Siêu Nhiên THÁNH TÔNG DI THẢO

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
93868194-256-k821770.jpg

Thánh Tông Di Thảo
Tác giả: Hoa_Tra
Thể loại: Siêu nhiên
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Thánh Tông di thảo là cái tên do người đời sau đặt cho một tác phẩm gồm 19 truyện được viết theo loại hình truyền kỳ, tạp ký và ngụ ngôn.

Trong Thánh Tông di thảo có truyện phản ảnh tâm lý căm ghét quân Minh của nhân dân, có truyện đả kích rất mạnh giới sư sãi vô dụng, có truyện đề cập đến tình yêu lứa đôi với những nhân vật nữ nết na, đức hạnh và chung thủy, v.v...

Nhìn chung, nhiều truyện rất hấp dẫn, bút pháp vững vàng, hình tượng sinh động, lời văn trau chuốt.​
 
Thánh Tông Di Thảo
Chương 1: Mai Châu yêu nữ truyện


Chương 1: Truyện yêu nữ Châu Mai

Cuối niên hiệu Nguyên Phong đời nhà Trần, ở Mai Châu có một nữ yêu tinh biến hiện nhiều hình quái gở.

Khi nó hiện ra người đầu to bằng bánh xe, hoặc hai đầu sáu mình, ai trông thấy cũng chết khiếp.

Khi nó biến thành gái đẹp, hoặc nhẹ như Phi Yến[1], hoặc béo tốt như Dương Phi[2], ai say mê tất phải thiệt mạng.

Người địa phương bị khổ sở vì nó, đã dùng nhiều phép trừ yểm, nhưng đều vô hiệu.

Những đêm trăng sáng, nó thường ở trên không ngâm rằng:Muốn mặc văn bào chơi đế đô,Lương nhân có biết cho?Ngư ông khắp đất một sông hồ,Mai thưa thớt, liễu gầy gò,Lục giáp, lục giáp, gặp chồng xưa.Tiếng hát trong như vàng ngọc, ai cũng nghe rõ, nhưng không hiểu ý tứ trong bài ra sao.Khi còn ở tiềm để[3], ta biết việc ấy, bèn viết thư sai người đến đền Phù Đổng mượn gươm của Thiên Vương để trừ nó.

Nữ yêu kinh sợ, ẩn trong cỏ rậm ven sông đầm, không dám tác quái như trước nữa.Đến năm Hồng Đức thứ sáu (1475), nó lại hiện thành một người con gái đẹp tuyệt trần, trạc mười sáu tuổi, mắt long lanh như nước mùa thu, môi đỏ như son vẽ, tóc mây mặt hoa, cười nói duyên dáng, làm cho người ta phải động lòng.

Nó vào một nhà hát, nói rằng:- Tôi mồ côi từ tấm bé, phải nương tựa chị gái.

Vì anh rể là kẻ khinh bạc, nên phải đem thân trốn đến đây.Chủ nhà hát hỏi:- Họ tên chị là gì?

Quê quán ở đâu?- Thưa, tôi họ Ngư, tên Nương, quê ở làng Văn Mộc[4].- Những chữ đồng âm với "Ngư" và "Nương" cũng nhiều, chị hãy nói rõ chữ "Ngư" và chữ "Nương" nào?- Thưa, chữ "Ngư" ở trong chữ "Ngư nhân", chữ "Nương" ở trong chữ "Nương tử".- Chị có biết hát không?- Thưa có.Chủ nhà bảo nó vừa hát vừa đánh phách.

Nó cất tiếng hát, giọng trong và hay tuyệt.

Chủ nhà rất mừng, cho nó mặc gấm vóc, đeo nữ trang vàng ngọc, muốn làm cho bọn trai trẻ say mê để kiếm được nhiều tiền.

Nhưng, hễ khách làng chơi vừa bước chân vào cửa thì gót sen đã quay ngoắt, chỉ để lại hương ngát sau lưng; phong lan vội trở vào, chỉ còn thấy phất phơ dải yếm.

Chủ nhà hát ngán quá, thường ngon ngọt dỗ dành, hoặc xẵng lời dọa dẫm, hết ân lại uy, chung quy vô bổ.

Muốn đuổi đi sợ mất công từ trước, muốn giữ lại, e không lợi về sau.

Cuối cùng, chủ nhà hát đành chịu để tạm ít lâu nữa, họa may nó có đổi nết cũ đi chăng.Thình lình một hôm, có một người áo quần mộc mạc, hình dung tiều tụy, đến nhà hát.

Khách tự xưng là Lương Nhân.

Các con hát trong nhà cự rằng:- Hình thù thế ấy, ăn mặc thế kia, đến đây để làm gì?Lại có kẻ nói đùa rằng:- Anh chàng đến đây, chừng muốn làm nữ thi[5] cho chị Ngư Nương đó.Lương Nhân nghiêm sắc mặt nói:- Người xưa có câu: "Ăn bánh bột cũng say"[6].

Phàm ca nhi vũ nữ đều chỉ mong kiếm được nhiều tiền, chớ có cần chi hình dung bên ngoài?Đoạn nghiễm nhiên ngồi lên chiếu cao, và lớn tiếng cho mọi người đều nghe:- Ta không phải là ai lạ.

Nhà ta ở giáp thứ sáu, bên tả được mạch tốt của sông Nhị, bên hữu được khí thiêng của Hồ Tây, tục gọi là Lục Giáp Ông, tức là người "một lúc hết trăm vạn, ngậm ngùi không nửa lời".

Nhân đi tìm lối cũ của Thái Công[7] , thăm dấu thơm của Tử Lăng[8], ngẫu nhiên vui chân đến đây.

Trong đám ca nhi, ả nào thanh sắc hơn người, hãy hát một khúc ta nghe, chuốc vài chén ta uống, ta sẽ thưởng cho nhiều tiền.Ngư Nương ở trong phòng nghe tiếng, vội trang sức chỉnh tề rồi bước ra, xịu mặt khóc:- Thiếp ẩn náu ở đây đã hơn một năm, người Kim Cốc[9] tới, khách chu môn[10] vào, tính đốt ngón tay không biết bao nhiêu mà kể.

Thiếp thường ở trong vách tối dòm ra, chỉ thấy rặt những phường ngoài mặt thì như ngọc vàng mà trong lòng thì như bông nát[11], không được ai vừa ý cả.Lang quân hỡi lang quân!Cách biệt ba mươi xuân,Mây Vu Sơn, mưa Vu Sơn,Hôm hôm, sớm sớm ai tri âm?Lang quân hỡi lang quân,Lâm Cùng[12] từ đi, ai người thân?Khí gươm Thiên Vương, hầu không lánh thân.Lang quân hỡi Lang quân!Khóc xong, cởi dây lưng lụa lấy ra một đôi ngọc bích và mười lạng vàng đưa cho chủ nhà hát mà rằng:- Chút quà nhỏ mọn, gọi là đền ơn Phiếu Mẫu.Rồi hai người cùng thở than, dắt tay nhau lên xe cùng đi.LỜI BÀN CỦA SƠN NAM THÚC: Ngẫm nghĩ hai bài ca: bài trước có nói "chồng xưa", bài sau có nói "cách biệt", ngờ rằng Ngư Nương và Lương Nhân nguyên cùng nhau có duyên Chu Trần, khi chết hồn vẫn không tan, lâu ngày thành yêu, đến bây giờ lại làm vợ chồng.

Còn cái tên gọi là Lục Giáp Ông, chỉ là nói thác ra mà thôi.Xét nay ở động Mai Châu có đền Ngư Nhân rất thiêng, thường làm hại dân, có lẽ là hai con ma Ngư Nương và Lương Nhân đó chăng?

