Dịch Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên

Template Compilation Error

public:post_macros :: post_user_content() - Class "XF\BbCode\Renderer\ProxyRewriter" not found in /www/wwwroot/diendantruyen.com/src/XF/BbCode/Renderer/Html.php:790

Template Compilation Error

public:post_macros :: post_user_content() - Class "XF\BbCode\Renderer\ProxyRewriter" not found in /www/wwwroot/diendantruyen.com/src/XF/BbCode/Renderer/Html.php:790

Template Compilation Error

public:post_macros :: post_user_content() - Class "XF\BbCode\Renderer\ProxyRewriter" not found in /www/wwwroot/diendantruyen.com/src/XF/BbCode/Renderer/Html.php:790

Template Compilation Error

public:post_macros :: post_user_content() - Class "XF\BbCode\Renderer\ProxyRewriter" not found in /www/wwwroot/diendantruyen.com/src/XF/BbCode/Renderer/Html.php:790
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 4: Chương 4



Khi phương hướng đã rõ ràng, Doãn Hy và Nhiếp Tung bắt đầu chia nhau hành động. Nhiếp Tung từng làm luận văn về sắc tố khoáng vật từ thời đại học, chỉ cần chỉnh lý lại một chút đã gửi cho Doãn Hy bảng đối chiếu sắc tố và khoáng vật.

Doãn Hy đang bắt đầu phân tích khoáng vật cùng loại từ phân loại và thành phần của quặng, vậy anh ấy có thể bắt đầu từ sắc tố không nhỉ? Vừa nghĩ đến đó, Nhiếp Tung đã ngồi đờ đẫn trên ghế sofa.

“Nhiếp Tung, đang nghĩ gì vậy? Ông nội gọi con đấy!” Giọng mẹ anh cắt ngang dòng suy nghĩ.

Khi Nhiếp Tung rót thêm trà nóng vào chén của ông nội, anh nghe thấy ông hỏi: “Dạo này cháu đang bận gì thế?”

Nhiếp Tung cung kính đưa chén trà tới tay ông, nghiêm túc trả lời: “Dạo gần đây cháu đang phục chế một cuốn họa tập trên lụa.”

“Nghe nói viện bảo tàng gần đây đang hợp tác với Viện Nghiên cứu Địa chất?” Dù đã ở tuổi dưỡng già, ông Nhiếp Phàm Chu vẫn quan tâm đến sự phát triển của viện bảo tàng.

“Dạ đúng, cháu cũng đang hợp tác với họ một đề tài.”

“Làm gì thế?”

“Sắc tố khoáng vật.”

Ông gật gù, tiện thể nhắc: “Có vấn đề gì thì có thể hỏi bác Bàng.”

“Bác Bàng?” Nhiếp Tung đập nhẹ đầu, “Sao cháu không nghĩ ra nhỉ! Cảm ơn ông nội!”

Nếu muốn nghiên cứu nguồn gốc khoáng vật từ sắc tố khoáng, thì Bàng Niên Húc – người mà từ nhỏ Nhiếp Tung vẫn gọi là “bác Bàng” – chính là lựa chọn hoàn hảo.

Nhắc đến “Gia tộc Bàng ở Tô Châu”, giới chuyên môn ai cũng biết đó là một trong những gia tộc nổi tiếng toàn quốc về chế tác sắc tố quốc họa. Bàng Niên Húc – người đứng đầu hiện tại, là truyền nhân đời thứ ba của kỹ nghệ chế tác sắc tố quốc họa của gia tộc. Nhà họ Bàng và nhà họ Nhiếp vốn có quan hệ giao hảo nhiều đời, bản thân ông Bàng và cha của Nhiếp Tung, Nhiếp Văn Viễn, lại càng thân thiết.

Bố anh gõ nhẹ tay vịn ghế gỗ đỏ, nói như không: “Tốt nhất con nên đi Tô Châu một chuyến. Loại sắc tố nào dùng nguyên liệu gì, nhiều cái là kỹ nghệ độc môn của nhà Bàng, nói qua điện thoại không rõ đâu. Để bác Bàng cho con tận mắt chứng kiến thì hơn.”

Lời đề nghị của bố khiến Nhiếp Tung chú trọng hẳn lên. Việc không nên chậm trễ, anh lập tức gửi đơn xin công tác cho tổ trưởng Trương ngay trong đêm. Tới khi nằm lên giường, sự phấn khích vẫn chưa giảm, anh lấy điện thoại nhắn WeChat cho Doãn Hy.

Chẳng bao lâu, Doãn Hy đã hồi âm. Nhiếp Tung bật dậy như cá chép nhảy, kìm nén giọng hô lên vài tiếng. Chữ “Yeah” tượng trưng cho chiến thắng vang lên từ trong chăn, tuy nhỏ nhưng vô cùng mãnh liệt.

Tin nhắn của Doãn Hy là: “Tôi cũng đi.”

Cuối cùng, cả hai bay cùng chuyến đến Vô Tích. Con trai út của Bàng Niên Húc ra sân bay đón họ, rồi lái xe từ Vô Tích trở về Tô Châu. Trên đường đi, Doãn Hy và Nhiếp Tung mới biết, Bàng Niên Húc vừa nhận được tin có một loại nguyên liệu mới nên đã lập tức đến vùng núi Quý Châu.

“Xin lỗi nhé, để cô phải đi một chuyến công cốc.” Nhiếp Tung áy náy nói.

Doãn Hy cười: “Anh không cần xin lỗi.”

Khi cô quay đầu nhìn ra cửa sổ lần nữa, Tiểu Bàng trong buồng lái nhìn Nhiếp Tung qua gương chiếu hậu, bị Nhiếp Tung trừng mắt liền ngoảnh lại.

“Dọc đường này, cửa hàng bán sắc tố quốc họa và xưởng chế tạo cũng nhiều ghê!” Doãn Hy gõ vào lưng ghế trước, hỏi Tiểu Bàngm “Sao Tô Châu lại có nhiều người bán và xưởng sản xuất như vậy? Mỗi nhà đều có khách hàng riêng à?”

“Tô Châu là nơi đầu tiên được ghi chép trong lịch sử Trung Quốc chuyên sản xuất và bán sắc tố quốc họa. Từ cuối Minh đầu Thanh đến nay đã hơn ba trăm năm lịch sử rồi. Tuy nhìn thì có vẻ vẫn vậy, nhưng thực ra những người còn làm sắc tố truyền thống ngày nay thì hiếm lắm.” Khi nói về thị trường sắc tố quốc họa từng rực rỡ một thời, giọng điệu Tiểu Bàng tràn đầy tự hào, nhưng khi nhắc tới tình trạng hiện nay, lại không khỏi thở dài tiếc nuối.

Xe chầm chậm rời khỏi trung tâm Tô Châu, xưởng chế tác sắc tố của nhà họ Bàng ở thị trấn ngoại thành dần hiện ra trước mắt. Một khu sân nhỏ hơn tưởng tượng, vậy mà lại được phân khu rõ ràng thành khu sinh hoạt và khu làm việc. Doãn Hy và Nhiếp Tung được sắp xếp nghỉ ở phòng khách tầng hai khu sinh hoạt.

Phòng khách thông ra ban công nhỏ, đứng ở đó có thể nhìn bao quát cả sân. Cây xanh um tùm, điểm xuyết hoa đỏ, một dãy đèn sáng phản chiếu ánh trăng, giữa khung cảnh núi non hữu tình có cảm giác như tiên cảnh chốn trần gian.

Nhiếp Tung gõ cửa, báo cô xuống ăn cơm khi đã sắp xếp xong. Doãn Hy tiện tay cầm áo khoác chuẩn bị xuống.

Bất ngờ, trước mắt tối sầm, cả căn nhà lẫn sân rơi vào bóng tối vô tận.

“Mất điện rồi, cô đừng di chuyển, để tôi đi xem sao.” Nói rồi, Nhiếp Tung mò mẫm xuống lầu.

Doãn Hy lấy điện thoại bật đèn pin, quay lại phòng. Trong túi cô có pin sạc dự phòng và đèn ngủ USB nhỏ, đủ dùng tạm thời.

Cô lục túi mấy lượt mà vẫn không thấy đèn ngủ, liền lấy hết đồ cá nhân ra trải lên giường.

Xung quanh tĩnh mịch, tối đen như mực, chỉ có ánh sáng từ điện thoại. Đột nhiên, có cái gì đó phủ lên lưng cô.

Phản xạ nhanh như chớp, Doãn Hy quay người tung một cú đấm. Chỉ nghe thấy một tiếng rên đau, rồi giọng Nhiếp Tung vang lên: “Tiến sĩ Doãn…”

“Thầy Tiểu Nhiếp?” Doãn Hy theo ánh sáng nhìn thấy Nhiếp Tung đang dựa vào tường, tay ôm vai trái, dở khóc dở cười, “Anh đi đứng không có tiếng gì vậy?”

Nhiếp Tung xoa vai, đứng thẳng dậy: “Tôi sợ làm cô giật mình.”

“Anh…” Doãn Hy thật sự không biết nên nói gì, cuối cùng là ai dọa ai chứ?

“Anh Tung, mau để lộ vai ra, không thì sao em xoa thuốc được!” Tiểu Bàng cầm dầu xoa bóp, thúc giục Nhiếp Tung cởi áo.

