Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam

Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 140: Phiên Ngoại: Nữ Hồn – Phần 2



Mưa ở Vân Tiên thành sau ba ngày ròng rã rốt cuộc cũng đã dứt. Sau khi mưa tạnh, tiệm bán bánh quế cũng mở cửa trở lại.

Khương Thanh Tố đặc biệt ra ngoài, xếp hàng trước cửa tiệm bánh quế, người mua không ít. Trong tiệm nhỏ thường chỉ có đôi phu thê bận rộn, hôm nay lại có thêm một thiếu nữ chừng mười lăm, mười sáu tuổi. Nàng không cao, thân hình hơi tròn, gương mặt bầu bĩnh giống đứa trẻ không lớn của Chung Lưu, đôi mắt to tròn long lanh, khi cười cong cong nơi khóe mắt, trong tay cầm một thanh dao dài đang cắt bánh quế.

Bánh quế ở Vân Tiên thành được làm thành một khối lớn, sau đó cắt thành từng miếng nhỏ. Thiếu nữ kia tuy động tác không nhanh, nhưng rất cẩn thận, miếng bánh nào cũng nguyên vẹn, đều đặn.

Khương Thanh Tố vận váy dài màu xanh nước, tóc cài trâm ngọc, đứng cuối hàng, nghe thấy thiếu nữ ấy ngọt ngào gọi hai vợ chồng đang bận rộn là “cha, nương”.

Nàng chưa từng gặp thiếu nữ này, chỉ nghe người xếp hàng phía trước nói: “Lão Điền, con gái ông từ Lâm thành về rồi à? Lớn thế này rồi cơ đấy.”

“Phải, trước kia gửi nuôi bên nhà ngoại, bên này bận bịu chẳng chăm sóc được nó. Giờ nó lớn rồi, nên đón về.” Ông chủ họ Điền nhanh nhẹn gói bánh quế đưa cho người kia: “Của ngươi đây, hôm nay ta thêm hai miếng đấy.”

“Ồ, cảm ơn nhé!” Người nọ cầm bánh rời đi, Khương Thanh Tố tiếp bước, phải qua hai người nữa mới tới lượt nàng. Bánh phía trước đã bị mua sạch, chỉ còn hai miếng, nếu muốn ăn nàng phải chờ thiếu nữ kia cắt thêm.

“Xin thứ lỗi, phải đợi một chút.” Lão Điền nói.

Khương Thanh Tố mỉm cười nhẹ giọng đáp: “Không sao, đồ ngon, ta chờ được.”





Nàng vừa nói xong, ánh mắt đã rơi lên khuôn mặt thiếu nữ đang bận rộn mà vẫn mỉm cười kia. Bánh vừa được cắt xong, lão Điền liền gói nhanh cho Khương Thanh Tố, hai miếng còn lại cũng được gói thêm vào.

Con gái lão Điền được gửi nuôi bên nhà ngoại mười năm, giờ mới đón về, trong lòng vui sướng, hôm nay ai đến mua bánh lão cũng tặng thêm hai miếng.

Khương Thanh Tố nhận lấy bánh quế, nói với lão Điền: “Ông tặng ta hai miếng bánh quế, đã không lấy tiền, vậy ta cũng tặng cho tiểu cô nương nhà ông mấy lời.”

Lão Điền ngẩn người nhìn nàng – chưa từng gặp qua, nhưng phong thái bất phàm, đứng thẳng, nụ cười như gió xuân mơn man, quả thật không giống người thường.

Ông không đoán được nàng định nói gì, đành quay sang nhìn con gái mình.

Ánh mắt Khương Thanh Tố rơi lên thiếu nữ ấy, hỏi: “Tên ngươi là gì?”

Thiếu nữ mở to mắt khó hiểu, chớp mắt rồi khẽ đáp: “Ta… ta tên là Điền Linh.”

“Linh? Chữ ‘Linh’ thuộc Hỏa. Vân Tiên thành dựa núi kề sông, không hợp cho ngươi cư trú. Ngươi được đưa ra khỏi thành nuôi dưỡng là chuyện đúng đắn, nếu không từ nhỏ sẽ hay đau ốm.” Khương Thanh Tố nói.

Lão Điền nghe xong nhìn vợ, quả thực là vậy – Điền Linh khi năm tuổi đã được gửi sang nhà ngoại dưỡng bệnh, trước đó bệnh tật không ngớt, nếu không ai nỡ để con xa mình chứ?

Khương Thanh Tố lại tiếp lời: “Có điều, ta thấy mặt mũi ngươi có phúc, sau này chưa chắc sống ở Vân Tiên thành, e rằng phải đến phương Bắc. Ở lại nơi này thân thể ngươi sẽ yếu, dù thuốc có nhiều, nữ nhi cũng không thể suốt đời sống nhờ thuốc. Nếu rảnh, nên thường đến chùa, nơi đó hương khói thịnh, rất có lợi cho ngươi.”

Nói xong, nàng khẽ gật đầu rồi quay người rời đi.

Điền Linh nghe xong vẫn chưa hiểu rõ, nhìn lại cha mẹ, lão Điền hỏi vợ: “Nàng ấy nói thật chăng?”

“Phương Bắc? Là nơi nào? Kinh thành sao?” Vợ ông hỏi liền ba câu, nhưng ngay sau đó có người khác đến mua bánh, họ vừa nói vừa cười, chuyện lúc trước cũng bị dần quên đi.

Khương Thanh Tố xách bánh quế quay về. Đơn Tà đang đứng dưới liễu gần đó thấy nàng bước chân nhẹ nhàng như nhảy múa, liền chạy vài bước đến bên hắn, đưa tay khoác lấy tay hắn, chẳng khác gì dính chặt vào người.

“Vừa rồi nàng nói gì thế?” Đơn Tà hỏi.

Khương Thanh Tố đáp: “Thấy cô bé dễ thương, bèn chỉ điểm đôi câu. Nghe được thì tốt, không nghe được cũng chẳng sao.”

Đơn Tà đưa tay chọc nhẹ má nàng, Khương Thanh Tố phồng má nhìn hắn. Đơn Tà hơi dùng sức, khí trong má nàng bị xì ra phát tiếng lạ, nàng thấy buồn cười, liền cười ha hả.

Đơn Tà bất lực, trong mắt cũng ánh lên ý cười, cùng nàng trở về.

Nàng đến Vân Tiên thành chỉ vì món bánh quế và không khí nhộn nhịp buổi đêm như hội chùa.

Hai hôm trước mưa xuân khiến các tiết mục chuẩn bị sẵn phải dừng lại. Người dân nơi đây chuộng náo nhiệt, mùng một mười lăm đều phải treo đèn cầu khấn. Hôm nay mưa tạnh, nhiều nhà đã treo lụa đỏ trước cửa, theo gió bay bay, rất đẹp mắt.

Về đến Vô Sự Trai, Khương Thanh Tố tìm hai cuốn sách ra lầu trà phía sau đọc. Vài năm trước nàng từng gieo hạt hoa nghênh xuân nơi hậu viện, đến nay đã leo kín nửa bức tường, lá xanh bị mưa rơi dập tơi tả mấy hôm trước, sáng nay đã nở rộ một bức tường vàng nhạt, đẹp vô cùng.

