

“Sao em lại mặc bộ này?” Ngân Xuyên tò mò, anh bước tới bên cô, vuốt ve gương mặt cô, cô khẽ khàng ngoảnh đi.

“Em nấu canh, chúng ta ăn cơm thôi.” Cô khẽ nói, đứng dậy.

“Ừ,” Ngân Xuyên nói, “nhưng em thay đồ trước đã, ăn xong mình sẽ đi ngay.”

Cảnh Ninh kinh ngạc ngẩng đầu: “Anh gặp anh ta rồi?”

“Ai cơ?”

Có thứ gì đó lập lòe trong mắt cô, cô nói: “Đi đâu?”

“Khu an toàn. Người Nhật Bản tới rồi, quân phòng ngự bắt đầu rút lui, không cầm cự được bao lâu nữa, mình phải rời khỏi đây ngay.” Ngân Xuyên xách chiếc vali dưới gầm giường ra, những món đồ cần mang đi đã được xếp sẵn bên trong từ sớm, sau đó anh lấy một bộ đồ bông hết sức phổ thông từ tủ quần áo, ném xuống giường, “Ninh Ninh, em mau thay đồ đi!”

“Hôm nay em không muốn đi,” Cảnh Ninh ngáp, “tối mò tối mịt rồi, em không muốn đi đâu cả, để mai đi.”

Ngân Xuyên vô cùng sốt ruột: “Hiện giờ thật sự đang rất nguy hiểm, em ngoan nào, mình buộc phải đi ngay! Em mau thay đồ đi, em mặc thế này lỡ đâu, lỡ đâu…” Anh không muốn nói những lời xui xẻo, bèn cầm bộ đồ bông bước tới trước mặt cô, cởi cúc xường xám giúp cô, dịu dàng dỗ dành, “Ninh Ninh ngoan, mình thay đồ nhé. Nghe lời nhé.”

Cô chợt hất văng tay anh, lùi về phía sau: “Hôm nay em thật sự không muốn đi đâu cả! Em đã bảo mai đi là mai đi kia mà! Anh đừng có quấy rầy em.”

Ngân Xuyên vừa sốt ruột vừa giận, không nhiều lời với cô nữa, anh cắn răng kéo cô lại, Cảnh Ninh như phát điên, cứng đầu cứng cổ không chịu nghe, giãy giụa thật lực, không giãy được thì cắn tay anh. Ngân Xuyên mặt mũi xanh mét, mặc cho cô cắn, tay vẫn không ngừng lại, “xoẹt” một tiếng, anh cởi móc khóa bên ngực cô, một viên san hô rơi xuống, Cảnh Ninh khóc thét lên: “Em không mặc, em không mặc! Em không mặc cái thứ rách nát khó coi này!” Cô giằng lấy bộ đồ trong tay anh, ném vào lò sưởi, ánh lửa lóe lên, mùi khét nồng nặc.

Ngân Xuyên sững sờ nhìn bộ đồ bắt lửa, im lặng hồi lâu, anh chợt bật cười.

Cảnh Ninh thở hổn hển, trợn mắt nhìn anh: “Cút đi! Anh cút đi! Anh thích đi đâu thì đi, hôm nay tôi sẽ ở đây, tôi có chết ở đây anh cũng cứ mặc tôi.”

Ngân Xuyên thét: “Được! Em thích mặc thế nào thì tùy em, muốn làm gì cũng được, anh không quan tâm tới em nữa! Em muốn chết anh cũng mặc em!” Anh mới cất được mấy bước, cô đã chạy lại ôm eo anh, khóc to: “Anh không được đi! Anh dám đi sao!”

Nhịp tim anh như ngừng lại, anh nhắm mắt, quay lại trút những nụ hôn lên gương mặt cô, mặc kệ tất thảy, tàn bạo ngang ngược như không muốn để cô hít thở, muốn cô chết chìm trong những nụ hôn.

“Anh phải làm gì với em đây, anh phải làm gì với em!” Anh bất lực nói.

“Em hận anh! Hận anh! Tại sao em lại hận anh tới vậy!” Cô nện vào lồng ngực anh, phát ra tiếng nghẹn ngào như đang co giật.

Anh không giằng co với cô nữa. Hôm nay cô quái lạ vậy chắc cũng do sợ quá, vậy thì tùy cô, nghe cô vậy, sớm mai họ sẽ đi. Chuyện gì anh cũng nghe cô.

Đến khi cô bình tĩnh lại, họ cùng xuống nhà ăn cơm, cô vào bếp loay hoay một lúc, bưng hai bát mì ra, nước mì mang màu hồng nhạt.

Cảnh Ninh đưa đũa bát cho anh: “Em biết anh muốn ăn cơm em nấu nhưng giờ chẳng mua được gì nữa rồi, khó khăn lắm mới tìm được một ít ngó sen nhưng cũng nát mất quá nửa. Canh không có xương sườn, em bỏ một ít mỡ lợn còn thừa vào, chắc không ngon lắm đâu.”

“Em biết anh thích ăn canh ngó sen, đúng không Ngân Xuyên?” Cô mỉm cười.

“Tách” một tiếng, một giọt nước mắt anh ứa ra, rơi xuống bàn.

Sau khi kết hôn, bọn họ từng có những ngày tháng rất ngượng ngập, có lúc cô sẽ gọi anh là anh cả, đôi khi lại chỉ cất tiếng “này”, anh biết cô chưa thể gỡ bỏ khúc mắc, nhưng hiện giờ cô đã gọi anh là Ngân Xuyên một cách hết sức tự nhiên, cô còn nấu canh ngó sen cho anh. Theo tập tục Hồ Bắc, canh ngó sen là món nấu cho chồng mình.

“Em bỏ nhiều hạt tiêu quá à?” Cô trêu cười vẻ lúng túng của anh, đôi môi cong lên, vẻ mặt yêu kiều, như cô bé vô ưu vô lo từ rất lâu trước kia.

Ngân Xuyên ngượng ngùng nở nụ cười, nhưng mới xấu hổ làm sao, nước mắt anh lại rơi xuống. Cảnh Ninh cầm khăn tay, bước tới bên anh, vừa vươn tay anh đã ôm cô vào lòng.

“Ninh Ninh, cảm ơn em.”

Cô khẽ nói: “Ngân Xuyên, về sau đừng khiến bản thân mình khổ sở như vậy nữa.”

Anh nâng gương mặt cô lên, run rẩy nói: “Ninh Ninh, thật ra anh có lỗi với em, anh…”

“Suỵt…” Cô ra hiệu anh đừng nói nữa, “Đời này vẫn còn dài lắm, anh hãy chậm rãi bồi thường cho em.”

Anh vui mừng tới phát điên, đôi mắt sáng lấp lánh, gật đầu thật mạnh.

Cô kéo ghế, ngồi bên cạnh anh, hai người cười nói, ăn hết bát mì như một đôi vợ chồng bình thường tới độ không thể bình thường hơn được nữa. Tiếng đại bác ngoài xa không dứt nhưng Ngân Xuyên đã quyết tâm, anh nhất định sẽ đưa cô tới nơi an toàn.