Người đọc truyện nên lấy ý mà lĩnh hội.Ghi chú:[1] Phi Yến: Triệu Phi Yến là vợ Hán Thành Đế, người rất nhẹ, có thể đứng múa ở trên bàn tay.[2] Dương Phi: tức là Dương Quý Phi, vợ Đường Minh Hoàng, rất đẹp nhưng đẫy người.[3] Tiềm để: nhà riêng dành cho con vua ở khi chưa lên ngôi vua.[4] Văn Mộc: chữ Văn (文) và chữ Mộc (木) ghép lại thành chữ Mai (枚).[5] Đời cổ, khi tế lễ thì cử người ngồi trên bàn thờ gọi là "thần thi", ta gọi là "thần vị".

Người ta cho rằng những cử động của người này lúc bấy giờ đều là do thần sai khiến.

Chữ "nữ thi" ở đây ý nói là người để cho Ngư Nương sai khiến.[6] Loại thư toản yếu: Tô Ngũ Nô có vợ đẹp, người ta thường cho y uống say để trêu vợ y.

Một hôm, có nhiều người mời y uống rượu, y nói: "Cứ cho ta nhiều tiền, thì bánh bột ăn cũng say, không cần phải rượu".

Về sau, câu "Ăn bánh bột cũng say" dùng để xỉ vả người tham tiền.[7] Thái Công: tức là Lã Thượng hay Khương Tử Nha đời nhà Chu, khi chưa giúp Văn Vương thì đi câu ở trên sông Vị Thủy.[8] Tử Lăng: tức Nghiêm Quang, bạn của Quang Vũ đời Đông Hán.

Khi Hán Quang Vũ lên ngôi, mời Tử Lăng ra làm quan, nhưng ông từ chối, trở về đi câu ở bến sông Đồng Giang.[9] Kim Cốc: chỗ ở của Thạch Sùng (một nhà giàu địch quốc ở đời Tấn).

Ở đây ý nói những người nhà giàu.[10] Chu môn: cửa son, ý nói người sang.[11] Cổ văn, Truyện người bán cam: Lưu Cơ, tể tướng nhà Minh, mua được quả cam bên ngoài rất đẹp nhưng trong thì khô nát, gọi người bán cam trách rằng: "Cam nhà ngươi ngoài như vàng ngọc mà trong như bông nát".

Người bán cam trả lời rằng: "Trong đời còn vô số người ngoài như vàng ngọc, trong như bông nát, sao ông không nói, mà chỉ nói đến cam tôi?"[12] Lâm Cùng: chỗ ở của Trác Văn Quân, nhưng sau Trác Văn Quân bỏ nơi ấy, đi theo Tư Mã Tương Như
 
Thánh Tông Di Thảo
Chương 2: Thiềm Thừ miêu duệ ký


Chương 2: Truyện dòng dõi con thiềm thừ

Cóc và ếch, hai con đều là dòng dõi con thiềm thừ, ở phủ Thanh Hư, ăn thuốc ngọc thỏ, nhiễm hương quế tiên, không hiểu đã trải qua mấy vạn năm.Một đêm rằm kia, chúng nhìn xuống nhân gian, bỗng sinh lòng yêu non xanh nước biếc, mến người đông cảnh đẹp, bèn nảy ra ý muốn xuống ở cõi trần, nài xin với Hằng Nga.

Hằng Nga thuận cho.

Bấy giờ hai con cũng duỗi đùi, múa tay, nhảy xuống trần gian.Từ khi xuống trần, cóc vẫn giữ được bản tính trời sinh: mặc áo vải thô, ở nơi kín đáo.

Ghét đàn kiến đớp người ta, thì thè lưỡi đớp liền; thấy giống giun uống nước mạch, thì há miệng nuốt ngay.

Khi không làm những việc ấy, cóc ngậm miệng ngồi yên không thích chi cả.

Cóc phun nọc xanh để chống lại lũ gà vịt đến trêu ghẹo.

Nọc ấy nhiễm vào chỗ nào thì da chỗ ấy phồng lên, rồi nứt vỡ ra.

Vì vậy các loài vật không tốt đều không dám đến gần cóc.

Người ta bị mụn nhọt độc, lấy thịt cóc đắp lên thì khỏi ngay; trẻ em mắc chứng ngũ cam gầy yếu, cắt đùi cóc mà ăn sẽ béo tốt.

Vì thế không ai nỡ giết cóc.

Tính cóc hay quyến luyến chỗ ở; nếu ai lấy vôi bôi vào mình nó rồi đem tống đi xa, thì chỉ vài ba ngày sau, nó lại trở về nơi cũ.

Cóc lại chăm lo làm việc thiện: những khi hạn hán, nó nghiến răng cho cảm động trời đất, mưa gió đến ngay.

Cóc được lòng trời đến như thế.Ếch thì khác hẳn: hắn ta giữ mãi kiến thức của Bạch Đế[1]: sinh trong hang lỗ bùn lầy, mặc áo gấm hoa, dâm dục và bạo ngược vô chừng.

Rủ nhau đàn đúm khắp chốn sông hồ đồng nội.

Cá, tôm, sâu bọ, nhiều con bị ếch sát hại.

Ngay đến cua cậy có đôi gươm, khi đi thường giương thẳng lên, tự đắc không ai làm gì được mình.

Thế mà ếch chỉ vỗ tay vào mai cua để đánh lừa, cua ta mắc mẹo, thu hai càng lại, liền bị ếch đớp nuốt ngay.

Đấy, ếch ngông cuồng bạo ngược đến như thế.

Vào khoảng tháng năm, tháng sáu, trời hay mưa rào, ruộng đồng đầy nước, ếch cứ ồm ộp đua nhau mà kêu, lại bắt đôi với nhau, đuốc soi đến nơi vẫn không tỉnh.

Đấy, nó hoang dâm đến như thế.Người ta ghét ếch lắm, rủ nhau đi bắt, đem về chặt đầu, lột da, dùng các vị cay nấu thành món ngon.

Bởi vậy, ếch ở trong mưa, thì người ta dùng đuốc soi bắt; ếch ngồi tại bờ bãi, thì người ta dùng lưới mà vơ.

Con nào rúc sâu trong hang lỗ thì người ta dùng lưỡi câu sắt và ngành cây mà lôi ra; con nào lặn lặn bơi bơi ở ao bèo, vũng lau thì người ta dùng cần trúc, dây tơ, móc mồi mà nhử.

Thế là bao nhiêu cái tham lam, tàn bạo thường ngày nuôi cho ếch béo tốt, đều làm món ăn ngon cho người.Ôi!

Thế mới hiểu rõ câu nói của tiên triết: “Phàm những người ít lòng tham dục mà không bảo toàn được tấm thân thì xưa nay ít có; còn những kẻ nhiều lòng tham dục mà vẫn bảo toàn được tấm thân, xưa nay cũng hiếm.”

Thật đúng là vậy.LỜI BÀN CỦA SƠN NAM THÚC: Đây chỉ là bài ký dòng dõi con thiềm thừ.

Nhưng trong đó vạch rõ người ít dục vọng thì giữ được thân, kể nhiều dục vọng thì thân phải mất.

Phân tích từng chữ, thần diệu tinh vi, mà câu nào cũng vẫn là lời ghi truyện cóc và ếch.

Lớn lao thay lời nói của thánh vương: nói gần mà ý xa.Ghi chú:[1] Cuối đời Tây Hán, Công Tôn Thuật chiếm cứ một khu vực, tự xưng là Bạch Đế.

Vì Thuật kiến thức hẹp hòi, nên người đương thời ví thuật như ếch ngồi đáy giếng.

Ở đây nói: “giữ mãi kiến thức của Bạch Đế” là nói giữ cái kiến thức của con ếch dưới đáy giếng.
 
Thánh Tông Di Thảo
Chương 3: Lưỡng Phật đấu thuyết ký


Chương 3: Truyện hai Phật cãi nhau

Năm Quý Tỵ lụt to.

Những nơi nước đến, rắn rết bò lên ngọn cây, người ta phải nuôi gà chó trên cành.

Đền chùa phần nhiều bị nước cuốn đi hay là đổ nát.Ngày hai mươi bảy tháng Tám, nước rút, ta đi thuyền xem xét nơi nào bị thiệt hại thì chẩn cấp cho dân.