Khương Thanh Tố đặt bánh quế lên bàn, Lê Thái Hòa pha cho nàng một ấm trà ngon. Sách mới lật được vài trang, hương hoa nghênh xuân hòa cùng mùi bánh và trà, hơi hỗn tạp mà vẫn dễ chịu.

Vừa ăn bánh, Khương Thanh Tố vừa nói: “Hôm qua lão Lê kể ta nghe vài chuyện cũ, chàng có muốn nghe không?”

“Chính nàng muốn kể đúng không?” Đơn Tà tay cầm ly trà còn bốc hơi, giọng phản vấn khiến Khương Thanh Tố bật cười.

“Chàng còn nhớ Giang Nhu và Lôi Nguyệt Nhược chứ?” nàng hỏi.

Đơn Tà nhíu mày, khẽ ừ một tiếng. Kỳ thực nếu nàng không nhắc, hắn chẳng thể nhớ ra.

“Hồi Nhân Quỷ thư bị hủy, Tô Cừu từng viết tên Giang Nhu lên đó, cứu sống con trai chủ tiệm thuốc họ Ngô ở phía bắc thành. Kẻ đó tên là Ngô Dần, chính là Giang Nhu đã tẩy sạch hồn phách ký ức.” Khương Thanh Tố nói tiếp: “Giang Nhu dù quên mất bản thân là ai, nhưng tính cách vẫn ôn hòa dễ gần, hoàn toàn trái ngược với Ngô Dần khi còn bệnh. Hắn khỏi bệnh rồi thì chăm chỉ học thuốc, giờ đã mở thêm ba tiệm phân nhánh.”

“Đó là chuyện tốt.” Đơn Tà nói.

Dẫu không làm quan, cũng có thể sống sung túc.

“Chỉ tiếc cho Lôi Nguyệt Nhược, không được may mắn như vậy.” Khương Thanh Tố khẽ thở dài, “Nàng từng có một đoạn nhân duyên với Giang Nhu, nhưng đáng tiếc… việc Tô Cừu và cái chết của Giang Nhu đều là đả kích lớn với nàng. Lão Lê bảo, một năm sau cái chết của Giang Nhu, nàng đã vào am cạo đầu tu hành.”

“Thế cũng là chuyện tốt.” Đơn Tà nói.

Bi thương lớn nhất là khi tâm đã chết. Nàng ấy đã hai lần tuyệt vọng, vậy thì khó mà đ.ộng tì.nh thêm lần nữa. Thà rằng tuổi xuân đi qua bên ánh đèn chùa, tâm an tĩnh, còn hơn gả cho một người không yêu, lại phải chịu ràng buộc trăm mối. Ở nơi hương khói linh thiêng, cũng là tích phúc tích đức.

Khương Thanh Tố ngẩng đầu nhìn Đơn Tà. Nàng nói bao nhiêu lời, đối phương chỉ thản nhiên, bèn bĩu môi: “Sao chàng trông chẳng có chút hứng thú gì vậy? Nếu Thẩm có mặt, thể nào cũng tám chuyện với ta cả buổi.”

Đơn Tà đáp: “Thẩm hứng thú với mọi chuyện, ta chỉ hứng thú với nàng.”

Lời tỏ tình bất ngờ khiến mặt Khương Thanh Tố đỏ bừng. Nàng cầm ly trà uống một ngụm, chẳng nếm được vị gì, lại nói: “Vậy thì không nói chuyện cũ nữa, nói chuyện của hai ta đi.”

“Chuyện của chúng ta?” Đơn Tà nhướng mày.

Khương Thanh Tố đưa tay sờ má, trong miệng ngậm một miếng bánh quế, nói lúng búng: “Lão Lê nói tối nay trong chùa có dây tơ hồng.”

“Tốt.” Khóe môi Đơn Tà khẽ nhếch lên.

Khương Thanh Tố lầm bầm: “Ta còn chưa nói gì mà chàng đã tốt cái gì rồi?”

“Ta muốn buộc với nàng.” Đơn Tà đáp.

Khương Thanh Tố chớp mắt, mặt nóng ran, liền chỉ ra ngoài cửa sổ đánh trống lảng: “Đơn đại nhân nhìn kìa, mùa này mà có bướm.”

“Đó là con thiêu thân.” Đơn Tà đáp.

Khương Thanh Tố lập tức bĩu môi lườm hắn, Đơn Tà liền sửa lại: “Là bướm.”

Khương Thanh Tố nhịn không nổi bật cười, cảm thấy bản thân thật trẻ con, mà Đơn Tà cũng chiều nàng đến thế.

Buổi tối hội chùa quả thật náo nhiệt, trời vừa tối đã thấy người bán hoa đăng đầy đường. Hoa đăng ở Vân Tiên thành thô hơn những nơi khác Khương Thanh Tố từng đi, nhưng vì người dân nơi này thích đông vui, nên hoa đăng lại nhiều kiểu, có cả hình đầu heo, trẻ con thích mê.

Khương Thanh Tố chỉ định lưu lại Vân Tiên thành vài ngày. Nay bánh quế đã được ăn, hội chùa cũng đã thưởng, ngày mai là lúc rời đi.

Sau bữa tối tại Vô Sự Trai, nàng và Đơn Tà cùng ra ngoài. Dù hôm nay không mưa, nhưng bầu trời cả ngày u ám, đến chiều vẫn chẳng thấy hoàng hôn, nên Đơn Tà ra cửa vẫn mang theo ô.

Khương Thanh Tố khoác tay hắn cùng đi về phía chùa – nơi náo nhiệt nhất. Càng gần chùa, người lại càng đông.

Nhiều đứa trẻ ôm đồ chơi trong tay, hoặc chơi ném túi cát bên lề đường, thi thoảng trúng vào người qua lại, bọn trẻ lại cười toe toét xin lỗi rồi chạy về chỗ bạn tiếp tục chơi.

Khương Thanh Tố mua một chiếc hoa đăng hình cá chép, bốn mặt che kín, đáy để trống đặt nến. Nến bên trong không bị gió tắt, nếu nàng đi nhẹ tay, đèn có thể sáng suốt đường.

Nàng còn mua vài món vặt, bọc trong giấy dầu, đặt vào tay Đơn Tà. Nàng ăn xong, Đơn Tà lại đút tiếp một viên. Hai người đi tới cổng chùa – nơi náo nhiệt nhất, nhiều ông lão râu tóc bạc phơ ngồi trải chiếu đoán số, xem quẻ.

Trước cổng chùa có một cây bồ đề, trên treo nhiều dải lụa cầu nguyện, dưới mỗi dải là một loại trái cây – cam, táo, lê… ý là lấy hương thơm quả dâng lên Phật, mong điều ước ghi trên dải lụa thành hiện thực.

Khương Thanh Tố tìm mãi mới thấy “dây tơ hồng” mà lão Lê từng nhắc đến. Dây màu đỏ, bày bên trái chùa, trên một giá dài treo rất nhiều sợi đỏ, mỗi sợi nối hai thẻ tre nhỏ, buộc bằng nút chết không thể tháo.

