Tâm Linh Rằm 12 trên Cấm Sơn

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
25/9/25
169,564
0
36
357478665-256-k597793.jpg

Rằm 12 Trên Cấm Sơn
Tác giả: QuocHuyBui3
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Một câu chuyện bí ẩn, tâm linh và kinh dị về thế giới mang sắc thái u tối của một con xóm treo leo và cách biệt ở vùng núi Cấm Sơn vào thế kỉ XVIII.

Ông Liễu - một người dân trong ngôi làng tại vùng núi Cấm Sơn.

Sở dĩ mọi chuyện kinh quái bắt đầu từ ngày ông trở về trong một lần hái nhân sâm mưu sinh, kiếm cái ăn và gặp loạt sự kiện sởn gai óc.

Thuở đầu, đối với ông Liễu, thoạt nhìn thì nơi này mang một vẻ bình dị và đơn sơ của vùng núi.

Nhưng dần dần, sau những tầng sương mù dày đặc che phủ sự thật về con xóm này, ông bắt đầu mờ mịt phát hiện ra điều gì đó u uất và đen tối, đáng sợ đến từ chính ngôi làng, từ chính những người vốn dĩ thân thuộc xung quanh ông.
con xóm nơi Cấm Sơn giờ trở thành một mạng lưới tàn ác, một nơi mà tập thể giết người hoạt động một cách vô nhân đạo.

Về sau lại càng rối ren cho những vụ án đẫm máu, đồ sát từng người dân trong ngôi làng vào khoảng nguyệt toàn.

Linh hồn bị vấy bẩn cả tâm lẫn thể và những lời nguyền như không thể giải thoát mà ngôi làng phải gánh chịu ác báo.​
 
Rằm 12 Trên Cấm Sơn
HỒI 1. Lời Nguyền Oan Hồn Bà Điên.


-Cậu Liễu ơi~, cậu Liễu~

Giọng nói quen thuộc ấy đều cất lên trước nhà ông Liễu mỗi buổi sáng, chất giọng the thé, lên xuống quỷ dị ấy như thể vang vọng trong sáng sương mù tại xóm Cấm Sơn, thứ giọng loạn thanh xen kẽ tiếng rên rỉ thê lương giữa tiết trời lạnh buốt làm tăng thêm sự ảm đạm của xóm Cấm Sơn, vốn dĩ con xóm tọa lạc trên đỉnh núi, đơn độc, vẹn năm không một tia nắng soi đường, lớp sương màu thâm thẫm đỏ hòa lẫn cùng những kẻ ác, người xấu hay kẻ chơi bùa người chơi ngải, người làng lại giết hại nhau, những tội ác đầy trời con người nơi đây tạo ra từ đời ông đến đời cha rồi kể cả đời con.

Âm thanh hỗn tạp u ám ấy làm ông Liễu bỗng giật mình khi vẫn còn say mộng, ông ta thất thần bước từng bước trề trệt ra trước cửa nhà, tiếng rên rỉ đã to hơn, đáng sợ hơn.

Mở cửa ra trời vẫn còn tối, tầm đâu đó canh năm, ông Liễu ngước nhìn qua lại chẳng thấy bóng dáng ai mà tiếng rên rỉ càng ngày càng kì quái, “ Liễu ơi~~ tui ở đây nè~~” ông Liễu ngước qua lại liên hồi, đến khi mắt ông nhìn tới gốc cây gòn bên đường, hình bóng người đàn bà xơ xác, tóc tai bù xù, trên mặt nở nụ cười không giống người, thì ra người nãy giờ rí réo là ả điên Quách.

Nhắc tới ả Quách, ai trong xóm từ thời ông Liễu cũng biết đến vụ việc liên quan đến ả.

Năm ấy Quách chỉ tầm 18 tuổi, Quách lúc đó thần trí tỉnh táo, nhan sắc như tiên, mấy con mụ trong xóm ai cũng ghét nó, có người chồng bỏ mà theo đuổi con Quách, có người xấu hơn nên cũng sinh lòng ghen ghét và có cả người ghen ăn tức ở đến nỗi tự vẫn, còn bọn con trai trong xóm ai cũng mê mệt nhỏ đó, trẻ già ai cũng có máu dê với con Quách.

Đến một hôm, đêm ngày 3/3/1721, ba thanh niên trong làng lẻn vô nhà ả Quách và làm chuyện đồ bại, may thay ông Liễu đang đi mò ếch mà nghe thấy, ông gấp rút chạy vào nhà cô Quách mà đánh đuổi tụi tệ hại kia.

Tàn cuộc Quách ngồi khúm núm trong gốc cột gỗ của ngội nhà lá, trinh tiết của cô, đời con gái của cô giờ coi như bỏ, cô cứ vô hồn trong ngôi nhà lá ấy, riết sau này cô đã thành một con điên nhơ nhuốc , xơ xác, hôi hám lê thê quanh ngôi xóm quỷ ở, ma sống, ả ta thường lui tới nhà ông Liễu nhất, có lẽ trong kí ức của một kẻ điên như ả thì chỉ có mỗi ông Liễu mà thôi..

Sau khi thấy ả Quách ông Liễu liền thở dài ngao ngán “ lại ả điên này nữa, chắc sẽ bị làm phiền đến sáng mất”, ông thét lại: “ có gì không mụ điên ơi!”, mụ Quách cười hi hí, nói ra một câu chẳng rõ ràng, ông Liễu chỉ nghe được thoang thoáng là: "có người đánh tui, đòi xẻ thịt, móc mắt tui ông ơi~~”, ông Liễu nghe xong có phần thương xót, có phần lại rờn rợn trước chất giọng của ả, ông thầm hỏi “ sao có người đánh ả ta nhỉ?

Còn đòi móc mắt, xẻ thịt, lạ thật ả trước giờ cùng lắm là xin ăn dai dẳn với cả dọa ma trẻ con chứ đã làm chuyện thất đức nào khác bao giờ?”, bà ta khẽ cười, ôn tồn đến mức thảo mai nói rằng: “ tôi á bị oan, họ nói tôi ăn cắp vàng của họ, mất cả 2 lượng vàng, tôi có làm gì đâu mà lại bị lôi đánh, họ còn nói tôi không trả đủ sẽ móc mắt, xẻ thịt tôi nữa, sợ quá sợ quá”, ông Liễu bỗng giật mình trầm tư, “ tại sao ả ta biết mình nghỉ gì chứ?”, tiếng cười hi hí ả ta vang lên rồi hòa trong gió lại càng làm âm thanh vọng khắp cả xóm đưa ông về lại thực tại, ông liếc mắt nhìn qua gốc cây gòn thì chả thấy ả Quách đâu nữa..

Sáng hôm sau, cả xóm tấp nập, ông Liễu vẫn như thường nhật, lên đường đào nhân sâm quý.

Ông lội thội trong rừng tìm từng củ sâm một, từng củ một, từng củ, từng củ... cho đến khi ông chạm vào một miếng gì đó mềm mại, màu xạm xạm, phát ra mùi hôi kinh khủng, ông cứ ngỡ đấy là nấm lạ, loại độc dược ghê gớm nào chăng?, ông bỏ qua và vẫn đi tiếp vào thẩm rừng sâu.

Đến chiều tà ông cũng đã đào được đâu đó đôi ba củ, nhân sâm vốn dĩ quý hiếm, mà loại nhân sâm trong vỏ ông Liễu còn quý giá đắt đỏ hơn mấy lần, nhiêu đấy củ có thể lo cho ông, gia đình ông trong sáu bảy tháng trời, việc tìm nhân sâm vốn dĩ khó khăn và mệt nhọc hơn cả thợ xây nên thần trí ông Liễu bây giờ không còn ổn định...

ông vẫn cứ men theo lối mòn về xóm, trời đã nhá nhem có thể nhìn thấy trăng mọc ở phía đông, ông đã kiệt sức nên quyết ngồi lại bụi tre uống chút nước rồi đi tiếp...

Bỗng dưng thù lù sau gốc bạch đàn, bóng dáng người đàn bà uẩn khuất trong khói sương lạnh, bà ta cất tiếng cười quen thuộc, “ả Quách!

Ả làm gì đây thế?”

ông Liễu thổn thoát nói, ả Quách cười điên lên, cổ ả ta dài ra uống lượn như rắn, áp sát mặt vào ông Liễu, trên gương mặt ả không còn một sắc thái con người, mắt lồi ra máu lênh láng, phần trán bị gọt mất thấy cả sọ bên trong, dòi từ mồm ả, từ mắt ả dòi chui ra nhếch nhác, ông Liễu hét toáng lên trong sợ hãi, ông ngất đi một khoảng lâu...

đến khi có kẻ vỗ vai ông làm ông tỉnh lại, sau khi tỉnh lại ông liền hét lên con Quách, con điên Quách thành ma rồi!, ông ngước lên nhìn người vỗ vai mình, chẳng thấy ai mà cảm giác đụng chạm ấy vẫn còn sờ sờ, ông liền xách chân lên mà chạy bỏ lại mấy củ nhân sâm “hình người”.

Về tới nhà ông liền leo lên giường cùng vợ con mà nằm co rúm lại.

Hôm sau, nhà bà Gianh qua biếu khắp xóm món thịt kho mà nhà mụ làm, món thịt có mùi ngai ngái, tanh tưởi, ai cũng nhăn mặt, ông Liễu cũng được bà Gianh biếu món ăn này, ông lấy món ăn và khen nó thơm ngon cũng chỉ để gia phả bà Gianh vui lòng.

-Cảm ơn cụ Gianh nhé!, tôi thích thịt kho lắm, không biết thịt này là thịt gì mà có mùi hương đặc trưng thế cụ?

-Thịt đấy là thịt loài lợn rừng hiếm mà bác tư mày săn được đấy, quý lắm cụ mới biếu người trong xóm đấy mà, bà Gianh nói một cách ôn tồn nhưng sâu trong đó vẫn có nét thâm độc vốn có của người làng, nói xong bà nhếch miệng cười ẩn ý rồi vụt đi nhanh chóng qua nhà kế bên.