Doãn Hy thấy anh chậm rãi cởi áo khoác, liền dời cây đèn nến lại gần, nửa cười nửa nghiêm: “Thầy Tiểu Nhiếp, nếu anh sợ Tiểu Bàng mạnh tay, hay là để tôi giúp anh xoa thuốc nhé?”

Nghe vậy, Nhiếp Tung lập tức khựng lại, vội vàng quay mặt đi: “Không cần đâu! Không cần đâu! Tiểu Bàng, cậu làm nhanh lên đi!”

Trong ánh nến, Doãn Hy liếc nhìn tai anh, ánh sáng mờ mịt không rõ màu sắc. Cô cụp mắt, mất hết hứng thú, tập trung vào cái đùi gà trong đĩa.

Tiểu Bàng thấy hiếm khi Nhiếp Tung bị một cô gái trêu chọc, liền cười nói: “Chị Doãn, chị học võ tự vệ nữ giới à? Cú đấm đó mạnh thật đấy!”

“Đã từng học quyền anh.”

“Quyền anh?” Tiểu Bàng có chút bất ngờ.

Nhiếp Tung quay mặt lại, anh cũng ngạc nhiên giống Tiểu Bàng, thậm chí còn tò mò hơn. Anh chỉnh lại quần áo bằng cách nhún vai một cách nhanh chóng, rất muốn biết tại sao cô lại học quyền anh.

May mà có Tiểu Bàng hỏi thay anh: “Con gái chẳng phải đều thích khiêu vũ, yoga sao? Ít ai thích quyền anh lắm nhỉ?”

Doãn Hy vứt đôi đũa trong tay, cầm đùi gà lên gặm, nhìn hai người đàn ông – không, là hai cậu trai to xác đang ngơ ngác trước mặt. Cô nhún vai thản nhiên: “Không thể yêu cầu một ‘chó địa chất’ lúc nào cũng phải dịu dàng tao nhã như tiểu thư được. Thực tế là, tôi thường đầu tóc rối bù, mặt mũi lấm lem, hiếm khi được như hôm nay, ngồi nghiêm túc đàng hoàng, ăn tối dưới ánh nến với hai cậu trai to xác như các anh. Hơn nữa…” Cô ngừng lại một chút, ánh mắt lướt qua mặt Nhiếp Tung và Tiểu Bàng, “Với một người làm công tác địa chất ngoài thực địa, chẳng có gì quan trọng hơn việc sống sót.”

Giọng nói bình thản, nhẹ nhàng, như phong cách luôn thản nhiên như mây gió của cô. Đôi mắt cô ánh lên tia sáng, như ánh trăng dịu dàng trải khắp lòng Nhiếp Tung, trong vắt và rõ ràng.

“Vậy là chị học quyền anh để tự vệ khi đi thực địa à? Bảo sao lúc nãy phản ứng nhanh thế, đấm một cú hạ gục luôn anh Tung.” Sự tò mò của Tiểu Bàng hoàn toàn bị khơi dậy, hỏi liên tục: “Chị Doãn, mau kể em nghe, còn những chuyện thú vị nào khác khi đi thực địa nữa?”

Doãn Hy liếc nhìn cậu ta một cái, từ tốn trả lời: “Có chứ, nhiều lắm! Nếu đến những vùng núi hoang vu, điều kiện tồi tệ, không có một cọng cỏ, buổi tối chẳng ai dám uống nhiều nước vì không dám ra ngoài đi vệ sinh. Đêm thì phải đốt lửa xua sói, khi ngủ còn phải cầm dao trong tay, nếu xui xẻo gặp kẻ có ý đồ xấu thì chỉ có dao và nắm đấm mới cứu được mạng.”

Có lẽ bị dọa thật rồi, Tiểu Bàng há hốc miệng, mãi không nói được câu nào.

Doãn Hy lấy tờ giấy, vừa đếm vừa lau sạch dầu mỡ trên tay: “Còn muốn nghe gì nữa?”

“Chị Doãn, sao công việc của chị nghe đáng sợ thế?” Tiểu Bàng ôm chặt lấy Nhiếp Tung, nũng nịu cầu an ủi: “Anh Tung, công việc của anh vẫn tốt hơn, bình yên, an ổn.”

Doãn Hy nhìn cậu ta với bộ dạng ỉ ôi đáng ghét, không nhịn được trêu ghẹo: “Tất nhiên không phải lúc nào cũng nguy hiểm. Thỉnh thoảng tìm thấy một thanh socola trong balo, hay nhặt được bịch thịt khô ai làm rơi, cũng có thể vui cả ngày ấy chứ. Sao? Lần sau đi thực địa, chị dẫn cậu theo nhé?”

Cô nửa đùa nửa thật, mọi lời đáp đều dừng lại đúng lúc.

Nhiếp Tung không nói gì, trong ánh sáng lập lòe của ngọn lửa, anh nhìn cô. Như thể chỉ là một khoảnh khắc, mà cũng như đã đọng lại trong lòng từ lâu, hình ảnh Doãn Hy băng qua sa mạc, ngủ bên vách núi hiện lên rõ ràng không báo trước, khuôn mặt mang chút khí khái dưới ánh nến càng trở nên rõ nét.
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 5: Chương 5



Sáng hôm sau, Doãn Hy dậy rất sớm, cùng Tiểu Bàng đến xưởng xem quy trình chế tạo màu. Mấy học trò của Bàng Niên Húc đang chế tạo các loại màu cơ bản như hoa thanh, xích thổ, chu sa, thạch lục… (*) Các học trò dùng búa đập vụn những khối khoáng cứng, sau đó dùng chày đá giã nhuyễn trong cối đá, trong quá trình nghiền thì nhặt bỏ tạp chất và những phần không đều màu, rồi đổi sang dụng cụ mài là những khối đá treo thẳng để tiếp tục mài.

(*) Hoa thanh là tên gọi của màu xanh lam sẫm, hoặc xanh thiên thanh hơi tối, được tạo từ khoáng chất thiên nhiên, thường dùng để vẽ hoa, lá, trời, nước trong tranh thủy mặc hoặc sứ men xanh trắng. Xích thổ là màu của đất đỏ tự nhiên, thường thấy ở vùng bazan, rất hay dùng trong gốm, sơn, gạch cổ, tranh Đông Dương. Chu sa là một loại khoáng chất màu đỏ tươi – chính là chu sa thật, tên khoa học là thủy ngân sulfua (HgS), được nghiền nhỏ thành bột màu đỏ sẫm, dùng làm mực viết, thuốc, màu vẽ, và cả trang sức phong thủy. Thạch lục là tên gọi một loại màu khoáng chất làm từ đá đồng tự nhiên (như malachite) được nghiền mịn, có màu xanh lá sâu, đậm, được dùng phổ biến trong tranh thủy mặc, tranh lụa cổ.

“Một khối khoáng cần mài bao lâu?” Doãn Hy chăm chú nhìn vào những khoáng đá nhỏ trong cối đá, cẩn thận quan sát từng khối.

“Để biến một khối khoáng cứng rắn thành bột mịn, cần phải mài đi mài lại nhiều lần, thường mất hơn hai mươi ngày.” Tiểu Bàng chỉ vào một học trò đang làm việc, nói: “Như thế này, một tay giữ, một tay xoay chày đá trong cối, mài đi mài lại.”

Tiếng khoáng lớn va vào bát sứ sắc nhọn đến chói tai, Tiểu Bàng bịt tai đi ra cửa, còn Doãn Hy ngồi xổm trước ghế dài, hứng thú nhìn những khối đá nhỏ dưới tác động của nước và dụng cụ mài dần trở nên mịn, sánh đặc, chậm rãi biến thành màu sắc tinh tế.

“Ngày nay, việc chế biến khoáng đã hoàn toàn cơ giới hóa, hiếm khi thấy cảnh thủ công thế này.” Doãn Hy càng nhìn càng thấy thú vị, “Tiểu Bàng, chị có thể ở nhà cậu thêm vài ngày được không?”

“Được chứ chị Doãn, hiếm khi chị thích. Tiếc là bố em đi tìm mỏ rồi, không thì ông ấy chắc mừng lắm.”

Doãn Hy chống cằm, nghiêm túc hỏi cậu học trò trước mặt: “Thầy nhỏ ơi, chỉ cần có màu cơ bản là có thể pha ra mọi màu sắc đúng không?”

Cậu học trò cười với cô qua chiếc khẩu trang, rồi nhận ra cô không thấy, liền gật đầu: “Gần như vậy.”

“Vậy nếu có thể pha ra mọi màu, tại sao vẫn phải vất vả tìm khoáng làm màu truyền thống? Nguyên liệu mới đa dạng, màu làm ra chắc chắn còn phong phú hơn truyền thống chứ?”

“Cái này… cái này…” Cậu học trò bị hỏi bí, không trả lời được.

“Việc phục chế di vật chủ yếu là phục chế bảo tồn, màu sắc làm từ nguyên liệu mới là màu khoáng hiện đại, mãi mãi không thể so sánh với màu truyền thống. Dùng màu quốc họa truyền thống mới có thể thực hiện đúng nghĩa ‘phục cổ như cũ’, bảo vệ di vật.” Không biết từ khi nào, Nhiếp Tung đã đứng phía sau cô.

Trong lòng Doãn Hy có quá nhiều thắc mắc, liền hỏi hết một lượt: “Nghe nói hiện nay ngày càng ít người chế màu quốc họa, người muốn học cũng ít. Nếu phần mài màu cứ lặp đi lặp lại như thế, sao không dùng máy móc để giảm bớt sức người?”