Buổi chiều, đến bến đò Văn Giang, gió mưa mờ mịt.

Ta cho buộc thuyền trước chùa rồi nằm ngủ.

Đến canh ba, bốn bên im lặng như tờ, ta bỗng nghe trong chùa có tiếng nói xì xào.

Lúc ấy, quan hầu đều ngủ say.

Ta lén đi lên bờ, tựa cửa chùa dòm trộm, thấy một tượng phật bằng đất, chân đạp lên đầu một con thú, tay cầm kiếm, râu ria tua tủa như những ngọn kích, mặt vuông đầy thước, lưng rộng ba ôm, sắc mặt giận dữ, chỉ thẳng vào mặt một tượng phật gỗ ngồi ở bên trên, mắng rằng:- Khoảng tháng sáu, tháng bảy, Hà Bá gây ra tai vạ, chính thân ngươi cũng không thể chống nổi nước lũ, phải trôi dòng dạt bãi, lúc nổi lúc chìm, mũ hoa để lem nhem, hài vẽ để bùn lấm.

Khi ấy, các mụ nhà quê trông thấy ngươi, ngờ là cây chuối nổi, thợ mộc trông thấy ngươi nghi là khúc gỗ trôi.

Đã bao lâu, ngươi vẫn là chỗ để cho bọn áo nâu tay chùng nấp bóng, thế mà bây giờ ngươi không sao kiếm nổi một bữa cúng chay[1].

Cũng may mà thân nhà ngươi hãy còn, được nhà sư đem về sửa lại áo mũ, tô lại vàng son.

Ta nghĩ: trước ngươi đã gặp cảnh ngộ nhường ấy, nay còn mặt mũi nào dám ở trên ta mà hưởng lộc ba phẩm nữa?Phật gỗ cũng phát khùng đứng lên nói:- Ngươi không nghe trong kinh có câu: "Thế gian vạn sự bất như thường, hựu bất kinh nhân, hựu cửu trường[2] hay sao?

Ôi!

Lụt và hạn là bởi thiên tai gây ra.

Lụt thì ta cùng trôi theo nước, khi nước rút ta lại trở về ngôi cũ, dẫu bị xiêu dạt giang hồ, nhưng có hại gì đến "chân thân" của ta?

Vậy chẳng phải là "làm chủ muôn hiện tượng, không theo luật bốn mùa"[3] hay sao?

Khi ở trên dòng nước lũ, ta trông về cảnh chùa nhà mà thương thay cho nhà ngươi gặp bước truân chuyên.

Nước đến chân thì chân ngươi nát rữa, nước đến bụng thì bụng ngươi vỡ lở, nước đến lưng thì lưng và vai ngươi đổ sụp.

Trán rộng, mi dài, thôi còn đâu nữa!

Hỡi ôi, thương thay!

Thân hình không giữ nổi, còn cười người chi?Hai Phật còn đương nói, chợt Phật Thích Ca tay xách bầu rượu, dáng say lảo đảo, bước ra mà rằng:- Chao ôi!

Hai ngươi đều có lỗi cả.

Trong khi nước lớn mênh mông các ngươi đã không biết vận ngũ thông, dùng lục trí[4] thét lui muôn dòng nước về biển Đông, mà chỉ biết giữ cái hình hài bằng gỗ đất, ngồi hưởng rượu thịt của dân chúng, như thế đã không biết xấu hổ, lại còn đấu khẩu với nhau, không sợ "vách có tai" ư?Hai Phật bị Phật Thích Ca bẻ lý, toan tìm lời chống chế, bỗng nghe bên chùa có tiếng người, ai nấy im thin thít.Ta đẩy cửa trông vào, chỉ thấy đèn nến sáng choang, hai Phật cùng Phật Thích Ca đều trơ trơ ba khối đất và gỗ thôi.LỜI BÀN CỦA SƠN NAM THÚC: Hai phật cãi nhau là việc lạ, Phật Thích Ca bẻ hai Phật, lời nói lại càng lạ.

Kể thì hai phật đều là vô công, mà còn đem việc ngồi trên ngồi dưới, lộc hậu, lộc bạc để tranh nhau, nên Phật Thích Ca chê là phải.

Nhưng tay xách bầu rượu, dáng say lảo đảo, thì có công gì với dân?

Chẳng qua cũng như hai Phật kia thôi!

Thánh thiên tử ruồng những lời nói tà, chống những việc làm lệch, chép nên bài văn lạ này, lời lẽ sâu sắc.

Chẳng những kẻ ngồi không ăn lộc đọc đến phải toát mồ hôi trán, mà cả những người xuất gia đọc đến, cũng tự biết trở lại đường ngay.

Thực là "đầu đề nho nhỏ, mà văn chương lớn lao".Ghi chú:[1] Nguyên văn chữ Hán viết "vu bồ".

Nhưng chữ "vu bồ" chỉ có nghĩa là đánh bạc.

Có lẽ ở đây là chữ "y bồ" nghĩa là bữa cơm chay thì đúng hơn.

Chữ "y bồ" từng được dùng ở bài ký Tạ An đi chơi núi Kê Túc, trong bài ký ấy có nói việc nhà sư dọn cơm chay cho ăn, gọi là "y bồ soạn", bữa cơm chay của người mộ đạo.[2] Đây là hai câu kệ ở sách Phật, có hai cách hiểu:Ý kiến thứ nhất: "Muôn việc ở trên đời, không chi bằng bình thường, đã không làm cho người ta kinh sợ, lại được lâu dài".

Cắt nghĩa như thế, câu trên và câu dưới xuôi nghĩa với nhau một chiều.

Ý kiến thứ hai: "Mọi việc ở trên đời thay đổi luôn luôn (bất như thường), nhưng lại (hựu) không làm cho ai kinh sợ và giữ nguyên được bản thể lâu dài (bất kinh nhân-cửu trường)".

Phật gỗ đem câu này ra để chứng tỏ thân mình đã qua một phen trôi dạt, rồi lại trở về chốn cũ y nguyên như trước, như trong bài đã nói: "Lụt, thì ta cùng trôi theo với nước (bất như thường), khi nước rút, ta lại trở về ngôi cũ (bất kinh nhân-cửu trường).

Dẫu bị xiêu dạt giang hồ (bất như thường), nhưng có hại gì đến chân thân của ta (bất kinh nhân-cửu trường)".[3] Đây cũng là một câu kệ.

Nguyên văn chữ Hán là: "Hựu vật tiên thiên địa, vô hình bản tịch liêu.

Năng vi vạn tượng chủ, bất trục tứ thời điêu".

Dịch nghĩa: Có vật tồn tại từ trước khi có trời đất, không có hình mà vốn lại lặng lẽ, làm chủ muôn hiện tượng, không điêu tàn theo bốn mùa.[4] Lục trí: Thần cảnh trí, Thiên nhãn trí, Thiên tâm trí, Túc trụ tùy niệm trí, Lậu tận trí.

Ngũ thông: Đạo thông, Thần thông, Y thông, Báo thông, Yêu thông.

Nói chung là những pháp thuật thần thông của nhà Phật.
 
Thánh Tông Di Thảo
Chương 4: Phú Cái Truyện


Chương 4: Chuyện người hành khất giàu Ở Tam Thanh có một người đàn bà goá trạc ba mươi tuổi, con cái không có, bố mẹ chồng mất cả, anh em cũng ít, không có một tấc đất cắm dùi.

Ăn thì lần bữa sáng mất bữa tối, một mình vò vọ, gửi thân dưới rào giậu nhà người ta, làm nghề giặt thuê để nuôi thân.

Rồi thì, đã nghèo lại hay đau ốm, nên hết kế sinh nhai.

Người làng ai cũng đuổi và không cho vay mượn.

Mụ phải đến một mảnh vườn hoang của làng, nhặt mo run, vơ rạ nát, bẻ cành tre, uốn cây nhỏ để làm một túp lều dung thân.

