Tâm Linh BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
219481913-256-k74208.jpg

Báo Ứng Hiện Đời
Tác giả: 1333Lucky1333
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Nguồn sách:
😊 Chúc các bạn nghiệm ra được nhiều điều 😊 Tags: baounghiendoibáoứngluatnhanquanhanquaphatphappháttienkiep​
 
Báo Ứng Hiện Đời
Quyển 1


BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI

Tập 1

Tác giả: Cư sĩ Quả Khanh

Hạnh Đoan dịch

Mục Lục

01.

Lời người dịch 2

02.

Lời tác giả 3

03.

THIẾU NIÊN BẤT LƯƠNG 7

04.

GIẬT MÌNH TỈNH NGỘ 9

05.

GÀ TRỐNG LÔNG VÀNG 13

06.

BỆNH "TRỜI CHO" 15

07.

TRONG XƯỞNG CÓ CÁI GÌ, NHÀ TÔI CÓ CÁI ĐÓ 18

08.

DÙI LỖ LẤY NHỌT 21

09.

NHAI XƯƠNG MÚT TỦY 22

10.

CƯ SĨ CŨNG PHẢI CÓ ĐỦ ĐỨC HẠNH 24

11.

TỔ KIẾN VÀ NHÀ Ở 27

12.

THAI PHỤ TỤNG KINH ĐỊA TẠNG 28

13.

ĂN THỊT CHƯỚNG NGẠI THIỆN CHUNG 30

14.

ĐỌC NHIỀU KINH PHẬT TĂNG TRÍ HUỆ 31

15.

THÂN PHỤ CẦU SIÊU ĐỘ 33

16.

THAI NHI ƯA NGHE KINH ĐỊA TẠNG 34

17.

BỊNH TÙNG KHẨU NHẬP 35

18.

THAI NHI NGHE KINH, GIẢI OÁN HỜN 36

19.

BÁO ỨNG KHÔNG NGỜ 39

20.

CHỨNG BỆNH SỢ BÓNG TỐI 41

21.

MỸ NỮ VÀ THỔ PHỈ 42

22.

TIÊN SINH DẠY HỌC 45

23.

ĂN CHAY TRÌ GIỚI MỚI ĐƯỢC LỢI ÍCH 46

24.

NHÂN NÀO QUẢ NẤY 48

25.

HỘ TRÌ PHẬT PHÁP BẰNG ĐỨC HẠNH 50

26.

QUẢ BÁO CỦA VIỆC MUA BÁN THỊT ĐỘNG VẬT SỐNG (RẮN MỐI) 51

01.

Lời người dịch

Cuốn sách này được chia làm ba phần, phần một của cư sĩ Quả Khanh, phần hai là câu chuyện của nhiều tác giả trên nhiều nước(đích thân mục kích hoặc nghe kể) đã viết ra và gởi đến Hội Đạo Đức Trung Hoa.

Phần ba là chuyện do ký giả trực tiếp phỏng vấn hay nghe kể lại mà viết ra.

Tôi đã cất công săn lùng trong rừng hồi ký nguyên tác Hán tự mênh mông để tìm những câu chuyện hay và hữu ích; sau đó chắt lọc; tuyển lựa, rồi dịch ra để chia sẻ cùng bạn đọc.

Quý vị có quyền tin hoặc không.

Nhưng tập sách này không đơn thuần là chuyện đọc "để mua vui một vài trống canh" mà mang theo cả tấm lòng yêu thương nhân gian của người viết lẫn người dịch.

Trong thời buổi ngày nay, đọc một tờ báo, lên một trang net, chúng ta thấy tội ác dẫy đầy, tàn nhẫn, kinh hãi đến mức báo động.

Tất cả đều do con người không tin nhân quả.

Vì không tin nên không biết sợ nên chẳng cẩn trọng giữ gìn.

Đến nỗi một nhà nghiên cứu giáo dục đã phải than rằng: Đây là thời "cái ác lên ngôi"!

Có câu: "Thánh hiền sợ nhân, chúng sinh sợ quả" tại sao Thánh hiền sợ nhân?

Vì các Ngài chứng kiến nhiều, đã từng đau khổ và thấm thía tận xương tủy nên luôn cẩn trọng, giữ gìn từng hành vi ý nghĩ.

Còn chúng ta ít chứng kiến, không hiểu, không tin, không nhớ... nên hoàn toàn mất kiểm soát, phóng túng gieo nhân bừa bãi.

Chẳng hạn như một nhân viên thủ quỹ giữ "kho vàng" cho công sở hay tư nhân, nếu không tin tội phước báo ứng, thì rất dễ dàng thụt két, tham lam tạo tội.

Nhưng nếu họ tin nhân quả, hiểu là "của phi nghĩa chẳng những không xài được mà còn di họa đến bản thân và con cháu"... thì dù không có giám sát viên theo dõi, họ vẫn giữ mình trong sạch thanh liêm.

Chỉ mong rằng sau khi đọc cuốn sách này quý vị sẽ có tầm nhìn rõ hơn về nhân quả và sẽ sống tốt đẹp, hạnh phúc hơn.

Nếu như tác phẩm này mang đến cho bạn đọc chút lợi ích tâm linh, hay niềm vui trong ý sống, thì đó là phần thưởng lớn nhất của người dịch.

Xin được gởi lời tri ân đến em Hồng Minh Châu, cô Nguyên Tâm, và sự đóng góp âm thầm của biết bao người, đã giúp tôi về tinh thần lẫn vật chất để tôi có thể hoàn thành và gởi tặng dịch phẩm này đến độc giả, cho dù số lượng sách biếu giới hạn và khiêm tốn.

Xin hồi hướng phước điền này đến chư vị ân nhân, bào tỷ Nguyễn Huy Phượng, hương linh cháu Carol Chi Phan,... và tất cả những người có mặt trên thế gian này.

Cầu mong quý vị luôn an lạc hạnh phúc, trí tuệ và lòng từ luôn tỏa sáng để cùng xây dựng nên một cõi nhân gian ưu mỹ.

Cuối cùng, xin quý vị vui lòng tha thứ cho những sai sót của người dịch.

Hạnh Đoan 29/03/2013

02.

Lời tác giả

Nguyên nhân tôi đến với đạo

Tôi sinh năm 1944, do từ nhỏ đã tiếp nhận nến giáo dục vô thần, nên tôi luôn cho tôn giáo là mê tín.

Thế thì làm sao tôi lại bước vào con đường nghiên cứu Phật học?

Chuyện bắt nguồn từ lần du ngoạn núi Ngũ Đài Sơn vào mùa Hạ cách đây hơn mười mấy năm về trước.

Núi Ngũ Đài Sơn ở tỉnh Sơn Tây, là một trong tứ đại Thánh địa nổi danh của Phật giáo Trung Hoa, được xem là đạo tràng của Bồ-tát Văn Thù.

Trên núi có những ngôi chùa nguy nga trang nghiêm, ngàn năm cổ kính trứ danh mà tôi từng dạo qua.

Trong Đại Hùng Bảo Điện, lúc nào cũng có khói hương nghi ngút, thậm chí ngay cả tiếng Đại Hồng Chung ngân nga cũng khiến cho người nghe cảm thấy lâng lâng, trần lao tiêu dứt.

Cảnh vật nơi đây luôn gây cho tôi cảm giác xúc động bồi hồi khó tả, như thể mình quen biết chốn này từ lâu lắm.

Lần thứ hai đến núi Ngũ Đài Sơn du ngoạn, tôi rất hào hứng và bỗng nảy ra ý định tìm hiểu nơi ẩn cư thanh tu của các vị Tăng khổ hạnh, vì ít ai biết đến sinh hoạt của các Ngài.

Tôi nhớ mãi buổi sáng ngày hôm đó, khí trời lạnh buốt, sương giăng mịt mù.

Tôi nôn nao chỉnh đốn hành trang, cẩn thận đem theo tấm bản đồ, một mình bắt đầu cuộc hành trình thám thính thắng cảnh thanh u.

Tôi không ngờ được rằng chính lần mạo hiểm đó lại thay đổi cuộc đời tôi lẫn của bao người khác về sau này.

Cho đến bây giờ, tôi luôn xem núi Ngũ Đài Sơn là vùng đất sinh ra tôi lần thứ hai.

Lúc bắt đầu xuất phát, tôi cố ý tránh các con đường bằng phẳng mà chỉ lựa những lối đi ngoằn ngoèo khúc khủyu để đi.

Dọc đường, ngước nhìn lên chỉ thấy đỉnh núi cao vời vợi, cây cối thâm u, khói sương lượn lờ, sắc tuyết lấp lánh.

Tôi cảm thấy tinh thần sảng khoái, tâm trí rỗng rang.

Đường đi càng lúc càng trở nên gập ghềnh.

Tôi cứ đi dọc theo con suối, tiện thể thưởng ngoạn bức tranh "cổ mộc hàn nham" của thiên nhiên; đá phả hơi lạnh, cây cổ thụ cao vút, cây cối um tùm; trời xanh mây trắng, con đường đầy dị thảo, kỳ hoa.

Tôi bị ngoại cảnh lôi cuốn, say sưa đi mãi, quên hết mọi sự đời và đắm chìm trong cảnh nước biếc non xinh.

Mải mê trèo đèo lội suối, tôi quên mất là trời đã gần trưa, nhưng tới lúc đó tôi vẫn chưa thấy hình bóng của vị Tăng khổ hạnh nào, trong lòng không khỏi có chút thất vọng.

Trong lúc tôi đang nhìn quanh với tâm trạng bối rối thì bỗng nghe xa xa có tiếng mõ vọng đến: " Cốc!

Cốc!

Cốc!"...

Dư âm cổ sơ như lẫn khuất đâu đây, lượn lờ trong núi, âm thanh vang vang bắt nguồn từ sơn cốc, ở phía Tây cánh rừng thâm u truyền tới.

Tinh thần tôi phấn chấn trở lại, tôi bươn bả nhắm hướng sơn cốc tiến tới.

Rẽ vào con đường hun hút sâu nhưng xinh đẹp, trên cao óng ánh sắc mây tía phủ vây, cây cối xanh tươi giống như là tiên cảnh.

Lúc này tiếng mõ nghe chậm dần rồi ngừng hẳn.

Một dòng nước trong xanh uốn khúc chẳng gợn mảy trần, hiện ra trước mặt, hơi phun ra như châu ngọc.

Tôi khom mình vốc nước uống, hương vị mát lạnh thanh lương đến thơm cả miệng.

Uống no nê, tôi rửa mặt, còn dùng tay tát nước lên mặt.

Bỗng tôi phát hiện có người đứng bên bờ suối nên ngẩng đầu lên.

Một vị lão Tăng râu tóc chưa cạo, áo vá hài cỏ, đang khoanh tay đứng đó.

Cơn gió thoảng qua, râu tóc ông lay động, tà áo phất phơ, bốn mắt chạm nhau trong khoảnh khắc nhưng tôi cảm thấy choáng váng, thần trí như mê muội.

Nhãn thần của vị Tăng thuần khiết và hiền lành làm sao.

Tôi có cảm giác ông quá quen thuộc, cứ như là cha mẹ tiền kiếp của mình, ông tỏa sức thu hút mãnh liệt khiến thân tâm tôi hoang mang...

- Thí chủ, xin lỗi đã làm phiền!

- Vị Tăng chắp tay nói.

- Dạ, không!

Là tôi quấy rầy bậc thanh tu như Ngài - Tôi hoang mang đáp lễ

- Thí chủ ưa vùng u tịnh này ư?

- Dạ tôi chỉ muốn tránh cảnh ồn náo một chút nên đi một mình tản bộ ngắm cảnh thôi. (thực ra tôi không có ý giống như mình đang nói, vì tôi đang thầm ao ước có được giây phút kỳ ngộ như thế này!).

- Chà, dù sao cũng là quấy nhiễu thí chủ, thí chủ cứ dạo chơi nhé, lão Tăng đi trước đây!

Tôi chưa hết bỡ ngỡ thì lão Hòa thượng đã nhẹ nhàng đi lướt về hướng Tây rồi.Tôi vội đuổi theo, bẻn lẽn thú nhận:

- Bạch hòa thượng, xin Ngài dừng bước, thực ra con đang rất mong mỏi, muốn gặp được một vị cao Tăng như Ngài...

- Lành thay!

Tôi không phải là "cao Tăng", tôi chỉ là một tu sĩ dẫn đường quê vụng thôi.

- Vừa rồi có phải là Ngài gõ mõ phải không ạ?

- Tôi hỏi

Vị Hòa thượng ung dung đáp

- Tiếng mõ thức tỉnh lòng tục khách

Nước trong xanh tẩy sạch tâm trần

Tôi im lặng suy gẫm lời Hòa thượng vừa nói, và trong phút chốc tôi đã đi theo Ngài đến một vùng xinh tươi quang đãng, chung quanh có đầy cây Lê.

Gốc rất to, quả trái sum xuê.

Phía Bắc địa thế hơi cao, trước mặt có một thảo am nhỏ.

Trong lòng tôi sung sướng nghĩ thầm: " Mình đã gặp được vị cao Tăng thanh tu, siêu việt xuất thế"

- Ta bà thế giới chẳng nên ẩn thân lâu, thời gian có hạn, chớ đợi chết đến mới lo tu.

Danh vang lợi dưỡng chỉ là không, ân ái thế gian rồi cũng biệt, oan oan tương báo thì luôn tiếp nối không ngừng...

Hòa thượng làm như vô tình ngâm nga, nhưng khi nghe, trong lòng tôi âm thầm chấn động.

- Người trên đời chỉ biết tạo oan nghiệt, không biết sám hối, chỉ biết hưởng phúc mà chẳng chịu tích phúc.

Đâu hề biết, niệm Phật một tiếng, phúc tăng vô lượng, lễ Phật một lễ, tội diệt hà sa!

Nghe đến đó thì tôi không còn tự chủ được nữa bèn tiến tới hai bước rồi quỳ xuống trước mặt lão Tăng, khẩn thiết thưa:

- Sư phụ, mong Ngài thu nhận con làm đệ tử, con muốn theo Ngài học Phật pháp.

- Phật pháp như biển, duy chỉ có lòng tin mới có thể nhập, con có "tin" chăng?

Hòa thượng cố tình nhấn mạnh chữ "tin"

Câu hỏi này khiến tôi vô phưởng hồi đáp.

Chao ôi!

Tôi xưa nay luôn cho Phật giáo là mê tín, còn có thái độ khinh thường, không đếm xỉa gì tới mấy cái chuyện hướng Phật, Bồ-tát lễ bái...

Hôm nay chẳng hiểu vì sao tôi lại chí thành quỳ dưới chân một vị Tăng chưa từng quen biết, nài xin làm đệ tử như thế này?

Trong thoáng chốc, tôi khó có thể hồi đáp.

Thế nhưng "không, trần lao, sám hối"... những câu từ này cứ vang vang và không ngừng in sâu vào óc não làm tâm tư tôi chấn động, trong lòng tôi bỗng trổi lên một thứ tình cảm vĩ đại như đã có từ lâu lắm rồi.

Trong lúc tôi bối rối, tinh thần như vô chủ, thì chợt thấy lão Tăng đang nhìn tôi từ bi và chăm chú, trong khoảnh khắc tâm tôi có trăm ngàn cảm xúc đan xen, từng giọt nước mắt cứ thi nhau tuôn lã chả, rơi xuống làm ướt cả đôi vớ khiết bạch của lão Tăng.

Cho dù tôi cảm thấy rất thất lễ và kỳ cục, nhưng tôi không sao ngăn được suối lệ đang tuôn trào, tôi giống hệt như đứa con phạm phải lỗi lầm, không thể nói gì mà chỉ biết khóc và khóc.

- Tín là mẹ của các công đức, là nguồn gốc của đạo.

Nhưng tín lại chia ra làm "chánh tín" và "mê tín".

Gọi là " chánh tín", nghĩa là chánh chứ không phải tà, giác mà không mê.

Người quy y Phật giáo trước tiên cần dựng lập tri kiến chính xác.

" Người lễ Phật vì kính đức của Phật, người niệm Phật vì cảm ân Phật, người xem kinh để rõ nghĩa lý, người tọa thiền để chứng cảnh giới Phật.

Người chứng ngộ là đắc đạo của Phật..."

Tôi như kẻ đói được ăn, khát được uống, lắng nghe từng chữ, từng lời khai thị châu ngọc của Ngài, cảm thấy như mỗi một cọng cỏ, mỗi một cội cây trước mắt đều tỏa ánh kim quang chói lọi, tôi cứ cung kính lắng nghe mà không hay không biết mặt trời đã ngã về Tây.

Lúc tiễn tôi ra về, Hòa thượng lấy một trái Lê cất từ trong hốc đá trong lòng suối trao cho tôi.

Lúc đó cơm sáng và trưa tôi chưa dùng.

Tôi cảm ân Ngài và cầm trái Lê đưa lên miệng cắn, hương vị thơm lạnh, mát cả răng, cảm giác như được thanh phổi nhuận lòng, tôi ngạc nhiên vì thấy như mình vừa được ăn quả tiên.

Hòa thượng nhìn tôi ăn say sưa ngon lành, khuôn mặt từ bi khẽ mỉm cười, nụ cười hoan hỷ thâm trầm đánh động vào nội tâm tôi, khiến tôi có cảm giác chúng tôi dường như đã quan biết và thân thiết từ rất lâu rồi vậy.

- Trái Lê này vốn có vị đắng, khó thể nuốt trôi, nhưng nó được tẩm nước suối ngót ba tháng ròng, nên mới biến thành ngọt lịm.

Suối này đông nhuận hạ mát, Lê có thể tồn trữ trong dòng nước cả năm.

- Nói như thế thì Ngài quanh năm có thể ở đây tu hành?

- Tôi tò mò hỏi.

Hòa thượng mỉm cười không phủ nhận.

"Cổ nguyệt như sương, thanh phong như thủy"...

Con suối nhỏ chảy róc rách.

Tôi cùng Hòa thượng vừa đi vừa trò chuyện trên đường về.

Tôi chưa thấy lạnh và thấm mệt thì đã ra đến con đường thô xấu ở bên ngoài.

Tôi chắp tay bái chào Hòa thượng.

Lòng trào dâng niềm quyến luyến không muốn rời xa Ngài... nhưng tôi biết có nói nhiều cũng vô ích.

Như hiểu lòng tôi, Hòa thượng khẽ nói.

- "Hữu duyên thì sẽ gặp".

Hình dáng Ngài giống như "cổ nguyệt" biến vào trong rừng cây.

Điều tôi cảm thấy an ủi là ban nãy hòa thượng có nói chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ kết thúc bế quan và bắt đầu cuộc "nhập thế độ nhân, tùy duyên thuyết pháp".

Nghĩ đến điều này lòng tôi dạt dào niềm vui.

Tôi bước nhanh hơn trên con đường về và có cảm giác nếu như mình tăng tốc đôi chân sẽ sớm được thấy Ngài nhanh hơn một chút vậy.

Về đến sảnh đường, tôi ngồi lặng lẽ trong phòng khách, hồi tưởng đến cuộc diện kiến giống như giấc mộng vừa qua, thầm cảm thấy vô cùng thú vị.

Bỗng tôi sực nhớ là mình đã không hỏi tên vị Hòa thượng, lòng buồn bã hối tiếc không nguôi.

Tôi luôn hy vọng sẽ sớm được hưởng hồng ân pháp vũ của Ngài.

Không bao lâu tôi liên lạc được với Hòa thượng.

Kể từ đó thầy trò chúng tôi tương quan sâu sắc, tôi được thường xuyên thân cận Ngài luôn

Quang âm thấm thoát, mười mấy năm trôi qua nhấp nháy.

Đến nay, tuổi đã gần 60, thời kỳ này tôi thấy Hòa thượng dốc hết tâm huyết vì Pháp quên mình, giáo hóa vô số chúng sinh.

Còn bản thân tôi vẫn sống luống uổng qua ngày, vì chưa buông xả hết nên khó được thọ dụng chơn chánh, thật là xấu hổ thay!

Dù vậy, hiện tại tôi không muốn làm mai một những câu chuyện linh hoạt, tràn trề ý nghĩa, không muốn những bài học nhân quả có thực và cực kỳ quý giá này bị chôn sâu vào đáy huyệt.

Vì vậy, sau khi do dự và cân nhắc rất lâu, tôi đã cầm bút lên, ghi lại những câu chuyện có thực này, để chia sẽ cùng bạn đọc.

Nếu như tôi không nêu rõ danh tánh và địa điểm liên quan đến các nhân vật có thật được nêu lên trong sách, là do xét thấy không tiện.

Mong chư vị thông cảm.

Thêm nữa, có thể vài từ ngữ dùng trong sách không còn phù hợp với thời nay do những địa danh, những tên quá cũ xưa còn sót lại.

Chỉ mong Chư vị Đại đức, các Pháp lữ trong đạo vui lòng chỉnh giúp giùm cho.

Kính chúc mọi người giới định huệ tăng trưởng, phúc huệ song tu, Phật đạo sớm thành.

03.

THIẾU NIÊN BẤT LƯƠNG

Một ngày vào năm 1995, nơi nhà khách tự viện Ngũ Đài Sơn, có hai mươi mấy người chờ đợi được thỉnh giáo Hòa thượng Diệu Pháp.

Những người này đến từ trời Nam đất Bắc, luân phiên nhau hỏi.

Mà vị Sư phụ sung mãn trí huệ kia, các vấn đề khách nêu lên dù nặng nề đến mấy thì Ngài đều giải đáp hết sức ổn thõa dễ dàng.

Tất cả giống như "Vừa trị bệnh là thấy hiệu quả ngay, lay người tỉnh mạnh", khiến cho mọi người nghe cảm giác như được uống cam lồ, pháp hỷ tràn trề sung mãn.

- Bạch Sư phụ!

Con từ Đài Loan sang Đại lục khám bệnh.

Ba năm trước con bị bệnh nặng, sau đó toàn thân phát đau đớn, bệnh hành hạ con đến ăn uống chẳng vô, ngủ cũng không được, tứ chi bải hoải không còn sức lực, thống khổ vô cùng.

Các bệnh viện lớn ở Đài Loan có chẩn khám nhưng tìm không ra bệnh, họ chỉ nói là con bị "Thần kinh thực vật bị rối loạn"...

Con đã tiêm, châm, uống đủ thuốc nhưng thảy đều vô hiệu.

Mà uống thuốc nhiều còn bị tác dụng phụ nữa.

Thân thể ngày càng suy, lần này con đến Bắc Kinh khám, họ cũng chẩn đoán nói giống y như bên Đài Loan vậy.

Không ai tìm ra nguyên nhân bệnh cả.

Con chán nản lắm rồi. trước khi về Đài Loan, con muốn lên Ngũ Đài Sơn bái Bồ-tát, vừa rồi nghe một lão tiên sinh đi cùng xe, luôn miệng tán thán Ngài, nếu như mà Ngài có thể chữa bệnh cho, thì dù tốn bao nhiêu, con cũng trả hết...

Người đang nói khoảng hơn ba mươi tuổi, thân hình gấy ốm, ngũ quan tuy đoan chính nhưng sắc mặc rất âm u.

Từ anh ta toát ra một luồng tà khí hắc ám, so với các thiện chúng đang ngồi tại đây thì rất tương phản.

Âm thanh Sư phụ không cao, nhưng đầy nghiêm nghị, lạnh nhạt.

Ngài nói:

- Anh chẳng phải đồ đệ ta, không cần gọi ta là Sư phụ!

Ta cũng không phải là đại phu, không có khám bệnh, càng không dám lấy tiền của anh.

Anh hãy đi về và thỉnh các vị cao minh khác đi!

Nói xong, Hòa thượng truyền lịnh đuổi khách, khiến những người ngồi tại đó rất ngạc nhiên.

Xưa nay Ngài chưa từng đối với ai như vậy.

Người Đài Loan này (tôi quên mất tên họ anh ta là gì), cảm thấy mất mặt, gương mặt xám vàng của anh ta bỗng đỏ phừng lên.

Anh tức giận nói:

- Nhà Phật không phải chuyên rao giảng từ bi hay sao?

Lý do nào ông có thể khám cho người khác mà không chịu khám cho tôi?

Lại còn muốn đuổi tôi nữa?

Trong khi tôi chưa hề đắc tội với ông!

Giọng Sư phụ sắc lạnh và thật nghiêm:

- Ngay cả cha mẹ sinh thành dưỡng nuôi mình mà ngươi còn dám đánh mắng - thì còn sợ gì chuyện đắc tội với ta?

Câu nói này khiến anh ta lập tức giống hệt quả bóng bị xì hơi.

Anh ta sững sờ, mắt mở to kinh ngạc, sắc mặt từ đỏ phừng chuyển sang tái nhợt, không nói ra được một lời.

Các vị trong nhá khách im tiếng lao xao, mọi nhãn quan đều đổ dồn về anh ta.

Hơn một phút trôi qua, anh nhũn nhặn thưa:

- Ngài... làm sao biết việc của con, trong đây không có ai quen biết con hết mà...

- Ta đâu cần người khác mách, vì trước ngực ngươi có viết rõ ràng bốn chữ: "NGỖ NGHỊCH BẤT HIẾU" rất to kìa!

Nghe nói vậy anh kinh hãi cúi xuống nhìn vào ngực mình để kiểm tra, ánh mắt người trong khán phòng thảy đều dán chặt vào ngực của anh, cùng tìm tòi soi mói, nhưng không thấy có gì khác lạ.

Lúc này, anh đột nhiên đứng dậy, tiến tới mấy bước, quỳ sụp xuống dưới chân Hòa thượng, đập đầu đến chảy máu, run rẩy khẩn cầu Sư phụ cứu anh.

Anh kể mình từ bé là một thiếu niên bất lương.

Mấy cái chuyện trộm cắp, đánh nhau, chửi rủa thiên hạ...

Anh đều phạm qua.

Anh không nghe lời cha mẹ dạy, sau đó bị trường học đuổi học, anh lang thang trôi dạt khắp nơi rồi gia nhập băng đảng Xã hội đen.

Anh chuyên thu tiền bảo kê, gạt lừa con gái, cướp bóc... không chuyện ác nào mà không làm.

Cha anh tức giận đánh anh, thì bị anh đánh trả lại nên cha anh ngã nhào trên đất.

Anh còn xô té luôn mẹ và tuyên bố nếu ai muốn quản giáo anh, thì sẽ phóng hỏa thiêu trụi luôn cả cái nhà.

Phụ thân anh tuổi cao, giận quá sinh bệnh nằm liệt gường, mẹ anh hằng ngày phải chăm sóc ông.

Lại sợ anh ở ngoài tạo họa gieo ác, cha mẹ anh không bao lâu nối tiếp nhau qua đời...

Anh ta quỳ hướng về Hòa thượng Diệu Pháp khai báo những hành vi tàn ác đã qua của mình, khi kể đến song thân tạ thế thì anh không ngăn được nghẹn ngào, bật khóc to.

Thế là một "khối đá" cứng cỏi, ương bướng khó điều phục, đã bị uy đức của Sư phụ làm cho mềm nhũn, phải mọp đầu phủ phục...

Trong lòng tôi hết sức cảm thán, xem ra người tốt người xấu gì dưới con mắt Sư phụ cũng giống như có chữ viết trên thân của họ, Ngài đều nhìn thấu hết!

- Được rồi, đứng dậy đi!

Hòa thượng dịu dàng nói - Nếu đã kêu ta là Sư phụ thì phải nghe lời ta dạy, có làm được không?

Anh ta vui mừng nói lia lịa:

- Dạ được!

Dạ được!

Con làm nổi mà.

Con nhất định sửa lỗi hối cải, nguyện làm người tốt kể từ đây.

- Được rồi, ta thu nhận con làm đệ tử.

Anh ta sung sướng dập đầu lia lịa.

Người tại khán phòng cũng xôn xao đứng dậy, thành kính chắp tay.

Hôm nay họ được chứng kiến một hoạt cảnh cảm động, nên hoan hỷ tán thán không thôi.

Hòa thượng bảo một Tăng sĩ trẻ

- Hãy dẫn y lên Chánh điện, dạy hắn cách lễ bái sám hối, để hắn lạy ngàn lạy tại đại điện, bao giờ tạ tội xong hãy trở ra.

Sau một tiếng rưỡi, lúc anh Đài Loan ấy trở ra hướng Sư phụ đảnh lễ, thì trông anh đã thần thanh khí sáng, linh hoạt tươi tắn, hoàn toàn khác hẳn với lúc đầu.

Anh tự kể là anh đã phát nguyện trước Phật, từ đây quy y Phật môn, sửa lỗi hướng thiện.

Và sau khi phát nguyện sau thì anh cảm thấy toàn thân nhẹ nhõm thoải mái, dường như bệnh tật đã lành.

Tất cả những gì xảy ra trước mắt, khiến người tại hiện trường tán thán không ngớt.

Phật nói: "Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể làm Phật.

Chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc".

Phật lại nói: " Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ.

Buông dao đồ tể, lập tức thành Phật"...

Trước mắt mọi người, anh thiếu niên bất lương ngày xưa từng tạo tội bất hiếu ngỗ nghịch, bị trời đất khiển trách, phải cưu mang hình phạt, lãnh báo hiện tiền, bệnh tật triền miên.

May gặp Minh sư hóa độ, mới biết sám hối tỉnh ngộ, tẩy tâm đổi mặt.

Đây đúng là kinh nghiệm và bằng chứng trong kinh từng nói: " Phật là vị đại y vương chân chính, Phật pháp có thể trị bốn vạn tám ngàn bệnh"...

Tôi một lần nữa lại được chứng kiến uy lực Phật pháp vô cùng.

"Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác" chỉ cần chúng ta bình thường sống "không cẩu thả mảy tơ" thì sinh hoạt hàng ngày thường đối với pháp luôn tương ưng và chắc chắn có thể thanh trừ những hiểu lầm, miệt thị "Phật giáo là mê tín" vậy.

04.

GIẬT MÌNH TỈNH NGỘ

(Tâm sự của con trai người bạn cư sĩ Quả Khanh)

Tôi tên Trương Nghĩa, nhà tại thành phố Thiên Tân, năm nay 24 tuổi.

Vào năm 19 tuổi, tôi bị bệnh nặng, mới đầu hai chân mất cảm giác, đi đứng khó khăn, tối đó bệnh tình phát nặng, xương hông, xương khớp đau không chịu nổi hai chân không thể cử động, hễ bóp nhẹ vào là đau đến toàn thân co rúm.

Bác sĩ khám xong rồi nói:

- Bệnh này cực kỳ hiếm thấy, vô phương phán đoán, chỉ có thể tạm gọi là "viêm đơ cứng cột sống".

Bệnh này không thể trị, chỉ có về nhà nghỉ dưỡng thôi.

Về đến nhà, suốt ngày tôi nằm dài trên giường, buổi tối cơn đau càng kịch liệt, chẳng cách chi chợp mắt.

Ba má tôi ban ngày thì đi khắp nơi cầu thầy chẩn trị, ban đêm thì chứng kiến cảnh tôi đau đớn rên la, lòng đau như cắt, cũng không ngủ được.

Mới mấy ngày mà cha mẹ tôi thân thể đã tiều tụy, võ vàng, già đi rất nhiều.

Mẹ tôi có người bạn đồng nghiệp họ Dương, thời trẻ thường nghiên cứu Phật học, hiểu sâu ngữ lý.

Ông Dương quy y dưới trướng Hòa thượng Diệu Pháp ở Ngũ Đài Sơn, siêng tu Giới định tuệ, hoằng pháp độ nhân.

Trong tình huống tôi bị bệnh hết cách chữa như thế này, nghe Dương cư sĩ nói Hòa thượng Diệu Pháp hiểu rất sâu về nhân quả, hễ ai bị bệnh nan y khó chữa mà đến nhờ Ngài thì đều thoát khỏi cơn bệnh lâu năm giày vò.

Thảy đều không trị mà được lành và hồi phục giống như chết đi sống lại.

Cha mẹ tôi nghe vậy càng thêm nôn nóng, vội tìm đến gặp Hòa thượng Diệu Pháp thử xem sao.

Khi ông bà kể cho Ngài nghe bệnh trạng của tôi xong, Hòa thượng hỏi:

- Có phải con trai của 2 vị rất ưa ăn thịt Ếch?

Mẹ tôi đáp:

- Dạ, phải!

Nó ưa món ếch xào ớt, mỗi tuần ăn hai, ba lần.

Hòa thượng lại bảo:

- Hiện giờ hai chân cháu có hình dạng như chữ " cung" phải không?

Vừa nói Ngài vừa dùng tay phác họa diễn tả.

- Dạ, hai chân nó có hình giống y như vậy - Mẹ tôi đáp

Hòa thượng hỏi tiếp:

- Các vị xem hình dáng đó có giống như con ếch không hả?

Thấy Ba mẹ tôi ngơ ngác, Ngài phán:

- Cháu bị bệnh này là do ăn quá nhiều Ếch mà chiêu cảm nên.

Đây chính là nhà Phật thường nói là "Nhân quả báo ứng".

Sau đó Ngài giảng giải Phật lý, nói rõ về nhân quả báo ứng và nêu lên những bằng chứng có thực.

Hơn nữa, Hòa thượng còn đích thân đến nhà xem cho tôi, đầu tiên Ngài cổ vũ tôi nên kiên cường đối diện với bệnh tật, tiếp đến lại bảo tôi phải làm đúng như lời Ngài dạy thì chắc chắn sẽ hết bệnh.

Hòa thượng khai thị lý nhân quả báo ứng, giải thích sự luân hồi trong sáu nẻo, khiến tôi vô cùng cảm động và có cảm giác như mình đi trong đêm đen bỗng được đèn soi sáng, tôi cảm thấy chỉ có Ngài mới cứu được mình.

Hòa thượng vừa giảng pháp vừa định dùng tay xoa bóp chân tôi.

Thấy thế mẹ tôi cuống quýt ngăn cản:

- Xin đừng làm vậy, vì hễ chạm đến một chút là cháu nó đau đớn co rúm, run rẩy toàn thân

Hòa thượng cười bảo tôi:

- Vậy ta có nên xoa bóp cho con nữa không?

Do sợ đau, tôi rất sợ người động chạm đến mình, nhưng do đối với Hòa thượng có niềm tin rất sâu nên tôi đồng ý.

Lạ thay, lúc 2 tay Hòa thượng tiếp xúc với hai chân tôi, không những tôi chẳng mảy may đau, mà còn cảm thấy nóng ấm, thư giãn, hết sức dễ chịu.

Hồi nãy tôi với song thân cứ thắc thỏm lo âu, bây giờ thì đã an tâm rồi, tôi cảm kích đến lệ tuôn ràn rụa.

Nếu như 2 chân tôi có thể hồi phục mạnh khỏe, thì đây chính là niềm hạnh phúc và may mắn suốt đời.

Trong lòng tôi tràn đầy niềm tin kính phục Hòa thượng.

Một lần nữa Ngài đã nhen nhúm cho tôi niềm lạc quan, vui sống.

Hòa thượng còn dặn tôi nhất định từ nay không nên ăn ếch nữa, cũng không được sát hại loài vật để ăn, nếu có thể thì nên ăn chay, để giúp thân mau hồi phục.

Ngài giải thích "Tội lớn đầy trời, sám hối liền tiêu".

Chỉ cần tôi thật lòng ăn năn phát lộ sám hối những sát nghiệp đã tạo, mỗi ngày chịu khó vì bao sinh linh tôi hại chết đó mà thành tâm niệm Phật cầu siêu cho nó, thì hai chân tôi dần dần có thể hồi phục lại.

Tôi tuân theo lời Ngài, bắt đầu ăn chay, niệm Phật.

Cha mẹ tôi cũng đồng niệm Phật hỗ trợ, cầu cho tôi sớm mạnh khỏe.

Và bệnh của tôi dần dần chuyển biến tốt.

Nhưng khi bạn bè đến thăm, thấy tôi thân thể quá suy yếu, ai cũng khuyên nên ăn thịt cá cho có chất bổ dưỡng.

Cha mẹ tôi cũng nóng ruột, đồng bảo tôi hãy đợi thân thể khỏe hẳn rồi hãy ăn chay.

Do niềm tin không kiên cố, tôi bị mọi người thuyết phục, thế là quay lại ăn cá thịt.

Về sau này, khi tụng kinh Địa Tạng, tôi mới biết mình thuộc loại người "Vừa mới phát thiện tâm, trong chốc lát đã vội thối thất"

Hậu quả là sau khi tôi ăn mặn lại rồi thì 2 chân bắt đầu đau kịch liệt trở lại.

Dù tôi có chích, uống thuốc gì, cũng đều vô hiệu.

Lúc này cha mẹ tôi mới cuống quýt đi tìm Hòa thượng Diệu Pháp, nhưng Dương cư sĩ nói Hòa thượng đã đi Nam Phương Tự giảng pháp.

Trải qua bao trắc trở, vất vả, cuối cùng chúng tôi cũng liên lạc được với Ngài.

Qua điện thoại, Hòa thượng hỏi:

- Con lại ăn cá, lươn, phải không?

Lòng nóng như lửa đốt, mẹ tôi chen vào thưa:

- Dạ, đúng vậy, cá, lươn có thể giúp cháu nó bổ huyết tráng kiện thân thể ạ...

Hòa thượng thở dài nói:

- Ôi chao!

Sao các vị không nhớ kỹ lời ta dặn, ăn cá thịt chẳng ích chi cho thân thể, chỉ có hại và làm tăng thêm tội, khiến bệnh tình trở nặng mà thôi!

Thật là nghiệp cũ chưa trừ, lại gây thêm nghiệp mới!.

Lần trước ta đã chỉ các vị cách điều dưỡng rồi, nếu như có thể kiên trì ăn chay, niệm Phật và thành tâm sám hối phát thệ dứt ác, thì bệnh sẽ chuyển biến tốt, tuyệt nhiên không thể có hiện tượng xấu như bây giờ.

Nghe xong, cả nhà đều hối hận.

Chúng tôi bày tỏ lòng ăn năn và tha thiết hứa lần này nhất định vâng theo lời Hòa thượng.

Sau đó, cùng thỉnh cầu Ngài dạy cho cách cứu vãn.

Hòa thượng bảo tôi phải tụng Kinh Địa Tạng và chú Đại Bi, phải thực lòng thành tâm ăn năn sám hối, như thế mới dần dần tiêu trừ nghiệp chướng.

Hòa thượng buộc tôi mỗi ngày phải siêng năng tụng niệm, hồi hướng công đức trì chú cho chúng sinh khắp pháp giới, như vậy hiệu quả mới tốt.

Từ hôm đó tôi mới thật sự bắt đầu học hỏi và tu tập Phật pháp.

Ngày ngày khẩn thiết tụng Kinh Địa Tạng và chú Đại Bi.

Có nhiều chữ tôi không biết.

Nên phải mua máy ghi âm để tụng theo, tôi kiên trì không dám biếng lười.

Không bao lâu tôi có thể tụng thuộc làu chú Đại Bi.

Và tụng xong bộ kinh Địa Tạng trong vòng hai tiếng.

Tôi nghĩ đây là nhờ Chư Phật, Bồ-tát gia hộ nên mới có được hiệu quả nhanh như thế.

Cha mẹ tôi cũng vì tôi chí thành học Phật hành pháp và chiêu cảm được vô lượng an ủi.

Tôi hằng ngày tập trung tinh thần tụng kinh, trì chú, niệm Phật, chuyên tâm tu hành.

Người khác có khuyên tôi ăn thịt, tôi cũng không lay động.

Nhờ vậy mà bệnh ngày càng chuyển tốt.

Sau đó tôi đến bệnh viện để tái khám kiểm tra.

Bác sỹ chẩn đoán là xương đùi bị hoại tử.

Tôi cũng phối hợp trị liệu bằng Đông y, bệnh tôi thuộc dạng tạp chứng nan y hiếm thấy.

Nhưng kỳ tích của tôi dần xuất hiện: tôi có thể bước đi không còn đau đớn, tôi nghĩ: "Đây chính là cảnh chuyển theo tâm".

Đã là báo ứng nhân quả thì không nên sợ hãi, buồn rầu, khóc lóc, chỉ cần bình thản đối diện, tin sâu Phật pháp, chí tâm tu hành, nhất định sẽ chuyển xoay ác cảnh thành thiện cảnh.

Qua kinh nghiệm lần này, tôi hy vọng những ai xem chuyện của tôi đều sẽ lấy đó làm gương mà cẩn trọng cảnh giác, mong quý vị đừng sát sinh nữa, để khỏi đi vào vết xe đổ như tôi.

Vì nếu không đích thân trải qua kinh nghiệm đau đớn khắc cốt ghi tâm này, tôi cũng khó mà tin vào thuyết báo ứng nhân quả, về tội nghiệp sát sinh!

Đúng là nhân quả báo ứng rất rõ ràng, như bóng tùy theo hình, không mảy may sai lệch.

Cho nên, mong các vị sớm tỉnh ngộ, hiểu rõ sát sinh chắc chắn chiêu ác báo mà dứt tuyệt ăn mặn.

Xin hãy xem chuyện của tôi, sau khi thọ ác báo rồi, mới biết tỉnh ngộ, nhờ vậy mà càng phát trí tuệ, càng có phúc phận.

Tôi luôn nhớ câu: "Ác hữu ác báo, thiện hữu thiện báo".

Những gì chúng ta tạo tác hành động, từng cử chỉ, từng niệm khởi, theo sau đều có quả báo.

Người đã tu tập chứng đắc, vừa nhìn là biết ngay nguyên nhân, nếu không thì làm sao Hòa thượng Diệu Pháp thấu rõ nguyên nhân căn bệnh của tôi là do ăn ếch, cá, lươn... mà chiêu cảm nên?

Mong quý vị hãy suy ngẫm cho thật kỹ.

05.

GÀ TRỐNG LÔNG VÀNG

Có một nông dân họ Chương bị bệnh ung thư Phổi tới giai đoạn mà cả 2 bệnh viện lớn đều tuyên bố bó tay và dặn dò người nhà nên lo chuẩn bị hậu sự cho ông.

Có người bà con của ông biết tôi hay nghiên cứu Phật lý, liền dẫn vợ ông Chương tới nhà tôi, thỉnh cầu giúp họ.

Rất may là Hòa thượng Diệu Pháp đang có mặt tại đó, họ liền khẩn cầu Sư phụ từ bi cứu giúp.

Hòa thượng Diệu Pháp nói:

- Bệnh nhân nghiệp sát quá nặng, nhất là giết gà rất nhiều, có phải vậy không?

Vợ ông Chương đáp:

- Dạ đúng, chồng con ưa chiên xào, hầm, nướng...

Trong làng mà có đám cưới, hỉ sự hay tang sự gì, toàn đến nhờ ông làm bếp trưởng.

Đã vậy ông chê người giết gà kỹ thuật không giỏi, nên luôn giành ra tay.

Mỗi lần tổ chức tiệc ổng giết mấy chục congà, máu đỏ nhuộm hồng cả cái mương

Hòa thượng lại hỏi:

- Các ngươi có lén giết con gà trống bự nào của nhà người ta hay không?

Con gà này bụng nó lông toàn sắc vàng, mình thì mầu hồng nâu, có đuôi màu xanh lá cây đậm, toàn thân nó sáng lấp lánh, khi nó ngẩng lên - tính chiều cao từ đầu đến chân - cũng hơn nửa mét, trông nó rất là hùng tráng oai vệ...

Bà Chương nghe Hòa thượng tả thì cả kinh, mặt mày thất sắc, té nhào xuống nghe một cái đụi.

Bà dập đầu lia lịa, lắp bắp:

- Ôi trời ơi, thưa Bồ-tát!...Chúng con nào biết...giết gà...là có tội?

Năm đó mất mùa, ngày nào nhà cũng đói!

Hôm đó có con gà trống bự của nhà láng giềng bay đến chỗ nhà chúng con.

Quả thật chúng con có lén giết nó ăn, nào ngờ Bồ-tát có mắt nhìn thấu hết trọi.

Đây kêu là "ác hữu ác báo", sau này chúng con không dám tùy tiện chiếm đoạt của người ta nữa.

Mà trong năm đói kém đó chúng con còn trộm thêm lương thực của nhà nước để ăn, còn trộm cả hoa màu...

Bây giờ con biết tội rồi, tất cả đều do chồng con liều lĩnh làm, xin hãy giảm tuổi thọ con đi ạ!

Con nguyện chết thay cho ông ấy...Huhu huhu!

Bà vợ rất chấn động tinh thần, vừa khóc vừa kể một thôi một hồi, luôn miệng xin sám hối tội lỗi của mình, khiến người nghe xúc động không nguôi.

Ai ngờ phụ nữ này có linh giác rất cao, mới nói một chút là thông suốt.

Lời lẽ của bà thật thà chất phác, mà tình cảm phu thê họ cũng thật đáng quý.

Tôi vội đỡ bà dậy, bảo bà hãy lắng nghe Hòa thượng khai thị.

Sư phụ cũng đang rất cảm động.

Ngài nói giọng hơi run:

- Sự khóc lóc phát lộ của con vừa rồi chứng tỏ con rất chân thành và biết ăn năn.

Khi trở về phải nhớ giải thích cho chồng con hiểu, để ông ta biết lỗi mà khẩn thiết sám hối.

Từ nay về sau cả hai tuyệt đối không được sát sinh nữa.

Hãy tới chùa thỉnh bộ kinh Địa Tạng, vì chồng con sát hại gà nhiều nên phải tụng 49 biến, để hồi hướng cho chúng nó.

Nên nhớ là chồng con phải siêng tụng kinh Địa Tạng, ông ta còn tội trộm giết gà trống bự kia nữa, nó là vua trong loài gà đấy!

Và Hòa thượng hỏi tiếp:

- Có phải là sau khi giết con gà trống 'oai hùng' đó xong, chồng con liền bị bệnh nhức đầu?

Bà Chương ngẫm nghĩ nhớ lại rồi khẳng định:

- Đúng, đúng vậy!

Quả là lúc đó ông phát bệnh nhức đầu ngót hai ngày, nhức bưng bưng, ăn gì cũng không nổi!

Hòa thượng nói:

- Con gà sau khi bị giết, lúc nào nó cũng theo báo và đứng trên đầu chồng bà, có lúc còn dùng mỏ mổ vào não ông.

Như vậy thì làm sao mà không đau đớn được chứ?

Hãy lập bài vị cho con gà đó ở trong chùa, hai con phải vì nó tụng 7 bộ kinh Địa Tạng và thỉnh chư Tăng giúp làm siêu độ cho nó.

Nó có thể siêu sinh thiên giới thành một con phượng hoàng!

Bà Chương nói:

- Chúng con không biết chữ nhiều, tụng không được thì làm sao?

- Tụng kinh là để cứu mạng cho chồng con!

Ngoài ra, đối với con cũng có lợi ích rất lớn.

Không biết chữ thì có thể tra từ điển, cũng có thể hỏi người biết chữ, nếu không thể tụng thì có thể thỉnh Tăng nhân tụng, nhưng không tốt bằng chính tự mình tụng, vì công đức này đều là của mình làm nên.

Phải tuyệt đối lưu ý, trong thời kỳ siêu độ, nên đoạn tuyệt tất cả thức ăn mặn, tất cả những thứ như thịt, hành, hẹ, tỏi, rượu và thuốc hút...Toàn bộ đều phải dứt hết.

Bởi vì nếu ăn đồ hôi tanh rồi tụng kinh, thì chẳng thể có chư thiên nhân, quỷ thần nào đến nghe kinh, chúng sinh sẽ không được lợi ích.

Mà như vậy đối với Phật pháp cũng không cung kính.

Thế thì làm sao có được công đức?

Những con vật bị giết nếu như không siêu được, thì bệnh chồng con rất khó lành.

Nếu cả hai có thể nghiêm hành, tuân thủ giới luật, thì Phật, Bồ tát nhất định sẽ gia hộ cho các con.

Hòa thượng nhắc nhở thật thiết tha.

Bà Chương lại hỏi:

- Chồng con hiện đang bệnh nguy, không biết có thể chết lúc nào, tụng kinh như vậy có kịp không?

Hòa thượng đáp:

- Chồng con nếu chẳng giết vô số gà như thế, thì thọ mệnh cũng chưa tận.

Sát sinh là giảm thọ mà!

Bởi vì vừa rồi con phát lộ ăn năn sám hối tận đáy lòng, nên hiện giờ bệnh chồng con cũng có cơ may chuyển biến.

Hãy chí thành sám hối trợ giúp ông nhà tiêu trừ tội chướng.

Nếu bản thân chồng con biết thành tâm sám hối, chí thành tụng kinh niệm Phật, nhất định sẽ chuyển nguy thành an.

Phải tranh thủ nắm bắt thời cơ còn lại!

Bà Chương liền vào bệnh viện, thì thấy chồng mình đã có thể ngồi dậy được và đang ngồi trên giường.

Hỏi thăm mới biết, ông vừa mới nôn ra ống nhổ hơn hai chén rưỡi đàm mủ.

Hơi thở cũng đã thông.

Đây là từ hồi bệnh nặng tới giờ lần đầu ông có thể nôn được đàm ra.

Bà Chương vô cùng mừng rỡ, sẵn dịp đem lời Hòa thượng dạy, kể cho chồng nghe.

Chồng bà nghe kể xong thì vừa mừng vừa sợ.

Hôm sau cả hai quyết định xuất viện về nhà, họ nói với bệnh viện:

- Dù sao chúng tôi cũng hết thuốc chữa rồi.

Sau đó hai vợ chồng làm y theo lời Hòa thượng dạy.

Không bao lâu sau, cái ông Chương bị "ung thư phổi suýt chết kia", đã ra khỏi cửa tử trước sự ngạc nhiên của toàn Thôn.

Chưa hết, ông còn có thể chạy xe đạp, việc này là đầu đề cho toàn Thôn hỏi thăm, bàn tán.

Đã vậy, một trân mưa lớn trút xuống làm dột nhà ông.

Ông liền trèo lên mái nhà tu bổ chỗ rò rỉ, khiến dân làng kinh ngạc, suýt xoa mãi không thôi

06.

BỆNH "TRỜI CHO"

Đầu năm 1994, anh Giả, chồng của chị Lý bị bệnh ghẻ.

Toàn thân anh nổi đầy ghẻ, vừa chảy mủ vừa nhức nhối khó chịu, đã chạy chữa khắp nơi từ Đông đến Tây y nhưng đều không thấy kết quả.

Chị Lý gọi điện cho tôi, ngỏ ý muốn đưa chồng đến gặp Hòa thượng Diệu Pháp, nhưng lại ngại chồng mình toàn thân nổi ghẻ lở, máu mủ hôi thối rất bất tiện nên chị bối rối do dự không biết phải làm sao.

Ngờ đâu 3 ngày sau, chị lại gọi điện đến, vui mừng báo tin cho tôi, bệnh lở loét của chồng chỉ trong 1 đêm mà các miệng ghẻ đã khô, thôi không chảy mủ nữa.

Đây là chuyện lạ khó tin kể từ khi chồng chi phát bệnh đến nay, nên chị rất phấn khởi, quyết định đưa chồng mình tới bái kiến Sư phụ.

Tối hôm đó chị Lý cùng chồng đến.

Chồng chị cao một mét tám, thân hình cân đối, dung mạo anh tuấn, hào hoa, trông có vẻ là một nhân tài.

Hai vợ chồng vừa bước vào cửa đã hướng về Hòa thượng Diệu Pháp hành lễ, khẩn cầu Ngài từ bi cứu giúp.

Vừa ngồi xuống chị Lý đã hỏi Sư phụ:

- Chồng con chỉ trong 1 đêm mà ghẻ hết chảy nước, hiện giờ trên thân không còn lở lói, bệnh đỡ rất nhiều, việc này là thế nào?

Xin Hòa thượng chỉ giáo.

Hòa thượng hỏi:

- Con có từng đến chùa cầu Quan Thế Âm Bồ-tát phải không?

Chị đáp:

- Dạ, nửa năm trước do thấy bệnh của anh ấy chạy chữa không hết nên con thường đến chùa lạy đức Quán Thế Âm Bồ-tát, cầu xin Ngài giúp bệnh của chồng con sớm lành.

Sư phụ chậm rãi nói:

- Các con có thể tới đây được ngày hôm nay, chính là nhờ con kiên trì lễ bái Quan Âm Bồ-tát, nay được cảm ứng.

Thầy cần nói rõ là nhờ thiện căn các con sâu dày, cùng Phật có duyên nhưng chồng con bị bệnh là do báo ứng riêng của bản thân, do y có phạm lỗi, làm sai, việc này chỉ có y tự mình nhận ra lỗi, chịu sám hối và thệ hứa vĩnh viễn không tái phạm, thì bệnh mới khỏi hẳn.

Chư Phật Bồ-tát luôn hy vọng người phạm lỗi biết cải tà quy chính.

Sau đó Sư phụ quay sang hỏi chồng chị Lý:

- Anh thấy ta nói có đúng không?

Anh Giả gật đầu lia lịa đáp:

- Dạ đúng!

Dạ đúng!

Sư phụ nói không sai.

Hòa thượng tiếp lời:

- Mỗi cá nhân vì không biết Phật pháp, nên luôn phạm lỗi, thậm chí còn làm việc ác.

Anh nếu như đối với những điều ác từng làm trong quá khứ, chân thành phát lộ sám hối, thì có lẽ bệnh sẽ lành.

Nhưng anh Giả dõng dạc nói:

- Con là một người nghĩa khí, việc hại người chưa bao giờ làm qua, ngay cả chuyện đánh mắng, gây gỗ cũng chưa từng phạm.

Thấy vậy Sư phụ đành nói nhỏ rồi mời chị Lý ra ngoài, sau đó Ngài mới hỏi lần nữa:

- Xin Giả tiên sinh hãy tự kiểm lại xem mình trong đời đã làm việc gì xấu không?

Nhưng anh Giả vẫn khăng khăng nói "chưa từng làm qua điều gì xấu", sắc mặt vẫn tỉnh khô, lại còn bảo Sư phụ nếu biết thì nói ra giùm.

Hòa thượng thở dài bảo:

- Ngươi bị bệnh nặng tới nước này mà vẫn còn chấp mê bất ngộ!

Hãy xem vợ ngươi vì ngươi mà chí thành lễ bái cầu Phật gia hộ cho kia!

Giờ ta hỏi ngươi một việc - Giọng Sư phụ trở nên nghiêm khắc - Lúc ngươi 20 tuổi, có kết bạn với một cô thấp hơn ngươi một chút, mặt trái xoan, da trắng, tóc thắt hai bím chăng?

Thấy ông Giả có vẻ bất ngờ, Sư phụ bồi thêm:

- Cô ta thường mặc áo có hoa trắng mà ngươi tặng cho cô ta, có việc này không?

Lúc nãy bình tĩnh tự hào bao nhiêu thì bây giờ anh Giả mặt mày tái nhợt, hai mắt kinh hãi nhìn sững Hòa thượng, y lắp bắp:

- Cô ấy... là bạn học theo con từ thành thị đến nông thôn, cùng ở chung một hộ.

Vì sao Ngài biết cô ấy?

- Vậy ngươi nói xem, quan hệ giữa đôi bên là thế nào?

- Dạ, chỉ chút tình cảm thoáng qua thời tuổi trẻ thôi...

- Thế ư?

Ta thấy không đơn giản như vậy, bởi vì ngươi đã dùng thủ đoạn lừa gạt, cưỡng đoạt cô ta, cuối cùng thì bỏ rơi cô ấy, có đúng không?

- Sư phụ nghiêm khắc hỏi.

Anh Giả bị chấn động đến run người, ông vội quỳ xuống dưới chân Sư phụ, căng thẳng nói nhỏ:

- Xin Sư phụ vạn lần đừng để cho vợ con biết, con thực sự có yêu cô nương kia, sau đó...

- Sau đó còn mấy cô nữa, cũng bị ngươi dụ dỗ chiếm đoạt...

Thậm chí kết hôn rồi, trước khi vướng bệnh, ngươi vẫn còn thông gian với vợ người khác, đúng không?

- Hòa thượng nghiêm nghị nói, vẻ gay gắt.

Lúc này, toàn bộ ác hạnh tà dâm của Giả tiên sinh trong nhiều năm nay đều bị vạch trần không sót tí gì.

Mới vừa rồi anh ta còn cao giọng, dương dương tự đắc xưng mình là bậc quân tử, bây giờ thì thần sắc giống như phạm nhân, toàn thân run lẩy bẩy, anh phủ phục dưới chân Sư phụ không ngừng đập đầu van xin tha thứ.

- Sư phụ... con có tội!

Con sẽ không dám thế nữa...

Tôi chứng kiến cảnh này thì trong lòng cũng cả kinh chấn động, thật là "lưới trời lồng lộng, nhưng khó thoát dù một cọng lông".

Cho dù tội gian dâm của anh không bị quốc pháp trừng trị, nhưng anh hiện giờ tim kinh thịt run giống như đang bị tuyên án tử, cả người như không còn hồn vía.

Sư phụ oai vệ giống hệt vị phán quan, dõng dạc ra lịnh:

- Trước tiên hãy đứng dậy và ngồi xuống đi, ngươi không những là hoang dâm vợ, con gái người ta, mà còn dối lừa phụ mẫu, phản bội vợ nhà, bất trung bất hiếu, là kẻ đạo tặc thật sự...

Tất cả lỗi dâm vọng... không ác nào mà ngươi không làm, lại chẳng biết cải tà quy chánh, không bao lâu toàn thân ngươi sẽ lở loét thê thảm và chết.

Chết rồi ắt đọa địa ngục không sai!

Giả tiên sinh một lần nữa lại quỳ xuống, thiết tha hướng Sư phụ đập đầu, hành lễ, hứa từ rày về sau sẽ không dám làm việc xấu nữa.

Ông khóc to cầu xin Ngài nhận ông làm đệ tử, phát thệ từ nay xin thay đổi, sửa lỗi, gột rửa tâm, nguyện làm một Phật tử chân chánh.

Sư phụ khẽ gật đầu, biểu thị sự chấp nhận.

Sau đó Ngài kêu người đi mời chị Lý trở vào.

Sư phụ hướng vợ chồng họ giảng ngũ giới, thập thiện, dạy cách sám hối tiêu nghiệp.

Họ cung kính lắng nghe, mãi đến khi mặt trời ngã về tây, mới từ tạ ra về, ôm theo pháp hỷ sung mãn.

Sau khi gặp Hòa thượng Diệu Pháp rồi, hai vợ chồng hàng ngày đều chí thành tụng kinh, không lâu thì Giả tiên sinh khỏi bệnh.

Lễ Phật, tụng kinh đã thành là công khóa hằng ngày của họ, hai vợ chồng đồng tâm đồng đức, thành một gia đình Phật tử thuần thành.

07.

TRONG XƯỞNG CÓ CÁI GÌ, NHÀ TÔI CÓ CÁI ĐÓ

Hồng tiên sinh hơn 50 tuổi, là thợ máy làm trong xưởng cơ giới của chính phủ.

Một chiều nọ ông đi cùng lão cư sĩ đến bái kiến Sư phụ Diệu Pháp.

Vừa vào cửa ông liền cười ha hả chắp tay vái và cung kính khom mình ba lần trước Sư phụ, cũng không đợi mời ngồi, ông tự nhiên ngồi xuống.

Thoạt nhìn đã biết tính cách ông rất sảng khoái.

Sư phụ Diệu Pháp hỏi ông ta:

- Chẳng phải vì bị chứng đau lưng nên anh mới đến đây sao?

Ông có chút kinh ngạc nói:

- Sư phụ Ngài thiệt là thần thông, con chưa nói Ngài đã biết cả.

Nói xong ông đứng dậy, vén áo chìa lưng ra:

- Sư phụ xem, đai bảo hộ lưng con nè.

Chỉ thấy dây lưng ông mang là một vòng ruột xe chế thành, rộng chừng 15cm.

Ông ngồi xuống nói tiếp:

- Con đeo ruột xe bảo vệ lưng đã gần 10 năm rồi, bác sĩ nói là cơ lưng bị hao tổn, uống thuốc, tiêm chích gì cũng vô hiệu, chỉ có thể nương vào thắt lưng tự chế này, nếu không có nó bảo hộ, lưng con khó mà thẳng nổi!

Tất cả là do hồi trẻ con lao lực quá độ...

Ngừng một lát ông nói tiếp:

- Nghe bạn con nói, Ngài là một vị Bồ-tát sống, xin Ngài hãy cứu con.

Ngài trị lành lưng cho con, rồi hằng ngày con sẽ thắp hương cúng lễ Ngài cho dù phải lễ lạy trăm lễ mỗi ngày, con đều làm - Nói xong, ông lại chắp tay vái Sư phụ.

Hòa thượng Diệu Pháp cười cười nói:

- Thứ nhất, tôi không phải là Bồ-tát.

Thứ hai tôi không phải là thầy trị bệnh.

Nếu tôi mà là Bồ-tát, thì chúng ta còn có thể ngồi tại đây nói với nhau sao?

- Còn như tôi mà có thể trị bệnh, thì tôi phải đến bệnh viện để làm nghề chẩn khám.

Thực ra, bệnh ông tốt hay không, quyền quyết định ở nơi bản thân ông.

Bởi vì, tháo chuông phải do người buộc tự tháo.

Bây giờ, tôi hỏi ông, nếu như bảo ông không hút thuốc, không uống rượu, không trộm cắp, không ăn mặn, ông làm được hay không?

- Chỉ cần bệnh con có thể lành, kêu con giữ giới gì con đều làm tất, nhưng con không phải trộm cắp hay đạo tặc!

- Lưng ông ngoài cảm giác đau ra, có lúc còn cảm thấy bị sức ép rất nặng nề?

- Dạ, đúng, giống như là có mấy chục ký lô đè nặng trên lưng con vậy.

- Ông có lấy trong công xưởng các thứ như: sắt, bản lề, đinh, ốc, vít.., gì không?

Có khi xách cả rương đem về nhà?

Ông Hồng nghe thế thì ngồi ngây người ra, lát sau gật đầu nói:

- Quả thật là có việc này!

Bởi con là thợ trong công xưởng, "ở hiên lầu trước được thưởng trăng mà", thời buổi này có ai mà không lấy chút đồ của quốc gia làm của riêng?

Như vậy mà gọi là trộm ư?

Ngay cả trưởng xưởng của chúng con cũng lấy đồ đem về nhà kia mà?

- Ông Hồng phân trần biện bạch.

- Đem tài vật quốc gia về nhà làm của mình, không phải trộm thì là gì?

Vậy ông đường đường chính chính lấy đồ mang về nhà ư?

Hay là len lén bỏ đồ vào trong cà mèn cơm trống, rồi mắt láo liên...

đem ra khỏi xưởng.

Có như vậy không?

- Hòa thượng nghiêm nghị chất vấn.

Câu hỏi của Sư phụ khiến ông Hồng sững sờ.

Ông mở to mắt nhìn sững Hòa thượng, nói không nên lời.

Hòa thượng tiếp lời

- Không những thế, ông còn lấy kềm, tua vít, dây thép, lấy sắt thép trong xưởng về chế thành các vật dụng tư gia như: ống khói, ki hốt rác, bếp lò, đũa, kẹp gắp...

Ông Hồng đột nhiên ngắt lời Hòa thượng:

- Sư phụ, Ngài làm sao mà biết được?

- Thì chính chúng đang đè trên lưng khiến ông thẳng người không nổi đấy!

Đột nhiên tôi cảm thấy thư phòng trở nên giống như phòng thẩm vấn, hào khí bừng bừng lúc tiến vào phòng ban nãy của ông Hồng đã biến thành ủ rũ tang thương, ông gắng gượng một cách đáng thương, nhỏ giọng nói:

- Con lấy đồ về tuyệt không phải cho mình con xài, cũng không cầm đi bán, đa số đều cho thân hữu láng giềng.

Do công nhân lương thấp, dù sao cũng lấy đồ công của nhà nước, kể cả thủ kho cũng làm vậy.

Đây vốn là việc đồng tình thông cảm, cùng hỗ tương nhau, là chuyện "bất thành văn" trong công xưởng, nhưng con không biết đấy là trộm.

Vừa rồi Sư phụ nói, con nghe như sét nổ giữa trời quang, khiến tâm tư chấn động thức tỉnh.

Thực là trời cao có mắt!

Đồ công con lén lấy về Ngài biết hết trơn.

Hơn nữa tất cả thứ đó giờ đều đè trên lưng con.

Đây thực là "ác giả ác báo" mà.

Bao nhiêu năm nay con bệnh ngày càng nặng, té ra đồ con lén lấy ngày càng nhiều tạo thành.

Hôm nay mới rõ: "Muốn người đừng biết chi bằng mình đừng làm".

Câu này thiệt là đúng ghê!

Con xin đảm bảo với Sư phụ, bắt đầu từ nay trở đi, con quyết nghiêm trì điều kiện của Ngài, không hút thuốc, không uống rượu, không ăn mặn, không trộm lấy tài vật quốc gia, ngày mai con sẽ đi thỉnh tượng Phật về thờ phụng, con rất hối hận vì mình tin Phật pháp quá trễ như thế này.

Nếu không con đã chẳng làm điều xấu.

Xin hỏi Ngài, con phải tụng đọc sách Phật nào?

Tôi thật không ngờ ông Hồng có tâm tỉnh giác cao như thế, nghe ông bày tỏ lòng ăn năn sám hối, nội tâm tôi tràn trề pháp hỷ.

Ngó bộ Sư phụ cũng vui giống vậy, tôi liền nói:

- Tôi sẽ tặng cho ông vài sách Phật cho ông đọc trước, sau đó ông có thể đi chùa thỉnh kinh sách Phật về xem.

Ông Hồng cảm ơn tôi rồi quay lại hỏi Hòa thuợng:

- Những vật trước đây con lấy trong công xưởng đem về, nay có thể quy ra thành tiền đem trả lại được không?

Hòa thượng nói:

- Nếu ông đi trả như thế, phiền phức cho ông sẽ càng lớn.

Hiện giờ trong tâm biết lỗi sám hối, tội nhờ vậy cũng tiêu trừ, nếu muốn hoàn nợ cho công xưởng, thì ông có thể "lấy công chuộc tội", ráng làm nhiều việc cống hiến cho công xưởng để bù đắp, đồng thời phải giải thích cho thân hữu hiểu để họ tránh việc xấu này, để họ không còn tham chiếm tài sản quốc gia làm của riêng.

Ông phải đem thân ông để làm gương, giữ phẩm hạnh thanh cao trong sạch.

Đây chính là biết nhận lỗi hối cải, đã biết thì phải thực hành, nhất định có thể đem công đức bù đắp lỗi xưa.

Lúc ra về, ông Hồng trang trọng đón nhận sách Phật, cung kính nói với Hòa thượng:

- Xin Ngài hãy đợi xem, nếu như con không biết hối cải, thì rất có lỗi với Ngài!

Nửa tháng sau, ông Hồng tới chỗ tôi, vừa vào cửa liền khấu đầu trước tượng Phật giữa nhà.

Sau khi đứng dậy, ông vén y phục cho tôi xem, khoe dây bảo hộ lưng không còn nữa.

Ông hớn hở nói:

- Từ hôm ấy về nhà, tôi cảm thấy bệnh đã lành hơn phân nửa.

Những gì Hòa thượng yêu cầu tôi đều tuân hành hết.

Tôi đã lập bàn thờ Phật và tủ đựng kinh sách, đã thỉnh tượng Quán Thế Âm về sớm tối thắp hương lễ bái.

Mỗi ngày đều xem kinh, kinh Phật giảng thật hay quá.

Đến nay thì tôi tâm an, khí hòa, bệnh cũng lành rồi.

Những ngày tháng này gia đình chúng tôi mừng vui giống như tết, thật là cảm tạ Hòa thượng biết bao.

Tôi nghe xong, trong tâm cũng vui lây theo ông.

Hồng huynh quả là "buông dao đồ tể thành Phật liền" vậy đó!

08.

DÙI LỖ LẤY NHỌT

Cao tiên sinh tuổi hơn 40.

Thể cách tráng kiện, làm nhân viên bảo vệ tại một công ty lớn.

Ba năm trước, do hay vì bị nhức đầu, nên đi bệnh viện kiểm tra thì mới phát hiện trong đầu có cục bướu não đè dây thần kinh, dẫn đến chứng nhức đầu.

Thế là bác sĩ dùi một lỗ hổng trên đầu để lấy mụn nhọt ấy ra.

Hai năm sau lại phát hiện trong đầu có một mụt to, bất đắc dĩ lại phẫu thuật lần nữa.

Năm nay bác sĩ kiểm tra nói tại chỗ dùi lần trước lại mọc ra một cái mụt còn lớn hơn.

Bác sĩ phán là lần này không thể dùi đầu được nữa, vì làm vậy sẽ nguy hiểm đến tính mạng.

Trước tình huống nan giải này, ông liền đến thỉnh cầu Hòa thượng Diệu Pháp khai thị.

Hòa thượng nói:

- Ông ngày trước có công tác trên biển phải không?

Ông đã từng giết rất nhiều rùa, hơn nữa còn bắt rất nhiều cá sống to bự, đóng đinh trên ván rồi mới đánh vảy, moi ruột nó.

Cao tiên sinh nghe thế thì giật mình

- Dạ, đúng vậy, con từng đi Hải quân ba năm, trường kỳ sống trên đại dương.

Hằng ngày đều bắt cá ăn.

Biển sâu nên cá đặc biệt to, có con dài hơn một mét, cá bự mà giãy dụa dữ quá, con liền dùng cây đinh to, đóng đầu nó dính trên ván, sau đó mới bắt đầu đánh vảy, moi ruột.

Sư phụ, sao Ngài có thể nhìn thấu cả một thời quá khứ của con tài như thế?

Hòa thượng chậm rãi trả lời:

- Bởi vì, ngày xưa ông đóng đinh vào đầu cá, cho nên bây giờ ông bị bệnh cứ phải dùi đầu để chữa trị.

Cá sống bị đóng đinh trên ván đau đớn giãy dụa, nó đang còn sống mà bị ông đánh vảy, mổ ruột, moi nội tạng...cảnh ấy cực kỳ tàn nhẫn.

Vậy nên báo ứng cũng đến với ông từng lần, từng lần một.

Tôi e rằng trên đầu ông không chỉ khoan hai, ba lỗ mà thôi, nếu như bị chết liền thì tuyệt không đáng sợ.

Đáng sợ là suốt năm phải triền miên bị thống khổ dày vò trên giường bệnh, sống không bằng chết, không được thiện chung.

Lời Hòa thượng nói như sấm động, lay người tỉnh dậy từ cơn mê.

Cao tiên sinh khẩn thiết

- Sư phụ, Ngài thần thông quảng đại, xin hãy cứu đệ tử.

Sư phụ hiền hòa nói:

- "Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả".

Đến nay thì phải trả báo tội lỗi ngày xưa, chính ngươi buộc là kẻ phải tháo gỡ.

Chỉ cần ông thành tâm sám hối, thệ dứt hẳn sát sinh, phát tâm ăn chay hẳn và niệm Phật thật nhiều, thì có thể chuộc được lỗi xưa.

Cao tiên sinh ngay hôm đó lập tức bắt đầu lễ Phật, tụng Kinh Địa Tạng, và tại Phật tự lập bài vị cầu siêu cho những loài ông đã giết.

Mãi đến hơn hai năm sau lúc ông tạ thế ông đều luôn tụng kinh niệm Phật.

Ông đã không còn bị khổ não hành hạ.

Chỉ đáng tiếc là ông qua đời lúc chưa đầy 50 tuổi.

Niệm kinh bái Phật cố nhiên có thể giúp cho tiên sinh không bị thống khổ dày vò tiếp tục, nhưng do nghiệp sát của ông quá nặng, nên bị giảm thọ.

Phật lực dù quảng đại, cũng không qua nổi nghiệp lực chúng sinh.

Cho nên chỉ có thành tâm sám hối, nguyện đoạn nghiệp sát, không ăn đồ mặn tanh hôi, ngăn tuyệt nhân gieo tội, mới là căn bản cầu phúc, cầu thọ.

09.

NHAI XƯƠNG MÚT TỦY

Mùa hạ năm 1996, vợ một phú ông từ Đài Loan đến.

Bà bị bệnh viêm xoang mũi ngót mười mấy năm chưa khỏi, nên phải sang Đại Lục, lên Ngũ Đài Sơn xin bái kiến Hòa thượng.

Cầu Ngài chỉ ra nguyên nhân căn bệnh.

Sư phụ hỏi:

- Lúc bà kết hôn gia cảnh bên chồng không được tốt lắm?

- Dạ, đúng vậy!

- Bà ta thưa

- Sau khi kết hôn sinh con đẻ cái nhiều, gia cảnh ngày càng tệ, đời sống rất chật vật gian khổ...

- Dạ, đúng vậy!

- Thỉnh thoảng bà đi chợ mua mấy con cá, nấu xong thì luôn đem món ngon nhất dâng cho mẹ chồng.

Mình cá, đuôi cá cũng đem phân chia cho các con ăn.

Còn lại xương đầu cá bà không đành quăng bỏ.

Nên bỏ vào miệng nhai nát, mút tủy nó.

Sau này, gia cảnh dù giàu có rồi, nhưng tập quán cũ bà đã huân sâu nên vẫn tái diễn.

Cho đến nay thì lúc ăn cá, bà vẫn thích nhai xương nuốt tủy nó, phải vậy không?

- Đúng thế, thưa Sư phụ.

Bởi vì đã thành thói quen rồi, con thấy xương cá ăn rất ngon.

Nhưng con nghỉ thức con ăn là tam tịnh nhục (thịt nằm trong ba điều: Mắt chẳng thấy người giết, tai chẳng nghe người giết, chẳng phải là giết cho mình ăn) mà? chẳng phải được phép ăn sao?

- Bà có chỗ không hiểu nhên hỏi lại.

- Ăn tam tịnh nhục là cách giảng pháp dành cho người mới nhập môn theo Phật giáo.

Bởi vì nếu bảo người bỏ ăn mặn liền, thì e rằng nhiều người không làm nổi.

Vì vậy mới đề nghị họ không sát sinh.

Ăn tam tịnh nhục - Chỉ là cách thức đức Phật phương tiện dẫn dắt chúng sinh - Tùy theo công phu tinh tấn không ngừng niệm Phật tụng kinh, mà tự nhiên họ không còn tơ tưởng tới chuyện ăn mặn nữa.

Nếu nói rốt ráo thì ăn thịt chính là sát sinh!

Bà cần phải sớm đoạn trừ và nghiêm trì giới sát mới đúng lý - Sư phụ giải thích.

- Sư phụ ôi, ăn xương cá, đầu cá mà cũng có tội ư?

- Bà vẫn không hiểu, hỏi lại

- Thịt và xương - Đều là các phần trong thân thể động vật, và chúng ta thường dùng từ "rút gân, lột da, nhai xương, nuốt tủy", nói như thế cũng để hình dung diễn tả tâm trạng của người đang sân hận nữa.

Phải biết động vật trong lúc bị ta sát hại.

Lòng tràn đầy niềm kinh sợ trước cái chết đến gần và đối với người sát hại nó, cũng như rất căm hận người ăn nuốt nó.

Bởi vì tất cả chúng sinh, thông thường ai cũng đều chấp vào thân thể của mình, rất yêu quý thân mình, cho rằng cái nhục thể bị ăn đó là của mình, vì vậy dù chết, thần thức hoàn toàn không chịu lìa xa thân thể, bất kể là thân đương sự bị băm vằm, nuốt sống, hay đã làm chín như quay, nướng, chưng xào... chỉ có bậc giác ngộ, những vị tu hành mới không chấp thân, còn kẻ tu kém, tình chấp cao, sân hận nhiều.

Do vậy, mà dù đã chết, thần thức con vật khi thấy thân xác mình bị băm vằm xào nấu, nhai nuốt nó cũng vẫn thấy vô cùng thống khổ, đau đớn...

Do vậy khi người ăn thịt ra tay rút gân lột da động vật, nhai xương nuốt tủy, thậm chí lúc tàn sát động vật thảm thương, đâu phải chỉ vung đao là kết liễu xong nó?

Mà thống khổ gieo cho con vật không ngừng gia tăng, nên lòng oán hận nó đối với ta rất sâu thâm.

Chính vì nguyên nhân này mà bà phải mang bệnh vào thân, bệnh hoạn chất chồng, và hay gặp cảnh họa vô đơn chí.

Vì vậy mà người tu hành tín thờ Phật, không nên ăn tam tịnh nhục, càng không thể ăn nội tạng động vật như tim gan phổi, mắt, lưỡi, óc, tủy...

Đừng có ngu muội tin là ăn gì bổ đó, đừng cho rằng ăn như thế mới có công dụng đại bổ dưỡng.

Quý vị đâu biết rằng ăn nội tạng càng nhiều, là cùng các loài động vật gây oán thù càng sâu.

Lâu ngày nội tạng trên thân mình phát sinh nhiều bệnh hiểm.

- Sư phụ, thế thì đáng sợ quá!

Vậy bệnh viêm xoang của con có thể chữa lành không?

- Với điều kiện bà phải chân thành sám hối, thệ nguyện dứt hẳn ăn mặn, làm nhiều việc phúc thiện và cần phóng sinh cho nhiều vào.

- Nếu như mỗi ngày bà có thể tụng một bộ Kinh Địa Tạng, hồi hướng cho chúng sinh trong pháp giới, nhất định sẽ được cảm ứng lành.

Phóng sinh thì phải thả chỗ nào cho cá dễ sống, không nên thả nó vào ao của người nuôi cá để chờ ăn thịt.

Nên thả trong sông biển, ao hồ rộng lớn, để nó có thể thực sự đào sinh.

Các loại điểu cầm, thú rừng cũng vậy, hãy thả nơi nào an toàn cho nó.

Nếu như kinh tế khá, có thể phóng sinh ba ba và nhiều loài động vật khác, sẽ càng có nhiều công đức lớn, bù đắp lỗi sát ngày xưa.

Chúng nó đều có tinh linh, không chừng đời nay cũng có thể báo đáp ân tình của bà, các báo đáp này chúng ta cũng thường thấy.

Xong rồi, giờ bà đã có đủ niềm tin để giữ giới - Vĩnh viễn không sát sinh và vĩnh viễn không ăn mặn chưa?

- Dạ được, trở về con nhất định làm theo lời Ngài dạy - Bà nói có vẻ kiên quyết

Nhai xương nuốt tủy có thể chiêu bệnh tật đến, đây là lẽ đương nhiên.

Lần này, tôi được nghe Sư phụ thuyết kỹ, nên có ấn tượng rất sâu.

Vì vậy đã cẩn thận ghi chép lại.

Hy vọng được các pháp lữ chú ý xem và cẩn trọng để cùng thu hoạch lợi ích.

Riêng phần bà nhà giàu ở Đài Loan kia, về sau bệnh viêm mũi đã dứt hẳn triệt để, bà còn quay trở lại Ngũ Đài Sơn để kể lể nỗi niềm tri ân và tha thiết bái tạ Hòa thượng.

10.

CƯ SĨ CŨNG PHẢI CÓ ĐỦ ĐỨC HẠNH

Năm 1993, anh thợ họ Lý đến nhà tôi nghe Sư phụ giảng pháp, phát tâm tin Phật.

Nửa tháng sau anh xin quy y Tam Bảo, còn cầm tờ "chứng nhận quy y" đến khoe với tôi.

Từ đó, mỗi ngày nghỉ phép chủ nhật anh đều đến chùa công quả, tình nguyện làm bảo vệ, giữ trật tự cho pháp hội.

Nửa tháng trôi qua, tôi đang cùng các bạn bàn luận Phật pháp tại nhà, thì anh Lý cùng vợ đến thăm, chào hỏi xong thì họ ngồi một bên nghe chúng tôi nói chuyện.

Đợi chúng tôi đàm đạo xong, vợ anh Lý mới thổ lộ:

- Hôm nay tôi là vốn muốn tìm tôn huynh để nói lý đây.

Nhưng vừa rồi nghe những lời tôn huynh nói với mọi người, toàn là dìu dắt, hướng dẫn họ hướng thiện.

Tháng trước, khi chồng tôi ghé nhà tôn huynh rồi, về nhà anh ấy bảo là "Muốn làm cư sĩ".

Nửa tháng sau, thì anh quy y Phật làm cư sĩ...

Chị ngừng một chút rồi nói với vẻ ấm ức:

- Nhưng tôi không hiểu thế nào gọi là "cư sĩ"?

Những tưởng ông xã học được vài điều hay hoặc làm nên việc tốt cho đó.

Ai dè từ hôm ấy trở đi, cứ mỗi chủ nhật thì ổng đến chùa, nói là đi công quả, hộ pháp...

Tối đến thì đem trái cây, nhang, dầu... về nhà, còn nói là hiện nay người tin theo Phật nhiều lắm, cúng phẩm cũng nhiều vô kể, các thứ, dầu, hương, trái cây, bánh... gì cũng có.

Các tu sĩ ăn đâu có hết?

Nên cư sĩ đến công quả thì phải chia cho.

Tôi nghe vậy thấy so với việc ổng đi kiếm tiền thì cũng đâu có khác chi, vậy mà còn khoe đi công quả hộ pháp cho chùa nữa chứ?

Tôi thấy làm vậy hình như không hợp lý chút nào?

Còn hoang đường hơn nữa là, hằng ngày tan sở về nhà, thì ổng cứ khoanh hai đùi lại, khoe là mình đang ngồi tĩnh tọa...

Nhưng cứ một chút là kêu tôi bưng nước, một chút thì kêu cho đồ ăn.

Tôi nói "tôi bận nấu cơm, ông hãy tự phục vụ đi"... thì ổng nói mình mắc ngồi, đùi không thể buông ra!

Thực tức chết đi, làm "cư sĩ" kiểu như vậy thì chẳng phải là làm... cha người ta sao?

Hay ổng đã được tấn phong, trờ thành nhân vật cao cấp tầm cỡ nào rồi?

Nếu thực vậy thì tôi cũng muốn làm cư sĩ ngồi luyện công đả tọa giống như ổng, để xem ai hầu ai cho biết?

Hôm nay tôi ôm một bụng tức anh ách đến để đấu lý cùng tôn huynh đây!

Chị nói một hơi, khiến tôi cực kỳ chấn động.

Té ra câu chuyện tôi nghe đồn về "Các cư sĩ Phật tử giành nhau phân chia cúng phẩm trong chùa" là sự thật?

Hôm nay mới được nghe tận tai, là bằng chứng hiển nhiên thực tế.

Thậm chí tôi còn nghe, vì phân chia cúng phẩm không đều mà xảy ra ẩu đả nữa?

Tôi từng xem kinh, thấy ghi thế này: "Một hạt gạo thí chủ nặng như núi Tu di, ăn mà không tu hành, phải mang lông đội sừng đền trả".

Thế thì, những sản phẩm đàn việt cúng dường Tam bảo, Ủng hộ chư Tăng Ni tu, duy trì Phật pháp trường tồn, vì sao cư sĩ có thể lấy đem về nhà được chứ?

Lại còn phát sinh ẩu đả tranh đoạt nữa, đây là việc rất có tội a!

Người xuất gia tiếp nhận của mười phương cúng dường, nếu như không tu hành đúng pháp, sẽ phải đọa vào ác đạo, huống chi là hàng cư sĩ tại gia?

Tương lai không những đọa địa ngục khó lên, mà các phúc báo đang có hiện đời cũng có thể bị mất sạch!

Xin nêu một thí dụ: Nếu Hòa thượng giới hạnh tinh nghiêm, thì phúc của Ngài giống như một vùng đất tốt màu mỡ phì nhiêu.

Mười phương thiện chúng đến cúng dường, là gieo hạt phúc trên đất đó.

Đất nhất định sẽ hồi báo hậu hĩ cho người siêng năng gieo trồng.

Nếu Hòa thượng giới hạnh không nghiêm, giống như đất xấu cằn khô, vô phương cho người thu hoạch tốt.

Ngay cả phần thu hoạch của bản thân cũng bị cỏ hoang lấn chiếm, cuối cùng khó tránh cảnh mất mùa.

Huống nữa chúng ta thân là cư sĩ, phước điền đã không bì kịp hàng tu sĩ, vì sao có thể đem tập khí xấu xa đầy tâm tham, sân, si đến cửa Phật thanh tịnh làm loạn như thế chứ?

Hòa thượng Diệu Pháp từng nói: "Nếu như đàn việt cúng dường thực phẩm, mà Tăng nhân ăn không hết, chẳng tiện cất chứa, thì có thể phân cho cư sĩ đem về nhà, nhưng phải được Trụ trì đồng ý.

Và các cư sĩ khi nhận quà, muốn kiệm phước, thì có thể căn cứ đại khái giá trị món đồ mình cầm đó mà bỏ tiền vào thùng phước sương để tạo thêm công đức.

Hoặc người làm công quả cũng có thể cầm ra chợ bán, đem tiền về cho chùa, đây cũng là đúng pháp, là biết tích lũy công đức, biết sợ tổn phước.

Hộ trì chùa vốn là bổn phận của cư sĩ, sao có thể mượn cớ đó, nhân danh này để vơ vét tài vật?

Lại còn khởi tâm tham tranh giành ẩu đả nhau?

Hành vi mê muội này chỉ càng làm cho Phật giáo bị mang ảnh hưởng cực xấu.

Nhân đây, tôi khẩn thiết xin các bạn đạo cư sĩ, làm việc xong nên dành thời gian tụng Kinh Địa Tạng Bồ-tát bổn nguyện, và Kinh Lương Hoàng Sám, chúng ta hãy mang tâm chí thành tha thiết tụng đọc, nhất định sẽ sinh tâm đại tàm quý, tiêu diệt các chướng, thu được phúc vô lượng.

Mục đích chúng ta học Phật là phải thu hoạch trí huệ, bội trần hiệp giác.

Gột sạch tam độc, tham, sân, si huân nhiễm đã lâu trong đời ngũ trược từ vô thỉ kiếp đến nay.

Người có trí một khi vừa nhận ra tật tính, hay tập khí xấu của mình là nguyên nhân khiến mình bị đọa vào ba đường dữ (Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), thì sao có thể thấy sai còn phạm tiếp?

Tự dìm mình vào vực thẳm, vạn kiếp khó ngoi lên?

Cư sĩ đến chùa thì phải nghiên cứu Phật pháp như thế nào để "Thâm nhập kinh tạng, trí huệ như biển" phải luôn học và hành theo hạnh Phật.

Chỉ khi trí huệ chân chánh được khai mở, chúng ta mới biết tin sâu nhân quả báo ứng mà cẩn trọng, mới cảm động vì tấm lòng độ sinh vất vả của chư Phật Bồ-tát, Thánh Hiền Tăng.

Phật không bao giờ vì người có tấm "Phái Quy y" mà bao che dung túng, hoặc giáng tội trừng trị cho ai không có "Phái quy y".

Phật luôn đem bi tâm tha thiết tuyên dương chân lý, hy vọng mọi người có thể từ trong mê, giác tỉnh quay về, ly khổ được vui.

Nhưng con đường đạo trong kiếp nhân sinh phải do chính chúng ta tự bước đi.

Hiểu rõ điều này, cư sĩ chúng ta phải biết kiệm đức, tích phúc, đến chùa bằng tâm tu sửa, khiêm cung, hộ Pháp vệ Tăng, chân thành học hỏi giáo lý, làm đúng theo lời Phật dạy đệ tự lợi, lợi tha viên mãn.

11.

TỔ KIẾN VÀ NHÀ Ở

Có hai vợ chồng dắt đứa con trai khoảng mười mấy tuổi đến xin gặp Hòa thượng Diệu Pháp, để thỉnh giáo.

Bọn họ ba năm trước từ Đài Loan ra nước ngoài định cư.

Trước tiên họ tạm thuê một phòng để trú ngụ, và dự tính là sau này sẽ chọn mua một biệt thự thích hợp để ở.

Nhưng việc mua nhà khó thành là do cả nhà bốn người luôn bất đồng, hễ chồng ưa thì vợ không chịu, hoặc ngược lại.

Hay con thích thì cha mẹ không đồng ý.

Chẳng dễ gì gặp ngôi nhà cả bốn người đều hài lòng.

Mà tới khi cả gia đình đồng ý thì cắc cớ là chủ nhà lại không muốn bán.

Cứ thế, diễn tiến này kéo dài ngót ba năm.

Cho đến nay họ vẫn chưa tìm mua được ngôi nhà nào thích hợp, điều này khiến họ suy nghĩ mãi mà không hiểu tại sao.

Do hai vợ chồng rất kính tin Phật, họ đâm ra hoài nghi, nghĩ là chắc phúc báo bản thân mình không đủ, cho nên nhân dịp nghỉ phép, họ mới sanh Đại Lục lên Ngũ Đài Sơn bái Phật, thỉnh cầu Hòa thượng Diệu Pháp giải nghi cho họ.

Nghe họ kể lể, Sư phụ chỉ mỉm cười, dịu dàng hỏi hai đứa con trai:

- Hai con tinh nghịch, có ưa chọc phá tổ kiến hay không vậy?

Nghe Sư phụ hỏi, cả nhà bốn người không hẹn mà đều bật cười.

Người mẹ nói:

- Dạ, hai cháu hồi nhỏ rất ưa phá tổ kiến, nói là muốn nghiên cứu cấu tạo tổ kiến, còn khen trong tổ kiến thiết kế rất hay, có cung điện cho kiến chúa, có doanh trại oai nghiêm cho kiến thợ, còn có rất nhiều thực phẩm kho lẫm...Dạ, hai cháu nghiên cứu chơi nghịch say mê, đến quên cả ăn uống...

Sư phụ nói:

- Hai cháu này ưa chọc phá tổ kiến, hủy đi bao ngôi nhà lũ kiến "thiên gian vạn khổ" tạo dựng nên, còn phá hoại, làm tiêu tan số thực phẩm suốt bao năm dài lũ kiến đi khắp nơi tha về tích trữ, việc làm của hai cháu đã khiến chúng mất chỗ an thân, ăn nghỉ.

Vì lí do đó mà ngày nay các con ở đâu cũng không yên, tìm nhà không ra!

Đây mới chỉ là sơ báo, nếu các con chẳng biết sám hối sửa lỗi, thì trong tương lai bản thân có được nhà ở, nhà chúng con sẽ rơi vào trường hợp nhà bị hủy hoại bất ngờ.

Cho dù các con có giàu sang đến mấy, tương lai cũng khó thoát cảnh có lúc phải chật vật tìm kiếm món ăn.

Quay sang hai người lớn, Hòa thượng quở:

- Còn hai con nữa, thân làm cha mẹ, đã quy y cửa Phật nhiều năm, vì sao có thể đứng yên nhìn, mặc tình nhìn con mình làm việc tổn đức như thế mà không ngăn cấm, khuyên dạy chúng?

"Nuôi mà không dạy là lỗi của cha mẹ" Các con phải biết nhân quả báo ứng như bóng theo hình.

Nếu các con sớm sám hối, tạo phúc, siêng năng tụng kinh hồi hướng công đức cho hằng ngàn vạn con kiến đã bị các con làm tổn hại thân mạng lẫn tài sản, thì có lẽ sẽ thay đổi được tai nạn trong vị lai.

Hiểu rõ chưa?

Hai vợ chồng được Hòa thượng khai thị xong, xúc động ăn năn sám hối thưa:

- Sư phụ, đệ tử đã biết lỗi, mặc dù quy y nhiều năm, cứ tưởng là chúng con đã biết ăn chay niệm Phật, như vậy là đủ tốt rồi!

Không ngờ chuyện lại nghiêm trọng đến như thế này.

Sau khi chúng con về, cả nhà sẽ sám hối trước Phật, và tụng kinh Địa Tạng, chú Đại Bi hồi hướng công đức đến cho lũ kiến, có được không ạ?

- Lành thay, lành thay!

Được rồi, các con lúc nào cũng phải ghi nhớ kỹ: "Tất cả chúng sinh đếu có khả năng thành Phật" cho nên không được xem thường loài vật, không được tùy tiện làm hại chúng sinh!

- Sư phụ tha thiết nhắc nhở

12.

THAI PHỤ TỤNG KINH ĐỊA TẠNG

Bốn năm trước tôi quen một cô gái tên Hải Ba, là sinh viên, tính điềm đạm xinh đẹp, rất thông minh.

Cô nguyên quán ở Đông Bắc, sinh ra trong một gia đình rất tin Phật.

Đầu năm nay, Hải Ba có thai được bảy tháng, cô kể tôi nghe đứa con trong bụng cứ chòi đạp tứ tung làm cô đau đớn, và hỏi tôi có cách gì giúp cô không?

Tôi bảo cô mỗi ngày tụng một bộ kinh Địa Tạng, như thế liên tục suốt 7 ngày, vừa có thể giúp tiêu trừ nghiệp chướng đời trước, vừa giúp bình ổn nhân duyên oan nghiệt đời trước giữa hai mẹ con.

Ngoài ra, làm như vậy lúc cô sinh nở sẽ dễ dàng, không bị thống khổ mà đứa con sinh ra cũng được an lạc dễ nuôi.

Cho dù có lúc phát bệnh thì cũng sẽ mạnh lành.

Nếu như bây giờ cô có thể bắt đầu ăn chay, thì sẽ càng tốt hơn nữa!

Hải Ba hỏi lại tôi trứng gà ăn được không?

Tôi nói trên thị trường hiện nay chuyên nuôi gà đẻ trứng.

Nếu là trứng không trống thì cô có thể ăn.

Hai tháng sau, Hải Ba gọi điện cảm ơn tôi và khoe là mới từ sản viện về nhà.

Tất cả đều thuận lợi.

Cô còn vui vẻ báo tin, lúc tôi đề nghị cô tụng bảy bộ kinh Địa Tạng, trong lòng cô thầm phát nguyện tụng 49 bộ.

Thật may, nghĩa là tụng xong 49 bộ, thì cô nhập viện, hôm sau thì sinh con.

Lúc sinh, bác sĩ kêu cô ráng sức, lúc đó cô muốn niệm danh Quán Thế Âm Bồ-tát, nhưng cô vừa mới nghĩ như vậy thì đã nghe bác sĩ nói: - Thấy đầu hài nhi rồi.

Khi bác sĩ bảo là bé trai sinh ra mũm mỉm khỏe mạnh, cô mừng phát khóc luôn.

Cô nằm viện bốn ngày, thấy các sản phụ khác đều phải sinh mổ, chỉ có mình cô là sinh dễ.

Nguyên nhân là do y viện gia tăng thu nhập, các sản phụ vì muốn sinh thuận lợi, đều để bác sĩ mổ lấy con.

Nhưng ai cũng hiểu sinh mổ vừa làm tổn thương thân thể vừa làm hao tài.

Thực sự là do nghiệp lực chiêu cảm nên thôi.

Mười ngày sau, Hải Ba gọi điện tới kể là hôm xuất viện về nhà, đứa bé không hề khóc dù một chút.

Nhưng ba ngày sau thì lại khóc, liên tục cả tuần nay, bú sữa cũng khóc.

Gì cũng không chịu.

Bé còn phát sốt nữa, chẳng biết là nguyên nhân gì?

Tôi hỏi:

- Cô có ăn thức gì khác hay không?

Cô giải thích do mẹ chồng từ quê lên, thấy cô ăn chay không ăn thịt, nên rất tức giận.

Bà khăng khăng bắt cô phải ăn cá trích để tẩm bổ thân thể.

Vì vậy cô phải miễn cưỡng ăn để cho bà vui.

Rồi cô than:

- Mẹ chồng con đòi giết gà mái hầm cho tôi ăn.

Phải làm sao bây giờ?

Tôi bảo:

- Cháu bé sở dĩ khóc lóc ầm ĩ, là do từ lúc cô tụng cho nó 49 bộ kinh Địa Tạng, thì nó đã tiêu nghiệp, lại tăng thêm huệ căn.

Cho nên nó không muốn bú sữa có đồ mặn.

Nếu như cô không ăn thịt cá, chắc chắn bé sẽ không khóc.

Hải Ba nói: Mẹ chồng tôi ngày mai sẽ giết gà, vậy phải ứng phó ra sao đây?

Tôi nói:

- Để không làm tổn thương tình cảm mẹ chồng, có thể nhượng bộ ăn chút gà, cá, nhưng tuyệt đối không nên giết sống, mà hãy mua đồ bán sẵn ở ngoài chợ.

Dù vậy, bản thân cô hàng ngày đếu phải vì gà và cá đó trì chú vãng sinh, hồi hướng công đức cho nó, làm giảm đi tâm oán hận vì bị tàn hại giết ăn.

Hải Ba bèn thương lượng cùng mẹ chồng.

Lúc đứa bé bú sữa nó vẫn khóc, nhưng bú xong thì im lặng ngủ.

Hải Ba nghĩ thầm: " Thằng bé xem ra cũng biết thông cảm cho tình cảnh khó xử của mẹ nó!"

Thân mẫu Hải Ba vốn là người ăn chay niệm Phật thuần thành, mấy ngày sau bà từ Đông Bắc lên thăm cháu ngoại.

Hải Ba kể, thằng bé vừa thấy bà ngoại đã cười, nhưng hễ thấy bà nội đòi bồng là khóc, còn bà ngoại đưa tay bồng thì không khóc, khiến bà nội nó không hiểu tại sao?

Mẹ ruột Hải Ba biết nguyên nhân đứa bé bú sữa khóc, nên chẳng muốn Hải Ba tiếp tục bị ép ăn mặn, thế là bà viện cớ nơi đây phòng ốc không rộng rãi, xin phép mẹ chồng để đem Hải Ba và cháu ngoại về Đông Bắc nuôi.

Đến nay, nhìn thấy thằng bé lanh lẹ khả ái, ngày một lớn khỏe, cả nhà ai cũng mừng.

Giải Thích:

Trong kinh Địa Tạng phẩm thứ sáu, Phật dạy: "Về sau, nơi cõi Ta Bà này, nếu có người nào mới sinh con trai hay gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sinh ra mà tụng kinh Địa Tạng và niệm danh hiệu của Bồ-tát Địa tạng đủ một ngàn biến, thì đứa trẻ mới sinh ra đó được thoát khỏi tội đời trước nó từng gây ra và sẽ được an ổn, vui vẻ dễ nuôi và sống lâu.

Còn nếu đứa bé ấy đã có sẵn nhiều phước rồi thì phúc thọ càng tăng hơn nữa.

13.

ĂN THỊT CHƯỚNG NGẠI THIỆN CHUNG

Có một phụ nữ hơn 50 tuổi, từng niệm Phật nhiều năm, hiện đang mắc bệnh tiểu đường.

Hòa thượng Diệu Pháp bảo là do bà sát sinh quá nặng mà chiêu cảm nên.

Bà kể mình hồi nhỏ nhát gan, ngay cả con sâu cũng không dám giết.

Khi Sư phụ hỏi bà có thường ăn thịt cua sống ven biển hay không?

Bà kinh ngạc sững người.

Liền khai ra mọi sự.

Con gái bà được phái qua Nhật Bản mấy năm, năm nào cũng rước bà qua Nhật chơi một tháng, do bà không ăn thịt, nên con gái bà tuần nào cũng lái xe đưa bà ra nhà hàng hải sản tươi sống ven biển.

Còn giải thích là ăn thịt cua chưng cách thủy, đâu do mình giết nó.

Hòa thượng Diệu Pháp bảo bà:

- Những con cua biển đó nhân vì thực khách đòi ăn, nó mới bị bếp sư hấp chết.

Ngài lại bảo:

- Những món này dù là khi mua bà thấy nó đã chết, hay dù mua từ ngăn đông lạnh, hoặc được người làm xong cho bà ăn chín, nếu nói một cách nghiêm ngặt, đều tính vào tội tạo nghiệp sát sinh cả.

Bởi vì nếu như người ăn giảm thiểu, thì hành vi sát cũng ít đi.

Nói cho rốt ráo thì ăn thịt động vật chính là tạo nghiệp sát sinh!

Sư phụ thấy bà vẫn còn ngơ ngác chưa hiểu, liền khai thị tiếp:

- Có người sát sinh rất nhiều, thậm chí chỉ làm công việc "phụ sát sinh", nhưng hiện tại thấy họ rất mạnh khỏe.

Song có người mới giết qua một lần loài động vật nào đó, hoặc vừa mới ăn qua loại thịt nào đó, thì bệnh lại phát ra.

Nguyên nhân là do nghiệp lực và phước báo mỗi cá nhân tích lũy không đồng.

Giống như có người mỗi ngày uống 1 cân rượu trắng, ngày ngày đều uống, trong thời gian ngắn vẫn không sao, nhưng có người ngay cả nhấm chút rượu thậm chí đến rượu bia cũng không uống được, hễ uống là say.

Đây chính là do mỗi cá nhân tửu lượng không đồng.

Nhưng đối với hạng người có sở thích không tốt, ưa tạo nghiệp sát sinh, ưa ăn thịt động vật, thì sớm muộn gì quả báo cũng đến!

Vì tham ăn ngon, muốn khoái khẩu mà người ta mặc tình tàn sát động vật, do thèm ăn mỹ vị máu tanh mà tự chiêu vào mình mồng mống oán hận, họa tai.

Nên nói: "Bệnh từ khẩu nhập" là vậy.

Hòa thượng lại hỏi bà:

- Nhà bà có lư hương đồng giả đồ cổ không?

- Dạ có, bà lộ vẻ rất kinh ngạc, hai mắt nhìn Hòa thượng trân trối.

- Bà cất nó ở đâu?

- Hình như trên sân thượng!

Khi bà về mau lấy rửa sạch để ráo.

Phàm là đồ cúng, nếu không dùng, cần bảo tồn, xử lý cho ổn.

Hoặc là chuyển tặng cho người, đừng tùy tiện đặt để bừa bãi, như vậy là không cung kính.

Hòa thượng nói tha thiết:

- Tôi đã nhắc bà hai điều, nếu như biết lỗi sám hối, bệnh bà sẽ dần chuyển tốt.

Nếu muốn thật sự khỏe mạnh, thì nên dứt hẳn thịt cá, ăn chay trường.

Ăn thịt chúng sinh mà niệm Phật, là tham dục chẳng đoạn, tội lỗi không đoạn.

Danh hiệu Phật và tâm khó thể tương ưng.

Dù niệm hơn trăm năm cũng khó về cực lạc.

Tại Hương Cảng và ngoại thành Cửu Long thường có người đem tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, Tổ sư Đạt ma, Tế công...Tùy tiện bỏ ngoài ven lộ.

Làm thế là không cung kính.

Xin hãy cẩn thận tránh điều này.

Hy vọng quý vị biết sai liền sửa, Bồ-tát là người tự giác bổn tính, khéo phổ độ, như Địa Tạng Vương Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, đều là các bậc đại Bồ Tát hóa độ chúng sinh thoát ly khổ nạn.

Kiếp người nhiều đau khổ, may là trong biển khổ còn có Bồ Tát trợ giúp.

Đời nay có thể được thân cận, nghe danh Bồ-tát chính là nhờ quý vị nhiều đời tu thiện căn, tạo phúc đức nhân duyên sâu, mới có được điều đáng quý khó được.

Bồ-tát là đệ nhất bảo tàng trong nhân thế.

Nếu quý vị đem tượng Bồ-tát vứt bỏ ngoài đường, nghĩa là vứt bỏ bảo tàng, đoạn mất duyên lành, tổn thất lớn nhất vẫn là bản thân.

Thực rất đáng tiếc

14.

ĐỌC NHIỀU KINH PHẬT TĂNG TRÍ HUỆ

Hồ nữ cư sĩ hướng Hòa thượng Diệu Pháp thỉnh giáo, bà bị bệnh tim từ ba bốn năm nay, mặc dù đã đi bệnh viện chữa trị, nhưng lúc tốt lúc xấu.

Sau đó, nhờ người giới thiệu, kể là: "Sư phụ giảng giải Phật lý rất hay.

Nếu tin theo không ăn thịt sát sinh, hằng ngày niệm Phật và làm thiện thì có thể khiến tim khỏe lại!"

Thế là bà vội quy y Phật môn, nhưng không biết bệnh bà bao giờ mới lành?

Sư phụ mỉm cười hỏi bà:

- Đạo hữu không có ăn chay hả?

- Thưa, con ăn chay!

- Bà khẳng định.

- Tôi vẫn cảm thấy bà đang ăn cá, tôm cua!

Nhất là ưa ăn tôm càng.

Không chỉ tự bà ưa ăn, mà còn giới thiệu bạn bè đến tiệm X ăn và còn ca ngợi, quảng cáo tiệm X nấu rất ngon.

Bà có làm vậy hay không?

Hồ cư sĩ nghe Sư phụ nói, rơi nước mắt hỏi:

- Ôi!

Sư phụ, cá, tôm, cua...mà cũng tính là thịt sao?

Con vẫn nghĩ là mình đang ăn chay đó!

Sư phụ nói:

- Cá, tôm, cua... nếu không phải thịt, thì bà cho là gì?

Là rau cải ư?

Đệ tử Phật giữ giới không ăn mặn và không ăn các thứ hành, hẹ, tỏi...

Bà phải biết là không ăn mặn bao gồm các loài động vật có mạng sống, có máu thịt.

Mà cá, tôm, cua là động vật!

Chúng vẫn có mạng sống.

Bà phải dứt ăn mặn, ăn chay cho đúng, thì bệnh mới chuyển tốt được.

- Dạ vâng!

Thưa Sư phụ.

Từ giờ con sẽ bắt đầu lại, con sẽ không ăn các loài động vật bao gồm cá, tôm, cua - Bà Hồ nói.

Sư phụ lại khai thị:

- Đệ tử Phật không những tự mình giữ giới sát, dứt hẳn ăn thịt, không uống rượu, không hút thuốc cũng chẳng nên giới thiệu người đến chỗ nào đó ăn thịt, bày cho họ hút thuốc hay nhậu nhẹt, lại càng không thể kinh doanh các thứ ấy.

Bởi vì buôn bán rượu, thuốc, thịt... cho người dùng, ăn - Là phạm tội!

- Giống như tự mình không hút thuốc nhưng lại bán cho người hút thì lỗi cũng đồng vậy.

Do bà có giới thiệu người đi ăn đồ mặn, nên phải nhận ra lỗi ấy mà sám hối.

- Sư phụ, con đã hiểu rõ.

Từ nay về sau không những tự mình ăn chay mà quyết sẽ chẳng xúi người đi ăn đồ mặn nữa.

Tôi ngồi bên cạnh Sư phụ và bà Hồ nói, không nhịn được bèn góp lời:

- Bà cảm thấy tim có dễ chịu hơn chăng?

Bà ngẩn người một chút, rồi sau đó hiểu ý tôi rồi hào hứng phát biểu:

- Ôi chao, thật thư thái lắm ạ.

Đã rất lâu tôi chưa có được cảm giác nhẹ khỏe như thế này!

Người tin thờ Phật, ăn chay, không những chỉ để trị lành bệnh, mà quan trọng nhất là phải hiểu rõ đạo lý cốt yếu trong vũ trụ nhân sinh.

Phải nên xem các bộ: "Bát Nhã Tâm kinh, Kinh Địa tạng, Pháp Bảo Đàn", và " Kinh Lương Hoàng sám"...

Còn có "Kinh Lăng Nghiêm" nữa, đây là bộ kinh giúp khai mở trí tuệ, phân rõ 50 loại ma ngữ ấm.

Có thể nhờ xem kinh mà nương theo đó, các vị tự xét hành vi mình có phù hợp chánh pháp hay không?

Cho nên nói: "Chỉ có xem kinh mới tăng trí huệ".

15.

THÂN PHỤ CẦU SIÊU ĐỘ

Có vị bác sĩ họ Hoàng mắc bệnh rất lạ, khi trời vừa tối là hai mắt ông đứng tròng, không nói năng, không ngủ nghê gì, mà còn tay đấm, chân đá... nhưng trời vừa sáng thì ông trở lại bình thường.

Nghe nói từ hồi phát bệnh đến giờ đã có 6 bác sĩ chuyên khoa đến khám bệnh cho ông nhưng thảy đều bó tay hết cách.

Vợ ông cũng thử trị liệu theo khí công đương thời, nhưng bác sĩ Hoàng chẳng tin, căn bản là không chịu đi.

Sau đó, vợ bác sĩ Hoàng được Lý giáo sư nhiệt tình giới thiệu, nên bà định đến cầu Hòa thượng xem bệnh dùm cho.

Bà Hoàng kể chồng mình ngay cả khí công cũng không tin, vì vậy e rằng ông không thể đến để Hòa thượng xem cho vì ông xã của bà luôn cho rằng "tất cả đếu là mê tín!".

Sau đó khi về nhà, bà Hoàng kể chuyện này để thăm dò ý chồng thử.

Nào dè mắt bác sĩ Hoàng sáng lên, cuống quýt hỏi:

- Bà nói Hòa thượng đó tên gì?

Khi nghe đến mấy từ: "Hòa thượng Diệu Pháp" thì ông nôn nóng đến mức không thể đợi, nằng nặc đòi liên lạc giáo sư Lý cho bằng được, còn ngỏ ý muốn bái Hòa thượng làm thầy.

Mấy ngày sau tôi cùng với giáo sư Lý, vợ chồng bác sĩ Hoàng lên xe đến Ngũ Đài Sơn để bái kiến Hòa thượng cho kịp trước khi trời tối.

Nhân vì tôi đề nghị phải gọi điện trước, nên Sư phụ đã có chuẩn bị.

Sư phụ hỏi bác sĩ Hoàng.

- Phụ thân ông còn hay mất?

Bà Hoàng đáp thay cho chồng: - Dạ, đã mất đã gần hai năm...

Sư phụ nói:

- Ông còn có hai người anh, nhưng phụ thân thương ông nhất?

Lúc này do trời đã tối, bác sĩ Hoàng hai mắt bắt đầu đứng tròng, một mực không nói năng gì.

Bà vợ vẫn đáp thay:

- Sư phụ, Ngài nói rất đúng, hai người anh ở tại cố hương, còn ông xã con ở chốn thị thành.

Từ nhỏ, ba chồng con thương anh ấy nhất.

Hòa thượng giải thích:

- Cha của y lúc sinh tiền nghiệp sát tương đối nặng, cho nên sau khi chết phải thọ khổ tại ác đạo.

Ông biết con trai có Phật duyên, sẽ giúp giải cứu được mình, nên từng báo mộng cho y.

Nhưng y không tin.

Vì vậy, để thoát ly khổ ải, ông ta bất đắc dĩ phải áp dụng hạ sách "dựa xác con".

để ép nó đến cửa Phật cầu cứu giúp.

Các vị xem, hiện thời nhãn thần y đã trở nên bình thường rồi phải không?

Lúc này mọi người quay nhìn bác sĩ Hoàng, mặt ông đã trở nên hồng hào tươi tắn.

Đôi mắt đã linh hoạt trở lại như thường.

Sư phụ lại nói tiếp:

- Đợi một chút, trước tiên các vị hãy dẫn y lên chánh điện bái Phật.

Hôm sau, sẽ lập bài vị cầu siêu cho phụ thân y tại "Điện Địa Tạng Vương", nương nhờ sức mạnh tụng kinh của chư Tăng, phụ thân y sẽ ly khổ đắc lạc.

Đột nhiên, bác sĩ Hoàng bỗng quỳ xuống dưới chân Hòa thượng, vẻ mặt kiên quyết, nài nỉ:

- Sư phụ, con muốn bái Ngài làm thầy!

Xin hãy thu nhận con!

Bà Hoàng nghe nói thế, mặt lộ vẻ lo lắng, căng thẳng, chẳng biết làm sao.

Chỉ thấy Hòa thượng mỉm cười bảo:

- Được rồi, con hãy làm đệ tử tại gia của Phật môn nhé!

Khi tôi hướng bà Hoàng giải thích "Đệ tử tại gia" là thế nào rồi thì bà mới thở phào, nãy giờ bà lo là vì hiểu nhầm cứ tưởng chồng mình đòi... xuất gia!

Chúng tôi cũng vái chào Sư phụ và đem cúng phẩm lên chánh điện, nhất tề bái Phật.

Tối đó chúng tôi ngụ tại phòng chiêu đãi khách nằm ở ngoài chùa.

Hơn nửa năm rối ren cuối cùng bác sĩ Hoàng đã ngủ được bình an.

Hiện giờ bác sĩ Hoàng đang tập tu rất tinh tấn, siêng năng.

Xưa nay bản chất ông vốn ít nói, nhưng khi nghe mọi người tán dương mình, mặt ông tươi lên, hớn hở bảo:

- Đây là nhờ tôi nhân "họa" mà được "phúc" đó nha!

Vị bác sĩ giàu kinh nghiệm, từng là nạn nhân và trực tiếp nếm qua chứng bệnh kỳ quái mà y học vô phương cứu chữa.

Chính là nhờ sự trợ giúp của bậc cao tăng đắc đạo mà cha ông được tiêu trừ túc nghiệp và ông có thể bén duyên sâu với Phật môn hiện nay.

16.

THAI NHI ƯA NGHE KINH ĐỊA TẠNG

Trần nữ sĩ là láng giềng của tôi, vừa rồi cô tâm sự: "Con gái tôi có thai hơn bảy tháng, gần đây thai nhi ở trong bụng thường hay tay đấm chân đá, khiến mẹ nó vô cùng đau đớn"

Tôi bảo bà, suy theo giáo lý Phật thì đứa con trong bụng là nghiệt duyên tìm tới đòi nợ hành hạ đây.

Cũng có thể là do nghiệp sát sinh ăn thịt tạo thành.

Tốt nhất từ hôm nay, thai phụ nên ngưng ăn thịt (tức là ngưng ăn mặn mà ăn chay hoàn toàn) Bà bảo cháu hãy vì thai nhi tụng một bộ kinh Địa Tạng thử xem.

Chỉ cần cung kính nhất tâm tụng, sẽ có hiệu quả tốt.

Tôi còn nói thêm:

- Nếu như thai phụ kiên tâm trì tụng bảy bộ kinh Địa Tạng hồi hướng cho cháu, thì sẽ giải trừ oan gia giữa hai mẹ con, còn nếu như tụng kinh Địa Tạng rồi mà không có hiệu quả, thì tôi sẽ để con gái của bà ăn thịt lại...

Tiếp đến, tôi đưa bà cuốn kinh Địa Tạng để đem về cho con gái tụng.

Hôm sau, Trần nữ sĩ vui vẻ cảm ơn tôi.

Bà nói:

- Đêm qua, tôi về nhà đem lời tiên sinh kể cho cháu nghe, nó nghe xong thì lập tức tắm rửa, khởi sự tụng kinh Địa Tạng.

Tụng xong thì thấy thai nhi để yên không đánh đấm nữa.

Cuối cùng đêm rồi con gái tôi cũng được ngủ an giấc.

Đây là kỳ tích chưa từng có được trong mấy tháng gần đây.

Đồng thời con bà cũng từ bỏ thói quen ăn mặn.

Trần nữ sĩ lại tán thán nói:

- Phật pháp thật quá linh nghiệm, giá như con gái tôi được mách bảo sớm một chút, ngày thường biết tụng kinh thì đâu đến nỗi phải chịu khổ như vậy?

Không bao lâu, con gái Trần nữ sĩ sinh ra một bé trai khả ái.

Lúc sinh nở hầu như không bị đau đớn.

Suốt một tháng ở cữ, mỗi ngày cháu đều tụng một bộ kinh Địa Tạng. trước đây, sản phụ ưa ăn mặn, nhưng kỳ quái là bây giờ hễ nghe đến thịt là rất ghét.

Trần nữ sĩ hỏi tôi nguyên nhân vì sao?

Tôi bảo nghe mùi thịt không ưa, đó là nhờ công đức tụng kinh nên thân tâm được tịnh hóa.

Khiến Phật tính vốn có tự thân hiển lộ, không còn muốn tiếp thọ thức ăn máu thịt của chúng sinh.

Con gái bà giờ chỉ cần ăn nhiều thức chay rau quả, thân thể nhất định sẽ tốt hơn trước

17.

BỊNH TÙNG KHẨU NHẬP

Nếu muốn không bị bịnh

Trong tâm phải thanh tịnh

Chúng sinh đều có tình

Quý mạng, phải hộ sinh

Lý nữ sĩ từ Đài Loan sang, thỉnh giáo Hòa thượng Diệu Pháp:

- Mẹ chồng con thân không có bệnh gì, chỉ là mỗi khi ra cửa đi chưa được trăm mét, thì hai cổ chân cảm thấy rất thốn đau, phải ngồi nghỉ một chút rồi mới đi tiếp được.

Vì vậy bà đã đi khắp các bệnh viện Đài Loan lẫn Mỹ quốc để chẩn trị mà tìm không ra bệnh, xin Sư phụ khai thị.

- Mẹ ngươi rất ưa ăn giò heo hầm phải không?

- Dạ đúng, thưa Sư phụ.

Ngài làm sao mà biết được?

Mẹ con ngày nào cũng đòi ăn giò heo, nếu không ăn được thì tối đó ngủ không được - Cô Lý run giọng nói, mắt rưng rưng lệ, mặt đầy xúc động.

- Hãy về bảo với mẹ con, từ nay về sau không được ăn giò heo nữa.

Nếu như bà có thể sám hối, chịu ăn chay niệm Phật, dần dần bệnh sẽ lành.

Nữ sĩ hỏi:

- Vì sao không thể ăn giò heo?

Sư phụ giải thích:

- Nhân thế nào, quả thế ấy!

Người ưa ăn ngư nhãn (con ngươi của cá) thì hay bị bệnh mắt, người khoái nhai cổ gà thì xương cổ của họ sẽ có vấn đề.

Người mê ăn lòng heo sẽ bị đau bao tử...

Đừng có ngu si một bề tin theo thuyết "ăn cơ quan gì trên thân vật là tẩm bổ cơ quan đó trên thân mình", nếu cứ tin rằng ăn các thứ đó vô sẽ bổ chỗ này chỗ nọ, là hoàn toàn đại sai lầm!

Ngoài việc tàn hại kẻ khác làm lợi mình, cuối cùng kết quả vẫn là tự hại.

Chắc chắn sẽ bị báo ứng, phải bồi hoàn trả nợ mà thôi.

18.

THAI NHI NGHE KINH, GIẢI OÁN HỜN

Chàng trai Mạnh Vĩ và cô gái Chung Hồng là đôi tình nhân có đồng tín ngưỡng Phật.

Sau khi kết hôn, cả hai đồng tâm đồng chí, cùng tụng kinh, trì giới tu hành, là gia đình Phật hóa gương mẫu, họ sống rất hạnh phúc, khiến các bạn đồng tu phải hâm mộ, ước ao.

Bạn gái Chung Hồng là Lan, xấp xỉ tuổi nàng, đã kết hôn trước.

Trong thời kỳ mang thai, cũng nhờ Lan chí thành tụng kinh Địa Tạng, kinh Phổ Môn, khuyên ngăn gia đình không nên sát sinh giết vật cho nàng tẩm bổ, nhờ vậy mà vợ chồng Lan cứ nối tiếp sinh ra những đứa con cưng xinh đẹp đáng yêu. (Những đứa bé nhờ ba mẹ tụng kinh mà sinh ra thường có chung một đặc điểm là rất thông minh, xinh xắn; linh hoạt; hay cười và ít khóc, chẳng làm rộn ba mẹ).

Đến khi Chung Hồng mang thai, vì thương con, hai vợ chồng bắt đầu tụng kinh Địa Tạng, hy vọng sẽ sinh ra một đức bé thiện căn sâu dày, xinh đẹp ưng ý.

Trong thời kỳ có mang, cái thai trong bụng Chung Hồng thường phản ứng mạnh bạo, bé hành mẹ rất dữ, khiến nàng hay buồn nôn, bực bội, bị sưng phù, xương thần kinh tọa bị đau...

ăn không ngon, đêm chẳng ngủ an.

Tóm lại, nàng nếm mùi đau khổ nhiều hơn những thai phụ khác.

Chỉ có điều khiến cả nhà thấy an ủi là, buổi tối trước khi lâm bồn, sau khi khám thai lần chót, thấy tim thai, tất cả đều bình thường.

Bác sĩ dự tính ngày sinh đúng vào ngày mồng một tết, đây là ngày khiến toàn gia càng hoan hỷ.

Đêm giao thừa, nhà nào nhà nấy vui vẻ đoàn tụ, tiếng pháo nổ giòn tan, đứa bé trong bụng Chung Hồng cũng khoa chân múa tay, đánh đấm lung tung.

Mẹ chồng Chung Hồng nói:

- Đứa bé này coi bộ rất nôn nóng muốn ra chơi pháo đây mà!

Câu nói đùa của bà khiến ai nấy cười xòa.

Nhưng thế sự vô thường, tới ngày sinh, mới biết đứa bé do bị cuống rốn quấn quanh cổ mà chết.

Chết ngay trong đêm giao thừa, chết sau lần cử động mạnh cuối cùng.

Trong khi tất cả mọi người đều hân hoan nô nức, ngóng trông, chờ đợi bé ra đời.

Tin dữ này đúng là sấm nổ giữa trời quang.

Không những khiến vợ chồng Chung Hồng bất ngờ và đau khổ tột độ mà cũng khiến tôi hết sức kinh ngạc và thắc mắc, không sao hiểu nổi.

Sáng hôm đó, khi Chung Hồng nhập viện chờ sinh và nhận được hung tin thai đã chết đêm qua, tôi cũng "sốc" đến quên bén luôn đó là mồng một năm mới.

Khi nhìn cảnh một người cha trẻ tuổi đứng chờ trước phòng sinh, nhưng chàng biết mình vĩnh viễn không nghe được tiếng khóc chào đời của con thơ.

Một người mẹ trẻ đợi lâm bồn, nhưng cô biết rõ mình tuyệt không còn có thể sờ vào thân thể còn sức sống của con nữa.

Lúc đó, quả thật tôi nghĩ không ra lời lẽ nào trong nhân gian để mà an ủi họ.

Trước tình cảnh này, tôi nghĩ gì cũng không thông, tại sao trời cứ khăng khăng bắt hai vị Phật tử chí thành phải mang lấy họa lớn mất con?

Điều này không những khiến cha mẹ hai bên mất đi lòng tin Phật, thân quyến họ còn hung hăng, một bề chỉ trích Mạnh Vĩ và Chung Hồng quá mê tín Phật giáo, có khả năng hai vợ chồng họ sẽ thối thất đạo tâm.

Do vậy, dù đang ở trước sản phòng, tôi vẫn gọi điện kể cho Hòa thượng Diệu Pháp nghe hết mọi sự.

Thật là ngoài sức tưởng tượng, Sư phụ nghe xong không nói nửa câu thương tiếc hay chia buồn, mà lại nói "Lành thay, lành thay!"

Ngài còn sai tôi đi tìm Mạnh Vĩ hỏi ngay là có phải hồi xưa ông nội anh hành nghề đồ tể và đã giết rất nhiều heo?

Sư phụ còn giải thích cho tôi nghe:

- Thai nhi lần này chính thực là oan gia, oán cừu - quyết lòng tới đòi nợ họ - Vì vậy mà kể từ lúc thần thức vừa nhập thai, ngày nào nó cũng hành hạ sản phụ, khiến cả nhà không được phút giây an ổn.

Thế nhưng, hai vợ chồng Mạnh Vĩ, Chung Hồng thành tâm sám hối niệm Phật, tụng kinh... nên thai nhi dần dần tiếp thọ Phật pháp.

Huống nữa, cha mẹ vì thai nhi mà tụng kinh Địa Tạng.

Mà kinh này: "CHUYÊN GIÚP TIÊU TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG TIỀN KHIÊN".

Nhờ vậy mà trong suốt gần mười tháng nghe kinh, thai nhi đã thực sự được lợi ích.

Do nghiệp chướng tiêu trừ và lòng nó cũng tiêu luôn niềm oán thù sân hận đối với ông nội Mạnh Vĩ, tiêu tan hẳn ý niệm muốn tìm con cháu hiện tại của ông mà báo thù.

Hiện tại vong hồn thai nhi đã siêu thăng lên thiên giới tu hành rồi, nó chẳng còn quay lại thế gian để tìm kẻ thù báo oán làm chi nữa.

Tôi hỏi:

- Thế thì vì sao thai nhi đến lúc sắp sinh mới chết?

- Có hai lý do, một: Mẹ con duyên phận chưa tận.

Hai: thai nhi ưa nghe kinh thính pháp.

Vì vậy mà nó một mực kiên trì đến phút cuối mới chịu lìa xa.

Nói ngược lại, nếu như vợ chồng họ không tin Phật, chẳng chí thánh niệm Phật tụng kinh, thì đứa bé này nhất định sẽ chẳng thể chết đi, nó sẽ sinh ra thuận lợi, nhưng mà toàn gia bọn họ, sẽ tùy theo tuổi tác trưởng thành của đứa bé, mà phiền não ngày càng tăng.

Cuối cùng dòng họ Mạnh sẽ lâm vào cảnh "Gia phá nhân vong", sẽ bị hủy diệt hoàn toàn trong tay đứa bé này.

Bởi vậy, khi thai nhi chết, ai nhìn vào cũng tưởng bất hạnh, toàn gia ôm khổ đau thống thiết, nhưng thực sự các vị đang được hưởng phúc, tiêu tai họa đấy.

Đây chính là điều đáng chúc mừng!

Tôi nghe Sư phụ giảng giải xong, tinh thần phấn chấn hẳn lên, mây đen nghi ngờ tiêu tan.

Tôi lập tức đến chỗ Mạnh Vĩ đang chìm đắm trong niềm bi thống, xác minh ngay mọi điều Sư phụ vừa kêu tôi hỏi, té ra tất cả đều đúng y như vậy.

Mạnh Vĩ nhìn nhận ông nội chàng thuở sinh tiền chuyên sống bằng nghề đồ tể giết heo.

Trước lúc chết ông còn phát bệnh rất kỳ quái.

Không những ra lịnh, kêu người phải treo ông lên, không ngừng dùng chùy đánh vào ông, ông nói có làm vậy thì ông mới thấy thoải mái.

Ông chết rất thống khổ, không những ọc máu tươi mà ánh mắt cực kỳ hung dữ.

Xưa nay Mạnh Vĩ không bao giờ nhắc đến việc tổ phụ lâm chung thê thảm cho người ngoài nghe.

Rồi Mạnh Vĩ kể chuyện về ông Hùng, một người bạn của ông nội chàng làm nghề đồ tể mổ bò, mỗi ngày giết mấy con.

Ông Hùng nhờ nghề này mà giàu có.

Một hôm ông Hùng đi chơi về, vừa vào nhà nằm nghỉ bỗng than tức ngực, khó thở.

Lát sau vợ ông vào thăm, thấy ông nằm bất động trên giường lau không tỉnh, gọi không đáp.

Bèn mời bác sĩ đến.

Khi bác sĩ đến thì thấy ông Hùng rống lên đau đớn âm thanh giống như tiếng bò bị đập đầu, tiếp theo toàn thân co giật ghê rợn, rồi hộc máu chết.

Ông chết cả buổi rồi, máu tươi vẫn còn ứa ra từ miệng.

Nhìn cảnh đó, ai cũng kinh hãi.

Con cháu ông Hùng nghe lời phụ thân chàng khuyên, bèn dẹp lò mổ, không theo nghề sát sinh nữa.

Mạnh Vĩ kể, chành đã chứng kiến nhiều cảnh chết chóc của những người làm nghề giết mổ gia súc và thấy rằng, đa số bọn họ dù chết trẻ hay chết già, đều chết rất thê thảm và trước khi chết miệng luôn ọc máu tươi.

Đây cũng là nguyên nhân khiến chàng nhất tâm học Phật.

Tất cả chú, bác và các cô của Mạnh Vĩ đều bị bệnh tật triền miên, cha chàng bị đau xương sống, xương sụn đều nhức nhối, bác chàng thì bị bán thân bất toại, nằm liệt trên giường mười năm nay.

Đến đời Mạnh Vĩ, anh của chàng chưa đầy bốn mươi thì bị bệnh thần kinh, suốt ngày luôn nghi ngờ người ta nói xấu sau lưng.

Anh không thể làm việc được, còn Mạnh Vĩ và chị gái lúc nào cũng bị đau cột sống, chị chàng còn phải mổ nhưng trị không lành được.

Hòa thượng Diệu Pháp còn nói, nếu như chẳng phải nhờ Mạnh Vĩ chuyên ăn chay, học Phật tu tập, thì chàng cũng khó thể kết hôn.

Bởi do gia đình nghiệp sát quá sâu nặng, số phần đã định con cháu phải bệnh hoạn lụn bại.

Bài pháp ngữ Hòa thượng Diệu Pháp vừa ban bố, giống như trận mưa xuất hiện kịp thời, rưới tắt ngúm ngọn lửa tà đang thiêu đốt, nung nấu tâm can mọi người.

Giải trừ hết mọi nghi hoặc đang có trong lòng họ.

Nhất là vợ chồng Mạnh Vĩ - Chung Hồng, họ đã chuyện buồn thành vui, hai vợ chồng bây giờ học Phật, tập tu càng thêm dũng mãnh tinh tiến.

Tôi tin họ chí thành như thế, Chư Phật Bồ-tát cũng sẽ gia trì cho họ sớm sinh quý tử.

19.

BÁO ỨNG KHÔNG NGỜ

Năm năm trước, Hạ tiên sinh hơn 40 tuổi, con trai ông là Cún được 12 tuổi.

Ngay từ nhỏ Cún đã hết sức ương bướng.

Sau khi cho đi học, không những nó ham chơi, chẳng chịu học hành, ưa đánh nhau, lại thường xuyên trốn học.

Cha, mẹ, thầy giáo đều bó tay hết cách đối với thằng bé.

Cún quậy tưng làm cho cả nhà không được yên.

Em gái Hạ tiên sinh một lòng tin Phật, biết đây là nghiệp báo oan gia đến đòi nợ, cô muốn nhờ Phật pháp giáo dục thằng bé, giúp anh mình giải mối lo.

Thế là cô dẫn anh đến gặp Hòa thượng Diệu Pháp cầu cứu.

Cũng hy vọng anh mình thấy Ngài trí huệ mà phát tâm tin Phật.

Hòa thượng chăm chú nhìn ông Hạ rồi hỏi:

- Ngày xưa anh có giết qua con chó nào không?

- Dạ không, xưa nay con chưa từng giết qua con chó nào!

- Hạ tiên sinh nhấn mạnh.

- Vậy sao?

- Con chó đó lông vàng, trên lưng đốm đen, lúc ấy anh khoảng chừng 20 tuổi - Sư phụ nói rõ thời gian và tả kỹ hình dáng con chó.

Hạ tiên sinh nhớ lại chuyện thuở xưa và nói:

- À, hồi đó còn làm ruộng tại vùng Hắc Long Giang, do mấy thằng bạn đồng công tác suốt thời gian dài không được ăn miếng thịt nào nên đã lén trộm con chó vàng của làng bên cạnh, tụi nó thì bắt và giết chết chó, phần con chỉ phụ tá, giúp lột da, mổ bụng, làm thịt giùm thôi.

- Anh có ăn một chén thịt nữa mà?

- Dạ, đương nhiên là vậy rồi, con đã phụ giúp, lẽ nào không ăn cho đỡ thèm!

- Ông Hạ cười nói.

- Anh đã lột da, lại còn mổ bụng, xẻ thịt chó, làm vậy cũng đồng như giết nó.

Đến thởi điểm này thì chính con chó đã đầu thai làm con anh, tìm anh mà báo oán đó.

Mặt ông Hạ đầy bất bình, tức tối nói:

- Như thế quá vô lý và không đúng chút nào!

Trước tiên con chó phải tìm kẻ bắt nó, giết nó, mà báo oán mới hợp lý chứ?

Vả lại bọn họ cũng ăn thịt nhiều hơn con mà!

Tại sao lại nhắm vào con?

Con đâu phải là người giết nó!?

Sư phụ giải thích:

- Chuyện đến nay đã hơn 20 năm, có lẽ nó đã tìm tới những người kia báo thù rồi.

Nhưng không nhất định là phải đầu thai làm con họ.

Phàm những kẻ tham dự việc bắt chó, giết, ăn...

Sớm muộn gì đều phải trả báo hết.

Còn như ai trả báo trước, ai bị báo sau, chuyện này không nhất định!

- Bởi vì nghiệp lực và phúc đức mỗi người khác nhau, nên thời gian trả báo cũng có sớm muộn chẳng đồng - Người có phúc báo lớn một chút thì đời này đời sau cũng chưa thọ báo, đợi đến nhiều đời nhiều kiếp sau nữa, phúc hết, thì họ mới trả báo.

Điều này vốn không nhất định mà!

Hòa thượng thở dài, cố sức nhắc nhở ông Hạ:

- Ôi!

Ta biết anh không tin những gì ta nói.

Hôm nay anh đến đây cũng là cùng Phật có duyên.

Ta hy vọng anh có thể cởi bỏ phiền não, cho nên mới giảng về nhân quả cho anh nghe.

Còn số mệnh anh, số mệnh gia đình, đều nằm trong tay của chính anh.

Tất cả đều có thể chuyển đổi được.

Ngừng một chút Hòa thượng tha thiết nói:

- Nếu như anh có thể sám hối tội giết con chó, hằng ngày chịu khó tụng kinh Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ-tát, hồi hướng công đức cho con chó đó, đồng thời dùng tâm nhẫn nại giáo dục con, thì con anh sẽ thay đổi tốt đấy.

Anh nếu càng chân thành, thì con anh thay đổi càng nhanh.

Nói ngược lại, nếu như anh không thể làm theo lời ta, đợi đến lúc con anh 17 tuổi, nhà anh sẽ phát sinh việc lớn.

Và sau đó con anh có thể tạo họa, sa vào lao ngục.

Ngàn vạn lần chớ nên khinh thường!

Hạ tiên sinh nghe xong, không nói gì, mắt cụp xuống, mặt hiển lộ vẻ không tin, anh hoàn toàn chẳng tiếp nhận lời khuyên vàng ngọc của Hòa thượng.

Thời gian qua như tên bay, chớp mắt con trai ông Hạ đã mười bảy tuổi.

Trong quá khứ, suốt mấy năm ở trường học, hành vi xấu ác của thằng bé đã khiến cho nó bị đuổi học.

Ông Hạ vì vậy phải tốn rất nhiều tiền để duy trì học bạ cho con.

Nhưng ông vô phương dạy dỗ, thằng bé ngày càng hư đốn khó bảo, một mực kình chống cha.

Vì nó mà vợ chồng ông Hạ thường xuyên cãi lẫy, thậm chí đánh nhau ầm ĩ.

Năm năm sau, gia đình ông giống như chiến trường, không có ngày nào được an.

Mùa xuân năm nay, đêm giao thừa, hai vợ chồng vì con mà gây gỗ dẫn tới đánh nhau tưng bừng.

Người mẹ réo đứa bé trợ giúp. thằng Cún bây giờ đã cao một mét tám, huyết khí bừng bừng, vừa nghe tiếng mẹ hô hoán, là nó chạy tới giữ chân cha lại, vật ông té nhào, nó tiếp tục giữ chặt chân cha, để mẹ nó đánh thỏa thích, cho đến khi ông ngất đi, họ mới kêu xe cấp cứu đưa vào bệnh viện.

Cuối cùng ông Hạ phải li hôn, thằng con đi theo mẹ.

Sau đó còn gì xảy ra nữa thì tôi không biết.

Tôi thật rất tiếc cho Hạ tiên sinh, 5 năm trước nếu ông chịu nghe lời Hòa thượng khuyên dạy, thì có lẽ đã tránh được những điều không hay cho ông lẫn thằng cún.

Nhân chuyện này, tôi thắc mắc hỏi:

- Bạch Hòa thượng, xin Ngài hãy giải thích vì sao mang thân chó?

Hòa thượng thở dài đáp:

- Con người được tôn là loài chí linh trong vạn vật, biết may đồ mặc, chế tạo đủ thứ vật chất văn minh để phục vụ cho cuộc sống của mình.

Nếu làm người mà nhân cách phẩm hạnh không xứng với vị trí con người, cứ hành động phi pháp, trái đạo, luôn mưu hại kẻ khác, đánh mất nhân phẩm, thì cuối cùng sẽ thay đổi đầu mặt, làm kiếp thú.

20.

CHỨNG BỆNH SỢ BÓNG TỐI

Trần nữ sĩ tuổi hơn 40, đang cùng chồng đến bái kiến Hòa thượng Diệu Pháp.

Bà kể từ nhỏ tới giờ hễ trời vừa tối là phát sợ.

Cho nên trước khi trời tối, bà luôn thắp sáng hết mọi phòng trong nhà.

Nếu không, thì sau khi trời tối, bà sẽ không còn dũng khí vào phòng thắp đèn.

Và nếu có vật gì rơi từ trên giường xuống chỗ tối, bà đều chẳng dám lượm lên.

Bởi vì chỉ cần nhìn thấy bóng tối là bà sợ rét run.

Từ nhỏ đến giờ bà đã đi rất nhiều bệnh viện, gặp nhiều bác sĩ tâm lý, nhưng không ai tìm ra nguyên nhân.

Tính sợ bóng tối luôn phiền nhiễu bà, khiến bà rất khổ.

Sư phụ nói kiếp trước bà là một nam nhân X, trong nhà nghèo tới mức ngay cả dầu thắp đèn cũng không mua nổi.

Tại hương thôn gã X trú ngụ, có một gia đình thiện lương, vào những đêm không trăng, gia đình này luôn thắp đèn dầu cho treo ngoài cổng lớn, nhằm giúp soi sáng đường đi cho khách bộ hành, để cho họ dễ nhìn ra điểm đến và tránh cho họ nỗi sợ hãi trong bóng đêm.

Nhưng tên X nghèo nàn này lại khởi tâm tham xấu, hắn thường lợi dụng đêm khuya, lén trộm hết dầu trong đèn đem về nhà.

Đèn bị tắt rồi, khiến người đi đường sinh tâm hoảng sợ và không nhìn rõ phương hướng.

Nhân nào quả nấy.

Do vậy mà đời này bà luôn sợ hãi bóng đêm.

21.

MỸ NỮ VÀ THỔ PHỈ

Có một nữ sĩ định cư ở hải ngoại tìm đến cầu kiến Hòa thượng Diệu Pháp.

Cô ta tự giới thiệu về mình:

- Thưa Ngài, con là luật sư, vừa rồi con tiếp nhận một vụ án ly hôn rất kỳ lạ của một thiếu phụ họ Triệu, nàng dung nhan mỹ lệ, đoan trang, nhưng thần sắc hết sức tiều tụy.

Nàng thỉnh cầu chúng con giúp nàng ly hôn với chồng.

Lý do là chồng của nàng quá vũ phu hung bạo.

Chúng con thụ lý vụ án này rồi, liền hẹn gặp Lý tiên sinh, tức chồng của nàng.

Khi diện kiến chúng con bật ngửa, vì thấy chồng nàng nhân diện rất hiền lương phúc hậu.

Ông thuộc loại người nho nhã, có tác phong, không hề thô tháo, hung dữ như cô vợ tả.

Sau khi chúng con kể ông nghe cô vợ khăng khăng đòi ly hôn rồi, vẻ mặt ông đầy xót thương lo lắng cho cô vợ lắm.

Ông không ngừng khẩn cầu, xin chúng con giúp đỡ, tìm cách khuyên giải cô vợ giùm.

Ông nói ngàn vạn lần không thể li hôn.

Bởi vì tinh thần và thể xác vợ ông đang liên tục gặp phải sự tàn hại của những kẻ ác độc mất tính người.

Do vậy mà tinh thần vợ ông bị hoảng loạn và phát sinh ra ảo giác.

Nếu như mà ly hôn, ông lo cô vợ sẽ khó bề sống được, vì không có ông kề bên chăm sóc...

Sau đó ông thuật lại toàn bộ cuộc đời của vợ mình.

Kể rõ từ nhỏ đến giờ nàng đã gặp phải những bất hạnh gì.

Thú thật sau khi nghe kể về vận mệnh bi thảm của nàng, toàn thể luật sư đoàn của con đều chấn động, kinh ngạc không dứt.

Chúng con rất thông cảm cho sự kém may mắn của gia đình họ.

Rất muốn tận lực giúp đỡ họ.

Nhưng mà bất kể chúng con nỗ lực hòa giải thế nào, cô vợ cứ khăng khăng nói: "không ly hôn thì không được!".

Trong tình huống này, chúng con bó tay hết cách.

Vì vậy con tranh thủ kỳ nghỉ phép, đi đến đây để thỉnh giáo Ngài.

Thiếu phụ mỹ lệ đó sao lại có số mệnh long đong trớ trêu như thế?

Nàng có thể cải đổi phần số rủi ro của mình không?

Tinh thần nàng có thể hồi phục tốt không?

Xin Sư phụ khai thị.

Sau đó, nữ luật sư kể vắn tắt cho Hòa thượng nghe những gì vợ chồng kia gặp phải.

Lý tiên sinh và cô Triệu quê ở Hương Cảng hiện đang định cư ở Canada.

Họ là đôi bạn thanh mai trúc mã suốt từ thời tiểu học đến cao trung, tùy theo tuổi tác ngày một tăng mà tình cảm hai bên phát triển sâu đậm.

Ông lý thì ôn nhu nho nhã, cô Triệu thì xinh đẹp đoan trang.

Thật là một cặp trời sinh.

Sau khi tốt nghiệp cao trung thì ông Lý cầu hôn cô Triệu, nào ngờ nàng buồn thảm bật khóc, nói là mình không có tư cách gả cho ông.

Hỏi mãi Lý mới biết được chân tướng.

Vào lúc cô Triệu tám tuổi thì phụ thân mất, mẹ tái hôn.

Lúc cô Triệu 14 tuổi thì bị cha dượng hung bạo cưỡng hiếp, mẫu thân nàng dù biết, cũng đành bấm bụng chịu để mặc cho cha ghẻ trường kỳ cưỡng hiếp nàng suốt mấy năm ròng, mãi tận đến nay.

Ông Lý nghe xong thập phần phẫn hận, và cảm thông sâu sắc, nên nhất quyết cứu người yêu thoát khỏi tổ quỷ.

Phụ thân ông Lý kinh doanh hãng giày, gia cảnh rất giàu, ông Lý giấu nhẹm chuyện cô Triệu bị bố dượng làm nhục, thú thực tình yêu của mình với ba mẹ và ngỏ ý muốn đưa cô Triệu qua Canada cùng học tiếp đại học và hai người sẽ kết hôn sau khi tốt nghiệp.

Cha mẹ ông Lý thương con và quý tình yêu sâu nặng của cả hai, nên đồng ý cho họ được như ý nguyện.

Tốt nghiệp đại học rồi, bọn họ kết hôn và tự mình mở một tiệm giày kinh doanh.

Không bao lâu thì sinh ra một bé trai khả ái.

Cả nhà họ đang sống hạnh phúc thì trời bỗng nổi phong ba.

Con trai họ mới tám tuổi thì bị bắt cóc, họ giao nộp mấy mươi vạn tiền chuộc rồi, thì phát hiện nó bị giết chết, bỏ thây ngoài dã ngoại.

Cái chết của đứa con cưng khiến hai vợ chồng chấn động, thống khổ đến tận cùng.

Nhất là cô Triệu, đã lâu rồi mà niềm đau không nguôi, tinh thần khó hồi phục.

Nhưng họa vô đơn chí, năm sau, toàn bộ xe container chứa đầy hàng hóa của họ bị cướp sạch, khiến họ túng bấn kinh tế trọng đại.

Nhưng vận rủi vẫn chưa kết thúc.

Một buổi tối năm thứ ba, lúc họ đang chuẩn bị đóng cửa tiệm, thì trước cổng đột nhiên có một xe tải to dừng lại, từ trên xe nhảy xuống sáu tên thổ phỉ hùng hổ xông vào trong tiệm, chúng không nói năng gì, bắt hai vợ chồng dán kín mồm miệng và trói lại.

Sau đó chúng chất hết hàng hóa cướp được lên xe, lột sạch tiền bạc và trang sức của họ.

Điều khiến người ta phẫn nộ nhất là, bọn họ đã thay nhau cưỡng hiếp cô vợ trước mặt chồng.

Từ đó trở đi, tinh thần cô Triệu hoàn toàn suy sụp, nàng luôn hoảng loạn, thường phát sinh ảo giác, cứ một mực cho chồng mình là kẻ ác, chuyên bạo hành, cưỡng hiếp, đánh đập cô, nên kiên quyết đòi ly hôn với chồng.

Nữ luật sư kể xong.

Bèn thỉnh giáo Hòa thượng:

- Cô Triệu kiếp trước đã tạo ra những nghiệp gì mà đời này số khổ quá như vậy?

Xin Sư phụ giảng cho chúng con nghe.

Những người ngồi tại đấy đều chấn động khi nghe qua câu chuyện thê thảm này.

Thật không tưởng tượng được một phụ nữ yếu đuối như thế lại phải đón nhận những tổn thương họa hại liên tục xảy ra cho tinh thần và thể xác như vậy.

Khó mà oán trách trời già bất công!

Lúc này Hòa thượng thở dài nói:

- Cô gái đó kiếp trước là nam nhân X, gia cảnh bần cùng, cha mẹ mất sớm, từ nhỏ đã phải đi ăn xin, rồi chăn dê cho địa chủ.

Sau đó do không chịu nổi sự ngược đãi của những kẻ mất tính người, X bèn trốn đi phiêu bạt khắp nơi rồi sống bằng nghề trộm cắp.

Đến khi trưởng thành thì X làm thổ phỉ, đánh người cướp nhà, bắt phụ nữ hiếp dâm, không ác nào mà không làm.

Một lần X đi cướp trong thôn, nhìn thấy một phụ nữ mỹ lệ, X liền bắt trói chồng nàng, cưỡng hiếp cô vợ ngay trước mặt chồng.

Liên tục mấy năm sau, X vẫn thường đến ức hiếp làm nhục, đôi vợ chồng nạn nhân vì quá khiếp sợ sự hung hãn của X, đành cắn răng chịu nhục mà sống.

Đến đời này, thổ phỉ X chuyển sinh làm cô gái họ Triệu, người cha dượng tàn bạo cưỡng hiếp cô liên tục nhiều năm liền, kiếp trước chính là thiếu phụ xinh đẹp từng bị X làm nhục, nay đã chuyển thể đầu thai, tìm kẻ thù báo oán.

Đến như con cô Triệu bị giết, hàng hóa bị cướp, cô bị các tên lưu manh làm nhục, luân phiên hãm hiếp, tất cả đều là báo ứng tội ác kiếp trước của cô.

Vì vậy mới có câu: "Muốn biết nhân đời trước, nhìn quả thọ đời này.

Muốn biết quả đời sau, nhìn nhân gieo đời này!

"Bởi vì lưới trời tuy lồng lộng nhưng một cọng lông cũng khó thoát!"

Cho dù hiện đời kẻ làm ác có trốn được pháp luật trừng phạt, thì cũng không trốn được luật nhân quả, phải đền trả ác nghiệp mình đã tạo.

Trong kinh Phật thường nói: "Nhân quả báo ứng như bóng theo hình, cho dù trải qua trăm kiếp ngàn đời, những điều đã tạo ra không hề mất"...

Điều này khuyên răn chúng ta phải hết sức cẩn thận, "các điều ác chớ làm, siêng làm các điều lành".

Nghe Hòa thượng Diệu Pháp nói, không ai là chẳng tin phục.

Mọi người liên tục tán thán nhân quả báo ứng không sai.

Lúc này có người thắc mắc hỏi Sư phụ:

- Cô Triệu đời trước làm thổ phỉ tạo nhiều tội ác dẫy đầy, đời nay vì sao có thể gặp được người chồng tình thâm nghĩa trọng như thế?

Mọi người có mặt đều hưởng ứng, ngưỡng vọng chờ câu đáp của Hòa thượng.

Sư phụ từ tốn kể:

- Một đêm nọ, sau khi đánh cướp xong, trên đường quay về sơn trại, tên X gặp một đồng nam áo quần lam lũ, toàn thân bị thương, đang bi ai khóc lóc.

Chứng kiến cảnh này, tên X mủi lòng nhớ lại thời thơ bé, mình cũng từng khốn khổ như thế, do vậy mà thông cảm xót thương.

X hỏi thăm thì biết đồng nam kia đang chăn trâu cho địa chủ, vì để trâu đi mất nên bị đánh tàn độc và uy hiếp nói nếu không bồi thường thì ông ta sẽ báo quan bắt cha hắn đóng gông bỏ tù!

Tên cướp nghe kể bỗng sinh lòng trắc ẩn, đưa cho thiếu niên một số tiền lớn, dặn dò hãy trích tiền này ra bồi đền giá trâu cho chủ.

Phần còn dư thì đưa cha mẹ làm vốn buôn bán kiếm sống.

Đồng nam nhận tiền xong, liền hướng thổ phỉ dập đầu tạ ân, cảm kích đến rơi lệ, phát thệ rằng:

- Đời sau xin làm trâu ngựa báo đáp ân cứu mạng...

Thiếu niên ấy nay chính là chồng của cô Triệu ở đời này.

Vì lý do này mà bất kể cô Triệu gặp hoạn nạn như thế nào, thậm chí có yêu cầu ly hôn, anh Lý trước sau vẫn thủy chung không chịu lìa xa, không chán nản bỏ bê và luôn thương yêu bảo vệ cô là vậy đó.

Những lời giải thích dịu dàng của Sư phụ như vầng dương xua tan mây mù thắc mắc trong lòng mọi người.

Sư phụ nói tiếp:

- Người ta bình thường không biết Phật pháp, không hiểu rõ luật báo ứng nhân quả như bóng theo hình, nên cứ mê lầm tạo tội, cảnh phát theo tâm.

Nếu như cô Triệu có thể tiếp nhận Phật pháp, thì mọi phiền lụy sẽ tiêu như băng tan dưới ánh mặt trời, có thể giải quyết tận gốc, đoạn dứt căn nguyên tai họa và bất hạnh.

Nếu như cô Triệu có thể đến chùa, học Phật pháp. thọ giữ ngũ giới, hành thập thiện, hằng ngày cung kính tụng một bộ kinh Địa Tạng, hồi hướng cho các chúng sinh đời trước mình làm tổn hại, siêng hành trì như vậy bền bỉ, thì túc nghiệp sẽ được tiêu trừ.

Về sau mệnh vận có thể chuyển tốt.

Nữ luật sư nghiêm túc ghi chép những lời Sư phụ dạy vào sổ, mọi người đều thở ra nhẽ nhõm.

Tin rằng cô Triệu đáng thương kia sẽ nhanh chóng thoát khỏi vận mệnh bi đát, nhờ vào sự tu sửa của bản thân.

22.

TIÊN SINH DẠY HỌC

Tỉnh Sơn Tây có một đôi vợ chồng trẻ sinh được một đứa con trai, đã 3 tuổi mà vẫn chưa biết đi, nói cũng không rành.

Bác sĩ khám xong, bảo thằng bé bị chứng liệt não nhẹ.

Hai vợ chồng vạn phần lo lắng, liền nhờ tôi đến hỏi Hòa thượng dùm.

Hòa thượng nói, kiếp trước đứa bé này là một giáo sư tài ba chuyên nghề dạy học, đọc đủ thi thư, là người rất có tiếng tăm danh vọng.

Khi đó nhiều người thích nghiên cứu Phật pháp tìm đến thỉnh giáo ông, hỏi về vấn đề liên quan đến sinh tử và lục đạo luân hồi.

Ông giáo bèn miệt thị, nói với mọi người rằng:

- Những gì Phật giáo rao giảng toàn là hư dối, không thật!

Có ai thấy qua lục đạo luân hồi hay chưa?

Rồi ông còn trích lời Khổng Tử thế này: "Không biết sống, đâu biết chết!" và khăng khăng tuyên bố quan điểm của mình rất là chính xác!

Do lời nói hàm hồ như vậy, ông đã khiến nhiều người mất đi phúc duyên bước vào con đường học Phật.

Chính vì tính tự cao ngã mạn, ỷ vào tri thức nửa vời, vị giáo sư đã phát ngôn bừa bãi, đem những phán đoán sai lệch của mình ngăn trở người tim hiểu Phật pháp, cho nên sau khi chết, ông bị sinh làm heo nhiều kiếp.

Đến hiện đời, do đôi vợ chồng này rất ưa ăn thịt heo, cho rằng thịt heo là ngon nhất.

Khi con heo này bị giết rồi, họ đã mua nó đem về kho ăn.

Giờ đây nhân duyên chín muồi, đứa con trai mà họ sinh ra, chính là ông giáo kiếp xưa từng thọ ác báo.

Đó cũng chính là báo ứng của đôi vợ chồng ưa ăn thịt heo.

Nếu muốn thay đổi nghiệp báo, họ phải sám hối tội ăn thịt.

Hơn nữa phải chuyển sang ăn chay hoàn toàn.

Còn phải sám hối thay cho ác nghiệp đời xưa của con họ, phải tụng Kinh Địa Tạng hồi hướng cho những người từng bị ông giáo nhồi nhét tư tưởng sai lầm, lỡ mất cơ duyên học Phật pháp và cũng nên vì những con heo mà họ ăn, tụng Kinh Địa Tạng siêu độ cho.

Hòa thượng khẳng định:

- Chỉ cần hai vợ chồng kiên trì làm đến nơi, chịu tụng kinh và ăn chay như lời ta nói, đồng thời phối hợp với phương pháp trị liệu, rèn luyện thân thể, đứa bé sẽ dần chuyển tốt.

Não sẽ hồi phục bình thường, tương lai nhất định có thể tự lo cho đời sống mình.

Tôi cứ thế truyền đạt lại hết lời Hòa thượng dạy cho hai vợ chồng kia nghe.

Cha đứa bé nghe xong, kinh hãi nói:

- Sư phụ giảng rất đúng!

Ông bà nội thằng bé làm tại công ty thịt, còn thiết lập thêm lò mổ riêng nữa.

Do vậy mà gia đình ông được mua thịt sống tươi ngon với giá rất rẻ.

Vợ ông rất ưa ăn đầu heo.

Không ngờ báo ứng ập tới, cả nhà lãnh chung: thật là tự làm tự chịu.Nếu biết rõ thì họ đã không làm như vậy.

Mẹ đứa bé rơi nước mắt, bày tỏ lòng sám hối:

- Nhất định sẽ tuân theo lời Sư phụ dạy, sẽ ăn chay tụng kinh, ráng trị lành bệnh cho bé.

Mong các vị có thể trì chí kiên tâm, phiền não sẽ chuyển thành bồ đề

23.

ĂN CHAY TRÌ GIỚI MỚI ĐƯỢC LỢI ÍCH

Đổng phu nhân ngụ ở tầng dưới, tuổi hơn 40, tánh chất phác, rộng rãi.

Bà bị tiêu chảy mười mấy năm nay.

Hàng ngày phải đi ít nhất 4-5 lần, nhiều thì mười mấy lần.

Hễ bụng vừa đau là phải lao ra nhà xí, bác sĩ nói bà bị viêm ruột mãn tính.

Dù uống rất nhiều thuốc nhưng không có hiệu quả.

Có lần bà lên nhà, hỏi tôi cách gì giúp bà không?

Tôi hóm hỉnh bảo:

- Tôi sẽ ra thuốc cho bà, chỉ cần bà chịu dùng y theo "toa" kê.

Thì bảo đảm bệnh tật sẽ tiêu.

Và hạng "bác sĩ" như tôi đây, một xu cũng không lấy.

Bà Đổng thực thà nói: - Ông cứ kê toa đi, tôi tin ông mà!

Đắt mấy tôi cũng mua, đắng mấy tôi cũng uống!

Tôi nói:

- Thuốc tôi cho không làm bà tốn tiền.

Tôi thấy bà phải sớm ngưng ăn thịt, gà, vịt, cá...

Vì ruột, dạ dày của bà không tiếp thọ đồ hôi tanh, do vậy mà mỗi ngày bà đều đi tiêu chảy.

Bắt đầu từ nay trở đi, trừ trứng gà không trống ra, bà phải đoạn dứt việc ăn thịt và nên ăn chay hoàn toàn.

Tôi nói thêm:

- Kể từ tối nay, trước khi sắp ngủ, bà hãy thư giãn thân, ngồi cho tốt, hít thở đều, tĩnh tâm lại, nhắm mắt niệm: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát" nửa tiếng.

Chỉ cần bà thành tâm, thì sẽ mau chóng có kết quả.

Nếu niệm một tháng mà không hiệu quả, xem như tôi nói không đúng, tôi sẽ để bà ăn thịt lại.

Dù sao dùng toa này không tốn tiền, bà có muốn thử hay không?

Bà nghe tôi nói, mặt đầy nghi ngờ, hỏi:

- Nè, một nữ đồng nghiệp của tôi cứ đến rằm, mồng một là đi chùa tụng kinh.

Ngày nào cũng thành tâm thắp hương trong nhà, nhưng bà ta khắp thân đều bệnh.

Đã từng châm, tiêm, uống thuốc biết bao ngày, nhưng bệnh vẫn không ngớt, như thế thì ông giải thích sao đây?

Tôi chất vấn:

- Bà ta ăn chay hả?

- Người ta bảo bà: "Là cư sĩ tại gia thờ Phật, chỉ cần không sát sinh là được rồi, có thể ăn tam tịnh nhục"... cho nên bà cứ thế mà ăn - Bà Đổng trả lời.

Tôi hỏi:

- Giả sử có người hút thuốc mà bị bệnh phổi, do uống rượu mà bệnh gan, thì có phải là không cần kiêng cữ gì, cứ mặc tình hút thuốc, nhậu thả ga, chỉ cần tiêm chích, uống thuốc là bệnh sẽ lành, phải vậy hôn?

- Đây là điều không thể - Bà đáp.

- Cũng đồng như thế thôi.

Do ăn thịt chúng sinh mà bệnh, thì trước tiên cần phải đình chỉ ăn thịt.

Phải tụng kinh, niệm Phật mới có hiệu quả.Bởi do không hiếu kính phụ mẫu hoặc tạo ác nghiệp mà bị bệnh, thì trước cần đoạn ác nghiệp, phát tâm sám hối, cầu chư Phật gia trì mới hiệu nghiệm.

- Phật Bồ-tát là bác sĩ tốt nhất trên thế gian.

Phật pháp là thuốc hay nhất trong vũ trụ.

Nhưng do phần đông người ta không hiểu rõ, không biết đến vị thuốc tối hay này.Người ta hoàn toàn không biết là mỗi người đều tự có kho báu, thực quá đáng tiếc.

Nếu như chẳng thể tuân hành theo lời Phật dặn, thì bất kể dùng thuốc chi, khám bác sĩ nào, bệnh của bà cũng trị không hết.

Tôi nói có đúng không?

- Ông giảng thì tôi hiểu rồi.

Từ nay tôi bắt đầu, trong vòng một tháng thực hành "toa" ăn chay niệm Phật mà ông vừa cho.

Nếu thực sự làm vậy mà bệnh lành, thì tôi nguyện từ nay trở đi không ăn thịt nữa, mà sẽ học tập theo ông - ngày ngày ăn chay niệm Phật.

Tối hôm sau, bà Đông mặt mày hớn hở, báo cho tôi:

- Đêm qua tôi về nhà rồi bụng không bị đau, lúc dùng tối cũng không ăn thịt.

Trước khi sắp ngủ thì ngồi tĩnh tọa, tôi nhắm mắt niệm Phật, niệm một chút thì toàn thân phát nóng, thầm nghĩ: "Đây có phải là cảm ứng chăng?"

Càng niệm thì tâm càng hoan hỷ.

Đến lúc cảm thấy hai chân bị tê thì tôi mở mắt.

Ôi chao!

Hóa ra đã hơn cả tiếng đồng hồ rồi.

Tôi buông chân ra, toàn thân toát mồ hôi.

Cảm giác như mới vừa được tắm xong nước nóng vậy, thấy toàn thân cực kỳ nhẹ nhàng, thư thới.

Rồi bà hí hửng nói:

- Thực không ngờ ngồi thiền niệm Phật tốt như vậy đó. suốt ngày nay, cho tới giờ bụng tôi vẫn chưa đau.

Thực là lạ, mười mấy năm nay tôi chưa bao giờ có được kinh nghiệm này.

Cho đến hôm nay, bà Đổng không những chứng đau bụng đi tả đã hết, mà ngay cả bệnh đau lưng nhiều năm trước cũng không thuốc mà khỏi.

Bây giờ hàng ngày bà ngồi thiền niệm Phật, còn bắt đầu tụng kinh Địa Tạng và chú Đại Bi.

Bà tự giác tu tinh tấn, tâm tư kiên định, phát nguyện hành theo lời Phật dạy.

24.

NHÂN NÀO QUẢ NẤY

Láng giềng tôi có bác Trương ưa luyện khí công, còn dùng khí công để chữa bịnh cho người.

Nhưng ông trị người không hết mà bản thân ông cũng bị căn bệnh hành hạ.

Ông bị chóng mặt đã 3-4 năm nay. uống thuốc, trị liệu kiểu gi cũng không kết quả.

Ông nói:

- Đầu tôi xây xẩm giống như mới vừa uống hai bình rượu vậy!

Nhân duyên hội đủ, ông đến gặp Hòa thượng Diệu Pháp, năn nỉ Ngài vận khí công trị bịnh cho ông.

Sư phụ cười nói:

- Tôi không thể vận khí công để trị bịnh đâu, mỗi người mắc bệnh đều có nguyên nhân.

Tôi có thể nói rõ nguyên nhân vì sao ông chóng mặt.

Còn chuyện bệnh hết hay không thỉ tùy thuộc vào ông.

Đây cũng là đạo lý mà Phật nói: "Mệnh tự ta lập" - Ví như do ông không hiểu chuyện mà làm sai việc gì đó đem lại thống khổ phiền não cho minh và người.

Nếu ông gặp được thiện tri thức, giải thích vả chỉ ra nguyên nhân.

Một khi ông hiểu rõ và nhận ra chỗ sai của mình, cố gắng sửa đổi, thì phiền não thống khổ sẽ biến mất không còn.

Bởi vì Phật pháp không phải để cho người mê tín Phật, Bồ-tát hay một cao tăng nào đó, mà là để mỗi người có thể hoạch đắc trí huệ.

Tự mình cải tạo số mệnh của mình!

Bác Trương suy nghĩ một hồi rồi gục gặc đầu.

Hòa thượng nói tiếp:

- Ông bị chóng mặt, là do 3-4 năm trước ông từng làm tổn hại một ổ chuột con.

Có việc này không?

Bác Trương hồi tưởng lại và nói:

- Dạ có, có việc này ạ.

Sư phụ!

Ngài quả có đại thần thông!

Cách đây 3 năm, một hôm con vào kho chứa đồ và phát hiện có ổ chuột con mới sinh độ chừng 6-7 con.

Đệ tử nhát lắm, chẳng biết làm sao cho chúng chết, bèn bỏ chúng trong cái lồng, gắng »ức lắc mạnh.

Lắc một hồi lâu, con nghĩ là chúng đã chết liền đem quăng ra băi rác.

Ồ!

Việc như thế mà liên quan tới chứng chóng mặt của con sao?

- Đúng vậy, ổ chuột đó không bị ông lắc chết mà chỉ bị ông làm cho chóng mặt thôi.

Nhân nào quả đó.

Đây là nguyên nhân vì sao ông chóng mặt.

Bác Trương lẩm bầm một mình:

- Ngài phán rất đúng.

Con từ lúc đó về sau bắt đầu chóng mặt.

May là bầy chuột chưa chết, nếu mà chúng nó chết rồi thì không biết hậu quả con lãnh còn tới đâu nữa?

- Đúng vậy, sát sinh sẽ làm giảm thọ mệnh, bằng không thì ngay đời này cũng gặp tai nạn hoạnh ương.

Động vật sở dĩ có thể bị giết, cũng là do kiếp trước nó từng gieo nhân sát sinh nên đời nay mới bị quả báo như thế.

Phần chúng ta, đời này giết hại chúng nó tức là đang vay nợ mạng, cứ thế nhân quả tuần hoàn, oan oan tương báo, không bao giờ hết.

Vì vậy mà phàm phu chúng ta cứ luân hồi trong lục đạo không có ngày ra.

Chỉ có liễu giải Phật pháp, tin sâu nhân quả, ngưng ác hành thiện, thì mới cỏ thể thoát ly biển khổ sinh tử.

Thế nào, từ rày ông còn muốn sát sinh chăng?

Bác Trương đang ngồi sợ đến ngẩn ngơ, Nghe Hòa thượng hỏi, vội đáp:

- Từ rày về sau con chẳng dám sát sinh nữa.

Nói xong ông hoan hỉ mách:

- Bạch Sư phụ, đầu con đột nhiên tỉnh táo rồi, không choáng chút nào cả.

Người chung quanh đều cười.

Bác Trương thắc mắc nói tiếp:

- Nhưng mà, loài chuột hại sâu, cắn phá đồ vật trong nhà của người, thậm chí truyền bịnh dịch hạch... nếu như không giết nó, tương lai nó sinh sản lan tràn thì sao?

- Trọn cả tổng thể, từ lớn như vũ trụ và nhỏ tợ vi trần, bao gồm tất cả chủng loại sinh mệnh...

đều có quy luật vận hành và thời gian tồn tại.

Nếu con người có "sinh, lão, bệnh, tử", thì vật có "thành, trụ, hoại, không"... cho dù là núi, sông, biển, cả, hoa cỏ, hạt sương...

Chỉ cần "có hình thành, là có hoại diệt!"

