Tâm Linh Lễ Vu Lan - Mùa Hiếu Hạnh

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
239410621-256-k905088.jpg

Lễ Vu Lan - Mùa Hiếu Hạnh
Tác giả: momo02z
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Lễ Vu Lan báo hiếu là ngày để cho những người con báo hiếu cha mẹ mình.

Ngày này được tổ chức vào rằm tháng 7 (15/7 âm lịch) hằng năm, nhưng ở chùa sẽ tổ chức làm lễ trong 3 ngày rằm lớn của tháng 7 là 14-15-16/7 âm lịch.

Sau đây là một số câu chuyện về ngày lễ Vu Lan cũng như là Nguồn Gốc, Ý Nghĩa của ngày lễ, mùa hiếu hạnh này.

Chúc cho tất cả mọi người, các vị Phật tử thanh tâm an lạc và gia đình ấm no, hạnh phúc🌹Nam mô A di đà Phật🙏 Tags: baohieulevulanmuahieuhanhnammoadidaphatnammodaihieumuckienlienbotat​
 
Lễ Vu Lan - Mùa Hiếu Hạnh
Lễ Vu Lan là gì?


Về ý nghĩa của chữ “Vu Lan”, Sư Phụ giảng giải: “Vu Lan có nghĩa là gì?

Từ Vu Lan không phải là chữ Hán mà từ Vu Lan được dịch từ tiếng Phạn, đó là Ullambana.

Ullambana dịch ra chữ Hán là Giải đảo huyền, trong tiếng Hán không có từ tương đương nên chúng ta dịch nguyên nghĩa từ tiếng Phạn là Vu Lan Bồn.

Vu Lan Bồn giống như chữ Ullambana.

Giống như tiếng “Buddha”, trong tiếng Việt đọc là Bụt, nhưng trong tiếng Hán đọc là Phật.

Đó là cách phiên âm, cách dịch.

Nghĩa của từ Ullambana hay Vu Lan Bồn này, chính là Giải đảo huyền.

“Đảo” là lộn ngược, “huyền” là treo lên, “giải đảo huyền” nghĩa là hóa giải tội bị treo ngược”.

Để đại chúng hiểu rõ hơn về lễ Vu Lan – tức lễ Giải đảo huyền, Sư Phụ giảng giải thêm: “Lễ Vu Lan gọi là lễ Giải đảo huyền, là cứu nạn bị treo ngược trong địa ngục, mà nói chung là cứu cái khổ cho những chúng sinh bị đọa trong địa ngục.

Những chúng sinh đó bị đọa địa ngục là do khi ở trên dương thế tạo các tội lỗi nặng nề.

Vậy, lễ Vu Lan là lễ có ý nghĩa cứu khổ trong địa ngục và từ đó có nghĩa là con cháu báo hiếu cho cha mẹ, tiên tổ”.

Theo lời giảng giải của Sư Phụ, lễ Vu Lan chính là một nghi lễ thiêng liêng, là cơ hội giúp chúng ta thực hành báo hiếu cha mẹ, tổ tiên, cứu những chúng sinh trong cảnh khổ của địa ngục.
 
Lễ Vu Lan - Mùa Hiếu Hạnh
Nguồn gốc của ngày lễ Vu Lan


Thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế, có gia đình bà Thanh Đề rất giàu sang, trưởng giả, có người con là Mục Kiền Liên.

Sau đó, Mục Kiền Liên xuất gia tu hành theo Đức Phật và chứng đắc Thánh quả A-la-hán, là đệ tử thần thông bậc nhất trong giáo đoàn của Phật.

Sau khi chứng đắc, Ngài nghĩ đến mẹ và rất thương mẹ.

Ngài dùng thiên nhãn soi khắp các cõi trong luân hồi xem người mẹ đã mất sinh về đâu.

Ngài soi lên cõi Trời, soi ở cõi người nhưng đều không thấy bóng dáng của mẹ.

Đến khi soi xuống cõi ngạ quỷ, Ngài thấy mẹ đọa sinh làm ngạ quỷ (tức là quỷ đói), bụng to như cái trống, cổ nhỏ như cây kim, vô cùng đói khát và khổ cực.