“Cô thấy chỉ là một phần. Sau khi nghiền xong còn phải qua các công đoạn rửa, lọc màu. Bột màu sau khi nghiền sẽ được rửa bằng nước sạch để loại bỏ tạp chất, sau đó lắng đọng, rồi phân loại phần nổi và phần lắng, đem sấy khô sẽ cho ra màu đầu tiên. Quá trình rửa, lắng, lấy màu, sấy khô lặp đi lặp lại, mới phân ra được bốn cấp độ màu từ đậm đến nhạt. Những việc tỉ mỉ này, máy móc không làm được.”

Nghe Nhiếp Tung giải thích, Doãn Hy không khỏi cảm thán: “Khoáng vật nằm sâu dưới lòng đất hàng triệu năm, hành trình từ khoáng đến màu cũng giống như quá trình hình thành của nó, đều cần sự nhẫn nại và chờ đợi dài lâu.”

“Từ lòng đất đến giấy, khoáng cứng rắn biến thành lông ngực chim hoàng oanh, lá cây chuyển vàng đầu thu, mặt trời đỏ rực nhô khỏi đường chân trời.” Ánh mắt Nhiếp Tung xuyên qua mắt kính dừng lại trên mái tóc ngắn gọn gàng của Doãn Hy, giọng anh dịu dàng nhưng kiên định: “Sự nhẫn nại và chờ đợi ấy là xứng đáng.”

Tâm khẩu của Doãn Hy khẽ động, cô quay đầu lại, đúng lúc bắt gặp ánh mắt của anh.

Cảnh nhìn nhau như trong phim thần tượng chỉ kéo dài không quá hai giây, Doãn Hy liền cảm thấy bắp chân tê dại, cô cố gắng đứng dậy nhưng ngay giây sau đã bị cơn tê nhức như hàng triệu con côn trùng gặm nhấm cùng cảm giác chóng mặt đánh úp, cả người lảo đảo ngã vào người Nhiếp Tung.

Bị đụng bất ngờ, Nhiếp Tung không kịp phản ứng, theo bản năng đưa tay đỡ lấy cô, vội vàng giúp cô ngồi xuống. Anh không có bất kỳ hành động vượt quá giới hạn nào, vẻ mặt chính trực hoàn toàn khác với ánh mắt chân thành, tr*n tr** ban nãy.

Doãn Hy cảm thấy rối bời, thuận miệng nói: “Tôi muốn uống nước” để đuổi người đi. Ngồi thêm một lúc, khi hồi phục lại thì cô bước vào căn phòng bên cạnh – nơi lưu trữ các mẫu phẩm màu hoàn chỉnh, Tiểu Bàng đang kiểm kê danh sách mẫu.

“Sau khi tốt nghiệp đại học, cậu sẽ kế thừa tay nghề của bố mình chứ?”

Tiểu Bàng ngẩn người, rồi mỉm cười: “Chưa chắc đâu.”

Doãn Hy nhìn cậu một cái, gật đầu hiểu ý.

Tiểu Bàng cười tự giễu: “Học nghề là một công việc cực nhọc, phải không sợ khổ, không sợ mệt, còn phải chịu được cô đơn, chuyên tâm nghiên cứu kỹ thuật. Chị Doãn à, nói thật lòng, vừa không kiếm được tiền lại vừa vất vả, giờ có mấy người trẻ chịu học nữa đâu?”

“Thế nhưng trong phòng vẫn có mấy người học việc mà?”

“Chị biết đây là lứa học trò thứ mấy mà bố em nhận không? Mỗi lần đều đầy mong đợi mà dạy dỗ, cuối cùng chẳng giữ được đến hai người.”

Doãn Hy biết việc truyền thừa thủ công mỹ nghệ rất khó, nhưng không ngờ kỹ nghệ hội họa truyền thống quốc họa lại đang đứng bên bờ tuyệt diệt.

“Nếu không phải anh trai em quyết liệt đi theo con đường riêng, dùng lợi nhuận từ việc kinh doanh khác để duy trì hoạt động hằng ngày của xưởng, thì có khi nhà em đã không trụ nổi đến giờ.” Nói đến đây, Tiểu Bàng thở dài không ngớt, “Chị Doãn, chị hỏi em có quay về hay không, em cũng không biết.”

Doãn Hy im lặng, lấy điện thoại tra giá thị trường của nguyên liệu màu hiện tại. Trên Taobao, một hộp màu tổng hợp hóa học 24 tuýp chỉ bán hơn hai mươi tệ, còn bộ màu 21 sắc của nhà họ Bàng, mỗi màu chỉ 3 gram mà giá đã hơn năm trăm tệ.

“Đúng vậy, nguyên liệu ngày càng khan hiếm, chi phí nhân công ngày càng cao, giá thành cũng ngày càng đắt, trên thị trường hiện tại cạnh tranh rất yếu, chẳng qua chưa sụp đổ hoàn toàn là nhờ vào sự kiên trì của những người yêu thích hội họa truyền thống.” Doãn Hy bị tâm trạng u uất của Tiểu Bàng lây lan, cũng trở nên trầm mặc.

Khi Nhiếp Tung bước vào với chai nước khoáng trên tay, rõ ràng cảm nhận được bầu không khí nặng nề trong phòng.

“Có chuyện gì vậy?” Anh đưa nước cho Doãn Hy, hỏi.

Tiểu Bàng lắc đầu, tiếp tục kiểm kê kho màu.

Còn Doãn Hy thì như bị một bàn tay vô hình siết lấy tim, cô ngẩng đầu uống một ngụm nước, nhẹ giọng hỏi anh: “Nhiếp Tung, liệu có ngày truyền thống màu quốc họa sẽ biến mất không?”

Nhiếp Tung sững người.

Làm nghiên cứu địa chất lâu năm, Doãn Hy xưa nay luôn lý trí và khách quan. Trong mắt Nhiếp Tung, cô là kiểu người đề cao chứng cứ khoa học, nhưng giờ đây lại nhíu mày hỏi anh một câu đầy cảm tính. Cô không còn dáng vẻ cương quyết như thường ngày, mà dịu dàng hơn, gọi tên anh không còn là “Thầy Nhiếp” khách sáo, hay “thầy Tiểu Nhiếp” bông đùa, mà là Nhiếp Tung.

“Không đâu.”

Hai chữ bình thản, kiên định kéo Doãn Hy trở lại thực tại. Cô lại khôi phục vẻ nghịch ngợm thường ngày, như thể khoảnh khắc vừa rồi chỉ là ảo giác của người khác. Cô cười tít mắt: “Tôi thu lại câu hỏi khi nãy, nguyên liệu rồi cũng sẽ biến mất thôi. Dựa theo tình hình hiện tại của khoáng vật, đã cực kỳ khan hiếm rồi, đúng không, thầy Tiểu Nhiếp?”

Lại là “thầy Tiểu Nhiếp”…

Nhiếp Tung nhíu mày, định giải thích, nhưng như có gì đó nghẹn nơi cổ họng. Trong chốc lát, bầu không khí trở nên lúng túng và lạnh lẽo chưa từng thấy.

Tiểu Bàng liếc nhìn Doãn Hy, lại quay sang nhìn Nhiếp Tung, vội vàng hòa giải: “Đúng vậy. Bố em vì muốn tìm được nguyên liệu tốt đã từng đi qua bao tỉnh vùng sâu vùng xa như Vân Nam, Quý Châu, Cam Túc, Hồ Nam, Phúc Kiến, Giang Tây… Những nguyên liệu quý đó làm ra được chút màu tốt, chỉ đủ để cung cấp cho các viện bảo tàng phục chế và phục hồi tranh cổ.”

Doãn Hy biết, nguyên liệu màu trong quốc họa truyền thống không chỉ có nguồn gốc khoáng vật mà còn từ động, thực vật, nên cũng không hẳn là đường cùng. Cô nói nhẹ nhàng: “Nguyên liệu động thực vật có lẽ vẫn còn khả quan, dù sao thì cũng không giống khoáng vật phải trải qua hàng triệu năm hình thành trong tự nhiên, thu hoạch chút là có thêm.”

“Có thể vậy.” Tiểu Bàng không khẳng định, “Em không hiểu lắm, chỉ nghe bố nói chuyện lải nhải mà nhớ được chút. Anh Tung, anh hiểu rõ hơn, nói cho chị Doãn nghe đi.”

Nhiếp Tung liếc nhìn Doãn Hy, cô nghiêng đầu chờ câu trả lời, dáng vẻ chẳng khác nào học trò ngoan. Anh không nỡ để cô tiếp tục buồn, liền từ tốn giải thích: “Làm màu yên chi, màu đỏ Tây phương cần tổ kén của loài sâu tím, mà nhất định phải là loài sâu sống trong rừng nguyên sinh. Nhưng thu tổ thì phá cây, hiện giờ gần như không còn nữa. Còn một nguyên liệu thực vật rất quan trọng nữa là cỏ chàm, dùng để làm màu thanh hoa. Loại này phải gieo vào tháng 11, thu hoạch vào Tết Đoan Ngọ năm sau, chiếm dụng ruộng rẫy suốt nửa năm nên giờ nông dân cũng không mặn mà trồng nữa.” Những khó khăn của nguyên liệu truyền thống không thể nói hết trong đôi ba câu, nhưng anh vẫn cảm thấy không cần quá bi quan, “Nhưng tôi vẫn muốn nói, màu quốc họa truyền thống sẽ không biến mất. Đây chính là lý do chúng ta đến đây, cũng là mục tiêu hợp tác của chúng ta, đúng không, tiến sĩ Doãn?”

