Tâm Linh Những câu chuyện cổ tích

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
339886883-256-k883534.jpg

Những Câu Chuyện Cổ Tích
Tác giả: linnncute512
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Được tạo ra để lưu giữ những câu chuyện cổ tích mình đã đọc hồi còn nhỏ.​
 
Những Câu Chuyện Cổ Tích
Hoa Trinh Nữ


Thuở ấy, nhà nọ từng có hai kiếp đàn bà, cả hai kiếp đến lượt mình, đều chôn chân thờ chồng đi lính.

Hai người đàn ông lần lượt ra đi, nhưng người về thì chỉ một.

Người chiến binh dũng cảm ấy về làng trong tiếng tiền hô hậu ủng, xênh xang trong mũ áo vua ban và làm vẻ vang cho dòng họ.

Nhưng khi đón chồng, người đàn bà thứ hai khóc thầm: "Cân đai, mũ áo, bổng lộc vua ban... tất cả đều đẹp nhưng mái đầu ta và ông ấy tự lúc nào đã ngả sang màu sương!..."

Vậy nên, kiếp đàn bà thứ ba vừa lọt lòng và nhoe nhoe khóc, thì cả bà, cả bố và mẹ cô bé chắp tay: "Lạy Phật!

Lại thêm một cái tội nữa.

Nhưng lần này, chúng ta sẽ không gả nó cho bất kỳ một người lính nào đâu nhé.

Hai đời, chúng ta đã đợi chờ đến bạc tóc, thế còn chưa đủ sao?".Cô bé lớn lên mơn mởn như nụ hồng.

Từ nhỏ đến lớn cả nhà không cho cô được nói chuyện với bất cứ một người lính nào để cô giữ lời nguyền thuở trước.Một buổi sáng, xa xa vẳng tới tiếng trống ngũ liên.

Cô gái bước ra vườn, đến bên bờ giậu đẫm sương.

Chàng trai nhà bên đang gấp gáp khăn gói lên đường.

Vốn là đôi trẻ vẫn cũng nhau chơi trò "đố lá", họ cùng nhìn nhau rồi cùng cúi mặt, lớp lông măng ngăm ngăm trên mép chàng trai khẽ rung.

Tiếng trống thúc dồn.

Chàng trai đánh bạo:– Thế... có chờ... không?– Sao không hỏi xem bông tầm xuân có nở trước khi mặt trời lên không? – Cô gái cắn môi, nước mắt lăn tròn trên má.Và thế là mặt chàng trai đỏ đến tận chân tóc.

Lâng lâng như vừa được chắp cánh, chàng bấm bụng: "Ta có thể ra đi, dù "da ngựa bọc thây".Cô gái trở vào, mắt ngấn nước và thẫn thờ như người ốm, trong tiếng trống ngũ liên xa xa thúc dồn.

Vậy là cả nhà biết.

Họ trách lẫn nhau, rồi hai người đàn bà ôm nhau khóc.

Bà cô gái thắp ba nén hương khấn người chồng quá cố: "Ông ơi!

Có lẽ cháu ông đúng, bởi tôi nghiệm rằng, nếu bây giờ ông sống dậy, lại ra trận, thì tôi vẫn chờ ông.

Ôi!

Cái kiếp đàn bà!...".

Mẹ cô gái nức nở: "Chỉ tại mẹ thôi, chính mẹ đã truyền cho con dòng máu "đợi chờ"!

Con làm sao khác được!".

Ông bố cố gạt đi: "Thì cũng phải có một đứa con gái nào đó chờ thằng bé ấy chứ, cũng như ngày xưa, trong căn nhà này bà chờ tôi vậy!

Bây giờ, chỉ còn biết mong sao thằng bé ấy trở về!".Nhưng thằng bé không sớm trở về.

Chàng tân binh hăng hái giết giặc trong vài trận rồi ngôi sao chiếu mệnh mỉm cười với chàng ta, đấng quân vương vốn giỏi chọn người, vừa nhìn thấy chàng trai đã nhận ra ngay rằng đây là một tên lính hầu trung thành vô hạn.

Thế là, ngài cho rút chàng trai về, ngày đêm cận kề bên ngài, một bước cũng không được rời xa.

Khi còn giặc giã, vua cần chàng đưa vồng ngực vạm vỡ ra che làn đạn giặc, còn khi hết giặc, vua càng cần chàng hơn, để giữ gìn quyền uy tối hậu.

Chàng là lưỡi kiếm "trừng phạt" tuyệt hảo, sẵn sàng giáng xuống đầu bất kỳ ai, theo lệnh đấng quân vương.Đã mười bảy năm rồi, cô gái chờ người lính ấy.

Từ một thiếu nữ như nụ hoa chớm hé, nàng đã trở thành một cô gái quá lứa nhỡ thì.

Bà nàng, rồi cha mẹ nàng theo nhau lần lượt trở về cõi Phật.

Trước khi nhắm mắt, họ đều gọi con gái đến bên giường dặn dò: "Mai ngày nếu sinh con gái...".

Cô gái lặng lẽ khóc khi bà và bố mẹ mất, lặng lẽ khóc khi người yêu của chúng bạn trở về hay tử trận và cuối cùng, lặng lẽ để tang người yêu năm xưa, vì đã mười mấy năm rồi, chàng biệt vô âm tín.Thế rồi một buổi chiều có tiếng vó ngựa ghé sát bên thềm.Bước xuống từ yên ngựa là một người đàn ông phong trần và nhìn mọi vật từ trên xuống qua ánh mắt lạnh lẽo như thép.

Ngang lưng anh ta thắt chiếc đai vàng vua ban.

Đó là phần thưởng sau khi anh ta lập được công đâm vào lưng người bạn cũ.

Người bạn này đã cả gan ngăn vua khi ngài hạ lệnh chém một danh tướng.

Ông này chỉ vì mắt kém mà trót dâng vua một quả táo bị sâu ăn.

Sau bữa tiệc ngập máu ấy, vua đã cất nhắc anh ta và cho phép anh ta về thăm nhà sau mười mấy năm xa cách.

Mười mấy năm qua, người lính đó vẫn không quên người yêu xưa.

Giữa cuộc đời bụi bậm, giữa triều đình đầy mưu kế sâu độc, cô trinh nữ nhà lành cắn môi cố nuốt giọt nước mắt chia ly vẫn không mờ nhạt mà thật lạ kỳ, lại càng như vầng trăng xa thẳm gọi anh về.Người con gái lỡ thì bước tới vài bước rồi sững lại.

