Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Sơn Thần - Phi Ảnh

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
410,393
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
AP1GczN8ICYJsXu5YnOx-bUFjcQsI9nV3H7JW92PyKKbIZ3QzlwHRTn-FKi3zbPrFi4ZHLFFDMD6LfaURosqoEuhrTp198MC9AC2Adyf1siVnB3gTmG-ZadlIZg-YWthVhe3N-GA5lPxfZYQ-zIRwNpY7NhY=w215-h322-s-no-gm

Sơn Thần - Phi Ảnh
Tác giả: Phi Ảnh
Thể loại: Đông Phương, Khác
Trạng thái: Đang ra


Giới thiệu truyện:

Tên truyện: Sơn Thần – 山神

Tác giả: Phi Ảnh 飞影

Thể loại: Suy luận, dân quốc

Số chương: 21 chương

Edit & beta: Cún

MÔ TẢ

Vào những năm đầu của thời Dân Quốc, dưới chân núi Trường Bạch, Liêu Ninh, có một nơi gọi là thành Phủ Tùng. Ở đó có một nhóm người sống bằng nghề vào núi đào “bổng chùy” (nhân sâm). Người có uy vọng và địa vị cao nhất, cũng là chủ nhân của gia nghiệp lớn nhất, chính là Dương Thành Nghiệp (Dương Bát gia). Ông cũng là Bang chủ của Bang Sâm Trường Bạch.

Hằng năm, Dương Bát Gia đều tổ chức đại hội tuyển chọn Sâm Vương. Chín năm trước, “Sâm Vương” Kim Bất Hoán đã rửa tay gác kiếm, nay lại bất ngờ xuất hiện tại đại hội cùng với con nuôi Kim Thập Tam.

Người ta đồn rằng có một bảo vật giáng thế, một cây sâm “Nhị Tầng Lâu” trăm năm tuổi xuất hiện trong núi. Kim Bất Hoán quyết định tái xuất giang hồ, tập hợp đội ngũ cũ của mình, dẫn theo người lần đầu tiên vào rừng đào sâm là Kim Thập Tam, tiến sâu vào trong núi tìm kiếm cây “Nhị Tầng Lâu”.

Trong rừng sâu, họ gặp muôn vàn nguy hiểm, từ sự tấn công của loài linh miêu đến vòng vây của bầy rắn do “Thần Long” (một con mãng xà lớn) cầm đầu. Vượt qua trăm ngàn hiểm trở, cuối cùng họ cũng tìm được một cây “Tiếu Bát Tiên”.​
 
Sơn Thần - Phi Ảnh
Chương 1: Lời dẫn



Chương 1: Lời dẫn

Edit & beta: Cún

“Năm Giáp Thìn, đao binh động,

Giặc lùn, La Sát náo Quan Đông.

Hắc Thủy loạn, Bạch Sơn sập,

Khinh Trung Quốc ta không anh hùng.”

Bài vè này kể về một trận đại chiến xảy ra trên đất Quan Đông của Trung Quốc hơn một trăm năm trước. Năm Giáp Thìn, tức là năm Quang Tự thứ 30 của triều đại nhà Thanh, cũng chính là năm 1904 theo Công nguyên. Trận chiến này là giữa nước Nga và nước Nhật. Có thể nói đây là một chuyện hiếm có trong lịch sử chiến tranh thế giới, bởi lẽ hai quốc gia này đã đánh nhau ngay trên đất Trung Quốc để tranh giành lợi ích.

Nước Nga, từ cuối thời Minh đã liên tục xâm lược về phía đông, gây ra bao cảnh giết chóc và tàn phá ở vùng Mãn Mông của Trung Quốc, hành động tàn ác như quỷ dữ. Trong tiếng Mông Cổ, phát âm của từ “Nga La Tư” (Russia – nước Nga) nghe rất giống với từ “La Sát” trong tiếng Hán, vì vậy người Trung Quốc gọi những kẻ xâm lược Nga là “quỷ La Sát”.

Đến cuối triều nhà Thanh, khi quốc lực Trung Quốc suy yếu, chính phủ Sa hoàng Nga muốn nhân cơ hội này độc chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc. Nhưng lúc này, Nhật Bản không chịu ngồi yên. Nhật Bản vốn là một nước nhỏ, thực lực yếu, nhưng lại không chịu an phận. Từ lâu, Nhật Bản đã quấy nhiễu Trung Quốc, nên bị người Trung Quốc gọi là “Oa khấu” (giặc lùn). Sau phong trào Duy Tân Minh Trị, Nhật Bản ngày càng lớn mạnh, thôn tính bán đảo Triều Tiên và tiếp tục dòm ngó vùng núi Trường Bạch và sông Hắc Long ở Đông Bắc, Trung Quốc. Vì vậy, xung đột với Nga là điều không thể tránh khỏi.

Khi “quỷ La Sát” và “quỷ Nhật Bản” khai chiến, các cường quốc phương Tây liền ngồi lại, chuẩn bị bàn ghế và cắt dưa hấu để ngồi hóng chuyện. Ban đầu, các nước đều cho rằng một đế quốc lâu đời và giàu mạnh như Nga chắc chắn sẽ giành chiến thắng. Nhưng không ngờ, một cường quốc mới nổi như Nhật Bản, lại khiến Nga bị đánh bại một cách thảm hại.

Trên biển, quân Nhật chiếm được cảng Lữ Thuận, lâu nay bị quân Nga chiếm giữ. Trên đất liền, quân Nhật liên tục giành chiến thắng, phá vỡ phòng tuyến của quân Nga tại bờ sông Áp Lục và tiến vào vùng Đông Bắc, Trung Quốc.

Chúng ta hãy ngừng nói chuyện vô nghĩa và quay lại chủ đề chính.

Chuyện kể rằng, vào một ngày nọ, một toán lính Nga khoảng hơn hai mươi người, sau khi bị quân Nhật truy đuổi, đã hoảng loạn chạy trốn vào vùng núi Trường Bạch rộng lớn. Theo lệnh của tướng chỉ huy Nga, tất cả những đội quân tan tác ở phòng tuyến sông Áp Lục phải tự tập hợp lại tại trấn Song Điền, Cát Lâm sau ba ngày. Nhưng thật không may, toán lính này bị quân Nhật chặn đường.

Sau một trận chiến ác liệt kéo dài suốt đêm, họ mới thoát được vòng vây, nhưng đã hoàn toàn mất liên lạc với đại quân. Khi ấy, mọi con đường đều bị phong tỏa, còn quân Nhật thì vẫn ráo riết truy đuổi phía sau. Đứng đầu nhóm lính Nga khi đó là Trung úy Asharyov. Không còn cách nào khác, hắn đành dẫn theo số tàn binh ít ỏi này, tìm cách vượt qua núi Trường Bạch để đến được trấn Song Điền.

Núi Trường Bạch nằm giữa biên giới Trung Quốc và Triều Tiên, kéo dài hàng trăm dặm, với núi non hiểm trở và rừng rậm rạp. Nơi đây nổi tiếng với những thác nước hùng vĩ, hồ nước núi cao rộng lớn, rừng nguyên sinh bạt ngàn, cảnh quan núi lửa kỳ thú, cùng hệ động thực vật quý hiếm. Ngọn núi này được mệnh danh là “ngọn núi số 1 ở Quan Đông” và cũng được người dân địa phương gọi là “núi thần”.

Vừa đặt chân vào rừng sâu, toán lính Nga đã bị lạc đường. Lúc này đã là giữa mùa đông, tuyết phủ trắng xóa, nước đóng băng thành đá. Cả nhóm người quần áo rách rưới, không có thức ăn, rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng giữa trời băng đất tuyết, kêu trời không thấu, gọi đất chẳng hay. Asharyov liền tập hợp mọi người, đốt một đống lửa sưởi ấm và bàn bạc xem phải làm thế nào.

Quay lại đường cũ để xuống núi là không thể, vì quân Nhật vẫn đang mai phục bên ngoài. Nhưng nếu tiếp tục ở lại trên núi Trường Bạch quá lâu, họ cũng không thể tiếp tục sống sót, vì thời điểm này cây cối tiêu điều, chim muông vắng bóng, chẳng có gì để ăn. Chỉ cần ở đây thêm vài ngày nữa, họ sẽ chết vì lạnh hoặc đói.

Sau một hồi bàn bạc mà vẫn chưa tìm ra cách nào khả thi, bỗng nhiên từ bụi rậm phía xa vọng lại một tiếng hét thảm thiết.

“Là Yuri Kin!” Asharyov nhận ra giọng của một người lính vừa đi ra ngoài giải quyết nhu cầu. Anh vội vàng dẫn người chạy tới xem. Khi đến nơi, họ thấy Yuri Kin đã bị một chiếc bẫy thú kẹp chặt lấy chân. Anh ta vừa la hét cầu cứu, vừa ra sức dùng tay cố gỡ bẫy ra.

Phải mất một lúc lâu, mọi người mới có thể giải thoát được Yuri Kin. Nhưng chân của anh ta đã bị bẫy kẹp nát đến tận xương, chỉ còn dính lại với cơ thể bằng một ít gân và thịt.

Asharyov nhíu mày, nhìn chằm chằm vào vết thương của Yuri Kin một lúc lâu, rồi thở dài nói: “Yuri Kin, xin lỗi, chúng tôi không thể mang cậu theo được.”

Người lính bị thương tên Yuri Kin nhìn hắn với ánh mắt hoảng sợ, tràn đầy sự van xin. Asharyov quay mặt đi, tránh ánh mắt đó, rồi nói: “Xin lỗi… Nếu đưa cậu theo, tất cả chúng ta sẽ không thể rời khỏi ngọn núi bị quỷ dữ nguyền rủa này.”

Hắn quay sang một người lính khác đứng bên cạnh và ra lệnh: “Peter, nếu để Yuri Kin ở lại đây, cậu ấy sẽ chỉ chịu thêm đau đớn mà thôi. Hãy tiễn cậu ấy một đoạn đường.”

Người lính tên Peter Nagiev trợn to mắt, giọng run rẩy: “Trung úy…”

Asharyov tức giận quát lên, cắt ngang lời anh ta: “Chấp hành mệnh lệnh! Hay cậu cũng muốn chết ở đây hả?”

Yuri Kin cười thảm một tiếng, nói: “Peter, Trung úy nói đúng… Tôi không thể đi tiếp nữa. Nếu các cậu khiêng tôi đi, chẳng ai có thể thoát khỏi ngọn núi quỷ quái này. Nào, anh bạn, bắn chính xác một chút, đừng để tôi chịu khổ thêm nữa!”

Một tiếng súng vang lên, Yuri Kin ngã xuống mà không kịp rên một tiếng. Asharyov không nhìn lại nữa, hắn bước tới bên chiếc bẫy thú, cẩn thận quan sát.

Đây là một loại bẫy chuyên dùng để săn lợn rừng hoặc gấu, thứ mà người Quan Đông gọi là “hắc hiá tử” (gấu đen). Có vẻ như nó mới được đặt không lâu. Một thợ săn muốn đặt loại bẫy này phải kiên nhẫn ẩn nấp lâu ngày trong rừng, nắm rõ quy luật di chuyển của lợn rừng hoặc gấu, sau đó mới có thể đặt bẫy ở những nơi chúng thường lui tới. Điều này đòi hỏi kinh nghiệm săn bắn phong phú và sự kiên trì, cẩn trọng.

Asharyov đã đóng quân ở Quan Đông khá lâu, hắn biết rằng vào mùa đông khắc nghiệt thế này, thợ săn Trung Quốc hiếm khi vào rừng. Nếu có vào, họ cũng đi thành nhóm, cưỡi ngựa, thả chim ưng tìm dấu vết con mồi, cách săn chủ yếu là đánh nhanh rút gọn, chứ không phải đặt bẫy, vì phương pháp này tốn khá nhiều thời gian. Hơn nữa, khu vực này gần đây liên tục xảy ra chiến loạn, những thôn trại của người Trung Quốc xung quanh hoặc đã bị cướp phá, đốt sạch, hoặc dân chúng đều đã bỏ làng mà chạy loạn. Vậy thì làm gì còn ai vào rừng săn bắn?

Chẳng lẽ vẫn còn một số dân làng lẻ tẻ trốn vào rừng lánh nạn? Hoặc trên núi Trường Bạch vốn có những thợ săn sống cố định? Nếu đúng là như vậy thì quá tốt rồi! Nếu bắt được một người, ép hắn dẫn đường, cả đội có thể thoát khỏi khu rừng ma quỷ này, đến được trấn Song Điền. Ở đó, có lẽ sẽ có rượu vodka hảo hạng chờ đón bọn họ. Nếu không có vodka thì ít nhất cũng có “Quan Đông Thiêu”, một loại rượu mạnh của Trung Quốc, cũng đủ làm tê dại thần kinh. Và ai biết được, có thể còn có cả phụ nữ Trung Quốc.

Nghĩ đến đây, Asharyov phấn khích hẳn lên. Hắn lập tức triệu tập đám lính, ra lệnh cho họ cẩn thận lục soát xung quanh, nếu phát hiện người Trung Quốc thì tuyệt đối không được làm họ hoảng sợ mà bỏ chạy.

Quả nhiên, suy đoán của Asharyov không sai. Không lâu sau, bọn họ phát hiện một túp lều đơn sơ mà người địa phương gọi là “kuluozi” – một loại lán nhỏ của thợ săn. Ngay lập tức, cả toán lính Nga bao vây lấy nơi đó.

Trong túp lều “kuluozi” có một gia đình thợ săn. Đó là một cặp vợ chồng trạc ba mươi tuổi cùng một cậu con trai khoảng bảy, tám tuổi. Người chồng đội chiếc mũ da hình nón, mặc áo khoác và ủng da hươu, dáng người trung bình, ánh mắt sắc bén như chim ưng. Người vợ mặc áo dài đối khâm với ống tay rộng, làn da trắng, khuôn mặt rộng, gò má cao, đôi mắt nhỏ.

Asharyov nhìn quần áo và diện mạo của họ, cảm thấy họ không giống người Hán hay người Mãn thường thấy, mà có vẻ giống “Ewenki” một dân tộc sống rải rác dọc biên giới Trung – Nga ở dãy Đại Hưng An. Người Trung Quốc gọi họ là “người Ewenk”. Nhưng không rõ vì sao gia đình này lại lưu lạc đến Cát Lâm và ẩn cư trong rừng sâu núi Trường Bạch.

Bị bao vây bởi mấy chục nòng súng đen ngòm, nhưng ba người nhà thợ săn Ewenki vẫn không hề tỏ ra hoảng sợ. Họ đứng thẳng trước cửa túp lều, lặng lẽ quan sát đám kẻ xâm lược trước mặt.

Asharyov hắng giọng, nói bằng tiếng Nga, ra lệnh cho người đàn ông dẫn đường, đưa bọn họ ra khỏi khu rừng. Người đàn ông chỉ lạnh lùng nhìn hắn, không lên tiếng. Asharyov bập bẹ nói lại bằng tiếng Hán, nhưng người đàn ông vẫn không đáp.

Thấy vậy, Asharyov ra hiệu cho mấy tên lính Nga. Lập tức, chúng đẩy gia đình kia ra một bên rồi xông vào lục soát túp lều. Không lâu sau, bên trong vang lên tiếng reo hò phấn khích. Một lát sau, bọn lính lôi ra một đống thực phẩm: thịt nai khô, chân hoẵng, hạt dẻ, nấm tùng nhung, nấm rừng… Những người lính Nga bên ngoài đồng loạt hò reo sung sướng. Họ đã đói đến hai ngày nay, bây giờ thấy đống sơn hào hải vị này, ai nấy như bầy sói đói, mắt sáng rực, lao vào tranh giành.

Chưa dừng lại ở đó, đám lính bên trong túp lều còn hét lên phấn khích hơn khi tìm thấy hai bầu rượu lớn. Với người Nga sống trong giá rét, rượu còn quan trọng hơn cơm ăn. Họ có thể nhịn đói, nhưng không thể thiếu rượu, mà rượu càng nặng càng khiến họ mê mẩn.

Thức ăn rừng núi lấp đầy dạ dày, rượu Quan Đông thiêu đốt thần kinh, khiến bầy lính Nga hóa thành thú dữ. Chúng kéo vợ của người thợ săn vào trong lều, định hãm h**p cô.

Những tiếng cười sằng sặc của lũ lính Nga cùng tiếng mắng chửi căm phẫn của người vợ như những nhát dao cắt vào thần kinh người thợ săn. Đôi mắt anh ta đỏ ngầu, nắm tay siết chặt đến mức có thể vắt ra máu.

Asharyov ăn uống no say, ngồi trên một gốc cây, châm điếu thuốc lá Quan Đông cướp được từ nhà thợ săn, trầm tư suy nghĩ cách đưa lính của mình thoát khỏi tình cảnh hiện tại. Hắn giả điếc làm ngơ trước những hành vi đồi bại đang diễn ra trong túp lều “kuluozi”, Như thể những chuyện như vậy đối với binh sĩ Sa hoàng Nga chẳng có gì lấy làm lạ.

Trước đây, khi còn đóng quân tại các vùng biên giới, họ thường xuyên xông vào các thôn trại của người Trung Quốc để cướp bóc phụ nữ làm trò tiêu khiển. Dân làng có kêu oan lên nha môn, quan lại địa phương cũng không dám can thiệp. Mà có kiện lên cấp chỉ huy quân đội Nga thì chẳng khác nào “mặc cả với hổ dữ”. Đến mức các trưởng làng hoặc địa chủ giàu có không còn cách nào khác, phải âm thầm thỏa thuận với quân Nga, định kỳ đưa một số phụ nữ đến doanh trại để “phục vụ”, đổi lấy sự bình yên cho dân làng.

Thế nhưng, từ khi chiến tranh Nga – Nhật bùng nổ, người dân Quan Đông càng khốn đốn hơn. Ngay cả thứ bình yên nhục nhã ấy cũng không còn. Dù là lính Nga hay lính Nhật, một khi kéo đến những thôn trại của người Trung Quốc, thì chỉ có cướp sạch, giết sạch, đốt sạch. Những nơi bị chiến tranh tàn phá chỉ còn lại những cánh đồng hoang vu, không một bóng người.

Đột nhiên, từ trong túp lều “kuluozi” vang lên một tiếng thét thảm thiết, tiếp theo là những tiếng chửi rủa giận dữ bằng tiếng Nga. Rồi một phát súng nổ.

Ngay sau đó, một tên lính Nga tên Yeshninov lảo đảo chạy ra ngoài, tay ôm súng, tay còn lại bịt lấy con mắt trái, máu tuôn xối xả. Trên hốc mắt của hắn cắm một cây kim xương nai thô ráp – loại kim khâu mà người Ewenk thường dùng để khâu áo da thú.

Asharyov giật bắn mình, lập tức lao về phía túp lều. Cùng lúc đó, người thợ săn Ewenki cũng nghe thấy tiếng súng, anh ta gầm lên một tiếng, tung một cú đấm hạ gục tên lính Nga đang canh giữ mình rồi lao thẳng về phía túp lều. Nhưng chưa kịp chạy được bao xa, anh ta đã bị năm, sáu tên lính Nga lao đến chặn lại, đánh ngã xuống đất.

Cậu bé, con của anh ta cũng điên cuồng giãy giụa trong tay tên lính Nga đang giữ mình. Nhưng cậu bé nhỏ bé làm sao có thể thoát được đôi bàn tay thô bạo của gã lính cao lớn?

Asharyov xông vào túp lều, trông thấy cảnh tượng trước mắt mà sững sờ. Người phụ nữ Ewenki đã chết. Áo cô bị xé rách, để lộ khuôn ngực, trên ngực có một vết đạn. Đôi mắt cô mở trừng trừng, tràn đầy căm hận.

Nhìn tình hình, Asharyov hiểu ngay mọi chuyện. Người phụ nữ này thà chết chứ không chịu khuất phục. Cô đã dùng cây kim xương nai đâm mù mắt kẻ c**ng bức mình. Tên lính Nga đó tức giận, liền giơ súng bắn chết cô ngay tại chỗ.

Asharyov mặt mày u ám, bước ra khỏi túp lều “kuluozi”. Bên ngoài, lính cứu thương đang băng bó cầm máu cho Yeshninov, kẻ vừa bị đâm mù mắt trái. Không có thuốc giảm đau, cơn đau dữ dội khiến hắn không ngừng nguyền rủa ầm ĩ.

Ở một góc khác, vài tên lính Nga đang điên cuồng đánh đập người thợ săn Ewenki. Chúng dùng báng súng giáng xuống, dùng ủng da đá tới tấp, khiến người đàn ông quằn quại dưới đất.

Asharyov cau mày, ra lệnh cho bọn lính dừng tay. Hắn hiểu rằng muốn thoát khỏi dãy núi này, cả bọn vẫn cần người thợ săn dẫn đường. Giết anh ta lúc này chẳng khác nào tự tìm đường chết.

Hắn rút khẩu súng lục ra, dí thẳng vào trán cậu bé Ewenki.

Từ đầu đến cuối, cậu bé vẫn im lặng. Khi thấy mẹ bị kéo vào trong lều, khi thấy cha bị vây đánh, khi Asharyov dí súng vào trán mình, cậu bé không khóc, cũng không la hét. Chỉ có đôi mắt tràn đầy căm phẫn và đôi môi cắn chặt đến bật máu.

Asharyov nhìn người thợ săn nằm dưới đất, lạnh lùng nói: “Mày, dẫn bọn tao ra khỏi núi và đưa bọn tao đến Song Điền. Tao sẽ tha cho mày và thằng nhóc này. Nếu không…” Hắn dùng họng súng đẩy mạnh vào trán cậu bé. “Tao sẽ bóp cò ngay lập tức!”

Người thợ săn Ewenki nhìn chằm chằm Asharyov thật lâu, rồi gật đầu.

Cả nhóm xuất phát. Người thợ săn đi đầu, dẫn họ theo hướng tây bắc của dãy núi Trường Bạch. Asharyov giữ đứa bé bên cạnh, đoán rằng người thợ săn sẽ không dám bỏ trốn khi con trai mình vẫn nằm trong tay địch.

Thời tiết trên núi Trường Bạch thay đổi thất thường, thuộc kiểu khí hậu vùng núi đặc trưng. Lúc rời đi là giữa trưa, thời tiết khá tốt, không có gió, mặt trời chiếu xuống dịu nhẹ, thậm chí còn thấy ấm áp. Nhưng khi họ mất hơn hai tiếng đồng hồ để ra khỏi khu rừng già rậm rạp, đặt chân lên một bãi cỏ núi cao, thì bầu trời đã bị mây đỏ phủ kín.

Trời tối sầm lại, gió mạnh bắt đầu cuốn theo những hạt tuyết và cát băng li ti, tạo thành cơn bão tuyết trắng xóa, thứ mà người dân vùng Quan Đông gọi là “gió tuyết”. Ở miền này, mùa đông không sợ tuyết rơi, cũng không sợ giá rét, mà chỉ sợ nhất là bão tuyết. Đặc biệt là gió tuyết, khi nổi lên sẽ che kín cả bầu trời, khiến vạn vật chìm trong một màu trắng xoá, tầm nhìn gần như bằng không.

Nhiệt độ cũng giảm đột ngột, cái rét len lỏi vào từng lớp áo, dày đến đâu cũng không thể chống đỡ. Trên bãi cỏ núi cao này, bốn phía không có chỗ ẩn nấp, ngay cả đào một cái hang tuyết để trú cũng không thể. Nếu không nhanh chóng tìm nơi tránh gió, chẳng bao lâu sau, đám lính Nga này sẽ bị cơn gió chết chóc cuốn thẳng xuống địa ngục.

Asharyov hiểu rõ mức độ nguy hiểm, vội vàng gọi người thợ săn Ewenki lại để bàn bạc. Người thợ săn chỉ tay về phía một vách núi đen phía xa, nói rằng nơi đó có thể tránh gió tuyết. Hơn nữa, nếu băng qua vách núi đó, sẽ tìm được đường xuống núi dẫn thẳng đến trấn Song Điền.

Asharyov nheo mắt nhìn theo. Trong lớp sương tuyết mịt mù, vách núi ấy khi ẩn khi hiện, rất khó xác định rõ ràng. Hắn ước lượng khoảng cách, nếu không có gì bất trắc, trong vòng một tiếng đồng hồ là có thể đến nơi.

Gió tuyết đã bắt đầu cuộn lên dữ dội, không thể chần chừ nữa. Asharyov lập tức hét lớn, thúc giục đám lính: “Đi mau! Cố lên, đến đó trú gió!”

Gió ngày càng mạnh, trời cũng mỗi lúc một tối hơn. Khi đám lính Nga đến được điểm dừng chân, tất cả đã kiệt sức, tay chân tê cứng, không còn nghe theo ý muốn.

Nơi này quả thực ít gió hơn, tuyết cũng không dày đặc. Trước mắt họ là một vùng đá núi lửa xám đen, những khối đá lởm chởm, chìm trong màn khói dày đặc, tỏa ra mùi hăng hắc khó chịu. Asharyov ngước mắt nhìn, vách núi đen mà họ trông thấy từ xa nằm ở cuối vùng đá này, cách khoảng năm, sáu trăm mét. Vách cao chừng ba bốn mươi trượng, đỉnh vươn ra khỏi lớp khói mù, sừng sững hiên ngang. Trên đó phủ đầy tinh thể hắc diệu thạch, trơn nhẵn và dốc đứng đến mức khỉ vượn cũng khó mà trèo lên được.

Đám lính Nga đứng ngoài bãi đá, nhìn khung cảnh quái dị chẳng khác nào địa ngục, không khỏi run sợ.

Asharyov tức giận tột độ. Hắn rút súng, chĩa thẳng vào người thợ săn Ewenki, quát lớn: “Đồ lợn Trung Quốc khốn kiếp! Ngươi dám dẫn bọn tao vào chỗ chết này à? Tao bắn chết mày trước, rồi đến thằng con của mày, bắt hai đứa xuống địa ngục cùng chúng tao!”

Người thợ săn Ewenki lắc đầu, bình tĩnh đáp: “Đừng lo, khói này không độc chết người. Chúng ta chỉ cần vượt qua màn khói, đến chân vách núi kia, sẽ tìm thấy lối vào trong núi. Qua được đó, chúng ta sẽ ra khỏi thần sơn.”

Nói xong, ông ta không đợi Asharyov trả lời mà thản nhiên bước vào màn khói mù.

Asharyov liếc nhìn bầu trời mỗi lúc một tối sầm. Giờ có lẽ đã gần chập tối, mà phía sau lưng, gió tuyết đang cuộn lên điên cuồng, che kín cả tầm nhìn. Hắn nghiến răng, quay sang đám lính quát: “Khói này có lưu huỳnh, mọi người xé vải ướt che mũi miệng, chúng ta tiến vào! …Yeshninov!”

Hắn gọi tên gã lính bị mũi kim xương hươu đâm mù một mắt: “Canh chừng thằng nhóc cẩn thận, đừng để nó chạy mất!”

Cả bọn theo Asharyov tiến vào màn khói. Khói đặc khiến ai cũng cay xè mắt, không thể mở to. Người đi đường liên tục bị đá nhọn vấp ngã, có kẻ vô tình chạm phải những bộ xương trắng không rõ là người hay thú, giật mình la thất thanh, càng khiến cả nhóm thêm hoảng loạn.

Khó khăn lắm, bọn chúng mới mò đến được chân vách núi, nhưng không thấy bóng dáng người thợ săn Ewenki đâu cả!

Asharyov lập tức giơ súng, dí vào trán thằng bé Ewenki, gào lên: “Đồ lợn Trung Quốc, ra ngay! Tao đếm đến ba, không ra tao bắn chết con mày!”

Một giọng nói vang lên trong màn sương dày đặc: “Ở đây. Ta đã tìm thấy lối vào.”

Asharyov dẫn đám lính lần theo hướng âm thanh, thấy người thợ săn Ewenki đang đứng trước một tảng đá obsidian khổng lồ, chỉ tay vào đó: “Ở ngay đây.”

Asharyov quan sát hồi lâu mà không thấy bất kỳ lối vào nào. Hắn nghi hoặc nhìn người thợ săn, chỉ thấy ông ta vòng sang một bên tảng đá, đẩy một phiến đá đen dài sang một bên, để lộ một khe nứt hẹp.

Người thợ săn nghiêng người, chậm rãi lách vào trong.

Thấy ông ta đã biến mất vào bóng tối, Asharyov lập tức ra hiệu cho mấy tên lính theo sát. Hắn cũng bảo Yeshninov áp giải thằng bé đi ngay sau mình, rồi mới cố chen người vào.

Khe nứt này rất hẹp, lại bị tảng đá che lấp, nếu không tìm kỹ sẽ khó mà phát hiện. Asharyov vốn to con, phải chật vật lắm mới chui qua được. May mắn là sau khi bò lên phía trước vài mét, không gian dần rộng ra, đến khi đi được chừng mười mét thì đã có thể di chuyển bình thường. Đường hầm tối đen như mực, lại dốc xuống. Họ vừa đi vừa bò suốt gần nửa canh giờ thì bất chợt ánh sáng bừng lên trước mắt. Thì ra họ đã xuyên qua vách núi. Cảnh tượng trước mắt khiến tất cả sững sờ. Không còn đá lởm chởm, không còn khói độc, không còn gió rít, cũng chẳng có tuyết trắng. Thay vào đó là cây cỏ xanh mướt, rừng cây cao vút, hoa dại rực rỡ, suối chảy róc rách.

Ở vùng núi Trường Bạch đang giữa tháng Chạp lạnh giá, bên ngoài là trời đông giá rét, cây cối tiêu điều, vậy mà nơi đây lại ấm áp như mùa xuân, phong cảnh chẳng khác nào tiên cảnh. Lúc này, trời cũng đã gần tối hẳn. Cả bọn vừa mệt vừa đói, Asharyov liền ra lệnh dựng trại. Lương thực mang theo chẳng còn nhiều, chỉ còn ít thịt hươu khô và một cái đùi hoẵng lấy từ nhà thợ săn, không đủ chia cho hơn hai chục con người.

Nhưng may thay, trong khe núi này có rất nhiều nấm dại và trái cây hoang. Asharyov lệnh cho lính hái về, rửa sạch bằng nước suối, bỏ vào nồi sắt cướp được từ nhà thợ săn, cùng với đùi hoẵng nấu thành một nồi canh lớn.

Chẳng bao lâu sau, mùi thịt hoẵng béo ngậy hòa với hương thơm của nấm rừng lan tỏa, khiến ai nấy đều nuốt nước bọt thèm thuồng. Đám lính Nga ào lên, tranh nhau húp canh ăn thịt. Yeshninov múc một phần vào hộp cơm dã chiến, đưa cho Asharyov.

Asharyov uống hai ngụm, rồi hất cằm về phía hai cha con người thợ săn Ewenki đang bị trói cạnh đống lửa, ra hiệu bảo mang thức ăn cho họ.

Mắt trái của Yeshninov bị chọc mù, dù đã được cầm máu và băng bó nhưng cơn đau vẫn dữ dội như khoan thẳng vào óc. Trong lòng hắn hận thấu xương gia đình người thợ săn, miệng lầm bầm chửi rủa, không chịu đi.

Asharyov quát: “Đồ ngu! Chúng ta còn phải dựa vào hai tên Trung Quốc này để ra khỏi ngọn núi quỷ quái này, không thể để chúng chết đói được. Chờ đến khi ra ngoài rồi, muốn lột da, róc thịt chúng thế nào thì tùy ngươi!”

Yeshninov bất đắc dĩ, vừa chửi vừa mang hộp cơm đến, dúi vào miệng người thợ săn, định đút hắn ăn. Nhưng người thợ săn nhắm mắt lắc đầu.

Hắn lại đưa hộp cơm cho thằng bé. Thằng nhỏ trừng trừng nhìn hắn hồi lâu, đột nhiên phun một bãi nước bọt thẳng vào mặt hắn. Yeshninov vội né, nhưng bát canh thịt nấm trên tay lại đổ hết ra người hắn. Hắn giận điên, đá mạnh vào người thằng bé, chửi: “Thằng lợn con! Mày ăn hay không thì tùy! Chờ đến nơi rồi, ông mày sẽ cắt từng miếng thịt mày ra mà nướng ăn!”

Khi quay về bên nồi canh, hắn phát hiện thịt và canh trong nồi đã bị vét sạch, ngay cả một chút cặn cũng chẳng còn. Yeshninov tức điên, mắng chửi om sòm, nhưng đám lính chỉ cười ầm lên chế nhạo. Hắn không có cách nào khác, đành nhai tạm mấy miếng thịt hươu khô lạnh cứng, rồi nằm xuống bên đống lửa nghỉ ngơi.

Nửa đêm, Yeshninov cảm thấy cơ thể rét run, giật mình tỉnh dậy. Hắn cố gắng mở mắt ra, thấy ngọn lửa bên cạnh đã sắp tàn, những đốm lửa nhỏ chập chờn, dường như đang vật lộn giành lấy sự sống.

Hắn lật người, nhìn thoáng sang bên cạnh, chợt kinh hãi tột độ. Người nằm bên cạnh hắn, Lyubushin, đã chết cứng! Gương mặt gã tái mét, đôi mắt mở trừng trừng nhìn hắn, còn trên cổ gã, một lưỡi lê sắc bén xuyên ngang! Yeshninov kinh hoàng ngồi bật dậy, đưa mắt nhìn quanh, dưới ánh lửa leo lét, bảy tám xác chết nằm la liệt trên đất. Xa hơn một chút, mấy đồng đội còn sống đang điên cuồng tàn sát lẫn nhau!

Hắn nhìn thấy Kirikov vung dao chém bay đầu Feodorov! Hắn nhìn thấy Ivanovich nổ súng thổi tung sọ Akhrobetskin! Hắn nhìn thấy người thợ săn Ewenki đưa hai tay bị trói vào đống lửa, nghiến răng chịu đau mà thiêu đứt dây trói, sau đó nhặt lấy một thanh mã tấu, cắt dây cho thằng bé rồi kéo nó chạy thục mạng về phía cửa khe núi! Hắn nhìn thấy trung úy Asharyov giương súng, liên tục nhả đạn về phía hai cha con người thợ săn đang bỏ trốn! Hắn nhìn thấy Nagiyev vòng ra sau lưng trung úy, hung hãn đâm xuyên lưỡi lê qua người hắn! Nhưng Asharyov lại chẳng hề nhận ra, chỉ quay đầu lại.

“Đoàng!” Một phát súng nổ vang, Nagiyev bị bắn vỡ sọ, óc văng tung tóe! Thung lũng tiên cảnh giờ đây dường như đã biến thành địa ngục trần gian.

Không xa phía trước, Shevchenko, kẻ vừa mới dùng mã tấu chém đứt cánh tay trái của Kalinin như bổ củi bỗng quay đầu nhìn hắn. Gương mặt Shevchenko xanh lè, loang lổ những mảng vằn vện như rêu mốc. Một bên mắt đã rơi ra khỏi hốc, chỉ còn một sợi gân dính lại lủng lẳng. Hắn gào lên như quỷ dữ, vung đao lao về phía Yeshninov! Yeshninov run rẩy đến mức không thể nhấc nổi chân lên, cơ thể như bị đóng băng tại chỗ. Hắn chỉ có thể trợn trừng nhìn ánh thép của thanh mã tấu vung tới trước mặt mình.

“Bốp!” Đầu Shevchenko đột nhiên vỡ thành hai nửa! Sau lưng hắn, Kalinin chỉ còn một cánh tay đang nắm chặt một cây rìu đẫm máu, nở một nụ cười quái dị.

Chúa ơi, đây rốt cuộc là cơn ác mộng quái quỷ gì?! Yeshninov cảm thấy đầu óc quay cuồng, rồi ngã vật xuống, bất tỉnh.


 
Sơn Thần - Phi Ảnh
Chương 2: Chương 2



Chương 2

Edit & beta: Cún

Năm 1924, ngày 16 tháng 3 âm lịch, dưới chân núi Trường Bạch, thành Phủ Tùng.

Lúc này vừa tờ mờ sáng. Tuy rằng đất Quan Đông đã là sáng sớm, nhưng vào mùa xuân lạnh lẽo như thế này, người ta vẫn thích cuộn mình trong chăn ấm, chẳng muốn dậy sớm. Thế nhưng hôm nay lại khác hẳn, vừa qua giờ Thìn, con phố chính sầm uất nhất trong thành, phố Điền Tử đã nhộn nhịp hẳn lên.

Người gánh hàng rong, kẻ kéo xe, người cưỡi ngựa, kẻ ngồi kiệu… từ bốn phương tám hướng đổ về. Hai bên đường, nhiều người đã bắt đầu chiếm chỗ bày hàng. Ở bãi đất trống trước cửa miếu Sơn Thần phía đông đầu phố Điền Tử, một sân khấu rộng ba trượng vuông đã được dựng lên, thợ thủ công đang tất bật hoàn thiện những công đoạn trang trí và quét dọn cuối cùng. Xem chừng hôm nay sẽ có một vở diễn lớn.

Một người đàn ông trung niên khoảng hơn bốn mươi tuổi dẫn theo một thanh niên chừng mười bảy, mười tám tuổi cũng hòa vào dòng người đi vào thành. Người đàn ông này nước da ngăm đen, dáng người không cao nhưng lưng thẳng tắp, toàn thân toát lên khí lực mạnh mẽ, trông như một người luyện võ. Còn chàng trai trẻ thì cao hơn ông ta đến nửa cái đầu, dung mạo tuấn tú, vẻ mặt đầy khí khái anh hùng.

Hai người mặc trang phục bình thường, áo dài vải bông và áo da chó, trông chẳng có gì nổi bật giữa đám đông tấp nập. Nhưng bất cứ thương nhân qua đường nào khi nhìn thấy cây gậy gỗ Hoàng Bá dài năm thước sáu tấc trong tay người đàn ông trung niên đều không khỏi đưa mắt chú ý, trên mặt hiện lên vẻ kính trọng. Không ngừng có người chắp tay chào hỏi ông ta, gọi ông là “Kim gia”, “Kim bá đầu”, “Lão bá đầu”. Người đàn ông trung niên thỉnh thoảng mới đáp lại một tiếng, phần lớn chỉ mỉm cười gật đầu rồi đi tiếp, không dừng lại trò chuyện gì thêm.

Còn chàng trai trẻ đi theo ông ta thì lại chẳng bận t@m đến những chuyện ấy, cảnh náo nhiệt trên phố đã hoàn toàn thu hút sự chú ý của hắn. Hắn vừa đi vừa không ngừng nhìn đông ngó tây, phấn khởi nói chuyện với người đàn ông trung niên: “Cha, cha nhìn kìa! Cái này hay quá, mình mua một cái đi!”, “Cha, bên kia đang làm gì vậy? Chúng ta qua xem thử đi!”, “Cha, cha có ngửi thấy mùi thơm không? Đó là món thịt xông khói mà con thích nhất!”

Người đàn ông trung niên bị hắn quấn lấy đến không còn cách nào, chỉ mỉm cười, vỗ vai hắn rồi nói: “Được rồi, được rồi! Chúng ta sẽ ở Phủ Tùng mấy ngày, náo nhiệt thì để lát nữa quay lại xem sau. Giờ phải đến Trường Bạch Lâu làm việc chính trước đã, kẻo không kịp tham gia lễ tế Sơn Thần.”

Người đàn ông này họ Kim, tên Bất Hoán. Còn chàng trai đi theo ông là con trai ông, tên Kim Thập Tam. Kim Bất Hoán vốn không phải người Quan Đông, quê gốc của ông ở huyện Ngụy, tỉnh Trực Lệ. Năm Canh Tý, khi xảy ra phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, chàng thanh niên hơn hai mươi tuổi Kim Bất Hoán đã theo Triệu Tam Đa, đại sư huynh của thần đàn địa phương, chưởng môn phái Mai Hoa Quyền, tiến kinh với danh nghĩa phò Thanh diệt Dương. Lúc bấy giờ, Lão Phật gia Từ Hi muốn lợi dụng nghĩa quân để đối phó với các nước phương Tây, liền ngự phong họ là Nghĩa Hòa Thần Quyền. Thậm chí các vị vương gia trong kinh thành khi gặp họ cũng phải cung kính nể trọng, có thể nói là uy phong lẫm liệt.

Nhưng thực tế, Lão Phật gia tuyên chiến với các nước, lại không dám điều quân chinh phạt các vùng có quân đội nước ngoài đóng trú để giành lại quyền lợi, mà chỉ sai các nghĩa quân Nghĩa Hòa Thần Quyền đánh vào các sứ quán và nhà thờ của người phương Tây ngay tại kinh thành. Khi đó, nghĩa quân từ khắp nơi đổ về Bắc Bình lên đến hàng trăm nghìn người, nhanh chóng bao vây toàn bộ khu vực sứ quán của các nước. Xét về số lượng, quân bảo vệ sứ quán của các nước cộng lại chỉ vài trăm người, nếu nghĩa quân đồng loạt xông lên, e rằng chỉ cần mỗi người một bãi nước bọt cũng có thể nhấn chìm chúng. Nhưng kỳ lạ thay, vây đánh hơn một tháng trời mà vẫn không công phá nổi.

Lúc này, Lão Phật gia tiến thoái lưỡng nan, trong lòng bắt đầu hoảng sợ, bèn bí mật sai người gửi dưa hấu, đưa thư vào trong khu sứ quán, tỏ ý muốn hòa hoãn. Nhưng đám người phương Tây lại không hiểu phong tình, quyết phải cho Lão Phật gia một bài học. Thế là Liên quân tám nước tiến đánh Bắc Bình, Lão Phật gia cùng tiểu Hoàng đế chạy trối chết, hàng chục vạn nghĩa quân cũng tan tác như chim muông.

Sau khi Lão Phật gia đàm phán với các nước xong, quay về kinh thành, thì những người từng là nghĩa quân lại trở thành kẻ chịu tội thay, bị triều đình thẳng tay truy lùng, tiêu diệt. Các sư huynh đệ của Kim Bất Hoán lần lượt bị bắt, bị giết. Bản thân ông không thể tiếp tục ẩn náu ở quê nhà, mà nghĩ rằng dù sao cha mẹ cũng đã chết vì bệnh tật và đói khát từ lâu, người anh duy nhất của ông lại tránh ông như tránh ôn dịch, vậy chẳng bằng rời khỏi quê hương, đến Quan Đông thử vận may.

Kim Bất Hoán theo đại sư huynh Triệu Tam Đa học Mai Hoa Quyền suốt bảy, tám năm. Khi đến Quan Đông, ban đầu ông làm tiêu sư cho tiêu cục. Về sau, tiêu cục dần suy thoái, ông chuyển sang làm vệ sĩ cho một gia tộc giàu có. Gia tộc này là thương nhân chuyên tiến cống nhân sâm cho hoàng thất, trong nhà vàng bạc nhiều vô kể, giàu có không khác gì sơn hào hải vị tràn đầy.

Tục ngữ có câu, “Quan Đông có ba loại báu vật là nhân sâm, da chồn và cỏ Ula.” Trong đó, nhân sâm, chính xác hơn là nhân sâm hoang dã, chính là loại báu vật đứng đầu. Loại nhân sâm này chỉ mọc trong rừng sâu ở vĩ độ từ 33 đến 48 độ Bắc, hấp thụ tinh hoa đất trời, linh khí nhật nguyệt, lấy các loài chim thú kỳ lạ làm môi giới, dùng sương mai và suối trong để nuôi dưỡng.

Trong “Bản Thảo Cương Mục”, nhân sâm hoang dã được tôn vinh là “vua của bách thảo”, dùng để bào chế dược liệu có thể trị bách bệnh, kéo dài tuổi thọ. Lại còn có những truyền thuyết thần kỳ hơn, cho rằng nhân sâm có thể cứu sống người chết, làm xương thịt mọc lại, quả thực là tinh linh của núi rừng, tiên thảo nhân gian.

Nhưng tìm được nhân sâm hoang dã không phải dễ, thợ săn sâm dù lang thang trong rừng hàng tháng trời cũng khó mà thấy được bóng dáng của nó.

Từ khi triều đại nhà Thanh thống nhất Trung Nguyên, triều đình luôn kiểm soát chặt chẽ việc khai thác sâm. Để ngăn chặn tư nhân đào bới trái phép, Cục Quan Sâm được thành lập, cử người trông coi các khu rừng mọc nhiều nhân sâm, phong tỏa nghiêm ngặt, chỉ cho phép hoàng gia hoặc quan lại cấp cao tổ chức khai thác.

Đến thời Vua Gia Khánh, sản lượng nhân sâm của Cục Quan Sâm dần suy giảm, phẩm chất cũng kém đi rất nhiều, nên triều đình quyết định phát hành “phiếu nhân sâm” và giao cho các thương nhân hoàng gia khai thác, trong đó nhân sâm chất lượng cao sẽ được chọn để tiến cung, còn nhân sâm có chất lượng thấp hơn mới được phép lưu thông trên thị trường dân gian.

Kim Bất Hoán theo chủ nhân ra vào giới thương nhân mua bán sâm, nghe quen mắt thấy, dần dà cũng học được không ít về nghề này. Sau năm Canh Tý, đất nước suy tàn, Nga và Nhật liên tục tranh giành quyền kiểm soát vùng Đông Bắc, triều đình dần mất đi khả năng khống chế khu vực này. Cục Quan Sâm chỉ còn trên danh nghĩa, nạn khai thác lậu trở nên phổ biến hơn. Thợ săn sâm ùn ùn kéo đến, phần lớn là dân lưu lạc từ tỉnh Sơn Đông, tỉnh Trực Lệ, bởi trong mắt họ, vùng Quan Ngoại chính là miền đất hứa. Đặc biệt, nghề săn sâm được xem là con đường phát tài nhanh nhất.

Kim Bất Hoán liền từ bỏ công việc làm vệ sĩ, theo một cựu quản lý của Cục Quan Sâm vào rừng săn nhân sâm. Nhưng nghề này không dành cho người bình thường, nó đòi hỏi kinh nghiệm phong phú, kỹ thuật cao, lại cần có dũng khí và vận may. Suốt ngày tháng dài lê bước trong rừng sâu núi thẳm, vực thẳm khe sâu, không ai biết sẽ gặp phải nguy hiểm gì, thậm chí có thể mất mạng bất cứ lúc nào. Quả thực là lấy mạng đổi lấy miếng ăn.

Kim Bất Hoán thông minh lanh lợi, chăm chỉ học hỏi, kỹ năng săn sâm ngày một nâng cao. Ông lại có võ nghệ cao cường, tính tình nghĩa hiệp, nên được đồng đội tin tưởng. Về sau, ông trở thành một “bá đầu” lãnh đạo nhóm thợ săn sâm và quy tụ một nhóm huynh đệ đi theo mình.

Ở Quan Đông, nhân sâm còn được gọi là bổng chùy, nghề săn nhân sâm được gọi là phóng sơn. Để vào rừng săn nhân sâm, đơn thương độc mã thì quá yếu, họ thường phải tập hợp thành một nhóm thì mới dám lên núi hái sâm. Bá đầu chính là người lãnh đạo của nhóm này. Khi đã vào núi, nhanh thì hai đến ba tháng, lâu thì sáu đến bảy tháng mới có thể trở về. Mà số phận cả năm của mỗi thành viên đều đặt cược vào chuyến đi này.

Vì vậy, việc chọn bá đầu cực kỳ quan trọng. Một bá đầu giỏi phải nắm rõ quy tắc trong rừng núi, có nhân nghĩa và giàu kinh nghiệm, giỏi kỹ thuật, biết quan sát địa hình và tìm kiếm nhân sâm.

Nếu bá đầu kém cỏi, có thể khiến cả đội săn sâm trắng tay, từ đó uy tín của người này trong giới thương nhân mua bán sâm sẽ sụt giảm nghiêm trọng, về sau muốn lập đội sẽ không còn ai tin tưởng và đi theo.

Ngược lại, một bá đầu giỏi sẽ có danh tiếng lớn, không chỉ được đội săn sâm tin tưởng, mà cả các thương nhân lớn cũng sẵn sàng trả giá cao hơn khi mua nhân sâm từ họ.

Chín năm trước, Kim Bất Hoán dẫn theo một nhóm anh em vào núi Trường Bạch săn được một củ sâm bảy lá, nặng bảy lạng một phân, niên đại ít nhất bảy mươi năm, loại sâm quý hiếm còn được gọi là “Thất Tiên Nữ”. Với báu vật này, ông đã giành được ngôi vương tại đại hội Sâm Vương ở Phủ Tùng, đoạt lấy danh hiệu “Sâm Vương”.

Lúc bấy giờ, Lưu Kim Hải, bậc thầy ngọc thạch trứ danh ở Quan Đông, đã ra giá hai vạn đại dương để mua lại củ sâm này, khiến toàn bộ giới nhân sâm Quan Đông chấn động. Cũng từ đó, Kim Bất Hoán một bước thành danh, trở thành lão bá đầu được người người kính trọng trong giới săn sâm.

Trong giới săn sâm, danh xưng lão bá đầu không phải để chỉ người có tuổi tác cao, mà còn để vinh danh những người kinh nghiệm dày dặn, kỹ thuật xuất chúng, uy tín vang xa. Dù trẻ tuổi, chỉ cần đạt đủ ba điều kiện trên, cũng được tôn xưng là lão bá đầu.

Bá đầu còn được gọi là đầu gậy, vì người này luôn cầm cây gậy khóa bảo đi trước quan sát núi non, dẫn đường và tìm kiếm nhân sâm. Đặc biệt, người chiến thắng trong đại hội Sâm Vương ở Phủ Tùng sẽ được tặng một cây gậy khóa bảo làm bằng gỗ Hoàng Bá quý hiếm, đầu gậy được chạm khắc hình đầu rễ sâm núi, thân gậy chạm trổ hoa văn uốn lượn như đường vân thiết tuyến trên cây nhân sâm lâu năm, nó là biểu tượng của người đứng đầu trong giới săn sâm.

Hôm nay, Phủ Tùng lại đến kỳ đại hội Sâm Vương được tổ chức ba năm một lần.

Ban đầu, Phủ Tùng chỉ là một trấn nhỏ với vài trăm hộ dân, vì nằm cạnh hai bãi cỏ rộng nên còn được gọi là trấn Song Điền. Đến những năm cuối triều Thanh, triều đình thiết lập huyện Phủ Tùng, mở rộng quy mô, xây thành lập phủ, quy về quản hạt của phủ Trường Bạch. Dù có danh huyện, nhưng lúc ấy Phủ Tùng vẫn là một thành trấn nhỏ, dân cư thưa thớt, không mấy người biết đến. Nhưng từ sau khi Vua Tuyên Thống thoái vị, thành lập Dân Quốc, Phủ Tùng đột nhiên trở thành một nơi tập kết sôi động, thương nhân khắp nơi đổ về, dân số tăng mạnh, vươn lên trở thành vùng đất quan trọng bậc nhất của phủ Trường Bạch, thậm chí là cả tỉnh Cát Lâm, danh tiếng lan xa tận Phụng Thiên, Bắc Bình và cả nước ngoài.

Nếu hỏi nơi nào ở Quan Đông có nhân sâm tốt nhất, không đâu sánh bằng núi Trường Bạch. Mà thành Phủ Tùng lại nằm ngay dưới chân ngọn núi này, phía bắc thông đến thủ phủ Trường Xuân, phía tây kết nối với trung tâm của ba tỉnh vùng Đông Bắc – Phụng Thiên (Thẩm Dương ngày nay), phía nam thông ra Triều Tiên, địa thế vô cùng lý tưởng. Kể từ khi lệnh cấm khai thác sâm bị bãi bỏ, Phủ Tùng liền trở thành trung tâm giao dịch nhân sâm lớn nhất Quan Đông và toàn bộ Đông Á. Và đại hội Sâm Vương, được toàn bộ thương nhân giới sâm Quan Đông tổ chức ba năm một lần, cũng chọn nơi này làm nơi diễn ra đại hội.

Tạm gác chuyện ngoài lề, quay lại với cha con Kim Bất Hoán. Sau khi vào thành, hai cha con tìm đến Trường Bạch Lâu nằm trên phố Điền Tử. Kim Thập Tam đứng trước tòa lầu mà trợn mắt há mồm. Chỉ thấy tòa nhà bốn tầng lầu sừng sững ngay mặt phố, trừ cổng thành, có lẽ đây là tòa kiến trúc cao nhất toàn thành Phủ Tùng. Cả tòa lầu được chạm trổ tinh xảo, tráng lệ hùng vĩ, ngay cả nha môn quan huyện cũng không thể so bì.

Kim Thập Tam còn đang trầm trồ thì Kim Bất Hoán đã vén rèm cửa, sải bước tiến vào, hắn vội vã chạy theo. Tầng một của Trường Bạch Lâu rất rộng rãi, bốn góc phòng đều đặt lò than lớn, sưởi ấm cả gian chính. Hai mươi mấy chiếc bàn bát tiên chật kín khách ngồi, bảy tám gã tiểu nhị đội mũ dưa, mặc áo dài vải lam, đang bận rộn bưng bê, phục vụ khách khứa.

Vừa thấy Kim Bất Hoán và Kim Thập Tam bước vào, nhiều khách nhân liền đứng dậy chắp tay thi lễ, miệng hô “Kim gia”, “Kim bá đầu”. Kim Bất Hoán gật đầu hồi lễ, có khi thì vui vẻ đáp lời, có lúc lại nắm tay người quen thân mật chào hỏi.

Ngay trước cửa là một quầy thu ngân, đằng sau quầy có một lão béo mặt mũi phúc hậu, trông có vẻ là quản sự của nơi này. Vừa thấy Kim Bất Hoán, ông ta vội bước nhanh ra đón, nở nụ cười tươi rói, chắp tay nói: “Kim gia, cuối cùng ngài cũng tới rồi! Bát gia đoán chắc rằng ngài sẽ đến, quả nhiên không sai!”

Kim Bất Hoán cười cười, hỏi: “Chưởng quầy Tôn, lâu rồi không gặp, trông ông càng ngày càng phúc hậu nhỉ! Bát gia đã đến chưa?”