Từ đó, áo vá trăm mảnh, nón mê đội đầu, gậy tre chống gió, chiếu rách che mưa, theo lốt chân cũ của Tấn công tử (1) khi đi qua cánh đồng, học thói thanh cao của Ngũ minh phụ (2) ngồi thổi ống tiêu.

Khi thì chạy vạy ngược xuôi, ngấp nghé đám tế xuân trong xóm; khi thì loanh quanh đây đó, dòm ngó đám cúng mộ ngoài đồng.

Lên núi tìm lương, lần cửa xin nước, đến đâu mụ cũng khéo lạy, khéo quỳ, khéo ton hót gia chủ, nên bao giờ cũng kiếm được nhiều hơn các bạn hành khất khác.

Cứ như thế hơn bốn mươi năm, gió lạnh mưa ước, sớm đi tối về, người làm không ai thèm nói chuyện cùng.

Bỗng dưng, bẵng đi trong vòng mười ngày, trong lều vắng hẳn khói lửa, sớm tối không ai thấy mụ đi lại.

Trước còn nghe có tiếng rên rỉ, sau thì thấy im lặng hẳn.

Người làng biết là mụ đã chết, mới rủ nhau đến để mai táng.

Kẻ cho manh chiếu rách, người cho chiếc chão tre, rồi khiêng xác đem chôn ở bãi tha ma.

Chôn xong, mọi người bảo nhau:- Mụ già đã về âm phủ, lều mụ ta phải đốt đi.

Nếu không thì rắn rết có chỗ nương thân, sẽ gây hại cho người.

Mọi người lấy làm phải, xúm lại châm lửa đốt lều.

Bao nhiêu mo nang, rạ nát, lạt nhỏ, tre cành, thần Chúc Dung (3) đi qua một lượt là hết sạch không còn gì.

Lều đốt rồi, những đóng lô nhô ở nền đất đều hiện rõ mồn một.

Mọi người có ý nghi ngờ, mới quét tro, giẫy cỏ, cuốc ra xem thì thấy những chuỗi sâu đều đặn, xanh xanh mà chồng chất lên nhau toàn là tiền kẽm, đếm được hơn hai trăm chuỗi; những hố đất vùi sâu, đo đỏ mà mục nát, toàn là thóc nếp, đem đong được tám chục bát.

Ngoài ra, gạo tẻ, thóc tẻ, món nào cũng nhiều như thế.

Bát, đĩa sứ, chén uống chè, cốc uống rượu, tất cả đựng đầy hai thúng.

Ai cũng cho là lạ quá, ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu mụ hành khất ấy lấy ở đâu ra.

Nhưng các của cải kể trên đã thành vô chủ, thì dù là của ăn mày cũng mặc, họ vẫn chia nhau lấy tất.

LỜI BÀN CỦA SƠN NAM THÚCChuyện người hành khất giàu này thật là lạ: người này do nghề hành khất mà giàu? hay đã giàu mà còn đi hành khất?

Nhưng, có ai đã giàu mà còn đi hành khất, hoặc cứ phải hành khất rồi mới giàu?

Thật ra không sao đoán được.

Duy có điều lạ là: mụ ăn mày ở Tam thanh đầu đầy tóc tuyết, mặt điểm mày sương, sống đã ngoài bảy mươi tuổi, lúc sống không người giúp đỡ, khi chết chẳng có cháu con, đã thích được nhiều của như thế, há không đủ ăn cho đến già sao? thế mà cứ phải khéo lạy, khéo quỳ, khéo nịnh các gia chủ, sống làm nghề ăn mày, chết vẫn là người ăn mày, đem cả cái của mà mình suốt đời phải là chắp tay cúi đầu, ăn trộm, lấy cắp, phó cho cái lũ người không mảy may giúp đỡ cho mình khi mình còn sống.

Chắc là mụ làm nhiều điều bất thiện nên bị ma quỷ mê muội.

Còn như lũ người làng, chẳng giúp đỡ gì khi mụ còn sống, lại rủ nhau đến chia của khi mụ chết, thật là vô sỉ trong đám vô sỉ, ăn mày trong đám ăn mày!

Chú thích 1.Tấn công tử: tên là Trùng Nhĩ, sau là Tấn Văn Công, khi lánh nạn ra nước ngoài, có lúc phải ăn xin ở ngoài đồng 2.

Ngũ minh phụ: tức là Ngũ Tử Tư người nước Sở, khi đi tìm cách báo thù cho cha và anh, đến Lăng Thủy, phải thổi sáo để xin cái ăn.

3.

Tên thần lửa, theo tục mê tín đời xưa
 
Thánh Tông Di Thảo
Chương 5: Nhị thần nữ truyện


chương 5: Chuyện hai gái thần

Hồi ấy là năm thứ tư niên hiệu Thuận Thiên.

Sau khi đại định, khách bộ hành sung sướng được đi trên đường sá của ta, người buôn bán vui mừng được bày hàng hóa ở chợ của ta.

Thượng kinh là nơi đô hội.

Bỗng một hôm có hai người đàn bà đến ngồi trong một quán chợ để xem bói và đoán số.

Hai người này sáng ở chợ Thanh Xuân, chiều ở chợ Dừa, khi ra Kinh Ấp, lúc về Tràng An, không nhất định ở nơi nào, hình như có ý ngược xuôi để dò xét sự gì.

Nhìn kỹ hình dung thì thấy một người ước ngoài bốn mươi, tóc xanh đã điểm sương trắng, mặt ngọc đã nhạt màu hồng, nhưng cái vẻ phương phi thùy mị còn đủ làm cho thiên hạ xao lòng.

Còn cô gái trẻ thì đương tuổi cập kê, mặt hoa da tuyết.

Thực là:"Triệu Yến cùng xe hờn kém sắc

Thôi Oanh đối diện thẹn thua xinh"Tuy ăn mặc mộc mạc, quần nâu áo vải, mà gương mặt sáng sủa ưa nhìn.

Nhiều chàng trai ham sắc sinh lòng mơ tưởng.

Nhưng hễ kẻ nào manh tâm trêu ghẹo thì tự nhiên rối trí nhức đầu.

Bởi vậy, không ai dám đến gần cả.

Ngày nọ đến quán chợ từ sáng sớm, trải hai chiếc chiếu cói, trên đặt nữa bộ sách số và một con rùa bề ngang độ một tấc, trên treo mảnh vải đỏ, có hai câu viết chữ mực: "Bói toán không thần - Ba đồng một quẻ".

Bày xong, hai người cùng ngồi xuống chiếu, cất tiếng hát.

Người nhiều Tuổi hát rằng:"Ngựa không vảy!

Ngựa không vảy(1),

Con báo thù cha, ai rằng không phải?

Thấm thoắt giáp hoa gần nửa đấy (2)!

Mẹ vậy, mẹ vậy!

Gió cuốn không thể nhờ,

Cánh bay không thể cậy.

Mối giận Kim Lân(3) dốc sông ngòi,

Đêm ngày tóc bạc lo ngay ngáy,

Ngựa không vảy!

Ngựa không vảy!"

Cô gái trẻ hát:"Đông Ngu!

Đông Ngu!

Đã trải ba thu

Ba thu chữ "Độc" nặng căm thù(4).

Núi có cây dâu, thiếp có hiền phu.

Thế nào ru?

Thế nào ru?

Khua ngọc chơi đế đô,

Chưa thể chừa cơm lên thiên cù(5),

Lên thiên cù, cùng hoạn ngu.

Kìa kìa đỉnh núi tượng nàng Tô."

Khúc hát chuyển nghìn vạn đoạn, tiếng hát rất thảm buồn.

Người di chợ đứng nghe xung quanh, có kẻ phải sa nước mắt.

Họ hát xong mới tiếp khách.

Cách đoán số thì chỉ khẽ bấm đốt ngón tay mà đoán được giàu, nghèo, thọ, yểu, việc sinh tiền, việc tử hậu...

Rất thần tình; cách xem bói thì chỉ hơ qua mai rùa mà tính rõ năm, tháng, ngày, giờ, chuyện còn mất, chuyện tử sinh...