Đêm, họ mặc nguyên quần áo, chìm vào giấc ngủ cho đến khi bị đánh thức bởi tiếng súng dày đặc như mưa. Trăng sáng vằng vặc, bệ cửa sổ phủ một tầng tuyết mỏng, giống hệt như cái đêm bốn năm về trước.

Sự cảnh giác trong suốt nhiều ngày trời giúp họ tạo được thói quen, dù tiếng súng có mạnh hơn nữa, họ cũng chẳng hốt hoảng như lần đầu mới nghe. Ngân Xuyên dập tắt lò sưởi, Cảnh Ninh ngồi thẳng dậy, xường xám nhăn nhúm vì giấc ngủ, cô vội vã chỉnh trang lại xiêm y, thấy Ngân Xuyên đã chuẩn bị sẵn sàng từ sớm, đang hắt nước dập lửa trong lò, bóng lưng anh khiến cô nhớ tới một chuyện cũ thuở xưa. Tựa như giấc mộng từ đời trước.

Ngân Xuyên quay đầu, thấy mắt cô ầng ậc nước, khóe môi nở nụ cười đau thương.

“Ninh Ninh, em mau khoác áo vào đi.”

Cô sực tỉnh, đứng dậy nhanh nhẹn thu dọn.

Cổng đã khóa chặt, bọn họ phải xuống hầm trú ẩn, đêm nay tiếng súng hơi là lạ so với trước kia, nó dày đặc hơn, gần hơn! Ánh trăng sáng rực, chiếu rọi phòng ngủ bằng sắc trắng trong vắt, lò sưởi tắt lịm, dù đã đóng cửa, tường cũng rất dày nhưng phòng ốc vẫn lạnh lẽo vô cùng.

Ngân Xuyên cầm chiếc áo khoác của mình, nói: “Mình mau xuống thôi, anh thấy hơi…”

Ba chữ “không ổn lắm” còn chưa thốt đã nghe có một tiếng “âm” vang lên, sau đó lại loảng xoảng mấy tiếng, đó là âm thanh xích sắt ngoài cổng sân bị chém đứt bởi thứ đồ vật sắc bén, rơi xuống nền đất, Ngân Xuyên nhìn thấy ánh đèn pin dưới sân, có người xông vào.

Không kịp nữa rồi, lúc này xuống lầu ắt sẽ đụng mặt đám người nọ.

Ngân Xuyên vội vã khóa trái cửa phòng ngủ, anh kéo tay Cảnh Ninh, hai người trốn trong chiếc tủ quần áo lớn. Cảnh Ninh cuộn tròn lại, rúc đầu vào ngực anh, cơ thể khẽ run rẩy. Anh ôm cô, biết có lẽ đây là cái ôm cuối cùng trong đời họ.

Không phải đã nói là cả đời này sao? Quãng đời dài lâu, mang hy vọng vô tận ấy đâu? Sự bồi thường và bù đắp của anh thì sao? Anh đã hứa với cô rồi mà. Nhưng anh mới nếm vị ngọt hạnh phúc, tại sao nó lại biến mất nhanh tới vậy?

Những kẻ nọ đang xô cổng tầng dưới, rất mạnh, tiếng vang đinh tai đâm rách bầu không khí giá lạnh buổi đêm. Ngân Xuyên run lên, ôm Cảnh Ninh thật chặt.

“Ngân Xuyên…” Cảnh Ninh vươn tay vuốt ve gò má anh, khẽ nói, “giúp em một việc.”

Anh không nhìn thấy gương mặt cô, vì tủ quần áo đen đặc một màu, nhưng dường như đôi mắt cô có ánh sáng đang lập lòe. Anh biết cô muốn mình làm gì.

“Không. Anh không làm được!” Anh run rẩy nói.

“Em sợ bẩn, em mệt rồi, em muốn chết trong tay anh.”

“Không…” Trăm nghìn mũi kim đâm vào tim anh, nhưng anh không thấy đau, vì anh đã nếm trải nỗi đau ấy từ rất lâu rồi. Vào cái thời mà anh còn rất nhỏ, rất nhỏ, khi mẹ định đẩy anh vào lòng sông, khi anh nức nở vì sinh mạng mẹ đã trôi tuột khỏi lòng bàn tay, anh đã nếm trải nỗi đau ấy từ sớm.

Cô kéo tay anh, đặt lên môi mình: “Cầu xin anh. Giết em đi.”

Tiếng súng ngắn ngủi vang lên, họ nghe thấy âm thanh khóa cửa rơi xuống nền đất.

Nước mắt nóng hổi lăn xuống trán cô, gò má cô.

“Bé Hạt Dẻ… sao em luôn tàn nhẫn với anh tới vậy…”

Cô khẽ mỉm cười, đôi môi nhẹ nhàng mấp máy, hôn lên lòng bàn tay anh như đứa trẻ nghịch ngợm: “Ai bảo anh tàn nhẫn với em đến thế.”

Tiếng bước chân rầm rầm vọng lại từ dưới nhà, đám người đó đã xông vào.

Không còn lựa chọn nữa rồi, anh hôn lên môi cô: “Em đi trước, anh sẽ tới tìm em ngay.”

Anh cầm lấy bộ đồ bên cạnh, bịt chặt mũi cô, gồng hết sức bình sinh, muốn cô có thể rời đi nhanh nhất, ít đau đớn nhất, cô thậm chí còn chẳng hề giãy giụa, chỉ có bàn tay khẽ động đậy trong giây phút cuối cùng, kéo chiếc cánh trượt tủ quần áo, khiến ánh trăng lạnh buốt rọi vào, anh nhìn thấy đôi mắt cô từ từ khép lại, như dáng vẻ thời cô còn thơ, được vỗ về chìm vào sự im lặng ngọt ngào.

Từng căn phòng bật mở, có mấy kẻ đã chạy lên tầng.

Không sao, cô đã không còn thở nữa, vầng trán trơn nhẵn, rải đầy ánh trăng. Anh đã bóp chết cô, nhanh tới vậy, nhanh như một giấc mơ, chớp mắt đã là một đời.

Trong đêm trăng lạnh giá thê lương ấy, anh trả lại cô mọi thứ mình đã cướp mất. Con sông thời gian thuộc về cô ngừng chảy, sự bình yên, hạnh phúc, êm ả cô từng có vẫn cứ vẹn nguyên nơi đó như cát mịn lòng sông. Anh trả lại cho cô. Trả tất cả cho cô.

Cửa phòng ngủ được đẩy ra, đám người xông vào.

Ngân Xuyên vẫn ôm lấy Cảnh Ninh, ôm siết lấy gương mặt cô, anh run rẩy, nghẹt thở, lặng im điên cuồng trong bóng đen.

Cuối cùng, ánh đèn pin chiếu lên gương mặt anh, sau khoảnh khắc lóa mắt ngắn ngủi, anh nhìn rõ kẻ vừa bước vào.

