Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
419,037
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
AP1GczPiV_t0tvQcvJAleBgem18zWzdR48QEykcowZjvBsDLsiyPI-89T3kt72SgJCvx54yUcxW0YU8f7mVtwBBnjvaHIbJZWX3OvkNcYV5DZX9ayDZlwFlHr9i1IUfPYFoq-ZjGT_VZnch52GB9Fst3MSZo=w215-h322-s-no-gm

Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Tác giả: Vân Hương Thanh Nịnh
Thể loại: Ngôn Tình, Huyền Huyễn, Cổ Đại, Sủng
Trạng thái: Đang ra


Giới thiệu truyện:

Thể loại: Nguyên sang, Ngôn tình, Cổ đại, HE, Tình cảm, Huyền huyễn, Cung đình hầu tước, Kim bài đề cử 🥇

Văn án:

Năm thứ ba mươi, dưới đêm trăng sáng, non sông gấm vóc, trăng tròn soi tỏ hồ sen.

Công chúa Vĩnh An, Lý Doanh, nổi tiếng dịu dàng lương thiện, nhưng năm mười sáu tuổi lại bất ngờ đuối nước bí ẩn trong hồ sen của hoàng cung. Hoàng đế vì cái chết của công chúa mà đau lòng tột độ, hạ lệnh điều tra kỹ lưỡng thì phát hiện ra chính phò mã đã đẩy công chúa xuống hồ. Hoàng đế nổi trận lôi đình, tru di cửu tộc nhà phò mã. Phò mã vốn xuất thân từ môn phiệt thế gia bậc nhất, trải qua sự kiện này, các gia tộc lớn tổn thương nguyên khí, mở ra con đường cho các sĩ tử hàn môn nhập vào quan trường, cũng từ đó, những chính sách mới dưới thời Thái Xương mới bắt đầu được thực thi.

Sau khi hoàng đế băng hà, sử sách ghi nhận ngài là Thánh chủ Trung Hưng nhờ chính sách Thái Xương. Khương phi, mẫu thân của Lý Doanh cũng nhờ con gái mà từ một cung nữ được phong thành quý phi, hoàng hậu rồi ngồi lên ngôi vị hoàng đế, được tôn xưng là “Nhị Thánh” cùng với Thái Xương. Mọi vinh quang mà “Nhị Thánh” có được đều bắt nguồn từ cái chết của ái nữ Lý Doanh.

Ba mươi năm sau, trong thời thịnh thế thái bình, hoa nở rực rỡ khắp trời, dân chúng vừa tiếc thương công chúa đoản mệnh, vừa cảm thấy may mắn vì cái vận số ngắn ngủi của nàng. Nhưng hồn phách của nàng công chúa bé nhỏ vẫn luẩn quẩn chốn nhân gian, khoác trên mình bộ váy lụa lục la nàng mặc vào hôm chết đuối, khuôn mặt vẫn dừng lại ở vẻ đẹp dịu dàng, thanh tú của năm mười sáu tuổi. Nàng tìm đến vị Thiếu khanh tàn nhẫn, khét tiếng nhưng bệnh tật triền miên của Sát Sự Thính là Thôi Tuần, nói với y: “Ta muốn nhờ ngài điều tra một vụ án.”

Nàng nói: “Ta muốn nhờ ngài điều tra xem là ai đã giết ta.”

Người ác hơn ma, đã thành ma rồi, hà tất phải thành Phật?

*

Thôi Tuần, Thiếu khanh của Sát Sự Thính, là một kẻ dùng sắc đẹp để tranh quyền, là một gian thần tàn ác chuyên dệt nên những vụ án oan, là một tướng phản quốc tham sống sợ chết, tội ác nhiều không kể xiết, khiến thiên hạ căm ghét, chỉ mong được cắn thịt xé nát xương y. Theo lẽ thường, sau khi thất thế, y sẽ bị trói đưa ra pháp trường, chịu tội lăng trì, bị dân chúng chia nhau máu thịt, xương cốt thành tro.

Nhưng trong lúc bị tra khảo đến nỗi toàn thân thương tích, gục ngã trong ngục tù, y lại thấy nàng mặc váy lụa xanh như lần đầu gặp gỡ.

Y bị tra tấn đến mơ màng, giọng khàn khàn hỏi nàng: “Sao nàng không đi?”

Nàng chỉ nói: “Có chuyện chưa xong.”

“Chuyện gì chưa xong?”

“Vì quân, cải mệnh.”

*

Đọc nhắc nhở: Song hướng cứu rỗi, hư cấu, bối cảnh phỏng theo thời Đường

Tag: Cung đình hầu tước, tình yêu sâu sắc, huyền huyễn, nghịch tập, phương Đông

Nhân vật chính: Lý Doanh, Thôi Tuần

Tóm tắt: tiểu công chúa bạc mệnh x nịnh thần đẹp mã nhưng bệnh trạng yếu ớt

Lập ý: Chính nghĩa sẽ chiến thắng tà ác

– Truyện được viết theo quan điểm của Đạo giáo. Trong đó “ma” (魔) và “quỷ” (鬼) là hai khái niệm có liên quan nhưng không hoàn toàn giống nhau, được hiểu trong bối cảnh tín ngưỡng và triết lý của Đạo giáo như sau:

– “Ma” thường được coi là hiện thân của những thế lực tà ác, hỗn loạn và phá hoại. Chúng có thể không phải là linh hồn của người đã khuất mà là những thực thể siêu nhiên, tà lực hoặc năng lượng tiêu cực xuất hiện để thử thách hoặc làm hại con người. Trong khi “Quỷ” thường là linh hồn của người đã khuất, không được siêu thoát hoặc vì một lý do nào đó mà vẫn lưu lại trong cõi trần. Theo Đạo giáo, các linh hồn này có thể trở thành quỷ do chết oan, không được thờ cúng, hoặc bị ràng buộc bởi những oán hận.

– Lý Doanh là quỷ hồn, tức linh hồn của người đã khuất, nhưng trong quan điểm của người Việt Nam chúng mình thì có thể hiểu là “hồn ma”. Bản dịch sẽ sử dụng cả từ “hồn ma” lẫn “quỷ hồn”. Từ “hồn ma” này để phân biệt với các thế lực ma quái tà ác.​
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 1: Gặp ma



Đêm Giao Thừa.

Tại điện Lân Đức trong Đại Minh cung, yến tiệc đón giao thừa hằng năm vẫn đang được tổ chức. Tiếng nhạc tấu rộn ràng vang lên, hòa cùng tiếng rượu trao chúc tụng nhau không ngớt, những vũ cơ giáo phường mặc Hồ phục, dáng điệu uyển chuyển đang trình diễn điệu Hồ Toàn Vũ. Khi tốc độ xoay của vũ cơ ngày càng nhanh, tiếng tán thưởng của các đại thần trong yến tiệc càng thêm phần sôi động. Một vị quan trẻ tuổi mặc quan bào đỏ thắm chăm chú dõi mắt theo, đợi đến khi điệu Hồ Toàn kết thúc, hắn mới luyến tiếc gắp một miếng bánh sữa vàng [1] nếm thử. Ăn xong một miếng, hắn chợt nhận ra chỗ ngồi bên cạnh đã trống không, liền không khỏi thốt lên rằng: “Ồ? Thôi Thiếu khanh đi đâu rồi?”

[1] 金乳酥 (Kim nhũ tô) là một loại bánh ngọt nổi tiếng trong ẩm thực truyền thống Trung Quốc, đặc biệt là vào thời cổ đại. Tên gọi của nó có thể được dịch là “bánh sữa vàng giòn”. Đây là một món bánh làm từ các nguyên liệu như bột mì, đường, sữa, và thường được chiên giòn hoặc nướng, tạo ra lớp vỏ vàng óng và giòn rụm.

Kim nhũ tô thường có hương vị ngọt ngào, mềm mịn ở bên trong và giòn rụm bên ngoài, rất phổ biến trong các yến tiệc hoàng gia hay trong các dịp lễ hội đặc biệt. Món bánh này tượng trưng cho sự thịnh vượng và may mắn, nên thường được chuẩn bị trong các buổi tiệc trang trọng hoặc vào dịp Tết cổ truyền.

Viên quan tứ phẩm ngồi gần đó khẽ cười chế giễu: “Chẳng lẽ Vương Thị lang còn mong Thôi Tuần có mặt ở đây sao?”

Vương Thị lang đỏ bừng cả mặt, ngước mắt nhìn thiên tử đang ngồi ở chính điện, lắp bắp nói: “Không phải như vậy, chỉ là Thôi Thiếu khanh rời tiệc khi Thánh nhân còn ở đây thì cũng không ổn chút nào.”

“Hừ, bữa tiệc đón giao thừa này, e rằng chỉ có Thôi Tuần mới dám rời khỏi mà không sợ gì.”

Các quan viên gần đó nghe thấy cũng lần lượt lên tiếng chỉ trích vị Thiếu khanh họ Thôi kia: “Thôi Tuần thật là vô lễ, dám không coi quân thượng ra gì!”

“Lư Tư nghiệp, [2] cẩn trọng lời nói! Mấy tháng trước, Trung Lang tướng Chu Bình chỉ vì say rượu nói xấu Thôi Tuần vài câu, liền bị hắn bịa tội rồi giam vào Sát Sự Thính, đến giờ vẫn chưa được thả ra…”

[2] Tư nghiêp: Quốc tử giám (tiếng Trung: 國子監; bính âm: Guózǐjiàn) là cơ quan đào tạo giáo dục cấp trung ương tại các nước Á Đông thời phong kiến Nho giáo. Đứng đầu Quốc tử giám là các chức quan: Tế tửu (đứng đầu trường Quốc học-tương đương với Hiệu trưởng), Tư nghiệp (đứng thứ hai sau Tế tửu).

“Hắn là kẻ tiểu nhân nông cạn, ta sợ gì hắn chứ?”

“Lư Tư nghiệp, ngài xuất thân từ Phạm Dương Lư thị, thanh danh hiển hách, nhưng mấy năm qua, sĩ tộc cao môn đã bị Thôi Tuần hãm hại, chẳng lẽ còn ít hay sao?”

Lư Tư nghiệp im lặng hồi lâu, cuối cùng nghiến răng nói: “Thiên hạ đều kính trọng những gia tộc lớn như Thôi, Lư, Lý, Trịnh, Vương. Trong đó, Bác Lăng Thôi thị là gia tộc đứng đầu, vậy mà lại xuất hiện một kẻ hèn mọn như Thôi Tuần! Không những tham sống sợ chết đầu hàng người Đột Quyết, [3] hắn còn vì cầu sinh mà trở thành khách trong màn của Thái hậu, bày mưu hãm hại trung thần, lật ngược phải trái lẫn lộn đúng sai, thực sự là kẻ tội ác tày trời, không việc ác gì không làm! Đúng là nỗi nhục của Thôi thị!”

[3] Đột Quyết (突厥, Tūjué) là một tộc người du mục hùng mạnh, từng tồn tại ở vùng thảo nguyên phía bắc Trung Quốc trong thời kỳ cổ đại, đặc biệt từ khoảng thế kỷ 6 đến thế kỷ 8. Tộc Đột Quyết thuộc nhóm người Thổ, được coi là tổ tiên của nhiều dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại. Về vị trí địa lý, lãnh thổ của Đột Quyết bao phủ một vùng rộng lớn, kéo dài từ khu vực phía bắc Trung Quốc (bao gồm cả Mông Cổ hiện nay) đến Trung Á và khu vực nam Siberia. Họ đã thành lập một quốc gia lớn gọi là Đột Quyết Khả Hãn Quốc (突厥汗国), từng là một trong những cường quốc đối địch với các triều đại Trung Quốc như nhà Tùy và nhà Đường.

Lư Tư nghiệp càng nói càng kích động, âm lượng lớn đến mức ngay cả quận vương bên kia cũng phải liếc nhìn. Một quan viên ngồi gần vội giữ hắn lại, nhỏ giọng khuyên: “Lư Tư nghiệp, Thôi Tuần là đầu lĩnh của Sát Sự Thính. Sát Sự Thính là nơi nào chứ? Ngay cả việc khi nào chúng ta đến phường Bình Khang bọn họ cũng biết rõ mồn một, huống hồ là trong buổi tiệc đón giao thừa đông người này. Ngài nên cẩn trọng lời nói thì hơn!”

Một quan viên khác cũng kéo hắn lại: “Đúng vậy, Thôi Tuần là kẻ tàn nhẫn độc ác, có thù tất báo, ai ai trong triều cũng muốn ăn tươi nuốt sống hắn, nhưng tiếc rằng Thái hậu quá mực sủng ái hắn, chúng ta cũng đành chịu thôi.”

Lư Tư nghiệp biết rõ mình không thể lay chuyển vị thế của Thôi Tuần, chỉ đành thở dài một tiếng: “Một kẻ tiểu nhân như thế mà lại lộng hành giữa triều đình Đại Chu, thật không biết đến bao giờ trời mới sáng, trăng mới tỏ!”

Vị Vương Thị lang, người ban đầu khơi mào câu chuyện, bỗng thì thầm: “Sắp rồi.”

Ánh mắt mọi người lập tức dồn về phía hắn. Vương Thị lang vội vàng nói: “Chư vị, Thôi Tuần dùng nhan sắc để được Thái hậu sủng ái. Kẻ dùng sắc để tranh quyền thì sắc suy tình giảm. Dù cho nhan sắc của Thôi Tuần có rực rỡ thế nào, nổi danh là Liên Hoa Lang đi chăng nữa, thì khuôn mặt kia dù đẹp đến đâu, Thái hậu rồi cũng sẽ có ngày chán ngán mà thôi. Đến lúc đó, triều đình tất sẽ thanh bình trở lại.”

Mọi người thầm suy nghĩ, không khỏi gật đầu đồng ý, ai nấy trong lòng đều cầu mong Thái hậu sớm ngày chán ghét Thôi Tuần, để tên gian thần sớm phải chịu báo ứng, trả lại sự bình yên cho triều đình.



Trong khi đó, kẻ đang là tâm điểm của những lời bàn tán – Thôi Tuần – lại đang ngồi một mình bên hồ sen hoang tàn trong cung, nhấm nháp chén rượu. Hồ sen này đã bị bỏ hoang từ lâu, ở bốn góc hồ bám đầy rêu xanh, vài cây sen khô héo trơ trọi đứng giữa hồ, khung cảnh tĩnh lặng đến lạnh lẽo. Dưới ánh trăng sáng, Thôi Tuần ngửa cổ uống cạn một chén rượu thiêu xuân. Trong ánh trăng lạnh lẽo, vị gian thần trong miệng người đời có chiếc cổ thon dài và trắng muốt như hạc. Hắn hạ mi mắt, đôi mày mắt của hắn vô cùng sắc sảo, thậm chí mang vẻ đẹp mơ hồ khó phân biệt giới tính. Đúng như Vương Thị lang đã nói, dung mạo của hắn rực rỡ, không hổ với danh xưng Liên Hoa Lang. Nếu phải tìm khuyết điểm trên gương mặt hắn, thì có lẽ đó là nước da tái nhợt đến đáng sợ, trắng bệch như tuyết, thậm chí còn nhợt nhạt hơn cả màu lông hồ ly trắng trên chiếc áo choàng lông cáo hắn đang khoác trên người.

Sau khi uống cạn chén rượu thiêu xuân, Thôi Tuần không khỏi che tay áo lên miệng, ho khan hai tiếng. Hắn buông tay áo xuống, ánh mắt dõi theo vầng trăng sáng vằng vặc treo trên bầu trời, vẻ mặt thẫn thờ. Đôi mắt hắn hơi xếch, vốn là một cặp phượng mâu câu hồn đoạt phách, nhưng bên trong lại trống rỗng, chẳng hề chứa đựng chút cảm xúc nào. Tiếng nhạc trong yến tiệc đón giao thừa rộn ràng xôn xao, hương trầm và đàn hương từ điện Lân Đức lan tỏa ra đến tận cổng Đan Phượng, trong khi trên đường Chu Tước, đám người nhảy múa đuổi tà vẫn náo nhiệt không thôi. Sự ồn ào nơi yến tiệc đối lập mạnh mẽ với khung cảnh quạnh quẽ đến lạ thường bên hồ sen nơi Thôi Tuần đang ngồi.

Thôi Tuần cầm lấy chiếc bình rượu bằng bạc dưới đất, rót vào chén kim bôi rồi lại uống cạn. Uống liền mấy chén, hắn đã có chút men say. Khi rót rượu thêm lần nữa, bàn tay không vững, khiến chiếc chén vàng lăn xuống hồ sen.

Trong trạng thái ngà say, tầm mắt Thôi Tuần trở nên mờ mịt, hắn vươn tay xuống hồ định vớt chén rượu, nhưng khi chạm vào làn nước, tay hắn không vớt được chén kim bôi mà chạm phải một vật thể trơn láng, lạnh lẽo. Vật đó mềm mại như lụa, không phải là chén mà giống như làn da người. Vật thể ấy chạm vào lòng bàn tay hắn, dần dần nở ra, ôm lấy bàn tay hắn, ngón tay mềm mại đan vào tay hắn, tựa như bàn tay yếu mềm của một nữ nhân đang tình tứ đan xen với tình lang.

Trong lúc đó, hắn còn nghe thấy một tiếng thở dài âm u từ dưới nước vọng lên: “Đợi được ngươi rồi.”

Nếu là người khác, chắc hẳn đã sợ hãi bỏ chạy, nhưng Thôi Tuần chỉ khẽ nhíu mày, thần sắc vẫn bình thản. Đúng lúc đó, một tên nội thị cầm đèn lồng đi tìm, vừa đi vừa gọi: “Thôi Thiếu khanh.” Lúc này, bàn tay dưới nước chầm chậm rời khỏi tay Thôi Tuần. Hắn liền nhướng mày, vươn tay định bắt lấy bàn tay ấy, nhưng lần này chỉ vớt lên được chiếc chén vàng rơi xuống hồ khi nãy.

Tên nội thị thấy Thôi Tuần, vui mừng khôn xiết, vội vã chạy tới: “Thôi Thiếu khanh, nô tài cuối cùng cũng tìm thấy ngài rồi. Thái hậu đã đến dự yến tiệc đón giao thừa, còn hỏi đến ngài nữa.”

Thôi Tuần vẫn thất thần nhìn chằm chằm vào chiếc chén trong tay. Nội thị gọi hai tiếng “Thôi Thiếu khanh,” hắn mới hoàn hồn. Sau đó, hắn ném chiếc chén vàng sang một bên, kéo chặt áo choàng lông cáo trên người. Bộ lông cáo trắng tinh càng làm nổi bật nước da tái nhợt đến gần như trong suốt của hắn. Hắn giơ mu bàn tay lên che miệng, lại ho khẽ hai tiếng rồi buông xuống cánh tay gầy gò, chậm rãi đứng dậy, ánh mắt lạnh lùng: “Đi thôi.”

Chỉ mới bước được vài bước, hắn đột nhiên quay đầu lại nhìn hồ sen hoang tàn. Mặt hồ vẫn phẳng lặng, không gợn chút sóng, như thể mọi chuyện vừa xảy ra đều chỉ là ảo giác. Ánh mắt Thôi Tuần vẫn bình thản, hắn quay người tiếp tục đi theo nội thị đến điện Lân Đức.



Khi đến ngoài điện, Thôi Tuần định bước vào thì tên nội thị liền muốn lấy lòng mà nhắc nhở: “Thôi Thiếu khanh, nếu có ai hỏi ngài vừa rồi đi đâu, đừng nói là đến hồ sen.”

“Ồ? Vì sao?”

Tên nội thị hạ giọng thần bí: “Ngài không biết sao? Hồ sen đó là nơi công chúa Vĩnh An…”

Hắn ngập ngừng nhưng Thôi Tuần đã hiểu được ý tứ trong lời nói. Hồ sen ấy chính là nơi công chúa Vĩnh An bỏ mạng.

Công chúa Vĩnh An, tên thật là Lý Doanh, là ái nữ của Tiên đế và Thái hậu, cũng là đứa con đầu tiên của Thái hậu. Tương truyền, khi công chúa chào đời, da dẻ trắng nõn, dung mạo mỹ lệ như viên minh châu tỏa sáng. Tiên đế và Thái hậu hết mực yêu thương, đã lấy viên “Minh Nguyệt Châu” trong Phật kinh Thất Bảo cho nàng làm nhũ danh, đồng thời ban cho nàng phong hào là Vĩnh An công chúa. Khi công chúa lớn lên, Tiên đế còn ban cho nàng vùng đất giàu có và đông đúc bậc nhất của Đại Chu – quận Quảng Lăng – làm đất phong, đủ để thấy tình thương sâu nặng mà Tiên đế dành cho nàng.

Công chúa đến năm mười sáu tuổi đã xinh đẹp tuyệt trần, tựa như tiên nữ hạ phàm, vẻ đẹp rung động nhân gian. Đáng quý hơn, nàng có tính cách nhân hậu, hiểu chuyện, không hề kiêu ngạo như các công chúa Đại Chu khác. Mỗi lần Tiên đế nổi giận, nàng đều có thể đứng ra khuyên giải, nhờ đó mà nhiều cung nhân và đại thần được miễn khỏi trừng phạt. Các cung nhân và đại thần ai nấy đều cảm kích ân đức của công chúa, ngầm tôn vinh nàng là viên “Minh Nguyệt Châu” sáng nhất của Đại Chu.