Nàng hoang mang tự hỏi, không biết đó có phải là chàng trai hàng xóm năm xưa rụt rè mãi mới dám hỏi: "Thế... có chờ... không?".

Nhưng khi người đàn ông ấy gọi tên nàng bằng giọng nói thân thuộc, nàng khóc, tiếng khóc nghe như ngàn mảnh thủy tinh rơi, vì nàng phải chờ đợi quá lâu, và người nàng chờ nay đã biến thành người đàn ông có cái nhìn lạnh lẽo như thép.Làng xóm đua nhau chúc mừng nàng.

Các ông làm nghề "gõ đầu trẻ" đem mối tình chung thủy của hai người rao giảng trong các lớp học.

Thế là từ đấy có thêm nhiều cậu bé chỉ mơ về chiến trận.

Mơ về một mai mình được hầu cận đấng quân vương.

Còn những cô bé thì chỉ ao ước sao mai này lớn, được chờ người yêu đến khi lỡ thì!Không chậm trễ gì, người ta làm lễ cưới cho đôi tình nhân chung thủy.

Vua ban áo tím cho nàng trinh nữ lỡ thì và đám cưới trọng thể hết chỗ nói.

Hoàng hôn xuống, cạnh chén rượu bên mâm cỗ, quan khách tròn xoe mắt nghe chú rể kể chuyện.

Mười mấy năm hầu cận vua, anh ta đã quen tính kín miệng.

Và chỉ bốc lên khi rượu đã ngà ngà.

Nhưng anh không biết nói chuyện gì khác, ngoài chuyện chém giết.

Anh kể về những bữa tiệc đầy sơn hào hải vị ngập máu trong thời bình và say sưa mô tả các kiểu chết của nhiều người khác nhau dưới tay kiếm của anh.

Cuối cùng, vì sao vua đã ban cho anh ta chiếc đai vàng.Người trinh nữ nghe chuyện của chồng mới cưới và nàng đứng không vững nữa.

Lảo đảo, nàng lùi dần về buồng.

Nép mình trên giường trong bóng tối, nàng như ngửi thấy mùi tanh lợm của máu, và trên mặt nàng như có làn môi lạnh toát của những oan hồn lướt qua.

Nàng vùng dậy, run lật bật, vội vàng châm lửa lên tất cả các ngọn đèn dầu lạc mà nàng tìm được trong buồng.

Ánh đèn chập chờn đỏ quạch càng làm nàng thêm sợ hãi.Vừa lúc đó, có tiếng kẹt cửa.

Thân hình to lớn của người chồng mới cưới chếnh choáng tiến vào.

Theo thói quen, anh ta vẫn mang theo thanh kiếm.

Nàng nhìn lên, và thấy anh không vào một mình.

Theo liền sau anh là một người đàn bà trong veo, tóc xoã – chỉ có bộ tóc là còn màu sắc – mặc quần áo đại tang, đang cầm một tấm áo đẫm máu giơ lên và cất giọng đều đều một cách kỳ lạ, lặp đi lặp lại như không bao giờ dứt:-Hãy trả chồng cho ta!

Kẻ giết bạn kia, trước khi mi bước vào giường cưới!

Hãy trả cha cho năm đứa con thơ dại của ta!

Hãy trả...Vậy mà chồng nàng không nghe thấy gì cả, anh dựng thanh kiếm vào vách, rồi xáp tới đặt tay lên ngực nàng.

Ngay lúc đó, nàng nhìn thấy máu từ tấm áo trong tay người đàn bà xoã tóc rỏ xuống hai bàn tay người chồng mới cưới.

Nàng ôm mặt rú lên kinh hãi:– Ôi kìa, máu!

Máu nhiều quá!

Máu đỏ cả hai bàn tay!Chồng nàng giật mình nhìn lại.

Anh vẫn không thấy gì cả, ngoài những vết sẹo ngang dọc nơi bàn tay mình.

Anh dỗ dành:– Ồ!

Can đảm lên, cô em ủy mị!

Chẳng qua là vì em quá hồi hộp đó thôi!

Đã bao ngày ta chờ phút giây này.

Nào, hãy vui lên.Anh nói vậy, nhưng miệng không cười và mắt vẫn lạnh như thép, cũng như từ ngày về đến giờ, chưa một ai nhìn thấy anh cười.

Người trinh nữ bỏ hai bàn tay che mặt.

Nàng không nhìn thấy người đàn bà tóc xõa nữa, nhưng trên khuôn mặt đang gần xuống mặt nàng, nàng chỉ thấy khóe miệng mím chặt và cái nhìn lạnh lẽo như cái nhìn của Thần Chết.

Lại sợ hãi cuống quít, nàng van vỉ: -Hãy mỉm cười đi anh!

Em van đấy!

Hãy cười lên để em thấy anh của ngày xưa.

Bao năm chờ đợi, em đâu muốn anh buồn...Người chồng cố hết sức để mỉm cười.

Đã lâu lắm rồi anh không làm cử chỉ đó nên bây giờ anh không biết bắt đầu một nụ cười như thế nào.

Khó nhọc lắm, anh mới nhớ ra rằng, khi cười người ta phải để lộ ít nhất là một hàm răng.

Anh nhếch môi, để lộ hẳn hai hàm răng chắc khỏe.Nhưng anh quên rằng, khi người ta cười, chính đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau, thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ.

Mà đôi mắt muốn cười, trước hết tâm hồn phải cười đã, cho nên cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm vẻ dữ dằn đe dọa của một con sói.

Ngay lập tức, vợ anh co rúm lại và quay mặt vào trong, thổn thức cố kìm tiếng khóc.Người chồng buồn bã soi trong tấm gương cười, ngắm kỹ mình, rồi tuyệt vọng:– Thôi, thế là hết, cả một đời chờ đợi!

Em chối từ ta, em ghê tởm ta ư?Anh rũ xuống thành giường, rồi gầm lên như một con thú bị thương:– Tại sao em chờ ta cả đời, để rồi chối từ ta?

Tại sao em bắt ta phải cười!

Còn đâu nữa chàng trai với lớp lông măng trên mép ngày xưa!

