Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
442,990
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
AP1GczOf_m02rooO4zrdlj_Xl4xUrJDZSpeopuZ3swBlXVlXBV-e_JKgVH5Squya-K_azTl7Icc5L-CU2aFhLWi0Y9QQEwzhUOW-4gUzru5IItX0JFQiJonTKsRYy7Us5RjvJI3sxadJXUje6-LHyBWWaWuG=w215-h322-s-no-gm

Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Tác giả: Kỷ Đoá Dĩ
Thể loại: Ngôn Tình, Đô Thị, Khác
Trạng thái: Đang ra


Giới thiệu truyện:

Truyện: Nương ta họa người

Tên khác: Em thấy núi xanh không bằng anh

Tác giả: Kỷ Đoá Dĩ

Số chương: 46 chương + 1 ngoại truyện

Editor: Bân

Văn án

Nhiếp Tung: Từng nét bút này là vạn dặm hồng trần của anh, là tương lai khắc họa vì em.

Doãn Hy: Non sông này là em quyết tâm đến vì anh, chẳng quản gió mưa.

Nhiếp Tung, một nhà phục chế trẻ tuổi về thư pháp và tranh cổ, xuất thân là con nhà nòi. Anh dùng tài nghệ phục chế được kế thừa hơn một nghìn năm để hồi sinh những bức thư pháp và tranh cổ đã bị nứt nẻ, cũ kỹ hay loang lổ.

Tại một buổi triển lãm các thành tựu phục chế thư pháp và tranh cổ, anh vô tình gặp Doãn Hy, một nữ tiến sĩ địa chất, từ đó khắc khoải khôn nguôi.

Bình thường Nhiếp Tung rất nghiêm túc và tập trung, cuộc sống bình lặng như nước. Nhưng sau khi gặp được Doãn Hy dũng cảm táo bạo, anh đã biết thế nào là tình yêu nồng nhiệt và tốt đẹp.

Một Nhiếp Tung luôn cống hiến hết mình cho sự nghiệp phục chế thư pháp và tranh cổ mà anh yêu thích, luôn trân trọng sự vĩ đại của 5000 năm lịch sử, cũng khiến Doãn Hy say mê vô cùng.

Doãn Hy, ngày ấy em đứng ở cánh đồng mênh mông bát ngát, sau lưng là núi non trùng điệp, trên đầu là bầu trời ngàn sao, em nói với anh “Vì kiên trì, quyết không phụ lòng thành đam mê.” Kể từ giây phút đó, anh đã quyết tâm cùng em băng qua muôn trùng sông núi mà em hằng nhớ mong.

Tiến sĩ địa chất vs Chuyên viên phục chế tranh cổ

#tag: lãng mạn, công sở, trưởng thành, HE​
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 1: Chương 1



Cơn mưa đầu xuân rơi rả rích suốt cả đêm, rạng sáng nhưng mặt đường vẫn còn ướt.

Doãn Hy bước lên bậc thềm, liếc nhìn đôi giày cao gót đen dính bùn, liền cau mày. Là người đã quen với bùn đất bụi bặm, cô nhanh chóng cúi xuống dùng khăn giấy ướt lau sạch mặt giày. Khi cô đứng dậy, trước cửa viện bảo tàng đã có một hàng dài người xếp hàng.

“Tiểu sư muội, bên này.” Gọi cô là sư huynh đồng môn Trương Trì, đang đứng ở lối đi nội bộ vắng người và vẫy tay với cô.

Nếu chỉ là một buổi triển lãm cổ vật bình thường, Doãn Hy chắc chắn sẽ không hứng thú. Nhưng cuộc triển lãm lần này tại Bảo tàng Diêu Thành lại trưng bày những cổ vật quý hiếm được nhuộm màu bằng khoáng chất qua các triều đại. Với Doãn Hy và Trương Trì, những người đang nghiên cứu đề tài về thủ công mỹ nghệ khoáng vật, thì buổi triển lãm thành quả phục chế cổ vật này rõ ràng có sức hấp dẫn đặc biệt.

Những hiện vật phong phú được trưng bày trong tủ kính: đồ gỗ, đồ sơn mài, gốm sứ, thư họa – tất cả như băng qua đường hầm thời gian, mang theo dấu tích của quá khứ, từng món một hiện ra trước mắt người thời nay.

Doãn Hy lặng lẽ chụp rất nhiều ảnh bảo vật quốc gia, bên cạnh nghe Trương Trì không ngừng cảm thán:

“Chả trách sếp bắt bọn mình phải đến xem nghiêm túc, quả thật là quốc bảo, sáng đến loá cả mắt hợp kim titan của tôi!”

(*) Hợp kim titan là một loại hợp kim có chứa titan làm thành phần chính, kết hợp với các kim loại khác như nhôm, vanadi, molybden, hoặc sắt để tạo ra một hợp kim có các tính chất cơ học vượt trội. Titan là một kim loại có đặc tính nhẹ, bền, chống ăn mòn và chịu nhiệt tốt, do đó các hợp kim titan thường được sử dụng trong các ứng dụng đòi hỏi độ bền cao nhưng vẫn nhẹ và có khả năng chống mài mòn tốt.

“Hợp kim titan? Không đến mức đó chứ.” – Doãn Hy liếc nhìn Trương Trì, ánh sáng phản chiếu từ kính mắt của anh ta làm người ta muốn trêu chọc. – “Tôi thấy ít nhất cũng phải là lazurit đấy!”

(*) Lazurit (hay còn gọi là đá lam nhạt, lazurite) là một khoáng vật hiếm, là thành phần chính tạo nên đá Lapis Lazuli (Ngọc lưu ly) – một loại đá bán quý nổi tiếng với màu xanh lam rực rỡ.
image-1.png


“Đấy, khen người cũng phải khác người như này cơ. Không hổ là hoa khôi của Học viện Địa chất.”

“Dừng ngay!” – Doãn Hy lườm một cái.

“Làm sao? Nam nhiều nữ ít ở Học viện Địa chất là chuyện ai cũng biết. Nữ tiến sĩ cỡ em lại càng hiếm như lông phượng sừng lân, em không phải là hoa của học viện thì ai dám là?”

“Anh mà còn nhắc đến hai chữ ‘hoa khôi’ nữa, tôi sẽ rút lại lời khen ‘đá lam nhạt’, để anh tiếp tục làm hợp kim tổng hợp!”

Trương Trì lập tức chắp tay vái: “Xem triển lãm! Xem triển lãm!”

Rất nhanh, họ đến khu trưng bày chính, nơi này đang có buổi thuyết minh phổ cập kiến thức.

“Ghi chép sớm nhất về việc đóng khung thư họa có thể truy ngược về trước thời Tấn, đã có lịch sử hơn 1.700 năm. Các tác phẩm thư họa thường khoảng một đến hai trăm năm mới phục chế một lần, vì thế trong đời một người thợ phục chế thư họa có rất ít cơ hội được chạm vào các danh họa hàng đầu. Những gì các bạn thấy hôm nay chỉ là phần nổi của tảng băng, là một phần rất nhỏ trong vô vàn thư họa cổ có liên quan đến khoáng chất màu…”

Nghe thấy bốn chữ “khoáng chất màu”, Doãn Hy dừng bước, nhìn về phía đám đông.

Người đàn ông đứng ở trung tâm mặc áo sơ mi trắng chỉn chu, vai hơi khép lại phản chiếu ánh sáng trắng mờ. Sau khi giới thiệu xong một bức tranh, anh ta quay lại, khoanh tay trước ngực, cài khuy áo đến tận khuy cổ, khuy tay áo cũng cài chặt lấy cổ tay.

Doãn Hy cười thầm – đã lâu lắm rồi cô mới thấy một người đàn ông nghiêm túc như vậy!

Cách khoảng hai ba mét, cô bắt đầu chăm chú quan sát người đàn ông trong đám đông – khuôn mặt thanh tú trắng trẻo, đường nét mắt bị gọng kính đen che khuất một phần, tóc mềm rũ nhẹ trên trán.

Không biết từ đâu quay về, Trương Trì nhìn theo ánh mắt của Doãn Hy:

“Không phải buổi thuyết minh lần này có mời người đặc biệt à?”

“Thì sao?”

“Tôi nghe nói thuyết minh viên đặc biệt hôm nay là chuyên gia phục chế thư họa cổ, nhưng người này nhìn không giống lắm.”

“Chỗ nào không giống?”

“Non đến mức búng ra nước ấy!” – Trương Trì bĩu môi.

Câu này đúng là nói trúng suy nghĩ của Doãn Hy – người thuyết minh này quá trẻ. Nhưng cô không đồng tình với suy luận của Trương Trì vì thế mà đánh giá thấp người ta. Cô bật cười, phản bác:

“Trông mặt mà bắt hình dong.”

“Em tin có người trẻ như vậy mà lại là chuyên gia phục chế thư họa cổ sao?”

“Tất nhiên là…”

Câu chưa nói hết, ánh sáng lại lóe lên từ kính của Trương Trì. Đằng sau anh là một cô bé đang cầm máy ảnh DSLR kiểm tra ảnh chụp.

“Em gái ơi, tắt đèn flash đi được không?”

Cô bé nghe tiếng ngẩng đầu, ngơ ngác vài giây mới nhận ra người chị gái xinh đẹp trước mặt đang nói với mình. Khuôn mặt cô bé ửng đỏ, khẽ hỏi:

“Trong viện bảo tàng không được chụp ảnh ạ?”

Doãn Hy thấy vẻ ngại ngùng của cô bé thì càng thấy thú vị, mỉm cười nói:

“Được chụp chứ, nhưng nhớ tắt đèn flash là được.”

“Vì sao không được dùng đèn flash vậy?” Cô bé vừa tắt đèn flash, vừa hỏi cô ấy.

Doãn Hy chỉ vào tấm bảng bên tường có ghi “Cấm sử dụng đèn flash”, mỉm cười nói: “Quy định mà.”

“Chị à, chị đừng lấy mấy lời của ban tổ chức ra để qua mặt em nữa, em thực sự rất muốn biết cơ.” Cô bé nhíu mày nhìn xung quanh, vẻ mặt đầy thắc mắc, “Sao trong bảo tàng bật nhiều đèn như vậy mà khách lại không được dùng đèn flash khi chụp ảnh?”

“Bật flash sẽ làm hỏng hiện vật đấy.” Giọng Doãn Hy không lớn, ngữ khí bình thản như thể đang nói “hôm nay trời đẹp”.

“Tại sao lại thế?”

Doãn Hy bật cười: “Em đúng là mười vạn câu hỏi vì sao à?”

“Khà——” Một tiếng cười khẽ vang lên, xa lạ, kiềm chế, nhưng lại mang chút nhẹ nhàng.

Doãn Hy quay lại, không biết từ lúc nào, bóng dáng trắng đã đứng cạnh cô, lưng hơi còng. Cô nhận ra, đó là người thuyết minh.

Người thuyết minh bắt gặp ánh mắt cô, vô thức đẩy kính lên rồi nói: “Hệ thống chiếu sáng trong bảo tàng là hệ thống chuyên dụng, vừa có tính tái hiện màu sắc gần với ánh sáng tự nhiên, vừa có thể giảm thiểu tác hại của tia cực tím đến hiện vật.”

“Nhưng khi chụp ảnh, đèn flash chỉ lóe lên trong chốc lát, đâu phải chiếu sáng lâu dài, sao vẫn gây hại được?” Cô bé ngẩng mặt lên, chờ người đàn ông trước mắt trả lời.

Người thuyết minh rất kiên nhẫn, tiếp tục giải thích: “Người xưa thường vẽ tranh trên giấy hoặc lụa, mà những vật liệu này đều là cấu trúc cao phân tử, chứa xenlulo hoặc protein, rất nhạy cảm với ánh sáng. Chúng dễ bị ảnh hưởng bởi ánh sáng, điện, vi khuẩn, khiến kết cấu sợi bị đứt gãy, lâu dần khiến bề mặt hiện vật bị phai màu, giòn, nứt, cuối cùng là biến chất, hư hỏng.”

“Nhưng em vẫn chưa hiểu, tại sao ánh sáng lại có sự khác biệt lớn như vậy?” Cô bé tuổi thiếu niên đầy tò mò, hết câu hỏi này đến câu hỏi khác, quyết tìm hiểu cho đến cùng.

“Em ‘mười vạn câu hỏi vì sao’ này,” Doãn Hy thong thả nói trêu cô bé, “Thật sự nghĩ anh chị là bách khoa toàn thư à?”

“Không phải sao?” Cô bé nhìn cô, lại liếc sang người thuyết minh bên cạnh, “Hai người nhìn là thấy có học vấn rồi.”

Doãn Hy đút tay vào túi quần, nghiêng người tựa vào tường, nghiêng đầu bắt gặp ánh mắt của người thuyết minh. Khoảng cách nửa mét, đủ để cô nhìn rõ anh.

Gương mặt trẻ trung sạch sẽ, đôi mắt sáng rõ sau tròng kính… Sao tai anh ấy lại đỏ thế nhỉ?

Ánh mắt cô rất thẳng thắn. Cô bé không đợi được câu trả lời, liền lên tiếng nhắc nhở: “Chị ơi, em đang hỏi về sự khác biệt của ánh sáng mà…”

“Ánh sáng à——” Doãn Hy quay đầu lại, đôi mày dài cong cong tạo thành hai nếp cười, “Ánh sáng nhìn thấy thông thường có bước sóng từ 400 đến 700 nanomet, tia cực tím có năng lượng rất lớn, rất dễ bị các vật hấp thụ và làm biến chất vật thể. Các mẫu máy ảnh khác nhau thì đèn flash cũng có bước sóng khác nhau, nhưng nhìn chung đều là ánh sáng nhìn thấy dưới 700nm, ít nhiều đều gây tổn hại đến cấu trúc cao phân tử của hiện vật.”

“Nói như vậy, nếu muốn người đời sau cũng có thể nhìn thấy những hiện vật này như em, thì phải tắt flash để tránh tia cực tím gây tổn hại. Đúng không?” Cô bé tóm tắt lại một cách rạng rỡ, thấy Doãn Hy định rời đi, liền kéo lại, “Chị ơi, em còn một câu hỏi, lúc nãy sao chị cứ nhìn anh này mãi vậy?”

Cô bé lanh lợi tinh nghịch, vẻ mặt đầy ý trêu chọc.

Doãn Hy nhướng mày, không hề tránh né, liếc nhìn chàng trai trẻ bên cạnh, cười nói: “Vì thấy thú vị mà.”

Cô bé hài lòng với câu trả lời, chuẩn bị rời đi, mặt tươi rói vẫy tay tạm biệt Doãn Hy: “Chị ơi, chị ngầu quá!”

Doãn Hy cười không ngớt, vui vẻ đi tìm Trương Trì.

“Thầy Tiểu Nhiếp ——” Có người lớn tiếng gọi.

Nhưng Nhiếp Tung như bị mê hoặc, ngẩn người đứng yên, nhìn chằm chằm vào bóng lưng Doãn Hy.

Trở về viện nghiên cứu, Doãn Hy xuất ảnh trong máy ra, phân loại và lưu trữ theo từng loại màu sắc dùng trên hiện vật và loại khoáng vật tương ứng.

Trương Trì nhìn những báu vật quý hiếm trong ảnh, không rời mắt được, không ngừng xuýt xoa: “Người xưa thật có tâm, quà tặng, ban thưởng không là ngọc ngà thì cũng là thư họa, toàn là đồ quý do danh gia làm ra. Để bây giờ mà nói, dân thường mấy ai tặng nổi chừng ấy?”

Doãn Hy thoáng liếc anh ta một cái, hỏi ngược lại: “Vậy hồi đó anh tặng bạn gái cái gì?”

“Dĩ nhiên là thứ mà sinh viên ngành địa chất bọn anh tự hào nhất rồi!” Nhắc đến món quà năm xưa, Trương Trì đầy vẻ đắc ý.

“Cái gì cơ?” Hiếm khi thấy ai dùng chuyên môn để lấy lòng người yêu, Doãn Hy lập tức tò mò.

“Một hòn đá.”

Không sai, người làm địa chất thì thứ có giá nhất chính là đá.

“Là khoáng hay là nham thạch?” Doãn Hy rời mắt khỏi màn hình, chờ sư huynh trả lời.

“Nham thạch.”

“Loại nào?”

“Sa… sa thạch.”

(*) Sa thạch là tên gọi tiếng Việt của đá cát kết (tên tiếng Anh là sandstone), là một loại đá trầm tích được hình thành chủ yếu từ các hạt cát (thường có kích thước từ 0,0625 mm đến 2 mm) kết dính lại với nhau nhờ chất kết dính như silica, canxi cacbonat hoặc oxit sắt. Ứng dụng chính là làm vật liệu xây dựng, ở nhiều nơi, sa thạch được dùng để chạm khắc tượng hoặc các công trình kiến trúc cổ (ví dụ: các ngôi đền ở Angkor Wat, Campuchia).
image.png


“Gì cơ?” Doãn Hy tưởng mình nghe nhầm, “Anh nói là sa thạch à?”

Trương Trì cười khì, trách cô: “Sư muội, đừng ngạc nhiên như vậy, làm như mình chưa từng thấy qua thế giới ấy.”

“Sư huynh, anh chắc không phải đang đùa đấy chứ?” Doãn Hy thật sự không thể tưởng tượng nổi cảnh anh ấy tặng sa thạch làm vật định tình cho bạn gái.

“Sa thạch thì sao?” Trương Trì ưỡn cổ giải thích, “Ít ra nó cũng là đại diện của đá trầm tích mà!”

“Giỏi thật!” Doãn Hy bật cười, giơ ngón cái lên, “Cô ấy thấy sa thạch mà không giết anh, chứng tỏ cô ấy rất có lòng.”

“May mà cô ấy không phải là em, với trình độ chuyên môn của em, mấy nam sinh ngành địa chất có chạy cũng không theo kịp. Dám tặng sa thạch cho nữ tiến sĩ địa chất như em thì chỉ có nước không còn đường sống.”