Thế nhưng viên Minh Nguyệt Châu lóa mắt ấy lại vĩnh viễn tắt lịm vào năm nàng tròn mười sáu tuổi.

Năm công chúa mười lăm tuổi, Tiên đế đã chọn cho nàng Phụng Nghị lang Trịnh Quân làm phò mã. Trịnh Quân xuất thân từ họ Trịnh đất Huỳnh Dương, là cháu trai của Trịnh Hoàng hậu, người vợ đầu tiên của tiên đế. Thân phận của hắn cao quý, dung mạo anh tuấn, tài hoa xuất chúng, là một bậc trượng phu khó tìm. Tuy nhiên, Tiên đế và Thái hậu không nỡ xa con gái, muốn để nàng ở lại thêm vài năm mới gả đi. Nhưng đến khi công chúa mười sáu tuổi, vào đêm mùng sáu tháng mười, năm Thái Xương thứ hai mươi, nàng bất ngờ bị chết đuối trong hồ sen giữa đêm. Tiên đế và Thái hậu đau đớn đến đứt ruột dứt gan, thậm chí Tiên đế còn bỏ ăn bỏ uống suốt nhiều ngày, chìm trong bi thương tột cùng. Quần thần trong triều xôn xao bàn tán, ai nấy đều cho rằng cái chết của công chúa vô cùng kỳ quái. Đã đành là tại sao công chúa lại một mình đến hồ sen vào đêm khuya, nhưng cung tỳ thị nữ hầu cận chẳng lẽ không một ai đi theo? Có những đại thần can đảm còn dâng sớ lên Tiên đế, hy vọng tra rõ nguyên nhân cái chết của công chúa.

Đám đại thần đã thấy được điều bất thường, lẽ nào Tiên đế lại không hay biết? Trong cơn bi thống, Tiên đế đã bí mật lệnh cho Đại Lý Tự điều tra kỹ càng. Không ngờ sau khi điều tra, sự thật được phơi bày: kẻ hại chết công chúa không ai khác chính là phò mã Đô úy Trịnh Quân.

Tin tức này vừa truyền ra, ai nấy đều kinh ngạc. Sau khi thẩm vấn, Trịnh Quân đã thú nhận tội lỗi. Thì ra, họ Trịnh đất Huỳnh Dương là một trong Ngũ tính nổi danh nhất thiên hạ. Khi xưa người ta thường nói, trong thiên hạ, không dòng họ nào quý hơn họ Thôi, họ Lỗ, họ Lý, họ Trịnh, họ Vương. Họ Trịnh của Huỳnh Dương là dòng họ quyền thế bậc nhất trong triều, trong khi Thái hậu lúc còn là Khương Quý phi lại xuất thân hàn vi, cha mẹ chỉ là tiểu thương buôn bán nhỏ. Trịnh Quân khinh thường xuất thân thấp kém của Thái hậu, càng không muốn thành thân với con gái của bà, tức công chúa Vĩnh An. Nhưng thánh chỉ đã ban ra, hắn không thể kháng lệnh, trong lòng chất chứa bất mãn, oán hận công chúa ngày một sâu sắc.

Đêm mùng sáu tháng mười, Trịnh Quân cùng mấy bằng hữu uống rượu. Trong cơn say, bọn họ cười nhạo xuất thân của công chúa, nói rằng Trịnh Quân sắp cưới một “con buôn” làm vợ. Trịnh Quân xấu hổ, phẫn uất, liền sinh lòng sát hại công chúa. Hắn viết thư cho nàng, nói rằng có chuyện quan trọng cần bàn bạc tại hồ sen, mời nàng đến một mình. Có lẽ lúc đó, công chúa đã mang trong lòng sự vui mừng, háo hức đến gặp vị hôn phu của mình. Nàng trang điểm lộng lẫy, khoác lên mình hoa phục nghê thường, nhưng không ngờ rằng đó lại là cuộc hẹn dẫn nàng đến cái chết.

Trịnh Quân đẩy nàng xuống hồ sen. Nhìn thấy công chúa chới với dưới nước, kêu cứu trong vô vọng, hắn hoảng sợ bỏ chạy. Sau khi rượu tan, hắn hối hận khôn cùng, nhưng đại họa đã xảy ra, hồn phách của công chúa đã rời khỏi nhân gian, Minh Nguyệt Châu đã vĩnh viễn tắt lịm.

Sau khi thú nhận, Tiên đế giận dữ tột cùng. Không chỉ ban lệnh xử trảm Trịnh Quân, mà còn trút giận lên cả gia tộc của hắn và Trịnh Hoàng hậu, người đã tiến cử hắn làm phò mã. Đồng thời, Tiên đế còn ra lệnh phế truất Trịnh Hoàng hậu và tru di cửu tộc nhà phò mã. Nhưng họ Trịnh ở Huỳnh Dương vốn quyền thế ngút trời. Chiếu chỉ ban ra, các dòng họ quý tộc trên khắp thiên hạ đồng loạt dâng sớ xin tha tội cho nhà phò mã, nhưng Tiên đế không tha cho bất kỳ ai. Cả thành Trường An chìm trong bể máu, hơn vạn người mất mạng. Họ Trịnh đất Huỳnh Dương từ đó suy tàn, sử gọi là “Huyết án Thái Xương.”

Sau sự kiện huyết án Thái Xương, Tiên đế căm ghét thế gia đại tộc, hàn tộc bắt đầu làm tể làm tướng. Từ đó, triều đình không còn cảnh “thượng phẩm vô hàn môn, hạ phẩm vô sĩ tộc” như trước.



Thôi Tuần hồi tưởng lại vụ án đẫm máu đã thay đổi cục diện Đại Chu cách đây ba mươi năm. Hắn hơi nhíu mày, đưa tay lên nhìn lòng bàn tay mình, dường như vẫn còn cảm nhận được hơi ấm của người dưới hồ sen khi nãy. Dẫu việc này kỳ lạ đến vậy, ánh mắt hắn vẫn điềm tĩnh như mặt hồ không gợn sóng. Hắn mím nhẹ môi, che miệng ho khan hai tiếng rồi kéo chặt áo lông chồn trắng, bước chân nhẹ nhàng tiến vào điện Lân Đức.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 2: Nàng công chúa đã chết ba mươi năm trước



Trong điện Lân Đức, Thái hậu đã an tọa trên ghế cao. Dù đã ngoài sáu mươi, tóc bà vẫn đen như suối, lông mày thanh thoát, hàm răng trắng sáng, nhìn không khác gì một mỹ phụ mới khoảng bốn mươi tuổi. Gần đây, Thái hậu mang bệnh, nói rằng sẽ không tham dự tiệc đón giao thừa, nhưng đến giữa buổi tiệc, bà vẫn gượng dậy tham dự. Quần thần đoán rằng, bà vẫn chưa muốn từ bỏ quyền lực trong tay, dù rằng Thánh nhân đã tự chấp chính được mấy năm thì vẫn bị bà tìm cách thao túng.

Thôi Tuần cũng đến ngồi vào ghế của mình, tư thế ngay ngắn và nghiêm chỉnh. Các đại thần xung quanh thấy hắn đến đều ngừng trò chuyện, ánh mắt không giấu nổi sự khinh bỉ. Thậm chí, có người còn dịch ghế sang bên, thể hiện rõ sự khinh miệt đối với Thôi Tuần.

Thôi Tuần cũng không thèm để ý, thong thả gắp một miếng cá nhỏ, chậm rãi nhai. Ngón tay của hắn thon dài, đẹp đẽ, tư thái vô cùng tao nhã, khiến người khác nhìn vào đều thấy hắn không hổ danh là con trai họ Thôi ở Bác Lăng, một trong những gia tộc danh giá bậc nhất thiên hạ. Nhưng ai mà ngờ được, vị lang quân với dáng vẻ thanh tao, nhã nhặn này lại là một kẻ gian trá, tàn bạo, từng gây ra vô số án oan?

Thái hậu dường như liếc nhìn về phía Thôi Tuần, sau đó thì thầm vài lời với một tên nội thị. Chỉ trong chốc lát, nội thị liền bưng một bát canh thịt dê hoàng kỳ đến, đặt lên bàn trước mặt Thôi Tuần: “Thái hậu nói Thôi Thiếu khanh sợ lạnh, đặc biệt ban cho bát canh thịt dê hoàng kỳ để ấm người.”

Ngay khi nội thị vừa dứt lời, ánh mắt của các đại thần xung quanh lập tức đổ dồn về phía Thôi Tuần, đầy đủ mọi cung bậc cảm xúc: kẻ thì ghen ghét, người lại đố kỵ, nhưng phần lớn vẫn là khinh thường. Trong thâm tâm, ai nấy đều chắc mẩm rằng Thái hậu quả nhiên đối đãi với Thôi Tuần rất khác biệt. Thôi Tuần năm nay mới hai mươi ba tuổi, còn Thái hậu đã đủ tuổi để làm bà của hắn, vậy mà hắn thật không biết liêm sỉ.

Nhưng quyền lực Thái hậu nắm trong tay quá lớn. Tiên đế đã băng hà cách đây hai mươi năm, đương kim Hoàng thượng khi ấy còn nhỏ tuổi, Thái hậu buông rèm nhiếp chính, và sau hai mươi năm gắng sức nắm giữ triều đình, bà đã có đầy những cánh tay đắc lực trong triều. Nếu không phải nhờ Thái hậu, sau khi đầu hàng Đột Quyết, Thôi Tuần đã sớm bị xử tử, nào có cơ hội để leo lên chức quan tứ phẩm Thiếu khanh ở Sát Sự Thính như bây giờ. Nghĩ đến đây, những kẻ thanh liêm trong triều cũng chẳng dám bày tỏ thái độ khinh thường Thôi Tuần trước mặt Thái hậu, chỉ biết lặng im cúi đầu.



Dù có một vài khúc nhạc đệm nho nhỏ nhưng tiệc đón giao thừa vẫn diễn ra thâu đêm, vô cùng náo nhiệt. Sau tiệc đón giao thừa là Đại triều hội vào ngày mùng Một. Tại cung Đại Minh, cờ xí rợp trời, trống khèn vang dội, kiệu xe xa giá bày biện ở khắp mọi nơi. Thánh nhân đội cổn miện, vương công quý tộc, văn võ bá quan cùng sứ thần từ các nước chư hầu đều đến chầu, dâng lời chúc tụng. Toàn cảnh là bầu không khí thái bình thịnh trị, tươi đẹp phồn hoa. Triều hội kéo dài đến khi mặt trời đã khuất dạng sau núi.

Thôi Tuần đã thức trắng đêm trong tiệc đón giao thừa, lại trải qua cả ngày dài trong Đại triều hội khiến hắn không khỏi kiệt sức. Hắn ngồi lên xe ngựa về phủ ở phường Tuyên Dương. Phủ này là do Thái hậu ban cho, tuy rộng rãi nhưng chỉ có một lão bộc câm điếc chăm sóc. Thôi Tuần không thích có người hầu hạ, xuống xe rồi lập tức vào phòng và nằm xuống ngủ. Nhưng giấc ngủ của Thôi Tuần luôn chập chờn, dù đang rất mệt mỏi, hắn cũng không thể ngủ sâu, chỉ chợp mắt rồi tỉnh, tỉnh lại chợp mắt liên tục cho đến giờ Dần.

Đến canh tư, Thôi Tuần như bị cơn ác mộng làm giật mình tỉnh dậy. Hắn ngồi dậy, phát hiện cửa sổ không biết đã mở ra từ lúc nào, gió lạnh ùa vào từng cơn. Hắn khoác áo xuống giường, bước đến đóng cửa sổ lại. Nhưng khi tay vừa khép cửa, hắn lại loáng thoáng trông thấy bóng dáng một người mặc váy tay bó như ẩn như hiện giữa màn sương.

Nhưng khi Thôi Tuần nhìn kỹ lại, bóng dáng đó lại biến mất. Hắn nghĩ mình quá mệt nên nhìn nhầm, không nghĩ ngợi thêm, chỉ đóng cửa và quay lại giường. Tuy nhiên, lần này hắn không thể ngủ lại được, hình ảnh trong cơn ác mộng cứ ám ảnh mãi trong đầu. Hắn cứ trằn trọc như vậy cho đến sáng.

Khi ba ngàn tiếng chuông hạ thần cổ vang lên, Thôi Tuần biết ấy đã là canh năm, phố phường Trường An lại rộn ràng trong tiếng gà gáy, chó sủa. Thôi Tuần khoác áo đứng dậy. Hôm nay là ngày mùng Hai tháng Giêng, quan lại được nghỉ bảy ngày, dân chúng Trường An cũng tưng bừng đến nhà nhau chúc Tết. Trước cửa phủ của các quan lớn trong phường Tuyên Dương, người qua kẻ lại nối liền nhau không dứt. Học giả, lại viên trẻ tuổi tay cầm bái thiếp, đứng đợi bên ngoài phủ để mong có cơ hội tiến thân. Giữa khung cảnh tấp nập ấy, phủ của Thôi Tuần lại vô cùng quạnh quẽ. Ngay cả câu đối hay tranh thần môn cũng không được dán lên cửa.

Hai nho sinh nghèo đi ngang qua phủ của Thôi Tuần, thấy cảnh đìu hiu đó thì không khỏi liếc nhìn thêm vài lần. Một người khẽ nói: “Phủ này ở phường Tuyên Dương mà sao chẳng có một ai đến cả?”

Người kia mỉm cười đầy ý nhị: “Huynh không biết à? Đây là phủ của Liên Hoa Lang đấy.”

“Liên Hoa Lang? Là Thôi Tuần sao?”

“Chứ còn ai nữa? Kẻ thanh liêm thì không muốn kết giao với hắn, còn những kẻ tiểu nhân muốn thì lại bị hắn khinh thường, ai đến cũng bị đuổi đi. Lâu dần, chẳng ai bén mảng đến nữa. Phủ đệ của nhà họ Thôi ở ngay gần đây thôi, nhưng hắn đã bị xoá tên khỏi gia phả từ lâu, làm gì có thân thích nào mà đi lại. Trong ngày đầu năm vui vẻ thế này, cả thành Trường An chắc chỉ có mình hắn là cô độc thôi.”

“Tự làm tự chịu mà.”

Hai nho sinh vừa cười khẩy vừa bước đi xa. Phía trước là một thiếu nữ thanh lệ mặc váy tay bó đang đứng cầm ô, chắn ngay trước mặt bọn họ. Nhưng dường như cả hai người họ đều không hề nhìn thấy nàng, cứ thế lướt qua. Thiếu nữ xoay người lại, lặng lẽ nhìn theo bóng lưng của họ, rồi thở dài một tiếng. Hình bóng nàng bất ngờ xuyên qua cánh cổng lớn đóng kín, tiến vào trong phủ.



Lúc này, Thôi Tuần vừa mặc xong áo thường phục màu đỏ sẫm, thắt dây lưng điệp tiệp, nhưng mũ đội đầu vẫn chưa kịp mang. Trong gương đồng, mái tóc đen của hắn buộc gọn bằng phát quan bằng ngọc, y phục màu đỏ như ráng chiều tà. Đôi mắt đào hoa gợn sóng nhưng nước da quá trắng, ánh mắt lại lạnh lẽo như sương tuyết, làm giảm đi vẻ kiều diễm ướt át ẩn trong ánh mắt kia.

Thôi Tuần thắt xong dây lưng, trong lúc lơ đãng ngẩng đầu lên thì bỗng thấy trong gương hiện ra bóng dáng của một thiếu nữ.

Hắn không khỏi quay đầu lại nhìn. Đập vào mắt là một thiếu nữ xinh đẹp. Nàng mặc chiếc áo ngắn màu xanh lục, bên dưới là váy màu đỏ trắng xen kẽ, tóc vấn kiểu song hoàn vọng tiên, trên đầu cài trâm hoa vàng, giữa trán điểm châu hình giọt nước, vai khoác tấm sa lụa mỏng. Thiếu nữ mắt ngọc mày ngài, lan tư huệ chất, thanh tao thoát tục. Rõ ràng là một mỹ nhân khuynh quốc khuynh thành hiếm gặp, nhưng Thôi Tuần lại nhíu mày.

Hắn nhíu mày, chỉ vì cảm thấy có gì đó kỳ lạ.

Thiếu nữ trước mặt tuy ăn mặc lộng lẫy, nhưng toát lên vẻ quỷ dị. Nàng búi tóc kiểu song hoàn vọng tiên, mặc váy xen kẽ hai màu đỏ trắng, cài trâm hoa bằng chỉ vàng, điền trang hình giọt nước, nhưng kiểu tóc thịnh hành của các tiểu thư quý tộc lúc bấy giờ là kiểu giao tâm kế, mặc viên lĩnh và váy dài đồng màu, đeo bộ diêu và điểm hoa điền trên trán. Phong cách của thiếu nữ này lại giống như thời Thái Xương cách đây ba mươi năm.

Thôi Tuần nhíu mày, lạnh giọng hỏi: “Ngươi là ai? Tại sao lại xông vào phủ của ta?”

Thiếu nữ đối diện với giọng điệu chất vấn không mấy thân thiện của hắn nhưng không hề tức giận, cũng không có vẻ gì sợ hãi, ngược lại còn tỏ vẻ vui mừng: “Ngài có thể thấy ta?”

Thôi Tuần không hài lòng. Mặc dù sức khỏe của hắn không tốt, nhưng chưa đến mức bị mù. Một người sống sờ sờ đứng ngay trước mặt, làm sao hắn lại không thấy?

Hắn thậm chí còn nghĩ rằng thiếu nữ xinh đẹp này có phải đầu óc không được tỉnh táo hay không. Chưa bàn đến việc nàng mặc đồ lỗi thời, lại còn hỏi một câu buồn cười như vậy? Hắn đáp: “Tất nhiên là ta có thể nhìn thấy ngươi.”

Thiếu nữ mỉm cười rạng rỡ: “Vậy thì tốt quá rồi.”

Nàng điềm nhiên, giữa ấn đường lộ ra vẻ cao quý: “Ta là Vĩnh An công chúa, Lý Doanh. Lần này đến đây là muốn nhờ ngài điều tra một vụ án.”

Nàng dừng lại một lúc, rồi nói: “Ta muốn nhờ ngài điều tra xem là ai đã giết ta.”



Đó quả là một cảnh tượng kỳ lạ đến khó tin.

Một công chúa đã chết từ lâu, lại nhã nhặn thỉnh cầu một vị quan khét tiếng tàn bạo điều tra nguyên nhân cái chết của nàng. Dù cho Thôi Tuần đã từng trải qua nhiều sóng gió thì vẫn không khỏi ngẩn ra một lúc. Nhưng rất nhanh, hắn bình tĩnh lại, nhướn mày hỏi: “Cô là hồn ma?”

Lý Doanh gật đầu: “Phải.”

Ban ngày gặp ma, nhưng Thôi Tuần lại không hề tỏ ra sợ hãi như một người phàm. Hắn không sợ ma, cũng chẳng ngại quỷ, nói: “Cô đến nhờ ta tra án?”

Lý Doanh gật đầu: “Phải.”

Thôi Tuần nói: “Án của cô đã có kết luận, chính là do Phò mã Trịnh Quân gây ra.”

Lý Doanh lại lắc đầu: “Không phải Trịnh Quân.”

“Vì sao?”

Lý Doanh nói: “Vì suốt ba mươi năm qua, ta không thể đầu thai chuyển kiếp.”

Lý Doanh mất khi mới mười sáu tuổi. Nếu Trịnh Quân là người giết nàng, khi Trịnh Quân bị Tiên đế xử tử, nàng lẽ ra đã có thể siêu thoát, nhưng nàng lại bị kẹt ở hồ sen suốt ba mươi năm, không thể đầu thai. Điều đó có nghĩa là hung thủ chân chính vẫn chưa bị trừng phạt, oán khí của Lý Doanh chưa thể tiêu tán, khiến nàng không thể vãng sinh.

Nhưng nếu không phải Trịnh Quân giết nàng, thì là ai? Lý Doanh không biết, nàng chỉ có thể tìm đến sự giúp đỡ của Thôi Tuần.

Thôi Tuần lại hỏi: “Tại sao lại tìm ta?”

Lý Doanh đáp: “Vì ngài đã cứu ta ra khỏi hồ sen.”

Từ khi chết đuối ở hồ sen ba mươi năm trước, hồn phách của Lý Doanh luôn bị giam giữ dưới nước, không thể thoát ra. Trong suốt ba mươi năm đó, nàng chỉ có thể nhìn thấy cảnh hoa sen trong hồ từ từ khô héo, nhìn những con cá vàng dưới đáy hồ chết dần, nhìn rêu xanh mọc đầy hồ vào mùa hè rồi lại héo tàn vào mùa đông. Trong bóng tối của đáy hồ, mỗi ngày nàng đều nghe thấy tiếng trống ba nghìn nhịp báo hiệu bình minh vang lên từ cửa Thừa Thiên của cung Thái Cực, nàng biết lại qua thêm một ngày.