Thấy rồi, nàng kéo Đơn Tà chạy tới. Hai bên dây tơ hồng có hai vị đại sư đứng đó. Người lấy dây sẽ viết tên mình lên thẻ tre, rồi có thể nhờ đại sư tụng chú gia trì.

Thần tiên sáng tạo thế gian đang ngay bên cạnh nàng, nàng lại coi như không thấy, đi tin mấy chú tiểu tụng vài câu Pháp Hoa.

Đơn Tà sẵn lòng cùng nàng ngây thơ, thấy nàng lấy hai thẻ tre, xếp hàng chờ bút mực. Đến lượt, nàng viết tên mình trước, rồi quay lại đưa bút cho Đơn Tà, mắt mỉm cười.

Trước cửa chùa, hương trầm nồng đượm, thoảng chút mùi nến cháy. Hai bên rực ánh nến lung linh, ánh sáng cam đỏ nhảy nhót trong mắt Khương Thanh Tố.

Nàng nghiêng đầu mỉm cười nhìn Đơn Tà – khoảnh khắc ấy khiến hắn ngỡ bản thân là một phàm nhân bình thường, đang ở bên người mình yêu nhất.

Giây phút ấy hắn thấy bối rối, tiếc nuối vì mình chẳng phải phàm nhân – e rằng lỡ mất nhiều thú vị giữa người thường và ái tình. Nhưng lại may mắn không phải phàm nhân – bằng không, mấy mươi năm bên nhau sao có thể đủ?

Hắn cầm bút, viết tên mình lên thẻ tre.

Khương Thanh Tố nhìn thấy, liền nói: “Đơn đại nhân, chữ đẹp thật đấy!”

“Thích không? Ta viết tặng nàng một bức nhé.” Đơn Tà nói.

Khương Thanh Tố lập tức gật đầu: “Được, chàng tặng ta một bức. Vậy năm sau ta mang đi dự hội văn nhân ở Tô Thành, khoe với mọi người có được không?”

Đơn Tà nghe thế liền nhíu mày, hỏi: “Nếu ta viết ‘Si tâm bất diệt hệ Phi Nguyệt, dẫu đối diện vẫn tương tư’ thì sao? Nàng còn khoe chứ?”

Khương Thanh Tố: “…”

Không… không khoe nữa đâu…
 
Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 141: Phiên Ngoại: Nữ Hồn – Phần 3



Khương Thanh Tố nhấc sợi dây tơ hồng trong tay, bước tới trước mặt vị đại sư. Đại sư liếc nhìn hai người, chắp tay niệm một tiếng “A Di Đà Phật”, sau đó ra vẻ trang nghiêm, tính toán tên họ họ vừa viết lên, đọc vài câu kinh văn, rồi đem thẻ tre nhúng qua bể nước phía sau, mực vẫn còn mờ mờ chưa tan. Đại sư nói: “Hai vị thí chủ trời sinh một đôi, duyên tình khó đứt.”

Khương Thanh Tố liếc nhìn dòng chữ trên thẻ tre, khẽ mím môi cười, đón lấy dây tơ hồng rồi dẫn Đơn Tà tới gian nhà nhỏ gần chùa – nơi người ta thường treo dây tơ hồng.

Gian nhà nhỏ vốn là nơi thắp nến và dâng hương, vì có mái che mưa nên sau này trở thành chỗ treo dây tơ hồng. Trên đỉnh mái treo đầy những sợi chỉ đỏ, có chữ đã phai mờ, có cái vẫn rõ ràng, có cái hầu như chỉ còn bóng mờ.

Người ta nói, thẻ tre sau khi nhúng nước, chữ nào hiện rõ thì duyên càng sâu.

Khương Thanh Tố ngẩng đầu muốn treo dây lên, nhưng phát hiện mình không đủ cao. Đơn Tà vươn tay đón lấy dây, nhẹ nhàng treo nó lên móc gỗ trên mái, thẻ tre đong đưa, hòa vào bao nhiêu cái tên khác đã từng gắn kết.

Khương Thanh Tố cười mím chi, lùi lại một bước nói: “Chàng ra tay rồi phải không?”

Đơn Tà cúi mắt nhìn nàng, lúc này nàng đứng ngay trước hắn, chỉ cần lùi thêm nửa bước là giẫm lên mũi giày hắn, vai tựa vào ngực hắn, ngẩng đầu nhìn tên hai người viết trên thẻ tre.

Ánh nến không xa vẫn nhảy múa trong mắt nàng, nàng cười nhè nhẹ, hỏi câu đó như thể tuỳ tiện, cũng chẳng đòi câu trả lời.

Đơn Tà không đáp, xem như ngầm thừa nhận.

Những trò khéo léo nhân gian, chỉ nhìn thời gian mực in thấm nước để đoán “duyên sâu duyên nông”, thẻ tre của họ lúc nhúng nước có chút nhòe, khiến Đơn Tà không hài lòng, nên hắn liền ra tay khắc hằn hai cái tên đó lên thẻ. Từ nay về sau, hai cái tên buộc chung ấy sẽ mãi không phai, dẫu qua năm tháng, thời gian cũng không thể xoá đi, bởi hắn nguyện gắn bó với nàng mãi mãi.

Khương Thanh Tố khẽ đẩy thẻ tre, âm thanh va chạm lách cách vang lên, giống như chuông gió, rồi nhanh chóng ổn định.

“Đi thôi.” Khương Thanh Tố nói, Đơn Tà “ừ” một tiếng, quay người nắm tay nàng.

Hai người bước ra khỏi gian nhà nhỏ, Khương Thanh Tố tình cờ trông thấy một bóng người quen.

Cô gái ấy không lớn lên ở Vân Tiên thành, nên khi bước vào hội chùa còn bỡ ngỡ, tay cầm ba nén hương – có lẽ được nhà sư ở đầu đường phát cho lúc vừa đến.

Tiệm bánh quế đóng cửa xong, Điền Linh liền xin phép cha mẹ đi hội. Nàng thay một bộ váy mới, không phải bộ mặc lúc làm việc – váy hồng nhạt ôm lấy dáng người hơi tròn, đôi mắt to tròn nhìn quanh, vừa tò mò vừa e thẹn, như chưa thật sự hòa nhập.

Khương Thanh Tố vừa định theo lối cạnh gian nhà nhỏ quay về thì ở cuối đường lại trông thấy một bóng người quen khác – Ngô Như Ý, người sáng qua che ô đưa thuốc đến Vô Sự Trai, tay lại đang xách thuốc, gặp ai quen liền đưa, chẳng hề than mệt.

Điền Linh cầm hương, lấy dũng khí hỏi lão thầy bói bên đường: “Thưa ông, dâng hương thì vào bên trong ạ?”

Lão bói chỉ về lư hương lớn giữa chính điện: “Dâng hương ở cổng, muốn lễ Phật thì vào trong.”

“Cảm ơn ông.” Điền Linh lễ phép cảm ơn, rồi học theo người khác châm hương bên lò nến, châm xong thì đứng trước đại điện, lễ bốn hướng, sau đó cắm hương vào lư lớn.

Lư hương trong điện đã đầy, khói trầm lượn lờ bay ra, hương thơm dìu dịu. Thấy người ta vào trong, nàng cũng bước theo.