Thế nhưng, cách hoại diệt hay "chu trình sinh tử" này tự có quy luật của nó!

Nếu chúng ta coi thường quy luật mặc tình phá hoại theo lý luận và ý thích của mình, tất nhiên sẽ chiêu lấy ác quả không thể tưởng tượng!

Ví như chúng ta vi những lợi ích trước mắt, cho phá rừng nổ đá, khiến rừng bị hủy hoại, núi bị sạt lở loài vật trong rừng bị tàn hại... tất cả việc làm thiếu ý thức này của chúng ta sẽ dẫn đến địa cầu bị ngập nước, khí hậu đổi thay, lũ lụt xảy ra...

Ông không thấy số lượng cây rừng bị chặt nhiều, động vật bị săn giết thảm nhiều đến nỗi mất tích hoặc tuyệt diệt.

Loài chuột cũng có kẻ thù trong thiên nhiên như: rắn, mèo, diều hâu, chim ưng, chim ó v.v...

Có thể những kẻ thù thiên nhiên này cũng bị nhân loại chúng ta giết hại ăn thịt hoặc lột da làm y phục, trang sức.

Do vậy mới có câu: "Thiên tai là chính do nhân họa tạo thành"

Hòa Thượng ngừng một lát rồi nói:

- Tôi bày cho ông một cách có thể diệt trừ nạn chuột, ông muốn thí nghiệm thử không?

Mọi người đều nhìn Hòa thượng chăm chăm, Ngài mỉm cười giải thích:

- Trước tiên phải biết chuột cũng là loài động vật hữu tình, cũng có mẹ sinh đẻ, dưỡng nuôi.

Chúng cũng giống trâu, ngựa, mèo chó, một số có thể nghe hiểu tiếng người.

Khi ông hiểu rõ đạo lý không sát sinh rồi, ông có thể hằng ngày chuẩn bị những thức ăn thừa cho nó, đặt ở nơi mà chuột thường ẩn hiện rồi nói nhỏ: ''Bản thân tôi ngày trước chưa hiểu Phật pháp nên đã giết hại rất nhiều chuột, bây giờ tôi đã rõ đạo lý, từ nay về sau nhất định chẳng sát sinh nữa.

Tôi sẽ tụng kinh cầu siêu cho loài chuột từng bị tôi giết.

Hi vọng chuột sẽ không cắn phá đồ vật trong nhà người"...

Chỉ cần ông thành tâm thành ý làm như thế, nhất định sẽ thấy kết quả.

Thậm chí một ngày kia, chuột sẽ dời ổ, bỏ đi.

Buổi nói chuyện của Sư phụ đã khiến chúng tôi mắt tai như đổi mới.

Sau đó, phương pháp này lần lượt được thí nghiệm, kết quả rất tốt.

Còn có người trong nhà bị nhiều kiến, họ cũng áp dụng phương thức này và nói rất linh nghiệm.

Bạn kông tin ư?

Thế thi bạn hãy tự thí nghiệm đi!

25.

HỘ TRÌ PHẬT PHÁP BẰNG ĐỨC HẠNH

Tôi hỏi sư phụ:

- Con thấy Nữ sĩ kia một mực chí thành hộ trì tự viện, hay bố thí tham gia pháp hội, nhưng hiện giờ bà đang bị ung thư phổi, bịnh viện cũng không trị nổi.

Xin hỏi Sư phụ nguyên nhân căn bịnh của bà.

Sư phụ đáp:

- Làm người không nên để cho tâm danh lợi làm lụy, chẳng nên khởi tâm cống cao ngã mạn, Phải biết lúc ta đến cõi đời này vốn là trần trụi thi khi lìa thế gian vẫn phải trắng tay, không đem theo được gì.

Danh lợi giống như khói mây thoáng qua, không nên vì danh lợi mà khởi tâm cống cao ngã mạn.

Chỉ có tâm thanh tịnh mới được Phật quang gia hộ.

Nếu dùng tâm xấu, tâm cống cao ngã mạn mà bố thí tài vật cho chùa, thì tự viện giống như cung điện chứa vàng chất bạc, kẻ cúng bằng tâm chứa độc như thế chỉ làm nhiễm ô người tu hành phạm hạnh.

Còn nếu không những đem tài vật cúng dường, mà còn biết dùng đức hạnh hộ trì tự viện, thì tự viện mới thành là đạo tràng vạn đức trang nghiêm, hóa độ thập phương rộng rãi.

Hãy bảo bà ấy ngoài việc tu tâm sửa tính giữ lòng khiêm cung ra, còn phải tụng kinh Địa Tạng để tiêu trừ túc nghiệp.

Khi tụng kinh không nên tham mau, đọc qua loa.

Trong lúc tụng kinh, âm, khẩu, mắt, phối hợp hỗ tương cho đồng sẽ không hôn trầm, tán loạn.

Tụng từng chữ từng câu cũng đồng như tụng ngàn chữ ngàn câu, tụng một bộ kinh giống như tụng ngàn bộ kinh.

Như vậy pháp giới chúng sinh mới được hưởng lợi ích.

Không chỉ giữ gìn ngôn hạnh không tham, sân, si mà phải hằng có tâm điều phục chúng.

Giống như làm cỏ phải diệt tận gốc, mới không lưu lại hậu hoạn.

Khi tôi đem lời Sư phụ dạy chuyển đến nữ cư sĩ, bà nói: "Sư phụ phê bình rất đúng!".

Bà nhìn nhận đây là khuyết điểm bản thân và chân thành biểu lộ sự ăn năn.

Sau đó bà buông bỏ hoàn toàn, không thèm quan tâm đến chuyện bệnh tật nữa, cứ ở nhà tụng Kinh Địa Tạng.

Khi tụng đến bộ thứ 7 thì cảm thấy bệnh trên thân thể như lành được một nửa.

Lúc đến bệnh viện để kiểm tra xét nghiệm thì bướu ác tính đã trở thành lành tính!

Niềm vui của Bà quá ước mong, làm tăng thêm niềm tin đối với Sư phụ.

Khi bác sĩ đề nghị phẫu thuật để cắt bỏ, bà không chịu, quay về tiếp tục tụng Kinh Địa Tạng, lúc tụng đến bộ thứ 19, thì cảm thấy sức khỏe tràn đầy.

Hằng ngày bà lễ Phật hơn trăm lạy mà không thấy mệt.

Sau đó bà lại đến bệnh viện tái kiểm tra, kết quả cho thấy khối u trong phổi đã hoàn toàn biến mất, không còn lưu một dấu vết nào.

Quả là một kỳ tích!

Đến nay đã gần 5 năm, mùa xuân năm 2000 bà đi xe từ Thiên Tân đến thảm tôi, thấy bà có vẻ khang kiện còn hơn hồi trẻ rất nhiều.

Thực là lạ!

26.

QUẢ BÁO CỦA VIỆC MUA BÁN THỊT ĐỘNG VẬT SỐNG (RẮN MỐI)

Ngô tiên sinh là Hoa kiều ở Thái Lan, là thương nhân thu mua thổ sản.

Do nguồn vốn ít, nên chỉ có thể mua liền bán ngay, vì vậy lợi nhuận không nhiều.

Gần đây, có người giới thiệu ông thu mua rắn mối, lợi nhuận rất cao.

Nhưng Ngô tiên sinh chỉ làm có ba tháng thì không chịu làm nữa.

Bạn bè đều tiếc thay cho ông, gặp công việc kinh doanh có lời cao mà không chịu tiếp tục, lại cam tâm đi làm những việc kiếm lời ít ỏi như thu mua hành tỏi.

Thế nhưng Ngô tiên sinh vẫn không hề cảm thấy tiếc, ắt hẳn ông có nguyên nhân gì đó?

Vì sao thu mua rắn mối lợi nhuận rất cao?

Thế thì phải bàn từ món "Rượu tắc kè đại bổ".

Trong bản thảo của danh y Lý Thời Trân ngày xưa có viết: "Tắc kè bổ phế, ích khí, bổ thận, ích tinh huyết, định suyễn, ngưng ho".

Đông y trị đàm suyễn đều dùng tắc kè làm thuốc chính, nhân đó mặt hàng dễ bán trên thị trường là rượu tắc kè đại bổ.

Tắc kè được mua về bào chế với thuốc và ngâm rượu, nhu cầu ngày càng tăng.

Tắc kè bị bắt quá mức hầu như sắp tuyệt chủng.

Thế là hiệu thuốc bèn dùng rắn mối thay thế cho tắc kè.

Bây giờ ở Trung Quốc rắn mối bị bắt cũng gần như tuyệt chủng.

Cho nên nhà thuốc bèn chuyển hướng thu mua rắn mối ở Thái Lan.

Nông dân miền đông bắc Thái Lan những lúc rảnh vụ mùa thì xúm nhau đi bắt rắn mối để gia tăng thu nhập.

Có người thậm chí bỏ luôn nghề nông, chuyển sang nghề bắt rắn mối làm giàu, trong đó có nhà Tố Vượng điển hình.

Gia đình Tố Vượng gồm hai vợ chồng và một đứa con, ngày xưa rất nghèo, phải đi thuê ruộng mà làm.

Nhưng kể từ khi chuyển qua nghề bắt rắn mối rồi thì trong vòng ba năm ngắn ngủi, họ đã có hơn mười mấy mẫu đất, còn mua được một xe vận tải nhỏ.

Có lợi nhuận nồng hậu như vậy, dân làng thấy đều ham.

Thế là phong trào bắt rắn mối dâng cao như thủy triều.

Nhưng mà nông dân mỗi ngày có bắt nhiều lắm cũng chỉ được hơn mười con rắn mối.

Trong khi Tố Vượng giàu có thấy rõ, y còn có tiền gởi ngân hàng.

Bởi vì ngoài việc tự bắt rắn mối ra, Tố Vượng còn thu mua rắn mối sống của dân làng bắt được đem về sấy khô, sau đó mới bán đi.

Số rắn mối chết trong tay gia đình Tố Vượng ước tính có tới mấy trăm.

Có hai nguyên nhân thúc đẩy Ngô tiên sinh bỏ nghề thu mua rắn mối:

Nguyên nhân thứ nhất: Hôm nọ, Ngô tiên sinh tình cờ đi ngang qua nhà Tố Vượng, chứng kiến cảnh Tố Vượng làm rắn mối khô.

Rắn mối sống được y bắt và thu mua đem về, sau đó dùng dao mổ bụng, moi nội tạng nó....Nhưng lúc này rắn mối vẫn chưa chết, Tố Vượng mới dùng que tre vót nhọn đâm xuyên qua miện nó thẳng tới đuôi, khiến nó không ngừng đau đớn giẫy dụa, nó chết mà đôi mắt nó mở to nhìn trừng trừng vào người giết nó.

Sau đó, Tố Vượng mới đem rắn mối đi phơi nắng.

Khi Ngô tiên sinh chứng kiến trực tiếp cảnh tàn nhẫn này, ông không khỏi rùng mình bèn quay đầu đi thẳng, không dám ngó lại nữa.

Nguyên nhân thứ hai: Vào tháng ba năm nọ, nước Thái Lan hàng năm có lễ tát nước, toàn quốc đều được vui chơi.

Hôm đó, Ngô tiên sinh từ Thai mai (Chiangmai) về Băng Cốc.

Khi qua con đường đèo vùng núi, ông chứng kiến cảnh một tai nạn bi thảm.

Chiếc xe vận tải nhỏ bị lật nhào xuống vực sâu ven lộ, hiện trường có ba người chết, đó là gia đình Tố Vượng, gồm hai vợ chồng và đứa con trai.

Hôm đó, mặc dù là lễ tát nước, nhưng Tố Vượng vẫn không nghỉ làm, tiếp tục lái xe đi thu mua rắn mối.

Kết quả cả nhà bị tai nạn ngay trên đường đèo, xe hàng hóa lật nhào xuống vực sâu.

Vợ con Tố Vượng bay ra khỏi xe, chết không toàn thây.

Lúc chết, mắt vẫn còn giương to, trợn trừng, giống như đôi mắt con rắn mối lúc chết vậy.

Càng kinh khủng đến không dám nhìn, đó là bản thân Tố Vượng, y từ trong xe bay ra nhanh như đạn bắn, không nghiêng không lệch lại nhè rơi xuống đúng ngay cọc cây trúc nhọn mà công nhân sửa đường vừa chặt phía vực sâu ven đường.

Tố Vượng bị cây xuyên thẳng qua miệng tới hậu môn, thảm trạng giống y chang cảnh Ngô tiên sinh từng chứng kiến y sát hại rắn mối.

Do được tận cảnh chứng kiến thảm cảnh cả nhà Tố Vượng chết quá thê thảm, quá kinh khiếp, ông sợ đến nổi gai ốc cả người, chỉ biết buột miệng nói: "Báo ứng!

Đúng là báo ứng!".

Từ đó ông mới bỏ hẳn nghề liên quan đến mua bán động vật.
 
Báo Ứng Hiện Đời
Quyển 2


BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI

Tập 2

Nhiều tác giả – Hạnh Đoan lược dịch

Mục Lục:

Lời cảm ân 2

1.

BA MỸ NHÂN 2

2.

NƯỚC LÈO TRỨ DANH 5

3.

NGUYÊN NHÂN ĐÁNG SỢ 9

4.

ĐÁM TANG CHÓ 11

5.

NGƯỜI ƯA CÂU CÁ 14

6.

THỨC NGON ĐẶC CHẾ 17

7.

NGƯỜI CHÂN VOI 20

8.

BÁN RẮN MỐI 22

9.

CÁ “CÂU” NGƯỜI 24

10.

TIẾU THƯ KHỈ 30

11.

TRỘM CÔNG GIẢM LIỆU 32

12.

NGƯỜI CHỒNG TÀI HOA 35

13.

PHÁP QUAN KỲ ÁN 40

14.

NHỮNG KẺ BUÔN NGƯỜI 43

15.

QUÁN NGON CAO CẤP 46

16.

ĐI CÂU BỊ CẢM ĐỘNG 48

17.

CHUYỆN NƠI LÂM TRƯỜNG 49

18.

KHI MÁY MỔ HOÀN TẤT 50

19.

CẬN TỬ NGHIỆP ĐÁNG SỢ 51

20.

THỊT RỦA NGON 53

21.

TÌNH THƯƠNG CỦA KHỈ LÔNG VÀNG 55

22.

HỨA TIÊN SINH 56

23.

NGỌC LAN 57

24.

CON LỪA 58

25.

CÔNG CHÚA THĂNG HOA 59

26.

CHU TÚ HOA 76

Lời cảm ân

(Của Hội Đạo Đức Trung Hoa)

“Báo ứng hiện đời” sau khi xuất bản từ năm 2003 đến nay, được độc giả trong nước ngoài nước nhiệt liệt hưởng ứng, đến tháng giêng năm nay (2009), đã tái bàn lần thứ 9, tổng cộng 21 vạn sách.

Độc giả bao gồm các chùa bên Mỹ, Anh, Úc, Nhật, Đông Nam Á, Hương Cảng, Đài Loan… và các tỉnh trong Đại Lục.

Đông đảo độc giả gọi điện gởi thư đòi sách và gởi bài tới, nhiệt liệt cổ vũ bảy tỏ mong ước được xem tập kế tiếp nữa.

Được độc giả ủng hộ đắc lực, nên chúng tôi thu thập chuyện nhân quả báo ứng người thực việc thực trong ba nước: Đài Loan, Thái Lan và Trung Quốc.

Giờ đây, “Báo ứng hiện đời tập 2” cuối cùng đã xuất bản.

Nhân cơ hội này, chúng tôi xin cảm ơn nhiệt tâm chân thành gởi bài của độc giả, và xin tán thán công đức vô lượng.

18/4/2011

1.

BA MỸ NHÂN

Vợ chồng Quan giáo sư hiện.nay 55 tuổi, sinh được ba cô con gái dung mạo mỹ lệ, tuổi tác khá cách nhau: 25, 23, 20.

Mặc dù là những tiểu tư lá ngọc cành vàng kiều diễm, nhưng các tiên nương này vẫn chưa có đổi tượng cầu hôn Vợ chồng giáo sư hết sức khỗ sầu.

Trong khi đó nhiều thanh niên vừa thoáng nhìn qua các cô thì đã nghiêng ngửa hồn phách, ra công theo đuổi…

Nhưng một khi đã phát hiện các tuyệt đại mỹ nhân này không thề nói năng gì, thì họ lập tức thối lui, bỏ đi.

Vợ chồng Quan giáo sư thuộc hàng thượng lưu trí thức, xưa nay không hề tin vào thuyết nhân quả.

Nhưng cứ lần lượt sinh hạ liên tiêp ba cô gái câm, quả thực tinh thần họ bị đả kích khốc liệt đến muốn suy sụp.

Họ ngơ ngác bàng hoàng, vạn phần thống khổ.

Nỗi buồn làm mặt họ già đi, hai người tuy có học thức cao và giàu sang, nhưng không thể nào đem lại hạnh phúc cho con mình.

Sự khiếm khuyết của ba mỹ nữ này, khiến người ta cảm thấy kinh sợ, ưu tư thắc mắc nhưng không thể giúp gì.

Thường có câu: “Tuổi thanh niên ưa bàn học vấn, tuồi trung niên ưa bàn về sổ mệnh đến lão niên ưa bàn về tôn giáo”…

Vợ chồng Quan giáo sư hiện đang bước vào tuổi lão niên, song tinh thần họ trường kỳ thống khổ mà không thuốc men nào có thể trị lành.

Vì vậy đối với tôn giáo họ dần dần phát sinh hứng thú muốn tìm hiểu.

Cuối tuần, nhờ một người bạn khuyến khích, họ bèn đến một ngôi chùa ven đô nghe cao tăng thuyết pháp.

Hòa thượng giảng: – “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, quy luật nhân quả tồn tại rất khách quan và không do đức Phật quy định hay sáng tạo ra.

Đức Phật chỉ là công bố, nói rõ cho chúng sinh biết mà cảnh giác thôi.

Bắt kể bạn tin hay không, đời sống tất cả chúng ta đều nằm trong nhân quả, vỉ vậy mỗi cá nhân chúng ta cần có trách nhiệm đối với hành vi thiện ác của bản thân mình.

Mỗi người chính là kẻ sáng tạo vận mệnh của mình.

Nếu như tự mình làm ác, thì bạn sẽ gặp quả báo thống khổ”…

Đề tài buổi thuyết pháp hôm ấy giống như được nêu lên để Quan tiên sinh chiêm nghiệm và trực diện với nội tâm sâu thẳm…

ông bỗng hồi tưởng lại chuyện đã qua từ 25 năm trước…

“Hồi đó, Vợ chồng Quan giáo sư vừa kết hôn được hai tháng thì chị Quan hoài thai.

Anh Quan rất vui mừng, lái chiếc xe hơi đắt tiền sang trọng chở vợ đến miền duyên hải có phong cảnh nên thơ hữu tình, cùng nhau du lịch.

Có lần, họ đến miền bắc Thái Lan, tham gia hội yến, xe hơi dừng trước khoảng sân rộng của một ngôi chùa.

Anh Quan vừa mở cửa xe, thì lập tức có một đám trẻ hành khất lang thang chạy tới chen lấn, kéo tay họ xin tiền.

Giáo sư Quan rất ghét những kẻ ăn xin không những tự mình không cho mà anh còn nói với mọi người:

– Không nên cho chúng tiền, như vậy sẽ tập cho chúng quen thói bất lương, chẳng chịu làm việc đàng hoàng mà cứ ngồi không hưởng thụ, tạo ra tệ nạn cho xã hội…

Đám trẻ lang thang nghe nói vậy bèn bỏ đi.

Vợ chồng giáo sư Quan tham dự hội yến vừa xong, lúc quay về chỗ đậu xe thì phát hiện chiếc xe đời mới sang trọng yêu quý bị rạch một đường sâu, kéo dài từ đầu xe đến đuôi xe.

Thể là Quan tiên sinh bốc hỏa, nỗi giận đùng đùng, anh thầm nghĩ nhất định là đám trẻ đường phố ban nãy.

Anh giương mắt nhìn tứ phía, thấy ở dưới gốc cây xoài gần đó, tụ tập bốn-năm đứa trẻ tuổi độ 13 -14.

Anh liền xông tới, không cần hỏi rõ trắng, đen; phải, trái; anh giáng cho mỗi đứa một bạt tai.

Sau đó lớn tiếng bắt chúng phải khai ra ai đã rạch chiếc xe quý giá của anh.

Quan tiên sinh thấy không ai chịu nhận, liền uy hiếp đòi đưa chúng đến sở cành sát.

Đám trẻ sợ quá, trong đây có một đứa lớn tuổi nhất, liền chĩ ra phía xa xa, (chỗ có một đứa trẻ hành khất ăn mặc lam lũ đang hướng người ngoại quốc xin tiền) vả bảo đỏ là thủ phạm.

Giáo sư Quan đang cơn nộ khí xung thiên liền hùng hổ chạy qua bắt đứa trẻ đường phố nọ đến bên xe, còn đám trẻ kia nhân cơ hội này mạnh ai nấy chạy thoát thân.

Quan tiên sinh hung bạo tát vào hai má của đứa bé, hung hãng thẩm vấn nó vì sao dám rạch xe anh?

Hỏi một hồi mới phát hiện một điều: té ra đó lả đứa trẻ câm.

Thằng bé không ngừng khoa tay múa chân, mắt rưng rưng lệ tỏ vẻ khiếp hãi, ánh nhìn rất đáng thương.

Quan giáo sư không hiểu được ngôn ngữ ra dấu của nó, cho là nhất định vì anh tuyên bố “không cho tiền” mà thằng nhỏ này ôm hận chơi xấu.

Vì vậy anh phẫn nộ tung chân phải ra, đá mạnh vào ngực thằng bé câm.

“Huỵch” một tiếng, nó ngã chỏng gọng, đưa hai chân lên trời, tiếp theo là “ọc” một tiếng, máu tươi từ miệng nó tuôn ra, người chung quanh vội chạy tới kéo giáo sư ra và mang đứa trẻ câm đi để nó không phải bị đòn nữa.

Đứa bé câm đi rồi, nhưng vẫn quay đầu nhìn trừng trừng về phía giáo sư.

Nhãn quang nó đầy căm hận.

Sau đó đứa trẻ câm náu thân trong chùa, nó phát bịnh nặng được mấy năm thỉ thành tàn phế.

Mọi người đều biết đứa bé câm bản tính thiện lương, chiếc xe hơi không phải do nó rạch, Quan giáo sư đã đánh oan nó.

Cuối năm đó, chị Quan hạ sinh một bé gái, mày thanh mắt sáng, đến ba tuổi vẫn chưa nói được.

Tiếp đến chị lại sinh một thiên kim thứ hai, ba tuổi cũng không thể nói.

Sau chót, chị sinh bẻ gái thứ ba, vừa sinh là vội mời bác sĩ đến kiểm tra: lại là một cô nương câm nữa!

Chị Quan sợ tương lai nếu sinh nữa thì đứa thứ tư, thứ năm… vẫn là con gái câm, nên đã nhờ bác sĩ mổ triệt sản giùm”.

Bây giờ, mỗi lần Giáo sư Quan nhìn ba đứa con gái câm, là nhớ ngay đến cú đá khoe liệt mình dành cho thằng bẻ câm ngày xưa.

Ông không quên được cảnh miệng nó ọc máu tươi và ánh nhìn oán hận khủng khiếp…

Đến nay nhớ lại, ông vẫn thấy ớn lạnh, ông đã hiểu ra và không thể không tin đạo lý báo ứng nhân quả mà thiên lý luôn tuần hoàn báo ứng công bằng, đó là quy luật tự nhiên.

Đối với hành vi hung tàn 25 năm xưa, bây giờ ông có hối cũng đã muộn màng.

Từ đó, mỗi cuối tuần, Vợ chồng ông Quan đều đến chùa nghe cao tăng giảng kinh và sám hối tội lỗi của mình trước Phật.

Họ phát tâm tu thiện tích đức.

Đúng như tục ngữ có nói: “Đời người đến 50, mới nhìn ra lỗi lầm năm 49”.

Lời Bình:

Dịch xong câu chuyện này tôi lại nhớ đến câu chuyện nhân quả đời Đường như thế này:

Có một nông phu, bản tính rất ác độc.

Một buổi sáng nọ ra đồng thăm ruộng, thấy con trâu nhà hàng xóm, vừa ăn lúa, vừa giâm đạp đám ruộng của anh tơi bời, anh nổi giận xung thiên, liền túm đầu trâu, rút ra con dao bén, cắt đứt lưỡi trâu.

Mười năm sau, anh nông phu lấy vợ, sinh được ba đứa con, nhưng chúng đều bị câm.

Anh nông phu đã tìm danh y khắp nơi nhờ chữa trị cho con, nhưng vô phương.

Anh không hiểu vì sao con mình bị như thế ?

Lòng đau khổ vô củng.

Tối đó anh nằm mộng, thấy cảnh mình tàn nhẫn cắt đứt lưỡi trâu.

Tỉnh dậy anh hiểu ra tất cả.

Vì ác nhân ấy mà con anh phải chịu tai họa như hiện nay.

Thực ra thì anh nông phu chịu khổ báo đã đành, các con anh vì sao cũng bị vạ lây?

Đây chỉ có thể giải thích theo nhà Phật là do cộng nghiệp, những người đồng tạo ác tương tự sẽ củng thọ báo giống nhau.

2.

NƯỚC LÈO TRỨ DANH

Nơi thành phố thuộc miền bắc Thái Lan có quán hủ tiếu nọ, nổi danh nấu nước lèo rất ngon.

Danh thơm vang khắp xa gần, ai cũng tìm đến ăn.

Nhân sĩ đương thời đều tấm tắc ca ngợi.

Nên dù quán chỉ làm việc có buổi sang thôi, mà sáng nào cũng bán đến mấy trăm tô.

Trước 12 giờ trưa là hết sạch.

Mỗi tô giá khoảng 15-20 đồng tiền Thái.

Mỗi ngày thu vào được khoảng 6 ngàn, lời được ba ngàn.

Cửa hàng trước đây là một tiệm nhỏ mở ven đường, do lợi nhuận ngày càng nhiều, nên chỉ trong vòng mấy năm ngắn ngủi là họ tậu được đất và xây tiệm mới khang trang.

Sau tiệm là một hoa viên lớn, buổi chiều nghỉ bán mà vào đây nghỉ ngơi thì đúng là tiên cảnh chốn trần gian.

Chủ quán họ Liên, hai vợ chồng tuổi hơn 60, có đủ con trai, con gái.

Các con họ đều đã kết hôn.

Cả nhà họ năm người cùng hợp lực kinh doanh, không thuê người làm.

Dù nước lèo của họ mùi vị ngon vượt trội các quán khác, khách sành ăn vừa thưởng thức là thích mê, cho nên từ các bậc quan chức, thương gia, dưới đến các bạn hàng, phụ xe ba bánh…

đều trường kì đến quán này ăn.

Các tiệm đồng nghiệp không rành chế biến, cố hỏi bí quyết nhà nghề của họ, nhưng vô phương.

Tục ngữ nói “Đồng nghề như kẻ địch”, câu này không sai.

Các quán hàng địch thủ moi bí quyết nấu nước lèo không được bèn tung tin ác ý rằng: “Nước lèo tiệm đó có bỏ ma túy, khiến người ăn là ghiền, ngày nào cũng phải ăn, không ăn là không được”.

Còn có người quá quắt hơn, âm thầm lén đi thưa lên Cục vệ sinh, một mực khẳng định nước lèo này có ma túy.

Ma túy là chất độc cấm, Cục vệ sinh lập tức phái người tới quán kiểm tra, thử nghiệm.

Cuối cùng ra kết luận là: “Không hề có ma túy hay hóa chất có hại nào.

Nước lèo được nấu hoàn toàn phù hợp như chủ quán từng báo cáo, là dùng nước rau củ phối hợp với cốt gà, xương heo, hầm lửa nhỏ suốt một ngày một đêm mà có được tiêu chuẩn đạt yêu cầu”.

Được Cục vệ sinh kiểm tra và xác nhận “KHÔNG CÓ GÌ” khiến quán càng nổi danh thêm, càng được ái mộ nhiều hơn, bởi vô tình mà họ được quảng cáo không công, danh tiếng nước lèo của quán ngày càng bay xa vang dội…

Có một vị thân vương của hoàng tộc Thái Lan, là chuyên gia ẩm thực trứ danh, lái xe đến quán thưởng thức.

Sau đó, ông ban thưởng huy chương và bảng khen đặc biệt để quán treo trước cửa tiệm cho mọi người lác mắt.

Có được “bảng vàng” thân vương ban, chủ tiệm nhờ vậy mà càng thêm có giá, mỗi tô hủ tiếu từ 15 đồng giờ được đôn lên 20-25, chuyện buôn bán của nhà họ Liên càng phát lợi.

Thế gian không có gì là vĩnh viễn bí mật, món nước lèo họ Liên “độc chiếm bá chủ” cuối cùng cũng bị lộ.

Người để bức màn bí mật vén lên chính là Liên chủ tiệm, tin lạ ly kì thiên cổ này đã làm chấn động cả miền đông bắc Thái Lan.

Người đầu tiên phát hiện ra bí mật, chính là anh Tùng, một phụ xe ba bánh.

Số là hôm ấy, khi dùng cơm trưa, do anh Tùng uống rượu quá nhiều khiến mặt mày xây xẩm nên chẳng thể chở khách, vì không có tiền nộp cho bà xã, nên anh chẳng dám về nhà.

Đêm đó bụng đói meo, anh liền lẻn vào cửa sau của quán, thầm nghĩ sẽ kiếm chác, chôm đỡ thứ gì đó lót dạ.

Khi anh nạy được cửa sau ra, vừa bước vào nhà bếp, ánh đèn từ xa tỏa ra mờ mờ, đủ để anh nhìn thấy một người ngồi lưng hướng ra phía cửa (cũng là phía của anh).

Quan sát kỹ thì té ra ông chủ quán đang chăm chú làm việc, anh Tùng bạo dạn bước đến lén nhìn xem, mới thấy rõ lão chủ đang giết ếch.

Thủ pháp mổ bụng lấy nội tạng lão Liên làm rất điêu luyện.

Các thứ được lão phân ra bỏ vào thùng nhựa và bao nhựa.

Trong thùng nhựa chứa đầy thi thể ếch.

Ngay lúc đó lão chủ quán hình như phát hiện là có người, nên đột ngột quay đầu nhìn ra phía cửa, anh Tùng kịp thời nấp đi, may là nhờ ánh đèn mờ nhạt, nên anh không bị phát hiện.

Mặc dù chủ quán không nhìn thấy anh tùng, nhưng anh nhờ nấp trong bóng tối, nên thấy rõ mồn một gương mặt của lão Liên dưới ánh đèn chiếu sáng.

Ngay lập tức anh sợ đến xém xỉu.

Té ra mặt lão chủ không phải là mặt người, mà mang hình dạng mặt ếch thiệt bự.

Mồm giống hệt, mắt lồi, âm thanh phát ra “lét chét” rất kì quái.

Đột nhiên anh thấy ông thè lưỡi dài ra rồi rụt vào, giống hệt như cảnh con ếch ăn mồi vậy.

Sau đó, ông nhanh chóng lui vào trong.

Anh Tùng kinh hãi đến muốn thét lên một tiếng to, muốn co giò phóng chạy, nhưng hai chân cứ run lẩy bẩy, không làm theo ý anh.

Khó khăn lắm anh Tùng mới trấn tỉnh lại được và bò ra ngoài cửa.

Đêm đó, anh sợ quá phát sốt nặng.

Mấy ngày sau hết bệnh, anh đem tình hình chứng kiến tối hôm đó kế hết cho mọi người nghe.

Nhưng do anh bình thường hay uống rượu, nên chẳng ai thèm tin lời anh nói.

Thực ra, đối với người dân ở miền đông bắc Thái Lan, mấy chuyện ăn ếch, ăn chuột, ăn mèo… là việc thường, đâu có gì kì quái.

Nhưng điều kì quái trong tin đồn chính là dung nhan “ngài” chủ quán.

Mấy tháng nay thực khách không còn thấy lão Liên xuất đầu lộ diện nữa.

Bình thường thì ông luôn ngồi trước quán chặt thịt gà.

Nghe nói ông đang bị bệnh phải vào nhà thương, lúc nào xuất viện về nhà cũng không ai biết.

Thỉnh thoảng nếu có ai gặp ông, cũng nhìn thoáng qua trong khoảnh khắc, gần đây ông ít khi bước ra cửa tiệm.

Tình cờ có người gặp ông, họ kế lại:

– Lão chủ mặt mày nhìn giống hệt con ếch, nhưng mà bự hơn nhiều, chân cũng cong cong giống ếch vậy.

Miệng cũng y hệt, mắt lồi ra, càng nhìn càng giống con ếch to “khủng”.

Đến đây thì mọi người tin lời anh Tùng là nói thật.

Không hẹn mà họ cùng nhau rình, lén nhìn cho được “người hóa ếch” như lão chủ quán.

Và cuối cùng, ai cũng biết nồi nước lèo hấp dẫn kia chính là nước ếch.

Lạ đến không ngờ là vị nó ngọt thanh như vậy.

Trước đây, chủ quán sợ lộ bí mật nên không dám thuê công nhân, cũng chẳng muốn mượn tay ai làm, vì vậy mà ông phải đích thân giết từng con ếch.

Tính ra cả đời ông Liên đã giết không biết bao nhiêu mạng rồi, phải nói là vô số.

Hằng ngày ông luôn đối diện với dung nhan ếch, nhất cử nhất động, làm gì cũng dính dáng tới ếch.

Tướng theo tâm sinh, hình tùy tâm biến, dần dần mặt mủi ông cũng đổi thành hình ếch.

Ban đầu, mọi người ở chung không để ý, cho đến khi phát hiện ra, thì ông đã biến dạng hoàn toàn.

Sau đó, có người nghe những bà con của chủ quán kể lại rằng: “Dạo sau này lão Liên mỗi khi đang ngủ thường kêu hét, gầm rú.

Than là ếch đến bu đầy trên thân cắt rứt lão.

Cứ chợp mắt là lão bị quấy nhiễu mãi như thế, không thể nào yên giấc được.

Từ đó trở đi ròng rã suốt mấy tháng trường, đêm nào nằm lão cũng bị bầy ếch hiện đến hành hạ đau đớn.

Cuối cùng lão Liên phát bệnh điên, kêu như ếch rồi chết.

Sau đó, cả nhà chủ quán nước lèo trứ danh nọ không biết dời đi đâu, chỉ lưu lại câu chuyện này, là đầu đề khiến người ta bàn tán mãi.

3.

NGUYÊN NHÂN ĐÁNG SỢ

Tất cả báo chí hôm đó đều đăng hàng tít náy: “Bác sĩ trẻ Trương Vĩ Lục tự sát vong thân”… khiến người xem khó mà tin được.

Bác sĩ Trương năm nay 29 tuổi, năm ngoái sau khi tốt nghiệp, chàng phục vụ tại bịnh viện chính phủ.

Bác sĩ Trương xuất thân từ gia đình giàu có, cha mẹ hiền lảnh tốt bụng, ba người chị của chàng đều xuất giá, là con trai út, chàng càng được cưng chiều vạn bội.

Bác sĩ Trương rất tuấn tú khôi ngô, là một mỹ nam lanh lẹ, có duyên, làm rung động rất nhiều trái tim cô gái.

Con đường gấm nhung còn trải dài ở phía trước, nhìn chàng, thân thuộc bằng hữu đều ước ao được số đỏ gióng vậy, cho nên chẳng ai tin nổi là chàng tự sát.

Vì vậy mà bịnh viện thành lập ngay một đoàn pháp y, đề điều tra về việc tự sát của chàng.

Bắt đầu từ bối cảnh gia đình Trương Vi Lục, từ quá trình sáu năm ở trường học, cho đến khi tốt nghiệp vào y viện công tác.

Toàn bộ tư liệu ghi chép hơn 500 trang, có thể thấy cấp trên và đồng nghiệp rất quan tâm về việc tự tử của chàng.

Trong số sổ sách báo cáo có một đoạn ghi thế này: “Một năm gần đây, người ta mới bắt đầu phát hiện ra tính chất đại trượng phu hùng dũng oai vệ của Trương Vĩ Lục bổng dưng đổi thay và cử chỉ, hành động, giọng nói của chàng… xem ra có phần giống con gái.

Ai cũng nghĩ …chắc là do từ bé chàng sinh trong nhà có ba chị gái, lại công tác kề cận toàn với nữ y tá”…

Vừa rồi khi kiểm tra cơ thể chàng, bác sĩ nói phần Hormone (kích thích tố) nữ quá thịnh, lấn át hẳn hùng tính của nam.

Trong hồ sơ bác sĩ Ngô Uy Xương, người chủ trị cho chàng còn ghi: “Bịnh nhân Trương Vỉ Lục, không thể tiếp thu kích thích tố nam để duy trì cân bằng, thậm chí còn bị “hoạn tính vô năng” (biến giới bất lực).

Tiếp theo hồ sơ ghi rằng chàng bị chứng “hoạn" như thế này đã lâu lắm rồi.

Qua điều tra, thấy bối cảnh nhà chàng rất tốt, bản thân chàng thanh khiết, có tự ái cao, tính tình thuộc loại bảo thủ Dù chàng sớm xa rời cha mẹ đế làm việc độc lập, tuy ở một minh nơi phồn hoa đô hội, có dẫy đầy cám dỗ khiến người ta dễ sa ngã như thành phố Bangkok, hơn nữa xung quanh môi trường làm việc của chàng toán là mỹ nhân, vậy mà chàng vẫn giữ thân như ngọc, quả là hiếm có, khó được.

Thêm một báo cáo nghiên cứu có giá trị khác nữa, ghi rõ: “Trương Vĩ Lục là người miền nam Thái Lan, từng thi vào Đại Học Y đạt thành tích hạng ưu tại Băng Cốc, suốt sáu năm học Đại Học Y, chàng ngụ tại ngôi nhà thuê gần trường.

Hăng ngày khi điểm tâm chàng thích dùng cà phê, nước ép hoa quả”.

Quan trọng nhất là: “Buổi trưa và tối chàng đêu ăn cơm gà.

Đây là món cơm gà Hài Nam trứ danh mà người Thái Lan rất ưa.

Không có rau xanh, chỉ dùng thịt gà kèm cơm, là món ăn nhanh vừa tiện nghi lại rất ngon miệng.

Trương Vĩ Lục rất ưa ăn cánh và đầu gà, và chàng ăn ròng rã sáu năm”…

Một nghiên cứu có giá trị hơn nữa: “Trước đây nhà nông nuôi gà, ít nhất sáu-bày tháng mới bán ra tiêu thụ.

Nhưng bây giờ nhờ nuôi gà theo khoa học, chỉ cần 40 ngày, gà vẫn lớn mau và rất nhanh chóng đạt đủ trọng lượng chuẩn.

Ngày xưa gà trống nuôi đến thời kỳ thanh xuân thì không thể phát phì, lớn mập; người ta vì muốn hưởng dụng nó cho ngon miệng, nên đã thiến nó đi; khiến thịt gà vừa béo vừa mập.

Với đà phát triển tiến bộ, khoa học ngày nay đã phát minh ra loại thuốc khiến gà và những loại gia cầm khác mất đi khả năng sinh sản.

Chẳng hạn như loại thuốc này được bào chế thành viên, nhét vào mồng gà hay phần bắp thịt cánh, ngoái ra thuốc này còn được trộn vào thúc ăn”.

Cho nên trong lúc chúng ta hưởng dụng thịt gà trống béo phì, nào hay nào biết bản thân mình cũng uống luôn thuốc “hoạn” đó vào bụng, hèn gì mà thời nay đàn ông bị bịnh “hoạn tính vô năng” nhiều đến như thế!

Tất cả đều là do ăn thịt gà thiến, heo thiến mà “được”1 như thế.

“Trương Vĩ Lục rất ưa ăn cánh gà, đầu gà – song những bộ phận này chính là điểm tập trung dược vật.

Cái hại đầu tiên mà dược phẩm này mang đến là: nó ức chế toàn bộ hoóc-môn nam, chính thuốc “hoạn” này đã liên tục ngấm vào cơ thể Trương Ví Lục ròng ră suốt sáu năm.

Những dược phẩm này âm thầm tích lũy và phát tác, thành một lượng thuốc “khủng” đên kinh người.

Cuối củng ngay cả bác sĩ Trương Vĩ Lục cũng không thể trị lành chứng giới tính bị “hoạn” của minh”.

Như vậy thì làm người còn gì thú vị nữa?

Đây chính là kết luận nghiên cứu sơ bộ về nguyên nhân việc tự sát của bác sĩ Trương, cố nhiên là do chàng không biết mà thành vậy, nhưng căn cứ theo bối cảnh Trương gia, ban điều tra còn có được một báo cáo kinh người:

Té ra, ông nội Trương Vĩ Lục cả đời làm nghề hoạn heo, hoạn gà.

Đây là việc tại quê nhà.

Phụ thân chàng cũng từng theo phụ suốt 2-3 năm.

Sau đó do không muốn kế thừa sự nghiệp của ông nội bác sĩ Trương, cha chàng đã từ bỏ nghề “hoạn” đó.

Đâu ai biết hành vi thực hiện việc tuyệt chùng này của tổ phụ chàng đã di họa đến đời thứ ba, khiến tử tôn tự sát tuyệt hậu.

Vậy thỉ còn ai dám không tin đây là nhân quả báo ứng chứ?

4.

ĐÁM TANG CHÓ

Nơi đại binh nguyên hình tam giác của dòng sông Mê-kông vương quốc Thái Lan, đất đai phì nhiêu, nước mưa tràn đầy, là nơi sản xuất gạo trù phú của quốc gia.

Cho nên xưởng chà lúa ở đây rất vĩ đại quy mô, thuộc dạng đại công nghiệp

Lương tiên sinh là Hoa kiều, hậu duệ đời thứ ba của dòng họ Lương, ông cư ngụ không xa thành phố Bảng-cốc nổi danh, kinh doanh hãng chà gạo.

ông Lương vừa bỏ ra hơn mười vạn, để làm tang lễ cho một con chó, câu chuyện này kẻ ra thực rất cảm động.

Hôm nay lả ngày công đức viên mãn (cúng lễ đầu thất của con chó).

Chiều tối sẽ cử hành lễ thiêu.

Khách đến không nhiều, trước khi hỏa táng ông Lương còn thỉnh cao tăng trứ danh tụng kinh, có quay phim, ghi hình toàn bộ buổi lễ.

Chủ sự còn đặc biệt tặng cho mỗi tân khách một cuốn sách rất đẹp làm kỷ niệm.

Bìa ngoài in hình một con chó Thái hùng dũng, đứng bên cạnh là đứa bé ba tuổi.

Chuyện băt đầu từ bốn năm trước khi Lương tiên sinh vừa kết hôn không lâu.

Ngày nọ ông cùng vợ ngồi thuyền đến chùa cúng dường tạo phúc.

Hôm đó Hai vợ chồng trai tăng xong, lúc lên thuyền thi phát hiện có một con chó té xuống sông, đang thở thoi thóp, ông và vợ vội cứu con chó lên, lau khô mình nó, sợ nó bị lạnh nên nấy khăn lông quấn cho ấm rồi đem về nhà.

Hai vợ đồng đều yêu thích con chó cái này.

Năm sau bà Lương sinh hạ được một bé trai.

Vừa lúc ấy, con chó cái cũng sinh ra một chú chó đực.

Tục ngữ dân gian nói: (Đơn trư cùng độc cấu phú) “Một heo nghèo, một chó giàu”.

Ý nói là nếu sinh một chó thì sẽ giúp chủ nhân phát tài, vận hên.

Quả nhiên, không bao lâu thì vận may tới nhà họ.

Do chính phủ muốn nông thôn phát triển nên đã cho xây một con đường lộ to rộng trước công xường Lương tiên sinh.

Giá đất hai bên đại lộ nghiễm nhiên tăng vọt, may là tổ tiên Lương tiên sinh để lại rất nhiều đất sát bên công lộ.

Thương trường địa sản lên ngôi, giá tăng cao không ngờ.

Ngoài ra, khi công lộ xây xong, giao thông càng tiện lợi, hãng xay gạo nhân đây làm ăn càng phất, lên cứ như diều gặp gió.

Vận may đến bất ngờ như thế mọi người đều quy công về chú chó con, ồng Lương đặt tên nó là “Hảo Vận” và gọi thằng bé con mình là Tiểu Ba.

Hảo Vận ngày một lớn, giao du thân thiết với với cậu chủ nhỏ đồng tuổi mình.

Lúc Tiểu Ba chập chững tập đi, thì Hảo Vận nhẫn nại theo sát một bên nâng đỡ, quấn quýt không rời như hình với bóng.

Lương tiên sinh nói nó giống hệt như bảo mẫu vậy.

Một buổi chiều nhá nhem tối, công nhân xưởng xay cùng công nhân xưởng khác phát sinh ẩu đả tập thể.

Mọi người không ai chú ý đến Tiểu thiếu gia.

Cậu bé mới ba tuổi ưa chạy lung tung, do bất cẩn nên té xuống sông.

Nhìn thấy Tiểu Ba giẫy giụa, trong chớp mắt đã chìm xuống.

Con Hảo Vận cả kinh, nó bất chấp tất cả, liều mạng nhảy xuống sông, dùng lưng đội tiểu chủ lên, Tiểu Ba liền ôm chặt con chó.

Nhưng bờ sông dốc cao quá, vô phương leo lên, bốn chân Hảo Vận không ngừng bơi dưới nước, ráng sức đội tiểu chủ.

Nhưng do đầu nó bị Tiểu Ba ôm chặt, chỉ có thể lâu lâu hướng mũi lên trời thở.

Khi hai vợ chồng ông Lương phát hiện con nhỏ giúp việc (họ thuê chăm sóc Tiểu Ba) cũng đang dí mũi vào đám người gây lộn thì họ vội vàng hỏi:

– Cậu chủ đâu?

Mọi người mới túa ra đi khắp nơi kiếm tìm, kịp thời phát hiện Tiểu Ba và Hảo Vận đang ở trong sông.

Lương tiên sinh vội nhảy xuống nước, bồng Tiểu Ba lên trước, sau đó vớt Hảo Vận lên, lúc này thể lực Hảo Vận không còn chống chọi được nữa, nên chìm xuống, Lương tiên sinh ráng sức cừu và bồng được con chó cưng về nhà.

Con trai ông đã thoát hiểm, Hảo Vận cũng dần dần tĩnh lại.

ưxHảo Vận liều minh cứu tiểu chù, nghĩa cử này không những được chủ nhân cưng yêu bội phần, mà láng giềng đều ngưỡng mộ, ca ngợi Nhưng con Hảo Vận không giống người – không vì được sủng ái mà sinh kiêu ngạo – nó vẫn như xưa, luôn theo sát quấn quýt bên tiểu chủ.

Đang lúc mọi người nhiệt liệt bàn về nghĩa cử cứu tiểu chủ của con chó, thì sự tình bất khả tư nghị phát sinh.

Nguyên là cô tớ gái chăm sóc Tiểu Ba còn trẻ, ham chơi nên bị chủ sai đi lau chùi nhà vệ sinh và tạm thời giao công việc bảo mẫu này cho một bà lớn tuổi, chín chắn hơn lo liệu.

Ba tháng trôi qua, một buổi chiều nọ, bà vú này dẫn Tiểu Ba và Hảo Vận ra vườn rau cạnh công xưởng chơi.

Thình lình xuất hiện một con rắn mắt kính, thân mập to bằng bắp tay, dài hơn hai mét, đầu nó ngóc cao nhắm hướng bà vú tấn công và mổ nơi gáy bà một cái.

Té ra con rắn này đang ấp trứng, mà các bà mẹ động vật trong thời kỳ hậu sản tính rất hung dữ, luôn sẵn sàng tấn công, vì đó là thiên tính bảo vệ con của tinh mẫu tử.

Rắn mẹ cắn bà vú xong rồi, thi quay sang Tiểu Ba bắt đầu cuộc công kích.

Lúc này con Hảo Vận thông minh đang đứng cạnh Tiểu Ba, thấy tỉnh thế nguy hiểm, nó lập tức nhảy lên đứng chăn trước Tiểu Ba (đúng vào lúc con rắn phóng tới mổ cắn), và Hảo Vận đã lãnh thay cú mổ đó.

Dù bị thương, nhưng con chó vẫn ráng cắn vào đuôi con độc xà, hai bên quần thảo kịch liệt trên đất.

Trong lúc này bà vú chỉ kêu được một tiếng: “Cứu mạng” thì nọc độc phát tán, bà té xuống.

Bé Tiểu Ba ngây thơ không biết sợ chi, cứ đứng đó nhìn con rắn và chó đấu nhau.

Khi công nhân và Lương tiên sinh chạy đến thì mặt bà vú đã chuyển sắc đen không còn nói được nữa.

Hảo Vận cũng bị nọc chạy vào tim, mắt nó chảy máu tươi, mất hết sức lực.

Nhưng nó vẫn cắn chặt đuôi rắn, nhất quyết không nhả.

Mọi người đập chết con độc xà, nhưng Hảo Vận trúng độc quá nặng, nó đưa mắt nhìn chủ lần cuối rồi tắt hơi.

Nước mắt ông Lương rơi như mưa.

ông cử ôm con chó cưng trong lòng mãi.

Mọi người lay tỉnh Lương tiên sinh, nhắc rằng trên mình chó có độc.

Trong giây phút tống biệt, ông Lương nghẹn ngào dặn dò mọi người phải dùng nghi thức cực kỳ trang nghiêm để tổ chức ma chay cho con Hảo Vận trung nghĩa.

Và tang lễ này được cử hành suốt bảy ngày bảy đêm, long trọng chưa từng có đối với một con chó.

Tang lễ hoàn tất, mọi người đều bị tấm lòng trung nghĩa của con chó làm cảm động.

Ai cũng tán thán rằng, nhờ vợ chòng ông Lương bốn năm trước cứu chó, nên ngày nay mới chiêu được thiện báo.

Có thể thấy con người và loài vật (như con chó) có thế sống chung bầu bạn hài hòa.

Cùng hỗ tương cứu hộ, thân thiết như tay chân.

Vi vậy con người không nên ngược đãi chó, càng không nên sát hại, ăn thịt nó dã man.

5.

NGƯỜI ƯA CÂU CÁ

Câu cá là hoạt động cực kỳ tàn nhẫn, thử nghĩ xem, nếu như đem móc câu sắc bén đó, đâm vào môi, vào lưỡi của mình, thì sẽ thấy đau đớn đến tận tim phổi.

Nghĩa là, dù thế nào người ta cũng vô phương chịu nổi.

Nhưng nhiều người lại lấy việc câu cá làm thú vui, câu không biết mệt.

Thậm chí còn thành lập Câu Lạc Bộ câu cá nữa.

Cái lý luận “câu cả có thể đào luyện tính tình” là hoang đường, đây là lời của kẻ chằng có chút lòng trắc ẩn.

Lâm Giáp Xuân là công chức của chính phủ Thái, tính rất ưa câu cá.

ông là hội viên của Câu Lạc Bộ câu cá.

Những ngày nghỉ cuối tuần ông thường dong thuyền ra biển thả câu.

Vừa câu vừa uống rượu nhắm với mồi ngon thiệt lả khoái vô kể.

Mọi người uống mỹ tửu, ăn cá tươi, cùng hưởng thụ khoái lạc nhân gian cho qua hết ngày giờ.

Mấy năm trước lúc Câu Lạc Bộ mới sáng lập, không khí rất nhộn nhịp sôi nổi, thế nhưng từ năm ngoái trở đi, từ con số 30 hội viên, giờ chỉ còn lại 7-8 người mà thôi.

Câu lạc bộ bây giờ tử khí nặng nề, khiến mọi người ủ ê, không còn hứng thú ra biển câu cá nữa dù Lâm Giáp Xuân là môt nam tử cứng đầu không tin nhân quả báo ứng, ông không cỏ gia đinh, không tín ngưỡng, nhưng cũng không thể đem lại sự linh hoạt khiến mọi người phấn chấn hăng hái ra biển câu như hồi xưa.

Lý do là vì có hai quái sự liên tục phát sinh.

Việc thứ nhất xảy ra ngay trên thân lão hội viên A Ban.

Hôm đó là chủ nhật, A Ban cùng vợ vào đất liền hướng nhạc mẫu chúc thọ.

Nhạc mẫu ông vốn là người có máu mặt, có danh vọng ở bản địa.

Hôm chúc thọ đó tân khách đến dự chật cửa. yến tiệc hết sức sang, có đủ thịt bò, heo, cá, gà, vịt, ngỗng…

Muốn ăn gì đều có nấy.

Thực khách hưởng dụng thỏa thích nhưng vẫn không sao ăn hết.

A Ban ưa ăn cá và nội tạng, nhìn thấy trên bàn tiệc có một con cá to, ông rất khoái.

Do khi ăn không cẩn thận nhai kỹ, lại ngốn nội tạng cá vào miệng quá nhiều nên vừa nuốt qua thỉ A ban bị mắc nghẹn, ông cảm giác như có vật gi cứng mắc kẹt tại yết hầu, nên quýnh quáng dùng tay kéo ra.

Nhưng không tài nào móc ra được.

Chính trong khoảnh khắc nuốt không trôi, kéo không ra đó, ông hô hấp cực kỳ khó khăn, muốn há miệng la to cầu cửu cũng không thể.

Em trai ông ngồi đối diện là người phát hiện ra tình huống nguy cấp nảy trước tiên, nên vội chạy qua phụ giúp, nhưng hai mắt A ban đã trợn trắng, đầu gục xuống, hơi thở yếu dần đi.

Mọi người lập tức dìu ông lên xe đi cáp cứu, nhưng mới nửa đường thi ông tắt thở.

Mặc dù người đã chết, nhưng y viện vẫn tiến hành phâu thuật để kiểm tra nguyên nhâr tử vong.

Bác sĩ lôi nội tạng cá mắc kẹt tại yết hầu ra…

Chính ngay giây phút đó, các bác sĩ, y tá, hộ lý tại hiện trường thảy đều sợ há hốc mồm, sợ đến đơ mắt, cứng miệng khi nhìn thấy thù phạm giết người chính là… cái móc câu, đang móc cứng vào yết hầu của A ban.

Lạ lùng lá cái móc câu này nằm ở trong nội tạng cá.

Xuống đến cổ A ban nỏ bị ép ló ra, cho nên khi A ban càng dùng sức kéo, thỉ móc câu càng bám chặt.

Những thân hữu chứng kiến tình hình kinh khủng này, tất nhiên ai cũng liên tưởng tới sở thích ưa câu cá của A Ban.

Hơn nữa kinh nghiệm vả kỹ thuật câu của ông khiến tất cả hội viên đều bái phục.Trong lúc người khác không câu được cá. thì ông thu hoạch vô số.

Bây giờ nhìn cảnh hai mắt A Ban trợn trắng, miệng há to, bên cạnh là cái móc câu dính đầy máu, ai nấy đều sợ đến lông tóc dựng đứng, không thể khống tin nhân quả báo ứng như bóng theo hình, câu chuyện xảy ra cho A Ban lả ngàn chân muôn thật!

Câu chuyện thứ hai còn ly kỳ hơn. hội viên Dương Tỷ Ích là cao thủ câu cá, từng tham gia các hội thi, liên tục hai lần đều giựt giải quán quân.

Dương tiên sinh ngoải thú ưa câu cá ra, còn ưa đi xe đạp điện.

Hằng ngày, cứ chạng vạng tối là ông chở vợ ra ngoài ven đô hóng gió.

Tối đó khoảng 11 giờ, ông dự lễ tang người bạn thân xong, thì lái xe về nhà.

Con đường quen thuộc đến nỗi cho dù có nhắm mắt, ông cũng có thể lái rành rọt.

Nhưng thực kỳ quái, chiếc xe hơi đang chạy ngon trớn thì ông bỗng thấy trước mặt xuất hiện một con sông lớn (trước đây chưa hề thấy qua).

Để tránh rơi xuống sông, vì đang lái ở tốc độ 120km/giờ nên ông vội vàng bẻ lái đạp thắng gấp.

Chỉ nghe “RẦM” một tiếng thật to, xe ông tông thẳng vào cột điện ven đường Đến lúc ông tỉnh dậy thì thấy mình đã nằm trong bịnh viện.

Ai cũng nghĩ Dương tiên sinh lái xe tốc độ cao thành ra bị tai nạn.

Tuy điều này xảy ra ngoài ý muốn, nhưng chưa đủ kỳ quái.

Kỳ quái nhất là vết thương trên thân thể ông rất mau chóng lành, duy chỉ có môi và vòm miệng là thương tích nghiêm trọng.

Cả hàm răng rụng hết, chẳng ăn gi được.

Hơn một tháng nay chỉ có thể dùng ổng dẫn bơm thức ăn lỏng vào cổ họng.

Còn lạ hơn nữa là vết tét phía trên lẫn dưới của khóe môi – bác sĩ đã khâu 7 lần, mà vẫn không khép lại –

Vì hễ khâu xong, đến lúc cắt chỉ, thl hai khóe mép ông lại lở loét sưng phù.

Cuối cùng bác sĩ phải dùng chỉ tối tân tầm hóa chất để may cho kín.

Một tuần sau, chỉ tự tan rồi, nhưng môi ông vẫn lờ loét, hai khóe cứ ngoác rộng ra như hàm cá.

Bác sĩ chủ trị đành thúc thủ bó tay.

Ngót mấy tháng ông bị đau đớn giày vò, thống khổ bát tận, mồm cứ lở loét, hả rộng y hệt mồm cá lúc bị móc câu làm tổn thương gây lờ vậy.

Hôm nọ, vợ ông như lệ thường đến thăm, vô tình buột miệng nói: – ồi dào!

Mồm ông ngoác to như thế kia, giống hệt mồm con cá mắc câu!

Mấy từ này đánh động đến lương tâm Dương tiên sinh, giống như một lời cảnh báo.

Khiến ông nhớ lại mỗi lẩn mình câu cá, đều kéo rách miệng cá, làm nó lở loét cả vòm miệng.

Bây giờ ông mới thực sự đồng cảm sâu sắc với nỗi đau của nó.

Thế lả ông cùng vợ vội mang đèn hương đi đến chùa, đối trước Phật ông chí thành lễ bái sám hối và phát thệ từ nay về sau không bao giờ câu cá nữa.

Nói ra cũng lạ, từ hôm đó trở đi, môi ông dần dần lành lại, không còn lở sưng nữa.

Chỉ một tuần sau thi ông xuất viện.

Sau đó ông kể cho các bạn hội viên những gì mình đã trải qua và khuyên họ không nên câu cá nữa.

Từ đó hội viên Câu Lạc Bộ câu cá giải nghệ rất nhiều (giảm sút trọng đại).

Không bao lâu Lâm Xuân Giáp cũng từ bỏ việc câu cá và Câu Lạc Bộ giải tán.

6.

THỨC NGON ĐẶC CHẾ

Trong một vùng nông thôn thuộc miền đông bộ Thái Lan, có một nông phu tên A Bang, bà vợ sinh được ba con gồm hai nam, một nữ.Thằng đầu tên ô 9 tuổi, thằng kế tên Hồng 7 tuồi và út gái tên Bạch 5 tuổi.

Hôm nọ, vợ chòng A Bang đến dự lễ nơi nhà một người bà con, bỏ ba đứa nhỏ ở nhà.

Nơi chúng ngụ là căn phòng bằng gỗ xây theo kiểu Thái.

Cạnh phòng có chất một đống rơm khô.

Ngoài ra còn có một ống máng xối hình chữ thập để hứng nước mưa và một hàng lu dùng chứa nước uống.

Nhà ở các hộ nông dân nơi đây xây cách nhau rất xa, phân bố rải rác trong điền viên.

Hôm đó, căn phòng gỗ đột nhiên bốc cháy, láng giềng ở xa chỉ nhìn thấy khói đen bốc cao, lửa vây kín nhà, cả tòa nhà gỗ chẳng mấy chốc bị thiêu trụi, ba đứa trẻ trong nhà do cổng khóa kín không thể chạy đi đâu.

Nghĩ là nước trị lửa, thằng ô lần lượt bổng hai em đem bỏ vào hai cái lu to đầy nước và đậy nắp lại.

Sau đó nó cũng nhảy vào một cái lu khác để tránh lửa.

Lúc láng giềng và nhân viên cứu lửa chạy đến thi cả tòa nhà gỗ và bốn đống rơm cũng cháy trụi, còn thiêu chết một con bò bị cột, nhưng không thấy dấu vết trẻ con đâu.

Mọi người đều cho rằng chúng đã chạy thoát cả rồi.

Khi vợ chồng A Bang về, họ cũng hoảng loạn tìm con, đến tối mò cũng không tìm ra được.

Sáng hôm sau, môt người bà con tên là Luân Bao cũng tới phụ tìm các trẻ, giống như có biết trước, ông vội chạy đến lu nước, dở nắp ra thì kinh ngạc hét to, vợ chồng A Bang nghe tiếng kêu, vội chạy đến xem, thì thấy thi thể của thằng ô, đứa con trai đầu.

Luân Bao lại mở tiếp các lu kia, thì lần lượt phát hiện ra xác của Hồng và Bạch.

Lúc này hai vợ chồng quá đau lòng, ngã xuống ngất xỉu.

Báo chí và đài truyền hình đều đăng tin thương tâm này.

Lúc đó ký giả đài truyền hình phỏng vấn, hỏi Luân Bao vì sao biết ba đứa trẻ chết trong lu?

Luân bao Đáp: – Đêm hôm lửa phát cháy, ông đang ngủ nơi nhà mình bỗng mơ thấy cảnh mọi người đều chạy đi tìm các cháu, bông dưng thấy một lão già chưa từng quen biết, râu trắng dài tới ngực, bảo ông: – Bầy cá ở trong lu nước!

Tỉnh dậy ông thấy rất kỳ, bèn vội vàng chạy sang nhà A Bang, nhào tới dở lu xem thử, không ngờ thi thể các bé ở trong đó…

Nghe đến đây A Bang hét to một tiếng, rồi ngất xỉu trên đất.

Khi được cấp cứu tỉnh lại, đôi mắt ông như vô hồn, nhìn ngây dại về xác ba đứa con và lẩm bẩm nói:

– Báo ứng!

Báo ứng mà!

Mọi người đều nghĩ ông thương tâm quá độ, thần trí mê muội, không dám hỏi gi.

Theo tập tục ở nông thôn, hễ nhà nào có chuyện là mọi người đồng tâm hiệp lực, phụ chôn cất con A Bang.

Vợ chồng A Bang nội trong một ngày mất hết ba đứa con cưng, đành náu tạm một nơi khác.

Tài sản tích chứa đều bị làm mồi cho ngọn đuốc, hai vợ chồng gặp phải gia biến thảm sầu, họ thấm thìa lý vô thường buồn vui ly hợp ở nhân gian nên không chút do dự đổng xin xuát gia.

Ai cũng hiểu và cảm thông cho họ.

Nhưng mọi người đều thắc mắc khi nghe A Bang luôn mồm nói “Báo ứng! báo ứng!”…

Ông vốn là một nông dân trung hậu cần lao, nhưng đã làm gỉ để bị trách tội nặng như thế?

Thật khiến người ta khó hiểu?

Chỉ có A Vu, em vợ A Bang là biết rõ.

A Vu nói:

-Anh Bang sống luôn biết giữ hòa khí, nhiệt tâm giúp người.

Anh chỉ có tính là rất ưa ăn ngon và tự minh sáng chế món “Rau dồn cá”, chính A Vu nhiều lần phản đối kịch liệt món này.

Thái Lari là xứ gạo, cá.

Vào mùa xuân mỗi lần gặp mưa dông là thời kỳ cá đẻ trứng.

Mười mấy ngày sau cá con lớn bằng đầu đũa, A Bang ưa dùng vải mùng may thành vợt, lùng bắt đám cá này.

ít thì có mười mấy con, nhiều thì hơn trăm mạng, sau đó anh bỏ cá con vào trong thùng nước.

Lúc cần nấu, thi chọn các cọng rau to lòng, cắt bỏ các đốt mấu đi, thành là một ống trống suông.

Sau đó đổ nước lạnh vào trong nòi, thả rau và cá con vào, chụm lửa nhỏ riu riu.

Do nước lạnh từ từ chuyển nhè nhẹ qua nóng, nên mới đầu đám cá còn hồn nhiên bơi tung tăng, nước ấm dần dần tăng độ, cá nhỏ gặp lòng rau rỗng liền chui vào đó trốn nóng…

Tận mắt chứng kiến cảnh lũ cá bị giết tàn nhẫn, chết thảm thương… nhưng vợ chồng A Bang chẳng mảy may động lòng trắc ẩn, ngược lại còn tự hào đắc ý vỉ mình biết sáng tạo ra món ăn cực kỳ đặc biêt và ngon.

Mỗi một khúc rau trống đều có một đám cá chui vào, đem ra trộn với gia vị thì ăn ngon cực kỳ, không gì sánh.

Có lần A Bang làm ruộng, anh dùng lưới vớt hết bầy cá con, đột nhiên có hai con cá lớn (là cha mẹ của chúng) nhảy lên bờ.

Có thể là do nhìn thấy bầy con bị bắt đem đi, chúng bi thống đến cực điểm mà nhảy lên tự sát để kháng nghị.

ABang lúc này nhân tính mê muội, cho rằng khi không có được của bất ngờ, liền bắt luôn hai con cá đó đem về nhà nấu ăn”.

Con người quen tạo sát nghiệp ác độc, lả do lương tâm bị vùi lấp mê muội, chỉ khi thấy cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái mình chết… mới kêu gào khóc lóc, hô thiên gọi địa đau đớn thảm sầu.

Chẳng hề nghĩ đến loài vật cũng có nghĩa tình cha mẹ, anh em, phu thê, con cái…

Cổ thi nói:

Trăm ngàn năm nay trong chén canh

Oán sâu như biển hận khó bình

Như nay báo ứng nhân quả xoay chuyển đến khiến A Bang gánh phải niềm đau chôn con, nếm mùi khổ tự thân chứng kiến một bầy con bị chết cả, sao không khiến anh ta thối tâm nản chí chứ?

Một thi nhân thời cồ đại đã lâm thơ ngăn sát thế này:

Ai bảo chủng sinh mệnh nhỏ nhoi

Chỉ là xương thịt với da thôi?

Xin anh chớ bắt, săn, giết chúng

Tình cảm chúng đâu có khác người!

Nhân loại hằng ngày đều tự làm tăng thêm nghiệp sát oan trái.

Khi chúng ta bịnh nằm tại y viện hay trên bàn mổ, ngay khi đỏ chúng ta có thầm tự vấn, có tự hỏi rằng: “Cả đời mình đã từng ăn bao nhiêu con gà, bao nhiêu con vịt, bao nhiêu heo, bao nhiêu bò…

Bao nhiêu loài đã táng mạng vào bụng chúng ta chưa?” – Và “Hôm nay chính là ngày báo ứng đến”… người vào thăm bịnh cũng cần nên phản tỉnh như vậy.

Nếu như nhân loại cỏ thể tự vấn mình đến cùng, thì sẽ phát sinh tâm từ, tâm sám hối và nghiệp sát tự nhiên sẽ giảm cũng như những chứng bịnh oan nghiệt kỳ lạ sẽ dần tiêu tan.

7.

NGƯỜI CHÂN VOI

Thái tiên sinh năm nay 67 tuổi, người Triều Châu, năm 1941 Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, quê nhà bị vây hàm, sinh hoạt bị ép ngặt, thời thanh niên ông ly hương qua nước Thái Lan mưu sinh.

Hiện đang cư ngụ tại miền trung Thái Lan.

Sống bằng nghề buôn bán.

Hai chân ông bịnh giống như chân voi, đã 9 năm rồi.

Thái tiên sinh rất ưa ăn thịt ngỗng và uống rượu, hằng ngày mỗi tối ông dùng một mâm thịt ngỗng và nửa vò rượu.

Ngày nào cũng thế.

Mười năm trước ông theo đoàn du lịch đến miền đông bắc Trung Quốc du ngoạn vả được ăn qua một lần món chân gấu vang danh cỗ kim, khiến ông ra về cứ nhớ nhung mãi.

Tiếc lả chì có lần đó, vì sau khi về đến Thái Lan thi ông không còn dịp thưởng thức món chân gáu quý giá đó nữa.

Cho dù là vậy Thái tiên sinh vẫn ưa ăn chân ngông, vỉ nó có chút mùi vị tương tự.

Từ đó ông thường dùng chân ngỗng nhắm rượu cho đỡ nhớ chân gấu.

Sau này có người bày ông cách dùng chân ngỗng, nói rằng không những mùi vị có thể ngon ngang chân gấu, mả còn cỏ thể giúp bổ tinh, tráng khí, dưỡng thần… là phương pháp bí truyền của các quân vương thời cổ đại.

Thế là Thái tiên sinh học cách chế biến chân ngỗng.

Tại trên cái bàn sắt, chung quanh có lan can bao kín.

ông bắt con ngỗng sống thả lên bàn.

Đề nó đứng như vậy rồi sau đó nổi lửa đun củi bên dưới nung nấu dần dần.

Tùy theo nhiệt độ gia tăng, bàn sắt từ từ nóng lên, con ngỗng dần dần chịu hết nỗi, bèn co một chân lên.

Nhiệt độ càng tăng cao, hai chân ngỗng đều chịu hết thấu, phải vừa vừa co vừa buông, giống như khiêu vũ vậy, lúc này ngỗng có muốn chạy trốn cũng không được vỉ chung quanh đã rào kín.

Đợi bàn sắt nóng đến đỏ rực, thi hai chân ngỗng nhảy liên tục như điên – như cuồng phong bão vũ – Nó liều mệnh mả nhảy, chi có nhảy vả nhảy thôi!

Sau đó nó nổi khùng tông lung tung, cổ giương ra hết ga, phát ra tiếng kêu thê thảm, ai oán rồi té xuống.

Bây giờ thì hai chân nó bỏng đỏ sưng vù, nhưng chưa tắt hơi.

Thái tiên sinh tháy vậy, liền nhanh nhẹn chặt chân nó đi, ngỗng đau đớn ngất xỉu rồi tĩnh dậy, lại tiếp tục hôn mê rồi chết.

Nhưng lúc này Thái tiên sinh bất quản, chỉ quan tâm đến việc đem chân ngỗng ra ngoài rửa sạch rồi nấu với thuốc, chụm lừa riu riu.

Theo truyền thuyết, khi con ngỗng “vũ” trên bàn lửa xong, toàn thản khí huyết đều tập trung xuống đôi chân, thịt ngỗng cũng biến thành vô vị, không có giá trị dinh dưỡng bổ béo gì.

Lửa bàn sắt nung nấu khiến máu huyết toàn thân đều tập trung xuổng chân nỏ, gọi là “chân ngỗng luyện đan”, Thái tiên sinh cứ thế mà ăn “chân ngỗng luyện đan” mấy năm ròng.

Sau đó chân ông phát bịnh, vừa đỏ vừa sưng phù giống hệt chân voi.

Từng khớp xương trên thân đều đau đớn, bác sĩ nào cũng khám qua, uống đủ thuốc đông y lẫn tây y mà vẫn vô hiệu.

Một ngày chân ông đau hết 24 giờ, cả năm chịu đau 365 ngày, thống khổ này giày vò hành hạ ông suốt 6 năm ròng rã.

Khổ đến không chịu nổi.

Nhiều lần ông muốn tự sát, may được hiền thê giữ lại và hiểu tử khuyên lơn, ông mới ráng kéo dài hơi tàn.

Một đêm nọ ông mơ thấy một bầy ngỗng không chân tìm đến, hung bạo mổ cắn.

Lúc tỉnh dậy, toàn thân ông xuất hạn mồ hôi dầm dề, ông liên tường đến bịnh của mình – ắt là có liên quan đến việc ăn chân ngỗng – Vì ông đem con ngỗng còn sống, nhốt trong bàn sắt nướng nó, chứng kiến nó “khiêu vũ” trên lửa thảm thương.

Càng nghĩ càng “tim kinh thịt run”.

Bất giác ông nhìn xuống đôi chân sưng đỏ của mình: – ôi chao!

Giống hệt như chân ngỗng mới vừa khiêu vũ nhảy nhót trên lửa xong thì bị cắt đi vậy!

Chinh do thèm khát ăn chân ngỗng mà ông đã tạo nhân ác, nên bị hồn quỷ cùa ngỗng đòi nợ.

Báo ứng!

Báo ứng!

Không ngờ nhân quả báo ứng nhanh như thế.

Bây giở lương tâm tỉnh giác, ông nhờ vợ dìu ra ngoài cổng, quỳ xuống chí thành hướng trời cao sám hối.

ông phát thệ nguyện: “Từ ngày nay trở đi không sát sinh, không ăn thịt, nguyện thanh khẩu, trường trai, ăn chay đến chết!”.

Bà vợ ở bên cạnh cũng phát nguyện ăn chay theo ông.

Nói ra cũng lạ, kể từ sau khi ông hướng trời sám hối, lập nguyện xong, chân không còn sưng đau nữa.

Chỉ có hình dạng bên ngoài nhìn thấy rất khó coi, cử động bị khó khăn thôi.

Đến nay ông không uống thuốc hay tìm bác sĩ chữa bịnh nữa, bởi vi ông hiểu đây chính là chứng cứ oan gia tìm đến báo oán, cho nên không muốn chữa trị làm chi.

Thôi thì cam chịu lưu cái chân “voi” này làm bằng, để cảnh giác người sau.

Chớ vì dục vọng ham sướng miệng nhất thời mà sát sinh, phải biết thức ăn vừa qua cổ họng là biến thành chất thải, nếu tạo ác nghiệp sẽ bị báo ứng mãi mãi không ngừng.

Đúng như thánh xưa từng nói:

Họa phúc không cửa, do chính ta tự chiêu Báo ứng của thiện ác, như bóng tùy hình!

Thái tiên sinh nếu được thì nên làm nhiều việc thiện, tạo công lập đức – vi chỉ có công đức mới có thể giúp tiêu oán giải nghiệt, nghiệp hểt bịnh trừ.

8.

BÁN RẮN MỐI

Ngô tiên sinh là Hoa kiều ở Thái Lan, là thương nhân thu mua thổ sản, do nguồn vốn ít, nên chỉ có thể mua liền bán ngay, vì vậy lợi nhuận không nhiều.

Gần đây cỏ người giới thiệu ông thu mua rắn mối, lợi nhuận rất cao.

Nhưng Ngô tiên sinh chỉ làm có ba tháng thì không chịu làm nữa.

Bạn bè đều tiếc cho ông, gặp việc có lời cao mà không chịu tiếp tục, lại cam tâm đi làm những việc kiếm lời ít oi như thu mua hành tỏi …

Nhưng Ngô tiên sinh vẫn không hề tiếc, ắt hẳn là có nguyên nhân.

Vi sao thu mua rắn mối lợi nhuận hết sức cao?

Thế thì phải bàn từ món “Rượu tắc kè đại bổ”.

Trong bản thảo của danh y Lý Thời Trân ngày xưa có viết: “Tắc kè bỗ phế, ích khí, bổ thân, ích tinh huyết, định suyễn, ngưng ho.

Đỏng y trị đàm suyễn đều dùng tắc kè làm thuốc chính, nhân đó mặt hàng dễ bán trên thị trường là rượu tắc kè đại bổ.

Tắc kè được mua về bào chế với thuốc và ngâm rượu, nhu cầu ngày càng tăng, tắc kè bị bàt quá mức hầu như sắp tuyệt chủng.

Thế là niệu thuốc bèn cho dùng rắn mối thay thế tắc Kè.

Bây giờ ờ Trung Quốc rắn mối bị bắt cũng gần tuyệt chủng.

Cho nên nhà thuốc bèn chuyển hướng thu mua rắn mối ở Thái Lan.

Nông dân miên đông bắc Thái Lan những lúc rảnh vụ mua thì xúm nhau đi bắt rắn mối để gia tăng thu nhập.

Có người thậm chí bỏ luôn nghề nông, chuyển sang nghề bắt rắn mối làm giàu.

Trong đây có nhà Tố Vượng là bằng chứng điển hình.

Vợ chồng Tố Vượng và con trai, tổng cộng là ba nhân khẩu, ngày xưa họ rất nghèo, phải thuê ruộng mà làm.

Nhưng từ khi chuyển qua nghề đi bắt rắn mối rồi, thì trong vòng ba năm ngắn ngủi, họ đã có hơn mười mấy mẫu đất, còn mua được một xe vận tải nhỏ.

Có lợi nhuận nồng hậu như thế này, dân làng đều ham, thế là phong trào bắt rắn mối dâng cao như thủy triều.

Nhưng mà nông dân mỗi ngày có băt nhiêu lắm thi chỉ được hơn mười con rắn mối.

Trong khi Tố Vượng giàu có thấy rõ, y còn có tiền gởi ngân hàng.

Bởi vì ngoài việc tự bắt rắn mối ra,

Tố Vượng còn thu mua rắn mối sống của dân làng bắt được đem về sấy khô, sau đó mới bán đì.

Số rắn mối chết trong tay gia đình Tố Vượng ước tính có tới mấy trăm.

Có hai nguyên nhân thúc đầy Ngô tiên sinh bỏ nghề thu mua rắn mối.

Nguyên nhân thứ nhất: Hôm nọ Ngô tiên sinh tình cờ đi ngang qua nhà Tố Vượng, chứng Wn cảnh Tố Vượng làm rắn mối khô.

Rắn mối sống được y bắt và thu mua đem về.

Sau đó dùng dao mổ bụng, moi nội tạng Nhưng lúc này rằn mối vẫn chưa chết, Tố Vương bèn dùng que tre vót nhọn đâm xuyên qua miệng nó thẳng tới đuôi, khiến nó không ngừng giẫy dụa, đôi mắt mở to nhìn trừng trừng vào người.

Sau đó Tố Vượng mới đem rắn mối d’ phơi nắng.

Khi Ngô tiên sinh chứng kiến hoạt cảnh tàn nhẫn này, ông không khỏi rùng mình bèn quay đầu đi thẳng, không dám ngó lại nữa.

Nguyên nhân thứ hai: Vào tháng ba năm nọ, nước Thái Lan hằng năm có lễ tát nước toàn quốc đều được vui chơi.

Hôm đó Ngô tiên sinh từ Thanh Mại (Chiang mai) về Băng Cốc, khi qua con đường đèo vùng núi ông chứng kiến mỏt tai nạn bi thảm.

Chiếc xe vận tải nhỏ bị lật nhào xuống vực sâu ven lộ, hiện trường có ba người chết, đó là gia đinh Tố Vượng, gồm hai vợ chồng và đứa con trai.

Hôm đó mặc dù là lễ tát nước, nhưng Tố Vương vẫn không nghỉ làm, tiếp tục lái xe đi thu mua rắn mối, kết quả cả nhà bị tai nạn ngay trên con đường đèo, xe hàng hóa lật nhào xuống vực sâu.

Vợ con Tố Vượng bay ra khỏi xe, chết không toàn thây.

Lúc chết mắt vẫn còn giương to, trợn trừng, giống như đôi mắt rắn mối lúc chết vậy.

Càng kinh khủng đến không dám nhìn nữa là bản thân Tố Vượng, y từ trong xe bay ra nhanh như đạn bắn, không nghiêng không lệch lai nhè rơi xuống đúng ngay cọc cây trúc nhọn mà công nhân sửa đường vừa chặt phía vực sâu ven đường.

Tố Vượng bị cây xuyên thẳng qua miệng tới hậu môn, thảm trạng giống y như Tố Vượng đã làm với những con rắn mối.

Ngô tiên sinh tận mắt chứng kiến thảm cảnhcả nhà Tố Vượng chết quá kinh khiếp, ong sợ đến nổi gai ốc cùng minh, chi biết buột miệng nói: – Báo ứng!

Đúng là báo ứng!

Từ đó ông bỏ hẳn nghề liên quan đến mua bán động vật.

9.

CÁ “CÂU” NGƯỜI

Có một y viện huyện thuộc vùng cao nguyên Thái Lan, do giao thông bất tiện, nên bịnh nhân phải đi từ sáng sớm tới bịnh viện để khám và kịp quay về nhà trước khi trời tối.

Một ngày chủ nhật nọ, bịnh nhân cần khám đều đã khám xong, nên chiều nay xem như bác sĩ được rảnh rang.

Bỗng một y tá cuống quýt hướng Viện trưởng báo cáo: – cỏ người bị măc xương cá nơi yết hầu, đang chờ cứu gấp, xin viện trưởng đến cho!

Đó là một thanh niên hơn 20 tuổi, hô hấp đã ngừng, thân thể vẫn còn ấm, sắc mặt tái nhợt hiện vẻ đau đớn và sợ hãi tột độ.

Theo lời người nhà và thân hữu bịnh nhân kể, thỉ lúc đưa vào viện anh mới tắt hơi.

Mặc dù người bịnh đã chết, nhưng chiếu theo quy luật của bịnh viện, cần phải giải phẫu để làm rõ nguyên nhân tử vong và tiện cấp giấy chứng tử.

Sau đó, bác sĩ lắng nghe người nhà kể lại quá trình xảy ra cái chết trí mạng.

Thanh niên bị mắc xương cá chết tên là Thinh, sáng sớm hôm nay cùng mấy người bạn trai ra đồng bắt cá.

Do đem qua mưa lơn, đồng mộng ao mương gì cũng ngập nước, cá tôm cỏ đầy, nên ai cũng bắt được rầt nhiều cá tôm Thịnh bắt được một con cá diếc núi, lại nhìn thấy trưởc mặt có một con cá chép to, trong lòng quá mừng bèn bước vội tới bẳt cá chép, lúc này tay anh đang cầm cả diếc, không biết thả đâu cho ổn, nhưng không thẻ buông nó ra, trong giây phút vội vàng, anh quyết định đưa cá lên miệng ngậm.

Không ngờ con cá nhỏ lại chui tọt vào cè, và “cắm dùi” nơi cổ họng anh.

Thịnh thấy cổ họng quá đau, liền dùng tay móc ra, nhưng đã quá muộn, cả mình con cá đều nằm nơi yết hầu, kéo ra không được.

Loài cá diếc núi này nhỏ nhắn và có rất nhiều ở đồng ruộng Thái Lan, thân mập, dài khoảng 2-3 thốn, vảy nó màu hoàng kim, sáng lấp lánh nhưng rất cứng và sắc.

Nếu vuốt theo chiều thuận thì mình nó trơn, nhưng kéo ngược lại thì vảy sẽ thành những móc câu ghim chặt.

Vi vậy khi Thịnh càng lôi con cá ra, tức là càng bị các “móc câu” này phát huy đại tác dụng khiến anh đau chí tử.

Loại cá này đặc biệt sống rất khỏe, dai.

Nó có thể rời nước bò lên tuốt đỉnh núi vì vậy mới gọi nó là cá diếc núi.

Chưa đầy mấy phút, Thịnh bắt đầu hô hấp khó khăn, con cá cứng đầu trụ ngay tại yết hầu, nuốt không được, nhổ không ra, muốn hét to cũng không thẻ, Thịnh đành dùng tay chỉ vào miệng, hai mắt trợn trắng,

Mấy người bạn thấy vậy hoảng kinh, vội vạch miệng Thịnh đẻ đem cá ra, nhưng vô phương.

Đành giương mắt nhìn Thịnh thống khổ co giật.

Một người bạn vội kêu xe taxi tó. chõ Thịnh vào bịnh viện cấp cứu, nhưng đi được nửa đường thỉ chàng tắt thở.

Lúc này y viện đang phẫu thuật.

Bác sĩ rạch cổ Thịnh lấy ra con cá diéc núi, nó vẫn chưa chết.

Y tá đem nó thả xuống ao trước bịnh viện hóm hỉnh nói:

– Nếu như cảnh sát tra án thỉ sẽ truy bắt hung thủ, ngươi hãy xuống ao nước lánh đi nhé!

Còn thi thể của Thịnh thì người nhà lãnh đem về.

Thịnh bị mắc cá sống chết đi, gia đinh làm tang lễ cho anh.

Theo phong tục Thái Lan, người chết 7 ngày thì đem thiêu,

Thịnh chết trẻ bất ngờ, khiến nhiều người thương tiếc.

Nhưng sáng hôm đó ngay lúc cử hành lễ hỏa táng cho Thịnh, lại nghe tin có người bị cá diếc núi làm chết nữa, thực sự quá bất ngờ.

Và còn bất ngờ hơn nữa, khi người chết là ông Thông – ba của Thịnh – cũng bị cá diếc núi mắc kẹt nơi cỗ y như thế, và do nuốt – nhổ không xong, vô phương hô hấp nên dẫn đến tử vong.

Giống y chang kiểu chết của Thịnh,

Đây quả là chuyện cực kỳ lạ lùng trong ngày đó, gây chấn động toàn huyện, toàn tĩnh.

Bởi vì hôm đó gần tối mới cử hành lễ hỏa táng. thân hữu đều đến dự.

ông Thông ba của Thịnh muốn chuẩn bị tiệc đãi khách, nên tờ mờ sáng đã ra mương bắt cá.

Để tiện bắt cá tôm, trước tiên phải tát bớt nước trong mương đi.

Lúc đó cá lớn cá nhỏ bị dồn ép, chen nhau quẫy đạp không ngừng, cứ dùng rọ mà chụp bắt nó.

ông vưa bắt cá, vừa lớn tiếng kêu vợ cầm thùng ra đựng cá…

Kể ra thỉ chậm, nhưng lúc đó diễn tiến rất nhanh, ngay lúc ông Thông hả to miệng gọi vợ, thì bỗng có một con cá diếc núi nhảy lên cao, không nghiêng không lệch, rơi đúng ngay vào miệng ông.

ồng Thông bị nạn bất ngờ, hoảng kinh, vội vận dụng toàn lực khạc nhổ cá ra và đưa tay móc… nhưng con cá diếc núi có sức sống mạnh mẽ dẻo dai đã chui thẳng vào yết hầu, trụ lại đó không thèm đi tiếp nữa.

Ồng Thông được người bồng lên bờ mương.

Lúc này hai mắt đã trợn trắng, trên đường đưa đến bịnh viện thi ông tắt thở.

Đây thực là chuyện lạ có một không hai nên được đồn vang khắp toàn thôn, toàn huyện, rồi toàn tỉnh.

Y viện trong một tuần ngắn ngủi đã phải xử lý tình huống tử vong của hai cha con ông Thông.

Việc này phải nói là chấn động và khó hiểu.

Vì vậy Viện trưởng đến nhà tang quyến chia buồn, và cất công tìm hiểu vi sao cả hai cha con trong bảy ngày lại bị cá sống hại chết?

Té ra gia đỉnh ông Thông, tỗ tiên mấy đời đều cư ngụ ở đây.

Hễ rảnh vụ mùa thỉ bắt cá, nuôi cá làm nghề phụ.

Nếp nhà nhờ đây mà giàu có.

Ông Thông bắt cá phơi khô đem bán, nghĩa lả khi bắt cá còn sống, ông dùng que tre đâm từ miệng cá đến cổ họng nó, mỗi que đâm từ 5-10 con, ông dùng lửa sấy hoặc phơi nắng.

Mỗi xâu cá được treo nơi khung tre, chờ tiêu thụ.

Từ tổ phụ đến Thịnh là bén đời, chuyên làm như vậy.

Dân làng thấy ông Thông dùng tre nhọn đâm yết hầu con cá sống khiến nó giẫy giụa đau đớn, thù đoạn tàn nhẫn thảm đến chẳng nỡ nhìn.

Ngàn vạn lần cũng không thể tưởng được là cha con họ lại bị cá sống hại chết giống y nhau theo kiểu này.

Nếu ngay đây mà đối chiếu cảnh: “Người móc cá, cá móc người”, thì đây chính là diễn tiến lạ lùng của báo ứng.

Đúng như nhà Phật từng nói: “Nhân quả báo ứng không hề xử oan người”, có thể nói “Nhân quả xoay chuyển rất công bằng”.

Xin mọi người cảnh giác, ngàn vạn lần chớ nên gieo nhân ác.

Tại môt bịnh viện huyện nọ ở Thái Lan, bác sĩ Viện trường kiêm Thường vụ chuyên khoa, kiêm cầm dao mổ.

Lần nọ Viện trưởng kể lại câu chuyện lạ lùng về một ca mổ, khiến người tỉnh giác phát tâm hướng thiện.

Viện trưởng nói: -Tôi từ hồi làm bác sĩ tới nay, chưa từng gặp qua, cũng chưa từng trị qua loại bịnh kỳ lạ này.

Người bị bịnh quái ấy, trong vòng ba năm thỉ bị mổ hết 5 lần.

Và mỗi lần một nghiêm trọng hơn.

Cuối cùng thì ngay cả tay, chân đều phải cưa bỏ.

Biến thảnh người tàn tật còn một tay một chân.

Vị bịnh lạ này tên Văn Lai, một lần nọ anh bị ba ba cắn vào tay làm bị thương ngón út.

Mới đầu đến bịnh viện chỉ rịt thuốt cầm máu, cho là không có việc gi, nhưng nửa tháng sau, nơi đốt ngón tay bị thương bắt đầu viêm, sưng phù đau đớn, bác sĩ kiềm tra xong, chẩn đoán là vi khuẩn độc ăn tới xương, cần cắt bỏ ngón út để tránh độc lây lan làm hại tính mạng.

Thế là cắt đi, còn lại 9 ngón tay.

Chưa được nửa năm, Văn Lai ra biển du ngoạn, thật không may, lại bị một con ba ba cắn bị thương ngón chản út.

Mấy ngày sau chân phát viêm, sưng đau, lại đến y viện chụp X quang thì phát hiện độc lan tới xương, phải cắt bỏ ngón chân út, để được an toàn.

Thời gian chưa được một năm, ngón tay út và chân út đồng phát viêm, sưng đau, Văn Lai lại đến y viện xin khám chụp X quang, ôi, không được rồi, lần này độc có khả năng hình thành ung bướu, cần cắt bỏ bàn tay và bàn chân đi.

Người bịnh đồng ý tiến hành phẫu thuật.

Văn Lai gặp bất hạnh, nhiều người đều xôn xao bàn tán, nói quá lạ kỳ.

Thế nhưng việc kỳ hơn nữa lại nối đuôi nhau xảy đến.

Nguyên là một ngày nọ, con trai của người quen thế phát làm tu sĩ, Văn Lai theo mọi người tham dự lễ xuất gia.

Bởi vì lễ thế phát ở Thái Lan thường cử hành ỉúc 4-5 giờ sáng, cho nên người tham dự phải đến ngủ lại tại chùa cho tiện bề dự lễ.

Họ cùng ngủ chung trong điện Phật có đến khoảng 40-50 người nhưng xui xẻo lại giáng ngay trên mình Văn Lai.

Có một con chuột, trong mấy mươi người đang say giấc nồng đó nó lại nhè ngay vết thương nơi cái chân bị cưa của Văn Lai mà cắn cho một phát.

Văn Lai đau quá hét to và rên rỉ làm kinh động cả đám người đang ngu Mặc dù chuột chỉ cắn một chút ngoài da, làm chảy ra tí xíu máu, nhưng mọi người bắt đầu bàn tán. họ nói: -“Chuột chỉ cắn những vật không có mạng sống, ai mà ngẫu nhiên bị chuột cắn, chứng minh người đó chỉ là một cái thây không có linh hồn. cho nên con chuột mới dám cắn họ”…

Mọi người bàn tán um trời, khiến Văn Lai thêm hoảng kinh bất an, anh thầm nghĩ có lẽ mình không còn sống lâu nữa!

Mặc dù có người an ủi anh chẳng nên mê tín như vậy, nhưng anh vẫn cảm thấy mạng sống đang bị uy hiếp, hơn nữa ở chỗ hai vết thương bị cưa nơi tay và chân cứ âm ỷ ngứa đau hoài.

Thế là Văn Lai bèn tới y viện khám.

Bác sĩ kiềm tra tỉ mỉ, nói: – Không xong rồi, phim chụp X quang hiển thị, hai chỗ nơi vết thương đều bị độc cũ lan đến xương.

Giống như lần trước, ung bướu đã lây lan rất xa, nếu không căt cánh tay và ống chân thỉ không được.

Thế là lại phải cắt bỏ, tay tính từ khủy cánh trở xuống và chân cắt từ đầu gối trở xuống.

Trong vòng ba năm, chỉ mình Văn Lai thôi mả bác sĩ phải khai đao động thủ đến 5 lần.

Bác sĩ Viện trưởng, người đứng mổ cho bịnh nhân, nghĩ rằng ngày trước ắt anh có làm chuyện gì kỳ quái, bèn đặc biệt sưu tập, điều tra về lý lịch, thân thế Văn Lai.

Và cuối cùng bác sĩ biết được rốt ráo như sau:

“Văn Lai, 43 tuổi, làm nghề nồng kiêm công nhân xây dựng.

Binh thường tính ưa uống rượu, ưa ăn cá sông, đặc biệt thích ăn các loài rùa, ba ba v.v…

Văn Lai nghe người ta nói: “Nếu như ai ăn từ 10 đến 20 con ba ba, thi suốt đời không bị bịnh phong thấp hay bịnh thời tiết gì nữa, lại còn được nhuận âm bổ dương…

Vì vậy mà anh thường ăn ba ba xào ớt, phối hợp với một bình rượu trắng.

Văn Lai tha hồ hưởng thụ cho sướng miệng.

Suốt hai mươi năm nay anh đều ăn như thế, ăn không biết ngán.

Một hôm Văn Lai ra chợ mua được một cụ ba ba to “khủng”, nặng tới mười mấy ký.

Anh mừng như bắt được vàng.

Của quý hiếm này tất nhiên là không thề ăn một lần mà hết ngay được, phải cất làm sao để có thể hưởng thụ dần, mà không cần phải bỏ vào ngăn đá bảo quản…

Thế là Văn Lai nghĩ ra phương pháp tuyệt diệu: “Cắt ba ba ra ăn dần”.

Bởi vì rùa và ba ba là loài có tuổi thọ cao, giỏi chịu đựng nên sống rất lâu, khó mà chết ngay được.

Nếu như nhốt nó không cho ăn, thông thường nó vẫn có thè sòng đen nửa năm.

Phương pháp ẩm thực tuyệt chiêu cùa Văn Lai là, nếu hôm nay ăn bao nhiêu thịt, thi chì cắt bấy nhiêu.

Sau đó quẹt vôi lên chỗ thịt vừa cắt để cầm máu.

Như thế con ba ba này có thẻ để ăn dần đến 10 ngày hay nửa thảng mà nó vẫn còn sống, cuối cùng thì cắt đầu nỏ ăn hết.

Từ hôm Văn Lai nghĩ ra cách ăn “mới mẻ” và thực hiện thành công rồi thì kể từ đó, cứ y theo cách này mà hành sự và anh đã ăn không biết bao nhiêu con ba ba rồi.

Có người tốt bụng nhắc nhở anh, thủ đoạn này quá máu lạnh và tàn nhẫn, quá vô lương tâm sẽ bị ác báo!

Nhưng anh bất kể!

Chỉ cần có thịt ba ba tươi ngon là đủ.

Cho đến lúc thân thể của anh bị cắt, cưa ra từng kỳ, nếm trải mùi vị đó, anh mới biết đây là báo ứng hiện đời đang giáng xuống thân mình.

Nhưng có hối cũng muộn màng”.

Bác sĩ Viện trưởng gom tư liệu sưu tập được, xem tỉ mỉ rồi viết ra câu kết luận:

“V học vô phương giải thích những câu chuyên báo ứng nhân quả có thực như thế này!”

10.

TIẾU THƯ KHỈ

Tại một thôn làng nọ thuộc miền nam Tháilan, có chàng thanh niên họ Lưu cử hành hôn lễ tân nương là một cô gái có biệt danh “TiểuThư Khỉ”.

Nguyên lai, mọi người đều cho rằng “Tiểu Thư Khỉ” lả cô gái cực kỳ xấu xí, hay một nàng thân thể đầy lông, hình dạng giống y như khỉ nên mới có biệt danh này.

Nhưng lúc đôi tân nhân bái đường xong cùng sánh vai nhau ra ngoài tiếp khách thỉ mọi người đều sáng mắt lên, không hẹn mà đồng thốt ra một câu tận đáy lòng:

– Trời!

Tân nương đẹp như tiên nữ!…

Thể nhưng mọi người đối với danh hiệu “Tiểu Thư Khỉ” này lòng đầy hiếu kỳ, rất muốn tim hiểu, tra vấn thân thế của “Tiểu Thư Khỉ” ra sao.

Té ra mẫu thân của “Tiểu Thư Khỉ” thời thiếu nữ từng là một hoa khôi nổi danh, số thanh niên phủ phục dưới chân cô nhiều vô kể.

Các nhản sĩ gần đó nghe danh mến mộ, đều tìm tới mong được một lần chiêm ngưỡng dung nhan.

Nhiều người tha thiết xin kết hôn.

Thậm chí một thanh niên phú gia ờ nước Mã lai gần bên cũng vượt biên giới tìm đến cầu thân.

Nhưng giai nhân viện cớ không muốn lấy chồng ngoại quốc lìa xa cha mẹ, để khéo léo từ chối.

Không bao lâu, giai nhân kết hôn với người bạn trai vốn là thanh mai trúc mã ở cùng làng.

Chàng thì tuấn tú đa tài, nàng thì diễm kiều mỹ lệ, thật là trời khéo tác hợp cho họ thành đôi.

Nam nữ chung quanh ai cũng hâm mộ.

Chẳng mấy chốc tân nương mang thai, chồng nàng càng quan tâm thương yêu gấp bội, chăm sóc lo liệu đủ điều.

Ba mẹ chồng thảy đều vui mừng, ai cũng ưu ái lo cho nàng.

Bình thường nàng rất dễ ăn, nhưng khi mang thai thì ngược lại, thức ngon mấy cũng không muốn nuốt.

Chồng nàng phải nghĩ trăm phương ngàn kế để ái thê thèm ăn.

Hôm nọ, chồng nàng vào chợ mua được cái chân khỉ, phối hợp với các vị thuốc bắc như hoài sơn, sâm, đương quy v.v…nấu lửa riu riu, rồi bất ngờ dọn lên và đã khơi gợi được ý muốn thèm ăn trong lòng nàng.

Thấy vợ dùng rất nhiều, chồng nàng vô cùng mừng rỡ.

Từ đó mỗi khi gặp phiên chợ nhóm, chàng đều mua về một cái chân khỉ, hay miếng thịt khỉ để cho vợ dùng.

Hôm nọ, chồng nàng ra chợ, gặp thợ săn trói một con khỉ rao bán.

Người chồng mừng quá, mua nỏ đem về, nghĩ nuôi tạm vài ngày rồi sẽ giết nó cho nàng ăn.

Hôm đó, cô vợ đã mang thai được 7 tháng, ngồi trên ghế dựa xem chồng giết khỉ.

Con khỉ đáng thương mẩy ngày ròng rã chỉ ăn toàn chuối và hoa quà, tính ra thịt mỡ trên thân nó chưa được nửa cân, phần còn lại thì làm thuốc bổ cho thai phụ.

Khỉ nhìn thấy người chồng cầm dao muốn giết mình, mắt nó tuôn lệ, chân nó quỳ xuống giống như người, hướng chủ nhân cầu xin tha mạng.

Nhưng người chồng quá yêu vợ này chẳng chút động lòng, không khởi chút từ tâm, giương dao lên toan mổ tim nó.

Trong giây phút bên bờ tử vong, con khỉ nhanh nhẹn đưa tay phải chụp

cán dao, tay trái nắm chặt lưỡi dao, dùng toàn lực chống đỡ cái chết, nhất quyết không buông tay.

Người chồng cố sức nhưng đâm không được, ông nghĩ thu dao về rồi đâm tiếp, chính trong khoảng ông rút dao về, do bốn ngón tay con khỉ nắm quá chặt nên đã bị đứt lìa hai phần ngón, bốn ngón chỉ còn lại bốn lóng cuối (tính từ khớp xương trở vào).

Thai phụ thấy máu tuôn như suối, ác tâm tiêu tan, không ngừng kêu chồng dừng tay: – Đừng giết nó!

Đừng giết nữa!

Mau đem khỉ thả đi!

Con khỉ nhờ không ngừng tranh đấu, từ quỷ môn quan giành lại mạng sống trở về.

Nó ráng chịu đau đớn, đoạt cửa mà chạy, trước khi ra khỏi cổng, nó còn quay đầu nhìn về hai vợ chồng, ánh mắt đầy oán hận, rồi nó biến đi, biệt tăm biệt tích.

Từ đó trở đi, cô vợ mỗi khi nghe mùi thịt thỉ phát nôn, chỉ ăn toàn rau đậu hũ.

Người nhà lo nàng không đủ chất bổ, lén bỏ nước thịt vào, nhưng nàng vừa nếm là đã nôn thốc nôn tháo.

Đến kỳ lâm bồn, nàng sinh một bé gái, ngũ quan trông rất đoan chánh, chỉ là phát hiện tay tả của bé chỉ có một ngón cái và bốn đốt cuối cùa bổn ngón tay, hình dạng giống như bị dao bén chặt đứt vậy.

Cha mẹ và người thân nhìn thấy, đều thờ dài, luôn mồm nói: -Lạ quá!

Thái Lan theo Phật giáo, tin sâu nhân quả, mọi người không hẹn mà đồng nói: – Đây là nhân quả báo ứng, do người chồng chặt đứt bốn ngón tay con khỉ mà ra.

Hôm nay, tân nương “Tiểu Thư Khr mặc áo cưới trắng, tay mang găng trắng, dịu dàng xinh đẹp cứ như tiên nữ hạ phàm.

Thế nhưng đâu ai biết trong găng tay đó không còn bốn ngón tay nhỏ dài thon, mà chỉ còn bốn đốt còn thừa lại như từng bị chặt, đó là nguyên nhân của biệt danh “Tiểu Thư Khỉ”, thành là câu chuyện đồn vang đương thời.

11.

TRỘM CÔNG GIẢM LIỆU

Hiện tại trong giới kiến trúc có ba câu danh ngôn:

Chỉ trộm công không giảm liệu: – chờ sập!

Chỉ giàm liệu không trộm công: – sẽ sập!

Đã trộm công, lại giảm liệu: – chắc chắn sập!

Nói giản lược là: “trộm công giảm liệu” thì sớm muộn gì cũng sập!

Vào năm 1971, thành phổ Đài Nam cùa Đài Loan có một nhà kinh doanh kiến trúc nổi danh tên Trương Sĩ Lương, ông không học qua sách, nhưng phòng ốc dựng xây hết sức kiến cố.

Tuyệt không có chuyện trộm công giảm liệu, ông luôn bảo đảm uy tín danh dự, cho nên bất kể là kiến trúc dân gian hay thuộc chính phù, ai cũng muốn mời ông thầu xây.

Trương Sĩ Lương cỏ hai con trai, đứa đầu tên ^i^^Trương Kim Sùng, là kỹ sư thiết kế kiến trúc.

Còn đứa út tên 3i>$1|Trương Tất Khoan, kế thừa sự nghiệp phụ thân.

Lúc đó chính phủ muốn xây ở thôn quê một chung cư, công trình tổn phí rất lớn, các cổ đông trong hai thế lực hắc bạch tranh nhau giành thầu xây công trình.

Do Trương Sĩ Lương có uy tín tốt, nên quan viên chính phủ ở cố hương đều tiến cử ông.

Mời ông phụ trách kiến trúc.

Lúc đó chính phủ huyện có vị quan tên Ế sMChiêm Tựu Thành, thuộc loại khổ học xuất thân, nhờ thành tích ưu tú mà thi đậu công vụ viên.

Chỉ đáng tiếc là y không tự trọng, không biết giữ thân trong sạch.

Tuổi cỏn nhỏ mà đâ sớm học các thói xấu ác dối lừa, ăn hối lộ, vu oan hại người, giỏi nói suông nhưng làm tồi v.v…

Khi y biết công tử trưởng Trương Kim Sùng ký hợp đồng thiết kế hành nghề rồi, bèn nửa đêm lẻn vào thăm Trương Kim Sùng, đồng thời đem theo mấy vị dân biểu và anh em xã hội đen, nói dối rằng công trinh này do nhiều người lợi dụng quyền lực và chưởng lực mà giành được, như nay ông Sùng đã thuận lợi ký được hợp đồng, thì phải chia cho họ một chén cơm, đây gọi lả “phí giới thiệu”.

Kim Sùng thấy nhóm ông Thành khí thế hung dữ, sợ sinh mạng bị uy hiếp, đành phải thỏa hiệp đáp ứng.

Tiếp đến ông Thành dẫn nhiều người đến tìm quản lý công trình là công tử út Trương Tất Khoan, ngoài việc yêu cầu Tất Khoan nộp “phí bảo đảm” tên Thành còn đòl quyền khoán bao, chỉ định cho doanh nghiệp kiến trúc, nếu không sẽ gây bất lợi.

Nguyên là công trình này lợi nhuận không nhiều, lại trải qua lớp lớp người dọa dẫm băt

chẹt, Tất Khoan bị họ ép hợp tác khổ không thể nói, đành bấm bụng để Tựu Thành nắm quyền, thế là Tựu Thành tha hồ thao túng việc trộm công giảm liệu, y khéo léo mua chuộc các quan viên giám định, lấy được giấy phép dễ dàng.

Tựu Thành cho rằng thủ pháp của y chu đáo kín như bưng, ắt là khó ai dò ra dấu vết.

Nhưng người tính không bằng trời tính.

Năm sau khi chung cư xây hoàn tất.

Đài Nam phát sinh thủy tai, phong tai nghiêm trọng, khi thủy tai qua rồi, chung cư chịu không nổi bão to gió lớn, trong một chiều, ngôi cao ốc bất ngờ đổ sập, gạch ngói bay tứ hướng.

Và màn thất bại này xảy ra đúng vào lúc các quan viên cao cấp đi tuần tra khảo sát tình hình thiên tai, do vậy họ đích thân chứng kiến hết, liền ra lịnh cấp dưới phải điều tra.

Chiêm Tựu Thành gian trả liền đổ hết trách nhiệm lên đầu Trương Kim Sùng, Trương Tất Khoan.

Trương Kim Sùng khôn ngoan, biết khó trốn trách nhiệm liền lén cầm tiền đưa cho vị dân biểu trung ương nhờ “xử lý công bằng” và được an nhiên vô sự.

Riêng Tất Khoan trung hậu không biết hối lộ, nên bị phán ngồi nhà giam bốn năm rưỡi.

Tin tức này truyền đến tai Trương Sĩ Lương đang nằm trên giường bịnh, ông thấy danh dự cả đời mình gìn giữ bị hủy hết trong một sớm, một chiều, nhất thời khó thể chấp nhận bèn tự sát.

Trương Kim Sùng biết Tựu Thành tính rất giảo hoạt và mưu mô nên không dám hủy hợp tác.

Em họ Tựu Thành là Chiêm Mộc Căn, cũng làm kinh doanh kiến trúc.

Hễ Tựu Thành tiếp được công trinh thì giao cho Chiêm Mộc Căn xây, sau đó y ung dung đòi nộp nhiều tiền hoa hồng.

Mà các công trinh Mộc Căn nhận được đều không có lợi nhiều, lại phải nộp phí quá cao nên lòng rất bất mãn.

Kim Sùng hiểu được, bèn hẹn gặp riêng Mộc Căn đề nghị hợp tác làm ăn.

Kim Sùng nhận công trình xong thì giao cho Mộc Căn xây.

Lợi ích chia đều, không hề đòi phí “hoa hồng hoa cúc” gì..

Mộc Căn nghe, thích lắm, vui vẻ hợp tác.

Tin này truyền đến tai Chiêm Tựu Thành, y thập phần tức giận, cảm thấy Kim Sùng và Mộc Căn dám vong ân bội nghĩa với mình, nên ngay tối đó y dẫn theo 6 tên xã hội đen đến nhà Kim Sùng định hỏi tội và dạy cho ông ta một bài học.

Nào ngờ ngay khi đó cảnh vệ đã mai phục sẵn và tóm gọn hết đám gian.

Kết quả, Tựu Thành nổi danh cáo già trừ việc bị cách chức ra, pháp viện còn phán tội danh: “đốc xúi giết người chưa thành”, tuyên phạt y một năm rưỡi tù giam.

Khi Tựu Thành mãn hạn tù được thả rồi, thi y hợp cùng các thế lực đen mở một công ty kiến trúc, đấu thầu nhận công trình rồi thì giao cho bên xây dựng lo và kiếm lời từ trong đây.

Do y điều khiển vô số công trình, rất nhiều việc không đạt mà phát sinh kiện cáo.

Mỗi lần có sự cố phát sinh, sở cảnh sát thề sẽ điều tra tới cùng, nhưng sau khi Tựu Thành giao lưu thầm lén với họ xong, thì kết quả cứ mơ mờ ào ảo và được thông qua.

Mặc dù Tựu Thành nhiều lần thoát khỏi lưới pháp luật, nhưng trốn không nỗi báo ứng của trời.

Hôm đó là ngày mừng sinh nhật 65 của ông, hai con trai ông vỉ cha mẹ nghỉ hưu an hưởng tuổi già, đã đặc biệt hùn vốn cho xây một ngôi biêt thự nguy nga, để làm quà mừng sinh nhật phụ thân.

Hôm sinh nhật là ngày ông hoan hỉ dọn vào nhà mới.

Nhưng không ai ngờ, ngay tối đó hạ tầng ngôi biệt thự tráng lệ bỗng phát sinh sụt lún rồi sụp đổ khiến vợ chồng ông Thành, con trai trưởng và các phe phái từng hợp tác thầu xây cồng trình gian, vô phương đào thoát, đồng bị chôn sống và chết dưới đống gạch vụn.

Sau đó cảnh sát điều tra mới biết, ngôi kiến trúc mừng sinh nhật do bị bòn rút vật liệu nghiêm trọng nên mới đổ sập.

Điều khiến người ngạc nhiên nhất là, nhóm thợ xây ngôi nhà đó thuộc công ty của con trai trưởng ông Thành.

Do ông Thành và các phe phái hợp tác thầu công trình chuyên bòn rút vật liệu, và “tuyệt chiêu” này đã được ông truyền cho con trai.

Con ông lại đem “bí kíp công phu” này truyền cho các thương nhân hợp tác xây dựng.

Nên khi họ thọ giáo đầy đủ rồi thì luôn xử dụng “tuyệt chiêu” này đề báo đáp cha con ông.

Đây gọi là báo ứng “trồng dưa được dưa trồng đậu được đậu”.

Trong xã hội bây giờ, bao nhiêu quan viên vá công ty xây dựng vì tiền tài thế lực, danh vọng mả bán rẻ lương tâm.

Hãy xem Đài Loan năm 92 bị đại địa chấn, Tứ Xuyên, vấn Xuyên bị đại địa chấn làm sụp đổ biết bao tòa nhà (bị bòn rút vật liệu) và đã đè chết vô số sinh mạng bất hạnh.

Đây chính là quan quyền cấu kết với thương nhân hợp tác làm gian dối cẩu thả rồi tạo nên thảm kịch máu loang đầy đất (từ việc xây dựng thiếu lương tâm).

Hi vọng xem xong câu chuyện có thật này, các vị sẽ giữ lòng hướng thiện.

Nếu dùng thủ đoạn đê hèn để có được giàu sang, thì hại người vân là hại minh, khó thoát khỏi báo ứng rủi ro.

Bởi vì đồng tiền bất nghĩa dù do chính tay mình hay con cháu tạo ra, thảy đều vô phương hưởng dụng.

12.

NGƯỜI CHỒNG TÀI HOA

Chiêm Nguyệt Quyên là người Đài Loan quê ờ Gia Nghĩa, tháng 7 năm 1979 nàng dẫn con gái Tiểu Man 3 tuổi qua thành phố Hoành tân (Yokohama) Nhật Bản, rồi uống thuốc độc tự sát trong khách sạn.

Khi cảnh sát đến hiện trường, phát hiện dấu vân tay viết chữ “HẬN” bằng máu.

Lại thấy hai mẹ con đều mở to mắt, và máu lệ vẫn còn đang chảy, chứng tỏ họ chết rất đau khổ, không cam tâm.

Ban cảnh sát hình sự Nhật Bản vốn giàu kinh nghiệm, thầm biết vụ tự sát này có nhiều uẩn khúc, nội tinh không đơn giản.

Cảnh sát Nhật Bản rất quan tâm đến vụ án này, lần theo lý lịch hộ chiếu người chết, họ đến Đài Loan trú một ngày tại Cơ quan Hiệp Trợ và nhanh chóng tìm ra cha mẹ nạn nhân.

Phụ thân Nguyệt Quyên là ông JỄfpp Chiêm Phong Bình làm nghề nông, mẹ là Du Kiều Nguyệt (nội trợ)…

Quyên là con thứ ba trong nhà, trên có anh và chị, dưới có hai em trai.

Quyên hòi nhỏ học rất giỏi nên đã thi đậu vào Đại Học Sư Phạm Đài Bắc trứ danh, người quanh đấy đều ngưỡng mộ, ngợi khen, nàng là niềm tự hào của gia đình họ Chiêm.

Quyên học đại học đến năm thứ tư, nhân dịp tham gia hoạt động chuyên đội, nàng quen anh Uông Huyền Nhân, người Đài Đại, bề ngoài không có gi xuất chúng, nhưng cỏ lắm tài, tính anh khéo hài hước pha trò chọc người cười vui, nói năng lưu loát, lại khéo nhả ngọc phun châu.

Nhờ vậy mà lọt vào mắt xanh của Quyên.

Qua nửa năm giao du, cảm tình ngày một nòng hậu, họ dự định tốt nghiệp xong thi sẽ kết hôn.

Trong mắt các bạn, hai người là một cặp trời sanh, “trai tài gái sắc”, khiến người nhìn vào phải ước ao.

Nhưng thế sự khó lường, năm đó anh Nhân vừa tốt nghiệp thì tham gia hoạt động leo núi.

Trên đường trở về bất ngờ anh bị tai nạn xe.

Trong thời gian trị dưỡng, hằng ngày hễ Quyên dạy học xong thì đến bịnh viện chăm sóc anh.

Do vậy mà nàng quen biết bác sĩ thực tập Vu Luân Thuận.

Thuận trông có vẻ là một người tài hoa mẫu mực, tính trầm lặng ít nói.

Lúc đó Thuận đã âm thầm thương yêu Quyên.

Sau khi Nhân tạ thế, Thuận nhiệt tình theo đuổi Quyên, những khi không trực ở bịnh viện, thì anh đến trường Quyên dạy, đón nàng về nhà, đích thân xuống bếp nấu ăn chiêu đãi.

Mỗi lần Quyên về Gia Nghĩa thăm cha mẹ, Thuận đều ra tận ga xe lửa đưa đón nàng.

Thuận kiên trì theo đuổi Quyên suốt một năm rưỡi, cuối cùng nàng cũng bị tình của anh làm cảm động và chấp nhận bước vào lễ đường.

Sau khi kết hôn, Quyên mới biết trước đây Thuận nộp đơn xin du học bên Nhật Bản, đã được chấp nhận, trường thông báo nội trong một tháng Thuận phải đến đăng ký.

Vì mới kểt hôn nên Thuận muốn từ bỏ cơ hội sang Nhật Bản để được ở bên vợ.

Nhưng Quyên cho rằng được xuất ngoại du học là dịp may hiếm có, còn vấn đề học phí, nàng sẽ nghĩ cách lo liệu.

Thuận cảm thấy vợ nói có lý, bèn quyết định sang Nhật du học, lòng tràn đầy xúc động và cảm kích.

Trước đêm chia biệt, Thuận ba lần hướng vợ hứa hẹn bảo đảm, rằng một khi tốt nghiệp tiến sĩ xong chàng sẽ quay về Đài Loan ngay, sẽ mở phòng mạch ở Đài Bắc cùng vợ làm việc vả sống hạnh phúc bên nhau

Lời của chảng làm Quyên cảm động không thôi.

Nàng tự hào vì lòng yêu của chồng dành cho, cảm thấy vui sướng vỉ mình đã (ỷỆMA) lấy đúng người.

Kể từ đó, mọi gánh nặng trút xuống đầu Quyên, nàng phải vất vả lo từ phí học, phí sinh hoạt đắt đò cho chồng ờ Nhật Bản.

Một năm sau đó, tiền Quyên dành dụm tích lũy đêu được gởi cho chồng tiêu dùng.

Ngoài dạy ở trường, nàng còn lãnh dạy kèm ở nhà thỉnh thoảng hướng cha mẹ xin tiền, nhưng vẫn vô phương chi đủ phí cho chồng xài.

Lúc này con của Quyên đã một tuổi, gánh nặng càng tăng, tiền nuôi đứa nhỏ, tiền nuôi chồng ăn học, tất cả dồn ép nàng bận rộn đến không kịp thở.

Mùa đông năm đó, để giải quyết kinh tế túng bấn, Quyên bát đắc dĩ phải đến quán rượu làm việc, nhận công tác tiếp khách “bán cười không bán thân” trong thời gian ba năm.

Nhờ vậy mà nàng giải quyết được phí tiêu xài cho chồng ở Nhật Bản, nhưng do phải trường kỳ uống rượu thức khuya, dạy học vất vả, nên Quyên mắc bịnh lao nghiêm trọng.

Bác sĩ tuyên bố kể từ đây nàng không thể sinh con được nữa, điều này là đả kích cực lớn đối với nàng.

Thế nhưng Quyên luôn tự tin: “Tất cả mình đã hi sinh vì chồng, anh nhất định sẽ thông cảm, yêu nàng hơn”…

Lúc Thuận sắp lấy bằng tiến sĩ, anh có về Đài Loan tham dự lễ tang bà nội.

Khi biết Quyên đến quán rượu lảm việc bị bịnh phổi thì Thuận chẳng những không tức giận, không truy cứu, ngược lại còn làm như không có chuyện gỉ.

Thuận luôn binh thản và tỏ ra rát quý vợ, khiến Quyên càng thêm tin tưởng vào tình yêu của chồng.

Nhưng Quyên không ngờ được rằng, trước khi về Đài Loan, Thuận đã lén lút kết hôn cùng con gái của giáo sư trường mình và đã mờ một y viện nhỏ tại ngoại thành Đông Kinh, tự mình làm Viện trưởng, chính giáo sư và con gái ông đã xuất tiền đầu tư cho Thuận nên họ nghiễm nhiên là Đổng sự.

Nhưng không bao lâu thi tin này cũng truyền đến tai Quyên.

Mới đầu nàng không tin, còn cho là bịa đặt, song thâm tâm vẫn bán tín bán nghị.

Thế lả nàng quyết định, đợi thân thể khỏe mạnh hơn sẽ dẫn con gái Tiểu Man qua Nhật một lần cho rõ thực hư.

Thuận nhận được tin vợ, biết là sự tỉnh đã đến hồi nghiêm trọng, để việc làm tồi tệ của mình không bị vạch trần khiến chàng phải xấu hổ, Thuận âm thầm dựng lên một âm mưu hiềm độc.

Đầu tiên, chàng lấy lý do bận rộn, phái người đến phi trường đón hai mẹ con Quyên về khách sạn trước và hẹn tối đó sẽ đến gặp.

Sau đó, chàng thuê người đóng giả phục vụ viên, bảo họ mười lăm phút trước khi chàng đến, hãy lẻn vào phòng dùng thủ đoạn thô bạo toan cưỡng hiếp Quyên, ngay lúc đó chàng sẽ xuất hiện.

Tên hại mướn kia làm y theo kế sách của Thuận, trước mặt chàng hắn nói dối minh là gian phu của Quyên, còn Quyên thì quá thực thà, nàng giống như người câm không biết nói lời nào để minh oan cho mình, Thuận liền đanh thép buộc tội, dõng dạc đề xuất li hôn với Quyên.

Trong khách sạn, sau khi vở kịch thành công mỹ mãn, Thuận lập tức trở mặt phủ nhận nghĩa tình phu thẻ, phủi luôn bốn năm Quyên gian khổ làm lụng chu cấp tiền cho chàng ăn học, tất cả ân tỉnh sâu nặng, tất cả hi sinh của quyên, giây phút này đều hóa thành vô nghĩa.

Quyên nhận ra hôn nhân giữa hai người đã vô phương cứu vãn, nàng nghẹn ngào bi phẫn kí tên vào đơn li hôn.

Trước lúc li hôn tại Đông Kinh, vì muốn cho Tiểu Man gặp lại cha một lần, thông qua hồ sơ và tư liệu nơi trường học, Quyên tìm đến y viện, và nàng phát hiện ra sự thật phũ phàng: Thuận đã sớm kết hôn vui duyên mới và vụ án cường bạo ở khách sạn là bẫy rập của chàng làm ra để hại nàng.

Nàng cảm thấy như đất sụp dưới chân minh, trong cơn phẫn nộ tột độ nàng xông thẳng đến nhà Viện trưởng Thuận để hỏi cho minh bạch, nhưng đến đó nàng chỉ chuốc thêm nhục nhã chất chồng, Thuận đổ hết mọi điều xấu lên nàng, còn kêu bảo vệ tống cổ nàng ra.

Quyên thân đơn thế cô, chẳng có được cơ hội nào để đối chất.

Do thân tâm đều bị đã kích nặng, nàng dẫn con qua thành phố Hoành Tân thăm dì là Hoa kiều đang ngụ ở Nhật xong thì quay về khách sạn và uống thuốc độc tự sát cùng Tiểu Mẫn.

Mặc dù cảnh sát Nhật Bản đã điều tra ra vụ án, nhưng mẹ con Quyên đã chết, họ không bằng không chứng chẳng thể làm gì được Thuận.

Phần Thuận, khi hay tin mẹ con Quyên tự tử, chàng như trút được gánh nặng, thầm nghĩ kể từ đây đã có thể tha hồ kê cao gối mà ngủ, tha hồ thoải mái không còn phiền lo.

Thế là chàng tiếp tục lợi dụng quan hệ và uy tín của nhạc phụ, truy cầu danh lợi tại Nhật Bản.

Sau đó, Thuận được mời đến trường diễn giảng, đề tài là “Bí quyết sổng hạnh phúc giữa vợ chồng”.

Thuận đang cao hứng nói thao thao, mới giảng được nửa buổi, thì cái micro vô duyên vô cớ đột nhiên bốc khói, ròi nổ tung.

Tại giảng đường, Thuận không chút đề phòng nên bị vỡ đầu chảy máu, mù hai mắt.

Do đầu bị trọng thương nên chàng biến thành ngu si ngớ ngẩn, hiện vẫn còn đang trị liệu và điều dưỡng tại bịnh viện Nhật Bản.

Cái micro vì sao có thể phát nổ?

Nạn nhân vì sao lại là Thuận, là người chồng bạc tình phụ nghĩa, nhẫn tâm cư xử ác độc, ruồng bỏ người vợ (vừa là người ân) của mình?

Và đề giảng vì sao lại liên quan đến “Tình phu thê”?

Rốt cuộc thì đây là trùng hợp, là thiên ý trừng phạt hay báo ứng?

Mọi người bàn tán xôn xao.

Theo người viết thì Thuận trốn được quốc pháp, nhân luật nhưng không trốn được luật nhân quả báo ứng.

Thông qua câu chuyện có thật này, xin khuyên những cặp phu thê trong thế gian, chớ nên biến quan hệ vợ chồng thành việc mưu cầu lợi riêng.

Hôn nhân như thế sẽ không bao giờ hạnh phúc.

Tiến sĩ (kiêm bác sĩ) Thuận vì công danh lợi lộc trước mắt mà bước vào nẻo sai, cuối cùng đánh mất cả lương tâm cho nên phải trả giá băng hậu quả thê thảm như mọi người đã thấy.

Đây gọi là “ác nhân gặp ác báo”.

13.

PHÁP QUAN KỲ ÁN

Một buổi sáng tháng 7 năm 1978, tại một cao nguyên huyện Đài Bắc, hai vợ chồng Thái A Vượng và người bạn thân Lâm Thuận Xa, cùng quảy gánh lên núi hái trái vải.

Khi đi ngang qua một hang động bỏ hoang lâu năm, thì bỗng thấy từ trong chạy ra ba con chó, mồm chúng ngậm nội tạng người đang nhỏ máu long tong.

Anh Xa hiếu kỳ rón rén bước vào động xem sự thể thể nào, nhưng cảnh tượng đáng sợ trước mắt khiến anh kinh hoàng đứng chết sững: một tiên sinh hơn sáu mươi tuổi đang nằm trên vũng máu; ngực, bụng bị xé rách, nội tạng bị ba con chó hồi nãy ngoạm chạy ra ngoài.

Càng khùng hơn nữa là ngồi bên cạnh xác chết là một cô gái điên đầu tóc bù xù, đang cầm khúc ruột của nạn nhân quấn quanh cổ chơi đùa.

Anh Xa sợ đến lông tóc dựng đứng, vội quay đầu chạy ra khỏi động, lập tức cùng vợ chồng anh Vượng đi báo án.

Cảnh sát được tin, vội đến hiện trường, nhìn thấy nạn nhân ngoài việc bụng và ngực bị moi khoét trống rỗng… thì các chỗ khác không bị thương chi.

Điều khó hiểu là cô gái điên bên cạnh vì sao không bị tổn hại gì?

Tại sao mấy con chó chỉ cắn lão già mả không cắn cô?…

Bao nhiêu nghi vấn nổi lên, tính chất vụ án kỳ bí này như thách thức khả năng chuyên môn của những người trong ban phá án.

Nhờ sự hợp tác giúp đỡ của dân chúng, cảnh sát đã nhanh chóng điều tra ra tên người chết là Liêu Ký Đức, còn cô gái điên tên Liêu Tú Tú, là con gái ông, hiện bị tâm thần nặng, họ ngụ tại trấn Thọ Lâm gần đây.

Căn cứ theo hồ sơ thì năm 1949 ông Đức theo chính phủ Quốc Dân tới Đài Loan, làm thẩm phán 28 năm.

ông có kiến thức luật phong phú, nhưng tâm bất chánh, tính tham tài háo sắc cực độ, là vị quan tham nhũng tiêu biểu, từ một năm ừước ống đă nghỉ làm về hưu, ẩn cư tại trấn Thọ Lâm.

Xin kể sơ vài việc của ông như vầy:

Vào năm 1953, một vị quan thuộc ngành Hải quan Đài Bắc tên Ngưu Đồng Đoan, do tham ô mà bị tòa sơ thẩm tuyên án mười năm tù.

Trong lần tái xử án thì do thầm phán cũ đã chuyền đi, ông Đức được bổ đến nhậm chức xử lý.

Tại pháp đình, thấy tình nhân của ông Đoan là Phấn Châu cũng đến dự thính, do nàng rất xinh đẹp mỹ lệ, nên thẩm phán Đức cứ nhìn chòng chọc không rời.

Sau đó còn cố ý ra oai quát nạt ông Đoan, hăm rằng án tù 10 năm là quá nhẹ, nếu tìm ra tội chứng mới ông sẽ phán ít nhất 15 năm!

Ông Đoan nghe vậy quá sợ, chắp tay van cầu phán quan bao dung giảm án cho.

Nhưng ông Đức không chấp nhận.

Mấy ngày sau ông Đức chủ động gọi điện hẹn gặp riêng luật sư biện hộ cho ông Đoan và nói úp úp mở mở rằng án của ông Đoan có thể nặng mà có thể nhẹ, nếu như người đẹp Phấn Châu chịu ra mặt cầu xin thì may ra sẽ chuyển đổi được…

Nghe thế luật sư đã biết tỏng bụng dạ ông Đức, bèn hứa sẽ thuyết phục ông Đoan đồng ý cho Phấn Châu đến hầu hạ ông Đức một tuần.

Nhưng xong việc, ông Đức vẫn không hài lòng, còn bắt người nhà ông Đoan phải nộp một khoản tiền kếch xù.

Cuối cùng, khi tài sắc đã vơ vét ưng ý ròi, ông Đức mới tuyên bố giữa tòa là: tội chứng không đủ và tuyên phán ông Đoan bị sáu tháng tù, nhưng cho phép nộp tiền phạt thay cho ngồi tù.

Thực tế là xem như vô tội, ông Đức đã tự tiện phóng thích phạm nhân, một tay che cả bầu trời!

Ông Đức một mình đến Đài Loan, làm thẩm phán chỉ mới mấy năm, nhờ tham ô mà giàu to.

Qua bạn bè giới thiệu, ông cưới Thúy Đào, một cô gái con nhà nông, nhỏ hơn ông 13 tuổi.

Cô này vừa hiền, vừa kiều diễm.

Năm sau thỉ sinh hạ bé Tú Tú.

Đáng tiếc là lúc Tú Tú hai tuổi, Thúy Đào bị ung thư ngực qua đời.

ồng Đức do “bận rộn công vụ” nên đổi với con thiếu sự chăm nom.

Vi Tú Tú trong một lần cảm mạo phát sốt quá cao, do không kịp đi bịnh viện mả biến thánh ngớ ngẩn trầm trọng.

Đối với cái chết của vợ và con bị ngây ngô, là hai đả kích rất nặng.

Nhưng ông Đức chẳng mày may hiểu biết để thức tĩnh rằng đây là quả bảo do mình thiếu đức.

Ngược lại ông càng ra sức lợi dụng chức quyền để tranh danh đoạt lợi, vơ vét cho đầy túi riêng.

Còn lớn tiếng khoe khoang rằng với chức quyền và danh vị cũng như tài trí và mưu lược của ông, thì sẽ có vô số mỹ nữ tìm đến nộp mạng và vàng bạc sẽ tự động đồ vào túi ông!…

Vì thế trong suốt 28 năm cầm quyền, hằng ngày, hằng tháng, hằng năm, ông toàn làm những điều thương luân hại lý.

Giở đủ thủ đoạn hạch sách, bắt chẹt và tạo ra vô số án oan, án mạng.

Có nhiều người vì ông ăn đút lót tuyên án oan, uất ức sinh bịnh chết trong tù, vợ bất bình tự sát.

Biết bao gia đình nhà tan cửa nát vì ông có quyền cao chức trọng mà không có lương tâm.

Trong thời gian làm thẩm phán, ông đã hại chết biết bao sinh mạng, hủy hoại nhiều gia đinh.

Tội ác dẫy đầy…

Năm 1977, ông Đức cuối cùng cũng thoái hưu và cùng một quả phụ ẩn cư tại cao nguyên thuộc trấn Thọ Lâm.

Một sáng nọ ông dẫn con gái đi dự lễ ngang qua cửa động thì Tú Tú đòi vào nghỉ một chút, ông chiu ý con và khi ông bước vào động thỉ đột nhiên có ba con chó xông đến, khí thế dữ dằn nhắm thẳng vào ông nhe răng bén, giương móng vuốt hung ác cào ngực, xé bụng ông.

Chưa đầy mấy phút chúng đã lôi hết ngũ tạng lục phủ ông ra và ông Đức lia đời trong thống khổ tột độ.

Ba con chó đao phủ” thực hành án tử cho ông Đức rất mau.

Khi họàn thành sứ mệnh rồi, thì chúng chạy đi như lằn chớp, bién mất tăm không để lại dấu vết.

Chỉ còn Tú Tú ngồi bên cạnh mặt mày cực kỳ vui vẻ, thản nhiên cầm ruột của cha quấn quanh cổ chơi, bộ dạng rất đắc ỷ như thể vừa làm được việc gi tốt lắm vậy.

Chức vị thẩm phán là chấp pháp công minh, thi hành quốc luật, không thiên vị riêng tư!

Nhưng ồng Đức bị sắc tài làm cho mê muội, toàn lạm dụng chức quyền để thu lợi cho mình, phụ lòng quốc gia và nhân dân ký thác.

Báo ứng hiện tiền của ông là bài học cảnh cáo thé nhân, cho dù có tránh được pháp luật trừng trị, thì cũng chẳng thể nào tránh được báo ứng nhân quả, nên nói: “Thiên lý chí công, trốn một lúc nhưng không trốn được cả đời”.

14.

NHỮNG KẺ BUÔN NGƯỜI

Năm 1981 Sau khi Trung Quốc giải phóng, trăm nghề hưng thịnh, thôn Tả Hậu tỉnh Liêu Ninh hẻo lánh chuyền sống bằng nghề trồng bán dược liệu.

Cho nên có người gọi vùng này là làng thuốc, nỗi danh toàn quốc.

Các tiệm buôn thuốc đông y nơi thành phố lớn đều đến đây mua dược liệu.

Có cô gái tên Hàn Hà, cha mẹ đều sống bằng nghề trổng thuốc.

Hàn hà tuy mới 17 tuổi, nhưng tính thẳng thắn.

Thấy các lái buôn đến thôn mua thuốc thường hay lường gạt ép giá nên cồ tự đứng ra kêu gọi dân làng đoàn kết vỉ quyền lợi chung, cô đại diện toàn thôn cùng thương nghị với lái buôn, đòi mức giá hợp lý.

Điều này giúp nông dân kiếm được nhiều tiền, nên dân làng đều tán thán ủng hộ cô.

Đỗ Nghiêu là một đại thương gia đến từ Thượng Hải, phát hiện tài năng của Hàn Hà, thầm nghĩ nếu như cô được huấn luyện, trong tương lai nhất định có thể kiếm được nhiều tiền cho ông.

Đỗ Nghiêu bèn hứa sẽ cho Hàn Hà làm chức lớn và trả lương cao, mời cô lên Thượng Hải.

Hàn Hà vì gánh nặng phải lo cho song thân tuổi cao và người anh tàn phế đôi chân, nên chịu nhận lời của Đỗ Nghiêu.

Đài Loan rất thiếu Trung dược, nên các thương nhân thường đổ xô qua Đại Lục thu mua thuốc với giá rẻ.

Có Trần Đồng Tân mở tiệm thuốc ở Đài Loan từ năm 1988, mỗi năm đều qua Thượng Hải mua dược liệu, do vậy mà quen với Đỗ Nghiêu và Hàn Hà.

Đòng Tân có người em trai tên Hựu Tân mở công ty môi giới hôn nhân.

Chuyên giới thiệu các cô gái từ Đại Lục và Đông Nam Á lấy chồng Đài Loan.

Hựu Tân lợi dụng mối giao tế của anh mình, thường dẫn các ông chưa vợ qua Đại Lục tìm đối tượng.

Tháng 11 năm 1981, công ty Hựu Tân lại có hai người khách: La Bang và Vương Đồng Nghĩa, họ tuổi ngoài 30, trông có vẻ là kẻ tài ba mẫu mực, cả hai nói chuyên rất hào sảng, thu hút.

Họ ngỏ ý muốn tim vợ ở Đại Lục và hứa sẽ trả phí cao, Hựu Tân luôn mồm nói sẽ tận lực đáp ứng.

Ba tháng sau Hựu Tân dẫn Bang và Nghĩa đến Thượng Hải, ngụ tại biệt thự của Đỗ Nghiêu.

Tối đó Đỗ Nghiêu đãi tiệc cho ba vị khách, Hàn Hà và nữ nhân viên phục vụ Vương Hiểu Hoan cũng có mặt ở đó.

Trong buổi tiệc, La Bang nói mình là Tổng Giám Đốc công ty điện tử, có ba công ty chi nhánh và hơn 200 nhân viên.

Do hằng ngày bận rộn làm việc, nên bị vợ ruồng bỏ.

Bây giờ y đang cần tìm môt hiền thê thông minh, dịu dàng có thể giúp y phát triển sự nghiệp.

Tiếp đó thì Nghĩa giới thiệu minh là chủ công ty kiến trúc, hằng ngày bận rộn đi khắp ba vùng bắc, trung, nam Đài Loan để xử lý công trình, vi không có thời gian bầu bạn với bà xã nên bị ly hôn.

Hiện muốn tìm một phụ nữ hiền lành biết cảm thông làm vợ.

Bang vả nghĩa giới thiệu rôm rả về mình, cộng thêm Hựu Tân góp lời ca ngợi, khiến Đỗ Nghiêu nghe qua không ngớt gật đầu tán thưởng.

Hàn Hà lả thiếu nữ chưa chồng, nghe họ nói liền dệt mộng…

“Hai vị đại gia có sự nghiệp lớn, tài mạo song toàn nảy – mới đúng là đối tượng hoàn hảo – mà nàng hằng mơ ước”.

Hàn Hà thầm nghĩ gia cảnh mình nghèo, không học vấn, nếu như một trong hai người này không chê bỏ, thì nàng ưng ngay, nàng sẽ đổi đời, vừa cải thiện sinh hoạt túng bấn của nhà đình, mà bản thân cũng thành là phu nhân Tổng giám đốc được bao người kính mộ…

Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, trong ánh nhìn Hàn Hà hiện đầy vẽ khát khao về ước muốn đổi đời, hai gã Bang và Nghĩa nhìn thấu hết…

Hựu Tân còn phụ nói vào thêm, công thêm sự tán thưởng của Đỗ Nghiêu thì kết quả dễ dàng đạt thành.

Vị trí đã định xong, Hàn Hà sẽ gả cho Vương Nghĩa, còn La Bang thì cưới Hiểu Hoan.

Trong lúc hai cô gái dệt đầy mộng đẹp về cuộc sống lứa đôi, thì Bang và Nghĩa lòng khấp khởi mừng thầm, vì họ mới vừa quăng lưới đã bắt ngay được mẻ cá.

Nhờ Hựu Tân nhiệt tình giúp đỡ, hai tân nương được đưa về Đài Loan.

Vừa xuống phi trường thì Hàn Hà và Hiểu Hoan lập tức bị tập đoàn lưu manh “Người Rắn” chở đến khách sạn Đào Viên giam lõng và bị tịch thu hết hộ chiếu, lúc này Hàn Hà và Hiểu Hoan mới tỉnh mộng, biết là mình đã rơi vào tổ quỷ.

Hôm sau, Bang và Nghĩa cùng thủ lãnh “Người Rắn” là Thái Côn Lâm đến uy hiếp Hàn Hà, Hiểu Hoan.

Họ nói nếu hai nàng không chịu tiếp khách mà đi báo cảnh sát, thì không những tính mạng bị nguy, mà người thân bên Đại Lục cũng sẽ bị hại.

Để chứng minh họ không nói dối, tên Lâm đầu đảng còn chìa ra hình cha mẹ hai người, và mô tả cảnh nhà hai cô rõ mòn một.

Hàn Hà tự biết khó thoát tay quỷ, đành nén chịu, chờ thời cơ thoát thân.

Còn Hieu Hoan thì khó mà tiếp nhận được sự thực tàn khốc này nên la hét khóc than, làm ầm náo đến chết đi sống lại.

Tên Lâm thâm độc bèn nhốt Hiểu Hoan, cho thủ hạ cưỡng hiếp và đánh đập nàng.

Hiểu hoan thân tâm đều bị giày vò tàn khốc, đành khuất phục tiếp khách, cho đến khi gặp cảnh sát truy quét tội phạm mới được trả về Đại Lục, nhưng lúc đó Hiểu Hoan đã nhiễm bịnh đẫn đến di chứng vô sinh, hiện còn đang trị liệu.

Phần Hàn Hà, tên Lâm không những bắt nàng liên tục tiếp khách mà còn dụ nàng hút ma túy và đánh bạc.

Chỉ trong vòng một năm ngăn ngủi, cô gái trẻ trung xinh đẹp Hàn Hà đã biến thành da vàng gầy ốm.

Cuối cùng thỉ suy sụp hay ngất qua kiểm tra bị mắc bệnh ung bướu.

Một khi tên Lâm thấy Hàn Hà không còn giá trị lợi dụng nữa thì hắn chẳng đeo phiền vào làm gi, bèn cho tập đoàn buôn lậu đưa Hàn Hà trả về cố hương của nàng, đến nay sống chết không rõ.

Ngạn ngữ tây phương nói: “Người trường kỳ làm ác, trong tâm nhất định không an” ba tên Lâm, Bang, và Nghĩa, chuyên môn dụ dỗ gạt lường, ép các cô gái Đại Lục và Đông Nam Á đến Đài Loan bán dâm.

Bọn hắn thu lợi rất nhiều, trải qua tháng ngày phú lạc, nhưng chúng vẫn luôn bị bất an.

Vi đêm đêm nằm ngủ thường bị hình ảnh bi thảm của các thiếu nữ không ngưng xuất hiện ám chúng, kẻ bị hại đầu bù tóc rối hỉnh dạng như quỷ dữ cứ nghiến răng nguyền rủa chúng, mới đầu thi lâu lâu mới thấy một vài lần, sau đó thi đêm nào cũng thấy.

Vào tháng 7 năm 1995, ba tên côn đồ này suốt trong một tháng, đêm nào cũng mơ thấy ác mộng giống nhau.

Chúng còn thấy một cô gái mắc bệnh cùi mặt mày hung ác, cười rất ghê rợn.

Tiếng cười càng lúc càng khiến ba gã sợ hãi kinh hoàng, toàn thân xuất hạn mồ hôi.

Hôm sau thân thể của họ đều cảm thấy khó chịu giống nhau, vỉ vậy họ cùng đi tim bà đồng nổi danh để giúp họ trục tà.

Bà đồng đề nghị họ nên xuất ngoại du lịch, quay về sẽ không có việc gỉ.

Ba người cho là có lý nên bốn ngày sau thì bay sang Thái Lan du lịch và cho là ác mộng sẽ không quấy rầy.

Nào ngờ đêm đầu tiên trên nước Thái Lan, họ vừa nhắm mắt thi yêu quỷ đã xuất hiện, còn quấy nhiễu dữ dằn hơn ở Đài Loan.

Khiến tinh thần bọn họ càng bị khủng bố căng thẳng.

Một tuần sau La Bang tự nhiên phát điên, y được đưa về Đài Loan, hiện nay đang điều dưỡng tại bịnh viện tâm thần ở Chương Hóa.

Còn Lâm và Nghĩa sau đó càng thê thảm hơn, lúc ờ tại Thái Lan, họ không tiếp xúc bất kỳ ai, nhưng khi về Đài Loan rồi thì cả hai đều cảm thấy không khỏe, thân họ ngày càng gầy ốm, bệnh viện Đài Loan khám không tìm ra nguyên nhân.

Họ phải bay sang Mỹ khám bịnh và phát hiệt mình mắc bịnh AIDS, (sida) Nửa năm sau họ bị bịnh giày vò, thân thể lở loét đau đớn tột cùng rồi chết tại Mỹ.

Người hành thiện tích đức, tâm luõn sung mãn hỉ duyệt.

Người làm ác lương tâm ngày đêm sẽ bị trách phạt nghiêm trọng, sống không được an, thống khổ vạn phần hơn là chet.

Xin xem gương những người mưu lợi gạt ép các cô gái bán dâm như thế này, kết cuộc đều sẽ giống như ba người Lâm, Bang, Nghĩa.

Khi sống tâm luôn bất an, lúc chết rất thống khổ.

15.

QUÁN NGON CAO CẤP

Tại đại lộ Tung Sơn của thành phố Đài Bắc phồn hoa.

Có một tiệm vịt quay nổi danh khắp xa gần tên là “Quán ngon cao cấp”, làm ăn rất phát đạt, khách ra vào tấp nập, cửa tiệm rộng lớn, thiết kế sang trọng, nhân viên nam nữ phục vụ trong quán đều trẻ trung, mặc toàn tây âu trăng.

Bếp trưởng dội nón trắng tinh, tay luôn đeo găng, chứng tỏ mình cực kỳ vệ sinh sạch sẽ.

Nhân viên trong quán từ khuya đến tối bận rộn như con quay để tiếp đãi, bưng bê phục vụ thực khách.

Còn vị chủ quán họ Thái, tuổi ngoài 50, béo tròn phục phịch, mặc tây âu, mặt mày hớn hở ngồi nơi quầy thu ngân sau máy đếm tiền, tay đeo đồng hồ vàng chói, cười toe tét, vui tới không thể khép miệng lại…

Trước cửa tiệm là quầy hàng bán lẻ, phía sau tiệm là xưởng giết mổ, lò quay nướng vịt.

Bảo đảm thịt vịt luôn tươi mới thơm ngon, hấp dân thực khách ăn rồi còn muốn ghé nữa, vì vậy mà tiệm buôn ngày càng phát.

Mấy năm gần đây tiệm lập chi nhánh các nơi, chủ quán ngày càng mở rộng nghề sát sinh và bạn bè giao tế thù tạc càng nhiều.

Trong đây không thể thiếu các thực khách của tửu gia, vũ trường, tiệm vàng, sòng bạc v.v…

Phải nói lúc này cũng là thời kỳ ông hưởng thụ tiêu xài vô cùng mãn ý, biết thế nào là cực khoái của kiếp nhân sinh.

Mỗi năm, khi mùa xuân đến, nhà nhà hộ hộ thảy đều cần sắm hàng tết, thân hữu đa số đều muốn biếu xén quà, thì quán cao cấp việc làm ăn càng phất, lên như thủy triều dâng.

Khách quen muốn mua được vịt quay mới ra lò, phải sắp hàng chờ đợi từ 3 đến 5 tiếng.

Nhân viên phục vụ tất bật tới nửa khuya, quán phải mướn thêm người phụ lâm thời, mà vẫn bận tít mù không thể nghỉ ngơi.

Vì vậy mà phải tổng động viên toàn gia, cả nhà đều lao vào cuộc, bận rộn buôn buôn bán bán.

Hôm nọ, cũng giống như mọi ngày, tiệm đang buôn bán rôm rả, huyên náo ồn ào, thỉ trong khoảnh khắc, bỗng nghe có tiếng vịt rống rất to, lớn vang dội, trấn áp hết mọi tạp âm trong tiệm, vi vậy mà thu hút trọn sự chú mục của bao người.

Thế nhưng, ai chứng kiến cũng đều đứng sững, đứng như bị trời trồng.

Giây phút này mọi người chỉ biết kinh ngạc giương mắt ngó lão chủ quán đang nằm dài trên đất, hình trạng giống y con vịt, miệng lão không ngừng kêu lên tiếng cạp cạp, không những giống như vịt mà còn to hơn vạn bội.

Mọi người đều xúm lại, vây quanh nhìn, và không ngớt bàn tán xôn xao, bỗng có một bà béo mập, hét thật lớn, nói:

– Ôi trời ơi!

Lão này giết vịt quá nên bị quả báo đó!

Đáng sợ quá!

Tôi không dám ăn thịt vịt nữa đâu!

Mọi người bấy giờ mới tỉnh hồn trờ lại, không hẹn mà đồng một mục đích, xúm nhau chạy ra khỏi tiệm giống như bầy ong vỡ tổ.

Bà giám đốc phu nhân vội mời bác sĩ đến chữa trị, nhưng dù bác sĩ tài ba đến mấy, cũng không thể nào khiến ông ngừng kêu tiếng cạp cạp quái gỡ kia.

ồng cứ kêu như thế suốt ba ngày ba đêm, cho đên lúc kiệt sức không còn kêu được nữa, thì hai mắt ông mở to, thất khiếu ọc máu, và ông tắt hơi trong thống khổ tận cùng.

Kể từ hôm đó tấm bảng hiệu “Quán ngon cao cấp” bị tháo dở, các chi nhánh khắp nơi cũng đóng cửa, dòng tộc họ Thái cũng giấu luôn tung tích, không biết họ dời đi cư trú ở đâu?

16.

ĐI CÂU BỊ CẢM ĐỘNG

Tại huyện Liêu Trung tỉnh Liêu Ninh đông bắc Trung Quốc, một buổi sáng đầu thu năm 1997, gió hây hây thổi, dòng Liêu hà yên tĩnh, nước trong biêng biếc, bên bờ cây cỏ tốt tươi, cành lá đong đưa khi làn gió nhẹ thổi qua.

Cảnh vật ấm áp hiền hòa dưới ánh nắng ban mai tỏa chiếu.

Đỗ tiên sinh tay cầm cần câu, vai đeo giỏ, xăng xái đi đến cạnh bờ sông, ông móc mồi vào lưỡi câu và thả xuống nước, sau đó nhìn chăm chăm vào mặt sông, hồi hộp chờ đợi, vẻ mặt vừa căng thẳng vừa thú vị.

Hình như có con cá lớn đã mắc câu, cứ nhìn lực bị kéo căng của dây câu và cần câu thi biết, ông liền giựt câu lên.

Con vật dính câu đã hiện ra trên mặt nước, gương mặt Đỗ tiên sinh từ vui sướng bỗng chuyển qua kinh ngạc khi thấy hoạt cảnh lạ lùng trước mắt – có thể nói là từ hòi đi câu tới giờ ông chưa từng chứng kiến qua –

Con vật cắn câu không phải là con cá lớn, mà là một ả rùa to.

Trên mình rùa còn có mẩy con rùa nhỏ, chúng bám chặt mình rùa lớn không buông, do vậy mà đồng loạt bị kéo theo lên hết.

Cần câu vừa hạ trên đất, thái độ mấy con rùa nhỏ giống như vệ sĩ, chúng lập tức bao quanh rùa lớn, đôi con mắt đen bé nhìn trừng trừng vào đỗ tiên sinh, vẻ rất căng thẳng, xưa nay ông vốn gan dạ và bình tĩnh, nhưng trước cảnh tượng lạ lùng này, ông chưa biết xử trí ra sao.

Thực ra, ông cũng từng nghe nói về tánh linh động vật, đối với những lời đồn, những điều nghe được này, thuở giờ ông không quan tâm và chẳng hề tin, vì ông luôn cho rằng người ta thích khoa trương phóng đại, bịa đặt ra thôi.

Nhưng giờ đây, đối diện với hình ảnh sống động nhưng khó tin trước mắt, ông hoàn toàn bị chinh phục.

Những con rùa bé nhỏ này khiến ông nhớ lại thời ấu của mình, nhớ đến thâm tình cha mẹ, anh em, thắm thiết.

Và ông nghĩ các chú rùa nhỏ này cũng vậy, cũng biết yêu thương và rất muốn bảo vệ tình thâm.

Chắc chúng cũng đeo mẹ thương mẹ giống hệt ông hồi nhỏ vậy.

Té ra những động vật bị con người thẳng tay tàn sát kia, cũng có linh tính, cũng có tình cảm và đời sống giống y như con người.

Lương tri Đỗ tiên sinh bị đánh thức, cuối cùng ông quyết định làm một việc xưa nay chưa từng làm là: phóng sinh!

ông lặng lẽ tháo con rùa to khỏi móc câu, thả nó xuống nước, sau đó lần lượt thả mấy chú rùa con xuống theo, lòng đầy áy náy, ăn nản.

ông nói với đám rùa:

– Xin lỗi, các ngươi về nhà bình an nhé!

– Mấy con rùa nhỏ bơi theo sau rùa lớn, trong đó có một rùa con cứ quay đầu lại nhìn ông.

Sau đó, Đỗ tiên sinh bẻ gẫy cần câu, kể từ ngày hôm ấy ông không câu cá vả dứt hẳn sát sinh.

Hiện giờ ông là một đệ tử trung thành cùa Phật giáo, ông thường kề lại câu chuyện này và khuyên mọi người không nên sát hại sinh vật.

Tục ngữ nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện”.

Có nghĩa là bản tính con người ban sơ rất hiền thiện, nhưng tùy theo tuổi tác ngày một lớn và do ảnh hưởng môi trường hoàn cảnh không tốt mà tính thiện lành này cũng dần dần bị che lấp, rồi người ta sa vào trong việc xấu hồi nào không hay.

Những người may mắn thì gặp được cơ duyên khiến họ tỉnh ngộ, sửa đổi và cải ác tùng thiện, khôi phục bản tính trong lành sẵn có.

Đỗ tiên sinh chính là một trong số người may mắn này.

17.

CHUYỆN NƠI LÂM TRƯỜNG

Tại lâm trường Hồng Nhật huyện Lô Hoắc tình Tứ Xuyên, có một công nhân họ Vương, bình thường ưa câu cá, lúc rảnh thỉ ra sông câu.

Cách câu của anh không giống mọi người.

Mỗi khi cá cắn câu, anh kéo cần, tháo cá xong lả quăng thẳng lên không, đợi cá té xuống đất, anh mới lượm nó bỏ vào sọt, khiến cho con cá đang sống rơi xuống bầm dập thân thể, không bị chết thì cũng trọng thương.

Công nhân lâm trường cưa cây xong, thường phải dùng cần cẩu vận chuyển gỗ ra lộ.

Một ngày mùa thu năm 1979, anh Vương đang chuyển cây, thì vô ý té vào chỗ cần cẩu làm việc và bị móc lên theo cùng với cây, anh hét to, nhưng không ai nghe thấy, anh bị kéo lên cao giữa không, lúc này công nhân điều khiển máy mới phát hiện ra anh nên vội vàng cho hạ cần cẩu.

Nhưng không kịp, anh đã rơi từ trên cao xuống, té bầm dập, thân thể bị trọng thương, máu tuôn lênh láng và anh nằm chết trên đất, giống hệt cảnh những con cá mắc câu bị anh ném lên cao và rơi xuống tắt hơi vậy.

Tận mắt chứng kiến vụ này, các công nhân đều cho rằng đây là nhân quả báo ứng, những người ưa câu cá đa số đều sợ hãi và không dám đi câu nữa.

18.

KHI MÁY MỔ HOÀN TẤT

Năm 1997, có một vị kỹ sư tài ba ưu tú, đã thiết kế và chế ra một máy mổ heo độc đáo khác người.

Nếu đem heo sống bỏ vào miệng máy thi chỉ mấy phút sau, da, lông thịt, xương, huyết, đầu V.V.. từng phần đều được cắt chia thành phẩm và xuất ra hoàn hảo.

Khi máy giết mỗ này được lắp ráp thành công, ngày cho máy hoạt động thừ thi tất cả ban lãnh đạo và gia đình viên kỹ sư thiết kế máy, đều đến dự khán.

Kỹ sư đích thân khai máy, biểu diễn cho mọi người xem.

ông tự tin bật công tắc khởi động máy.

Lúc ông quay mình bước đi, thì y phục bất ngờ bị vướng vào máy, giống như có người kéo giữ lại vậy, đang dùng tay tháo gỡ thi nơi miệng cổ máy như có một lực cực mạnh hút ông vào thẳng trong máy.

Những người đứng xem, chứng kiến thảm trạng này, đều bàng hoàng hoảng kinh.

Một người vội lao tới ngắt điện, nhưng quá muộn.

Viên kỹ sư đã không còn sống, vì chỉ trong vòng mấy phút, đúng như tài năng ông thiết kế, máy giết mổ đã nhanh chóng hoàn thành sứ mệnh và chia chẻ thân ông thành từng phần hoàn hảo y như ý người sáng chế cài đặt: máu, thịt, xương, cái đầu, nội tạng đều xuất ra sắp xếp rất khéo trong thoáng chốc.

Các đồng sự của ông chỉ biết sửng người đứng ngó.

Còn gia quyến của ông thì khóc to vang trời, ai cũng bất ngờ vi sự cố vừa xảy ra, không thể tường tượng được chính ông lại là vật thí nghiệm đầu tiên cho cỗ máy giết mổ.

Ta có thể thấy lòng ích kỷ không mảy may có chút từ tâm của nhân loại.

Giả như vừa rồi rơi vào máy mỗ là một con heo, thì tất cả sẽ reo mừng vỉ thí nghiệm thành công, và tuyệt chẳng hề thương tâm như thế.

Đại văn hào Mỹ quốc trứ danh Hemingway lúc ông chết, toàn thế giới đều chấn động và dành cho sự thương tiếc, vì ai cũng cho rằng một nhà văn tài ba nỗi danh như thế sao có thể tự sát, hơn nữa lại dùng súng tự tử?

Đối với việc này người ta cảm thấy vô cùng thắc mắc, không sao hiểu nổi.

Thực ra ông Hemingway lúc sinh tiền rất ưa săn bắn và đã dùng súng bắn giết vô số động vật, vỉ vậy mà cuối cùng ông đã dùng súng để tự giết mình.

Nếu nói theo báo ứng nhân quả thỉ đây chẳng phải đây là đáp án hay sao?

19.

CẬN TỬ NGHIỆP ĐÁNG SỢ

Có một nữ cư sĩ thọ Bồ-tát giới là bà X, trì trai hơn 30 năm.

Nửa đời sau của bả toàn lả ăn chay, lễ Phật.

Sau khi bà qua đời, người nhà đến chùa mời sư Nhân Ba Thiết tụng kinh hồi hướng công đức cho bả.

Đương nhiên ngài rất vui vẻ nhận lời.

Tối đó sư Nhân Ba Thiết bỗng thấy một cảnh tượng rất lạ: có một con heo nái, đẻ mười mấy heo con, lông toàn màu trắng.

Trong số đó có duy nhất một con heo giữa lưng có một khoanh đen.

Dù thấy vậy nhưng Nhân Ba Thiết không để ý lắm.

Hôm sau ngưòi nhà bả X lại đến bái kiến Nhân Ba Thiết thưa rằng:

– Mẹ con ăn chay nhiều năm nay, đã thọ Bồ-tát giới, tâm lại rất tốt, vậy sau khi bà mất rồi, se sinh ve đâu?

Chăng biết có về cõi cực lạc của Phật A Di Đà không?

Sư Nhân Ba Thiết đáp:

– Để tối nay ta xem cảnh mộng ra sao đã.

Đêm đó, Nhân Ba Thiết cũng thấy y hệt hôm trước, “Con heo đó” ở trong cái chuồng xây gạch nơi làng Ngư ôn gần đây, thấy rất rõ ràng.

Ngày thứ ba anh con trai bà X đến hỏi thăm, Nhân Ba Thiết không tiện nói rõ, chỉ hỏi:

– Mẹ ngươi trước khi mất, có điềm gi không?

Con trai bà thưa:

– Dạ không, lúc gần đi thì bà hôn mê, không có trối trăn gì.

Nhân Ba Thiết nói:

– Thế thỉ không tốt lắm.

Rồi Sư nghĩ thầm: ‘Thông thường đệ tử Phật tu tinh tấn luôn có dự liệu, hiểu biết sáng suốt.

Một người cả đời ăn chay như bà X, tâm tính tốt, ưa giúp người, lại siêng cúng dường chùa.

Giây phút qua đời vì sao lại có thể đầu thai làm súc sinh chứ?

Lý nào như vậy?”

Sư Nhân Ba Thiết không tiện nòi gì với con trai bà X.

Chỉ căn dặn:

– Anh hãy quay về điều tra, hỏi thăm cả nhà xem mẹ anh có nói gì trước khi mất không?

Bởi vì trước lúc mất, bà vẫn có thời gian tĩnh, chắc chắn đã từng nói ra, từng nhắc đến điều gì đó, chăng hạn như những gì bà mong muốn thực hiện mà chưa làm được nên cứ ôm ấp mãi trong lòng.

Anh hãy về nhà hỏi thử xem?

Anh con trai vâng lời về nhà điều tra.

Mới biết buổi tối trước khi mất ba ngày, vợ anh đến chăm sóc bà, nghe bà cứ nói mãi:

– Đem con heo đó làm thịt đi, nhanh lên!

Bà cứ nói tới nói lui như vậy hoài.

Sau đó mới mất.

Nghe quyến thuộc kể lại, Sư Nhân Ba Thiết nói:

– Như vậy thì rõ ròi, ta có thể xác định, bà ấy hôm nay rơi vào cảnh giới này, hoàn toàn là do lòng cứ ôm giữ mãi tà niệm.

Thế là sư Nhân Ba Thiết bảo thân quyến bà X:

– Cách nhà các ngươi khá xa có một làng tên Ngư ôn, có một gia đình nuôi heo.

Tại đó có con heo nái vừa mới sinh một lứa heo, khoảng mười mấy con.

Các người tới sẽ thấy có một heo con rất đặc biệt khác hẳn.

Hãy mau mua nó về, ta sẽ quy y cho nó.

Ông chưa dám nói thẳng ra đó chính là hậu thân của mẹ họ.

Bọn họ đi tìm ba ngày thì đến Ngư ôn, và gặp heo con màu lông y như sư Nhân Ba Thiết tả.

Kỳ lạ hơn nữa là heo con vừa nhìn thấy họ thì chạy tới tỏ vẻ mừng rở thân thiện.

Thấy thái độ con heo, Thân quyến bà X không ai bảo ai đều tự hiểu và thầm đoán đây chắc là mẹ mình.

Dù không nói ra nhưng họ rất buồn.

Họ nhanh chóng mua con heo đem về chùa, thỉnh Nhân Ba Thiết quy y cho nó.

Quy y xong, các con bà bàn bạc muốn đem nó về nuôi.

Nhân Ba Thiết bảo:

– Không được, đã quy y rồi, cần phải đem nó đến thâm sơn phóng sinh.

Các quyến thuộc đều lo sau khi phóng sinh, nó sẽ bị các loài thú hung dữ khác ăn thịt.

Nhân Ba Thiết nói:

– Không lẽ các ngươi muốn nó ở trong súc đạo hoài sao?

Người nhà bèn đem nó đi phóng sinh, phóng sinh rồi chẳng mấy chốc thì nó chết.

Heo mất xong, thì sinh vào cõi người.

Nhân Ba Thiết nói: – Đây là một bài học cho các ngươi cảnh giác, mặc dù cả đời niệm Phật ăn chay, nhưng nếu cứ nói lời tà kiến, ôm mãi tâm bất chính không buông thi cực kỳ nguy hiểm cho giây phút cận tử và bản thân sẽ phải đền trả cho ác niệm của mình.

Tà niệm có thể khiến đương sự bị quả báo dội ngược, khởi niệm muốn hại người hay vật như thế nào, thì bản thân sẽ bị hại trước tiên.

Vì sao mẹ các ngươi trước khi chết, cứ đòi đem heo đi giết?

Bởi trong tâm bà cứ ôm mãi một điều, mong rằng lúc cháu trai trưởng kết hôn, bà sẽ làm y theo tập tục của dân Đài Loan là giết heo mổ dê, tổ chức tiệc cưới linh đình.

Đây chính là tâm nguyện bà luôn ôm ấp, đeo mang và muốn thực hiện cho hôn lễ của cháu nội.

Do nguyện vọng này vẫn chưa thực hiện được, vì cháu nội chưa kết hôn mà bà đã chết, nên ý tà còn lưu trong lòng mãi.

Vì vậy mà phút hấp hối ỷ tưởng nào trong đầu có mạnh nhất sẽ dẫn bà đi thọ sinh vào cảnh tương ưng với tâm.

Khi gần chết lòng bà toàn sát niệm hừng thịnh, bà khồng hề tha thiết niệm Phật A Di Đà mong ngài tiếp dẫn, trong đầu toàn là tâm háo sát, khao khát muốn giết heo.

Niệm này ôm ấp đến chín mùi, tà niệm này đã át hết công đức và thiện niệm cả đời của bà, dẫn đến kết quả bà phải đầu thai làm heo và phải trả báo cho ý niệm háo sát của mình.

Rồi sư Nhân Ba Thiết kết luận:

– Một đời niệm Phật ăn chay, do không buông tà kiến, mà bị đọa.

Cận tử nghiệp rất đáng sợ.

Các ngươi phải cẩn thận, cảnh giác!

20.

THỊT RỦA NGON

Người Thượng Hải có câu đầu môi như thế này: “ Hiện thế báo” nghĩa là việc làm trong hiện tại, trả báo đến ngay hiện đời, chẳng đợi sang kiếp sau mới báo.

ở Thượng hải có Vương tiên sinh, bình thường rất ưa ăn thịt rùa, nhưng cách chế biến thức ăn của ông rất khác người, ông chế nước ngập nồi, dùng nắp đậy kín nồi (trung tâm nắp có khoét một lổ hồng to cở đầu rùa), ông bỏ rùa sống vào, sau đó mới đun lửa.

Khi nước trong nồi dần nóng lên, con rùa bị độ sôi nung nấu đau không chịu nổi, nó bèn thò đầu lên lỗ hổng đó hả miệng thở, lúc này ông đem nước sốt gia vị đã thắng sẵn, đang sôi, rót vào miệng rùa; ép nỏ rụt đầu vào chảo lại.

Mục đích của ông là để cho nước gia vị thẩm thấu vào toàn thân rùa như vậy thịt rùa sẽ rất ngon.

Nhưng ông chẳng mảy may nghĩ đến nỗi thống khổ của rùa, bên trong thì nước sôi làm bỏng tâm can, bên ngoài thì bị nung đốt.

Con rùa đang sống mà ông hành hạ nội công ngoại kích thật dã man.

Chưa hết, rùa đang oằn oại, đau đớn giẫy giụa trong nước nóng, rồi chịu không nổi độ nước sôi hành hạ giày vò, muốn trốn cũng không có cửa, cầu sống không có đường, thế là nó đành nhô đầu ra khỏi cái lỗ hổng trên nắp để giải nhiệt tiếp.

Lúc này Vương tiên sinh tàn nhẫn lại tiếp tục rưới nước gia vị đun nóng (có đủ muối, dầu, giấm ớt, tiêu) rùa bỏng rát cả lòng VỘI rút đầu xuống, cảnh thò thò rụt rụt cứ thế tái diễn nhiều lần và cuối cùng thì rùa chết đi trong tột cùng thống khổ.

Vì tham ăn sướng miệng, mà Vương tiên sinh đành tâm giết hại quá tàn nhẫn.

Rồi Vương tiên sinh cũng dùng xong món thịt rùa.