Thỉnh thoảng có vài cung nữ mới vào cung, không biết lệnh cấm, sẽ đến chơi đùa bên hồ sen. Các nàng thường ngồi xổm bên hồ, cười khúc khích và vớt những mảng rêu xanh. Lý Doanh ở dưới nước vẫy tay, mong các nàng sẽ nói chuyện với mình, nhưng họ không thể nghe thấy giọng nói của nàng. Những ngón tay trong suốt của nàng xuyên qua thân thể các cung nữ, họ hoàn toàn không cảm nhận được sự tồn tại của nàng.

Cứ như vậy, Lý Doanh đã sống trong sự cô độc vô tận suốt ba mươi năm, cho đến khi nhìn thấy một người đàn ông mặc áo lông cáo trắng đang uống rượu bên hồ sen. Chén kim bôi của hắn rơi xuống hồ, và hắn thò tay xuống hồ để vớt lên. Nàng đã quá cô đơn, khi nhìn thấy ngón tay thon dài của hắn ta gần trong gang tấc, nàng bèn duỗi tay ra, chạm vào tay hắn.

Nhưng lần này, ngón tay của nàng không xuyên qua tay hắn mà mười ngón tay đã đan cài vào nhau. Lý Doanh vừa kinh ngạc vừa vui mừng, người đàn ông dường như cũng cảm nhận được sự hiện diện của nàng. Có lẽ nhờ được nguyên khí của người sống sưởi ấm, Lý Doanh chợt cảm thấy cơ thể đã bị giam cầm trong môi trường ẩm lạnh lâu ngày bỗng ấm lại. Nàng từ từ ngẩng đầu lên, và trong khoảnh khắc đó, nước hồ sen dường như trở nên trong suốt. Dưới làn nước, nàng nhìn thấy một gương mặt đẹp đẽ như đóa sen.

Ngay sau đó, một tiểu nội thị vội vã đến gọi người đàn ông rời đi. Lý Doanh nghĩ đây chỉ là giấc mơ. Nàng nhắm mắt lại, và khi mở mắt ra, nàng đã rời khỏi hồ sen, nơi đã giam giữ nàng suốt ba mươi năm, và đang đứng bên bờ hồ.

Hồn phách của nàng cuối cùng cũng thoát khỏi hồ sen, giờ đây nàng có thể tự do đi lại trong cung Đại Minh.

Nhưng cung Đại Minh giờ đã không còn là nhà của nàng nữa. Nàng đã chết được ba mươi năm rồi. Qua những lời nói của các cung nữ và thái giám trốn ra chơi ở hồ sen, nàng biết rằng a gia đã băng hà, a nương nàng đã lên làm Thái hậu, còn sinh thêm một a đệ. Bây giờ a đệ đăng cơ, hiệu là Long Hưng.

Ngoại trừ mẫu hậu vẫn còn nhớ đến nàng, thắp đèn trường minh trong bốn vạn ngôi chùa thờ Phật trên khắp Đại Chu thì khắp thế gian này chẳng còn mấy ai nhắc đến nàng nữa. Thậm chí nếu có ai nhắc đến nàng thì cũng chỉ nói rằng nàng là vị công chúa đã gây ra “Huyết án Thái Xương”, khiến cả Trường An chìm trong biển máu.

Nhưng, nàng đâu muốn “Huyết án Thái Xương” xảy ra, nàng cũng đâu muốn lấy đi sinh mạng của hàng vạn người trong thành Trường An. Chẳng lẽ nàng không muốn được ở bên cạnh phụ hoàng và mẫu hậu, phụng dưỡng dưới gối, tiếp tục trải qua những năm tháng trôi chảy vô ưu?

Nàng cảm thấy uất ức, chua xót. Nàng muốn gặp a nương, nhưng không thể. A nương ở cung Bồng Lai, trước cửa cung dán thần môn. Nàng là hồn ma, không thể vào được.

Nàng lang thang vô định trong cung, không một cung tỳ hay nội thị nào có thể nhìn thấy nàng. Cơ thể nàng có thể xuyên qua núi giả, xuyên qua cây cối, xuyên qua tường cung, nhưng không một ai liếc mắt nhìn nàng. Cuối cùng, nàng tuyệt vọng nhận ra rằng dù đã ra khỏi hồ sen, số phận nàng vẫn chẳng khác khi bị giam cầm trong làn nước lạnh lẽo.

Đi mệt rồi, nàng lại trở về bên bờ hồ sen. Nàng quá cô độc, a nương thắp đèn trường minh khắp nơi trong cả nước, mong nàng có thể siêu thoát, đầu thai chuyển kiếp để hai mẹ con có thể đoàn tụ nhau. Nàng cũng mong sớm được đầu thai để gặp lại a nương, nhưng nàng không thể.

Một lần nọ, có một quỷ sai đi ngang qua hồ sen, nàng van xin hắn đưa nàng đi. Nhưng hắn nói rằng nàng là người chết oan, chưa tìm ra hung thủ, nên không thể đầu thai.

Vậy nên không phải Trịnh Quân giết nàng.

Muốn được đầu thai, Lý Doanh phải tìm ra kẻ đã giết mình.

Ngồi bên hồ sen, nàng cố nhớ lại những gì đã xảy ra trước khi chết, nhưng chỉ có thể nhớ bức thư Trịnh Quân viết cho nàng, còn những chi tiết khác thì nàng hoàn toàn không thể nhớ nổi.

Lý Doanh liền nghĩ tới người duy nhất có thể nhìn thấy nàng, Thôi Tuần.

Thôi Tuần là Thiếu khanh của Sát Sự Thính, cơ quan do mẹ nàng lập ra với chức năng tương tự Đại Lý Tự, chuyên chưởng hình ngục. Nàng tin rằng Thôi Tuần có thể giúp nàng điều tra nỗi oan khuất này.



Lý Doanh nhìn Thôi Tuần với ánh mắt đầy hy vọng: “Thôi Thiếu khanh, ngài là người duy nhất có thể thấy ta. Liệu ngài có thể giúp ta không?”

Ánh mắt Thôi Tuần như một giếng nước tĩnh lặng, hắn nhàn nhạt đáp: “Tại sao ta phải giúp cô? Giúp một công chúa đã chết ba mươi năm?”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 3: Phạt quỳ



Câu trả lời này năm ngoài dự đoán của Lý Doanh. Nàng khẽ ngẩn người. Suốt mười sáu năm sống trong nhung lụa, được yêu chiều hết mực, chưa một thần tử nào dám đối đáp với nàng như thế. Nghĩ ngợi một lúc, nàng nói với giọng run run: “Ta biết yêu cầu này có hơi đường đột, nhưng ta không muốn cô hồn dã quỷ, ta muốn đầu thai, và để làm được điều đó, ta cần tìm ra kẻ đã giết mình. Ngài có thể giúp ta không?”

Nhưng sự chân thành của nàng chỉ đổi lại một câu nói từ Thôi Tuần: “Việc đó liên quan gì đến ta?”

Lý Doanh có chút bối rối và khó xử, nàng xoắn tay áo, giọng điệu ngập ngừng: “Nếu ngài giúp ta, nhất định ta sẽ báo đáp.”

Thôi Tuần cười nhạt: “Cô có gì để báo đáp ta?”

“Ta…” Lý Doanh nghẹn lời. Nàng chỉ là một hồn ma cô độc, thực sự không có gì để có thể báo đáp hắn.

Nàng cúi đầu, cắn môi, không biết phải làm sao để thuyết phục hắn. Thấy vậy, Thôi Tuần cũng không muốn phí lời thêm, bày ra động tác tiễn khách: “Cô đi đi, ta không có hứng giúp một hồn ma.”

Lý Doanh không muốn rời đi. Thôi Tuần là người duy nhất có thể nhìn thấy nàng, và còn là Thiếu khanh tứ phẩm của Sát Sự Thính. Ngoài hắn ra, nàng không biết tìm ai khác. Cảm giác vô vọng khiến nàng chỉ biết thở dài, nói khẽ: “Nhưng ngoài ngài ra, ta không biết phải tìm ai nữa…”

Thôi Tuần bật cười như nghe một điều gì đó rất hài hước: “Trước khi đến, chẳng lẽ cô không hỏi rõ về con người ta sao?”

Lý Doanh lặng đi. Nàng đương nhiên biết Thôi Tuần là ai. Hắn được gọi là Liên Hoa Lang, diện mạo thanh thoát tựa hoa sen, nhờ vẻ ngoài mà trở thành khách trong màn của mẫu thân nàng. Người đời nói rằng hắn phẩm cách ti tiện, hèn mòn thù dai, là một tên tiểu nhân chính hiệu.

Nhưng dù hắn có xấu xa đến đâu thì nàng còn có thể cầu cứu ai được nữa? Nàng sợ cô độc, nàng không muốn bị nhốt trong hồ sen, càng không muốn chìm sâu vào bóng tối vĩnh hằng nữa.

Dường như Thôi Tuần cũng không muốn tốn thời gian thêm, hắn nói: “Ta phải đến Sát Sự Thính để thẩm vấn một vụ án. Nếu muốn theo thì cứ đi, nhưng ta dám chắc cô sẽ nhanh chóng đổi ý thôi.”



Lý Doanh không hiểu hết ý nghĩa trong lời nói của Thôi Tuần, nhưng vẫn nhắm mắt, lẽo đẽo theo gót chân hắn đến Sát Sự Thính nằm ở phường Nghĩa Ninh. Nàng bám sát phía sau Thôi Tuần, và dĩ nhiên, ngoại trừ hắn ra, không ai có thể nhìn thấy nàng.

Vừa bước vào ngục, Lý Doanh đã ngay lập tức bị những tiếng kêu la thảm thiết từ vang lên từ bốn phía làm cho sợ hãi, bước chân không khỏi khựng lại. Trong ngục đốt vô số chậu than, trên đó đặt đủ loại hình cụ đã được nung nóng. Không khí nóng bức như giữa trời tháng tư, các cai ngục đều để trần, chỉ có Thôi Tuần bước vào lại cảm thấy lạnh, thậm chí còn phải kéo chặt chiếc áo choàng lông dày màu đen tuyền trên người, sắc mặt hắn trắng bệch như quỷ dữ bò lên từ địa ngục. Nhìn thấy hắn, nhóm cai ngục đều cúi đầu, cung kính hành lễ: “Bái kiến Thiếu khanh.”

Thôi Tuần không đáp lại, khoác huyền bào tiếp tục tiến sâu vào bên trong ngục thất, Lý Doanh giật mình tỉnh lại, vội vàng bịt tai, chạy nhanh theo hắn.

Lý Doanh vừa tiến vào thì liền bị mùi máu nồng nặc làm buồn nôn. Trước mặt nàng là một người máu me be bét, treo trên giá hình. Nàng sợ hãi lùi lại mấy bước, chợt nhận ra người đó đã bị tra tấn đến mức không còn rõ hình người nữa, toàn thân thương tích, hơi thở thoi thóp, xương sườn cũng lòi cả ra. Chân hắn dường như cũng đã bị kẹp gãy, bị buộc treo lên thành một tư thế méo mó. Từ nhỏ Lý Doanh đã lớn lên ở cung cấm, luôn được cưng chiều nên đã bao giờ phải chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp thế này đâu. Nàng hoảng sợ đến mức ngã ngồi xuống đất, hai tay che mắt, không dám nhìn thêm.

Thôi Tuấn dường như đã đoán trước được phản ứng của nàng. Hắn không bận tâm, chỉ từ từ vươn cánh tay khẳng khiu ra khỏi lớp áo choàng dày màu huyền sắc, ngón tay thon dài với những khớp xương rõ ràng điềm đạm gõ vào những dụng cụ tra tấn đang xếp trên lò than, như thể đang cân nhắc xem liệu cái nào sẽ có hiệu quả nhất. Cai ngục xung quanh đều im lặng, không dám thở mạnh. Một lúc sau, hắn chọn ra một thanh sắt nung đỏ, nhìn làn khói trắng bốc lên, mặt mày vô cảm bước đến gần tên tù nhân, chậm rãi hỏi: “Ta sẽ hỏi ngươi lần nữa, có phải Hán Dương vương đang mưu phản không?”

Tên tù nhân đã bị tra tấn đến hấp hối, máu chảy xuống che khuất tầm mắt hắn. Khoang miệng hắn đã bị nhổ hết răng, máu tươi đầm đìa, nhưng vẫn cố gắng nói: “Thôi Tuần… ta là con cháu Vương thị ở Thái Nguyên, giữ chức Trưởng sử phủ Hán Dương vương. Ngươi không có chiếu chỉ mà bắt ta đến đây, ý đồ dùng cực hình để bức cung… không sợ sau này lộ ra… sẽ bị Thánh nhân trừng phạt sao?”

Thôi Tuần chỉ thờ ơ đáp: “Ta hỏi lần cuối, có phải Hán Dương vương đang mưu phản không?”

Vương Trường sử bật cười lớn: “Hán Dương vương không mưu phản. Chính ngươi, vu hãm triều thần, khổ hình bức cung, ngươi sẽ không được chết tử tế!”

Thôi Tuần mất dần kiên nhẫn, cây sắt nung đỏ trong tay hắn lập tức ấn mạnh lên lồng ng.ực của Vương Trường sử, da thịt nơi bị tra tấn lộ ra cả xương trắng. Một tiếng thét thất thanh, đau đớn đến mức không giống tiếng người bật ra từ miệng Vương Trường sử trước khi hắn ngất lịm đi.

Lý Doanh ngồi sụp xuống đất, hai tay bịt chặt tai, cả người run rẩy. Thôi Tuần thản nhiên vứt cây sắt sang một bên như vứt đi thứ giẻ rách, ra lệnh cho cai ngục: “Lấy nước muối, dội cho hắn tỉnh lại.”

Ra lệnh xong, Thôi Tuần vô tình quay đầu nhìn về phía Lý Doanh, nhưng Lý Doanh vốn ngồi đó giờ đã biến mất, hẳn là đã bị dọa đến mức phải bỏ chạy.

Việc này nằm trong định liệu của Thôi Tuần.

Bị dội nước muối, Vương Trường sử đau đớn đến bừng tỉnh, hắn ho sặc sụa, máu từ miệng và mũi hắn phun ra, bắn lên cả người Thôi Tuần. Cai ngục vội vàng đưa khăn, Thôi Tuần ghét bỏ lau đi những vết máu trên tay, nghe cai ngục lắp bắp lo sợ: “Thôi Thiếu khanh, phạm nhân sắp không chịu nổi nữa rồi…”

Vương Trường Sử bị tra tấn đến mức chỉ còn lại một chút hơi tàn, Thôi Tuần vẫn chăm chú lau tay, không hề ngẩng đầu: “Chết thì chết. Chẳng phải hắn vẫn còn con trai sao?”

Vừa nghe thấy những lời này, đôi mắt mờ đục của Vương Trường Sử trợn to, cố nén cơn đau mà yếu ớt nguyền rủa: “Thôi Tuần, ngươi nhất định chết không được tử tế…”

Thôi Tuần khẽ cười, giọng nói lạnh nhạt: “Ta chết thế nào, đâu phiền Vương Trường sử lo lắng.”

Hắn từ từ bước đến gần, chăm chú nhìn vào gương mặt bầm dập đầy máu của Vương Trường sử, rồi cúi đầu nói nhỏ bên tai, chỉ đủ để hai người nghe thấy: “Vương Lương, sáu năm trước, ngươi đã từng phục vụ dưới trướng của Bùi Quan Nhạc có đúng không? Vụ việc ở Lạc Nhạn Lĩnh, hẳn là ngươi biết rõ, chỉ cần ngươi kể lại chi tiết mọi chuyện, ta sẽ không động đến con trai ngươi.”

Vừa nghe đến mấy chữ “Lạc Nhạn Lĩnh”, đồng tử của Vương Trưởng sử đột ngột giãn rộng, cơ thể run rẩy dữ dội, lúng búng nói: “Lạc Nhạn Lĩnh… Lạc Nhạn Lĩnh… Hóa ra ngươi đến đây vì chuyện đó…”

Lời nói của hắn lộn xộn, không rõ ràng. Thôi Tuần cau mày, tiến sát hơn để nghe rõ tiếng thì thào của Vương Trưởng Sử nhưng hắn chỉ lẩm bẩm được vài câu “Lạc Nhạn Lĩnh”, rồi đầu ngã xuống, không còn hơi thở.

Cai ngục vội vàng chạy đến, nâng đầu Vương Trường sử lên, kiểm tra nhịp thở, hoảng hốt báo cáo: “Thôi Thiếu khanh, hắn… hắn sợ đến chết rồi.”

Hắn thật sự bị dọa đến chết? Dưới lớp áo đỏ thẫm, nắm tay Thôi Tuần dần siết chặt. Hắn lạnh lùng liếc nhìn thi thể không kịp nhắm mắt của Vương Trường sử, nói: “Ném đi, cho chó ăn.”



Kể từ ngày hôm đó, hẳn là Lý Doanh đã bị những thủ đoạn tàn bạo và màn tra tấn ép cung của Thôi Tuần dọa cho khiếp sợ, không dám lảng vảng gần hắn nữa. Cũng vài ngày sau, Thái hậu đã triệu Thôi Tuần vào cung yết kiến.

Trong điện Bồng Lai, làn khói thơm đang tỏa ra từ lư hương Bác Sơn hình đầu phượng, quyện vào không gian. Sau tấm rèm ngọc, Thái hậu nằm nghiêng trên giường, tay chống đầu, mắt nhắm hờ. Thái hậu mắc chứng đau đầu từ lâu, cơn đau có lẽ lại phát tác, nên mới dùng đến hương liệu để xoa dịu.

Thôi Tuần quỳ trên sàn gỗ lim, dáng người ngay thẳng nhưng trên trán đã lấm tấm mồ hôi. Thái hậu dường như cố ý làm khó, không hiệu để hắn đứng lên mà phải rất lâu sau mới chịu lên tiếng: “Thôi Tuần, lá gan của ngươi ngày càng lớn.”

Thôi Tuần cúi đầu: “Thần biết tội.”

Thái hậu cười nhạt: “Biết tội? Ngươi lợi dụng lúc Vương Lương về Trường An thăm gia đình, sai người của Sát Sự Thính bắt hắn về, dùng cực hình tra khảo đến chết, rồi lại bỏ xác ngoài đồng hoang. Ngươi có biết thân thể mà người nhà họ Vương tìm thấy chỉ còn là một thi thể không toàn vẹn? Giờ đây, họ đang la lối đòi cáo ngự trạng, muốn Thánh thượng phải làm rõ phải trái.”

Thôi Tuần vẫn im lặng, chỉ nói: “Thần có tội.”

“Ngươi đương nhiên có tội!” Giọng nói của Thái hậu ẩn chứa sự phẫn nộ: “Vương Lương tuy chỉ là Trường sử của Hán Dương vương, nhưng dù sao cũng là con cháu Vương thị ở Thái Nguyên. Sao ngươi dám?”

Thôi Tuần cúi mắt, đáp: “Hán Dương vương ôm lòng bất mãn với Thái hậu, ý đồ liên hợp với hoàng thân quốc thích, phạm thượng tác loạn. Thần cũng chỉ vì lo nghĩ cho Thái hậu, nên mới bắt Vương Lương, định ép hắn khai ra chứng cứ phạm tội của Hán Dương vương, không ngờ hắn không chịu nổi, chỉ qua vài đòn đã chết.”

Nghe đến đây, Thái hậu chỉ cười lạnh: “Thôi Tuần, Thôi Vọng Thư, ngươi thật sự nghĩ ngô đã già cả lú lẫn rồi sao? Vương Lương sáu năm trước làm chức vụ gì, ngươi tưởng ngô không biết chắc?”

Thôi Tuần mím môi, ánh mắt vẫn tĩnh lặng như mặt gương. Hắn dập đầu chạm đất, giọng điệu máy móc: “Thần có tội.”

Thái hậu lại cười lạnh: “Ngươi cũng không cần phải nhận tội. Từ khi ngươi nhậm chức Thiếu khanh của Sát Sự Thính đến nay, những việc như thế này đâu phải là lần đầu. Giờ đây Thánh thượng đã tự mình chấp chính, thế lực các thế gia ngày càng lớn mạnh. Ngô phải cho người và Vương thị ở Thái Nguyên một lời giải thích. Ngươi ra quỳ bên ngoài điện Tử Thần đi, quỳ đến khi bãi triều rồi mới được đứng dậy.”

Hình phạt này tuy không đau đớn gì, nhưng mang ý nghĩa vô cùng nhục nhã. Điện Tử Thần là nơi thiết triều, việc bắt Thôi Tuần quỳ ở đó chẳng khác nào để tất cả quan viên nhìn thấy cảnh hắn bị hạ nhục. Dù vậy, Thôi Tuần vẫn không biện minh, cũng không xin tha, chỉ trầm mặc cúi đầu nhận mệnh: “Thần tuân chỉ.”