Chưởng quầy Tôn cười lớn: “Đa tạ lời tốt lành của ngài! Tôi thì ăn ngon ngủ kỹ, chẳng thông minh hơn được, chỉ thấy béo lên thôi. Bát gia vẫn chưa tới, ngài…”

Kim Bất Hoán cười ha hả: “Vậy chẳng phải ông đang nói tôi chỉ thông minh mà không béo lên hay sao?”

Chưởng quầy Tôn cười tít mắt, đùa rằng: “Nào dám, nào dám! Kim gia, mời hai vị lên nhã gian trên lầu hai chờ đợi. Đại lễ tế thần phải đến giờ Tỵ hai khắc mới bắt đầu, còn sớm lắm! Bát gia nói sẽ đến ngay.”

Vừa đi, ông ta vừa ríu rít nói: “Kim gia, ngài cũng lâu lắm rồi chưa quay lại Phủ Tùng đấy nhỉ? Bát gia vẫn luôn nhắc đến ngài, bảo rằng từ khi ngài gác cuốc, mấy năm nay những cây sâm tốt nhất núi Trường Bạch chẳng biết đã trôi dạt nơi nào rồi! Đại hội Sâm Vương lần trước, ngài không đến, Bát gia liền nói rằng nếu Kim gia xuất sơn, thì danh hiệu “Sâm Vương” chắc chắn chẳng đến lượt Liêu Quải gia ở Thông Hóa đâu. Ngài nói xem, khỏe mạnh như thế, sao lại rảnh rang mà gác cuốc chứ?”

Kim Bất Hoán chỉ mỉm cười nghe ông ta huyên thuyên, không đáp lời.

Lên đến lầu hai, dãy nhã gian đều đã có khách, ai nấy đều là những nhân vật quan trọng do Bát gia đích thân gửi thiệp mời. So với đám đông ở đại sảnh dưới lầu, những người trên lầu này thân phận cao quý hơn hẳn.

Kim Bất Hoán quen biết không ít người trong số đó, nên đều vào từng phòng chào hỏi, trò chuyện một lúc, rồi mới theo chưởng quầy Tôn bước vào một phòng riêng.

Từ sớm đã có tiểu nhị nhanh nhẹn pha trà hương, bày sẵn bốn đ ĩa mứt khô và hoa quả tươi.

Chờ cha con Kim Bất Hoán ngồi xuống, chưởng quầy Tôn nói: “Năm nay vẫn theo quy tắc cũ, tất cả khách quý được Bát gia gửi thiệp mời đều do Trường Bạch Lâu tiếp đãi, trong bảy ngày diễn ra đại hội không thu một đồng nào. Tôi đã dành riêng cho ngài một gian thượng hạng tại Tùng Hạc Cư ở hậu viện, đảm bảo ngài hài lòng.”

Kim Bất Hoán gật đầu đáp: “Làm phiền rồi. Ông cứ bận việc, không cần tiếp chúng tôi. Tiểu nhị cũng không cần ở lại hầu hạ. Chỉ cần khi nào Bát gia đến, thì báo cho tôi một tiếng là được.”

Chưởng quầy Tôn chắp tay đáp vâng, sau đó dẫn theo tiểu nhị lui ra ngoài.

Kim Thập Tam tính tình nóng nảy, ngồi một lúc đã không chịu được, liền chạy quanh phòng quan sát mọi thứ.

Cả căn phòng đều dùng gỗ Trắc được chế tác và nhập từ Nam Dương về, chạm rồng khắc phượng, trang hoàng sang trọng lộng lẫy. Trên tường còn treo tranh chữ danh gia, trông vô cùng quý phái tao nhã.

Hắn lại thấy trong đ ĩa hoa quả có mấy quả đào tươi, bèn cầm lấy một quả cắn ngập răng, miệng lúng búng nói: “Cha, cái Trường Bạch Lâu này đúng là không phải dạng vừa! Một tửu lâu trong huyện thành mà lại xa hoa đến thế!

Đừng nói đến chuyện bao toàn bộ chi phí ăn ở cho bao nhiêu người trong mấy ngày trời, chỉ riêng mấy quả đào tươi này, giữa cái tiết trời này, cũng không biết kiếm ở đâu ra?

Con nghĩ, đừng nói Trường Xuân, ngay cả mấy tửu lầu lớn hay quán trọ ở Phụng Thiên hay Bắc Bình (tên gọi cũ của Bắc Kinh) cũng chỉ đến thế này mà thôi!”

Kim Bất Hoán gõ tẩu thuốc, đưa lên miệng rít một hơi, liếc nhìn con trai, chậm rãi nói: “Mấy quả đào tươi này là do Bát gia đặc biệt sai người dựng nhà kính ở Bình Cốc để trồng, rồi dùng xe lửa và khoái mã vận chuyển về đây. Chuyện nhỏ nhặt này thì có đáng gì! Toàn bộ Trường Bạch Lâu này đều là sản nghiệp của Bát gia cả.”

Ông dừng một chút, rồi tiếp: “Từ khi Bang Sâm Trường Bạch phát động Đại hội Sâm Vương, tuy mang danh nghĩa là toàn bộ giới nhân sâm Quan Đông cùng tổ chức, nhưng thực tế cả bốn kỳ đại hội liên tiếp đều do Bát gia ở Phủ Tùng làm chủ sự. Nhà họ Dương của ông ta có tiếng là “Tiệm mười tám của chính thành Quan Đông”, con thử nghĩ xem hệ thống hiệu buôn nhân sâm của ông ta rộng đến mức nào?

Nhân sâm nhà họ Dương không chỉ được tiêu thụ khắp Trung Quốc trải dài từ Bắc Bình đến Thiên Tân, Thượng Hải, Quảng Châu, mà còn xuất khẩu sang Triều Tiên, Nhật Bản, thậm chí đến cả Hoa Kỳ. Ngay cả phủ của Đại soái Trương ở Phụng Thiên cũng dùng nhân sâm của nhà họ Dương quanh năm.

Chợ sâm ở Phủ Tùng đều mở phiên từ tháng Ba đến tháng Mười hằng năm, thương nhân khắp năm châu bốn bể đều đổ về thu mua. Gặp dịp Đại hội Sâm Vương diễn ra ba năm một lần thì càng náo nhiệt hơn nữa. Các thương gia buôn sâm trong và ngoài nước đều tề tụ về đây. Bang Sâm Trường Bạch chỉ cần thu phí môi giới từ các thương vụ nhân sâm mỗi năm thôi cũng đã vàng bạc đầy rương rồi.

Toàn bộ núi Trường Bạch này gần như là địa bàn độc tôn của Bang Sâm Trường Bạch. Mà Bát gia chính là Bang chủ của Bang Sâm Trường Bạch. Muốn làm người phóng sơn đi đào nhân sâm trên núi Trường Bạch, nếu không đến nhà họ Dương bái sơn cống nạp, thì đừng hòng đặt chân vào được cửa rừng.”

Kim Thập Tam lè lưỡi, nói: “Trời ạ, Dương Bát gia đúng là nhân vật lợi hại thật!” Hắn lại hỏi: “Cha, mấy năm nay cha đã gác cuốc không làm nữa, Đại hội Sâm Vương lần trước cha cũng không đến, sao lần này cha lại đến vậy ạ?”

Kim Bất Hoán rít từng hơi thuốc, nhìn chằm chằm vào cửa nhã gian, ngây người một lúc lâu rồi mới cất giọng chậm rãi: “Chín năm rồi… cuối cùng ông ta cũng chịu lấy ra.”

Câu nói này chẳng đầu chẳng đuôi, khiến Kim Thập Tam nghe mà không hiểu gì, bèn truy hỏi: “Cha nói ai? Lấy ra cái gì cơ?”

Kim Bất Hoán thở dài, nói: “Năm xưa, ta nhờ vào một cây “Thất Tiên Nữ” đoạt ngôi quán quân tại Đại hội Sâm Vương năm đó, còn được ông vua giới ngọc thạch Lưu Kim Hải mua lại với giá hai vạn đại dương, một cái giá chưa từng có tiền lệ, danh tiếng lẫy lừng khắp nơi.

Sau cuộc thi, tại Bách Nhân Yến ở phủ Dương, ta được xếp ngồi ghế đầu, cùng bàn với Dương Bát gia, Lưu Kim Hải và những nhân vật máu mặt khác. Khi ấy ta đang đắc ý, không kìm được mà khoe khoang vài câu. Ai ngờ, Lưu Kim Hải ngồi bên cạnh lại dội cho ta một gáo nước lạnh.

Ông ta bảo rằng: “Lão Kim này, cây “Thất Tiên Nữ” của ông đúng là thứ quý hiếm, nhưng vẫn chưa thể coi là “Sâm Vương” thực thụ đâu. Trong phủ Dương Bát gia còn có một cây “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ”, đó mới là báu vật chân chính!”, ta nghe vậy thì sững sờ, hỏi Lưu Kim Hải: “Lưu gia, Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ là tuyệt thế thần sâm trăm năm khó gặp, tôi vào nghề hơn chục năm cũng chưa từng nghe ai nói đã đào được. Ông đừng đùa tôi chứ?”

Lưu Kim Hải đáp ngay: “Đương nhiên là thật. Không những tôi tận mắt nhìn thấy, mà còn ra giá năm vạn đại dương, cộng thêm 30% cổ phần một mỏ ngọc thạch ở Phủ Thuận để mua, nhưng Dương Bát gia nhất quyết không bán.”

Ta lập tức quay sang Dương Bát gia hỏi xem có đúng vậy không. Nhưng ông ta chỉ cười cười, bảo rằng Lưu gia uống say nói đùa, không đáng tin. Lưu Kim Hải thấy Dương Bát gia không thừa nhận, cũng không thèm nói thêm, chỉ bảo mình đùa một chút. Mọi người cười ầm lên, chuyện này coi như gác lại.”

Kim Thập Tam càng nghe càng hứng thú, bèn hỏi: “Cha, thứ gọi là “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ” đó là cái gì vậy?”

Kim Bất Hoán giải thích: “Với chúng ta, những người lên núi đào nhân sâm, thì loài chim dẫn đường tốt nhất chính là chim gõ kiến. Loài chim này thích nhất ăn hạt nhân sâm. Nếu có thể may mắn gặp được nó, lần theo dấu vết, chắc chắn sẽ tìm được đại bổng chùy (củ sâm lớn).

Nhưng cơ hội này vô cùng khó gặp. Trong số đó, loài chim gõ kiến đầu vàng lại càng hiếm hơn, chúng ta gọi nó là “Kim Phượng Hoàng”. Nó rất tinh thông trong việc tìm nhân sâm, lại cực kỳ kén ăn, nếu không phải hạt sâm từ cây trên bốn mươi năm tuổi thì nó không ăn.

Kim Phượng Hoàng khi mớm thức ăn cho con, thỉnh thoảng đánh rơi hạt sâm vào hốc cây hay khe nứt trên thân cây bị sét đánh. Nhờ có lá mục, nước mưa bồi dưỡng, hấp thu tinh hoa của cây cối mà phát triển. Loại sâm này gọi là “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ”. Tương truyền loại sâm này có thể cải tử hoàn sinh, thịt nát xương tan đều có thể tái tạo, chính là tiên phẩm trong các loại sâm, cầu mà không được.

Nếu có ai may mắn gặp được, mười phần thì chín phần rưỡi sẽ bị mất bổng chùy mà không đào được.”

Kim Thập Tam hiểu ngay, vì trong giới thợ săn nhân sâm, có một thuật ngữ gọi là “mất bổng chùy”. Nó có hai ý nghĩa, một là, nhìn thấy từ xa nhưng đến gần thì mất hút; hai là, tìm được rồi nhưng chưa kịp đào thì mất tích. Dù có buộc dây đỏ với đồng xu hai đầu để giữ lại, nhiều khi đào lên vẫn chỉ còn chút vỏ sâm hoặc rễ mục. Người ta nói những loại sâm quý hiếm như vậy đã hấp thu tinh hoa đất trời quá lâu, sinh ra linh tính, có thể lần theo địa mạch mà trốn đi.

Kim Thập Tam vô cùng thán phục, nói: “Hóa ra cây “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ” này lại thần kỳ đến vậy! Chả trách Dương Bát gia không chịu bán, cũng không dễ dàng cho ai xem. Nhưng lần này tại sao ông ta lại chịu lấy ra cho cha xem chứ?”

Kim Bất Hoán nói: “Hôm ấy sau bữa tiệc, trong lòng ta cứ mãi vương vấn về cây “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ” này, dù thế nào cũng muốn được tận mắt thấy một lần. Ta không có ý gì khác, chỉ là làm nghề đào sâm mà nghe danh bảo vật lại không được chiêm ngưỡng, cảm giác ấy chẳng khác gì kẻ lữ hành trong sa mạc nhìn thấy suối mát mà không được uống. Thế là ta mang theo trọng lễ, lén đến phủ Dương, hi vọng tìm hiểu ngọn ngành. Nếu thực sự được nhìn thấy nó, coi như cả đời không uổng phí. Dương Bát gia khi ấy cũng không giấu diếm nữa, thừa nhận là có cây sâm này. Nhưng một báu vật trân quý như vậy sao có thể dễ dàng cho ai xem được? Ông ta thẳng thừng từ chối ta. Ta chỉ đành ủ rũ quay về, lòng nặng trĩu thất vọng. Đến mức chán nản, quyết định gác cuốc không đi đào sâm nữa. Lần này, Dương Bát gia đặc biệt gửi thiệp mời cho ta, bảo ta nhất định phải đến tham gia, còn cho ta làm một trong những giám khảo của đại hội. Quan trọng hơn, ông ta hứa sẽ cho ta được tận mắt nhìn thấy cây “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ”. Ta không hiểu tại sao ông ta lại thay đổi ý định, nhưng lại không thể cưỡng được lòng hiếu kỳ, vậy nên mới dẫn con đến đây.”

Kim Thập Tam còn muốn hỏi thêm, nhưng bỗng nghe thấy tiếng chào hỏi, trò chuyện rôm rả vang lên từ lầu một. Không biết ai đó buông một câu bông đùa, dẫn đến một tràng cười the thé, chói tai như kim loại cọ vào nhau vọng lên.

Kim Bất Hoán nói: “Dương Bát gia đến rồi. Ta ngồi đây không tiện, phải xuống đón tiếp một phen.”

Ông cầm điếu cày, gõ nhẹ vào thành khạc nhổ, trút sạch tàn thuốc, rồi cài lại vào thắt lưng. Nhìn lên đồng hồ treo tường, thấy kim giờ gần chỉ số chín, ông lại nói: “Bây giờ sắp đến giờ Tỵ, lát nữa Dương Bát gia sẽ dẫn mọi người lên miếu Sơn Thần làm lễ tế. Hôm nay, chỉ những ai được Dương Bát gia gửi thiệp mời mới đủ tư cách vào miếu, ta không thể dẫn con theo. Đây là lần đầu con đến Phủ Tùng, nơi này còn xa lạ, chớ nên đi lung tung. Trước tiên, cứ theo tiểu nhị về phòng khách nghỉ ngơi. Đến giờ Mùi (1 – 3 giờ chiều), Đại hội Sâm Vương sẽ được tổ chức ngoài sân miếu Sơn Thần, lúc đó con hãy đến xem náo nhiệt.” Dứt lời, ông chống cây gậy gỗ Hoàng Bá rồi đi thẳng ra ngoài.

Kim Thập Tam nghe thấy bên ngoài xôn xao, có vẻ như mọi người trên lầu cũng nghe động tĩnh, lần lượt kéo xuống. Lập tức, một giọng nói chói lói vang lên: “Lão Kim! Quả nhiên ông đến rồi, tốt quá! Lần này phải trông cậy vào đôi mắt tinh tường của ông, chọn ra Sâm Vương năm nay cho chúng ta đấy!”

Kim Thập Tam khẽ cau mày, thầm nghĩ, “Dương Bát gia danh tiếng lẫy lừng là thế, sao giọng nói lại giống cú mèo kêu giữa đêm vậy?” Hắn tò mò, muốn xuống lầu xem mặt mũi Dương Bát gia ra sao, nhưng lúc này một tiểu nhị bước vào, nói muốn dẫn hắn về phòng nghỉ. Từ phòng khách không cần đi qua đại sảnh, chỉ cần men theo hành lang trên lầu hai là đến được hậu viện. Phía sau Trường Bạch Lâu còn có nhiều dãy sân viện nối tiếp nhau. Kim Thập Tam theo tiểu nhị đi ngang qua hồ sen, hòn non bộ, vườn hoa, nhìn thấy lầu các san sát, chiếm diện tích đến mười mấy mẫu đất. Hắn tròn mắt kinh ngạc, thầm nghĩ, “Ta nghe nói vườn cảnh Giang Nam tinh xảo, chẳng lẽ cũng chỉ đến mức này thôi sao?” Về đến phòng khách, nhưng mới ngồi được chưa đầy một chén trà, hắn đã ngồi không yên.

“Tuổi trẻ ngồi một chỗ thế này khác gì bị nhốt trong ngục đâu?” Kim Thập Tam nghĩ đến khung cảnh náo nhiệt của Phủ Tùng, trong lòng háo hức không kìm được.

“Cả một tòa thành, chẳng lẽ lớn hơn nổi Bắc Bình hay Phụng Thiên? Đường đường nam tử hán đại trượng phu như ta, chẳng lẽ ra ngoài lại bị bắt cóc chắc?”

Hắn mò trong người, thấy vẫn còn mấy đồng đại dương cùng một ít ngân phiếu Đông Bắc, liền hớn hở rời khỏi phòng, đi thẳng về phía cửa chính của Trường Bạch Lâu. Đi ngang đại sảnh, thấy chẳng còn bóng khách nào, có lẽ đều theo Dương Bát gia lên miếu Sơn Thần hết rồi. Chỉ có vài tiểu nhị tụ tập tán dóc, vì Trường Bạch Lâu mấy ngày nay không tiếp khách ngoài, chỉ tiếp đón khách quý của Dương Bát gia, nên bọn họ cũng nhàn rỗi hưởng thụ khoảng thời gian này.

Kim Thập Tam bước ra phố, nghĩ bụng cứ đi đến miếu Sơn Thần xem thử, dù không đủ tư cách tham gia đại lễ tế thần, nhưng đứng ngoài xem náo nhiệt chắc cũng không sao.

Hắn vừa đi vừa hỏi thăm, hóa ra miếu Sơn Thần cách Trường Bạch Lâu không xa, nằm ngay đầu phía đông của phố Điền Tử, đi bộ chưa đến một khắc (15 phút) là tới. Nhưng điều hắn không ngờ đến là bên ngoài miếu đã chật cứng người, vòng trong vòng ngoài ba tầng bốn lớp, chen chúc đến nỗi cành cây trên mấy gốc hoè lớn trước miếu cũng đầy người ngồi, đông nghịt như nêm cối.

Toàn bộ đều là khách khứa khắp nơi đến Phủ Tùng tham gia Đại hội Sâm Vương và dân bản địa kéo đến xem náo nhiệt. Hắn cố gắng lách vào nhưng không tài nào chen nổi.

Hát hí kịch kể chuyện Sơn Thần. Phía đông của đám đông có một sân khấu dựng tạm, trên đó trống chiêng rộn ràng, diễn trò tưng bừng. Nhưng điều kỳ lạ là không phải điệu Nhị Nhân Chuyển quen thuộc của người Quan Đông, cũng chẳng giống kinh kịch đang thịnh hành khắp Trung Quốc.

Kim Thập Tam bèn hỏi một lão ông đứng bên cạnh: “Lão bá, đây là kịch gì vậy? Sao nghe giọng điệu và lời thoại cứ mang đậm chất Sơn Đông thế?”

Lão già liếc hắn một cái, đáp: “Chứ còn gì nữa! Đây là vở “Lưu Tử Hí” của Sơn Đông, chính Dương Bát gia đặc biệt mời gánh hát từ phủ Tế Nam đến đấy. Họ đang diễn câu chuyện về Sơn Thần của chúng ta đấy!”

Kim Thập Tam đương nhiên biết Sơn Thần và hôm nay chính là sinh thần của ngài. Khác với những Sơn Thần trong thần thoại, trong lòng những người làm nghề đào thảo dược, ông là nhân vật có thật, đó chính là ông tổ của giới thợ săn nhân sâm, Tôn Lương.

Tôn Lương vốn là người huyện Lai Dương, tỉnh Sơn Đông, sống vào cuối thời nhà Minh. Vì chữa bệnh cho mẹ, ông đã vượt biển từ bán đảo Giao Châu đến Quan Đông tìm nhân sâm. Trong cánh rừng già nơi núi Trường Bạch, ông gặp một người đồng hương cũng đi đào nhân sâm tên Trương Lộc. Hai người hợp ý, bèn lấy đất đắp lư, cắm cỏ làm hương, kết nghĩa huynh đệ, cùng nhau đi hái nhân sâm. Thấm thoát mấy tháng trôi qua, cả hai vẫn chưa tìm được cây sâm nào đủ mạnh để chữa bệnh cho mẹ Tôn Lương. Lòng như lửa đốt, ông thở dài suốt ngày. Thấy vậy, Trương Lộc đề nghị: “Chúng ta chia ra tìm kiếm, mở rộng phạm vi. Ai tìm thấy trước thì giao ngay cho huynh để huynh mang về cứu mẫu thân.”

Cuối cùng, Tôn Lương cũng đào được cây nhân sâm to như ý. Nhưng Trương Lộc không quay lại đúng hẹn. Lo lắng huynh đệ gặp chuyện, Tôn Lương cõng túi nhân sâm trên lưng, chạy khắp núi tìm kiếm. Tìm ngày tìm đêm suốt mười mấy hôm, lương khô mang theo cũng ăn hết sạch, mà vẫn không thấy tung tích của Trương Lộc. Sau khi cạn kiệt lương thực, ba ngày trời Tôn Lương chỉ ăn một con cào cào, vừa kiệt sức vừa đói, cuối cùng ngã gục bên một tảng đá lớn hình con bò đang nằm. Dùng chút sức lực cuối cùng, ông cắn đầu ngón tay, dùng máu mình viết một bài thơ tuyệt mệnh lên đá:

“Tại hạ họ Tôn, quê ở Lai Dương, vượt biển đến Quan Đông hái sâm.

Trên đường lạc mất huynh đệ, tìm dọc suối Cào Cào ngược lên.

Ba ngày chỉ ăn một con cào cào, huynh nói có đau lòng không?

Người đời sau nếu lạc đường trong núi, ta nguyện làm thần dẫn lối cho các người.”

Vài ngày sau, một người thợ đá đi ngang qua, phát hiện thi thể của Tôn Lương cùng bài thơ tuyệt mệnh, liền vô cùng xúc động. Lúc ấy trời đã gần tối, ông quyết định tạm thời về nhà, sáng hôm sau mang theo dụng cụ quay lại để chôn cất Tôn Lương.

Trời đất cũng tiếc thương. Đêm đó, gió lớn gào thét suốt đêm, thổi qua rừng già tạo thành tiếng rít u u, nghe như tiếng khóc ai oán. Sáng hôm sau, người thợ đá mang cuốc xẻng quay trở lại, nhưng khi đến nơi ông vô cùng kinh ngạc, thi thể của Tôn Lương đã bị cơn lốc cuốn theo đất đá vùi lấp. Người thợ đá xúc động than rằng: “Tôn Lương đã thành thần rồi! Ông trời đích thân hạ táng cho ông ấy đấy!” Thế là, ông lấy đục khắc bài thơ tuyệt mệnh lên tảng đá nằm bên cạnh thi thể Tôn Lương, khắc sâu dấu tích của người thợ săn sâm vĩ đại này.

Sau đó, mỗi khi gặp ai, thợ đá đều kể lại câu chuyện cảm động về Tôn Lương. Người dân nghe xong đều vô cùng khâm phục nhân cách của ông, thường xuyên đến trước mộ ông khấu đầu cầu khấn. Kỳ lạ thay, từ đó về sau, nhiều thợ săn sâm nằm mơ thấy một ông lão râu trắng hiện ra chỉ lối, giúp họ tìm thấy sâm quý hoặc thoát khỏi hiểm cảnh trong rừng sâu.

Dần dần, mọi người đều tin rằng đó chính là hóa thân của Tôn Lương, người đã trở thành thần bảo hộ cho những người vào rừng hái sâm. Có người tìm đến quê hương Lai Dương, Sơn Đông, tìm hiểu được ngày sinh của Tôn Lương là ngày 16 tháng 3 âm lịch. Từ đó, ngày này được toàn bộ giới thợ săn sâm coi là “Tiết Sơn Thần”. Chỉ sau khi làm lễ tế Sơn Thần Tôn Lương xong, người ta mới dám vào rừng hái sâm.

Kim Thập Tam từ lâu đã nghe cha mình, Kim Bất Hoán, kể về câu chuyện này. Bất kể truyền thuyết có thật hay không, Kim Bất Hoán luôn nói rằng những người săn sâm tôn thờ Tôn Lương làm Sơn Thần, thực chất là tôn thờ hai chữ “hiếu nghĩa”. Nhân sâm là tài sản mà trời ban cho những người làm nghề săn nhân sâm này, nhưng khi đối diện với tài phú, điều con người dễ đánh mất nhất chính là lòng hiếu nghĩa.

Kim Thập Tam nghe thấy bên trong miếu Sơn Thần khi thì pháo nổ đì đùng, khi thì chuông trống vang lên. Biết rằng lễ tế thần còn lâu mới kết thúc, hắn cảm thấy chán nản, liền chui ra khỏi đám đông, men theo phố Điền Tử dạo chơi. Lúc này, thành Phủ Tùng thực sự là biển người, náo nhiệt tưng bừng.

Người đông thì buôn bán cũng phát đạt, vô số quầy hàng được bày dọc hai bên phố, giống như một hội chợ lớn, có quầy bán các món ăn vặt, có sạp bán vải vóc, lụa là, có nơi bày bán đồ chơi phương Tây, cũng có những gánh xiếc, người nhào lộn, biểu diễn tạp kỹ.

Kim Thập Tam hết ghé hàng này ăn một bát bánh nếp hấp, lại sang hàng kia mua hai miếng bánh dày, gặp thứ gì lạ mắt cũng mua một hai món, thấy trò gì thú vị liền dừng lại xem. Hắn dạo chơi vui vẻ, hứng thú vô cùng.

Lúc này, Kim Thập Tam đang ngồi xổm trước một quầy hàng bán tẩu thuốc, chăm chú nhìn một món đồ kỳ lạ. Đó là một cái tẩu ngắn nhưng đầu rất to, bên trên còn có một cái lỗ lớn, khiến hắn vô cùng tò mò.

Chủ quầy là một người đàn ông trung niên gầy gò, nhưng miệng lưỡi vô cùng lanh lợi: “Vị tiểu gia này, mắt tinh thật đấy! Cậu có biết thứ cậu đang cầm là gì không? Đây gọi là tẩu thuốc. Cái này trước kia là thứ mà bọn đại quý tộc, tướng quân mũi to người Nga chuyên dùng để hút thuốc đấy! Cậu nhìn kỹ thân tẩu đi, nó được làm từ rễ cây Thạch nam. Biết rễ cây Thạch nam là gì không? Nó chôn dưới đất hơn hai trăm năm, còn lâu đời hơn cả nhân sâm đấy! Cậu nhìn miệng tẩu này đi, được khảm ngọc Hòa Điền vàng thượng hạng từ Hòa Điền. Cậu thấy cả sạp hàng của tôi không? Tẩu thuốc, điếu cày, dụng cụ hút thuốc đủ cả nhưng tẩu thuốc kiểu này thì chỉ có một cái duy nhất! Mà cái này cũng không phải do tôi làm ra, mà là năm xưa cha tôi đến Thông Liêu sửa đường cho đám mũi to người Nga, từ trong lều của một viên tư lệnh Nga ăn trộm về đấy…”

Kim Thập Tam cười thầm trong lòng, nghĩ bụng, “tên bịp bợm này thật sự coi mình là thằng nhóc quê mùa, cái gì cũng không biết chắc?” Cha cậu, Kim Bất Hoán, đã bôn ba vùng Quan Đông bao năm, từng trải rộng rãi, hiểu biết sâu rộng, trong nhà cũng có của ăn của để. Kim Thập Tam từ nhỏ đã nghe cha dạy dỗ, nên cũng chẳng phải tay mơ.

Rễ cây Thạch nam là gì thì cậu không rõ, nhưng nhìn là biết ngay chất liệu tẩu này chỉ là một mẩu gỗ sồi rẻ tiền, chỉ là được chạm khắc thêm vân giả, rồi quét một lớp dầu trẩu lên cho bóng đẹp mà thôi. Cái gọi là “ngọc Hòa Điền vàng” trên miệng tẩu càng sai bét, rõ ràng chỉ là ngọc vụn Đông Bắc mà thôi.

Còn cái câu chuyện trộm được từ doanh trại tướng Nga, thì cứ coi như nghe ông ta bốc phét cho vui vậy. Tuy nhiên, chiếc tẩu này quả thực có kiểu dáng độc đáo, mà cha hắn thích hút thuốc, mua về làm quà cũng không tệ.

Kim Thập Tam lười dài dòng với gã bán hàng, liền nói thẳng: “Mười đồng Phụng phiếu (giấy bạc Đông Bắc), bán hay không?”

Gã bán hàng trợn tròn mắt, nói: “Tiểu gia, cậu nói đùa phải không? Cái tẩu này ít nhất cũng đáng năm mươi đồng đấy!”

Kim Thập Tam hừ một tiếng, nói: “Đừng tưởng ta không biết gì mà lừa bịp! Cái tẩu gỗ sồi rẻ tiền này mà đòi năm mươi đồng? Mơ đi! Ta không thèm chấp nhặt cái mồm ba hoa của ngươi, mười đồng đã là giá hời rồi! Bấy nhiêu cũng đủ cho ngươi ăn uống cả nửa tháng, mà còn tham nữa à? Thôi, giữ lại mà tự xài đi nhé!”

Nói rồi đứng dậy bỏ đi. Gã bán hàng thấy thế, liền vội vàng gọi giật lại: “Ấy đừng mà tiểu gia! Cậu bớt chút nữa là được mà!”

Kim Thập Tam vừa định trả lời, thì chợt nghe một giọng nói trong trẻo bên cạnh vang lên: “Tiểu thư, chiếc tẩu này kiểu dáng cũng khá lạ, hay là cô mua tặng lão gia đi?”

Kim Thập Tam quay đầu nhìn, thì thấy hai cô gái trẻ. Một người mặc áo bông lụa hoa, mặt tròn, mắt mày ngay ngắn, chỉ có vài đốm tàn nhang bên cánh mũi. Người còn lại thì khác hẳn, cao hơn một chút, mặt trái xoan, mắt hạnh môi anh đào, tóc tết thành hai bím đen nhánh, trên còn cột nơ bướm nhỏ. Trang phục cũng rất khác biệt, cô mặc một chiếc áo dạ màu lạc đà kiểu phương Tây, bó eo tôn dáng, càng làm nổi bật thân hình thon thả, yêu kiều. Nhìn cô cứ như minh tinh trong tranh ảnh của người phương Tây vậy.

Cô gái mặt tròn lên tiếng trước. Thấy Kim Thập Tam trợn mắt đờ người nhìn mình, cô liếc xéo một cái, bĩu môi nói: “Nhìn cái gì mà nhìn? Nhìn ngây ra như nai ngố ấy!”

Kim Thập Tam mặt thoáng đỏ, vội quay đi. Cô gái mặt tròn quay sang gã bán hàng, nói: “Cái tẩu này, tiểu thư nhà ta mua. Bao nhiêu?”

Gã bán hàng cười niềm nở, nói: “Ui chao, hai vị cô nương đúng là biết nhìn hàng! Cái tẩu này được mài từ rễ cây Thạch nam, nạm ngọc Hòa Điền vàng, giá năm mươi đồng!”

Cô gái mặt trái xoan khẽ gật đầu: “Được, lấy cái này đi.”

Kim Thập Tam chớp chớp mắt, nói: “Gì mà được là mua luôn? Cái này tôi xem trước, muốn mua cũng phải hỏi tôi một tiếng chứ?”

Cô gái mặt trái xoan chưa kịp lên tiếng, thì cô mặt tròn đã vội kêu lên: “Anh xem trước thì sao? Anh không mua còn gì? Không mua thì không được để chúng tôi mua chắc? Tiểu thư nhà tôi quyết rồi!”

Kim Thập Tam ngẩng cổ, nói: “Ai bảo tôi không mua? Này ông chủ, năm mươi đồng, tôi lấy!”

Cô gái mặt tròn lập tức đáp: “Sáu mươi đồng!”

Kim Thập Tam hất cằm: “Bảy mươi đồng!”

Cô gái mặt tròn khẽ cười lạnh, nói: “Một trăm đồng!”

Kim Thập Tam cười phá lên, nói: “Được thôi! Cái gốc sồi cùi bắp này, làm giả rồi gắn thêm miếng ngọc Tụ Sơn tầm thường, mà mấy người lại bỏ hẳn một trăm đồng để mua! Thôi được, tôi nhường đấy! Này ông chủ, nếu họ không trả tiền, thì đừng để họ đi nhé!”

Cô gái mặt tròn sững sờ, tức giận nói: “Tiểu thư, cái tên này thật gian xảo! Hay mình tìm người dạy cho hắn một bài học!”

Nhưng cô gái mặt trái xoan chỉ mỉm cười, đáp: “Quyên Nhi không được vô lễ, chính em cứ thích đôi co đấy chứ. Một trăm thì một trăm, chúng ta đi thôi.” Cô lấy từ chiếc túi da kiểu dáng tinh xảo ra một tờ tiền giấy mệnh giá một trăm đồng, đưa cho gã bán hàng, rồi khẽ gật đầu với Kim Thập Tam, nắm tay Quyên Nhi rời đi.

Kim Thập Tam đứng đực ra, nhìn theo bóng hai nàng khuất dần, bỗng thấy mất hứng. Chẳng còn tâm trạng dạo chơi, hắn tạt vào một hàng quán ven đường, ăn đại hai cái bánh kẹp thịt hun khói, uống thêm bát canh bánh bột thái lát, rồi nhìn lại thời gian, sắp đến lúc thi đấu Sâm Vương, hắn quay lại miếu Sơn Thần.

Lễ tế đã hoàn tất. Sân khấu phía đông ngoài đền đã được gánh hát đã dỡ xuống, thay vào đó là một dãy bàn dài tăm tắp. Phía sau bàn ngồi vài vị trông có vẻ là ban giám khảo, nhưng chỗ ngồi chính giữa vẫn bỏ trống. Người ngồi ở ghế đầu tiên bên phải ghế chủ tọa, chính là Kim Bất Hoán.

Quan chủ lễ lần lượt giới thiệu ban giám khảo, đều là những thương nhân mua bán sâm lớn và các bậc thầy lâu năm trong nghề. Sau cùng, ông ta trịnh trọng mời giám khảo chính của cuộc thi Dương Bát gia lên sân khấu. Giữa tiếng vỗ tay rần rần từ khán giả, một người đàn ông gầy gò chừng năm mươi tuổi, chống một cây gậy văn nhân, từ tốn bước lên đài. Đầu trọc lốc, mặt toàn sẹo rỗ, coi như hỏng cả nhan sắc, dưới cằm lưa thưa vài sợi râu dê. Áo dài mã quái kiểu cũ, nhưng lại mang kính râm phương Tây. Kim Thập Tam suýt phì cười, không ngờ Dương Bát gia danh bất hư truyền lại có diện mạo xấu xí, kỳ lạ thế này!

Trên đài, mọi người đứng dậy chào. Dương Bát gia chậm rãi ngồi xuống, vẫy tay ra hiệu, lập tức khán giả im phăng phắc. Kim Thập Tam thầm nghĩ, trông thế thôi chứ ông ta uy tín lẫy lừng ở Phủ Tùng và trong giới nhân sâm.

Từng củ sâm được đặt lên bàn dài, có dải lụa đỏ buộc quanh thân. Nhân viên đo kích thước, cân trọng lượng, những củ không đạt chuẩn bị loại ngay. Những củ sâm hợp lệ sẽ được đánh số và chuyển đến các giám khảo. Ban giám khảo thảo luận, cuối cùng Dương Bát gia viết kết quả lên giấy đỏ rồi đưa cho quan chủ lễ tuyên bố. Kim Thập Tam nghe một hồi, cảm thấy không có củ nào xuất sắc cả. Khán giả cũng bàn tán xôn xao.

Hắn nhớ rằng Kim Bất Hoán từng nói: “Dạo này người ta khai thác vô tội vạ, nhân sâm thượng hạng càng ngày càng hiếm. Có kẻ còn đào cả sâm non, chưa kịp lớn đã bị móc lên! Nghề này không chỉ có “đào sâm”, mà còn phải biết “giữ sâm”. Như hồ Trát Cán ở tỉnh Cát Lâm, ngư dân giăng lưới có quy tắc, lưới chỉ giữ cá lớn, cá nhỏ tự chui ra. Như vậy mới duy trì được nguồn lợi lâu dài. Còn dân đào sâm bây giờ chỉ biết phá núi mà lấy, không chịu giữ gìn. Sớm muộn gì, Sơn Thần sẽ lấy lại hết những gì đã ban cho con người!” Mỗi khi nói đến đây, Kim Bất Hoán thường thở dài, than rằng chính vì lý do này mà ông đã gác cuốc nhiều năm, không còn lên núi tìm sâm nữa.

Gần hai canh giờ trôi qua, khi cuộc thi sắp kết thúc, cuối cùng xuất hiện một củ sâm gây chấn động! Nặng sáu lượng bốn phân, có sáu lá, tuổi thọ khoảng bốn mươi năm và có xuất xứ từ Cao Ly. Chủ nhân của củ sâm là một thương nhân người Triều Tiên. Kết quả, củ sâm này đoạt giải Sâm Vương của năm nay! Tại phiên đấu giá sau đó, Dương Bát gia đích thân bỏ tám ngàn đồng đại dương để mua lại.

Biết cha cùng các vị khách quý sẽ dự tiệc tại nhà Dương Bát gia, Kim Thập Tam một mình trở về Trường Bạch Lâu. Ăn vội bữa tối do tiểu nhị mang lên. Nằm dài trên giường, nghĩ xem cha có thấy được cây “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ” kia không. Rồi lại nhớ đến cô gái mặt trái xoan gặp ban sáng.

Không biết từ lúc nào, hắn đã thiếp đi. Khi tỉnh dậy, thấy đèn đã sáng, cha hắn ngồi trầm ngâm hút thuốc. “Giờ này rồi mà cha vẫn chưa ngủ à?” Kim Thập Tam dụi mắt, liếc đồng hồ đã gần mười hai giờ đêm. Hắn rót nước đưa cha. Kim Bất Hoán ngây người, một lúc lâu mới nói: “Thập Tam, sáng sớm mai chúng ta về nhà.”

“Sao vậy cha? Ngày mai chợ Phủ Tùng khai trương, chúng ta còn phải bán hết số nhân sâm đã mang theo mà?”

Kim Bất Hoán hít sâu một hơi, giọng trầm xuống: “Số nhân sâm đó không đáng gì. Cha muốn trở lại nghề cũ, phải về chuẩn bị, còn phải gọi cả chú Cáng Tử và chú Lão Muộn của con nữa.”

Kim Thập Tam sáng rực mắt: “Cha! Cuối cùng cha cũng chịu lên núi lại rồi!” Từ lâu, hắn đã nài nỉ theo cha vào rừng, nhưng lúc nhỏ thì cha bảo chưa đủ tuổi, khi lớn lên thì cha lại gác cuốc không làm nữa. Nay cha quyết định tái xuất, hắn mừng như bắt được vàng: “Cha, lần này cha nhất định phải dẫn con đi theo!”

Kim Bất Hoán nhìn con đầy yêu thương. Không sai, Kim Thập Tam sinh cùng ngày với ông tổ nghề đào sâm Tôn Lương, hôm nay vừa tròn mười tám tuổi, đúng lúc có thể truyền nghề. Thực ra, Kim Thập Tam không phải con ruột của Kim Bất Hoán. Kim Bất Hoán ba lần cưới vợ, nhưng cả ba người vợ đều chết sớm, không ai sinh con hết. Người ta bảo rằng ông khắc vợ khắc con, nên ông cũng chẳng thiết lấy vợ nữa.

Bảy năm trước, một đứa trẻ ăn mày bị đông cứng trước cửa nhà ông. Lúc đầu, ông định vứt ra bãi tha ma, nhưng vừa bế lên, nó liền hé mắt và gọi ông một tiếng “cha”, lòng ông chợt mềm nhũn. Dù đứa trẻ đang hấp hối, nhưng ông vẫn cố cứu nó, nhờ nhân sâm câu hồn giữ mạng, cuối cùng cứu sống được nó.

Trên người thằng bé có một túi hộ mệnh đan bằng kim tuyến, bên trong là một lá bùa vẽ bằng máu trên giấy dâu, trên đó còn viết cả sinh thần bát tự của đứa bé, sinh vào giờ Tý, ngày mười sáu tháng ba, thế mà lại trùng với sinh thần bát tự của ông tổ nghề đào sâm Tôn Lương. Trong túi còn có một bộ đồng tiền Ngũ Đế, lần lượt là Tần Bán Lạng, Hán Ngũ Thù, Đường Khai Nguyên, Triệu Tống Nguyên và Minh Vĩnh Lạc.

Kim Bất Hoán ngạc nhiên, thấy đây đúng là cái duyên trời định, lại thấy thằng bé thông minh lanh lợi, bèn nhận làm con nuôi. Vì nhặt được vào ngày mười ba tháng Giêng, nên ông đặt tên cho đứa trẻ là Kim Thập Tam.

Tuy không trực tiếp truyền nghề, nhưng hắn bẩm sinh có thiên phú về nhân sâm. Không ai chỉ dạy thì hắn vẫn phân biệt được tuổi sâm, phẩm chất và xuất xứ. Nay hắn đã trưởng thành, Kim Bất Hoán quyết định sẽ quay lại nghề cũ. Không vì điều gì khác, tuyệt học của bản thân không thể cứ thế đem theo xuống mồ được, không truyền cho hắn thì truyền cho ai?

Kim Thập Tam thấy cha không nói gì, liền vội vàng hỏi: “Cha, cha nói gì đi chứ, có thể dẫn con theo không?”

Kim Bất Hoán cười khà khà: “Thằng nhóc con! Ta có nói là không dẫn theo con sao?”

Kim Thập Tam vui quá, nhào tới ôm lấy cánh tay của Kim Bất Hoán, liên mồm nói “Cảm ơn cha.”

Kim Bất Hoán nghiêm mặt nói: “Đừng tưởng rằng lên núi là chuyện mới mẻ hay vui vẻ gì. Nếu không chịu nổi gian khổ thì xuống núi và đừng bao giờ nhắc đến chuyện lên núi nữa. Còn nữa, trên núi chỗ nào cũng nguy hiểm, con phải nghe lời, cha nói gì thì con làm vậy! Nếu con không nghe lời rồi làm mấy chuyện kỳ quái, thì cút xuống núi ngay và đừng bao giờ đòi ta cho con lên núi nữa. Hừ! Còn chưa kể đến con, ngay cả chú Lão Muộn của con và những người khác, có ai dám không nghe lời cha, đặc biệt là ở trên núi, nếu không thì đừng hòng theo cha đi kiếm sống!”

Kim Thập Tam cười nói: “Cha à, con biết rồi, không có chuyện đó đâu! Đừng nói là lên núi cho dù là ở nhà, thì cha nói hai con sẽ không nói một, cha nói đông con sẽ không nói tây, cha nói…”

Kim Bất Hoán cầm tẩu thuốc gõ lên đầu hắn, nói: “Đừng có giở trò ở đây. Sau khi lên núi, nếu con mà phá quy tắc thì đừng trách cha xử lý con!”

Kim Thập Tam rụt cổ lại, cười hì hì nói: “Dạ, thưa cha. Con không dám.” Hắn biết cha hắn rất tôn kính núi non, rất coi trọng các quy tắc khi lên núi. Bất kỳ ai dám vi phạm quy tắc, nhẹ thì bị đánh, tệ nhất là bị đuổi khỏi đội.

Qua một lúc, Kim Thập Tam lại hỏi: “Cha, cái cây “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ” kia, cha đã ngắm được chưa ạ?”

Kim Bất Hoán không đáp, biểu cảm trở lại bình thường, một lúc sau mới nói: “Đừng hỏi nữa, đã muộn lắm rồi, mau đi ngủ đi. Sáng sớm ngày mai còn phải lên đường!”


 
Sơn Thần - Phi Ảnh
Chương 3: Chương 3



Chương 3

Edit & beta: Cún

Tiếp nối câu chuyện trước. Chuyện kể rằng cha con Kim Bất Hoán và Kim Thập Tam đến thành Phủ Tùng để tham gia Đại hội Sâm Vương. Kim Thập Tam khó khăn lắm mới gặp được một dịp náo nhiệt như vậy, ban đầu cứ nghĩ có thể ở lại trong thành chơi thêm mấy ngày. Nào ngờ cha hắn, sau khi trở về từ bữa tiệc ở phủ Dương, bỗng nhiên nói phải nhanh chóng lên đường về nhà là để chuẩn bị lên núi Trường Bạch tìm sâm. Kim Thập Tam biết cha mình đã mấy năm rồi không lên núi, sao đột nhiên lại đổi ý, nhưng Kim Bất Hoán hứa lần này sẽ cho hắn theo, làm hắn cực kỳ vui mừng, phấn khích đến mức cả đêm không ngủ được yên giấc.

Sáng sớm hôm sau, khi trời còn tờ mờ sáng, Kim Bất Hoán đã dậy. Kim Thập Tam vốn là thanh niên ham ngủ, lần này cũng bật dậy theo, múc nước nóng rửa mặt qua loa, hai cha con ăn vội mấy miếng lương khô, chẳng kịp chào hỏi chưởng quầy Tôn, đã vội vã lên đường trong cơn gió rét căm căm, nhanh chóng trở về Kháo Sơn Đồn, một thôn trang cách thành Phủ Tùng ba mươi dặm.

Chẳng mấy ngày sau, những huynh đệ lâu năm như Lưu Lão Muộn, Triệu Nhị Lư, Hồ Nhá Mại, Lý Đại Hào Tử, cùng hai anh em Trần Cáng Tử, Trần Côn Tử, lần lượt nhận được thư của Kim Bất Hoán và tụ họp về nhà ông. Trong số này, ngoài Lưu Lão Muộn vốn đã sống cùng Kim Bất Hoán ở Kháo Sơn Đồn, những người còn lại đều từ nơi khác kéo đến.

Kim Thập Tam đều quen biết và rất thân thiết với những người anh em của cha. Tên thật của họ hắn chưa từng nhắc đến, cha hắn cũng chẳng giới thiệu, hắn cứ theo biệt danh mà gọi, nào là chú Lão Muộn, chú Cáng Tử… khi ấy, những người vào rừng tìm sâm đều xuất thân thấp kém, ít ai có học vấn, giữa họ ít khi gọi nhau bằng tên thật, nhiều người thậm chí còn chẳng có tên, chỉ gọi bằng biệt danh.

Chẳng hạn như Hồ Nhá Mại, nghe nói khi bán sâm chẳng bao giờ trả giá, bán bừa một lượt, có tiền là đi ăn chơi, hết tiền lại mang đồ trong nhà đi cầm cố. Gã cũng chẳng mặc cả, tiệm cầm đồ bảo bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu, bởi vậy mới có biệt danh đó. Còn Lý Đại Hào Tử, thân hình mập mạp nhưng mặt lại nhọn, mắt híp như con chuột cống ăn béo múp, thế nhưng gã lại làm việc cực kỳ tỉ mỉ. Triệu Nhị Lư thì cứng đầu như con lừa. Lưu Lão Muộn thì ngày thường lầm lì ít nói. Hai anh em Trần Cáng Tử và Trần Côn Tử thì thân hình vạm vỡ, mỗi lần đánh nhau đều thích vác gậy gộc ra mà phang.

Thông thường, một đội tìm sâm không có nhân sự cố định. Trước khi vào núi, người cầm đầu sẽ rải tin ra ngoài, ai muốn tham gia có thể tự do báo danh, sau đó người cầm đầu sẽ chọn lựa người thích hợp. Số lượng có thể ít hoặc nhiều, ít thì vài người, nhiều thì hai ba chục người. Nhưng riêng mấy người này, họ chưa từng rời bỏ đội của Kim Bất Hoán.

Một là vì Kim Bất Hoán có tay nghề cao, theo ông vào núi luôn có thể hóa hiểm thành an, năm nào cũng thu hoạch tốt. Hai là vì Kim Bất Hoán hào sảng, nghĩa khí, những đội tìm sâm khác khi đào được sâm, người cầm đầu thường lấy hơn nửa phần, nhưng Kim Bất Hoán lại chia đều cho mọi người, không hề giữ phần nhiều cho mình. Năm đó ông đào được cây “Thất Tiên Nữ”, đoạt ngôi vương tại đại hội Sâm Vương, bán được giá hai vạn đại dương, thế nhưng cũng chia đều số tiền đó cho cả đội, không giữ lại riêng.

Chỉ riêng điều này, đã khiến biết bao người muốn gia nhập đội của Kim Bất Hoán, trong đó không thiếu những tay lão luyện, giàu kinh nghiệm, nhưng ông không nhận ai khác, mỗi lần vào núi chỉ đưa theo mấy huynh đệ cũ này. Họ hiểu rõ nhau, ông dẫn họ đi cũng an tâm, họ đối với ông cũng một lòng trung thành. Hơn nữa, làm việc với nhau lâu năm, giữa họ cũng có sự ăn ý, phối hợp vô cùng ăn khớp.

Mấy năm nay, Kim Bất Hoán gác cuốc không vào núi nữa, mấy huynh đệ cũng chẳng tiện nói gì, đành ai nấy tự tìm kế sinh nhai. Nhưng mỗi năm, họ đều chuẩn bị quà cáp đến Kháo Sơn Đồn thăm ông. Chỉ có Lưu Lão Muộn không vợ không con, bèn ở lại Kháo Sơn Đồn, mua mấy mẫu ruộng tốt, thuê người cày cấy, sống cùng Kim Bất Hoán bầu bạn. Lần này nghe tin Kim Bất Hoán tái xuất, mấy huynh đệ vừa nhận được tin đã tức tốc lên đường. Lưu Lão Muộn lại càng phấn chấn, bận rộn lo liệu trước sau.

Chuyến này vào núi phải chọn ngày lành tháng tốt. Cả đội, tính cả Kim Thập Tam, tổng cộng tám người, quyết định xuất phát vào giờ Mão ngày hai mươi tám. Những năm trước, họ đều vào núi từ phía Bắc, men theo sông Hắc Long. Nhưng lần này, Kim Bất Hoán lại dẫn họ đi vòng xa hơn mấy chục dặm, đến cửa gió.

Địa thế nơi này hiểm trở, muốn vào núi phải vượt qua một con đèo kẹp giữa hai vách núi dựng đứng. Tuy rằng mùa xuân đã đến, nhưng lỗ thông gió vẫn phủ dày băng tuyết, gió Bắc rít gào, khó mà qua lại. Mấy huynh đệ đều thấy lạ, nhưng vì luôn kính phục Kim Bất Hoán, ông không nói, họ cũng không dám hỏi, chỉ biết cắm đầu mà đi theo.

Lỗ thông gió quả nhiên danh bất hư truyền. Vừa đến đèo, gió dữ cuốn theo băng tuyết li ti táp thẳng vào mặt, rát buốt như dao cứa. Kim Bất Hoán khom lưng đi trước dẫn đường, theo sau lần lượt là Triệu Nhị Lư, Hồ Nhá Mại, Lý Đại Hào Tử, Trần Cáng Tử, Trần Côn Tử, còn Lưu Lão Muộn và Kim Thập Tam chốt ở cuối.

Mọi người mỗi người giữ một đầu “tác bảo côn” (dây sâm bảo), móc nối với nhau thành một chuỗi dài để chống lại cơn gió điên cuồng. Kim Thập Tam mấy lần bị gió thổi loạng choạng suýt ngã, may nhờ có Lưu Lão Muộn đỡ, mới không bị lăn xuống núi.

Kim Thập Tam thở hồng hộc, hét lên: “Chú Lão Muộn, sao chúng ta phải vào núi từ cái nơi quỷ quái này vậy?”

Lưu Lão Muộn ngoái đầu lại, giọng ông trôi bập bùng trong gió lớn: “Không biết. Thủ lĩnh bảo đi đâu thì đi đó, đó là quy tắc của đội phóng sơn. Đừng nói nữa, nói nhiều mất hơi, càng đi càng mất sức.”

Kim Thập Tam đành nuốt hết thắc mắc vào bụng, nắm chặt đầu cuối của dây sâm bảo, lảo đảo bám theo Lưu Lão Muộn tiếp tục trèo lên.

Cả đội chật vật lắm mới leo tới đỉnh đèo, trước mắt lại là một con dốc dài gần như dựng đứng, góc độ không dưới sáu mươi độ. Người ta thường nói, lên núi dễ, xuống núi khó, huống hồ đây lại là dốc băng trơn trượt? Kim Thập Tam còn chưa kịp thở xong, thấy con dốc trước mặt thì đã sợ xanh mặt.

Thế nhưng Kim Bất Hoán cùng đám huynh đệ lại chẳng hề hoảng hốt. Họ ung dung mở túi hành lý, lấy ra “tiên nhân trụ” – một loại túi ngủ làm từ da hoẵng, chui vào trong đó chỉ để lộ đầu.

Chờ tất cả đã sẵn sàng, Kim Bất Hoán hô một tiếng, cả bọn lần lượt nằm gọn trong “tiên nhân trụ”, trượt theo con dốc, vèo một cái đã lao vút xuống dưới, chỉ còn lại mấy chấm đen nhỏ lẫn trong tuyết trắng.