Mười mấy ngày sau, một đêm nọ ông đang đang nằm ngủ tại căn gác, thì tầng trệt bỗng dưng phát hỏa, lửa thiêu rụi cả cầu thang, cháy lan tới phòng ngủ của ông, thiêu đến chăn mền, thì ông mới giựt mình tỉnh dậy.

Trong lúc kinh hoảng ngơ ngác ông định xuống lầu lánh nạn, thi thấy cầu thang gỗ đã cháy mất tiêu.

Phía dưới giờ là một biển lửa, vô phương đi xuống.

Ông muốn chui ra cửa sổ để tổn sinh nhưng song cửa sắt khe hở quá hẹp, nên dù ông tận lực chui ra mấy lần cũng không thể, chỉ ló được cái đầu ra, và mắc kẹt ngay tại đó, vô phương tiến thoái.

Ông đang gào thét thì xe cứu hỏa đến, lửa dữ cháy tràn lan trên đất, đầu ông bị kẹt nơi song sắt như bị nướng nóng thêm, ông há to miệng gào thét kêu cửu, viên cứu hỏa cầm vòi nước không ngừng xịt vào chỗ song cửa, ông bị nước sôi bắn vào miệng đau đớn hệt như cảnh ông hành con rùa xưa kia.

Cái đầu kẹt ngoài song không ngừng nuốt nước sôi, lúc đó có lẽ ông cũng thấm thìa nỗi khổ thảm thiết mà con rùa đã nếm.

Và cứ thế, Vương tiên sinh cuối cùng chết trong biển lửa.

Cách thức giết rùa ăn của vương tiên sinh đã khiến ông phải nếm trải khổ hình tương tự, nhân quả báo ứng quả thực không dối.

Khi sống ta dùng ác tâm giết hại loài vật thế nào, thỉ sẽ bị chính ác tâm ấy làm hại mình.

Đây chính là Vương tiên sinh tự khiến mình rơi vào lò nước lửa thiêu nóng.

Trong kinh pháp cú ghi:

“Yêu nghiệt mà gặp phúc, là ác kia chưa chín, đến khi quả ác chín, thì tự thọ tội khốc liệt”.

Vương tiên sinh nhận thọ quả báo, thực khiến người ta phải kinh sợ, cảnh ông chết thật là đau đớn khó kham.

Phải hiểu là ta giết bất kỳ động vật như thê nào thi sẽ bị báo ứng tương đương vậy.

Mong những vị ưa sát sinh hãy suy nghĩ mà cần trọng.

21.

TÌNH THƯƠNG CỦA KHỈ LÔNG VÀNG

Có một hòa thượng 65 tuổi, kể về hồi trẻ lúc chưa xuất gia rất ưa săn bắn.

ông kể chuyện của mình như sau:

“Năm 1978, tôi ở huyện Tùng Phan tỉnh Tứ Xuyên, sống bằng nghề trồng thảo dược và săn bắn.

Ngày nọ ba người chúng tôi cùng đi săn.

Lưng đeo súng, tay dắt chó, đi đến một vùng thọ lâm nọ, thì thấy trên cây có một bầy khỉ lông vàng.

Chúng tôi vội vàng nâng súng lên bắn.

Bầy khỉ lông vàng hết sức hoảng sợ, nhưng vì dưới cây có chó săn, nên chúng vô phương đào thoát.

Thế là khỉ bị trúng đạn chết trên cây, con nào trúng đạn mà chưa chết, thì rơi xuống cũng bị chó săn cắn chết.

Lúc này tôi nhìn thấy một con khỉ mẹ đang cõng khỉ con, tôi vừa chỉa súng vào nó chuẩn bị bắn thì thấy khỉ mẹ vội vàng đặt khỉ con xuống một bên, nó dùng tay chỉ chỉ vào con rồi hướng tôi xua xua tay, sau đó lại chỉ vào mình nỏ, ra hiệu như muốn tôi bắn nó.

Tôi hiểu ra, khỉ mẹ muốn hi sinh, tỏ ý sẵn sàng chịu chết và van tôi đừng giết con nó.

Tôi bị khỉ mẹ làm cảm động, nước mắt trào ra, vội hạ súng xuống.

Tối đó, đồng bạn nấu thịt khỉ, tôi bị tinh huống vừa rồi ám ảnh nên không muốn ăn.

Trong lòng tôi không ngớt tự trách mình.

Tại sao lại muốn ăn thịt khỉ, tại sao lại nhẫn tâm giết, bán da, xương của nó?

Tôi đã sát sinh hại mạng rất tàn nhẫn, trong khi con khỉ vẫn có tình càm không khác người, ôi!

Thật là tội lỗi!

Hòa thượng còn kể bạn ông có tài thiện xạ, ưa bắn phá tổ chim.

Những con chim bắt được, anh ta đem bán, hoặc giết dầm rượu, nhiều vô số kể.

Anh ta cũng ưa bắt lươn, cá, ếch, rùa, trạnh; thậm chí còn dùng thuốc để đánh cá, giết chúng rất tàn nhẫn.

Sau này bạn ông trên thân nổi một mụn ghẻ rất to, bác sĩ bảo là ung bướu độc.

Không những thế, khắp người anh ta còn mọc những mụn bọc nước lớn như trứng bồ câu, không bao lâu, thi da thịt anh bị thối rữa nằm trên giường kêu đau đớn.

Một đêm mưa to, anh đi ra ngoài, bất cần sau đó nên té chết dưới mương mà không ai hay.

Sau đó vợ anh đi tìm, thấy xác anh nồi lên có vô số rùa, trạnh ếch, cá, chim tranh nhau rỉa thịt.

Hòa thượng nói:

-Từ đó tôi bỏ hẳn nghề sán bắn và thệ không sát sinh

Gương mặt ông chim trong suy tư, hối hận.

Ông nói tiếp:

– Tôi mong sao tất cả những người săn bắn đều có thể buông súng xuống, dừng tâm giết hại và hiểu rằng loài vật cũng tham sống sợ chết, cũng có tình cảm yêu thương và hi sinh giống như người.

Tội sát sinh một khi quả báo đến thỉ rất đáng sợ.

22.

HỨA TIÊN SINH

Vợ chồng Hứa tiên sinh là thương gia, ngụ ở Mã Lai.

Họ có đứa con trai tên là Vu Hùng.

Hùng không chăm chỉ học hành, lại ưa giao du bạn xấu, ngày ngày ở ngoài chơi hoang lêu lổng.

Hứa tiên sinh đành cho con đến Anh quốc học, mong nó lìa xa bạn xẩu, may ra nên người.

Đến Anh Quốc, Hùng vẫn chứng nào tật nấy, ngày ngày đi khắp nơi tung tiền mua vui.

Cho đến khi Hứa tiên sinh làm ăn thất bại, kinh tế túng bấn, đành kêu con ngưng học hồi hương.

Thế nhưng thằng Hùng đã ghiền ma túy, không những nó vồ phương trợ giúp sự nghiệp cho cha, mà còn đem ngôi nhà và toàn bộ tài sản còn lại của ông bán hết.

ông Hứa buồn rầu sinh bịnh, trước phút lâm chung ông mới ăn năn sám hối kể ra một sự thật mà từ trước tới giờ không ai biết như sau:

Hồi xưa, ông làm thư ký cho một phú thương.

Nhưng ông lại có tình ý với vợ chủ nhân.

Lần nọ, nhân lúc ông chủ về thăm quê, ông đã giăng bẫy tạo nên tai nạn xe khiến chủ nhân chết thảm.

Thế là toàn bộ những gì của ông chủ, gồm gia sản và bà chủ đều rơi vào tay ông.

Những gì mong cầu đều đã đạt thành, ông Hứa và vợ phú thương bèn xa chạy cao bay, đi đến nơi khác xây tổ uyên ương.

Một năm sau họ sinh con, chính là cậu quý từ Vũ Hùng.

Và cuối cùng, sau khi tiêu xái hết tiền bạc của cha.

Hùng đã đem toán bộ gia sản của cha bán sạch, đến nỗi ngay sau khi cha mất rồi, phí quan tài Hùng cũng không đủ sức để mua.

Mẫu thân y cũng bị ung bướu mà chết.

Cố thể nối họ Hứa hoàn toàn lâm vào cảnh “gia phá nhân vong”.

23.

NGỌC LAN

Một phụ nữ Hoa kiều (tạm gọi là Lan) sang Brazil (Ba-tây) lập nghiệp và đến bịnh viện làm nghĩa công.

Sau ba tháng thọ huấn, Lan được cử đến nhà xác, lãnh công tác mà đa số đều sự và không dám nhận.

Lan vốn là đệ tử thuần thành của Phật, bất kẻ hoàn cảnh người chết ra sao: vô thừa nhận, chết thảm, chết oan, chết bất ngờ v.v…

đều được Lan chăm lo chu đáo.

Cô vừa niệm Phật, vừa tắm rửa cho người mất, thay y phục v.v…

Lan tình nguyện làm việc nghĩa này ròng rã bao năm dài.

Mười năm trôi qua, sở làm chồng Lan bị đóng cửa, hai vợ chồng bèn dời đến đô thị, tìm công việc mới.

Hai vợ chồng bắt đầu buôn bán nhỏ.

Không bao lâu thi họ gặp một người bạn thân, có hảo ý mời họ làm đại lý cho một cửa hàng bán linh kiện máy vi tính ở Đài Loan.

Thế là họ nhận lời.

Họ chăm chỉ kinh doanh, công việc dần phát, mấy năm sau thi họ trở thảnh tỷ phú.

Vị đệ tử Phật này chẳng vì việc làm ăn phát như rồng gặp mây mà quên đi bổn phận.

Lan vẫn tiếp tục xuất tiền, xuất lực cúng dường Tam bảo, tự viện, và đóng gốp cho các nhà thương, bịnh nhân và các việc từ thiện trong xã hội.

Do hai vợ chồng siêng năng tạo phúc tích đức nên con cái cũng đồng tâm hướng thiện giống cha mẹ.

Chúng vừa có hiếu, vừa có tài.

Sau khi các con họ tốt nghiệp đại học xong, không những họ cố sự nghiệp thành đạt, cống hiến không nhỏ với đất nước, xã hội, mà còn tiếp nối chí nguyện từ thiện của cha mẹ, luôn biết tích đức, tạo phúc.

Đọc đến đây chúng ta có thể hiểu là nhân nào quả nấy, hành thiện gặp thiện báo.

Mọi sự do ta gieo và tự gặt hái.

Hi vọng mọi người đều hiểu rõ luật nhân quả, siêng tạo duyên lành, nhân lành, sự nghiệp lành.

Cầu mong ai cũng sáng tâm, huệ phát, tinh tấn dũng mãnh, giữ gìn thân khẩu ý, lèo lái bản thân đi trong đường thiện,để cuộc sống luôn được hạnh phúc.

24.

CON LỪA

Mùa thu năm Mậu Ngọ, Đời vua Khang Hi triều Thanh, gia đình Trương Nguyên ngụ ở Bắc Kinh có mua về một con lừa, tính nó rất hung hăng, không những ưa đá, mà còn cắn người nữa.

Chỉ có ba cha con Trương Nguyên lả cưỡi được nó thôi.

Mỗi khi họ cưỡi, nó tỏ vẻ rất ngoan hiền, thuần phục.

Nhưng một lần, có vị họ Dương đến mượn con lừa kia, cưỡi thử.

Thật quái lạ, con lừa ngoan ngoãn để cho ông Dương cưỡi đi.

Tối đến, ông Dương nằm mộng thấy một người mặc áo đen nói:

– Tôi là con lừa trong nhà Trương Nguyên.

Đời trước tôi vay ông ba trăm đồng mà không trả, nên kiếp này phải bồi thường cho ông.

Hôm qua ông đã cưỡi tôi đi 280 dặm, sáng mai xin ông hãy cưỡi tôi 20 dặm nữa, như vậy số nợ tôi thiếu ông xem như được trả xong.

Ông Dương hỏi: -Thế ngươi thiếu Trương gia bao nhiêu tiền?

Người áo đen mặt lộ vẻ buồn rầu, nói:

– Nhiều, nhiều lắm, kể không hết!

Ông Dương sau khi thức giấc, tìm đến Trương gia mượn con lừa, đi một đoạn dài, thì con lừa bỗng nhảy lên hất ông tẻ ngã.

ông Dương tinh toán, thấy mình đi vừa đúng 20 dặm.

Vì vậy mà ông cảm thấy chuyện này thật thú vị và con lừa này quả rất đặc biệt, ông Dương bảo nó:

– Bây giờ thì ta đã rõ và tin nguyên nhân ngươi để ta cưỡi rồi.

Nhưng hiện giờ chỗ này cách nhà ta mười dặm, nếu ngươi không cho cưỡi, thì làm sao ta trở về được đây?

Thôi thì ta tính thế này nhé, ta cưỡi ngươi về xong, sẽ bỏ ra mười quan tiền mua cỏ cho ngươi ăn, chịu không hả?

Con lừa đứng đó, nhìn ông Dương một hồi lâu, rồi đồng ỷ đề cho ông cưỡi về nhà.

(Trích báo Phật ân quyển 4)

25.

CÔNG CHÚA THĂNG HOA

Nguyên Tác Hán văn: Trần Thu Ngọc

Đây là chuyện người thực việc thực, xảy ra tại triều Tống nước tôi, nhân vật chánh sau đó đã chuyển thế tái sinh tại Đài Loan.

Mời bạn kiên nhẫn xem để hiểu thêm về báo ứng nhân quả.

Triều Tống có nàng công chúa tên Thăng Hoa, tính rất kiêu kỳ, tuổi vừa đôi chín, chưa kết hôn, xinh đẹp vô song.

Ngày nọ nàng ở tại cung điện Chiêu Hòa nghe phụ vương và mẫu hậu nhắc đến tân khoa trạng nguyên Mạnh Đạt, một thanh niên có tài văn chương thi phú, hơn nữa còn chơi đàn rất giỏi.

Sau đỏ hoàng đế mời tân khoa trạng nguyên nhập cung để đàn cho vương công quý tộc thưởng thức và ra lịnh triệu tập hoàng hậu, quý phi, công chúa, các vương tử (trong ba cung, bảy mươi hai viện) đồng đến Dưỡng Sinh Điện uống rượu nghe nhạc, vua ra lịnh cho Mạnh Đạt khảy đàn.

Mạnh Đạt vừa đàn vừa hát, lời ca trầm ấm du dương.

Mọi người nghe đều càm động, cùng vỗ tay tán thưởng.

Các quý phi và công chúa xôn xao binh phẩm về Mạnh Đạt.

Riêng công chúa Thăng Hoa thấy Mạnh Đạt tài mạo song toàn, phong độ thanh cao, khôi ngô anh tuấn, thì lòng rất ngưỡng mộ.

Hôm nọ, hoàng đế và hoàng hậu đang bàn hôn sự cho Thăng Hoa, đúng lúc nàng đi tới.

Hoàng đế liền nói: – Con đến thật đúng lúc, chúng ta đang bàn về hôn sự của con, con đã có ý trung nhân chưa?

Công chúa thẹn thùng thưa: – Con nay tuổi mới mười tám, hãy còn nhỏ lắm, phụ vương cần chi phải vội vàng…?

Hoàng hậu đứng bên cạnh vội bảo: -18 tuổi đâu còn nhỏ nhít gì, hồi ta 16 tuổi là đã vào cung hầu hoàng thượng, tính đến nay đã hơn hai mươi năm-“Nam lớn cưới vợ, gái lớn gã chồng” – nếu để lâu, chì càng phát sinh rầu lo thêm thôi, ngày sau con sẽ hối vì muộn màng đó!

Công chúa bị hoàng hậu thúc ép, đành nói:

– Hôm nay thấy tân khoa trạng nguyên Mạnh Đạt tuổi trẻ tài cao, rất có triền vọng, coi bộ là bậc nhân tài, chàng không những văn chương tuyệt luân, lại đàn giỏi hát hay… thật đáng ngưỡng mộ!

Hoàng đế và Hoàng hậu thấy Thăng Hoa luôn miệng khen Mạnh Đạt, hiểu ngay là công chúa rất ưa chàng, bèn âm thầm phái tể tướng làm mai, se duyên cho hai người.

Hai ngày sau, đúng lúc Mạnh Đạt có việc vào cung thăm tể tướng, ông liền hỏi:

-Tân khoa trạng nguyên tuổi trẻ tài cao, tính nết, dung mạo đều bất phàm, chẳng biết đã có vợ hay chưa?

Mạnh Đạt thưa: -Vãn sinh đã thành thân từ hơn bốn năm trước rồi ạ!

Tể tướng lắc đầu nói:

– Tiếc quá!

Tiếc quá!

Hôm nay thiên tử thấy ngươi khôi ngô anh tuấn, tài mạo hơn người nên có ý muốn đem công chúa Thăng Hoa gả cho ngươi, chẳng biết ý ngươi thế nào?

Mạnh Đạt vừa nghe qua, hồi hộp thưa:

– Ý ngài nói… bệ hạ muốn chọn tôi làm phò mã ư?

– Đúng vậy, ông trạng ơi!

ông hãy suy nghĩ cân nhắc thử xem, nếu mà ông cưới công chúa và trở thành phò mã thì cả đời tha hồ hưởng vinh hoa phú quý không hết đó!

Mạnh Đạt liền nghĩ tới gia cảnh nghèo nàn của mình, ngay cái chuyện cơm ngày ba bữa cũng là mối lo lớn, cả đến món tiền lên kinh ứng thí cũng do vợ chàng cắt tóc bán đi mới có được, nếu như phải quay lại sống cảnh cơ hàn khổ sở như xưa, chàng thực không muốn chút nào…

Huống chi công chúa Thăng Hoa dung nhan thập phần kiều diễm, có được cơ hội vin long tựa phụng như vậy thi ai lại không muốn kia chứ?

Thế là chàng đồng ý.

Không bao lâu, đám cưới Mạnh Đạt và công chúa diễn ra linh đình.

Đêm tân hôn, giây phút Mạnh Đạt giở khăn tân nương ra, nhìn thấy công chúa xinh đẹp mỹ lệ, còn nhoẽn miệng cười duyên với chảng, Mạnh Đạt vô cùng đắc ý.

Vì vừa đỗ tân khoa trạng nguyên đã được tuyền ngay làm phò mã, thực là: “Mười năm hàn vi không ai ngó, vừa mới thành danh được quý ngay!’’.

Mạnh Đạt đi thi một lần đó, đến nay đã ba năm không quay về.

Chàng hoàn toàn quên hẳn quê nhà có người vự cũ mòn mỏi ngóng trông, nàng đã hi sinh, cắt phăng mái tóc đẹp bán cho chàng đi thi.

Thật là con người bạc tình phụ nghĩa, có mới quên cũ.

Hôm nọ, Mỹ Loan, vợ cũ của Mạnh Đạt, nghe đồn là Mạnh Đạt hiện giờ đang làm quan.

Nàng vui mừng khôn xiết, vội đi vay hàng xóm hai lạng bạc, để lên kinh đoàn tụ cùng chòng.

Trên đường, Mỹ Loan nếm đủ mùi gian nan vất vả, cuối cùng cũng đến được kinh thành.

Nhưng đến đây nàng nhận được tin trời giáng: Mạnh Đạt giờ đã làm phò mã, đang sống hạnh phúc với công chúa Thăng Hoa.

Lòng nàng càng bi ai khi nghĩ đến cảnh minh bơ vơ ờ chốn kinh thành, chung quanh không có ai thân thích…

Bị chồng phụ tình say duyên mới, nàng đau khổ muốn khóc nhưng nước mắt không trào ra được.

Sau đó nàng nghĩ: “Đã đến kinh thành, may rủi gì cũng phải đánh liều, thử đến gặp chồng xeni sao?”

Nàng hỏi thăm và biết dinh thự phò mã ở phía tây ngoại thành, bèn đi thẳng đến đó.

Nhằm lúc Mạnh Đạt đi vắng, nàng phải tới lui ngót ba lần mới tìm được Mạnh Đạt.

Mạnh Đạt vừa nhìn thấy nàng, tỏ vẻ hết sức căng thẳng, vội sắp xếp cho nàng ờ nhờ một nhà dân gần đấy.

Từ đó, Mạnh Đạt thường giấu Thăng Hoa, lén đến thăm vợ cũ.

Ba tháng sau, Mỹ Loan mang thai, việc này không bao lâu cũng đồn đến tai công chúa.

Thăng Hoa đùng đùng nổi giận, nhưng chẳng biết xử trí ra sao, đành đem việc này bàn với tỳ nữ thân tín là A Kiều.

A Kiều bảo phải lập tức “ban tử” ngay cho vợ cũ Mạnh Đạt để tránh “đêm dài lắm mộng”.

Công chúa nghe bàn, cảm thấy có lý, lập tức lệnh cho A Kiều đi tìm Mỹ Loan.

A kiều vội đi tìm thư đồng tâm phúc của Mạnh Đạt, hỏi thăm tông tích vợ trước của chàng.

Mới đầu thư đồng chẳng chịu nói, A Kiều liền tặng cho y mười lượng bạc, thế là thư đồng tối mắt, liền khai ra: -“Vợ trước Mạnh Đạt đang ngụ tại nhà Trương Tam ở phía đông ngoại thành, cách đây không xa”.

A kiều moi được tin này rất hài lòng, hí hửng quay về tấu trình cho công chúa hay, công chúa liền lệnh cho A Kiều đi mời Mỹ Loan tới.

Mỹ Loan đáng thương trước đây sống tại làng quê cùng chồng, từng nếm qua tháng ngày hàn vi gian khổ, nhưng vợ chồng họ rất khắng khít yêu thương.

Vì Mạnh Đạt học cao, có tài, lại đàn giỏi hát hay, nên dân làng hết sức mến mộ họ.

Sau đó vì Mạnh Đạt muốn thực hiện hoài bão lý tưởng mình, bèn lên kinh ứng thí.

Vừa thi, chàng đã đậu trạng nguyên.

Nhưng bất hạnh thay, chàng lại lọt mắt xanh công chúa, được tuyển làm phò mã.

Một lần đi thi ba năm bặt tin, do vậy mà Mỹ Loan phải lặn lội ngàn dặm tìm chồng.

Sau khi Mạnh Đạt đã sắp nàng ngụ tại nhà người bạn thân họ Trương.

Ngày nào chàng cũng đến thăm Mỹ Loan.

Chẳng bao lâu thì Mỹ Loan hoài thai.

Mạnh Đạt trong lòng rắt vui, thầm nghĩ chẳng mấy chốc nữa mình sẽ được làm cha, chàng hớn hở đem chuyện này báo cho các bạn thân hay.

Nào ngờ do sự tình không giữ được bí mật, chuyện bị đổn lan đến tai Thăng Hoa, nàng nổi thịnh nộ và lịnh cho tỳ nữ tâm phúc đi tìm Mỹ Loan tính sổ.

A Kiều đến chỗ Mỹ Loan đúng lúc họ Trương đi vắng, chỉ có Mỹ Loan ở nhà.

Nhìn thấy Mỹ Loan duyên dáng khả ái, trắng da dài tóc, tay chân mướt rượt, trông rất nhàn nhã ung dung…

A Kiều thầm nghĩ: “Đúng là bộ dạng của kẻ được sủng ái tưng tiu đây!

Ả xinh đẹp như vậy, hèn chi mà phò mã mê mệt, không thể nào quên được vợ yêu!”…

A Kiều tức tối lắm nhưng cố vờ như không biết chuyện, giả bộ nói:

– Xin hỏi, Mỹ Loan có ở nhà hay không ạ?

Mỹ Loan ngạc nghiên khi thấy trước mắt là một cô gái mặt y phục sang trọng, nhất định không phải con nhà dân dã, nhưng vì sao lại tìm mình?

Tuy thắc mắc, song nàng vẫn đáp:

-Tôi là Mỹ Loan, cô là ai?

Tỉm tôi có chuyện gì?

A Kiều nói: – Tôi là tỳ nữ của công chúa Thăng Hoa, công chúa phái tôi đến mời cô vào hưởng vinh hoa phú quý, cô hãy mau đi cùng tôi đến cung phò mã, không nên ngụ lâu ở chỗ nghèo hèn này.

Mỹ Loan nghe nói vô cùng mừng rỡ, vội cùng A Kiều lên xe ngựa đi thẳng đến chỗ công chúa.

Công chúa thấy Mỹ Loan tới, trong lòng rất mừng, thầm nghĩ:

-A!

Con Mỹ Loan đáng ghét này, hãy xem ta trị tội nó…

Phần Mỹ Loan được đến dinh phò mã thì thập phần sung sướng.

Dinh phò mã rộng rãi, tráng ỉệ nguy nga.

Nàng thấy công chúa Thăng Hoa ngồi tít trên cao, hai bên tỳ nữ đứng xếp hàng dài, các gia nhân công chúa đang bận rộn vào ra.

Công chúa tuy xinh đẹp vô song, nhưng nàng đang ghen nên trông rất dữ và hết sức oai vệ khiến Mỹ Loan thầm sợ hãi.

Một cảm giác không lành chợt nổi lên trong lòng nàng.

Thăng Hoa hỏi Mỹ Loan:

– Ngươi là Mỹ Loan, người mà Mạnh Đạt cưới ở quê đó hả?

Mỹ Loan vội thưa:

-Dân nữ chính là Mỹ Loan, người phối ngẫu của Mạnh Đạt.

Nhân vì chàng lên kinh lâu quá không về, nên tôi phải lên kinh tìm để cùng nhau xum họp.

Kính mong công chúa ban ân, tác thành nguyện vọng của dân nữ.

Công chúa vừa nghe qua, nổi lôi đình, vội đập bàn truyền lịnh:

-Trong đây có ba trăm lạng bạc để cho ngươi cút xéo về quê, từ rày trờ đi phải ân đoạn nghĩa tuyệt với Mạnh Đạt, cấm không cho mi tới lui cùng hắn nữa!

-Mỹ Loan nghe vậy, hết sức buồn rầu, òa khốc tức tửi, nói:

-Tôi không cần bạc, tôi chỉ cần chồng tôi mà thôi!

Công chúa thấy dùng tiền bạc chẳng có hiệu quả, nàng ngẫm nghĩ: “Giờ chỉ còn nước giết Mỹ Loan để dứt trừ hậu hoạn như A Kiều bày”, bèn quát:

– Ả tiện nhân đáng ghét kia!

Rượu mừng không uống, lại muốn uống rượu phạt.

Ta có lòng tốt ban cho ngươi tiền, ngươi lại không thèm lấy, thực là khiến ta tức chết đi!

Được lắm!

Quân đâu?

Hãy lôi con tiện tỳ lớn mật này đem giết quách cho ta!

Mỹ Loan thấy công chúa cư xử như thế thỉ quá tức nên buột miệng mắng:

– Thăng Hoa, mi thật là khả ố!

Đã giựt chồng ta, còn muốn giết ta diệt khẩu.

Ta dù có thành quỷ cũng quyết tìm ngươi mà báo thù!

Nhưng gia đinh công chúa không đợi Mỹ Loan nói dứt câu, đã kéo nàng đi hạ sát rổi tiện tay chôn thây nơi đồng cỏ ngoài thành.

Sau đó không lâu, lúc công chúa ra ngoài tản bộ, tình cờ nghe hai tỳ nữ thỉ thầm to nhỏ về chuyện nàng giết tỉnh địch.

Công chúa rất phiền bực, không biết làm sao cho êm chuyện.

Lúc đó nhũ mẫu nàng ở cạnh bên liền hiến kế:

– Công nương, sao không đem toàn bộ nô tỳ biết chuyện ngày hôm đó giết hết đi?

Để tránh ngày sau phò mã hay được, sẽ rạn vỡ hạnh phúc vợ chồng…

– Công chúa nghe nhũ mẫu nói có lý, bèn truyền lịnh gọi mười mấy nữ tỳ tới, âm thầm ban án tử cho tất cả. (Trong đây có nữ tỳ A Nga là chị ruột của A Dân) hai chị em họ đồng làm nữ tỳ trong cung công chúa.

Do tỷ muội tình thâm,

A dân nghe hung tin công chúa muốn giết chị mình, vội chạy đến trước công chúa, xin tha tội cho A Nga.

A Dân quỳ trước công chúa khóc nối: – Con van công nương!

Xin hãy mở lòng từ đừng giết chị con – Con nguyện cả đời làm trâu ngựa – Cúi xin công chúa đừng giết chị con…

Thăng Hoa tâm tư đang rất bực bội nên không đếm xỉa gì tới lời thỉnh cầu của A Dân, nàng phất tay ra hiệu cho cô thối lui, nào dè bên cạnh công chúa còn có một cái bàn nhỏ, binh hoa trên bàn ngay lúc đó bị tay nàng phẩy trúng, rơi xuống… và đập mạnh vào đầu A Dân, chĩ thấy A Dân thét lên một tiếng thảm thương, máu tuôn đầy mặt…

Công chúa nhìn thấy cà kinh, vội kêu đại phu tới dìu A Dân đi chữa trị.

Nhưng máu chảy nhiều quá, mấy ngày sau thì A Dân chết.

Phò mã Mạnh Đạt đáng thương từ đầu tới cuối không hề biết các hành vi tàn nhẫn của công chúa Thăng Hoa kiều diễm.

Nàng đã khéo léo che đậy bưng bít mọi chuyện.

Mười mấy năm sau, công chúa Thăng Hoa chết, Mạnh Đạt cũng tiếp nối mạng vong.

Cùng chuyển thế đầu thai tại Đài Loan

Năm Dân Quốc 38, (1949) phò mã Mạnh Đạt đầu thai vào gia đỉnh họ Ngô ở Đài Nam, tên là Dân Hùng.

Lên 5-6 tuổi thì Dân Hùng học đàn Vi-ô-lông, bởi vì kiếp trước vốn có sẵn tài đánh đàn, cho nên đời này năng khiếu ấy còn tiềm ẩn.

Nhạc sư chì cần dạy một là Dân Hùng hiểu mười.

Thêm nữa tiếng đàn của Dân Hùng hay vượt xa thầy, âm thanh vô cùng mỹ diệu.

Thật trùng hợp, Thăng Hoa lúc này cũng chuyển thế đầu thai vào một gia đình làm nông ở Cao Hùng, tên là Mỹ Lệ.

Thời gian qua rất nhanh, chớp mắt đã hai mươi mẩy năm, Mỹ Lệ đà trưởng đại, thành một cô gái thông minh khả ái.

Còn Dân Hùng trong kiếp hiện tại này, học nhạc được mười mấy năm thì xuất ngoại du học, chàng sang Âu châu bái danh sư học đàn Vi-ô-lông.

Sau khi thành tài, về nước, nổi tiếng là một danh cầm.

Không bao lâu thì chàng được thân hữu giới thiệu quen biết Mỹ Lệ, đôi bên giao lưu suốt hai năm.

Họ cảm thấy rất tâm đầu ý hợp, tình cảm phát sinh ngày càng thân thiết.

Thế là họ cưới nhau và dời đến Đài Bắc cư ngụ.

Mái ấm của Mỹ Lệ và Dân Hùng cũng giống như bao cặp phu thê bình thường khác.

Mấy năm sau, Mỹ Lệ quen biết nhiều bạn tốt, được hướng dẫn quy y Tam bảo, nàng trở thành một đệ tử thuần thảnh của Phật giáo.

Suốt ngày giữ khẩu đức, ăn chay.

Hơn nữa nàng rất hay đến chùa tạo phúc cúng dường.

Sau khi hiểu sâu pháp Phật, Mỹ Lệ luôn khuyên lơn chồng, mong chàng có thể quy ỵ Tam-bảo, nhưng Dân Hùng không nghe lời nàng khuyên, hằng ngày đắm chìm trong ngũ dục, Mỹ Lệ cảm thấy rất khổ tâm, nàng thường ờ trước Phật đường niệm Phật, cầu Bổ-tát hiển linh thức tỉnh chồng mình.

Ngày nọ, bạn bè Dân Hùng tặng cho chàng một con cua bự, Dân Hùng rất thích, thầm nghĩ tối nay sẽ có được bữa ăn ngon.

Mỹ Lệ thấỵ vậy thầm than khổ, nàng thừa biết tính khí của chồng, con cua bự này tối nay nhất định sẽ nằm gọn trong bụng chàng, thế là nàng âm thầm cầu Bồ-tát Quan Thế Âm cứu con cua.

Ban ngày trôi qua rất nhanh, bóng đêm nối nhau tràn đến.

Mỹ Lệ tránh né không làm con cua, điềm nhiên vào phòng chuẩn bị ngủ, Dân Hùng bảo nàng:

– Em cứ đi ngủ trước, anh phải đến nhà bếp nấu cua ăn để tẩm bổ.

Mỹ Lệ nghe, trong lòng không vui, tội con cua sắp bị chồng xơi thịt, nàng âm thầm cầu nguyện Bồ-tát Quan Thế Âm hiển linh cứu con vật đáng thương kia, để chồng nàng không ăn nó.

Dân Hùng xuống nhà bếp, bắc nước lên và bật lò nấu nước.

Chảng chuẩn bị bắt cua bò vào nước sôi, trong lúc khẩn trương này thi kỳ tích bỗng dưng xuất hiện.

Dân Hùng ngạc nhiên nhìn con cua, không biết vi sao nó cứ quay mòng mòng trong thùng, thấy Dân Hùng thò tay định bắt, thi nó vội đưa càng lên run rẩy… tỏ vẻ rất sợ hãi,

Dân Hùng thấy vậy thi ngây người ra ngó, trong lòng bỗng lóe lên ý nghĩ: “Sao mình quá ích kỷ, vì muốn ăn ngon, sướng miệng một chút mả toan kết liễu mạng con cua đáng thương.

Con cua này thật tội nghiệp biết bao!”

Thế lả chàng quyết định, ngày mai trời sáng sẽ đem cua đi phóng sinh.

Lúc này Mỹ Lệ trong phòng ngủ vạn phần nóng ruột, vì không biết mạng sống con cua ra sao nên nàng cứ niệm danh Bồ-tát Quan Âm liên tục để cầu cho con cua, niệm được mười mấy phút, lòng vẫn không an nên nàng quyết định đi xuống nhà bếp tim Dân Hùng.

Vừa mới đi ra nàng đã gặp chồng ngay trước cửa phòng, nàng hỏi Dân Hùng: – Anh có ăn con cua ấy không vậy?

Dân Hùng lắc đầu, trả lời: – Không!

Anh không ăn nó!

Anh định sáng mai đem nó đi phóng sinh.

Em hãy xuống bếp mà xem, con cua vẫn còn sống.

Mỹ Lệ nghe nói, bán tín bán nghi, thầm nghĩ đây là chuyện không thể, chồng nàng đang nôn nóng muốn có món ăn ngon, con cua kia làm sao thoát được?…

Hồi nãy chàng cứ khăng khăng đòi làm thịt cua mà?

Sao bây giờ lại muốn phóng sinh nó?

Mỹ Lệ thắc mắc vô cùng, vừa nghĩ nàng vừa đi vào nhà bếp xem, thì thấy đúng là con cua vẫn còn nằm trong thùng.

Mỹ Lệ đi vào phòng ngủ hỏi chồng mọi sự.

Dân Hùng liền kể hết chuyện vừa xảy ra cho nàng nghe, Mỹ Lệ chợt nhớ lại tình huống này giống như hai câu trong kinh “Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm Phổ Môn đã diễn tả: “Niệm bỉ Quán Âm lực, tức thời khởi từ tâm’’

Đây có lẽ nhờ uy thần vĩ đại của Bồ-tát Quan Âm hiển linh cứu con cua.

Sáng hôm sau hai vợ chồng cùng ngồi vào xe hơl, Dân Hùng lái xe đem cua đi phóng sinh.

Vào mùa xuân, cây cối xanh tươi, các nhánh cây trổ chồi non lố nhố, giống như những mầm sống mới bắt đầu.

Xe dừng dưới một cội cây to, Mỹ Lệ xách thùng đựng cua xuống xe, hai người chuẩn bị thả nó xuống suối.

Họ niệm danh hiệu Bồ-tát Quan Thế Âm, tụng chú Đại Bi và niệm Phật A Di Đà…

Khi con cua nghe niệm thánh hiệu Phật, Bồ-tát, nó tỏ vẻ rất hớn hở.

Bấy giờ Mỹ Lệ và Dân Hùng mới phát hiện con cua này thật khả ái, Dân Hùng cũng nhận ra mình quá tàn độc vì đã ăn thịt biết bao loài thủy tộc đáng thương.

Bây giờ nhờ thả con cua mà chàng hiểu được, loài vật cũng có tình cảm, nhưng con người hằng ngày lại đem những loài vật đáng yêu này quay, nướng, chưng, rim…

Thật là bất nhẫn quá.

Mỹ Lệ đặt thùng xuống, con cua bò ra, đưa hai càng lên, bộ điệu rất vui vẻ như bái chào từ biệt, giống như cảm tạ họ đã ban ân cứu mạng nó.

Dân Hùng nhìn thấy thái độ tri ân của con cua, lòng rất cảm động, chàng âm thầm quyết định, kể từ hôm nay sẽ trường trai cùng vợ.

Mỹ Lệ có một cô em gái, thường cảm thấy lá phổi đau đớn, sau đó cô đến bịnh viện kiểm tra và chụp X quang, bác sĩ nói là không có bịnh gỉ, nhưng nhìn trên phim chụp lại thấy có hai lỗ to, chẳng biết lả thế nào.

Sau đó em gái Mỷ Lệ sực nhớ tới hồi nhỏ, cô thường chơi nghịch ngắt bẻ cánh bọ rầy vả chuồn chuồn, lại còn chọc thùng hai lỗ trên thân chúng, bây giờ nhin hai lỗ thủng trên phim X quang cô thấy giống y như hai lồ thủng cô thường dùi trên thân chuồn chuồn.

Mỹ Lệ có một người anh hai, lúc 30 tuổi đột nhiên hai chân không thể cử động.

Bác sĩ khám cũng không tìm ra nguyên nhân.

Sau Mỹ Lệ tặng cho anh một cuốn kinh Bồ-tát Địa Tạng Vương, anh đọc rồi, hiểu sâu và chợt nhớ, hồi nhỏ mình thường bẻ chân dế mèn, chuồn chuồn, bọ ngựa và các con thú nhỏ khác.

Do vậy mà giờ bị quả báo hai chân không cử động.

Đây chính là trong kinh Địa Tạng Vương, có nói: “Nếu tàn hại sinh vật, thì bị quả báo tai ương, thương tật”

Mỹ Lệ thấy chuyện nhân quả báo ứng của anh trai và em gái, trong lòng thường nghĩ đến việc sát sinh chồng chất của mình, không kể trong nhiều kiếp sinh tử luân hồi đã qua, chỉ tính kiếp này thôi cũng đủ sợ.

Vì lúc chưa biết Phật pháp, do ngu muội nàng đã sát sinh rất nhiều nên bây giờ nàng thầm lo, chẳng biết bao giờ quả báo sẽ giáng xuống đầu mình?

Bởi vì hồi trước chồng nàng thích ăn mặn, ưa xơi đủ thứ thịt và hải sản, vì vậy mà nàng thường phải giết gà vịt, sát sinh đủ loài để làm chồng vui. cổ nhân thường nói: “Quân tử lánh xa nhà bếp”, Ắt là nguyên nhân này đây! – Bởi vỉ trong bếp sát sinh rất nhiều, người quân tử không nỡ nhìn và nghe, cho nên không xuống bếp.

Từ khi Mỹ Lệ hiểu Phật pháp rồi, mới biết đến chuyện nhân quả trả vay báo ứng.

Do tội sát sinh nên sau khi qui y Phật không lâu thì nàng phát bịnh, đi chữa chạy khắp thầy thuốc đông y, tây y toàn tỉnh, mà bịnh vẫn không lành.

Bạn bè Dân Hùng hay tin Mỹ Lệ bịnh, sẵn dịp chính phủ mở cửa – cho phép dân Đài Loan sang thăm Đại Lục – nên họ giới thiệu và khuyên vợ chồng Dân Hùng hãy qua Đại Lục trị bịnh.

Thế là hai vợ chồng liền đáp phi cơ sang Thái, rồi từ đó bay sang Bắc Kinh.

Ngồi trên phi cơ, hai vợ chồng dự tính là trước tiên họ sẽ đi thưởng ngoạn các danh lam thắng cảnh, ghé Thiên An Môn và tham quan cung điện hoàng đế…

Rồi mới vào y viện Bắc Kinh trị bịnh sau.

Phi cơ vừa đáp xuống Bắc Kinh, hai vợ chồng liền tìm một hướng dẫn viên thành phố để nhờ họ dẫn đến Thiên An Môn trước.

Chính tại đây, một chuyện kỳ lạ xảy ra.

Quãng trường Thiên An Môn rất rộng lớn, hai vợ chồng đi ngót hơn bốn tiếng đồng hồ, đi đến hai chân mỏi nhừ, sau đó Mỹ Lệ rời Dân Hùng tìm đến nhà vệ sinh công cộng.

Lúc đi vào nhà xí, nàng bỗng thấy một đốm sáng màu đỏ nhấp nháy xẹt qua, trông rất kỳ quái và đáng sợ, nàng nghĩ chắc do mình hoa mắt…

Đi vệ sinh xong, nàng đem việc này kể cho Dân Hùng nghe, bị Dân Hùng la cho một trận, chàng nói: – Em cứ đòi đi mãi đi hoài cho mệt đuối, đến nỗi bây giờ đầu váng mắt hoa, mới trông gà hỏa cuốc, nhìn đông ra tây như vậy đó!

Nhưng, lúc Dân Hùng đến nhà vệ sinh công cộng, vừa mở cửa nhà xí ra, thì đột nhiên cũng thấy một đốm sáng màu đỏ lóe lên, lòng Dân Hùng thoáng dấy chút sợ hãi, vì chàng có cảm giác như đang gặp phải đối thủ khí kình chống.

Hai người đi nhà xí xong, thì đầu Mỹ Lê chợt đau như muốn vỡ tung.

Dân Hùng và anh hướng dẫn viên đành hộ tống nàng về khách sạn.

Mới đi được nửa đường, thì thấy sắc mặt Mỹ Lệ càng lúc càng nhợt nhạt.

Trên đường nàng cứ khóc mãi không thôi.

Dân Hùng đành đưa Mỹ Lệ đến y viện.

Vào bịnh viện Báac Kinh, các bác sĩ cho Mỹ Lệ uống thuốc và nàng ngủ thiếp đi.

Hôm sau, Dân Hùng vừa đến bịnh viện thì cô hộ lý kéo chàng qua một bên nói nhỏ:

– Ngô tiên sinh, Mỹ Lệ vợ ông có thái độ rất kỳ, ông hãy tự mình đi vào xem thì sẽ biết ngay!

Dân Hùng liên vào phòng thăm vợ, thấy Mỹ Lệ nằm dài trên giường, giọng nói nàng biến đổi rất lạ, giống như là người khác, nàng nói:

– Ta là tỳ nữ Tống triều, ngày xưa hầu công chúa Thăng Hoa!

Tiền thân Lâm Mỹ Lệ chính là Công chúa Thăng Hoa, còn mi – Ngô Dân Hùng – tức là phò mã chồng nàng kiếp xưa.

Công chúa Thăng Hoa nhân vì giết phu nhân Mỹ Loan (vợ trước của phò mã) nên đã giết luôn mười mấy người tỳ nữ biết chuyện để diệt khẩu.

Nhóm quỷ nữ chúng ta tìm kiếm công chúa Thăng Hoa đã rấ lâu rồi, hôm nay cuối cùng các người cũng dẫn xác tới, giờ chúng ta muốn đòi mạng ả, ả phải bồi thường cho chúng ta….

Hồn quỷ nói xong, Mỹ Lệ bị hành đau đớn khóc to không dứt.

Dân Hùng nghe oan quỷ nói, không kìm được run sợ đến phá rét, chàng nghĩ nhất định hồi nãy cô hộ lý chắc đã nghe qua những lời nói lạ lùng này rồi.

Chàng sợ đến muốn bỏ chạy, nhưng vẫn ráng làm gan, thu hết can đảm, cố ra vẻ cứng cỏi nói:

– Cầu…cầu xin các vị oan quỷ hãy tha cho vợ tôi một phen, các vị nếu có yêu cầu gì chúng tôi đều đáp ứng tất, chỉ xin các vị tha mạng cho vợ tôi.

Hồn quỷ nói:

– Không dễ gì tha thứ đâu, ả hại chúng ta chết quá thê thảm!

Có nhiều người phải nhận lấy cái chết oan khuất không minh bạch!

Mi bảo chúng ta tha cho ả được sa?

Như Thế chẳng phải là quá dễ dàng cho ả!

Mi có biết chúng ta bị ả hại chết rồi tì đọa xuống địa ngục ở trong ngục nhận chịu trăm ngàn thống khổ, không bao lâu mới từ địa ngục được thả ra, nhóm chúng ta đọa vào cõi quỷ sống vất vưởng bơ vơ vô chủ, chỉ biết nương theo gió lẩn quẩn quanh Thiên An Môn….Giờ đã gặp Thăng Hoa chuyển thế thành Mỹ Lệ, chúng ta đang tìm ả mà báo oán cừu kiếp trước đây!

Dân Hùng nghe quỷ thịnh nộ kể lể, liền nói:

-Tôi thấy cách này là tốt nhất: các vị đã rất thống khổ, hãy để tôi kêu Mỹ Lệ xuất tiền làm đám và lễ tụng một bộ Lương Hoàng Sám để cầu siêu cho các vị.

Chỉ cần các vị chịu tha mạng cho Mỹ Lệ, nương vào công đức Lương hoàng Sám, các vị sẽ sớm siêu sinh…..

Quỷ nói: – Được, nếu hôm nay không phải mi nói tha thiết hết tình, thì chúng ta nhất quyết đòi mạng ả.

Nhưng giờ đây mi đã hứa…?

Thì phải biết giữ lời!

Nếu không, chúng ta sẽ quay lại bắt ả báo thù!

Thôi chúng ta đi đây…

Giọng nói Mỹ Lệ đã trở lại bình thường như xưa, nhưng nàng lại chìm vào hôn mê bất tỉnh.

Dân Hùng vội kêu bác sĩ, họ trị liệu xong, mặt nàng mới dần dần khởi sắc.

Mỹ Lệ nằm viện suốt mười mấy ngày, thân thể dần chuyển tốt.

Suốt thời gian Mỹ Lệ nằm viện, Dân Hùng một mực ở kề bên chăm sóc trông nom tử tế.

Nửa tháng sau, bác sĩ cho Mỹ Lệ xuất viện.

Thấy vợ lành mạnh rồi, Dân Hùng bảo: – Nghe nói Bắc Kinh có rất nhiểu cổ vật, các bạn anh từng căn dặn chúng mình hễ đến đây thì ít nhất, phải mua một thứ cổ vật gi đỏ đem về.

Mỹ Lệ xuất viện được ba ngày thì Dân Hùng đưa nàng đến gian hàng bán đồ cổ.

Đây là một gian hàng đồ cổ nổi danh.

Nhưng thêm một việc kỳ quái nữa phát sinh, hai vợ chồng vừa đến nơi thì nhân viên sốt sắng mời hai người thưởng ngoạn.

Dân Hùng ngắm các món đồ cổ xinh đẹp đang chưng bày la liệt và cầm lên một cái chén sứ, còn đang săm soi thì chủ quầy vội nói:

-Tiên sinh thật có mắt tinh đời, đây là cái chén Cửu Long Ngọc của hoàng đế triều Minh, rất trân quý, dùng để ăn cơm.

Nếu ông ưa nó thì tôi sẽ giảm chút giá, bán rẻ cho!

Chỉ lấy một vạn năm ngàn tiền Đài Loan (tương đương 440 USD) thôi.

Mỹ Lệ đứng bên nghe vậy tức giận nối:

– Một cái chén nhỏ xíu, mà tính giá như vậy là quá đăt!

ông chủ quán nè, ông có uống lộn thuốc không vậy? – Một vạn năm ngàn tiền Đài Loan tương đương 440 USD!

Trong khi công nhân các ông tính theo tiền Đại Lục lương mỗi tháng chỉ có 6 -7 usd, bộ ông nghĩ dân Đài Loan chúng tôi toàn là hạng giàu có, nên mới nói giá trên trời như vậy hả?

Dân Hùng nghe vợ ca cẩm, cảm thấy nàng nói có lý.

Chàng tiếp tục thưởng ngoạn các thứ khác.

Cả hai cứ đi tới, đi tới mãi…

Bỗng Mỹ Lệ nhìn thấy một đôi bình hoa rất đẹp cao khoảng 25cm, đột nhiên nàng tỏ vẻ rất sợ hãi, giọng nói cũng thay đổi nghe rất lạ:

-Tôi không muốn xem bình hoa!

Tôi bị công chúa Thăng Hoa dùng bình này đập vào đầu chảy rất nhiều máu, chảy mãi… chảy mãi., cho tới chết…

Một đời này của tôi sợ nhất là thấy bình hoa!

Tôi không muốn xem nữa, tôi rất sợ, sợ lắm…

Nhanh lên!

Nhanh lên!

Mau đem bình hoa dẹp đi, đem ngay ra đi!

Tôi không muốn thấy nó, tôi không muốn nhìn thấy bình hoa đáng sợ này!…

Bây giờ Dân Hùng mới biết là hồn quỷ ở trên thân Mỹ Lệ đang nói.

Chàng không biết xử trí ra sao.

Nhìn thấy Mỹ Lệ té xỉu, chàng vội gọi điện kêu xe cấp cứu đưa vợ đến bịnh viện.

Bác sĩ nói: – Bà nhà mới xuất viện không bao lâu, do bồi dưỡng chưa đủ, lại thêm bị sốc, cần phải nhập viện lại, nếu không sẽ nguy đến tính mạng.

Tốt nhất nên ông nên đưa bà về Đài Loan, vào bịnh viện lớn cấp cứu.

Dân Hùng hết cách, đành nghe theo bác sĩ, lập tức đáp phi cơ về nước.

Tụng kinh cầu cho oan quỷ

Về tới Đài Loan, Dân Hùng tức tốc đưa Mỹ Lệ vào bịnh viện Đài Đại, bác sĩ tỉm không ra nguyên nhân hồn mê của Mỹ Lệ, đành truyền nước biển hỗ trợ thêm cho nàng.

Dân Hùng nhìn thấy vợ ngày càng nguy, vội đi tìm sư phụ An ở ngôi chùa X và thỉnh Tâng, Ni trong chùa đến trợ niệm vãng sinh cho Mỹ Lệ.

Tụng hai ngày hai đêm.

Nhưng Mỹ Lệ từ đầu đến cuối vẫn hôn mê không tỉnh, Sư An thấy tình hình Mỹ Lệ như vậy, đành hỏi Dân Hùng:

– Vợ ông qua Đại Lục có phát sinh việc gì kỳ quái chăng?

Nếu không, vì sao trợ niệm mãi mà tình trạng vẫn không thay đổi?

ông hãy ráng nhớ lại xem!

Dân Hùng suy nghĩ rất lung, sau đó mới đem những chuyện xảy ra bên Đại Lục nhất nhất kể hết ra.

Sư An lại hỏi Dân Hùng:

– Thế khi các vị quay về, không hề tụng Lương Hoàng Sám để cầu siêu cho oan quỷ à?

Dân Hùng lắc đầu đáp:

– Không!

Trong thời gian vợ tồi nằm viện, tôi bận chăm sóc, không có thời gian để đi đến các chùa mời thỉnh chư tăng tụng Lương Hoàng Sám giải oan cho quỷ…

Sư An nghe Dân Hùng nói vậy, liền bảo:

– Vợ ông bịnh nhất định là bị các oan gia trái chủ trong quá khử đến đòi nợ, những oan gia này là các hồn quỷ mà hai vị đã gặp ờ Đại Lục.

Chắc chắn họ đã thọ khổ trong ba đường ác.

Vợ chồng các vị nay đã biết tu tập, vì vậy oan quỷ đặc biệt tới đòi các vị hồi hướng công đức và tụng kinh Lương Hoàng Sám cầu siêu cho họ, do vậy mà vợ ông vô phương vãng sinh!

Tốt nhất ông nên phát nguyện siêu độ cho oan quỷ.

Nếu không bác sĩ cũng bó tay, không thề nào chữa lành bịnh vợ ông…

Dân Hùng nghe nói, mắt rưng rưng lệ.

Suy nghĩ một hồi chàng khấn vái:

– Những oan quỷ của chúng tôi ơi!

Xin đừng đòi mạng vợ tôi, chỉ cần cô ấy lành bịnh, thân thể khang kiện rồi, tôi nhất định sẽ thỉnh thầy và chư Tăng – Ni tụng một bộ kinh Lương Hoàng Sám cầu siêu cho chư vị.

Dân Hùng hứa xong, đột nhiên thấy Mỹ Lệ cử động, bắt đầu thở được, sư An và các tu sĩ thấy bịnh Mỹ Lệ chuyển tốt, bèn từ giã Dân Hùng quay về chùa.

Mỹ Lệ nằm viện suốt ba tháng, Dân Hùng do bận rộn chăm sóc Mỹ Lệ mà gầy tọp đi.

Sau khi xuất viện, Mỹ Lệ được Dân Hùng dìu về nhà nằm dưỡng.

Không bao lâu sau thì nàng dần hồi phục, mạnh khỏe.

Đề giúp họ thực hiện lời hứa với oan quỷ, Sư An tổ chức đại lễ tụng Lương Hoàng Sám tại chùa.Trong đại lễ này, ngoài Dân Hùng và vợ còn có em gái và anh trai Mỹ Lệ cũng đến tham dự.Toàn gia cùng tụng Lương Hoàng Sám.

Mọi người tụng vang vang:

“Trên Hội Lương Hoàng Sám, hoa tung bay..

Tụng lễ sám xong, tội diệt ngay!

Xin nguyện tương phùng cùng nhau trong pháp hội…

Đại lễ sám hối khai mạc được hơn một giờ thi việc lạ xảy ra, trên đầu Mỹ Lệ bỗng xuất mồ hôi lạnh, to như hột đậu, hạt hạt thi nhau rơi xuống, nàng bị chóng mặt, hoa mắt, Dân Hùng nhìn thấy vợ thần sắc nhợt nhạt, vội hỏi:

– Em sao thế, có chuyện gì vậy?

Mỹ Lệ không còn trụ vững nữa, cũng chẳng thể trả lời, mặt chuyển sang sắc đen.

Dân Hùng liền bảo em gái Mỹ Lệ:

-Trông Mỹ Lệ sắc mặt kém quá, em hãy mau vào trong chùa xin chư Tăng dành cho chúng ta một chỗ để cho Mỹ Lệ tạm nghỉ dưỡng.

Có thể do Mỹ Lệ vừa mới ra viện không lâu, lạy phải tụng kinh lễ sám quá mệt…

Em hãy mau thỉnh sư An đến, e sẽ xảy ra chuyện, anh dìu Mỹ Lệ đi nghĩ trước…

Em gái Mỹ Lệ vội đi mời sư An, sư chỉ chỗ nghỉ ngơi cho Mỹ Lệ.

Mỹ Lệ vừa nằm xuống thi bắt đầu lân lộn đau đớn trên giường, Dân Hùng và em gái Mỹ Lệ không biết làm sao, vội hỏi sư An nên làm sao cho tốt?

Sư đáp:

– Căn cứ theo kinh thuyết, tụng Lương Hoảng Sám có thể giúp vong quỷ siêu thăng thiên giới, nhưng nếu người có nghiệp chướng sâu nặng hoặc kẻ đang bị oan quỷ đòi nợ mà tham dự pháp hội Lương Hoàng Sảm, thì sẽ phát bịnh, hoặc nhức đầu, thân thể đau đớn…

Dân Hùng lại hỏi sư An:

-Thưa ngài, vậy tình trạng của vợ con bao giờ mới lành?

Sư An lắc đầu nói:

– Rất khó đoán, mỗi người nghiệp chướng không đồng.

Vì vậy thời gian bịnh hành cũng khác nhau, bao giờ bịnh vợ ông chuyển tổt cũng không ai biết được.

Ngay lúc đó Mỹ Lệ đau đớn rên to, âm thanh hãi hùng vang trời vang đất, mọi người đành đứng nhìn, bó tay hết cách, không biết xử trí ra sao.

Đột nhiên giọng nói Mỹ Lệ đổi khác, thổ âm rất lạ, khóc kể thảm thiết:

-Ta là Mỹ Loan, phối ngẫu của phò mã, chồng công chúa Thăng Hoa đời Tống.

Thăng Hoa không những đoạt chồng của ta, còn giết ta chết thảm.

Ta chết rất oan uổng, lòng đầy căm hận, nên đã kêu oan trước điện Diêm la vương.

Diêm vương rất thông cảm hoàn cảnh ta, vừa mất chồng lại bị giết hại, nên đã chấp nhận cho ta được phép tìm Thăng Hoa ( nay đã đầu thai thảnh Mỹ Lệ) đòi nợ báo oán! – Này Lâm Mỹ Lệ!

Hãy đền mạng cho ta!

Mọi người chứng kiến tại hiện trường đều kinh sợ, xương cốt phát run.

Đây chính là trong kinh từng nói: “Nhân duyên hội đủ, quả báo tới lá phải trả”.

Sư An đành đứng ra khuyên:

– Này Mỹ Loan, xin cô hãy bao dung, giơ cao đánh khẽ, tha cho Lâm Mỹ Lệ được toàn mạng.

Bởi hiện nay Mỹ Lệ đã biết ăn chay tập tu.

Còn nguyện vì các vị tụng một bộ Lương Hoàng Sám cầu siêu, hi vọng các vị có thể nương công đức này mà siêu thăng thiên giới, không cần phải đi tìm cô ấy báo thù làm chi cho thêm phiền lụy.

Hãy tha cô ấy đi, có được không?

Oan quỷ nói:

– Ả này trong kiếp trước, lúc làm Thăng Hoa công chúa, đã tạo ác giết người vô số, lại thêm nhiều đời nhiều kiếp mê ăn thịt loài vật, sát hại gà,vịt, cá , heo v.v…

Tội ác ả tạo lớn như núi tu di, đúng như trong kinh Địa Tạng từng nói: “Tội kia quá to, sâu như biển lớn, làm chướng ngại thánh đạo”…

Vậy thì có lẽ nào, chỉ nhờ vào công đức tụng một bộ kinh Lương Hoàng Sám nhỏ xíu, mả mong có thể chống đỡ, phủi hết mọi tội lỗi nặng nề hay sao?

Sư An nghe, cảm thấy oan quỷ nói rất đúng, dịu giọng khuyên:

– Đúng vậy, cô nói không sai.

Tuy Mỹ Lệ tạo tội oan nghiệt rất lớn, nhưng mong cô nghĩ lại, vì trong kinh điển cũng từng thuyết: “Chỉ cần người đó có tâm ăn năn sám hối, chịu thành tâm sám hối các nghiệp ác mình đã tạo từ các kiếp xa xưa, quyết tâm tu sửa, hướng thiện, nỗ lực tu hành, biết tạo công đức, siêng tụng kinh điển, chuyên tâm trì chú hay niệm danh Phật, Bồ-tát, nương nhờ oai lực chư Phật Bồ-tát, mà có thể tội nặng được trả báo nhẹ”…

Oan quỷ khóc nói:

– Sư thầy lý luận như thế thì mối hận thâm thù trong quá khứ của tôi suốt bao nhiêu năm cũng không còn cách chi báo oán?

Nếu vậy tôi chẳng cam tâm, tôi nhất định phải báo thù.

Sư An giải thích:

– Tôi không hề có ý nói như vậy để làm cô thiệt thòi!

Xét tình hình hiện thời, chính lòng căm hận thâm sâu đã lưu giữ cô ở mãi trong ba đường ác.

Như thế rất là khổ, khiến cô vô phương chuyển thế đầu thai.

Bây giờ cừu nhân của cô – là vợ chổng Mỹ Lệ – đang rất hổi cải, họ đã biết tích đức tạo thiện, trường trai, chân thành tu hành sửa lỗi…

Vậy thì xin cô hãy bao dung, mở lòng tha thử để tâm tư cô nhẹ nhàng và có thể thăng hoa bay lên cao…

để cô có thể hưởng được hạnh phúc an lạc mà cô đáng được hưởng…

Cô chẳng nên tìm họ đòi nợ nữa, tôi khuyên cô hãy chuyển tâm hận thành tâm lành hỉ xả, điều này sẽ đem lại lợi ích rất lớn cho cô.

Vì tâm tốt chiêu cảnh tốt.

Hiện thời cô hãy năng lui tới chùa tham dự các pháp hội, chịu khó nghe kinh tập tu và chấp nhận ban cho oan gia của cô một cơ hội tu hành, chuộc lỗi, để họ tạo công đức hồi hướng đến các vị, để các vị có thể chuyển thế đầu thai vào cõi lành.

Như vậy chẳng phải sẽ tốt hơn rất nhiều sao?

Tất cả do tâm tạo, chịu buông xả oán hận là các vị không còn phải ở trong ba đường ác chịu khổ.

Cô có đồng ỷ không?

Oan quỷ nghe sư A phân giải, dịu giọng nói:

– Hôm nay nếu chẳng phải thầy thuyết có nghĩa có tình và hợp iý, thì tôi nhất quyết không tha cho ả.

Này Lâm Mỹ Lệ, ngươi phải nhớ rõ, nợ kia sau này ta sẽ tính – nếu như ngươi không tu đàng hoàng, lòng hối cải không chân thành – Ngươi phải làm thật nhiều, thật nhiều công đức để hồi hướng cho tất cả oan quỷ chúng ta.

Nếu không chúng ta sẽ đến hành tội tàn khốc.

Giờ Ta đi đây!

Oan quỷ đi rồi, Mỹ Lệ hòi phục như cũ.

Nghỉ ngơi một chút, nàng cùng mọi người tiếp tục tụng Lương Hoàng Sám.

Pháp hội kết thúc, Mỹ Lệ cũng dần hồi phục mạnh khỏe.

Nửa năm trôi qua, một tối nọ, Mỹ Lệ đang nằm trong phòng, đột nhiên nhìn thấy các con vật cả đời mình từng giết ăn như: gà, vịt ,cá, heo v.v…

Chúng đồng tới đòi mạng, cấu xé nàng…

Mỹ Lệ sợ quá kêu thất thanh.

Dân Hùng thấy tinh hình như thế, vôi chạy đến niệm danh Phật và tụng chú vãng sinh.

Lúc này, Mỹ Lệ bỗng dưng nhìn thấy một con cua to lớn mà vợ chồng nàng từng phóng sinh, chạy tới, can ngăn khuyên lơn đám loài vật đừng đòi nợ.

Mỹ Lệ lúc này đầu đau nhức như muốn vỡ tung.

Nàng vội niệm Phật, Dân Hùng cũng vội cầm máy niệm Phật đến.

Hai người cứ niệm, niệm theo mãi.

Cả hai chẳng biết mình niệm được bao lâu, cho đến khi họ thấy một đạo hào quang và hình ảnh đức Phật A Di Đà cực lớn đang hiện thân tiếp dẫn vô số loài vật kia.

Khi không còn thay chúng nữa, hai vợ chồng mới ngưng niệm.

Chuyện Mỹ Lệ và Dân Hùng đời trước từng làm công chúa phò mã, được nhiều người biêt nên đã kể lại và lưu truyền rộng rãi trong giới Phật giáo miền bắc Đài Loan.

Do vậy mà câu chuyện này được viết lên dựa theo đó.

Mong mọi người đọc xong đều thu được lợi ích.

26.

CHU TÚ HOA

(Trích dịch từ tạp chi “Kim Nhật Phật Giáo ” Đài Loan) Nguyên tác Bạch thoại: Nữ Ký giả Lý Ngọc

Lời tác giả:

“Đây là một câu chuyện ngàn thật muôn thật, sở dĩ tôi muốn trình cho quý vị biết câu chuyện này, tuyệt không phải để quý vị thấy kỳ quái, mà muốn chứng minh rằng trên thế giới này quả thật có lục đạo luân hồi, có hiện tượng báo ứng nhân quả, hơn nữa việc này phát sinh trong thời đại hôm nay tại Đài Loan.

Kỷ sự này được ghi tại thôn Mạch Liêu

Nguyên nhân viết ký sự này

Vào khoảng tháng 2 nảm nay (Dân Quốc 50) sư Tinh Vân nhận lời mời đến Hổ Vĩ giảng kinh, lúc đó đồng đi còn có sư Chữ Vân, do ban ngày rảnh rang nên mấy người cư sĩ chúng tôi liền đi cùng hai sư đến thôn lân cận gần Hỗ Vĩ để du ngoạn.

Đồng thời trong lúc Sư Tinh Vân giảng kinh, Ni sư Trí Đạo bận việc tại Mạch Liêu, do tôi chưa từng qua Mạch Liêu cho nên có ý muốn đến Mạch Liêu vãn cảnh.

Mạch Liêu là môt miền duyên hải, giao thông không được thuận lợi và là vùng đất chẳng có gì lạ để thưởng ngoạn.

Chúng tôi thăm Ni sư Trí Đạo tại Tử Vân Tự xong, thì định về Hổ Vĩ, nhưng trụ trì Tử Vân Tự kiên quyết giữ chúng tôi ở lại dùng cơm trưa.

Hơn nữa đã trễ tuyến xe, chúng tôi đành lưu lại đại điện Thượng Liêu Thiên, bây giờ chúng tôi kể ra câu chuyện kỳ lạ này cũng là lúc ngụ tại Thượng Liêu Thiên, tình cờ do tiên sinh Hứa Tí Thạch khơi lên.

Câu chuyện này chính là mượn thây hồi dương, chuyện này vốn đã xảy ra rất lâu, nhưng do chủ nhân câu chuyện một mực không muốn kể lại, cho nên người biết chuyện rất hạn chế, chỉ có cư dân ở gần thôn Mạch Liêu.

Còn những người ở vùng khác dù có gặp hoặc nghe đề cặp đến chuyện này, sẽ mù tịt vì họ chẳng được ai kể cho nghe câu chuyện thần kỳ quái lạ này, thậm chí còn cho đây là điều không thể xảy ra nữa.

Bởi vì đây là câu chuyện ít người biết, vì ngay chính người trong cuộc cũng không muốn khơi gợi lên.

Lúc chúng tôi mới nghe qua câu chuyện này, do người kể không mạch lạc, chẳng có thứ tự lớp lang, nên nghe thật là rối rắm lộn xộn.

Dù nghe chẳng nhiều và chưa hiểu gì lắm, nhưng chúng tôi bị mấy từ “mượn thây hoàn hồn” lôi cuốn nên muốn tỉm hiểu cho đến nơi đến chốn.

Do vậy mà chúng tôi dùng trưa qua loa rồi lập tức quay về Hổ Vĩ, nhất quyết đi phỏng vẩn các nhân vật chính trong câu chuyện này cho bằng được.

Chu Tú Hoa mượn xác hồi dương

Nhân vật chính trong câu chuyện ly kỳ này hiện đang ngụ tại căn nhà sổ 95 đường Trung Sơn thôn Mạch Liêu.

Căn nhà này là cửa hàng vật liệu xây dựng, chủ nhân là ông Ngô Thu Đắc, vợ ông là bà Ngô Lâm Cương.

Lúc chúng tôi đến đây bà vợ đã ra ruộng, ông Ngô đang bận rộn làm việc, khi biết mục đích chúng tôi đến đây, thì sắc mặt ông lộ vẻ rất không vui, sau đó ba chúng tôi lần lượt chào thăm hỏi han, ông bất đắc dĩ phải kể chúng tôi nghe câu chuyện đã xảy ra.

ông nói:

“Chuyện xảy vào năm Dân Quốc 48, do tôi sống bằng nghề kinh doanh xây dựng, cho nên đã tham dự công tác kiến trúc thôn Đài Tây Đảo Hải Phong.

Trong thời gian ở đây tôi rất ít về nhà.

Tình cờ về nhà, thì gặp vợ tôi bị bịnh, nhưng lúc tôi tiếp tục đi Đảo Hải Phong, thì bịnh nàng đỡ nhiều.

Sau đó tôi về nhà thường xuyên hơn, bịnh vợ tôi ngày càng trở nặng, cho đến khi công trình Đảo Hải Phong hoàn tất, tôi về đến nhà, thì bịnh vợ tôi đã nặng đến mức hết chữa được.

Thầy nàng bịnh không đến nỗi nguy, nhưng tinh thần lúc đó lại không bình thường, cứ làm ầm loạn cả lên.

Chúng tôi định đem nàng đến bệnh viện tâm thần điều trị, nhưng nàng không đồng ý.

Hơn nữa chúng tồi cỏ hợp sức bắt nàng cũng không được và nàng luôn lởn tiếng gào trách:

– Đừng bắt tôi đem đến viện thần kinh, tôi không có điên mà!

Tôi là người Kim Môn, tên là Chu Tú Hoa!

Vả lại thổ âm nàng hoàn toàn đổi khác, nhưng tôi không hề tin là thân xác của vợ tôi bị hồn người nào đó chiếm cứ.

Ngô tiên sinh trầm ngâm như đang hồi tưởng về quá khứ, nhãn quang ông dừng lại nơi tấm hình chụp chung của hai vợ chồng, khe khẽ thở dài, sau đó kể tiếp:

– Tôi thực nghĩ chẳng ra và không ngờ trên thế giới này còn có thể xảy ra chuyện quái lạ như vậy!

Lại càng không tưởng tượng được là chuyện này lại giáng xuống ngay nhà mình.

Tạm dừng một chút, ông nói tiếp:

-Trong thời gian tôi xây dựng công trình, hằng ngày từ Đảo Hải Phong đạp xe về nhà, luôn cảm thấy trên vai có chút nặng nề, nhưng tôi nghĩ cố lẽ là do con đường dốc, cho nên chẳng đề tâm.

Sau này tôi mới biết, mỗi lúc tôi về nhà, thi cái cô nương quê ờ Kim Môn đó – luôn ngồi phía sau xe – đeo theo tôi về nhà.

Nói đến đây tiên sinh không muốn nói thêm gì nữa, ông lấy cớ đi pha trà và kết thúc câu chuyện.

Trong lúc nảy, người cháu trai con chị gái ông, tuổi khoảng hơn hai mươi phụ tiếp chúng tôi, đang cùng nhau trò chuyện, thi Hứa tiên sinh (người dẫn đường cho chúng tôi) đến, bảo là sẽ đi tìm vợ Ngô tiên sinh gúp chúng tôi.

ông kể là rất nhiều người muốn gặp bà, nhưng bà đều từ chối.

Nên lần này, không biết bả có cho gặp hay không, điều này ông chẳng dám bảo đảm.

Dù sao ông cũng tận lực đáp ứng chúng tôi, giúp đi tỉm bả.

Cháu ông Ngô kể:

– Lúc mợ tôi bịnh, tôi luôn giúp cậu trông nom bà.

Mợ tôi có lúc khóc lóc, có lúc lẩm nhẩm nói gì đó trong miệng mà chúng tôi không hiểu.

Lắm khi đang nằm thì mợ ngồi bật dậy, tôi vả cậu xúm nhau đè mợ nằm xuống giường lại nhưng lúc đó sức mợ thiệt là mạnh, khiến chúng tôi vô phương đè mợ xuống mà ngược lại còn bị mợ hất văng.

Tôi nghĩ sức phụ nữ đâu có khỏe dữ vậy? thực ra chính xác là “bạn bè” của mợ đang giúp mợ.

Nói đến đây người cháu biểu lộ vẻ thần bí, tôi biết anh ta nói “bè bạn” đây là muốn ám chỉ những vong linh khác.

Anh ta lại kể tiếp:

– Khi chúng tôi hiểu xác mợ Cương đã bị hồn khác nhập vào rồi, thỉ không biết làm sao.

Đành để mợ nằm dưỡng bịnh.

Mới đầu mợ đối với mọi chuyện đều không quen.

Thí như, lúc cậu tôi kêu tên mợ là A Cương, thì mợ phản đối:

– Tôi tên Chu Tú Hoa, không phải A Cương!

Lúc mẹ và chị của mợ đến thăm thì mợ vẫn khăng khăng nói:

– Tôi không quen biết các người, các người là ai?

Đương nhiên láng giềng chúng tôi mợ hoàn toàn không nhận ra ai. (Nói đến đây người cháu liếc nhìn vào trong một cái, như sợ cậu mình sẽ đột ngột xuất hiện và nghe được lời anh ta sắp nói vậy).

Anh hạ giọng thật nhỏ:

– Đối với gia đinh, cậu tôi là người rất có trách nhiệm, nhưng cậu và người mợ cũ trước đây (chỉ bà A Cương) rất chống trái nhau, sống không có hòa thuận.

Nhưng tính cậu xưa nay rất đàng hoàng, không hề ra ngoài tìm bạn gái hay tằng tịu với ai.

Nhưng lần đó tại công trình kiến trúc nơi Đảo Hải Phong, có nhiều công nhân kể là họ thấy có một cô gái theo sát bên cậu, vì vậy họ thường nói:

– Không ngờ Ngô tiên sinh đây cũng là tay quá cỡ!…

Có lúc lão công nhân lớn tuổi nhất, trong lúc nghỉ ngơi đã đề cập đến chuyện cô gái xuất hiện bên cạnh cậu, nói xa nói gần, bảo là cậu diễm phúc dữ, những cậu đối với những lời này lộ vẻ không hiểu chi hết.

Và cậu một mực phủ nhận, nói mình không hề dẫn gái đến công trường.

Nhưng mặc cho cậu phủ nhận, đám công nhân vẫn không ngớt bàn tán…

Cậu cho rằng họ rảnh nên nói chuyện tào lao, cố ý trêu chọc cậu cho vui thôi.

Vì vậy mà không thèm quan tâm tới lời mọi người nói.

Nào ngờ, “cô gái’’ mọi người thấy xuất hiện bên cậu lúc đó, chính là người mợ (Chu Tú Hoa) bây giờ của chúng tôi.

Quả thật trước khi chưa nhập xác mợ (A Cương) thỉ (Chu Tú Hoa) ngày ngày có theo bên cạnh cậu.

Anh ta châm lửa mồi điếu thuốc, rồi kể tiếp:

– Nói ra cũng thật khó mà nghĩ tưởng, công trình Đảo Hải Phong có rất nhiều thợ làm, nhưng trước đây, mỗi lần thầu nhận xây đều bị cảnh thua lỗ, hay tại hiện trường các thợ xây luôn bị té ngã.

Nhưng từ lúc cậu tôi nhận thầu xây công trình rổi thi không những kiếm được rất nhiều tiền, mà các công nhân đều được bình an.

Không biết đây có phải là nhờ những vong hồn nơi Đảo Hải Phong âm thầm phù trợ ban phúc cho chăng?

Ngô tiên sinh lúc này đã bưng mấy chén trá ra, chúng tôi vừa uống trà, vừa nghe cháu ông kể tiếp:

– Nói các vị không tin, chứ đây rõ ràng là chuyện tồi đích thân trải qua, giờ kể ra tôi vẫn còn thấy sợ.

Chuyện lá như vầy: Khi mợ (Chu Tú Hoa) vừa lành bịnh, thi mợ hay nói là có bạn bè tỉm đến thăm vả bảo chúng tôi phải lo chuẩn bị ghế và nhang đèn để tiếp đãi khách.

Nhưng mỗi khi chúng tôi răm rắp lảm y theo lịnh mợ, thì cũng chẳng thấy có ai tới, nhưng lại nghe mợ nói chuyện giống như có người đến, mợ trò chuyện với vẻ rất vui, vừa nói vừa cười.

Kỳ quái hơn nữa là các ghế trúc lúc đó nhìn giống như có người ngồi thật sự vì chúng phát ra âm vang kèn kẹt.

Cho đến lúc mợ nói tiễn khách, thì ghế lại phát ra âm thanh, giống như có người đứng dậy ra về.

Như thể rõ ràng là có những người khuất mặt sợ mợ tôi cô đơn, nên đã đến thăm, bầu bạn cùng.

Nhưng qua lúc đó rồi, thì họ chẳng còn tới nữa.

Từ hồi mợ lành bịnh đến về sau này, mợ (Chu Tú Hoa) đúng là cái gì cũng biết, mợ biết chữ nè, gi cũng làm được hết.

So với mợ (Cương) ngày xưa không biết chữ, cử chỉ hành vi hoàn toàn khác xa trời vực, giống như hai người khác hẳn.

Ngày xưa mợ cũ chỉ biết nấu cơm, ngoài ra gì cũng không biết làm.

Nhưng từ lúc bị bịnh rồi lành, thi mợ hoàn toàn thay đổi hẳn.

Mợ bây giờ không những biết ra đồng, còn đảm đương luôn các việc nặng nề khác.

Còn chuyện nấu cơm, mợ lại nói là chưa từng làm.

Đây quả là ngược đời vả rất lạ.

Không chỉ thế, tất cả sở thích, điệu bộ ,hình dạng, bước đi cũng hoàn toàn đổi khác.

Đương nhiên là giọng nói khẩu âm thay đỗi hẳn, tiếng nói của mợ bây giờ hoàn toàn là thổ ngữ vùng Kim Môn.

Đến đây thi Ngô tiên sinh uống một hớp trà, nhìn quanh, rồi lắng nghe chúng tôi trò chuyện.

Cháu ông lại chỉ vào bức hình Bồ-tát Quan Thế Âm và Bồ-tát Địa Tạng Vương đang thờ trên bàn, bảo chúng tôi:

– Cậu tôi vốn chỉ biết thờ cúng tổ tiên, còn các tượng Phật, Bồ-tát này đây là do mợ (Chu Tú Hoa) thỉnh về thờ phụng.

Nói các vị nghe, mợ

CŨ ngày xưa rất ưa ăn thịt cá, nhưng từ khi thay hồn đổi xác rồi, thì mợ mới này chẳng những không ưa ăn thịt cá, mà hễ gặp đồ mặn là nhất quyết không ăn.

Vì vậy mợ toàn ăn riêng, không ăn chung với cả nhà.

Nói đến đây thì Hứa tiên sinh cũng về tới bên ngoài, chúng tôi đưa mắt ngóng tìm “vai chính” trong chuyện, xem nàng có chịu theo ông tới không?

Thì ông lắc đầu, nói: – ôi chao, “cổ” không chịu tới, còn khóc quá chừng!

Thế là Bảo Phụng và tôi theo chân Hứa cư sĩ ra ngoài khuyên (Chu Tú Hoa) trờ về.

Bởi vì chuyện chúng tôi đến đã âm thầm làm tổn thương tâm tư Chu Tú Hoa.

Lúc chúng tôi nhìn thấy nàng, nàng như không còn sức lực, đang tựa vào cây cột cổng nhà hàng xóm.

Hai mắt nhắm nghiền lại, đôi dòng lệ đang chảy xuống.

Tôi nghĩ chắc chắn nàng đã ngồi ờ đây và khóc rất lâu rồi.

Chúng tôi phải an ủi nàng thật lâu mới dìu được nàng về nhà.

Lần này do chúng tôi đến, đã khiến nàng nhớ về gia đình mình ờ Kim Môn, vỉ vậy mà tâm tư không ngớt sầu muộn, mặc dù ráng trò chuyên với chúng tôi, nhưng vừa nói được một, hai từ thì nàng lại bật khóc vá không thể nói thành tiếng.

Hôm đó nàng cố gắng kể cho chúng tôi nghe bằng giọng đứt quăng: “Nàng tên Chu Tú Hoa, nhà ở tại Kim Môn, cha tên Chu Thanh Hải, mẹ tên Thái Diệp, lúc đó nàng 18 tuồi, vì Kim Môn phát sinh chiến loạn nên nàng phải theo chân mọi người lên thuyền đánh cá chạy nạn.

Sau đó thuyền lênh đênh trên biển rất lâu, mọi người đều không còn lương thực, nên bị chết đói, chết khát.

Cuối cùng nàng cũng ngất đi.

Chẳng biết bao lâu thỉ tỉnh dậy, thấy thuyền đã trôi đến hải đảo tỉnh Đài Tây này, nàng được cứu sống, nhưng sau đó, ngư phủ lại đẩy thuyền ra biển cho nó trôi đi”…

Nói đến đây thì nàng lại ôm mặt và bỏ chạy vào trong.

Chúng tôi đang rất muốn biết nhiều hơn, nhưng thấy nàng quá sầu thảm như vậy, chúng tôi chẳng nỡ truy vấn gì thêm.

Mà thời gian cũng không còn sớm nữa, chúng tôi phải về Hổ Vĩ cho kịp chuyến xe, vi thế tất cả cùng đứng lên từ biệt chủ nhà.

Lúc ra về, chúng tôi còn hứa, lần sau nếu có dịp đến Mạch Liêu, sẽ tặng Chu Tú Hoa một xâu chuỗi niệm Phật.

Đoạt tiền hại mệnh, bị báo ứng ngay

Hứa tiên sinh cùng đi với chúng tôi.

Trên đường ra bến xe, ông kể thêm cho chúng tôi nghe:

– Chu Tú Hoa lúc chạy loạn vốn là có thẻ sống sót, giây phút cô được ngư phủ cứu, cô từng nói: -“Cầu xin ngài hãy cứu mạng tôi, bất kể làm gì, làm dâu, hoặc làm kẻ giúp việc tôi đều có thể… và tiền bạc trên thuyền tôi đều xin tặng hết cho ngài”…

Nhưng mà cái tên ngư phủ đó quá ác và cực kỳ vô lương tâm!

Hắn đã đoạt vàng, còn ném người xuống biển…

Song rốt cuộc hắn cũng không thể bình an tọa hưởng số vàng phi nghĩa cướp được kia.

Bởi vì không bao lâu thi cả gia đỉnh hắn từng người, từng người lần lượt chết đi!

Bây giờ chỉ còn sót lại một thằng con. con nhỏ mà bịnh phong điên rất ghê.

Chậc!

Phật giáo "nhân quả báo ứng”, quả không sai chút nào!

Kể đến đây, ông đưa mắt nhìn khắp chúng tôi, rồi tiếp:

– Nói ra cũng lạ lắm, khi Chu Tú Hoa lành bịnh rồi, có người đem tin này đồn đến Đài Tây, người ở Đài Tây biết chuyện rồi, thảy đều rất kinh ngạc và cho là quá lạ.

Có người biết rõ chuyện mấy năm trước nhà thằng phong điên kia cướp của rồi giết hại cô gái này, nên khi đó đã dẫn đứa nhỏ điên (con kẻ cướp) đến gặp Tú Hoa, không ngờ họ vừa đến cổng, Chu Tú Hoa ngăn lại không cho vào, còn khóc bảo: – Người nhà các ngươi hại ta chưa đủ sao mà còn đến đây làm ta khổ đau thêm nữa?

Trước đây bà A cương chưa từng đến Đài Tây, mà lúc thằng nhỏ điên tới cũng không có ai biết tường tận chuyện này, nhưng Chu Tú Hoa vừa nhìn thì nhận ra hết tất cả, đây quả rất lạ.

Vì tặng chuỗi thăm lại Mạch Liêu

Khoảng tháng 7 năm nay, cư sĩ Hùng Cự Minh đến Hổ Vĩ để dạy các liên hữu cách xướng Phật tán, trong lúc trò chuyện, sư Chữ Vân lại nhắc đến chuyện “mượn thây hoàn hồn” này.

Năng cư sĩ nghe qua cảm thấy rất hứng thú… do tôi từng hứa sẽ tặng chuỗi cho Chu Tú Hoa, nên săn dịp này dẫn Năng cư sĩ đi Mạch Liêu luôn.

Năng Cư sĩ từng đã từng ngụ tại Kim Môn một thời gian, cho nên đối với những chuyện ờ Kim Môn ông rất rành.

Trên đường, ông kể tôi nghe nhiều chuyện về Kim Môn, như kiểu kiến trúc, các ngành nghề, phong tục tập quán, dân tỉnh v.v…

Đây đều là những tư liệu giúp tôi tỏ tường hơn khi gặp Chu Tú Hoa.

Hôm ấy tiết trời rất xấu, xe đi trên đường gặp mưa lất phất.

Tôi rất lo mưa sẽ to hơn, nào ngờ lúc xe đến Mạch Liêu thì mưa đã tạnh, tôi không ngăn được mừng vui, trong lòng niệm thầm: “Nam mô A Di Đà Phật!”

Những chuyện ở Kim Môn đều nhớ hết

Do trời mưa nên Chu Tú Hoa không ra đồng, khi tôi biết cô có ở nhà, trong lòng mừng như trút được gánh nặng.

Có lẽ vì tôi dẫn theo mấy người, nên Chu Tú Hoa do dự rất lâu mới chịu ra diện kiến.

Nhưng lần này cô có vẻ bỉnh tĩnh nhiều hơn, thấy chúng tôi cô mỉm cười gật đầu chảo, nhưng nụ cười đầy vẻ miễn cưỡng.

Trước tiên tôi đem xâu chuỗi tặng cô rồi nói chuyện phiếm.

Đã có kinh nghiệm từ lần trước nên tôi không vào thẳng vấn đề, mà cứ nói chuyện lòng vòng, trước tiên là bàn đến chuyện tôn giáo.

Chu Tú Hoa nói:

– Tôi hồi nhỏ rất tin Phật, hơn nữa còn ăn chay trường.

Hiện nay bất kể công tác bận rộn thế nào, sớm tối tôi đều lễ Phật.

Tôi hiểu rõ, lời Phật nói không sai chút nào, một cá nhân nên làm việc tốt, tuyệt không nên làm điều xấu, vì làm xấu sẽ không được quả tốt!

Trong lần ghé trước, tôi nghe láng giềng quanh đây kể là Chu Tú Hoa hằng ngày rất siêng năng lễ Phật, tôi nghĩ “Đây chắc chắn là nguyên nhân cô được hoàn hồn trở lại nhân gian!

Vì vậy, tôi thừa dịp hỏi cô:

– Cô nói hồi nhỏ rất tin Phật, vậy ở Kim Môn có Niệm Phật Đường không?

Cô suy nghĩ một chút rồi đáp:

– Tôi không rõ.

Nhưng trong nhà tôi có thờ Phật và Bồ-tát Quan Thế Âm, tôi chỉ lễ bái ở nhà, cả nhà chúng tôi ai cũng lễ Phật.

Tôi hỏi:

– Hiện giờ cô còn nhớ những chuyện ở Kim Môn chăng?

Cô thở dài:

– Ôi!

Nhớ!

Nhớ hết! nhưng việc đã qua rồi, nhắc lại làm chi?

– Nếu như bây giờ có người muốn giúp cô tìm lại cha mẹ, cô chịu không?

– Đương nhiên, tôi rất mừng.

Nhưng mà ai chịu giúp tôi?

Cho dù có tìm được, e là người thân cũng không nhận ra tôi! – Cô cười đau khổ ròi nói tiếp: – Vì thân hiện tại tôi mang không phải là hình hài lúc tôi rời Kim Môn!

Nói đến đây, cô mím chặt môi và đôi mắt đỏ lên, nhưng cô ráng kềm chế để không khóc trước mặt khách.

Tôi chỉ vào Năng cư sĩ đang ngồi phía dưới, nói:

– Tiên sinh này từng ở Kim Môn rất lâu, hơn nữa ông cũng là người tin Phật và biết rõ về Kim lênh đênh trên biển, tôi thành thực kể cho họ nghe.

Sau đó…

Nói đến đây mắt cô xuất hiện hai giọt lệ tròn như hạt châu, và cô vội chùi đi.

Tôi lại ngắt lời, nói tiếp giùm cô:

– Sau đó, họ đoạt tiền cô rồi ném cô xuống biển, cho nên toàn gia họ sau này đều chết sạch, chỉ còn lại một thằng nhỏ bị bịnh phong điên..

Không đợi tôi nói hết, cô cướp lời:

– Ôi!

Cô cũng nghe được điều này sao?!

Thực sự là số vàng trên thuyền ấy không hoàn toàn là của tôi, mà là của nhiều người đào nạn mang theo.

Còn chuyện bọn chúng cướp vàng, sau đó cả nhà bị chết hết là sự thật.

Nhưng tôi là người tin Phật, dù biết họ tàn nhẫn không lương tâm nhưng tôi chẳng thèm kết thù với họ làm chi.

Chuyện này là do những người đồng đi với tôi căm phẫn bất bình nên báo oán thôi!

Tôi lại hỏi cô:

– Trước khi đến nhà Ngô tiên sinh cô ngụ ờ đâu?

Nhắc đến vấn đề này cô có chút không vui, nhưng cuối cùng vẫn đáp:

– Tôi ở thôn Đài Tây Đảo Hải Phong, trong đó cỏ nhiều cây xanh và biển rất đẹp.

Tôi ngụ tại đó nhiều năm.

– Cô có thích chỗ đó không ?

-Thích, tôi ở đó khá lâu.

Khi bị ném xuống biển thì hồn tôi cứ quẩn quanh nơi đảo Hải Phong.

Tôi trụ tại đây chừng mười ngày thì được Vương công thâu làm môn hạ.

Vương công cho biết thọ mạng của tôi chưa hết, có thể mượn thây cùa vợ Ngô Thu Đắc để hồi dương, ông dạy tôi hãy tạm trú ở Miếu Vương Bắc.

Không bao lâu, Ngô Thu Đắc đến Đảo Hải Phong lảm việc, tôi liền theo Ngô Thu Đắc…

Khi Ngô Thu Đắc làm xong việc quay về nhà thì tôi cũng về theo để chở cơ hội.

Vài ngày sau bà Lâm Cương Yêu bệnh tỉnh trở nặng, hồn về cõi khác.

Tôi nhân cơ hội này mượn thây hoàn hồn.

Ngừng một lát cô tiếp:

– Nhưng chuyện mượn thây không phải dễ dàng.

Để vào được thân xác người là một việc rất khổ não.

May mà có Vương công giúp đỡ, phải hơn 20 ngày việc mới hoàn thành.

– Cảm giác cô lúc ấy ra sao?

– Rất tự nhiên, nhưng không quen lắm (ám chỉ lúc trước mình là một thiếu nữ, giờ phải mang thân một bà lớn tuổi đã có chồng).

Tôi đổi sang đề tài khác:

– Mạch Liêu có tốt như Kim Môn không?

– Mạch Liêu ư?

Nơi này sao có thể so bì với Kim Môn được?

Phòng ốc ờ Kim Môn toàn là nhà xây, đường đi thì bằng phẳng chỉnh tề.

Nơi chúng tôi cư ngụ là khu vực người buôn bán ờ, sầm uất, náo nhiệt lắm.

Còn nhà cửa ở Mạch Liêu xây thi không có trật tự, rất bát nháo, lộn xộn!

Năng cư sĩ đồng ý lời cô nói.

Theo Năng cư sĩ phỏng đoán, Chu Tú Hoa đào nạn vào năm Dân Quốc 43 bởi vì trong năm đó nhiều người thấy quân đội vận chuyển súng định Thắng Nhan sẽ tiếp thu tốt thôi!”.

Đương nhiên tôi cũng khuyên Thắng Nhan nghe lời cha.

Tôi đã ở trong nhà họ, thì tôi luôn mong gia đình có thể sống với nhau hài hòa, an lạc.

Nỏi đén chuyện con cái, má cô chợt ửng hòng lên. (Đương nhiên rồi, vi theo tuổi hiện thời của cô mà tính, thỉ cô hãy còn quá nhỏ, đột nhiên trong phút chốc bị một thanh niên lớn tuổi kêu minh là mẹ, thỉ ắt hẳn phải cảm thấy rất không quen!)

Trân trọng chụp hình lưu niệm

Chẳng mấy chốc mà chúng tôi nói chuyện đã mấy tiếng đồng hồ, đã đến lúc phải cáo biệt.

Tôi đứng dậy, nắm tay cô an ủi:

– Mọi người đã đối với cô rất tốt, thì cô cũng nên buông xả, quên hết đi.

Phật giáo nói tất cả đều do nhân duyên tụ hội hợp thành.

Có lẽ cô và Ngô gia có duyên, nên mới từ chốn Kim Môn xa xôi mà trôi giạt đến nơi này, sống chung cùng họ.

Cô gật đầu.

Tôi nói tiếp:

– Dù sao, cô hằng ngày đều rất thành tâm niệm Phật, thì bất kể sống ở đâu minh cũng hành trì như thế thôi.

Không nhất định phải đến Niệm Phật Đường.

Phật, Bồ-tát vẫn luôn chúc phúc, gia hộ cho cô!

Hơn nữa theo tinh thần Phật giáo thi trước lợi người sau mới lợi mình.

Cô đã giúp đỡ cho cả nhả họ, khiến họ đều cảm thấy rất vui, đây cũng là rất có công đức!

Cô vẫn im lặng, tôi lại nói:

– Nếu cô muốn đến Phật đường, thì sau này khi tôi rảnh, sẽ dẫn cô đền Hỗ Vĩ chơi.

Tôi mong từ nay cô se an tâm, chẩng nên thường cảm thấy khó kham và khổ sầu nữa nha!

Cô cảm đông xiết tay tôi, ta ân mãi

Trước khi ra đi, tôi mời cô cùng chup hình với tôi làm kỳ niệm Có có ve ngan ngai Sau nhờ Thắng Nhan khuyên lơn đông vièr mãi, cỏ mới gật đầu đồng ý

Lúc chúng tôi cáo từ, Thắng Nhan tiễn chúng tôi đi.

Trên đường, tôi hỏi cháu những điều liên quan đến mẫu thân, Cháu nói:

– Mẹ tôi từ nhỏ sinh trưởng tại Mạch xưa nay chưa từng đến Đái Tây hay Kim Môn.

Sau khi bà lành bịnh, đã hoàn toàn thay đổi thánh một người khác.

Tôi thực tinh không tin những chuyện như thế.

Nhưng thân xác vẫn là mẹ tôi. mà mẹ cứ cương quyết không chịu nhận minh là A Cương.

Bà con thân quyến tới thăm, ngay cả bà ngoại và các dì, mẹ cũng không nhìn ra ai.

Việc này khiến cả nhà đều cảm thấy rất kinh ngạc.

Trong tâm tôi cảm thấy có phần bức xúc.

Tôi thực không biết phải kêu bà như thế nào.

Nói đến đây, cháu dừng lại.

Tôi hỏi:

-Thế… hiện tại thì sao?

Cháu cười buồn, đáp:

– Đương nhiên tôi vẫn kêu bà bằng mẹ, vì lả thân xác cùa mẹ tôi mà!

– Cháu tin chuyện “mượn thây hoàn hồn” ư?

– Ngày xưa tôi hoàn toàn không tin, mẹ tôi xưa nay chưa từng đến Đảo Hải Phong, nhưng mẹ hiện tại hay tả về Đảo Hải Phong.

Hơn nữa vào năm Dân Quốc 48 tôi từng tham dự hội trại ờ Phi Luật Tân, trong đội có một người bạn quê ờ Kim Môn, thổ âm rất khác.

Khi tôi về nhà thi mẹ đang bịnh, sau khi lành rồi thì tiếng nói thay đổi hẳn, khẩu âm giống hệt người bạn ở xứ Kim Môn kia.

Hơn nữa bà còn có thề kể rất nhiều chuyện về Kim Môn.

Cho nên tôi tin mẹ sau này thực sự là người Kim Môn.

Lời kết của ký giả Lý Ngọc:

Tôi kể cho quý độc giả câu nghe chuyện này, hoàn toàn không có ý khiến các vị sinh tâm hiếu kỳ rồi đi tìm gặp Chu Tú Hoa.

Tôi chỉ muốn dùng câu chuyện này để chứng minh rằng: Phật giáo nói “Lục đạo luân hồi, nhân quả báo ứng ” là chỉnh xác và lý lẽ này luôn tồn tại.

Cuối cùng, tại đây, tôi mong tất cả chúng ta đều sẽ chúc phúc cho Chu Tú Hoa.

Lời Bình:

Chúng ta hằng ngày học giáo lý Phật, luôn được Ngài nhắc nhở: “Xác thân này không thật, mong manh, dễ rã bất cứ lúc nào”…

Nhưng ta khó mà thâm nhập, vì khi mở mắt chào đời, ta đã mang thân này rồi.

Còn Chu Tú Hoa, ngay giây phút “mượn xác hổi dương”, sống trở lại cô sẽ rất dễ thấy xác thân đang mang đó KHỔNG PHẢI LÀ CỦA cô.

Trên đường đào nạn, chuyện bị đoạt của, vất xác xuống biển, có thể xem như là một túc nghiệp oan khiên, hoặc một nhân mới mà tên cướp bắt đầu gieo.

Nhưng Chu Tú Hoa tâm sự rằng: “Cô hiểu giáo lý Phật, tin nhân quả, nên không có lòng thù kẻ hại mình và khi cả nhà tên cướp chết hết, chính là kết quả do sự bất bình của (vong hồn) những người đí cùng thuyền với cô”.

Chu Tú Hoa là cồ gái có tâm tha thứ và rất có tinh thần trách nhiệm.

Cô chỉ là một vong linh 18 tuổi, khi mượn xác một bà lớn hơn, (có con trai tuổi tương đương mình) lúc sống lại. cô phải gánh rất nhiều việc: sáng sớm ra đồng, tối còn canh nước ruộng.

Nhà chồng kinh doanh kiến trúc và bán luôn vật liệu xây dựng.

Tồi dịch đến chỗ “những công tác vận chuyển hàng, đòi hỏi nhiều sức, cô đều làm, gánh vác hết” Tự dưng thấy xót xa và tội nghiệp cho cô.

Ở hoàn cảnh trước, người vợ cũ chỉ có làm mỗi một việc là nấu cơm.

Còn cô, sau khi hồi dương thì ôm quá nhiều việc, phải gánh quá nhiều, dù không ai bắt buộc.

Đây gọi là tinh thần trách nhiệm cao, cô sống rất biết điều, do hàm ân mà báo ân, vì mượn thân xác người nên phải thay thân xác mà làm việc đền ân.

Chắc chắn là Chu Tú Hoa có sự giác tỉnh mạnh hơn chúng ta, bởi vì cô đã trài qua kinh nghiệm sống và chết, kinh nghiệm hoàn hồn và sống trong cái thân “mượn” đúng nghĩa.

Tôi đã đói chiếu, cô đào nạn năm Dân Quốc 43 tức 1954.

Và chết trong năm đó.

Nhưng mãi đến năm Dân Quốc 48, tức 1959 cô mới “mượn xác hồi dương”.

Có nghĩa là cô trải qua kinh nghiệm sống ở cõi âm suốt 5 năm.

Cô tả trong 5 năm này, minh ở Đảo Hải Phong, cảnh đẹp, cây Cối xinh, cô cũng rất thích ở đó.

Tôi tin là cô không rơi vào cõi quỷ, vì tâm cô không hề chất chứa giận hờn thù hận, tâm cô rất hiền thiện, và cảnh luôn tương ưng với tâm.

Nên dù ở cõi âm, cô tả xem có vẻ ung dung rằng mình thích, cảnh đẹp.

Cho đến khi cô được thần báo là bà A Dương bịnh, sắp hết tuổi thọ, cô có thể “mượn xác hồi dương” thì cô mới kiếm ông Ngô, và “đeo” theo, quanh quẩn bên ông, chờ ông về nhà để về theo nhập xác.

Chu Tú Hoa phải vào một thân xác già gấp đôi, gấp rưỡi tuổi mình, chưa từng kết hôn mà phải làm vợ, làm mẹ.

Khi sống lại, không còn được gặp gia đình cha mẹ cũ mà lòng cô hằng nhớ nhung, (đúng là sinh ly đau hơn tử biệt) và phải gánh một gia đĩnh mới có hoàn cảnh tệ hơn.

Song cô vẫn phải chu toàn trách nhiệm, bổn phận.

Chu Tú Hoa sau khi hoàn hồn, từng bảo người nhà thắp nhang sắp ghế cho cô nói chuyện với bạn bè.

Bạn bè này có thể là những vong cõi âm, những người cùng “chết chùm” với cô nơi biển, và cũng có cả chư thần …

Nhưng hay ở chỗ là họ chỉ đến an ủi sau khi cô mượn xác một lần, rồi từ đó không bao giờ đến nữa.

Có nghĩa là hai cõi rạch ròi, hãy để mỗi người tự sống yên nơi cõi của họ.

Đây cũng là sự hộ vệ giúp nhau hay và tốt nhất.

18 tuổi, nhưng kinh nghiệm Chu Tú Hoa già hơn chúng ta nhiều, vì cô đã làm người, làm ma, từng trải qua kinh nghiệm ở cõi âm, trải qua kinh nghiệm mượn xác…

Tất cả điều này, đã thắp cao ngọn lửa giác ngộ trong cô, nên khi sống lại là cô lo thỉnh tượng Phật, Bồ-tát về thờ, sớm tối siêng năng lễ bái không ngừng, kiên tâm ăn chay, khao khát được lên chùa (Niệm Phật Đường) ờ.

Tất cả những điều này tôi cảm thông được.

Và hẳn nhiên độc giả cũng có nhiều mối đồng cảm với cô theo quan niệm riêng của mỗi người.

Tôi dịch bài văn này không có ý để cho người đọc lấy vui, mà là để chúng ta cùng chia sẻ thêm những điều hay về thuyết luân hồi, về các cõi giới… và hiểu rằng lời Phật dạy không hư dối.

Nữ ký giả Lý Ngọc từng hi vọng chúng ta chúc phúc cho Chu Tú Hoa sau khi đọc xong câu chuyện này.

Tôi đoán là bây giờ Chu Tú Hoa chắc đã già, cũng ở tuổi cổ lai hy (?) Và không biết cô còn sống hay đã mất?

Riêng tôi, trước khi kết thúc cuốn sách này, tôi muón cầu phúc… không riêng gì Chu Tú Hoa, mà cho tất cả độc giả – Chúc quỷ vị hằng an lạc và luôn biết cách sống sao cho bản thân mình dù ở cõi âm hay dương, đều mãi mãi hạnh phúc./.

Dịch xong ngày 29/3/2013

Hạnh Đoan

CHÚ THÍCH

1.

Dịch đúng nghĩa là ban tặng.

2.

Tên thật đã được đổi

3.

Phụ nữ có chồng ở Trung Quốc, tên họ thược gọi theo kiểu có họ chồng đứng trước – bà vợ ông Ngô vốn họ Lâm.
 
Báo Ứng Hiện Đời
Quyển 3


BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI

TẬP 3

Hạnh Đoan biên dịch

Mục Lục

LỜI NGƯỜI DỊCH

LỜI TÁC GIẢ

1.

TÂM SỰ TRÙM DU ĐÃNG

2.

TÂM SỰ “QUÝ PHU NHÂN

3.

KHÔNG NÊN MẶC TÌNH LÀM HẠI CÂY CỎ

4.

NƯỚC TRÀN KIM SƠN TỰ

5.

BỊNH TÙNG KHẨU NHẬP

6.

PHÍ PHẠM CỦA TRỜI TỘI RẤT LỚN

7.

DÙNG CHO HÉT

8.

ĐỪNG LẤY VẬT KHỐNG PHẢI CỦA MÌNH

9.

THÂN KHUYỂN MÃ

10.

NGUYÊN NHÂN KHÔNG NGỜ

11.

CẨN THẬN KHI GIEO NHÂN

12.

MANG THAI KHÔNG NÊN NỐI GIẬN

13.

HAI ĐỒNG DƯA CẢI

14.

NÊN SỐNG CHÁNH NGHIỆP

15.

QUẢ BÁO BỘI TÍN VONG NGHĨA

16.

BÀ HÀNG TRỨNG RÁN

17.

HAM CHÚT LỢI NHỎ BỊ THIỆT TO

18.

LÒNG TỐT CỦA CÂY TƯỢNG BA

19.

PHẢI THẤY ƯU ĐIẾM CỦA NGƯỜI

20.

MÊ HỒN THANG

21.

CÔNG TỬ ÁO XANH

22.

NGƯỜI VỢ ĐAU KHỐ

23.

KIM GIÁM ĐỐC

24.

TÀN PHU NHÂN

25.

THẰNG CHÁU QUÝ

26.

TÌNH CHẤP NHIỀU ĐỜI

27.

CON ĐƯỜNG LÀM GIÀU

28.

NỬA CÁI BÁNH

29.

NGHIÊM CƯ SĨ

30.

KHI TÔI BIẾT ĐẾN PHÁP PHẬT

31.

TRONG MẠT PHÁP CÓ CHÁNH PHÁP

32.

NI DIỆU DUNG

33.

NHỮNG ĐIỀM MỘNG ĐƯỢC BÁO TRƯỚC

34.

KINH NGHIỆM PHÓNG SINH

35.

QUẢ BÁO BẤT HIẾU

36.

TUẦN THẤT ĐẦU TIÊN

37.

VI SAO CÔ ĐI TU?

38.

VÌ SAO CÁC TU SĨ HAY BỊNH NẶNG?

39.

HỒI KÝ CỦA SƯ HẰNG NGHIÊM

CHÚ THÍCH

Xin gởi người… dù chưa quen nhau

Nỗi niềm trân quý cực kỳ sâu

Cầu mong người đọc tâm khai sáng

Xoa dịu cho đời… bớt khổ đau!

Hạnh Đoan

LỜI NGƯỜI DỊCH

Cuốn “Báo ứng Hiện Đời tập 3 ” này tuy là kinh nghiệm của nhiều người, nhưng hầu hết là do tác giả Quả Khanh biên thuật (Chỉ có một số ít các tác giả khác viết).

Vì cùng nội dung báo ứng nhân quả nên tôi tuyển lọc, gom lại, dịch thành một cuốn.

Nếu bài nào không đề tên tác giả thì xin quý vị ngầm hiểu bài ấy là của Quả Khanh.

Sau khi cuốn Báo ứng Hiện Đời (tập 1 và 2) xuất bản xong, được độc giả nhiệt liệt hưởng ứng, phản hồi, chia sẻ những kinh nghiệm hay cùng những ích lợi thu được nhờ đọc cuốn sách này: có người nhờ đây mà phát tâm thiện lành, đặt mình vào cảnh người để cảm thông tha thứ, chịu nhường nhịn, từ bỏ tranh chấp nhà cửa.

Có nhiều người đang ăn chay nhấp nhem đã thệ nguyện trường trai.

Có người hiếm muộn nhờ đọc “Hiện tượng bảo ứng nhân quả ” đã làm phúc thiện y theo trong sách và được hoài thai như ý.

Có người vướng phải nợ nần, đau khổ não phiền, nhờ đây mà tỉnh ngộ (sau khi cầu nguyện xin hiểu rõ nguyên nhân đã mộng thấy tiền kiếp mình từng ăn cắp số tiền to của người, tỉnh dậy đương sự đã xúc động thệ sống một đời trong sạch, nguyện giữ gìn thân khẩu ý nghiêm nhặt và tiêu tan hết niệm oán trách người, đời).

Rất nhiều tâm sự cảm động, tôi không thể kể hết …

Tóm lại nhờ tin sâu nhân quả, mà cuộc sống độc giả có được những xử lý kỳ diệu, hạ quyết tâm hoàn thiện mình mạnh mẽ và đời sống trở nên hạnh phúc bình an hơn.

Xin cảm ơn những lời góp ý chia sẻ chân tình cũng như ước muốn mong tôi dịch tiếp nữa.

Đây quả là niềm khích lệ và an ủi vô cùng, độc giả đã khiến tôi cảm thấy công lao của mình không phí hoài, được “đền bù”quá mơ ước.

Cho dù bạn có tôn giáo hay không, dù bạn tin hay không tin – thì Luật nhân quả vân tôn tại.

Hiểu nhân quả thì bạn sẽ biết cách tạo phúc tích đức để tự bảo vệ mình, nhân phẩm sẽ chuyên tôt và giới luật đức hạnh sẽ tự nhiên thành trong từng oai nghi ý nghĩ, khiến thân tâm đều được “thanh khiết hóa” và có thể hành xử hữu ích cho đời.

“Cuộc sống khổ hay vui tùy thuộc nhân gieo của chính mình.

Trong xã hội hiện nay; cái ác đang bành trướng khủng khiếp, có thể nói là xấu ngoài sức tưởng và mức độ tồi tệ đạt đến đỉnh điểm, đạo đức và luân lý suy đến độ người ta “không ác nào mà không dám làm, không tội nào mà không dám phạm”…

Khổng Tử nói: “Nhân chỉ sơ tính bản thiện”, còn các tôn giáo khác xác nhận: “Mỗi người đều có Thánh tính tiềm ấn bên trong” và Phật thì tuyên bố: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”…

Vậy thì Thiện tính, Thánh tính, Phật tính ấy ở đâu?

Mà giờ đây con người xài và hiển lộ toàn ác tính, quỷ tính, thú tính?… (không còn chút nhân tính nào).

Báo, đài đăng tin nhan nhản: kẻ cướp thẳng tay chém bừa người để đoạt xe, bà hàng rong bị giựt tiền tàn nhẫn, ông, cha, chú, bác, cậu… cưỡng hiếp con, cháu v.v… những hành vi không thể ngờ trong hình hài người!

Bởi vì mỗi cá nhân có đủ tính Phật lẫn ma, do thiếu hiểu biết và không tin nhân quả nên người ta đã lạc lầm phát triển toàn phần xấu, khiến bản tính hiền thiện, thánh khiết bị thui chột.

Vì vậy tôi mà cố gắng dịch nhiều “Báo ứng Hiện Đời ”, hi vọng thông qua đây Thánh tính sẽ được khôi phục, sống lại trong lòng mọi người, khiến ai cũng biết tự bảo vệ, tạo hạnh phúc cho mình và người chung quanh, để những ý nghĩ sai quấy, những thấy biết lầm, những hành động xấu, những ham muôn thấp hèn… sẽ tàn lụi, tiêu tan.

Mong bạn đọc cuốn sách này bằng tấm lòng bao dung và hiểu thấu cho niềm kỳ vọng của tác giả lẫn dịch giả.

Xin cảm ơn cô Nguyên Tâm, Hồng Minh Châu, Diệu Ấn, Dương Bích Thủy… luôn đồng hành và ủng hộ đắc lực, giúp tôi duy trì sức khỏe, có được phương tiện làm việc tốt và khả năng biếu tặng sách cho người.

Những ân nhân chưa kế còn rất nhiêu, và những tình nghĩa của bao người dành cho tôi cũng vô cùng, bất tận. (Từng lời động viên khuyến khích, từng ly nước, chén cơm, cái bánh, viên thuốc)…đối với mọi lo toan của chư vị dành cho tôi trong cuộc sống, tôi không thể chỉ nói một lời cảm ơn mà có thể đền đáp.

Xin được hồi hướng công đức này đến tất cả chư vị ân nhân cùng chủng sinh trong pháp giới, nguyện em Carol Chi Phan và những người đã mất…

đều được siêu sinh, nguyện những người còn sống đều khôi phục trọn vẹn bản tính thuần thiện, thánh khiết – Người có lỗi sẽ không còn phạm lỗi nữa và người chưa phạm tội sẽ tiếp tục giữ gìn thân tâm trong sạch.

Cuối cùng, xin quý độc giả vui lòng tha thứ cho những sai sót của người dịch.

Hạnh Đoan -14/10/2013

LỜI TÁC GIẢ

Tôi tuyệt chẳng ngờ được khi “Báo ứng Hiện Đời” xuất bản xong, lập tức được các bạn đạo khắp nơi nhiệt tình hưởng ứng, và sách liên tục được in ấn, tái bản nhiều như vậy.

Cho dù trong lời nói đầu “Báo ứng Hiện Đời tập một” tôi đã giải thích rõ, do có nhiều bất tiện nên tôi bắt buộc phải thay đổi tên họ thật và chỗ ở các nhân vật trong sách.

Nhưng vẫn có rất nhiều người không chú ý tới lời nhắc này, cứ nôn nóng lên Ngũ Đài Sơn hoặc đi Thiên Tân tìm Hòa thượng Diệu Pháp và tôi, vừa tốn tiền vừa uổng công.

Đây chẳng phải là chủ ý của tôi.

Xin quý vị nhớ cho: chuyện tuy có thật, nhưng tên phải tạm đổi.

“Nhân quả cảnh tỉnh người, không cần phải tìm tung tích sư” Nếu cứ một bề hướng ngoại tìm cầu, cho dù có tin Phật pháp, quý vị sẽ không được lợi ích.

Điều khiến tôi vui nhất là, có nhiều độc giả khi xem “Báo ứng Hiện Đời” đã minh bạch đạo lý, còn y theo đó tự kiểm nghiệp đả tạo của bản thân, quyết tâm sửa mình triệt để.

Nhờ phát tâm thành sám hối, nên bịnh khổ trên thân cũng được lành hoặc thuyên giảm rất nhiều!

Còn nữa, có nhiều độc giả đang ăn mặn, xem sách này rồi mới hiểu ăn mặn là tạo nghiệp tội sâu nặng, lập tức nguyện trường trai.

Họ không ngờ là mấy tháng sau không những thân thể ngày càng khỏe mạnh, da dẻ ngày càng tươi tắn mà kể từ lúc họ biết sám hối, phát nguyện tập tu, sửa mình, sự nghiệp bắt đầu phát lên, hưng vượng và diện mạo cũng phát tốt theo.

Còn có nhiều thai phụ triệt để từ bỏ ăn mặn, bắt chước tụng “Kinh Địa Tạng”, con họ sinh ra mạnh khỏe thông minh, dung nhan xinh đẹp và rất ngoan ngoãn, dễ nuôi.

Tóm lại, độc giả chia sẻ kể tôi nghe, sau khi trường trai họ thu được nhiều lợi ích rất tuyệt vời.

Do mỗi người nhân duyên bất đồng, nên ích lợi thu được cũng khác nhau.

Song những tin lành liên tục được báo cáo, khiến bao người hoan hỉ ngập lòng, riêng tôi càng xúc động sâu sắc.

Chúng ta giống như các loài động, thực vật bị hạn hán, khao khát trông mưa và Phật pháp giống như cam lộ, mưa một trận bủa khắp, khiến muôn loài, cỏ cây đều được lợi ích…

Hiểu sâu kinh tạng thì trí tuệ tăng trưởng, khi đã hiểu pháp, chịu tin, thọ, thực hành, thì sẽ ly khổ đắc lạc.

Đây cũng là mục đích tôi biên cuốn sách này, vì “tất cả do tâm tạo’’ – Phật pháp là diệu pháp – nếu quý vị biết rút kinh nghiệm từ mỗi câu chuyện có thật trong sách “Báo ứng Hiện Đời” và thành tâm đối chiếu thực hành theo, thì cũng giống như đang gặp Hòa thượng Diệu Pháp, bởi kết quả thu được vẫn không sai khác, thành công thấy rõ hiện tiền, hệt như “hễ dựng sào là thấy bóng”.

Trong cuốn sách này, có nhiều vấn đề độc giả nêu lên, tôi đều nhất nhất ghi ra để tất cả cùng tham khảo.

Trong thời buổi bước vào kỳ mạt pháp như hiện nay, vẫn còn nhiều người phát tâm “đại tu hành” xuất hiện, thế nên cho dẫu là “kỳ mạt pháp” nhưng mà không mạt!

Mong rằng ngày càng có nhiều người dung nhập vào biển an lành của Phật pháp, biết tự tu sửa thân tâm, đổi mới cuộc đời, vui hưởng hạnh phúc.

Quả Khanh

1.

TÂM SỰ TRÙM DU ĐÃNG

Thưa chư vị cư sĩ:

Tôi tên Lữ Sơn Kiệt, người Hà Nam.

Một ngày cách đây hơn bốn năm, trong lúc nghỉ trưa tôi tình cờ nghe cô Lý Linh kể các câu chuyện kỳ diệu của vợ chồng cô (khi họ đến Ngũ Đài Sơn lễ Hòa thượng Diệu Pháp) cho những người trong xưởng nghe.

Những câu chuyện báo ứng nhân quả này thật hấp dẫn và lôi cuốn khiến tôi rất ưa nghe, nhưng không dám tới gần (vì sợ lảm ảnh hưởng tâm tư mọi người), song khi tôi đi tới thì thấy các vị trong xưởng hầu như chẳng ai tránh né tôi cả.

Ăn tối xong, tôi không kềm chế được cảm giác xúc động (vì lần đầu tiên được nghe Phật pháp), nên ráng thu hết can đảm đến trước nhả Lý Linh.

Thật may, lúc này chỉ có cô và ông xã lả Đan cư sĩ ở nhà.

Hai người họ chẳng những không đuổi tôi đi, ngược lại còn nhiệt tình tiếp đãi (một kẻ không được ai hoan nghênh như tôi).

Vợ chồng cô Lý Linh là đệ tử Hòa thượng Diệu Pháp, tôi nói chuyện với họ tới ba-bốn tiếng đồng hồ.

Được pháp Phật tẩy gội thấm nhuần, không những tôi hiểu được nguyên nhản bịnh hoạn trên thân mình, mà còn biết rằng nếu như tôi không sớm hối cải sửa lỗi sám hối, thì tương lai chắc chắn sẽ phải đọa địa ngục vô gián.

Tôi là người như thế nào ư?

Xin thưa với quý vị, con nít mà đang khóc ầm ĩ, chỉ cần nghe người lớn nói một câu: -“Lữ Sơn Kiệt đến kìa!” là chúng lập tức nín ngay.

Tên của tôi có thể giúp người trong thôn làng đem ra hù con nít thì phải biết là thành tích “oai hùng” của tôi rất vang danh, nỗi cộm!

Xin đơn cử một chuyện nhỏ (như hạt mè) thôi, để bạn hiểu tính cách “hảo hớn” của tôi như thế nào:

“Nhiều năm lâu xa về trước, ngày nọ tôi cùng một người bạn tản bộ trên đường, vừa đi vừa nói cười rôm rả, thì ngay lúc đó bỗng nghe phía sau có tiếng còi xe “tin tin” vọng tới, tôi ngoái nhìn thi thấy đó là một chiếc xe vận tải to đùng.

Nhưng tôi vẫn tỉnh bơ đi nghênh ngang trên đường, chẳng thèm lý gì tới nó.

KÉ…ÉT..ÉT! – Tiếng kèn xe rống to như muốn xé màng nhĩ, tôi giật nẩy người, gã tài xế quát to: – “MÀY MUỐN CHẾT Ư?!

Chiếc xe lúc này đã dừng lại.

Tài xế thò đầu ra mắng tiếp:

– Đúng là mày tự tìm cái chết mà!

Tôi nghe xong, bốc hỏa.

Liền chạy tới đập rầm rầm vào xe, tay trái nắm chặt cửa xe, tay phải thoi lia vào tên tài xế.

Đột nhiên tôi phát hiện: ngồi bên phải hắn là một cô gái xinh đẹp, thế là tôi lập tức nhảy xuống đất, chạy vòng qua bên đó mở cửa xe ra, dùng thân đè lên người cô gái vả tay phải thì đam tên tài xế nhừ tử”…

Những ác nghiệp tạo trong quá khứ, tôi chỉ kể tí xíu cho mọi người nghe, để biết tôi có thành tích anh hùng ra sao thôi.

Thú thật, tôi kể mà xấu hổ lắm, vì từ khi biết Phật pháp rồi, hễ nhớ tới là tôi ăn năn và đau lòng vô cùng.

Do vậy mà tôi quyết tâm sám hối sửa đổi, nguyện từ nay bỏ tà quy chính, làm một người tốt đổi mới hoàn toàn.

Tin tôi cải tà quy chính lả một điều quái lạ nên chẳng mấy chốc được đồn lan.

Lập tức đủ lời dèm pha của mọi người truyền đến tai tôi: -“Cái thẳng Lữ Sơn Kiệt muốn học Phật hả?…

Thế thì cứt ngựa cũng có thể nở hoa đấy!” – “Phật giáo dù tốt đến đâu, hễ mà có Lữ Sơn Kiệt nhào dzô thì tôi đây không thèm học Phật nữa!”…

Quả tình còn rất nhiều lời khó nghe vô cùng, nhưng lúc đó tôi nghe xong chẳng hề nổi nóng má còn tăng thêm tâm sám hối.

Đúng là tôi từng tác tệ đến nỗi ngay lúc muốn học Phật, muốn làm người tốt mà không ai dám tin!

Đây chính là báo ứng mà!

Trồng nhân gì thì gặt quả đó, không sai chút nào.

Thế là tôi âm thầm hạ quyết tâm: “Lữ Sơn Kiệt tôi, trước đây quen sống xấu xa, xấu tới thiên hạ biết mặt, biết danh vả chạy làng.

Hôm nay thân tôi rơi vào cảnh bịnh hoạn, không những toàn thân vô lực, mà còn hay bị chóng mặt choáng váng. (Đan cư sĩ nói tất cả đều là quả báo do tôi đánh người, sát sinh)… bây giờ tôi đã được nghe Phật pháp, hiểu rõ và tin có báo ứng đáng sợ rồi, nên quyết tâm làm lại cuộc đời, thệ từ nay vĩnh viễn làm người tốt, là đệ tử ngoan của Phật.

Đức Phật từng nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính, thế thì vì sao tôi lại không thể … chứ?

Tất nhiên đã quyết tâm tu sửa, thì phải biết đón nhận những khinh miệt rẻ rúng mọi người dành cho mình.

Chư Phật và Bồ-tát, chẳng phải đã từng dạy: “Kẻ phạm lỗi một khi hiểu rõ Phật pháp, thì phải biết khiêm cung nhận lỗi, phải nhẫn giỏi và bắt đầu tu tỉnh, học tập từ ngay trong những lời mạ nhục chửi mắng” hay sao?

Từ đó, mỗi khi tan sở về nhà, tôi vùi đầu nghiên cứu kinh pháp, không những dứt tuyệt ăn mặn, mà ngay cả rượu, thuốc tôi cũng bỏ luôn.

Dù trước đây tôi là con sâu rượu, (nhậu như hủ chìm và phì phà thuốc như ống khói tàu).

Mỗi ngày tôi còn ở trước Phật kiểm lại những lỗi lầm trong quá khứ, chân thành phát lộ sám hối, từng lỗi sát, đạo, dâm, vọng, tôi đều dũng mãnh thề đoạn dứt, bỏ ác theo thiện…

Tôi lạy trăm lễ, hai trăm lễ, ba trăm, một ngàn… xin hồi hướng cho các sinh vật bị tôi giết hại, hồi hướng cho những người bị tôi đánh mắng mạ nhục, hồi hướng cho những người bị tôi bắt nạt, ăn hiếp…

Môi một lạy đều phát xuất từ tâm chí thành sám hối của tôi, đều mang theo giọt lệ ăn năn tràn mặt, tôi lạy đến ngay bản thân tôi cũng không nhận ra mình là Lữ Sơn Kiệt nữa.

Cuối cùng cũng đến một ngày, các bạn đạo chịu tiếp nhận tôi, láng giềng hương thôn mỗi lần gặp tôi đều vui vẻ chào hỏi, (cứt ngựa đã nở hoa) tên “ác quỷ” Lữ Sơn Kiệt giờ đã biến thành “người”, đã sống lại, đổi mới, đã quay về vị trí làm người, đã có tư cách con người rồi!

Đan cư sĩ còn dẫn tôi đi quy y Hòa thượng Diệu Pháp, tôi vui và mãn nguyện lắm, dốc toàn lực bắt đầu cuộc đời mới.

Đêm nọ, tôi nằm mộng thấy một con chó đen cao to rất quen, nó hiền lành quấn quýt bên tôi, tôi liền dang tay ôm, vuốt ve nó và nói bất tận những lời thân ái…

Sáng ra, khi thức dậy tôi thấy toàn thân nhẹ nhàng thư thái.

Từ đó, bịnh hoạn không để ý tới mả dần dần hết.

Một hôm, tôi đột nhiên nhớ lại, con chó đen này chính là mấy năm trước tôi đã dùng dây xiết cổ, giết nó, làm thịt ăn.

Tôi thiếu nợ mạng loài vật rất nhiều, tạo tội rất nặng (tích nghiệp thành bịnh).

Nhờ tôi chân thành sám hối, tụng kinh hồi hướng nên đã được chúng vui lòng giải oán kết, xóa hận.

Con chó đen không những không hận tôi mà trong mộng còn tỏ vẻ thân thiện, giải thích rằng nó được giải thoát.

Tôi quyết tâm từ nay về sau vì những sinh vật mình giết hại tụng “Kinh Địa Tạng” và tụng mãi…

để cầu siêu cho chúng.

Hi vọng chúng sớm vãng sinh cõi lành, cùng tôi viên thành Phật đạo.

Mấy năm sau đó tôi vẫn là một nhân vật “nổi danh” nhưng không còn khiến người gặp phải hoảng hồn kinh sợ nữa, mà trái lại, khi ông, bà hay ba má ai đó… dạy con cháu không nghe, họ luôn đem tôi ra làm gương để nhắc nhở:

– “Lữ Sơn Kiệt có thể biến thành người đại tốt như vậy, hỏng lẽ con chẳng thay đổi được hay sao?”…

Tôi đã thành người mẫu, thành tấm gương để các bậc cha mẹ đem ra bắt đám con ngỗ nghịch noi theo! (Như vậy Lữ Sơn Kiệt này sống ở nhân gian cũng không uổng phí)…

Tôi hiểu được rằng.

“Tâm ta do ta làm chủ, thân ta tạo ác hay hành thiện cũng do tâm làm chủ.

Tâm chuyển biến thì tắt cả đều đổi thay”.

Nhờ vậy mà tôi từ một người ác mới có thể biến thành thiện, trở thành một đệ tử sơ cơ căn bản của Phật.

Phiền não tức Bồ-đề, tất cả do tâm tạo mà!

Nguyện những ai có hành vi bất lương (giống như tôi) sớm quay về chánh đạo, đồng chứng Bồ-đề.

2.

TÂM SỰ “QUÝ PHU NHÂN”

Tan nát lại đoàn viên1

Tôi tên Mã Kim Lộ, vợ của Lữ Sơn Kiệt Tôi đã quy y Phật giáo, cũng là đệ tử Hòa thượng Diệu Pháp.

Mọi người gọi tôi là Mã Cư Sĩ, tôi vui lắm.

Con trai tôi 14 tuổi, tuy nó chưa quy y Phật, nhưng cũng thay đổi rất tốt, còn vì tôi chép “Kinh Địa Tạng” nữa.

Gia đình tôi hiện tại tuy chẳng giàu có, nhưng chẳng vất vả lo ăn lo mặc.

Điều khiến tôi mừng nhất là, từ lúc Lữ Sơn Kiệt bước vào đường học Phật, anh đột nhiên biến thảnh người khác, thay đổi hẳn.

Mới đầu nghe anh nói sẽ theo đạo Phật tập tu, ngay cả tôi cũng không dám tin, còn cho rằng “chắc anh đã bị bịnh…

“chi đó” (tôi không dám nói là bịnh thần kinh, dù có… nghi như vậy).

Ngày nọ thấy anh ôm tượng Phật bước vào nhà, thượng lên bàn, thờ phụng tại phòng khách.

Từ đó hằng ngày thắp hương lễ bái, tụng kinh.

Tôi làm gan hỏi:

Nè, người… như anh mà cũng biết thắp hương lạy Phật hả?

Liệu…

Phật có chứng, có chúc phúc cho không?

Anh ôn tồn đáp:

– Thí như con trai mình có tính bướng lì hay gây chuyện, không chăm học, nổi danh là học sinh tồi… thì vị thầy dạy nó, không phải là ngày nào cũng mong nó thay đổi ngoan ngoãn, trở thành học sinh tốt hay sao?

Lữ Sơn Kiệt tôi, từ đây trở về sau muốn làm một người thật tốt, thì sao không thể học theo Phật?

Mà này, hồi xưa tôi thường gây gỗ chửi bà, có lúc còn đánh bà, đều là tôi có lỗi, tôi sai hết!

Từ nay, tôi thệ bỏ uống rượu, bỏ hút thuốc, dứt tuyệt ăn mặn.

Tôi nguyện làm một người xứng đáng, làm đệ tử ngoan của Phật!

Nếu mà bà còn giận, thì cứ đánh tôi cho hả hơi, cho nhẹ lòng đi nha!…

– Ôi trời ơi!

Ôi mẹ ơi! – Hôm nay mặt trời mọc ở hướng Tây rồi sao??

Lữ Sơn Kiệt đã nói lời của “con người” rồi nè!

Những lời anh nói khiến tôi mở to mắt, khiến tồi nhìn sững… anh càng nói, tôi càng tuôn lệ đầm đìa.

Chẳng biết duyên số dun rủi như thế nào, mà hồi tuổi trẻ xinh đẹp tôi lại chọn anh.

Thuở đó tính anh ngang tàng, ưa đập lộn, ưa gây chuyện nên nổi danh khắp hương thôn.

Hồi đó tôi còn ngưỡng mộ cho anh là có khí phách “hảo hớn” nữa chứ.

Tôi nghĩ: “Nếu lấy anh rồi thì tương lai… sẽ không ai dám bắt nạt tôi!”

Mà đúng thiệt, quả thực là chẳng ai dám án hiếp, không riêng gì bạn bè thân quyến mà kể cả chòm xóm láng giềng cũng đều… lánh xa tôi.

Sau này mới biết anh là trùm du đãng, như vậy tôi nghiễm nhiên thành là “quý phú nhân của ông trùm”, thế thì đố ai… dám động tới!

Hằng ngày, sau khi tan “sở”, chồng tôi thường không về nhà, anh cứ la cà ở ngoài tu họp cùng đám bạn bè “đồng chí” nhậu nhẹt.

Hễ uống nhiều thì gây lộn, quậy tưng lên.

Không chỉ thế, ở nhà ăn cơm anh cũng nhậu, chưa xong tiệc rượu thì đã say khướt, nổi điên, đập Đông đánh Tây, quánh con loạn xị.

Có lần vì chút chuyện vặt anh mắng tôi, tôi đâu có nhịn được, liền trả treo lại mấy câu.

Thế là anh dang thẳng tay “bộp” vào mặt tôi, cú tát đập manh vào tai trái.

Lúc đó mắt tôi nổ đom đóm, tôi té xuống, ngất xỉu.

Khi tỉnh lại thì tai trái hết còn nghe ngóng được gì, tôi đến bịnh viện khám, bác sĩ nói tai tôi bị lủng màng nhĩ.

Hồi đó mái ấm của chúng tôi rất hiếm khi không có chuyện.

Việc đánh mắng, gây gỗ thường xuyên xảy ra.

Tục ngữ nói – Gần mực thi đen’’ rất đúng.

Do hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng luôn bất hòa, cuộc sống bị nhấn chìm trong khổ não, phẫn nộ khiến tôi dần dần lây tật xấu của anh – Tôi cũng thành “nữ anh hùng” dễ nổi nóng, cáu bực; tôi cũng nhậu bí tỉ, hút thuốc mịt mù.

Lúc đó tôi nghĩ: “Anh chẳng để tôi sống an qua ngày, thì tôi dựa vào đâu mà tiết kiệm cho anh chứ?”…

Hễ lãnh lương xong thì tôi ăn to uống lớn, đi gầy sòng nhậu, mượn men rượu giải sầu, phiêu du trong khói thuốc.

Nói khiêm nhường thì một ngày tôi có thể nốc cả bình rượu, hút hai gói thuốc.

Việc tìm vui qua các chất kích thích của men bia, khói thuốc đã đem đến cho tôi nhiều bịnh hoạn.

Đồng lương ít ỏi, lại phải đổ hết vào bệnh viện.

Thường là mới nửa tháng, túi tôi đã rỗng.

Thế là tồi cứ sống “xiên xẹo” cho qua ngày.

Hai chúng tôi hễ ngồi vào bàn nhậu, một khi gây chuyện thì rượu và thức ăn bay cùng nhà, con cái khóc rùm, vợ chồng cứ cãi um lên.

Chúng tôi có nói chi, làm gì, láng giềng cũng chẳng ai thèm khuyên ngăn.

Bạn xem duyên nợ chúng tôi là vậy đó, thế mà cũng gọi là mái ấm, là gia đình!

Nhờ hai vợ chồng cư sĩ Lý Linh dùng Phật pháp cứu vớt cái gia đình đổ nát của chúng tôi, nên tôi được biết đến đạo pháp và bước vào đường học Phật (nối gót theo sau Lữ Sơn Kiệt).

Tôi qui y Hòa thượng Diệu Pháp rồi, liền thệ dứt bỏ tất cả thói quen xấu.

Hiện nay, không những gia đình chúng tôi thay mới, đổi tốt, mà tà khí trên mặt Lữ Sơn Kiệt cũng biến mất tăm, không còn tung tích.

Mặt anh không còn u ám mà rất sáng.

Còn bản thân tôi lúc trước bịnh hoạn đầy thân, bây giờ không chữa trị mà được lành, sự khang kiện ngày xưa (khó bề tìm thấy) nay đã xuất hiện khỉ soi gương tôi thấy dung nhan tiều tụy héo xào của mình đã biến đổi, hồng hào, tươi tắn đến ưa nhìn.

Hôm nay, sẵn dịp cư sĩ Quả Khanh viết Báo ứng Hiện Đời” tập 3, chúng tôi chủ động yêu cầu xin ông cho… viết ké chuyện sa đọa của chúng tôi ra (Dù sao vợ chồng chúng tôi sớm đã là “danh nhân”, từng xấu đến chẳng thể xấu hơn được nữa, cho nên chẳng sợ mất mặt, mất danh, chẳng sợ bị khi dễ trong mắt ai nữa).

Điều tôi muốn nói là: “Chúng tôi từng là những kẻ tồi tệ như thế, gia đình rách nát như thế, mà còn có thể thay đổi… (nhờ biết Phật pháp nên tu sửa tâm tính, đổi mới cuộc đời mà hiên tại được hưởng hạnh phúc).

Vậy thì các bạn, những người có nhân cách hơn hẳn chúng tôi (hoặc tệ cỡ chúng tôi đi nữa) thì tại sao lại không thể sống hạnh phúc?

Vì sao các bạn không mau chóng chọn cho mình con đường ly khổ đắc lạc?

Đệ tử Mã Kim Lộ kính ghi và chí thành đảnh lễ Tam Bảo.

14/11/2002

3.

KHÔNG NÊN MẶC TÌNH LÀM HẠI CÂY CỎ

Một ngày vào năm 1993, một nông dân tên Thi khoảng 33 tuổi, đến ngôi chùa lớn ở làng quê xin gặp Hòa thượng Diệu Pháp.

Hai năm trước, nơi vách thực quản ông Thi mọc một ung bướu lành tính.

Khi phẫu thuật, bác sĩ đã cắt bỏ một đoạn thực quản và cho may lại nối với bên trên rồi.

Nhưng chẳng bao lâu chỗ cắt tuy đã lành, song bên trong thực đạo (nơi tiếp giáp với vòm miệng) chẳng biết vì sao lại mọc ra một mầm thịt tròn ngăn cản thức ăn, khiến ông nuốt gì cũng bị nghẹn, khó khăn.

Mặc dù không đau, nhưng bịnh nhân phải ăn từng chút, từng chút một mới được.

Được một năm thì ông Thi phải nhập viện phẫu thuật.

Nào ngờ sáu tháng sau, mầm thịt lại mọc ra tiếp, không thể phẫu thuật nữa.

Bởi chẳng rõ nguyên nhân vì sao bướu thịt cứ mọc mãi.

ông Thi vì bịnh này mà hết sức thống khổ, mỗi lần dùng bữa giống như thọ cực hình vậy.

May gặp ông bạn họ Chương, nhân vật chính trong câu chuyện “Gà Trống Lông Vàng” giới thiêu nên ông mạo muội tìm đến, cầu Hòa thượng chí giúp cho.

Hòa thượng hỏi:

– Ông có chặt qua một cây nhỏ nào không?

Đại khái thân to cỡ cái chày? (Hòa thượng dùng tay diễn tả)…

Nông dân nhớ lại, đáp:

– Dạ con chỉ đốn có một lần, cây náy mọc tại bãi đất trống trước cổng nhà con, nó mọc độ hơn một năm, sau đó bị con dùng rìu chặt đi.

Hiện giờ cái rìu vẫn còn, nhưng… lẽ nào do chặt cái cây nhỏ đó mà con bị ung bướu thực quản sao ạ?

Việc này quá lạ, ngoài sức tưởng nên bịnh nhân rất hoài nghi.

Cho dù thắc mắc lấm nhưng ông Thi không thể không tin.

Bởi chuyện chặt cây xảy ra đã rất lâu (từ mười mấy năm về trước), nhưng vì sao Hòa thượng xa lạ này lại có thể biết rõ vanh vách như thế?

Hòa thượng khai thị:

– Cây cối sinh trên đời là tạo phúc cho nhân loại.

Chẳng hạn như các việc xây chùa, dựng nhà, bắc cầu… nghĩa là có tạo dựng chi đa phần đều nhờ đến nó.

Trong “Kinh Địa Tạng” từng kể rất rõ: “Sơn có sơn thần, địa có địa thần, thủy có thủy thần”, như vậy thảo mộc vẫn có linh thần gá nương vào tu hành.

Cho nên trong lúc cây chưa trưởng thành không nên tùy tiện chặt bỏ.

Thứ nhất: làm lãng phí tài nguyên, Thứ hai: làm thương hại thọ thần gá nương khiến họ có thể ôm hận, hành ông mắc bịnh để trả quả.

Từ nay về sau ông khống nên mặc tình làm thương hại cây cối, hoa cỏ… cho dù có phải phát trừ cỏ hoang thì cũng phải vì nó niệm mấy câu Phật rồi mới chặt gốc dẹp trừ (bởi vì ở nơi gốc cỏ, cũng có nhiều sinh mệnh tồn tại).

Ông phải biết là các vị tu hành thời xưa mỗi khi muốn chặt cây cối trưởng thành, cũng phải lên tiếng thông báo xin thỉnh thọ thần dời nhà.

Hơn nữa, ông nên phát tâm ăn chay, phải vì cây nhỏ đã chặt kia mà tụng ba bộ “Kinh Địa Tang” thì ung bướu nơi thực quản sẽ dần dần tiêu trừ .

Ông có tin hay không vậy?

– Dạ có!

Con đến đâu để mua “Kinh Địa Tạng” về tụng đây ạ?

– Tới phòng kinh sách phổ thông của chùa mà thỉnh.

– Dạ cám ơn sư phụ!

4.

NƯỚC TRÀN KIM SƠN TỰ

Tháng 7 năm 1997, Chu nữ sĩ là giáo sư đại học cùng chồng lên Ngũ Đài Sơn bái Phật.

Trong dịp tình cờ, nghe đồn Hòa thượng tu hành uyên thâm liền đến thỉnh giáo.

Chu nữ Sĩ khoảng 32-33 tuổi, người cao vừa tầm, da trắng ngần, trên sóng mũi đeo một cặp kiếng gọng vàng, phong độ thanh nhã.

Chu nữ sĩ kể đôi mắt cô từ nhỏ không được tốt, luôn có cảm giác nóng như bị lửa đốt, cơn đau cứ ẩn hiện hành hạ.

Vì đôi mắt này mà song thân cô đã ưu tư rầu lo rất nhiều, tốn biết bao tiền bạc, nhưng không trị khỏi.

Sau đó trong thời gian qua Mỹ du học cồ cũng đi khắp nơi tìm thầy, nhưng không cách chỉ trị hết.

Nghe Chu nữ sĩ kể bịnh tình xong, sư phụ nhắm mắt lại.

Một lúc sau, Ngài kể ra câu chuyện rất thú vị mà ngay cả tôi cũng không dám tin.

Sư phụ hỏi:

– Các con biết câu chuyện truyền thuyết Bạch Xà, “Nước tràn Kim Sơn Tự” chứ hả?

Chúng tôi đáp:

– Dạ biết ạ.

Hồi nhỏ chúng con đã xem qua tác phẩm này, sau đó còn xem phim nữa

Sư phụ nói:

– Người ta ai cũng cho rằng đây chỉ là câu chuyện thần thoại hư cấu viết ra, nhưng trong lịch sử quả thực có chuyện này!

Nhiều loài vật trải qua năm dài tháng rộng tu hành sẽ phát thần thông, nhất là loài sống lâu năm, đây tuyệt chẳng có gì kỳ lạ.

Bạch xà hóa hiện thành cô vợ họ Bạch là bởi trong quá trình tu luyện, ả chưa đoạn trừ tâm dâm, nên lầm rơi vào đường tà.

Cứ bám chấp vào mục tiêu truy cầu tình yêu nam nữ ở nhân gian.

Nhưng quy luật thiên nhiên không cho phép người và súc sống chung, có hành vi loạn luân như vậy.

Cho dù xã hội hiện nay có văn minh tân tiến, quan niệm thoáng đến đâu chẳng nữa thì luân lý cũng khó dung.Trong ‘Truyện Bạch Xà” Hòa thượng Pháp Hải ngăn cản Bạch Xà là do phát xuất từ tâm đại từ đại bi, bởi nếu Bạch xà không chấm dứt ngay hành vi loạn luân, thì ngày sau sẽ phải hối hận thống thiết (vì tương lai ả sẽ bị hủy hết đạo nghiệp ngàn năm và phải đọa vào địa ngục).

Sư Pháp Hải đem Bạch xà nhốt dưới tháp Lôi Phong, thực tế là để giúp ả tiêu trừ tâm dâm, cho ả bế môn tu hành, tự kiểm điểm, nhìn ra lỗi mình!

Nhưng trong “Truyện Bạch Xà” tác giả đã viết hoàn toàn sai lệch: vị sư Pháp Hải từ bi lại bị diễn tả thêu dệt thành giống như ác ma, tác giả biến Phật Bồ-tát thành kẻ bất thông tình lý, tận sức hủy Pháp, báng Tăng, gieo rắc ái tình diễm ảo trong nhân gian, ca ngợi quỷ tà, tô hồng tình yêu, sùng bái ái luyến cực độ.

Hoàn toàn không lưu tâm giữa người và súc sinh có khác biệt hẳn hòi.

Tác giả đã dùng ngòi bút bất minh lý, làm chánh tà điên đảo, hướng dẫn người phí báng Phật giáo, khiến họ mê muội theo…

Đây chính là làm trái nhân quả, phải quấy chẳng phân, uốn thẳng thành cong.

Người mắt sáng vừa xem là thấy rõ ngay!

Hòa thượng ngưng một chút rồi nói tiếp -Vì sao tôi nhắc lại câu chuyện này cùng quỷ vị?

Bởi vì đôi mắt bịnh của Chu nữ sĩ có liên quan đến cổ sự này.

Cô ta đã từng tu niệm theo pháp Phật nhờ đức hạnh hộ trì Phật giáo mà chiêu cảm quả báo tốt, rất cần hiểu rõ nghiệp tội của minh đã làm.

Câu chuyện “Nước tràn Kim Sơn Tự” kể là Bạch xà, Thanh xà vì không nghe lời hòa thượng Pháp Hải khuyên răn nên đã hỗn chiến cùng ông, dùng thần chú kêu gọi Thủy thần nổi gió dâng sóng, làm nước ngập Kim Sơn Tự.

Thuở đó, Thủy thần không hiểu sự lý, nên làm sai, lại nhè trợ ác hành nghịch, dâng nước ngập lụt chùa, khiến thiên thần hộ pháp nổi giận.

Thiên thần bèn dùng lôi quang đánh Thủy thần, khi hỏa châu sắp đánh vào mặt, Thủy thần thân thủ vốn nhanh nhẹn nên đã kịp lặn xuống nước đào nạn, nhưng đồi mắt cũng bị tổn vì lôi quang đả thương, đau đớn khó chịu…

Bộ hạ của Thủy thần vội lấy vải băng mắt cô lại, gấp rút hộ tống đưa cô đến ngôi tiểu am trên núi, van cầu một vị hòa thượng có công phu, giỏi trị bịnh, chữa giúp giùm cho.

Nhưng khi Thủy thần tháo băng mắt ra, vị Hòa thượng tu hành nhiều năm này bị nét kiều mỵ tuyệt diễm của thủy thần hớp hồn (khiến ông ngất ngây rồi cứ nhìn sững như hóa đá), lập tức tâm ái luyến phát sinh…

Một niệm khởi sai là công phu tiêu hết, do vậy Hòa thượng trị bịnh không thành công.

Thủy thần trong cổ sự chính là Chu nữ sĩ đời nay, do đôi mắt kiếp trước bị nạn dẫn đến nguyên nhân bịnh mắt đời này.

Vị Hỏa thượng kiếp xưa nhìn thấy Thủy thần bỗng khởi phàm tâm, nay là chồng cô.

Chẳng phải bây giờ phu quân rất yêu thương, quan tâm lo cho cô hay sao?

Nghe những lời Hòa thượng Diệu Pháp nói, mọi người đều hưng phấn, nhìn chăm chăm vào đồi phu thê này.

Chu nữ sĩ có vẻ rất kích động khi biết rõ câu chuyện.

Giờ nghe Hòa thượng hỏi, cô quay qua nhìn chồng thật lâu, thật đằm thắm và cười cười, xác nhận:

– Đúng vậy!

ông xã rất quan tâm lo cho con, giống hệt như chăm con nít vậy.

Người chồng có vẻ lúng túng, ông khẽ mỉm cười rồi cúi mặt xuống, không nói gì.

Kế đó, sư phụ bảo hai vợ chồng họ:

– Hai con phải đến đại điện sám hối tội nghiệp xưa.

Làm nước ngập Kim Sơn Tự cho dù không phải chủ ý của Thủy thần, nhưng vì vô tri mà thành ra trợ ác, tội không nhỏ đâu.

Từ nay về sau phải thường lạy “Lương Hoàng Sám”, và năng tụng “Kinh Địa Tạng”, đôi mắt nhất định sẽ lành.

Sư phụ lại quay qua bảo chồng nữ sĩ.

– Con vốn là một người chơn chất, tu hành đàng hoàng, nhưng mỗi lần đến thế gian đều không buông được tâm ái dục, nên công phu xem như bị thiệt.

Đời này hai con đã nối tiếp tiền duyên, kết làm vợ chồng, càng phải cùng phát tâm, ngay một đời này nhất định phải siêng tu giới, định, huệ, chứng đắc vô thượng Bồ-đề!

Ngưng một lát Hòa thượng nói tiếp:

Có thể con chẳng tin chút gì về cổ sự ta kể.

Thế nhưng khi về, chỉ cần làm y theo những lời ta nói, thành tâm sám hối thì sẽ có hiệu quả.

Một tuần sau, vợ chồng Chu nữ sĩ đến bái kiến Hòa thượng.

Vừa gặp mặt, tôi đã thấy đôi mắt cô sáng long lanh, nhìn rất có thần, các mạch máu trong tròng trắng cũng không còn nữa, trông cô hết sức tươi tắn, rạng rỡ.

Dù hai vợ chồng nảy đối với câu chuyện sư phụ kể lòng rất hoài nghi, nhưng họ vẫn quyết định sám hối chân thành y như lời Ngài khuyên Nào dè lúc đến trước Phật đường sám hối, thì cô bỗng cảm giác có một luồng khí mát mẻ xâm nhập vào mắt, làm cho mắt cô rất dễ chịu.

Từ nhỏ đến giờ đôi mắt cô chưa từng có qua cảm giác tuyệt vời như thế.

Cảm thọ này khiến cô nhận ra mình chính xác đang được Phật lực gia trì, do vậy mà cô vững tin cổ sự sư phụ kể lả có thực.

Chồng cô cũng bị chấn động sâu sắc, Hai người ngay tối đó tại “Tân Quán Khách” đã cùng chí thành tụng “Kinh Địa Tạng”, sám hối tội lỗi của mình.

Sáng ra, khi mở mắt cô thấy nhãn thần của mình không còn nóng đau nữa.

Điều này làm họ kinh ngạc và vui mừng vô kể.

Thế là hai vợ chồng hằng ngày tụng “Kinh Địa Tạng”, tha thiết sám hối.

Hiện nay mắt cô Chu đã lành hoàn toàn.

Thời gian quay về cũng đã đến, họ đặc biệt tới cảm tạ và bái biệt sư phụ, còn bày tỏ rằng sau khi về Đài Loan sẽ mỗi ngày dành thời gian lễ tụng Lương Hoàng Sám.

Chu nữ sĩ còn một vấn đề nan giải xin thỉnh giáo sư phụ.

Cô thưa:

– Nếu như khi về, con bị người hỏi làm sao trị lành được đôi mắt, thì con phải đáp sao đây?

Vì con không thể nói mình chữa trị ở y viện nào, lại càng không thể thố lộ đời trước mình là Thủy thần trong “Truyện Bạch Xà” từng dâng nước làm ngập Kim Sơn Tự.

Nếu con giải thích như vậy, thiên hạ mà không nói con điên mới là lạ!

Câu này khiến mọi người tại hiện trường đều bật cười.

Sư phụ đáp:

– Rất đơn giản, con cứ nói mình tại Ngũ Đài Sơn tụng kinh bái Phật mà được lành.

Dù đối với sư phụ tôi tin tưởng trăm phần trăm, nhưng khi nghe ngài kể cổ sự này, lòng tôi không thể không có chút hoài nghi.

Bởi thời thơ ấu tôi từng nghe người lớn nói “Truyện Bạch xà” chẳng qua chỉ là một truyền thuyết, sao giờ đây lại có thực được?

Không những vậy, hiện thời còn có một Thủy thần tái thế, bằng xương bằng thịt đang ở ngay trước mắt tôi nữa chứ!

Thế nhưng, mấy ngày sau kết quả thực tế đã khiến tôi tiêu tan nghi hoặc, bằng chứng là đôi mắt Chu nữ sĩ rõ ràng đã hoàn toàn hồi phục.

Lúc đó người biết việc này tối đa chỉ có 6-7 vị.

Tôi mong rằng một ngày nào đó nếu Chu nữ sĩ tỉnh cờ xem đến cuốn sách này, sẽ không đem lòng giận tôi, được vậy là quý lắm rồi.

Cho dù khi tường thuật lại sự kiện này, các tên thật đều được tôi thay đổi, nhưng rốt ráo là tôi chưa có xin phép, chưa có chút đồng ý nào của cô mà đã mạo muội tiết lộ.

Nếu như câu chuyện này khiến các bạn có được nhận thức tốt và hiểu biết sâu hơn đối với nhân quả và Phật pháp – thì công đức này là của vợ chồng cô – Cầu mong hai người sớm chứng thánh quả.

Ngay đây tôi cũng hi vọng các cư sĩ đại đức có văn tài cao, có thể dùng ngòi bút tuyệt vời của mình viết mới lại “Truyện Bạch Xà” theo quan điểm Phật giáo và ghi thêm câu chuyện tái thế tình duyên của Thủy thần.

Nếu như không hiểu rõ về Bạch Xà, Thanh Xà, Hứa Tiên, chúng ta sẽ cầu giúp đỡ nơi Hòa thượng Diệu Pháp và cũng có thể đem câu chuyện chân thực (chứ không phải sai lệch) này dựng thành phim truyền hình nhiều tập, như điện ảnh Đài Loan đã từng công diễn chuyện đời “Ngọc Lâm Quốc Sư” trong “Tái Thế Tình Duyên” vậy.

Hi vọng “Truyện Bạch Xà” viết lại này sẽ là tác phẩm tốt giáo dục người, đồng thời cũng khôi phục lại danh vị xứng đáng cho Hòa thượng Pháp Hải, đây cũng là một việc công đức vô lượng.

Đến như lai lịch Hòa thượng Pháp Hải, rốt cuộc ngài là ai, là vị Bồ-tát nào chuyển thế?

Nếu sau này có dịp thì chúng ta sẽ bàn thêm.

5.

BỊNH TÙNG KHẨU NHẬP

Vì thèm ăn mà kho thịt rán cá, nào biết động vật bị giết trong lòng chẳng cam.

Nhà bếp biến thành lò đồ tể: moi ruột mổ bụng, vung đao hành hình.

Bạn chiên, xào, nấu, hầm… thịt loài vật, thậm chí ăn sống nuốt tươi: cho đó là mỹ vị cao lương, ngon bổ.

Đâu biết vật chết thảm lòng đầy oán hờn, thần thức chúng sẽ gá vào thân bạn, sớm muộn gì cũng bắt bạn đền mạng.

Thiện ác rốt cuộc đều báo ứng

Bịnh tùng khấu nhập chẳng đợi lâu.

Một khi nghiệp ác tạo đầy

Bịnh sẽ hành thân vào y viện.

Lúc đó thì bạn sẽ bị mổ ngực, rạch bụng phải nằm dưới lưỡi dao phẫu thuật, và toàn cảnh hành hình khi xưa nơi nhà bếp sẽ tái diễn trên thân bạn.

“Nếu sớm biết ngày nay chịu khổ, thì ban sơ chẳng nên giết vật, ham ngon!”…

Giải thích:

Mỗi cá nhân trong đời không ít thì nhiều, ai cũng bị bịnh hành hạ khiến mình và người nhà thân tâm thống khổ khôn xiết.

Bất kể bạn nghèo hay giàu, có quyển thế hay không, chẳng ai thoát khỏi bịnh hành hạ.

Thậm chí mạng sống từng phút giây luồn bị dày vò, lúc này kim tiền quyền thế đều không cứu bạn nổi.

Thế thì vi sao người ta bị bịnh?

Trừ chứng lão suy khiến các cơ quan trên thân thể già yếu ra, thông thường mọi người đều cho rằng: “Bịnh từ khẩu nhập” tức là do ăn phải thức không sạch thiếu vệ sinh mà bị bịnh.

Nếu lập luận này đúng, thì chúng ta hãy nhìn những người quanh năm sống ngoài trời, ngủ nơi đầu đường xó chợ, mặt chẳng rửa thân thể chẳng tắm, chuyên kiếm ăn nơi bãi rác, bất kể xuân, hạ, thu, đông… họ luôn áo chẳng đủ che thân, bị muỗi mòng cắn chích nếu so với những kẻ được gọi là văn minh như chúng ta (lúc nào cũng rao giảng vệ sinh, bữa ăn luôn được tuyển chọn chất bổ kỹ lưỡng) song lại thường xuyên phải uống thuốc và đến y viện nhiều hơn.

Thế thì câu “bịnh tùng khẩu nhập” rốt cuộc có ý gì?

Vào niên đại 50, chứng viêm phổi được xem như là bịnh nặng, nhưng khi đã có thuốc trị khỏi, thì sau đó xuất hiện chứng lao phổi, cuối cùng rồi lao phổi cũng trị được.

Thì tiếp theo lại có chứng ung bướu, Si-da, thậm chí còn nhiều bịnh lạ đến chẳng kiếm ra tên để mà gọi nữa.

Mỗi khi có một chứng bịnh kỳ dị xuất hiện, các nhà y học trên thế giới đều đau đầu vì không tìm ra cách giải quyết.

Hơn nữa, trên báo chí cũng loan tin có nhiều quái bịnh vô phương giải thích, đầy rẫy không cùng.

Theo thời gian khoa học ngày càng phát triển, thuốc men ngày càng tân tiến, con người sở hữu đủ loại thuốc quý đắt tiền, nhưng thảy đều chẳng xóa được tung tích bịnh hoạn, giống như trời xanh cố ý đối nghịch cùng nhân loại vậy.

Hiện nay y viện khám bịnh không dễ, thu phí mắc, nhưng tìm được thầy thuốc giỏi lại càng khó hơn.

Nguyên nhân nào khiến con người bị bịnh?

Đọc kinh sách xong chúng ta sẽ hiểu rõ thôi.

Sau khi kiểm chứng vô số lần trong thực tế, thì tôi có thể kết luận đơn giản rằng: “Tham sân si chính là cội nguồn của bịnh”.

Nói cụ thể, thì mười nghiệp ác chính là nguyên nhân phát bịnh.

Vậy “bịnh tùng khẩu nhập” chính là: Đừng ăn những thứ không nên ăn, đừng thốt những lời không nên nói Và đừng làm những việc không nên làm!

Bây giờ tôi xin kể những câu chuyện nhân quả có thật để các bạn cùng tham khảo:

6.

PHÍ PHẠM CỦA TRỜI TỘI RẤT LỚN

Một nữ ký giả tờ báo X nhiều lần nghe sư phụ giảng pháp, chỉ rõ nguyên nhân bịnh cho những người đến cầu khai thị.

Một hôm, cô hỏi sư phụ: Con bệnh bao tử nhiều năm, đã chữa trị mà không thấy kết quả, có phải do đời trước con làm điều gì xấu không?

Sư phụ hỏi: Phải chăng cô không ưa ăn da bánh bao, nên mỗi lần ăn đều xé lột lớp da bánh vứt đi?

Ký giả kinh ngạc nói: Ôi trời ơi!

Sư phụ!

Đúng là có việc này.

Con từ nhỏ đã không ưa ăn da bánh bao, vậy mà cũng là tội ư?

Sư phụ cười nói: Phải biết phí phạm là tội rất lớn.

Lương thực và thức ăn trong thế giới này có sứ mệnh để cho người dùng no bụng, nhưng con vì không ưa, thấy không hạp khẩu vị nên vứt bỏ, như vậy rất lãng phí.

Phải biết trên thế giới hiện nay còn rất nhiều người không có ăn và bị chết đói (Dân Phi châu từng đói đến không có gì ăn, phải ăn cỏ mà không có đủ cỏ để ăn).

Con phải cảm thất xấu hổ vì điều này.

Lại nữa, quốc gia nào cũng đều có người bươi bãi rác kiếm ăn, ngay cả các nước đang phát triển cũng không ngoại lệ.

Những người đói kém này đều do đời trước đã lãng phí lương thực, chà đạp thức ăn, nên đời nay mới bị quả báo như vậy.

Nếu đời trước ném bỏ đồ ăn, thì đời này sẽ phải đi kiếm nó về nuốt.

Vì vậy con phải tuyệt đối cẩn trọng, không nên phí phạm!

Nữ ký giả tỏ vẻ ăn năn hỏi: Con phải làm sao đây Sư phụ?

- Phải phát tâm sám hối, từ đây về sau thệ không bao giờ lãng phí vật thực nữa thì bệnh con sẽ dần dần lành.

Nữ ký giả lại hỏi: Con cũng lạy Lương Hoàng Sám có được chăng?

Sư phụ cười hài lòng: Rất tốt!

7.

DÙNG CHO HÉT

A Di Đà Phật!

Thưa Sư phụ!

Chúng con là Phật giáo đồ Hoa Nghiêm Quang từ xa đến.

Cô bên cạnh con là cô A, nói tiếng Hoa không rành nên con thay cô ấy hỏi giùm.

Cô A nói mình bịnh bao tử, đã uống thuốc chữa trị nhiều mà không thấy hiệu quả, nhưng cô không hề lãng phí thực phẩm gì.

Xin Sư phụ từ bi chỉ giáo cho ạ!

Hòa thượng nhìn cô Phật tử ở xa mới đến, rồi nói:

Con không lãng phí lương thực thì rất tốt, nhưng con lại lãng phí giấy!

Lúc con viết gì, chỉ cần cảm thấy câu ấy không vừa lòng hay chữ ghi không đẹp là vò nát tờ giấy, quăng ngay vào sọt rác.

Còn nữa, khi dùng bữa, con đã lãng phí khăn giấy rất nhiều.

Ăn một bữa cơm dùng một cái khăn giấy đủ rồi.

Nhưng con thì mỗi lần lau miệng hay tay thì mới vừa dùng một cái xong, lại thay mới liên tục, rất lãng phí.

Phải xài vật cho bằng hết, không được lãng phí.

Nếu như con biết mình sai thì nên sửa, bỏ tập quán xấu này đi thì bệnh bao tử sẽ lành.

Cô A gật đầu tỏ ý sẽ làm theo.

8.

ĐỪNG LẤY VẬT KHỐNG PHẢI CỦA MÌNH

Ông X thưa:

– Sư phụ, con quy y hơn ba mươi năm, chưa từng lãng phí bất cứ thứ gi, cũng chẳng dám làm chút chi sai nhân quả, nhưng hai năm gần đây bao tử con có cảm giác như bị kim châm.

Tới bịnh viện khám, họ lại nói bao tử con tốt như thanh niên.

Chẳng biết con tạo nghiệp gì, phiền sư phụ xem giùm cho con ạ.

Hòa thượng Diệu Pháp mỉm cười bảo:

– Tôi mà mở phòng mạch chuyên trị bịnh bao tử chắc là phát… lắm đây!

Mọi người nghe nói, đều cười ồ.

Sư phụ hỏi cư sĩ X.

– Ông mấy năm nay mỗi lần dùng bữa xong đều xài tăm xỉa răng phải không?

– Dạ phải!

– Ông thường ra tiệm dùng cơm?

– Dạ phải!

– Dùng cơm xong thì xỉa răng, lúc đi ông còn lấy vài tăm xỉa răng đem về?

Lão cư sĩ lộ vẻ rất kinh ngạc, nói:

– Con và anh bạn mỗi lần ra ngoài tiệm dùng cơm đều phải trả một-hai mươi đồng, con dùng mấy cây tăm xỉa răng thì có tội gì?

– Đúng vậy!

Tăm xỉa răng vốn cung cấp miễn phí cho thực khách xử dụng.

Cho dù bữa ăn ông có trả một-hai trăm đồng đi nữa, thi cũng không được tùy tiện lấy nhiều tăm đem về nhà dùng, trừ phi viên phục vụ mời mọc, tặng cho.

Họ đã không mời mà ông tự lấy nhiều mang đi, tuy chẳng thuộc lỗi ăn cắp nhưng phát xuất từ tâm tham.

Cho dù niệm tham này rất nhỏ, nhỏ tới mức ai nhìn thấy cũng không trách chi ông.

Nhưng ông là đệ tử Phật, đã phát Bồ- đề tâm, đã thọ giới Phật, cần phải giữ cho nghiêm.

Hễ không phải của mình thì không nên lấy, dù là cọng cỏ, ngọn cây cũng không được tham!

Đạo lý nảy người tu hạnh Bồ-đề không thể không minh bạch.

Bây giờ ông đã hiểu rõ chưa?

Lúc này lão cư sĩ pháp hỷ sung mãn, cao hứng nói:

– Dạ hiểu, thưa sư phụ.

Hòa thượng Diệu Pháp nói tiếp:

Đối với người tu hạnh Bồ-đề mà nói, mỗi một cử tâm động niệm đều rất quan trọng, ông chỉ lấy mấy cây tăm mà bao tử khó chịu, đây chính là chư Phật Bồ-tát gia trì, ngăn lỗi ngay từ manh mún, giúp ông đời này mau tu thành chánh quả.

Đấy gọi là “trong hư không chuyển từng vi tế, trong vi trần chuyển đại pháp luân”.

Hiểu rõ đạo lý này, ông nên quản thúc thân khẩu ý cẩn thận, bịnh sẽ không còn nữa.

9.

THÂN KHUYỂN MÃ

Mấy năm trước, tôi qua Mỹ thăm bạn, được dẫn đến một khu vườn chơi nổi danh để tham quan.

Tiến vào cổng lớn không xa thì thấy có một chiếc xe thổ mộ rất sang trọng vừa đỗ lại trước mặt chúng tôi.

Tôi bị màu lông trắng tuyết của con tuấn mã thu hút.

Nó rất đẹp, đầu ngẩng cao, lông trắng mướt như nhung và cái bờm tuyệt mỹ.

Chiếc yên ngựa vàng chiếu lấp lánh dưới ánh mặt trời Ca-li tươi đẹp càng tăng thêm phong thái uy vũ bất phàm.

Con ngựa chở du khách đi theo con đường cố định, người ta vừa tận hưởng thú vui quý tộc, vừa tha hồ ngắm cảnh thỏa thích mê ly.

Chúng tôi không lên xe, chỉ nhìn theo con tuấn mã khỏe mạnh đang kéo xe rời xa.

Đoàn chúng tôi mãi vui chơi đến chẳng biết trời đã tối.

Lúc quay về, khi đi ra gần đến cổng lớn, thì thấy con tuấn mã vẫn còn đang phục vụ chở khách.

Nhưng lúc này thần thái nó không còn anh tuấn hiên ngang, đầu cúi rũ, lê từng bước mệt nhọc, chứng tỏ nó rất đuối sức, hụt hơi.

Tôi nhìn bộ dạng nó, từ sáng sớm đến giờ lao động ít nhất cũng 20 tiếng, trông nó đờ đẫn mà đau lòng.

Tôi lan man suy nghĩ: “Chẳng biết con ngựa này kiếp trước nó đã tạo nghiệp gì mà đời này sinh làm tuấn mã, phải ở đây kéo xe suốt ngày?

Hôm nay đã có bao du khách ngồi cho nó kéo?

Và một năm có bao nhiêu người?

Không lẽ kiếp trước nó thiếu nợ đến chừng đó người hay sao?

Sau khi trở về nước, tôi đem chuyện này thỉnh giáo Sư phụ – Hòa thượng Diệu Pháp – Ngài bảo:

– Con ngựa đó đời quá khứ từng là một người da trắng, làm chủ hàng trăm nô lệ da đen.

Trong trang viên của ông ta có hơn trăm nô lệ làm việc.

Họ hứng chịu đủ mọi lăng nhục, hành hạ áp bức (phi nhân tính) của ông.

Sau khi ông chủ da trắng này chết đi, lập tức bị đọa vào địa ngục thọ khổ.

Mãn báo ở địa ngục, y đầu thai vào cõi thú, sinh làm con ngựa này, mang ngoại hình tuấn tú mỹ miều, thể lực mạnh mẽ, trở thành công cụ kiếm tiền cho chủ, nếm lại cái khổ làm nô dịch.

Cho dù những nô lệ kiếp trước bị y áp bức, bóc lột, đày ải…chỉ có hơn trăm người, nhưng bởi vì y hung tàn và ngược đãi đám nô lệ da đen quá mức.