Hắn định đứng dậy, Thái hậu vẫn nhắm mắt, tay đỡ trán, bất chợt buông một câu đầy ẩn ý: “Thôi Tuần, có những chuyện đã thành dĩ vãng, nên quên đi thì hãy quên. Nếu không, ngươi không chỉ hại người khác, mà còn làm hại chính mình.”

Ánh mắt Thôi Tuần thoáng dao động, nhưng chỉ trong chốc lát, hắn đã lấy lại vẻ đạm nhiên phẳng lặng như giếng cổ. Hắn cúi đầu: “Thần cảm tạ Thái hậu chỉ giáo.”

Nói xong, hắn lê đôi chân đã quỳ đến tê cứng, bước từng bước tập tễnh rời khỏi đại điện.

Phía sau lưng Thôi Tuần, Thái hậu nằm nghiêng trên giường từ từ mở mắt, qua tấm rèm châu thoáng lay động, ánh mắt dõi theo bóng dáng gầy guộc của hắn. Một lúc lâu sau, bà mới thở dài, chậm rãi nhắm mắt lại.



Khi triều sớm bắt đầu, cả thành Trường An đã chìm trong lớp tuyết dày. Tuyết như lông ngỗng rơi mãi suốt đêm. Bên ngoài điện Tử Thần, tuyết tích lại thành từng đống. Theo quy định của Đại Chu, các quan viên từ ngũ phẩm trở lên đều phải đến dự buổi triều sớm hằng ngày. Khi nhóm quan viên bước vào điện Tử Thần, họ bất ngờ phát hiện ra có một người đang quỳ gối bên ngoài điện.

Người ấy cúi đầu, ánh mắt trầm lắng. Bộ quan bào màu đỏ thẫm của hắn đã bị tuyết thấm ướt, ôm sát vào cơ thể, khiến bóng dáng thêm phần gầy yếu. Hàng lông mi dài, đen nhánh như lông quạ bị phủ kín bởi những hạt tuyết nhỏ. Tuyết cũng rơi xuống trán, tan thành giọt nước lạnh lẽo rồi hòa cùng mồ hôi trên trán, lăn dọc sống mũi mà chảy xuống. Vài lọn tóc ẩm ướt rơi ra khỏi mũ quan, bám chặt vào khuôn mặt trắng như bạch ngọc. Đôi tay thõng xuống ngoài ống tay áo đã đỏ bầm lên vì lạnh, gương mặt vốn không chút huyết sắc lại càng tái nhợt đến cực điểm. Có vẻ như hắn đã quỳ ở đó rất lâu, thân thể bắt đầu run lẩy bẩy, sống lưng vẫn giữ thẳng tắp. Giữa nền tuyết trắng mênh mông, hắn một mình quỳ ở đó, dáng vẻ càng thêm cô tịch.

Chúng quan sửng sốt, rồi xì xầm to nhỏ với nhau: “Đó chẳng phải là Thôi Tuần sao? Rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì?”

“Có tin đồn hắn đã tra tấn Vương Lương đến chết nên bị Thái hậu phạt quỳ ở ngoài điện Tử Thần, phải quỳ đến khi tan triều.”

Lư Tư nghiệp, kẻ từng bày tỏ sự khinh miệt với Thôi Tuần trong yến tiệc đón năm mới, tức giận nói: “Nếu là người khác, việc phạt quỳ trước mặt bá quan còn có thể xem là một hình phạt, những kẻ biết nhục nhã có lẽ sẽ quỳ xong rồi tự kết liễu vì xấu hổ. Nhưng Thôi Tuần thì sao, có mặt mũi đâu mà còn biết xấu hổ? Phạt quỳ đối với hắn có là gì?”

“Cũng đúng. Hắn đã đánh chết Trường sử của vương phủ, nhưng không bị cách chức, chỉ phải quỳ mà thôi. Thái hậu thật sự quá khoan dung với hắn!”

“Than ôi, tội nghiệp cho Vương Trường sử, nghe nói lúc tìm thấy thi thể, thì đã bị chó hoang gặm gần hết rồi.”

Lư Tư nghiệp nghiến chặt nắm đấm: “Thiên lý rõ ràng! Sẽ có ngày Thôi Tuần thất thế. Đến lúc đó, chúng ta nhất định phải chém hắn thành ngàn mảnh để an ủi những vong hồn oan khuất!”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 4: Ba mươi năm qua, Thái hậu chưa hề quên cô



Trong phòng ngủ của Thôi phủ, Thôi Tuần cuộn mình trong chăn gấm, tựa lưng vào sập gỗ. Trong phòng đặt một lò than chạm khắc tinh xảo, đốt loại thụy than [1] có nguồn gốc từ Tây Lương quốc, khiến không gian ấm áp như giữa xuân. Nhưng dù vậy, Thôi Tuần vẫn run rẩy vì lạnh. Hắn liên tục ho khan, khuôn mặt vốn dĩ tái nhợt nay vì cơn sốt mà ửng hồng, đuôi mày khóe mắt càng thêm phầm diễm sắc. Từ sau buổi phạt quỳ bên ngoài điện Tử Thần, Thôi Tuần vẫn sốt cao không ngừng. Thái hậu không hề đoái hoài gì đến hắn, trong khi Sát Sự Thính cũng không cho phép hắn vào làm việc. Tin đồn về việc hắn mất đi sự sủng ái đã lan ra khắp thành Trường An, những phe cánh đối địch đều cho rằng đây là thời cơ tuyệt vời để lật đổ hắn. Tấu biểu tố cáo tội trạng của Thôi Tuần như mưa tuyết đổ xuống cung Đại Minh, mỗi tờ mỗi tờ đều vạch ra từng sai phạm của Thôi Tuần. Nếu ngày mai Đại Lý Tự đến bắt hắn về quy án, hắn cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên.

[1] Thụy than” (瑞炭) là loại than quý, thường được sử dụng trong các hoàng cung và giới quý tộc thời xưa ở Trung Quốc. Than này có chất lượng cao, cháy lâu và tỏa nhiệt tốt, đặc biệt không tạo nhiều khói hay bụi, khiến nó được ưa chuộng vào mùa đông để sưởi ấm. Cái tên “thụy” (瑞) trong “thụy than” còn mang nghĩa “may mắn” hoặc “tốt lành”, thể hiện sự quý giá của loại than này, thường được dùng trong các nghi lễ hoặc dành cho tầng lớp quyền quý.

Có lẽ Thái hậu đã vô cùng tức giận khi hắn tự ý bắt giữ Vương Lương. Nhưng dù có quay ngược thời gian, hắn vẫn sẽ làm vậy.

Một cơn ho kịch liệt nữa ập đến, ngực hắn đau nhói. Hắn không thích có người hầu hạ, vì vậy dù đang bệnh nặng, phòng hắn vẫn không một bóng người, nhìn rất cô đơn lạnh lẽo. Thôi Tuần sốt đến mơ màng, rồi bỗng nhiên, hắn chợt nhìn thấy Lý Doanh.

Ban đầu, hắn tưởng mình hoa mắt nên cũng không để ý. Cho đến khi tiếng thở dài nhẹ nhàng của Lý Doanh vang lên trong phòng: “Có vẻ ngài bệnh rất nặng.”

Lúc này, Thôi Tuần mới ý thức được rằng Lý Doanh lại đến phủ hắn một lần nữa. Hắn ho khan hai tiếng, giọng lạnh lùng: “Cô lại đến đây làm gì?”

Lý Doanh hơi ngượng ngùng cúi đầu: “Ta vẫn muốn nhờ ngài giúp ta tìm ra sự thật.”

Nàng bỗng thì thầm: “Trong số các triều thần, chỉ có ngài là có thể nhìn thấy ta, ta không biết phải tìm ai khác…”

Thôi Tuần sốt ruột, ho lên: “Ta đã nói rồi, ta không có hứng thú giúp một công chúa đã chết ba mươi năm.”

“Nếu ta có thể báo đáp ngài thì sao?” Lý Doanh hỏi.

Thôi Tuần cười lạnh: “Một hồn ma như cô thì thì định báo đáp ta thế nào được?”

Lý Doanh cắn môi, như thể đã quyết tâm. Nàng nói: “Ta biết ngài đã làm phật ý a nương, nhưng ta có cách giúp ngài làm bà nguôi giận.”

Thôi Tuần không tin: “Cô thì có cách gì?”

Lý Doanh đáp: “Nếu ta thực sự có cách, ngài phải hứa với ta, giúp ta điều tra vụ án.”

Thôi Tuần suy nghĩ một lúc rồi đáp: “Được, ta hứa.”

Lý Doanh thở phào nhẹ nhõm: “Trong Phật tháp của Tây Minh Tự có thờ một túi hương. Túi hương đó do chính tay ta điều chế, có thể làm dịu cơn đau đầu của a nương. Ta đã sai thị nữ dâng nó lên Tây Minh Tự để cúng đường, để lại tên của thị nữ, không cho ai khác biết. Ban đầu, ta định đợi khai quang rồi sẽ tặng nó cho a nương vào ngày sinh thần của bà để bà vui vẻ, nhưng không ngờ…”

Dù Lý Doanh không nói hết nhưng Thôi Tuần cũng đoán ra phần còn lại. Lý Doanh chết đuối một cách bí ẩn, các thị nữ của nàng đều bị trách phạt, do vậy chẳng còn ai nhớ đến chiếc túi hương đó nữa. Sau “Huyết án Thái Xương”, cả Trường An chìm trong sợ hãi, trụ trì Tây Minh Tự cũng thay đổi nhiều lần, càng không ai chú ý đến túi hương mà một thị nữ dâng lên, vì vậy nó vẫn nằm yên trong Phật tháp.

Lý Doanh ngập ngừng một lúc rồi tiếp tục: “Ngày đó, ta nhờ thị nữ mang số tiền lớn đến chùa để cúng dường, hẳn là đủ để túi hương ấy được lưu giữ suốt ba mươi năm. Ngài hãy đến tìm trụ trì, xin lấy túi hương của một người tên là Lan Hương. Nếu ngài tặng túi hương này cho a nương, bà sẽ tha thứ cho ngài.”

Nói xong, Lý Doanh mím môi: “Đây là cách của ta. Ngài đã hứa với ta thì không được nuốt lời”

Thôi Tuần trầm mặc hồi lâu rồi chậm rãi nói: “Nếu Thái hậu thực sự nguôi giận, ta tất nhiên sẽ không thất hứa.”

Lý Doanh lập tức lộ vẻ mừng rỡ, nhưng trong lòng vừa vui sướng lại vừa bất an. Nàng đã chết được ba mươi năm, làm sao có thể chắc chắn rằng a nương vẫn còn nhớ đến nàng? Liệu a nương có thể tha thứ cho Thôi Tuần, dù hắn đã phạm phải sai lầm cực lớn chỉ vì chiếc túi hương này không? Lý Doanh không biết.

Nếu ngay cả a nương cũng quên nàng, thì nàng sẽ chân chính trở thành cô hồn dã quỷ bị lãng quên giữa thế gian.



Dù không quá tin tưởng vào cách làm của Lý Doanh, nhưng Thôi Tuần vẫn đến Tây Minh Tự. Quả nhiên, hắn lấy được chiếc túi thơm do Lan Hương để lại từ tay trụ trì. Hắn nhờ nội thị đem túi hương dâng lên cung Bồng Lai, còn bản thân thì kéo lê thân thể bệnh tật đứng chờ bên ngoài cửa. Hắn đứng đó một lúc, rồi nội thị đến thông truyền, báo rằng Thái hậu mời hắn đi vào.

Vẫn như lần trước, Thôi Tuần phủ phục quỳ trên sàn gỗ đen lạnh lẽo ở trong điện. Nhưng lần này Thái hậu giấu mình sau bức rèm châu nhanh chóng cho phép hắn đứng dậy. Nội thị mang đến cho Thôi Tuần một chiếc áo lông chồn trắng tinh, được gấp gọn gàng, mở ra rồi khoác lên người hắn: “Thái hậu nói rằng thể trạng Thôi Thiếu khanh yếu ớt, sợ lạnh, nên đặc biệt ban cho Thiếu khanh áo lông chồn được Cao Câu Ly tiến cống.”

Thôi Tuần ho nhẹ hai tiếng, cung kính nói: “Tạ ơn Thái hậu.”

Hắn im lặng đứng đó, khoác trên người chiếc áo lông chồn trắng. Một lúc lâu sau, Thái hậu mới lên tiếng, giọng nói có chút khàn khàn: “Vọng Thư, thụy than của Tây Lương quốc vẫn đủ dùng chứ?”

“Hồi Thái hậu, vẫn đủ dùng.”

“Vậy thì tốt.”

Lại là một khoảng lặng trôi qua. Một lát sau, Thái hậu v.uốt ve chiếc túi hương tinh xảo chạm rỗng họa tiết hoa điểu bồ đào, hỏi điều mà bà đã giữ trong lòng từ lâu: “Vọng Thư, túi hương này ngươi lấy từ đâu?”

Thôi Tuần thành thật đáp: “Thần lấy từ Tây Minh Tự. Trụ trì nói rằng do một nữ nhân tên Lan Hương để lại.”

“Lan Hương… đó là thị nữ của Minh Nguyệt Châu…” Thái hậu thì thầm: “Đây quả nhiên là túi hương mà Minh Nguyệt Châu tự tay làm…”

Mở chiếc túi hương bằng vàng chạm rỗng ra, bên trong đều là những hạt hương liệu nhỏ. Thái hậu nhẹ nhàng nói: “Những hạt hương này được chế từ tám vị dược liệu là bạch chỉ, khương hoàng, thảo bản, kinh giới, tế tân, khương hoạt, thương truật, bạch phục linh, bổ sung thêm tám loại hương liệu là trầm thủy, bạch đàn, linh lăng, tước đầu, tử đằng, tô hợp, kỳ nam, hoắc hương điều chế mà thành, có tác dụng giảm chứng đau đầu. Đây hẳn là món quà sinh thần mà Minh Nguyệt Châu chuẩn bị tặng cho ngô…”

Thái hậu càng nói, thanh âm càng trở nên nhẹ bẫng, Thôi Tuần chỉ cúi đầu lặng lẽ nghe, thật lâu sau, Thái hậu đột nhiên hỏi: “Vọng Thư, ngươi tìm thấy túi hương này thế nào?”

Thôi Tuần khẽ đáp: “Thần làm Thái hậu phật ý, đương nhiên phải dốc hết tâm trí, nghĩ cách lấy lòng Thái hậu.”

Thái hậu nghe xong, bật cười thành tiếng: “Ngươi thật là thẳng thắn.”

Bà tỉ mỉ v.uốt ve túi hương vàng hình vàng chạm rỗng, như thể đang nâng niu món bảo vật quý giá vô cùng: “Nhưng ngươi làm vậy rất khéo, ngô rất hài lòng.”

Bà đưa túi hương lên chóp mũi, ngửi nhẹ mùi hương thoang thoảng, dường như ký ức xưa cũ ùa về, trong ký ức ấy, có bà và đứa con gái nhỏ phấn điêu ngọc trác. Thái hậu im lặng thật lâu, Thôi Tuần cũng trầm mặc cúi đầu. Bất chợt Thái hậu lên tiếng: “Vọng Thư, có phải ngô chưa bao giờ kể cho ngươi về Minh Nguyệt Châu không?”

Thôi Tuần cúi đầu cung kính đáp: “Thái hậu chưa từng nói qua.”

Thái hậu nhìn về nơi xa, dường như đang ngóng trông bóng hình bé nhỏ mà bà không bao giờ có thể gặp lại: “Minh Nguyệt Châu là đứa bé rất hiểu chuyện. Khi ngô sinh a đệ của nàng, đau đớn suốt ba ngày ba đêm, suýt chút nữa khó sinh mà mất mạng. Nhưng lúc sinh nàng, chỉ đau một canh giờ là thuận lợi, mẹ tròn con vuông. Chắc hẳn, Minh Nguyệt Châu không nỡ để ngô chịu khổ… Minh Nguyệt Châu do ngô tự tay nuôi nấng, từ nhỏ đã ngoan ngoãn hiểu chuyện, rất ít khi khóc đêm. Cứ thế, nàng lớn dần đến năm mười sáu tuổi. Suốt mười sáu năm ấy, nàng chưa từng làm ngô phải bận tâm, trái lại luôn lo lắng cho bệnh đau đầu của ngô. Vì vậy, nàng miệt mài tìm đọc sách thuốc, học cách điều chế hương liệu chỉ để giúp ngô giảm bớt cơn đau đầu. Nàng là đứa con hiếu thuận, thông minh và nhân hậu… Ngô từng nói với Tiên đế, Minh Nguyệt Châu là bảo vật vô giá mà Quan Âm Bồ Tát ban tặng cho ngô. Nhưng vì sao Bồ Tát đã ban tặng bảo vật vô giá cho ngô, lại còn nỡ lòng đòi lại…”

Nói đến đây, giọng Thái hậu đã nghẹn ngào. Bà không thể nói tiếp, bên ngoài rèm châu, Thôi Tuần vẫn lặng lẽ lắng nghe, vẻ mặt không chút thay đổi.

Thái hậu im lặng một lúc, rồi nói: “Vọng Thư, ngô không muốn hỏi thêm ngươi đã tìm ra chiếc túi hương này bằng cách nào. Ta chỉ muốn ngươi biết rằng, Minh Nguyệt Châu, nàng là đứa con ngô yêu thương nhất. Ba mươi năm trước như vậy, ba mươi năm sau vẫn cứ mãi như thế.”

Thôi Tuần nhẹ giọng đáp: “Thần đã hiểu.”

Thái hậu mỉm cười, bà ngước mắt nhìn ra ngoài bức rèm châu, Thôi Tuần khoác áo choàng lông trắng, dáng người cao gầy thanh tú như ngọc. Thái hậu nhìn hắn, thần sắc bỗng chốc hoảng hốt, từ từ nói: “Vọng Thư, nếu ngươi vẫn chưa khỏi bệnh, thì hãy để ngự y trong cung xem qua. Công việc ở Sát Sự Thính còn phải dựa vào ngươi.”

Chỉ một câu nói, Thôi Tuần liền biết đã vượt qua cửa ải này. Hắn quỳ xuống dập đầu: “Tạ ơn Thái hậu.”



Cánh cửa của điện Bồng Lai kẽo kẹt mở ra, Thôi Tuần khoác áo choàng lông chồn trắng thong dong bước ra khỏi điện. Một số cung nhân tinh mắt vừa nhìn đã nhận ra chiếc áo choàng lông trắng này chính là báu vật mà Cao Câu Ly dâng lên trong đại triều hội mấy ngày trước. Phải biết rằng áo choàng lông chồn đen dễ tìm, nhưng áo choàng lông chồn trắng thì hiếm thấy, huống hồ chiếc áo này thuần khiết, không lẫn chút tạp sắc nào, đúng là bảo vật hiếm có. Đại Chu lấy chữ hiếu trị quốc, Thánh nhân không dám giữ riêng chiếc áo này, dâng lên Thái hậu. Không ngờ Thái hậu mới quay người, đã ban nó cho Thôi Tuần.

Chiếc áo choàng lông trắng vừa xuất hiện, ai ấy đều biết Thôi Tuần đã lấy lại được ân sủng của Thái hậu.

Lư Tư nghiệp và những người khác ngẫm mãi không hiểu, Thôi Tuần đã làm cách nào để có thể đảo ngược tình thế chỉ trong vài ngày ngắn ngủi? Dò hỏi một hồi mới biết, Thôi Tuần đã tìm được túi hương mà công chúa Vĩnh An dâng lên cúng đường ở chùa Tây Minh vào ba mươi năm trước, Thái hậu vừa cầm túi hương đã khóc nức nở vì thương nhớ công chúa Vĩnh An. Sau khi bình tĩnh lại, bà triệu kiến Thôi Tuần, khôi phục chức vị cho hắn.

Lư Tư nghiệp và những người khác đành ngậm ngùi tiếc nuối, không ngờ công chúa Vĩnh An đã mất ba mươi năm, nhưng vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong lòng Thái hậu. Chỉ một chiếc túi hương cũng có thể giúp Thôi Tuần khôi phục chức quan, rõ ràng Vương Lương chết cũng uổng mạng.

Mọi người bất bình, trong khi Thôi Tuần thì bình thản về phủ tĩnh dưỡng. Y thuật của ngự y trong cung quả nhiên cao minh, sau vài thang thuốc, cơn ho của hắn đã thuyên giảm, cơn sốt cũng hạ. Chỉ là trận ốm này khiến thân thể hắn lại càng thêm phần tiều tụy, yếu ớt.

Dù bị bệnh, Thôi Tuần vẫn không cho ai ở bên hầu hạ. Trong căn phòng vắng vẻ, hắn khoác chăn gấm, đốt thụy than, dựa lưng vào ghế ho khẽ, như thể đang chờ đợi ai đó.

Chẳng bao lâu thì người ấy đến.

Khuôn mặt Lý Doanh đã không còn vẻ lo âu như ngày trước, thay vào đó dáng vẻ trấn định. Nàng gõ nhẹ cửa phòng Thôi Tuần rồi bước vào, chầm chậm đi đến trước mặt hắn.