Biết đó là mẹ của mình, Ngài Mục Kiền Liên rất thương cảm.

Ngài đi khất thực, xin được một bát cơm đầy và dùng thần thông xuống cõi ngạ quỷ dâng bát cơm lên cho mẹ.

Khi chưa mất và đọa làm ngạ quỷ, bà Thanh Đề vốn có bản tính ích kỷ, tham lam.

Con là Ngài Mục Kiền Liên đi tu theo Phật, là đại đệ tử của Phật nhưng bà không tin Tam Bảo và nhân quả, bà phỉ báng Tam Bảo và còn làm nhục cả chúng Tăng.

Vì bản tính tham lam, ích kỷ ấy nên khi thấy Ngài Mục Kiền Liên xuống dâng cho mình bát cơm, bà rất mừng, nhưng lại sợ những ngạ quỷ xung quanh nhìn thấy, giành mất phần ăn của mình nên bà lấy tay che lại.

Không ngờ bát cơm lập tức biến thành than hồng, không thể ăn nổi.

Nhìn thấy cảnh khổ của mẹ, Ngài rất đau xót, mặc dù Ngài vận hết thần thông nhưng mẹ vẫn không thể ăn được, bát cơm vẫn cháy rực lên như than hồng.

Khi ấy, Ngài biết đó là ác nghiệp của mẹ, Ngài trở về bạch xin Đức Phật chỉ cách cứu mẹ.

Khi đó, Đức Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên chờ đến tháng 7 Âm lịch là ngày chư Tăng tự tứ, kết thúc 3 tháng an cư kiết hạ và cúng dường lên chúng Tăng.

Bởi trong 3 tháng này, chư Tăng thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tinh tấn tu hành trong hòa hợp thanh tịnh nên công đức tu tập rất lớn.

Cho nên, Đức Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên chờ đến mùa kết khóa an cư và dâng vật phẩm cúng dường lên chúng Tăng sẽ được phước báu rất lớn.

Và phần phước lớn ấy hồi hướng cho mẹ của Ngài thì có thể cứu được bà.

Vâng theo lời Phật dạy, Ngài Mục Kiền Liên tổ chức đại lễ cúng dường Đức Phật và thập phương Tăng nhân ngày tự tứ.

Sau khi chư Tăng thọ thực và chú nguyện phần phước báu cúng dường thì lập tức bà Thanh Đề chuyển được ác tâm, thoát kiếp ngạ quỷ và sinh về cõi Trời.

Từ câu chuyện của Ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ, để giúp đại chúng hiểu vì sao phước báu cúng dường chư Tăng lại có thể chuyển được ác tâm của bà Thanh Đề, khiến bà thoát khỏi cảnh khổ.

Sư Phụ giảng giải: “Thiện tâm hay ác tâm đều có từ trường của nó.

Khi một Tăng đoàn thanh tịnh, hòa hợp với nhau thì tạo ra một từ trường rất an lành, khiến cho ác tâm có thể chuyển hóa.

Và năng lượng ấy đã giúp cho những tâm ác, bất thiện của bà Thanh Đề được chuyển hóa.

Nhờ chuyển tâm như vậy, bà phát khởi được tâm thanh tịnh, tâm Bồ Đề; nên bà thoát được kiếp ngạ quỷ, sinh về Thiên cung.

Và không chỉ riêng bà Thanh Đề mà trong ngày hôm ấy, rất nhiều ngạ quỷ cũng được sinh về Thiên cung nhờ công đức mà Ngài Mục Kiền Liên cúng dường thập phương Tăng.

Đó là tích truyện trong kinh Vu Lan nói về Ngài Mục Kiền Liên cứu mẹ Thanh Đề thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.

Từ đó, kinh Vu Lan cũng được gọi là kinh Báo Hiếu.

Và tháng 7 Vu Lan của chúng ta cũng gọi là tháng con cháu nhớ ơn tiên tổ để báo hiếu”.

Như vậy, ngày lễ Vu Lan xuất phát từ tâm hiếu kính của Ngài Mục Kiền Liên – đệ tử thần thông bậc nhất trong Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế.