Đây không những là phạm tội đáng xấu hổ đối với nô dịch mà đối với hành vi phi nhân tính (xúc phạm chà đạp con người quá đáng) thì y đã có lỗi với toàn nhân loại.

Do vậy mà ngày nay y phải chịu điều khiển, cưỡi ngồi….không được nghỉ ngơi.

Đó là quả báo mà y phải trả.

Con người do hành động lành, dữ tạo tác lâu ngày sau khi mất tâm thức theo đó mà đầu thai.

Tội nghiệp của y sâu nặng, chẳng biết còn phải làm kiếp trâu, ngựa hàng bao nhiêu lần nữa.

Đến cuối cùng, khi y được chuyển sinh làm người, thì phải mang thân phận bần cùng hạ tiện, khổ hết chỗ nói.

Tôi nghe xong tỉnh ra.

Ai mà ngờ được con tuấn mã khả ái đáng thương kia lại có một quá khứ không lấy gì làm vẻ vang như vậy.

Tôi thầm nghĩ nhất định phải tụng kinh Địa Tạng để hồi hướng cho con tuấn mã, giúp nó sớm chuộc đền tội nghiệp, thoát ly biển khổ; đồng thời còn phải niệm Phật siêu độ cho các nô dịch, xoa dịu oán khí xung thiên của họ.

Lúc này Hách cư sĩ ngồi bên cạnh tôi (bà là Hoa kiều định cư ở Malaysia) đột nhiên hỏi:

– Thưa Sư phụ, nhà chúng con hồi ở Hương Cảng có nuôi một con chó tên là Mi-su.

Từ nhỏ nó đã bầu bạn thân thiết với chúng con.

Sau khi cả nhà quy y ăn chay rồi, con chó này nó cũng rất có tánh linh, không lâu sau nó cũng bỏ thịt ăn chay theo, khiến cả nhà con đều hết sức vui mừng.

Khi gia đình chúng con dời đến Malaysia rồi thì hai năm sau Mi-su chết.

Chúng con rất buồn, mẹ con có đến chùa lập bài vị cầu siêu cho nó, còn tổ chức pháp sự chúc phúc cho nó.

Chẳng biết bây giờ nó đã tái sinh được vào cõi thiện lành chưa?

Mong Sư phụ từ bi quán sát giúp dùm chúng con.

Trầm ngâm một lúc, Sư phụ mỉm cười đáp:

– Con chó này nhờ đời trước ở nhà người nghe kinh ăn chay, chết rồi lại được các người tụng kinh cầu siêu cho nữa, nên nó đã được chuyển sinh làm người rồi.

Hiện giờ cũng đang ở Malaysia, là một cô gái mười bảy tuổi rất xinh đẹp!

Nghe Hòa thượng nói xong, Hách cư sĩ im lặng bấm đốt tay, rồi kinh ngạc lẫn vui mừng, la lên:

– Sư phụ, Ngài thật hay quá!

Mi-su nhà con chết tính đến nay đã đúng 17 năm.

Xin Ngài hãy cho con biết cô gái ấy hiện giờ ở đâu và tên gì?

Con rất muốn gặp cô!

Sư phụ và mọi người tại hiện trường đều cười.

Tôi hỏi Hách cư sĩ:

– Nếu tìm gặp được cô thì bà sẽ nói gì?

Không lẽ bà nói: “Em ơi, trước đây em là con chó nhà chúng tôi nuôi ư?”.

Cô ấy không đánh bà mới lạ đó!

Hách cư sĩ cũng bật cười vì sự vô ý nông nổi của mình.

Sư phụ hiền hòa nói:

– Có duyên thì sẽ gặp nhau.

Rồi sẽ có một ngày nó cùng với gia đình bà hội ngộ.

Vừa gặp, đôi bên tự nhiên sẽ cảm thấy rất là thân thiết và nó sẽ báo đáp gấp bội.

Lời xưa nói: “Bách niên tu đắc đồng thuyền độ (Tu trăm năm mới được đồng thuyền).

Cho nên chúng ta hôm nay được đồng sự, đồng quê hương, có bạn bè, thân quyến…..(thậm chí còn bao gồm luôn cả cừu nhân…) đồng tụ hội, thì xem như là đã có duyên từ nhiều kiếp.

Vì vậy, chúng ta phải kết thiện duyên cho rộng, gắng sức giải trừ ác duyên, cùng chung sống hài hòa, bảo tồn thiện khí, chung tay xây dựng một cõi cát tường.

Sư phụ từ bi như thế đó, Ngài khéo nhìn căn cơ mà giáo hóa.

Lần bái thăm này khiến tôi đã thu được lợi ích rất lớn.

Gieo nhân thiện chắc chắn nhận quả thiện, gieo nhân ác nhất định sẽ gặt ác báo.

Làm sao có thể mất đi được.

Cho dù vạn kiếp sau, hạt nhân thiện hay ác đã gieo rồi thì khi đầy đủ nhân duyên quả báo sẽ hiện tiền.

Xin hãy cẩn trọng!

10.

NGUYÊN NHÂN KHÔNG NGỜ

Có một nữ cư sĩ hơn 60 tuổi đến bái kiến Hòa thượng, kể là bản thân mình mấy mươi năm nay luôn cảm thấy khó thở nơi ngực, nhưng đi bịnh viện khám vẫn không ra bịnh.

Bà uống thuốc đồng tây y đủ hết nhưng không hiệu quả, khẳng định là trị không hết.

Nghe sư phụ giảng Phật pháp, bà rất tin.

Xin sư phụ quán sát giùm xem bản thân bà đã tạo nghiệp chi mà bị bịnh này?

Hòa thượng Diệu Pháp hỏi:

– Bà ngày trước ở nông thôn à?

– Dạ con vốn ở quê, sau này mới theo chồng chuyển lên thành phố.

Lúc bà còn ở dưới quê, trên mái nhà bếp có một tổ chim yến, bị bà chọt rớt phải không?

– Dạ phải.

Tổ yến làm ở phía trên, rất dơ bẩn.

Vì vậy con mới dùng cây chọt rớt xuống.

– Sau đó thế nào?

– Chim yến về thấy tổ biến mất, buồn rầu bay lên bay xuống quanh gian bếp, rồi lượn vòng vòng trước nhà kêu than rất lâu, sau đó không biết nó đi đâu.

Hòa thượng Diệu Pháp khai thị:

– Tất nhiên bà có thể dùng biện pháp ổn thỏa, thích hợp hơn để dời tổ yến, nhưng bà lại hành động thỏ bạo khiến chúng mất đi trú xứ, không nhà có thể về.

Phật giáo luôn nói: “chúng sinh bình đẳng”, vì tính linh và tinh cảm loài vật không khác người.

Hiện nay chẳng phải xã hội cũng đang đề xướng người và thiên nhiên sống chung hài hòa hay sao?

Hành vi làm tim sinh linh đau đớn cũng là một trong các nguyên nhân khiến bà ngạt thở.

Nữ cư sĩ như bừng tính, gật gù nói phải.

Sư phụ lại hỏi:

– Bà là người rất tiết kiệm, biết quý tiếc tài vật hễ đi trên đường mà gặp phế phẩm người khác ném bỏ thì lượm đem về tích trữ dồn cất cho nhiều rồi đem bán ve chai lấy tiền, có việc này chăng?

Nữ cư sĩ hỏi ngược lại:

– Con không hề trộm, đoạt của ai, chỉ lượm chút phế phẩm bán để kiếm thêm ít tiền, vậy mà… cũng có tội hay sao?

– Ta không nói -“có tội!” – Chiếu theo gia cảnh nhà bà, đời sống rất sung túc.

Lẽ ra bà nên nhường những phế phẩm đó cho người bần cùng khốn khổ hơn lượm.

Vì gia cảnh bà đã rất khấm khá mà còn đi làm vậy, đó là tâm tham.

Người học Phật nên từ bi hỉ xả, phải nhớ điều này.

Ta không hề kết tội mà chỉ khuyên bà hãy nhường cho kẻ nghèo, bà có hiểu ý ta nói chăng?

Nữ cư sĩ có vẻ xấu hổ đáp:

– Sư phụ nói rất đúng, con chỉ nghĩ đơn giản rằng “vật người khác ném bỏ, thì minh nhặt bán lấy tiền, không lượm là uổng phí, con chẳng nghĩ sâu xa như ngài.

Từ nay con quyết không lượm nữa.

Hòa thượng mỉm cười:

– Lỗi bà phạm tuy nhỏ, nhưng làm chướng ngại sự tu hành thanh tịnh, vì vậy mà hô hấp chẳng thông.

Hiện giờ bà cảm thấy tốt hơn chưa?

Nữ cư sĩ hiểu ra, có vẻ ngạc nhiên và vui mừng nói:

– Ôi chao, con thực đã khỏe nhiều rồi.

Toàn thân đều thoải mái, hít thở dễ dàng lắm ạ.

11.

CẨN THẬN KHI GIEO NHÂN

Năm ngoái, Cung tiên sinh cùng vợ đồng đến bái kiến Hòa thượng Diệu Pháp.

Vừa gặp đã thấy má bên phải của ông bị bỏng đỏ.

Tiên sinh khoảng hơn 40 tuổi, mày rậm mắt to, môi dày, tính cách ông khiến người đối diện có cảm giác ông rất chân chất trung thực.

Thế nhưng tinh thần ông ngó bộ không được tốt lắm.

Vợ ông kể một buổi tối cách đây nửa năm, ông đang trên đường về nhà thì bị một người tạt acid vào mặt.

Lúc đó đèn đường tối om nên không nhìn rõ mặt hung thủ.

Bởi vì chồng bà là nhân viên chấp pháp, biện sự nghiêm túc, có khả năng ông đã đắc tội với ai đó nên bị báo thù.

Chính phủ thành phố rất xem trọng vụ án này, nhưng đến nay vẫn chưa điều tra ra hung thủ.

Chồng bà trong lòng rất phiền bực, uất ức, luôn có ý muốn báo thù.

Đêm ngủ không yên, dù có chợp mắt cũng chỉ nghỉ được một chút.

Bà sợ tinh thần chồng có vấn đề, nên đến thỉnh giáo Hòa thượng.

Hòa thượng bảo Cung tiên sinh:

– Việc này có liên quan đến chuyện sát sinh ăn thịt của ông.

Công tác chấp pháp chỉ là một trong nhiều nguyên nhân, chẳng nên ôm hận người thủ ác.

Tinh thần ông không có vấn đe gì, mặt ông sau khi hồi phục sẽ không lưu lại sẹo.

Còn nữa, muốn được lành nhanh và từ nay về sau không còn gặp họa này nữa thi ông phải sớm dứt trừ ăn mặn và thường niệm: “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát”

Ngoài mặt thấy ông đồng ý vâng chịu, nhưng ngó bộ tâm tư đang cố kềm chế lắm.

Sư phụ xin ông lưu lại họ tên và số điện thoại.

Sau khi hai vị khách này về rồi, sư phụ bảo tôi:

– Bởi vì vợ ông ở đó, có vài việc ta không tiện nói.

Ông ấy vốn chẳng tin Phật, mà chuyện nhân quả đời trước ông cũng không tin.

Sáng mai con hãy gọi điện cho Cung tiên sinh, bảo nếu ông thường được người mời đi ăn tiệm dùng hải sản tươi sống thì không nên đi.

Do làm việc ở pháp đình nên ông được người khẩn khoản đãi đằng, mời ăn uống luôn; không biết như vậy là bản thân mình đang tạo nghiệp.

Nếu ông cứ mãi ăn nhậu sát sinh, thì sẽ góp phần tăng thêm quả báo bị bỏng…

Rồi sư phụ kể cho tôi nghe:

“Cung tiên sinh đời trước là một phú ông, có tâm từ bi, thương xót người nghèo.

Nhờ thường hay bố thí nên đời này không vất vả về ăn mặc.

Ông có phúc báu, tuy tốt bụng song làm thiện ác lẫn lộn.

Bởi ông giàu nên tâm cũng sinh kiêu ngạo, tự cao tự phụ, vì vậy mà đối với tôi tớ không tôn trọng họ, thương hay sỉ nhục người.

Ngày nọ ông đang chăm chú đọc sách thì có một tớ gái cần hỏi gì đó nên bước vào đến gần phú ông, rồi nó thình lình lên tiếng làm chủ nhân giật mình, thế là ông nổi cơn thịnh nộ, hung hãn cầm ngay chén trà nóng trên bàn hắt vào mặt tớ gái.

Nữ tỳ không biết mình phạm lỗi gì, đau đớn sợ run, ôm mặt bật khóc chạy ra ngoài.

Đây là nguyên nhân khiến đời này ông bị người dùng acid tạt vào mặt nhưng chẳng thể hủy dung nhan.

Người gây ác này, có thể là nữ tỳ đời trước đấy”.

Tôi nghe sư phụ khai thị, trong lòng thấy cảm khái.

Trong “Kinh Địa Tạng” giảng: “Chúng sinh ở thế giới này cử tâm động niệm không gì mà không tạo nghiệp, không gì mà không là tội”.

Một chút hành động không đúng phép, dù trải qua trăm ngàn kiếp, nghiệp tạo vẫn không mất, nhân duyên hội ngộ thì tự thọ quả báo.

Mỗi một Phật tử chúng ta, cần phải cẩn trọng ngôn hạnh, sửa mình liêm chính, ngay lúc khởi tâm động niệm cũng phải thường dụng công, để tránh khỏi bị ác báo.

Nếu không, một khi quả tới, có hối hận thì đã muộn.

Diễn tiến tiếp theo tôi chẳng cần viết ra dài dòng chi nữa.

Hòa thượng Diệu Pháp xưa nay chưa bao giờ nói sai việc gì.

Chỉ biết rằng sau đó Cung tiên sinh đã bước vào con đường học Phật, tu tinh tấn.

12.

MANG THAI KHÔNG NÊN NỐI GIẬN

Tại một ngôi chùa ở Tây An, có một phụ nữ khoảng 50 tuổi đang hướng Hòa thượng Diệu Pháp kể lể những uẩn khúc của bà.

Vợ chồng bà sớm đã li dị, nhưng đứa con gái do bà trăm cay ngàn đắng dưỡng nuôi khôn lớn (hiện là sinh viên Viện Nghiên Cứu Đại Học Bắc Kinh), từ sinh ra đến giờ tâm tính hành vi nó rất kỳ khôi, luôn thích kình chống mẹ.

Hễ bảo nó đi Đông thì nó rảo Tây.

Thí như nó ưa ăn cơm rau xào, bà liền làm thật ngon cho nó ăn, rõ ràng là nó đang thưởng thức say mê, vậy mà cứ làm ra bộ chẳng thích, leo lẻo nói mình ưa thứ khác và trách mẹ không chìu theo.

Hôm sau, bà làm đúng thứ nó yêu cầu, thì nó lại nói mình “ưa món khác, chẳng phải thứ này”… nghe mà phát tức vậy đó!

Nhưng ở bên ngoài, ai cũng khen nó là một cô gái rất biết điều và năm nào cũng được bầu chọn là học sinh giỏi nhất của trường.

Mặc dù nhờ ảnh hưởng mẹ, nó cũng tin Phật, nhưng thái độ cư xử vẫn không thay đổi.

Hễ bà nói “niệm Phật tốt” thì nó nghiêng qua tham Thiền, dù lúc tĩnh tọa thấy rõ ràng nó niệm Phật…

- Thưa sư phụ, ngài nói xem, có phải là nó nghịch duyên với con không, có phải nó đến đòi nợ con không?

Hòa thượng bảo: Lúc mang thai cháu được sáu tháng, bà thường nổi giận, bà đã gây cãi với chồng mấy lần?

Bà nghĩ ngợi một lúc rồi đáp: Dạ có, con gây với ông xã hai lần.

– Chồng bà ngày xưa một bề yêu thương bà, phải không?

– Dạ đúng ạ!

– Chồng bà mỗi khi gây, giận, lòng rất oán trách bà, vì mỗi lần gây dù bà biết mình sai, song vẫn cố cãi bướng.

Sau đó bà làm mất đi lòng yêu thương chồng dành cho bà, cũng khiến ông mất lòng tin về cuộc sống chung.

Khi chồng bà đề nghị ly hôn, bà tuy trong lòng rất không muốn, nhưng ngoài miệng cứ oang oang nói lời trái ngược, còn hùng hổ tuyên bố:

– Ly thì ly…!

ông cút xéo ngay cho tôi!

Từ hồi ly dị đến giờ bà không tái hôn, là bởi vì hối hận và hoài niệm…

đúng không?

Đột nhiên bà bật khóc tức tưởi nghẹn ngào.

Lệ tuôn ràn rụa…

Hòa thượng nói tiếp:

– Lúc bà gây cãi với chồng, thai nhi trong bụng cũng khởi niệm tức giận bà.

Cơn phẫn nộ của bà cũng làm thương tổn đến gan tạng con bé.

Bà có lỗi nhưng không chịu nhận mình sai, dẫn tới vợ chồng phải ly dị khiến cháu bị mất mát tình thương của cha (mà nó chủ yếu là vì cha mà đến) đầu thai làm con gái hai người, nên tận trong sâu thẳm của ý thức, nó đã có sẵn niềm oán hận bà.

Thực ra, nội tâm bà đã thầm sám hối lỗi xưa với chồng, chỉ là không chịu công khai nói ra thôi.

Có một cách giúp bà chuộc lỗi (mà không làm ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình hiện tại của ông), để ông biết bà đã ăn năn, thì hãy dùng tâm sám hối đó đối diện với con gái.

Chính do sai trái của bà khiến đời này nó bị mất đi tình phụ tử.

Khi ở nhà bà hãy chí thành tụng, lễ ba bộ “Lương Hoàng Sám”.

Dưới sự gia trì của Phật, thái độ con gái đối với bà sẽ thay đổi, nó sẽ thành một đứa con hiếu thuận.

13.

HAI ĐỒNG DƯA CẢI

Có một nữ cư sĩ khoảng hơn 60, mới nhập Phật môn, bà và chồng hướng Hòa thượng thỉnh giáo.

Con trai bà hiện nay 41 tuổi, mấy năm trước đầu nó bịnh nấm da trâu, bây giờ đã lên đến não, khắp hai tay, ngón, móng gì cũng bị ráo.

Bịnh chuyển lây lan dày mịt, đã chữa chạy khắp nơi mà vẫn vô hiệu, xin Hòa thượng từ bi khai thị.

Hòa thượng hỏi: Trước khi sinh thằng bé nửa tháng, bà có vì tiền bạc mà nổi giận không?

– Dạ không!

Hòa thượng nói: Việc này xảy ra lúc đang mang thai, bà thường bị ám ảnh và nghĩ đến luôn mà?

Hãy tự kiểm thật kỹ lại xem!

Một lát sau, cả hai vợ chồng hầu như đồng thanh nói:

– Dạ đúng, quả có việc này ạ!

Bà kể đó là vào năm 1960, do thiên tai, nên thực phẩm bị khan hiếm.

Ngay cả mua cải muối cũng bị cân đong, hạn chế.

Lúc thai nhi hơn 7 tháng, bà được quyền mua thực phẩm phụ.

– Con nhớ khi đó mình chưa mua cải muối, nhưng nhân viên ở “Hợp tác xã” lại nhất quyết bảo là: “Mua rồi!”.

Con bèn lật sổ ra xem thì thấy đúng là có ghi mấy chữ: “Đã mua” nên nghĩ thầm: “Đây nhất định là mẹ chồng mình đã lén mua để viện trợ cho con gái bà ở Hắc Long Giang chứ không ai khác”…

Con về nhà tra hỏi, quả nhiên đúng y như vậy.

Thế là con nổi “tam bành” cãi với mẹ chồng một trận dữ dội, con còn nhớ lúc đó ông xã vì binh mẹ, đã tặng cho con một đạp!…

Bà vợ kể lại, tuy ráng mỉm cười nhưng nước mắt lưng tròng, sụt sịt nói:

– Chút chuyện nhỏ này đến nay đã 41 năm nên con quên béng.

Ngài và chúng con mới gặp nhau lần đầu, vậy mả có thể “khui” ra hết, ngài nhất định là Bồ-tát a!

Hòa thượng dịu dàng bảo bà:

– Thai nhi trong bụng đối với vui, buồn, mừng, giận của mẹ đều cảm nhận được hết, chỉ lả nó không thể biểu hiện cùng ngoại giới thôi.

Bà thịnh nộ với mẹ chồng không những làm trái kỷ cương luân thường, mà còn tự hại bản thân, lại khiến thần kinh não đứa con trong bụng tổn thương, đây chính là nguyên nhân no mắc bịnh hiện nay. (Đương nhiên cũng do tội sát sinh ăn thịt của riêng bản thân nó nữa).

Cả nhà bà cần phải dứt trừ ăn mặn và cùng sám hối mới có thể tiêu tội nghiệp.

Gia đình bà có thể tụng “Kinh Địa Tạng” chăng?

– Dạ được, nhưng không thông thạo lắm.

– Mỗi ngày nên tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” cho đến khi bịnh con bà hoàn toàn hồi phục.

14.

NÊN SỐNG CHÁNH NGHIỆP

Trai cưới vợ, gái lấy chồng

Là do duyên ác hoặc duyên thiện!

Không duyên thì chẳng gặp!

Sinh con trai hay gái

Là đòi nợ hay trả nợ mà tìm đến

Không nợ chẳng đến lầm chi!

Mùa hạ năm 1994, có một nam cư sĩ hơn 50 tuổi đến ngôi chùa nọ, hướng Hòa thượng Diệu Pháp thổ lộ nỗi khổ sầu của mình.

Ông kể trước đây tình cảm mình và bà xã rất tốt.

Nhưng từ lúc sinh đứa con thứ nhất thì tính khí bà vợ bắt đầu nóng nảy thất thường, hay kiếm chuyện gây gỗ làm khó, thường cãi lẫy ầm ĩ, có lúc còn đánh, cào cấu… làm ông bị thương khắp mình mẩy, mặt mày.

Trong lòng ông dù rất tức giận, nhưng thuở giờ chưa từng đánh trả lại, giống như không hề có tâm giận oán chi bà.

Sau đó bà sinh tiếp đứa thứ hai, diễn tiến càng phức tạp, thê thảm, tới độ ông không thể bước vào nhà, vì luôn xảy ra cảnh xung đột ầm náo như trời nghiêng đất lở.

Bất đắc dĩ ông phải xin nghỉ hưu sớm.

Trước đây quá phiền não, ông đã quy y Phật môn, nghỉ hưu ròi thì dọn đến chùa ở.

Do lương hưu ít, trừ giữ tiền ăn ra, còn lại ông đều đưa hết cho bà để nuôi dưỡng hai con ăn học.

Nhưng số tiền lương ít ỏi càng khiến bà nổi cáu hung tợn hơn.

Hiện tại ông đang mang bịnh mà phải tự lo một mình, nhưng chẳng dám đi bịnh viện, vì không có tiền.

– Con cảm thấy thế giới này quá khổ, xin Hòa thượng từ bi chỉ giúp cho con đường sáng – Ông khẩn thiết nói.

Sư phụ im lặng lắng nghe rồi lên tiếng:

– Kiếp trước ông sổng bằng nghề buôn heo.

Ông đem heo nái nhà mình đi phối giống, hễ sinh lứa heo con nào thi bán lấy tiền.

Từng lứa heo sinh ra đều bị ông bán hết, khiến con heo mẹ nếm đủ nỗi khổ mang thai, luôn sinh sản và đau nhói lòng trong từng đợt vĩnh biệt con.

Phải biết động vật và người đều có tình cảm giống nhau.

Lúc đó heo mẹ đã ghim hận ôm lòng oán ông tận cùng, thêm nôi đến khi nó hết sinh sản được thì bị ông bán vào lò mổ.

Thử nghĩ xem, con cái nó tất cả đều bị ông bán lấy tiền, phút lâm chung lại bị giết đau đớn thê thảm, nó có dễ dàng bỏ qua tội này cho ông chăng?

Vi vậy mà đời nay nó đã tìm đến, cùng sống chung bên nhau để báo oán.

Vị cư sĩ lắng nghe chăm chú, tỏ vẻ hưng phấn, nói:

– Con phải làm sao để hóa giải mối oan cừu này?

Vậy con xuất gia hẳn có được không?

– Xuất gia ư?

ông không làm nổi! (Vì quá quyến luyến, quá yêu các con)…

Chỉ cần vài ngày không gặp chúng là ông ăn không ngon, ngủ không yên, phải vậy không?

– Dạ đúng thế, thưa sư phụ.

– Mà con ông lại quan hệ thắm thiết với mẹ, nên dù có xuất gia thì ông cũng chạy về nhà thôi, lúc đó cảnh ngộ của ông sẽ còn thảm hơn hiện giờ.

– Thế… con phải làm sao?

Hòa thượng cười cười bảo:

– Có thực ông muốn hóa giải oán cừu chăng?

– Đương nhiên, xin sư phụ chỉ giúp cho.

Thế ông hãy dùng tâm vui vẻ mà đối diện, chắp nhận hết.

Dù bị đòn cũng không đánh trả, bị chửi vẫn không mắng lại…

Khi về nhà dù gặp cảnh nghịch hay thuận đến, thì ông hãy bình thản đón nhận, cam tâm tinh nguyện vì bọn họ phụng hiến, chân thành sám hối lỗi xưa, hầu hóa giải tội lớn đầy trời.

Ngoài ra hằng ngày ông phải kiên trì tụng niệm sớm tối, mỗi ngày tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho “heo mẹ và các lứa heo con kiếp xưa từng bị ông bán đi”.

Ngoài việc phụ giúp lo liệu việc nhà ra, ông phải dốc sức tụng kinh bái sám, làm được vậy thi cũng giống như xuất gia.

ông có đủ lòng tin chăng?

– Dạ có!

– Vậy thi tốt!

Kiên trì thực hành như thế bền lâu, ông sẽ giải được hận oán.

15.

QUẢ BÁO BỘI TÍN VONG NGHĨA

Ký Văn Đông, hơn 40 tuổi, thân mặc hiếu tang, mắt đầm đìa lệ, quỳ trước ngôi mộ mới đắp của thím Trương láng giềng, lâu thật lâu vẫn chưa chịu rời xa.

Người đàn ông này vóc dáng cao lớn, tướng mạo đường đường, nhưng lại có thời thơ ấu rất thảm.

Nếu như không nhờ thím Trương quan tâm giúp đỡ, thì có lẽ anh đã không còn trên trần thế.

Tuy không phải thân nhân nhưng thím Trương đối tốt còn hơn thân nhân.

Lúc Văn Đông 5 tuổi thì cha mẹ anh trong một năm đã lần lượt qua đời.

Cha Văn Đông trước phút lâm chung, mắt đầy lệ gởi gắm con trai lại cho anh cả và chị dâu mình.

Ký thác toàn bộ gia tài của ông: gồm nhà cửa khang trang, số tiền rất lớn và mớ vàng bạc trang sức (tài sản hồi môn của mẹ Văn Đông).

Xem như tất cả đều giao hết cho vợ chồng người anh, cậy nhờ họ quản lý thay cho bé Văn Đông.

Lúc đó anh cả và chị dâu ông chỉ trời đắt thề thốt đủ điều, họ nói với người sắp mất thế này: – Chúng ta đều là người một nhà!

Con em thì cũng như con anh chị.

Dù em không để lại tài sản, chẳng có lấy một xu thì anh chị đây cũng nguyện cưu mang, nuối cháu đến lớn khôn…

Cha Văn Đông nghe những lời tràn đầy nghĩa tinh này, sung sướng mỉm cười, an lòng nhắm mắt ra đi.

Khi đó cũng có cán bộ trong thôn và láng giềng đồng chứng kiến, ai nấy đều cảm động rơi nước mắt.

Xong tang lễ được mấy ngày, thím Trương láng giềng bỗng nghe Văn Đông bị đánh đập khóc to.

Hơn nữa cứ cách năm-ba ngày thì nghe hai bác đánh cháu, chửi mắng om sòm, âm vang nghe rõ mồn một.

Thím Trương tốt bụng đã nhiều lần can gián, nhưng chuyện vẫn xảy ra như cũ.

Sau đó thím phát hiện bé Đông rất ít ra ngoài chơi, thỉnh thoảng nó đứng nơi cửa, nhưng chẳng hề thấy nó cười.

Thím Trương bèn đến gần, hỏi han mấy câu, thì thằng bé lộ vẻ sợ hãi không dám nói gì.

Thím Trương thấy Văn Đông ốm đi rất nhiều, hơn nữa mặt mày thân thể đầy vết thương.

Thấy thế thím Trương không cầm được nước mắt.

Dần dà láng giềng, hương thôn ai cũng biết chuyện.

Nhưng khi làng xã chất vấn, thì hai vợ chồng nọ hung hăng nói là tại Văn Đông lì bướng không ngoan.

Bọn họ nhận lời ba thằng bé ủy thác thi có quyền quản giáo, cũng chẳng làm gì hại nó.

Họ còn trách ngược lại, mắng đám người ngoài lo chuyện không đâu, nào có máu mủ chi mà nhúng mũi vào chuyện gia đình họ?

Do mọi người không bắt được tại trận chuyện ngược đãi cháu của hai bác Văn Đông, vả lại người ngoài chẳng có quyền can thiệp chuyện nội bộ của họ, dù rất bất bình, nhưng chẳng ai giúp chi được.

Một năm, rồi một năm trôi qua, thằng bé dần dần trưởng đại.

Thím Trương nhiều lần thừa lúc hai bác Văn Đông đi vắng, lén đút nhét, chăm bón cho thằng bé, khi miếng bánh, lúc viên kẹo hoặc thứ gì đó…

Nhìn thằng bé ăn ngấu nghiến, thím mỉm cười an ủi nó.

Văn Đông dù đã lớn nhưng vẫn phải mặc bộ y phục cũ rách từ hai năm trước.

Xuân, hạ, thu… cứ dần qua.

Tới mùa đông thím Trương thấy thằng bé mặc đồ mỏng manh rách rưới ló cả tay chân, nhìn nó co ro đưa tay ôm vai, run rẩy vì lạnh, bà rơi nước mắt quay về nhà tìm y phục cũ của con mình, giặt sạch sẽ, may thêm lớp bông độn bên trong, rồi ngay tối đó đem sang nhà hai bác Văn Đông nói là áo bông con mình chê không dùng nên để cho Văn Đông mặc.

Nói xong bà tự tay mặc vào cho thằng bé.

Trước khi Văn Đông thành nhân, thím còn may cho nó ba bộ áo bông, không lúc nào mà không tiếp tế ẩm thực, có lúc còn dúi cho nó ít đồng lẻ.

Cuối cùng Ký Văn Đông cũng trưởng đại, thành tài, có nghề nghiệp ổn định, được nhiều cô gái để ý.

Khi Văn Đông đến tuổi kết hôn, anh xin hai bác cho mình ra riêng tự lập.

Hai bác dù không muốn, nhưng vì cháu đã lớn,họ sợ lời bình phẩm của láng giềng, bất đắc dĩ phải chìu theo.

Nhưng họ viện cớ gia cảnh khó khăn, chỉ cấp cho Văn Đông một ngôi nhà dột nát cũ kỹ, trống trơn không có gì, bởi toàn bộ đồ đạc họ đã dọn đi hết.

Hai người bác này có sáu người con, họ xảy nhà mới khang trang cho hai con trai khi chúng thành thân.

Phần Văn Đông, đối với sự ngược đãi của bác, không hề nói một lời than oán.

Mỗi khi người trong thôn bất bình, đốc xúi anh đi kiện quan, thì anh nói:

– Bác cả nuôi tôi khôn lớn cũng chẳng dễ dàng gì, nếu không nhờ bác cưu mang, thì tôi cũng chẳng sống đến hôm nay.

Tiền bạc vật chất thường khiến người ta tranh giành.

Nhưng có câu rằng: “Trai tốt chẳng tranh điền trang, gái tốt chẳng tranh đồ cưới” hay sao?

Nếu như không học hành, không có nghề nghiệp ổn định thì dù sở hữu nhiều tài sản đến đâu, cũng không giữ được lâu.

Tôi nhất định học tập, trau giồi kỹ thuật nghề nghiệp thật tốt để làm việc phục vụ hương thôn mình, cho xứng đáng với sự quan tâm yêu thương của dân làng, không phụ ân nuôi dưỡng của hai bác…

Dân làng rất quý phục tính nhân hậu thực thà của Văn Đông, ở hiền gặp lành! – Giờ đây anh đã là chủ một xí nghiệp trong thôn, hiện có một con đang theo học tại đại học thành phố.

Tiểu gia đình của anh sống rất êm ấm hạnh phúc.

Ta hãy nhìn xem hai người bác bội tín vong nghĩa, làm trái lời thề bị báo ứng ra sao?

Họ có sáu con: gồm bốn gái hai trai.

Con gái đầu của họ 29 tuổi thì bị bịnh sỏi thận chết, con trai cả 29 tuổi cũng bị sỏi thận, không bao lâu thì chết.

Con gái út 29 tuổi cũng vướng bịnh bất trị hệt anh chị mình mà tử vong, khiến ba mẹ chúng tâm kinh thịt run, ngày đêm bất an.

Sáu đứa con đã chết mất ba người, sau này còn xảy ra chuyện gì nữa đây?

Không bao lâu con trai út của họ kết bè lập đảng đi cướp bóc, gây cãi đánh lộn, bị phán mười năm tù.

Ngày y bị tuyên án, mẹ y bị xuất huyết não, từ đó nằm liệt giường, nhận chịu bao cư xử ghẻ lạnh, mắng chửi của con cái.

Do bà không khống chế được đại tiểu tiện, thường trây dính mền chăn, có lúc nằm đó suốt ngày không ai lý tới.

Bà cứ sống cảnh như vậy hơn ba năm rồi chết trong bi ai.

Lúc bà chưa chết, thì chồng bà cũng vướng phải chứng si ngốc lú lẫn.

Bà chết được nửa năm, thì một hôm ông đi đường không cẩn thận vấp té, đầu đập xuống đất và từ đó ông ra đi vĩnh viễn.

Láng giềng kể tôi nghe câu chuyện này xong thì hỏi:

– Đây có phải là nhân quả báo ứng không?

Và chẳng đợi tôi đáp, họ tự nói:

– Ở quê chúng tôi ai cũng bảo đây là trời già trừng phạt cặp vợ chồng bội tín bất nghĩa.

Tôi nói: – Giống như làm mùa vậy.

“Trồng gì thu hoạch đó”, đây là quy luật tự nhiên.

Trước khi Phật đến nhân gian giảng pháp thì luật nhân quả đã tồn tại sẵn trong thiên nhiên Phàm phu không hiểu, nên cứ trồi hụp trong biển khổ sinh tử, không chịu thoát ly.

Chư Phật Bồ-tát từ bi, thừa nguyện trở lại nhân gian, giảng thuyết chân tướng vũ trụ và chỉ cho chúng ta phương pháp xuất ly khổ hải.

Chúng ta nhất định phải nắm ngay cơ hội được mang thân người này, y pháp tu hành, sớm chứng Bồ-đề mới là con đường chân chánh trong nhân gian.

16.

BÀ HÀNG TRỨNG RÁN

Một buổi chiều năm 1993, có người nhấn chuông cổng, tôi ra mở cửa thì gặp một phụ nữ độ ngoài 50, phía sau bà còn có hai cô gái khoảng hai mươi mấy tuổi (đang khiêng một bao gạo to).

Tôi hỏi bà tìm ai, bà nói tìm tôi.

Nhưng tôi không quen bà (mà bà đối với tôi ra vẻ rất quen).

Bà ngoái đầu kêu con gái vào nhà, không đợi tôi mời, đã tự đóng cổng rồi tiến vào phòng khách, sau đó bảo hai con thả bao gạo xuống để cùng theo bà bái Phật.

Họ lễ xong, tôi vẫn chưa nhận ra bà là ai.

Bà cười nói:

– Một năm trước tôi có tới nhà tôn huynh, tôi là bà hàng trứng rán nè.

Tôi nghe qua thì sực nhớ, liền nói:

– Ôi, xin lỗi, tôi nhất thời không nhận ra, xin mời ngồi!

Lưng bà khỏe hẳn chưa?

– Dạ khỏe rồi.

Hôm nay tôi cho hai con khiêng bao gạo này đến để cảm tạ…

Tôi biết tôn huynh xưa nay không nhận quà, nhưng hôm nay tôn huynh nhất định phải nhận bao gạo này.

Vì nhờ tôn huynh và vị sư phụ kia mà tôi mới sống còn đến ngày hôm nay…

Nghe bà nói, dòng tư tưởng tôi trôi về quá khứ…

“Năm ngoái, một cư sĩ quen đã dẫn bà tới nhà tôi.

Chồng bà bị chứng “thoát đĩa đệm cột sống”, phải nằm trên giường 6 năm.

Tuy bà ân cần chăm sóc, nhưng cuối cùng ông vẫn không thể đứng dậy và đã qua đời nửa năm trước.

Ngờ đâu, bà cũng mắc chứng bịnh giống vậy.

Nghĩ đến chồng mình bị bịnh hành, tiêu tốn rất nhiều tiền mà không giữ được mạng, bà nghĩ thầm: “Chi bằng mình chết sớm tốt hơn, khỏi làm lụy đến hai con!”…

Vì vậy mà bà không thèm đi khám bịnh, cũng chẳng uống thuốc chi.

Con gái biết được ý mẹ, vạn phần lo lắng, bèn đến chùa Quan Âm cầu Phật gia hộ.

May gặp một cư sĩ tốt bụng (trước đây ông là láng giềng của họ), sau khi biết chuyện rồi, ông rất cảm thông, sẵn dịp nghe tin Hòa thượng Diệu Pháp vừa đến nhà tôi, ông bèn dắt bà tới, cầu sư phụ chỉ cho con đường sống.

Hòa thượng lắng nghe bà kể rõ bịnh tình rồi, liền hỏi:

– Nghề bà mưu sinh có liên hệ đến trứng gà?

Bà có vẻ kinh ngạc, nói:

– Con sống bằng nghề bán bánh trứng rán, một ngày tối đa tráng mười mấy cân trứng.

Có phải vụ này liên hệ tới bịnh của con?

– Bà làm vậy không phải đề kiếm tiền sao?

– Dạ, con nương vào sức lao động chân chính để kiếm tiền, mong ngài chỉ giùm nguyên nhân bị bịnh…

– Bà đừng trách tôi nói thẳng nhé.

Một cân khoảng 11-12 trứng gà, bà tính mỗi cân chỉ có 7-8 trứng, còn bán trứng gà nhỏ cao bằng giá trứng gà lớn và kiếm lời trong chỗ cân thiếu này, phải thế chăng?

Bà đáp:

– Dạ, ai cũng làm vậy, để kiếm chút tiền mà.

Trên thực tế, đâu phải là khách không biết, nhưng lúc mua chẳng ai để tâm so đo…

– Nói theo Phật pháp thì bà làm vậy là tham, là dối lừa.

Bà bán hàng, cân thiếu vì mong có thêm chút tiền.

Nhưng “giọt nước lâu ngày xuyên thủng đá, tích ác nhỏ sẽ thành họa lớn”, đây là nguyên nhân căn bịnh của bà.

– Thế chồng tôi không liên can việc này, vì sao cũng bịnh giống vậy?

Sư phụ nhẫn nại giải thích:

– Bị giống một chứng bịnh không có nghĩa là đồng một nguyên nhân!

Ví như bịnh cảm sốt – đa số các chứng viêm thường bắt đầu từ bịnh sốt cả – Có thể bà sẽ hỏi, phải chăng ai bán bánh trứng rán cũng mắc bệnh này?

Đây không nhất định!

Mỗi người từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, nhân quả chồng chéo phức tạp, chẳng ai giống nhau.

Đọc báo chúng ta thấy mô tả tai nạn xe, cũng đồng một tai nạn nhưng kẻ thì chết thảm, có người bị văng ra xa mấy mét nhưng lại bình an vô sự, tưởng chết lại được sống…

Nghĩa là có rất nhiều chuyện lạ lùng ngoài sức tưởng, nhưng thực ra đây đều liên quan đến đức hạnh của mỗi người.

Những người sông thiện, dù gặp nạn dữ rất dễ hóa lành, hay biến nguy thành an.

Chuyện làm ăn buôn bán kiếm tiền là thường tình, là “thiên kinh địa nghĩa”.

Cổ nhân nói: “Quân tử yêu tài, thủ chi hữu đạo” nghĩa là “dù ưa tiền, song kiếm tiền cũng phải có đạo đức”.

Bà đã cân thiếu hai lượng, dùng hành vi giả dối này làm phương pháp phát tài là không có đạo đức.

Hơn nữa, việc này đồng nghĩa với “dưỡng hổ vi họa”.

Hiện giờ số tiền lớn nhờ cân thiếu mà kiếm được, trong tương lai bà sẽ phải đổ vào chi phí thuốc men hết mà không đủ nữa…

Tôi giải thích vậy bà có tiếp thu được chăng?

– Sư phụ, con rõ rồi.

Sau này sẽ khống tham tài, lừa khách hàng nữa.

Hòa thượng bảo bà thỉnh tôn tượng Phật về thờ, mỗi ngày lễ bái sám hối.

Bởi bà không biết chữ nên Hòa thượng dạy bà khi lạy Phật cứ niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát”, và phải phóng sinh, thì bịnh bà có thể lành.

Lúc ra về, bà cảm thấy lưng khỏe hơn rất nhiều, nên càng tăng thêm tín tâm đối với Phật pháp.

Thật không ngờ, hơn một năm thì bịnh bà lành.

Còn chuyên trình đến đây đáp tạ”…

Bà thấy tôi không chịu nhận bao gạo, kích động nói:

– Sau khi tôi từ nhà tôn huynh ra về, ngày nào cũng nghĩ đến những việc làm thất đức của mình, lòng ăn năn khôn xiết.

Hôm sau vội đi thỉnh tượng Quan Âm về thờ, hằng ngày thắp hương lễ bái.

Một ngày lễ tối đa ba trăm lạy, lưng tôi chẳng những không đau mà ngày càng khỏe lên.

Nhưng có một hôm, đột nhiên lưng tồi đau kịch liệt, đau tới đứng không nổi.

Các con khuyên tôi nên đi bịnh viện.

Tôi nói: – Bịnh viện nếu chữa được thì ba tụi bây đã không chết.

Sư phụ kia nói đúng, má tin ông ta!

Thực ra, dù bịnh lành hay không tôi cũng tin!

Ai bảo tôi phạm tội buôn bán gian xảo làm chi?

Đau đớn hành tới tôi chẳng thể ngồi được nữa, nên đành nằm trên giường niệm danh Bồ-tát Quan Thế Âm, tôi niệm kiên trì như thế cả tháng.

Một đêm nọ tôi nằm mộng, thấy Bồ-tát Quan Thế Âm xuất hiện trước mặt mình, tôi vội khấu đầu làm lễ.

Bồ-tát hỏi:

– Con ngày ngày niệm danh ta là muốn cầu điều gì?

Tôi thưa:

– Con do tham tài mà lưng đau, bị “thoát đĩa đệm cột sống”, xin Ngài trị bịnh giúp cho.

Con mà lành rồi thì ngày ngày luôn niệm Phật, lễ Phật.

Bồ-tát cúi xuống, đưa tay sờ vào lưng tôi, mỉm cười bảo:

– Ngươi vốn không có bịnh, nếu bị bịnh thì sao có thẻ khấu đầu làm lễ trước ta được?

Nói xong Bồ-tát biến mất.

Tôi mừng rỡ niệm to danh Ngài rồi ngồi bật dậy trên giường.

Hai con gái bị tiếng của tôi đánh thức, vội chạy tới bên giường an ủi.

Đột nhiên chúng kinh ngạc, vui mừng reo lên:

– Má, má ngồi dậy được rồi nè!

Lúc này tôi mới phát hiện mình đã tự ngồi dậy được, hồi tưởng lại tình cảnh trong mộng thì đột nhiên lưng có cảm giác nóng ấm, hết sức dễ chịu thư thái, lúc này mới biết là bịnh mình lành rồi, lòng quá cảm động, lệ tuôn không cầm được.

Tôi kể cho hai con nghe chuyện giấc mộng, chúng chưa tin lắm.

Tôi bảo hai con đỡ mình dậy, chúng dìu tôi đi thử mấy bước, lưng tôi một chút cũng không thấy đau, chỉ là hai giò còn hơi yếu, tôi hiểu đây là tại mình nằm mãi trên giường hơn cả tháng.Thế là ba mẹ con chúng tôi mừng đến không ngủ được.

Bịnh lành hẳn hoàn toàn.

Lòng tôi tràn đầy niềm tri ân Bồ-tát Quan Thế Âm, đồng thời cũng nhớ đến ông xã giờ đã thành nắm tro xương.

Nếu như ỏng được gặp Phật pháp, chẳng phải là đã cứu được rồi sao?

Thế là tôi quyết định về quê, ra thăm mộ ông, khoe là tôi từ cõi chết mà được sống.

Thăm mộ xong, bà con thân thích mời tôi ghé chơi mấy ngày, tôi bằng lòng.

Trong thời gian ở quê, thấy người ta gặt còn sót bông lúa rất nhiều.

Tôi hỏi người trong thôn:

– Lúa còn sót dữ quá sao không ai mót hết vậy?

Họ đáp: – Hiện nay nhà ai cũng sung túc khá giả, nên chẳng thèm phơi đầu dưới nắng mót lúa làm chi nữa.

Tôi hỏi: -Vậy… tôi mót có được không?

Họ đáp: – Có gi mà không được, vài ngày sau rơm, rạ đều sẽ bị thiêu trụi hết thôi.

Ngừng một lúc bà nói tiếp:

– Tôi thấy lúa còn sót quá nhiều mà bị đem đốt hết thì rất uổng, bèn bỏ ra một tuần để mót lúa, mót được bốn ôm to đùng.

Đem xay ra thành 98 kí gạo.

Hôm nay tôi chở tới cho tôn huynh 50 kí.

Đây chẳng phải là lễ vật gì đâu, mà muốn để tôn huynh biết lưng tôi thật sự lành rồi (nên mới có thể khom lâu như vậy để mót ra ngần ấy gạo đó!) Xem như Phật Bồ-tát đã ban cho tôi mạng sống lần thứ hai!

Tôi thường nhờ con gái giúp tôi tụng kinh “Bồ- tát Quan Thế Âm Phổ Môn Phẩm” hồi hướng phúc cho chúng sinh.

Kính tặng tôn huynh bao gạo này để cùng chia vui với chúng tôi.

Tôi mỉm cười bảo:

– Tôi không dám thu lễ của bà đâu, hãy đem đến chùa cúng dường người xuất gia đi, vì các vị ấy mới là đại diện Phật tại nhân gian.

Hơn nữa, hòa thượng Diệu Pháp cũng là người xuất gia đấy! tự thân và không thẻ không âm thầm sinh tâm sám hối.

Tính ra tuổi tồi lớn hơn cô, thời gian tạo nghiệp ắt nhiều hơn, tham tâm cũng bự, to hơn và chuyện vấp sai lầm càng “khủng” hơn!

Cố gái này tính cách lương thiện, chưa đánh mất nét thuần khiết, chất phác.

Còn tôi thì cực kỳ nóng nảy, các lỗi ngu si, tham sân v.v… có đủ hết – nếu chẳng sớm tu hành, tiền đồ bi thảm ắt có thể tưởng tượng được.

Những câu chuyện nhân quả phát sinh bên cạnh tôi, không ngừng cảnh tỉnh sách tấn tôi rằng: “Phải ráng tu, thời giờ không đợi mình đâu!”

17.

HAM CHÚT LỢI NHỎ BỊ THIỆT TO

Một cô gái khoảng 27-28 tuổi, tai nghe lúc được lúc không.

Đi bệnh viện kiểm tra, bác sĩ nói là không có bệnh, nhưng thính giác cô vẫn nghe không rõ, chẳng biết tại sao?

Sư phụ hỏi:

– Cô làm việc liên quan đến gì mà trong lỗ tai …

đầy tiền lẻ như thế kia?

Cô nhất thời ngơ ngác hoang mang, không hồi đáp được.

Tôi thay sư phụ giải thích cho cô hiểu:

– Những đồng lẻ này vốn không thuộc của cô, nhưng do cô ham chút lợi đã lấy tiền này tiêu xài riêng.

Lỗ tai cô vì vậy mà sinh bệnh, chứ chẳng phải trong lỗ tai có đầy tiền!

Cô hãy kiểm xem, thực có chuyện này chăng?

Cô lập tức hồi đáp mình là viên thu ngân tại trạm bán xăng, mỗi ngày tính sổ thường có nhiều tiền lẻ, cũng chỉ độ một – hai hào, do khách hàng không cần thối nên bỏ lại.

Cô hàng ngày tới công sở thường đi, về bằng xe buýt, thấy tiện nên đã lấy mấy xu lẻ này trả tiền xe.

Cô cho rằng đây không phải là tham ô.

Tôi nói:

– Đây không phải là tham ô, nhưng là tham tâm, đúng không?

Cô có vẻ ngượng, lúng túng gật gật đầu.

Sư phụ hỏi:

– Từ rày con còn tham những món tiền lẻ này nữa không?

Cô nói với vẻ dứt khoát:

– Thế thì tốt!

Sư phụ vừa dứt lời, cô lộ vẻ kinh ngạc kêu lên:

– Tai con giờ đã nghe rất rõ ạ!

Sư phụ mỉm cười bảo:

– Trong tai con bây giờ ta nhìn không thấy có tiền lẻ nữa, nhưng thấy vẫn còn “thịt dăm bông, trái cây nước giải khát”…

đây là thế nào vậy?

Cô tròn mắt kinh ngạc, hét lên:

– Ôi mẹ ơi, Ngài làm sao mà… cái gì cũng nhìn thấu hết vậy?!

Thỉnh thoảng lúc tính tiền, khách hàng có đưa dư mấy đồng lẻ, chúng con thường lấy đó mua thịt dăm bông, trái cây, nước uống, v.v… cho bữa dùng trưa, đây cũng tính là tội ư?

– Con là thu ngân, vốn không thể tính sai mà.

Tiền thuộc công quỹ thì không nên dùng riêng, con đâu có quyền tự tiện làm như thế?

Cô gật đầu lia lịa:

– Ngài nói đúng.

Từ nay về sau con chẳng dám vậy nữa.

– Đã nói thì phải giữ lời đấy!

Cô hân hoan đứng dậy thưa:

– Sư phụ, tai con hoàn toàn thông suốt rồi, là ngài “Phát công lực” cho con ư?

Tôi đáp thay sư phụ:

– Đây là kết quả của uy lực (cô vừa sám hối) phát thệ vượt qua cám dỗ vật chất, quyết tâm không phạm lỗi nữa!

Cô rất mừng, chuyển sang thắc mắc khác:

– Đôi mắt con mấy năm nay hay có cảm giác xốn, mờ.

Vạch ra xem, thấy không có gì, nhưng mí mắt luôn bị đỏ, có phải bị báo ứng do liên quan đến lỗi sai trái nào nữa chăng?

Sư phụ đáp không cần suy nghĩ:

– Con biết tự giác phản tỉnh như vậy là tốt!

Nơi mí mắt con ta thấy có nhiều bột giặt!

Cô la lên:

– Ô!

Con biết rồi!

Chúng con làm ở tiệm xăng, phải dùng xà phòng để tẩy rửa các vết dơ, cho nên hằng ngày công tác, thường dùng bột giặt rửa tay.

Do ở tiệm công việc không bận lắm nên bọn con gái chúng con lúc rảnh thường tranh thủ giặt y phục mình, sau đó còn đem quần áo, các vật dụng ở nhà đến tiệm, dùng xà bông này giặt giũ luôn – vừa tiết kiệm được thời gian làm việc nhà, vừa tiết kiệm bột giặt và nước.

– Các cô làm vậy là tham, vì đã trưng dụng lấn chiếm tài sản quốc gia lẫn thời gian công tác, như vậy là phạm lỗi, vì đã lấy những “ của công” không nên lấy, đúng không?

Cô gật đầu:

– Thưở giờ con chưa từng nghĩ làm vậy là phạm tội.

Thế chẳng phải con đã thành người xấu rồi sao? – Cô nói mà nước mắt lưng tròng.

Tôi không nhịn được chen vào:

– Hồi tôi chưa biết Phật Pháp thì cũng hành xử giống y như cô vậy.

Trong “ Kinh Địa Tạng” có nói: “Chúng sinh ở cõi này khởi tâm động niệm không gì mà không tạo nghiệp, không gì mà không tạo tội”.

Bởi kẻ sống trong cõi dục này dù nhiều hay ít đều có tập tính tham, sân, si.

Như cô bị bệnh, nguyên nhân là do tâm tham, không hiểu pháp, không rõ lý.

Một khi cô biết ăn năn sám hối thì bệnh sẽ tiêu thôi.

Sư phụ từ bi bổ sung thêm:

– Từ rày con phải nghiên cứu xem kinh sách cho nhiều để tăng trưởng trí huệ.

Về công tác cần phải làm nhiều việc phụng hiến, hầu cứu chuộc lại lỗi tham chiếm tài vật của cơ quan.

Lúc ra về, cô cảm thấy đôi mắt đã tốt hơn rất nhiều nên trong lòng tràn đầy niềm tin và tôn kính đối với Phật Pháp.

18.

LÒNG TỐT CỦA CÂY TƯỢNG BA

Năm 1994, tôi vẫn trụ tại căn nhà trệt một cổng, một sân.

Đến tiết trung thu, thảo mộc kỳ hoa trong sân vẫn xum xuê muôn thuở.

Bước vào cổng, bên trái là phòng khách kiêm thư phòng của tôi.

Cây Tượng Ba đặt cạnh cửa sổ.

Trong sân có một giàn hoa, bên phải cửa sổ là bàn viết có đặt một chậu Văn Trúc thanh tú xinh đẹp.

Chiều nay, thằng con cấp trung học của tôi không đến lớp, ăn trưa xong nó đến thư phòng làm bài, viết lách.

Còn tôi thi nằm trong phòng mình xem sách, đợi sư phụ Hòa thượng Diệu Pháp đến.

Hơn bốn giờ chuông cổng reo, tôi tiến ra nghênh đón hòa thượng và thầy thị giả vào thư phòng.

Thằng con 16 tuổi chắp tay lễ chào sư phụ rồi tiếp tục chúi mũi vào công việc của nó.

An tọa xong, Hòa thượng Diệu Pháp hỏi con tôi:

– Chân cháu bị hôi hả?

Thằng bé đỏ mặt thưa:

– Chân con hồi 12-13 tuổi thì bắt đầu bị hôi, tẩy rửa cách gì cũng vô hiệu, cách đây nửa giờ ba con đã ra lịnh cho con mở cửa sổ để không khí được thông thoáng…

Thế mà ngài vẫn còn nghe hôi ư?

Thật có lỗi quá!

Để con đi sang phòng bên kia!

Sư phụ ngăn lại, mỉm cười bảo:

– Thực tình là ta không có nghe hôi gì cả!

Nhưng vừa rồi khi con hướng ta đảnh lễ, các cây trong nhà đều tới đảnh lễ ta, riêng chậu Văn Trúc này đã mách cho ta biết tình trạng của con, nó nói con chiều nay không có tập trung, vừa chơi vừa phóng tâm, nên viết không có được bao nhiêu!

Ngoài ra nó còn than là bị mùi hôi từ chân con xông lên khiến nó muốn chết ngạt!…

Nghe Hòa thượng nói thế, con tôi kinh hãi tới trợn tròn mắt, đơ lưỡi; mặt càng đỏ hơn, nó lúng túng quay sang nhìn tôi vì sợ bị mắng.

Tôi cười thưa với sư phụ:

– Thằng bé nhà con vẫn thế đấy, lúc họp phụ huynh thầy giáo luôn bảo thấy nó ngồi trong lớp trông rất khuôn phép đường hoàng (giống như chăm chú nghe giảng lắm vậy), nhưng thử kêu nó mấy tiếng nó vẫn không nghe…

Con dạy thế nào cũng không sửa.

Nhưng may là thành tích học của nó tạm ổn hơn xưa.

Nhưng chân nó thì cứ như ở đầu gió, tỏa “hương” bay xa đến… tám dặm!

Có cách nào trị không ạ?

Lúc tôi nói Hòa thượng cứ một bề nhắm mắt, lát sau, ngài bảo:

– Cây Tượng Ba trong nhà con mới an ủi Văn Trúc, nói là nó “có cách giúp cho”.

Để ta thuật lại con nghe nhé: -“Hãy dùng hai chiếc lá của nó (như thế này này) chịu khó ra công một chút… xử dụng một lần thì lành”. (Xin thứ lỗi tôi không thể kể rõ hơn, vì muốn tránh cho cây Tượng Ba không gặp nạn).

Cho dù trong “Kinh Địa Tạng” từng giảng là “hoa cỏ cây cối đều có thần thức”… nhưng khi nghe sư phụ kể chuyện thực vật có thể đối thoại, khiến tôi cảm thấy rất hiếu kỳ, thú vị… bèn hỏi:

-Thưa sư phụ, cây Tượng Ba và Văn Trúc khi nói chuyện cùng ngài, chúng mang hình thái ra sao?

– Cây Tượng Ba có hình dáng người trưởng thành, mặc y phục cổ trang màu xanh, còn Văn Trúc mang hình dáng thiếu niên, tóc trên đầu búi như các công tử thời xưa, cũng mặc áo xanh, nhưng trông thanh tú mảnh mai hơn…

Hoa trong nhà con đa số mang hình dáng các cô bé, y phục diễm lệ như màu hoa.

Cũng có thể đây toàn là ảo giác, chỉ là dạng truyền đạt tin tức, là điều áo diệu của thiên nhiên mà thôi.

Phật nói: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”.

Còn trong Tâm Kinh nói: “Sắc tức thị không không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức… cũng đều như thế”.

Vỉ vậy con không nên chấp tướng.

Nhưng tôi vẫn cứ chấp, và hỏi:

– Tất nhiên thực vật có thần thức, vậy khi con ngắt hai lá của nó, nó có thấy đau không?

– Có chứ, vừa rồi Tượng Ba nhờ ta chuyển lời giùm, nó cầu xin con “khi cắt hai lá nó xong thì nhớ lấy chút đất trong bồn hoa, bôi vào vết thương để cầm đau cho nó”.

Còn nữa, nó nói là nó đã theo con tụng kinh học Phật, nên con đừng có dùng rượu trắng xịt rửa hay tưới tẩm gì cho nó nữa, bởi nó cũng muốn giữ giới không ầm tửu.

Nó vì giúp Văn Trúc mà tình nguyện hi sinh hai chiếc lá, đây là do muốn học theo tinh thần bố thí của Phật.

Vả lại, nó cũng rất muốn báo đáp ân các con, hằng ngày đã quan tâm chăm sóc, cho nên nỏ mới cam lòng chịu đau, hiến lá làm thuốc như vậy.

Tôi nghe xong rất cảm động, càng thêm tin tưởng đây là lời chính xác (Bởi vì bạn bè từng mách cho tôi biết cây Tượng Ba rất ưa rượu, họ bày tôi mỗi tuần nhớ pha chút rượu vào trong nước tưới cho Tượng Ba, như vậy nó sẽ lớn mạnh, xum xuê hơn).

Qua câu nói của sư phụ, tôi bỗng nhớ đến một bài báo viết rằng: “Hoa cũng có yêu ghét, hễ đặt cạnh loài nó ưa thích thì sẽ lớn nhanh, còn đặt cạnh loài thảo mộc nào mà nó ghét thì múc độ tăng trưởng cũng èo uột’’…

Năm ngoái có một bài báo đăng tin một Khoa học gia trong khi nghiên cứu đã phát hiện: lúc rừng cây gặp đại hỏa tai, máy dò nhịp đập (cảm thọ) của cây bị thiêu, thấy phát ra tín hiệu rất tuyệt vọng bi thương và còn nhanh chóng truyền tin hỏa tai này đến các cây khác.

Nhưng lúc không có nạn cháy, máy đo cảm xúc thấy rất bình thường.

Té ra thực vật cũng giống con người và động vật, cũng có thất tình lục dục.

Từ hôm đó trở đi, tôi đối với những điều Phật thuyết giảng trong Kinh Lâng Nghiêm như “dể chết làm người, người chết làm dê; thảo mộc chết làm người, người chết làm thảo mộc’’… càng tin kiên định không đổi dời, cũng hiểu được nguyên nhân vì sao Phật nói: “Chư Bồ-tát, Tỳ kheo thanh tịnh, khi đi đường chớ nên dẫm đạp cây cỏ, huống nữa là đưa tay ngắt bẻ”…

Ngay tối hôm đó, chúng tôi làm y theo cách Tượng Ba mách với Hòa thượng Diệu Pháp, thì chân con trai tôi đã hết hôi.

Chuyện xảy ra trong nhà tôi đúng là giống hệt chuyện thần thoại.

Điều này khiến tôi nhớ đến các thần y như Lý Thời Trân, Tôn Tư Mạc v.v…

Họ có thể hiểu được loại cây nào có dược tính gì và viết ra cuốn “Thiên Kim Phương”, “Bổn thảo cương mục”, giải rõ diệu phương lương dược, nhằm cứu giúp thế giới.

Chắc hẳn họ đã có thể cùng bách thảo giao lưu, nên mới sở hữu được tầm hiểu biết cao thâm khôn lường về thảo dược mà tạo phúc cho nhân loại như thế.

Từ đó, tôi và người nhà không còn có ý làm thương hại bất kỳ loài thực vật nào, thậm chí cũng không nỡ dẫm đạp cây cỏ nhỏ bé trên đường.

Đến nay, nhân loại đã bước vào thế kỷ 21, đồng có ý thức bảo trì môi trường sinh thái quân bình, quan niệm này ngày càng phổ biến, thấm sâu vào lòng người.

Nhưng tôi nhận thấy, bảo vệ môi trường hoàn hảo nhất không ai qua đức Phật, vì từng chữ từng câu Ngài dặn dò con người “phải thương yêu sinh vật hoa cỏ”…

đă có từ xa xưa, nhưng bây giờ đọc lại vẫn thấy rất mới mẻ, hợp lý, tràn đầy lòng từ bi và sáng ngời trí tuệ.

19.

PHẢI THẤY ƯU ĐIẾM CỦA NGƯỜI

Một chiều mùa thu năm ngoái, mười mấy vị cư sĩ Thạch gia trang đến Ngũ Đài Sơn.

Trong đó có một bà hơn năm mươi tuổi, đang ở tại nhà khách hướng Hòa thượng Diệu Pháp kể lẻ nỗi khổ tâm của mình:

– “Bạch sư phụ!

Con quy y Phật 4 năm rồi, cứ rằm, mồng một là ăn chay, nhưng thân thể không được khỏe lắm.

Nửa năm trước con gặp một vị thiện tri thức, mới hiểu ra nếu muốn thân hoàn toàn không bịnh, mạnh khỏe, thì phải dứt tuyệt ăn mặn, chẳng nên ăn máu thịt chúng sinh.

Khống ngờ sau khi con đoạn tuyệt thịt cá rồi thì thân ngày một khỏe hơn, lúc này mới biết ăn tam tịnh nhục chỉ là phương tiện tạm.

Kể từ đó, con thường khuyên con cái ăn chay để tránh tương lai bị bịnh.

Nhưng chúng chẳng những không nghe, lại còn dè bĩu, cho là con học Phật ngày càng mê tín, khờ khạo.

Chẳng những chúng ngược ngạo khuyên con ăn thịt, thậm chí còn cố tình mua ba ba tươi sống về, nói là muốn cho con tẩm bổ, khiến con nổi đóa.

Vì vậy mà con thường cùng chúng tranh cãi, nhưng chẳng ai nghe ai, khiến cho trong nhà không khí rất căng thẳng.

Mới đây có lần, con thực sự nhịn không nổi, phải đến tá túc tại nhà một người bạn.

Sau đó thì các con cũng tới xin lỗi, rước con về.

Nhưng hễ đến bữa ăn là trong lòng mỗi người đều cảm thấy rất khó chịu.

Con nghĩ muốn xuất gia, nhưng lại lo chùa không thu nhận.

Tính vào viện dưỡng lão, lại sợ họ không giúp ăn chay tốt.

Hiện con đang rất khổ tâm, xin Hòa thượng từ bi chỉ giáo”…

Hòa thượng Diệu Pháp từ đầu đến cuối ngồi xếp bằng im lặng lắng nghe.

Khi bà nói xong, ngài mở mắt bảo:

-“Người học Phật phải biết sống hòa thuận với đại chúng, đây là tập cho mình thói quen biết tôn trọng người.

Khi lựa chọn tín ngưỡng, thậm chí dù đối với con cái, cũng Không nên cưỡng ép, bắt chúng phải phục tùng, vâng theo.

Bà hi vọng con mình tin Phật, ăn chay, cố nhiên là vì muốn tốt cho chúng.

Thế nhưng, cũng phải biết quan sát căn cơ mà dạy, không nên gấp rút nôn nóng muốn mau thành.

Làm vậy sẽ bị phản tác dụng, khiến các con đối với Phật giáo phát sinh hiểu lầm, chống kháng.

Trong lúc ăn cơm, có thể dùng một bàn hai mâm, không nên “vì con ăn thịt mà oán giận chúng”.

Bà phải thường tự hỏi: “Bản thản mình giới sát đoạn thịt…

đã lâu chưa?”

Nếu như tu tốt thì vì sao hôm nay vẫn chưa thoát ly lục đạo?

Phật Bồ-tát không hề khư khư chấp trước bất xả như chúng ta.

Do vậy, muốn hóa độ người phải nghiên cứu thời cơ và phương pháp, trừ thuyết giáo bằng lời ra, cần phải dùng thân giáo, điều này rất quan trọng.

Thí như khi các con thấy bà học Phật ăn chay khí sắc ngày càng tốt, thân thể ngày càng khỏe, tâm thái ngày càng hiền hòa, an lạc; tự nhiên chúng sẽ tin phục Phật pháp.

Dần dần nhờ vào sự thay đổi chuyền tốt âm thầm của bà mà các con được cảm hóa, sẽ tự động hướng bà nương tựa.

Đương nhiên muốn hóa độ người khác thì điều quan trọng nhất là bản thân mình phải dốc sức hành cho tới nơi, chánh mà không tà, giác mà không mê, muốn người sửa chánh thì trước tiên mình phải chánh bản thân.

Ngoài ra, bà phải làm được việc này, thường nói ba điều tốt:

1.

Phải thường nói con cái tốt, dù không tốt cũng nói tốt.

2.

Phải thường nói sính hoạt tốt, dù không tốt cũng nói tốt.

3.

Phải thường nói thân quyến bạn bè tốt, dù không tốt, cũng nói tốt.

Ba điều này từ đây trở về sau, những bậc làm trưởng bối phải ghi nhớ trong lòng, để sẵn nơi khóe miệng.

“Tri túc là thường lạc” mà.

Bất luận là con cái hay thân bằng, láng giềng, cho dù trước đây họ đối với mình không vừa ý, nhưng nhờ bà luôn ẩn ác dương thiện, biết lấy đức báo oán, thì lâu dần, đối phương sẽ sinh tâm ăn năn hổ thẹn, sửa lỗi và thay đổi.

Nếu thường nói ba điều tốt, tất nhiên sẽ được mọi người tôn kính, cuộc sống của bà tự nhiên sẽ ngày càng tuyệt hơn.

Ngược lại, nếu bà cứ sợ người không tôn trọng mình, lúc nào cũng lên mặt trưởng bối, luôn cậy uy, ỷ thế, ra vẻ kẻ cả, ta đây! – sống mà luồn soi mói, tìm cách bắt lỗi người, như vậy rất là sai, rất trái với hạnh nguyện, sẽ tạo nên vực ngăn cách cùng con cái, thân quyến, bạn bè.

Hành xử như vậy sẽ khiến phát sinh xung đột không ngừng, dẫn tới lòng mình và người đều… nổi oán khí xung thiên!

Cũng đồng một lý này, công phu “ba điều tốt” rất hợp cho mọi người ứng dụng.

Nếu như chẳng thực hành được, thi cho dù là già hay trẻ, chồng hay vợ, xuất gia hay tại gia, đều sẽ ôm phiền não vô tận”…

Bà nọ nghe sư phụ khai thị xong, không ngừng gật gù, mọi rầu rĩ héo xào đã tan biến, gương mặt mùa thu ủ rũ của bà đã chuyển sang sắc xuân hớn hở, ấm áp.

Phật pháp đúng là diệu pháp, Hòa thượng Diệu Pháp thật là diệu pháp, Ngài luôn đem Phật lý tinh thâm khéo léo giảng giải cho đạo và đời cùng hiểu, viên dung vô ngại, hết nghi.

20.

MÊ HÒN THANG

Mê hồn thang như… tứ đổ tường…

Nhiều người mê đảm khó thể buông hút thuốc, bạc bài mờ tâm trí đắm ghiền tửu, sắc… tự trói thân.

Nếu ai thoát khỏi bon tật này chính là Như Lai – tự tại vương.

Một chàng sinh viên khoảng hơn hai mươi, hướng Hòa thượng Diệu Pháp nêu thắc mắc: -Việc kiếp trước đời sau hồi nhỏ con có nghe bà nội kể qua, nói rằng hễ Diêm vương cho người nào đầu thai thì trước tiên bắt họ uống một chén “mê hồn thang” của Mạnh bà, uống xong thì quên hết chuyện đời trước.

Xin hỏi sư phụ, thật có chuyện uống canh mê hồn này không ạ?

Hòa thượng Diệu Pháp đáp:

– Ta nói có hay không – đều chẳng thể đưa ra bằng chứng cho con.

Hãy nghĩ xem, hiện tại người thế gian, trước đây là oan gia với nhau, nhưng họ có thể vì “tiền” mà sẵn sàng vùi quên oán hận quá khứ để bắt tay hợp tác, vậy là “thù” có thể hóa thành “bạn”.

Còn kẻ vốn là bằng hữu, thân thiết như tay chân, cũng vì “tiền” mà lật lọng, trở mặt phản nhau thành thù, thậm chí dẫn tới “anh chết tôi sống, thề một mất một còn”.

Đây đều là do uống phải mê hồn thang “tiền” của Mạnh bà mà “quên” hết tất cả.

Việt Vương Câu Tiễn vì muốn báo thù Ngô Phù Sai, cho nên phải nằm gai nếm mật.

Hỏng lẽ ông thật quên mối nhục vong quốc mà chịu theo hầu hạ, phục dịch Ngô Phù Sai?

Đây chỉ là giả vờ, dối trá thôi; vì tận đáy lòng Việt Vương ôm đầy thù oán, chỉ đợi thời cơ rửa hận, “không phải là không báo thù, mà vì thời chưa tới”…

Một sinh mạng sau khi đầu thai chuyển thế, có nghĩa là chỉ hoán đổi cái đãy da thúi bên ngoài thôi, về hình vóc xem như có “thay đầu đổi mặt” thực đó, nhưng thần thức gá nương bên trong xác thân tứ đại giả hợp này, đối với quá khứ vẫn biết rõ (một cách khách quan), rằng nên hướng ai báo ân, hướng ai đòi nợ…

Vì vậy mới có câu: “Thiện được thiện báo, ác hữu ác báo”.

Do nghiệp lực dẫn dắt, hễ cần đến thì nhất định phải đến, cần đi chắc chắn sẽ đi.

Quyết không thể vì ưa ghét của bạn mà thủ xả, tăng giảm.

Cho nên bị “mê hồn thang” làm lú lẫn, chính là bị tập khí tham sân si che lấp Phật tính vốn có, khiến cho chúng sinh phải điên đảo, lưu chuyển trong sinh tử.

21.

CÔNG TỬ ÁO XANH

Phố Lạc Dương tình Hà Nam có một gia đình ba nhân khẩu, ông chồng thì thành thật, bà vợ siêng năng đảm đang.

Con gái họ 17 tuổi, mỹ lệ khả ái.

Nhìn sơ qua thì thấy đây là một gia đình hạnh phúc ấm êm, nhưng quả thực đúng như câu châm ngôn “Nhà nào cũng có điều khổ tâm khó nói”.

Nhân dịp tình cờ, nữ chủ nhân huớng tôi thổ lộ những thống khổ khôn xiết suốt bao năm qua của bà.

Bà và chồng xuất thân từ nông thôn, trước khi kết hôn cũng chưa có cảm tình hay quen biết nhau trước.

Chỉ là lúc gặp mặt, bà thấy ông kiệm lời ít nói, cử chỉ thận trọng, bèn nghĩ thầm: “Đây là bậc trượng phu có nề nếp, phong cách, đáng để cho mình nương”… nên ưng thuận thành thân.

Cưới nhau rồi, mới phát hiện bản thân ông chồng có quá nhiều tật, khiến bà chẳng cách chi dung nổi.

Chẳng hạn như khi ăn cơm thì ông nhai chóc chách rất thô.

Bà kể nếu như mà ăn mì, thì láng giềng trên lầu, dưới lầu đều có thể nghe rõ tiếng ổng nhai nuốt, húp rồn rột.

Còn khi ăn cơm thì dù mũi dãi “chảy như sông” ông cũng chẳng thèm quẹt chùi hay ngẩng đầu lên, cứ cắm cúi an miết – bất kể là nhà có khách hay không –

Còn nữa, một khi ông mắc đánh rắm thi cứ thả bừa rất tự nhiên, chẳng chút ngại ngùng hay mắc cỡ e dè chi, pháo từ mông ồng cứ nổ dòn, liên thinh hoặc lẻ tẻ… khiến những người có mặt phải lúng túng, ngượng ngùng vô kể, còn ông cứ điềm nhiên tỉnh khô như không có chuyện gỉ.

Bất kể bà đắng miệng khuyên lơn thế nào, ông chồng bà vẫn trơ ra như “cây du bị bóc hết vỏ”, cứ “tôi sao thì hiện vậy”, một bề không thay đổi.

Những chuyện kể ra thế này nghe rất vụn vặt, nhưng giữa phu thê đã vì vậy mà hục hặc biết bao lần.

Bà thấy chồng mình đúng là cam tâm để cho người ta chê cười, mặc thiên hạ bình phẩm đàm tiếu trong những lúc trà dư tửu hậu mà không hề biết mắc cở, giống như không có thể diện…

ông khiến bà và con gái phải xấu hổ cực kỳ với người ngoài!

Do vậy, đã nhiều lần bà bàn chuyện li hôn, nhưng thường bị bạn bè, thân thuộc khuyên can ngăn trở.

Phần bà hễ nhìn thấy chồng là trong tâm đã bực chán, phiền muộn ứ đầy.

Con gái bà ngay từ nhỏ đã thiếu tình thương của cha. (Nó chưa từng được ông bồng ẳm, nô đùa hoặc dẫn đi chơi.) Đối với phụ thân nó cũng ôm bất mãn đầy, vì rất ít khi được trò chuyện giao tiếp cùng cha, bị ông cư xử giống như người lạ.

Đến bây giờ, hễ hai mẹ con đang trò chuyện nói cười, chỉ cần ông vừa bước vào nhà là họ lập tức im bặt.

Từ lúc quy y Phật môn, con gái và bà đều từ bỏ ăn mặn.

Hằng ngày bà kiên trì thực hành thời khóa sớm tối, siêng năng tụng kinh trì chú.

Con gái bà do bận đi học nên hằng ngày đi đường nó luôn tranh thủ tụng chú Đại Bi.

Xem như rất chịu khó tinh tấn.

Đối với mọi chuyên bà có thể cho qua, buông được hết.

Chỉ duy nhất vấn đề của ông chồng là tâm thường nảy sinh phiền bực.

Bà luôn hi vọng nhờ công phu tu trì mà những thống khổ của hôn nhân sẽ giảm bớt.

Ai dè từ lúc ăn chay rồi thì mùi trên thân ông chồng bà cũng không chịu nổi, nên phải phân phòng ở riêng, chẳng ai lý tới ai.

Họ ngủ riêng đến nay đã ba năm, bà vốn đợi sang năm con gái lên đại học sẽ ly hôn.

Do ngày ngày phải đối mặt với phiền não thống khổ, nên hiện thời bà thường bị nhức đầu, lắm bịnh.

Nhìn người phụ nữ vừa kể vừa khóc, bà chỉ hơn 40 tuổi, nhưng bị cuộc hôn nhân bất hạnh dày vò và bịnh hoạn hành hạ làm cho tiều tụy.

Tôi biết đây là ác duyên đời trước tụ hội, không dễ cho hạng phàm phu như tôi hóa giải, vì vậy tôi gọi điện thỉnh giáo Hòa thượng Diệu Pháp.

Sư phụ im lặng một chút rồi hướng tôi giảng rõ nhân duyên kiếp trước của hai mẹ con và ông chồng:

“Nữ cư sĩ này kiếp trước là nam nhân X nghèo khổ sống ở thâm sơn, mưu sinh bằng nghề hái thuốc.

Ngày nọ ông X đem thuốc xuống tiệm ở thị trấn dưới núi bán.

Gã chủ tiệm bảo ông:

Nghe nói trên núi có cây Du ngàn năm, vỏ nó làm thuốc cực quý.

Do núi cao hiểm trở ít ai chịu đi, nếu mà ông lấy được vỏ nó về bán, nhất định sẽ phát tài và kiếm bộn tiền!

Ông X nghe xong thập phàn mừng rỡ, thầm tính tiền kiếm được lần này sẽ dành để cưới vợ.

Sau khi chuẩn bị xong xuôi, ông X trèo đèo lội suối, lên tận núi cao và cuối cùng tim được cây Du to khoảng ba người ôm.

Ông thật là mừng vì được quá ước mơ, bèn cầm rìu khởi sự róc vỏ cây.

Làm hồi lâu thấm mệt, ông dựng rìu dưới đất, trèo lên cháng ba cây nằm ngủ.

Đang say giấc nồng ông bỗng thấy có một công tử mặc áo xanh quỳ trước mặt ông khóc lóc, nói mình chính là cây Du, hiện đang tu luyện đã ngàn năm rồi.

Chỉ còn ba năm nữa thì sẽ đắc đạo thành tiên.

Nếu như bây giờ vỏ cây bị bóc hết, thì sẽ lâm vào cảnh “công mất khí tận”, vì vậy cầu xin ông X hãy từ bi gia hạn, thư thả cho; để ba năm sau hẵng tới róc vỏ, mình tu thành tiên rồi sẽ đáp tạ thâm ân.

Nói xong liền lạy ông X mấy cái.

Lúc đó ông X hét to :

– Không được, không được!

Tôi đang cần cưới vợ, chẳng thể đợi ba năm!

Rồi ông X giật mình thức giấc, công tử áo xanh chẳng thấy đâu?

ông X cuối cùng cũng róc hết vỏ cây Du gánh tới tiệm thuốc.

Chủ tiệm hớn hở kiểm hàng, cân đo.

ông X do không biết chữ nên vội nói:

-Tôi cực khổ dữ lắm mới đem được thuốc quý về, anh không được cân gian dối, lừa tôi đó nghe!

Anh chủ tiệm liền đáp:

– Yên tâm đi!

Tôi mà dối gian thì tôi làm… con anh!

Ông X đó đời nay chính là nữ cư sĩ này, chồng bà chính là cây Du ngàn năm gặp thảm nạn bị lột hết da.

Tục ngữ nói: “Người cần mặt, cây cần vỏ!”

Chẳng phải nữ cư sĩ hay nói chồng bà hành xử giống: “Cây Du bị lột vỏ” không mặt không da, không thể diện sao?

Quả thực bà nói rất đúng!

Phải biết tính cách, tập quán và những gì người ta đã gặp phải hay trải qua trong đời trước rất quan hệ đến đời này.

Chủ tiệm thuốc đúng là có cân gian của ông X hai lạng, do lời thề “nói láo làm con!” nên giờ y phải sinh làm con, nhưng không còn mang thân trai mà là con gái.

Bởi chính do y đề xướng, chỉ điểm và xúi giục ông X róc vỏ cây du, phá hủy đạo nghiệp ngàn năm của cây, nên tội y lỗi cao nhất, đứng đầu.

Vì thế mà đời này y phải chuyển sinh làm con trong gia đình nghịch duyên với mình (mang thân nữ so với thân nam khổ hơn rất nhiều), huống nữa lại làm một đứa trẻ không hề được cha yêu thương hay để mắt tới, vậy chẳng phải là khổ càng thêm khổ sao?

Đây cũng chính là nguyên nhân quan hệ khác thường, cực kỳ lạnh nhạt giữa cha và con gái.

Hiểu rõ nhân quả kiếp trước đời này rồi, nữ cư sĩ và con gái cần thành tâm sám hối tội lỗi đời trước.

Bà cần phải sám hối với người chồng đời này.

Con gái cũng phải kiên trì sám hối để xóa đi oán hận trong lòng phụ thân (ông ngày nay sở dĩ thành kẻ không thông tình đạt lý như thế, đều là do hành vi của hai mẹ con đã làm trong kiếp trước).

Hai mẹ con sau này phải chí thành sám hối, vì “cây Du xưa” mà tụng 49 biến “Kinh Địa Tạng”.

Khi nhân duyên hội đủ, thời khắc đến, thì-quan hệ gia đình cả ba người nhất định sẽ cải thiện, cùng hưởng mối vui tình thâm”.

Có lẽ nhờ nữ cư sĩ cùng con gái phát tâm tu (siêng năng tụng kinh, trì chú, ăn chay niệm Phật ngót ba năm nay) nên được cảm ứng.

Cũng có lẽ là cơ duyên họ đã thuần thục, nên khi tôi truyền đạt lại mọi nguyên nhân cội rễ Hòa thượng Diệu Pháp vừa giảng thì mẹ con bà như trong mộng chợt tỉnh, hoan hỉ tin nhận.

Nhất là con gái bà, vừa kinh ngạc vừa mừng vui, bảo mẹ:

– Má ơi!

Má và ba chung sống mười mấy năm, má cứ giận trách ba là “không mặt không da!”

Té ra là tại má, má đã tuốt hết da vỏ (thể diện) của ba, nên mới ra nông nổi như thế…

Câu nói này khiến mọi người tại hiện trường đều bật cười.

Nửa tháng sau, nữ cư sĩ từ Lạc Dương gọi điện tới báo tin vui, nói chứng đau đầu của mình đã hoàn toàn hết và các bịnh khác cũng nhẹ đi nhiều.

Hiện tại cứ mỗi hai tiếng bà tụng xong một bộ “Kinh Địa Tạng” , chồng bà cũng đã dần thay đổi.

Bà quyết tâm tụng cho xong 49 bộ “Kinh Địa Tạng”.

Sau đó sẽ tiếp tục tụng mỗi ngày một bộ hồi hướng cho chúng sinh khắp pháp giới nguyện tất cả đều có thể nghe đến “Kinh Địa Tạng”, hiếu lý và hưởng được lợi ích.

Tôi nghe xong thật mừng cho bà, chúc họ sớm thành gia đình Phật hóa thuận hòa, hạnh phúc mỹ mãn.

22.

NGƯỜI VỢ ĐAU KHỐ

Cát cư sĩ tuổi gần 60, tin Phật đã nhiều năm, lúc bà gặp Hòa thượng Diệu Pháp, thì mắt lệ tuôn trào, do quá bi ai cho bản thân.

Hai mươi tuổi bà lấy chồng, nhưng tới giờ vẫn chưa biết hạnh phúc phu thê nồng ấm là chi.

Vợ chồng tuy sống chung nhưng chỉ đem lại cho bà toàn khủng hoảng.

Điều khiến bà thống khổ và vô phương kham nhẫn nổi chính là, tuy hiện thời đã ở vị bà nội, song lắm lúc vẫn bị chồng đánh, mắng… mấy mươi năm nay hôn nhân của bà toàn là nếm mùi đánh đập, mắng chửi… bị khổ đau mài luyện.

Nhưng ngược ngạo thay, cái ông chồng vô tình vũ phu này, ở bên ngoài ai cũng tấm tắc khen ổng là người tốt.

Sau khi tin Phật rồi, bà nghĩ: “Chắc đời trước mình thiếu nợ ổng, cho nên cũng ráng tùy duyên đón cảnh thuận nghịch, ráng mà sống với nhau”… cho đến hôm nay.

Thế nhưng bà rất muốn biết giữa mình với chồng có nghịch duyên oan trái gì, mà đến giờ vẫn trả chưa xong?

Hòa thượng Diệu Pháp chìu theo nguyện vọng của bà (đây có lẽ nhờ bà niệm Phật nhiều năm mà được dịp hiểu rõ nguyên nhân).

Hòa thượng kể:

“Ngày xưa có một phú thương, đã có rất đông thê thiếp, nhưng còn tham lam để mắt tới đứa tớ gái tên Lan có nhan sắc trong nhà.

Thế là ông cưỡng ép chiếm đoạt Lan, còn dùng lời ngon tiếng ngọt gạt lường, dụ dỗ, hứa hẹn rằng có dịp thuận tiện sẽ nạp Lan làm thiếp.

Nữ nhân ngày xưa rất coi trọng việc chung thân, Lan nghĩ “mình đã là người của ông chủ rồi, nên một bề vọng ngóng đến ngày được vẻ vang mày mặt” như ông hứa hẹn.

Nhưng phú gia này không thực tâm giữ lời.

Lúc cao hứng thì y tìm Lan thỏa mãn thú tính, khiến nữ tỳ này luôn bị thống khổ, muốn chết mà chẳng thành, muốn đi mà không được!

Do ước mơ cả đời cô không bao giờ thành sự thực, nên trong lòng oán hận phú ông đến tận xương tủy.

Đời này, oan oan tương báo, bọn họ lại kết thành vợ chồng danh tánh ngôn thuận (đúng như nguyện ước của cô tỳ nữ xưa), song vai vế vị trí đã đổi.

Phú ông thuở ấy phải chuyển thành thân nữ là Cát cư sĩ đây, còn cô tớ gái từng nhận chịu nhiều nhục nhã thống khổ nay được thăng làm đàn ông, ở vào vị người chồng.

Những oán hận tích chứa thời xa xưa, kiếp này được dịp phát tiết, trút cả vào Cát cư sĩ.

Đây gọi là “nhân duyên hội đủ quả báo đến liền thọ”.

Cát cư sĩ nghe Hòa thượng Diệu Pháp kể xong câu chuyện, mắt đầy lệ, bà tỉnh ra và khởi tâm sám hối.

Bà nói bà tin điều sư phụ giảng là thật, bởi bà cảm thấy tính cách mình rất hướng ngoại, giỏi giao thiệp, năng lực làm việc mạnh mẽ hệt như đàn ông.

Còn chồng bà tính lại kỹ lưỡng, có trách nhiệm bổn phận, ưa làm những việc dọn dẹp lau chùi, những công việc tỉ mỉ như đàn bà con gái.

Trừ việc cư xử rất tồi với bà ra, ông giao hảo với mọi người thật tốt, dịu dàng như nữ nhân.

Bà nói hiện này bà thọ khổ đúng là tự làm tự chịu, hết còn trách ai.

Từ rày về sau bà chẳng dám khởi tâm oán hận chồng nữa, một đời quyết chí tu tinh tấn để về Cực Lạc, không muốn luân hồi đau khổ nữa.

Hòa thượng Diệu Pháp bảo bà hằng ngày phải âm thầm sám hối và tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho cô tớ gái tiền kiếp, nếu như bà tin sâu và kiên nhẫn thực hành, nhất định ác duyên sẽ tiêu trừ, thiện duyên tăng trưởng, quan hệ phu thê sẽ được cải thiện.

23.

KIM GIÁM ĐỐC

Lần nọ, mười mấy người cư sĩ chúng tôi muốn đi Ngũ Đài Sơn bái kiến Hòa thượng Diệu Pháp.

Anh Kim là giám đốc nhà in, tình nguyện lái xe đưa chúng tôi đi.

Mặc dù anh không tin Phật, nhưng thuộc típ người hết lòng vì bạn.

Anh tự lái chiếc xe hơi đời mới, sang trọng, đưa chúng tôi vượt đường xa.

Hơn nữa, có 3 lý do khiến anh sốt sắng: một là vì muốn giúp bạn hữu, hai là từng nghe đồn những việc thần kỳ về Hòa thượng Diệu Pháp nên anh cũng tò mò, ba là thưở giờ chưa biết thắng cảnh Ngũ Đài Sơn, nên cũng muốn đến cho rõ.

Đáng tiếc là, ngày đầu tiên lúc chúng tôi hướng Hòa thượng thỉnh pháp, thì anh Kim có lẻ do lái xe mỏi mệt quá nên đã đi ngủ mất tiêu.

Sáng hôm sau mấy cư sĩ lại hướng Hòa thượng thỉnh giáo nguyên nhân bệnh hoạn, sư phụ kiên nhẫn giảng, bảo họ từng giết qua loài vật nào, thậm chí giết làm sao, ăn như thế nào, cho đến quá khứ từng trộm qua thứ gì, dùng bao nhiêu, còn bao nhiêu để ở địa phương nào…mỗi mỗi đều kể rất rõ ràng.

Chứng kiến sự thật này anh Kim hoàn toàn bị chấn động.

Anh cứ trố mắt nhìn, mồm há to, chăm chú theo dõi.

Ngó bộ anh hết sức hưng phấn, khẩn trương, thậm chí nhiều lần muốn nói gì đó nhưng lại thôi.

Buổi chiều, anh đến tìm tôi ngỏ ý muốn tối đó một mình đến lễ Hòa thượng hỏi chút chuyện.Vì ngại, nên nhờ tôi xin phép trước giùm.

Được sự chấp nhận của Sư phụ, bảy giờ tối tôi dẫn anh đến phòng khách.

Chỉ thấy anh Kim cung kính quỳ trước Hòa thượng, hai tay chắp lại, trang trọng khấu đầu làm lễ ba lần.

Ngó bộ anh đã bị Hòa thượng chiết phục, thực lòng tin theo Phật pháp rồi. (Hôm qua lúc chúng tôi gặp Hòa thượng và hành lễ với Ngài, anh còn đứng ở bên ngoài ngó vào thôi)

An tọa xong, anh Kim mặt đầy sầu muộn kể lể với vẻ bi ai:

Con và vợ là Tiểu Khiết kết hôn được 12 năm, đã có 1 bé trai 10 tuổi.

Trước khi cưới Tiểu Khiết, con có thương một người bạn học láng giềng, tên Tiểu Lý.

Tụi con vốn là đôi bạn thanh mai trúc mã, đã dự tính sẽ kết hôn với nhau.

Ngay lúc đó thì con quen Tiểu Khiết.

Nếu so về tướng mạo, công việc, hoàn cảnh gia đình…Tiểu Khiết đều thua xa Tiểu Lý, vậy mà không hiểu con bị trúng tà hay ma ám chi, vừa gặp Tiểu Khiết là đã yêu ngay.

Mặc cho bạn bè thân hữu phản đối, con vẫn ương bướng cương quyết kết hôn cùng Tiểu Khiết.

Cưới nhau mới 3 ngày, vẫn còn khách đến nhà thăm, cha mẹ con cũng bận rộn phụ tiếp.

Ngay lúc này có hai người bạn bước vào, vừa cung tay chúc mừng vừa cười bảo con:

Chú Kim này, em thật có lỗi nha, kết hôn mà không báo cho các anh hay, sợ hao rượu mừng hả?

Con vội bước tới nghinh đón, cười đáp:

Thật xin lỗi quá!

Do kết hôn gấp gáp, lại bận bịu nên không báo tin kịp.

Mong các anh lượng thứ cho!

Lúc này Tiểu Khiết mang nước ra mời.

Các anh bạn đùa:

Chà!

Chú Kim này!

Tôi phải trách chú không báo tin đấy!

Té ra thím xinh đẹp thế nên sợ chúng tôi…cướp đi có phải không?

Con cười ha hả nói:

Đẹp cái nổi gì!

Xấu quá đi!

Em còn đang hối hận đây này!

Con nói chưa dứt câu, Tiểu Khiết đột ngột quay lại, hai mắt trợn trừng, đỏ ngầu, tia nhìn hung dữ, ả giáng cho con hai bạt tai.Lúc đó mắt con nổ đom đóm, người trong nhà đều đứng ngây ra nhìn, còn cô vợ mới cưới vừa khóc vừa la làng, làm ầm ỹ lớn chuyện, nhất định không chịu bỏ qua.Con bị tát đau điếng đến mê muội, thịnh nộ nổi lên, chỉ muốn xé nát cô ta ra.

Nhưng con vừa đưa tay lên thì buông xuống, lý trí nhắc nhở mình: “Không nên làm vậy khiến láng giềng chung quanh chê cười, không nên làm ba mẹ phiền bực”

Do hai anh bạn áy náy xin lỗi và mọi người xúm nhau khuyên giải, con đành phải nén giận, ráng gượng cười làm vui.

Suốt 12 năm nay, chúng con luôn gây cãi đánh nhau không ngừng, làm ầm ỹ và đòi ly hôn 6 lần, trong đây có 2 lần Tiểu Khiết dọn đồ đi.

Nhưng mỗi khi sắp làm thủ tục ly hôn, luôn bị thân bằng xúm vô ngăn trở, khiến việc ly hôn bất thành.

Điều này khiến tâm con luôn thống khổ.

Cả hai đứa đều muốn ly hôn, nhưng cứ gặp cảnh chia tay bất thành.

Có quái dị không chứ?

Xin Sư phụ chỉ dạy giúp cho con”

Trong lúc anh Kim nói, Hòa thượng Diệu Pháp khép nhẹ đôi mắt như đang nghe, lại giống như đang tư duy.

Bây giờ Ngài mới đưa mắt nhìn anh Kim và hỏi:

- Anh dẫn con trai đi sở thú, ưa ngắm nhìn lũ chim công lắm phải không?

- Dạ phải.

Con thấy công xòe đuôi rất đẹp.

Hòa thượng mỉm cười kể:

“Cách đây ba đời, anh sinh ra nơi một thôn trang dưới núi, là một nam tử hán.

Anh thường lên núi đốn củi và quen với một con công ở trên núi.

Mỗi lần gặp thường hay cho nó ăn thứ gì đó, công hay chơi đùa với anh, anh cũng rất thương công và con công cũng quyến luyến anh.

Có ái tức có tình!

Đời sau (là kiếp thứ hai) anh vẫn sinh làm đàn ông, nhưng công thì chuyển sinh làm phụ nữ, do tình cảm kiếp trước mà kết thành phu thê.

Nhưng bởi vì cô vợ từ kiếp súc sinh mới chuyển lên, tuy mang hình hài người nhưng tập tính thú cầm vẫn còn, cho nên vợ chồng thường gây cãi ầm náo.

Lúc anh nổi thịnh nộ khó tránh khỏi đánh vợ, cô ta là nữ nên đánh không lại anh, tất nhiên ghim hận trong lòng.

Đời sau nữa, anh vẫn chuyển sinh làm nam, ăn mặc giống như người luyện võ.

Hôm nọ anh đẩy xe mộc luân xa (xe có bánh làm bằng gỗ) lên núi, bất ngờ gặp một con sói.

Anh liền lấy dây xích sắt đánh nó, chẳng mấy chốc con sói bị hạ gục.

Anh lập tức dùng xích cột cổ nó, ra sức xiết chặt, con sói giãy giụa một lúc thì bất động.

Anh bỏ con sói nằm ở đó rồi đẩy xe đi.

Chập sau, con sói tỉnh dậy, nhân vì bị thương tổn hại đến thần kinh khiến tứ chi nó bại liệt.

Nó tru lên, gọi những con sói khác tới kéo nó về động, dần dần nó chết đi”.

Hòa thượng Diệu Pháp kể xong câu chuyện, nhìn thấy mặt anh Kim bán tín bán nghi, liền hỏi:

- Nơi cổ vợ anh có hằn những đường mờ màu trắng, vết sẹo nằm lộn xộn không có hàng lối gì hết phải không?

Nghe nói thế anh Kim cả kinh, mặt mày biến sắc thưa:

- Dạ đúng, Đúng vậy!

Hòa thượng nhìn gương mặt tái nhợt của anh, ôn tồn nói:

Anh đừng căng thẳng quá như thế.

Mỗi người thân thể hình thái, ngũ quan tướng mạo, cho đến vân tay, dấu bớt…mang từ lúc còn trong thai, ngay cả tập khí, tính tình, đẹp, xấu, trắng đen…toàn bộ đều liên quan đến nghiệp đã tạo đời trước.

Bởi vì anh bình thường tâm địa hiền lương, ưa làm chuyện phúc thiện giúp người, bản thân tuy không tin Phật, nhưng lần này vẫn muốn tình nguyện chở giúp người lên núi lễ Phật nghe Pháp, nhờ vậy mà hôm nay có duyên được nghe ta giảng cách phá giải nhân quả cho.

Đã nói phá, tức là có phương cách hóa giải.

Anh không nên cứ đinh ninh cho rằng ngủ bên cạnh mình là một con sói -Vì vợ anh hiện giờ đang thực sự là người!

Mỗi chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay luân hồi trong lục đạo, có cõi nào mà chẳng từng đi qua?

Phật ngày xưa cũng từng hiện làm thân nai chúa mà.

Ta hỏi anh một việc nữa, anh có giúp mấy cô gái mua vé vào tham quan cảnh chùa hay không? (Các danh lam thắng cảnh ở Trung Hoa Đại Lục khách đến muốn tham quan, phải mua vé vào cổng, phí thu này do chính phủ quản)

Giám đốc Kim lộ vẻ rất kinh ngạc thưa:

- Dạ có, dạ có.

Đấy là mấy nữ công nhân thất nghiệp, muốn vào chùa bái Phật, nhưng không có đủ tiền mua vé.

May là lúc đó con đi ngang, thấy vậy nên giúp dùm.

Làm sao mà chuyện vụn vặt này sư phụ cũng biết?

Muốn người đừng biết!

Trừ phi mình đừng làm.

Bất kể làm thiện hay ác chi cũng đồng một lý này cả.

- Thế…con làm qua việc xấu gì…Ngài cũng biết hết ư?

- Chư Phật, Bồ Tát, Thiên, Địa, Quỷ Thần…đều biết và thấy hết!

Vì vậy Phật mới khuyên chúng ta không nên làm ác, mà phải làm toàn điều lành.

- Thế…có phải sau này Tiểu Khiết sẽ lấy mạng con?

Hòa Thượng chậm rải nói:

“Đợi đến khi anh hơn 40 tuổi, vào một tối nọ, anh về nhà, do một chuyện vặt vãnh mà gây cãi ầm ỹ cùng vợ và anh sẽ ra tay đánh cô ấy.

Rồi anh nằm ngủ.

Vợ anh sau một hồi khóc lóc, tâm lang sói sẽ bộc phát.

Thế là cô đi tìm một sợi dây điện, gấp đôi lại, rồi một đầu quấn quanh cổ anh, luồn đầu kia vào lòng dây đôi nơi cổ, rồi cột vào chân giường.

Sau đó hai tay ả nắm chắc dây điện, dùng chân đạp trụ giường, ra sức kéo, xiết cổ anh.

Anh giẫy giụa một hồi rồi bất động.

Cô vợ sẽ nới tay nghỉ mệt một lúc, xong lại làm tiếp, vừa kéo, xiết dây, vừa mắng anh…dè đâu anh tỉnh dậy, mở mắt ra…nhưng từ cổ trở xuống đã mất tri giác, từ đó anh bị bại liệt”…

Nghe đến đây, mặt anh Kim trắng bệch không còn chút máu.

Anh vội quỳ xuống trước Hòa thượng Diệu Pháp, khủng hoảng thưa:

Xin Sư Phụ cứu con!

Cách đây 5-6 năm về trước, có lần con đi vào công ty Bách Hóa, khi về, vừa ra tới cổng lớn thì con thấy có một người đẩy chiếc xe lăn cũng tiến ra cổng.

Con vô cùng kinh ngạc khi phát hiện người ngồi trên xe lăn…chính là con (nhưng tuổi lớn hơn) nhìn khoảng ngoài 40 tuổi!

Con liền định thần, nhìn lại, thì thấy không phải là con.

Rồi con nhìn lại nữa, lại thấy đó là con!

Hiện tượng kỳ quặc này đã khiến con suy nghĩ suốt mấy ngày.

Lúc đó con có nghĩ: “Phải chăng mình đang thấy trước điềm báo vào lúc hơn 40 tuổi, mình sẽ bị bại liệt?”

Lúc đó con suy nghĩ nát óc mà không hiểu được.

Bây giờ nghe Sư phụ kể câu chuyện này rồi, thì con đã hiểu và tin, xem ra mình thực sự có bị nạn đó-Xin Ngài, xin Ngài hãy cứu con, hãy thu nhận con làm đồ đệ!

Từ nay trở đi con muốn là đệ tử của Phật.

Nếu không, cho dù con kiếm được tiền nhiều đến mấy, thì nào có ích chi đâu?

Hòa thượng Diệu Pháp mỉm cười nói:

- Con hãy đứng dậy, chuyện quy y hãy đợi trong chùa thông báo cho.

Còn như giúp con giải trừ nạn này, thì mấu chốt nằm ở bản thân con.

Trước tiên con phải sám hối nghiệp gây gỗ, đánh đập người trong kiếp trước và lỗi đã sát hại con sói.

Giờ đây con có thể lên đại điện lễ Phật sám hối.

Sau khi về nhà rồi thì phải thiết lập Phật đường ngay trong nhà.

Nếu không tiện thì không lập cũng được, vì Phật tại trong tâm mà.

Nhưng quan trọng là mỗi ngày, vào lúc rảnh, con tranh thủ nhín thời gian tụng một bộ kinh “Quan Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm”, tụng khoảng hơn nửa tiếng là xong một biến.

Tùy theo thời gian của mình mà mỗi ngày con tụng mấy biến đều được.

Lúc tụng phải tịnh tâm chuyên chú, chí thành hồi hướng cho “con sói đời trước” bị con làm hại, giúp nó tăng gia phúc báo, kết duyên với Phật môn, tiêu trừ tâm sói và tâm sân si oán hận đối với con.

Dần dần con sẽ thấy vợ con thay đổi, đối với con từ ái tử tế hơn, gia đình sẽ hòa thuận, bi kịch vốn phải phát sinh sẽ không phát sinh nữa.

Đây gọi là “cảnh chuyển theo tâm” nghĩa là tâm con có thể chuyển cảnh, khiến phong khí gia đình được thiện hóa theo.

Con phải tu sửa tâm, giữ thân, khẩu, ý trong sạch để chuyển ác khí thành hiền khí, chuyển phiền não thành Bồ Đề vì “vạn pháp duy tâm tạo”.

Sau khi con rời khỏi nơi này rồi, từ đây phải thường thân cận thiện tri thức cho nhiều vào.

Đối với bạn bè, con có thể đem kinh nghiệm từng trải và sự tu hành của bản thân mình để thuyết pháp, hóa độ họ vào chánh đạo.

Lúc rảnh nên đọc kinh tạng, nghiên cứu nhiều để hiểu cho sâu, tự khai mở trí cho mình.

Bình thường có đi đâu, dù tản bộ hay lái xe, hoặc khi rảnh rỗi, nên thường niệm danh Bồ Tát Quan Thế Âm

Trong xã hội dẫy đầy bạo loạn tranh đấu như hiện nay, không nên mưu đồ chiếm lợi nhiều, không nên truy cầu tiền bạc bất nghĩa.

Phải biết “hại người chính là hại mình”

Từ nay về sau, quyết không làm bất cứ điều gì sai trái có lỗi với lương tâm mình.

Khi làm việc, cư xử cần thành thật.

Nên nộp thuế đúng thời, chỉ làm toàn những điều lợi quốc, lợi dân.

Được vậy thì nhất định hãng xưởng của con sẽ trụ vững, không thất bại trong thương trường.

Do con bái ta làm Thầy, nên Ta truyền thọ Phật Pháp cho con.

Phải tôn kính tuân hành, mới là đệ tử Phật chân chính, như vậy sẽ được Thiên Long hộ vệ, Chư Bồ Tát gia trì.

Nếu con khinh suất không chịu giữ giới luật, thì con chẳng phải là đệ tử Phật, cho dù con có được tờ phái chứng nhận mình đã quy y thì hiện tại khó được Phật chúc phúc, mà tương lai cũng sẽ rơi vào ác đạo.

Ta giảng nãy giờ,con nghe hiểu hết chưa hả?

Anh Kim một bề cung kính lắng nghe, vội thưa:

Bạch Sư phụ!

Con hiểu rõ hết rồi ạ, xưa nay con vốn chẳng hút thuốc hay uống rượu chi, ngay cả trà còn chẳng dùng tới.

Từ hôm nay trở đi con thề giữ giới nghiêm minh, dứt tuyệt ăn mặn….

Đọan sau câu chuyện tôi nghĩ chẳng cần kể tiếp nữa.

Hiện nay gia đình giám đốc Kim đã hòa thuận, công việc hãng xưởng rất phát và bận rộn tất bật, thành là một thương hiệu được tín nhiệm, cực kỳ nổi danh.

24.

TẦN PHU NHÂN

Tần cư sĩ là một phụ nữ rất xinh đẹp, từ nhỏ đã có khiếu mỹ thuật, tuổi còn trẻ đã là thầy dạy cắt uốn tóc nổi danh khắp thành phố.

Bà là người lanh lẹ vén khéo, đảm đang.

Sau khi cách mạng giải phóng, bà tự mở một tiệm làm tóc tại nhà, đến nay phát triển thành một thẩm mỹ viện bề thế, quy mô.

Tần cư sĩ rất có hiếu với mẹ.

Lúc mẫu thân lâm chung, bà quỳ trước giường suốt 8 giờ, không ngừng niệm Phật, làm cả nhà mười mấy người xúm nhau quỳ xuống niệm Phật theo.

Đột nhiên mọi người không hẹn mà đồng thanh la lên: “ôi chao!

Tôi nhìn thấy Bồ-tát Quan Thế Âm rồi!”

Ngay lúc ấy, trong phòng bịnh nhân tràn ngập hương thơm kỳ diệu, khiến người thanh mát cả tạng phủ.

Mọi người đồng thấy Quan Thế Âm Bồ-tát giáng lâm phía trên (bên phải giường bịnh), chỉ riêng Tần cư sĩ nhìn thấy mẹ mỉm cười, hướng không trung mà đi, hơn nữa còn nghe phật nhạc vang vang.

Lúc này toàn gia cực kỳ hưng phấn, đồng quay lại nhìn mặt mẫu thân, thấy gương mặt bà đang cười mỉm, đã an lành vãng sinh.

Từ đó cả nhà đều tin Phật giáo.

Chính vị Tần cư sĩ thuần thành thiện lương này, đã nhiều lần nhờ tôi giúp bà liên hệ xuất gia.

Qua trò chuyện tôi mới biết, sò dĩ bà muốn xuất gia là do không có tình cảm với chồng, giữa họ thường gây cãi, ông xa có lúc còn ra tay đánh bà.

Những lần như thế tôi đều khuyên bà không nên trốn lánh hiện thực để xuất gia.

Huống chi bà còn có đứa con gái chưa thành niên, đang cần mẹ chăm sóc, nuôi dạy.

Cách đây không lâu, một buổi tối bà đột nhiên gọi điện tới khóc sướt mướt, kể là do gây gỗ cùng chồng, bà đã đến nhà em trai cư ngụ ba ngày rồi, hiện giờ chỉ muốn gặp tôi ngay, nếu không bà chẳng thiết sống nữa.

Vừa gặp mặt, Tần cư sĩ òa khóc, kể lể: “Tôi hiện ngụ trong tòa nhà ba phòng, mới mua hồi nửa năm trước với giá 40 vạn tiền nảy hoàn toàn do tôi kiếm được.

Tôi cùng chồng sống chung, khi đi coi nhà thấy ưng ý, nhưng do bận việc bề bộn nên tôi giao ông xã giữ tiền và lo thủ tục mua nhả.

Không bao lâu đã có được chìa khóa nhà mới.

Tôi cho rằng nửa đời chịu khổ chịu cực của mình đã được đền bù bằng ngôi nhà ưng ý.

Nhưng ai có ngờ, ba ngày trước vào một đêm khuya, chồng tôi về nhà bảo:

– Sáng mai hoặc chậm nhất là ngày mốt, em lo chuẩn bị đủ 20 vạn tiền mặt đế giao nộp… nếu không thì phải ra khỏi nhà.

Tôi sững người, bèn hỏi:

– Chẳng phải tôi đã đưa đủ 40 vạn cho anh mua nhà sao?

Còn đòi 20 vạn nào nữa?

Ông lớn tiếng quát:

– Tôi chỉ mới đưa người ta 20 vạn, còn 20 vạn tôi đem mua cổ phiếu kiếm lời, nào ngờ bị mất hết.

Để gỡ gạc, tôi đã thế chấp ngôi nhà mới này lấy hai mươi vạn, ai dè cũng thua sạch.

Bây giờ người ta đòi tiền, không có tiền trả họ thì mình phải ra khỏi nhà…

Tôi cảm giác như sấm nổ bên tai, vội trách ông xã chơi cổ phiếu sao không bàn trước với tôi.

Nào dè ổng không những chẳng biết lỗi, còn đánh tôi (vừa nói bà vừa chìa cho tôi xem thương tích trên cánh tay).

Bà sụt sịt nói:

-Tôi thật khó mà sống qua hôm nay.

Tôi cũng nghĩ là trước đây mình thiếu nợ ổng, nên đã ráng nhịn nhục cho êm chuyện gần 20 năm nay.

Trong nhà mọi việc ăn, mặc, ở… tất cả đều do một tay tôi đi làm kiếm tiền, cung ứng.

Lẽ nào vẫn chưa trả đủ nợ cho ổng?

Bây giờ nếu như phải đền tiền thì thẩm mỹ viện của tồi cũng phải đóng cửa.

Tôi thực nghĩ không thông!

Tôi rất muốn nhờ tôn huynh xin Hòa thượng Diệu Pháp giảng (qua điện thoại) cho tôi nghe, để hiểu rõ về nhân quả.

Như vậy thì tôi mới cam lòng.

Dù có chết, tôi cũng phải chết cho minh bạch!

Hu hu!

Dừng một chút cho tâm tư bình tĩnh, sau đó Tần cư sĩ thuật lại cho tôi hiểu rõ đầu đuôi cuộc hôn nhân của bà…

-“Em trai tôi từ lúc giải phóng thì bị điều vè quê.

Sau đó người nhà nghĩ cách đem nó về thành.

Do vậy mà mẹ dẫn tôi đến nhà cục trưởng dề cầu giúp.

Bà vợ lão cục trưởng vừa nhìn thấy tôi thì tỏ vẻ rất nhiệt tình, hỏi dông dài một hồi, bà liển thuyết phục chồng nên mau thu xếp việc này giúp chúng tôi.

Sau đó một mình mẹ tôi tới nhà cục trường, em trai tôi không bao lâu được chuyển về thành.

Lúc này mẹ tôi mới sắp xếp cho tôi và con trai cục trưởng gặp nhau, tất nhiên tôi không ưa cuộc hôn nhàn được mẹ sắp đặt (giống như đổi chác) này nhưng do em trai tôi đã được họ giúp đểu về thành phố, nên tồi bắt buộc phải chấp nhận gặp mặt.

Gặp nhau rồi, hai bên đều không có cảm giác và không nói năng gì.

Nhưng thấy ông ta có học thức (đã tốt nghiệp đại học và đang là cán bộ cơ quan), nên cũng không đến nổi phản cảm.

Do mẹ tôi nhiều lần thuyết phục bảo ban cuối cùng tôi cũng ưng thuận cuộc hôn nhân do đôi bên an bài, em trai tôi nhờ vậy mà xin được một công việc mãn ý.

Nào ai biết, ngay đêm tân hôn, khi tân lang trút y phục ra tôi cực kỳ kinh hãi khi thấy toàn thân ông ta nổi đầy lốm đốm, lục cục hòn hòn, nhìn giống như phong cùi hay vảy nên vậy.

Định thần nhìn kỹ, tôi chỉ muốn nôn thốc nôn tháo ra thôi.

Gã nam nhân là chồng tôi đây: trừ mặt, cổ và tay ra, khắp mình da bị bịnh, nổi mụt sần sùi và bong lên như vảy cá.

Tồi đứng như hóa đà, lòng đầy kinh hoảng, mắt tuôn lệ đầm đìa.

Nghĩ mà xem, từ nay về sau tôi làm thế nào để đối mặt với cuộc sống như vậy?

Tôi dám chắc là các cô gái khác mà thấy tân lang kinh khủng như thế này thì chỉ có nước xô cửa bỏ chạy.

Nhưng do tôi không có can đảm đối diện với gương mặt đầy nước mắt của mẹ, lại nghĩ đến tiền đồ của em trai và những lời dèm chê của dư luận, xã hội… nên đành cúi đầu chấp nhận số mệnh.

Lúc này tồi mới vỡ lẽ và hiểu ra, vì sao mà gia đình “ngài” cục trưởng lại sốt sắng nhiệt tình vồn vã giúp đỡ chúng tôi dữ vậy – Vì con trai mình, họ đã hủy hoại cuộc đời tôi!

Sau đó tôi khuyên chồng nên đi trị bịnh, ông nói: “Hồi trước có trị qua rồi nhưng không kết quả, nên chẳng muốn đi nữa vì không thích bị người cười chê, rất mất mặt!”

Tôi bèn mua nhiều thuốc cho ông, nhưng thảy đều không có kết quả tốt.

Tôi lại khuyên ông đi bịnh viện, thế là ông đánh, chửi tôi.

Càng khổ hơn nữa là, tôi vô phương đồng sàng cùng ông, ông vừa tới gần là tôi đã chán ghét muốn nôn.

Có thể điều này làm tổn thương lòng tự trọng, tự tôn của ông, nên ông đối với tôi càng vũ phu thô bạo.

Lòng tôi đầy vết thương, cưới nhau chưa được bao nhiêu ngày, chúng tôi phân phòng ngủ riêng.

Sau đó tôi mang thai, sinh một con gái.

Nhưng điều khiến người ta khó hiểu là một người đã thọ qua nền giáo dục đại học lại sinh trong gia đình cán bộ cao cấp, vậy mà ngay cả chút tập quán vệ sinh tối thiểu anh ta cũng không có.

Chén bát ăn bỏ sót đầy, quần áo thì bạ đâu vứt đấy, cởi vớ chỗ nào thì quăng chỗ đó, mười mấy năm nay chưa từng thay đổi.

Nếu như không thúc giục, thì ngay cả tắm rửa ông cũng chẳng màng.

Đối với những tật xấu này, tôi chỉ cản biểu hiện chút bất mãn thì sẽ lập tức lãnh ngay một trận đòn nhừ tử.

Bên ngoài nhìn vào, ai cũng cho chúng tôi là trai tài gái sắc, là tiểu gia đình êm ấm, nào có biết tôi đây “bề ngoài cười nụ, bề trong khóc thầm”…

Có lần tôi đi Thanh Đảo làm việc, ngụ tại một khách sạn ven biển.

Tối đó tôi nằm thoải mái trong phòng, lắng nghe tiếng sóng biển ầm ầm vọng vào, trong hoàn cảnh lãng mạn như vậy, tôi bất giác nghĩ đến số phận của mình, không kìm được, lệ rơi đầm đìa, tuôn ướt gối.

Lăn lộn mãi vẫn khó thể chợp mắt, tôi trách trời xanh đối xử quá bất công, đem tôi gả cho một nam nhân vũ phu, tồi tệ, đáng chán, kinh khủng… như vậy.

Lẽ nào đây là định số mà con người thường nói?

Bỗng dưng tôi nhớ tới truyền thuyết Bồ-tát Quan Thế Âm ở Nam Hải, nghe rằng: Ngài rất đại từ đại bi, hay cứu khổ cứu nạn.

Lẽ nào Ngài lại không cứu giúp cho tôi?

Vì sao số tôi khổ thế này?

Ngoài song, tiếng sóng biển ầm ào gầm vang, như thể muốn ủi an, ban cho tôi hi vọng…

Tôi ngồi bật dậy, mặc áo khoác, bước ra khỏi khách sạn, đi đến bờ biển.

Trong đêm khuya, mình tôi dạo gót chầm chậm trên bãi cát cô tịch không một bóng người.

Tôi ngước nhìn bầu trời lấp lánh ngàn sao, lòng muốn khóc nhưng lệ không chảy nổi.

Đột nhiên tôi mơ hồ trông thấy đức Quan Thế Âm cưỡi trên lưng một con cá đứng nơi ven biển (chỗ tiếp giáp với chân trời)… giây phút này, bao oan khuất, tủi nhục, oán hận và hi vọng… trong tôi đồng loạt trào dâng như suối, tôi quỳ xuống trên cát, vọng hướng về phía Quan Thế Âm Bồ-tát và bật lên tiếng khóc thật to.

Lòng tha thiết mong Ngài cứu vớt, đem tôi ra khỏi chốn trần ai khổ ải này!

Sau đó thì tôi được quen biết tôn huynh, và quy y Phật môn.

Có lẽ là trời cao dã nghe tiếng van cầu của tôi nên đáp ứng.

Thế nhưng, dù tôi tụng kinh bái Phật nhiều đến mấy, vẫn chưa khiến hôn nhân thê thảm của mình chuyển tốt.

Rốt cuộc là kiếp trước tôi thiếu chồng bao nhiêu nợ?

Mà làm thế nào cũng trả không xong?

Tôi nghe nói gia đình giám đốc Kim cũng gặp vấn đề rối rắm khó giải, đã nhờ Hòa thượng Diệu Pháp giúp cho rồi.

Vậy tôn huynh có thể hỏi giúp giùm tôi chăng?

Nếu không, tôi thực chằng thiết sống nữa!”…

Nghe Tần cư sĩ khóc kể chuyện minh mà đau lòng.

Nhìn bà tinh thần tuyệt vọng, tôi khó mả tin “ách vận sao có thể giáng xuống đầu một phụ nữ thiện lương, hiếu thuận, đảm đang, chu toàn trách nhiệm” như vậy, càng tìm không ra lời để an ủi bà.

Tôi không thể từ chối, lại một lần nữa đành phải gấp rút gọi điện cho sư phụ cầu trợ giúp.

Tôi ấn nút loa vang đề mọi người có thể nghe rõ lời sư phụ khai thị.

Tiếng sư phụ hiền hòa vang lên:

- “Vào khoảng 100 năm về trước, có người đàn ông dắt theo đứa con gái nhỏ đến một tiểu trấn nọ, mở một quán ăn để sinh nhai.

Mẹ bé gái này bị bịnh, đã qua đời; chủ quán sợ mình tục huyền sẽ khổ con thơ nên quyết ở vậy.

Hôm nọ ông đi ra ngoài, trên đường về gặp thằng bé khoảng 5-6 tuổi bị người bỏ rơi.

Lảo chủ bèn tính toán: “Số cơm thừa canh cặn mà khách ăn dư có thể nuôi sống thằng bé này.

Nếu bây giờ ông cứu mạng nó, thì khi lớn lên nó có thể làm công cho ông (mà ông khỏi phải trả tiền thuê người).

Thực là “nhất cử lưỡng tiện”.

Thế là ông quyết định thu nhận thằng bé và làm một cái chuồng gia súc bằng gỗ, mái lợp tranh (gần nhà mình) cho thằng bé ở.

Hằng ngày nó giúp ông rửa bát, quét dọn, ăn đồ thừa mà sống qua ngày.

Trong mắt lão chủ và con gái, đứa bé này bất quá chỉ là một con vật biết nói, cho dù nó có nhức đầu cảm sốt, bị muỗi cắn trùng rỉa… chi chi thì cũng mặc!

Họ để nó tự sinh tự diệt.

Nhưng tính ra thằng bé này mạng lớn, nó cứ thế mà trưởng đại.

Thế nhưng, do từ nhỏ đến lớn không ai xem nó là người, ngoài việc sai khiến nó tối tăm mặt mũi ra, chẳng ai thèm chuyện trò với nó.

Hễ gặp chuyện gì không vừa ý thì cha con chủ nhân lại trút giận lên mình nó, nếu không đánh thì cũng chửi mắng, cho dù nó rất kiệm tiếng ít lời, ngờ nghệch ngốc nghếch…

Song vẫn bị đối xử rất tồi tệ.

Khi con gái đến tuổi lấy chồng, lão chủ cũng muốn chọn người ở rể, nhưng ngẫm nghĩ ông lại sợ “mình chết rồi gia sản sẽ bị thằng rể chiếm mất’.

Vì vậy, dù có rất nhiều người cầu thân, nhưng ông cứ trù trừ, lần lựa chẳng muốn gả con cho.

Cuối cùng, ông bỗng nảy ra ý hay, ngoái dòm lại thằng mồ côi ông nuôi bấy lâu: “Nếu như mà gả con cho thằng tớ này, thực tế nó chỉ là tên nô lệ thuần phục con gái mình, vậy thì khỏi phải lo gia sản lọt vào tay kẻ ngoại nhân’’.

Thế là lão chủ thông minh liền an bài cho con gái một cuộc hôn nhân “vạn vô sai thất’’.

Con gái mặc dù tuân lịnh cha, nhưng tắt nhiên chẳng chịu chung phòng cùng chồng (là tên nô dịch ngu đần dơ bẩn), nên cô đã sống cả đời trong tư tình phóng túng vụng trộm.

Còn thằng bé thì suốt kiếp sống cảnh lao dịch, oan khuất, tủi nhục…

Đứa con gái trong câu chuyện là Tần nữ sĩ ngày nay, còn tên nô dịch mồ côi, chính là chồng bà hiện thời.

Tập quán sống thiếu vệ sinh, không tốt – là do tháng ngày sống trong chuồng thú đời trước dưỡng thành – Da trên mình sần sùi ghẻ chóc (một phần là do ác báo tiền khiên của bản thân và một phần cũng do cảnh sống trường kỳ ở dơ, luôn bị muỗi mòng châm chích tạo thành).

Tục ngữ nói: “oan có đầu, nợ có chủ; chẳng phải chẳng báo mà là chưa đến lúc …

Nhân duyên tệ lậu từ tiền kiếp đã chiêu cảm quả báo hôn nhân thống khổ cho Tần cư sĩ trong đời này.

Kiếp trước đứa bé đã vắt kiệt sức, làm nô dịch cho chủ nhân cả đời mà không được trả công một đồng nào, thì đời này nó đến đòi nợ.

Tần cư sĩ bị đánh bị mắng, chính là trả báo ngày xưa bà từng đánh mắng nó.

Đến như cuộc sống phu thê đời này, cũng là phiên bản của đời trước.

“Muốn biết nhân đời trước, nhìn thọ báo đời này”.

Tần cư sĩ đời trước làm ác, đa phần là do từ nhỏ chịu ảnh hưởng phụ thân.

Đời nay bà hiếu kính mẫu thân, tâm đại thiện hiền lương, ưa nghe Phật pháp, lại biết qui y Phật, ăn chay niệm Phật, chỉ Phật pháp mới có thể giúp bà giải quyết, chấm dứt nợ cũ.

Cho nên, xin Tần cư sĩ khi đã hiểu rõ nhân duyên đời trước rồi, không nên sinh tâm oán hờn chán ghét đối với người chồng hiện tại nữa.

Mà phải biết nắm ngay cơ hội gặp gỡ trong đời này, thành khẩn sám hối tội nghiệp đời trước.

Sống phải thường thấy lỗi mình, ít bàn vè lỗi người, nhất định sẽ gặp hung hóa cát, biến nạn thành an.

Bà phải tụng nhiều “Kinh Địa Tạng” và “Kinh Phổ Môn” hồi hướng cho “tên nô dịch” kiếp trước, thì nhất định chồng Tần cư sĩ sẽ thay đổi”.

Tôi tiếp điện thoại xong, ngoái nhìn Tần cư sĩ đang ngồi yên lặng, “mưa” trên mặt đã dứt hạt, hiện đang “trời quang mây tạnh”.

Hơn nữa năm trôi qua, Tần cư sĩ đã gọi điện đến hai lần.

Một lần hỏi về các sách kinh Phật giáo, lần khác thì kể bà hiện đang bận công việc bề bộn, khi nào có thời gian rảnh sẽ đến thăm tôi.

Nghe giọng nói của bà chứng tỏ tâm tư đang vui vẻ.

Tôi thở ra nhẹ nhõm.

Thầm cầu mong phu thê nhà bà sớm giải xong túc oán, gia đình hòa thuận, cùng vượt qua cửa ải khó khăn.

25.

THẰNG CHÁU QUÝ

Tưởng cư sĩ năm nay hơn 70 tuổi, thường tham gia Phật thất, nhưng bà có chứng bịnh tim, khiến bà niệm Phật không được chuyên nhất.

Nguyên do chính là tại thằng cháu nội tên Lư (17 tuổi) thường theo ông xã bà (tuổi gần 80) kêu to hét lớn, ép bà làm những việc nó cần, từ việc thay y phục hằng ngày cho tới cung ứng cơm nước phải “hầu nó” ngày ba bữa, thậm chí còn sai bà tới nhà bạn học lấy những thứ nó cần.

Con trai bà điều kiện kinh tế rất khá, có ngôi biệt thự xây kiểu hiện đại, tối tân; sở hữu điền sản, nhà, xe phong nhiêu… rất muốn thằng con về ở chung, nhưng thằng Lư từ nhỏ chỉ thích ở với ông bà nội.

Song ngày ngày nó luôn quấy phá hành hạ, làm phiền hai ông bà đủ điều.

Bất kể ông bà nội đối tốt đến mấy, nó luôn trở mặt lật lọng, cáu gắt vô lễ, lúc bực tức còn đá nhà đá cửa, quậy một trận văng tưng mới chịu yên.

Tưởng cư sĩ than: – Có thằng Lư ở nhà, hai vợ chồng chúng tôi dù miệng có niệm Phật tâm cũng chẳng an.

Tôi nghe xong hết sức cảm thông và tội nghiệp họ, vì vậy bèn thỉnh giáo Hòa thượng Diệu Pháp.

Sư phụ trầm ngâm một lúc rồi ôn tồn bảo;

– “Hai Ông bà này kiếp trước cũng là vợ chồng, ngụ ở nông thôn.

Họ có nuôi một con lừa.

Con lừa này bình thường giúp họ trồng trọt, chở đồ, đưa họ ra chợ, đi về.

Nó làm mọi việc rất vất vả nhưng ăn toàn rơm khô, không xứng với công sức nhọc nhằn của nó.

Lại còn hay bị chửi mắng đánh đập.

Đến khi con lừa già, họ đem nó bán cho lò mổ.

Hiện nay, thằng Lư chính là con lừa chuyển sinh làm người đến đòi nợ họ.

Hai ông bà phải nhanh chóng đến trước Phật sám hối tội ngược đãi “con lừa kiếp xưa”, và mỗi ngày phải tụng một bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho nó, như vậy mới có kết quả tốt.

Nếu không, tương lai cả hai sẽ bị nó làm cho tức chết”.

Tôi đem lời Hòa thượng thuật lại cặn kẽ cho Tưởng cư sĩ nghe.

Bà cực kỳ tin và nói:

– Thằng bé này đúng là con lừa, hèn gì mà nó hay đá và tính khí vui giận thất thường.

Chồng bà bị nó chọc tức đến lên tension (tăng xông), mấy ngày trước còn bị hành đến đau tim.

Nếu nó cứ quậy theo mừng này mãi, thì chắc chắn là cái mạng già của họ sẽ tiêu đời.

Lần này, đã biết rõ nguyên nhân của não phiền rồi, họ nhất định sẽ làm y theo lời sư phụ dạy.

Hơn một tháng sau, Tưởng cư sĩ gọi điện tới nói:

– Tôi xin báo tin cho tốn huynh và Hòa thượng Diệu Pháp hay, tôi và ông xã hằng ngày kiên trì tụng “Kinh Địa Tạng” sám hối lỗi đã qua trong quá khứ, từ hồi bắt đầu tụng, tính đến nay đã 39 bộ rồi.

Suốt thời gian này thằng Lư chỉ quậy có một lần, chuyện hét la quát mắng cũng không còn.

Hơn nữa, hôm qua thầy giáo còn biểu dương, khen nó tính chất phác, ưa giúp người, thật kiến hai người già chúng tôi mừng đến rơi lệ.

Nói xong bà buột miệng tán thán:

– Uy lực “Kinh Địa Tạng” quả là cực lớn, không thể nghĩ lường, Phật pháp thật kỳ diệu.

Hiện tại chúng tôi tu hành, tín tâm càng tăng kiên cố.

26.

TU KHÔNG NÊN ĐỘC TÀI

Một buổi chiều nọ Hòa thượng Diệu Pháp mới vừa an tọa, thì một vị tóc điểm muối tiêu tiến tới quỳ xuống, chưa khai khẩu đã tuôn lệ như mưa, khóc chẳng thành tiếng, mọi người an ủi, ông mới dần bỉnh tĩnh được chút và bắt đầu hướng về Hòa thượng kể chuyện của mình, cầu xin chỉ dạy.

Ông vừa buồn vừa tự trách, giống như phát xuất nỗi niềm sám hối bi ai từ nội tâm, khiến người có mặt ở đó không ai là không rơi lệ.

Ông kể mình vừa bắt đầu hướng dẫn vợ và các con bước vào đường học Phật thì đã nhanh chóng dứt bỏ ăn mặn, toàn bộ thời gian rảnh ông đều dùng vào việc tụng kinh hoằng pháp lợi sinh, tu tập tinh tấn.

Trước khi học Phật ông có mua một đâu máy video hiện đại, chỉ xem qua có 4-5 cuộn phim thôi, đến nay đã 10 năm, chẳng hề động tới nữa.

Riêng truyền hình, ngoại trừ nghe tin tức ra, các tiết mục văn nghệ khác ông cũng chẳng để mắt tới.

Việc học Phật đem lại cho toàn gia ông nhiều cái hay vô cùng, có thể nói gần 10 năm nay, trong gia đình chẳng phát sinh điều gì bất như ý.

Điểm tuyệt nhất là cả nhà không hề vướng qua bịnh chi.

Trong lúc cùng các bạn đạo bàn luận ông thường nêu lên những cái hay về ăn chay học Phật.

Lòng đầy niềm tin và tôn kính đối với Phật.

Năm ngoái, có một bác sĩ bảo ông:

– Mười năm anh nay không ăn thịt, nhất định là thiếu dinh dưỡng, anh tự cho mình khống bịnh, thì thấy như không có bịnh.

Nhưng nếu anh đi bịnh viện kiềm tra máu mà không có vấn đề chi thì chúng tôi sẽ niệm Phật ăn chay theo anh!

Dưới sự cổ vũ của bạn đồng tu, ông bèn làm cuộc kiểm tra.

Lúc lấy phiếu xét nghiệm, ông hỏi nhân viên: – Huyết dịch tôi có vấn đề chi không?

Họ đáp: – Có, năm nay ống tuổi gần 60, mà máu huyết lại giống như người hai-ba mươi tuổi, vậy là không bình thường.

Ông mới đầu hơi ngẩn ngơ một chút, sau đó bật cười.

Khi đem kết quả tới cho mọi người xem, ông bảo:

– Nếu xét theo tiêu chuẩn người ăn mặn, thì máu tôi đương nhiên là bất thường.

Nhưng tình trạng máu huyết giống thanh niên không phải là chuyện tốt hay sao?

Bởi vi suốt mười năm nay tôi không động đến rượu thịt, thuốc hút, nên máu tôi đã được thanh lọc, tịnh hóa.

Tiêu chuẩn này có thể nói là không giống phần đông người bình thường.

Chúng ta ăn chay tức là đang tịnh hóa máu huyết mình, là phản lão hoàn đồng, là trở về với mộc mạc chân thực, khiến cuộc sống hôm nay thân ít bịnh, hoặc không bị bịnh khổ, khiến kiếp nhân sinh hữu hạn lại càng thêm tốt đẹp…

Nói đến đây, đột nhiên ông trầm tư một chút, mắt lại tuôn lệ.

Ông sụt sịt kể, nửa tháng trước tai họa đã giáng vào gia đình ông.

Đứa con gái ông cưng yêu nhất bỗng dưng liên tục hai ngày ăn gì đều ói, đi bịnh viện khám họ nói nó bị ung thư bao tử.

Nhưng không thể phẫu thuật vì bịnh đã phát tán trầm trọng.

Bác sĩ nói sau này bịnh sẽ ngày càng chuyển ác, thời gian sống tối đa chỉ còn nửa tháng.

Gia đình ông nghe tin này giống như bị đấm vào đầu, ngày ngày rửa mặt bằng nước mắt, chẳng biết làm sao.

Bác sĩ nói con gái ông bịnh là do cơ thể thu nạp ít mà làm quá sức, do lao lực tích lũy lâu ngày, thành bịnh nan y.

Ông tỏ vẻ nghi ngờ, nói:

-Thưa sư phụ, chẳng phải trong “Kinh Địa Tạng” từng giảng: lễ bái tượng Địa Tạng, tụng “Kinh Địa Tạng” sẽ được các thiện báo như: gia trạch vĩnh an, kéo dài tuổi thọ, tật dịch chẳng đến?…

Nhưng vì sao nhiều năm nay con tụng “Kinh Địa Tạng” và các kinh khác, mà hiện tại lại bị đại nạn ập xuống đầu như thế?

Bà nhà con nói: “Nếu như không học Phật thì chẳng đến nỗi con gái phải bịnh nặng như vậy”.Thế này thì e rằng thân thích láng giềng vốn không tin Phật sẽ càng dèm chê và trách um lên, thậm chí còn làm lung lay tín ngưỡng của con.

Xin hỏi sư phụ, con đã trồng nhân gì mà bị ác báo này?

Hòa thượng ngồi xếp bằng trên tràng kỹ, đôi mắt khép nhẹ như đang lắng nghe.

Thấy cư sĩ hỏi, ngài từ tốn đáp:

– Lời Phật là chân ngữ, thật ngữ, không gian dối, quyết chẳng gạt lừa người.

Nhưng vì sao nhà ông gặp đại nạn như thế?

Đây phải tự hỏi bản thân mình một chút.

Như ông vừa nói, ngoài nguyên nhân do con gái ông lao lực quá độ thành bịnh ra, bản thân ông cũng có lỗi một phần.

Tuy ông siêng năng học Phật nhưng chẳng bỏ được tính cố chấp độc đoán.

Phật pháp cùng thế pháp vốn vô phân biệt, nhưng ông lại cho đối lập nhau.

Một mặt ông đem Phật pháp tích cực giới thiệu cùng mọi người, khiến kẻ nghe pháp được lợi ích thậm chí giúp nhiều người ly khổ đắc lạc, đó là rất tốt.

Nhưng ông cũng đem Phật pháp biến thành trói buộc, bắt vợ con “nhốt” trong khuôn khổ do mình định lập ra.

Thậm chí khi vợ con ông ra ngoài, đi đâu, muốn trang điểm chút cũng bị ông phê bình cho một trận.

Con cái ông thỉnh thoảng nếu nghe những khúc nhạc đang lưu hành, thì xem như phạm vào đại kỵ, có lỗi với phép tắc “đại giáo huấn” của ông, lập tức sẽ bị ông nghiêm khắc quở trách.

Nếu họ tạm có chút phản ứng, thốt lời phê bình hay tỏ thái độ không phục, thì ông lớn tiếng quát la, thịnh nộ như sấm rền.

ông lập tức biến thành pháp quan, một bề làm vệ sĩ hộ giáo, như thể trong thiên hạ chỉ có ông mới là người học Phật chân chính.

Hễ nghe trong Phật môn có chút việc không đúng pháp, thì ông ghim mãi trong lòng, phê tam bình tứ…

Tuy ông có chánh tri chánh kiến nhất định, nhưng mắt toàn chỉ thấy lỗi người, tâm chửa toàn thị phi phải quấy và nhìn ai cũng thấy đều là ngoại đạo.

Thế là rất sai.

Ông phải biết mọi sự trên đời đều có nhân quả, mà người chân thật tu hành thì không nên dòm tìm, soi mói lỗi thế gian.

Sai sót của ông chính là do quá chấp trước nên đã biến tâm mình thành tâm ma, rơi vào cảnh quỷ!

Thật ra cũng có ma bên ngoài, không có gì đáng sợ.

Người tu phải thành thiện tri thức giúp mình thành Phật!

Năm xưa, lúc Phật Thích-ca làm tiên nhân nhẫn nhục để vua Ca Lợi chặt thân thể, Ngài tuyệt không có “ngã tướng, nhân tướng chúng sinh tướng, thọ giả tướng”…

Không những tâm chẳng sinh oán hận mà còn phát nguyện tương lai mình thành Phật rồi, người sẽ độ đầu tiên là vua Ca Lợi.

Đây mới là tấm lòng và cảnh giới, tri kiến của Phật,

Ông có biết sau khi nổi nóng hầm hè với vợ con rồi, trong lòng họ thấy thế nào chăng?

Do họ bị ông áp chế, khí oán giận không được bung ra, phải nén cả vào trong.

Hơn nữa ngọn lửa vô minh của ông, tùy theo tiêu chuẩn đạo đức ngày càng thấp của xã hội mà càng cháy bùng dữ dội, thế là người nhà biến thành nạn nhân, thành chỗ trút bực, trút giận của ông; họ phải chịu đựng trường kỳ tháng, năm như thế, làm sao kham thấu?

Ông hiện giờ là một người hai mặt.

Một mặt là kẻ rất có ái tâm, là chồng tốt yêu vợ, cha lành thương con.

Còn một mặt khác nữa lại là kẻ có tâm ma hung ác, toàn gieo tổn thương trầm trọng cho quyến thân.

Giờ đây con ông vướng bịnh hiểm, ông chẳng những không phản tỉnh đề nhìn ra lỗi mình, ngược lại còn oán trách Phật Bồ-tát không che chở chúc phúc.

Cho dù Phật Bồ- tát có đại thần thống, cũng không thắng nổi.

“Người quản tôi chưa sinh ra” (nghĩa là trên đời này, không ai có thể quản được con).

Con quá ngông cuồng kiêu mạn, tự sa vào tâm ma, quả báo vẫn là chính mình tự thọ.

Hu hu!

Con luôn cho rằng mình là người chồng tốt, cha lành.

Té ra con chỉ là kẻ ôm tâm xấu hại người!

Ha Ha!

Vợ của con ba mươi năm nay luôn tròn phận hiền thê, mẹ đảm, một bề phu xướng phụ tùy…

Con muốn học Phật bà cũng chịu, con bắt ăn chay (cho dù trong lòng bà không muốn) nhưng cũng nguyện ăn chay theo con bao năm nay.

Sau đó con đề xuất ngủ riêng, đoạn dục… hễ con nói là bà vâng theo, chưa từng nghĩ đến tâm tư tình cảm của bà.

Quên rằng bà cũng là người biết buồn, vui, hờn giận… con luôn cho là mình tu rất tinh tấn!

Bây giờ con mới biết thế nào là học Phật đúng đắn!

Con chính là ma quỷ luôn đem đến áp bức, thống khổ cho người, vì con chỉ biết có mình, luôn cho rằng cái gì mình cũng đúng, cũng hay.

Không ai được phép cãi… con sống ích kỷ, tư lợi, sống luống uổng suốt bao năm nay, hu hu!… hu hu!

Tôi trước đây chỉ nghe các bà, các cô, các má… vừa khóc vừa rên, hôm nay lần đầu trong đời mới nghe một nam tử 60 khóc hù hụ, kể lỗi mình um sùm, vừa khóc vừa than vừa sám hối.

Nếu như ông không thật tâm sám hối, sao có thể thốt ra những lời chẳng màng đến thể diện minh như thế?

Trong phòng khách bên phía quý bà đều bật khóc thành tiếng, còn quý ông thi không ai là không rơi lệ.

Lúc này tôi phát hiện chỉ có sư phụ là điềm nhiên đoan tọa, đôi mắt hơi khép của ngài khẽ động đậy.

Trong lòng tôi bỗng nổi lên nghi vấn trước tình huống cảm động nay vì sao sư phụ không chút xót thương mà cứ ngồi bất động như thế?

Sao ngài không mau mau nghĩ cách phá giải giúp cho họ?…

Bỗng sư phụ khai khẩu, nhưng chẳng hê mở mắt, tuy âm thanh ngài không lớn, nhưng có đủ sức mạnh khiến các tiếng khóc nghẹn ngào ngưng bặt ngay:

– Ta đâu có nói là con gái ông nhất định phải chết!

Sao ông chẳng hỏi phương pháp cầu sống?…

-Dạ??…

Không khí trong phòng như ngưng đọng, mọi âm thanh hoàn toàn im bặt.

Lão cư sĩ bỗng quỳ mọp trước sư phụ, dập đầu lia lịa nghe vang thành tiếng, tại hiện trường mọi người đều quỳ xuống hết…

Sư phụ giống như không nhìn thấy cảnh tượng xúc động này, vẫn bình tĩnh từ tốn nói:

– Phật pháp là diệu pháp, “tất cả duy tâm tạo”, tâm có thể khiến ông đọa địa ngục, có thể khiến ông thành Phật, có thể khiến ông bị bịnh, tử vong, cũng có thể khiến ông hóa giải hàn băng, chuyển nguy thành an.

Chú Đại Bi là thuốc hay vạn năng, khéo trị tám vạn bốn ngàn chứng bịnh.

Nhưng cần phải sám hối chân thành thì tác dụng thuốc mới phát.

Nếu như con gái ông lành bịnh rồi, ông có còn nóng nảy, độc tài, áp bức… nữa chăng?

– Quyết không!

Con sẽ không dung dưỡng các tật xấu đó nữa, con sẽ đổi mới, làm lại từ đầu.

– Được!

Tốt lắm!

Nếu muốn thành Phật, trước phải thành người hoàn mỹ.

Phật đối với tất cả chúng sinh đều từ bi.

Phật là bậc đại giác, có thần thông trí huệ cao tột, nhưng Ngài chưa bao giờ nổi nóng cáu giận với đệ tử, chưa hề la hét chửi mắng ai.

Pháp Phật giảng là giúp người minh lý, hiểu rõ đạo rồi, thì trong sinh hoạt ngày thường, trong công việc thực tiễn luôn thực hành Phật pháp.

Đây gọi là “minh lý tức sự”.

Chúng ta ngày ngày đều gặp rất nhiều việc xảy ra ngoài dự tính, bởi vì quý vị đã minh lý, đã hiểu Phật pháp, cho nên không để những cảnh đó chuyển, mà sẽ như pháp giải quyết, xử lý sự việc, đây chính là “minh lý tức sự”.

Người tu hành mà phát cáu, nóng nảy hét la ỏm tỏi là tối đại kị, có câu: “Lửa sân thiêu hủy rừng công đức” tuyệt không phải là lời hư vọng.

Đã là đệ tử Phật mà không sửa đổi, không từ bỏ tính xấu này, thì cho dù cả ngày tụng nhiều bộ kinh, giảng pháp nhiều lần, độ biết bao người học Phật, thì bản thân cũng không ra khỏi tam giới.

Để cho tính khí nóng nảy sân giận bộc phát là biểu hiện bản thân mình đang quá vô minh!

Vô minh nghĩa là không sáng, bản thân quý vị Phật pháp không sáng tỏ, thì làm sao có thể độ người viên mãn được?

Trong thời đại hiện nay, con trai con gái, chỉ cần có chánh tri chánh kiến, có thể giữ ngũ giới thập thiện, thậm chí có thể ăn trường trai, đều là việc khó làm, rất hiếm, rất quý.

Nếu như ông cứ chấp nhất cứng cỏi, vì cầu toàn mà khư khư đem giới luật của người xuất gia, áp đặt cho hàng tại gia, rồi ép buộc, quở trách họ, như thế là quá ngu si, đây giống như “kéo mạ thúc lớn”, làm vậy chỉ khiến người lánh xa Phật pháp, biến Phật pháp thành khủng bố, đe dọa, áp bức…

Chẳng phải Lục tổ từng giảng: “Nếu lìa thế gian tìm con đường giác ngộ thành Phật, giống như tìm sừng thỏ, vĩnh viễn không tìm được”.

Con gái ông ra ngoài, có thể điểm trang chút ít hay mặc y phục lịch sự xinh đẹp, có thể cùng chúng bạn thưởng thức những ca khúc đang lưu hành (miễn là nội dung âm nhạc lành mạnh, có ích)… thì đều được cả.

Không bắt buộc họ phải suốt 24 giờ niệm Phật mới là tinh tiến.

Ông phải hiểu rõ Phật pháp như thế này: tự thúc liêm ngôn hạnh, giữ gìn tác phong của mình chuẩn mực cũng chính là niệm Phật!

Sống trong thế gian, đối diện mọi hình sắc cảnh duyên phải luôn có con mắt sáng suốt biết tuyển trạch pháp nhãn, “ưng vô sở trụ mà sinh kỳ tâm”.

Mỗi ngày, buổi tối trước khi ngủ, ông nên sắp xếp tĩnh tọa chừng 40 phút, niệm Phật hoặc trì chú, hay tu pháp môn nào đó hợp với mình, nhằm giúp tĩnh tâm, mục đích giải trừ mỏi mệt cả ngày, cũng tính là khóa tu tối thường nhật.

Được rồi, chúng ta đã minh bạch chân tướng vũ trụ, tức là nhìn thấu phá.

Nhìn ra rồi thi phải buông.

Nếu như nhìn thấu phá mà chẳng buông, thì ông so với hàng tục nhân chưa nhìn thấu, càng chẳng tự tại, bởi vì trong lòng ông ngoài tám vạn bốn ngàn phiền não trần lao ra, còn bị áp lực Phật pháp đè nặng.

Bây giờ xin chư vị hãy buông tất cả hết, để được đại tự tại.

Mỗi cá nhân nên quý người bạn hữu duyên ở bên cạnh mình, là đệ tử Phật, ta đối với động vật có thể sinh lòng từ bi, vì sao lại cư xử vô tình với người bên cạnh, làm tổn hại thân nhân mình?

Ông bao niên kỷ mới tin Phật?

Bao nhiêu tuổi mới tri giới?

Có cư sĩ tin Phật mấy mươi năm rồi, đến nay chẳng phải vẫn còn ăn tam tịnh nhục ư?

ở đây tôi không nói đúng hay sai, mà chỉ nói vấn đề thời cơ, nhân duyên thôi, hễ trăng đến rằm thì tròn.

Cả nhà ngồi chung một bàn, có kẻ ăn thịt uống rượu, có người ăn chay tin Phật, thế thì một bàn cứ chia hai mâm, chẳng có gì là không đúng.

Thế giới này chính là một bàn nhiều mâm mà.

Lục tổ trong hoàn cảnh thắt ngặt đặc biệt vẫn phải phương tiện ăn rau cạnh thịt, rau ấy có dính vị thịt chăng?

Chẳng ảnh hưởng đến việc thành tổ của ngài.

Không nên vừa hiểu chút Phật pháp, liền lập ta ở trỏng ròi khoa chân múa tay làm… cảnh sát trong Phật giáo, một bề kiểm soát áp đặt, bắt bẻ lung tung.

Đến khi ác quả thành hình thì hối hận đã muộn!

Đạo Thiên Chúa, Tin Lành giảng bác ái, đây cũng là quan điểm của Phật giáo.

Chúng ta cần dùng tâm Bồ-đề bác ái của Phật cảm hóa chúng sinh tiến vào Phật môn, chứ đừng dùng phương pháp tranh đấu, chỉ trích, quở mắng, rầy la.

Được rồi, cư sĩ mong giúp con gái ông chuyển nguy thành an?

Thì 8 giờ sáng mai ông lên đại điện bắt đầu lễ Phật, tụng 7 biến “Sám Đại Bi” hồi hướng cho pháp giới chúng sinh.

Xin ông nhớ nhắc con gái, ngày mai cháu ở nhà bản thân cũng phải bắt đầu tụng “Kinh Địa Tạng”, tụng cho đến khi cháu hoàn toàn bình phục, và từ đây về sau cháu hãy chuyên tụng “Kinh Địa Tạng”.

Còn phần ông, ngày mai lễ xong “Sám Đại Bi” rồi, thì bắt đầu lễ ba bộ “Lương Hoàng Sám”. lúc bái sám phải dùng tâm thành lễ bái (giống như ông vừa thành tâm sám hối hồi nãy đó), nếu không thành tâm – thì sám hối tụng chú gì cũng chẳng linh – Phải khắc cốt ghi tâm, thành ý hết lòng mới có thể chiêu được cảm ứng “chấn thiên động địa”.

Phần các cư sĩ, quý vị có chịu làm công đức này không?

– Chúng con đồng ý ạ!

Âm thanh hồi đáp vang vọng làm rung chuyển cả mặt kính lưu ly trong phòng.

Hòa thượng mỉm cười, nụ cười hoan hỉ như trẻ thơ, khuôn mặt tuổi tác của ngài tươi như đóa sen mùa hạ, khiến mọi người xúc động, chiêm ngưỡng không rời.

Các đệ tử đều biết Hòa thượng xưa nay không hề vọng ngữ, chỉ cần bạn làm y theo lời Ngài dạy, thì sẽ ly khổ đắc lạc.

Trước khi kết thúc, Hòa thượng ngâm một bài thơ cho người suy gẫm:

Không tức sắc, sắc tức không

Phật pháp diễn giải vô cùng thâm sâu

Đem thân hành pháp nhiệm mầu

Giúp người tỉnh giác tiêu sầu hết mê

Trong biển khổ hiện Bồ-đề

Muốn thành Phật phải oai nghi thiện lành

Độ mình độ khắp chúng sinh.

Học gương hoan hỉ, thấu tình cảm thông

Lòng bao dung tợ hư không

Có đi có đến, chẳng căng, chẳng dùn

“Trung đạo’’ hữu hiệu vô cùng

Rất là thích hợp nên thường hành luôn.

26.

TÌNH CHẤP NHIỀU ĐỜI

Khi Hòa thượng Diệu Pháp dẫn tôi đến một đại đạo tràng nọ, thì Sư bà trụ trì Ni tự này kể cho Hòa thượng nghe nơi đây có hai Sa-di ni, khoảng hơn hai mươi tuổi, tướng mạo trang nghiêm, trước khi xuất gia họ đều đã tốt nghiệp đại học, có bằng thạc sĩ.

Sau khi họ phát tâm xuất gia rồi, thì tụng niệm bái sám, kinh điển thuộc mau, các oai nghi, mỗi mỗi đều ổn.

Lẽ ra hai cô này có thể nổi bật xuất sắc trong chúng, nhưng ngặt nôi họ mắc phải chứng bịnh…

“đồng tính luyến ái” mà trụ trì khuyên mãi không được.

Xin gọi họ là ni X và ni Y.

Mới đầu hai cô này chẳng ai lìa ai, ngủ thì nằm sát đơn nhau, đứng đâu cũng đứng cùng, lên điện tụng kinh sớm tối thì một trước một sau, vào Thiền đường thì cũng ngồi kề bên nhau.

Thậm chí ngay cả đi rửa tay hai người cũng chẳng phân ly.

Mới đầu đại chúng chẳng để ý, nhưng lâu dần, trong chúng bắt đầu lưu tâm, phê bình.

Bởi vì khi Trụ trì phái một trong hai người đi làm việc, thì người kia nhất định phải đi theo, nếu không cho, thì làm ầm lên.

Lần đó thấy vấn đề tuy không nghiêm trọng nhưng lại ảnh hưởng đến sự thanh tịnh trong đạo tràng ni chúng; mặc dù cả chúng ngoài miệng không nói gì, nhưng thường để mắt đến họ, cũng không phát hiện họ có hành động gì phạm thanh quy.

Sư Trụ trì đã nhiều lần khuyên nhủ hai cô.

Sau khi góp ý phê bình xong, thì ni X bắt đầu lánh xa ni Y, nào dè lại phát sinh việc không hay.

Ni Y không chịu nổi cảnh ni X lánh xa mình, nên giữa hai người xảy ra gây cãi, mặc dù họ không dám lớn tiếng làm ồn, nhưng cả hai thường gây nhau đến đỏ mặt tía tai.

Có tranh cãi cho lắm, Y vẫn không chịu để X xa mình nửa bước, cứ theo kè kè giống như mẹ che chở con đi trên đường vậy.

Theo như hai cô kể, tình cảm bọn họ có từ thời trung học, bắt đầu quen là thân ngay.

Có thể nói rằng “vừa gặp mặt đã thấy thương liền”.

Từ lúc quen biết đến giờ họ chưa hề xa nhau.

Vào đại học cũng chung trường, ở ký túc xá sinh viên dù người giường trên kẻ giường dưới, nhưng hai người vẫn thường ngủ chung.

Chỉ cần X ở ngoài tầm nhìn của Y là trong lòng Y rất bất an.

Ni Y thưa với Trụ trì rằng:

– Con cũng cảm thấy như vậy là không bình thường, nhưng vô phương khống chế nội tâm mình.

Do vậy mà sư Trụ trì hi vọng Hòa thượng Diệu Pháp có thể giúp giải quyết vấn đề khó khăn này.

Hòa thượng trầm ngâm một lúc rồi kể:

“Cách đây ba đời, bọn họ từng là mẹ con: mẫu từ, tử hiếu.

Kiếp thứ hai thì họ tái sinh làm phu thê quan hệ càng khắng khít, như keo sơn quân quýt không rời suốt cả một đời.

Do tâm dâm ái sâu nặng, nên kiếp vừa rồi họ sinh làm đôi chim yến, sớm tối chẳng lìa nhau.

Đôi chim yến này làm tổ nơi cây đại thọ trước chùa, nhờ vậy mà ngày ngày được nghe kinh thính pháp, nên đời nay có thể cùng chuyển sinh làm người, cùng mang thân nữ, có trí thông minh, nhớ dai, lại được đồng xuất gia tu đạo.

Nếu tu hành tốt, đời này họ có thể liễu sinh thoát tử.

Nếu như tâm cứ mãi đắm chìm trong tình ái sâu đậm từ nhiều đời đến nay chẳng thể buông bỏ, thì kiếp sau nhất định họ sẽ đọa địa ngục, có muốn tiếp xúc với Phật pháp cũng khó được”

Kể xong Hòa thượng đáp ứng lời sư Trụ trì thỉnh cầu, đặc biệt khai thị cho hai cô Ni kia.

Khi hai cô hiểu rõ nhân duyên của họ rồi. lập tức phát nguyện buồng bỏ hết.

Họ cùng lên đại điện xin sám hối, phát thệ sẽ tu hành tốt.

27.

CON ĐƯỜNG LÀM GIÀU

Người ta ai cũng ưa phát tài, có người biết nắm lấy cơ hội nên “tâm muốn, sự thành”.

Có người tùy khả năng mà vươn lên theo thời, nỗ lực phấn đấu, dốc hết cả đời, cuối cùng cũng thành tựu.

Có người dù tích lũy lắm tiền của, tuy được tài phú nhưng không bền lâu, vì “sai lầm một chút mà ôm hận thiên thu”.

Hơn mười năm nay tồi theo hấu Hòa thượng Diệu Pháp, chứng kiến nhiều người đến thỉnh giáo ngài vắn đề này, vì vậy tôi tuyển chọn hai câu chuyện có thực tiêu biểu, chia sẻ cho độc giả nghe.

Như đã thuật trong quyển Báo ứng Hiện Đời tập 1, nơi mục: “Pháp ngữ của Hòa thượng”có cư sĩ hỏi:

– Làm sao để tụ nhiều tiền tài, nhằm giúp kiến thiết đạo tràng…?

Hòa thượng đã dạy: -“Tiền tài như củi, tụ nhiều vô ích, chỉ cần cho một mồi lửa là chiêu họa đốt thân.

Củi dễ tìm, cản thì lượm nhặt, nhưng không nên tham, vì tiềm ẩn họa ở trong”…

Thực ra, câu chuyện này còn nửa phần sau chưa kể hết…

Vì sao cư sĩ này thỉnh giáo, muốn tụ nhiều tiền tài để xây cất chùa? – Bởi ông là một người giàu có, sự nghiệp cực kỳ thành công –

Mời quý vị xem câu chuyện dưới đây:

28.

NỬA CÁI BÁNH

Gia đình ông Trình có ba người, sau khi qui y Phật rồi thì giữ giới rất nghiêm.

Nhà ông giàu có ngàn vạn, lại một bề trì giới chu toàn, khiến mọi người rất kính phục. (Xem ra phú quý học đạo cũng không khó?

Mấu chốt nằm ở chỗ bạn có huệ căn và cùng Phật có duyên hay chăng thôi).

Con trai của ông là Trình Vĩ vừa mới lên cao trung.

Ngày nọ tan học chàng ra về cùng các bạn, trong nhóm có bạn X đang đói bụng, nên đã mua một cái bánh nướng, vừa mới cắn một miếng, thì X nhổ ra ngay rồi vứt miếng bánh ra xa.

Trình Vĩ hỏi:

– Sao lại ném bánh đi?

X nói:

– Dở quá!

Ăn không ngon.

Đang trả lời thì X đi đến gần cái bánh vừa ném đó.

Thuận chân anh đá nó văng ra xa thêm mấy mét nữa.

Trình Ví vội chạy đến lượm cái bánh lên, đưa cho bạn, ôn tồn nói:

– Đừng có vứt bỏ bánh như vậy rất uổng, bạn hãy ăn đi nha.

Lãng phí lương thực là có tội nhiều lắm đó!

X cười khẩy, bảo:

– Bánh này tôi mua, không ưa thì ném đi, có tội gì chứ hả?

Nếu anh sợ lãng phí thì tự mà ăn đi!

Trình Vĩ nói:

– Vậy tôi ăn thay anh nha!

Nói xong, liền ăn cái bánh đó.

Khi mẹ Trình Vĩ mách Hòa thượng chuyện này, mắt bà đỏ lên.

Bà nói mình đã khóc khi nghe con trai thuật lại cảnh trạng đó.

Hòa thượng nghe xong, nhìn thật lâu vào cậu con đang ngồi im lặng bên mẹ, mỉm cười khen:

– Con trai ngoan, học tập giỏi, tiền đồ xán lạn vô cùng a!

Ba Trình Vĩ nói:

– Trình Vĩ ngày nhỏ rất ưa tĩnh tọa, có lúc nó chơi đùa trong nhà, khi tìm thì chẳng thấy đâu.

Do chẳng nghe tiếng mở cổng lớn, nên con và mẹ nó rất thắc mắc, cùng đi tìm thì bỗng nghe tiếng động trong tủ quần áo.

Chúng con mở tủ ra, nhìn vào thấy thằng bé đang ngồi xếp bằng trang nghiêm trong đó, mắt nhắm, miệng chẳng nói lời nào, nhưng giống như đang niệm gì đó.

Con kéo cháu ra, hỏi:

– Ngồi trong đây làm chi?

Nó đáp: – Con không biết.

– Thưa sư phụ, Ngài nói xem, thằng bé này có duyên với Phật phải không?

Nó luôn nói tương lai mình không kết hôn, chẳng thèm chuốc phiền làm chi.

Hòa thượng bảo:

– Đúng đấy!

Các ngươi ráng nuôi dạy nó cho tốt, để nó làm thiện tri thức cho Phật giáo, tương lai sẽ cống hiến rất lớn cho đạo.

Ba Trình Vĩ nói:

– Con có một việc nghĩ hoài không hiểu, ôm thắc mắc mãi suốt bao năm nay.

Xin thỉnh giáo sư phụ.

Con vốn chỉ có tấm bằng cao trung, sau đó gặp cơ hội, chỉ tính làm ăn nhỏ thôi, ngờ đâu việc hết sức phát đạt, thuận lợi vô cùng, mãi cho tới giờ.

Sự nghiệp quá thành công có lúc khiến bản thân con cũng lấy làm lạ.

Vì có nhiều người bằng cấp rất cao, lại cực kỳ thông minh, thậm chí ra làm việc sớm hơn con, nhưng trước sau không phát, hoặc có hưng thịnh được mấy năm thì bị suy sụp, còn con thì không những phát đạt thuận lợi, mà còn may mắn được gặp Phật pháp, biết niệm Phật, tụng kinh, in ấn kinh, tạo Phật tượng… công việc làm ăn ngày càng tốt.

Đây không thể nói là không có phúc báu.

Sư phụ có thể giảng cho con hiểu, con đã trồng nhân tốt gì trong quá khứ mà được kết quả như hôm nay chăng?

Sư phụ nói:

– Vấn đề này phải do chính mình tự tham thiền, công phu đạt, thì sẽ hiểu minh bạch thôi.

Chắc hẳn anh làm ăn, từ sáng đến tối toàn lo kiếm tiền, không có thời gian tĩnh tọa?

Để cháu Trình Vĩ và mọi người hiểu rõ nhân quả, tôi sẽ kể cho nghe một câu chuyện:

“Thời Phật Thích Ca Mâu Ni trụ thế, lần nọ, có hơn ngàn vị đệ tử Phật đang ngồi trong giảng đường, chăm chú nghe Ngài thuyết pháp.

Khi đó có một vị Tỳ kheo ngồi ở tận ngoài cùng, gần cổng lớn, Trong bụng đột nhiên vang lên tiếng sôi rồn lột, nhưng do các Tỳ kheo quanh đó đang chú tâm nghe pháp nên không ai để ý.

Vị Tỳ kheo này bỗng nghe phía sau mình có tiếng cười, liền quay đầu lại dòm, thì thấy ngoài cổng có một bé trai khoảng 9 tuổi đang cười hi hi, mồm đang nhai gì đó, tay còn cầm nửa cái bánh, nhỏ tiếng hỏi:

– Sư đói hả?

Tỳ kheo gật đầu.

Thế là thằng bé tặng nửa cái bánh cho vị Tỳ kheo rồi xoay mình bò đi chơi tiếp”.

Hòa thượng bảo ba Trình Vĩ:

Đứa bé đó là tiền thân của anh, do biếu vị tỳ kheo nửa cái bánh đang lúc đói lòng, giúp ông ta vững tâm nghe pháp, công đức này hết sức lớn.

Đây chính là nguyên nhân khiến đời này anh giàu có sung túc.

Trong “Kinh Địa Tạng” nói: “Đời vị lai nếu có thiện nam thiện nữ, ở trong Phật pháp, trồng chút thiện căn bằng hạt cát, mảy tơ, sợi tóc, thì phúc lợi được hưởng không thể ví dụ…

Trong đời vị lai, nếu có thiện nam thiện nữ gặp kinh điển đại thừa, hoặc nghe một câu, một bài kệ, phát tâm ân trọng, tán thán cung kính, bố thí cúng dường, thì người đó được phúc báu lớn vô lượng vô biên, nếu có thể hồi hướng cho pháp giới, thì phúc này không thể ví dụ’.

Đứa bé kia do hiếu kỳ mà đến cổng giảng đường nghe mấy câu Phật pháp, có thể bé chẳng hiểu rõ nghĩa lý, nhưng trong nhiều đời sau, từ đó đến nay, nhân duyên chín mùi, bé không những thảnh đệ tử Phật, mà còn rất giàu có, chính là anh đấy.

Phải biết vị Tỳ kheo được bé tặng nửa cái bánh lót dạ lúc đói lòng, nhờ vậy mà vững tâm nghe pháp Phật, được khai ngộ và chứng quả.

Nhân đây mà có duyên với anh, biết đâu chừng đời này cũng đến tụ hội hoặc cùng anh gặp gỡ, chung sức hoằng dương Phật pháp…

Chỉ cần anh không ngừng tu tinh tấn, chịu khó tham thiền tĩnh tọa, sẽ có ngày anh hiểu rõ hết.

Còn những người làm ăn mà sự nghiệp không thành công, đa phần do đời trước hoặc đời này họ không chịu bố thí, hoặc đã từng tạo nhiều chướng ngại khác.

Muốn chuyển biến vận mệnh thì phải biết cách bố thí, làm nhiều việc từ thiện ích quốc, lợi dân… và nhất là không nên sát, đạo, dâm, vọng.

Thực hành trì chí bền tâm thì có ngày sự nghiệp sẽ thành.

Những người giàu sang mà sau đó tiền tài bị tán thất, đa số là tại họ tiêu tiền tạo nghiệp mà ra.

Chẳng hạn như: tạo nghiệp tà dâm hừng thịnh, vì muốn ăn ngon sướng miệng mà tạo lắm sát nghiệp… hoặc là họ kiếm tiền bất chánh (thí như kiếm tiền bằng cách tạo các nghiệp sát, đạo, dâm, vọng).

Một khi nhân duyên chín mùi, ác báo sẽ hiện tiền.

Cho nên những ai làm ăn sinh sống theo nghiệp tà, thì nên sớm chuyển nghề, phải gìn giữ thân, khẩu, ý, sửa đổi hành vi xấu, sám hối tội lỗi, bỏ ác hành thiện…thì sẽ thay đổi được ác báo vị lai”.

(Tiếp theo là câu chuyện thứ hai cũng liên quan đến CON ĐƯỜNG LÀM GIÀU):

29.

NGHIÊM CƯ SĨ

Nghiêm Đại cư sĩ là nhân vật khá nổi tiếng đối với các tự viện trong nước.

Sở dĩ người ta gọi ông là “Đại cư sĩ”, là do ba điều: Thứ nhất: ông rất giàu, sở hữu nhiều hãng tiệm khắp các thành phố lớn trong nước.

Thứ hai: hùng tâm in kinh tạo tượng cúng dường bố thí cực kỳ mạnh.

Thứ ba: tính khí nóng nảy cũng bự tương đương…

Người như Nghiêm Đại cư sĩ đây, tôi đã sớm nghe danh, nhưng bây giờ mới có dịp quen biết, khi ông đến bái kiến Hòa thượng Diệu Pháp.