Thôi Tuần vẫn không buồn ngước mắt lên, Lý Doanh nói: “Thôi Thiếu khanh, nay ngài đã giành lại được sự tín nhiệm của a nương ta, cũng là lúc ngài nên thực hiện lời hứa.”

Thôi Tuần đáp: “Ta sẽ không nuốt lời.”

Hắn kéo khăn gấm lên che miệng ho khan rồi nói tiếp: “Nếu muốn làm rõ vụ án của cô, bước đầu tiên là phải xem xét hồ sơ vụ án.”

Nhưng hồ sơ vụ án lại đang nằm ở Đại Lý Tự.

Thôi Tuần là người đứng đầu Sát Sự Thính, mà Đại Lý Tự và Sát Sự Thính lại luôn đối nghịch nhau. Không đời nào Đại Lý Tự lại cho phép Thôi Tuần xem xét hồ sơ. Thôi Tuần cũng không thể nhờ Thái hậu giúp đỡ, vì chuyện giúp Lý Doanh tra án không thể để Thái hậu biết.

Hơn nữa, Lý Doanh cũng không thể vào Đại Lý Tự. Đại Lý Tự chưởng quản hình ngục, trong ngục có nhiều người chết, để phòng ác quỷ tác oai tác quái, mọi góc trong Đại Lý Tự đều có bùa trừ tà. Lý Doanh là một cô hồn, không thể vào đó được.

Lý Doanh hỏi Thôi Tuần: “Thôi Thiếu khanh, có cách nào khác không?”

Thôi Tuần đáp: “Có.”

“Cách gì?”

“Có tiền thì quỷ cũng phải đẩy cối xay.” [2] Thôi Tuần chậm rãi nói: “Dù ta và Đại Lý Tự không hòa hợp, nhưng nếu có đủ vàng bạc, ta vẫn có thể mua chuộc đám tiểu lại ở đó, nhờ chúng lấy cắp hồ sơ.”

[2] Đây là một câu thành ngữ Trung Quốc, mang ý nghĩa rằng tiền bạc có sức mạnh lớn đến mức có thể làm được những điều khó khăn hoặc thậm chí là không thể. Câu này thường được dùng để chỉ việc có thể mua chuộc hoặc giải quyết mọi vấn đề bằng tiền bạc.

“Vàng bạc…” Lý Doanh nhìn Thôi Tuần, Thôi Tuần liền dời mắt, thản nhiên nói: “Ta không có.”

Lý Doanh nghẹn lời: “Ta đâu định xin ngài.”

Nàng nói: “Ta chỉ muốn nói rằng, ta có rất nhiều vàng bạc, là a nương đốt cho ta. Vậy những vàng bạc này có thể đổi thành vàng bạc của dương gian không?”

Thôi Tuần dáng vẻ tiểu nhân nhưng lại không biết xấu hổ. Hắn suy nghĩ một chút rồi nói: “Ta biết một người, có lẽ người đó có thể giúp cô.”

Mắt Lý Doanh sáng lên, nghe Thôi Tuần nói xong tên tuổi và nơi ở của người kia, đã cúi người cảm tạ: “Đa tạ Thôi Thiếu khanh chỉ điểm, ta lập tức đi tìm hắn.”

Nói xong, Lý Doanh định xoay người rời đi, Thôi Tuần ngẩng lên, nhìn bóng lưng mảnh mai của nàng, đột nhiên cất tiến gọi: “Công chúa xin dừng bước.”

Lý Doanh dừng chân, nàng quay lại, nghi hoặc nhìn Thôi Tuần. Thôi Tuần trầm ngâm một lát, nói: “Công chúa, Thái hậu vẫn rất nhớ thương cô. Ba mươi năm nay, bà ấy chưa từng quên cô.”

Lý Doanh ngẩn người, nàng từ từ quay đầu lại, Thôi Tuần chỉ lặng lẽ nhìn theo bóng lưng nàng. Hắn không nhìn thấy được vẻ mặt của nàng, chỉ nghe thấy nàng dường như hít hít mũi, sau đó bước chân nhanh hơn, nhanh chóng khuất khỏi tầm mắt.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 5: Cái chết của nàng, thật sự là chuyện tốt cho thiên hạ sao?



Thành Trường An, canh ba đêm vắng.

Đại Chu thực hiện nghiêm ngặt lệnh cấm đi lại vào ban đêm, tiếng trống mộ cổ vang lên là lúc lệnh giới nghiêm bắt đầu có hiệu lực, ai vi phạm đều sẽ bị phạt đánh hai mươi roi. Vì vậy, khắp các phố phường đều yên tĩnh đến mức không một tiếng động, trên con phố rộng thênh thang, ngoài đội tuần tra Kim Ngô Vệ thì không có một bóng người nào khác.

Đêm nay sương mù dày đặc, quá mười bước liền không thấy được người. Kim Ngô Vệ mặc áo giáp, cầm đuốc tuần tra theo hàng lối chỉnh tề. Trong làn sương mù, sáu đại hán từ từ xuất hiện, mặt trắng bệch như giấy, thân nhẹ như chim én, khiêng một chiếc kiệu kiểu cung đình. Bốn phía xung quanh kiệu phủ một lớp sa mỏng thêu hoa văn bảo tướng, đỉnh kiệu được gắn chuỗi lưu ly và ngọc châu lấp lánh, giá trị xa xỉ. Sáu người bước nhanh, thoắt cái đã đến trước mặt nhóm Kim Ngô Vệ.

Điều kỳ lạ là Kim Ngô Vệ hoàn toàn không hề chú ý đến chiếc kiệu kỳ bí này, để nó cứ thế lướt qua mà không hề cản trở. Kiệu tiếp tục tiến về phía trước, đến trước một tòa đại trạch uy nghiêm ở phường Đàn Hiền, thuộc khu phố Tây.

Đại trạch xa hoa tráng lệ, đứng từ ngoài cổng đã có thể ngửi thấy hương trầm nồng đậm. Gia chủ hẳn là đã hòa lẫn bột trầm hương vào đất khi xây tường, nên giờ mới có mùi hương thấm đẫm thế này. Trầm hương giá trị đắt đỏ, mà Trường An tấc đất tấc vàng, chỉ riêng diện tích tòa trạch viện này cũng đã tốn ít nhất cả ngàn quan tiền, trong khi bổng lộc của mỗi một đại thần nhất phẩm Đại Chu mỗi năm chỉ có một trăm quan, đủ thấy gia tài của vị chủ nhân đồ sộ đến mức nào. Tuy nhiên, dù được xây dựng lộng lẫy, nhưng trạch viện lại nằm ở phường Đàn Hiền, thuộc phố Tây mà Trường An này tây phú đông quý. Cổng chính chỉ là một chiếc cửa nhỏ đục vào tường thông thường, không phải loại cổng Quảng Lượng [1] mà quan lại quyền quý thường dùng, cho thấy gia chủ chỉ là một thương nhân có địa vị không cao

[1] cổng Quảng Lượng (广亮大门) là một loại cổng lớn, phổ biến trong kiến trúc cổ Trung Quốc, đặc biệt trong các phủ đệ, tư dinh của tầng lớp quý tộc và quan lại quyền quý. Cổng này thường được xây dựng rộng rãi, trang trí cầu kỳ, mang tính biểu tượng cho địa vị và quyền lực của chủ nhân ngôi nhà. Chú thích hình ảnh đặt ở cuối chương.

Trong trạch viện, tiếng đàn sáo văng vẳng. Sáu đại hán khiêng kiệu đi thẳng qua cánh cổng lớn khép chặt, tiến vào hậu viện. Ở đó, mấy nàng vũ công người Hồ da trắng nõn nà, dung mạo xinh đẹp, vận áo lụa mỏng, lộ nửa phần ngực đang mỉm cười quyến rũ, nhảy múa điệu Hồ toàn. Bên cạnh các nàng là một thanh niên khôi ngô tuấn tú ngồi xếp bằng dưới đất, đầu lắc lư, tay gõ trống lớn làm nhạc đệm cho điệu múa.

Khi điệu múa bước và khúc cao trào, một Hồ cơ có vòng eo uyển chuyển xoay chân bước đến cạnh chàng thanh niên, bàn tay ngọc ngà vươn ra, ánh mắt lả lơi, dường như mời chàng cùng múa. Chàng thanh niên bật cười ha hả, tay nắm lấy bàn tay mềm mại của Hồ cơ, hòa mình vào nhóm vũ cơ, cùng các nàng vui vẻ nhảy múa.

Khung cảnh nhất thời trở nên náo nhiệt, phóng túng. Chàng thanh niên đang khoác tay Hồ cơ nhảy điệu Hồ toàn thì như nhìn thấy gì đó, đột nhiên ngừng nhảy. Hồ cơ thấy khó hiểu, liền hỏi: “Sao lang chủ lại dừng lại?”

Chàng thanh niên nhìn về phía trước, đáp: “Có khách đến rồi.”

Nhóm Hồ cơ nhìn trái ngó phải, đưa mắt nhìn quanh nhưng chẳng thấy bóng dáng ai, một người trong số các nàng bĩu môi bất mãn: “Chẳng lẽ lang chủ không muốn nhảy cùng bọn thiếp nên mới bịa chuyện để lừa gạt?”

Chàng thanh niên cười mờ ám, tiện tay véo nhẹ vào bờ m.ô.ng tròn trịa của nàng: “Phải làm ăn mới có tiền nuôi các nàng chứ. Ngoan, lui xuống đi.”

Dù không vừa lòng nhưng nhóm Hồ cơ không dám cãi lời, đành lưu luyến rời đi, trước khi đi còn quay đầu nhìn lại sân viện.

Rõ ràng là… chẳng có ai cả!

Thế nhưng, chàng thanh niên lại nhìn vào viên trân châu lớn lắc lư trên đỉnh kiệu, tặc lưỡi: “Xem ra lần này là một mối lớn.”

Chàng liếc nhìn chiếc kiệu bị che kín bởi lớp sa mỏng, lại nhìn thoáng qua sáu đại hán mặt trắng như giấy đang đứng đó, cất lời: “Đã nhờ ta giúp, sao còn phải che che giấu giấu?”

Sáu đại hán nhẹ nhàng đặt kiệu xuống đất, thắt lưng họ dường như thẳng đơ, không thể cúi xuống, thân hình mỏng như tờ giấy, cung kính chắp tay với người trong kiệu rồi chân không chạm đất, lướt đi như một cơn gió.

Chàng thanh niên cười khẩy: “Ra là người giấy.”

Chàng tò mò quan sát chiếc kiệu. Bất chợt một cơn gió thổi qua, làm phải nheo mắt lại, giơ tay áo che. Đợi gió lặng xuống, lại hạ tay, nhìn lớp sa mỏng thêu hoa văn bảo tướng bị gió thổi tung, nhẹ nhàng phấp phới, để lộ một thiếu nữ đoan trang đang ngồi ngay ngắn bên trong.

Thiếu nữ búi tóc kiểu song hoàn vọng kế, mày ngài răng trắng, dung mạo thanh tú nhã nhặn, toát lên vẻ trầm tĩnh như đóa hoa quý thêu trên lớp sa mỏng. Chàng thanh niên ngây người trong giây lát, rồi mới lẩm bẩm: “Giữa chốn trần gian mà đẹp đến vậy, đúng là món hời lớn… một món hời lớn.”



Lời chàng tuy có phần khinh bạc, nhưng Lý Doanh lại không nổi giận. Nàng từ tốn bước xuống kiệu, tay cầm một hộp gấm, nhẹ nhàng tiến đến trước mặt chàng thanh niên, khách khí mở lời: “Xin hỏi tôn giả có phải là Ngư Phù Nguy tiên sinh?”

“Tiên sinh?” Chàng thanh niên dường như lần đầu nghe thấy cách xưng hô này, bèn bật cười khinh khỉnh: “Mỗ chỉ là một thương nhân, hạng người không ra gì nhất ở Đại Chu, không xứng với hai chữ tiên sinh.”

Lý Doanh chân thành đáp: “Tiên sinh tuy là thương nhân, nhưng có thể đi lại giữa nhân gian và âm giới, giúp người giải nạn, giúp quỷ giải hồn, tự mình gầy dựng cơ nghiệp lớn thế này, còn tạo nơi nương náu cho nhiều vũ công người Hồ không chốn dung thân. Tiên sinh xứng với hai chữ ấy.”

“Đừng tâng bốc mỗ nữa.” Ngư Phù Nguy cười mỉa, quan sát Lý Doanh từ đầu đến chân: “Xem cách ăn mặc của tiểu tương tử, hẳn không phải quỷ nghèo, nói đi, cô là ai?”

Lý Doanh mỉm cười nhã nhặn: “Ta là Vĩnh An công chúa, Lý Doanh.”

Vừa dứt lời, Ngư Phù Nguy đã kinh ngạc đến mức há hốc mồm, miệng lẩm bẩm: “Vĩnh An công chúa? Là vị công chúa ba mươi năm trước chết đuối trong hồ, khiến Trường An chìm trong biển máu đó sao?”

Lời này có phần vô lễ, ánh mắt Lý Doanh thoáng qua nét bối rối, nhưng nàng vẫn không tức giận, chỉ đáp: “Phải.”

“Nghe nói Thái hậu đã thắp đèn trường minh tại bốn vạn ngôi chùa trên khắp Đại Chu, cớ sao công chúa vẫn chưa được siêu thoát?”

Lý Doanh khẽ cười, trả lời: “Tiên sinh chỉ là người làm ăn thôi, hà tất phải hỏi thăm kỹ thế.”

Lúc này Ngư Phù Nguy mới nhận ra sự thất lễ của mình, hắn vỗ đầu, cười làm lành: “Là mỗ nhiều lời, công chúa đừng để bụng.”

Lý Doanh nói: “Ta đến đây là muốn nhờ tiên sinh đổi số tiền mà mẫu thân đốt cho ta thành tiền tài ở dương gian. Không biết tiên sinh có thể nhận việc này không?”

“Mỗ chuyên làm chuyện buôn bán âm dương.” Ngư Phù Nguy đáp: “Đương nhiên là nhận.”



Ba mươi năm qua, Thái hậu đã đốt cho Lý Doanh vô số tiền bạc. Lý Doanh mở hộp gấm ra, bên trong là mười thỏi vàng sáng bóng được xếp ngay ngắn. Ngư Phù Nguy cầm lấy hộp, ước lượng trọng lượng của từng thỏi vàng, mỗi thỏi nặng chừng một cân, ánh vàng sáng loáng, chất lượng tuyệt hảo, trên thỏi còn khắc chữ “Thái Xương năm thứ hai mươi”, cực kỳ tinh xảo. Ngư Phù Nguy nói: “Dù công chúa thân phận cao quý, nhưng buôn bán thì vẫn phải theo quy tắc của mỗ. Mỗ đổi mười thỏi vàng âm phủ, sẽ thu một phần mười phí. Nói cách khác, thứ trả lại cho công chúa sẽ là chín thỏi vàng dương gian. Nếu công chúa đồng ý, giao dịch này coi như thành.”

Lý Doanh khẽ gật đầu: “Cứ theo quy củ của tiên sinh mà làm.”

Ngư Phù Nguy cầm lấy hộp gấm, nói: “Nhưng dạo này việc buôn bán của mỗ khá tốt, số vàng dương gian trong kho nhà mỗ đã hết, mỗ phải đi thu xếp thêm. Không biết công chúa có thể chờ thêm mấy ngày không?”

Lý Doanh trầm ngâm một lúc, rồi nói: “Ta quả thật có việc gấp, nhưng ở thành Trường An, người có thể giao dịch âm dương cũng chỉ có tiên sinh. Ta không còn cách nào khác. Chỉ là không biết phải chờ trong bao lâu?”

Ngư Phù Nguy bấm ngón tay tính toán: “Trước công chúa, còn có ba mươi quỷ hồn ở âm ti xếp hàng đợi đổi dương ngân.”

Con số này khiến Lý Doanh ngạc nhiên, nàng cười khổ: “Không ngờ Tết nhất đến nơi rồi mà tiên sinh vẫn làm ăn phát đạt quá.”

“Vì là Tết nên làm ăn mới dễ.” Ngư Phù Nguy nhẹ nhàng giải thích: “Lễ hội nhiều, pháp hội cũng nhiều, các nghi thức cúng tế diễn ra liên tục. Những hồn ma không thể đầu thai dưới âm ty muốn mượn sức mạnh của chư tăng để siêu thoát, thì phải dùng tiền bạc để hối lộ quỷ sai, nhờ quỷ sai dẫn dường đến pháp hội. Quỷ sai nhận tiền ở âm phủ nhưng tiêu không hết, nên phải nhờ đến mỗ đổi thành dương ngân, gửi về cho con cháu bọn họ.”

Lý Doanh tròn mắt ngạc nhiên: “Quỷ sai làm vậy, Diêm Vương không quản sao?”

“Thế thời là vậy, âm phủ không sạch nhưng chẳng lẽ dương gian lại minh bạch, công chính?” Ngư Phù Nguy tự giễu: “Nếu quả thật là thế, công chúa đã chẳng tìm đến mỗ để đổi dương ngân.”

Lý Doanh lúc này mới nhớ ra mục đích ban đầu của mình, nàng đến gặp Ngư Phù Nguy là để đổi vàng bạc âm phủ thành dương ngân, hối lộ tiểu lại ở Đại Lý Tự. Nghĩ theo cách này, dương gian quả thật cũng chẳng sạch sẽ hơn âm phủ là bao. Lý Doanh cười khổ: “Tiên sinh nói đúng. Vĩnh An sống trong thâm cung, hiểu biết về thế sự còn nông cạn, khiến tiên sinh chê cười rồi.”

Lý Doanh cư xử nhã nhặn như vậy khiến Ngư Phù Nguy cũng có chút áy náy. Hắn vội nói: “Thật xin lỗi công chúa, mỗ lại thất lễ rồi.”

Suy nghĩ một chút, hắn nói thêm: “Công chúa độ lượng khiến mỗ thật sự cảm thấy hổ thẹn. Thế này đi, mỗ sẽ ưu tiên cấp dương ngân cho công chúa trước để chuộc lỗi. Sáng mai, công chúa sẽ nhận được chín thỏi vàng dương ngân.”

Lý Doanh vui mừng: “Vậy thì đa tạ tiên sinh.”

“Nhưng mỗ nên giao số vàng đó đến đâu?”

Lý Doanh đáp: “Hãy giao đến phủ đệ của Thôi Thiếu khanh ở phường Tuyên Dương.”

Lần này đến lượt Ngư Phù Nguy ngạc nhiên, trợn tròn mắt: “Phường Tuyên Dương, Thôi Thiếu khanh? Chẳng lẽ là vị Thứ sử của Sát Sự Thính, Thôi Tuần?”

Lý Doanh nhẹ gật đầu: “Chính là y.”

Ngư Phù Nguy ngập ngừng một lúc, dường như có điều khó nói, cuối cùng hắn cũng cất lời: “Công chúa, thiên tư xuất chúng, sao lại dính líu đến một kẻ… lắm tai tiếng như thế kia chứ?”

Lý Doanh chỉ nói: “Hắn có thể giúp ta.”

“Giúp cô?”

“Phải, hắn là người duy nhất có thể nhìn thấy ta.”

Ngư Phù Nguy thoáng sững sờ: “Mỗ cũng có thể nhìn thấy công chúa mà.”

Lý Doanh lắc đầu: “Nhưng tiên sinh không thể giúp ta.”

Ngư Phù Nguy ngớ người, nhưng nhanh chóng hiểu ra. Trong ánh mắt hắn thoáng hiện một tia thất vọng, tự giễu: “Dù mỗ có thể nhìn thấy công chúa, nhưng chỉ là một thương nhân tầm thường. Còn Thôi Tuần dù mang tiếng xấu xa, nhưng hắn là Thứ sử tứ phẩm. Vì vậy, mỗ không giúp được công chúa, còn hắn thì có thể.”

Lý Doanh không nói gì, nhưng chính sự im lặng ấy lại khẳng định lời của Ngư Phù Nguy.

Ngư Phù Nguy cười khổ, hắn lắc đầu, lẩm bẩm: “Chỉ là một thương nhân, đến khoa cử cũng không được tham dự, nói gì đến làm quan. Thật là nực cười, thật là nực cười…”

Hắn nói đến cuối, bỗng cười phá lên, giọng đầy phẫn uất. Lý Doanh lúc này mới nhận ra, người trước mặt tuy thoạt nhìn có vẻ cợt nhả nông cạn, nhưng ngay từ khi gặp nàng, hắn đã nói năng đâu ra đấy, đối đáp trôi chảy, xuất khẩu thành thơ. Hắn cũng tỏ ra am hiểu cả âm ti lẫn dương gian, thêm vào đó cái tên “Ngư Phù Nguy” mà hắn đặt cũng chẳng phải ngẫu nhiên, Phù Nguy nghĩa là cứu nguy, giúp đỡ trong cơn khốn khó. Có lẽ, chí hướng của hắn không chỉ dừng lại ở việc làm một thương nhân.