Nữ tiến sĩ ở Viện nghiên cứu địa chất Diêu Thành không nhiều, Doãn Hy là người nổi bật trong số đó, lại thường xuyên tự trào đùa giỡn với đồng nghiệp, nên đã quen rồi.

Nghe Trương Trì trêu chọc, cô chỉ nhún vai thản nhiên.

“Cho em biết một bí mật nhé.” Trương Trì ghé sát lại, vẻ thần bí, “Lúc đó bạn gái anh không những không giận, mà còn cảm động đến phát khóc.”

Nghe càng lúc càng thấy anh đang ba hoa, Doãn Hy đảo mắt: “Một hòn đá bình thường nhất mà cũng làm người ta xúc động vậy, sư huynh, anh bỏ bùa gì cho bạn gái thế?”

“Anh chỉ nói một câu thôi.” Trương Trì quay đầu, ngượng ngùng: “Anh yêu em, lấy đá làm chứng, mãi mãi không thay đổi.”

“Phụt—”

Doãn Hy bị sặc nước, ho không ngừng.

Lúc đó, chủ nhiệm Lâm Hiến Hoa thong thả bước vào văn phòng, tháo kính râm xuống rồi hỏi bâng quơ: “Có thu hoạch gì không?”

Là người phụ trách trung tâm nghiên cứu giám định khoáng vật, Lâm Hiến Hoa không hề có kiểu cách quan liêu, lại thích cùng cấp dưới đi dã ngoại và tán gẫu, luôn đeo kính râm và hút thuốc, nên cấp dưới thường đùa gọi ông là “sếp Lâm”.

Doãn Hy giả vờ đứng nghiêm chào: “Báo cáo sếp, thu hoạch rất phong phú.”

Lâm Hiến Hoa gật đầu, ra hiệu cho Trương Trì: “Viện ta vừa ký thỏa thuận liên minh chiến lược với bảo tàng, hôm nay cho cô cậu đi tham quan cũng là để chuẩn bị cho hợp tác sau này.”

Một viện nghiên cứu địa chất với một bảo tàng vốn chẳng liên quan gì mà giờ lại hợp tác, Trương Trì tròn mắt ngạc nhiên: “Viện mình hợp tác với bảo tàng cái gì vậy ạ?”

“Dự án hợp tác rất nhiều, nhưng phần liên quan đến trung tâm chúng ta là về chất màu khoáng. Vừa hay liên quan đến đề tài hai người đang làm, để hai người phụ trách luôn nhé.”

“Sếp, không phải chứ, dạo này em bận lắm lắm!” Trương Trì mặt mếu.

“Tôi biết, không phải là tiệc đính hôn sao, cậu cứ lo việc của cậu, người phụ trách chính là Doãn Hy, cậu chỉ cần hỗ trợ cô ấy là được.” Lâm Hiến Hoa sảng khoái hạ thánh chỉ.

*

Bân: toi vẫn theo quy tắc cũ không đọc trước truyện nên sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi =))
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 2: Chương 2



Nhiếp Tung nhiều ngày liền tra cứu trong cơ sở dữ liệu máy tính, lật xem hết các tác phẩm tranh được phục chế trong gần một năm, vẫn không tìm ra manh mối gì. Đây là di chứng sau buổi anh làm thuyết minh viên ở buổi triển lãm thành quả hôm đó, nói chính xác hơn, là sau khi gặp cô nữ du khách đã thuyết phục bé gái tắt đèn flash.

Lần đầu tiên anh nhìn thấy cô, không phải là kinh ngạc, cũng không phải là yêu từ cái nhìn đầu tiên, mà là cảm giác quen thuộc.

Nhiếp Tung không biết mình đã gặp cô ở đâu chưa, hay là từng thấy ảnh cô ấy, hoặc cũng có thể là cô ấy rất giống một nhân vật nữ trong bức cổ họa mà anh từng phục chế? Anh không rõ, vì thế cứ mãi tìm kiếm câu trả lời. Và việc nhiều ngày không thu hoạch được gì chẳng những không khiến anh quên được hình bóng nữ du khách kia, mà ngược lại, cảm giác quen thuộc đó cứ quanh quẩn trong đầu, khiến anh không thể yên lòng.

“Thầy Tiểu Nhiếp, lại đang tìm tranh à?” Một đồng nghiệp đi ngang qua, thấy anh vẫn còn ngồi trước máy tính, không nhịn được hỏi: “Rốt cuộc là cậu đang tìm bức nào thế? Tên tranh, tác giả, mã số, chẳng nhớ được cái nào sao? Hoặc tranh có điểm gì đặc biệt? Nói ra để mọi người cùng giúp tìm thử xem.”

Nhiếp Tung tháo cặp kính gọng đen xuống, bóp sống mũi: “Không nhớ được cái gì cả, đoán chừng chắc là một bức tranh cổ mà mấy năm gần đây tôi từng phục chế.”

“Thế thì khó rồi đấy! Tranh cổ mấy năm gần đây cậu phục chế đâu phải ít, giờ mà tìm từng bức thì khác gì mò kim đáy bể!”

Nhiếp Tung nhìn đồng hồ, đã hết giờ nghỉ trưa. Anh đứng dậy, vươn vai rồi quay lại bàn vẽ.

Trên bàn đặt một bức tranh cổ. Khi mới được giao vào tay Nhiếp Tung, nó là một bức tranh bị mốc, đổi màu, thậm chí nhiều chỗ đã giòn và hư hỏng. Sau quá trình rửa tranh và tách lớp vẽ, giờ đây nó đã sạch sẽ, chỉ còn chờ phục chế.

Nhiếp Tung đang thực hiện công đoạn “toàn sắc” cho bức tranh cổ (tức là dùng mực và bút để tô điểm, bổ sung những phần bị thiếu hụt trên tranh – một kỹ thuật phục chế sách và tranh cổ). Anh cầm bút lông, tỉ mỉ vẽ lại từng chi tiết trên lớp giấy vá ở phần tranh bị hư. Ánh nắng nhẹ nhàng chiếu qua khung cửa sổ, rọi lên bức tranh cổ đã ố vàng. Anh cúi thấp người, giữ cổ tay lơ lửng, cẩn thận tô màu, bên cạnh chỉ vang lên những tiếng sột soạt nhẹ nhàng.

Căn phòng chỉ có thể nghe thấy tiếng đầu bút vẽ lướt trên giấy, như một thế giới song song, khiến người ta quên mất thời gian.

Cho đến khi có người bước vào, sự yên tĩnh mới bị phá vỡ.

“Mọi người dừng tay một chút, tôi muốn giới thiệu với mọi người một chút.” Tổ trưởng phục chế thư họa – Trương Trạch Tân đưa hai người tiến lên trước mặt, giới thiệu: “Hai vị đây là chuyên gia từ Viện Nghiên cứu Địa chất, đến hỗ trợ chúng ta phân tích các loại khoáng chất đặc thù trong tranh thư họa cổ.”

Nói xong, tổ trưởng Trương liền để mọi người tiếp tục công việc, riêng chỉ gọi Nhiếp Tung – người vẫn đang chúi đầu toàn sắc mà không phản ứng gì: “Cậu lại đây một chút.”

Nhiếp Tung vòng qua mấy cái bàn, vừa ngẩng đầu liền sững sờ.

Doãn Hy nhận ra anh – người có vẻ ngơ ngác như vậy, gần đây cô chỉ mới gặp một người như thế, nên ấn tượng rất sâu sắc. Rõ ràng là Trương Trì cũng nhớ ra, bắt tay với anh và nói: “Thầy Nhiếp, hân hạnh, lần trước ở triển lãm thành quả đã gặp qua anh rồi.”

“Đã từng gặp rồi à? Vậy càng tốt. Nhiếp Tung, dẫn tiến sĩ Doãn và tiến sĩ Trương đến xem bức tranh đó.” Tổ trưởng Trương vừa phân công cho Nhiếp Tung, vừa đi về phía máy kiểm tra, nói lớn: “Nhiếp Tung, còn đứng ngây ra đó làm gì, mau qua đây!”

Nhiếp Tung thu lại ánh mắt đang dừng trên người Doãn Hy, cụp mắt bước theo.

Doãn Hy đi sau anh, liếc thấy vành tai đỏ ửng kia, không nhịn được khẽ mỉm cười.

Trên mặt bàn trải một bức tranh sơn thủy, tranh đã ngả vàng, có dấu hiệu bị mốc.

“Đây là tác phẩm thời Minh, qua kiểm tra tổng thể phát hiện trong tranh có vài chỗ sử dụng loại chất màu khoáng sản hiện đại gọi là ‘xám ô liu’.” Nhiếp Tung đã khôi phục lại sự tỉnh táo, trình bày rõ ràng về vấn đề gặp phải.

“Ý anh là chất màu này lẽ ra không nên xuất hiện trong một bức tranh thời Minh?” Doãn Hy không rành về hội họa, hiểu biết về tranh thư họa cổ lại càng ít, “Đã làm phân tích quang phổ chưa?”

Phân tích quang phổ X là một phương pháp rất phổ biến, Doãn Hy biết hiện nay nhiều bảo tàng lớn đã trang bị máy phân tích quang phổ cầm tay hoặc để bàn.

“Phân tích quang phổ trùng khớp với phán đoán của chúng tôi, nguyên liệu của màu xám ô liu là khoáng chất silicon-magie-niken, có nguồn gốc từ Vân Nam.” Vừa nói, Nhiếp Tung vừa đưa báo cáo kiểm định của bức tranh cho cô, cũng nhân cơ hội nhìn thẳng vào mắt Doãn Hy, “Dựa theo quan sát bằng mắt thường, những chỗ này có thể không chỉ có một lớp màu, vì vậy chúng tôi muốn biết thêm những loại khoáng chất nào đã được sử dụng.”

“Không xác định được các loại khoáng vật khác sao?”

“Khó tránh khỏi bỏ sót, như cô biết đấy, cơ sở dữ liệu quang phổ của chúng tôi vẫn chưa đầy đủ.”

Nhiếp Tung nói không sai. Dụng cụ quang phổ tại bảo tàng có thể tiến hành kiểm tra toàn diện hiện vật, thông qua so sánh dữ liệu, phân tích phân nhóm và các chứng cứ bổ trợ khác để xác định chất màu, nguồn gốc và khoáng vật sử dụng trong tranh cổ. Tuy nhiên, việc nhận định và phân tích liên quan đến khoáng vật thì vẫn phải dựa vào thiết bị của viện nghiên cứu địa chất – vốn chuyên nghiệp và có cơ sở dữ liệu mẫu phong phú hơn nhiều.

Doãn Hy ra hiệu cho Trương Trì kết nối thiết bị mang theo, rồi đưa tay nhận lấy tờ báo cáo. Cô làm việc đâu vào đấy, biểu cảm điềm đạm, nơi khóe môi luôn phảng phất nụ cười nhẹ nhàng.

Giống quá, thật sự giống quá.

Cảm giác quen thuộc đầy áp lực lại một lần nữa ập đến, Nhiếp Tung bất giác siết chặt tờ giấy trong tay.

Ngón tay vừa chạm vào tờ đơn, Doãn Hy không hề để ý, theo phản xạ liền rụt lại. Một tiếng hít khí ngắn vang lên, cô quay đầu lại thì thấy một vệt máu hiện ra trước mắt.

“Xin lỗi.” Doãn Hy nhanh chóng lấy một miếng bông tẩm cồn dùng một lần từ trong túi ra, xé ra và đưa cho Nhiếp Tung. Thấy anh lau sạch vết thương, cô lại lấy thêm một miếng băng cá nhân, thành khẩn xin lỗi: “Thật sự xin lỗi anh.”

Nhiếp Tung giơ ngón tay đã được dán băng cá nhân lên, thản nhiên lắc đầu: “Không sao đâu.”

Chỉ là một sự cố nhỏ, không ai để tâm đến.

“Sư muội, em qua đây xem.” Kiểm tra của Trương Trì đã có kết quả, dữ liệu được đồng bộ hiển thị trên thiết bị cầm tay, “Ngoài khoáng vật silic-magie-niken, còn có vài loại hóa chất khác nữa.”

Doãn Hy liếc qua, đọc: “Titan dioxit, chì cromat, nguyên tố carbon, còn có…”

“Titan trắng, vàng trung crom, carbon mềm, cái cuối cùng chắc là màu chanh.” Giọng Nhiếp Tung theo sát ngay sau, anh nhanh chóng phản ứng lại: “Bốn màu này có thể pha ra màu xám ô liu.”
image.png


“Chuyện này thật thú vị, lần đầu tiên tôi gặp trường hợp như vậy, hai hệ thống chất màu khác nhau cùng xuất hiện trên một bức tranh cổ thời Minh…” Tổ trưởng Trương lại gần bức tranh, cúi người quan sát một lúc, rồi lạnh giọng nói: “Đến lúc phải điều tra lịch sử phục chế của bức tranh này rồi.”

Doãn Hy nhận ra đây không phải chuyện nhỏ, nghiêm giọng hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”

“Chất màu khoáng hiện đại và chất màu công nghiệp cùng xuất hiện trên một bức tranh thời Minh,” Nhiếp Tung vẻ mặt nghiêm trọng, thở dài, “Về cơ bản là tranh đã bị hủy rồi.”

“Tranh cổ được lưu giữ trong bảo tàng mà có thể tùy tiện phục chế sao?”

“Bức tranh này trước đây không thuộc bảo tàng chúng ta, vì lý do lịch sử đã qua tay nhiều nơi, nhiều người xử lý, mới được chuyển đến gần đây thôi. Ai ngờ lại thành ra thế này, haizz…” Nhìn thấy một bức tranh đẹp bị phá hỏng như vậy, tổ trưởng Trương không khỏi đau lòng.

Khi Nhiếp Tung tiễn Doãn Hy và Trương Trì ra ngoài, nét mặt nghiêm túc, trông như đang có tâm sự nặng nề.

“Được rồi, đến đây thôi.” Trương Trì quay lại bắt tay tạm biệt anh, “Thầy Nhiếp, tạm biệt.”

“Xin đợi một chút—” Nhiếp Tung gọi Doãn Hy lại, khẽ ho một tiếng có phần lúng túng, “Tiến sĩ Doãn, có thể cho tôi xin số điện thoại được không? WeChat cũng được.” Anh chăm chú nhìn biểu cảm của Doãn Hy, thấy cô cười nhẹ không nói rõ ràng, liền bổ sung, “Để tiện liên hệ công việc thôi.”

“Được chứ, sư huynh, cho anh ấy WeChat đi.” Doãn Hy nghiêng đầu nói với Trương Trì.

Trương Trì nhìn hai người đầy hứng thú, trêu chọc: “Sư muội, đừng bắt nạt người thật thà chứ.”

Doãn Hy nói “Được thôi”, một lọn tóc ngắn trượt từ vai xuống má, đôi hàng mi khẽ lay động mang theo ý cười.

Nhiếp Tung đứng chết trân tại chỗ, trái tim vốn đã hồi hộp giờ càng như muốn nhảy ra ngoài.

Doãn Hy lôi từ túi ra một thỏi son, đọc một dãy số rồi nhướng mày nhìn anh: “Nhớ chưa?”

Nhiếp Tung lắp bắp gật đầu, vừa ngẩng lên thì thấy cô đang nhẹ nhàng tô son, đôi môi từng chút một trở nên bóng bẩy, ẩm ướt. Anh vô thức xoa xoa tai bắt đầu đỏ lên, cúi đầu chỉnh danh bạ liên lạc.

“Số điện thoại, cũng là WeChat.”

Nhiếp Tung không dám ngẩng đầu, lặng lẽ tìm cô trong danh bạ và gửi lời mời kết bạn, mãi đến khi tim đập bình ổn trở lại mới dám nhìn sang.

“Tiến sĩ Doãn, ngoài buổi thuyết trình ở bảo tàng hôm đó, chúng ta từng gặp ở đâu chưa?” Anh mím môi, lấy hết dũng khí nhìn vào mắt cô, “Tôi thấy cô rất quen.”

“Cạch” một tiếng, Doãn Hy đóng nắp thỏi son lại. Cô chăm chú nhìn Nhiếp Tung một lúc lâu, nhìn đến mức tai anh đỏ như nhỏ máu. Mở miệng lại hỏi một câu chẳng liên quan: “Thầy Nhiếp, mạo muội hỏi một câu, anh năm nay bao nhiêu tuổi?”

“Hai… hai mươi lăm.”

25, nhỏ hơn cô 2 tuổi. Doãn Hy không khỏi so sánh trong lòng, nhưng vẻ ngoài vẫn bình tĩnh như tuyết. Cô nhìn người đàn ông cao hơn mình nửa cái đầu, quả táo Adam nơi cổ anh khẽ động, cô nhướng mày: “Thầy Tiểu Nhiếp, bây giờ người ta không còn tán gái kiểu đó nữa đâu.”

Nhiếp Tung nghĩ mãi cũng không hiểu được ý cô, nhất là câu “thầy Tiểu Nhiếp”, dường như cô cố tình nhấn mạnh chữ “Tiểu”, giọng điệu nhẹ nhàng mà đầy ẩn ý.
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 3: Chương 3



“Thầy Tiểu Nhiếp, thầy Tiểu Nhiếp có ở đây không?”

Nhà họ Nhiếp là một gia tộc chuyên về phục chế, kỹ nghệ phục chế thư họa cổ đã được truyền đến đời thứ ba, là Nhiếp Tung. Những đồng nghiệp cũ ở Trung tâm nghiên cứu công nghệ bảo tồn văn vật đều biết: “thầy Lão Nhiếp” là ông nội của Nhiếp Tung, “thầy Nhiếp” là bố anh, còn danh xưng “thầy Tiểu Nhiếp” dĩ nhiên được dành cho Nhiếp Tung.

Nhưng dạo này, anh lại thường bị cách xưng hô này làm cho phân tâm.

Nhiếp Tung dừng cây bút lông trong tay, cau mày nhìn người vừa đến – là Ngô Mẫn Chi bên nhóm gốm sứ.