Muốn lễ Phật phải xếp hàng. Ba chiếc bồ đoàn phía trước đã có người quỳ, nàng đứng sau quan sát mọi thứ.

Phật tổ dát vàng sáng chói, Bồ Tát đứng hai bên, hương trong điện nhạt hơn ngoài, nhưng tĩnh lặng. Bên phải có hai nhà sư đang gõ mõ, âm thanh nhẹ nhàng, miệng tụng kinh nhỏ, tất cả đều khiến nàng thấy mới lạ.

Sau khi đưa xong thuốc, Ngô Như Ý mới thở phào, duỗi lưng, dùng dù gõ nhẹ lưng. Thấy có người bán kẹo mạch nha, nhớ em trai thích ăn liền mua một gói.

Vừa mua xong thì trước điện có tiếng kêu khe khẽ – ai đó khi đốt hương làm cháy áo, may mà nền đất ẩm, lăn một vòng là lửa tắt, rồi còn bị người khác cười.

Ngô Như Ý bật cười, nhìn đám hương trước chính điện, cất kẹo vào người, rồi bước lên thềm vào trong.

Điện không đông người, chỉ có một nữ tử mặc váy hồng đang quỳ ở giữa. Nhớ ra mấy tháng tới mình thi tú tài, hắn quỳ vào bồ đoàn bên trái, vái vài cái, niệm mấy lời khấn thầm, chợt nghe giọng ngọt ngào vang bên cạnh.

“Xin hỏi, xem giải quẻ ở đâu ạ?”

Ngô Như Ý ngẩng đầu nhìn – chỉ thấy bóng lưng nàng. Nhà sư chỉ hướng, nàng cảm ơn, cười nhè nhẹ, quay đầu lướt qua ánh nến ngoài điện, gương mặt hơi tròn rộ lên hai lúm đồng tiền nhẹ, khiến hắn ngẩn người, chớp mắt mới hoàn hồn.

Nàng bước ra, vô tình làm rơi khăn tay cài bên hông, đang mải xem quẻ nên không để ý.

Ngô Như Ý “ối” một tiếng, lập tức đứng dậy, nhặt lấy khăn – trên đó thêu nhành quế. Ngước nhìn nàng, hắn vội đuổi theo.

“Cô nương! Cô đánh rơi cái này!”

Chạy vài bước, hắn đưa khăn ra. Điền Linh liếc qua rồi cúi nhìn bên hông, lập tức “ối” lên một tiếng: “Đa tạ công tử!”

Nàng nhận lại khăn, Ngô Như Ý cũng thấy tờ quẻ trên tay nàng, chỉ mỉm cười: “Không có gì.”

Điền Linh gật đầu, ngẩng đầu nhìn quanh, thấy hắn vẫn chưa đi, Ngô Như Ý liền chỉ hướng: “Nếu muốn giải quẻ, bên kia kìa.”

“Cảm ơn!” Điền Linh lại nhoẻn miệng cười, lúm đồng tiền lại hiện, mày mắt cong cong như cất sao, chiếc mũi nhỏ xinh, hai chiếc răng khểnh đáng yêu. Nói xong, nàng quay người rời đi.

Ngô Như Ý khẽ đưa tay sờ mũi, ánh mắt vẫn dõi theo bóng lưng thiếu nữ vừa khuất, xác nhận nàng đã thật sự đi giải quẻ rồi mới nhoẻn miệng cười – hương quế nhè nhẹ vẫn còn vương lại trên tay áo.

Hai người họ chia tay nhau trước chính điện Đại Hùng Bảo Điện, lại đồng thời quay đầu nhìn lại.

Khương Thanh Tố trông theo hai bóng người ấy, tim khẽ rung lên. Nàng quay đầu nhìn Đơn Tà – suốt chừng ấy thời gian, hắn vẫn đang nhìn nàng.

Nàng khẽ đẩy tay áo hắn, cười tinh nghịch: “Phu quân, thiếp cũng muốn ăn kẹo mạch nha.”

Đơn Tà thoáng ngừng lại, nghiêng đầu bật cười: “Mua.”

Trên trời không có sấm, nhưng mưa nhỏ lại bắt đầu rơi. May mắn là Đơn Tà có chuẩn bị, bung ô che cho cả hai. Tiếc rằng ông lão bán kẹo không mang theo ô, đành vội vã thu dọn sạp hàng rút đi. Nhiều người quanh đó vì cơn mưa bất chợt mà trở tay không kịp. Ngô Như Ý đi được vài bước rồi cũng dừng lại tại chỗ.

Điền Linh – mặt còn ửng hồng sau khi giải quẻ – vội chạy vào đình nghỉ tránh mưa. Những người đến dâng hương cũng đều hoảng hốt như nàng, chật kín gian đình. Thấy nàng đứng ngoài mép, Ngô Như Ý hít sâu, bước tới.

“Là cô nương sao?” Điền Linh giật mình.

Ngô Như Ý nói: “Ta… ta đưa cô về nhé?”

Điền Linh ngẩng đầu nhìn chiếc ô trong tay hắn, rồi lại nhớ đến lời quẻ khi nãy, khẽ mỉm cười, bước vào dưới ô, nhẹ nhàng đáp: “Vâng.”

Hai người cùng đi dưới một chiếc ô, vai trái của Ngô Như Ý ướt đẫm, còn Điền Linh thì được che chở trọn vẹn. Dưới tán ô, không ai chạm vào ai – tình chớm nở mà vẫn giữ lễ, như đúng đạo lý “phát từ tình, dừng ở lễ”.

Khương Thanh Tố không mua được kẹo, hai “tiểu tình nhân” cũng đã đi xa, bèn khoác tay Đơn Tà: “Về thôi.”

“Ừ.” Đơn Tà gật đầu, thấy nàng vẫn đang cười liền hỏi: “Nàng cười gì vậy?”

Khương Thanh Tố đáp: “Thiếp nhớ mấy năm trước, Giang Nhu cũng là ở trong chùa mà yêu Lôi Nguyệt Nhược từ cái nhìn đầu tiên. Không ngờ nay, con của Giang Nhu – dù đã đổi thân phận – vẫn thuần khiết như xưa, một ánh mắt đã nhìn trúng người mình yêu.”

Nàng ngừng lại, ánh mắt trở nên dịu dàng: “Tựa như thời gian chưa từng đổi thay, như thể bao năm qua chỉ là giấc mộng.”

Đơn Tà đáp: “Nhân sinh vốn là hồi luân không ngừng, tưởng giống mà chẳng hề giống.”

Lời vừa dứt, Khương Thanh Tố lại hỏi: “Chàng biết Điền Linh cầu được quẻ gì không?”

“Quẻ nhân duyên.” Đơn Tà đáp.

“Vậy lời quẻ thế nào?”

“‘Gió lay trúc kêu, ngỡ tiếng ngọc khua; trăng chuyển hoa lay, tưởng người ngọc đến.’” Đơn Tà chậm rãi đọc, rồi thêm: “Thượng cát.”

Khương Thanh Tố khẽ nói: “Thật tốt.”