Ta đã trở thành "người đàn ông không cười" của triều đình, từ khi bàn tay này nhúng vào máu bạn bè, bên những bàn tiệc đầy sơn hào hải vị.

Đấng quân vương sai ta giết hết những kẻ bất tuân thượng mệnh bằng các chiếc đũa.

Trong mọi chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc đều có một lưỡi dao tinh tế giấu ở trong...Anh nức nở, đôi vai rung lên dữ dội:– Ôi!

Bạn ta!

Người bạn đã cùng ta tựa vào lưng nhau tìm hơi ấm chống đỡ cơn gió lạnh chiến hào.

Thôi, thế là hết và đây là đêm tân hôn vĩnh biệt, phần thưởng cuối cùng cho người lính quá nửa đời phụng sự đấng quân vương.Tiếng nức nở dữ dội của người chồng mới cưới rung chuyển cả căn phòng.

Rồi xách kiếm trên tay, anh bỏ đi biệt xứ.

Có người nói rằng anh đã đến tìm vua, định bắt vua phải đền tội đã biến anh thành người đàn ông không biết cười.

Nhưng vua đã kịp giết chết anh trước, bằng chính một trong những chiếc đũa nạm vàng nơi bàn tiệc.

Cũng có người bảo rằng anh lại lao vào những cuộc chém giết mới không ghê tay cho quên ngày tháng.

Chỉ còn lại nơi quê nhà người trinh nữ lỡ thì.

Nàng sống âm thầm như cái bóng, mà không một lần nghĩ đến chuyện tự giải thoát bằng cái chết.

Nhưng cái tật hễ có tiếng chân hay tiếng động mạnh là đưa tay lên ôm mặt thì nàng không sao bỏ được.Một hôm, người xã trưởng được mời đến để làm giấy chứng tử cho nàng.

Nàng chết mà hai tay che mặt, người khâm liệm nắn thế nào cũng không bỏ ra.Vài ngày sau, trên mộ nàng rùm ròa mọc một loài cây thấp lòa xòa mang hình tròn tim tím buồn man mác.

Mỗi khi có chân bước qua hay va chạm mạnh, những chiếc lá lăn tăn lại giật mình khép lại, xuôi xuống như bàn tay ai che mặt.Những loài hoa cỏ mọc đầy chung quanh lấy làm lạ lùng lắm về chuyện đó.

Một hôm, chúng chặn chàng Gió lại:– Này, anh Gió!

Ở đây, không có ai già như anh và trẻ như anh.

Vậy anh hãy nói cho chúng tôi biết vì sao loài cây mới đến kia, tầm thường đến vậy, lòa xòa bên vệ cỏ, khách bộ hành dễ dàng giẫm lên, có gì đặc biệt đâu mà phải gìn giữ, hơi một tí lại lấy tay che mặt, điệu đà làm vậy?Từng trải như chàng Gió mà cũng không trả lời được.

Thế là một đêm thanh tĩnh, dịu dàng, muôn hoa cỏ đang mơ màng trong giấc ngủ êm đềm, chàng Gió lướt tới bên loài cây tầm thường ấy, khẽ hỏi:– Này cô em bé bỏng!

Sao em hay che mặt thế?

Ở đây có ai chọc ghẹo em sao?

Em hay e thẹn lắm à?

Nếu không, tại sao người ta lại gọi em là cây trinh nữ?Đắn đo một chút, rồi loài cây ấy nhẹ nhàng đáp:– Không phải thế đâu, mặc dù chết đi, em vẫn là trinh nữ.

Em che mặt vì sợ.

Ngày nay người ta càng tranh giành nhau dữ hơn, những bàn tiệc ngập máu vẫn còn nhiều.

Vậy nên, mỗi va chạm, mỗi bước chân tạt qua đều làm em giật thót mình.

Em sợ người ta sẽ gửi đến cho em đôi bàn tay đầy máu và khuôn mặt người yêu xưa chẳng biết cười.Cây trinh nữ chợt co mình lại vì vừa nghe tiếng chân qua.

Đó là bước chân sóng đôi của một đôi trai gái đang đi trong sương mù.

Trước khi cẩn thận khép những mắt lá lại, cây trinh nữ cầu khẩn: "Ôi!

Lạy Phật!

Cầu cho đây không phải là bước chân của những người phải tiễn nhau về nơi ấy...".
 
Những Câu Chuyện Cổ Tích
Lâm Sanh- Xuân Nương


Ngày xưa, quan tổng đốc Lâm Phụng huyện Châu Thai nổi tiếng hiền đức bao nhiêu thì phu nhân Lý Phi Nương mang tiếng độc ác bấy nhiêu.Khi quan tổng đốc qua đời, phu nhân cưới nàng Xuân Nương cho con trai là Lâm Sanh.

Nhưng phu nhân không cho Lâm Sanh và Xuân Nương chung chăn gối bởi lẽ bà xem Xuân Nương như kẻ tôi đòi.

Thương vợ, Lâm Sanh lén mẹ đi gặp Xuân Nương ở nhà sau để an ủi, thở than.Xuân Nương về làm dâu ở nhà họ Lâm đã ba năm mà chẳng có tin về, làm cho vợ chồng Tiều lão thêm lo lắng.

Hai ông bà lặn lội xuống Châu Thai thăm con.

Thấy vợ chồng Tiều lão nghèo, phu nhân ra chiều khinh rẻ, tiếp đón lạnh nhạt.

Lúc lâu phu nhân mới cho Lâm Sanh dẫn Xuân Nương ra chào cha mẹ.

Ông bà Tiều lão sững sờ, chết lặng khi thấy Xuân Nương tiều tụy, quần áo tả tơi.

Tiều lão đòi bắt con về, nhưng phu nhân nào có chịu...Không thể nào bắt Xuân Nương về được, vợ chồng Tiều lão lủi thủi ra về mà lòng già tan nát.

Phu nhân tức giận quát hỏi:– Xuân Nương, mày đã nói hành nói tỏi gì với cha mẹ mày mà ổng bả làm dữ đòi dẫn mày về?– Xin mẹ tha thứ cho con, con đâu có dám.– Con kia, chớ có qua mặt bà, gia nhân đánh nó cho ta.Gia nhân nào dám cãi, đánh cho đến khi phu nhân hả giận thì Xuân Nương thịt nát xương tan.