Ông khoảng chừng sáu mươi mấy tuổi, nhưng đầu tóc bạc trắng hết.

Thoạt nhìn, thấy ông chẳng có phong độ đại gia chi, ngược lại còn giống hệt một người làm công già thoái hưu.

Ông mặc cái áo lạnh màu lam, quần cũng màu lam nhưng nhăn nhúm, chân mang giày du lịch, mà giầy cũng nhếch nhác.

Bề ngoài lôi thôi này ít khơi gợi sự chú mục của người.

Nhưng vì tôi đã nghe nhắc nhiều về thành tích của ông, vốn nổi danh là kẻ “xem kim tiền như rác rưởi”, tính rất hào phóng rộng rãi.

Có người kể: ông có một tượng Phật bằng vàng, rất quý, chỉ cần khách đến thăm tán thán ngưỡng mộ, ngợi khen… là ông liền hai tay bưng tặng, dâng cho.

Hễ gặp kinh sách Phật giáo hay thì lập tức cho sắp xếp in ấn, số lượng ít nhất thì cũng phải đầy một Container hai mươi tấn.

ông mà đến chùa nào, chỉ cần phát hiện bàn ghế chén mâm… (nghĩa là thấy vật dụng chùa Không đủ dùng hay bị hư hao), thì lập tức bỏ ra số tiền kếch xù để ủng hộ.

Sau này ông tuyên bố: -“Bây giờ tôi không đưa tiền nữa mà sẽ trực tiếp mua vật chùa cần đem tới”.

Bởi vì từ khi ông phát hiện trong tự viện có cư sĩ nhận tiền ông xong, không những chẳng mua đồ mà còn biến mất tăm.

-Tôi cúng dường mà tạo dịp cho họ xuống địa ngục thì tôi cũng có tội, nên từ nay về sau tôi chỉ cung ứng đò chứ không đưa tiền! – ông trợn mắt, nói với vẻ rất tức giận –

Ông còn vì ngôi chùa nọ tạc một tôn tượng Quan Thế Âm cao 22m bằng gỗ thơm, cho thếp vàng toàn bộ là hai kí, tiêu hơn trăm vạn nhân dân tệ.

Hòa thượng Diệu Pháp mời ông ngồi, hiền hòa hỏi:

– Sớm đã nghe nói về ông, có chuyện gì mà muốn tim ta, hiện tại ông đã thoái hưu rồi có phải không?

Nghiêm cư sĩ kể hai chân minh đi đứng khó khăn, cảm giác rất nặng, ngoài ra còn bị nhức đầu máy mươi năm nay, đã khám đủ các bịnh viện nổi danh trong nước lẫn ngoài nước, tốn bộn tiền, nhưng không hiệu quả.

Ông cũng có bái thỉnh mấy vị Phật sống Tây tạng, xin quán đỉnh cho, nhưng cũng không dứt được chứng nhức đầu.

Hiện tại ông giao xí nghiệp cho các con quản, tự mình niệm Phật, tới lui các tự viện.

Thực tế là muốn cầu chư Phật Bồ-tát gia trì cho bịnh thuyên giảm nếu không, ông án ngủ đều bị phiền muộn, cho nên hay phát cáu bực.

Ông thành thật thưa với sư phụ:

– Con thừa hiểu tiền tài thế lực dù lớn cũng không thắng nổi nghiệp lực, không giúp giải hết ưu tư.

Cho nên mấy năm nay con tận lực làm chút việc cho Phật giáo, hi vọng tương lai lúc ra đi có thể yên lành vãng sinh không thống khổ.

Đọc cuốn “Báo ứng Hiện Đời’’ rồi con mới biết danh sư phụ, thông qua nhiều mối giao lưu, dò la dữ lắm mới rõ được chỗ Ngài cư trú, nên mạo muội tìm đến bái kiến…

Con cũng hiểu Ngài bế quan tu không tiếp khách, nhưng con vẫn cố chấp, ráng tìm đến trước cửa, xin Hòa thượng từ bi hiểu cho mà tha thứ, con một mực rất muốn biết, tại sao con vì Phật giáo tạo nhiều công đức lớn nhỏ có đủ, thậm chí đã ăn chay bao năm nay, chẳng những bịnh nhức đầu không lành mà chân cũng có vấn đề, mong Hòa thượng từ bi khai thị.

Hòa thượng bảo:

– Cư sĩ chẳng nên khách sáo, tồi sở dĩ không tiếp khách là vì khí lực chưa đủ.

Lúc sách “Báo ứng Hiện Đời” chưa ra, tôi có thể tùy duyên mà giảng nhân quả để cảnh tỉnh thế nhân.

Nhưng khi sách ra rồi, lại thành giống như “quảng cáo” về tôi, khiến nhiều độc giả không minh bạch đạo lý, chỉ biết hướng ngoại cầu, đi khắp nơi tìm Hòa thượng Diệu Pháp, biến tôi thành thần y, làm vậy là quá sai lầm.

Nếu như không biết hướng nội cầu, tự sửa ngôn hạnh cho minh chánh, thì dù có gặp Quan Thế Âm Bồ-tát, cũng không thể ly khổ đắc lạc.

Những chuyện khác của ông tôi không cần bàn, trình độ văn hóa ông không cao, nhưng ông biết tại sao sự nghiệp mình quá thành công không?

Nghiêm cư sĩ đáp:

– Dạ…

đây là nhờ chính sách tốt của quốc gia.

Sư phụ bảo:

– Nói thế chỉ là duyên phụ, một phần nào thôi, toàn quốc người mở xưởng làm ăn rất nhiều, nhưng thành công như ông đây có rất ít.

Nghiêm cư sĩ hỏi:

– Vậy… nhất định là nhờ nhân gieo đời trước của con?

Sư phụ nói:

– Vì sao ta nhắc việc này với ông?

Bởi nó liên quan đến chứng nhức đầu của ông.

À, vợ ông vì sao không đi theo hả?

– Vốn là vợ con cũng định đi, nhưng do trong nhà có nuôi một con chó Đức. nếu bà đi thì không ai chăm sóc nó.

Thưa sư phụ, vi sao ngài hỏi về bà ấy?

Sư phụ nói: – Bởi vi ông đi đâu vợ ông đều quấn quýt đeo theo mà?

Nghiêm cư sĩ cười đáp:

– Dạ đúng vậy!

Con đi đâu bà cũng đòi theo, xa một chút thì không yên tâm, có lúc con cũng cảm thấy hơi phiền…

Sư phụ nghiêm trang nói:

– Ta kể cho ông nghe một chuyện được không?

Nhưng nghe rồi không được nổi giận đấy!

Nghiêm cư sĩ cung kính thưa:

– Dạ không dám đâu ạ.

Con đã xem qua “Báo ứng Hiện Đời”, chính vì nghe Ngài giảng như vậy mà tìm tới.

Nói xong liền lễ ba lạy.

Sư phụ kể:

-“Cách đây trăm năm, có một cậu bé mồ côi khoảng mười mấy tuổi, đi xin ăn rồi trôi giạt đến ngôi chùa nằm lưng chừng núi.

Hòa thượng trụ trì hỏi thăm thằng bé, thấy nó bơ vơ không chỗ nương, nên tội nghiệp thu nhận, cho nó ngụ tại một gian phòng trống trong chùa, làm tạp vụ, lúc cần thì cũng sai nó xuống núi đi chợ.

Sau đó chẳng biết nó nhặt được ở đâu một con chó vàng, một tối nọ dẫn về ở chung.

Lúc nào nó xuống núi thì có con chó đi theo bầu bạn, giúp tăng thêm can đảm.

Mỗi khi nó về đến chùa thì con chó vàng luôn tiến đến trước, đập cửa sủa “gâu gâu” gọi người giùm.

Ban đêm cậu bé và con chó ngủ cạnh nhau.

Cả hai cùng nương nhau mà sống.

Mỗi mồng một hay ngày rằm, thường có nhiều thiện nam tín nữ dưới núi lên viếng chùa, nhìn thấy gái, trai già trẻ hân hoan bái Phật thắp hương, vui đùa hớn hở, cậu bé càng thêm thèm thuồng ước ao, tự cảm thán và hay nói với con chó:

– Tao tương lai chỉ cần cưới được cô vợ nghĩa tình cỡ như mày là tốt rồi, ngày ngày quấn quýt đeo theo tao, bầu bạn rất tuyệt!

Lại một hôm, khách ra về cả rồi, trong lòng cậu có chút thắc mắc liền lên đại điện thắp hương, đứng trước tượng Phật, cậu ngẩng đầu chiêm ngưỡng từ dung tôn nghiêm rất lâu, rồi tự lẩm bẩm một mình:

– “Đức Phật ơi! cũng chẳng biết Ngài có thật hay không?

Nếu như mà thật có, thì Ngài hãy cho con giàu một chút, có thể sở hữu các thứ chi đó”…

Đang nói đến đây thì cậu bỗng nghe tiếng Hòa thượng vang lên phía sau:

– Chẳng phải là ngươi đang mơ ước phát tài sao?

Cậu quay đầu lại, thưa:

– Bạch sư phụ, ai mà không muốn phát tài chứ hả, nếu mà con giàu thì có thể thành gia lập nghiệp rồi…

Hòa thượng bảo:

– Đúng!

Sung túc thì có thể thành gia lập nghiệp, nhưng bất kể giàu sang đến mấy, người ta ai cũng phải già, bịnh, và sớm muộn gì cũng chết trong tiếng khóc vĩnh biệt tiễn đưa của con cái, ngươi xem có đúng vậy không?

Cậu nghe sư phụ nói, ngẩn ngơ một lúc rồi thưa:

– Như thế thì dù con giàu cũng chẳng sướng được bao nhiêu năm, một khi bịnh, chết đến… thì vẫn khổ ư?

– Đúng vậy!

Bất kỳ ai cũng không trốn thoát quy trình “sinh, lão, bịnh, tử’.

Tới lúc chết thì vẫn phải ra đi trắng tay, thây vùi xuống mộ, rục rã… rồi cuối cùng biến thành bụi đất.

Còn thần thức thì tiếp tục luân hồi, đi đầu thai làm trâu, làm ngựa, thọ khổ sinh tử không cùng tận.

– Bạch sư phụ, thực có chuyện đầu thai chuyển thế ư?

Hòa thượng chỉ vào con chó ở bên cạnh cậu, giải thích:

– Thì đây, con Vàng này kiếp vừa qua là một Sa-di trong chùa, nơi đuôi mày phải chú ấy có một nốt ruồi.

Bởi do lúc dọn cơm chú đa lén ăn trước một cái bánh bao.

Khi Tri khố phát hiện thiếu một cái bánh bao, bèn hỏi chú thì chú một mực phủ nhận, còn thề rằng:

– “Nếu như tôi có lén ăn bánh bao thì tương lai sẽ biến thành con chó!”…

Sau đó chú sa di mắc bịnh chết, quả nhiên đã đầu thai thành con chó và đến chùa này.

Khi ngươi dẫn con chó về đây là ta nhận ra ngay.

Bây giờ ngươi hây xem kỹ đuôi mày phải của nó, thực có nốt ruồi màu nâu hay không?

Nghe Hòa thượng nói vậy cậu bé hơi hoài nghi, bèn khom xuống đưa tay vạch lông gần đuôi mày con chó ra xem.

Cậu kinh ngạc kêu lên:

– Ôi trời ơi!

Quả có nốt ruổi đây nè!

Sư phụ, con chó này theo con bao năm, con không hề biết, vậy mà sư phụ lại phát hiện nó có nốt ruồi!”… (nghe đến đây Nghiêm cư sĩ có vẻ rất kích động).

Hòa thượng Diệu Pháp kể tiếp:

“Vị Trụ trì bảo cậu bé:

– Người phạm sai lầm nhất định phải can đảm nhận lỗi và sửa chữa, không thể che giấu, ương bướng chối phăng, rồi còn dùng lời thề độc để chứng minh mình trong sạch.

Giả như đương sự không có lỗi thì không sao, còn cứ một mực nói điêu, thề ẩu – thì sớm muộn gì lời thề cũng hiện thành sự thực –

Sau khi con chó trả xong nghiệp báo rồi thì nó tái sinh làm người, lại tiếp tục tu hành.

-Thưa sư phụ, vậy phải làm sao mới không tiếp tục luân hồi đau khổ? – Cậu bé hỏi.

Trụ trì nói:

– Người ta chẳng biết lúc nào mình chết, cho nên phải mau gấp tu hành xuất gia để liễu sinh tử.

Tại gia cưới vợ sinh con cũng có thể tu, nhưng đương nhiên đời sống xuất gia ít chướng ngại hơn.

– Thế con muốn xuất gia tu liễu sinh tử, sư phụ có thu nhận không? – Cậu bé lại hỏi.

Vị trụ trì mỉm cười đáp:

-Ta đợi câu nói này của con từ lâu rồi!”…

Hòa thượng Diệu Pháp kể tiếp:

“Cậu bé đó sau khi làm Sa-di rồi, quyết tâm đời này tu thoát tam giới, dụng công hết sức gian khổ.

Nhưng mới được mấy năm thì mắc bịnh lìa đời, tâm nguyện thực hiện chưa tròn.

Nhiều năm trôi qua cho đến hiện tại, cậu sinh vào thế giới này, lý đáng phải tiếp tục xuất gia cho tròn tâm nguyện quá khứ.

Nhưng trong tiền kiếp, hồi chưa xuất gia cậu từng nhen nhúm nhiều ước mơ khác nữa.

Và những hạt giống tư tưởng đó đời nay đã trổ thành quả.

Phần con chó vàng nhờ đời trước có công coi nhà hộ chùa, nên nó cũng chuyển lên cõi người, tái sinh làm một cô gái mỹ lệ, hơn nữa vỉ “ứng với lời nguyện” của cậu mồ côi kia, nên đời này nó kết duyên làm vợ cậu”…

Kể đến đây hòa thượng Diệu Pháp mỉm cười hỏi Nghiêm cư sĩ:

– Ông biết ta nói ai rồi chứ?

Nghiêm cư sĩ hưng phấn gật đầu, hồi đáp:

– Thưa biết, sư phụ vừa nói là con đã rõ ngay, vợ con có một nốt ruồi ở đuôi mày ạ!

Hòa thượng bảo:

– Ông sở dĩ đời này có được phước báu, lả do nhân thiện đời trước dốc hết sức lực cống hiến cho chùa.

Còn chuyện nhức đầu, chỉ cần ông xuất gia thì khỏi ngay.

Đôi chân ông đau là do trong thời gian làm việc, đã tặng quà, nhận quà hối lộ mà tạo thành nghiệp chướng, cộng thêm nhiều tội nặng chèo kéo theo, làm sao mà có thể bước đi dễ dàng được?

Nói xong, Hòa thượng tỏ dấu chào khách:

– Nếu ông thực tâm sám hối các tội nghiệp thì bịnh sẽ dứt.

Ta hơi mệt rồi, hãy để Quả Khanh lo cho ông dùng cơm.

Những gì cần nói ta đều báo cho ông biết hết cả, đã đáp ứng cho ông mãn nguyện rồi.

Phần ông muốn làm gì, là việc của ông!

Nghiêm cư sĩ vội đảnh lễ bái tạ và thưa:

– Rất đội ơn Hòa thượng đã khai thị, chuyện xuất gia con sẽ suy nghĩ.

Rốt cuộc Nghiêm cư sĩ có xuất gia hay chăng, điều này tuyệt chẳng quan trọng.

Hiện nay chẳng phải người ta ai cũng ham phát tài giàu có sao?

Tôi ghi câu chuyện này ra là muốn chia sẻ, mách mọi người con đường làm giàu: Đó là in kinh hoằng pháp, cúng dường Phật, Pháp,Tăng.

Bất kể bạn gặp duyên tốt đến đâu, nếu bản thân không gieo nhân thì chẳng thể gặt quả.

Giống như bạn không trồng trọt, thì dù có ban cho bạn vùng đất mầu mỡ đến mấy, bạn cũng không thể thu hoạch được gì!

30.

KHI TÔI BIẾT ĐẾN PHÁP PHẬT

Tôi tên Trương Lập Hoa, năm nay 65 tuổi, là công nhân đã nghỉ hưu.

Tôi sinh trong xã hội cũ, lớn lên trong chế độ mới.

Từ lúc bắt đầu đi học đến nay, tôi toàn hấp thụ nền giáo dục vô thần, nên suốt nửa thế kỷ nhồi huân… có thể khẳng định đầu óc tôi… rặt toàn thuyết vồ thần mà thôi.

Thời thanh niên, ngoài giờ học tập công tác tôi đọc khá nhiều tiểu thuyết nội dung phù phiếm, có một số sách nhắc đến nhân quả, nhưng các điều trong sách nói toàn là những chuyện xa xưa, cũ rích… từ mấy trăm năm, thậm chí cả ngàn năm trước, tuy có đạo lý nhưng không chỗ khảo chứng, nên chẳng khơi gợi được sự chú trọng của tôi về nhân quả.

Năm nay, tôi và người bạn già may mắn bước vào cõi “thuần khiết chân thật”, số là nhóm lão niên chúng tôi thường vào hoa viên dạo mát nghỉ ngơi.

Có một bà họ Trương, (chúng tôi gọi là Trương cư sĩ) thường kể cho mọi người nghe các câu chuyện liên quan tới nhân quả, tôi cũng có nghe bạn đời của tôi nhắc đến vụ này, nhưng trước đó chẳng thèm lưu tâm.

Tháng ba năm nay, tôi vào hoa viên chơi, tình cờ gặp Trương cư sĩ kể chuyện cho mọi người nghe, ngẫu nhiên tôi biến thành thính chúng (vì cũng có mặt ở đó).

Nghe một hồi, mới biết những chuyện thiện ác nhân quả báo ứng (rất thú vị) này đều là chuyện thực người thực ngay trong hiện đời.

Sau khi Trương cư sĩ nghe tôi kể lể bịnh khổ của mình rồi, bà liền tặng cho tôi cuốn “Báo ứng Hiện Đời’’.

Cuốn sách này đã phá tan cơn mê dài suốt mấy mươi năm của tôi, giúp tôi tỉnh ngộ.

Những gì Hòa thượng Diệu Pháp giảng giải, khai thị trong sách, thực là bất khả tư nghị Các chứng bịnh của các nhân vật trong sách được Hòa thượng phá giải, nêu lên rất thực: không gì mà không do sát sinh, không gi mà không do báo ứng nhân quả, vì ham ăn ngon sướng miệng mà tạo thành nghiệp ác.

Trong sách kể rằng: “Hầm thịt nấu vật thỏa cơn thèm, nào biết chúng chết không cam tâm, nhà bếp biến thành nơi thảm sát, mổ bụng, phanh thây lên núi đao” và chuyện nấu, xào, nướng, quay hầm, rim… chính là đang hành tội loài vật bất hạnh, sớm muộn gì cũng bị báo ứng.

Tôi bị bịnh tiểu đường đã 17 năm, dẫn đến tay chân bị đơ cứng, võng mạc thị lực biến chứng, đi khám các bịnh viện lớn, bác sĩ chẩn đoán: “Mắt phải hết thấy, thị lực mắt trái chỉ còn một phần mười.

Tầm nhìn cực kỳ suy”.

Tôi rất sợ, bàng hoàng, khổ tâm khôn xiết.

Bởi vì một khi mắt trái không thấy nữa thì chẳng phải tôi thành kẻ mù hay sao?

Hồi xưa tôi luôn cho rằng ăn thịt sẽ giúp thân khỏe mạnh, thực là quá lầm, quá sai!

Nhờ cuốn “Báo ứng Hiện Đời” mà tôi được khai thị, tôi quyết tâm: ngay đây thực hành thể nghiệm, đổi mới cuộc sống.

Tôi phát thệ từ nay vĩnh viễn không sát sinh, không ăn mặn, không ăn bất cứ thịt loài vật nào và trong lòng thường hướng về những chúng sinh đã bị mình ăn, thành tâm sám hối, niệm Phật hồi hướng phúc cho chúng…

Từ tháng ba đến tháng sáu năm nay, tính ra hơn ba tháng, kỳ tích đã xuất hiện.

Tôi không tốn một xu nào đi bịnh viện nhãn khoa nhưng hiện tại (trừ mắt phải bị đục thủy tinh thể ra), thị lực mắt trái đã khôi phục bình thường như xưa (đoản văn này chính tôi đang tự viết), nếu như tháng 11 năm ngoái đến tháng 2 năm nay, chiếu theo bịnh tình phát triển suy như thế đó, thì mắt trái tôi chắc chắn phải mù.

Nhưng do tôi biết khởi tâm sám hối ăn chay, tu tập… kỳ tích đã xuất hiện, ôi!

Là Phật và Hòa thượng Diệu Pháp đã ban cho tôi ánh sáng, tôi thực tri ân, cảm phục vô cùng.

Tháng 6 năm nay, qua giới thiệu, tôi may mắn được gặp tác giả Quả Khanh, và còn tận mắt gặp một số nhân vật được kể trong sách, những vai chính trong các câu chuyện như: “Thai nhi ưa nghe Kinh Địa Tạng”, “Trì giới niệm Phật được lợi ích”, “Tỉnh cảm thiên địa”…

Các vị này ngồi sát cạnh tôi, cùng nghe cư sĩ Quả Khanh giảng pháp, sao không khiến tôi tâm phục, khẩu phục kia chứ?

Bây giờ tôi đã thọ trì ngũ giới và ăn chay, Tôi và bạn đời đều đã qui y Phật môn, những năm tháng sống còn này của chúng tôi là: học

Phật, niệm Phật, trở thành một đệ tử Phật thiện lành đúng nghĩa, làm những cư sĩ tại gia tu tập chân chính, đây mới thực là phúc báo của chúng tôi!

Quả Khanh phụ chú:

(Vào tháng 12, lúc gặp lại tôi cư sĩ Trương Lập Hoa đã thay đổi tốt, hoàn toàn khác hẳn, chứng bịnh tiểu đường đã lành và không còn dùng bất kỳ thuốc nào).

31.

TRONG MẠT PHÁP CÓ CHÁNH PHÁP

Hỏi: -Trong thời kỳ mạt pháp, người giảng tà pháp quá nhiều, kẻ không tuân thủ giới luật càng nhiều hơn.

Có phải là Phật pháp kể từ đây sẽ ngày càng suy vi, phát không nỗi chăng?

Đáp: – Không phải vậy.

Theo như tôi biết thì bất kể giới xuất gia hay tại gia, đều có nhiều người âm thầm tu hành.

Tôi không tiện bàn về người xuất gia, chỉ có thể đem những câu chuyện cư sĩ tại gia tu hành thực tế kể cho bạn nghe.

Trong “Báo ứng Hiện Đời tập 1 tôi đã lược thuật chuyện “Tiên sinh dạy học” giờ xin nói rõ hơn:

Đôi phu thê này người chồng năm nay 29 tuổi, vợ anh 32 tuổi.

Con họ bị thay thuốc chẩn đoán là bại não.

Hiện nay bé được 4 tuổi, trông rất thông minh xinh đẹp.

Trí tuệ, và số đo IQ vượt xa những trẻ lớn tuổi hơn nó rất nhiều.

Thí như bạn chơi trò biến hóa ảo thuật với bé, giấu vật gì đó, bé không những biết bạn đang lừa nó, mà lập tức có thể tìm ra vật bạn đang giấu.

Khi đi đường bé rất nhút nhát vì không thể giữ thăng bằng, phải nhờ người lớn dắt mới có thể đi được.

Hiện bé vẫn còn đang cố gắng luyện tập, nhưng tiến triển như vậy so với lời bác sĩ tuyên bố: “Em bé này sẽ không thể ngồi được” thì quả là đã tiến bộ rất xa.

Bé có thể nói các từ đơn giản với ba, mẹ, ông. bà…

Hễ đói thì em kêu ba mẹ, hoặc vỗ bụng, chỉ vào miệng mình.

Khi muốn đại tiểu tiện thì bé kêu ba mẹ hoặc diễn tả bằng động tác.

Hay cái là ban đêm bé ngủ cũng chẳng hề đại tiểu tiện ra giường.

Hễ cần bài tiết là biết đánh thức ba mẹ, bày tỏ.

Nếu như người bé ưa thích đến thăm, họ vừa lên tiếng ngoài cổng, là trong nhà bé đã mừng rỡ khoa tay múa chân.

Mấy ngày trước tôi gọi điện cho mẹ bé, em đòi cầm điện thoại và mừng rỡ bập bẹ: -“ông ơi!”

Chẳng cần ba mẹ bé kể, tôi nhìn mức độ tiến bộ của bé mà trong lòng cảm thấy rất vui và an ủi.

Hòa thượng Diệu Pháp ban cho bé tên Huệ Hân, hôm nay quả nhiên đã ứng nghiệm.

Sư phụ nói:

– Huệ Hân thay đổi tiến bộ nhanh hơn ta tưởng, tương lai không những cháu có thể tự xử lý, mà sẽ hoàn toàn bình thường và còn có thể khai mở trí tuệ trước năm 20 tuổi.

Tôi nghe xong rất ngạc nhiên, hỏi sư phụ:

– Huệ Hân là từ cõi súc vật (thuộc loài heo) chuyển sinh lên, sao có thể khai mở trí huệ?

Sư phụ đáp:

– Ông giáo dạy học nhân vì nói bậy: “Những gì Phật giáo rao giảng toàn là hư dối!’’, còn đem uy tín danh dự mình ra bảo đảm, làm lỡ mất cơ duyên học Phật của bao người, nên sau khi chết bị đọa làm heo, nhưng kiếp trước nữa, ông giáo này đã từng là một Hòa thượng rất có tiếng tăm danh vọng (vào thuở đó), về sau do dâm tâm chưa sạch nên chết rồi quay lại nhân gian, sinh làm ông giáo sư nọ.

Hai đồ đệ của ông cũng giống vậy, do tình ái chưa đoạn nên cùng đến nhân gian, làm học trò của ông.

Tiên sinh dạy học này do một bề ôm tà kiến, tuyên bố sai, diệt mất cơ duyên học Phật của bao người, do tội đó mà chết rồi phải mang thân heo.

Còn hai môn sinh của ông sau khi bịnh, già, chết đi, họ lại tiếp tục sinh vào nhân gian kết làm vợ chồng.

Bởi vì họ có sở thích rất ưa ăn thịt đầu heo, nên duyên nghiệp chiêu cảm thành cha mẹ Huệ Hân.

Cũng có thể nói: “Huệ Hân đời trước là con heo, tiền thân heo là ông giáo sư, tiền thân ông giáo là một tu sĩ có đạo hạnh nhưng tâm dâm chẳng trừ”.

Còn cặp vợ chồng trẻ ưa ăn thịt heo, chiêu cảm sinh đứa con bị chứng bại não – bại não là ngu si, mà nhân của ngu si, chính là do làm thầy có uy tín địa vị cao mà nói lời cầu thả làm chướng ngại việc tu tiến của người, khiến người bỏ ý định học Phật – Lại suy tiếp nữa thì ngu si chính là do tâm dâm chưa trừ, dâm tâm chính là nam nữ ưa gần gũi chung chạ…

Đây cũng có thể nói là thánh xưa khi tạo chữ, đã đem chữ hôn thuộc cụm từ kết hôn trong đây có bộ nữ đứng cạnh chữ hôn, hàm ý là: có nữ nhân ở bên cạnh thì trí óc mờ mịt u ám phát (hôn to mê muội.

Đó chính là nguyên nhân ngu si. (Đây là giảng riêng đối với người tu hành).

Thế nên trong “Tứ trọng thanh tịnh minh hối” nơi “Kinh Lăng Nghiêm” Phật đã dạy: “ông tu tam muội, muốn thoát trần lao, tâm dâm chẳng trừ, trần không thể thoát”.

Hòa thượng lại nói:

– Cha mẹ Huệ Hân từ khi hiểu rõ Phật pháp rồi, nhất tâm qui y Phật, Pháp,Tăng, không những dứt trừ ăn mặn, mà vợ chồng còn đoạn dục khử ái; không những bản thân tự tụng kinh niệm Phật, còn hướng dẫn Huệ Hân niệm Phật, bái Phật.

Ngôi nhà bọn họ trước mắt ta đã hiện thành một ngôi tự viện tỏa ánh kim quang, dù đang là cư sĩ tại gia nhưng cả ba người họ đều đã thầm hiện tướng xuất gia.

Trí tuệ Huệ Hân (thuở là Tăng sĩ trong kiếp trước) sẽ có ngày hồi phục được xem trọng.

Mùa hạ năm nay, tôi kết bạn cùng sư đệ Quả Bồi (dẫn theo một số bằng hữu là đệ tứ Hòa thượng Diệu Pháp), tiện đường ghé thâm nhà ba mẹ Huệ Hân.

Lời sư phụ nói cuối cùng cũng đươc kiểm chứng.

Lưu cư sĩ (cha của Huệ Hân) ngồi trước mặt tôi, thân cao vừa tầm, dáng nho nhã thư sinh.

Lý cư sĩ vợ anh, tuy là công nhân hãng may, song nhìn giống như giáo sư trung học, cô dung mạo mỹ lệ nhưng không mất vẻ trang nghiêm, nhìn chẳng có vẻ gì là lớn hơn chồng ba tuổi cả.

Trò chuyện một hồi, tôi nhìn thấy nơi hai cổ tay anh Lưu có vết bỏng dài còn đỏ, có lẽ là mới bị bỏng gần đây nên trông màu sẹo hãy còn non, tôi hỏi nguyên nhân, anh Lưu thật thà khai báo:

– Dạ, vợ chồng chúng con nhân vì Huệ Hân bịnh mà được biết đến Phật pháp, hiểu đạo rồi thì đồng phát thệ từ nay quyết tâm tu hành thoát ly tam giới.

Bởi do gieo nhân ái luyến mới thành vợ chồng, vì niệm ái mà kết hôn sinh con, rước vào đủ thứ phiền não khổ đau.

Chúng con vâng theo lời Phật dạy, lại nhờ xem qua sách “Báo ứng Hiện Đời”, hiểu rõ về các chuyện kiếp trước đời này, nên quyết tâm đoạn dục khử ái, đã cùng nhau thắp hương thệ nguyện.

Hơn nửa năm nay, chúng con vẫn ngủ chung giường mà không sao, thảy đều binh an vô sự.

Nhưng cách đây nửa tháng, một hôm không biết ma lực nào xui ám, khiến dục tâm con nổi lên mãnh liệt, khó bề khống chế.

Ngay lúc đó con vội nhảy ra khỏi giường, quỳ trước Bồ-tát Quan Thế Âm cầu Ngài gia trì giúp con thêm sức mạnh để bình tâm, định tĩnh.

Khi ấy con đã dùng hai cỗ tay kẹp chặt vào ngọn lửa cây hương to đang cháy, quyết tâm dùng lửa cây nhang xua đuổi tà tâm và cầu Phật lực gia trì.

Kể đến đây anh Lưu trang trọng nói:

– Vợ chồng chúng con đã nhất quyết đoạn trừ tâm dâm.

Xin tôn ông chuyển lời thưa với sư phụ giùm, chúng con nhất định sẽ làm đệ tử xứng đáng của sư phụ.

Tôi bị vợ chồng anh Lưu làm cảm động đến rơi lệ.

Bọn họ tuy tuổi còn trẻ, nhưng có khí phách, dũng cảm, khiến cho nhiều lão cư sĩ phải cảm phục tự hổ thẹn thầm.

Mọi người đều quý mến họ.

Tôi hỏi:

– Lần này tôi viết tiếp cuốn “Báo ứng Hiện Đời tập 3” có thể ghi chuyện anh chị vào được không?

Chị vợ nói:

– Việc phát thệ tu hành nguyện trừ bỏ ái dục giống như chúng con cũng có 3-4 cặp phu thê thực hiện rồi a.

Do cư si Quả Bồi thường hướng dẫn chúng con tổ chức pháp hội Lăng Nghiêm nên đa số chung con ai cung đều thuộc Chú Lăng Nghiêm.

Bốn lời dạy quan trọng trong Kinh Lăng Nghiêm các Phật tử (nhỏ từ 20 tuổi cho đến lớn 60 tuổi) ai mà không thuộc Chú Lăng Nghiêm đều cảm thấy rất hổ thẹn ạ.

Nhóm bạn đạo chúng con hễ vừa phát tâm học Phật là lập tức từ bỏ ăn mặn.

Trong số này có cư sĩ Hồng Bân, lúc đi tắm hơi thì quen biết cư sĩ Ngạn Tân và được dắt đến gặp cư sĩ Quả Bồi.

Sau khi xem “Báo ứng Hiện Đời” rồi, ông Bân liền hướng dẫn vợ và các con tu tập, từ đó đoạn tuyệt ăn mặn.

Gần đây nghe nói cả hai vợ chồng họ cùng phát thệ khử ái đoạn dục, dù tu tại gia nhưng lòng đã nhất quyết phải liễu sinh thoát tử…

Chúng con cảm thấy những lời Phật dạy đều là chân lý, nên nguyện tuân theo, y đó thực hành, chỉ mong được làm đệ tử xứng đáng của Như Lai, chứ chẳng phải mình là kẻ tài ba giỏi giang gì đâu ạ.

Con vốn muốn xin giáo sư đem chuyện Huệ Hân viết ra.

Kể rõ khi nó chào đời, thì giữa bụng, hai bên lưng đều có một đường ngấn dài.

Các bịnh viện đều nói nó bị chứng “mất sắc tố” và nói đây là chứng bịnh di truyền của gia tộc.

Nhưng hai họ nhà chúng con không ai bị như thế.

Cổ chân, cổ tay Huệ Hân cũng có ngấn tương tự.

Hôm nọ trong khi tĩnh tọa, con đột nhiên thấy mình đi vào lò giết heo, thấy một con heo bị trói bốn chân.

Sau khi nó bị giết rồi, người ta ném nó vào nồi nước nóng và khiêng đi cạo lông.

Tiếp đến dùng côn sắt chêm vào giò cẳng bụng nó, rồi nện đập bốn chỗ này.

Sau đó người ta thổi hơi vào mồm nó, khiến bụng heo phình lên như quả cầu, tiếp đến họ dùng dây cột tay, chân, miệng heo lại; ngăn không cho khí tuôn ra, rồi dùng côn sắt đánh trên mình heo (

Sau này con hỏi thân phụ mới biết người ta làm vậy để cho nước trong nội tạng và da thịt phân ly, mặc dù heo đã chảy hết máu rồi, nhưng lúc bị đánh thân vẫn hằn các đường nhợt nhạt (như bị tắc nghẽn máu) hiện trên da thịt.

Cuối cùng thì nó bị phanh thây mổ bụng.

Lúc này con chợt hiểu ra, các đường hằn trên mình Huệ Hân, bác sĩ nói là bịnh “mất sắc tố” nhưng thực chất là do heo bị giết, đánh nên lưu vết tích.

Xem như đây là kiểm chứng lời Hòa thượng Diệu Pháp nói… rất chính xác ạ!

Kiếp trước đời sau, luân hồi lục đạo là thật có, nhân quả báo ứng hoàn toàn chân thực.

Chúng con hi vọng đem chuyện nhà mình cảnh tỉnh những vị đệ tử Phật không nghiêm trì giới luật, bởi vì chỉ có giữ giới, sám hối mới tiêu trừ nghiệp chướng, thực tâm hành pháp mới ly khổ đắc lạc.

Những lời ba mẹ Huệ Hân nói khiến người cảm động. (Mẹ cháu vốn muốn cho Huệ Hân chụp ảnh để tôi đăng lên sách để ngươi tin đây là chuyện thiệt, nhưng tôi từ chối).

Mặc dù hiện giờ cháu còn bé, nhưng sau nay sẽ lớn lên.

Tuy trình độ viết văn của tôi không giỏi, nhưng tôi cho rằng dù không đáng khinh, độc giả vẫn có thể tin đây là chuyên thật và hiểu rõ lý nhân quả.

Tôi tuyệt chẳng dám viết chuyện bịa đặt gạt lừa người, bởi làm thế chính là phản bội nhân quả.

Chỉ nhìn sơ qua địa phương nhỏ bé này thôi, đã thấy có rất nhiều cư sĩ tu chân thành, như thế đủ chứng minh thời này “tuy mạt pháp mà không mạt”, vì còn rất nhiều đệ tử Phật tinh tấn tu hành trong biển người mênh mông.

Trong Phật môn từng nói: “Có người ẩn tu ở thâm sơn, có người tu thầm nơi phố thị, đệ tử Phật không tranh, không tham cầu, không tư lợi ích kỷ, không vọng ngữ…

Tất cả những ai tu hành chân chính, dù là cư sĩ tại gia thì vẫn có thể thành đạo nghiệp.

Còn như trong đạo tràng xảy ra những hiện tượng trái đạo, thậm chí xuất hiện tà sư thuyết pháp, thì đây há chẳng phải là thử thách, là khảo nghiệm đối với chúng ta ư?

Không có tà thì sao hiền chánh được, không có ma thì sao có Phật được?

Chư vị đại đức cao tăng từng dạy chúng ta: “Ma là giúp chúng ta tu thêm kiên cố, ta phải biến ma thành bậc thầy nghịch hạnh hỗ trợ”, chẳng phải là tạo thêm lực đẩy giúp ta tu giỏi hay sao?

Đối với những ai không tuân thủ quy củ của Phật, ta chỉ cần đừng lý tới họ lả xong.

Gặp kẻ giảng tà pháp, cũng là dịp khảo nghiệm xem chúng ta có con mắt biết phân biệt chánh pháp hay không?

Xem như đây cũng là thử thách.

Nếu giận họ, thì ta cũng giống như họ thôi.

Hòa thượng Diệu Pháp từng khai thị:

Mạt thế thuyết pháp

Có sai có đúng

Nên xả thì xả

Nên dùng thì dùng

Tùy duyên hóa độ…

Cuối cùng xin kết thúc bằng hai câu:

Như như bặt động, nào sợ tham sân tật đố Nhất tâm bất loạn nào quản hổ đấu long tranh

32.

NI DIỆU DUNG

Năm 2002 đi Trung Nguyên, tôi đã may mắn gặp một ni cô dùng máu chép mấy bộ kinh.

Đây là hành động hi hữu, trong sử Phật giáo Trung Quốc không có nhiều.

Ni Diệu Dung năm nay 28 tuổi (xuất gia đã ba năm), trước khi xuất gia cô đã dùng máu chép kinh.

Hiện đang chép bộ kinh “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm’’ cả thảy có 36 vạn từ, đã hoàn thành 6 vạn từ.

Kế đến sẽ chép kinh Pháp Hoa.

Một Phật tử là Bác sĩ viện trưởng Y Khoa, thấy vậy nói:

– Phải dùng máu toàn thân mới chép xong mấy bộ kinh này, như thế thì máu cô cũng đổi mới hết…

Cô sinh trong gia đình đầm ấm, dung mạo mỹ miều, mẹ tính hiền thiện.

Cô tốt nghiệp Đại Học Y nổi tiếng, là bác sĩ Quân Y cấp bậc Trung úy.

Sau khi tốt nghiệp hành nghề được hưởng chế độ rất ưu đãi, lương bổng cực cao nhưng những điều này chẳng ngăn được chí xuất gia của cô.

Dưới sự hướng dẫn kiên nghị của người mẹ phi phàm, cô đến núi Thanh Nguyên tỉnh Giang Tây, được Hòa thượng Thể Quang đạo cao đức trọng xuống tóc cho.

Chùa Vân Môn là đạo tràng cô thường ở tu hành.

Cô bắt đầu công tác gánh phân, bước vào con đường khổ hạnh.

Vị nữ nhân tài Phật giáo có nhiều hạnh nguyện hi hữu này xuất hiện vào thế kỷ 21 trong thời đại hôm nay, nhiều người nghe danh, rất khâm phục tán thán.

Tôi và mấy vị tín đồ Giang Tây cùng các đệ tử quy y Hòa thượng Thể Quang, có di.p ngụ nơi đây hơn mười ngày, đích thân chứng kiến cảnh ni Diệu Dung tu hành, khiến những người từng học Phật mười mấy năm, tuổi gần 60 như chúng tôi phải thầm xấu hổ vì thấy mình còn kém xa.

Có lần dùng cơm xong, mọi người đứng dậy chuẩn bị bỏ đi, ni Diệu Dung phát hiện chén của cư sĩ nọ ăn bỏ mứa thừa rất nhiều, ni lập tức bưng chén lên nói.

– Đạo hữu ăn không hết để tôi ăn giùm, ông chẳng nên bỏ đồ dư lãng phí như thế.

Nói xong liền ăn hết.

Cư sĩ Diệu Lợi cảm động bảo:

– Sư Diệu Dung thật hết biết!

Vì quý tiếc từng hạt thức ăn, chịu khó ăn đồ thừa của người, chúng tôi phải học tập gương cô đó!

Sư Diệu Kiến ngồi chung bàn nói:

– Chuyện này mà nhằm gì, đồ người khác nhổ bỏ vì chê ăn không ngon, cổ thấy được là lượm ân sạch hết.

Tôi bảo: – Cô giống hạnh ngài Tuyên Hóa ở Mỹ rồi! (Phải biết cô là bác sĩ rất chú trọng vệ sinh nhưng làm thế để cảnh tỉnh người, vi không muốn phí phạm)

Sư Diệu Dung mỉm cười nói:

– Thức ăn chúng ta dùng đây quả thực ngon tốt hơn nhiều so với thức ăn của các tu sĩ ở Tây Tạng.

Có qua Tây Tạng hành đạo rồi, thì thức ăn nào cũng nuốt được hết, có nếm khổ gì thì cũng không thấy khổ nữa.

Cô kể lúc mình mới xuất gia làm Sa-di, nhận công tác phải gánh phân, do thường ra vào nhà xí và đồng ruộng, dù có mang hài cũng khó tránh giẫm đạp trên phân, nên lúc lên điện, để tỏ lòng cung kính, cô cởi hài bỏ bên ngoài chỉ mang vớ vào điện, nhưng vì hằng ngày thời gian lên điện tương đối dài, lâu dần, chân bị nhiễm lạnh, hai chân và đầu gối bị thủng nặng, đau đến đi đứng khó khăn.

Sư nói:

– Đây là nghiệp chướng bản thân hiện tiền, nhưng mỗi ngày tôi vẫn phải cắn răng chịu đựng để công tác.

Sau đó, bịnh ngày càng nghiêm trọng, trong núi thiếu thuốc men thích hợp nên cô phải về nhà mẹ.

Bác sĩ chẩn khám nói cô bị phong thấp nan y, dần dần bịnh từ phong thấp sẽ chuyển đến tim, gây nên chứng bại liệt.

Cô nghe xong không sợ hay hoảng kinh chi, chỉ là trong lòng bất an, vì thấy mình tuổi còn trẻ, chưa làm được chuyện gì giúp cho chúng sinh, mà vướng phải bại liệt thì càng lụy người phải lo, như thế thiệt là…

“sống khống bằng chết!”

Sau đó, cô khấn nguyện trước Bồ-tát.

– Đệ tử chẳng cầu huyễn thân trường tồn, tật bịnh hồi phục, chỉ xin kéo dài hơi thở của mạng sống tội lỗi này, dùng máu huyết chép kinh, hồi hướng cho tất cả chúng sinh trong pháp giới đồng thành Phật đạo.

Chép kinh xong, đệ tử có chết cũng không tiếc.

Cô nói:

-Tôi dùng kim châm vào mười ngón tay lấy máu, không đủ dùng nên phải lấy ống chích rút máu từ cánh tay, mẹ tôi chẳng nỡ nhìn, cũng không chịu giúp tôi lấy máu, lãng tránh ra ngoài làm việc.

Nhưng lúc tôi chép kinh, mẹ tôi vô cùng kinh ngạc khi phát hiện toàn thân tôi đang phóng kim quang (mà bản thân tồi không hề hay biết và hoàn toàn không nhìn thấy).

Đây có thể là nhờ Phật lực gia hộ, khiến mẹ tôi có chút cảm ngộ.

Lúc tồi chép xong bốn quyển kinh máu, thì hai chân hết phù thủng, khôi phục bình thường.

Thật là Phật Bồ-tát xót thương gia hộ, khiến tôi có được mạng sống mới, tôi cảm kích đến rơi lệ, không sao báo đáp cho cùng.

Tôi chỉ biết âm thầm phát thệ: “Nguyện đem thân này cúng dường Phật Bồ-tát, hằng giữ ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh cúng dường Phật Bồ-tát.

Nguyện từ đây đến tận vị lai, đời đời kiếp kiếp vì chúng sinh mà sống, vì chúng sinh mà chết”.

Hôm sau, đi y viện kiểm tra, bác sĩ rất kinh ngạc, ông tuyên bố tôi hoàn toàn hồi phục.

Ni Diệu Dung nói: – Khi mẹ thấy tôi hết bịnh bà rất mừng, đồng thời thái độ quan tâm lo lắng cũng thay đổi.

Bà nghiêm nghị bảo:

– Sư Diệu Dung, bịnh cô đã lành, hãy mau thu xếp về chùa.

Cô là người xuất gia, ở mãi nơi nhà tôi không tiện.

Đương nhiên khi nghe những lời lạnh nhạt chẳng có chút tình người như vậy tôi thật khó tiếp thu, phải gắng kìm chế để nước mắt không trào ra, tôi giận dỗi nói:

– Con đi liền đây!

Thế là tôi tom góp hành lý đơn giản, bước ra kêu xe.

Khi xe sắp chạy, tôi ló đầu ra cửa xe thưa với mẹ:

– Quách cư sĩ, tôi để chìa khóa nhà ở trên bàn đấy!

Xe chạy rồi, từ sinh ra đến giờ tôi mới nhìn thấy hai hàng lệ nóng từ khóe mắt mẹ tuôn trào…

Tới ga, lên hỏa xa ngồi.

Trong lúc xe lao vun vút, tâm tôi dần bình tĩnh lại, Hai mắt tôi càng lúc càng mờ vì lệ nhạt nhòa…

“Ôi mẹ ơi!

Con gái đã hiểu lòng mẹ rồi!

Mẹ sợ con luyến thế quên về, sẽ tu hành bê trễ.

Chính mẹ hướng dẫn con đi trên con đường học Phật, là mẹ bảo vệ hạnh xuất gia cho con.

Mẹ chứng kiến con xuống tóc làm ni mà chưa từng rơi giọt lệ nào, chỉ vì muốn con kiên định tâm đạo.

Mẹ yên tâm nha mẹ.

Như mũi tên một khi đã bắn ra không bao giờ quay về, con đã bước vào đường tu thì sẽ không quay trở lại, con sẽ tẩy tâm đồi mặt, mãi mãi hoằng pháp lợi sinh cho đến ngày tạ thế”…

Hiện nay do nhiều chúng cư sĩ thỉnh cầu, ni Diệu Dung đã chọn một địa điểm thích hợp, chuẩn bị xây một ngôi kiến trúc tại Trung Nguyên, dự định sẽ thu nhận chư cư sĩ cao tuổi nghỉ hưu, cho họ trú ngụ, hướng dẫn họ niệm Phật nghe kinh, pháp, tu hành.

Đây là đạo tràng dành cho tập thể cư trụ, lo hết tất cả từ ăn, ở, thuốc men, cho đến vãng sinh.

Các bác sĩ, hộ lý cùng những phục vụ viên… hoàn toàn là tình nguyện phụng hiến.

Chư cư sĩ đến ở chỉ cần đóng phí thức ăn (do gia đình quyến thuộc cung cấp) phần còn lại đạo tràng bao thầu hoàn toàn phi lợi nhuận) do nhân viên bác sĩ hộ lý không cần đền đáp nên phí y liệu cũng rất thấp.

Đương nhiên đây chỉ là ý tưởng sơ bộ của ni Diệu Dung, vẫn cần tập thể đồng tu trợ lực góp tâm góp sức hoàn thành tốt việc này.

Ni Diệu Dung đã mời hòa thượng Diệu Pháp và tôi đến thường trụ ở đây, hỗ trợ cộng đồng đại chúng tu hành.

Nếu như có thể kiến thiết nhanh đúng như dự tính thì sư phụ và tôi cùng các huynh đệ rất sẵn lòng giúp ni Diệu Dung, cùng mọi người tụ hội ở đây, dụng công tu tập thành đạo bồ đề.

Bài văn dưới đây tôi viết theo danh xưng ngôi thứ nhất, để mọi người tiện đọc, (thể văn giống như tự thuật) nhằm giới thiệu chuyện thực về sư Diệu Dung từ sinh ra đến xuất gia, giúp mọi người hiểu rõ hơn về vị ni ưu tú trong Phật giáo và có thể rút ra từ trong đây chút cảm ngộ.

Tác giả Quả khanh xin giải thích riêng:

Sư Diệu Dung là câu chuyện có thật hoàn toàn.

Sau khi tôi biết rõ những gì sư trải qua rồi; rắt cảm kích nên quyết định viết ra để khuyến khích bạn đạo tu hành.

Do chưa được sư cho phép nên tôi quyết định “hóa danh” (nghĩa là tên và địa danh đều đổi, không ghi thật), tôi nghĩ làm vậy sẽ không gây ảnh hưởng hay quấy rầy gỉ đến việc thanh tu của sư.

Mục đích của tôi không phải để ca tụng công đức sư, bởi vì khả năng của sư sẽ còn tiến xa hơn rất nhiều.

Tôi viết câu chuyện này, vì muốn chia sẻ cùng bạn đọc “nét đẹp của người tu”, tôi muốn chấn chỉnh lại những quan niệm sai lầm, hiểu trật về người xuất gia.

Không những tôi hi vọng ni “Diệu Dung” có thể đại diện cho hình ảnh các tu sĩ nữ giới, mà còn hi vọng ngày càng có nhiều phần tử trí thức gia nhập vào sự nghiệp hoằng pháp Phật giáo, cùng góp sức giúp cải thiện phong khí xã hội, dùng đức trị nước, dùng lực tu để báo ân.

Bởi vì trong nước ta hiện còn rất nhiều người hiểu sai về giới xuất gia (bao gồm cả tôi mười năm về trước) luôn ngộ nhận, cho rằng những người xuất gia là hạng trốn đời, trốn việc, trốn bổn phận, ưa sống biếng lười cầu an, toàn những kẻ thất tình thất chí, tâm bị tổn thương, vì mê tín hay do tướng mạo xấu xí khó kết hôn, hoặc do gia cảnh quá bần hàn nên phải đi xuất gia để kiếm cái ăn, cái mặc v.v…

Những hạng người này không dính dáng gì tới sư Diệu Dung.

Trong Phật môn có lẽ cũng có những hạng người này, nhưng tồi chưa gặp!

Còn những vị có chí xuất trần cao tột, nguyện đem thân tâm phụng hiến hoằng pháp lợi sinh như sư Diệu Dung thì có rất nhiều và tôi thường gặp luôn, các phần tử trí thức cũng không thiếu.

Tôi thường gặp họ tại các chùa Thiên Đài Sơn, Phổ Đà sơn v.v…

Các tu sĩ này mỗi mỗi đều có những câu chuyện khiến người nghe phải cảm phục.

Chỉ tiếc là sách tôi đang viết thuộc dạng “Báo ứng Hiện Đời” nên không thể giới thiệu nhiều về các vị ấy Cho nên, mong độc giả khi xem hãy hiểu và thông cảm cho tâm ý của người viết.

Mẹ của sư Diệu Dung rất giỏi thi thơ hội họa, là bậc nữ lưu kiên cường, đã dũng cảm khuyến khích con gái xuất gia.

Hòa thượng Thể Quang (là cao đồ ngài Hư Vân) từng tán thán bà là thánh mẫu. (Tôi cho rằng lời này tuyệt không phải nói đùa, mà giống như ấn chứng).

Xin nói rõ bài văn này là hành vi riêng của cá nhân Quả Khanh, không liên can đến sư Diệu Dung.

Nếu có điều gì khiến quỷ vị phải trách, thì đó là lỗi của tôi, và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Sau đây là bài viết:

NGUYÊN NHÂN SƯ DIỆU DUNG XUẤT GIA

Tôi chào đời trong một gia đình công nhân phổ thông, gia cảnh cha mẹ đôi bên tương đối khác biệt, mẹ tôi là một người rất tin thờ thuyết “trên đầu ba thước có thần linh”, cực kỳ tôn trọng đạo đức gia đình theo truyền thống đông phương và trưởng thành từ trong đó, điều này có thế nói là do ảnh hưởng tổ tiên bên ngoại của mẹ tôi.

Bởi dòng họ Lý có hai vị tiên hiền (nhưng tôi không rõ đời nào) là thầy của nhà vua triều Thanh, được hoàng đế ân phong là “Võ Trạng Nguyên”.

Dựa theo bối cảnh lịch sử trên, gia tộc chúng tôi đã có một thời hiển hách huy hoàng và cực thịnh.

Bà ngoại kể, tổ tiên bà,rất ưa làm phúc, gia phong liêm chánh.

Những năm đói kém thường mở kho bố thí, nấu cháo cứu tế, chẩn bần giải tai.

Nhờ âm đức tổ tiên, cho dù đến bà cố gia đạo tuy có suy vi, nhưng vẫn giữ y nếp xưa, theo đúng lời ông cha hằng giáo huấn: “Phải luôn dùng đức báo oán, dùng thiện đãi nhân” đây là việc đáng mừng, đáng tự hào cho dòng tộc.

Bà ngoại tôi sau khi kết hôn, gia phong vẫn duy trì chánh khí, nhất là đối với con gái, lo huấn luyện nữ công thêu thùa, gia chánh khéo léo, khi cười vẫn giữ oai nghi, đi đứng nghiêm trang, hiếu kính song thân, chu đáo với khách, phải nói là tất cả con cháu đều được giáo dục kỹ lưỡng.

Bà ngoại sinh sáu con: gồm ba trai, ba gái, mẹ tôi là trưởng nữ, nhờ thọ hưởng nền giáo dục tốt, nên được lợi ích rất lớn.

Mẹ tôi từ nhỏ tính tình ôn nhu hiền lương, thành tín, minh lễ, đối với người khoan hậu, thông minh khéo léo, bà cùng Phật môn đặc biệt có duyên.

Ngoại trừ thời chiến loạn bà chào đời trong chùa, sau khi bà ra đời không lâu, thì ông ngoại mua bức tranh Nhị Thập Tứ Hiếu và tượng Quan Âm (ngàn tay ngàn mắt) từ Thượng Hải đem về thờ.

Ông bà ngoại và bà cố tôi đều kinh ngạc khi phát hiện mẹ tôi càng lớn càng giống hình đức Quán Thế Âm Bồ tát, có một dạo điều này thành là đầu đề bàn tán của mọi người trong lúc trà dư tửu hậu (thực là rất ngộ).

Mẫu thân tôi tính tình dịu dàng ôn nhu, rất thích thi họa, tuy học chưa hết đệ ngũ nhưng bà rất có tài.

Năm 1958, gia cảnh càng khó khăn, chị em tăng thành sáu người, do vậy mà mới mười bốn tuổi mẹ tôi bị bắt phải thôi học để đi làm, phụ sớt chia gánh nặng cuộc sống cùng cha, vì hiếu thuận bà bà ngoan ngoãn vâng lịnh, chẳng mảy may có lời than oán.

Tiếp theo đó bà nếm trải mười năm phong vũ luyện mài, phải làm nhiều việc khác nhau để sinh nhai, nhưng chẳng vì vậy mà bị thui chột tri thức đối với khát vọng về chân đế cuộc đời.

Trong đoản văn “Tự ngộ”, bà viết:

“Cuộc đời tôi giống như quyển sách dày, lật trang nào cũng đề có mưa cuồng bão dữ.

Muốn chọn một bến đỗ giữa phong ba, cũng phải ra sức phấn đấu trong cảnh nổi chìm.

Tuy đã nhìn thấy bờ rồi vẫn còn cách một khoảng xa, nên cần phải hướng lên, tiến tới mãi.

Cuộc đời tôi giống như thế, vẫn luôn phải cố gắng tiến bước không ngừng về miền đất Thánh, phải quỳ dài mà tiến lên”…

Cả đời mẹ tôi thường nhẫn nhục gánh việc, đối với nhân sinh luôn có cái nhìn hướng thượng, thiên về nẻo sáng.

Năm 1997 trải qua mấy mươi năm mài luyện chua cay, cuối cùng vận mệnh mẹ tôi cũng phát và nhìn thấy ánh mặt trời.

Đầu tháng sáu năm đó bà lên Nga My hoan hỉ nghe giảng kinh, lời dạy của Phật như trận mưa cam lộ tưới đẫm vào nộ tâm khô cằn của bà, mẹ như kẻ nghèo gặp châu báu, rơi lệ như mưa, tuy chưa quy y nhưng từ năm 1997 phát tâm ăn chay trường đến nay.

Hiện tại bà là đệ tử Tam Bảo, quyết tâm ngay một đời này liễu thoát sinh tử (Xin cầu cho mười phương tất cả chư Phật, Bồ tát ba đời gia hộ mẹ tôi có thể vĩnh viễn thoát khỏi biển khổ sinh tử, viên mãn đại nguyện Bồ đề).

Sau khi tham gia quân ngũ rồi, tôi mới bắt đầu học Phật.

Dưới sự dắt dìu của mẫu thân, tôi thấm nhuần pháp ích.

Học Phật không lâu thì gặp dịp bộ đội cắt giảm năm mươi vạn nhân sự, tôi vội xin từ chức, giã biệt bảy năm sống trong quân đội, chuyển về địa phương.

Mặc dù điều kiện công tác đang được ưu đãi. lãnh lương rất cao, nhưng tinh thần tôi lại cảm thấy cuộc sống khổ phiền và ngột ngạt, dần dần nhen nhúm ý muốn xuất gia. (Có thể đây là nhân duyên đời trước của tôi, nhưng cũng có thể nói từng bước trưởng thành của tôi, đều không rời bàn tay nâng đỡ, giá huấn dắt dìu chuẩn mực của mẫu thân).

Mẹ tôi dạy:

– Xuất gia không phải việc nhỏ, con phải suy nghĩ cho chín chắn rồi hãy quyết định.

Việc này giống như “mũi tên một khi đã bắn ra vĩnh viễn không bao giờ quay trở lại”.

Nếu có chết thì cũng phải chết trên con đường hoằng pháp!

Cảm ơn Phật Bồ-tát đã an bài, không bao lâu tôi được Hòa thượng Thể Quang (vị cao đức đương kim Thiền tông thu nạp), thực cảm ân sư phụ đã từ bi, hai lần tiếp kiến đều đáp ứng thỉnh cầu xuất gia của tôi.

Khoảng tháng 7 năm 1999, tôi từ bỏ công tác nhiều người thèm muốn, được mẫu thân hỗ trợ, tôi bố thí hết y phục vật dụng thế tục, sửa soạn hành trang giản đơn, lên xe lửa Nam Hạ.

Mẹ tôi cần khổ một đời, chỉ có duy nhất một con gái là tôi, song bà vẫn có thể cứng rắn đúng hẹn, hộ tống tôi đến Chùa Tịnh Cư, núi Vân Cư tỉnh Giang Tây.

Ngày 28 tháng 8 năm 1999 âm lịch, tôi chính thức thế phát xuất gia, được sư phụ ban cho pháp hiệu Diệu Dung, tự Thanh Minh.

Từ sau khi phụ thân mất, hai mẹ con chúng tôi nương nhau mà sống, cùng bầu bạn hơn mười năm qua.

Lúc nghỉ phép, tôi rất thích nghe mẫu thân nhắc về thời thơ ấu của mình.

Mỗi khi bà kể, căn nhà nhỏ chúng tôi luôn rộn rã tiếng cười.

Do tính tôi thuở bé quá khác biệt với đa số trẻ nít, khiến mẹ tôi nếm đủ mùi đau đầu.

Mẹ kể người ta thường nói con nít mới sinh rất xấu xí, nhăn nhúm.

Nhưng tôi sinh ra ấn đường no đầy, rất sáng, sống mũi hiện rõ thẳng cao, mặt mày hồng hào, hai má lúm đồng tiền, bà mụ khi phụ đỡ đã không ngừng tóm tắc:

– Ôi dào!

Em bé xinh đẹp quá đi!

Và “em bé xinh đẹp” này mấy ngày sau đã khiến mẹ dở khóc dở cười vì màn quấy nhiễu kinh khủng.

Trước tiên, vừa chào đời thì tôi khóc “oa oa” và cứ thế “tấu” mãi không ngừng (suốt một trăm ngày đêm chẳng gián đoạn), tôi cứ đêm khóc ngày nghỉ.

Mẫu thân kể tôi có thể khóc một hơi bốn tiếng đồng hồ, thành tích vượt hơn “chỉ tiêu” này cũng có mấy lần, nhất là vào nửa đêm.

Khiến hai-ba dãy nhà của các chú, dì… tôi ngụ xung quanh, đều bị tiếng khóc của tôi hành hạ.

Bây giờ ngẫm nghĩ, tôi không hiểu sao lúc đó ba mẹ tôi có thể chịu đựng được?

Và cam cảnh “tra tấn” như thế suốt hơn ba tháng trời ròng rã bất kể ngày đêm.

Mẫu thân tôi bản tính vốn độ lượng, mỗi khi tôi khóc bà luôn khôi hài bảo:

– “Nữ ca sĩ nhí” nhà ta bắt đầu khoe “âm thanh vượt không gian” rồi!

Cũng có người mách nước, bảo gia đình nên viết mấy chữ vào tờ giấy vàng như: “Thiên hoàng, địa hoàng, nhà tôi có con bé khóc hăng, quân tử đi ngang đọc mấy biến, hễ thức liền ngủ đến sáng, ngoan”…

Nhưng mẫu thân cảm thấy chịu đựng được nên chẳng viết, dán chi…

Lúc đó hình như tôi được thể, cứ khóc mãi không thôi.

Ngay cả ban đêm, bất kể bạn thích hay không, “nữ ca sĩ nhí” tồi cứ ngân mãi âm giai, “hét cao, xướng to” cực độ, đủ trăm ngày mới đình chỉ.

Ba mẹ và láng giềng cuối cùng cũng được hưởng phút giây bình yên.

Tuy tôi khóc lâu như thế, song chẳng ai nghiên cứu. tìm hiểu hay đem đến bác sĩ khám chi cả.

Bây giờ thì tôi suy đoán: “Có thể do thấy thế gian này khổ quá nên tôi mới khóc dữ vậy đó”.

Mẹ kể khi tôi tạm lớn chút, trông rất mủm mặt bầu bĩnh, đôi mắt to tròn môi đỏ ong.

Ai cũng cưng yêu và bảo rất thích đôi mắt sáng to trong veo của tôi, mỗi lần gặp đều không nhịn được, luôn muốn dừng lại trêu tôi đôi chút, nhưng tôi khăng khăng không cho bất kỳ ai chọc phá, ngay cả phụ mẫu còn không thể, huống nữa là người ngoài.

Đa số con nít ưa tụ họp chơi đùa nhưng tôi hễ bị trêu là không ưa và phản đối bằng cách khóc lên.

Tôi không hay chơi đùa với các trẻ khác, cũng không ưa ồn, đông.

Khi chụp hình kỷ niệm toàn gia, cả gia đình ai cũng chọc cho tôi cười nhưng không sao khiến tôi cười được.

Các dì tôi thường đùa, gọi tôi là “Tiểu nhi thâm độc”.

Hôm nay tôi đã là người cửa Phật có thể tạm giải thích nguyên nhân tính khí của minh theo bài kệ cảnh tỉnh: “Mỗi ngày trôi qua mênh cũng giảm dần, như cá thiếu nước, nào có gi vui?”

Có lẽ tư duy này tiềm ẩn trong tàng thức nên mới khiến tôi buồn khóc vì thêm một lần nữa bị bất hạnh luân hồi lưu chuyển hình như giải thích thế này có vẻ hợp hơn.

Lúc được 14 tháng, tôi vào nhà trẻ, mẹ tôi mấy lần lén quan sát, thấy tôi thường im lặng ngồi một mình, cứ trơ như gỗ nhìn đám đông các bạn nhỏ (giống như tôi mới đến thế gian này chưa lâu), đám con nít với đủ trạng thái cười có, khóc có, bò có, quỳ có v.v..

Những hiện tượng hỗn tạp này, hình như khiến tôi vô phương tiếp nhận, nên đôi mày thường nhíu lại hiện vẻ căng thẳng.

Có lúc gặp bạn nhỏ chủ động tới chơi, muốn an ủi con bé cô độc như tôi, thì tôi luồn tỏ ý ưa ngồi một mình chừng như khó hòa nhập cùng đám đông.

Do vậy mà các dì tôi nói, hiện tại là “tiểu nhi thâm độc”, lớn lên là “đại nha đầu thâm độc!”.

Nhưng tôi cũng thích giúp đỡ bạn.

Bạn làm rớt bánh thì tôi cúi xuống lượm đưa cho thế mà nó tưởng tôi giành ăn nên cắn tôi.

Đúng là hiểu quá sai, đồ cái thứ… lấy ác đáp thiện!

Tôi oan khuất bật khóc.

Sau đó chẳng ưa chơi hợp quần nữa.

Mẫu thân nói tôi từ nhỏ đã ngủ rất ít, cực ít.

Chưa từng nghỉ trưa.

Mẫu thân làm việc khoảng 6 giờ thức dậy thì tôi cũng thức theo trưa cũng chẳng ngủ.

Vào nhà trẻ buổi trưa cho ngủ ba tiếng, tôi cứ lăn qua lộn lại trên giường không ngủ, cô giáo cũng bó tay.

Khoảng 3 tuổi, trí lực tôi tạm khai mở, bầu bạn cùng các câu chuyện đồng thoại thật hay do mẹ kể mà lớn lên (Nhân vật trong chuyện luôn xả thân vì người, phẩm cách chân thành, thiện lương tươi mát, cứ thế thấm sâu vào tâm linh thơ dại của tôi).

Sức nhớ và lực tưởng tượng, tư duy của tôi tương đối cao.

Tôi học tập rất dễ, không hề tốn sức.

Tôi có một tật khiến mẹ rất phiền, là hồi nhỏ mỗi khi mẹ chải tóc, tôi luôn giẫy nẩy khó chịu, giống như bị cực hình.

Mùa hạ, mỗi lần mẹ chải tóc, tôi đều khóc ầm lên, khóc đến mặt mày nhem nhuốc, khiến mẹ cũng toát mồ hôi theo.

Ngày nào cũng vậy, ai mà chịu thấu, cuối cùng mẹ tôi nói: -Thôi thì cạo quách đi cho yên chuyện!

Vì vậy mà hai tuổi tôi đã cạo đầu.

Ba tuổi lại cạo lần nữa.

Nếu không tiện để tóc dài thì cứ cắt như kiểu con trai, như thế cả tôi lẫn mẹ đều khỏe, (bây giờ thì khỏe hơn nữa vì được cạo vĩnh viễn).

Mẹ nói tôi rất có phong thái và thích làm khất sĩ.

Mùa hạ, đến giờ ăn mẹ chưa tan sở về nhà, do ở chung cư trời nóng, mọi người hay dọn ăn ngoài sân.

Nhà nhà cách nhau không xa, những lúc đó tôi thường cầm cái chén đến gần họ, đứng bên bàn, không nói gì, im lặng nhìn họ ăn cơm.

Láng giềng thấy thế mỉm cười nhìn tiểu khất sĩ nhỏ bé như tôi, hỏi:

– Con đói bụng hả?

Tôi im lặng gật đầu.

Họ liền đơm cơm vả thức ăn vào chén cho tôi.

Nếu như tôi ăn chưa đủ thi lại đến cạnh bàn họ im lặng “khất thực” tiếp nữa, cho đến bao giờ cảm thấy no bụng thì thôi.

Việc này thường xảy ra lúc tôi 4-5 tuổi, khiến mẹ tôi rất ngạc nhiên, khó hiểu.

Tôi học rất mau biết, siêng năng, nhớ dai.

Tùy theo tuổi tác tăng, mà năng lực làm việc cũng phát mạnh mẽ.

Hồi học lớp ấu nhi, 5 tuổi tôi đã được cô giáo chỉ định làm trợ thủ, giao cho nhiều việc để làm.

Lên tiểu học, năng lực này càng tăng, thành tích học luôn ưu tú, tôi làm việc sồi nổi, nhiệt tình, yêu tập thể, suốt sáu nám tiểu học luôn được trường bầu chọn là học sinh xuất sắc, năm nào cũng làm trưởng lớp và chẳng còn chút dấu vết gì của “tiểu nhi thâm độc”.

Nhưng tôi vẫn có thói quen ngủ ít, không bao giờ ngủ trưa.

Tôi làm việc học tập luôn đứng đầu nên kiêu khí cũng tăng cao.

Cô chủ nhiệm muốn dẹp kiêu khí của tôi, nên trong niên học nọ, đã cố ý đem mỹ danh “học sinh ưu tú cấp tỉnh” của tôi giáng xuống “cấp địa phương”.

Vì việc này mà cô phải đặc biệt đến nhờ mẹ tôi phụ giúp.

Mẹ tôi hào sảng đáp ứng.

Nào ngờ sau việc đó, cô bị hiệu trưởng giận dữ quở trách rất nghiêm.

Bây giờ nhớ lại, tôi thầm hiểu cô vì lo cho tôi mà phải động não dụng tâm gian khổ.

Trong lòng tôi xấu hỗ áy náy mãi, mỗi khi nhớ đến nghĩa tình “Ân sư nan báo” kia, tâm cứ nặng nề như bị đá đè.

Hồi tưởng lại thời thiếu nhi, cha mẹ tôi đồng lương khiêm tốn, ráng lo cho tôi ăn học.

Tôi chơi với bạn, họ cần gì tồi đều đáp ứng, có khi bạn mượn một đồng, hai đồng… không trả tôi cũng chẳng đòi.

Khi tôi lớn lên làm việc, kiếm tiền rất dễ dàng, kinh tế độc lập, những y phục vật dụng đắt tiền, từ một trăm hai trăm thậm chí đến số ngàn, chỉ cần bạn thích là tôi sẵn sàng biếu cho.

Xuất gia rồi, tính cho biếu rộng rãi này càng phát hơn.

Hồi tưởng cuộc đời mình gần 30 năm, tối có cảm giác ắt hẳn kiếp quá khứ mình từng là tu sĩ?

Do hối hận “một niệm mê đi vào luân hồi thọ khổ”, nên mới khóc dai dẳng?…

Tính không ưa chơi đùa ồn ào, mà quen khất thực, biết thương xót tử vong, yêu quý động vật, xem nhẹ tiền tài, mọi việc nếu tư duy theo kiểu này thì đây có lẽ là đáp án chính xác.

Nhiều người hay hỏi tôi một câu họ thắc mắc chung là: -Vì sao lại xuất gia?

Quả tình tất cả bọn họ đều nghĩ không thông nên cứ suy đoán mãi, rốt cuộc đành kết luận rằng: chỉ có “thất tình chán đời”, sự nghiệp thất bại” “bị phụ rẫy”, tinh thần bị “sốc” v.v.. nên mới phải xuất gia!

Thậm chí các bằng hữu “cố cựu” của tôi còn nổi giận tìm đến gây cãi, mắng tôi là kẻ “tự cam đọa lạc”, quá “mê tín cố chấp” nên mới xuất gia… và họ xúm nhau thuyết phục khuyên tôi mau mau quay về.

Đúng là cái nhìn thế nhân dành cho các tu sĩ hiểu lầm quá sâu, họ cho rằng sự lựa chọn của tôi là không lý trí, là bất bình thường, là điên!

-Sao là bình thường, sao là bất bình thường?

Trước khi tôi xuất gia, cũng từng sống rất vui nhộn như bao người.

Thời ấu niên tôi bầu bạn và lớn lên cùng với những câu chuyện đồng thoại mà mẹ kẻ.

Thời tiểu học, sơ trung, cao trung, tôi ưa nhất là thú vui đọc sách, trữ sách.

“Thư viện” riêng của tôi chứa đầy danh tác thế giới, tối hay sưu tầm trích dẫn các danh ngôn danh nhân, rút tỉa chân thiện mỹ từ trong đó và thường đem các câu răn dạy của “cổ thánh tiên hiền” để răn nhắc, khuyên mình tiến lên.

Thời sơ trung tôi ưa đọc các sách huyền bí nói về đĩa bay, trong não chứa đầy những thắc mắc như: “Có người ngoài hành tinh ở địa cầu khác chăng?

Trời cao đến đâu?

Sau khi chết rồi mình sẽ đi về đâu?”…

Năm đó tốt nghiệp sơ trung, một bạn thân của tôi vì thi rớt nên uống thuốc rầy tự tử.

Nhìn tấm ảnh cô bạn gái tuổi trẻ, mặt còn non choẹt, đôi mắt sáng như thuở nào còn đeo theo tôi chơi đùa trò chuyện, tôi rơi nước mắt.

“Mạng sống sao quá vô thường mong manh, ngắn ngủi trong hơi thở”, sống không phải để đau khổ, mà phải làm sao để không khổ.

Tồi nhìn thấy bạn bè quanh mình vì tranh công danh, vùi đầu học thi, lo chuyện đậu rớt mà khổ đau rên rỉ.

Dõi nhìn đại lộ dòng xe cộ tấp nập, người qua kẻ lại, vội vội vàng vàng, mặt mày khẩn trương chứa đầy phiền lo không đâu, các nam nữ tuổi trẻ thì cuồng nhiệt săn đuổi, bắt chước theo thời trang của các ngôi sao điện ảnh, tranh hơn thua nhau bằng hàng hiệu, dùng quần áo đúng mốt thời thượng để loè nhau.

Tôi thầm nghĩ: “Những đua đòi trần thế lao xao, thật hỗn tạp và bát nháo.

Đằng sau những cạnh tranh khốc liệt vô nghĩa đó, phải chăng có nhiều người vẫn âm thầm thấy cô độc, tự an ủi mình trong thê lương?

Rốt cuộc con người ta sống để làm gì?…

Đi học cực khổ, nỗ lực phấn đấu, cả đời vật lộn đua tranh là để truy cầu cái gì?

Có phải tiền bạc, vật chất cũng không đem lại hạnh phúc thực sự cho đời sống?…

Còn tình yêu nam nữ, những lời hẹn biển thề non, những lời nguyện hứa sống chết với tình, liệu có thể duy trì và kéo dài bao lâu?”…

Tôi cảm thấy rất cô tịch chán nản, tâm linh luôn buồn rầu cảm thán.

Những cảm xúc “yếm thế” này nhanh chóng bị cuộc đua tranh thi vào đại học phủ lấp, nhưng lại chuyển thành làn sóng ngầm mạnh mẽ ẩn tàng tận đáy lòng tôi.

Tôi nghĩ: “Thôi thì dùng màu áo lính và cuộc sống quân sự để thay đổi nếp sinh hoạt sa sút”…

Tiếc là, cảnh vui không bao giờ bền lâu.

Một bước trở thành nữ sĩ quan, tôi dần dần cảm thấy chán phiền trong cảnh “thây đi thịt bước, bầu rượu túi cơm” này, chán nếp sinh hoạt tẻ nhạt và những mối giao tế hư ngụy, chán ghét sự lặp đi lặp lại không ngừng nghỉ: “làm việc kiếm tiền, dưỡng gia nuôi miệng, tiêu khiển giải trí, ngày lại ngày, năm qua năm, cứ thế không đổi, hôm qua chờ hôm nay, hôm nay đợi ngày mai, không có gì khác lạ … tôi bi ai cảm thấy mình từng bước tiến về tử vong một cách khó chịu…

Lỗ Tấn nói: “Không hài lòng là đang hướng thượng”.

Nhưng hiện tại kim tiền, danh vọng, địa vị, những thứ mà thường nhân cả đời ước ao tranh giành không ngừng thì tối có rất dễ, nhưng lại thấy chẳng có chút ý nghĩa chi, tôi tuyệt không có tâm muốn chiếm hữu, thế thì tôi truy cầu cái gì trong cuộc sống?

Tôi giống như một kẻ lang thang ưu buồn, lạnh lẽo, vọng nhìn chung quanh…

Sau lưng mang mang, trước mắt mờ mịt!…

Tôi thử sống như mọi người, cũng tiêu xài, giải trí theo cách sang cả phong lưu, dùng toàn hàng cao cấp, đắt tiền; cũng quần là áo lụa, trang điểm thật xinh, thử vào các quán sang trọng rực rỡ ánh đèn nhấm nháp cà phê, sâm banh… nhưng lại thấy thê thảm hơn khi phát hiện mình giống như một tên hèn đáng thương không thuộc vai diễn, ngồi co ro trong một góc.

Sau đó tôi gởi tình vào sơn thủy, lấy thiên nhiên làm lương dược để điều trị tâm linh bất thường này.

Tôi mê say và thích sống giống như tác phẩm “Đào Hoa Nguyên Ký” từng diễn tả, muốn làm ẩn sĩ đẻ “mùa đông hài cúc, mùa hạ ngắm núi nam”.

Cái kiểu lấy núi đồi, bách tùng làm bạn lữ, sinh hoạt thanh nhàn với mây trắng gió lành làm tôi thích thú.

Ở trên núi, tôi được dịp tiếp xúc với tự viện và người xuất gia, bước vào đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh, tâm tư phiền muộn bất an trở nên yên tĩnh rất nhiều.

Vọng nhìn một tảng sĩ mặc áo tu, phong thái siêu nhiên thanh thoát, tôi bỗng khởi tâm ngưỡng mộ ước ao, tự nói thầm: “Nếu như ngày nào đỏ tồi được mặc chiếc áo giải thoát này thi tuyệt bết mấy!

Nhân duyên hội đủ, song thân tôi quy y Phật môn làm cư sĩ, nhân đó cũng dìu dắt tôi đi vào đường học Phật.

Tôi vô cùng cảm tạ mẫu thân đã giúp cho tôi có bước rẽ trọng đại.

Mẹ tôi nhẫn nại giảng giải, tôi bỏ công nghiên cứu một số kinh sách để thâm nhập Phật môn, cảm thấy như vừa tỉnh cơn mê dài, vui vì “thoát thai đổi cốt”.

Những cảm xúc khó chịu quẫn bách trong tôi thảy đều tìm được đáp án nơi kinh Phật.

Tôi chưa bao giờ có qua niềm khinh an hỉ duyệt như thế này, lòng cảm kích không nguôi.

Tuy tôi là một bác sĩ, nhưng chỉ có thể giải quyết cái khổ nhất thời cho thân xác bịnh nhân.

Còn cái khổ về tinh thần, cái khổ của tử vong, thi vô phương đào thoát và đối với vấn đề căn bản trọng đại như sinh tử, tôi đành thúc thủ bó tay.

Phật là đại y vương không gì không thề trị, là bác sĩ tài giỏi tối cao trong cuộc đời, bịnh gì Ngài cũng có thể chữa.

Tôi muốn tu học theo Phật!

Và tôi khó bề kềm nén ước muốn này, càng vô phương khắc chế niềm tôn kính muốn đảnh lễ tạ ân cao vợi không gì sánh được của Phật!

Tôi biết từ vô lượng kiếp đến nay, mình tội nghiệp vốn thâm trọng, vì vậy sau khi quy y làm cư sĩ, tôi nỗ lực bố thí, đem tiền bạc vật dụng sở hữu cúng dường tượng Phật, in kinh sách, phóng sinh, hộ trì tự viện v.v… thậm chí có mượn tiền cũng phải làm cho bằng được!

Bây giờ nhớ lại thái độ chấp trước để bố thí lúc đó mà buồn cười.

Khi gặp Phật pháp, tôi cho rằng mình đã tìm được kho báu tối trân quỷ trong đời, thế là đem tất cả sách thế tục, sách danh nhân và mọi danh tác, bưu tem… mà minh từng tích chứa sưu tầm từ trước đến nay, cho hết – không cần nữa.

Những truyện về chư Phật Bồ-tát đại từ bi và lịch đại thánh đức cao tăng hạnh nguyện thâm sâu khiến tôi cảm động rơi lệ đầm đìa như Hòa thượng Hư Vân, Hòa thượng Tuyên Hóa, đại sư Ấn Quang, đại sư Quảng Khâm…các ngài có đầy đủ đại nguyện, đại hạnh, đại dũng, đại bi, đi vào đời vì chúng sinh bằng sự nghiệp xuất thế, nhẫn nhục gánh vác, nguyện lực hùng thâm, hoằng dương chính pháp, quảng độ chúng sinh quá tuyệt vời như thế, mỗi mỗi đều là Bồ-tát hóa thân, thừa nguyện tái lai.

Khiến bao nỗi niềm cảm kích, xúc động, tôn kính, khâm phục, sùng bái… cứ trào dâng và thấm đẫm toàn thân tôi.

Người thế gian do quan niệm sai lầm nên miệt thị giới tu sĩ.

Có kẻ cho người xuất gia là hạng ăn xin lường gạt dối lừa.

Có kẻ cho người tu là trốn trách nhiệm bổn phận xã hội, muốn náu thân nơi cửa chùa làm ký sinh trùng hưởng thụ, là kẻ giả thần lộng quỷ mê hoặc người, có kẻ còn tưởng các tu sĩ giống như các nhân vật trong truyện tình cảm ủy mị hay các truyện võ hiệp thường viết, vì thất tình mà đi tu, hoặc là bậc đại hiệp có võ công tuyệt thế…

Trong lòng tôi bỗng nghe đau ảm thầm, đau mà không thể nói, nỗi đau này càng đẩy tôi bước nhanh vào đường xuất gia.

Trong Phật môn “hữu cầu tất ứng”, hoặc có lẽ trong vô hình trời xanh đã thầm an bày.

Không bao lâu tôi được vị ân sư đạo cao đức trọng 80 tuổi thế phát cho.

Sư phụ tôi xuất gia từ nhỏ, một đời khổ hạnh.

Thời tuổi trẻ ngài lên núi tu hành, lấy rau cỏ làm thức ân, thu hạ xuân đông chỉ có một y bá nạp vá chùm vá đụp.

Ngày ăn một bữa, tùy cảnh mà an.

Chẳng cầu danh lợi, ngài vui sống đạm bạc theo tôn chỉ: “Chẳng vì bản thân cầu an lạc, chỉ nguyện chúng sinh thoát khổ đau”, được ngài Hư Vân ngợi khen.

Tôi quyết định dùng máu mình chép kinh cúng dường, bày tỏ tâm nguyện muốn làm tu sĩ.

Cảm ân sư phụ từ ái nhiếp thọ và mẫu thân sáng suốt cương nghị đã đưa tôi đến con đường giải thoát, nhận thọ phúc duyên được sư phụ thế phát.

Lúc đó mẹ tôi cười bảo: – Hồi nhỏ con không ưa để tóc, thường phải cạo đầu, lần này xem như là cạo vĩnh viễn rồi đấy nhé!

Tôi hiểu rõ ẩn ý trong câu nói của mẹ, bà muốn tồi nhất định phải kiên tâm đi trên con đường này đến cùng, không được hồi đầu…

Sư phụ từng hỏi tôi:

– Con có sợ khổ hay không?

Tôi thưa: -Dạ không.

Bởi vì, gần 7 năm sống trong quân đội đã mài luyện ý chí tôi kiên cường vô úy, nhưng khi làm tiều Sa-di, lần đầu dối diện với công tác gánh phân, tôi không khỏi kinh hãi.

Con gái thành phố chưa từng gánh nước hay gánh qua bất cứ thứ gì giờ phải gánh đôi thùng phân to đùng, vừa dơ vừa thúi, văng lên mình là muốn nôn.

Nhưng tôi chuyền niệm nghĩ lại “Muốn học hạnh Bồ-tát thì phải dùng đây mà phá ngã, phá hết chấp trước đối với sắc thân”.

Tôi nhớ hồi ở y viện, từng công tác điều trị tại khoa bỏng.

Hằng ngày tiếp nhận bịnh nhân thảm đến chẳng nỡ nhìn.

Vỉ toàn bộ mặt mày nạn nhân đều bỏng, những nạn nhân này trong quá khứ từng có dung nhan thanh tú, xinh đẹp mê hồn.

Cũng có người anh tuấn tài hoa, siêu quần bạt chúng, nhưng chỉ trong chớp mắt thôi, họ đã bị ngọn lửa cướp đoạt nhan sắc và tính mệnh, thậm chí bị bỏng đến hình dạng xấu như ma, chẳng ra dáng người nữa.

Sắc thân này vô thường và chẳng có gì đáng để ái tiếc, tôi đặt mình vào lúc đang công tác chữa trị những người “đang sống mà thân bị thiêu cháy”, thì lập tức có thể vui vẻ gánh phân ngay, nhờ vậy mà tôi nhanh chóng thích ứng với mọi công tác gánh nước bửa củi, cày ruộng, gieo trồng, nấu cơm hành đường v.v…

Các công việc này hồi ở thành phố tôi chưa làm qua, tôi hiểu lao động cũng là một loại “thiền mỹ lệ”, giúp đả phá mọi chấp trước và mài luyện tâm chí, làm giảm thiểu vọng tưởng và tăng gia phúc báo.

Tôi không ngăn được giọt lệ cảm ân chư Phật Bồ-tát!…

Tôi thầm cảm thấy mình tội nghiệp sâu nặng làm chướng ngăn tâm trí, huệ căn mỏng bạc.

Nghĩ đến sư phụ muốn tôi phát tâm đại bồ đề, lấy giới làm thầy, lấy cảnh khổ làm sư tôi xấu hổ vạn phần.

Một lần tình cờ, tôi đến vùng tuyết sơn, bị tín ngưỡng toàn dân ở đây làm chấn động.

Bất kể họ bao nhiêu tuổi (từ em nhỏ khoảng ba bốn tuổi cho đến người lớn bảy-tám mươi), tất cả đều chí thành, cứ tam bộ nhất bái, năm vóc sát đất đảnh lễ Phật, dù trời đang lạnh buốt rất khắc nghiệt, tuyết rơi phủ núi.

Nơi này dù thiếu nước ít lương, cảnh ăn tuyết nằm sương cũng chẳng ngăn được nhiệt tâm đảnh lễ của họ.

Khát thì nếm một nắm tuyết, đói thì nuốt một nhúm bột stampa.

Tâm tư họ cực kỳ thành kính, nhờ vậy mà có được niềm vui thánh khiết.

Đây há tâm của kẻ thường nhân có thể hiểu tới, tuy khổ tu mà chẳng khổ, trong cực khổ mà cực lạc.

Về đến nước mình rồi, tôi cảm khái vô hạn so với đạo tâm của người dân ở tuyết sơn.

Hàng tu sĩ nội địa chúng ta sống nơi đây đâu có đạm bạc gì?

Một bề là đang hưởng phúc đấy chứ.

Nhưng núp sau cuộc sống hưởng thụ vật chất cao độ, tinh thần đạo đức thường bị suy vi, vì người ta dễ lười biếng, mặc tình buông lung, ham hưởng thụ, nên dễ tật đố và phát sinh chướng ngại, biến chiếc áo tu thành ô bảo hộ, dung túng tham sân si mạn nghi tàng ẩn bên trong, mặc tình cho chúng phát triển sinh sôi tràn lan.

Tôi thầm cảm thấy mình là hạng người có chủng tử địa ngục, chẳng chút tu hành, ác tập dẫy đầy, mượn áo Như Lai mà không có chi để đền đáp, thật thẹn với danh “Thích tử”.

Chư Bồ-tát kiếp xưa từng lột da làm giấy chẻ xương làm bút, lấy máu làm mực…

Tôi chẳng có phúc báu, càng không trí huệ, chỉ có một trái tim nhỏ bé, cũng làm gan phát nguyện: “Xin dùng máu mình sao chép Phật kinh, nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả chúng sinh tận hư không pháp giới, nguyên tất cả chúng sinh cùng đăng bồ đề, viên thành Phật đạo.

Nguyện thế giới hòa bỉnh chúng sinh an lạc”.

Tôi không thể cắt lưỡi làm mực như đại sư Trí Thành, nên chỉ trích máu tay làm mực, chép Kinh Hoa Nghiêm.

Đến nay đã chép xong “Kinh Địa Tạng”, “Phật thuyết vô lượng thọ”, “Kinh Kim Cang”, “Kỉnh phổ môn”, “Kinh A Di Đà”, “Phổ hiền hạnh nguyện phẩm”, hiện chưa chép xong “Kinh Hoa Nghiêm và “Kinh Pháp Hoa”.

Một đời chẳng mong cầu chi, xuất gia là tôi tự chọn, không hối hận, kiên định không đổi.

Vinh hoa phú quý, danh hư lợi ảo, thâm tình bè bạn, ái tình… tất cả chẳng qua chỉ là “mộng huyễn bào ảnh khói sương qua mắt”…

Ta bà thế giới nhiều khổ không vui, chúng ta chỉ là lữ khách tạm trú, là Phật tử lưu lãng trong cõi ta bà, bấy lâu trôi nồi bên ngoài đã thấm mệt, khốn đốn, xin hãy nên sớm quay về.

Quả Khanh kính bút (và xin sám hối sư Diệu Dung vì đã ghi mà không xin phép).

33.

NHỮNG ĐIỀM MỘNG ĐƯỢC BÁO TRƯỚC

Lời tác giả:

Xin giải thích đây là chuyện kể về những giấc mộng (báo trước nạn tai xảy ra trên thế gian) do một pháp hữu của tôi nằm thấy, rất có giá trị và đáng để chúng ta tham khảo vì có ý nghĩa rất lớn đối với việc khuyến hóa thế gian.

Xin hãy đọc và rút ra những tinh hoa để sống tốt cũng như phổ biến những điều hay này.

Nguyện mọi người đều tin sâu nhân quả, siêng năng đoạn ác tu thiện, tất cả đại nạn phát sinh trên đời đều do ác nghiệp chung của mọi người tạo trong quá khứ đã chín muồi mà chiêu cảm nên.

Nếu như ngay đây mỗi người tự biết phản tỉnh sám hối, đoạn ác tu thiện, thì có thể chuyển cộng nghiệp thành biệt nghiệp, khiến ác báo trong quá khứ chẳng thể trổ và không thọ ác quả.

Chúng ta hãy phát nguyện từ phút, giây này về sau, thệ đổi mới bản thân, làm lại từ đầu.

Chân thành sám hối, bỏ xấu huân tốt: dứt sát, ăn chay, phóng sinh…rộng hành thiện nghiệp, nghiêm giữ năm giới, tự nhiên đời sống sẽ cát tường bình an.

Nguyện mọi người nỗ lực tu sửa bản thân trong sáng, để cuộc sống luôn rạng rỡ hạnh phúc.

(Đây không phải là bài văn của đương sự, tôi chỉ là người viết thay, sau khi được thuật giả kể ra câu chuyện và ủy thác nhở phổ biến giùm)

Bây giờ, mời bạn đọc chuyện kể của người trong cuộc:

Hiểu rõ chân tướng địa chấn:

Nhiều năm nay nước tôi thường xảy ra tai nạn, đặc biệt là mấy năm gần đây, Vấn Châu liên tục bị đại chấn.

Ngọc Thụ cũng bị địa chấn, lụt lội giáng toàn quốc, khí hậu lạnh nóng thất thường, tai nạn liên miên.

Mấy ngày trước Nhã An Lô Sơn phát sinh địa chấn, việc này khiến tôi đứng ngồi không yên, tôi nghĩ mình cần phải đem những điều đã thấy trong mộng phổ biến ra, cũng là để báo đáp đại ân của Bồ Tát Quan Thế Âm.

Chắc chắn sẽ có nhiều người phản cảm với những điều kể trong mộng, sẽ cho đây là lời hoang đường vô căn cứ.

Cho dù quí vị khinh rẻ, xem thường những gì tôi kể ra, đối với tôi cũng không hề chi, tôi chỉ hi vọng: chỉ cần trong số độc giả, có được ít người chịu hồi tâm hướng thiện, như vậy là thỏa nguyện lắm rồi.

Trung tâm của vũ trụ chính là tình thương, là lòng đại bi.

Có lòng yêu thương nhân ái con người và vạn vật mới sống với nhau thuận thảo hài hòa.

Nghĩa là ta không làm gì xâm phạm môi trường thiên nhiên, mà luôn trân trọng bảo vệ từng cọng cây ngọn cỏ, từng sinh mạng của người và vật.

Nếu mọi loài sống hài hòa như vậy, thiên hạ sẽ thái bình.

Phật pháp giảng: “vạn pháp giai không chỉ có nhân quả bất không”.

Tận hư không khắp pháp giới vốn là đồng thể, đều là anh chị em.

Đối với núi sông đại địa, khoáng sản và động, thực vật…Chúng ta phải có lòng trân quý, ái tiếc, nếu làm tổn thương, chúng ta sẽ nhận quả báo dội ngược.

Đây chính là luật nhân quả căn bản của vũ trụ, là “thế giới quan” vô hạn lượng.

Bây giờ chúng ta phải động não, chịu khó tư duy để nhận chân vấn đề cho thấu đáo: Vì sao nhân loại đối với thiên nhiên không ngừng phá hoại, chiếm đoạt và luôn gặp phải bão lũ cuồng phong (do thiên nhiên báo trả)?

Trong tạng truyện Phật giáo có một cuốn tên “Mộng Du Già”, trong đây liệt kê có ba loại mộng:

Loại một, là thường nhân hay nói: “Ngày nghĩ làm sao, đêm chiêm bao như vậy” cho nên các giấc mộng này hoàn toàn không có ý nghĩa, không rõ ràng và không lô-gích.

Loại hai: do nghiệp lực tạo trong quá khứ hiển thị qua mộng, chẳng hạn như đương sự thường mộng thấy bị người truy sát…

Loại ba: do công phu tu hành đạt đến cảnh giới cao, tâm định phát dụng hoặc được thần linh báo mộng.

Mộng này cần hội đủ ba điều kiện:

1.

Có trí huệ bẩm sinh, tức là trí huệ do nhiều đời tu hành tích lũy.

2.

Có công phu thiền định tương đối cao.

Ra khỏi bùn nhơ và bất nhiễm chính là thiền tối cao.

3.

Do phúc báo hành thiện nhiều đời tích lũy thành.

Loại mộng thứ ba luôn thấy rất rõ ràng, giống hệt như đang xảy ra ban ngày vậy.

Phật giáo gọi mộng này là “Thanh minh mộng cảnh”.

Đây là “Linh mộng” thường xuất hiện sau 3-4 giờ sáng.

Mộng này liên quan đến chân tướng vũ trụ nhân sinh.

Các vấn đề này trong cuốn “Đại đức đích tương quan luận thuật” có giảng giải rất cụ thể tỉ mỉ.

Trước khi tự thuật các giấc mộng dự báo địa chấn, tôi nghĩ mình nên nói một chút về chuyện động vật hay đến báo mộng, thỉnh cầu phóng sinh.

Đây là cảnh mà vài pháp hữu của tôi cũng thường thấy.

Hằng năm, cứ bắt đầu vào xuân là loài rắn thường đến báo mộng cho tôi, xin tôi hãy đi phóng sinh chúng.

Nhưng năm ngoái chúng báo mộng vào cuối năm (còn báo mộng cho chồng tôi nữa).

Có lúc chúng báo mộng cho tôi liên tục suốt ba đêm liền, xin tôi hãy phóng sinh con chúng trước rồi sau đó mới thả chúng.

Cuối cùng, chúng còn nói nếu tôi phóng sinh chúng rồi, chúng sẽ rất tri ân.

Còn nếu như không thả, tâm báo oán của rắn rất mạnh.

Xem ra động vật cũng rất yêu con mình.

Dù là độc xà, song những con rắn này lúc sinh thời có một số đã từng là người tu hành.

Chỉ vì tâm sân quá nặng nên bị đọa làm rắn, chính tâm sân cực mạnh đã sản sinh ra nọc độc.

Rắn cũng có một số là tiểu long hóa hình.

Mà loài rồng nhỏ này vẫn có khả năng khuấy động địa cầu, gây ra tai nạn.

Chúng cũng có thể trở thành (long thần) hộ pháp đắc lực cho người tu (nếu chúng phát tâm quy y Phật, tình nguyện hộ vệ Tam Bảo).

Các động vật khác cũng thường báo mộng cho tôi, kêu tôi hãy cứu chúng, thường thì con vật báo mộng ngày thứ nhất, là hôm sau ở ngoài đời thự tôi sẽ gặp chúng.

Trễ lắm thì ngày thứ ba cũng gặp loài động vật này, tình cảnh giống hệt trong mộng.

Một lần nọ, có hai đội thiện nguyện đi phóng sinh, một đội thả cá chép và một đội thả ba ba.

Tôi không tính đi, nhưng có chuẩn bị chút tiền gởi cho đội phóng sinh ba ba.

Trong tâm chỉ có ý tưởng vậy thôi.

Nào ngờ tồi đó ba ba báo mộng, kêu tôi hãy đi thả chúng, còn dặn tôi ngồi xe xuống trạm nào nữa.

Trong mộng còn thấy rõ cảnh đội trưởng thả cá chép đang nói chuyện với người khác, bên cạnh còn có hai xe tải lớn.

Ba ba còn dặn tôi phải dùng tay che mặt lại, đừng để cho trưởng đoàn thấy tôi.

Chúng bảo: “Cô thả chúng con, sẽ được phúc các con của cô rất ngoan ngoãn dễ dạy và tình cảm hai vợ chồng cô rất đầm ấm”.

Các động vật trong mộng còn kể tôi nghe chúng chết làm sao, hồi làm người đã tạo ác nghiệp gì, luôn nói là chúng sẽ rất mang ân khi được phóng sinh!

Mà thực vậy, loài vật rất có tâm biết ân, tôi từng phóng sinh hồ ly.

Vậy mà ba lần, trong mộng chúng đã đến thăm tôi, bày tỏ niềm trân quý thân thiết, thậm chí còn báo trước cho tôi biết rất nhiều việc sắp xảy ra.

Chúng có thể biết trước tương lai sẽ phát sinh tai nạn nào.

Chẳng hạn như cuối tháng 6 năm ngoái, hồ ly đã báo mộng cho tôi, nói là tháng 7 sẽ có đại tai nạn.

Kết quả ngày 21 tháng 7 Bắc Kinh phát sinh lụt lội khủng khiếp.

Còn như trước khi Nhật Bản xảy ra đại địa chấn và sóng thần, thì loài cua (không phải là loài cua nhỏ như thông thường chúng ta nhìn thấy, mà loài cua này rất to, ít nhất cũng to bằng cái rỗ) đã báo trước cho tôi.

Trong mộng tôi thấy chúng lộ vẻ kinh hoảng lúng túng, từ đáy đại dương ngoi lên, bảo tôi:

-“Ngày thế giới diệt vong đến rồi!”

Hôm sau tôi kể cho chồng nghe là sẽ có địa chấn và sóng thần, kết quả ba ngày sau phát sinh địa chấn tại Nhật Bản.

Những động vật báo mộng này rất có linh tính, chúng biết rất nhiều về chân tướng sư thật của vũ trụ (không như con người chúng ta vẫn tưởng và cho là động vật là ngu si không có lý trí).

Tôi đã 11 lần mộng thấy ngày thế giới mạt (bắt đầu từ cơn địa chấn tại Vấn Châu).

Hoạn nạn này là do chúng ta sát sinh quá nhiều mà chiêu cảm nên.

(Có nghĩa là từ cơn địa chấn Vấn Châu đã khởi sự cho thời kỳ thế giới mạt) Nhưng nói tận thế hay thế giới diệt vong, không phải là địa cầu sẽ nổ, sẽ bị hủy diệt, hay nhân loại chết sạch hết, mà có nghĩa là tai nạn sẽ xảy ra rất nhiều, rất khủng khiếp.

Tận thế là dứt kiếp của người ác (có nghĩa đây là thời điểm trả báo, đến lúc diệt vong chung) của kẻ tạo nhiều lỗi (khi quả đã chín muồi thì báo tới), tai nạn chung chính là cộng nghiệp khiến người ta đồng thọ báo chung.

Trong mộng còn nói rõ, thế nhân đều biết năm 2012 là bắt đầu thời thế giới mạt, nhưng con người vẫn có thể sửa đổi, chuyển hóa bằng thiện nghiệp.

Song nếu như chúng ta vẫn sát sinh không ngừng, tùy tiện tạo đủ nghiệp ác thì sẽ rơi vào ngày mạt trên thế giới này, đây là kết quả của việc sống lầm lỗi mà nhân loại phải tự gánh.

Những năm gần đây tai nạn xảy ra liên miên bất đoạn, (bao gồm cả địa chấn đang xảy ra đương thời) đặc biệt là loài thủy tộc biết trước rất rõ.

Cách đây không lâu, cá chạch đã báo mộng cho tôi, nói do nhân loại ăn thịt thủy tộc và động vật rất nhiều, tất nhiên để rửa hận, chúng sẽ gây nên một trận ôn dịch báo oán khiến những kẻ sát hại chúng bị mạng vong.

Trong mộng chúng còn cảnh báo rằng: “lãng phí một chén cơm, sẽ bị đói và giảm thọ một ngày, giết một con gà v.v…sẽ giảm thọ một năm”.

Báo mộng Nhã An Lô Sơn bị địa chấn

Trước khi Lô Sơn bị địa chấn chừng 2-3 tháng, một buổi tối, tôi có mộng thấy cảnh địa chấn nhưng mơ hồ, nên không nghĩ là nó sẽ xảy ra nghiêm trọng đến vậy.

Vào đêm Lô Sơn địa chấn, trong mộng cảnh báo rằng nạn này là do rắn (một loài rồng nhỏ) báo thù, bởi vì chúng ta ăn con cái, thần dân của chúng quá nhiều.

Tâm oán hận của loài “long xà” rất mạnh liệt cho nên chúng sẽ báo thù rất mạnh.

Ở Tứ Xuyên do con người sát sinh quá dữ, nên tai kiếp khó tránh, vì vậy mà cả hai lần địa chấn đều xảy ra ở Tứ Xuyên.

Trong mộng còn nhắc nhở mọi người, năm nay phải nên phóng sinh thật nhiều rắn, hơn nữa phải thường đi chùa, tu thân tạo đức, mới có thể tránh được tai nạn sau này.

Nhưng nếu như con người cứ tiếp tục sát sinh, sau này thiên tai hoạn nạn sẽ dẫy đầy, rất khủng khiếp và người ác sẽ diệt vong trước nhất.

Báo Mộng địa chấn ở Vấn Châu:

Trước khi Vấn Châu bị địa chấn ước chừng 2-3 tháng, tôi mộng thấy mình đi qua một dãy nhà cửa, gạch ngói trên mái rơi xuống không ngừng, nhưng chẳng trúng tôi.

Toàn bộ lâu đài phòng ốc đều sụ đổ, chồng tôi ở trong đó cũng vô sự.

Tôi cho rằng đây là nhờ tôi thường phóng sinh, cho nên nhà và người không bị tai nạn.

Ai ngờ sau đó chẳng bao lâu thì Vấn Châu xảy ra địa chấn.

Trước khi bị địa chấn khoảng một tuần, tôi mộng thấy một con chó, (linh hồn là người, chỉ khoác bộ da chó bên ngoài thôi).

Nó kể tôi nghe đời trước nó làm người ở nhân gian, hiện vẫn còn thân quyến đang sống tại nước Úc và nó khoe rằng: sau trận địa chấn này nó sẽ chuyển sinh làm người, vì vậy lòng nó rất hoan hỷ (Đây chính là bằng chứng luân hồi).

Một chị bạn Phật tử kể với tôi, trước khi địa chấn, chị mộng thấy mình đến Vấn Xuyên, gặp rất nhiều người đang sắp hàng chờ xe.

Chị rất ngạc nhiên.

Không hiểu sao mình lại đến Vấn Xuyên?

Sau khi địa chấn phát sinh chị mới rõ, té ra những người tử vong trong trận địa chấn, danh sách họ sớm đã được báo đến âm phủ, đã có tên họ sẵn tại đó rồi.

Trước khi Vấn Châu địa chấn khoảng nửa tháng, một người cháu gái tôi mộng thấy mình đến âm phủ, gặp phụ thân (đã tạ thế) của cháu tay cầm một quyển sổ sinh tử điểm danh, rất đông người trong cảnh (đất núi rung chuyển) ùn ùn kéo đến, có vài bà con trong nhà cháu cũng đến đây.

Một vị âm sai đến bắt cháu, phụ thân thấy vậy liền đuổi theo vị này, ông kêu lớn và giận dữ bảo cháu:

- Ngươi đến đây làm gì?

Mau về đi!

- Rồi ông cho cháu một đạp, cháu liền tỉnh giấc.

Trước Vấn Châu địa chấn một ngày, mẫu thân tôi mộng thấy cả vạn người bị chôn sống, bên cạnh đó có mấy con chó.

Năm 1999 bà đi chùa gặp một quyển sách tên “Lưu Bá Ôn Bia Văn Ký” trong đây tiên tri, ghi toàn bộ quá trình, cảnh tưởng Vấn Châu bị địa chấn và liệt kê tên rất nhiều huyện bị tai nạn.

Nhưng trong sách này từ ngữ xưa không gọi là “địa chấn”, mà gọi là “địa động sơn rung”, còn tiên tri bằng mấy câu thơ như sau:

Vạn lượng hoàng kim hóa bụi tro

Cô nhi quả phụ khóc gào to

Ôn bì (hiện tại là huyện Bì)Trùng Khánh người chẳng thiện

Quán huyện (hiện tại là Đô Giang Yến) chỉ sợ khó thoát ra

Thập phương Bành huyện (hiện tại là Bành Châu) nhìn thấy rõ

Nam nữ xúm chạy ra ngoại đô

Miên Trúc, Miên Dương còn phân nửa

Nước cuốn thành trì máu nhuộm mờ

Xem ra trước khi tai nạn phát sinh, trong kinh thư đã ghi rõ hết rồi.

Những giấc mộng sau khi Vấn Châu địa chấn

Sau khi địa chấn Vấn Châu kết thúc, tôi mộng thấy 2-3 mươi điềm liên quan đến địa chấn Vấn Châu hết sức rõ ràng và lô-gích.

Sau đây tôi xin nêu mấy điềm mộng tương đối quan trọng cho mọi người phân tích, để hiểu rõ chân tướng sự thật.

Sau địa chấn hai ngày, tôi đến trước tượng Bồ Tát Quán Thế Âm khấn nguyện “Thưa Bồ Tát, xin Ngài hãy báo cho con biết, trận địa chấn lần này rốt cuộc là do nguyên nhân gì mà phát sinh?”

Tối đó Bồ Tát cho tôi thấy hai điềm mộng, giải thích rõ là có hai nguyên nhân:

Trong điềm mộng thứ nhất, tôi thấy có người không ngừng ăn vật gì đó, ý nghĩa giấc mộng này là: người Tứ Xuyên tham ăn thịt, hiếu sát, đã giết rất nhiều động vật để ăn.

Quả chín muồi, động vật được phép báo thù con người, dẫn khởi phát sinh trận địa chấn này.

Vì vậy mà giáo lý Phật luôn ngăn cấm không cho sát sinh!

Phật giáo cũng có những khai thị tương tự, giải thích rằng địa chấn xảy ra chủ yếu là do con người sát sinh quá nặng.

Bởi người ta ăn nhiều thịt (một người không phải chỉ ăn thịt một con vật mà là rất nhiều con, thiếu nợ mạng quá nhiều, trả không hết).

Khi những con vật này đến đòi nợ, thì tai ương phát sinh (do lòng báo thù đối với nhân loại tạo thành).

Điều này giải thích vì sao trước khi xảy ra địa chấn, động vật đều biết trước (chỉ duy nhất con người chúng ta là không biết thôi)

Điềm mộng thứ hai khiến tôi rất kinh ngạc, quá kinh ngạc!

Bởi vì tôi vốn chỉ nghĩ là tại một nguyên nhân sát sinh thôi, nào ngờ còn có nguyên nhân thứ hai, nguyên nhân khác nữa.

Trong mộng tôi thấy nhiều người tà dâm, bao gồm cả sinh viên, học sinh.

Quả báo trực tiếp của tà dâm chính là đời hậu duệ (con cháu) chết yểu, còn bạn thân phạm nhân sau sẽ tuyệt tử tuyệt tôn.

Thảo nào mà sinh viên, học sinh tử vong nhiều đến thế

Cũng không phải tất cả gia trưởng và học trò đều phạm lỗi này, nhưng đây chính là cộng nghiệp mà nhân loại đồng chiêu cảm.

Qua một thời gian, điềm mộng còn giải thích cho tôi hiểu thêm, lỗi chính là ở nơi giáo dục.

Gáo dục đã thiếu sót không đúng đắn.

Trong giấc mộng Bồ Tát giải thích cho tôi biết, trẻ con thời thơ ấu rất khả ái, trong sáng, nhưng khi chúng đến tuổi thanh xuân, do giáo dục không hoàn bị, chẳng hướng dẫn đúng nên nảy sinh tệ lậu.

GIÁO DỤC RẤT QUAN TRỌNG

Sự giáo huấn phải bắt đầu từ khi chúng ta sinh ra, những gì trẻ thấy và nghe sau khi ra đời, sẽ ảnh hưởng đến cách sống của chúng.Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Vì vậy chẳng những giáo dục có ảnh hưởng đến con người sau khi sinh mà thậm chí từ lúc thai nhi còn trong bụng mẹ.

Thí dụ như, nếu người mẹ thông minh sáng trí thì sẽ ảnh hưởng tốt đến đứa bé khiến nó trở nên khôn ngoan, hiếu học.

Nếu người mẹ thường hay nóng giận khi có thai, thì đứa bé chắc chắn sau này sẽ nóng tánh.

Nếu người mẹ bướng bỉnh không nghe lời chỉ dạy của bất cứ ai, thì con trẻ cũng trở nên khó dạy.

Cho nên, sự giáo huấn rất quan trọng, phải cẩn thận từ lúc mang thai.

Người mẹ tốt sẽ cống hiến cho xã hội những bậc hiền tài, vì vậy phụ nữ giữ vị trí rất quan trọng trong việc xây dựng nhân cách con trẻ.

Mọi phụ nữ phải học và biết cách giáo dục con cái, trách nhiệm này bắt đầu ngay từ lúc mang thai.

Trong thời gian mang thai, người mẹ không nên tham lam, ích kỉ hoặc nói dối.

Bởi người mẹ có những hành động tư tưởng xấu thì sẽ khiến đứa con bị ảnh hưởng theo và sẽ có những tư tưởng hành vi giống vậy.

Sau này lớn lên bé sẽ không thành công dân tốt được.

Các phụ huynh cần chú ý điểm này và cẩn thận giữ tư tưởng lành, dạy dỗ con mình ngay từ lúc còn trong bụng mẹ.

Là cha mẹ thì phải nêu gương tốt cho con, chẳng nên tranh cãi, ích kỉ, tham lam dối trá.

Vì con cái sẽ quan sát và bắt chước cha mẹ.

Con nít rất dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường chung quanh, vì vậy mà cha mẹ không nên lý luận rằng họ “chỉ sinh con chứ không thể dạy con được!”…Nếu không biết dạy dỗ con cho tốt, là không tròn trách nhiệm.

Nếu đứa bé lớn lên trở thành kẻ xấu, gây ra nhiều tai họa cho quốc gia và xã hội thì cha mẹ phải gánh trách nhiệm, có lỗi rất lớn, vì đã không dãy con nên người.

Do vậy mà các bậc cha mẹ nên đặt việc giáo dục con lên hàng đầu thay vì chỉ chú trọng đến kiếm tiền và theo đuổi danh vọng.

Nên xem giáo dục là nhiệm vụ quan trọng nhất, dạy con sống tốt là rất cần, rất quý và có giá trị hơn việc kiếm nhiều tiền bạc cho con.

Bởi nhờ hấp thụ nền giáo dục ưu mỹ mà con trẻ lớn lên biết cách sống, trở thành người đoan chính thanh liêm, lưu tâm giữ gìn thân thể.

Trẻ em trong thời gian thơ ấu chưa đi học, cha mẹ chịu trách nhiệm dạy dỗ con mình.

Sau khi trẻ vào trường, thầy cô phải là tấm gương cho học sinh.

Giúp các em phát triển nhân cách và đức hạnh.

Phải dạy các em hiếu thuận cha mẹ, cung kính người già.

Ngay từ đầu, giáo dục phải dạy các em về hiếu hạnh.

Ngay từ thời tiểu học, các em phải được giáo huấn về đạo hiếu, biết vâng lời cha mẹ và thường xuyên phụ giúp gia đình, làm vui lòng cha mẹ.

Thầy cô phải gánh vác trọng trách huấn luyện và rèn đúc trẻ em.

Phải dạy các học sinh không uống rượu, không hút thuốc, không hút các chất độc có ma túy, nhứt là không nên có quan hệ bất chánh với người khác phái.

Điềm mộng nhắc rằng nền giáo dục hiện nay rất sai lệch, có thể nói nền giáo dục toàn cầu đã đi đến giai đoạn suy sụp, người ta không quan tâm, không chú trọng, không biết giáo dục.

Nếu giáo huấn mà dạy về quan hệ tính dục là sai lầm hết sức lớn!

Đành rằng quan hệ tính dục có thể dạy nhưng nên dạy các em chẳng nên giao du bừa bãi, phóng túng, không nên quan hệ xô bồ, bất chánh.

Phải dạy các em biết tự trọng, giữ gìn bản thân trong sạch, nhắc các em phải bảo vệ thân thuần khiết như ngọc.

Đừng hấp tấp tìm tình yêu và có thể tìm hiểu về kiến thức tính dục khi các em trưởng thành.

Giáo dục bây giờ tệ lậu vì không chú trọng bồi đức lập hạnh cho trẻ, dẫn đến nam nữ quan hệ rất hỗn loạn, biến cuộc sống họ thành bất hảo và trưởng thành trong bất hạnh.

Trong mộng tôi thấy Bồ Tát Quan Thế Âm tha thiết kêu gọi: Hãy cứu các em!

Quả báo tà dâm thực sự rất kinh khủng, hai năm trước lúc tôi đi Ngũ Đài Sơn triều lễ, đã mộng thấy Bồ Tát Văn Thù bảo tôi: Nhớ kỹ, con về phải giải thích cho mọi người biết, nói rõ rằng: Hiện nay các vị bị ung bướu phụ khoa, nam khoa, đa phần là do quả báo phóng túng tình dục quá độ mà thành.

Bồ Tát nhắc nhở rất nhiều về giữ gìn đức hạnh, sống đoan chính.

Còn có một lần điềm mộng báo tôi rằng, hiện nay những người phóng túng tình dục, quan hệ tà vạy, phá bỏ con bừa bãi, sẽ tự chuốc họa và sau này dù kết hôn cũng rất khó có con.

Trong mộng còn nói: Con người không biết “Âm luật rất nghiêm”.

Điển hình là Thượng quan Ngọc Hoa từng mộng du địa phủ, sau đó đã viết cuốn “Âm luật vô tình” trong đây phần lớn ghi quả báo tà dâm rất thê thảm.

Điều này tuyệt đối có thật không dối.

Bởi vì trong mộng tôi cũng thường đến cõi âm và địa ngục, nên biết rõ sách này câu câu đều là lời chân thật.

Hai ngày sau đó, tôi mộng thấy mình đến Đô Giang Yến, đi đến khu tai nạn, khắp nơi là cảnh hoang tàn: tường đổ thành nghiêng, rồi tôi nhìn thấy vầng thái dương đen thẫm.

Hàm ý là sau này địa chấn sẽ càng lớn, (sự thật đã chứng minh, sau đó đất, biển, địa chấn làm chết rất nhiều người.

Qua mấy ngày nữa, tôi mộng thấy nhiều cánh tay và chân trong đống đổ nát hoang tàn, bên cạnh có một phụ nữ mặc áo hồng váy hoa, nửa thân trên bị bán thân bất toại, bà bảo tôi:

Sao chẳng để ta chết quách đi!

Tôi còn mộng thấy một bạn học tại Mỹ, cô này qua Mỹ rồi thì chúng tôi bặt liên lạc, cô ta tâm sự rằng:

Dù ở Mỹ cô luôn có chấn cảm (cảm giác động đất), máy vi tính của cô thường lắc lư đu đưa…

Điềm mộng này hàm ý là: Lần này địa chấn gây ảnh hưởng rất lớn, cần phải nhắc nhở toàn thế giới chú ý.

Sự thực đã chứng minh, sau này khắp nơi trên thế giới tai nạn ùn ùn kéo đến, phát sinh liên miên.

Có một pháp hữu bảo tôi: bạn của anh mộng thấy một nam sinh trung học than thở: “Tôi là người Đô Giang Yến, tôi muốn về nhà nhưng tìm không được đường về, xung quanh tối đen!”…

Tôi và người bạn này phân tích, có thể là nam sinh chết đã tìm anh bạn kia báo mộng, nhờ siêu độ

Mấy ngày sau nữa, tôi mộng thấy cái hồ, bên cạnh đó có nhiều nhái xanh.

Chúng bảo tôi:

Địa chấn rồi!Tôi thấy chúng kéo tôi ra từ một ngôi lầu cao, ở trước tòa nhà lầu này tôi cũng gắng sức gào lên: Địa chấn rồi!…chưa đầy một phút thì tòa lầu sụp đổ

Thực sự thì động vật đối với địa chấn biết rõ chuẩn xác từng giây phút, con người không hề biết điều này, họ có dự đoán địa chấn nhưng luôn không chính xác bởi vì: “Người tính không bằng trời tính” vậy

Khi tôi nhìn thấy toàn bộ cảnh địa chấn liên quan đến Vấn Châu qua ti vi rồi, tối đó tôi lại mơ thấy bên núi có rất nhiều thỏ rừng, động vật, v.v…Linh hồn chúng đều là người (toàn là người già và trẻ em), chỉ khoác bộ da con vật mà thôi.

Giấc mộng cảnh báo tôi: “Trận địa chấn này người già và trẻ em tử vong, do nghiệp chướng họ không nặng nên chết rồi đầu thai làm động vật nơi sơn khu, còn những người trẻ và hạng trung niên do tạo nghiệp quá nặng, nên sau khi chết thì họ đi thẳng xuống địa ngục đọa vào cõi quỷ”.

Một hôm tôi lại mộng thấy địa chấn, lâu đài cao ốc chấn động kịch liệt, trong mộng tôi đã niệm một câu tâm chú của Bồ Tát Quan Thế Âm “Án Ma Ni Bát Di Hồng” thì thấy lâu đài cao ốc không rung lắc nữa.

Hàm ý điềm mộng này là Tâm Chú của Bồ Tát là chú ngữ, tụng niệm có thể tiêu trừ nạn tai

Lại có lần tôi mộng thấy ngày diệt vong thế giới, không có thái dương, cả đám người đang sợ hãi hoảng loạn thì bỗng có một vị nữ sĩ dẫn đầu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Thái dương liền xuất hiện.

Điềm mộng này giải thích rằng: chỉ cần chúng ta hồi tâm hướng thiện, ăn chay niệm Phật thì có thể gặp dữ hóa lành.

Sau khi địa chấn xảy ra, các bạn của tôi cùng tụ lại bàn tán thắc mắc, không hiểu vì sao Bì huyện cách Đô Giang Yến gần như thế, mà không một ngôi nhà nào đổ sập, không có một người thương vong?

Tối đó trong mộng giải thích cho tôi biết là: “Hiện có một hành giả đạt đến đại thành tựu, là vị Phật sống đang ngụ ở Bì huyện, chính phúc đức của Ngài đã chở che cho mọi người.

Sau địa chấn một thời gian, tôi lên Nga Mi Sơn lễ Phật, trụ tại Thiện Giác Tự.

Tối đó tôi mơ thấy Mã Luật Khang bị địa chấn, tử thương (bốn ngàn vạn người) khắp nơi đầy lều bạt…Ý điềm mộng này rất rõ ràng, nói rõ kỳ này Vấn Châu bị địa chấn, ứng tại Mã Luật Khang, mức địa chấn nặng kinh khủng, ảnh hưởng lan rộng đến nhiều vùng chung quanh, gây thương vong rất lớn, có thể nhờ ở trên phát lòng từ bi, cho địa chấn dời đến sơn khu Vấn Châu, để kẻ tội nặng hưởng quả báo nhẹ, nhưng trận địa chấn này chắc chắn không thể tránh.

Sau đó tôi lại đi Nga Mi Sơn lễ Phật, cũng ngụ tại Thiện Giác Tự, tối đó điềm mộng mách tôi: người tử vong trong trận địa chấn này đầu thai làm các loài động vật trên núi (đương nhiên người đến địa ngục hoặc quỷ đạo sau khi nghiệp báo trả xong cũng sẽ đầu thai làm súc sinh), cuối cùng trong mộng còn nói: “Đây chính là bản chất của luân hồi”

Haiti địa chấn và Ngọc Thụ địa chấn, những địa chấn này tôi cũng mộng thấy trước, ở đây không giải thích cụ thể nhiều được.

Tôi biết đến Phật giáo năm 29 tuổi, quy y đã 11 năm.

Được Bồ Tát báo mộng khuyên tôi ăn chay, còn nói trong hai chúng tôi, sau này sẽ có một người bị ung bướu, bịnh này liên quan đến ăn thịt.

Tôi cảm thấy Bồ Tát từ bi nhắc nhở như thế, vội từ bỏ thịt, trường trai luôn.

Bồ Tát còn bảo tôi, những người uống rượu, hiện nay 20 tuổi đã bị đần độn và lão hóa, đến 40 tuổi càng nghiêm trọng hơn và 60 tuổi thì không thể nói năng.

Tôi mới hiểu ra, già lão thiểu năng có liên quan đến ẩm thực, hèn gì mà hiện thời tuổi trẻ hóa già, bị lú lẫn nhiều đến thế (nhưng chẳng phải tất cả người già lú lẫn đều do uống rượu tạo thành).

Hi vọng những điềm mộng của tôi có thể cảnh tỉnh được người “đang say ngủ”.

Cũng hi vọng những địa chấn này sẽ gióng lên hồi chuông cảnh báo, thức tỉnh những ai còn mê muội say đắm danh lợi ở thế gian.

34.

KINH NGHIỆM PHÓNG SINH

Tại Thẳm Quyến, có một nhóm cư sĩ trẻ học Phật, họ nghiêm trì giới luật, chuyên tu Chú Lăng Nghiêm, thường tổ chức phong sinh, chủ yếu là thả rắn và các loài động vật hoang dã.

Phóng sinh thường có nhiều cám ứng hay, xin kể vài câu chuyên có thật như sau:

Rắn mắt kính

Mùa đông năm ngoái một nhóm thanh niên Phật tử từ sáng sớm đã đến trang trại mua rắn, thấy trong chuồng vô số rắn, có một con rắn mắt kính khí thế hung dữ, người nhát gan vừa nhìn là ớn lạnh, sợ đến muốn chạy trốn.

Chủ trại rắn thấy váy bèn vạch miệng nó ra cho mọi người xem thấy nó không còn răng nào, vì đã bi nhổ sạch rồi.

Cả nhóm thấy vậy đồng ý mua nó cùng các con khác đem thả ở nơi thâm sơn xa người ở.

Hôm đó thời tiết rất lanh trời vốn đang ẩm u, nhưng lúc phóng sinh thì vầng thái dương bỗng xuất hiện chiếu ánh sáng chói lọi khiến mọi người đều cảm thấy ấm áp.

Một anh trong đoàn nhìn thấy con rắn mắt kính không răng nọ đã ngạc nhiên kêu lên:

– Chính con rắn này nè, nó giống hệt con độc xà đã báo mộng cho tôi tối qua.

Té ra là trong mộng con rắn mắt kinh này đã hướng anh van cầu.

– Xin hãy cứu tôi.

Xin hãy cứu tôi.

Qua đây có thể thấy chúng sinh đều rất có linh tính, ngàn vạn lần không nên ăn thịt chúng.

Mẹ con rắn lục

Lần nọ một anh thường tham gia phóng sinh, kể chúng tôi nghe tối nọ anh nằm mơ, thấy con rắn hóa thành một người già báo anh:

– Xin hãy cưu con tôi, con tôi đang rất nguy hiểm – Nói xong thì biến mất.

Hôm sau anh hẹn với mấy pháp hữu đi mua rắn, phát hiện trong bầy rắn lục nhỏ, bèn mua phóng sinh.

Tối đó, anh nằm mơ thấy con rắn lục nhỏ nhỏ nói:

– Rất cảm tạ ân các ngài đã cứu mạng.

Giờ xin biếu tôn ông một xâu chuỗi Phật để bày tỏ lòng cảm kích.

Hoa sen cá

Hôm đó, mọi người phóng sinh rất nhiều cá chạch, khi tụng Chú Lăng Nghiêm và hồi hướng xong, thì bầy cá chạch lao xao ngẩng đầu nhẩy lên, rồi chúng tản ra xếp thành hình giống như hoa sen.

Cảnh tượng cả bầy cá xếp thành hình những đóa hoa sen trang nghiêm trong nước khiến ai nhìn tâm tư cũng chấn động và kinh ngạc.

Nhân đây đạo tâm càng thêm kiên đinh, cùng nguyện tinh tấn tu hành.

Chú rùa xanh

Hôm sinh nhật Vương Tú, gia đình em mua mười mấy con rùa để phóng sinh, khi phóng sinh phát hiện một con rùa màu xanh bị thương trên lưng nên quyết định giữ nó lại đem về nhà chữa trị.

Cha Vương Tú săn sóc nó hai tuần, con rùa hồi phục rất nhanh.

Tối đó ông Vương nằm mộng, thấy một người mặc áo xanh, hướng ông bày tỏ lòng cảm tạ và nói:

Tôi hiện giờ thân thể đã mạnh khỏe xin hãy thả cho tôi về nhà.

Ổng Vương thức dậy lấy làm lạ, tự hỏi:

“Người mặc y phục xanh nay là ai.

Sao thuở giờ ta chưa gặp qua?

Lúc này ông đột nhiên nhớ đến con rùa xanh, vội chạy đến giờ thùng nhìn xem. thấy con rùa đang cố bò ra ngoài, ông Vương mới hiểu minh bạch.

– Té ra chú mày muốn về nhà ư?

Được.

Hôm nay ta sẽ thả chú.

Thế là ông cùng Vương Tu ra sông cẩn thành thả rùa xuống.

Con rùa ngoái đầu nhìn họ tỏ vẻ bịn rịn lưu luyến rồi chầm chậm bơi đi.

Hai người khách lạ

Hôm đó là ngày vía Bồ-tát Quan Âm thành đạo, sáng sớm tôi đã đến chợ mua hai con rùa và một số cá để phóng sinh.

Tụng kinh xong thì tôi thả chúng vào con sông gần đấy.

Tối đó tôi mơ thấy có hai người lưng đeo cặp sách, mời tôi đến hàn xá của họ uống trà.

Tôi theo họ đến một gian nhà, ngồi trước cái bàn tròn, uống trà xong hai người tiễn tôi ra cổng, còn cảm tạ:

– Hôm nay may được ông cứu mạng, chúng tôi cảm ân vô cùng.

Họ nói xong tôi tỉnh giấc.

Ngẫm nghĩ đến lời trong mộng đột nhiên nhớ đến hai con rùa mình đã thả hồi sáng.

Đúng là chúng đã đến cảm tạ tôi.

35.

QUẢ BÁO BẤT HIẾU

Con bất hiếu, cháu vô tình,

Ác tâm bỏ mẹ cha đói chết…

Thử hỏi thế nhân – tình nghĩa đâu?

Trời xanh chẳng tha thứ tội này!

Láng giềng kể tôi nghe câu chuyện xảy ra tại quê họ, hỏi:

– Đây có phải là nhân quả báo ứng như lời Phật dạy không?

“Tại thôn X huyện Y thuộc tỉnh Cát Lâm, có một gia đình tám người trong một thời gian ngắn xảy ra bi kịch mà khắp “mười phố tám quê” ai cũng biết.

Tuy đa số không hiểu Phật pháp là chi, nhưng ai cũng cho đây là báo ứng.

Hai vợ chồng trong gia đình này suốt bao năm dốc sức cấy cày nuôi dưỡng sáu người con gồm ba trai, ba gái, lo chu toàn trách nhiệm kẻ làm cha mẹ.

Họ cưới dâu, xây nhà cho con trai ra riêng, sắm đủ của hồi môn để gả con gái.

Thực hiện chu toàn những việc này không phải dễ, rất vất vả khó khăn, là điều hiển nhiên ai cũng thấy.

Người cha do lao lực quá độ mà bị bệnh nặng rồi qua đời.

Trong thôn ai cũng thở dài cảm thán, nói ông mệnh khổ, nhưng bà vợ của ông mệnh càng khổ hơn.

Vì chồng mất chưa đầy một tháng thì bà vợ bị xuất huyết não, dẫn đến bán thân bất toại phải nằm trên giường.

Tuy bản thân có thể dùng tay trái để ăn cơm, song không thể đi vệ sinh hay tắm rửa, rất cần có người dìu đỡ chăm sóc.

Sáu đứa con gồm trai lẫn gái và sáu dâu rể, tổng cộng là 12 người, chưa tính đến cháu, đã đối đãi như thế nào đối với người mẹ cả đời gian khổ vì con này?

Mới đầu họ sắp xếp hai người một nhóm, luân phiên chăm sóc mẹ.

Nhưng chẳng bao lâu, vợ chồng ba đứa con trai cảm thấy rất chán ngán, phiền mệt, nên trong nhà bắt đầu xảy ra chuyện.

Do giữa các nàng dâu và mấy cô con gái bất hòa, thường nổ ra gây cãi ầm ĩ.

Vì vậy, họ cấm không cho bên con gái đem cơm chăm sóc cho mẹ nữa.

Mới đầu, ba con trai còn cho mẹ ăn, uống chút đỉnh.

Sau đó họ nghĩ: “Nếu ăn uống thì phải đi nhà xí”…nên ba cô con dâu bắt đầu giảm khẩu phần ăn cho mẹ chồng.

Có khi cả ngày không cho bà dùng món chi cả.

Do con gái và ba cô con dâu không thuận hòa, nên mười ngày nửa tháng, họ cũng hiếm khi đến thăm.

Có lần ba cô con gái đến thăm mẹ, phát hiện ra bà yếu đến mức không còn sức, ghé sát tai vào mới nghe giọng bà thều thào:

– “Mẹ đói….mẹ đói”….

Thế là họ vội tìm chút gì đó cho mẹ ăn.

Nào ngờ, ba nàng dâu thấy vậy nổi cơn thịnh nộ, chạy đến chỗ mẹ chồng đang nằm lớn tiếng quát lên:

– Bà mới dùng xong hai chén cháo, sao còn đòi ăn nữa?

Có phải là muốn chết hay không?

Bà nói vậy khiến con gái bà tưởng là chúng tôi bất hiếu đấy!

Nhờ ba cô con gái kiên trì, cuối cùng bà cũng được dùng một chút ít.

Lúc cho mẹ ăn, ba cô gái thừa dịp chị dâu đi vắng, bèn luồn tay vào sờ thấy bụng mẹ hóp gầy, chứng tỏ lời ba chị là dối trá.

Thế là hôm sau, ba cô gái đem đến cho mẹ sáu cái trứng gà, bà mẹ ăn ngấu nghiến, chốc lát đã hết sạch.

Sau đó như được tăng lực, bà mách nhỏ với ba con gái:

– Các con không đến thì tụi nó một chút cơm nước cũng không cho mẹ dùng, chúng muốn để mẹ chết đói đó.

Mấy ngày sau ba cô gái lại mang đến cho mẹ thức ăn ngon để tẩm bổ.

Con gái đang cho bà ăn thì bị ba anh trai nhìn thấy.

Họ liền vào giật lại, ném xuống đất, dùng chân chà đạp lên thức ăn, phẫn nộ mắng em không được cho mẹ dùng, viện cớ là bệnh bà xuất huyết não không thể ăn được đồ bổ, dễ bị xuất huyết.

Họ bảo:

– Các cô mà làm mẹ chết thì ai chịu trách nhiệm đây?

Muốn lo cho mẹ thì hãy rước mẹ về mà lo, đừng có tới đây chăm ăn mà không chịu cưu mang.

Chuyện trong nhà họ chẳng mấy chốc lan ra cả thôn đều biết.

Không bao lâu, nơi sân họ vọng ra tiếng khóc lóc kêu gọi mẹ thảm thiết.

Sự nhẫn tâm bỏ mẹ đói khát khiến cho bà cụ xấu số, bất hạnh đã phải sớm lìa đời.

Tiếng các con bà khóc than, kêu gào nghe vang trời động đất.

Họ mặc áo tang đưa mẹ đi chôn, giấy tiền vàng mã được ném đầy lên không trung, bị cơn gió lạnh phẫn nộ thổi bay tứ tán.

Một tháng sau đó, cậu con trai cả bị nghẽn mạch máu não phải vào cấp cứu ở bệnh viện tỉnh.

Tuy được cứu sống, nhưng trở thành liệt nửa người, tay chân bị co rút.

Cậu cả xuất viện được một tháng thì cậu hai và nàng dâu cả tiếp nối vào bệnh viện.

Họ cũng bị y chang chứng nghẽn tắc mạch máu não.

Được 12 ngày, hai người này vẫn còn chưa xuất viện thì cô con gái thứ hai cũng đồng chứng bệnh như trên, phải nhập viện gấp.

Cô gái thứ hai xuất viện được hai ngày thì nàng dâu thứ ba cũng vào viện.

Không phải bị nghẽn mạch máu não, mà bị thủng bao tử.

Cô này vẫn còn đang điều trị thì chàng rể thứ ba bị xe tông văng ra xa hơn hai mét.

Lúc đưa đến bệnh viện tuy còn thở, nhưng toàn thân xương cốt đa phần đều bị gãy, xương gối trái thì bị nứt, gối phải dập nát, suốt mấy tháng liền không cử động được.

Tính ra, người mẹ chết chưa đầy một năm thì con trai, con gái, dâu, rể….đã liên tục nối đuôi nhau vào bệnh viện.

Người nào khi ra viện cũng tốn hơn vạn tiền.

Có người đã bình luận trường hợp của họ thế này: “Bệnh viện tỉnh đã được gia đình các nghịch tử này “nuôi tốt”, vì thu được bộn tiền”.

Trong thời gian đó, câu chuyện bất hiếu của họ được đồn vang khắp nơi, ai cũng biết.

Chuyện của họ trở thành đầu đề cho mọi người bàn tán lúc làm việc hay nhàn rỗi.

Mặc dù địa phương đó rất ít người tin Phật, nhưng trong lúc luận đàm, ai cũng nhất trí nói rằng: “Đây chính là báo ứng cho những kẻ làm con mà bất hiếu!”.

Chuyện vẫn chưa hết, cậu cả dù bị bán thân bất toại, nhưng hôm nọ khi di chuyển qua đường, lại bị xe tông thêm một nạn nữa làm tổn thương não, thành ra người thực vật.

Nghe nói đến nay vẫn còn nằm trong nhà.

Không bao lâu thì cậu hai bị viêm gan, bị cơn bệnh giày vò hành hạ hơn một năm thì chết.

Tiếp theo nàng dâu cả bị nghẽn máu não cũng lìa đời.

Láng giềng tôi kể: “Cháu trai, cháu gái nội ngoại đa số đều do một tay bà chăm sóc.

Nhưng lúc bà bệnh nằm viện suốt thời gian dài, không đứa nào ngó tới, nghe mà chạnh lòng”.

Chỉ mong các vị thiện tri thức dạy cho họ Phật pháp, để chuyển biến vận mệnh xấu về sau này.

Nếu không, thiên lý trừng phạt công minh, kết cuộc bi thảm của hậu bối bà thật khó mà tưởng tượng nổi.

“Nghịch tử cố ý bỏ mẹ đói khát, ngầm hại chết mẹ”.

Tuy dân chưa mách, quan chưa tra.

Họ tuy không bị quốc pháp trừng trị, thế nhưng “lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát”.

Những người con bất hiếu này, từng người, từng người đều thọ ác báo.

Đây thật là vạn sự vạn vật trên đời đều đang thuyết pháp cho chúng ta thấy.

“Thiện nhân thuyết pháp của thiện nhân, ác nhân thuyết pháp của ác nhân”.

Người thuyết pháp người, súc sinh thuyết pháp súc sinh”.

Bạn phải hiểu cho minh bạch, để mọi hành vi từ ăn, ở, đi đứng…đều áp dụng pháp Phật đã dạy.

Sống phải hành xử như thế nào, là do chính bạn quyết định.

Tôi đem những câu chuyện “hiện thế báo ứng trong đời sống” ghi vào đây chính là muốn cảnh báo nhắc nhở những người con bất hiếu nên cải tà quy chánh.

Nếu không, một khi ác báo tới, có hối hận thì cũng đã quá muộn màng.

36.

TUẦN THẤT ĐẦU TIÊN

Mùa đông năm 2009, cư sĩ Dung (tên thật đã được đổi) gọi điện cho tôi hỏi thăm chuyện in ấn kinh và sách thiện…Khi cô nghe nói nhà chúng tôi còn những sách hay khác nữa, bèn đến để xem.

Nữ sĩ này họ Chu, khoảng 40 tuổi.

Theo lời cô nói, cô mới theo học Phật không lâu, chuyện hỗ trợ in sách thiện là tâm nguyện của cô – vì muốn tạo công đức cho người mẹ vừa qua đời của mình, mong làm giảm bớt tội nghiệp cho mẹ.

Câu chuyện về mẫu thân cô, kể ra rất hi hữu kỳ lạ.

Được nghe rồi, tôi cảm thấy câu chuyện này nếu ghi lại, có thể giáo hóa, cảnh giới tốt cho những người con bất hiếu thời nay.

Mẹ Chu nữ sĩ là bà Vân, bị bệnh nặng và qua đời vào mùa thu 2009.

Nói đến nguyên nhân bệnh của bà, thật khiến cho người ta phải đau lòng.

Chính là do cô Nga – em dâu Chu nữ sĩ, cũng là con dâu bà Vân.

Lần nọ, trong lúc gây cãi, cô Nga đã khiến bà gia tức mà chết.

Em dâu Chu nữ sĩ là người cực kỳ bất hiếu với ba mẹ chồng, thường cùng mẹ chồng gây cãi như cơm bữa.

Ngay cả người cha chồng từ lâu bị bán thân bất toại, cô Nga cũng chẳng thèm quan tâm, chăm sóc.

Sau khi mẹ chồng qua đời rồi, cô Nga càng không có chút gì ăn năn sám hối.

Là chị, Chu nữ sĩ rất buồn trách người em dâu bất hiếu này.

Vào nửa đêm ngày thứ 7 (tính từ lúc bà Vân qua đời), Chu nữ sĩ đang ngồi một mình buồn nhớ mẫu thân nên cứ nhìn chăm chăm vào di ảnh của mẹ, hồi tưởng đến lòng thương yêu mẹ dành cho mình.

Ngay lúc đó, cô bỗng nghe tiếng mẹ gọi nhỏ tên mình.

Chu nữ sĩ liền tỉnh hẳn và thật bất ngờ khi thấy mẹ hiện ra ngay trước mắt, nhưng hình dạng mẫu thân có làm cô sợ hãi.

Mẹ Chu nữ sĩ mặc áo đi đường, phía trên thân bị đeo gông xiềng, lộ vẻ hết sức thống khổ.

Chu nữ sĩ làm gan, hỏi:

– Mẹ, phải mẹ đó không?

Mẫu thân cô kêu lên:

– Dung ơi, hôm nay là đêm vong linh được phép về nên mẹ đến thăm con.

Mẹ chết rồi, khi lên “Vọng hương đài” nhìn về quê nhà ở nhân gian, thấy con rất buồn, hàng ngày rơi lệ, mẹ đau lòng lắm.

Hôm nay được ngục quan phê chuẩn, cho phép tướng quân Ngưu đầu Mã diện dẫn mẹ về đây thăm con.

Chu nữ sĩ vội hỏi:

– Mẹ nói “Vọng hương đài” và tướng quân Ngưu, Mã gì?…Con nghe không hiểu?

Bà Vân đáp:

– “Vọng hương đài” là nơi địa phủ đặc biệt thiết lập cho người chết lên đó nhìn về cảnh quê nhà thân thuộc ở thế gian.

Tướng quân Ngưu, Mã – là ngục tốt ở âm cung (cũng giống như cảnh sát ở dương gian vậy).

Bọn họ hiện đang ở ngoài cửa chờ.

Chút nữa sẽ dẫn mẹ về địa ngục mà thọ tội.

– Mẹ ơi, vì sao mẹ phải xuống địa ngục thọ tội?

– Ôi Dung ơi, chết rồi mẹ mới biết tội mình quá lớn.

Con biết mẹ vì sao mà chết phải không?

Là tại cái đồ…con dâu bất hiếu nó chọc mẹ tức đến chết đó mà.

Nhưng thật ra đây cũng chính là báo ứng của mẹ.

Vì hồi còn trẻ mẹ cũng bất hiếu ác độc với bà nội con.

Ông nội con sớm qua đời, bà nội con phải sống cùng với cha con và mẹ.

Hễ bà nội con có làm chút gì trái ý, khiến mẹ không vừa lòng, là mẹ liền trách mắng…đến nỗi sau này bà nội con hễ vừa thấy mẹ đều run sợ như chuột gặp mèo.

Mẹ thấy vậy rất đắc ý, cảm giác trong nhà này mình là chủ rất oai phong, nói gì ai cũng phải nghe.

Có một việc con không biết, nguyên nhân bà nội con bị bệnh chính là do mẹ gây nên.

Ngờ đâu lần bệnh ấy bà nhập viện và qua đời luôn.

Bà bị mẹ làm cho tức chết đó!

Phần mẹ, lúc sắp lìa đời, khi mẹ nhìn thấy Ngưu đầu Mã diện đến đóng gông mẹ, mẹ đã kêu to rên rỉ, nhưng các con cứ nói rằng mẹ bị ảo giác…Kết quả, mẹ bị họ bắt hồn đem đi.

Xuống địa ngục mới hay tội lỗi mình nặng nề.

Có ngờ đâu chẳng hiếu kính với cha mẹ ruột lẫn cha mẹ bạn đời đều bị hành tội khổ như vậy.

– Mẹ ơi, mẹ nói bà nội bị mẹ làm sầu não mà nhập viện, sau đó qua đời?…Lúc này thình lình chồng Chu nữ sĩ xuất hiện (ông từ trong phòng bước ra) hỏi:

– Em đang trò chuyện với ai vậy?

– Là mẹ đó anh!

Mẹ đang về nè!

– Ở đâu?

Sao anh không thấy?

Tại em gần đây buồn nhớ mẹ dữ quá nên sinh ra ảo giác thôi.

– Không phải đâu.

Hôm nay là đêm vong linh về, là ngày mẹ được đến thăm mình.

Em đang trò chuyện cùng mẹ, anh không thấy mẹ đứng trong đây sao?

– Chẳng thấy gì ráo!

– Mẹ ơi, vì sao chồng con không nhìn thấy mẹ vậy?

– Dung à, đúng là nó không nhìn thấy ta.

Số con cũng khổ, phụ thân con thật đã làm khổ con, vì gả con cho người chồng như thế.

Chồng con là kẻ bất thiện!

Lúc này ông chồng đã kéo Chu nữ sĩ vào phòng, cô không chịu đi.

Đột nhiên, chồng cô hét to một tiếng: “Ôi mẹ ơi!” lộ vẻ kinh hãi như vừa gặp phải quỷ và chạy thẳng về phòng mình.

Dung ngơ ngác hỏi:

– Mẹ ơi, mẹ sao rồi?

Chợt nghe tiếng bà vang lên ngoài cửa:

– Cảm tạ các tướng quân Ngưu, Mã.

Xin hãy cho phép tôi nói với con gái cho xong chuyện…

Rồi bà bảo Chu nữ sĩ:

– Chồng con bị hai tướng quân Ngưu, Mã dọa chạy rồi.

Hiện giờ y đang hãi hùng, nằm trùm mền run lập cập kia, bảo đảm không còn dám chạy ra quấy nhiễu cuộc đàm thoại của hai mẹ con ta nữa.

– Mẹ ơi, chẳng phải là mẹ bị họ dùng xiềng xích trói hay sao?

Thế vì sao họ lại giúp mẹ và con chứ?

– Vì đây là trách nhiệm của họ…

Hôm nay mẹ đam câu chuyện bất hiếu của mình kể ra, để sau này con thông báo cho người đời biết, khiến thế nhân hiểu rõ tội bất hiếu lớn như thế nào.

Mẹ hy vọng thông qua chuyện này, những người con bất hiếu đang sống tại thế gian sẽ biết hối cải sửa đổi.

Nếu không, tương lai họ sẽ bị trừng phạt và thọ hình tàn khốc như mẹ ở địa ngục đây.

Tương lai mẹ còn phải vào chảo dầu thọ tội nữa.

– Mẹ nói sao, chảo dầu ư?

Con có nghe nhắc đến, nhưng đó chẳng phải là truyền thuyết hay sao?

– Con à, chẳng phải truyền thuyết đâu con.

Những người làm ác họ không hề tin Nhân Quả, cho nên họ cứ một bề đả kích địa ngục, bác bỏ Nhân quả báo ứng…

Nhưng không phải làm vậy là họ có thể thoát khỏi hình phạt.

Đây chẳng qua là họ tự dối gạt bản thân để mà trấn an mình thôi.

Từ hôm nay trở đi, con và em trai nên chuẩn bị lo hậu sự cho thân phụ đi, vì ba các con cũng không còn sống bao lâu nữa.

– Mẹ, vì sao ba không còn sống được lâu nữa?

– Con ơi, tội của ba con cũng không nhẹ đâu.

Hồi đó, khi ta chửi mắng mẹ chồng, ông không những không quở trách hay ngăn cản ta.

Ngược lại, còn để mặc ta cư xử hồ đồ tùy tiện.

Lẽ ra, ông phải là người tốt khuyên giải hai bên.

Ông cũng là đại bất hiếu!

Vì nếu ban sơ ta chửi mắng mẹ ông thì ông nên trị cho ta một trận, thậm chí có thể vì ta bất hiếu mà đề xuất ly hôn.

Như vậy thì ta sau đó ắt sẽ biết sợ mà không dám hiếp đáp hung dữ, quỷ thần cũng sẽ kính phục ông, đều là do ông dung túng cả.

Ngục quan ở âm cung rất xem thường những kẻ để vợ “hành sai quản bậy”.

Đối với những người con bất hiếu, hình phạt trị tội rất nặng.

Ba con mấy năm trước bị trúng gió bán thân bất toại, cũng là bị trừng phạt đó.

Hiện giờ, ông sống cũng không được con trai con dâu hiếu kính, chết rồi còn phải thọ khổ hình nữa.

– Đáng sợ quá, nhưng như vậy thì không đúng rồi.

Vì mẹ hồi còn sống ở dương gian ngoài tội bất hiếu với mẹ chồng ra thì cũng có làm nhiều việc tốt mà.

Thí dụ như năm ngoái Vấn Châu bị động đất, chẳng phải mẹ đã đóng góp 500 đồng sao?

Như thế đâu thể tính mẹ là người ác, vì sao vẫn phải chịu hình phạt?

– Con à, con không biết rồi.

Có nhiều người làm phúc thiện thấy dường như là có công đức, nhưng phúc kia không chống đỡ cho tội đại bất hiếu.

Con nghĩ mà xem, kẻ bất hiếu đối với cha mẹ có thể là người chân thiện được sao?

Còn nữa, năm ngoái, mẹ góp tiền không phải là thật lòng, vì đối với các nạn nhân bị động đất mẹ không hề có lòng đại từ ái.

Mẹ góp tiền là vì không muốn chị em bạn bè nói mẹ keo kiệt.

Nào có dè đâu, lòng mẹ nghĩ chi, ở địa ngục đều hiểu thấu ráo trọi và có ghi rõ hết…

Ngục quan nói mẹ cả đời tạo công đức rất ít, phần nhiều là thiện nhỏ, thiện giả dối, cho nên khó chống đỡ, khó phá tan tội bất hiếu được.

– Mẹ ơi, con phải làm sao cho mẹ giảm nhẹ tội đây?

Con đi chùa làm lễ siêu độ cho mẹ nha, nghe nói siêu độ có thể giúp thân quyến đã tử vong được lên thiên đường.

– Con à, nếu làm lễ siêu độ có thể giúp thân quyến đã chết sinh lên trời, thì người ác đâu còn bị trói buộc gì?

Chết rồi thì con cháu có thể xuất tiền ra làm siêu độ, cầu cho họ lên thiên đường là xong, như vậy thì trên trời sẽ có mấy kẻ ác này hay sao?

Con ơi, không dễ dàng như thế đâu.

Con cháu vì người quá cố làm lễ siêu độ là thể hiện hiếu tâm, mượn sức mạnh của pháp hội siêu độ để giảm bớt tội nghiệp thân nhân quá cố mà thôi.

Con vì mẹ làm siêu độ đương nhiên là việc cực kỳ tốt, mẹ không ngăn cản.

Nhưng tốt nhất con phải thường đi chùa, lấy danh nghĩa mẹ mà ấn tống kinh quý, sách thiện.

Còn nữa, con nên phóng sinh cho nhiều, như thế thống khổ của mẹ tại địa ngục sẽ giảm thiểu rất nhiều.

Còn nữa, phán quan nói con cùng Phật giáo có duyên, trải qua những việc trong hôm nay rồi, từ đây về sau con nên lui tới chùa thường.

Tương lai nếu con tu chí thành thì bản thân mẹ cũng nhờ vậy mà được giảm khổ.

Công đức con tu viên mãn thì mẹ cũng được sáng lây.

Đến lúc đó, mẹ mới thực sự được thăng thiên hưởng phúc…

Dung ơi, giờ đã đến lúc đi rồi, tướng quân Ngưu, Mã đang hối thúc mẹ kìa, mẹ phải đi đây.

– Mẹ ơi, sao con không nhìn thấy các tướng quân Ngưu, Mã?

– Ôi, ngốc ơi!

Ngàn vạn lần con không nên thấy họ.

Vì họ là hung thần ở địa ngục chuyên trừng trị kẻ ác, những kẻ xấu, làm ác chết rồi tự nhiên sẽ được thấy họ ngay thôi.

– Được rồi mẹ ơi, con nhất định sẽ làm y theo lời mẹ dặn.

Mẹ an tâm mà đi nhé.

Chu nữ sĩ lập tức ghi lại toàn bộ cuộc nói chuyện của hai mẹ con cô.

Hi vọng sáu đó sẽ đem câu chuyện này ra công bố để cảnh giác, răn nhắc những người con bất hiếu.

Cô nói với tôi, chồng cô từ trải qua kinh nghiệm đêm đó rồi, vừa nghe tin cô tính làm lễ cầu siêu và hành thiện để hồi hướng phúc cho mẫu thân thì đã sốt sắng đưa tiền.

(Nếu xem đến đây, bạn đọc có được chút tỉnh giác, ích lợi nào thì xin hồi hường phước điền này đến mẫu thân của Chu nữ sĩ, cầu cho bà sớm được lìa khổ, được vui).

37.

VI SAO CÔ ĐI TU?

Mùa thu năm 2003, một ngày trời trong đẹp, gió thổi hiu hiu, tôi và bạn già đi đến chùa Bàn Long nổi danh ở huyện Nguyên Thị tỉnh Hà Bắc.

Thắp hương lễ Phật xong, chúng tôi đi dạo nhìn ngắm cảnh trong chùa, lúc nảy có một sư nữ mặt tươi tắn, mỉm cười đón tiếp chúng tôi, trông cô rất hòa nhã thân thiện.

Bạn giả tôi bước lên trước chào hỏi:

– Thư Sư Phụ, chúng tôi là cư sĩ ở xa đến thăm chùa, có thể trò chuyện cùng sư được không ạ?

Cô vội đáp: – A Di Đà Phật!

Được ạ!

Tôi lên tiếng:

– Thưa cô, trong cô còn rất trẻ, vì sao muốn xuất gia?

Thế là vị sư nữ đem câu chuyện có thực đáng sợ (do mình đích thân chứng kiến), kể cho chúng tôi nghe.

” Tôi sinh trong một gia đình cán bộ quyền thế tại thành phố X thuộc miền đông bắc, cảnh nhà sinh hoạt rất sung túc, dư dật.

Từ nhỏ tôi chỉ cắp sách đi học mãi cho đến tốt nghiệp Đại Học Tài Chính.

Tốt nghiệp rồi thì làm ở cơ quan hơn mười năm, sau này chuyển qua công tác tại ngân hàng.

Chồng tôi thì làm việc trong cơ quan chính phủ, con trai đang học Cao trung.

Tôi luôn cảm thấy đời sống mình rất hạnh phúc, tôi có cha mẹ thân thuộc yêu thương, gia đình êm ấm, trong nhà không có gì phải sầu lo.

Mọi việc đều hết sức thuận lợi.

Nhưng ba năm trước tôi gặp một đại biến cố, khiến đời tôi thay đổi lớn, rẽ sang một hướng khác.

Ba năm trước tôi làm việc ở ngân hàng, đồng thời kiêm luôn chức “Nhân Viên Tài Vụ Công Ty Địa Ốc”.

Ngài Tổng giám đốc Công Ty Địa Ốc 46 tuổi, niên phú lực cường, quá khứ ông làm ở Công Ty Lương Thực, sau chuyển qua kinh doanh địa ốc.

Ông giàu vô kể, sở hữu ức vạn tài sản, làm ăn bề thế, rất có thực lực.

Năm đó ông chơi cổ phiếu, bi thua đậm.

Hôm đó chỉ trong mười lăm phút mà phải đền hơn 470 vạn, ông bị đá kích quá lớn, nên xuất huyết não mà chết.

Sau khi ông chết rồi, thần thức cư một bề đeo theo bên tôi.

Lúc sống ông cao 1m84 vây mà giờ nhìn thấy ông xuất hiện chỉ cao khoảng 1m, sắc da như màu đất. hình mạo giống hệt lúc còn sống.

Vừa nhìn thì biết ngay đây là ông Tổng, lúc đó bất kể tôi đi đâu ông đều theo đến đó.

Tôi không thế nhắm mắt. vì hễ vừa nhắm thì nhức đầu không chịu nổi. mà dù nhắm mắt cũng vẫn thấy ông.

Người nhà cho là tôi bất bình thường, nên cử người theo canh chừng tôi suốt ngày.

Mà tình huống tôi nhìn thấy, bọn họ không ai thấy.

Nên dù tôi có nói, có diễn tả cảnh mình thấy cũng chẳng ai tin.

Tôi muốn trốn ông Tổng cũng trốn không xong, tôi đáp phi cơ đến Bắc Kinh hay đi Thanh Đảo thì cũng có ông đeo theo.

Cảnh tượng này hành hạ tôi suốt 100 ngày.

Đáng sợ hơn nữa là, từ sau khi ông chết đi, cứ 7 ngày là tròn một tuần, mỗi khi qua một thất, trước mắt tôi lần lượt hiện từng cảnh nơi địa ngục, chỗ ông thọ khổ, thấy ông bị hành.phạt thê thảm, đáng sợ.

Tuần thất đầu tiên, tôi nhìn thấy mấy ngục tốt đến kéo lôi hai tay ông nhét vào lò thiêu nướng, chỉ nghe tiếng ông kêu la thảm thiết khi tay ông được rút ra rồi, nó cong vẹo đỏ bỏng như sắt nung lửa vậy, người cũng co rúm quắt queo.

Đến tuần thứ hai, hiện trước mắt tôi là địa ngục thiêu chân, tuần thất thứ ba, tôi thấy ông chân trần leo lên núi đao, máu tuôn dầm dề, tiếp theo tuần thứ 5,6,1 lại thấy ông bị đao phanh thây, mổ bụng, móc mắt, cưa chân v.v... thật là thảm và kinh khủng đến không dám nhìn.

Tôi cũng nghe ông lớn tiếng kêu rên, van xin tôi cứu ông (Nhưng tôi lúc đó chưa biết Phật pháp, đâu biết làm sao để cứu ông).

Trong suốt 100 ngày; cuối cùng thắng cảnh hiện, tôi bỗng thấy Bồ-tát Quan Thế Âm đứng trên đóa sen màu hồng, mặc y phục trắng, tướng mạo trang nghiêm thù thắng không gì sành, tôi ngắm nhìn thần thái thanh tịnh của Bồ-tát Quan Thế Âm, choáng ngợp vì ánh sáng rực rỡ trước mắt, thân tâm lập tức cảm thấy thanh lương, tinh thần sảng khoái vạn bội.

Chỉ nghe Bồ-tát Quan Âm tha thiết bảo:

– Con phải niệm Phật nhé!

Rồi Ngài phẩy nhẹ tay áo, trong chớp mất đã biến mất.

Tôi vội kêu lên, lay tỉnh người bạn cũng phòng, kể cô nghe cảnh mình thấy Quan Thế Âm Bồ-tát.

Thế là chúng tôi cùng đi mua hương, lư và tượng Quan Thế Âm.

Lúc tôi đốt cây hương đầu tiên, thì nhìn thấy Bồ-tát Quan Thế Âm trong chớp mắt hợp thành nhất thể với tượng Bồ-tát Quan Thế Âm, rồi nghe Ngài dạy:

– Hãy đến Bảo Hoa Tự đi! (Bảo Hoa Tự ở Liêu Ninh tỉnh Đại Liên)

Thế là cô bạn cùng tôi đến Bảo Hoa Tự, sư trong chùa giống như biết trước tôi sẽ đến, vừa gặp tôi, liền bảo:

– Ta đợi con lâu lắm rồi!

Sư còn nói:

– Con cần phải xuất gia!

Đến ngày 19 tháng 6, sư làm lễ cầu siêu cho ông Tổng.

Khi đó tôi cảm thấy đại địa chấn động, thấy ông Tổng từ trong địa ngục được cứu thoát, còn thấy từ trong địa ngục đưa ra vô số cánh tay, giống như kêu cứu vậy.

Siêu độ xong, sư bảo tôi:

– Ông Tổng đã được cứu khỏi địa ngục, đầu thai vào cõi súc sinh rồi.

Một năm sau, cũng nhằm ngày 16 tháng 9, tôi đang đi trẽn đường lân cận thì tình cờ gặp một con lừa, vừa nhìn thấy tôi nó không chịu đi, kêu thi nó chảy nước mắt, tôi không hiểu vì sao lại có chuyện này. về đến chùa thỉnh giáo sư phụ, ngài nói:

– Con lừa này chính là Tổng giám đốc của các con đó!

Thế là thân thích bằng hữu vội đi khắp nơi tìm con lừa, nhưng tìm không được.

Lại một năm trôi qua, hôm đó là ngày 28 thàng 4, con lừa sút dây trói chạy đến cổng chùa, mặc người lôi kéo hay đánh đuối, nó kêu không chịu đi.

Lúc đó sư trụ trì đang tọa thiền, nhưng ngài vẫn bảo tôi:

– Bên ngoài có con lừa tìm cô đó!

Tôi vội chạy ra ngoài cổng, con lừa thây tôi vội chạy đến, kêu lên và chảy nước mắt

Tôi bảo nó:

– Ngươi là Tổng giám đốc X phải không ?

Nếu phải thì gật đầu nha.

Nó nghe và hiểu lời tôi nói, liền gật gật đầu.

Sau đó tôi bào:

– Ta quy y cho ngươi, hãy lắng nghe nhé.

Tôi liền làm theo cách thức sư phụ dạy, quy y Tam bảo cho con lừa.

Làm lễ xong tôi nói:

– Bây giờ hãy dẫn ta đến nhà chủ của mi!

Lừa gật đầu.

Nó đi trước, tôi theo sau nhìn nó đi trên đường giống hệt như ông Tổng lúc còn sống vậy.

Về đến nơi, lừa nhìn tôi rồi nhìn ông chủ (ý như muốn bảo tôi đây là chủ nó).

Tôi hỏi ông ta con lừa sinh lúc nào?

Khi ông nói ngày, tháng, năm… tính ra đúng hợp với thời gian siêu độ ông tổng.

Ngay đó tôi tin chắc đây là ông Tổng từ địa ngục thoát ra sinh vào loài súc trong nhân gian.

Sau đó người nhà ông Tổng đến chuộc con lừa, đem nó phóng sinh trong chùa.

Sự việc này đã làm chấn đông tâm tư rất nhiều người.

Nguyên là công ty thiếu ngân hàng số tiền cực to (khoảng bảy ngàn vạn), nhưng ông Tổng lúc còn sống đã có ý không muốn trả, cho nên từ khi xảy ra sự việc “kinh thiên động địa” này và những người ở công ty đều tận mắt chứng kiến cả rồi, thì ông Phó tổng giám đốc công ty liền tự động hướng ngân hàng đền trả toàn bộ số nợ, thanh toán xong rồi, công ty này vẫn còn tiền dư.

Thân nhân bằng hữu và các đồng nghiệp của tôi sau sự cố đó đa số đều quy y Phật môn.

Do tôi đích thân trải qua sự kiện này vô cùng tin sâu lục đạo luân hồi là có thật không dối, thầm hiểu luật nhân quả báo ứng không sai mảy may.

Vì sao ông Tổng đọa địa ngục, nếm đủ hình phạt khổ đau?

Tất nhiên là do những nhân gieo không lành (nhưng đó là chuyện riêng của bản thân ông, tôi không muốn khơi lên làm gì).

Điều quan trọng là chuyện của ông đã khiến nhiều người thức tỉnh, cảnh giác, biết tự chấn chỉnh và tu sửa thân tâm cẩn mật hơn.

Cho dù hiện tại quý vị giàu sang, sở hữu ức vạn tài sản chăng nữa thì một khi chết đi rồi thì chẳng mang theo được một xu!

Đúng như cổ nhân từng nói: “Vạn thứ chẳng mang đi được chỉ có nghiệp đeo theo mình!”…

Tôi từ nhỏ sinh trong nhà giàu sang, lại là gia đình có địa vị quyền thế.

Tính ra các loài vật từ bay trên trời, đi dưới đất, bơi trong nước không gì mà tôi chưa ăn qua.

Nghiệp ác đã tạo cố nhiên rất sâu nặng.

Tôi thầm nghĩ: “Tương lai nếu như tôi và cha mẹ, quyến thân… bị đọa địa ngục, thì ai sẽ cứu chúng tôi ra đây?

Thế là tôi hạ quyết tâm, phải xuất gia tu hành nguyện tu cho đến khi chúng đạo vô thượng”.

Cô kể xong câu chuyện, vẫn còn rất cảm xúc, bùi ngùi thở dài.

Chúng tôi bị câu chuyện cô làm chấn động, tâm linh bị đả kích mãnh liệt, vì những kiến thức đã biết về lục đạo luân hồi, về nhân quả báo ứng trước đây, thảy đều chỉ đọc trong sách, nên cảm thấy cách minh rất xa.

Nhưng câu chuyện thực do vị sư nữ vừa kể ra đây lại xảy ra ngay trong thế kỷ 21 này.

Thời gian địa điểm người thực, việc thực rõ ràng bày ra trước mắt, sao có thể khiến người ta không kinh hồn bạt vía được chứ?

Xin ghi lại để chia sẻ cùng bạn đọc.

Từ Trí

Lời người dịch:

Đọc “Báo ứng Hiện Đời” chúng ta thấy rằng người đời mắc bịnh đa phần đều được quy vào các tội sát sinh, hoặc thân khẩu ý tạo ác.

Hòa thượng Diệu Pháp luôn bày cách trị bằng việc khuyên họ dứt sát án chay, và hiệu quả thường rất tốt.

Thế thì tại sao các tu sĩ vốn đã ăn chay tất nhiên thân khẩu ý cũng hằng thúc liễm.

Vậy mà nhiều người, thậm chí là các bậc cao đức lại bịnh triền miên đôi khi lại nặng nề và khó chữa hơn người đời rất nhiều?

Xin quý vị đọc trích đoạn giải đáp sau đây của Đại sư Ấn Quang và Hòa thượng Tuyên Hóa để hiểu rõ hơn:

38.

VÌ SAO CÁC TU SĨ HAY BỊNH NẶNG?

Vì sao các tu sĩ có những thành tựu cao tột lại bị nhiều hoạn nạn hoặc bịnh nặng trước khi ra đi?

Xem trong sử ta thấy chư vị cao tăng đều gặp nhiều tai nạn, bịnh nặng.

Lục Tổ Huệ Năng khi còn tại thế đã có người muốn sát hại ngài; sau khi ngài viên tịch, còn có người muốn chặt đầu ngài để mang về nhà thờ cúng.

Còn Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi đến Trung Hoa, ngài bị đầu độc và ám hại sáu lần.

Tổ Ấn Độ (thứ hai mươi bốn) là Tôn Giả Sư Tử thì bị chém đầu.

Trước khi Đại Sư Huyền Trang mất, ngài bị trượt chân té ngã, sau đó bị bệnh phải nằm lâu ngày trên giường, ngài nói:

“Tất cả những phiền não và ác nghiệp của tôi từ vô thủy đến nay, đều nhờ đức của cơn bệnh nhẹ này mà tiêu trừ hết.

Vì vậy tôi rất mừng”.

Luận Sư Giới Hiền, một vị Tăng tài đức nổi danh, lúc tuổi già bị bệnh nặng và bị hành hạ đau đớn đến muốn tự tử.

Sau đó ngài mơ thấy ba vị Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm khuyên bảo:

-“Con trước kia từng là một vị quốc vương gây nhiều khốn khổ cho chúng sanh cho nên nay phải chịu quả báo này.

Nhờ phúc tu nên những tội thay vì phải chịu phạt ờ địa ngục được chuyển thành cơn bịnh đau này.