Đây là lĩnh vực anh quen thuộc, cũng là ngành nghề anh quan tâm. Giây phút này, con người nghiêm túc pha chút ngại ngùng ấy không còn nữa, anh không còn đỏ mặt, không còn dáng vẻ ngốc nghếch thường ngày. Ánh mắt kiên định nhìn thẳng vào Doãn Hy, dường như đang chờ câu trả lời, nhưng thực ra anh đã biết đáp án.

Bởi vì anh tin, dù có hàng ngàn vạn người ngăn cản, cô cũng sẽ không chùn bước.
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 6: Chương 6



Đã ba ngày trôi qua kể từ khi ở lại nhà họ Bàng, tin tức mà Bàng Niên Húc gửi về vẫn chỉ là “chưa biết khi nào trở về”, nên Doãn Hy và Nhiếp Tung chuẩn bị quay lại Diêu Thành. Trước khi đi, Nhiếp Tung nhiều lần xác nhận với cô: “Thật sự không muốn hỏi bác Bàng thường tìm khoáng sản ở đâu à?”

Doãn Hy cân nhắc trọng lượng ba lô du lịch, lắc đầu: “Không hỏi, đây là bí mật gia tộc.”

Tiểu Bàng không nói gì, chỉ mím môi cười.

Nhiếp Tung liếc nhìn cậu ta một cái, gật đầu ra hiệu.

Tiểu Bàng lập tức hiểu ý, lúc này mới lên tiếng: “Cũng không phải là bí mật gì to tát, chỉ là vài khu vực đại khái, hầu hết những người làm nghề tìm khoáng đều biết. Chị Doãn là người chuyên nghiệp, em cũng không giấu được đâu. Chẳng qua là bọn em quen biết với vài người khai thác ở các mỏ nhỏ, nếu có nguyên liệu phù hợp thì sẽ báo tin lại.”

Cuối cùng, Tiểu Bàng tiết lộ cho Doãn Hy một vài vị trí mỏ khoáng, để cô về làm phân tích khu vực.

Chuyến về vẫn là cùng một chuyến bay. Vì vé bị bán quá số lượng, cả hai được nâng cấp miễn phí lên hạng nhất. Ghế ngồi cạnh nhau, Doãn Hy ngồi sát cửa sổ, Nhiếp Tung ngồi gần lối đi.

Doãn Hy không buồn ngủ, sau khi đọc xong hai cuốn tạp chí hàng không, buồn chán đến mức chỉ có thể nhắm mắt nghỉ ngơi. Nhiếp Tung tưởng cô đã ngủ, lật báo cực kỳ nhẹ nhàng, thậm chí cả dịch vụ ăn uống trên khoang cũng thay cô nhận giúp, sắp xếp ngăn nắp trên bàn nhỏ.

Doãn Hy lặng lẽ hé mở mắt, thấy Nhiếp Tung vừa nhìn cô vừa cẩn thận uống nước, sợ làm cô tỉnh giấc. Cô mím môi, nén nửa nụ cười, nhưng trong lòng lại xôn xao không yên. Cô quyết định liều một phen, nhắm mắt lại, đầu nghiêng về phía vai của Nhiếp Tung.

Quả nhiên, Nhiếp Tung cứng đờ cả người, không dám nhúc nhích.

Đã diễn thì phải diễn cho trọn vai, Doãn Hy thả lỏng cơ thể, để đầu mình trượt dần theo độ cong của vai anh. Sắp sửa rơi xuống, nhưng vào đúng giây cuối cùng lại được bàn tay Nhiếp Tung đỡ lấy. Sau khi chỉnh lại vị trí cho cô, tay anh rút về. Doãn Hy lại nhẹ nhàng trượt đầu về phía trước lần nữa, lại bị anh đỡ lại. Cứ thế vài lần, cuối cùng Nhiếp Tung đành di chuyển đầu cô vào hõm vai mình để cố định.

Nhưng, Doãn Hy sao có thể dễ dàng buông tha cho anh như vậy. Cô nhíu mày, xoay đầu qua lại tìm vị trí thoải mái, cuối cùng lại trở về chỗ dễ trượt lúc nãy. Nhiếp Tung lại căng thẳng, vội dùng tay đỡ lấy đầu cô, cẩn thận giữ lấy trán.

Hơi thở của người đàn ông trẻ ở ngay trước mũi, hơi ấm từ lòng bàn tay truyền tới da trán cô. Cô mở mắt, hàng mi dài nhẹ rung động.

Nhiếp Tung cảm thấy có động tĩnh, mở tay ra xem, liền bắt gặp ánh mắt mềm mại như nước. Anh hoảng hốt quay đi, nhưng vành tai đã đỏ ửng.

Việc này còn thú vị hơn cô tưởng. Doãn Hy không chần chừ, ghé sát tai anh, khẽ hỏi: “Anh có ý với tôi đúng không? Muốn theo đuổi tôi à?”

Nhiếp Tung lập tức lắc đầu, vành tai đỏ bừng, không dám nhìn cô, chỉ khẽ đáp: “Không phải muốn theo đuổi, chỉ là muốn làm bạn thôi.”

Doãn Hy nhướng mày: “Thầy Tiểu Nhiếp à, chính anh có tin vào lời mình nói không?”

Nhiếp Tung không dám ngẩng đầu, gật mạnh: “Chỉ là muốn làm bạn.”

“Cơ mà làm sao đây? Tôi không làm bạn với người không quen.”

“Tôi… đang làm quen.”

“Thế đã quen đến mức nào rồi? Anh hiểu tôi chưa?”

“Đang cố gắng hiểu.”

“Hơ ——” Doãn Hy không nhịn được bật cười, mắng yêu: “Đồ mọt sách!”

Nghe tiếng cười, Nhiếp Tung cuối cùng cũng dám nhìn cô. Cô đang cười, chân mày hơi nhíu, ánh mắt bất lực như thể không thể làm gì được với anh, từng cử chỉ, từng nụ cười ấy khiến cảm giác quen thuộc mà anh luôn canh cánh trong lòng ngày càng rõ rệt.

Anh định nói lại thôi, cuối cùng cũng lấy hết dũng khí để thẳng thắn: “Tiến sĩ Doãn, nếu chúng ta chưa từng gặp nhau trước đây, thì tôi dám chắc cô rất giống một người trong bức tranh cổ mà tôi từng tu sửa.”

Anh nhắc lại chuyện cũ, Doãn Hy dường như cũng có hứng thú: “Vậy à? Bức nào? Giống ai?”

“Tôi đảm bảo là có bức tranh ấy.” Có lẽ sợ cô không tin, Nhiếp Tung đẩy kính, kể cả chuyện lúc nhỏ cũng không giấu: “Tôi từ nhỏ đã theo ông nội và bố học tu sửa tranh, lớn lên giữa những bức họa và sách cổ, đã xem và sửa rất nhiều tranh cổ, nhất thời thật sự không nhớ được là bức nào. Nhưng tôi hy vọng được làm bạn với cô, để có thời gian làm quen cô hơn, cũng để xác định rõ là bức tranh nào, người nào trong đó. Được không?”

Doãn Hy không nói là tốt hay không tốt, chỉ khẽ bĩu môi một cái, quay đầu sang chỗ khác.

Sau khi máy bay hạ cánh ở Dao Thành, Doãn Hy không còn liên lạc gì với Nhiếp Tung nữa, mọi hợp tác và báo cáo thí nghiệm đều được Trương Trì chuyển giao.

Sau nhiều lần như vậy, Trương Trì cuối cùng cũng nhận ra điều gì đó bất thường: “Em với thầy Nhiếp cãi nhau ở Tô Châu à?”

Bị nhắc đến người đó một cách bất ngờ, Doãn Hy rời mắt khỏi kính hiển vi, liếc nhìn Trương Trì một cái, lạnh lùng nói: “Không.”

Trương Trì không hề bị ánh mắt lạnh lùng của cô dọa sợ, tiếp tục hỏi: “Thế sao hai người không liên lạc gì nữa vậy?”

“Không có chuyện thì liên lạc làm gì?”

“Nói về đề tài hợp tác, chẳng lẽ hai người không cần chút va chạm tạo ra tia lửa sáng tạo sao?” Trương Trì còn giơ tay minh họa động tác “tia lửa b*n r*”.

Doãn Hy lườm anh ta một cái: “Nói chuyện với cái đồ ngốc ấy thì được gì chứ!”

Nghe đến đó, mắt Trương Trì sáng lên: “Ô hô, để tôi phân tích câu này nhé. Ý của sư muội là thầy Nhiếp ngốc nghếch thô kệch nên không thể hợp tác được, hay là nói cái đầu ngốc của thầy Nhiếp không hiểu được tâm tư của em?”

“Có khác biệt à?”

“Dĩ nhiên là có. Trường hợp đầu là vì công việc, trường hợp sau là vì tình cảm. Vậy rốt cuộc là cái nào?” Nói xong, Trương Trì còn nhướng mày đầy ẩn ý.

Doãn Hy lười để ý đến anh ta, lại cúi đầu tiếp tục quan sát mẫu dưới kính hiển vi.

“Nhưng mà tôi vẫn muốn nhắc em một câu, sư muội à. Viện nghiên cứu của chúng ta nhiều anh chàng độc thân thế cơ mà, có thể đừng tiêu hao tài nguyên ra bên ngoài được không?”