Đều đúng cả.

Đoán xong, hé môi son, bảo nhỏ khách rằng:- Trả cho tôi ba đồng tiền và đặt cạnh chiếu cho tôi.

Khi người xem đã đi khuất, họ trông thấy người nghèo đói nào đi qua là gọi lại chỉ cho tiền, không từng thò tay cầm của người đưa hay tự tay cầm đưa cho người khác.

Cả chợ chưa ai trông thấy họ ăn uống ra sao.

Hể mặt trời lặn là họ ra về .

Có kẻ hiếu kỳ dò theo, có ý muốn xem họ trú ngụ nơi đâu, nhưng chỉ được vài bước là chóng mặt, ngã lăn, không theo được nữa.

Cứ như thế đến hơn ba tháng thốt nhiên một hôm kia, người nhiều tuổi tuy cùng đi với Cô gái trẻ nhưng không hát, cũng không xem bói, đoán số, mà nét mặt buồn rười rượi.

Cô gái trẻ vẫn hát như mọi hôm.

Người không biết thì cho là điên.

Hồi ấy có một nhà nho già, quê ở phường Đại Lợi, vì nhà nghèo, ngồi dạy học ở đất Đông Anh, tiếp được tin cha ốm nặng, cho học trò nghỉ rồi một mình đi bộ về nhà.

Vì lòng hiếu thúc giục, nhà nho đi không kể đêm tối.

Đầu Canh năm vừa đến bến đò Bồ Đề.

Trong ánh trăng tàn, cụ nhác trông thấy hai người ở trên ngọn cây bồ đề đi xuống, bước đi ung dung , không ra dáng leo cây, nhà nho vốn có chính khí, nghỉ là ma, vội chạy lại túm áo hai người ấy, định giết.

Té ra chính là hai cô thầy bói thường ngày ở chợ.

Nhà nho già quát : - Ngày ở trong chợ , đêm ở ngọn cây, chúng bay há không phải là yêu tinh ư?Hai người đàn bà ấp úng nói không ra lời, Nhà nho lấy làm lạ, ôn tồn nói rằng: - Ta không phải là bọn thiếu niên ở Ngũ Lăng (6), mà vốn là một nhà nho tài cao học rộng, buồn vì thời loạn không ra làm quan.

Ngày nay thiên tử đã lên ngôi, nhiều người vui vẻ ra phò vua giúp nước, thì ta lại già rồi.

Người xưa có câu: “ Bóng chiều đẹp vô hạn, chỉ tiếc sắp hoàng hôn!”

Vì vậy, ta cố gây dựng cho lũ hậu tiến, mong để lại chút ơn nhỏ về đời sau.

Hiện nay , trong số hơn hai trăm công thần thì một nửa là học trò của ta.

Xét tình hai người, quyết không phải là kẻ bán nghề kiếm ăn, mà là người đang muốn tìm kiếm sự gì.

Sự thể ra sao, nên nói cho thật.

Hai người nghe lão nho nói hai tiếng “công thần” thì động đến bản tướng của mình.

Người có tuổi che mặt khóc và nói: - Tôi chính là cháu dâu Long vương.

Năm xưa vì chồng tôi thích hương sen trắng, bị chàng Kim Lân rủ rê cùng bơi đến hộ Dâm Đàm (7) chơi , không ngờ gặp phải ngày Vương Thông xem đánh cá ở đó, bị nó bắt được, đem giết đi.

Con trai tôi xin Với Long vương đi bảo thù cha, bấy giờ nó cưỡi ngựa không vảy, rẽ nước lên trần.

Khi con tôi rời thủy cung ra đi,tôi bảo nó rằng: "Con báo thù cha là con có hiếu, nhưng mẹ đã già, khuya sớm thiếu người chăm nom, con phải hẹn cho đúng ngày về".

Con tôi khóc mà thưa rằng "Con đi chuyến này, nếu báo được thù cha thì đúng nữa hoa giáp sẽ về phụng dưỡng mẹ.

Nếu thù mà kia không trả được, thì con sẽ không có ngày về!".

Từ bấy đến nay, đã qua ba mươi sáu năm, tựa cửa chờ con, không nơi nương tựa, tôi đành giả tiếng đi bói để tìm con.

Hôm mới đây, tôi đã được tin: Sau khi lên cõi trần, con tôi thờ Vua Lê, rất được tin yêu.

Nó đã từng làm thích khách, lén được vào dinh Vương Thông, nhưng ba lần đâm đều không trúng cả.

Khi vua Lê giảng hòa với Vương Thông, cho Thông được toàn thân về nước, con tôi nghĩ mệnh vua là trọng, đã không dám trái mệnh vua thì thù cha không bao giờ báo được.

Nó bèn trông về thủy cung, bái vọng tôi, rồi treo cổ lên cây tự sát, cách đây đã bốn năm rồi.

Việc đã chẳng ra làm sao, tôi muốn về ngay thủy phủ.

Nhưng nghĩ đến cái nghĩa cùng đi với nhau, sao nỡ vội dứt, tôi nán ở lại mươi ngày nữa với sơn Cô.

Nhà nho già nghe, động lòng thương xót.

Cụ hỏi đến người thiếu nữ.

Thiếu nữ kéo vạt áo lau nước mắt, hé bộ răng nhỏ, cúi đầu thưa rằng : - Thiếp không phải là người quái dị mà là vợ Sơn thần Đông Ngu .

Khi Hoàng Phúc làm quan trấn thủ, tính hay đào xẻ núi non, đã làm đoạn thương long mạch núi Mẫu Sơn.

Vì thế, mạch Mẫu Sơn khô cạn.

Phu quân thiếp giận lắm, thường sai người rình đợi xe Hoàng Phúc đi qua thì quăng đá cho gãy nát bánh xe để báo thù.

Phúc đoán biết việc ấy, không dám qua núi nữa.

Phu quân thiếp bèn cưỡi hổ thần lên hầu tinh quan tòa Nam Tào, hỏi việc dưới nhân gian để mưu toan trả thù cho mẹ.

Tinh quan đem sách Thái Ất ra tính và nói: “Rồi đây Hoàng Phúc về triều, Vương Thông ra trấn, nhưng sau hơn mười năm nữa sẽ có người họ Lê tên Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Phúc sẽ cầm quân sang cứu viện, đến ải Lê Quan thì bị Lê Lợi bắt sống.

Từ đấy thiên hạ đại định”.

Phu quân thiếp mừng lắm, liền thác sinh vào nhà họ Bùi.

Lúc chia tay, thiếp khóc xin theo “Vợ chồng hai người như một, lang quân liều chết vì mẫu thân, thiếp đem kim chỉ xin tòng quân”.

Phu quân thừa ngoảnh lại bảo: “Người xưa nói: Đàn bà ở trong quân, binh khí sợ không mạnh.

Giang sơn này, thần dân này, khanh khanh hãy ở lại một mình làm chủ.

Đợi ba năm sau khi đại định, lại sẽ cùng nhau chăn gối như xưa.

Nay đi theo làm gì?"

Nói xong, đi ngay.

Thiếp hằng ở trong thạch động, bấm đốt tay, đến nay đã hai mươi bốn năm.

Lòng những e chồng mắc mồi phú quý ở trần gian mà quên lời ước cũ, thiếp mới mượn cớ bói toán, ca hát, tìm khắp nơi nơi, may ra phu quân thiếp nghe thấy tiếng ca mà động lòng chăng.

Thế mà đã ba bốn tháng nay vẫn không dò được tung tích.

Dám hỏi lão nho có biết gì về việc này chăng?

Nhà nho già nói: - Công thần nhiều lắm, lại đều được ban quốc tính.

Vì thế, khó thể theo họ tên cũ mà dò tìm.

Sơn cô hãy nói hình dạng con người để tôi nhận kỹ xem sao?