Lưu Lão Muộn huých Kim Thập Tam một cái, hất cằm về phía dưới, ra hiệu bảo hắn làm theo. Kim Thập Tam hít sâu một hơi, tự nhủ rằng mình trước giờ cứ ầm ĩ đòi theo cha vào núi, giờ không thể mới gặp một con dốc đã chùn chân. Nghĩ vậy, hắn cũng bắt chước, chui vào “tiên nhân trụ”, nhắm mắt lại, siết chặt bụng, rồi đẩy mạnh người lao xuống.

Trên đường trượt xuống, băng tuyết văng tứ tung, quật vào mặt hắn, chui cả vào miệng, nhưng hắn không dám mở mắt. Bỗng nhiên, mông hắn va phải thứ gì đó cứng rắn, làm cả người mất thăng bằng, lộn nhào trên dốc núi. Cả thế giới trước mắt hắn đảo lộn, bụng dạ như muốn trào ngược. Đang lúc hoảng loạn, thân thể hắn đột nhiên va mạnh vào vật gì đó, rồi dừng lại.

Kim Thập Tam đau ê ẩm khắp người, lồm cồm bò dậy, thì thấy Trần Cáng Tử đang cười híp mắt nhìn mình, nói: “Tiểu Thập Tam, sao rồi? Màn “lừa lăn bánh” này không dễ chịu lắm nhỉ?”

Kim Thập Tam phì phì nhổ băng tuyết ra khỏi miệng, ngang bướng đáp: “Có gì đâu! Tiểu gia đây không thích trượt mấy, lăn thế này còn nhanh hơn!”

Chẳng bao lâu sau, Lưu Lão Muộn cũng trượt xuống. Ông phủi tuyết trên người Kim Thập Tam, lo lắng hỏi: “Thế nào? Không sao chứ?”

Kim Thập Tam còn chưa kịp trả lời, thì Kim Bất Hoán đã hừ lạnh một tiếng, mặt nghiêm nghị: “Có thể có chuyện gì chứ! Trẻ con muốn theo chúng ta vào rừng tìm sâm, không bị ngã vài lần thì thành người được chắc?”

Nói rồi, ông không để ý đến Kim Thập Tam nữa, móc ra một chiếc đồng hồ bỏ túi xem giờ, rồi nói: “Giờ đã quá trưa rồi, chúng ta dựng trại ăn cơm trước đã.”

Con dốc tuyết mà họ trượt xuống nối liền với một khu rừng rậm bạt ngàn, nhìn xa xa có thể thấy đỉnh Song Mục cao vút tận mây xanh. Nhiệt độ dần ấm lên, địa thế trong rừng lại thấp, hai bên còn có vách núi chắn gió lạnh, nên tuyết trong rừng gần như đã tan hết.

Cả nhóm dựng bếp đá bên rìa rừng, nhặt củi nhóm lửa, bắc một cái nồi sắt lên, đun chín thịt khô mang theo trong túi da, ăn cùng lương khô. Sau bữa ăn, thu dọn xong xuôi, Kim Bất Hoán dẫn mọi người xếp ba tảng đá lớn, tạo thành hình một ngôi miếu nhỏ. Lưu Lão Muộn giải thích với Kim Thập Tam rằng đây là quy tắc của dân tìm sâm, trước khi vào rừng, họ phải bái Sơn Thần, tức lão bá đầu Tôn Lương, cầu xin ông phù hộ bình an, rồi mới bắt đầu đi tìm nhân sâm.

Cúng bái xong, Kim Bất Hoán vẫn chưa vội dẫn cả đội vào rừng. Ông quan sát địa thế một hồi, chọn một khu đất nằm khuất gió, hướng về phía mặt trời dưới chân vách núi bên trái, rồi cùng mọi người dựng “địa xưởng tử”, một kiểu lều tạm của dân tìm sâm. Họ đốn gỗ làm khung, phủ vỏ cây lên trên để chống mưa, bên trong lót thêm cỏ Ula, một trong ba bảo vật của vùng Đông Bắc, có tác dụng chống ẩm và giữ ấm.

Sau khi địa xưởng tử được dựng xong, nơi đây sẽ trở thành chỗ ngủ nghỉ của cả đội sau mỗi ngày vào rừng tìm sâm. Tìm sâm không phải chuyện ngày một ngày hai, có một chỗ ở tạm thời như thế này, đối với bọn họ mà nói, cũng xem như là “nhà” trong khoảng thời gian này.

Mặt trời dần ngả về Tây, màn đêm buông xuống. Cả nhóm lại đốt một đống lửa lớn trước địa xưởng tử để xua muỗi, phòng thú dữ, đồng thời làm cột mốc cho những ai đi lạc có thể tìm về. Đốt lửa trại cũng có quy tắc riêng, củi phải được xếp theo chiều xuôi, phủ thêm cỏ Ula lên trên, tượng trưng cho sự suôn sẻ của chuyến đi. Ngọn lửa đầu tiên phải do bá đầu châm, và nhất định phải cháy thật rực rỡ, mang ý nghĩa một mùa tìm sâm bội thu.

Sau bữa tối, cả đội ngồi quây quần bên đống lửa, rít thuốc lào, chờ Kim Bất Hoán phân công nhiệm vụ, hay còn gọi là xếp gậy. Kim Bất Hoán là bá đầu, đương nhiên đảm nhận vị trí đầu gậy, chịu trách nhiệm tìm đường và phát hiện sâm. Phía sau đầu gậy là eo gậy, thường gồm hai người, chuyên hỗ trợ bá đầu kiểm tra, bổ sung những gì còn thiếu sót. Họ cũng là những người có kỹ thuật khai thác sâm thành thạo nhất, khi tìm thấy sâm sẽ giúp bá đầu đào bới. Kim Bất Hoán chỉ định Hồ Nhá Mại và Lý Đại Hào Tử vào vị trí này. Hai bên eo gậy là biên gậy, số lượng tùy thuộc vào quy mô đội hình, vừa có nhiệm vụ tìm kiếm sâm trong phạm vi rộng hơn, vừa đảm nhận việc bảo vệ cả đội khỏi rắn rết và thú dữ.

Khoảng cách giữa các thành viên trong hàng ngũ được quy định nghiêm ngặt, đầu gậy của người trước phải có thể chạm đến đầu gậy của người sau. Dân tìm sâm có một nguyên tắc, “Thà bỏ sót cả ngọn núi chứ không bỏ sót một viên gạch”, nghĩa là phải tìm kiếm thật kỹ lưỡng từng tấc đất. Kim Thập Tam được xếp vào vị trí ngoài cùng bên trái, đứng cạnh Lưu Lão Muộn. Kim Bất Hoán dặn dò cậu phải bám sát chú Lão Muộn, không được tự ý rời đội mà đi lung tung.

Tám người mang theo hai máy phun (người dân vùng Đông Bắc gọi các loại vũ khí như súng và súng hỏa mai là máy phun) một ngắn một dài. Súng ngắn là loại súng “hai mươi phát” do Đức sản xuất, được cài vào thắt lưng của Kim Bất Hoán. Súng phun nước dài là trang bị tiêu chuẩn của quân đội Nga, súng trường Mosin-Nagant, mà người Trung Quốc gọi là “Thủy Liên Châu”, nó được giao cho Lưu Lão Muộn mang theo. Hai khẩu súng này được Kim Bất Hoán mua với giá ba trăm đồng đại dương từ những người lính Nga bại trận chạy trốn đến Đông Bắc Trung Quốc. Trên thực tế, những người đào sâm rất ít khi sử dụng súng. Không chỉ đắt tiền, mà còn cồng kềnh khi mang theo. Sau khi bắn xong, rất khó tìm được nơi đổi đạn.

Cho nên, trước kia những người phóng sơn rất lười mang theo súng, nhưng lần này họ không ngại phiền phức mang theo súng. Dao, rìu và dây thừng là những vũ khí và công cụ thiết yếu đối với người đào sâm – chúng không chỉ có thể dùng tự vệ mà còn giúp họ xây dựng đường xuyên núi và xây cầu bắc qua sông. Mỗi người đều được phát một con dao rựa hoặc một cái rìu, ngay cả Kim Bất Hoán cũng có một con dao găm.

Kim Bất Hoán sắp xếp xong, dặn dò mọi người đi nghỉ ngơi sớm để sáng mai còn lên đường. Mọi người nhìn nhau do dự, nhưng không ai đứng dậy. Lưu Lão Muộn vốn ít nói, rít một hơi thuốc rồi buồn bã nói: “Bá đầu, mỗi lần chúng tôi theo ông lên núi, ông chỉ chỗ nào chúng tôi đi theo đó, không chút do dự. Theo lý thì lần này chúng tôi sẽ không hỏi gì, cứ việc đi theo ông là được. Nhưng lần này chúng tôi đã từ bỏ cách đi vào núi thông thường từ sườn núi phía tây và phía bắc, và đi vòng qua lỗ thông gió này, nơi chúng tôi chưa từng đến trước đây. Mọi người đều cảm thấy hơi bất an. Núi ở đây dốc, chúng tôi không quen với rừng. Người Triều Tiên ở bên cạnh thường lẻn qua biên giới đến đây hái nhân sâm, nên khi gặp nhau không tránh khỏi xung đột. Vậy bọn tôi muốn hỏi là ông có kế hoạch gì không?” Lưu Lão Muộn vừa nói xong, mọi người, bao gồm cả Kim Thập Tam, đều hướng ánh mắt về phía Kim Bất Hoán.

Kim Bất Hoan dùng cành cây châm lửa trại, ngọn lửa đột nhiên bốc cao, tạo thành cái bóng mờ ảo trên khuôn mặt ông. Một lúc sau, ông mới nói: “Lão Muộn nói không sai, mọi người theo ta vào núi, giao hết hi vọng về thu nhập thậm chí là tính mạng cho ta, ta đương nhiên sẽ nói hết kế hoạch cho mọi người. Nói thật nhé, lần này vào núi là vì ta nhắm vào cây “Nhị Tầng Lâu” mà đến.

“Nhị Tầng Lâu”! Mọi người tròn mắt ngạc nhiên. Trong quá trình thu thập và đào nhân sâm gần một nghìn năm, các ẩn sĩ đã dần hình thành nên một bộ tục lệ dân gian độc đáo, bao gồm “mật mã, kỹ thuật, điều cấm kỵ, công cụ, v.v.” Kim Thập Tam thường nghe Kim Bất Hoán giải thích những điều này, hắn biết rằng nhân sâm tùy theo năm sinh trưởng khác nhau mà chia thành nhiều loại như tam hoa, cọ, hai góc, chân đèn, bốn lá, năm lá, sáu lá, bảy lá, v.v…

Nhìn chung, những cây có hơn bốn lá được gọi là sâm quý và rất có giá trị. Giống như cây “Thất Tiên Nữ” mà Kim Bất Hoán hái được năm đó, chính là một cây sâm quý có bảy lá. Tuy nhiên, số lá sâm lớn nhất từng được ghi nhận trong ngành là tám lá, được biết đến với tên gọi “Tiếu Bát Tiên”. Nếu thân chính mọc bốn lá, hai tầng, bốn nhánh thì là loại tốt nhất trong số “Tiếu Bát Tiên”, tiếng lóng gọi là “Nhị Tầng Lâu”. Chỉ cần nhìn vào hình dáng, có thể kết luận rằng đó là một cây nhân sâm thượng hạng, hơn trăm năm tuổi, giá trị rất lớn.

“Bá đầu, nhưng từ đâu mà ông biết tin “Nhị Tầng Lâu” xuất hiện vậy, sao có thể chắc chắn rằng “Nhị Tầng Lâu” sẽ xuất hiện ở cửa gió này?” Lý Đại Hào Tử nhanh miệng hỏi.

Kim Bất Hoán nói: “Các chú cũng biết mấy ngày trước ta có đến Phủ Tùng tham gia “Đại hội Sâm Vương”. Ngôi vị Sâm Vương lần này bị một thương nhân người Triều Tiên giành mất. Buổi tối đến phủ Dương dự tiệc, vị thương nhân Triều Tiên kia vô cùng đắc ý, nói rằng nhân sâm Cao Ly sinh sản ở Triều Tiên là tốt nhất thế giới.

Thực ra, sâm núi Cao Ly và sâm núi Trường Bạch của chúng ta đều thuộc cùng một loài, nhưng chúng có đôi chút khác biệt ở một số chi tiết nhỏ và rất khó để phân biệt nếu không phải là chuyên gia. Khi thương nhân Triều Tiên kia tham gia cuộc thi, nguồn gốc của cây sâm được cho là từ tỉnh Gangwon của Triều Tiên, nhưng sau khi quan sát kỹ, ta phát hiện ra rằng thực chất đó là nhân sâm trên núi Trường Bạch ở Quan Đông chúng ta. Ta vốn dĩ định vạch trần, nhưng Dương Bát gia lại ra hiệu ngăn cản.

Sau cuộc thi, Dương Bát gia còn dùng tám ngàn đồng đại dương để mua lại cây sâm này. Ta biết Dương Bát gia có ý khác. Sau khi bữa tiệc tại phủ Dương kết thúc, nói: “Lão Kim, cây sâm đó đúng là nhân sâm trên núi Trường Bạch, trong cuộc thi tôi đã nhìn ra rồi.”

Ta hỏi Bát gia rằng nếu đã nhìn ra thì tại sao lại không vạch trần lời nói dối của người Triều Tiên kia? Dương Bát gia nói: “Lão Kim, chẳng nhẽ ông lại không nhìn ra à? Cây sâm đó còn chưa hoàn toàn thành hình, đã bị đào lên, từ đầu sâm và đường vân có thể thấy được, cây sâm này chính là một cây “Tiếu Bát Tiên”. Thực ra ta đã nhìn ra từ lâu, nhưng không nghĩ Dương Bát gia cũng có khả năng này, trong lòng thầm bái phục. Dương Bát gia lại nói: “Một năm trước, đội đào sâm của tôi đi ngang qua cửa gió và nhìn thấy một cây “Nhị Tầng Lâu” ở đó.”

Nghe thấy lời này của ông ta, ta rất ngạc nhiên, không ngờ rằng núi Trường Bạch thật sự sẽ xuất hiện một cây “Nhị Tầng Lâu”. Sau khi hỏi han cặn kẽ Dương Bát gia, ông ta nói rằng khi đó người của ông ta nhìn thấy cây “Nhị Tầng Lâu” đó, nhưng sử dụng hết tất cả các cách, để rồi bị vụt mất cây sâm quý. Ông ta vốn tưởng rằng đời này không có duyên với “Nhị Tầng Lâu”, ai mà ngờ tên thương nhân Triều Tiên kia lại đem theo một cây bên người để tham gia thi đấu, thế là ông ta lại dấy lên hy vọng có thể đào được một cây “Nhị Tầng Lâu.”

Mọi người nghe đến đây, liền cảm thấy khó hiểu, làm sao mà Dương Bát gia có thể nhìn thấy hi vọng có thể hái được một gốc “Nhị Tầng Lâu” từ một cây sâm Cao Ly cơ chứ? Kim Thập Tam vỗ đùi, nói: “Con biết rồi! Cha, cửa gió này ở sườn núi phía Nam của dãy Trường Bạch, ý của Dương Bát gia là, sườn núi phía Nam đã đến lúc đào được một cây sâm quý rồi! Bang sâm núi Trường Bạch của bọn họ vô dụng không hái được “Nhị Tầng Lâu”, liền nghĩ đến việc nhờ cha xuất sơn, dẫn đội đi hái sâm.”

Kim Bất Hoán nhìn hắn, gật đầu tán thưởng: “Thập Tam nói không sai, Dương Bát gia đúng là có ý này. Những người phóng sơn như chúng ta đó giờ không ai chịu đi đào sâm ở sườn núi phía Nam cả.

Một là, sườn núi phía nam của núi Trường Bạch đã nhiều năm rồi chưa từng hái được một cây sâm quý nên không đáng để đi đường vòng đến đây để hái sâm;

Hai là, địa hình ở đây hiểm trở, rừng rậm hoang vu, cực kỳ nguy hiểm, ta nghe người xưa kể lại rằng trong khu rừng này có những tà ma bị thần núi trấn áp, ngay cả thợ săn cũng không muốn đi săn ở đây, còn chúng ta, những người phóng sơn cũng không cần phải đến đây mạo hiểm;

Ba là, biên giới Trung Quốc với Triều Tiên không mấy rõ ràng, người Triều Tiên lên núi Trường Bạch hái sâm, luôn hoạt động ở khu vực này.

Bọn họ mặc kệ quy tắc của người hái sâm, rất dễ nảy sinh xung đột với người Trung Quốc. Chỉ cần bọn họ không lẻn vào địa bàn của Trung Quốc để hái trộm thì chúng ta cũng không cần thiết phải nổ ra tranh chấp với bọn họ.

Ở vùng núi rừng Quan Đông, bao gồm cả núi Trường Bạch, số lượng nhân sâm ở mỗi khu rừng đều được biết rõ. Đối với những cây có hơn sáu lá, thường phải mất mười lăm đến hai mươi năm chúng mới xuất hiện trở lại sau một đợt thu hoạch. Xét theo các dấu hiệu, đã đến lúc sâm quý xuất hiện ở sườn phía Nam của núi Trường Bạch.

Những người Triều Tiên đó không tuân theo quy tắc người hái sâm, hái hết nhân sâm mà họ thấy. Thật đáng tiếc khi “Tiếu Bát Tiên” phải mất thêm một hoặc hai năm nữa mới thành hình. Than ôi ~” Ông thở dài và lắc đầu.

Trần Cáng Tử lớn tiếng, nói: “Nếu thực sự có “Nhị Tầng Lâu”, vậy thì lần này chúng ta đi đúng là rất đáng! Tà ma cái khỉ gì, ông đây trước giờ không tin vào mê tín, cho dù có thật thì ông đây vẫn xử như thường! Ông đây căn bản không để đám người Triều Tiên vào trong mắt, dám cướp bổng chùy từ tay tôi, ông đây một gậy đánh ngã hắn.”

Lý Đại Hào Tử nhìn quanh rồi hỏi: “Bá đầu, làm sao Dương Bát gia biết được sườn núi phía nam đã đến lúc xuất hiện đại bổng chùy, mà từ một năm trước đã phái người đến đây tìm kiếm?”

Kim Bất Hoán gật đầu và nói: “Lão Lý hỏi rất hay. Từ chín năm trước, sau khi chúng ta hái được cây “Thất Tiên Nữ” ở sườn núi phía Bắc, mấy năm nay, người phóng sơn rất hay đi đến sườn tây, sườn bắc, đại bổng chùy ở đó càng ngày càng ít, chứ đừng nói đến việc hoàn toàn không tìm thấy “Tiếu Bát Tiên” hay “Thất Tiên Nữ”, cho dù chỉ là bổng chùy từ bốn lá trở lên cũng rất khó tìm, ta đã nghi ngờ không biết có phải là Sơn Thần đã di chuyển vị trí của chúng nó hay không. Mà sau khi thấy cây “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ” mà Bát gia sưu tầm, càng làm ta kiên định về phán đoán của bản thân.”

Kim Thập Tam kinh ngạc nói: “Cha, cha thật sự đã nhìn thấy cây “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ” rồi ạ?”

Kim Bất Hoán chưa kịp trả lời, thì Lý Đại Hào Tử đột nhiên đứng dậy, kích động mà xoa xuýt xoa: “Trời đất ơi, hóa ra trên đời này thật sự có “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ”! Hóa ra trong tay Dương Bát gia có một cây sâm quý là sự thật!” Những người khác càng trợn tròn mắt, chăm chú nhìn Kim Bất Hoán.

Kim Bất Hoán gật đầu, nói: “Đúng vậy, ta đích thực đã nhìn thấy cây “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ” đó, quả nhiên là báu vật trong các loại sâm. Cả đời người đi đào sâm như chúng ta, đừng nói là đào được nó, chỉ cần nhìn thấy một lần cũng đã là phúc phận rồi. Dương Bát gia nói, báu vật này là do có người hái được ở sườn nam núi Trường Bạch mười tám năm trước, sau đó ông ấy có duyên mua lại. Nếu tính toán như vậy, thì sườn nam này hẳn đã đến lúc lại xuất hiện cây sâm đại thụ. Thực ra, 5 năm trước ông ấy đã bắt đầu phái người đến đây đào sâm hàng năm, mãi đến năm ngoái mới phát hiện ra cây “Nhị Tầng Lâu”, điều này càng chứng minh suy đoán của ông ấy là đúng. Chỉ tiếc là người của ông ấy không có bản lĩnh, cũng chẳng có phúc phần, vào núi báu vật mà lại tay không trở về.”

Mọi người nghe xong đều vô cùng phấn khởi. Trần Cáng Tử xoa tay hào hứng nói: “Người của bọn họ không có bản lĩnh, nhưng anh em chúng ta thì có! Cây sâm đại thụ trên ngọn núi này, bất kể là “Tiếu Bát Tiên” hay “Nhị Tầng Lâu”, tất cả đều là của anh em ta!”

Lý Đại Hào Tử suy nghĩ một lúc rồi hỏi: “Bá đầu, Dương Bát gia đã cho ông nhìn thấy “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ”, lại còn chỉ dẫn chúng ta đến vùng đất quý giá này, chắc chắn là muốn nhờ ông đào được cây “Nhị Tầng Lâu” giúp ông ấy. Nhưng chúng ta không phải là người của Bang hội Nhân sâm núi Trường Bạch, cũng không phải “thanh phận” của ông ấy (
 
Sơn Thần - Phi Ảnh
Chương 4: Chương 4



Chương 4

Edit & beta: Cún

Lần trước, chúng ta đã nói đến chuyện Kim Thập Tam đi theo cha nuôi Kim Bất Hoán cùng mọi người vào rừng đặt bẫy, nghỉ đêm ở cửa gió trong rừng. Nửa đêm, hắn bị tiếng khóc của trẻ sơ sinh trong rừng đánh thức. Kim Thập Tam gan dạ, một mình vào rừng tìm kiếm nơi phát ra tiếng khóc, không ngờ lại chứng kiến cảnh một đàn hươu tự động tiến đến để một con dị thú chín đuôi hút máu. Nhưng khi đang nhìn lén, hắn lại bị con dị thú phát hiện và tấn công. Một luồng sức mạnh kỳ dị khiến Kim Thập Tam mất đi thần trí, cơ thể bị đông cứng, không thể cử động, chỉ có thể trơ mắt nhìn con dị thú lao đến.

Kim Thập Tam thầm than rằng mạng mình đã hết, bỗng nghe thấy một tiếng quát trầm thấp: “Nghiệt súc, không được làm hại người!” Trước mắt hắn loé lên một bóng xanh lao vụt qua tai mình rồi biến mất.

Thần trí Kim Thập Tam dần dần hồi phục, cơ thể cũng không còn lạnh buốt như vừa rồi. Hắn quay đầu lại, chỉ thấy một ông lão dẫn theo một bé trai khoảng bốn, năm tuổi đang đứng phía sau.

Ông lão tóc bạc phơ nhưng làn da lại hồng hào, nhẵn nhụi, ít nếp nhăn, trông không rõ đã bao nhiêu tuổi. Cậu bé búi tóc cao, mặt mày trắng trẻo đáng yêu. Kỳ lạ là cả hai người họ đều ăn mặc rất mỏng manh, không phù hợp với tiết trời lạnh lẽo của núi Trường Bạch. Trang phục của họ cũng không giống người thời nay mà trông giống như những nhân vật cổ trang mà Kim Thập Tam từng thấy trên sân khấu kịch.

Ông lão ôn tồn hỏi: “Tiểu huynh đệ, sao lại đến khu rừng này vào lúc này?”

Kim Thập Tam vẫn còn kinh hãi, ấp úng không biết trả lời thế nào, lắp bắp nói: “Tôi… tôi… không phải…”

Cậu bé kia cười khúc khích, nói: “Cha ơi, hắn bị… bị… bị cà lăm, nói chuyện không trôi chảy.”

Kim Thập Tam trừng mắt nhìn nó, nói: “Nhóc mới bị cà lăm ấy!” rồi quay sang ông lão chắp tay thi lễ: “Lão bá, tôi đến đây để đặt bẫy trong rừng. Ban đêm nghe thấy tiếng trẻ con khóc, thấy lạ nên lần theo tiếng mà đến, không ngờ lại gặp phải con quái vật đó.”

Ông lão thở dài: “Con súc sinh này từ khi bị người ta thả ra đã lang thang khắp khu rừng này. May mà ta đã phong bế nó lại, không thì đã đi khắp nơi gây hoạ cho người và gia súc. Nhưng chim thú trong khu rừng này thì đã gặp tai ương rồi! Haizz, đây cũng là kiếp số mà!”

Kim Thập Tam ngạc nhiên hỏi: “Lão bá, đây là loài quái vật gì? Hai vị là ai?”

Ông lão không trả lời mà chỉ nói: “Mau quay về đi, tiểu huynh đệ. Nhớ rằng sau này không được ở lại trong rừng sau nửa đêm. Nếu còn nghe thấy tiếng khóc của con thú này, hãy dùng cỏ Ula nhét vào tai, sẽ không bị nó mê hoặc.” Ông nắm tay cậu bé quay người định rời đi.

Cậu bé nói với ông lão: “Cha à, trên người hắn có năm đồng tiền Đế…” Ông lão ngắt lời nó, nói: “Ta biết rồi, cậu ta cũng là người có duyên! Haizz, “Ngũ Đế Tiền tụ, Sơn Thần xuất thế”, lại thêm một kiếp nạn nữa rồi…”

Kim Thập Tam nghe mà mơ hồ khó hiểu, liền hỏi: “Lão bá, ngài nói ‘xuất thế’ là sao? Còn ‘kiếp nạn’ lại là gì nữa vậy?” Nhưng ông lão và cậu bé không trả lời nữa, cứ thế nắm tay nhau rảo bước.

Kim Thập Tam vội đuổi theo gọi: “Lão bá, đợi đã! Tôi bị lạc đường rồi, làm sao để trở về?” Hắn ra sức đuổi theo, nhưng rõ ràng thấy ông lão và cậu bé chỉ đi chậm rãi phía trước mà mãi không thể bắt kịp. Đuổi một lúc, hắn kinh ngạc phát hiện bóng dáng họ ngày càng mờ nhạt rồi biến mất.

Kim Thập Tam hoảng hốt, vội hét lên: “Này! Này!” Bỗng nhiên thấy đau nhói ở vành tai, mở mắt ra thì thấy chú Cáng Tử đang ngồi xổm trước mặt, cười hì hì nhìn hắn. Hắn giật mình ngồi bật dậy, nhìn quanh bốn phía, thấy mình vẫn đang nằm trên chõng sưởi. Đầu óc rối bời, thầm nghĩ: Sao lại thế này? Sao mình lại trở về chõng sưởi rồi? Hai người già trẻ kia đâu mất rồi? Chẳng lẽ mình vừa nằm mơ?

Trần Cáng Tử thấy hắn ngồi đờ ra không nói gì, lại nhéo mạnh vành tai hắn một cái nữa, nói: “Sao thế, Tiểu Thập Tam? Nghĩ gì mà đờ người ra thế? Mau dậy đi, chúng ta phải xuất phát rồi, chậm trễ là cha nhóc sẽ nổi giận đấy!”

Kim Thập Tam bị nhéo đau, kêu “Ai da!” một tiếng, rồi quay sang hỏi Trần Cáng Tử: “Chú Cáng Tử, cháu về từ lúc nào vậy?”

Trần Cáng Tử sững người, vỗ vào sau gáy Kim Thập Tam rồi nói: “Ngủ đến lú lẫn rồi à? Nhóc vẫn nằm ỳ đây không chịu dậy, còn có thể đi đâu được?”

Kim Thập Tam sờ sờ vành tai bị kéo đến đỏ ửng, trong lòng nghĩ: “Xem ra đúng là mình đã nằm mơ. Nhưng giấc mơ này cũng chân thực quá rồi…”

Hắn mặc quần áo, cầm lấy gậy truy bảo rồi đi ra ngoài, thấy mọi người đã thu dọn xong xuôi, chuẩn bị xuất phát. Hắn hơi đỏ mặt, vội vàng đứng vào hàng ngũ. Kim Bất Hoán chẳng buồn nhìn hắn, chỉ lo dặn dò mọi người những điều cần chú ý, rồi theo địa hình và khu vực đã chọn sẵn mà dẫn đầu đoàn đi dò đường.

Lưu Lão Muộn lén nhét hai miếng bánh quy mặn vào tay Kim Thập Tam, nói: “Chưa ăn sáng đúng không? Trên đường nhớ ăn lót dạ, đừng để cha cậu nhìn thấy.”

Kim Thập Tam nhận lấy, ngại ngùng nói: “Xin lỗi chú Lão Muộn, cháu ngủ (người phóng sơn gọi giấc ngủ là “nã giác”) quên mất.”

Lưu Lão Muộn cười cười: “Người trẻ ham ngủ cũng chẳng phải lỗi lầm gì. Chú dậy sớm quen rồi, thấy cháu ngủ say nên không gọi. Nhưng lần sau đừng có dậy muộn nữa, cha cháu là người nghiêm khắc lắm, ai làm lỡ thời gian của ông ấy là bị ăn đòn đấy. Hôm nay là ngày đầu tiên cháu vào rừng, mọi người đã xin giúp cho cháu rồi, nhưng lần sau chưa chắc đã được đâu. Một lát nữa vào rừng thì nhớ để ý, đừng có mà bị lạc đường (người phóng sơn gọi bị lạc đường trong rừng là “mạt đát sơn”) đấy nhé. Rừng ở đây rậm lắm, khi chú “gõ côn” thì nhớ đáp lại nhé.”

Kim Thập Tam gật đầu. Hắn biết quy tắc của người dò đường, vào rừng không được tùy tiện hô hoán, vì sợ làm kinh động lợn rừng, dã thú, càng sợ làm cây nhân sâm sợ mà trốn mất. Nhưng rừng quá rậm, đôi khi không nhìn thấy bóng dáng nhau, để giữ nhịp độ của nhóm cũng như tránh lạc người, họ dùng cách lấy gậy khóa bảo gõ vào thân cây để liên lạc, gọi là “gõ côn”. Gõ một tiếng, từng người lần lượt gõ đáp lại, vừa để báo vị trí của mình, vừa để báo hiệu bình an, sau đó tiếp tục đi tìm kiếm.

Mọi người theo thứ tự đã sắp xếp từ hôm qua mà tiến vào rừng. Khu rừng này quá rộng, cũng quá rậm rạp, mấy người vừa vào đã như hạt kê rơi xuống hố cát, lập tức bị nuốt chửng bởi cây cối um tùm. Kim Thập Tam nhớ lại giấc mơ đêm qua, trong lòng vẫn còn sợ hãi. May mắn là bên trái hắn có chú Nhá Mại, bên phải có chú Lão Muộn, họ thỉnh thoảng lại “gõ côn” để liên lạc với hắn, khiến hắn yên tâm hơn nhiều.

Hắn làm theo lời cha dạy, chăm chú nhìn xuống mặt đất mà tìm kiếm. Nghĩ rằng sẽ nhanh chóng phát hiện được nhân sâm, nhưng đi suốt cả buổi sáng, chân mỏi nhừ, mu bàn tay cũng bị cành cây cào xước vài vết, mà ngay cả một cây “Đăng Đài Tử” cũng chẳng thấy đâu.

Đến trưa, Kim Bất Hoán “gõ côn” gọi mọi người tập hợp, thông báo tình hình rồi nghỉ ngơi ăn lương khô uống nước. Hồ Nhá Mại thấy Kim Thập Tam trông ủ rũ, liền cười hỏi: “Tiểu Thập Tam, sao mà mặt mày xị ra thế? Sáng nay thấy nhóc hăng hái lắm mà! Giờ sao trông như cà tím bị đông đá thế?”

Kim Thập Tam lẩm bẩm: “Đi cả buổi sáng rồi, đến một cọng rễ nhân sâm cũng chẳng thấy. Nếu muốn tìm được một gốc “Nhị Tầng Lâu”, chắc phải đợi đến năm Thân, tháng Ngọ mất!”

Kim Bất Hoán trừng mắt nhìn hắn một cái, quát: “Con tưởng đào nhân sâm dễ lắm à? Đừng nói chỉ một buổi sáng, mười ngày nửa tháng không “khai nhãn” (ám chỉ việc phát hiện ra cây nhân sâm đầu tiên) cũng là chuyện bình thường! Nếu không chịu nổi thì tốt nhất về nhà uống sữa đi, đừng có theo ta vào rừng nữa! Ông đây không chịu nổi mất mặt đâu!” Một tràng mắng làm Kim Thập Tam đỏ bừng mặt, không dám hé răng.

Hồ Nhá Mại vội vàng hòa giải: “Thôi nào thôi nào, Tiểu Thập Tam còn nhỏ mà! Lại là lần đầu tiên vào rừng, chưa quen cũng là bình thường, một thời gian rồi sẽ khá hơn thôi. Đứa trẻ này thông minh lanh lợi, sau này chắc chắn sẽ kế nghiệp huynh, trở thành một lãnh đạo giỏi giang.”

Kim Bất Hoán hừ một tiếng, nói: “Muốn trở thành một lãnh đạo giỏi, không phải chỉ dựa vào chút thông minh vặt vãnh. Trước hết phải chịu được khổ, vượt qua được thử thách! Bát cơm mà Sơn Thần ban cho, không dễ mà ăn đâu!”

Ông không thèm để ý đến Kim Thập Tam nữa, châm tẩu thuốc, ngồi xổm xuống rít mấy hơi.

Một lát sau, ông gõ tẩu, đổ tro thuốc xuống đất rồi dùng chân nghiền nát, sau đó quay sang nói với Triệu Nhị Lư: “Nhị Lư, địa mạch chỗ này không giống với sườn núi phía Tây hay phía Bắc, mà là thế Hàng Long. Hai bên núi non trùng điệp, thế núi sừng sững hiểm trở; ở giữa có cửa gió hẹp, càng đi vào trong càng rộng, như bước vào đại điện triều đình, giương cờ kéo ngựa. Thế đất này dễ tụ phong tích khí, hôm qua khi quan sát địa hình ta đã có cảm giác này. Vì vậy ta đoán rằng, càng xa cửa gió, càng gần khí nhãn, thì khả năng tìm thấy bổng chùy lớn càng cao.

Khu rừng ta đang đứng này tuy cách cửa gió khá xa, nhưng vẫn chưa phải nơi có khí nhãn. Sườn nam núi Trường Bạch quá rộng, bán kính phải đến vài chục dặm, nếu cứ tìm từng mảng một, e rằng đến mùa thu dọn rừng cũng chưa chắc đã tìm được “Nhị Tầng Lâu”. Nhưng chỉ cần xác định được vị trí khí nhãn, phạm vi tìm kiếm của ta sẽ thu nhỏ lại rất nhiều.”

Triệu Nhị Lư là trợ thủ đắc lực số một của Kim Bất Hoán, nhiều năm theo ông đi đặt bẫy săn nhân sâm, nên cũng có chút hiểu biết về địa thế núi rừng. Hắn gật đầu nói: “Bá đầu, huynh nói không sai, nơi này quả thực có thế Hàng Long. Chỉ có điều, huyệt nhãn rốt cuộc nằm ở đâu?”

Kim Bất Hoán lắc đầu nói: “Giờ ta cũng chưa rõ. Cứ tiếp tục tìm kiếm nhân sâm đã, để ta từ từ suy nghĩ.”

Ông đứng dậy, gọi mọi người tiếp tục đi dò đường.

Kim Thập Tam đi thêm hơn một canh giờ nữa, hai chân càng lúc càng mỏi nhừ, mắt cũng đau nhức vì phải chăm chú tìm kiếm dấu vết trên mặt đất. Hắn mệt mỏi quơ cây gậy bới đất một cách vô thức, bỗng nhiên mắt sáng rỡ, hét to một tiếng: “Nhân sâm!”

Theo quy tắc săn nhân sâm, nếu nhìn thấy nhân sâm thì phải lập tức hô to, gọi là “gọi núi”. Thứ nhất là để nhanh chóng báo hiệu cho đồng đội đến tập hợp; Thứ hai, tương truyền rằng tiếng hô này có thể giữ chặt linh hồn của cây nhân sâm, khiến nó không thể lặng lẽ biến mất.

Kim Thập Tam vừa hô lên, Kim Bất Hoán ở cách hắn hơn chục mét lập tức hỏi: “Loại mấy lá?” Đây gọi là “tiếp sơn”, sau khi có người “hô sơn”, người đó phải lập tức báo cáo cây nhân sâm có bao nhiêu lá. Nhưng mọi người đợi một lúc lâu vẫn không nghe thấy Kim Thập Tam trả lời, bèn tò mò chạy lại xem. Chỉ thấy Kim Thập Tam đứng đờ ra đó, mặt đỏ bừng, không nói một lời.

Lý Đại Hào Tử ghé mắt nhìn, lập tức hiểu ra, cười hì hì nói: “Tiểu Thập Tam bị “giả sâm” rồi!” Theo quy tắc săn nhân sâm, nếu hô lên nhưng phát hiện ra đó không phải nhân sâm, thì gọi là “giả sâm”. Người hô “giả sâm”, nếu nhẹ thì phải lập tức quỳ xuống trước thần núi để tạ lỗi; nếu nặng thì bị buộc phải quay về lán trại, không được tiếp tục theo đoàn tìm nhân sâm.

Lưu Lão Muộn lại nói: “Cây mà Thập Tam hô tuy không thể tính là nhân sâm, nhưng cũng là một cây “Nhị Giác Tử”, không thể nói là giả sâm được.”

Triệu Nhị Lư cũng nói với Kim Bất Hoán: “Đúng vậy, bá đầu, “Nhị Giác Tử” tuy không đáng giá, cũng không thể đào, nhưng dù sao lần này chúng ta cũng đến rừng nguyên sinh, mà Thập Tam lại là lần đầu tiên đi săn nhân sâm. Ngay ngày đầu đã tìm thấy một cây “Nhị Giác Tử”, cũng là một điềm lành. Theo tôi, Thập Tam nên thắp hương dập đầu, tạ ơn thần núi mới phải.”

Kim Bất Hoán hừ một tiếng, không nói thêm gì. Lưu Lão Muộn vội lấy một nén hương từ trong tay nải ra, đốt lên rồi cắm xuống đất, giục Kim Thập Tam mau chóng quỳ lạy.

Lúc này, Kim Thập Tam mới hiểu ra, săn nhân sâm không phải chuyện dễ dàng, còn tưởng có thể ung dung tìm được một cây lớn thì đúng là si tâm vọng tưởng. Sau đó, hắn không dám than mệt, cũng không dám lơ là nữa, mở to mắt chăm chú tìm kiếm. Nhưng đến khi mặt trời lặn, hắn vẫn chẳng tìm thấy cây nhân sâm nào. Không chỉ riêng hắn, mà cả đội ngày hôm đó cũng hoàn toàn trắng tay. Kim Bất Hoán dẫn mọi người quay về lán trại. Tối đến, khi nằm ngủ, Kim Thập Tam nhớ lại giấc mơ đêm qua, trong lòng vẫn còn sợ hãi, bèn vo hai nắm cỏ khô, nhét vào tai.

Suốt gần một tháng sau, mọi người rời lán từ sáng sớm, tối mịt mới trở về, đã lùng sục khắp khu rừng rộng cả trăm mẫu trước mặt. Đừng nói đến loại “Nhị Tầng Lâu”, ngay cả một cây nhân sâm ra hồn cũng chẳng tìm thấy. Thế là họ chuyển đến khu rừng phía Đông, sát vách mỏ ưng, tiếp tục dò đường. Lán trại cũ cách quá xa, đi đi về về bất tiện, nên bị bỏ hoang. Mọi người lại dựng mấy căn lán mới dưới chân vách mỏ ưng.

Đây là lần đầu tiên Kim Thập Tam ở lại chốn rừng núi hoang vu lâu đến vậy, ngày ngày ăn gió nằm sương, vất vả bôn ba. Đang vào độ giao mùa, tiết lạnh đã qua mà nóng bức chưa tới, thời tiết trong núi thay đổi thất thường. Dù từ nhỏ hắn đã theo Kim Bất Hoán luyện Mai Hoa Quyền, rèn luyện thân thể dẻo dai, nhưng làm sao có thể so được với đám lão sơn nhân vốn đã quen chịu đựng gió sương? Chẳng mấy chốc, hắn ngã bệnh, suốt mấy ngày liền đầu nóng sốt, cơ thể nặng nề, chỉ đành nằm lại trong lán nghỉ ngơi. Loại phong hàn này, trong mắt dân săn nhân sâm chẳng phải chuyện to tát, cũng có cách chữa trị. Trong núi, thảo dược chẳng thiếu thứ gì, hái về sắc thuốc cho hắn uống, dần dần bệnh tình thuyên giảm.

Hôm ấy, Kim Thập Tam cảm thấy đầu bớt nóng, cơ thể cũng nhẹ nhõm hơn, bèn khoác áo ra ngoài lán phơi nắng.

Lúc này trời đã gần trưa, cha hắn sớm đã dẫn mọi người vào rừng, bên ngoài chẳng còn ai. Núi vắng lặng, chỉ có tiếng chim hót, côn trùng rả rích bầu bạn với hắn. Hắn đi quanh lán mấy vòng, dần cảm thấy chán, bỗng nhiên mũi ngứa ran, không nhịn được hắt hơi một cái thật to. Đột nhiên, bụi rậm trước mặt xao động, rồi một con thú nhỏ màu vàng lao ra, vểnh cặp sừng cong nhọn, nhắm thẳng vào hắn mà húc tới!

Kim Thập Tam giật mình, tuy chưa hoàn toàn khỏe hẳn, nhưng mấy năm luyện võ vẫn còn tác dụng. Hắn lập tức sử chiêu “Yến Tử Hồi Tường”, nhanh chóng né sang một bên. Không đợi con thú quay đầu lại, hắn vớ lấy một hòn đá lớn, ném mạnh khiến nó loạng choạng. Con thú đau điếng, lập tức xoay người bỏ chạy. Kim Thập Tam lúc này mới nhìn rõ, thì ra là một con dê rừng, nặng cỡ bốn, năm chục cân. Trong đầu hắn đột nhiên nảy lên một suy nghĩ, nếu bắt được con dê núi này, cả nhóm sẽ được ăn ngon và bữa! Mấy ngày nay toàn ăn thịt khô, lương khô, đến mức miệng nhạt nhẽo chẳng có vị gì, giờ có một món ngon tự động đưa đến cửa, sao hắn có thể bỏ qua?

Kim Thập Tam đuổi theo phía sau, con dê hoảng loạn chạy thẳng về hướng vách mỏ ưng. Hắn mừng rỡ, vách đá ấy cheo leo hiểm trở, con dê này tự chui vào đường chết, không còn lối thoát! Nhưng hắn không biết rằng, đây là một con sơn dương, loài vật giỏi leo trèo bậc nhất. Khi đến chân vách, con dê chỉ nhảy ba bước đã leo lên được mấy mét. Kim Thập Tam nghĩ đến cái chân dê nướng bên ngoài giòn tan, bên trong mềm mọng, dầu mỡ chảy ròng ròng, liền nuốt nước miếng đánh ực, nghiến răng bám tay chân leo theo.

Một người một dê truy đuổi nhau, chẳng mấy chốc đã leo lên độ cao hơn mười trượng. Kim Thập Tam mấy lần suýt nắm được chân sau con dê, nhưng đều bị nó né thoát. Con dê vòng ra sau một tảng đá lớn, hắn lập tức đuổi theo, nhưng con vật đã biến mất không thấy tung tích. Hắn lần theo khe núi chật hẹp sau tảng đá, lại vòng qua một vách núi khác, rồi bỗng sững sờ trước cảnh tượng trước mắt. Trên một bệ đá trước vách núi, một con rắn dài cuộn tròn. Con rắn ấy to bằng miệng bát, dài chừng hai trượng, lưng phủ vảy xám sắt xen lẫn những vệt đỏ sậm. Đầu nó to cỡ nắm đấm người lớn, nhưng lại dẹt như hình bàn xẻng. Điều kỳ dị nhất là trên đỉnh đầu nó mọc một dãy u thịt màu đỏ máu, gồ ghề nhấp nhô, nhìn vừa ghê tởm vừa sởn tóc gáy.

Những người vào rừng săn sâm, hái thuốc, đốn gỗ, đãi vàng hay săn bắn đều gọi nó là “Thần Long”. Ai vô tình chạm mặt nó cũng đều lập tức tránh xa, về đến lán còn phải đốt hương lạy vái, xin được tha thứ vì đã quấy nhiễu. Nhưng một con lớn như trước mắt hắn thì đúng là chưa từng nghe nói đến! Thông thường, loài rắn độc hiếm khi có thân hình to lớn, trừ loài hổ mang chúa ở phương Nam. Bởi lẽ chúng săn mồi cỡ nhỏ, vũ khí chết người là nọc độc, không như trăn phải dựa vào sức mạnh cơ thể để quấn chặt con mồi to xác. Thực tế, ngay cả hổ mang chúa khổng lồ ở phương Nam cũng chủ yếu ăn thằn lằn, rắn khác hoặc các loài thú nhỏ. Nhưng “Thần Long” ở núi Trường Bạch thì chẳng chừa con mồi nào. Miệng nó ngoài cặp răng nanh tiêm nọc, còn mọc đầy răng cưa sắc nhọn. Gặp con mồi nhỏ, nó nuốt chửng ngay; gặp con to, nó sẽ phun độc khí làm ngạt, rồi dùng hàm răng sắc bén xé xác để nuốt từng miếng.

Lúc này, “Thần Long” không có thời gian để ý đến Kim Thập Tam vì nó đang đánh nhau với một con chim.

Con chim này chỉ to bằng một con chim ác là, đầu tròn và đuôi ngắn. Lông của nó màu nâu xám, nhưng đầu thì màu vàng. Chuyển động của nó nhanh hơn nhiều so với các loài chim thông thường. Nó bay lên bay xuống xung quanh “Thần Long”, thỉnh thoảng dùng mỏ mổ vào nó, rồi lập tức bay đi. Nhưng “Thần Long” phòng thủ rất chặt chẽ, cho dù thỉnh thoảng bị mổ, cũng không để ý vì thân hình to lớn, dạ dày.

Thấy không thể phá vỡ vòng phòng thủ của “Thần Long”, con chim đổi chiến thuật, bắt đầu bay vòng quanh đầu đang duỗi thẳng của “Thần Long. Đầu rồng cũng quay theo đường bay của con chim. Nó mở miệng định cắn con chim nhiều lần, nhưng con chim đã tránh được trong gang tấc.

Kim Thập Tam chăm chú nhìn cảnh tượng ngoạn mục của cuộc chiến dữ dội giữa con rắn và con chim, máu trong người sôi lên. Anh ta không biết tại sao con chim lại sẵn sàng liều mạng để chiến đấu với con “Thần Long” hung dữ này. Có thể con rắn đã ăn thịt con của nó, hoặc có thể con rắn đã phá hủy tổ của nó. Nhưng khoảng cách sức mạnh giữa loài chim này và “Thần Long” là quá lớn. Nếu chúng ta cứ tiếp tục chiến đấu như thế này, có lẽ chúng ta sẽ bị rắn cắn.

Sau khi con chim bay vòng quanh “Thần Long hàng chục lần, chuyển động của “Thần Long” dần trở nên chậm chạp và không thể theo kịp tốc độ của con chim. Thấy tình hình không ổn, “Thần Long” đột nhiên phun ra những đám sương độc màu hồng nhạt từ trong miệng. Con chim có vẻ rất sợ hãi, vỗ cánh và bay cao, rồi biến mất khỏi tầm mắt chỉ trong chớp mắt. “Thần Long” nhân cơ hội này duỗi người và luồn lách dọc theo vách núi để chuồn đi.

Đột nhiên, một bóng đen màu vàng lao xuống với tốc độ đáng kinh ngạc và mổ vào mắt “Thần Long”. Kim Thập Tam reo lên phấn khích, hắn không ngờ một con chim nhỏ như vậy lại có thể dùng thủ đoạn tinh vi như vậy. Nhưng đột nhiên hắn không dám kêu to, chỉ thấy “Thần Long” đau đớn, cái đuôi đột nhiên như tia chớp quét tới, đánh trúng con chim đầu vàng, lập tức đánh bay nó đi.

“Thần Long” bị mổ mù một mắt, đau đớn lăn lộn quằn quại trên mặt đất. Con chim nhỏ đầu vàng dường như cũng bị thương, vỗ cánh mấy cái nhưng không bay lên được. Chẳng bao lâu, “Thần Long” ngừng giãy giụa, thè lưỡi dài đen kịt, hung ác lao về phía con chim nhỏ.

Kim Thập Tam thầm kêu không ổn, máu nóng xộc thẳng lên đầu, không kịp suy nghĩ nhiều, bước nhanh tới, túm lấy đuôi rắn kéo mạnh ra sau. Nhưng hắn không biết cách bắt rắn, phải chế ngự đầu nó, đánh vào bảy tấc. Việc túm lấy đuôi rắn này ngược lại đã tạo cơ hội tốt nhất cho nó tấn công. “Thần Long” đang định nuốt chửng con chim đầu vàng, đột nhiên bị túm đuôi, liền lập tức xoay người, lao tới cắn vào chân Kim Thập Tam. May mà hắn phản ứng nhanh, vội buông đuôi rắn, lùi nhanh về sau.

Nhưng không ngờ con rắn trông có vẻ thô kệch, lại có thể dựng đầu lên, đoạn giữa uốn cong, bật lên như lò xo, phóng về phía mặt hắn. Kim Thập Tam chưa từng thấy con rắn nào có cách tấn công như vậy, trong lúc nguy cấp liền ngửa người ra sau, đầu rắn sượt qua trước mặt hắn, một luồng gió tanh nồng xộc đến, khiến hắn buồn nôn. Trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, hắn không kịp suy nghĩ, theo phản xạ đưa tay siết chặt cổ “Thần Long”.

Một người một rắn vật lộn trên mặt đất, lăn lộn mấy vòng. Con rắn đã quấn chặt cơ thể quanh người Kim Thập Tam, bắt đầu sử dụng chiêu chí mạng, siết chặt. Hắn lập tức cảm thấy khó thở, xương cốt toàn thân kêu răng rắc. Nhưng hắn không dám buông tay, bởi vì một khi buông ra, “Thần Long” chắc chắn sẽ vươn đầu cắn hắn. Hắn gắng sức siết mạnh, muốn bẻ gãy cổ “Thần Long”, nhưng rõ ràng lực siết của con rắn mạnh hơn rất nhiều, khiến mặt hắn tím tái, hơi thở yếu dần. Từ miệng rắn liên tục phun ra làn khói độc, mùi tanh hôi xộc vào mũi khiến hắn hoa mắt, tai ù, sức lực trên tay cũng dần mất đi. Hắn thầm than hôm nay mình chết chắc rồi, bỗng nhiên cảm thấy lực siết trên người lỏng đi một chút. Quay đầu nhìn lại, chỉ thấy con chim nhỏ đầu vàng đã gắng sức bay lên, mổ mạnh vào con mắt còn lại của “Thần Long”.

Kim Thập Tam nhân cơ hội này, thả một tay ra, đưa xuống thắt lưng, rút con dao găm mang theo bên mình, nhằm thẳng vào u nhọt máu trên đỉnh đầu “Thần Long” mà đâm xuống, ghim chặt đầu rắn xuống đất. Thân rắn mềm oặt xuống, quằn quại một chút rồi bất động.

Kim Thập Tam kiệt sức, duỗi thẳng người nằm bất động trên mặt đất, miệng thở d ốc. Con chim nhỏ đầu vàng tiến sát lại mặt hắn, dùng mỏ cọ cọ vào người hắn, dường như đang tỏ lòng biết ơn. Kim Thập Tam nằm một lúc lâu, dần dần hồi phục chút sức lực, nhưng đầu óc ngày càng choáng váng, trong bụng cũng buồn nôn dữ dội. Hắn biết mình đã hít phải luồng khói độc mà “Thần Long” phun ra, đây chính là triệu chứng trúng độc. Con chim nhỏ đầu vàng cất tiếng kêu “chiếp chiếp”, nhìn hắn, rồi dùng mỏ mổ vào bụng của “Thần Long”, sau đó lại nhìn hắn, rồi lại tiếp tục mổ vào bụng con rắn. Kim Thập Tam chợt bừng tỉnh, có lẽ con chim này đang ra hiệu rằng trong bụng “Thần Long” có thứ gì đó.

Hắn gắng gượng chống lại cơn choáng váng khó chịu, bò dậy, lật ngửa bụng trắng bệch của con rắn lên, dùng dao găm rạch một đường từ cổ xuống bụng. Một bụng đầy dịch nhầy lập tức tràn ra ngoài. Hắn lục tìm một lúc, bỗng có một viên ngọc to bằng quả trứng chim bồ câu lăn ra từ trong bụng rắn. Chưa từng thấy vật này bao giờ, hắn không khỏi kinh ngạc.

Hắn nhặt viên ngọc lên, lấy áo lau sạch, rồi tỉ mỉ quan sát. Viên ngọc có màu trắng, trên bề mặt ẩn hiện những tia máu, khi bóp thử thì thấy chất liệu khá cứng rắn. Hắn đưa lên mũi ngửi nhưng không thấy có mùi gì đặc biệt, bèn thử nếm một chút, chỉ cảm thấy vị hơi đắng.

Đột nhiên, một cơn buồn nôn mãnh liệt trào lên trong bụng hắn. Hắn không kìm được, há miệng nôn thốc nôn tháo, dường như muốn ói ra cả dịch dạ dày lẫn mật. Mãi mới ngừng nôn, hắn ngồi phịch xuống đất, mệt lử, nhưng bất chợt nhận ra cảm giác choáng váng trong đầu đã hoàn toàn biến mất, thậm chí còn thấy đầu óc tỉnh táo, tinh thần sảng khoái hơn.

Hắn ngạc nhiên nhìn viên ngọc trong tay, thầm nghĩ, chẳng lẽ thứ này có tác dụng giải độc? Chỉ mới li3m một chút mà đã loại bỏ hoàn toàn triệu chứng trúng độc của mình!