Trở lại Vô Sự Trai, mưa cũng dừng. Trận mưa xuân này đúng là biết trêu người. Khương Thanh Tố buổi tối dặn dò Lê Thái Hòa nhớ đem sách ra phơi, ông hiểu ngay – nàng sắp rời đi – liền gắng nhịn ho mà ghi nhớ từng lời.

Khương Thanh Tố bảo: “Lão Lê, nhớ uống thuốc đúng giờ nhé.”

“Đa tạ Bạch phu nhân quan tâm.” Lê Thái Hòa cảm động, tiễn nàng về chỗ ở sau trà lâu.

Họ luôn đến như gió thoảng, rời đi cũng vậy, chẳng để lại chút thanh âm nào.

Tối ấy, Khương Thanh Tố nhận được bùa do Thẩm Trường Thích đốt truyền đến – nói Chung Lưu cuối cùng đã không cưỡng lại nổi sự si mê của Bạch Cầu, đồng ý đối diện với lòng mình và gánh lấy trách nhiệm. Hôn lễ của họ đã định, sẽ tổ chức tại tửu lâu “Nhất Túy Phương Hưu”, mời nàng và Đơn Tà đến uống chén rượu mừng.

Nàng ngồi dưới bầu trời xám xịt, không trăng không sao, mỉm cười đón tờ bùa cháy thành tro, nắm trong tay.

Trước tiệm bánh quế, Ngô Như Ý thu ô lại. Dù mưa đã dừng, nước trên ô vẫn rơi từng giọt. Hắn đứng yên, tiễn Điền Linh vào nhà.

Trước cửa tiệm treo hai lồng đèn hình hoa sen. Ngô Như Ý vừa xoay người định rời đi thì nghe:

“Công tử, xin chờ một chút.”

Điền Linh đứng trước cửa, kiễng chân tháo một chiếc đèn sen, đôi má ửng hồng, đưa cho hắn: “Đi đường cẩn thận.”

Ngô Như Ý nhìn chiếc đèn sen, mỉm cười nhận lấy, đáp lời cảm ơn. Điền Linh cũng cảm ơn, hai người cúi đầu nói cảm ơn nhau mấy lần rồi cùng cười.

Điền Linh quay người vào nhà, đóng cửa. Ngô Như Ý cầm đèn sen trong tay, lững thững quay về.

Chiếc ô giấy dầu nghiêng nghiêng, thiếu niên xưa nay điềm tĩnh hôm nay lại bước đi với những bước chân nhẹ bẫng, tiếng cười khe khẽ theo gió bay tới tận Vô Sự Trai, nơi Khương Thanh Tố đang nhắm mắt, ngẩng đầu đón lấy âm thanh ấy, nụ cười trên môi càng lúc càng sâu.

Tình yêu đầu đời, non nớt mà thuần khiết, thật đẹp.

Đơn Tà bước vào, trong tay cầm nhành nghênh xuân, Khương Thanh Tố ngoái đầu lại, nét tươi cười vẫn còn vương trên mặt, khiến tim Đơn Tà bất giác loạn nhịp.

Nàng đưa tay ra ngoài cửa sổ, để gió mang đi tàn tro của lá bùa. Đơn Tà đặt cành hoa vào tay nàng, rồi từ phía sau ôm lấy eo nàng.

Hắn áp má vào hõm vai nàng, đầu mũi khẽ chạm vành tai: “Nghe thấy gì thế?”

Khương Thanh Tố mỉm cười: “Vài điều tốt đẹp.”

Sáng hôm sau trời hửng nắng. Lê Thái Hòa đi dọn dẹp hậu viện thì phát hiện dưới giàn nghênh xuân mọc lên một hàng mầm non. Ông nhớ mấy hôm trước Bạch phu nhân có nói đã mang theo hạt giống, gieo ở chân tường – không ngờ qua bao cơn mưa, chúng vẫn sống, lại còn mọc rất tốt.

Lê Thái Hòa bật cười. Một tú tài mở cửa Vô Sự Trai, ánh mặt trời đầu ngày chiếu vào. Tú tài quay đầu nói: “Lê tiên sinh, thuốc của ngài đang nấu trên lò, lát nữa nhớ uống nhé.”

“Được!” Lê Thái Hòa đáp, rồi bước đến trước phòng khách, gõ cửa vài cái. Thấy bên trong yên lặng, ông đẩy cửa bước vào. Mọi thứ trong phòng ngăn nắp như cũ, nếu không nhờ cửa sổ còn mở, trên bậu còn một cành nghênh xuân khô nửa chừng, hẳn sẽ tưởng như chưa từng có ai ở đây.

Ông hít sâu một hơi, lặng lẽ đóng cửa lại.
 
Lắng Nghe Vô Thường Nói - Ôn Tam
Chương 142: Phiên Ngoại: Nữ Hồn – Phần 4 [Hoàn toàn văn]



Chuyện giữa Chung Lưu và Bạch Cầu, Khương Thanh Tố từng nghe Thẩm Trường Thích nhắc sơ qua, nhưng khi ấy nàng chẳng mấy bận tâm, Thẩm Trường Thích thấy thế cũng không nói thêm.

Với tính cách tránh nữ như tránh hổ, sợ nữ chẳng sợ hổ của Chung Lưu, nàng nghĩ thế nào hắn cũng không dính dáng gì tới Bạch Cầu. Lời đồn về mối tình tương tư giữa hai người kia, phần nhiều là do Thẩm Trường Thích bịa ra cho vui. Thế nhưng khi nàng và Đơn Tà vừa đến “Nhất Túy Phương Hưu”, liền thấy lồng đèn đỏ treo trên cửa, giấy hỷ song hỷ dán khắp cửa sổ.

Đầu xuân, thành này cũng giống Vân Tiên thành, vừa qua một trận mưa, liễu trước cửa tửu lâu mới nhú mầm. Cây liễu này là do Bạch Cầu trồng khi mở tửu lâu, nay đã cao hơn mái nhà, từng nhành tơ liễu đung đưa theo gió.

Khi hai người đến nơi, Thẩm Trường Thích đang ngồi tựa dưới cây liễu, ghế ngả nghiêng, tay cầm bút mực, miệng khe khẽ ngâm nga viết mấy thứ chẳng đầu chẳng đuôi.

Trong “Nhất Túy Phương Hưu”, đám tiểu nhị đang bận rộn lui tới, đã ngừng bán mấy ngày chỉ để lo hôn lễ của bà chủ và ân công của bà ấy. Nếu có chút sơ suất, ai cũng sợ bà chủ xách dao ra chém thật.

Một tiểu nhị suýt trượt chân khi bưng khay rượu, làm rượu suýt đổ vào người Thẩm Trường Thích. Hắn giật mình la lên: “Cẩn thận chút!”

Tiếng vừa dứt, quyển sách trong tay liền bị người giật mất.

Thẩm Trường Thích “á” lên một tiếng ngẩng đầu, thấy khuôn mặt lạnh lùng của Đơn Tà. Lưng hắn lập tức ớn lạnh, vội đứng bật dậy, lại thấy bên cạnh là Khương Thanh Tố đang cầm quyển Âm Dương Sách.

Khương Thanh Tố lật sách – thực ra chỉ là thú vui mới của Thẩm Trường Thích.