Không phải lính Nhật, cũng không phải quân đào ngũ Trung Quốc, càng không phải côn đồ thổ phỉ.

Người nọ vội vã tiến lại, dìu anh dậy: “Cảm ơn trời đất, cậu Trịnh, hai người vẫn còn ở đây!”

Anh ta là Lưu Ngũ, thuộc hạ của Đồng Xuân Giang.

“Cậu Trịnh, mau lên, tôi sẽ đưa cậu tới tìm Nam Gia và Tố Hoài!”

Ngân Xuyên không nhúc nhích, thứ ánh sáng khác lạ lóe lên trong mắt anh, Lưu Ngũ kéo anh, nhưng anh ra sức giãy giụa.

Anh há miệng, phát ra một tiếng kêu khản đặc, như tiếng thét của loài thú sắp chết.

Anh không may mắn như cô, không ai chịu giết anh, vậy nên anh chỉ có thể tự tìm cái chết. Tự sát không khó, nhưng chết quả là chẳng dễ dàng. Có lẽ trong lòng cô, chuyện tốt nhất mà đời này anh làm vì cô chính là tự tay giết chết cô. Cô bỏ mặc tất cả, chạy thoát đúng như mình hằng mong, còn anh thì đọa đày trong địa ngục sống.

Trên đường từ Nam Kinh đến Vu Hồ, Ngân Xuyên đã nhiều lần từ sát, lần nào cũng được cứu. Anh hận, anh nghĩ nhất định mình đã tao ngộ lời nguyền rủa tàn ác nhất, sống không bằng chết, nhưng lại chẳng thể chết nổi, song, anh nên hận ai đây?

Đồng Xuân Giang liều chết tới Thượng Hải cứu vợ con mắc kẹt, bất đắc dĩ phải đưa người vòng sang Nam Kinh, sau đó lại gặp được Nam Gia, ông đồng ý tối nay sẽ tìm người đưa họ tới Vu Hồ, dù không thể đảm bảo an toàn nhưng có lẽ đây là cơ hội sống sót duy nhất của họ. Nam Gia tìm Ngân Xuyên nhưng chỉ gặp được Cảnh Ninh, dù khi ấy Cảnh Ninh đã suy sụp vì sự thật quá khứ, song sau khi cô bình tĩnh lại, Nam Gia tiết lộ việc này cho cô.

“Dù mợ muốn làm gì, có muốn chấm dứt với cậu Trịnh thì cũng đợi rời Nam Kinh đã rồi hẵng tính. Sau khi cậu Trịnh trở lại, hai người hãy mau chóng thu dọn đồ đạc, giờ tôi phải tìm Tố Hoài, tối nay anh Lưu Ngũ sẽ đưa người tới đón cả hai. Nhưng hai người vẫn phải khóa cửa cẩn thận như mọi khi, tôi thật sự không dám chắc liệu quân Nhật có đến trước một bước không. Chỉ có thể nghe theo ý trời thôi.”

Khi đó đêm đã về khuya, một bộ phận quân Nhật tràn vào thành phố, dù đám Lưu Ngũ tìm được chỗ ở của Ngân Xuyên nhưng không dám lớn tiếng gọi, họ không dám chắc tình hình bên trong, cũng lo xung quanh có lính Nhật Bản.

Nhưng người duy nhất chắc chắn nhóm Lưu Ngũ sẽ xuất hiện chính là Phan Cảnh Ninh. Trước khi họ tới, cô đã quyết định mình sẽ đặt dấu chấm hết cho mình và Ngân Xuyên.

Cô khiến anh giết cô.

Họ buộc phải đưa di thể Cảnh Ninh đi, Ngân Xuyên đã phát điên, anh vẫn tin rằng cô còn sống, anh giữ cô không buông, thét gọi cô, lay cô, nhưng Cảnh Ninh không tỉnh dậy. Thời gian gấp gáp, không thể trì hoãn thêm nữa, Lưu Ngũ buộc phải đánh ngất anh. Đang giờ phút ngàn cân treo sợi tóc, nào ai còn sức thương cảm cho ai, Đồng Xuân Giang lập tức cho đám Tố Hoài đưa Ngân Xuyên tới Vu Hồ, phần mình và các anh em tiếp tục tìm đường về phương Nam, dù rằng họ sẽ phải đối mặt với tình cảnh còn hiểm nguy gấp bội. Trước khi đi, ông nhìn gương mặt tái ngắt của Ngân Xuyên, thở dài: “Nếu các cậu không sợ chết thì hãy chờ ở Vu Hồ ba ngày, người của tôi sẽ nghĩ cách đem tro cốt của mợ Trịnh tới. Hôm nay tôi không thể mạo hiểm được.”
 
Quyển 2 - Chương 94


Con tàu tiến về phía trước trong lặng im, những áng mây dày kéo đến cùng gió, mưa phùn lạnh lẽo gõ song cửa, những dãy núi trùng trùng in ánh chiến hỏa ngoài chân trời, sóng sông dập dềnh, mênh mang vô bờ.

Trên con sông đêm, Ngân Xuyên bị lăng trì bởi những lưỡi dao của hồi ức.

“Một đóa hoa, rõ ràng nó rất đẹp, rất rực rỡ, bung nở tự do tự tại, nhưng tôi lại cố gượng ép hái nó xuống, rồi trơ mắt nhìn nó điêu tàn. Tôi đã hủy hoại hạnh phúc cả đời của Ninh Ninh. Cô ấy biết. Vốn dĩ cô ấy có thể cưới người mình yêu, nhưng tôi đã chia rẽ họ, là tôi! Tôi khiến cô ấy phải cưới Từ Đức Anh, rồi sau đó lại kết hôn với tôi. Tôi sắp đặt cuộc sống của cô ấy như đùa bỡn một món đồ chơi.

“Cô ấy biết cả rồi, hóa ra kẻ vỗ ngực xưng mình là người yêu cô ấy nhất trên đời thực chất lại là kẻ hại cô ấy thê thảm nhất. Cô ấy thật tàn nhẫn, sự trả thù của cô ấy thật tàn nhẫn. Cô ấy khiến tôi tự tay giết chết cô ấy, đây chính là sự báo thù lớn nhất dành cho tôi. Cô ấy đã tính toán sẵn từ trước. Tôi không biết cô ấy đau khổ, dằn vặt tới mức nào, nghĩ kế chết đi suốt mỗi phút mỗi giây. Cô ấy thành công rồi. Cô ấy để tôi lại trên cõi đời như địa ngục, khiến tôi sống không được, chết cũng chẳng xong. Cô ấy chưa từng yêu tôi. Ninh Ninh, em đã từng yêu anh chưa?!”