Nhưng dù chí hướng có cao xa đến đâu, thân phận của hắn, từ khi sinh ra đã bị định đoạt. Đại Chu kế thừa chế độ Cửu phẩm trung chính [2] của triều trước, chọn và bổ nhiệm quan lại dựa trên xuất thân gia thế. Thượng phẩm không có hàn môn, hạ phẩm không có sĩ tộc. Con cháu gia tộc mãi mãi là gia tộc, còn con cái hàn môn chỉ mãi làm hàn môn. Như Ngư Phù Nguy, con nhà thương nhân, thì cả đời cũng chỉ có thể làm thương nhân.[2]

[2] Cửu phẩm trung chính (九品中正制) là một hệ thống phân loại và tuyển chọn quan lại trong lịch sử Trung Quốc, đặc biệt nổi bật trong triều đại Đường và Tống. Hệ thống này được sử dụng để phân chia và đánh giá nhân tài dựa trên gia thế, phẩm hạnh và năng lực.

* Cấu trúc của hệ thống Cửu phẩm trung chính:

– Cửu phẩm: Có chín cấp bậc quan lại, từ cấp cao nhất (nhất phẩm) đến cấp thấp nhất (cửu phẩm). Mỗi cấp bậc đều có những trách nhiệm và quyền hạn khác nhau trong quản lý chính quyền.

– Trung chính: Hệ thống này có nhiệm vụ đánh giá và phân loại nhân tài. Những người có phẩm hạnh và năng lực tốt sẽ được ghi nhận và có cơ hội được bổ nhiệm vào các vị trí cao hơn trong bộ máy nhà nước.

* Đặc điểm:

– Gia thế: Địa vị gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc thăng tiến. Thông thường, con cháu các gia đình danh giá có nhiều lợi thế hơn trong việc trở thành quan lại.

– Quyền lực: Hệ thống này giúp củng cố quyền lực của các gia tộc danh tiếng, khiến cho những người xuất thân từ gia đình nghèo khó rất khó có cơ hội vươn lên trong xã hội.

– Khoa cử: Đến thời kỳ sau, hệ thống Cửu phẩm trung chính dần được thay thế bằng chế độ khoa cử, cho phép mọi người, bất kể xuất thân, có cơ hội tham gia thi cử để trở thành quan lại, nhưng vẫn có những hạn chế nhất định đối với con cái thương nhân và hàn tộc.

Chế độ này đã khiến địa vị của sĩ tộc môn phiệt còn vượt trội hơn cả hoàng quyền. Người đương thời nếu cưới được nữ tử của ngũ đại thế gia, còn vinh quang hơn cả làm phò mã. Các đời hoàng đế Đại Chu đều có ý cải cách, đến đời tiên đế, cuối cùng đã lập ra chế độ khoa cử. Không phân biệt sĩ tộc hay hàn tộc, ai cũng có thể tham gia khoa cử. Nhờ đó, hàn tộc mới có cơ hội thay đổi vận mệnh. Tuy nhiên, dưới áp lực của sĩ tộc, khoa cử vẫn còn nhiều bất cập. Ví dụ như các bài thi không che tên, tạo điều kiện cho gian lận, và con cái nhà thương nhân vẫn không được tham gia khoa cử. Nhưng so với trước đây, vận mệnh của hàn tộc đã có nhiều thay đổi.

Ngư Phù Nguy dần dần bình tĩnh lại, hắn nói: “Dù mỗ không thể tham gia khoa cử, nhưng khoảng cách giữa sĩ tộc và dân thường giờ đây cũng không còn là trời vực nữa. Nói đi cũng phải nói lại, đây là nhờ công lao của công chúa.”

Lý Doanh hơi ngạc nhiên: “Công của ta?”

Ngư Phù Nguy gật đầu: “Tiên đế thúc đẩy khoa cử, chọn ra người tài, khiến sĩ tộc phản đối kịch liệt. Nhưng sau thảm án Thái Xương, sĩ tộc bị đại thương nguyên khí, nhờ vậy mà khoa cử mới được thuận lợi triển khai. Thế nên, chính công chúa đã thay đổi vận mệnh của hàn tộc khắp thiên hạ, cũng thay đổi cả vận mệnh của cả triều Đại Chu.”

Nghe những lời này, Lý Doanh không hề cảm thấy vui mừng trước những lời ca tụng của Ngư Phù Nguy, ngược lại trong đầu nàng như vang lên một tiếng nổ lớn. Hóa ra, cái chết của nàng đã thực sự thay đổi số phận của hàn tộc, thay đổi của cả triều Đại Chu?

Vậy thì, cái chết của nàng, đối với thiên hạ và Đại Chu, hóa ra lại là điều tốt đẹp?

*
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 6: Chiều muộn tuyết sắp rơi, có thể cùng uống chén rượu không?



Ngày mùng chín tháng Giêng.

Sáng sớm, Thôi Tuần đang dưỡng bệnh ở nhà thì nhận được một hộp gấm từ tay tiểu lại của Sát Sự Thính. Tiểu lại bẩm báo: “Đây là do người của Quỷ thương Ngư Phù Nguy mang tới.”

Thôi Tuần mở hộp ra, thấy bên trong là chín thỏi vàng được xếp ngay ngắn.

Hắn nhướng mày, không ngờ nàng công chúa yểu điệu, mảnh mai ấy lại thật sự có thể đổi được dương ngân về.

Hắn cầm lấy một thỏi vàng, ước lượng trong tay rồi đưa cho tiểu lại: “Ngươi mang thỏi vàng này đến cho Tào Khôn ở Đại Lý Tự, nói với hắn rằng ta cần hồ sơ vụ án của công chúa Vĩnh An thời Thái Xương ba mươi năm trước.”

Tiểu lại có phần ngạc nhiên nhưng không dám hỏi thêm, chỉ cung kính nhận mệnh rồi lui ra.

Sau khi tiểu lại rời đi, Thôi Tuần gọi lão bộc câm đến, chỉ vào hộp gấm chứa tám thỏi vàng còn lại, sau đó đóng hộp lại, dặn dò: “Cứ làm theo cách cũ.”



Lão bộc gật đầu, ôm hộp gấm rời đi. Thôi Tuần ngồi quỳ trước án thư, nhẹ nhàng ho khẽ. Trên án thư bày một cuộn thẻ tre, bên trên là chi chít tên người. Hắn cầm bút lông sói chấm vào chu sa, rồi vạch một dấu gạch chéo lên hai chữ “Vương Lương.”

Gấp thẻ tre lại, hắn trầm tư một lúc lâu, lúc này, tiểu lại cũng đã quay về, còn mang theo hồ sơ vụ án của Lý Doanh.

Tiểu lại hào hứng kể: “Gã Tào Khôn kia vừa nhìn thấy vàng hai mắt liền sáng rỡ, lập tức đồng ý lấy hồ sơ của công chúa Vĩnh An cho ngài. Thiếu khanh nói hắn tham tiền quả không sai.”

Thôi Tuần nhận lấy hồ sơ, mở ra xem kỹ. Tiểu lại cũng mang đến một bình rượu nho, cung kính đặt lên án thư: “Hồi bẩm Thiếu khanh, thứ này được Lư Tư nghiệp biếu tặng. Hôm nay hắn được điều sang Đại Lý Tự nên đặc biệt gửi rượu nho mỹ tửu sang để tỏ lòng kính trọng với ngài. Hạ quan đoán chắc là hắn có ý muốn kết giao.”

Thôi Tuần không buồn liếc nhìn bình rượu, chỉ hờ hững đáp: “Để đó.”

Sau khi tiểu lại rời đi, Thôi Tuần tiếp tục nghiên cứu hồ sơ của Lý Doanh. Bất tri bất giác, mặt trời khuất dạng sau dãy núi, sáu trăm tiếng trống mộ cổ từ cổng thành Trường An vọng lại, phố xá ồn ào cũng từ từ lắng xuống. Hắn khép quyển hồ sơ, khẽ ho hai tiếng, lòng bỗng dấy lên chút nghi hoặc.

Chẳng phải vị công chúa kia vẫn luôn sốt ruột muốn biết ai là kẻ sát hại mình sao? Nàng đã dốc hết tâm sức để đổi dương ngân thì vì sao cả một ngày nay vẫn chưa thấy xuất hiện?

Hắn không khỏi nhìn ra ngoài cửa sổ, bỗng cánh cửa kẽo kẹt mở ra, nhưng người bước vào không phải Lý Doanh mà là lão bộc câm.

Lão bộc câm cẩn thận đặt chén sứ thanh diêu đầy thuốc đang bốc khói nghi ngút lên án thư, sau đó ra hiệu bằng tay. Thôi Tuần liền hỏi: “Chuyện ta giao ông đã làm xong chưa?”

Lão bộc câm gật đầu, rồi lại tiếp tục quơ tay ra dấu. Thôi Tuần im lặng một hồi rồi mới hỏi: “Ông nói, mẹ của Tào Ngũ lang qua đời rồi sao?”

Lão bộc câm lại gật đầu, từ những cử chỉ của lão, có thể lờ mờ nhận ra ý tứ “chịu nhục không nổi”, “thắt cổ tự vẫn”. Thôi Tuần lặng yên rất lâu, cuối cùng chỉ nói một câu: “Ta biết rồi.”

Sau khi lão bộc rời đi, Thôi Tuần ngồi lặng hồi lâu, cửa sổ chưa đóng chặt, cơn gió lạnh buốt len qua khe cửa, thấm vào xương tủy. Hắn cảm thấy cổ họng có vị tanh ngọt, sau đó một cơn ho dữ dội lại ập đến. Chén thuốc màu men ngọc bích đặt trên án thư đã nguội đi, mùi cay nồng của quế chi và ma hoàng quyện vào nhau, đồng loạt xông vào mũi khiến hắn không khỏi khó chịu. Thôi Tuần định bưng chén thuốc lên để uống nhưng mùi vị chát đắng khiến dạ dày hắn trở nên nôn nao, cuối cùng hắn không uống nữa mà tiện tay ném chén thuốc sang một bên, thay vào đó là cầm lấy bình rượu nho mà Lư Tư nghiệp gửi tặng.

Hắn lảo đảo bước đến cửa, đẩy cửa ra.

Bên ngoài trời đã đổ tuyết, những bông tuyết nhẹ nhàng như liễu rơi, một màu trắng xóa phủ kín khắp sân viện. Đèn lồng lục giác treo ở góc hành lang bên ngoài sương phòng đã được thắp lên, ánh sáng nhu hòa hắt lên lớp tuyết bàng bạc, phản chiếu thành một tầng sáng êm dịu. Giữa bầu trời là vầng trăng tròn treo lơ lửng, tô điểm cho đêm tuyết lạnh lẽo bằng một vẻ đẹp thuần khiết và thanh tịnh.

Thôi Tuần khoác lên người áo choàng lông trắng, ngồi dựa vào cột hành lang, ngắm nhìn những bông tuyết bay lả tả. Khoảnh khắc đó, tiếng cười sang sảng của một thiếu niên bỗng hiện về trong đầu hắn.

“Thập Thất Lang, tuyết lớn thế này, để mai chúng ta đấu lại đi!”

“Huynh sợ rồi?”

“Nực cười, ai nói ta sợ? Đấu thì đấu!”

Giữa những bông tuyết trắng, thiếu niên hiên ngang như tùng, bóng kiếm uyển chuyển như rắn lượn, xung quanh là tiếng tán thưởng vang lên không ngừng: “Thập Thất lang! Tào Ngũ! Đường kiếm đẹp lắm! Đẹp lắm!”

Tuyết càng lúc càng rơi nhiều hơn, màu trắng của tuyết và màu bạc của kiếm dần hòa vào nhau. Nhìn những bông tuyết bay, lồng ng.ực Thôi Tuần đột nhiên nghẹn lại, hắn cảm thấy khó thở, cơn ho dữ dội lại ập đến, gương mặt tái nhợt ửng lên một chút sắc đỏ. Bàn tay gầy gò với những đốt xương lộ rõ cố với lấy bình rượu có đầu phượng hoa sen, nhưng dường như lại không đủ sức lực, loay hoay mãi mới cầm nổi bình rượu. Hắn run rẩy nâng bình lên, không rót vào chén kim bôi nữa mà dốc ngược uống trực tiếp từ miệng bình. Uống được vài ngụm thì lại ho sặc sụa.

Ho xong vài tiếng hắn lại muốn uống tiếp, nhưng khi tay vừa nắm lấy bình rượu, hắn nhìn thấy họa tiết hoa sen trên bình.

Thôi Tuần khựng lại. Hắn mím chặt môi, không chuốc rượu nữa mà vứt bình ra xa như vừa chạm phải thứ rắn rết ghê tởm. Chiếc áo choàng lông chồn trắng khoác trên người bị thấm chút rượu nho, bộ lông tinh khiết không tì vết giờ đã loang lổ vết đỏ. Thôi Tuần liền cởi phăng áo choàng, ném mạnh sang một bên.

Giữa nền tuyết trắng tinh khôi, Thôi Tuần trong bộ thường phục đỏ thẫm ngồi dựa vào cột hành lang, ho sặc sụa. Hắn nhìn tuyết rơi dày đặc, ánh mắt xa xăm, như thể muốn xuyên qua những bông tuyết mà nhìn về vùng sa mạc xa thẳm.

Tuyết rơi càng lúc càng nặng hạt, dưới ánh trăng chợt xuất hiện một thiếu nữ cầm ô giấy dầu. Nàng khoác lên người áo choàng hồ ly trắng, bước chân nhẹ nhàng và điềm tĩnh, dẫm trên tuyết lại gần.



Lý Doanh chầm chậm đến bên cạnh Thôi Tuần. Nàng thu ô, giũ nhẹ những bông tuyết đọng rồi nhìn qua bình rượu đầu phượng hoa sen cùng chiếc áo khoác lông cáo bị vứt sang một bên giờ đã lấm bẩn. Nàng lẳng lặng ngồi xuống cạnh Thôi Tuần, dịu dàng mở lời: “Ta cũng có rượu đây, ngài có dám uống không?”

Thôi Tuần dừng ho, bình thản đáp: “Có gì mà không dám?”

Rượu của Lý Doanh là rượu tế lễ. Nàng ngồi xếp bằng bên cạnh Thôi Tuần, rót ra một chén rượu Lục Nghị [1] mới ủ còn thơm nồng, đưa cho Thôi Tuần. Hắn đón lấy và uống cạn chỉ trong một hơi. Lý Doanh cũng cầm lấy chén kim bôi, uống một ngụm nhưng chén rượu vừa qua cổ đã làm nàng ho mấy tiếng vì sặc. Thôi Tuần thấy thế liền nhướng mày, nhếch môi cười nhạt:

“Thì ra công chúa không biết uống rượu.”

[1] rượu Lục Nghị: chỉ loại rượu mới được nấu, chưa lên men hoàn toàn, trên bề mặt còn xuất hiện những bọt li ti màu xanh, trông giống như đàn kiến nhỏ.

Lý Doanh thẳng thắn thừa nhận: “Quả thực ta không giỏi uống rượu.”

Thôi Tuần nhấc chén lên, ngửa cổ uống cạn chén rượu thứ hai. Hắn đặt chén xuống rồi hờ hững nói với Lý Doanh: “Không biết uống, sao lại phải uống?”

Lý Doanh liếc nhìn Thôi Tuần, thấy hắn lại cúi đầu ho nhẹ sau khi uống rượu. Nàng đáp lời, không chút e dè: “Ngài mang bệnh trong người, không chịu uống thuốc lại đi uống rượu, có gì khác với ta sao?”

Nghe nàng nói, khóe môi Thôi Tuần hiếm hoi lắm mới hé nở nụ cười. Lý Doanh rót thêm một chén rượu, lần này không uống một hơi mà chỉ chậm rãi nhấp nhẹ từng ngụm. Nàng uống từ từ còn Thôi Tuần thì uống rất nhanh. Hai người không nói gì thêm, chỉ cầm chén kim bôi ngồi xếp bằng dưới mái hiên, lặng lẽ nhìn ánh trăng và màn mưa tuyết mờ mịt như bông liễu. Bình rượu chẳng mấy mà đã cạn đến đáy, lúc này Lý Doanh mới nhấp ngụm rượu cuối cùng, đột nhiên nói: “Đêm qua ta đã gặp Ngư Phù Nguy.”

Thôi Tuần cũng đã mở miệng: “Người này ngông cuồng phóng túng, chán ghét thế gian, đặc biệt căm hận các thế gia vọng tộc. Chắc hắn đã chẳng nói gì tốt đẹp.”

Lý Doanh đáp: “Đúng vậy, hắn nói rất khó nghe. Nhưng hắn nói với ta rằng cái chết của ta đã thay đổi vận mệnh của hàn môn trên khắp thiên hạ, cũng thay đổi vận mệnh của cả triều Đại Chu.”

Nàng hít sâu một hơi, quay sang nhìn Thôi Tuần: “Có thật thế không?”

Hóa ra suốt cả ngày nay, nàng không xuất hiện là vì câu nói ấy khiến lòng nàng đau đớn.

Nhưng trong mắt Thôi Tuần vẫn là vẻ lãnh đạm như nước. Hắn đáp: “Đúng.”

Lý Doanh mím môi, cười khổ: “Xem ra cái chết của ta là điềm lành cho đất nước và dân chúng.”

Nàng bỗng thấy lạnh, bèn kéo chặt áo choàng hồ ly trên người, miệng lẩm bẩm: “Cả đời ta chưa từng làm điều gì sai trái, đến cả cái chết cũng trở thành phúc đức cho muôn dân. Đấy là may mắn của ta sao?”

Thôi Tuần không hề an ủi nàng, chỉ nói: “Đại Lý Tự đã gửi tới hồ sơ của cô tới đây. Nếu không muốn xem thì không cần phải xem.”

Lý Doanh cầm chặt chén vàng trong tay, dù nàng nắm giữ bao lâu thì chén vàng vẫn lạnh buốt như băng, không thể ấm lên như bàn tay con người. Lý Doanh cười chua chát, lắc đầu: “Ta muốn xem.”

Nàng nhẹ giọng nói: “Ta nghĩ cả ngày nay và cuối cùng cũng đã thông suốt. Dù ba mươi năm qua thiên hạ có lẽ đều vui mừng vì cái chết của ta, vui mừng vì cái chết ấy đã mang cho Đại Chu một cơ hội đổi mới. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta đã làm sai điều gì. Ta không đáng phải chết. Ta muốn tìm ra sự thật, ta muốn tự mình đòi lại công bằng.”

Khi nàng nói đến đây, lời lẽ đã trở nên kiên định hơn bao giờ hết. Thôi Tuần không khỏi quay sang nhìn nàng, một lát sau hắn mới dời đi ánh mắt, nhàn nhạt nói: “Nếu đã vậy, thì hãy xem qua hồ sơ.”



Rượu đã cạn, nhưng cục diện vẫn chưa được phá giải.

Thôi Tuần và Lý Doanh bước vào trong phòng. Thôi Tuần đi trước, thường phục đỏ thẫm đã bị tuyết làm ướt, dán sát vào thân thể, khiến dáng người hắn càng trở nên gầy gò, phần hông đeo thắt lưng điệp tiệp càng thêm mảnh mai như thân trúc. Lý Doanh đột ngột dừng bước, quay lại đóng cửa gỗ rồi đóng cả cửa sổ để chặn gió lạnh và những bông tuyết bay lạc vào.

Thôi Tuần đã để sẵn sách thẻ ở trên án thư. Hắn ho khan hai tiếng, sau đó đưa cho Lý Doanh và nói: “Đây là hồ sơ của cô.”

Lý Doanh không đón lấy ngay, mà liếc nhìn bát thuốc màu men ngọc bích đặt trên bàn. Thuốc đã nguội lạnh. Nàng cúi xuống cầm bát thuốc lên, lòng bàn tay nàng phát ra ánh sáng yếu ớt khiến chén thuốc dần dần ấm lên.

Lý Doanh khẽ cười, tự giễu: “Hóa ra làm quỷ hồn cũng không phải là không có lợi ích gì.”

Nàng đưa chén thuốc cho Thôi Tuần: “Ngài bệnh nặng lắm rồi, vẫn nên uống thuốc trước đã.”

Thôi Tuần liếc nhìn chén thuốc, mím môi, không nói một lời. Lý Doanh ngẩn ra, rồi như sực nhớ điều gì, nàng lấy một viên đường từ trong túi hương bằng gấm thêu mẫu đơn ngũ sắc treo ở thắt lưng, bỏ vào chén thuốc. “A gia cũng sợ uống thuốc, người sợ đắng nên ta thường bỏ chút đường vào thuốc cho người. Sau khi bỏ đường, thuốc sẽ không còn đắng nữa. Ngài cũng thử xem sao?”