Trở về nhà, vợ chồng Tiều lão buồn bã, thương thân con trẻ gặp bà mẹ chồng độc ác.

Bỗng một đêm đang ngủ, vợ chồng Tiều lão thấy Xuân Nương hiện về báo mộng: "Cha mẹ ơi!

Mẹ chồng con cho gia nhân đánh con tới chết rồi vùi xác con ngoài bờ ruộng.

Con chỉ về thăm cha mẹ trong đêm dài giá lạnh mà thôi!".Ông bà Tiều lão chỉ kịp kêu lên: "Xuân Nương con!..." rồi ngồi bật dậy, ông bà nhìn nhau khóc ròng.Thương con bao nhiêu, càng giận phu nhân bấy nhiêu, con người sao quá hiểm sâu, độc ác.

Vợ chồng Tiều lão làm cáo trạng lên huyện đường.

Quan huyện đã nhận hối lộ của phu nhân nên xử ép vợ chồng Tiều lão:– Con gái ông bà lâm bệnh bất kỳ tử mà chết, chứ phu nhân họ Lâm thương con dâu không hết, giết chóc làm chi, ông bà nên bỏ qua đi.Không kêu oan được ở cửa huyện đường, ông bà Tiều lão cương quyết đòi cáo trạng lên tiếp cửa trên...Lòng thương con thúc đẩy ông bà Tiều lão vượt qua vạn dặm đầy nguy hiểm, thẳng tới Trường An dâng cáo trạng lên vua.

Xem xong, đức vua truyền cho tòa tâm pháp công đồng xét xử.

Đức vua truyền gọi Lâm Sanh, buộc chàng khai sự thật.

Phu nhân tội ác rõ ràng, đức vua quyền đem ra xử trảm để răn kẻ ác tâm.Động lòng hiếu tử, Lâm Sanh liều chết xông vào pháp trường cõng mẹ chạy thoát thân.

Kiệt sức, Lâm Sanh té quỵ.

Đốc tướng đem binh đuổi theo bắt được, giải về triều.Đức vua nổi trận lôi đình, truyền đem phu nhân chém ngay, còn Lâm Sanh giam vào ngục tối chờ ngày xét xử.

Vào một đêm trăng sáng, công chúa nhàn rỗi ra dạo vườn hoa, bỗng thấy hào quang sáng rực từ ngục tối.

Công chúa bàng hoàng kinh ngạc, cùng thế nữ đến tận nơi dò xét, thấy một trang thư sinh khôi ngô tuấn tú...

Vào triều, công chúa tâu lại với phụ vương những điều kỳ lạ mới thấy.

Nhà vua truyền quân hầu vào ngục đem Lâm Sanh tới hầu.

Muốn thử tài thơ văn của Lâm Sanh, đức vua liền ra đề.

Lâm Sanh nhận lấy tờ hoa tiên, đặt bút thảo thành chương đem dâng lên.

Xem xong đức vua khen ngợi vô cùng.Đức vua ra lệnh ân xá và cho Lâm Sanh được ứng thí.

Lâm Sanh đỗ trạng nguyên được gả công chúa.

Được hiển đạt, Lâm Sanh về Châu Thai thăm nhà.

Chàng thăm cố hương chưa được bao lâu thì có Khâm sai đến triệu về kinh.

Lúc qua trước mộ Xuân Nương, Lâm Sanh liền cúng hoa quả và khấn vái.

Khâm sai lại giục giã lên đường, chàng đành gạt lệ ra đi.Lòng chung thủy của Lâm Sanh động đến trời cao.

Xuân Nương nhập về với xác ở miếu đường chờ đợi sẽ được đoàn tụ với mẹ cha.Một hôm vợ chồng Tiều lão định xuống Trường An thăm Lâm Sanh.

Đi một đoạn bỗng gặp một cô gái:– Lạ quá, tôi thấy con nhỏ này sao giống tạc con Xuân Nương đó ông?Ông cũng không tin, cho người giống con chớ con chết rồi làm sao sống lại được.

Nhưng Xuân Nương nhận ra cha mẹ, ôm lấy hai người mừng mừng tủi tủi.Vợ chồng Tiều lão xuống tới Trường An, liền đưa Xuân Nương vào dinh.

Tiều lão thử Lâm Sanh:– Liễu Hoa em ruột Xuân Nương, nay chị đã qua đời xin thế cô em.Lâm Sanh nói:– Thưa nhạc phụ, một lời đã hẹn với Xuân Nương thì không khi nào con dám lỗi hẹn, để tủi lòng người đã khuất.

Đây chính là vợ con.Tiều lão khen thầm Lâm Sanh quả là kẻ trượng phu son sắt một lòng.

Xuân Nương cảm động kể hết sự tình.

Hôm sau, Lâm Sanh đưa Xuân Nương vào bệ kiến đức vua tâu hết sự tình.

Vua khuyên Lâm Sanh xử sao cho vẹn mối tình với Xuân Nương và công chúa.

Nghĩ mình già yếu, đức vua chọn lấy ngày lành, truyền ngôi cho quốc trạng Lâm Sanh.Lâm Sanh phong cho Xuân Nương và công chúa là hoàng hậu ngang nhau.
 
Những Câu Chuyện Cổ Tích
Hoa Tầm Xuân


Ngày xưa, có hai em nhỏ mồ côi cha mẹ.

Đứa lớn là trai và đứa bé là gái.

Tuy còn nhỏ, hai em đã biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.

Ngày ngày cậu anh trai khi thì đi xin về nuôi em, khi thì vào rừng hái nấm, kiếm củi đem ra chợ bán hoặc đem đổi lấy gạo để nuôi em.

Còn cô em là một cô bé tuyệt vời, rất hoạt bát, vui vẻ và tốt bụng.

Em nghe được tiếng chim và biết cùng chim trò chuyện.

Từ sáng sớm, chim muông lũ lượt bay đến nhà và cùng em trò chuyện, ca hát.Tiếng hát của em làm say mê cả một con quỷ độc ác trong rừng.

Nó bèn giả làm bà già tốt bụng, ra khỏi rừng tìm đến nhà em bé.

Nó cho em bé trái cây, cho lũ chim hạt thóc.

Nó còn khôn khéo bày trò vui chơi cùng lũ chim và cô gái.

Vốn rất ngây thơ, em bé không đề phòng, thừa cơ con quỷ chộp lấy em và lũ chim mang tận vào rừng sâu.