Ông Liễu bước vào nhà, đem nhúm thịt kho được bọc trong lá chuối ra trước bếp, mở ra thì mùi hôi lại càng tởm lợm làm ông quên cả vụ việc mụ Quách tối qua, ông chẳng dám ăn mà vứt cho con ki, nó ăn nhồm nhoàm như bỏ đói lâu ngày, có lẽ món này hợp khẩu nó chăng?, ông mặc kệ nó mà đi đến khu chợ nhỏ cuối xóm, nói khu chợ cho oai thôi chứ nơi địa thế trời ngơ đất tà như thế này thì chợ đâu ra, khu chợ ấy chỉ có mỗi bốn gian hàng bằng tre xập xệ, kẻ bán thịt, người bán rau, ông bước đến quầy thịt do vợ chồng nhà Lúi đứng hàng hôm nay, nhìn qua ông thấy một miếng thịt lạ có vết bớt hình trái gòn làm ông sực nhớ tới con Quách, ả cũng có vết bớt trái gòn trên vai, thấy vậy ông liền hỏi vợ chồng thằng Lúi:

-Thịt này bây lấy từ đâu ra đấy?

Nó là phần thịt nào vậy, ta nhìn có nét lạ..

-Vợ thằng lúi liền đáp: Dạ chẳng giấu gì bác, đây là thịt tụi con lấy từ một tên thương nhân trong xóm, nghe hắn nói đây là thịt vai của lợn thập móng, loài lợn to béo ấy ạ!

Thấy vậy ông liền lấy tay cầm miếng thịt mềm mại ấy, màu xạm đen đưa lên mũi ngửi, đúng cái mùi thịt kho của bà Gianh, cái mùi tanh hôi ấy, ông tởn quá định quay về nhà mà khi quay lại ả Quách đã đứng trước sạp thịt đó từ bao giờ, ả nở nụ cười quỷ dị với ông và cả vợ chồng thằng Lúi, vai ả ta bị băng bó bởi đám lá chuối mục nát máu vẫn còn tươm trên nếp lá, ả ta vừa cười vừa đập mạnh vào vai ba bốn phát, thấy cảnh tượng ấy ông Liễu liền thốt thoảng lên: “ cô Quách vai cô bị thương mà cô làm gì vậy, dừng lại, dừng lại mau!”, nói xong ả Quách im bặt, miệng méo về một bên như đứa trẻ con hờn dỗi rồi chạy phắc về hướng khác, thấy vậy ông cũng chẳng quan tâm gì mấy vì ông đã quá hiểu ả Quách, chỉ cần nhắc một lần là ả sẽ dừng ngay.

Sau khi ông đi khỏi phiên chợ ấy, hai vợ chồng thằng Lúi liền xì xào:

-Ông Liễu lại mệt quá hóa sảng rồi ông ạ, con Quách này thật chứ làm phiền người ta khờ khờ dại dại, bây giờ đến cả ông Liễu cũng gặp ảo cảnh về nó, hết thuốc chữa.

-Ừ em nhỉ, ổng bị con Quách phá rồi thêm áp lực công việc nên sảng thật rồi.

Ông Liễu thấp thỏm nghe thấy những lời xì xào ấy, ông cũng rợn cả người rồi chợt nhớ đến khung cảnh tối qua, một tia suy nghĩ lé lên đầu ông “ có khi nào.. con Quách bị lóc thịt chết rồi không?”, ông khẽ lắc đầu rồi tự nhủ với bản thân rằng mình bị sảng như lời vợ chồng nhà Lúi nói.

Tối ấy, trong giấc chiêm bao, ông mơ thấy đàn quạ đang rỉa xác ai đó, lại gần ông mới phát hiện đó là ả Quách, mấy con quạ mổ lia lịa vô xác ả, máu bắn tung tóe, mắt lồi ra khỏi hốc, trên đầu cô Quách là một ấn khắc, tiếng quạ inh ỏi loạn thần làm khung cảnh thêm quỷ dị.

Bỗng nhiên ông tỉnh giấc, trên đầu giường là đôi chim lợn không biết từ đâu chui vào, hai chúng nó la hét rùng rợn, ông xua tay thì chúng đột ngột biến mất, ông cũng chả để ý tại cơ thể đã mệt lừ sau giấc chiêm bao ấy, bỗng dưng ông nghe trong tiếng rít của gió có âm thanh “ tao chết rồi Liễu ơi~, tụi nó lóc thịt móc mắt tao tới chết, lũ tàn nhẫn, tàn nhẫn, xác tao không vẹn toàn, hận, hận lắm hận hận!!” cùng với tiếng khóc rít lên, sau đó âm thanh ấy lại tan trong làn sương ảm đạm...

Đến tầm canh năm, ông bỗng tỉnh giấc vì tiếng lục đục trong giang bếp, ông lật đật dậy kiểm tra.

-ôi trời tối thế này ai trong nhà con flamf gì ngoài bếp thế, hay là chuột..

Ra tới giang bếp ngay cạnh hủ gạo có bóng hình người đàn bà, đang ngốn nghén hạt gạo sống, ông Liễu cất giọng ren rén:

-A..ai..đấy?

Người đàn bà dần quay đầu lại, khung cảnh làm ông sững người, là mụ Quách mà bộ dạng ả như hôm đi đào sâm, cổ dài như rắn, mắt lồi, mất thịt, dòi bọ từa lưa, ả không chờ ông hét lên thì lên giọng:

-tụi bây á, đã giết oan tao mà còn khắc ấn, làm tao không siêu thoát đầu thai được, lũ chó cái, tao nguyền.. ta...o nguyền... tụi bây già trẻ lớn bé, cái đám thất đức giết bao mạng người, tụi bây sẽ chết hết chết hết chết hết!!!!”

Bỗng ông Liễu giật mình tỉnh giấc và chào ngày mới thật tốt đẹp...
 
Rằm 12 Trên Cấm Sơn
HỒI 2. Những Lời "Xác" Thực


Sau khi tỉnh giấc, ông bàng hoàng với giấc mơ đêm qua, từng chi tiết như thể nó được khắc vào trí nhớ ông từ khi nào.

Trước cái giá lạnh của không khí mùa xuân trên Cấm Sơn, có hình bóng người đàn ông ngồi thơ thẫn trước hiên nhà, đầu đầy suy tư, ông thắc mắc liệu con Quách thực sự chết,..., những suy nghĩ cứ chồng chất, đầu ông bây giờ như thể có hai ba con trâu dẫm lên, nặng trì mà lại đau nhức không tả nỗi... bỗng từ xa cất lên tiếng đám trẻ vui cười, ông thắc mắc tại sao hôm nay chúng nó lại vui như thế, thường ngày đám trẻ con ở con xóm ma quái đây lại rất lạnh lùng, đám trẻ như thể bị câu mất hồn, trông chúng giống lũ tệ nạn hơn là trẻ con, thấy lạ kì ông lọm khọm lại gần và hỏi với giọng điệu bân khuân:

- sao nay chúng cháu vui thế nhỉ?

Có trò gì mới à?

Đám trẻ hào hứng trả lời:

- Nay biết tin con ả Quách chết, tụi cháu vui lắm, vui lắm, từ nay hết bị ả quấy phá rồi!, đám trẻ vừa cười vừa nói như thể lâu ngày chưa có niềm vui nào vậy.

Bỗng ông Liễu sựng người khi nghe câu nói ấy từ đám trẻ, ông nữa nghi nữa ngờ về việc con Quách đã chết và về báo mộng, rõ ràng hôm qua ông còn thấy nó với vết thương trên vai tại hàng thịt nhà Lúi cơ mà, sao nó có thể chết trong một đêm được cơ chứ?, nếu có bị lóc thịt đến chết thì cũng không thể, tại con Quách chẳng biết nó chốn, nó chui đường nào mà lần, nhất là vào ban đêm, lạ thật, bỗng tụi trẻ cất lên tiếng phá vỡ mạch suy tư của ông:

- Bác liễu người ta khiên xác con Quách kìa bác!

Ông liễu sững người nhìn về hướng đám trẻ nói, đúng là xác con Quách, nhưng trong tâm ông vẫn không tin là nó, ông dùng hết sức chạy lại đoàn đưa tang, nhưng hiện thực vẫn là nó, chính là con Quách, xác nó bây giờ đã phân hủy gần hết, xương sọ bây giờ gần như lồi ra khỏi cơ thể, mắt trống rỗng vô hồn, trông xác nó thảm lắm, ông không do dự mà hỏi đám người đưa tang:

- Con Quách phải không.. p..h..ải nó không?

Sao nó chết nhìn thảm thế?

Đám người đưa tang trả lời một thản nhiên như thể chơd ngày này lâu lắm rồi:

- Đúng là nó đấy, không hiểu sao nó chết cơ, chúng tôi tìm thấy xác nó bên ngoài xóm, chẳng biết ai làm hay tai nạn , mà xác nó đã để ba bốn ngày gì rồi, lúc chúng tôi phát hiện, khung cảnh còn rợn hơn thế nữa.

Nghe xong ông Liễu không nói gì mà lo lắng trong lòng, ông biết mình đã gặp gì trong mấy ngày qua, lúc này ông vừa sợ mà vừa lo làm cho thần trí ông càng thêm xơ xác.

Ông vẫn cứ ở trước sân nhà vẫn trong loạt cảm xúc, tâm trạng thất thần ấy cho đến chiều tà, mọi chuyện đều như lắng xuống, con Quách cũng được an tán, ông ngước nhìn xa xăm rồi lại ngước vào nhà thì lại thấy con ki nhà ông thay vì đầu chó thì là đầu người, đầu con Quách, là đầu của ả ta, ả vừa cười vừa nói:

-Đại nạn, đại nạn, đại tang.