Thiếu nữ nói: - Phu quân thiếp thân cao, đầu nhọn (8), vành tai có hai chấm đỏ, sắc rất sáng tươi, tính tình ít nói, thường khi cả ngày ngồi yên, không cất tiếng (9).

Lòng bàn tay trái ngấn chữ “nhân” (人), lòng bàn tay phải có ngấn chữ "cửu" (九) Hai chữ ấy chắp lại thành chữ “cừu” (仇).

Do khi thác sinh, sợ có quên thù chăng nên phải ghi hai chữ ấy vào lòng tay để nhớ.

Dám hỏi lão nho có biết người nào như thế chăng?

Nhà nho già ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: - Cô từ xa đến thực phí công.

Người ấy chính là quan Tham tán quân vụ Bùi Khả Gia ở phủ Tiền quân thống chế và cũng là môn sinh của tôi đấy.

Nghe nói khi Hoàng Phúc xuống ngựa dập đầu xin hàng, anh ta cười lớn mấy tiếng rồi tự tay trói Phúc giải về dâng công.

Sau khi đại định hai năm, anh ta tâu bày vì tòng chính nhọc mệt, xin về dưỡng bệnh ở núi Tam Đảo.

Hoàng thượng ưu đãi, ban cho quốc tính, gọi là Lê Khả Gia, tước Minh Tự.

Được một năm, giữa giờ Dậu, ngày mười bảy tháng trước, anh ta đã bị bệnh mất, còn tìm làm gì?

Thiếu nữ đang buồn hóa tươi, mỉm cười nói rằng: Vợ đi, chồng lại về

Tìm nhau như Sâm Thương (10) Biết lòng ông thần núi,

Vì thiếp phải vội vàng.

Đoạn, sửa chữa khăn áo, chắp tay với chào nhà nho già.

Chớp mắt, hai người thần nữ đã biến mất.LỜI BÀN CỦA SƠN NAM THÚC

Núi xanh nước rộng, Sự tích mơ màng; bể bút làn văn, tả nên sự thật.

Đọc bài này mới biết lòng trung hiếu, tình ân ái, dương gian, âm phủ cũng giống nhau.

Cái người gọi là nhà nho giá, có lẽ tiền thân là Văn Trung Tử (11) chăng?

Chú thích:1.

Một loài cá không vày nào đó .

2.

Một hoa giáp có sáu mươi năm 3.

Kim Lân: con cá chép.

Mối giận Kim Lân là ý nói chồng nàng vì Kim Lân rủ đi chơi đến nỗi bị Vương Thông giết ( xem đoan dưới ).

4.

Chữ "độc" (毒) do chữ "sinh" (生) và chữ "mẫu" (母) ghép lại.

Câu này ý nói báo thù cho mẹ.

5.

Hai câu này lấy ở bài ca của Lý Bật đời Đường.

Khua ngọc chơi đế đô là ý nói phú quý, vì ngày xưa các nhà phú quý lấy Ngọc (kha) làm nhạc ngựa.

Chừa cơm lên thiên cù là ý nói thành tiên.

6.

Ngũ Lăng, một nơi cổ tích đời Hán.

Có tiếng là phồn hoa, khách hào hoa các nơi đến tụ họp, chơi bời ở đây rất nhiều.

7.

Tức Và hồ Tây8, 9.

Ám chỉ vào núi 10.

Sâm Thương tức là sao Hôm, sao Mai, ý nói không bao giờ gặp nhau.

11.

Văn Trung Tử. một đại nho đời Tùy, dạy học trò nhiều người thành đạt.
 
Thánh Tông Di Thảo
Chương 6: Sơn Quân phả


Chương 6: Phả ký Sơn Quân

Sơn Quân!

Sơn Quân!

Mình sắc trắng là giống chính tông.

Đứng bày hàng với các vì tinh tú trên trời, trấn ngự ở phương Tây.

Cùng với các sao Thanh Long Chu Tước và Huyền Vũ trấn thủ bốn phương trời.

Đời Xuân Thu xuống cho Tử Văn bú, sau Tử Văn làm tướng nước Sở.

Vì vậy người Sở kiêng tên "hổ" mà gọi là "Ô Đồ"(1).

Cuối niên hiệu Trinh Quán đời Đường, thác sinh làm Tiết Nhân Quý (2), giúp vua Thái Tông bình định Cao Ly.

Tiết Cương, Tiết Cường đều là dòng dõi.

Sơn Quân sắc đỏ phát tích ở triều Ngu, dự hàng cửu quan (3).

Đời sau có Chu Tam, tức là cháu xa.

Lại như: giúp Chu Tuyên Vương bình định Hoài Nam (4), làm ngũ tướng quân khôi phục nhà Hán (5).

Giữ đất Ba Thục để trông vào Trung Nguyên (6), giúp Tần Mục Công làm bá chủ chư hầu (7).

Tống Thái Tông giống được bước đi mà làm chủ thiên hạ (8); Hán Ban Siêu giống được cái đầu mà được phong làm hầu muôn dặm (9).

Đó là loài hổ thiện.

Còn như: Sùng Hầu thì gièm pha Văn Vương (10).

Dương Hóa thì trộm rùa lớn (11), nhãng để phòng thì phá củi ra (12), làm mộng gở để ăn cũng bọn (13); hổ đẻ (14), hổ nằm (15) đều có tiếng hổ dữ.

Đó là loài hổ ác.

Phân loại có nhiều giống khác nhau, nhưng nhân nghĩa, dũng mãnh thì cùng chung một tính.

Sinh con thì chăm nom nuôi nấng, há không phải là nhân?

Chính sự tốt thì sang sông lánh sang phía bắc (16), há không phải là nghĩa?

Ở đâu thì đến rau lê, rau hoắc cũng không ai dám hái (17), hả không phải là dũng mãnh ư?

Vì vậy, thiên hạ đều sợ.

Trên bình phong đắp tượng hổ, nhà đạo sĩ vẽ hình hổ, tướng xưng là hổ tướng, quân gọi là hổ bôn.

Bài hổ, ấn hổ là lấy nghĩa về võ; tướng hổ, cửa hổ là lấy nghĩa về uy; sức như hổ là lấy nghĩa về mạnh; gầm như hổ là lấy nghĩa về tiếng.

Da hổ có vằn rực rỡ, thiên hạ đều rất ưa thích, ngựa nước Lỗ đội vào mà đánh lui quân thù (18), Trương Hoành Cừ ngồi lên mà giảng dạy Kinh Dịch (19); vua nhà Tần lấy để khâu túi đựng cung; vua nhà Chu dùng để phong cho Hàn Hầu.

Thế là vừa được người sợ, lại vừa được người yêu.

Bởi vậy, Thượng đế phong làm Sơn Quân và gọi là đại nhân (20).

Ngày thụ phong, hổ phủ phục kêu rằng: - Có vua, há lẽ không có bầy tôi?Thượng đế ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi gọi thần gió (21) đến truyền rằng: - Sắc cho người làm bẫy tôi Sơn Quân.

Nhưng, tính nết của y, khi mừng thì là em con rồng, mà giận thì là anh Con sói (22).

Bởi vậy, khi y mừng thì ngươi nên lượn vòng quanh mà dỗ dành ve vuốt, khi y giận thì người chớ làm sừng làm cánh (23) cho y, chớ có ở chung với y.

Phải đợi khi y cất tiếng gầm hãy đến.Sơn Quân nghe mệnh lệnh lấy làm đắc ý, cúi đầu lạy tạ rồi gầm thét bước ra, gặp người thì cắn hại.

Bởi vậy người ta phải ở sàn cao và đóng kín cửa để lánh hại, đặt cạm, giăng lưới để trừ nó đi.

Hổ rời khỏi núi là mất uy thế ngay: bị Biện Trang đâm chết (24), bị Phùng Phụ bắt sống (25), Cung Thúc Đoạn tay không mà bắt được dâng vua (26), Tống Công Minh cưỡi lưng không nhảy xuống (27), Địch Lương Công giẫm lên đuôi mà không kinh (28), bọn Lý Ưng tát vào mõm mà chẳng sợ (29).