Thấy hắn vẫn ổn, chú chim đầu vàng nhỏ bé kêu “chiếp chiếp” thêm vài tiếng nữa rồi bay lên, lượn một vòng trên đầu hắn rồi bay đi mất.

Kim Thập Tam cất viên châu vào túi hộ thân đeo sát người, liếc nhìn xác con rắn trên mặt đất, rồi rạch lấy mật rắn, nuốt sống trong tình trạng còn đầm đìa máu tươi. Những ngày qua hắn bị bệnh, sáng nay thức dậy cũng chẳng ăn được bao nhiêu, hôm nay lại vất vả cả ngày, vừa rồi còn nôn sạch cả chút đồ ăn ít ỏi trong bụng.

Lúc này, một viên mật rắn trôi xuống dạ dày, lập tức khơi dậy cơn đói cồn cào, khiến hắn cảm giác như có thể gặm cả đá mà ăn. Trên người hắn không mang theo chút lương khô nào, trên vách núi này cũng chẳng có quả dại nào để hái ăn. Nhưng chuyện đói bụng này càng nghĩ càng thấy đói. Hắn thầm nghĩ, ở vách mỏ ưng dựng đứng hiểm trở, trèo lên đã khó, leo xuống còn khó hơn. Vừa rồi dốc hết sức giết rắn, tay chân giờ đã bủn rủn, nếu không ăn chút gì để hồi phục thể lực, thì dù thế nào cũng chẳng thể xuống nổi vách núi này.

Hắn quay vòng vòng như ruồi mất đầu, nhưng chẳng tìm được thứ gì có thể ăn. Đột nhiên, hắn vỗ trán, thầm nghĩ mình đúng là ngốc, con “Thần Long” này chẳng phải chính là đồ ăn sao! Hắn chưa từng ăn thịt rắn, người vùng Quan Đông cũng không có thói quen đó. Nhưng hắn từng nghe cha kể rằng người miền Nam ăn rắn, thịt rắn không có độc, thậm chí còn rất ngon khi hầm súp hoặc nướng lên. Thế nhưng, hắn không mang theo lửa, chẳng thể nướng rắn được.

Cơn đói trong bụng ngày càng dữ dội, hắn nghiến răng một cái, cắt phăng đầu rắn bằng dao găm, rồi chộp lấy thân rắn mà cắn. Nhưng thịt rắn sống tanh nồng, lại chẳng có dầu, muối, gia vị gì để điều hòa, ăn sống sao mà nuốt nổi? Vừa cắn một miếng, hắn đã buồn nôn. Thế nhưng, máu rắn chảy vào miệng lại có vị mặn, mùi tanh cũng không quá nồng. Hắn bèn nhắm mắt, ngửa đầu, cố gắng hứng lấy từng giọt máu mà nuốt xuống. Vừa uống được vài ngụm, đột nhiên hắn cảm thấy một luồng hơi ấm bốc lên trong bụng, ngày càng lan rộng và trở nên nóng bỏng.

Dòng nhiệt này lan tỏa khắp cơ thể, khiến hắn cảm thấy toàn thân thông suốt, khoan khoái không nói nên lời. Đôi tay, đôi chân vốn đã rã rời, không chỉ phục hồi lại sức lực mà còn tràn đầy sinh lực, đến mức hắn có cảm giác mình có thể đấm chết một con ngựa chỉ bằng một cú đấm!

Kim Thập Tam không ngờ máu rắn lại có hiệu quả như vậy, hắn nuốt từng ngụm lớn, cho đến khi máu trên người rắn chảy hết ra ngoài.

Con “Thần Long” này nặng ít nhất 40kg, sau khi lột da và nướng, có thể ăn trong nhiều ngày. Kim Thập Tam quấn xác rắn quanh người rồi đi xuống núi theo đường đã lên. Sau khi uống máu rắn, anh cảm thấy tràn đầy năng lượng, cơ thể nhẹ nhõm lạ thường, trèo xuống vách đá còn dễ hơn trèo lên.

Về đến lán trại thì trời cũng đã tối. Cha và các chú, các bác đều đã quay về, không thấy Kim Thập Tam, khi mọi người đang lo lắng, không biết hắn đã đi đâu, có khi nào bị lạc đường rồi không. Bọn họ vốn đang thương lượng sẽ vào rừng tìm kiếm, thì thấy hắn bình an vô sự mà quay về, mọi người liền thở phào nhẹ nhõm, càng ngạc nhiên hơn khi thấy trên người hắn có một cái xác rắn to.

Tuy rằng xác rắn không có đầu, nhưng khi Triệu Nhị Lư lật xác rắn lên, liền nhận ra đây là một con “Thần Long” trên núi Trường Bạch. Con “Thần Long” này to như vậy, hắn còn chưa thấy qua, cũng chưa từng nghe nói đến bao giờ. Hắn kinh ngạc mà hỏi Kim Thập Tam cái xác rắn này ở đâu ra, Kim Thập Tam liền kể lại cho mọi người nghe việc bản thân nhìn thấy trận đánh nhau của một con chim và một con rắn, cùng với việc hắn giúp đỡ con chim gi3t chết “Thần Long”.

Mọi người nghe đến mặt tròn mắt dẹt. Trần Cáng Tử vô vai Kim Thập Tam, nói: “Tiểu Thập Tam giỏi đấy! Người ta đều nói “Thần Long” là sứ giả tuần núi, người nào gặp phải đều không chạy kịp, nhóc con này ấy thế mà dám tiến lên, lại còn giết được nó. Giỏi lắm, rất ra dáng đàn ông!” Trần Côn Tử cũng cười nói: “Không tồi, không tồi, Trần Côn Tử tôi cũng phải bái phục sự gan dạ này! Tương lai chắc chắn sẽ thành một ba đầu tốt.”

Kim Bất Hoán mỉm cười nói: “Được rồi, được rồi, hai anh em các con quen thói ganh đua dũng mãnh, đừng có khen nó mãi vì chuyện này nữa.” Ông hỏi kỹ Kim Thập Tam về hình dáng của con chim kia, trầm ngâm nói: “Xem ra, đó chính là một con “Kim Phượng Hoàng” rồi!”

Kim Thập Tam trợn tròn mắt, hỏi: “Cha, cha nói con chim đó chính là một con chim gõ kiến mào vàng sao ạ?”

Kim Bất Hoán gật đầu, nói: “Loài chim gõ kiến mào vàng này cực kỳ hiếm gặp, hơn nữa còn rất linh tính. Hễ nơi nào có nó xuất hiện, chắc chắn trong khu rừng đó sẽ có một cây bổng chùy lớn ra đời. Xem ra, chúng ta đến sườn nam này là không sai rồi.”

Mọi người đã lang thang ở sườn nam núi Trường Bạch gần một tháng trời, ngoài mấy cây “Đăng Đài Tử” chẳng đáng giá, có thể nói là tay trắng trở về. Ai nấy đều không khỏi chán nản, thậm chí còn hoài nghi liệu nơi này có thực sự xuất hiện bổng chùy lớn hay không. Giờ nghe nói gần đây có “Kim Phượng Hoàng” xuất hiện, tinh thần cả nhóm lập tức phấn chấn hẳn lên.

Người Quan Đông không ăn thịt rắn, huống hồ thứ mà Kim Thập Tam mang về lại chính là một con “Thần Long”. Sau khi bàn bạc, mọi người quyết định đào một cái hố chôn xác rắn. Chú Lão Muộn còn đặc biệt đốt ba nén hương, quỳ xuống vái mấy cái trước mộ rắn. Kim Thập Tam thấy vậy, liền không dám nhắc đến chuyện mình đã nuốt mật rắn, uống máu rắn, thậm chí còn giấu đi một viên “Thần Long Châu”.

Chớp mắt đã hơn nửa tháng trôi qua, giờ đã là đầu hạ, thời điểm khí hậu dễ chịu nhất ở núi Trường Bạch. Rừng núi trùng điệp một màu xanh biếc, các loại cây như tùng Trương Tử, thông rụng lá, bạch dương, dương liễu, vân sam, cây đoan… mọc đan xen, cành lá um tùm. Thú rừng cũng xuất hiện nhiều hơn, nào là nai ngựa, tuần lộc, chồn zibelin, vịt trời, hoẵng, sơn dương, lợn rừng, thỏ tuyết… Thêm vào đó, nấm tai mèo, nấm tùng nhung và các loại nấm dại khác cũng mọc đầy. Nhờ sự hào phóng của thiên nhiên, Kim Bất Hoán và mọi người không còn phải lo lắng về thức ăn nữa.

Tuy nhiên, ngoài một gốc nhân sâm bốn lá miễn cưỡng coi là tạm được, thì họ vẫn gần như tay trắng. Mùa này, núi Trường Bạch thường có sương mù dày đặc, cộng thêm địa hình sườn nam trập trùng đồi núi, vô số khe sâu và hẻm núi chia cắt, khiến việc đi lại dễ bị lạc đường, càng làm cho việc tìm dược liệu thêm phần gian nan.

Hôm ấy, khu vực mà họ tìm kiếm đã tiến vào khu vực của dãy núi Thiên Nga. Kim Bất Hoán đứng trên sườn núi, quan sát địa hình xung quanh, rồi phấn khởi nói với Triệu Nhị Lư: “Nhị Lư, ngươi nhìn xem chỗ này, núi non bao bọc, sau cao trước thấp, rừng cây ở giữa lại không bị ánh nắng xuyên thấu, cũng không bị cuồng phong xâm nhập. Trên đỉnh còn có một dòng thác đổ xuống, dãy núi này chạy dài như rồng phun nước. Đây chính là vùng đất âm, e rằng khí nhãn cũng nằm ở đây.”

Ông xem xét kỹ các loại cây trong rừng, thấy chủ yếu là cây đoan, lại bốc một nắm đất lên bóp thử. Đất sét dẻo, mịn, màu nâu đen, bên trong lẫn cả cành lá mục nát. Kim Bất Hoán hài lòng gật đầu: “Không sai được, trong khu rừng này nhất định sẽ có bổng chùy lớn! Cả cây “Nhị Tầng Lâu” kia, tám phần cũng ẩn trong đây.”

Triệu Nhị Lư nói: “Bá đầu nói đúng! “Ba chẽn năm lá, lưng hướng dương, mặt hướng âm, muốn tìm đến ta, hãy kiếm cây đoan.” Chỗ này quả thực là nơi bổng chùy thích mọc nhất!”

Mọi người nghe vậy đều mừng rỡ. Kim Bất Hoán lập tức dặn Hồ Nhá Mại dẫn theo một người quay về dời trại, đem lương thực, dụng cụ ở khu cắm trại ở khe núi mười lăm dời sang đây, rồi dựng lán tạm trong rừng. Hồ Nhá Mại còn chưa kịp đáp lời, bỗng nghe Trần Cáng Tử quát lớn: “Ai đó?! Mẹ kiếp, cút ra đây cho ông!”


 
Sơn Thần - Phi Ảnh
Chương 5: Chương 5



Chương 5

Edit & beta: Cún

Chương trước nói đến, nhóm người Kim Bất Hoán vào rừng tìm sâm, liên tiếp nhiều ngày không thu hoạch được gì. Còn Kim Thập Tam vì đuổi theo một con dê núi, vô tình leo lên vách mỏ ưng, gặp được một con chim gõ kiến mào vàng đánh đánh nhau với một con rắn lớn. Thấy chim gõ kiến mào vàng đấu không lại, Kim Thập Tam liền ra tay giúp đỡ, gi3t chết con rắn được người đào sâm gọi là “rồng thần núi Trường Bạch”. Chim gõ kiến mào vàng cảm ơn rồi bay đi.

Kim Thập Tam xẻ bụng rắn, ăn mật rắn, uống máu rắn, còn có được một viên xà châu thần kỳ. Sau khi quay về, hắn kể lại với mọi người, Kim Bất Hoán nói đây là một con chim gõ kiến mào vàng, được người đào sâm gọi là “Kim Phượng Hoàng”, vô cùng hiếm gặp, nó có linh tính, chuyên ăn hạt của các loại linh bảo. Phàm là khu vực có chim gõ kiến mào vàng xuất hiện, tất có bổng chùy lớn.

Cả nhóm xốc lại tinh thần. Khi cả nhóm đến được dãy núi Thiên Nga, Kim Bất Hoán phát hiện nô này là một vùng đất rất âm u, chắc chắn sẽ có bổng chùy lớn, ra lệnh cho mọi người di dời lán trại. Đúng lúc này, Trần Cáng Tử đột nhiên phát hiện gần đó có người đang lại gần, lớn tiếng hét lên.

Một trận xào xạc vang lên, phía sau họ lần lượt xuất hiện hơn hai mươi bóng người. Kim Bất Hoán nhìn trang phục của những người này thấy khác với người Trung Quốc, dường như là người Triều Tiên. Nhìn vào các công cụ họ mang theo, có vẻ như họ cũng đến để vào rừng đào sâm.

Trong khu rừng này không có gậy gộc, anh em họ Trần mỗi người rút một chiếc rìu đeo bên hông, trừng mắt nhìn nhóm người đột nhiên xuất hiện này. Hai anh em xưa nay đánh nhau liều mạng, không quan tâm đối phương đông hay ít.

Chỉ cần Kim Bất Hoán ra lệnh một tiếng, họ lập tức lao lên quyết chiến. Những người khác cũng lần lượt rút dao phay mang theo bên mình, Lưu Lão Muộn tháo khẩu súng dài đang đeo trên lưng xuống, ngay cả Kim Thập Tam cũng lấy dao găm ra, sẵn sàng ứng chiến.

Kim Bất Hoán giữ nét mặt trầm lặng, không lên tiếng. Quy tắc vào rừng đào sâm rất coi trọng thứ tự đến trước sau. Khi họ vào khu rừng này, không chỉ đánh dấu đường đi bằng gậy mà còn buộc dây đỏ để khẳng định khu vực này đã có người đến trước. Những người đến sau khi nhìn thấy phải lập tức chuyển sang khu rừng khác. Nhưng người Triều Tiên thường xuyên phá vỡ quy tắc, vì thế mà hay xảy ra xung đột với người Trung Quốc, thậm chí nhiều khi còn dựa vào đông người để cướp hàng hóa của họ. Những vụ đụng độ dẫn đến thương vong không hề hiếm.

Lúc này, Kim Bất Hoán không muốn xảy ra xung đột. Thứ nhất, đối phương có quá nhiều người; thứ hai, họ mang theo không ít súng đạn. Nhìn sơ qua, ít nhất đối phương có năm khẩu súng dài, hai khẩu súng ngắn. Nếu đánh nhau, phe mình chắc chắn chịu thiệt, có khi còn có người bỏ mạng. Những người đào sâm không phải lũ cướp giết người cướp của, mà là những người làm ăn chân chính, ăn cơm cực nhọc để kiếm tiền từ nhân sâm. Ông đã dẫn mọi người vào rừng thì phải có trách nhiệm đảm bảo họ an toàn trở ra.

Kim Bất Hoán ra hiệu cho Trần Cáng Tử và những người khác không manh động, rồi hắng giọng một tiếng, lớn tiếng hỏi: “Các huynh đệ bên kia, ai là thủ lĩnh? Mời ra đây nói chuyện.”

Một người đàn ông ngoài ba mươi bước lên trước, chắp tay chào rồi nói: “Ta đây. Xin hỏi huynh đài quý danh là gì?”

Người đàn ông này có diện mạo kỳ lạ, khuôn mặt gầy gò như bị dao gọt, lông mày rậm như chổi quét, cằm nhô ra như cái xẻng. Hắn nói tiếng Quan Đông rất trôi chảy.

Triều Tiên nằm sát vùng Đông Bắc Trung Quốc, trước thời Dân Quốc từng là nước phiên thuộc của Trung Quốc trong thời gian dài, quan hệ hai nước khá sâu sắc. Triều Tiên từng dùng chữ Hán làm văn tự chính thức, người Trung Quốc di cư sang Triều Tiên qua các thế hệ cũng không ít, nên chuyện người Triều Tiên biết nói tiếng Hán không có gì lạ.

Thấy đối phương chịu giữ lễ nghĩa, ít nhất vẫn còn đường hòa giải. Kim Bất Hoán thầm thở phào một chút, cũng chắp tay đáp lễ: “Không dám nhận tôn xưng, tại hạ Kim Bất Hoán.”

Người đàn ông kia giật mình, hỏi: “Chẳng lẽ ngài chính là Kim bá đầu, người đã đoạt danh hiệu Sâm Vương chín năm trước với một cây “Thất Tiên Nữ” đó ư?”

Kim Bất Hoán gật đầu, nói: “Chỉ là chút danh tiếng nhỏ, không đáng nhắc đến. Xin hỏi huynh đài quý danh là gì?”

Người kia nói: “Thì ra thật sự là Kim bá đầu, thất lễ, thất lễ rồi! Danh tiếng và sự công bằng chính trực của ngài từ lâu đã vang xa, ngay cả giới săn sâm Triều Tiên chúng tôi cũng ngưỡng mộ không thôi. Tại hạ cũng họ Kim, tên Hách Dũng.”

Kim Bất Hoán nói: “Kim huynh, khu rừng này thuộc địa phận Trung Quốc. Các vị người là Triều Tiên vượt biên vào đây tranh giành với chúng tôi, lý lẽ ở đâu?”

Kim Hách Dũng đáp: “Kim bá đầu, ranh giới khu rừng này không rõ ràng, người Triều Tiên chúng tôi thường đến đây đào sâm để kiếm sống, sao có thể nói là tranh giành với các vị?”

Kim Bất Hoán nghiêm mặt nói: “Kim huynh, lời này của huynh không đúng rồi. Triều đại nhà Thanh của ta từ lâu đã dựng bia đá tại khu rừng này để xác định ranh giới. Chẳng qua những năm gần đây, Trung Quốc loạn lạc, chiến tranh liên miên nên việc quản lý biên giới có phần lơi lỏng. Nhưng ranh giới khu vực này đã được ghi chép rõ ràng trong văn bản lưu trữ của cả hai nước, giấy trắng mực đen, sao có thể nói là không rõ ràng?”

Kim Hách Dũng nghe vậy, không thể phản bác, nhất thời cứng họng. Hắn không muốn tranh cãi nhiều về vấn đề biên giới với Kim Bất Hoán, bèn nói: “Chuyện biên giới là việc của quan phủ, chúng tôi dân thường không quản được. Sâm núi Trường Bạch là lộc trời ban cho những người đào sâm như chúng ta để kiếm sống. Đường lớn rộng mở, mỗi người một bên, các vị đào của các vị, chúng tôi đào của chúng tôi, nước sông không phạm nước giếng, chẳng phải tốt hơn sao?”

Kim Bất Hoán lắc đầu, nói: “Kim huynh, lời này lại càng không đúng. Việc gì cũng phải có quy củ mới giữ được trật tự. Năm xưa, giới săn sâm vùng Quan Đông của chúng tôi từng vì những hỗn loạn trong nghề mà cùng nhau lập ra quy tắc. Người của quý quốc cũng cử người tham gia. Trong đó đã quy định rõ ràng: ai vào rừng trước thì được ưu tiên, kẻ đến sau thấy dấu hiệu phải tránh đi, nhằm tránh tranh giành, hỗn loạn và xung đột. Chẳng lẽ bây giờ giới săn sâm Triều Tiên các vị không còn giữ quy tắc ấy nữa sao?”

Kim Hách Dũng bị Kim Bất Hoán nói đến mức mặt đỏ bừng, nhưng hắn thấy rõ khu rừng cây đoan này là một vùng đất tốt, cơ hội tìm được bổng chùy lớn rất cao. Giờ hắn có đông người lại có súng ống trong tay, sao có thể dễ dàng buông tay?

Hắn đưa mắt quét qua nhóm của Kim Bất Hoán, thấy dù bọn họ ít người nhưng ai cũng trông không phải hạng dễ bắt nạt. Đặc biệt là hai gã đại hán cầm rìu, cao to lực lưỡng, bộ dạng hung hãn như sẵn sàng liều mạng bất cứ lúc nào. Hơn nữa, đối phương cũng có súng. Nếu thực sự động thủ, phe hắn ta chưa chắc thua, nhưng chắc chắn sẽ có thương vong.

Làm nghề này, điều quan trọng nhất vẫn là kiếm tiền, không đến mức đường cùng thì không thể dễ dàng động dao động súng. Hơn nữa, nếu đổ máu, có người chết, lỡ mạo phạm đến sơn thần, khiến chuyến đi săn sâm này về tay trắng, thì chẳng đáng chút nào. Lựa chọn tốt nhất bây giờ là tiếp tục gây áp lực, ép đối phương tự rút lui.

Hắn lại chắp tay với Kim Bất Hoán, nói: “Kim bá đầu, nể mặt danh tiếng của ngài, chúng tôi nhường một chút cũng không sao. Nhưng tôi dẫn anh em vào núi đã hơn một tháng, đến giờ vẫn chưa đào được lấy một cây sâm bốn lá. Nếu tay không trở về, thì cả năm nay anh em chúng tôi không biết lấy gì mà sống.

Ngài là bậc lão luyện, tôi cũng không phải kẻ ngây thơ, chỉ nhìn thoáng qua cũng biết khu rừng này có sâm lớn. Xem ra, đành phải mong các vị nhường một chút, để chúng tôi có bát cơm mà ăn. Tôi xin hứa, ngoài khu rừng này ra, những chỗ khác chúng tôi tuyệt đối không tranh giành với các vị.”

Nói xong, hắn ra hiệu bằng mắt, lập tức đám thuộc hạ xung quanh đồng loạt giương dao, nâng súng, tỏ rõ nếu không đồng ý thì sẽ lập tức ra tay.

Kim Bất Hoán cười lạnh: “Hê hê, quả nhiên là một toán người đông đảo! Các vị định lấy đông h**p ít sao?”

Kim Hách Dũng im lặng không đáp. Bỗng nhiên, Kim Bất Hoán rút khẩu Mauser C96 ra, chẳng thấy ông nhắm thế nào, chỉ nghe “đoàng” một tiếng, cách đó hơn chục mét, một con chim sẻ rơi xuống từ cành cây.

Đám người của Kim Hách Dũng không ngờ một trưởng nhóm săn sâm như Kim Bất Hoán lại có tài bắn súng xuất thần đến vậy, ai nấy đều ngây ra. Kim Bất Hoán nhẹ nhàng thổi làn khói xanh bốc lên từ nòng súng, thản nhiên nói: “Khẩu Mauser C96 này của tôi vừa bắn một phát, bây giờ trong băng đạn còn lại mười chín viên.”

Kim Hách Dũng thầm tính toán, nếu thực sự động thủ, với tài bắn súng như thế này, Kim Bất Hoán có thể hạ gục từng người bên hắn như điểm danh, e rằng hơn nửa đội ngũ của hắn sẽ không thoát nổi. Nhưng nếu cứ thế mà rút lui, để miếng mồi béo sắp đến miệng vuột mất, thì thật sự không cam lòng.

Hắn do dự một lúc rồi nói: “Lão bá đầu quả nhiên có tài thiện xạ, huynh đệ ta bội phục. Ta cũng không muốn tranh đấu với các vị. Lời ta vừa nói vẫn giữ nguyên, anh em ta kiếm miếng cơm chẳng dễ dàng, mong lão bá đầu rộng lượng cho một đường sống. Mong ngài ra một quyết định, để ta còn có lời ăn nói với anh em.”

Trần Cáng Tử liền quát lên: “Quyết định gì mà quyết định! Quy định của chúng ta là các người cuốn xéo khỏi đây ngay lập tức! Bằng không, rìu trong tay lão tử sẽ không nương tình!”

Kim Bất Hoán giơ tay ngăn Trần Cáng Tử lại, ngẩng đầu nhìn trời, rồi nói với Kim Hách Dũng: “Kim huynh, thế này đi. Mời các vị tạm thời rời khỏi khu rừng này. Hôm nay trời đã không còn sớm, từ ngày mai tính, chúng tôi xin ba ngày. Ba ngày sau, chúng tôi rời khỏi rừng này, để lại chỗ này cho các vị.”

Kim Thập Tam nghe vậy liền sửng sốt, vội đến gần định nói gì đó, nhưng Kim Bất Hoán chỉ khoát tay ra hiệu ngăn lại.

Kim Hách Dũng suy nghĩ một lúc, rồi chắp tay đáp: “Cứ theo lời lão bá đầu! Nếu có gì mạo phạm, mong thứ lỗi.” Nói xong, hắn quay lại gọi một tiếng, lập tức hai mươi mấy người theo hắn rút lui.

Đợi bọn họ đi xa, Kim Thập Tam lo lắng nói: “Cha, ba ngày thì sao đủ?”

Kim Bất Hoán không trả lời, chỉ quay sang dặn dò mọi người: “Cứ theo lời ta lúc nãy. Nhá Mại, chú cùng Côn Tử quay về lấy thêm đồ. Những người còn lại tìm một khoảng đất trống, dựng địa xưởng tử.”

Mọi người đồng loạt đáp lời, rồi tản ra bận rộn. Lưu Lão Muộn vỗ vai Kim Thập Tam, cười nói: “Yên tâm đi, cha nhóc đã nói ba ngày thì chắc chắn sẽ có cách.”

Buổi tối ăn cơm xong, mọi người tán gẫu một lúc rồi lần lượt vào lều nghỉ ngơi, chuẩn bị sáng mai đi dò rừng. Nhưng Kim Bất Hoán không ngủ, chỉ một mình ngồi xổm bên đống lửa, trầm ngâm rít thuốc bằng tẩu.

Kim Thập Tam bước đến, châm lửa vào tẩu cho cha, rồi ngồi xổm xuống bên cạnh, hỏi: “Cha, người thật sự chắc chắn có thể tìm được “Nhị Tầng Lâu” trong ba ngày không? Khu rừng này đâu có nhỏ, rộng đến cả trăm khoảnh đất! Không có mười ngày nửa tháng thì sao đi hết được?”

Kim Bất Hoán nhìn vào bóng tối sâu thẳm trong rừng, chậm rãi rít hai hơi thuốc, bỗng nhiên hỏi: “Thập Tam, con nói thử xem, đạo lý săn sâm là gì?”

Kim Thập Tam bất ngờ vì bị cha đột nhiên kiểm tra. Tuy thường ngày ở nhà, cha vẫn hay dạy bảo về nghề săn sâm, nhưng lúc này lại bất thình lình hỏi, khiến cậu không biết phải bắt đầu từ đâu. Nghĩ ngợi một lúc, cậu lần lượt nói về cách quan sát núi non, nhận biết địa thế, rồi đọc thuộc những khẩu quyết như “dựa vào hướng râm mát, tìm kiếm cây đoan”, hay “rễ nhỏ tròn dưới, răng cưa phía trên, vân gấm rõ ràng, không lộn xộn”, sau đó nói thêm về quy tắc săn sâm và mẹo đào sâm.

Kim Bất Hoán gật đầu, rồi lại lắc đầu, nói: “Những điều này, chỉ là những thứ mà một trưởng nhóm săn sâm bình thường nào cũng biết, chẳng có gì đặc biệt. Nhưng con biết vì sao ta có thể xưng bá trong nghề săn sâm không? Đó là vì ta có mấy tuyệt kỹ mà người khác không có.”

Kim Thập Tam giật mình, ánh mắt bỗng bừng sáng, biết rằng cha sắp truyền dạy cho mình bí kíp gia truyền!

Chỉ nghe Kim Bất Hoán nói tiếp: “Quan sát cảnh núi non, xem thế đất, khảo sát rừng cây, tất nhiên đều là những kỹ năng quan trọng. Nhưng muốn tìm được nhưng cây bổng chùy lớn có bảy lá, tám lá, thì còn phải học cách “quan tinh, quan khí, quan thế” (quan sát sao trời, quan sát khí vận, quan sát thế đất).

Trong sách 《Xuân Thu Vận Đấu Thư》 có viết:

“Dao Quang tinh tán nhi vi nhân sâm. Nhân quân phế sơn độc chi lợi, tắc Dao Quang bất minh, nhân sâm bất sinh.” (Sao Dao Quang phân tán thì hóa thành nhân sâm. Nếu bậc quân vương bỏ bê lợi ích của núi sông, thì Dao Quang sẽ mờ tối, nhân sâm sẽ không sinh trưởng.)

Dao Quang chính là một trong những ngôi sao thuộc chòm sao Bắc Đẩu. Bắc Đẩu Thất Tinh nằm ở phía bắc của Thái Vi, trong đó Thiên Khu là trời, Thiên Toàn là đất, Thiên Cơ là con người, Thiên Quyền là thời gian, Ngọc Hành là âm thanh, Khai Dương là luật, còn Dao Quang nằm ở cuối cùng trong Bắc Đẩu trận, chủ về sự hòa hợp của trời đất, nuôi dưỡng vạn vật.

Nếu Dao Quang mờ tối, thì dưới đất rất khó xuất hiện sâm bảo. Nhưng nếu Dao Quang sáng rực, thì chắc chắn có sâm bảo ra đời.

Những ngày qua, ta đã quan sát thiên tượng, thấy rằng chỉ có hai ngày gần đây Dao Quang tỏa sáng rực rỡ, liền đoán chắc chắn sẽ có một cây nhân sâm phi thường xuất thế, mười phần chắc đến tám chín phần là một gốc “Nhị Tầng Lâu”. Hôm nay lại tìm được nơi tàng phong tụ khí, rồng xanh nhả nước, trong lòng ta càng thêm chắc chắn.”

Kim Thập Tam nghe mà say mê, ngẩng đầu lên nhìn về phía sao Dao Quang ở cuối chòm Bắc Đẩu. Quả nhiên, ngôi sao này sáng hơn hẳn so với ngày thường, thậm chí còn rực rỡ hơn cả sáu ngôi sao còn lại.

Kim Bất Hoán lại nói tiếp: “Quan sát sao trời để biết thiên thời, nhưng quan trọng hơn cả chính là quan sát khí tượng. Trong sách 《Lễ Vị – Đẩu Uy Nghi》 có viết:

“Vua đi xe gỗ, đất có nhân sâm sinh. Dưới có nhân sâm, trên có tử khí.” Nhân sâm trăm năm là vua của cỏ cây, tất nhiên sẽ có “Vương khí”, chính là “Tử khí” (khí tím). Cây sâm càng quý hiếm, khí tím càng mạnh.

Hôm nay, ta quan sát thấy khu vực gần nơi rồng xanh nhả nước, khí tím bốc lên ngùn ngụt không dứt. Chắc chắn rằng “Nhị Tầng Lâu” đang ẩn mình ở đó. Nay ta đã biết thiên thời, cũng đã rõ địa lợi, nếu trong vòng ba ngày mà vẫn không tìm ra cây sâm này, thì Kim Bất Hoán ta sẽ quy ẩn, vĩnh viễn gác cuốc, từ đây không màng đến nghề săn sâm nữa!”

Thưa chư vị độc giả, xin thứ lỗi cho tác giả chen vào đôi lời ngoài lề. Về chuyện “tử khí”, từ xưa đã có, được coi là điềm báo đế vương hoặc thánh nhân xuất thế.

Truyền thuyết kể rằng trước khi Lão Tử qua ải Hàm Cốc, quan lệnh Doãn Hỷ nhìn thấy có tử khí từ phương Đông bay tới, biết rằng sẽ có thánh nhân đi qua. Quả nhiên, Lão Tử cưỡi trâu xanh mà đến. Đây chính là điển tích của câu “Tử khí đông lai”. Những lời của Kim Bất Hoán nghe có vẻ huyền hoặc, nhưng thực ra, nếu xét từ góc độ khoa học ngày nay, cũng có phần hợp lý.

Hiện tượng tử khí này có thể liên quan đến môi trường sinh trưởng đặc biệt của sâm núi tự nhiên. Sâm núi là loài thực vật ưa bóng râm, thích ánh nắng chiếu xiên, đặc biệt nhạy cảm với tia tử ngoại trong quang phổ ánh sáng. Khi ánh sáng mặt trời đi qua môi trường địa lý đặc thù, kết hợp với hơi nước xung quanh bốc hơi hoặc địa khí bốc lên, dễ hình thành cái gọi là “tử khí”. Môi trường như vậy rất có lợi cho sự sinh trưởng của sâm núi tự nhiên.

Kim Thập Tam nghe xong thì vô cùng phấn khởi, liền háo hức hỏi: “Cha, vậy “quan thế” là gì?”

Kim Bất Hoán cười ha hả rồi nói: “Thằng nhóc con này, sốt ruột quá rồi! “Quan thế” tức là quan sát thế cây cỏ trong rừng. Vừa rồi ta đã nói, sâm núi trăm năm là vua của cỏ cây, không giống với nhân sâm thông thường. Khi nó xuất thế, cây cối xung quanh đều sẽ cong mình hướng về phía nó, như thể đang cúi đầu bái lạy.

Hiện tượng này cũng có một cách gọi, gọi là “muôn cây bái sâm”. Nếu thấy ở đâu cỏ cây có thế như vậy, thì chắc chắn bên dưới có ẩn giấu một củ sâm thượng hạng.”

Kim Thập Tam nghe xong thì mừng rỡ, vừa xoa tay vừa vỗ đùi, tán thưởng không ngớt, trong lòng lại càng khâm phục cha mình vô cùng. Nhưng hắn cũng từng nghe về thân thế của cha. Tổ tiên vốn là nông dân ở Trực Lệ, chẳng hề liên quan gì đến nghề hái sâm.

Thuở nhỏ, cha hắn theo học quyền thuật từ Triệu Tam Đa, chưởng môn phái Mai Hoa Quyền. Sau loạn quyền năm Canh Tý, ông lưu lạc đến Quan Đông, từng làm tiêu sư trong tiêu cục, rồi làm vệ sĩ riêng cho nhà giàu, sau đó mới chuyển sang làm ba đầu trong nghề săn tìm sâm.

Nói về võ công hay kinh nghiệm đi rừng của cha thì không có gì phải bàn. Nhưng ông lại không biết nhiều chữ, chỉ từng theo thầy đồ làng học qua khai tâm vỡ lòng, đến mức đọc thư hay biển hiệu còn khó khăn, chứ đừng nói gì đến đọc sách viết văn. Vậy mà những tuyệt kỹ hiếm ai biết trong nghề săn sâm này, không rõ ông học được từ cao nhân nào. Đặc biệt hôm nay, ông lại còn trích dẫn kinh điển, thậm chí có thể đọc thuộc nguyên văn trong sách cổ, khiến Kim Thập Tam càng thêm thắc mắc.

Kim Thập Tam mang những thắc mắc này hỏi cha mình. Kim Bất Hoán lặng lẽ rít một hơi thuốc, trầm ngâm hồi lâu rồi mới nói: “Hai mươi năm trước, khi ấy ta còn chưa vào nghề săn sâm, từng có một đoạn giao tình với một kỳ nhân. Người này phong thái thanh nhã, học vấn uyên thâm, đặc biệt về khoản tìm sâm thì… phải nói là như thần tiên hạ phàm. Đến tận bây giờ, cha ngươi cũng chẳng dám so bì. Những tuyệt kỹ “quan tinh”, “quan khí”, “quan thế” này đều do ông ấy truyền dạy cho ta.”

Kim Thập Tam nghe vậy thì càng thêm tò mò, vội hỏi: “Cha, người đó là ai? Bây giờ ông ấy ở đâu?” Kim Bất Hoán chỉ lắc đầu, nói: “Thôi, chuyện đã qua thì đừng nhắc lại nữa. Mau đi ngủ đi, sáng mai còn phải lên đường sớm!”

Kim Thập Tam thấy cha không còn để ý đến mình nữa, chỉ ngồi đó lặng lẽ rít thuốc, bèn đành quay lại ổ rơm ngủ. Chú Lão Muộn đã ngủ say, vẫn như mọi khi, ngáy vang như sấm.

Hắn nằm trên tấm đệm làm bằng cỏ Ula, trăn trở suy nghĩ về “tam quan” mà cha đã nói, cảm giác như vừa mở ra một chân trời mới. Rồi hắn lại nhớ đến nhân vật thần kỳ đã truyền dạy cha mình ba tuyệt kỹ này, không biết đó là người thế nào.

Cha từng kể, bảo vật vô song trong giới săn sâm, củ sâm “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ”, cũng do một nhân vật thần bí nào đó đào được. Xem ra, trong nghề đào sâm này đúng là tàng long ngọa hổ, cao nhân dị sĩ không hề ít!

Sáng hôm sau, Kim Bất Hoán nói với mọi người về vị trí có thể tìm thấy “Nhị Tầng Lâu”, rồi dẫn họ đi về hướng “rồng xanh nhả nước”. Dù không ai rõ vì sao ông lại hẹn nhóm người Triều Tiên kia trong ba ngày, cũng không hiểu ông làm thế nào mà nhanh chóng xác định được vị trí “Nhị Tầng Lâu”, nhưng họ đều biết tính ông xưa nay thận trọng, không có chắc chắn thì không bao giờ nói hay làm. Vì vậy, ai nấy đều tin tưởng tuyệt đối, vui vẻ theo ông lên đường.

Trên đường đi, họ thu hoạch khá dồi dào, thậm chí còn tìm được một củ “Ngũ khôi” năm lá cực kỳ hiếm gặp. Bao ngày rồi không thấy được cây bổng chùy lớn, nên phát hiện này khiến mọi người vui mừng khôn xiết, càng tăng thêm niềm tin rằng “Nhị Tầng Lâu” chắc chắn đang ở rất gần!

Đi được một đoạn, rừng rậm càng thêm rậm rạp, một tầng sương mù không biết từ đâu mà nổi lên, khó có thể nhìn thấy người ở khoảng cách hơn một mét. Tốc độ của đám đông ngày càng chậm lại. Lúc này, Kim Bất Hoán đang đi ở phía trước đột nhiên “gọi gậy”, gõ ba cái, đây là tín hiệu mọi người tụ tập lại.

Lý Đại Hào Tử thấy Kim Bất Hoán, câu đầu tiên đã hỏi: “Bá đầu, huynh làm thế nào mà phát hiện ra đường này không đúng vậy?”

Kim Bất Hoan nghiêm túc gật đầu nói: “Đúng vậy, chúng ta lại vòng về rồi.”

Triệu Nhị Lư kinh ngạc nói: “Không thể nào?” Chuyện như thế này bọn họ chưa từng gặp qua. Phải biết rằng Kim Bất Hoán có kinh nghiệm phong phú trong việc dò đường, hơn nữa đều là người phóng sơn, bọn họ không bao giờ quên việc đánh dấu đường đi, thậm chí còn buộc dây thừng đỏ dọc đường, làm sao có thể cả đội đều ở trong trạng thái bị lạc đường chứ?

Ông tiến lên phía trước để nhìn, không nói nên lời. Không sai, dưới gốc cây cao sáu, bảy trượng kia là nơi mà họ vừa đào được gốc “Ngũ Khôi” rồi lấp đất mới vào.

Mọi người nhìn nhau, không dám lên tiếng. Khoảng mấy phút sau, Lý Đại Hào Tử nói: “Ngay từ đầu tôi đã cảm thấy cánh rừng này rất kỳ lạ. Hãy nhìn tán lá của những cây này, chúng đều cong. Ngay cả cỏ trên mặt đất cũng thế. Hơn nữa, trong rừng lại đột nhiên xuất hiện sương mù. Chẳng nhẽ sườn nam này lại thực sự có yêu quái hoành hành?”

Kim Bất Hoán nhìn Lý Đại Hào Tử, gật đầu nói: “Lão Lý quả nhiên tinh tường, mấy cái cây này đúng là hơi kỳ lạ. Chúng ta tạm thời mặc kệ có phải là yêu quái hay không, cứ đi theo hướng cong của mấy tán lá này trước, xem xong rồi nói. Mọi người đi gần lại với nhau, đừng tách ra. Đặc biệt chú ý mấy chỗ đã được đánh dấu và buộc dây đỏ.”

Ông đi đằng trước, mọi người theo sau, phát hiện chỗ có đánh dấu hoặc có buộc dây đỏ thì lần theo dấu vết mà đi. Nhưng đi được hơn nửa canh giờ, bọn họ lại quay về chỗ cũ.

Đến lúc này, ngay cả sắc mặt của Kim Bất Hoán cũng khó coi. Ở nơi núi sâu rừng rậm này mà bị lạc đường, thì đúng là rất nguy hiểm, không ít người bị kẹt trong núi Trường Bạch và không bao giờ trở về được.

Hồ Nhá Mại không sợ người, nhưng sợ nhất là ma quỷ, hắn cũng tin vào những thứ siêu nhiên đó, lúc này sắc mặt của hắn trắng bệch, bờ môi run rẩy, nói một câu: “Đây… đây là quỷ đả tường! Con ma này ngay cả mấy sợi dây đỏ mà chúng ta dùng để xác định nhân sâm cũng không sợ, chắc chắn là lệ quỷ!”

Kim Thập Tam nghe xong, liền hồi tưởng lại giấc mơ đêm qua, cũng là đi vào rừng xong không đi ra được, không khỏi hoang mang.

Thưa quý vị độc giả, tôi lại xin phép chen ngang một chút. Hiện tượng “quỷ đả tường” thực ra trong thực tế chúng ta cũng thường xuyên gặp phải.

Ví dụ như vào ban đêm tối đen như mực, khi chúng ta đi bộ trên cánh đồng hoang, đi một vòng lớn nhưng lại phát hiện ra mình đã quay về điểm xuất phát, cứ như thể có một bức tường vô hình do ma quỷ dựng lên, khiến chúng ta cứ luẩn quẩn trong đó.

Trên thực tế, khoa học đã đưa ra lời giải thích cho hiện tượng này. Đó là do hai chân của chúng ta không bao giờ có độ dài hoàn toàn bằng nhau, dẫn đến sải bước cũng có sự chênh lệch nhỏ. Nếu mắt không thể điều chỉnh phương hướng, thì khi đi bộ, chúng ta sẽ có xu hướng di chuyển theo vòng tròn về phía chân ngắn hơn. Cuối cùng, sau một vòng lớn, chúng ta lại trở về vị trí ban đầu.

Không chỉ con người, tất cả các loài động vật nếu không có sự điều chỉnh bằng thị giác cũng sẽ đi theo quỹ đạo vòng tròn thay vì đường thẳng. Có người từng làm thí nghiệm bịt mắt một con ngỗng lớn rồi thả nó bay đi. Do lực đập cánh và cơ bắp hai bên cánh không hoàn toàn đối xứng, đường bay của nó cũng tạo thành một vòng tròn.

Ngoài ra, có người từng gặp hiện tượng “quỷ đả tường” ở những địa điểm cố định như nghĩa trang, trông có vẻ rất bí ẩn. Nhưng thực ra, điều này là do các dấu mốc trong khu vực đó dễ gây nhầm lẫn. Con người xác định phương hướng chủ yếu dựa vào các dấu hiệu trên mặt đất. Nếu những dấu hiệu này tạo ra ảo giác, khiến bộ não nhận sai thông tin, thì chúng ta sẽ tưởng rằng mình vẫn đang đi đúng hướng, nhưng thực chất đã bị lạc đường.

Các thầy phong thủy thời xưa thực ra đã nắm bắt được quy luật này. Khi xây dựng lăng mộ, họ cố tình sắp đặt một số dấu mốc để khiến người đi vào dễ bị lạc và có cảm giác như đang gặp “quỷ đả tường”. Một số nhà quân sự cổ đại cũng rất giỏi bố trí các loại trận pháp.

Nguyên lý của chúng cũng tương tự như sắp đặt các dấu mốc và chướng ngại vật một cách có chủ đích để làm nhiễu loạn thị giác và phán đoán của đối phương. Khi kẻ địch lọt vào trận, chúng sẽ không thể tìm được lối ra.

Những người thợ săn trên núi luôn mang trong mình nỗi kính sợ sâu thẳm đối với núi Trường Bạch. Khi gặp phải hiện tượng “bức tường ma”, họ thường cho rằng đó là do mình đã mạo phạm “Sơn Thần”, nên bị trừng phạt. Hoặc có thể là vô tình đụng phải ma quỷ, yêu quái trong rừng, bị chúng dùng tà thuật giam cầm.

Thế nhưng Kim Bất Hoán lại không để t@m đến những câu chuyện truyền miệng này. Hắn quan sát kỹ những thân cây, dòng địa mạch xung quanh, cảm thấy trong sự hỗn loạn tưởng chừng vô trật tự kia dường như ẩn chứa một quy luật nào đó, chỉ là hắn chưa thể lĩnh hội được. Điều tệ nhất là những dấu hiệu dẫn đường như dây đỏ hay cành cây bẻ cong đều không phát huy tác dụng.

Nếu cứ tiếp tục đi lòng vòng như thế này, không những họ chẳng thể đến được nơi gọi là “Nhị Tầng Lâu”, mà ngay cả việc rời khỏi khu rừng này cũng trở nên vô vọng. Cuối cùng, e rằng họ sẽ bị mắc kẹt trong khu rừng già này, chết không tìm thấy xác.

Cả khu rừng chìm trong sự tĩnh lặng đáng sợ. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía Kim Bất Hoán, chờ đợi ông đưa ra quyết định. Lần đầu tiên trong đời, Kim Bất Hoán cảm thấy bối rối đến vậy. Trán ông lấm tấm mồ hôi lạnh. Nhưng ông không thể để mọi người nhận ra sự hoang mang của mình, bèn châm một điếu thuốc lào, ngồi xổm xuống chậm rãi rít từng hơi, trong đầu âm thầm suy tính đối sách.

Một tiếng chim hót “chiếp chiếp” vang lên từ không xa. Kim Thập Tam ngẩng đầu lên, liền trông thấy một con chim gõ kiến mào vàng đang đậu trên cành cây. Con chim ấy vỗ cánh bay xuống, đáp ngay lên vai Kim Thập Tam, rồi dùng mỏ cọ cọ vào má hắn, trông vô cùng thân thiết. Kim Thập Tam nhận ra đây chính là con chim mà hắn đã cứu trên vách mỏ ưng, trong lòng vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Hắn đưa tay ra, nhẹ nhàng đón lấy con chim từ trên vai mình.

Kim Bất Hoán trông thấy cảnh tượng này, liền giật mình đứng bật dậy, thất thanh kêu lên: “Kim Phượng Hoàng!” Mọi người nghe vậy liền quay đầu nhìn con chim trong tay Kim Thập Tam, ai nấy đều không khỏi kinh ngạc.

Con chim nghiêng đầu nhìn Kim Thập Tam một cái, bỗng nhiên cúi xuống mổ nhẹ vào lòng bàn tay hắn, rồi đập cánh bay lên. Kim Bất Hoán vội quát: “Bắt lấy nó!” Mọi người lập tức đưa tay ra chộp, nhưng con chim gõ kiến mào vàng ấy nhanh nhẹn vô cùng, đã sớm bay vút lên một cành cây không xa, rồi tiếp tục cất tiếng kêu “chiếp chiếp” về phía Kim Thập Tam.

Mọi người chầm chậm tiến lại gần gốc cây, nhưng con chim lại vỗ cánh bay đi, song không bay xa mà chỉ đáp xuống một nhánh cây khác, tiếp tục hướng về phía Kim Thập Tam cất tiếng gọi.

Kim Thập Tam như chợt hiểu ra điều gì đó, quay sang Kim Bất Hoán nói: “Cha, hình như nó đang dẫn đường cho chúng ta.” Kim Bất Hoán gật đầu, lập tức ra lệnh cho mọi người bám theo con chim.

Kim Phượng Hoàng bay thấp rồi lại dừng, dẫn cả đoàn người băng qua khu rừng rậm. Đi được hơn một canh giờ, Kim Bất Hoán lờ mờ nghe thấy tiếng nước đổ ầm ầm, liền biết rằng phía trước không xa chính là nơi gọi là “rồng xanh nhả nước”. Trong lòng ông mừng rỡ, nhưng khi ngẩng đầu lên tìm kiếm con “Kim Phượng Hoàng” thì nó đã biến mất từ lúc nào.

Kim Bất Hoán thở dài nói: “Hôm nay nếu không gặp được con “Kim Phượng Hoàng” này, e rằng chúng ta chẳng những không tìm được chỗ này mà có khi còn bị mắc kẹt trong rừng luôn cũng nên.”

Rồi ông quay lại nói với mọi người: “Nếu con “Kim Phượng Hoàng” này đã dẫn chúng ta đến đây, chứng tỏ trong vòng một dặm quanh khu vực này nhất định có bổng chùy lớn. Mọi người dàn hàng ngay ngắn, cẩn thận quan sát, tuyệt đối không được bỏ sót bất kỳ gốc sâm báu nào!”

Mọi người đồng thanh đáp lời, rồi theo đội hình đã định sẵn bắt đầu tỏa ra tìm kiếm. Chẳng bao lâu sau, từ cánh phải của đội hình, Hồ Nhá Mại, người phụ trách đánh gậy biên giới, bỗng cất tiếng hô lớn: “Tiền Xuyến Tử!” Nghe thấy vậy, cả đoàn liền vui mừng reo lên: “Tạ Sơn Thần ban thưởng!”

Theo quy tắc của thợ săn sâm, trong lúc dò đường, nếu bắt gặp rắn thì không được gọi là “rắn”, mà phải gọi là “Tiền Xuyến Tử” (chuỗi tiền xu). Đây là điềm lành, báo hiệu sắp sửa tìm thấy nhân sâm. Điều này đồng nghĩa với việc được Sơn Thần ban lộc, nên tất cả mọi người đều phải đồng thanh hô cảm tạ.

Nhưng ngay sau đó, Hồ Nhá Mại bỗng thét lên kinh hãi: “Rắn! Ta bị rắn cắn rồi!” Mọi người nghe vậy đều giật mình hoảng hốt. Trên dãy Trường Bạch, rắn thông thường rất ít khi chủ động tấn công người, nhất là thợ săn sâm, vì họ luôn mang theo hùng hoàng và các loại dược liệu xua đuổi rắn, côn trùng. Hơn nữa, khi di chuyển trong rừng, chiếc gậy dò sâm luôn quét qua cỏ cây, khiến rắn tránh xa. Vì vậy, bị rắn cắn là chuyện hiếm hoi, trừ khi gặp phải “Thần Long”.

“Thần Long” là loài rắn có tập tính tấn công chủ động, không sợ hùng hoàng hay các dược liệu trừ độc thông thường. Đặc biệt, nếu bị nó cắn, không quá nửa canh giờ sẽ mất mạng, không thuốc nào cứu nổi.

Mọi người lập tức vây quanh Hồ Nhá Mại để kiểm tra vết thương. Hắn bị rắn cắn vào bắp chân trái, con rắn cắn hắn đã bị hắn đập chết, xác vứt bên cạnh. Kim Bất Hoán nhìn qua xác rắn, rồi thở phào nhẹ nhõm. Chỉ là một con rắn “da sắt” dài khoảng một thước, tuy có độc nhưng không quá nguy hiểm.

Kim Bất Hoán nhanh chóng nặn hết nọc độc từ vết cắn, rồi dùng dây đỏ buộc chặt hai phía trên và dưới vết thương. Vừa định bảo Lý Đại Hào Tử, người đứng ngoài cùng, đi hái ít Xà Bất Quá để trị thương cho Hồ Nhá Mại, thì bỗng nghe thấy tiếng hét kinh hãi của hắn: “Rắn! Rắn!”

Trần Cáng Tử cười nói: “Ngươi đúng là chuột thật rồi, thấy rắn liền sợ đến mức này!” Lời còn chưa dứt, từ trong bụi rậm bỗng có một con rắn “cổ gà rừng” dài hơn hai trượng trườn ra, nửa thân trên dựng thẳng, lao thẳng tới cắn vào đùi hắn.

Trần Cáng Tử thân thủ nhanh nhẹn, lập tức vung gậy tìm sâm, hất con rắn bay ra xa. Hắn vừa định lên tiếng thì bỗng nghe thấy Lý Đại Hào Tử lại thét lên, lần này giọng hắn méo đi vì kinh hãi: “Chạy mau! Chạy mau! Rắn nhiều lắm!”

Phía trước vang lên từng đợt tiếng “soạt soạt”, ai nấy đưa mắt nhìn nhau, không rõ có bao nhiêu con rắn đang trườn về phía họ. Mọi người hoảng hốt đỡ Hồ Nhá Mại lùi lại. Nhưng chỉ mới đi được hơn mười bước, bỗng nhiên phía sau cũng vang lên tiếng “soạt soạt”, rồi hai bên cánh rừng cũng phát ra âm thanh y hệt. Bọn họ đã bị bầy rắn bao vây rồi!

Kim Bất Hoán lập tức hô lớn: “Mau trèo lên cây tránh tạm!” Dứt lời, ông bảo Lý Đại Hào Tử trèo lên một cây sam lá kim gần đó. Bản thân ông thì nhấc bổng Hồ Nhá Mại lên. Lý Đại Hào Tử ở trên nhanh chóng kéo lấy, trước hết giúp Hồ Nhá Mại lên trước, sau đó lại kéo Kim Bất Hoán leo lên theo.

Những người còn lại cũng vội vàng tìm cây để trèo lên. Đúng lúc đó, một bầy rắn lớn từ trong bụi cây lao ra. Trần Cáng Tử đẩy Kim Thập Tam lên một cây đoan, nhưng chính hắn lại chậm một bước, bị bầy rắn vây chặt. Hắn dựa lưng vào gốc cây, tay phải cầm gậy tìm sâm quét loạn xạ, liên tục hất văng mấy con rắn.

Bất chợt, một con rắn nhỏ bật lên, lao thẳng vào mặt hắn. Trong tình thế không còn đường tránh, Trần Cáng Tử liền rút phắt con dao giắt bên hông, vung mạnh một nhát, chém bay đầu con rắn. Cái đầu rắn rơi xuống, thân nó vẫn còn giãy giụa trên mặt đất.

Trong khi Trần Cáng Tử mắc kẹt giữa vòng vây rắn dưới đất, thì những người trên cây cũng không khá hơn. Rắn vốn là loài giỏi leo trèo, từng con từng con một trườn theo thân cây bò lên. Mọi người trên cây vội vã dùng gậy tìm sâm gạt rắn xuống, nhưng vừa hất được một con, lại có nhiều con khác tiếp tục bò lên, lớp lớp nối tiếp nhau, khiến ai nấy cuống cuồng chống đỡ.