“Thầy Tiểu Nhiếp, anh qua giúp tôi xem màu với, tôi pha mãi vẫn không ra đúng được.”

Văn phòng ở ngay bên cạnh, chỉ cần nhấc chân là đến. Không lâu sau, Nhiếp Tung đã giúp anh ấy pha ra màu như mong muốn.

“Màu tím này đúng rồi, tôi pha cả ngày vẫn cảm thấy không đúng. Thầy tôi lại không có ở đây, chẳng có ai để hỏi, tôi bức bối chết đi được!” Ngô Mẫn Chi vừa nói vừa bắt đầu thực hiện bước sửa màu cuối cùng trên món đồ sứ. “Tôi học chuyên ngành hóa mà vẫn không nhạy màu bằng các anh.”

“Anh Mẫn Chi quá khen rồi, chỉ là quen tay hay việc thôi.” Nhiếp Tung đáp lại vài câu hỏi, rồi vẫy tay rời đi.

Cậu nhân viên mới bên nhóm gốm sứ lập tức tiến lại gần Ngô Mẫn Chi, trầm trồ nói: “Thầy Tiểu Nhiếp là ai thế anh, đến cả anh cũng phải nhờ vả sao? Cũng mới tốt nghiệp thạc sĩ thôi mà? Sao vừa vào làm đã được cầm bút toàn sắc, còn miễn cả ba năm học việc?”

Ngô Mẫn Chi vừa có được màu mới, tâm trạng đang vui, liếc nhìn cậu ta một cái rồi cười: “Cậu nói thầy Tiểu Nhiếp à? Biết cậu ấy là ai không?”

“Là ai? Không phải là Nhiếp Tung sao?”

“Thế cậu biết nhà họ Nhiếp không?” Thấy cậu ta mặt mũi ngơ ngác, Ngô Mẫn Chi tiếp tục nói: “Là gia tộc phục chế thư họa.”

“À!”

“Bậc thầy phục chế thư họa cổ – Nhiếp Phàm Chu là ông nội của Nhiếp Tung, người truyền nhân di sản văn hóa phi vật thể trong nghệ thuật đóng khung thư họa – Nhiếp Văn Viễn là bố cậu ấy.”

“À!”

“Còn về phần Nhiếp Tung, ba tuổi đã lăn lộn trong viện bảo tàng rồi. Tôi hỏi cậu, ba tuổi cậu làm gì?”

“Ba tuổi… chơi đất sét…” Cậu nhân viên kinh ngạc đến mức nói không thành lời.

Ngô Mẫn Chi cười nhẹ: “Lúc cậu còn chơi đất sét, thì Nhiếp Tung làm gì? Ba tuổi quét mép giấy, năm tuổi nấu hồ dán, bảy tuổi học quốc họa (*), chín tuổi đã theo ông và cha học phục chế thư họa. Cậu còn chê ba năm học việc là lâu, người ta học bao nhiêu năm rồi, tự cậu tính đi!”

(*) Quốc Họa là một dạng tranh truyền thống của Trung Quốc. Được vẽ trên lụa hoặc giấy bằng bút nhúng nước, mực hoặc màu. Dụng cụ và vật liệu bao gồm bút lông, mực, bột màu vẽ, lụa, giấy,… Về nội dung, Quốc Họa thể hiện những quan niệm triết học và thẩm mỹ truyền thống của dân tộc Trung Hoa. Về kỹ thuật quan sát, tạo hình và biểu đạt, ngay cả những đối tượng khách quan cũng vô cùng thuần túy tự nhiên như phong cảnh, hoa cỏ, chim muông. Cũng được kết nối một cách có ý thức với xã hội, tình cảm thẩm mỹ của con người trong quá trình quan sát, tìm hiểu và biểu hiện.
image.png


“Thảo nào!” Cậu ta như ngộ ra điều gì, “Bảo sao thầy Tiểu Nhiếp trẻ vậy mà đã là trụ cột của nhóm thư họa, từ rửa, gỡ, bổ sung đến tô màu đều làm được hết.”

“Cậu tưởng dễ à! Cầm bút cần hiểu ý tranh, biết tính cách của bút lông, xưa nay luôn do người sao chép tranh cổ đảm nhận. Sao Nhiếp Tung làm được? Vì người ta là Đồng tử công (*) tôi luyện từ bé, hơn nữa không ngừng học hành chuyên sâu, nghiên cứu sâu về phong cách các triều đại và sắc tố trong tranh cổ.” Ngô Mẫn Chi vừa nói, vừa dùng bút chọc chọc cậu nhân viên đang há hốc mồm, “Tài nghệ người ta như thế, cậu học thêm ba năm nữa cũng chưa chắc đuổi kịp!”

(*) Thiếu Lâm Đồng Tử Công là một môn nội tráng ngoại cường, phải luyện tập từ nhỏ mới thành, được coi là công pháp mật truyền của môn phái Thiếu Lâm. Người muốn học Đồng tử công bắt buộc phải bắt đầu luyện tập từ khi còn nhỏ, và tuy là võ “trẻ con” đấy, nhưng lợi hại như chiêu Tích lịch hoàn phong thoái, một chiêu thức tấn công dùng chân xoáy như bão tố, mạnh như sét giáng cũng phải bó tay quy hàng trước Đồng tử công.

Chưa đến hai ngày sau, Ngô Mẫn Chi lại đến, lặng lẽ đứng sau Nhiếp Tung đang cúi đầu làm việc.

Nhiếp Tung đang phục chế một cuốn họa sách lụa, dùng màu gần với nền gốc của tranh để tô phần bị mất sắc. Việc tô toàn sắc đã kéo dài mấy ngày.

Cây bút lông trong tay đã bị tòe ngòi, anh nhìn một cái rồi ném vào đống bút hỏng.

Chất liệu lụa cứng, tranh lụa yêu cầu rất cao với đầu bút, nhiều cây chỉ dùng vài nét đã hỏng.

“Cây thứ mười rồi.” Anh lẩm bẩm, vừa định thay bút thì một bàn tay đưa tới, trên lòng bàn tay chính là cây bút anh đang cần.

“Thầy Tiểu Nhiếp.” Ngô Mẫn Chi cười tươi đưa bút cho anh.

“Anh Mẫn Chi, có chuyện gì sao?”

“Hôm kia anh giúp tôi pha màu đó là nham cổ đại tử đúng không?”

“Gần đúng rồi.”

“Có sẵn màu đó không?”

“Có.”

“Hôm nay tôi ra kho lấy, không còn.” Ngô Mẫn Chi cau mày, níu tay áo anh, “Anh chia cho tôi ít đi.”

Nhiếp Tung lắc đầu: “Tôi không có.”

“Sao? Không phải anh bảo có mà?”

“Tôi nói là có loại màu gọi là nham cổ đại tử.” Gương mặt Nhiếp Tung đầy vô tội.

“Thứ đó làm từ gì mà khan hiếm vậy?”

“Cổ hoa.”

(*) Cổ hoa hay Cobaltite là một khoáng vật hiếm, có công thức hóa học là CoAsS – nghĩa là nó chứa coban (Co), asenua (As) và lưu huỳnh (S). Đây là một trong những khoáng vật chính dùng để khai thác kim loại coban – một nguyên tố quan trọng trong công nghiệp, đặc biệt là trong chế tạo pin lithium-ion, hợp kim và từ tính.
image-12.png


“Cổ hoa?” Ngô Mẫn Chi nghĩ một lúc, vỗ trán: “Là cái thứ nung lên thì chuyển sang màu xanh, dùng để tô men gốm sứ và men tráng men phải không?”

“Ừ.” Nhiếp Tung chấm màu, tiếp tục công việc tô màu.

“Không phải là màu phổ biến sao? Chẳng lẽ mỏ khai thác hết rồi?”

“Chuyện đó thì tôi không biết, phải hỏi người làm ngành khai khoáng…”

Ngô Mẫn Chi rời đi rồi, Nhiếp Tung lơ đãng đặt bút xuống. “Người làm ngành khai khoáng”, anh mới quen một người.

Trong danh bạ WeChat, tên “Doãn Hy” cùng với lời chào hệ thống sau khi kết bạn chìm dần xuống dưới. Nhiếp Tung lướt qua từng cái tên, mở khung chat, gõ mấy chữ rồi bấm gửi.

Doãn Hy từng nghĩ với tính cách nghiêm túc, nhút nhát của Nhiếp Tung thì chắc chắn phải đến lúc cấp bách lắm mới chủ động liên lạc với cô. Nhưng cô đã sai – chưa đầy một tuần, anh đã nhắn WeChat. Dù chỉ là một câu công việc rất “cứng nhắc”, nhưng vẫn khiến cô bật cười.

“Tiến sĩ Doãn, trữ lượng cổ hoa ở nước ta như thế nào?”

Doãn Hy giữ nút ghi âm, trả lời: “Anh nói đến cái loại được khai thác ra có lớp lông tơ mềm mềm, được gọi là hoa của đá ấy hả?”

Cô đang bận, giọng điệu thản nhiên, nói hơi nhanh. Có lẽ Nhiếp Tung cũng nhận ra, nên sau hai chữ “phải đấy” anh lại thêm một câu “Làm phiền cô rồi, xin lỗi nhé.”

Doãn Hy hoàn toàn có thể tưởng tượng ra vẻ mặt lo lắng, tai đỏ bừng của anh lúc này. Cô nhìn quanh, thấy đồng nghiệp vẫn đang chăm chú làm việc, bèn nghiêm túc trả lời:

“Nếu tôi nhớ không nhầm thì trữ lượng cobalt kim loại đã được phát hiện ở nước ta lên tới hàng trăm nghìn tấn, phân bố ở 24 tỉnh, trong đó Cam Túc nhiều nhất, chiếm 28% toàn quốc. Ngoài ra, An Huy, Tứ Xuyên, Tân Cương cũng có một lượng nhất định.”

Chạm tay vào đống dữ liệu thí nghiệm bên cạnh, cô nhắn thêm: “Tôi vừa làm xong thí nghiệm, đang viết báo cáo, nếu anh không gấp thì đợi tôi tra thêm tư liệu rồi gửi thông tin chính xác cho anh.”

Đến khi Doãn Hy làm xong báo cáo và cầm ly nước lên mới phát hiện mặt trời đã lặn về phía tây, đồng nghiệp đều đã tan làm, nước trong ly cũng nguội ngắt. Cô rót lại nước ấm, nhấp từng ngụm nhỏ rồi nhớ đến chuyện đã hứa với Nhiếp Tung, liền ngồi lại trước máy tính để tra cứu tài liệu điện tử. Rất nhanh sau đó, cô đã tổng hợp được một bản tài liệu dựa trên dữ liệu chi tiết, rồi gửi qua email cho Nhiếp Tung sau khi nhắn hỏi anh địa chỉ qua WeChat.

Bãi đỗ xe của Viện nghiên cứu địa chất gần như trống không, Doãn Hy ngồi vào xe, qua khung cửa sổ, những vì sao lác đác ngoài trời đang lấp lánh ánh sáng yếu ớt.

Điện thoại đổ chuông, là một số lạ, không có dấu hiệu gì của cuộc gọi quảng cáo hay lừa đảo.

“A lô.” Doãn Hy nghe máy.

“Tiến sĩ Doãn, tôi là Nhiếp Tung.”

“Thầy Tiểu Nhiếp à——” Doãn Hy lập tức nâng cao giọng, kéo dài âm “à” một cách đầy thân mật.

“Làm phiền cô nhiều quá, tôi thật sự rất xin lỗi, muốn mời cô một bữa để tỏ lòng cảm ơn.” Có lẽ sợ bị từ chối, giọng anh có vẻ rất khẩn thiết, “Không biết lúc nào cô tiện?”

“Chuyện nhỏ ấy mà, không đáng nhắc đến.” Doãn Hy xoay xoay chìa khóa xe trong tay, không vội nổ máy.

“Sau này nếu hợp tác lâu dài, chắc chắn còn phiền đến cô nhiều nữa.”

“Ồ?” Tưởng rằng anh chỉ nói xã giao, không ngờ lại biết cách chuẩn bị cho tương lai, xem ra cũng không khô khan như ấn tượng ban đầu. Doãn Hy bật cười, “Để hôm khác nhé.”

Cúp máy xong, cô lại ngẩng đầu nhìn bầu trời, những ngôi sao như sáng hơn giữa màn đêm đen đặc.

Khi Doãn Hy nói “để hôm khác”, cô hoàn toàn không ngờ lần gặp lại Nhiếp Tung sẽ đến nhanh đến thế. Đó là cuộc họp công tác liên kết giữa bảo tàng và viện địa chất, đúng lúc cả hai đều tham dự. Một khi đã muốn hợp tác sâu rộng, thì việc giao thoa giữa các lĩnh vực là điều tất yếu. Đề tài thủ công từ khoáng vật của Doãn Hy tự nhiên có sự giao thoa với nghiên cứu sắc tố khoáng sản của Nhiếp Tung.

“Nhiệm vụ ưu tiên bây giờ là đối chiếu tên các loại sắc tố thường dùng với nguồn khoáng vật của chúng, sau đó dựa vào địa chất để xác định khu vực phân bố, nhất là các vùng khai thác mới trong mười năm trở lại đây.” Doãn Hy ghi chú các điểm chính trong sổ tay, rồi nhìn sang Nhiếp Tung, “Nhiệm vụ đầu giao cho anh, phần sau để tôi làm, thế nào?”

“Được thôi.” Nhiếp Tung đẩy gọng kính, khoanh tròn vào sổ tay rồi nói, “Tiến sĩ Doãn, tôi có một ý tưởng chưa chín muồi.”

“Anh cứ nói thử xem.”

“Có một số khoáng vật trữ lượng thấp, khó khai thác, sản lượng bản thân đã không nhiều. Do đó, lượng sắc tố khoáng sản có thể cung ứng sau sản xuất càng ít hơn. Không biết liệu có thể tìm loại khoáng vật tương đồng hoặc tương chất để thay thế được không?”

Ngoại trừ lần trước ở bảo tàng làm khách mời giảng giải, đây là lần đầu tiên Doãn Hy nghe anh nói một đoạn dài đến vậy, thoáng chốc cô có chút phân tâm.

Thấy cô như đang suy nghĩ gì đó, Nhiếp Tung sợ đề xuất của mình quá viển vông, vội vàng giải thích: “Tiến sĩ Doãn, xin lỗi, tôi chỉ nói linh tinh thôi.”

Ai ngờ Doãn Hy đột nhiên mỉm cười với anh: “Anh vừa cho tôi một ý tưởng hoàn toàn mới đấy, thầy Tiểu Nhiếp.”

Nụ cười ấy tỏa sáng rực rỡ, như thể thi triển phép thuật lên người Nhiếp Tung. Anh nhìn cô không chớp mắt, trong đôi mắt cô lấp lánh ánh sáng, rồi anh bỗng hỏi một câu lạc quẻ: “Tiến sĩ Doãn, cô thật sự không nhớ chúng ta đã gặp nhau ở đâu rồi sao?”

Doãn Hy mím môi cười, chớp mắt trêu anh: “Anh nhớ sao?”

Nhiếp Tung lắc đầu bất lực, phải chi anh nhớ được thì tốt rồi.

“Nói thật nhé, thời nay còn cô gái nào bị anh ‘thả thính’ theo kiểu cũ kỹ như thế mà đổ không?” Doãn Hy đứng dậy, vỗ nhẹ vào sổ ghi chép của anh, “Đi nào, thầy Tiểu Nhiếp, tôi mời anh ăn món xào trong căng tin.”

Căn tin viện nghiên cứu địa chất khá tốt, tầng một là cơm phần, tầng hai là các món xào đặc sản vùng miền. Lúc này, Doãn Hy dẫn Nhiếp Tung ngồi gần cửa sổ tầng hai, trên bàn là ba món mặn – nhạt và một bát canh.

“Ban đầu nói là tôi mời cô, vậy mà lại để cô tốn kém rồi.” Nhiếp Tung cầm đũa, có chút ngại ngùng nhìn Doãn Hy.

“Anh vừa cho tôi nguồn cảm hứng lớn như vậy, tôi mời là đúng rồi.” Doãn Hy dùng đũa công cộng gắp một miếng sườn bỏ vào bát anh, rồi hỏi, “Sao anh lại nghĩ đến chuyện thay thế khoáng vật?”

“Hôm đó sau khi đọc tài liệu cô gửi, tôi tra thêm trên mạng, thấy rằng cobaltite (cổ hoa) không phải khoáng vật phổ biến trong vỏ trái đất, và sản lượng đang ngày một giảm.” Nói đến đây, anh lén liếc nhìn Doãn Hy.

Gặp ánh mắt do dự ấy, Doãn Hy gật đầu: “Đúng vậy. Hơn nữa, trạng thái tồn tại của khoáng vật chứa cobalt rất phức tạp, hàm lượng thấp, nên phương pháp chiết tách rất đa dạng, quy trình công nghệ lại phức tạp, tỷ lệ thu hồi thấp.”

“Tôi liền nghĩ, liệu có thể dùng khoáng vật có trạng thái tồn tại đơn giản hơn, dễ chiết tách hơn để thay thế không.”

“Vì trong nốt mangan dưới đáy biển chứa lượng cobalt rất lớn, là nguồn tài nguyên triển vọng nên từ trước đến nay người ta vẫn tập trung nghiên cứu và khai thác nguồn tài nguyên biển này. Còn đề xuất của anh lại mở ra một hướng đi khác, đồng nghĩa với một khả năng lớn hơn.”

(*) Nốt mangan dưới đáy biển là những cục khoáng sản hình tròn hoặc bầu dục nằm rải rác trên nền đáy đại dương, chủ yếu ở các vùng biển sâu. Chúng được tạo thành từ quá trình kết tủa kim loại từ nước biển hoặc từ các lớp trầm tích, diễn ra rất chậm trong hàng triệu năm.