Con ráng chịu đựng ba năm nữa, sẽ có sư Huyền Trang đi thỉnh kinh đến đây thọ học với con.

Con hãy thành tâm sám hối, kiên nhẫn chịu đựng đau khổ và tinh tấn xiển dương Kinh Luận, thì nghiệp chướng của con sẽ tự nhiên được tiêu trừ.”

Còn Hòa Thượng Hư Vân, thọ đến 120 tuổi.

Cuộc đời ngài trải qua mười nạn, bốn mươi tám biến cố.

Thậm chí khi ngài đã 112 tuổi, còn bị đệ tử “bán đứng”, bị cướp và bị quân binh Trung Quốc tra tấn rất dã man.

Ngài chết đi sống lại nhiều lần sau khi bị đánh đập bằng chùy sắt đến chảy máu và xương gân đều gãy đứt.

Đại Sư Hám Sơn Tử Bá, người đã để lại nhục thân bất hoại, đã phải thọ nhận sự tra tấn tàn bạo và chết vì cục bướu trên lưng.

Hòa Thượng Quảng Khâm, một vị cao tăng, cũng bị bệnh và viên tịch vào năm 1986.

Vị tăng sĩ tại chùa của Ngài đã kể:

-“Hòa Thượng nói rằng Ngài sẽ thị hiện bị bệnh lúc mất.

Có người nêu thắc mắc với Hoà Thượng Quảng Khâm rằng:

“Người đã chứng đắc rất cao trong việc tu hành, nhưng lại chết vì bệnh tật hoặc tai nạn, vậy có phải là định nghiệp của người đó khó thể chuyển đổi?”

Hòa Thượng Quảng Khâm trả lời:

-“Quý vị có thể nói định nghiệp của họ khó chuyển đổi, nhưng hãy hiểu rằng ‘người đó đang trả nghiệp hoặc chuyển trả bảo nặng thành nhẹ”…

Chỉ những người có tu hành mới gặp nhiều khổ nạn, trắc trở.

Đúng ra đây chính là công đức tu hành của bản thân họ đã giúp họ trả nghiệp nhanh, giải quyết mọi tội báo trong một lần, ngay trong một đời này.”

39.

HỒI KÝ CỦA SƯ HẰNG NGHIÊM

Vào thời Nhật xâm chiếm Trung Quốc, phi cơ Nhật oanh tạc cả tỉnh Hồ Bắc làng quê tôi.

Năm đó tôi 22 tuổi, cha mẹ dẫn hết cả nhà đến ga Hạ Thắng Kiều để lên xe lửa đi Trùng Khánh.

Nhưng mẹ tôi không kham nổi nhọc mệt đã chết trên đường.

Phụ thân cũng ly trần, tôi và vợ chồng người anh ấn trốn tại thôn Kim Ngưu.

Hàng ngày nhớ mẹ, mỗi tối tôi nhìn trăng nhắm hư không lễ bái, thầm cầu được biết phụ mẫu giờ đang ở đâu?

Ba ngày sau, một tối nọ, tôi đang buồn nhớ song thân thì thiếp đi.

Bỗng thấy có một vị xuất gia tướng mạo trang nghiêm, tay cầm phất trần bảo tôi:

– Con muốn gặp cha mẹ ư?

Ta sẽ dẫn đi!

Ông bảo tôi đi trước, chỉ thấy hai bên đường cây cối rậm rạp sầm uất nhưng sạch sẽ xanh tươi.

Không bao lâu thấy trước mắt xuất hiện một cái thành, cổng thành rất cao tôi phải ngước đầu lên nhìn, thấy trên cổng có đầy đinh nhọn.

Tôi cùng vị Tăng tiến tới, thấy bên trong cổng có một ngôi nhà to, cửa kính vị Tăng kêu tôi đứng đó đợi chút, để ông đi đăng ký, tôi hỏi: -Vỉ sao phải đăng ký?

ông bảo: Con còn phải trở về mà!

Trong lúc ông đăng ký tôi thấy một thanh niên mặc áo lam, quần dài.

Đây chẳng phái là biểu huynh con di hay sao?

Tôi mừng quá liền gọi: – Biểu ca!

Biểu ca!

-Thật lạ, anh giống như không thấy không nghe, chẳng hay biết chi, cứ lảm như không có việc gỉ.

Vị Tăng đăng ký xong, quay lại dẫn tôi đi.

Đi một quãng không xa lắm, tôi nhìn thấy một vùng thảo nguyên rộng lớn, có trâu bò, ngựa, heo, dê, nai v.v… các loài thú ở đây nhiều không kể xiết thấy trâu bò ven đường trừng mắt ngó mình, tôi phát sợ không dám đi vị Tăng phẩy phất trần một cái, chúng liền quay mặt đi.

Tôi nghĩ thầm những con vật này còn sống cả mà.

Bèn tiếp tục tiến tới thấy một vùng cây cối rậm rạp, cỏ hoa đủ màu sắc, phía trên có nhiều loài chim xinh đẹp bên dưới có nhiều gà vịt, ngỗng… toàn là loài điểu cầm hai chân.

Tôi đi tiếp không bao lâu thì thấy người chị họ (con dâu cô tôi) thân không mặc y phục chỉ khoác cái khăn lông trắng ngang eo, chị ngồi trên tảng đá, ôm một hài nhi, tóc dài xỏa đến lưng, nét mặt giống như ngủ vừa mới thức còn chưa kịp tẩy rửa nên khóe mắt vẫn còn đóng ghèn.

Tôi kêu tên chị nhưng chị cũng hệt như anh họ, không nghe hay thấy gì đến sự hiện diện của tôi, nên chẳng hề quay đầu.

Tôi không chịu nổi nữa bèn bước tới, vị Tăng vẫn theo sau.

Tiếp tục đi một quãng không xa, thì tôi thấy xuất hiện một cột đồng nóng đỏ tỏa khói, có người đang ôm chặt, giống như bị dán dính trên đó vậy.

Nhìn kỹ tôi giật mình: ‘Đây chẳng phải là thiếu gia X, láng giềng của tôi sao?

Vì sao mà phải thọ tội trên đó?

Vị Tăng nói:

– Ông ấy phạm tội hoang dâm (dụ dỗ các bé gái và hại đời họ) cho nên phải nhận hình phạt này.

Tôi nhớ hồi sống trên thế gian ông X làm nghề mộc, nhà rất giàu, tài sản lắm, cũng thường hay xuất tiền cứu tế cho người nghèo Vị thiếu gia này giỏi thi văn, làm việc vui vẻ thoải mái, ai mà dè tâm đầy tà dục (lén tạo lắm ác hạnh) do sống buông thả hoang dâm mà giờ phải thọ tội, chẳng biết thuở nào mới thoát khổ?

Giờ mới biết nếu phóng túng nhục dục thì “gái nằm giường lửa, trai ôm cột đồng”, câu này quả là có thật.

Người thế gian nếu biết rõ hình phạt này, há không cẩn thận ư?

Tôi phóng mắt nhìn ra phía trước, ôi chao!

Các quỷ mặt xanh cầm chỉa ba, đâm người vít quăng lên núi đao, thân họ bị cắt chém tơi tả, vỡ bụng lòi ruột.

Lại có quỷ dạ xoa rạch bụng người, moi tim, khoét mắt, móc lưỡi… còn thấy chảo dầu sôi nấu người, cưa sắt cưa đôi người, có người bị chém, thân chúc ngược trên tảng đá, máu me chảy tràn.

Trong đây vang rền tiếng kêu la rên xiết, âm thanh đau đớn nghe khủng khiếp cả tai, khiến tôi chẳng dám mở mắt ra nhìn, mà tai cũng nghe hết nổi, sợ đến run lẩy bẩy.

Tôi không cần hỏi vị Tăng, thừa biết đây là các chúng sinh tạo ác nên tự thọ quả báo, nhưng tận mắt chứng kiến thực sự quá kinh khủng và xót xa.

Tối không muốn xem những cảnh này nữa, liền quay mặt đi, chợt thấy có con lộ khác, liền rẽ vào đó, tôi đi mãi thì đến một ngôi nhả, thấy mẹ tôi đang ngồi trên giường, còn em gái tôi ngồi bên cạnh.

Tôi mừng quá vội gọi mẹ và lao tới ngồi cạnh mẫu thân.

Nhưng tất cả giống như hư vô, mẫu thân làm như không biết có tôi hiện diện.

Mới đầu trong lòng tôi khó chịu, cảm thấy rất tủi thân, cho rằng mẹ cư xử quá lạnh lùng xa lạ, không thèm lý tới mình, chỉ biết có muội muội, làm như tôi không phải con trai và chẳng nhớ gì đến tôi (trong khi tôi luôn thương nhớ bà).

Lúc này vị Tăng kêu tôi đi tiếp, tôi bất đắc dĩ phải bước đi.

Vị Tăng bảo – Hãy đi gặp bào huynh ngươi nhé!

Tôi hỏi: – Anh ấy chẳng phải ở trong ngục sao?

Vị Tăng đáp: -Y không có tội lớn, chỉ là người chồng thiếu trách nhiệm thôi (vì vợ bất hiếu mà không khuyên bảo).

Chẳng bao lâu chúng tôi đi đến một ngôi biện công sở, đây là một tòa lầu, tôi biết ca ca ở trên lầu, liền bước lên cầu thang, thấy ca ca đang ngồi đẩy mấy con số trên bàn tính, tôi mừng rỡ, gọi: – Anh ơi!

Nhưng anh cũng giống như những người thân tôi đã gặp qua nơi đây, hoàn toàn không thấy không nghe, không hay biết chi đến sự có mặt của tôi, nên chẳng thể giao tiếp.

Vị Tăng lại thúc tôi đi, đi mãi, hầu như đã qua không biết bao nhiêu lộ trình.

Tới một quang cảnh hết sức thanh u, rộng lớn, hiền hòa.

Tâm tôi thoải mái trở lại.

Tôi tiến đến một tòa nhà to lớn chói lọi sắc vàng, xung quanh có cửa sổ trong suốt, thấy phụ thân đang ngồi thiền ở trong.

Gặp tôi, ông liền hỏi:

– Ngươi đến làm gỉ?

Tôi chưa kịp đáp, vị Tăng đã gật đầu.

Cha tôi cũng gật đầu như lãnh hội ý ngài.

Tôi báo phụ thân: – Con không đi tiếp nữa! (và hoan hỉ ngồi bên phải phụ thân), cha tôi tuy chẳng nói, nhưng có vẻ như đã hiểu hành trình của tôi.

Được một lát vị Tăng bảo tôi đi, tôi không dám cãi đành đi tiếp.

Không bao lâu tôi đi đến một cây cầu, bề rộng khoảng 14-15 cm, vừa đặt chân lên tôi sợ quá vội rút về, kinh hãi bủn rủn.

Vị Tăng liền vung nhẹ phất trần, nói: – Đừng sợ!

Thế là tôi lại bước lên, cảm giác cầu rất kiên cố, không còn lắc lư, tôi an tâm đi thẳng tới.

Nhìn xuống bên dưới tôi thót tim vi thấy đầy máu đỏ, trong có lúc nhúc người (không rõ nam nữ), chẳng ai mặc y phục, còn bị mãng xà quấn quanh.

Họ giẫy giụa trồi hụp…

Tôi hỏi vị Tăng:

– Đây là thế nào?

Ngài đáp:

– Đó là ao máu dơ dâm dục, sinh sản!

– Vậy phải làm sao mới ổn?

Trưởng lão nói: – Phải tu hành!

Tôi hỏi: -Tu như thế nào?

Trưởng lão đáp:Giữ tâm thanh tịnh, giữ thân như ngọc sống liêm khiết, không dục nhiễm, không làm các điều ác, chuyên làm các việc lành (chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành).

Tôi hiểu rõ, “À” lên một tiếng to!

Tôi tiếp tục đi tới một quãng khống xa nhìn xuống thấy mầu xanh thăm thẳm chẳng biết là nước hay là trời?

Ngẩng đầu nhìn lên, mới hay nước trời một sắc, giống như ngày hạ ở Vạn Phật Thánh Thành, bầu trời quang đãng, vạn dặm xanh trong.

Đang lúc tôi say sưa chiêm ngưỡng cảnh đẹp thì bị vị Tăng đẩy một cái, thân tôi lăn tròn, bị cuốn nhanh đến tâm tư phát hoảng.

Tôi giật mình mở mắt, thấy mình đang tựa vào giường, y phục ướt đẫm mò hôi, tim hãy còn đập mạnh.

Té ra đây là giấc mộng, nhưng hồi tưởng lại, cảm giác vẫn rõ ràng như thực vậy.

Năm Dân Quốc 34 (1945) Trung Quốc kháng Nhật thắng lợi, thế giới hòa bình.

Tôi quay về cố hương.

Bước vào tầng ba nhà khách, thấy các bài vị trên bàn thờ đề tên ba người (anh họ, chị họ và anh ruột tôi).

Cô và chị dâu kéo tay tôi, khóc kể nỗi niềm ly biệt.

Tôi an ủi họ, đợi họ ngưng khóc, tôi hỏi:

– Lúc biểu huynh chết đã mặc áo lam quần dài như thế… phải không?

Cô tôi khẩn trương nắm tay tôi nói:

– Con không có mặt lúc nó qua đời, vì sao biết rõ như vậy?

Tôi đáp:

– Con đã nhìn thấy bọn họ mà, nhưng sao cô không mặc y phục cho chị?

Cô nói:

– May là con còn sống, cảm ơn trời Phật gia hộ con bình an vô sự, nhưng lúc biểu tỷ con lìa đời, con cũng chẳng có mặt, vì sao biết rỗ điều này?

Tôi kể mình mơ xuống âm cung và đã gặp tất cả (nhưng đó là chuyện cách đây hai năm rồi).

Nghe vậy cô mới an lòng, bèn thuật lại lúc biểu huynh tôi dứt hơi đã mặc đồ giống y như tôi tả.

Còn chị họ tôi mới sinh con được mười mấy ngày, lúc đó tiết trời rất nóng, chị đòi đi tắm.

Vừa gội đầu, tắm rửa xong, thì cảm thấy không khỏe, ngay đó chị tắt hơi.

Cô vội khoác cái khăn lông lên che thân cho chị, mấy ngày sau hài nhi cũng chết.

Cô phân trần nói tiếp:

-Trước khi liệm, cô có cho nó mặc áo thọ còn bỏ rất nhiều nệm chăn, y phục vào quan tài.

Hai vợ chồng nó trong một tháng mả lần lượt tạ the hết.

Biểu huynh biểu tỷ nguyên là vợ chồng (là con trai con dâu cô tôi).

Trong nhà tuy giàu có, nhưng chết rồi dù có mặc hay đắp cho nhiều y phục đến mấy cũng chẳng ích gì.

Lúc sinh tiền họ là phu phụ, nhưng chết rồi do nghiệp báo chẳng đồng, mỗi người đi một nơi, chẳng còn biết đến nhau nữa.

Mẫu thân và em gái tôi giống như sống trong cõi âm, chỉ có cha tôi lúc sinh tiền thường tụng “Kinh Kim Cang” và hay ngòi thiền, dạy con theo tinh thần nho gia: “Lời phi lễ chớ nói, điều phi lễ chớ nghe, cảnh phi lễ chớ nhìn, việc phi lễ chớ làm...Thà để người phụ ta chớ ta chẳng phụ người.

Phải đặt ta và cảnh người để thông cảm họ, muốn trách người trước phải tự trách mình”…

Những điều cha mẹ dạy, tôi thấm nhuần thành thói quen.

Hôm nay được tu học theo Phật, dù công phu chưa thành, song những đạo lý này luôn đem đến ích lợi khôn cùng.

Nhờ phụ thân sinh tiền học Phật nên hay cùng tôi trao đổi, nhờ vậy mà tôi mới bước vào đường đạo.

Học Phật không lâu, sau khi tụng kinh Địa Tạng rồi, tôi mới biết rõ vị Tăng đưa tôi đến âm cung gặp cha mẹ, chính là Bồ-tát Địa Tạng.

Chúng ta đến cõi đời này như lữ khách, dù sống trăm năm cũng giống như giấc mộng.

Khi lìa đời thì vạn thứ chẳng thể đem theo, chỉ có tay không đến chầu diêm chúa.

Xin hãy dừng mọi tranh giành hơn thua.

Những thăng trầm trong đời giống như vở kịch.

Một khi từ giã cõi đời, ta hoàn toàn mù tịt chỗ mình đến…

Nhưng A-tỳ địa ngục lại có rất nhiều người, một khi đọa vào bao giờ mới thoát ra?

Chỉ có thọ khổ triền miên, bất tận.

Xin nhớ lời thiện trí thức khuyên răn, đừng phút nào quên nỗi khổ nơi địa ngục.

Hãy dũng mãnh phát tâm tu hành giữ gìn thân, khẩu, ý, thanh tịnh.

Nếu quyết tâm tu một đời không thoái chuyển, sẽ thoát khổ trầm luân.

Dịch xong 24/10/2013

Nguyện đem công đức này,

Trang nghiêm cõi nước Phật

Trên đền bốn ân nặng,

Dưới cứu khổ muôn loài.

Nguyện những ai đọc, xem…

Đều phát tâm Bồ-đề,

Mãn một báo thân này,

Đồng sinh cõi hạnh phúc.
 
Báo Ứng Hiện Đời
Quyển 4


BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI

TẬP IV

Tác giả: Quả Khanh - Quả Hồng

Hạnh Đoan biên dịch

Nội dung chính

Lời giới thiệu 3

Tự thuật của Quả Hồng 4

Lời người dịch 8

1.

BÀN VỀ QUỶ THẦN 14

2.

QUAN ÂM CỨU NẠN 16

3.

CHƠI CỔ PHIẾU CHƯỚNG NGẠI TU HÀNH 18

4.

SỨC MẠNH CỦA SÁM HỐI 20

5.

LIỄU NGHIỆP 23

6.

THAI GIÁO TUYỆT VỜI 29

7.

PHÁ THAI LÀ TỘI NẶNG 34

8.

MÃ THANH 36

9.

PHẬT PHÁP THAY ĐỔI TÔI 39

10.

LÃO ĐIỀN 42

11.

CHUYẾN ĐỒI SỐ MỆNH 45

12.

THUỐC TRỊ HIẾM MUỘN 47

13.

KHÔNG NÊN ĂN THỊT CHÚNG SINH 51

14.

PHỈ BÁNG PHẬT PHÁP, PHẢI SÁM HỐI 55

14.

THIỆN NIỆM VÀ ÁC NIỆM 58

15.

TRONG CHẾT ĐƯỢC SỐNG 63

16.

HOÀNG ĐÌNH 66

17.

GẶP HUNG HÓA CÁT 69

18.

THIỆN THẦN HỘ TRÌ NGƯỜI TRÌ GIỚI 70

19.

BỊNH CỦA BA TÔI 73

20.

KHÔNG NÊN HAM CẦU THẦN THÔNG 76

21.

TỘI NẶNG BÁO NHẸ 80

22.

BỊNH NAN Y PHẢI CHÍ THÀNH SÁM HỐI 82

23.

BAY QUA MIỀN HẠNH PHÚC 83

24.

VỢ CHỒNG HỌ SỬ 92

25.

DIỄM TUYẾT 101

26.

MỐI TÌNH TAY BA 103

27.

QUẢ BÁO TÀ HẠNH 109

28.

ÁC BÁO SÁT SINH 111

29.

CẢNH SÁT VÀ PHÚ ÔNG 113

30.

HAI CẬU QUÝ TỬ 115

31.

CHỦ VÀ TỚ 117

32.

SỐNG LẠI 120

33.

ĐỒNG NGHIỆP CHIÊU CẢM 125

34.

TÌNH CHẤP TRÓI BUỘC 129

35.

MẸ CHỒNG NÀNG DÂU 132

36.

GIEO GÌ GẶT NẤY 135

37.

CON VẶT CHẾT THẢM 136

38.

CẢM ỨNG KHI SIÊU ĐỘ VONG LINH 138

39.

KHÔNG NÊN ĂN MẶC HỞ HANG 140

40.

LỜI SÁM HỐI CỦA CÔ NGƯỜI MẪU 143

41.

NIỀM ĐAU TUỔI NHỎ 158

42.

ANH BẠN KHÓ THỞ 162

43.

DỨT ÁC TU THIỆN 163

44.

LÒNG TỪ CỦA BỒ TÁT ĐỊA TẠNG 169

45.

LÝ DO TÔI ĐẾN VỚI ĐẠO 173

Lời giới thiệu

Ba tập Báo ứng hiện đời rất được độc giả ưa thích, tái bản liên tục.

Nhiều, bạn khuyên tôi viết tiếp.

Nhưng tôi nghĩ, có viết nhiều cho lắm thì vẫn là chuyện nhân quả, mà các độc giả thông minh sáng trí, chỉ cần xem một-hai cuốn là có thể hiểu rõ Phật lý và biết cách hành trì thế nào để tạo hạnh phúc cho mình và người…

Còn đối với người không có thiện căn, thì dù có đọc nhiều đến mấy họ cũng không hành theo, hoặc chỉ lo sùng mộ thần thông, ham biết tiền kiếp hậu kiếp, còn điểm chÍnh là ăn chay, hành thiện dứt ác, tịnh hóa thân khẩu ý… thì họ không lưu tâm.

Chưa kể đến những vị đọc mà khó chấp nhận, hoặc chẳng tin và không thèm tiếp thu…

Hiện nay những người mê thần thông, ưa hướng ngoại tìm cầu… có rất nhiều, đa số còn chạy khắp nơi tìm Hòa thượng Diệu Pháp và tôi.

Thậm chỉ ở Giang Tô, Thạch Gia Trang, Hà Bắc, Ngũ Đài Sơn v. v…

đều có người giả mạo, xưng là Hòa thượng Diệu Pháp (Vì vậy quý độc giả chẳng nên đi tìm gặp ngài! )

Nếu như đọc sách mà không biết hồi quang phản chiếu, phát tâm sám hối, y giáo phụng hành, thì cho dù quý vị có gặp Bồ-tát Quán Âm hay Bồ-tát Di Lặc… thì cũng chẳng ích chi, vì chằng biết sửa sai, không chịu hồi đầu hướng thiện…

Nhằm hạn chế bớt tình trạng (người gạt lường, mạo danh) như đã nêu, tôi cho mời nữ cư sĩ Quả Hồng, bảo cô đem các câu chuyện tu hành, những điều thấy nghe hữu ích… biên tập thành sách, giúp người đọc thâm tín nhân quả, từ bỏ điều ác, vui hành thiện, đồng thời cũng muôn nhắc nhờ rằng: bản chất môi người von có sẵn thần thông trí huệ (giống như nữ cư sĩ Quả Hồng vậy), chẳng nên tìm cầu ở bên ngoài…

Nếu mọi người chịu y theo pháp Phật, phát huy giới định huệ, chân chính tu hành… thì sẽ có đủ trí huệ độ người.

Những vị thầy “mắt sáng” này có khắp nơi, rất nhiều.

Chỉ cần bạn kiên định: lấy giới làm thầy, quyết tâm “đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, thiền tịnh song tu”, thì cuối cùng sẽ khai mở trí tuệ của mình, khi “thấy năm uẩn là không, liền vượt qua tất cả khổ ách ”…

Quả Khanh hổ thẹn kính ghi

20/7/2008

Tự thuật của Quả Hồng

Thời ấu thơ bé tí, tôi thường đứng trước gương suy nghĩ: “Người trong gương này là ai?

Là tôi ư?”… nhưng, y từ sinh đến tử thay đổi theo biến hóa vô thường, vậy tôi thực sự ở đâu?

Vấn đề này từng ám ảnh khiến tôi lao tâm khổ trí suy nghĩ nhiều năm, mãi tới khi tôi biết đến Phật giáo thì mới hiểu rõ minh bạch: “Tôi trong gương chỉ là một thể xác, một lớp vỏ ngoài (giống như căn nhà vậy) mà chủ nhà mới thực sự là tôi, xưa nay vốn đầy đủ Phật tính”.

Bắt đầu từ đó, tận đáy lòng sâu thẳm, tôi khao khát tìm ra chân lý bất biến vĩnh hằng của vũ trụ nhân sinh trong Phật pháp.

Năm tôi 18 tuổi, trong nước dấy lên phong trào tập luyện khí công cực thịnh, cho đây là cách “rèn thân luyện thể” lý tưởng.

Tôi cũng bắt đầu hùa theo học khí công, trong đây tôi thấy môn “Tỉnh công” hay và thích hợp nhất, vì có cho niệm: “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát”.

Có lẽ đây cũng là nhân duyên kiếp trước, bời tôi vừa nghe đến danh hiệu này thì thân tâm khoan khoái, tinh thần phấn khởi.

Thế là hằng ngày sớm tối tôi đều niệm danh hiệu Ngài, siêng năng luyện tập tĩnh tọa.

Lực gia trì của Bồ-tát Quan Thế Âm thật bất khả tư nghị, “ngàn xứ cầu ngàn xứ ứng”, Ngài đã mấy lần giúp tôi vượt qua cửa ải khó khăn trong đời sống, điều này càng khiến tôi tăng thêm niềm tin kiên định đối với việc trì danh Ngài.

Từ đó bất kể tôi đi đâu làm gì, hễ vừa ra khỏi cửa là tôi luôn niệm Phật Quan Thế Âm (niệm thầm hoặc niệm ra tiếng), đồng thời cũng âm thầm hạ quyết tâm, nguyện học theo, noi theo tinh thần đại từ đại bi của Bồ-tát Quan Thế Âm (tinh tấn tu hành làm lợi chúng sinh).

Người hướng dẫn tôi tập khí công và đặt chân vào con đường học Phật chân chính, đó là Ân sư cư sĩ Quả Khanh.

Lần đầu tụng Kinh Kim Cang, khi đọc đến câu:

Tất cả pháp hữu vi

Như mộng huyễn bọt sóng,

Như sương như điện chớp,

Cần phải quán như thế…

Thì trong tâm tôi chấn động không kềm được, trăm mối cảm xúc đan xen khiến tôi bật khóc to.

Tôi khóc vì nhiều năm nay mình trầm mê trong lục đạo luân hồi, quên mất diện mục bản lai, giống như đứa trẻ bị lạc đường không ai trợ giúp, bất kể gắng sức thế nào cũng tìm không ra lối về.

Bây giờ nhờ duyên lành mà được tiếp xúc với Phật pháp, khiến tâm trí tôi phát sáng, như vừa dẹp xong rừng cỏ mịt mù, tìm ra được hướng đi chân chính cho kiếp nhân sinh…

Tôi tự nhủ mình phải nắm ngay thời cơ, quay bước về nhà, dốc sức tu hành để sớm đạt giác ngộ…

Dưới sự hướng dẫn của ân sư Quả Khanh, tôi bắt đầu tụng “Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch về Tánh Thanh Tịnh” trong Kinh Lăng Nghiêm, tụng chú Lăng Nghiêm và quỳ lễ Đại sư Tuyên Hóa.

Tuy ngài đã viên tịch, nhưng ngài từng tuyên bố: “Những ai dù chưa thấy mặt nhưng có khát vọng muốn làm đệ tử ngài, thì thành tâm lễ bái ngài một vạn lễ, liền có thể thành đệ tử ngài”.

Vì thế mà tôi chí thành lễ bái… tròn nguyện rồi, thì thành đệ tử ngài Tuyên Hóa.

Ngài Tuyên Hóa là vị cao tăng mà tôi hết mực sùng kính – một vị thầy luôn xả thân vì người, đem thân làm gương, nghiêm trì giới luật – Sáu tôn chỉ tu hành ngài đặt ra: “không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không vọng ngữ”…

đã trở thành quy luật tu hành chuẩn mực cho tôi, giúp tôi giám sát từng khởi tâm động niệm của chính mình.

Kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật thuyết Bát Nhã Tam Muội, các kinh điển Đại thừa v.v… luôn nhắc nhở chúng ta phải đối với thầy như với Phật.

Trong quá trình đảnh lễ ngài Tuyên Hóa, tôi nhiều lần nằm mơ, thấy được Bồ-tát Quan Thế Âm gia trì, giống như những gì mô tả về Bồ- tát Quan Thế Âm trong Phẩm Phổ Môn, tôi cảm thấy nội tâm hết sức thanh tịnh, cho nên tôi một mực xem ngài Tuyên Hóa là hóa thân của Bồ-tát Quan Thế Âm.

Đọc “Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch về Tánh Thanh Tịnh” của ngài Tuyên Hóa giảng, giúp tôi hiểu rõ bốn điều tu căn bản là phải đoạn dâm, đoạn sát, đoạn trộm, đoạn dối…

Bốn điều này tương quan với nhau rất chặt chẽ.

Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới trộm cắp và vọng ngữ (nói láo)…

Muốn ra khỏi tam giới, thì phải tu trong từng khởi tâm động niệm, phải nghiêm trì giới luật…

Tính trọng yếu của giới luật, trong kinh Phật ghi rất nhiều.

Hơn 2500 năm trước, trước khi Phật Thích Ca nhập niết bàn, ngài A-nan từng hỏi:

– Lúc Phật tại thế mọi người nương Phật là thầy, vậy sau khi Ngài nhập niết bàn rồi, chúng con sẽ nương ai làm thầy?

Phật dịu dàng đáp: -Ta nhập niết bàn rồi thì các con nương giới làm thầy!…

Đủ thấy giới luật rất quan trọng.

Vì vậy chúng ta phải kiểm soát mình chặt chẽ, phải có đủ chánh tri chánh kiến, phá trừ mê chướng trùng trùng, hồi phục bản lai diện mục thanh tịnh, chứng đắc Phật quả vô thượng.

Nhà Phật nói: “Muốn biết nhân đời trước, xem thọ báo đời này.

Muốn biết quả đời sau, xem nhân gieo hiện tại”.

Hiện nay, thói đời ngày một suy, lòng người chẳng được như xưa, bây giờ là thời kỳ vật dục kim tiền, người ta vì danh vọng tư lợi, tạo lắm ác nghiệp chất chồng như: sát sinh, tà dâm, trộm cắp, nói dối gạt lường v.v… nên quả báo hiện đời cũng phát sinh theo.

Do con người sống sai trái bừa bãi, nên gặp đủ nạn tai như: đụng xe, rớt máy bay, động đất, sóng thần, cháy, lụt, gió bão v.v… khiến những ai chứng kiến phải kinh tâm, run rẩy…

Trước những tai nạn khủng khiếp như thế, chúng ta cần suy nghĩ: “Là do ai hủy hoại cân bằng sinh thái, hủy hoại môi trường tự nhiên, vì sao vào thời khoa học kỹ nghệ ngày một phát triển như thế mà chúng ta lại bất lực trước sự trừng phạt của thiên nhiên?”…

Chúng ta cần phải tỉnh táo, đây là cảnh cáo thiên nhiên dành cho chúng ta, nếu như nhân loại cứ mặc tình sống cuồng thì cuối cùng cũng là… tự vùi chôn mình.

Làm thế nào để xây dựng gia viên hài hòa, giúp nhân loại sống hạnh phúc, làm sao để tránh thiên tai nhân họa, để chúng ta an cư lạc nghiệp?

Những đáp án này đều có thể tìm được trong Phật pháp.

Phật luôn nhắc chúng ta:”Nên đoạn ác tu thiện, không sát, trộm, dâm, vọng, đoạn trừ ý niệm tư lợi ích kỷ, sửa đổi hành vi tập khí thói quen tạo lỗi của mình”… như thế mới có thể hạnh phúc an lạc, giữa người với người tự nhiên sẽ sống chung hài hòa, toàn xã hội có thể phát triển tốt.

Do những năm gần đây đạt được lợi ích trong quá trình học Phật, bản thân tôi và các cư sĩ bạn bè đều thâm cảm Phật pháp thật là mầu nhiệm bất khả tư nghị, nhân quả báo ứng không sai mảy may.

Vì vậy chúng tôi đem những điều thấy nghe đơn giản, biên lại thành tập, hi vọng thông qua đây mọi người thâm tín nhân quả, bỏ ác theo thiện.

Sách này viết ra với mục đích hi vọng chư vị bạn đạo đọc xong sẽ kiên định niềm tin học Phật, hằng tự tỉnh kiểm soát bản thân, phụng hành theo Phật pháp.

Dùng sự “chân tu thật chứng của mình” để cải tạo vận mệnh, lìa khổ được vui, thành tựu Phật đạo, và không còn “cầu pháp ngoài tâm” , khỏi phải bôn ba đi khắp nơi truy tìm người hiểu nhân quả hay kẻ có thần thông chi nữa.

Chúng ta cần nhớ kỷ, phải khắc cốt ghi tâm lờ dạy trong Kinh Kim cang “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, tất cả các Pháp của Phật đều vì trị bịnh của chúng sinh, vì những mê muội của chúng sinh mà thiết lập, vì vậy mới có câu “Pháp còn phải xả, huống chi là phi pháp”.

Những tên người liên quan đến nhân vật, địa danh trong bài viết… chúng tôi đều dùng bí danh, hóa danh hoặc ẩn danh.

Ngoài ra do năng lực bản thân hạn hẹp, ngôn ngữ và văn tự trong sách ắt còn nhiều thiếu sót.

Tha thiết xin chư thiện tri thức đồng tu tha lỗi và chỉ giáo cho.

Hậu học Quả Hồng kính ghi

Lời người dịch

Như Quả Khanh luôn nhắc nhở: độc giả không nên hướng ngoại tìm cầu, bôn ba đi tìm gặp ngài Diệu Pháp và ông cho bằng được (mà hãy nên thực hành những điều Hòa thượng Diệu Pháp dạy, sẽ hữu ích hơn).

Nhưng thực buồn cười là, vẫn có độc giả nhầm lẫn đến độ cho rằng tôi có thể giúp họ gặp ngài Diệu Pháp?

Tôi chỉ là người dịch tác phẩm, chuyển tài chuyện nhân quả cho quý vị xem mà thôi.

Đọc “Báo Ứng Hiện Đời 1-2”, chúng ta thấy ngài Diệu Pháp thật là siêu thoát tuyệt vời (qua ngòi bút miêu tả của Quả Khanh).

Lúc đó tác giả Quả Khanh chỉ là một người sơ cơ mới đến với đạo, chưa có kinh nghiệm gì nhiều.

Đến thời điểm này (thông qua các tác phẩm đã đọc) tôi biết rằng cư sĩ Quả Khanh sau khi thọ giáo với Hòa thượng Diệu Pháp rồi, dù tu tại gia nhưng ông hành trì Phật pháp rất cẩn mật, đã có được những kinh nghiệm tâm linh rất sâu và lực cảm hóa người cực mạnh…

đến nỗi nhiều người chỉ một lần gặp ông thôi, đã quyết tâm dứt ác hành thiện, nghiêm trì giới Phật, nguyện ăn chay vĩnh viễn…

Ông được mọi người ca ngợi là một hiền giả rất nhân hậu, khiêm cung, lực tu sâu…

Còn nữ cư sĩ Quả Hồng, mới đầu theo thọ giáo cư sĩ Quả Khanh, được Quả Khanh hướng dẫn, dìu đắt… cô chỉ thành hành trì pháp Phật và trở thành đệ tử ngài Tuyên Hỏa.

Tuy là cư sĩ tu tại gia, còn trẻ, nhưng nhờ cô nghiêm trì giới luật, tu hành cực kỳ miên mật, nên đã khai mở tuệ nhãn, được túc mệnh minh, có khả năng nhìn thấu ba thời.

Tuy có thần thông, nhưng cô không dùng đó để khoe khoang, mà tùy duyên gỡ rối, giúp người đoạn trừ tập khí xấu, tu tiến hơn.

Trong lời tâm sự, tự thuật, Quả Hồng không nói nhiều về khả năng mình.

Nhung theo tôi biết thì mỗi khi ai đến với cô và nếu thắc mắc… thì những gì họ đã làm trong quá khứ hoặc nhiều kiếp trước, sẽ hiện ra trước mắt cô như một cuộn phim…

Và cô thấy rõ những hành vi lỗi lầm trong quá khứ hay hiện tại của họ sẽ khiến tương lai họ chịu bảo ứng như thế nào…

Thậm chí có những lúc cần khắc phục ngay để hoàn thiện viên mãn hơn nhưng đương sự không biết, không nhận ra… thì cô sẽ chỉ cho họ sửa…

Do vậy mà những lời chỉ bảo của cô thường trang nghiêm, thẳng thắn, dứt khoát.

Cô không hề nói lấy lòng mà nhằm chỉ ra điều sai để đương sự tự sửa… trong khi Quả Khanh cũng cỏ khả năng nhìn thấu quả khứ, nhưng cung cách xây dựng của ông dịu dàng hơn.

Khả năng Quả Hồng tuy mạnh và vượt hơn Quả Khanh nhưng cô cực kỳ kính trọng Quả Khanh và luôn làm theo sự chỉ đạo của ông.

Đôi khi phải do chính Quả Khanh cổ vũ, khuyến khích cô mới chịu nói ra sự thực.

Nếu bạn đọc thắc mắc tại sao Quả Hồng là nữ cư sĩ mà sớm có khả năng thần thông, thì có thể nói: Điều này tùy thuộc lực tu sâu cạn, tùy thuộc giới định huệ của mỗi cá nhân.

Ngài Tuyên Hóa từng nói: “Thần thông ai cũng có, tâm tịnh thì diệu dụng tự hiện ”…

Nhưng thần thông sẽ trở nên nguy hiểm cho người sở hữu nó (nếu lòng họ còn ngã chấp, tham sân si, vì họ sẽ sử dụng nó vào việc hưởng lợi cho cái ngã, vì vậy rất dễ lạc tà).

Thần thông cao nhất mà Phật ca ngợi chính là “lậu tận thông” – sạch hết phiền não – Cho nên thay vì mong cầu thần thông, chúng ta nên tu sửa cho tâm thanh tịnh.

Hồ tâm trong thì muôn pháp tự hiện, diệu dụng phát huy…

Trong “Kinh Địa Tạng” Phẩm thứ nhất, Thánh nữ được đức “Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai ” khuyên chí thành niệm danh Ngài sẽ biết được chỗ của mẹ thác sinh…

Cô làm y vậy suốt một ngày đêm thì bỗng thấy thân mình xuống cõi địa ngục…

Đây là cô đến địa ngục thông qua định lực – Còn nàng Quang Mục (ở cuối phẩm thứ nhất của Kinh Địa Tạng), nửa đêm nhìn thấy Phật, là thông qua mộng chứ không phải do định lực – như vậy khả năng nhìn thấu ba thời của Quả Hồng thuộc về định lực – Đức Phật từng nói, Ngài và chư Bồ-tát thường hóa hiện trăm ngàn ức thân, dưới mọi hình thức: Trời, Người, Rồng, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ… thậm chí còn biến làm cây cỏ núi sông v.v…

để tùy duyên dẫn dắt chúng sinh vào đạo…

Dù Quả Khanh, Quả Hồng chỉ là những cư sĩ, song tầm độ sinh của họ rất đáng cho chúng ta kính phục, vì họ có thể giúp người chuyển hóa mạnh mẽ, tu sửa cực kỳ tốt.

Sức cảm hóa này không phải ai cũng làm được, và điều quý là họ không hề cổ súy tán dương thần thông hay khoe khoang mình.

Những câu chuyện được kể trong cuốn sách này, có thể bạn đọc sẽ thấy hoang đường, khó tin, thậm chí không tin.

Tôi cũng từng khó mà tin nổi…

Phật từng nhắc chúng ta: Đừng vội tin bất kỳ điều gì, dù đó là lời chư thánh, lời trong kinh điển hay do ngàn xưa truyền lại, nếu như ta chưa dùng trí tuệ để phán xét và thể nghiệm ”…

Phật không khuyên chúng ta tin mê, (mê tín), mà phải nhìn sự việc bằng trí và dựa theo nguyên tắc: Điều gì có lợi cho người, cho mình; không gây tổn hại ai thì nên làm.

Điều gì có lợi cho mình, cho người; mà gây tổn hại kẻ khác thì không nên làm.

Tất cả câu chuyện trong đây vì hạnh phúc độc giả mà được viết- dịch ra, tin hay không, tiếp thu thế nào – là quyền của quý vị.

Khi đi đường, nếu không rành luật giao thông, không tuân hành đúng luật, thì chúng ta dễ bị tai nạn xe.

Trong quốc gia, nếu không biết luật pháp và làm sai quốc pháp, chúng ta dễ bị phạt hay lắm cảnh tù tội…

Trong kiếp người, nếu không hiểu, không am tường luật nhân quả, chúng ta sẽ vô tình phạm lỗi, sống sai lầm và rơi vào ba nẻo ác…

Điều đáng lưu tâm là… những ai là đệ tử Phật, nếu chân chính hành trì pháp Phật thì sẽ không bao giờ nói dối, cho nên những câu chuyện kể trong đây mức độ chân thực luôn đáng tôn trọng, đáng tin (vì uy lực bất vọng ngữ của người Phật tử) hơn nữa nội dung trong đây có nhiều bài học quý, rất đáng cho chúng ta suy gẫm…

Vì tu sĩ đã biết Phật pháp, hiểu luật nhân quả, biết ăn chay tu hành, dù không có sách này, chư Sư vẫn có thể hưởng pháp hỷ an lạc…

Còn những người có tóc, chưa biết đạo, không rành luật nhân quả, chưa hiểu gì nhiều… (sẽ rất dễ dàng làm những việc tự hại mình mà không hay)…

Do những câu chuyện cảnh báo, gỡ rối trong đây, đa phần xảy ra từ giới có tóc (cư sĩ)…

Để nhắc nhở họ, Quả Hồng thường hay trích dẫn Phật pháp (điều này cần với người chưa biết, nhưng với người biết pháp quá nhiều, nếu đọc sẽ dễ sinh nhàm chán)…

Do vậy mà tôi thường nói vui là, tôi dịch cho hàng cư sĩ có tóc xem, còn giới tu sĩ chỉ “đọc ké” thôi Ị

Lưu ý: Từ ngữ “học Phật ” các tác giả hay dùng trong sách, không đơn thuần là học giáo lý, nghiên cứu pháp; mà bao gồm sự thực hành, tập tu, ăn chay, trì kinh, noi theo gương Phật, tập hành hạnh Phật, phát tâm rộng lớn, làm lợi ích chúng sinh…

Dịch phẩm này được chia làm hai phần:

Phần 1 là những câu chuyện do Quả Hồng viết, riêng mục “Giải thích thêm” ở cuối mỗi bài là của Quả Khanh.

Phần 2 là các kinh nghiệm do các tu sĩ hoặc cư sĩ tự thuật chia sẻ với bạn đọc.

Xin được gởi lời tri ân đến em Hồng Minh Châu, cô Nguyên Tâm, Diệu ân, Dương Bích Thủy, Liễu Thông… và biết bao người đã âm thầm hỗ trợ tôi.

Cảm tạ Út Chiến, Chánh Đạo, đã nhiệt tình giúp chỉnh sửa máy để tôi có thể hoàn thành tốt công việc.

Xin hồi hướng phước điền này đến chư vị ân nhân, hương linh cháu Carol Chi Phan… và tất cả những người có mặt trên thế gian này.

Tôi cũng xin cảm ơn những lời chia sẻ chân tình của quý độc giả.

Nếu “Báo Ứng Hiện Đời 1-2” giúp quý vị hiểu về nhân quả thì cuốn “Báo Ứng Hiện Đời 3 ” đã giúp độc giả tăng thêm niềm tin, tỉnh giác và phát tâm ăn chay mạnh mẽ hơn.

Đây quả là khích lệ vô biên cho dịch giả.

Cầu chúc quý vị luôn an lạc hạnh phúc, trí tuệ và lòng từ luôn tỏa sáng để cùng xây dựng nên một cõi nhân gian ưu mỹ.

Cuối cùng, xin hãy tha thứ cho những sai sót của người dịch.

Hạnh Đoan – 29/3/2013

Phần 1

1.

BÀN VỀ QUỶ THẦN

Trong Kinh Trường-A-Hàm, Phật khai thị:

“Trên thế gian này rất nhiều người không biết có luật nhân quả và sáu cõi luân hồi tồn tại.

Họ không tin trên đời có quỷ thần, cũng chẳng tin có Phật Bồ-tát, càng không tin là có quả báo.

Bởi những phàm phu này không có trí huệ và thần thông như Phật.

Tuy có mắt thịt nhưng họ hoàn toàn mù tịt chẳng thấy thấu đáo chân tướng vũ trụ sự vật”…

Dù vậy, chúng ta vẫn có thể nương vào trí tuệ chứng đắc viên mãn rốt ráo của Phật lưu lại trong các kinh điển, mà tạm biết sơ vài điều.

Xin giới thiệu với quý vị một đoạn khai thị của Phật trong Kinh Trường-A-Hàm liên quan đến quỷ thần, bạn xem xong thì sẽ hiểu rõ cảnh giới, trạng thái, tình huống của các loài quỷ thần, cũng sẽ hiểu được vì sao cảnh của người ác và người thiện khác biệt hẳn nhau.

“Phật bảo Tỳ-kheo:

-Tất cả nhà cửa nhân dân cư trú, đều có quỷ thần, nơi nào cũng có, tất cả đường hẻm, đại lộ, lò mổ, tiệm buôn, chợ búa, gò nổng…

đều có quỷ thần, không chỗ nào trống…

Chư quỷ thần thường lấy tên tùy theo chỗ họ gá nương, nương người tên người, nương thôn tên thôn, nương thành tên thành, nương nước tên nước, nương đất tên đất, nương núi tên núi, nương sông tên sông…

Phật bảo Tỳ-kheo:

– Tất cả cây cối dù nhỏ như trục xe, đều có quỷ thần tựa vào, chẳng đâu mà không có.

Tất cả nam nữ lúc mới sinh, đều có quỷ thần theo hộ.

Nếu tới hồi chết thì quỷ thủ hộ kia sẽ nhiếp tinh khí họ, nên họ ắt phải chết.

Phật bảo Tỳ-kheo: – Giả sử có ngoại đạo Phạm chí hỏi: – “Hiền giả, nếu tất cả nam nữ lúc mới sinh đều có quỷ thần theo hộ, đến khi họ phải chết thì quỷ thủ hộ sẽ nhiếp tinh khí, nên họ liền chết.

Thế thì, đời nay vì cớ nào mà có người bị quỷ thần quấy nhiễu?

Và ai không bị quỷ thần quấy nhiễu? ”…

Thì Tỳ-kheo ơi, con hãy đáp như thế này:

– Người đời do thường phạm luật, làm nhiều điều trái đạo, sai pháp, tạo mười nghiệp ác, tà kiến điên đảo…

Ví như người thế gian đây, dù có trăm, ngàn người… thì chỉ có một vị thần trông coi thôi (giống như bầy dê, dù có trăm ngàn, chỉ cần một người chăn là đủ).

Nhưng đối với người tu, luôn hành trì thiện pháp, thấy biết chân chánh, họ tin và thực hành đủ mười điều thiện… thì những người này dù chỉ cô một người, nhưng lại được tới trăm ngàn thần theo hộ (đây cũng giống như quốc vương, đại thần được trăm ngàn người theo hộ vệ vậy… người hành thiện kia cũng được hưởng giống như thế).

Do duyên cớ này, mà người đời có kẻ bị quỷ thần quấy nhiễu, có người lại không hề bị… là nhờ có thiện thần hộ!

Xem qua đoạn kinh Phật giải thích này rồi thì ta có thể thấu triệt “mối quan hệ giữa quỷ thần, nhân loại, sơn hà đại địa và cây cối hoa cỏ… trong thiên nhiên”.

Cũng giải thích rõ vì sao người ác hay bị quỷ thần quấy rối, người thiện thường được quỷ thần hộ vệ, không để bị hại…

Quyển “Báo ứng hiện đời” này ghi chép và liệt kê hàng loạt những kinh nghiệm nhân quả thực tế mà chúng tôi và bao người từng trải qua, cũng chứng minh những điều Phật giảng là chân ngữ.

Các chuyện như “Lòng tốt cây Tượng Ba”, “Công tử áo xanh”…(xem Báo ứng Hiện Đời tập 3), đều là những chuyện thực chứng minh: “có thần thức nương tựa cây cối cỏ hoa, thị hiện đủ loại hình tướng”…

Đúng như trong kinh Phật từng nói: “quỷ thần nương cây cỏ, lấy tên dựa theo đó”…

Chúng ta đã hiểu rõ lý này rồi, thì phải biết tất cả những hành vi tạo tác của ta – quỷ thần đều thấy biết hết! (huống chi là những bậc có trí huệ đạo cao thâm như chư Phật Bồ-tát?)…

Vậy thì vì sao thế nhân không dè dặt cẩn thận, vâng theo lời Phật dạy mà y giáo phụng hành?

2.

QUAN ÂM CỨU NẠN

Một ngày khoảng 8 giờ tối năm 1997, tôi vừa tan sở xong thi vội lên chuyến xe tối về nội thành.

Lúc này người trên xe rất ít, đi được nửa đường thì bỗng có 4 thanh niên say bí tỉ bước lên xe.

Trong tay mỗi người cầm một chai rượu, y phục xốc xếch, rỗ ràng là “say quắc cần câu”.

Một thanh niên trong đây thấy tôi ngồi một mình, liền bước xiêu vẹo tới ngồi cạnh tôi, còn tùy tiện gác một tay lên lưng ghế tôi, ba ông ma men kia thấy vậy đều nhào tới, ngồi xuống bao vây tôi.

Lúc đó tôi cảm thấy cực kỳ bất an, trong lòng hơi ớn nhưng ráng giữ bình tĩnh, nghiêm nghị bảo anh thanh niên ngồi sát tôi hãy bỏ tay xuống…

Kết quả, chẳng những anh ta không nghe mà còn phản ứng suồng sã táo tợn hơn (bằng cách choàng tay lên vai tôi, còn cười ha hả thật lớn).

Chắc chắn đây là một tên lưu manh!

Tôi muốn đổi chỗ nhưng gã chẳng cho tôi đi ra.

Tôi liền hướng anh bán vé cầu cứu, tôi kêu thật to: – Anh bán vé ơi!…

Anh bán vé từ từ đi tới, tên lưu manh này thấy vậy liền sa sầm mặt, vội xỉa tiền ra mua năm vé, còn chỉ chỉ vào tôi, trâng tráo bảo:

– Em gái này thuộc nhóm bọn tôi, người của nhau cả đấy!

Nghe vậy, tôi thật… có miệng mà nói khó khăn, nhưng vẫn ráng giải thích:

- Tôi không quen họ… anh đừng lấy tiền họ, vé của tôi… hãy để tôi mua!

Nói xong, tôi đưa mắt nhìn anh bán vé ngầm cầu giúp đỡ… nhưng anh ta chừng như quá sợ đám du côn này, khẽ liếc tôi một cái rồi lùi về chỗ mình ngay, anh ta cứ giả lơ, làm như không nghe thấy gì!

Còn lại mình tôi với đám lưu manh… không ai bảo vệ, trong lúc cực kỳ nguy cấp đó, tôi chỉ còn biết cầu Bồ-tát cứu mình thôi.

Tôi rất tin Bồ- tát Quan Âm “hữu cầu tất ứng”, trong lúc nguy nan sẽ chở che gia hộ bất tư nghi!

Giữa đêm tối bơ vơ không ai giúp đỡ, tôi đành chắp tay niệm thầm: “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát”…

Tôi nhất tâm khẩn cầu Ngài che chở, cứu tôi thoát khỏi cảnh nguy hiểm.

Dần dần nội tâm tôi trở nên bình tĩnh, Không còn căng thẳng, mà cũng chẳng còn sợ hãi nữa, vì ngay lúc đó tâm và Phật hiệu đã hợp nhất.

Khoảng chừng 15 phút sau, trong lúc tôi đang chuyên tâm nhất ý niệm danh Bồ-tát Quan Thế Âm, thi đột nhiên mấy gã say đang hùng hổ bao vây áp đảo tôi… bỗng thét lên thật to:

– TÀI XẾ!

MAU DỪNG LẠI!…

– Chuyện gì vậy?

Phiền phức quá đi!

Hiện xe đang chạy lên đường cao tốc, không thể dừng!

-Tài xế bực mình đáp.

– Quả thực chúng tôi không nhịn được, không nhịn được nữa rồi!…

Mau dừng xe lại!

DỪNG LẠI NGAY ĐI!

Gã ngồi cạnh tôi vừa nói vừa tỏ vẻ rất thống khổ…

Lúc này mấy gã say còn lại cũng quýnh quáng đứng dậy hết, đồng hoảng loạn la to:

– Mắc tiểu quá, hết nhịn nổi rồi, mau dừng xe!

CHÚNG TỒI MUỐN XUỒNG XE!

Tải xế vừa dừng thì bốn gã say vội nhào lăn xuống đường rối biến mất hút trong đêm…

Ông Tài xế chửi đổng một câu:

– Đồ thần kinh!

Rồi cho xe chạy tiếp.

Tôi thở phào nhẹ nhõm.

Trên xe bầu không khí giờ đã yên tĩnh trở lại.

Tôi hết sức cảm tạ Bồ- tát Quan Thế Âm đã ngầm gia trì, chính là nguyện lực từ bi của Ngài đã giúp tôi “hóa hiểm thành an”.

Đúng như trong Kinh Phổ Môn nói: “Chúng sinh bị khổn ách, vô lượng khổ bức thân, Quan Âm diệu trí lực, năng cứu khổ thế gian”…

Lúc ách nạn tôi được thọ ân như thế, xin mạo muội kể ra chia sẻ cùng người hữu duyên: tôi muốn nói rằng nếu bạn gặp nguy hiểm, lâm vào cảnh bơ vơ cô độc một mình không có ai chở che… thì hãy chí thành niệm danh Bồ-tát Quan Thế Âm, chỉ cần bạn thành tâm hết lòng, nhất định sẽ nhận được lực gia trì không thể nghĩ lường của Ngài.

3.

CHƠI CỔ PHIẾU CHƯỚNG NGẠI TU HÀNH

Trương cư sĩ học Phật rất tinh tiến, mười mấy năm như một ngày, nghiêm trì giới luật, tụng kinh bái sám, tổ chức phóng sinh, in kinh định kỳ…

Chỉ cần là việc lợi ích chúng sinh, ông đều phát tâm dốc sức làm, là một cư sĩ tu tại gia chân chính.

Mấy năm nay nhờ một bề dốc lòng bố thí, rộng trồng phúc điền, cho nên sự nghiệp kinh doanh “Đồ điện gia dụng” của cư sĩ phát hết sức thuận lợi, tích lũy được nhiều của cải, sống sung túc giàu sang.

Đầu năm nay, một người bạn đề nghị ông chơi cổ phiếu để tài sản tăng thêm.

Trương cư sĩ nghe nói rất thích, nếu thông qua thị trường cổ phiếu mà kiếm được nhiều tiền, rồi dùng vào việc lợi ích chúng sinh, thế chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện hay sao?

Ông vừa khởi tâm động niệm như vậy, thì tối đó trong mộng, thần hộ pháp lập tức nhắc nhở ông: “Người tu hành không nên chơi cổ phiếu”…

Sau khi tỉnh dậy, câu nói thần hộ pháp cứ văng vẳng bên tai khiến Trương cư sĩ suy ngẫm mãi, sau đó ông hoát nhiên hiểu ra: “Muốn tu cho thoát ly tam giới, đã thật tu thì không nên chơi cổ phiếu!

Vì cổ phiếu thường trồi lên trụt xuống, mà trong thị trường cổ phiếu có rất nhiều rủi ro (cá nhân hay thiểu số đều có tâm lý đầu cơ, khát vọng kiếm nhiều tiền trong đây)… vô tình giúp dục vọng và lòng tham không đáy của mình tăng trưởng, loại tâm tham này có thề gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự khang kiện tâm linh, nên đổi với người tu có hại hơn là lợi…

Chơi cổ phiếu tất phải quan niệm lo lắng rất nhiều, do vậy phiền não cũng phát sinh theo, lệ thuộc thị trường cổ phiếu chấn động hoặc tuột dốc, khiến tâm sinh bất an, chìm vào tính toán tiền bạc và bị vướng kẹt trong đó.

Một khi tâm thường lo sợ rối rắm thì khó bảo trì định lực, khó giữ được an lạc.

Thử hỏi, người tu mà lúc nào tâm cũng chộn rộn, phải lo tính toán về tiền (ưu tư vì triều lưu cổ phiếu), bị lệ thuộc vào chuyện được-mất như thế, thi làm sao có thể “viễn ly điên đảo mộng tường, đạt đến cứu cánh niết bàn?”

Tất nhiên nếu bạn đã phá hết chấp trước thì chẳng có gi để nói.

Thế nên tại đây xin chân thành cảnh tỉnh các pháp hữu: đã là người chân chánh tu hành thì không nên chơi cổ phiếu.

Giải thích thêm: Duyên khởi duyên diệt, thân ta có vạn mối khổ, vì cơm áo, ăn, ở mà hằng giờ hằng khắc đều khởi niệm tham chất chồng.

Đệ tử Phật chỉ cần tịnh tài, tịnh khoản…

để nuôi dưỡng sắc thân.

Tiền tài không thanh tịnh chớ nên dùng hay tích trữ…

Phải tin sâu nhân quả mới là con đường mưu sinh của người tại gia.

Nếu muốn tu hành chân thật, xin khuyên bạn những nghề nghiệp đầu cơ giống như chơi cổ phiếu cần phải cẩn trọng, lánh xa…

Lời người dịch:

Có thể sẽ có nhiều bạn cho rằng thực khắt khe khi nói: “Chơi cổ phiếu chướng ngại việc tu hành”…?

ở vị một tu sĩ, tôi cũng tán đồng bài này.

Vì nếu đầu tư vào cổ phiếu mà lòng tối ngày thấp thỏm không yên thì chính là vì vật chất mà ta đánh mất sự thanh tịnh, an bình của bản tâm.

Trong (Báo ứng Hiện Đời tập 3, trang 231) kể ông Tổng giám đốc Công Ty Địa ốc, giàu có tiền tỷ, tỷ…

Ông chơi cổ phiếu, có lần trong 15 phút mà bị mất tới 470 vạn, thế là ông chấn động, xuất huyết não và đột tử.

Cho nên chơi cổ phiếu gây chướng ngại là ở điểm này.

Còn nếu bạn chơi, mà dù cổ phiếu lên, xuống… trúng đậm hay thua to gì, lòng bạn vẫn thanh thản bình an… thì chẳng có gì đáng nói, bạn có toàn quyền quyết định theo ý thích của mình.

4.

SỨC MẠNH CỦA SÁM HỐI

Mỗi người chúng ta trong quá khứ vì thiếu hiểu biết mà tạo vô số ác nghiệp, khiến tự tánh quý giá bị ô nhiễm, vấy bẩn bụi trần.

Do tâm bị vô minh che lấp khiến chúng ta chẳng thể nhìn thấy ánh sáng quang minh.

Vì vậy cần phải quét sạch trần cấu.

Theo nhà Phật, phương pháp tẩy sạch trần cấu tốt nhất chính là sám hối (một trong các thiện hạnh như tụng kinh, lễ Phật, niệm Phật, trì chú v.v…)

Tổng giám đốc Trần là nữ doanh nhân, chủ một đại xí nghiệp thành đạt.

Bà học Phật đã hơn hai năm, dưới ảnh hưởng của bà, nhiều nhân viên trong xí nghiệp cũng bắt chước ăn chay tập tu theo.

Nhờ đó mà đời họ thay đổi, tinh thần phấn chấn, xí nghiệp càng phát mạnh, chất lượng sản phẩm thêm ổn định.

So với các xí nghiệp khác thì bà Trần là một nữ lãnh đạo nổi tiếng, được mọi người nhiệt liệt khâm phục, ngợi khen.

Ngày nọ bà Trần đến nhà tôi, kể về tình trạng sức khỏe mình.

Bà than thời gian gần đây mình hay bị nhức đầu dữ dội mà không rõ nguyên nhân, chứng bịnh này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác, sinh hoạt và việc tu tập của bà.

Lúc bà Trần đương kể lể về chứng nhức đầu, thì tôi bỗng nhìn thấy từ vai trái đến gáy của bà xuất hiện một con cá sấu thiệt to không ngừng cắn xé nơi cổ bà, khiến cho phần bên trái đầu, máu chẳng cung ứng đủ cho não, tôi không kìm được, vội hỏi:

– Bà có từng ăn thịt cá sấu hay loài vật hoang dã nào không?

– Ôi chao!

Tôi đã ăn qua rất nhiều thịt động vật – Bà Trần rầu rĩ nói – Trước đây, khi còn ăn mặn, do phải thường xuyên chiêu đãi xã giao với khách, nên tôi đã ăn hầu hết mọi loài hoang dã như: đà điểu, rùa, thỏ rừng, gà tuyết, độc xà, thậm chí cả cá sấu nữa!…

Nhưng mà thịt cá sấu tôi chỉ ăn qua có một lần, hơn nữa lại là dạng thịt đông lạnh, người ta đã giết sẵn trước đó rồi…

Tôi giải thích:

– Mặc dù bà chỉ ăn một miếng thịt, nhưng chính bà là người đứng ra mời khách, tự xuất tiền cho vụ tạo ác nghiệp này!

Phải biết những loài động vật hoang dã (tương tự cá sấu)… có tính linh rất lớn, chẳng nên tùy tiện giết nó.

Không nên vì ham ngon miệng no bụng mà ăn thịt chúng…

Ngài Tuyên Hóa từng giảng vì sao không nên sát sinh.

Lý do như sau: “Chúng ta ăn thịt chúng sinh, sẽ thu nạp khí và máu huyết súc sinh vào thân chúng ta, thần thức nó cũng đeo theo quấy phá”…

Chính con cá sấu đã ra tay báo thù, khiển thân thể bà luôn bịnh hoạn, cực suy!

Hiện giờ thần thức nó đang ở phía bên trái (từ vai đến gáy) của bà, nó không ngừng cắn xé cổ bà, làm cho não bên trái máu không cung ứng đủ, đó là nguyên nhân vì sao bà bị nhức đầu…

Bà Trần tỉnh ra:

– Nói như thế thì tội tôi quá lớn, vì tôi từng ăn qua rất nhiều động vật hoang dã, nhất định tôi phải sám hối, tụng kinh, phát nguyện… trước tiên phải hồi hướng cho con cá sấu này…

Tối đó, tắm rửa xong, bà Trần quỳ trước Phật tụng Kinh Địa Tạng hồi hướng cho con cá sấu đã bị giết hại.

Trong quá trình tụng kinh, bà ráng chịu đựng, kiên trì tụng hai bộ Kinh Địa Tạng và khắc phục được các chứng chóng mặt, nhức đầu…

Qua hôm sau, lúc gặp lại, tôi thấy tinh thần và tướng mạo bà đã có thay đổi tốt…

Mặt bắt đầu tươi tắn hồng hào, những vết ám đen cũng tan hơn phân nửa…

Chiều đó mấy đạo hữu đến thăm bà Trần, trước mặt mọi người, bà Tổng giám đốc oai vệ này đã buông bỏ hết vẻ cao ngạo quan liêu của mình, thành khẩn kể lể phát lộ những lỗi lầm mình từng phạm trong quá khứ, chân thành sám hối tội minh đã từng ăn và giết hại nhiều sinh vật, bà sám hối ngày xưa khỉ làm lãnh đạo đã có tâm cống cao ngã mạn, nóng nảy hẹp hòi, sám hối mình lúc chưa học Phật đã tạo nhiều ác nghiệp chất chồng…

Ngay lúc bà đang sám hối, những vết ám đen còn lưu trên mặt dần dần tan biến hết, thay vào đó là nét sáng rỡ, hồng hào tươi tắn…

Lúc này tôi nhìn thấy: những chúng sinh từng bị bà làm hại đang thấp thoáng ẩn hiện, dưới uy lực chân thành sám hối của bà, chúng sinh tâm tha thứ hỉ xả, rồi từng tốp, từng tốp cùng bay lên, trong chốc lát đã vãng sinh vào thiện đạo.

Sức mạnh sám hối thù thắng và cực kỳ lớn như thế, đã khiến mọi người xúc động sâu sắc, cả hội trường nhốn nháo, cùng nhau thú tội, thế là: “anh một câu tôi một câu”… ai cũng thành tâm phát lộ nhận lỗi, lao xao tự kiểm điềm ác nghiệp và những lầm lỡ, sai quấy mình đã tạo trong quá khứ…

Sức mạnh của sám hối đúng như Phật từng thuyết trong “Kinh nghiệp báo sal biệt” như sau: “Nếu người tạo tội nặng mà biết ăn năn tự trách, sám hối lỗi xưa, nguyện không tái phạm, ắt có thể nhổ sạch tận gốc mọi ác nghiệp”…

5.

LIỄU NGHIỆP

“ẰM” một tiếng, chiếc xe Tiền Khôn lái bỗng tông vào dãy phân cách trên đường, lúc đó tuy là ban đêm, nhưng đèn đường sáng choang, hơn nữa tốc độ xe không nhanh.

Nhưng chẳng biết vì sao tầm nhìn của Tiền Khôn trở nên hồ đồ, ông cảm thấy tấm kính chắn gió trước mắt đầy bụi, căn bản là không nhìn ra dãy phân cách ở phía trước.

Tùy theo tốc độ của xe mà dãy phân cách bị tông với mực độ tương đương.

Nghe chiếc xe phát ra âm thanh “kèn kẹt, kèn kẹt” bất thường, Tiền Khôn vội đạp thắng, mới phát hiện thắng xe đã hỏng.

Lúc này con gái ông ngồi phía sau căng thẳng la to:

– Ba ơi mau dừng lại, nếu không sẽ tông vào xe ở phía trước đó!

Nhưng chiếc xe không còn nghe theo điều khiển, nó tông thẳng vào dãy phân cách (ngay lúc này, tại khúc quanh bỗng có một chiếc xe vận tải xuất hiện), xe Tiền Khôn tông tiếp vào chiếc xe hàng này rồi mới dừng lại.

Màn đụng xe nguy hiểm xảy ra trước mắt đã nhanh chóng thu hút người quanh đó bu lại xem.

Lúc này đã 9 giờ đêm.

Mọi người đều cho rằng chắc người lái xe say rượu nên mới xảy ra tai nạn như thế.

Sau trận “tông-đụng” quá cỡ, xe Tiền Khôn toàn bộ đều biến dạng, miếng sắt của dãy phân cách bị xiên xẹo, rách méo, de ra và chĩa vào… cách đùi phải Tiền Khôn 10cm, nhờ vậy mà chân ông không bị thương.

Ngoại trừ chóp mũi bị trầy xước, chảy máu… và đùi bị sưng đỏ ra, bản thân Tiền Khôn không có gì đáng lo, đứa con gái chỉ bị xây xát nhẹ…

Chập sau, có một phụ nữ trung niên gương mặt xinh đẹp lộ vẻ thất thần, chạy đến chỗ xảy ra tai nạn.

Thấy vậy đứa con gái tên Linh Linh vội đưa tay ngoắc và kêu lớn:

– Má ơi!…

Nhìn thấy hai cha con bình an, bả mới bình tĩnh trở lại.

Người phụ nữ trung niên này vốn là một Phật tử thuần thành.

Bà ăn chay, niệm Phật, nghiêm trì giới luật, là một Phật tử tu hành tại gia gương mẫu, được nhiều bạn đạo cảm phục noi theo, ai nấy đều gọi bà là “Vương giáo sư”.

Từ sau khi bà học Phật rồi, trong gia đình có thay đổi lớn.

Đứa con gái vốn tính phóng túng ương bướng đã bắt đầu hiếu kính cha mẹ, cũng bắt chước ăn chay, niệm Phật theo.

“Cả nhà đồng tu, chắc chắn trí huệ xuất hiện”…

Chồng bà càng dốc sức ăn chay phóng sinh.

Họ học Phật chưa đầy bốn năm, đã trở thành một gia đình Phật hóa, sống gương mẫu và hạnh phúc đến nỗi nhiều người nhìn vào phải thèm muốn ước ao…

Vì sao gia đình Phật hóa này lại gặp tai nạn bất ngờ như thế?

Sự tình phát sinh bắt nguồn từ một tháng trước.

Sáng hôm đó, bà Vương đi chợ, người bán rau có ý tốt tặng cho bà mớ đậu ăn thử.

Đậu này nếu ăn sống thì không ổn.

Bà Vương do không rảnh nên đã ăn sống, kết quả bà bị thổ tả, sức khỏe suy yếu khó kham.

Do máu huyết không đủ, chứng đau lưng của bà tái phát.

Hay tin này rồi, tôi vốn là thầy thuốc, việc nghĩa chẳng từ nan, liền vội đến nhà bà chẩn trị.

Kết quả, chứng đau lưng đã thuyên giảm.

Lúc này trời đã khuya, khi tôi giã từ ra về, bà Vương liền nhờ chồng và con gái hộ tống tôi về nhà.

Họ đưa tôi về xong, trên đường quay về thì xảy ra hiểm nạn như thế.

Đêm đó, khi tôi nghe tin họ bị đụng xe rồi thì suốt đêm cứ trằn trọc lo lắng, không thể nào chợp mắt được.

Hôm sau, tôi mang tâm tư áy náy qua thăm, còn chuẩn bị cơm tối đem tới nhà họ.

Điều khiến tôi kinh ngạc là: trải qua một trận nạn tai kinh hoàng như thế, vậy mà cả nhà họ Vương tâm thái rất tốt.

Ai nấy đều xúm nhau sám hối sát nghiệp đã tạo trong dĩ vãng, đồng cảm ân Phật lực gia tri, khiến họ tội nặng được trả báo nhẹ nên mới bình an.

Cả nhà họ Vương hiểu sâu sắc rằng, quả báo thống khổ này nhất định là do các nhân xấu kiếp xưa họ từng tạo, khó thể dung thứ.

Kinh Đại Bảo Tích nói: “Già sử trải qua trăm ngàn kiếp, nghiệp đã tạo không mất, nhân duyên hội đủ thì quả báo đến liền thọ”…

Phật vì chúng ta tuyên thuyết chân lý thường hằng bất biến của vũ trụ.

Nguyên nhân xảy ra tai nạn xe bất ngờ này bắt nguồn từ một lỗi lầm thê thảm, giờ tôi xin kể ra câu chuyện nhân quả này để mọi người thêm kiên định đạo tâm, cùng dứt ác hành thiện.

Truy về nguồn cội té ra hạt giống không lành này được gieo vào đời Thanh:

“Thuở xa xưa đó, bà Vương, Tiền Khôn và đứa con gái Linh Linh – đều là nam nhân, đồng kết bái huynh đệ, đối với nhau thân thiết như ruột thịt – Lúc đó cả ba đồng làm quan cho triều đình, họ cư xử chính trực với người, không dung túng giả ngụy… do vậy mà đắc tội với những kẻ có tâm địa tiểu nhân…

Nhóm quan bụng dạ xấu xa này âm thầm cấu kết, lợi dụng trong tay đang có quyền lực, đã nhiều phen ám hại hòng loại trừ ba người này, (xem họ như cái gai trong mắt)…

Nhưng bao lần lập mưu gian đều không đạt thành.

Cuối cùng, trong một vụ xử trọng án “đoạt quyền soán vị”, đám quan ác này đã rắp tâm giá họa vu oan cho ba người là “đồng đảng phản tặc”, và đã ngụy tạo vật chứng, nhân chứng đầy đủ…

Kết quả, triều đình lập tức truyền lịnh truy nã…

Ba người này được mật báo trước nên kịp thời đào nạn, trốn vào thâm sơn.

Nhưng đám quan tiểu nhân không nản lòng, chúng liên kết hợp tấu với triều đỉnh, cho bắt những bạn bè thân thích từng quan hệ mật thiết với họ, đem trừng phạt nặng, làm lớp chết, lớp bị thương, gieo hoảng loạn trong lòng người, khiến không ai dám giúp ba người này nữa…

Trốn tại thâm sơn hoang vu vắng bặt bóng người, cả ba kẻ hàm oan không hề hay biết chuyện này. về sau, khi nhận được hung tin: các thân hữu của mình bị liên lụy, đã lãnh thảm nạn cả rồi, thi họ đồng hiểu lầm, cho là do Trương đại nhân (người xét xử án) đã cố ý hãm hại họ…

Thực ra Trương đại nhân tuyệt không phải là người xấu, ông bị ép phải xử án này, nhưng ngay khi vừa tiếp nhận án, thì chính ông đã phái người ngầm báo tin cho ba người hay trước đề họ kịp đào nạn).

Do không biết rõ mình được ông âm thầm cứu nguy, nên cả ba người đồng phát thệ: sẽ báo thù cho những bạn bè thân thích của họ!

Sau khi bàn bạc xong, vị đại ca (là Linh Linh) bèn phác thảo mưu kế, đánh lừa Trương đại nhân.

Họ bắn tin, hẹn ông ra ngoại thành vào rừng gặp nhau, và cho nhị ca (tức Tiền Khôn) phục sẵn, rồi từ phía sau bất ngờ tấn công đánh úp, dùng thủ đoạn tàn nhẫn sát hại ông Trương, phần tam đệ (là bà Vương đời nay) có bổn phận canh chừng…

Thời đó tôi lả một trong những thân thích của họ.

Khi tôi vào rừng, chứng kiến hành động của ba anh em kết bái này, chẳng những tôi không can ngăn, mà còn mang theo thức ăn tiếp tế hỗ trợ…

Tôi lấy bánh bao đưa cho họ ăn, ba người ăn no rồi thì vội đem xác ông Trương thiêu hủy và chạy trốn…

Phần tôi thì giả vờ như không hay biết chuyện gì, lo di tản đi xa (bỏ về quê).

Từ đó Trương đại nhân bặt tin ở chốn nhân gian.

Vì vậy mà đời này tôi cũng phải thọ báo.

Ngay tối đó khi mang thức ăn vào trong nhà bếp cho Vương cư sĩ, tôi mới cầm cốc lên chuẩn bị rót trà, thì bỗng trợt chân, té nhào trên đất, và cái cốc vuột tay văng tưng, rồi rơi xuống nền gạch nghe “keng” một tiếng nhưng không vở.

Điều này khiến mọi người âm thầm thấm thía nhân duyên quả báo…

Chúng tôi đều hiểu rõ, nếu không nhờ chúng tôi đồng phát tâm tu theo Phật pháp thì quả báo khủng khiếp có thể tưởng tượng được, vì nhân như thế, ắt quả phải như thế!…

Sau khi về nhà mình rồi, tôi ôm mãi niềm ăn năn day dứt, thầm sám hối trong lòng, vì đời quá khứ đã từng hợp lực, làm hại Trương đại nhân tốt bụng.

Trước bệ Phật tôi quỳ tụng bảy biến Kinh Địa Tạng, thiết tha hồi hướng cầu siêu cho ông Trương.

Ngày thứ ba, khi tôi tụng hồi hướng xong, đột nhiên nghe bên tai vang lên tiếng nói thật nhẹ: – Tôi đi đây!

Tôi liền bảo ông ta:

– Mong anh qui y Tam bảo, niệm Phật thật nhiều, dứt ác hành thiện, khéo phát đại Bồ-đề tâm, làm lợi ích chúng sinh, cầu anh ngay đây được vãng sinh thiện đạo, thính pháp nghe kinh, tu hành thật tốt, sớm đến bờ giác…

Qua việc này có thể biết, tất cả những gì ta gặp trong đời, đều không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, mà do quả báo chiêu cảm thuộc nhân gieo thuở trước.

Chỉ vì chúng sinh mê muội nghiệp nặng, nhìn không thấu…

Vậy mới có câu: “Bồ-tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”…

Thế nên, khi đối diện với hoàn cảnh chông gai không thuận lợi, phải bình thản tiếp nhận báo ứng, nỗ lực tạo nghiệp tốt, lo sửa lỗi, hành thiện, dốc sức tu trì để cứu chuộc lỗi xưa.

Lời người dịch:

Có lẽ bạn đọc sẽ thắc mắc, vì sao gia đình Tiền Khôn biết được nguồn cội ân oán đời quá khứ?

Tất nhiên Quả Hồng thì dư biết điều này rồi.

Nhưng nhà Tiền Khôn là gia đinh Phật hóa, tu hành nghiêm cẩn theo pháp Phật, nếu không biết quá khứ thông qua định lực thì vẫn có thể mộng thấy, hoặc do người báo oán nhắc.

Xin dẫn chứng bằng hai câu chuyện:

1.

Phật tử Diệu Ân kể tôi nghe chị có người bạn là X, cứ than thở sao mình vướng phải nợ nần khốn khổ, vì vậy X đã trì kinh và chí thành nguyện trước Phật xin cho mình hiểu rõ nguyên nhân từ đâu?

Sau đó X nằm mộng thấy kiếp trước mình vào nhà người gặp món tiền rất lớn (người ta để hớ hênh).

X khởi tâm tham trộm lấy, chưa kịp cất thì bỗng có nhiều người bước vào nhà.

Hoảng sợ nên X vội lao vào nhà vệ sinh, bỏ tiền vào bồn cầu bấm nước dội phi tang, để không bị lộ tẩy là minh ăn cắp… dù tiền đó chưa xài được, nhưng tội đã tạo thành, do vậy mà đời này X phải trả nợ liên miên…

Thức dậy, X tỉnh ra và nguyện từ đây tu sửa đàng hoàng, không còn than thở vì “nợ vô lý ập đẩu nữa”.

Kể xong câu chuyện này X nói:

– Mình làm mình chịu chứ biết trách ai?

Gieo nhân xấu thì phải gặt quả không lành thôi!

2.

Một người bạn khác của Diệu Ân, kể rằng đêm đó cô đang ngồi trì chú Đại Bi, thì bỗng dưng nhìn thấu xuống địa ngục, thấy mẹ mình bị hành hình thê thảm…

đang khủng khiếp vì cảnh tượng địa ngục thì cô nghe tiếng xe chồng cô chạy về… và bừng tỉnh.

Sau việc đó cô phát nguyện từ đây vĩnh viễn tu hành để thoát ly cõi khổ…

Đây là việc thường xảy ra.

Cho nên, những cảnh giới kiếp trước hay cõi khác… người bình thường cũng có thể thấy đến, chứ không phải có thần thông mới biết.

6.

THAI GIÁO TUYỆT VỜI

Lời người dịch:

Thoạt đầu, khi đọc đến tựa của câu chuyện này, tôi đã rất thờ ơ, không muốn dịch.

Nhưng sau đó, tôi ráng đọc thử xem tác giả muốn nói gì và câu chuyện đã khiến tôi cảm động.

Xin được chia sẻ cùng bạn đọc, nhất là chư Phật tử tại gia, những người trẻ tuổi sắp làm cha mẹ.

Tiết Đình là một nhạc công.

Khi mang thai cô bắt đầu có niềm tin chân chánh đối với Phật giáo nên phát tâm nghiêm trì ngũ giới, tập tu theo pháp Phật và quyết định giáo dục thai nhi theo Phật giáo.

Chúng ta hãy nghe Tiết Đình thuật lại câu chuyện giao cảm tâm linh thần kỳ giữa hai mẹ con họ:

“Sau khi kết hôn, vì muốn đứa con sinh ra được khỏe mạnh thông minh nên tôi rất chú trọng ẩm thực, lo tập luyện, chuẩn bị chu đáo đủ cách.

Thấy trong “Kinh Địa Tạng” ghi rằng: “Chúng sinh ở cõi Ta Bà, đời vị lai, những người sắp sinh con, nếu trong 7 ngày mà tụng kinh Địa Tạng bất khả tư nghì này và niệm danh hiệu Bồ-tát Địa Tạng đủ vạn biến thì đứa con sinh ra dù nam hay nữ, đời trước có ương báo…cũng liền được thoát khỏi, an lạc dễ nuôi, thọ mệnh tăng”…

Đoạn kinh này đã ban cho tôi sự chỉ đạo quý báu.

Tôi tin tưởng và cảm thấy được khích lệ rất lớn.

Vì vậy tôi quyết tâm nuôi dưỡng, đào tạo ra một đứa bé “băng thanh ngọc khiết” có tư chất thanh cao, nhất quyết hun đúc trí tuệ và phúc đức cho nó theo Phật pháp.

Trong thời kỳ mới hoài thai, tôi bắt đầu vì con mà tụng “Kinh Địa Tạng”.

Do thân thể chưa quen, không thoải mái, nên tôi chỉ thành kính tụng vào mười ngày trai (mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30).

Thoạt đầu, tôi chỉ nghĩ đơn giản là làm vậy có thể giúp cho sinh mệnh bé bỏng vừa tượng hình trong bụng có thể được nghe bộ kinh bất hủ của Phật thuyết.

Tôi quyết tâm vì bé mà tiến hành việc thai giáo tốt đẹp nhất nên lòng cảm thấy rất hạnh phúc tự hào, niềm vui này thật khó mà diễn tả hết được.

Tôi luôn cầu Chư Phật, Bồ-tát đại từ đại bi, ban cho tôi một đứa con như nguyện.

Mang thai được bốn tháng, nhờ thiện tri thức khai thị, được người nhà dốc toàn lực ủng hộ và chăm sóc, tôi triệt để tin lời Phật nên hoàn toàn ăn chay.

Ăn chay không những giúp tôi có dinh dưỡng tốt, thanh sạch, mà cũng chẳng bị mệt mỏi khó chịu; ngược lại còn khiến tôi mặt mày luôn hồng hào tươi tắn, thân tâm an vui, tinh thần thể lực sung mãn.

Sau đó, tôi tiến bộ hơn, có thể vì con mỗi ngày tụng một bộ “Kinh Địa Tạng”, siêng năng không lười.

Tôi đối với những điều Phật dạy trong kinh vững tin không nghi.

Tôi tụng kinh âm thanh rõ ràng, ngày ngày bầu bạn cùng thai nhi đang dần lớn lên, trong lòng sung mãn niềm an lạc hân hoan chưa từng có vì kinh nghiệm đang thực hành.

Lòng tôi luôn mong mỏi khát khao sớm được nhìn thấy mặt con.

Thời gian thấm thoát trôi qua, mùa hạ đến tỏa khí nóng oi bức khó chịu.

Nhưng tôi không chút lười biếng, vẫn nỗ lực dụng công, ra sức thanh tâm quả dục, nghĩa là: “Tai chẳng nghe tiếng ác, mắt chẳng nhìn việc ác, tinh tấn không lười, luôn dùng chánh niệm hộ tâm”, mỗi ngày vì thai nhi tụng kinh, tận lực làm một người mẹ đúng nghĩa.

Hôm nọ, khi tôi tụng xong bộ “Kinh Địa Tạng” thì cảm thấy cổ họng khô đau, liền tiến đến tủ lạnh định lấy kem ăn giải lao, thưởng công cho mình đã “cực khổ” tụng niệm nãy giờ.

Nhưng ngay giây phút tôi mở tủ lạnh ra, đột nhiên trong đầu tôi vang lên tiếng nói:

– Mẹ ơi, xin đừng ăn kem, con sẽ rất lạnh!

Việc này quả thật bất ngờ, khiến tôi tưởng chừng mình nghe lầm, lòng cảm thấy rất kỳ quái nên mới thầm nghĩ: “Đây có lẽ do mình tự nghĩ lẩn thẩn, hoặc là một dạng tự kỷ ám thị mà thôi!”.

Vì vậy, tôi không chú ý và quyết định: “Nghỉ một chút, lát nữa sẽ ăn vậy”.

Nghỉ ngơi xong, tôi lại đến mở tủ lạnh lần nữa.

Thật không ngờ, cảm thọ lúc nãy lại xuất hiện:

– Mẹ ơi, đừng ăn kem, con sẽ rất lạnh đó!

Câu nói này một lần nữa vang lên mãnh liệt trong óc tôi, lần này đã khơi gợi được sự chú ý của tôi.

Rõ ràng là thai nhi trong bụng đang dùng “tâm nói chuyện” với tôi và “mách” cho tôi biết những cảm thọ khổ vui của nó….Giao cảm kỳ diệu này đã khiến tôi hiểu sâu sắc thai nhi và tôi đang “tâm tâm tương thông, tâm tâm tương tri”.

“Kinh Địa Tạng” đã giúp tôi và con liên lạc mật thiết mầu nhiệm cùng nhau.

Mẹ con chúng tôi đồng hiểu nhau qua “ngôn ngữ nội tâm”, cùng cảm thọ, kết thành thiện duyên mẫu tử cực kỳ thâm sâu huyền diệu trong đời này!.

Tôi đã từng dùng tâm chân thành, tâm cung kính tụng “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Kinh”.

Trong kinh diễn tả: “Khi con ở trong thai, nếu mẹ ăn nóng, con khổ như nóng địa ngục.

Nếu mẹ ăn lạnh, con khổ như lạnh địa ngục, cả ngày thống khổ…Dựa theo đoạn văn kinh kia, giây phút tôi và con “tâm linh cảm ứng” đã chứng thực giải rõ.

Điều này khiến tôi vô cùng xúc động, mãi mãi không thể quên.

Lời Phật đúng là chân ngữ, thật ngữ mà!

Đây cũng ứng hợp với những điều trong sách thuốc “Thiên kim phương” nói: “Trong lúc mang thai mà ăn cực nóng hay cực lạnh là cấm kỵ”.

Từ đó vì thai nhi, bất kể tiết trời nóng bức ra sao, tôi cũng không dùng qua thức ăn lạnh nào nữa.

Cục cưng sinh ra được hai tuần, theo thói quen tôi cho bé ăn Hoàng Liên – một loại thuốc bắc, khiến bé đi tả không ngừng.

Ngắm nhìn bé ốm gầy không còn sức lực, lòng tôi nóng như lửa đốt, cực kỳ bất an…Tôi áp mặt vào vầng trán tái nhợt của con, ưu tư trăm mối, tâm rối như tơ… thì ngay lúc đó trong đầu tôi chợt xuất hiện câu nói:

– Mẹ ơi, đừng dùng trứng gà nữa!

Ăn trứng gà đối với con rất là không tốt!

Tôi bừng tỉnh ra, chính là bé cưng đang nói với tôi.

Tôi hoàn toàn ăn chay đúng theo trong Kinh Địa Tạng đã dạy, nhưng do để thúc sữa, chị dâu tôi đã ngày ngày làm rượu trứng gà cho tôi uống.

Lần này, tôi bắt đầu thưởng thức cuộc đối thoại tâm linh thú vị cùng con.

Tôi khởi ý nghĩ trong tâm:

– Con cưng à, mẹ phải làm sao thì con mới an ổn đây?

Bé lập tức hồi đáp:

– Mẹ hãy mau tụng 7 bộ kinh Địa Tạng hồi hướng cho oan gia trái chủ của con…

Không chút chậm trễ, tôi lo tụng cho xong 7 bộ kinh.

Sau đó, tôi “hỏi” bé:

– Mẹ đã tụng xong 7 bộ rồi, còn muốn mẹ làm gì cho con nữa không?

Bé “đáp”:

– Bắt đầu từ nay, mỗi ngày mẹ hãy tụng cho con một bộ kinh Địa Tạng nhé.

Tôi lại hỏi:

– Tụng đến bao giờ mới ngừng?

Bé “trả lời”:

– Tụng đến khi con có thể tụng kinh được thì ngừng.

– Thế bao giờ con mới có thể tụng kinh được?

– Bảy tuổi!

Tôi hoát nhiên tỉnh ra.

Từ đó, hàng ngày tôi tụng kinh không ngừng.

Tôi tụng đến hôm thứ hai thì chứng đi tả của bé liền dứt hẳn.

Khi tôi viết đến dòng chữ này thì bé nhà tôi đã được hơn hai tháng tuổi rồi, thân thể mạnh khỏe, an ổn dễ nuôi.

Đồng thời, để hoàn thành lời hứa với con, tôi hàng ngày vì bé mà tụng kinh Địa Tạng, bảy năm sẽ là 2.555 bộ kinh.

Tôi và chồng tin sâu, bé có thể dùng nhân duyên này để hóa độ chúng tôi tinh tấn tu hành.

Tôi hiểu sâu đây là cả nhà chúng tôi cùng chung sức hoàn thành đạo nghiệp.

Tùy theo con ngày càng trưởng thành mà đạo nghiệp chúng tôi ngày càng tinh tấn…đồng thời thiện hạnh, thiện đức của chúng tôi cũng tăng trưởng theo.

Điều này đối với cả gia đình chúng tôi mà nói, quả là an vui hạnh phúc biết dường nào.

(Cư sĩ Tiết Đình kính thuật.)

Giải thích của Cư sĩ Quả Khanh: Con và mẹ là do nhân duyên cực sâu mà chiêu cảm tình thâm.

Trong thời kỳ hoài thai, mẹ cùng con thực sự nương nhau, liên quan từ máu huyết, xương thịt, tinh thần….cho đến thể chất.

Vì thai nhi mà đọc tụng kinh điển Đại thừa chính là thai giáo tốt nhất.

Tôi đã gặp nhiều vị khi mang thai mà đọc tụng các kinh Địa Tạng hay Lương Hoàng Sám hay các kinh Đại thừa khác….đứa con sinh ra thật xinh đẹp, thông minh mạnh khỏe, an lạc dễ nuôi.

Đây là bài viết tự thuật chân thành của một người mẹ ở Thượng Hải.

Lúc con bà sinh ra 45 ngày thì tôi có gặp được cả ba người nhà họ và đích thân kiểm nghiệm.

Nội dung câu chuyện này hoàn toàn có thật và rất đáng tin cậy.

7.

PHÁ THAI LÀ TỘI NẶNG

Hiện nay trong xã hội vấn đế phá thai ngày càng nghiêm trọng, quả báo phá thai rất đáng sợ, không những ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng mà còn tạo nên thống cực lớn cho tâm tư lẫn sức khỏe của nữ giới.

Hơn nữa tương lại còn phải chịu khổ báo nơi địa ngục.

Chúng ta phải tận lực đề xướng yêu quý thân mạng, ngăn cản cấm việc phá thai.

Đệ tử tại gia của Phật nên sống chung thủy, tiết dục, giữ gìn và quý trọng sức khỏe mình.

Riêng đối với người đã phá thai, không phải chỉ sám hối thôi, mà còn phải phóng sinh, tụng kinh hồi hướng cho vong thai, mới mong giải oán kết…

Ngày nọ có một nữ sĩ họ Kim đến phòng mạch chúng tôi khám bịnh.

Cô trông rất thanh tú, búi tóc trái đào, dung nhan buồn thảm, mặt tối sầm… trông rất tiều tụy.

Vừa vào cửa, cô Kim thống khổ nói thật nhỏ:

– Bác sĩ, xin hãy giúp tôi, cứu tôi với.

Cả người tôi đau đớn…

Tôi bắt mạch cho cô ta, thấy mạch mệt mỏi vô lực, như vừa trải qua cơn bịnh nặng.

Tôi liền hỏi:

– Cô dạo gần đây có phá thai không?

Cô Kim bật khóc, sụt sùi kể:

Tôi năm nay 35 tuổi, khó khăn lắm mới có được em bé.

Mang thai được bảy tháng, đến bịnh viện kiểm tra thì bác sĩ nói tim em bé phát triển không ổn, tốt nhất nên đỉnh chỉ việc mang thai.

Thế nhưng trong lúc tôi đang do dự chưa quyết thì bắt buộc phải vâng theo ý người nhà, triệt phá cái thai bảy tháng đó đi…

Kể từ hôm phá thai xong, tâm lực tôi suy sụp cùng cực, mãi cho đến nay, lúc nào tôi cũng có ý muốn tự sát và rất thống khổ.

Bác sĩ hãy cứu tôi với…

Kim nữ sĩ vốn là người có sự nghiệp thành đạt, cô kết hôn đã ba năm, rất khao khát có con, năm nay nguyện ước cuối cùng cũng đạt được.

Nhưng do thời kỳ đầu mang thai, cô thường phải ra ngoài công tác lại thêm chuyện xã giao thù tạc với khách, dẫn đến việc tạo nghiệp sát sinh liên miên.

Cô đã không biết bảo vệ sức khỏe minh trong lúc mang thai, lại chẳng có cơ may được nghe giảng hay biết đến Phật pháp, suốt 7 tháng mang thai cô cũng không gặp được người bạn Phật tử nào, do chẳng biết bảo vệ thai tốt, mới tạo thành bi kịch như vậy.

Nhìn Kim nữ sĩ đau khổ, tôi khuyên:

– Cô không nên kích động, phá thai đối với phụ nữ rất nguy hiểm.

Cô phá đứa con đã bảy tháng lại càng nguy hiểm hơn.

Sát nghiệp phá thai hết sức nghiêm trọng.

Không những gây tổn hại sức khỏe bản thân, mà còn làm giảm thiểu hạnh phúc, ảnh hưởng đến sự phát triển sự nghiệp gia đỉnh về sau.

Bây giờ ngoài việc chữa trị bằng thuốc men, cô còn phải thành tâm thành ý sám hối các sát nghiệp đã tạo.

Hãy vì vong thai tụng kinh “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà-la-ni Kinh” ít nhất bảy bộ, hằng ngày nên tụng đều đặn một-hai bộ (có thề quỳ tụng rồi hồi hướng cho vong thai bị phá), giúp nó nghe Phật pháp sớm vãng sinh thiện đạo.

Cô Kim nghe xong gật đầu.

Được một tháng rưỡi, cô đến.

Tôi thấy mặt mày cô đã đổi khác, nhan diện tươi hồng, tinh thần phấn chấn, cô hớn hở mách tôi:

Hiện giờ sức khỏe em đã hồi phục chín phần, tâm lý cũng thoải mái… không còn tư tưởng muốn tự sát nữa.

Thật là cảm tạ bác sĩ quá.

Nhìn cô “sống lại”, tìm được niềm tin, tôi bảo:

Cô không cần cảm ơn tôi.

Hãy cảm tạ Phật pháp.

Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, vì vậy ta phải dùng lòng từ bi đối với mọi chúng sinh, không nên làm thương hại…

Từ vô thỉ kiếp đến nay, do không được nghe hay biết đến Phật pháp, mà chúng ta tạo ra vô lượng tội, làm thương hại vô số chúng sinh.

Cho nên ta phải thành thật nhận ra lỗi lầm của mình, không oán trời trách người, chí thành sám Ị hối, rộng làm công đức hồi hướng cho những kẻ bị mình làm tổn hại…

Có như vậy mới mong được chúng sinh tha thứ…

Khi cô về nhà, nên thường xuyên đọc, nghiên cứu kinh Phật cho nhiều, ráng xem Kinh Kim Cang sư Tuyên Hóa giảng để hiểu ý nghĩa quan trọng của cuộc sống…

Xem xong kinh cô sẽ biết mình phải làm sao, chính trong bước đường học Phật tu hành thực tiễn, sẽ tìm ra con đường ly khổ được vui, nếm mùi vị đại giải thoát, sống một đời có trí tuệ và thai nhi bị phá cũng nhờ nghe kinh, nương theo đó mà giải oán…

8.

MÃ THANH

Mã Thanh là một nam doanh nghiệp trẻ, rất thành đạt, gia đình anh vốn hạnh phúc mỹ mãn, thế nhưng do công việc phải giao tế nhiều, đã phát sính những việc khiến họ… bó tay.

Mã Thanh từ nhỏ rất ưa tĩnh tọa tu hành, sau khi kết hôn do bề bộn việc nhà lẫn công ty, nên dần dần anh tu hành giãi đãi và huân nhiễm những thói xấu thế tục.

Trong thời gian nảy anh tạo vô số sát nghiệp: sát, đạo, dâm, vọng… gì đều phạm hết…

Do vậy mà quan hệ phu thê đã dần chuyển xấu.

Mới đầu thì phát sinh gây gỗ, sau đó dẫn tới ẩu đả, hôn nhân đang ở bên bờ vực tan vỡ.

Mã Thanh cũng muốn cứu vãn hôn nhân, hi vọng thoát khỏi phiền não, vì vậy anh đến tìm tôi.

Lần dầu diện kiến, Mã Thanh gây cho tôi ấn tượng không tốt, nhìn mặt anh khí sắc u ám tối tăm, tôi nói:

– Anh gần đây tâm tư rất thống khổ, nơi tim đau đớn khó chịu lắm phải không?

– Đúng vậy! – Mã Thanh gật đầu thừa nhận.

- Vợ anh từng phá thai bốn lần, trong số đó có một bé trai hết sức ưu tú, phải không?

Mặt Mã Thanh đang bình thường bỗng chuyển sang tái nhợt.

Anh căng thẳng nói:

– Quả tình vợ tôi đã phá thai bốn lần, nhưng hoàn toàn không biết lả trai hay gái, riêng vợ tôi trước khi phá thai có lần đã nằm mộng thấy một bé trai, ngài làm sao mà biết được?

Những việc của mỗl cá nhân làm, không gi mà không lưu lại (di lậu), hiển lộ rõ.

Tất cả việc mình làm thảy đều bị trời đất trong vô hình âm thầm “ghi lại” hết, nhưng bản thân mọi người không hay, còn đinh ninh cho rằng sẽ không ai biết chuyện minh làm, thực tế thi tất cả đều được “ghi lại” đủ, không sót mảy may!

Những việc không hay phát sinh trong gia đỉnh anh thảy đều do sát nghiệp tạo thành, mà trong đó tội phá thai là nặng nhất!

Anh nhất định phải chí thành sám hối, tụng kinh ăn chay, phải

Vì mỗi vong thai đã bị giết đó tụng ít nhất bảy bộ “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà-la-ni Kinh”, nhất định phải thành tâm thành ý sám hối sửa đổi…

Từ rày về sau không nên đánh đập vợ nữa, anh có lảm được như vậy chăng?

Làm được, tôi nhất định làm được – Mã Thanh chấn động, cương quyết nói.

Một tháng sau Mã Thanh dẫn vợ là chị Trương đến gặp tôi, lúc này khí ám đen trên mặt anh đã biến mất, hơn nữa dung nhan còn rất tươi tắn hớn hờ, đầy vẻ tự tin.

Vừa gặp tôi, Mã Thanh xúc động nói:

– Thật không thể nghĩ lường, tôi cảm nhận rõ ràng từng chữ từng câu trong Kinh “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà-la-ni”, tôi vừa mới đọc một biến thì ngay đó cảm thấy muộn phiền đau đớn nơi tim tiêu mất, thế là tôi vội đến y viện khám, nhìn vào thấy bảng “điện tâm đồ” hiển thị bịnh tim đã hồi phục bình thường, bác sĩ cũng rất ngạc nhiên.

Tôi nguyện từ nay nhất định kiên trì học Phật, tụng kinh sám hối, làm một Phật tử Chơn chánh, sống lợi ích cho chúng sinh.

Hiện giờ quan hệ vợ chồng chúng tôi đã chuyển tốt rất nhiều.

Vợ và con gái cũng khởi sự bước vào đường học Phật…

Nhờ Mã Thanh thực tâm sám hối, chân hành tụng “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà-la-ni Kinh”, nên đã hóa giải oán hận nơi vong thai, giúp bé sớm được đầu thai, đồng thời bịnh anh cũng hồi phục mạnh lành, cả nhà đồng tu học theo Phật pháp, thu được nhiều lợi ích.

Giải thích thêm: Phá thai được xếp vào tội sát sinh rất nặng.

Những phụ nữ từng phá thai, cần chân thành sám hối và phải thực tâm quỳ trước Phật tụng kinh “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà-la-ni”, hoặc “Kinh Địa Tạng”…

để hồi hướng cho các vong thai bị giết, như thế mới có thể diệt tội.

Tốt nhất là hai vợ chồng đồng sám tụng, thì hiệu quả càng tốt.

Bởi khiến nữ nhân từ hoài thai cho đến phá thai, là trách nhiệm mà nam nhân không thể trốn tránh.

9.

PHẬT PHÁP THAY ĐỔI TÔI

Đây là kinh nghiệm Lý cư sĩ đích thân trải qua.

Chúng ta hãy nghe bà kể:

Tôi tên Lý Mẩn Huệ, mặc dù chỉ 30 tuổi nhưng cuộc sống đầy ắp tai nạn thống thiết khiến tôi cảm thấy bơ vơ không được ai cứu giúp, nên càng chán chường tuyệt vọng vạn bội.

Cho đến khi gặp Phật pháp, cuộc đời tôi mới có được những thay đổi hi hữu (xưa nay chưa từng có).

Mẹ tôi có mười người con nên cuộc sống rất chật vật.

Tôi là đứa thứ ba, còn thằng em thứ tám sinh ra rồi thì đem cho người ta nuôi.

Cha tôi sớm đã qua đời, tôi học đến lớp ba thì bị ép thôi học.

Sau đó tôi đi làm vú em, làm công…

Được “lò đời” mài dũa khiến bản tính vốn kiên cường bất khuất không chịu thua của tôi càng tăng thêm nghị lực.

Tôi kinh doanh một công ty, thu nhập khả quan, 19 tuổi thì gặp ông chồng hiện giờ.

Bởi vì hoàn cảnh gia đình đôi bên chênh lệch khác xa nhau, hơn nữa tôi còn nhiệm vụ phải chăm sóc các em (trai lẫn gái).

Do nhiều nguyên nhân mà chồng tôi phải đồng cư với chúng tám năm, bởi cha mẹ đôi bên phản đối nên chúng tôi không thể chính thức đăng ký kết hôn (trong thời gian này tôi đã làm một việc khiến lòng vô cùng ăn năn, đó là tôi từng đi nạo thai một lần.

Chính lần phá thai ấy đã để lại di chứng xấu, khiến nhiều năm sau tôi khó thể mang thai.

Đến 2002 chúng tôi mới chính thức cưới nhau.

Sau khi kết hôn xong, chúng tôi một bề muốn có con, đã khám rất nhiều bác sĩ, nghĩ hết cách, nhưng không thể như nguyện.

Sau đó vợ chồng tôi xin hai bé gái (là chị em ruột) về làm con nuôi.

Trước khi biết Phật pháp, tôi thường hay phiền não, bản thân luôn có cảm giác mịt mờ; không rõ phương hướng.

Hằng ngày sau khi tan sở về nhà, tôi chẳng biết đi đâu (nên về hay không về mới tốt?), vì vậy cứ lái xe loanh quanh trên đường, tay nắm vô lăng mà không biết mình nên đi đâu, về đâu?

Vì không lấp được khoảng trống (cảm giác hụt hẫng) trong tâm tư, nên chỉ trong 5 năm tôi đã thay tới 5 cái xe mới…

Tôi tiêu xài phung phí, trong khi tâm không ngừng loạn động rối bời.

Tôi nghĩ minh cũng là một người tốt, vì sao không được hảo báo?

Trái lại còn phải đối mặt với quá nhiều phiền lụy, đau buồn…

Gia đình tôi đang nằm bên bờ vực tan vỡ, tôi khổ tâm vắt sức kinh doanh, nhưng lại bị người lập mưu chiếm của, còn các cô em thì không biết điều, cứ liên tục kiếm chuyện gây họa…

Tóm lại, đời tôi là một cuộc sống hỏng bét rối bời, hằng ngày tâm tư luôn bị thống khổ nung nấu.

Một lần ngồi trên xe người bạn, tôi tình cờ đọc cuốn “Báo ứng hiện đời” và được những câu chuyện nhân quả trong đó khai thị, khiến tôi như bừng tỉnh cơn mơ.

Cuộc sống tôi từ đây bắt đầu có phương hướng…

Thế là tôi lập tức từ bỏ ăn mặn, thậm chí hễ nhìn đến thịt cá là phát nôn mửa…

Ngày trước tôi đi khắp nơi khám bịnh, bốc thuốc… sau khi dứt ăn mặn rồi thì chẳng cần dùng thuốc nữa…

Ngược lại toàn thân cảm thấy rất nhẹ nhõm khinh an.

Tôi cũng không còn tiêu xài phung phí bừa bãi, mà đã biết tiết kiệm và dùng tiền đó để cứu giúp cho người…

Tháng 10 năm 2007 tôi may mắn được hội kiến cư sĩ Quả Khanh, ông là người bình dị rất dễ gần.

Vừa gặp tôi đã có cảm giác cực kỳ thân quen, giống như tương ngộ thâm tình vậy.

Tôi kể lể mọi khổ đau mình đã từng trải qua cho ông nghe, đến lúc ông thuyết giảng cho mọi người thì tôi lặng lẽ ngồi vào dự thính.

Không ngờ việc lạ lại phát sinh…

Trong lúc tôi đang ngồi xếp bằng trên ghế sô-pha, thì bỗng có cảm giác giống như “mình đang… rơi vào ổ gà!

Trong đó có rất nhiều gà, vừa dơ vừa thúi!

Dường như tôi cũng là… một con gà trong đó?

Lúc ấy toàn thân tôi phát run, tiếp đến tôi không ngừng nôn mửa, mà bản thân hoàn toàn không hay biết”…

Lúc này, mấy người bạn tại hiện trường phát hoảng, vội chạy đến hỗ trợ, họ nhanh nhẹn đỡ dìu tôi và giúp dọn sạch những ô uế.

Khi tỉnh lại, tôi hoàn toàn chẳng biết là có việc gì vừa xảy ra.

Tôi vừa mới tiếp xúc với Phật giáo đã nảy sinh cảm giác rất kỳ diệu, đồng thời cũng khiến bạn bè tại đó tăng thêm tín tâm.

Tôi bỗng nhớ lại, chính trong lúc mang thai, vì muốn tẩm bổ thân thể, nên suốt thời gian dài mỗi ngày tôi ăn một con gà, nhưng rồi tôi cũng không giữ được thai.

“Đúng là nhân quả báo ứng, như bóng theo hình” vậy.

Từ hồi xảy ra sự tình không thể tưởng này rồi, tôi bắt đầu tụng Kinh Địa Tạng, lễ Phật và tĩnh tọa… có lần ngồi suốt 8 tiếng…

Cuộc sống tôi dần dần xuất hiện sự thay đổi.

Công việc dần dần thuận lợi, người em gái bỏ nhà ra đi nay đã quay về.

Tôi là cột trụ cho các anh chị em trong nhà.

Không chỉ có công ty, tôi còn có một tiệm thời trang nữa, nhưng trước đây chỉ kinh doanh qua loa.

Sau khi gặp Phật pháp rồi, tôi tiến hành quy hoạch đổi mới tiệm thời trang, việc làm dần phát đạt… nhưng tôi nhận ra thu hoạch lớn nhất chính là niềm an tĩnh tâm linh, vì lòng tôi chẳng còn chấp trước nữa.

Ngày xưa những vật không thuộc của mình tôi cứ nắm chặt không buông, khiến tâm lực mệt mỏi…

Từ lúc hiểu đạo rồi thì tôi buông dễ dàng, đối với những gì đã mất đi, lòng cũng chẳng còn canh cánh nhớ hoài nữa.

Nhờ vậy mà tâm tư ung dung thoải mái rất nhiều, quan hệ cùng chồng cũng trở nên tốt đẹp hơn.

Tôi còn dự tính cuối tháng 12 năm 2007 sẽ đến bệnh viện tính thực hiện phương pháp thụ thai trong ống nghiệm.

Nhờ đã hiểu nhân quả, nên hễ cỏ phiền não là tôi tự hóa giải.

Sau đó xảy ra một chuyện lạ.

Đầu xuân năm 2008, tôi mơ một điềm mộng: thấy trong nhà có một vị mặc hoàng bào, đầu trọc, toàn thân phóng quang chói lòa…

Tôi thấy mình là một trong hai thường nhân đang quỳ trước ông, người kia chẳng biết nói gì mà bị ông đuổi ra ngoài?

Còn lại một minh tôi thì vị tỏa hào quang đó bảo:

– Ngươi muốn cầu ta điều gỉ?

Tôi thưa: – Muốn cầu con…

Ngài nói:

– Được, ta cho ngươi như nguyện…

Rồi tôi thức giấc.

Sau đó cảm thấy thân thể có biến chuyển khác lạ (tôi đã ngưng uống thuốc nửa năm nay, ăn chay cũng đã hơn nửa năm), và chuyện kỳ diệu xuất hiện: cuối cùng tôi đã mang thai!

Điều này lạ lùng đến tôi khó mà tin nổi.

Vì vậy tôi liên tục đến bịnh viện khám, để bảo đảm chắc chắn là mình có thai…

Sau khi tôi mang thai, dù thân thể phản ứng rất lớn, nhưng tâm vui mừng khôn tả…Cảm tạ Phật pháp, cảm tạ chư Phật Bồ-tát gia hộ, dẫn dắt tôi vào con đường chánh tín, tu theo Phật pháp.

Phật pháp đã đem đến cho tôi lợi lạc khôn cùng.

10.

LÃO ĐIỀN

Nhà Tiểu Điền là gia đình Phật hóa, gia cảnh tuy không giàu, nhưng cuộc sống rất hạnh phúc tự tại.

Nguyên nhân Tiểu Điền phát tâm học Phật bắt nguồn từ câu chuyện ly kỳ của phụ thân cô:

Phụ thân Tiểu Điền (từ đây xin gọi lão Điền) là một nông phu miền nam điển hình, có đủ phẩm hạnh siêng năng cần lao cố hữu của một nông gia.

Hằng ngày hễ mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ.

Cứ thế mà sống qua năm tháng…

Hôm nọ, nhà nông tất bật với vụ mùa nên lão Điền phải làm miệt mài đến 11 giờ khuya.

Xong việc, ông lê bước mệt mỏi, vừa quẹt mồ hôi vừa đi trên con lộ nhỏ quen thuộc để về nhà.

Đang đi mải miết, tới khúc quanh, bỗng ông thấy xuất hiện mấy bóng đen xông thẳng vào mình, chúng còn quát lên âm thanh khàn khản:

– Đứng lại! không được đi!…

Thoạt nhìn, lão Điền cho rằng mình đã gặp bọn cướp, liền vung cuốc lên, hung hăng đánh nhầu và…

“bửa” trúng một người trong bọn họ… chỉ nghe vang lên một tiếng “CHẢNG!” rồi không thấy mấy bóng đen kia đâu nữa…

Lúc này lão Điền sẵn trớn, còn vung cuốc đập bừa vào chung quanh thêm mấy cái nữa… nhưng loáng một cái, bỗng hóa ra đánh vào…

đỉnh đầu mình!

Thế là sau đó xảy ra việc chi ông cũng không nhớ được…

Thực ra mấy bóng đen đó là những chúng sinh thuộc cõi quỷ, chính là oan gia trái chủ (đời trước ở trên chiến trường từng bị lão Điền sát hại, họ ôm oán hận không nguôi, nên lúc nào cũng chờ dịp để báo thù).

Theo lời vợ lão Điền nhớ lại kể, thì diễn tiến sau đó như thế này:

-“Tối hôm ấy gần 12 giờ, tôi đang ngủ, đột nhiên nghe trong nhà bếp có âm thanh vang lên: -Ta sẽ giết ngươi!

Ta sẽ giết ngươi!…

Khi tôi chạy vào bếp, thì cảnh tượng trước mắt khiến tôi bủn rủn cả người; té ra là ông xã tuấn tú nhà tôi đang nổi điên, ổng vừa hướng không trung chém loạn xạ vừa hò hét inh ỏi…

Lúc ấy tôi sợ đến phát run cầm cập, sau đó thì hô hoán nhờ láng giềng sang hỗ trợ, phụ đưa ông xã tới bịnh viện”.

Sau chuyện này, bà con chòm xóm bàn tán xôn xao, họ nói:

– Lão Điền gặp phải lũ quỷ rồi phát điên!…

(Ngay đây tôi xin nhắc nhở mọi người: lúc đi đường trong đêm tối mà nhìn thấy bóng đen hoặc khi đi qua nghĩa trang hay nhà bỏ hoang nào, nếu trong lòng cảm thấy sợ… thì tốt nhất nên niệm Phật hoặc tụng chú, Làm vậy không những giúp tiêu trừ mọi hoảng sợ trong tâm mà còn giúp ích nhiều cho những chúng sinh mà mắt thịt không nhìn thấy được)…

Lão Điền điên một trận tới 30 năm, mãi đến mấy năm gần đây, ông bắt đầu nghe giảng Phật pháp…

Sau khi thọ tam quy rồi, bịnh tình mới dần chuyển tốt.

Tiểu Điền vì lo cho phụ thân mà phát nguyện ăn chay, thường cùng mọi người tổ chức phóng sinh, in kinh Phật, kiên trì tụng Kinh Địa Tạng hồi hướng cho phụ thân.

Hi vọng ông có thể sớm hồi phục.

Nhờ con gái cố gắng như vậy, bịnh tình lão Điền ngày càng ổn định, tư duy dần hồi phục bình thường.

Hiện nay lão Điền giờ giờ phút phút đều kiên trì niệm Phật, tâm vô vọng niệm… mặc dù sinh hoạt chưa hoàn toàn tự lo, nhưng sống rất hạnh phúc, an lạc.

Nếu khéo tu kiên tri không lười mỏi, thì cuối cùng cũng có ngày thoát khỏi biển khổ sinh tử.

Phật pháp giống như thái dương, không những phá tan si ám, mà còn sưởi ấm nhân gian.

Quan trọng là bạn có chịu mở lòng ra để đón nhận hay không?

Nguyện tất cả chúng sinh đều có thể tin theo, thọ trì theo lời Phật dạy để khai mở trí tuệ, sớm được ánh dương chiếu soi, tiêu tan si ám.

11.

CHUYẾN ĐỒI SỐ MỆNH

Số mệnh con người có thể cải đổi, người ta có thể dùng phương cách đúng đắn để cải số và định đoạt tương lai cho mình!

Tiến sĩ Liễu Phàm triều Minh đã đem kinh nghiệm cải số thực tế của bản thân ông, viết ra cuốn “Liễu Phàm Tứ Huấn”, khích lệ vô số người sau dùng phương pháp của Phật giáo để cải đổi số mệnh mình!

Thông qua đó cũng đủ chứng minh: “Mệnh tự ta lập, nhân quả báo ứng là không dối”.

Sau đây xin kể câu chuyện có thực, chứng minh số mệnh có thể sửa đổi:

Phùng Lập Khiêm là một nam nhân tài ba có tiếng tăm…

đã tốt nghiệp đại học.

Hồi còn đi học rất anh ưa nghiên cứu kinh Dịch, bói toán… và thường dùng những kiến thức này tự xem số mệnh cho mình.

Mỗi lần áp dụng thấy hết sức linh nghiệm.

Vì vậy anh tin: số mệnh con người đã được định sẵn!

Có lần anh đến bái kiến một vị thầy kinh Dịch nổi danh, ông ta tiên đoán nhiều điều về tương lai anh, quả quyết rằng sau này cuộc hôn nhân của anh chỉ kéo dài tới 15 năm, rồi sẽ ly tan (lý do phát xuất từ cô vợ).

Nghe vậy Phùng rất bất an, hi vọng tim ra cách hóa giải…

Quả nhiên, tất cả mọi việc đều đúng như vị thầy kia tiên đoán.

Phùng thi vào Viện Nghiên Cứu dễ dàng, rồi tốt nghiệp, làm việc… sau đỏ liên tục được cất nhắc, cuối cùng thì treo bảng lập công ty, đạt được thành công vẻ vang…

Ba năm sau, anh kết hôn với một cô gái hiền thục xinh đẹp… cuộc sống gia đình hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi… khiến Phùng dần dần quên hẳn lời tiên tri năm nào từng khiến anh lo lắng bất an…

Vợ chồng chung sống đầm ấm chớp mắt đã đến đoạn cuối của…

14 năm.

Ngày nọ ái thê Phùng đột nhiên phát hiện dưới nhũ hoa phải của nàng có một khối u nhỏ, cứng (to cỡ trứng gà), sưng đau khó chịu… nàng liền đến bịnh viện kiểm tra, mới hay mình bị “ung bướu tuyến sữa” thời kỳ cuối.

Bác sĩ phán: – Vợ phùng “Tối đa chỉ có thể sống một năm nữa thôi!”.

Đối diện với chứng bịnh quái ác này, cả nhà rơi vào sầu thảm khôn nguôi.

Lúc này Phùng mới sực nhớ đến lời tiên tri ngày xưa, thầm than: “Đúng là định số đã an bài”…

Trong lúc đang ở bên bờ tuyệt vọng, Phùng tình cờ đọc cuốn “Báo ứng hiện đời” của Quả Khanh, trong đó mỗi câu chuyện đều sinh động chân thật, khiến anh cảm thấy được giáo dục sâu sắc và dần dần hiểu rõ: “chỉ có tin sâu nhân quả, dứt ác hành thiện, tu theo Phật pháp”, mới có thể chuyển đổi số mệnh!

Vợ chồng Phùng từ đó bắt đầu nhen nhúm hi vọng về cuộc sống mới.

Nhờ bạn bè trợ giúp, anh gặp cư sĩ Quả Khanh.

Thoạt nhìn sắc diện xanh nhợt của vợ Phùng, Quả Khanh dịu dàng chỉ ra những nhân ác, các tội nghiệp chất chồng trước đây nàng đã tạo…

ông khuyên nàng ăn chay, thành tâm sám hối các ác nghiệp, đúng pháp tụng Kinh Địa Tạng, hồi hướng cho tất cả chúng sinh từng bị nàng làm tổn hại…

Vợ Phùng nghe xong, về nhà liền bắt đầu thực hành… do ước muốn được sống bừng lên mãnh liệt, khiến nàng chẳng dám có chút ý cao ngạo, hằng ngày kiên trì quỳ tụng Kinh Địa Tạng, lễ sám, phóng sinh, in kinh, sách thiện…

Nửa năm sau, kỳ tích xảy ra, ác bịnh kia đã lành hẳn.

Hiện giờ, Phùng và vợ đã nắm tay nhau bước vào năm thứ 16 của cuộc hôn nhân (vốn là gia đinh sắp ly tan, nhờ tu học theo Phật pháp mà chuyển đổi, biến thành gia đinh Phật hóa, sống hạnh phúc)…

Kinh nghiệm thực tiễn này đích thân hai vợ chồng cùng nếm trải, khiến họ càng tin chắc “số mệnh nằm trong tay mình!”…

Nếu mỗi người có thể thâm tín nhân quả, dứt ác hành thiện, y theo lời Phật dạy: nghiêm trì giới luật, ăn chay, đúng lý đúng pháp mà tu… thì đời này không những có thể cải đổi số mệnh, mà còn có thể liễu thoát sinh tử, lìa khổ được vui, khai mở trí huệ, sống thong dong tự tại…

Giải thích thêm: Phật pháp như ánh dương, những tội sát, đạo, dâm, vọng… con người hằng ngày tạo cao như núi băng, mỗi ngày một tăng, sâu dày kiên cố, giống như địa ngục băng, mãi mãi lạnh lẽo khốc liệt…

Chỉ người hữu duyên mới có thể nghe và tin thọ Phật pháp, biết lỗi nền sửa,hiểu rồi liền thực hành…

Đây giống như vầng dương hiện lên giữa băng giá kiên cố, không bao lâu sẽ khiến băng tan thành nước, và nước này có thể làm lợi khắp vạn vật.

Không tranh cùng người, chẳng những giúp chúng sinh duy trì mạng sống, mà còn vì chúng sinh rửa sạch cấu uế trở nên thanh sạch.

Đây chính là căn bàn người tu đạo.

12.

THUỐC TRỊ HIẾM MUỘN

Rất nhiều Phật tử tu học theo Phật nhiều năm đã đoạn trừ ăn mặn, dứt thịt cá, nhưng vẫn còn ăn trứng gà, trứng vịt.

Thế thì đệ tử Phật rốt cuộc có nên ăn các loại trứng hay không?

Trước tiên xin kể một câu chuyện có thật:

Một lần trong pháp hội, Trần cư sĩ dẫn theo nữ đồng nghiệp tên Nhã Lâm, 35 tuổi.

Cô này gầy gò, sắc mặt xám vàng, ngó bộ rất tiều tụy.

Do đây là lần đầu gặp giáo sư Quả Khanh, ánh mắt cô hiện đầy nét hân hoan, khát vọng.

Trong quá trình nghe giảng, cô rất chăm chú chí thành.

Lúc giáo sư Quả Khanh hỏi cô Lâm có vấn đề gì?

Mặt cô hơi đỏ lên, lộ vẻ căng thẳng, ấp úng mãi chẳng thành câu, cuối cùng nhờ Trần cư sĩ giải thích giùm, mọi người mới hiểu rõ.

Thì ra cô kết hôn đã mười năm, rất khao khát có con, nhưng bất kể cầu thầy bổ thuốc đến đâu, vẫn chẳng có thai.

Hôm nay, may mắn gặp giáo sư Quả Khanh, cô thỉnh cầu ông chỉ giúp chỗ mê muội….

Giáo sư Quả Khanh rất thông cảm cho cô, vì nỗi khổ “cầu bất đắc” này (ước con mà không có được)…Ông thở dài, quay sang bảo tôi:

– Quả Hồng, cô hãy quán sát xem nguyên nhân vì sao Nhã Lâm không có con?

Tôi xoay đầu nhìn Nhã Lâm, chạm ngay ánh mắt nhìn đầy khát vọng của cô, tôi cũng không kềm được, bật ra âm thanh cảm thán:

– Có phải cô rất ưa ăn trứng?

Đặc biệt là trứng chim cút?

– Đúng, đúng, tôi rất ưa.

Tôi đã ăn rất nhiều trứng chim cút….thế chẳng lẽ….

Nửa câu sau âm điệu cô ta có vẻ nghi hoặc.

Trần cư sĩ ở bên cạnh, thông minh hiểu nhanh, liền hỏi giúp cho một câu:

– Mọi người đều cho rằng trứng có dinh dưỡng tốt, hơn nữa trước khi chưa biết Phật pháp, chúng tôi ai cũng ăn trứng.

Nhưng vì sao chỉ riêng Nhã Lâm lại chẳng thể có thai?

Tôi nhìn giáo sư Quả Khanh đang đứng cạnh mình, (thấy mắt ông đầy hối thúc và khuyến khích), tôi liền giải rõ:

– Phật từng nói ăn trứng các loài điểu cầm, thủy tộc v.v…..là không có lòng từ mẫn.

Hòa thượng Tuyên Hóa cũng từng giảng những điều liên quan đến ăn trứng, Ngài từng hóm hỉnh nói: “Nếu bạn không sợ đời sau làm trứng cho người ăn thì bạn có thể ăn bất kỳ trứng gì”….Bởi nhân quả đan xen chồng chéo phức tạp, do mỗi người lại có phước đức nhân duyên bất đồng nhau, nên mặc dù có nhiều người ăn trứng, nhưng việc thọ báo lại không giống nhau….Bạn muốn có con tất phải đoạn trừ ăn mặn (đương nhiên trong đây bao gồm cả trứng).

Ngoài ra, bạn còn phải phóng sinh cho nhiều và tụng “Kinh Địa Tạng”, hồi hướng cho các chúng sinh bạn đã từng ăn qua….

Tôi nói xong, khẽ nhìn Nhã Lâm, thấy cô có vẻ không tin và khó chấp nhận.

Rõ ràng là cô chờ nghe….một câu chuyện nhân quả chứa tình tiết hấp dẫn liên quan đến việc hiếm muộn (khó mang thai) của cô…nhưng lại bị những câu nói thẳng phũ phàng và quá thực tế của tôi làm cho “vỡ mộng”.

Có lẽ, cô cảm thấy những điều tôi nói là quá “xoàng”, không quan trọng và chẳng có gì đáng lưu tâm, nên mặt cô lộ đầy vẻ thất vọng.

Tôi cảm thấy thật tiếc cho cô, bởi cô hoàn toàn không tin gì, bất đắc dĩ tôi phải nói thẳng ra:

– Cô hiện tại chỉ muốn bản thân mình có con, nhưng sao không nghĩ cho những cái trứng bị cô ăn mất?….Chúng cũng có mẹ…và thân mẫu chúng phải gian nan khổ cực lắm mới sinh được con ra.

Lúc này, giáo sư Quả Khanh ôn tồn bảo Nhã Lâm:

– Quả Hồng giảng lý nhân quả cho cô nghe rất đúng và chính xác.

Cô hãy trân trọng tiếp thu và chịu khó làm theo cách cô ấy bày, thì sẽ chiêu cảm được hài nhi ngoan.

Tốt nhất là cả hai vợ chồng đồng phải tu sửa luôn.

Tiện thể, cư sĩ Quả Khanh mới kể ra một câu chuyện thật để chứng minh:

“Có một nữ Trưởng khoa nghiên cứu Sinh vật học, thấy con gái mình kết hôn đã 4 năm mà không có thai.

Thế là bà dùng kiến thức chuyên môn của mình để hướng dẫn con rể bào chế thuốc

Nhưng dẫu có chế chi, làm gì…thì kết quả càng khiến bà thêm hoài nghi về khả năng chuyên môn của mình.

Do vậy mà nữ Trưởng khoa này mặt mày cứ dàu dàu rầu rĩ, khiến ai cũng phải cảm thán: “Thật là tội cho tấm lòng của bậc làm cha mẹ!”.

Khi đó tôi bảo bà:

– Vợ chồng con gái bà đều mê ăn trứng, lại thích nhất là trứng cút (đây là cộng nghiệp chung khiến cho họ không có con).

Muốn có con thì cả hai cần phải ăn chay, phóng sanh, tụng kinh, niệm Phật, làm nhiều việc thiện….

Vợ chồng con gái vị nữ Trưởng khoa này y theo lời khuyên mà thực hành.

Kết quả, chỉ nửa năm sau thì con gái bà đã có thai…

Khi nghe Quả Khanh vừa kể xong thì Lý cư sĩ (nữ bác sĩ thực tập) liền hỏi tôi:

– Vì sao hiện nay những bệnh nhân (từng mang thai nhưng nạo thai), giờ muốn có con mà không được…lại nhiều đến như thế?

Tôi bảo mọi người:

– Mỗi đứa con đến đầu thai đều có nhân duyên rất sâu nặng với cha mẹ…Mà trong vòng luân hồi dày đặc, cơ hội có được một lần đầu thai làm người lại rất hiếm hoi!

Thế nhưng các bậc cha mẹ do nhiều nguyên nhân, đã phá thai bừa bãi, hủy đi cơ duyên làm người của vong nhi.

Khi làm vậy họ nào biết rằng mình đã tạo ra tội nặng tương đương giết A-la-hán (Đây là ám chỉ nếu người con đó sinh ra tu hành và chứng quả mà bị giết chận trước như thế thì tương đương tội giết A La Hán).

Đã vậy mà lại còn không biết sám hối, mặc tình sát sinh ăn thịt, tạo nghiệp sát sâu nặng chất chồng, tất nhiên sẽ chiêu cảm ác báo: “triệt con dứt cháu”…

Tôi thấy Nhã Lâm và những người khác gật gật đầu tán đồng, thật là mừng cho cô có thể tỉnh ngộ.

Hi vọng cô sẽ được Phật lực gia trì, chịu sửa đổi lỗi lầm hướng thiện, trì giới tu hành, sớm sinh quý tử….

Thời gian trôi qua được nửa năm, Trần cư sĩ là người ban sơ dẫn Nhã Lâm đến, đã gọi điện thoại báo tin cho tôi hay: “Nhã Lâm từ lúc trở về nhà đã làm y theo lời chúng tôi hướng dẫn, và hiện giờ cô đã mang thai, rất là tri ân mọi người”.

Giải thích thêm: Xin khuyên mọi người không nên vì tham ăn ngon, ham khoái khẩu mà ăn các loại trứng.

Tôi suốt 20 năm trên đường học Phật đã từng gặp nhiều vị ăn trứng (bao gồm cả trứng chim, rắn, cá….v.v….cho đến ăn trứng chưa thành hình trong thân gà mái)…mà biến thành phụ nữ không thể mang thai hoặc thường sinh non, hư thai….Bọn họ bí lối cùng đường, đành phải làm theo cách tôi hướng dẫn là: Sám hối trước Phật (nguyện từ bỏ ăn mặn lẫn các loại trứng).

Hàng ngày tụng từ 1-2 bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho các trứng và những thân mẫu đẻ ra các trứng mà họ đã ăn qua….Kết quả, đại đa số khoảng chừng ba tháng là được hoài thai, thân thể họ cũng thay đổi, trở nên khỏe mạnh…

Nguyện cầu cho những vị hiếm muộn khao khát con, có sự nghiệp gia đình không thuận lợi và thân thể kém khỏe mạnh, sẽ y theo phương pháp này mà thực hành, trong vòng vài tháng sẽ có việc bất khả tư nghì xuất hiện trên thân các bạn.

Bạn không phải tốn xu nào cho việc có con, còn tiết kiệm được rất nhiều tiền, tốt như thế vì sao bạn không làm? (Nhưng… liệu bạn có đủ can đảm để trường chay hành thiện, phóng sanh, niệm Phật….. hay không?

Có làm được mọi điều như chúng tôi đã hướng dẫn hay không mà thôi, tất cả đều tùy thuộc vào bạn?)…

13.

KHÔNG NÊN ĂN THỊT CHÚNG SINH

Nói đến vấn đề ăn thịt, trong nhiều kinh Đại thừa Phật từng giảng rất rõ.

Như trong “Kinh Phạm Võng” ghi: “Tất cả thịt đều không nên ăn.

Nếu Phật tử cố ăn thịt, tà đoạn dứt chủng tử đại từ bi, khiến tất cả chúng sinh, vừa thấy tiền tánh xa.

Bồ-tát không nên ăn thịt chúng sinh, vì ăn thịt có vô tượng tội!”…

Còn trong “Kinh Lăng Già” Phật giảng: “Ta xem tất cả chúng sinh như con, nếu nghe lấy thịt làm thức ăn, cũng chẳng tùy hỉ, huống nữa tà tự ăn.

Đại Huệ, tất cả các toại ngũ tân: hành, hẹ, tỏi, nén… thường xông hơi xú uế bất tịnh, làm chướng thánh đạo, chướng cả chỗ cư trú thanh tịnh của trời, người, thế gian… huống chi là cõi tịnh của chư Phật?

Rượu cũng thế, hay làm chướng thánh đạo, gây tổn thiện nghiệp, thường khiến sinh nhiều lỗi…

Đại Huệ!

Thế nên người hành thánh đạo thì các thứ đồ mặn, rượu, thịt, hành, tỏi… tanh hôi đều chẳng nên dùng”…

Những kinh điển có nội dung liên quan đến từ việc bỏ ăn mặn, trong Đại Tạng ghi rất nhiều.

Bản thân tôi cũng từng trải qua kinh nghiệm đối với việc ăn thịt.

Ngày nọ, tôi tụng xong khóa tối thì bắt đầu tĩnh tọa.

Những gì trải qua trong đêm đó là một kỉnh nghiệm không thể nào quên!

Lúc ấy lưng tôi phát đau lâm râm, song tôi vẫn cắn răng ngồi thiền, nhưng trong đầu tôi bỗng khởi lên ý nghĩ: “Năm nay tôi 26 tuổi, ăn chay đã hai năm, nhưng từ 26 tuổi về trước, tôi đã làm thương hại biết bao chúng sinh?”…

Trong phút chốc, trước mắt tôi bỗng hiện ra màn ảnh:

Có con sông rất to rộng, trong chứa đầy tôm, cá, rùa, rắn… phía trên bờ có đủ loài như: trâu, bò, dê, heo, chó, gà, vịt v.v… hợp lại thành bầy, thành đoàn…

Còn có những động vật mà tôi chưa từng thấy qua…

Thật kỳ quái, những con vật lạ này tôi chưa bao giờ gặp, thế thì lảm sao tôi có thể gây thương hại cho chúng chứ?

Đang lúc tôi thắc mắc thầm như thế, thì giống như phím điện ảnh đang chiếu, tôi thay hiện rõ ràng cảnh tôi đang chiêu đãi thực khách và một âm thanh vang lên: -“Trong quá khứ, mỗi lần ngươi tổ chức sinh nhật đều thết tiệc to, mời người đến dự, dù bản thân ngươi ăn rất ít, nhưng tại vì ngươi chiêu đãi khách, hoặc khi ngươi kết hôn… thì các yến tiệc này đã sát hại vô số mạng loài vật!

Mặc dù ngươi ăn không nhiều nhưng đã có biết bao chúng sinh bị giết vì ngươi…

Chưa hết, ngươi còn giới thiệu các nhà hàng ngon, khuyến khích người đi ăn, nhậu hải sản, tôm cua đủ loại…

Những người này ăn rồi lại giới thiệu kẻ khác đến ăn, nên nghiệp sát ngươi phạm tất nhiên càng chất chổng, gia tăng vạn bội”…

Một hoạt cảnh yến tiệc cưới hỏi, sát sinh, ăn thịt, uống rượu… hiện trước mắt tôi rõ ràng mồn một, sinh động từng nét…

Giống hệt như máy chiếu phim, quay lại những hình ảnh ban sơ và trinh chiếu lại thật mới mẻ sống động.

Nhận ra mình đã tạo vô số ác nghiệp, tôi khẩn trương sám hối, niệm Phật… cầu siêu cho những chúng sinh minh từng sát hại.

Lúc này tôi nhìn thấy rất nhiều cá, tôm… (đủ loại thủy tộc) nhờ uy lực niệm Phật, đồng nương không trung mà đi mất.

Nhưng còn một số lớn động vật (bò, dê heo, chó v.v...) vẫn không chịu đi.

Trên lưng tôi còn xuất hiện mấy con ba ba và rắn, chúng quyết trì lại không đi.

Tôi ngay đây bỗng hiểu rõ nguyên nhân đau nhức nơi lưng mình: thế là tôi hạ quyết tâm, nhất định chí thành sám hối, tụng kinh niệm chú cầu cho những chúng sinh tôi từng làm hại, sớm được ly khổ, an vui…

Ngay đêm đó tôi bắt đầu tụng Kinh Kim Cang, chú Lăng Nghiêm, thành tâm sám hối các ác nghiệp xa xưa.

Hồi hướng cho những chúng sinh từng bị tôi giết hại…

Hai tháng sau, một ngày nọ, lúc tôi tụng đến văn phát nguyện, hồi hướng, thì đột nhiên nơi bắp đùi phải cảm thấy tê nhức sưng to, cơn đau lan xuống cổ chân, ban chân.. rồi biến mất.

Liên tục ba ngày, tình trạng này cứ tái diễn như thế… sau đó thì lưng tôi lành hẳn.

Do vậy tôi tin rằng, những chúng sinh nương vào uy lực tụng kinh hồi hướng, đã được vãng sinh thiện cảnh.

Việc này khiến tôi thể ngộ sâu sắc rằng: người tu theo pháp Phật chẳng những không nên ăn thịt chúng sình, mà cũng chẳng nên mời, hay xúi, giới thiệu chỗ bán đồ mặn cho người ăn, lại càng không nên khuyên người ăn thịt.

Hơn nữa, mỗi khởi tâm động niệm phải hoàn toàn không được có chút ý niệm sát sinh.

Hiện nay trên thế giới có rất nhiều người không tin nhân quả, chỉ biết ăn uống cho khoái khẩu, mặc tình hưởng thụ những thứ được cho là sơn hào hải vị, thậm chí còn xuất hiện quái cảnh ăn thịt người (ăn thai vừa sinh hoặc bị xẩy), kiểu sát sinh tạo nghiệp không sợ hãi, không kiêng dè chi như thế này, sẽ chiêu cảm đủ loại tật dịch quái lạ bộc phát và lây nhiễm tràn lan…

Vì vậy tôi kính cẩn khuyên mọi người: hãy mau sớm hồi đầu, làm một Phật tử chân chánh, nghiêm trì giới luật và nhất là không nên ăn thịt chúng sinh.

Giải thích thêm:

Người xưa thấy có gì không đúng, không hợp… liền đóng cửa gẫm suy, tự kiểm điểm bản thân, cho nên bịnh tật thường không thuốc mà tự khỏi.

Còn ngày nay con người hiện đại luôn thấy mình không có lỗi, thường nói mình “không có làm gì ác”, đâu biết rằng: sát sinh ăn thịt chính là đại tội!

Hiện nay thiên tai nhân họa như (động đất, sóng thần, lụt lội, lửa cháy, đụng xe, rớt máy bay…) xảy ra liên miên, đủ thứ bịnh lạ phát sinh, đa số đều do nguyên nhân ăn thịt mà sinh khởi.

Nếu có thể làm như cư sĩ Quả Hồng: sám hối sửa lỗi, tụng kinh tu thiện, nhất định sẽ an khang cát tường.

Hơn nữa trong các kinh Đại thừa luôn khuyên người từ bỏ ăn thịt, như trong “Kinh Đại Bát Niết Bàn”, Bồ-tát Ca Diếp thưa: – Bạch Thế Tôn, con thấy không nên bố thí thịt cho người ăn mặn.

Vì sao?

Bởi không ăn thịt, công đức rất lớn.

Phật khen: – Lành thay!

ông hiểu rõ ý ta, Bồ-tát hộ pháp cần phải như thế.

Bắt đầu từ nay trở đi, không cho phép các đệ tử Thinh văn ăn thịt, vì ăn thịt là đoạn hạt giống đại từ (nếu thọ đàn việt hiến cúng, cần phải quán như đang ăn thịt con)…

Bồ-tát Ca Diếp lại thưa: – Bạch Thế Tôn!

Sao trước đây con nghe có cho Tỳ-kheo ăn tam tịnh nhục?

– Tam tịnh nhục là phương tiện tạm đặt…

Kể từ hôm nay ta chế định cho các đệ tử: – Không được ăn tất cả thịt – Người ăn thịt, khiến tất cả chúng sinh vừa nghe hơi đều hoảng sợ…

Chúng sẽ bảo nhau: Kẻ này là oán thù của ta!

Vì vậy Bồ-tát nên từ bỏ ăn mặn, là đệ tử Phật chân chính phải y giáo phụng hành, dứt tuyệt ăn thịt!

14.

PHỈ BÁNG PHẬT PHÁP, PHẢI SÁM HỐI

Hủy báng Phật pháp, nhất là pháp Đại thừa quả báo rất nặng.

Trong kinh “Phật Thuyết Diệu Pháp Quyết Định Nghiệp Chướng” có ghi: “Nếu chúng sinh nghe thuyết Đại thừa, tâm không vui sinh hủy báng, nên biết đó là quyến thuộc của tà ma.

Do khởi tâm hủy báng kinh điển Đại thừa.

Chết xong sẽ đọa A-tỳ chịu vô lượng khổ.

Sau đó sinh vào loài ngạ quỷ ăn lửa, ăn phân, đàm, giãi… chịu khổ vô lượng kiếp xong, thì sinh làm người phong cùi, bị mù, điếc, câm, ngọng, các căn không đủ…

Những chúng sinh này trải qua vô lượng kiếp sinh từ… cuối cùng mới được gặp Phật thờ phụng cúng dường…

Vì vậy khi nghe Phật thuyết kinh Đại thừa nên giữ tâm trong sạch, không tạp niệm”…

Tiểu Quách là một sinh viên cao lớn anh tuấn, vừa tốt nghiệp đại học xong, đang chuẩn bị sang Mỹ du học.

Nhưng anh mắc một tâm bịnh rất khó trị, vì vậy đã tìm đến tôi nhờ giúp đỡ.

Vừa gặp mặt nhau, Tiều Quách lộ vẻ thống khổ bày tỏ:

– Chao ôi!

Tôi phạm phải lỗi rất lớn, tôi biết là mình không đúng nhưng chẳng tài nào khống chế được.

Phải làm sao đây?

Nghe vậy, tôi liền hỏi:

– Lỗi gì nặng nề?

Lại biết rõ sai trái mà không khống chế được?

Là ghiền ma túy hay tà dâm?…

Tiểu Quách đáp:

– Không phải mấy thứ đó, còn nghiêm trọng hơn nữa kia!

Tôi học Phật mấy năm nay, hiện tại có thể ăn chay, tụng kinh, phóng sinh… nhưng lại mắc phải một bịnh rất lớn là: Mỗi khi tôi xem kinh thấy trong đó ghi: “Phải cung kính Tam bảo: Phật Pháp Tăng, chẳng nên cuồng vọng phỉ báng, nếu không sẽ bị quả báo”…

Là tôi liền khởi tâm hoài nghi chẳng tin.

Có lúc còn cố tình phỉ báng Phật pháp, để xem thực có quả báo chi chăng?…

Một lần nọ tôi thấy trong Kinh Lăng Nghiêm viết: “ông tu tam muội nhằm xuất trần lao, tâm sát chẳng trừ, trần không thể xuất.

Cho dù ông đa trí, thiền định hiện tiền, nếu chẳng dứt sát, ắt đọa thần đạo”…

Khi xem xong đoạn nảy rồi, tôi liền sinh tâm nghi, còn này ý sai người nhà đi mua cá về giết ăn, để xem có quả báo gỉ chăng?

Do vậy mà tôi phả giới, sát sinh…

Sau đó rất hối hận, biết mình làm thế là không đúng, nhưng không hiểu sao lại chẳng tự khống chế được…

– Anh đã nhận ra đó là lỗi, biết mình làm không đúng thì phải phát tâm sám hối.

– Tuy tôi biết là không đúng, nhưng lắm lúc vẫn muốn moi móc, kiếm tìm các điểm trong kinh Phật để phỉ báng… tôi tự biết như vậy là lỗi, nhưng lại không thể sửa, điều này khiến tôi rất sợ, phải làm sao đây?

Nhìn Tiểu Quách ương bướng cứng cỏi như khối đá, tôi nghĩ “chỉ có thể dùng pháp kim cương để đánh tan tính ngông cuồng này thôi”.

Tôi bèn làm mặt nghiêm, đanh thép nói:

-Anh có biết phạm tội báng Phật báng pháp là phải đọa vô gián địa ngục hay không hả?

Nếu anh không phát tâm tha thiết sám hối, là tự làm uổng phí đời mình, bởi vì tội ấy mà phải đọa địa ngục…

Thực ra trong tiền kiếp anh đã mấy đời tu hành, tọa thiền khổ hạnh, nhưng lại có tri kiến bất chánh (y như 50 loại ma ngũ ấm trong Kinh Lăng Nghiêm Phật từng mô tả).

Do trong lúc thiền định anh thấy đủ cảnh giới lạ như: gặp Phật, thấy quốc độ chư Phật, các hào quang Phật v.v… anh liền tự cho là mình đã chứng thánh, đã khai ngộ… rồi khởi tâm ngã mạn, cống cao, kiêu căng đến cực độ…

Phật từng cảnh báo: “Nếu thấy cảnh lạ không mê đắm, chấp trước thì đó là điều tốt, còn nếu tự cho chứng Thánh tất lạc vào đường tà!”…

Do vậy mà anh bị ma thừa cơ nhập dựa, xúi làm sai trái, để anh đọa thẳng vào quỷ đạo…

Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, đời này nhờ thiện duyên chín muồi, nên anh còn phúc được mang thân nam tử tướng mạo khôi ngô, được tiếp xúc Phật pháp…

Nhưng nếu anh chẳng biết nắm bắt dịp may tranh thủ tu hành, lo phá trừ tà kiến, ngã chấp, thì là uổng phí hết duyên lành!..

Tiểu Quách có vẻ kinh hoảng, hỏi:

– Vậy tôi phải làm sao?

– Khi trở về, anh cần phải đem những kinh Phật mình từng phỉ báng, cung kính đặt trên Phật đường hoặc nơi khiết tịnh, rồi quỳ xuống thành tâm sám hối các tội ác (báng Phật báng pháp) đã qua và phát thệ không tái phạm nữa… xong, anh thành tâm lễ bái sám hối…

Ngày ngày đều phải làm như thế, cho đến khi tâm anh thực sự thanh tịnh, không còn chút ý niệm phỉ báng.

Anh phải xem Kinh Lăng Nghiêm, học thuộc lòng 50 loại ngũ ấm ma để phân biệt cho rõ, và phải tụng thuộc chú Lăng Nghiêm, hồi hướng… cầu Phật lực gia trì mình có đủ chánh tri chánh kiến, tâm Bồ-đề kiên định bất thoái… anh có làm được hay không?

– Làm được, làm được!

Tôi biết rồi!

Cuối cùng tôi cũng tìm được phương thuốc nhổ tận gốc căn bịnh bất trị này…

Thế thì may quá!

Bịnh tôi có hi vọng khỏi rồi!

Nhìn Tiểu Quách tỏ vẻ ăn năn và mừng rỡ, tôi thảnh tâm cầu cho anh sớm thành đệ tử chân chánh của Phật, ngày sau đóng góp một phần công sức hoằng pháp cho Phật giáo.

-Cố gắng nha, Tiểu Quách!…

Giải thích:

Trong kinh niết bàn Phật khai thị: “Ca Diếp, trên thế gian này có ba loại bịnh nan y mà người ta hay mắc phải: Một: Phỉ báng kinh đại thừa.

Hai: Tạo tội ngũ nghịch.

Ba: Nhất xiển đề (đoạn hạt giống Phật).

Đầy là ba loại bịnh cực nặng, chỉ những bậc Thinh văn Duyên giác mới có khả năng trị”…

Tiểu Quách biết tội của mình, nhưng không thể khống chế, phải cầu thiện trị thức nhờ giúp đỡ, khi được chỉ bày cho rồi mới sáng tỏ nhân quả, quyết định nhiếp tâm, sám hối diệt tội…

Đáng sợ nhất chính là những vị thầy xưng “cao nhân”, tuy mặc áo Phật nhưng lại ở trên đài cao giữa đông thính chúng ngang nhiên phỉ báng Phật pháp.

Bản thân đã không tuân giữ quy củ Phật môn, lại chẳng dạy đệ tử giữ giới, còn hướng dẫn sai, khiến nhiều người lạc tà… thực đáng buồn, đáng tiếc biết bao!

Thế nhân nhất định phải thâm nhập kinh tạng, học kỹ “Bổn Điều Răn Dạy Minh Bạch về Tánh Thanh Tịnh” trong “Kinh Lăng Nghiêm” dể phân biệt rõ chánh tà, không lạc vào nẻo sai…

14.

THIỆN NIỆM VÀ ÁC NIỆM

Thiện niệm ác niệm đều do tâm sinh, vì vạn pháp do tâm tạo.

Chúng ta tu hành cần phải kiểm soát, tu trong từng cử tâm động niệm, quản lý tâm mình cho tốt, nếu giữ được chánh niệm hiện tiền thường xuyên, thì tự nhiên y báo sẽ chuyển theo chánh báo, số mệnh tất được cải đổi.

Nhà Phật thường nói: “Khởi một niệm thiện, cung điện nơi thiên đường liền thành, khởi một niệm ác, hình phạt nơi địa ngục chờ sẵn”.

Nếu có thể tiến lên triệt ngộ nguồn tâm, trụ nơi vô trụ, siêng tu lục độ vạn hạnh, ắt việc giải thoát, thành đạo…

đều có thể thực hiện.

Người học Phật chúng ta, nếu tu đến thời tiết nhất định, sẽ có mài luyện đủ loại đủ kiểu hiện đến với bạn, lúc ấy cần có tâm bình hòa, nhẫn nhục tinh tiến, để vượt qua thử thách…

Dưới đây là kinh nghiệm từ cuộc sống cửa tôi, hi vọng mọi người xem xong được lợi ích.

“Tiểu Vận là thằng em họ kém tôi 7 tuổi, tính hết sức ngang ngược bướng lì.

Dì dượng tôi rất cưng chìu nó.

Hôm đó tôi tới nhà thăm dì dượng, nhưng họ đi vắng, chỉ còn một minh Tiểu Vận trông nhà.

Tôi vừa bước vào nó đã kéo tôi lên mạng chơi vi tính.

Bất đắc dĩ tôi phải chơi cùng nó một lúc.

Do tôi ít chơi game, nên rất mau thua, làm ảnh hưởng xấu đến số điểm, khiến em tức giận chạy đến xô tôi té xuống đất và trách:

– Sao chị chơi tệ quá vậy?

Nhìn khí thế hung hăng của em, tôi lấy giọng chị, nghiêm nghị quở:

– Em dám đối với chị dữ dằn thế ư?

Bình thường nể dì dượng nên chị luôn nhịn nhường, hôm nay phải dạy dỗ em mới được!

Thế lả tôi túm lấy nó, đánh vào mông nó một trận.

Tiểu Vận bị tôi đánh, khóc ầm lên, vừa khóc vừa chụp đồ đạc quăng ném lung tung…

đồng hồ, bàn, ly tách, các món đồ chơi…

đều bị nó làm vỡ hết.

Tôi khuyên ngăn vô ích, ngay lúc đó di dượng tôi về.

Nhìn thấy bãi “chiến trường” hỗn độn… dì dượng phật ý, hỏi với giọng đầy trách móc:

– Thế này là sao?

– Chẳng đợi tôi giải thích, Tiểu Vận vừa khóc vừa gào lên:

– Là chị Hồng làm hết đó!

Chỉ vừa đánh con vừa quăng đồ, không những làm con bị thương mà còn phá hư hết đồ chơi của con!

Hu hu!

Ba ơi!

Mẹ ơi!

Chị thừa lúc hai người đi vắng đã ăn hiếp con như vậy đó, hu hu!…

Tôi nghe em nói mà ngỡ ngàng, đứng chết trân, ngạc nhiên tới há hốc mồm, á khẩu… cũng chẳng biết làm sao để giải thích…

Di dượng tôi quá cưng biểu đệ nên tin ngay.

Họ giận dữ mắng tôi:

– Sao con không có lương tâm, cư xử quá tồi như thế?

Con cũng từng ờ đây một thời gian mà, sao lại đối với em ác như vậy?

Cải con nhỏ bụng dạ xấu xa độc địa này, mau cút khỏi đây ngay!

Cút mau!…

Tôi muốn giải thích, nhưng dường như chuyện khó thể vân hồi, đành nhẫn nhịn, nuốt giận quay về.

Về túc xá, tôi khóc to một trận, thầm nghĩ: “Vì sao dì dượng lại đối với tôi như thế, rõ ràng là Tiểu Vận sai, nhưng họ chẳng cần phân rõ trắng đen, cứ mắng tôi xối xả, tại sao?

Tại sao chứ?…

Bồ tát Quan Thế Âm đại từ đại bi ơi, cầu xin Ngài gia trì, giúp hóa giải mọi hiểu lầm giữa con và họ”…

Đêm đó, tôi không ngủ.

Một tuần trôi qua, tôi rất muốn đi thăm biểu đệ và hướng dì dượng xin lỗi, vì bình thường họ đối với tôi rất tốt.

Thế là tôi mua quà mang đến nhà họ…

Vừa bước vào nhà, cảnh tượng trước mắt khiến tôi giật mình ngạc nhiên: dì đang ngồi trên sô-pha bưng mặt khóc, còn dượng ở cạnh bên thở dài não nuột.

– Dì dượng ơi, có chuyện gì vậy?

Tiểu Vận đâu?…

Dì dượng chỉ vào phòng ngủ.

Tôi bước tới, vừa nhìn thấy biểu đệ, thì giật mình thất kinh: Không ngờ Tiểu Vận tuấn tú giờ đã biến thành kẻ đần độn ngớ ngẩn.

Lưỡi em thè ra khỏi miệng quẹo sang bên phải, nước giãi chảy nhỏ giọt giọt…

Còn tay và gò má bên phải cùa em thì không ngừng co giật.

– Nó bị như vậy đã một tuần rồi! – Dượng bất đắc dĩ kể cho tôi nghe:

– Con đi rồi thì qua ngày sau, Tiểu Vận đột nhiên toàn thân co giật, đến bịnh viện khám, bác sĩ nói đây là triệu chứng bại não, chỉ có thể điều trị từ từ, không có cách tốt hơn…

– Phải làm sao chứ, chúng ta chỉ có mình nó thôi mà…

Dì tôi ngồi bên nghẹn ngào chen vào nói, hai mắt đỏ chạch, chứng tỏ dì đã khóc rất nhiều.

Tôi tiến đến an ủi:

– Đừng lo, rồi sẽ có cách mà…

Quay về ký túc xá, tôi cảm thấy việc này có liên quan đến tôi.

Mặc dù Tiểu Vận, dì dượng đối với tôi một bề ghét bỏ, dùng toàn lời ác dành cho… nhưng tôi là người học Phật, cần phải dùng thiện niệm và tâm từ bi mà đối với họ.

Nếu như tôi thành tâm tụng kinh hồi hướng cho Tiểu Vận, có thể em sẽ dần hồi phục, gia đình sẽ bình an, hài hòa.

Thế là tôi bắt đầu tụng Kinh Kim Cang, hồi hướng công đức cho Tiểu Vận.

Kỳ tích xảy ra, ba ngày sau, di tôi mừng rỡ gọi điện khoe:

-Từ lúc con đến thăm thì trưa hôm sau bịnh Tiểu Vận chuyển tốt lên rồi.

Miệng và mặt nó hết co giật, có thể ăn cơm bình thường.

Tiểu Vận đã kể hết sự thực cho chúng ta nghe rồi, nó đã làm sai và phải nhận lỗi trước con!

Thật xin lỗi con nhé, hôm ấy dì đã mắng oan con, con hãy tha lôi cho dì nghe.

Tối nay mời con đến ăn cơm nha!

Thế là mọi việc tốt đẹp, an ổn hài hòa.

Điều này làm tôi xúc động sâu sắc.

Nếu như mỗi người học Phật đều có đủ trái tim từ bi, cho dù bị người khác khởi ác niệm với mình, bản thân cũng không nên nổi sân, mà phải nhờ vào sức mạnh của Phật pháp, sám hối, hồi hướng…

Nếu biết dùng thiện niệm đối đãi với mọi sự, mọi việc, thì nhất định sẽ có hảo báo, thu được kết quả tốt đẹp không ngờ!

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu người muốn biết, ba đời tất cả Phật, nên quán tính pháp giới, tất cả do tâm tạo”…

Người học Phật trong lúc gặp nghịch cảnh nghịch duyên, cần giữ chánh niệm.

Nên dùng tâm nhẫn nhục, như như bất động đối với mọi hoàn cảnh…

Làm được vậy mới có cơ hội giải thoát.

Kinh Kim Cang nói: “Tất cả pháp vô ngã, thành tựu nơi nhẫn”…(17)

Nhân đây xin khuyên thế’ nhân, cẩn thận khi nói năng hành động, phải gìn tâm giữ miệng, chớ nói lời vu khống người, vì thiện ác nằm trong một niệm, phúc họa như bóng theo hình, nhân quả báo ứng luôn có thật.

Lời người dịch:

Đọc đến đây bạn có thắc mắc không, tại sao có nhiều người ác khẩu, vu khống, tạo lỗi tương tự hoặc hơn cả Tiểu Vận mà họ đâu bị gì?

Phải giải thích đó là tùy thuộc nhân quả, tùy những uẩn khúc trong cuộc sống mọi người.

Tôi xin tạm giải thích thế này: Nếu xúc phạm kẻ ác, hoặc thường nhân, không bị báo nặng bằng xúc phạm hiền nhân, thánh nhân…

Hồi mới dịch xong chuyện này, tôi không tin, cho rằng có vẻ như người kể đang… tự khoe khoang?

Nhưng sau đó tôi nghĩ lại: “Quả Hồng là Phật tử, không nói dối và tu rất miên mật, giữ giới chu đáo…

Do vậy mà lời cầu nguyện cô dễ đạt, và bản thân không những nhận được lực gia trì của thần hộ giới mà cả đến chư Phật… nên mới chiêu cảm kết quả như trên”.

Đọc trong kinh sử, ta thấy ghi chuyện một vị sư già thời Phật, tuy đã chứng thánh nhưng mồm cứ nhai đi nhai lại rất khó coi.

Nguyên nhân bắt nguồn từ những kiếp xa xưa, thuở đó ông là một chú tiểu, tình cờ thấy một vị sư già tụng kinh, ông đã cười nhạo, chê rằng: Sư tụng giống hệt “trâu nhai cỏ” (không ngờ vị sư này đã chứng A-la-hán) do lỗi xúc phạm thánh nhân mà Sa-di đó 500 đời miệng thường nhóp nhép giống trâu nhai cỏ, cho đến kiếp cuối cùng này dù đã chứng A-la-hán rồi, vẫn còn phải tiếp tục trả báo xưa…

Ngoài tác động luật nhân quả, (mắng người bị người mắng, hại người bị hại lại)…

Thì việc vô cớ vu oan, đổ tội cho hiền nhân (hay một người chỉ giữ ngũ giới nghiêm nhặt thôi), cũng khiến đương sự có thể chiêu vời báo ứng xấu cho mình, giống như câu chuyện Quả Hồng vừa kể, (là một chứng minh)… vì vậy Phật thường khuyên ta cẩn ngôn và luôn nhắc: “Họa nằm nơi đầu lưỡi…”

15.

TRONG CHẾT ĐƯỢC SỐNG

Người ta thông thường chỉ khi nào lâm vào bước đường cùng, mới khởi ý đến với Phật pháp, cầu gia hộ…

Lúc đó nếu cỏ duyên lành gặp được thiện tri thức hướng dẫn, hành đúng pháp sám hối, chí thành học Phật, thi có thể chuyển nguy thành an, sống lại từ chỗ chết.

Nhưng trước bao quả báo khổ não phải thọ nhận, có bao nhiêu người sở hữu được may mắn này?

Vì vậy chúng ta phải luôn nhớ vô thường, nghe liền tin thọ, phải biết trân quý bội phần những ưu khuyết từ kiếp người, sống nên thuận theo dòng thiện, sửa đổi lỗi xưa, ăn chay trì giới, hiểu rõ nhân quả, dứt ác theo lành, phá bỏ vô minh chồng chất, giữ chánh tri kiến… mới có thể tránh được tai nạn họa ương trùng trùng.

Có nữ sĩ họ Lưu, tuy tin Phật nhiều năm nhưng do gia đình phản đối nên mãi vẫn chưa ăn chay, tín tâm học Phật cũng không kiên định.

Cuối năm 2007 Lưu cư sĩ khám bịnh, bất ngờ phát hiện ruột bị ung bướu, sau khi tái khám, bác sĩ bảo:

– Cô về nhà nghỉ dưỡng, ưa món gì thì cứ ăn!

Bịnh này mạng sống chỉ còn tính từng ngày!

Lưu cư sĩ hoàn toàn bất ngờ, bình thường cô không nghĩ là bịnh này nặng đến vậy, giờ xem như đã bất trị, là thời kỳ cuối.

Vô thường đến nhanh quá, khiến cô trở tay không kịp, nên tâm phát sinh chán nản, tuyệt vọng đầy…

Lúc này cô nhớ lại, mấy hôm trước, dì và vài bạn đạo đến thâm, đã nhiều lần khuyên cô nên ăn chay, niệm Phật, tụng kinh… cho tốt.

Thế là cô âm thầm hạ quyết tâm, phải trì giới ăn chay, chấm dứt không tạo sát nghiệp.

Cô sẽ chân chánh tu học Phật pháp, cầu Phật lực gia trì, giúp cô ra khỏi tuyệt lộ…về nhà rồi, Lưu cư sĩ kể rõ bịnh trạng nghiêm trọng của mình cho mọi người hay và kiên quyết nói:

- Tôi khổng còn sống bao lâu nữa, trước đây tôi đã tạo nghiệp sát quá nặng, bắt đầu từ hôm nay trở đi, tôi nhất quyết ăn chay tu học, xin mọi người ủng hộ cho…

Chồng và các con cô thuở giờ luôn phản đối không cho cô ăn chay, lúc này đành im lặng chìu theo…

Mặc dù cô mới bắt đầu ăn chay, tập tu, nhưng nỗi sợ cái chết và bịnh hoạn đau đớn dày vò, khiến cô nhiều lần thối tâm, tinh thần nằm bên bờ vực suy sụp…

Đang lúc cô hành trì hết sức khó khăn, thì dì và các bạn đạo liền đưa tay ra giúp, họ dẫn cô đi phóng sinh và đồng tụng kỉnh hồi hướng hỗ trợ…

Cầu Phật Bồ-tát gia hộ cô sớm mạnh lành hồi phục.

Đồng thời còn khuyên cô nên tụng kinh “Nhất Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá-lợi Bảo Kiếp Ấn Đà-la-ni” để giúp cho tín tâm và đạo tâm kiên định, chiến thắng được quỷ bịnh.

Một tháng sau, khi đến bịnh viện kiểm tra, thấy bịnh cô đã ổn định và chuyển tốt.

Điều này khiến cô tăng thêm niềm tin.

Chồng con khi hay bịnh cô đỡ nhiều rồi, cũng vui mừng, xúm nhau ăn chay theo.

Những ngày tháng sau đó, Lưu cư sĩ phát nguyện tinh tấn tu học, làm một đệ tử Phật đúng nghĩa.

Hằng ngày cô tụng kinh “Nhất Thiết Như Lai Tâm Bí Mật Toàn Thân Xá-lợi Bảo Kiếp Ấn Đà-la-ni” 108 biến.

Cô chí thành quỳ trước Phật tụng kinh, tĩnh tọa… chuyên chú miên mật…

Lúc này phiền não cũng theo đó rụng rơi, đúng như trong kinh nói: “Nếu có chúng sinh, tội nặng bị báo ứng: trăm bịnh kéo đến, thống khổ bức thân, tụng chú này 21 biến, ách bịnh khổ não, nhất thời tiêu tan, thọ mệnh kéo dài, phúc đức vô tận…”

Lưu cư sĩ tinh tấn tu học như thế ba tháng, sau đó đến y viện tái khám, kỳ tích đã xuất hiện: ruột không còn ung bướu, bịnh khỏi hẳn triệt để!

Nhờ theo pháp chân chánh, học Phật thực hành, đã giúp Lưu cư sĩ sống lại từ cửa tử, không những bản thân cô thọ sâu pháp ích, mà còn khiến toàn gia cảm động, cùng bước vào con đường tu tập ăn chay theo luôn.

Giải thích thêm: Lưu cư sĩ bị ung bướu thời kỳ cuối, vì sao chỉ ba tháng được lành?

Là do các nguyên nhân sau đây:

1.

Nhờ cô sửa đổi tu 3 đều thiện: Ăn chay trường – Phóng sinh – Tụng kinh.

2.

Phát nguyện làm lợi chúng sinh, nguyện này cùng nguyện chư Phật tương đồng.

3.

Hằng ngày thành tâm tụng chú “Nhất thiết Như Lai tâm…”

108 biến, lực gia trì của chú này mạnh không thể nghĩ lường.

Trong kinh nói: “Chí tâm phát nguyện, tụng niệm thần chú, mỗi chữ mỗi câu, phóng đại quang minh chiếu đến tam đồ, khổ đều tiêu tan.

Chúng sinh thoát khổ, mẩm Phật phát sinh, tùy ý vãng sinh mười phương tịnh độ”…

Người người nếu y theo ba điều này tu, thảy đều có thể chuyển hóa định nghiệp va nghịch cảnh.

16.

HOÀNG ĐÌNH

Hoàng Đỉnh là một cô bé có số mệnh bi thảm, ngay lúc cô vừa hiểu chuyện thì ba mẹ đã li dị, cô sống chung với phụ thân và kế mẫu, bà dì ghẻ này rất nóng nảy hung dữ, động một tí là quát tháo, đánh chửi, khiến tâm tư bé bỏng của Hoàng Đình luôn phủ đầy mây đen.

Bởi vô phương hứng nhận cuộc sống như vậy, nên cô bé trốn khỏi gia đình phụ thân, đến sống chung với mẹ ruột.

Mẹ cô chuyên bán thức ăn nhanh: là món gà rán, vịt quay (tạo nghiệp sát sinh rất nặng).

Chính điều này dẫn đến tai họa về sau.

Mấy năm đầu, tiệm họ buôn bán rất phát.

Kiếm được nhiều tiền, lúc đó hai mẹ con sống rất sung túc.

Rồi từ lúc giải phóng, cải cách phát triển, hai mẹ con bèn dời nhà đến Thanh Đảo, công tác ở xí nghiệp Đài Tư.

Trong lúc làm việc tại Thanh Đảo, đối với Hoàng Đình thì thời gian này chính là hưởng thụ.

Nhưng “hưởng phúc thì tiêu phúc” có phúc báu mà không biết hành thiện tích phúc tạo lợi ích chân chính cho mình và người, cứ ngồi yên toại hưởng thì phúc đó hết rất nhanh.

Hoàng Đình làm việc mỗi ngày hai tiếng, thời gian rảnh còn lại thì phụ chủ uống trà hầu khách, tán gẫu, ăn cao lương hải sản, hát karaoke, khiêu vũ… nếp sinh hoạt ở quán bar rực rỡ ánh đèn đã khiến nội tâm cô bị kích động mạnh, nảy ý thèm kiếm được một người đàn ông cỏ thể chu cấp cho cô cuộc sống hưởng thụ vật chất đủ đầy.

Trong đám khách lui tới, Hoàng Đình quen một thanh niên tên Lý Hạo, anh ta kể mình xuất thân từ một gia đinh thượng lưu, ăn nói cư xử rất có phong độ, dần dần đã chinh phục được trái tim cô gái 21 tuổi.

Từ đó hai người giao tình càng mật thiết.

Chưa đầy nửa năm, Lý Hạo đã bộc lộ bản chất mê bài bạc, hắn đem toàn bộ tiền của đặt hết vào cá độ, có lúc phải hướng gia nhân vay tiền, hoặc mượn cô gái Hoàng Đình chất phác.

Ngày nọ Lý Hạo gọi điện vay tiền, mới đầu Hoàng Đình tha thiết khuyên hắn nên bỏ bài bạc.

Nhưng Lý Hạo cố thuyết phục cô gái ngây thơ:

- Anh sẽ sửa, anh hứa mà…

Em hãy cho anh vay một lần cuối đi, có được không?