Kim Bất Hoán phóng tầm mắt nhìn quanh, chỉ trong phạm vi mấy chục mét này, e rằng có không dưới một ngàn con rắn. Đủ loại rắn chen chúc sát nhau, nào là rắn “da sắt”, rắn “cổ gà rừng”, rắn lục cực Bắc, rắn sọc đỏ, rắn lục Ussuri, rắn hoa hai vạch, rắn sọc trắng… từng con một thè lưỡi dài, trừng mắt hung tợn nhìn về phía những người trên cây, khiến ai nấy đều nổi da gà.

Cảnh tượng kinh khủng này, dù Kim Bất Hoán đã bao năm vào rừng tìm sâm, đừng nói là gặp qua, ngay cả nghe cũng chưa từng nghe nói. Trên dãy Trường Bạch không thiếu rắn, nhưng việc trong một không gian chật hẹp thế này lại tụ tập số lượng lớn đến vậy hoàn toàn không hợp lẽ thường. Cứ như thể tất cả rắn trong rừng đã bị một thế lực thần bí nào đó triệu hồi về đây vậy.

Hồ Nhá Mại đã bị rắn cắn, dù đã được xử lý sơ bộ nhưng độc vẫn chưa tan hết. Hắn gạt được vài con rắn xuống, nhưng tay chân dần trở nên tê cứng, phản ứng chậm chạp hơn.

Đúng lúc ấy, từ một cành cây bên cạnh bỗng có một con rắn lục tre bò qua, lao tới cắn mạnh vào mu bàn tay phải đang bám vào cành cây của hắn. Hồ Nhá Mại run lên, vội ném con rắn lục tre xuống đất, nhưng cơ thể mất thăng bằng, suýt nữa rơi xuống. May thay, Kim Bất Hoán nhanh tay chộp lấy hắn, giữ chặt không để hắn rơi xuống vực rắn.

Lúc này, rắn bò lên cây ngày càng nhiều, toàn bộ thân cây đều bị rắn bao phủ dày đặc, uốn éo, ngọ nguậy. Sắc mặt Lý Đại Hào Tử tái nhợt, đột nhiên hét lớn, bỏ lại Kim Bất Hoán và Hồ Nhá Mai, một mình trèo lên thân cây cao hơn. Kim Bất Hoán một tay đỡ Hồ Nhá Mai, một tay dùng gậy khóa bảo liên tục đánh đuổi những con rắn đang tiến đến gần, bọn họ đã lâm vào tình cảnh vô cùng khó khăn, bốn phía đều gặp nguy hiểm. Những người ở trên những cây khác cũng không khá hơn là bao, tất cả đều phải vật lộn với những con rắn độc đang bò lên. Chỉ có tình hình của Kim Thập Tam là tốt hơn vì không có con rắn nào trèo lên cây nơi hắn đang ở.

Tất cả đều nhờ vào sự kiên cường chống cự dưới gốc cây của Trần Cáng Tử. Nhưng tình huống của Trần Cáng Tử là nguy hiểm nhất, hắn bị rắn bao vây, liên tục bị tấn công. Anh ta vừa định đá con rắn lục Ussuri đang bò đến chân anh và há miệng định cắn anh, nhưng anh không ngờ một con rắn lục hai chấm lại bò ra từ sau một cái cây và cắn vào mặt anh, không chịu buông.

Trần Cáng Tử hét lớn, nắm lấy thân rắn kéo mạnh, kéo đứt đầu rắn và một mảng thịt trên mặt. Anh ta vung cây gậy săn kho báu rồi đập và chọc xung quanh như một kẻ điên. Nhưng một con rắn khác đã bò lên chân phải của anh và cắn anh.

Trần Cáng Tử không thể chống đỡ được nữa, lảo đảo vài bước rồi ngã xuống đất. Những con rắn bò lên người anh ta và cắn anh ta một cách dữ dội.

Khi Kim Thập Tam nhìn thấy cảnh tượng bi thảm này, máu dồn lên đầu, mắt đỏ ngầu, hắn hét lớn “chú Cáng Tử” rồi nhảy xuống khỏi cây.
 
Sơn Thần - Phi Ảnh
Chương 6: Chương 6



Chương 6

Edit & beta: Cún

Như đã đề cập ở bài viết trước, Kim Bất Hoán và đồng đội đã tìm thấy một khu rừng có thể sản xuất ra những cây chùy lớn, nhưng họ đã xảy ra tranh chấp với một nhóm người Triều Tiên và hai bên gần như đã xảy ra xô xát. Bang Sâm Triều Tiên đông đảo và hùng mạnh, và Kim Bất Hoán đã thể hiện tài bắn súng tuyệt vời của mình và đe dọa những người Triều Tiên đó. Ông giao ước với họ thời hạn ba ngày, nói rằng sẽ giao khu rừng cho họ nếu đội của ông không hái được củ sâm nào. Điều này tạm thời thuyết phục họ rời đi.

Kim Bất Hoán dùng thuật “quan tinh” và “quan khí” để xác định vị trí của sâm báu, dẫn mọi người đến nơi “rồng xanh nhả nước”. Nhưng trên đường đi, bọn họ gặp phải “quỷ đả tường”, lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan, không thể tiến lên cũng không thể lùi lại.

May mắn thay, với sự giúp đỡ của “Kim Phượng Hoàng”, bọn họ không chỉ thoát khỏi “bức tường ma” mà còn tiếp cận được “rồng xanh nhả nước”. Khi họ vừa bắt đầu tìm kiếm kho báu nhân sâm, Hồ Nhá Mại đã bị rắn cắn.

Ngay sau đó, một bầy rắn xuất hiện và bọn họ bị mắc kẹt trên cây và chống cự quyết liệt. Nhưng Trần Cáng Tử không kịp trèo lên cây, đã bị một bầy rắn tấn công, bị cắn nhiều chỗ và ngã xuống đất. Ngay lúc sắp bị rắn nuốt chửng, Kim Thập Tam đã nhảy xuống từ trên cây.

Cây bồ đề này không thấp, Kim Thập Tam nhảy xuống từ độ cao hai ba mét, may mắn là đất trong rừng mềm, trên mặt phủ một lớp cành lá khô nên mắt cá chân không bị thương. Mặc dù vậy, hắn vẫn không thể đứng vững và lăn hai lần trên mặt đất. Hắn thầm nghĩ trong lòng, rằng mặt đất đầy rắn độc, nếu hắn không bị rắn độc cắn thì thật kỳ lạ. Nhưng khi hắn đứng dậy, sờ đầu và thân mình thì thấy không có chỗ nào bị cắn, cũng không có con rắn độc nào quấn quanh người.

Hắn thầm mừng rỡ, không kịp suy nghĩ, liên tục vung cây gậy khóa bảo trong tay, từng con rắn bò trên người Trần Cáng Tử lần lượt bị nhổ ra. Những người trên cây vô cùng kinh hoàng và hét lớn bảo hắn quay lại. Kim Thập Tam không để ý đến họ, đỡ Trần Cáng Tử từ dưới đất đứng dậy, thấy hắn nhắm mắt, sắc mặt tối sầm, căn bản không có hô hấp.

Kim Thập Tam nước mắt lưng tròng, nhẹ nhàng đặt thi thể Trần Cáng Tử xuống. Hắn đưa mắt quan sát xung quanh, thấy bầy rắn đã bò đến cách hắn khoảng một trượng, chen chúc bò trườn nhưng lại không lao lên tấn công. Hắn cảm thấy vô cùng kỳ lạ, thử bước lên phía trước hai bước, bầy rắn thấy hắn tiến gần thì dường như rất e sợ, liền vội vã tản ra.

Hắn lại thử về hướng khác, nơi nào hắn đi qua cũng giống như vạch nước rẽ sóng, bầy rắn đều tránh né.

Hắn bước đến dưới gốc cây nơi Kim Bất Hoán đang ở, những con rắn vốn đang cuộn mình bò lên để tấn công người bỗng nhiên rơi xuống đất, rồi nhanh chóng bò đi. Hắn tiếp tục làm như vậy với những cái cây khác, khiến lũ rắn lần lượt bị xua đuổi.

Kim Bất Hoán cùng mọi người từ trên cây xuống, ai nấy đều vô cùng kinh ngạc, không hiểu vì sao lũ rắn lại sợ Kim Thập Tam, hễ hắn đến gần là chúng lập tức tránh xa. Nhưng lúc này, vừa thoát chết trong gang tấc, trong lòng ai cũng còn bàng hoàng, không kịp suy nghĩ sâu xa, liền vây quanh thi thể Trần Cáng Tử. Kim Bất Hoán cẩn thận kiểm tra cơ thể hắn, thở dài một hơi, lắc đầu.

Mọi người hiểu rằng Trần Cáng Tử bị bầy rắn cắn nhiều chỗ, nọc độc đã phát tác, không thể cứu được nữa. Trần Côn Tử là em ruột của hắn, hai anh em cha mẹ mất sớm, từ nhỏ đã nương tựa vào nhau, tình cảm vô cùng sâu đậm. Hơn mười năm qua, cả hai cùng theo Kim Bất Hoán vào rừng kiếm sống, bao phen hiểm nguy cũng vượt qua. Vậy mà giờ đây, ngay lúc sắp hái được cây “Nhị Tầng Lâu” để phát tài một phen, người anh lại bất hạnh bỏ mạng trong miệng rắn.

Hắn nhớ lại lời anh trai từng nói, rằng sau chuyến đi này, chia tiền xong sẽ mua cho hắn mười mấy mẫu ruộng tốt, cưới vợ, sống những ngày yên bình. Nghĩ đến đây, hắn không kìm được mà bật khóc nức nở. Những người khác cũng là huynh đệ vào sinh ra tử với Trần Cáng Tử nhiều năm, cùng chung hoạn nạn, nay thấy hắn chết thảm, ai nấy đều đau xót.

Kim Thập Tam càng cảm thấy quặn thắt trong lòng. Từ nhỏ, chú Cáng Tử bề ngoài trông có vẻ hung dữ, thường bóp má, kéo tai hắn, lúc nổi giận còn chửi mắng, đá hắn mấy cái, nhưng thực ra lại thương hắn vô cùng. Mỗi lần đến thăm đều mang theo đồ ăn ngon, đồ chơi hay, còn dẫn hắn lên núi bắt chim, săn chồn.

Lần này, ông ấy cũng vì bảo vệ hắn mà rơi vào vòng vây của bầy rắn. Nhìn chú Côn Tử khóc thương tâm như vậy, hắn cũng không nhịn được mà bật khóc theo.

Kim Bất Hoán trong lòng đau xót, nhưng hắn biết mọi người vẫn chưa thoát khỏi nguy hiểm. Xung quanh, trong các bụi cây vẫn vang lên những tiếng xào xạc, chứng tỏ bầy rắn chưa rời đi. Vì vậy, hắn vội gọi mọi người khiêng thi thể Trần Cáng Tử, cõng theo Hồ Nhá Mại, kẻ đã trúng độc gần như hôn mê, rồi tiếp tục tiến về hướng “rồng xanh nhả nước”.

Lần này, Kim Thập Tam đi đầu dẫn đường, cả đoàn nhanh chóng theo sau. Quả nhiên, bầy rắn không còn tấn công nữa. Trong khi đó, âm thanh “ầm ầm” vang vọng mà họ nghe được trước đó ngày càng rõ ràng hơn, mỗi lúc một lớn hơn. Không bao lâu sau, trước mắt mọi người bỗng trở nên sáng rực, họ đã ra khỏi khu rừng, đứng trước một thác nước khổng lồ.

Thực ra, trên dãy Trường Bạch có rất nhiều thác nước, nhưng một thác có độ cao chênh lệch lớn và lưu lượng nước mạnh như trước mắt thì đây là lần đầu tiên họ thấy. Nước từ một cửa hang nhô ra trên vách núi, cao chừng hơn mười trượng, tuôn xuống vực sâu bên dưới, tạo ra âm thanh chấn động như sấm rền. Khung cảnh hùng vĩ chẳng khác nào câu thơ của Lý Bạch, “nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây”.

Trên vách đá mọc đầy rêu xanh cùng những cụm dương xỉ. Cây cối xung quanh thưa thớt, nhưng dây leo thì vô cùng um tùm. Có không ít dây cát đằng to bằng bắp tay từ mép vách đá rủ xuống, trông chẳng khác gì những con mãng xà khổng lồ đang uốn lượn. Kim Bất Hoán quan sát địa thế xung quanh, trong lòng đã có chủ ý.

Mọi người đào hố ngay tại chỗ, chôn cất Trần Cáng Tử. Những người hành nghề săn dược cả đời gắn bó với núi rừng, chết đi cũng yên nghỉ giữa núi rừng là lẽ đương nhiên. Nơi “rồng xanh nhả nước” này tàng phong tụ khí, là một mảnh đất phong thủy cực tốt. Trần Cáng Tử có thể vùi xương tại đây, xem như đã có một nơi an nghỉ lý tưởng.

Người chết là hết, lúc này quan trọng hơn cả là lo cho người còn sống. Hồ Nhá Mại trúng độc quá nặng, đã hôn mê bất tỉnh. Những loại thảo dược chuyên trị vết rắn độc cắn như Xà bất quá, cỏ Đồng la mà họ hái được đều không còn tác dụng. Mọi người chỉ biết trơ mắt nhìn hắn bước một chân vào Quỷ Môn Quan mà chẳng làm được gì, ai nấy đều chỉ biết than thở tiếc nuối.

Đúng lúc nguy cấp, Kim Thập Tam bỗng nhớ ra viên “Thần Long Châu” mà mình có được trên vách mỏ ưng. Khi trước, hắn từng bị làn khói độc do “Thần Long” phun ra làm trúng độc, may mắn nhờ li3m một chút viên châu lấy từ bụng nó mà lập tức giải được độc. Hồ Nhá Mại chẳng qua chỉ bị rắn độc thông thường cắn, nghĩ rằng viên “Thần Long Châu” này chắc cũng có thể giải được. Nghĩ vậy, hắn lập tức tháo chiếc túi hộ thân đeo bên người, lấy ra viên nội đan rắn.

Nhưng lúc này, Hồ Nhá Mại đã hôn mê, miệng cắn chặt không mở ra được. Kim Thập Tam suy nghĩ giây lát, liền dùng dao cạo một chút bột từ viên “Thần Long Châu” hòa với ít nước, rồi nhờ chú Lão Muộn cạy miệng Hồ Nhá Mại, đổ vào trong.

Chẳng bao lâu sau, chỉ nghe Hồ Nhá Mại khẽ rên hai tiếng, đồng thời trong bụng phát ra những âm thanh ùng ục. Kim Thập Tam biết ngay là hắn sắp nôn, vội đỡ nửa thân trên của hắn dậy. Quả nhiên, Hồ Nhá Mại há miệng nôn thốc nôn tháo, mãi một lúc sau mới dừng lại. Sau đó, hắn mở mắt nhìn mọi người một cái, định nói gì đó nhưng chưa kịp thốt lên đã lại ngã xuống.

Kim Thập Tam mừng rỡ, biết rằng viên “Thần Long Châu” đã có tác dụng. Hắn lại cạo thêm một ít bột từ viên châu, rắc vào hai vết rắn cắn trên người Hồ Nhá Mại.

Một điều kỳ diệu đã xảy ra! Từ vết thương của Hồ Hạ Mại, từng dòng máu đen tím đặc sệt bắt đầu rỉ ra. Chẳng bao lâu sau, lượng máu chảy ra ngày càng ít đi, màu sắc cũng dần chuyển thành đỏ tươi. Lớp khí đen bao phủ trên mặt hắn cũng dần tan biến, gần như trở lại bình thường, chỉ là sắc mặt vẫn còn nhợt nhạt.

Thuốc trị thương là vật không thể thiếu mỗi khi thợ săn dược vào rừng. Kim Thập Tam liền bảo Lưu Lão Muộn lấy ra, cầm máu và băng bó cho Hồ Nhá Mại. Hồ Nhá Mại lại lần nữa mở mắt, nhưng do trúng độc quá lâu, lại mất máu quá nhiều, nên cơ thể vô cùng suy yếu. Hắn chỉ có thể khẽ gật đầu với mọi người, vẫn chưa đủ sức để lên tiếng.

Mọi người đồng loạt thở phào nhẹ nhõm, biết rằng mạng của Hồ Nhá Mại cuối cùng cũng được cứu. Lúc này, ánh mắt cả nhóm đều dồn về phía Kim Thập Tam. Lý Đại Hào Tử chớp chớp đôi mắt ti hí, hỏi: “Tiểu Thập Tam, ngươi đang giữ bảo bối gì thế? Từ đâu mà có?”

Kim Thập Tam đành kể lại chuyện mình giết rắn, sau đó nhờ con chim gõ kiến mào vàng chỉ dẫn mà mổ bụng rắn lấy ngọc, nhờ vậy giải được độc cho chính mình.

Lý Đại Hào Tử nghe xong liền đập đùi đánh đét, nói: “Thảo nào, “Thường Bạch Thần Long” chính là vua của muôn loài rắn. Nội đan của nó tất nhiên có công hiệu khắc chế và hóa giải mọi loại độc. Nó có thể cứu được Hồ Nhá Mại bị rắn cắn thì chẳng có gì khó hiểu. Hơn nữa lúc nãy chúng ta bị bầy rắn bao vây, nhưng bọn chúng đều tránh né Thập Tam, hẳn cũng là do viên nội đan này!

Viên nội đan này chính là hồn phách của Thần Long, những loài rắn khác khi nhìn thấy thì tự nhiên kinh sợ, chỉ hận không thể lùi xa ngay lập tức.” Hắn đón lấy viên châu từ tay Kim Thập Tam, đưa lên trước mắt quan sát tỉ mỉ.

Lúc này, màn đêm đã lặng lẽ buông xuống. Viên “Thần Long Châu” ban ngày vốn có màu xám trắng, nhưng khi trời tối lại tỏa ra một lớp ánh sáng xanh lục nhàn nhạt, khiến khuôn mặt mọi người xung quanh đều nhuốm một màu xanh ngọc bích.

Lý Đại Hào Tử thích thú không rời tay, vừa nghịch viên châu vừa xuýt xoa khen ngợi: “Đúng là bảo bối hiếm có! Viên ngọc này đẹp chẳng kém gì Dạ Minh Châu, lại còn có công hiệu khắc chế rắn độc, giải trừ nọc độc. Các ngươi nói xem, thứ này đáng giá bao nhiêu? Liệu có quý hơn cây “Nhị Tầng Lâu” kia không?”

Lưu Lão Muộn liền giật lấy viên châu từ tay hắn, trả lại cho Kim Thập Tam, rồi nghiêm mặt nói: “Thứ này là của Thập Tam, ngươi đừng có mà mơ tưởng!”

Lý Đại Hào Tử cười hì hì, nói: “Đương nhiên là của Tiểu Thập Tam rồi, ta chỉ cầm lên xem thôi, sao lại nói ta có ý đồ gì? Đừng thấy ta thường ngày có chút ham tiền ham lợi mà hiểu lầm, chứ đối với bá đầu và huynh đệ trong nhóm, ta trước giờ luôn quang minh chính đại, chưa từng có tâm địa xấu xa. Bá đầu, huynh nói một câu công bằng xem, có đúng không?”

Đây quả là một lời nói thật, Kim Bất Hoán nghe vậy liền cười. Những huynh đệ này, mỗi người tuy có những tật xấu khác nhau, nhưng đã theo ông hơn mười năm, cùng nhau vào sinh ra tử, có thể nói là chí cốt tương giao.

Ông nói: “Đều là anh em với nhau, ai mà không hiểu ai? Chỉ là một câu nói đùa, đừng coi là thật. Xà đan mà Thập Tam có được quả thực là bảo vật hiếm có, nhưng nó chỉ có tác dụng khắc độc, giải độc, không thể sánh với đại bổng chùy có thể trị bách bệnh, giúp người trường thọ. Việc đào bổng chùy mới là nền tảng lập nghiệp và con đường sinh tồn của chúng ta, những kẻ làm nghề săn nhân sâm này.”

Nghe vậy, mọi người đều gật đầu đồng ý. Nhắc đến những nguy hiểm liên tiếp xảy ra trong hôm nay, ai cũng cảm thấy khó tin. Trước tiên, họ gặp phải hiện tượng “quỷ đả tường”, rồi sau đó lại bị rắn bao vây tấn công. Trong những năm tháng hành nghề săn sâm, họ chưa từng gặp tình huống nào kỳ lạ như vậy. Có vẻ như có một thế lực thần bí nào đó đang ngăn cản họ tiếp cận “Nhị Tầng Lâu” trong truyền thuyết.

Nhưng chính điều này lại càng chứng minh rằng “Nhị Tầng Lâu” hẳn đang ở rất gần. Họ đã phải chịu biết bao gian khổ để đến được đây, thậm chí còn mất đi một huynh đệ tốt, nên không thể nào bỏ cuộc dễ dàng như vậy.

Mọi người đốt lên một đống lửa trại, rồi nằm xuống nghỉ ngơi ngay bên bờ đầm sâu. May mắn là tất cả công cụ cần thiết khi dò đường đều được mang theo bên người như thường lệ, nên không cần phải quay lại trại để lấy. Lúc này đã vào mùa hè, ban đêm không quá lạnh.

Vì Kim Thập Tam có viên nội đan rắn trên người, nên họ cũng không lo lắng về việc rắn sẽ quay lại, nhưng trong rừng sâu có thể vẫn còn dã thú, không thể lơ là. Kim Bất Hoán phân công Kim Thập Tam canh gác cùng mình trong nửa đêm đầu, còn nửa đêm sau thì giao cho Lưu Lão Muộn và Triệu Nhị Lư. Mọi người sau một ngày vất vả đã vô cùng mệt mỏi, vừa nằm xuống là ngủ say ngay, dù tiếng thác nước ầm ầm cũng không thể làm họ tỉnh giấc.

Kim Bất Hoán bỏ thêm ít củi vào đống lửa, rồi ngồi xuống bên bờ đầm, rít tẩu thuốc, đờ đẫn nhìn vách núi trước mặt với dòng thác đổ xuống. Kim Thập Tam ngồi xuống bên cạnh ông, hỏi: “Cha, cha nói xem ngày mai chúng ta có hái được cây “Nhị Tầng Lâu” không?”

Kim Bất Hoán gật đầu, nói: “Tất nhiên! Bây giờ chúng ta đang ở ngay bên dưới nó.”

“Ở bên dưới nó?” Kim Thập Tam nhìn theo hướng mắt cha mình, kinh ngạc nói: “Cha muốn nói, cây “Nhị Tầng Lâu” mọc trên vách núi nơi thác nước này sao?”

Kim Bất Hoán không trả lời câu hỏi mà lại hỏi ngược lại: “Thập Tam, con nhìn kỹ cây cỏ xung quanh xem, có gì khác lạ không?”

Lúc này, trăng sáng treo cao, vách núi trước mặt cùng rừng cây xung quanh đều có thể nhìn thấy lờ mờ. Kim Thập Tam quan sát xung quanh một lúc, nghi hoặc nói: “Rừng này chủ yếu là cây đoan, xen lẫn bách và sam, trên vách núi thì cây cối thưa thớt, nhưng cũng chỉ là những loại cây bình thường, thêm vào đó là một ít dương xỉ và dây leo thường thấy… Con hiểu rồi!”

Hắn đột nhiên kêu lên: “Cha, cha nhìn kìa! Cây cối trong rừng và trên vách núi đều đang cúi đầu về phía thác nước trước mặt!”

Kim Bất Hoán gật đầu, nói: “Đúng vậy. Quan sát thế cây cỏ, có thể xác định vị trí của “sâm báu”. Ta đoán rằng, phía sau thác nước chính là nơi có “Nhị Tầng Lâu” mà chúng ta đang tìm kiếm.”

Kim Thập Tam ngạc nhiên hỏi: “Cha, làm sao trong thác nước lại mọc ra một cây nhân sâm to như chùy được?”

Kim Bất Hoán nói: “Ta đã quan sát kỹ rồi, giữa vách núi này có một chỗ hõm lớn, mà dòng thác đổ xuống như một tấm rèm, vừa vặn che khuất chỗ hõm đó. Cây sâm mà chúng ta tìm chắc chắn mọc ở ngay đó.”

Kim Thập Tam ngơ ngẩn nhìn thác nước một lúc lâu, rồi nói: “Nơi đó trên không chạm trời, dưới không chạm đất, lại còn bị nước thác ngăn trở, làm sao để vào được đây?”

Kim Bất Hoán nói: “Dĩ nhiên là không dễ. Vách núi này dốc đứng và trơn nhẵn, giữa chừng không có chỗ nào để đặt chân, lại thêm dòng nước xiết chảy xuống, dù leo từ trên xuống hay từ dưới lên đều vô cùng khó khăn.

Cách duy nhất là chặt dây leo, bện thành sợi dây dài rồi buộc vào người, ước tính chính xác độ dài. Sau đó, chạy lấy đà từ vách núi trên cao, lao ra ngoài, dựa vào quán tính của dây leo thu hồi để đu vào trong thác nước. Việc này đòi hỏi bản lĩnh, cũng cần cả vận may.

Nếu tính toán sai, đập vào vách đá thì giữ được mạng hay không còn chưa biết. Nhưng nghề này là vậy, đã vào núi báu sao có thể trở về tay không? Dù có Diêm Vương chặn đường, chúng ta cũng phải xông lên! Ngày mai, cha sẽ vào một mình, con và các chú ở ngoài tiếp ứng.”

Kim Thập Tam kinh ngạc nói: “Không! Cha à, con vẫn còn trẻ, cha để con đi cho!”

Kim Bất Hoán cười, nói: “Con nghĩ cha đã già rồi đấy phỏng, thân thủ không còn linh hoạt nữa? Hê hê, nhóc con, cho dù có thêm vài đứa như con thì cũng chẳng nhằm nhò gì với ta. Huống hồ đây lại còn là chuyện đi hái sâm, mấy người có ai đọ được với ta sao? Bọn họ đều không được, càng đừng nói là một đứa nhóc vắt mũi chưa sạch như con.”

Kim Thập Tam nói: “Vậy… con đi cùng cha nhé.”

Kim Bất Hoán lắc đầu: “Thêm một người thêm một phần nguy hiểm, hà cớ gì? Con đừng có tranh nữa! Nếu như cha thực sự lỡ mất, mọi người không thể mạo hiểm thêm nữa nhanh chóng tìm đường ra khỏi núi đi!”

Kim Thập Tam muốn nói thêm, nhưng thấy thái độ của cha kiên quyết, nên hắn tự có tính toán.

Sáng sớm ngày thứ hai, mọi người thức dậy, Kim Bất Hoán nói rõ với mọi người rằng sâm báu đang ở ngay phía sau thác nước, còn ông sẽ tự mình đi vào trong đó hái sâm. Mọi người đều tròn mắt nhìn nhau.

Im lặng một lúc, Triệu Nhị Lư nói: “Bá đầu, nếu đã nguy hiểm như vậy, thì cây “sâm báu” đó không hái cũng được. Chỉ với cây “Ngũ Khôi” mà chúng ta hái được trong rừng, cũng đáng giá, đủ cho mọi người sinh hoạt trong một năm. Chúng ta cũng không tính là tay không quay về.”

Kim Bất Hoán lắc đầu nói: “Không được! Lần này chúng ta lên núi chính là vì cây “Nhị Tầng Lâu” đó. Giờ đã đến đây rồi, nếu không vào sau thác nước xem thử, cả đời này tôi cũng không yên lòng. Huống hồ lần này Cáng Tử đã mất mạng, nếu chúng ta không hái được sâm báu, làm sao có thể ăn nói với cậu ấy?”

Mọi người nghe xong không ai nói gì nữa. Kim Bất Hoán để Trần Côn Tử ở lại chăm sóc Hồ Nhá Mại bị thương, còn mình thì dẫn cả nhóm vòng đường khác trèo lên vách núi. Bọn họ chặt dây leo, đo đạc độ dài, bện thành một sợi dây thừng, một đầu quấn mấy vòng quanh một cây bách lớn, đầu còn lại buộc chặt vào thắt lưng Kim Bất Hoán. Ông đeo túi da đựng dụng cụ hái sâm trên lưng, súng lục không cần dùng đến khi hái sâm nên giao cho Triệu Nhị Lư bảo quản.

Sau khi chuẩn bị xong xuôi, Kim Bất Hoán tính toán khoảng cách cẩn thận, hít sâu một hơi, tay phải cầm móc leo núi, tay trái nắm dao, bắt đầu chạy đà từ khoảng hai mươi mét tính từ mép vách đá. Đến sát vách, ông dồn hết sức lực nhảy mạnh một cái, thân hình như cánh chim lớn bay vút ra ngoài.

Kim Thập Tam và những người khác vội chạy đến mép vách nhìn xuống, chỉ thấy Kim Bất Hoán rơi đến độ cao đã tính toán trước, sợi dây căng thẳng rồi bật trở lại. Ông lợi dụng quán tính, thoắt một cái biến mất vào phía sau thác nước.

Mọi người nhìn một lúc lâu mà không thấy bóng dáng ông nổi lên từ vực nước phía dưới. Họ kéo dây lên, thấy đầu dây đã bị cắt đứt, vết cắt gọn gàng. Có lẽ là lúc lắc mình vào thác, Kim Bất Hoán đã chặt đứt dây để tránh bị quán tính kéo ngược ra khỏi thác. Mọi người lúc này mới thả lỏng tinh thần một chút.

Lý Đại Hào Tử vỗ ngực thở phào: “A di đà Phật! Vô Lượng Thiên Tôn! Chúa trời Giê-su! Xem ra bá đầu đã vào được rồi.”

Cả nhóm chờ thêm một lúc, thấy bên trong thác không có động tĩnh gì, nghĩ rằng dù sao đứng trên vách núi cũng không giúp gì được, chỉ càng thêm sốt ruột, bèn men theo đường cũ trèo xuống vách đá, quay về bên bờ vực nước chờ Kim Bất Hoán. Theo kế hoạch, sau khi hái được “Nhị Tầng Lâu”, ông sẽ nhảy từ trên cao xuống vực nước rồi bơi vào bờ.

Lưu Lão Muộn đi ở cuối đội ngũ. Đi được mấy trăm mét, ông ta vô tình ngoái đầu nhìn lại, nhưng không thấy Kim Thập Tam vẫn luôn đi sau lưng mình đâu. Ông vội vàng gọi mấy người phía trước dừng lại, cả nhóm lập tức chạy ngược trở lại đỉnh vách đá. Vừa đến nơi, họ liền thấy Kim Thập Tam đã buộc chặt một sợi dây thừng dự phòng quanh eo, bắt chước Kim Bất Hoán, nhảy vọt ra khỏi vách đá.

Kim Thập Tam lao mình xuống, thân thể rơi nhanh như tên bắn, chỉ cảm thấy gió táp mạnh vào mặt, trong lòng bất giác hoảng hốt, theo bản năng nhắm chặt mắt lại. Đột nhiên, eo hắn căng lên, sợi dây đã kéo chặt, một lực mạnh truyền đến, khiến con dao và móc leo núi trong tay tuột khỏi tay mà bay đi. Cùng lúc đó, cơ thể hắn bị quán tính đẩy ngang qua thác nước, dòng nước ào ạt đập vào người, tai nghe thấy một tiếng “ào”, người đã xuyên qua thác nước. Còn chưa kịp định thần, sợi dây thừng lại kéo giật ngược hắn ra ngoài.

Dao và móc leo núi đều đã rơi mất, Kim Thập Tam không thể cắt đứt dây cũng chẳng có điểm tựa để giữ vững cơ thể, chỉ có thể cuống cuồng vung tay loạn xạ, cố gắng bám lấy thứ gì đó như một cọng rơm cứu mạng.

Đang lúc luống cuống, đột nhiên có một bàn tay chộp lấy dây thừng quanh eo anh ta, tiếp theo, cơ thể hắn bỗng nhẹ hẫng, rồi cả người chúi đầu xuống đất. Kim Thập Tam lau nước trên mặt, vừa định lên tiếng thì bị một bàn tay bịt chặt miệng.

Kim Bất Hoán ghé sát tai, vội vàng thì thầm: “Đừng lên tiếng, coi chừng kinh động đến con mãng xà!”

Kim Thập Tam giật mình, trợn mắt nhìn xung quanh. Trước mặt hắn là một hõm đá ăn sâu vào vách núi, rộng chưa đầy mấy trượng, khắp nơi phủ đầy rêu xanh, dương xỉ cùng một số cây bụi thấp bé. Cách hắn chưa đến hai trượng, một vật thể khổng lồ đang cuộn mình, vảy đen lốm đốm vân đỏ, đầu mọc u thịt, nếu không phải mãng xà thì còn là gì nữa?!

Kim Thập Tam giật mình kinh hãi, nhìn kỹ lại thì thấy ngay bên cạnh chỗ con mãng xà cuộn mình có một cây thảo mộc trông vô cùng đặc biệt. Trên thân chính mọc ra một chùm hạt sâm đỏ tươi, từng hạt căng tròn, bóng mịn, to gần bằng hạt đậu tằm. Lá sâm có hình bầu dục ngược, mép răng cưa, mỗi cuống năm lá, hai tầng tám cuống, chính là cây “Nhị Tầng Lâu” trong truyền thuyết!

Kim Thập Tam quay sang định hỏi Kim Bất Hoán, nhưng ông vội “suỵt” một tiếng, rồi ghé sát tai nói khẽ: “Con mãng xã này có vẻ đang ngủ. Từ lúc ta xuống đây đến giờ, nó vẫn cuộn mình bất động. Chúng ta chia hai hướng áp sát nó. Ta sẽ ra trước đánh lạc hướng, con chờ lúc nó định tấn công ta thì vòng ra sau, chém bay đầu nó!”

Vừa nói, Kim Bất Hoán vừa đưa con dao trong tay cho Kim Thập Tam, dặn thêm: “Nhớ giữ động tác nhẹ nhàng, nín thở! Con mãng xà này rất nhạy cảm với hơi thở của sinh vật sống. Chỉ cần bước vào phạm vi bốn năm bước, nó sẽ đánh hơi thấy ngay.”

Kim Thập Tam gật đầu, cầm chặt con dao, cùng Kim Bất Hoán chia hai hướng, rón rén tiến về phía “Thần Long”. Con này tuy nhỏ hơn con mà Kim Thập Tam từng giết ở vách mỏ ưng, nhưng cũng dài hơn một trượng, thân to cỡ chén trà.

Khi cả hai đã tiếp cận con “Thần Long” trong khoảng ba bước chân, Kim Bất Hoán thấy nó vẫn nhắm mắt bất động, liền ra hiệu bảo Kim Thập Tam đợi thêm. Sau đó, ông từ từ cúi xuống, chậm rãi đưa tay về phía cổ con “Thần Long”, định chộp lấy và ghì chặt nó xuống trong nháy mắt.

Nhưng ngay khi tay Kim Bất Hoán còn cách cổ con “Thần Long” chừng một thước, con vật bỗng mở bừng mắt, nửa thân trên bật dậy như mũi tên rời cung, lao thẳng vào mặt ông với tốc độ kinh hoàng!

Kim Bất Hoán giật bắn cả người, không ngờ con súc sinh này lại giả vờ ngủ để dụ ông đến gần rồi bất ngờ tập kích. May mắn là ông luôn trong trạng thái đề phòng cao độ, lập tức ngả người về sau thực hiện một động tác “Thiết Bản Kiều”, hiểm hóc tránh được cú đớp của con “Thần Long”.

Con “Thần Long” tấn công hụt, thân trên tự nhiên rụt lại. Ở phía sau, Kim Thập Tam sao có thể để nó có cơ hội ra đòn lần thứ hai với cha mình? Hắn quát lớn một tiếng, vung dao bổ thẳng vào sau gáy con quái vật. Nhưng dường như con “Thần Long” đã sớm dự đoán được có kẻ tập kích từ phía sau, nó cúi đầu né tránh một cách chuẩn xác, sau đó lập tức quay ngoắt lại, phun ra một làn sương độc màu hồng nhạt.

Kim Thập Tam chỉ cảm thấy một mùi tanh hôi xộc thẳng vào mặt, hơi thở nghẹn lại, cơ thể lảo đảo, liên tiếp lùi mấy bước.

Kim Bất Hoán thấy con trai bị trúng độc, hoảng hốt kêu lên: “Thập Tam, con sao rồi?!”

Kim Thập Tam lắc lắc đầu, không hề có cảm giác choáng váng, cơ thể cũng không thấy có gì bất thường, bèn đáp ngay: “Cha, con không sao!” Nói rồi, hắn bước lên một bước, tay phải giơ cao dao thủ thế phòng ngự, mắt chằm chằm nhìn con rắn đang ngẩng đầu thè lưỡi trước mặt.

Nhưng kỳ lạ là nó không có ý định tiếp tục tấn công. Khi thấy Kim Thập Tam tiến lại gần, nó không lao lên mà ngửa đầu ra sau, thân thể liên tục lắc lư như đang tìm đường thoát. Kim Thập Tam chợt nghĩ, chẳng lẽ con rắn này cảm nhận được viên xà đan trên người mình nên sinh lòng e sợ?

Hắn thử bước lên thêm một bước. Con vật quái dị ấy liếc nhìn hắn một cái, bỗng nhiên vặn mình, nhanh chóng mở cuộn thân, chẳng buồn để ý đến Kim Bất Hoán đang đứng bên cạnh, lập tức trườn về phía một khe đá trong góc vách, chớp mắt đã biến mất bên trong.

Kim Bất Hoán thấy vậy sững sờ, sau đó cũng đoán được nguyên nhân, thở phào một hơi rồi nói: “May mà có viên xà đan này, ngay cả “Thần Long” cũng không dám mạo phạm, nếu không hai cha con ta chưa chắc đã đối phó được với nó. Xem ra con rắn lớn mà con giết, hẳn là “Long Vương” rồi.”

Kim Thập Tam hoàn hồn, vỗ ngực nói: “Nguy hiểm thật, nguy hiểm thật! Không ngờ gốc “Nhị Tầng Lâu” này lại có “Thần Long” canh giữ.”

Kim Bất Hoán nghe vậy lại sững sờ, bỗng nhiên lộ vẻ vui mừng cuồng nhiệt, vội vàng nói: “Thập Tam, mau mang đồ nghề của cha lại đây!”

Kim Thập Tam vâng một tiếng, chạy qua lấy túi da đựng dụng cụ mang đến.

Kim Bất Hoán lấy ra một sợi dây đỏ và hai xu tiền đồng. Kim Thập Tam nhìn đồng tiền, hóa ra đó là hai đồng Khang Hy Thông Bảo. Hắn biết đây gọi là định sâm tiền, được buộc vào hai đầu sợi dây đỏ. Sợi dây đỏ sẽ quấn vài vòng quanh thân chính của cây nhân sâm, số vòng quấn tương ứng với số lá của cây sâm. Hai đầu dây buộc đồng tiền sẽ được mắc vào gậy khóa bảo hoặc cành cây, bụi rậm bên cạnh.

Niên hiệu trên định sâm tiền càng cát tường càng tốt, tiền có phẩm tướng càng sáng rõ thì càng hiệu nghiệm. Thời Dân Quốc, những người đi đào nhân sâm hầu như đều sử dụng tiền đồng triều Thanh. Nhà Thanh, tính từ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, trải qua mười hai vị hoàng đế, trong đó triều Càn Long là thời kỳ thịnh vượng nhất, nên niên hiệu này cũng được coi là may mắn nhất.

Triều Càn Long cũng là thời kỳ phát hành tiền đồng với số lượng lớn nhất, lưu truyền lại đời sau rất nhiều, dễ dàng sưu tầm, vì thế những người đi rừng thường sử dụng Càn Long Thông Bảo. Nếu không có, thì Gia Khánh Thông Bảo cũng tạm được. Từ thời Đạo Quang trở đi, người phương Tây nhiều lần xâm phạm bờ cõi, xung đột triền miên; các đời Hàm Phong, Đồng Trị, Quang Tự lại càng hỗn loạn, dân chúng lầm than, ngay cả hoàng đế cũng đoản mệnh.

Đến đời Tuyên Thống, vị vua cuối cùng của nhà Thanh, thì đã bị ép thoái vị, bị giam lỏng trong Tử Cấm Thành, do đó tiền các triều này không được xem là tốt. Còn ngược lên trên Càn Long, thời Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích và Thái Tông Hoàng Thái Cực, thiên hạ chiến loạn, binh đao khắp nơi, hai vị này cũng không có kết cục tốt đẹp, nên tiền của họ cũng không thể dùng.

Hai đời Thế Tổ Thuận Trị và Thế Tông Ung Chính dù nguyên nhân qua đời có phần bí ẩn, nhưng họ đều là minh quân trị thế, vì thế Thuận Trị Thông Bảo và Ung Chính Thông Bảo vẫn có thể miễn cưỡng sử dụng. Chỉ có tiền của Thánh Tổ Khang Hy, Khang Hy Thông Bảo là có thể sánh ngang với Càn Long Thông Bảo. Nhưng Khang Hy Thông Bảo lưu truyền lại rất ít, khó tìm, hơn nữa do thời gian quá lâu, phần lớn đều đã mờ nét, khó đọc rõ niên hiệu, nên những người đi đào sâm cũng ít khi sử dụng.

Kim Thập Tam thấy mấy ngày trước cha mình đào sâm đều dùng Càn Long Thông Bảo, mà lần này lại lấy ra Khang Hy Thông Bảo, nên tỏ ra kinh ngạc, liền hỏi nguyên do.

Kim Bất Hoán cười khà khà, nói: “Người ta thường cho rằng Càn Long Thông Bảo là đồng tiền có niên hiệu cát tường nhất, thích hợp nhất để định sâm, nhưng thực ra chỉ biết một mà không biết hai. Càn Long Thông Bảo tuy mang khí chất cao quý nhất, hàm lượng đồng cao, chế tác cũng tinh xảo nhất, nhưng lại thiếu đi một phần sát khí. Hãy nghĩ mà xem, vua Càn Long chỉ là một vị vua giữ nước, tiếp nhận giang sơn vững mạnh do tiên tổ để lại. Nếu nói giai đoạn đầu ông ta cũng khá anh minh, thì về sau lại kiêu ngạo, hoang dâm vô độ, thích phô trương công trạng, khiến nhà Thanh từ đó bắt đầu suy thoái, để lại một mớ hỗn độn cho hậu thế. Do vậy, tiền của ông tuy mang quý khí, nhưng cũng vướng một chút khí suy tàn.

Còn Khang Hy gia thì khác! Cả đời ông trừ Ngao Bái, dẹp Tam Phiên, bình định Tây Bắc, thu hồi Đài Loan, trấn áp quỷ La Sát, khiến giang sơn thái bình, quốc thái dân an. Danh nghĩa là hoàng đế giữ nước, nhưng thực chất là người gây dựng cơ đồ. Dù không phải vị vua khai quốc, nhưng vẫn được tôn xưng là “Tổ”. Văn trị võ công của ông không ai sánh bằng, thần hóa khó dò, nên miếu hiệu mới là “Thánh Tổ”. Vì thế, đồng tiền của ông không chỉ có quý khí, mà còn mang sát khí, không những có thể cầu phúc trời ban, mà còn có thể trấn áp tà ma yêu quái. Càn Long Thông Bảo chỉ có thể định được nhân sâm từ sáu lá trở xuống, nhưng nếu là nhân sâm trên sáu lá, thì nhất định phải dùng Khang Hy Thông Bảo!”

Kim Thập Tam nghe cha mình dẫn sử bàn về tiền cổ, phân tích rành rọt, liền nghiêm túc tiếp thu. Nhưng trong lòng hắn lại thoáng hoài nghi, không biết liệu bí quyết này có phải do vị kỳ nhân mà cha từng gặp truyền dạy hay không? Kim Bất Hoán thì không để ý đến những suy nghĩ nhỏ nhặt đó. Ông đã buộc chặt đồng tiền vào sợi dây đỏ. Đúng lúc này, thân chính của cây nhân sâm “Nhị Tầng Lâu” bỗng nhiên rung động một cách kỳ lạ.

Chỗ này nằm phía sau thác nước, bị màn nước che khuất, lại là một vách đá tuyệt bích không có lối thông, rất khó có gió lùa vào. Nhưng thân cây nhân sâm càng lúc càng lay động dữ dội, khiến Kim Bất Hoán cau mày, lập tức hô lên: “Không ổn! Nhân sâm sắp chạy!” Nói rồi, ông vội vàng móc từ trong túi ra bốn đồng tiền cổ. Là bốn đồng nào? Lần lượt là Thuận Trị Thông Bảo, Ung Chính Thông Bảo, Càn Long Thông Bảo, Gia Khánh Thông Bảo. Lấy nhân sâm làm trung tâm, Kim Bất Hoàn sắp xếp bốn đồng tiền Thông Bảo của Thuận Trị, Ung Chính, Càn Long và Gia Khánh theo ngũ hành Đông Mộc, Tây Kim, Bắc Thủy, Nam Hỏa, cách nhau ba thước ba tấc. Còn đồng Khang Hy Thông Bảo đặt ở giữa, chiếm vị trí Thổ.

Kim Thập Tam lần đầu tiên thấy một trận pháp như vậy, đứng tròn mắt kinh ngạc. Hắn vừa định mở miệng hỏi, thì thấy Kim Bất Hoán sắc mặt nghiêm trọng, chỉ lặng lẽ giơ tay ra hiệu bảo hắn im lặng, ánh mắt chăm chú dán chặt vào cây nhân sâm “Nhị Tầng Lâu”. Thân và lá của cây nhân sâm rung động một hồi, rồi dần dần yên tĩnh trở lại. Kim Bất Hoán thở phào nhẹ nhõm, nói: “Không ngờ cây sâm này lại khó đào đến vậy! Ta phải dùng đến trận pháp Ngũ Hành với năm đồng tiền đế vương mới có thể trấn giữ nó.”

Sau đó, ông quay sang Kim Thập Tam, dặn dò: “Được rồi, lấy ra cho ta “đao khoái đương đao (khi người phóng sơn phát hiện ra bổng chùy, đồng thời báo số lượng lá, thì những người đi cùng khác đều phải hét to “khoái đương, khoái đương”, tiếng Quan Đông có nghĩa là thuận lợi), “kéo khoái đương”, cọc xương hươu, cùng tất cả các dụng cụ khác. Giờ có thể đào sâm rồi! Con hãy ở bên cạnh trông chừng, đề phòng rắn, chuột, côn trùng, không để bất cứ thứ gì quấy nhiễu ta!”

Đào bổng chùy là một công việc tinh tế và phức tạp. Trước tiên, cần dùng tay dọn sạch cỏ dại và lá cây xung quanh bổng chùy để mở một khoảng trống. Sau đó, dùng “cưa khoái đương” để cưa đứt rễ cây xung quanh bổng chùy, không thể dùng rìu chặt vì rễ cây có tính đàn hồi, có thể làm tổn thương bổng chùy. Tuy nhiên, trên vách đá này không có cây lớn, chỉ có bụi cây nhỏ, nên cưa khoái đương không có nhiều tác dụng, chỉ cần dùng dao khoái đương và kéo khoái đương để cắt bỏ cành nhỏ là đủ.

Tiếp theo, cần dùng xẻng khoái đương và dùi làm từ xương nai. Dùi xương nai này chuyên dùng để đào nhân sâm, một là không bị dính đất đen, hai là không làm trầy xước thân sâm, giúp bảo vệ củ sâm ở mức tối đa. Kim Bất Hoán bắt đầu đào cách bổng chùy một thước sáu phân, lấy thân chính làm tâm, đào thành một cái hố tròn, bao quanh bổng chùy. Sau đó, từ mép ngoài của vòng tròn, từ từ nới lỏng đất xuống phía dưới bổng chùy.

Khi thân bổng chùy vừa mới lộ ra một đoạn nhỏ, Kim Bất Hoán đột nhiên dừng lại, đứng yên bất động hồi lâu. Kim Thập Tam đứng bên cạnh thấy lạ, nhìn cha mình trợn tròn mắt, cánh mũi phập phồng, hơi thở gấp gáp. Đang định hỏi thì ánh mắt cũng bị thân bổng chùy trong hố thu hút, không kìm được khẽ kêu lên: “Song lô đầu!”

Kim Bất Hoán không nói gì, tiếp tục tập trung toàn bộ tinh thần đào sâm. Càng đào xuống càng khó khăn, vì rễ của bổng chùy không thể bị đứt, nếu đứt thì sẽ mất giá trị. Đến khi đào sâu hơn, Kim Bất Hoán thậm chí không dùng dùi xương nai nữa, mà dùng ngón tay cẩn thận tách từng sợi rễ ra. Khi toàn bộ củ sâm, cả thân lẫn rễ, đã lộ ra hoàn toàn, Kim Bất Hoán nhẹ nhàng dùng ngón tay cầm lấy lô đầu, gấp gáp dặn dò Kim Thập Tam, người vẫn đang sững sờ: “Nhanh! Rêu bọc!”

Kim Thập Tam hoàn hồn, lập tức lấy ra một mảng rêu lớn từ trong túi da, trải ra trên mặt đất. Kim Bất Hoán cẩn thận nhấc bổng chùy ra khỏi hố, đặt lên lớp rêu bọc. Ông thở dài một hơi, rồi ngửa mặt lên trời cười lớn: “Hahaha! Không ngờ đời này ta, Kim Bất Hoán, lại có thể đào được “Thần Long Nhị Trụ Hương”! Ha ha ha…”

Tiếng cười chưa dứt, ông bỗng nhiên quỳ xuống, hướng về vách đá dập đầu ba cái thật mạnh, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Khi ngẩng đầu lên, nước mắt đã giàn giụa trên mặt. Kim Thập Tam chưa bao giờ thấy cha mình xúc động đến vậy, sợ hãi hỏi: “Cha, cha làm sao thế?”

Kim Bất Hoán đưa tay lau nước mắt, ấn đầu con trai xuống rồi nói: “Mau! Con cũng quỳ xuống, dập đầu ba cái tạ ơn Sơn Thần đi!”

Kim Thập Tam chẳng hiểu gì nhưng vẫn làm theo. Sau khi dập đầu xong, đứng dậy, Kim Bất Hoán cười nói: “Con có thấy hai lô đầu trên bổng chùy này không? Con có thấy hoa văn trên thân bổng chùy này không? Đó không phải là vân thiết tuyến, cũng không phải vân dế, mà là vân da rắn đấy! Đây chính là một cây “Thần Long Nhị Trụ Hương” trăm năm có một! Bảo sao con thần long kia lại xuất hiện sau thác nước này, cứ canh giữ bổng chùy mà không chịu rời đi! Ha ha ha…”

Kim Thập Tam vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, vội hỏi: “Cha! “Thần Long Nhị Trụ Hương” là gì vậy?”

Kim Bất Hoán nhẹ nhàng vuốt v3 những sợi rễ sâm, trên đó điểm xuyết những nốt sâm nhụy tựa hạt trân châu, rồi tán thưởng ngâm nga: “Đầu đôi tinh xảo khéo tay, chân rồng ngắn tựa dáng người xưa nay. Da vảy rắn, vân rồng đan, râu quấn long cuốn, ngọc ngàn rủ rơi.” Câu khẩu quyết nhận biết nhân sâm trong sách cổ này, chính là đang nói về củ “Thần Long Nhị Trụ Hương”. Con nhìn đi, cây sâm này có song lô tinh điểm, có vân rắn long tu, nếu không phải nó thì còn gì vào đây nữa! Nếu như “Nhị Tầng Lâu” đã là kỳ bảo trong nhân sâm, thì “Thần Long Nhị Trụ Hương” chính là chí tôn của giới nhân sâm! Khắp thiên hạ, e rằng chỉ có cây “Phượng Hoàng Đơn Trích Lệ” trong tay Dương Bát gia mới miễn cưỡng có thể sánh ngang.”

Kim Bất Hoán cẩn thận dùng lớp rêu bọc chặt củ sâm quý, đặt vào trong túi da, buộc miệng túi thật chặt rồi đeo chặt bên mình. Hai cha con lao ra khỏi thác nước, rơi xuống vực sâu phía dưới. Bề mặt nước trông có vẻ bình thường, nhưng bên dưới lại lạnh thấu xương, rét buốt đến mức khiến máu trong người như ngừng chảy. Kim Thập Tam từng học bơi với Kim Bất Hoán, bơi lội không tệ. Thế nhưng do rơi xuống quá sâu, áp lực nước khổng lồ đè ép đến mức mắt hắn đỏ ngầu, màng nhĩ đau nhức. Hắn vội dùng tay bịt mũi, liên tục thở ra để cân bằng áp suất, đồng thời hơi há miệng và cố sức đạp nước. Nhưng khi còn cách mặt nước ba thước, sức đã cạn kiệt. May mắn thay, Kim Bất Hoán kịp bơi tới, từ dưới đẩy mạnh một cái, giúp hắn trồi lên khỏi mặt nước.

Hai cha con dốc hết sức bơi vào bờ, cả hai đều đã kiệt sức, thở hổn hển không ngừng. Lưu Lão Muộn cùng mọi người vội vàng kéo họ lên, đưa đến bên đống lửa trại đã đốt sẵn, giúp họ cởi bỏ quần áo ướt, lau khô người rồi thay bằng y phục khô ráo. Triệu Nhị Lư lại bưng đến một bát canh sâm gừng nhị hợp nóng hổi cho họ uống để bổ khí, trừ hàn. Nhân sâm thì không cần nói, còn gừng cũng là thứ mà những người vào núi luôn mang theo bên mình. Khi ở trong rừng sâu nhiều tháng liền, khó tránh khỏi việc lội suối dầm mưa, không thể không chịu ảnh hưởng của khí lạnh hay nóng bức.