Nó nhốt em bé với lũ chim trong một chiếc lồng lớn, rồi bắt em hát cho nó nghe.

Nhưng quá khiếp sợ, em bé không hát.

Tức lắm, con quỷ gầm lên những tiếng kêu man rợ, rồi vùng dậy vừa gào thét, vừa đấm đá.

Chiếc lồng lăn long lóc làm cho thịt da em trầy trụa, xây xát.

Nó liền phạt em bé và lũ chim bằng cách đem chiếc lồng treo lên một cành cây cao rồi bỏ đi, lòng đầy tức giận.Ở trên cành cây cao, cô bé tìm cách cứu bầy chim.

Em cố chịu đau, luồn mấy ngón tay nhỏ xíu vào kẽ giữa những chiếc nan lồng.

Răng nghiến chặt, em cố kéo chiếc nan bị uốn cong mở ra một lối nhỏ.

Em giúp bầy chim thoát khỏi lồng bay ra.

Nhưng hai bàn tay em bị những chiếc nan lồng siết chặt đã bị dập nát, máu me đầm đìa.

Máu thấm đỏ cả mấy chiếc nan.

Và rồi một điều kỳ lạ đã xảy ra.

Những chiếc nan dính máu như cựa mình và cứ thế dài mãi ra, buông mình xuống tận đất, thân mọc đầy những chiếc gai nhọn.

Khi trở về nhà, người anh không thấy em gái đâu, cả đàn chim cũng mất.

Nhìn thấy cảnh nhà tan hoang, biết có sự chẳng lành, chú bé đi tìm em, miệng gọi Xuân ơi, Xuân ơi không ngớt.

Nhưng không một tiếng trả lời.

Em càng cuống quýt, sợ hãi càng chạy, càng gọi.

Em đi mãi, gọi mãi vượt qua mấy cánh đồng, lội qua mấy con suối, sau cùng đã tìm được người em đã trở thành bông hoa Xuân mất rồi .Từ đó người ta gọi là hoa Tầm Xuân.
 
Những Câu Chuyện Cổ Tích
Gã Nhà Giàu Hiếu Thuận


Nắng hồng bắt đầu tươi thắm trên muôn ngàn cây cỏ.

Những tiếng chim ríu rít hòa lên khúc nhạc tưng bừng.

Đàng xa, một người đi tới, dáng điệu oai nghiêm khoan thai lần bước với chiếc gậy trúc tẩm màu sương nắng.Như thường lệ mọi lần cứ nắng lên, người đàn ông ấy đi khất thực.

Ngài chỉ sống bằng những hạt cơm cúng dường của những tâm hồn mộ đạo, nhân đó để giáo hóa mọi người quay về hướng thiện.

Người đàn ông xin ăn ấy đến nhà ông Đế Đô, một nhà có tiếng giàu sang nhất, nhưng cũng không kém phần ích kỷ.

Chủ nhà đi vắng, con chó nằm trước cửa đôi mắt đỏ ngầu cau lại như phóng ra những tia lửa hung ác.

Nanh nhe khỏi mồm như sẵn sàng một thứ khí giới trắng nhọn vô cùng ghê tởm.

Nó gừ một hơi rồi nhảy chồm đến người ăn mày theo một tiếng "Gầu" dữ dội.Không chút sợ hãi hay hoảng hốt, người đàn ông thản nhiên ôn tồn nói:- Ngươi hãy im đi, ta sẽ không làm gì để ngươi phải lo lắng đâu.Con chó đưa mình lui để lấy thế, rồi nhanh như chớp chồm lên cao.Người ăn mày đã nhanh tay hơn.

Rất dịu dàng, người ăn mày đỡ lấy hai chân trước của chú chó, âu yếm thốt ra những lời đầy thương hại:- Ngươi hãy bớt nóng.

Ta hiểu...

Ngươi chính là mẹ của chủ nhà này, kiếp trước ngươi rất hung ác tham lam.

Lâu đài nguy nga đây, tất cả châu báu đây, chính ngươi đã xây dựng trên bao nhiêu mồ hôi nước mắt của mọi người.

Người đã không chút thương tâm thẳng tay đục khoét tận tủy tận xương từ những người giàu cho đến kẻ bần cùng.

Mãi đến giờ phút trước khi tắt thở ngươi vẫn còn tâm niệm độc ác và tiếc nuối những của cải, nên...

Ngươi bị đọa, đầu thai vào kiếp chó và trở lại đây bo bo giữ lấy tài sản ấy.

Thế mà ngươi không lo tu tỉnh còn mãi tham lam tàn ác!Nhưng lời nói của người ăn mày không ngờ lại có tác dụng, đã cải đổi được tâm hồn đen tối của con chó.

Con chó im lặng, buồn bã gục đầu xuống đất.Người ăn mày nhẹ nhàng lui bước.

Đôi mắt con chó tắt hẳn những tia lửa hung tàn, đọng lại trên đôi mi những ngấn lệ đau thương, chán nản nhìn theo người ăn mày cho đến khi khuất dạng sau màn cây.Từ đó con chó bỏ ăn bỏ uống và không còn muốn nhếch bước đi đâu.

Cử chỉ ấy làm cho gã nhà giàu độc ác Đế Đô phải ngạc nhiên và lo sợ.

Trước kia con chó nhà gã rất mạnh mẽ, giữ nhà cẩn thận.

Mỗi lần người lạ mặt vào nhà không khỏi hết hồn với nó.

Thế mà nay nó chỉ nằm trong xó không một hơi sủa.Đế Đô tìm cách tra hỏi đứa ở của gã, nó kể lại chuyện có người đàn ông đến khất thực:- Không hiểu Ngài đã làm gì chó ta mà từ đấy nó buồn đau đớn.Gã nhà giàu Đế đỏ bừng mặt lên, vô cùng căm tức, la hét vang nhà như một kẻ điên dại, rồi chạy tìm ngay người ăn mày hôm nọ để nhiếc mắng và đòi bồi thường.Trước cử chỉ hung hăng tàn bạo của gã, người ăn mày vẫn vui vẻ điềm đạm bảo:- Ta sẽ nói cho ngươi hay, nhưng ngươi phải dịu lòng đi đã.

Nhờ ta ăn ở hiền lành, nên ta có thể thấy rõ kiếp trước của mọi người.