Hoàng Đình hiền lành mềm lòng, đem số tiền dành dụm nửa năm của mình vào túc xá.

Tại nhà trọ, Lý Hạo đang ngồi uống rượu giải sầu thấy nàng tới, hắn mừng phát điên, trong cơn say hắn kéo tay nàng, Hoàng Đình thấy vậy vội đưa tiền ra, vốn nàng định khuyên hắn nên sớm hồi tâm chuyển ý hoán cải, nào ngờ Lý Hạo trong cơn nhậu say, thú tính bộc phát, đã làm Hoàng Đình mất đi sự trong trắng.

Hoàng Đình chia tay Lý Hạo được một tháng thì phát hiện mình mang thai, vì muốn giấu mẹ và bạn bè, nàng lấy cớ về quê thăm thân nhân.

Bị sức ép kinh tế và nỗi lo dư luận xã hội, nàng quyết định phá thai.

Việc này rất đau đớn, nàng ráng nhẫn chịu cơn thống khổ kịch liệt, bị dày vò hành hạ ngót mấy tiếng dài đăng đẳng…

“Họa phúc không cửa, chỉ có người tự chiêu; báo ứng thiện ác, như bóng theo hình”.

Phá thai được ba ngày, thì Hoàng Đỉnh nhận được hung tin: mẹ nàng bị xe đụng, đầu bị thương nghiêm trọng, máu chảy không ngừng, mạng sống lâm nguy trong sớm chiều.

Đối với Hoàng Đình yếu đuối thì đây quả là khổ chồng khổ…

Nhờ có bạn bè phụ giúp đưa mẹ nàng vào viện.

Nhưng bác sĩ nói:

– Người này khó sống nổi nữa, thân quyển hãy về lo hậu sự đi!…

Nghe tin mẹ bị nạn, Hoàng Đình vội vào bịnh viện, lúc này mẹ nàng mổ đã hơn năm tiếng, thời khắc đó nàng khóc chẳng thành lời, buồn rầu không nguôi, chì biết tự trách, nói thầm: “Mẹ ơi đừng chết… bởi con tạo ác nghiệp nên mẹ mới gặp nạn… con xin lỗi mẹ, hu hu..

Tôi phải làm sao, làm sao đây?”…

Đột nhiên nàng nghe người bạn nói nhỏ vào tai mình: – Hãy ráng niệm Phật A Di Đà thật nhiều, vì đại nguyện lực của Ngài vĩ đại vô cùng!

Phải rồi!

Niệm Phật!

Hoàng Đình không màng đến thể diện nữa, nàng quỳ xuống trước phòng mổ, chắp tay chí thành niệm lớn: Nam mô A Di Đà Phật!

Cầu Phật gia hộ cứu mẫu thân…

Những người bịnh và bác sĩ lại qua đều ném cho nàng tia nhìn kỳ quái.

Mặc mọi người chỉ trỏ bàn tán… với nàng chẳng ăn nhằm gì, bởi thời khắc đó trong tâm nàng chỉ có Phật A Di Đà, nàng hoàn toàn dốc hết tâm ý niệm Phật, cầu cho mẹ minh… vì đây chính là hi vọng duy nhất.

Trong Kinh Địa Tạng có nói: “Nếu có người lâm chung, thân thuộc trong nhà dù một người, vì bịnh nhân cao tiếng niệm Phật, thì người sắp chết đó, trừ tội ngũ vô gián ra, các nghiệp khác đều có thề tiêu”…

Công đức niệm danh Phật không thề nghĩ tường, Phật pháp quả chân thực không dối, ngay chính bác sĩ cũng không bảo đảm mẹ nàng sống, nhưng kỳ lạ thay, bà đã sống lại…

Trải qua tai nạn này rồi, hai mẹ con cùng hước vào con đường học Phật, siêng năng nghe giảng pháp, kiên trì ăn chay, phóng sinh, thường phát tâm sám hối tội sát sinh đã qua…

Nhờ cả hai nỗ lực tinh tấn tu, nên mẹ Hoàng Đình hồi phục rất nhanh.

Kết quả tốt đẹp vượt ngoài sức tưởng.

Hai tháng sau, mẹ Hoàng Đình đã có thể tự làm mọi chuyện và sinh hoạt khỏe mạnh như người bình thường.

Thấy mẹ chuyển nguy thành an, Hoàng Đình càng kiên trì tu, tăng thêm tín tâm, nàng lợi dụng thời gian rảnh, tận lực giúp đỡ người chung quanh và đem kinh nghiệm mình từng trải qua, kể cho người nghe, khuyên họ thâm tín nhân quả, sớm cải ác theo thiện…

Nàng đã giúp cho nhiều gia đình đến với đạo, nghe giảng và hành theo Phật pháp, được ly khổ đắc lạc.

17.

GẶP HUNG HÓA CÁT

Trong Kinh Phổ Môn từng thuyết: “Nếu có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh, bị nhiều khổ não, nghe danh Bồ-tát Quan Thế Âm nhất tâm xung niệm, tức thời Ngài sẽ nương theo âm thanh đó, giải cứu cho”.

Một ngày hạ tuần tháng 7 năm 1998, đúng vào thời khắc bão đang đổ bộ lên bờ, thì mười giờ tối đêm đó, tôi phải đến đơn vị trực ban.

Vì vậy tôi mặc áo mưa, chạy xe ra khỏi cổng.

Theo thường lệ, trước khi đi, hễ vừa ra khỏi nhà là tôi luôn niệm: “Nam mô Quan Thế Âm Bồ-tát”.

Lúc này ngoài trời cuồng phong đang gào thét, mưa thịnh nộ trút xuống tạt vào mặt tôi, trên đường không một bóng người, cũng chẳng thay có chiếc xe nào.

Tôi cứ niệm Phật và chạy chầm chậm trong cơn mưa bão, mọi việc đều bình thường.

Nhưng khi xe tôi chạy đến gần một ngã tư, sắp quẹo sang phải… thì tim tôi bỗng đập rất nhanh, gây bức rức khó thở đến nỗi việc hô hấp bình thường cũng hóa thành khó khăn… cảm giác này khiến tôi vô cùng lo lắng: Bởi thuở giờ tôi chưa từng mắc bịnh tim, gần đây cũng vừa mới khám sức khỏe, kết quả đều tốt cả.

Nhưng… tại sao ngay giây phút này tim tôi bỗng trở nên không khỏe, khó thở đến vậy?

Thế là tôi bắt buộc phải dừng lại nghỉ dưỡng cho nhịp tim bình ổn lại.

Nhưng, khi tôi vừa ngừng xe… thật kỳ lạ, cơn đau lập tức biến mất không còn dấu vết, sức khỏe tôi hồi phục lại bình thường…

Lúc này bỗng có một chiếc xe vận tải xuất hiện trước mặt tôi với “tốc độ siêu kinh khủng”, nó phóng – không! – phải nói là nó “bay” qua đầu xe tôi… (cách tôi chưa đầy một thước), bởi anh tài xế lái quá nhanh, quá ẩu, hoàn toàn không thèm quan sát trên đường đang có ai.

Màn “xe bay” kinh hoàng của anh ta khiến tôi chợt hiểu: nếu như tim tôi không bị hành đau đến nghẹt thờ, bắt buộc tôi phải dừng lại nghĩ… thì tôi sẽ điềm nhiên chạy thẳng tới trước, và nhất định sẽ bị chiếc xe kia tông thẳng vào, hậu quả thê thảm quả khó mà lường được!

Có nghĩa là, nếu không nhờ Phật lực gia trì, thì ắt tôi đã tan xác dưới bánh xe vận tải nọ.

Tôi thật cảm ân Bồ-tát Quan Thế Âm đại từ đại bi vạn phần.

Qua việc này tôi càng tăng thêm tín tâm siêng năng niệm danh Ngài miên mật và rất tin vào nguyện lực đại từ đại bi của Bồ-tát Quan Thế Âm.

18.

THIỆN THẦN HỘ TRÌ NGƯỜI TRÌ GIỚI

Trong xã hội hôm nay, các thiên tai nhân họa như: địa chấn, sóng thần, thủy-hỏa tai, ôn dịch, chiến tranh, đụng xe… luôn phát sinh chúng ta phải làm sao để viễn ly tai nạn?

Trong “Kinh Quán Đỉnh” Phật giảng: Nếu như chúng ta qui y Tam-bảo thì sẽ có 36 vị hộ pháp thần vương bảo vệ.

Người thọ trì ngũ giới thì mỗi giới có năm vị hộ pháp thần vương bảo vệ, tổng cộng có 25 vị thần.

Những thần vương này lại có hằng hà sa số quyến thuộc, thảy đều ủng hộ người tu.

Trong “Phật Thuyết Tứ Thiên Vương Kinh” cũng ghi giống vậy.

Dì Trần là một Phật tử thuần thành, năm nay 72 tuổi, mặt hồng hào, sáng rỡ, tinh thần sung mãn, ai gặp cũng khen dì vừa trẻ vừa xinh.

Chẳng thể nào đoán ra đó là bà già hơn 70.

Nhưng khoảng 10 năm trước, tinh thần dì Trần khác xa hiện giờ.

Lúc đó dì là một người toàn thân đau đớn, mắc nhiều bịnh nội tạng, quanh năm phải uống thuốc vì chứng bịnh già suy.

Mỗi lần đến bịnh viện, dì rất lo, sợ khi kiểm tra sẽ phát hiện thêm bịnh mới nữa, nội tâm luôn sợ chết, ngày nào cũng sống trong thấp thỏm lo âu, cho đến một ngày kia, dì đi chùa lễ Phật, thỉnh một cuốn “Báo ứng Hiện Đời”, về nhà xem xong, dì hoát nhiên đại ngộ: té ra trên đời còn có Phật pháp là thuốc hay chữa lành bao chứng bệnh.

Không những khéo chữa trị thân tâm mà còn làm lợi ích cho chúng sinh.

Từ đó, dì Trần bắt đầu học Phật, ăn chay, sám hối nghiệp chướng, lúc thúc tụng niệm, lễ bái, in kinh, phóng sinh…

Hành trình như vậy nhiều năm, thân thể dì ngày càng khỏe lại.

Dì tu theo pháp Phật đến năm thứ hai thì xảy ra một việc không thể ngờ.

Chiều đó dì cùng cháu gái tản bộ nơi công viên.

Vừa đi đến khúc quanh thì từ phía sau thình lình xuất hiện một người chạy xe đạp… tông thẳng vào dì Trần.

Kỳ quái là xe tông vào dì rồi thì nó dội ngược, bắn thật mạnh ra xa ngót mười mét rồi “ầm” một tiếng, cả xe lẫn người gây tai nạn rơi thẳng xuống cái hồ đối diện ở phía bên trái…

Lúc này đứa cháu gái hoảng hốt, vội hỏi:

– Ôi chao!

Dì có sao không, bị đụng mạnh quá mà?

– Không, không sao hết! – Di Trần mỉm cười đáp.

– Có lý nào như vậy?

Con thấy rõ xe tông dì mạnh tới nó bật ngược ra văng thẳng xuống hồ kia mà!?…

Để con đưa dì đến bịnh viện kiểm tra!

– Không sao!

Chẳng cần làm như vậy!…

Đương lúc hai dì cháu đang nói thì người chạy xe té xuống hồ đã bò được lên bờ, y nộ khí xung thiên lao tới… dù còn ở đằng xa, y đã hấp tấp chỉ vào dì Trần quát:

– Cái con mụ già khụ này, dám tông xe của…

“bố” mày á?

– Ối trời ơi!

Ông này đúng là ăn nói ngang ngược!

Rõ ràng ông tông dì tôi xong thì “bay” thẳng xuống hồ, ở đây ai cũng thấy hết!…

Đám đông bu quanh cũng nhao nhao lên tiếng trách mắng người đạp xe, ông ta bị la đến cứng họng hết nói, đành xẻn lẻn bỏ đi tới hồ lôi cái xe lên…

Mọi người vội khuyên dì Trần:

– Dì phải đi bịnh viện khám ngay, chúng tôi thấy xe tông vào dì rất mạnh, khám chút cho an tâm, đề phòng rủi ro…

Thế là dì Trần đến bịnh viện kiểm tra, kết quả: ngoại trừ vùng lưng bị chút thương tích ra, còn lại đều bình thường, không có bất kỳ vấn đề gì.

Do vậy người cháu ở cạnh bên cảm thấy rất lạ.

Sau đó dì Trần thuật lại cho tôi nghe:

– Trong khoảnh khắc bị xe đạp tông, dì có cảm giác như sau lưng minh vừa có tấm sắt chắn ngang bảo vệ, nhờ vậy nên không bị đau, mà cũng không kịp biết việc gì vừa xảy ra…

Tôi bảo:

– Nhờ dì trì giới nghiêm nhặt, lại tinh tiến tu theo pháp Phật cho nên được Bồ-tát “Vi Đà Hộ Pháp” đến giúp dì hóa giải tai nạn, đã hiện ra tấm sắt cản xe đạp lại, tránh cho dì không bị thương đó…

Uy lực Phật pháp quả không thể nghĩ tưởng, người trì giới chuẩn mực trong lúc nguy ách sẽ được báo nặng lãnh nhẹ, gặp dữ hóa lành.

Giải thích thêm:

Vì sao có người tinh tấn tu học Phật mà vẫn bị tai nạn?

Đó là vì trước khi chưa học Phật, đời này kiếp này họ đã tạo các ác nghiệp sát, trộm, dâm v.v… thậm chí những ác nghiệp tạo từ vô thỉ kiếp đến nay đã chín muồi, nên quả báo hiện tiền…

Một khi tu học theo Phật rồi, nếu biết nhất tâm sám hối, bỏ ác theo thiện, vĩnh viễn không phạm lại nữa…

Nếu lấy trì giới làm gốc, tinh tấn tu, liền có thể hoá giải tai nạn hoặc tội nặng trả nhẹ… khi lãnh quả báo hay tai ương, phải hiểu là mình đang giải túc nghiệp quá khứ.

Trong Kinh Kim Cang có câu: “Những thiện nam tín nữ trì tụng kinh này, nếu bị người khinh rẻ, là do tội nghiệp đời trước của họ đáng phải đọa ác đạo, nhờ đời nay bị khinh chê nên tội nghiệp đời trước ắt được tiêu diệt”…

19.

BỊNH CỦA BA TÔI

Phật tử chúng ta thường hay tụng chú (là ngữ ngôn văn tự của Phật Bồ-tát phát xuất từ trong thiền định).

Trước khi Phật pháp truyền sang Hán, đất Hán cũng có một số chú thế gian, tuy cứu cánh không tuyệt hảo nhưng vẫn có thể hiển linh giải trừ tai nạn, so với Phật chú cũng có chỗ thẩn kỳ hiệu nghiệm giống nhau.

Chú gọi là Đà-la-ni, dịch sang Hán ngữ có nghĩa “tổng trì” (là giữ gìn thiện pháp không cho tán thất và ngăn ác pháp không cho khởi).

Chú còn gọi là Mật ngữ, vì Phạm thiên và Nhị thừa không hiểu được.

Chú còn gọi là Chân ngôn, hàm ý: Như Lai thuyết lời chân thật không dối.

Một số chú là do Phật phóng quang, trong hào quang thuyết ra nên gọi là “Minh”.

Uy thần công đức chú Phật không thể nghĩ bàn.

Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật nói:

– A-nan!

Đây là câu văn bí mật vi diệu xuất sinh từ hào quang Phật đảnh tụ hội của mười phương chư Phật.

Mười phương Như Lai nhờ chú này mà đắc thành vô thượng chánh biến trí, hàng hữu học các ông chưa hết luân hồi, phát tâm chí thành, đạt được A-la-hán…

Không trì chú này mà tọa đạo tràng khiến thân tâm xa lìa ma sự (thì không có diều đó)…

Trong kinh “Thất Câu Chị Phật Mầu Sở Thuyết Chuẩn Đề Đà La Ni” cũng nói: “Nếu có người xuất gia, tại gia nào hành trì chân ngôn, tụng chú này đủ chín mươi vạn biển, thì vô lượng kiếp tạo thập ác, những tội tứ trọng, ngũ vô gián… thảy đều tiêu diệt, sinh ra thường được gặp chư Phật Bồ-tát, tài bào phong nhiêu, thường được xuất gia”.

Trong kinh Đại Bi Tâm Đà-la-ni nói:

“Lúc tụng chú, mười phương chư Phật đều đến chứng minh, tất cả tội chướng đều tiêu diệt, tất cà tội thập ác ngũ nghịch, phá trai phạm giới, phá tháp hoại tự, trộm vật chúng tăng, làm ô nhiễm hạnh thanh tịnh… tất cả trọng tội, ác nghiệp như thế thảy đều tiêu diệt.

Chỉ trừ một việc, nơi chú sinh nghi, thậm chí tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được diệt, huống là trọng tội.

Tuy chẳng diệt trọng tội ngay, vẫn có thể trồng nhân Bồ-đề về sau…

Tôi ban sơ liễu ngộ sức mạnh và uy thần công đức Phật chú bắt đầu từ bịnh của phụ thân:

Ba tôi đau bao tử nhiều năm, tùy theo tuổi tác tăng, bao tử ngày càng đau nặng.

Hôm đó, khí trời lạnh buốt, ba tôi ăn sáng xong thì lái xe đi làm.

Đến trưa thì cảm giác bao tử nóng, muốn nôn, ông mới “ụa” một tiếng, máu tươi tuôn ra giống như núi lửa phun trào vậy.

Đồng nghiệp chung quanh sợ điếng hồn, không biết làm sao, một người nhanh trí đỡ ba tôi dậy cho nằm nghỉ trên ghế xô-pha, rồi gọi điện báo cho tôi hay.

Nhận được tin, tồi nhanh chóng đưa ba vào bịnh viện cấp cứu, do vội vảng nên tôi chỉ mang theo bên mình cuốn sách nhỏ có chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi, Thập Chú.

Lúc đến bịnh viện, ba tôi nằm trong phòng cấp cứu, mặt trắng bệch, không ngừng thổ huyết.

Mẹ tôi ngồi bên cạnh lo lắng, chẳng biết làm sao, bà bật khóc…

Trong phòng cấp cứu, nhìn giống như địa ngục nhân gian, tiếng rên rĩ, khóc lóc, kêu la vang dội không ngừng, có đủ loại bịnh tụ hội ở đây.

Tôi đi liên lạc sắp xếp, đưa ba vào một phòng tương đối yên tĩnh.

Bác sĩ đến kiểm tra phòng nói:

– Người này thổ huyết quá nhiều, nếu như không khống chế được thì hậu quả xấu khó lường!

Tối nay thân nhân nhớ chú ý quan sát, hễ thấy thổ huyết nữa, thi phải lập tức cho truyền máu…

Nghe bác sĩ nói, khó khăn lắm ba tồi mới đưa được tay lên khoát khoát, tỏ ý ông không muốn truyền máu, tôi vội trả lời bác sĩ:

– Vâng vâng!

Chúng tôi sẽ theo dõi, có gi thì sẽ liên hệ với bác sĩ…

Đêm đó, tôi không sao chợp mắt được, vì rất lo cho bịnh của ba.

Tôi đem hết lòng thành cầm cuốn sách chú lên bắt đầu tụng.

Nói ra xấu hổ, đây là lần đầu tôi tụng chú một mình, trước đây chỉ nghe tụng chú trên đĩa.

Cho dù có lúc phát âm không chuẩn, nhưng tôi tin thành tâm ắt có cảm ứng, Phật lực nhất định sẽ gia hộ cho ba.

Cũng không biết tụng đã bao nhiêu biến, tôi cứ đọc mãi cho đến khi tôi và phụ thân cảm thấy toàn thân ấm áp thư thái, bầu khống khí an lành bao phủ khắp phòng.

Sáng hôm sau, cha tôi phải làm thiết phiến kiểm tra bao tử, tôi thầm niệm danh Bồ-tát Quan Thế Âm, hi vọng kỳ tích phát sinh.

Uy lực chư Phật quả không thể nghĩ tưởng, trong quá trình kiểm tra, các bác sĩ đều há miệng ngạc nhiên, họ cho rằng bịnh này rất nghiêm trọng, khó mà tin là có thể hồi phục nhanh chóng như vậy. vết thương cũng đã lành, xem như khả năng bị ung bướu được loại trừ.

Một tuần sau, ba tôi tái khám, bác sĩ đưa kết quả: là chứng bịnh viêm lở bao tử…

Trong thời gian phụ thân nhập viện tôi tụng thầm 7 bộ Địa Tạng và phóng sinh hồi hướng cho ông.

Hơn tuần sau thì cha tôi hồi phục, xuất viện.

Việc náy càng khiến tôi tăng thêm tín tâm, kiên định học Phật và tin vào sức mạnh không thể nghĩ lường của chú Phật.

Tôi phát nguyện dùng hết sức mình làm lợi ích chúng sinh, giúp nhiều người biết đến Phật pháp, sớm lìa khổ được vui.

Giải thích thêm: Các chú Phật đều có công đức và sức mạnh không thể nghĩ tưởng, chỉ cần không khởi niệm hoài nghi với chú, dùng tâm từ bi, bình đẳng, Bồ-đề, tâm cung kính, tâm làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, tâm như như bất động, tâm tỉnh táo sáng suốt, tâm thanh tịnh vô nhiễm… mà trì chú, chắc chắn sẽ đem lại lợi ích cho chúng sinh, hóa giải oán cừu, chuyển ác duyên thành thiện duyên, được đại tự tại.

Đại sư Ấn Quang nói: “Tụng chú quý ở thành tâm, cho dù không biết nghĩa, nhưng nếu tinh tấn dốc hết lòng thành, cung kính trì tụng, lâu dần nghiệp tiêu trí sáng, có thể đạt được Phật ý”.

Chúng ta hãy y giáo phụng hành.

20.

KHÔNG NÊN HAM CẦU THẦN THÔNG

Reng…reng...reng!

Tiếng chuông điện thoại dồn dập vang lên, âm thanh cậu Du (vị cư sĩ trẻ tuổi) có vẻ khẩn trương, hỏi:

– Em hiện tại ngồi thiền tụng kinh, mấy ngày nay suốt 24 giờ bên tai luôn nghe tiếng nói xưng tên họ, hơn nữa còn biết chuyện xảy ra trong tương lai, không ngừng mách với em…

– Ngàn vạn lần bạn không nên chấp vô đó, đừng có ham nghe âm thanh này, bạn cần đọc kỹ “Năm Mươi Loại Ngũ ấm Ma trong Kinh Lăng Nghiêm” mà Phật miêu tả; hơn nữa cần có định lực, chánh niệm, chánh tri, chánh kiến.

Đừng quên trong Kinh Kim Cang từng nói: “Nếu dùng sắc thấy ta, dùng âm thanh cầu ta, người ấy hành đạo tà, không thể thấy Như Lai”.

Lúc tĩnh tọa nếu thấy cảnh lạ, gặp đủ cảnh giới thì chớ nên tham đắm mê luyến, phải giữ tâm bình thản như như bất động, không để cho Năm Mươi Loại Ngũ ấm Ma thừa cơ nhập vào…

– Em biết rồi…

Được một tháng sau, lúc 2 giờ khuya, điện thoại lại dồn dập reo vang:

– Chị Quả Hồng, em là Du đây, chị cứu em với!

Có nhiều âm thanh liên tục quấy nhiễu, em sợ lắm, e khó sống đến ngày mai…

Nghe cậu ta nói thế, tôi hiểu ngay: bởi do quá mê cầu thần thông, Du cư sĩ đã đi lạc.

Vì tình hình khẩn cấp, qua điện thoại tôi hướng dẫn cậu tụng từng chữ từng câu chú Lăng Nghiêm và chú Đại Bi để giúp cho tâm an định lại trước đã.

Sáng ra, tôi rủ các pháp hữu chánh tri chánh kiến, đến thăm cậu Du.

Trong lúc mọi người hiệp lực trợ giúp, cậu Du tạm có chuyển biến tốt.

Du cư sĩ mặc dù ăn chay, tĩnh tọa, tụng kinh, trì chú… nhưng lòng hay chấp trước, rất hẹp hòi.

Sau khi bước vào đường học Phật rồi tuy thói quen tự thỏa dục cậu đã khổng chế, nhưng khởi tâm động niệm thường không thanh tịnh, hơn nữa lại chưa chân chánh sinh tâm đại sám hối phát thệ sửa lỗi, đổi mới bản thân.

Đã không có thực tu thực chứng, hành sự toàn là tư lợi, không biết tu sửa tâm tánh mà chỉ biết chấp trước vào hình tướng, lại quá ham mê thần thông, nên cậu dễ lạc vào tà kiến, ngũ ấm ma mới thừa cơ chen vào.

Tu hành chiêu vời quỷ ma, thường là do khơi tâm ham cầu thần thông, ham cảm ứng, ham khai ngộ v.v…

Thế nên người tu hành học Phật, trước cần nhận rõ đường đi, phải có đủ tri kiến chơn chánh.

Đầu tiên phải có trí tuệ, minh tâm kiến tánh.

Khi thật sự kiến tánh rồi, nhờ khéo nhận biết được “chủ nhân ông” thì dù có gặp cảnh lạ cũng chẳng mê, khó bị ma quấy nhiễu.

Thứ nữa, cho dù không dụng công tu từ căn bản, thì cũng phải hiểu rõ gì là “học Phật, tu hành”.

Mặc dù hằng ngày học Phật tu hành thì mục đích chính lả: phải hiểu rõ nghĩa lý trong kinh.

Khai mở trí huệ rồi, thì chiếu theo những gì trong kinh thuyết giảng mà hành trì, đồng thời phải luôn bồi dưỡng định lực khiến tâm thanh tịnh (giống như dùi cây tạo lửa, luyện binh để ra chiến trường vậy).

Nhờ tụng kinh, tĩnh tọa mà định huệ phát lực.

Còn phải áp dụng Phật pháp vào trong sinh hoạt thường nhật.

Nếu khéo vận dụng sức định huệ để tu, sửa đổi các thói quen xấu, không ích kỷ tham lam tư lợi, lo trau giồi đức hạnh để ngày càng đạt đến cành giới cao tột như chư Phật Bồ-tát. chuyển tâm phàm thành tâm Phật, chỗ chỗ đều lảm lợi chúng sinh, được vậy mới gọi là “chân chánh học Phật”.

Trong Kinh Lăng Nghiêm gọi ngũ ấm, (còn có tên “ngũ uẩn”) tức là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mỗi thứ có mười loại ma, hợp lại thành “Năm Mươi Ngũ ấm Ma”.

Kinh Lăng Nghiêm nói: – Phá rối hay thành tựu là do “ngũ ấm” trong tâm ngươi – Chủ nhân nếu mê, thì khách được thể tung hoành…

Từ đây mà suy thì Phật tính vốn có sẵn của chúng ta và ngũ ấm ma là mối quan hệ “chủ-khách”.

Nếu chủ mê thì dễ bị dụ, khách sẽ được thuận lợi.

Chủ nếu thường tỉnh giác, ắt khách phải tôn kính, lãng xa…

Người tu hành chân chánh đối với thần thông tuyệt chẳng nên tham cầu, chẳng muốn vọng cuồng bàn luận, chẳng chấp chẳng xua, luôn giữ trung đạo…

Ngài Tuyên Hóa thường giảng: Lục Thông là cảnh giới trí tuệ hiển hiện (trong quá trình tu hành vô nhiễm, khai ngộ vả chứng quả của hành giả), điều này không có gì là phi thường.

Quan trọng là cái nhìn của hành giả có chân chánh hay không?

Hành giả phải trì giới thanh tịnh và ngăn ngừa tham dục, để khỏi đi sai đường, không lạc vào tà đạo.

Thẩn thông không thể luyện tập hay do truyền thọ mà có.

Thần thông xảy ra tự nhiên khi hành giả tu đến mức độ nào đó.

Nhưng thần thông không thể giúp chấm dứt sanh tử, cũng không phải là mục tiêu cứu kính mà Phật giáo nhắm đến.

Thật ra, thần thông chỉ là sự thông suốt của tự tánh (tự tánh thông), mọi người ai cũng đều có sẵn đầy đủ (Phật tánh lẫn thần thông), nhưng tất cả bị ngăn che bởi vô minh, phiền não.

Dĩ nhiên khi Phật còn tại thế, Ngài đã cấm đoán mọi người không được biểu diễn thần thông của mình, nhưng Ngài cũng không cấm đoán con người hiển lộ thần thông.

Nếu Bồ tát có thần thông mà không hiển lộ để phương tiện giáo hóa chúng sinh, thì thần thông để làm gì?

Đức Phật chỉ sợ rằng người ta “tùy tiện” biểu diễn thần thông hoặc dùng thần thông để lừa dối kẻ khác và đưa họ vào cảnh giới tà ma (đã được mô tả rõ ràng trong Chương “Năm Mươi Ấm Ma” của Kinh Lăng Nghiêm), trong đây có nói:

“Nếu hành giả không nghĩ mình chứng Thánh, thì đó là cảnh giới tốt.

Còn nếu tự cho mình chứng Thánh, thì sẽ bị lạc vào đường tà”.

Phật dạy: Có bốn tâm thường nên phát khởi:

1.

Tâm bình đẳng

2.

Tâm khiêm nhu

3.

Tâm không giải đãi

4.

Tâm vô độc

Đệ tử Phật cần lấy giới làm thầy, nghiêm trì giới luật, tin sâu nhân quả, thân cận người có chánh kiến, lả thiện tri thức thực tu (khéo dùng pháp tu thích hợp với mình nhất để nhiếp tâm giữ niệm).

Trong sinh hoạt thực tế hằng ngày, phải phát tâm Bồ-đề, hành Bồ-tát đạo, làm nhiều việc lợi ích chúng sinh.

Kiên nhẫn cấy cày không nôn mau thu hoạch, lúc nào cũng dọn tâm sạch sẽ, không ngừng phá trừ ngã tướng, ngã chấp…

đạt đến vô sở cầu, nhận ra bản lai diện mục.

Nếu tín đồ Phật Giáo chỉ quan tâm đến thần thông mà không lo tu dưỡng phát triển bi trí, giác ngộ độ sinh… thì xem như đã nhầm lẫn mục tiêu và không phải là đệ tử chân thật của Phật.

21.

TỘI NẶNG BÁO NHẸ

Trong Pháp Uyển Châu Lâm” ghi: “Nghiệp tạo có nặng nhẹ, nếu nhẹ thì sám hối liền tiêu, nếu nghiệp nặng thì có thể chuyển quả báo nặng thành nhẹ”.

Mỗi Phật tử chúng ta lúc chưa học Phật đã từng tạo rất nhiều ác nghiệp, do không hiểu biết mà gieo lắm nhân ác.

Cho nên lúc học Phật, đặc biệt là khi tinh tấn trì giới tu hành, sẽ xuất hiện đủ loại nghịch cảnh.

Nhiều nghịch cảnh ập đến cũng không phải là xấu, một số trong đây giúp ta giải nghiệp: tội nặng mà được báo nhẹ!

Trong “Truyện Pháp Sư Tam Tạng Chùa Đại Từ Ân” có ghi: “Ngài Huyền Trang lúc lâm chung bị bịnh, thần hộ pháp an ủi ngài thế này:

– Sư từ vô thủy đã tạo nhiều ác nghiệp làm tổn não hữu tỉnh, nay nhờ có chút bịnh mà ác nghiệp được tiêu trừ, cần phải vui mừng”…

Hồ cư sĩ trước khi chưa biết Phật pháp ông tạo tội sát sinh rất nặng.

Thuở còn làm vua bếp, ông là tay đồ tể nổi danh, thủ pháp giết vật nhanh nhẹn, gọn lẹ…

Những thứ khó làm mà hễ qua tay ông, chỉ cần vài nhát đao là xong ngay.

Hầu như mỗi ngày ông Hồ đều nhậu nhẹt, hút thuốc, uống rượu, ăn thịt.

Hơn nữa lúc đó ông còn cho học Phật là mê tín!

Có lẽ nhở thiện căn kiếp trước, trong một dịp tình cờ, ông gặp cư sĩ Quả Khanh (tác giả cuốn Báo ứng hiện đời), sau khi nghe Quả Khanh nhắc nhở khai thị rồi, ông liền quyết tâm từ bỏ hút thuốc, dứt hẳn rượu, thịt và bắt đầu ăn chay trường.

Đúng là “nghe liền tin thọ”, do ông thay đổi cực mạnh như thế, khiến những người bạn tu học theo Phật nhiều năm phải tấm tắc ngợi khen mãi…

Tháng 10 năm 2007, ông Hồ cùng một người bạn đi lễ Phổ Đà Sơn.

Ngày đầu tiên hai người thành tâm nhất ý lễ Bồ-tát Quan Thế Âm.

Trên đường, hễ gặp chùa thì bái Phật, tất cả đều thuận lợi.

Ngày thứ hai, tối đó tại nhà khách, ông tắm xong mới từ trong bồn bước ra ngoài, thì sơ ý bị trợt té, chỉ nghe “ạch” một tiếng, gối phải khuỵu xuống đất, ông liền kêu người bạn chờ mình tới bịnh viện.

Bác sĩ chẩn đoán xương gối phải bị gãy, dập… nên hôm sau là (ngày thứ ba) ông được chuyển đến bệnh viện Thượng Hải, bác sĩ quyết định sẽ mổ ngay.

Từ lúc té đến chờ phẫu thuật, chân ông sưng to nhưng tuyệt không thấy đau đớn.

ông thầm tin sâu, đây chắc chắn là nhờ Phật lực gia trì khiến ông tội nặng được báo nhẹ… nên càng tinh tấn niệm Phật không gián đoạn.

Tối đó mổ xong, do phản ứng hậu phẫu, nên gối phải đau suốt đêm.

Sau đó thì không hành đau nữa mà hồi phục rất nhanh.

Có mấy người bịnh trẻ nằm chung phòng với ông, sau khi gãy xương phải trị liệu đủ thứ và nghỉ dưỡng tới 5-6 tháng, lại còn thường xuyên tầm bổ canh xương hầm, vì cho rằng phải ăn mặn vậy mới đủ dinh dưỡng.

Nhưng, vết thương họ tới giờ vẫn chưa lành, nên họ cứ than rên trước mặt ông Hồ 60 tuổi này mãi…

Qua đây đủ thấy ăn chay, tu tập theo pháp Phật, có thể đem lại trợ giúp rất lớn cho việc hồi phục sức khỏe.

Xuất viện rồi, ông Hồ tu học càng thêm tỉnh tấn, trong thời gian cái chân đau bắt đầu hồi phục, ông không thể quỳ trước Phật, chỉ có thể ngồi trên giường sám hối nghiệp sát sinh và bao ác nghiệp thuở làm bếp sư của mình, ông chí thành tụng Kinh Địa Tạng hồi hướng cho các chúng sinh đã bị ông giết… hi vọng chúng sớm lìa khổ được vui.

Sau khi mổ được hai tháng, ông đã phá tan quy định của y viện (bịnh chuyển tốt đến không cần chống gậy), ông xuống giường cử động, đi lại trong nhà.

Không bao lâu, do cỏ tính nôn nóng, Hồ huynh không cam tâm ở mãi trong nhà, ông thường ra ngoài tham gia các hoạt động phóng sinh, hoặc hội họp cùng đàm bạn đạo…

Mới đầu chúng tôi không yên tầm, đồng khuyên ông nên cẩn trọng, hãy ở nhà nghĩ dưỡng cho thật ổn rồi hẵng ra ngoài.

Nào ngờ lão Hồ tính cách vốn hào sảng, không những chẳng chịu nghe, còn nói; – Chẳng hề chi, chân tôi hồi phục rồi!

Hiện tại đi đường không bị ảnh hưởng gì hết!…Vừa nói ông vừa chìa chân ra cho chúng tôi xem.

Mọi người đều bật cười.

Từ lúc ông gãy xương đến nay đã 7 tháng, nhưng nơi gối phải đến giờ chẳng còn vết tích chấn thương chi.

Ông Hồ hoàn toàn cử động tự tại thoải mái, giống như người bình thường.

22.

BỊNH NAN Y PHẢI CHÍ THÀNH SÁM HỐI

Đông y cho rằng; có nhiều nguyên nhân dẫn đến bịnh hoạn như: lục dâm (phong hàn, thử, thấp, táo, hỏa) thất tình: (hỉ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh)… nghĩa là do quá lao, quá phóng dật, ẩm thực thất thường, đủ loại đủ kiểu…

Nếu như bịnh nhân chính khí đủ, tà khí chưa xâm, chỉ cần nghỉ ngơi hoặc trị bằng thuốc men cũng sẽ nhanh chóng hồi phục, còn nếu tà khí đã chiếm thế thượng phong, chánh khí không đủ, ắt phải nhờ nhiều cách để trợ chánh khử tà.

Trong đây đối với chứng bịnh thuộc nghiệp báo chiêu cảm, thì có thể phối hợp trị liệu y học cùng với sám hối.

Vì cách giúp bịnh nặng hồi phục nhanh chóng, theo nhà Phật tốt nhất là chí thành sám hôi.

Trong “Ma Ha Chỉ Quán quyển 15” từng ghi: “Nếu người bịnh nghiệp, trong cần dùng sức quán, ngoài phải sám hối, thì sẽ thuyên giảm”.

Việc tự thức tỉnh, tự kiểm điểm này, mỗi người học Phật nhất định phải làm, đúng như Kinh Di Giáo từng nhắc: “Thường tự tỉnh giác, chẳng nên phạm lỗi”.

Chúng ta phải thường tự kiểm điểm, quán sát mỗi hành vỉ tạo tác của bản thân, theo dõi từng cử tâm động niệm, hễ thấy có gì sai trái không đúng pháp, thì phải lập tức sám hối, sửa đổi ngay, không để cho lỗi sai điều quấy có dịp tăng trưởng mạnh!

Giải thích thêm: Sám hối rất quan trọng vì có uy lực rất lớn.

Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật nói: Người tạo nhiều lỗi mà không sám hối, không dừng ngay tâm sai, tội sẽ theo mãi bên mình, như nước về biển, dần dần thành sâu rộng.

Còn người có lỗi, biết phát lồ nhận lỗi, quyết tâm bỏ ác hành thiện, thì tội sẽ tiêu diệt, như bịnh ra mồ hôi, dần dần mạnh khỏe”.

Hiểu rõ nhân quả, thành thật nhận lỗi, vĩnh viễn không tái phạm, tội kia liền có thể cứu.

23.

BAY QUA MIỀN HẠNH PHÚC

Dưới đây là câu chuyện của một bằng hữu học Phật, chúng ta hay nghe cô tự thuật:

Tháng 9 năm 2006 là thời gian đau khổ nhất của cuộc đời tôi, do thân thể trưởng kỳ bịnh đau, tôi tới y viện kiểm tra, mới hay mình bị ung thư vú ác tính thời kỳ cuối, mức độ cực nặng.

Đối diện với sự thực phũ phảng nảy, tôi cảm thấy vô cùng tuyệt vọng, bơ vơ, phẫn nộ… tinh thần hầu như suy sụp.

Đã trăm ngàn lần tôi tự vấn mình: “Vì sao tôi có thể bịnh như vậy?”…

Tôi cho rằng mình vốn thiện lương, thực thà.

Trong mắt mọi người, tôi là một phụ nữ rất đức hạnh, và phẩm chất tốt đó luôn được công nhận!

Nhưng vì sao đến tuổi trung niên tôi lại nhận được tờ giấy chẩn bịnh giống như “tuyên án tử” thế này?

Từng ngày qua, tôi càng đến gần cõi chết hơn.

Muốn sống còn, tôi phải phẫu thuật.

Sau khi mổ xong, thì nếm tiếp nỗi khổ trị hóa chất…

Người bịnh ung bướu, phải trị bằng hóa chất thống khổ vô cùng, khổ như địa ngục trần gian, về tâm lý tôi có thể tiếp nhận, nhưng xác thân thì rất khó kham, bởi chịu không thấu cơn đau giày vò, do muốn hồi phục sức khỏe nên tôi ráng sức đấu tranh cùng số mạng…

Bản thân tôi trên có mẹ già hơn 80, dưới còn con thơ dại, tất cả đều cần tôi.

Tôi có bổn phận phải chăm sóc, cưu mang… nhưng đối diện với bịnh trạng của mình, tôi thực không còn đủ dũng khí để sống.

Tôi giống như chiếc xe hư bị đứt thắng, rơi vào vực thẳm tối tăm, vỡ nát, chẳng còn chi…

Trong thời kỳ xạ trị, tôi nằm tại Khoa ung bướu, chứng kiến đủ cảnh, đủ hạng người: cho dù bạn có quyền uy từng khuynh đảo một thời, cho dù bạn giàu sang một cõi, hễ đã vào đây rồi, thì quyền thế và tiền bạc đều trở nên vô nghĩa, vì đâu mua được mạng sống?

Mà mạng sống trong giây phút này lại giống như hạt sương mai trên đầu cỏ, tuy cỏ đấy, nhưng chốc lát sẽ tiêu tan, chẳng còn tung tích…Hôm nay mới thấy bạn bè bịnh đó, ngày mai đã âm dương đôi ngã…

Tiến hành trị liệu trong bịnh viện bây giờ xem như là để… cầm chân tử thần đến… chậm một chút, nhưng cuối cùng rồi cũng phải vong thân!…Tôi chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ bị ung bướu, cũng chưa bao giờ đến gần hay quan sát những người bịnh khổ trên thế gian, niềm đau sinh ly tử biệt quả thực khó bứt, khó rời…

Tôi hỏi bác sĩ:

– Mạng sống tôi còn kéo dài bao lâu?

Tôi biết mình phải chết, chắc chắn không nghi, thế nên rất tuyệt vọng, vì không thể cầu ai giúp, đành lặng nuốt thống khổ vào tim và càng thêm suy sụp…

Tôi bắt đầu mất ngủ, tay chân ra mồ hôi, tâm hoang mang.

Suốt ngày mặt đầy nước mắt, khóc đến không thành tiếng…

Một ngày nọ tại bịnh viện tôi bỗng nghe hát bài “Đôi Cánh Vô Hình” của tác giả Trương Thiếu Hàm.

Trong lời ca có mấy câu: “Tôi biết mình có đôi cánh vô hình, đưa tôi bay cao, ra khỏi tuyệt vọng”…

Vừa nghe đến đây những buồn đau tôi ráng kềm nén bấy lâu giờ không kềm được, đồng tuôn trào như hỏa diệm sơn phun…

Tôi bật khóc.

Khóc cho số mệnh khốn khổ của mình, khóc vì mình không bảo vệ sức khỏe tốt, để bây giờ đối với mẹ già thành ra bất hiếu, đối với con thơ chẳng thể làm từ mẫu, đối với chồng không tròn phận vợ hiền mà còn làm liên lụy, khiến anh phải lo lắng, thân tâm tiều tụy, mỏi mệt cực độ… thật là bất nhân với phu quân!

Tôi không biết “đôi cánh đưa tôi bay cao ra khỏi tuyệt vọng” hiện đang ờ đâu?

Tôi giờ đây không chỗ bấu víu, đang rất bàng hoàng, hoảng loạn… cảm giác mình sống không bằng chết, nhưng chết? – Lại không cam tâm!

Trải qua nửa năm trị bằng hóa chất, tôi tiếp nhận được cái y học gọi là “xạ trị kết thúc!”.

Bác sĩ bảo tôi phải thường xuyên kiểm tra, để phát hiện và giải quyết kịp thời…Tôi biết mình đã được xếp vào danh sách bất trị, không còn cơ may sống sót, nếu có thay đổi chăng thì chỉ là…

đổi thuốc mới mà thôi!

Tôi cứ đều đều vô hóa chất cho đến khi lìa đời!

Sinh mạng tôi bây giờ tùy thuộc vào hóa chất.

Hễ ngưng vô hóa chất là mạng sống cũng kết liễu luôn.

Vì muốn sống còn, hằng ngày trời chưa sáng tôi đã thức dậy ra ngoài luyện khí công.

Mỗi ngày tập bốn tiếng.

Vào mùa hạ thời tiết oi bức, lại do trị hóa chất nên tóc tôi rụng hết, phải đội tóc giả trên đầu, bị nóng hầm hập nên mồ hôi tuôn chảy đầy, nhằm tiết Tam phục khí trời càng nóng gắt, khiến y phục ẩm uớt dính vào thân, giữa công viên tôi thấy mình giống hệt con lừa bị hành hạ đi vòng vòng…

Bao ý niệm bi phẫn uất ức, tuyệt vọng… từ đáy lòng trào dâng, khiến tôi đau tận xương tủy, lệ tuôn đầm đìa như mưa.

Tháng 6 năm 2007, Kim nữ cư sĩ là người bạn đạo tâm đầu ý hợp xuất hiện trong cuộc đời tôi.

Chị là một Phật tử thuần thành, thiện lương, trung hậu, cư xử rất tốt với người.

Khi biết rõ hoàn cảnh tôi rồi, chị luôn động viên giúp đỡ, đem tới cho tôi xem rất nhiều loại sách Phật (chỉ bày phương pháp cứu vãn mệnh sống), trong đây gieo ảnh hưởng cho tôi sâu nhất là hai cuốn: “Liễu Phàm Tứ Huấn” và “Sống là tự mình nỗ lực từng chút một”…

Mặc dù tôi ưa triết học, nhưng chỉ khoái sách tri thức học vấn, còn đối với ba cái tín ngưỡng, tôi hoàn toàn không tin, khó chấp nhận… nói chi đến thọ trì?

Thậm chí tôi còn bài xích, cho đó là những luận thuyết ngu si, thiếu hiểu biết, mê tín!…

Nhưng sau khi xem các chuyện trong sách xong, tôi cảm động sâu sắc, lúc này bản thân tôi từ một kẻ vô thần, vô tín ngưỡng, đã bắt đầu tin Phật.

Nhưng thú thực là mục đích tin Phật vào lúc này chỉ bắt nguồn từ khát vọng muốn được sống mà thôi.

Nhờ Kim cư sĩ hướng dẫn đốc thúc, tôi bắt đầu tụng “Kinh Địa Tạng” mỗi ngày một bộ, nhưng do tâm tôi, niệm niệm ào ạt dấy khởi như sóng cồn, nên chị bày tôi tụng “Kinh Kim Cang” và dẫn tôi đi phóng sinh, bái sám.

Thành thật mà nói, giai đoạn này tôi dốc sức tạo công đức, vì nghĩ rằng “tu phúc có thể kéo dài mạng sống”.

Theo tư duy đó, nên mặc dù có tụng “Kinh Kim Cang”, nhưng lắm lúc tôi cảm thấy thấu phá chẳng nổi, buông không xong, phiền não chẳng ngừng.

Chớp mắt hạ đi đông đến, thời tiết lạnh lẽo bắt đầu.

Nghe tin các đồng bạn bịnh nặng liên tục tạ thế, hoặc từng ca bịnh phải chuyển đi và bịnh càng hoành hành bộc phát theo mùa đông giá rét… khiến lòng tôi thêm tê tái, suy sụp đến cực điểm… tôi như đang rơi xuống tận đáy vực tuyệt vọng…

Trước mùa xuân 2008, nhìn thấy tình hình bế tắc của tôi, chị Kim nói:

– Nếu bạn có thể gặp được cư sĩ Quả Khanh thì tốt quá!

Nhưng biết tìm ông ở đâu và đi đâu để gặp được ông bây giờ?

Tôi cho rằng mình là kẻ phúc mỏng mệnh bạc, không có được cái may mắn ấy.

Từ hôm đó trở đi, Kim cư sĩ ngày ngày ở trước tượng Phật nhà chị (vì tôi lễ bái), hằng ngày chị lễ trăm lạy, bái đến mồ hôi và nước mắt rơi đầy mặt.

Thành tâm ắt được, có thể khiến cho vàng đá cũng phải nứt…Nhờ chị thành tâm cầu nguyện mà cảm được duyên lành xảy đến…

Tôi may mắn quen được Hải Ba (nhân vật được nhắc đến trong sách Báo ứng Hiện Đời tập 1-2) là bạn của lão cư sĩ Quả Khanh, Hải Ba hứa ngày mồng 5 tháng giêng sẽ dẫn tôi đi gặp cư sĩ Quả Khanh.

Lúc này con Hải Ba đang bịnh, nhưng chị không cố thời gian để chăm sóc bé vì mắc dẫn tôi đi.

Hải ba có đôi mắt to, đen, sáng đẹp vô cùng.

Cốt cách thanh cao như tiên, cư xử lại dịu dàng thuần phác…

Tôi rất mang ân sự chân thành tốt bụng của chị.

Chị là người bạn cực kỳ quý giá của tôi (Ngay đây tôi xin gởi đến chị lời chúc lành, cầu chị cả đời bỉnh an hạnh phúc!)…

Vừa gặp cư sĩ Quả Khanh tôi đã bị phẩm đức tu hành vá tính cách thanh cao, chính trực, thiện lương, khiêm hòa, không tham tiền tài vật chất cua ông… làm cho cảm động, ông ân cần nhắc nhở tôi phải luôn lấy giới làm thầy, ôn nhu giải thích cho tôi hiểu ngũ giới Phật chế là như thế nào và chỉ cách thọ trì “Kinh Địa Tạng” ra sao.

Ông giúp tôi chấn chỉnh lại những thấy biết lệch lạc sai lầm, khiến tôi thu được rất nhiều lợi ích.

Ngay đó tôi liền phát thệ: “Bắt đầu từ nay trở đi vĩnh viễn từ bỏ ăn mặn, hoàn toàn trường trai, dứt khoát không tạo sát nghiệp nữa”.

Khi tôi về nhà rồi, hôm sau, lúc 8 giờ tối cư sĩ Quả Khanh gọi điện đến, bảo:

– Chị có muốn biết nguyên nhân mình bịnh là do đâu chăng?

– Dạ muốn!

Muốn quá đi chứ!…

Tôi cuống quýt hồi đáp, không kịp chờ ông dứt câu.

Tôi nghĩ nhất định ông sẽ nói là “kiếp trước do tôi tạo nghiệp sát sinh hay tội gì tương tự vậy nên ngày nay mới bị ác báo, phải đoản mệnh như thế này”…

Tim tôi hồi hộp, đập thình thịch… vì chờ nghe ông trả lời.

Nhưng trái với dự đoán của tôi, đáp án của ông thật bất ngờ, hoàn toàn ngoài sức tượng!…

Qua điện thoại, giáo sư dịu dàng hỏi:

– Cô nghĩ kỹ xem, sau khi kết hôn có làm gi vượt quá giới hạn cùng người khác phái chăng?

Nghe ông hỏi vậy tôi muốn té ngửa.

Lúc đó tôi im lặng nhưng tận đáy lòng rất muốn hét to như thế này: -“ôi trời ơi!

Giáo sư!

Ngài đừng đổ oan cho con!

Con là gái nhà lành, là con nhà gia giáo đàng hoàng, trong đời con chỉ yêu có một lần, và chỉ có một mối tình duy nhất dành cho người mà con kết hôn, đó là phu quân con mà thôi!

Con đã dành hết tình cảm thuần khiết cho ảnh…

Con thực sự chẳng có cái chuyện ‘‘tình một đêm” thậm chí chẳng bao giờ ngoại tình, thế thì làm sao ngài có thể nói là… con bị bịnh vì cái nguyên nhân kỳ cục này chứ hả?”…

Không nghe tiếng tôi trả lời, giáo sư nghiêm túc khẳng định:

– Cô bị bịnh đích thực là do… tà dâm mà ra!

Nếu như cô chịu tha thiết sám hối, bịnh cô sẽ lành!

Giáo sư vẫn kiên nhẫn chờ tôi trả lời.

Tôi ráng hồi tưởng lại quá khứ… từng chút một.

Đột nhiên tôi nhớ ra, liền nói:

– À!

Sau khi kết hôn, đi hưởng tuần trăng mật xong về, thì cơ quan đề nghị cấp nhà cho.

Vị lãnh đạo quản lý nhà bảo tôi đi một chuyến để bàn việc này…

Khi tôi đến nơi, hai chúng tôi trò chuyện cả tiếng đồng hồ, không có nói gì khác ngoài công việc và học vấn… thấy trời đã tối, tôi định về nhà thì đột nhiên ông ta ôm chầm lẩy tồi và nói là rất thương tôi”…

Chúng tôi chỉ ôm nhau một lát, tuyệt không làm gì vượt quá giới hạn…

Giáo sư nghe xong bảo:

– Đây chính là nguyên nhân căn bịnh của cô.

Mặc dù thực tế không có vấn đề gì phát sinh, nhưng trong tâm cô hoàn toàn không cự tuyệt, sau đó lòng cô thường khởi tà niệm, có… dâm niệm!

Trong “Kinh Địa Tạng” từng thuyết: “Chúng sinh ở cõi diêm phù đề, khởi tâm động niệm không gì mà không tạo nghiệp, không gì mà không là tội”…

Buông điện thoại xuống, nước mắt tôi ướt đẫm mặt mày, tôi khóc chẳng thành lời.

Tôi đã trăm ngàn lần hỏi trời xanh, vì sao tôi bị bịnh như vậy?

Thì hôm nay, giáo sư đã cho tôi đáp án chính xác!

Từ hôm ấy trở đi, tôi tiến vào giai đoạn học Phật chân chính chưa từng có.

Bắt đầu từ ý không tin Phật cho đến vì muốn sống còn, muốn được lợi mà tôi tin Phật.

Sau khi được gặp cư sĩ Quả Khanh rồi, thì tôi chỉ thành giữ giới cấm, tha thiết tu hành, cỏ thề nối đây là chuyền biến lớn nhất của đời tôi.

Tôi thật may mắn vì trong lúc mê mờ rối ren, đã được gặp một thiện tri thức có lực tu sâu và rất đạo đức, đặc biệt là mấy cuốn “Báo ứng Hiện Đời”, “Mạn đàm từ bi” và “Niết Bàn bảo sám”, đã như tiếng sấm vang khai thông cái lỗ tai điếc tịt của tôi.

Đã giúp tôi chuyển đổi đời sống, thay đổi cái nhìn và quan niệm không tốt đối với Phật giáo.

Hai cuốn sách này tôi đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần, rồi y cứ theo đó mà thực hành, sửa mình, tu tập…

Đầu tiên tôi đối với những ác nghiệp đã tạo của bản thân, tiến hành sám hổi…kiểm tra các lỗi từ “sát, đạo, dâm, vọng, tửu, tham, sân si, mạn, nghi, hiếu để, lễ, nghĩa, tín”… tôi bắt đầu mỗi ngày sám hối một loại tội (tính từ ấu thơ cho đến bây giờ).

Tôi hồi tưởng, kiểm lại mọi việc lớn nhỏ, hễ thấy việc gì sai, có lỗi, thì lo sám hối và điều này đã dưỡng thành thói quen tốt hằng tự kiểm phản tỉnh mỗi ngày…

Tôi thống thiết sửa đổi, chân thành sám hối, sau đó chiếu theo khai thị trong “Mạn đàm từ bi và Niết Bản bảo sám” mà thọ trì “Kinh Địa Tạng”, nghiêm trì ngũ giới, dứt tuyệt ăn mặn.

Kết quả, tôi đã sống lại.

Không những thế, tâm tôi bình an, có thể đối diện trực tiếp với hiện thực tàn khốc, có thể thản nhiên đón nhận mọi khổ đau ập đến mà không chút lời oán trời trách người.

Tồi đã có thể bình tĩnh đối diện với sống và chết, từ trong tuyệt vọng mà tìm ra hi vọng, và cho dù ở trong địa ngục vẫn có thể mơ đến thiên đường…

Phật pháp chính là diệu pháp, đã chắp cho tôi đôi cánh, giúp tôi bay lên cao, ra khỏi vực thẳm tuyệt vọng, đi đến miền hạnh phúc…

Tôi xin cảm tạ chư Phật bồ tát, cảm tạ tất cả những thiện hữu đã nhọc nhằn tâm lực, công sức vì tôi.

Bây giờ dù ôn hay kể lại niềm thống khổ, thì cũng đau như mồ xẻ, khơi lại vết thương vừa mới liền da.

Nhưng tôi mong rằng, những chị em hữu duyên nào khi đọc đến bài viết này, bất kể là có tin Phật hay không (bạn tin cũng không mà không tin cũng được) chỉ cần bạn biết tự thanh tịnh tâm ý mình, tốt nhất là nên từ bỏ đồ mặn và ăn chay trường, mức thấp nhất là bạn phải làm một người hoàn toàn không giết hại bất kỳ mạng sống nào!

Không làm bất kỳ việc phi lễ, phi pháp nào!

Thế giới này đích thật là lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng chẳng lọt được thứ chi.

Nhân quả không phải để cho bạn đùa bỡn giễu cợt hay quyết định…

Nếu như bạn phạm lỗi thì phải lo mà sám hối cho kịp, càng chẳng nên nghĩ tường hồ đồ, nói sai hành bậy… mà chiêu ác báo vào thân.

Vì tôi từ trong địa ngục nhân gian đi ra, nên tôi thấm thía nó khổ ra sao, đau thế nào!…

Nếu như đọc câu chuyện của tôi xong mà bạn có tỉnh giác và thu được lợi ích, thì chứng bịnh này của tôi quả không uổng phí…

Tôi hi vọng mình là người thọ báo cuối cùng trong địa ngục, càng hi vọng cửa địa ngục sẽ đóng lại phía sau lưng tôi.

Mong các chị em phụ nữ thân yêu của tôi, dù sống trong xã hội vật chất dục vọng tràn lan này, vẫn luôn giữ gìn được cho mình một trái tim thiện lương, thuần khiết, vô nhiễm… vì đó chính là đôi cánh giúp bạn bay qua miền hạnh phúc, đi tới thiên đường…

***

Phần ghi bổ túc thêm: Từ tôi bị bịnh đến nay đã hai năm, mỗi lần đến bịnh viện kiểm tra, kết quả luôn bình thường.

Cảm tạ Phật lực gia trì, đã giúp tôi có được kết quả tốt như hôm nay.

Trong nỗi mừng vui cực độ, tôi đã đem những điều tâm đắc, những ích lợi thu được trên con đường học Phật, chia sẻ cùng các bạn đồng bịnh.

Những ai nghe mà tin nhận, chịu ăn chay, trì giới sám hối… thì bịnh của họ đều chuyển tốt đến không ngờ.

Còn bạn bịnh nào đối việc này chê cười giễu cợt, thì lòng tôi thật buồn tiếc, vì họ đã đánh mất cơ may tự cứu… bởi bịnh tình họ ngày càng phát nặng, vô phương xoay chuyển…

Tôi tin sâu rằng, những người bị bịnh ung bướu chỉ cần y pháp tu hành, thì mạng sống nhất định sẽ xuất hiện kỳ tích.

Xin nguyện cho những người bịnh hoạn khổ đau trong thiên hạ, biết dùng Phật pháp cứu mình ra khỏi hiểm địa.

Xin đem thực tâm, thành tâm, nguyện tâm, gieo rắc hạt giống thiện, hầu giúp mọi người đỗi mới sinh mạng, tái tạo hạnh phúc.

Tôi tin: tôi có thể lảm được, thì bạn cũng làm được!

Đệ tử mới học phật: cố Hoa

Giải thích: Cố Hoa trong lúc phát nguyện ăn chay, sau mấy tháng sám hối đã có thể đi làm việc và mỗi tuần cô đều đến Viện Ung Bướu, dùng kinh nghiệm của bản thân làm bằng chứng để khuyên các bịnh nhân đồng cảnh ngộ, còn tặng cho họ cuốn “Kinh Địa Tạng” và “Báo ứng Hiện Đời”…Đến nay rất nhiều bịnh nhân ung bướu đã chuyển nguy thành an.

Thông thường, phần đông bịnh nhân chỉ muốn khỏi bịnh nhưng không chịu sửa đổi nguyên nhân phát bịnh, Cố Hoa sở dĩ bịnh lành nhanh chóng, chính nhờ kết quả “y giáo phụng hành” của cô.

Một mặt cô nương Phật lực gia tri, nhất nhất tụng kinh niệm Phật; mặt khác lại chân thành sám hổi, nguyện sửa đổi, tu thiện… cô sám hối từng lỗi lầm đã qua trong quá khứ, tính từ lúc nhỏ cho đến hiện tại và đã dưỡng thành thói quen ngày ngày tình giác, thường tự kiểm lỗi sửa đổi luôn…

Mong tất cả bịnh nhân trong thiên hạ đều có thể hành theo như vậy để sớm tiêu trừ bịnh lìa khổ được vui.

24.

VỢ CHỒNG HỌ SỬ

Đây là kinh nghiệm lợi ích mà Sử cư sĩ trải qua sau khi học Phật.

Hi vọng mọi người nhờ đây mà tăng thêm tín tâm học Phật.

Chúng ta hãy nghe ông kể:

Đầu mùa đông năm 1998, vợ tôi bất ngờ mang thai ngoài ý muốn.

Lúc đó tồi đang bề bộn công việc khảo cứu, còn vợ tôi thì công việc vừa mới khai trương, cho nên chúng tôi đã quyết định một điều không nên là: vợ tôi đi bịnh viện nạo thai.

Nào ngờ hành vi khinh suất này đã thay đổi nửa đời sau của chúng tôi.

Vợ tôi bị chứng bịnh hiểm giày vò nhiều năm, khiến chúng tôi cũng nhờ đây mà thức tỉnh, cùng bước vào con đường học Phật.

Năm 2003 vợ tôi phát hiện bộ phận cận trực tráng của nàng đau không chịu nổi, bác sĩ chẩn đoán là bị “viêm mủ các tuyến quanh hậu môn”, bảo nàng phải nhập viện mổ, nhưng mổ xong vẫn đau như cũ.

Sau đó, được bác sĩ chuyên môn ở “Y viện phụ sản tỉnh” chẩn đoán là chứng bịnh “Dị vị nội mạc tử cung”, tìm đọc các tư liệu liên quan, chúng tôi mới biết bịnh này vô cùng nghiêm trọng.

Bệnh làm viêm thành đường ruột, gây hẹp và tắc nghẽn đường ruột, tạo ra táo bón.

Táo bón diễn ra liên tục thường xuyên cũng ảnh hưởng đến chu kì… trong thời kì kinh nguyệt, có thể bị táo bón nặng…

Ngoài ra, bịnh nhân thường xuyên xuất hiện nhiều cảm giác khó chịu như muốn đi ngoài, đau khi bài tiết, thậm chí đi ngoài ra máu.

Bệnh sẽ xuất hiện các triệu chứng khác như tắc nghẽn đường ruột hoặc giãn cách.

Gây táo bón, trướng bụng, đau bụng, buồn nôn, khó chịu…

Đây là căn bịnh nan y của thế kỷ này, triệu chứng chính là không thể mang thai và rất đau đớn.

Bịnh rất khó chữa, vì trị xong vẫn có thể tái phát bất cứ lúc nào, được xếp vào loại “ung bướu bất tử”, chứng này hành bịnh nhân thống khổ bất tận…

Mỗi tháng, vợ tôi đều bị hành đau chí tử, cơn đau cứ đúng hẹn là đến theo chu kỳ, đày đọa nàng suốt 4-5 ngày, gây ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe, công tác và đời sống…

Tôi cũng bị khổ lây theo.

Vì mỗi lúc nhìn vợ nằm dài trên giường, mặt trắng bệch, sức lực hầu như cạn kiệt vì cơn đau, thống khổ này trong chớp mắt cũng vây bủa toàn thân tôi.

Khiến tim tôi khó thở như bị đá đè, cực kỳ nặng nề khó chịu.

Bác sĩ đề nghị vợ tôi nên trị liệu theo phương cách thụ thai, vì việc mang thai và cho bú có thể giúp bịnh thuyên giảm, nhưng đối với người bị chứng “dị vị nội mạc tử cung” thì chuyện mang thai bỉnh thường bỗng trờ nên quá gian nan.

Nỗ lực hơn một năm vẫn không kết quả, chúng tôi đối với việc này hầu như không còn hi vọng gì.

Tháng 3 năm 2005, vợ tôi bị u nang buồng trứng bên trái nên phải nhập viện mổ, cắt bỏ vùng buồng trứng ung mủ.

Đối với chứng bệnh “viêm mủ các tuyến quanh hậu môn”, do quanh đó liên quan nhiều dây thần kinh huyết quản nên nếu mổ thì nguy hiểm rất lớn, vì vậy bác sĩ không dám động đến.

Sau khi cắt buồng trứng xong, bác sĩ lại đề nghị trị bằng cách mang thai.

Nói rằng thời kỳ hoài thai then chốt là tháng 7-8, nếu qua được hai tháng này thì không lo nữa, có thể giỏ yên sóng lặng”…

Tháng 8 chúng tôi đi Phổ Đà Sơn lễ tượng Quan Thế Âm tại Phổ Tế Tự để cầu con.

Kể ra thật mầu nhiệm, ngay từ lúc rời Phổ Đà Sơn về nhà hơn một tháng, thì vợ tôi có tin vui, chúng tôi mừng đến rơi nước mắt.

Tiếp đến một năm sau, nhờ mang thai và cho con bú, vợ tôi mới được hưởng tháng ngày bình an của cuộc sống không đau đớn, nhưng “cảnh vui thường không kéo dài”.

Khi con gái tôi vừa cai bú xong, thì tháng kế đỏ, vợ tôi kinh hoàng khi phát hiện cơn đau bấy lâu nằm im bây giờ đột ngột ập tới…

Lúc này chúng tôi hầu như lâm vào đường cùng, bó tay hết cách, khổ đến khóc không còn lệ…

Nhưng cũng ngay trong lúc này vận may thần kỳ đã mỉm cười và mở ra con đường mới cho chúng tôi.

Chúng tôi bắt đầu bước vào con đường “quay về cố hương” dưới sự hướng dẫn của chư Phật, Bồ-tát.

Một đêm thu năm 2005, Bồ-tát Quan Thế Âm thần uy diệu lực một lần nữa lại ban ân cho chúng tồi.

Hôm đó, Thiệu Hưng Lô Phong Thiền Tự khai quang tượng Bồ-tát Quan Thế Âm đúng vào một giờ khuya.

Tôi vì muốn hoàn nguyện Ngài ban cho đứa con, nên cũng lên núi này tham dự.

Khuya hôm đó, đúng giờ đã định, Phật nhạc bắt đầu tấu vang, tượng Bồ-tát tỏa hồng quang bủa khắp.

Tôi nghe mọi người xúc động nói:

– Đến rồi!

Đến rồi!…

Lúc này đám đông ngoài điện nhốn nháo, xôn xao ngẩng đầu lên nhìn, tôi cũng ngẩng đầu lên… thấy giữa không trung tuy là ban đêm nhưng có luồng hào quang sáng chói, ánh Phật quang hiện rõ, to dần, mỗi giây nhấp nháy một lần, tuy sáng rực rỡ nhưng không hề gây lóa măt, hào quang trên không phát xuất từ hướng tây nam, di chuyển dần đến trên đỉnh điện thờ Quan Thế Âm…

Sau này, tôi hòi tưởng lại, Phật quang đại khái đã chiếu và nhấp nháy hơn 20 lần, khi đó tôi quá kích động, kinh ngạc, đến nỗi đầu óc hóa thành hư vô, trống rỗng…Hiện trường khi ấy có sáu bảy trăm người cũng đều xúc động ngẩn ngơ…

Tôi có thề khẳng định là đêm đó trời cực kỳ trong và quang đãng, không một phiến mây đen hay điện chớp, hào quang này không phải là đèn điện hay ảnh sáng do con người tạo ra, bởi vì diện tích và mức độ chói sáng gấp trăm lần ánh điện nhân tạo.

Hơn nữa, ánh sáng lại xuất phát từ tít trên không và những người chứng kiến lại nhìn thấy đủ các hình ảnh không đồng nhau: người thì thấy hoa sen, kẻ thấy hồng quang… thôi thì đủ kiều…

Từ đêm đó, tôi bắt đầu tin rằng Phật Bồ-tát không phải là truyền thuyết hư vô hoang đường, mà thực sự có tồn tại, có thể nhìn thấy rõ ràng…

Năm 2006, tôi dần dần tiếp xúc với Phật pháp, quyển sách đầu tiên gây ảnh hưởng cực lớn cho tôi là cuốn “Báo ứng hiện đời” của cư sĩ Quả Khanh, đã giúp tôi hiểu rõ nhân quả đáng sợ, rằng báo ứng không sai mảy may.

Tôi biết chứng bịnh khủng khiếp hành vợ tôi là do nhân quả, nhưng vì mới nhập Phật môn, nên tôi chưa hiểu được nguyên nhân chính xác và cách giải quyết việc này ra sao.

Hơn 20 giờ ngày 18 tháng 11 năm 2006, tôi vừa nghe xong thời pháp tại Huyền Trang Tự ở Nam Kinh, đang ngồi xe vượt 400km đề quay về nhà.

Lúc đó tôi mở vừa nghe pháp xong nên nhiệt huyết dâng cao như thủy triều, cứ thầm hỏi:

“Liệu… mình có thể dứt khoát từ bỏ đồ mặn để ăn trường trai hay không?”…

Nhưng vừa nghĩ đến đây thì tôi bỗng e dè, khi nhớ tới bao thức mặn ngon lành suốt mấy mươi năm qua mình từng thường thức: nào là bò, gà, tôm, cá…đủ thứ hấp dẫn, việc phải từ bỏ những món khoái khẩu kia khiến tôi đâm ra lưỡng lự, tự nghĩ: “Mình có nên…

ăn mặn thêm mấy năm nữa hay chăng?”…

Đột nhiên di động của tôi reo vang, giọng vợ tôi cuống quýt báo tin: con gái của tôi bị cảm, không thể uống sữa hay ngủ nghê gì, nó cứ khóc thét từ sáng tới giờ, tính ra đã mười mấy tiếng rồi, người lớn trong nhà và con bé ai cũng đuối đừ kiệt sức…

Tôi nhận điện thoại xong, lòng nóng như lửa đốt, ước gì mình có cánh để bay liền về nhả.

Ngay lúc tôi đang lo lắng rối ren, bỗng tôi sực nghĩ: “Chẳng phải trong Phật môn có câu: hữu cầu tất ứng hay sao?”…

Thế là tôi chắp tay, chí thành khấn nguyện: “Xin chư Phật Bồ-tát gia trì, cho con gái con bú sữa và ngủ được, con nguyện từ nay trở đi sẽ ăn trường trai!”…

Chưa đầy mười phút, vợ tôi đã gọi điện báo tin:

- Anh đừng lo nữa, con đã bú sữa được vả ngủ rồi!

Lập tức tôi bị kích động đến lệ tuôn đầm đìa, bởi tôi cảm thấy việc này quả thần kỳ, Phật Bồ-tát quá từ bi!

Các ngài biết rõ những ý nghĩ không hay trong đầu tôi nên đã dùng cơ duyên này đề thúc đầy tôi mau chóng bỏ mặn ăn chay, dứt ác theo thiện, bước vào con đường học Phật chân chánh…

Từ hôm đó trở đi, tôi biến thành người theo chủ nghĩa ăn chay nghiêm nhặt.

Tháng 4 năm 2007, tôi theo cư sĩ Quả Khanh đến Thiểm Tây, lòng đầy thắc mắc về căn bịnh vợ mình, nên tha thiết hướng ông cầu chỉ giáo, ông hơi định thần một chút, hỏi tôi:

– Có phải bà nhà đã từng phá thai?

Khi tôi xác nhận, ông nói cách quả quyết:

– Đây chính là nguyên nhân!

Và ông ôn tồn căn dặn tôi nên ăn chay, tụng kinh siêu độ cho thai nhi…Tháng 5, thông qua ông tôi được gặp cư sĩ Quả Hồng, đối với bịnh trạng của vợ tôi, cô khẳng định: “Chắc chắn là do phá thai mà chiêu cảm quả khổ như thế!”…

Cô bào tôi khuyên vợ ăn chay, chân thành sám hối tội lỗi đã tạo và nên tụng “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni Kinh”, đồng thời cô không chút khách khí, thẳng thắn chỉ ra vô cùng chuẩn xác những lỗi sát, đạo, dâm, vọng… mà tôi đã phạm, khiến nội tâm tôi bị chấn động kịch liệt lẫn hối hận đan xen, xấu hổ vô cùng…

Cô đã cho tôi thấy kiến thức Phật pháp thần kỳ, càng thêm kiên định niềm tin: “nếu hành đúng theo pháp Phật, chúng tôi có thể chữa lành căn bịnh nan y”…

Tháng 5/2007 dưới sự khuyên lơn ôn tồn lẫn đanh thép, ân uy có đủ của tôi, vợ tôi miễn cưỡng thực hiện việc bỏ mặn ăn chay.

Nàng vốn là một tay sành ẩm thực, khoái mỹ vị cao lương… nhưng giờ đây đối diện với căn bịnh khổ khó kham, nàng đành phải nhượng bộ một bước, nhưng rất không cam tâm tình nguyện, lòng còn bán tín bán nghi…

Quả tình đối với một kẻ vô thần chưa từng tiếp xúc qua Phật pháp như nàng thì việc bắt nàng tụng kinh còn khó hơn ăn chay rất nhiều, vì vậy, mặc cho tôi yêu cầu đủ cách, nàng nhất quyết không chịu tụng kinh niệm Phật.

Tháng 7, tôi cương quyết từ bỏ công tác sự nghiệp tại Bắc Kinh, quay về bên cạnh vợ tôi.

Xem như việc tụng kinh… sẽ do tôi đảm nhiệm và hoàn thành.

Tôi hiểu mình có hai trọng trách:

1.

Tôi phải tu theo Phật pháp không hẳn là vì bịnh của vợ, mà vì muốn cứu đứa con đáng thương từng bị phá bỏ.

2.

Việc làm này xem như là thể hiện nỗi niềm ăn năn chuộc lỗi, muốn bù đắp cho con, hi vọng sẽ an ủi vong thai và được cháu tha thứ, giúp cháu ly khổ đắc lạc, vãng sinh cõi lành.

Mồng 8 tháng 8 tôi bắt đầu tụng “Phật Thuyết Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni Kinh” và “Kinh Kim Cang”, mỗi ngày một-hai bộ, đương nhiên trước và sau khi tụng kinh, tôi luôn chân thành nói với đứa bé, giải thích rằng việc phá thai ngày ấy khiến chúng tôi rất đau lòng, giờ tôi xin sám hổi tội ngu si tàn độc của mình và an ủi, vỗ về tâm tư oán hận tuyệt vọng của hài nhi…

Có lúc tôi buồn nghẹn ngào đến khóc không thành tiếng…

Sự việc kỳ diệu phát sinh, đến cuối tháng, vào những ngày chu kỳ, vợ tôi không còn bị hành đau thống thiết nữa…Lúc đó chúng tôi cũng cho là có thể nhờ tác dụng của châm cứu thuốc men…

Ngày 10 tháng 9 vợ tôi không châm cứu hay dùng thuốc chi nữa, tôi tiếp tục tụng kinh chuyên cần, vợ tôi một lần nữa được bình an vô sự.

Nhưng chúng tôi vẫn còn cho rằng: có lẽ nhờ di chứng phẫu thuật một bên buồng trứng (năm 2005), kích thích tố nữ hạ nên thành vậy.

Đến tháng 11, khi vợ tôi tới bịnh viện kiểm tra kích thích tố nữ, kết quả tất cả đều bình thường.

Chúng tôi vẫn chưa yên tâm, bèn đi hỏi cư sĩ Quả Hồng.

Cô xác nhận:

– Đứa bé thật sự đã đi rồi, hơn nữa còn ra đi với tâm tư rất vui vẻ…

Bấy giờ chúng tôi mới tin phục.

Trong khoảng thời gian này xảy ra một việc thú vị.

Tính đến đầu xuân năm 2008, vợ tôi lành bịnh đã được 6 tháng nên hầu như nàng cũng quên béng cảm giác đau từng hành hạ mình…

Nhất là khi đối diện với những mâm cỗ đại tiệc mừng năm mới, nhìn từng bàn từng bàn ê hề thịt cá, chưng đầy mỹ vị cao lương, càng kích thích bản tính khoái ăn ngon của nàng, nàng chép miệng thèm thuồng và mấy lần than thở với tôi một cách ai oán:

– Anh à, ăn chay cả đời như thế này em chịu không nổi đâu!

Đến tháng tư nảy xem như ăn chay đã mãn năm, lúc đó em sẽ ăn mặn lại…

Nàng vừa tuyên bố xong thì ngay thang giêng đó cơn bịnh khủng đáng sợ bỗng xuất hiện, dường như nó đang ngấm ngầm bộc phát khiến vợ tôi bắt đầu hoảng loạn, sợ hãi…

Thời may, hôm ấy chúng tôi cùng cư sĩ Quả Hồng đi Thượng Hải, Nam Kinh, Hàng Châu và cùng một số cư sĩ đến phóng sinh ờ Tây Hồ (Những liên quan đến chuyến phóng sinh này đều được đài truyền hình Triết Giang trình chiếu và báo Tiền Giang đăng tin vào ngày 25 tháng 12).

Lúc ăn trưa nơi tiệm chay, tôi hỏi Quả Hồng (cùng ngồi chung bàn):

- Vợ tôi lại đau nữa, có phải là do đứa bé quay về chăng?

Quả Hồng đáp:

– Không phải!

Là tại vợ anh nói lời lật lọng, BỘI TÍN, PHẢN NGUYỆN!…

Vợ tôi ngồi bên xanh mặt, nàng hoảng sợ tới nỗi chẳng còn dám hó hé đá động gì tới chuyện “ăn mặn lại”…

Đương nhiên tháng kế đó nhờ vợ tôi biết kìm cương trước vực thẳm, (dừng kịp trước hiểm nguy) nên cơn bịnh dữ không còn tái hiện hoành hành.

Kề từ đó vợ tôi cũng chừa hẳn, chẳng dám nói hay tơ tưởng gì đến chuyện ăn mặn và nàng được bình an mãi cho đến ngày nay.

Chúng tôi lại một phen được luật nhân quả “dạy” cho một bài học, đã biết sự và tin “trên đầu ba thước có thần linh”, đã hiểu rằng từng cử chỉ lời nói, mỗi khởi tâm động niệm của chúng tôi… thảy đều nằm trong tầm nhìn của thần minh, đều bị luật nhân quả chi phối, vận hành.

Đến nay đã gần hai năm, vợ tôi đã hết bị cơn bịnh khủng hành, chứng táo bốn và các bịnh lớn nhỏ gì cũng dần tiêu tan.

Các bằng hữu bác sĩ của tôi nói:

- Thông thường bịnh này phát mỗi lúc càng nặng, vợ anh không do phẫu thuật, không nhờ uống thuốc mà được lành, thì phải nói đây là đại kỳ tích!

Chúng tôi xin cảm tạ Phật pháp, cảm tạ các thiện tri thức đã kiên nhẫn chỉ dẫn giúp chúng tôi phá mê, bỏ xấu.

Cảm tạ đứa con đã thông cảm, tha thứ, chịu xả oán hờn ra đi.

Càng cảm tạ cháu đã dùng phương thức này để cứu độ hai đấng sinh thành ngu si, khiến chúng tôi biết dừng trước vực thẳm, lội ngược giòng, lìa xa chốn mê.

Giải thích thêm: Kỳ tích “sống lại từ chỗ chết” phát sinh và bắt nguồn từ tâm tỉnh giác tu sửa.

Người không muốn chết thì trước phải biết “chết ngay khi còn đang sống” có nghĩa là phải chết hết mọi thói tật! (phải chết trụi lủi những tính tham, sân, si mạn, nghi, tà kiến… những gì trải đạo không đúng pháp)…

Ngoài ra, còn phải biết thành tâm sám hối, sửa lỗi, bồi đức… y theo giới định huệ, đúng pháp mà tu hành, thì sẽ thay đồi cuộc đời.

Hiểu rõ Phật pháp rồi, thi dù kỳ tích có xảy ra cũng là chuyện rất bình thường!

25.

DIỄM TUYẾT

Lần đầu tôi gặp Diễm Tuyết trong “Pháp Hội Thủy Lục” tổ chức tại chùa.

Lúc đó cô đứng sau lưng tôi, do người đông, tôi bị chen lấn xô va vào Diễm Tuyết.

Sau đó, khi biết là cô có thai đã mấy tháng, tôi liền tìm chỗ cho cồ ngồi nghỉ.

Xong buổi lễ, Diễm Tuyết đối với tôi cực kỳ tin tưởng, cô buồn rầu kể cho tôi nghe chuyên gia đình mình.

Diễm Tuyết 26 tuổi, kết hôn đã hơn hai năm.

Hồi mới cưới, anh Trương chồng cô rất quan tâm yêu thương vợ, lảng xăng chăm sóc đủ điều, khiến Diễm Tuyết vô cùng vui sướng, dệt đầy mộng đẹp về tương lai.

Nhưng tiếc thay, “hạnh phúc thường không kéo dài”, chẳng bao lâu, mái ấm êm đềm nảy đã bị sự xuất hiện của người thứ ba là Diệp tiểu thư, phá vỡ.

Mới đầu anh Trương chỉ lén lăng nhăng qua điện thoại… dù có tình cờ đọc phải tin nhắn của cô Diệp, Diễm Tuyết vẫn ngây thơ chưa phát hiện ra.

Nhưng sau đó thấy chồng đi làm hay la cà ở ngoài, đêm cũng không về ngủ, lòng Diễm Tuyết rất bất an, nhưng cô vẫn đinh ninh là “có lẽ do chồng mình quá bận việc, nên không rảnh để quan tâm đến mình”, cô không dám nghĩ đến điều rủi ro, bởi lúc này cô đã có thai.

Một ngày mùa đông, cô tình cờ phát hiện mối giao du bất thường giữa chồng mình và tiểu thư Diệp, bao hi vọng của Diễm Tuyết ngay đây tan vỡ…

Sự thực còn phũ phàng hơn, khi chồng cô ngang nhiên thừa nhận tình yêu dành cho ả họ Diệp, còn nói là họ đã sống chung với nhau!

Đối diện với sự phản bội của chồng, Diễm Tuyết cực kỳ thất vọng, tim như bị xẻ nát… phẫn nộ đến tận cùng… thế là cuộc gây cãi nổ ra, nhưng hai bên chưa nhắc gi đến li hôn.

Diễm Tuyết thống khổ trăm chiều, muốn tâm được an ổn giải thoát, cô bèn tìm đến Phật pháp và siêng năng tham dự các lễ hội trong chùa.

Cô hi vọng nhờ Phật lực gia trì, giúp cô vơi bớt niềm đau…

Nhìn Diễm Tuyết thân đang mang thai, nghẹn ngào kể lể, khóc không thành tiếng, trong lòng tôi đầy thương xót, cảm thông… tôi nắm lấy đôi bàn tay lạnh giá của cô, không ngừng vỗ về an ủi…Thực ra nguyên nhân thống khổ này bắt nguồn từ câu chuyện kiếp trước, do chính cô tạo ra:

“Vào niên đại 1930, trong giới quý tộc giàu sang ưa ăn chơi tại Thượng Hải, có một nhà kinh doanh trẻ tuổi họ Kỳ rất nổi tiếng.

Trong một buổi dạ yến, anh Kỳ quen cô vợ của một đại gia họ Trần, hiền thục quý phái.

Tuy Kỳ đã có vợ con đùm đề, nhưng nét mỹ miều của Trần phu nhân đã khiến trái tim anh rung động đắm say; thế là họ Kỳ nghĩ cách phải chinh phục giai nhân cho bằng được…

Do vậy mà cứ năm-ba hôm anh lại đến Trần gia, biếu tặng nhiều trang sức đắt giá…

Cuối cùng, Trần phu nhân trẻ tuổi cũng bị “cưa đổ” và ngã vào vòng tay họ Kỳ.

Khi ông Trần hay được chuyện này, đất trời như sụp dưới chân; vì danh dự gia tộc nên ông ráng nén giận, nhẫn nhịn, nuốt hết cay đắng vào lòng…Kể từ đó trở đi, ông Trần chỉ biết mượn rượu giải sầu, suốt ngày say sưa, tự cam dọa lạc, vì vậy mà gia nghiệp mau chóng rụi tàn, lụn bại.

Phần anh Kỳ và bà Trần, do tính khí không hợp nên thường xuyên bất hòa, cuối cùng họ cũng chia tay.

Cả hai gia đình đều lâm vào cảnh “thê ly tử tán”, kết thúc trong bi thảm”…

Anh Kỳ hào hoa bay bướm kiếp xưa, giờ chính là Diễm Tuyết.

Còn Trần phu nhân chuyển sinh thành anh Trương (chồng Diễm Tuyết hiện thời).

Riêng Trần tiên sinh, người chồng đau khổ bị phụ tình, nay chính là cô Diệp (giờ đang xuất hiện trong vai người thứ ba) xen vào phá tan mái ấm của DiễmTuyết (trả lại nỗi đau bị đoạt người phối ngẫu trong kiếp xa xưa lại cho địch thù)…

Đời này, mối quan hệ (vận hành theo luật nhân quả trả vay) đã khiến ba người gặp lại nhau, khác chăng là giới tính đã thay đổi.

Nhưng do những ác nghiệp đã tạo thuở xa xưa mà người trong cuộc phải nếm lại mùi vị thống khổ từ bi kịch hôn nhân này!

Tôi bảo Diễm Tuyết:

– Bạn đừng khởi tâm hận oán chồng nữa, bởi trong quá khứ bạn từng đoạt vợ người, nên kiếp này mới nếm cảnh phụ phàng, bị người giựt… lại!

Đã bước vào đường học Phật, thì phải tin sâu nhân quả, bạn nên sám hối tội nghiệt đã tạo kiếp trước của mình, hãy tụng 49 bộ “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho chồng và cô Diệp để chuộc lỗi xa xưa…Nếu bạn chịu thành tâm sám hối, tụng kinh, ăn chay, phóng sinh v.v… thì tương lai, đời bạn sẽ hạnh phúc.

Diễm Tuyết mắt đầy lệ, mỉm cười gật gật đầu.

Sau này, khi gặp lại Diễm Tuyết, tôi nhận không ra.

Vì trông cô trẻ đi rất nhiều, mặt mày hồng hào, cười rạng rỡ.

Rất dễ dàng nhận thấy, cô đã đạt được giải thoát an vui, nhờ vào pháp Phật!

26.

MỐI TÌNH TAY BA

Hiểu Mỹ là một nữ doanh nghiệp xinh đẹp, giàu sang, thành đạt.

Nàng cùng chồng là An Vĩ sống hạnh phúc với hai con: một trai một gái, chúng thông minh, ngoan ngoãn…

Ai cũng khen đây là đôi uyên ương lý tưởng.

Nhưng chính nhan sắc, thành công và sự duyên dáng của Hiểu Mỹ đã khiến nàng phạm phải sai lầm, tự phá tan mái ấm của mình.

Trong một lần công tác, Hiểu Mỹ gặp và quen anh chàng họ Điền, hai bên “nhát kiến chung tình” (vừa nhìn đã yêu), cảm thấy vô cùng ý hợp tâm đầu, luyến ái ngày càng sâu đậm.

Họ đắm chìm trong lưới tình, thương nhau mê mệt, yêu đến chết đi sống lại…

Anh Điền vì muốn có được Hiểu Mỹ mãi mãi, nên đã chủ động tìm đến An Vĩ, thông báo mối quan hệ mật thiết này, đề nghị An Vĩ hãy ly hôn với vợ.

An Vĩ về nhà, trong cơn phẫn nộ đã ra tay đánh Hiểu Mỹ trước mặt hai con.

Hiểu Mỹ bị đánh rất căm giận, kiên quyết đòi ly hôn, nhưng An Vĩ chẳng đáp ứng.

Nhờ bạn bè giới thiệu, Hiểu Mỹ tìm đến tôi, sắc diện tiều tụy, mặt tái nhợt, khóc lóc kể lại sự tình đã qua…

Tồi nghe xong bảo:

– Hiện thời chị không thể ly hôn, bởi vì mối quan hệ giữa chị và anh Điền là tà dâm!

Đây là tình tội lỗi, nếu phát triển tiếp thì sẽ càng thống khổ nhiều hơn!

Vì anh Điền cũng đã có vợ, gia đình đang êm ấm, lại còn có một con gái nữa…

Ngừng một lúc tôi nói tiếp:

– Chị và anh Điền vì xao động tình cảm nhất thời mà đòi vứt bỏ hết tát cả đề kết hợp với nhau, thế thì quả báo cả hai phải gánh lấy chắc chắn sẽ rất thảm khốc!…

Nhìn vào ánh mắt hoài nghi của Hiểu Mỹ, tôi cảnh báo:

– Có đến với nhau bây giờ thì chỉ trong thời gian ngắn nữa, hai người sẽ phải chia tay nhau thôi.

Do chị chưa đoạn sát nghiệp, còn ăn mặn, lại phạm thêm trọng tội tà dâm!… nếu chị không biết ăn năn sám hối, thì sẽ mắc binh phụ khoa hiểm nghèo và qua đời khi chưa đến 40 tuổi…

Hiểu Mỹ nghe nói cả kinh, vội hỏi:

– Tôi gần đây nghe bụng dưới đau râm râm khó chịu, có thật là tôi sẽ bị bịnh phụ khoa?

Năm nay tối 36 tuổi rồi, vậy làm sao thoát khỏi kiếp nạn này?…

– Chị hãy quay về với phu quân, dốc hết sức thực hiện chu toàn bổn phận làm mẹ, làm vợ, hãy chăm sóc chồng con chu đáo và phải đoạn tuyệt hẳn, không được dan díu với anh Điền nữa!

Kể từ hôm nay chị phải tụng 49 bộ “Kinh Địa Tạng”, lo ăn chay, phóng sinh, nghiêm trì ngũ giới, siêng học Phật tu hành…

Hiểu Mỹ nghe xong gật đầu nói:

– Tôi về nhà sẽ làm như lời cô dạy.

Nửa tháng sau, Hiểu Mỹ mặt mày hồng hào tươi tắn, đến thăm chúng tôi…

Vừa gặp, cô đã nắm tay tôi nói:

– Hiện tại tôi đã cắt đứt, không gặp anh Điền nữa…

– Chị nhớ kiên trì tụng kinh hồi hướng, dứt ác hành thiện, trì giới tu hành, xem như đổi mới cuộc đời lại hết kể từ đây…

Hai tháng sau, cuộc sống Hiểu Mỹ đã chuyển tốt.

Hằng ngày chị tụng kinh, sám hối những lỗi sal lầm trước đây và âm thầm hành thiện tích đức.

Không những thế, cả nhà chị đã bắt đầu ăn chay, học Phật, cuộc sống gia đình trở nên hạnh phúc, ấm êm… nhờ vậy các con an khỏe, trưởng thành, thăng tiến.

Phần anh Điền, mới đầu không cam tâm bỏ cuộc, không chịu rời xa Hiểu Mỹ…

Tôi phải khuyên lơn giải thích, phân tích lợi hại đủ điều, cuối cùng mới dàn xếp ổn thỏa.

Kể lại câu chuyện này, tôi mong rằng các mái ấm trong nhân gian luôn sống hòa thuận, an vui.

Hi vọng tất cả cặp vợ chồng sẽ thủy chung đối với nhau tương thân tương ái.

Xin quý vị đừng vì xao động nhất thời mà phát sinh ngoại tình.

Quả báo tà dâm rất đáng sợ, ngoài kết cục “người mất nhà tan”… còn chiêu lấy thảm báo ở địa ngục.

Khi khởi tâm ngoại tình hay nuôi dưỡng ý tà, là quý vị tự phá tan phúc báu hiện có, nghĩa là tài, lộc quyền đều bị sạt!…

Ai cũng tưởng sát sinh mới đoản mệnh, nhưng thực ra tà dâm cũng chiêu lấy quả báo bị các bịnh hiềm nghèo, tán tài, mất phúc, lộc và đoản mệnh!…

Chết rồi còn vào địa ngục chịu khổ.

Xin mọi người hãy nghiêm trì giới luật, chẳng nên để ngoại cảnh dụ dỗ…

Nếu người lỡ phạm tà dâm, thì ngay đây nên hạ quyết tâm từ bỏ, tha thiết sửa đồi lỗi trước, phát nguyện sám hối, vĩnh viễn không tái phạm!…

Như vậy mới có thể chuyển đỗi vận mệnh mình thành tốt đẹp.

Lời người dịch:

Hiểu Mỹ ngoại tình, bị Quả Hồng cảnh báo nếu tiếp tục, sẽ không hạnh phúc với tình nhân, còn mắc bịnh phụ khoa nan y và chết yểu!

Vậy thì ắt độc giả sẽ có người thắc mắc, nói rằng: “Thấy trên thế gian này cũng có nhiều kể ngoại tình và họ ra đi xây tổ uyên ương với người mới cũng đâu bị báo ứng gi?…

Chúng ta có thể lý giải như sau: Người làm ác mà chưa bị báo ứng liền, là do phúc họ còn nhiều.

Một khi phúc suy, quả báo sẽ ập tới…Vả lại, bạn chỉ đứng bên ngoài nhìn, đâu theo sát một bên (cũng chẳng phải người trong cuộc để cảm nhận được những bất hạnh mà “kẻ ngoại tình” phải thảm nếm trải), nếu bạn theo dõi lâu dài, ắt sẽ thấy diễn tiến sau này đa số đều xảy ra đúng như lời Quả Hồng đã cảnh báo…

Còn nữa, trong chuyện Diễm Tuyết, cô Diệp tuy ở vị kẻ thứ ba, nhưng cô xuất hiện để dôi nợ và báo thù… (trả lại những thống khổ mà đối phượng từng gieo cho mình kiếp trước).

Bởi kè có lôi trong đây là Diễm Tuyết (nên hiện đời không được phép oán giận) ngược lại, còn phải tạo nhiều phúc thiện để hồi hướng cho cô Diệp, hầu cứu chuộc lỗi xưa…

Do vậy mới có những chuyện tình oan trái bất công, “Phụ tình mà không thấy báo, phá gia can mà chẳng thấy trả quả”… là vì những ẩn khuất trong đó ta chưa hiểu, chứ luật nhân quả vận hành không bao giờ sai.

Riêng chuyện Hiểu Mỹ, khi không mà tạo tội, thì sẽ lãnh ác báo như Quả Hồng đã cảnh cáo…

Phần đông người ta phạm lỗi vì không hiểu luật nhân quả, nếu am tường rồi thì ắt sẽ không cam lòng tạo tội…

Vì nếu so sánh, sẽ thấy chạy theo tình cảm nhất thời niềm vui không bao nhiêu mà hậu quả thống khổ phải trả… lại vô cùng tận.

Nếu đặt lên bàn cân, người khôn ngoan sẽ biết chọn điểu thực sự có lợi cho mình…

Người ta thường nói Phật pháp là xuất thế, không dính gỉ đến thế gian, ấy vậy mà Phật pháp lại “tác hợp” cho thế gian vô cùng tốt đẹp.

Để tôi kể bạn nghe câu chuyện thực mình từng chứng kiến:

Tôi quen Nhã Lan, cháu khoảng 26 tuổi, rất xinh đẹp, tốt nghiệp trường điện ảnh, hành nghề không bao lâu thì cháu kết hôn với một mỹ nam tuấn tú, hộ đối môn đăng và giải nghệ, sống bình thường như bao mái ấm khác.

Nhưng phu thê Nhã Lan là đôi trai tài gái sắc, mà tài sắc trong nhân gian luôn là tiêu điểm để phản đông người ta theo đuổi tranh giành”…

Do vậy mà hôn nhân Nhã Lan nằm bên bờ vực tan vỡ, vì ai cũng có người theo đuổi, nếu cả hai vợ chồng đổng không chung thủy thì chuyện chia tay là đương nhiên.

Có lần Nhã Lan gọi điện cho tôi tấm tức khóc kể:

– Cô ơi, con không muốn sống nữa, chắc con chết quá!

Vừa nghe cháu than, tôi hiểu ngay: trong đời người ta thường đau khổ vì “sự nghiệp, danh vọng, tình cảm”… bất như ý, Nhà Lan có đầy đủ hết nên tôi đoán chỉ có tỉnh mới làm cháu buồn dữ vậy…

Ắt là do đức lang quân có nhiều cô đeo đuổi đã khiến cháu sầu khổ.

Vì vậy tôi bảo:

– Kiểm lại xem trong đời con có từng làm khổ ai chưa?

– Dạ có, rất nhiều, nhiều lắm.

– Vậy thì xem như con đang trả quả đi!

Nếm lại khổ đau để thông cảm với những người từng bị con làm khổ…

Lúc ấy tôi rất bận, do phải tiếp hai cuộc điện thoại bất ngờ và quan trọng cùng lúc nên không kịp nói gì nhiều với Nhã Lan, mà cháu đang buồn nên cũng không muốn nói năng chi nhiều…Sau đó cháu kể tôi nghe, lúc đó đang rất muốn tự tử, nhưng câu nói “Xem như con trả quả đi” của tôi làm cháu bừng tình và quyết tâm vượt qua khổ đau.

Sau đó hai vợ chồng cháu được một cao tăng hướng dẫn, trước tôn tượng Phật họ thệ sẩm hối mọi lỗi xưa, nguyện sống chung thủy, nghiêm trì ngũ giới, tu theo Phật pháp…

Vậy mà kể từ khi phát thệ xong, cả hai vợ chồng đều sống hạnh phúc, nhờ tuân thủ giới Phật nên ra ngoài họ chẳng để mắt tới ngoại nhân nào khác, sống tuyệt đối chung thủy, tin tưởng nhau và không bao giờ nói dối…

Hiện tại Nhã Lan sống rất êm ấm, cháu từng tâm sự với tôi:

Con không mơ giàu sang, danh vọng hay bất kỳ thứ gì khác, sống an phận như vầy mà hạnh phúc… là đủ rồi.

Ngày ngày tự kiểm lỗi mình để không phạm sai, càng hành trì theo pháp Phật tụi con càng hạnh phúc.

Nhờ vậy mà vợ chồng tin nhau tuyệt dối… ai mà nói xấu con là ảnh binh liền, ai mà nói xấu ảnh con cũng binh!… vì biết đôi bên đểu lo giữ giới, không dám tạo tội phạm lỗi nữa…

Chẳng còn ai lo ai ngoại tình… chẳng ai thèm canh ai… vì đã có giới pháp của Phật bảo vệ mình rồi!

Tụi con cứ thế mà sống, cứ thế mà tích đức tạo phúc, gieo nhân an ổn từ đời này mãi đến đời sau…

Nghe cháu nói mà vui.

Ai bảo Phật pháp không đem lại hạnh phúc cho người thế gian chứ!

27.

QUẢ BÁO TÀ HẠNH

Hiện nay y học đã chứng minh, hành vi tà dâm sẽ dẫn đến nhiều bịnh như Giang Mai, bịnh Lậu, Si-đa v.v… còn Phật pháp nhìn từ góc độ luân hồi trong lục đạo, đã cảnh báo chúng ta rằng: hành vi tà dâm chiêu ác báo không chỉ đời này mà kéo dài đến nhiều kiếp sau…

Trong một buổi họp mặt các bạn đạo, có đôi vợ chồng trẻ dẫn một bé gái khoảng 2 tuổi đến, cầu xin mọi người giúp đỡ.

Cha mẹ bé khóc lóc, kể lể con gái mình bất hạnh như thế nào…

Nguyên bé gái này chỉ mới 2 tuổi nhưng bị chứng bịnh ung bướu ác tính nan y.

Nghiêm trọng hơn nữa là ung bướu mọc rất to ngay tại âm đạo.

Song thân của bé như bị “sét đánh vào đầu”, không sao hiểu được lý do – Bé chỉ mới hai tuổi, vì sao lại vướng bịnh phải bịnh nặng này? – Đáng sợ hơn nữa là, bác sĩ bảo muốn trị bịnh này chỉ có nước phẫu thuật, nhưng xác suất thành công rất thấp.

Mà nếu không mổ thi bịnh phát tác, sẽ làm nguy đến tính mạng.

Vì vậy cặp vợ chồng trẻ này rất khổ tâm, nghĩ hết cách cũng không biết làm sao cho ổn.

Bé gái khi bịnh hành rất đau đớn, “cầu sống không được, cầu chết không xong”, khiến người thân phiền muộn đầy lòng, cùng đắm chim trong thống khổ vô biên.

Tôi và các bạn cư sĩ rất cảm thông cho bé, cảng tin sâu đây là nghiệp báo trọng tội đang hiển hiện.

Tôi quán sát một hồi, thì phát hiện ra nguyên nhân:

“Bé gái này tuy chỉ hai tuổi, nhưng đời quá khứ nó là nam nhân, đã phạm tội tà dâm rất nặng.

Không những phá hoại gia đình người, mà còn cưỡng hiếp, giết gái nhà lành rất ác độc, gây nên thảm cảnh “người mất nhà tan”.

Hồn người bị hại chết oan, ôm phẫn nộ căm thù thề đeo theo báo oán, làm cho bé gái ngay hiện đời bị ung bướu ác tính, thống khổ đến tận cùng”.

Tôi nghiêm túc bảo song thân bé gái:

– Hai vị cần phải giúp bé sám hối, tụng 49 bộ “Kinh Địa Tạng”, hồi hướng cho oan gia kia.

Tôi chưa nói xong, thì bỗng nghe “đụi” một tiếng, bé gái đã quỵ xuống trước tượng Phật, mắt tuôn ràn rụa lệ hối lỗi, ánh nhìn chứa đầy vẻ van xin chúng tôi hãy cứu sống nó (dù nó chưa nói rành).

Mọi người đều ngạc nhiên, cha mẹ bé bật khóc, tôi xót thương bế đứa bé gầy gò lên, nhìn vào đôi mắt mờ mờ đầy vẻ khẩn cầu của nó và bảo:

– Con nhất định phải sám hối trước Phật cùng mẹ, hễ mẹ đọc một câu thì con cũng đọc theo một câu và phải phát nguyện vĩnh viễn không làm thương hại đến bất kỳ người hay vật nào…

Và tôi quay sang song thân bé, dặn dò:

– Hai vị phải tụng kinh, ăn chay, phóng sinh thật nhiều cho bé, tích góp từng chút thiện sự…đem công đức đó hồi hướng cho oan gia trái chủ của bé, cầu họ tha thứ, buông xả oán thù cho..

Sau khi về nhà, cả ba người quỳ trước Phật thành tâm sám hối, cha mẹ làm y theo lời tôi dặn và chí thành tụng kinh hồi hướng cho những người từng bị đứa bé làm hại trong quá khứ…

Kỳ tích xuất hiện: hôm sau đứa bé đau đớn giảm nhiều.

Thầy vậy toàn gia càng tinh tấn ăn chay, tri giới, tụng kinh, niệm Phật…Nhờ vậy ung bướu của bé bắt đầu teo nhỏ đi.

Láng giềng chung quanh nhìn thấy trên thân bé hiện kỳ tích, cũng xúm nhau học Phật tập tu.

Nguyện cho cả nhà họ sớm ly khổ đắc lạc, sống khang kiện hạnh phúc.

Chỉ cần họ chịu ăn chay trì kinh, siêng năng sám hối sửa lỗi, bé gái này nhất định sẽ khỏi bịnh.

Cuối cùng, tôi xin khuyên những vị phóng túng tà dục, lấy đây làm gương, chớ nên đắm mê trong sắc dục, làm thế là hại mình hại người.

Đời này không những khiến thân thể suy yếu, yểu mệnh, mà đời sau còn mắc đủ ác bịnh, thậm chí còn bị đọa vào địa ngục, súc sinh… thọ đủ thống khổ…

Thân người khó được, xin hãy biết quý trọng!

28.

ÁC BÁO SÁT SINH

Đầu xuân, trên chuyến tàu hỏa về thăm nhà, tôi gặp đôi vợ chồng trẻ dẫn theo đứa con gái ba tuổi đi khám bịnh.

Khi chuyện trò mới biết bịnh đứa bé này có sẵn từ lúc mới sinh, rất khó trị.

Cha của con bé vén lưng nó lên cho tôi xem, thật khiến người ta giật mình kinh ngạc: nhìn mặt bé gái thanh tú khả ái là vậy, nhưng trên lưng nó nổi đầy mụt bỏng lớn, nhỏ, cao, thấp bất đồng… nằm lộn xộn hỗn loạn (giống như người bị phỏng nước sôi nghiêm trọng).

Nghe hai vợ chồng khổ đau kể lể… trước mặt tôi bỗng hiện ra một hoạt cảnh:

“Có một con mèo rừng lông xám đen, thường đến nhà vợ chồng nông dân nọ để ăn vụng…Ngày nọ, ông chồng mua 10 con vịt về thả trong vườn nuôi.

Nhưng cứ qua một ngày thì mất hai con vịt.

Tới ngày thứ ba, ông bí mật rình xem thì phát hiện hung thủ chính là con mèo rừng.

Thế là hai vợ chồng bèn đặt bẫy bắt được nó, họ đem nhốt trong lồng sắt, rồi dùng cây nhọn chọt, đâm nó tàn nhẫn… vừa đánh vừa mắng:

– Đồ súc sinh này dám trộm vịt nhà chúng tao!

Mi chẳng được chết yên lành đâu!

Thấy con mèo đã bị thương mà còn ráng sức giẫy giụa, họ bèn ra tay tàn độc, nấu nước sôi đem chế lên lưng nó…

Con mèo rừng đau đớn, thét la mãi cho đến khi chết đi, hai vợ chồng mới dừng tay.

Lúc ấy bà vợ đang mang thai… thần thức con mèo rừng ôm đầy oán hận liền đoạt xá (giành chỗ – nhập vào thai) kết quả nó sinh làm con gia đình này, bây giờ chính là cô bé trước mắt đây….

Tôi hỏi hai vợ chồng:

– Có phải các vị từng làm một con mèo rừng chết phỏng?

Người chồng nghe nói, mặt mày tái nhợt, giật mình lẫn ngạc nhiên, căng thẳng đáp:

– “Ngài” làm sao mà biết được ba năm trước chúng tôi có giết một con mèo rừng hả?

– Con gái hai người bị bịnh, là thuộc bịnh nhân quả, chỉ có tu theo Phật pháp mới có thể giúp cả nhà các vị…

– Dạ thưa ngài, chúng tôi đều tin Phật, năm nào cũng đến chùa thắp hương, lễ Phật cầu bình an…

– Học Phật chân chính không phải là cứ nhắm mắt thắp hương, lễ cầu bình an.

Làm vậy là ngoài tâm cầu pháp! – Các vị phải sửa bỏ tật nóng nảy và tính khí không lành của mình đi! – Sau khi về nhà, nhất định phải sám hối sát nghiệp đã tạo trong quá khứ, phải ăn chay và tụng 100 bộ “Kinh Địa Tạng”, còn phải dốc sức phóng sinh, hồi hướng cho con gái mình.

Bởi vi hai người đã tạo sát nghiệp kết thành ác duyên, nên mới có đứa con như thế…Hai vợ chồng vừa sợ vừa mừng, tỏ vẻ ăn năn.

Ngay đó họ phát nguyện sẽ vì đứa bé ăn chay, tụng kinh hồi hướng, sau khi về sẽ tu tập tốt như lời dặn…

Giải thích thêm: Nhân loại chúng ta tự cho mình là loài chí linh trong vạn vật, vì tư dục mà ra tay tàn sát sinh linh không có chút từ tâm thương xót.

Ngài Tuyên Hóa từng nói, ngàn vạn lần chẳng nên kết oán cùng chúng sinh, nếu không, khi quả báo ập đến chúng ta sẽ khổ không kham nổi…

Chúng ta tin Phật thì phải tin sâu nhân quả, nghiêm trì giới luật “Đoạn ác: là giúp mình đóng lại cành cửa bước vào địa ngục.

Tu thiện: là mở ra cánh cửa thiên đường cho mình.

Học Phật: là tu tập, bước vào con đường rạng rỡ quang minh thoát ra tam giới”…

29.

CẢNH SÁT VÀ PHÚ ÔNG

Tiết Thành và Sử Đình là một đôi phu thê thương nhau thắm thiết.

Anh thì tuấn tú khôi ngô, sự nghiệp thành đạt, Chị thì xinh đẹp, quý phái tao nhã… trong mắt mọi người, họ được ví như đôi kim đồng ngọc nữ.

Thế nhưng, đôi vợ chồng được thiên hạ ngưỡng mộ trầm trồ này thường thở vắn than dài, sầu muộn ủ rũ.

Số là họ có hai con gái: bé út tên Bảo Châu, do “cầu tự” mà có được nên cả nhà rất cưng yêu chìu chuộng…

Bảo Châu rất thanh tú khả ái, đối với người ngoài bé rất ngoan.

Nhưng khi chỉ có một mình với gia đình thì bé luôn tỏ ra nóng nảy giận dữ, thường hét gây, hễ gặp người thân là đánh.

Tiết Thành vì con gái mà phải bước vào đường học Phật, anh thường tụng kinh, phóng sinh…

Nhưng Bảo Châu không chút chuyển tốt, lại còn hay đau ốm, cảm sốt…Nhưng kỳ quái là những khi Tiết Thành vắng nhà, thì các trạng thái bất thường này đều biến mất hoặc chuyển sang tốt lành.

Tiết Thành vì con gái cưng mà rầu lo héo ruột gan, anh đã tốn tiền cho Bảo Châu nhiều vô kể, khoản chi ra kếch xù cộng thêm tâm thái muộn phiền đã khiến người đàn ông có sự nghiệp thành đạt này cảm thấy cuộc đời sao mà thống khổ quá…

Chịu hết thấu, Tiết Thành bèn đến gặp tôi cầu giúp đỡ và than:

– Tôi hết trụ vững nữa rồi, Bảo Châu khiến tôi lao tâm khổ trí, mệt mỏi đến cùng cực!

Phải chăng đời trước tôi thiếu nợ nó?

Nếu thật tôi nợ nó… thì phải trả thế nào đây?

Nghe anh rầu rĩ kể lể, tôi bảo:

– Con cái đầu thai, là do ác duyên hoặc thiện duyên mà tìm tới…

Bảo Châu hành cha mẹ thống khổ bội phần như thế này, đối với các vị đúng là không phải thiện duyên!

Thực ra ác duyên này đã kết tụ vào năm 1930 tại bến Thượng Hải, đầu đuôi như sau:

“Tại sở cảnh sát (thuộc bến Thượng Hải cũ), có Hồ cục trưởng và thuộc hạ Tiểu Quách, hai người chơi thân thắm thiết, hết mực tin nhau.

Lúc đó, tại địa phương này xảy ra một vụ án bắt cóc (gây chấn động một thời), do gã X là trùm giang hồ khét tiếng, vì ân oán cá nhân mà ra tay bắt trói một phú ông vùng đó.

Người nhà phú ông lo lắng vạn phần, bèn tìm đến Hồ cục trường báo án, xin ông giải cứu cho…

Nhưng Hồ cục trưởng tính vốn tham lam, đã thừa dịp này buộc gia đình phú ông phải nộp một khoản tiền kếch xù rồi mới chịu ra tay cứu giúp.

Sau đó ông sai Tiểu Quách đi diều tra sự việc…

Dù Tiểu Quách đã tìm ra kè chủ mưu vụ án, nhung do tên trùm X lót tiền hối lộ cho lão Hồ và Tiểu Quách nhiều hơn phú ông, nên hai vị cảnh sát liền thông đồng, cùng bao che phóng thích tội phạm, chỉ xoa dịu thân nhân người bị hại chút ít…

Cuối cùng dẫn đến kết cục bi thảm là phú ông lìa đời trong tức tưởi (bị hà hiếp bức tử)…

ông Hồ cục trưởng kiếp xưa, đời nay chính là Tiết Thành, còn thuộc hạ thân tín Tiều Quách giờ là ái thê Sử Đình.

Do phú ông trong quá khứ phút lâm chung lòng đầy oán hận, đã thề sẽ báo thù, hiện giờ đã đầu thai vào làm đứa con cưng Bảo Châu.

Còn tên trùm X do tạo tội ác ngập tràn, đến nay vẫn còn thọ khổ hình nơi địa ngục”…

Tôi bảo Tiết Thành:

– Mặc dù hiện tại các vị đã bắt đầu học Phật tập tu, nhưng lực sám hối vẫn chưa đủ.

Phú ông kia vô cớ bị hại, đâu có dễ dàng buông tha cho?…

Vì vậy hai người nhất định phải nghiêm trì giới luật, phải ăn chay và giữ ngũ giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu… thường hành thập thiện và phải tụng “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho con gái.

Hai vị phải trì chí bền tâm chuộc tội, tinh tấn tu không biếng lười.

Dẫu gặp đại khổ nạn chi cũng phải hiểu đó là thử thách… phải nghĩ là “mình đang trả nợ cho tiêu nghiệp”…

Nếu hai vị nỗ lực cổ gắng hành trì được như thế chừng khoảng 5-6 năm, nhất định sẽ thu được kết quả tốt.

Nửa năm sau, Tiết Thành gọi điện tới, âm thanh chứa đầy xúc động mừng vui.

Anh báo tin con gái mình đã thực sự chuyển tốt, còn ái thê Sử Đình hồi xưa sức khỏe rất yếu, nay đã dần dần hồi phục mạnh khỏe…Qua việc này, Tiết Thành phát nguyện sẽ tu học thật tốt, để thành một gia đình Phật hóa…

30.

HAI CẬU QUÝ TỬ

Chúng ta trong vô lượng kiếp đều vì phiền não tham, sân, si mà kết oán với biết bao chúng sinh.

Nếu ngay đây chẳng sớm buông phiền muộn, tu theo Phật pháp, xuất ly lục đạo, thì cứ ở trong sinh tử thanh trừng đòi nợ nhau mãi… cảnh oan oan tương báo này biết bao giờ mới dứt?

Thân Khoa Trường là một cán bộ lão thành trong ngành công an, ông hành sự rất nghiêm cẩn, không mảy may cẩu thả sơ sót.

Mấy lần phá trọng án, đều lập công lớn.

Nhưng sự nghiệp thành đạt lẫy lừng này cũng chẳng đem lại niềm vui cho ông, bởi vì phiền muộn trong gia đình cao ngút, dẫy đầy… không ngừng hành hạ ông.

Ông Thân có hai con trai.

Đứa đầu không uống rượu thì thôi, mà hễ uống vào lả đánh người, quậy ầm náo trong nhà đến gà chó chẳng yên.

Còn cậu út thì luôn vòi tiền cha mẹ, (lắm lúc xin đến một-hai vạn), số tiền này cậu đều đổ hết vào cá độ, mà hễ đánh bạc thua thì lại về nhà xin tiền cha mẹ tiếp…Nỗi khổ này khiến hai ông bà ngày nào cũng rửa mặt bằng nước mắt.

Ông Thân trong lòng khổ hết chỗ nói, sống không bằng chết…

Để nội tâm được an ủi, bọn họ nhận nuôi một đứa con gái, hi vọng về già có được chút ấm lòng.

Hai vợ chồng nghĩ mãi vẫn không hiểu, vì sao họ sinh toàn con đại bất hiếu?

Cứ luôn gây khổ cho mẹ cha như thế?

Ngồi đối diện với hai vợ chồng già, nhìn họ nước mắt đầm đìa, tôi thấm thía “báo ứng thiện ác quả thực như bóng theo hình”…

Chính những hạt giống oan nghiệt trong quá khứ họ đã gieo, giờ đây đang đơm hoa kết trái, đem đến thống khổ khôn tả…

- Vào thời cổ đại xa xưa, có một người nghèo rớt mồng tơi, bơ vơ không chỗ nương, bị bịnh nằm ven đường rên rỉ, không ai giúp đỡ, xem như chỉ có nước chờ chết…

Bỗng có một phụ nữ đi ngang qua, thấy cảnh người nghèo này liền khởi tâm xót thương, bèn cho mượn phân nửa gia sản (là tiền dành dụm của mình).

Người nghèo này sau khi vay được tiền, cảm động quá cỡ, liền thề rằng: “

Sau này khi được giàu có nhất định sẽ hoàn trả hậu hĩnh cho ân nhân và tận sức báo đáp ơn cứu mạng’’…

Người nghèo nọ nhờ có tiền này làm vốn mưu sinh, y cưới vợ sinh con, dần dần khá giả sung túc, nhưng lại quên luôn nữ ân nhân kia.

Còn nữ ân nhân đó, do xuất tiền giúp cho gã nghèo, sau khi về nhà bị gia đình trách móc hoài nghi đủ điều, suốt đời sống trong buồn rầu thống khổ…(Nữ ân nhân đó đời nay chính là cậu công tử út).

Còn gã nghèo sau khi được giàu có rồi, một ngày nọ hắn cùng vợ ra ngoài mua đồ, vừa đi tới bờ sông thì thấy một ông già đang trợt chân té xuống nước…Hai vợ chồng này chẳng những không thèm cứu, còn đứng trơ mắt ngó, mặc cho lão già chết chìm, sau đó còn chiếm đoạt hành lý cùa lão đem về làm của riêng…(Lão già chết chìm thuở xưa nay là con trai trưởng của họ).

Hai vợ chồng gã nghèo thời ấy, đời này chính là hai vợ chồng họ Thân.

Vì quá khứ đã vay nợ, đoạt của… nên đời này họ phải đền gấp bội.

Hai cậu con chính là oan gia tới đòi nợ!”…

Kể xong, tôi cảnh báo:

– Nếu như hai ông bà không sám hối, tu hành, làm nhiều đại công đức, thì tương lai sẽ bị hai đứa con trai hành cho đến chết!

Lão Thân sau khi biết được nguyên nhân thì kinh hoảng vạn phần, liền phát nguyện sẽ siêng năng sám hối, bước vào con đường tu hành theo Phật pháp.Hi vọng Phật lực gia trì giúp ông giải hết oan trái, để họ có thể sống an trong tuổi già.

Chúng ta đã hiểu rõ nhân quả thi không nên hành động cẩu thả.

Phải luôn cảnh tỉnh mình giờ giờ khắc khắc sống thuần khiết trong sạch, không ỷ vào rủi may.

Bởi nhân quả báo ứng không hề sai.

31.

CHỦ VÀ TỚ

Bà Trương là Tổng giám đốc một đại xí nghiệp bề thế, quản lý hơn mười ngàn công nhân.

Sự nghiệp thành đạt vẻ vang này đã khiến bao người ngưỡng mộ.

Thế nhưng trong gia đình, mặc dù vợ chồng bà sống hết sức ấm êm hạnh phúc, nhưng đối với cậu quý tử tên Cường thì họ bó tay hết cách.

Cường rất thông minh, từ nhỏ chăm học, ít nói.

Trong lòng cha mẹ nó là đứa con ngoan, là bảo bối vô giá.

Nhưng kể từ lúc cháu lên trung học rồi, thì nó ghiền chơi game online, từ đó phát sinh nhiều điều không hay.

Suốt ngày suốt đêm Cường cứ lên mạng chơi game, vì vậy mà học hành sa sút…

Cha mẹ, giáo sư, bạn bè, có khuyên can dạy bảo chi, thảy đều như nước đổ đầu vịt, Cường chẳng mảy may đếm xỉa tới, càng ngày nó càng hư đốn đến nỗi sau đó còn đánh cha mắng mẹ…

Ngày nọ bà Trương thiết tha khuyên con đừng chơi game nữa, thằng Cường liền nổi quạu, không những nó nói năng hỗn láo mà còn ra tay đánh cha khiến ông bị thương mắt phải.

Bà Trương giận quá, cùng chồng bỏ nhà đi đến chỗ bạn bè ngụ tạm.

Lúc tôi gặp bà Trương, thấy mặt mày bà tiều tụy, mắt đỏ hoe, buồn rầu than:

– Rốt cuộc là nguyên nhân gì đã khiến thằng Cường nhà chúng tôi biến thành tác tệ như thế chứ?

Người lớn có lòng, có ý tốt khuyên nó, đem thức ngon đồ bổ đến cho… mà nó cũng không màng đón nhận, lại còn ra tay đánh cha nữa…

Ngừng một lúc bà tiếp:

– Nó mê chơi game đến nỗi bỏ học, tính đến nay đã hơn nửa năm rồi!

Vì vậy mà giáo sư thường đến nhà hỏi thăm, thậm chí còn dắt cảnh sát đến khuyên giúp, nhưng tất cả đều vô dụng.

Úi chao!

Hu Hu…

Nhìn bà Trương đau khổ tuyệt vọng, tôi rất cảm thông, liền an ủi, giải thích:

– Phải ôm lấy thống khổ, chịu não phiền nung nấu như hôm nay, tất cả đều do ác nhân đời trước của bà mà ra!

“Nguyên bà Trương và chồng, đời trước cũng là phu thê, nhưng bây giờ vị trí đã đổi.

Bà Trương thuở đó mang thân nam, là một ông địa chủ nổi danh.

Tuy giàu nhưng thuộc loại “giàu mà bất nhân”, ông tự thị mình giàu nên rất khinh người.

Lúc đó trong nhà họ có một thằng bé giúp việc chừng 12 tuổi.

Cha mẹ nó do thiếu nợ họ vô phương đền trả nên bất đắc dĩ phải cho con đến nhà họ làm nô bộc trừ nợ.

Hai vợ chồng rất phiền bực cha mẹ thằng bé, nên đã dùng nó để trút giận, họ thường đánh đập, mắng chửi, đối xử với nó rất tệ…

Ngày nọ, thằng bé vô ý làm vỡ cái bình hoa quý khiến cặp vợ chồng giàu phẫn nộ, họ đánh nó một trận rồi trói tay chân nó lại, đem bỏ ngoài đồng.

May là có một người hảo tâm đi ngang, kịp cứu thằng bé khi nó còn thoi thóp thở, nhờ vậy mà bào tồn được mạng nó.

Kể từ đó trong lòng thằng bé đã ôm mầm hận oán, nó thề: “

Sau này có cơ hội, nhất định sẽ báo thù, đòi lại nợ máu”…

Đời này nhân duyên tụ hội, thằng bé thời quá khứ từng bị khinh khi, lăng nhục thậm tệ, nay đã đầu thai vào làm đứa con cưng của hai vợ chồng họ Trương.

Nó đến là để đòi nợ!

Một ngày không xa trong tương lai, đôi phu phụ này sẽ bị nó làm cho tức chết”…

Hiểu rõ uẩn khúc nhân quả này rồi, bà Trương bật khóc thống thiết, chồng bà ngồi bên, vội an ủi:

- Đừng khóc, đừng khóc nữa bà nó ơi!

Hèn gì mà thằng Cường từ 12 tuổi trở đi thì bắt đầu học hành sa sút, chỉ mê chơi game trên mạng, còn phát tệ đánh cha mắng mẹ…

Té ra do thời quá khứ chúng tôi đã tạo ác, bất nhân với nó.

Thế thì bây giờ chúng tôi phải làm sao đây?

– Cách tốt nhất là bắt đầu từ nay hai vị phải ăn chay, trước Phật thành tâm sám hối các ác nghiệp đã tạo thuở xưa và quỳ tụng 49 bộ “Kinh Địa Tạng”, hồi hướng cho Cường, như thế may ra nó có thể tha thứ cho hai vị, đoạn trừ lưới nghiệp buộc ràng và tất cả đều được hưởng lợi ích…

– Vâng ạ, sau khi về chúng tôi sẽ thực hành ngay.

Ba tháng sau, bà Trương gọi điện tới, xúc động nói:

– Vô cùng cảm tạ ngài, Phật pháp thực quá thần kỳ!

Sau khi chúng tôi ăn chay, sám hối, tụng kinh, hồi hướng cho thằng Cường rồi… thì bây giờ nó đã bắt đầu đi học lại, hơn nữa cư xử với chúng tôi ngoan ngoãn và thay đổi rất nhiều, có hôm nó còn tự động vào bếp nấu cho chúng tôi ăn nữa…

Đúng là hóa giải oán kết oan gia chỉ có hành theo Phật pháp mới là tốt và hiệu quả nhất!…

Giải thích thêm: Những câu chuyện kể rõ ác duyên giữa cha mẹ và con cái là để mọi người cảnh giác.

Đa số thường than: “Thật khó mà dạy dỗ con cái”… (Vì đời trước đa số chúng là kẻ bị hại, đời này đến làm con để báo oán)…Là phụ mẫu cần tin sâu nhân quả, không nên nhắm mắt đánh đập con, mà phải sám hối những điều đã làm, đã tạo trong đời trước (thậm chí từ vô thỉ kiếp đến nay) của mình.

Phải vì con ăn chay, tụng kinh hồi hướng… cầu Phật lực nhiếp thọ, hóa giải… biến ác duyên giữa cha mẹ và con cái thành thiện duyên.

Tiếp theo còn phải giáo dục con cái hiếu dưỡng cha mẹ, hành tròn đạo lý làm người.

Thời gian lâu dần, con cái tự nhiên sẽ thay đổi mạnh, chuyển biến tốt.

Muốn con cái chuyển thành người tốt, trước tiên cha mẹ phải sửa đổi bản thân, chính họ phải đoạn ác tu thiện, thân cận Phật pháp, tụng kinh hồi hướng phước lành đến cho con…

Làm như thế mới chiêu cảm được Phật lực gia trì, khiến công đức tăng gấp bội.

Thế thì dù bị nghịch tử đến ở kề bên nhưng nếu có phúc duyên, khéo thân cận Phật pháp, thì nghịch tử kia chính là chìa khóa vàng giúp mẹ cha mở ra cánh cửa hạnh phúc (nhờ vào sự học Phật, tu trì… khiến đôi bên cùng được lợi), toàn gia đồng hưởng pháp lạc, biến phiền não thành bồ đề.

Riêng những người làm con, nếu gặp cha mẹ đối xử với mình chằng nhân từ, thì phải hiểu là cũng đồng nguyên nhân tương tự…

32.

SỐNG LẠI

Cư sĩ Tịnh Hằng từ nhỏ nếp sống gia đình nghèo khó, nếm đủ bức bách, gian nan.

Đến khi trưởng thành, có được sinh hoạt như ý, thì ông lại nhân đó mà tạo nhiều ác nghiệp, khiến cuộc sống tái phát đủ điều bất hạnh…

Mãi đến khi ông tiếp xúc được với Phật pháp, biết nghe kinh tu tập, nghiêm trì giới luật, đoạn ác tu thiện, thì ông mới có được hạnh phúc, tái tạo cuộc đời mới, sống lại lần nữa…

Chúng ta hãy nghe ông thổ lộ những lời chân thành tận đáy lòng:

Tôi sinh ra tại một tiểu trấn hẻo lánh thuộc tỉnh Giang Tô phố Dương Châu.

Lúc nhỏ cuộc sống nhà tôi tương đối khó khăn.

Từ lúc có ký ức, tôi nhớ phụ thân mình là một cán bộ công xã.

Ông là người hào sảng, nhanh mồm lẹ miệng, thẳng thắn, có nhiều bạn nhậu, nên trong nhà thường có khách đến luôn.

Phụ thân là một cán bộ rượu chè bê tha, khi tôi lên trung học, thì do những mâu thuẫn trong nội bộ cơ quan, ông bị khai trừ, cách chức.

Việc này làm ảnh hưởng và thay đổi số mệnh cả nhà chúng tôi.

Do quan lộ bất như ý, nên phụ thân tôi suốt ngày thở vắn than dài, giống như biến thành một người khác vậy, mẹ tôi cũng thành là chỗ cho ông trút giận…

Để lấy lại thể diện đã mất, phụ thân chẳng thèm nghe lời mẹ tôi năn nỉ khuyên lơn, ông đi mượn vay thân thuộc, mở một lò hầm than.

Không bao lâu lò hầm làm ăn thất bại phải đóng cửa.

Phụ thân không những chẳng thu về được một xu, còn khiến gia đinh chúng tôi lâm vào cảnh bần cùng cực điểm.

Vì cả nhà phải gánh lấy món nợ kếch xù (một vạn năm ngàn đồng) trên lưng.

Vào (năm 1981) thời đó thì đây là một dãy số to kinh khủng.

Nhà tôi căn bản là vô phương đền trả, mẹ tôi càng tiều tụy buồn rầu khi chứng kiến chồng làm ăn thất bại, đối diện với cảnh nghèo rớt mồng tơi của gia đình, không mong gì có thể ngóc đầu lên…

Trong cơn tuyệt vọng, đã mấy lần mẹ tôi muốn quyên sinh để kết thúc cuộc đời đau khổ…

Nhưng ngoảnh nhìn đám con còn quá thơ dại, bà đành nuốt lệ ráng sống, không nỡ bỏ mặc chúng tôi…

Khi đó bốn mẹ con tôi ôm nhau khóc, vì chẳng biết đường nào đề đi, ngõ nào để sống.

Mỗi khi sắp sang xuân, nhà nhà đều hớn hở chuẩn bị mừng năm mới, chỉ riêng nhà chúng tôi là đìu hiu, lại còn phải đóng chặt cửa, trong khi bên ngoài chủ nợ hung hăng hét đòi, cả nhà bị lăng nhục đủ lời, đủ kiểu… càng thấm thìa thế thái nhân tình bạc bẽo…Cha tôi cũng nhân đây mà biến thành người trầm mặc ít lời, buồn phiền khôn nguôi.

Sau đó mẫu thân hiền lành dẫn tôi và anh hai đi đến từng nhà để cầu xin thông cảm, bà vừa khóc vừa nói: “Tiền thiếu các vị chúng tôi nhất định sẽ trả, tôi xin dùng tính mạng mình đề đảm bảo”.

Trong cơn gió lạnh, mẹ tôi lệ rơi đầy mặt, còn tôi và anh thống khổ đến nghẹt thở.

Lúc đó tôi mới 17 tuổi.

Toàn bộ sinh hoạt gia đình đều trút hết vào đôi vai yếu gầy của mẹ tôi.

Sau đó, quốc gia cải cách mở mang chính sách, tôi cũng tham gia công tác, cả nhà chúng tôi đồng tâm hiệp lực dốc sức làm lụng, cuối cùng cũng trả hết nợ và còn để dành được chút ít.

Cuộc sống bắt đầu đi lên, tôi vào làm cán bộ ở cơ quan, thế là nếp sinh hoạt phóng túng bắt đầu…

Do tôi nghĩ: “Hồi nhỏ mình nghèo, bây giờ cuộc sống đã tốt lên rồi thì cũng nên hưởng thụ, vui chơi”.

Thế là tôi lao mình vào những cuộc ăn chơi đàng điếm, ngày ngày nhậu nhẹt bù khú đến say bét nhè, nhiễm đủ thói hư tật xấu: hút thuốc, uống rượu, bài bạc, sát sinh, tà dâm… tôi còn ăn tươi nuốt sống vật, không ác nào mà không làm, phạm rất nhiều điều tác tệ…

Thế là con đường quan lộ bắt đầu không hanh thông (do tôi trác táng và tạo quá nhiều ác nghiệp), không những tôi bị cơ quan giáng chức mà trong gia đình luôn xào xáo, vợ chồng gây cãi um sùm, con cái học tập sa sút cực độ.

Sau khi mất chức, tôi dời nhà đến Vô Dương, mở một tiểu điếm, duy trì kế sống.

Mặt trời mọc rồi lặn, cứ thế ngày qua ngày, cuộc sống tôi vẫn như xưa, không có gi khởi sắc… tôi bắt đầu thở vắn than dài, khi nhận ra tình cảnh mình giống hệt phụ thân hồi xưa.

Hôm nọ, ở dưới lầu chúng tôi tỉnh cờ gặp một cư sĩ (nay là sư huynh), ông kể cho tôi nghe các chuyện về Phật giáo và tặng tôi cuốn sách “Biển giác thuyền từ” (Giác Hải Từ Hàng) và một cuốn kinh “Phật thuyết vô lượng thọ”.

Vừa vào nhà là tôi nôn nóng mở ra xem liền, hai cuốn sách này thu hết chú tâm của tôi giống như “nam châm hút sắt”, tôi xem một lèo là hết ngay, lúc này trời cũng đã sáng.

Từ đó, tôi đối với các điển tích Phật giáo rất ưa thích, xem không rời tay… còn nỗ lực tinh tấn hành theo.

Tôi thầm phát nguyện: “Phật pháp khó nghe nay con đã được nghe, đời này con nhất định nguyện tu sửa cho liễu sinh thoát tử mới thôi”.

Kể từ đó tôi theo sư huynh bước vào con đường học Phật.

Nhìn thấy tôi thay đổi tốt lên từng ngày, vợ và con tôi cũng ngưỡng mộ, hớn hở gia nhập “hàng ngũ” tu tập theo, cả nhà chúng tôi may mắn biến thành một gia đinh Phật hóa.

Tôi và vợ đồng phát nguyện:

- Từ nay thệ dứt ăn mặn, nguyện ăn chay vĩnh viễn – tôi còn quyết định bỏ hút thuốc…

Kỳ lạ là hồi trước tôi cũng từng cai, từng bỏ hút thuốc nhiều lần, nhưng càng bỏ càng thèm.

Nhưng lần này lại có thể từ bỏ với tâm tư hết sức nhẹ nhàng thư thái, triệt để dứt khoát…

Điều này khiến tôi vừa mừng vừa xúc động: quả là chư Phật Bồ-tát từ bi không bỏ một chúng sinh nào!

Hiện nay, hằng ngày tôi kiên trì tụng kinh, bái Phật, niệm Phật, chép kinh…

Mỗi tháng vào mồng một, ngày rằm thì tôi hướng dẫn gia đình đi phóng sinh, làm nhiều việc thiện.

Đồng thời còn đối chiếu theo kinh Phật dạy, lo kiểm điểm từng hành vi tạo tác của mình.

Tôi thừa biết mình tật tánh nặng nề, nên đã bao lần ở trước Phật rơi nước mắt, thành tâm sám hối, khẩn cầu chư Phật Bồ-tát từ bi gia hộ, tiếp thêm sức mạnh cho tôi sửa đổi thành công, giúp tôi luôn nhận ra lỗi sai kịp thời để dứt khoát từ bỏ không tái phạm lại…

Kể từ sau khi học Phật, suốt mấy năm trì giới hành thiện, số mệnh tôi đà chuyển tốt, có nhiều khách nghe danh, ngưỡng mộ tìm đến bàn việc làm ăn, tới giờ vẫn còn hợp tác.

Hiện nay tôi còn mở thêm một chi nhánh, công việc rất phất.

Kề từ lúc ăn chay rồi, huyết áp tôi cũng không cao, chứng mất ngủ cũng hết.

Chứng liệt nhẹ nơi mặt cũng dần khỏi.

Sức khỏe cả nhà tốt lên rất nhiều.

Kể cả cha mẹ già ở viễn phương Dương Châu thân thề cũng khang kiện.

Từ lúc học Phật đến nay, người xung quanh mến thương, quý trọng tôi ngày càng nhiều.

Mỗi ngày qua, tâm tôi rất thư thái, trọn ngày làm việc mà không thấy mệt.

Sinh hoạt luôn điều chỉnh tốt: ngủ sớm dậy sớm.

Hằng ngày, hạnh phúc nhất là được ở trước Phật đường, tụng kinh bái Phật, pháp hĩ sung mãn…

Phật pháp thực là càng hiểu, càng thú vị.

Con trai tôi cũng thay đổi rất mạnh, ngày xưa tính nó hướng nội, tự kỷ.

Nhưng bây giờ nó siêng năng tụng “Kinh Địa Tạng”, không bỏ một ngày nào.

Tính vui vẻ, cởi mở vị tha, công việc chúng tôi cũng “tùy theo ước muốn mà tự thành”.

Vợ tôi cũng tinh tấn tu hành, cả nhà chúng tôi đều được Phật pháp tẩy gội, sống rất hòa thuận vui vẻ, đồng hưởng hạnh phúc, tự tại.

Phật pháp thực kỳ diệu không thể nghĩ lường, là pháp bảo sáng tạo hạnh phúc thần kỳ ở nhân gian.

Tôi xin lấy kinh nghiệm bản thân mình làm bằng chứng để chia sẻ và mách cùng quý vị: Hãy tránh ác hành thiện, thường kiểm điểm lỗi sai để “thiện hóa” thân tâm, cẩn trọng răn dè, giữ gìn thân, khẩu, ý trong từng hành vi, hãy phát nguyện nghiêm trì giới luật… không nên tùy tiện phóng dật mà sa vào lưới tà, nghiệp ác…

Tôi mong rằng câu chuyện có thực của minh sẽ khích lệ, giúp ích thực nhiều cho các vị hữu duyên.

Mong các bạn trong những ngày tháng còn sống này, ai cũng phát tâm tinh tấn học Phật, tu hành; tự độ mình, độ người.

Mong mọi người đều thoát khỏi phiền não khổ đau, vượt qua biển lớn sinh tử, đến bờ giác thanh tịnh…

-Tịnh Hằng-

Phật giáo ban cho ta nền giáo dục ưu mỹ, giúp nhân loại chuyển hóa số mệnh bản thân cực kỳ hữu hiệu.

Nếu như người người đều có thể y pháp phụng hành, thì ai cũng có được hạnh phúc trong kiếp nhân sinh.

33.

ĐỒNG NGHIỆP CHIÊU CẢM

Mỹ Đình năm nay 30 tuổi, công tác sinh hoạt gì cũng không thuận lợi.

Mấy năm trước, vì ham lợi nhuận nhiều, cô từ bỏ công việc tốt đẹp sẵn có, dốc hết tiền của dành dụm (còn vay thêm mười vạn đồng), đổ cả vào một công ty kinh doanh tư nhân.

Dè đâu đây là một công ty lừa đảo, mới đầu họ dùng thuật nhử dụ (cho người đầu tư hưởng mấy vạn tiền lời trước thật ngọt), rồi sau đó cả giám đốc, nhân viên đều ôm tiền, trốn biệt tăm.

Vì vậy, Mỹ Đình không những mất hết tiền đề dành mà còn thiếu nợ rất nhiều.

Ngoài ra, 5 năm trước, cô giao du với bạn trai, cũng bị gạt lừa đến nỗi phải phá thai, tình cảm tan rã, kết thúc trong chia tay.

Đến nay Mỹ Đình vẫn chưa tìm được tình lang thích hợp, thân quyến bạn bè có nhiệt tình giới thiệu, thảy đều không thành.

Một hôm mẹ Mỹ Đình là Mỹ Linh đột nhiên tìm tới chỗ tôi, vừa khóc vừa kể:

– Quả Hồng, tôi biết chị đang viết cuốn “Báo ứng Hiện Đời” xin hãy đem chuyện của tôi viết ra!

Tội tôi rất lớn.

Con gái tôi hiện nay công việc không thuận lợi, hôn nhân chẳng toại ý, gặp đủ chướng ngại, xui xẻo… tất cả đều tại tôi mà ra!

Chính vì người mẹ này làm rất nhiều, quá nhiều việc xấu… mà con gái mới bị liên lụy!

Hu hu!

Tôi vội đưa khăn giấy cho bá lau nước mắt.

Mỹ Linh buồn đến không thiết sống, bà bắt đầu kể lể sám hối những lỗi lầm bất thiện mình từng tạo trong quá khứ:

“Mỹ Linh xinh đẹp từ nhỏ rất được cha mẹ cưng chìu, nâng niu như trứng mỏng.

Gia đinh giàu có phong lưu, nên muốn gì được đó.

Nếp sống sung sướng luôn được hưởng mọi ưu tiên đã dưỡng thành thói quen xấu cho Mỹ Linh.

Thời đi học, nàng không tôn trọng thầy cô, còn được trong lớp tôn sùng như “nữ hoàng”, ngay cả thầy cô cũng nể nàng đôi-ba phần.

Sau khi ra trường đi làm, mọi việc đều thuận lợi, mặc dù nàng đi làm xa nơi xí nghiệp mỏ ở Đại Tây Bắc, nhưng nữ cán bộ trong đây không phải chịu gian khổ gì, Mỹ Linh sống hết sức tự do tự tại, hơn nữa nàng luôn được hưởng mọi ưu tiên tính từ học vẩn đến công việc (khi viện nghiên cứu hay công ty chỉ tuyển có hai người thì trong cảnh vạn người tranh nhau nộp đơn, Mỹ Linh luôn được tuyển đầu tiên).

Trước 40 tuổi, có thể nói là thời hoàng kim (may mắn mỹ mãn nhất) của Mỹ Linh (nhưng đây chỉ là phúc báu mà nàng được hưởng do kiếp quá khứ từng tích lũy)…

Nhưng hưởng phúc cũng chính là tiêu phúc, vì Mỹ Linh khống biết Phật pháp, không hiểu đạo, nên trong thuận cảnh nàng càng mê muội, tạo tội ác đầy trời.

Tại xí nghiệp Mỹ Linh công tác có rát đông nam nhân.

Do nàng có dung nhan mỹ miều xinh đẹp khiến biết bao chàng theo đuổi say đắm, nàng nổi bật trong đó như ánh trăng rực rỡ giữa ngàn sao, làm lu mờ mọi cô gái khác…

Mới đầu, nàng vốn là cô gái thanh tân thuần phác, nhưng do có sắc, có quyền, có tiền cộng thêm tham dục trong lòng ngày càng bành trướng, Mỹ Linh không cưỡng được hấp dẫn của kim tiền và danh lợi, nên nàng đã lạc lầm, đi càng lúc càng sai.

Để đạt được mục đích, nàng sẵn sàng quan hệ, lên giường cùng các nam lãnh đạo, vừa có được công tác toại ý, vừa có thu nhập tăng cao.

Chính do sinh hoạt phóng túng này mà nàng đã phá thai 8 lần.

Chính những hành vi sai trái và ý tà này đã khiến cho phúc lành của nàng nhanh chóng cạn kiệt hết và ác báo được dịp trổ ngay hiện tiền:

Đầu tiên là gia đình nàng không hòa thuận, kết hôn xong thì giữa phu thê không ngừng xảy ra gây cãi, ẩu đả.

Chồng nàng do thường phải nén giận chịu đựng, nên đã trút hết bực bội phẫn uất vào đứa con gái (Mỹ Đình).

Vì vậy mà ngay từ nhỏ Mỹ Đình hay bị cha đánh đòn, chưa từng được phụ thân quan tâm yêu thương, lại do mẹ sống phóng túng ảnh hưởng xấu lây đến con, khiến Mỹ Đình sau khi trưởng thành rồi, nàng giao du bạn trai không cẩn thận, bị lời ngon tiếng ngọt dụ lừa, đến nổi phải thất thân, phá thai.

Riêng Mỹ Linh, ác báo cũng bắt đầu trổ: nàng vướng nhiều bịnh, bị viêm ruột thừa phải mổ đến 4 lần mà trị vẫn chưa xong, còn di chứng nghiêm trọng, gây thống khổ khó kham.

Chân nàng mắc bịnh gai xương, nếu đi không cẩn thận là đau kịch liệt.

Bịnh phụ khoa càng nặng nề hơn, mỗi lúc có chu kỳ, nàng bị hành đau đến ngất xỉu.

Còn nữa, công tác bây giờ cũng không còn thuận lợi, vì thân mang đủ thứ bịnh, nên các lãnh đạo bắt đầu lánh xa Mỹ Linh, bịnh hành hạ khiến nàng phải nghĩ làm, rồi nhân vì bịnh dây dưa, nàng phải ờ nhà nghỉ ngơi, vô phương công tác.

Những quả báo này chỉ là hoa báo, tương lai nàng còn phải sa vào ba cõi ác, thọ vô lượng khổ, đúng như trong “Kinh Địa Tạng” tả: “Nếu có nam tử nữ nhân nào không hành thiện mà làm ác, cho đến chẳng tin nhân quả, phạm tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt ác khẩu, hủy báng kinh Phật, những người tạo nghiệp như thế, tất phải đọa ác đạo”…

Mỹ Linh vừa khóc đau khổ, vừa sám hối kể lại lỗi mình…

Hiện nay sau khi học Phật rồi, nàng biết tất cả thống khổ kia là do mình tự làm tự chịu.

Trồng nhân ác thì gặt quả ác.

Báo ứng nhân quả như bóng theo hình…

Bây giờ hằng ngày Mỹ Linh ở trước Phật thành tâm sám hối những tội ngu si mê muội của mình, do ham lợi dục mà tạo lắm tội ác.

Mỗi ngày Mỹ Linh đều quỳ tụng “Kinh Địa Tạng”, siêng bái sám, cầu Phật lực gia trì nàng sớm chuyển biến tệ trạng.

Đồng thời nàng muốn dùng kinh nghiệm bản thân để cảnh báo mọi người.

“Thân người khó được, Phật pháp khó gặp nhất định phải quý trọng, siêng năng học Phật, tích cực hành thiện, vì nếu hưởng hết phúc rồi, tai họa ắt đến’’…

Tôi bảo Mỹ Linh:

– “Nhân quả ai làm nấy chịu, không thể do mình làm mà người khác phải gánh lấy”…

Sở dĩ việc cha mẹ làm có thể gây ảnh hưởng đến tiền đồ con cái… hoặc người ta hay nói: Tổ tiên tích đức, để phúc cho con cháu.

Tổ tiên làm ác di họa cho tử tôn’…

Nếu giải thích theo Phật giáo thì đây là “đồng nghiệp chiêu cảm”, nghĩa là những cháu con nào có “nghiệp tạo tương tự”… sẽ đầu thai vào để trả báo chung theo đúng câu: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu!”…

Cho nên cha mẹ phải đem thân làm gương, lo hành thiện tích phúc, trên hiếu kính tiền bối, dưới giáo dưỡng con cái, niệm niệm không quên lời dạy của chư Phật Bồ-tát và cao tăng đại đức, trong sinh hoạt phải sống chơn chánh: thành thật, tín, nguyện, hành.

Được vậy gia đình mới có thể hưng thịnh, con cái mới có thề phát…

Khi đó Mỹ Linh phát nguyện:

“Đời này nhất định tinh tấn tu hành, làm ích lợi chúng sinh, quyết tu cho liễu sinh thoát tử, ra khỏi tam giới, vãng sinh Cực Lạc, thành tựu Phật quả”.

Hai tháng sau nghe nói Mỹ Đình đã tìm được công tác ổn định, bịnh tật trên thân Mỹ Linh cũng đã chuyển tốt, không cần dùng thuốc nữa.

Gia đình cũng dần hòa thuận.

Tôi tin rằng dưới sự gia trì của Phật lực cộng thêm quyết tâm sửa lỗi đổi mới bản thân, Mỹ Linh và toàn gia, tương lai nhất định sẽ càng tốt lành, hạnh phúc.

34.

TÌNH CHẤP TRÓI BUỘC

Chỉ khi ở trong nghịch cảnh người ta mới thấm thía sâu sắc cái khổ của “sinh, lão, bịnh, tử’ và khao khát thoát ra, mong sớm được lìa khổ được vui.

Cũng nhờ vậy mà nhiều người bước vào con đường học Phật.

Thế nên những khảo nghiệm, những mài luyện đó (bao gồm cả thân nhân quyến thuộc), thực tế đều là đại thiện trí thúc của mình, chúng ta nên dùng tâm cảm ơn, tâm chân thành mà đối đãi với họ.

Tiêu Hồng có một người mẹ thiện lương, bà đối với cô đặc biệt quan tâm, chăm sóc chu đáo từng tí từng li… (nhưng do sát nghiệp chướng ngại), đến nay đối với Phật bà vẫn ở lưng chừng giữa tin và không tin.

Nhưng đôi lúc mật ngọt của tình chấp trói buộc cũng đem đến nhiều phiền lụy…

Mẫu thân Tiêu Hồng thường ước nàng “giống như con chim nhỏ luôn nương tựa, nép vào bà”… mặc dù hai mẹ con họ sống chung bên nhau, nhưng chỉ cần con gái về muộn một chút, thì di động của Tiêu Hồng liên tục reo vang, trong máy không ngừng vọng ra âm thanh người mẹ nhắc nhờ dặn dò nàng phải: “về nhà sớm bình thường, ngay cả lúc Tiêu Hồng vào sở làm, mẹ nàng vẫn luôn gọi điện hỏi thăm, thậm chí khi nàng ở nhà xem sách, mẹ vẫn theo dõi, hỏi: – Giờ con đang xem gì đó?

Nàng mặc áo ăn cơm hay làm gi… mẹ nàng luôn kiểm tra tỉ mỉ.

Tiêu Hồng biết mẹ thương, đối với mình rất tốt, trong lòng cũng sinh tâm hiếu thuận.

Nhưng năm nay Tiêu Hồng 32 tuổi rồi, đối với lòng thương “chấp chặt giữ riết bên mình” như thế của mẹ, khiến nàng cảm thấy bị áp lực, mất tự do và chịu không thấu…

Một tối nọ, Tiêu Hồng cùng mấy bạn đạo họp mặt, dự tính sẽ về muộn một chút, trước đó cũng đã thưa với mẫu thân.

Nhưng mẹ nàng vẫn không yên tâm, liên tục gọi điện thoại tra vấn:

– Sao muộn thế mà con chưa về?

Rốt cuộc là họp cái gì?

ờ đâu?

Với ai?…

Tiêu Hồng ráng nhẫn nại hồi đáp, cuối cùng, cuộc họp chưa kết thúc nàng đã phải thu xếp đi về, nhưng mẫu thân vẫn không vui, cứ gọi điện hòi mãi, Tiêu Hồng luôn phải chịu đựng, vỗ về trấn an…

Có vậy những kích động trong lòng mẹ mới dịu lại…

Tiêu Hồng vô cùng thắc mắc, hỏi tôi:

– Vì sao mẹ đối với em quan tâm quá mức như thế?

Tôi đáp:

– Duyên khởi duyên diệt, tất cả đều có nguyên nhân hậu quả, tình mẹ thương con chấp chặt trầm trọng thế này, bắt nguồn từ nguyên nhân xa xưa vào thời cổ đại bên Ấn Độ:

“Vào thời đó, tại miền nam Ấn Độ, có một vị vương tử cao quý cư ngụ.

Hôm đó giống như mọi lần, vương tử cưỡi con bạch mã, tay cầm một cái lồng vàng, trong nhốt một con chim nhỏ cực kỳ xinh đẹp, điều kiện ăn ở của con chim này cực kỳ ưu việt, hằng ngày luôn có thức ngon, cái lồng còn được trang trí bằng hoa tươi xinh đẹp, song con chim lúc nào cũng nhớ đến thế giới bên ngoài, rất khát khao được tung cánh tự do…

Thế nhưng do chủ nhân quá sủng ái, nên ông quyết định số mệnh nó “suốt đời phải bị nhốt trong lồng này”.

Con chim thời cổ đại, đời nay là mẹ Tiêu Hồng.

Còn Tiêu Hồng chính là vị vương tử thời xưa đó”.

Do kiếp xưa nàng đã hành xử bằng tình chấp trói buộc nên đời này phải lãnh lại quả báo y hệt vậy, cũng được mẹ cực kỳ quan tâm chăm sóc giữ chặt bên mình, dù tuổi hơn 30 nhưng nàng vẫn không có tự do.

Con bạch mã chính là phụ thân Tiêu Hồng.

Theo như lời Tiêu Hồng xác nhận: hồi nàng còn nhỏ phụ thân luôn cam tâm tình nguyện để nàng cưỡi trên lưng trên bụng, còn cảm thấy rất hạnh phúc vui vẻ…

Sau khi nghe tôi giải thích rõ ngọn nguồn rồi, Tiêu Hồng đã hiểu minh bạch: Hiếu dưỡng cha mẹ chính là, ngoài việc quan tâm chăm lo đời sống và tùy thuận (không bội phản luật nhân quả) ra, còn phải hướng dẫn cha mẹ đến với Phật pháp, tin sâu nhân quả, chánh tín với đạo, dứt ác hành thiện, bước vào con đường học Phật giải thoát.

Đỏ mới là đại hiếu chân chánh.

Giải thích thêm: Thời bắc Tống, Âu Dương Tu có làm một bài thơ “Chim Họa Mi” như sau: Trăm ngàn tiếng hót véo von.

Bỗng trầm cao thấp vượt ngàn núi sông.

Giọng buồn khi ở trong lồng.

Đâu vui bằng lúc phiêu bồng bay cao.

Vì sao tiếng chim hót trong lòng không hay bằng hót giữa rừng cây?

Bởi vì chim mất tự do, nên tiếng hót u buồn, không vui.

“Nhân như thế thì quả như thế”, con chim nhỏ đời quá khứ hiện nay không những sinh làm người mang thân nữ, lại còn làm mẹ của vị vương tử ngày xưa từng yêu thương sủng ái nhốt nó mãi mãi trong lồng.

Mẹ yêu con là đạo lý đương nhiên, nhưng người con gái tuổi đã hơn 30 lại bị tình chấp đó trói buộc không có chút tự do.

Tham ái là nguồn gốc sinh tử, thuở đầu do vương tử phát ra tâm tham ái và dùng nó để trói buộc, không cho phép chim nhỏ được tự do… thì đời nay, chim nhỏ cũng dùng tâm tham ái, chiếm hữu…

đối xử y như vậy cùng vương từ.

Trong kinh 42 chương, Phật dạy:

Do ái sinh lo,

Do ái sinh sợ,

Nếu lìa tham ái,

Nào lo nào sợ…

Kinh Viên Giác thì nói: “Nên biết, ái là cội rễ sinh tử luân hồi”.

Có thể thấy, đời đời kiếp kiếp chúng sinh luân phiên trói buộc nhau không ngừng nghỉ, chỉ vì tham ái, tình chấp.

Tu hành giống như đi trên băng mỏng, phải cẩn thận nghiêm trì giới luật, viễn ly tham ái và chấp trước, mới có thể giải thoát.

35.

MẸ CHỒNG NÀNG DÂU

Vô lượng kiếp đến nay, chúng ta sinh tử trôi lăn trong sáu đường, vì phiền não tam độc mà kết bao oán hận cùng chúng sinh.

Trong “Lương Hoàng Sám” nói: “Tất cả chúng sinh, đều có oán thù đối nghịch, vì sao như thế?

Bởi, nếu không oán đối, ắt không có ác đạo.

Hiện nay ác đạo không dừng, tam đồ càng lớn thì biết là “oán- đối… không có tận cùng”.

Kinh nói: “Tất cả chúng sinh, đều có tâm, tâm này có thể làm Phật, nhưng chúng sinh lại chìm mê trong sinh tử, chẳng thể giác ngộ, chỉ vì tham đắm thế gian, chẳng chịu thoát ra, mà kiến lập gốc khổ, trưởng dưỡng oán hận, cho nên mới luân hồi trong ba cõi, qua lại sáu đường, xả thân rồi thọ thân không ngừng nghỉ.

Vì sao như thế?

Tất cả chúng sinh, từ vô thỉ đến nay, liên tục phân biệt mê muội, vô minh dậy mãi, biển ái đắm chìm, khởi tâm điên đảo, làm mười hạnh ác, bản thân tự hành thập ác, (còn dạy người hành ác, tán thán pháp ác, khen người hành ác.

Như thế thân khẩu ý, trong khoảng một niệm, mở rộng tám vạn bốn ngàn cửa trần lao, những tội khởi trong một ngày; một tháng một năm, trải qua bao kiếp… cộng hết lại thành vô lượng vô biên tội.

Vì vậy mà oán thù tìm báo nhau, không có tận cùng.

Nếu muốn hóa giải oán hận, thì phải thâm tín nhân quả, sám hối nghiệp chướng, rộng tu công đức.

Sau đây là câu chuyện có thật liên quan đến oán kết giữa mẹ chồng nàng dâu:

Trương Lan và mẹ chồng mới đầu quan hệ tương đối tốt.

Sau đó nàng về làm dâu, cùng ở chung nhà.

Được một năm, mẹ chồng thường vì những việc vụn vặt mà mắng chửi nàng.

Chồng nàng vốn hiếu thuận, những khi mẹ nổi giận thì anh luôn làm thinh, khiến Trương Lan hết sức khổ tâm buồn phiền.

Khi mẹ chồng thoái hưu về nhà, thì lo đi chợ làm cơm, nghĩa là các việc trong nhà đều do một tay bà quản.

Mấy ngày nay mẹ chồng thân thể không an, nên lịnh cho Trương Lan nấu cơm làm bếp.

Trương Lan ngoan ngoãn vâng lời.

Mỗi ngày nàng luôn dậy sớm, ngủ muộn: nấu nướng làm bếp… hoàn thành tốt việc trong nhà.

Hôm nay, Trương Lan lỡ thức dậy một chút, thì mẹ chồng đã làm cơm sáng xong Không đợi Trương Lan mở miệng giải thích bà đã mắng nàng xối xả:

– Bồn cầu nhà vệ sinh phải lo mà chùi rửa mỗi ngày, một ngày không tẩy rửa là vừa dơ vừa thúi!

Việc làm cơm giản đơn như thế mà mi lại lúc nghỉ lúc làm, thử hỏi còn nên thân được chuyện chi nữa hả?

Cha chồng thấy vậy liền tiến đến khuyên can, càng khiến mẹ chồng thêm kích động, nổi xung.

Trước sự thịnh nộ chửi mắng của bà, Trương Lan không dám hé môi nói tiếng nào.

Nàng ráng nhịn oan khuất, song bản thân còn phải ra ngoài công tác, cũng rất gian khổ.

Bình thường nàng đối với ba mẹ chồng một bề kính thuận, làm gì cũng ý tứ, ráng giữ cho tròn hiếu đạo.

Không ngờ hôm nay lỡ dậy muộn một chút mà bị mẹ chồng chửi mắng thịnh nộ vô lý như vậy…

Trương Lan vừa ăn cơm vừa lau nước mắt… rửa chén xong, nàng hướng mẹ chồng xin lỗi, rồi bỏ đi ra ngoài tìm bạn đạo tâm sự, khóc kể nỗi oan trong lòng…

Nghe Trương Lan khóc lóc tường thuật sự việc, tôi bảo:

– Ôi chao, thôi em đừng khóc nữa, sở dĩ hôm nay em gặp chuyện như thế này, là do đời quá khứ giữa em và mẹ chồng đã từng có xích mích hiểu lầm, nên mới tạo thành oan trái khó giải như hôm nay!

“Vào thời Đường, Trương Lan là một quý phi rất được hoàng đế sủng ái.

Có lần quý phi và hoàng đế đang thưởng thức ca vũ, thì một võ tướng do xuất chinh thất bại (lại bị kẻ ác vu hại), nên hoàng đế triệu vào bái kiến.

Lúc này quý phi ở cạnh bên, thì thầm vào tai hoàng đế mấy câu chi đó, bên dưới không ai nghe rõ, nhưng võ tướng nhìn thấy cảnh này thì trong lòng cực kỳ không vui, bởi ông hiểu lầm vị quý phi đang nói xấu, ngầm ám hại mình!

Thực ra quý phi chỉ xin hoàng thượng hãy xá tội cho ông, nhưng do hoàng thượng đã hạ quyết tâm: phải trừng tội ông để răn chúng!

Vì vậy mà võ tướng bị nhốt vào ngục và bãi bỏ quan chức.

Vị tướng này không những bị thọ cục hình tàn khốc, mà thân quyến cả nhà gồm mười mấy người cũng bị khổ lây.

Do vậy mà oán hận trong lòng, ông trút cả vào quý phi, trước sau ông luôn cho rằng mọi việc đều do bà ton hót sau lưng để ám hại ông.

“Và những hiểu lầm này của võ tướng, oan uổng của quý phi’’… thảy đều phát xuất vào thời quá khứ xa xưa nữa, nghĩa là nhiều kiếp trước đó quý phi cũng đã từng nghĩ oan, hiểu lầm cho võ tướng y hệt vậy…

Cứ thế nhân quả oan oan tương báo mãi không ngừng, đến đời này thì họ gặp nhau, lại cùng ở chung…

Võ tướng kiếp xưa nay chính là mẹ chồng của Trương Lan, và giữa mẹ chồng nàng dâu lại diễn tiếp mối oán kết chưa giải”…

Trương Lan nhớ lại, kể:

– À, hèn gì mà dạo nọ một người bạn học của em đến thăm.

Lần đầu mới gặp, mẹ chồng em đã hỏi: “Trương Lan có nói xấu gì tôi không?”…

Khi biết được chuyện này, Trương Lan rất bất bình.

Sau đó, mẹ chồng thường nghi ngờ nàng nói xấu sau lưng, diễn tiến tệ đến mức bà còn chỉ ngay mặt, mắng chửi nàng…

Bây giờ Trương Lan hiểu rõ tất cả đều là quả báo, là ác duyên lỗi lầm ẩn khuất mình từng tạo ra trong quá khứ.

Thế là nàng bắt đầu sửa đổi, quay sang tự kiểm lỗi mình, lo sám hối nghiệp chướng, phát tâm ăn chay và tụng 49 bộ “Kinh Địa Tạng”, hồi hướng cho mẹ chồng, mong hóa giải oán hận hai bên.

Từ đó nàng nghiêm tri ngũ giới, chăm chỉ tu sửa.

Ba tháng sau, quan hệ giữa Trương Lan và mẹ chồng đã cải thiện rất tốt.

Hiện nay ba mẹ chồng thương nàng như con gái ruột của mình.

Cả nhà vui sống thuận hòa.

36.

GIEO GÌ GẶT NẤY

“Reng!

Reng!

Reng!”… nửa đêm, chuông điện thoại reo vang, trong máy vọng ra âm thanh cuống quýt:

– Quả Hồng ơi, tồi có chuyện cấp bách muốn hỏi cô.

– Dì Triệu hả, đừng gấp, cứ từ từ nói…

– Con gái tôi hôm nay đi bịnh viện khám, mới hay nó bị ung bướu ác tính nơi phổi, giờ đã phát tán khắp.

Bác sĩ nói không còn hi vọng gì nữa.

Cầu xin cô giúp cho.

Con gái tôi năm nay 33 tuổi, tôi thực không biết phải làm sao!

“Cô gái này tuổi còn trẻ, vì sao lại bị chứng bịnh quái ác như thế?”…

Trước mắt tôi bỗng xuất hiện một hoạt cảnh thật rõ, bắt nguồn từ thế giới chiến thứ hai:

“Nơi một trại tập trung của quân Đức, có một đám đông dân Do Thái toàn thân trần trụi, từng tốp, từng tốp bị đẩy vào những căn phòng tối đen dơ bẩn bên trong bơm đầy khí độc, những người dân Do Thái khốn khổ này vừa vào thì không bao lâu bị khí độc làm ngạt thở, chết tập thể”.

Vị sĩ quan Đức lùa đám nạn dân vào phòng xông hơi ngạt, chính là con gái dì Triệu thời nay.

Đây là nhân quả báo ứng, do đời trước cô tạo ác nghiệp, khiến chúng sinh đáng thương phổi bị hít một lượng khí độc gây ngạt thở tử vong… thì đời nay quả báo chín mùi, khiến cô mắc phải chứng bịnh phổi ung bướu ác tính bất trị, bị cái chết đe dọa…

Tôi nghiêm túc kể rõ chuyện này cho dì Triệu nghe và nói:

– Muốn cứu con gái, giờ chỉ còn một cách là: bắt cô ta phải ờ trước Phật thành tâm đại sám hối, ăn chay…

Hằng ngày phải tụng “Kinh Địa Tạng” hồi hướng cho những chúng sinh bị cô làm hại, nguyện họ sớm ra khỏi biển khổ, thác sinh vào cõi thiện, lìa khổ được vui.

Ngoài ra con gái dì còn phải nghiêm trì giới luật, kiên trì hành thiện, dốc sức bố thí, phóng sinh, in kinh… tạo đủ các công đức để hồi hướng cho họ.

Dì nên nhắc nhở con gái: “Phải kiên nhẫn tu trì bền bỉ, mới có cơ may sống còn!”.

37.

CON VẶT CHẾT THẢM

Ngày nọ Lộ cư sĩ và Tiểu Man dùng chay xong, từ trong tiệm cùng bước ra ngoài thì đột nhiên nhìn thấy cách đó không xa có một khối trăng trắng trong vũng nước, hình dáng không rõ, họ liền tiến lại gần để xem… và sợ đến giật nẩy mình.

Té ra đó là thi thể một con bồ câu, nhưng cảnh nó chết bi thảm nhìn khiếp đến nổi da gà.

Ngoại trừ chút xương trên lưng và đôi cánh còn nguyên vẹn ra, toàn bộ đều chẳng còn gì.

Hai cư sĩ sinh tâm xót thương, bèn lấy giấy bọc thi thể nó lại, tụng chú vãng sinh xong, thì đem chôn ở bồn hoa gần đó.

Sau đó khi đến dự pháp hội, Lộ cư sĩ tình cờ nhắc đến việc này, ai cũng bảo:

– Đây ắt là báo ứng nhân quả…

Đúng vậy, tôi bỗng nhìn thấy rõ: chiêu cảm cái chết thảm như thế, là do nhân ác đời trước nó đã gieo, xảy ra vào thời kỳ thế chiến thứ hai:

“Có một anh lính Đức, đảm trách việc chôn thi thể những nạn dân Do Thái bị hại.

Trong đây có một thi thể còn thoi thóp thở, hai cánh tay cứ đưa ra cứng đờ, anh lính này nhìn thấy khó chịu, liền nghĩ ra một cách tàn nhẫn: đổ xăng lên củi mồi lửa đốt cháy thi thể nọ, chưa đầy một lát, cái thây kia bị thiêu hết, chỉ còn hai tay và xương đầu, trông rất thảm.

Bởi anh lính Đức lúc đó trồng ác nhân, nên sau khi chết rồi thì đọa ác đạo, đời nay thì sinh làm bồ câu.

Trong lúc đang đi tìm thức ăn đã bị một con mèo rừng chụp bắt ăn thịt, chỉ còn chừa lại đôi cánh.