Doãn Hy chẳng thèm ngẩng đầu, tiện tay túm lấy một xấp giấy bỏ trên bàn ném qua, Trương Trì hét lên một tiếng, cuối cùng cũng chịu yên lặng.

Lúc này, người được nhắc đến – thầy Nhiếp – cuối cùng cũng hoàn thành xong công việc phục chế bị trì hoãn nhiều ngày. Vừa bước vào nhà đã thấy trong phòng khách có khách.

“Chú Tư và Dao Dao đến rồi ạ.” Anh chào hỏi, rồi tìm chỗ ngồi xuống tiếp khách.

“Tiểu Tung tan làm rồi à.” Chú Tư gọi anh lại gần, chỉ vào một chồng tranh trên bàn trà, cười nói: “Đây là mấy bức Dao Dao mới vẽ gần đây, cháu xem thử xem, có gì cần góp ý thì chỉ bảo nó nhé.”

“Bố à, có ai lại dìm con gái mình như bố không?” Tư Dao nhăn mũi, giả vờ trách móc.

Bố Nhiếp đã xem qua rồi, không tiếc lời khen ngợi: “Đối với người làm sao chép tranh thì việc tích lũy theo thời gian là rất quan trọng. Xem ra Dao Dao đã bỏ ra không ít công sức.”

Nhiếp Tung cẩn thận nhặt từng bức tranh lên xem, lật từng trang một cách nghiêm túc.

Chú Tư làm việc tại Tổ phục chế tranh thư pháp của Trung tâm nghiên cứu bảo tồn văn vật trong viện bảo tàng. Dao Dao vừa là con gái, vừa là đồ đệ của ông. Hai bố con với tư cách là những người sao chép tranh thư pháp, dùng phương pháp thủ công để bảo tồn các tác phẩm quý từ các triều đại xưa, trong thời đại trước khi sao chép cơ học trở nên phổ biến.

Nhiếp Tung hơn Tư Dao vài tuổi, từ nhỏ đã đối xử với cô ấy như anh trai nghiêm khắc. Anh quan sát kỹ nét bút, đường nét và cách phối màu trong tranh, dù vẫn còn chút non nớt, nhưng đã có phong cách của danh gia. Anh vừa lật tranh, vừa nở nụ cười: “Tranh của Dao Dao tiến bộ rõ rệt.”

“Cảm ơn chú Nhiếp và anh Tung đã khen.” Tư Dao rất vui khi được khen ngợi, hớn hở khoe với bố: “Con gái bố giỏi quá đúng không!”

Bố Nhiếp nghe vậy cười nói: “Lão Tư à, chúng ta đã có người kế thừa rồi.”

“Sao chép tranh thư pháp là truyền thống lâu đời. Hậu thế sao chép tiền triều, đương đại sao chép danh tác, điều này đã có từ xưa. Nếu một ngày nào đó bản sao của con trở thành cổ vật quý giá, thì dù chết tôi cũng mãn nguyện.” Dù đã được bố con nhà họ Nhiếp khen ngợi, bố Tư vẫn đặt kỳ vọng cao hơn.

Tư Dao không vui, phụng phịu nói: “Bố, bố có thể tự khen mình một chút không?”

“Nếu ông cụ nhà này không đi thăm bạn cũ, chắc chắn sẽ khen tranh của Dao Dao.” Bố Nhiếp gọi vợ đang bước tới: “Bà nói đúng không?”

“Đúng quá rồi!” Mẹ Nhiếp bê đĩa trái cây đến, đưa cho Tư Dao một miếng táo, cười nói: “Dao Dao của chúng ta thông minh từ bé, học gì cũng nhanh, lại có tính cách tốt. Đâu có giống như thằng con nhà tôi, đúng là cục gạch!”

“Tiểu Tung chăm chỉ, chịu khó, bây giờ hiếm có người trẻ nào được như nó đấy!” Không ngờ người lên tiếng đầu tiên lại chính là bố Tư, ông nhìn Nhiếp Tung lớn lên, sao có thể không hiểu tính nết nó chứ.

Mẹ Nhiếp nghe thấy bố Tư khen ngợi con trai mình thì vui như hoa nở, nhưng ngoài miệng lại cứ chê bai con trai mình, khen ngợi con gái nhà người khác: “Tiểu Tung cả ngày chỉ biết vùi đầu vào công việc, làm gì được như Dao Dao hiểu chuyện lại biết quan tâm chứ. Tôi đã sớm nói rồi, nếu tôi có một cô con gái như Dao Dao thì chắc tôi đã được hưởng phúc lâu rồi.”

“Thế hay là hai nhà mình đổi con đi, cho tôi Nhiếp Tung nhé?” Bố Tư bông đùa một câu, cả căn phòng liền bật cười rôm rả.

Không ai để ý rằng Nhiếp Tung đang cầm một bản vẽ chưa hoàn thành mà ngây người.

“Trời ơi! Bức này em vẫn chưa vẽ xong mà, sao lại bị lẫn vào đây được!” Tư Dao vội vàng giật lấy từ tay Nhiếp Tung, “Anh Tung, anh cầm nhầm rồi.”

Một lúc sau, Nhiếp Tung vẫn chưa kịp nghe rõ cô ấy nói gì, chỉ lặng lẽ ngồi yên tại chỗ.

Đó là một bức họa mỹ nhân mới được phác một nửa — thiếu nữ duyên dáng mặc y phục cổ, tóc vấn gọn gàng, khẽ nhếch đôi môi anh đào, trong ánh mắt và khóe miệng ánh lên nụ cười dịu dàng như trăng non.

Tuy nét vẽ chưa hoàn chỉnh, chỉ lột tả được sáu bảy phần thần thái nguyên tác, nhưng cũng đủ để Nhiếp Tung nhận ra ngay: đây chính là bức tranh anh đang tìm kiếm.

Anh không muốn chậm trễ dù chỉ một giây, lập tức mở WeChat nhắn tin cho Doãn Hy. Dù đã tiễn bố con nhà họ Tư về, anh vẫn chưa nhận được hồi âm từ cô.

Nhiếp Tung tháo kính ra, nhắm mắt lại, trong đầu toàn là hình ảnh của Doãn Hy: cô nghiêng đầu nhìn anh, cô cười trêu anh, từng cử chỉ vô tình, từng nét mặt, nụ cười… dần dần trùng khớp với nhân vật trong bức họa.

Anh lôi số điện thoại của Doãn Hy ra, bấm nút gọi.

Trương Trì đi ngang qua bàn làm việc của Doãn Hy, nghe thấy điện thoại cô reo liên tục, màn hình hiện rõ hai chữ “Nhiếp Tung”, quả đúng là “vừa nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đã đến”.

“Sư muội, điện thoại của thầy Nhiếp.”

Doãn Hy ló đầu ra từ phòng thiết bị, đưa tay nhận lấy điện thoại anh đưa.

“Tiến sĩ Doãn, là tôi, Nhiếp Tung đây.”

Doãn Hy tháo găng tay, trả lời: “Tôi biết.”

“Tôi gọi điện là để nói với cô, tôi đã tìm thấy bức tranh đó rồi.”

“Tranh nào?”

“Chính là bức tranh cổ mà tôi nói nhân vật trong đó rất giống cô ấy.”

“Ồ, vậy à?” Doãn Hy không chút ngạc nhiên, thậm chí còn quá đỗi thờ ơ, “Chúc mừng anh.”

“Doãn… Tiến sĩ Doãn, tôi đã nói rồi, tôi chỉ muốn làm bạn với cô, nhưng mà…” Nhiếp Tung không ngờ cô lại phản ứng như vậy, nhất thời luống cuống.

“Nhưng mà gì?”

“Tôi cảm thấy cô có chút né tránh.” Từ lần trước nói là không quen, không hiểu nhau, đến hôm nay chỉ một câu “chúc mừng”, Nhiếp Tung ngày càng cảm nhận rõ sự xa cách của Doãn Hy. Dù chỉ là qua điện thoại, anh cũng có thể tưởng tượng ra dáng vẻ cô nhíu mày, quay mặt đi.

Doãn Hy liếc nhìn Trương Trì đang đứng bên nghe lén, rồi bước ra khỏi văn phòng.

“Cô thấy tôi không thể làm bạn với cô sao?” Cuối cùng Nhiếp Tung cũng hỏi ra điều canh cánh trong lòng.

Doãn Hy thở dài, nói: “Trước đây anh nói cảm giác như đã gặp tôi ở đâu đó, bây giờ lại nói tôi giống người trong bức tranh cổ, nên anh thấy tôi quen mặt…”

“Đúng vậy.” Nhiếp Tung thành thật nói ra cảm nhận, “Ngay lần đầu tiên gặp cô, tôi đã có cảm giác quen thuộc.”

“Đó chính là lý do tôi không muốn làm bạn với anh.”

“Tại sao?” Nhiếp Tung trong lòng không ngừng hồi tưởng lại từng lần gặp mặt Doãn Hy, anh không cho rằng mình đã có hành vi nào quá trớn, nhưng lại không hiểu vì sao cô lại muốn tránh xa anh như vậy.

“Anh chỉ đơn giản là tò mò về tôi, còn tôi thì không muốn trở thành đối tượng nghiên cứu của anh.”

Cúp máy, WeChat hiện thông báo có tin nhắn mới. Doãn Hy mở ra xem, là Tiểu Bàng gửi tới, không đầu không cuối một câu:

“Chị Doãn, anh Tung đang theo đuổi chị đúng không?”