Thôi Tuần vẫn chưa có ý định nhận chén thuốc. Lý Doanh thở dài: “Ta biết trong lòng ngài có lẽ mang nhiều gánh nặng, nhưng dù thế nào đi nữa, chỉ khi còn sống, mọi chuyện mới có thể xảy ra. Ngài không biết ta đã ghen tị biết bao vì ngài vẫn đang được sống…”

Lời nàng rất nhẹ, ánh mắt chân thành. Chiếc áo choàng hồ ly trắng như tuyết càng khiến nàng thêm phần thanh tao. Nàng không chắc liệu Thôi Tuần có chịu nghe lời nàng hay không, nhưng nàng chỉ nghĩ rằng hắn đang giúp nàng điều tra vụ án, nàng không thể thấy hắn tự hành hạ bản thân mà không làm gì. Đang suy nghĩ xem nên tiếp tục khuyên nhủ như thế nào, Lý Doanh bất ngờ thấy Thôi Tuần đón lấy bát thuốc từ tay nàng, uống cạn chỉ trong một hơi.
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 7: Thà cưới con gái ngũ họ, chứ không vào làm rể hoàng gia



Trong căn phòng ấm áp như xuân đốt thụy than hồng đượm rực cháy, từng trang hồ sơ vụ án Thái Xương năm thứ hai mươi dần được mở ra, một vụ án kinh thiên động địa từng khiến thành Trường An máu chảy thành sông bắt đầu lộ rõ toàn cảnh.

Thái Xương năm thứ hai mươi, ngày mùng sáu tháng mười, công chúa Vĩnh An, Lý Doanh, trượt chân ngã xuống hồ sen mà chết. Do hồ sen trong cung nằm ở nơi hẻo lánh, hơn nữa công chúa không cho phép người hầu theo cùng, nên phải đến một canh giờ sau, cung nhân mới phát hiện thi thể Lý Doanh trong lúc tìm kiếm công chúa khắp nơi.

Thái Xương Đế và Quý phi Khương thị nghe tin, vội vàng chạy đến, trước thi thể của công chúa, cả hai khóc đến nỗi nước mắt như mưa, ruột gan đứt đoạn. Lúc ấy, họ không còn là đế phi đứng trên vạn người của Đại Chu nữa mà chỉ là đôi phụ mẫu bình thường vừa mất đi đứa con gái yêu quý nhất.

Hoàng hậu Trịnh thị cũng tới nơi, bà là thê tử kết tóc của Thái Xương Đế, xuất thân từ gia tộc Trịnh thị ở Huỳnh Dương, thân phận cao quý. Khi nhìn thấy thi thể Lý Doanh trắng bệch, lạnh lẽo nằm bất động trên mặt đất, Trịnh Hoàng hậu gần như ngã quỵ: “Vĩnh An! Sao lại thế này!”

Hoàng hậu muốn chạm vào Lý Doanh nhưng lại bị Quý phi Khương thị đang đau lòng đến tột cùng đẩy ra. Quý phi Khương thị xuất thân từ cung nữ, phụ thân bà chỉ là một thương nhân, nhờ vào sắc đẹp mà được Thái Xương Đế sủng ái và nạp làm phi tần. Khương Quý phi có tính cách cẩn trọng, ôn hòa và chưa bao giờ dám vượt quyền Hoàng hậu. Nhưng lúc này đã khác.

Cung nhân bàng hoàng nhìn Quý phi xô mạnh Hoàng hậu ra khỏi thi thể công chúa, sau đó bà gào khóc dữ dội: “Ngươi đừng giả nhân giả nghĩa nữa! Chính ngươi! Chính ngươi đã hại chết Minh Nguyệt Châu của ta! Là ngươi! Là ngươi!”

Hoàng hậu sững sờ, sau đó giận dữ quát: “Quý phi, ngươi đang nói bậy bạ gì đó!”

“Ta không nói bậy! Chính ngươi đã gi.ết ch.ết Minh Nguyệt Châu của ta!”

Khương Quý phi đau đớn tột độ, bà bò đến trước chân Thái Xương Đế, nắm lấy vạt áo người, khóc lóc thê lương: “Tam lang, chính là Hoàng hậu đã giết Minh Nguyệt Châu! Bà ấy chưa bao giờ thích Minh Nguyệt Châu, chắc chắn là do bà ấy! Chàng phải báo thù cho Minh Nguyệt Châu, nhất định phải báo thù cho con chúng ta!”

Hoàng hậu hoảng sợ, vội vàng thanh minh: “Không phải đâu, Tam lang, không phải ta giết Minh Nguyệt Châu! Ta không làm chuyện đó!”

Khương Quý phi căm phẫn nhìn chằm chằm Hoàng hậu, bà gạt bỏ vẻ dịu dàng ngày thường, nghiến răng bật khóc: “Ngươi đừng giảo biện nữa! Ngươi ganh ghét ta được Tam lang sủng ái, ngươi ghen tỵ vì Minh Nguyệt Châu khiến tình cảm giữa hai ta càng thêm bền chặt. Từ khi Minh Nguyệt Châu chào đời, ngươi đã bao lần bày mưu tính kế hãm hại mẹ con ta. Vì lo cho con, ta đã nhẫn nhịn, nhưng không ngờ, ngươi lại tàn độc đến mức gi.ết ch.ết Minh Nguyệt Châu! Ngươi thật quá mất nhân tính!”

Hoàng hậu cố gắng biện giải: “Không, ta không giết Minh Nguyệt Châu. Nếu ta muốn hại con bé thì sao lại tác hợp hôn sự giữa cháu trai ta và con bé? Ta thật sự không làm!”

Khương Quý phi nghẹn ngào: “Ngươi chỉ lợi dụng hôn sự của Minh Nguyệt Châu để mong được Tam lang sủng ái trở lại thôi, nhưng Tam lang vẫn không đoái hoài đến ngươi, vì vậy ngươi mới tức giận và gi.ết ch.ết Minh Nguyệt Châu!”

Hoàng hậu cũng quỳ sụp xuống, bò đến trước mặt Thái Xương Đế, nắm lấy áo hắn, tha thiết cầu xin: “Tam lang, ta thừa nhận ta có ý muốn nhờ hôn sự này để được chàng sủng ái, nhưng ta thực sự không giết Minh Nguyệt Châu, ta không làm!”

Khương Quý phi khóc đến khản giọng: “Ngươi không thể sinh con thì thôi, tại sao lại phải cướp mất Minh Nguyệt Châu của ta? Tại sao? Tại sao?”

Bà không muốn đôi co với Hoàng hậu nữa, chỉ lặng lẽ ôm lấy thi thể lạnh giá của Lý Doanh vào lòng, hôn lên gương mặt lạnh lẽo của con gái như cái ngày nàng vừa chào đời, rồi nghẹn ngào lẩm bẩm: “Minh Nguyệt Châu, a nương ở đây, không ai có thể làm hại con nữa. Con quay về đi, quay về với a nương, a nương không thể thiếu con, không thể… không thể…”

Đêm hôm ấy, Khương Quý phi ôm chặt thi thể Lý Doanh khóc đến khản tiếng, ai khuyên gì cũng không buông.

Trong lòng Thái Xương Đế và Khương Quý phi, người luôn chiều chuộng con gái là Thái Xương Đế, bất kể Lý Doanh đòi gì ông đều hết lòng đáp ứng. Ngược lại, Khương Quý phi có phần nghiêm khắc hơn, bà luôn dạy con phải sống khiêm nhường, đối xử nhân hậu với người khác, chính vì thế mới nuôi dạy được Lý Doanh tính cách hiền lành, thiện lương. Nhưng không ai ngờ, một Khương Quý phi vốn cẩn trọng lại có thể vì mất con mà trở nên cuồng loạn, bất chấp hậu cung quy tắc mà sẵn sàng đối đầu với Hoàng hậu, chỉ để đòi lại công bằng cho con gái.



Sau đó, Thái Xương Đế đau lòng đến mức mấy ngày liền không ăn không uống. Khương Quý phi thì khăng khăng rằng cái chết của Lý Doanh không phải tai nạn, mà do Hoàng hậu Trịnh thị gây ra. Hoàng hậu thì ra sức kêu oan. Hậu cung loạn thành một mớ. Dưới áp lực của Khương Quý phi, Thái Xương Đế bí mật lệnh cho Đại Lý Tự điều tra kỹ lưỡng nguyên nhân cái chết của Lý Doanh. Lúc bấy giờ, Đại Lý Tự khanh Từ Nhiễm đã điều tra suốt mười mấy ngày, phát hiện Lý Doanh vì nhận được thư của vị hôn phu Trịnh Quân nên mới một mình ra hồ sen hẹn gặp. Bên cạnh hồ sen, ngoài những nội thị nhảy xuống vớt thi thể công chúa, không còn dấu chân nào khác, nên suy đoán rằng công chúa đã trượt chân rơi xuống nước và không may bị chết đuối.

Vì thế, cái chết của công chúa chỉ là một tai nạn, không hề liên quan đến Trịnh Hoàng hậu hay bất kỳ ai khác.

Thái Xương Đế và Khương Quý phi không tin vào kết luận của Từ Nhiễm, bởi Từ Nhiễm là thân thích nhà họ Trịnh, nên Thái Xương Đế cho rằng Từ Nhiễm đã bao che cho Hoàng hậu. Ông bèn giao vụ án cho Thượng thư Hữu bộc xạ Thôi Tụng Thanh đích thân tra án. Thượng thư Hữu bộc xạ là chức quan nhất phẩm của triều Đại Chu, tương đương với tể tướng, đủ để thấy Thái Xương Đế coi trọng vụ án này ra sao.

Thôi Tụng Thanh xuất thân từ gia tộc Thôi thị ở Bác Lăng, nổi tiếng chính trực, liêm khiết. Sau khi tiếp quản vụ án Lý Doanh, ông đích thân điều tra hiện trường hồ sen và phát hiện rằng suốt tháng mười trời không có lấy một giọt mưa nào, đất bên hồ khô cứng, không thể có chuyện công chúa vô tình trượt chân ngã xuống hồ. Từ đó, Thôi Tụng Thanh kết luận rằng Lý Doanh không phải vô tình rơi xuống nước, mà bị người khác đẩy xuống hồ, dẫn đến chết đuối.

Lý Doanh vốn là người ôn hòa, lan tư huệ chất, đến cung nữ trong cung cũng quý mến nàng nên không có khả năng nàng bị ai đó thù oán mà sát hại. Do đó, người khả nghi nhất chính là Hoàng hậu Trịnh thị, người vốn có mâu thuẫn với Khương Quý phi.

Thôi Tụng Thanh nhanh chóng bắt giữ các tỳ nữ thân cận của Trịnh Hoàng hậu để thẩm vấn. Tuy nhiên, tất cả đều kêu oan, khẳng định rằng Hoàng hậu không hề liên quan đến cái chết của công chúa Vĩnh An. Sau khi thẩm vấn kỹ lưỡng, một cung nữ không chịu nổi cực hình cuối cùng đã hé lộ một vài bí mật…

Hoá ra, Trịnh Hoàng hậu vì muốn lấy lại sự sủng ái nên đã hết sức tiến cử Trịnh Quân làm phò mã trước Thái Xương Đế. Thế nhưng, thật ra huynh trưởng và tẩu tẩu của bà, tức là cha mẹ của Trịnh Quân lại hoàn toàn không muốn Lý Doanh làm con dâu. Nguyên do là bởi Lý Doanh là con gái của Khương Quý phi. Khương Quý phi xuất thân từ thương nhân, trong khi nhà họ Trịnh thuộc vào ngũ tính thất vọng, là một trâm anh thế tộc truyền đời. Cha mẹ Trịnh Quân khinh miệt Lý Doanh, dù ngoài miệng không dám kháng chỉ nhưng trong thâm tâm, họ vô cùng xem thường nàng.

Còn Trịnh Quân, hắn cũng không muốn cưới Lý Doanh. Một phần vì xuất thân thấp kém phía gia tộc bên ngoại công chúa, phần khác vì Trịnh Quân đã sớm có mối tình thanh mai trúc mã với biểu muội họ Vương, tình cảm thâm sâu từ nhỏ. Vậy nên, hôn sự này thực chất là do Hoàng hậu Trịnh thị giấu giếm anh trai và chị dâu, tự mình đứng ra sắp đặt. Đến khi mọi chuyện xong xuôi, huynh tẩu của bà còn vào cung trách cứ, và đây cũng là điều khiến một cung nữ vô tình nghe được.

Khi Thái Xương Đế hay tin thì vừa đau lòng vừa tức giận. Lý Doanh là viên ngọc sáng quý giá trong tay ông, lại còn là công chúa Đại Chu, vậy mà chỉ vì xuất thân của mẹ nàng mà lại bị khinh bỉ đến như vậy. Trong cơn giận dữ, Thái Xương Đế lập tức hạ lệnh giam Trịnh Hoàng hậu vào lãnh cung, đồng thời ban mật chỉ cho Thượng thư Hữu bộc xạ Thôi Tụng Thanh, cho dù phải đào ba thước đất cũng phải tìm ra chân tướng cái chết của Lý Doanh.



Lý Doanh đọc đến đây không khỏi bần thần suy nghĩ. Nàng cười khổ: “Ta không ngờ cha mẹ của Trịnh Quân lại ghét bỏ ta đến vậy.”

Thôi Tuần thản nhiên đáp: “Người đời thường nói thà cưới con gái ngũ tính [1] còn hơn làm rể hoàng gia. Công chúa hoàng gia cũng không cao quý bằng nữ nhi ngũ tính. Họ đương nhiên không muốn có một nàng dâu xuất thân từ phường buôn.”

[1] Từ thời Ngụy Tấn, 5 họ “Trịnh, Thôi, Lý, Lư, Vương” luôn là danh gia vọng tộc. “Ngũ tính thất vọng” bao gồm: Lũng Tây Lý thị, Bác Lăng Thôi thị, Thanh Hà Thôi thị, Phạm Dương Lư thị, Triệu Quận Lý thị, Huỳnh Dương Trịnh thị và Thái Nguyên Vương thị. 7 gia tộc thuộc có 5 họ lớn. Lũng Tây Lý thị và Triệu Quận Lý thị đều là 2 nhánh lớn của họ Lý; Bác Lăng Thôi thị và Thanh Hà Thôi thị là 2 nhánh của họ Thôi.

Lý Doanh buồn bã nói: “Ta càng không ngờ, hóa ra Trịnh Quân còn có một biểu muội thanh mai trúc mã.”

Nàng hồi tưởng lại những lần gặp gỡ ít ỏi với Trịnh Quân, lúc nào hắn cũng tỏ ra là một quân tử ôn hòa như ngọc, nói năng chừng mực, cư xử khéo léo. Dù không có tình cảm sâu đậm với Trịnh Quân nhưng nàng luôn nghĩ rằng đây là người mà phụ mẫu đã chọn cho mình, chắc chắn là một lang quân tốt nhất trong thiên hạ. Vì vậy, nàng luôn vui mừng chờ đến ngày được gả cho Trịnh Quân.

Ai ngờ cả nhà Trịnh Quân đều khinh ghét nàng, còn Trịnh Quân lại coi nàng như người đã phá hoại tình duyên của hắn.

Lý Doanh vô cùng mờ mịt. Như nàng đã nói, nàng cả đời chưa từng làm điều gì xấu, chỉ vì mẫu thân xuất thân từ thương nhân mà bị cả nhà họ Trịnh khinh bỉ đến vậy. Chẳng lẽ sinh ra trong gia đình danh gia vọng tộc thì bẩm sinh đã cao quý? Còn sinh ra trong gia đình thương nhân thì trời sinh đã thấp hèn? Tại sao ngay cả khi mẫu thân đã trở thành Quý phi Đại Chu, con gái của bà, một công chúa Đại Chu cành vàng lá ngọc tôn quý hơn vạn người nhưng vẫn phải chịu sự ghét bỏ của những thần tử kia?

Rốt cuộc là lý lẽ gì đây?

Thôi Tuần nhìn nàng: “Còn muốn xem tiếp bản án này không?”

Lý Doanh hồi thần, nàng mím môi rồi kiên quyết gật đầu: “Xem.”

Dù sự thật có đau lòng đến đâu, nàng cũng muốn truy tìm đến cùng.



Trong quá trình thẩm vấn của Thôi Tụng Thanh, một tỳ nữ không chịu nổi cực hình đã khai rằng Hoàng hậu Trịnh thị đã từng triệu Trịnh Quân vào cung trò chuyện. Từ lúc hắn vào cung, thần sắc luôn rối loạn, như có tâm sự nặng nề.

Thôi Tụng Thanh liền chuyển sự nghi ngờ về phía Trịnh Quân.

Trịnh Quân bị bắt vào Đại Lý Tự, hắn là con cháu thế gia, từ nhỏ đã được nuông chiều, không chịu nổi khổ hình, vừa nhìn thấy hình cụ còn chưa cần dùng tới, hắn đã khai sạch. Hắn nói hắn hận Lý Doanh, bởi vì mẫu tộc của nàng xuất thân thương nhân, khiến hắn bị bạn bè cười nhạo. Hơn nữa, hắn và biểu muội nhà họ Vương từ nhỏ đã là thanh mai trúc mã, hai nhà đã chuẩn bị nói chuyện hôn sự, nhưng Thái Xương Đế lại đột ngột ban hôn, buộc hắn và biểu muội phải chia lìa. Vì vậy, hắn càng hận Lý Doanh hơn. Trước ngày cưới, hắn không thể chịu đựng việc phải cưới một nữ nhân có xuất thân thấp hèn như nàng, nên đã nảy sinh ác ý, viết thư hẹn nàng đến bên hồ sen. Khi nhìn thấy Lý Doanh trong trang phục lộng lẫy, tràn đầy kỳ vọng đứng đợi bên hồ, trong một khoảnh khắc, hắn đã có chút mềm lòng, nhưng sự mềm lòng đó nhanh chóng bị nỗi nhục nhã do bạn bè chế giễu và sự hận thù vì phải chia tay với biểu muội lấn át. Hắn đã lợi dụng lúc nàng không để ý, đẩy nàng xuống hồ.

Lý Doanh chỉ kêu cứu vài tiếng, rồi nhanh chóng chìm sâu vào nước. Trịnh Quân hoảng loạn, vội vàng bỏ trốn khỏi hồ sen.

Hắn vẫn còn một chút hy vọng rằng mọi người sẽ chỉ nghĩ Lý Doanh chết do tai nạn. Nhưng không ngờ, Thôi Tụng Thanh lại điều tra nhanh đến vậy.

Những chuyện tiếp theo thì ai ai cũng đã biết. Trịnh Hoàng hậu bị phế truất, vì vẫn chưa nguôi hận nên một năm sau bà bị Khương Quý phi sai người gi.ết ch.ết. Trịnh Quân bị tru di cửu tộc, khiến Trường An chìm trong biển máu.



Bản án này xem ra thật hoàn hảo, Trịnh Quân có động cơ, có thời gian và chính hắn cũng đã nhận tội. Vậy nên nếu không phải vì Lý Doanh đến nay vẫn chưa thể siêu thoát, có lẽ nàng cũng sẽ tin rằng hung thủ chính là Trịnh Quân.

Đọc xong chữ cuối cùng, Lý Doanh chậm rãi đóng quyển hồ sơ lại, nàng hỏi Thôi Tuần: “Thôi Thiếu khanh, ngài có phát hiện ra điều gì bất thường không?”

Thôi Tuần hỏi ngược lại nàng: “Công chúa cảm thấy Trịnh Quân là người thế nào?”

Lý Doanh cố gắng hồi tưởng về Trịnh Quân: “Học rộng biết nhiều, là một người quân tử lễ độ.”

“Vậy công chúa nghĩ Tiên đế là người thế nào?”

Lý Doanh ngẩn ra, nàng nói: “A gia là một người cha rất tốt.”

“Tiên đế có thụy hiệu là “Minh”, ngoài việc là một người cha tốt ông ấy còn là một vị đế vương sáng suốt.” Thôi Tuần nói: “Tiên đế đăng cơ khi còn trẻ, trong suốt thời gian trị vì, ông ấy đã thực hiện nhiều cải cách, trọng dụng hiền thần. Một minh quân như vậy chắc hẳn sẽ không nhìn nhầm mà chọn một phò mã không có phẩm hạnh.”

“Ý của Thôi Thiếu khanh là…?”

“Phò mã được tiên đế đích thân lựa chọn không thể chỉ vì vài lời chế giễu mà tâm thần bất định đến mức giết người, huống hồ người hắn giết là công chúa Đại Chu, nữ nhi được Tiên đế yêu thương nhất. Dù thân phận của hắn có cao quý đến đâu, hắn cũng phải suy nghĩ về hậu quả của việc này.”

Lời phân tích của hắn thật rõ ràng, nhưng Lý Doanh đột nhiên nhận ra điều gì: “Vậy từ đầu, Thôi Thiếu khanh không tin rằng Trịnh Quân là hung thủ, đúng không?”

Nàng cười khổ: “Vậy tại sao ngay từ khi ta tìm đến, ngài lại khẳng định rằng vụ án của ta đã có kết luận, hung thủ chính là Trịnh Quân?”

Thôi Tuần bình tĩnh đáp: “Ta chưa từng tin, chỉ là không muốn giúp cô thôi.”

Lời hắn thẳng thắn, Lý Doanh chỉ biết cười khổ, nàng đang có việc nhờ hắn, nên không thể trách cứ, chỉ đành hỏi: “Vậy Thôi Thiếu khanh nghĩ hung thủ là ai?”