Nhờ tâm hiếu kính ấy mà ngày nay chúng ta có cơ hội được báo hiếu cha mẹ, ông bà, tổ tiên qua việc thực hành lời Phật dạy trong tháng vu lan báo hiếu.
 
Lễ Vu Lan - Mùa Hiếu Hạnh
Ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan


Theo góc nhìn của đạo Phật, sau khi bỏ báo thân, tùy theo nhân quả nghiệp báo của mỗi người mà quyết định tâm thức của họ được sinh vào cảnh giới lành hay dữ.

Nếu họ tái sinh vào 3 đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh thì sẽ phải chịu rất nhiều đau khổ,…

Do đó, trong tháng Vu Lan báo hiếu, chúng ta có thể làm những việc thiện lành để cầu siêu phả độ gia tiên, giúp họ thoát khỏi những cảnh khổ đó.

Sư Phụ chia sẻ: “Ý nghĩa của ngày lễ Vu Lan trong tháng 7 này là nhân mùa Tăng chúng kết thúc an cư kiết hạ, chư Phật dạy hàng Phật tử tại gia có tín tâm với Tam Bảo phát tâm đến chùa cúng dường Tam Bảo, chúng Tăng, để lấy công đức phước báu đó hồi hướng cho những người đã quá vãng trong gia tiên quyến thuộc nhà mình.

Nhờ phúc báu được hưởng, mà họ được tiêu trừ các nghiệp chướng từ nặng thành nhẹ, từ nhẹ được hết, từ nhẹ được siêu lên.

“Siêu lên” không phải là lập tức vong linh được bay lên trời ngay, mà là từ cõi thấp, trong trạng thái rất đau khổ, vong linh được bớt khổ hơn.

Có thể là vong linh từ trong địa ngục ngàn vạn năm thì giảm xuống chỉ còn ở trong địa ngục vài trăm năm, vài chục năm; nhẹ nữa thì có thể được ra khỏi địa ngục và tái sinh về cõi khác, có thể sang cõi ngạ quỷ, hoặc về làm súc sinh đỡ chịu khổ hơn.

Rồi nhẹ nữa thì từ ngạ quỷ có thể tái sinh lên làm người, hoặc là từ súc sinh thì bỏ thân súc sinh mà tái sinh làm người, hoặc cũng có trường hợp từ ngã quỷ có thể sinh lên cả chư Thiên.

Đấy đều được gọi là siêu thăng, “siêu” nhẹ lên, “thăng” là bay lên”.

Bởi tháng 7 Vu Lan là thời điểm công đức tu tập của chư Tăng rất lớn; cho nên nhờ công đức của thập phương Tăng chứng minh, chúng ta cúng dường Tam Bảo nhân dịp này sẽ được phước báu lớn.

Lấy phước báu lớn đó hồi hướng cho quyến thuộc đã quá vãng thì họ sẽ được hưởng phước báu đó và nhẹ bớt nghiệp, và có thể siêu sinh về cõi lành.

Không chỉ có vậy, qua mỗi mùa Vu Lan, nhân dân Phật tử lại được Sư Phụ nhắc nhở, chỉ dạy tâm hiếu của mình đối với cha mẹ.
 
Lễ Vu Lan - Mùa Hiếu Hạnh
Ý nghĩa bông hồng cài áo


Bông hoa hồng được chọn là biểu tượng của tình yêu, sự cao quý và ngát hương.

Việc nhớ về bậc sinh thành và cài lên ngực bông hoa cao quý là tình cảm đẹp nhất, là chữ Hiếu mà con cái gửi đến bậc sinh thành.

Với ý nghĩa đó, nhiều người Việt Nam cứ đến ngày Vu Lan đều cài một bông hoa màu hồng lên áo, ấy là biểu tượng của việc còn Mẹ - Cha.

Ngoài ra Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm cũng lý giải thêm rằng: “Ban đầu người ta chỉ dùng bông hồng đỏ tươi nhưng sau này nhiều nơi phân chia ra thành những bông hồng có màu sắc khác nhau.