Anh chìm ngập trong màn nước mắt, gương mặt co rúm, anh nghĩ chắc chắn mình đang khóc, nhưng không, anh chẳng rơi lấy một giọt lệ. Anh cố nghĩ cho ra, rốt cuộc anh đã sai ở đâu, liệu đó có phải lỗi lầm tuyệt đối, không còn đường cứu vãn không, vì những chuyện anh làm sai quả thực quá nhiều. Sau đó anh dần nhận ra, hóa ra mình đã đi sai ngay từ bước đầu. Đúng như những gì Nam Gia từng nói từ rất lâu trước kia, dù mỗi bước sau đó đều đáng được khoan thứ, nhưng chung quy anh đã đi sai bước đầu, cái sai ấy theo anh suốt cả đoạn đường, đến tận khi hóa thành vĩnh hằng.

Nhưng không có cô, đời này còn nghĩa lý gì? Nhất là giờ đây khi cô đã ra đi mãi mãi.

Ngân Xuyên vươn tay, bất lực đặt trên lồng ngực mình, nơi may chiếc túi áo trong. Không biết Cảnh Ninh đã nhét một cuốn sổ nhỏ vào đó từ bao giờ, hôm ấy sau khi cắt cổ tay bằng miếng ngói trong nhà Cửu Nhi, Nam Gia cởi áo khoác định giặt vết máu giúp anh thì phát hiện ra nó.

Không biết có phải vì cuốn sổ ấy không mà anh thật sự không còn tìm đến cái chết nữa.

Cuốn sổ nhỏ dán tấm ảnh đầy tháng đã ngả vàng của Tiểu Quai, đứa bé giống hệt Cảnh Ninh ngày nhỏ đang nở nụ cười ngây thơ. Trang giấy bên tấm ảnh lốm đốm vệt nước mắt, có cả bút tích của Cảnh Ninh:

“Tiểu Quai không phải sinh non. Em đã mang thai con bé vào ngày phạm phải sai lầm ấy, nhưng Tiểu Quai không phải sai lầm.”

Một cậu sinh viên chạy nạn ngủ ngoài hành lang lẩm bẩm những tiếng như tiếng nói mơ, âm thanh non nớt run rẩy, tràn ngập sợ hãi, có lẽ cậu đang muốn tìm kiếm một tia hy vọng, hay chỉ đang mong đánh lạc hướng nỗi sợ của mình, cậu đọc thuộc lòng một bài thơ. Những câu thơ đứt quãng vọng bên tai Ngân Xuyên.

When I have fears that I may cease to be

Before my pen has gleaned my teeming brain,

Before high—piled books, in charactery,

Hold like rich garners the full—ripened grain;

When I behold, upon the night’s starred face,

Huge cloudy symbols of a high romance,

And think that I may never live to trace

Their shadows, with the magic hand of chance;

And when I feel, fair creature of an hour!

That I shall never look upon thee more,

Never have relish in the faery power

Of unreflecting love;—then on the shore

Of the wide world I stand alone, and think

Till love and fame to nothingness do sink. 

Dù còn lất phất mưa nhưng bầu trời đã dần sáng, khi nắng ban mai ló rạng, Ngân Xuyên nhắm mắt lại, trong cơn nửa mê nửa tỉnh, có người lay anh.

“Chú ơi, chú ơi!”

Anh mở mắt, gương mặt bé nhỏ đáng yêu của Cửu Nhi sán lại, đôi mắt to trắng đen rõ ràng đầy vẻ lo lắng.

“Tiểu Cửu Nhi, cháu không ngủ sao?”

“Sao chú lại khóc thế?”

“Chú khóc ư?” Ngân Xuyên cười, “Chú không khóc mà.”

“Chú nói dối! Mặt chú toàn là nước mắt đây này!” Cửu Nhi chớp đôi mắt to, chỉ mặt anh.

“Được rồi, chú nói dối cháu, chú sai rồi. Chú đang khóc.” Ngân Xuyên vươn tay xoa đầu Cửu Nhi.

“Có phải chú lại nhớ vợ mình rồi không?”

Cơn đau dội lên, anh gật đầu: “Ừ. Chú đang nhớ cô ấy, nhớ suốt từng giây từng phút. Mỗi lần nhớ tới cô ấy chú lại rất vui, nhưng nghĩ đến việc cô ấy đã đi xa, chú lại đau khổ khôn tả.”

“Chú đừng buồn, chú phải vui lên, như vậy cô ấy mới vui. Chắc chắn cô ấy không mong chú đau khổ đâu.”

“Ừ, có lẽ là vậy. Tiểu Cửu Nhi, chú mệt rồi, chú muốn ngủ thêm một lát.”

“Dạ, chú ngủ đi nhé.” Cửu Nhi nói, nháy mắt với anh.

Ngân Xuyên khép mắt, anh đã quá mệt mỏi rồi.

Cửu Nhi chống tay nhìn anh chăm chú, nghĩ tới con búp bê vải anh tặng bé đêm qua. Anh nói, đây là Meo Meo, nó là người bạn thuở nhỏ của vợ chú. Cửu Nhi rất thích Meo Meo đáng yêu, bèn ôm nó, thơm Meo Meo thật mạnh, cô bé nghĩ: “Chú cho mình Meo Meo, mình cũng phải tặng lại chú một thứ gì đó.”

“Cửu Nhi!” Mẹ đứng ngoài hành lang khẽ gọi cô bé.

Cửu Nhi khẽ khàng nhét món đồ nhỏ xíu vào túi áo Ngân Xuyên, quay người chạy vọt đi như một làn khói. Thấy Cửu Nhi, mẹ bé sốt sắng kéo con về phía cửa ra, vừa đi bà vừa trách: “Tàu sắp chạy rồi mà con còn chạy lung tung khắp nơi. Cái con bé này, không bao giờ làm người ta bớt lo nổi. Mình mau xuống thôi, cha con đã lên bờ rồi.”

“Dạ!”

Đây là Lư Gia Độ, sau chuyến tàu kéo dài ba ngày, họ đã tới Hồ Bắc. Cả nhà Cửu Nhi xuống tàu, con tàu chỉ dừng lại trong chốc lát rồi lại tiếp tục dong buồm tiến về Hán Khẩu. Cửu Nhi đứng trên bến phà, kiêng chân đưa mắt tiễn tàu, vẫy bàn tay bé xíu, như thể Ngân Xuyên đang nhìn cô bé qua lớp cửa sổ.

“Mẹ ơi, liệu chú có thể vui vẻ trở lại không mẹ nhỉ?” Cô bé ngoảnh đầu hỏi mẹ.

“Người ta không chê con phiền phức là may mắn lắm rồi, con cứ quấy rầy người ta nghỉ ngơi suốt.”

“Con tặng chú quà đấy, chắc chú sẽ vui chứ?”

“Quà sao, con tặng chú ấy thứ gì vậy?” Mẹ Cửu Nhi tò mò.

Cửu Nhi cúi đầu, hàng mi dài khẽ run run, cô bé rụt rè nói: “Con tặng sợi dây khóa bạc cho chú, mẹ, mẹ đừng mắng con nhé.”

“Cái con bé này!” Mẹ Cửu Nhi giậm chân, “Đó là… đó là…” Bà chợt ấp úng, suy nghĩ một hồi, bà tức giận nói, “Sau khi sinh con ra mẹ đã đi đánh cái khóa bạc này. Sao con lại tùy tiện tặng cho người khác!”