Nói xong, con ki trở về bình thường một cách đột ngột, nó vẫn chơi đùa với khúc gỗ khô mà nó tha vào lúc bao chờ, ông liễu thấy cảnh đó ông càng lại nghi ngờ hơn về lời nguyền đấy, vốn dĩ ông Liễu là người không tin vào ma quỷ tâm linh nhưng bây giờ có lẽ đã khác, tuy vậy ông vẫn an ủi bản thân rằng đấy là ảo cảnh do ông sảng quá nên thấy điều quái gỡ, qua mấy vụ việc từ ả Quách có lẽ ông nghĩ mình bị sảng là điều tất nhiên.

Tối đó sau vô vàn thăng trầm cảm xúc, lúc tỉnh lúc mê khiến ông mệt nhoài, do đã không đi đào sâm vài ngày nên ông quyết phải đi vào đêm khuya, chủ yếu là để kiếm cơm ăn, áo mặc chứ nếu có tiền, có công việc ổn định hơn cái nghề đào sâm này thì ông cũng chả dám bén mạng đến khu rừng ấy bao giờ nữa.

Đang sửa soạn đồ thì đứa con cả tầm 15 tuổi bước ra giang nhà trước, thằng nhóc cất tiếng van xin, năng nỉ:

- Thầy cho con đi cùng với, ở nhà hoài riết con cũng chán, thầy cho đi đi mà!

Ông Liễu định lòng từ chối nhưng khi thấy ánh mắt van xin của con mình thì ông đành đồng ý:

-Được, nhưng với điều kiện là không được rời khỏi thầy nữa bước, nếu không từ này về sau con không được bước ra khỏi nhà dù chỉ một bước.

Thằng cả vui mừng hứng hở, nhưng trong lòng ông có cảm giác bồn chồn bất an le lói, nhưng cuối cùng hai cha con vẫn bước đi vào khu rừng đêm ấy.

Trong đêm tối cánh rừng hình bóng hai cha con ẩn hiện đầy quái lạ, đến được chỗ có sâm ông Liễu kêu thằng nhóc ngồi nghỉ tại hòn đá to đối diện, song ông lấy bộ đồ nghề thô sơ mà đào liên tục, liên tục, đến khi thấy được củ sâm, lạ thây củ sâm nào lại mất đi phần đầu mà trên thân sâm lại chi chít vết thâm sẹo, nước ứa ra từ các vết thâm sẹo ấy, làm ông thầm sầu “ sâm kém thế này thì sao có đủ tiền lo cho gia đình cơ chứ, mất giá rồi, mất giá rồi”, ông ngậm ngùi để củ sâm vào vỏ, khi ngước lên thằng cả đã biến mất, ông hét lên toáng loạn:

-thằng cả mày đâu rồi, mày đâu, thầy bảo mày không được đi khỏi thầy nữa bước cơ mà!

Ông Liễu vừa hét vừa rung rẩy, âm thanh càng ngày càng hỗn loạn hơn, lát sau ông dường như bình tĩnh hơn, ông xách vỏ sâm cùng đám dụng cụ thô sơ mà chạy vụt về con xóm hẻo lánh, ông định rằng sẽ nhờ u nó với vài người trong xóm cùng tìm thằng cả.

Nhắc đến thằng cả, xưa giờ có mình nó buôn bán giúp u nó, gánh vác luôn cả việc nhà lẫn trông đứa em chưa đầy 3 tuổi, có hôm nó còn đi chăn trâu tít xa, mặc dù siêng năng chăm chỉ, nhưng do có tính tăng động hiếu kì, nên thầy u nó chỉ dám cho nó đi chăn trâu đôi lần trên tháng, hầu hết thời gian chỉ cho nó ở nhà mà làm lụng phụ giúp việc lặt vặt, thầy u nó thương nó lắm tuổi còn nhỏ mà đã lo hết việc này nọ trong nhà, nên bây giờ nó biến mất đột ngột như thế lại làm thầy nó vừa xót mà lại vừa giận.

Ông cứ chạy cho đến cổng nhà, ngước vô lại thấy ba mẹ con ngồi bên khói lửa tàn mà mòn mỏi đợi ông, thằng cả thì mãi đút củi khô để chăm lửa ấm cho gian nhà lạnh lẽo ấy, ông thấy cảnh ấy, thấy thằng cả ông mừng lắm, chưa để ông bước vào nhà, thằng cả và u nó nói lên một câu khiến ông lại rơi vào trầm tư, hoảng sợ:

- Thầy nó à, đi đâu mà giờ này thế thầy, thằng cả với hai mẹ con tôi đợi ông miết.

Thằng cả tiếp lời:

-con ra ngoài tiểu tiện không thấy thầy đâu nên kêu u ra chờ xem có cớ sự gì xảy ra không, may quá!

May quá!, thầy vẫn vẹn toàn!

Ông Liễu lạnh người khi biết được từ nãy đến giờ thằng cả chỉ ở nhà, vẫn say giấc, vậy thằng cả mà ông gặp là ai?

Ông sợ hãi, và quay người đi kêu vợ con vào phòng ngủ.

Nhắc đến mấy bữa gần đây, khu xóm xảy ra nhiều chuyện lạ, đầu tiên là món thịt kho kì quái với cả miếng thịt vai có vết bớt trái gòn, rồi cái chết và linh hồn mụ Quách, đến cả việc thằng cả hôm nay, quả làm ông không bớt đi phần nào trầm cảm, giày vò tinh thần, ông trong căn phòng ấm áp màu sáng của các cây nến đỏ như thể chiếu rọi sự bâng khuân của ông, ông vừa liên kết các sự kiện và chợt nhận ra kẻ giết con Quách có thể là gia phả bà Gianh, ông Tư, vợ chồng thằng Lúi, ông nhức nhói đầu mà suy tư, ông đã quên đi một chi tiết...

Ở một nơi khác bà đồng duy nhất trong xóm lại có một giấc mơ kì quái, trong mộng bà thấy bà đang đỡ đẻ cho một gia đình khá giả thời đó, bà mơ thấy từ tử cung người đàn bà tràn ra dòng máu kinh tởm, máu gần như ngập trọn bàn chân bà, vào đâu đó một khoảng sau đứa trẻ ra đời với hình hài của một con quỷ, sừng dài, đuôi nhọn, bà bỗng giật mình rồi tỉnh giấc, bà tái xanh cả mặt, bà quấn khăn gối vào trong góc rồi một mình lọ mọ đi đến nhà ông trưởng làng ở góc xóm...

Mờ mờ sáng, bà đồng hay còn được người trong xóm gọi là bà Linh đã có mặt tại nhà ông trưởng làng lúc bao giờ, bà gõ cửa và ôn tồn gọi ông ấy dậy:

-Có chuyện gấp cha thằng Liễu ơi, có chuyện rồi!

Ông trưởng làng vừa đi lọm khọm do tuổi đã già vừa nói vừa ho sặc sụa:

-Ai đấy?, mụ Linh đấy à?

- Đúng tôi đây.

Bà Linh nói với giọng điệu dứt khoát như thể muốn vào thẳng câu chuyện.

- tôi muốn nói với ông vài điều không biết...

ông có rảnh mà nghe không?

-Có chứ bà cứ nói, tôi giúp được gì giúp.

-Chuyện là...chuyện là... xóm mình sắp có đại nạn...

Ông trưởng làng dồn hỏi:

- Chuyện gì chuyện gì cơ chứ?

Bà đồng trả lời:

-Chuyện là tôi có một giấc mộng... là một điềm gỡ, không biết ông trưởng xóm có muốn nghe không, chuyện này e rằng ông sẽ cho là mê tính dị đoan, đến cả mấy ả mấy tên trong xóm này còn gọi tôi là bà già vong theo...

Ông trưởng xóm đôi phần là tôn trọng tôn trọng bà cụ này đôi phần là tính hóng chuyện bấy lâu đã ngấm vào máu nên ông cất giọng như thể tin tưởng:

-Bà cứ nói, tôi đây luôn lắng nghe!

Bà lão bắt đầu cất giọng:

- Chuyện là trong mộng tôi thấy bản thân mình đỡ đẻ cho một người phụ nữ, cảnh đỡ đẻ sẽ chẳng có gì nếu như từ tử cung cô ta tràn ra dòng máu tanh, tràn ngập cả gian phòng, vốn dĩ ông bà ta từ xưa đã có một quan niệm về giấc mơ đỡ đẻ mà xuất hiện máu me, đó là một điềm gỡ, xui xẻo, được xem là đại nạn có thể chết người, mà chuyện khác tồi tệ hơn là đứa trẻ được hạ sinh là một con quỷ có sừng, đuôi nhọn, e rằng...e rằng... cả xóm ta chắc lâm vào đại nạn, hoặc mong chỉ là gia đình tôi chịu nạn...

Ông trưởng xóm tỏa vẻ thản nhiên mà trả lời:

- Không sao đâu, giấc mộng này nếu có xảy ra, nhất định với tài năng của ta thừa sức chống lại.

Bà đồng e ngại nói:

- Có thờ có thiên có kiêng có lành, ông chớ nói vậy, nhỡ người ta nghe rồi sao?

Lại truốt thêm oai oán giữa nhân âm nhân dương...

Nói xong bà đồng lặng lẽ rời đi, để lại bao suy xét, nghi hoặc trong đầu bố thằng Liễu, ông ấy nữa tin nữa ngờ về giấc mộng ấy, một nữa e rằng sắp có đại nạn, nửa còn lại cho rằng bà ta mê tín dị đoan, phần nữa là dòng suy nghĩ:” nếu có đại nạn, thì chắc có mình nhà bà ta gánh thôi nhỉ”, tuy là trưởng xóm làng, nhưng ông cha thằng Liễu lại thâm độc, ác quái như người nơi đây, ông ấy hội tụ đủ: kiêu căng, tự mãn, khinh người,...