Trang bìa viết: “Tuyệt Thế Mị Hồ Truy Phu Thập Bát Thức”.

Nàng nhướng mày, tiện tay mở một trang đọc: “Đuôi hồ ly trắng thuần quấn lấy thắt lưng Chung đại nhân, đôi môi đỏ hồng khe khẽ rên lên, mềm nhũn ngã xuống, cơ lưng Chung đại nhân căng cứng, qua lại hơn mười lần mới thở dài nhẹ nhõm…”

Đọc đến đó, nàng lập tức khép sách, quăng lại cho Thẩm Trường Thích.

Hắn cười hì hì, phủ tay lên bìa sách, toàn bộ nội dung lập tức biến mất. Trước mặt Đơn Tà, hắn lật từ đầu tới cuối xác nhận không có tên ai hay thông tin gì bất thường, rồi mới cất sách vào lòng – ý là hắn không lười biếng làm việc.

Khương Thanh Tố thấy vậy thì buồn cười, liền hỏi: “Ngươi đến đây mấy ngày rồi?”

“Cũng được ba năm ngày. Người nhà họ Chung sắp phát điên rồi. Lần này ‘lão tổ tông’ nhà họ muốn thành thân, người thì khuyên, người thì khóc, sợ rằng khế ước giữa nhà họ và Vô Thường đại nhân sẽ bị hủy từ đời Chung Lưu.” – Thẩm Trường Thích nói – “Chung Lưu vừa tức vừa bất lực, nên mới kéo dài đến hôm nay.”

Khương Thanh Tố nghiêng đầu nhìn Đơn Tà: “Nếu Chung Lưu thành thân, có ảnh hưởng tới khế ước giữa chàng và nhà họ Chung không?”

“Có.” Đơn Tà đáp.

Nàng khựng lại, Thẩm Trường Thích cũng trợn mắt.

Đơn Tà chậm rãi nói: “Chung Lưu là nam, hồ ly năm đuôi là nữ, nếu thành thân và có chuyện phòng the, tất sẽ sinh con. Điều này trái với quy ước ta đã định với nhà Chung – bất kỳ Quỷ sứ nào do nhà họ đưa tới đều không được phép kết hôn, sinh con.”

Thẩm Trường Thích trừng mắt, quay sang nhìn Khương Thanh Tố – trong lòng bối rối: Trời đất! Lá bùa ta đốt lần này… không lẽ đại nhân đến đây là để phá hôn sao?

Khương Thanh Tố lại hiểu rõ. Nếu Chung Lưu và Bạch Cầu thành thân, lúc đầu họ có thể dốc lòng vì Thập Phương điện. Nhưng một khi có con, sẽ có ràng buộc, có điều lo nghĩ, trở thành điểm yếu. Một Quỷ sứ như vậy, rất dễ bị người khác lợi dụng, đe dọa Thập Phương điện.

Nàng hỏi: “Vậy chuyến này đại nhân tới đây là để ‘quậy cưới’ sao?”

Đơn Tà nhìn cả hai rồi đáp: “Chung Lưu nghĩ nhiều hơn các người tưởng.”

Chỉ câu đó, Khương Thanh Tố đã hiểu rõ, thở phào nhẹ nhõm. Thẩm Trường Thích vẫn ngây người, đưa ánh mắt thắc mắc.

Khương Thanh Tố nói: “Ngươi cũng bảo rồi, Chung Lưu đã quay về nhà, báo với gia tộc chuyện thành thân, chắc chắn là để tìm người kế nhiệm vị trí Quỷ sứ.”

Thẩm Trường Thích bừng tỉnh đại ngộ. Thì ra vài hôm trước Chung Lưu nhất định đòi về nhà là vì chuyện này, chứ không phải đi mượn bạc tổ chức cưới, như hắn từng nghĩ.

Chung Lưu đã quyết cưới Bạch Cầu, nhất định sẽ giữ trọn lời hứa. Dù còn ngây ngô trong tình cảm, dù bị ép cưới nửa vời, thì hắn vẫn hiểu chuyện. Nếu cưới mà không bàn bạc với Đơn Tà, cũng chẳng nghĩ đến lời hứa với nhà họ Chung – đấy mới là thảm họa thực sự.

Khương Thanh Tố liếc nhìn vào trong tửu lâu, thấy tiểu nhị đang treo hỷ lụa lên xà nhà. Người không nhiều, nhưng trông thật náo nhiệt, khiến nàng nhớ lại ngày mình và Đơn Tà thành thân.

Nàng quay sang nhìn Đơn Tà, đúng lúc hắn cũng thu hồi ánh nhìn từ chữ song hỷ dán tường, đặt tay lên đầu nàng xoa nhẹ.

Thẩm Trường Thích thấy vậy liền lùi về sau hai bước, suýt sặc nước miếng.

Khương Thanh Tố hỏi: “Ở đây có gì ăn ngon không?”

“Ta tìm khắp rồi, không có món nào đặc biệt. Nhưng rượu nhà Bạch Cầu ủ ngon lắm. Cuối phố còn có bà cụ bán lê, ngọt lắm.” – Thẩm Trường Thích đáp.

Nghe chẳng có gì hay ho, Khương Thanh Tố hơi chẹp miệng. Không tiện đứng mãi trước cửa, mà trong kia thì đang bận, nàng bèn cùng Đơn Tà ra ngoài dạo phố.

Nhân gian phần lớn tương tự, nhưng mỗi thành trấn lại có phong vị riêng. Người nơi đây thích trồng hoa trước cửa, dọc phố rực rỡ sắc đỏ vàng, tuy không có mỹ thực nhưng rất mỹ lệ.

Sau khi dạo phố, Đơn Tà đã hiểu tâm ý của Chung Lưu. Ngay lúc ấy, một đạo bùa bay tới trước mặt họ – Chung Lưu đốt bùa.

Thường thì hắn gửi bùa cho Thẩm Trường Thích, rồi mới báo lại Đơn Tà. Nhưng lần này, bùa trực tiếp xuất hiện trước mặt hai người – có việc gấp.

Trên bùa còn có một giọt máu, là sinh thần bát tự, cháy dần trước mặt họ. Khi tro bùa rơi xuống, Đơn Tà giơ tay áo khẽ vung, tro liền tan biến.

Khương Thanh Tố hỏi: “Chuyện này là sao?”

Đơn Tà đáp: “Hắn đã tìm được người kế nhiệm Quỷ sứ.”

Khương Thanh Tố giật mình: “Chàng đồng ý rồi?”

Đơn Tà nhìn nàng, đáp: “Kẻ ấy có căn cốt tu đạo tốt hơn hắn, ta không có lý do để phản đối.”

Khương Thanh Tố phì cười: “Đơn đại nhân đúng là công tư phân minh quá đỗi.”

Tối đến, hai người quay lại “Nhất Túy Phương Hưu”. Khương Thanh Tố xách một túi khoai lang khô, vừa nhai vừa ngó vào trong. Năm tên tiểu nhị bận rộn cả ngày, cuối cùng cũng có hai người được nghỉ, ngồi ở cửa. Trông thấy Đơn Tà và Khương Thanh Tố, cả hai sửng sốt.