Được Doãn Hy khẳng định, lòng Nhiếp Tung vui như mở hội, anh cũng gắp lại cho cô một miếng sườn. Với hai tai đỏ bừng, anh im lặng vừa ăn cơm, vừa nhai hết miếng này đến miếng khác, không ngờ lại ăn liền mấy bát cơm trắng.

Thật thú vị, như một học sinh tiểu học được khen một chút liền hí hửng.

Hiếm khi có món ăn đưa cơm đến thế, Doãn Hy cũng ăn thêm nửa bát cơm nữa lúc nào không hay.
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 4: Chương 4



Khi phương hướng đã rõ ràng, Doãn Hy và Nhiếp Tung bắt đầu chia nhau hành động. Nhiếp Tung từng làm luận văn về sắc tố khoáng vật từ thời đại học, chỉ cần chỉnh lý lại một chút đã gửi cho Doãn Hy bảng đối chiếu sắc tố và khoáng vật.

Doãn Hy đang bắt đầu phân tích khoáng vật cùng loại từ phân loại và thành phần của quặng, vậy anh ấy có thể bắt đầu từ sắc tố không nhỉ? Vừa nghĩ đến đó, Nhiếp Tung đã ngồi đờ đẫn trên ghế sofa.

“Nhiếp Tung, đang nghĩ gì vậy? Ông nội gọi con đấy!” Giọng mẹ anh cắt ngang dòng suy nghĩ.

Khi Nhiếp Tung rót thêm trà nóng vào chén của ông nội, anh nghe thấy ông hỏi: “Dạo này cháu đang bận gì thế?”

Nhiếp Tung cung kính đưa chén trà tới tay ông, nghiêm túc trả lời: “Dạo gần đây cháu đang phục chế một cuốn họa tập trên lụa.”

“Nghe nói viện bảo tàng gần đây đang hợp tác với Viện Nghiên cứu Địa chất?” Dù đã ở tuổi dưỡng già, ông Nhiếp Phàm Chu vẫn quan tâm đến sự phát triển của viện bảo tàng.

“Dạ đúng, cháu cũng đang hợp tác với họ một đề tài.”

“Làm gì thế?”

“Sắc tố khoáng vật.”

Ông gật gù, tiện thể nhắc: “Có vấn đề gì thì có thể hỏi bác Bàng.”

“Bác Bàng?” Nhiếp Tung đập nhẹ đầu, “Sao cháu không nghĩ ra nhỉ! Cảm ơn ông nội!”

Nếu muốn nghiên cứu nguồn gốc khoáng vật từ sắc tố khoáng, thì Bàng Niên Húc – người mà từ nhỏ Nhiếp Tung vẫn gọi là “bác Bàng” – chính là lựa chọn hoàn hảo.

Nhắc đến “Gia tộc Bàng ở Tô Châu”, giới chuyên môn ai cũng biết đó là một trong những gia tộc nổi tiếng toàn quốc về chế tác sắc tố quốc họa. Bàng Niên Húc – người đứng đầu hiện tại, là truyền nhân đời thứ ba của kỹ nghệ chế tác sắc tố quốc họa của gia tộc. Nhà họ Bàng và nhà họ Nhiếp vốn có quan hệ giao hảo nhiều đời, bản thân ông Bàng và cha của Nhiếp Tung, Nhiếp Văn Viễn, lại càng thân thiết.

Bố anh gõ nhẹ tay vịn ghế gỗ đỏ, nói như không: “Tốt nhất con nên đi Tô Châu một chuyến. Loại sắc tố nào dùng nguyên liệu gì, nhiều cái là kỹ nghệ độc môn của nhà Bàng, nói qua điện thoại không rõ đâu. Để bác Bàng cho con tận mắt chứng kiến thì hơn.”

Lời đề nghị của bố khiến Nhiếp Tung chú trọng hẳn lên. Việc không nên chậm trễ, anh lập tức gửi đơn xin công tác cho tổ trưởng Trương ngay trong đêm. Tới khi nằm lên giường, sự phấn khích vẫn chưa giảm, anh lấy điện thoại nhắn WeChat cho Doãn Hy.

Chẳng bao lâu, Doãn Hy đã hồi âm. Nhiếp Tung bật dậy như cá chép nhảy, kìm nén giọng hô lên vài tiếng. Chữ “Yeah” tượng trưng cho chiến thắng vang lên từ trong chăn, tuy nhỏ nhưng vô cùng mãnh liệt.

Tin nhắn của Doãn Hy là: “Tôi cũng đi.”

Cuối cùng, cả hai bay cùng chuyến đến Vô Tích. Con trai út của Bàng Niên Húc ra sân bay đón họ, rồi lái xe từ Vô Tích trở về Tô Châu. Trên đường đi, Doãn Hy và Nhiếp Tung mới biết, Bàng Niên Húc vừa nhận được tin có một loại nguyên liệu mới nên đã lập tức đến vùng núi Quý Châu.

“Xin lỗi nhé, để cô phải đi một chuyến công cốc.” Nhiếp Tung áy náy nói.

Doãn Hy cười: “Anh không cần xin lỗi.”

Khi cô quay đầu nhìn ra cửa sổ lần nữa, Tiểu Bàng trong buồng lái nhìn Nhiếp Tung qua gương chiếu hậu, bị Nhiếp Tung trừng mắt liền ngoảnh lại.

“Dọc đường này, cửa hàng bán sắc tố quốc họa và xưởng chế tạo cũng nhiều ghê!” Doãn Hy gõ vào lưng ghế trước, hỏi Tiểu Bàngm “Sao Tô Châu lại có nhiều người bán và xưởng sản xuất như vậy? Mỗi nhà đều có khách hàng riêng à?”

“Tô Châu là nơi đầu tiên được ghi chép trong lịch sử Trung Quốc chuyên sản xuất và bán sắc tố quốc họa. Từ cuối Minh đầu Thanh đến nay đã hơn ba trăm năm lịch sử rồi. Tuy nhìn thì có vẻ vẫn vậy, nhưng thực ra những người còn làm sắc tố truyền thống ngày nay thì hiếm lắm.” Khi nói về thị trường sắc tố quốc họa từng rực rỡ một thời, giọng điệu Tiểu Bàng tràn đầy tự hào, nhưng khi nhắc tới tình trạng hiện nay, lại không khỏi thở dài tiếc nuối.

Xe chầm chậm rời khỏi trung tâm Tô Châu, xưởng chế tác sắc tố của nhà họ Bàng ở thị trấn ngoại thành dần hiện ra trước mắt. Một khu sân nhỏ hơn tưởng tượng, vậy mà lại được phân khu rõ ràng thành khu sinh hoạt và khu làm việc. Doãn Hy và Nhiếp Tung được sắp xếp nghỉ ở phòng khách tầng hai khu sinh hoạt.

Phòng khách thông ra ban công nhỏ, đứng ở đó có thể nhìn bao quát cả sân. Cây xanh um tùm, điểm xuyết hoa đỏ, một dãy đèn sáng phản chiếu ánh trăng, giữa khung cảnh núi non hữu tình có cảm giác như tiên cảnh chốn trần gian.

Nhiếp Tung gõ cửa, báo cô xuống ăn cơm khi đã sắp xếp xong. Doãn Hy tiện tay cầm áo khoác chuẩn bị xuống.

Bất ngờ, trước mắt tối sầm, cả căn nhà lẫn sân rơi vào bóng tối vô tận.

“Mất điện rồi, cô đừng di chuyển, để tôi đi xem sao.” Nói rồi, Nhiếp Tung mò mẫm xuống lầu.

Doãn Hy lấy điện thoại bật đèn pin, quay lại phòng. Trong túi cô có pin sạc dự phòng và đèn ngủ USB nhỏ, đủ dùng tạm thời.

Cô lục túi mấy lượt mà vẫn không thấy đèn ngủ, liền lấy hết đồ cá nhân ra trải lên giường.

Xung quanh tĩnh mịch, tối đen như mực, chỉ có ánh sáng từ điện thoại. Đột nhiên, có cái gì đó phủ lên lưng cô.

Phản xạ nhanh như chớp, Doãn Hy quay người tung một cú đấm. Chỉ nghe thấy một tiếng rên đau, rồi giọng Nhiếp Tung vang lên: “Tiến sĩ Doãn…”

“Thầy Tiểu Nhiếp?” Doãn Hy theo ánh sáng nhìn thấy Nhiếp Tung đang dựa vào tường, tay ôm vai trái, dở khóc dở cười, “Anh đi đứng không có tiếng gì vậy?”

Nhiếp Tung xoa vai, đứng thẳng dậy: “Tôi sợ làm cô giật mình.”

“Anh…” Doãn Hy thật sự không biết nên nói gì, cuối cùng là ai dọa ai chứ?

“Anh Tung, mau để lộ vai ra, không thì sao em xoa thuốc được!” Tiểu Bàng cầm dầu xoa bóp, thúc giục Nhiếp Tung cởi áo.

Doãn Hy thấy anh chậm rãi cởi áo khoác, liền dời cây đèn nến lại gần, nửa cười nửa nghiêm: “Thầy Tiểu Nhiếp, nếu anh sợ Tiểu Bàng mạnh tay, hay là để tôi giúp anh xoa thuốc nhé?”

Nghe vậy, Nhiếp Tung lập tức khựng lại, vội vàng quay mặt đi: “Không cần đâu! Không cần đâu! Tiểu Bàng, cậu làm nhanh lên đi!”

Trong ánh nến, Doãn Hy liếc nhìn tai anh, ánh sáng mờ mịt không rõ màu sắc. Cô cụp mắt, mất hết hứng thú, tập trung vào cái đùi gà trong đĩa.

Tiểu Bàng thấy hiếm khi Nhiếp Tung bị một cô gái trêu chọc, liền cười nói: “Chị Doãn, chị học võ tự vệ nữ giới à? Cú đấm đó mạnh thật đấy!”

“Đã từng học quyền anh.”

“Quyền anh?” Tiểu Bàng có chút bất ngờ.

Nhiếp Tung quay mặt lại, anh cũng ngạc nhiên giống Tiểu Bàng, thậm chí còn tò mò hơn. Anh chỉnh lại quần áo bằng cách nhún vai một cách nhanh chóng, rất muốn biết tại sao cô lại học quyền anh.

May mà có Tiểu Bàng hỏi thay anh: “Con gái chẳng phải đều thích khiêu vũ, yoga sao? Ít ai thích quyền anh lắm nhỉ?”

Doãn Hy vứt đôi đũa trong tay, cầm đùi gà lên gặm, nhìn hai người đàn ông – không, là hai cậu trai to xác đang ngơ ngác trước mặt. Cô nhún vai thản nhiên: “Không thể yêu cầu một ‘chó địa chất’ lúc nào cũng phải dịu dàng tao nhã như tiểu thư được. Thực tế là, tôi thường đầu tóc rối bù, mặt mũi lấm lem, hiếm khi được như hôm nay, ngồi nghiêm túc đàng hoàng, ăn tối dưới ánh nến với hai cậu trai to xác như các anh. Hơn nữa…” Cô ngừng lại một chút, ánh mắt lướt qua mặt Nhiếp Tung và Tiểu Bàng, “Với một người làm công tác địa chất ngoài thực địa, chẳng có gì quan trọng hơn việc sống sót.”

Giọng nói bình thản, nhẹ nhàng, như phong cách luôn thản nhiên như mây gió của cô. Đôi mắt cô ánh lên tia sáng, như ánh trăng dịu dàng trải khắp lòng Nhiếp Tung, trong vắt và rõ ràng.

“Vậy là chị học quyền anh để tự vệ khi đi thực địa à? Bảo sao lúc nãy phản ứng nhanh thế, đấm một cú hạ gục luôn anh Tung.” Sự tò mò của Tiểu Bàng hoàn toàn bị khơi dậy, hỏi liên tục: “Chị Doãn, mau kể em nghe, còn những chuyện thú vị nào khác khi đi thực địa nữa?”

Doãn Hy liếc nhìn cậu ta một cái, từ tốn trả lời: “Có chứ, nhiều lắm! Nếu đến những vùng núi hoang vu, điều kiện tồi tệ, không có một cọng cỏ, buổi tối chẳng ai dám uống nhiều nước vì không dám ra ngoài đi vệ sinh. Đêm thì phải đốt lửa xua sói, khi ngủ còn phải cầm dao trong tay, nếu xui xẻo gặp kẻ có ý đồ xấu thì chỉ có dao và nắm đấm mới cứu được mạng.”

Có lẽ bị dọa thật rồi, Tiểu Bàng há hốc miệng, mãi không nói được câu nào.

Doãn Hy lấy tờ giấy, vừa đếm vừa lau sạch dầu mỡ trên tay: “Còn muốn nghe gì nữa?”

“Chị Doãn, sao công việc của chị nghe đáng sợ thế?” Tiểu Bàng ôm chặt lấy Nhiếp Tung, nũng nịu cầu an ủi: “Anh Tung, công việc của anh vẫn tốt hơn, bình yên, an ổn.”

Doãn Hy nhìn cậu ta với bộ dạng ỉ ôi đáng ghét, không nhịn được trêu ghẹo: “Tất nhiên không phải lúc nào cũng nguy hiểm. Thỉnh thoảng tìm thấy một thanh socola trong balo, hay nhặt được bịch thịt khô ai làm rơi, cũng có thể vui cả ngày ấy chứ. Sao? Lần sau đi thực địa, chị dẫn cậu theo nhé?”

Cô nửa đùa nửa thật, mọi lời đáp đều dừng lại đúng lúc.

Nhiếp Tung không nói gì, trong ánh sáng lập lòe của ngọn lửa, anh nhìn cô. Như thể chỉ là một khoảnh khắc, mà cũng như đã đọng lại trong lòng từ lâu, hình ảnh Doãn Hy băng qua sa mạc, ngủ bên vách núi hiện lên rõ ràng không báo trước, khuôn mặt mang chút khí khái dưới ánh nến càng trở nên rõ nét.
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 5: Chương 5



Sáng hôm sau, Doãn Hy dậy rất sớm, cùng Tiểu Bàng đến xưởng xem quy trình chế tạo màu. Mấy học trò của Bàng Niên Húc đang chế tạo các loại màu cơ bản như hoa thanh, xích thổ, chu sa, thạch lục… (*) Các học trò dùng búa đập vụn những khối khoáng cứng, sau đó dùng chày đá giã nhuyễn trong cối đá, trong quá trình nghiền thì nhặt bỏ tạp chất và những phần không đều màu, rồi đổi sang dụng cụ mài là những khối đá treo thẳng để tiếp tục mài.

(*) Hoa thanh là tên gọi của màu xanh lam sẫm, hoặc xanh thiên thanh hơi tối, được tạo từ khoáng chất thiên nhiên, thường dùng để vẽ hoa, lá, trời, nước trong tranh thủy mặc hoặc sứ men xanh trắng. Xích thổ là màu của đất đỏ tự nhiên, thường thấy ở vùng bazan, rất hay dùng trong gốm, sơn, gạch cổ, tranh Đông Dương. Chu sa là một loại khoáng chất màu đỏ tươi – chính là chu sa thật, tên khoa học là thủy ngân sulfua (HgS), được nghiền nhỏ thành bột màu đỏ sẫm, dùng làm mực viết, thuốc, màu vẽ, và cả trang sức phong thủy. Thạch lục là tên gọi một loại màu khoáng chất làm từ đá đồng tự nhiên (như malachite) được nghiền mịn, có màu xanh lá sâu, đậm, được dùng phổ biến trong tranh thủy mặc, tranh lụa cổ.

“Một khối khoáng cần mài bao lâu?” Doãn Hy chăm chú nhìn vào những khoáng đá nhỏ trong cối đá, cẩn thận quan sát từng khối.

“Để biến một khối khoáng cứng rắn thành bột mịn, cần phải mài đi mài lại nhiều lần, thường mất hơn hai mươi ngày.” Tiểu Bàng chỉ vào một học trò đang làm việc, nói: “Như thế này, một tay giữ, một tay xoay chày đá trong cối, mài đi mài lại.”

Tiếng khoáng lớn va vào bát sứ sắc nhọn đến chói tai, Tiểu Bàng bịt tai đi ra cửa, còn Doãn Hy ngồi xổm trước ghế dài, hứng thú nhìn những khối đá nhỏ dưới tác động của nước và dụng cụ mài dần trở nên mịn, sánh đặc, chậm rãi biến thành màu sắc tinh tế.

“Ngày nay, việc chế biến khoáng đã hoàn toàn cơ giới hóa, hiếm khi thấy cảnh thủ công thế này.” Doãn Hy càng nhìn càng thấy thú vị, “Tiểu Bàng, chị có thể ở nhà cậu thêm vài ngày được không?”

“Được chứ chị Doãn, hiếm khi chị thích. Tiếc là bố em đi tìm mỏ rồi, không thì ông ấy chắc mừng lắm.”

Doãn Hy chống cằm, nghiêm túc hỏi cậu học trò trước mặt: “Thầy nhỏ ơi, chỉ cần có màu cơ bản là có thể pha ra mọi màu sắc đúng không?”

Cậu học trò cười với cô qua chiếc khẩu trang, rồi nhận ra cô không thấy, liền gật đầu: “Gần như vậy.”

“Vậy nếu có thể pha ra mọi màu, tại sao vẫn phải vất vả tìm khoáng làm màu truyền thống? Nguyên liệu mới đa dạng, màu làm ra chắc chắn còn phong phú hơn truyền thống chứ?”

“Cái này… cái này…” Cậu học trò bị hỏi bí, không trả lời được.

“Việc phục chế di vật chủ yếu là phục chế bảo tồn, màu sắc làm từ nguyên liệu mới là màu khoáng hiện đại, mãi mãi không thể so sánh với màu truyền thống. Dùng màu quốc họa truyền thống mới có thể thực hiện đúng nghĩa ‘phục cổ như cũ’, bảo vệ di vật.” Không biết từ khi nào, Nhiếp Tung đã đứng phía sau cô.