Đến tầm giờ Thìn, cả xóm la hét toán loạn:” có người chết bà con ơi!!, có người vong mạng!”...
 
Rằm 12 Trên Cấm Sơn
HỒI 3. Khung Thêu, Vẫn còn sống.


Tiếng la hét toán loạn cứ như làm ngôi làng sôi nổi hơn trước, trong làn sương mờ đỏ mùi hôi tanh phát ra từ phía chân xóm, mùi hôi quỷ dị kinh tởm làm không khí trong xóm như thể ở địa ngục máu.

Ông trưởng xóm nghe được tin hay ho ấy liền trở máu nhiều chuyện, không nói không rằng ông bỏ mặt nhà cửa mà chạy về hướng có án mạng, đến nơi cảnh tượng như muốn chọc mù đôi mắt ông ấy, cảnh tượng kinh tởm như cách mà người xóm đối xử với nhau trước giờ, đồng thời ông Liễu cũng đến vì nghe có án mạng mà ông lại là người đàn ông có sức khỏe nhất trong khu xóm nên lại xem có giúp được gì mà không, nhưng cảnh tượng trước mắt ông khiến ông giảm đi phần mạnh mẽ của bản thân... trên mảnh đất cuối xóm, ai đó đã dựng một cái giá to bằng ba thằng đàn ông, trên đó đặt một khung thêu bằng gỗ, bên trong là tấm da bò đan chi chít lên nhau, ở giữa là ... hai đứa bé một nam một nữ, lúc này bà đồng đâu đó chạy lại và hét một cách đau khổ:

- Ôi trời ơi...

ôi trời!!

Hai đứa con tôi, hai đứa nhà tôi, bà con ơi, con tôi, con tôi...

Lúc này cả xóm mới nhận ra cái xác trên khung thêu đó là xác của thằng An với con Sương, hai đứa con nuôi của bà đồng, vốn dĩ nghề đồng kiên kị yêu đương, bà xin lắm người khác mới cho bà hai đứa con, mà bây giờ... mà bây giờ lại mất cả đôi, nhìn bà người trong xóm cũng xót lắm,dường như sự thâm độc của con người nơi đây đã biến mất khi chưnag kiến cảnh người mẹ hai con mà giờ đã đơn côi một mình, bà đồng liên tục khóc lóc nói những lời trải lòng của mình trước xác của hai con:

- Trời ơi... các con có nghiệp gì mà bỏ u đi thế này, các con ơi, hay u.. hay u là ngươi mang nghiệp tới các con, u xin lỗi... u xin lỗi...

Tiếng khóc nấc vẫn vang lên trong không gian đỏ, hai cái xác bị khâu với nhau máu me thấm cả lớp da bò, từng sợi chỉ thêu càng làm khung cảnh thêm ám ảnh, sợi thì thêu xuyên mắt, xuyên ngón tay, thậm chí là qua tim, hai đứa trẻ mới 13 14 đã phải chịu cảnh này, thật quá tàn nhẫn, bỗng dưng một phụ nữ trong làng cất lên:

- Ối ối!, hai tụi nó còn thở, còn sống, còn sống, mau lên mau lên, lên dỡ hai đứa nó xuống, nhanh lên không là không kịp!

Nghe thế đám trai trong xóm gồm cả ông Liễu ráng gượng lại sự buồn nôn, kinh hãi của mình mà lên gỡ hai đứa trẻ xuống, càng gỡ, sợi chỉ càng cứa vào da thịt làm thân xác thêm đau đớn, nhưng không ai trong xóm gỡ nổi kể cả ông Liễu cảnh tượng càng thêm kinh tởm máu me da thịt hai đứa trẻ như miếng thịt trâu dập nát để làm món trâu gác bếp, đến nỗi bà đồng còn nôn tại chỗ, cuối cùng, thằng An chết, chỉ còn con Sương, đám trai xuống và nói lời chia buồn với mụ Linh:

- Chia buồn cùng bà, sợi chỉ ấy có lẽ đã thắt đứt trái tim thằng bé An rồi, miệng thằng bé nôn ra cả lít máu tươi, mong bà.. mong bà đừng buồn, chắc là do duyên số...

Bà đồng trả lời một cách gắt gỏng kèm lân lẫn sự buốn rầu:

- Duyên số cái nỗi gì cơ chứ?, do cái xóm này là do cái xóm này sống ác báo, nghiệp đầy trời, nay con tôi phải thay các người trả nghiệp, các người vừa lòng chưa, vừa lòng chưa hả?, từ xưa đến giờ, từ xưa...

đến giờ mấy người giết người dân trong xóm bấy nhiêu mạng?

Hả!

Hả!, lại chơi bùa, phản Phật, phản Thần, các người... các người tích nghiệp rồi đầy cho con tôi đấy à?

Tôi... tôi không chấp nhận được con người ở cái xóm quỷ quyệt này.

Bà ta vừa nói vừa khóc, tay đập đất nắm đất chọi như đứa trẻ con.

Câu nói của bà đồng làm cho cả xóm như tỉnh ngộ, ai cũng lặng thinh nghe bà trách, mấy kẻ thấy nhột thì âm thầm bỏ về, cho đến khi đám trai còn lại lấy được con Sương xuống, may thay con bé chỉ bị khâu tay khâu chân, tệ thì chỉ có khâu ngay miệng, bà đồng thấy con bé thì liền cất giọng với điệu biết ơn:

- Tạ trời, tạ trời... con tôi... con gái tôi nó vẫn sống, tạ ơn tạ ơn... mau đưa con bé lại nhà thầy Yết mau lẹ lên, lẹ lên!

Không con bé mất, nhanh lên, còn thằng An mấy người lo mà quấn xác khâm liệm nó đi, nó chịu nghiệp thay mấy người đó!

Mấy cô mấy chú nên biết ơn nó lần này, thằng bé chẳng có tội gì mà cũng bị nghiệp chết...

Nói xong bà đồng chạy theo đám đưa con gái mình đến chỗ thầy thuốc, đến nơi, tên thầy lang đó đuổi tất mọi người ra khỏi gian phòng chữa bệnh, trong lòng bà Linh bỗng thấy bất an, vốn dĩ ông Yết là kẻ dê dâm, lòng dạ tàn ác như loài bọ cạp, nên người trong xóm gọi ông là Yết, ngoài ra mấy đời nhà ông ta làm thầy thuốc đặc biệt là độc dược, nên người ta hay gọi ông với một biệt danh giễu cợt khác là thầy Yết, linh cảm của một người phụ nữ là thứ gì đó bí ẩn nhất, đằng này bà Linh còn làm nghề bói toán, hầu đồng nên linh tính bà ta càng thêm mạnh mẽ, sự bất an cứ tuông trào nên bà đành khều tay con Quyến kế bên lén vào gian phòng nhìn xem ông Yết đang làm gì, con Quyến hình như cũng có linh tính giống bà nên cũng lén vào xem, đi được đến trước cửa phòng, con Quyến nó thấy một điều mà nó không nên thấy, ông Yết đang dê con Sương, nó giật người hoảng sợ, bỗng ông Yết ngước lên nhìn nó với nụ cười quỷ dị rồi tiếp tục làm trò đồ bại với con Sương, đúng hơn là cái xác con Sương, nó đã tắt thở... kế bên ông ta là lọ độc dược của ông ấy, có lẽ con Sương bị ông bỏ độc đến chết rồi làm chuyện đồ bại đây mà... khoảng một khoảng sau bà đồng không thấy con Quyến đâu nữa, bà liền lo hơn, lúc này ông Yết lên cái xác con Sương ra và thông báo:

- Kính thưa các ông các bà, đặc biệt là u nó đây, con bé đã vong mạng... vết thương khiến con bé chảy máu đến chết, tôi đã cố gắng mà phận nó vậy rồi, tôi không giúp được nữa, mong bà thông cảm...

Nghe được câu ấy bà Linh như rớt thẳng xuống nơi tận sâu đáy lòng, bà cất giọng thẫn thờ:

- Đúng là bất công... bất công quá mà.. haha... kẻ thiện lại phải chịu nghiệp thay cho người ác, thôi yên nghỉ con nhé, em con đang đợi con đó, cuộc đời vốn dĩ không công bằng mà con, không sao, không sao... mà con Quyến đâu?

Ông Yết sững người mà trả lời:

- Nó đi về từ cửa sau nhà tôi rồi, nó bảo có chuyện gấp, nhà nó có chuyện nên về trước...

Bà Linh vẫn tiếp tục lẩm bẩm với cái xác bị khâu miệng tay chân của con, máu ứa ra sàn làm bất kì ai nhìn vào cũng tởn rợn, thế là kiếp làm mẹ của bà đã hết, bà đưa xác con gái ra cái phiên chợ đó, đặt kế bên xác thằng An, rồi đóng hòm an tán, tâm trạng bà lúc này buồn nẫu nề, suy sụp hoàn toàn, quả thật tình mẫu tử, dù không máu mủ ruột thịt nhưng khi thấy cái chết con mình quá thảm, bà như muốn chết cùng con, mất hết con rồi bà còn sống làm gì nữa, hai đứa đã chịu thiệt thòi khi chẳng có bố, lại thiệt thòi hơn khi mẹ già mà lại làm nghề đồng, thiếu xót cùng cực, thua con người ta mấy lần... bỗng bà hét lớn:

- Mấy người thấy cái giá của nghiệp ác của mấy người chưa hả?

Con tôi nó vô tội, mấy người là kẻ giết chúng, mấy người còn lời nào nói không, quả thật không còn từ gì miêu tả cách sống của mấy người mà!

Đám người tham gia tang lễ võn vẹn đôi mươi người, ai đó cũng lặng trầm nghe bà mắng , không biết họ có thấm thía gì không nhưng có lẽ họ cũng dần nhận ra nghiệp là có thật...