“Một đen một trắng.” – Một người nói.

“Một nam một nữ.” – Người kia tiếp lời.

Nhìn nhau một thoáng, họ liền đồng loạt đứng dậy, cúi chào: “Kính chào hai vị đại nhân, mời vào trong!”

Đơn Tà hơi cau mày. Khương Thanh Tố bị hai người họ dọa bật cười, nhai khoai lang khô mà vẫn bước vào.

Bên trong được dọn dẹp sạch sẽ, ba người còn lại đang bận bịu chuẩn bị bữa tối. Hôn lễ của Bạch Cầu và Chung Lưu không có nhiều khách mời, chỉ có năm tiểu nhị cùng vợ họ đến dự.

Ba người đàn ông giúp việc vặt, ba cô gái tụ họp trong bếp ríu rít, nào là nêm muối, thêm nước. Trên lầu có hai người đang giúp Bạch Cầu trang điểm.

Khương Thanh Tố và Đơn Tà ngồi vào bàn. Thẩm Trường Thích từ bếp chạy ra, miệng vẫn dính dầu, thấy nàng cầm túi khoai liền thò đầu hỏi: “Bạch đại nhân được gì vậy? Ngon không?”

Nàng đưa một miếng: “Thử xem.”

Hắn nhai một cái, mắt sáng rỡ: “Ngon thật!”

Quả không hổ là Bạch đại nhân, thứ ngon cũng chẳng giấu ai. Sau vài miếng, nàng không cho nữa, hắn định thò tay lén lấy thì—

Trên lầu bỗng vọng xuống tiếng hét: “Ân công đâu rồi?! Hắn chạy mất rồi hả?!”

Tiếng đập cửa vang lên, Bạch Cầu mặc váy đỏ, trang điểm nhè nhẹ mà rực rỡ, bước xuống thang lầu ầm ầm. Giữa đường thấy ba người nhìn mình, nàng lập tức nghiêm chỉnh cúi chào, rồi quay người chạy lên.

Khương Thanh Tố chớp mắt, Thẩm Trường Thích thừa dịp lấy hai miếng khoai, Đơn Tà liếc mắt, hắn liền rụt tay lại, suy nghĩ có nên trả lại không.

Khương Thanh Tố không để tâm khoai lang nữa, hỏi: “Đó là Bạch Cầu?!”

Trong ấn tượng nàng, Bạch Cầu vẫn là cô bé ngốc nghếch cơ mà?

Thẩm Trường Thích gật đầu cẩn trọng: “Sau khi có nội đan, diện mạo nàng đã như thế.”

Khương Thanh Tố bật cười: “Chung Lưu thật có phúc.”

“Phúc gì?” – Giọng khàn khàn vang lên ngoài cửa. Hai tiểu nhị liền reo: “Ân công về rồi!”

Khương Thanh Tố nhìn ra ngoài. Chung Lưu đầy mồ hôi, người rũ rượi, dựa vào khung cửa gần như gục xuống. Trong hai canh giờ, hắn dùng khinh công và bùa, vượt hàng trăm dặm để đến “Nhất Túy Phương Hưu”, giờ chỉ muốn ngã gục. Hai tiểu nhị đỡ hắn đi thay y phục.

Sau khi thay đồ cưới đỏ, Khương Thanh Tố lại không nhịn được cười. Mặt đầy râu ria, trông hắn như kẻ đi cướp, y phục đỏ lại càng làm nổi làn da đen bóng, trông vừa lạc điệu vừa tức cười.

Nàng cười cười chắp tay: “Chúc mừng chúc mừng.”

Thẩm Trường Thích bên cạnh vẫn vui vẻ gặm khoai lang.

Chung Lưu đến trước Đơn Tà, quỳ xuống. Các tiểu nhị đều sững người.

Chung Lưu nói: “Hành sự gấp gáp, khiến đại nhân phiền lòng, xin thứ tội.”

Đơn Tà bảo: “Ta chỉ có một điều cần ngươi ghi nhớ.”

“Xin đại nhân chỉ dạy.” – Chung Lưu bắt đầu toát mồ hôi.

Khương Thanh Tố nắm tay Đơn Tà, hắn liếc nhìn nàng, rồi nói: “Trước khi người kế nhiệm chính thức nhận chức, không được có con.”

Chung Lưu khựng lại. Thế nghĩa là tạm thời không cần động phòng?! Các tiểu nhị cũng thấy yêu cầu hơi quá, ai ngờ Chung Lưu gật đầu lia lịa: “Được, được, được!”

Mọi người: “……”

Khương Thanh Tố: “……”

Thẩm Trường Thích: “…… Ngon thật.”

Khương Thanh Tố lườm hắn.

Chung Lưu mất năm ngày, triệu tập lũ nhỏ trong họ dưới ba tuổi, đếm được hơn năm mươi đứa. Nhà họ Chung truyền thừa mạnh mẽ, nhiều chi nhiều nhánh. Trong số ấy có một đứa bé mới một tuổi rưỡi, căn cốt tốt, liền được chọn làm Quỷ sứ kế nhiệm.

Sau khi thu xếp ổn thỏa, hắn mới về thành thân.

Chung Lưu và Bạch Cầu không có trưởng bối. Ban đầu định mời Đơn Tà và Khương Thanh Tố làm người chủ lễ, nhưng cả hai đều từ chối. Chung Lưu và Bạch Cầu tuổi còn lớn hơn Khương Thanh Tố, ngồi ghế cao nàng cũng thấy ngại.

Trong lễ bái đường, hai bàn tiệc vừa dọn lên. Cặp tân lang tân nương không cầu kỳ lễ nghi, vừa mở khăn voan là cùng ngồi ăn với Đơn Tà, Khương Thanh Tố và Thẩm Trường Thích.

Đơn Tà không động đũa, chịu ngồi uống vài chén đã là nể mặt. Khương Thanh Tố ăn ngon lành, còn Thẩm Trường Thích – ăn khoai nhiều quá, miệng ngọt phát ngán, ăn không nổi cơm.

Mấy tiểu nhị vui vẻ đến mời rượu, không biết thân phận thật sự của Đơn Tà và Khương Thanh Tố. Đơn Tà thấy ồn, liền đứng dậy đi ra ngoài. Khương Thanh Tố thì còn thích náo nhiệt, uống thêm vài chén.

Chung Lưu đã hơi ngà, Bạch Cầu ghé tai thì thầm “phu quân, phu quân” khiến mặt hắn đỏ như gấc.

Chợt Khương Thanh Tố nhớ ra: “Âm Dương Sách đâu?”

Thẩm Trường Thích hỏi: “Có chuyện gì sao?”

“Ta bỗng thấy bất an, cho ta xem một lát.” – Khương Thanh Tố nhíu mày, Thẩm Trường Thích không nghi ngờ gì, đưa sách ra.

Khương Thanh Tố mỉm cười: “Ngươi từng viết quyển ‘Chuyện phòng the của nàng họ Bạch và phu quân’ phải không?”

Thẩm Trường Thích lạnh toát lưng. Khương Thanh Tố mở sách, lập tức triệu hồi bản thảo của hắn, rồi đưa cho Chung Lưu. Hắn định giật lại nhưng đã muộn.