“Nhưng chú tặng con Meo Meo, con cũng phải tặng chú một món quà thật hay chứ.” Cửu Nhi phản bác, bím tóc đuôi sam khẽ đung đưa.

Mẹ Cửu Nhi rất giận, bà khom người lật giở túi áo con, sờ được một món đồ rồi, bà mới thở phào nhẹ nhõm, ngoắc thứ này ra rồi cốc đầu con gái đau điếng, nói: “Cũng may con chưa tặng cả thứ này, ít nhiều cũng giữ lại một món.”

Món đồ đung đưa theo động tác bà, đó là một sợi dây đỏ luồn những viên ngọc lưu ly hình hoa quả, phát tiếng tinh tang giòn tan.

Cửu Nhi ngẩng đầu, híp mắt, đuôi mắt hơi cụp xuống như một chú nòng nọc, cô bé bật cười hoan hỉ.

Mưa gõ lên cửa sổ, trong tiếng mưa gió, dường như anh nghe thấy ngọn cây xào xạc, rõ ràng, có tiết tấu. Rồi một mùa xuân nữa sẽ lại tới cùng cơn gió, cơn mưa này, tới trong nhịp điệu của bản nhạc dạo mà con sông đằng đẵng hòa tấu. Thật tàn khốc, mỗi mùa xuân đều thờ ơ lãnh đạm với buồn vui ly hợp nhân thế. Vào thời khắc nên tới, nó nhất định sẽ tới, đuổi kịp những tháng ngày tươi đẹp của chính nó. Phải, rồi mùa xuân rồi sẽ luôn tới.

Cuối cùng Ngân Xuyên cũng chìm vào giấc ngủ, anh nằm mơ, cô xuất hiện trong cơn mơ của anh.

Vườn hoa chẳng có ai dọn dẹp phủ đầy hoa hồng và thủy tiên vàng, những tán ngô đồng mới trong suốt dưới ánh dương. Cô cởi áo khoác, tiện tay vắt nó lên hàng ghế gỗ dài loang lổ, chạy tới bên đài phun nước, đó là nơi chơi đùa họ thích nhất thuở nhỏ. Nơi này đã chẳng còn phun nước từ lâu, nhưng cô vừa ghé lại gần, giọt nước như thủy tinh đã vang lên tựa tiếng nhạc. Cô ngồi bên hồ nước, đóa hoa thêu chỉ vang trên đôi giày gấm lấp lánh tia sáng, cô khẽ ngẩng đầu, nhắm mắt lại.

Anh ngồi xuống bên cô, vươn tay cản những giọt nước bắn ra.

Cô không mở mắt, tựa đầu vào vai anh, mỉm cười nói như thở than: “Cuối cùng cũng về nhà rồi.”

Anh biết đây chỉ là một giấc mơ, dù trong mơ anh cũng biết rất rõ rằng đây là ảo giác của anh.

Cảnh trong mơ thay đổi, trở lại thời họ còn thơ, trong khu chợ huyên náo, hòa thượng già vẽ một bức tranh, đàn nhạn băng qua núi cao sông rộng. Ngân Xuyên nghe thấy tiếng chúng kêu vang.

“Em mong chúng bay tới đâu?”

“Em mong chúng về nhà!” Cô bé lớn tiếng đáp lời.

Trong mơ, anh nhìn cô bé ấy, nước mắt giàn giụa.

Tiếng gió vang, trên những đám mây giăng là bầu trời vời vợi, trời trăng và ánh sao chiếu rọi thế gian bé nhỏ, chiếu rõ dáng dấp họ nhỏ nhoi, lặng im mà khoan dung.

Sự đời chỉ là những con đường bắt buộc phải băng qua, nếm đủ trăm ngàn mặn ngọt đắng cay, rồi ta sẽ ly biệt. Cô chỉ đi trước một bước, đợi đến khi anh bước qua cây cầu trần thế, có lẽ anh sẽ trùng phùng với cô nơi bờ sông thời gian, dưới màn mưa xuân giăng đầy trời.  

Cũng có lẽ, họ sẽ lại gặp nhau trong một giấc mơ.

Sự đời duyên nợ như giục giã gió xuân đất trời. 

Gió xuân hóa mưa phùn.

Mưa xuân rồi lại chìm xuống lòng sông.

HẾT.
 
Quyển 2 - Chương 95: Hậu ký


Rốt cuộc tôi muốn viết gì?

Đến khi cuối cùng mọi chuyện đã kết thúc tôi mới dám chắc thứ tôi muốn viết, đó là: Quay đầu là bờ.

Câu chuyện này kể về quá trình quay đầu khổ sở của một con người. Trên chặng đường báo thù, Trịnh Ngân Xuyên đáp trả lại cái ác mình phải hứng chịu khi xưa bằng sự độc ác gấp bội, đạp lên máu tươi và sinh mệnh của người khác để bước về phía thù hận, liệu anh có thể quay đầu chăng? Mặt ngoài, cái ngoảnh đầu cuối cùng của anh là do Cảnh Ninh thúc đẩy. Ngân Xuyên từng nói với Cảnh Ninh: Đừng bắt nạt kẻ yếu, vì nhiều khi em sẽ không chống trả nổi sự phản kháng của kẻ yếu. Nhưng chính anh đã quên mất lời mình. Cảnh Ninh lập mưu khiến Ngân Xuyên giết cô, kẻ yếu ớt bị lừa gạt, giày vò và bịp bợm từ đầu chí cuối ấy đã dùng cách thức tàn nhẫn nhất để trả thù Ngân Xuyên.

Là trả thù, nhưng cũng là cứu rỗi.

Từ đầu tới cuối, mạch truyện như những nút thắt được trải đều, tôi cứ thế viết, nhìn Ngân Xuyên chật vật cởi từng nút thắt, có cái rất dễ dàng, có cái lại vô cùng khó khăn, anh cởi bỏ chúng mà gãy lìa móng tay, máu chảy đầm đìa. Đến cuối cùng khi đã hoàn toàn được giải thoát và quay đầu lại, thực chất đây chính sự trở lại của chính anh.



Hai cuốn “Kinh mộng” và “Phù sinh” của “Có giọt mưa xuân sà vào lòng sông” kể về câu chuyện “cầu mà không được”. Đó là câu chuyện “cầu mà không được” của Vân Lang với Ngân Xuyên, của Cảnh Ninh với Tử Chiêu, Tử Chiêu với Cảnh Ninh, Ngân Xuyên với Cảnh Ninh, Phan Thịnh Đường với tiền tài và quyền lực. Cầu bất đắc, oán tăng hội, ái biệt ly. Đâu đâu cũng là ải khó, đâu đâu cũng là bất lực. Muôn vàn câu chuyện về bản chất đều chỉ đang giảng giải cùng một lý lẽ, Phật lý có muôn ngàn hóa thân, thế gian chỉ như cát bụi, đời người nhỏ bé vô hạn chính là động lực thúc đẩy những câu chuyện tuần hoàn không dứt.