Con chó kia chính là mẹ ngươi kiếp trước, vì quá tham lam tàn bạo nên nay phải hóa thân vào kiếp chó để trở lại giữ của cải cho nhà ngươi đấy.Đế Đô cướp lời:- Những lời nói của ông đều là huyễn hoặc vu khống, tôi không thể tin được.- Sự thật chính là thế.

Vì thương mẹ con ngươi nên ta mới nói cho ngươi rõ.

Ngươi không tin về đào lên phía dưới giường nơi con chó thường nằm, sẽ thấy một lọ vàng.Lòng tham lam của Đế Đô đã dằn được cơn giận, vội vàng hỏi:- Thật không ông?

Sao ông biết?Người ăn mày, thật ra là thần thánh phương xa hóa thân, nói tiếp:- Lọ vàng ấy trước kia mẹ ngươi chôn, nhưng vì khi lâm chung không kịp trối lại, nay mẹ ngươi- giờ chính là con chó ấy thường nằm trên đó để giữ cho ngươi.

Ngươi làm theo lời ta sẽ hiểu ta nói đúng hay sai.Từ nét mặt sung sướng, Đế Đô trở nên đau đớn vì đã có một nguồn tin bé nhỏ len qua con người sân hận tham lam, thấm vào trái tim hồng.Quả nhiên, khi về đến nhà, Đế Đô cho người bới lên, một lọ lớn đầy cả vàng với vàng, nhưng chúng không còn gợi được lòng tham trong gã nữa.

Đế Đô ôm lấy con chó khóc nức nở vô cùng ăn năn.Đoạn gã đến quỳ bên người ăn mày, đôi mắt đầm đìa, run lên những lời khẩn cầu thiết tha, xin sám hối tội lỗi và nhờ chỉ phương cứu mẹ thoát khỏi những cảnh khổ đau.Người ăn mày liền bảo:- Nay ngươi đã biết ăn năn, thế là ngươi đã có thể giúp mẹ ngươi thoát khổ.

Ngươi là một đứa con có hiếu.

Nhưng nghiệp chướng của mẹ ngươi quá nặng.

Ngươi hãy đem tiền của bố thí cho mọi người, và quan tâm đến những người xin ngươi cứu giúp.

Nhờ công đức ấy. mới mong cứu khổ cho mẹ ngươi được.Với quyết tâm làm tròn chữ Hiếu, kể từ hôm ấy, gã nhà giàu tên Đế Đo bắt đầu thay đổi cách sống.

Ngày, ngoài việc đem tất cả gia sản có được ra bố thí, làm việc thiện, Đế Đô còn cư xử với kẻ ăn người ở rất ôn hòa, không còn mắng chửi, đánh đập mỗi khi có ai làm nghịch ý.

Đêm đến, Đế Đô cứ ngồi bên cạnh con chó mà vuốt ve trìu mến, rồi khóc nức nở như một đứa trẻ...Ngày qua ngày, Đế Đô tiếp tục làm việc thiện, chỉ mong cứu được mẹ.Một hôm, Đế Đô đang ngồi trò chuyện cùng con chó.

Bỗng có gia nhân chạy vào và báo:- Bẩm ông, gạo thóc trong kho đã cạn sạch rồi ạ!Vừa khi ấy, con chó duỗi mình dài ra trên tấm thảm rồi buông một hơi dài.

Không còn là hơi thở đầy luyến tiếc tham lam muốn bám víu lấy sự sống mà lại là hơi thở đầy sung sướng và thỏa mãn.Chó đã chết.Tối hôm sau, trong giấc mộng, Đế Đô thấy trên nền trời xanh cuộn lên những vòng mây trắng, uốn dồn lên trước mặt người.

Từ trong đó hiện ra một dáng người đàn bà hiền dịu, ân cần vỗ nhẹ lên vai Đế Đô và nói:- Từ lâu vì lầm lỗi, mẹ đã quá tham lam độc ác nên bị đọa đày đau đớn vô cùng.

Con ơi, con nghĩ đến đời sống của con chó, con sẽ hình dung được nỗi khổ của mẹ hồi ấy.

Nay nhờ con thay mẹ chuộc lại lỗi lẫm xưa.

Chính nhờ lòng hiếu thảo của con, mẹ đã thoát khỏi kiếp đau thương.

Thôi, mẹ từ biệt con...Về sau, khi mọi người nhắc đến Đế Đô không ai còn chán ghét, khinh miệt nữa.

Thay vào đó là những lời khen dành cho một kẻ hiếu từ.
 
Những Câu Chuyện Cổ Tích
Hoa Mai Vàng


Ngày xửa...

Ngày xưa...

Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương.

Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm, yêu cả ba ông Táo bằng đá núi đêm ngày chịu khói lửa để nấu cơm, hầm ngô, nướng thịt cho mọi người ăn.

Một lần, thương ba ông Táo, trời đã nóng lại chịu lửa suốt ngày đêm, cô bé mới lên năm ấy đã lấy một gáo nước to dội luôn lên đầu ba ông.

Tro khói bốc lên mù mịt.

ông Táo già nhất vụt hiện ra nói:– Cháu thương ta nhưng chưa hiểu ta.

Lửa càng nóng, ta càng vui.

Cháu mà dội nước thì có ngày ta bị cảm mất.Từ đấy, cô bé không dội nước lên đầu ba ông Táo nữa.

Nhưng ông Táo già thì thỉnh thoảng lại hiện lên trò chuyện với hai chị em cô bé trong chốc lát.

Một hôm thương ông, cô em hỏi:– Ông thích lửa thôi à?

Ông còn thích gì nữa không?-Có chứ!

Năm sắp hết.

ông phải về trời!

Cháu bắt cho ông con cá chép ông cưỡi về Trời thì ông thích nhất.

Cô bé liền rủ chị đi bắt cho bằng được một con cá chép về.

Cô bỏ ngay vào bếp lửa rồi nói:– Ông Táo ơi!

Chúng cháu biếu ông con chép này đây!

Con cá chép vụt biến mất.

Tối hăm ba Tết, quả nhiên hai chị em thấy ông hiện ra, sau đó cưỡi con cá chép như cưỡi ngựa, bay ra khỏi nhà và bay cao mãi lên trời...

Bố cô bé là một người đi săn thú rất tài giỏi.

Ông thường chỉ thích đi săn thú dữ.