Trong lòng Doãn Hy có quá nhiều thắc mắc, liền hỏi hết một lượt: “Nghe nói hiện nay ngày càng ít người chế màu quốc họa, người muốn học cũng ít. Nếu phần mài màu cứ lặp đi lặp lại như thế, sao không dùng máy móc để giảm bớt sức người?”

“Cô thấy chỉ là một phần. Sau khi nghiền xong còn phải qua các công đoạn rửa, lọc màu. Bột màu sau khi nghiền sẽ được rửa bằng nước sạch để loại bỏ tạp chất, sau đó lắng đọng, rồi phân loại phần nổi và phần lắng, đem sấy khô sẽ cho ra màu đầu tiên. Quá trình rửa, lắng, lấy màu, sấy khô lặp đi lặp lại, mới phân ra được bốn cấp độ màu từ đậm đến nhạt. Những việc tỉ mỉ này, máy móc không làm được.”

Nghe Nhiếp Tung giải thích, Doãn Hy không khỏi cảm thán: “Khoáng vật nằm sâu dưới lòng đất hàng triệu năm, hành trình từ khoáng đến màu cũng giống như quá trình hình thành của nó, đều cần sự nhẫn nại và chờ đợi dài lâu.”

“Từ lòng đất đến giấy, khoáng cứng rắn biến thành lông ngực chim hoàng oanh, lá cây chuyển vàng đầu thu, mặt trời đỏ rực nhô khỏi đường chân trời.” Ánh mắt Nhiếp Tung xuyên qua mắt kính dừng lại trên mái tóc ngắn gọn gàng của Doãn Hy, giọng anh dịu dàng nhưng kiên định: “Sự nhẫn nại và chờ đợi ấy là xứng đáng.”

Tâm khẩu của Doãn Hy khẽ động, cô quay đầu lại, đúng lúc bắt gặp ánh mắt của anh.

Cảnh nhìn nhau như trong phim thần tượng chỉ kéo dài không quá hai giây, Doãn Hy liền cảm thấy bắp chân tê dại, cô cố gắng đứng dậy nhưng ngay giây sau đã bị cơn tê nhức như hàng triệu con côn trùng gặm nhấm cùng cảm giác chóng mặt đánh úp, cả người lảo đảo ngã vào người Nhiếp Tung.

Bị đụng bất ngờ, Nhiếp Tung không kịp phản ứng, theo bản năng đưa tay đỡ lấy cô, vội vàng giúp cô ngồi xuống. Anh không có bất kỳ hành động vượt quá giới hạn nào, vẻ mặt chính trực hoàn toàn khác với ánh mắt chân thành, tr*n tr** ban nãy.

Doãn Hy cảm thấy rối bời, thuận miệng nói: “Tôi muốn uống nước” để đuổi người đi. Ngồi thêm một lúc, khi hồi phục lại thì cô bước vào căn phòng bên cạnh – nơi lưu trữ các mẫu phẩm màu hoàn chỉnh, Tiểu Bàng đang kiểm kê danh sách mẫu.

“Sau khi tốt nghiệp đại học, cậu sẽ kế thừa tay nghề của bố mình chứ?”

Tiểu Bàng ngẩn người, rồi mỉm cười: “Chưa chắc đâu.”

Doãn Hy nhìn cậu một cái, gật đầu hiểu ý.

Tiểu Bàng cười tự giễu: “Học nghề là một công việc cực nhọc, phải không sợ khổ, không sợ mệt, còn phải chịu được cô đơn, chuyên tâm nghiên cứu kỹ thuật. Chị Doãn à, nói thật lòng, vừa không kiếm được tiền lại vừa vất vả, giờ có mấy người trẻ chịu học nữa đâu?”

“Thế nhưng trong phòng vẫn có mấy người học việc mà?”

“Chị biết đây là lứa học trò thứ mấy mà bố em nhận không? Mỗi lần đều đầy mong đợi mà dạy dỗ, cuối cùng chẳng giữ được đến hai người.”

Doãn Hy biết việc truyền thừa thủ công mỹ nghệ rất khó, nhưng không ngờ kỹ nghệ hội họa truyền thống quốc họa lại đang đứng bên bờ tuyệt diệt.

“Nếu không phải anh trai em quyết liệt đi theo con đường riêng, dùng lợi nhuận từ việc kinh doanh khác để duy trì hoạt động hằng ngày của xưởng, thì có khi nhà em đã không trụ nổi đến giờ.” Nói đến đây, Tiểu Bàng thở dài không ngớt, “Chị Doãn, chị hỏi em có quay về hay không, em cũng không biết.”

Doãn Hy im lặng, lấy điện thoại tra giá thị trường của nguyên liệu màu hiện tại. Trên Taobao, một hộp màu tổng hợp hóa học 24 tuýp chỉ bán hơn hai mươi tệ, còn bộ màu 21 sắc của nhà họ Bàng, mỗi màu chỉ 3 gram mà giá đã hơn năm trăm tệ.

“Đúng vậy, nguyên liệu ngày càng khan hiếm, chi phí nhân công ngày càng cao, giá thành cũng ngày càng đắt, trên thị trường hiện tại cạnh tranh rất yếu, chẳng qua chưa sụp đổ hoàn toàn là nhờ vào sự kiên trì của những người yêu thích hội họa truyền thống.” Doãn Hy bị tâm trạng u uất của Tiểu Bàng lây lan, cũng trở nên trầm mặc.

Khi Nhiếp Tung bước vào với chai nước khoáng trên tay, rõ ràng cảm nhận được bầu không khí nặng nề trong phòng.

“Có chuyện gì vậy?” Anh đưa nước cho Doãn Hy, hỏi.

Tiểu Bàng lắc đầu, tiếp tục kiểm kê kho màu.

Còn Doãn Hy thì như bị một bàn tay vô hình siết lấy tim, cô ngẩng đầu uống một ngụm nước, nhẹ giọng hỏi anh: “Nhiếp Tung, liệu có ngày truyền thống màu quốc họa sẽ biến mất không?”

Nhiếp Tung sững người.

Làm nghiên cứu địa chất lâu năm, Doãn Hy xưa nay luôn lý trí và khách quan. Trong mắt Nhiếp Tung, cô là kiểu người đề cao chứng cứ khoa học, nhưng giờ đây lại nhíu mày hỏi anh một câu đầy cảm tính. Cô không còn dáng vẻ cương quyết như thường ngày, mà dịu dàng hơn, gọi tên anh không còn là “Thầy Nhiếp” khách sáo, hay “thầy Tiểu Nhiếp” bông đùa, mà là Nhiếp Tung.

“Không đâu.”

Hai chữ bình thản, kiên định kéo Doãn Hy trở lại thực tại. Cô lại khôi phục vẻ nghịch ngợm thường ngày, như thể khoảnh khắc vừa rồi chỉ là ảo giác của người khác. Cô cười tít mắt: “Tôi thu lại câu hỏi khi nãy, nguyên liệu rồi cũng sẽ biến mất thôi. Dựa theo tình hình hiện tại của khoáng vật, đã cực kỳ khan hiếm rồi, đúng không, thầy Tiểu Nhiếp?”

Lại là “thầy Tiểu Nhiếp”…

Nhiếp Tung nhíu mày, định giải thích, nhưng như có gì đó nghẹn nơi cổ họng. Trong chốc lát, bầu không khí trở nên lúng túng và lạnh lẽo chưa từng thấy.

Tiểu Bàng liếc nhìn Doãn Hy, lại quay sang nhìn Nhiếp Tung, vội vàng hòa giải: “Đúng vậy. Bố em vì muốn tìm được nguyên liệu tốt đã từng đi qua bao tỉnh vùng sâu vùng xa như Vân Nam, Quý Châu, Cam Túc, Hồ Nam, Phúc Kiến, Giang Tây… Những nguyên liệu quý đó làm ra được chút màu tốt, chỉ đủ để cung cấp cho các viện bảo tàng phục chế và phục hồi tranh cổ.”

Doãn Hy biết, nguyên liệu màu trong quốc họa truyền thống không chỉ có nguồn gốc khoáng vật mà còn từ động, thực vật, nên cũng không hẳn là đường cùng. Cô nói nhẹ nhàng: “Nguyên liệu động thực vật có lẽ vẫn còn khả quan, dù sao thì cũng không giống khoáng vật phải trải qua hàng triệu năm hình thành trong tự nhiên, thu hoạch chút là có thêm.”

“Có thể vậy.” Tiểu Bàng không khẳng định, “Em không hiểu lắm, chỉ nghe bố nói chuyện lải nhải mà nhớ được chút. Anh Tung, anh hiểu rõ hơn, nói cho chị Doãn nghe đi.”

Nhiếp Tung liếc nhìn Doãn Hy, cô nghiêng đầu chờ câu trả lời, dáng vẻ chẳng khác nào học trò ngoan. Anh không nỡ để cô tiếp tục buồn, liền từ tốn giải thích: “Làm màu yên chi, màu đỏ Tây phương cần tổ kén của loài sâu tím, mà nhất định phải là loài sâu sống trong rừng nguyên sinh. Nhưng thu tổ thì phá cây, hiện giờ gần như không còn nữa. Còn một nguyên liệu thực vật rất quan trọng nữa là cỏ chàm, dùng để làm màu thanh hoa. Loại này phải gieo vào tháng 11, thu hoạch vào Tết Đoan Ngọ năm sau, chiếm dụng ruộng rẫy suốt nửa năm nên giờ nông dân cũng không mặn mà trồng nữa.” Những khó khăn của nguyên liệu truyền thống không thể nói hết trong đôi ba câu, nhưng anh vẫn cảm thấy không cần quá bi quan, “Nhưng tôi vẫn muốn nói, màu quốc họa truyền thống sẽ không biến mất. Đây chính là lý do chúng ta đến đây, cũng là mục tiêu hợp tác của chúng ta, đúng không, tiến sĩ Doãn?”

Đây là lĩnh vực anh quen thuộc, cũng là ngành nghề anh quan tâm. Giây phút này, con người nghiêm túc pha chút ngại ngùng ấy không còn nữa, anh không còn đỏ mặt, không còn dáng vẻ ngốc nghếch thường ngày. Ánh mắt kiên định nhìn thẳng vào Doãn Hy, dường như đang chờ câu trả lời, nhưng thực ra anh đã biết đáp án.

Bởi vì anh tin, dù có hàng ngàn vạn người ngăn cản, cô cũng sẽ không chùn bước.
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 6: Chương 6



Đã ba ngày trôi qua kể từ khi ở lại nhà họ Bàng, tin tức mà Bàng Niên Húc gửi về vẫn chỉ là “chưa biết khi nào trở về”, nên Doãn Hy và Nhiếp Tung chuẩn bị quay lại Diêu Thành. Trước khi đi, Nhiếp Tung nhiều lần xác nhận với cô: “Thật sự không muốn hỏi bác Bàng thường tìm khoáng sản ở đâu à?”

Doãn Hy cân nhắc trọng lượng ba lô du lịch, lắc đầu: “Không hỏi, đây là bí mật gia tộc.”

Tiểu Bàng không nói gì, chỉ mím môi cười.

Nhiếp Tung liếc nhìn cậu ta một cái, gật đầu ra hiệu.

Tiểu Bàng lập tức hiểu ý, lúc này mới lên tiếng: “Cũng không phải là bí mật gì to tát, chỉ là vài khu vực đại khái, hầu hết những người làm nghề tìm khoáng đều biết. Chị Doãn là người chuyên nghiệp, em cũng không giấu được đâu. Chẳng qua là bọn em quen biết với vài người khai thác ở các mỏ nhỏ, nếu có nguyên liệu phù hợp thì sẽ báo tin lại.”

Cuối cùng, Tiểu Bàng tiết lộ cho Doãn Hy một vài vị trí mỏ khoáng, để cô về làm phân tích khu vực.

Chuyến về vẫn là cùng một chuyến bay. Vì vé bị bán quá số lượng, cả hai được nâng cấp miễn phí lên hạng nhất. Ghế ngồi cạnh nhau, Doãn Hy ngồi sát cửa sổ, Nhiếp Tung ngồi gần lối đi.

Doãn Hy không buồn ngủ, sau khi đọc xong hai cuốn tạp chí hàng không, buồn chán đến mức chỉ có thể nhắm mắt nghỉ ngơi. Nhiếp Tung tưởng cô đã ngủ, lật báo cực kỳ nhẹ nhàng, thậm chí cả dịch vụ ăn uống trên khoang cũng thay cô nhận giúp, sắp xếp ngăn nắp trên bàn nhỏ.

Doãn Hy lặng lẽ hé mở mắt, thấy Nhiếp Tung vừa nhìn cô vừa cẩn thận uống nước, sợ làm cô tỉnh giấc. Cô mím môi, nén nửa nụ cười, nhưng trong lòng lại xôn xao không yên. Cô quyết định liều một phen, nhắm mắt lại, đầu nghiêng về phía vai của Nhiếp Tung.

Quả nhiên, Nhiếp Tung cứng đờ cả người, không dám nhúc nhích.

Đã diễn thì phải diễn cho trọn vai, Doãn Hy thả lỏng cơ thể, để đầu mình trượt dần theo độ cong của vai anh. Sắp sửa rơi xuống, nhưng vào đúng giây cuối cùng lại được bàn tay Nhiếp Tung đỡ lấy. Sau khi chỉnh lại vị trí cho cô, tay anh rút về. Doãn Hy lại nhẹ nhàng trượt đầu về phía trước lần nữa, lại bị anh đỡ lại. Cứ thế vài lần, cuối cùng Nhiếp Tung đành di chuyển đầu cô vào hõm vai mình để cố định.

Nhưng, Doãn Hy sao có thể dễ dàng buông tha cho anh như vậy. Cô nhíu mày, xoay đầu qua lại tìm vị trí thoải mái, cuối cùng lại trở về chỗ dễ trượt lúc nãy. Nhiếp Tung lại căng thẳng, vội dùng tay đỡ lấy đầu cô, cẩn thận giữ lấy trán.

Hơi thở của người đàn ông trẻ ở ngay trước mũi, hơi ấm từ lòng bàn tay truyền tới da trán cô. Cô mở mắt, hàng mi dài nhẹ rung động.

Nhiếp Tung cảm thấy có động tĩnh, mở tay ra xem, liền bắt gặp ánh mắt mềm mại như nước. Anh hoảng hốt quay đi, nhưng vành tai đã đỏ ửng.

Việc này còn thú vị hơn cô tưởng. Doãn Hy không chần chừ, ghé sát tai anh, khẽ hỏi: “Anh có ý với tôi đúng không? Muốn theo đuổi tôi à?”

Nhiếp Tung lập tức lắc đầu, vành tai đỏ bừng, không dám nhìn cô, chỉ khẽ đáp: “Không phải muốn theo đuổi, chỉ là muốn làm bạn thôi.”

Doãn Hy nhướng mày: “Thầy Tiểu Nhiếp à, chính anh có tin vào lời mình nói không?”

Nhiếp Tung không dám ngẩng đầu, gật mạnh: “Chỉ là muốn làm bạn.”

“Cơ mà làm sao đây? Tôi không làm bạn với người không quen.”

“Tôi… đang làm quen.”

“Thế đã quen đến mức nào rồi? Anh hiểu tôi chưa?”

“Đang cố gắng hiểu.”

“Hơ ——” Doãn Hy không nhịn được bật cười, mắng yêu: “Đồ mọt sách!”

Nghe tiếng cười, Nhiếp Tung cuối cùng cũng dám nhìn cô. Cô đang cười, chân mày hơi nhíu, ánh mắt bất lực như thể không thể làm gì được với anh, từng cử chỉ, từng nụ cười ấy khiến cảm giác quen thuộc mà anh luôn canh cánh trong lòng ngày càng rõ rệt.

Anh định nói lại thôi, cuối cùng cũng lấy hết dũng khí để thẳng thắn: “Tiến sĩ Doãn, nếu chúng ta chưa từng gặp nhau trước đây, thì tôi dám chắc cô rất giống một người trong bức tranh cổ mà tôi từng tu sửa.”

Anh nhắc lại chuyện cũ, Doãn Hy dường như cũng có hứng thú: “Vậy à? Bức nào? Giống ai?”

“Tôi đảm bảo là có bức tranh ấy.” Có lẽ sợ cô không tin, Nhiếp Tung đẩy kính, kể cả chuyện lúc nhỏ cũng không giấu: “Tôi từ nhỏ đã theo ông nội và bố học tu sửa tranh, lớn lên giữa những bức họa và sách cổ, đã xem và sửa rất nhiều tranh cổ, nhất thời thật sự không nhớ được là bức nào. Nhưng tôi hy vọng được làm bạn với cô, để có thời gian làm quen cô hơn, cũng để xác định rõ là bức tranh nào, người nào trong đó. Được không?”

Doãn Hy không nói là tốt hay không tốt, chỉ khẽ bĩu môi một cái, quay đầu sang chỗ khác.

Sau khi máy bay hạ cánh ở Dao Thành, Doãn Hy không còn liên lạc gì với Nhiếp Tung nữa, mọi hợp tác và báo cáo thí nghiệm đều được Trương Trì chuyển giao.

Sau nhiều lần như vậy, Trương Trì cuối cùng cũng nhận ra điều gì đó bất thường: “Em với thầy Nhiếp cãi nhau ở Tô Châu à?”

Bị nhắc đến người đó một cách bất ngờ, Doãn Hy rời mắt khỏi kính hiển vi, liếc nhìn Trương Trì một cái, lạnh lùng nói: “Không.”

Trương Trì không hề bị ánh mắt lạnh lùng của cô dọa sợ, tiếp tục hỏi: “Thế sao hai người không liên lạc gì nữa vậy?”

“Không có chuyện thì liên lạc làm gì?”

“Nói về đề tài hợp tác, chẳng lẽ hai người không cần chút va chạm tạo ra tia lửa sáng tạo sao?” Trương Trì còn giơ tay minh họa động tác “tia lửa b*n r*”.

Doãn Hy lườm anh ta một cái: “Nói chuyện với cái đồ ngốc ấy thì được gì chứ!”