Người nào con đủ cả cha mẹ thì cài bông hồng đỏ tươi, người nào chỉ còn cha hoặc mẹ thì cài bông hồng màu nhạt hơn chút, người nào đã mất cả cha mẹ thì cài bông hồng trắng”.

Người có hoa hồng hẳn sẽ tự hào vô cùng vì trên đời này còn có Mẹ - Cha.

Ai mang hoa trắng sẽ thấy như một sự nhắc nhở, rằng mình đã lỡ mất những gì quý giá nhất, từ đó mà hành động sao cho phải với lương tâm.

Tại sao các Sư thầy/cô cài áo màu vàng?

Các vị tu sĩ đã lìa bỏ đời sống thế tục để sống cuộc sống của người xuất gia.

Họ mượn thân tứ đại do cha mẹ sinh ra để “trên cầu giải thoát, dưới cứu độ chúng sinh”.

Cứu cánh đạt đến sự giác ngộ là cách báo ân tuyệt diệu nhất vì báo hiếu cho cha mẹ hiện đời và cha mẹ ở nhiều đời khác.

Thay vì cài bông hồng đỏ hoặc trắng để chỉ cho cha mẹ hiện tiền, việc đó rất là đúng, hợp với trời đất nhưng người tu sĩ còn có cha mẹ rộng hơn, lớn hơn, cao cả hơn - đó là tất cả chúng sinh, vì thế cài bông hồng vàng để tỏ rõ lý tưởng cao quý này.

Theo đạo Phật, màu vàng là màu của giải thoát như Vô thượng phước điền y, màu của Đất.

Trên đất, chúng ta có thể dẫm, đạp, cày xới, khạc nhổ hay làm bất cứ gì...đất vẫn trơ trơ, vì đất là sức sống, là nhẫn nhục, cưu mang tất cả, chấp nhận tất cả.

Vì coi tất cả chúng sinh là cha mẹ, là quyến thuộc, họ hàng và quan trọng nhất là những vị Phật tuơng lai.

Màu vàng còn là màu của tuệ giác, tượng trưng cho sự buông bỏ, xả ly, không chấp thủ và thành tựu giải thoát.

Do vậy, dù hòa mình trong ngày lễ Vu Lan thắng hội nhưng người tu sĩ cũng muốn mượn màu sắc của hoa màu vàng để nói lên tinh thần đúng nghĩa của mùa lễ Vu Lan là sự giải thoát.
 
Lễ Vu Lan - Mùa Hiếu Hạnh
Câu chuyện về hoa hồng cài áo


Dòng đời mãi trôi êm đềm theo thời gian, thấm thoát con chợt nhận ra mình đã lớn.

Mới ngày nào, con còn được bú móm, đúc cơm, được nâng niu vỗ về và được ngủ say trên chiếc võng đưa trong câu hát ru à ơi ngọt ngào của mẹ.

Lời ru ấy của mẹ đã ở trong giấc ngủ của con từ những ngày thơ bé và theo con cho đến tận bây giờ.

Con biết rằng ngày đó, không chỉ riêng con mà tất cả những đứa trẻ khác khi nghe lời ru ấy đều chỉ biết tròn xoe đôi đôi mắt ngây ngô, ngó nhìn vạn vật xung quanh và đòi cho bằng được tất cả những gì chúng con muốn.

Lớn thêm một chút, đến tuổi được cắp sách đến trường.

Dù cuộc sống có muôn ngàn khó khăn, nhưng mẹ cha vẫn cố gắng lo cho con được bằng bạn bằng bè.

Mẹ đã dậy sớm hơn khi vạn vật còn đang chìm trong màn đêm tĩnh mịch.

Những gánh hàng trĩu nặng đã theo mẹ tới đường xa.

Để từ đó, mẹ chỉ ước mơ con bằng đôi bàn tay đôi bàn tay thêm chai sạn, bằng đôi mắt mẹ ngày một mờ đi, bằng tấm lưng gầy ngày thêm oằn nặng, bằng đôi chân rung rãy nhưng vẫn vững vàng bước để dìu dắt con đi.

Con cha, con cảm nhận được tình thương không nồng nàng, dịu dàng như mẹ.