“AAAAAAA—Thẩm ca! Huynh viết cái quái gì vậy hả???”

Chung Lưu phát điên, vứt sách xông vào đuổi đánh Thẩm Trường Thích. Hắn vừa chạy vừa kêu: “Bạch đại nhân! Ngài là đại tẩu ta đó! Ngài gài bẫy ta!”

Bạch Cầu nhặt sách, liếc qua nội dung. Mấy tiểu nhị chen nhau xem, mặt ai nấy đỏ bừng, đồng thanh: “Wow…”

Khương Thanh Tố mỉm cười, bước ra khỏi “Nhất Túy Phương Hưu”, bỏ lại phía sau tiếng cười và hỗn loạn.

Thẩm Trường Thích viết mấy trò không đứng đắn, bị Đơn Tà phát hiện, bị nàng bắt gặp – đáng đời.

Đơn Tà đứng ngoài hóng gió, nghe tiếng thét của Chung Lưu, Thẩm Trường Thích, tiếng cười rúc rích của Bạch Cầu và đám tiểu nhị, thấy thật ồn ào, khẽ lắc đầu.

Khương Thanh Tố bước đến, khẽ chạm vai hắn cười, rồi khoác tay hắn.

Đơn Tà hỏi: “Nàng sớm đã định chỉnh Thẩm rồi chứ gì?”

Khương Thanh Tố cười đắc ý, ánh mắt long lanh: “Đơn đại nhân cũng chẳng lạ, ta vốn là người có thù tất báo, ai bảo hắn dám viết về ta chứ.”

Đơn Tà khẽ bật cười, cùng nàng rời khỏi “Nhất Túy Phương Hưu”, chỉ để lại trên bậu cửa một hộp quà nhỏ, trong là hai đóa song sinh hồng hoa, gửi lời chúc phúc đến đôi tân lang tân nương.

Đêm khuya, ngõ sâu đường vắng, Khương Thanh Tố đón gió xuân, tay khẽ vung nhành liễu vừa ngắt trước cửa tửu lâu. Nàng nói: “Thẩm bảo, Bạch Cầu sống lâu hơn Chung Lưu, sau này nếu hắn luân hồi, nàng sẽ đi tìm. Nếu hắn đầu thai thành nữ tử, nàng sẽ cùng hắn làm tỷ muội.”

Nói đoạn, nàng ngẩng đầu nhìn Đơn Tà: “Hơn hai mươi năm trước ta luân hồi, chàng có sợ ta trở thành nam nhân không?”

Đơn Tà sững người, không ngờ nàng lại hỏi thế, rồi chậm rãi đáp: “Nàng sẽ không đâu.”

“Là sao?” – Nàng nhíu mày.

Hắn giơ tay vén mấy sợi tóc lòa xòa trên trán nàng, đáp: “Nàng vĩnh viễn sẽ không thành nam tử, dù luân hồi bao nhiêu kiếp.”

“Vì Bỉ Ngạn hoa ư?” – Nàng hỏi, giọng nhẹ như gió.

Hắn khẽ cười, không phủ nhận. Nàng cho là ngầm thừa nhận, bèn thấy chẳng thú vị gì, nhún vai: “Ta muốn ăn gà nướng đất.”

“Vậy đi Chương Châu.” – Đơn Tà nói.

Ánh mắt ấy dịu dàng mà ẩn giấu bí mật.

Từ lần đầu tiên gặp nàng, hắn đã biết hồn nàng khác lạ.

Hồn phách nhân gian đều như nhau, luân hồi làm nam hay nữ, thiện ác khó phân, hắn chưa từng phân biệt. Nhưng hồn Khương Thanh Tố lại đặc biệt – có một thứ khác hẳn – khiến nàng vĩnh viễn là nữ tử, đời đời kiếp kiếp không đổi.

Năm xưa tại khách đ**m kinh thành, bên cạnh Ngọ Môn, một Hắc Vô Thường cầm cờ đen, một nữ tướng nhìn về hoàng cung – hai hồn phách lần đầu gặp gỡ, đã định không tầm thường.

Ngày ấy, Diêm Vương tráo cờ, Đơn Tà thua ván cờ đó, ngước nhìn trời xanh, chẳng rõ bậc trên cao toan tính điều gì. Hắn cai quản tử vong, người kia nắm giữ sinh mệnh, ngàn năm chưa từng sai lệch – thế mà giữa muôn vạn hồn phách như nhau, lại có một hồn nữ đời đời không đổi.

Đơn Tà từng thắc mắc, ván cờ hôm ấy rốt cuộc là Diêm Vương gian lận, hay chính “người đó” đang đánh cờ với hắn?

Món quà người ấy tặng là trái tim hắn – thứ khó lòng rung động.

Hay là một nữ hồn không ngừng chuyển thế, mãi đến một ngày gặp lại, liền khiến tim ấy đập rộn?

Đơn Tà không biết, và giờ cũng chẳng muốn biết.

Chỉ cần biết Khương Thanh Tố muốn ăn gà nướng đất ở Chương Châu, hắn liền nguyện cùng nàng dạo khắp ngũ hồ tứ hải, điều tra án Âm ty, kết duyên nhân thế.

“Đơn đại nhân ơi, phu quân à, Đơn Tà à, Tà Tà à…” – Khương Thanh Tố ngẩng mặt đón trăng, than dài.

Đơn Tà bị nàng trêu đến bật cười: “Sao thế?”

Khương Thanh Tố quay lại, mắt cong như trăng non: “Trăng đêm nay, tròn thật đấy.”

Hắn nhìn bầu trời, lại nhìn người bên cạnh, cuối cùng buông tay xuống, đan chặt lấy tay nàng, gật đầu: “Thật sự rất tròn.”

Hắn từng nếm cô đơn, sợ cô đơn, vì biết thế gian còn có người giống mình nên tìm kiếm không ngừng, dựng nên trời đất, rồi lại quay về tịch mịch.

Hắn đâu hay ngày đó, từ giếng luân hồi bay ra hai cánh bướm – một lạc vào nhân gian, hóa thành nữ hồn.

Một chạm cánh hoa, hóa thành nhân tâm.

――― (Hoàn) ―――



PS: Cuối cùng cũng hoàn toàn kết thúc, câu chuyện đến đây là trọn vẹn. Cảm ơn những ai theo dõi đến phút cuối cùng, cảm ơn cả những người đã ủng hộ và động viên.

Đơn Tà từng sợ cô đơn – Thẩm Trường Thích cũng vậy. Nhưng may mắn thay, kẻ sợ cô đơn rốt cuộc đã không còn cô độc.

Khương Thanh Tố là người cần tình cảm – Chung Lưu cũng thế. Những kẻ khao khát tình yêu rốt cuộc đã có thể yêu, và được yêu.

Còn về “người trên cao” kia – không cần nhiều lời. Hắn là “người anh song sinh” của Đơn Tà, từ khi Đơn Tà bắt đầu truy đuổi, hắn đã hiểu nỗi cô độc trong tim hắn. Thế nên mới dựng nên trời đất này, gửi xuống một món quà – là một trái tim biết yêu
 
Back
Top Bottom