Canh sâm gừng nhị hợp chính là thức uống tốt nhất để bồi bổ nguyên khí và xua tan hàn khí. Dù rượu cũng có thể trừ hàn, nhưng tính quá mạnh. Nhất là như hai cha con Kim Bất Hoán vừa từ một vực nước lạnh thấu xương bò ra, lục phủ ngũ tạng đều đã đông cứng. Nếu dùng rượu mạnh để ép hàn khí ra ngoài, sự va chạm giữa băng và lửa trong cơ thể sẽ khiến thân thể không chịu nổi. Người yếu một chút có thể mất mạng ngay tức khắc. Vì vậy, chỉ có thể dùng canh sâm gừng nhị hợp để từ từ làm ấm và đẩy hàn khí ra ngoài.

Mãi đến nửa canh giờ sau, hai cha con Kim Bất Hoán mới dần hồi phục. Kim Thập Tam dù sao cũng còn trẻ, cơ thể khỏe mạnh, hỏa lực dồi dào, nên nhanh chóng lấy lại tinh thần. Hắn hào hứng kể lại những hiểm nguy khi lao vào thác nước, khiến mọi người xung quanh đều trầm trồ thán phục.

Khi hắn nhắc đến việc hai cha con đã đào được một cây “Thần Long Nhị Trụ Hương” còn quý hiếm hơn cả “Nhị Tầng Lâu”, ai nấy đều trợn tròn mắt, không dám tin vào tai mình. Lý Đại Hào Tử vội vàng mở túi da, lấy ra bổng chùy được bọc trong lớp rêu, cẩn thận quan sát một lượt. Giọng hắn run run khi thốt lên: “Là thật! Đúng… đúng là “Thần Long Nhị Trụ Hương” này!” Hắn quay sang Kim Bất Hoán, háo hức hỏi: “Bá đầu, củ “Thần Long Nhị Trụ Hương” này có thể đáng giá đến mười vạn đồng đại dương không?”

Kim Bất Hoán mỉm cười: “Lão Lý, xem cái gan chuột của chú kìa, sao lại không dám đoán lớn hơn chứ? Để ta nói cho chú biết, nếu gặp được khách lớn đến mua hàng, ít nhất nó cũng đáng giá chừng này!” Vừa nói, ông vừa giơ năm ngón tay ra.

Mọi người vui mừng đến nỗi không nói nên lời, chỉ biết hò hét, đấm nhau, vỗ vai nhau mà cười ngây ngô. Nhưng Kim Bất Hoán lại dần thu lại nụ cười, chậm rãi nói: “Đáng tiếc, huynh đệ Cáng Tử không còn để chứng kiến cây sâm báu này nữa…” Không khí chợt lặng xuống. Kim Bất Hoán tiếp tục: “Giờ chúng ta đã đào được cây bổng chùy này, xem như phát tài lớn. Theo lệ hàng năm, bất kể bổng chùy bán được bao nhiêu, anh em chúng ta đều chia đều theo đầu người. Nhưng năm nay, tôi muốn đổi quy tắc một chút.”
 
Sơn Thần - Phi Ảnh
Chương 7: Chương 7



Chương 7

Edit & beta: Cún

Trước đó, chúng ta đã nói đến, trên đường đến nơi thác nước, nhóm người Kim Bất gặp phải sự tấn công của bầy rắn, Trần Cáng Tử bất hạnh tử vong. May thay trên người Kim Thập Tam có viên xà đan trấn áp bầy rắn, mọi người mới thoát được cảnh hiểm nguy.

Khi cả nhóm đến nơi, Kim Bất Hoán tính toán được rằng cây sâm báu ở trong cái hang phía sau thác nước, và sẽ đích thân đi hái cây sâm đó. Kim Thập Tam không yên tâm để cha đi một mình, nên cũng đi theo vào trong thác nước. Hai cha con trải qua nguy hiểm, rồi bất ngờ hái được một cây sâm hiếm nhất trong giới sâm, “Thần Long Nhị Trụ Hương”.

Mọi người quá đỗi vui mừng, đang nghĩ đến việc sẽ kiếm được bộn tiền và chia đều số tiền đó theo đầu người, như vậy mọi người sẽ có đủ tiền chi tiêu cho sinh hoạt hết nửa đời sau, thì Kim Bất Hoán lại nói, lần này sẽ thay đổi quy tắc chia hoa hồng.

Mọi người nghe xong lời của Kim Bất Hoán, không ai lên tiếng. Lý Đại Hào Tử mấp máy môi định nói nhưng lại thôi. Theo quy tắc, mọi thu hoạch của mỗi lần phóng sơn, đều sẽ cho thủ lĩnh chia đều cho mọi người.

Đương nhiên, trong giới còn có một tỷ lệ phân phối thô, nhưng nói chung, thủ lĩnh chắc chắn là người sẽ được hưởng nhiều nhất. Nhưng Kim Bất Hoán là người hào phóng, mấy năm nay đều chia đều cho đám anh em của mình. Vì thế, cho dù lần này ông đề nghị ăn hơn một chút thì mọi người cũng không ai có ý kiến.

Kim Bất Hoán nhìn mọi người, cười khà khà: “Mấy anh em làm sao thế? Sao trông ai cũng buồn rười rượi như vậy?”

Lưu Lão Muộn nói: “Bá đầu, ông là nòng cốt của anh em bọn tôi, củ “Thần Long Nhị Trụ Hương” này cũng là ông và Thập Tam mạo hiểm tính mạng mới hái được. Ông nói chia thế nào thì chia thế ấy, chúng tôi không có ý kiến gì.”

Kim Bất Hoán xua tay, nói: “Mọi người nghe tôi nói hết đã. Hiện tại chúng ta có tất cả bảy người, theo quy tắc thì người thấy có phần, đương nhiên sẽ chia đều thành bảy phần. Nhưng chúng ta không thể quên người anh em đã chết, tất nhiên là cũng sẽ có phần của Cáng Tử. Nhà của Cáng Tử còn có vợ con, sau này không còn nơi nương tựa, nên xứng đáng được nhận phần hơn. Ta muốn đem phần của Thập Tam chia cho cậu ấy. Thập Tam…”

Ông quay đầu nói với Kim Thập Tam: “Con không có ý kiến gì chứ?”

Kim Thập Tam nói to: “Con không có ý kiến!” Đọc Full Tại Truyenfull.vision

Trần Côn Tử: “Bá đầu, tuy là anh trai tôi đã chết, nhưng ông vẫn nhớ chia phần cho anh ấy, như vậy là đủ để thấy ngài là người nhân nghĩa và công bằng. Nhưng Thập Tam theo ông vào sinh ra tử mới hái được củ sâm này, ông lại lấy phần của thằng bé để chia cho anh trai tôi, quả thực là không thích hợp lắm.”

Kim Thập Tam lớn tiếng nói: “Chú Côn Tử, chú đừng nói nữa, là cháu tự nguyện đem phần của cháu nhường cho chú Cáng Tử. Nếu không phải là chú ấy đẩy cháu lên cây trước thì chú ấy cũng sẽ không gặp nạn giữa bầy rắn, thậm chí còn mất mạng. Cháu đem phần của mình cho vợ chú Cáng Tử và các em, đó cũng điều cháu nên làm.”

Kim Bất Hoán nhìn Kim Thập Tam, tán thưởng mà gật đầu. Ông nói tiếp với mọi người: “Lần này, Nhá Mại cũng xem như mất nửa mạng, đoán không chừng khi trở về phải tĩnh dưỡng cỡ nửa năm. Phần của tôi, khi quay về sẽ lấy một ít chia cho Nhá Mại, xem như là bồi thường cho chú ấy.”

Hồ Nhá Mại vốn đang nằm nghỉ ngơi lấy lại sức, nghe thấy Kim Bất Hoán nói vậy, liền mở mắt ra, rồi cố gắn ngồi dậy, nói: “Không được, không được! Tôi có thể nhận được phần của mình là đã thỏa mãn lắm rồi, sao có thể chiếm lời từ phần của ông được! Cha con hai người cứ như vậy, thì còn lại được bao nhiêu chứ?”

Kim Bất Hoán cười nói: “Cậu mau nằm xuống cho ta! Quy tắc trong giới, mọi thu hoạch đều do bá đầu chia chác? Ta đã nói vậy rồi, thì cứ quyết định vậy đi! Chúng ta đã hái được củ “Thần Long Nhị Trụ Hương” này, cho dù chỉ được phần ít, nhưng cũng đủ ăn uống cả đời. Mọi người không cần thấy tiếc thay cho ta và Thập Tam.”

Mọi người nhìn hai cha con họ đầy cảm kích, liền không ai ý kiến gì nữa.

Kim Bất Hoán lại nói: “Vì chúng ta đã hái được củ “Thần Long Nhị Trụ Hương”, nên giờ có thể xuống núi rồi. Vòng về đường cũ, chỉ sợ sẽ phải đi qua khu vực “quỷ đả tường”, không có “kim phượng hoàng” dẫn đường, không biết chúng ta có thể ra khỏi đây không nữa. Hơn nữa, sau khi xuống núi có khả năng sẽ chạm mặt đám người Triều Tiên kia. Đám người này không phải hạng người thiện lương gì, lại người đông thế mạnh, nói không chừng còn ra tay cướp đồ. Vì thế, chúng ta phải xuống núi bằng một đường khác.”

Mọi người lần lượt gật đầu đồng tình.

Lý Đại Hào Tử nói: “Đầm nước này xuyên qua vách núi, chảy về hướng đông nam, chúng ta sẽ đi theo đường thủy, cũng có thể xuống núi.”

Kim Bất Hoán lại lắc đầu nói: “Đông Nam tuyệt đối không thể đi. Hôm qua khi chúng ta gặp phải “quỷ đả tường”, ta đã bắt đầu quan sát. Cây cối, hoa cỏ trong rừng trông thì có vẻ hỗn loạn không có trật tự, nhưng mơ hồ lại như ẩn chứa một quy luật nào đó. Hôm nay, sau khi leo l3n đỉnh vách “rồng xanh nhả nước”, ta quan sát toàn bộ địa thế núi rừng thì bỗng nhiên hiểu ra, nơi này hóa ra lại là một trận đồ Bát Quái do tự nhiên tạo thành. Cửa rừng mà chúng ta đi vào chính là “Thương môn”. Trong “Di Sơn Đảo Hải Quyết” có viết: “Thương môn trị Chấn, tọa ở chính Đông, chủ về bệnh tật, tai họa. Lâm Nhị Bát cung là bị ép, không cát, biến hóa thì mất lợi.’ “Lâm Nhị Bát cung” trong Bát Quái là Chấn khắc Cấn, không phải điềm lành. Mà trong khẩu quyết lại cố ý dùng chữ “bức” (ép buộc), cho thấy sẽ có ngoại lực gây áp bức, quấy nhiễu. Đám người Bang Sâm Triều Tiên bức ép, việc “quỷ đả tường” xuất hiện khiến chúng ta bị lạc đường, bầy rắn tấn công và cái chết của Cáng Tử đều đã chứng minh cho điều đó.

Còn nơi thác nước này nằm tại “Sinh môn”. Trong Di Sơn Đảo Hải Quyết còn viết: “Sinh môn trị Cấn, tọa ở Đông Bắc, chủ sinh dưỡng vạn vật. Dưỡng thủy thì thủy sống, dưỡng người thì người hưng thịnh, dưỡng vật thì vật phát triển.” Quả nhiên, chúng ta đã tìm được “Thần Long Nhị Trụ Hương” phía sau thác nước.

Nếu luận theo đó thì: Đỗ môn trị Tốn, tọa ở Đông Nam, chủ bế tắc, không thông; Cảnh môn trị Ly, tọa ở Chính Nam, chủ quỷ quái, u linh; Tử môn trị Khôn, tọa ở Tây Nam, chủ cái chết, chôn cất; Kinh môn trị Đoài, tọa ở Chính Tây, chủ kinh sợ, bỏ chạy.

Những hướng này đều là hiểm lộ, tử lộ, tuyệt lộ, tuyệt đối không thể đi. Muốn an toàn rời khỏi vùng núi rừng này, nhất định phải chuyển hướng Tây Bắc, đi theo “Khai môn”. Khai môn trị Càn, tọa ở Tây Bắc, chủ hành trình thông suốt. Thông thì có thể đến nơi, dẫu có biến cũng không loạn, gọi là Thái.”

Lưu Lão Muộn, Trần Côn Tử và những người khác đều là những kẻ mù chữ, nghe Kim Bất Hoán ngâm nga khẩu quyết thì chỉ thấy mù mịt chẳng hiểu gì, chỉ biết rằng ý của ông là phải đi về hướng Tây Bắc. Nhưng khi vào núi, bọn họ đã đi từ cửa gió, nằm ở phía Đông Nam của núi Trường Bạch, bây giờ lại phải đi về Tây Bắc, chẳng phải là càng lúc càng tiến sâu vào trong núi hay sao?

Trong lòng mọi người tuy có nghi hoặc, nhưng bá đầu vốn là người dẫn đầu của đội phóng sơn, ông bảo đi hướng nào thì cứ đi hướng đó. Hơn nữa, ai nấy cũng đều cảm kích và khâm phục Kim Bất Hoán, nên không một ai dị nghị, chỉ lặng lẽ làm theo lời ông.

Chỉ có Kim Thập Tam thầm suy nghĩ trong lòng, những khẩu quyết này chẳng lẽ cũng là do vị kỳ nhân kia truyền dạy? Nghĩ đến đó, hắn càng thêm kính ngưỡng, cảm thấy người này quả thực như núi cao khó với tới.

Cả đoàn thay nhau khiêng Hồ Nhá Mại, dãi nắng dầm sương, băng qua những khe núi rừng sâu không dấu chân người. Không có đường thì tự mở đường, gặp suối thì tự bắc cầu, nhưng với đám thợ săn núi này, những việc ấy chẳng đáng là gì. Mọi người chỉ cần nghĩ đến cây “Thần Long Nhị Trụ Hương” đang được Kim Bất Hoán buộc chặt bên hông thì ai nấy đều phấn chấn tinh thần, không còn thấy mệt mỏi nữa. Ai cũng chỉ mong mau chóng ra khỏi ngọn núi này, mang sâm báu đổi thành từng đống bạc trắng lóa mắt.

Chiều hôm ấy, cả nhóm cắm trại trên một triền dốc. Mọi người ai vào việc nấy, thuần thục chặt cây, phát cỏ theo sự phân công của Kim Bất Hoán, chuẩn bị dựng địa xưởng tử. Đã đi suốt bảy tám ngày nay, tuy chưa gặp phải nguy hiểm gì, nhưng vẫn chưa tìm được lối ra khỏi núi. Con người dù có khỏe đến đâu cũng chẳng phải cỗ máy, đường xa vạn dặm băng rừng lội suối khiến ai nấy đều thấm mệt. Họ cần nghỉ ngơi một đêm để lấy sức và suy tính xem tiếp theo nên đi thế nào.

Kim Thập Tam đang vung rìu chặt một cây sam to cỡ miệng bát. Loại cây này có thớ gỗ mềm, dễ đốn hạ, rất thích hợp để dựng địa xưởng tử. Chỉ vài nhát rìu, thân cây đã gãy gục. Hắn né sang một bên, chờ cây đổ xuống, thì bỗng nghe thấy Trần Côn Tử ở cách đó không xa hét lớn: “Thập Tam, mau tránh ra!”

Kim Thập Tam sững người, rồi đột nhiên nghe tiếng soạt soạt trong bụi cỏ phía sau. Hắn vừa quay đầu lại thì đã thấy một bóng đen xông thẳng về phía mình!Hắn nhanh chóng lách người sang một bên, và ngay trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, vật kia lao vút qua sát sườn hắn. Đến lúc này, hắn mới nhìn rõ, đó là một con lợn rừng đầu bờm tua tủa, mõm dài, răng nanh sắc nhọn, thân hình mập mạp chắc nịch, nặng ít nhất cũng phải ba bốn trăm cân!

Kim Thập Tam biết rõ sự lợi hại của loài lợn rừng, chúng khỏe như vâm, da dày, nanh sắc, lại có tính khí hung hãn, đến cả hổ báo đôi khi cũng phải e dè. Con lợn rừng lao tới vài mét, rồi quay ngoắt đầu lại, nhìn hắn chằm chằm với ánh mắt dữ tợn. Nó hừ hừ mấy tiếng, rồi lại cúi đầu, dồn lực chuẩn bị lao đến lần nữa. Kim Thập Tam nhẹ xoay người tránh né, rồi vung rìu chém thẳng vào lưng nó.

Không ngờ đòn đánh mạnh mẽ ấy chỉ để lại một vệt mờ trên lưng con thú, chẳng hề gây tổn thương gì. Tên cục súc này chẳng những không sợ, mà còn há nanh phóng tới, húc thẳng vào bụng Kim Thập Tam!

Phải biết rằng, lợn rừng có lớp da dày cứng, bình thường chúng thích lăn lộn trong bùn, cọ mình vào thân cây để gãi ngứa. Lớp bùn và nhựa cây bám chặt trên lông, tạo thành một lớp áo giáp dày, gần như đao kiếm khó có thể xuyên thủng!

Kim Thập Tam luống cuống tay chân, liên tục lùi lại né tránh. Đúng lúc hắn chật vật không chịu nổi, bỗng nghe một tiếng súng vang lên, con lợn rừng kêu thét một tiếng, đầu nó đã trúng đạn. Người nổ súng là chú Lão Muộn, ông ta đang kéo khóa nòng khẩu “Thủy Liên Châu” trên người để đẩy vỏ đạn ra và nạp đạn, chuẩn bị bắn phát thứ hai.

Nhưng không ngờ con lợn rừng sau khi trúng đạn chẳng những không chết mà còn trở nên hung hăng hơn, bỏ qua Kim Thập Tam, quay đầu lao thẳng về phía ông ta. Súng trường Mosin-Nagant của Nga uy lực cũng khá, nhưng nạp đạn chậm, độ chính xác lại không cao. Chưa kịp để Lưu Lão Muộn bắn phát thứ hai, con lợn rừng đã lao đến trước mặt ông.

Thấy Lưu Lão Muộn không thể né tránh kịp, sắp bị con lợn rừng đâm ngã, mọi người thất kinh, vội vàng vung rìu cầm dao chạy đến cứu, nhưng nước xa không cứu được lửa gần. Đúng lúc ai nấy đều nghĩ rằng Lưu Lão Muộn không tránh khỏi bị con lợn rừng đâm chết hoặc ít nhất cũng trọng thương, bỗng vang lên hai tiếng súng nữa. Lần này là do Kim Bất Hoán cầm khẩu Mauser C96 khai hỏa. Con lợn rừng hự một tiếng, ngã nhào xuống đất, cách Lưu Lão Muộn chưa đầy ba bước.

Mọi người chậm rãi tiến lại gần, thấy con lợn rừng nằm bất động trên mặt đất, trong lòng mừng rỡ khôn xiết. Từ khi khởi hành đến chỗ thác nước để hái nhân sâm, cho đến nay chuyển hướng sang Tây Bắc để tìm đường xuống núi, đã gần mười ngày trôi qua mà họ chưa có một bữa ăn ra hồn.

Phần lớn nhu yếu phẩm đều để lại ở trại cũ, trên người họ chỉ mang theo công cụ thiết yếu và một ít lương khô. Nhưng lương khô đã cạn sạch từ ba ngày trước, những ngày này cả nhóm phải sống dựa vào việc hái trái cây dại, đào củ rừng, miễn cưỡng duy trì để không chết đói.

Giờ đây, ông trời ban cho họ một con lợn rừng to thế này, đủ để cả nhóm có vài bữa ăn thịnh soạn. Chỉ tiếc rằng hiện tại đang là mùa hè, dù trong núi Trường Bạch mát mẻ hơn so với bên ngoài, nhưng nhiệt độ trung bình mỗi ngày vẫn hơn hai mươi độ. Lại thêm việc không có đủ muối và gia vị để ướp thịt, nếu không thì con lợn này đủ để họ ăn no suốt nửa tháng.

Kim Thập Tam ngồi xổm xuống, định lật xác con lợn rừng lên xem kỹ, không ngờ nó lại hừ hừ hai tiếng, thân mình giật giật rồi bất ngờ đứng bật dậy. Kim Thập Tam giật mình đến nỗi ngồi phịch xuống đất. Con lợn rừng bị thương nặng, không còn hơi sức để tấn công hắn nữa, mà chỉ cố sức bỏ chạy. Mọi người không ai ngờ rằng nó đã trúng ba phát đạn mà vẫn chưa chết, thậm chí còn có thể chạy trốn, nên nhất thời đều sững sờ đứng đó.

Kim Thập Tam sao có thể để miếng mồi béo đến miệng rồi còn chạy mất? Hắn vội bò dậy đuổi theo. Hắn đuổi theo suốt hơn một dặm, con lợn rừng vì mất máu quá nhiều nên càng chạy càng chậm, cuối cùng loạng choạng không đứng vững rồi lại ngã nhào xuống đất.

Kim Thập Tam chạy đến bên nó, đá một phát, lần này con lợn chỉ rên khẽ một tiếng, không còn động đậy nữa. Sợ nó lại vùng dậy lần nữa, hắn dùng đầu gối ghì chặt đầu nó xuống, rút dao găm ra, đâm mạnh vào cổ họng. Con lợn rừng co giật hai cái, chân sau đạp vài lần rồi tắt thở hoàn toàn.

Kim Thập Tam vui vẻ đứng lên, định gọi mọi người đến khiêng lợn, nhưng đúng lúc đó, Triệu Nhị Lư chạy đến từ phía sau, bỗng nhiên quay người hét lớn: “Bá đầu, bá đầu! Phía trước chính là sông Hắc Long!”

Nghe thấy tiếng reo hò từ mọi người, Kim Thập Tam ngạc nhiên quay lại nhìn, quả nhiên thấy cách đó chưa đầy trăm mét có một dòng nước rộng chừng hai, ba trượng. Gọi là sông cũng được, mà gọi là suối cũng không sai. Nước trong veo, chảy chậm, có thể lội qua được.

Chẳng bao lâu sau, mọi người lần lượt kéo đến bờ sông.

Kim Bất Hoán đưa tay che mắt, hướng tầm nhìn ra xa. Lúc này, hắn đã có thể thấy bóng dáng của Lão Hổ Bối, đỉnh núi nằm ở sườn tây của núi Trường Bạch. Bên dưới Lão Hổ Bối chính là một hẻm núi lớn, nơi mà hằng năm họ đều ghé qua trong những chuyến vào rừng tìm sâm.

“Quả nhiên là Lão Hổ Bối, nơi này đúng là sông Hắc Long! Xem ra chúng ta đã ra khỏi rừng rồi!”, ông lẩm bẩm, trên gương mặt nở nụ cười rạng rỡ hiếm thấy bấy lâu nay. Mọi người nghe vậy liền hò reo vui sướng, ôm chầm lấy nhau, vỗ vai đập lưng, cười ha hả.

Sau bao ngày vật lộn ở sườn nam của núi Trường Bạch, không những họ tìm được “Thần Long Nhị Trụ Hương”, mà còn thoát khỏi khu rừng già hiểm ác, cảm giác mừng rỡ và xúc động lúc này khó có thể diễn tả thành lời.

Tối hôm đó, cả nhóm hạ trại bên bờ sông Hắc Long nghỉ ngơi. Sau khi ăn xong thịt lợn rừng nướng thơm phức, họ thả mình dưới bầu trời đầy sao, lắng nghe tiếng suối róc rách, tận hưởng làn gió đêm mát lạnh, rồi chìm vào giấc ngủ say sưa.

Sáng hôm sau, mọi người ăn sáng xong liền thu dọn đồ đạc xuống núi. Dọc theo dòng chảy của sông Hắc Long đi về phía nam, chưa đầy một ngày là có thể ra khỏi núi Trường Bạch.

Tâm trạng ai nấy đều nhẹ nhõm, vừa đi vừa trêu đùa nhau, đủ chuyện trên trời dưới đất.

Triệu Nhị Lư chọc ghẹo Lý Đại Hào Tử: “Lần này có tiền rồi, có phải định chuộc cô hoa khôi Bảo nương mà cậu mê mẩn ở Vân Hương Lâu, phủ Trường Xuân không đấy?”

Lưu Lão Muộn thì cười bảo sẽ làm mai cho Trần Côn Tử một cô vợ: “Cô hai nhà Hàn Đại Cước ở Kháo Sơn Đồn đúng độ xuân xanh, người lại xinh đẹp, cũng là duyên trời định cả.”

Ngay cả Hồ Nhá Mại, người nằm trên cáng suốt mấy ngày liền, giờ cũng đã hồi sức, liên tục pha trò với mọi người. Hắn cười hề hề: “Có tiền rồi, việc đầu tiên là chuộc lại đôi vòng ngọc của mẹ bọn trẻ từ tiệm cầm đồ mang về cho cô ấy. Còn nữa, phải lên Thông Hóa, mua đứt cả cái sân nhà của lão địa chủ Trương Đại, cho lão tức chết luôn!”

Cả nhóm cười vang, không khí rộn ràng vô cùng. Đọc Full Tại Truyenfull.vision

Chỉ riêng Kim Bất Hoán lại có chút bất an, nhưng rốt cuộc vì sao thì ngay chính ông cũng không rõ.

Theo lý mà nói, làm một phu sơn tràng, đào được “Thần Long Nhị Trụ Hương”, báu vật chí tôn của giới nhân sâm, thì cả đời này không còn gì phải tiếc nuối nữa. Dù có mất một huynh đệ, nhưng phu sơn tràng xưa nay vẫn coi sinh tử như số mệnh, vinh hoa phú quý đã có trời định, ai nấy đều đã chuẩn bị tâm lý từ trước.

Còn về chuyện với Dương Bát gia… phải rồi, lần này vào núi cũng vì lời mời của ông ta, bản thân ông cũng đã đồng ý giúp ông ta tìm củ “Nhị Tầng Lâu”. Nhưng xét cho cùng, mình không phải người của Bang Sâm Trường Bạch, càng không phải phu sơn tràng do ông ta nuôi dưỡng. Lên núi đào sâm, theo lệ đã nộp đầy đủ phí dụng cho Bang Sâm Trường Bạch, thì số sâm đào được sẽ do ông quyết định. Huống hồ, thứ ông tìm được còn quý hơn cả “Nhị Tầng Lâu”, đó là “Thần Long Nhị Trụ Hương”.

Theo lẽ thường, mình cũng không cần phải bán nó cho ông ta với giá năm mươi ngàn đại dương như thỏa thuận ban đầu. Đương nhiên, nếu ông ta ra giá hợp lý, mình cũng sẵn sàng cắn răng mà nhượng lại…

Ông đang cúi đầu vừa đi vừa suy nghĩ, bỗng nghe thấy một tiếng súng giòn giã vang lên. Giật mình, nhưng tay chân không hề chậm chạp, khẩu Mauser C96 của Đức đã được rút ra sẵn sàng. Mọi người xung quanh cũng lập tức ngừng cười nói, đồng loạt rút vũ khí trên người và cảnh giác nhìn xung quanh.

Lưu Lão Muộn xách khẩu súng dài, bước nhanh lên hai bước, hỏi Kim Bất Hoán: “Bá đầu, có chuyện gì sao?”

Kim Bất Hoán mặt căng thẳng gật đầu, còn chưa kịp lên tiếng thì trong rừng bên cạnh vang lên tiếng sột soạt, rồi hai ba chục người bất ngờ lao ra, chặn ngang đường đi của bọn họ. Dẫn đầu là một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi, khuôn mặt góc cạnh như dao khắc, lông mày rậm như chổi xể, cằm nhô ra, chính là thủ lĩnh của bọn Bang Sâm Triều Tiên, Kim Hách Dũng.

Kim Bất Hoán nhíu mày, nhìn Kim Hách Dũng và nói: “Kim huynh đệ, các người định làm gì đây?”

Kim Hách Dũng cười khẩy, nói: “Lão bá đầu, thật xin lỗi. Huynh đệ chúng tôi đến xin lão bá đầu ban cho một bữa cơm.”

Kim Bất Hoán giận dữ quát: “Ta đã nhường khu rừng đó cho các người rồi. Các người không vào rừng hái sâm, lại ở đây chặn đường bọn ta, là có ý gì?”

Kim Hách Dũng cười lạnh: “Rừng mà lão bá đầu từng đặt chân qua, thì còn cây bổng chùy lớn nào để lại nữa? Huynh đệ chúng tôi vô dụng, chẳng đào được gì, bất đắc dĩ mới phải đến quấy rầy lão bá đầu. Sao nào? Nếu biết điều thì mau giao hết hàng ra đi!”

Vừa nói, hắn vừa vung tay phải lên, lập tức hai ba chục tên đồng bọn đều lăm lăm vũ khí, chỉ chờ hắn hạ tay là sẽ xông lên liều mạng.

Kim Bất Hoán không ngờ đám phu sâm Triều Tiên này lại dám chặn đường cướp bóc, hơn nữa còn ngay trên lãnh thổ Trung Quốc. Sắc mặt ông trầm xuống, suy nghĩ một lúc rồi quay sang nói với Triệu Nhị Lư: “Đưa túi cho bọn họ!”

Triệu Nhị Lừa tức giận đến run cả người, nhưng cũng không dám cãi lời Kim Bất Hoán, hậm hực bước lên, vác túi sâm trên vai ném mạnh xuống trước mặt Kim Hách Dũng, rồi lui về.

Kim Hách Dũng chẳng thèm nhìn túi sâm, đưa chân đá sang một bên, cười nói: “Lão bá đầu, chỉ có mấy thứ này thôi à? Chúng đâu xứng với bản lĩnh của ngài! Tôi khuyên ngài nên ngoan ngoãn giao “Thần Long Nhị Trụ Hương” ra thì hơn!”

Kim Bất Hoán giật mình, không hiểu sao Kim Hách Dũng lại biết mình đã đào được “Thần Long Nhị Trụ Hương”. Trong khoảnh khắc, hàng loạt suy nghĩ lóe lên trong đầu ông. Ông trầm giọng nói: “Xem ra ngươi nắm rõ tình hình của bọn ta nhỉ! Nhưng tham lam quá cũng không tốt, ngươi không sợ ta liều chết với các ngươi sao?”

Kim Hách Dũng bỗng cười ha hả, nói: “Ồ tôi suýt quên mất, lão bá đầu bắn súng như thần, trăm phát trăm trúng. Nhưng ngài chỉ có một khẩu súng, còn chúng tôi thì đông người, súng cũng không ít, ngài có thể hạ gục hết chúng tôi chắc?”

Kim Bất Hoán nghiến răng, lạnh lùng nói: “Nhưng ta có thể hạ gục ngươi trước, tin không?”

Kim Hách Dũng lắc đầu, cười nhạt: “Tôi không tin.”

Đúng lúc này, ngay bên cạnh Kim Bất Hoán vang lên một giọng nói khác: “Tôi cũng không tin.”

Ngay sau đó, một họng súng đen ngòm đã dí sát vào trán Kim Bất Hoán. Kim Bất Hoán chậm rãi quay đầu lại, thở dài một hơi, trầm giọng nói: “Không ngờ… lại là cậu!”

Triệu Nhị Lư, Lý Đại Hào Tử, Trần Côn Tử, cùng Hồ Nhá Mại đang nằm trên cáng đều sững sờ trước sự biến đổi đột ngột này. Kim Thập Tam giận dữ quát: “Chú Lão Muộn, chú làm gì vậy? Chú điên rồi sao?”

Lưu Lão Mạn gầm lên: “Không ai được động đậy! Ai dám động đậy, tôi sẽ bắn chết hắn ngay!”

Ông ta tước khẩu súng của Kim Bất Hoán, nhét vào thắt lưng mình, rồi lùi lại hai bước, vẫn giữ chặt khẩu súng dài nhắm thẳng vào Kim Bất Hoán, trầm giọng nói: “Xin lỗi, bá đầu, tôi cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi.”

Kim Bất Hoán cười lạnh: “Bất đắc dĩ? Ai ép buộc hay mua chuộc cậu hả? Nếu nói ép buộc, thì Lưu Lão Muộn cậu là kẻ đơn thân độc mã, bình thường vẫn là một hảo hán cứng cỏi, rốt cuộc là ai có thể ép buộc được cậu chứ? Nếu nói mua chuộc, chẳng lẽ số tiền cậu được chia không đủ tiêu sao? Nếu không đủ, sao không đến tìm ta chứ?”

Lưu Lão Muộn đỏ mặt, nghẹn lời: “Tôi…”

Lúc này, Kim Hách Dũng bước lên, cười khẩy nói: “Lão bá đầu, cái hố hắn tự đào, ngài lấp sao nổi? Mấy năm qua, ở sòng bạc Doanh Lai tại Phủ Tùng, e rằng hắn đã nướng vào đó không dưới năm vạn đại dương rồi!”

Kim Bất Hoán nghĩ ngợi một hồi, rồi nói: “Hóa ra là Dương Bát gia đã mua chuộc cậu.”

Lưu Lão Muộn nghển cổ, nói thẳng: “Đúng vậy! Giờ ông đã đoán ra, tôi cũng chẳng giấu nữa. Ở sòng bạc Doanh Lai của Dương Bát gia, tôi không chỉ thua sạch số tiền kiếm được bao năm qua, mà còn nợ hắn hơn ba vạn đại dương. Dương Bát gia nói, chỉ cần tôi giúp hắn lấy được “Nhị Tầng Lâu”, toàn bộ nợ nần sẽ được xóa sạch. Nhưng tôi không ngờ ông lại đào được “Thần Long Nhị Trụ Hương”. Nếu tôi có được cây sâm này, chẳng những xóa được nợ, mà còn có thể ép Dương Bát gia đưa thêm một khoản lớn nữa. Hắn sẽ không dám từ chối đâu!”

Lúc này, Hồ Nhá Mại gắng gượng ngồi dậy trên cáng, phẫn nộ mắng: “Phì! Đồ chó chết bán đứng huynh đệ cầu vinh! Bá đầu có từng bạc đãi anh chưa hả? Anh mê cờ bạc, huynh đệ bọn tôi đã bí mật góp tiền giúp anh trả nợ, còn giúp anh giấu bá đầu. Vậy mà chỉ vì chút tiền thối này mà anh lại đối xử với bọn tôi thế này! Con mẹ nó, anh còn chút lương tâm nào không? Có gan thì bắn chết tôi ngay đi, nếu không, sớm muộn gì tôi cũng sẽ tính sổ với anh!”

Lưu Lão Muộn mặt tái mét, đột nhiên quay súng, bắn thẳng vào Hồ Nhá Mại. “Đoàng!” Hồ Nhá Mại rên lên một tiếng, rồi gục xuống, chết ngay tại chỗ.

Lưu Lão Muộn lập tức quay lại, chĩa súng vào Kim Bất Hoán, trầm giọng nói: “Bá đầu, đến nước này rồi thì ông hãy ngoan ngoãn mà giao “Thần Long Nhị Trụ Hương” ra đi. Nể tình huynh đệ bao năm nay, tôi có thể tha mạng cho các người. Nếu không, kết cục của các người sẽ giống như Hồ Nhá Mại!”

Kim Bất Hoán trừng mắt nhìn Lưu Lão Muộn một cái, chậm rãi nói: “Cậu, không nên giết huynh đệ của mình!” Ông không thèm để ý đến Lưu Lão Muộn nữa, quay đầu lại nói với Kim Hách Dũng: “Vậy thì, ngươi cũng không phải thợ săn sâm Triều Tiên đúng không? Rốt cuộc ngươi là ai? Người của Bang Sâm Trường Bạch, mười phần thì ta nhận ra tám chín phần, nhưng chưa từng thấy ngươi và đám huynh đệ này.”

Kim Hách Dũng cười ha hả, nói: “Kim bá đầu quả nhiên là lão giang hồ, chỉ vài câu đã đoán được tám chín phần. Nói cho ngươi biết cũng không sao, ông đây là “Hỏa Thiêu Thiên” của dãy núi Hắc Vân!”

Tên “Hỏa Thiêu Thiên” này họ Bì tên Tam Đản, là một hồ phỉ hoạt động tại vùng Nhị Đạo Giang, ổ cướp nằm ở dãy núi Hắc Vân, dưới trướng có mười mấy người, hơn mười khẩu súng, chuyên làm nghề đập lò (nghĩa bóng, chỉ một nhóm thổ phỉ) và bắt cóc. Có rất nhiều băng đảng (tiếng lóng, ám chỉ một nhóm cướp) ở Quan Đông.

Băng đảng “Hỏa Thiêu Thiên” không phải là một băng đảng lớn, nhưng lại là băng đảng khét tiếng nhất. Hầu hết các băng đảng vẫn tuân theo một số quy tắc của thế giới ngầm, chẳng hạn như cướp tiền nhưng không cướp mạng người, cướp của người giàu nhưng không cướp của người nghèo, cướp người lạ nhưng không cướp người thân, cướp ở xa nhưng không cướp ở gần, v.v.

Tuy nhiên, các băng đảng “Hỏa Thiêu Thiên” cướp cả bầu trời phía trên, mặt đất bên dưới và không khí ở giữa, bất kể bạn giàu hay nghèo, ở xa hay ở gần, họ hàng xa hay họ hàng gần, chúng sẽ cướp bất cứ ai chúng có thể. Không chỉ cướp của mà còn giết người, người chết rồi còn bị lột đồ.

Hắn cũng thích tra tấn những con tin bị bắt cóc, dùng đủ mọi cách để tra tấn họ cho đến khi họ không còn giống ma hay con người nữa, và hắn làm vậy chỉ để giải trí. Nếu tiền chuộc được giao chậm một chút, hắn sẽ cắt ngón tay của nạn nhân một ngày sau đó, sau khi cắt ngón tay, hắn sẽ cắt ngón chân, rồi đến tai, mũi, mắt, v.v., cho đến khi chặt người thành nhiều mảnh.

Hắn cũng thích bắt cóc phụ nữ, sau khi bắt cóc họ đến vùng núi và ngược đãi họ đủ rồi, hắn sẽ yêu cầu mọi người chuộc họ lại. Nếu ai đó không có tiền chuộc họ, hắn sẽ giết họ, ngay cả khi họ được trả tiền. Theo cách nói ngày nay, loại người này được gọi là kẻ bi3n thái.

Kết quả là, có rất nhiều lời phàn nàn từ khắp nơi, và mọi người đều nghiến răng chịu đựng. Các gia đình giàu có gần đó cũng quyên tiền thuê quân đội chính phủ đàn áp cuộc nổi loạn, nhưng địa hình của dãy núi Hắc Vân rất nguy hiểm và một nhóm nhỏ quân đội chính phủ không thể đàn áp được. Nếu một nhóm lớn quân đội chính phủ được phái ra để bao vây và đàn áp, “Hỏa Thiêu Thiên” sẽ dùng tiền để hối lộ các quan chức và sau đó giả vờ rút lui.

Sau đó, quân đội chính phủ sẽ nhắm mắt làm ngơ và để họ xuống núi, và chỉ đốt cháy những ngôi nhà và nhà kho đổ nát trên núi để hoàn thành nhiệm vụ của họ. Sau khi quân triều đình rút về thành, “Hỏa Thiêu Thiên” dẫn theo anh em mình tái chiếm dãy núi Hắc Vân, tăng cường gây hại cho địa phương.

Trên thực tế, quân đội chính phủ cũng không hơn gì bọn cướp. Bọn cướp thì cướp công khai, còn quân đội chính phủ thì lén lút nhận tiền. Dù sao thì bọn họ cũng lột da dân chúng. Nếu như bọn hồ phỉ thực sự bị tiêu diệt thì quân đội chính phủ còn có tác dụng gì? Lần tới họ sẽ đi lấy dầu ở đâu? Cái gọi là “nuôi địch bảo vệ mình” đã là chuyên môn của họ từ thời xa xưa.

Khi Kim Bất Hoán đoán ra người trước mặt chính là “Hỏa Thiêu Thiên”, ông sửng sốt nhưng vẫn giữ được bình tĩnh, khom người nói: “Thì ra là Bì đại đương gia, xin hãy tha thứ cho thị lực kém và sự vô lễ của ta!”

“Hỏa Thiêu Thiên” cong môi nói: “Ta không xứng, Kim bá đầu. Đến lúc này, ông muốn hay không muốn cũng phải giao ra củ “Thần Long Nhị Trụ Hương”. Tôi đếm đến ba. Nếu ông vẫn không giao ra thì đừng trách tôi dùng súng gọi tên các ông. Một…”

Kim Bất Hoán trong lòng căng thẳng suy tính. Một khi người đứng sau giật dây là Dương Bát gia, ông biết hôm nay dù thế nào cũng không qua được cửa ải này. Dương Bát gia đã mua chuộc Lưu Lão Muộn làm nội ứng, lại còn mời được “Hỏa Thiêu Thiên” mang người chặn đường cướp đoạt, rõ ràng là quyết tâm phải có bằng được. Xem ra từ khi bọn họ tiến vào núi Trường Bạch, Lưu Lão Muộn đã liên tục âm thầm báo tin cho “Hỏa Thiêu Thiên”.

Trong khu rừng đó, Trần Cáng Tử vô tình phát hiện hành tung của đám người “Hỏa Thiêu Thiên” đang bám theo phía sau, nên bọn chúng mới giả vờ là khách sâm Triều Tiên đến tranh địa bàn, lại cố tình tỏ ra sợ hãi trước tài bắn súng của ông mà tạm thời rút lui. Nhưng thực chất, chúng vẫn âm thầm theo sát phía sau.

Ngay cả khi họ gặp hiện tượng “quỷ đả tường” trong rừng, đến sợi dây đỏ đánh dấu đường cũng mất tích, phần lớn khả năng đều là do Lưu Lão Muộn và “Hỏa Thiêu Thiên” thông đồng với nhau gây ra, mục đích là để họ không thể rời khỏi khu rừng, buộc phải đào được sâm báu.

Việc ông đột ngột quyết định đổi đường rời rừng đã phá vỡ kế hoạch chặn đường cướp bảo trên lộ trình cũ của “Hỏa Thiêu Thiên”. Nhưng đáng tiếc, trong đội lại có nội ứng là Lưu Lão Muộn, kẻ đã liên tục báo tin dọc đường, dẫn đường cho chúng truy đuổi, rồi lập phục kích giữa đường, chỉ chờ cả nhóm của ông bước vào bẫy.

Kim Bất Hoán cũng đã từng nghe danh “Hỏa Thiêu Thiên” từ lâu, biết hắn là kẻ giết người không chớp mắt. Dương Bát gia mời hắn đến để cướp bảo vật, vốn dĩ không hề có ý định để bọn họ sống sót rời khỏi đây. Hôm nay, giao ra “Thần Long Nhị Trụ Hương” thì chết, mà không giao cũng chết. Đã vậy, chỉ còn cách liều mạng với bọn chúng. Nhưng vấn đề là phe ông người ít hơn hẳn, mà hai khẩu súng duy nhất, một dài, một ngắn, cũng đã rơi vào tay tên nội gián Lưu Lão Muộn. Như vậy thì còn đánh thế nào đây?

“Ba!” Tiếng súng của “Hỏa Thiêu Thiên” vang lên không chút do dự. Kim Bất Hoán giật thót, ông vội quay đầu nhìn, chỉ thấy Lưu Lão Muộn trợn trừng mắt, không thể tin nổi nhìn xuống ngực mình, nơi một đóa hoa máu vừa nở bung. Khẩu súng dài trong tay hắn rơi xuống đất một cách bất lực, thân hình lảo đảo hai cái rồi ngã ngửa ra sau.

“Hỏa Thiêu Thiên” nhàn nhã thổi làn khói xanh bốc lên từ nòng súng, liếc nhìn xác của Lưu Lão Muộn với vẻ khinh bỉ rồi cười nhạt: “Chỉ với cái dạng này mà cũng dám đòi tiền của Dương Bát gia à? Hừ, muốn đòi tiền thì cũng phải để ta đi đòi, đúng không?”

Hắn lại quay đầu, dùng ánh mắt mèo vờn chuột nhìn chằm chằm Kim Bất Hoán, cười lạnh: “Kim bá đầu, đến lượt ông rồi. Có cần tôi đếm ba tiếng nữa không?”

Kim Bất Hoán thở dài một hơi, nói: “Không cần đâu. Đã rơi vào tay Bì đại đương gia, thì bọn ta sẽ nhận mệnh.” Ông xé vạt áo, lấy ra một cuộn da rêu được giấu sát bên người, giơ lên trước mặt và nói: “Dù củ sâm này quý giá đến đâu thì cũng chỉ là vật ngoài thân. Ta dùng nó để đổi lấy mạng sống của ta và các huynh đệ, chắc hẳn Bì đại đương gia sẽ không từ chối chứ? Nếu không, ta sẽ bẻ gãy nó ngay tại đây! Nhân sâm gãy chẳng khác gì ngọc vỡ, một xu cũng không đáng!”

“Hỏa Thiêu Thiên” nheo mắt cười, chậm rãi nói: “Kim bá đầu, sao ông lại nói vậy? Tôi còn kính trọng ông không hết, làm sao lại muốn lấy mạng ông chứ? Hơn nữa, tôi chỉ cầu tài, cần là cần củ nhân sâm này, tôi cần mạng của ông để làm gì?”

Kim Bất Hoán gật đầu: “Bì đại đương gia là anh hùng hào kiệt, lời đã nói ra thì chắc chắn sẽ giữ lời. Vậy thì, đón lấy…”

Ông ném cuộn da rêu bọc nhân sâm về phía “Hỏa Thiêu Thiên”, nhưng sợi dây đỏ cột chặt da rêu đã sớm bị ông ngấm ngầm vận nội lực làm đứt. Khi cuộn da rêu còn lơ lửng giữa không trung, nó lập tức bung ra, khiến nhân sâm rơi rải rác xuống đất.

Kim Bất Hoán liền hô lớn: “Không hay rồi! Nhân sâm mà chạm đất thì sẽ mất hết giá trị!”

“Hỏa Thiêu Thiên” tuy không phải dân trong nghề sâm, nhưng giao thiệp với Dương Bát gia đã lâu, ít nhiều cũng từng nghe qua truyền thuyết về “bổng chùy biết chạy”. Tương truyền rằng những cây sâm càng có linh tính thì càng khó thu hoạch, có thể tự động lẩn trốn trong đất. Hắn lo lắng “Thần Long Nhị Trụ Hương” này cũng giống như quả nhân sâm trong Tây Du Ký, vừa chạm đất là biến mất, nên vội vàng lao lên hai bước, đưa tay chộp lấy nhân sâm. Khoảnh khắc này chính là cơ hội mà Kim Bất Hoán chờ đợi!

Ông lập tức lăn mình một vòng đến bên xác Lưu Lão Muộn, rút ra khẩu súng Mauser C96 của Đức từ thắt lưng của gã, đồng thời quát lớn: “Ra tay!” Tiếng súng trong tay hắn nổ vang.

Nhưng phản ứng của “Hỏa Thiêu Thiên” cũng không hề chậm. Vừa chộp được bổng chùy, hắn liền lăn ngay xuống đất, khiến viên đạn của Kim Bất Hoán sượt qua người hắn, bắn trúng hai tên cướp cầm súng trường phía sau, khiến chúng gục xuống ngay lập tức. Đồng thời, súng ngắn trong tay “Hỏa Thiêu Thiên” cũng khai hỏa, viên đạn trúng vào người Kim Bất Hoán!

Biến cố xảy ra quá nhanh, đám cướp chưa kịp phản ứng, nhưng nhóm của Kim Bất Hoán đã chờ đợi thời cơ này từ lâu.

Triệu Nhị Lư nhanh như chớp lao lên, tay trái lặng lẽ phóng ra một lưỡi dao nhỏ sắc bén. Con dao bay thẳng vào ngực một tên cướp cầm súng trường, khiến hắn ngã ngửa ra sau. Ngón tay hắn đã siết cò súng, nhưng chỉ kịp nổ một phát đạn vô ích lên trời.

Lý Đại Hào Tử và Trần Côn Tử cũng lao vào với đao và rìu trong tay, đánh thẳng vào đám cướp. Trong chớp mắt, cả chiến trường trở nên hỗn loạn! “Hỏa Thiêu Thiên” nhanh chóng lật người đứng dậy, nắm chặt cây nhân sâm trong tay, vội vã lùi ra phía sau.

Kim Thập Tam nhào đến bên cạnh Kim Bất Hoán, lo lắng gọi một tiếng “Cha!”, phát hiện vai phải và xương sườn trái của ông đều trúng đạn. Kim Bất Hoán vùng vẫy đẩy hắn ra, quát lớn: “Đừng lo cho ta! Xông lên liều mạng với chúng nó! Có thể thoát được một người thì là một người! Người thoát ra được, sau này báo thù cho mọi người!”

Giữa đám thổ phỉ, hai khẩu súng trường và một khẩu súng ngắn còn lại đồng loạt khai hỏa. Trần Côn Tử trúng hai phát đạn vào ngực và bụng, nhưng thân thể gã cường tráng, trời sinh hung hãn, nhuộm máu xông vào giữa bọn thổ phỉ, bổ một rìu chém đôi đầu một tên cướp cầm súng ngắn.

Triệu Nhị Lư cũng trúng một phát đạn vào chân phải. Gã lảo đảo xông vào đám cướp, ôm chặt tên vừa bắn mình rồi vật xuống đất, siết cổ hắn mà lăn mấy vòng. Ba tên cướp xung quanh lập tức lao tới, chém loạn lên người gã. Kim Thập Tam liền lao đến, lấy thân mình húc bay một tên đang chém giết Triệu Nhị Lư. Hắn lăn một vòng bật dậy, thuận tay đâm con dao găm vào người một tên cướp khác. Lý Đại Hào Tử cũng xông vào, vung đao chém ngã một tên đang vung đao chém Triệu Nhị Lư.

Kim Thập Tam vội cúi xuống xem Triệu Nhị Lư thế nào, nhưng thấy toàn thân gã bê bết máu, mắt mở trừng trừng, đã chết rồi. Còn tên cướp bị gã bóp cổ cũng đã tắt thở từ lâu.

Kim Thập Tam bi phẫn đặt thi thể Triệu Nhị Lư xuống, ngẩng đầu nhìn lên, thấy chú Côn Tử và chú Hào Tử đều đã rơi vào vòng vây. Đặc biệt là chú Côn Tử, trên người đầy thương tích, cho dù đã hạ thêm hai tên cướp nhưng bản thân cũng lảo đảo, khó mà cầm cự. Đúng lúc này, một tên cướp vòng ra sau lưng ông, vung dao đâm mạnh vào lưng.

Trần Côn Tử phát ra một tiếng gầm giận dữ kinh thiên động địa, rồi đổ ầm xuống đất. Lý Đại Hào Tử hét lớn: “Côn Tử!” Vừa phân tâm một chút, liền bị một tên cướp hung ác chém phăng cánh tay trái, máu tươi phun xối xả, cơ thể lảo đảo suýt ngã.

Kim Thập Tam thấy vậy thì mắt như muốn nứt ra, nhảy bật lên như viên đạn, cầm dao găm đâm thẳng vào cổ họng tên cướp hung ác kia. Nhưng tên này cũng vô cùng dữ tợn, hai tay giữ chặt lấy con dao găm cắm trên cổ mình, không để Kim Thập Tam rút ra. Hắn phát ra những âm thanh khò khè trong họng, miệng liên tục phun máu, nhưng vẫn cố chấp không buông tay.

Kim Thập Tam nóng ruột, bèn buông dao, tung một cước đá văng hắn ra xa.

Hắn vừa định đỡ lấy chú Hào Tử thì nghe thấy Kim Bất Hoán đang nằm dưới đất vì trúng đạn, hét lớn: “Cẩn thận!” Kim Thập Tam còn chưa kịp nhìn thì Lý Đại Hào Tử đã xoay người chắn trước mặt hắn. Chỉ nghe “đoàng! đoàng!”, hai phát súng nổ vang, cơ thể Lý Đại Hào Tử run lên, rồi đổ gục xuống đất.

Kẻ nổ súng chính là “Hỏa Thiêu Thiên”. Hắn vừa gi3t chết Lý Đại Hạo Tử, liền xoay nòng súng, định tiếp tục nổ súng với Kim Thập Tam.

Không ngờ dù đang hấp hối, Kim Bất Hoán vẫn cố gắng nhặt khẩu súng Mauser C96 rơi trên đất, run rẩy bóp cò. Nhưng vì không quen bắn bằng tay trái, lại thêm thương thế nặng, phát đạn bắn lệch đi, chỉ trúng vào đùi phải của “Hỏa Thiêu Thiên”.

“Hỏa Thiêu Thiên” giận dữ gào lên, lập tức quay súng bắn liên tiếp vào Kim Bất Hoán. Ông trúng nhiều phát đạn, rõ ràng không thể sống nổi nữa.

Đầu Kim Thập Tam như nổ tung, máu nóng bốc l3n đỉnh đầu, mắt lập tức đỏ ngầu.

Hắn không màng gì nữa, điên cuồng lao thẳng về phía “Hỏa Thiêu Thiên”. Nhưng người nhanh thế nào cũng không thể nhanh hơn súng! Khi hắn còn cách đối phương khoảng một trượng, họng súng đen ngòm đã chĩa thẳng vào hắn.

“Hỏa Thiêu Thiên” nhếch môi nở nụ cười hiểm độc, ánh mắt tràn đầy vẻ chế giễu, không chút do dự mà bóp cò…
 
Sơn Thần - Phi Ảnh
Chương 8: Chương 8



Chương 8

Edit & beta: Cún

Trước đó kể đến, nhóm người Kim Bất Hoán đi về hướng Tây Bắc để ra khỏi núi, một đường vô cùng cực khổ, cuối cùng cũng đến được sông Hắc Long, tìm được đường ra khỏi núi Trường Bạch, không ngờ lại rơi vào bẫy của đám người Kim Hách Dũng. Mà Kim Hách Dũng không phải là khách sâm Triều Tiên, mà là thổ phỉ Quan Đông được Dương Bát gia mời đến để cướp bảo vật. Càng khiến mọi người ngạc nhiên hơn là Dương Bát gia lại mua chuộc Lưu Lão Muộn làm nội gián. Dương Bát gia không chỉ muốn cây sâm, mà còn muốn lấy mạng của Kim Bất Hoán. Kim Bất Hoán chỉ đành dẫn các anh em liều chết. Dù sao thì cũng người ít sức yếu, Hồ Nhá Mại bị Lưu Lão Muộn bắn chết, còn Lưu Lão Muộn lại chết dưới súng của “Hỏa Thiêu Thiên”. Tiếp đó, Triệu Nhị Lư, Trần Côn Tử và Lý Đại Hào Tử lần lượt bị hồ phỉ gi3t chết, còn Kim Bất Hoán vì cứu Kim Thập Tam, cũng chết dưới họng súng của “Hỏa Thiêu Thiên”. Kim Thập Tam tràn ngập bi thương và phẫn nộ, tay không xông về phía “Hỏa Thiêu Thiên” và sắp chết dưới họng súng của hắn.