Nhưng con biết, tình thương ấy luôn song hành cùng tình mẹ cha cho con chân cứng đá mềm, cha gồng mình làm điểm tựa cho con, tiếp cho con niềm tin, ý chí và nghị lực để con vững chảy bước vào đời.

Giọt nước mắt muôn đời không úng cạn, giọt mồ hôi năm tháng chẳng hề vơi.

Đây tình cha muôn thuở vốn không lời, luôn lặng lẽ, âm thầm như chiếc lá.

Và cứ thế, con đã lớn lên bằng tình yêu thương và sự chở che của cha, của mẹ.

Mái tóc con ngày một óng ả, xỏa dài.

Đôi mắt con ngày một tinh anh, nhìn đời háo hức.

Đôi chân con đã bắt đầu biết rong rủi, tha phương và không còn muốn quanh quẩn trong vòng tay của cha, của mẹ.

Ngoài kia, một vòng tay lớn hơn đang chào đón con với những xa hoa, với những yêu thương mà con đã ngỡ tưởng rằng đó là hạnh phúc.

Con họp lặng, chìm đắm và mãi mê xa đà theo những thú vui tạm bợ để rồi lãng quên những ngày tháng êm đềm bên lời ru ầu ơ của mẹ năm nào.

Con đâu biết những chiều hoàng hôn xuống, mẹ lặng thầm tựa cửa ngóng con xa.

Đôi mắt mẽ lệ nhòa khô màu nhớ, ngóng con thơ bàn bạt chốn xa mờ.

Rồi đến một lúc nào đó, giữa trường đời ta trượt chân vấp ngã, chợt nhớ về những ngày bình yên bên mẹ, bên cha.

Ta như muốn tìm lại chút dư âm ngày xưa ấy, muốn được nghe lại lời cha khuyên bảo thuở nào, muốn được nằm trên cánh võng đong đưa và thèm được nghe câu hát ru của mẹ thời thơ bé.

Nhưng còn đâu bao năm tháng ấy, bởi thời gian đã phủ lên màu tàn úa.

Bóng mẹ gầy, cha còn cõi vì ai.

Mẹ ơi, cha ơi!

Con chẳng hề hay biết đến những buổi chiều tà cha trông trước cửa, mẹ ngóng cửa sau.

Dõi tìm con nơi phương trời nào vô định, ánh mắt đăm chiu, đau đáu nỗi niềm không biết nơi xa kia con có được bình yên, hạnh phúc?

Có những khi nghe tiếng bước chân, mẹ lại ngỡ như ta đã về bên mẹ, mẹ vội vàng choàng dậy chạy ra ngõ đón chờ ta nhưng rồi lại thất vọng, lại đợi chờ dù biết rằng "bặt vô âm tính".

Chiều nay, con chợt nhớ quê xưa, nhớ mẹ cha nơi xóm nghèo thanh lương, lòng bùi ngùi bước đi trong khoảng vắng của bao tháng ngày bôn ba.

Mái tranh xưa, giờ liêu xiêu một gốc vườn, như buồn, như tủi, như ngóng cùng trông.

Nơi ấy, con đã có một thời tuổi thơ bên cha cùng mẹ, nơi con được ấp ủ cùng yêu thương của lứa tuổi hồn nhiên.

Nhưng lối về nay sao lạ quá, bóng rêu xanh dường như phủ kín cả con đường, trước hiên nhà cỏ đã mọc đầy sân.

Con cất tiếng gọi cha, nhưng... cha con đâu?

Con cất tiếng gọi mẹ, nhưng sao không nghe tiếng trả lời?

Lặng người con chợt thấy bơ vơ, tìm quanh ngỏ trước vườn sau không một bóng người. mẹ ơi, cha ơi!

Con chạy vào căn phòng vắng, chiếc áo này là của cha, đôi dép kia là của mẹ.

Kỷ vật ngày nào vẫn còn nguyên vẹn đó mà bóng người xưa giờ khuất dạng nơi đâu?

Ta mất mẹ trôi ngày tháng rất lê thê, trong ảo giác tìm đâu ra thực nữa?

