Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Cùng Quân Kề Cận

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
415,438
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
AP1GczMhcx_wRgaZj6MmW76Ag0X_aetrPZTpyMt615lvkGvpdaDdQ8BEZNUJ5Tw-lOF_Agls8sxYzbD6ZHKIm5vgqjZfkcTmHGfWItWiaScdN38M9LZqZzeJtxrszv8J73wjNGMSDpZ3QuLPJHxh4lfgmJnj=w215-h322-s-no-gm

Cùng Quân Kề Cận
Tác giả: Phong Lí Thoại
Thể loại: Ngôn Tình, Trọng Sinh, Cổ Đại
Trạng thái: Đang ra


Giới thiệu truyện:

Năm Sóc Khang thứ năm, hoàng thất nước Tề suy vi, chư hầu nổi dậy khắp nơi.

Để chiêu dụ Đại Tư Không Lận Tắc quyền khuynh triều dã, thiên tử triệu hồi trưởng công chúa Tùy Đường từ phong địa xa xôi hồi kinh, ban hôn cho nàng.

Ngày đại hôn, Tùy Đường phòng không gối chiếc.

Mãi đến đêm trăng tròn ngày thứ bảy, tân lang mới chậm rãi xuất hiện. Thế nhưng hắn lại bất ngờ bóp cằm nàng, moi ra viên độc dược được nàng giấu dưới răng.

Bấy giờ Tùy Đường vì bị ngựa hoảng va trúng trên đường hành lễ, tạm thời mất đi thị lực, trong lòng hoang mang bất an thì trong bóng tối bỗng nghe thấy thanh âm nam tử vang lên: “Hôm nay đã muộn, nghỉ ngơi trước đi.”

Đêm ấy, Tùy Đường mơ thấy một giấc mộng.

Trong mộng, nàng vì khó sinh mà sau khi sinh hạ một nhi tử, chưa đầy hai nén nhang đã độc phát mà chết.

Khoảnh khắc cận kề cái chết, nàng nắm tay Lận Tắc, điềm nhiên nói: “Không cần gọi ngự y, không cần liên lụy người khác, không ai hại cô. Là Hoàng đệ từng sai Thái y lệnh khoét một nửa răng của cô, ngày thành hôn giữa ta và chàng đã giấu vào đó một viên độc dược, định dùng để hạ sát chàng.”

“Không phải cô từ bi mà không hạ thủ, mà là trời còn chưa muốn chàng chết. Hôm đưa dâu, nghi trượng bị mã tặc kinh ngựa ở đường Đồng Đà, cô bị đụng vào kiệu, máu tụ lên não, hai mắt mù lòa, cho đến nay vẫn chưa tìm được cơ hội. Mấy năm nay ở phủ Tư Không, chẳng ai mưu hại cô cả, độc là cô tự chuẩn bị, từng chút ngấm vào ngũ tạng.”

“Khí số Đại Tề đã tận, cô nhận thua, chàng cứ việc lấy đi.”

Nàng ngưng một thoáng, dường như còn muốn nói gì thêm, chẳng hạn như vị Hoàng đệ mà nàng từng nâng đỡ, giang sơn nhà họ Tùy đang lung lay sắp đổ, hay đứa bé nàng vừa sinh ra… Nhưng rốt cuộc, nàng không thốt thêm lời nào.

Mọi suy niệm hóa thành một tiếng thở dài.

Kiếp sau… đừng gặp lại nhau nữa.

Tùy Đường tỉnh giấc giữa mồ hôi đầm đìa, tay ôm lấy quai hàm còn nhức nhối, trăm mối ngổn ngang. Không biết nên vui mừng vì độc dược bị lấy đi, hay nên sợ hãi vì bí mật bị phát hiện…

Bỗng cảm thấy phía sau, có một bàn tay to lớn và ấm áp đặt lên lưng nàng.

Thanh âm nam tử khàn khàn: “Đừng sợ. Ngày mai thần sẽ truyền y quan đến phủ, chữa mắt cho Điện hạ!”

*

Lận Tắc ôm chặt người trên giường. Hắn nhớ rõ kiếp trước.

Kiếp trước, sau khi Tùy Đường qua đời, hắn thu dọn di vật của nàng.

Tẩm phòng của trưởng công chúa xưa nay bị theo dõi nghiêm ngặt, hầu như chẳng có lấy một vật gì thực sự thuộc về nàng. Hắn tìm kiếm hồi lâu, mới thấy được một bức thư tay ở đáy rương trang điểm.

Bút tích xiêu vẹo, hỗn loạn – là chữ của một phụ nhân lâu ngày bệnh nặng, mắt mù không thấy ánh dương.

Kiếp này ba mối hận:

Một hận sinh như bèo dạt, nửa đời phiêu linh.

Hai hận cốt nhục tương phùng, hóa thành quân cờ trong tay người.

Ba hận đôi mắt mù lòa, chưa từng được thấy dung nhan lang quân.

Thế nhân đều nói:

Lận Tam lang – bá đạo chuyên quyền, khi quân đoạt quốc.

Nhưng hắn… là người đầu tiên đối tốt với ta.

Ta chỉ muốn… nhìn chàng một lần thôi.

*

Từ biệt ly, mộng hồi tương phùng, bao lần hồn mộng cùng quân kề cận.

Một câu tóm tắt: Gặp nhau nơi ngả rẽ, nắm tay đi đến bạc đầu.

Chủ đề: Tùng dài nằm sâu trong khe, chịu sương tuyết mà lớn lên, chờ thời lập nghiệp, trụ vững chính đường.​
 
Cùng Quân Kề Cận
Chương 1: Chương 1



Thiên tử dặn dò xong xuôi, Thái hậu lau khô lệ, Tùy Đường cũng thôi không dùng nắm tay chống má nữa, chỉ cắn răng nhẫn nại cơn đau nơi hàm trái, ngẩng đầu, hướng hoàng đệ và mẫu thân lộ ra một nụ cười dịu hiền.

Nàng chẳng được thừa hưởng dung nhan thần tiên mỹ mạo của sinh mẫu là Hòa Thái hậu, chỉ có thể xếp vào hàng trung thượng.

Duy chỉ có một đôi mắt hạnh, mí mắt phẳng phiu không nếp, hình tròn đuôi nhếch, lông mi dày như quạt nhỏ, mỗi lần khẽ chớp liền lộ ra con ngươi trong sáng đen láy như nước.

Ánh mắt ấy, chỉ thoáng chốc đã như khe suối trong núi gột rửa phiến đá, sáng ngời lấp lánh.

Khi tiên đế còn tại vị, từng ban cho nàng nhũ danh là “Lân” — ánh nước lấp loáng.

Một đôi thu thuỷ như thế, khiến người ta chẳng đành lòng rời mắt.

Hòa Thái hậu cũng vì nhìn thêm một lần mà lệ chưa kịp khô lại trào ra.

Thiếu niên thiên tử đỡ lấy bà, Tùy Đường kéo tay áo bà, cất lời: “Nữ nhi không gả nữa!”

Trong tầm mắt cúi thấp của Thái hậu, thấy hai bàn tay bám lấy cánh tay mình. Một hồi sau, bà vỗ về bàn tay non mềm ấy, khẽ gạt ra, rồi nắm lấy tay Thiên tử, cùng ngẩng đầu, truyền lệnh cho nữ quan trang điểm phủ khăn hỉ lên tân nương.

Hôm đó là mồng ba tháng tám, năm Sóc Khang thứ năm.

Thái bốc lệnh gieo quẻ, hỷ thần phương nam, hợp cưới gả. Nói rằng đây là ngày lành hiếm có trong mấy năm tới.

Bởi thế, dù tân lang còn bị chiến sự trói buộc, đang chinh phạt nơi Hồ Quán Lưu cách mấy trăm dặm, không kịp trở về đón dâu hành lễ, nhưng vì giờ lành ngày đẹp, thiên gia vẫn quyết định cử hành hôn lễ hôm nay, đưa trưởng công chúa Tùy Đường vào phủ Tư Không.

Đầu thu trời cao mây nhẹ, nắng dịu gió mát.

Trong hoàng thành Lạc Dương, tiếng chuông biên chung nổi lên, âm ngọc khánh ngân vang, cửa Xương Hạp của Thái Cực cung chầm chậm mở ra.

Cờ mây dẫn lối, phướn lụa phấp phới, tán hoa vàng sẫm rực rỡ như cụm mây, cung nhân thị vệ lần lượt ra khỏi cung, hộ tống sáu cỗ xa giá ngự mã khắc rồng.

Đội ngũ đưa dâu kéo dài mấy dặm, cờ hiệu mở đường đã tiến vào đại lộ Đồng Đà, đuôi đoàn hộ giáp mới vừa ra khỏi cửa Xương Hạp.

Hai bên phố dài, trăm họ tới dự lễ, ánh mắt đều đổ dồn về phía cuối đoàn, trong sững sờ dần lắng lại, dõi nhìn không rời.

Kia là kỵ binh.

Đội hình chia thành hai mươi phương trận, tổng cộng bốn trăm kỵ.

Tất cả đều thân giáp huyền sắc, cưỡi trên thiên mã.

Thiên mã, chính là loại “huyết mã” từ Đại Uyển quốc.

Ba trăm năm trước, hoàng đế đời thứ ba của Đại Tề – Cao Tông Hoàng đế – từng phái sứ thần sang các nước biên cảnh, mang về sản vật quý hiếm, trong đó có thiên mã.

Giống ngựa này khi phi nước đại, mồ hôi chảy ra ở cổ có màu đỏ như máu, nên được xưng là “Hãn huyết mã”. Không chỉ có dáng vẻ oai phong, hãn huyết mã còn có sức bền và thể lực vượt trội, cưỡi được đường dài, tốc độ gấp ba lần ngựa thường.

Vì thế, Cao Tông thân chinh Đại Uyển. Sau khi Đại Uyển xưng thần, cống nạp vương nữ sang hòa thân, một phần sính lễ chính là ngàn con thiên mã. Nữ tử hòa thân kia, trên đất Đại Tề, nuôi dạy chiến mã cho hoàng đế tung hoành bốn cõi.

Nhờ đó, trăm năm đầu, quân sự Đại Tề hưng thịnh, bình Thổ Cốc, thu Khương tộc, đuổi Hung Nô, công lao của thiên mã không thể không kể đến.

Chỉ tiếc, vật cực tất phản, phồn thịnh rồi suy.

Bước sang trăm năm thứ hai, hoặc do người biết cách nuôi ngựa ngày càng hiếm hoi; hoặc do thiên mã đất lạ không hợp phong thổ, tuổi thọ rút ngắn; cũng có thể bởi bậc quân vương chuyển trọng văn trị, nhường lối cho công hầu bút mực; hay vì tầng tầng lớp lớp quan lại mục ruỗng, khiến quốc thể suy vi… Sau hai trăm năm vàng son, thiên mã trong cấm quân hoàng thất đã chẳng còn. Lác đác đôi ba con còn lại, chỉ để giống, nuôi trong vườn Quảng Lâm cho vương hầu tiêu khiển, như nhắm mắt nằm trên quyển công huân hoàng triều, đếm lại chiến tích năm xưa mà xưng vinh hôm nay.

Đến trăm năm thứ ba, vương triều thăng trầm, rốt cuộc đi về hồi mạt thế. Hai đời vua gần đây là Túc Đế và Lệ Đế càng mặc kệ quyền lực rơi rụng, dị tộc biên cương rình rập, nội triều hoạn quan chuyên quyền che lấp nhật nguyệt. Ngay cả các nước đã từng thần phục như Đại Uyển cũng chẳng biết từ năm nào, bất ngờ nổi binh trong đêm, quy phục cường quốc khác, trong ngoài tiếp ứng, đâm thêm một nhát vào Đại Tề đang suy yếu. Rồi lại phá thành thoát đi, trở về cố thổ nuôi thiên mã, dâng lên chủ mới.

Tính đến nay, dân chúng Đại Tề biết đến thiên mã, phần lớn là từ truyền thuyết và sách họa. Gần đây nhất, nghe nói Đại Tư Không Lận Tắc dâng bốn trăm thiên mã làm sính lễ cầu hôn công chúa, tiến cống thiên tử.

Khi ấy là ba tháng trước, tân nhân đã làm lễ văn định, phò mã nạp sính. Nhưng Đại Tư Không chinh chiến nơi xa, chưa về kinh, chỉ sai đệ đệ ruột là Lận Thử mang lễ về.

Cũng là hai mươi phương trận, từng con thiên mã cổ thon đầu nhỏ, tứ chi cường tráng, bờm ánh kim óng ả dưới nắng hè rực rỡ. Cổ quấn hoa đỏ, lưng chở châu ngọc kim ngân, dâng tặng công chúa.

Bốn trăm thiên mã nhập thành từ cửa Tuyên Bình phía nam, xuôi bắc theo phố Đồng Đà, tiến thẳng Xương Hạp môn.

Trăm họ hai bên phố ban đầu tưởng là lễ vật thường tiến cho thiên tử, rì rầm bàn tán:

“Giờ còn vị chư hầu nào dám tặng lễ lớn vậy nữa?”

“Phải đó! Mấy chục năm loạn lạc, sắp chia nát hoàng thất rồi còn gì!”

“Hay là thấy công chúa gả cho Đại Tư Không, nên tranh thủ lấy lòng?”

“Cũng chưa chắc. Dù Đại Tề ta suy vi, song ba trăm năm truyền thừa, đất này vẫn là Tề địa, lễ nghi vẫn là lễ nghi Tề quốc, chúng ta vẫn là dân Tề. Thiên mệnh vẫn còn đó!”

“Lời ấy phải. Loạn mấy năm nay, dù đất bị cắt xẻ, nhưng trên lầu thành vẫn cắm cờ ‘Tề’, ngai vàng vẫn có thiên tử họ Tùy ngồi.”

“Chỉ là cái ngai ấy dời từ Trường An về Lạc Dương, chẳng phải do thiên tử họ Tùy tự nguyện, mà là…”

“Thiên mã kìa!” Trong đám đông, có người kinh hô một tiếng, chuyển hướng câu chuyện.

“Da mỏng, lông bóng, phi chạy sinh mồ hôi, cổ rịn đỏ như máu.”

“Thấy rồi! Thấy rồi!” Nhiều người hơn reo lên.

“Là hãn huyết mã!”

Quả nhiên như lời họ nói, thiếu niên tướng quân cưỡi đầu đoàn, đến trước cửa Xương Hạp, xuống ngựa giữ cương, quỳ theo lễ, song ánh mắt ngang tàng, lời nói ung dung: “Thần phụng lệnh gia huynh, lấy bốn trăm thiên mã làm sính lễ, kính dâng bệ hạ cùng trưởng công chúa.”

Khi xưa là dị tộc cống vương nữ, tiến thiên mã; nay là thần tử cầu công chúa, cũng là thiên mã làm sính.

Giữa trưa hạ rực rỡ, ánh dương chói chang như thiêu, khiến người ta lầm tưởng hoàng triều vẫn hưng thịnh như xưa.

Xã tắc an định, quân thần thuận hòa.

Mà điều khiến người người bất ngờ hơn cả là — thiên tử đem toàn bộ sính lễ hậu hĩ ấy, làm của hồi môn cho trưởng công chúa, tức là lại trở về tay Đại Tư Không.

Thật là quân thần hòa mục, đồng tâm như một.

Bốn trăm thiên mã tiến lên phố Đồng Đà, tiếng reo hò mừng rỡ vang khắp phố phường, khắp nơi náo nhiệt tưng bừng.

Chỉ tiếc, đoàn ngũ vốn chỉnh tề bỗng rối loạn, thuộc hạ kinh hoảng, xe hoa nghiêng ngả, công chúa đập vào thành xe, sắc mặt tái nhợt.

Kẻ thích khách từ trên trời giáng xuống, tay cầm đao sáng loáng, nhắm thẳng vào kiệu tân nương.

May thay, tám mươi cấm quân hộ giá hoa xa đều là Hổ Bí Quân thân cận bên Thiên tử, lại thêm đệ đệ tân lang – Lận Thử – dũng mãnh trấn định, chỉ trong nửa canh giờ đã áp chế thích khách.

Lận Thử xử lý gọn ghẽ, nhân lúc Thái y lệnh đang xem xét thương thế cho công chúa, lập tức thẩm tra rõ thân phận thích khách rồi đến bẩm báo.

“Điện hạ, thích khách không chịu nổi cực hình đã cung khai. Là người đất Nghiệp thành, Ký châu.”

Ký châu, Nghiệp thành.

Nay trấn giữ Ký châu là Viễn Đình hầu Vệ Thái, nắm trong tay hai mươi vạn binh mã, là chư hầu cát cứ đã hai mươi năm từ thời Lệ đế. Hiện đang cùng Lận Tắc giao tranh tại Quán Lưu Hồ thuộc Dự châu.

Rõ ràng là sau khi nghe tin Thiên tử đón tỷ tỷ vào kinh, hắn liền mượn thời điểm đưa dâu hôm nay, mưu toan cắt đứt liên minh giữa hoàng thất và nhà họ Lận.

“Điện hạ ngoài đau đầu, còn thấy chỗ nào không ổn?” Trung quý nhân vội vàng tới, liếc qua tướng quân ngoài xe, hạ giọng hỏi.

Tùy Đường hồn vía chưa yên, tay ôm trán ong ong, “Mắt hình như…”

Mắt không đau, nhưng mờ mịt chẳng rõ.

Nàng ra sức lắc đầu, lờ mờ trông thấy thiếu niên tướng quân ngoài xe đang đứng chắp tay. Hắn vận khôi giáp màu huyền, thắt bên hông đao cong mạ vàng. Sau lưng hắn là chiến mã sắc đỏ như táo chín, kế tiếp là thị giả dâng cao lễ vật ngũ cốc vàng rực, rồi đến cờ trắng dẫn đường, phấp phới như tuyết, cờ xí năm sắc: đỏ, nâu, vàng, lục, đen… rồi, rồi nữa…

Tùy Đường nhắm mắt rồi lại mở ra, cúi đầu nhìn áo mình – lớp áo cưới phức tạp, lót trong sắc chu huyền, tà áo chồng lên mười hai màu, nào vàng, đỏ, cam, lục, lam, tím, đen…

Đen… sắc đen…

Hai tay nàng siết chặt tay áo, lòng bàn tay đẫm mồ hôi lạnh.

Khoảnh khắc ấy, nàng chỉ còn nhìn thấy màu đen, dường như vạn vật còn lại đều phai sắc.

“Điện hạ—” Trung quý nhân lại khẽ gọi.

Tùy Đường gắng gượng mở mắt, một hồi lâu mới dần thấy rõ kẻ đang khom người chờ lệnh trước mặt, nhìn thấy hết thảy quanh mình.

“Không sao,” Nàng th* d*c, rốt cuộc cũng thốt nên lời, bàn tay đang ôm đầu dời xuống má trái, ấn vào chân răng nơi ấy.

Mắt còn thấy được, nàng không dám nghĩ thêm, chỉ bản năng lo lắng vật giấu trong răng. Một cú va chạm như vậy, nếu vỡ thì phải làm sao?

Thái y lệnh Vương Giản và Trung quý nhân đưa mắt liếc nhau – đều là cận thần của Thiên tử, dĩ nhiên hiểu rõ huyền cơ nơi ấy.

“Điện hạ va đầu vào vách xe, đương nhiên đau nhức, nghỉ ngơi chút ắt không ngại.” Thái y lệnh chẩn mạch xong, vừa an ủi vừa lui lại nửa bước, “Điện hạ chớ lo, không thương tổn chỗ nào khác.”

Tùy Đường khẽ gật đầu, thu lại thần sắc, ngồi nghiêm chỉnh.

“Nếu không có gì bất ổn, xin để xe hoa tiếp tục lên đường, chớ lỡ giờ lành.” Trung quý nhân tiếp lời, quay đầu ra ngoài gọi, “Phiền tướng quân tiếp tục dẫn lối.”

Lời vừa dứt, cung nữ bước lên chỉnh trang, tướng quân thúc ngựa dẫn đầu.

Trên đại lộ, thi thể thích khách bị kéo đi, nước sạch rửa trôi vết máu, lễ nhạc lại vang, chuông khánh ngân nga. Một vụ thích sát đế nữ thiên gia, chỉ là một khúc nhạc xen lạc, mọi chuyện như cũ.

Chỉ là, lòng Tùy Đường chẳng thể nào bình yên trở lại.

Sau hoa xa, tiếng vó ngựa đều đều vọng tới.

Mỗi bước, mỗi âm vang, tựa dẫm thẳng vào tim nàng.

Bốn tuổi nàng đã đến phong địa xa xôi, từng thấy người như cỏ rác, dân sinh khổ cực. Nhưng nàng vẫn tin, đó chỉ là do đất trời cách trở, thiếu lễ giáo quan giám, vùng Kinh Kỳ hẳn chẳng đến nỗi. Bởi thế với lời Thiên tử rằng “quân chẳng ra quân, thần chẳng ra thần”, nàng vẫn nghĩ là lời biếm mang sắc phóng đại.

Cho đến lúc này, nàng mới chân thực cảm nhận thế cục bế tắc mà hoàng đệ đang gánh lấy.

Hóa ra, có người làm thần tử lại dám giữa thanh thiên bạch nhật phái người hành thích thiên tử – như Vệ Thái, hoàn toàn vô đạo.

Mà cũng có kẻ làm thần tử, bắt sống thích khách, chẳng qua mấy câu tra xét là kết tội xử quyết, chẳng cần qua phủ nha – như Lận Thử, bá đạo khinh suất.

Lại có kẻ vẽ một lớp mặt nạ đẹp đẽ, ngoài sáng dâng lễ, trong tối chém lòng – như Lận Tắc, phu quân nàng chưa từng diện kiến.

Ngay giây phút nàng chuẩn bị bước vào động phòng, lại bị người ta ngang nhiên ngăn lại.

Người của phủ Tư Không nói: tuân lệnh Đại Tư Không, phải… khám người.

Khám người.

Hai chữ nghe sao hoang đường đến cực độ.

Công chúa gả xuống làm vợ thần tử, vậy mà thần tử lại dám khám xét công chúa.

“A tỷ, từ khi Lận Tắc dời trẫm từ Trường An về Lạc Dương, trẫm đã chẳng còn thấy phù tín ấn chương, không biết chiếu thư hình dáng ra sao, tam công cửu khanh một nửa là quan viên trẫm chẳng quen mặt.”

“Bốn trăm thiên mã ấy, hiên ngang dũng mãnh, nói là sính lễ cho tỷ, là để trẫm tái lập doanh tinh nhuệ – nhưng trẫm nào dám nhận!”

“A tỷ, tỷ cũng họ Tùy. Vì mảnh giang sơn của ta, giúp đỡ đệ một lần. Lúc thơ ấu xa cách, tưởng đã biệt ly. Nay đoàn viên, lại là để chia tay. Nhưng lần chia tay này, có lẽ mới là khởi đầu cho cuộc tương phùng vĩnh viễn. A tỷ, chẳng vì quốc, thì vì nhà, nghĩ đến mẫu hậu đi!”

“A Lân—”

Lời cầu xin của hoàng đệ cùng tiếng gọi của mẫu thân cứ quanh quẩn bên tai Tùy Đường.

Nàng hít sâu một hơi, giang tay ra, để người phủ Tư Không khám người.

Xiêm y rườm rà, ngoài bào mấy lớp, áo trong mấy tầng, từng món một bị cởi ra.