Quay đầu là một quá trình đau đớn, nhưng nó không phủ định hoàn toàn những điều ta trải qua, mà chỉ là sự gột rửa bỏ lại sai lầm và tội lỗi ta phạm phải do tính tình cùng sự lựa chọn của mình, thử nỗ lực tìm ra cơ hội mới.

Có rất nhiều những mối quan hệ và vấn đề rối rắm trong đây. Ví dụ như một người có thể hai người cùng lúc không (Cảnh Ninh với Ngân Xuyên và Tử Chiêu), trọng lượng của tình yêu sẽ được chia đều ra sao? Liệu giữa kẻ thù có thể tồn tại sự giảng hòa và cứu rỗi không (thứ tình “phụ tử” yêu hận đan xen giữa Phan Thịnh Đường và Ngân Xuyên). Nếu vứt bỏ mọi thứ ta từng cho là quý giá nhất với bản thân, liệu rằng ta có thật sự trắng tay? Có buông tay không, có vứt bỏ không? Phải lùi lại hay tiến về phía trước?

Tạ Tề Phàm nói rất đúng: Cương nhu vẹn toàn, tâm địa ngay thẳng. Nhưng thử hỏi liệu có ai làm được điều này?

Có những lúc, con người ta phải dựa vào chính bản thân để phá vỡ thế cờ.

Mỗi nhân vật tôi viết đều không bao giờ hoàn hảo, bọn họ đầy rẫy những khuyết điểm. Thật ra vấn đề họ gặp phải cũng là điều mà tất cả mọi người trên đời đều có thể gặp. Thậm chí ta cũng có thể dễ dàng gặp được những cái “ác” trong đó.

Ví dụ như hành động Tống Duẫn Đoan bế Tiểu Quai đi. Có người sẽ cho rằng tên đàn ông này bị điên ư? Y có còn lương tâm không? Giận cá chém thớt với một đứa bé sơ sinh vô tội, thật là biến thái. Sau khi tâm hồn con người ta méo mó, mất đi lý trí, quả thực không thể lường trước họ sẽ làm ra chuyện gì. Nhân tính quá phức tạp. Khi ranh giới cuối cùng của linh hồn kẻ ác sụp đổ,  định nghĩa về cái ác trong y sẽ thay đổi. Trong lòng Tống Duẫn Đoan, vợ chồng Đồng Xuân Giang và Trịnh Ngân Xuyên mới là kẻ ác. Kẻ ác không biết ác là gì, ấy mới là cái ác đáng sợ nhất.

Tôi đã rất nỗ lực để viết nên câu chuyện này, tôi mong câu chuyện của mình có thể vẽ nên cõi đời, những con người với tính cách, tư tâm và khuyết điểm riêng, nhưng trong số họ sẽ luôn có một vài người lựa chọn vứt bỏ tính cách, tư tâm hay thậm chí là sinh mạng mình vào một thời điểm nhất định. Dù có là trước tình yêu hay trước vận mệnh đất nước, sự từ bỏ ấy nhiều khi chính là tác thành.

Chủ nhân giải thưởng Nobel Patrick Modiano từng phát biểu trong lễ trao giải, đề cập tới một trải nghiệm mà mỗi tác giả đều gặp phải: “Mỗi khi một cuốn sách chuẩn bị kết thúc, tôi sẽ cảm thấy nó đang bỏ tôi mà đi, nó đã hít thở được bầu không khí của tự do… Chúng gào thét quấy phá, không còn lòng dạ nghe bài giảng của người làm thầy. Thậm chí có thể nói khi đi tới đoạn kết, cuốn sách đã bắt đầu sinh lòng thù ghét, chỉ mong có thể mau chóng thoát khỏi ta. Tôi vừa viết xong chữ cuối cùng, nó đã bỏ tôi mà đi, kết thúc rồi, nó không còn cần tôi nữa.”

Các độc giả đã chờ đợi “Có giọt mưa xuân sà vào lòng sông” suốt ba năm, ban biên tập thân mến đã khoan dung cho những lần chậm trễ của tôi, phải, cuốn sách này đã không còn cần tôi nữa.

Nhưng nó cần các bạn, nó là của các bạn.

Mong ánh dương vĩnh cửu của tâm hồn vô nhiễm mãi chiếu rọi tôi và bạn.

Giang Thiên Tuyết Ý, tháng Bảy năm 2015

Hạnh:

Chẳng biết nên bắt đầu viết từ đâu nữa, vì mỗi một tình tiết, một suy nghĩ, hành động của các nhân vật trong Có giọt mưa xuân sà vào lòng sông đều đáng nói, có quá nhiều thứ để nói, mà không biết nói sao cho trọn vẹn, nên có lẽ mình sẽ bàn về vài điểm mình thích nhất cũng như các câu hỏi mọi người thường đặt ra khi đọc bộ truyện này.

Ban đầu khi đọc cuốn này mình chỉ đọc lướt cho vui (mà toàn lướt đoạn quan trọng) và một phần do quá u mê, thương xót cho Ngân Xuyên nên mình đã bỏ qua quá nhiều tình tiết, thành ra đến cuối mới ngã ngừa phát hiện Ngân Xuyên là người huỷ hoại cả đời Cảnh Ninh. Lúc đấy chỉ thấy sốc, phẫn nộ, và khi Cảnh Ninh tự sát thì hả hê, đây là cách duy nhất có thể khiến Ngân Xuyên đau khổ và trả giá.

Lúc ấy mình nghĩ sẽ không bao giờ chạm vào bộ truyện này nữa, nhưng chẳng hiểu sao cuối cùng lại dịch hẳn luôn.

Càng đọc kỹ lại càng thấy Có giọt mưa xuân sà vào lòng sông đầy ẩn ý, sâu sắc, khiến mình phải nhìn nó theo một lăng kính khác. Trong đó, kẻ đáng nói đến trong câu chuyện chắc chắn chính là Ngân Xuyên. Với mình, Ngân Xuyên là linh hồn của câu chuyện, tất cả các nhân vật khác như Phan Cảnh Ninh, Phan Thịnh Đường, Mạnh Tử Chiêu hay Từ Đức Anh, dù có chiều sâu, phức tạp và được xây dựng rất tốt nhưng cũng chỉ là những cái bóng trong cuốn sách này, vì họ là một phần trong cuộc đời Ngân Xuyên. Con người phức tạp, vừa đáng sợ vừa đáng thương của Ngân Xuyên mới chính là cốt lõi của bộ truyện.