Thôi Tuần không trả lời, chỉ dùng ngón tay dài gõ nhịp từng cái lên bàn, trầm ngâm một lúc, rồi nói: “Ta nghĩ rằng trong tập hồ sơ này, có một người vô cùng quan trọng, đã bị bỏ qua từ ba mươi năm trước.”

“Ai?”

“Biểu muội của Trịnh Quân, nữ tử họ Vương.”
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 8: Đây là thời đại thịnh vượng mà mẹ ta đã tạo ra



Con gái họ Vương tên là Vương Nhiên Tê, xuất thân từ danh gia Vương thị Thái Nguyên, một trong ngũ đại thế gia triều Đại Chu.

Từ nhỏ, Vương Nhiên Tê đã nổi tiếng nhờ nhan sắc tuyệt mỹ, trí tuệ hơn người, cầm kỳ thư họa đều tinh thông. Mẫu thân nàng ta và mẫu thân của Trịnh Quân là chị em ruột, nên hai người thường xưng hô với nhau là biểu huynh muội. Sau khi chín tộc của Trịnh Quân bị tru di, Vương Nhiên Tê may mắn thoát nạn nhờ mẹ nàng đã gả vào họ Vương, tuy vậy, cảnh tượng sĩ tộc Trường An máu chảy thành sông vẫn khiến Vương Nhiên Tê sợ đến mất mật. Vì thế, nàng ta hạ mình, gả vội cho Bùi Quán Nhạc, khi ấy mới chỉ là một đội chính thất phẩm của Huân Dực vệ. Bùi Quán Nhạc xuất thân hàn môn, nhờ cưới được con gái Vương gia mà bước chân vào hàng môn phiệt, từ đó quan vận hanh thông, đến nay hắn đã là Binh bộ Thượng thư chánh tam phẩm, Vương Nhiên Tê cũng nở mày nở mặt, được sắc phong là Kim Thành quận phu nhân.

Với một thân phận tôn quý như vậy, Thôi Tuần đương nhiên không thể đối đãi với nàng ta như đối với Vương Lương, tùy tiện dụng hình để ép cung.

Lý Doanh nói: “Nếu nàng ta thật sự có liên quan đến vụ án của ta, có lẽ ta sẽ thử đến Bùi phủ một chuyến.”

Thôi Tuần mỉm cười: “Cô không vào được đâu.”

“Vì sao?”

“Bùi phủ canh phòng nghiêm ngặt, lại nuôi nhiều đạo sĩ và hòa thượng, khắp nơi trong phủ đều dán thần môn và bùa trấn trạch. Chỉ e cô còn chưa vào đến nơi thì đã bị bùa ngũ lôi chém hồn tan tác ra rồi.”

Lý Doanh hơi chán nản, sau đó nghĩ đến điều gì, lại hỏi “Không làm việc trái lương tâm thì không sợ quỷ gõ cửa. Bùi phủ nuôi đạo sĩ, dán bùa trấn trạch, chẳng lẽ Vương Nhiên Tê đã làm gì trái với lương tâm sao?”

Thôi Tuần không đáp, chỉ khẽ nói: “Năm ngày nữa là đến hội đèn lồng Thượng Nguyên, [1] đến lúc đó khắp Trường An từ quan lại đến dân thường đều sẽ ra ngoài thưởng ngoạn hội đèn. Chắc hẳn Vương Nhiên Tê cũng sẽ không bỏ lỡ cuộc vui này.”

[1] Tết Thượng Nguyên, Tết Nguyên tiêu hay Rằm Tháng Giêng là ngày lễ hội truyền thống của Việt Nam và Trung Quốc. Lễ hội trăng rằm từ giữa đêm 14 (đêm trước trăng rằm) trọn ngày 15 (ngày rằm) cho đến nửa đêm 15 (đêm trăng rằm) của tháng giêng Âm lịch. Nguồn
 
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Chương 9: Nếu không ai yêu quý thì cũng nên tự thương lấy mình



Thôi Tuần gắng sức bơi về phía tỳ bà cơ gần như đã ngất lịm trong dòng nước, kéo nàng lên bờ. May thay, nàng chỉ ngụp lặn trong chốc lát, sau khi ho ra vài ngụm nước, nàng đã từ từ hồi tỉnh.

Lúc này, nhóm bạn của tỳ bà cơ cũng vội vàng chạy đến, tất cả đều là nhạc cơ của giáo phường, gương mặt hiện rõ vẻ hoảng loạn. Thế nhưng, khi trông thấy Thôi Tuần trong bộ thường phục màu đỏ thẫm, họ nhận ra hắn là một quan viên tứ phẩm của triều đình, liền e dè đưa mắt nhìn nhau, không dám lại gần.

Thôi Tuần vô tình làm rơi khăn vấn, vài sợi tóc đen như mực xõa ra trên cần cổ trắng đến mức có thể thấy rõ cả mạch máu. Hắn đeo mặt nạ đầu thú hung ác, nhưng từ thân hình cao gầy như hạc lộ ra dưới lớp áo ướt sũng cùng đôi mắt hoa đào hơi xếch lấp ló sau chiếc mặt nạ, thì vẫn có thể thấy được phong thái tuyệt thế của chủ nhân.

Thấy tỳ bà cơ đã tỉnh lại, Thôi Tuần liền xoay người muốn rời đi, song lại bị nàng bất ngờ nắm lấy cổ tay.

Ánh mắt nàng phảng phất chút bối rối cùng vẻ không thể tin nổi, chậm rãi đưa tay, run rẩy muốn tháo bỏ mặt nạ của Thôi Tuần.

Mặt nạ rơi xuống, để lộ dung nhan rực rỡ tựa hoa đào.

Tỳ bà cơ thoáng chốc giống như bị sét đánh, toàn thân run lên bần bật. Nàng dồn chút sức tàn cuối cùng, đẩy Thôi Tuần đến lảo đảo, cổ họng nghẹn ngào bật ra mấy chữ: “Cút! Ta không cần ngươi cứu!”

Người bạn bên cạnh nôn nóng chạy tới, “A Man, chính vị lang quân này đã cứu cô!”

“Ta không cần hắn cứu!” Nàng nói: “Ta ghét hắn!”

Nói xong, nàng không muốn nhìn Thôi Tuần thêm lần nào nữa, chỉ dựa vào sự trợ giúp của người khác mà đứng dậy, tập tễnh rời đi. Các nhạc cơ khác chỉ còn biết thở dài, cúi đầu xin lỗi Thôi Tuần: “Thật xin lỗi, lang quân, bình thường A Man không như vậy…”

Thôi Tuần chỉ nói: “Không sao… Hãy chăm sóc nàng thật tốt…”

Các nhạc cơ lại thi lễ rồi đuổi theo tỳ bà cơ. Thôi Tuần nhặt chiếc áo choàng đen dưới đất lên, loạng choạng bỏ đi dưới ánh mắt khó hiểu của mọi người.

Lý Doanh đứng từ xa đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Nàng ngỡ ngàng không hiểu tại sao tỳ bà cơ lại buông lời cay nghiệt khi vừa được Thôi Tuần cứu thoát? Cho dù thanh danh của Thôi Tuần có xấu đến đâu, nhưng hắn đã cứu mạng nàng, chẳng nhẽ kể cả như thế thì hắn vẫn không xứng để được nhận một lời cảm tạ hay sao?

Hơn nữa, tại sao sau khi tỳ bà cơ chửi mắng, Thôi Tuần lại nói không sao. Người như hắn mà lại sẵn sàng nhảy xuống dòng Khúc Giang để cứu một nhạc cơ… Phải chăng họ đã quen biết nhau từ trước?

Trong lòng nàng tràn ngập nghi vấn, không khỏi nhìn về phía Thôi Tuần đang lảo đảo rời đi. Bộ thường phục đỏ thẫm đã ướt sũng, ôm sát vào thân thể càng khiến hắn thanh mảnh như cành trúc. Lý Doanh mím môi, cất bước đuổi theo, muốn hỏi cho ra lẽ, vừa cất tiếng gọi: “Thôi Thiếu khanh” thì Thôi Tuần đã chỉ về một chiếc thuyền du ngoạn ở giữa hồ.

Trên thuyền, một đôi vợ chồng trung niên đang đứng cạnh nhau. Nam nhân mặc thường phục màu tím, mặt vuông chữ điền, mày rậm, thân hình cao lớn, đôi mắt sáng rực có thần. Nữ nhân thì mày liễu mắt hạnh, phong tư tuyệt sắc. Thôi Tuần bình tĩnh nói: “Đó chính là vợ chồng Bùi Quan Nhạc, họ rất sợ ma quỷ. Cô nên nhân cơ hội này, tạo ra chút động tĩnh, họ càng sợ thì càng dễ khai ra những điều cô muốn biết.”

Lý Doanh dừng bước, không khỏi nhìn về phía phụ nhân xinh đẹp trên thuyền, người đó chính là biểu muội của Trịnh Quân, nữ nhi Vương thị ở Thái Nguyên đúng không?

Trịnh Quân vì nàng ta mà hận đến mức muốn giết cả vị hôn thê của mình?

Tâm trí Lý Doanh rối bời, nhưng tiếng ho khan kịch liệt của Thôi Tuần đã kéo nàng về với thực tại.

Thôi Tuần ho rất dữ dội. Hắn vừa nhảy xuống dòng Khúc Giang lạnh buốt để cứu người, và giờ cái lạnh ấy như đang ngấm dần vào xương tủy. Hắn cảm thấy toàn thân như bị đông cứng, vì ho quá sức mà sắc mặt trắng bệch bị nhiễm thêm một tầng mây đỏ. Lý Doanh thấy thân thể hắn run lẩy bẩy, bước đi không vững thì không khỏi lo lắng hỏi: “Thôi Thiếu khanh, ngài không sao chứ?”

Nhưng Thôi Tuần không đáp. Hắn vẫn kiên nhẫn bước từng bước một, tiến về phía trước. Lý Doanh nhìn theo hắn, rồi lại ngoái lại nhìn về phía du thuyền, nơi Vương Nhiên Tê đang vui vẻ trò chuyện. Nàng dậm chân, vẻ mặt đầy mâu thuẫn, nhưng cuối cùng vẫn quyết định đuổi theo Thôi Tuần.



Càng đi, cảnh vật trước mắt Thôi Tuần càng tối sầm lại, thân thể cũng càng thêm nặng nề, nhưng dù là vậy, Thôi Tuần vẫn cố gắng lê từng bước chân, mãi cho đến khi trước mắt là một rừng mai vắng lặng. Dân chúng Trường An đều đi xem hội đèn, trong rừng mai không một bóng người. Thôi Tuần dựa vào một gốc mai vàng, cảm thấy trời đất quay cuồng. Hắn không thể trụ nổi nữa, cơ thể đổ gục xuống đất.

Lý Doanh vẫn luôn theo sát phía sau Thôi Tuần, thấy hắn ngã xuống thì liền hốt hoảng chạy đến. Nàng quỳ xuống bên cạnh, lo lắng lay nhẹ Thôi Tuần: “Thôi Thiếu khanh, Thôi Thiếu khanh, ngài không sao đấy chứ?”

Nhưng Thôi Tuần vẫn nhắm chặt mắt, hàng mi đen dài như cánh quạ rũ xuống, vài sợi tóc đen ướt dính trên khuôn mặt tái nhợt, sắc môi không còn một giọt máu, và dù Lý Doanh có gọi thế nào, hắn cũng không tỉnh lại.

Lý Doanh cắn môi, không thể diễn tả cảm xúc trong lòng. Người này mặc dù mang tiếng xấu, thế nhưng lại rất tự trọng, ngay cả việc ngất xỉu cũng phải chọn nơi không có người mà ngã chứ không để bản thân ngã quỵ ở một nơi đông người như bên bờ Khúc Giang.

Nàng lại nhìn về phía hồ Khúc Giang đèn đuốc huy hoàng, Vương Nhiên Tê vẫn đang ở trên du thuyền, nếu bỏ lỡ cơ hội này, không biết phải chờ cho đến bao giờ thì mới gặp được nàng ta một lần nữa.

Lý Doanh lại nhìn về phía Thôi Tuần dưới gốc hoa mai, một đóa hoa mai đỏ từ cây rơi xuống, đáp nhẹ lên phiến môi nhợt nhạt của Thôi Tuần. Hoa mai đỏ thắm, nếu từng lớp cánh hoa xếp chồng lên nhau giống như ráng chiều rực rỡ thì bản thân hắn lại hệt như khối hàn ngọc trong suốt. Lý Doanh nhẹ vươn tay, nhặt cánh mai đỏ khỏi môi Thôi Tuần. Khi đầu ngón tay chạm vào đôi môi lạnh giá của hắn, nàng lập tức rụt tay lại, nhưng chỉ một thoáng sau đó, nàng lại nâng tay lên, ngắm nhìn đầu ngón tay mình, thở dài một hơi.

Khoảnh khắc ấy, trong rừng mai bỗng hiện ra một ánh lửa xanh lục ma quái. Chỉ trong chốc lát, có sáu kiệu phu làm bằng giấy khiêng theo một cỗ kiệu lộng lẫy, đỉnh kiệu được trang trí bởi hoa văn bảo tướng, phủ màn lụa trắng xung quanh, chân không chạm đất lướt như bay vào trong rừng mai, rồi lại nhanh chóng nâng kiệu ra khỏi rừng, để lại đóa hoa mai đỏ rực như mây trên nền đất tĩnh mịch ở trong rừng.



Kiệu phu bằng giấy khiêng kiệu rất vững nhưng trong kiệu vẫn hơi rung lắc. Thôi Tuần đang hôn mê nằm trên lớp da hổ trắng mềm mại. Bốn góc trong kiệu đều được đặt lò hương khắc hoa văn chim phượng, hương liệu được đốt trong lò khiến không gian ấm áp như giữa xuân, ấy vậy nhưng Thôi Tuần vẫn cảm thấy toàn thân lạnh thấu. Hắn run rẩy, bất giác ho khan, mày nhíu lại, hình như rất khó chịu. Lý Doanh quỳ xuống trước mặt hắn, cúi người gạt những sợi tóc dính trên mặt hắn sang một bên. Nàng liếc nhìn bộ y phục ướt sũng màu đỏ thẫm của hắn, không khỏi lo lắng. Nếu không thay ra, e rằng hắn sẽ sốt cao thêm một trận nữa.

Nhưng ngoài nàng ra, những người hầu bằng giấy mà mẫu thân đốt cho nàng đều không thể chạm vào người sống. Lý Doanh cắn răng, rốt cộc vẫn run rẩy đưa tay, tháo bỏ dây thắt lưng trên eo của Thôi Tuần.

Sau khi tháo xong thắt lưng, nàng lại run rẩy cởi chiếc áo ngoài màu đỏ thẫm của hắn. Cởi xong áo ngoài, Lý Doanh hít sâu một hơi, tiếp tục c.ởi áo l.ót màu trắng mặc bên trong của Thôi Tuần.

Nhưng ngay khi Lý Doanh chạm tới lớp áo trong cùng của Thôi Tuần, nàng lập tức đứng sững lại.

Thôi Tuần c.ởi tr.ần, trên người đầy rẫy những vết thương chằng chịt. Có vết roi, vết dao, vết bỏng và cả những vết mà nàng không biết là do dụng cụ nào gây ra. Những vết thương như những con rết khổng lồ, bò khắp cơ thể mảnh mai như ngọc, ngọc trắng như bị nhuốm bẩn, khiến người ta không nỡ nhìn thêm nữa.

Lý Doanh hoảng sợ quay đầu đi, nhưng trước mắt nàng vẫn là những vết thương ghê rợn đó, thậm chí cổ họng nàng còn hơi lờm lợm. Suy cho cùng, nàng chỉ là một tiểu công chúa quý giá của Đại Minh cung, đã bao giờ phải chứng kiến cảnh máu me tàn nhẫn của nhân gian theo cách này đâu. Nàng đột nhiên nhớ đến vết thương sâu hoắm như cái lỗ ở xương đòn Thôi Tuần, có lẽ đó là do những dây xích bằng gai xỏ qua xương bả vai, treo lên trong một khoảng thời gian dài, nên mới tạo thành vết thương sâu đến vậy.

Càng nghĩ càng cảm thấy da đầu tê dại, sợ đến mức buồn nôn.

Đằng sau bỗng vang lên một tiếng ho nhẹ, Lý Doanh quay đầu lại, thấy Thôi Tuần không biết đã tỉnh dậy từ khi nào. Hắn chật vật ngồi dậy, tựa vào trụ kiệu, rồi ôm lấy bộ y phục ướt sũng của mình, che đi những vết thương trên người.

Lý Doanh cuống quýt giải thích: “Ta chỉ… chỉ muốn thay cho ngài bộ y phục khô ráo.”

Thôi Tuần không nói gì, hắn cúi đầu, cố gắng buộc lại vạt áo, nhưng bàn tay hắn như bị rút cạn sinh lực, mất một lúc lâu mới buộc được một nút áo đơn giản. Lý Doanh xấu hổ và áy náy vô cùng, nàng lắp bắp hỏi: “Những vết thương trên người ngài…”

Thôi Tuần ngẩng đầu, ánh mắt rét lạnh, hắn đáp: “Đây không phải việc của cô?”

Lý Doanh giống như bị dội cho một gáo nước lạnh, nàng cúi đầu, ngập ngừng nói: “Đúng, không phải việc của ta, ta chỉ hỏi…”

Thôi Tuần không thèm để ý đến nàng, tiếp tục cúi đầu cài áo. Lý Doanh xoa xoa đầu, cuối cùng vẫn quyết định đưa cho hắn bộ y phục màu nguyệt bạch đã được hơ ấm trên lò hương: “Ngài… vẫn nên thay bộ y phục khô ráo này đi.”

Thôi Tuần không đáp. Lý Doanh vẫn không từ bỏ: “Ta không có ý gì, ta cũng sẽ không hỏi gì thêm, nhưng nếu ngài cứ mặc bộ y phục ướt sũng này, e rằng sẽ sinh bệnh nặng thêm, thân thể ngài vốn đã không khỏe… Nếu không ai yêu quý ngài, thì chí ít, ngài cũng nên tự thương lấy mình…”

Nàng nói xong thì đặt bộ y phục sạch sẽ bên cạnh Thôi Tuần. Sau đó, nàng phất nhẹ tay, giữa nàng và hắn là một tấm màn lụa trắng thêu hoa bảo tướng tinh xảo vừa buông xuống. Lý Doanh xoay người, đưa lưng về phía hắn, nhẹ giọng nói: “Ngài yên tâm, ta sẽ không nhìn. Đợi ngài thay xong rồi hãy gọi ta.”

Nàng quay lưng về phía Thôi Tuần, dáng ngồi đoan chính ngay thẳng, lớp sa trắng nhẹ nhàng lay động, thoảng qua sau vành tai nàng. Nàng không chắc liệu Thôi Tuần có thay bộ y phục sạch mà nàng đã chuẩn bị hay không, dù sao hắn cũng là người có tính cách khó lường, chưa kể nàng mới vừa chọc giận hắn… Nàng cứ chờ như vậy, lặng thinh không nói, chỉ hít thở mùi hương thanh khiết thoát ra từ lò hương, nhắm mắt bịt tai, không nhìn, cũng không nghe.

Có vẻ như đã trôi qua rất lâu, cỗ kiệu đột nhiên dừng lại, Lý Doanh mở to mắt, hạ tay che tai xuống, hỏi kiệu phu: “Đến Thôi phủ rồi sao?”

Kiệu phu không trả lời mà là Thôi Tuần ho khan đáp: “Đúng vậy.”

Lý Doanh không khỏi quay đầu lại, chợt thấy một bàn tay thon dài trắng nhợt, vén nhẹ tấm sa lụa ở giữa, một gương mặt kiều diễm nhưng lại thanh tao, không hề có chút d.â.m đ.ã.ng, hiện ra sau lớp sa.

Lý Doanh ngây người, Thôi Tuần đã mặc xong bộ y phục mà nàng đưa cho hắn. Đó là bộ y phục theo kiểu văn nhân thịnh hành từ ba mươi năm trước, tay rộng, áo dài, có phần rộng rãi hơn so với trang phục nam nhân ngày nay. Thôi Tuần vốn đã gầy gò, sau khi buộc đai và đội lại quan ngọc, tóc đen như mực rũ xuống, toát lên phong thái thần tiên, ngọc thụ chi lan.

Lý Doanh ngắm nhìn hắn, buột miệng thốt ra: “Ngài mặc như vậy, thật sự rất đẹp…”

Nói xong, nàng cảm thấy hơi hối hận vì đã lỡ lời, nhưng Thôi Tuần chỉ giữ nguyên thần sắc điềm tĩnh, hắn hỏi: “Sao không đi tìm Vương Nhiên Tê?”

Lý Doanh ngẩn người, nói: “Ta đi tìm bà ấy, còn ngài thì sao?”

Ánh mắt Thôi Tuần chợt xẹt qua một tia khác lạ, nhưng hắn không nói gì thêm, chỉ bước xuống kiệu, đi vào Thôi phủ. Chỉ có điều, gần vào đến bên trong, hắn đột nhiên quay đầu lại, nói hai chữ: “Đa tạ.”
 
Back
Top Bottom