Cho nên Kinh Dịch có câu : “Không cắn người, tốt (30)”.

LỜI BÀN CỦA SƠN NAM THÚC Truyện này đoạn đầu phân tích từng chi từng phái, chính hợp thể lệ chép phả ký.Đoạn giữa nói những điều đáng sợ, đáng yêu, lại có lời bàn tán, khen ngợi.

Một đoạn hội thần gió, không là thành có, thật là văn hay kiệt xuất.

Đoạn cuối, lời lẽ thực là nghiêm nghị, Sơn Quân có linh chắc cũng phải ẩn náu, không dám càn rỡ, bao ngược nữa.

CHÚ THÍCH1.

Tử Văn, đời Xuân Thu, làm tướng Sở.

Lúc mới đẻ bị bố đem vứt đi, nhờ có hổ cho bú, sau lại mang về nuôi thành người.

Nguyên họ là Đấu, Tiếng Sở hồi đó gọi hổ là ô đồ, gọi việc cho bú là cấu, nên đặt tên Tử Văn là Đấu Cấu Ô Đồ, không phải là kiêng tên.

Trong bài nói kiêng tên là phiên ý để cho đẹp câu chuyện.

2.

Tiết Nhân Quý đời Đường có nhiều chiến công, được Đường Thái Tông gọi là Hổ tướng.

3.

Một người trong hàng cửu quan của Ngu Thuấn là ông Ích .

Khi được cử làm quan coi núi chằm, ông Ích nhường cho Chu Hổ, Hùng, Bi, nhưng vua Thuấn không nghe (chu hổ là hổ sắc đỏ) 4.

Chu Tuyên Vương có người bầy tôi là Thiệu Hổ, có công bình định Hoài Nam.

5.

Đời Tam Quốc, Thục Hán có chức Ngũ hổ tướng quân, Đây gọi là Ngũ tướng quân, giấu chữ “hổ” đi, nhưng có ý coi như hổ làm những chức ấy.

6.

Đời Tam Quốc, Lưu Bị giữ được Ba Thục.

Người ta bảo giữ được Ba Thục là có thể như hổ dòm vào Trung Nguyên.

7.

Điển này chưa tường.

Bầy tôi Tần Mục Công có người tên là Phi Báo, không có ai tên là Hổ.

8.

Sử chép: “Tống Thái Tông long hành hổ bộ", nghĩa là như rồng, bước như hổ9.

Ban Siêu đời Hán, lúc còn hàn vi có người đoán rằng: "Hàm như én, đầu như hổ, có thể bay mà ăn thịt, đó là tướng phong hầu muôn dặm".

Quả nhiên sau Ban Siêu có lập nhiều công ngoài biên cương, được phong là Định Viễn Hầu.

10.

Sùng Hầu cũng tên là Hổ, gièm Chu Văn Vương với vua Trụ.

Văn Vương phải giam ở ngục Dữu Lý.

11.

Dương Hoá đời Xuân Thu cũng tên là Hổ, làm phản nước Lỗ, lấy trộm rùa lớn và những đồ quý báu khác (con rùa được người xưa dùng để xem bói) .12.

Luận ngữ: Không Tử mắng học trò là Nhiễm Cầu rằng "...Để cho hổ hủy sổng ra khỏi cũi là lỗi tại ai?"

13.

Điển này cũng chưa tường.

14.

Sách Hán thư có câu: “Thà gặp hổ đẻ còn hơn gặp lúc Nịnh Thành đang giận".

Các giống thú đến ngày đẻ con đều có tính dữ hơn ngày thường.

Hổ đẻ lại càng dữ nữa, nên bọn quan lại ác, người ta ví là hổ đẻ.

15.

Tứ Hoành đời Hậu Hán, làm quan bạo ngược, người ta gọi là hổ nằm.

16.

Sách Hậu Hán chép: Lưu Côn làm quan ở Hoằng Nông.

Có nhiều thiện chính, hổ phải cõng con, lội sông đi về phía bắc.17 .

Hán thư nói: “Núi có thú dữ (ý nói hổ) thì rau lê rau hoắc không ai dám hái, trong triều có người trực thần thì những kẻ gian tà không dám mưu việc càn."

18.

Tả truyện: Tề và Lỗ đánh nhau, tướng Lỗ lấy da hổ khoác cho ngưa ra trận.

Ngựa của quân Tề tưởng là hổ thực, quay lại chạy, quân Tề phải rút lui.

19.

Trương Hoành Cừ: tức Trương Tái, một đại nho đời Tống 20.

Kinh Dịch quẻ Cách nói: “Đại nhân hổ biến", ở đây dùng điển ấy rồi phiên ý cho đẹp câu văn.

21.

Ngày trước người ta cho rằng mây theo rồng, gió theo hổ.

Hễ hổ gầm là gió đến.

22.Ý cầu này nói chữ "hổ" đi sau chữ "long", như “long hổ bảng", "long bàn hổ cứ", thì là việc tốt , mà đứng trước chữ "lang" thành "hổ lang" thì là những việc ác.

23.

Hổ vốn không có sừng, cũng không có cánh.

Câu này chỉ là câu giả thiết một vật khỏe như hổ mà lại có sừng, có cảnh thì rất nguy hiểm, không thể ở chung được.

24.

Biện Trang: người nước Lỗ đời Xuân Thu, sức rất khỏe thường đâm chết hổ, có lần đâm chết hai con hổ.

25.

Phùng Phụ: người nước Tấn , Có tài bắt hổ (sách Mạnh Tử).

26.

Cung Thúc Đoạn: là em vua nước Trịnh, sức rất khỏe, có khi tay không bắt được hổ đem dâng vua (Kinh Thi, thơ "Thúc Vu Điền”) 27.

Tống Công Minh: tức Tống Giang, làm thủ lĩnh các hảo hán, giữ Lương Sơn Bạc, chống lại triều đình nhà Tống, sau muốn quy thuận nhà Tống, nhưng các hảo hán không nghe.

Người ta cho là Tống Giang ở vào thể cưỡi hổ khó xuống được.

28.

Đời Đường , Trương Quang Phụ có Công, làm tể tướng, để cho quân sĩ hoành hành, Địch Lương Công (tức là Địch Nhân Kiệt) bảo Quang Phụ rằng: "Ước gì được thanh gươm "Thượng Phương" đưa vào đầu ông, dẫu có chết cũng không oán".

Người ta bảo là “Địch Nhân Kiệt giẫm vào đuôi hổ mà không sợ".

29.

Đời Đông Hán, bọn hoạn quan chuyên quyền làm nhiều điều xằng.

Lý Ưng giết em ruột một viên hoạn quan.

Bọn này rất sợ, người ta bảo là " Lý Ưng tát vào mõm hổ mà không sợ".

30.

Nguyên câu trong Kinh Dịch "Giẫm vào đuôi hổ mà nó không cắn người là tốt"
 
Thánh Tông Di Thảo
Chương 7: Giao thư lục


Chương 7: Bức thư của con muỗi

Con muỗi đồng quen thân với con muỗi nhà.

Muỗi đồng nhường muỗi nhà làm anh, tự xưng là em.

Một buổi chiều kia, muỗi nhà bay ra đồng thăm em.

Muỗi đồng nói:

"bao nhiêu đầu trâu, lưng dê ở ngoài đồng này, mời quan anh cứ xơi cho đẫy dạ, kẻo khi không bóng chiều đổ xuống, trâu, dê về chuồng, thì chúng ta chỉ ngồi tán chuyện suông thôi."

Không bao lâu, mục đồng dong cả trâu dê về chuồng.

Muỗi nhà vẫn chưa no nê, nhưng cũng đành miễn cưỡng theo muỗi đồng đậu trên lá cói.

Chúng cùng nhau trò chuyện chưa được mấy lời, gió đông đã hiu hiu thổi tới.

Muỗi đồng dưa muỗi nhà vào trong một đốt lau đã mục.

Được một lát thì trời mưa.