Có giọt mưa xuân sà vào lòng sông là quá trình độc giả chứng kiến, đi sâu dần vào tâm hồn Ngân Xuyên, một chàng trai có vẻ ngoài nho nhã dịu dàng, nhưng sâu trong đó là một tâm hồn bị ăn mòn bởi thù hận. Ta chứng kiến một đứa trẻ trong sáng dần bị vấy bẩn bởi tâm hồn dơ dáy của người lớn, để rồi khi trưởng thành anh trở thành chính kẻ đã huỷ hoại đời mình. Ta chứng kiến một đứa bé tội nghiệp bị gieo mầm mống thù hận từ khi còn quá nhỏ, bị đẩy vào con đường gian dối, lừa lọc khổ đau, bóp méo tâm hồn mình vì sinh tồn và để trả thù. Khi sự xấu xa của Ngân Xuyên lên đến cùng cực, ta chợt quên mất chàng trai ấy từng đáng thương tới mức nào, ta chỉ nhìn thấy một Ngân Xuyên mất trí, méo mó, một bản sao của Phan Thịnh Đường chứ không còn là một cậu bé bơ vơ tội nghiệp khi xưa. Đau khổ không phải lý do bao biện cho những hành động của Ngân Xuyên, nhưng chắc chắn một con người sống cuộc đời kinh hoàng tựa địa ngục như Ngân Xuyên sẽ chẳng thể ngay thẳng, tử tế, chẳng thể “bình thường” như Mạnh Tử Chiêu. Ngân Xuyên không có sự lựa chọn nào, cuộc đời bắt buộc anh phải là kẻ xấu. Một là ác, hai là chết.

Có giọt mưa xuân sà vào lòng sông xoay quanh chủ đề yêu và hận. Trong đó mình đánh giá cao mối hận hơn tình yêu, nhưng tình yêu trong cuốn truyện này cũng có khá nhiều tranh cãi nên mình muốn viết một chút về tuyến tình cảm của Ngân Xuyên – Cảnh Ninh.

Tình cảm của Ngân Xuyên dành cho Cảnh Ninh

Nhiều bạn bên Trung không cảm thấy thuyết phục trước tình cảm của Ngân Xuyên dành cho Cảnh Ninh.

Việc Ngân Xuyên yêu Cảnh Ninh tới mức điên rồ thực ra cũng dễ để lý giải. Nhưng quả thật với mình nó không đơn thuần là tình yêu, nó là một thứ tình cảm phức tạp hoà trộn cùng khát khao gia đình, và còn là cách thức để Ngân Xuyên sinh tồn, vùng vẫy trong cuộc đời bất hạnh của mình.

Sau khi mẹ chết, gần như toàn bộ những người xung quanh Ngân Xuyên chỉ nhăm nhăm thăm dò, đề phòng, hãm hại anh, hoặc mưu toan đòi hỏi thứ gì đó từ anh. Từ Phan Thịnh Đường đa nghi, bà Vân ích kỷ, Vân Tú Thành tham vọng, Hà Sĩ Văn bệnh hoạn… Hay thậm chí Cảnh Huyên, cậu em tưởng chừng trong sáng ngây ngô cũng bị mẹ và cậu nhồi cho những suy nghĩ phải vượt xa anh mình, phải đề phòng anh, hạ bệ anh. Để rồi khi biết âm mưu của Địch Huệ Lan – Vân Tú Thành – Hồng Toàn Căn ở những chương đầu cuốn Kinh Mộng, Cảnh Huyên chọn cách im lặng, mặc cho Vân Tú Thành đẩy Ngân Xuyên vào họng súng của Hồng Toàn Căn, nhưng oái ăm thay Ngân Xuyên đã khiến cậu trở thành con cừu thế mạng. Những hành động của Ngân Xuyên không phải trả đũa, mà là hất đổ mọi thứ cản đường mình. Nó lạnh lùng hơn là trả đũa, vì với Ngân Xuyên, cậu em mình giờ đã biến thành một vật cản vô tri, cậu không đáng để Ngân Xuyên trả thù nhưng anh ta sẵn sàng huỷ hoại cậu để loại cậu khỏi cuộc chơi.

Hay là cả Tạ Tề Phàm, dù hết lòng giúp đỡ bao bọc cho Ngân Xuyên, nhưng ông đã liên tục uốn nắn anh, biến anh thành cỗ máy trả thù không còn tình cảm và xót thương, không còn “lòng dạ đàn bà”. Chuyện này cũng không thể trách Tạ Tề Phàm, vì đây là sự lựa chọn duy nhất giúp Ngân Xuyên sống sót. Nếu không mạnh mẽ, nếu không trả thù, sớm muộn gì Ngân Xuyên cũng sẽ sụp đổ, phát điên, hay bị Phan Thịnh Đường cùng vô số những con sói khát máu khác xé xác. Nhưng chắc chắn Tạ Tề Phàm không thể trao cho Ngân Xuyên ấm áp và hy vọng về tương lai tươi sáng.

Cuộc đời Ngân Xuyên như một khoảng không trống rỗng, không có một ai để nương tựa, để yêu thương. Có một chi tiết rất hay là cô hầu gái A Mai xuất hiện thấp thoáng ở chương đầu, chỉ trong vòng một hai đoạn văn ngắn ngủi, người duy nhất thật sự thương xót, yêu thương và chăm lo cho Ngân Xuyên mà không đòi hỏi gì ở anh. Nhưng cuối cùng đã rời đi vì Ngân Xuyên tỏ ra dựa dẫm vào bà Vân, thân thiết với hai anh em cùng cha khác mẹ. A Mai xuất hiện lặng lẽ và ra đi cũng lặng lẽ. Để sống sót, Ngân Xuyên đã đánh mất tất cả.

“Lúc nào cũng vậy, tất cả mọi người đều đòi hỏi vô cớ từ anh, dù có là lúc nào, dù anh có bỏ ra bao nhiêu tình cảm cho họ, dù anh có đợi chờ họ bao lâu. Vào giờ khắc quan trọng nhất, tất cả bọn họ đều sẽ quên mất một chuyện, đó là Phan Cảnh Sâm không phải một con rối, không phải là gỗ đá, không phải kẻ ngu, không phải công cụ hay món đồ chơi, anh là con người, anh có máu có thịt, anh biết đau khổ, biết yếu mềm, anh biết sợ hãi, cũng biết co mình lại trước cô độc. Những kẻ ấy chỉ biết đòi hỏi. Vắt kiệt anh rồi, họ sẽ vứt anh đi.”

Và trong hoàn cảnh như vậy, Cảnh Ninh chẳng khác nào một tấm ván để Ngân Xuyên bấu víu, gắng gượng sống sót. Khác với những người xung quanh, Cảnh Ninh chỉ là một cô bé còn quá nhỏ, quá vô tư, dù có đỏng đảnh quậy phá Ngân Xuyên, hành động của cô bé cũng không vì một mục đích xấu xa hay vụ lợi nào. Ngân Xuyên đơn độc bơ vơ chỉ biết níu lấy Cảnh Ninh như một chỗ dựa để vượt qua những ngày tăm tối, là người để yêu thương, trút hết cảm xúc và tình yêu của mình. Thay vì nói Ngân Xuyên chăm lo cho Cảnh Ninh, không bằng bảo Cảnh Ninh cứu vớt Ngân Xuyên. Ngân Xuyên cần một thứ gì đó để bám vào, để thuyết phục mình còn điều gì đó đáng giá, thuyết phục bản thân rằng anh còn là “con người”, anh giống con người. Và đó là tình yêu dành cho Cảnh Ninh. Đó không phải một tình yêu thuần khiết, nó đầy tạp chất, đầy những cảm xúc phức tạp, đồng thời là bằng chứng cho sự bất hạnh, đơn độc của Ngân Xuyên. Đúng như Cảnh Ninh đã nói: “Linh hồn anh đã luôn bị giày vò trong địa ngục đau khổ, mà anh thì đã lầm tưởng rằng cô là điều duy nhất có thể khiến nỗi đau ấy vơi đi.”