Nghe đến đó, mắt Trương Trì sáng lên: “Ô hô, để tôi phân tích câu này nhé. Ý của sư muội là thầy Nhiếp ngốc nghếch thô kệch nên không thể hợp tác được, hay là nói cái đầu ngốc của thầy Nhiếp không hiểu được tâm tư của em?”

“Có khác biệt à?”

“Dĩ nhiên là có. Trường hợp đầu là vì công việc, trường hợp sau là vì tình cảm. Vậy rốt cuộc là cái nào?” Nói xong, Trương Trì còn nhướng mày đầy ẩn ý.

Doãn Hy lười để ý đến anh ta, lại cúi đầu tiếp tục quan sát mẫu dưới kính hiển vi.

“Nhưng mà tôi vẫn muốn nhắc em một câu, sư muội à. Viện nghiên cứu của chúng ta nhiều anh chàng độc thân thế cơ mà, có thể đừng tiêu hao tài nguyên ra bên ngoài được không?”

Doãn Hy chẳng thèm ngẩng đầu, tiện tay túm lấy một xấp giấy bỏ trên bàn ném qua, Trương Trì hét lên một tiếng, cuối cùng cũng chịu yên lặng.

Lúc này, người được nhắc đến – thầy Nhiếp – cuối cùng cũng hoàn thành xong công việc phục chế bị trì hoãn nhiều ngày. Vừa bước vào nhà đã thấy trong phòng khách có khách.

“Chú Tư và Dao Dao đến rồi ạ.” Anh chào hỏi, rồi tìm chỗ ngồi xuống tiếp khách.

“Tiểu Tung tan làm rồi à.” Chú Tư gọi anh lại gần, chỉ vào một chồng tranh trên bàn trà, cười nói: “Đây là mấy bức Dao Dao mới vẽ gần đây, cháu xem thử xem, có gì cần góp ý thì chỉ bảo nó nhé.”

“Bố à, có ai lại dìm con gái mình như bố không?” Tư Dao nhăn mũi, giả vờ trách móc.

Bố Nhiếp đã xem qua rồi, không tiếc lời khen ngợi: “Đối với người làm sao chép tranh thì việc tích lũy theo thời gian là rất quan trọng. Xem ra Dao Dao đã bỏ ra không ít công sức.”

Nhiếp Tung cẩn thận nhặt từng bức tranh lên xem, lật từng trang một cách nghiêm túc.

Chú Tư làm việc tại Tổ phục chế tranh thư pháp của Trung tâm nghiên cứu bảo tồn văn vật trong viện bảo tàng. Dao Dao vừa là con gái, vừa là đồ đệ của ông. Hai bố con với tư cách là những người sao chép tranh thư pháp, dùng phương pháp thủ công để bảo tồn các tác phẩm quý từ các triều đại xưa, trong thời đại trước khi sao chép cơ học trở nên phổ biến.

Nhiếp Tung hơn Tư Dao vài tuổi, từ nhỏ đã đối xử với cô ấy như anh trai nghiêm khắc. Anh quan sát kỹ nét bút, đường nét và cách phối màu trong tranh, dù vẫn còn chút non nớt, nhưng đã có phong cách của danh gia. Anh vừa lật tranh, vừa nở nụ cười: “Tranh của Dao Dao tiến bộ rõ rệt.”

“Cảm ơn chú Nhiếp và anh Tung đã khen.” Tư Dao rất vui khi được khen ngợi, hớn hở khoe với bố: “Con gái bố giỏi quá đúng không!”

Bố Nhiếp nghe vậy cười nói: “Lão Tư à, chúng ta đã có người kế thừa rồi.”

“Sao chép tranh thư pháp là truyền thống lâu đời. Hậu thế sao chép tiền triều, đương đại sao chép danh tác, điều này đã có từ xưa. Nếu một ngày nào đó bản sao của con trở thành cổ vật quý giá, thì dù chết tôi cũng mãn nguyện.” Dù đã được bố con nhà họ Nhiếp khen ngợi, bố Tư vẫn đặt kỳ vọng cao hơn.

Tư Dao không vui, phụng phịu nói: “Bố, bố có thể tự khen mình một chút không?”

“Nếu ông cụ nhà này không đi thăm bạn cũ, chắc chắn sẽ khen tranh của Dao Dao.” Bố Nhiếp gọi vợ đang bước tới: “Bà nói đúng không?”

“Đúng quá rồi!” Mẹ Nhiếp bê đĩa trái cây đến, đưa cho Tư Dao một miếng táo, cười nói: “Dao Dao của chúng ta thông minh từ bé, học gì cũng nhanh, lại có tính cách tốt. Đâu có giống như thằng con nhà tôi, đúng là cục gạch!”

“Tiểu Tung chăm chỉ, chịu khó, bây giờ hiếm có người trẻ nào được như nó đấy!” Không ngờ người lên tiếng đầu tiên lại chính là bố Tư, ông nhìn Nhiếp Tung lớn lên, sao có thể không hiểu tính nết nó chứ.

Mẹ Nhiếp nghe thấy bố Tư khen ngợi con trai mình thì vui như hoa nở, nhưng ngoài miệng lại cứ chê bai con trai mình, khen ngợi con gái nhà người khác: “Tiểu Tung cả ngày chỉ biết vùi đầu vào công việc, làm gì được như Dao Dao hiểu chuyện lại biết quan tâm chứ. Tôi đã sớm nói rồi, nếu tôi có một cô con gái như Dao Dao thì chắc tôi đã được hưởng phúc lâu rồi.”

“Thế hay là hai nhà mình đổi con đi, cho tôi Nhiếp Tung nhé?” Bố Tư bông đùa một câu, cả căn phòng liền bật cười rôm rả.

Không ai để ý rằng Nhiếp Tung đang cầm một bản vẽ chưa hoàn thành mà ngây người.

“Trời ơi! Bức này em vẫn chưa vẽ xong mà, sao lại bị lẫn vào đây được!” Tư Dao vội vàng giật lấy từ tay Nhiếp Tung, “Anh Tung, anh cầm nhầm rồi.”

Một lúc sau, Nhiếp Tung vẫn chưa kịp nghe rõ cô ấy nói gì, chỉ lặng lẽ ngồi yên tại chỗ.

Đó là một bức họa mỹ nhân mới được phác một nửa — thiếu nữ duyên dáng mặc y phục cổ, tóc vấn gọn gàng, khẽ nhếch đôi môi anh đào, trong ánh mắt và khóe miệng ánh lên nụ cười dịu dàng như trăng non.

Tuy nét vẽ chưa hoàn chỉnh, chỉ lột tả được sáu bảy phần thần thái nguyên tác, nhưng cũng đủ để Nhiếp Tung nhận ra ngay: đây chính là bức tranh anh đang tìm kiếm.

Anh không muốn chậm trễ dù chỉ một giây, lập tức mở WeChat nhắn tin cho Doãn Hy. Dù đã tiễn bố con nhà họ Tư về, anh vẫn chưa nhận được hồi âm từ cô.

Nhiếp Tung tháo kính ra, nhắm mắt lại, trong đầu toàn là hình ảnh của Doãn Hy: cô nghiêng đầu nhìn anh, cô cười trêu anh, từng cử chỉ vô tình, từng nét mặt, nụ cười… dần dần trùng khớp với nhân vật trong bức họa.

Anh lôi số điện thoại của Doãn Hy ra, bấm nút gọi.

Trương Trì đi ngang qua bàn làm việc của Doãn Hy, nghe thấy điện thoại cô reo liên tục, màn hình hiện rõ hai chữ “Nhiếp Tung”, quả đúng là “vừa nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đã đến”.

“Sư muội, điện thoại của thầy Nhiếp.”

Doãn Hy ló đầu ra từ phòng thiết bị, đưa tay nhận lấy điện thoại anh đưa.

“Tiến sĩ Doãn, là tôi, Nhiếp Tung đây.”

Doãn Hy tháo găng tay, trả lời: “Tôi biết.”

“Tôi gọi điện là để nói với cô, tôi đã tìm thấy bức tranh đó rồi.”

“Tranh nào?”

“Chính là bức tranh cổ mà tôi nói nhân vật trong đó rất giống cô ấy.”

“Ồ, vậy à?” Doãn Hy không chút ngạc nhiên, thậm chí còn quá đỗi thờ ơ, “Chúc mừng anh.”

“Doãn… Tiến sĩ Doãn, tôi đã nói rồi, tôi chỉ muốn làm bạn với cô, nhưng mà…” Nhiếp Tung không ngờ cô lại phản ứng như vậy, nhất thời luống cuống.

“Nhưng mà gì?”

“Tôi cảm thấy cô có chút né tránh.” Từ lần trước nói là không quen, không hiểu nhau, đến hôm nay chỉ một câu “chúc mừng”, Nhiếp Tung ngày càng cảm nhận rõ sự xa cách của Doãn Hy. Dù chỉ là qua điện thoại, anh cũng có thể tưởng tượng ra dáng vẻ cô nhíu mày, quay mặt đi.

Doãn Hy liếc nhìn Trương Trì đang đứng bên nghe lén, rồi bước ra khỏi văn phòng.

“Cô thấy tôi không thể làm bạn với cô sao?” Cuối cùng Nhiếp Tung cũng hỏi ra điều canh cánh trong lòng.

Doãn Hy thở dài, nói: “Trước đây anh nói cảm giác như đã gặp tôi ở đâu đó, bây giờ lại nói tôi giống người trong bức tranh cổ, nên anh thấy tôi quen mặt…”

“Đúng vậy.” Nhiếp Tung thành thật nói ra cảm nhận, “Ngay lần đầu tiên gặp cô, tôi đã có cảm giác quen thuộc.”

“Đó chính là lý do tôi không muốn làm bạn với anh.”

“Tại sao?” Nhiếp Tung trong lòng không ngừng hồi tưởng lại từng lần gặp mặt Doãn Hy, anh không cho rằng mình đã có hành vi nào quá trớn, nhưng lại không hiểu vì sao cô lại muốn tránh xa anh như vậy.

“Anh chỉ đơn giản là tò mò về tôi, còn tôi thì không muốn trở thành đối tượng nghiên cứu của anh.”

Cúp máy, WeChat hiện thông báo có tin nhắn mới. Doãn Hy mở ra xem, là Tiểu Bàng gửi tới, không đầu không cuối một câu:

“Chị Doãn, anh Tung đang theo đuổi chị đúng không?”

Cậu ta không dùng dấu chấm hỏi, nhìn qua có vẻ rất chắc chắn.

Doãn Hy liếc qua bức ảnh cậu gửi — là tờ giấy mà hôm đó Nhiếp Tung thử màu, dùng nét vẽ đậm nét sắc sảo viết một chữ “Doãn”.

Cô gõ hai chữ rất mạnh: “Không có.”
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 7: Chương 7



Nhiếp Tung không theo đuổi cô, Doãn Hy vô cùng chắc chắn điều đó.

Nhưng còn cô thì sao? Đáp án cũng chắc chắn như vậy. Mặc dù người đàn ông này là cá thể mâu thuẫn nhất cô từng gặp, cô vẫn phải thừa nhận bản thân bị anh hấp dẫn. Nhiếp Tung càng nghiêm túc bao nhiêu, thì càng thẳng thắn bấy nhiêu, càng dễ đỏ mặt thì lại càng thú vị với cô.

Với tính cách của cô, nếu là người đàn ông khác thì cô đã chẳng cần quan tâm mà chủ động theo đuổi từ lâu. Nhưng đối mặt với Nhiếp Tung, lần đầu tiên cô cảm thấy lúng túng.

“Mệt à?”

Tiếng huấn luyện viên cắt ngang dòng suy nghĩ của Doãn Hy, cô hoàn hồn lại, ra hiệu tiếp tục. Huấn luyện viên giơ tay tạm nghỉ, bảo cô nghỉ một chút.

“Sắp tới có giải đấu nghiệp dư, em vẫn không muốn tham gia sao?”

Phòng tập quyền anh này đã thành lập nhiều năm, đào tạo ra không ít vận động viên nghiệp dư, có người thậm chí còn giành được chức vô địch. Là một trong số ít học viên nữ, trình độ của Doãn Hy đã đủ để tham gia từ lâu, nhưng mỗi khi bị hỏi, cô luôn từ chối dứt khoát không chút do dự.

“Biết ngay là vậy mà.” Huấn luyện viên đã quá quen, cười nói như mọi lần: “Nhưng không thi thì thật đáng tiếc cho thực lực của em.”

Doãn Hy tháo găng tay ra, liếc nhìn ông: “Thầy tiếc không lấy được tiền thưởng vô địch chứ gì.”

Bị nói trúng tim đen, huấn luyện viên cũng không giận, chỉ cười toe toét.

Cô gái này vốn không thuộc kiểu “da trắng dáng xinh” truyền thống, lúc mới bước chân vào phòng tập còn mang vẻ yếu đuối mảnh mai. Thế mà một khi học quyền anh lại học rất nghiêm túc, khiến những người từng nghĩ cô chỉ đến chơi phải mở to mắt kinh ngạc. Một luyện là mấy năm, đấm ra cú nào cú nấy đều gọn gàng, mạnh mẽ. Cô đánh có phong cách, đến nỗi các học viên bình thường đều không đỡ nổi. Thậm chí vài huấn luyện viên nam lâu năm đôi khi cũng không đỡ nổi nắm đấm của cô.

Đợi huấn luyện viên rời đi, Doãn Hy mới mở nắp chai nước, ngửa đầu uống một ngụm. Trong gương, cô thấy mồ hôi đang lăn dài trên má. Cô dùng mu bàn tay lau qua, một chút vị mặn vô tình chạm vào môi. Cô l**m nhẹ một cái, thấy vị mặn hơn, liền tu một hơi dài nước khoáng.

Nếu Nhiếp Tung ở đây, liệu anh có thấy cô quá xuề xòa không? Dù sao, con gái mà dùng tay lau mồ hôi trông cũng hơi “man” quá. Nghĩ đến đây, Doãn Hy không nhịn được bật cười tự giễu — ai quy định con gái thì không thể sống thật với bản thân?

Từ nhỏ đến lớn, cô luôn độc lập, tự mình đưa ra quyết định, từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn chẳng cần ai lo lắng. Ngay cả những chuyến đi thực địa cường độ cao cũng không phụ thuộc vào đàn ông đi cùng.

Cô biết rõ mình không phải kiểu “gái yếu ớt trong lồng kính”.

Còn Nhiếp Tung… Dù có ở đây, với cái tính nghiêm túc quá mức của anh, đoán chừng cũng chẳng thèm để ý cô lau mồ hôi ra sao đâu. Có khi còn khuyên cô uống đồ uống thể thao thay vì nước khoáng để bổ sung điện giải cũng nên.

Càng nghĩ càng buồn cười, Doãn Hy mím môi bật cười. Gặp được người đàn ông thú vị như vậy thật sự không dễ, cô không muốn bỏ lỡ. Nhưng tên mọt sách đó lại cứ tỏ ra như kiểu “hãy làm bạn với tôi, tôi muốn nghiên cứu xem cô giống ai” làm cô chẳng còn tâm trí gì nữa, chỉ muốn xông lên đấm cho anh một cú.

Nhưng hiện thực là, đừng nói là đấm Nhiếp Tung, kể từ lần gặp gần nhất đến giờ đã nửa tháng trôi qua, cô muốn xem thử tên ngốc này bao giờ mới thông suốt.

Ngày hôm sau, Doãn Hy đi làm không thấy bóng dáng Trương Trì đâu, vừa định nhắn tin hỏi anh ta có ngủ quên không thì nhận được cuộc gọi từ chính chủ. Cô tưởng là nhờ chấm công hộ, ai ngờ Trương Trì đã xin nghỉ về quê đính hôn, gọi điện chỉ để dặn dò cô mấy việc liên quan đến khảo sát thực địa sắp tới và vài dự án lặt vặt, trong đó có cả việc phối hợp với bảo tàng.

Trước khi cúp máy, Trương Trì còn dặn dò đầy ẩn ý: “Sư muội à, tôi gọi cho em là để nói rõ, đây là cơ hội tuyệt vời sư huynh dành cho em, hãy nắm bắt lấy, tranh thủ hòa giải với thầy Nhiếp càng sớm càng tốt…”

Hoà giải cái quái gì…

Chưa kịp nghe hết, Doãn Hy đã cúp máy. Cô nhìn xấp tài liệu dày cộp trên bàn, toàn là tư liệu về khoáng vật dùng làm chất màu, rồi chán nản ném bút xuống.

Công việc gần đây của cô có liên quan đến chuyến đi Tô Châu lần trước. Khi đó, Tiểu Bàng đã cung cấp một vài khu vực khai thác khoáng vật nhỏ, không có nhiều dữ liệu ghi chép, nên Doãn Hy phải tổng hợp, so sánh với cơ sở dữ liệu gốc. Công việc này tưởng đơn giản nhưng đòi hỏi sự tỉ mỉ và kiên nhẫn. Có thể khu vực khai thác này không khớp với dữ liệu gốc, hoặc không đúng loại khoáng vật đã báo. Tất cả đều cần phân biệt, tra cứu, xác nhận với viện nghiên cứu địa chất địa phương, thậm chí phải khảo sát thực tế. Chỉ như vậy mới có thể hoàn thiện bản đồ phân bố nguồn khoáng vật mới.

Cô vừa mới bắt đầu giai đoạn đối chiếu đầu tiên thì kế hoạch đã bị đảo lộn vì sư huynh xin nghỉ. Dù sao cũng đang tạm dừng, thay vì phối hợp với bảo tàng, cô lại muốn đi khảo sát thực địa hơn.

Chuyến khảo sát lần này chưa kịp chờ dịp gặp mặt do Trương Trì sắp xếp thì đã được đưa vào lịch trình.

Địa chất học ngày nay đã hiện đại hóa rất nhiều, với máy tính bảng, thiết bị định vị GPS, máy ảnh kỹ thuật số… thay thế cho “bộ ba” công cụ truyền thống. Nhưng ở những nơi hoang vu, việc xác định phương hướng, đọc bản đồ, quan sát mẫu vật… vẫn cần kinh nghiệm và các công cụ thủ công như la bàn, búa địa chất, kính lúp, thẻ phân loại hạt.