Quê xưa buồn quặn quẽ, vắng bóng mẹ hiền ơi, chuỗi ngày thơ ta đong đầy những kỷ niệm khôn nguôi đã sớm vụt khỏi tầm tay trong khoảnh khắc.

Mẹ ơi, cha ơi!

Có phải con đã quá hờ hững, quá vô tâm đã bỏ những người trong hiu quạnh, cô đơn của những tháng ngày mong nhớ, đợi chờ.

Bao ngày qua, mãi tìm những tham vọng nơi cõi đời mà con quên rằng bên con còn có mẹ, có cha.

Rồi bất chợt, con nhận ra mẹ cha đã ở tuổi xế chiều và bàn hoàn khi nghĩ đến ngày buồn.

Khi bên đời, con không còn hình bóng của người nữa.

Khi cha mẹ đã ra đi, để lại một mình con cô giữa dòng đời muôn lối.

Lúc còn mẹ con còn tất cả, mẹ đi rồi tất cả cũng đi.

Mẹ ơi con chẳng còn gì, bơ vơ đến đổi khi đi lúc về .

Cha mẹ ơi!

Giờ đây khi con được làm cha, làm cha, làm mẹ con mới có thể thấu hiểu được phần nào tấm lòng của người.

Chẳng thể có ngôn từ nào có thể diễn tả được sự hy sinh tột cùng ấy, có mang nặng đẻ đau chờ đợi từng tháng từng ngày mong ngóng đứa con thơ cất tiếng khóc chào đời.

Con mới biết, mẹ đã phải chịu mọi đắng cay đến nhường nào.

Mẹ sinh con cưu mang 10 tháng, cực khổ dường gánh nặng trên vai, uống ăn chẳng đặng vì thay cho nên thân thể, hình hài kém suy.

Khi sinh sản hiểm nguy chi siết, sanh đặng rồi tinh huyết dằm dề.

Ví như thọc huyết trâu dê, nhất sanh thập tử nhiều bề giang nan.

Cha ơi, mẹ ơi!

Hôm nay con về đây, xin cho con được quỳ trước mẹ, trước cha để nói lời tri ân ân và tạ tội.

Con đã quá vô tâm mà quên lãng tình cha, quên đi thâm ân của mẹ.

Để có thể ai trong chúng con ở đây, ngày hôm nay đã từng được cài lên áo của cha mẹ mình một bông hồng đỏ thắm?

Tượng chưng cho sự kính yêu và niềm biết ơn vô hạn.

Nhưng cũng có thể có rất nhiều người trong chúng con chưa một lần làm điều thiêng liêng ấy.

Mùa Vu Lan năm nay, chúng con mong ước rằng sẽ có thể cài lên ngực áo của cha mẹ một đóa hồng tươi thắm.

Các bạn ơi, thật hạnh phúc vào vui sướng thay cho những ai còn cha còn mẹ trên đời.

Vì khi ấy, nghĩa là ta còn có một vùng trời bình yên, xin hãy trân trọng điều đó.

Và giờ khắc này đây, hãy cài lên ngực áo một đóa hồng đỏ thắm.

Màu của sự yêu thương, màu của bao vất vả, gian lao mà hai đấng sinh thành đã chắc chiu cho ta trưởng thành qua bao năm tháng.

Màu ấy như một điều nhắc nhở để ta phải nhớ về nguồn, về cội, về những thâm ân to lớn của mẹ cha mà ta phải phụng dưỡng, đáp đền.

Màu hồng nhớ, màu hồng thương, màu hồng đã gói trọn vấn vương bởi những lo lắng tảo tần suốt một đời cho ta, vì ta tất cả.

Xin bạn hãy giữ gìn và nâng niu, đừng bao giờ làm phai nhạt, hãy yêu thương và lo lắng cho người.

Còn nếu bạn bất hạnh vì đã mất mẹ, mất cha xin hãy lặng lẽ cài lên ngực áo của mình đóa hoa buồn trinh trắng.

Bạn hãy cài hoa và hãy hướng nguyện về cha mẹ mình bằng tất xả những gì thiên liêng và cao cả nhất.
 
Back
Top Bottom