Cậu ta không dùng dấu chấm hỏi, nhìn qua có vẻ rất chắc chắn.

Doãn Hy liếc qua bức ảnh cậu gửi — là tờ giấy mà hôm đó Nhiếp Tung thử màu, dùng nét vẽ đậm nét sắc sảo viết một chữ “Doãn”.

Cô gõ hai chữ rất mạnh: “Không có.”
 
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 7: Chương 7



Nhiếp Tung không theo đuổi cô, Doãn Hy vô cùng chắc chắn điều đó.

Nhưng còn cô thì sao? Đáp án cũng chắc chắn như vậy. Mặc dù người đàn ông này là cá thể mâu thuẫn nhất cô từng gặp, cô vẫn phải thừa nhận bản thân bị anh hấp dẫn. Nhiếp Tung càng nghiêm túc bao nhiêu, thì càng thẳng thắn bấy nhiêu, càng dễ đỏ mặt thì lại càng thú vị với cô.

Với tính cách của cô, nếu là người đàn ông khác thì cô đã chẳng cần quan tâm mà chủ động theo đuổi từ lâu. Nhưng đối mặt với Nhiếp Tung, lần đầu tiên cô cảm thấy lúng túng.

“Mệt à?”

Tiếng huấn luyện viên cắt ngang dòng suy nghĩ của Doãn Hy, cô hoàn hồn lại, ra hiệu tiếp tục. Huấn luyện viên giơ tay tạm nghỉ, bảo cô nghỉ một chút.

“Sắp tới có giải đấu nghiệp dư, em vẫn không muốn tham gia sao?”

Phòng tập quyền anh này đã thành lập nhiều năm, đào tạo ra không ít vận động viên nghiệp dư, có người thậm chí còn giành được chức vô địch. Là một trong số ít học viên nữ, trình độ của Doãn Hy đã đủ để tham gia từ lâu, nhưng mỗi khi bị hỏi, cô luôn từ chối dứt khoát không chút do dự.

“Biết ngay là vậy mà.” Huấn luyện viên đã quá quen, cười nói như mọi lần: “Nhưng không thi thì thật đáng tiếc cho thực lực của em.”

Doãn Hy tháo găng tay ra, liếc nhìn ông: “Thầy tiếc không lấy được tiền thưởng vô địch chứ gì.”

Bị nói trúng tim đen, huấn luyện viên cũng không giận, chỉ cười toe toét.

Cô gái này vốn không thuộc kiểu “da trắng dáng xinh” truyền thống, lúc mới bước chân vào phòng tập còn mang vẻ yếu đuối mảnh mai. Thế mà một khi học quyền anh lại học rất nghiêm túc, khiến những người từng nghĩ cô chỉ đến chơi phải mở to mắt kinh ngạc. Một luyện là mấy năm, đấm ra cú nào cú nấy đều gọn gàng, mạnh mẽ. Cô đánh có phong cách, đến nỗi các học viên bình thường đều không đỡ nổi. Thậm chí vài huấn luyện viên nam lâu năm đôi khi cũng không đỡ nổi nắm đấm của cô.

Đợi huấn luyện viên rời đi, Doãn Hy mới mở nắp chai nước, ngửa đầu uống một ngụm. Trong gương, cô thấy mồ hôi đang lăn dài trên má. Cô dùng mu bàn tay lau qua, một chút vị mặn vô tình chạm vào môi. Cô l**m nhẹ một cái, thấy vị mặn hơn, liền tu một hơi dài nước khoáng.

Nếu Nhiếp Tung ở đây, liệu anh có thấy cô quá xuề xòa không? Dù sao, con gái mà dùng tay lau mồ hôi trông cũng hơi “man” quá. Nghĩ đến đây, Doãn Hy không nhịn được bật cười tự giễu — ai quy định con gái thì không thể sống thật với bản thân?

Từ nhỏ đến lớn, cô luôn độc lập, tự mình đưa ra quyết định, từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn chẳng cần ai lo lắng. Ngay cả những chuyến đi thực địa cường độ cao cũng không phụ thuộc vào đàn ông đi cùng.

Cô biết rõ mình không phải kiểu “gái yếu ớt trong lồng kính”.

Còn Nhiếp Tung… Dù có ở đây, với cái tính nghiêm túc quá mức của anh, đoán chừng cũng chẳng thèm để ý cô lau mồ hôi ra sao đâu. Có khi còn khuyên cô uống đồ uống thể thao thay vì nước khoáng để bổ sung điện giải cũng nên.

Càng nghĩ càng buồn cười, Doãn Hy mím môi bật cười. Gặp được người đàn ông thú vị như vậy thật sự không dễ, cô không muốn bỏ lỡ. Nhưng tên mọt sách đó lại cứ tỏ ra như kiểu “hãy làm bạn với tôi, tôi muốn nghiên cứu xem cô giống ai” làm cô chẳng còn tâm trí gì nữa, chỉ muốn xông lên đấm cho anh một cú.

Nhưng hiện thực là, đừng nói là đấm Nhiếp Tung, kể từ lần gặp gần nhất đến giờ đã nửa tháng trôi qua, cô muốn xem thử tên ngốc này bao giờ mới thông suốt.

Ngày hôm sau, Doãn Hy đi làm không thấy bóng dáng Trương Trì đâu, vừa định nhắn tin hỏi anh ta có ngủ quên không thì nhận được cuộc gọi từ chính chủ. Cô tưởng là nhờ chấm công hộ, ai ngờ Trương Trì đã xin nghỉ về quê đính hôn, gọi điện chỉ để dặn dò cô mấy việc liên quan đến khảo sát thực địa sắp tới và vài dự án lặt vặt, trong đó có cả việc phối hợp với bảo tàng.

Trước khi cúp máy, Trương Trì còn dặn dò đầy ẩn ý: “Sư muội à, tôi gọi cho em là để nói rõ, đây là cơ hội tuyệt vời sư huynh dành cho em, hãy nắm bắt lấy, tranh thủ hòa giải với thầy Nhiếp càng sớm càng tốt…”

Hoà giải cái quái gì…

Chưa kịp nghe hết, Doãn Hy đã cúp máy. Cô nhìn xấp tài liệu dày cộp trên bàn, toàn là tư liệu về khoáng vật dùng làm chất màu, rồi chán nản ném bút xuống.

Công việc gần đây của cô có liên quan đến chuyến đi Tô Châu lần trước. Khi đó, Tiểu Bàng đã cung cấp một vài khu vực khai thác khoáng vật nhỏ, không có nhiều dữ liệu ghi chép, nên Doãn Hy phải tổng hợp, so sánh với cơ sở dữ liệu gốc. Công việc này tưởng đơn giản nhưng đòi hỏi sự tỉ mỉ và kiên nhẫn. Có thể khu vực khai thác này không khớp với dữ liệu gốc, hoặc không đúng loại khoáng vật đã báo. Tất cả đều cần phân biệt, tra cứu, xác nhận với viện nghiên cứu địa chất địa phương, thậm chí phải khảo sát thực tế. Chỉ như vậy mới có thể hoàn thiện bản đồ phân bố nguồn khoáng vật mới.

Cô vừa mới bắt đầu giai đoạn đối chiếu đầu tiên thì kế hoạch đã bị đảo lộn vì sư huynh xin nghỉ. Dù sao cũng đang tạm dừng, thay vì phối hợp với bảo tàng, cô lại muốn đi khảo sát thực địa hơn.

Chuyến khảo sát lần này chưa kịp chờ dịp gặp mặt do Trương Trì sắp xếp thì đã được đưa vào lịch trình.

Địa chất học ngày nay đã hiện đại hóa rất nhiều, với máy tính bảng, thiết bị định vị GPS, máy ảnh kỹ thuật số… thay thế cho “bộ ba” công cụ truyền thống. Nhưng ở những nơi hoang vu, việc xác định phương hướng, đọc bản đồ, quan sát mẫu vật… vẫn cần kinh nghiệm và các công cụ thủ công như la bàn, búa địa chất, kính lúp, thẻ phân loại hạt.

Chính vì vậy, các cấu trúc địa chất, sự phân tầng, các lớp đá… chỉ có thể tận mắt quan sát mới có thể phân tích và đánh giá, khiến địa chất học không thể hoàn toàn thay thế bằng kỹ thuật số và vẫn luôn cần khảo sát thực địa.

“Tôi nhớ buổi học chuyên ngành đầu tiên ở đại học, thầy đã nói ‘thực tập là bước đầu vào nghề của địa chất học’.” Một cậu sinh viên mới ngồi bệt dưới đất than thở, “Thực tập trong phòng, thực tập ngoài thực địa, thực tập độc lập, thực tập sản xuất… học địa chất thì không chạy được cái nào.”

“Tôi tưởng cậu sẽ nói công việc quan trọng nhất của thạc sĩ với tiến sĩ là viết bài báo chứ!” Doãn Hy bật cười, nhấp một ngụm nước nhỏ.

“Doãn sư tỷ, viết bài báo cũng rất quan trọng mà.” Cậu nghiêm túc sợ cô coi nhẹ công tác nghiên cứu.

Lần này người dẫn đoàn khảo sát là Chủ nhiệm trung tâm nghiên cứu – Lâm Hiến Hoa. Thấy cậu nhóc nghiêm túc quá mức, ông vỗ vai cậu: “Thôi nào, sư tỷ cậu sao lại không biết cái này, số bài báo cô ấy viết đủ cho cậu đọc mấy tháng đấy! Cô ấy chỉ muốn nhắc cậu, đừng lẫn lộn đầu đuôi, quên cái gốc của nghề địa chất.”