Chính vì vậy, các cấu trúc địa chất, sự phân tầng, các lớp đá… chỉ có thể tận mắt quan sát mới có thể phân tích và đánh giá, khiến địa chất học không thể hoàn toàn thay thế bằng kỹ thuật số và vẫn luôn cần khảo sát thực địa.

“Tôi nhớ buổi học chuyên ngành đầu tiên ở đại học, thầy đã nói ‘thực tập là bước đầu vào nghề của địa chất học’.” Một cậu sinh viên mới ngồi bệt dưới đất than thở, “Thực tập trong phòng, thực tập ngoài thực địa, thực tập độc lập, thực tập sản xuất… học địa chất thì không chạy được cái nào.”

“Tôi tưởng cậu sẽ nói công việc quan trọng nhất của thạc sĩ với tiến sĩ là viết bài báo chứ!” Doãn Hy bật cười, nhấp một ngụm nước nhỏ.

“Doãn sư tỷ, viết bài báo cũng rất quan trọng mà.” Cậu nghiêm túc sợ cô coi nhẹ công tác nghiên cứu.

Lần này người dẫn đoàn khảo sát là Chủ nhiệm trung tâm nghiên cứu – Lâm Hiến Hoa. Thấy cậu nhóc nghiêm túc quá mức, ông vỗ vai cậu: “Thôi nào, sư tỷ cậu sao lại không biết cái này, số bài báo cô ấy viết đủ cho cậu đọc mấy tháng đấy! Cô ấy chỉ muốn nhắc cậu, đừng lẫn lộn đầu đuôi, quên cái gốc của nghề địa chất.”

Cậu sinh viên rối rít gật đầu: “Nhất định không quên ạ!”

Bị nhìn thấu tâm can, Doãn Hy hơi bĩu môi: “Sếp Lâm, không công bằng gì hết! Mãi mới có sư đệ để trêu chọc, mà cũng không cho cơ hội luôn.”

“Cô chỉ trêu sư đệ thôi à? Ở đây có ai chưa từng bị cô ‘chọc’ qua?” Lâm Hiến Hoa bật cười, dập tắt điếu thuốc, vứt vào túi rác mang theo.

Doãn Hy nhăn mặt: “Đi khảo sát địa chất đã đủ khổ rồi, muốn bắt nạt ai cũng bị ngăn cản, đúng là cuộc sống quá gian nan…”

“Không sao đâu chị, chị cứ bắt nạt em thoải mái.” Cậu sinh viên vừa lắc đầu vừa gật đầu, như thể chuẩn bị hy sinh vì nghĩa lớn.

Cả đoàn bật cười nghiêng ngả, nỗi khó nhọc tìm điểm khảo sát tạm thời bị quên đi.

Sau tràng cười, Doãn Hy thu lại nét mặt tươi tắn. Cậu sinh viên nhút nhát ấy lại khiến cô nhớ đến một người.

Người ấy lúc này vừa hoàn thành việc phục chế một bức cổ họa, mệt mỏi đến mức không buồn nói một lời, chỉ lặng lẽ uống cạn một ly trà.

Để chuẩn bị cho triển lãm kỷ niệm 60 năm thành lập Bảo tàng Diêu Thành, Nhiếp Tung và các đồng nghiệp đã bận rộn suốt ba tháng. Giờ mới hoàn thành phần phục chế cổ họa, mọi người thả lỏng trò chuyện.

Nhiếp Tung cuối cùng cũng có thời gian mở máy tính, tìm lại thư mục phục chế, nhanh chóng lôi ra bức tranh mỹ nhân còn dang dở mà anh chưa kịp hoàn thiện từ lâu. Ngay từ lần đầu nhìn thấy, anh đã chắc chắn 100%. Giờ khi bức tranh hoàn chỉnh hiện lên trên màn hình, anh vẫn ngẩn người nhìn rất lâu.

Một đồng nghiệp già đi ngang, liếc qua, tặc lưỡi: “Đây chẳng phải là bức tranh mỹ nhân mà năm xưa cậu theo thầy Nhiếp phục chế sao?”

Nhiếp Tung bừng tỉnh, khẽ đáp một tiếng “Vâng.”

Năm đó, anh mới 16 tuổi, lần đầu tiên dưới sự hướng dẫn của ông nội và bố, tham gia trọn vẹn một dự án phục chế cổ họa. Chính lần tham gia toàn diện đó, chính bức “Tranh Mỹ Nhân Đồ” ấy, đã mở ra chương đầu tiên trong cuộc đời phục chế tranh cổ của anh.

“À đúng rồi, tôi nhớ có một năm Tết Nguyên Đán, viện bảo tàng có đặc biệt làm một lô bản sao của bức Mỹ Nhân Đồ này để tặng nhân viên như một món quà mừng xuân,” Dưới ánh mắt dò hỏi của Nhiếp Tung, vị đồng nghiệp già vỗ đầu, “Trí nhớ tôi kém rồi, không nhớ rõ là năm nào, nhưng tôi dám chắc nhà cậu có một bản đó.”

Nhiếp Tung hoàn toàn không có ấn tượng gì về chuyện này, cũng không ngờ lại có một “thu hoạch bất ngờ” như vậy. Nhưng từ khoảnh khắc biết được có bản sao, trong đầu anh chỉ còn một ý nghĩ, nhất định phải tìm ra nó.
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 8: Chương 8



Về đến nhà, Nhiếp Tung lao ngay vào thư phòng, lục tung những bản sao tranh thư họa cổ mà viện bảo tàng đã phát cho nhân viên qua các năm, trải đầy sàn. Anh mở từng bức ra, xem từng bức một, cuối cùng cũng tìm thấy bức tranh cuộn dài hơn sáu mét – gần bảy mươi mỹ nhân hiện ra trước mắt, người ngồi, người đứng, mỗi người một thần thái khác nhau. Trong số những mỹ nhân duyên dáng ấy, hình ảnh nữ sĩ tài hoa thời Tống – La Tích Tích – như một ngọn lửa bùng cháy trong mắt anh.

(*) La Tích Tích là một nhân vật trong tác phẩm văn học nổi tiếng của Trung Quốc, “Lão Xá” (老舍), đặc biệt là trong các tác phẩm của ông như “Lý Quý” hay “Người con gái thuyền” (小人物).

La Tích Tích ôm đàn tỳ bà, tay cầm bút lông, đầu hơi nghiêng, vén tay áo. Tà váy tung bay, dải lụa lả lướt khắc họa vóc dáng mềm mại của nàng. Chỉ vài nét chấm phá mà khắc họa được vẻ kiều diễm nơi đuôi mắt khóe mày, nụ cười thoáng trên má và môi – tựa cơn mưa xuân không tiếng động, tí tách thấm vào lòng người.
image-3.png


Nhiếp Tung không kìm được sự xúc động trong lòng, vội vàng chụp lại Mỹ Nhân Đồ, gửi cho Doãn Hy. Anh muốn chia sẻ bức tranh này với cô, muốn nói với cô rằng người trong tranh thực sự tồn tại.

Thời gian trôi qua từng giây từng phút, Nhiếp Tung dần bình tĩnh lại. Cứ mỗi lần điện thoại rung vì tin nhắn WeChat, anh liền mở ra ngay, sợ lỡ mất phản hồi của Doãn Hy. Nhưng đến khi ăn tối xong, chuyện trò trong gia đình cũng kết thúc, tắm rửa xong nằm lên giường, vẫn không có hồi âm nào từ cô, lòng anh bắt đầu bất an.

“Anh chỉ đơn giản là tò mò về tôi, còn tôi thì không muốn trở thành đối tượng nghiên cứu của anh.”

Lời nói của Doãn Hy bất chợt vang lên trong đầu khiến Nhiếp Tung giật mình ngồi bật dậy, vội vàng với lấy điện thoại. Vốn là người điềm đạm, nhưng đây là lần đầu tiên anh cảm thấy mình thật nôn nóng, ngón tay lướt qua danh bạ run rẩy không kiểm soát được, phải nhấn vài lần mới tìm được chữ “Y”.

Thời gian chờ kết nối bỗng trở nên dài đằng đẵng, một đoạn nhạc không quen thuộc vang lên trong tai nghe lần thứ hai.

“Thầy Tiểu Nhiếp?”

Giọng Doãn Hy kéo trái tim đang hoảng loạn của Nhiếp Tung về lại chỗ cũ, anh muốn giải thích, nhưng mở miệng lại bật ra một câu “Xin lỗi.”

Doãn Hy ngẩn người vì lời xin lỗi đột ngột đó, bật cười: “Anh làm gì có lỗi với tôi sao?”

Rõ ràng chỉ là câu đùa, nhưng Nhiếp Tung lại càng thêm lúng túng, vội vàng giải thích: “Tôi gửi bức Mỹ Nhân Đồ cho cô chỉ là muốn nói rằng tôi đã tìm thấy bức tranh đó rồi, nó không phải tôi bịa ra, cũng không phải… chiêu trò để tán tỉnh cô, mà là thực sự có bức tranh ấy, có người con gái trong tranh ấy.”

“Anh đang nói gì vậy?”

“Tôi đã giải thích với cô qua WeChat, nhưng cô không trả lời… tôi sợ cô giận…” – Nhiếp Tung càng nói càng nhỏ, đến cuối thì chẳng biết nói gì thêm nữa.

Doãn Hy nhẹ giọng “Ồ” một tiếng: “Tôi đang ở ngoài thực địa, không có mạng, không có 4G, nên không mở được WeChat. Tín hiệu điện thoại cũng chập chờn, anh gọi được là do gặp may đấy.”

“Vậy à… Giờ cô đang ở đâu? Ăn cơm chưa? Buổi tối ngủ ở đâu?”

“Ha—” một tiếng cười khẽ cùng hơi thở vang lên trong máy, dù tín hiệu không mấy rõ ràng nhưng vẫn truyền đến tai Nhiếp Tung, mang theo nụ cười nhẹ nhàng của Doãn Hy, “Dĩ nhiên là ăn uống nghỉ ngơi đều ở ngoài thực địa rồi.”

“Ăn gì? Bánh quy à? Còn ngủ thì… lều trại?”

“Thầy Tiểu Nhiếp, giờ chuyển nghề thì chắc không kịp đâu.”

Bị trêu chọc như vậy mà Nhiếp Tung không giận chút nào vì hai chữ “thầy Tiểu Nhiếp”, ngược lại còn bật cười: “Tiến sĩ Doãn, tôi có thể thi tuyển nghiên cứu sinh chỗ cô không?”

Đã quen với vẻ nghiêm túc của anh, Doãn Hy không ngờ anh lại đùa giỡn như vậy, thoáng ngơ ngác. Mãi đến khi tai nghe vang lên tiếng Nhiếp Tung hỏi lại, cô mới phá lên cười.

Hai người cứ vậy trò chuyện rôm rả, dông dài nửa tiếng, đến khi tín hiệu đột ngột mất, cuộc nói chuyện đành ngắt giữa chừng trong tiếc nuối.

Nhiếp Tung gối đầu lên cánh tay, nằm ngửa trên giường, trong đầu hiện lên hình ảnh mỹ nhân được vẽ bằng nét công bút tỉ mẩn, bên tai vẫn còn vang vọng tiếng cười nhẹ của Doãn Hy. Trái tim luôn trống trải của anh nay như được lấp đầy, nhưng lại có một chút hụt hẫng mơ hồ khó nói thành lời.

Đêm trăng sáng, gương mặt của Doãn Hy và người trong tranh cứ thay phiên hiện ra trong đầu anh, như đang diễn một vở kịch câm không hồi kết. Anh trằn trọc không ngủ được, đành ngồi dậy, bật đèn bàn. Nhìn chằm chằm vào bức tranh trải trên bàn, ánh mắt vẫn dừng lại ở phần vẽ La Tích Tích.

Càng nhìn, anh càng nghi hoặc.

Nếu La Tích Tích đúng như hình vẽ, thì chắc chắn có thể khẳng định – Doãn Hy hoàn toàn không giống nàng. Thế nhưng tại sao ngay ánh nhìn đầu tiên, anh lại nghĩ cô giống chứ?

Lần đầu gặp cô, ở viện bảo tàng, cô cúi mắt cười nói với người lạ rằng anh “rất thú vị.”

Lần thứ hai, trước cửa văn phòng, cô cười nhạt trêu: “Thầy Tiểu Nhiếp, giờ không còn ai tán gái kiểu này đâu.”

Lần thứ ba, ở viện nghiên cứu địa chất, cô mời anh ăn cơm, còn gắp cho anh miếng sườn.

Lần thứ tư, ở Tô Châu, cô đấm anh một cái rồi nói: “Đối với người làm địa chất, sống sót là điều quan trọng nhất.” Cô còn nói: “Khoáng sản và chất liệu màu cũng cần sự chờ đợi và kiên nhẫn lâu dài.” Cô lại nói: “Nhiếp Tung, màu trong tranh truyền thống có ngày cũng sẽ biến mất sao?”



Từng cảnh từng lời như mới hôm qua. Cảnh cô ngẩng đầu nhìn anh như còn ngay trước mắt, sự ấm áp trên trán cô vẫn còn vương trong lòng bàn tay anh. Ngay cả đôi tai nóng bừng khi cô tựa vào vai hỏi: “Anh có ý gì với tôi sao? Muốn theo đuổi tôi à?”, anh vẫn còn nhớ như in.

Nhiếp Tung bỗng nhận ra, Doãn Hy không hề giống với người trong tranh. Cô không phải là người giống tranh, cũng chẳng phải đối tượng anh tò mò nghiên cứu. Cô chính là cô, và bỗng chốc anh muốn gặp cô thật nhanh.

Chưa kịp nghĩ nhiều về việc liệu quyết định này có vội vàng không, anh đã xếp đồ, lên tàu. Khi tàu lao đi, cảnh vật ngoài cửa sổ như vụt qua, anh vẫn không thể tin vào quyết định bồng bột của mình. Anh thậm chí không dám tưởng tượng biểu cảm và phản ứng của Doãn Hy khi gặp lại mình. Nhưng anh không còn quan tâm nhiều nữa, chỉ cần nghĩ đến việc được gặp Doãn Hy, là anh không kìm được mà mỉm cười, ngay cả cảm giác trống vắng bao đêm qua cũng biến mất.

Chuyến tàu lao nhanh trong buổi sáng tinh mơ khi trời vừa hửng sáng, còn ở nơi hoang dã xa xôi, Doãn Hy đã cùng đội tiến vào núi, bắt đầu công việc thu thập mẫu đá và đất.

Lần ra thực địa này là để tiến hành khảo sát địa chất khu vực theo tỉ lệ nhỏ. Doãn Hy được phân vào một tổ cùng với Lâm Hiến Hoa và tiểu sư đệ, nhiệm vụ chính là điều tra sơ bộ các đặc điểm cơ bản của địa tầng, đá, cấu trúc địa chất trong khu vực khảo sát, từ đó dự đoán triển vọng khoáng sản, tạo nền tảng cho các cuộc khảo sát địa chất chi tiết hơn với tỉ lệ lớn hơn.

Trước khi vào núi, Doãn Hy tiện tay nhặt một cành cây, vừa vặn dùng làm gậy chống.

Trên đường đi, thấy cô chống gậy khi đi bộ, tiểu sư đệ không nhịn được hỏi: “Sư tỷ, chân chị sao thế ạ?”

“Không sao, tuổi già rồi, đi đường xa không nổi nữa.”

Vừa nghe câu đó, Lâm Hiến Hoa liền hiểu ngay cô lại đang đùa giỡn, cố nhịn cười mà không vạch trần.

Tiểu sư đệ thì đâu biết gì, vội vã chạy lên đỡ lấy Doãn Hy: “Sư tỷ, chị bao nhiêu tuổi rồi ạ? Em thấy chị chỉ mới hơn hai mươi thôi mà!”

“Đúng thế!” Doãn Hy nghe vậy thì cười vui vẻ, “Chị hai mươi đấy!”

“Vậy sao lại nói là già, đi đường không nổi nữa?” Sư đệ đi theo sau cô, nhưng không theo kịp logic của cô.

“Ôi, đừng nhắc nữa… Sư tỷ không cầu gì khác, chỉ mong khi không đi nổi thì có người đỡ một tay.”

Càng nói càng giống thật, đến mức chính Doãn Hy cũng suýt thì tin vào câu chuyện của mình.

“Chị yên tâm, sư tỷ, khi nào chị đi không nổi em nhất định đỡ chị, cõng chị cũng được!”

“Có lòng chăm sóc như vậy, sư tỷ không lo mình sẽ làm chậm chân các cậu nữa rồi.”

“Cô cứ bịa đi, không chừng lát nữa sư đệ lại rơi mấy giọt nước mắt cho cô đấy.” Lâm Hiến Hoa quay đầu lại, cười cắt ngang lời cô.

“Không thể nào?” Doãn Hy vội đẩy tiểu sư đệ ra, bước vài bước qua, kinh ngạc nói, “Sếp, anh tuyển chọn người yếu đến thế này sao?”

Lâm Hiến Hoa vừa dò đường vừa đi về phía trước: “Không phải cậu ấy đang đỡ cô à? Yếu hay không cô còn không biết sao?”

Doãn Hy kéo dây ba lô, miễn cưỡng đưa ra một ngón cái: “Đúng là gừng càng già càng cay!”

Lâm Hiến Hoa nhướn mày, nhìn cô một cách đầy thâm thuý.

Tiểu sư đệ hoàn toàn không hiểu chuyện gì đang xảy ra, không biết vì sao sếp lại nói cậu sẽ khóc, lại càng không hiểu vì sao sư tỷ lại chê cậu yếu, cậu chỉ có thể nở nụ cười trừ.

Lâm Hiến Hoa vỗ vỗ vai tiểu sư đệ, dặn dò: “Sư tỷ của cậu quả thật từng bị thương ở đầu gối, cậu phải chú ý một chút khi ở phía sau cô ấy.”