Đám tang hai đứa con của bà chẳng có gì ngoài nén hương nghi ngút, chẳng bánh trái, thịt quay, làm qua loa, người thân duy nhất xủa hai đứa trẻ là bà già 80 , nhìn cảnh tan gia như vậy ai cũng xót xa, người trong xóm ít khi biểu lộ cảm xúc thế này, mà hôm nay trong đám tang hai đứa trẻ vô tội, vẹn đôi mươi người đều khóc sước mước, có lẽ nhân tính con người nơi đây đã dần trở lại sau cái chết này, xong lễ, đám người đem hai cái hòm tre xơ xác chứa một xác liệm và một xác chưa, nhìn qua khe hở thấy cả mắt con Sương nó trừng lên đầy vẻ hận, ai ai cũng không dám nhìn vô khe hở đó, riêng bà Linh lại ráng chèn bàn tay nhăn như da mèo của mình vào khe hở mà vuốt mắt con mình, lần một không nhắm, lần hai cũng không...

đến đâu đó tám chín lần con Sương vẫn không nhắm, bà thầm nói:” Sương à u biết mày hận lắm, biết sao giờ con ơi, nhắm mắt cho thanh thản đi, chứ cái xóm này nó dồn nghiệp và con với em hết rồi, coi như con đã là người hùng đi, con đã gánh nạn bớt cho cái xóm quỷ này, nhắm đi con...” nói xong vuốt thêm tầm đôi lần con Sương cũng chịu nhắm mắt.

Đến bãi tha ma, chuyện lạ lại xuất hiện, lúc đào huyệt, cả đám người chung sức đào nhưng lại không đào nổi, phần đất ấy như thể có thứ gì đó kì bí nấp sâu ở dưới vậy, đào cùng lắm là được hai ba gang tay, đào tiếp thì như thể có thứ gì đó vun đất lên mãi khiến phần huyệt càng thêm to dần lên như một ụ mối, bà Linh đã nhận ra điều gì đó lạ lẫm ở đây, bà tiến gần đến ụ đất ấy, cầm trên tay vài lá trầu đã ở trong túi từ bao giờ, bà khẽ giọng hỏi:

- Khấn thần thổ địa nơi đây, con của con có tội gì mà người lại đối xử với con con như thế?, nếu không được chôn cất ở đây mong người hãy ra hiệu cho con thông qua ba lá trầu, nếu hai lá bay một lá ở là hai đứa con con được ở, ở một vị trí khác ở bãi tha ma này, nếu hai lá ở , một lá bay tức là hai đứa con con không được chôn cất nơi này, mong người hiển linh...

Người trong xóm quanh quanh lặng im nghe bà khấn, một lát sau cảnh tượng khiến hai mươi con người xung quanh gợn óc, bỗng có làn gió liu hiu thổi từ nơi nào đó hất bay một lá trầu, hai lá còn lại vẫn nằm y nguyên tại chỗ, không một rung chuyển, thấy vậy bà Linh lẩm bẩm:

- Nếu vậy người cho con biết nơi để chôn cất con con ở đâu đây?

Nhẹ nhà làn gió liu hiu ấy lại đến, hai lá trầu còn lại được nhất bổng, nó nhẹ nhà bay về phía gốc cây cổ , bà Linh hét:

- Chạy theo! chạy theo!

Thấy thế mấy người xung quanh cũng chạy theo hai lá trầu bay lơ lững, cảnh tượng trông thật quỷ dị, hai chiếc lá vẫn bay dù làn gió lúc nãy đã ngừng, đến được khoảng đất trống cạnh bụi tre đỏ đặc trưng của vùng thì hai chiếc lá dừng lại mỗi lá ở hai bên, bỗng lá trầu còn lại từ đâu bay tới, nó quay quẩn, quay quẩn rồi đáp ở giữa hai chiếc lá kia, không quan tâm chiếc lá còn lại, bà Linh kêu to:

- Đây...

đây...

đào hai huyệt hai bên, thần linh đã bảo thì không thể đổi, mau lên!

Đám người trong xóm đào một cách ngon ơ, phút chóc đã xong hai cái huyệt.

Đến giờ hạ huyệt bỗng bà Linh giật người, bà bỗng phát hiện địa thế nơi này không phù hợp để chôn cất, nơi này quá hoang vu, lạnh lẽo, người chết khi chôn nơi đây dễ hóa thành oan hồn, ngạ quỷ, dững dưng một dòng suy nghĩ khác xuyên tạc đầu bà tại sao thần linh lại xui khiến người phàm làm những chuyện phạm luật thiên như thế cơ chứ?, có lẽ nãy không phải là thổ địa mà... là... quỷ?, chỉ có quỷ mới sai khiến những việc như thế, lúc bà nhận ra thì đã không kịp, cả hai cái hòm đã được lắp đất, cũng không thể đào huyệt lên lấy lại được, bà lúc này hối hận lắm, con mình sống đã thua thiệc, rồi chết cũng không yên khiến bà sầu não vô cùng, bà vừa xót hai đứa, vừa hận bản thân, “tại sao một người đồng bói như ta lại không lần được việc này chứ?”, bà thở dài não nề.

Phút chốc, trời đã nhá nhem, người đã về hết còn mỗi bà với hai ba người ở lại để phụ giúp canh mộ, vốn dĩ con xóm này nhiều bùa ngải, có cả thuật thiêng linh cái tà ma, nên phải ở lại canh mộ đến tận năm sáu ngày, bỗng dưng từ bụi tre đỏ, có một con chim mỏ đỏ thân xanh cánh đỏ huyết bay xà xuống trên phần mộ của hai đứa con, mỗi giây nó nhảy qua lại, bà Linh thấy và biết ngay đây là thần trùng, con bà chôn đất xấu nên thần ta lại kéo mạng người thân đây mà, nhưng người thân của hai đứa trẻ giờ còn mỗi bà, bà thấy vậy cũng chẳng muốn xua đuổi thần ta, bà muốn chết cùng các con lắm, sống ở trên đời mà cô đơn thì sống làm gì nữa, nhất là người già như bà, bỗng thần trùng bay vụt đi làm bà giật mình, đám người kia ngủ hết, bà khẽ lây một người phụ nữ dậy, bà nói:

- Này Pôm à, bà sắp mất luôn rồi, thần trùng sẽ kéo bà nên bà muốn nói với cháu điều này...

Nàng Pôm nghe tin thần trùng, nàng ta xanh cả mặt, hỏi dồn:

- Bà thấy thần trùng thật...thật ạ...?

- Thế...thế.. có ảnh hưởng tới cháu không?

Bà Linh khẽ lắc đầu cười điềm đạm rồi nói:

- Không, cháu đừng lo, có chết thì bà chết, bà từng tuổi này chết được rồi cháu ạ, mà bà muốn nói điều này, như cháu đã biết, xưa giờ làng ta nhiều nghiệp ác, bà đây cũng không ngoại lệ, mà nghiệp đang đến dần chắc chắn xóm ta sẽ có đại nạn, cháu hãy nhớ mà thông báo cho người trong xóm biết điều này: nghiệp chướng đang đến, khó lòng tránh khỏi, bằng lòng mà làm việc thiện, sống tốt cá rằng nghiệp sẽ giảm nhẹ....

Nghe xong Pôm lặng lẽ gật đầu và nhắc bà rằng:

- Khuya rồi bà ngủ đi, cháu đây canh mộ cho ạ.

Nghe thế bà Linh khẽ dựa đầu vào mộ con mà ngủ.

Đến hôm sau, chuyện mới lại đến...
 
Rằm 12 Trên Cấm Sơn
HỒI 4. Bỉ Ngạn Hoa.


Dưói cái lành lạnh của làn sương sớm, đám người canh mộ khẽ rung rẫy nghe thấp thỏm giọng nói ở phía xa vọng về, vang vang như từ âm ti địa ngục mà đến:

- Ối bà con ơi!

Ối!

Có nhà sinh tư, có nhà sinh tư!

Nghe thấy thế gần một nửa đám người canh mộ háo chuyện mà chạy theo hướng đám người bu đông nghẹt, riêng bà Linh lại thở dài ngao ngán, bà tồn tại ở cái xóm này quanh đi quảnh lại đã ngót nghét tám mươi năm trời bao nhiêu tội lỗi, ác nghiệp bà đều được chứng kiến từ thuở xưa, lần này huống chi có nhà sinh tư, chắc hẳn sẽ khó giữ mạng mấy đứa trẻ, từ xưa xóm Cấm Sơn luôn có một tục lệ ác nghiệp, nếu có nhà sinh đôi thì một trong hai đứa trẻ phải bị chôn sống, chôn sống để bớt gánh nặng, đồng thời cả hai đứa con sinh đôi đều mang điềm gở, phải giết một đứa thì điềm gỡ mới được hóa giải.

Bà Linh lòm khòm ngồi dậy, phủi lớp đất bụi trên vạt áo rồi chậm chạp đi về phía đám người tụ tập.

Đến nơi, bà ta hốt hoảng trước cảnh tượng chua xót ấy, bà đã từng làm mẹ nên rất rõ nối lòng của cái Hoài, cái ta đang làm một việc vừa thất đức mà vừa thương, nó đang đào huyệt cho con mình cánh tay rung rẩy đào xuống lớp đất tanh tưởi quen thuộc, nó vừa đào vừa khóc nức nở:

- Tôi xin mấy người, tôi cầu xin mấy người!, làm ơn tha cho mẹ con tôi!, làm ơn đấy!, con tôi không có tội, con tôi không có tội!

Một kẻ trong đám đông tấp nập ngứa mồm mà chửi mắng năm mẹ con:

- Mày im đi thứ đàn bà đẻ hư, đẻ bụi, mắc cái cớ gì mà mày đẻ tận bốn đứa thế này, mày có biết mày đang mang tới cái tai họa gì cho cái nơi này không hả?, mày phải giết sạch ba đứa, tốt hơn thì giết sạch hết!

Nếu không... nếu không mày sẽ bị chúng tao giết thay bốn mạng người trước mặt mày đấy con đần...