Ông bảo:– Còn thú ác thì tôi còn đi săn cho kỳ hết!Ông không muốn truyền nghề cho con mình, vì cả hai đều là gái.

Nhưng cô em lại rất thích nghề của cha.

Lên năm cô đã xin cha dạy cho mình đủ cả côn, quyền và đao kiếm.

Cô tuy bé người nhưng nhanh nhẹn vô cùng, và về sức mạnh của đôi tay cô, người cha cũng phải kinh ngạc.

Lên chín, cô đã hăm hở xin theo cha đi săn thú.

Người mẹ và người chị lo lắng, nhưng cô bé đã thưa ngay:– Con không giết được con mồi bằng một nhát như cha thì con đâm ba nhát, năm nhát, mẹ và chị cứ yên tâm.Nói sao làm vậy, cô bé lần đầu theo cha đi săn đã giết ngay được một con lợn lòi rất hung dữ...

Trong vùng bỗng xuất hiện một con quái đầu người mình báo.

Bà con ai cũng lo lắng, khiếp sợ.

Vì con quái vật chỉ thích ăn thịt người, nhất là thịt trẻ con.

Người cha liền dẫn cô gái nhỏ đi tìm quái vật để giết.

Người mẹ và chị can ngăn nhưng không được.

Người cha bảo:– Tôi chỉ cho nó đi theo để xem, còn diệt quái ác là việc của tôi, hai mẹ con đừng lo.Hai cha con đi được mấy ngày thì có tin con quái đã bị người cha giết chết thật.

Bữa hai cha con trở về, bà con trong vùng mang rượu, gà vịt đến làm cỗ ăn mừng.

Cô gái nhỏ không quên đặt vào bếp lửa một con cá chép và khấn với ông Táo già:– Chúng cháu xin gửi biếu ông con chép để thỉnh thoảng ông cưỡi đi chơi.Ông Táo già lại hiện lên cám ơn cô bé và hỏi:– Cháu thấy con quái có sợ không?– Cháu chỉ thích được cha cháu cho cháu được cùng đánh với nó, nhưng cha cháu không chịu.Người cha sau đó bỗng bị ốm nặng.

Người mẹ và hai cô gái hết lòng chăm sóc.

Bệnh người cha có đỡ, nhưng sức khỏe thì không còn được như trước nữa.

Vài năm sau, ở vùng trong xa, bỗng xuất hiện một con quái cũng đầu người nhưng mình trăn.

Con quái này có sức khỏe ghê gớm.

Nó có thể quấn chết một con bò mộng chỉ trong chớp mắt.

Nó lại cũng thích ăn thịt trẻ con và có thể ăn một lúc đến mấy đứa.

Bà con vùng đó liền cử người ra mời cha con người đã giết con quái đầu người mình báo vào diệt quái giúp bà con.

Người cha nhìn cô gái nhỏ của mình hỏi:– Liệu con có nhận lời đi giúp bà con không?Cô gái nhỏ liền đáp:– Con xin cha mẹ và chị để cho con đi!Người cha nói:– Cha sẽ cùng đi với con, nhưng cha chỉ giúp con thôi.

Lần này chính con phải lo diệt quái đấy.

Người mẹ và chị càng lo lắng gấp bội.– Ông ơi!

Đường từ đây vào đó xa xôi cách trở.

Quái thì dữ ác mà con bé thì mới mười bốn tuổi, tôi sợ lắm.– Cha ơi!

Cha và em nhận lời, rủi có chuyện gì thì mẹ và con làm sao sống nổi.Cô gái nhỏ liền thưa:– Mẹ và chị à, con tuy còn nhỏ nhưng con có đủ sức để diệt quái.

Bà con đã ra nhờ lẽ nào mình lại từ chối.

Mẹ và chị cứ yên lòng.

Cha và con diệt xong quái sẽ trở về ngay.Thấy không can ngăn được, người mẹ và chị đành lo chuẩn bị mọi thứ cho hai cha con lên đường.

Trước đó người mẹ đã may áo mới cho hai con ăn tết, bây giờ bà liền hỏi cô gái nhỏ:– Con muốn mẹ nhuộm áo cho con màu gì?Cô bé nhìn ra ngoài đồi núi, rồi đáp:– Con rất thích màu vàng!Người mẹ liền giã nghệ nhuộm cho con một màu vàng thật tươi.

Ngày lên đường, cô bé mặc chiếc áo vàng, nhìn càng khỏe, càng đẹp.

Cô nói với mẹ và chị:– Diệt xong con quái lúc về con sẽ mặc áo này cho mẹ và chị nhận ra được con ngay từ xa...Trước khi đi cô gái cũng không quên khấn chào ông Táo đá núi và hứa:– Cháu sẽ trở về kể chuyện diệt quái cho ông nghe.Ông Táo liền hiện ra nói:– Chúc hai cha con mau trừ được quái.

ông sẽ chờ ngày trở về...Hai cha con đi ròng rã hơn một tháng trời mới vào đến nơi có con quái đầu người mình rắn.

Nghỉ ngơi được dăm ba ngày, hai người liền đi tìm quái để diệt.

Hai cha con đánh nhau với nó hai ngày liền mà không diệt nổi.

Sức của người cha thì cứ yếu dần.

Cô bé liền thưa với cha:– Cha ơi!

Ngày mai cha cứ để cho con bám sát nó.

Con sẽ đâm một con dao găm chặt đuôi nó vào thân cây này, đâm một con dao cắm chặt mình nó vào thân cây khác.

Nó không quăng mình đi được thì ta sẽ lựa thế mà chặt đầu nó đi.

Người cha biết cách đánh đó hay nhưng rất nguy hiểm.Tin vào tài nghệ của con, ông gật đầu:– Được!

Nhưng con phải đề phòng cẩn thận nếu nó dứt được đuôi ra.– Cha cứ yên tâm.Ngày hôm sau theo cách đánh ấy, hai cha con quả đã diệt được quái.

Nhưng trước khi chết nó đã quẫy mạnh một cái, dứt được cái đuôi ra khỏi mũi dao.

Sau đó nó liền cuốn ngay lấy người cô bé.

Cô bé vừa chặt được cái đầu con quái thì cũng bị con quái quấn gẫy cả xương mềm nhũn cả người.

Thấy con gái yêu của mình chết, người cha buông rơi cả thanh kiếm, chạy đến đỡ lấy xác con.