Cậu sinh viên rối rít gật đầu: “Nhất định không quên ạ!”

Bị nhìn thấu tâm can, Doãn Hy hơi bĩu môi: “Sếp Lâm, không công bằng gì hết! Mãi mới có sư đệ để trêu chọc, mà cũng không cho cơ hội luôn.”

“Cô chỉ trêu sư đệ thôi à? Ở đây có ai chưa từng bị cô ‘chọc’ qua?” Lâm Hiến Hoa bật cười, dập tắt điếu thuốc, vứt vào túi rác mang theo.

Doãn Hy nhăn mặt: “Đi khảo sát địa chất đã đủ khổ rồi, muốn bắt nạt ai cũng bị ngăn cản, đúng là cuộc sống quá gian nan…”

“Không sao đâu chị, chị cứ bắt nạt em thoải mái.” Cậu sinh viên vừa lắc đầu vừa gật đầu, như thể chuẩn bị hy sinh vì nghĩa lớn.

Cả đoàn bật cười nghiêng ngả, nỗi khó nhọc tìm điểm khảo sát tạm thời bị quên đi.

Sau tràng cười, Doãn Hy thu lại nét mặt tươi tắn. Cậu sinh viên nhút nhát ấy lại khiến cô nhớ đến một người.

Người ấy lúc này vừa hoàn thành việc phục chế một bức cổ họa, mệt mỏi đến mức không buồn nói một lời, chỉ lặng lẽ uống cạn một ly trà.

Để chuẩn bị cho triển lãm kỷ niệm 60 năm thành lập Bảo tàng Diêu Thành, Nhiếp Tung và các đồng nghiệp đã bận rộn suốt ba tháng. Giờ mới hoàn thành phần phục chế cổ họa, mọi người thả lỏng trò chuyện.

Nhiếp Tung cuối cùng cũng có thời gian mở máy tính, tìm lại thư mục phục chế, nhanh chóng lôi ra bức tranh mỹ nhân còn dang dở mà anh chưa kịp hoàn thiện từ lâu. Ngay từ lần đầu nhìn thấy, anh đã chắc chắn 100%. Giờ khi bức tranh hoàn chỉnh hiện lên trên màn hình, anh vẫn ngẩn người nhìn rất lâu.

Một đồng nghiệp già đi ngang, liếc qua, tặc lưỡi: “Đây chẳng phải là bức tranh mỹ nhân mà năm xưa cậu theo thầy Nhiếp phục chế sao?”

Nhiếp Tung bừng tỉnh, khẽ đáp một tiếng “Vâng.”

Năm đó, anh mới 16 tuổi, lần đầu tiên dưới sự hướng dẫn của ông nội và bố, tham gia trọn vẹn một dự án phục chế cổ họa. Chính lần tham gia toàn diện đó, chính bức “Tranh Mỹ Nhân Đồ” ấy, đã mở ra chương đầu tiên trong cuộc đời phục chế tranh cổ của anh.

“À đúng rồi, tôi nhớ có một năm Tết Nguyên Đán, viện bảo tàng có đặc biệt làm một lô bản sao của bức Mỹ Nhân Đồ này để tặng nhân viên như một món quà mừng xuân,” Dưới ánh mắt dò hỏi của Nhiếp Tung, vị đồng nghiệp già vỗ đầu, “Trí nhớ tôi kém rồi, không nhớ rõ là năm nào, nhưng tôi dám chắc nhà cậu có một bản đó.”

Nhiếp Tung hoàn toàn không có ấn tượng gì về chuyện này, cũng không ngờ lại có một “thu hoạch bất ngờ” như vậy. Nhưng từ khoảnh khắc biết được có bản sao, trong đầu anh chỉ còn một ý nghĩ, nhất định phải tìm ra nó.
 

Template Compilation Error

public:post_macros :: post_user_content() - Class "XF\BbCode\Renderer\ProxyRewriter" not found in /www/wwwroot/diendantruyen.com/src/XF/BbCode/Renderer/Html.php:790
Nương Ta Họa Người - Kỷ Đoá Dĩ
Chương 9: Chương 9



Công việc thực địa diễn ra ở phía bên kia của ngọn núi, con đường gập ghềnh, sườn núi dốc đứng, ba người trong nhóm phải leo lên không dùng dụng cụ, đến gần nơi lộ ra lớp đá để tiến hành quan sát và mô tả ban đầu. Lộ đá này là một phần của lớp đất, đá, khoáng chất, nước ngầm, khí tự nhiên… được lộ ra trên bề mặt trái đất, đây là một lộ tự nhiên, không bị tác động bởi con người. Qua quan sát, họ nhận thấy đây là một lớp đá nguyên sinh, chưa bị oxy hóa mạnh, vẫn giữ nguyên cấu trúc và thành phần ban đầu.

Tiểu sư đệ leo lên lộ đá, vừa quan sát hình dạng của lớp đá, vừa dùng búa địa chất phá vỡ các tảng đá. Không lâu sau, cậu lấy được mẫu đá tươi, thu thập được mẫu vật quý giá cho cuộc khảo sát khu vực.

Khi chuẩn bị leo xuống, chân cậu bị trượt, nhìn thấy mình sắp rơi xuống, Lâm Hiến Hoa và Doãn Hy lập tức chạy tới, cố gắng đỡ lấy cậu. May mắn, tiểu sư đệ phản ứng nhanh, kịp thời bám vào một tảng đá nhô lên, giữ vững được cơ thể. Cậu vừa thở hổn hển vừa nói “Không sao đâu, không sao đâu”, nhưng ngay lúc đó, ngay bên cạnh nơi cậu vừa lấy mẫu đá, một tảng đá khác bất ngờ rơi xuống, cuốn theo một chuỗi đá vụn.

Lúc đó, hai người ở dưới nhìn lên, thấy đá lớn nhỏ đủ loại, tất cả đều rơi thẳng về phía Doãn Hy.

Chỉ trong tích tắc, Doãn Hy nhanh chóng lăn người sang phải, rồi cuộn tròn người, tránh né. Khi tiếng đá ngừng lại, Lâm Hiến Hoa và tiểu sư đệ lập tức chạy tới, kiểm tra tình trạng của cô.

Doãn Hy cảm thấy trên người hơi đau, vai và lưng bị va đập khi lăn, cơ thể bị đá cọ sát và tay bị trúng đá vụn, cô chống tay muốn ngồi dậy, một cơn đau nhói từ bên trái truyền đến.

“Ưm——”

“Đừng cử động.” Lâm Hiến Hoa giữ chặt vai trái của cô, mở hộp thuốc y tế.

Dù cô phản ứng nhanh, nhưng vẫn bị một số mảnh đá vụn trúng tay, tay áo dính đầy máu.

Tiểu sư đệ hoảng sợ: “Sư… Sư tỷ, xin lỗi…”

“Không sao đâu,” Doãn Hy mỉm cười, “Giờ thì sư tỷ thật sự cần cậu cõng xuống núi rồi.”

“Vẫn còn có tâm trạng đùa giỡn khi bị thương nặng thế này, tôi thấy cô thật là…” Lâm Hiến Hoa vừa kiểm tra vết thương, vừa trách móc, “Ngoài tay ra, những chỗ khác chỉ là xước nhẹ. Cô thử cuộn tay áo lên xem, tôi sẽ xử lý cho.”

Doãn Hy dựa vào sức mạnh của tay, ngồi dậy và thử cuộn tay áo đã dính đầy máu lên. Máu dính chặt vào vải và vết thương, càng gần vết thương càng cảm thấy đau đớn, cô dừng lại và cắn răng nói: “Cứ cắt ra đi.”

“Cô chịu đau một chút.” Lâm Hiến Hoa gật đầu, dùng kéo từ từ cắt tay áo ra, để lộ vết thương.

Bàn tay đầy bụi bẩn của cô dính đầy cát mịn lẫn máu, khiến vết thương trở nên rất ghê rợn.

Tiểu sư đệ quay mặt đi, vô tình nhìn thấy nơi đá rơi xuống, những vết lõm lớn nhỏ trên con đường, cậu lại một lần nữa cảm thấy sợ hãi, chỉ có thể nhắm mắt nhìn lên trời.

Doãn Hy bị vẻ mặt sợ hãi của cậu làm cho buồn cười, nghĩ rằng có thể đây là lần đầu tiên cậu trải qua cảnh tượng như vậy, cô hỏi một cách quan tâm: “Sợ rồi à?”

Giọng cô nhẹ nhàng và vui vẻ, không hề có dấu hiệu của đau đớn.

Tiểu sư đệ ngạc nhiên mở mắt: “Sư tỷ, sao chị có thể bình tĩnh thế này?”

“Không phải sếp đã nói với cậu rằng chị đã đánh rắn, bắt nhím sao?” Doãn Hy liếc nhìn Lâm Hiến Hoa, ông đang vệ sinh vết thương cho mình, cảm giác châm chích từ thuốc khử trùng khiến cô không còn phân biệt được là cồn hay iodine nữa, cô cắn răng, giọng nói từ kẽ răng bật ra, “Anh ấy còn nói chị bị thương ở đầu gối, bảo cậu phải chăm sóc chị.”

Tiểu sư đệ vẫn chưa hiểu, nhìn cô ngơ ngác.