Hai Anh em cùng dưa nhau bay vào ẩn trong lá sen cụp.

Muỗi đồng bảo muỗi nhà:

"Đây tuy chật hẹp, nhưng dẫu trời có mưa hàng tuần, em vẫn bình tâm như vại."

Tảng sáng hôm sau, muỗi nhà cáo từ ra về và bảo muỗi đồng rằng:"Than ôi!

Tầm mắt của hiền đệ sao quá hẹp, chỗ ở của hiền đệ sao quá thấp như vậy?

Này, cảnh tượng trong nhà khác với chốn đồng không mông quạnh này nhiều.

Mái nhà rộng mênh mông, bất chấp mưa sa gió táp.

Ngày, ta nương cột chạm; tối, ta đậu mành hoa.

Vui họp chợ lúc sáng mai, vo ve đắc ý; thú lượn đàn khi chiều tối, đủng đỉnh kiếm ăn.

Lúc người nhà đã ngủ mệt lả lúc ta no say.

Nào chỉ có thế mả thôi đâu, còn biết bao nhiêu niềm vui thú khác nữa."

Muỗi đồng nghe thấy, lấy làm thích lắm.

Chập tối hôm sau, nó liền bay đến nhà người tìm muỗi nhà.

Thoạt thấy muỗi đồng, muỗi nhà đã nở nang mày mặt, tươi cười mà rằng:"Hiền đệ ta có lẽ hôm nay thực chỉ (1) động chăng?

Vừa rồi có hai cô ả ở thôn xa đến đây.

Nghe chừng đêm nay chủ nhà không đủ màn cho họ nằm.

Hiền đệ ta rồi đến phải lấy dây tơ mà buộc bụng, há chỉ giống như lũ trâu dê lúc trời sắp tối mà thôi ư?"

Muỗi đồng nghe nói, hơi có ý thẹn.

Đến canh khuya, muỗi nhà đưa muỗi đồng đi xem khắp mọi nơi trong nhà, khoe rằng chổ ở của mình sung sướng, vẻ vang.

Rồi chúng cùng nhau tìm kẽ hở lọt vào phòng ngủ.

Quả nhiên thấy hai người con gái nằm trần, tiếng ngáy như sấm.

Muỗi nhà trỏ bảo muỗi đồng rằng:"chỗ rốn máu nóng, không bằng đùi vế êm ấm.

Tay trắng da dày, kém đứt má hồng mềm mại!"

Đoạn cùng nhau chẩu miệng thò ngòi, trong giây lát đã cảm thấy mình nặng như trái đào chín.

Muỗi nhà mới đưa muỗi đồng đến đậu ở màn hoa mà ngủ.

Một lát sau nghe thấy tiếng chủ nhà gọi người ở, bảo rằng:"đêm nay nhiều muỗi quá, phải lấy lửa mà đốt."

Muỗi nhà nói với muỗi đồng:"Trên mái ngói có nhiều khe hở.

Chúng mình lên đấy mà ẩn, dẫu lữa cháy to mấy cũng không sợ."

Dùng kế ấy, quả nhiên hai muỗi được vô sự.

Một lát sau, lại nghe tiếng chủ nhà gọi người ở bảo rằng:"Lữa đốt vẫn chưa hết muỗi.

Phải lấy lá xoan, cá tươi và mai ba ba mà hun."

Thế là khắp trong nhà khói lên nghi ngút.

Phàm là những khe hở đều có khói cay khí độc lùa vào.

Hai muỗi ở trong kẽ ngói, mắt sưng húp như quả táo chín, đã mấy lần suýt làm mồi cho lũ kiến.

Muỗi đồng vội bảo muỗi nhà rằng:"Bây giờ biết tính sao đây?

Nếu không thì mới được no bụng đã bị thiệt thân, Anh thành ra là người bất nhân mà em là kẻ bất trí đó."

Muỗi nhà khiếp đảm, vừa sợ vừa mê, cùng muỗi đồng tìm ra chuồng lợn để tránh khói.

Khi ấy mắt bị khói hun, trông không rõ nữa, hai lần bay nhầm ngay vào mạng nhện, phải dùng hết sức lực mỏng manh của mình mới thoát ra được.

Khoảng một thời gian sau, chúng mới tìm được chỗ đậu, cũng chẳng còn nghĩ chi đến việc bị hơi hôi thối nhiễm vào mình.

Nào ngờ đậu chưa yên thân, bỗng thấy một đàn dơi từ trên mái chuồng lợn bay ra, liệng vòng quanh sân.

Phàm những chú muỗi nào sợ khói bay trốn ra ngoài, đều bị biến thành những hạt sa dạ minh (2).

Muỗi đồng sợ quá, chết khiếp đến hơn một giờ.

Khi tỉnh lại thì thấy lữa đã tắt, khói đã tan và lũ dơi đã về tổ, bèn vội vàng từ biệt, vỗ cánh bay về.

Khi hoàn hồn, muỗi đồng viết một bức thư nhờ một con dãn đồng chuyển đến cho muỗi nhà.

Lời thư như sau:Thưa với hiền huynh,

Máu tươi má phấn, bụng còn no chăng?

Khí độc khói hun, mắt còn mờ chăng?

Trộm nghĩ: lũ ta sinh ở Bảo Hà (3)

Thân nương gấm vóc

Mỏng manh như tơ trời (4) trong ánh nắng,

Nhỏ nhen tựa hạt bụi đầu sợi lông.

Đèn lữa chưa soi, trong đêm tối hiện hình ma quỷ;

Bay kêu đắc ý, chốn âm phòng được lúc vắng tanh.

Màn cô ả hé ra, nhẹ mình len lỏi;

Giấc cậu em thiu ngủ, hút máu no nê.

Cho nên kẻ tham ăn ban ngày, nếu không tay đập tan thây, cũng bị mảnh quạt tống đi xa lắc;

Đứa tham ăn buổi tối, chẳng bị khói hun mù mắt, ắt lữa hồng thiêu cháy tấm thân.

Sao bằng:

Ở đầu trâu, sừng quật không kinh;

Đậu lưng dê, đuôi xua chẳng tới.

Đốt lau nát nhưng thân nương vững chắc;

Lá sen cụp mà chân nghỉ bình yên.

Muỗi nhà, muỗi nhà!

Ta nói không nghe, thì làm than trong lữa, làm bụi trên khói chưa biết ngày nào đó thôi!

Nên mau mau lo liệu...

Muỗi nhà đọc thư, cảm thấy vô cùng hỗ thẹn.

LỜI BÌNH CỦA SƠN NAM THÚCMuỗi đồng chỉ là con vật nhỏ, mà nói được vỡ lẽ vinh hiển là con đường đáng sợ, có tầng thứ phân minh.

Nếu không phải là người am hiểu thế tình, không thể làm được bài văn như thế.

Có lẽ thánh thiên tử cũng có sở nhân mới chép truyện này, không chỉ những kẻ nơi quyền quý phải lấy làm răng, mà những người chơi bời với người quyền quý cũng nên chọn kỹ.

Thực là: một nét bút nghiêm minh mà ý nghĩa đầy đủ.

CHÚ THÍCH1.

Thực chỉ: ngón tay trỏ.

Ngày xưa người ta tin rằng "thực chỉ động" là điềm được ăn thứ ngon (Tả truyện) 2.

Hạt sa dạ minh: sách thuốc gọi mắt muỗi là "dạ minh sa", người ta thường lọc ở phân con dơi ra dùng để chữa bệnh mắt mờ.

Ở đây nói: "biến thành những hạt sa dạ minh" là có ý nói bị dơi bắt ăn.

3.

Sinh ở Bảo Hà: dùng câu phương ngôn: "Muỗi Bảo Hà, ma xứ Nghệ"4.

Tơ trời: mùa thu trời nắng, ngoài đồng thường có những sợi tơ trắng như tơ nhện bay ơ trong không, người ta gọi là tơ trời.

Ở đây, dùng nói vật rất nhỏ.
 
Back
Top Bottom