Bà con trong vùng cũng vừa chạy đến.

Họ đem xác cô gái về chôn cất rồi lập đền thờ.

Nhưng cô gái đâu chịu chết như vậy.

Vì cô biết rằng cha mẹ chị mình cùng bà con vùng trong, vùng ngoài đều yêu quý mình, mà cô cũng yêu quý và muốn sống với họ.

Cô xin thần Đất giúp cô biến thành một con chim lông vàng rực rỡ, một con chim chưa ai thấy bao giờ rồi bay về quê nhà xin gặp ông Táo đá núi:– Ông ơi!

Cháu bị con quái quấn chết.

Nhưng cháu mà chết thì mẹ cháu, chị cháu làm sao sống nổi.

Vậy đêm nay hăm ba Tết, ông có về trời ông hãy tâu với trời cho cháu sống lại...Ông Táo đá núi liền hứa:– Được, ông sẽ tâu giúp cho cháu...Con chim lông vàng rực rỡ liền bay xuống chỗ mẹ và chị đang ngồi, kêu lên mấy tiếng rồi bay đi.

Cũng vừa lúc đó người mẹ và chị biết tin là cô gái nhỏ đã không còn nữa.

Bà mẹ ngã ra chết giấc bên bếp lửa.

ông Táo đá núi liền đưa hai bàn tay ấm nóng áp vào trán cho bà tỉnh lại và nói ngay:– Bà cứ yên tâm.

Đêm nay về trời, tôi sẽ xin trời cho cháu sống lại.Hai mẹ con nghe nói mừng quá liền sụp xuống lạy tạ ơn.

Ông Táo đi tối hăm ba thì tối hăm tám ông trở về hạ giới.

ông nói với hai mẹ con:– Trời rất thương cô bé nhưng cháu chết đã quá ngày, xin sống lại quá chậm.

Vì vậy trời chỉ có thể cứu cho cháu mỗi năm sống lại được chín ngày.Hai mẹ con nghe nói vừa buồn nhưng cũng vừa mừng.

Thôi cứ được trông thấy con, thấy em trong giây lát cũng đã đỡ khổ rồi.

Huống gì lại được thấy đến chín ngày.

Bà mẹ liền hỏi:– Ông ơi!

Bao giờ thì cháu sống lại được?– Tùy hai mẹ con cứ cầu trời sống từ ngày nào, trời sẽ cho ngày ấy.– Vậy nhờ ông xin cho cháu sống lại ngay đêm nay!– Đêm nay thì chưa được, sớm nhất là phải từ đêm mai!– Vâng, ông xin cho cháu sống lại từ đêm mai vậy!Hai mẹ con suốt đêm hôm ấy cứ thức mãi.

Cả ngày hôm sau, hai mẹ con đều chẳng muốn làm gì.

Chỉ mong cho trời chóng tối.

Chờ mãi rồi trời cũng tối thật.

Hai mẹ con hồi hộp đợi, không biết con mình, em mình sẽ sống lại trở về như thế nào.

Định khấn gọi ông Táo thì bỗng nghe ngoài cổng có tiếng gọi:– Mẹ ơi!

Chị ơi!Hai mẹ con vụt chạy ra và thấy đúng là cô gái nhỏ đã trở về.

Trong chiếc áo vàng vẫn sáng lên nhìn rất rõ.

Ba mẹ con ôm nhau khóc như mưa.

Ngày hôm sau người cha cũng từ vùng trong trở về.

Dọc đường thương con, thương vợ ông chưa biết sẽ nói gì cho vợ và con ở nhà đỡ khổ.

Không ngờ khi về đến nhà đã thấy cô gái nhỏ đang nằm ngủ bên cạnh mẹ và chị.

Ông dụi mắt tưởng là con bé nhà ai đến chơi.

Khi biết cô gái nhỏ đã được sống lại, trở về ông liền ôm chầm lấy con và cứ để cho nước mắt chảy dài trên má.Cô gái nhỏ ăn Tết với cha mẹ và chị đúng chín ngày.

Trong chín ngày đó, cô gái nhỏ dành làm hết mọi công việc để giúp cha mẹ, giúp chị.

Nhưng cả nhà lại không muốn cô gái làm việc gì.

Trong chín ngày, họ sống bù cho cả một năm sắp phải xa nhau.

Đến đêm thứ chín trời vừa tối, cô bé vừa kịp ôm lấy cha, mẹ và chị để chào ra đi thì người cô bỗng cứ mờ dần như sương khói rồi biến mất.

Cả nhà buồn rầu, thương nhớ cô gái nhỏ vô cùng.

Nhưng nghĩ đến chuyện Tết năm sau, cô sẽ về, mọi người lại ôn ủi nhau, lại kiên nhẫn chờ đợi...

Và năm sau, cũng vào chiều hai chín Tết, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về ăn Tết với gia đình rồi đến tối mồng Bảy lại ra đi...

Năm nào cũng thế.

Nghe chuyện lạ, người vùng trong liền cử người ra mời cả gia đình vào sinh sống trong đó để bà con được trả ơn và gặp lại cô gái nhỏ đã giúp bà con diệt được con quái đầu người mình trăn.

Thấy sức người cha đã suy yếu, cả nhà bàn với nhau và nhận lời.

Từ đấy hàng năm, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về sống chín ngày cuối năm, đầu Xuân với cha mẹ, với bà con vùng trong.

Khi cha mẹ và chị đều mất cả, cô gái không về nữa.

Cô hóa thành một cây hoa ngay ở ngôi đền bà con đã dựng lên để thờ cô.

Cây ấy hầu như cả năm chỉ có lá, nhưng cứ vào khoảng gần Tết, hoa lại nở đầy.

Hoa màu vàng tươi như màu áo của cô gái nhỏ ngày trước.Hoa vui Tết với bà con khoảng chín mười ngày rồi rụng xuống đất, biến mất để năm sau lại trở về.

Cây hoa ấy ngày nay ta gọi là cây Mai Vàng.

Ngày Tết ở miền Trung và ở Nam Bộ, bà con thường mua một cành mai vàng về cắm trên bàn thờ ông bà.

Họ tin rằng, có cành mai vàng vừa đẹp nhà vừa vui Tết lại vừa có thể xua đuổi được hết các loài ma quái trong suốt cả năm.
 
Back
Top Bottom