Bỗng nhiên, một cái bóng vàng như tia chớp lao tới, chỉ nghe thấy “Hỏa Thiêu Thiên” phát ra một tiếng thét thảm thiết, con mắt trái đã biến thành một hố máu đầm đìa. Kim Thập Tam sững người, nhận ra kẻ mổ mù mắt trái của “Hỏa Thiêu Thiên” chính là con chim gõ kiến mào vàng. Nó vừa đánh trúng liền xoay người vỗ cánh bay lên, nhanh chóng biến mất trong rừng.

“Hỏa Thiêu Thiên” bất ngờ gặp họa, đau đớn tột độ, tinh thần hoảng loạn, khẩu súng ngắn trong tay bắn loạn xạ không mục đích. Đám cướp xung quanh vội vàng né tránh. Kim Thập Tam cũng lăn tròn xuống đất, suýt nữa bị trúng đạn.

Trong đầu hắn bỗng trở nên tỉnh táo, hiểu rằng cha và các chú đều đã chết, chỉ với sức của mình, trong tình cảnh hiện tại hoàn toàn không thể báo thù được. Nghĩ đến lời nghĩa phụ dặn, hắn biết phải bảo toàn tính mạng, sau này mới có cơ hội trả thù. Ý chí đã quyết, nhân lúc đám cướp vẫn còn đang né tránh loạt đạn hỗn loạn của “Hỏa Thiêu Thiên”, hắn đột ngột bật dậy, lao thẳng vào khu rừng rậm bên cạnh.

Kim Thập Tam điên cuồng chạy trong rừng, tai nghe thấy “Hỏa Thiêu Thiên” phía sau gào lên: “Đừng để thằng nhãi đó thoát! Giết nó cho ta!”

Ngay sau đó, hắn nghe thấy tiếng bước chân rầm rập, đám sơn tặc còn lại lao vào rừng truy đuổi. Vừa chạy, bọn chúng vừa nổ súng.

Đột nhiên, Kim Thập Tam cảm thấy một cơn đau nhói sau lưng, như thể bị trúng đạn. Hắn không kìm được mà rên lên một tiếng. Phía sau có kẻ vui mừng reo lên: “Ta bắn trúng nó rồi! Nhóc con, đừng chạy nữa! Càng chạy càng chết sớm thôi!”

Kim Thập Tam làm ngơ, chẳng còn thời gian để kiểm tra vết thương hay xác định phương hướng, chỉ biết cắm đầu lao vào chỗ rậm rạp nhất trong rừng.

Trời đã tối hẳn, cơn mưa lất phất rơi xuống. Thời tiết thế này vốn rất đáng ghét đối với người đi rừng, nhưng với kẻ đang chạy trốn như Kim Thập Tam, lại là một món quà trời ban. Vết thương trên lưng ngày càng đau buốt, trước mắt hắn tối sầm lại từng đợt, nhưng hắn vẫn cố cắn răng chạy, không dám dừng dù chỉ một giây.

Chạy thêm khoảng nửa canh giờ, tiếng truy đuổi phía sau dần xa, dường như hắn đã cắt đuôi được bọn cướp. Kim Thập Tam thở phào nhẹ nhõm, định dừng lại nghỉ ngơi một chút. Nhưng đúng lúc ấy, chân hắn đạp vào khoảng không, hắn trượt ngã khỏi một sườn dốc cao!

Con dốc vừa dài vừa dốc, hắn không còn sức để kháng cự, cứ thế lăn xuống đáy. Cả cơ thể như vỡ vụn, từng tấc da thịt như bị xé toạc, đầu óc quay cuồng dữ dội. Chỉ trong chớp mắt, Kim Thập Tam hoàn toàn mất ý thức.

Không biết đã bao lâu trôi qua, Kim Thập Tam dần tỉnh lại. Hắn mở mắt, phát hiện mình đang nằm trên một tấm da báo, bên dưới lót một lớp cỏ Ula mềm mại, êm ái vô cùng.

Hắn cố gắng chống người ngồi dậy, nhưng cơn đau nhói từ vết thương trên lưng lập tức ập đến, khiến hắn nhớ lại lúc trước bị bắn trọng thương rồi ngất đi. Không dám cử động mạnh, Kim Thập Tam chỉ khẽ nâng đầu, đưa mắt quan sát xung quanh.

Đây có vẻ là một “kuluozi”, bên trong bài trí đơn giản, nhưng trên tường treo mấy tấm da sói, da cáo với hình dáng nguyên vẹn, bộ lông óng mượt, chứng tỏ tay nghề săn bắn của chủ nhân không tầm thường. Gần cửa lều, trên bếp lửa có một chiếc nồi đất đang sôi sùng sục, hương thơm ngào ngạt bốc lên, nhưng Kim Thập Tam không biết bên trong là món gì.

Hắn chẳng nhớ nổi mình đến đây bằng cách nào, đã hôn mê bao lâu. Đang hoang mang suy nghĩ, bỗng nhiên, tấm rèm cỏ trước cửa bị vén lên, một bóng người cao lớn, vạm vỡ bước vào.

Kim Thập Tam giật mình, định vùng dậy nhưng toàn thân đau nhức, đành phải nằm xuống lần nữa. Người đàn ông kia cất giọng: “Anh bạn, đừng cử động. Cậu bị thương rất nặng, nếu động đậy, vết thương sẽ rách ra đấy.”

Kim Thập Tam nghe giọng hắn là tiếng Hán nhưng phát âm có phần lạ lẫm, câu từ lại cứng nhắc, bèn hỏi: “Anh là ai?”

Người đàn ông đáp: “Ta, Ô Lực Lăng.”

Kim Thập Tam ngạc nhiên: “Anh họ Ô?”

Người kia lắc đầu: “Không biết. Ta chỉ gọi là Ô Lực Lăng. Đừng nói nhiều, khó chịu.”

Kim Thập Tam nhếch miệng cười khổ, khẽ rít lên một tiếng vì đau, nhưng vẫn nói: “Không sao, vết thương này tôi chịu được. Bất kể anh họ gì, tôi cứ gọi anh là Ô đại ca nhé! Ô đại ca, là anh cứu tôi à?”

Ô Lực Lăng gật đầu: “Phải. Tôi đi săn, thấy cậu ngã dưới vách núi nên cõng về.”

Kim Thập Tam ngẩng đầu, nhìn Ô Lực Lăng. Người đàn ông này cao và mặc một chiếc áo choàng rộng, cổ xéo đã rất cũ. Khuôn mặt anh ta được bao phủ bởi râu, khiến hắn trông khá thô lỗ. Đôi mắt của anh ta mỏng và dài, đồng tử màu nâu, lông mày nhạt và xương gò má nhô cao, khá khác biệt với ngoại hình của người Hán. Hắn cảm kích nói: “Ô đại ca, cảm ơn anh đã cứu tôi. Sau này tôi nhất định sẽ báo đáp.”

Ô Lực Lăng hoàn toàn không để ý đến sự khách sáo của Kim Thập Tam. Anh ta lấy xuống chiếc nồi đất treo trên bếp lò, múc một bát canh rồi đặt trước mặt Kim Thập Tam, nói: “Canh nấm thịt hoẵng, uống đi!”

Ngửi thấy mùi thơm từ chiếc nồi đất, Kim Thập Tam đã đói cồn cào, nhưng canh còn quá nóng, hắn đành húp từng ngụm nhỏ. Vừa uống, hắn vừa hỏi: “Ô đại ca, tôi đã hôn mê bao lâu rồi?”

Ô Lực Lăng đáp: “Ba ngày.”

Kim Thập Tam giật mình, không ngờ mình đã hôn mê lâu đến vậy. Hắn quay đầu nhìn vai và lưng mình, thấy đều đã được đắp thuốc. Trong lòng thầm nghĩ, may mà Ô Lực Lăng cứu về và chữa trị cho, nếu không thì đã sớm nằm chết ở chân dốc, trở thành bữa ăn cho lũ sói, côn trùng và hổ báo rồi.

Ô Lực Lăng đợi hắn uống hết bát canh, lại múc thêm một bát nữa, nói: “Cậu vừa tỉnh dậy, ăn thịt không tốt, uống thêm canh đi. Tôi ra ngoài săn ít thú rừng về bồi bổ cho cậu.”

Nói xong, anh ta xách khẩu súng săn đang dựng bên tường, vén tấm rèm lên rồi bước ra ngoài.

Đến chạng vạng, Ô Lực Lăng trở về, tay xách một con thỏ lông xám và một con gà lôi. Anh ta vặt lông gà lôi, chặt thành từng miếng nhỏ, rồi hầm chung với nấm tùng nhung. Còn con thỏ thì được đem ra đống lửa ngoài trời, quay cho đến khi lớp da vàng óng, mỡ màng, tỏa hương thơm ngào ngạt.

Kim Thập Tam đã mấy ngày không ăn gì, chỉ dựa vào canh của Ô Lực Lăng để cầm hơi, giờ đây bụng đói cồn cào, ăn uống ngon lành. Hắn vừa ăn thịt gà vừa húp canh, lại còn ăn thêm mấy miếng thịt thỏ nướng. Còn Ô Lực Lăng thì ăn khỏe vô cùng, một con thỏ béo chừng ba bốn cân gần như bị anh ta chén sạch, cả thịt lẫn xương, lại còn ăn không ít thịt gà.

Kim Thập Tam trò chuyện cùng anh ta, dù Ô Lực Lăng không phải người nói nhiều, nhưng Kim Thập Tam vẫn biết được anh ta là thợ săn người Ewenk, sinh ra và lớn lên ngay tại dãy núi Trường Bạch này. Năm tám tuổi, cha mẹ đều qua đời, anh ta liền một mình sống trong núi săn bắn mưu sinh. Một năm chỉ xuống núi một lần để dùng thú rừng, nấm tùng nhung và da thú đổi lấy thuốc súng, đạn sắt cùng một số nhu yếu phẩm từ người Hán, còn lại hầu như không giao thiệp với thế giới bên ngoài. Vì vậy, dù từ nhỏ đã học tiếng Hán từ cha mẹ, nhưng do ít nói chuyện với người khác, nên giọng điệu cứng nhắc, lời lẽ vụng về, khó diễn đạt trọn vẹn ý muốn nói.

Kim Thập Tam cũng kể cho Ô Lực Lăng nghe chuyện mình theo cha vào núi Trường Bạch tìm dược liệu, may mắn hái được cây “Thần Long Nhị Trụ Hương” cực kỳ quý giá, nhưng lại bị bọn thổ phỉ chặn cướp giữa đường. Cha và các chú đều bị giết hại, chỉ có hắn là may mắn trốn thoát.

Ô Lực Lăng nghe xong, im lặng hồi lâu rồi mới nói: “Người ngoài núi xấu xa lắm. Cậu cứ ở lại đây, dưỡng thương xong rồi tính tiếp.” Nói xong, anh ta liền đứng dậy đi ngủ.

Kim Thập Tam bật cười, nghĩ bụng Ô Lực Lăng đúng là người ngay thẳng, nghĩ gì nói nấy, mở miệng ra là bảo người ngoài núi toàn kẻ xấu. Mà không biết rằng ngay cả hắn cũng bị mắng lây, vì Kim Thập Tam cũng là người ngoài núi mà!

Thấy Ô Lực Lăng đã trải tấm đệm làm từ da thú và nằm xuống, Kim Thập Tam lên tiếng: “Ô đại ca, tôi là người ngoài núi, nhưng tôi không phải kẻ xấu. Cha tôi và các thúc thúc của tôi lại càng không phải người xấu. Họ chỉ là những người làm nghề hái thuốc vất vả, cũng giống như huynh vậy, sống nhờ vào lộc của thần núi ban cho. Cha tôi là người nhân nghĩa, luôn giữ quy tắc, chỉ giúp người chứ chưa bao giờ hại ai. Tôi vốn là một đứa trẻ mồ côi, bị đói lả ngay trước cửa nhà ông ấy. Chính ông ấy đã cưu mang tôi, nhận tôi làm con nuôi.”

Nhớ lại ân tình của cha nuôi và các chú, nay họ lại bị hại thảm, thi thể phơi ngoài đồng hoang, Kim Thập Tam không cầm được nước mắt, giàn giụa tuôn rơi. Anh ta tha thiết cầu xin Ô Lực Lăng: “Ô đại ca, tôi còn một chuyện muốn nhờ anh. Cha và các chú của tôi bị bọn thổ phỉ giết bên bờ sông Hắc Long, không ai thu nhặt thi thể, sớm muộn cũng bị thú dữ xâu xé. Làm con mà để cha mình chết không toàn thây, lòng tôi sao có thể yên được? Mong huynh nể tình giúp tôi tìm xác của họ, chôn cất cho họ một chỗ an nghỉ. Ân đức này, Kim Thập Tam tôi suốt đời ghi nhớ, không bao giờ dám quên!” Nói xong, hắn gắng sức chống người dậy, quỳ trên giường đệm, dập đầu ba cái vang dội.

Ô Lực Lăng nằm đó mãi không lên tiếng, khiến Kim Thập Tam thấp thỏm không yên, không biết anh ta có đồng ý giúp hay không, lại lo rằng có khi nào anh ta đã ngủ mất rồi. Một lúc lâu sau, chỉ nghe thấy Ô Lực Lăng thở dài một hơi, rồi nói:

“Ngủ đi. Ngày mai, ta đi.”

Kim Thập Tam biết Ô Lực Lăng là người chất phác, ngay thẳng, tuy ít lời nhưng đã nói là làm. Trong lòng anh ta vừa thấy an tâm, vừa vô cùng cảm kích.

Từ hôm đó, Kim Thập Tam ở lại trong túp lều của Ô Lực Lăng. Mỗi ngày, Ô Lực Lăng đều vào rừng săn bắn, chưa bao giờ về tay không, lại còn hái thuốc về thay thuốc cho anh ta. Dưới sự chăm sóc tận tình của anh ta, vết thương của Kim Thập Tam dần dần hồi phục.

Hôm nay, Kim Thập Tam cảm thấy mình đã có thể đứng dậy, tinh thần cũng rất khoan khoái, bèn bước ra khỏi lều để phơi nắng.

Lúc này, núi Trường Bạch đã vào thu. Ánh nắng vừa đủ ấm áp, gió nhẹ thổi qua mang theo hơi thở của rừng núi, bầu trời cao trong xanh, những tầng mây lững lờ trôi. Phóng mắt ra xa, sắc màu của núi rừng vô cùng phong phú, nào là xanh, đỏ, vàng, nâu, trắng… tầng tầng lớp lớp, vừa dựa vào nhau, vừa không lẫn lộn. Một cơn gió mát thổi qua, mang đến cảm giác khoan khoái dễ chịu, khiến người ta như muốn hòa mình vào thiên nhiên rộng lớn.

Mùa thu trên núi Trường Bạch mang một vẻ đẹp hùng vĩ, một vẻ đẹp có thể làm rung động lòng người.

Kim Thập Tam ngồi xuống một gốc cây mục, khẽ nheo mắt, tận hưởng sự ấm áp mà ánh nắng mang lại. Bỗng nhiên, từ trên cành cây vang lên tiếng chim hót líu lo.

Trong rừng Trường Bạch, chim muông rất nhiều, nghe thấy tiếng chim hót cũng không có gì lạ. Nhưng Kim Thập Tam lại lập tức trợn tròn mắt, kinh ngạc ngẩng đầu tìm kiếm nơi phát ra tiếng hót, bởi vì âm thanh này, hắn quá mức quen thuộc!

Hắn nhanh chóng tìm ra nơi phát ra âm thanh. Trên cành của một cây bạch dương núi, một con chim gõ kiến đầu vàng đang nhìn hắn hót líu lo đầy vui vẻ. Khi thấy ánh mắt của hắn hướng tới, nó vỗ cánh bay xuống đậu lên vai trái của hắn, nghiêng đầu quan sát.

Kim Thập Tam bật cười, nói: “Hóa ra là ngươi! Ta thật sự phải cảm ơn ngươi. Nếu không phải ngươi mổ mù mắt tên thủ lĩnh thổ phỉ, ta e rằng đã không còn mạng để ngồi đây rồi! Ta chưa từng thấy con chim nào thông minh như ngươi. Này, ta đặt cho ngươi một cái tên nhé, gọi là Kim Linh Nhi có được không?”

Con chim đầu vàng dường như hiểu lời anh ta, khẽ gật đầu, rồi kêu lên hai tiếng “chiếp chiếp”.

Kim Thập Tam vui vẻ vô cùng, đưa tay xoa nhẹ lên đầu nó. Con chim nhỏ chẳng những không né tránh, mà còn nhẹ nhàng dùng mỏ mổ vào tay anh, lại cất tiếng hót thêm hai lần.

Kim Thập Tam thở dài, có chút tiếc nuối: “Đáng tiếc là ta không hiểu ngươi đang nói gì. Nhưng ta nghĩ, ngươi sẵn lòng coi ta là bạn, đúng không, Kim Linh Nhi?” Kim Linh Nhi lại gật đầu. Đột nhiên, nó dang rộng đôi cánh, như một mũi tên lao vút lên không trung, bay đi mất.

Kim Thập Tam còn đang ngạc nhiên, thì phía sau chợt vang lên một giọng nói: “Loài chim gõ kiến đầu vàng này rất cảnh giác, tôi chỉ vừa đến gần một chút, nó đã nhận ra ngay.” Kim Thập Tam quay đầu lại, thấy là Ô Lực Lăng, liền cười nói: “Ô đại ca, anh về rồi.”

Thời gian qua, vì ngày nào cũng trò chuyện với Kim Thập Tam, cách diễn đạt của Ô Lực Lăng cũng trở nên trôi chảy hơn nhiều. Anh ta bước đến bên Kim Thập Tam, nói: “Có vẻ như cậu đã khỏe hẳn rồi. Vừa nãy con chim gõ kiến đầu vàng đó rất thân thiết với cậu, chẳng lẽ cậu và nó đã quen nhau từ trước?”

Kim Thập Tam bèn kể lại chuyện mình từng cứu Kim Linh Nhi trên vách đá Mỏ Ưng vì nó mà gi3t chết một con “Thần Long Trường Bạch” khổng lồ, rồi nuốt mật, uống máu của nó, thậm chí còn lấy được một viên xà đan có khả năng trừ rắn rết, giải bách độc.

Ô Lực Lăng nghe xong vô cùng kinh ngạc, nói: “Thảo nào! Lúc tôi cứu cậu, khắp người cậu đều là vết thương, xương gãy mấy chỗ, nhất là vết đạn trên lưng suýt nữa lấy mạng cậu. Thế mà cậu bị bỏ lại dưới chân dốc, chịu gió mưa cả đêm mà vẫn sống sót! Hơn nữa, chưa đầy một tháng mà đã có thể cử động được rồi. Thân thể cậu không giống người thường chút nào đâu! Lúc nhỏ, tôi từng nghe cha kể rằng “Thần Long Trường Bạch” là loài linh vật hiếm có, cả thân thể đều là báu vật. Cậu nuốt mật rắn, uống máu rắn, rất có thể cơ thể cậu đã dần thay đổi.”

Kim Thập Tam ngẩn người, hồi tưởng lại khi giao chiến với bọn thổ phỉ, thân thủ của mình dường như linh hoạt hơn trước rất nhiều, sức mạnh cũng lớn bất thường. Chẳng lẽ đúng như lời Ô Lực Lăng nói, tất cả là nhờ vào con “Thần Long” kia hay sao?

Ô Lực Lăng lại nói: “Hôm nay tôi đặt bẫy trong rừng thông đỏ, tám chín phần là sẽ bắt được một con lợn rừng to. Đủ để chúng ta ăn mấy bữa thịnh soạn! Phần còn lại thì ướp muối, phơi khô để dành ăn dần vào mùa đông.”

Kim Thập Tam nghe vậy thì vô cùng hào hứng, nói: “Ô đại ca, để tôi đi cùng anh xem thử nhé!”

Ô Lực Lăng cười ha hả, nói: “Đừng vội, huynh đệ à! Đặt bẫy lợn rừng không phải chuyện một sớm một chiều đâu. Tôi đã tốn rất nhiều thời gian để tìm hiểu quy luật di chuyển của bầy lợn trong khu rừng này, rồi mới đặt bẫy dọc theo lối chúng thường đi qua. Lợn rừng trông có vẻ to lớn chậm chạp, nhưng thực ra chúng cực kỳ tinh ranh và cảnh giác. Nếu chỉ đặt một cái bẫy đơn giản, chúng sẽ dễ dàng phát hiện rồi phá hỏng ngay. Lần này tôi dùng bẫy kép. Nghĩa là tôi cố tình để chúng phát hiện và phá hỏng lớp bẫy đầu tiên. Khi chúng tưởng là an toàn, lần sau đi qua sẽ mất cảnh giác. Đến lúc đó, lớp bẫy thứ hai mới thực sự phát huy tác dụng. Hơn nữa, lợn rừng tính tình hung dữ, khi bị mắc bẫy sẽ giãy giụa điên cuồng, rất nguy hiểm nếu tiến lại gần ngay lúc đó. Cứ để nó bị mắc kẹt hai ngày, đợi khi nó kiệt sức, chúng ta ra tay sẽ dễ dàng hơn nhiều.”

Kim Thập Tam nghe vậy thì khâm phục gật đầu. Ô Lực Lăng quả thực là thợ săn giỏi nhất mà anh từng gặp, những gì anh ta nói chắc chắn không sai.

Hôm sau, sáng sớm Ô Lực Lăng lại vào rừng săn bắn. Mùa đông ở núi Trường Bạch đến rất sớm và kéo dài rất lâu. Một khi tuyết phủ kín núi, không chỉ việc đi lại trở nên khó khăn mà ngay cả săn bắn, hái lượm cũng không còn dễ dàng. Vì vậy, trước khi mùa đông thực sự đến, anh ta phải tích trữ đủ thịt rừng và nhu yếu phẩm để sống sót qua những tháng ngày khắc nghiệt.

Kim Thập Tam vẫn chìm sâu trong giấc ngủ trong căn lều cỏ. Trong mơ, hắn lại trở về cái ngày đẫm máu ấy. Hắn tận mắt chứng kiến cha nuôi và các chú bị giết từng người một, nhìn thấy “Hỏa Thiêu Thiên” chĩa súng vào mình, thấy Dương Bát gia đứng xa xa cười gằn đầy ác ý. Nhưng cơ thể hắn lại như bị đóng băng, không thể cử động.

Ngay khi hắn đang vô cùng tuyệt vọng, bỗng nhiên có thứ gì đó mềm mại và lông lá cọ vào mặt, khiến hắn ngưa ngứa khó chịu.

Hắn cố gắng mở mắt ra và nhìn thấy Kim Linh Nhi đã bay vào trong lều từ lúc nào. Nó đang đứng bên đầu hắn và liên tục cọ đầu vào má hắn.

Kim Thập Tam vui mừng nói: “Kim Linh Nhi, là ngươi à? Sao ngươi lại đến đây? Hôm qua ngươi bay đi một mạch, ta còn tưởng ngươi không quay lại nữa!”

Đột nhiên, hắn chú ý thấy trong mỏ Kim Linh Nhi đang ngậm một viên tròn màu đỏ rực, liền tò mò hỏi: “Ủa? Ngươi đang ngậm cái gì thế?”

Kim Linh Nhi không đáp, chỉ nhẹ nhàng đẩy viên tròn ấy đến sát môi hắn, ra hiệu cho hắn ăn.

Kim Thập Tam ngập ngừng nhận lấy, cắn nhẹ một cái, cảm giác vị ngọt dịu và hương thơm thoang thoảng như nhân sâm lan tỏa trong miệng. Hóa ra đó là một hạt sâm!

Nhưng không phải hạt sâm bình thường. Viên sâm này lớn bất thường, tròn trịa đỏ au, trong suốt như một viên hồng ngọc. Kim Thập Tam thầm nghĩ, ít nhất phải là củ nhân sâm sáu lá trở lên mới có thể kết được loại hạt quý hiếm như thế này.

Một hạt nhân sâm xuống bụng, Kim Thập Tam lập tức cảm thấy toàn thân dễ chịu, cơn đau ở vết thương giảm đi rõ rệt, ngay cả cảm giác đói cũng không còn. Kim Linh Nhi líu ríu kêu hai tiếng rồi dang cánh bay ra ngoài qua khe hở của tấm rèm cỏ.

Những ngày tiếp theo, ngày nào Kim Linh Nhi cũng mang đến một hạt sâm kỳ lạ cho hắn ăn, sau đó nô đùa với hắn một lát. Có vài lần Ô Lực Lăng trông thấy cảnh này, nhưng Kim Linh Nhi thấy anh ta không có ý làm hại mình và lại là bạn của Kim Thập Tam nên cũng không đề phòng nữa.

Những hạt sâm mà Kim Linh Nhi mang đến quả thực là kỳ trân dị bảo, có công dụng điều hòa âm dương, bổ khí dưỡng nguyên, trị thương nuôi thân vô cùng hiệu nghiệm. Nhờ đó, cơ thể Kim Thập Tam phục hồi nhanh đến mức khó tin. Không chỉ có thể đi lại bình thường, ngay cả khi đánh một bài quyền Mai Hoa cũng không còn cảm thấy hoa mắt hay hồi hộp.

Hôm đó, Ô Lực Lăng nói rằng con lợn rừng đã mắc bẫy, hôm nay có thể đi thu lưới. Kim Thập Tam mừng rỡ, khăng khăng muốn đi theo. Ô Lực Lăng thấy hắn đã khỏe hẳn nên cũng đồng ý.

Hai người tiến vào rừng thông đỏ. Lúc đầu, Ô Lực Lăng vẫn rất thoải mái, cười bảo: “Con lợn đó đã bị mắc bẫy hai ngày hai đêm, giờ chắc kiệt sức rồi, xử lý nó sẽ không khó đâu.”

Thế nhưng khi gần đến chỗ đặt bẫy, anh ta bỗng hít hít mũi mấy cái, sắc mặt lập tức trở nên căng thẳng. Anh ta hạ giọng nói với Kim Thập Tam: “Có gì đó không ổn! Chúng ta phải cẩn thận!”

Kim Thập Tam thấy lạ, đang định hỏi là có chuyện gì thì Ô Lực Lăng ra hiệu bảo hắn không được lên tiếng. Hai người cẩn thận mà di chuyển trong rừng khoảng mười mấy mét, cho đến khi hai người đi đến một gốc cây thông đỏ to, Ô Lực Lăng lại ra hiệu bảo Kim Thập Tam trốn hẳn hoi. Anh ta đưa con dao săn bên hông cho Kim Thập Tam, sau đó giơ khẩu súng ngắn mang theo lên và bắt đầu cho thuốc súng và bi sắt vào. Kim Thập Tam hiếu kỳ liền ngó đầu ra nhìn lén, đột nhiên bị dọa suýt chút kêu thành tiếng.

Hắn nhìn thấy một con quái miêu.

Con quái miêu này cao hơn một người trưởng thành, toàn thân phủ đầy lông ngắn cứng như thép, nhưng phần tóc trên đầu lại dài và rậm rạp, che kín cả khuôn mặt, khiến hắn không thể nhìn rõ diện mạo của nó. Điều đáng sợ nhất là nó chỉ có một chân, nhưng đôi tay lại to hơn cả đùi của một người đàn ông trưởng thành. Lúc này, quái miêu đang đè con lợn rừng mắc bẫy xuống đất, điên cuồng xé thịt và nhai ngấu nghiến.

Con lợn rừng nặng đến bốn, năm trăm cân, còn lớn hơn con mà họ từng săn được ở sông Hắc Long, vậy mà giờ đây nửa th@n dưới đã bị ăn sạch. Máu chảy đầm đìa, thấm đỏ cả một mảng đất.

Mặc dù Kim Thập Tam chưa từng nhìn thấy quái miêu trước đây, nhưng anh đã nghe cha và các chú của mình mô tả về ngoại hình của nó, rất giống với con quái vật mà hắn nhìn thấy hôm nay. Người ta kể rằng con quái vật này có thể niệm phép để làm người ta bối rối, dụ họ vào hang ổ của nó rồi ăn thịt họ. Những người kiểm lâm hiếm khi gặp phải tình huống này, nhưng nếu có, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chạy trốn để bảo toàn mạng sống.

Thưa các vị độc giả, xin cho phép tác giả được chen ngang đôi lời. Hôm nay chúng ta nhắc đến quái miêu, có người cho rằng nó thực sự tồn tại và chính là một loài khỉ đầu chó nào đó. Nếu xét theo đặc điểm của khỉ đầu chó thì đúng là có hình dạng giống người, thân hình vạm vỡ, đuôi ngắn và thô, mặt dài, sống mũi đỏ tươi, cằm có chòm râu dê, đầu bị che phủ bởi lớp lông dài, quả thực trông như một loài quỷ quái.

Hơn nữa, loài vật này có tính cách hung dữ, di chuyển nhanh nhẹn, có thể săn bắt những con mồi cỡ vừa như linh dương, thậm chí dám chiến đấu với báo hoa, giết người lại càng không phải chuyện khó. Vì thế, các nhà động vật học hiện đại còn gọi nó là “quỷ khỉ đầu chó”. Tuy nhiên, khỉ đầu chó, bất kể là phân loài nào, đều chỉ phân bố ở châu Phi, và giống như khỉ hay vượn, chúng sống theo bầy đàn với số lượng ít thì vài chục con, nhiều thì lên đến hàng trăm con. Trong khi đó, trên lãnh thổ Trung Hoa, chưa từng có ghi chép khoa học nào về một quần thể như vậy.

Tuy nhiên, trong các văn thư cổ của Trung Quốc lại có vô số ghi chép về sự xuất hiện của quái miêu. Trong cuốn “Sơn Hải Kinh – Hải Nội Kinh”, có đoạn nhắc đến: “Ở phương Nam có tộc Cán Cự Nhân, mặt người, tay dài, thân thể đen và đầy lông, chân mọc ngược, thấy người cười thì cũng cười, môi dài che kín cả mặt.”

Thời nhà Đường, trong “Hữu Dương Tạp Trở” của Đoạn Thành Thức có ghi chép: “quái miêu, còn gọi là sơn tiêu… màu xanh, cũng gọi là trị ô. Tổ của nó to bằng cái chum năm đấu, bên trong phủ đất bùn trắng đỏ xen lẫn, trông như bia tập bắn cung. Nếu bị nó tấn công thì có thể sai hổ hại người, còn đốt phá nhà cửa của con người, dân gian gọi là quái miêu.”

Đới Phủ đời Đường, trong “Quảng Dị Ký – Ban Tử”, cũng có ghi: “quái miêu là loài có ở khắp vùng Lĩnh Nam, một chân, bàn chân xoay ngược, tay chân có ba nhánh.”

Những ghi chép tương tự còn rất nhiều, tác giả không trích dẫn hết. Nhưng tựu trung lại, các ghi chép này đều cho rằng quái miêu (hay sơn tao) thực sự tồn tại, là một loại quái vật hình người, thân dài, lông đen, sức mạnh vô song, có thể dùng tay không xé xác hổ báo, được xem như bá chủ chốn rừng xanh.

Trong “Liêu Trai Chí Dị” của Bồ Tùng Linh, hay “Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký” của Kỷ Hiểu Lam, cũng có những câu chuyện về quái miêu hại người. Thậm chí, trong một số sách địa phương chí còn chép lại phong tục đốt pháo vào Tết Nguyên Đán để xua đuổi quái miêu. Như trong “Thương Hà Huyện Chí” có viết: “Vào sáng sớm mùng Một tháng Giêng, người dân đốt pháo để xua đuổi quái miêu.”

Như vậy, xét từ những ghi chép này, truyền thuyết về “Niên Thú” trong phong tục Tết Nguyên Đán của Trung Quốc, rất có thể bắt nguồn từ quái miêu.

Bỏ qua chuyện bên lề, hãy quay lại với Kim Thập Tam. Chứng kiến con quái miêu đang ngấu nghiến con lợn rừng, hắn vẫn còn kinh ngạc thì đột nhiên, một mùi tanh hôi nồng nặc xộc vào mũi. Ngay sau đó, một giọt chất lỏng nhớp nháp nhỏ xuống trúng đầu hắn. Kim Thập Tam giơ tay sờ thử, đưa lên mũi ngửi thì suýt nữa nôn hết bữa sáng ra ngoài. Hắn vội ngẩng đầu lên nhìn, lập tức thấy một con quái miêu khổng lồ khác đang bò ngược dọc theo thân cây xuống.

Lần này, hắn nhìn rõ bộ dạng của con quái vật, khuôn mặt dài với đầy những mụn cơm ghê tởm; da xanh xám, không có sống mũi, chỉ có hai lỗ mũi to như chén trà; mắt như đồng tiền cổ, ánh lên sắc đỏ rực; miệng rộng chiếm gần nửa khuôn mặt, bên trong là những chiếc răng nhọn hoắt như lưỡi cưa, trông vô cùng đáng sợ.

Con quái vật từng bước từng bước bò xuống, trong miệng vẫn nhỏ từng giọt nước bọt tanh tưởi. Kim Thập Tam kinh hãi lùi lại hai bước. Con quái miêu vừa định lao tới, Ô Lực Lăng liền giương súng lên và bóp cò. “Đoàng!!!” Loại súng hỏa mai cũ này có tầm bắn chỉ khoảng hơn mười trượng, so với súng trường thì kém xa. Nhưng vì b ắn ra toàn đạn sắt nhỏ tạo thành một phạm vi sát thương hình quạt, nên ở cự ly gần, nó lại uy lực hơn súng trường thông thường.

quái miêu hoành hành trong núi sâu, ngay cả hổ báo gấu chó cũng phải e dè, không ngờ hai con mồi trong tầm tay này lại dám ra tay trước. Vì quá bất ngờ, nó không kịp né tránh, lãnh trọn loạt đạn vào giữa mặt.

quái miêu da dày thịt chắc, đạn sắt bắn vào thân thể nó thì chưa chắc đã gây tổn thương nghiêm trọng. Nhưng dù có là dã thú hay quái vật, thì đôi mắt vẫn luôn là điểm yếu chí mạng!

Hai mắt nó bị bắn trúng cùng lúc! “Gào——!!!”Con quái miêu rú lên một tiếng thảm thiết, mất đà ngã nhào từ trên cây xuống!

Ô Lực Lăng bắn xong một phát liền lập tức lùi về sau, nấp sau một gốc cây khác để nhanh chóng nạp lại thuốc súng và đạn sắt. Đây chính là điểm bất lợi của loại súng cũ này, thời gian nạp đạn quá lâu.

Thông thường, thợ săn không dám dùng loại súng này để săn mãnh thú, vì chỉ có duy nhất một cơ hội nổ súng. Nếu không bắn trúng điểm chí mạng, khiến con thú chết ngay, thì nó sẽ càng trở nên hung hãn khi bị thương và phản công lại.

Khẩu súng này có tầm sát thương rộng, nhưng uy lực lại không đủ mạnh. Nếu bắn trúng từ khoảng cách vài trượng, thì khó lòng hạ gục con mồi ngay lập tức.

Ô Lực Lăng là thợ săn lão luyện, dĩ nhiên hiểu rất rõ điều đó. Nhưng lúc này, quái miêu đã bị bắn mù hai mắt, không còn nhìn thấy, phản công cũng không thể xác định chính xác mục tiêu, nên hắn không quá lo lắng.

Phát súng thứ hai, anh ta dự định nhắm vào bụng con quái vật, vùng mềm nhất trên cơ thể nó. Nếu bắn trúng, có thể khiến nó mất khả năng di chuyển, thậm chí tử vong.

Nhưng hắn đã quên mất, cách đoa không xa vẫn còn một con quái miêu khác!

Con quái miêu đực đang ăn thịt lợn rừng thực chất là mồi nhử, còn quái miêu cái, bạn đời của nó, thì ẩn nấp trên ngọn cây thông đỏ, chờ đợi Kim Thập Tam và Ô Lực Lăng tự chui đầu vào bẫy.

Khứu giác và thính giác của quái miêu vượt xa con người, thậm chí hơn cả dã thú thông thường. Khi Kim Thập Tam và Ô Lực Lăng còn cách vài chục mét, chúng đã phát hiện ra con mồi đang tiếp cận.

Kế hoạch của chúng rất tinh vi, quái miêu đực giả vờ cúi đầu ăn thịt lợn rừng, đánh lừa con mồi rằng nó đang mải mê thưởng thức bữa tiệc; quái miêu cái ẩn thân trên cây, đợi kẻ địch sơ suất rồi bất ngờ tập kích từ trên cao.

Nhưng đúng lúc đó, quái miêu cái trúng đạn, bị bắn mù hai mắt, gầm lên một tiếng điên cuồng. quái miêu đực lập tức quay phắt người, nhắm thẳng Kim Thập Tam lao tới!

Mặc dù chỉ có một chân, nhưng khả năng bật nhảy của nó cực kỳ đáng sợ. Một cú đạp, nó nhảy vọt lên hai, ba trượng. Lại một cú đạp nữa, nó đã xông thẳng vào Kim Thập Tam. Kim Thập Tam phản ứng cực nhanh! Ngay khoảnh khắc quái miêu đực vừa chạm đất, hắn đã vung dao đâm thẳng vào miệng nó theo chiêu “Bạch Hồng Quán Nhật”! Nhưng, con quái vật đau đớn gầm lên, ngoạm chặt lưỡi dao giữa hai hàm răng! Kim Thập Tam dồn hết sức đẩy mạnh, nhưng dù có cố đến đâu cũng không thể xuyên thêm được một phân!

Chưa kịp rút dao, hắn đã bị hai cánh tay to như cột trụ của quái miêu siết chặt! Cánh tay của nó quấn chặt cả người lẫn tay trái của hắn, siết càng lúc càng chặt! Một luồng sức mạnh khủng khiếp dồn đến! Xương toàn thân Kim Thập Tam kêu răng rắc, mặt đỏ bừng, phổi dần dần bị ép đến nghẹt thở! May mà trước đó hắn đã nuốt mật và uống máu “Thần Long”, thân thể trở nên cường tráng dị thường. Nếu là người bình thường, chỉ với một cái siết của con quái vật này. Thân xác chắc chắn sẽ bị bóp nát thành một đống bầy nhầy!

Dù vậy, Kim Thập Tam cũng dần cảm thấy không trụ nổi nữa, toàn thân như sắp vỡ vụn. Đang lúc than thầm “mạng mình đến đây là hết”, con quái miêu cái mù cả hai mắt bỗng từ dưới đất bật dậy, lao tới ôm chặt con quái miêu đực từ phía sau rồi cắn thẳng vào cổ nó.

Con quái miêu đực đau đớn gào lên, hai tay cũng lỏng ra đôi chút. Kim Thập Tam nhân cơ hội này, dồn sức vào cánh tay phải, lưỡi dao săn lập tức đâm xuyên qua sau gáy con quái miêu đực.

Con quái miêu đực buông Kim Thập Tam ra, ngã ngửa về phía sau. Con quái miêu cái thì như phát cuồng, nhào lên người nó, tiếp tục cắn xé phần cổ. Ô Lực Lăng lao tới, dí khẩu súng ngắn vào trán con quái miêu cái rồi bóp cò.

Chỉ nghe “Đoàng!” một tiếng chát chúa, đầu con quái miêu cái nổ tung như một quả hồ lô nhuốm máu, quằn quại một lúc rồi chết hẳn.

Toàn thân Kim Thập Tam đau nhức rã rời, cố gắng hết sức mới đứng lên được. Hắn nhìn hai con quái vật chết trên mặt đất, trong lòng vẫn còn sợ hãi, nói: “Nguy hiểm thật! Nhưng mà, tại sao con quái miêu này lại phát điên mà lao vào cắn xé con kia? Không phải chúng là đồng bọn sao?”

Ô Lực Lăng nhíu mày, ngồi xổm xuống quan sát kỹ sắc mặt của con quái miêu cái, rồi lật mí mắt nó lên xem xét. Sau đó, hắn đứng dậy mà không nói gì, lại quay sang lật mí mắt con quái miêu đực. Một lúc sau, hắn mới cất giọng: “Là nấm hoàng tuyền.”

Kim Thập Tam ngạc nhiên: “Nấm hoàng tuyền? Ý anh là con quái miêu mù này đã ăn phải nấm hoàng tuyền sao?”

Ô Lực Lăng gật đầu: “Nó ăn phải “nấm hoàng tuyền”, độc tính phát tác, khiến nó không còn nhận ra đồng loại của mình, vì vậy mới trở nên điên loạn như vậy.”

Kim Thập Tam hít sâu một hơi, rùng mình hỏi: “Nấm hoàng tuyền là thứ gì mà lợi hại đến thế?”

Ô Lực Lăng không trả lời ngay, chỉ quay đầu nhìn về hướng tây bắc. Một lúc lâu sau, hắn mới chậm rãi nói: “Nấm hoàng tuyền, tất nhiên là đến từ địa ngục Hoàng Tuyền. Còn đám quái miêu này, đã nhiều năm không xuất hiện trong núi. Xem ra, cánh cổng địa ngục lại sắp mở ra rồi.”

Kim Thập Tam nghe câu nói của Ô Lực Lăng mơ hồ khó hiểu, định hỏi thêm nhưng nhìn dáng vẻ thất thần của hắn, dường như đang nhớ lại chuyện gì đó kinh hoàng. Kim Thập Tam há miệng định nói rồi lại nuốt lời vào trong.

Hai người đào một cái hố lớn, chôn cả hai con quái miêu cùng nửa con lợn rừng. Sau khi trở về, Ô Lực Lăng trở nên lặng lẽ hơn trước, thường ngồi một mình thất thần. Kim Thập Tam có hỏi mười câu thì anh ta chỉ đáp lại một câu, có khi còn chẳng nói gì.

Khi hai người đi săn trở lại, Ô Lực Lăng cũng cố tình tránh xa rừng thông đỏ, như thể lo sợ hai con quái miêu kia sẽ đội mồ sống dậy, chui ra từ lòng đất. Dù vậy, anh ta vẫn là một người thầy săn bắn xuất sắc. Dưới sự chỉ dẫn của anh ta, Kim Thập Tam học được không ít bí quyết săn bắn.

Kim Bất Hoán trước đây từng dạy Kim Thập Tam bắn súng, trong nhà có hai khẩu súng, một dài một ngắn, hắn đều từng sử dụng qua và bắn cũng khá tốt. Nhưng khi đi săn cùng Ô Lực Lăng, hắn phải dùng khẩu súng săn dài kiểu cũ của đối phương, loại súng này khó thao tác và ngắm bắn hơn nhiều.

Ô Lực Lăng quanh năm săn bắn trong rừng, đối phó với những loài chim thú cảnh giác cao, di chuyển nhanh, thậm chí có cả những con thú hung dữ chủ động tấn công thợ săn. Kỹ thuật bắn của hắn vì thế mà vượt xa Kim Bất Hoán. Hắn truyền lại những kinh nghiệm này cho Kim Thập Tam, mà Kim Thập Tam lại là người chịu khó rèn luyện, nhờ vậy mà kỹ thuật bắn súng ngày càng thuần thục.

Có lúc, Ô Lực Lăng lười ra ngoài, chỉ ngồi lặng lẽ nhìn về dãy núi xa xăm. Những khi đó, Kim Thập Tam tự mình đi săn, và hầu như lúc nào cũng trở về với chiến lợi phẩm đầy tay.

Bất giác, mùa đông đã đến, núi Trường Bạch đón bông tuyết đầu tiên của năm nay. Cơ thể Kim Thập Tam đã hoàn toàn hồi phục, nhưng nghĩ đến mối thù chưa trả, trong lòng hắn vẫn sục sôi căm hận. Vì vậy, hắn quyết định xuống núi trước khi tuyết lớn phong kín lối đi.

Hắn một mình đến nơi Ô Lực Lăng đã giúp hắn chôn cất nghĩa phụ và các chú, thực hiện một lần tế bái cuối cùng, rồi quay về từ biệt Ô Lực Lăng.

Ô Lực Lăng không nói gì, chỉ chuẩn bị cho hắn một túi lớn đầy lương khô và thịt khô, khoác lên người hắn một chiếc áo choàng lông cáo thượng hạng, rồi tặng thêm một thanh đao săn dài một thước sáu.

Kim Thập Tam rất cảm kích, cúi người thi lễ với Ô Lực Lăng, nói: “Ô đại ca, đại ơn cứu mạng, tiểu đệ không dám nói lời cảm tạ suông. Sau này, nếu tôi báo được mối thù này và vẫn còn mạng quay về, nhất định sẽ quay lại đây thăm anh!” Nói xong, hắn quay người, sải bước rời đi.
 
Sơn Thần - Phi Ảnh
Chương 9: Chương 9



Chương 9 – Edit & beta: Cún

Chương trước nói đến, con chim gõ kiến đầu vàng từ trên trời lao xuống, mổ mù mắt của tên “Hỏa Thiêu Thiên”. Nhân lực bọn thổ phỉ đang hỗn loạn, Kim Thập Tam chạy vào sâu trong rừng, nhưng cơ thể bị trúng đạn liền ngã xuống dốc núi, may thay được một người thợ săn Ewenki tên là Ô Lực Lăng cứu giúp, lại được con chim gõ kiến đầu vàng mang cho mấy hạt nhân sâm quý kiếm mỗi ngày để điều dưỡng cơ thể, nên rất nhanh đã hồi phục. Kim Thập Tam liền ở lại trong núi Trường Bạch, đi theo Ô Lực Lăng học cách săn bắn, luyện tập cách bắn súng. Một ngày nọ, hắn đi theo Ô Lực Lăng đi thu hoạch con lợn rừng sập bẫy, bất ngờ gặp phải sự đột kích của hai con quái miêu, Kim Thập Tam và Ô Lực Lăng nắm bắt cơ hội gi3t chết hai con quái miêu. Sau đó, các cử chỉ kỳ lạ của Ô Lực Lăng khiến Kim Thập Tam nảy sinh sự hoài nghi. Thu đi đông đến, Kim Thập Tam quyết tâm vì vong hồn chết uổng của cha nuôi và các chú mà báo thù, bèn chào tạm biệt Ô Lực Lăng và xuống núi.

Nửa tháng sau, Kim Thập Tam đến được thành Phủ Tùng.

Vài tháng trước, hắn vẫn còn là một thiếu niên, đi theo nghĩa phụ đến đây tham gia Đại hội Sâm Vương, chiêm ngưỡng phong độ của Dương Bát gia, lãnh tụ trong giới sâm. Vài tháng sau, nghĩ phụ đã bỏ mạng nơi rừng núi, còn hắn thì mang theo mối thù máu quay lại nơi này, muốn đòi lại công bằng từ Dương Bát gia, đồng thời muốn giành lại cây sâm “Thần Long Nhị Trụ Hương” vốn thuộc về cha nuôi Kim Bất Hoán.

Vật vẫn còn đó, nhưng người đã khác.

Sau khi vào thành, trên người hắn ngoài một con dao găm và nửa túi lương khô còn sót lại, thì không có lấy một xu dính túi.

Đang là giữa mùa đông. Ở vùng Đông Bắc, nước đóng băng và không thể ngủ ngoài đường qua đêm. Hắn không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đến tiệm cầm đồ, cầm chiếc áo khoác lông cáo của mình để lấy năm đồng đại dương và tìm một quán trọ nhỏ để ở tạm.

Ngày hôm sau, hắn hỏi thăm được địa chỉ của phủ Dương, hắn giấu con dao găm vào tay áo, rồi tìm đường đến đó.

Khi hắn đến trước cửa phủ Dương, liền biết rằng bản thân đã quá ngây thơ. Khuôn viên rộng lớn của phủ Dương có diện tích hơn trăm mẫu. Cửa lớn có tám tên gia đinh, mặc đồ đen, vác theo súng dài, đứng thành một hàng như cánh ngỗng, trông vô cùng uy nghiêm, người khác chỉ cần đến gần cũng sẽ bị chất vấn mắng mỏ, huống chi là đi vào. Kim Thập Tam đi vòng quanh phủ Dương mấy lượt, thấy tường viện cao hơn ba trượng, được xây bằng những tảng gạch xanh mài nhẵn, trơn tuột như nước, đến khỉ vượn cũng khó mà leo lên. Trên tường có pháo khẩu (ở Quan Đông súng trường cũng gọi là pháo, những tay súng được các gia đình giàu có thuê để bảo vệ phủ đệ gọi là pháo thủ, còn lỗ bắn trên tường viện gọi là pháo khẩu), bốn góc còn có pháo đài, lúc nào cũng có người canh gác suốt ngày đêm.

Điều đáng ngại hơn cả là thỉnh thoảng lại có gia đinh tuần tra dọc theo tường viện. Kim Thập Tam đã đến mấy ngày, bị tra hỏi rồi đuổi đi hai lần, biết nếu còn đến nữa chắc chắn sẽ bị nghi ngờ, bèn không dám quay lại. Huống hồ, dù có thể lẻn vào phủ Dương thì cũng làm được gì? Hào môn đại trạch sâu như biển, trong đó e rằng có đến hàng trăm người sinh sống, có khi chưa kịp tìm được Dương Bát gia thì hắn đã bị lộ tung tích rồi.

Vậy thì chỉ có thể đợi đến khi Dương Bát gia rời khỏi phủ Dương rồi mới ra tay! Kim Thập Tam ngày ngày ra phố dò hỏi tin tức, kiên nhẫn chờ đợi. Dương Bát gia tất nhiên sẽ phải ra ngoài, nhưng hắn là một thế lực lớn trong vùng, mỗi lần xuất hành đều đi xe ngựa, có đông đảo tùy tùng hộ vệ, cảnh giới nghiêm ngặt. Bản thân hắn cũng súng không rời tay, người bình thường muốn đến gần còn khó hơn lên trời, huống chi là hành thích.

Kim Thập Tam ở lại thành Phủ Tùng gần một tháng trời mà không tìm được cơ hội nào ra tay.

Không ra tay được cũng không sao, cùng lắm thì đợi thêm vài tháng nữa. Nhưng vấn đề là hắn đã tiêu sạch tiền, trên người chỉ còn hơn chục đồng xu, lại còn nợ khách đi3m ba ngày tiền phòng. Chưởng quầy đã sớm lộ vẻ khó chịu, nói nếu hắn không trả tiền thì sẽ giao nộp cho quan phủ.

Kim Thập Tam năn nỉ chưởng quầy cho khất thêm vài ngày, nhưng chưởng quầy lắc đầu từ chối. Sau thấy hắn thật sự không còn một xu dính túi, tự biết mình xui xẻo, chỉ muốn nhanh chóng tống khứ hắn đi cho xong, bèn chỉ cho hắn một nơi.

Hóa ra lúc này đã cận kề Tết Nguyên Đán. Để thể hiện cảnh thái bình của thành Phủ Tùng, Dương Bát gia đã thương lượng với Huyện Thái gia, quyết định mở cửa công sản miếu Sơn Thần, cho dân đói không nhà đến trú ngụ, mãi đến khi hội hoa đăng rằm tháng Giêng kết thúc mới thôi. Trong thời gian này, Dương Bát gia còn cho người dựng quán cháo trước miếu Sơn Thần, mỗi ngày phát cháo miễn phí. Tin tức này vừa lan ra, cả thành ai nấy đều ca ngợi Dương Bát gia là đại thiện nhân, Bồ Tát sống.

Kim Thập Tam hơi do dự, nhưng thấy chưởng quầy hoàn toàn không có ý nể tình, mấy gã người làm trong tiệm cũng trợn mắt nhìn hắn, như thể chỉ cần hắn dám nói nửa lời phản đối thì sẽ lập tức bị đánh cho một trận rồi quẳng ra đường cho chó ăn.

Thời buổi loạn lạc, “trước cửa nhà quyền quý rượu thịt ôi thiu, ngoài đường xương người chết rét chất chồng”. Mùa hè và mùa thu năm nay, vùng sông Tùng Hoa, sông Đạo Nhất, sông Đạo Nhị ở tỉnh Cát Lâm vừa hứng chịu trận đại hồng thủy trăm năm có một, tiếp đó mùa màng thất bát, dịch bệnh hoành hành. Có những thôn trang bị thiên tai tàn phá nghiêm trọng đến mức mười phần chết đến tám, chín. Người dân quê ùn ùn chạy nạn tứ phía, số dân chạy vào thành Phủ Tùng cũng không ít. Đến mùa đông năm nay, mỗi ngày đều có người chết đói ngã gục ngoài phố, thêm một xác của Kim Thập Tam cũng chẳng có gì lạ.

Bất đắc dĩ, hắn đành phải đến miếu Sơn Thần tá túc tạm.

Tới nơi, Kim Thập Tam mới phát hiện miếu Sơn Thần đã sớm chật kín người. Hắn vất vả lắm mới thương lượng được với một lão ăn mày, nhường lại cho một chỗ nhỏ. Hắn cũng chẳng có tài sản gì, chỉ trải một chiếc áo bông rách làm nệm, rồi nằm xuống ngủ luôn.

Lão ăn mày nhàn rỗi liền bắt chuyện với hắn. Kim Thập Tam nói quê nhà gặp thiên tai, người thân hoặc chết đói, hoặc bệnh mà mất, bản thân hắn phải chạy nạn đến Phủ Tùng. Lão ăn mày thở dài than thở: “Thời buổi này, dân đen sống chỉ toàn khổ cực, ngay cả ông trời cũng bất công, còn muốn giày vò thêm. Cũng may Dương Bát gia có lòng tốt, nếu không thì mười phần dân chạy nạn chắc cũng chết mất hai phần trước khi qua được cái Tết này.”