Thằng Thuyết từ nhà đi ra, trên tay cầm bình rượu, lòng mắt đỏ ửng, rồi ngồi sụp xuống ba cái huyệt của con, bảo:

- Tục lệ này vốn ác nghiệp, u nó cứ tuân theo luật mà hành, người lãnh nghiệp e rằng là vợ chồng ta, nhưng kẻ chịu nghiệp nặng nhất lại là mấy con người đứng tại nơi đây... bà cứ theo lời tôi, con chúng ta sẽ không oai oán gì đâu... vì hai chúng ta là người bị hại cơ mà... sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này là một nghiệp chướng mà ta phải gánh...

ắc chăng chôn sống con là cách mà ta trả nghiệp...

Con Hoài nghe chồng mình nói nó có vẻ ổn định hơn nhưng vẫn không bớt đi phần nào câm hận và len lói trong đó là tia sợ hãi trước đám người máu lạnh trước cổng nhà, bỗng đám người trong xóm ập lên hò reo:

- Chôn mau, chôn mau cho tụi tao nhờ!

Từng đứa trẻ được u nó đặt nhẹ xuống hố huyệt, tiếng khóc trẻ con hòa với tiếng khóc của bậc làm cha làm mẹ tăng thêm phần thê lương cho vùng đất này, nước mắt hòa với đất, chưa đến nửa canh giờ sau, ba đứa trẻ đã nằm xuống lớp đất vĩnh hằng, nghĩ tới cảnh từng hạt bụi, từng cục đất đè lên chân tay con mình, bậc cha mẹ nào cũng xót đến đứt ruột, đằng này còn do cái tục lệ ngu muội ấy làm cho con mình ra nông nỗi này lại càng khiến cho hai người thêm đau khổ...

Đám người dần tan ra, bà Linh lặng lẽ vào gian phòng hai vợ chồng nó, trong tâm bà chỉ muốn an ủi hai vợ chồng đôi phần cũng báo cho họ một tai họa, đến gian phòng ngủ của hai người ấy, bà khẽ ngồi xuống rồi nói với giọng điệu như cũng sắp khóc đến nơi:

- Bà biết hai vợ chồng bây thương con lắm, mà biết sao giờ đây?, may rằng đám người ấy còn khoan nhường, cho vợ chồng bây một đứa con để nuôi nấn.

Bà thở dài rồi tiếp lời:

- Ba đứa trẻ ấy sau này sẽ trở thành quỷ nhi, tụi con...tụi con..

Chưa để bà nói xong thì con Hoài hỏi dồn:

- Sao vậy bà... sao vậy cơ chứ?, con của con chết rồi cũng không yên sao?

Bà Linh đáp:

- Chính phải, chính phải, do oai oán quá nặng, nên ba đứa nhỏ dần hóa quỷ, không đầu thai siêu thoát... nghỉ lại số phận cũng giống con bà, thằng An con Sương cũng chẳng nổi đầu thai do quỷ ma sai khiến nên chôn đất xấu, trời không thương...mà này tụi nhỏ khi hóa quỷ, tụi con hãy nhớ khai mộ nó, thiêu xác bằng máu bạch sửu, để chúng nó hồn bay phách lạc, không phá hoại người dân... bà chỉ có cách này để bảo toàn sinh mạng cho người xóm ta, nếu xót con hai đứa tụi bây không làm cũng được, để cái xóm này chết hết, chết hết đi!

Để trả nghiệp cho đời!

Bà...bà... cũng hận đám người này lắm, có chết thì nên chết cho sạch!

Nói xong bà Linh mang nỗi câm hận xót xa ra về, để lại nhiều dòng suy tư cho cả hai vợ chồng vẫn còn rươm rướm lệ, đứa con trong lòng, miệng vẫn còn vươn sữa mẹ ấm áp, nó thật may mắn khi là người được chọn... nhắc đến hai vợ chồng nhà Thuyết, ai cũng biết hai người là thanh mai trúc mã, yêu thật lòng, sâu đậm, dính nhau như sam, nhiều lần cứ mỗi đầu năm các cặp đôi trong làng đều đến trước nhà hai vợ chồng mà xin vía yêu đương, mà ông trời thật trêu ngơi hai vợ chồng, con Hoài mắc chứng khó sinh lâu lâu mới đậu thai một lần mà toàn sảy, nó cẩn thận lắm nhưng bằng một cách kì lạ nào đó những cái thai trong bụng nó trước giờ đều bị sảy, tính qua tính lại ắc hẳng cũng trên dưới sáu bảy đứa trong vỏn vẹn mười năm, mà bây giờ nó hạ sinh tất thẩy bốn đứa, có lẽ lúc đầu trong thâm tâm hai vợ chồng nó vui lắm nhưng niềm vui chẳng kéo dài bấy lâu khi cái tục lệ vô nhân đạo ấy lại chưa bị bãi bỏ, cái tục lệ ấy đã lấy đi ba sinh linh nhỏ bé khỏi trần thế, thật tàn nhẫn thay khi người giết ba sinh linh ấy lại là mẹ của chúng, người phụ nữ ấy chẳng có thể làm được gì khi bị dồn vào tình thế đó, cô phải chấp nhận sự thật rằng “ cô không thể bảo vệ con mình trong khi cô là người sinh ra chúng, một người mẹ thất bại”...

Trong ánh lửa vàng của đám nến trên đầu tủ, trong khoảng gian yên tĩnh chìm trong cơn gió vút mang theo từng cánh hoa bỉ ngạn lúc bay là là dưới đất, lúc vút tận lên cả mái hiên, có lúc nó nằm yên tại chỗ như tâm trạng của đôi uyên ương bị nghiệp chướng đầy đọa, âm thầm đón nhận nghiệp quả như mạch sống của mình, đúng hơn nghiệp là mạch đập của cả con xóm, quanh xóm bao phủ bởi lớp sương đỏ thẫm kèm với cơn bão bỉ ngạn như thể chắc chắn rằng “ nghiệp là thứ tồn tại song song cùng người trong xóm qua tất thế hệ”.

Tiếng cánh hoa bỉ ngạn bay bổng va đập kèm những cú tát mạnh của ngọn gió vô vách nhà bằng lá tre khô xào xạc như thể linh hồn ba đứa con đang cào xé , than vãn với thầy u nó vậy, từ đâu đó một cánh bỉ ngạn to bằng ngón cái, dài như một đốt tre là là bay vào nhà, rồi làn gió như thể rẽ hướng đưa cánh hoa ấy bay vào thẳng gian phòng rồi nhẹ nhàng đáp trên trán đứa con trời thương, trời cứu, thấy thế thằng Thuyết bảo với vợ nó:

- Cánh hoa này trông cứng cáp khỏe mạnh quá u nó nhỉ?, khó lắm nó mới bay vào được đây, có lẽ đây là một lời nhắn từ người cõi trên chăng?

Hay đôi ta xem đây là một cái danh trời ban cho con mình, tên con ta sẽ liên quan đến hoa bỉ ngạn, u nó xem xem đặt tên gì cho hay nào?

Thuyết nói trong vẻ ân cần, hiền diệu, con Hoài cưới được anh chắc hẳng đã cưới được anh chắc phước lành nhiều lắm...

Nghe thấy chồng mình nói vậy, con Hoài nhẹ nhàng đặt tay lên trán con, tay kia cầm cánh hoa bỉ ngạn trên tay thầy nó, nhẹ nhà vùi vào tay đứa trẻ, rồi cất giọng ôn tồn bảo:

- Rồi rồi để tôi nghĩ xem nào...

Chưa đến một phút sau, con Hoài mỉm cười rồi nói:

- Con ta sẽ tên là Vũ Tam Ngạn, chữ Vũ là lấy từ thầy nó đấy!, còn Tam là ba anh em của con bé, mong ba thằng anh nó phù hộ, ăn mau chống lớn, rồi Chữ Ngạn đại diện cho cái danh trời ban, vốn dĩ hoa bỉ ngạn có ý nghĩa rất tệ, đấy là sự chia ly, nhưng cái tên này chắc hẳn là do ông trời chọn ắc hẳng sẽ có hàm ý sâu xa đây...

Nói xong hai vợ chồng cười tủm tỉm trong căn nhà nhỏ nhắn, xen với đó là ánh nến lập lòe lúc tỏ lúc mờ phát ra từ căng nhà dưới con bão bỉ ngạn đỏ dường như nỗi buồn trước đó đã được tạm phai trong lòng hai con người nhỏ bé...

đứa trẻ trong vòng tay mẹ khẽ lắc lư, khuông miệng khẻ mĩm cười, bỗng cái Hoài cất giọng:

- Hay đôi ta ra ngoài sau nhà, thắp hương cho con, để con có cái ấm trước cảnh hàn buốt...

Thấy thế Thuyết khẽ gật đầu đồng ý, lọ mọ trong ánh vàng của đèn dầu cầm trong tay, đến gian phòng thờ, chạm nhẹ lên bó hương làm từ loại trầm hương tầm thường nhưng lúc này nó lại thơm diệu như thể loại dâng lên vua chúa, chắc hẳn tình cảm cha mẹ dành cho con mình làm cho hương thơm này trở nên đặc biệt và lưu luyến... lựa một hồi Thuyết lấy ra ba cây hương to nhất, có mùi thơm nhất rồi vào phòng khẽ gọi vợ ra sau vách nhà mà thấp hương cho ba đứa con.

Chốc lát sau, cả ba con người hai lớn một nhỏ đã đến nơi chôn cất thi hài của ba đứa trẻ chưa đầy vài tích tắc thì lại có quỷ sự... trên một nấm mồ nhỏ xuất hiện một con chim kì dị, mỏ đỏ, thân xanh, cánh huyết, một chân nó cầm cái đầu con chuột chết, còn mỏ nó lại mổ lấy mổ để cái thân con chuột đến mức máu con chuột chảy thành dòng nhuộm ướt cả phần đất tanh tưởi, bỗng nó bay vút lên đọt cây sát bên, ánh mắt nó hiện rõ lên luồng ánh sáng đỏ huyết quỷ dị mà nhìn cả gia đình, người âm... lẫn kẻ dương, rồi nó hét lên một tiếng oai oán kinh tởm, bỗng gió từ đâu thổi về hùn hụt các cánh hoa bỉ ngạn bay tứ phương, mang theo mùi hôi thối như xác chết, ngước lên cây cả hai vợ chồng chẳng thấy con chim kì lạ ấy đâu nữa chỉ còn lại chiếc đầu chuột lăn lông lốc xuống mặt đất, thân xác con chuột vẫn còn trên cây mà đung đưa theo gió... thấy quỷ sự vừa xảy ra, con Hoài bỗng ớn lạnh mà rung người, thằng Thuyết ôm chặt hai mẹ con rồi lẩm bẩm:

- Mau mau lên!

Thắp hương cho con rồi vào nhà, gió lên rồi sắp mưa đấy mình à!

Thấy thế cái Hoài lần lượt cắm từng nén hương lên từng nấm mộ thì bỗng dưng gió ngừng đột ngột, hàng ngàn cánh hoa bỉ ngạn tơi lả tả xuống mặt đất, con Hoài ra vẻ hãnh diện rồi cất giọng:

- Con u là phải thế!, biết trời sắp đổ mưa mà hô trời hô đất làm trời tạnh hẳn đây này!, thôi cảm ơn ba đứa, thầy u vào nhà, tiện thì thầy u ra đây với tụi con tiếp!

Cứ thế cả gia đình ba người vào ngôi nhà ấm cúng ấy, họ trong nhà trò chuyện đôi phần an ủi lẫn nhau, có lúc lệ rơi, có lúc khẽ cười, có lúc lại rơi vào trầm tư, cứ như vậy cho đến chiều tối, làn sương đỏ cứ như thường lệ mà hóa hồng trong đêm tối, ánh trăng soi mói làm bừng lên những hạt sương long lanh, trong nhà bấy giờ chỉ còn đôi ba lát thịt trâu gác, thằng chồng lấy đôi ba lát ấy đặt lên chiếc giường chiếu tre, con Vợ lọ mọ trong bếp lấy bình rượu ra, cứ thế hai vợ chồng qua đêm trong ấm no, say nồng.

Sáng hôm sau, trong lớp sương tờ mờ, có tiếng gọi thân thương:

- U nó ơi!

Tôi ra ao kia câu vài ba con để trưa có cái mà ăn!

Con Hoài mạnh miệng đáp:

- Ông khoan hả đi!, đợi tôi đôi chút!

Lát sau, con Hoài bước ra từ căn nhà tre, trên tay cầm vò rượu kèm một lát thịt trâu đêm trước, rồi nói:

- Đây!

Đây này!, rượu thịt có đủ, ông đi thượng lộ bình an đấy!

Nói xong nó véo má thằng Thuyết, rồi cười ngây ngô như thể hai đứa còn tuổi trăng tròn, song nó kết thúc bằng nụ hôn ngọt lên má thằng Thuyết, thằng Thuyết đỏ ửng cả mặt, giang cánh tay thô cứng một cách rộng nhất rồi ôm chầm lấy hai mẹ con, miệng cười tủm tỉm rồi hôn lại vào trán hai mẹ còn, nó vừa rời khỏi ngôi nhà của mình vừa vẫy tay nghịch ngợm, con Hoài cũng chẳng kém một tay ôm con, một tay thả nụ hôn gió đến thằng Thuyết, trông cả hai dù đã chạt ba mươi nhưng khoảnh khắc ấy, họ như trơt lại tuổi trăng tròn, ngây ngô, khờ dại...

Thời gian cứ trôi, cứ trôi, đã trưa rồi mà thằng Thuyết vẫn chưa về, thế là con Hoài sinh ra lo lắng, nó bừn bế đứa con vẫn còn ti sữa mà lọ mọ đi theo con đường mòn đến cái ao mà mấy tên ngư dân hay đến.

Trên đường đi cái Hoài còn rủ thêm bà Huê vợ ông Liễu, hai người cứ đi cứ đi, đi qua cả cái nơi chôn xác thằng An con Sương, mọi người vẫn còn canh mộ trong cảnh mệt mỏi, chắc tầm một đêm nữa mới có thể ngừng việc giữ hồn giữ xác hai đứa trẻ, bỗng bà Linh trong đám người canh mộ con mình có linh cảm lạ, dòng máu ấm chảy trong cơ thể bà bỗng dưng hàn lạnh, e rằng có chuyện không hay, thời gian trôi qua dòng máu bà bây giờ như thể hàn huyết, nó ngày càng lạnh dần thấy thế bà chạy lòm khòm ra gặp hai người phụ nữ rồi xin đi chung biện lí đi tìm người, thấy thế cả hai cô gái một trẻ một ngót nghét bốn mươi cũng vui vẻ gật đầu đồng ý, đi đường vắng mà còn là phụ nữ thì tốt nhất là đi càng nhiều, cứ thế mà bốn con người lang thang trong rừng trúc, trong cảnh u ám vốn có...

Chưa đến nhất thì sau, trước mặt bốn con người là chiếc ao sắc biếc rộng mênh mông, hoa sen bông súng nở rực cả mặt ao, xen vào đó là cánh hoa bỉ ngạn theo gió mà cuốn đến nơi đây, rồi hạ xuống làn nước trong veo, làm nên cảnh sắc "huyết hồ”.

Cái Hoài ngước nhìn quanh, chẳng thấy bóng dáng thằng Thuyết đâu, nó lên giọng hỏi:

- Thuyết ơi!, ông đâu đấy?, tôi đến tìm ông đây!

Nó cứ gọi thế mãi, âm thanh hòa lẫn vào không gian lộng gió, vang rộng cả “huyết hồ”, tuyệt nhiên không một ai trả lời, khoảnh khắc bỗng chốc yên ắng, chỉ có mỗi tiếng gió vút, xa xăm lại có tiếng chim lợn oai oán, đứa trẻ trong tay con Hoài, bắt đầu chìm vào cơn buồn ngủ, thấy thế con Hoài đưa cho bà Linh giữ hộ mà đi quanh cái ao tìm chồng.

Hương thơm từ sen, từ súng xen lẫn mùi hăng của bỉ ngạn lan tỏa khắp cả ao, ở phía bà Linh, bất chợ ngửi thấy mùi đồng của máu, tanh tưởi và gớm ghiết, bà Huê đứng sát bên mà như thể sắp nôn, bà ta vừa kiềm chế vừa lớn giọng gọi cái Hoài cách đó không xa:

- Hoài ơi!

Hoài!, mày lại xem có mùi gì như mùi huyết người thế này!, nhanh lên nhanh lên!

Cái Hoài cũng tò mò mà chạy thẳng đến chỗ bà Huê, bà Linh cũng chậm rãi ôm đứa bé đi đến, hai người lại đến nơi thì mùi tanh tưởi lại càng nồng nặc, khiến mũi mấy người như nghẹt cứng, bà Huê nôn tại chỗ, thấy thế con Hoài như thể cũng muốn nôn, bỗng dòng nước xuất hiện màu đỏ thẫm của máu, bà Linh vừa mới liếc mắt qua nhìn thì đã thé

- Ối giời ơi!, lại có tang rồi!

C..có người chết ở ao rồi!, nhanh lên leo lên cái xuồng hoang đằng kia!, không..k..hông là sẽ có... thêm kẻ phải bỏ mạng nơi này đấy!, nhanh lên còn kịp!, qua một thì nữa thôi là hồn người này hóa ma hóa quỷ rồi lại hại người trong xóm mất!

Hai đứa kia nghe tiếng quát của bà thỉ hỗn loạn mà chạy tới chiếc xuồng hoang gần kia, kéo nó lại gần bờ rồi vội vàng ngồi lên.

Khoảng giang yên tĩnh bị xé nát bởi tiếng náo loạn của ba người phụ nữ, người nôn ọe bởi mùi máu tanh, người hốt hoảng, người còn lại thì khóc nức nở... bốn con người cứ lênh đênh trên mặt ao, làn nước yên tĩnh lạ thường, không một gợn sóng, làm ai cũng nổi gai óc, nó êm đềm đến mức có thứ gì đó như thể ẩn nấp dưới làn nước, như hơn vạn linh hồn kéo giữ mặt nước lại vậy, từ xưa nơi đây có một quan niệm về ao hồ, đấy là việc ao nào yên ao nào động, ao yên thường sẽ có vong hồn, ngạ quỷ, ma da, hà bá, những thế lực ấy làm cho mặt nước yên ắng để dễ dàng quan sát mà kéo con mồi trên bờ xuống để thế mạng cho nó, những chiếc ao này người dân Cấm Sơn hay gọi là Thủy Hồn Địa Phủ.

Đến giữa ao con Hoài hét lên đau đớn, hai người kia lẵng lặng nhìn con Hoài trách trời trách đất:

- Th...Thuyết... ph..phải...

ông không?, ông bị sao thế này...

ô..ông.. bỏ hai mẹ con tôi ư?, ai làm ông ra nông nổi này thế hả?...

Mới hôm qua, đã mất ba mạng con, hôm nay lại mất chồng, tâm trạng cái Hoài đã sụp đổ, mới hôm qua thôi... mới hôm qua thôi hai vợ chồng còn âu yếm, còn hanh phúc... mà bây giờ số con Hoài tựa như hoa bỉ ngạn, "có hoa mà chẳng có lá”, âm dương cách biệt... kể ra cái xác thằng Thuyết cũng thật thảm, cái đầu nó gần như lìa khỏi thân xác, thân thể nó bầm dậm máu tứa ra làn nước dụ dỗ mấy con vắt con đỉa lại hút máu, tấm lưng nó bị đĩa vắt bu lại mà hút máu, mắt nó trắng đục không hồn, trong tay còn cầm vò rượu hồi sáng, rượu vẫn còn nguyên chưa uống... con Hoài không ngại nước sâu mà nhảy xuống cái ao vạn hồn, tiếng nước bắn lên phá vỡ cái yên tĩnh của mặt hồ, từng đóa sen vây kịt nơi con Hoài nhảy xuống, cả bà Linh và bà Huê dường như không thấy dấu vết con Hoài đâu nữa, hốt hoảng quá, bà Huê cột sợi dây thuyền vào chân rồi nhảy xuống đám sen súng lềnh bềnh, vài phút sau bà Huê bơi hổn hển đến chiếc xuồng nhỏ trên lưng cổng theo cái Hoài và chồng nó, chẳng hiểu sao một người đàn bà lại có sức lực mạnh mẽ đến thế, đến cả ông Liễu cổng một người thôi đã đủ mệt, đằng này bà Huê lại vừa bơi vừa cổng một người một xác... bà Linh thấy thế bỏ đứa trẻ qua một bên rồi dùng hết sức lực kéo cái xác thằng Thuyết lên, rồi tới con Hoài, rồi tới bà Huê...

Nhất thì sau cái Hoài tỉnh dậy trên đám cỏ xanh, trước mắt là bà Huê, Linh rồi con của nó, kì lạ thay sau lưng bà Huê là một cái bóng đàn ông thê thảm, ẩn khuất ẩn hiện vô cùng mờ ảo, bà Linh cất giọng:

- M...may quá, mày còn sống, m..mày còn sống, nếu không thằng nhỏ này mồ côi rồi... ai nuôi cơ chứ?

Cái Hoài phất lờ niềm vui vẻ của bà Linh, Huê, nó bậc dậy rồi thét lên đau đớn:

- XÁC CHỒNG TÔI ĐÂU?

Nó vừa gào thét vừa quay qua quay lại tìm xác chồng mình, bỗng cái bóng người đàn ông ấy hiện lên trước mắt cái Hoài, rồi âm thanh từ đâu vọng về:

- Hoài ơi...

Thuyết được chôn rồi, Hoài đừng lo, đừng lo...

Giọng nói vừa kết giọng, cái bóng trước mắt hiện lên rõ hơn, đấy là thằng thuyết, nó giang rộng cánh tay ra như thể chờ thứ gì đó, cái Hoài nghe được giọng nói ấy, hình dáng ấy trước mắt nó khóc nức nở rồi chạy lại mà ôm cái bóng, nó vừa ôm chặt cơ thể lạnh tanh ấy rồi nói:

- E...em.. buồn lắm... em..em không muốn mất người em thương đâu, anh...anh..

Cái bóng nhìn cái Hoài rồi mỉm cười, giọng nói hòa lẫn trong gió lại xuất hiện:

- Thật ra lúc con chim ăn dở con chuột mất đầu, là lúc điềm báo về cái chết của anh xuất hiện... số trời đã định thế rồi, chúng ta không thể bên nhau trọn kiếp được...

đến cả anh còn không biết sao mình mất... có khi đây là nghiệp chúng ta phải trả... không sao đâu... không sao đâu!... kiếp sau ta sẽ gặp lại nhau mà... em đừng buồn..

Cái Hoài đáp lại:

- Anh chết bỏ lại mẹ con em thế này thì sống làm cái thái gì nữa... không bằng... không bằng việc em chết đi còn hơn... biét rằng đây là nghiệp... nhưng ông trời ông tàn nhẫn quá rồi đấy!, tôi có lỗi lầm gù mà phải đến nông nỗi này cơ chứ?

Nó vừa nói vừa khóc, nước mắt nước mũi tèm nhem, lúc sau nó trờ về hiện thực, Bà Linh thừa biết nó vừa gặp gì rồi lại gần nó , trên tay bế đứa trẻ, bã hất đầu ra vẻ đi theo... bà Huê lại gần rỗi khẽ vỗ vai an ủi người em của mình, rồi quay lưng đi về phía lối mòn...

Thế là bốn mạng người đi theo lối mòn ra khỏi cái ao quỷ quyệt, không khí thật khác lạ so với một canh giờ trước, tiếng gió vút cùng tiếng lá cây xà xạt xen kẽ là tiếng nức nở của cái Hoài làm nên cảm giác thê lương đau khổ, giữa đường đi cái Hoài cất giọng êm dềm:

- Tôi biết chúng tôi có nghiệp quả từ kiếp trước chưa trả... nhưng có thật là nghiệp quả chúng tôi lớn đến mức đó..h..hay chúng tôi cũng như con Sương Thằng An gánh nghiệp thay cái xóm này cơ chứ?, số đã khổ khó có con.. mà có thì lại bị giết hơn một nửa, còn hai vợ chồng với đứa nhỏ nhưng chồng lại chết một cách quá đáng, chưa đầy ba ngày mà đã đi tong bốn mạng người, giờ còn mỗi hai mẹ con tôi... yêu thương nhau mà sống.

Con Hoài bây giờ đã mang mác mẹ đơn thân, không chồng nương tựa, nỗi đau lấn chiếm thâm xác tâm hồn, làm người con gái hồn nhiên vui vẻ trở nên tiều tụy hơn bao giờ... bà Huê bỗng nhớ đến một chi tiết, rồi nói:

- Có lẽ điềm báo đã đến sớm mà tôi lại không nhận ra cơ chứ... chuyện là ông Liễu đi đào sâm mà lại đào được củ sâm không đầu, trên thân nó chi chít vết thương... tôi.. cảm giác mình có lỗi quá...

Cái Hoài tiếp lời:

- Chị không có lỗi, lỗi là do hai vợ chồng tôi được sinh ra trên cái đất ác nghiệt này, giết người là chuyện thường... mà sống lương thiện là chuyện hiếm... bây giờ tôi như con chim én mất chồng.. tôi muốn chết đi để được đoàn tụ với chồng con ở dưới kia... tôi nhớ anh ấy lắm, phúc ba đời mới lấy được người như anh... mà giờ lại ra nông nổi này , thật thảm hại mà... tôi cũng yêu anh ấy thật lòng mà giờ anh ấy chết đi tôi cũng chẳng muốn tái hợp với ai khác...

Bà Linh quát nhẹ cái Hoài:

- Thôi đi mày, mày nghỉ quẩn mà chết thì đứa con này ai nuôi, nó chết luôn là mày tạo nghiệp kiếp sau mày trả nặng hơn nữa, không bằng mày sống trọn kiếp này, kiếp sau trời thương còn có cơ hội gặp lại thằng Thuyết.

Không gian yên lắng lại, ba người cứ đi cứ đi cho đến khi thấy người trong xóm, bà Linh đãn cái Hoài đi đến cái mồ của chồng nó, nơi ấy người bu kín, ai cũng nhiều chuyện mà bàn tán, cái Hoài trong đám người xô đẩy mà lẻn vào, đến trước huyệt mộ, xác chưa chôn, nó chạy lại bên cái xác rồi nói:

- Ông... ra đi thanh thản.. tôi.. tôi sẽ gắng nuôi con, sống trọn kiếp này... kiếp sau chắc chắn ta gặp nhau...

ông đợi tôi...ông đợi tôi nghe chưa?

Nó rưng rưng rồi hôn lên cái má lạnh toát của thằng Thuyết, đám người la lên:

- Tránh ra mau lên nước mắt mà rơi vào xác chết là không hên đâu con kia!

Đám người đá cái Hoài ra rồi bỏ cái xác vô hòm, đóng đinh chặt nắp rồi hạ huyệt, từng lớp đất tanh tưởi đè lên cái hòm mà làm cái Hoài đau xót, thấy thế nhiều người trong xóm bu lại cái Hoài mà an ủi nó... con người nơi đây đã lấy lại nhân tính rồi chăng?, trước giờ ít ai mà mở mồm an ủi nhau mà bây giờ xúm lại vỗ vai, ôm ấp...

Con Hoài nguyên ngày hôm ấy trông thật ảm đạm, nó chắc xót lắm mà làm được cái gì bây giờ, khoan hồn mà sống trọn kiếp này để có cơ hội gặp lại người mình thương...

Tối đến, trong gian phòng chỉ còn hai mẹ con ôm nhau mà ngủ cho qua ngày, bỗng có bàn tay ấm áp ôm qua eo làm cái Hoài rùng mình... nó ngước nhìn sau lưng thì lại đổ lệ:

- ...

Th...

Thuyết..

ư?, anh.. anh.. về đây thăm mẹ con em à...?

Anh biết không?

Từ khi anh mất em cứ nghĩ đến cái chết mãi... may mà nhờ bà Linh em mới có động lực sống tiếp... anh..anh ráng đợi em, đến khi em già.. em chết ta sẽ được đoàn tụ... kiếp em là kiếp của bỉ ngạn hoa, kiếp chia ly, kiếp đau khổ, mất chồng.. mất cả con... em buồn lắm...em...em

Thằng Thuyết cất giọng bảo:

- Em đừng khóc nữa, để sức mà nuôi con đi... chúng ta không thuộc về nhau rồi, chúng ta chẳng thể nào sống trọn vẹn kiếp này thì chăc rằng kiếp sau sẽ khác mà....

Thằng Thuyết dùng tay lau nước mắt vợ nó, cách biệt giữa âm và dương dường như không tồn tại ở giây phút này, một người một ma nói ra nỗi lòng của mình xuyên đêm, cuối cùng con Hoài ngủ ngon lành trong vòng tay của linh hồn thằng Thuyết...

Đôi uyên ương thật đẹp mà số phận cũng thật bi đát “ có hoa mà chẳng có lá”...

“ có lá mà chẳng có hoa”... cái chết là cách kết thúc một cuộc tình nhanh nhất mà lại đau đớn, thê thảm hơn tất cả cách thức nào...
 
Back
Top Bottom