Trong phòng lặng lẽ đến đáng sợ, ngoài tiếng vải vóc xẹt qua xẹt lại thì chẳng còn gì khác. Đèn hạc đồng đỏ rực cháy, bóng ngọn lửa chập chờn lay động khắp gian phòng. Đầu óc Tùy Đường choáng váng, mắt hoa chẳng rõ, nàng không biết ánh mắt họ nhìn mình là khinh bỉ hay thương xót.

Chỉ là, đến khi lớp áo lót cuối cùng rơi xuống, lạnh lẽo thấu người, mồ hôi rịn ra lưng sớm đã ướt đẫm, nổi lên một tầng da gà.

Cả người vừa phẫn vừa sợ, như thân ở vương triều Đại Tề giữa đêm dài mịt mùng, gió mưa phũ phàng, nghiêng ngả sắp đổ.

Những thứ Lận Tắc lột bỏ, không chỉ là xiêm y của Tùy Đường — mà còn là ba trăm năm tôn nghiêm của giang sơn Tùy Tề.
 
Cùng Quân Kề Cận
Chương 2: Chương 2



“Điện hạ không cần phải lo nghĩ. Đan Chu tuy dược tính cực độc, chỉ một chấm nhỏ cũng đủ đoạt mạng người, song lại là độc dược ngấm chậm, phải tương dung với thủy mới phát huy tác dụng. Nay dùng sáp ong bọc ngoài, chôn vào răng miệng của người, sáp ong lại bền chắc, chẳng dễ gì tan chảy. Việc của người chỉ là đưa thuốc vào phủ Tư Không, tránh qua tra xét. Đến lúc thuận tiện, lấy Đan Chu ra, lột bỏ lớp sáp, hòa vào cơm nước của Lận Tắc là được.”

Ban ngày, Thái y lệnh đã giấu viên độc Đan Chu trong chiếc răng bị khoét bỏ một nửa từ mấy tháng trước của Tùy Đường, rồi nhẹ giọng an ủi nàng rằng lớp sáp ong đặc chế sẽ bảo vệ nàng.

Vốn định chỉ dùng một lớp sáp thường, nhân lúc thay y phục trong động phòng sẽ lặng lẽ bỏ vào rượu hợp cẩn. Nhưng nào ngờ Lận Tắc cưới vợ cũng chẳng chịu về, nên để giữ mạng cho Trưởng công chúa, Thiên tử đặc lệnh Thái y viện dùng đến sáp ong.

Sáp ong bền bỉ, không mài mòn sẽ không tan suốt mấy tháng trời, đủ để tránh độc tán ra miệng.

Mà độc này lại ngấm chậm, theo lời Thái y lệnh, một khi vào thân thể sẽ âm thầm ăn mòn ngũ tạng, thấm vào da thịt, phải trải qua suốt một năm mới phát độc – đến lúc ấy nàng đã rút lui toàn thân.

Kế hoạch đến đây, có thể gọi là chu toàn kín kẽ.

“A tỷ, tuy rằng sáp ong bền chắc, nhưng mỗi ngày tỷ còn phải ăn uống. Độc Đan Chu giấu trong răng… nơi không người, tỷ vẫn nên lấy ra thì hơn, để khỏi mỗi ngày nơm nớp lo sợ, ăn uống chẳng yên.” Thiên tử trẻ đưa tiễn nàng đi, trong mắt đầy vẻ không nỡ, sợ thuốc độc làm hại a tỷ, liền chân thành dặn dò: “Lận Tắc vốn đa nghi, tỷ đến phủ hắn nếu bình an thì cũng chẳng thể ra vào tự do. Một khi lấy thuốc ra rồi, nhất thiết phải giấu kỹ!”



Trong tịnh thất hơi nước mịt mùng, cung nữ cúi đầu hầu hạ.

Tùy Đường ngâm mình trong suối nóng, nhắm mắt tựa vào thành bồn, mắt che một dải lụa trắng ẩm nóng cỡ một tấc, thư giãn thần trí. Cơn giận khi bị lột y phục tra xét ban nãy, nàng đã nén xuống từ lâu.

Kinh thành dời đổi tùy tiện, Thiên tử không giữ nổi quyền, hơn nửa đám đại thần cao lớn chỉ biết ngửa mặt nhìn người khác thở. Nàng – một Trưởng công chúa chẳng quyền chẳng thế – bị cởi hai lớp xiêm y, kể cũng chưa phải nhục nhã gì.

Nghĩ kỹ rồi, Tùy Đường đành nuốt ngược uất khí, chuyên tâm xử trí chuyện trọng yếu trước mắt.

— Đầu nàng ngày một đau hơn. Cú va vào đầu hồi chiều khiến sau gáy sưng như nửa quả trứng gà, mắt nhìn vật mờ mịt. Nửa canh giờ trước, nàng đã cho mời y quan.

Hai vị y quan xem hồi lâu, đều nói chỉ là chấn thương ngoài da, mắt mờ là vì mệt mỏi, kê một thang thuốc an thần sáng mắt đắp lên mắt, dặn nàng nghỉ ngơi, đợi hồi sau xem thế nào.

Tùy Đường cũng hiểu ít nhiều y lý, tự bắt mạch không thấy khác lạ, bèn lệnh người đắp thuốc lên mắt, vừa ngâm mình, vừa nghĩ: “Trời sập cũng chẳng bằng cái thân này là trọng.”

Chính vì “thân là trọng”, lúc này nàng càng bất an, bên tai cứ văng vẳng lời hoàng đệ và Thái y lệnh ban ngày. Suối nóng hương thơm cũng không dẹp nổi lo lắng.

— Trong miệng nàng, vẫn còn một viên độc dược!

Tuy Thái y trăm lời đảm bảo sáp ong bền chắc, nhưng nhỡ thì sao? Hơn nữa trời biết bao giờ Lận Tắc mới chịu về, một hai tháng thì đành, chứ năm bảy tháng…

Chỉ một ngày từ lúc chôn thuốc, nàng đã sợ đến chẳng dám ăn uống, nói năng cũng dè chừng, chỉ sợ cắn phải mà trúng độc!

Hoàng đệ nói đúng, vẫn nên lấy ra giấu đi mới là thượng sách.

Tùy Đường nâng tay từ giữa làn hơi nóng, chạm vào má trái, qua lớp da cảm nhận chiếc răng ấy.

Bàn tay nàng ngón dài thon thả, móng tay không để dài như các tiểu thư khuê các, cũng không nhuộm đỏ, chỉ cắt tỉa tròn đều, đầu móng lộ ra vầng trăng nhạt trắng ngà. Trên mu bàn tay nước nhỏ xuống, để lộ lớp da thô ráp sần sùi, nơi cổ tay còn lưu lại một vết sẹo cũ dài chừng một tấc, hình dạng dữ tợn.

Quản sự hầu tắm bên cạnh thoáng thấy, bất giác giật mình – tay này còn không mịn màng bằng tay nàng. Bèn sai người mang bột dưỡng da ngọc nhan đến, phục vụ chải tóc dưỡng thể.

“Đủ rồi, các ngươi lui hết đi, để quản sự của cô đến giúp cô thay y phục.” Tùy Đường tay vẫn áp vào răng, lạnh lùng lên tiếng đuổi người.

“Bẩm Điện hạ, các nàng đều đã rút rồi. Từ giờ về sau, chỉ còn nô tỳ hầu hạ người.”

“Rút lui?” Tùy Đường gỡ dải lụa trắng trên mắt, lờ mờ nhận ra bóng người vừa đáp lời.

Là quản sự Thôi Phương của phủ Tư Không – từ lúc bước vào phòng ngủ đến giờ, mọi việc lớn nhỏ đều do nàng ta lo liệu.

Thôi Phương trạc tuổi ba mươi, dung mạo đoan chính, cung kính nói: “Lan Tâm và Mai Tiết – hai quản sự bên người Điện hạ – sau lễ thành hôn đã dẫn người trở về cung.”

Tay Tùy Đường chạm vào răng cũng buông lơi, lạnh giọng nói: “Họ là cung nữ thân cận của cô, cô chưa từng ra lệnh, sao lại quay về?”

Tầm mắt dần rõ ràng, nàng quét nhìn khắp nơi, người hầu qua lại đều là người của phủ Tư Không. Nhớ lại lời Thiên tử, và những lời đồn ngoài miệng thế gian.

— Lận Tam lang, chuyên quyền bá đạo, khi quân mưu quốc.

Thế nên, nàng bèn nhắm mắt, ngừng lời, không nói thêm nửa câu.

Lan Tâm và Mai Tiết vốn là người do Thái hậu ban cho sau khi nàng hồi kinh, để làm tâm phúc bên cạnh. Nào ngờ không thể tự quay về, rõ ràng là bị phủ Tư Không ép phải lui.

Còn nàng, đã bị giám sát toàn diện.

Tùy Đường khẽ thở dài, đứng dậy ra khỏi bồn.

Đi cũng tốt. Giờ trong phủ Tư Không này, hiểm ác chẳng kém gì đất Nghiệp.

Năm ba tuổi, từng có một hòa thượng đầu lở xem mệnh cho nàng, nói nàng thuộc mệnh “Chu Tước thừa phong”, quý khí vô hạn, có thể tránh tai họa, an định xã tắc, là phúc tinh của thiên hạ. Nhưng vì sát khí chưa giải, trước mười tuổi sẽ hiện tướng “Chu Tước gãy cánh”, khắc cha mẹ, hại Hoàng đệ, cần phải rời xa thân nhân, đợi sau mười tuổi số mệnh chuyển hóa mới có thể đoàn viên.

Phụ thân nàng – Lệ Đế – vốn là kẻ hèn yếu hồ đồ, nghe lời đoán liền muốn hạ chỉ đưa nàng rời cung. May nhờ Hoàng hậu không nỡ, gắng giữ lại, nói chờ nàng lớn hơn rồi hẵng tính. Lại còn mắng hòa thượng nói xằng: “Nếu chẳng phải nữ nhi của cô nở hoa trước, sao cô có thể đơm trái mà kết thêm long tử cho bệ hạ!”

Khi ấy Hoàng hậu đã hoài thai chín tháng, Thái y viện cũng xác định là hoàng tử.

Lệ Đế trị vì hơn mười năm, con nối dòng hiếm hoi. Hai người thiếp khó khăn lắm mới sinh được hai long tử thì đều yểu mệnh. Gần tuổi bốn mươi, chỉ còn một công chúa sống sót.

Nên lời Hoàng hậu ví “hoa nở kết quả” quả là đúng lúc, nhất thời giữ được nàng ở lại. Nào ngờ vì hao tâm cầu xin mà động thai khí, hai ngày sau chuyển dạ khó sinh, hạ sinh hoàng tử yếu ớt, suýt mất cả mẹ lẫn con. Lệ Đế vì kinh hãi mà thổ huyết ngất xỉu, nằm bệnh giường liệt hồi lâu.

Tình cảnh như thế, rơi vào mắt vị đế vương “không hỏi sinh dân, chỉ hỏi quỷ thần”, một tiểu công chúa mới ba tuổi đã thật sự bị xem là khắc cha mẹ, hại hoàng đệ. Đợi đến khi Lệ Đế thở lại được một hơi, liền lập tức hạ chiếu, y theo lời của vị hòa thượng đầu lở khi xưa, tìm một tòa thành nhiều thủy khí nơi phương Bắc, đem công chúa đưa đi.

Châu Trướng thủy tại phương Bắc, uốn quanh Nghiệp thành ngàn dặm.

Chốn đi đến của Tùy Đường, chính là Nghiệp thành.

Khi rời khỏi Trường An, nàng mới vừa tròn bốn tuổi. Một ngàn hai trăm dặm đường, gập ghềnh gian nan, công chúa nhiễm bệnh, tùy thần mất mạng, đi rồi dừng, dừng rồi lại đi, tròn một năm mới tới nơi phong địa. Khi đến nơi, nàng đã năm tuổi.

Nhưng cũng chỉ vừa năm tuổi mà thôi.

Đi theo hộ giá gồm thị vệ, thái giám, bà vú, nữ quan, cung nữ hầu hạ sinh hoạt trước sau cộng hơn ngàn người. Vừa thấy phủ nha cung môn nơi phong địa rộng rãi sâu thẳm, so với hành trình lầm lũi bôn ba, lúc ấy ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm, ngỡ rằng ngày lành đã tới.

Nào ngờ chỉ mấy năm, từng người từng người lần lượt gục ngã.

Thuở ban đầu, người già yếu thể hư, không hợp thủy thổ mà sinh bệnh tử vong. Sau đó, Ký Châu Mục là Vệ Thái làm phản, cưỡng ép thị vệ nàng nhập ngũ, đám cung nữ cũng bị phân phát tan tác nhập vào quân đội. Còn nàng, với thân phận đế nữ, bị Vệ Thái xem như biểu tượng đế quốc, cung phụng trên cao đài. Áo lụa phủ thân, trâm ngọc trên đầu, trong mắt thiên hạ vẫn là công chúa cao quý tột đỉnh của một nước, kỳ thực chỉ là lá cờ trên mặt, là chiêu bài để Vệ Thái hiệu triệu các thế lực về quy tụ.

Cho đến khi bảy năm trôi qua, Trường An truyền đến tin: Thiên tử băng hà, tứ phương quần hùng tiến vào Trường An tranh thiên hạ. Khi ấy Vệ Thái vừa vặn bình định được bốn châu vùng Đông Bắc, liền đem lòng dòm ngó trung tâm kinh kỳ. Tiếc thay lại chậm một bước, tiểu hoàng đế rơi vào tay Lận Tắc, bị đưa về Lạc Dương. Từ đó, toàn bộ tâm tư của Vệ Thái dồn vào việc tranh đấu cùng Lận Tắc.

Thiếu nữ công chúa sống trong khe hẹp cầu sinh, ba lần dâng Nghiệp thành vương cung cho Vệ Thái, lại nhờ người chép thư gửi thiên tử, thỉnh phong Vệ Thái làm Viễn Đình hầu. Sau đó, đem mấy chục người còn sót lại, ẩn cư bên bờ Chương Hà trong một căn thảo lư.

Nghe đồn, ngày nàng rời khỏi vương cung, hôm sau Vệ Thái liền dọn vào ở.

Hắn có thể ở được, thì Tùy Đường mới yên lòng được phần nào.

So với việc để người khác cướp đoạt, giày xéo, chẳng bằng tự mình thức thời, dâng tay nhường chỗ, biết đâu còn có thể giữ được tính mạng, đổi lại vài ngày yên ổn.

Năm dời đến bên Chương Hà, Tùy Đường mười hai tuổi, đã qua tuổi mười là lúc phá mệnh, có thể quay về nhà. Nhưng phụ hoàng nàng đã chết, mẫu hậu thân thế yếu mềm, a đệ lại như tượng đất qua sông – khó giữ chính mình, càng không ai có thể đón nàng hồi cung.

Bên mình nàng chỉ còn lại vài bà vú, cố cung chiếu cố lẫn nhau mà sưởi ấm, song chút ấm áp ấy cũng chẳng duy trì được lâu. Xa rời họa loạn do Vệ Thái mang đến, lại gặp thiên tai. Chương Hà phát đại thủy trăm năm khó gặp, nước rút rồi, người chết của tan, dịch bệnh hoành hành. Những người từ Trường An theo nàng đến đây, hoặc chết, hoặc trốn, chẳng còn ai.

Nàng một mình sống bên Chương Hà suốt năm năm, rốt cuộc cũng đợi được kinh kỳ phái người đến đón.

Tỷ đệ đoàn tụ, mẫu nữ tương phùng.

Nhưng cũng chỉ vẻn vẹn bốn tháng, hơn trăm ngày, đến nay nàng lại ở chốn Tư Không, một thân cô độc.

Như vậy, các nàng rời phủ hồi cung, không ở bên nàng, cũng chưa hẳn là chuyện xấu.

Tùy Đường tự an ủi như thế, cũng chẳng cưỡng cầu, để mặc nữ quan chưởng sự nơi này dẫn người hầu hạ nàng lên giường.

Có lẽ do dược tính trên lụa trắng phát huy tác dụng, đầu nàng vẫn âm ỉ đau buốt, nhưng đôi mắt lại có phần sáng rõ hơn. Lúc này nàng nằm nghiêng trên giường, bắt đầu nhìn rõ bố trí trong phòng.

Bên phải nội tẩm là một tấm bình phong lục hợp như ý khảm sa cao ngất, khéo léo phân phòng thành hai gian. Sau bình phong là kệ sách, án thư, hiện đều trống trơn không bút không thư, hoang vắng lạnh lẽo. Bên trái giường, ngoài một ghế quý phi gỗ lê vàng, một giá treo y phục bằng gỗ lê điêu khắc hình loan điểu, chỉ còn bàn trang điểm kê sát cửa sổ, trên bàn đặt bảy hộp phấn son – đều là của hồi môn của nàng.

Ngoài ra trong phòng không còn gì khác, toàn bộ của hồi môn đều bị niêm phong trong tư khố.

Trong gian phòng rộng lớn, đồ vật bài trí lại đơn sơ như thế, nếu nàng thật sự muốn lấy viên Đan Chu ra, cũng chẳng biết giấu vào đâu.

Ánh mắt Tùy Đường dao động giữa giá sách và bàn phấn, dần dần trở nên mờ nhòa.

Thị nữ châm đèn lần lượt che tắt đèn lồng trên đài đồng hạc, Nữ quan chưởng sự là Thôi Phương dẫn người buông xuống ba lớp màn lụa quanh nội tẩm, chỉ để lại một ngọn đèn gắn trên trụ tường gần đó cho tỳ nữ canh đêm soi sáng.

“Thắp thêm một ngọn.” Tùy Đường nhìn chằm chằm ánh đèn yếu ớt ấy, không hiểu sao lại mở miệng: “Đặt bên giường của cô.”

Thôi Phương tưởng nàng sợ bóng tối, bèn sai người tìm đến một ngọn đèn lưu ly đưa tới.

Đèn sen thanh nhã, chụp đèn lưu ly trong suốt, bao lấy ánh lửa nhỏ giữa lòng đèn.

Tùy Đường chưa từng thấy đèn nào đẹp như vậy, đưa tay ra khẽ v**t v*.

Cơn buồn ngủ kéo đến, ngay khoảnh khắc khép mắt, nàng thổi tắt ngọn đèn.

Loạn thế nhiều bi thương, vô số bách tính cả đời chẳng thắp nổi một ngọn đèn dầu. Không có vầng thái dương treo trên cao, thì trọn kiếp đành sống trong bóng tối mà thôi.
 
Cùng Quân Kề Cận
Chương 3: Chương 3



Ra khỏi Nghiệp thành, xuôi về phía nam ba mươi dặm, chính là Chương Hà.

Năm xưa Tùy Đường từng lánh thân nơi đây, có nghe bách tính bản xứ tán dương Chương Hà tuyệt đẹp.

Nàng đến vào độ cuối hạ, cỏ tranh trong lều đầy rẫy trùng kiến, bọn hạ nhân phải dùng thảo dược hun khói hồi lâu mới đuổi được đi phần nào. Ngoài lều, gần bờ sông càng thêm muỗi mòng vô số, tuy có thể thấy đom đóm lấp lánh như sao, điểm tô ánh sáng ban đêm, song Tùy Đường chẳng mấy khi muốn lại gần. Da thịt bị côn trùng cắn đốt, đau ngứa khó chịu, có loài còn có độc, chẳng chừng sinh mưng nhiễm trùng, nhẹ thì phát bệnh, nặng có thể bỏ mạng.

Tùy Đường quý mạng, nàng còn muốn được hồi cung, bèn chỉ đành xa lánh, trú mình trong lều, thỉnh thoảng cách cửa sổ ngắm nhìn quang cảnh bên ngoài.

Song dân quê qua lại vẫn ngày ngày ca tụng Chương Hà đất phì nước sâu, quả là nơi lành cảnh đẹp.

Bảo rằng đợi thêm hai tháng nữa, đến vụ thu hoạch, mặt sông khói sóng mênh mang, sương sớm dày đặc, mơ hồ như chốn thần tiên.

Ánh rạng đông phía đông rải khắp trời mây, những trái cây vốn bị sương khói che lấp dần hiện hình rõ nét: đào mật lông trắng phấn hồng, lê thơm vỏ dày xám đục, táo vàng đỏ như máu bồ câu…

Dọc theo sông, cách vài dặm lại có một vườn cây nhỏ, trong vườn cây cối rậm rạp, cây trái trĩu cành. Gió ẩm từ Chương Hà thổi qua đưa hương hoa trái dịu dàng, khiến lòng người rạo rực, ngập tràn hy vọng.

Ấy là kết tinh từ bao năm vun trồng, cũng là lễ vật mà sông nước Chương Hà ban tặng.

Nhưng Tùy Đường dù chờ đến mùa thu vàng óng vẫn chẳng được thấy cảnh Chương Hà trĩu quả sum suê như lời dân chúng.

Nàng chỉ thấy Chương Hà sau mười năm yên ắng bỗng như hung thú phục sinh, há miệng gầm vang, vẫy đuôi dấy sóng cuồn cuộn.

Nhà cửa dân làng bị nước cuốn đi, kẻ già người trẻ chết chìm, vợ chồng phân ly, hài tử thất tán. Cây trái dốc công chăm bón bị nhổ bật gốc, ngả rạp bên bờ, quả chín vỡ nát trong bùn, lá khô trôi dạt bên sông.

Ấy thế mà nông phu trong vườn trái bên sông vẫn chỉ thở dài, chẳng trách cứ Chương Hà.

Một người nói: “Nếu có thể trồng thêm cây dọc theo sông, dựng đê cao, thì lũ sẽ ít tràn lên, lẽ đó vốn đơn giản.”

Kẻ kế tiếp tiếp lời: “Nhưng những tráng đinh đủ sức trồng cây đều bị bắt lính rồi, quan trên chẳng ai bỏ bạc ra đắp đê, dẫn thủy tưới ruộng. Trước kia không cấy được lúa thì còn có đôi cây trái ăn qua ngày, giờ chẳng rõ đến năm nào mới lại kết quả.”

Người thứ ba nói: “Thiên tai vốn có thể phòng bị bằng nhân lực, nhưng đã không chuẩn bị từ trước, khiến tai họa thành hình, thế thì chẳng gọi là thiên tai nữa, mà vẫn là nhân họa. Nên chẳng thể trách Chương Hà.”

Không trách Chương Hà, vì Chương Hà rất đẹp.

Tùy Đường từng độc cư nơi Chương Hà suốt năm năm, chưa hề được thấy “mỹ cảnh Chương giang” như dân chúng xưng tụng, nhưng nàng vẫn gật đầu đồng tình.

Bởi nàng từng thấy một cảnh tượng khác cũng động lòng người không kém.

Năm nay tháng Tư, tiết xuân đã cuối, ánh vàng lấp lánh, mặt nước sông sóng lăn tăn, ven sông cây trái đâm chồi.

Nàng vừa phơi xong nửa giỏ táo cướp được từ năm ngoái, đang ngồi trước cửa sổ mài thảo dược ngừa muỗi cắn cho mùa hạ. Đúng lúc ngẩng đầu duỗi vai, bất chợt thấy mặt Chương Hà vốn bình lặng nhiều năm lại nổi sóng.

Một đội thuyền cát thuận gió mà đến, lướt như tên bắn, sóng vỗ tung trắng xóa như tuyết.

Tới gần mới thấy rõ, trên thuyền đầu đứng một vị tướng, giương cao đại kỳ viền đỏ vàng, mặt cờ đề một chữ “Tề”, nét chữ như rồng cuốn quanh, nền mây làm đệm.

Ấy là vương kỳ Đại Tề.

Sau đó là mười một thuyền khác nối tiếp, tất cả đều cắm cờ hiệu, hiển thị thân phận.

Chẳng mấy chốc, mười hai chiếc thuyền cát trải dài Chương Hà, người người uy nghi lẫm liệt, vương kỳ phấp phới giữa gió.

Dân chúng canh tác bên bờ vội vã quỳ rạp, Tùy Đường sững sờ đứng bên cửa sổ chưa kịp hoàn hồn, đã nghe một giọng vang bên tai: “Thần phụng thánh chỉ, nghênh đón công chúa hồi kinh.”

Tùy Đường nhìn qua cửa sổ, trông thấy mười hai chiếc thuyền và vương kỳ dập dềnh trên sóng, ấy là phong cảnh đẹp nhất trong đời nàng từng thấy.

— A tỷ, trẫm khổ tâm mưu tính nhiều năm, chỉ lặng lẽ nuôi tám trăm tinh vệ, lúc Vệ Thái rời doanh mới có thể đưa tỷ hồi kinh, song vẫn chẳng đủ sức động đến hắn; như hôm nay, đưa tỷ nhập phủ Tư Không cũng đã là tận lực, không thể lại gần Lận Tắc thêm một tấc.

— Vận mệnh Đại Tề ngày sau, đều nhờ cả vào a tỷ.

Hôm đó là ngày đại hôn, chạy đi lo liệu khắp nơi, Tùy Đường đã mỏi mệt tột cùng, song sáng sớm lại vẫn thức dậy rất sớm.

Nàng mở mắt, bên trong màn chăn không hề có lấy một tia sáng, ngoài màn cũng tối đen, nàng vén một góc màn lên, bốn phía vẫn mù mịt rợn ngợp. Tưởng rằng còn đêm khuya, song nàng chẳng tài nào ngủ tiếp, tâm trí lại phiêu về Chương Hà năm ấy.

Nhớ lại cảnh thuyền cát đón nàng về giữa ánh nắng rạng rỡ.

Nguyện vọng của a đệ đã hóa thành trách nhiệm nàng phải gánh vác.

Nàng bèn hít sâu, vực dậy tinh thần, không nhịn được lại vén rèm, chỉ mong sớm tìm được chỗ giấu thuốc, hoàn thành kỳ vọng hoàng đệ.

“Điện hạ đã tỉnh, có cần lập tức thay y phục, rửa mặt chải đầu, hay muốn nghỉ thêm đôi lát?” Một giọng nói vang lên bên tai.

Tùy Đường nhíu mày, là giọng của Thôi Phương, nhưng sao không thắp đèn?

Nàng liền hỏi.

Thôi Phương thoáng sững sờ, hai a hoàn kéo rèm hai bên nhìn nhau, đều tràn đầy nghi hoặc.

“Trời đã sáng rõ từ lâu, tự nhiên chẳng cần đèn nữa.” Thôi Phương đáp.

“Giờ gì rồi?” Tùy Đường hỏi.

“Bẩm, giờ Thìn sáu khắc.”

“Giờ Thìn, sáu khắc?” Lông mày nàng cau chặt, tưởng mình nghe nhầm.

“Vâng, lão phu nhân cùng các nữ quyến vốn muốn đến thỉnh an, thấy Điện hạ còn đang say giấc, nên đang ngồi chờ tại tiền sảnh dùng trà.”

Tân hôn ngày thứ hai, vốn nên phu thê bái kiến trưởng bối. Nhưng nàng là công chúa, phân vị quân thần khác biệt, tất phải hành lễ quân thần trước, rồi mới đến gia lễ.

Tùy Đường còn nhớ rõ hai ngày trước khi xuất giá, các cô cô dạy dỗ đủ điều. Mẫu hậu cũng dặn đi dặn lại: nay thế cuộc không bằng người, bề ngoài ổn thỏa là được, chớ nên quá làm kiêu.

Lễ bái quân đã định giờ Thìn chính khắc, giờ đã qua hơn nửa canh giờ. Giờ mới thay xiêm y chải tóc, tiếp khách, lại mất thêm nửa canh giờ nữa. Trước sau để người ta chờ gần hai canh, quả là làm giá quá độ.

Nhưng lúc này Tùy Đường chẳng còn tâm trí đâu nghĩ đến chuyện lễ tiết, chỉ lặng lẽ giơ tay lên trước mắt, lật qua lật lại.

Sắc mặt dần dần tái nhợt. Cuối cùng, nàng đưa ngón tay run rẩy bắt mạch.

Mạch điều hòa, có vị khí, tức là bình mạch; mạch đến nhu hòa, có thần khí; ba bộ mạch chìm mà có lực, là tướng hữu căn. Mạch có vị, có thần, có căn, là điềm báo thân thể cường kiện vô bệnh, cớ sao lại chẳng thấy gì?

Tùy Đường dùng sức dụi mắt, mong nhìn rõ cảnh vật xung quanh. Thế nhưng, khác với tối qua còn thấy mờ bóng vật, giờ đây chỉ toàn hắc ám, chẳng thấy được chi.

“Thôi chưởng sự, ngươi lại đây.” Nàng gọi khẽ, lại dặn, “Chớ lên tiếng.”

Thôi Phương lĩnh mệnh bước đến, vốn dĩ đã đứng bên giường, giờ chỉ cần tiến thêm một bước.

Tùy Đường ngửi thấy hương thơm nhè nhẹ của hoa quế, giống hệt mùi nàng từng ngửi thấy khi Thôi Phương hầu hạ hôm qua. Vậy là nàng đã lại gần sát, nhưng vì chẳng có tiếng động, Tùy Đường hoàn toàn chẳng biết người kia đang đứng cách mình mấy tấc, là bên trái hay bên phải.

“Đỡ ta ra xem mặt trời.”

Thôi Phương lĩnh chỉ, sai tỳ nữ khoác thêm áo cho nàng, dìu nàng ra sân.

Tháng Tám, nàng cảm nhận được gió thu se lạnh nơi chân trời, ngửi thấy hương hoa cúc, hoa quế ngoài sân, cũng nghe rõ tiếng binh vệ đổi ca nơi cổng phủ.

Duy chỉ có ánh sáng mặt trời rọi khắp nhân gian là không thấy được, không nhìn ra bóng dáng ở nơi đâu.

“Truy gọi ngự y, xem bệnh cho cô.”

Nàng đẩy người hầu ra, định quay về phòng, nhưng lại không biết lối đi ở đâu. Chỉ xoay người đi bừa, mới bước được hai ba bước đã bị vấp bậc thềm.

Bước quá vội, các tỳ nữ không kịp đỡ, Tùy Đường ngã sấp xuống đất.

Mái tóc dài rũ xuống, y phục cũng xô lệch.

Gió lướt qua cuốn lấy đuôi tóc xanh biếc và vạt áo tung bay, tựa như bèo dạt lá rơi, uốn lượn theo làn gió.

“Nô tỳ chăm sóc không chu đáo, kính xin Điện hạ thứ tội.” Thị nữ tên Thôi Phương dẫn người tới đỡ nàng.

Cánh tay đỡ lấy Tùy Đường khiến nàng theo bản năng co rút lại, song cuối cùng cũng không hất ra hay vùng vẫy, để mặc các nàng dìu dậy, đỡ lên bậc thềm trở về phòng.

Phủ Tư Không vốn có sẵn ngự y, nên rất nhanh đã đến nơi.

Dương thị nghe tin cũng cùng nhau đến, lúc này liền mở miệng hỏi cách chữa trị.

Ngự y đáp: “Hiện thời mới tám phần xác định nguyên do, còn cần hội chẩn thêm mới có thể kết luận.”

“Nếu quả thật do chứng bệnh này gây ra, thì nên trị liệu thế nào?” Giọng nữ tử trẻ trung vang lên, trong như hoàng oanh, dung mạo xinh đẹp, tóc đen như rong rủ xuống ngang eo, đang độ cập kê, là tiểu nữ của Dương thị — Lận Hòa.

“Điện hạ thương tổn vốn không nặng, phải xem tình trạng mới bàn được toa thuốc. Giờ chưa thể nói trước.” Ngự y chậm rãi đáp.

“Vậy có thể chữa khỏi chăng?” Lận Hòa chớp đôi mắt nai, lời nói như mưa rào, “Trước khi khỏi có phải dùng thuốc mãi không? Uống thuốc mãi có ảnh hưởng đến việc sinh con…”

“Im miệng!” Dương thị quát khẽ, lắc đầu than thở, lệnh cho ngự y sớm tổ chức hội chẩn, rồi bước đến chỗ Tùy Đường, bảo nàng nghỉ ngơi cho tốt.

Sắc mặt Tùy Đường trắng bệch, ngồi lặng trên giường, không có phản ứng gì.

Dương thị vỗ vỗ mu bàn tay nàng, đoạn dẫn người rời viện.

*

“Đến thiên tử còn phải nể đại ca ba phần, vậy mà nàng ta chỉ là công chúa lại kiêu căng đến thế! Không nói chúng ta chờ lâu như vậy, mẫu thân đến trước mặt nàng còn phải khom người thi lễ, nàng ta dù gì cũng nên đáp một tiếng cho phải phép chứ! Thần phải khiêm, quân cũng nên lễ.”

“Điện hạ đột ngột gặp biến cố lớn, e rằng nhất thời khó lòng chấp nhận, Thất muội chớ nên so đo.” Người vừa lên tiếng là Mạnh Kiều – chính thất của Lận Thử, trưởng nữ của dòng chính họ Mạnh ở Lương Châu, một tay đỡ lấy Dương thị, tay kia vén đi cành liễu bị gió thổi tới. “Nơi này vẫn thuộc địa phận Trường Trạch đường, chớ để Điện hạ nghe thấy, lại đắc tội thì uổng.”

“Tứ tẩu khỏi cần giả vờ, hôm qua tám tỳ nữ lột y tra xét Điện hạ, có hai người là người của tẩu. Nếu nói đến đắc tội, tẩu còn sớm hơn muội.”

Mạnh Kiều bị chặn lời, dung nhan như trăng rằm lộ vẻ bất mãn, chẳng phải giận muội chồng mà là giận phu quân nhà mình.

Lận Tắc không ở phủ Tư Không, mọi sự do Lận Thử thay mặt xử lý.

Đêm qua, vốn là sáu người họ đã điều tám nữ tỳ đến Trường Trạch đường làm việc ấy, không liên can gì đến nàng. Nhưng Lận Thử lo họ làm việc cẩu thả, để công chúa mang theo vật bất tịnh hại đến ca ca mình, bèn kéo theo hai tỳ nữ thân cận của nàng giúp sức. Đến khi nàng hay chuyện thì người đã vào viện rồi!

“Tứ tẩu không cần gấp, vốn dĩ cũng chẳng đáng lo đắc tội hay không.” Sắp rẽ vào cổng vòm, Lận Hòa ngoái nhìn viện sau, nhướng mày nói: “Nếu đây là phủ công chúa, chúng ta đến làm khách, tất nhiên phải nhún nhường. Đáng tiếc nàng ta không đem được đại ca về phủ mình, không mở được phủ công chúa. Vậy thì nàng là khách, chúng ta là chủ.”

Mạnh Kiều nghe vậy chỉ cười nhạt, cụp mi mắt lặng lẽ đi bên Dương thị.

Dương thị sắc mặt khó coi, trừng mắt nhìn nữ nhi.

Song tiểu nữ được chiều sinh hư, vẫn lắm lời không thôi, “Con đây là vì mẫu thân mà lo. Người chẳng phải vì Tam ca bận rộn chính vụ, muốn huynh ấy sớm thành hôn sinh con nên mới thừa lúc huynh vắng kinh mà thay huynh tiếp chỉ hôn nhân của thiên gia sao? Giờ Tam ca đại hôn mà không trở về, rõ ràng trong lòng không vui. Vốn nghĩ chờ huynh về viên phòng rồi cũng trọn tâm nguyện của người. Nhưng nay, vị kia lại mắc chứng mắt mù, trị bệnh uống thuốc, e là một thời gian dài chẳng sinh con được… Thế chẳng phải làm lỡ dở Tam ca sao!”

Lận Hòa sát lại, đỡ lấy cánh tay còn lại của Dương thị, bị bà “chát” một tiếng hất ra.

“Không cần ngươi nhắc, lắm lời như thể ngươi mới là mẹ ta! Đợi Tam ca ngươi về, tự nhiên sẽ trị tội ngươi!”

“Vốn là như vậy, Tam ca căn bản không thích công chúa ấy mà.”

“Thất muội!” Mạnh Kiều nghiêm giọng, khẽ lắc đầu với nàng, “Nói nhỏ thôi, để công chúa nghe được thì chẳng lành.”



Thanh âm bên ngoài lúc cao lúc thấp, Tùy Đường dù có nghe thấy, cũng chẳng lọt vào lòng.

Nàng ngồi im lìm trong tẩm thất, đầu óc chỉ nghĩ đến chuyện mình đã mù, còn viên thuốc giấu trong răng phải xử trí thế nào?

Làm sao chắc chắn khi lấy ra, khi cất lại, khi hành động, bên mình không có ai, không bị ai nhìn thấy? Không thể chắc chắn được, nàng chỉ có thể giữ viên thuốc trong răng.

Đợi đến lúc Lận Tắc trở về rồi tính tiếp.

Nhưng Lận Tắc khi nào sẽ về? Một tháng, hai tháng, nửa năm… Ngày tháng dài lâu, sáp mật bị mòn, người trúng độc sẽ là nàng!

“Điện hạ, xin súc miệng, rửa mặt rồi dùng bữa. Ngự y hội chẩn, sớm cũng phải chiều mới có kết quả.” Thôi Phương đến thay y phục cho nàng, dìu nàng ngồi vào bàn.

“Đây là chén miệng phẳng, trong có bảy phần nước muối, chậu đồng ở phía này.” Thôi Phương nắm tay nàng, để nàng cảm nhận vị trí.

Súc miệng ba lần, Tùy Đường xong xuôi, phòng ăn dâng lên canh bánh, cháo loãng, các món dưa muối, điểm tâm đầy đủ cho nàng lựa chọn.

Tùy Đường vẫn trầm mặc.

Thôi Phương chọn một bát cháo táo đỏ bưng lên đút nàng.

Đến muỗng thứ tư, Tùy Đường bỗng đẩy ra, nói gì cũng không chịu dùng nữa. Bữa trưa nói là không muốn ăn, chỉ uống qua thuốc rồi thôi. Đến bữa tối, nàng nằm luôn trên giường không hề dậy, cả mâm cơm hâm đi hâm lại cuối cùng đem chia cho người trong viện.

Ngày thứ hai, ngự y hội chẩn xong, xác nhận chẩn đoán ngày trước. Tùy Đường không nói một lời, hôm đó chỉ dùng thuốc, không ăn uống.

Ngày thứ ba, thứ tư cũng vậy.

Đến rạng sáng ngày thứ năm, nàng trong mộng bị đau bụng quặn thắt mà bừng tỉnh, hoảng hốt ngồi bật dậy.

Giống như năm đó ở Chương Hà gặp đại hồng thủy, thân thể nàng cũng đau đớn không chịu nổi.

Vì đói.

Tôi tớ còn sống chẳng bao nhiêu, kẻ thì chết, kẻ thì trốn, chỉ còn mình nàng. Ngoài bản thân ra, chẳng thể dựa vào ai.

Những ngày ấy, nàng gặm vỏ cây, ăn rắn chuột mà sống. Khi cây rừng cạn kiệt, thú hoang ngủ đông, nàng liền cướp thức ăn của người sống, lột y phục của xác chết giữ ấm. Loạn thế mất mùa, chẳng ai nhớ nàng là công chúa, chính nàng cũng quên mình từng là công chúa. Cho đến mùa xuân năm sau, kẻ yếu chết đi, kẻ mạnh sống sót.

Nàng không chết, còn ở trong thảo lư, gột rửa bản thân cho ra dáng người, học tập cuộc sống người thường. Chờ đến một ngày sau.

Cơn đau bụng vẫn còn, âm thầm nhắc nhở nàng: cảnh ngộ hôm nay, dù có tệ, vẫn hơn những ngày lũ lụt ở Chương Hà năm ấy.

Từ ngày đó, Tùy Đường chấp nhận sự thật mình đã mù.

Nàng bắt đầu uống thuốc đều đặn, dùng bữa đúng giờ. Chỉ là khẩu phần giảm một nửa, toàn dùng cháo loãng, bánh mềm, thứ dễ nuốt. Ăn cực chậm, từng ngụm từng ngụm nhỏ, giảm thiểu nhai bằng răng.

Có một lần, ăn gần hết thì cháo nguội, phòng ăn xin đổi bát khác. Nhiều ngày ăn nửa no nửa đói, nàng theo bản năng gật đầu. Nhưng khi cháo nóng mang lên, nàng nâng bát, trước mắt bỗng hiện lên mười hai chiến thuyền giương vương kỳ trên Chương Hà, hiện lên cảnh nàng trong ngày đại hôn bị cởi từng lớp y phục.

Thế là, nàng buông tay.

Nếu ngay cả d*c v*ng ăn uống cũng không thể khống chế, thì con đường tương lai làm sao đi tiếp?

Phải sống trước đã, thích ứng với cuộc sống không ánh sáng. Rồi ngày sau, có thể thu phục một hai thị nữ, che giấu giúp nàng hạ độc; hoặc có thể khiến Lận Tắc tin tưởng, để nàng xuống bếp nấu canh dâng trà; hoặc có thể khiến hắn ta mê luyến thân thể, để nàng rót trà kính rượu, “hoạn nạn nâng đỡ”…

Tùy Đường tính toán như thế, nhưng lại kẹt ở bước thứ hai.

Nàng còn chưa hoàn toàn thích ứng với cuộc sống mù lòa, thì vào ngày mười tháng Tám, tức ngày thứ bảy sau thành hôn — Lận Tắc trở về rồi.
 
Cùng Quân Kề Cận
Chương 4: Chương 4



Khi ấy, trăng đã lên tới đỉnh đầu, ban đêm vừa qua một trận mưa lớn, không khí âm u lạnh lẽo.

Tùy Đường đã lên giường, buông rèm, chỉ bởi tiếng mưa ban nãy ồn ào, chưa thể nhập mộng, đang tựa mình nghỉ ngơi trên giường.

Lận Tắc liền xuất hiện như thế, mang theo khí thế sấm sét chín tầng trời, bước dài vội vã, th* d*c không thôi, cung nữ theo sau bám riết đưa lời, rốt cuộc bị một câu “đều lui xuống” của hắn xua đuổi.

Mấy hôm dùng thuốc, Tùy Đường gắng gượng mới cảm nhận được chút ánh sáng mờ tỏ. Giờ đây bốn bề bỗng tối lại rõ ràng, là bóng dáng cao lớn của nam nhân che khuất nàng.

Chật chội, đè nén.

Đặc biệt là hắn còn đang tiến lại gần, giọt nước lạnh buốt từ người hắn rơi xuống chăn đệm vừa mới hơi ấm, rơi trên mu bàn tay nàng.

Hắn dầm mưa trở về, toàn thân ướt sũng, y phục chưa thay, người vương đầy hơi đất cỏ, mùi mồ hôi ngựa xen lẫn hàn khí ẩm ướt. Tùy Đường không kìm được khẽ lui về sau, nào ngờ bị hắn một tay bóp cằm kéo lại.

“Ngươi…”

Tùy Đường còn chưa kịp thốt ra chữ thứ hai, chỉ cảm thấy đầu ngón tay hắn ấn lên môi nàng, rồi chuôi một chiếc thìa bạc luồn vào miệng, chạm tới chiếc răng kia.

Chiếc răng cất giấu Đan Chu.

Tim nàng đập như trống trận, rõ ràng lồng ngực phập phồng mà lại không dám thở mạnh.

Bởi vì — Lận Tắc đã móc Đan Chu từ trong răng nàng ra.

Không khí hoàn toàn tĩnh lặng, thời khắc tựa hồ ngừng trôi, không còn tiếng giáp trụ cọ xát, không còn tiếng chăn gối xê dịch.

Chỉ còn tiếng hô hấp của hai người, như cơn bão vừa ngừng lại, chỉ còn vài giọt nước nhỏ tí tách nơi mái hiên.

Ngón tay hắn vẫn đang m*n tr*n lớp bạch lăng che mắt nàng, lặp đi lặp lại không biết bao lần, cuối cùng gỡ dải lụa xuống, chạm vào đôi mắt đã mờ đục, không còn tiêu cự.

Muôn lời nghẹn lại nơi cuống họng, môi mấp máy hồi lâu, chỉ khẽ nói một câu: “Hôm nay đã muộn, nghỉ ngơi trước đi.”

Hắn đỡ nàng nằm xuống, đắp lại chăn cẩn thận rồi rời đi.

Nghe tiếng bước chân xa dần, ánh sáng trước mắt cũng sáng lên đôi chút, nhưng Tùy Đường còn chưa kịp thở phào, thì đã nghe thấy tiếng nước chảy vọng ra từ tịnh phòng.

Lận Tắc chưa rời đi, chỉ là vào tắm rửa.

Bọn họ là phu thê, tất nhiên phải cùng giường.

Tùy Đường theo bản năng liếc nhìn giường, mới chợt nhớ mình đã nằm xuống rồi.

Hắn móc thuốc độc từ miệng nàng, đắp lại chăn cho nàng, rồi… rồi còn sẽ lên giường, chẳng phải còn phải hành lễ Chu Công nữa sao… Tùy Đường chỉ cảm thấy một đêm này bao chuyện dồn dập, tâm loạn ý mê, không sao nắm bắt được, cũng chẳng rõ bản thân thiếp đi tự lúc nào.

Chỉ biết, đêm ấy nàng chìm vào một giấc mộng thật dài…

*

[Tiền thế —]

Tháng hai đầu xuân, tuyết lớn đè cành, trời đất một màu trắng xóa.

Trận tuyết này bắt đầu rơi từ giữa trưa hai ngày trước, đúng vào lúc Tùy Đường chuyển dạ. Tuyết đã ngừng, nhưng hài nhi trong bụng vẫn chưa ra đời.

Trước điện Trường Trạch của phủ Tư Không, chậu chậu máu đỏ bị hất ra, máu tươi lan tràn bốn phía, hợp thành một vùng lớn, tựa đóa bỉ ngạn nở nơi Hoàng Tuyền.

Hoa khai tàn rực, tiễn vong linh vào luân hồi, đón hồn mới xuống cửu tuyền.

Nữ nhân trong phòng sinh đã sớm kiệt lực, không còn cất tiếng, chỉ có máu vẫn chảy không ngừng là bằng chứng nàng vẫn còn hơi thở.

Gió cũng ngừng, thiên địa yên ắng.

Qua thêm một khắc, rốt cuộc truyền ra tiếng khóc yếu ớt của trẻ thơ.

“Chúc mừng Lận tướng, là một tiểu lang quân.” Bà đỡ bế hài nhi vòng qua bình phong báo tin mừng.

Khi ấy là năm Sóc Khang thứ tám, tháng Giêng, Lận Tắc vừa được phong tướng, ban hầu, chỉ vì Tùy Đường mang thai nên chưa chuyển vào phủ Thừa tướng.

Hắn đứng trước cửa sổ, ánh mắt thu về từ nền tuyết đỏ tươi, sắc mặt không hề có vui mừng, ngược lại còn lộ vẻ lạnh lùng: “Sinh rồi à?”

“Còn Điện hạ thì sao?”

Nửa canh giờ trước, bà đỡ ra hỏi một lần: giữ mẹ hay giữ con?

Lận Tắc đáp rõ ràng — giữ mẹ.

Vậy mà giờ lại ôm ra một đứa bé đang khóc.

Bà đỡ cúi đầu, cười gượng: “… Ngự y đang cứu trị Điện hạ.”

Lận Tắc không đáp, nhấc chân bước vào.

Chỉ cách hai lớp bình phong mà dường như là hai thế giới. Trong nội thất mùi máu tanh nồng đậm, không khác gì chiến trường hắn đã chinh chiến nửa đời.

Hắn bỗng khựng lại cách giường nửa trượng.

Trước giường rũ màn, hắn không thấy được nàng. Chỉ thấy một cánh tay thõng ra ngoài, ngự y đang bắt mạch. Chẳng bao lâu liền lắc đầu thở dài, lui sang một bên.

Màn được nhanh chóng vén lên, hai nữ y đỏ mắt đang gỡ kim bạc từ đầu và thân thể nữ nhân, rồi xuống giường, cùng ngự y đến trước mặt hắn.

“Điện hạ không sao chứ?” Lận Tắc khi ấy giọng nói ôn hòa, thái độ khác hẳn lúc ngoài điện.

Ngự y lau mồ hôi, chắp tay bẩm: “Khởi bẩm Lận tướng, Điện hạ… nhiều nhất chỉ còn hai nén hương.”

Ba vị y quan cúi đầu trước mặt, hắn vẫn chưa thấy rõ dung nhan Tùy Đường. Thực ra chỉ cần ngẩng lên là thấy, nhưng hắn cũng cúi mắt, chẳng hề bước tới, như còn chờ y quan nói tiếp.

Mồ hôi chảy ròng ròng, y quan cắn răng bẩm: “Thai nhi vốn ổn định, vị trí cũng đúng. Chỉ là Điện hạ đã trúng độc từ lâu, thân thể suy nhược, mới kéo dài mãi đến giờ, kéo theo hao tận tính mạng.”

“Nếu Điện hạ chưa từng trúng độc, thì như người thường, bình an vô sự mà sinh con.”

Lời này, Lận Tắc đã nghe không biết bao lần từ khi phát hiện nàng trúng độc. Ngay khi chuyển dạ hai ngày trước, y quan còn nhắc mãi.

“Điện hạ còn chưa giải độc, sao lại sinh sớm thế?”

“Chính là độc lan toàn thân, nên mới sinh sớm.”

“Rõ ràng là Điện hạ không gắng gượng nổi nữa!”

Lận Tắc phát hiện Tùy Đường trúng độc là vào đêm trừ tịch hai tháng trước. Khi ấy nàng mang thai năm tháng, đã cảm thai, cơ thể thường xuyên mệt mỏi, đến cả cung yến cũng cáo lui, hắn liền trở về sớm.

Đêm trừ tịch, tuyết nhẹ rơi. Tùy Đường dùng thuốc an thai xong, tinh thần vẫn ổn, còn ra nghênh đón hắn. Nói rằng nằm nửa ngày, vừa hay muốn dạo bước.

Từ đại môn tiền viện đến nội thất, qua hành lang vòng hồ, gần hai dặm đường. Vậy mà nàng mới xoay người định đi cùng hắn thì đã ngã gục.

Đêm ấy, ngự y phát hiện nàng trúng độc, hơn nữa độc đã tích lâu ngày, ít nhất trên một năm, giờ mới phát tác.

Hắn hỏi nàng, có biết bản thân bị trúng độc hay không?

Nàng cười lắc đầu, không biết.

Nếu biết độc đã vào phủ tạng, bệnh đã nhập cốt, làm sao mấy ngày nay nàng vẫn còn có thể vui vẻ thế?

Lận Tắc gật đầu.

Bọn họ thành thân ba năm, hơn một nửa thời gian hắn chinh chiến bên ngoài. Đến cả việc Tùy Đường mang thai, cũng là mẫu thân Dương thị truyền tin báo cho hắn.

Nhận được tin, hắn dĩ nhiên vui mừng — rốt cuộc cũng sắp tam thập mà vẫn chưa có con nối dõi, đây là đứa con đầu tiên của hắn. Nhưng cũng không lập tức hồi phủ, đợi xong đại cục phía Nam mới trở về Lạc Dương.

Khi ấy, Tùy Đường đã qua giai đoạn nghén nặng, bụng hơi nhô lên. Chỉ là người gầy gò đến nỗi y phục không đỡ nổi.

Lận Tắc nhìn thấy, trong lòng ngũ vị tạp trần.

Thực ra, hắn vốn không hề hài lòng với vị công chúa mà thiếu đế năm xưa cưỡng ép tứ hôn, cuộc hôn nhân mà mẫu thân tự tiện nhận lời.

Thuở đầu tiếp cận nàng, chẳng qua là muốn xem thử hai tỷ đệ hoàng thất kia giở trò gì — là thiếu đế thực lòng cạn kế, đem tỷ tỷ tới giảng hòa? Hay là trưởng công chúa dấn thân bày mưu, muốn thi hành mỹ nhân kế?

Nàng từng vào thiện phòng nấu canh dâng hắn, nhưng lại bị bỏng tay; từng cầm dao thử cạo râu cho hắn, song đến chính phản còn chẳng phân biệt nổi, trước tiên đã tự cắt rách lòng bàn tay; hầu hạ hắn mặc y phục, khi thì cài sai khuy áo, khi thì thắt nhầm đai lưng; đến lúc cởi y phục lại càng không phân tấc độ, mò mẫm lung tung, chạm phải chỗ nóng rực thì ngược lại còn thấy mình thiệt thòi.

Lận Tắc vừa buồn cười lại vừa bực bội, không dám để nàng vất vả thêm nữa.

Nàng bèn đổi cách, trên giường chủ động hơn đôi chút. Nhưng Lận Tắc cảm thấy nàng ngay cả chốn ấy cũng chỉ là kẻ nửa hiểu nửa mù, miệng lẩm nhẩm những tên gọi phù hoa lạ lẫm, nhưng thường thì mới bắt đầu đã quên mất động tác và tư thế đi kèm ra sao.

Vị công chúa duy nhất của hoàng triều, tuổi thơ đã ở phong địa, chỉ e chưa từng được dạy dỗ chu toàn. Ngay đến chuyện phòng the cũng là dáng vẻ học vội học vàng, chập chững tập tành phong lưu, nói những lời phong nhã chẳng đến nơi đến chốn.

Ban đầu quên mất thứ trong sách, lật lại đọc là xong. Nhưng nàng lại không nhìn thấy, tranh vẽ và chữ nghĩa với nàng đều là vô dụng. Vậy nên sau hai lần như thế, phần nhiều là hắn thao túng nàng.

Giữa hai người, cũng như bao cặp vợ chồng cưới mù lấy lặng khác trên thế gian — ban ngày ăn uống, đêm đến đồng sàng. Khoảng cách gần nhất giữa họ, chính là lúc loan phòng.

Da thịt ma sát, nông sâu chẳng kể, chẳng liên can đến yêu hận, chỉ là nhu cầu thường tình của nam nữ trưởng thành.

Nhưng một lần, hai lần, ba tháng, nửa năm… Ngày tháng lâu dần, ít nhiều cũng sinh ra thứ tình cảm khác với người thường.

Lận Tắc thỉnh thoảng thấy nàng dò dẫm bước đi, liền đưa tay đỡ lấy; nàng biết hắn nghỉ lại kinh thành, bất kể hắn có về hay không, vẫn sẽ để dành cho hắn một ngọn đèn.

Hắn làm tròn bổn phận một phu quân, nàng tận nghĩa một người thê tử.

Tướng mạo của nàng không kinh diễm, tài học cũng thường thường, tính tình lại càng nhạt nhòa như nước, mờ mịt đến cùng cực. Nàng không có sở thích rõ ràng, cũng chẳng ghét bỏ thứ gì.

Yêu ghét cũng chỉ để trong tâm.

Phu nhân Dương thịthấy nàng lâu ngày không sinh nở, bèn bàn với nàng cho Lận Tắc nạp thiếp, nàng cũng không giận, chỉ gật đầu đáp: “Được.”

Lận Tắc nói: “Thôi đi, tĩnh lặng mới tốt,” nàng cũng không vui mừng, chỉ nói: “Chàng quyết là được.”

Nàng không cầu chi nơi thế gian này?

Lận Tắc từng nghĩ vậy.

Bèn không kìm lòng hỏi nàng, có điều gì đặc biệt muốn có, hoặc có tâm nguyện chi chăng?

Hắn nói: “Chỉ cần chẳng phải trăng nơi chân trời, sao trong tầng mây, thì phần nhiều ta đều có thể toại nguyện cho nàng.”

Nàng lặng lẽ lắng nghe, cuối cùng khẽ mỉm cười, “Đa tạ.”

Có, hay là không?

Lận Tắc chưa từng nhận được đáp án rõ ràng từ nàng, liền cũng không truy xét thêm. Ngầm trách bản thân dư hơi, bao đại sự quân quốc chờ hắn quyết đoán, vậy mà lại phí hoài thời gian cùng một nữ nhân nói mấy chuyện viển vông.

Nếu nàng bằng lòng yên phận ở bên hắn, chờ đến ngày hắn lập quốc tại đất Tề, dẫu là công chúa tiền triều chẳng xứng làm mẫu nghi tân triều, cũng sẽ dành cho nàng một chỗ đứng, ban cho nàng một đời vinh hoa.

Khi Lận Tắc tưởng đâu sẽ cứ thế mà sống trọn kiếp cùng Tùy Đường — bình lặng không mặn không nhạt — hắn lại bất ngờ phát hiện ra một mặt khác của nữ tử ấy.

Ấy là sau khi nàng có thai, có đôi lần khiến hắn ngỡ ngàng như nàng đổi thành một người khác.

Lúc mang thai, nàng ăn uống không ngon, chẳng muốn dùng bữa.

Mọi người đều khuyên: vì con trong bụng, nên ăn chút đỉnh.

Nàng nghiêng đầu, ánh mắt dưới lớp bạch lăng khẽ động, như muốn phun ra hai luồng hỏa xà: “Hài tử ở trong bụng ta, ta thoải mái thì nó cũng chẳng đến nỗi nào. Nếu ta uất khí nghẹn ngào, dẫu có ép cơm canh vào miệng, cũng sẽ nôn ra ngay tức khắc, chẳng những nó không nhận được phần nào, mà còn phải theo ta khổ sở một phen.”

Cả phòng lặng ngắt, ngay cả Lận Tắc cũng bị nàng làm cho kinh ngạc, nàng liền vung tay áo bỏ đi.

Thiên tử ban nhiều vật phẩm tinh xảo cho trẻ nhỏ, hoàng môn đặc biệt đưa tới. Nàng quỳ gối, lắng nghe nội quan xướng danh: thất xảo phương, cửu liên hoàn, ngọc như ý… Bỗng nhiên đứng dậy cất lời: “Thần lĩnh chỉ tạ ân, nhập khố đi.”

Thái hậu thân chinh đến thăm nàng, đúng lúc nàng đang định nghỉ trưa, bèn bảo nàng cứ nghỉ ngơi trước rồi mẹ con hẵng trò chuyện. Nàng tạ ơn, ngủ say sưa, mãi đến khi trời sẩm tối mới chậm rãi tỉnh dậy. Thái hậu bị bỏ mặc suốt một buổi chiều, một lời cũng chưa kịp nói, cuối cùng vì cung môn đã hạ khóa, đành giá hồi cung.

Đêm đến, Lận Tắc gạt tay nàng ra, khẽ trách: “Điện hạ há chẳng phải quá ương ngạnh? Dù sao ban ngày sáng rõ, thánh chỉ của thiên tử, nàng nhận lấy quả thực bất kính. Hơn nữa, thái hậu đến thăm nàng, dù gì cũng là…”

“Thiếp theo bên lang quân đã lâu, tai nghe mắt thấy mà thôi.” Tùy Đường bị hắn giữ tay, song miệng lưỡi vẫn linh hoạt, cắt ngang lời hắn.

Nàng tựa đầu vào vai hắn, dùng răng cắn nhẹ da thịt hắn, cắn từng chút một, rồi dùng đầu lưỡi dịu dàng vỗ về, đôi môi chạm đến cổ họng sắc bén của hắn. Môi khẽ mấp máy, tay không thể động đậy, chỉ có bụng tròn căng vừa mềm vừa nóng lướt qua người hắn khiến hắn giật mình buông tay. Thế là người liền dịu dàng quấn lấy, hai tay vòng ôm lấy eo hắn.

“Lận tướng.” Nàng gọi hắn, một tay trượt xuống chốn dương c**ng c*ng cỏi, lại gọi, “Tam lang!”

Móng tay nhẵn nhụi, tròn đều như lát dao lướt qua gốc rễ sinh mệnh nam nhân, lời nói trong chuyện x**n t*nh mang theo trêu chọc mà mê hoặc, “Lang quân!”

Lận Tắc hít mạnh một hơi, “… Chờ mai đã, để ta hỏi y quan một phen.”

“Thiếp đã hỏi rồi, thai tướng ổn định, bốn năm sáu tháng là trung kỳ, không trở ngại chuyện hành Chu Công chi lễ.”

Thế là, trong màn trướng uyên ương nổi sóng hồng.

Thế là, Lận Tắc rốt cuộc cũng thấy được một Tùy Đường có tính khí, biết làm nũng, có dục niệm, một Tùy Đường sống động như thật.

Không còn là hồn sương giữa sương mờ, mà là khách nhân giữa cõi hồng trần.

Nhưng chưa đến hai tháng sau, nàng bị chẩn đoán đã trúng độc, độc nhập tâm mạch, ngũ tạng tổn thương, không còn bao nhiêu thời gian.



Trong tẩm điện, y quan và thị nữ đều lui xuống, chỉ còn lại Lận Tắc và Tùy Đường.

Hắn rốt cuộc cũng ngẩng đầu, nhìn rõ người đang nằm trên giường.

Nàng nằm ngửa nơi gối, trước nay vẫn dùng lụa trắng che mắt — là vì trước kia có phương thuốc, bảo đem lụa trắng ngâm trong thang dược, phơi khô rồi đắp mắt, để dưỡng nhãn. Mong có ngày sớm hồi thị lực, ngay cả lúc ngủ nàng cũng không tháo xuống. Nhưng tiếc thay đến giờ, nàng vẫn không thể thấy gì.

Lúc này có lẽ trong lúc sinh sản mồ hôi thấm ướt, phiền vướng, nên mới gỡ xuống.

Hắn ngồi bên nàng, đưa tay vuốt qua mi mắt nàng.

Một lúc lâu mới nói: “Là một đứa con trai, nàng có muốn bế thử, sờ lấy nó không?”

Tùy Đường khẽ lắc đầu, khóe môi vương chút mỉm cười, “Không cần đâu.”

Lận Tắc thu tay về, im lặng hồi lâu mới giận dữ thốt: “Nàng bản lĩnh thật, đã sinh được nó ra, thì hẳn cũng sống được chứ!”

“Chàng muốn ta sống sao?” Tùy Đường cười sâu hơn, mày mắt cong cong.

Đôi mắt nàng không có ánh sáng, thần sắc mờ mịt, nhưng hình dáng mắt rất đẹp, là cặp mắt hạnh tiêu chuẩn.

Nếu chưa từng mù, nhất định sẽ là đôi mắt biết nói, ánh nhìn lưu chuyển.

“Sống tiếp đi.” Nam tử từng nửa đời tung hoành sa trường, bước ra từ núi thây biển máu, khoảnh khắc ấy vành mắt chợt đỏ lên, thấp giọng thốt ra lời ấy.

Trên giường, người đang chống đỡ bằng thuốc thang để giữ lại hơi tàn, nghe vậy thì bật cười thành tiếng, “Lận tướng bớt làm ra cái vẻ ấy đi, chàng là người tốt đẹp gì? Đêm qua ta đau đến chịu chẳng nổi, đã khóc lóc cầu xin chàng cho ta một đao kết thúc, cớ sao chàng không chịu? Cớ sao phải bắt ta chịu đựng đến thế, còn chia cắt mẹ con ta?”

Lệ từ đôi mắt mất tiêu điểm của nàng lăn dài, “Ta từng nghĩ chàng là người tốt, nào ngờ đến phút cuối cùng lại chẳng tốt tí nào. Chàng cũng bắt nạt ta!”

Lận Tắc đưa tay lau lệ cho nàng, không thể đáp được lời nào.

Hắn lần đầu tiên thấy nàng làm nũng, thấy nàng rơi lệ, thấy nàng ngang ngược vô lý.

Mà lại là trong khoảnh khắc này, thời khắc cuối cùng của nàng.

Tay hắn đặt trên má nàng, không thể rời, cũng không thể nhích.

Một lúc lâu sau, hắn mới bắt đầu nói mê giữa ban ngày: “Ta sẽ đi tìm y quan giỏi hơn, nhất định sẽ tìm được giải dược cho nàng, ta…”

Tùy Đường cười càng thêm rực rỡ, sắc mặt tái nhợt thậm chí còn hiện lên chút hồng nhuận. Nàng nâng tay, nắm lấy lòng bàn tay hắn, áp má vào đó nhẹ nhàng v**t v*, thần sắc bình thản, chậm rãi trở lại dáng vẻ thê thản đạm mạc của một trưởng công chúa thuở đầu.

Chính là dáng hình lúc nàng vừa đến.

“Không cần gọi ngự y, không cần liên lụy người khác, không ai hại cô. Là Hoàng đệ từng sai Thái y lệnh khoét một nửa răng của cô, ngày thành hôn giữa ta và chàng đã giấu vào đó một viên độc dược, định dùng để hạ sát chàng.”

“Không phải cô từ bi mà không hạ thủ, mà là trời còn chưa muốn chàng chết. Hôm đưa dâu, nghi trượng bị mã tặc kinh ngựa ở đường Đồng Đà, cô bị đụng vào kiệu, máu tụ lên não, hai mắt mù lòa, cho đến nay vẫn chưa tìm được cơ hội. Mấy năm nay ở phủ Tư Không, chẳng ai mưu hại cô cả, độc là cô tự chuẩn bị, từng chút ngấm vào ngũ tạng.”

“Khí số Đại Tề đã tận, cô nhận thua, chàng cứ việc lấy đi.”

Lời vừa dứt, tay nàng cũng buông lơi.

Đôi mắt nàng chưa từng khép lại, vẫn đang nhìn hắn.

Nhưng không còn trông thấy được hắn nữa.

Bởi từ đầu đến cuối đời nàng, nàng chưa từng thấy được hắn lần nào.
 
Cùng Quân Kề Cận
Chương 5: Chương 5



“Không cần gọi ngự y, không cần liên lụy người khác, không ai hại cô. Là Hoàng đệ từng sai Thái y lệnh khoét một nửa răng của cô, ngày thành hôn giữa ta và chàng đã giấu vào đó một viên độc dược, định dùng để hạ sát chàng.”

“Không phải cô từ bi mà không hạ thủ, mà là trời còn chưa muốn chàng chết. Hôm đưa dâu, nghi trượng bị mã tặc kinh ngựa ở đường Đồng Đà, cô bị đụng vào kiệu, máu tụ lên não, hai mắt mù lòa, cho đến nay vẫn chưa tìm được cơ hội. Mấy năm nay ở phủ Tư Không, chẳng ai mưu hại cô cả, độc là cô tự chuẩn bị, từng chút ngấm vào ngũ tạng.”



Tùy Đường bừng tỉnh trong cơn mồ hôi đầm đìa, bật ngồi dậy, hai tay che lấy hàm răng vẫn còn âm ỉ đau, th* d*c không ngừng.

Chốc lát sau mới chợt nhận ra — chỉ là một giấc mộng.

Một giấc mộng rất dài rất dài, song nàng đã quên phần lớn, chỉ còn vài mảnh vụn hình ảnh mơ hồ.

Phòng sinh vấy máu, hài nhi khóc oe oe, giang sơn lâm nguy trong gió mưa chập chờn, sản phụ mất mạng vì khó sinh do trúng độc, nam nhân phong hầu bái tướng, muốn đoạt lấy giang sơn nhà nàng.

Còn có lời cuối cùng nàng nói với Lận Tắc, lại rõ ràng vang vọng bên tai.

Chỉ là… nàng sao có thể nói những lời như vậy?

Những lời ấy thốt ra, chẳng khác gì bán đứng a đệ, kéo theo y cùng đọa xuống địa ngục!

Mộng quá chân thực, khiến Tùy Đường vẫn còn kinh hồn chưa định.

A đệ đón nàng hồi kinh, nàng quyết không phản bội hoàng đệ, càng không cùng loạn thần tặc tử cấu kết làm bậy.

Loạn thần tặc tử—

Cơn đau lặng lẽ nơi răng khiến đầu óc nàng tỉnh táo hơn phần nào, bàn tay che bên má dần dời vị trí, khẽ chạm đến chiếc răng kia.

Trống rỗng.

Đan Chu đã bị lấy ra.

Lận Tắc đêm qua đã trở về.

Chính hắn lấy nó ra.

Đoạn này… không phải mộng, là thật.

Mà trong mộng, nàng vì giữ độc trong răng mà cuối cùng phát tác mà chết.

Tùy Đường trăm mối ngổn ngang, chẳng biết nên vui vì độc đã được giải, hay sợ hãi vì bí mật bị phát hiện? Lúc ấy, phía sau liền có một bàn tay to rộng ấm áp đặt lên lưng nàng, khiến nàng rùng mình một cái.

“Điện hạ gặp ác mộng ư?” Người phía sau ngồi dậy, khoác áo bước xuống giường.

Chẳng bao lâu sau, Tùy Đường chỉ cảm thấy cổ tay bị nắm lấy, lực đạo không mạnh, song vì bản năng nàng tránh né nên cảm thấy có chút đau.

“Uống ngụm nước, bình tâm lại.” Lận Tắc đặt chén trà vào tay nàng, đẩy cho ngón tay nàng khép lại quanh chén.

Trên án còn để đèn lửa, ánh mắt hắn dừng lại nơi tay nàng.

Ngón tay chai sần, khớp xương thô ráp, không thua kém tay kẻ chinh chiến nơi sa trường.

Tùy Đường hơi buông lỏng tâm thần.

Một đêm mộng dài, tâm trí rối loạn, lúc này mới chợt cảm thấy miệng khô lưỡi đắng. Hàng mi dày cong khẽ động, nàng cầm lấy chén trà đưa lên môi.

Ban đầu uống rất chậm, thoáng cái lại ngửa đầu cạn sạch.

Nhiều ngày chưa từng được uống nước sảng khoái như vậy.

Khi đặt chén xuống, khóe môi nàng như có nụ cười thoáng qua.

Ánh đèn yếu ớt, Lận Tắc ngỡ mình hoa mắt.

Uống chén nước mà vui đến thế ư?

“Muốn nữa không?” Hắn dịu giọng hỏi.

Tùy Đường khẽ gật đầu, đưa chén trà cho hắn.

“Chậm thôi.”

“Ừm.”

Tùy Đường nhận lại chén, uống một nửa thì thần trí chậm rãi trở lại, lại cảm giác cơn đau âm ỉ nơi răng, liền nghĩ đến viên Đan Chu, rồi nghĩ đến giấc mộng ấy.

Nàng dừng lại một khắc, uống hết phần còn lại, thầm nghĩ trên đời chẳng có gì quý bằng được sống. Về phần a đệ, chỉ đành tùy thời mà xét.

“Còn muốn uống thêm không?” Lận Tắc hỏi.

Tùy Đường lắc đầu, “Đa tạ.”

Lận Tắc nhận lấy chén, đặt sang bên, thấy sắc mặt nàng tái nhợt, mồ hôi chưa khô, bèn nhẹ giọng trấn an: “Đợi hửng sáng, thần sẽ lại thỉnh ngự y vào phủ, dán bảng trọng thưởng, tìm danh y chữa mắt cho Điện hạ!”

Tùy Đường nhất thời không đáp, nàng có chút nghi ngờ, người trước mặt… thật là Lận Tắc sao?

Hắn là Lận Tắc, nhưng bộ dạng hiện giờ là có ý gì?

Đại hôn hôm đó, hắn l*t s*ch xiêm y của nàng, dày vò nàng đến cùng cực. Vậy mà giờ lại dịu dàng săn sóc, ra vẻ một phu quân mẫu mực?

“Giờ Mão canh tư rồi.” Lận Tắc nghe tiếng canh giờ, đưa mắt nhìn ra trời còn xám nhòa, “Tưởng còn sớm, thần đi gọi ngự y.”

“Chờ… chờ đã!” Tùy Đường mở miệng, kỳ thực cũng không biết muốn nói gì, chỉ là một đêm hỗn loạn, mộng lại quái lạ kinh tâm.

Nàng không giỏi mưu lược, chẳng đoán ra hành động của Lận Tắc, trong cảnh ngộ thế này càng không biết nên đối mặt ra sao. Chỉ là một tay không biết từ khi nào đã đặt trở lại bụng — nơi đau âm ỉ suốt mấy ngày qua. Nàng nghĩ, dù gọi ngự y chữa bệnh là chuyện tốt, nhưng bệnh của nàng cũng không đến mức cấp bách. Huống chi nàng cũng không thể cứ như cá nằm trên thớt, mặc người định đoạt. Bèn chống chọi tinh thần, gắng giữ chút uy nghi công chúa: “Tạm thời chưa cần truyền ngự y.”

Lận Tắc liếc nàng một cái, cũng không phản bác, chỉ gật đầu: “Vậy Điện hạ nghỉ thêm chốc lát, dẫu sao cũng chưa có gì gấp.”

“Không ngủ nữa.” Tùy Đường dè dặt mở lời, lại nói tiếp: “Truyền… truyền thiện trước đi.”

“Đói rồi?” Lận Tắc hơi lấy làm lạ, thường ngày bữa sớm đều vào cuối giờ Thìn, giờ này e rằng còn chưa chuẩn bị xong, bếp núc cũng chưa nổi lửa.

Tất nhiên là đói. Từ ngày nàng gả vào phủ Tư Không, chưa từng có một bữa ăn no.

Tùy Đường thầm oán, nhướng nhẹ mày liễu, nơi khóe mắt lộ ra vài phần giận dỗi.

Lại nghĩ đến mọi chuyện trước sau, nàng còn phải cảm ơn hắn — nhờ hắn mà hôm nay mới có thể ăn bữa cơm yên lành. Bằng không ngày ngày đối mặt mâm cơm bốc khói thơm nức, chỉ có thể ngửi mà không dám động đũa, chẳng khác nào hình phạt tra tấn.

Nàng khẽ thở dài rồi buông lỏng, tuy dung nhan tái nhợt, ánh mắt vô thần, nhưng giữa mày mi vẫn lộ vẻ sinh động tươi tắn.

Bên ngoài trời dần sáng, ánh mắt Lận Tắc rơi trên người nàng, không khỏi nhớ đến kiếp trước.

Kiếp trước, lần đầu tiên hắn gặp Tùy Đường là vào tháng Ba năm Sóc Khang thứ sáu, tận bảy tháng sau đại hôn.

Kỳ thực hắn có thể sớm hồi kinh hơn. Năm ấy tháng Chạp, hắn đã hạ được Quán Lưu hồ, đánh bại Vệ Thái, khiến y tháo chạy về Ký Châu. Nhưng hắn giận mẫu thân đã đáp ứng mối hôn sự ấy, lại thấy rườm rà phiền phức, liền lấy cớ công vụ bận rộn, nấn ná bên Quán Lưu hồ. Mãi đến khi quen thuộc hết thảy núi sông phong tục nơi ấy, mới thong thả cưỡi ngựa hồi kinh dưới bầu trời xuân xanh biếc.

Dù gì cũng là hôn sự do Thiên gia ban, do mẫu thân chủ trì, bên trên còn chưa trở mặt, bên dưới là tình mẫu tử thâm sâu. Sợi dây “trung hiếu” buộc thân, hắn chỉ có thể cắn răng đi gặp người vợ chưa từng gặp mặt ấy…

Ngày xuân, cỏ thơm um tùm, oanh hót trong liễu biếc.

Phụ nhân che mắt bằng đoạn lụa trắng, vận váy trắng áo vàng, tà áo quét đất, tựa ngồi dưới hành lang dài. Trong mắt chỉ thấy nửa thân ảnh nàng mảnh mai như khói sương, tựa như được khảm vào sắc xuân rực rỡ khắp viên đình.

Rất không hợp thời.

Tỳ nữ dường như từ xa đã trông thấy hắn, lúc này ghé bên tai nàng thì thầm điều gì đó. Nàng đứng dậy quay người, bước chân không vững, sắc mặt có phần hoảng hốt.

“Thần bái kiến công chúa.” Hắn mỉm cười, lời nói nhẹ tựa mây bay, thân hình thẳng tắp không cúi mình, tay phải thu chiếc quạt xếp khẽ gõ lên lòng bàn tay trái, lười nhác đứng dưới bậc thềm.

Gió xuân phơ phất giữa hai người.

Rõ ràng là thế đứng cao thấp phân minh, song phụ nhân kia tựa như đèn leo lét trong gió, lúc sáng lúc tối; mà nam tử ấy lại như ngọn núi sừng sững trước gió, đĩnh đạc hiên ngang.

“Cơm trưa chuẩn bị xong, Tư Không đại nhân có muốn dùng không?” Giọng nói nàng nhã nhặn, nhưng thần sắc vẫn còn dè dặt.

Lần này, Lận Tắc cùng nàng ăn suống, mày kiếm khẽ nhíu.

Tuy nói ăn chậm là điều tốt, nữ tử khuê môn thường coi trọng quy tắc lễ nghi, hành xử đoan trang. Nhưng phụ nhân trước mắt, ăn uống quả là quá chậm — cháo thì dùng từng nửa muỗng nhỏ, chỉ nhấp nhẹ bên môi; món mặn đều là những thứ mềm nát, thỉnh thoảng mới dùng đến cá thịt, cũng đều nấu thành canh, mà cũng chỉ nếm hờ nơi đầu lưỡi rồi thôi. Lượng ăn ít đến mức so với trẻ nhỏ còn thua, mà thời gian lại gấp đôi người thường, tổn sức hao người, cả thân thể lại như treo trên giá, rỗng không vô hồn.

Lận Tắc thoạt đầu chỉ thấy giả tạo, rồi lại sinh lòng chán ghét phô trương phù phiếm.

Cuối cùng không nén được, khẽ bật cười.

Nửa điểm cũng chẳng giống dáng vẻ hiện giờ — tự nhiên thoải mái, dứt khoát khoáng đạt.

“Thêm cho cô một chén nữa.” Nàng dùng hết nửa chén cháo đầu tiên, quay đầu dặn dò người hầu, “Thêm nhiều một chút.”

“Điện hạ, người còn phải dùng món quả hầm mềm nữa,” Chưởng thiện có phần ngạc nhiên vì khẩu vị hôm nay của nàng, nhỏ giọng nhắc nhở.

“Chỉ là nửa trái táo hấp, còn gọt vỏ bỏ hạt, lát nữa cô dùng là được, không ngại gì.” Nàng thúc giục, lại không quên dặn tỳ nữ bên cạnh: “Canh dê thì không cần lọc, cô dùng cả canh lẫn thịt, cứ bưng thẳng lên là được.”

“Điện hạ!” Tỳ nữ liếc nhìn Lận Tắc, bẩm rằng: “Hôm nay bếp nhỏ nấu món mặn là thịt dê xào tương, là món Đại nhân thường dùng, không phải canh dê. Phần của người là canh mộc nhĩ nấu chả cá, cần giã cá tươi mới dùng được. Nô tỳ sẽ truyền lời, người chờ thêm một lát.”

Nàng hơi thất vọng “ồ” một tiếng, rồi lại dặn rằng: “Về sau, nếu món như thịt hầm, cá giã, quả hấp… bếp chính có mang đến thì dùng, còn bếp nhỏ thì thôi khỏi làm riêng cho cô. Khá tốn công, lại phí nguyên liệu.”

Dừng một chút, lại nói thêm: “Mấy ngày trước cô lo mắt bệnh, chẳng buồn dùng cơm, vất vả cho các ngươi rồi.”

Chưởng thiện và đám người quản sự nghe xong đều mỉm cười cúi đầu lĩnh mệnh.

“Cá giã còn phải đợi, nàng dùng một nửa phần thịt dê của ta vậy.” Lận Tắc cất đĩa trước mặt nàng đi, đẩy phần thịt dê xào tới, lại một lần nữa nắm lấy cổ tay nàng: “Ở đây.”

Nàng khẽ gật đầu.

Chỉ là mắt mù chưa lâu, nàng còn chưa quen được hoàn cảnh và lực tay khi hành động.

Như lúc này, mới đầu không gắp được, sau cố gắng quá lại dùng sức nhiều, chiếc đũa ngọc gắp một lần mà đầy cả thịt.

Chiếc đũa ngừng trong đĩa một thoáng, rốt cuộc vẫn gắp lên đưa vào miệng.

Khó khăn lắm mới gắp được, bỏ xuống rồi làm lại lại càng mất thời gian.

Nước xốt đậm đà, thịt mềm tươi ngon, tuy ăn vài miếng có hơi mặn, nhưng may có cháo đi kèm. Nàng nâng bát cháo lên, vừa lòng dùng muỗng múc.

“Chậm thôi, còn nóng.” Lận Tắc đón lấy muỗng, đổ bớt nửa muỗng ra bát, rồi đưa phần còn lại lên gần miệng nàng, nhưng dừng giữa không trung, lại đặt muỗng vào tay nàng, để nàng tự dùng.

Dù đã có danh phận phu thê, dù với hắn là cố nhân tương phùng, nhưng với nàng, vẫn là nam tử xa lạ, lần đầu tương kiến.

Nàng khẽ nói cảm tạ, chăm chú dùng cơm.

Lận Tắc cũng cúi đầu ăn, thỉnh thoảng ngẩng mắt nhìn nàng — má nàng phồng lên, ăn uống tự nhiên. Mà hắn lại thấy nơi chóp mũi cay cay, trong lòng sinh ra áy náy.

Kiếp trước, bảy tháng ấy, cho đến cả thời gian dài sau nữa — chẳng lẽ nàng chưa từng được ăn no một bữa?

Ngự y án mạch nàng từng ghi: hay ngất xỉu, thân thể yếu nhược, vóc dáng gầy gò. Hỏi thì nàng nói ăn không ngon miệng, cơm khó nuốt, nhưng nội tạng không có gì bất thường, mạch tượng cũng ổn định, nên bệnh không rõ nguyên do. Đề nghị là: có thể thì nên ăn nhiều, đa dạng món, cái gì cũng nên nếm thử.

Hắn vô tình đọc được, đoán nàng hẳn vì đuổi theo thói thời thượng, ép eo nhỏ, lại còn kén ăn. Bởi thế mới dâng lòng từ tâm, từng có ý tốt khuyên nhủ. Nhưng nàng không thuận theo, vẫn giữ lối cũ. Hắn cũng lười phí lời thêm, chỉ thấy nàng đáng đời.

Thì ra không phải.

Cũng chẳng phải giả vờ yếu đuối hay xa hoa lãng phí.

Mà là vì lo sợ, vì bất lực, là khát khao cầu sinh.

Chỉ còn biết tìm đến cách ngu ngốc mà hữu hiệu nhất này.
 
Cùng Quân Kề Cận
Chương 6: Chương 6



Sau bữa sớm, Lận Tắc vào thỉnh an Dương thị, chưa bao lâu quay lại, sau lưng dẫn theo một hàng ngự y, nói là đến tái chẩn cho Tùy Đường.

Ngoài việc có thể cảm tri đôi chút ánh sáng và khối u trên đầu hơi tiêu sưng, nàng vẫn không có chuyển biến nào khác, tình trạng so với mấy ngày trước cũng không sai biệt là bao. Chẩn đoán vẫn như cũ: hôm đại hôn va phải kiệu ngự, huyết tụ bế tắc não mạch mà dẫn đến mù lòa.

“Lẽ ra đã có huyết tụ thì pháp dùng là hoạt huyết hóa ứ. Nhưng chỗ va đập của Điện hạ lại chính là huyệt Dương Bạch, cách mi một tấc, huyết tràn mà dồn ép lên trên. Huyệt Dương Bạch vốn là một trong cửu đại huyệt quanh mắt, ngày thường day bấm có thể làm sáng mắt, đầu óc minh mẫn, tán phong tiết nhiệt. Nhưng cũng là chỗ yếu nhược, mẫn cảm nhất trong chín huyệt, nếu dùng sai thuốc hay châm cứu bất đắc pháp, thì e sẽ dẫn đến vĩnh viễn không thể hồi phục thị lực. Vì vậy, hạ thần và các y quan đã kê bốn phương thuốc, cân nhắc dược lượng mà dùng thử cho Điện hạ, xem xét hiệu quả sau. Mỗi phương ứng với ba ngày thuốc, sau mỗi đợt dùng ba ngày thì nghỉ ba ngày, rồi mới chuyển sang phương tiếp theo, tổng cộng hai mươi bốn ngày. Nếu bốn phương đều vô hiệu, khi ấy mới tính đến châm cứu. Về châm cứu, hạ thần còn đang thương nghị với đồng liêu, chưa có biện pháp rõ ràng. Nay đem phương dâng tại đây, kính thỉnh Tư Không đại nhân giám duyệt.”

“Bổn quan không thông y lý, ngược lại Điện hạ có am hiểu y thuật, ngươi hãy đọc cho Điện hạ nghe.” Bấy giờ trong tẩm thất, Tùy Đường ngồi trên tháp cạnh cửa sổ, Lận Tắc đối diện, y quan lần lượt tiến lên bắt mạch cho nàng.

Người trả lời là lương y chủ trị trong lần hội chẩn – Lâm Quần – liền cúi đầu lĩnh mệnh rồi cất tiếng đọc.

Bốn phương thuốc lần lượt là: Minh Mục Long Cốt Thang, Xích Thược Ngũ Hồng Thang, Đương Quy Đan Sâm Hoàn, Bạch Truật Sài Hồ Hoàn. Trong khi đọc, ông cũng giảng giải kỹ lưỡng về dược liệu cùng lượng thuốc từng phương.

Liên quan đến chính bản thân, Tùy Đường lắng nghe vô cùng chuyên chú. Kỳ thực nàng chỉ sơ hiểu y đạo, nửa đường xuất gia, học vấn cũng là vụng về, chưa tinh thông. Nhưng bốn phương này, vị thuốc đều là trị nhãn chứng, trong đó chủ – phụ rõ ràng, vừa nghe liền như được khai tâm. Hơn nữa, lại gia giảm theo bệnh tình cụ thể của nàng, từ dược vị đến thời gian điều chỉnh, khiến Tùy Đường không khỏi ngạc nhiên xen lẫn khâm phục.

Song trong lòng nàng vẫn nhịn không được mà dấy lên oán thầm — trong bảy ngày qua, lời Lâm Quần nói với nàng cộng lại còn không bằng hôm nay. Hẳn là đã hỏi ông ta không chỉ một lần. Có thể thấy ai mới thật là chủ tử trong lòng bọn họ.

Nghĩ thế, sắc mặt nàng cũng trở nên phong phú hơn. Ban đầu là vẻ ngưỡng mộ, thoáng chốc đã chuyển thành giận dữ, rồi lại biến thành thấu hiểu, thậm chí còn thấp thoáng vài phần cảm thông.

Về sau hồi tưởng lại, nàng hiểu Lâm Quần cùng chúng y cũng chẳng dễ gì. Suy cho cùng, cũng là “tâm cha mẹ” của người làm thầy thuốc. Bọn họ thờ ơ với nàng, nhưng chưa từng xem nhẹ bệnh tình của nàng. Nếu không, chỉ trong thời gian ngắn ngủi bị triệu đến, sao có thể nghĩ ra được bốn phương thuốc?

Bởi vậy, đến đoạn cuối cùng, khuôn mặt nàng không có cảm xúc gì, nhưng trong lòng sinh ra thương cảm, đôi mắt cong cong như vầng trăng non nơi chân trời.

Tĩnh mỹ mà thê lương.

Không biết từ lúc nào, ánh mắt Lận Tắc lại luyến lưu trên thân hình nàng, rất lâu không động, chẳng rõ hỉ nộ.

Trong điện nhất thời tĩnh mịch.

Lò Bác Vọng toả hương lượn lờ, tiếng nước tí tách bên cửa như khảy vào tâm khảm.

Chư y quan đưa mắt nhìn nhau, một người khẽ đẩy Lâm Quần. Lâm Quần cân nhắc đôi chút, cuối cùng cũng mở lời với Tùy Đường: “Không biết Điện hạ nghe phương thuốc của hạ thần, có điều gì cao minh chỉ giáo? Hạ thần rửa tai kính nghe.”

“Phương thuốc rất hay, Lâm y quan vất vả rồi.” Tùy Đường cảm thấy không khí trong điện bỗng trở nên lặng lẽ, liền nở nụ cười để hoá giải tình thế. “Về sau còn phải nhờ cậy các vị nhiều.”

“Đã vậy, lui cả đi, chiếu cố Điện hạ thật tốt.” Lận Tắc mở miệng cho lui mọi người.

Tùy Đường thấy hôm nay Lâm Quần nói nhiều, định lưu lại hỏi thêm về mấy phương thuốc kia, dẫu chỉ lưu học trò hay dược đồng cũng được.

Kỳ thực trước đó nàng vừa bị mù lại nhiễm độc, thân thể rối loạn, nay Đan Chu đã được trừ bỏ, nàng cũng đã nắm rõ đại khái phương pháp trị bệnh về mắt, trong lòng thư thả, vốn nên lập tức hồi cung một chuyến, báo bình an cho mẫu hậu, cùng a đệ bàn kế sách. Nhưng nàng vẫn chưa dò được tâm ý của Lận Tắc, chỉ sợ nếu mở lời l* m*ng sẽ phản tác dụng, đến Trung Thu cũng chưa chắc được quay về. Dẫu sao, việc Đan Chu bị phát hiện, quả thật quá đỗi kỳ quặc.

Nghĩ thế, nàng mới sinh ý định lưu lại dược đồng y quan, tìm người cùng mình đàm luận y thư y lý, giết chút thời gian.

Xem y thư, tìm thảo dược là sở thích ít ỏi của nàng, vốn hình thành trong những năm sống cô độc bên bờ Chương Hà.

Sau khi nước rút, trong thảo lư chẳng còn vật gì đáng giá, nàng vô tình tìm được hai cuốn y thư rách nát. Đáng tiếc, người dạy nàng đọc sách năm xưa đã mất vì ôn dịch trên đường đến Ký Châu. Từ đó nàng chưa từng được khai tâm học hành, không biết chữ, chẳng thông văn. Vị nữ y còn sót lại cũng mất mạng trong trận lũ. Hai cuốn y thư, nghĩ chắc là của nàng ấy để lại.

May thay, cách đó nửa dặm về phía Đông có một vị lão tiên sinh dạy học bị liệt nửa người, nằm co quắp trong căn nhà mục nát. Tùy Đường bèn mang sách đến nhờ thỉnh giáo.

Một người là công chúa bị thiên hạ ruồng bỏ, ai ai cũng biết nàng vốn mang quý tướng, nhưng vì xung khắc với phụ mẫu huynh đệ mà bị đày đến Ký Châu. Sau đó nước sông Chương Hà dâng lũ, dân gian đồn đại nàng là điềm dữ, chưa thấy phúc mà hoạ đã tới. Dân vùng Chương Hà vừa oán giận, lại vừa nhớ cảnh nàng năm nào được Châu mục Vệ Thái bế lên đài cao, lòng sinh e dè, từ đó tránh nàng như tránh tai họa.

Còn lão tiên sinh kia, thân mang tật bệnh, lôi thôi nhếch nhác, không vợ không con, trong thời buổi nhà ai lo nhà nấy, tự nhiên chẳng ai đoái hoài.

Một thiếu nữ tuổi xuân, một lão ông lục tuần, thế mà lại kết thành bạn.

“Cô lo cho ông ăn uống, còn nhóm lửa sưởi ấm, ông phải dạy cô nhận chữ.”

“Cô học được chữ, biết y thuật, thì sẽ chữa bệnh cho ông.”

Thế là, gần một năm ròng, lão tiên sinh ba bữa có thể ăn no một bữa. Tùy Đường bụng đói cồn cào nhưng đã học được không ít chữ, đọc hết một quyển y thư.

Đến nửa quyển thứ hai, nàng bắt đầu lên núi hái thuốc, sắc thuốc cho lão uống. Lão uống mấy lần, tay bớt run, bèn không biết từ đâu moi ra một quyển “Đồng Giám” quăng cho nàng.

Cuốn sách rời rạc, Tùy Đường cẩn thận tu chỉnh lại, nghĩ đợi khi lão nói năng rõ ràng hơn thì học tiếp.

Lão khẽ cười khinh khỉnh. Tùy Đường hiểu ý – là bảo: e rằng không kịp nữa rồi.

“Chắc chắn kịp mà. Trong sách còn nhiều phương thuốc hợp bệnh ông, ta đã tìm được không ít thảo dược, chỉ còn thiếu hai vị. Quyển thứ hai thì giảng về châm cứu, đợi ta học được, cũng có thể thử một lần.”

Tùy Đường rất may mắn, chưa đầy nửa tháng đã thu đủ những vị thuốc còn lại.

Song lão tiên sinh lại không được như vậy. Nữ y đồ non kém kia tuy biết phối phương, nhưng không tường lượng thuốc. Sau khi dùng xong thang thuốc thứ ba nàng sắc, ông liền chết trong một đêm hè, dưới bầu trời ngân hà treo ngược.

Trời ven Chương Hà cùng nước Chương Hà liền làm một mảnh, ánh trăng trên cao chìm trong sóng nước. Thiếu nữ nơi bờ sông tay cầm quạt cọ, cẩn thận xua muỗi cho ông lão. Đom đóm bốn bề nhấp nháy đôi mắt sáng lấp lánh, tựa như sao trời hạ phàm.

Nàng áp tai bên mũi ông dò hơi thở, ngồi bên cạnh đến tận hừng đông, tay vẫn khẽ lay quạt không dám dừng.

Lại chỉ còn lại một mình nàng.

May thay, nàng đã biết đôi phần chữ nghĩa, cũng nhận ra không ít thảo dược. Liền cải trang che mặt, tìm đến những người hấp hối, đưa cho họ những chén thuốc có thể hữu hiệu, cũng có thể vô ích, nhưng ít nhất cũng có thể thay nước uống. Cứ như thế mà xem chết như sống, liều mạng mà cứu. Cứu sống thì xem như y thuật cao minh, còn chết cũng không thể trách nàng được.

Nàng bảo với họ rằng, nàng là thiên nữ, không thu tiền khám, chỉ nhận hương hỏa.

Một trái lê thơm, nửa túi táo đỏ, ba lạng lúa mì… đều là hương hỏa.

Nàng ăn chẳng nhiều, hương hỏa tích góp được bèn lặng lẽ sai người mang vào thành bán đi. Có được ít bạc thì mua bút mực, lại đến quầy sách phía tây thành đọc y thư, đọc nhanh như gió, trở về khắc nhớ trong lòng, hoặc ghi lên lá cây. Rồi lại học thêm được nhiều y lý, biết thêm nhiều thảo dược, có thể cứu thêm nhiều người, nhận được nhiều hương hỏa, cứ thế mà xoay vòng, cứ thế mà tồn tại…

Bởi vậy, nay ở nơi kim khuyết ngọc lâu này, giữa bao danh y quốc thủ vây quanh, tháng ngày dằng dặc, nàng tự nhiên lại nảy sinh tâm niệm cũ. Nhưng chỉ mấp máy môi, rồi ngậm lại chẳng nói lời nào.

Thực là bởi, khi nãy trong điện bỗng nhiên lặng thinh khiến nàng sinh lòng cảnh giác. Tuy mắt chẳng nhìn được, nhưng tai lại càng thêm linh mẫn. Trước là nghe tiếng hô hấp của đám ngự y dồn dập, sau lại có người vén tay áo lau mồ hôi, tiếng vải xát nhau rất rõ ràng.

Ngự y trả lời không sai, chỉ là sợ hãi vô cớ kia, tất bởi áp lực tĩnh lặng mà Lận Tắc đem đến.

Tùy Đường không muốn lại khiến người ta bất an, liền nghiêng mặt, lạnh lùng xoay đầu đi.

Chẳng mấy chốc, nghe có tiếng bước chân tiến lại gần, ánh sáng xung quanh như tối đi đôi chút, nàng bất giác ngồi thẳng người.

“Điện hạ sắc mặt không tốt, chẳng hay phương thuốc của ngự y có vấn đề gì chăng?” Lận Tắc đứng cách nàng một trượng, không ngồi xuống, ánh mắt rũ thấp dừng nơi huyệt Dương Bạch trên trán nàng.

Tùy Đường thầm thở dài, bản thân đã cố ý nghiêng đầu né tránh, vậy mà vẫn bị nhìn ra thần sắc. Mà người này nói gì vậy chứ, toàn nghĩ xấu cho người khác.

Mọi người khác đều rất tốt!

Ai ai cũng đâu có giống như ngươi, hung hăng, cậy thế lấn người!

“Phương thuốc của ngự y rất tốt, cô không có điều gì không hài lòng.”

Gió thu từ cửa sổ khẽ mở lùa vào, Tùy Đường khẽ ôm lấy vai, kéo mảnh khăn mỏng trượt khỏi khuỷu tay đắp lên người, “Chỉ là không hiểu vì sao đại nhân lại làm ra vẻ mặt đáng sợ đến vậy, khiến họ hoảng hốt? Họ một lòng tận tụy, ăn nói quy củ, chẳng có chi sai trái cả!”

Lận Tắc nghe vậy, hồi tưởng lại cảnh vừa rồi, bất giác nơi mắt hiện ý cười, gió sáng thổi trăng.

Hắn đưa tay khép nhẹ cửa sổ, lặng lẽ nhìn gương mặt đang cố nén giận của nàng. Đời trước, hiếm thấy nàng nổi giận, đến cả nụ cười cũng phần nhiều là hời hợt giả tạo.

Lúc này đây, ánh nắng thu rọi trên thân nàng, sáng dịu như gấm, lại tô đậm thêm sắc giận trên gương mặt.

Lận Tắc cảm thấy thật đẹp.

Ánh mắt hắn liếc sang bóng người đổ trên án thư, tay chầm chậm vẽ theo viền bóng, nhưng mắt thì vẫn không rời nàng, “Thần không cố ý dọa họ, chỉ là ánh sáng ban mai dịu dàng, cảnh sắc hữu tình, khiến thần trầm mê đôi chút, quên đáp lời họ, khiến người hiểu lầm.”

Mải mê thưởng cảnh?

Tùy Đường nghe vậy càng thấy hắn ngông cuồng.

Nếu chẳng phải uy thế của hắn thường ngày quá lớn, thì sao một cái lơ đãng bình thường lại khiến người người run sợ đến thế!

Nhưng trong lòng nàng còn mang nỗi lo về việc viên Đan Chu, không muốn dây dưa tranh cãi, chỉ đành gắng nặn ra nụ cười hòa nhã: “Nếu vậy thì là cô đã suy nghĩ quá rồi.”

Nụ cười ấy… quá đỗi quen thuộc.

Là mặt nạ nàng mang ở kiếp trước.

Che đậy bao nỗi tâm tư, chất chồng năm tháng, đè ép lưng còng, đến cả hô hấp cũng nặng nề.

Lận Tắc khựng tay nơi nét vẽ bóng người, đúng lúc dừng tại bên tóc mai, nơi gò má nàng.

“Điện hạ cười gượng ép quá, thần biết người có tâm sự, cũng biết người chịu nhiều ủy khuất.”

Tùy Đường nhíu mày nhìn hắn.

“Điện hạ phụng thánh chỉ gả vào phủ Tư Không, nghĩ cũng chỉ là do trách nhiệm gánh vác, chẳng phải tình cảm thật lòng. Người có phải định bụng, nếu thần bất kính hay ép buộc, liền sẽ dùng cái chết để giữ trọn danh tiết? Như vậy, vừa không phụ thâm tình tỷ đệ của Hoàng thượng, lại khiến thần oan uổng không thể biện bạch, cũng coi như chết có giá trị?”

Lông mày Tùy Đường càng chau chặt.

Lận Tắc nhìn người trước mắt, trong sáng đến cực điểm, thở nhẹ một hơi, chậm rãi dìu dắt tiếp lời: “Điện hạ đem độc giấu nơi hàm răng, việc lớn như thế, nếu để Hoàng thượng và Thái hậu hay biết, không rõ sẽ đau lòng đến nhường nào!”

Nghe đến đó, Tùy Đường mới ngẩn người.

Thì ra Lận Tắc lại nghĩ như vậy, lại hoàn toàn không nghi ngờ đến đệ đệ của nàng. Như vậy, chuyện vốn là tranh đấu triều chính giữa hai phe, hóa ra trong mắt hắn lại chỉ là nỗi oán hận riêng tư của một nữ tử đối với hôn sự.

Dù hắn có giận, thì cũng chỉ giận nàng mà thôi.

“Là cô hành xử l* m*ng, hạ sách trong lúc quẫn bách. Chỉ vì chưa từng gặp mặt ngươi, lại lớn hơn cô tám tuổi, nghe đồn ngươi hung dữ thô bạo, tính tình thất thường. Cô không muốn, mà cũng chẳng còn cách nào, đành ra hạ sách này.”

“Nếu đại nhân muốn bẩm tấu việc này lên Hoàng thượng và Thái hậu, cô không có gì để nói.” Tùy Đường lúc này đã hoàn toàn trấn tĩnh, khẽ nhướng mày, “Chỉ là cô muốn biết, Tư Không đại nhân làm sao biết được chuyện này?”

Lận Tắc lúc này cũng không nhìn nàng nữa, chỉ dán mắt vào bóng người trở nên nhòe nhoẹt trên bàn do ánh sáng mờ đi. Hắn vân vê má bóng hình ấy, thoắt lại khẽ chọc hai cái, như đang chọc vào chiếc răng kia trong thực thể.

“Điện hạ đã ở nơi của hạ thần, xung quanh đều là người của hạ thần. Hạ thần biết chút việc ấy, cũng là lẽ thường.”

Hắn ngẩng đầu, giọng mang ý trêu, “Điện hạ nên hỏi là, hạ thần vì sao bỏ lại tam quân, một mình rời trận, vượt nghìn dặm trở về phủ. Chẳng lẽ chỉ vì muốn lấy viên thuốc trong miệng người?”

“Đúng vậy!” Tùy Đường gật đầu, “Ngươi vì sao vượt nghìn dặm trở về?”

“Bởi vì… Điện hạ trong lòng hạ thần, còn quý hơn cả tam quân.” Lận Tắc ép ý cười nơi khóe môi, nhẹ nghiêng người sát lại gần Tùy Đường, “Điện hạ có tin chăng?”
 
Cùng Quân Kề Cận
Chương 7: Chương 7



Lời trêu chọc như vậy, dĩ nhiên là Tùy Đường không tin.

Sau đó, Lận Tắc cũng không nhiều lời, chỉ bảo chính sự bề bộn, rồi rời đi đến tiền nha Chính Sự Đường. Lúc đi còn để lại lời: ngày sau nếu có thiếu thốn hay cần dùng gì, cứ trực tiếp nói với hắn là được. Nếu hắn không ở đó, báo cho Thôi Phương lo liệu cũng không sao.

Đúng lúc Thôi Phương dẫn người mang thuốc đến, Tùy Đường uống xong, liền bảo với nàng: “Cô muốn hồi cung, ngươi bảo người chuẩn bị xe.”

Thôi Phương không phải người quản sự thông thường, mà là người của ám vệ doanh dưới trướng Lận Tắc. Ngày đó được phái đến chăm sóc Tùy Đường, kỳ thực là vì giám sát. Nàng ta đích thực có thể xử lý mọi việc trong phủ liên quan đến Tùy Đường, nhưng nếu rời khỏi phủ Tư Không, thì nhất định phải bẩm qua Lận Tắc.

Mà giờ đây, Lận Tắc đã vào Chính Sự Đường, nơi đó đã khép cửa. Theo quy củ nơi ấy, khi đã đóng cửa, không vì chính vụ thì không được thông báo.

Tùy Đường nói: “Tư Không đại nhân đã nói, nếu cô có việc cần, mà hắn không ở đó, thì nói với ngươi là được.”

Thôi Phương có chút khó xử: “Nhưng nô tỳ thực chưa nhận được chỉ thị mới nào của đại nhân cả.”

Tùy Đường thầm trách mình phản ứng chậm, lúc Lận Tắc nói câu ấy, lẽ ra nàng nên nói rõ ý mình. Chẳng qua, sau khi hắn đi rồi, nàng mới nhìn lại một ngày một đêm vừa qua, lòng mới thật sự an định, rồi lại không kìm được mà vui mừng, sinh ra tâm niệm muốn lập tức gặp thân nhân.

“Vậy thì ngươi đưa cô đến Chính Sự Đường, cô sẽ tự nói với Tư Không đại nhân.”

Thôi Phương vâng dạ nhận mệnh.

Song vệ binh ở Chính Sự Đường lại còn nghiêm khắc hơn cả Thôi Phương, hoặc giả trong mắt họ chỉ có Tư Không mà chẳng có công chúa. Chỉ lạnh nhạt nói một câu: “Phi chính vụ, không thông báo,” rồi chắp tay từ chối Tùy Đường.

Tùy Đường đứng yên trước cửa một hồi lâu, càng lúc càng thương cảm cho đệ đệ đang ngồi trên ngai vàng.

Giữa trưa, ánh nắng dìu dịu, gió thu nhẹ lướt. Tùy Đường ngồi nơi hành lang phía Đông, nghe được tiếng lá trúc xào xạc phía đối diện. Thôi Phương nói, bên Đông Chính Sự Đường là hành lang và đình tạ tứ bề, không trồng hoa cỏ; chỉ phía Tây là trúc mọc thành rừng. Tư Không đại nhân rất yêu thích trúc xanh.

Tùy Đường lơ đãng hỏi: “Hắn thích uống loại trà nào?”

Thôi Phương đáp: “Tư Không đại nhân thường uống Lư Sơn Vân Vụ.”

“Vậy thì pha một ấm đến đây.”

Thôi Phương chần chừ một chút, sau cùng vẫn vâng mệnh.

Nước sôi, trà chín, đến khi được mang đến thì đã nửa canh giờ trôi qua. Tùy Đường lại lần nữa đến trước cửa, vệ binh vẫn là những người ban nãy.

“Chính Sự Đường luận chính, dẫu sao cũng có lúc nghỉ, đem ấm trà này vào cho Tư Không đại nhân.” Tùy Đường dịu giọng bảo.

Vệ binh lại ngăn lại lần thứ hai: “Hồi bẩm Điện hạ, trong đường đã có trà, không cần bên ngoài đưa vào.”

Gió thu nổi lên, dải lụa trắng che mắt Tùy Đường nhẹ nhàng lay động. Một lát sau, nàng gật đầu, quay về hành lang.

Trước cửa Chính Sự Đường lại trở về yên tĩnh, vệ binh giáp đen đứng vững như tùng, bất động như sơn.

Tùy Đường rót trà ấy ra uống một mình.

Nàng chưa từng uống qua Lư Sơn Vân Vụ, cứ ngỡ như đa phần các loại trà khác, đều là nhấp nhẹ chậm rãi. Nào ngờ chỉ mới chạm một ngụm nhỏ, liền thấy hương thơm xộc mũi, mùi hoa quả thanh khiết vấn vương đầu lưỡi. Tựa như đặt chân giữa cốc núi sau cơn mưa, lá đọng sương, hoa ngậm ngọc, trái rừng chín mọng, tỏa ra mùi thơm chín muồi đầy hấp dẫn.

Tùy Đường đang định tán thưởng trà này tuyệt hảo, chợt cảm thấy đầu lưỡi dâng lên vị đắng nhàn nhạt. Chưa kịp phản ứng, vị đắng đã lan khắp khoang miệng, khiến nàng nhíu chặt mày ngài, chỉ hận không thể nhả ra hết phần trà chưa nuốt. Chỉ là quanh thân toàn là nô tỳ, đành che miệng nuốt xuống.

Thôi Phương thấy nàng đột nhiên khó chịu, vội tiến đến hầu hạ.

“Nước… nước…”

Thôi Phương nghe vậy, lập tức rót trà đưa tới.

“Điện hạ, chậm một chút.”

Tùy Đường nhận lấy, vừa ngửi thấy hương quen thuộc thì liền đặt chén trà xuống, thở dài bật cười.

Nàng vốn muốn súc miệng bằng nước lã để xua đi vị đắng, nhưng Thôi Phương lại hiểu sai.

“Điện hạ, có chuyện gì vậy?” Thôi Phương thấy trà đổ gần hết, sợ tay áo Tùy Đường bị ướt, liền ra hiệu cho tỳ nữ thu dọn, còn mình thì chuẩn bị dâng thêm một chén nữa.

“Không sao, cứ để đó.” Tùy Đường nghiêng đầu, ánh mắt tràn đầy chán ghét.

Trà khác thì đắng trước ngọt sau, loại này thì ngược lại, thật khó hiểu!

Làm gì có ai lại thích uống thứ này?

Trong Chính Sự Đường, chư tướng đang bàn luận quân vụ, cũng sắp kết thúc. Lận Tắc đứng trước cửa sổ trầm tư, người và cảnh nơi hành lang phía Đông hiện rõ trong mắt, không chút che giấu.

“Hôm nay còn mấy chuyện cần xử lý?” Hắn liếc nhìn công chúa sắc mặt lộ rõ buồn vui, liền thuận miệng hỏi.

“Còn một việc, liên quan đến chiêu hiền lệnh.”

Người đáp là Thượng thư lệnh Khương Hạo, xuất thân đại tộc Tương Dương, đời đời làm quan nước Tề, là người đứng đầu thế gia Tương Dương. Năm nay vừa qua bốn mươi, diện mạo tuấn tú, phong thái đoan chính. Hiện giữ chức Thượng thư lệnh, được thiên hạ kính xưng “Giang Lệnh Quân”. Việc chuyển thiên tử đến Lạc Dương khi xưa, chính là do y đề nghị với Lận Tắc.

“Chiêu hiền lệnh được phát ra vào tiết Trùng Xuân, đến cuối tháng Sáu, các nơi tiến cử hiền tài được tổng cộng bốn mươi tư người. Trong đó mười tám người là thích khách, đã được loại bỏ, còn lại hai mươi sáu người, có hai mươi hai người hạ quan đã xét tuyển, dự kiến bổ nhiệm vào các bộ phận thuộc Cửu Khanh.” Khương Hạo cầm lên một quyển tấu chương, nói tiếp: “Còn lại bốn người, là bậc đại tài, chỉ là đạo đức còn cần cân nhắc, mong Tư Không đích thân gặp mặt định đoạt. Hiện đều đang chờ ngoài đường, đặc biệt là Nhữ Nam Tiền Bân, là người đứng đầu kỳ này, Tư Không có muốn gặp chăng?”

“Người đã định dùng thì cứ bổ nhiệm, việc này giao cho Lệnh Quân, ta yên tâm.” Lận Tắc xoay người không nhận tấu chương, chỉ vỗ nhẹ vai Khương Hạo, “Còn bốn người còn lại, ta vừa mới về, có phần mỏi mệt. Lệnh Quân chọn ngày khác, ta sẽ cùng xem.”

“Hôm nay đến đây thôi, trừ Chấp Kim Ngô, các người lui hết đi.”

Chúng tướng chắp tay rút lui, Lận Tắc ra hiệu cho Lận Thử đợi mình, còn mình thì rẽ sang hành lang phía Đông.

“Điện hạ tìm thần có việc?” Lận Tắc liếc qua trà trên bàn đá, rót lấy một chén.

“Tư Không đại nhân rõ ràng nói, nếu cô có việc thì cứ tìm Thôi chưởng sự. Nhưng khi cô thật sự cần, thì lại không được. Vậy lời của Tư Không đại nhân, rốt cuộc có đáng tin không?” Tùy Đường đã chờ gần một canh giờ, trong lòng tất nhiên sinh giận.

Lận Tắc khẽ hít hương trà, ngẩng đầu nhìn gương mặt kiều diễm của nàng, nói: “Là lỗi của thần, rời Trường Trạch Đường rồi lại chưa kịp dặn dò bọn họ, khiến Điện hạ bị cản trở.”

Hắn giơ tay gọi trưởng sử Chính Sự Đường: “Hôm nay ai giữ cửa Chính Sự Đường? Ngay cả Điện hạ cũng dám ngăn!”

“Không liên quan đến họ, họ là tuân mệnh hành sự, ngươi không cần trách phạt họ,” Tùy Đường đứng dậy, hối hận vì giận dữ mà liên lụy người khác, giọng cũng dần dịu lại, “Cô cũng chẳng có việc gì gấp.”

“Ai bảo thần sẽ phạt họ?” Lận Tắc nhấp ngụm trà, cười nói: “Họ xuất thân quân ngũ, giữ vững quân kỷ, không sợ uy quyền, đáng được khen thưởng. Thần đã nói rồi, để Điện hạ phải chờ lâu, toàn bộ là lỗi của thần. Nếu có trách phạt, cũng nên là thần gánh chịu.”

Tùy Đường thoáng nghẹn lời. Cảm thấy lời hắn nói vừa đúng lại vừa khiến người không dễ chịu, nhưng lại không rõ là không dễ chịu ở đâu. Lặng một hồi, nàng chẳng buồn truy xét, chỉ nói: “Cô muốn hồi cung thăm mẫu hậu.”

Lận Tắc gật đầu: “Thần còn có việc phàm trần chưa xong, giờ không thể cùng đi, để Thôi Phương hộ tống Điện hạ hồi cung, được chăng?”

Tùy Đường không ngờ Lận Tắc lại dễ dãi như vậy, liền tươi cười: “Tất nhiên là được.”

Lận Tắc đặt chén trà xuống, nghiêng người đến cạnh nàng, đưa tay lên.

Hôm ấy, hắn vận một thân tam trọng trường bào, cổ giao tay rộng, khi nâng cánh tay lên, tay áo liền chỉnh tề rũ xuống, theo gió lặng lẽ lay động. Lúc Tùy Đường vừa bước tới nghiêng người, tay nàng khẽ chạm vào vạt áo hắn.

Vải áo mượt mà, mềm mại mà vững chãi, cánh tay kia tuy khiến nàng loạng choạng một thoáng, song trong chớp mắt đã đỡ vững lấy thân nàng. Nếu nàng chẳng đui mù, hẳn có thể thấy rõ dáng hắn nghiêng nửa vòng, tựa như ôm lấy vào lòng, rộng lớn mà vững vàng.

Song lúc ấy, Lận Tắc chỉ qua lớp xiêm y nhẹ nhàng nắm lấy cổ tay nàng, cung kính nói: “Thần xin dẫn đường cho Điện hạ.”

*

Ngoài cửa phủ, thiếu niên đưa mắt trông theo cỗ xe ngựa đi xa, mãi đến khi thân xe quành góc khuất bóng, mới chậm rãi quay về chính sự đường.

“A huynh giữ ta lại có chuyện gì? Ta đang vội đến Hồ Quán Lưu.” Lận Thử vừa nói vừa gảy ngón tay đẩy một lá cờ trắng đại biểu cho Vệ Thái trên đồ bàn, giọng gấp rút, “Ta nghe nơi ấy quân ta chiếm thế thượng phong, nay phải thừa thắng truy kích, sao huynh lại chọn thời điểm này mà hồi triều?”

Sáng sớm nay, Lận Thử nghe tin Lận Tắc hồi phủ, ban đầu tưởng nhầm lệnh phòng thành, đến tận giờ ăn sáng khi chánh bạ đến báo mời luận chính nơi Chính Sự Đường, y mới biết huynh trưởng quả thực đã về.

Như lời y nói, hiện tại Lận Tắc đang cùng Vệ Thái tranh đoạt Hồ Quán Lưu, cục diện đang vào giai đoạn giằng co. Hồ Quán Lưu là yếu đạo Nam phạt, nếu chiếm được nơi ấy, không những có thể khai thông ải trọng yếu, mà còn lấy làm nơi tích trữ lương thảo hậu cần cho những chiến dịch kế tiếp.

Đại Tề mười ba châu, lấy Kim Giang chia làm Nam Bắc. Bắc có chín châu, Nam còn bốn. Từ năm thứ ba thời Túc Đế, khi lửa loạn đốt chư hầu, quyền lực rơi vào tay hoạn quan, các chư hầu lớn nhỏ tự xưng vương, cát cứ đất đai, đến nay đã gần sáu mươi năm phân liệt.

Lận thị vốn chẳng phải vọng tộc, chỉ là gia thương buôn ngựa nơi Lạc Dương.

Ba mươi năm trước, vẫn còn thời Túc Đế trị vì, mục Lạc Dương là Hoắc Tung bất mãn chuyện bị nội thị liên tiếp bóc lột sưu cao thuế nặng, thương xót lê dân khổ sở, bèn khởi binh tự lập làm Đông Đô vương. Phụ thân Lận Tắc là Lận Ung kính phục lòng vì dân của Hoắc Tung, dâng ngựa và vàng bạc theo phò.

Thương gia vốn bị thế tục khinh miệt, song trong thời loạn, tài phú cuồn cuộn và giao du rộng rãi với các hào kiệt giang hồ lại hóa thành báu vật vô giá. Lận Ung từ ấy được coi là khách quý bên cạnh Hoắc Tung, giữ chức Hiệu úy. Người này thông minh quả cảm, nghĩa khí trượng nghĩa, theo Hoắc Tung chưa đầy ba năm đã học được binh pháp, tham gia chiến trận, được quân tâm kính phục.Quảng cáo

Về sau đem quân bình loạn hoạn quan, cứu giá tại Trường An, một trận lập đại công, danh vang thiên hạ. Sau khi Hoắc Tung mất, Lận Ung thuận thế tiếp nhận binh quyền, lấy chữ “Đông” trong Đông Đô vương, chữ “Cốc” trong “lương cốc” – căn cơ dân sinh, cùng mười hai vạn binh đổi thành “Đông Cốc quân”, tự xưng chư hầu một phương. Cùng năm, Túc Đế băng hà, Thái sư Phạm Hồng phò Lương vương lên ngôi, chính là tiên hoàng Lệ Đế.

Năm Lệ Đế thứ mười lăm, Phạm Hồng chuyên quyền loạn chính, mười ba lộ chư hầu tiến kinh phò vương, Lận Ung giết Phạm Hồng, treo thủ cấp hắn nơi đại đạo Chu Tước thành Trường An, công lao xếp đầu. Khi mọi người còn đang chúc mừng, hắn sơ suất khinh địch, bị mục Ký Châu là Vệ Thái mai phục ám sát, cùng trưởng tử tử trận tại Trường An.

Đông Cốc quân như rắn mất đầu, giao tranh với Vệ Thái ngoài thành Trường An, dần rơi vào thế hạ phong. Chư hầu các nơi chỉ đứng nhìn, thiên tử càng muốn ngồi chờ mà hưởng lợi. Vệ Thái đắc ý muốn một trận diệt sạch Đông Cốc quân, tự xưng đứng đầu chư hầu.

Tình thế đến nước ấy, không ai ngờ được, người con thứ Lận Tắc đang âm thầm dưỡng ngựa nơi Lương Châu lại âm thầm dẫn mật tử nam hạ, khí thế như chẻ tre, năm ngày vượt ngàn dặm.

Phụ tử Lận thị ngã bởi kiêu binh, xoay ngược lại, Vệ Thái cũng sa vào vết xe đổ. Ngạo mạn quá đỗi, rốt cuộc tự hại chính mình. Một lão tướng bốn mươi lăm tuổi, từng trăm trận trăm thắng lại chẳng địch nổi thiếu niên mười lăm, vội vàng thua trận mà tháo lui về Ký Châu.

Từ đó, Lận Tắc nhận chức mục Lạc Châu thay phụ thân, thống lĩnh Đông Cốc quân trấn giữ Trường An, trở thành thủ lĩnh trẻ tuổi nhất trong mười ba lộ chư hầu. Năm năm sau, Lệ Đế băng hà, Lận Tắc phò Thái tử mười tuổi là Tùy Lâm đăng vị. Lại năm năm nữa, đến nay, năm châu Tây Bắc đạo đều đã nằm trong tay hắn.

Hiện tại chư hầu còn lại, chỉ có Vệ Thái – kẻ nắm giữ bốn châu Đông Bắc đạo, và bốn lộ chư hầu phương Nam bên kia Kim Giang.

Theo lý, nên nhất thống chín châu phương Bắc trước để hậu hoạn không còn. Nhưng Lận Tắc tiên phát chế nhân, uy h**p thiên tử về Lạc Dương, khiến Vệ Thái thấy mình yếu thế mà không cam chịu luẩn quẩn ở Đông Bắc đạo, bèn hành quân hiểm, hòng chiếm lấy Hồ Quán Lưu – vùng đất kẹp giữa Đông Tây đạo – làm chỗ đứng lâu dài. Thế nên Lận Tắc mới phát binh nghênh chiến.

Như vậy mà xét, việc hắn rút quân từ Hồ Quán Lưu về lúc này quả chẳng hợp lý.

“Không lẽ huynh trọng thương chăng?” Lận Thử chồm người định vạch áo huynh trưởng tra xét, “Nửa tháng trước thư gửi nói huynh xung phong dẫn đội, trúng tiễn trọng thương, phát sốt hôn mê mấy ngày, chẳng lẽ nay phải hồi phủ dưỡng thương?”

“Bị chỗ nào? Để ta xem, ta đi gọi ngự y.”

“Quay lại! Chỉ là vết thương ngoài da, không đáng ngại.” Lận Tắc chỉnh lại áo bào, tay xoa nhẹ cánh tay trái còn chưa khỏi hẳn, thần sắc nhất thời ngơ ngẩn, lát sau mới nói, “Nơi ấy tuy ta chiếm thượng phong, song cũng chẳng được lợi bao nhiêu. Vệ Thái sắp cạn lương thảo, ta cũng bị thương, tiếp tục giằng co vô ích, nên mới tạm thời rút quân. Kỳ thực đệ cũng chẳng cần đến đó!”

“Không được, ta phải đến giám sát, chờ Vệ Thái rút khỏi Hồ Quán Lưu mới yên tâm được.” Lận Thử trở lại vấn đề chính, “A huynh giữ ta lại, là vì chuyện ngày thành hôn?”

“Phải, hôm đại hôn…” Lận Tắc đột nhiên dừng lời, khẽ tựa người vào ghế trúc, đưa tay day nhẹ mi tâm, thần sắc thoáng chút mỏi mệt tiêu điều.

Lận Thử chỉ tưởng huynh trưởng nhiều ngày bôn ba mỏi mệt, chẳng nghĩ nhiều, liền tiếp lời rằng: “Chúng ta quả thật phải dùng con mắt khác mà nhìn vị thiên tử này. Bề ngoài y tỏ ra run sợ, không dám nhận bốn trăm tuấn mã, lại còn đem trả hết về, sau thấy Vệ Thái phát binh, vội gả chị ruột để lấy lòng huynh, nhưng kỳ thực trong tối lại chẳng thể khinh thường. Ta theo kế của huynh, điều động người trong Ám Vệ doanh giả trang thành thủ hạ của Vệ Thái, đánh úp kiệu hoa, cùng Hổ Bí quân bảo hộ kiệu hoa giao chiến. Bọn kia thân thủ phi phàm, không phải loại Hổ Bí quân tầm thường, lại có thể toàn vẹn bảo hộ công chúa. Huynh tính không sai, thiên tử ngay dưới mí mắt chúng ta mà vẫn có thể âm thầm huấn luyện tử sĩ, chỉ không rõ nhân số cụ thể là bao nhiêu.”

Ấy là kế nhất tiễn song điêu của Lận Tắc: một mặt ám sát công chúa, một mặt dò xét thực lực võ nghệ của Hổ Bí quân. Nếu ám sát thành công, hắn sẽ nhân cớ thoái hôn, lại có thể đổ tội cho Vệ Thái; nếu thất bại, thì cũng là bằng chứng cho thấy thiên tử thực sự có nhân thủ lợi hại, để hắn kịp thời đề phòng.

“A huynh?” Lận Thử thấy Lận Tắc trầm mặc hồi lâu, không khỏi cất tiếng gọi.

[Nghi trượng bị mã tặc kinh ngựa ở đường Đồng Đà, cô bị đụng vào kiệu, máu tụ lên não, hai mắt mù lòa…]

[Ba hận đôi mắt mù lòa, chưa từng được thấy dung nhan lang quân…]

Bên tai Lận Tắc lảng vảng mãi không dứt là những lời thì thầm tiền kiếp của nữ nhân ấy. Trong tay áo hắn nắm chặt một bình ngọc trắng dài một tấc, đầu ngón tay trắng bệch.

“A huynh—”

Lận Tắc khẽ mỉm cười với y, ý bảo cứ tiếp tục nói.

“Tiểu đệ chỉ lấy làm lạ, sao huynh đoán được thiên tử có huấn luyện tử sĩ?”

“Thiên tử chọn lúc Vệ Thái xuất chinh, từ vùng Trướng Hà đất Nghiệp nghìn dặm xa xôi mà đón công chúa trở về, một thân vào hang hùm, nếu không có thủ hạ bản lĩnh, sao dám hành động? Có điều, luyện tử sĩ chẳng phải chuyện ngày một ngày hai, mà thiên tử thì ở trong cung, phần nhiều e là chủ ý của ngoại thích họ Hà.” Lận Tắc mỉm cười nói, “Song thiên tử có được khí phách ấy, vượt xa Túc Đế, Lệ Đế, cũng chẳng uổng là con cháu của Cao Tổ Hoàng Đế.”

“Đón công chúa về, rồi ban hôn để tỏ thiện chí—” Lận Thử trầm ngâm, “Chuyện có thể đơn giản thế sao? Hà Tuần và đám người hắn, ai nấy đều là cáo già.”

“Vậy đệ nghĩ bọn chúng sẽ làm gì?”

“Cho công chúa ngầm hạ sát.” Lận Thử bật cười vì suy đoán của chính mình, “Chỉ là tiểu đệ nhìn công chúa như tấm lụa trắng, e là dao còn cầm không chắc, hạ độc lại càng không thể, xung quanh nàng toàn là người của chúng ta.”

“Hay là mỹ nhân kế?” Lận Thử khoát tay, “Tóm lại trời giúp huynh, không ai ngờ công chúa nay đã mù, muôn sự khó thành.”

Trong lòng bàn tay Lận Tắc vẫn còn nắm chặt bình ngọc ấy, năm ngón khẽ day mãi, một lúc sau mới nói: “Đệ về nghỉ ngơi trước đi. Ngày mai lên đường, trên đường cẩn trọng. Nhân tiện gọi Lâm Quần đến đây, ta còn chuyện phải hỏi.”

Lận Thử rời đi chưa bao lâu, Lâm Quần đã đến.

Lận Tắc lấy ra bình ngọc trắng, đổ ra một viên Đan Chu, nói: “Xem thử dược tính thế nào, độc tố bao nhiêu, nói rõ cho ta biết.”
 
Cùng Quân Kề Cận
Chương 8: Chương 8



Viên Đan Chu này có hai đặc điểm trọng yếu.

Thứ nhất, ngoài bọc sáp ong, nếu không cố ý mài mòn thì chí ít nửa năm chẳng tiêu tan; nếu lại cẩn trọng trong việc ăn uống, có thể kéo dài thêm ba tháng. Như vậy, một khi đưa vào răng miệng của Tùy Đường, ít nhất có thể bảo đảm chín tháng vô sự.

Thứ hai, bản thân Đan Chu là một vị độc dược phát tác chậm. Khi nhập vào cơ thể, sẽ dần ăn mòn tạng phủ, thẩm thấu qua da thịt, cần tròn một năm mới bộc phát. Đến khi phát tác, dù có điều dưỡng trị liệu, thì cũng chỉ sống thêm được một năm rưỡi đến cùng lắm là ba năm.

Thế nên một khi hạ độc thành công, mệnh của Lận Tắc liền bước vào hồi đếm ngược, còn dư ba bốn năm thời gian.

Trong ba bốn năm ấy, với sự tín nhiệm mà thiên tử hiện nay đang dành cho hắn, với tài cán của hắn, có thể trừ Vệ Thái, có thể chinh phạt phương Nam. Kết cục tốt nhất là thống nhất mười ba châu, sau đó độc phát mà vong mệnh, thiên tử ngồi nhìn mà thủ lợi. Lùi một bước, dù chết trên đường chinh Nam, thì đến khi ấy, hắn cũng không còn quan trọng nữa, thiên tử hoàn toàn có thể tiếp quản, chỉ phí chút tâm lực là xong.

Thế gian không có kế sách nào hoàn mỹ hơn thế.

Giết người mà dùng được thân người, quả thực thiên y vô phùng.

*

Tại thiên điện của Điện Cần Chính, thiên tử ngự trên bảo tọa, nghe tỷ tỷ kể lại tình hình mấy ngày nay, chỉ cảm thấy bao năm khổ tâm toan tính đều đổ sông đổ bể. Tay giơ cao chén trà muốn ném xuống đất để trút giận, nhưng trong khoảnh khắc cầm lên lại cố kìm nén, hồi lâu mới đặt trở lại bàn dài. Lòng bàn tay khum lấy chén trà, một tay dán lên thành chén, ra sức níu giữ một chút cảm giác chắc chắn.

Y kém Tùy Đường hai tuổi, vừa qua mười lăm vào tháng Bảy. Diện mạo giống mẫu hậu, tư dung tú lệ. Lúc này, trên mặt ngọc xuất hiện mồ hôi, lớp áo trong sau lưng đã ướt sũng.

Miệng khô lưỡi rát, chén trà ở ngay trong tay lại không dám động một ngụm.

Phẫn nộ đã bị khiếp sợ thay thế.

Lận Tắc lại có thể biết rõ đến cả chuyện Đan Chu.

Hai năm chuẩn bị, nắm đúng thời cơ, tung ra một đòn chí tử, thế mà lại bị phá giải nhẹ như không.

“A đệ—” Tùy Đường quỳ bên trái, nói xong đã lâu mà vẫn chưa thấy thiên tử lên tiếng, lại nghe hơi thở y nặng nề, bèn an ủi: “Chẳng phải đã nói rồi sao, Lận Tắc tưởng là chủ ý của ta, chẳng nghi ngờ gì đến đệ cả.”

Thiếu niên thiên tử rốt cuộc cũng có chút phản ứng, ngẩng đầu nhìn tỷ tỷ, giây lát sau đứng dậy, đi đến đối diện nàng, gập người nắm lấy tay nàng, hỏi: “A tỷ chắc chắn hắn không nghi ngờ trẫm?”

Tùy Đường hồi tưởng kỹ lưỡng, nghiêm trang gật đầu: “Ta chắc chắn hắn không nghi ngờ đệ. Nói thật, khi hắn lấy đi Đan Chu, ta cũng sợ, sợ hắn biết được đó là chủ ý của đệ, đến lúc đó sẽ trở mặt. Nhưng không ngờ hắn lại nghĩ như thế. Vậy nên, ta thấy cũng là chuyện tốt. Nghĩ mà xem, ta giờ đã mắc bệnh về mắt, bên người toàn là người của hắn, căn bản chẳng có cơ hội ra tay, kế hoạch ấy cũng coi như phế bỏ. Nếu còn không lấy ra, e rằng đến mạng ta cũng không giữ được, như thế chẳng phải quá thiệt sao? Nay thì tốt, ta vẫn bình an, đệ và mẫu hậu cũng không cần lo lắng nữa. Chẳng phải người xưa đã dạy, còn núi xanh, sợ gì không có củi đốt? Dù sao ta còn ở bên hắn, tương lai rồi sẽ có cơ hội.”

So với ngày xuất giá, khi vừa nhét thuốc vào kẽ răng, ăn uống không yên, nói năng dè dặt, thì Tùy Đường giờ đây đã thoải mái tự nhiên, lời nói tuôn ra không dứt. Nàng rút một tay về vỗ lên mu bàn tay đệ đệ, uống hết nửa chén sữa còn âm ấm, lại nói: “Ta không hiểu rõ phẩm hạnh Lận Tắc là người thế nào, nhưng hôm nay có một chuyện, thấy y trị quân nghiêm minh, thưởng phạt phân minh, giữ vững nguyên tắc, cũng không phải là kẻ vô dụng.”

“Chuyện gì?” Tùy Lâm nghe thế, sắc mặt trầm xuống.

Tùy Đường thấy tay a đệ lạnh toát, liền lấy khăn trong tay áo ra lau mồ hôi cho y, vừa lau vừa chậm rãi kể lại chuyện xảy ra hôm nay tại Chính Sự Đường.

*

Giữa giờ ngọ, cửa Chính Sự Đường rộng mở, gió thu nhẹ thổi qua ánh nắng, lướt vào trong điện.

Lâm Quần chuyên về ngũ quan, tuy không phải cao thủ trong việc chế độc, nhưng đã nếm trăm loại thảo dược, tinh thông y thư. Lúc này dẫn theo học trò tinh thông y lý là Đổng Chân, hai người trong hai canh giờ đã phân tích rõ ràng hai đặc tính chính của viên Đan Chu, giảng giải cặn kẽ.

Lận Tắc một tay chống cằm, một tay cầm quạt, dùng mũi quạt khều viên đan dược đỏ au đã bị cắt nửa: “Ngươi xuất thân từ Thái y thự, nơi ấy ngươi quen thuộc, còn có những ai tinh thông tay nghề tinh xảo thế này?”

“Vương Giản.” Lâm Quần đáp.

“Không còn ai khác sao?” Lận Tắc gẩy viên thuốc, không cẩn thận làm rơi xuống đất, bèn cúi người nhặt.

Lâm Quần không kịp, phải vội lùi lại.

“Độc và thuốc vốn không tách rời. Chỉ cần là Thái y lệnh chuyên nghiên cứu ôn dịch, ít nhiều đều hiểu chút ít.” Một giọng nữ vang lên, là nữ y mặc nam trang tên Đổng Chân, tranh lời sư phụ mà đáp.

Lận Tắc đặt viên thuốc trở lại trên bàn, liếc nhìn nàng, mỉm cười.

“Còn có Quảng Mặc, Trịnh Thanh, Ôn Trí, Từ Hoa bốn người.” Lâm Quần liếc Đổng Chân, bước lên che nàng sau lưng, nói tiếp: “Họ đều là cao thủ điều chế dược vật, các đệ tử nhập môn của họ cũng giỏi hơn thầy thuốc thường.”

Lận Tắc gật đầu: “Ngươi đi mời họ, nói là bản Tư Không thân thể bất ổn, muốn nhờ họ xem qua.”

Lâm Quần lĩnh mệnh rời đi.

*

Ra khỏi phủ Tư Không, xe ngựa đi một đoạn xa, nét mặt gầy gò của thiếu nữ đầy vẻ lo âu, thấp giọng hỏi sư phụ: “Vì sao phải bẩm báo rõ ràng đến vậy?”

Nữ lang xưa nay cung kính, lúc này trong giọng nói lại mang vài phần chất vấn.

“Vậy ngươi trả lời lấp lửng là vì điều gì?” Lâm Quần nhắm mắt nghỉ ngơi.

“Chuyện hôm nay hiển nhiên có người muốn hại Tư Không đại nhân, vật chứng cũng đã vào tay người. Nếu điều tra rõ rồi xử tội thì không nói làm gì. Nhưng người lại nói ra năm người, nếu trong đó có người vô tội thì sao…”

“Cho nên ngươi mưu đồ ‘pháp bất trách chúng’, muốn kéo toàn bộ quan viên nghiên cứu ôn dịch xuống nước?”

Thiếu nữ bị nói trúng tâm sự, nghiến răng nói: “Quan viên Thái y lệnh chuyên ôn dịch có đến gần trăm người, chẳng lẽ Tư Không đại nhân lại đem họ giết sạch?”

Lâm Quần ngẩng đầu dựa vào vách xe, trên mặt ẩn hiện nụ cười.

“Lời đệ tử có chỗ sai?” Đổng Chân chắp tay, “Mong người chỉ giáo một hai.”

“Mười năm trước, phụ huynh của Tư Không đại nhân bị Vệ Thái mai phục giết hại ở Trường An. Người đời cho là họ vì kiêu căng nên sơ suất. Quả có phần như vậy, nhưng lão tướng quân chinh chiến nhiều năm, sao có thể sơ ý đến thế? Kỳ thực, nội bộ Đông Cốc quân đã có nội gián, lộ hành quân đồ cùng thời khắc nghỉ ngơi của các tướng. Khi ấy chỉ bắt được hai người hành thích, bị xử tử, nhưng đại sự như vậy, trong quân tất có kẻ tiếp ứng. Điều tra một tháng, nghi phạm hơn trăm, không thể nhận diện thêm. Trong số đó có không ít tướng trung tầng, cũng có lão tướng theo lão tướng quân lập nghiệp từ đầu. Chư tướng liền khuyên: nếu vì một hai gian tế mà giết nhầm trăm người, e tổn hại lòng quân, chi bằng từ từ điều tra. Kết quả thì—”

Lâm Quần dừng lại giây lát, Đổng Chân vội hỏi: “Tư Không đại nhân đã giết sạch hơn trăm người?”

Lâm Quần trầm mặc chốc lát: “Tư Không đại nhân chém hai ngàn người. Khi ấy, toàn bộ kẻ có liên hệ với hơn trăm người kia đều bị xử tử.”

“Thà giết lầm nghìn người, quyết không bỏ sót một kẻ? Kẻ trong sạch có tội tình gì!” Đổng Chân kinh hoảng, “Dẫu là vì nghiêm trị quân kỷ, nhưng khó tránh làm rạn lòng quân, hậu hoạn khôn lường.”

“Việc tương lai có hậu hoạn hay không, hay có tổn hại lòng quân chăng, vi sư không rõ. Nhưng vi sư theo Tư Không đại nhân hành quân nhiều năm, biết rằng từ đó đến nay, mười năm chưa từng có một ‘nguyên lão’ nào dám chỉ trích đại nhân, cũng không còn chuyện gián điệp ẩn nấp nhiều năm, đều bị bộ tướng tranh nhau chém giết ngay từ đầu. Vi sư còn biết, chính bởi vì trị quân như thế, mười năm nay Tư Không đại nhân đã bình định năm châu Tây Bắc.”

Lúc này Lâm Quần mới mở mắt, hỏi lại đồ đệ trước mặt: “Tổ tiên ngươi quê ở đâu?”

Thiếu nữ nghẹn lời, bởi quê quán nàng vốn tại Ung Châu, chính là một trong năm châu thuộc Tây Bắc đạo, là châu thành đầu tiên bị công phá sau khi Lận Tắc khởi binh xuất chinh từ Lương Châu. Sau khi Đông Cốc quân tiếp quản địa phương, liền điều binh chuyển giáp, hưng công tu lý thủy lợi, tưới tiêu ruộng đồng, đến năm thứ ba thậm chí còn lập y quán, mở học đường, mà nàng chính là một trong những kẻ đầu tiên được hưởng phúc ấy.

Bởi vậy bốn năm trước, lúc Ung Châu chiêu binh, nàng nhờ y thuật mà nhập ngũ làm quân y, sau lại bái nhập môn hạ của Lâm Quần。

Cũng chính vì thế, dù từ thuở khai trí đã học đạo thánh nhân, biết rõ cương thường quân thần, nàng vẫn tâm cam tình nguyện mà theo sau Lận Tắc. Thế nhưng lúc này, thiếu nữ chỉ cảm thấy ngũ vị tạp trần, những khôn khéo tự phụ thuở trước hóa ra lại khiến lông tóc dựng đứng.

Năm vị Thái y lệnh bị điểm danh, hôm nay có ba người trực nhật, xe ngựa của Lâm Quần liền từ từ tiến về phía cửa cung.

Trong Cần Chính Điện nơi hoàng cung, thiên tử sau khi nghe xong lời kể của trưởng công chúa, bèn cười than: “A tỷ quả là đơn thuần quá đỗi. Lận Tắc kia cố tình làm như vậy, người người đều tưởng hắn cản trở công chúa thì tất bị trách phạt, mà hắn lại đi ngược lẽ thường, chẳng phải chính vì muốn lấy được lời ngợi khen từ tỷ sao?”

Tùy Đường bình thản đáp: “A đệ từng nói, hắn khinh nhờn hoàng quyền, coi thường quân chủ, trái đạo làm tôi. Nếu đã là như thế, tất nhiên chẳng đặt lời khen chê của ta vào mắt. Huống hồ, hắn có phải cố ý làm vậy hay chăng, hay vốn đã quen cách dụng binh như thế, chỉ cần dò hỏi đôi chút là biết rõ.”

Tùy Lâm nhíu mày, mắt dài lông mày mảnh, giọng mang vài phần uất uất không vui: “A tỷ đã quên ngày đại hôn của mình, hắn cũng chẳng trở về? Hay là đã quên đêm đầu nhập phủ, chính tay hắn sai người c** s*ch y phục của tỷ? Ta nói hắn vô lễ với hoàng quyền, khinh thường quân chủ, nào có chút nào oan uổng? Tỷ mới vào phủ được bao lâu, sao đã nói đỡ cho hắn? Chớ quên chính tỷ cũng từng bị hắn ngăn ngoài cửa, đường đường là một công chúa mà bị thần tử ngăn chặn, thế còn chưa đủ để thấy rõ lòng người sao?”

Tùy Đường thở dài: “Những điều ấy ta chẳng quên. Chỉ là nhớ trong sách ‘Đồng Giám’ có chép: người có thể phân theo tài đức làm bốn loại — Thánh giả tài đức vẹn toàn, Phàm giả có đức mà không tài, Nguy giả có tài mà không đức, còn Liệt giả thì tài đức đều mất. Theo lời a đệ, thì Lận Tắc chính là loại Nguy giả, người có tài mà vô đức. Trước kia mẫu hậu từng than rằng biểu huynh trong ngoại tộc chẳng ai chịu nổi gian khổ quân ngũ, cũng không giữ nổi quy cũ, không thể giao cho binh quyền, khiến a đệ thiếu người để dùng. Hôm nay ta thấy hắn trị quân nghiêm minh, mới nảy sinh suy nghĩ: nếu hắn thật lòng quy phục, cũng chưa hẳn không thể thành hiền thần lương tướng. Cớ gì cứ phải lấy mạng hắn mới xong?”

Tùy Lâm chợt phất tay áo, đứng bật dậy mà quát lớn: “A tỷ còn dám nói không bênh vực hắn? Chính tỷ đi ám sát hắn, mà trở về lại cầu xin cho hắn một con đường sống!”

Tùy Đường cũng đứng dậy, khẽ ra hiệu cho Trung quý nhân dìu đến bên long án, an tĩnh nói: “A đệ hiểu lầm rồi. Ta vào phủ Tư Không mấy hôm, từ khi bị lột áo, đến việc tùy tùng bị đuổi, rồi cả việc Đan Chu bị phát hiện, đã thật lòng cảm nhận rõ lòng dạ sâu hiểm, thủ đoạn cứng rắn của hắn. Nhưng trùng hợp hôm nay lại chứng kiến tài năng của người ấy, nên mới nghĩ nếu có thể quy phục hắn, là phúc cho toàn cõi Đại Tề.”

“Còn nói ta vì hắn mà nói đỡ lời, thật là buồn cười. Ta cùng hắn chỉ là phu thê hữu danh vô thực, đến dung mạo hắn thế nào còn chẳng biết. Ta chẳng qua là sợ trong cuộc đấu trí giữa hai người, hắn tổn thương đến đệ.”

Nói đoạn không thấy hồi âm, nàng dịu giọng khuyên: “Chớ giận nữa, chẳng phải a đệ từng nói, sau này vào cung khó khăn, hôm nay đã về một lần, thì bàn chuyện chính đi. Ta cần làm gì, đệ cứ dặn dò.”Quảng cáo

Tùy Lâm sớm đã nguôi giận, chỉ phất tay bảo Trung quý nhân lui, đích thân dìu a tỷ dạo bước dưới cửa sổ: “Bao năm nay, trong triều kẻ chỉ biết phủ Tư Không mà không nhận Thái Cực Cung ngày càng nhiều. Nếu chẳng phải hoàng thất Đại Tề ta ba trăm năm dựng nước, được dân lòng ủng hộ, thì trẫm sợ đã thành kẻ mất nước rồi. Vừa rồi lời a tỷ, nghĩ lại cũng có lý, chẳng qua là nghe tỷ nói tốt cho hắn, lòng ta liền bất an.”

Thiếu niên giọng nghẹn ngào: “Sợ rằng đến a tỷ cũng rời bỏ trẫm mà đi, để trẫm thành kẻ cô đơn, lẻ loi không nơi nương tựa. Đệ sợ.”

Cô đơn, lẻ loi, không nơi nương tựa.

Tám chữ ấy lọt vào tai, Tùy Đường sinh lòng áy náy.

Chẳng ai hiểu được tám chữ đó hơn nàng.

Nàng siết chặt tay a đệ, trong tâm tưởng lại hiện lên mười hai chiến thuyền căng cờ vương dựng ngang sông Chương: “A đệ chớ sợ, a tỷ vĩnh viễn sẽ ở bên đệ.”

Thiếu niên gật đầu: “Lần này a tỷ quay lại phủ, không cần làm gì, chỉ cần chuyên tâm làm thê tử của Lận Tắc, đoạt lấy lòng tin của hắn là đủ. Nếu cần, đệ sẽ tìm cách truyền tin cho tỷ. Giờ không còn sớm nữa, a tỷ đi thăm mẫu hậu đi. Trẫm còn phải đọc sách hôm nay.”

Tùy Đường cúi đầu vâng dạ, hành lễ cáo lui.

Tùy Lâm đưa mắt tiễn nàng qua song cửa, đợi cho đến khi kiệu rời khỏi cửa điện cần chính mới vội vã triệu Trung quý nhân: “Đi chuẩn bị năm phần hộp cơm, không cần đựng đồ ăn. Đem đến cho Vương Giản, Quảng Mặc, Trịnh Thanh, Ôn Trí, Từ Hoa, cứ nói là khẩu dụ của trẫm, ban cho bọn họ dùng.”

Trung quý nhân lĩnh mệnh xuất cung, nhưng chưa đầy nửa canh giờ, đã vấp ngã trở về, quỳ rạp trước mặt thiếu niên thiên tử, nức nở bẩm báo: “Lúc nô tài truyền khẩu dụ tới nơi, năm vị Thái y lệnh đã bị người của Đại Tư Không mời đi, cả năm đều đã nhập phủ Tư Không rồi.”
 
Cùng Quân Kề Cận
Chương 9: Chương 9



Chương Đài điện của Hà Thái hậu tọa lạc nơi phương Bắc của cung thành, muốn từ nơi thiên tử trú ngụ ở phương Nam đến được, phải vượt qua ngũ lý phức đạo, rồi lại băng qua Cửu Khúc Kim Thủy kiều. Dù có ngồi loan giá cũng phải mất nửa canh giờ.

Hà Thái hậu khi nghe hoàng môn bẩm báo, bất chấp bệnh thể, đã sớm chờ sẵn nơi Kim Thủy kiều.

Khi thấy được một góc loan giá, bà liền vội vã bước lên nghênh đón.

Lúc ấy, Tùy Đường chưa hay sự tình phía trước, chỉ nghe Thôi Phương khẽ bảo: “Thái hậu đến rồi.”

Lúc trưa, gió rõ ràng đã nổi lên, lá úa xào xạc cuốn giữa không trung, thê lương tiêu điều.

Tùy Đường lập tức cho dừng loan giá, vịn tay Thôi Phương mà xuống kiệu, vừa bước đi vừa cất tiếng gọi: “Mẫu hậu!” – Nàng muốn mẫu hậu dừng lại, không cần vội vã.

“Đệ đệ bảo rằng người nhiễm phong hàn, đêm dài lắm mộng, đã nhiều ngày chưa thấy thuyên giảm.”

“Con nghe được tiếng thở của mẫu hậu, nếu còn không dừng lại, con sẽ tức giận!”

“Không được chạy nữa, nữ nhi tới đây rồi, A Lân không chạy nhanh đâu.”

A Lân vốn chẳng thể chạy nhanh.

Thái hậu nghe lời bèn dừng chân, ngước mắt nhìn nữ nhi chầm chậm bước về phía mình.

Hơn ba tháng trước, khi ấy mới vào đầu hạ tháng Năm, sau mười ba năm cách biệt, bà cuối cùng lại được gặp trưởng nữ.

Thực ra khi ấy, bà đã chẳng còn nhận ra con mình.

Năm bốn tuổi bị đưa đi, nàng vẫn là một tiểu oa nhi da trắng thịt mềm như ngọc tuyết. Tóc đen nhánh búi thành song loa kế, trên đầu treo đầy chuông ngọc và trân châu, tua rua rủ nơi tóc mai xuống tận vành tai cổ ngọc, y phục hồng nhạt thêu đầy ngọc phiến và bảo châu, như tinh linh từ trong pha lê bước ra.

Gió thoảng qua, nàng ngẩng đầu, vang lên tiếng chuông thanh thanh trong trẻo.

Mang hài phượng hay mang hài hươu nhỏ mà chạy đến tìm mẫu hậu, luôn là chưa thấy bóng đã nghe tiếng chuông. Rồi cởi bỏ giày, co chân ngắn leo lên giường, đưa đôi tay mềm như củ sen, đôi mắt long lanh chớp chớp, nũng nịu gọi: “Mẫu hậu, A Lân đói rồi.”

Công chúa bốn tuổi, bên môi còn vương chút vụn bánh ngọt, bên má dính giọt sữa bò, bàn tay mũm mĩm đưa một miếng bánh mật ong, nói là dâng cho mẫu hậu.

“A mẫu, ăn –” Tiểu công chúa đã ngủ say, cung nhân đến tắm rửa, nhưng không sao lấy được chiếc bánh trong tay nàng.

Phải đích thân hoàng hậu trẻ tuổi đến, nhẹ nhàng cầm tay con, cắn miếng bánh đã bị bóp nhão, khẽ nói: “Ngọt quá!”

Niềm vui mẫu tử chỉ có chừng ấy, tình yêu của nàng dành cho con chỉ đến thế.

Lần tương phùng thứ hai, con gái bà đã bước vào độ tuổi xuân thì.

Mười ba năm như nước chảy qua cầu.

Ánh dương nhẹ tháng Năm phủ quanh thân nàng, nàng đã cao lớn, mặc một chiếc khúc cư thâm y không mấy vừa vặn. Tuy là vải vóc tân thời, nhưng rõ ràng rộng thùng thình, như đồ mượn tạm khoác lên người. Tóc búi kiểu Phi Tiên, cài một chiếc hoa thắng bằng ngọc trắng đính châu. Song nơi chân mày lại hiện nét cứng cỏi, như cỏ non phá đất vươn lên, chẳng hợp gì với y dung trang điểm đoan trang dịu dàng.

Hà Thái hậu ngắm thiếu nữ đang bước qua cầu, lòng chợt đau đớn, hổ thẹn khôn cùng.

Nghe nhi tử bảo muốn đón a tỷ về cung, y phục trang sức đều do chính tay bà chuẩn bị. Nữ nhi nhà mẹ đẻ cùng tuổi với Tùy Đường, hằng năm bà đều theo vóc dáng chúng mà may đồ cho con, nhưng luôn chừa rộng một cỡ.

Tiểu nữ nhi ắt sẽ ăn nhiều ngủ kỹ, thân hình hẳn đầy đặn hơn cháu gái.

Năm nay cuối cùng cũng có thể để con mặc – thế mà…

Hoa thắng đính vàng khảm ngọc dưới ánh dương chói lòa, khiến mắt Thái hậu đau nhức. Nữ nhi của bà, công chúa duy nhất của hoàng triều, làn da sạm vàng, hình hài gầy guộc.

Bà tháo lớp bảo giáp khảm hồng ngọc, đưa tay ra với nàng. Thiếu nữ tươi cười, đặt tay vào lòng bàn tay bà, ngọt ngào gọi: “Mẫu hậu.”

Bà nắm tay con bước xuống Kim Thủy kiều, gió thoảng qua, nước mắt rơi như mưa. Bởi lẽ bà đã cảm được những vết chai sần nơi đầu ngón tay con, nâng tay lên xem kỹ, mười ngón đã dày vết chai, còn có cả vết thương do sương giá chưa lành.

“Mẫu hậu, A Lân làm đau người sao?” Nàng rụt tay lại.

“Sao có thể?” Thái hậu siết chặt tay nàng.

“Thế sao mẫu hậu khóc?” Thiếu nữ trái lại nắm tay bà, “A Lân đã trở về rồi, còn trưởng thành rồi nữa – chuyện vui như vậy.”

Nàng ngẩng đầu, chân mày thanh tú khẽ nhướng, ánh nắng rọi vào mắt, tỏa sáng nơi mày mi. Vẫn còn đó một đôi mắt, sáng như thuở thơ bé.

Thanh tuyền tẩy đá trắng, bạch thạch lấp lánh ánh trong.

A Lân.

Nhưng giờ đây, A Lân che mắt bằng đoạn lụa trắng, đôi mắt đã chẳng còn, chẳng thể thấy gì nữa.

Chỉ có thể một tay vịn thị nữ, một tay nhấc vạt áo, chẳng thể như gió lao về phía mẫu thân.

A Lân không thể chạy nhanh nữa.

Thái hậu không dám đối diện, trong đầu chỉ lặp lại câu nói ấy: “A Lân không chạy nhanh.” Như thể nàng không phải mù, mà chỉ là bị thương nơi chân. Bà vẫn có thể thấy đôi mắt con lấp lánh như xưa, vẫn thấy hình bóng mình nơi ánh nhìn của con gái.

Tâm can như rạn vỡ.

Trái lại là Tùy Đường, nghe tiếng khóc của mẫu hậu lại đưa tay lau lệ cho bà.

So với ngày mới về cung, tay nàng đã đỡ hơn đôi chút, nhưng vết chai vẫn còn. Nàng đưa tay lên nửa chừng, lại bật cười, lục trong tay áo lấy ra một chiếc khăn, lau nước mắt cho mẫu hậu, “Mẫu hậu đừng buồn. Mất đi ánh sáng cũng chẳng sao, còn có thể chữa được mà. Huống hồ A Lân còn cảm thấy bây giờ còn tốt hơn trước.”

“Không cần cái này.” Thái hậu gạt khăn, áp tay con lên mặt mình, chỉ hận không thể ôm con vào tận cốt tủy.

Gió mang hương cúc Ba Tư thoang thoảng, hai con vẹt cãi nhau ríu rít, Tùy Đường biết mình đã bước vào viện Chương Đài điện.

Nàng rút tay về, chẳng để Thái hậu thân cận thêm.

Vừa bước vào nội điện, Thái hậu thấy nàng rụt tay giấu sau lưng, lòng càng thêm áy náy. Bà định thần, muốn dìu con đến án ngồi nghỉ.

“Bên này––” Nhưng vừa xoay người định chỉ lối, bỗng cảm thấy hơi thở ấm nóng nơi cổ, chưa kịp hoàn hồn đã bị hôn lên má một cái.

“A Lân không muốn làm mẫu hậu tức giận nữa. Mặt mẫu hậu vừa mềm vừa thơm.” Tùy Đường tựa đầu vào vai bà, thì thầm: “Nữ nhi muốn thơm thêm cái nữa!”

“Chụt” – một tiếng vang giòn tan.

Thái hậu bị con gái trêu đến mặt đỏ bừng, lòng dâng trào nỗi xót xa lẫn vui sướng, không nhịn được lấy tay chọc vào trán nàng, “Ngồi nghiêm chỉnh, ăn cơm cho ngoan.”

“Mẫu hậu đi đâu? Không ăn cùng con sao?”

“Mẫu hậu không đi đâu cả, ở án đối diện với con.” Thái hậu khẽ ho hai tiếng, để Lan Tâm cùng Thôi Phương giúp nàng bày cơm, còn bà thì vịn tay Từ cô cô, đi vòng qua sân trống, cởi giày, quỳ ngồi xuống, “Mẫu hậu chưa khỏi hẳn phong hàn, sợ lây sang con, hôm nay mỗi người một án.”

Tùy Đường “ồ” một tiếng, đã nhận lấy bát đũa từ cung nữ, múc hai thìa đậu hũ não có da vịt đường trắng, rồi gắp thêm vài sợi gà xé mềm thơm vị ma tiêu, ăn rất chuyên chú, đôi má phúng phính như con thỏ trắng nhỏ.

Hà Thái hậu trầm mặc ngắm nàng hồi lâu, rốt cuộc cũng đỏ mắt, bắt đầu dùng bữa.

Dùng xong, mẹ con dời sang Đông noãn các, sai cung nữ lui xuống để hàn huyên.

“Khi nãy con có nói mắt vẫn còn trị được, hiện giờ so với trước đã tốt hơn, vậy có thể thấy rõ hơn chút nào chăng?”

Y quan phủ Tư Không phần lớn đều kiêm chức tại Thái y viện, lần hội chẩn cho Trưởng công chúa hôm đó, Thái hậu tất nhiên có nghe qua. Khổ nỗi bà khó lòng vượt qua Kim Thủy kiều, không thể ra khỏi cung môn, thành thử chẳng rõ ngọn ngành. Nay gặp lại con gái, dĩ nhiên phải hỏi han cặn kẽ.

“Nhưng mẫu hậu xem con khi ăn uống, cử chỉ vẫn như người chẳng trông thấy vật chi.”

“Có thể cảm được chút ánh sáng, nữ nhi nói vậy vốn chẳng phải vì lần này!” Tùy Đường đặt chén trà xuống, khẽ giọng mà nói, “Mẫu hậu, bốn phía có ai chăng?”

Thái hậu lắc đầu, “Không có, con cứ nói.”

Tùy Đường trầm ngâm giây lát, cụp mi giấu nỗi hổ thẹn, chỉ dùng thanh âm nhỏ như gió thoảng giữa hai mẹ con mà thổ lộ:

“Dược tàng trong răng con chẳng phải bị Lận Tắc phát giác, lấy ra rồi sao? Kỳ thực so với sợ hắn, con…”

“Làm sao?” Thái hậu nghiêng người, vội hỏi.

“…Con lại thấy nhẹ nhõm hơn nhiều.” Tùy Đường chẳng dám ngẩng đầu, tựa như kẻ phản bội mà thốt nên lời, “Trước kia giấu dược trong miệng, con… con thực lấy làm khiếp sợ. Sau này vào phủ Tư Không, bên cạnh lại không người thân tín, mắt chẳng thấy gì, khó lòng lấy ra, ăn uống cũng chẳng dám đàng hoàng. Mẫu hậu không biết, bảy ngày trước khi Lận Tắc hồi phủ, con chẳng bị lo lắng mà chết thì cũng đã đói gần nửa mạng. Con nói hiện giờ tốt hơn, là so với bảy ngày ấy mà thôi.”

Đầu nàng cúi ngày một thấp, tiếng nói cũng càng thêm nhỏ, “Hiện tại…”

“Hiện tại ít ra con có thể thảnh thơi trò chuyện, tự tại mà ăn uống.” Thái hậu ôm chặt con vào lòng.

“Mẫu hậu ngàn vạn lần đừng nói với a đệ, đừng để y nghĩ hắn chẳng dốc lòng. Con thấy hắn cũng chẳng dễ dàng gì, lần trước gặp, chẳng phải trong mắt đầy tia máu, dưới mắt cũng xanh tím cả rồi ư. Dù sao con vẫn sẽ tận tâm giúp hắn.” Tùy Đường gối đầu lên vai mẫu thân, “Nếu con thấy rõ, vào phủ lấy dược giấu đi cũng không sao, nhưng để trong răng thì con thực rất sợ… Mẫu hậu, dù gì, ngàn vạn lần chớ nói cho a đệ biết nỗi lòng này của con.”

Thái hậu nghẹn ngào không thành tiếng.

“Mẫu hậu lại khóc rồi, không thì lần sau con chẳng đến nữa đâu!” Tùy Đường liền xoay lời an ủi.

Thái hậu bị nàng chọc cười, vừa khóc vừa lau lệ, hồi lâu mới nói, “…Mẫu hậu có sai nhà bếp hầm canh lê tổ yến, con dùng xong hãy nghỉ trưa một lát, mẫu thân sẽ cùng con ngủ, ôm con mà ngủ.”

Vừa dùng cơm trưa xong, Tùy Đường thoáng ngẩn ra, song nghe đến món ăn, rốt cuộc cũng gật đầu lia lịa.

Hoàng môn truyền báo và cung nữ đưa món nối nhau tiến vào.

Tùy Đường dùng canh lê tổ yến ngọt dịu, nghe hoàng môn bẩm: “Thái úy đại nhân cầu kiến.”

Thái úy Hà Tuần, là cữu phụ của Tùy Đường, huynh trưởng Thái hậu, nay là gia chủ của Hà thị.

Thuở ở Trường An, ông và Lận Tắc vốn đã chẳng thuận nhau.

Đến khi nhập Lạc Dương, hai người liền hoàn toàn phân rẽ, mỗi người một phe.

Thái hậu sai hoàng môn dẫn ông sang chính điện, đoạn quay đầu nói với Tùy Đường: “Con dùng xong cứ nghỉ trước, mẫu hậu gặp cữu phụ con xong sẽ quay lại.”

Tùy Đường mỉm cười gật đầu.

*

Tại chính Chương Đài điện, Hà Tuần đã sớm cho thị giả lui xuống, thấy Thái hậu đến liền bước nhanh ra đón, khẩn cầu bà cứu lấy nhi tử của mình.

Thái hậu sửa lại xiêm y, gót sen nhẹ nhàng lên bậc, ngồi xuống chính vị. Bà thong thả đeo lại nhẫn hộ giáp bằng hồng ngọc vừa tháo lúc nãy dùng bữa cùng con. Nhẫn đeo ngón út có cuốn một sợi tóc đen, bà lại tháo ra, nhẹ nhàng gỡ bỏ, rồi mới đeo lại, từ tốn cất tiếng: “Công tử nhà Thái úy nếu quả thật có tội, Thái úy chẳng bằng nhờ Đình úy lo liệu đôi chút, quyên chút bạc chuộc tội, cũng đâu phải việc khó.”

Thái hậu chẳng ngẩng đầu, còn đang phủi đi bụi vô hình trên hộ giáp.

“Hài nhi của thần chẳng hề phạm tội, là bệ hạ muốn giao nó cho Lận Tắc!” Sắc mặt Hà Tuần trắng bệch, thở không ra hơi, “Lận Tắc đã biết chuyện Đan Chu, nay đem cả năm vị Thái y lệnh, đứng đầu là Vương Giản, giam vào phủ Tư Không. Bệ hạ muốn dẹp yên cơn giận của hắn, nên mới muốn đem Ngũ lang ra tế. Điện hạ, thần chỉ có hai nhi tử. Cửu lang khi chuyển đến Lạc Dương đã bị loạn quân đâm trúng, phế mất một tay. Thần chỉ còn mỗi Ngũ lang lành lặn. Người nói giúp với bệ hạ một tiếng, năm vị Thái y lệnh đó còn chưa đủ cho hắn giải hận hay sao?”

Phụ nhân ngồi chính tọa lúc này mới ngẩng đôi mắt phượng yêu kiều lên, “Thái úy nói cả buổi, thì ra là chuyện chính sự. Cô là nữ nhi, nào dám nhúng tay vào?”

“Muội muội, giờ chẳng phải lúc trách giận nữa. Ta biết vì chuyện ta dâng độc vào răng công chúa, gả nàng cho Lận Tắc, muội đến nay vẫn hận ta. Nhưng đó chẳng phải vì giang sơn Đại Tề muôn đời đó sao?”

“Vậy thì đúng rồi.” Thái hậu nhếch môi cười, tay khẽ vuốt búi tóc hoa lệ, “Nay bệ hạ làm vậy, chẳng cũng vì giang sơn Đại Tề đó ư? Ngũ lang là thần tử, chịu khổ nạn thế này là vinh dự của Hà thị đấy thôi.”

“Ngươi—!” Hà Tuần mắt rực lửa, tóc râu dựng cả lên, nghẹn lời không nói được.

Ngược lại Thái hậu vẫn thong thả nói: “Nói cũng phải, dù sao cũng là cốt nhục thân thích, Ngũ lang lại gọi cô một tiếng cô mẫu, cô nào nỡ.”

“Nếu vậy—” Bà ngước nhìn huynh trưởng, ánh mắt đầy hy vọng, lời nói nhẹ nhàng như suối chảy, “Hay là… giao Cửu lang cho Đại Tư Không. Dù sao hắn đã phế tay, chẳng phải lành lặn.”

“Ngươi nói gì?!”
 
Back
Top Bottom