Kim Thập Tam nghe vậy chỉ lạnh lùng cười thầm, im lặng không nói.

Lão ăn mày tính hay lắm chuyện, lại tiếp tục lải nhải rằng ngày mùng mười tháng Giêng, nhà họ Dương gả con gái. Đã truyền tin ra ngoài, hễ có kẻ ăn mày nào đến trước cửa phủ Dương hát Liên Hoa Lạc chúc mừng thì sẽ được thưởng mỗi người hai cái màn thầu bột trắng cùng hai đồng xu. Khuyên Kim Thập Tam cũng nên đi lĩnh một phần đi.

Kim Thập Tam hỏi: “Dương Bát gia này có mấy người con?”

Lão ăn mày nói: “Dương Bát gia có một người con trai và hai cô con gái. Đây là lần đầu tiên nhà họ Dương gả con gái. Người được gả là cô cả nhà họ Dương, chồng là Từ Tùng Nhân, chỉ huy đoàn phòng vệ của Phủ Tùng chúng tôi. Nghe nói lần này Đoàn trưởng Từ tái hôn, nhưng tiểu thư Dương sẽ là vợ chính, cho nên cũng không phải là bất lợi.”

Kim Thập Tam gật đầu, nói: “Vậy chẳng phải phủ Dương sẽ rất náo nhiệt nhỉ.”

Lão ăn mày nói: “Còn phải nói à! Dương Bát gia giàu có, của hồi môn hậu hĩnh thì khỏi phải bàn rồi. Tiệc cưới nhà họ Từ tổ chức ở Trường Bạch Lâu, đặt mấy chục bàn tiệc, ăn mừng suốt ba ngày. Ở đất Phủ Tùng này, nhà nào có chút thể diện đều được mời, đích thân Huyện Thái gia làm chủ hôn, nghe nói đại sư Trương từ Phụng Thiên cũng cử người đến tham dự. Nhà họ Dương cũng không kém cạnh, tổ chức riêng mấy chục bàn tiệc ngay tại phủ, mời hết đồng nghiệp và khách thương. Trong giới nhân sâm Quan Đông, ai dám không nể mặt hội trưởng như ông ta? Hễ là người có chút danh tiếng đều phải đến chúc mừng. Họ còn mời cả đoàn hát, không chỉ có gánh hát Nhị nhân chuyển địa phương, mà còn đặc biệt mời danh ca từ Bắc Bình đến diễn Kinh kịch suốt ba ngày. Lão ăn mày tôi đây sống ở Phủ Tùng mấy chục năm, từng chứng kiến không ít cuộc vui, nhưng e rằng chẳng lần nào có thể sánh với hôn lễ nhà họ Dương lần này đâu.”

Lão ăn mày lắc đầu ngán ngẩm, bày tỏ sự ngưỡng mộ. Kim Thập Tam nghe vậy thì đột nhiên nảy ra ý tưởng, hỏi: “Năm mới sắp đến rồi, sau năm mới, nhà họ Dương sẽ gả con gái, e rằng không đủ nhân lực để lo liệu hết mọi việc đâu, đúng không?”

Lão ăn mày vỗ đùi nói: “Cậu nói đúng lắm, chàng trai! Ngày mai, quản gia ngoại viện của phủ Dương là Hàn Tứ gia sẽ đến ngôi miếu trên núi này để tuyển người vào phủ làm tạm thời. Cả nam lẫn nữ đều được hoan nghênh. Họ chắc chắn sẽ không hứng thú với một ông già tay chân yếu ớt như tôi, nhưng một người trẻ và khỏe mạnh như cậu có thể thử xem. Nhà họ Dương rất hào phóng, họ không chỉ cung cấp chỗ ăn chỗ ở, mà tiền lương kiếm được trong mười ngày, nửa tháng cũng đủ để cậu sống trong hai, ba tháng.”

Sau khi nghe vậy, Kim Thập Tam nảy ra một ý tưởng trong đầu. Hắn vẫn còn mười hai đồng xu trong người nên ra ngoài mua hai cái bánh kếp, và còn lại mười đồng xu. Hắn nhét tiền vào tay, đưa cho lão ăn mày một miếng bánh rồi ngủ thiếp đi sau khi ăn xong.

Sáng ngày thứ hai, một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi dẫn theo một số người đến chùa trên núi để đón người. Người đàn ông đó thấp và chắc nịch, có một mảng hói trên đầu, mắt nhỏ và có một vết bớt màu xanh ở má trái. Lão ăn mày nói rằng người đàn ông đó tên là Tiêu Tam Lại Tử, là cháu trai của Hàn Tứ gia, quản gia của viện ngoài của phủ Dương. Có lẽ Hàn Tứ gia lười tự mình xử lý loại chuyện này nên giao cho cháu trai.

Tiêu Tam Lại Tử có dáng vẻ bẩn thỉu, xấu xí, nhưng trên mặt lại lộ rõ vẻ vênh váo, hống hách. Hắn vừa bước vào miếu Sơn Thần, đám người bên trong lập tức xúm lại vây quanh. Hắn liền lớn tiếng chửi mắng, bảo bọn ăn mày, dân chạy nạn đều là phường tiện mệnh, làm cho miếu Sơn Thần trở nên bẩn thỉu, hôi hám. Rồi hắn quát tháo, bắt mọi người chia thành hai hàng, nam một bên, nữ một bên.

Hắn ưỡn ngực, phưỡn bụng, chắp tay sau lưng, len lỏi trong đám phụ nữ, đặc biệt nhắm vào các cô gái trẻ và phụ nữ có chồng. Lúc thì sờ mông, lúc thì véo má, khiến các cô gái xấu hổ đỏ mặt, tránh cũng không xong, chửi cũng không được. Sau một hồi chọn lựa, hắn mới chọn ra mười mấy cô gái có nhan sắc ưa nhìn, rồi mới quay sang phía đám đàn ông.

Khi hắn đi ngang qua Kim Thập Tam, Kim Thập Tam lặng lẽ nhét nốt chút tiền còn lại vào tay hắn. Tiêu Tam Lại Tử khựng lại, liếc nhìn Kim Thập Tam một cái, rồi làm như không có chuyện gì, bước qua. Một lát sau, khi gọi người, quả nhiên Kim Thập Tam có tên trong danh sách được chọn.

Lúc đăng ký, hắn không dám nói mình họ Kim, bèn bịa ra một cái tên, tự nhận mình là người thôn Trần Gia, tên Trần Thập Tam. Hắn khai rằng quê nhà gặp thiên tai lớn, cả nhà chết đói hết, chỉ còn hắn một thân một mình chạy nạn đến Phủ Tùng.

Một nhóm nam nữ theo Tiêu Tam Lại Tử vào phủ Dương. Hàn Tứ gia bước ra gặp họ, dặn dò mấy câu rồi bảo Tiêu Tam Lại Tử sắp xếp công việc cho từng người.

Không biết là do mười đồng tiền đồng kia phát huy tác dụng hay vì thấy Kim Thập Tam còn trẻ, tướng mạo đoan chính, Tiêu Tam Lại Tử chỉ giao cho hắn mấy việc đón tiếp khách khứa. Thỉnh thoảng, khi Tiêu Tam Lại Tử nhận mấy việc béo bở như thu mua hay vận chuyển hàng hóa, hắn cũng thường dẫn Kim Thập Tam theo.

Kim Thập Tam lanh lợi, làm việc chắc chắn, giúp Tiêu Tam Lại Tử lý không ít chuyện. Tiêu Tam Lại Tử vốn là tên vô lại chốn chợ búa, tay chân chẳng sạch sẽ, ăn cắp vặt hay bòn rút chút lợi lộc đã là chuyện thường ngày. Kim Thập Tam cũng nhiều lần giúp hắn che đậy, nhờ thế mà Tiêu Tam Lại Tử ngày càng tin tưởng hắn.

Tiền công của đám lao động thời vụ được trả theo ngày. Mỗi lần lĩnh tiền xong, Kim Thập Tam lại kéo Tiêu Tam Lại Tử đi uống rượu. Qua mấy chầu rượu lớn, hai người trở nên thân thiết, kết nghĩa huynh đệ, chuyện gì cũng có thể tâm sự với nhau.

Kim Thập Tam dù đã vào được phủ Dương, nhưng phạm vi hoạt động chỉ giới hạn ở ngoại viện. Cửa nội viện canh gác nghiêm ngặt hơn, hắn vẫn chưa có cách nào vào được. Đêm Giao thừa, Dương Bát gia có xuất hiện ở ngoại viện, nâng chén chúc rượu mọi người trong bữa cơm tất niên, nói mấy câu cát tường rồi lại quay về. Người hầu cận bên ông ta rất đông, Kim Thập Tam chỉ có thể đứng từ xa nhìn, hoàn toàn không có cơ hội tiếp cận. Cây “Thần Long Nhị Trụ Hương” kia hẳn đã rơi vào tay Dương Bát gia, nhưng rốt cuộc được giấu ở đâu, hắn vẫn chưa dò la được. Những kẻ tép riu như Tiêu Tam Lại Tử tự nhiên là chẳng hay biết gì.

Chớp mắt đã đến mùng sáu tháng Giêng, chuẩn phò mã Từ Tùng Nhân phái người đến đặt lễ vấn danh. Ngoài những thứ như bạc thỏi, tiền giấy, vàng bạc châu báu, sơn hào hải vị, gấm vóc lụa là thì đặc biệt nhất là sáu khẩu súng ngắn, mười hai khẩu súng dài, cùng với một khẩu súng máy hạng nhẹ đời mới Bragg I-23. Trong thời loạn thế này, có súng tức là có quyền, súng chính là thứ tiền tệ cứng. Từ Tùng Nhân xuất thân võ biền, dùng súng làm sính lễ không những không bị xem là thất lễ mà còn rất hợp ý Dương Bát gia.

Sau khi lễ vấn danh hoàn tất, nhà họ Dương bắt đầu chuẩn bị đưa của hồi môn. Đây là một sự kiện vô cùng long trọng, đòi hỏi một đoàn rước dâu lộng lẫy, cố tình phô trương thanh thế. Trong tập tục cưới hỏi cổ xưa của Trung Quốc, đây cũng là cách để thể hiện sự giàu có. Ở Quan Đông, của hồi môn được tính theo từng “kiện” (đòn gánh), tùy vào mức độ giàu có của nhà gái mà có thể là bốn kiện, tám kiện, mười sáu kiện, hai mươi tư kiện, ba mươi hai kiện… nhưng luôn là số chẵn. Thông thường, từ mười sáu kiện trở lên đã được xem là nhà có của ăn của để. Nếu là hai mươi tư kiện trở lên thì có thể nói là phú gia bậc nhất trong vùng.

Thế nhưng, của hồi môn mà nhà họ Dương chuẩn bị lên đến một trăm lẻ tám kiện! Điều khiến đám đông xung quanh trầm trồ bàn tán nhất là trong số đó có hai kiện chỉ là hai hộp quà vuông vức khoảng hai thước, nhưng trên nắp hộp lại đặt những viên đất nện. Một cụ già từng trải liền giải thích cho đám thanh niên đứng cạnh rằng, trong hộp chính là địa khế (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), mỗi viên đất tượng trưng cho mười mẫu đất. Hai kiện hộp quà đó tổng cộng có hai mươi viên đất, tức là hai trăm mẫu đất!

Chưa hết, trong số của hồi môn còn có hai kiện đặc biệt hơn nữa, hai tấm biển hiệu cũ của cửa tiệm. Điều này có nghĩa là nhà họ Dương đã lấy hai cửa hàng của mình làm của hồi môn, đưa sang nhà họ Từ.

Kim Thập Tam cũng có mặt trong đoàn rước của hồi môn của nhà họ Dương. Hắn nhìn đám đông hai bên đường vỗ tay hoan hô, trầm trồ ngưỡng mộ mà trong lòng thấy khó chịu vô cùng.

Khi đoàn rước của hồi môn đến bộ chỉ huy trung đoàn phòng vệ, Từ Tùng Nhân đích thân ra phát tiền mừng cho người nhà họ Dương. Quê gốc của Từ Tùng Nhân ở Sơn Đông, nhưng đám cưới lại tổ chức tại Phủ Tùng. Sau khi Dương tiểu thư xuất giá, nàng cũng sẽ ở lại bộ chỉ huy trung đoàn phòng vệ tại đây, không cần về quê chồng để hầu hạ cha mẹ chồng. Theo lệ cũ, như vậy có thể coi là Từ Tùng Nhân đã nửa bước nhập gia, điều này đủ thấy Dương Bát gia được nể mặt đến mức nào.

Kim Thập Tam lần đầu tiên được gặp vị đoàn trưởng lừng danh của Phủ Tùng, không khỏi sững sờ, rồi ngay sau đó bật cười thầm. Vị Đoàn trưởng Từ này trông ít nhất cũng ngoài bốn mươi, chẳng kém bao nhiêu so với Dương Bát gia. Người béo tròn, tóc đã hói nửa đầu, mắt lồi như mắt cá, mũi đỏ ửng vì rượu, khuôn mặt bóng nhẫy dầu mỡ. Kim Thập Tam nghĩ thầm, nếu hắn tát một cái, có khi về nhà rửa tay ra cả nửa chậu dầu cũng nên.

Hắn chưa từng thấy nhan sắc của Dương đại tiểu thư ra sao, nhưng nghe nói nàng mới hai mươi đang độ xuân sắc. Không hiểu sao lại đồng ý gả cho một lão trung niên béo, mặt mũi vừa khôi hài vừa dầu mỡ như thế này? Chắc là do bản thân nàng dung mạo kém sắc, không được ưa nhìn. Chỉ cần nhìn mặt mũi của Dương Bát gia là biết, con gái ông ta có thể xinh đẹp đến mức nào chứ?

Mùng mười là ngày đại hôn. Khác với những tân lang bình thường đội mũ lễ, mặc mã quái, Từ Tùng Nhân khoác lên mình bộ quân phục thẳng thớm, cưỡi trên lưng một con ngựa cao lớn. Chỉ có dải lụa đỏ và đóa hoa đỏ vắt chéo trước ngực mới gợi nhắc rằng hôm nay ông ta chính là nhân vật chính.

Sau lưng ông ta, ngoài đội ngũ bà mối, nhạc công, phu kiệu, còn có hẳn một đại đội hộ vệ đi kèm. Thanh thế như vậy, tất nhiên không phải là một đoàn rước dâu bình thường có thể so bì.

Nhà họ Dương cũng không thể sơ sài trong việc tiễn dâu. Dẫn đầu đoàn là hai vị trưởng bối có địa vị và tiếng tăm trong tộc, theo sau là những gia đinh đã được tuyển chọn kỹ lưỡng, ai nấy mặt mũi đoan chính, tinh thần quắc thước. Kim Thập Tam dĩ nhiên cũng có mặt trong đội ngũ đưa dâu này.

Từ xa, hắn trông thấy tân nương bước ra khỏi cửa, toàn thân khoác áo đỏ, váy đỏ, trên đầu trùm khăn voan lộng lẫy. Tuy không nhìn rõ dung mạo, nhưng dáng người nàng uyển chuyển, từng bước đi mềm mại thướt tha. Khi lên kiệu, đôi bàn tay trắng nõn nà khẽ vịn vào cửa kiệu, mười ngón tay thanh tú, làn da mịn màng như ngọc. Nhìn thế nào cũng không giống một cô gái xấu xí.

Tiếng chiêng trống rộn rã, pháo nổ vang trời, đoàn rước dâu chậm rãi xuất phát, từng hàng tuần tự tiến bước. Kim Thập Tam cúi đầu lặng lẽ bước đi theo đoàn người, chợt nghe thấy một giọng nói trong trẻo nhưng đầy bi thương gọi lên hai tiếng: “Chị ơi…”

Hắn quay đầu nhìn lại, giữa đám đông lố nhố, thấp thoáng thấy một cô gái vận áo gấm đứng tựa cửa, ánh mắt đau đáu dõi theo kiệu hoa. Kim Thập Tam cảm thấy nàng trông rất quen, nhưng nhất thời không thể nhớ ra đã gặp ở đâu.

Ba ngày náo nhiệt không cần phải kể chi tiết. Đến khi tiệc tàn, khách khứa rời đi, cả phủ Dương như một đám người vừa trải qua cơn nghiện thuốc phiện, thỏa mãn rồi liền rã rời, uể oải vô cùng. Dương Bát gia đóng cửa không ra khỏi nội viện, còn ở ngoại viện, dưới sự chủ trì của Hàn Tứ gia, việc cho thôi việc những người giúp việc tạm thời bắt đầu được tiến hành.

Kim Thập Tam dâng một món quà hậu hĩnh cho Tiêu Tam Lại Tử, nhờ hắn nói giúp với Hàn Tứ gia để mình có thể chính thức ở lại phủ Dương. Hàn Tứ gia vẫn còn nhớ cậu thanh niên lanh lợi tháo vát này, mà lại có cháu trai ruột của mình đứng ra bảo lãnh, nghĩ rằng phủ Dương to lớn như vậy, thêm một miệng ăn cũng chẳng đáng kể gì, liền đồng ý giữ hắn lại. Kim Thập Tam được phân vào bếp ngoại viện làm tạp dịch, thuộc hàng hạ nhân thấp kém, khoảng cách đến nội viện thâm sâu của phủ Dương vẫn còn xa vời vợi.

Hôm ấy, sau bữa trưa, đầu bếp chính Lý Đại Đầu niêm lửa bếp, sai đám phụ bếp gọt sẵn mấy chục cân khoai tây cho buổi chiều, rồi ung dung vào phòng nghỉ ngơi. Đám người trong bếp thấy Kim Thập Tam là lính mới, liền ỷ thế đùn đẩy hết việc cho hắn, rồi kéo nhau vào phòng bên chơi bài, đánh bạc.

Kim Thập Tam nén giận, một mình cầm dao tỉ mỉ gọt khoai, bỗng nhiên một giọng nói dịu dàng vang lên sau lưng: “Lý sư phụ không có ở đây sao?”

Kim Thập Tam quay đầu lại nhìn, không khỏi sững sờ. Người hỏi hắn là một cô gái, mặc một chiếc áo gấm, dung mạo đẹp chẳng khác gì mỹ nhân trong tranh phương Tây. Kim Thập Tam đã từng gặp cô, chính là cô gái hôm ấy đứng tựa cửa gọi chị.

Hắn nhìn kỹ thêm một chút, bỗng nhiên nhận ra, đây chẳng phải chính là người đã tranh mua tẩu thuốc với hắn trong Đại hội Sâm Vương sao? Chỉ là hôm đó nàng mặc một chiếc áo dạ kiểu Tây, kiểu tóc cũng khác với hôm nay.

Cô gái đó thấy Kim Thập Tam ngơ ngác nhìn mình, cười mỉm: “Này, tôi hỏi anh đấy, Lý sư phụ không có ở đây sao?”

Kim Thập Tam nói: “Cô…. là nhị tiểu thư nhà họ Dương?”

Cô gái kia gật đầu, nói: “Tôi là Dương Như Ý. Anh là ai?”

Kim Thập Tam hoàn hồn, nói: “A, tôi là Kim… à không, tôi là Trần Thập Tam.”

Dương Như Ý không nhận ra hắn, bèn hỏi: “Anh mới đến à? Sao trong bếp chỉ có mình anh? Lý sư phụ đâu? Tôi bảo ông ấy thu thập râu cá nheo cho tôi, không biết ông ấy để đâu rồi?”

Kim Thập Tam đáp: “Lý sư phụ đang nghỉ trưa, những người khác… cũng đều đi nghỉ cả rồi. Cô cần gì, tôi tìm giúp cô.”

Dương Như Ý nói: “Được thôi, cảm ơn anh.”

Kim Thập Tam lục tung các hũ trong bếp, cuối cùng tìm thấy một ít vật có hình dạng như sợi râu, màu xám trắng, trong một hũ giấm trắng. Hắn cầm lên cho Dương Như Ý xem, hỏi: “Phải cái này không?”

Dương Như Ý vui mừng reo lên: “Đúng nó rồi!”

Kim Thập Tam ngạc nhiên: “Đây là râu cá nheo mà? Cô lấy thứ này làm gì?”

Dương Như Ý đáp: “Tôi dùng để nấu ăn! Thứ này sau khi ngâm giấm trắng, thêm ít hạt tiêu, tỏi băm, gừng băm rồi xào lên, vừa giòn vừa thơm, lại hơi chua mặn, ngon lắm đấy.”

Kim Thập Tam tròn mắt: “Chỉ vì một món ăn này? Vậy phải giết bao nhiêu con cá mới đủ?”

Dương Như Ý mỉm cười: “Cũng chẳng cần giết cá riêng đâu. Tôi thường dặn các sư phụ trong bếp, khi làm món cá nheo thì giữ riêng râu lại cho tôi. Lâu dần gom đủ là có thể chế biến rồi.”

Kim Thập Tam cảm thán: “Cô đúng là kiên nhẫn thật! Cô thích nấu ăn lắm sao?”

Dương Như Ý tự hào nói: “Tôi học từ mẹ tôi, lại thích tự nghiên cứu. Ông ngoại tôi từng là ngự trù trong cung, hầu hạ cả Lão Phật gia Từ Hi đấy! Chỉ tiếc ông không có con trai, nên đành truyền hết tay nghề cho mẹ tôi. Trong nhà chỉ có tôi là hứng thú với nghề này, thế là mẹ tôi truyền lại cho tôi. Mấy món ăn trứ danh của ở Trường Bạch Lâu đều là tôi sáng tạo ra đấy.”

Kim Thập Tam nói: “Cô nói là phu nhân sao? Tôi chưa từng gặp bà ấy bao giờ!”

Giọng Dương Như Ý trầm xuống: “Mẹ tôi… đã qua đời ba năm trước rồi. Phụ thân ta cũng không tục huyền chính thất nữa. Nhà họ Dương bây giờ chỉ có di thái thái, không có đại phu nhân.”

Kim Thập Tam áy náy: “À, tôi không biết… Lại khiến cô buồn rồi sao?”

Dương Như Ý lắc đầu, khẽ mỉm cười: “Không sao. Món ăn này tôi vẫn chưa hoàn toàn chế xong, lúc nào cũng cảm thấy còn thiếu chút gì đó. Đợi khi nào hoàn thiện, tôi sẽ mời anh nếm thử đầu tiên.”

Kim Thập Tam vui vẻ nói: “Được thôi! Vinh hạnh quá. Món này cô định đặt tên là gì?”

Dương Như Ý đáp: “Tôi còn chưa nghĩ ra… À, anh thấy gọi là “Râu Rồng” thì thế nào? Râu cá nheo dài dài, trông cũng giống râu rồng, gọi vậy nghe sang trọng hơn hẳn.”

Kim Thập Tam ngẫm nghĩ rồi nói: “Tên này hơi trực tiếp quá. Tôi còn nghe nói ở Sơn Đông có một loại rau dại cũng gọi là “Râu Rồng”, trùng tên thì không hay lắm. Hay gọi là “Cá Vượt Long Môn” đi, cá hóa rồng thì râu cá cũng thành râu rồng.”

Dương Như Ý vui vẻ vỗ tay: “Được! Gọi là “Cá Vượt Long Môn”!”

Nàng nghiêng đầu nhìn Kim Thập Tam, nói: “Này! Tôi thấy anh có vẻ từng đọc sách, không giống những người làm bình thường.”

Kim Thập Tam đáp: “Ờ… Tôi từng theo học mấy năm tư thục ở dưới quê. Học cũng chẳng giỏi lắm, nhưng cũng biết chữ, không đến mức mù chữ đâu.”

Dương Như Ý tò mò hỏi: “Ồ? Vậy quê anh ở đâu?”

Kim Thập Tam bèn lặp lại thân thế bịa đặt lúc vào phủ Dương.

Dương Như Ý gật đầu, vẻ đồng cảm: “Năm nay nhiều nơi ở Quan Đông gặp thiên tai, đặc biệt là Cát Lâm. Cha tôi cũng lo lắng về chuyện này lắm. Anh đã đến đây rồi, cứ an tâm ở lại và coi tôi như bằng hữu nhé. Tôi đi đây, lần sau lại tìm anh chơi.” Nói rồi, cô khẽ cười với Kim Thập Tam một cái, rồi quay người rời đi.

Kim Thập Tam trong lòng dậy sóng, hình ảnh Dương Như Ý cười duyên dáng cứ quanh quẩn trong đầu hắn, không sao xua đi được. Hắn chưa hiểu đây chính là mối rung động đầu đời của tuổi trẻ, chỉ cảm thấy nhị tiểu thư nhà họ Dương vừa xinh đẹp, vừa thân thiện hòa nhã, khiến hắn bất giác muốn gần gũi hơn. Nhưng cứ nghĩ đến thân phận của mình, nhớ lại mục đích thực sự khi lẻn vào phủ Dương, hắn lại không biết liệu có thể tiếp tục mối quan hệ này hay không.

Sau đó, quả nhiên Dương Như Ý thường xuyên đến tìm hắn chơi, mời hắn thử những món ăn mới do nàng sáng tạo rồi nhờ hắn nhận xét. Trong phủ nhà họ Dương, tôn ti nghiêm ngặt, nội viện và ngoại viện gần như không có giao lưu, trừ việc vận chuyển nhu yếu phẩm và truyền tin khi cần thiết. Một nhị tiểu thư mà lại thân thiết với một người làm thấp bé ở ngoại viện, nếu để người ta biết được, chắc chắn sẽ thành chuyện tày trời. Vì thế, cả hai chỉ có thể lén lút qua lại.

Suốt thời gian này, Kim Thập Tam vẫn hiếm khi gặp được Dương Bát gia, càng đừng nói đến việc tiếp cận lão. Còn tung tích của “Thần Long Nhị Trụ Hương”, hắn vẫn chưa điều tra ra. Đôi khi hắn bóng gió hỏi thăm Dương Như Ý, nhưng cô chỉ ngơ ngác. Cô không quan t@m đến chuyện làm ăn của gia đình, cũng chẳng hứng thú gì với nhân sâm. Trong nhà có bao nhiêu bảo vật liên quan đến sâm, nhưng cô chưa bao giờ để tâm tìm hiểu.

Đông qua xuân đến, vùng Quan Đông đã tan băng, tuyết cũng dần biến mất. Hôm ấy, Dương Như Ý lại tìm đến Kim Thập Tam, vui vẻ nói: “Anh Thập Tam, cha em đồng ý cho em đi Phụng Thiên rồi!”

Kim Thập Tam ngạc nhiên: “Đi Phụng Thiên? Em đến đó làm gì?”

Dương Như Ý đáp: “Đi học chứ sao! Đại soái Trương đã mở một trường nữ sinh ở đó, em muốn đến học.”

Kim Thập Tam nghe xong, chỉ “Ồ” một tiếng rồi im lặng. Dương Như Ý thấy lạ, liền hỏi: “Sao vậy, anh Thập Tam? Trông anh không vui lắm. Anh không muốn em đi sao?”

Kim Thập Tam ấp úng: “Em là nữ nhi, đi xa như thế để học, lỡ như… gặp chuyện khó khăn thì sao? Tôi… không yên tâm.”

Dương Như Ý nghe thấy hắn quan t@m đến mình, trong lòng cảm động, liền khoác tay hắn, tựa đầu lên vai hắn, nhẹ nhàng nói: “Anh Thập Tam, anh đừng lo lắng, anh cả của em phải đi lên chi nhánh ở Phụng Thiên để kiểm tra sổ sách, còn có mấy cây nhân sâm thượng hạng cần mang sang đó, tiện thể đưa em đi học. Anh yên tâm, trường học kiểu mới cũng có kỳ nghỉ hè và nghỉ đông, mỗi khi được nghỉ em sẽ về ngay. Anh Thập Tam, em thật sự rất muốn đi học. Anh biết không? Khi em còn chưa ra đời, mẹ em đã từng học ở một trường kiểu mới trong kinh thành. Dù chỉ học một năm rồi lấy cha em, nhưng mẹ nói đó là khoảng thời gian vui vẻ và ý nghĩa nhất trong đời bà. Vì ở đó có một thế giới mà tâm hồn con người được tự do. Nhưng từ nhỏ em chỉ ở trong phủ họ Dương, hiếm khi ra ngoài, cũng chẳng có mấy ai để trò chuyện. Ngoài thành Phủ Tùng này ra, em chưa từng đi đâu cả. Hồi nhỏ, cha cũng mời thầy về dạy chữ, nhưng chỉ dạy những sách như “Tam Tự Kinh”, “Bách Gia Tính”, “Thiên Tự Văn”, lớn thêm chút nữa thì học “Nữ Giới”, “Nội Huấn”, “Nữ Luận Ngữ”… Em rất muốn được nhìn thấy thế giới tự do trong tâm hồn mà mẹ đã kể!”

Kim Thập Tam nghe mà lòng xót xa, nhẹ nhàng vỗ mu bàn tay của Dương Như Ý, gượng cười nói: “Đi, nhất định phải đi! Ai không cho em đi, kẻ đó chính là đồ khốn kiếp!”

Dương Như Ý cũng bật cười, cô giả vờ giận dỗi, vỗ mạnh lên người Kim Thập Tam một cái, nói: “Đáng ghét! Vừa nãy anh chính là đồ khốn kiếp đấy!”

Kim Thập Tam trong lòng vừa chua xót vừa ngọt ngào, không biết nói gì thêm. Nhưng lúc này, hắn đã hạ quyết tâm.

Mười ngày sau, huynh muội nhà họ Dương thu dọn hành lý, chuẩn bị lên đường. Dương Bát gia sai Lỗ Cửu Đao, tay súng số một trong ngoại viện, chọn ra mười thuộc hạ tinh nhuệ để hộ tống.

Lỗ Cửu Đao vốn từng là binh lính, sau khi bại trận, hắn lưu lạc giang hồ, tự lập thành một toán cướp. Sau này, toán cướp của hắn xảy ra nội loạn, hắn bị vây công, liều mạng giết vài kẻ rồi trốn thoát với thương tích đầy mình. Chính Dương Bát gia đã cứu hắn một mạng, từ đó hắn tận tâm tận lực đi theo Dương Bát gia.

Nghe nói, ngoài tài bắn súng chuẩn xác, hắn còn có một tuyệt kỹ phi đao. Người ta bảo rằng trên người hắn luôn giấu chín con dao nhỏ. Kẻ nào chạm trán hắn, chưa kịp đỡ quá ba dao đã mất mạng. Còn nếu cả chín dao đều xuất ra, dù có lợi hại đến đâu, cũng chỉ có thể trở thành vong hồn dưới lưỡi dao của hắn.

Dương Gia Sâm Hiệu ở Quan Đông có danh xưng là “Chín thành mười tám hiệu”, cửa hàng chính đương nhiên đặt tại Phủ Tùng, còn chi nhánh lớn nhất thì nằm ở Phụng Thiên. Hằng năm, các chi nhánh ở các thành đều phải đối soát sổ sách với cửa hàng chính. Trước đây, cửa hàng ở Phụng Thiên luôn do chính Dương Bát gia thân chinh đi kiểm tra sổ sách, nhưng hai năm gần đây, ông giao công việc này cho con trai trưởng Dương Đình Hiên.

Dương Đình Hiên hai mươi tám tuổi, là con trai của người vợ đầu tiên mà Dương Bát gia cưới khi còn ở quê nhà Nhiệt Hà. Vị nguyên phối phu nhân này là một người phụ nữ quê mùa, hiền lành, từ khi Dương Bát gia đi mạo hiểm ở Quan Đông, bà liền ở lại quê hương cày cấy, chăm sóc mẹ chồng và nuôi dạy con trai. Về sau, Dương Bát gia phát đạt, nhưng lại cưới một nữ sinh xinh đẹp ở Bắc Bình làm vợ, sinh được hai cô con gái, rất hiếm khi quay về quê. Không rõ vì lao lực quá độ hay vì buồn phiền tích tụ thành bệnh, người phụ nữ đáng thương này qua đời khi con trai mới mười tuổi.

Dương Bát gia trở về đón mẹ già và con trai lên Phủ Tùng, đặt cho hắn cái tên mới là Dương Đình Hiên. Đợi đến khi hắn học xong phổ thông, bà cụ cũng qua đời. Dương Bát gia liền gửi Đình Hiên đến Trường Quân sự Bảo Định, vốn hy vọng con trai sau này có thể làm tướng cầm binh, rạng danh tổ tiên. Ai ngờ, Đình Hiên từ nhỏ ở Phủ Tùng được bà nội cưng chiều quá mức, sinh thói ham chơi lười biếng, vào trường quân đội không chịu nổi gian khổ, thậm chí còn vi phạm quân lệnh, lén ra ngoài tìm hoa vấn liễu. Kết quả chưa đầy một năm đã bị trường quân sự đuổi học.

Dương Bát gia lại bỏ số tiền lớn gửi con trai sang châu Âu du học, ban đầu học kỹ thuật công trình, sau đó chuyển sang chính trị, rồi lại chuyển qua luật. Nhưng Đình Hiên sở thích rộng rãi (chủ yếu là về tửu sắc), mà chẳng chuyên tâm vào đâu (trừ chuyện tán tỉnh phụ nữ thì cũng có chút kinh nghiệm). Mấy năm lang bạt ở châu Âu, chẳng lấy nổi tấm bằng nào, cuối cùng đành cụp đuôi quay về nước.

Dù vậy, dù sao hắn ta cũng từng “uống mực Tây”, ở Phủ Tùng được xem như trường hợp đầu tiên. Bình thường, Đình Hiên lúc nào cũng áo vest chỉnh tề, tóc chải bóng lưỡng, nói chuyện lại hay xen vài câu tiếng Tây, nên các sĩ phu trong thành không biết rõ ngọn nguồn, đều tưởng cậu ta là nhân vật ghê gớm lắm. Dương Bát gia tuổi tác ngày một cao, lại chỉ có độc một đứa con trai, nên đành giao một phần công việc kinh doanh cho cậu ta quản lý.

Dương Đình Hiên và Dương Như Ý mỗi người ngồi một chiếc xe ngựa. Trên mui xe đều cắm một lá cờ nhỏ thêu bốn chữ “Trường Bạch Dương Thị”. Ở vùng Quan Đông này, dù thổ phỉ có nhiều thế nào, cũng không ai dám xem thường lá cờ này. Dương Bát gia vừa giàu có lại thế lực lớn, là thủ lĩnh ngành nhân sâm, bang chủ Bang Sâm Trường Bạch, sau lưng còn có quan binh chống lưng. Nhiều hảo hán giang hồ hoặc từng nhận ân huệ của ông, hoặc có lợi ích ràng buộc với ông, người ngoài nào dám động vào?

Ngoài hai gã phu xe nuôi trong nhà và mười pháo thủ đi theo Lỗ Cửu Đao, Dương Như Ý còn mang theo một nha hoàn thân cận tên là Quyên Nhi để hầu hạ dọc đường.

Quyên Nhi vừa đỡ nhị tiểu thư lên xe, đột nhiên khẽ kêu một tiếng. Dương Như Ý ló đầu ra hỏi có chuyện gì, vừa nhìn thoáng qua thì liền sững sờ. Cô thấy một người đứng trong đội ngũ phía sau xe, toàn thân áo đen quần đen, ăn mặc như một pháo thủ, chính là Kim Thập Tam.

Thì ra, Kim Thập Tam nghe tin Dương Như Ý sắp đến Phụng Thiên học, liền muốn đi theo hộ tống. Hắn chuẩn bị một món quà mang đến tìm Hàn Tứ gia, lấy cớ rằng mình có người thân buôn bán nhỏ ở Phụng Thiên, muốn nhân dịp thiếu gia Đình Hiên đi kiểm sổ sách mà quá giang, tiện thể thăm bà con.

Nhưng Hàn Tứ gia nói rằng lần này người đi đều do Lỗ Cửu Đao sắp xếp, toàn bộ đều là pháo thủ, một tên đầu bếp như hắn sao có thể chen vào? Kim Thập Tam dứt khoát tìm thẳng đến Lỗ Cửu Đao, chủ động đề xuất muốn làm pháo thủ.

Lỗ Cửu Đao nheo mắt nhìn Kim Thập Tam một cái, rồi lắc đầu. Loại nhãi con không biết trời cao đất dày này, hắn đã thấy nhiều rồi. Tưởng rằng làm pháo thủ thì oai phong lẫm liệt, mỗi ngày chẳng cần làm việc vất vả, chủ nhà lại phải cung phụng cơm ngon rượu ngọt, tiền công và thưởng lễ tết còn cao hơn hạ nhân bình thường, thế là ai cũng muốn chen vào. Nhưng nào biết rằng nuôi binh ngàn ngày, dùng binh một giờ, khi có thổ phỉ đến cướp sâm trại, chủ nhà đều phải trông cậy vào pháo thủ liều mạng bảo vệ. Theo chủ đi xa, nếu gặp kẻ thù hay sơn tặc cướp đường, dù có mất mạng cũng phải bảo vệ an toàn cho chủ nhân. Đây toàn là công việc li3m máu trên lưỡi đao, không có bản lĩnh thì đừng mong sống sót.

Thế nhưng Kim Thập Tam chỉ bình tĩnh nói: “Lỗ gia, ngài cứ thử tôi một lần. Nếu tôi không qua được, lập tức ôm đầu cút khỏi phủ Dương, tuyệt đối không trả treo.”

Lỗ Cửu Đao nghe hắn nói chắc như đinh đóng cột, thầm nghĩ: “Vậy thì cứ thử xem! Nhưng nếu chính ngươi tự đập bát cơm của mình, thì đừng trách ta!”

Hắn gọi một pháo thủ giỏi súng ống tới, đặt ba cái bát lên ba cọc gỗ trong võ trường Đông Viện. Pháo thủ kia đứng cách ba mươi mét, ngắm bắn rồi “đoàng đoàng đoàng” ba phát, ba cái bát vỡ tan không sót một mảnh. Người nọ đắc ý đưa khẩu súng lục cho Kim Thập Tam.

Kim Thập Tam chỉ khẽ cười, không đặt bát lên cọc, mà trực tiếp dùng sức ném ba cái bát ra ba hướng khác nhau. Tay phải hắn lập tức giơ súng lên, “đoàng đoàng đoàng”, ba tiếng súng gần như liền nhau, ba cái bát còn chưa kịp rơi xuống đất đã lần lượt vỡ vụn giữa không trung!

Một chiêu này khiến mọi người kinh hãi. Đám pháo thủ đứng xem đều sững sờ. Thứ nhất, hắn bắn mục tiêu di động, khó hơn bắn bát đặt yên rất nhiều. Thứ hai, hắn không ném cả ba cái bát cùng lúc, mà lần lượt ném từng cái một. Thời gian bay trên không, quỹ đạo và phương hướng của từng chiếc bát đều khác nhau. Hắn dùng tay trái ném bát, tay phải vừa ném xong đã phải lập tức tính toán thời gian, quỹ đạo và điểm rơi để kịp nhả đạn. Không chỉ nhanh, không chỉ chuẩn, mà gần như tùy tâm sở dục, mắt nhìn tay động, đạt đến cảnh giới mà nhiều pháo thủ cả đời cũng không chạm tới được!

Lỗ Cửu Đao trong lòng thầm kinh ngạc. Hắn cũng là tay chơi súng lão luyện, biết rằng ngay cả bản thân mình chưa chắc đã làm được trò này. Nhưng bề ngoài vẫn giữ vẻ thản nhiên, chỉ hờ hững nói: “Súng bắn cũng tàm tạm đấy. Nhưng chỉ biết bắn súng thì chưa đủ. Nếu kẻ địch áp sát thì sao? Vẫn phải có chút quyền cước mới được!”

Kim Thập Tam chắp tay, cung kính nói: “Lỗ gia dạy chí phải. Xin Lỗ gia chỉ giáo!”

Đám đông vây quanh lập tức xôn xao.

Lỗ Cửu Đao là tay pháo thủ số một của Dương Bát Gia, bình thường rất ít khi ra mặt so chiêu với ai, vậy mà hôm nay lại gặp phải một nhóc con vắt mũi chưa sạch dám đứng ra thách thức. Điều này khiến mọi người vừa phấn khích, vừa thấy buồn cười.

Lại nhìn thân hình hai người, Kim Thập Tam tuy không thấp bé, dáng người cũng không gầy yếu, nhưng so với Lỗ Cửu Đao vai u thịt bắp, lưng hùm eo gấu, quả thực chẳng khác nào một con nai con đứng trước gấu đen.

Có kẻ thích đùa còn lén lút cá cược.

Dĩ nhiên, chẳng ai cược vào chuyện Kim Thập Tam có thắng hay không, thắng bại đã rõ như ban ngày. Điều họ đặt cược chính là: thằng nhãi này sẽ cầm cự được bao lâu trước khi bị đánh gục!

Lỗ Cửu Đao mặt trầm xuống, cởi bỏ áo ngoài, để lộ cơ bắp rắn chắc, đen bóng như thép tôi. Đám đông xung quanh lập tức hò reo cổ vũ. Kim Thập Tam lại chắp tay, sau đó vung tay phải, tung ra một chiêu “Khai Địch Pháo” trong Mai Hoa Quyền, thẳng mặt đánh tới.

Lỗ Cửu Đao nghiêng đầu né tránh, đồng thời tiến lên một bước, tay trái chộp vào cổ tay Kim Thập Tam, tay phải định bắt lấy thắt lưng hắn, chuẩn bị dùng một chiêu “Đại Bối Khoá” để quật hắn xuống đất. Nhưng Kim Thập Tam ra chiêu vốn chỉ là hư chiêu, chưa đợi Lỗ Cửu Đao áp sát, hắn đã lập tức đổi sang “Mã Bộ Trầm Kiều”, rồi bất ngờ tung một cước “Khôi Tinh Đạp Đẩu”, mũi chân nhắm thẳng vào trán đối thủ. Lỗ Cửu Đao vội vàng thu tay lùi lại, dù tránh nhanh nhưng đầu vẫn bị mũi chân của Kim Thập Tam lướt qua, cảm giác ran rát như có lửa quét ngang.

Hắn không ngờ Kim Thập Tam lại nhanh nhẹn đến vậy, lập tức không dám chủ quan. Hắn ta nghĩ, tiểu tử này chỉ giỏi dựa vào tốc độ linh hoạt, nhưng sức mạnh không thể nào bằng ta! Chỉ cần ta ổn định trận thế, ép hắn vào góc chết, hắn có bao nhiêu chiêu thức cũng chẳng có chỗ thi triển! Nghĩ vậy, Lỗ Cửu Đao bắt đầu chắc từng bước, ép sát từng chút một, không để Kim Thập Tam có cơ hội di chuyển hay đổi hướng. Quả nhiên, không bao lâu sau, dù Kim Thập Tam có biến chiêu thế nào cũng không phá nổi vòng vây của hắn.

Chỉ trong chớp mắt, hai người đã giao đấu hơn mười chiêu. Bỗng nhiên, Kim Thập Tam hét lên một tiếng lớn, đột ngột tung chiêu “Xa Thân Quải Tễ”, luồn người áp sát, khoá chặt cánh tay trái của Lỗ Cửu Đao, sau đó lập tức xoay người dùng vai húc mạnh vào ngực hắn.

Lỗ Cửu Đao mừng rỡ: “Chờ mãi mà ngươi không dám áp sát, giờ thì tự chui đầu vào rọ! Để xem ta không bẻ gãy tay ngươi như thế nào!”

Hắn lập tức túm lấy cánh tay phải của Kim Thập Tam, cả hai lập tức rơi vào trận chiến giằng co sức mạnh. Thế nhưng ngay khi hai bên ghìm chặt nhau, sắc mặt Lỗ Cửu Đao đột nhiên thay đổi.

Dù hắn cố gắng vận hết toàn bộ sức lực, nhưng cánh tay Kim Thập Tam rắn như gang thép, không nhúc nhích chút nào! Ngược lại, từ cánh tay hắn truyền đến một luồng sức mạnh khủng khiếp, khiến hắn không thể chống đỡ.

Cơ bắp trên cánh tay Lỗ Cửu Đao căng lên từng khối, gân xanh nổi đầy trán, mồ hôi rịn ra từng giọt. Hắn có thể cảm nhận rõ cánh tay trái của mình đang dần bị bẻ ngược, cơn đau dữ dội truyền đến từ khớp xương! Lỗ Cửu Đao kinh hãi tột độ. Người này là ai? Sao lại có sức mạnh đáng sợ đến vậy?!

Bất chợt, hắn cảm thấy hai cánh tay nhẹ bẫng, Kim Thập Tam đã thoát khỏi sự khống chế của hắn như một con cá lội nước. Lỗ Cửu Đao còn đang ngạc nhiên thì Kim Thập Tam đã chắp tay nói: “Lỗ gia, tại hạ đã thua rồi. Tại hạ bị thần lực của Lỗ gia áp chế, nếu không rút tay nhận thua, e rằng cánh tay này sẽ bị gãy mất.”

Lỗ Cửu Đao gượng cười, cũng chắp tay đáp: “Quá khen, quá khen! Các hạ tuổi còn trẻ mà đã có thân thủ thế này, quả thực hiếm có.”

Hắn hiểu Kim Thập Tam cố ý nhận thua để giữ thể diện cho mình, trong lòng cảm kích, liền nói tiếp: “Với bản lĩnh như vậy mà các hạ chỉ làm một tạp dịch trong bếp nhà họ Dương thì thật uổng phí. Nếu không chê, xin mời các hạ đến chỗ ta làm Nhị pháo thủ, thế nào?”

Kim Thập Tam mỉm cười: “Đa tạ Lỗ gia. Nhưng huynh đệ tôi mới đến, kinh nghiệm còn nông cạn, thật không dám nhận chức Nhị pháo thủ. Chỉ cần được theo Lỗ gia làm một Pháo thủ bình thường, tôi đã mãn nguyện lắm rồi.”

Lỗ Cửu Đao thấy hắn khiêm tốn nhún nhường thì càng thêm khâm phục. Đám đông xung quanh lại không hiểu được ẩn tình bên trong, ai nấy đều nghĩ Lỗ Cửu Đao chiếm thế thượng phong. Nhưng việc Kim Thập Tam có thể cầm cự dưới tay hắn suốt một khoảng thời gian dài như vậy cũng đủ khiến người ta kinh ngạc, không ai dám xem thường chàng trai trẻ này nữa.

Kim Thập Tam nói với Lỗ Cửu Đao rằng mình muốn nhân cơ hội đại thiếu gia đi Phụng Thiên để tiện đường thăm thân thích. Lỗ Cửu Đao dĩ nhiên sảng khoái đồng ý. Có một cao thủ như vậy bên cạnh, hắn càng thêm yên tâm.

Lúc sắp lên xe, Quyên Nhi trông thấy Kim Thập Tam. Cô vẫn nhớ rõ chàng trai từng đấu khẩu với mình giữa phố hôm trước, nên khi thấy hắn xuất hiện trong đội hộ tống, không khỏi giật mình. Nhưng phủ họ Dương cũng thường xuyên thuê thêm người, không biết hắn nhờ ai mà chen chân vào được, song chuyện này cũng chẳng có gì quá lạ.

Kim Thập Tam cũng nhận ra cô gái mặt tròn ấy, khẽ mỉm cười gật đầu chào. Rồi hắn trông thấy Dương Như Ý ló đầu ra nhìn mình, liền nháy mắt ra hiệu cô đừng lên tiếng. Như Ý đỏ mặt, vội rụt đầu lại. Cô không rõ tại sao anh Thập Tam lại trở thành pháo thủ, nhưng biết hắn làm vậy là để được chính tay bảo vệ mình, trong lòng vừa vui sướng vừa ngọt ngào.

Sắc xuân tươi đẹp, cảnh vật hữu tình, cả đoàn không có việc gì gấp nên hành trình diễn ra thong thả. Đây là lần đầu tiên Dương Như Ý đi xa, mọi thứ đều mới lạ và thú vị. Lại có Kim Thập Tam đi cùng, nàng chẳng hề cảm thấy vất vả chút nào. Chỉ có điều đáng tiếc duy nhất là để tránh dị nghị, nàng không thể nói chuyện nhiều với Thập Tam ca.

Hôm ấy, bỗng có một kỵ sĩ phi ngựa tới từ phía trước, thấy trên xe ngựa của bọn họ cắm cờ mang chữ “Dương”, liền vội vàng chặn lại. Người này được Lỗ Cửu Đao dẫn đến trước xe của Dương Đình Hiên, nói chuyện một hồi, sau đó Dương Đình Hiên bước xuống, đi về phía xe sau để gặp Dương Như Ý.

Hắn nói rằng có người từ phân hiệu ở Phụng Thiên đến báo tin quan trọng, hắn phải quay về Phủ Tùng một chuyến để bàn bạc với cha. Dương Như Ý không rõ có chuyện gì, nhưng cũng không mấy để tâm, chỉ bảo: “Đại ca cứ tự nhiên, em một mình đi Phụng Thiên cũng không sao.”

Thấy muội muội thái độ kiên quyết, Dương Đình Hiên đành dặn Lỗ Cửu Đao phải bảo vệ nhị tiểu thư thật cẩn thận, đến nơi thì nhanh chóng sai người báo tin bình an về. Hắn còn căn dặn số gậy gỗ hạng nhất trên xe rất quý, phải trông chừng cẩn thận, đảm bảo an toàn vận chuyển đến phân hiệu Phụng Thiên.

Dặn dò xong, hắn lên ngựa cùng người của phân hiệu gấp rút quay về Phủ Tùng.

Không còn đại ca giám sát, Dương Như Ý càng cảm thấy tự do, có thêm nhiều cơ hội trò chuyện với Kim Thập Tam. Đám đàn ông thô kệch như Lỗ Cửu Đao chẳng ai để ý, nhưng Quyên Nhi lại tinh ý, luôn cảm thấy nhị tiểu thư đối với gã pháo thủ trẻ tuổi này có chút khác biệt.

Cô định dò hỏi cho ra lẽ, nhưng Dương Như Ý nhất quyết không thừa nhận. Dù sao nàng là tiểu thư, còn Quyên Nhi chỉ là nha hoàn, thì có thể làm gì được nàng chứ?

Sau khi đi thêm bảy tám ngày, Lỗ Cửu Đao đến xe ngựa của tiểu thư thứ hai báo cáo rằng trấn Phượng Hoàng còn cách đó ba mươi dặm. Đây là thị trấn lớn cuối cùng nằm trong ranh giới của tỉnh Cát Lâm. Sau khi đi qua trấn Phượng Hoàng, chúng ta sẽ tiến vào địa phận tỉnh Phụng Thiên. Bạn có thể cho tôi biết liệu chúng tôi có thể ở lại khách sạn đó tối nay không? Ông cũng cho biết vì mọi người đã kiệt sức nên tốt hơn là nghỉ ngơi một ngày vào ngày mai và tiếp tục lên đường với đầy năng lượng vào ngày kia. Dương Như Ý nói rằng chuyện này hoàn toàn do Lỗ sư phụ quyết định, cô không có ý kiến gì. Lỗ Cửu Đao liền giao cho Kim Thập Tam, quán trọ lớn nhất ở trấn Phượng Hoàng là quán trọ Phượng Lai. Trước tiên bạn nên đến đó để đặt phòng và nhờ chủ quán dọn dẹp và chuẩn bị phòng.

Kim Thập Tam cưỡi ngựa đến quán trọ Phượng Lai, vung tay đưa ngay cho chưởng quầy mười đồng đại dương làm tiền đặt cọc, nói rằng mình có đông người, lại còn có nữ quyến, muốn bao trọn một viện riêng.

Chưởng quầy lần đầu gặp vị khách hào phóng như vậy, liền vội vàng nói rằng viện phía đông vừa hay thích hợp, vốn dĩ được xây dựng để đón tiếp khách quý, có hơn mười gian phòng, bên trong còn có một nội viện dành riêng cho nữ quyến. Hiện tại nơi đó có vài vị khách đang ở, nhưng ông ta có thể đi thương lượng để họ chuyển sang viện khác.

Kim Thập Tam gật đầu, nói rằng người ngựa của mình lát nữa sẽ đến, yêu cầu khách đi3m chuẩn bị chu đáo, không được lơ là. Nếu phục vụ tốt, ngoài tiền phòng và tiền cơm được trả gấp đôi, còn có thêm tiền thưởng.

Chưởng quầy nghe vậy thì mắt cười tít lại, lập tức quát lớn bảo đầu bếp, tiểu nhị, bà già làm việc nặng đều nhanh chóng hành động, người quét dọn thì quét dọn, người đun nước thì đun nước, người chuẩn bị đồ ăn thì chuẩn bị đồ ăn. Ông ta còn sai người thay toàn bộ chăn đệm trong các phòng, riêng phòng chính trong nội viện thì trực tiếp sai người đi mua chăn đệm mới.

Sau đó, ông ta dẫn Kim Thập Tam đi kiểm tra từng chỗ trong viện phía đông, xem còn cần sắp xếp hay bổ sung thêm gì không.

Kim Thập Tam quan sát thấy viện Đông được xây dựng ngay khúc ngoặt của sông Hồn Giang, ba mặt giáp nước, một mặt tựa vào sân sau cổng lớn của khách đi3m, một mặt thông với tiền sảnh. Muốn vào viện Đông, chỉ có thể đi qua tiền sảnh. Tường viện cao hơn hai trượng, đảm bảo an toàn khá tốt.

Hắn bước vào nội viện kiểm tra trước. Bên trong chỉ có một bộ phòng chính dành cho khách quý, gồm nội thất và ngoại thất, được bài trí nhã nhặn, sạch sẽ. Kim Thập Tam hài lòng gật đầu, rồi lại đi ra ngoài quan sát xung quanh.

Bỗng nhiên, hắn nhận thấy có người đang thập thò rình rập trước cổng viện. Kim Thập Tam lập tức quay phắt lại, trầm giọng quát: “Kẻ nào?!”


 
Back
Top Bottom