Ngân Xuyên yêu Cảnh Ninh, nhưng lại đẩy cô vào số phận như bà Vinh Mẫn Huyên mẹ mình. (Có một chi tiết nữa là bề ngoài bà Vân khá giống Vinh Mẫn Huyên, nên khả năng cao Cảnh Ninh cũng có nét giống Mẫn Huyên)

Phan Thịnh Đường yêu tiền, giá như Ngân Xuyên cũng như vậy. Nếu anh yêu tiền, quyền lực hay trả thù, anh đã là kẻ thắng cuộc. Nhưng anh yêu Phan Cảnh Ninh hơn những thứ này, đến mức biến bàn cờ của cuộc trả thù thành bàn cờ của tình ái, một thứ tình yêu ẩn nhẫn, nung nấu lâu tới mức biến chất, méo mó, ám ảnh. Vậy nên cuối cùng anh đã thua. Vì mục đích của Ngân Xuyên không còn là trả thù nữa, mà là Cảnh Ninh, là một mái nhà mà anh chưa bao giờ có.

Cảnh Ninh yêu Ngân Xuyên không?

Cũng rất nhiều bạn khẳng định từ đầu chí cuối Cảnh Ninh không hề yêu Ngân Xuyên.

Đến cuối cùng, khi Cảnh Ninh nhận ra Ngân Xuyên là người đã huỷ hoại cuộc đời mình và quyết định tìm tới cái chết, mình có cảm giác rất xứng đáng. Như đã nói ở đoạn đầu, vì lỡ quá là nhiều chi tiết, vì quá thương cảm và yêu quý Ngân Xuyên, bỏ qua mọi linh cảm ngờ ngợ nên mình biết sự thật về Ngân Xuyên cùng lúc với Cảnh Ninh trong truyện. Dường như mình cũng hiểu phần nào nỗi tuyệt vọng và cảm giác bị phản bội của Cảnh Ninh. Rồi khi đọc/dịch lại truyện, nhớ lại một Ngân Xuyên đầy vết thương, đầy thù hận và cũng đầy tình yêu, mình lại mâu thuẫn giữa cảm giác vừa yêu vừa ghét bỏ thù hận, vừa đáng thương lại vừa đáng sợ. Có lẽ cảm giác của Cảnh Ninh cũng như vậy, cô tìm đến cái chết không đơn giản chỉ vì hận Ngân Xuyên, mà còn vì cô yêu Ngân Xuyên. Vì yêu và cũng vì hận nên cô không thể sống, không thể tiếp tục tồn tại trong cái thứ tình cảm méo mó này. Cảnh Ninh vừa thù hận căm thù kẻ đã huỷ hoại cuộc đời cô, vừa yêu và lưu luyến người đã bên cô suốt từ ngày còn thơ. Cô cần trả thù, cần một sự kết thúc, giải thoát và cần một khởi đầu cho Ngân Xuyên.

Mình tin Cảnh Ninh rất yêu Ngân Xuyên, thứ tình cảm cô dành cho Ngân Xuyên phức tạp, to lớn, và khả năng cao nó đã bắt đầu từ rất sớm, khi tất cả mọi người không ai hay biết. Trong những dòng hậu ký trên, Giang Thiên Tuyết Ý có đề cập qua về vấn đề có thể yêu hai người cùng lúc không, và cụ thể ở đây là tình cảm Cảnh Ninh dành cho Ngân Xuyên và Tử Chiêu. Mình không nghĩ nó có ý ám chỉ tình cảm của cô sau khi chia tay Tử Chiêu và Đức Anh, khi đang bắt đầu nghiêng về phía Ngân Xuyên, mà là từ rất lâu trước đây, lúc Cảnh Ninh còn đang ở bên Tử Chiêu hay thậm chí là trước đó. Đối mặt với Ngân Xuyên, Cảnh Ninh thường xuyên cảm thấy đau đớn, như có gì vụn vỡ, như có con nhện đang bò trong lòng mình, cô phản ứng mạnh mỗi khi nhắc đến Ngân Xuyên, vì Ngân Xuyên và tình yêu của anh là hiện thân tội lỗi, là thứ cô không thể chạm đến, không thể đáp trả, là thứ cô quyết tâm phủ nhận tới tận những trang gần cuối của bộ truyện. Tình yêu với Ngân Xuyên đã được gieo trong lòng Cảnh Ninh từ rất lâu, và nó cứ thế dần dần trỗi dậy mặc cho Cảnh Ninh đã cố gắng phủ nhận, chối từ. Cùng với đó, cô cũng hiểu rất rõ thứ tình cảm Ngân Xuyên dành cho mình không hoàn toàn là tình yêu mà là sự bấu víu, là thứ anh tự cho là ánh sáng cứu rỗi mình. Vậy nên Cảnh Ninh luôn như một con thú nhỏ chạy trốn trước Ngân Xuyên, để rồi khi gạt bỏ mặc cảm tội lỗi, thì thứ chờ đợi cô còn kinh khủng hơn thế…

Và cuối cùng thì mình Ngân Xuyên ở lại. Cuộc đời anh tiếp theo đây thế nào thì chẳng ai biết, nhưng giờ nó đã hoàn toàn thuộc về anh. Cả câu chuyện đời Ngân Xuyên phủ một màu u ám ảm đạm, hầu như không có một khoảnh khắc nào anh được thật sự hạnh phúc. Đó là một con đường đã được định trước, Ngân Xuyên gần như không có một sự lựa chọn nào, những lần anh xoay xở cố gắng tự quyết cũng chỉ hoá thành sai lầm huỷ hoại chính anh. Người thân quay lưng, bạn bè trở mặt, người ép anh ác quay sang chỉ trích anh ác độc, người thương anh cũng chẳng chịu nổi sự tàn nhẫn của anh. Sau cùng thì anh còn lại gì, hay đã trở lại thành một đứa bé tay trắng khi xưa.

Thương thay cho Ngân Xuyên, làm tất cả để sống, để tồn tại, để rồi ước muốn cuối cùng của anh chỉ là được chết.

Nhưng bầu trời u ám đang le lói một tia sáng bé nhỏ. Mong anh sẽ tìm được tia sáng cuối cùng của đời mình.

Một cuốn truyện khá khó đọc đã kết thúc, rất cảm ơn những bạn đã kiên nhẫn theo dõi và ủng hộ dù đây là một bộ truyện rất nặng nề và mệt mỏi. Mong các bạn đã có những khoảnh khắc đẹp, đầy cảm xúc với Có giọt mưa xuân sà vào lòng sông.

- -----oOo------
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom