Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
420,166
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
AP1GczOltcOSGhTnRt4AVkite3pPnuZH4xWnmsEC05Q7Sw-9Z6Rmq5mgXzZBJ_uMM3Gwh8rjRuVS0tTQ_uUY10YiouTub9ya20NaQAcDTxwMUIcEe-tAQLxFzgcO8rV2dF9RCgM1qw9z33rhar_9KtSfa-tO=w215-h322-s-no-gm

Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Tác giả: Đao Thượng Phiêu
Thể loại: Ngôn Tình, Huyền Huyễn, Cổ Đại, Ngược
Trạng thái: Đang ra


Giới thiệu truyện:

Thể loại: Ngôn tình | Cổ đại | Huyền huyễn | Ngược luyến | Góc nhìn nữ chính | Phi song khiết | HE

Văn án
Cuộc đời A Bảo là một chuỗi những câu chuyện kỳ bí.

Xuất thân từ đất Thục, từng làm khất cái, gian nan đến Dương Châu, trở thành con hát kỹ viện, may mắn là gặp gỡ Tuyên Vương nhất kiến chung tình với nàng, bỏ tiền chuộc nàng ra, cưới nàng về làm vợ.

Tuyên Vương đăng cơ, nàng được sắc lập làm Hoàng hậu, bị sử quan mắng, bị ngự sử mắng, bị người đời khắp thiên hạ mắng, kiếp sống bi thương, ngay cả một hàn lâm nhỏ nhoi cũng dám cự tuyệt vẽ tranh cho nàng, hại nàng trở thành trò cười lớn nhất trong cung.

Ngày ấy chết đi, cuối cùng A Bảo cũng được thở phào một hơi.

Được giải thoát rồi.

Nhưng vừa mở mắt ra ⎯⎯

Nàng trở thành cô hồn dã quỷ, ngày đêm nấn ná ở quanh một nam nhân, không rời đi được.

Dưới ánh nến nhìn thân ảnh gầy gò của người nọ cầm bút vẽ tranh, A Bảo lặng lẽ mắng câu ‘thô tục’.

**

Lương Hoằng, tự Nguyên Kính, xuất thân thi thư hiển tộc, giọng nói trong trẻo, mười lăm tuổi đã vang danh khắp thiên hạ, được nhận vào cục Hàn Lâm vẽ tranh, làm ngự dụng họa sư trong cung. Chàng mang vẻ đẹp tinh tế như hoa cỏ sông núi, thuần khiết như lông vũ như tre đá, cái gì cũng giỏi, giỏi nhất là cầm bút hoạ người, người đẹp vẽ gì cũng đẹp, hoạ bức nào cũng đều thành tuyệt phẩm, nói chung là hiếm có khó tìm.

Nhưng người đời không biết là, tác phẩm tâm đắc nhất trong đời này của Lương Nguyên Kính, là một bức mỹ nhân đồ được chàng dẹp sâu dưới đáy rương.

Mỹ nhân trong bức hoạ lấy quạt tròn che mặt, khuôn mặt xinh đẹp cười nhẹ, chính là phế hậu A Bảo năm đó.

**

Năm mười lăm tuổi, Lương Nguyên Kính du ngoạn đến Xuyên Thục, dưới núi Thanh Thành gặp được một tiểu cô nương bán nghệ đầu đường, gọi là A Bảo, tính tình đanh đá, thích ăn bánh ngọt, tay ôm đàn tỳ bà.

Sau đó đến nạn châu chấu, mấy chục vạn người thường biến thành lưu dân, mấy năm đó chàng đau khổ tìm nàng, trước sau không thu hoạch được gì.

Thẳng đến ngày vào Cấm Uyển hoàng gia, chàng phụng chỉ hoạ một bức cho tân hậu, một nữ tử đoan trang từ trong bụi hoa chậm rãi đi tới, gương mặt chàng thay đổi không ngừng, thị nữ bên cạnh gọi nàng ⎯

“Hoàng Hậu nương nương”.

Hoàng hậu mất sớm X Hoạ sư hiền hòa.

(A Bảo X Lương Nguyên Kính)

Truyện này còn có tên là《 Sau khi ta chết biến thành hồn ma bám vào người ta ghét nhất, phải làm sao bây giờ 》

**

Cần biết:

1. Nữ chính từng gả chồng, nên nam sạch nữ không, nhưng không cần quan tâm tới chồng trước đâu, gạt tra nam Hoàng Đế sang một bên đi.

2. Hư cấu dựa theo thời Tống, xin đừng nghiên cứu nguyên bản.

3. Nhân vật nữ chính tham khảo Chân Tông Hoàng Hậu Lưu Nga.

Một câu tóm tắt: Hoàng Hậu bớt giận, ta vẽ tranh nuôi nàng.

Lập ý: Ái nhân giả nhân hằng ái chi. *

* Ái nhân giả nhân hằng ái chi, kính nhân giả nhân hằng kính chi.

Câu nói này của Mạnh Tử nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng nhân ái và sự tôn trọng trong các mối quan hệ giữa người với người. Nghĩa là khi chúng ta đối xử tốt với người khác, chúng ta sẽ nhận lại sự tốt đẹp tương tự.​
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 1: [Cung oán] Phế hậu



A Bảo mở cửa sổ ra, hơi gió lạnh lẽo từ ngoài thổi vào, trong gió hình như thoang thoảng mùi hoa.

Nàng nhắm hai mắt, cố sức ngửi ngửi, không xác định rõ.

Trong phòng quá nồng mùi thuốc, nàng đổ bệnh suốt cả mùa đông, cái mũi cũng đã bị mấy chén thuốc vừa đặc vừa đắng đó làm cho hỏng.

A Bảo chống người dậy, vươn nửa người ra cửa sổ, cật lực nghiêng đầu nhìn xem, mơ hồ thấy cây lê ở đình viện đã nở hoa, đoá hoa phấn trắng nở rộ trên nhánh cây, còn có vài cánh hoa phiêu tán bay trong gió.

Hoá ra đã là mùa xuân rồi.

Vào lúc A Bảo đang muốn vươn ra thêm, bỗng nhiên đằng sau có người túm cánh tay nàng lại, một tiếng ‘bang’, cửa sổ bị đóng lại.

Ngô thị mặt mũi không tán đồng nhìn nàng, nhíu mày khoa tay múa chân với nàng.

Không được để trúng gió, sẽ bị cảm lạnh.

A Bảo giải thích: “Ta chỉ mới mở thôi, thời gian còn chưa đầy nửa chén trà nhỏ.”

Ngô thị không cử động, tiếp tục nhìn nàng chằm chằm.

A Bảo lại năn nỉ nói: “Cho ta ngắm đi mà, bên ngoài hoa đều đã nở hết rồi.”

Ngô thị vẫn đứng bất động.

Bà là người câm, chứ không hẳn bị điếc, chỉ là có chút lãng tai. Đôi khi A Bảo nói chuyện với bà, bà có thể nghe thấy được, ngẫu nhiên còn sẽ làm cử chỉ trả lời lại. Chỉ có khi nào A Bảo đưa ra yêu cầu không hợp lý, bà mới như không nghe thấy, vì vậy A Bảo cảm thấy bà ấy đang cố ý giả vờ câm điếc.

Điều này thật sự giống tra tấn người khác, A Bảo thích náo nhiệt nhất, miệng không lúc nào nhàn rỗi, mỗi một khắc không ngừng tìm kiếm người để nói chuyện cùng.

Ngô thị điếc đã đành, ngày từ đầu thật sự nghẹn hỏng nàng rồi, đến bây giờ cũng thành thói quen, cái gì liên quan đến nàng đều lười biếng nói tới.

Nhất định là Triệu Tòng cố tình trừng phạt nàng.

Người này xưa nay rất ấu trĩ, lúc cãi nhau với nàng, luôn lệnh các cung nhân không được nghe theo nàng, phái người câm tới hầu hạ, thật là quá thích hợp.

A Bảo nhìn nếp nhăn trên mặt của Ngô thị, thở dài: “Đừng nghiêm túc vậy nữa… Nghiêm túc, khụ… khụ khụ…”

Lời còn chưa dứt, nàng đã ho khan kịch liệt.

Ngô thị vội vàng vỗ vỗ giúp nàng thuận khí, xong ôm tới mấy cái chăn gấm, từng lớp từng lớp đem nàng quấn lại.

Sau khi A Bảo ho khan được một lúc lâu mới ngừng, gương mặt tái nhợt cũng ửng hồng trở lại, kéo cánh tay Ngô thị thở d.ốc nói: “Đừng… Đừng quấn nữa, sắp thành cái bánh chưng rồi.”

Tôi đi sắc thuốc. – Ngô thị khoa tay múa chân.

“Có thể không uống không?” Vẻ mặt A Bảo đau khổ.

Xưa nay nàng thích ngọt sợ đắng, sợ nhất là uống thuốc, thật không hiểu vì sao đại phu trên đời này chế thuốc đắng đến vậy, nếu như thuốc được làm từ đường, nàng có thể tự uống được.

Trả lời lại nàng chính là bóng dáng vội vã rời đi của Ngô Thị.

Bà ấy rời đi không lâu, A Bảo lập tức nhảy khỏi chăn gấp, lần nữa mở cửa sổ ra.

Nàng tuỳ tay gỡ cây trâm ngọc xuống, gõ lên bệ cửa sổ, chậm rãi hát: “Song sa lần xế bóng chiều, Nhà vàng ai thấy giọt sầu thấm khăn. Sân không vắng vẻ tàn xuân, Hoa lê đầy đất mấy lần cửa sân.” [1]

[1] Xuân oán – Lưu Phương Bình và bản dịch của Trần Trọng Kim, thivien.net.

Đổ bệnh đã lâu, giọng nói đã trở nên mất tiếng khó nghe, còn nhớ rõ năm xưa lúc ở Minh Thuý phường, khúc ⟪lục châu ca đầu⟫ của nàng vang danh khắp Dương Châu, ngay cả Đại Từ Nhân Liễu Thuyền trứ danh còn hỏi nàng từ đâu đến, tán thưởng nàng “Giọng hát uyển chuyển, đương thời đệ nhất”.

A Bảo ho khan vài cái, tiếp tục hát “Chưa lạt má hồng, ơn đã dứt, Lò hương ngồi đến tận bình minh.”

[2] Hậu cung từ – Bạch Cư Dị và bản dịch của Ngô Văn Phú, thivien.net.

Nàng hát xướng một câu thêm một câu, lúc hát đến câu “Hà tất trân châu xoá tiêu điều” [3], xa xa trông thấy bên ngoài bức tường cung xuất hiện một màu đỏ trang nghiêm.

[3] Nhất hộc châu – Giang Thái Tần và bản dịch của 17, thivien.net.

Lãnh cung xa xôi hẻo lánh, sẽ không có quý nhân nào đi ngang qua, trừ phi là có người cố ý đến trước cửa bái phỏng.

Sau thời gian dài, A Bảo cũng đợi được vị khách này.

Nàng nghiêng người dựa trên giường, cũng không đứng dậy chào đón, chỉ lười nhác cười nói: “Tiết mỹ nhân, hiếm khi có khách, ngọn gió nào đã thổi ngươi tới đây vậy?”

“Làm càn! Dám vô lễ với Quý phi nương nương!” Một thị nữ nổi giận nói.

“Quý phi?”

A Bảo nhướng mày cười lạnh: “Ha, xem ra mới được thăng lên, lần này ngồi chắc vào, ngàn vạn đừng để rơi xuống, ngươi xem một khi hổ lạc Bình Dương, chó mèo gì cũng dám leo lên đằng đầu.”

“……”

Bị nàng chế giễu thành ‘chó mèo’ sắc mặt thị nữ sưng đến đỏ, đang muốn mắng lại thì bị Tiết Hành phất tay ngăn lại: “Không sao, ngươi lui xuống đi.”

Thị nữ tiếp nhận áo choàng trong tay nàng, vẻ mặt căm giận bất bình đi ra ngoài.

Tiết Hành tự mình tìm cái ghế bành đoan trang ngồi xuống, nhìn chằm chằm A Bảo một lát, đột nhiên nói: “Cô tiều tụy đi rất nhiều.”

“Phải không,” A Bảo nhàn nhạt nói, “Trong lòng thấy rất vui đi?”

Tiết Hành lắc đầu: “Cũng không phải.”

“Đừng như thế, làm người cũng phải có lúc thành thật, dù ngươi có cười thật to ta cũng sẽ không trách ngươi đâu.”

“……”

Tiết Hành quay đầu đánh giá bày trí trong phòng, ngược lại hỏi: “Mấy ngày ở đây, cô thấy sao?”

“Còn tốt,” A Bảo nói, “Chỉ là có chút nhàm chán, hầu hạ ta là một người câm, không nói chuyện được, hay là muội muội tới bồi ta đi? Ngươi cũng biết, tính tình ta không chịu ngồi yên mà.”

Tiết Hành nghe đến đó, chỉ nhấp môi cười: “Cô vẫn còn ghi hận tôi à?”

A Bảo lắc đầu, gõ nhẹ ngọc trâm trong tay: “Ân oán chúng ta đã giải quyết xong, ngươi hại ta mất đi một đứa con, ta cũng khiến ngươi mất đi một đứa con, coi như công bằng.”

Tiết Hành giương mắt, nhìn thẳng nàng hỏi: “Nếu tôi nói cho cô biết, người lúc trước làm mất đứa con kia của cô không phải tôi thì sao?”

“Răng rắc⎯”

A Bảo siết chặt tay, ngọc trâm gãy làm đôi.

Nàng nắm chặt bàn tay, cây trâm vỡ đâm thật sâu vào lòng bàn tay, máu trào ra, không kìm được đau đớn, đầu óc mơ màng, tất cả đều vì câu nói vừa rồi của Tiết Hành.

“Ngươi… Ngươi có ý gì? Vì sao không phải ngươi, năm đó là ta đã ăn đĩa bánh quế hoa ngươi đưa, cho nên ta mới…”

“Nên cô mới sinh non,” Tiết Hành bình tĩnh nối tiếp câu chuyện, “Đúng là tôi phái người đưa bánh quế hoa tới, nhưng cô có biết, là ai sai khiến tôi không?”

Là ai, ai mới có thể hạ lệnh được với cung phi ngũ phẩm này.

A Bảo nhấp chặt đôi môi, trên mặt không còn một giọt máu.

“Là quan gia.” Tiết Hành đưa ra đáp án cho nàng.

“Không, là ngươi đang gạt ta!”

Bỗng nhiên A Bảo từ sập mỹ nhân đứng lên, đẩy bộ trà cụ trên bàn xuống, tóc dài tán loạn, hai mắt đỏ hồng trừng mắt nữ nhân trước mặt.

“Ngươi cho rằng ta sẽ tin ngươi à? Ngươi cũng chỉ đang muốn đến xem trò cười của ta thôi! Cút! Cút cho ta! Ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa!”

Nàng ném đoạn trâm trong tay lên người Tiết Hành.

Tiết Hành cúi đầu phủi vệt trà văng trúng váy, giọng bình thản nói: “Năm đó, cô đang mang thai, trong triều nói bào thai này của cô lai lịch không rõ ràng, sợ không phải là huyết mạch của quan gia. Bất luận lời đồn đãi là thật hay giả, tóm lại đều có lợi với tôi, vì sao tôi phải loại bỏ thai đó của cô? Cô hoài thai một ngày, sẽ chịu phỉ báng thêm một ngày, đối với tôi chỉ có chỗ tốt, không có chỗ hỏng.”

“Người thật sự không mừng đứa con kia của cô, chỉ có quan gia. Y càng nghi kỵ cô, nhưng không cách nào xuống tay với đứa bé, chỉ có thể mượn tay tôi, tôi gánh chịu tội ác này thay y. Từ Quý phi biếm xuống Mỹ nhân, cha tôi cũng vì vậy mà từ quan về hưu, với quan gia mà nói, là một công đôi việc.”

Tiết Hành ngẩng đầu, gằn từng chữ: “Hoàng Hậu nương nương, cô thật sự cho rằng tôi sẽ ngu xuẩn đến nỗi tặng đĩa điểm tâm có độc cho cô sao? Hết thảy cũng do sự bày mưu tính kế của quan gia thôi.”

Nói xong câu này, nàng tưởng đã thành công khiến A Bảo giận tím mặt, nhưng A Bảo chỉ hờ hững nhìn nàng, giữa môi lạnh lùng phun một chữ: “Cút.”

Tiết Hành hơi giật mình, thoáng chốc sáng tỏ, trong mắt mang theo tia thương tiếc.

“Cô biết, cô vẫn luôn biết được, chỉ là không dám thừa nhận.”

“Cút.”

A Bảo dồn dập thở d.ốc, hành động kịch liệt vừa rồi đã rút sạch sức lực ít ỏi còn lại của nàng.

Tiết Hành nghe lời đứng dậy, vừa ra đến trước cửa, nửa đầu quay lại, trong hư ảo nhẹ giọng nói: “Biết không, cô thực đáng thương.”

Cánh cửa mở ra đóng lại, mùi thuốc theo gió bay vào, A Bảo lấy khăn tay che lại mấy tiếng ho nặng nề, trong cổ họng nảy lên vị tanh ngọt, mở khăn tay ra, mặt khăn lấm tấm vài vết máu, giống hồng mai sau tuyết.

Một bóng người yên tĩnh dừng trước nàng.

Uống thuốc. – Ngô thị khoa tay múa chân với nàng

A Bảo ném đi khăn tay đã bẩn, ngẩng đầu nói với bà: “Đi kêu Triệu Tòng tới đây.”

Khuôn mặt luôn luôn vô biểu tình của Ngô thị cuối cùng cũng có chút gợn sóng, cho dù đã lâu như vậy, A Bảo vẫn theo thói quen gọi thẳng tên huý của Đế Vương.

A Bảo lạnh mặt nói: “Đừng giả vờ không nghe thấy, ta biết bà không bị điếc, cũng biết bà có thể tìm được hắn.”

Ngô thị nâng hai tay lên, tựa như muốn khoa tay múa cái gì đó.

A Bảo trực tiếp đánh gãy: “Bà đi nói cho hắn, nếu hắn không tới, ta lập tức treo cổ tự vẫn.”

Ngô thị: ……

“Ta nói thật.” A Bảo uy h**p.

Mấy lời giống vậy, nàng đã nói qua vô số lần, trước kia cãi nhau với Triệu Tòng, nàng luôn dùng chiêu này buộc hắn cúi đầu trước, Triệu Tòng mắc mưu rất nhiều lần, sau này biết nàng chỉ mạnh miệng, chiêu thức một khóc hai nháo ba thắt cổ càng ngày càng không dùng được.

Còn nhớ rõ ngày nọ, bọn họ không biết vì chuyện vặt gì kích động khoé miệng, Triệu Tòng nói không lại nàng, tức giận phất tay áo bỏ đi.

Nàng tìm lụa trắng treo lên trên cao, diễn lại trò mèo cũ.

Các cung tì nội thị ôm chân, lấy ghế, còng lưng quỳ rạp trên mặt đất, có người rống to, “Hoàng Hậu nương nương lại thắt cổ nữa rồi!”, còn có người tiến đến bẩm báo cho Triệu Tòng, trật tự rành mạch, không chút hoảng loạn.

Không ngờ Triệu Tòng biết được việc này, vẫn ung dung thong thả dùng xong cơm trưa mới đến, khiến A Bảo tức giận đến mức muốn bay lên trời, để Triệu Tòng ôm nàng, kêu rống thêm một lúc lâu mới nguôi giận.

Triệu Tòng còn từng mỉm cười nói, tẩm điện của nàng nhất định là cung điện được lau dọn sạch sẽ nhất, bởi vì lâu lâu thành nhà cao đã sớm bị nàng dùng lụa trắng lau khô.

Tốt lắm, A Bảo nghĩ thầm, hy vọng lúc này hắn đừng dùng xong bữa tối mới đến.

Ngô thị còn chần chờ, sắc mặt thay đổi liên tục, cuối cùng vẫn xoay người ra cửa, trước khi đi còn làm ra dấu với nàng.

Nhớ uống thuốc.

“Biết rồi, bà mau đi đi.”

A Bảo tùy ý vẫy vẫy tay, nhưng vừa chờ bà đi xong, mau chóng đem chén thuốc nóng vị khó uống kia đổ vào chậu mai gầy.

Hoa mai kia không biết đã bị nàng đổ bao nhiêu chén thuốc vào, rễ đã sớm hư muốn chết, căn bản không nở được hoa.

Chậu hoa này được Triệu Tòng phái người đưa tới vào đêm giao thừa.

A Bảo bỗng nhiên nhớ lại.

Nàng trào phúng lắc đầu, đi đến trước bàn trang điểm, thấy chính mình trong gương, đột nhiên hoảng sợ.

Nữ nhân trong gương tóc tai tán loạn, gầy trơ cả xương, hai hốc mắt lõm sâu, sắc mặt xanh trắng giống quỷ nữ, duy chỉ có đôi môi đỏ tươi, môi dưới còn sót lại chút máu, càng thêm vẻ quỷ quyệt tối tăm.

A Bảo: “……”

Vừa rồi nàng lấy cái phẩm hạnh này đi đối phó với Tiết Hành sao?

Ông trời ơi, Tiết Hành làm thế nào để không cười ra thành tiếng?

Lần đầu A Bảo cảm thấy những lời về Tiết gia tam nương tử “Ôn nhu hòa nhã, tiến lui vừa đủ, khuê nữ chi môn” có lẽ cũng không phải a dua nói quá sự thật.

Nàng nhặt lược gỗ lên chải mái tóc dài thẳng, sau đó cầm bút than qua loa vẽ vài nét mi. Bỗng nhiên mất hết hứng thú, ném bút than đi, mông lung nghĩ ngợi, không thú vị, tất cả đều vô nghĩa.

Nếu chờ Triệu Tòng tới đây, nàng còn có thể nói được gì đây?

Nàng và hắn, đã không còn gì để nói nữa rồi.

A Bảo ngửa đầu nhìn độ cao của xà nhà, đáy lòng đã quyết. Từ hòm xiểng lấy ra vài món áo cũ, đem ống tay áo thắt thành mấy cái nút thắt, thuần thục ném hoành lên trên. Dùng sức đo thử, đã chắc chắn, chiều dài cũng vừa vặn, quả nhiên nàng vẫn rất có kinh nghiệm làm điều này.

A Bảo chuyển cái ghế con qua, dẫm lên, sau đó đặt cằm vào, một chân đá văng ghế con.

Mất đi điểm tựa, hai chân A Bảo đạp lung tung giữa không trung, lụa trắng gắt gao thắt chặt xương cổ họng, khiến nàng muốn nôn mửa, cảm thấy rất thống khổ, nhưng dần dần nàng bắt đầu mất đi cảm giác đau đớn.

Trước mắt một mảnh mơ hồ, có lẽ gần chết nên sinh ra ảo giác, hoa lê bay tán loạn, nàng thế mà thấy được Triệu Tòng đem sắc mặt hoảng loạn, lảo đảo chạy tới chỗ nàng…

Đời này đến đây thôi, vĩnh biệt, Triệu Tòng.

A Bảo an yên nhắm hai mắt lại.

Mùa xuân Hi Hoà năm thứ tư, phế hậu qua đời, hưởng dương 26 tuổi.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 2: Vong hồn



Ba năm sau, sông Biện Hà tuyết băng bắt đầu tan, chào đón mùa xuân quay trở lại.

Đô thành Đại Trần, số dân cư Đông Kinh đã nhiều đến trăm vạn, vải lụa trà sứ của Giang Nam đều nhập từ thuyền hàng Đại Vận Hà, nơi đây rộng lớn đông đúc nên hàng hoá được du nhập liên tục, cũng là lúc đô thành phồn thịnh náo nhiệt nhất.

Hoa đào nở rộ hai bên bờ sông, trong thành trở nên ấm áp, mỗi lần đến dịp Tết Thanh Minh, cảnh xuân trong thành không mấy tốt đẹp. cho dù là hoàng thân quốc thích hay hoạn quan, hay là bá tánh thường dân, đều tận dụng cảnh sắc dịp xuân khả quan hơn để mang cả gia đình ra khỏi thành đi đạp thanh thả diều.

Mọi người đều có việc đặc biệt để làm, không bao gồm Lương Nguyên Kính.

Khi còn ở độ tuổi niên thiếu hắn đã trải qua một đợt bệnh nặng, suýt chút nữa bỏ mạng, ảnh hưởng về sau hoàn toàn bình phục thì phổi bị tổn thương, lúc thì tốt lúc thì không. Tuy Đông Kinh cảnh sắc thanh bình hoa liễu rũ ven đê, nhưng mỗi khi xuân đến, hoa cỏ nảy mầm, gió thổi phấn hoa bay đầy, khiến yết hầu hắn phát ngứa liền ho khan không dứt.

Sắc trời hôm nay trở đẹp, hắn lại trốn trong nhà đọc sách.

Mới vừa lật qua một trang, A Bảo nhíu mày nhìn sách nói: “Ta còn chưa xem xong đâu.”

Lương Nguyên Kính ngoảnh mặt làm ngơ, tốc độ đọc nhanh như gió, đầu ngón tay nhẹ vê vê, lật qua thêm tờ nữa.

A Bảo duỗi tay chạm vào trang sách, cái gì cũng không sờ được, tay lập tức xuyên qua sách, thậm chí xuyên thấu qua cả án thư.

Được rồi.

Tình hình vẫn như cũ, so với ba ngày trước, không có chút biến hoá.

A Bảo vòng qua án thư, ngồi đối diện với nam nhân, tay phải quơ qua quơ lại trước mắt hắn: “Nè, Lương Hoằng, Lương Nguyên Kính, ngươi thấy được ta không?”

Lương Nguyên Kính rũ mắt chuyên chú đọc sách, vẻ mặt vẫn không dao động.

A Bảo chống cằm, đôi mắt chớp hờ nhìn chằm chằm hắn, đến khi mình biến thành gà chọi mắt, cũng không nhìn ra hắn có gì không đúng, đành phải mất hứng thu hồi tầm mắt.

Bỗng nhiên có tia sáng xẹt ngang đầu, nghĩ đến gì đó, hai tay chống lên bàn, nửa người chậm rãi tìm tòi Lương Nguyên Kính, một thước [1], nửa thước, ba tấc [2], hai tấc……

[1] Đơn vị thước = ⅓ mét.

[2] Đơn vị tấc = 1 dm.

Khoảng cách dần dần rút ngắn lại, Lương Nguyên Kính vẫn như cũ không có vết nứt.

“Còn bất động thì thôi.”

A Bảo giảo hoạt cười, đột ngột tiến lại sát vào.

Khoảng cách này khiến hai người gần như chạm vào nhau, mặt dán mặt, môi A Bảo kém chút nữa là có thể in lên môi hắn.

Trong chớp mắt, lông mi của Lương Nguyên Kính dường như hơi run lên.

A Bảo chưa thấy rõ, tư thế này của nàng, tầm nhìn bị giới hạn.

Nàng không thể không nới ra chút khoảng cách, không chắc chắn hỏi: “Ngươi mới vừa chớp mắt, đúng không?”

Vẻ mặt của Lương Nguyên Kính trước sau cũng không có gì khác biệt, vẫn như cũ hết sức chuyên chút đọc sách, tay chân cũng không hề trì trệ, phảng phất cái chớp mắt vừa rồi là do A Bảo ảo giác.

Xem ra là thật sự không nhìn thấy nàng nha.

A Bảo không biết vì sao, sâu dưới đáy lòng có chút mất mát.

Ba ngày trước, nàng tự mình trợn mắt trong mảnh đen hắc ám, bắt đầu thấy hoảng sợ bởi vì nàng nhớ rất rõ ràng mình đã chết, còn tưởng rằng sẽ xuống địa ngục, nàng thấy chỗ mình bị thu hẹp. Chật chội, ngay cả tay chân cũng không còn chỗ để, chỉ có thể khúm núm cuộn tròn lại, A Bảo còn cho rằng sau khi bản thân chết đi sống lại, bị nhốt vào trong quan tài.

Nhưng nghĩ lại thì thấy không đúng, bởi vì nàng không cảm nhận được hơi thở.

Ngay sau đó, A Bảo sởn tóc gáy phát hiện, nàng thế mà có thể không cần thở nữa, trong bụng cũng không thấy đói khát, tay chân cuộn tròn lâu như vậy cũng không có cảm giác tê dại đau nhức.

Nàng tuyệt đối không phải người còn sống, bởi vậy A Bảo hiểu được, nàng vẫn là đã chết, chẳng qua không biết vì sao lại bị nhốt ở một nơi đen tối u ám.

Nếu biết trước được sau khi chết gian nan thế này, nàng lập tức bất tử.

Bất quá nước đổ đi không hốt lại được, bất luận A Bảo hối hận nhường nào, người đã chết chính là đã chết, nàng ở trong bóng tối mơ màng hồ đồ trôi qua hơn sáu tháng. Tất nhiên, nàng không có khái niệm thời gian, sở dĩ biết được đại khái qua lâu như vậy là hoàn toàn thông qua tiếng gà gáy truyền đến.

Cho đến ba ngày trước, A Bảo gặp lại ánh sáng.

Người đầu tiên nhìn thấy được, không phải Lương Nguyên Kính mà là một ông lão, sau này mới biết vị này gọi là Dư lão, người hầu của Lương Nguyên Kính.

Trước ngày đó, thành Đông Kinh mưa liên miên suốt hơn một tháng, vất vả chờ đến trời trong trở lại, Lương Nguyên Kính ra cửa trước, sai Dư lão dọn tàng thư hoạ tác của hắn ra ngoài phơi nắng một phen, phòng ngừa phát sinh nấm mốc.

Cảm ơn trời đất, A Bảo nhờ dịp này mới có thể chân chính được giải thoát theo.

Hoá ra hồn phách nàng bám vào một bức hoạ của Lương Nguyên Kính, nàng bị vây khốn là vì tranh được cuộn đặt trong hòm xiểng. Chiếc hòm xiểng gỗ mun sơn kia, chế tác bốn góc, chất liệu hiếm có, chắc là đồ cổ lâu năm nên lớp sơn có hơi tróc vài mảng.

Dư lão lấy ra hoạ tác trong đó đều mở ra hết, riêng chỉ dư lại một cuộn tranh cuối cùng dưới đáy hòm, Dư lão cởi bỏ dải lụa, từ từ mở ra, lúc A Bảo đang muốn tiến nhanh tới nhìn kỹ hơn, Lương Nguyên Kính từ đâu chạy vọt vào.

Hắn vươn tay đoạt lấy bức hoạ trong tay Dư lão, một lần nữa cuốn kín lại, bởi vì chạy gấp tới, trên mặt còn có chút ửng hồng, đầu đổ lớp mồ hôi mỏng, hơi thở dồn dập nói: “Này thúc không cần phải xen vào!”

Đừng nói là Dư lão, ngay cả A Bảo lúc ấy cũng bị hắn làm cho ngây dại.

Nàng chưa từng gặp qua dáng vẻ thất thố như này của Lương Nguyên Kính, đến tột cùng trên bức hoạ đó vẽ cái gì, là người hay đồ vật mà có thể khiến hắn sốt ruột đến như vậy?

Khoan suy xét rõ ràng vấn đề này, A Bảo đặt ra nghi hoặc mới.

Không đúng nha!

Vì sao nàng biến thành quỷ hồn lại bám vào tranh của Lương Nguyên Kính chứ? Hai người bọn họ rõ ràng là mối quan hệ ‘hận không thể để ngươi chết ta sống’ mà!

**

Nếu muốn bàn sâu hơn về chuyện của A Bảo và Lương Nguyên Kính, còn phải nói lại từ giữa thu năm đầu tiên.

Năm kia, A Bảo lên làm Hoàng Hậu, triều dã ồn ào, quan Ngự Sử Đài đều điên hết rồi, tấu chương khuyên can liên tục bay tới như tuyết rơi, tất cả đều đang mắng A Bảo, dáng vẻ mắng của từng người đều khác biệt, mỗi người mỗi vẻ, nhưng A Bảo cảm thấy người muốn mắng nàng đều không gây thương tổn đến nàng lớn bằng Lương Nguyên Kính.

Bởi vì người này, chẳng qua cũng chỉ là một hàn lâm vẽ tranh địa vị thấp hèn mà thôi, thế mà dám lấy lý do thân thể không khỏe cự tuyệt vẽ tranh cho nàng.

Tân đế tân hậu ở cùng một chỗ, hoạ sư Hàm Lâm phụng chiếu chỉ nhập cung vẽ tranh cho đế hậu. Sau khi vẽ xong, tranh sẽ được treo lên nhập thần Đông Cung, để con cháu đời sau chiêm ngưỡng, đây vốn là chế độ cũ của Đại Trần. Trong lịch sử hoạ sư cung đình, chưa từng có tiền lệ hoạ sư cự tuyệt vì đế hậu vẽ tranh. Bởi vì vậy, A Bảo chịu đủ sự sỉ nhục, cũng là một nhánh trong lịch sử.

Cái tên Lương Nguyên Kính đáng chết này, hại nàng biến thành trò cười trong cung, không những vậy còn được tính là cười đến ngàn năm về sau!

Hiện tại nhớ tới chuyện này, nỗi hận của A Bảo không thể tiêu tan được, thậm chí hận đến nghiến răng nghiến lợi, nàng giơ tay lên thử thăm dò tát cho Lương Nguyên Kính một cái, tiếc là bàn tay xuyên qua mặt hắn.

A Bảo tâm cơ chợt nghĩ ra thử nhéo nhéo cái mũi cao thẳng của Lương Nguyên Kính, biến mũi hắn thì mũi heo, lại vỗ vỗ gương mặt của hắn, như cục bột xoa tới xoa lui.

Tuy xúc cảm không chân thật, nhưng nội tâm A Bảo quấy đến sảng, nhìn nhìn Lương Nguyên Kính mang vẻ mặt cương trực liêm minh, nhịn không được bật cười.

Ha ha ha, thật thú vị.

Thằng nhãi Lương Nguyên Kính này cũng có ngày rơi vào tay nàng.

Bất quá, lông mi của hắn rất dài nha, ờm… Nước da trắng nõn, bề ngoài thằng nhãi này được sinh ra không tồi, kỳ quái, sao trước kia lại không thấy vậy?

Hử…

Sao lại đỏ mặt, hôm nay trời nóng sao?

A Bảo liếc ra ngoài cửa sổ, nơi ở của Lương Nguyên Kính tại Đông Kinh rất nhỏ, chỉ có cửa ra vào, trong viện có cái giếng cổ, bên cạnh còn có một cây táo. Khí trời đã vào tháng cuối xuân, cây táo đã sớm đâm chồi cành xanh tươi, còn có một con hỉ thước cái đậu trên chạc cây, chim non trong tổ kêu chíp chíp chờ cha mẹ mang thức ăn về.

A Bảo lẩm bẩm nói: “Trời đẹp như vậy mà ngươi cũng không ra ngoài đi dạo, đúng là chán chết…”

Lương Nguyên Kính ngồi ngay ngắn, mặt mày điềm tĩnh, tiếp tục lật qua một trang sách.

A Bảo ghét bỏ bĩu môi: “Sách của ngươi có gì đẹp, không thú vị chút nào, đến chó cũng không thèm xem.”

“Lương Nguyên Kính, đừng đọc nữa, ra cửa đi đạp thanh đi.”

“Lương Nguyên Kính, ngươi đúng là đồ ngốc mà.”

“Lương Nguyên Kính……”

A Bảo ngáp một cái, không rõ lần thứ mấy kêu cái tên này, nàng nằm dài trên bàn, đem sườn mặt vùi vào cánh tay, rầu rĩ nói: “Chúng ta đi ngắm hoa đi, ngày ấy chết đi, hoa lê nở ta cũng chưa có cơ hội ngắm…”

‘Bang’, Lương Nguyên Kính khép cuốn sách trong tay lại.

A Bảo ngẩng đầu, có hơi ngốc nghếch, mặt đầy kinh ngạc: “Ngươi… Ngươi nghe thấy ta nói?”

Lương Nguyên Kính vẫn chưa nhìn về hướng nàng, ánh mắt A Bảo đuổi theo bóng dáng của hắn, chỉ thấy hắn đem theo một ít thuốc màu và dụng cụ vẽ tranh, cất vào một cái rương gỗ nhỏ, sau đó cổ quái buộc khăn lên cổ kéo khăn che đi nửa khuôn mặt, cầm thêm cây dù bước qua ngạch cửa đi ra sân.

A Bảo ngẩn ra, vội vàng đuổi theo phía sâu hô: “Nè, trời không đổ mưa, ngươi cầm dù theo làm gì…”

Lương Nguyên Kính giống như không nghe thấy, căng cây dù mặt trên vẽ hoa đào kia ra.

A Bảo ngẩng đầu nhìn ánh mặt trời rực rỡ, rồi lại nhìn nam nhân bung dù cõng dụng cụ vẽ tranh đi phía trước, không nhịn được lắc đầu: “Đúng là đồ ngốc mà, hây, ngươi muốn làm gì thì làm.”

Nàng nhẹ nhàng bước chân đuổi theo, sự chán chường ở đáy lòng trước đó tan vào hư không, thay vào đó chính là niềm hân hoan nhảy nhót, khoác đôi tay đi theo bên cạnh Lương Nguyên Kính, tung tăng chạy nhảy hỏi: “Chúng ta đi đâu vậy?”

Lương Nguyên Kính không nói lời nào, chỉ chừa lại cho nàng bóng người cao lớn.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 3: Hoạ si



Nhà của Lương Nguyên Kính ở ngoài thành, dọc đường đi gặp rất nhiều người mang gia đình ra khỏi thành chơi xuân, cưỡi lừa hoặc ngựa, các nữ quyến thì ngồi kiệu.

A Bảo đã lâu không thấy cảnh tượng náo nhiệt như này, cộng thêm sắc xuân hợp lòng người, trong lòng không nói nên lời chỉ thấy phấn khởi. Nhìn cái gì cũng thấy mới mẻ, giống như đồ quê mùa mới lên thành nhìn đông nhìn tây.

“Nhìn nhà người ta sống kìa, Lương đại nhân, xem ra ngươi nghèo thật nha, hoạ viện chưa phát bổng lộc cho ngươi sao?”

Lương Nguyên Kính dường như không nghe thấy lời trêu chọc của nàng, đi đến trước một ông lão.

“Cần giúp đỡ không?”

Ông lão đang dùng con lừa để kéo xe cút kít chở than củi. Bởi vì sườn núi cao tốn nhiều sức lực, thấy Lương Nguyên Kính toàn thân ăn mặc như nhà văn, tuy loại vải may không tính là quý giá đẹp đẽ nhưng nhìn khí độ bất phàm, vội lo sợ nói: “Không dám làm phiền công tử.”

Lương Nguyên Kính lại kéo tay áo lên đi đến giúp ông đẩy xe cút kít.

A Bảo cười nhạt một tiếng: “Nhìn không ra ngươi còn biết ra vẻ làm người tốt nữa nha.”

Nàng không chút khách khí nhảy lên xe cút kít, gối cánh tay lười nhác dưa lên đống than củi, nhìn bầu trời đầy mây trắng lẩm bẩm câu đồng dao quê nhà.

Đi vào trong thành, lập tức cảm nhận được sự phồn hoa của thành Đông Kinh.

Hoa đào mới nở đầy hai bên bờ sông, xa xa lại nhìn thấy trời quang mây tạnh. Trên mặt sông thường có thuyền lui tới, trên cầu đông đúc như trẩy hội, có người bán hàng rong khiêng đòn gánh, có người bán dạo cưỡi lạc đà Tây Vực, cũng có phụ nhân dẫn con cái lên phố dạo chơi.

Dưới cầu, hai bên đầy ắp các quán rượu nằm san sát nhau, cờ xí đủ màu bay phấp phới, cửa chính ra vào dài hai tầng lầu cao thu hút khách hàng.

A Bảo nhanh phát hiện được Lương Nguyên Kính có nhân duyên rất tốt, hắn vừa mới tiến vào chợ liền nhận được nhiều lời tiếp đón từ đợt này đến đợt khác.

“Lương công tử, lâu rồi không thấy cậu tới nha, ra đây vẽ vời nữa đúng không?” Một vị phụ nhân cõng đứa nhỏ ngồi xổm bên kênh đào quay đầu lại nói.

“Lương công tử, bánh hấp mới ra lò đây, tới mua một phần đi?” Tiểu nhị tiệm bánh hấp nhà họ Vương hô.

“Lương công tử đi đường xa khát nước, ngồi xuống uống chén nước hồng thơm, vào bên trong nghỉ ngơi nhé.” Bà chủ b*n n**c hồng thơm nói.

Lương Nguyên Kính bung dù đi tới nho nhã lễ độ gật đầu: “Mới vừa tới… Ừm, cảm ơn, không cần, tôi không đói.”

A Bảo nhìn đến đỏ mắt, nắm ống tay áo hắn phát điên la lớn: “Ngươi không đói ta đói! Ta muốn mua!”

Hành động của Lương Nguyên Kính trì trệ trong một cái chớp mắt, vẫn như cũ từ chối lời mời nhiệt tình của bà chủ: “Đa tạ, tôi không khát.”

A Bảo tức giận vung tay áo hắn ra: “Đồ quỷ hẹp hòi!”

Cuối cùng Lương Nguyên Kính đi đến quán trà, hắn muốn uống trà, ngồi xuống dưới mái che ngoài quán, từ rương gỗ lấy dụng cụ vẽ tranh ra, bắt đầu vẽ.

A Bảo đang tức giận hắn cứng đầu, không muốn thấy bản mặt keo kiệt của hắn nữa. Sau đó giận dỗi một mình ngồi trên ngạch cửa quán trà, nàng không thể cách hắn quá xa, cùng lắm chỉ cách nhau năm trượng [1], không thể đi ra xa quá, cứ như bị một bức tường sắt vô hình ngăn cách vậy.

[1] 1 trượng = 3,33m.

Đến tột cùng tại sao lại như vậy, A Bảo đến giờ cũng không suy nghĩ kỹ càng, nhưng tưởng tượng về sau mỗi ngày đều phải đối mặt với Lương Nguyên Kính kia, nàng muốn chửi thêm vài câu nữa.

A Bảo gác má than thở.

Có một vị khách muốn nhấc chân đi vào trong quán, nàng vội nhích sang bên cạnh nhường đường, bỗng nhiên cảm thấy sai sai chỗ nào, ngẩng đầu lên thế mà đụng phải tầm mắt của Lương Nguyên Kính.

Kỳ quái, hắn đang nhìn mình sao?

A Bảo không nhịn được vẫy vẫy tay, Lương Nguyên Kính đã như không có việc gì thu hồi tầm mắt.

Rốt cuộc là thấy hay không thấy?

A Bảo nhíu mày, chung quy vẫn không chịu được nhàm chán, đứng dậy đi xem Lương Nguyên Kính đang vẽ vời cái gì.

Hắn là vẽ trên tấm lua ba thước, nội dung bức tranh hiện ra, chính là cảnh tượng ngay trước mắt. Có thuyền hàng đi trên sông, tiệm rượu hai bên bờ sông, người bán hàng rong, người dựa vào dưới cây nghỉ ngơi, ngay cả thuyền buồm chở hàng hay tiểu nhị đều được vẽ đến sinh động, phong cảnh trên giấy lụa như được rập khuôn với phong cảnh trước mắt.

A Bảo tấm tắc tán thưởng.

Tuy nàng không thích Lương Nguyên Kính, nhưng không thể phủ nhận, khả năng vẽ của người này đích thực xuất quỷ nhập thần. Tương truyền khi hắn còn nhỏ tuổi đã cực kỳ thích vẽ tranh, thường xuyên mất ăn mất ngủ vì tranh, cố gắng hết sức để vẽ ra được hình thái giống thật ngoài đời, thường hay ra ngoài vẽ cảnh vật. Đối với núi rừng hoang dã, chim trắng cát vàng, một khi vẽ là phát ngốc vài canh giờ, trong lúc vẽ nhịn ăn nhịn uống, không nói lời nào, giống như cây si nhỏ, vì vậy cái danh ‘Hoạ si’ của hắn từ đó truyền khắp làng trên xóm dưới.

Thông minh bẩm sinh, chịu được khổ nhọc, đến năm mười lăm tuổi, Lương Nguyên Kính quả nhiên vang danh khắp thiên hạ.

Hắn được nhóm quan lớn quý nhân truy lùng, thậm chí còn được coi là ‘ngàn vàng khó mua’, hoa cỏ núi non, lông vũ tre trúc, xe ngựa thuyền buồm, bích hoạ đạo Phật. Hắn không gì không giỏi, nhưng nếu như để nói đến thứ mà hắn am hiểu nhất, chắc là cầm bút vẽ chân dung người.

Lương Nguyên Kính rất giỏi vẽ chân dung, đặc biệt là mỹ nhân, mỹ nhân dưới ngòi bút của hắn, đứng hay ngồi, già hay trẻ, cắn răng tức giận hay quay đầu mỉm cười, hay cúi đầu lau nước mắt, nhíu mày ưu sầu, luôn có các điểm phong tình khác nhau.

Nếu không phải hắn hoạ mỹ nhân tốt đến mức đó, lúc trước cũng không tới phiên hắn tới vẽ cho nàng, cũng sẽ không khiến nàng bị tiền triều hậu cung nhạo báng.

Nhớ lại thù hận ngày xưa, A Bảo lại thấy bực mình, không chỉ mất hết hứng thú xem Lương Nguyên Kính vẽ tranh, ngược lại càng xem càng giận, lập tức chuyển tầm mắt đi nơi khác.

Chợt thấy phía trước bất ngờ trở nên xôn xao, một đội đeo bội kiếm ngọc, cùng với những tên nha dịch của phủ Khai Phong đang vung roi quất ngựa tiến đến. Trên tường có dán một tờ cáo thị, và họ đang lần lượt dán thêm những tờ khác.

Các bá tánh bốn phía tiến lên xem thử, rất nhanh tụ lại thành nửa vòng tròn, sôi nổi nghị luận.

Xem chừng chắc là đại sự trong triều.

A Bảo cân nhắc, sự kiện lớn nhất phỏng chừng chính tin nàng đã qua đời, bất quá trước khi chết đã bị phế, từ lúc đó tới nay, cũng không nghe thấy tiếng chuông báo tang, nói vậy chuyện nàng chết nhất định đã trở thành một loạt bí sự thâm cung, âm thầm xử lý.

A Bảo không có bất kỳ suy nghĩ gì, người chết như đèn tắt, hiện tại phiền não lớn nhất của nàng chính là làm thế nào thoát khỏi Lương Nguyên Kính, chứ không phải chuyện hậu sự của nàng được an bài ra sao.

Nhưng mà nàng vẫn muốn đi xem thử, xem xem trên cáo thị viết cái gì, tóm lại chắc không phải là tin Triệu Tòng ‘thăng thiên’ rồi đâu nhỉ.

A Bảo đứng dậy đi xem náo nhiệt, ngại ngùng quá, nàng phát hiện mình ở xa quá, quá xa, nàng duỗi dài cổ lại xem vẫn không thấy rõ trên cáo thị viết gì.

Hết cách, chỉ có thể vòng vèo đi tìm Lương Nguyên Kính, nhưng mà mới vừa quay đầu lại nàng lập tức ngẩn cả người.

Không thấy Lương Nguyên Kính nữa!

Không biết vì sao A Bảo cảm thấy như bị một cơn hoảng loạn cực lớn đánh úp, nàng đứng tại chỗ tay chân luống cuống đảo mắt nhìn khắp nơi xung quanh, bỗng nhiên ánh mắt dừng lại bóng người cao lớn ở tiệm sách đối diện.

Lương Nguyên Kính nâng một đĩnh nghiên mực châu, rũ mắt nghiêm túc nghe chưởng quầy giới thiệu.

“Nè! Ngươi sao bỏ đi một mình vậy! Không biết kêu ta nữa!”

A Bảo tức giận vọt tới, biết rõ hắn không nghe thấy, nhe răng trợn mắt hung dữ nổi điên la hét đánh loạn mấy quyền vào không khí.

Lương Nguyên Kính nhìn nghiêng mực, khoé miệng nhỏ đến mức khó phát hiện hơi trĩu xuống.

A Bảo tức giận xong rồi, lực chú ý lại bị cuốn sách trên giá gỗ câu đi, ánh mắt lướt qua nơi nào đó, bỗng nhiên kích đội gào tới:

“Nơi này lại có thoại bản! Lương Nguyên Kính, ngươi mua thêm vài quyển về đi! Mấy cuốn sách nhà ngươi, không phải tranh vẽ địa thế thì là địa lý du ký, nhàm chán muốn chết!”

Lương Nguyên Kính đương nhiên không có khả năng trả lời nàng.

A Bảo lưu luyến trước kệ sách, ánh mắt tràn ngập khát vọng lẫn hoài niệm.

Lúc trước còn ở trong cung làm Hoàng Hậu, Triệu Tòng mỗi ngày phải thượng triều, phải phê tấu chương, nghe kinh yến, phải bàn luận chuyện nước với các đại thần, căn bản không có nhiều thời gian thăm nàng. Nếu có dư ra chút thời gian, cũng là đến chỗ mấy nữ nhân khác trong hậu cung, một chuyến đến chỗ của Quý phi này, một chuyến ở chỗ Mỹ nhân nọ, còn Hoàng Hậu chân chính là nàng chỉ còn sót lại mấy đêm ít ỏi.

Ở lâu trong cung rất nhàm chán, dù sao A Bảo cũng phải tự tìm niềm vui cho mình, xem thoại bản chính là trò tiêu khiển nàng thích nhất, mỗi khi thị trường ra thoại bản nào mới, nàng sẽ sai thuộc hạ của mình đi vơ vét đem về hết.

Chỉ là chưa được tận hưởng niềm vui được bao lâu, lại bị đám quan Ngự Sử Đài biết được. Lập tức tiến hành công kích tập thể từ xuất thân của nàng, đến đức hạnh hành vi thường ngày của nàng, nói nàng “Phạm tội phỉ báng, làm trò tiểu nhân”, “Tính tình ngả ngớn, ngỗ ngược không xứng vị trí chủ hậu cung.”

Triệu Tòng đã trải qua vài trận tranh cãi, cuối cùng thể xác và tinh thần đều mệt mỏi, hạ lệnh đem đốt hết mấy thoại bản A Bảo có được, còn thay đổi toàn bộ người hầu hạ bên cạnh nàng, những nội thị vơ vét thoại bản cho nàng đứng ra mũi sào, bị đánh mấy trượng sau đó đuổi khỏi thành Đông Kinh.

Bởi vì chuyện này, A Bảo chiến tranh lạnh với hắn hơn ba tháng.

Hiện tại nhớ đến, nàng cùng Triệu Tòng hình như không khắc khẩu, thì là chiến tranh lạnh, cho dù có làm hoà cũng sẽ lại rơi vào vòng tuần hoàn đó, A Bảo lắc lắc đầu muốn đem mấy cái chuyện cũ năm xưa tống khứ đi hết.

Sau lưng tiếp tục có người đàm luận về cáo thị vừa rồi.

Chưởng quầy tiệm sách chỉ lo vội vàng bán buôn, chỉ thấy một đội nha dịch phủ Khai Phong đi ngang qua, không rõ làm cái gì, liền hỏi thăm các vị khách nhân.

Khách nhân nói: “Là tới dán cáo thị.”

Chưởng quầy hỏi: “Mọi người đọc chưa, trên đó ghi cái gì?”

“Đọc được rồi.” Một tiểu nhị bến tàu cười cười nói, “Là đại hỉ! Quan gia lập hậu! Hôm nay phát cáo thị khắp thiên hạ, thông báo cũng phát xuống rồi, rất nhanh thôi các châu huyện khác cũng sẽ biết.”

“Lập hậu à? Là vị nương tử nào vậy?”

“Còn có thể là vị nào?” Tiểu nhị không vui trừng mắt hắn một cái, “Đương nhiên là Tiết quý phi Tiết nương tử rồi!”

Hàng mi của A Bảo run lên.

Tiết Hành à, cuối cùng vẫn lên được vị trí này.

“Biết không, cô thực đáng thương.”

Ngày sắp chết đó, câu nói cuối cùng kia của nàng ta vẫn còn quanh quẩn bên tai A Bảo.

Đúng vậy, kẻ thất bại đều đáng thương.

Thắng làm vua thua làm giặc, đạo lý vẫn luôn là như thế.

Phía sau còn tiếp tục thảo luận ⎯⎯

“Phụ thân của Tiết tam nương tử, năm xưa chính là Tiết tướng công Tiết Phạm Thành, tổ phụ của nàng đã đi theo Thái Tổ gia trước lúc khoác lên hoàng bào, là anh em kết nghĩa, đi theo Thái Tổ nam chinh Lý Đường, tây phạt Ba Thục, ít nhiều gì cũng có cống hiến. Tiết tướng công còn từng cùng Thái Tông bắc ngự Khiết Đan, có thể nói là xuất thân danh môn, tiểu thư khuê các. Bảy năm trước, tôi từng có dịp thấy được mặt của vị Tiết tam nương tử, phải nói là tiên nữ hạ phàm đó nha.”

“Ôi, nhắc đến vị Tiết quý phi này, không thể không nhớ đến Phế hậu Lý thị năm đó…”

Ngươi này vừa nói ra khỏi miệng liền bị các bạn học lạnh giọng quát hắn im miệng.

“Nói cái gì đó? Không muốn sống nữa à? Không biết là không được nhắc đến người kia sao!”

“Tai vách mạch rừng, đừng tưởng rằng nơi này không có tai mắt của Sở Hoàng Thành.”

“Thật là! Anh chán sống rồi nhưng bọn tôi thì chưa đâu!”

**

Bọn họ còn nói gì nữa A Bảo không tiếp tục nghe nữa, vì nàng mờ mịt mất mát đi theo Lương Nguyên Kính ra khỏi tiệm sách.

Tại sao không thể nhắc đến nàng?

Chẳng lẽ nàng đã trở thành điều cấm kỵ của thành Đông Kinh thậm chí khắp thiên hạ rồi sao?

Triệu Tòng chán ghét nàng đến nông nỗi này, đây là điều nàng tuyệt đối không nghĩ tới, tuy rằng cuối cùng quan hệ của bọn họ đã có quãng thời gian chuyển biến xấu, thậm chí còn có lúc đến một câu cũng không thèm nói với nhau, nhưng tình cảm phu thê nhiều năm vẫn phải còn ở đó, Triệu Tòng hắn… Hắn…

Tim hắn được làm từ gì vậy?

A Bảo hoài nghi nhìn Vương bà bà đang bày biện điểm tâm.

“Khách quan, muốn mua điểm tâm mang về không? Nơi này bọn tôi có bánh mật ong, bánh táo và bánh khoai từ, ngài xem có muốn mua loại nào không?”

“Bánh mật ong! Bánh mật ong! Bánh mật ong!”

A Bảo nhảy một bước xa tới trước quầy bánh, nhìn bánh mật ong trắng mập mềm mại trong đó, nước miếng đã chảy xuống dài đến ba nghìn thước.

“Cho nửa cân bánh mật ong.” Lương Nguyên Kính nói.

“Còn có bánh táo! Bánh khoai từ nữa! Trừ bánh quế hoa ra, tất cả bánh trong tiệm này, ta! Đều! Muốn!”

“Đủ rồi.” Lương Nguyên Kính nói, “Ăn nhiều đồ ngọt không tốt cho răng.”

“Cái gì?”

Tiểu nhị đang lấy bánh ngạc nhiên nhìn hắn.

A Bảo cắn ngón tay, ánh mắt nhìn chằm chằm điểm tâm trên quầy hàng, cũng không ngẩng đầu lên nói: “Ngươi đừng nhọc lòng chuyện này, răng ta lúc nào cũng tốt.”

“………………”

“!!!!!!!!”

Cả người A Bảo kích động, cứng đờ xoay cổ lại, đụng phải đôi mắt lạnh lẽo như thạch ngọc của hắn chuẩn xác dừng ở trên mặt nàng.

**

Tác giả có chuyện nói:

Lương Nguyên Kính: Đi dạo phố mà không mua bánh sẽ không có vợ, hơn nữa…. Cuối cùng cũng được nói câu đầu tiên với vợ! Vui vẻ! Nhào lộn!! Nhảy lên!!

A Bảo: Ngươi gạt ta??
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 4: Bánh mật ong



Nửa canh giờ sau tại Lương gia, A Bảo vỗ bàn một cái thật mạnh.

“Ta biết ngay là ngươi thấy được ta mà!”

“Sao đây? Nói đi, sao ngươi lại rắp tâm giả vờ giả vịt với ta, hả?!”

Lương Nguyên Kính ngước mắt, chân thành hỏi: “Ăn bánh không?”

“Ăn.” A Bảo bất giác nói, bỗng nhiên cảm thấy sai sai chỗ nào đó, “Đừng đánh trống lảng với ta, hiện tại đang bàn tới chuyện ăn bánh sao? Tại sao ngươi giả vờ không nhìn thấy ta?”

Lương Nguyên Kính thở dài, nhẹ giọng nói: “Thần cứ tưởng rằng, đó là sự ảo tưởng của thần.”

A Bảo sửng sốt: “Cái gì?”

Được rồi, một người đã chết đột nhiên xuất hiện trước mặt mình, mà những người khác lại không thể thấy được, quả thật phản ứng đầu tiên đều sẽ tự cho mình bị ảo giác, hoặc cũng là đầu óc có vấn đề.

A Bảo lại hỏi: “Vậy còn bây giờ sao biết được đây không còn là ảo giác nữa?”

Lương Nguyên Kính im lặng một lát, đẩy điểm tâm trên bàn cho nàng: “Ăn không?”

“……”

A Bảo phát hiện, cái tên này chỉ cần gặp phải vấn đề không trả lời được sẽ dùng chiêu này để đối phó nàng.

Nàng thở hừ hừ nói: “Làm sao để ăn?”

Nàng không cầm điểm tâm lên được.

Lương Nguyên Kính nghĩ nghĩ nói: “Đốt xuống cho người?”

Sức khoẻ hắn không tốt, hàng năm phải cần được giữ ấm, tuy hiện giờ đã khai xuân, trong phòng có đốt chậu than, lấy giấy dầu bọc bánh mật để hết vào chậu than, lửa chạm giấy dầu lập tức cháy lớn bốc ra khói đen.

Lương Nguyên Kính che miệng ho khan vài tiếng, hỏi A Bảo: “Ăn được chưa?”

A Bảo cũng ngồi xổm bên chậu than, sau một lúc chờ mong lâu, cuối cùng mất mát lắc đầu: “Chưa được.”

Đừng nói là nếm thử hương vị, đến mùi vị nàng còn không ngửi thấy.

Lương Nguyên Kính nhìn xuống đôi mắt ảm đạm của nàng, nói: “Để thần nghĩ cách khác.”

“Thôi, người đã chết rồi, còn ăn uống gì nữa chứ, vả lại ta cũng không thấy đói bụng.”

Lương Nguyên Kính rũ mắt, không nói chuyện, ánh lửa hắt lên nửa bên mặt của hắn bừng đỏ, khuôn mặt vốn tuấn tú xưa nay đột nhiên trở nên hào nhoáng.

A Bảo đột nhiên hỏi: “Lương Nguyên Kính, ngươi có biết ta đã qua đời rồi không?”

Lương Nguyên Kính ngẩn ra một hồi lâu mới gật đầu: “Biết.”

Xem ra Triệu Tòng kia vẫn không có giấu dẹm tin nàng qua đời, chẳng qua…

“Ta vừa mới chết liền gấp không chờ nổi lập Tiết Hành làm hậu, hứ, chờ thêm chút không được chắc.” A Bảo trào phúng đầy mặt mỉa mai.

Lương Nguyên Kính ngơ ngác nhìn nàng, muốn nói lại thôi.

A Bảo không đủ kiên nhẫn la lên: “Ngươi muốn nói gì thì nói đi.”

Lương Nguyên Kính dừng một chút, nhìn nàng nói: “Hiện tại đã là Vĩnh Ninh năm thứ ba.”

“……”

“Vĩnh Ninh,” A Bảo nhìn ngọn lửa trong chậu than, lẩm bẩm nói, “Đây là niên hiệu mới sao?”

“Đúng vậy.”

“Lập vào năm nào?”

Lương Nguyên Kính chần chờ một lát, đáp: “Bốn năm trước.”

“Nói vậy là ta đã chết được ba năm.”

“Đúng vậy.”

A Bảo im lặng.

Vĩnh Ninh ba năm, tính thêm năm nàng mất, đã là mùa xuân thứ tư, hoa lê trong sân vừa mới nở rộ.

Trong mộng không biết mình mới là khách, chỉ trong chớp mắt, ba năm trôi qua, nàng thành cô hồn dã quỷ, tân Hoàng Hậu mà người khắp nơi ở thiên hạ sắp nghênh đón, là một vị Hoàng Hậu bọn họ đều tán thành.

A Bảo dò ra tay, ngọn lửa phùng lên đầu ngón tay của nàng nhưng nàng lại không cảm thấy nóng.

Nàng là một người đã chết, người chết rồi sẽ không thấy đau.

“Chúc mừng ngươi, Lương đại nhân.” A Bảo nhìn đôi tay xuyên qua ngọn lửa, hờ hững nói, “Sắc lập tân hậu, chắc quan gia sẽ tuyên ngươi vào cung, vì bức tranh của tân Hoàng Hậu.”

Lương Nguyên Kính rũ mắt xuống, không kiêu ngạo không siểm nịnh nói: “Vị trí của thần chỉ mới sơ cấp, hoạ viện nhân tài đông đúc, không đến lượt của thần.”

A Bảo cười lạnh: “Ngươi tốt nhất nên cầu nguyện thế đi, bằng không nếu ngươi cự tuyệt lần nữa, sẽ không còn vận may giữ mạng như lần trước đâu, Tiết Hành không giống ta.”

Lương Nguyên Kính chưa tiếp lời, nhìn màn đêm thâm trầm ngoài cửa sổ, nói: “Đêm đã khuya, mời nương nương đi ngủ thôi.”

“Đừng gọi ta là nương nương.” A Bảo vô cùng phiền chán, “Gọi ta là A Bảo.”

Lương Nguyên Kính giật mình, cung kính cúi đầu nói: “Dạ.”

“Cũng đừng cái gì mà ‘thần’ ‘thần’ nữa, nghe xa cách.”

“Dạ.”

Trong phòng chỉ một cái giường ngủ, đương nhiên là Lương Nguyên Kính nhường cho A Bảo ngủ, còn đổi chăn màn đệm gối hoàn toàn mới cho nàng. A Bảo ăn không ngồi rồi một bên nhìn, cũng không nhắc nhở hắn mình chỉ là quỷ hồn, căn bản không cần phải đi ngủ.

Sau khi Lương Nguyên Kính an trí hết thảy, dự định đi ra cửa phòng.

“Khoan.” A Bảo gọi hắn lại, “Ngươi làm gì vậy?”

Lương Nguyên Kính sửng sốt, nói: “Thần… Ta đi chỗ khác nghỉ tạm.”

“Đi đâu nghỉ?” A Bảo hỏi, “Nhà ngươi tổng cộng chỉ có ba gian phòng, ngươi một gian, người hầu của ngươi một gian, chỉ còn lại thư phòng, ngươi muốn ngủ ở thư phòng hay là muốn ngủ chung với người hầu?”

Lương Nguyên Kính do dự nói: “Chỗ của Dư lão…”

A Bảo cắt ngang lời hắn: “Phòng mình sao không ngủ, chạy tới giường người khác, ngươi khiến người ta nghĩ thế nào về ngươi?”

Trên mặt của Lương Nguyên Kính hiện lên tia rối rắm, căng căng môi, muốn nói chính mình đến thư phòng ngủ, nhưng không đợi hắn mở miệng, A Bảo không đồng ý nói: “Ngủ ở đây đi.”

Lương Nguyên Kính biến sắc, lập tức thề thốt cự tuyệt: “Không, không được! Như vậy không hợp lễ nghi.”

Cái tên ngốc này!

A Bảo nhanh chóng bị hắn chọc cho tức chết, không đúng, nàng đã chết rồi mà, là nhanh chóng bị hắn chọc tức muốn sống lại mới phải.

“Ta chết rồi! Còn có thể bị ngươi chiếm tiện nghi sao? Hay ngươi sợ ta chiếm tiện nghi của ngươi? Ngươi cùng quỷ nói không hợp cái gì lễ nghi, có tin ta đánh ngươi không hả!”

“……”

Cứ như vậy, do A Bảo dùng bạo lực uy h**p, Lương Nguyên Kính chỉ có thể ở lại phòng ngủ của mình, chỉ là có đánh chết hắn hắn cũng không dám ngủ cùng một giường với A Bảo. Trải đệm chăn dưới sàn, bên trong còn có tấm bình phong do chính tay hắn vẽ, chim hạc bay qua sông, mây trắng phủ núi, sông nước mênh mông, hai chim hạc xoay vòng trên không trung, một con giang cánh bay về trước, một con ngoảnh cổ nhìn lại.

Trăng lên giữa trời, chiếu sáng cả căn phòng.

A Bảo nằm trên giường, tay gối sau đầu, chân duỗi thẳng ra ngoài, không thấy buồn ngủ.

Quỷ hồn sẽ không ngủ, tất nhiên cũng sẽ không nằm mơ, nhưng nàng tự hỏi, còn có thể hồi tưởng ký ức, có lẽ là do cáo thị kia làm ảnh hưởng, A Bảo bất chợt nhớ lại năm đó mình được phong Hậu.

**

Mùng chín tháng tám Hi Hoà năm thứ nhất, A Bảo chính thức được sắc phong thành Hoàng Hậu.

Trước khi nàng được phong Hậu, Triệu Tòng đã trải qua một trận ác đấu với các triều thần, việc này phải được kể lại từ thời của Thái Tông hoàng đế, tức là phụ thân củ Triệu Tòng.

Trước khi Triệu Tòng lên ngôi đã được phong làm Tuyên Vương, hắn là nhi tử thứ ba của Thái Tông hoàng đế, ở trước hắn còn có hai vị huynh trưởng đã thành niên, nếu không phạm phải sai lầm, ngôi vị hoàng đế này đã không cách nào đến phiên hắn nằm giữ, chính hắn cũng không có dã tâm kế vị, chỉ muốn làm một người giàu có ăn no rảnh rỗi.

Chỉ là thế gian này luôn đầy rẫy biến cố bất ngờ.

Bảy năm sau, Thái Tông hoàng đế và Thái Tử không còn đồng tâm ý khởi nữa ,à biến thành khắc khẩu kịch liệt. Thái Tông dưới cơn thịnh nộ, ném đồ chặn giấy làm bằng ngọc thạch ra ngoài, vừa lúc quăng trúng thái dương của Thái Tử, máu chảy ra. Tuy không ảnh hưởng đến tính mạng nhưng Thái Tử nhu nhược bị phụ hoàng doạ sợ đến mức tâm ý hoảng loạn. Từ đó, miệng luôn nói mấy lời không bình thường, cuối cùng không xử lý được quốc sự nữa.

Sau khi Thái Tử phát điên, ngôi vị hoàng đế nên để Nhị hoàng tử Tĩnh Vương kế thừa. Chẳng qua là vị Vương gia này say mê nữ sắc, hơn nữa còn sủng ái thiếp thất đến mức khiến thiếp thất sinh ra mộng tưởng, âm mưu hạ độc Vương phi, ai ngờ đâu kịch độc rót nhầm vào bát canh của Tĩnh Vương, cứ như vậy chết đi.

Mất đi nhị tử làm Thái Tông hoàng đế chịu đả kích, sức khoẻ không bằng trước, vương triều không thể không có người kế thừa, ánh mắt cuối cùng dừng trên người tam tử Triệu Tòng.

Khi đó Triệu Tòng không còn gọi là Triệu Tòng nữa, mà là Triệu Thừa Tuấn, hắn là nhi tử của Miêu thị quá cố.

Năm ấy A Bảo gả cho hắn, đi theo hắn từ Dương Châu tới Đông Kinh, Triệu Tòng còn vì nàng giải tán hết cơ thiếp trong nhà, chiều chuộng nàng hết mực, nàng muốn hái sao trên trời hắn cũng bắt thang hái xuống cho nàng. Đó là quãng ngày tháng vui sướng nhất của A Bảo, cái gì cũng không muốn, chỉ muốn hưởng thụ sự sủng ái của Triệu Tòng dành cho nàng.

Chuyện thế gian đều là thế, âm thịnh dương suy, trải qua nhiều điều tốt đẹp liền sẽ rất mau nghênh đón sự suy bại.

Triệu Tòng không có thay lòng đổi dạ, nhưng ngôi vị hoàng đế đột nhiên ném lên đầu hắn, làm hắn ngoài ý muốn vô cùng vui vẻ, trên đời này không ai là không muốn làm hoàng đế cả, huống chi Triệu Tòng còn là con của hoàng đế.

Nhưng thực đáng tiếc, nếu hắn muốn làm hoàng đế, còn thiếu một điều kiện.

Hắn cần một vị thê tử xuất thân cao.

Từ khi Đại Trần vừa lập quốc tới nay, hai triều Thái Tổ Thái Tông, tổng cộng có sáu vị Hoàng Hậu, trong đó Thái Tổ hoàng đế có Hạ thị, Vương thị, cùng Tống thị, Thái Tông hoàng đế có Doãn thị, Phù thị cùng Lý thị. Sáu vị Hoàng Hậu này không ai là không xuất thân từ tướng phủ, đặc biệt Phù Hoàng Hậu càng tôn quý, phụ thân bà là Tuyên võ quân Tiết độ sứ, bắt đầu từ Nguỵ vương, trả qua Lương, Đường, Hán, triều thứ năm, có thể nói là nhiều đời công khanh chi tộc.

Như vậy cũng đặt ra tiêu chuẩn cơ bản các hoàng tử chọn thê, chính thê đều phải được lựa từ tướng phủ, để lôi kéo võ tướng, bảo vệ hoàng thất, giảm bớt yếu tố gây hại cho quốc gia.

Dựa vào tiêu chuẩn này, lúc trước A Bảo gả cho Triệu Tòng không hề dễ dàng, nàng chỉ là một ca kỹ trong thành Dương Châu, nếu là làm thiếp thất thì không sao, nhưng A Bảo không muốn. Triệu Tòng phải làm giấy tờ đổi thân phận cho nàng, kêu nàng nhận Tri châu Dương Châu Lý Kỳ làm cha nuôi, đổi tên thành Lý Uyển, ghi vào gia phả Lý gia, lấy thân phận dưỡng nữ Lý Kỳ xuất giá.

Nếu Triệu Tòng vẫn còn ở chức vị Vương gia nhàn tản, việc này không có vấn đề gì nghiêm trọng, nhưng trời xui đất khiến ngôi vị hoàng đế dừng ngay ở trên đầu hắn, tính chất câu chuyện hoàn toàn bị lật ngược.

Thân phận giả mạo của A Bảo nhanh chóng truyền đến tai của Thái Thông, Thái Tông hoàng đế hạ chiếu chỉ trách cứ Lý Kỳ, biếm đi chức Tri châu, cũng lệnh Triệu Tòng phải hưu thê, tuyển tam nữ nhi của Tiết Phạm Thành, chính là Tiết Hành làm vợ của hắn.

A Bảo tất nhiên thấy không vui, đại náo ở Vương phủ một hồi, Triệu Tòng muốn hưu nàng, nàng sẽ lập tức bay về lại Dương Châu, Triệu Tòng sau đó lại không muốn thả nàng rời đi, hai người giằng co qua lại hơn một năm trời, cuối cùng vẫn là A Bảo bất đắc dĩ thoả hiệp mới chịu chấm dứt.

Tháng ba Minh Quang năm đầu tiên, Triệu Tòng hưu vợ cả Lý thị, cưới Tiết Hành làm Tuyên Vương phi.

Tháng tám Minh Quang năm đầu tiên, Thái Tông hoàng đế đã tổ chức lễ lập trữ hơn trăm năm qua chưa làm, sắc lập Tam hoàng tử Thừa Tuấn làm Thái Tử, thay tên thành “Từ”, ban Khai Phong phủ.

Tháng chạp Minh Quang năm thứ ba, Thái Tông từ thế, Triệu Tòng đăng cơ làm hoàng đế, năm thứ hai tiến hành làm lễ.

Ngày tám tháng chín năm đầu tiên, Triệu Tòng lập Thái Tử Phi Tiết thị thành Quý phi, phế thê Lý thị làm Hoàng Hậu, triều dã ồn ào.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 5: Tân hậu



Nếu có người còn nhớ, năm đầu tiên đó là một năm đầy biến động, triều dã xuất hiện không ít tin tức lớn.

Tiên đế mất, tân đế kế vị, sau khi ngôi vị vững vàng, các quan lại đều tấu chương đề nghị quan gia sắc lập Hoàng Hậu, Triệu Tòng từng vờ như vô ý để lộ ra ý tứ muốn lập A Bảo làm Hoàng Hậu, tất nhiên là bị phản đối kịch liệt.

Nguyên nhân phản đối cũng chỉ là những cái lý luận cũ rích nhai đi nhai lại xuất thân của A Bảo.

“Một nữ ca kỹ sao có thể trở thành quốc mẫu?”

“Vị ti vô kẻ dưới phục tùng, đức sơ vô lấy đảm nhiệm.” [*]

[*] Câu này xuất phát từ Nho giáo, nôm na là người xứng đáng ngồi trên cao sẽ tự có người ở dưới phục tùng và ngược lại. Hiểu theo ý mình là A Bảo không xứng vị trí Hoàng Hậu, có lên làm Hậu cũng không ai phục.

Có một số điều còn kỳ quặc hơn, A Bảo không muốn nhớ lại nhiều quá, nói tóm lại là mấy lão già đó mắng rất hăng, người này so với người kia càng lợi hại hơn, giống như bọn họ dành nhiều năm đọc sách thánh hiền chỉ để mắng người thôi vậy.

Sau khi Triệu Tòng thử nghiệm lần đầu tiên, đã biết ý kiến của triều thần không dễ dàng thay đổi như vậy, nên hắn đã suy nghĩ ra một phương pháp khác.

Nhóm quan lại nói A Bảo xuất thân bần hàn, hắn lập tức đổi xuất thân của A Bảo lại.

Quản lý phủ Khai Phong vừa đúng lúc mang họ Lý, xuất thân cao quý, thậm chí dưới thời Nguỵ Tấn tổ tiên Lý thị từng làm chức thị lang thư, về sau làm quan lớn, có gia phả chứng giám.

Triệu Tòng muốn để A Bảo ghi vào gia phả ông ta, còn ám chỉ ông ta chấp nhận cùng dòng họ với A Bảo, hắn sẽ ban chức quan tiền tài để báo đáp. Nhưng không ngờ Lý Nghiệp Trung nhất quyết cự tuyệt, làm cho Triệu Tòng vô cùng xấu hổ, bèn tìm cớ đẩy ông ta ra khỏi Đông Kinh, bảo toàn thanh danh của mình.

Sau đó, Triệu Tòng còn muốn tìm quan viên mang họ Lý để hợp tác, nhưng lần này A Bảo không đồng ý làm theo, những đại thần đó khinh thường nàng, nàng mới không muốn làm thân thích với họ đâu.

Triệu Tòng rơi vào đường cùng, đành tự tay viết chiếu thư lập hậu, đến lúc chiếu thư đưa tới Trung thư môn hạ, sau khi được Tể tướng Lữ Dật xem qua nội dung, tiện tay đốt luôn chiếu thư.

Không thể nghi ngờ gì nữa, các triều thần lần lượt phản kháng việc lập Lý thị làm hậu, chuyện này lập tức chọc giận Triệu Tòng.

Tháng bảy, Lữ Dật bãi tướng, liên luỵ đến mấy chục người bạn môn đệ cũ. Bắt đầu từ đó, miễn là quan lại nào trong triều phản đối chuyện lập hậu, đều có khả năng bị giáng chức. Tân đế dùng quyền lực trong tay chỉnh lại toàn bộ triều đình, làm cho chúng thần phải biết rằng thiên hạ này do ai làm chủ.

Trong lúc nhất thời, triều dã rầu rĩ, không còn ai dám hó hé thêm tiếng nào.

Triệu Tòng cuối cùng cũng được như ý nguyện lập A Bảo làm Hoàng Hậu, cùng lúc đó, cái danh ‘hồ ly tinh A Bảo’ cũng ngày càng truyền đi xa hơn. Nhân tài trong triều vì nàng mà biến mất dần, tội danh của nàng càng lớn hơn, còn rước thêm vào người tiếng chửi rủa từ người trong thiên hạ.

Khi đó A Bảo còn chưa ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, nàng chìm đắm trong niềm vui sướng trở thành Hoàng Hậu hạnh phúc ở bên Triệu Tòng như thuở ban đầu, hai người ân ái tựa như tân hôn năm đó, trong mắt chỉ có người kia, Tiết Hành không tồn tại, mấy cái đại thần tiền triều khó ưa đó cũng không tồn tại. A Bảo tự cho như vậy rất hạnh phúc, cho đến khi người kia đến, hoàn toàn phá vỡ mộng đẹp của nàng.

Lương Nguyên Kính ở hàn lâm viện, lấy lý do cảm phong hàn, sức khoẻ không tốt, từ chối vẽ tranh cho tân hậu.

Tin tức truyền ra, tiền triều hậu cung, mỗi người ai nấy cũng đều vỗ tay ăn mừng.

**

Trăng như nước chảy, cả phòng yên tĩnh.

A Bảo nằm thẳng trên giường, mở mắt ra, bỗng nhiên phát hiện thêm một chuyện nữa, quỷ hồn không có nước mắt.

Nàng quay người nằm nghiêng, mặt nhìn tấm bình phong, phảng phất thấy được bóng dáng của Lương Nguyên Kính, sườn mặt của hắn khẽ nhấp nhô như sườn núi.

A Bảo vươn đầu ngón tay cách khoảng nhỏ di di theo đường cong kia, đột nhiên ngồi dậy, xuống giường, vòng qua bình phong đi đến trước người Lương Nguyên Kính, bởi vì quỷ hồn không có tiếng bước chân, cho nên không khiến hắn thức giấc.

Tư thế ngủ của Lương Nguyên Kính cũng phần nào tượng trưng cho con người của hắn, hết sức quy củ, hai bàn tay đan vào nhau đặt ở bụng, hắn cũng không phát ra tiếng, chỉ có khi áp tai lắng nghe mới có thể nghe thấy tiếng hít thở của hắn.

Dù trong phòng đã tắt đèn, nhưng có ánh trăng cũng đủ để chiếu sáng.

A Bảo ngồi xổm xuống, ôm đầu gối, cẩn thận quan sát vẻ đi ngủ của hắn.

Lương Nguyên Kính đúng là có dáng vẻ không tồi, mặt đẹp như ngọc, mũi cao thẳng, môi dịu dàng, bỏ qua thành kiến giữa cả hai người thì hắn cũng được coi là một vị công tử trang nhã cao quý hiếm có, dễ dàng được các tiểu nương tử ở thành Đông Kinh yêu thích.

Nhưng mà, Lương Nguyên Kính có thê thất gì chưa nhỉ?

A Bảo nhớ rõ lúc mới quen biết, hắn vẫn chưa có, không biết mấy năm nay đã cưới thê thiếp gì đó chưa? Có lẽ bức hoạ bảo bối không cho người khác chạm vào, chính là người trong lòng của hắn chăng?

Cái tên ngốc này mà cũng có người trong lòng nữa hả?

Nhất thời trong lòng A Bảo cảm thấy hơi lạ, không biết là cảm giác gì, nàng thử vươn tay thăm dò, muốn tát cho hắn hai cái, cuối cùng không biết vì sao không xuống tay nổi, chỉ như có như không chạm vào hàng mi nhỏ dài của Lương Nguyên Kính, lẩm bẩm nói: “Năm đó tại sao ngươi không chịu hoạ cho ta vậy?”

**

Quả nhiên đúng theo A Bảo dự liệu, ba ngày sau, Lương Nguyên Kính nhận được ý chỉ của gian gia, tuyên hắn vào cung vẽ tranh cho tân hậu.

A Bảo ngồi trên lưng con lừa, hai chân nhàn rỗi lắc tới lắc lui, giọng điệu chua chát nói: “Ta đã nói mà, còn viện cớ cái gì mà hoạ viên nhân tài đông đúc sẽ không đến lượt ngươi. Ha! Lương đại nhân, bị vả mặt có đau không? Ta khuyên ngươi mau chóng nghĩ lý do gì khác đi, đừng có dùng lại cái chiêu ‘sức khoẻ không tốt’ nữa, giả tạo!”

Lương Nguyên Kính giữ chặt lừa trong tay, nghiêng đầu hỏi nàng: “Sao nàng đoán được?”

“Cái này không phải quá dễ đoán à?” A Bảo trợn trắng mắt, “Tiết Hành cung đấu với ta nhiều năm như vậy, hiện giờ nàng ta đắc thắng, ngồi trên vị trí Hoàng Hậu nàng ta hằng ao ước, tất nhiên sẽ so đo từng chuyện với ta rồi, năm đó người vẽ tranh cho ta là ngươi, nàng ta cũng sẽ tự nhiên tìm đến ngươi thôi.”

“Thì ra là thế.” Lương Nguyên Kính bừng tỉnh.

A Bảo nói: “Ngươi thông suốt rồi thì tốt, có nghĩ ra lý do kháng chỉ chưa?”

Lương Nguyên Kính kỳ quái liếc nàng một cái: “Vì sao ta phải kháng chỉ?”

“……” (vì ngươi nên đọc tại trang chính chủ :v)

A Bảo không thể hít hơi sâu hơn nữa, nhìn lên trời một hồi, suýt nữa lăn từ lưng con lừa lăn xuống, “Ngươi… Ngươi có ý tứ gì?! Ngươi quyết định vẽ tranh cho Tiết Hành sao?”

“Ý chỉ của quan gia, không thể không tuân.”

“……” (đọc free tại nudepxinh.wordpress.com)

Ý chỉ của quan gia? Mụ nội nó chứ ý chỉ của quan gia!

A Bảo bất lực, chân liên hoàn đá phía sau lưng hắn: “Lúc trước kêu ngươi vẽ cho ta, ngươi cũng đâu nói vậy! Vẽ cho ta, ngươi nói ‘sức khoẻ không tốt’, vẽ cho Tiết Hành, thì là ‘ý chỉ của quan gia, không thể không tuân’? Lương Nguyên Kính, ta với ngươi có thù oán sao? Là do ta không cho ngươi mượn tiền, hay lật mồ tổ tiên nhà ngươi lên vậy hả?”

Tuy nàng không thể đá trúng, Lương Nguyên Kính vẫn nghiêm túc đỡ đỡ mũ quan trên đầu: “Đều không phải.”

“……” (hoặc Wattpad @nudepxinh cũm dc)

A Bảo lập tức bị bộ dáng nghiêm túc này của hắn chọc cho điên lên rồi, dứt khoát hét lớn nói: “Ta mặc kệ! Ta không cho phép ngươi vẽ cho Tiết Hành, nếu ngươi dám vẽ cho nàng ta, ta… Ta sẽ…”

Nàng suy nghĩ rất lâu, không thể nghĩ ra được lý do gì dùng để uy h**p Lương Nguyên Kính, nàng chỉ là quỷ hồn, đánh cũng không đánh được hắn, nghĩ tới nghĩ lui, trong đầu chợt loé qua.

“Ta sẽ biến thành quỷ cái hù chết ngươi đó!” A Bảo le lưỡi giả mặt quỷ, hung tợn đe doạ nói.

Nàng là quỷ thắt cổ lận, rất dữ dằn đó nha.

Lương Nguyên Kính quay mặt đi, khóe miệng nhịn không được hơi hơi nâng lên.

“Có nghe không vậy hả?” A Bảo ở đằng sau chất vấn.

“Ồ.”

“Ồ có ý gì?”

“Biết rồi.” Nam nhân dịu dàng đáp lại.

Lúc này A Bảo mới từ bỏ, nằm trên lưng lừa ngắm trời xanh mây trắng.

Lúc đến cung Tuyên Đức, đã sớm có tiểu hoàng môn dẫn đường sớm đợi ngoài cổng, thấy Lương Nguyên Kính dắt con lừa không nhanh không chậm đi tới, chạy xanh vài bước xông lên nhận lấy dây thừng trong tay hắn: “Trời ạ, Lương tiên sinh, sao bây giờ ngài mới đến, có con lừa sao không cưỡi, Hoàng Hậu nương nương đã chờ đến sốt ruột rồi!”

A Bảo từ trên lưng con lừa phi xuống, tức giận nói: “Mắt ngươi mù hả, đương nhiên là vì nương nương nhà ngươi ta đây đang cưỡi lừa chứ sao.”

Trong mắt Lương Nguyên Kính hiện lên ý cười nhàn nhạt, nho nhã gật đầu với tiểu hoàng môn nói: “Phiền quý nhân trong cung đã đợi lâu.”

“Tiên sinh quá lời, mời ngài đi cùng tiểu nhân.”

**

Khôn Ninh Điện là nơi ở của Hoàng hậu, nằm sâu trong cấm cung, gần với cổng sau của hoàng thành, phía sau là ngự hoa uyển, phía tây là Duệ Tư Điện. Vốn là chỗ của Đại nội tàng thư, nhưng vì Thái Tông hoàng đế cần cù lo chính sự, đam mê đọc sách, thường xuyên ở lại đây đọc sách đến khuya, liền biến nơi này thành tẩm điện.

Đến khi Triệu Tòng làm hoàng đế, cũng thường xuyên ở lại nơi này, nhưng cũng không hẳn vì chăm đọc sách, mà là vì muốn ở gần A Bảo hơn một chút.

Sau đó quan hệ bọn họ chuyển biến xấu, hắn lập tức dọn đi nơi khác xa hơn đến Ngưng Huy Điện, A Bảo nghẹn cục tức, cũng không chủ động tìm hắn, nếu không có cung yến, hai người họ qua mười ngày nửa tháng cũng khó thấy được mặt nhau một lần.

Trở về chốn cũ, cũng không thấy thay đổi gì lớn, ngói xanh chu manh, cột cao chạm khắc, trưng bày đủ loại mẫu đơn.

A Bảo không quá ưa cái chỗ này, bởi vì ở đây nàng chỉ còn nhớ lại mấy lúc cãi nhau với Triệu Tòng.

“Lương tiên sinh đã đến.”

Một thị nữ vén màn trong suốt lên, vui vẻ ra mặt đón Lương Nguyên Kính vào đại điện, tự mình rót chung trà cho hắn.

Lương Nguyên Kính nói ‘đa tạ’, nghe thấy nàng ta cười nói: “Mời tiên sinh chờ một chút, Hoàng hậu nương nương còn đang trang điểm.”

Lương Nguyên Kính gật gật đầu, thuận tay gác chung trà sang một bên.

Có mấy tiểu nha đầu trốn sau bình phong nhìn lén hắn, thấy ánh mắt hắn nhàn nhạt quét tới, mấy tiểu nha đầu đó mặt đỏ bừng, ngươi xô ta đẩy hí hửng cười.

A Bảo hừ một tiếng, thu hồi tầm mắt, khẽ châm chọc nói: “Mặt mũi ngươi rất lớn nha, thị nữ vừa rồi bưng trà cho ngươi là người Tiết Hành mang từ nhà mẹ đẻ vào cung, đi theo nàng ta từ nhỏ đến lớn.”

Lương Nguyên Kính nghiêng đầu nói: “Phải không?”

A Bảo vừa há miệng muốn nói chuyện, sau đó trông thấy Tiết Hành ra tới thế là im bặt.

Tiết Hành đầu đội quan thoa long phượng hoa, trên đầu cài 24 cây trâm hoa lớn nhỏ, mặc trang phục do cục y lễ đo may, hai bên thêu chín đuôi trĩ, gác tay thị nữ chậm rãi đi tới.

Lương Nguyên Kính quỳ rạp trên đất, nhấc tay hành đại lễ.

Sau khi Tiết Hành kêu hắn bình thân, cẩn thận đánh giá hắn một lần, xong mỉm cười nói: “Nhiều năm không gặp, phong thái tiên sinh hơn hẳn so với năm đó.”

Lương Nguyên Kính gật đầu: “Nương nương tán thưởng.”

A Bảo càng nhìn càng thấy không đúng, chuyện gì đang xảy ra vậy, hai người này quen biết nhau à?

Ánh mắt hồ nghi của nàng quét tới quét lui giữa hai người bọn họ, Lương Nguyên Kính để ý.

Sau khi Tiết Hành ôn chuyện cũ với hắn, liền đề nghị nói: “Hôm nay trời đẹp, ở lì trong phòng sẽ lỡ mất cảnh xuân, nếu tiên sinh không chê phiền, vậy thì cùng ta đi đến ngự hoa uyển ngắm hoa đi.”

Lương Nguyên Kính cúi đầu tuân lệnh.

A Bảo nhanh chân đuổi theo, trong lòng không hiểu được, sao Tiết Hành muốn kéo hắn đi ngắm hoa? Chẳng lẽ vì muốn thân càng thêm thân? Nàng ta không chê mệt ư, cái mũ kia nặng bao nhiêu nàng đã từng đội qua rồi.

Chắc chắn là có gì đó khác thường sắp xảy ra, A Bảo cảm nhận được điềm xấu tới rồi.

Khí hậu cuối xuân, hoa thơm cỏ lạ ở ngự hoa uyển tranh đua khoe sắc, trừ một vài hoa đào đã nở vào đầu xuân ra, còn có một giàn hoa tử đằng nhìn từ xa sáng như khói ráng.

Tiết Hành được thị nữ đỡ cánh tay, vừa tản bộ vừa nói: “Nghe nói năm xưa lần đầu tiên sinh hoạ bức hoạ cho phế hậu Lý thị, cũng là ở ngự hoa uyển?”

Bốn chữ ‘phế hậu Lý thị’ vừa thốt ra, tất cả bọn thị nữ bên cạnh nàng ta đều lộ ra sự kinh sợ tột độ.

Thị nữ đỡ nàng ta cảnh giác nhìn xung quanh, muốn nói lại thôi: “Nương nương……”

Tiết Hành liếc mắt quét qua, điềm tĩnh nói: “Không sao, Lương tiên sinh không phải người ngoài.”

Nói xong lại nhìn về phía Lương Nguyên Kính, rõ ràng là đang đợi hắn xác nhận.

Dưới đáy lòng A Bảo cười nhạt, quả nhiên là Tiết Hành muốn đấu với nàng tới cùng, chẳng qua là nàng ta coi như hỏi sai người rồi, Lương đại nhân người ta mới không nhớ rõ loại chuyện nhỏ nhặt này đâu.

Bất ngờ là Lương Nguyên Kính khẽ ngẩng đầu lên, ánh mắt nhìn đám mây phía chân trời, nhẹ giọng nói: “Đúng vậy, là ngày mùng hai tháng mười năm đầu tiên.”

A Bảo bỗng dưng ngẩn ra.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 6: Chuyện xưa



Năm đầu tiên, mùng hai tháng mười, ngày nhâm ngọ tháng quý hợi.

Tin tức Lương Nguyên Kính từ cự tuyệt vẽ tranh truyền ra ngoài, A Bảo nhanh chóng trở thành trò cười trong cung, nàng tức muốn điên, cảm giác đi bất kỳ chỗ nào cũng đều sẽ có người cười nhạo ở sau lưng.

Triệu Tòng phải vì nàng chọn một người khác ở hàn lâm tới vẽ cho nàng, A Bảo có làm gì cũng không chịu, càng muốn để Lương Nguyên Kính tự tay làm việc này cho nàng.

Khi ấy nàng vừa mới được sắc lập làm hậu không lâu, vào lúc đứng đầu ngọn gió, nhất cử nhất động đều có đôi mắt nhóm gián quan nhìn chằm chằm, Triệu Tòng khuyên nàng nên nhẫn nhịn đến lúc gió yên biển lặng.

A Bảo nhất quyết không chịu, nàng nhịn không được mấy cái miệng đó.

Triệu Tòng bị nàng làm loạn đến hết cách, chỉ đành tuyên Lương Nguyên Kính vào cung lần thứ hai.

Vào lần đó, hắn không từ chối nữa.

A Bảo còn nhớ rõ, đó là vào cái ngày thu khí hậu rất đẹp, vạn dặm không mây, vườn đan quế và hoa cúc đều đã nở, khung cảnh tươi đẹp, vô cùng náo nhiệt.

Sau khi nàng phái nhóm nội thị đưa Lương Nguyên Kính tới sau ngự hoa uyển, chính mình ngồi lại trong Khôn Ninh Điện, người giám sát hầu hạ nàng phụ trách thay nàng chạy đi nghe ngóng tin tức.

Lương Nguyên Kính đã được điều đến nơi xong rồi, người giám sát lập tức kêu hắn bắt đầu vẽ tranh, hạn vẽ là ba nén nhang, đề bài là vẽ Hoàng Hậu thưởng thức cảnh mùa thu.

Mục đích của đề bài này thực chất là muốn làm khó dễ Lương Nguyên Kính, bởi vì hắn chưa từng gặp qua Hoàng Hậu, tất nhiên cũng sẽ không thể hoạ lên được.

A Bảo rất tò mò bèn hỏi người giám sát phản ứng của hắn lúc nghe thấy đề bài.

Người giám sát nói: “Nương nương, ngài ấy không nói gì cả.”

Sao có thể vậy được?

A Bảo tụt hứng: “Chẳng lẽ hắn không hỏi Hoàng Hậu nương nương ở đâu sao?”

“Có hỏi.” Người giám sát đáp, “Thiếp cũng làm theo lời nương nương bảo, chỉ vào bụi hoa, nói ‘nương nương đang ở chỗ này, chẳng lẽ đại nhân không nhìn thấy sao’, ‘đại nhân sinh ra có bệnh ở mắt hay trong mắt ngài vốn không có nương nương?’”

“Hắn trả lời thế nào?” A Bảo vội vàng hỏi lại.

“Lương đại nhân cũng không nói gì nữa, chỉ cầm bút lên bắt đầu vẽ.”

A Bảo: “Hắn vẽ ra cái gì?”

“Cái này……” Người giám sát lộ vẻ khó xử, ăn ngay nói thật đáp, “Nương nương, thiếp chưa kịp xem nữa.”

A Bảo phất tay đuổi nàng ấy xuống: “Ghé đó xem thử, xong về báo lại cho ta!”

Người giám sát nhanh nhảu chạy đi, A Bảo tuốt cây tắc, vừa ngó xem nhóm tiểu nha đầu bên hông cửa đang phấn khởi cười nói cái gì mà sao mấy cái mặt đều đỏ như quả mận chín.

Họ đang nhìn cái gì vậy?

Không lẽ đang nhìn Lương Nguyên Kính kia? Hắn có gì đẹp?

A Bảo tò mò đến ruột gan cồn cào, rồi lại vì cái giá của vị trí Hoàng Hậu, làm bộ làm tịch ngồi đợi lâu ơi là lâu, cuối cùng không chịu nổi tính tình hiếu động bẩm sinh, ném cây tắc trong tay đi, châu đầu vào xem nhóm nha đầu rình mò cái gì.

“Nhìn gì đó?”

“Lương đại nhận thật là đẹp mắt, còn đẹp hơn nhiều so với vị Thám Hoa lần trước được quan gia khâm điểm kia.”

Tiểu nha đầu có má lúm đồng tiền một bên má đáp, quay đầu thấy người hỏi lại là A Bảo, nhất thời sợ tái mặt: “Nương… Nương nương, nô… Nô tỳ là nói……”

A Bảo phất phất tay, không trách tội nàng ấy, ánh mắt chỉ lo nhìn ra bên ngoài, muốn nhìn thử rốt cuộc vị Lương đại nhân đẹp hơn Thám Hoa lang trông như thế nào.

Bước vào ngự hoa uyển giữa trời thu.

Thấp thoáng đằng sau núi đá cứng, nàng chỉ thấy một bóng người mảnh khảnh mặc quan phục.

Hai triều Thái Tổ Thái Tông, quan viên ở cục vẽ tranh hàn lâm không cao, cũng lắm chỉ ngang ngửa với quan cửu phẩm, bổng lộc mỗi tháng chỉ tầm đâu đó mười ngàn, ban năm thước vải lụa xuân thu, mùa đông thưởng thêm hai mươi lượng. Khi thượng triều cũng đều phải đứng xếp hàng sau cục thư nghệ, đãi ngộ chỉ cao hơn bách công cầm cờ một chút.

Sau này đến Triệu Tòng, trước lúc đăng cơ hắn là vị Vương gia nhàn tản ưa ngắm cảnh sắc, cho rằng thi hoạ là công việc phong nhã, địa vị của hoạ viện mới tăng lên, đứng đầu bốn cục hàn lâm, không chỉ lương bổng được tăng mà còn cho phép quan viên hoạ viện đeo bội ngư bao.

Ngày ấy Lương Nguyên Kính mặc quan bào màu đỏ, eo đeo bội ngư bao, đầu đội khăn vấn vuông vức, chân mang tất, đi giày da, cổ áo trắng tinh tươm sạch sẽ.

A Bảo thu hồi ánh mắt, ra vẻ khinh thường nói: “Có gì đẹp, cũng chỉ mới thấy có bóng dáng chưa thấy mặt, sao các ngươi biết là đẹp hơn Thám Hoa lang?”

Nhóm tiểu nha đầu ‘ta nhìn ngươi, ngươi nhìn ta’ cười lên, không ai phản bác lời Hoàng Hậu nương nương nói.

Thời hạn ba nén nhang đã hết, mực vẽ chưa khô thì người giám sát đã trở lại.

A Bảo nhìn lướt qua, cho người thu lại, mặt cười cười nói: “Đi, chúng ta đi gặp Lương Nguyên Kính.”

Nàng đưa nhóm tiểu nha đầu manh động mới lớn tiến vào ngự hoa uyển, vừa lúc Lương Nguyên Kính đang đứng chờ dưới tàng cây đan quế, ngửa đầu ngắm nhìn con chim bay trên cành cây, nghe thấy có tiếng bước chân, hắn thong thả ung dung xoay người lại.

Tích thạch như ngọc, liệt tùng như thúy. [1]

[1] Như đá tích thành ngọc, như thân cây tùng xanh. Ca ngợi vẻ đẹp thuần khiết phẩm chất thanh cao.

Lần đầu tiên nhìn thấy gương mặt của hắn, A Bảo rõ ràng nghe được nhóm tiểu nha đầu phía sau hô to thành tiếng, không tệ, xác thật Lương Nguyên Kính tuấn tú phi phàm, so với Thám Hoa lang chỉ có hơn chứ không kém.

Chỉ là, nàng cũng không tới để xem mặt hắn.

Vừa thấy được người, A Bảo lập tức lớn tiếng doạ nạt, hỏi tội hắn.

“Bổn cung lệnh ngươi vẽ ta thưởng thức cảnh thu, sao chỉ thấy ngươi vẽ hoa cỏ sum suê, không thấy bổn cung đâu, từ ‘thưởng thức’ cũng mất dạng, Lương đại nhân, là mắt ngươi mù, hay do mắt ngươi cao hơn trán, không chứa nổi Hoàng Hậu là ta đây?”

Lời thoại này vốn do A Bảo suy nghĩ nát óc mới nghĩ ra được. Ngay cả xưng hô ‘Bổn cung’ kia cũng bắt chước theo mấy vở kịch diễn, quả nhiên ném ra tới rất hữu hiệu, khiến nàng vô cùng hài lòng. Kiên nhẫn chờ Lương Nguyên Kính biện minh thêm vài câu nữa nàng sẽ lập tức hét một tiếng thật lớn, quả phải tiến lên, đánh hắn tống vào thiên lao, giống như trong thoại bản vậy.

Không ngờ lệch khỏi trí tưởng tượng, đối thủ lại không diễn tiếp nàng được.

Lương Nguyên Kính đứng hình ngơ ngác nhìn nàng, hồi lâu sau cũng không nói một câu nào.

Lá rụng một mảng thổi qua, ngự hoa uyển đột nhiên trở nên yên tĩnh đến mức có thể nghe thấy tiếng kim rơi.

“……”

Sao lại thế này? Người này là một tên ngốc sao?

A Bảo dần dần mất kiên nhẫn, nhíu mày la: “Người đâu, đem hắn…”

“Ta có vẽ.”

Dưới tàng cây đan quế, nam nhân đang im lặng bỗng nhiên cất tiếng.

A Bảo sửng sốt: “Cái gì?”

Lương Nguyên Kính tựa hồ hít một hơi thật sâu, đáp lại: “Hoàng Hậu nương nương có ở trong bức tranh.”

“Ở đâu?” A Bảo bất giác hỏi, “Sao ta không thấy.”

Nhưng Lương Nguyên Kính nói xong câu kia thì không phát ra tiếng nào nữa, bày ra bộ dạng mặc nàng xử trí.

A Bảo thấy bực bội, thầm nghĩ ngươi dám khinh thường ta? Nói thêm một câu với ta thì đột tử chắc?

“Được rồi, nếu ta không tìm được, ta sẽ…”

Chưa kịp nói xong, tiểu nha đầu có má lúm đã kích động la lên: “Tìm thấy rồi! Ở đây này! Nương nương người xem!”

Là tiểu nha đầu má lúm lúc nãy, A Bảo nhìn theo hướng ngón tay nàng ấy chỉ, ánh mắt mở to.

Lương Nguyên Kính nói không sai, đúng là hắn có vẽ nàng.

Trong ngự hoa uyển, hương hoa toả ra, hoa thơm cỏ lạ đua nhau khoe sắc. Giữa bức hoạ còn có một hồ nước, bên hồ có thạch lâm, giữa hồ có một toà thuỷ tạ, bốn phía có màn che, lụa mỏng phiêu bạt theo gió. Trong đình thoắt ẩn thoắt hiện thấy được một mỹ nhân ngồi một mình dựa vào lan can, chỉ lộ ra một bên má trắng dịu dàng, đầu ngón tay miết đoá hoa cúc tím ngắm cảnh.

Người giám sát khen: “Vẽ cũng rất đẹp, nương nương, theo thiếp thấy, nên tha cho Lương đại nhân thôi.”

Nghe nàng ấy nói, nhóm tiểu nha đầu phụ hoạ theo sau, sôi nổi nói “Đúng vậy đúng vậy”, còn khen cái gì mà Hoàng Hậu nương nương khoan dung độ lượng, nhất định sẽ không so đo với Lương đại nhân.

A Bảo có lỗ tai mềm, thích nhất mấy lời này, bọn thị nữ có ánh mắt tinh tường, bắt lấy nhược điểm của nàng, một tràng lời nịnh nọt khiến nàng thấy thư thái cả người, A Bảo mau chóng xuống một bậc thang, tha tội cho Lương Nguyên Kính.

Lương Nguyên Kính tránh được một kiếp cũng không nói tạ ơn, vẫn ngơ ngác nhìn nàng như cũ, ánh mắt kia, có vài phần vô lễ.

A Bảo nhăn nhăn mày, có chút bất mãn, nghĩ thầm, người này quả thật là một tên ngốc.

**

Ha, hình như từ khi đó trở đi, nàng đã bắt đầu gọi Lương Nguyên Kính là đồ ngốc.

A Bảo đột nhiên nhớ lại.

Là thật sự rất ngốc nha, giống như con ngỗng ngốc, ngơ ngơ ngác ngác nhìn nàng không nói gì.

Lúc đó hắn nghĩ gì nhỉ?

A Bảo buồn cười, bỗng nhiên thấy khung cảnh phía trước, dừng bước chân.

Tiết Hành ở phía sau còn đang nói: “Đúng lúc cảnh xuân vừa tới, thỉnh tiên sinh ở chỗ này vẽ cho ta, tiên sinh thấy sao?”

Cách đó không xa, có một tầng hoa hải đường lớn, trên mặt đất trống có bày ra một cái án, trên án có đủ bút giấy nghiên mực với ít thuốc màu tất yếu, Tiết Hành không giống A Bảo năm đó đùa cợt Lương Nguyên Kính, vì vậy độ cao án thư vừa vặn, trên ghế gỗ còn lót một tấm đệm hoạ tiết hoa lê.

Lương Nguyên Kính thu hồi tầm mắt, nói: “Dạ.”

Khóe miệng tươi cười của A Bảo nháy mắt tiêu tan.

Dạ?

Dạ???

Ai khiến ngươi nghe lời dữ vậy?

Cái đồ lừa đảo!

Tiêu rồi tiêu rồi! Hắn chịu hoạ cho Tiết Hành, không chịu hoạ cho mình, A Bảo nhất định sẽ bị biến thành trò cười thiên cổ, ngàn năm về sau, sử sách sẽ ghi về nàng như thế nào? Đáng ghét! Tên này quả nhiên có thù oán với nàng!

A Bảo trừng mắt với Lương Nguyên Kính, hắn chỉ làm như không thấy, vén tay áo lên bắt đầu rửa tay, dáng vẻ nghiễm nhiên chuẩn bị vẽ tranh.

Tiết Hành đã thu xếp ổn thoả ngồi xuống ghế thái sư, thị nữ bên cạnh đang giúp nàng ta sửa sang lại y phục và lớp trang điểm.

A Bảo giận đến nhe nanh múa vuốt, nội tạng cháy nóng, hận không thể xông lên cào nát bản mặt kia của Lương Nguyên Kính, chạy vòng vòng hai vòng quanh đất trống, trốn sau bụi hải đường ngồi xổm giận dỗi.

Tiết Hành đoan trang nhã nhặn ngồi thẳng người, ánh mắt đặt trên người cúi đầu nghiêm túc vẽ tranh đằng trước, như đang suy tư gì đó: “Lương tiên sinh từng nhiều lần vẽ tranh cho Lý thị, có còn nhớ rõ khuôn mặt nàng ấy không?”

Lương Nguyên Kính dừng động tác hạ bút.

Bọn thị nữ xung quanh sợ hãi tức mức quỳ rạp xuống đất run bần bật.

Thị nữ bên người Tiết Hành kinh sợ nói: “Xin nương nương đừng nhắc tới người đó nữa, nếu để người bên cạnh quan gia biết…”

Thì sao nữa thị nữ không nói thẳng, nhưng nhìn sắc mặt xúc động của mỗi người ở đây, hiển nhiên đều biết kết cục là gì, vẫn sợ hãi như thường.

Tiết Hành xua tay: “Các ngươi lui xuống hết đi.”

Bọn thị nữ lui xuống, nàng ta mới giải thích cho Lương Nguyên Kính: “Tiên sinh ở xa kinh thành lâu ngày nên không biết, hiện giờ quan gia nghiêm ngặt hạ lệnh, cấm không được đàm luận về Lý thị, nếu có người vi phạm, phạt đánh chết.”

A Bảo sau vách tường nghe thấy: “…”

Làm gì tới nỗi này.

Nàng còn nhớ rõ trước khi Triệu Tòng không khắt khe với cung nhân như vậy. Hắn khoan dung nhân hậu, tính tình ôn hoà, mặc dù có lúc nội thị phạm phải sai lầm, cũng chỉ thuận miệng dạy dỗ lại một chút, hình phạt đánh chết dù là nghiêm hình lúc còn ở Thái Tổ triều đi chăng nữa thì cũng quá mức khắc nghiệt.

Tiết Hành nhàn nhạt nói: “Sau khi Lý thị qua đời, tính cách quan gia càng thêm khó nắm bắt, Lương đại nhân, ngươi cảm thấy đây là tại sao vậy?”

Lông mi Lương Nguyên Kính dường như hơi run lên, sau đó rũ mắt nói: “Thần không biết.”

A Bảo ở sau bụi hoa nhíu mày, hôm nay Tiết Hành bị cái gì toàn nói chuyện về nàng không vậy?

Bên môi của Tiết Hành hiện lên ý cười không rõ ràng, ánh mắt lạc lối, tựa như đắm mình vào hồi ức xưa.

“Năm đó lần đầu tiên gặp Lý thị, ta chỉ mới 16 tuổi, lúc đó vào dịp sinh nhật của Tuyên Vương, nương mang ta nhập vương phủ mừng thọ, nhân lúc có thị nữ bất cẩn làm văng rượu dính ướt váy ta, ta liền đi vào phòng cho khách thay quần áo. Tuyên Vương phủ quá lớn, ta lạc đường, sợ không kịp thời trở lại yến hội sẽ bị nương ta quở trách, gấp đến độ bật khóc, trong lúc đó ta mới nghe có tiếng người hỏi từ trên đỉnh đầu, ‘ngươi khóc gì vậy’.”

“Ta mới khiếp sợ, ngửa đầu nhìn xem, chỉ thấy một cô nương cao cao ngồi ở trên ngọn cây đang tò mò nhìn ta.”

“Ta lập tức khóc lóc nói cho nàng, ta lạc đường, nàng từ trên cây trượt xuống, cười nói ‘vậy thì có gì phải khóc’, sau đó hỏi ta muốn đi chỗ nào nàng dẫn ta đi.”

“Bọn ta cùng nhau đi được một đoạn, ta hỏi nàng, sao lại muốn leo cây, nàng quay đầu lại, cười nói nàng ngày đêm ngóng cây mận kết trái, mong mỏi nhiều ngày, hôm nay thấy quả mận bắt đầu đỏ, chạy nhanh đến hái, còn từ trong túi váy móc ra một quả mận đưa cho ta, kêu ta nếm thử xem có ngọt hay không.”

“Trước đây ở thành Đông Kinh, ta chưa bao giờ gặp qua người nào giống nàng ấy, trong lòng có chút buồn cười, đang tính từ chối thì thấy Tuyên Vương điện hạ từ xa xa đi tới, sắc mặt nôn nóng lại gần lôi kéo cô nương kia nhìn trái nhìn phải, thấy nàng không bị thương mới trách mắng không cho nàng trèo cây nữa.”

“Điện hạ mắng rất hăng, ta chưa từng nghĩ tới, một người hiền lành nho nhã như Tuyên Vương điện hạ cũng có lúc lạnh lùng sắc bén như vậy.”

“Nhưng cô nương kia lại không hề sợ hãi, cười cười giở chiếc túi đầy mận ra khoe y, nói đó là quà sinh nhật của nàng tặng y. Ban đầu điện hạ còn nghiêm túc, nghe xong lời này nhịn không được bật cười, nói tự nàng thèm ăn mới đi hái mận, vậy mà dám ăn vạ đổ lên đầu y, làm gì có đạo lý này.”

Tiết Hành nhoẻn miệng cười: “Khi đó ta mới biết, thì ra nàng mới là Tuyên Vương phi.”

**

Tác giả có chuyện nói:

Thời Tống nội thị không phẩm cấp mới xưng ‘nô tỳ’, chỉ có nữ quan mới xưng ‘thiếp’, người giám sát là phẩm cấp nữ quan nên tự xưng là ‘thiếp’.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 7: Bỏng



Nghe Tiết Hành kể chuyện, A Bảo cũng nhớ tới năm xưa.

Hữu An năm thứ bảy, cũng vào lúc thời buổi rối ren, ở năm đó, Thái Tông lần lượt mất đi hai đứa con trai, vị trí hoàng trữ bỏ không, Tam hoàng tử Triệu Tòng bắt đầu rơi vào tầm ngắm của ông.

Năm đó, khoảng thời gian Triệu Tòng được sắc lập làm Thái Tử, nàng bị hưu thê, chỉ cách nhau một năm.

A Bảo cũng là sau này mới biết được, hoá ra ngày ấy thị nữ làm đổ rượu không phải vô ý, mà là cố tình tạo dịp cho Tiết Hành và Triệu Tòng có cơ hội gặp gỡ nhau, ai ngờ bị nàng đánh bậy hạ làm vỡ kế hoạch đó.

Có lẽ đúng là do ngẫu nhiên gặp được, ấn tượng đầu tiên nàng đối với Tiết Hành cũng không sai biệt lắm, cho nên sau đó nàng ta gả cho Triệu Tòng, A Bảo cũng không thấy hận, chỉ cảm thấy mình vẫn không còn nơi để đi trong vương phủ, gấp đến độ tiểu nương tử nước mắt phủ đầy mặt.

Đêm đại hôn đó, Triệu Tòng bởi vì sợ A Bảo nổi giận, nên hắn cũng không viên phòng với Tiết Hành, từ đó về sau mấy tháng liên tiếp, hắn đều ở lại thư phòng, không chạm vào một đầu ngón tay của nàng ta.

Nếu để việc này truyền ra ngoài, Tiết Hành chắc chắn sẽ biến thành trò cười của đám quý nữ kinh thành, chẳng qua là nàng ta cũng là một nữ nhân thông tuệ, không oán trách, cũng bởi vì nàng ta biết mấu chốt việc này không nằm trên người Triệu Tòng, mà là do A Bảo.

Vì thế nàng ta chọn ngày đẹp trời, thích hợp đến cửa chào hỏi A Bảo.

Nếu nàng ta chọn cách ương ngạnh, dựa vào vị trí Tuyên Vương phi áp đảo A Bảo đi vào khuôn khổ, A Bảo nhất định sẽ không chịu khuất phục, nhưng nàng ta chọn hạ mình, ép dạ cầu toàn, thậm chí còn khóc ra nước mắt, A Bảo lập tức hết cách, nàng tìm đến Triệu Tòng, cơ hồ cũng là đuổi hắn vào phòng của Tiết Hành.

Một ngày nọ, A Bảo che chăn khóc lóc cả một đêm, hôm sau tỉnh dậy, đôi mắt sưng thành hai quả thạch đào.

Có được đêm thứ nhất, sau này lại có vô số đêm, sau Tiết Hành còn có thêm Mỹ nhân, Tài tử, Chiêu nghi, Chiêu dung.

Nữ tử hậu cung quá nhiều, tính riêng danh hiệu đã có hẳn mười mấy cái, mấy chục phẩm cấp khác nhau, nếu A Bảo muốn ghen tuông từng cái từng cái, chỉ sợ đời này vẫn chưa xong, cho nên nàng dần dần trở nên im lặng, mạnh dạn, mỗi lần Triệu Tòng sủng hạnh nữ nhân khác, lập tức tặng lễ vật đến điện nàng, hắn càng dè chừng đối đãi, A Bảo càng thấy hắn phản cảm mâu thuẫn, rốt cuộc đến ngày Triệu Tòng chịu đựng không nổi nữa, hai người tranh cãi xong tan rã không vui.

Sau này A Bảo đấu đá với Tiết Hành, nàng ta là Hoàng Hậu do triều thần tuyển chọn, còn nàng không có gia thế chống lưng hay chức danh môn thục nữ gì cả, quan trọng hơn nữa, từ ngày nàng bắt đầu vào đây, nàng đã từng bước mất đi Triệu Tòng, mấy lần nóng giận nàng đều giận cá chém thớt trên người Tiết Hành, cho rằng ngay từ đầu do bản thân bị vẻ nhu nhược của nàng ta lừa gạt.

Nhưng kỳ thật, cũng không thể trách mỗi Tiết Hành được.

A Bảo ôm đầu gối nhìn trời, buông tiếng thở dài.

“Lương đại nhân cẩn thận!”

Phía sau truyền đến một tiếng hô lớn, A Bảo quay đầu lại, vừa lúc thấy Lương Nguyên Kính đụng phải thị nữ bưng trà, hắn duỗi tay đón một chút, trà vừa mới nấu xong từ bếp lò, nước trà nấu sôi cứ như vậy tạt hết lên mu bàn tay của hắn, thoáng chốc cả làn da ửng đỏ hết hồn.

A Bảo sửng sốt, chậm rãi đi qua.

Trước tiên Tiết Hành sai người thỉnh ngự y tới, sau đó nhíu mày trách mắng thị nữ: “Càng không ra thể thống gì! Mỗi việc bưng trà cũng không xong?”

Thị nữ bưng trà sợ tới mức vội quỳ gối trên mặt đất nhận tội: “Nương nương thứ tội, thực ra nô tỳ…”

Nàng ấy còn muốn nói rõ ràng bản thân đã dè chừng, ai ngờ Lương đại nhân đang vẽ bỗng nhiên lùi về sau một bước, lúc đó hai người mới đụng phải nhau.

“Còn dám nguỵ biện!” Một thị nữ khác lạnh giọng quát bảo nàng ấy ngậm miệng.

Lương Nguyên Kính cản lại: “Không cần trách cô ấy, là do tôi sai trước.”

Hắn nhìn bức hoạ mới vẽ chưa được một nửa kia, trên mặt đã bị nước trà bắn ướt, nhuộm đẫm một màu đen loang.

Tiết Hành lập tức nói: “Tiên sinh không cần phải nói giúp, chữa vết thương trước đi rồi nói sau.”

Lúc lâu sau, ngự y mới xách theo hòm thuốc thở hồng hộc chạy tới, Lương Nguyên Kính vươn tay phải, bề mặt đã nứt ra vài vết máu, ngự y dùng ngân châm tiêu độc c.ắm vào cho hắn trước, mới có thể rải thuốc bột lên trên.

Thao tác này thật sự quá mạnh tay, A Bảo nhìn mà tê tái đau, hít hà vài hơi, sắc mặt Lương Nguyên Kính lại thản nhiên, dường như không thấy đau, chọc đến nàng không nhịn được hỏi: “Không đau sao?”

“Đau.” Lương Nguyên Kính nói.

Ngự y thoa thuốc “Ô” một tiếng, nhìn Hoàng Hậu gần đó đang sốt ruột nhìn chằm chằm lại đây, giật mình hỏi: “Vậy tôi nhẹ tay chút nhé?”

“……”

A Bảo ở cạnh nhìn chốc lát, đột nhiên hỏi: “Này, có phải là ngươi cố ý không vậy?”

Lương Nguyên Kính nhìn nàng, trong mắt mang theo nghi hoặc.

A Bảo nhìn chằm chằm mũi giày, sờ sờ mũi nói: “Ta thấy, vốn dĩ sẽ không đụng phải thị nữ kia, đều tại ngươi bất ngờ lùi một bước về sau, Lương Nguyên Kính, ngươi… Có phải vì ta không cho ngươi vẽ bức hoạ cho nàng ấy, nên mới làm như vậy không?”

Lương Nguyên Kính buông ánh mắt xuống, không nói gì, khiến ngự y thấy rất áp lực, mồ hôi rơi đầy đầu, rõ ràng chỉ bị phỏng nhẹ thôi, sao còn khó khăn hơn trị bệnh cho quan gia nữa, như trong vô hình có thứ gì đó đang lăm le nhìn hắn vậy.

Ngự y quay đầu nhìn nhìn khắp nơi, lành lạnh sống lưng.

A Bảo bất động nhìn vết thương trên mu bàn tay của Lương Nguyên Kính, toàn thân người này đều đẹp giống nhau, tay cũng như kiện sứ tinh xảo, ngón tay thon dài, tinh tế, da thịt sáng ngời như thạch ngọc, là đôi tay trời sinh ra dùng để cầm bút, nhưng hiện tại lại bị xuất hiện vết bỏng.

A Bảo nhìn mà tim hơi ẩn ẩn nhói, thương tiếc trông như thấy kiện sứ quý giá vỡ nát vậy.

Chắc sẽ không để lại sẹo đâu nhỉ?

A Bảo mất tự nhiên dời tầm nhìn, giọng nói cực nhỏ nói: “Thật ra ngươi không cần phải vậy đâu.”

Gió xuân thổi hoa lan bay, ngự hoa uyển đìu hiu.

Ống tay áo to rộng của Lương Nguyên Kính phất động theo gió, vài sợi tóc rơi rụng bên cạnh, tầm mắt hắn dừng ở phía xa xa, trừ hắn ra ai cũng không nhìn thấy A Bảo cả, ánh mắt dịu dàng lưu luyến, mang theo một chút ý ôn nhu.

**

Trên đường đi về, A Bảo như cũ ngồi cưỡi trên lưng lừa, Lương Nguyên Kính dắt bộ cho nàng.

Bọn họ đi qua phố Phan Lâu náo nhiệt, A Bảo nhìn đông nhìn tây, chỗ này thật ồn ào, cuộc sống phố phường phồn hoa thịnh vượng như vậy nàng vĩnh viễn không chán ngán, còn nhớ rõ năm ấy nàng gả cho Triệu Tòng, theo hắn lên thuyền từ Dương Châu đến kênh đào phía bắc, đi đến thành Đông Kinh ‘Bát Hoang tranh thấu, vạn quốc hàm thông. Tập tứ hải chi hiếm quý, sẽ hoàn khu chi mùi lạ’ [1], thật sự tròng mắt xoay chuyển liên tục, Triệu Tòng còn cười trêu ghẹo nàng là đồ nhà quê mới lên thành phố.

[1] Trích từ tác phẩm kinh điển《东京梦华录》miêu tả sự phồn vinh thịnh vượng của kinh thành thời Tống.

A Bảo đam mê ăn uống, Triệu Tòng liền vơ vét hết mỹ thực ở kinh thành về cho nàng.

Đa phần nhà cửa ở thành Đông Kinh đều là cửa hàng buôn bán, ngọc dịch của tửu lâu Ngộ Tiên, thọ mi của Phàn Lâu, rượu ngon Phan Lâu, mỹ lộc của Lương gia viên, mùa đông còn có chùa Tướng Quốc nướng thịt da heo, còn có thịt chồn và thuỷ sản, ngày hè có kẹo đường cát; đá tuyết, nước tía tô hồng thơm, đồ uống làm từ quả vải mát lạnh, các loại trái cây, như trái anh đào, quả cây hoa hồng, lê tuyết Tây Kinh, đều là món yêu thích của A Bảo, còn có chợ đêm mở bán đến canh ba mới dẹp.

Sau đó tiến cung làm Hoàng Hậu, nàng cũng không còn có dịp nào ghé thành Đông Kinh dạo chơi nữa.

A Bảo có lúc nghĩ, rốt cuộc bản thân thèm đồ ăn, hay luyến tiếc quãng thời gian rong ruổi vô tư chơi đùa cùng Triệu Tòng.

Có lẽ là cả hai.

“Sao lại thở dài?” Lương Nguyên Kính bên cạnh chợt hỏi.

A Bảo quét mắt liếc hắn một cái, đóng vai người già trải đời nói: “Ngươi không hiểu.”

“?”

Lương Nguyên Kính nhìn nàng, ánh mắt mờ mịt khó hiểu.

A Bảo ngửa đầu xem bầu trời: “Ta đang nhớ lại trước kia, nghĩ xem đời trước chính mình đã làm ra bao nhiêu chuyện ngu ngốc.”

Quả nhiên mọi người đều nói, người càng già càng thích nhớ lại chuyện xưa, A Bảo chết đến nay, mới sáng tỏ được chút sự tình, ví dụ như trước đó mình hận Tiết Hành đến tận xương, giờ đây lại không còn cảm giác gì.

Lương Nguyên Kính dừng bước chân, bỗng nhiên ngẩng đầu nhìn chằm chằm đôi mắt của A Bảo, do dự một lát mới hỏi: “Nàng là như thế nào…”

Hắn chưa nói xong nhưng A Bảo đã đoán được: “Ngươi muốn hỏi ta chết như thế nào đúng không?”

Lương Nguyên Kính gật gật đầu.

Cuối cùng cũng hỏi đến vấn đề này, nàng còn tưởng hắn không hiếu kỳ đâu, A Bảo không vội trả lời, cười cười hỏi lại: “Bọn họ nói sao?”

“Bệnh chết.”

“Ha, không sai biệt lắm…” A Bảo nói, “Ta treo cổ tự vẫn.”

“……”

Lương Nguyên Kính như bị sét đánh, mặt đầy khiếp sợ, đôi mắt trừng lớn, thậm chí không tự giác lui lại nửa bước.

Phản ứng này của hắn, A Bảo ít nhiều gì cũng cảm thấy thất bại, che mặt nói: “Lương đại nhân, không cần phải kinh ngạc tới vậy mà, ta doạ ngươi sao? Yên tâm đi, ta sẽ không biến thành quỷ đâu, còn đang ban ngày ban mặt, nhìn đi, trời còn sáng đấy.”

Lại nói, hắn ở cạnh một hồn quỷ nhiều ngày như vậy sao không thấy gì, trì hoãn lâu tới giờ mới sợ?

Lương Nguyên Kính vươn tay về phía nàng, nhìn kỹ còn có chút run rẩy.

Đây là muốn làm gì?

A Bảo không thể hiểu được mà nhìn động tác của hắn, đáng tiếc tay của Lương Nguyên Kính chỉ duỗi đến bả vai nàng rồi rút lại.

Điều này làm A Bảo động tâm.

Không lẽ… Hắn muốn sờ cổ nàng?

A Bảo cầm lòng không đậu sờ lên cổ của mình, nơi đó không có dấu hiệu sưng vù, cũng không có cảm giác đau đớn, nhưng nàng còn nhớ rõ lúc sắp chết thấy rất đau khổ mà nhỉ, treo cổ tự vẫn không phải phương thức thoải mái gì cho cam, nếu có cơ hội được chọn lại, nàng nghĩ nàng sẽ đổi cách khác.

A Bảo hơi hé môi, muốn nói gì đó, rồi lại không biết nói gì.

Lương Nguyên Kính yên lặng một lát, đột nhiên hỏi: “Muốn ăn gì đó không?”

“……”

A Bảo hết nói nổi: “Ngươi có phải chỉ biết dùng mỗi thủ đoạn này để dỗ cô nương không?”

“Ăn không?’

“…… Ăn.”

Lương Nguyên Kính xoay người đi mua, A Bảo chợt gọi hắn lại: “Khoan đã, ta còn muốn ăn anh đào chiên.”

Hắn gật gật đầu: “Được.”

Xì, sao hôm nay dễ nói chuyện vậy? Bình thường còn vắt nước không lọt tay mà?

A Bảo không nhịn được ‘được đằng chân lên đằng đầu’: “Còn có quả mận?”

“Được.”

“Kẹo sư tử.” [2]

[2] Tên do người Tống đặt, kẹo được làm chủ yếu bằng đường và rau củ trái cây.

“Ừm.”

“Nếu có đá bào, có thể mua thêm một phần mang về.”

“Còn nữa không?”

“……” A Bảo không tin tưởng nhìn hắn, “Lương đại nhân, cho ta hỏi trước một câu, ngươi có tiền không?”

Lương Nguyên Kính lập tức móc túi tiền từ tay áo ra, đổ tiền đồng trong túi vào lòng bàn tay, đếm tới đếm lui mới khẳng định gật đầu: “Có.”

“À à,” A Bảo mặt vô biểu cảm, “Vậy ngươi đi đi.”

Nàng ngước mặt lên trời, che giấu mắt mũi chực trào của mình.

Lương Nguyên Kính hối hả ngược xuôi, cuối cùng mới mua toàn bộ đồ ăn nàng muốn về, được hắn dùng túi bao lại, cùng để vào túi treo trên con lừa, A Bảo nhìn ngón tay hắn lủng củng thắt dây, vết phỏng mu bàn tay đã được băng bó, tấm lấm vài vết máu mờ nhạt.

Tại giờ khắc này, trong lòng A Bảo thầm hạ quyết tâm, về sau nhất định phải đối xử tốt với Lương Nguyên Kính hơn một chút.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 8: Ở yên trong nhà



Lại mười ngày nữa trôi qua, A Bảo rất mau vứt lời thề của mình ra sau đầu.

Bởi vì nàng thật sự hết! Nói! Nổi!

Lương Nguyên Kính là hoạ sư hàn lâm, việc làm mỗi ngày là đi đến hoạ viện, nghe giảng, nghiên cứu và giám định mấy danh tích thi hoạ cổ, lúc có lệnh triệu tập sẽ chờ đợi giao việc, vẽ tranh cho các quý nhân trong cung hoặc chấp bút thay Hoàng Thượng, chừng nào có những dịp quan trọng như dự cung yến, hắn cũng phải tham dự để vẽ lại khung cảnh lúc đó.

Ngoài ra, sau khi Triệu Tòng đăng cơ mở học viện hoạ tranh ở Quốc Tử Giám, hắn cũng có trách nhiệm đến đó giảng dạy.

Vào lúc rảnh rỗi, hắn thường xuyên đem dụng cụ vẽ ra ngoài vẽ tranh tả thực, sẽ hay ghé vào đường làng phố xá, hoặc thành trì nông thôn, hoặc cũng có thể là chùa cổ nằm sâu trong núi, phần lớn là vẽ chi chít những con buôn nhỏ, nông dân, tăng đạo.

Điều này hoàn toàn bất đồng với giới hội hoạ hiện nay, thậm chí là không phù hợp, tính từ năm năm cuối thời Đường cho đến nay, bất kể là chim hoa núi non hay hoạ người, nhóm hoạ sư đều sẽ vẽ theo lối tôn sùng xa hoa tráng lệ, cố gắng dùng lối vẽ tỉ mỉ phức tạp, đủ loại màu sắc tượng trưng cho vương triều thịnh thế khí phách, thường gọi là ‘Viện thể” [1].

[1] 院体 là một thuật ngữ trong lĩnh vực nghệ thuật, đặc biệt là hội họa và thư pháp, xuất phát từ Trung Quốc. Dùng để chỉ phong cách nghệ thuật chính thống, được sáng tác và ủng hộ bởi các học viện hoặc cung đình thời xưa.

Dưới ảnh hưởng của thời thế này, chủ thể trong tranh cũng phải là quý nhân quan lớn, văn nhân thi sĩ, hoặc là ẩn sĩ thoát tục núi sâu.

Người giống như Lương Nguyên Kính trực tiếp đưa dân tình bá tánh vào trong tranh, không phải không có, chỉ là hiếm hoi, khó trách thường ngày A Bảo thấy hắn ở hoạ viện đều ‘độc lai độc vãng’, ít khi giao thiệp với bạn đồng liêu, nếu vậy chắc ở trong mắt những người khác, hắn không phải người lạnh lùng khó gần, cũng là hành động khác người thường.

Có một lần A Bảo hỏi hắn, vì sao tranh của hắn không giống như những người khác.

Lương Nguyên Kính liền hỏi ngược lại nàng: “Tranh của người khác vẽ thế nào?”

A Bảo không có nhiều hiểu biết lắm về vẽ tranh, hao tâm tốn sức suy nghĩ rất lâu mới trả lời: “Không biết, dù sao cũng khác ngươi, tranh bọn họ toàn là quan lớn, phu nhân quyền quý, hoặc là đánh đàn cổ, lão nhân cầm quạt đi? Bên cạnh còn phải có mấy kẻ hầu hạ nữa.”

Lương Nguyên Kính nghe xong, hơi hơi mỉm cười: “Những vị đó tự có người khác vẽ họ, còn ta thì không.”

“Vậy ngươi vẽ cái gì?”

Lúc đó bọn họ còn đang ở trên cầu Biện Hà, bên dưới cầu thuyền hàng muốn đi qua cầu, những người chèo thuyền bò l*n đ*nh thuyền hạ cánh buồm xuống, còn có sáu gã to khoẻ phụ đứng ở đuôi thuyền, vài tiểu nhị áo quần ngắn đứng ở trên cầu hô hào, chỉnh dây cáp chuyển phương hướng của thuyền.

Lương Nguyên Kính nhìn cảnh tượng này, nhẹ giọng nói: “Họa hồng trần trung nhân.” [2]

[2] Thường dùng để miêu tả cảnh tượng trong thế gian.

A Bảo ngồi trên thành cầu, theo tầm mắt hắn nhìn xuống dưới, không khỏi khịt mũi coi thường: “Cũng chỉ là đám dân thường hạ đẳng mà thôi.”

Lương Nguyên Kính nhìn nàng chằm chằm, không nói gì.

A Bảo bị ánh mắt của hắn chọc giận, bực bội nói: “Nhìn cái gì? Có phải ngươi muốn nói ta cũng xuất thân thấp kém giống bọn họ chứ gì? Hứ, thấp kém thì sao, vận khí của ta không tốt, không sánh nổi các ngươi đầu thai thành đại lão gia, được nuôi trong bụng của quý nhân, sinh ra cũng chỉ lo hưởng phúc!”

Xuất thân luôn là nỗi đau vĩnh hằng của A Bảo.

Tuy mới đầu nàng cũng không thấy nó có vấn đề gì, lúc còn ở Dương Châu, nàng là bán nghệ không bán thân, dựa vào bản lĩnh nuôi sống bản thân, ngay cả Tri châu đại nhân còn mời nàng về phủ đàn tỳ bà, còn dùng lời hay ý tốt khen ngợi nàng nữa.

Sau khi vào thành Đông Kinh, thân phận ca nữ của nàng lại bị công kích hết lần này đến lần khác, còn biến thành phong trào.

A Bảo bị bọn họ mắng từ năm này sang năm nọ, tính tình cũng dần dần trở nên vặn vẹo, một mặt nàng không thấy mình có gì sai, mặt khác lại cấm đoán không cho ai nhắc về xuất thân của mình.

Rất đúng với câu kiêu căng tự đại nhưng lại tự ti sâu sắc.

Lương Nguyên Kính bất đắc dĩ thở dài, nói: “Ta không có ý đó.”

A Bảo ‘hừ’ một tiếng, ánh mắt quét tới mặt sông.

Giọng nói trong trẻo hiền hoà của Lương Nguyên Kính từ phía sau truyền đến: “Ta chỉ nghĩ, nếu bức tranh này có thể lưu truyền rộng rãi, để người đời ngàn năm về sau sẽ biết, thời đại của chúng ta sinh sống như thế nào thôi.”

A Bảo nghĩ thầm ngươi có mà nằm mơ đi, còn muốn tranh mình vẽ lưu truyền ngàn năm nữa chứ, đừng tưởng muốn là được, ai biết chừng đến cuối sẽ biến thành cái dạng gì.

Nàng chuẩn bị chê bai hắn một câu, nhưng khi quay đầu nhìn thấy thần sắc của Lương Nguyên Kính, lại lập tức im bặt.

Không biết vì sao, mỗi lần nói đến tranh vẽ, trên người Lương Nguyên Kính phảng phất phát ra cỗ khí chất, khiến người khác không thể khinh thường.

A Bảo nuốt lời định nói xuống: “Ha, vậy sao ngươi còn chưa vẽ xong?”

Có mỗi bức tranh, nàng thấy hắn đã vẽ rất lâu rồi.

Lương Nguyên Kính vừa mới dùng bút than vẽ xong bản thảo, đang tính phác hoạ đường nét lên trên, nghe vậy mỉm cười nói: “Ta muốn vẽ toàn bộ thành Biện Kinh.”

A Bảo nghẹn họng, thầm nghĩ khẩu khí của ngươi lớn lắm, nhịn không được hỏi: “Ngươi đã vẽ được bao lâu rồi?”

“Ba năm.”

“……”

**

Lúc Lương Nguyên Kính ra ngoài vẽ tranh, A Bảo mặc dù bị giam ở gần hắn không thể chạy loạn, nhưng tốt xấu gì cũng được ngắm nhìn phong cảnh, người qua lại, không đến mức quá nhàm chán.

Nhưng sau lần trước bị bỏng, hắn không thể vẽ tranh tiếp, quan gia ban ân điển, dặn dò hắn ở nhà chuyên tâm dưỡng thương, không cần phải đến hoạ viện điểm danh, thậm chí còn sai nội thị đưa đến thuốc mỡ mát lạnh do ngự dược cục đặc chế.

Suốt ngày bị nhốt trong nhà không đi ra ngoài, A Bảo rảnh rỗi trồng cây cỏ, Lương gia không quá lớn, nàng chuyển ra chuyển vào rất nhanh đã xong, cây táo trong viện kia kết bao nhiêu quả táo cũng đếm được rất rõ ràng.

Bởi vì nhàm chán, nàng liền kiếm chuyện với Lương Nguyên Kính, đầu tiên là quấn lấy đòi Lương Nguyên Kính mua mấy quyển thoại bản cho nàng, sau khi đọc đến chán lại ầm ĩ muốn đi ra cửa.

“Đi ra ngoài! Đi ra ngoài! Không ra khỏi cửa ta sẽ phát điên mất!”

A Bảo lăn qua lăn lại trên án thư, mấy ngày nay Lương Nguyên Kính đang bận sửa sang lại tập tranh, trên án bày không ít tranh chữ.

Lương Nguyên Kính thấy nàng có đuổi cũng không đi, lập tức cầm tới đao khắc và một loại ấn Kê Huyết Thạch, bắt đầu khắc con dấu.

A Bảo tận tình khuyên bảo nói: “Lương đại nhân, ngươi không đi ra ngoài vẽ vật thực nữa à? Không phải muốn vẽ toàn bộ thành Đông Kinh sao? Còn như vậy nữa, ngươi phải chờ đến ngày tháng năm nào mới vẽ xong hả?”

Lương Nguyên Kính nói: “Tay ta còn chưa lành.”

“Lừa quỷ chắc?” A Bảo trợn tròn mắt, “Ngươi có thể cầm đao khắc đá, sao không thể cầm bút được?”

Lương Nguyên Kính khắc đá, khóe miệng nhếch lên.

A Bảo biết hắn đang cười cái gì, ý tứ đúng là ‘không lừa được quỷ’.

Nàng bất lực ỉu xìu ngã xuống bàn sách, lăn qua lộn lại! Buồn chán quá đi! Buồn chết người! Buồn chết ma quỷ!

‘Cốc, cốc, cốc’ ngoài phòng bỗng nhiên truyền đén tiếng đập cửa.

A Bảo ngồi thẳng dậy: “Có người tới!”

Lương Nguyên Kính ngồi không nhúc nhích, tiếp tục khắc đá: “Dư lão sẽ ra đó xem.”

“Dư lão đi mua đồ ăn rồi!”

A Bảo tức giận nói, mỗi ngày hắn ngồi yên trong nhà, còn chưa biết nhiều chuyện bằng nàng đâu!

“Lương công tử có nhà không?” Người gõ cửa hỏi.

A Bảo lập tức nói: “Còn không mau ra mở cửa đi, có lẽ tìm mua bức tranh của ngươi.”

Lương Nguyên Kính có lúc sẽ vẽ chân dung cho vài người dân, mới đầu là do con trai út của nhà thương hộ chạy mất, phủ Khai Phong dán bố cáo hình vẽ khác xa không giống người thật cho lắm. Lão gia khẩn cầu chủ phủ Khai Phong tìm người khác đến vẽ lại, quan doãn [3] của phủ bị kiện tụng quấn thân, vốn dĩ không rảnh quan tâm chút việc nhỏ này, nói ông ta có bản lĩnh thì tự đi mà tìm.

[3] Chức quan.

Lúc đó hoạ sư dân gian phần lớn trình độ tầm thường, trong hoạ viện tuy chứa nhiều nhân tài, nhưng đa phần có tài sinh kiêu ngạo, cậy mình là quan viên chức, không muốn lui tới với thương nhân.

Hết cách, nghe hàng xóm nói Hàn Lâm Viện có nhân vật lương thiện tên Lương Nguyên Kính, lập tức ôm chút hi vọng tìm tới cửa.

Lương Nguyên Kính nghe vậy không nói hai lời, kêu ông ta miêu tả diện mạo của con trai út, lấy bút mực tới vẩy thành vài nét.

Một lát sau vẽ xong, thương nhân đi tới nhìn, quả thực giống hệt con mình.

Sau đó nhờ vào bức tranh này, ông ta thành công tìm thấy con trai, thương nhân tất nhiên cảm ơn hết lòng, muốn báo đáp lại ân tình của Lương Nguyên Kính bằng một số tiền lớn.

Lương Nguyên Kính không lấy một xu, thương nhân liền đau khổ cầu xin, hai bên đưa qua đẩy lại, cuối cùng Lương Nguyên Kính chỉ nhận lấy một quan tiền.

Từ sau chuyện này, thương nhân bạo dạn tuyên truyền ra ngoài, thế là dân gian mỹ danh ‘Lương Nhất Quán’ ra đời.

Bạn đồng liêu của Lương Nguyên Kính ở hoạ viện biết chuyện, ngấm ngầm chê cười hắn ‘không ngồi chung mâm’ ‘mua chuộc danh tiếng’, hoặc là ‘làm huỷ hoại giới hội hoạ’, dù đó có là lời thật lòng, cũng đều xuất phát từ lòng đố kỵ, Lương Nguyên Kính có thể không phải người giỏi nhất trong hoạ viện, nhưng nhất định là hoạ sư nổi tiếng nhất trong dân gian.

Về sau càng ngày càng có nhiều người tìm tới cửa nhờ hắn vẽ tranh, bất kể là hai nhà tìm làm mai, nhờ hắn vẽ tranh cho cô dâu, đến tết nhờ hắn vẽ hình búp bê, Chung Quỳ trừ tà, đạo quan chùa miếu mời hắn vẽ bích hoạ, hoặc giống như thương nhân, vẽ con cái đi lạc mất cũng có, thậm chí còn có kỹ nữ tìm đến nhờ vả hắn.

Chỉ cần là nhiệt tình muốn nhờ vả, Lương Nguyên Kính đa phần đều đáp ứng, kể cả đắt rẻ sang hèn, tiền thù lao đồng giá chỉ thu một quan tiền.

Bởi vì lo rằng có người tìm tới nhờ vẽ tranh thật nên Lương Nguyên Kính buông đao khắc xuống, ra ngoài thư phòng.

A Bảo thấy hắn mấy bữa nay mới có một lần ra khỏi cửa phòng, vô cùng phấn chấn, trèo qua đầu tường xem khách tới là ai, sau đó trở lại báo tin cho hắn: “Là một bà lão.”

Lương Nguyên Kính khựng bước: “Trên má có một nốt ruồi?”

Cái này A Bảo không chú ý đến, vì thế bay qua nhìn nhìn, rồi quay lại nói: “Đúng rồi, có một nốt ruồi rất lớn.”

“……”

Lương Nguyên Kính đứng bất động.

A Bảo ngạc nhiên nói: “Làm sao vậy?”

“Trong nhà có ai không?” Tiếng đập cửa lại vang lên.

“Không mở cửa sao?” A Bảo hỏi.

Sắc mặt Lương Nguyên Kính căng thẳng, bắt đầu nhìn trái phải khắp nơi.

Làm sao vậy? Đòi nợ tới cửa à?

A Bảo thiện chí nhắc nhở: “Ngươi có thể bò lên trên cây táo trốn.”

“……”

Lương Nguyên Kính đứng trong sân hoang mang lo sợ chạy tới chạy lui, A Bảo cũng đi theo sau hắn chạy tới chạy lui.

Phía sau cửa truyền đến cuộc đối thoại ⎯⎯

“Vương ma ma, sao bà lại tới đây?”

“Dư lão, mới mua đồ ăn về sao?”

“Đúng vậy, sao không đi vào?”

“Tôi gõ cửa nhưng không ai ra mở, có phải Lương công tử vắng nhà không?”

“Kỳ lạ,” Dư lão lẩm bẩm nói, “Lúc tôi ra cửa vẫn còn mà.”

Ngoài cửa vang lên tiếng “Tốt quá”, hình như hai người chuẩn bị đẩy cửa đi vào.

A Bảo cực kỳ đồng tình nhìn Lương Nguyên Kính: “Hay ngươi thử cách trốn trên cây đi.”

Lương Nguyên Kính chỉ chần chờ trông chớp mắt xong xoay người ôm thân cây, dự định bò lên trên.

Lúc này ‘kẽo kẹt’ cửa mở.

Dư lão mua đồ ăn trở về xách một túi thức ăn, một sọt cá, cùng lão phụ nhân trên má có nốt ruồi đen đứng chung một chỗ, mặt đầy khiếp sợ nhìn Lương Nguyên Kính đang ôm cây, vài phiến lá rụng bay qua, ba người một quỷ nhìn mặt nhau.

Dư lão: “….”

Phụ nhân: “………”

Lương Nguyên Kính: “………………”

A Bảo sờ sờ mũi, nói: “Xấu hổ quá đi mất.”

**

Tác giả có chuyện nói:

Ma ma ⎯⎯ Xưng hô đối với phụ nữ lớn tuổi thời Tống.

Khác:

Có thể sẽ có người cảm thấy, tranh của Lương Nguyên Kính ở đây đồng giá tiền không phù hợp với câu ‘ngàn vàng khó mua’ lần trước (chương 3).

Về cái này, tôi nghĩ vầy, Lương Nguyên Kính chưa từng bán tranh của hắn với giá cao, mà là được người ta nâng lên nên mới cao như vậy, mà những bức tranh quan to quý nhân thích, cũng là tranh phù hợp với phong cách hiện đại thời này.

Có người sẽ nghĩ, nếu bức tranh của Lương Nguyên Kính đáng giá tới vậy, vậy tôi vung tiền mua lại, sau đó chuyển nhượng với giá cao hơn có được hay không?

Đương nhiên không được, chỉ có thật lòng tới cửa nhờ vẽ, Lương Nguyên Kính mới chịu vẽ cho, chỉ là Lương Nguyên Kính người này ngây thơ dễ lừa, cũng đã bị lừa vài lần, nhưng không liên quan đến chính văn nên sẽ không đưa vào. [tới đây thấy bùn cười vãi hí hí]

Lại nói một chút, câu “Họa sĩ dân gian phần lớn trình độ tầm thường” tuyệt đối không giống với nguyên sử, trên thực tế rất nhiều danh gia hội họa đều đến từ dân gian, thậm chí bán tranh cả đời, đến già mới được triều đình nhìn trúng.

Chỗ này của tôi cố ý thiết lập như vậy, có thể lý giải thành hội họa lúc ấy là loại hoạt động tao nhã nhất, không phải phú quý trong nhà thì không thể bồi dưỡng, họa sư trình độ cao cũng chỉ có người giàu sụ mới mời được, mà Lương Nguyên Kính là một họa sĩ cung đình kỹ thuật vẽ tinh xảo, cũng khó có được không kiêu ngạo.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 9: Làm mai



“Công tử nhà chúng tôi, ngày thường hay… Có thói quen leo cây rèn luyện sức khoẻ ấy mà.” Dư lão cười ha ha nói.

“Tôi hiểu, ngày thường tôi cũng vậy…” Vương thị gượng cười phụ hoạ.

“Cũng leo cây luôn sao?” Dư lão kinh ngạc hỏi.

“À…” Vương thị đổ đầy mồ hôi.

Còn sắc mặt của Lương Nguyên Kính thảm đến nỗi không nỡ nhìn.

A Bảo bụm mặt nói: “Đừng nói nữa mà, ta xấu hổ thay các ngươi.”

Dư lão nói: “Tôi đi nấu cơm.”

Nói xong liền gấp không chờ nổi chui vào trong phòng bếp, chỉ còn lại Lương Nguyên Kính và Vương thị đứng tại chỗ.

A Bảo nhìn Lương Nguyên Kính tai đỏ ửng, có lòng an ủi hắn: “Không sao đâu, ngươi chỉ bị bắt gặp một chút thôi, chuyện gì rồi cũng sẽ qua, đừng đứng như trời trồng nữa, mau mời khách vào uống trà đi.”

“Mời bà vào uống trà.” Lương Nguyên Kính đỏ mặt, ho nhẹ một tiếng nói.

“Được… được.”

Vương thị tay chân luống cuống cùng đi vào thư phòng với hắn, nghĩ thầm chắc Lương công tử sẽ không giết người diệt khẩu đâu nhỉ.

Sau nửa canh giờ, Vương thị nói rõ ý tứ đến đây, bà ấy vậy mà tới làm mai cho Lương Nguyên Kính.

Rốt cuộc A Bảo mới sáng tỏ vì sao vừa rồi hắn giống như thấy quỷ tới đòi mạng, ha ha há há, thì ra là sợ bà mối.

A Bảo ôm bụng, lăn lộn cười bể bụng.

Lương Nguyên Kính bất đắc dĩ trừng mắt với nàng một cái, nàng không những không thu liễm, ngược lại còn cười quá đáng hơn.

“Đừng cười nữa.” Lương Nguyên Kính nói.

“Già đâu có cười.” Vượng thị vẻ mặt khó hiểu.

“Không… Tôi không nói bà.” Lương Nguyên Kính bất lực muốn giải thích, nhưng rồi lại không biết phải giải thích như thế nào, chỉ có thể cam chịu gục đầu xuống, “Bỏ đi.”

Vương thị tuy không hiểu gì nhưng cũng không bám dai hỏi, dồn hết sức lực bày ưu điểm của việc cưới vợ vào cửa cho hắn: “Lương công tử à, cậu đã ba mươi tuổi rồi…”

“Cái gì?” A Bảo khiếp sợ nhìn Lương Nguyên Kính, “Ngươi đã già đến vậy rồi sao?”

Lương Nguyên Kính: “……”

Vương thị: “Người xưa có câu ‘tam thập nhi lập’ [1], cậu cũng nên thành gia lập thất, cưới một thê thử vào nhà, thứ nhất là có thể lo liệu việc nhà, may đồ giặt quần áo, thứ hai có thể chỉnh trang sửa soạn cho cậu, nếu cậu có chuyện gì nhọc lòng còn có nàng bên cạnh san sẻ ngày đêm không rời…”

[1] Lời dạy của Khổng Tử: Đàn ông 30 tuổi, ở độ tuổi sung sức nhất của người đàn ông, suy nghĩ cũng trở nên chín chắn thành đạt.

“Những thứ đó Dư lão cũng có thể làm được.” Lương Nguyên Kính nhỏ giọng phản bác.

Vương thị hết sức không đồng tình: “Dư lão có thể làm ấm giường cho cậu không? Có thể sinh con đẻ cái cho cậu, nối dõi tông đường không? Lương công tử à, cậu không thể thủ tiết cả đời cho một lão nô bọc, làm như vậy sao có thể ăn nói với cha mẹ cậu đây?”

Lương Nguyên Kính: “……”

A Bảo ôm bụng, đã cười đến độ không chịu nổi.

Tiếp theo đó, Vương thị còn giới thiệu vài người do bà ấy chọn, gì mà muội tử nhà Điền giáo đầu, nương tử đồng hương với Liễu viên ngoại, còn có khuê nữ nhà phú thương giàu có, A Bảo càng nghe càng thấy sai sai.

“Tên giáo đầu họ Điền này trong cấm quân mang tiếng là người dữ dằn nhất, ăn no say xỉn đánh chết người, ta ở trong cung từng nghe qua, để ngươi cưới em gái hắn, ngươi chịu nổi mấy quyền của người ta đây?”

“Gì nữa? Ở goá còn có đứa con trai? Người như vậy mà cũng dám làm mai cho ngươi, gả qua lập tức biến thành cha dượng… Cái gì mà con cái là phước phần chứ, cho bà bà có muốn không đó?”

“Nương tử nhà phú thương này đã hơn hai mươi tám tuổi mà chưa lấy chồng, coi chừng bị bệnh kín đó, không được không được.”

“Tuổi tác quá lớn không ổn, diện mạo tầm thường, tính tình hung ác càng không ổn, mặt có vết bớt càng không không ổn. Ui… Toàn giới thiệu dưa vẹo táo nứt không vậy, tiễn khách tiễn khách mau!”

A Bảo nghe được vô cùng tức giận, bà mối này cũng quá trời xằng bậy rồi.

So với nàng, Lương Nguyên Kính cũng không có phản ứng gì quá lớn, nhẫn nại nghe Vương thị luyên thuyên suốt nửa canh giờ sau mới đứng dậy tiễn khách.

Hắn tiễn người xong quay về, thấy A Bảo đang ngồi trên ghế hắn phát giận: “Về sau đừng để người này tới cửa, có tới cũng không mở! Thật là, làm mai toàn loại người gì đâu không…”

Lương Nguyên Kính khẽ mỉm cười, lấy dao khắc đặt trên bàn qua, tiếp tục khắc ấn Kê Huyết Thạch đang làm dang dở.

A Bảo bỗng hỏi hắn: “Chẳng qua, sao ngươi ở độ tuổi này rồi mà còn chưa thành hôn vậy?”

Đại Trần lấy nhân hiếu trị quốc, thành hôn sớm là tập tục, nam tử qua mười lăm đã có thể cưới vợ, nữ tử mười ba có thể xuất giá, giống năm đó A Bảo mười bảy tuổi gả cho Triệu Tòng đã được xem là thành hôn muộn, mà Lương Nguyên Kính cũng đã ba mươi tuổi vẫn còn lẻ loi một mình, cũng không nạp thiếp, thật sự là một chuyện kỳ lạ.

Lương Nguyên Kính dừng dao trong tay lại một chút, rũ mắt nói: “Không vì sao cả.”

A Bảo nhớ tới bức hoạ đáy rương kia, tò mò hỏi: “Có phải ngươi có người trong lòng không?”

Bất chợt Lương Nguyên Kính ngước mắt lên, kinh ngạc nhìn nàng, bộ dạng như bị người ta nói trúng tim đen.

Hoá ra là có thật nha.

A Bảo không biết sao trong lòng bỗng cảm thấy có chút không thoải mái, giống như chó nhà mình nuôi đã lâu đột nhiên chạy theo người khác vậy.

“Là tiểu nương tử nhà ai vậy? Người trong bức hoạ cất trong rương kia là nàng sao?”

Lương Nguyên Kính ngạc nhiên nói: “Nàng biết bức hoạ đó?”

“Đúng vậy, lần trước có thấy qua…”

“Nàng thấy được rồi?”

Lương Nguyên Kính lớn tiếng đánh gãy nàng, thần sắc khiếp sợ cực độ, dòm kỹ còn có chút sợ hãi.

Từ trước đến nay lúc hắn nói chuyện đều là ăn nói cẩn trọng, chưa từng bày ra vẻ thất thốt như bây giờ, A Bảo nhất thời khó hiểu: “Không thấy được bên trong tranh… Làm gì vậy? Ngươi hung dữ như vậy làm gì?”

“Thực xin lỗi.” Lương Nguyên Kính quay đầu đi, nhéo nhéo điểm giữa mày, mặt mũi mệt mỏi, “Ta hơi… mệt.”

A Bảo càng tò mò: “Rốt cuộc là tiểu cô nương nhà ai? Ta có quen không?”

Lương Nguyên Kính không đáp, tiếp tục công việc khắc con dấu.

A Bảo ‘đuổi cùng giết tận’ hỏi thăm, hắn lại như không có nghe, tựa như ba ngày đầu kia, cố ý vờ vịt không nghe thấy nàng.

Ánh mặt trời ngày xuân từ cửa sổ rọi vào, chiếu lên trên sườn mặt như ngọc của hắn, càng tôn lên màu da trắng nõn, mặt mày đẹp như tranh.

Bỗng nhiên A Bảo có chút buồn bực không nói nên lời: “Lương Nguyên Kính, ngươi cứ nhàm chán như vậy, sẽ không có tiểu nương tử nào thích ngươi đâu.”

Lương Nguyên Kính trượt tay, lưỡi dao khắc xẹt qua ngón trỏ tay trái hắn, máu tươi lập tức ứa ra.

Giọt máu nhỏ nhiễu trúng bức tranh trên bàn, bức tranh vẽ một cái bình sành, c.ắm vào hai ba cọng cỏ tranh, có một con mèo lưng vằn đang kiễng hai chân sau đứng vung móng trêu đùa cọng cỏ.

“Ngươi chảy máu kìa!” A Bảo hốt hoảng la.

Lúc này Lương Nguyên Kính mới hoàn hồn, nắm lấy ngón trỏ chảy máu, giọt máu nhỏ vào hình vẽ trong tranh hình thành một vòng xoáy nước nhỏ kỳ lạ, chỉ là hai người họ không ai kịp chú ý tới.

“Mau cầm máu đi!” A Bảo la, “Trong nhà có bột thuốc đắp không?”

Lương Nguyên Kính lục tung tìm thuốc cầm máu, A Bảo lo lắng đi theo sau hắn, đột nhiên trong cơ thể dậy lên một loại cảm giác kỳ dị, khiến thân thể nàng nóng hổi, choáng đầu hoa mắt, trông chốc lát như đang ở giữa cánh đồng bát ngát, chốc lát lại giống lúc về trở hòm xiểng chật hẹp u ám.

A Bảo nháy mắt đứng ngây ngốc tại chỗ, run rẩy la lên: “Lương… Lương Nguyên Kính.”

“Làm sao vậy?”

Lương Nguyên Kính dừng tay lại, chạy vọt tới trước người nàng.

A Bảo vốn định đỡ hắn, đôi tay lại xuyên qua cánh tay của hắn, nàng mờ mịt lẫn sợ hãi: “Không biết nữa… Có gì đó không ổn, ta có thể cảm nhận được, ta…”

Trong lúc nhất thời, hai người đều im lặng, bởi vì bọn họ đều nhìn thấy, đôi tay của A Bảo đang dần tan biến.

Tay… Sau đó đến khuỷu tay, nửa người trên… Thậm chí đến toàn thân.

Thời khắc cuối cùng tan biến, A Bảo thấy được Lương Nguyên Kính liều mạng nhào về phía nàng, hai mắt đỏ ngầu, đau khổ hét to: “A Bảo!”

Đây là lần đầu tiên hắn kêu tên mình.

Trước lúc mất đi ý thức, trong đầu A Bảo xẹt qua dòng suy nghĩ.

“A Bảo!”

Lương Nguyên Kính tìm kiếp khắp nơi trong thư phòng, ngay cả dưới án thư đã đều chui qua cũng không hề nhìn thấy bóng dáng của A Bảo, ánh mắt hắn mê mang quỳ trên mặt đất.

“Làm sao vậy? Có chuyện gì?”

Dư lão cầm vá canh từ bên ngoài chạy tới, thấy rõ dáng vẻ của hắn, không khỏi kinh hãi: “Công tử, cậu……”

“Tôi không sao.”

Lương Nguyên Kính hồn bay phách lạc từ trên mặt đất đứng dậy, hai mắt hiện lên mảnh tối đen, còn thấy hơi choáng váng.

Dư lão đỡ lấy hắn, vừa ‘ủa’ lên một tiếng: “Sao lại có mèo chạy tới chỗ nào?”

“Mèo gì?” Lương Nguyên Kính thất thần hỏi.

“Ở chỗ này có một con mèo vằn.” Dư lão nói.

“Lương Nguyên Kính.”

Giọng nữ quen thuộc vang lên trong phòng.

Sống lưng Lương Nguyên Kính cứng đờ, đột nhiên quay đầu lại, một con mèo lưng vằn tao nhã ngồi xổm ở đó, đôi mắt xanh biếc như hai viên phỉ thuý, sâu kín nhìn hắn chằm chằm.

⎯ ⋆˚࿔ Hết quyển một «Cung oán»

**

Cung oán – Nghê Long Phụ (?)

Thúy tụ vô hương kính hữu trần, nhất chi hoa sấu bất tàng xuân.

Mười năm không biết mặt quân vương, thủy tín thiền quyên giải lầm người.

*Miêu tả nội tâm đau khổ của một người phụ nữ bị mắc kẹt trong thâm cung.

Tác giả có chuyện nói:

Góc nhìn của bà mối Vương thị đối với Lương Nguyên Kính:

Nam thanh niên lớn tuổi độc thân chưa lập gia đình, thuê nhà một sảnh ba phòng, vị trí nhà ở ngoài thành, phương tiện đi lại là cưỡi lừa già (↔ chiếc Mazda second-hand), tiền lương không cao, tuy trong thể chế nhưng chức quan nhỏ, so với công tử quý tộc khắp kinh thành không tính là gì hết, có thể nói, trừ mặt ra cũng không có gì đặc biệt, hắn ở thị trường yêu đương và hôn nhân thật sự không có tính cạnh tranh xíu nào (hic hic quay đi).

A Bảo tỏ vẻ: Mặt mũi đẹp là được.
 
Back
Top Bottom