“Sếp không nói dối đâu,” Doãn Hy nhìn sang một bên, biết việc xử lý vết thương đã gần xong, “Vì thế, mấy vết thương này không có gì to tát cả.”

Hiếm khi, Lâm Hiến Hoa không phản bác cô.

Tiểu sư đệ nhìn Doãn Hy, cô vừa thoát khỏi nguy hiểm, người đầy bụi bẩn, nhưng không hề có vẻ gì là lúng túng. Cuối cùng cậu cũng tin rằng, cô sư tỷ xinh đẹp thích trêu đùa này, không phải chỉ là người vào học viện địa chất để chơi đâu, cô thật sự có năng lực, cô thực sự rất giỏi.

Lâm Hiến Hoa quấn xong băng gạc quanh tay cô, nghiêm túc hỏi: “Thắt nút?”

“Thắt nơ nhé,” Doãn Hy uống một ngụm nước, cười với ông, “Cảm ơn sếp.”

Vậy là, Lâm Hiến Hoa thực sự thắt băng gạc thành một chiếc nơ, khiến tiểu sư đệ đứng bên cạnh ngơ ngác.

“Đi thôi, xuống núi.”

“Chờ một chút, sếp ơi, em muốn xem lại lộ đá lúc nãy.” Doãn Hy ngẩng đầu nhìn về phía lộ đá nguyên sinh, nó vẫn đứng yên đó.

Lâm Hiến Hoa chỉ tay về phía cô, thở dài một hơi: “Cô đứng xa một chút, tôi và tiểu sư đệ đi ngó một cái.”

Doãn Hy lập tức ngoan ngoãn lui về phía an toàn.

Thực ra, ngay cạnh lộ đá nơi cậu thu mẫu, có một tảng đá nhỏ. Phía bên hông của tảng đá đã bắt đầu phong hóa, chính vì vậy khi tiểu sư đệ vô tình trượt ngã, tảng đá đã bị chấn động và sụp đổ.

“Thế nào? Xem xong rồi chứ?” Lâm Hiến Hoa sau khi thu xong mẫu đất phong hóa, quay người nói với tiểu sư đệ, “Sư tỷ của cậu là kiểu người sẵn sàng đánh đổi tính mạng vì đá, đừng học theo cô ấy!”

Doãn Hy liền lập tức hùa theo nịnh: “Sếp nói đúng hết.”

Hôm đó cuối cùng không có gì nguy hiểm, nhóm ba người đã an toàn trở lại đại bản doanh, hai nhóm còn lại cũng lần lượt quay về trại. Bữa tối vẫn như thường lệ là mì ăn liền, Doãn Hy vì bị thương nên được đặc biệt cho thêm hai miếng thịt bò khô.

“Doãn Hy, người bị thương được đãi ngộ tốt thật, nhớ lần trước tôi bị trật chân, sếp chỉ cho tôi mỗi cây xúc xích.”

“Ăn gì bổ nấy, ăn xúc xích bổ xúc xích.” Doãn Hy vừa ăn thịt bò khô, vui vẻ hút mì, “Chân của anh là nhanh lành lắm phải không?”

“Ha, vậy cô ăn thịt bò bổ gì? Bò à?” Đồng nghiệp bông đùa.

Doãn Hy nhai thịt bò khô thơm phức, tự tin đáp: “Bổ thịt!”

“Đúng rồi, cánh tay cô bị thương nặng như vậy, tối nay tham gia hoạt động kiểu gì?”

Khi nghe nói hoạt động giải trí duy nhất bị cấm, Doãn Hy không màng đến vết thương trên tay, vội vàng khẳng định: “Tôi còn có tay phải mà, hoạt động bình thường!”

Ngay cả tiểu sư đệ cũng bị tinh thần “thân tàn nhưng chí không tàn” của cô cảm động, hứa sẽ giúp cô.

Lâm Hiến Hoa ăn xong mì, đang diễn tiết mục “hút điếu thuốc sau bữa cơm” không bao giờ thiếu, nghe xong thì cười nói: “Tối nay có tiếp tế, các cô cậu hoạt động, tôi phụ trách đợi người quen.”

Cả nhóm vui mừng reo hò: “Sếp vạn tuế!”



Chiếc xe nhỏ rung lắc trên con đường núi trùng điệp, trưởng thôn chỉ vào một nơi xa xa nói: “Chỗ đó chính là đội địa chất.”

Thật sự xa quá, xa hơn cả những ngọn núi xung quanh. Nhiếp Tung đẩy kính muốn nhìn rõ hơn, ngoài đèn xe, chỉ thấy một mảng đen mù mịt. Anh tháo kính, thở một hơi vào rồi dùng tay áo lau sạch, khi đeo lại vẫn không phân biệt được phương hướng.

Trưởng thôn thấy vậy, cười lớn: “Đừng vội, một lát là sẽ thấy thôi.”

“Sắp đến rồi ư?”

“Còn một giờ nữa.”

Nhiếp Tung lầm bầm: “Cái ‘một lát’ của chú chẳng giống cái ‘một lát’ của tôi gì cả.”

Trưởng thôn lại cười thêm một hồi, hỏi anh: “Cậu đi gặp vợ à?”

“Không, không phải…” Nhiếp Tung chỉnh lại kính, “Tôi đã nói rồi, tôi đi gặp đồng nghiệp…”

“Đồng nghiệp?” Trưởng thôn thẳng thắn vạch trần anh: “Không phải vừa cho tôi xem thẻ công tác rồi à? Cậu làm ở bảo tàng, sao lại có thể là đồng nghiệp với đội địa chất?”

Nhiếp Tung quên khuấy mất việc này, mồ hôi lạnh chảy đầy lưng.

“Tôi không đoán sai đâu, cậu đi gặp vợ mà đúng không?”

Giọng điệu chắc chắn của trưởng thôn khiến Nhiếp Tung càng thêm hoảng loạn, nhưng anh không biết giải thích thế nào, chỉ có thể cứng nhắc phủ nhận: “Không phải.”

“Không phải vợ, thì là bạn gái, còn đang yêu nhau phải không?”

Lại một lần nữa bị xác định, Nhiếp Tung cảm thấy muốn khóc. Biết trước sẽ phải chịu đựng cuộc thẩm vấn không ngừng của trưởng thôn, anh thà chết còn hơn sẽ lên chiếc xe tiếp tế này.

“Chẳng lẽ ngay cả bạn gái cũng chưa có?” Trưởng thôn nhíu mày, như gặp phải vấn đề chưa từng thấy, “Vậy tình huống của cậu là sao?”

Tình huống là sao nhỉ?

Nhiếp Tung cũng tự hỏi trong lòng.

Cả chuyến đi rung lắc đã khiến niềm vui khi tìm thấy bức tranh thục nữ trong anh bị lu mờ, nhưng anh vẫn rất muốn gặp Doãn Hy, rất muốn gặp, bất chấp ngày đêm vội vã.

“Chắc cậu thích cô gái trong đội địa chất rồi phải không?” Trưởng thôn không đợi câu trả lời của anh, chẳng hiểu sao lại thở dài, “Cô gái trong đội địa chất ấy…”

“Sao vậy?”

“Làm địa chất vất vả lắm, gió sương vất vả, trèo núi băng đèo, nhiều anh em còn không chịu nổi, huống chi là con gái, không dễ đâu.” Thấy anh không nói gì, trưởng thôn lại thở dài, “Cậu thích cô gái đó không đơn giản đâu!”

Chữ “thích” đánh sâu vào lòng Nhiếp Tung, giống như một bùa chú khiến anh bị đóng đinh tại chỗ.

Liệu anh có thích Doãn Hy không?

Cô gái với đôi lông mày mảnh mai và ánh mắt luôn mang ý cười, cô gái luôn trêu anh “ngốc nghếch”, cô gái cùng anh chiến đấu vì lý tưởng và dũng khí “dù có bao nhiêu người cũng không sợ”, anh không thích sao?

Không, anh thích chứ.

Anh thích từng câu đùa vô hại của cô, anh thích sự chuyên nghiệp nghiêm túc trong công việc của cô, anh thích mái tóc ngắn gọn gàng của cô, anh thích hình ảnh cô dựa vào vai anh ngủ say, anh thích từng đường cong của tóc cô mỗi lần rủ xuống, anh càng thích giọng điệu nhẹ nhàng của cô khi gọi anh là “thầy Tiểu Nhiếp”.

Nếu không phải thích, sao anh lại dung túng mỗi lần cô “đùa giỡn”? Nếu không phải thích, sao anh lại muốn tìm bằng được bức tranh quen thuộc đó? Nếu không phải thích, sao anh lại đến đây để gặp cô?

Vậy thì, đó chính là lý do anh muốn đến gần cô, muốn hiểu cô, chứ không phải để làm bạn, đơn giản là anh đã bị cô thu hút, anh rung động rồi.

Đúng vậy, anh thích Doãn Hy.

“Sao không nói gì nữa?”

Nhiếp Tung quay đầu lại, hân hoan: “Đang nghĩ về những gì anh nói.”

“Không đơn giản?”

“Không, cô ấy rất đơn giản.”

Nhiếp Tung nhìn về phía bóng tối vô tận bên ngoài cửa sổ, cuối cùng những ánh đèn lấp lánh ở xa dần dần hiện ra trong tầm mắt anh. Anh biết, đó là hướng của Doãn Hy, cũng là hướng trái tim anh.
 
Back
Top