Tiểu sư đệ được giao trọng trách cao cả, ánh mắt kiên định bước theo phía sau.

Trước khi vào nghề, rất nhiều người đã tưởng tượng về công việc địa chất như một chuyến du lịch để thỏa mãn niềm đam mê chụp ảnh. Nhưng khi thực sự bước vào thực địa, họ mới nhận ra đây là một chuyến đi đồng hành cùng GPS, la bàn, bộ đàm và búa địa chất, trò giải trí duy nhất chính là leo núi và đập đá.

Sau một quãng thời gian dài, ba người trong nhóm ngồi nghỉ trên đỉnh núi, ăn bánh khô để bổ sung sức lực.

Lúc này, nhìn ra xa cả một dãy núi, dù đã nhiều lần đi vào thực địa, leo lên nhiều ngọn núi cao, thậm chí đã từng vào những khu vực hoang vu của sa mạc, nhưng Doãn Hy vẫn cảm thấy lòng mình rộng mở, như được hòa vào thiên nhiên. Những đoạn đường dốc khó đi, bụi cây đầy côn trùng, và chiếc ba lô ngày càng nặng, bỗng chốc biến mất, không còn mệt mỏi hay phàn nàn, chỉ còn lại cảm giác thanh thản như đứng trên đỉnh núi, nhìn ngắm muôn vàn đỉnh núi nhỏ bé dưới chân.

Doãn Hy tháo khăn trùm đầu xuống, lấy ra một chai nước từ ba lô, nhấm nháp từng ngụm nhỏ.

Tiểu sư đệ lại gần, đưa cho cô một viên sô cô la, tỏ ra rất muốn học hỏi: “Sư tỷ, lúc leo núi, em thấy chị dùng gậy đánh vào cây cối, là để dọa lợn rừng hay để đánh rắn?”

“Đều có cả.”

“Vậy chị có sợ không?”

“Sợ chứ, cậu biết không, đừng nói rắn, con gái thậm chí còn sợ cả côn trùng nữa.” Doãn Hy nghiêm mặt, bóc vỏ sô cô la.

“Vậy lát nữa xuống núi chị đừng lao về phía trước, cố gắng đi sau em và sếp thôi.” Tiểu sư đệ nhìn quanh quất, cảnh giác với mọi thứ xung quanh, “Nếu gặp phải côn trùng hay rắn cũng đừng sợ, em sẽ bảo vệ chị.”

“Được rồi, cảm ơn cậu!”

Lâm Hiến Hoa không chịu được nữa, thấy cô trêu chọc người hiền lành như vậy, một điếu thuốc còn chưa hút xong đã phun ra, căm giận nói: “Doãn Hy, đừng có bắt nạt tiểu sư đệ nữa, tôi thực sự không nhìn nổi nữa.”

Tiểu sư đệ không hiểu chuyện gì xảy ra, thấy sư tỷ bị mắng, chỉ biết biện minh: “Sếp, sư tỷ không có bắt nạt em đâu.”

Lâm Hiến Hoa dập tắt điếu thuốc, thở dài: “Mở mắt ra nhìn cho rõ đi, sư tỷ của cậu đâu có giống một cô gái yếu đuối sợ côn trùng! Cô ấy từng đánh chết hai con rắn, bắt được một con nhím, ngay cả muỗi cũng không dám lại gần cô ấy, vậy trên đời cô ấy còn sợ cái gì chứ?”

Doãn Hy không thể nhịn được nữa, bật cười sảng khoái, tiếng cười vang vọng khắp núi rừng, giống như một cơn gió xa xăm và phóng khoáng.
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 9: Chương 9



Công việc thực địa diễn ra ở phía bên kia của ngọn núi, con đường gập ghềnh, sườn núi dốc đứng, ba người trong nhóm phải leo lên không dùng dụng cụ, đến gần nơi lộ ra lớp đá để tiến hành quan sát và mô tả ban đầu. Lộ đá này là một phần của lớp đất, đá, khoáng chất, nước ngầm, khí tự nhiên… được lộ ra trên bề mặt trái đất, đây là một lộ tự nhiên, không bị tác động bởi con người. Qua quan sát, họ nhận thấy đây là một lớp đá nguyên sinh, chưa bị oxy hóa mạnh, vẫn giữ nguyên cấu trúc và thành phần ban đầu.

Tiểu sư đệ leo lên lộ đá, vừa quan sát hình dạng của lớp đá, vừa dùng búa địa chất phá vỡ các tảng đá. Không lâu sau, cậu lấy được mẫu đá tươi, thu thập được mẫu vật quý giá cho cuộc khảo sát khu vực.

Khi chuẩn bị leo xuống, chân cậu bị trượt, nhìn thấy mình sắp rơi xuống, Lâm Hiến Hoa và Doãn Hy lập tức chạy tới, cố gắng đỡ lấy cậu. May mắn, tiểu sư đệ phản ứng nhanh, kịp thời bám vào một tảng đá nhô lên, giữ vững được cơ thể. Cậu vừa thở hổn hển vừa nói “Không sao đâu, không sao đâu”, nhưng ngay lúc đó, ngay bên cạnh nơi cậu vừa lấy mẫu đá, một tảng đá khác bất ngờ rơi xuống, cuốn theo một chuỗi đá vụn.

Lúc đó, hai người ở dưới nhìn lên, thấy đá lớn nhỏ đủ loại, tất cả đều rơi thẳng về phía Doãn Hy.

Chỉ trong tích tắc, Doãn Hy nhanh chóng lăn người sang phải, rồi cuộn tròn người, tránh né. Khi tiếng đá ngừng lại, Lâm Hiến Hoa và tiểu sư đệ lập tức chạy tới, kiểm tra tình trạng của cô.

Doãn Hy cảm thấy trên người hơi đau, vai và lưng bị va đập khi lăn, cơ thể bị đá cọ sát và tay bị trúng đá vụn, cô chống tay muốn ngồi dậy, một cơn đau nhói từ bên trái truyền đến.

“Ưm——”

“Đừng cử động.” Lâm Hiến Hoa giữ chặt vai trái của cô, mở hộp thuốc y tế.

Dù cô phản ứng nhanh, nhưng vẫn bị một số mảnh đá vụn trúng tay, tay áo dính đầy máu.

Tiểu sư đệ hoảng sợ: “Sư… Sư tỷ, xin lỗi…”

“Không sao đâu,” Doãn Hy mỉm cười, “Giờ thì sư tỷ thật sự cần cậu cõng xuống núi rồi.”

“Vẫn còn có tâm trạng đùa giỡn khi bị thương nặng thế này, tôi thấy cô thật là…” Lâm Hiến Hoa vừa kiểm tra vết thương, vừa trách móc, “Ngoài tay ra, những chỗ khác chỉ là xước nhẹ. Cô thử cuộn tay áo lên xem, tôi sẽ xử lý cho.”

Doãn Hy dựa vào sức mạnh của tay, ngồi dậy và thử cuộn tay áo đã dính đầy máu lên. Máu dính chặt vào vải và vết thương, càng gần vết thương càng cảm thấy đau đớn, cô dừng lại và cắn răng nói: “Cứ cắt ra đi.”

“Cô chịu đau một chút.” Lâm Hiến Hoa gật đầu, dùng kéo từ từ cắt tay áo ra, để lộ vết thương.

Bàn tay đầy bụi bẩn của cô dính đầy cát mịn lẫn máu, khiến vết thương trở nên rất ghê rợn.

Tiểu sư đệ quay mặt đi, vô tình nhìn thấy nơi đá rơi xuống, những vết lõm lớn nhỏ trên con đường, cậu lại một lần nữa cảm thấy sợ hãi, chỉ có thể nhắm mắt nhìn lên trời.

Doãn Hy bị vẻ mặt sợ hãi của cậu làm cho buồn cười, nghĩ rằng có thể đây là lần đầu tiên cậu trải qua cảnh tượng như vậy, cô hỏi một cách quan tâm: “Sợ rồi à?”

Giọng cô nhẹ nhàng và vui vẻ, không hề có dấu hiệu của đau đớn.

Tiểu sư đệ ngạc nhiên mở mắt: “Sư tỷ, sao chị có thể bình tĩnh thế này?”

“Không phải sếp đã nói với cậu rằng chị đã đánh rắn, bắt nhím sao?” Doãn Hy liếc nhìn Lâm Hiến Hoa, ông đang vệ sinh vết thương cho mình, cảm giác châm chích từ thuốc khử trùng khiến cô không còn phân biệt được là cồn hay iodine nữa, cô cắn răng, giọng nói từ kẽ răng bật ra, “Anh ấy còn nói chị bị thương ở đầu gối, bảo cậu phải chăm sóc chị.”

Tiểu sư đệ vẫn chưa hiểu, nhìn cô ngơ ngác.

“Sếp không nói dối đâu,” Doãn Hy nhìn sang một bên, biết việc xử lý vết thương đã gần xong, “Vì thế, mấy vết thương này không có gì to tát cả.”

Hiếm khi, Lâm Hiến Hoa không phản bác cô.

Tiểu sư đệ nhìn Doãn Hy, cô vừa thoát khỏi nguy hiểm, người đầy bụi bẩn, nhưng không hề có vẻ gì là lúng túng. Cuối cùng cậu cũng tin rằng, cô sư tỷ xinh đẹp thích trêu đùa này, không phải chỉ là người vào học viện địa chất để chơi đâu, cô thật sự có năng lực, cô thực sự rất giỏi.

Lâm Hiến Hoa quấn xong băng gạc quanh tay cô, nghiêm túc hỏi: “Thắt nút?”

“Thắt nơ nhé,” Doãn Hy uống một ngụm nước, cười với ông, “Cảm ơn sếp.”

Vậy là, Lâm Hiến Hoa thực sự thắt băng gạc thành một chiếc nơ, khiến tiểu sư đệ đứng bên cạnh ngơ ngác.

“Đi thôi, xuống núi.”

“Chờ một chút, sếp ơi, em muốn xem lại lộ đá lúc nãy.” Doãn Hy ngẩng đầu nhìn về phía lộ đá nguyên sinh, nó vẫn đứng yên đó.

Lâm Hiến Hoa chỉ tay về phía cô, thở dài một hơi: “Cô đứng xa một chút, tôi và tiểu sư đệ đi ngó một cái.”

Doãn Hy lập tức ngoan ngoãn lui về phía an toàn.

Thực ra, ngay cạnh lộ đá nơi cậu thu mẫu, có một tảng đá nhỏ. Phía bên hông của tảng đá đã bắt đầu phong hóa, chính vì vậy khi tiểu sư đệ vô tình trượt ngã, tảng đá đã bị chấn động và sụp đổ.

“Thế nào? Xem xong rồi chứ?” Lâm Hiến Hoa sau khi thu xong mẫu đất phong hóa, quay người nói với tiểu sư đệ, “Sư tỷ của cậu là kiểu người sẵn sàng đánh đổi tính mạng vì đá, đừng học theo cô ấy!”

Doãn Hy liền lập tức hùa theo nịnh: “Sếp nói đúng hết.”

Hôm đó cuối cùng không có gì nguy hiểm, nhóm ba người đã an toàn trở lại đại bản doanh, hai nhóm còn lại cũng lần lượt quay về trại. Bữa tối vẫn như thường lệ là mì ăn liền, Doãn Hy vì bị thương nên được đặc biệt cho thêm hai miếng thịt bò khô.

“Doãn Hy, người bị thương được đãi ngộ tốt thật, nhớ lần trước tôi bị trật chân, sếp chỉ cho tôi mỗi cây xúc xích.”

“Ăn gì bổ nấy, ăn xúc xích bổ xúc xích.” Doãn Hy vừa ăn thịt bò khô, vui vẻ hút mì, “Chân của anh là nhanh lành lắm phải không?”

“Ha, vậy cô ăn thịt bò bổ gì? Bò à?” Đồng nghiệp bông đùa.

Doãn Hy nhai thịt bò khô thơm phức, tự tin đáp: “Bổ thịt!”

“Đúng rồi, cánh tay cô bị thương nặng như vậy, tối nay tham gia hoạt động kiểu gì?”

Khi nghe nói hoạt động giải trí duy nhất bị cấm, Doãn Hy không màng đến vết thương trên tay, vội vàng khẳng định: “Tôi còn có tay phải mà, hoạt động bình thường!”

Ngay cả tiểu sư đệ cũng bị tinh thần “thân tàn nhưng chí không tàn” của cô cảm động, hứa sẽ giúp cô.

Lâm Hiến Hoa ăn xong mì, đang diễn tiết mục “hút điếu thuốc sau bữa cơm” không bao giờ thiếu, nghe xong thì cười nói: “Tối nay có tiếp tế, các cô cậu hoạt động, tôi phụ trách đợi người quen.”

Cả nhóm vui mừng reo hò: “Sếp vạn tuế!”



Chiếc xe nhỏ rung lắc trên con đường núi trùng điệp, trưởng thôn chỉ vào một nơi xa xa nói: “Chỗ đó chính là đội địa chất.”

Thật sự xa quá, xa hơn cả những ngọn núi xung quanh. Nhiếp Tung đẩy kính muốn nhìn rõ hơn, ngoài đèn xe, chỉ thấy một mảng đen mù mịt. Anh tháo kính, thở một hơi vào rồi dùng tay áo lau sạch, khi đeo lại vẫn không phân biệt được phương hướng.

Trưởng thôn thấy vậy, cười lớn: “Đừng vội, một lát là sẽ thấy thôi.”

“Sắp đến rồi ư?”

“Còn một giờ nữa.”

Nhiếp Tung lầm bầm: “Cái ‘một lát’ của chú chẳng giống cái ‘một lát’ của tôi gì cả.”

Trưởng thôn lại cười thêm một hồi, hỏi anh: “Cậu đi gặp vợ à?”

“Không, không phải…” Nhiếp Tung chỉnh lại kính, “Tôi đã nói rồi, tôi đi gặp đồng nghiệp…”

“Đồng nghiệp?” Trưởng thôn thẳng thắn vạch trần anh: “Không phải vừa cho tôi xem thẻ công tác rồi à? Cậu làm ở bảo tàng, sao lại có thể là đồng nghiệp với đội địa chất?”

Nhiếp Tung quên khuấy mất việc này, mồ hôi lạnh chảy đầy lưng.

“Tôi không đoán sai đâu, cậu đi gặp vợ mà đúng không?”

Giọng điệu chắc chắn của trưởng thôn khiến Nhiếp Tung càng thêm hoảng loạn, nhưng anh không biết giải thích thế nào, chỉ có thể cứng nhắc phủ nhận: “Không phải.”

“Không phải vợ, thì là bạn gái, còn đang yêu nhau phải không?”

Lại một lần nữa bị xác định, Nhiếp Tung cảm thấy muốn khóc. Biết trước sẽ phải chịu đựng cuộc thẩm vấn không ngừng của trưởng thôn, anh thà chết còn hơn sẽ lên chiếc xe tiếp tế này.

“Chẳng lẽ ngay cả bạn gái cũng chưa có?” Trưởng thôn nhíu mày, như gặp phải vấn đề chưa từng thấy, “Vậy tình huống của cậu là sao?”

Tình huống là sao nhỉ?

Nhiếp Tung cũng tự hỏi trong lòng.

Cả chuyến đi rung lắc đã khiến niềm vui khi tìm thấy bức tranh thục nữ trong anh bị lu mờ, nhưng anh vẫn rất muốn gặp Doãn Hy, rất muốn gặp, bất chấp ngày đêm vội vã.

“Chắc cậu thích cô gái trong đội địa chất rồi phải không?” Trưởng thôn không đợi câu trả lời của anh, chẳng hiểu sao lại thở dài, “Cô gái trong đội địa chất ấy…”

“Sao vậy?”

“Làm địa chất vất vả lắm, gió sương vất vả, trèo núi băng đèo, nhiều anh em còn không chịu nổi, huống chi là con gái, không dễ đâu.” Thấy anh không nói gì, trưởng thôn lại thở dài, “Cậu thích cô gái đó không đơn giản đâu!”

Chữ “thích” đánh sâu vào lòng Nhiếp Tung, giống như một bùa chú khiến anh bị đóng đinh tại chỗ.

Liệu anh có thích Doãn Hy không?

Cô gái với đôi lông mày mảnh mai và ánh mắt luôn mang ý cười, cô gái luôn trêu anh “ngốc nghếch”, cô gái cùng anh chiến đấu vì lý tưởng và dũng khí “dù có bao nhiêu người cũng không sợ”, anh không thích sao?

Không, anh thích chứ.

Anh thích từng câu đùa vô hại của cô, anh thích sự chuyên nghiệp nghiêm túc trong công việc của cô, anh thích mái tóc ngắn gọn gàng của cô, anh thích hình ảnh cô dựa vào vai anh ngủ say, anh thích từng đường cong của tóc cô mỗi lần rủ xuống, anh càng thích giọng điệu nhẹ nhàng của cô khi gọi anh là “thầy Tiểu Nhiếp”.

Nếu không phải thích, sao anh lại dung túng mỗi lần cô “đùa giỡn”? Nếu không phải thích, sao anh lại muốn tìm bằng được bức tranh quen thuộc đó? Nếu không phải thích, sao anh lại đến đây để gặp cô?

Vậy thì, đó chính là lý do anh muốn đến gần cô, muốn hiểu cô, chứ không phải để làm bạn, đơn giản là anh đã bị cô thu hút, anh rung động rồi.

Đúng vậy, anh thích Doãn Hy.

“Sao không nói gì nữa?”

Nhiếp Tung quay đầu lại, hân hoan: “Đang nghĩ về những gì anh nói.”

“Không đơn giản?”

“Không, cô ấy rất đơn giản.”

Nhiếp Tung nhìn về phía bóng tối vô tận bên ngoài cửa sổ, cuối cùng những ánh đèn lấp lánh ở xa dần dần hiện ra trong tầm mắt anh. Anh biết, đó là hướng của Doãn Hy, cũng là hướng trái tim anh.
 
Back
Top Bottom