Con mèo rừng này chính là người Do Thái từng bị đốt thây trong quá khứ”.

Nhân quả chân thực không dối.

Ngay đây tôi thành thật khuyên các độc giả không nên tạo nghiệp sát sinh, cần phải giữ lòng thiện, xót thương chúng sinh khổ, mau sớm ăn chay, học Phật, để chóng lìa khổ được vui.

Giải thích thêm: Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó thoát.

Thiện ác cuối cùng rồi cũng báo.

Chớ thấy ác nhỏ mà làm, chớ cho thiện nhỏ mà không làm.

Nếu trong thế gian nhiều người tin Phật, học Phật, y giáo phụng hành, thì nhân gian sẽ giảm rất nhiều tai nạn khổ đau.

38.

CẢM ỨNG KHI SIÊU ĐỘ VONG LINH

Tháng 12 năm 2004, Ấn Độ Dương bị địa chấn, phát sinh sóng thần cực lớn, tám quốc gia Đông Nam Ả số người bị nạn tử vong, mất tích… tính ra hai mươi mấy vạn, hơn ngàn vạn người không có nhà, tổn thất trầm trọng…

Xem ti vi, thấy các thi thể nằm chất đống trên bãi biển, gia quyến bi thống tuyệt vọng, một trường “quốc phá gia vong”, khiến lòng người chua xót khôn cùng.

Nhìn cảnh tượng này rồi, tôi không cầm được bi thống, liền phát nguyện tụng “Kinh Kim Cang” hồi hướng cho những người chết trong cơn sóng thần.

Tôi nghiêm túc tụng một bộ “Kinh Kim Cang”, lúc đọc đến hồi hướng:

“Nguyện đem công đức tụng “Kinh Kim Cang” này, hồi hướng cho tất cả những người bị nạn trong cơn sóng thần nơi Ấn Độ Dương, nguyện chư vị có thể nghe được Phật pháp, phát tâm đại sám hối, sám hối những ác nghiệp đã tạo trong quá khứ, sớm vãng sinh thiện đạo, lìa khổ được vui”.

Đột nhiên, cách vai trái tôi chừng hai mét, xuất hiện một đoàn người đứng xếp hàng dài, rất trật tự, rồi từng người một tiến tới (từ bên trái đi qua bên hữu), cung kính lễ bái trước quyển “Kinh Kim Cang”, sau đó không thấy họ nữa.

Cảnh này kéo dài khoảng mấy phút (lúc đó tôi cho rằng đây có thể là ảo giác).

Tôi thầm nghĩ: “Nếu như vừa rồi đoàn người lễ bái “Kinh Kim Cang” là những vị đã mất trong cơn sóng thần, thì xin hãy hiện lại một chút”.

Trong óc tôi vừa nghĩ như thế, thì đột nhiên thấy ngoài song kính cửa sổ (bên trái phòng) xuất hiện rõ ràng những bàn tay đủ loại đủ kiểu, có những ngón móp méo giống như bị ngâm trong nước đã lâu, còn thấy rõ cả móng tay và nơi kẻ tay từng giọt, từng giọt nước đang thi nhau rơi xuống, cảm giác như từ họ trong biển ngoi lên và đang bấu vào cửa kính vậy.

Do việc xảy ra quá bất ngờ, lại ngay trong đêm tối, khiến lòng tôi có chút sợ.

Nhưng đêm đó ngoài trời rất trong trẻo, không mưa, vậy mà nơi cửa kính lại xuất hiện những bàn tay ướt sũng nước, ngoài tiên liệu của tôi.

Điều này khiến tôi tin chắc rằng trong biển hẳn có nhiều người nhờ nghe kinh pháp mà được lợi.

Thế là tôi lập tức giữ chánh niệm, nhất tâm bất loạn tụng kinh và niệm “Nam mô A Di Đà Phật!”… bốn bề dần dần hồi phục yên tĩnh như cũ.

Sau việc này tôi nghĩ: “Những người mất này hiện ra như vậy cũng là báo cho chúng ta biết: họ thực sự có tồn tại, thực sự rất cần Phật pháp giúp đỡ”.

Cầu mong thế giới này sẽ có nhiều người trì giới học Phật, lòng người đều hướng thiện, việc việc khắc kỷ, không tranh, không tham, không cầu, không tư lợi, không vọng ngữ…

được vậy thì thiên tai nhân họa sẽ giảm thiểu rất nhiều.

Giải thích thêm: Trong “Kinh Địa Tạng” có giảng cách siêu độ: “Đối trước tượng chư Phật Bồ-tát, chí tâm tụng kinh này, hoặc mời người tụng… từ ba đến bảy biến.

Như thế quyến thuộc trong ác đạo, khi nghe xong đủ số biến kinh, sẽ được giải thoát…

Tụng “Kinh Kim Cang” siêu độ người mất, công hiệu cũng giống như vậy.

Trong “Cảm ứng Thiên Vựng Biên” có ghi: Danh tướng triều Minh là Thích Kế Quang, hằng ngày tụng “Kinh Kim Cang”, ông cũng từng tụng “Kinh Kim Cang” cầu siêu cho một thuộc hạ đã chết.

Kết quả, thuộc hạ này được đầu thai vào cõi lành, còn báo mộng cảm tạ.

Hiện nay trên thế giới luôn phát sinh tai nạn, các vong linh đồng bào tử nạn thọ khổ, rất mong chúng ta siêu độ cho họ…

Các bạn đồng tu học Phật, xin hãy từ bi vì những người gặp nạn này mà tụng kinh hồi hướng, cùng chung sức giúp họ một tay: “Nguyện họ sớm thoát ly biển khổ”.

Dùng một trái tim như thế mà tu thì sẽ thành tựu.

Vì đó là nhân tâm, thiện tâm, Phật tâm vậy.

39.

KHÔNG NÊN ĂN MẶC HỞ HANG

Hiện nay, trên áp phích quảng cáo, báo chí, tạp chí, các trang Web, thậm chí cả điện thoại….thường cho mỹ nữ ăn mặc hở hang để quảng cáo sản phẩm cho họ, mà không hề biết rằng đây là một hành vi sai lầm hại mình, hại người.

Tôi hàng ngày làm việc, thường đi tàu điện ngầm.

Hôm đó, trong lúc đợi xe, thấy một tấm áp phích quảng cáo nội y, in hình một người phụ nữ ngoại quốc ăn mặc hở hang.

Có anh thanh niên tuổi chưa tới hai mươi, cứ đứng dán chặt mắt vào tấm hình, cách ăn mặc khêu gợi trong áp phích đã khiến cho tâm tư anh ta vọng động….

Điều này thật đáng lo, những cậu bé trong tương lai sẽ là rường cột quốc gia, đang độ tuổi học hành, lẽ ra phải được tiếp thu những điều hay, lẽ phải…cần được đào tạo hun đúc nhân sinh quan, thế giới quan chính xác.

Nếu bị những hình ảnh ô nhiễm này trưng bày khắp nơi, liên tục đập vào mắt, tâm rất dễ bị lôi cuốn sa vào nẻo sai lầm, dẫn đến hành động hại mình hại người, thật rất đáng tiếc….

Tôi lại nhìn vào bức hình quảng cáo kia, cô gái trong hình nhan sắc yêu kiều quyến rũ, nhưng ăn mặc hở hang như vậy sẽ khơi gợi dục niệm trong lòng người.

Thế thì tương lai, cô sẽ phải lãnh quả báo như thế nào?

Vừa nghĩ đến đây, trong đầu tôi lại lóe sáng và thấy ngay dưới tấm áp phích to đùng, bỗng hiện màn ảnh như thế này:

“Có một cái giường sắt, dưới giường lửa cháy hừng hực, cô gái quảng cáo này đang nằm trên đó, lưng bị đốt cháy bỏng…Bên cạnh cô có hai vị áo đen cao to, tay cầm dao sắc bén, ra sức rạch vào bụng cô gái…lúc này ruột, phân, nước tiểu, máu mủ hỗn độn…trào ra ngoài”.

Nhìn thấy cảnh tượng đó, tôi không ngăn được hoảng kinh, thầm nghĩ: “Đây há chẳng phải là hình phạt “Nam ôm cột đồng, nữ nằm giường sắt sao?”.

Phạm tội tà dâm, khiêu dâm, kích dục…thì phải thọ báo ở địa ngục mà!

Đồng thời, tôi cũng cảm nhận được cô người mẫu quảng cáo nội y này hiện thời tuy đang trẻ trung xinh đẹp, nhưng thân thể đang mắc rất nhiều bệnh, trong đó có chứng bệnh lậu – một căn bệnh phụ khoa nan y hiểm nghèo…Lúc này trong đầu tôi vang lên câu xác nhận: “Người phụ nữ này do tạo tội tà dâm tất sẽ đọa địa ngục, kể cả người chụp hình và ê kíp thiết kế ấn loát cho ra những bức ảnh gợi dục kia, thảy đều sẽ lãnh quả báo đáng sợ.

Phải đợi đến người cuối cùng trên thế gian này – người mà thấy hình chụp kia rồi nổi tâm dâm mà đọa ác đạo, rồi từ tam ác đạo thoát ra khỏi luân hồi, trở lên tu hành đến không còn niệm dâm dục nữa – thì cô gái này cùng nhóm người có liên quan đến việc chụp ảnh, sản xuất hình kia mới có thể thoát khổ địa ngục, ra khỏi ác đạo….”.

“Vạn ác, dâm đứng đầu”.

Thật là khủng khiếp!

Họa phúc không cửa, do người tự chiêu.

Báo ứng thiện ác, như bóng tùy hình, phải biết Nhân quả báo ứng rất đáng sợ vậy.

Xin cảnh báo thế nhân, bất kể là nữ hay nam, đều không nên ăn mặc hở hang rồi chụp ảnh quảng cáo tự khoe lấy mình, phô diễn thân thể, quảng cáo ảnh sex, hay diễn phim gợi dục v.v…Quý vị nếu không muốn tạo ra nhân xấu địa ngục thì những hành vi ăn mặc, cử chỉ cần nên cao quý, đứng đắn, đoan trang, hành vi đừng cẩu thả phóng túng.

Đừng chạy theo trào lưu, khoái một chút khen ngợi mà quả báo chính mình phải chịu.

Nếu như Quý vị thích ăn mặc hở hang để quyến rũ nhãn quang ưa nhìn của người khác phái, thậm chí kích động họ khởi lên dâm niệm, thì quả báo do ác nghiệp này tạo ra rất đáng sợ!

Đôi khi chỉ vì một chút vô ý của quý vị, sai lầm, thiếu hiểu biết nhất thời mà thành chiêu hận thiên thu.

Mong quý vị cẩn trọng ghi nhớ kỹ, thường cảnh giác để không tự hại mình…

Riêng hàng tu sĩ cần phải khắc ghi lời Phật dạy: “Xa lìa cảnh khiêu dâm!

Mắt chẳng nhìn, tai chẳng nghe, miệng chẳng nói lời tà….

Người giữ giới bất dâm có năm công đức, quá khứ, hiện tại, vị lai Chư Phật đều tán thán.

Người bất dâm, hằng trụ trong uy nghi Phật, thân tỏa hương thơm như Phật.

Các tu sĩ cần giữ mắt, tai, mũi, lưỡi tâm ý thanh tịnh…Mắt không nhìn sắc dâm, tai không nghe khúc hát gợi tình, lưỡi chẳng bàn chuyện thế tục, chẳng khen dâm sự, miệng vĩnh viễn chẳng ca ngợi dâm ái xúc lạc, chẳng nói những lời làm tăng nghiệp xấu si ái vô minh.

Tâm chẳng trụ cảm giác cuồng si.

Ý luôn thanh tịnh, không khởi nghĩ hay nhớ đến dâm, không tự hành tà hạnh.

Học theo hạnh Phật, hằng trụ tâm Phật như vậy là trụ nơi chân như, sẽ được năm công đức, thân thường thanh tịnh như hoa sen, trinh khiết trong sạch.

Thế nên, giới bất dâm rất thù thắng thanh tịnh có đầy đủ công đức, lợi ích vô thượng…Đây là nhân giải thoát, dù tán thán ngợi khen mấy cũng không sao nói hết.

Dâm là phiền lụy trói buộc cực nặng, là tội trọng căn bản.

Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tâm dâm chẳng trừ, trần lao khó xuất”.

Riêng quý vị tại gia, cư sĩ nên mặc y phục đứng đắn, rộng thoáng, không nên ăn mặc hở hang thái quá.

Đặc biệt là đối với các tu sĩ trì giới tu hành, quý vị càng không nên quấy nhiễu họ.

Trong Phật môn luôn nhắc nhở: “Thà khuấy động ngàn sông, chẳng nên làm động tâm người tu”.

Nếu cố tình khiến người trì giới khởi tâm động niệm phiền não, là quý vị đang mắc tội phá giới thanh tịnh của người, lỗi này cực lớn, mong quý vị hiểu rõ để tự bảo vệ, răn dè (nhất là các phụ nữ khi đến chùa nên ăn mặc kín đáo trang nghiêm).

Lời người dịch:

Thoạt đầu khi đọc đến bài này, tôi cảm thấy thật khó mà tin nổi!…Về sau, tình cờ tôi đọc phải những bài thổ lộ chia sẻ của các nam nhân, mỹ nữ khác (Xin xem tiếp bài : “LỜI SÁM HỐI CỦA CÔ NGƯỜI MẪU” ở phần 2) Tôi bắt đầu nghĩ lại và suy gẫm về những gì cư sĩ Quả Hồng nói.

Quả Hồng ở Trung Quốc Đại Lục, còn những người kia thì có kẻ ở Đài Loan, họ không hề quen biết nhau song những điều họ miêu tả lại tương tự nhau, khác chăng là họ tự thân trải qua cảnh đó chứ không phải chỉ thấy như Quả Hồng…

Vì vậy, mà dù có ngần ngại, tôi vẫn dịch bài này ra.

Quí đọc giả có quyền tin hay không và tự do lựa chọn phương cách sống hữu ích cho mình.

Có lần đọc báo, thấy đăng tin có một đám thanh niên tuổi 15-17 đi cưỡng hiếp tập thể một cô bé.

Khi bị bắt các em khóc mếu máo khai rằng chỉ vì xem phim ảnh sex trên điện thoại mà khởi tà tâm.

Cho nên những hình ảnh xấu quả là gây khổ lụy khôn lường!

Tôi thầm nghĩ: “Nếu như quảng bá hình ảnh phim dĩa sex, gợi dục, đồi trụy v.v…là có tội vô cùng, thì những vị có chức quyền chuyên đi thu gom, dẹp, hủy các thứ này ắt là cũng…được công đức vô lượng vậy!”…

Phần 2

40.

LỜI SÁM HỐI CỦA CÔ NGƯỜI MẪU

Tôi là một cô gái hai mươi mấy tuổi, thời thơ ấu hoàn cảnh gia đình bất thường đã tạo nên tính cách hư hỏng trong tôi.

Từ nhỏ tôi rất ghen tị với những đứa bé được cha mẹ yêu thương, có bạn bè tốt.

Mặc dù đây là những điều bỉnh thường ai cũng có, nhưng đối với tôi lại quá xa vời, vĩnh viễn khó đạt tới.

Cha mẹ tôi là người có tiền, có địa vị trong xã hội, nhưng chẳng hề quan tâm đến tôi.

Từ nhỏ tôi hay bị chỉ trích chế nhạo.

Mặc dù tôi thấy mình không làm gì sai, chỉ là tôi học tập không giỏi (dù có cố gắng), bản tính vốn nhu nhược.

Từ lúc có trí nhớ đến nay tôi luôn thấy mình toàn thọ nhận những đối xử bất công!

Còn một việc khác nữa, do cha mẹ chẳng để ý quan tâm, nên thời thơ ấu trong một lần đến nhà bạn chơi, tôi đã bị người cưỡng hiếp.

Niềm đau này tạo thành ảnh hưởng khó xóa phai trong tôi.

Càng lớn, tôi thường hay bị người quấy rối.

Từ lớp 6 đến lớp 9, tôi luôn bị bạn học chế giễu, hay bị người khác phái chọc ghẹo, làm phiền.

Lúc đó tôi là một nữ sinh khù khờ thực thà, tính cách nhu nhược, mặc quần áo cổ lỗ lỗi thời, nhưng không hiểu sao vẫn luôn bị chọc ghẹo?

Tôi khóc hoài.

Bởi tôi hoàn toàn chằng thể giải thích, không biết trước đây mình đã từng làm gì sai mà thế nhân đối với tôi như vậy?

Tôi chỉ muốn được làm một người bình thường!

Lên lớp 10 rồi thì đây thực sự là ác mộng của tôi.

Hồi trước tôi có bị chế giễu chi, thảy đều là chuyện nhỏ.

Lên cao trung rồi, tôi biến thành đối tượng để các bạn học trút mọi căm phẫn.

Vì vậy tôi càng trở nên suy sụp rụt rè.

Đầu tóc lúc nào cũng rối bù như tổ quạ.

Y phục lôi thôi, mặt luôn đầy nước mắt.

Thậm chí các bạn học có thể khạc nhổ trước tôi không chút kiêng dè, hơn nữa còn lớn tiếng chế nhạo, lăng nhục hết mức…

Các giáo sư không những chẳng quản, còn biểu lộ vẻ rất khoái chí.

Tôi không hiểu sao mình có thể chịu đựng được? (Ngay cả bây giờ nhìn lại, chính tôi cũng khâm phục mình, vì đã có thể sống được và vươn lên từ trong môi trường hoàn cảnh như vậy).

Cuối cùng, tôi hoàn toàn tuyệt vọng và chẳng còn tin vào “thiện lương” hay “chính nghĩa” nữa!

Tôi cho rằng: Đây là thế giới “mạnh hiếp yếu!”

Nghĩa là “dù bạn có nhường nhịn đến mấy… thì người ta cũng không tha bạn”…

Do ôm thù hận bất mãn gần 10 năm, nên tôi đã vùng lên: kể từ đó tôi làm gì cũng đều là lật lọng, phản bội, lừa dối… miễn là tôi đòi lại được công bằng cho chính mình!

Tôi nhất định phải chiếm ưu thế, phải… mạnh hơn thiên hạ!

Với tôi, “thế giới này quá hắc ám!”.

Khi tôi vào đại học thì ngôi trường nảy là một nơi có quan niệm không lành (rất quí chuộng tiền bạc), phần đông người ta ngưỡng mộ hoan nghênh những cô gái có sinh hoạt hỗn loạn, thay bạn trai như thay áo.

Tôi dám khẳng định rằng: rất ít có nữ sinh còn trong trắng.

Kế trường tôi là một dãy khách sạn, quán trọ.

Hễ đến chủ nhật hay ngày nghỉ là trong đó đông nghịt, thậm chí rất nhiều sinh viên của các đại học nổi tiếng cũng mò đến đây vui chơi (cạnh trường chúng tôi còn có rất nhiều đại học khác nữa).

Từ đây, tôi bắt đầu lột xác, biến thành một người khác hẳn.

Tôi luôn ăn mặc theo mode, không ngừng thay đổi thời trang lẫn bạn trai.

Tôi tuyệt chẳng ưa hay yêu thương gì bọn chúng, thậm chí có nhiều gã tôi vừa nhìn là phát ói…

Thực ra tôi chỉ lợi dụng họ để trả thù đời thôi, tôi muốn tất cả nam nhân phải cung phụng tôi.

Dù ở trong trường tôi vẫn lo củng cố địa vị mình cho vững mạnh.

Tôi luôn nghĩ: “Dù sao mình sớm đã chẳng “sạch sẽ” rồi, thì việc tiến thân bằng nhan sắc, có lẽ là con đường của tôi!

Tôi bắt đầu lên mặt, tự kiêu vì mình xinh đẹp và chấp nhận lời mời chụp quảng cáo cho các công ty người mẫu.

Do tôi lả người mẫu, là mỹ nữ… nên có biết bao chàng vây quanh, nhưng tôi toàn gạt họ để lấy tiền, hoặc biến họ thành kẻ cung cấp những thứ tôi cần, do vậy mà tôi rất kiêu ngạo.

Hơn nữa tôi cỏn gạt tiền người nhà, vì tôi và các bạn học ở túc xá giao thiệp không tốt nên tôi muốn ra ngoài thuê phòng, tôi đã lấy lý do học tốt để gạt tiền gia đình gần cả vạn.

Dù tôi lừa tiền người trong nhà, nhưng lòng không hề hổ thẹn áy náy, cỏn cho rằng “tại họ chẳng quan tâm lo cho tôi, nên mới bị báo ứng như vậy!”.

Mặc dù đám bạn trong ký túc xá tính tình rất dữ, nhưng ai bảo tôi ưa gây cãi với họ làm chi?

Nếu như tôi sớm nhận thức: sống phải biết giao tế khéo léo ôn hòa, thì có lẽ không đến nỗi cãi gây ầm ĩ với bạn.

Trong thời gian này tôi quen một thanh niên cực kỳ tử tế, đối với tôi anh rất hi sinh, tốt bụng, mặc dù ở trường tôi đã có nhiều bạn trai cung phụng, nhưng tôi vẫn giao lưu thêm để lừa tiền anh ta.

Tôi luôn nêu đủ lý do để moi tiền của anh, nào là cần tiền ăn, tiền mua sắm y phục… tôi luôn than thở làm ra vẻ mình túng bấn để anh xót xa mà chi tiền cho tôi, trong khi tôi cũng có tiền, được nhiều người cung cấp, nhưng tôi vẫn moi thêm của anh, tôi làm vậy chỉ là đề thủ thân, dự phòng cho lúc túng thiếu.

Như thế, anh đã tiêu tổn cho tôi gần cả vạn.

Anh hoàn toàn không biết rõ về tôi, rất nhiều việc, tôi đều giấu anh.

Nhưng cuối cùng tôi không chịu nổi lương tâm quở phạt, nên tôi thú nhận với anh một phần sự thật.

Tôi nói rằng: “Vì muốn lợi dụng anh nên em mới theo bên anh, nhưng không ngờ anh là một người hiền lành thật thà, anh đã cho em biết thế nào là sự ấm áp của tình yêu!

Vì vậy em không muốn tiếp tục lừa anh nữa”.

Khi tôi cư xử thành thật, đem mọi việc thú nhận với anh rồi, thì kết quả là: anh dứt tình và triệt để lìa xa tôi.

Lúc tôi quyết định sáng mai đi chụp ảnh quảng cáo nội y cho một công ty, thì tối đó tôi nằm mơ thấy mình đến địa ngục, đây là một nơi âm u đáng sợ, có lửa cháy khắp nơi, chỗ chỗ người ta rên rỉ kêu gào.

Chẳng biết là ai dẫn đường mà tôi cứ thế đi mãi… tham quan vòng quanh địa ngục.

Trong lòng cảm thấy bị áp lực và sợ hãi vô cùng.

Mặc dù sau khi thức dậy trong lòng rất không an, nhưng tôi không cưỡng nổi hấp lực của danh vọng và tiền bạc, nên đã nhận lời đi chụp quảng cáo (nhưng thực ra công ty đó là chỗ “treo đầu dê, bán thịt chó”) tới rồi mới biết chẳng phải là chụp nội y như họ đề nghị, mà là chụp ảnh nude.

Trải qua một thời gian tôi mới rõ, không những chỉ chụp khỏa thân, mà có một số nhà làm phim sex nắm được chỗ hổng của pháp luật, thừa cơ tiến hành giao dịch tình dục.

Ban đầu tôi không đồng ý chụp ảnh quá mức, nhưng sao tôi có thể cao tay, giàu kinh nghiệm hơn đám giám đốc đó được?

Trong đây luôn có “quy luật ngầm” nghĩa là muốn tiến thân, nổi bật thì phải “lên giường”…

Bọn họ mới đầu thường ra vẻ mình là công ty chính quy, rồi từng bước, từng bước dụ dỗ các cồ gái sa vào đọa lạc, mãi cho đến khi các cô trở thành công cụ kiếm tiền của họ…

Giám đốc hứa hẹn mỗi tháng tôi sẽ kiếm được rất nhiều tiền (Giờ đây nghĩ lại tôi rất hối hận vì ham kiếm tiền, mà tôi đã hủy cả đời mình).

Tôi đã từng tự an ủi: “Ráng kiếm được mớ tiền rồi, sẽ mở tiệm sinh sống, sau đó không làm nghề này nữa”…

Tôi phát hiện rất nhiều người hành nghề giống tôi đều nghĩ như vầy, nhưng các cô ấy vĩnh viễn chẳng toại nguyện như họ mong muốn.

Tôi chuyển đổi rất nhiều công ty, nhưng luôn phát hiện người ta không đáng tin, thậm chí có một số công ty luôn xài “quy luật ngầm”.

Tức nhiên tôi phải ngủ với nhiều người, nhiều lần, mang danh là mỹ nữ nổi tiếng, nhưng sống toàn làm nhân tình tạm.

Trong trường tôi có rất nhiều cô gái làm tình nhân của các ông có vợ, mọi người tương đối nể họ.

Nên tôi cũng sống như vậy.

Khi ra đời, sống và làm việc, gặp nhiều giả dối gạt lường, tôi mới nhận ra mình đã sai, do tôi đã không làm gì tốt nên mới gặp toàn những cha nội đểu giả, xỏ lá bịp bợm…

Ngày xưa tôi bị chìm trong thù hận và chỉ biết có kim tiền… nên từng bước, từng bước tiến thân của tôi đều là đi đến vực thẳm (Tôi đã khiến hạnh phúc tối hậu của đời mình bị hủy trong tay tôi).

Bây giờ khi đã sa cơ tuột dốc, tôi biết không một nam nhân nào có thể ngó đến một kẻ như tôi, tôi là kẻ không được cha mẹ yêu, không bạn bè thân thiết… cũng từng có người yêu tôi rất chân thành, nhưng tôi đã hủy hoại tất cả…

Tôi lo là nếu như những phim quảng cáo gợi dục, những tấm hình sex tôi chụp bị phát tán, gây tai tiếng lùm xùm… thì sẽ không được trọng dụng nữa.

Như vậy thì tương lai của tôi xem như bị hủy hết: mất cả vận may lẫn bản thân.

Nhưng có hối hận cũng chẳng ích gì!

Trước đây tôi tưởng chụp hình vậy là được người nể, không bị ăn hiếp, nhưng đâu biết làm vậy là mình đang bỏ gốc theo ngọn, đánh đổi cả cuộc đời để có được chút hào quang ngắn ngủi phù du trong mấy năm mà thôi!

Sau này tôi liên tiếp mơ thấy những giấc mộng liên quan đến địa ngục, đều là trong thời gian tôi chụp hình quảng cáo, phát hành phim ảnh sex.

Có đi làm và đối mặt với danh trường bất hảo rồi, tôi mới khám phá ra: “Được làm một người tốt, sống an phận thủ thường là hạnh phúc thư thái nhất, vì tâm luôn thoải mái, không sợ cuộc sống túng quẩn, không sợ thiếu thốn”…

Từ lúc làm phim, chụp hình nude, quảng cáo sex và làm nhiều việc xấu đến nay, tôi không có một ngày được an vui, không một ngày ngủ ngon.

Tâm lúc nào cũng nặng nề như bị đá đè, có lúc còn thấy lòng như bị cắt xé, đau đớn thống khổ, hoảng loạn bất an, tim luôn hồi hộp kinh sợ, đêm chẳng thể chợp mắt.

Như tôi hiện tại đây, tinh thần luôn bị áp lực lớn, dù kiếm được nhiều tiền thì cũng tiêu xài hết.

Bởi đồng tiền không sạch sẽ đến nhanh, thì đi cũng nhanh!

Tôi vì mê kiếm tiền, ham danh, mà đã lầm lạc hủy hoại cả đời mình!

Có lẽ sẽ có người nói: “Làm siêu mẫu cũng có cô kiếm biết bao tiền, số đỏ, nhiều hạnh phúc”…

Thế thì tôi xin nói thực với bạn, cái nghề này phải hi sinh rất nhiều cô gái mỹ miều rồi mới “xuất ra” được một cô người mẫu có số đỏ, hơn nữa cô người mẫu này cũng “hồng phận” không được bao lâu… có lẽ sẽ có nhiều cô tự cho rằng mình rất xinh đẹp, có thể làm người mẫu nổi danh, sung sướng đủ điều…

Thế thì tôi sẽ giải thích cho bạn hiểu: Tôi đã từng gặp nhiều người mẫu đẹp hơn minh tinh, tôi cũng quen rất nhiều bạn tốt nghiệp điện ảnh, nhưng vì sao số họ không hồng?

Bọn họ không phải là chẳng biết nắm bắt thời cơ, cũng chẳng vụng giao tế quan hệ, cũng chẳng kém học lực hay khí chất chi…

Có rất nhiều người xinh như tiên nữ hạ phàm, nhưng bất kể họ tận dụng hết tâm lực cơ hội, bao gồm học biểu diễn, nghệ thuật… (rất nhiều sinh viên mê ngành này) Nhưng đã vào làng giải trí rồi, bất kể họ làm gì, thảy đều không hồng phận.

Bạn biết vì sao không?

Không phải vận khí xấu, mà là do số mệnh!

Bạn ạ, những minh tinh đang nổi, có tiếng tăm thế lực, bất kể họ làm gì thì cái số cũng đỏ, cho dù họ có quay, có chụp, có diễn phim sex hay tình dục…. thì số mệnh cũng vẫn hồng! (Nhưng đấy là do đời trước họ từng tích đức, nên đời nay mới đạt được cơ may, hưởng nhiều phúc lành như vậy.

Hoàn toàn không phải do có nhan sắc xinh đẹp là đủ) Bạn đừng có ỷ vào nhan sắc và dốc hết sức lực đầu tư vào đó rồi tưởng là… có thể một bước lên mây! (Rất nhiều vực thẳm cạm bẫy đang chờ mà bạn không lường trước được!)…

Nhưng mà, những ngôi sao nổi tiếng có “số đỏ” này rồi cũng sẽ tự hủy hoại minh thôi, nếu như họ chấp nhận chụp hình sex hay diễn phim tình dục dâm uế (một khi làm vậy là chính họ đã tự hủy hoại tất cả phúc báo của mình!)…

Cũng có thể khẳng định rằng: – Nếu như họ không chụp sex, không diễn những phim khiêu dâm, không phóng túng tình dục – thì số họ sẽ còn rất hồng, danh trường bền lâu!

Vi vậy, tôi xin khuyên các giai nhân mỹ nữ, những ai ưa làm người mẫu, ca sĩ, diễn viên, các vị ngàn vạn lần không nên bước vào vòng sex, chụp hình nude, hay đóng những phim ảnh khiêu dâm và nhất là đừng phóng túng tinh dục!…Ngàn vạn lần không nên tự ỷ mình xinh đẹp.

Nếu như bạn đang lên, mà cứ làm vậy thì cũng không bảo đảm là bạn có thể “lành lặn” để tháo lui đâu.

Cho dù bạn chỉ hát ca khúc gợi tình, chụp ảnh sex… thì cũng bị tính là “đi vào con đường kéo mọi người “trầm mê trong u tối”, sau khi chết bạn sẽ phải xuống địa ngục thọ khổ, đền tội không biết bao nhiêu năm… vì tôi từng mộng thấy cảnh địa ngục, nên hiểu rất rõ điều nảy.

Còn nữa, cho dù bạn đẹp đến mấy, nhưng nghề nào liên quan đến chụp, diễn, khỏa thân quảng cáo hoặc ca vũ ờ các quán nhằm khơi gợi dục tình v.v…thì bạn đừng bao giờ làm.

Dục vọng con người thường không kềm chế được, ngay lúc bạn muốn xuất thân, muốn vươn lên bằng con đường chụp phim ảnh (sex, gợi dục) này, thì một hoàn cảnh hiểm ác đọa lạc khác rất có thể đang chực chờ sẵn khiến bạn vô phương thoát ra, vô phương cứu vãn. (Nếu bạn không chìu ý, không đáp ứng theo yêu cầu của đối tác thì bạn vĩnh viễn không có cơ hội để ngoi lên (tiến thân), thế thì chi bằng vừa bắt đầu, bạn hãy ngưng, đừng thèm làm!

Còn nữa, tôi xin khuyên các bạn mơ làm người mẫu, ngàn vạn lần không nên lên mạng tùy tiện tìm công ty, hay nhận đi chụp quảng cáo nội y hay ảnh sex, ảnh nude…đừng tin lời những người hứa hẹn sẽ cho bạn đăng quang, nổi danh, kiếm nhiều tiền… nếu bạn đồng ý, sẽ có những “luật ngầm” khiến bạn phải lên giường với người, nhưng rồi việc cũng không tốt hơn đâu!

Đừng bao giờ tin rằng mọi sự đều dễ thành như ý bạn mong muốn!

Cỏ lẽ sẽ có nhiều người bảo: “Vi tôi thuộc diện người mẫu hạng hai nên mới không có cơ hội thăng tiến cao”… thế bạn cỏ biết rành những uẩn khúc và hoạn nạn đoạn trường trong ngành này không?

Tôi từng là người mẫu nổi tiếng, thường trình diễn thời trang và có nhiều cơ hội để cho ra album và phát hành các bộ ảnh tuyệt vời, nhưng đây là con đường danh vọng đầy nước mắt mà bạn không thấu rõ…ở Trung Quốc ta hiện có rất nhiều sinh viên tốt nghiệp điện ảnh, nhưng thảy đều rất khó tìm việc.

Họ phải bôn ba chạy vạy rất lâu, phải nhờ cậy rất nhiều mối quan hệ, thậm chí phải ngủ với nhiều đạo diễn… (đương nhiên cũng có rất nhiều thành phần dù xuất thân từ bùn mà không nhiễm ô, không phải tôi nói các ngành nghệ thuật biểu diễn thảy đều xấu hết) nhưng đa số các bạn ấy thường được chia cho vai diễn lặng lẽ vô danh…

Bạn ạ, nếu bạn không có phúc báu, không có bối cảnh, quan hệ tốt… mà muốn đua tranh cùng người để được bước vào trường danh lợi hắc ám này… thì chính là bạn đang hủy hoại tất cả trong tay, tự chôn vùi hạnh phúc mình.

Vì cho dù bạn có bối cảnh, quan hệ tốt… hiện đang là minh tinh số đỏ đang lên, thì sao hả?

Bạn có thể đỏ mãi hoài chăng?

Bạn già rồi vẫn có người chạy theo ư?

Bạn chụp ảnh, diễn sex thì chẳng xuống địa ngục ư?

Trước khi chưa ra phim ảnh gợi dục này, chí ít vẫn bạn vẫn có thề nhờ vào cố gắng của bản thân mà sống tốt, không nhất định phải kiếm tiền bằng việc thực hiện phim ảnh, băng đĩa đồi trụy.

Bởi vì tội lỗi (ảnh hưởng của băng đĩa bất lương này gây ra) sẽ do bạn tự gánh, chưa kể bạn phải sa vào vòng xoáy hỗn loạn…

Đã có báo đăng các cô người mẫu xinh đẹp ra nước ngoài bị ép bán dâm, hút ma túy, (bạn lên mạng xem sẽ rõ hết)…

Tôi biết rất rõ các công ty người mẫu, cơ bản là đều có cho người mẫu bán dâm, đương nhiên trước đó họ không nói ra, chỉ biểu hiện

vẻ bề ngoài là cho trình diễn “nét đẹp thân thể” hoặc “body nghệ thuật” v.v… nhưng thực tế nội bộ sẽ có rất nhiều người mẫu bị ngầm chụp một số phim ảnh sex.

Khi album hình này xuất ra được ưa thích, thì người chụp sẽ còn tung lên mạng để giao lưu với những đầu nậu có nhu cầu.

Trung Quốc không có luật bảo vệ việc tư riêng cá nhân, một khi những ảnh “nẩy lửa” của mình được tung lên mạng, bạn sẽ không biết là ai phát tán, bạn không hề biết rõ là Trung Quốc có rát nhiều trang web khiêu dâm, đều thành hình từ đây.

Còn nữa nếu các giám đốc khác lén đem hình bạn bán cho các trang web khiêu dâm, bạn nghĩ bọn họ sẽ trình cho bạn biết ư?

Vậy đó, bạn vì muốn kiếm tiền nhiều, không ngờ tự khiến mình xuống địa ngục.

Bời chỉ khi nào phim ảnh khiêu dâm của bạn biến mất trong thế giới này, thì bạn mới có thể thoát ra từ địa ngục.

Thế thì có nghĩa là phải đợi đến ngày thể giới hủy diệt (hình này được tiêu mất rồi) thì bạn mới có thể ra khỏi địa ngục ư?…

Kiếm tiền như vậy liệu có đáng không?

Có lẽ sẽ có nhiều người nghe kể sẽ không tin và cảm thấy tôi rất đáng thương.

Nhưng trong lúc tôi hồi tưởng tĩ mĩ nhưng hành vi trước đây mình đã từng làm rồi, thì tôi hiểu tất cả đều là báo ứng.

Tôi lớn lên trong tủi nhục, bị người thân ghẻ lạnh, bị bạn bè cô lập, bị ăn hiếp, khinh rẻ là vì tôi đã từng gieo nhân này.

Để tôi kể cho bạn nghe.

Tôi từng là người mẫu nỗi danh, có quyền, có tiền trong tay, tự ỷ vào nhan sắc, mặc tình làm khổ người, đùa cợt với tỉnh.

Bởi vì tôi gạt lừa tình cảm biết bao đàn ông khiến họ phải khóc hận đau khổ, thậm chí có người hóa điên vì tôi…

Tôi chọn thăng tiến bằng nhan sắc, do đó đã phóng túng tình dục với nhiều nam nhân, hậu quả là bây giờ dung mạo tôi xuống cấp, già mau, xấu xí.

Do tôi do tà dâm quá độ, làm thương hại đến tinh thần, nguyên lực bản thân.

Bây giờ người gầy ốm giơ xương giống như que củi, đến nỗi đi một đoạn cầu thang là đã thở không ra hơi, trí nhớ cũng rất tệ, không thể học hay làm gì thêm được nữa…

Hồi xưa da dẻ tôi tươi nhuận căng hồng, bây giờ trở nên nhăn nheo, bạn bè nhìn thấy đều bảo: trông tôi già còn hơn mấy bà cô!

Da tôi giờ hay nứt nẻ chảy máu.

Rửa tay bước đi…

đều thấy đau.

Mùa đông tôi rửa tay bằng nước lạnh là muốn khóc, cảm giác đau không ngừng, giống như bị dao cắt…

Hiện giờ tuy đã thoa kem chống nứt nẻ, nhưng vẫn cứ nhăn nheo.

Tôi nghĩ là do tinh thần nguyên lực tôi bị tổn quá trầm trọng.

Tôi sống được đến giờ phải nói là kỳ tích.

Còn nữa, bởi vì tôi phóng túng tính dục với nhiều nam nhân khiến tử cung bị xói mòn, bác sĩ từng cảnh báo tôi phải đi khám ung bướu tử cung.

Tôi cũng thường cảm thấy bụng dưới khó chịu.

Có lần khi vừa uống thuốc ngừa thai xong, tôi có cảm giác đau như bị dao cắt, đau suốt cả đêm, khiến tôi khóc mãi.

Do tôi quan hệ nam nữ bừa bãi hỗn loạn, có lần bị một số nam sinh dụ gạt bắt cóc tôi đến nơi hẻo lánh luân phiên hãm hiếp, dù tôi không có làm gì đắc tội với họ.

Khi đã nếm trải đau khổ cực cùng, không còn gì trong tay, tôi luôn hỏi trời, hỏi Phật, Bồ-tát… rất muốn biết rõ tiền nhân hậu quả của mình.

Có lẽ nhờ tôi thành tâm nguyện cầu, cuối năm 2012, tôi mơ thấy một giấc mộng tiền kiếp:

“Tôi là một thanh niên đang đứng cùng một bà (giống như chủ nhân mình) dưới một tòa lầu.

Bà chủ tôi đang cầm sổ tính tiền, chúng tôi cùng đi thu nợ.

Xem bộ dạng tôi có vẻ là một kẻ thông minh, quỷ quyệt; ranh ma, giỏi việc…

Tôi cư xử rất được lòng chủ, khéo làm bà vui.

Tôi luôn sẵn sàng nói những câu khiến bà khoái nghe, dù đó là những lời tổn người để thu lợi cho mình!

Tôi thấy bên trong căn phòng tồi tàn nhếch nhác, vọng ra tiếng rên rỉ căm hờn của một cô gái: -Tao dù chết cũng không tha cho chúng bây!

Câu nói chứa đầy oán hờn căm thù, âm thanh giống như các vong hồn ở tận vực sâu đã lâu chưa được ngoi lên, khiến kẻ từng trải cứng đầu như tôi vừa nghe đến cũng phải kinh tâm táng đởm.

Oán khí này giống như có hình tướng, mang đầy hắc khí u ám, xuyên thấu phủ trùm cả không gian và toát ra mối hận xung thiên.

Nhưng lúc đó tôi vì muốn nịnh bợ bà chủ nên vẫn tỏ ra cay nghiệt, hách dịch nói:

– Ai bảo mày không trả nợ…

Đại khái là cô gái này chưa thanh toán tiền thuê phòng chi đó, cho nên tôi và bà chủ đã đến đòi và trừng phạt bằng cách nhẫn tâm khoanh tay đứng nhìn cảnh cô ta bị hiếp dâm tập thể, tôi còn thản nhiên buông lời độc địa, mỉa mai…

Thức dậy rồi, oán khí lạnh lẽo của cô gái đó như vẫn bao phủ quanh tôi, tiếng kêu rên thảm thiết, đầy căm thù như vẫn còn văng vẳng bên tai tôi.

Tôi đột nhiên hiểu ra vì sao hồi nhỏ mình bị cưỡng hiếp, sau này còn bị hiếp tập thể, rồi càng vì đó mà đọa lạc phong trần.

Lâu nay, tôi đoán rằng đời trước chắc chắn mình gây ra tội lỗi chi đó, nên mới chiêu lấy vận mệnh bi thảm như đời này.

Nhưng tôi hoàn toàn chẳng dám tin rằng đời trước mình có cưỡng hiếp phụ nữ, bởi vì tôi cho dù nham hiểm gian trá, lòng lang dạ sói, nhưng cũng không đến nỗi làm ra những việc như thế kia!

Nếu như thời ấu thơ tôi không bị cưỡng dâm, thì có lẽ cuộc đời này của tôi chắc đã sống bình thường như bao người khác, có thể tôi đã không tự cam đọa lạc, tạo ra những tội địa ngục…

Thế là tôi phòng đoán, biết đâu chừng đời trước tôi là chủ chứa, ma cô?

Từng hại rất nhiều phụ nữ, cho nên đời nảy phải nếm qua mùi vị bị cưỡng hiếp, cuộc sống gặp lắm nhục nhằn?

Nhưng giấc mộng tôi vừa nằm thấy (có lẽ là nhờ tôi không ngừng sám hối, hỏi trời xanh, hỏi chư Bồ-tát).

Sau đó, tôi đột nhiên hiểu rõ ra: Tất cả khổ nhục đời này là do đời trước tôi thản nhiên khoanh tay đứng nhìn cô gái nọ bị làm nhục, còn buông lời cay độc mỉa mai nhạo báng, rõ ràng là tôi có thể cứu cô ta, nhưng lại không lảm!

Tôi chẳng những không cứu nạn nhân mà còn xum xoe nịnh bợ bà chủ, nói toàn những lời cay nghiệt ích kỷ, hòng kiếm lợi về cho mình.

Vì vậy mà đời này khi tôi bị cưỡng hiếp rồi, có mách với người thân thì gặp cảnh họ dửng dưng thản nhiên, không hề nói một câu tỏ chút lòng xót thương, ngược lại còn trách tôi: “Tự đưa đầu tới đó làm chi?”…

Cho dù tôi biết song thân chắc chắn chẳng thể khóc lóc xót thương như những bậc cha mẹ bình thường, nhưng những câu họ nói, những cư xử ghẻ lạnh của thâm tình khiến tôi thấy tê tái vạn bội.

Tôi luôn tự hỏi: – Rốt cuộc cô gái đời trước đã làm gì để báo thù tôi?…

Tôi cũng từng cư xử xấu, cũng hùa với đám đông để a-dua, cười nhạo những bạn bè bị cô lập.

Và tôi cũng thấm thía khi nếm báo ứng bị người chung quanh chế giễu cô lập, khinh khi, bài xích.

Tôi từng cười nhạo bội phản bạn bè, do sợ những bạn bị cô lập làm liên lụy mình, nên tôi cũng hùa với đám đông hất bạn ra, thậm chí còn nói xấu bạn nữa…

Thời đại học tôi ưa mỉa mai người, còn vẽ tranh trào phúng “khiêu dâm liên hoàn” để châm chọc, giải trí…

Mà những gỉ tôi vẽ trong tranh, thực tế nạn nhân không hề có làm vậy, toàn là họ bị tôi hại, bịa đặt ra…. tôi hay tặng cho người những biệt danh khó nghe và còn làm thơ trào phúng chế giễu người, luôn muốn khoe mình thông minh, dí dỏm, có tài…

Cho nên quả báo là tôi quen toàn những bạn dối trá không thật lòng, luôn bị người phản bội.

Hồi nhỏ tôi sát sinh rất nhiều, chuyên hành hạ các loài vật nhỏ khiến chúng tàn tật, còn cho rằng làm vậy chẳng ăn nhằm chi.

Mặc dù có một số côn trùng là do người nhà sai tôi giết, nhưng chung quy vẫn là tôi thực hiện, vậy tôi trốn sao cho thoát báo ứng nhân quả đây?

Tôi rất ưa ăn cá thịt, hải sản tươi sống, khó thể ăn chay!

Do vô tri thiếu hiểu biết nên tôi phạm tội rất nhiều.

Loài vật chết vì tay tôi không đếm được, nợ oan trái này tôi không biết làm sao mà trả hết?…

Có lẽ do nghiệp lực chiêu cảm, hoặc do ác nghiệp đời trước của bản thân tôi khó sửa, thuở ngu si, vì không biết Phật pháp nên tôi đã tạo tội ác mù trời.

Do vậy mà tôi thường mộng thấy vô số côn trùng, cũng mộng thấy mình biến thành những con vật mà tôi từng giết ăn, hầm, nấu…

Những ác mộng này nếu không khủng bố ám ảnh đến độ tôi kinh tâm khiếp đảm, thì ắt tôi chẳng thể nhớ rõ hết như vậy đâu!

Tôi đem cuộc đời mình kể ra cho quý vị nghe, để chứng minh rằng: sống phóng túng, tà dục, làm ác v.v… là tự hủy hoại tất cả những gi tốt đẹp của mình, khiến việc việc chẳng thuận lợi, vận khí tồi tệ, quan hệ giao tế không tốt, gặp toàn bạn bất lương, gia đình không ngừng xào xáo, sự nghiệp khó thành công…

Có nhiều, rất nhiều việc đều do tồi tự đọa lạc mà chiêu cảm, bởi vì tôi gạt tiền rất nhiều nam sinh cho nên khi tôi chụp xong album quảng cáo thì bị công ty lẫn khách hàng lừa!

Tôi sau này cũng không dám bàn đến tình yêu, bởi một kẻ như tôi khó mà gặp người tốt được.

“Đã làm sai thì phải dám gánh hậu quả”.

Mà hậu quả tôi phải trả chính là: tôi mất hết tất cả hạnh phúc của một con người bình thường, không một ai có thể thương tôi và sống rất khó khăn.

Bởi do tôi kiếm tiền không sạch sẽ, tự đem phúc báu vốn có của mình huỷ diệt hết.

Cho nên tôi chỗ chỗ tìm việc đều không như ý, bây giờ muốn được làm một người bình thường cũng khó.

Hiện tại, mỗi khi nhìn các bạn của tôi sống hạnh phúc, tôi chỉ có thể đứng nhìn và chảy nước mắt.

Tôi không có quyền mong cầu gì.

Tất cả đều do tôi mộng cao tham dữ: ham quyền uy địa vị, mới lầm lạc đến nỗi bị báo ứng, giờ muốn làm một người bình thường cũng không được.

Nếu như ban sơ tôi không sống tệ, có lẽ tôi đã có được hạnh phúc bình dị…

Tôi hiện thời sức khỏe bị hủy hoại, trí nhớ cũng giảm nhiều, dung mạo biến thành xấu xí, tiền đồ là một phiến mịt mờ, lúc nào cũng sợ những việc xấu mình làm bị bại lộ.

Bên cạnh tôi không có được bạn bè thật tâm, không có người thân thương yêu, không ai thương nỗi tôi!

Một kẻ sa cơ đến bước này, mất đi tất cả mọi sự tốt đẹp nhất, còn gì thảm hơn nữa?

Tôi lúc nào cũng muốn kết thúc mạng sống dơ bẩn của minh, không những mọi người, mà ngay cả chính tôi cũng khinh rẻ mình!

Thử hỏi: Sống mà trên thế giới này chẳng có ai thực lòng yêu bạn, những người chung quanh khi biết rõ sự thực về bạn đều chán ghét khinh rẻ, thì cho dù bạn đoạt được nhiều thành công đi nữa, cuộc sống này cũng đâu còn ý nghĩa gì?

Tôi nhận ra tương quan trên đời này không ngoài bốn điều: thiếu nợ, đòi nợ, đền ân, báo oán…

Tôi tự biết mình tội lỗi sâu nặng, xin mượn áng văn này thay cho lời sám hối, mong giảm bớt trọng tội, hi vọng được chư Phật Bồ-tát và mọi người chúc phúc cho, khiến tôi không đọa địa ngục.

Tôi đã hủy mình bằng ác nghiệp, mong mọi người hãy lấy đây làm gương, đừng sống như tôi.

Bất kể vì cái gì, ngàn vạn lần bạn không nên diễn sex, đừng bán hình ảnh, thân thể và linh hồn mình!

Những khó khăn rồi cũng sẽ qua đi, chỉ cần bạn chịu hành thiện thì có thể cải đổi số mệnh.

Bây giờ, mặc dù mỗi tháng tôi thu nhập chỉ có vài trăm, thậm chí còn phải nhờ vào vay mượn độ nhật, nhưng nội tâm tôi an tĩnh tươi vui, chẳng còn bị lương tâm quở trách.

Nếu bạn hỏi tôi hiện giờ còn thấy gì khó chịu, thì chính là những việc xấu ngày xưa tôi từng làm, tất cả đều in sâu vào tâm trí tôi, khiến tôi chẳng thể ngẩng đầu lên làm người!

Hi vọng quý vị xem bài viết về tôi xong sẽ tỉnh ngộ, sống lành.

Người sám hối

41.

NIỀM ĐAU TUỔI NHỎ

Hồi lớp 5 tiểu học, tôi ngụ gần dòng sông Đạm Thủy Đài Bắc, chúng tôi gồm ba đứa, cùng học chung, hai bạn tôi một đứa họ Trịnh, một đứa họ Trần; tan học rồi thì đến bên sông Đạm Thủy bắt cua, bắt được cua thì bẻ càng bẻ chân nó mà chơi đùa, rất là khoái chí…

Cứ nghịch như thế, cuối cùng thì dùng đá đập chết cua.

Hôm đó trò chơi kết húc, ba thằng nghịch chán rồi thì quay trở về nhà.

Hai bạn tôi đi trên đường nhựa, còn tôi thì bước phía trong (mé bên lề cỏ), đang đi mải miết thì tôi bỗng thấy trước mặt có sợi dây lạ rất đẹp, liền vội chạy đến nhặt lên xem… hóa ra đó là một con RẮN!

Thật đáng sợ!

Tôi kinh hãi ném vội con rắn đi và lo nhảy tránh, con rắn cũng không cắn tôi mà vội bò ra xa.

Nhưng tôi lại nổi tức nên lượm cục đá lên chọi vào con rắn…

Thằng bạn họ Trần đứng cạnh tôi nhắc nhờ:

– Gặp rắn mà không đập cho nó chết, tối về nó sẽ tìm mày đó!

– Vậy hai đứa bây phụ tao đập nó nha!

Thằng bạn nói:

– Đập rắn phải nhắm vào đốt thứ bảy…

Tôi cho rằng đó chính là chỗ trái tim nó…đá đập con rắn nhừ tử cho đến chết queo, Rồi dương dương tự đắc về nhà.

Bạn nghĩ việc này đến đây là xong rồi ư?

Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng nó chưa kết thúc!

Các vị, ông bà mình chết rồi, vì sao phải cúng bái?

Bởi vì họ có đời sau.

Bạn hi vọng họ được siêu, không phải làm quỷ.

Chúng ta đều tin người chết rồi, còn có đời sau.

Các vị, một con thỏ, một con kiến, một con rắn, chết rồi có đời sau hay không?

Có đấy! chắc chắn là có, trăm phần trăm lận!

Nhưng ngày xưa chúng tôi không hề biết điều này, cho nên sau khi tôi đập chết con rắn rồi, rất tự hào khoái chí mà đi về.

Nửa năm sau, tôi lên lớp sáu trung học.

Tôi có hai người anh, anh cả lớn hơn tôi hai tuổi, anh thứ lớn hơn một tuổi.

Lần nọ tôi cùng anh cả dành đồ chơi, không nhớ tôi đã mắng anh ấy câu gì mà anh nổi cơn thịnh nộ (anh em tôi xưa nay chưa từng gây cãi hay đánh nhau) anh ném tôi vào tường, ra tay đánh rất dã man, anh hung tợn đấm vào ngực tôi tới độ tay anh nứt tét, lòi xương ra, lúc này anh mới sực tỉnh và hét lên một tiếng thảm thiểt vì thấy tay mình xương cốt nứt tét.

Khi đó toàn thân tôi ê ẩm, đau đớn vô cùng.

Tối đó chúng tôi về, bị mẹ vặn hỏi, cả hai đứa đều chẳng dám khai thật, đồng nói là “bị vấp té… rồi va vào tường”.

Anh đi bịnh viện, tôi cũng đi bịnh viện…

Kể từ ngày đó, ngay năm đầu trung học tôi đã bị cơn đau hành, đau đến mấy tuổi?

Xin thưa: -Tôi đau đến 35 tuổi!

Suốt thời gian này, chì cần tôi vừa nổi giận hay uất ức (bao gồm bị cha mẹ la mắng), là tôi khởi đau liền.

Mỗi lần tôi lên cơn đau, anh tôi nhìn tôi buồn rầu, áy náy…

Vì vậy anh rất ít khi nói chuyện cùng tôi (anh cảm thấy mình rất có lỗi).

Nhưng tôi hoàn toàn không hiểu nguyên nhân cơn đau này.

Mãi đến trước khi tôi xuất gia một tháng mới rõ nguồn cơn…

Tôi có một người bạn, anh ta có mắt âm dương, nghĩa là nhìn được cả hai cõi sống và chết… anh không phải là Phật giáo đồ, nhưng mà giỏi vậy đó.

Người ta thì nhìn thấy thần, còn anh thì thấy được quỷ, anh rất độc đáo đó nha.

Lần nọ tôi đang đi bên cạnh anh, tôi kể là tôi sắp xuất gia và nói:



Sau này tôi sẽ không còn đi chơi cùng anh nữa, vì sắp cạo đầu rồi.

Anh bạn tôi có khả năng ngoại cảm, nhìn thấy những điều mà mắt thịt chúng ta nhìn không thấu… nên anh bảo tôi:

– Ôi cha!

Chú mày thường đau ở tim, nơi vùng ngực, đau ghê lắm, phải không?

– Dạ phải!

Anh nói:

– Tôi thấy có một con rắn hung tợn đang cắn xé ở đó.

Đây chính là nguyên nhân đau đớn của chú!

Tôi bảo:

– Anh nói nhảm rồi!

Rắn nào mà cắn em chứ hả?

Đây là do hồi nhỏ anh cả đánh em, tạo thành nội thương mà!

Anh mỉm cười bảo:

– Điều này chú không biết đâu!

Tôi thầm nghĩ: “Đâu phải anh ta nói gì cũng đúng?”… nhưng thực lạ, anh vừa dứt lời thì tim tôi bắt đầu đau.

Tôi cảm thấy rất ngạc nhiên.

Bình thường phải có lý do gi đó tôi mới phát đau.

Nhưng bây giờ, anh vừa nói xong là tôi cảm thấy đau!

Anh liền hỏi:

– Trong đời, chú có từng giết qua con rắn nào không?

– Dạ có!

-Tôi vừa đáp xong thì cảm thấy tim đau nhói lên…

Anh giải thích:

– Điều này rất dễ hiểu.

Thực ra, con rắn đó sau khi bị chú giết chết rồi, nó đọa vào cõi quỷ (vẫn mang hình hài rắn).

Ngực tôi liền đau kinh khủng (nghe anh giải thích như thế, thì cuối cùng tôi cũng hiểu ra).

Con rắn đó từ lúc vô duyên vô cớ bị tôi đập chết đi rồi, thì nó liền đầu thai vào cõi quỷ (Nếu như nó đầu thai làm rắn, thì nhiều nhất là gặp tôi nó mổ cho một phát, nếu đầu thai làm chó, thì nó gặp sẽ cắn tôi, kết ác duyên cùng nhau).

Nhưng con rắn này vừa đầu thai vào cõi quỷ, ngay lập tức đã có thể báo thù.

Nó báo thù thế nào ư?

Tức là hồi năm đầu trung học, như tôi đã kể, anh tôi vì một chuyện vặt vãnh nhỏ xíu, mà đánh tôi một trận nhừ tử (theo như lời anh bạn tôi giải thích: thì đó là do hòn quỷ con rắn ấy đã gá vào tay phải anh tôi), bởi hồi ban sơ chính tôi đã dùng tay phải cầm đá đập con răn chết, tôi đập bao lần thì khi báo thù – con rắn đã mượn (tay phải) anh cả tôi – dồn “lực hận” vào đó rồi “quánh” cho tôi ăn đòn lại.

Nó đã khiến anh cả đấm vào ngực tôi đến tay anh nứt tét (mà bản thân anh cũng không hề hay biết), vì vậy mà tồi bị nội thương.

Lý do vì sao tôi bị đau suốt hai mươi mấy năm, cuối cùng cũng đã hiểu rõ.

Sau khi minh bạch sự việc rồi, tôi liền quỳ xuống, anh bạn ở bên cạnh cũng phụ giúp tôi lập cách siêu độ con rắn, nhưng không có tác dụng gì.

Thế là tôi lại quỳ xuống và quán tưởng như có con rắn đang ở trước mặt mình, tôi cúi đầu trước nó, thốt lời ăn năn xin lỗi như thế này:

– Thưa bạn, tôi không hề biết là bạn đã đau đớn nhiều như thế, không hề biết là khi tôi giết bạn rồi, bạn trở thành thống khổ như thế, tôi hiện cũng rất khổ tâm vì lỗi lầm thời thơ ấu ngu si…

đã làm hại bạn!

Giờ phút này, tôi xin cúi đầu thành tâm nhận lỗi trước bạn, ngày xưa tôi dùng đá đập bạn bao nhiêu lần, thì ngày nay tồi xin khấu đầu trước bạn ngần ấy cái…

Tôi khấu đến đầu sưng lên chảy máu.

Sau khi tôi dập đầu tạ tội xong, tôi liền phát nguyện:

– Kể từ nay trở đi tôi tuyệt đối không bao giờ sát sinh hại mạng, kể từ nay trở đi tôi tuyệt đối không bao giờ nổi giận (lúc đó tôi cũng vừa sắp xuất gia, nên tôi phát thệ như vậy).

Khi đó tôi chỉ biết tụng Bát Nhã Tâm Kinh và hồi hướng.

Xong xuôi, tôi đứng dậy, thì bỗng thấy trọn cả lồng ngực và con tim trở nên mát mẻ dễ chịu, hết đau, thoải mái cực kỳ…

Kể từ ngày hôm đó đến nay, tôi hoàn toàn không còn bị hành đau đớn gì nữa…

Chư vị, đối với tôi mà nói.

Một lỗi lầm tưởng là cỏn con này, không ngờ lại có ảnh hưởng trầm trọng, gieo đau đớn cho xác thân tôi suốt mấy mươi năm, chỉ vì lỗi giết một con rắn.

Có đáng sợ không?

Rất đáng sợ!

Vì vậy quý vị hãy cẩn thận, đừng tạo nghiệp sát sinh nhé.

Tôi xin kể thêm một chuyện nữa:

42.

ANH BẠN KHÓ THỞ

Tôi có một người bạn, một năm thì bị khó thở hết sáu tháng, đi bịnh viện khám, chữa chạy đông y tây y đủ hết cũng không bớt.

Có lần đang trò chuyện anh bị sặc sụa, nghẹt thở, bèn hỏi tôi:

– Có cách gì trị chăng?

Chắc đây là nghiệp chướng của tôi.

Tôi bảo: – Nếu là nghiệp chướng thì cũng phải tìm cho ra nguyên nhân.

Nhất định là có nguyên nhân.

Anh hãy nhớ kỹ lại xem, trong đời này anh có giết qua loài vật nào không và đã giết bao nhiêu?

Anh nói:

– Có, hồi đó tôi ở quê, nhà rất nhiều chuột.

Ba mẹ tôi phải bẫy chuột và bắt được rất nhiều.

Biết tôi ưa nhận nước chuột nên họ giao tôi đem cả lồng chuột ra dìm xuống sông, tôi đã khiến chuột sặc sụa khống thở được và chết đuối cả… mà hễ chuột chưa chết thì tôi nhất quyết chẳng chịu lấy lồng lên…Có lẽ vì vậy mà giờ mới bị báo ứng như thế này!

Anh bạn tôi hằng ngày luôn vị sặc, nghẹt thở…

đến dở chết dở sống.

Chư vị thấy có đáng sợ hay không?

Tôi kể ra câu chuyện này không phải đề dọa các vị, mà là muốn các vị hiểu rõ để không sát sinh và đừng kiếm sống bằng những nghề sát sinh.

Mong quý vị hãy tự bảo vệ tốt cho mình!

Tự thuật của Sư Hải Đào

Lời người dịch: Khi dịch đến chỗ Sư Hải Đào sám hối, xin lỗi con rắn, tôi thật cảm động.

Nhất là hai lời nguyện lớn: “Không bao giờ sát sinh” thì tương đối dễ rồi, còn “Không bao giờ nổi giận”?

Với tôi đây là lời nguyện rất dũng mãnh, vì nói được làm được, đòi hỏi rất nhiều lực tỉnh giác!

Tôi chỉ biết sơ về Sự Hải Đào, việc làm nổi bật nhất là sư phóng sinh rất mạnh, tôi từng đọc một bài báo tường thuật sư hướng dẫn người phóng sinh (rất ấn tượng), vì buổi phóng sinh có đông người tham dự, cực kỳ trang trọng và vĩ đại.

Trong số thủy tộc được thả còn có các động vật hoang dã và một con bò có mang.

Khi được phóng sinh, nó đã hướng về sư, quỳ xuống cảm tạ…

Tôi thấy hình chụp cũng thật cảm động.

Ngoài ra sư còn viết, biên soạn rất nhiều sách về báo ứng phóng sinh.

Mong rằng mẫu chuyện nhỏ tôi dịch về Sư Hải Đào, sẽ đem lợi ích lớn đến cho bạn đọc.

43.

DỨT ÁC TU THIỆN

Từ ba mươi ba tuổi tôi bắt đầu giảng kinh, đến nay đã bảy mươi hai tuổi, tính ra tôi đã giảng kinh thuyết pháp trên bốn mươi năm rồi.

Nhưng hiện tại, tôi bị rất nhiều người hủy báng, tôi vui lòng chấp nhận hết, tại sao thế?

Bởi ngay trong đời này thôi, hồi chưa biết Phật pháp tôi đã từng tạo khẩu nghiệp rất nặng!

Hồi chưa biết đạo tôi thường hủy báng Phật pháp, còn ngông nghênh tuyên bố rằng: “PHẬT GIÁO LÀ MÊ TÍN!”.

Lúc đó tôi chỉ tin đạo Thiên Chúa và Hồi Giáo, vì tôi từng có hai năm ở trong Cơ Đốc Giáo, một năm nơi Hồi Giáo, nên ấn tượng của tôi đối với hai đạo này rất tốt, họ có những điều khiến tôi nể phục.

Còn Phật giáo thì tôi chưa có cơ hội tiếp xúc cũng chưa từng nghe ai giảng pháp Phật cho, nên tôi đâu biết gì!

Bởi là kẻ bàng quan, lại mù trất về Phật pháp, nên tôi mới miệt thị “Phật giáo là mê tín”, mà đã xếp loại như vậy rồi thì tất nhiên tôi phải phá trừ mê tín… do đó mả tôi tạo ra những ác nghiệp rất nặng.

Nói theo nhà Phật thi tôi từng phạm trong ngũ nghịch (làm thân Phật ra máu) là tội đọa địa ngục Vô Gián.

Hồi nhỏ ngu si vô trí, lúc đó nhằm thời kháng chiến chống Nhật, trường học có rất ít nên chúng tôi phải học trong chùa (vì chính phủ tịch thâu chùa làm trường học, đem chánh điện làm lễ đường, còn gian kế bên thì làm lớp học).

Do vậy người ta gom hết tượng Phật, Bồ Tát… bỏ vào một gian phòng dành làm nhà kho, bên ngoài dán giấy phong kín lại, họ làm thế kể cũng tốt.

Nhưng bọn con nít chúng tôi đâu có chịu bỏ qua?

Nghe nói trong ấy có rất nhiều tượng lạ thì rất muốn vào lấy để chơi đùa…

Thế là chúng tôi bèn phá cửa sổ chui vào, lấy tượng Phật làm đồ chơi, chơi chán thì vứt đi, còn phá hư hết…

Do hiếu kỳ nên tôi còn bửa tượng Phật bằng gỗ ra, để xem thử… có gì ờ trong chăng?

Khi tạo những tội này, lúc đó do chúng tôi còn nhỏ chẳng biết…

Mà thầy giáo cũng chẳng hề răn dạy chi…

Mà thú thật, nếu ông có khuyên bảo thì chưa chắc chúng tôi nghe, vì tôi rất thích tạo nghiệp hủy báng Phật pháp…

Sau này học Phật rồi, tôi mới hiểu, mình tạo lỗi ấy là phạm tội đọa địa ngục Vô Gián.

Đến nay tôi giảng kinh thuyết pháp đã hơn bốn mươi năm, vẫn còn bị người hủy báng, sỉ nhục…

Tôi vui lòng nhận lại quả hủy báng… cũng đáng lắm!

Ngẫm ra tôi tạo tội nặng, nhưng chỉ lãnh quả nhẹ thôi…

Còn nữa, thuở còn đi học, tính tôi rất ngỗ nghịch, ương bướng…

Tuy được thầy giáo rất thương yêu, nhưng khó mà dạy dỗ uốn nắn tôi.

Trí nhớ của tôi cực kỳ tốt, học rất mau hiểu, nhớ dai…

Bài vở tôi chỉ cần đọc qua một lần là có thể thuộc lòng, thế nên chẳng cần cố công ráng sức làm chi, tôi cứ học tà tà, vừa học vừa chơi, học cốt để đối phó với thi cử mà thôi…

Mười phút trước giờ thi chỉ cần tôi chịu xem qua bài, ôn sơ một lượt, thì chắn chắn là thi đậu.

Vả lại, có thi cử chỉ tôi cũng muốn đạt cỡ sáu mươi điểm thôi, có thêm một điểm nữa tôi cũng chẳng thèm!

Tôi chẳng ham tranh danh, đoạt lợi, song luôn là kẻ đem bài nộp trước nhất.

Các thầy giáo khi coi xong đều lắc đầu… vì họ thấy tôi có thể tiến tốt, thừa sức đoạt điểm cao hơn nữa, nhưng vì sao tôi lại không chịu?…

Bởi vì tôi rất ham chơi.

Tôi học chỉ cần mỗi năm đều đều lên lớp là ồn rồi, vậy là xem như đã đạt mục đích!

Thầy giáo và người nhà cũng chẳng có yêu cầu gì cao, nên tôi rất dễ làm cho họ hài lòng.

Cũng như bao người, tôi thích làm những việc mình ưa.

Tôi đọc rất nhiều sách, đọc vượt xa chúng bạn, nhờ vậy kiến thức của tôi cực kỳ phong phú.

Từ lớp ba cấp tiểu học tôi đã bắt đầu đọc những tiểu thuyết xưa của Trung Quốc, đọc đến năm thứ nhất của bậc Trung Học thì ngưng, bởi chẳng còn gì để đọc tiếp nữa.

Những tiểu thuyết hay hầu như tôi đã xem qua tới bốn, năm lần, chẳng hạn như bốn bộ truyện lớn: “Tây Du Ký, Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng”… bộ nào tôi cũng đọc năm-sáu lần.

Hơn nữa những bộ sách dầy như vậy, tôi xem rất mau, chưa đầy một tuần là đã “ngốn” hết.

Tiểu thuyết cổ điển đọc hết rồi thì lên lớp sáu tôi chẳng thèm đọc chi nữa.

Tôi sống rất phong lưu, ban ngày xem truyện, ban đêm coi kịch.

Thời học sinh của tôi rất thú vị, các thầy giáo và hiệu trường đều biết danh tôi.

Vì tôi luôn lý luận với họ:

- Trường học hiện nay chẳng qua chỉ là chỗ để kiếm bằng cấp, học vị mà thôi, song những gì học xong đa phần đều chẳng dùng được, dù tôi có học những thứ này thì tương lai có dùng được bao nhiêu đâu?

Hiệu trường và các thầy nghe tôi nói vậy đều lắc đầu, hết y kiến.

Kể chuyện xưa để quý vị thấy tôi rất có “thành tích” và tạo nghiệp quá nhiều.

Nhưng tôi cũng có một chút thiện căn là chẳng hại người, không hề gây hại cho xã hội, thế nhưng tôi lại hại… vật!

Lúc còn trẻ chưa biết Phật pháp tôi rất ưa ăn thịt, tạo tội nặng hơn người ta rất nhiều.

Vì vào thời kháng chiến chống Nhật tôi thường đi săn bắn, sau khi đọc kinh Địa Tạng rồi, tôi rất sợ hãi – thật sự lo sợ – nên bắt đầu ăn chay trường, chẳng dám ăn thịt nữa, tự biết tội mình đã tạo rất nặng.

Hồi nhỏ đâu biết tội phước gì, cha tôi ưa săn bắn nên tôi thường theo ông lên núi săn, ngày nào cũng đem những con thú bắn được về nhà.

Tôi đi săn ba năm, mười sáu tuổi bắt đầu săn bắn, cho tới hết mười chín tuổi.

Vì vậy tôi bắn rất cừ, bắn không cần phải nhắm mà vẫn trúng trăm phần trăm.

Mỗi ngày tôi xài ít nhất hai mươi viên đạn, lúc chẳng đi săn thì lo luyện tập bắn súng…

Cha tôi vốn là quân nhân, lúc đó nhằm thời chiến tranh chống Nhật, ông làm quản lý vũ khí (bao gồm khí giới, súng ống, thuốc nổ…), do vậy nhà tôi có rất nhiều súng, thành là cơ hội để chúng tôi tạo nghiệp…

Mỗi ngày tôi đều luyện tập, có đứa con nít nào mà không ưa chơi súng, ống?

Tuyệt hơn nữa là được chơi súng thiệt.

Tôi bắn súng rất chuẩn là nhờ mỗi ngày luyện tập mà thành, vậy mới có câu: “văn ôn võ luyện” chứ?

Bạn không luyện đâu được, phải luyện mới thành tài!

Nhờ tập luyện trong thời gian dài, mà tài bắn súng của tôi thành ra cự phách, do vậy mà nghiệp ác gây tạo cũng quá nặng, nhưng lúc đó tôi còn chưa hiểu biết.

Sau này học Phật, khi đọc đến kinh Địa Tạng, tôi sợ đến lông tóc dựng đứng…

Bởi chính mắt tôi nhìn thấy cảnh tượng cha mình chết giống y như “Kinh Địa Tạng” đã cảnh báo!

Trong “Kinh Địa Tạng” quyển thượng có ghi: “Nếu gặp kẻ săn bắn buông lung thì Ngài dạy: sẽ bị quả báo kinh cuồng, mất mạng”…

Thời xưa người ta dùng cung tên, hoặc dùng lưới… thì số lượng thú bị giết không nhiều, còn khi dùng lưới bắt cá, thì một mẻ lưới quăng ra cũng giới hạn…

Nhưng thời nay khi chúng tôi đi săn, thi dùng súng, chất nổ… nghĩa là hành sự rất độc ác: vì sau khi quăng thuốc nổ rồi, hằng ngàn, hằng vạn con cá chết nổi lềnh bềnh trên mặt nước, chúng bị nổ chết lẫn bị chấn động mà chết… bạn nói tội này nặng bao nhiêu?

Chuyện săn giết thú tính ra vẫn ít hơn so với việc dùng thuốc nổ để giết cá… chúng tôi đã tạo sát nghiệp quá nhiều, đã tạo ác vô cùng.

Quả báo của sự sát sanh là đoản mạng, vì vậy mà cha tôi mới bốn mươi lăm tuổi đã qua đời.

Đọc đoạn kinh Phật đã nêu, khiến tôi nhớ lại báo ứng của cha tôi là đúng y như vậy.

Phụ thân tôi vào năm bốn mươi lăm tuổi “bị kinh cuồng mà mất mạng”, chính tôi nhìn thấy tận mắt quả báo ông phải trả ngay trong đời này!

Khi cha tôi phát bịnh hóa điên, tuy thân thể ốm giơ xương, nhưng sức lực rất mạnh, mạnh tới nỗi mấy người cũng không ngăn cản nổi ông.

Hễ gặp chỗ có nước thfi ông lao đầu xuống, còn gặp núi thì cắm đầu chạy lên, đây chính là quả báo của việc săn bắn.

Khi tôi đọc “Kinh Địa Tạng” xong, thì tỉnh ngộ, bèn phát tâm ăn chay, vì biết rằng tội sát sinh của mình rất nặng, hơn nữa còn đích thân chứng kiến… nên cảm xúc vô cùng sâu đậm… kể từ đó tôi nỗ lực đoạn ác tu thiện.

Sau này tôi học Phật rồi, các bốc sư danh tiếng đều xem và nói mạng tôi sống chẳng qua bốn mươi lăm tuổi, tôi rất tin.

Thế nên tôi càng học Phật rất tinh tấn vì thọ mạng đã được định bốn mươi lăm tuổi rồi.

Quả nhiên đến năm bốn mươi lăm tuổi tôi bị bịnh nặng, tôi chẳng đi bác sĩ, chẳng uống thuốc… vì nghĩ rằng: “Mạng mình sắp hết, mà bác sĩ thì chỉ có thể chữa bịnh chứ đâu thể chữa mạng?”.

Bởi vậy nên suốt cả tháng trời tôi dốc tâm chuyên nhất lo niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, niệm được một tháng thì bịnh tự nhiên hết.

Thực ra, tôi chỉ hồi tâm chuyển ý, nguyện đem chút trí huệ, khả năng, thân tâm này hiến dâng hết cho Phật, Bồ Tát, xin nguyện làm việc cho Phật, Bồ Tát, chẳng còn sống vi mình nữa.

Nhà Phật thường có câu: “Nương theo nguyện trở lại” (thừa nguyện tái lai), có thể nói tôi đã chuyển nghiệp thành nguyện, khi tôi “thay đổi” tâm rồi thì hiệu quả tốt cực kỳ…

Tôi là kẻ chẳng có phước báo, tiền bạc cũng không nhiều.

Để chuộc lỗi sát sinh khi xưa, hễ có chút tiền cúng dường, thì tôi đem phóng sinh, tặng bịnh viện (lo tiền thuốc men cho người nghèo) cứu giúp bịnh khổ và in kinh bố thí.

Sau này, năm nọ tại pháp hội Nhân Vương ờ Đài Loan, tôi gặp “Phật sống” Cam Chu (là một người bạn cũ của tôi), ông tỏ vẻ rất hoan hỷ, nói:

– Mấy năm nay thầy giảng kinh thuyết pháp công đức rất lớn, thầy vốn chẳng có phước báo, số phải đoản mạng, vậy mà bây giờ không những thầy có phước báo mà còn sống lâu nữa…

đều là nhờ thầy hoằng pháp lợi sinh nên phước lành hiển hiện…

Quả thực tôi chẳng cầu sống lâu, vì hiểu: “Nếu tĩnh giác rồi, thì chẳng nên vì mình nữa, mà tất cả đều vì Phật pháp, vì chúng sinh”.

Nhờ vậy mà được cảm ứng.

Đối với bản thân, tôi chẳng lưu luyến gì thế gian.

Thân này còn lưu lại…

đó là phước của chúng sinh, vì hễ chúng sinh cần, đạo pháp cần, thì tôi ở lại thêm vài ngày; khi nào chúng sinh không cần, Phật pháp cũng không cần nữa thì tôi sẽ ra đi lập tức, chẳng lưu luyến gì.

Đây là tâm trạng và thái độ hiện nay của tôi, tôi rất hoan hỷ sớm được ra đi thân cận đức Phật.

Tôi kể chuyện mình tạo nghiệp thọ báo, để quý vị thấy tôi cũng xấu, cũng ác rất nhiều.

Nếu tôi chẳng tu học theo Phật thì chắc chắn phải thọ tội trong địa ngục.

Tôi đã chứng minh cho quý vị thấy rồi đó.

Tôi: từ một kẻ nhiều lầm lỗi, tạo lắm ác nghiệp, mà có thể tu sửa, đổi thành tốt… thì quý vị cũng làm được, quan trọng là quý vị có chịu làm hay không mà thôi.

Tự thuật của Đại Sư Tịnh Không

44.

LÒNG TỪ CỦA BỒ TÁT ĐỊA TẠNG

Công đức Bồ-tát Địa Tạng chân thật không dối.

Tôi xin đem câu chuyện xảy ra trong gia đình mình kể cho mọi người nghe làm bằng chứng: Tháng tư năm ngoái cha tôi bịnh tim phải mổ.

Mổ xong thì tạm hồi phục, nhưng đến mùa đông năm ngoái, bịnh tình chuyển biến đáng lo, dần dần bịnh tim càng trở nặng, ngay cả xoay mình mặc áo… những việc nhỏ nhặt nhất cha tôi vẫn cần người phụ giúp, ông lại còn hay bị chóng mặt hoa mắt, thân thể bịnh hành nghiêm trọng.

Tối ngủ rất ít, thường mất ngủ lại hay gặp ác mộng, cảm thấy toàn thân luôn đau đớn.

Tôi và vợ không ở chung với cha mẹ, cho nên việc chăm sóc phụ thân hằng ngày do mẹ tôi gánh vác hết, mấy tháng gần đây bà gầy đi rất nhiều.

Do thân đau đớn, tinh thần cha tôi cực kỳ bi quan suy sụp, ông thường nói những lời buồn chán, khiến cả nhà lo sợ.

Có đến bịnh viện khám, bác sĩ cũng không biết làm sao, chỉ cho thuốc tăng sức khỏe và nói:

– Không còn cách nào tốt hơn, cầm cự được ngày nào hay ngày đó!

Khi ấy cả nhà chúng tôi cảm thấy tuyệt vọng, thậm chí phụ thân bắt đầu dặn dò mẹ việc hậu sự.

Tôi xuất thân từ y học, chứng kiến tình huống hiện thời của cha mình, cũng biết tình cảnh này hiện thời y học không còn giải quyết được.

Bèn nghĩ đến Phật pháp (Thật xấu hổ, nhờ từng đọc nhiều sách thượng sư Nam Hoài Cẩn, nên sực nhớ lại).

Thế là tôi bắt đầu tụng chú Chuẩn Đề hồi hướng cho cha, đồng thời cũng khuyên và bày ông cách tụng chú Chuẩn Đề, nhưng đối với người hay chóng mặt hoa mắt như cha tôi thì rất khó tiếp thu và sẽ thấy chú quá dài.

Cho dù ông ráng học thuộc cũng rất chậm, Khi nghe tôi nói: “Chú này phải tụng từ hai mươi đến bốn mươi vạn (bốn trăm ngàn) biến, mới có hiệu quả”… thì sắc mặt phụ thân lộ vẻ thất vọng ủ ê, vì ông học thuộc chậm rì như vậy, biết năm nào tháng nào mới tụng xong được?

Thế là tôi nghĩ cách khác, tôi bày phụ thân niệm A Dí Đà Phật!

Nhưng cả đời cha tôi hầu như không có tín ngưỡng gì, nên thực hành pháp Phật theo cách nảy ông cũng chẳng quen.

Khi nào tôi về nhà đốc thúc, thì ông mới chịu niệm một hai câu Phật, mà hễ tôi vừa đi khỏi, là ông quên hết trơn… thiệt là rầu!

Trong lúc rối ren hết cách, tôi chợt nhớ đến đại nguyện của Bồ-tát Địa Tạng, liền đi thỉnh hai cuốn “Kinh Địa Tạng” về, một cuốn giao cho phụ thân, một cuốn tự mình đọc (lại xấu hổ lần nữa, vì trước đây cũng từng nghe danh Bồ-tát Địa Tạng nhiều rồi, nhưng chuyện lật kinh xem thì đây là lần đầu).

Tôi khởi sự tụng, rồi mặc tưởng thầm, hồi hướng công đức cho phụ thân, cho oan thân trái chủ nhiều đời nhiều kiếp của ông.

Nhưng do cơ quan tôi việc nhiều, về nhà còn phải chăm sóc thằng bé hơn một tuổi, nên tối đến tôi mệt đừ, tụng hai ngày là hết kiên trì, mà chú Chuẩn Đề (có thể do tôi tụng số quá ít), nên chỉ chiêu được cảm ứng nhỏ, nghĩa là bịnh phụ thân tuy có chuyển tốt, nhưng lúc nặng lúc nhẹ, không rõ ràng…

Cha tôi một là, do đầu váng mắt hoa, hai là đối với kinh điển không thông hiểu nên thấy ngán, khó khởi nhiệt tình, ông chỉ tụng độ mười mấy trang là hết lật nổi nữa…

Thứ sáu vừa rồi tôi về thăm phụ thân, do hồi hôm ông không ngủ được, nên sức khỏe rất tệ, ông nắm tay tôi than thở:

– Chắc ba không xong rồi, ngủ chẳng được, bịnh trở nặng thêm, chóng mặt cảng nhiều, chắc là qua không nổi…

Mẫu thân và tôi một bề khuyên dỗ trấn an, cũng không thể đem lại cho ông niềm tin và hi vọng vào cuộc sống.

Đột nhiên tôi nhớ phụ thân từng than là xem “Kinh Địa Tạng” ông không hiểu, cho nên tụng không nổi.

Tôi bèn giải thích ý nghĩa trong kinh cho ông nghe (Mô Phật, tôi chỉ là xem kinh nhiều hơn phụ thân chút đỉnh thôi, nhưng may nhờ từng đọc qua bài viết của thượng sư Nam Hoài cẩn, nên cũng có được chút hiểu biết thô sơ đối với Phật pháp).

Thế là tôi đọc kinh cho ông nghe, vừa đọc vừa giải thích, đem những thấy biết hạn hẹp của mình về kinh Phật, giải cho phụ thân nghe.

Có thể nhờ tinh phụ tử dễ cảm thông, phụ thân nghe cũng “lọt lỗ tai” và hiểu được đôi chút, tôi cảm thấy ông đối với Phật pháp và bản “Kinh Địa Tạng” này đã tạm hiểu và phát sinh chánh tín.

Chỉ một phẩm đầu tiên thôi mà đến 12 giờ trưa, tôi mới giảng xong…

Lúc này thì tôi đã khan cổ khô họng, còn phụ thân thì nghe đến… bắt thèm ngủ!

Đến nổi ông bỏ không ăn trưa và đi ngủ luôn, ông làm một giấc hơn hai tiếng, rất an bình, không hề ngáy.

Sau khi thức dậy, phụ thân còn hỏi tôi:

– Nãy giờ ba có ngủ không hả?

Sao có cảm giác như vừa mới nằm xuống là thức dậy rồi?

Tôi và mẹ đều cười.

Nghe ông hỏi mà mừng, vì đây là việc mấy tháng nay chưa hề có được.

Sau khi thức dậy, thấy phụ thân có vẻ phấn chấn, ông cũng cảm giác bịnh nhẹ đi rất nhiều.

Tiếp đến ông còn làm một việc khiến cả nhà kinh ngạc: trong lúc chúng tôi đang ngủ trưa tiếp, thì ông tự xuống lầu đi cắt tóc.

Mẹ tôi là người đầu tiên đi tìm và phát hiện ra chuyện này, bà thấy ông đứng ngoài cổng vui vẻ trò chuyện cùng người, nét mặt rất hớn hở, so với thải độ bi quan trước đây hoàn toàn khác hẳn..

Chỉ mới đọc một phẩm đầu trong “Kinh Địa Tạng” thôi mà công đức như thế ư?

Thú thật, tồi quả có ngạc nhiên vì sự thần kỳ không thể lường của Bồ-tát Địa Tạng!

Kế đó, những rối rắm trong hãng xưởng cũng được người giúp dàn xếp xong, khiến cha tôi càng thêm vui.

Từ hôm đó, phụ thân, hằng ngày đều siêng năng tự nguyện tụng “Kinh Địa Tạng”, chẳng màng là có hiểu hay không, ông cứ chăm chỉ tụng.

Ông còn bảo tôi dạy ông tụng chú Chuẩn Đề và tự cầm bản chú lên, kiên nhẫn học thuộc từng chữ.

Lúc này ông đã ngủ được rất ngon, ít mộng mị, tinh thần cũng hết bi quan.

Những biến chuyển này khiến tôi vô cùng xúc động.

“Kính lễ Bồ-tát Địa Tạng, cảm tạ Ngài đã siêu độ những oan gia trái chủ từng hành hạ phụ thân con, khiến cha con được an ổn.

Cảm tạ Phật lực đã từ bi gia bị, hộ trì phụ thân được hồi phục khang kiện”.

Muốn tạ ân Bồ-tát thì phải học theo hạnh nguyện của Ngài, cách noi theo Ngài tốt nhất, là phải tu tâm sửa tính và tụng “Kinh Địa Tạng”, hồi hướng cho thân nhân, cho tất cả chúng sinh… nguyện họ tiêu trừ ác nghiệp và được biết đến Phật pháp…

Liêm-Minh

45.

LÝ DO TÔI ĐẾN VỚI ĐẠO

Năm 2004 tôi 32 tuổi.

Trước khi tự thuật chuyện mình, dưới tòa mười phương chư Phật, Bồ-tát… cùng tất cả chúng sinh, tôi xin thành tâm sám hối.

Tôi hiện ngụ tại thành phố Mai Châu, từng cắp sách tại Trung Học Liên Hợp.

Hồi đó tôi không chăm học, chuyên kết bè lập đảng, đánh lộn đánh lạo gây rối trong xã hội không ngừng.

Thầy giáo và người thân khuyên mấy tôi cũng không sửa đổi, cuối cùng phải bỏ học, đi làm thuê.

Tôi làm đủ công việc trong xã hội, nhưng công tác không đều, bữa đực bữa cái (lúc làm lúc nghỉ) cứ thế mà sống qua ngày và không chừa bỏ thói hư tật xấu, vẫn thường cùng đám bạn bè (tự cho là thân hữu đồng chí) đi trộm gả bắt chó, gây chuyện om sòm, tạo ra ảnh hưởng cực xấu…

Ngày xưa đối với tiền tài, vật chất tôi tham mê lắm, nên thường dối gian, tạo nghiệp trộm cắp; tính tàn nhẫn ưa giết hại loài vật, thêm nết sân giận ác khẩu, chửi tục không ngừng, tôi huân toàn thói quen cực xấu, đã vậy còn kết bè lập đảng với bọn bất lương khiến tập khí ác ngày càng tăng trường sâu nặng, vì vậy mà tôi thường xuyên bị bắt vào đồn công an, các bót đông, tây, nam, bắc khắp phố Mai Châu, thảy đều vì phạm pháp mà tôi bị nhốt vào đó.

Kể đến đây, tôi thầm sám hối với tất cả chúng sinh từng bị tôi cố ý hoặc vô tình làm thương hại, nguyện chẳng còn tái phạm lỗi xưa…Những nhân xấu ác chiêu vời quả khổ tôi xin nhận lấy, nguyện mười phương Tam bảo, Bồ-tát Địa Tạng Vương gia trì tất cả được giải thoát, sớm đắc vô thượng Bồ đề…

Giờ đây hồi tưởng lại những việc ác tôi đã làm (sau này tạo thành họa ương), khiến tôi công tác lẫn sức khỏe gì cũng không ổn, hay gặp rủi ro, tất cả đều là báo ứng!

Vì “trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”…

Tồi tự gây quả khổ thì bản thân phải gánh lấy, không ai chịu thay.

Sau đây xin kể về nhân duyên học Phật của tôi:

Mùa thu năm 2000, tôi đã chứng kiến một cảnh tượng kinh hoàng khiến trọn đời nhớ mãi, cho dù có trải qua trăm ngàn vạn kiếp cũng khó mà quên!

Giờ xin thuật lại để mọi người cùng cảnh giác.

Lúc đó tôi chưa kết hôn.

Một đêm nọ đã khuya lắm tôi vào giường ngủ, chốc lát đã thiu thiu vào mộng.

Trong mơ, tôi thấy mình cùng hai người bạn đi tới một vùng âm u đáng sợ.

Bỗng gặp trận đại hồng thủy, chúng tôi chạy trốn không kịp, nên bị hồng thủy cuốn phăng… cả ba giẫy giụa trong đó, “kêu trời gọi đất vang rần” nhưng thảy đều vô dụng.

Giống như bình thường mình xem phim vậy, trong chớp mắt mộng đổi sang cảnh khác.

Tôi thấy mình nằm trên cái giường nhỏ hẹp, cảm giác cực kỳ khó chịu, liền giẫy để thoát ra, nhưng càng giẫy càng cảm thấy đau đớn, thống khổ đến nổi phải kêu rên không ngừng.

Đột nhiên tôi thấy chung quanh mình rộng không bến bờ, xuất hiện vô số cái giường đơn, có vô số người ở trên giường, kêu rên, giẫy giụa thống khổ khó kham, thật đáng sợ…

Chớp mắt, lại đổi sang cảnh khác, tôi và vô số người bị vây trong một thành cao không thấy đỉnh, có giám ngục hình dáng to đen như quái vật canh gác chung quanh thành, tướng mạo họ rất đáng sợ, tay cầm đủ khí giới: côn, thương, chĩa ba…

đang áp giải tra khảo, đánh người.

Lúc đó tôi cảm thấy thống khổ đến không muốn sống.

Thầm nghĩ: “Phải mau mau chạy thoát khỏi chốn này”.

Thế là tôi dốc toàn lực trèo lên thành để vượt ngục bôn đào.

Cùng lúc ấy nhiều người bị áp giải hành hình chung quanh… cũng đồng vượt ngục giống tôi.

Tình hình khi đó đại loạn, những quái vật kia liền hét to, ra oai: chúng vung côn, chùy, chĩa ba rượt theo truy đuổi…

Tôi chạy bán mạng… cuối cùng cũng leo lên được trên đỉnh thành, nhìn ngoài thành thấy bên dưới là vực sâu hun hút như không có đáy, chẳng mấy chốc quái vật đã đuổi tới sát bên, nhanh nhẹn chộp bắt tôi…

Tôi vội tung mình và… nhảy!

Cảm giác như hồn bay phách tán, tôi rơi thẳng xuống vực sâu hun hút nọ, cuối cùng chân cũng chạm đất… tôi lồm cồm ngóc dậy chạy trốn tiếp, ở phía sau quái vật vung binh khí lên thét to:

– Khâu Kiện Hào!

Không được chạy!

Mau bắt giữ Khâu Kiện Hào lại…

Bị chúng truy đuổi quá hăng, tôi mệt mỏi kiệt sức, tay chân phát run, kinh sợ hoảng loạn cực độ, đột nhiên tôi nghe lưng mình nhói đau thống thiết, té ra quái vật đã phóng chỉa ba ghim vào lưng tôi, còn thét to:

– Bắt nó lại!

Bắt nó lại!

Tôi té nhào trên đất, bị quái vật trói gô lại và cắm vào lưng tôi tấm thẻ bài to có hàng chữ: KHÂU KIỆN HÀO THỌ TỬ!

Rồi chúng trói tôi vào cột, tôi thấy chung quanh mình cũng có một dãy người cùng thọ hình giống vậy.

Tiếp đến một quái vật giơ thùng sắt lên trước mặt tôi, hét to:

– KHÂU KIỆN HÀO THỌ HÌNH!

Và y nghiêng thùng, xối vào chân tôi…

Chu choa, tôi thấy trong thùng chảy ra chất lỏng gì rất lạ, nó đang sôi lụp bụp vang thành tiếng, khói trắng bốc cuồn cuộn, tôi nghe đau đớn khủng khiếp (giống như bị tưới acid hay nước đồng sôi vào người vậy).

Lúc đó đột nhiên tôi khởi nghĩ: “A, ta chẳng thèm đề ý tới nữa, ta sẽ niệm “Lục Tự Đại Minh Chú”.

Thế là tôi vội niệm chú không ngừng: “‘Án ma ni bát di hồng”…

“Án ma ni bát di hồng”… câu chú vừa niệm, lập tức tôi chẳng còn biết gì đến màn khủng bố trước mặt, tôi càng niệm càng nhanh, càng lớn tiếng, bởi vì phần thân dưới tôi đã tiêu mất… gần đến ngực rồi.

Lúc này đột nhiên trước mặt tôi vang lên âm thanh (niệm Đại Minh Chú) thật to, tôi quay đầu nhìn thì thấy phía trước, có hơn 5 đứa bé mặt y phục xinh đẹp, chúng nắm tay nhau đứng thành hàng, thân tỏa hào quang chiếu về phía tôi, cùng đọc “Lục Tự Đại Minh Chú”, âm vang trầm hùng, nghe rất hay, rất thích (nhìn bộ dạng thì hình như là chúng đến đề giúp tôi?).

– Án ma ni bát di hồng!

Án ma ni bát di hồng!

Án ma ni bát di hồng!…

Phần ngực tôi không còn nữa, rồi cổ cũng tiêu mất, chỉ còn một khối khí trắng sôi lụp bụp vang thành tiếng.

Sắp tiêu đến đầu rồi… tôi liều mạng dốc tận lực niệm chú, nhưng không còn giọng niệm nữa, mà là tiếng rên: -“Án ma ni bát di hồng”…

Đột nhiên một câu “ÁN MA NI BÁT DI HỒNG!” phi thường hùng hậu, vang dội, trang nghiêm… vọng đến tai tôi, trước mắt tôi bỗng hiện ra một luồng hào quang sáng chói: có một vị đầu trọc thân mặc y phục trắng, hai tay chắp lại đang ở phía trên đỉnh…

đầu giường của tôi.

Ngài hiện bán thân, hơi nghiêng về hướng tôi, dáng vẻ cực kỳ trang nghiêm (tôi kể thì rất chậm, nhưng tình hình lúc đó cực kỳ nhanh), thanh âm hùng hậu vẫn vang to, lúc đó tôi cảm giác từ đầu trở xuống… (xem như phần thân vừa bị tiêu mất đã được hồi phục nguyên trạng trở lại) và tôi cảm thấy toàn thân khinh an dễ chịu khôn tả.

Một sức sống sung mãn, đầy năng lượng phủ khắp toàn thân tôi.

Tôi thức dậy, nhận ra mình đang ngồi trên giường, liền đưa tay bật đèn.

Đèn sáng.

Lúc này tôi vô cùng chấn động, nhưng không hề có cảm giác sợ hãi khủng hoảng sau cơn ác mộng, mà chỉ có niềm cảm kích, xúc động tri ân… vì mình đã được sống lại, hồi sinh từ cõi chết!

Tôi xúc động đến toàn thân phát run, vị bạch y đã biến mất tiêu rồi, hoàn toàn không thấy đâu nữa… nhưng trực giác tôi cảm nhận rất rõ là nhờ vị bạch y đó, “người đầu trọc” đó…

đã cứu tôi!

Chính ông ta có sức mạnh uy thần rất diệu kỳ, đã ban cho tôi sinh mạng mới…

Tôi ráng kềm chế bản thân và lấy lại bình tĩnh, sau đó chỉnh trang y phục, hướng về chỗ hòa thượng áo trắng vừa xuất hiện ban nãy, quỳ xuống lễ ba lễ (lúc đó vị trí đầu giường tôi nằm ở hướng tây).

Kể đến đây ắt sẽ có người hỏi:

– Vì sao anh biết niệm chú?

Anh bình thường có thờ Phật không?

Chẳng phải anh toàn làm việc xấu ư?

Vì sao anh có thể tin Phật và biết niệm chú ngay trong mộng chứ?

Chà, nói đến đây không thể không giải thích, quả tình tôi có nhân duyên cực kỳ sâu với “Lục Tự Đại Minh Chú”.

Mười năm trước, tôi tình cờ nghe được đĩa nhạc xướng tụng chú này, lập tức sinh tâm ưa thích cực kỳ, vì vậy mà suốt bao năm nay hữu ý vô ý gì cũng niệm, cũng ngâm nga chú này hết.

Dù tôi hoàn toàn mù tịt về Phật pháp, song tôi cảm nhận chú này có hiệu quả rất tốt, bằng chứng là lúc tôi ra ngoài làm việc, mấy lần bị bịnh nặng cấp tính khó hiểu (chẳng hạn như tim bị đau thắt như có vô số mũi kim châm vào, hoặc toàn thân co rút, phát run lập cập)… nhờ nhất tâm niệm chú này mà tôi thoát khỏi cơn đau.

Do vậy mà bình thường bất kể ngày đêm, tôi luôn niệm chú này, quanh năm không gián đoạn (Những ai biết đạo chắc hiểu rõ uy lực thần diệu của chú này hơn tôi).

Quay lại chuyện hồi nãy, sau sự việc đó, tôi rất muốn tìm hiểu vị bạch y xuất hiện trong mộng hiển linh cứu tôi đó, là Bồ-tát nào?

Bồ-tát Quan Thế Âm thì không phải rồi, vì tượng Ngài tôi đã từng thấy qua, nếu là Phật?

Cũng không giống!?

Tôi suy nghĩ mãi vẫn không lý giải được, liền hỏi người nhà, nhưng ai cũng chế nhạo, chê cười tôi.

Họ nói do tôi bịnh nên thấy ác mộng và không thèm đếm xỉa gì đến lời tôi, hễ tôi có bàn nhắc gi thêm nữa, thì họ nói tôi điên!

Lúc đó tôi rất khổ tâm vì không ai thèm tin mình.

Đành âm thầm tìm tòi, tôi nghĩ: “Bồ-tát xuất hiện tại hướng tây”… mà phía tây là hướng chùa Phật Quang…

Đúng lúc đó ở địa phương kêu gọi giúp đỡ chùa Phật Quang đang xây dựng, tôi từng ghé qua chỗ này rồi, nên quyết định đến đó xem, hi vọng tìm được đáp án…

Thế là hôm ấy tôi cùng người bạn đi chùa Phật Quang, gặp lúc các thầy lên điện tụng kinh.

Tôi nghĩ: “Mình phải lên tụng theo họ”…

Lúc đó nhằm buổi chiều, các sư dâng hương xong thì bắt đầu tụng cuốn kinh rất dày, tên là “Địa Tạng Bồ-tát bổn nguyện kinh” tôi cũng tụng theo.

Xưa nay tôi chưa tụng qua kinh này bao giờ, nên đọc rất vất vả, khó khăn… nhưng tôi nghĩ mình phải kiên nhẫn, miệng tôi khô khốc khó thể tụng….

Tôi đành nhìn theo kinh tụng thầm… và tôi hết hồn khi thấy cảnh tượng trong kinh tả giống hệt như cảnh mộng mà tôi từng thấy qua.

“Trong địa ngục có giường, biến đầy khắp nơi, một người thọ tội, tự thấy thân mình nằm chật giường, ngàn vạn người thọ tội, cũng thấy thân mình chật cả giường”.

Trời ơi!

Tụng đến đây tôi hết sức kích động, toàn thân phát run không kìm được, tôi ý thức rằng điều mình khổ công truy tìm sắp có kết quả.

Đột nhiên tôi nhớ lại ngày hôm đó khí trời phi thường nóng nực, nhưng toàn thân tôi cứ xuất mồ hôi lạnh, bởi vì thấy kinh văn miêu tả quá giống với cảnh mộng của mình!

Có thể là do quyển kinh quá dày (hay còn nguyên nhân nào khác nữa mà tôi không biết) vì các thầy tụng được nửa tiếng thì tuyên bố tạm nghỉ.

Lòng tôi hoang mang lo sợ, không biết phải làm gì, bèn bỏ ra đứng xớ rớ trước cổng chùa.

Thấy gần cổng có một hòa thượng đang trò chuyện với một số hương khách, tôi thu hết can đảm bước đến thưa hỏi:

– Bạch thầy, trước đây con có mơ thấy một ác mộng, cảnh tượng giống y như trong kinh đã tả về địa ngục vậy, nhưng mà sau đó có một vị sư xuất hiện đến cứu con, lúc đó con niệm “Lục Tự Đại Minh Chú”, hòa thượng ấy cũng niệm chú này, vậy những chuyện đó có thật không ạ?…

Vị sư nhìn tôi, bảo:

– Đây không phải là chuyện giỡn chơi!

Anh chớ nên nói đùa như thế!

Tôi vội hỏi:

– Thưa thầy, vị sư cứu con là Bồ-tát nào vậy?

– Thời đến thì anh sẽ tự hiểu thôi!…

Sư chỉ đáp như vậy.

Lúc này bên trong hồi trống vang lên, tôi nghe mọi người nói: “Đến giờ tụng kinh rồi”.

Tôi cảm thấy rất mờ mịt, nhưng vị sư kia đã bỏ đi vào trong, không nghe tôi hỏi gì nữa.

Do nghiệp chướng sâu nặng, hôm đó tôi không được đáp án nhiều, nhờ tụng “Kinh Địa Tạng” mà biết cảnh địa ngục trong kinh tả giống y như cảnh mộng của tôi thôi.

Tôi cũng không biết gì về “Kinh Địa Tạng”, cũng chẳng rõ Bồ-tát Địa Tạng là ai?

Nhưng tôi đoán “có lẽ là Bồ-tát Địa Tạng cứu tôi”, nhưng rốt ráo là sao thì tôi vẫn chưa minh bạch.

Được một thời gian, Hồng cư sĩ gọi điện thoại cho tôi, nói:

– Hào nè, tôi có một cuốn “Kinh Địa Tạng”, chú có muốn tới xem không?

Tôi vội đến chỗ anh.

Anh đưa tôi một cuốn “Kinh Địa Tạng” in rất tinh xảo và nói:

– Bên trong có hình Bồ-tát Địa Tạng đẹp lắm!

Tôi mở sách ra xem, “A!

Đúng là ông này nè, đúng là ổng rồi!”…

ôi chao!

Hòa thượng tôi mơ thấy… tướng mạo giống hệt như vầy nè…

“ôi!…Nam mô Địa Tạng Bồ-tát!”.

Tôi cảm động quá, cung kính để sách lên đầu và chí thành niệm danh Bồ-tát Địa Tạng.

Tôi nói với Hồng cư sĩ:

– Cho tôi thỉnh về nhà xem nha?

Hồng cư sĩ ưng thuận.

Sau khi cáo từ Hồng cư sĩ, về đến nhà, tôi mở sách ra, bắt chước trong chùa tụng kinh.

Bắt đầu từ đó trở đi, tôi và Hồng huynh thường cùng nhau đến chùa Phật Quang thỉnh kinh về xem.

Tại đây tôi được nhiều cư sĩ hướng dẫn chỉ bày thêm, dốc sức học tập Phật pháp.

Hồng cư sĩ lớn hơn tôi hai tuổi, chúng tôi cùng nhận thức sâu xa rằng, chỉ có học pháp, tu theo Phật dạy mới là con đường tốt nhất cho cuộc sống.

Chúng tôi dốc sức tham gia các hoạt động Phật sự, siêng tụng kinh, phóng sinh… lo bồi dưỡng thiện căn, tiêu trừ nghiệp chướng, chăm chỉ tu hành.

Hồng cư sĩ đời trước vốn đã trồng thiện căn sâu dày.

Mới đầu anh nói: “Muốn học Phật trước tiên phải qui y Tam bảo, xây dựng niềm tin căn bản cho tốt”… anh rủ tôi cùng qui y, nhưng tôi không chịu, nên anh đi qui y trước.

Dưới sự chỉ đạo của Hồng huynh, cộng thêm bản thân không ngừng học tập, niềm tin Phật pháp tăng mạnh, tôi phát tâm qui y.

Nhật nguyệt xoay vần như thoi đưa, thời gian qua mau như tên bắn, kiếp nhân sinh ngắn ngủi nhưng nhiều khổ đau, mạng sống vốn vô thường…

Đức Phật vĩ đại đã chỉ con đường tu hành xán lạn cho chúng ta.

Đây là con đường hạnh phúc, là may mắn cực lớn cho chúng sinh.

Chúng ta cần phải trân quý, tinh tấn không lười.

Phải niệm niệm tu hành, để thành tựu trí huệ vô thượng, hầu báo đáp Phật ân.

Trước khi dừng bút, tôi xin trích dẫn những lời Phật thuyết dặn dò cứu độ nhân thiên…. trong Kinh Địa Tạng:

…”

Chúng sinh chí tánh bất định, quen thói ác…

Dù có phát thiện tâm nhưng trong chốc lát liền thối thất mà hễ gặp ác duyên thì niệm xấu tăng mau.

Vì thế nên ta phải phân ra làm trăm ngàn vạn ức thân, tùy theo căn tánh chúng sinh mà hóa độ.

Này Địa Tạng!

Nay ta ân cần đem chúng trời, người giao phó cho ông.

Đời vị lai, nếu có hàng trời, người cùng thiện nam, thiện nữ nào, ở trong Phật Pháp mà trồng chút thiện căn chừng bằng mảy lông, hạt bụi, hạt cát, giọt nước… thì ông nên dùng đạo lực ủng hộ, giúp họ tu Đạo Vô Thượng lần lần, chớ để thối thất.

Nếu có trời, người, phải theo nghiệp thọ báo, đọa vào ác đạo; khi vừa đến ngưỡng cửa, mà những chúng sanh này có thể niệm được danh hiệu một đức Phật, một vị Bồ Tát, hay tụng đọc một câu kinh, bài kệ của kinh điển Đại Thừa, thì ông hãy dùng thần lục, phương tiện cứu vớt, hiện thân vô biên ở chỗ những người đó, vì họ phá tan địa ngục, làm cho họ được hưởng vui thù thắng vi diệu”.

Đọc đoạn văn này xong, chúng ta cùng tĩnh tâm suy gẫm, ắt sẽ hiểu vì sao tôi được cứu và cũng rõ được uy thần thệ nguyện Bồ-tát Địa Tạng.

Ngài rất từ bi, có đại thần lực, có biện tài bất khả tư nghị!

Bồ-tát một bề ở bên chúng ta, hộ niệm ta, xưa nay chưa bao giờ quên thệ nguyện của Ngài.

Nếu như đời này tôi không thành tâm qui y Tam bảo, qui y Bồ-tát Địa Tạng, quyết lòng tu sửa, hành theo đạo vô thượng… thì căn cứ theo ác nghiệp mình gây tạo, sau khi mãn thân người rồi, chắc chắn tôi sẽ đọa địa ngục vô gián vạn kiếp khó ra, vì những tội lỗi tôi đã làm, đáng phải chịu báo như thế!

Mấy tháng cuối năm nay, tôi vui học đạo cùng đông đảo chúng cư sĩ.

Nhờ các pháp lữ dạy khuyên, khi thực hành cùng tập thể pháp lữ tại gia, tôi thầm cảm nhận được sức gia trì hộ vệ của đoàn thể phi thường mạnh mẽ và tốt lành, càng cảm động và thầm mừng cho phố Mai Châu có được đạo tràng tốt.

Dưới sự hướng dẫn thông tuệ của thầy trụ trì Minh Huệ, ngài hóa độ tứ chúng nỗ lực tinh tấn tu không lười.

Người khắp nơi đổ về viếng chùa lễ bảo tháp Thiên Phật trang nghiêm, lắng nghe đại sư khai thị, tiếp thu chánh pháp, tịnh hóa tâm linh, tẩy sạch trần cấu, hiển lộ Bồ-đề.

Tôi từ một kẻ hung dữ tục tằn không biết đạo, nhờ Phật pháp mà chuyển hóa mà thay đồi cả cuộc đời theo hướng tốt.

Mong quý vị đọc chuyện của tôi thu được nhiều lợi ích.

Khâu Kiện Hào

Nguyện đem công đức này,

Trang nghiêm cõi nước Phật

Trên đền bốn ân nặng.

Dưới cứu khổ muôn loài.

Nguyện những ai đọc, xem…

Đều phát tâm Bồ-đề,

Mãn một bảo thân này,

Đồng sinh cõi hạnh phúc.

CHÚ THÍCH

1.

Tứ trọng quyết định thanh tịnh minh hối.

2.

Bị ách nạn vây bùa khốn đốn, khổ sở.

3.

Liễu: có nghĩa là “hiểu, dứt, giải quyết, thanh toán, trả xong”.. vì vậy tôi giữ nguyên không dịch, để quý vị tự giải hay hơn.

4.

Là cả nhà đồng tu, công phu sớm tối, ăn trường trai, học theo hạnh Phật, nghiêm trì ngũ giới, giữ gìn thân khẩu ý… phát triển trí, bi, làm lợi minh, lợi người, y theo pháp Phật.

5.

TAM TỊNH NHỤC: Tam tịnh nhục là ba món thịt nằm bong ba điều:

1.

Mắt chẳng thấy người giết

2.

Tai chẳng nghe người giết

3.

Chẳng phải là giết cho mình ăn.

6.

Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện

7.

Tức là báo ứng đang trả còn nhẹ, chỉ mới chớm ra hoa.

Đen khi phải trả đúng “quả” thì rất nặng!

8.

Bản Hán văn trang 167

9.

Quỳ sứ âm cung.

Tác giả không biết nên gọi là quái vật.

10.

Cảnh trong mộng luôn biến chuyển, vì vậy mà tác giả thấy Bồ-tát hiện trên đầu giường.

11.

Quyển hạ, Phẩm Chúc Lụy trang 130 bàn Hán văn.
 
Báo Ứng Hiện Đời
Quyển 5


NHÂN QUẢ GIẢI THEO PHẬT GIÁO

(báo ứng hiện đời tập 5)

Hạnh Đoan

sưu tầm và biên dịch

Nhà Xuất Bản Phương ĐôngLỜI NGƯỜI DỊCH

Khi các cuốn sách nhân quả vừa phát hành, tôi vô cùng cảm động khi được chư độc giả Phật tử khắp nơi, chân thành phản hồi chia sẻ kinh nghiệm, có nhiều người dù đang ở hải ngoại nhưng do xúc động quá không thể ngủ được, nửa đêm đã gọi điện về cho người phụ tá của tôi, bày tỏ niềm hân hoan hạnh phúc... có một nữ giáo sư xinh đẹp trí thức (hiện ở Mỹ) khi đọc chuyện "Nước Tràn Kim Sơn Tự" trong cuốn "Báo ứng Hiện Đời Tập 3" đã xúc động thực hành theo, không ngờ nhờ vậy mà đôi mắt bệnh (có nguy cơ mắt ánh sáng) của cô đã phục hồi thị lực hoàn toàn.

Có những thanh niên du côn sau khi đọc những sách nhân quả xong thì đã thức tỉnh tu sửa và hóa thành... hiền nhân.

Vì vậy, quý độc giả có nhu cầu chia sẻ kinh nghiệm xin liên hệ số điện thoại người đại diện của dịch giả: 0938.422.977

Tôi chân thành cảm ơn chú Chánh Đạo, một Phật tử chưa từng biết mặt, nhưng đã nhiệt tình đóng góp công sức, nhìn thời gian giúp tôi sửa máy, nếu không có chú thì không thể có các tác phẩm này.

Xin cảm ơn Viên An luôn sẵn lòng trợ giúp, sốt sắng cung cấp các đĩa kỹ thuật và nhiệt tình hướng dẫn.

Nhờ em mà tôi có thể tự thiết kế bìa, dàn trang, ra sách...

Xin cảm ơn út Chiến, khi máy bị cháy tôi chỉ biết ngồi rầu, nhưng em đã kịp thời cứu nguy, giúp tôi sử dụng bình ổn .

Xin cảm ơn ai đó dù không biết mặt, nhưng khi nghe tôi bệnh, đã phát nguyện xin giảm thọ, cầu cho tôi được bỉnh phục sống lâu, mà tiếp tục phiên dịch, ra sách...

Xin cảm ơn Hồng Minh Châu đã hy sinh rắt nhiều để hỗ trợ tôi.

Xin cảm ơn một người đã giúp tôi rất lớn nhưng nhất quyết ẩn danh.

Xin cảm ơn Thanh Hải đã nhiệt tình phụ thiết kế, giúp chỉnh sửa bản in chỉnh chu.

Xin cảm ơn Diệu An, cô Nguyên Tâm không ngừng động viên, góp ý, để tôi thực hiện nội dung hoàn mỹ hơn.

Xin cảm ơn Liễu Như và những tình nguyện viên biếu sách thầm lặng, đã tận lực quảng bá sách khắp nơi mong mọi người hiểu nhân quả.

Vì vậy mà mỗi khi tác phẩm hoàn thành, tôi luôn thầm tri ân và xin được hồi hướng phước điền này đến chư vị...

Mong rằng cuốn "Nhân Quả Giải Theo Phật Giáo" này sẽ tiếp tục đem đến cho quý vị nhiều lợi ích.

Xin cảm tạ nhiệt tình hỗ trợ ra mặt hoặc âm thầm lặng lẽ của chư vị ân nhân.

Xin hồi hướng phước điền dịch thuật này đến hương linh cháu Carol Chi Phan và tất cả chúng sinh trong pháp giới.

Cầu mọi người luôn an lạc hạnh phúc, phẩm hạnh cao quý, hành xử quang minh chính đại, để cùng xây dựng nên một cõi nhân gian ưu mỹ.

Cuối cùng, xin quý vị vui lòng tha thứ cho những sai sót của người dịch.

Hạnh Đoan - 29/2/2015PHẦN 1

TÂY DU KÝ VÀ PHONG THẦN

Sư phụ, nghe ngài phân tích nhận định truyện Bạch Xà, con cảm thấy rất có lý.

Hiện tại con còn vài vấn đề muốn thỉnh giáo sư phụ: Tây Du Ký là bộ truyện trứ danh rất được quần chúng ưa thích, đã dựng thành phim và được bao người hoan nghinh...

Nhưng hồi nhỏ xem phim, con cảm thấy Đường Tăng quá khiếp nhược, yếu đuối... vì sao Bồ tát Quan Âm lại bảo Tôn Ngộ Không bái ông làm thầy?

Hơn nữa, ngài còn truyền chú cần Cô cho Đường Tảng để trị kẻ chuyên "phạt ác dương thiện" như Tôn Đại Thánh?

Đường Tăng không tài giỏi hơn, sao có thể giáo hóa đồ đệ chứ?

Câu chuyện này theo quan điểm Phật giáo phải giải thích như thế nào đây?

Hòa thượng Diệu Pháp đáp:

- Tôi cho rằng nếu hiểu Phật pháp, thì nên giải thích Tây Du Ký như thế này:

Như trong sách đã nêu, bản thân Đường Tăng theo pháp Tiểu thừa, cho nên Bồ tát Quan Âm mới hóa hiện thành một lão Hòa thượng, chỉ điểm, mách cho Đường Tăng nên đi Tây phương bái kiến Phật tổ, xin thỉnh kinh Đại thừa.

Đường đi Tây Thiên thỉnh kinh thực tế là con đường mà ngài Huyền Trang tu hành, tự độ và độ người.

Nhưng đường tu không bao giờ bằng phẳng, luôn có đầy gian nan hiểm trở.

Ba đồ đệ đi theo Đường Tăng, là đại diện cho ba loại ác tập: tham, sân, si, của mỗi chúng sinh.Trư Bát Giới đại diện cho người tham dục trầm trọng: tham tài, tham sắc, tham danh, tham lợi, tham ăn, tham ngủ... vì vậy mới bắt ông giữ tám giới, hàm ý rằng chỉ có giữ giới mới dập tắt tham dục; chỉ có giữ giới mới hoạch đắc trí huệ, cho nên gọi là Ngộ Năng.

Tôn Ngộ Không là đại diện cho những kẻ hành sự có trách nhiệm bổn phận, có tài, nhưng khí sân rất lớn!

Ban tên Ngộ Không, chính là báo cho những dạng người này phải hiểu rõ đạo lý: "Tất cả vô thường, vạn pháp giai không".

Còn Sa Ngộ Tịnh là chỉ những người thực thà phúc hậu nhưng ngu si, vì không hiểu rõ Phật pháp, nên tạo nhiều tội nghiệp (ăn thịt sát sinh), ông từng ở sông Lưu Sa chuyên ăn thịt người mà sống.

Đặt tên Ngộ Tịnh là muốn ông tu tịnh hạnh (hạnh thanh tịnh) nếu muốn thoát ly tam giới thì cần phải từ bi, bất sát.

Đường Tăng thân là sư phụ, xem tứ đại giai không, chẳng bị tài sắc danh lợi quyến dụ, tuy không giỏi tài phép như các đệ tử, nhưng những phút giây ở sát bên bờ vực sinh tử, đối diện với chuyện sống chết, ông vẫn xem nhẹ và tuyên bố:

"Thà tiến lên một bước hướng Tây phương mà chết, chứ quyết chẳng lui về để được sống" - gặp lúc Ngộ Không phá giớt sát, chẳng vâng lời thầy nên ông buộc phải niệm chú cẩn Cô...

điều này hàm ý rằng: dùng giới luật để câu thúc, khiến y cải tà quy chính.

Đường Tăng không thề đằng vân giá võ, không thể biến hóa, chỉ biết nhất tâm niệm Phật, hàm ý rằng: "Mục đích tu hành không phải để cầu thần thông".

Còn xem Ngộ Không dù thần thông quảng đại, gặp lúc yêu quái có tài phép quá giỏi, chẳng phải y cũng thúc thủ hết cách sao?

Nhưng cuối cùng thì tà không thể thắng chánh!...

Gặp lúc sinh mệnh nguy hiểm Đường Tăng nhất tâm niệm Phật, Bồ tát Quan Thế Âm chắc chắn sẽ yểm trợ cho phùng hung hóa cát, giúp Đường Tăng biến nguy thành an.

Vả lại một số yôu quái Ngộ Không đối phó không nổi, đa số đều là thị giả các thánh nhân hoặc là các súc vật thuộc hạ của họ tác quái...

Đây phải giải thế này: Chư Bồ tát, tiên nhân vì muốn giúp đỡ Đường Tăng sớm chứng thánh quả nên cố tình chế ra chướng ngại...

Tất cả đều là thử thách khảo nghiệm, xem ổng ứng phó làm sao?

Đường Tăng ngay nơi cửa ải sinh tử, cũng chưa bao giờ trách Bồ tát Quan Thế Âm đã xúi ông đi lấy kinh!

Tôn Hành Giả có thể cỡi mây đi mười vạn tám ngàn dặm, thế mà chẳng ra khỏi bàn tay Phâật tổ NhưLai.

Nếu nhà Phât muốn đem Kinh Điển Đại Thừa giao cho Đường Tăng, thì điềnày quá dễ dàng, chẳng phải Ngài chỉ cần nhấc tay một cái là xong ngay hay sao?

Hoặc giả, cứ cho Tôn Ngộ Không đi lấy Kinh thì cũng giảm bớt rắc rối vậy?...

Thế nên, bộ Tây Du Ký này cảnh báo cho chúng ta biết là: Tu hành rất gian nan, trong một đoàn thể học Phật, luôn có đủ hạng người như thề cầu đạo.

Đoàn thể Phậ giáo chính là một lò trui luyện vĩ đại "kiêm thu tinh súc" tiếp thu thâu tóm tấ cả.....

Phật pháp là chí cương, không gì có thể phá vỡ, Phật pháp cũng chí nhu, không gì có thể chia cắt....

Chỉ cần mọi ngườluôn bảo trì cháh niệm tu hành, thì có thể cùng dựng đạ nghiệp.

Cho nên, trải qua muôn ngàn năm gian nan nguy hiểm rồi, cuối cùng bốthâyầ trò cũng gặp Phật tổ.

Nhưng đế lúc vào "Tàng Kinh Các" lấy sách lại gặp chướng ngại, đây ngụ ý nói rằng: " Chỉ cầ chưa thành Phật thì vẫn còn vô minh", cũng giải thích rằng: "Chịu buông xả, thì mới có thể được".

Trên đường về, tất cả kinh Phật đều bị rơi xuống nước, cuối cùng chỉ còn lại sáu chữ "Nam mô A Di Đà Phật!

Trong "Kinh Kim Cang" Phật cũng từng nói qua: "Nếu nói Như Lai có thuyết pháp tức là báng Phật"đồng thì cũng ám chỉ: vào thời mạt pháp sau này, tất cả văn tự Kinh thư từng có sẽ dần tiêu mất, đầu tiên là "Kinh Lăng Nghiêm...đến cuối cùng chỉ còn sáu chữ "Nam mô A Di Đà Phật!" mà thôi.

Thực ra kiểu giải thích này của ta chỉ là cố gắng "sửa cong thành thẳng", bất đắc dĩ phải làm như vậy.

Chứ thực tế thì "Tây Du Ký" và "Phong Thần" là hai tác phẩm được thành hình bắt nguồn từ sự tương tranh giữa Phật giáo và Đạo giáo, do đôi bên công kích nhau mà có.

Gần đây, Ngài Hư Vân - ngôi sao Bắc Đẩu Thiền tông - đã từng giải thích về lai lịch hai bộ truyện này như sau:

"Năm đó ở Bắc Kinh Hòa thượng Bạch Vân giảng "Đạo Đức Kinh" nơi Bạch Vân Tự, rất nhiều đạo sĩ chạy đến nghe rồi xin gia nhập Phật môn đổi làm Hòa thượng, khiến các đạo sĩ tại Trường Xuân Quán bất bình, nên thưa kiện lên quan...

Triều đình muốn hóa giải mâu thuẫn giữa hai bên nên ra lệnh cho Trường Xuân Quán (của Đạo sĩ) đổi thành Chùa Trường Xuân, còn Chùa Bạch Vân (của các Sư) phải đổi thành Bạch Vân Quán.

Các đạo sĩ không phục, bèn viết ra bộ tiểu thuyết Tây Du Ký, mục đích là để mạ lỵ Phật giáo, vì vậy người xem Tây Du phải có trí tuệ và mắt sáng, nếu hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử lúc đó thì sẽ nhìn ra chân tướng ngay.

Điều lợi hại nhất là, trong tiểu thuyết miêu tả Đường Tăng thỉnh kinh xong, khi về đến Thông Thiên Hà, thì toàn bộ kinh Phật đều rơi xuống sông bị mất chữ hết, cuối cùng chỉ còn lưu lại sáu từ "Nam mô A Di Đà Phật!"

Đây chính là bọn họ muốn nói: toàn bộ công trình phiên dịch kinh Phật của ngài Huyền Trang là giả hết.

Đáng tiếc là thế nhân sau này lại ngộ nhận và cuồng nhiệt lầm tin vào Tây Du Ký, khiến cho chuyện Tây Du Ký thực sự của ngài Huyền Trang bị chôn vùi, bị xuyên tạc, mai một...

Để đối phó với tiểu thuyết Tây Du Ký, bên Hòa thượng cũng "đáp lễ" lại, họ viết ra "Phong Thần Bảng" để mạ đạo sĩ.

Nhìn theo quan điềm này thì sẽ nhận ra trong truyện chỗ chỗ đều là... mạ đạo sĩ!

Chẳng hạn như nói đạo sĩ tu tiên tất nhiên có công phu, nhưng thảy đều lần lượt bị đao tru tiên hành hình.

Người xem hai bộ tiểu thuyết này, nếu không hiểu rõ bối cảnh lịch sử Phật giáo và Đạo giáo tương tranh ngày ấy, thì sẽ ngộ nhận, lầm cho giả là thiệt!

Vì vậy, đọc sách cần phải sáng trí, khéo nhìn rõ đúng sai, giỏi phân biệt tà - chính...

Chú thích: Xin hãy đọc lời giảng giải, khai thị của ngài Hư Vân.

Còn trong đây chỉ là lời giải của Hòa thượng Diệu Pháp.

Ngài còn đề nghị chúng ta nên đọc kỹ "Kinh Lăng Nghiêm, để có đủ trí tuệ và con mắt sáng giỏi phân biệt chánh, tà; phải, quấy... chúng ta nên đọc nhiều tác phẩm do chính chư đại đức cao tăng sáng tác, mới có thể khai mở trí tuệ cho mình.



CƯ SĨ CHÂN MINH

Ngôi nhà nhỏ hai tầng lầu của cư sĩ Chân Mình vừa khánh thành trong tiếng pháo nổ giòn tan, vợ chồng Chân Minh hân hoan dìu cha mẹ già 80 tuổi vào nhà mới.

Chiều hôm đó, họ đãi tiệc nhỏ (gồm trà nước hoa quả bánh trái) cho các láng giềng thân thuộc đến chúc mừng tân gia.

Tòa kiến trúc hai tầng của họ là ngôi nhà lầu đầu tiên trong thôn nên được mọi người đặc biệt chú ý, nhất lả cách đây ba năm, gia đình họ còn thuộc hạng nghèo nhất trong làng, nghèo đến cái nhà bếp cũng không có.

Bếp của họ được vừng bằng hai manh chiếu rách với bốn cọc cây chống đỡ.

Mưa xuống là cái hỏa lò (được tạo hình bằng ba viên gạch mẻ) bị ướt nhẹp...

Cả nhà họ, trên có phụ mẫu, dưới có bốn con, gánh nặng gia đình trút cả vào vai nàng dâu (vợ của Chân Minh).

Vậy thì Chân Minh ở đâu?

Đi đâu mà trốn trách nhiệm vậy?...

Chuyện này phải kể từ lúc chính phủ bắt đầu cải cách, lúc đó Chân Minh đem ruộng đất giao cho người nhà quản, còn bản thân thì làm Giám đốc Công ty Bao bì.

Mới đầu tuy làm quần quật nhưng anh cũng gánh vác được.

Sau đó vì muốn kiếm thêm tiền, làm ăn lớn, nên anh hướng ngân hàng vay hai mươi vạn.

Thấy cơ sở anh có thể ăn nên làm ra, ngân hàng bèn chấp nhận cho vay.

Có tiền, Chân Minh bèn tìm bạn hợp tác, không lâu thì bị những người gọi là "bạn chí thân" này phản, họ "cuỗm" trọn gói tiền trốn mất.

Lúc này Chân Minh khó bề trụ vững, bị ngân hàng đòi nợ, tòa án gửi trát đến tận nhà...

Chân Minh cùng đường vô kế khả thi, chỉ còn nước đánh bài "chuồn", vội chạy đến nương tựa người bạn thân là Đan Lương ở huyện H.

Lúc này Đan Lương đang định đến thành phố T.

để tìm tôi, vì biết tôi đang bái một vị cao táng ở đó làm thầy, tất nhiên Đan Lương không bỏ qua duyên lành này, bèn dẫn theo anh bạn giám đốc sa cơ (đang chao dao hồn phách là Chân Minh) theo cùng, nhờ tôi đưa họ đến bái kiến Hòa thượng Diệu Pháp luôn.

Duyên số đúng là không thề nghĩ, Chân Minh do bị bạn phản ôm hết tiền trốn mất, nhờ vậy mà trở thành đệ tử Hòa thượng Diệu Pháp.

Khi về đến nhà Đan Lương, Chân Minh không dám trú lại đây, vì nghe tin Viện Kiểm sát đang phái người tìm đến dò la hành tung mình.

Thế là anh đành náu thân tại một vùng đất hẻo lánh, ngụ trong chòi hoang, trông coi địa khu này.

Đan Lương mỗi ngày thăm nuôi một lần.

Do ở đây không có người vãng lai, nên đặc biệt thanh tịnh yên tĩnh.

Chân Minh ở đây suốt tám tháng ròng, tám tháng này trừ ngủ nghĩ và ngồi thiền ra, anh lo học thuộc và chuyên tụng chú Lăng Nghiêm, sống giống hệt như cảnh người xuất gia bế quan nhập thất: lo ăn chay, niệm Phật, tụng chủ Lăng Nghiêm (dưới sự hướng dẫn theo dõi của Hòa thượng Diệu Pháp).

Tối đến không có đèn điện, kể cả đèn dầu cũng không thắp.

Lúc anh tập ngòi xếp bằng, do đã hơn 40 tuổi, lại thêm chân to, bụng bự, nên tập khoanh đùi rất khó khăn, do chẳng làm được, nên rất phiòn não.

Một đêm nọ, anh đang vất vả tập ngồi xếp hằng, bỗng thấy một Hòa thượng mập mạp ngồi đối diện với anh, dạy anh cách tĩnh tọa làm sao... và bảo:

- Ngươi quá béo, có thể tập ngồi giống như ta nè!

Thế là anh bắt chước làm y theo Hòa thượng mập, đem đùi phải đặt ở trên và đùi trái khoanh lại ở dưới.

Hai tay úp xuống, buông thả tự nhiên trên hai đùi, hai mắt khép nhẹ...

"Ồ!

Bóng đêm đã biến thành bầu trời xanh lam, chung quanh mênh mông, im vắng, không một âm thanh... mình đang ở đâu nhỉ?

Sao không nhìn thấy thân thể mình nữa cà?

Nhưng mình vẫn còn tư tưởng, hỏng lẽ... mình chết rồi ư?"

Trong lòng có chút căng thẳng Chân Minh vội mở mắt ra, trời đã mờ mờ sáng, anh thấy rõ ràng mình vẫn đang còn ngồi, nhưng Hòa thượng mập thì chẳng thấy đâu cả...

"Minh chẳng phải đang mơ ư?"...

Chân Minh ngó xuống, kiểm lại, thấy chân mình vẫn xếp bằng hệt như tư thế Hòa thượng mập đã chỉ dạy.

"Mình không mơ mà, thế sao trời đã sáng?...

Đúng là trời tối không lâu thì mình bắt đầu ngồi tĩnh tọa, sau đó có ông Hòa thượng mập đến dạy mình ngồi, chỉ mới một chút thôi mà?...

Nhưng giờ trời đã sáng?

Hỏng lẽ... mình... ngồi suốt cả đêm ư?

Nhưng tinh thần mình rất tỉnh táo, rất tốt mà?"...

Sáng hôm đó Chân Minh suy nghĩ miên man, thắc mắc mãi, cho tới khi Đan Lương đem cơm đến, anh hấp tấp kể lại câu chuyện đêm qua.

Đan Lương nói:

- Vùng này không có Hòa thượng nào giống như anh tả cả!

Trưa hôm sau Đan Lương đem cơm đến, còn mang theo các hỉnh Phật cho Chân Minh xem.

Chân Minh vừa nhìn, liền nhận ra ảnh vị Phật ngồi nơi hàng đầu, reo lên:

- Đúng rồi, tướng mạo giống y như Hòa thượng này nè, đêm qua "ổng" đã dạy tôi ngồi hệt như vậy đó.

Đan Lương bảo Chân Minh:

- Vị này là Bồ tát Di Lặc, sẽ là Phật trong tương lai nên còn gọi là Phật Di Lặc.

Anh tu công phu không nhỏ, mới có thể cảm được Phật Di Lặc đến dạy như thế...

Trong tương lai nhất định anh sẽ thành tựu đó.

Chân Minh sực nhớ đêm qua Phật Di Lặc kêu mình là Hằng Vân, còn nói đó là pháp danh...

Anh hỏi bạn:

- Vậy pháp danh là sao?

Đan Lương giải thích:

- Pháp danh là tên đặt cho đệ tử quy y Phật, cũng có lẽ đời trước anh từng là người xuất gia, vi anh tĩnh tọa rất giỏi mà.

Sớm muộn gỉ rồi sẽ có ngày anh hiểu rõ hết thôi!

Mấy tháng sau đó, Chân Minh mỗi khi tĩnh tọa thấy xuất hiện đủ cảnh giới, trong đây không thề ghi kỹ (nhưng anh không hề chấp trước, tự cao, luôn nhớ rõ "Kinh Lăng Nghiêm" đã dạy: "Nếu cho mình chứng thánh ắt sẽ lạc tà"...

Mãn tám tháng, Đan Lương báo tin: Hiện có một giám đốc công ty vận tải, cần tuyển một người có thể trường kỳ trú ở Sơn Tây đảm nhận công tác phân phối than.

Lương mỗi tháng một ngàn, thế là Chân Minh tức tốc đi nhận việc.

Một ngàn này đối với anh mà nói, đủng là "buồn ngủ gặp chiếu manh", là dịp may cho người gặp nạn, vì anh có thể dùng để phụ giúp gia đinh.

Chân Minh vốn là người con đại hiếu, tám tháng nay anh chưa hiếu kính song thân được một xu nào, nếu như chẳng phải Hòa thượng Diệu Pháp khuyên anh "vạn duyên buông hết", dốc tâm học thuộc chú Lăng Nghiêm, thì trong lòng anh vẫn còn đầy ưu tư phiền muộn.

Chớp mắt đã ba năm trôi qua, suốt ba năm này Chân Minh công tác đều đặn, cứ cách ba, bốn ngày anh lo điều xe, kiểm tra máy móc, tải hàng đến chủ nhận phí vận chuyền, chỉ cần than có chất lượng tốt là đủ rồi.

Ngoài ăn ngày ba bữa ra, thời gian rảnh còn lại anh toàn ngồi "kiều Di Lặc", và luôn tụng nhuần nhuyễn chú Lăng Nghiêm.

Hòa thượng Diệu Pháp buộc anh bình thường mỗi ngày phải tụng bốn, năm mươi biến.

Tối đến anh tĩnh tọa, một lần ngồi mấy tiếng...

Ngày nọ, người chủ báo tin cho Chân Minh hay là giữa ông và hãng xưởng phát sinh mâu thuẫn, nên bên họ chẳng kêu ông chở hàng nữa và bảo Chân Minh hãy đi đến xưởng tính sổ, sau đó hợp đồng làm ăn giữa họ kết thúc.

Nào ngờ khi chủ xưởng gặp Chân Minh, ông ta ngỏ ý muốn làm việc cùng anh và mời anh tiếp tục cung ứng hàng cho xưởng.

Chân Minh vội kể bản thân mình không có vốn... nhưng chủ xưởng nói chỉ cần anh bảo đảm chất lượng than, thì mỗi tháng họ sẽ trả lương cho anh.

Thực lòng Chân Minh rất muốn hợp tác, bởi xưởng cần người tin cậy để làm ăn, họ lại tín nhiệm anh.

Chân Minh dù không có chút vốn, song lại có thể bắt tay làm việc rất suôn sẻ với người (không phải ai hành nghề này cũng gặp may như anh) do Chân Minh tốt tính, thật thà, anh siêng năng làm việc nhưng phó thác tất cả cho công phu tu trì và sự gia hộ của chư Phật.

Trong kinh Lăng Nghiêm từng thuyết: "Mười phương Như Lai tùy theo tâm chú này, khéo ở mười phương, cứu độ các khổ, nên các khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, mù điếc, câm, oán tắng hội khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thịnh khổ, các nạn tai lớn nhỏ, đói khát bần cùng, nhờ niệm kỉnh này mà tiêu tan...

Mười phương Như Lai luôn hộ vệ người tu trì khiến họ trong tứ uy nghi, được mọi sự cung ứng như ý"...

Thời gian trôi qua, khi Chân Minh có được chi phiếu 20 vạn, thì anh liền đến ngân hàng ngỏ ý xin trả nợ, nhân viên ngân hàng cảm kích, mời anh dùng nước, xúc động nói:

- Số tiền lớn anh vay, chúng tôi cứ ngỡ đã mất trắng, nào ngờ anh còn tim tới giao trả, thật cảm ơn quá!

Chân Minh thưa: Hiện giờ tôi chỉ có thể hoàn vốn, còn phần lãi tức thì sẽ trả sau.

Tôi không thể để quốc gia bị thiệt thòi, xin ngân hàng hãy gia hạn thư thả, cho tôi một thời gian nữa...

Nhân viên ngân hàng vội nói:

- Ồ!

Được!

Được mà!

Chân Minh từ lúc qui y Hòa thượng Diệu Pháp rồi, thì vợ, con và cha mẹ anh cũng đều ăn chay niệm Phật theo.

Xưa nay giữa mẹ chồng nàng dâu quan hệ không tốt, nhờ đây mà được cải thiện rất nhiều.

Vợ Chân Minh tâm sự với tôi:

- Từ khi hiểu Phật pháp rồi, những lúc mẹ chồng làm tôi nổi giận, thì tôi không còn cự cãi với bà nữa, mà âm thầm đạp xe ra đồng, lặng ngắm gió vờn sóng lúa... những bực bội trong lòng cũng theo đó tiêu tan...

Mỗi lần Chân Minh từ Sơn Tây gọi điện về, anh luôn nhắc tôi phải nhớ niệm Phật siêng năng, còn kể là anh dụng công tu trì rất miên mật...

Vợ Chân Minh nói tiếp:

- Tự hồi biết tu niệm, dù đạp xe hay công tác cấy cày... có làm gì thì trong tâm tôi lúc nào cũng niệm: "Nam mô A Di Đà Phật!"

Hễ tan việc, về nhà, đi trên đường tôi vẫn: "Nam mô A Di Đà Phật!"

Lúc chung quanh không có ai, thì tôi còn niệm lớn lên, trong lòng thiệt là an tĩnh sướng khoái... về nhà ăn cơm, cũng không còn bưng chén ra ngoài tán gẫu với hàng xóm nữa, bởi vì ăn xong tôi vẫn phải niệm Phật, luôn cảm thấy không đủ thời gian tu niệm, nên chẳng còn nói chuyện tào lao...

Nhiều người thấy nhà tôi ngày một phát, xúm nhau hỏi chúng tôi làm gì mà từ nghèo biến thành giàu vậy?...Tôi nghĩ không ra bèn nói:

- "Nhờ Phật pháp" đó!

Vợ Chân Minh kể:

- Hiện nay người bắt chước tu niệm theo chúng tôi ngày càng nhiều, bởi vì nửa năm trước trong thôn có một người bị chứng si ngốc (vong dựa xác), tối ngày cứ lầm bầm nói bậy, quậy phá...

Tôi bèn dẫn con trai đến xem thử, lúc vừa bước vào sân thì nghe y ở trong phòng đang hét to.

Hai mẹ con vừa vào cửa thì thái độ bệnh nhân lập tức thay đổi, y trở nên rất hiền lành, thật thà, cứ ngó chăm chăm vào hai mẹ con tôi.

Có người hỏi y:

- Sao không gây gổ làm ầm ĩ huyên náo nữa vậy?...

Y bảo: Hai người này vừa bước vào toàn thân phủ đầy ánh kim quang gia trì của chư Bồ tát, nên tôi không dám quậy phá.

Con trai Chân Minh bảo:

- Vậy vong hây rời khỏi đây đi nha?!

Vong nhân nói:

- Chưa được các vị dạy, chúng tôi đâu dám đi!

Thế là con Chân Minh liền bảo:

- Vậy bạn hãy niệm "Nam mô A Di Đà Phật!"... nha!

Vong nhân học thuộc một câu này xong liền nói:

- Thế thì tôi có thề đi đầu thai được rồi!

Vừa dứt câu thì người bệnh ngã xuống bất tỉnh giống như ngủ, người nhà khiêng lên giường.

Ngủ xong một giấc thì hôm sau bệnh nhân tỉnh dậy, việc trước đó họ không nhớ chút gì, tinh thần trở lại bình thường.

Việc này đồn lan khắp toàn thôn, người ta bảo nhau: "Ma quỷ sợ người ăn chay niệm Phật", thế là họ rần rần kéo đến tìm vợ Chân Minh, xúm nhau học cách niệm Phật ăn chay.

Những lúc vụ mùa rảnh, từ nhà Chân Minh thường xuyên vang lên âm thanh tụng kinh và chú Lăng Nghiêm chí thành của bao người.



ĐỪNG TRUYỀN LUẬN THUYẾT HỒ ĐỒ

Hỏi: Nửa tháng trước tôi có thỉnh một tượng Quan Âm, đã bỏ ra 20 đồng đề khai quang, sau đó vui mừng đem về nhà.

Nào ngờ khi bạn bè hỏi thăm, biết tồi đem tượng Phật vào nhà sau 11 giờ trưa thì họ thất sắc la tôi:

- Thỉnh tượng Phật phải lo mà đem vào nhà trước 11 giờ chứ!

Nếu không, cho dù có khai quang rồi thì chẳng những không linh, mà còn bị gặp tai họa nữa!...

Kết quả là chưa đầy mấy ngày thì xe đạp tôi bị mất trộm.

Đến giờ tối vẫn còn lo sợ, vì chẳng biết từ rày về sau còn xảy ra tai họa gì nữa không?

Do vậy mà tôi đến thỉnh giáo ngải, phải làm sao để thoát khỏi tai nạn?

Đáp: Nếu nói "đem tượng Phật vào nhà không đúng giờ sẽ chiêu họa tai đến cho gia đình", thì liệu còn ai dám thờ Phật nữa?

Xin các vị cư sĩ đừng có tuyên truyền cái luận thuyết hồ đồ làm lầm lạc người như thế!

Truyền điều mê lầm thiếu trí tuệ, thiếu hiểu biết thì sẽ thành là ác tri thức!

Nếu bạn cứ dùng thuyết sai lầm này đề hướng dẫn người tức là làm trái nhân quả đấy!

Có người còn nói không được tụng "Kinh Địa Tạng" ở nhà, vì vừa tụng kinh tiều quỷ liền đến...

Rồi còn nói chỉ có ở trên lầu cao nhất mới có thể thờ Phật, nếu cúng dưới nhà người là không cung kính... (Vậy những ai ở chung cư thì không được thờ hay sao?) rồi nào là chú Lăng Nghiêm phải tụng lúc 3-5 giờ sáng, phải thế này, phải thế kia V.V....

Đây toàn là tà thuyết gây chướng ngại cho người tụng kinh, trì chú, thờ Phật...

Có lẽ người nói có lòng tốt, nhưng tuyên truyền như vậy lại thành trự giúp ma vương mà không hay.

Bạn nên hiểu, giờ nào cũng đều có thể thỉnh Phật vào nhà, còn chuyện khai quang?

Đấy chỉ là hình thức mà thôi.

Nên biết, Phật không cần chúng ta khai quang!

Ý nghĩa khai quang là biểu minh rằng: kể từ hôm nay ta bắt đầu lễ Phật, học Phật.

Nếu cứ nói "không khai quang Phật chẳng hiện hữu" là quá sai lầm!

Thờ Phật tại nhà, sẽ giúp chúng ta lúc nào cũng được nhìn thấy tượng Phật, nhắc nhở rằng trong lòng mình lúc nào cũng có ánh sáng trí tuệ chân chính của Phật, nên làm gì cũng phải có chánh tri chánh kiến.

Điều cần làm nhất, thờ phụng tốt nhất chính là: bản thân phải ngưng dứt tham sân si, siêng tu giới định huệ.

Cho nên thỉnh tượng Phật về nhà, có thể cúng thờ ở chỗ nào mà ta cảm thấy thích nhất, hợp nhất là được.

Sau khi bày hương hoa cúng phẩm, dâng hương đảnh lễ Phật xong - là xem như khai quang ròi!

- Người có thiên nhãn sẽ nhìn thấy tượng Phật phóng kim quang.

Còn không thiên nhãn vẫn có thể dùng tay cảm nhận khí này (chẳng hạn như ở cách mấy mét nhẹ nhàng thử đầy Phật tượng, cảm thấy có một lực cản vô hình).

Chỉ là tôi muốn nói với các vị: Tượng Phật thỉnh về được ta dùng tâm cung kính đảnh lễ rồi sẽ khác đi, chính xác là Phật Bồ tát sẽ phân thân hiện hữu tại đó (cũng không nên chấp trước vào việc thử xem có cảm nhận được khí lành hay có thể nhìn thấy kim quang không?)...

Nếu thỉnh Phật về rồi, trong lúc lễ, bạn có thề tụng 3, 7, 21, 49 biến "Chú Đại Bi" hay Bát Nhã Tâm Kinh, hoặc Kinh Kim Cang, Kinh A Di Đà (hay những kinh nào mà bạn muốn tụng) đều tốt cả (như cúng tượng Địa Tạng Vương thì có thể tụng 1-3 bộ)...

Tóm lại, bạn cho rằng làm sao trang trọng cung kính nhất thỉ cứ an vị như thế!

Phật nói "tất cả do tâm tạo", nên chỉ cần sau khi thỉnh tượng Phật về rồi, bạn cần nghiêm trì ngũ giới, hành thập thiện, thi sẽ trở thành đệ tử chân chính của Phật ngay!

Ngược lại, nếu bạn cứ chấp chặt vào hình thức, đi nhiều chùa khai quang cho lắm, nhưng không lưu tâm lo tri ngũ giới hành thập thiện, thì Phật cũng chẳng giáng lâm nơi nhà bạn!

- Còn chuyện mất xe đạp, xin hỏi: Ngày xưa khi bạn công tác, có lấy của cơ quan sáu cây gỗ dài độ mét rưỡi và một cây dài mười mấy mét chăng?Dạ có, đó là cây cũ do đơn vị không dùng, nên tôi lấy đem về xây nhà bếp.

- Nhưng bạn không được cơ quan cho phép, đã tự tiện lấy đem về nhà!

Làm như vậy là lấy trộm!

Đó là xưa gieo nhân xấu, hiện tại bị mất xe đạp - là do quả trổ!

- Đây chính nhờ công đức bạn thỉnh Phật lễ Phật, nên bắt đầu trả nghiệp, giải nghiệp.

Bạn còn tham chiếm của đơn vị nhiều vật khác nữa, phải mau lo sám hối thì may ra có thể tiêu tội, hoặc được quả báo nặng chuyển thành nhẹ...

Còn cái chuyện mất xe đạp cùng giờ giấc thỉnh Phật vào nhà không ăn nhập gì tới nhau đâu!

Mong tất cả đệ tử Phật đừng có mê tín như thế!



CÔ TÔI

Nghĩ đến việc cứu hộ động vật và làm hại động vật đều có báo ứng, nên tôi quyết định viết chuyện này ra, cho người sơ học hiểu thêm.

Từ lúc tôi bái sư đến thời điểm đó tính ra đã là mùa đông thứ hai.

Lúc này Hòa thượng Diệu Pháp đang ngụ tại nhà tôi.

Ngày nọ cô tôi từ Tây An gọi điện tới, kể rằng: nửa tháng trước do trên đường bị tuyết đóng băng, cô đi đến xưởng làm, sơ ý bị té gãy chân phải, được bạn bè đưa vào bệnh viện.

Lúc nằm trên giường mổ mới phát hiện các đồng nghiệp trong xưởng (tính luôn cô) tổng cộng là 7 người (thảy đều bị thương) phải nhập viện.

Trừ một người nứt xương hông ra, những người khác đều bị gãy xương bánh chè.

Thời đó thuốc men khan hiếm, sau khi mổ xong, bác sĩ nói chân cô khó mà hồi phục hoàn toàn, tương lai sẽ bị tật.

Vì vậy cô rất khổ tâm.

Ba ngày sau cô xuất viện về nhà dưỡng thương.

Lúc đó cô mới hơn 40 tuổi, thầm nghĩ "Nếu như thành người tàn phế, thì thực khó kham!"...

Cô tuyệt chẳng biết việc học Phật của tôi, càng không quen Hòa thượng Diệu Pháp.

Chẳng qua vì khổ quá, nên mới gọi điện kể lề với tôi.

Bởi lúc tôi trò chuyện thì sư phụ cũng đang có mặt, vì vậy tôi cố ý nói to, lặp lại tình huống của cô, mục đích là để cho sư phụ nghe.

Sau đó tôi kể cho cô nghe nhân duyên giữa tôi và sư phụ.

Tôi vừa nói thì cô tin ngay, liền thỉnh cầu xin sư phụ khai thị cho.

Thế là tôi chuyển điện thoại cho sư phụ.

Sư phụ hỏi cô:

- Bốn năm trước con đã từng cứu và băng bó cho một con bồ câu trắng bị gãy xương chân phải không?

Cô nghe vậy thì rất hưng phấn, tôi đứng kế bên nghe được như sau:

- Dạ có, thưa sư phụ!

Bốn năm trước con đến nhà chị đồng nghiệp, vừa vào sân thì thấy có mười mấy con bồ câu đang vây quanh một con bồ câu đi khập khiễng, con hiếu kỳ tiến lại gần xem, thấy con bồ câu nọ bị gãy chân, con bèn kêu chị bạn tới và vội bế con chim lên, chúng con cùng quan sát, hiểu ra con chim bị trúng đạn (do ná bắn), bèn rạch chân nó cho chảy mủ, tiêu độc... rồi dùng rượu và cao dán băng bó cái chân giúp nó, sau đó còn chuốc cây làm nạng tháp vào cho chim đi đỡ.

Cuối cùng thì chân con chim này cũng được lành.

Sư phụ!

Ngài thật tài, có thể biết việc mấy năm trước của con...

Việc này có liên quan đến cái chân gãy của con ư?

Sư phụ lại hỏi:

- Có phải con ưa ăn gà nướng, hơn nữa rất ưa dùng đùi gà và khoái gặm chân, móng nó?

- Dạ phải, con rất ưa!

- Con ra chợ mua gà về, dù nó đã bị giết, nhưng cũng chính bản thân con tại nhà bếp khai đao mổ bụng... chặt chân gà ra, hầm, nấu, chưng rim...

Vỉ nguyên nhân này nên con bị gãy xương đùi, đây gọi là ác hữu ác báo.

Nhưng nhờ con đã từng cứu chữa cho con bồ câu gãy chân, giúp nó lành bệnh, cho nên vết thương con sẽ không lưu di chứng, cứ chịu khó tập chống nạng đi, dần dần sẽ hồi phục...

Cô tôi vui mừng hỏi:

- Do con ưa ăn, chặt... chân gà nên lãnh quả báo bị gãy chân, thế con mổ bụng nó, tương lai chẳng phải cũng bị y viện mổ bụng sao?

Sư phụ cười bảo:

- Con tỉnh giác rất mau, bảo Quả Khanh gởi cho con mấy cuốn sách Phật giáo mà đọc...

Đó là câu chuyện có thực của cô tôi, chân cô sau đó cũng hồi phục mạnh khỏe.



CÁCH LÌA DỤC NIỆM

Có cặp vợ chồng trẻ đến thỉnh giáo Hòa thượng Diệu Pháp, họ kể mình quy y Phật rồi, ăn chay dễ dàng, rượu thuốc gì cũng đoạn trừ được hết, chỉ duy nhất giới dâm, kiêng cữ mấy lần đều thất bại.

Nam cư sĩ kể mỗi khi trong lòng khởi dục, anh thường niệm thầm Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát!

Nhưng cuối cùng cũng bị niệm dâm đánh bại, vì vậy anh rất khổ tâm, xin Hòa thượng chỉ dạy giúp cho.

Sư phụ khai thị:

- Con tinh tấn tu hành, thực đáng tán thán.

Hoa sen sở dĩ thánh khiết, là vì nó xuất thân từ bùn mà bất nhiễm.

Phật Thích Ca lìa vợ đẹp con ngoan xuất gia tu hành, là thị hiện con đường tu thẳng tắt cho chúng ta!

Người tại gia nếu có thể đoạn dục thì cũng đồng như xuất gia không khác, sẽ thành bậc tu hành xuất thể mẫu mực...

Niệm thánh hiệu Bồ tát Quan Thế Âm có thể trợ giúp đình chỉ tâm dâm.

Nhưng không phải để dâm niệm khởi lên rồi mới lo cầu Bồ tát cứu trợ, mà bình thường phải luôn niệm "Nam mô Quan Thế Ấm Bồ tát!", như vậy mới có thể ly dục!

Quan trọng nhất là trước tiên phải minh lý, hiểu rõ đạo lý rồi thì nhờ am tường Phật pháp, mà việc giữ giới dâm tự nhiên thành.

Càng thực hành càng thể ngộ đạo lý trong đó, nên tín tâm càng vững vàng bền chắc.

Đề nghị hai con nên xem và học thuộc "Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch về Tánh Thanh Tịnh" trong Kinh Lăng Nghiêm, sau đó lúc rảnh thì tụng thầm, hoặc đọc nhỏ tiếng.

Những khi tản bộ sớm tối, cưỡi xe, ngồi xe bus, ra ngoài, bất kể. làm gì...

đều có thể tận dụng thời gian hiện hữu để tu trì...

Nên học thuộc thêm chú Đại Bi, chú Lăng Nghiêm.

Mỗi ngày tụng "Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch về Tánh Thanh Tịnh" ít nhất một biến, nếu tụng càng nhiều thì càng tốt.

Nhất là trước khi ngủ phải tụng một biến.

Có thể lấy đây làm thời khóa tụng cho người sơ học (có thể dùng "Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch về Tánh Thanh Tịnh" làm thời khóa tụng sớm tối cho người tại gia).

Nếu cỏ thể tụng thành tiếng, không những bản thân mình được lợi, mà các chúng sinh chung quanh (mắt phàm không nhìn thấy) cũng đang quỳ nghe con tụng, thảy đều được lợi ích, thế thì tự nhiên các con sẽ có công đức vô lượng.

Nếu chuyên cần tu như thế, sau ba tháng, nhất định sẽ khiến niệm dâm nơi thân tâm đều đoạn dứt, mà tính đoạn cũng không.

Chẳng những bản thân đoạn được dâm, mà cả trong ý nghĩ niệm dâm cũng không còn.

Lúc nảy quý vị sẽ sống rất thoải mái ung dung, không ngôn ngữ văn tự nào có thể diễn tả hết, đây là thánh cảnh mà chỉ người đoạn được dâm rồi mới cảm nhận hết những an lạc vi diệu trong đó!

Đạt đến niệm dâm nơi thân tâm đều đoạn sạch cả rồi, thì dù không học thuộc "Tứ trọng thanh tịnh minh hối" vẫn có thể hành trì cả đời (bởi lời Phật dạy đã ghi khắc trong tim).

Lúc này mới phát hiện câu nói: "Trên thế giới không gì khoái lạc hơn dâm dục là sai!".

Vì khoái cảm do dục mang đến chỉ trong chớp mắt, nó không thực sự là khoái lạc, bởi nếu phải tiếp diễn thì càng thêm mệt mỏi, tinh lực cạn kiệt, lúc này không còn là lạc nữa, mà rất khổ... chưa kể chỉnh vỉ dâm hừng thịnh mà sản sinh nhiều tật bệnh, xảy ra mâu thuẫn xung đột giữa phu thê... dẫn tới ly hôn, thậm chí còn khiến đương sự tử vong, yểu mạng!

Người tại gia cần tiết chế thích hợp, nhưng người tu hành nhất định phải đoạn dâm!

Bởi: "Dâm tâm không trừ, trần khó thể xuất".

Có người đoạn dâm được thời gian, tình cờ xuất hiện chứng di tinh, mộng tinh, hiện tượng này là bỉnh thường, đừng thèm lý tới, tự nhiên sẽ hết.

Một khi đã đoạn trừ được dâm, không những thể xác khang kiện, mà còn thu nạp, bảo tồn tinh hoa, có thề kết tụ xá lợi kiên cố không gì sánh.

Thời gian đoạn dục càng dài, thì khỉ viên tịch hỏa thiêu xá lợi lưu càng nhiều.

Xá lợi là thánh vật đồng chư Phật Bồ tát, thế nhân thảnh tâm lễ bái sẽ được nhiều lợi ích!

Cho nên, người tu hành khéo đoạn trừ dâm, sát, đạo, vọng... tất sẽ thành tựu được tri giác vô thượng của Bồ tát.



VÌ SAO HÀI NHI KHÓC

Đầu xuân năm nọ, Tiết Nhan (là nhà láng giềng) đột nhiên gọi điện cho tôi nhờ trợ giúp, kể rằng anh đến chúc tết nhà của sếp, gặp lúc hai vợ chồng họ bối rối khốn khổ nhìn đứa con mới sinh (được hơn tháng tuổi) khóc thét không ngừng suốt hai ngày nay.

Do các bệnh viện không tìm ra nguyên nhân vi sao bé khóc, nên lòng họ nóng như lửa đốt.

Tiết Nhan thấy tình cảnh này, vội gọi điện cho tôi cầu cứu (tôi cũng nghe rõ tiếng đứa bé đang khóc rất dữ), bèn chuyển điện thoại đến cho sư phụ.

Sư phụ bảo Tiết Nhan trao điện thoại cho cha mẹ bé, rồi hỏi:

- Nhà các người có phải rất ưa ăn hải sản (tôm cua cá v.v)...?

Họ đáp:

- Dạ phải.

Dân ở Đài Loan thường ăn các thứ này, chúng tôi cũng vậy!

Sư phụ bảo:

- Nếu bây giờ hai vị phát tâm không ăn hải sản nữa và chịu niệm Phật siêu độ cho những con vật đã ăn qua thì con các vị sẽ lập tức ngưng khóc ngay!

Họ không hiểu, chất vấn:

- Đứa bé khóc thì có liên quan gì đến việc ăn tôm, cua, cá... của chúng tôi?

Sư phụ giải thích:

- Đài Loan đạo Phật rất thịnh, thế mà hai vị đối với Phật giáo lại không biết chút gì sao?

Họ đáp:

- Chúng tôi là ngoại đạo, theo tín ngưỡng thờ Lão giáo của Đài Loan, mà đạo này không cấm ăn các thứ hải sản tươi sống...

Sư phụ nói:

- Thần thức các loài thủy tộc mà hai vị đã ăn qua đang ôm hận và chực sẵn chờ đợi thời cơ báo thù.

Nhưng do hai vị hiện thời phúc báo chưa tận, tuổi trẻ dương khí thịnh, nên các oan gia này bèn chuyển sang quấy rối đứa nhỏ.

Chúng hóa hiện thành đủ hình dạng xấu xí đề nhát dọa hù cho đứa trẻ sợ, các vị có thấy hai cánh tay của bé không ngừng quơ quơ giữa không chăng?

Đó là vì muốn chống lại những linh quỷ dị dạng xấu hình đang khuấy phá... (khiến nó sợ hãi khóc mãi không ngừng).

Oan gia đang dùng cách này làm cho các vị phải sầu muộn lo lắng, tâm lực tiều tụy, như thế thì chẳng bao lâu nữa là chúng có thể đạt được mục đích báo thù!

Phải biết các ấu nhi dưới ba tuổi bình thường đều còn nhục nhãn thông (có thể nhìn thấy cảnh giới mà mắt người không nhìn thấy), sau ba tuổi, do dục vọng thế gian tăng gia, dần dần che mờ hết nên chúng sẽ thấy bình thường lại như người lớn.

Nếu muốn oan gia không quấy nhiễu hù dọa đứa bé nữa, thì ngay bây giờ hai vợ chồng phải lập tức phát thệ không ăn hải sản nữa!

Hai vị cần tuyên bố như vậy, rồi sau đó phải vỉ những con vật mình từng ăn qua niệm thánh hiệu "Nam mô A Di Đà Phật" để siêu độ chúng, làm được vậy thì cháu bé sẽ ngưng khóc ngay.

Ta biết hai vị không tin, nhưng lẽ nào không muốn thử nghiệm xem sao ư?

Đối phương do dự một lúc, bất đắc dĩ đành phải phát lời thề nguyện: "Chúng tôi từ nay về sau không ăn hải sản nữa!"...

Sau đó sư phụ dạy họ niệm thánh hiệu "Nam mô A Di Đà Phật!"

Họ chỉ lặp lại mới vài câu, thì tiếng khóc đứa bé nhỏ dần, rồi từ từ dứt hẳn.

Điều này khiến ông chủ Đài Loan cảm thấy bất ngờ và bị chấn động, cất tiếng cảm tạ sư phụ không ngừng.

Vợ ông cũng bật khóc, nói cảm ơn lia lịa như người máy .

Sư phụ bảo họ:

- Hiện giờ đứa bé đã ngừng khóc.

Bắt đầu từ hôm nay trở đi hằng ngày các vị phải vì những con vật mình ăn qua, siêng năng niệm Phật siêu độ chúng.

Chưa hết, từ đây về sau còn phải phóng sinh cho nhiều để giúp tiêu nghiệp cũ.

Nên nhìn chút thời gian đến Thiền viện Đại Bi thỉnh một số kinh sách về đọc...

Hai vợ chồng đều hứa nhất định họ sẽ lảm theo và siêng năng lễ tụng...

Hai ngày sau, Tiết Nhan cùng hai vợ chồng nọ đi đến tìm Hòa thượng Diệu Pháp lễ tạ.

Nhưng sư phụ đã ra đi từ tối hôm qua.

Tôi bảo họ hãy đem lễ vật cúng dường Thiền viện Đạỉ Bi.



NGUYÊN NHÂN BẤT HẠNH

Một ngày mùa thu năm 2001, một vị cư sĩ dẫn theo một cô khoảng chừng 30 tuổi, trông rất tiều tụy.

Cô quỳ trước Hòa thượng Diệu Pháp khóc mướt, không ngừng kể lể những bất hạnh của mình, quên hẳn hiện trường đang có mấy mươi khách...

- Sư phụ, con khổ quá nên mới nhờ Hách cư sĩ dẫn đến đây cầu ngài chỉ giùm cho con đường sống.

Từ nhỏ con là một đứa bé ưa cô độc, không thích đám đông, thường chơi một mình, đi dạo một mình...

Có thể nói con là một con bé sống rất có quy củ, trách nhiệm...

Nhưng năm 19 tuổi con bị kẻ xấu cưỡng hiếp, lúc ấy con đau khổ muốn tự vận, nên đã nghỉ học một năm.

Hai năm sau con lại bị cưỡng hiếp nữa... tuy kẻ ác cuối cùng cũng bị pháp luật trừng trị, nhưng tinh thần con hầu như suy sụp, chẳng còn học nổi.

Năm 25 tuổi cha mẹ cho con giao thiệp bạn bè, nhờ người giới thiệu cùng hết...

Nhưng người bạn trai thứ nhất con quen gần một năm lại lừa gạt tình cảm con rồi bỏ đi.

Năm sau con quen chàng khác, kết quả anh này cũng hành xử giống như người bạn trai trước.

Con hầu như không còn niềm tin để sống nữa, khổ đến lúc nào cũng nước mắt đầm đìa.

Xin sư phụ giải cho con hiểu, số con vì sao quá bất hạnh?

Có cách nào chuyển đổi hay không?

Sư phụ mời cô ngồi.

Ngài trầm ngâm một hồi rồi hỏi:

- Hôm nay vì sao con không trang điểm?

Nghe hỏi vậy cô có chút ngơ ngác, sau đó tỏ vẻ áy náy thưa:

- Dạ...

Bà Hách dặn con... tới gặp ngài thì không nên trang điểm...

Sư phụ nghiêm túc nói:

- Không phải ta hỏi vậy là trách con không trang điểm, mà muốn cảnh báo với con rằng: đời này sở dĩ con gặp nhiều bất hạnh như thế, đầu tiên là do con quá chú trọng đến trang điểm!

Bởi con luôn trau trỉa nhan sắc cho xinh đẹp, y phục lúc nào cũng phải đúng mode, còn ưa mặc khêu gợi hở hang...

Cho dù tính con ưa cô độc lập dị, nhưng thích được mọi người ngưỡng mộ nhìn ngắm mình, rất ưa quyến rũ nhãn quan người khác phái!...

Ta nói có đúng không?

Cô gật gật đầu.

Sư phụ nói tiếp:

- Dục vọng nam nữ, ai cũng có nên ta không trách chi.

Nhưng mà, bản chất phái nữ vốn yếu đuối, vì vậy con phải cẩn trọng tự bảo hộ minh.

Người Trung Quốc có câu: "Trau dung gợi dâm, khoe của mời cướp".1 Hàm ý thế này: Có của phải khéo giấu, chớ nên khoe!

Đừng ham phô trương chứng tỏ mình giàu, làm vậy là tự biến minh thành mục tiêu cho kẻ cướp ra tay!

Nếu quá chú tâm trau tria làm đẹp, trang điểm mình cho lộng lẫy hoặc ăn mặc hở hang khêu gợi quá mức, khiến người khác phái vừa nhìn là phát khởi niệm dâm, dục vọng hừng thịnh... thế thì họ sẽ không thể tự khống chế, tức nhiên khởi ý xâm hại con.

Cho nên, nếu đã nhận minh là cô gái (sống có quy củ trách nhiệm) thi đúng ra con nên biết cách khéo tự bảo vệ mình, không nên ăn mặc hở hang, kích khởi dâm tâm, ái niệm nơi người khác phái...

Còn về phu thê, tất cả đều có duyên số và tùy thuộc nguyên nhân, nghiệp lực đời trước nữa.

Kiếp trước "ai thiếu ai, ai nợ ai"... nhất định đời này sẽ tìm đến (gặp nhau) đòi nợ...

Con không thấy có những chàng trai anh tuấn cưới vợ dung nhan rất kém, hoặc có những mỹ nữ lấy chồng thiệt xấu hay sao?

Cho nên, tất cả nam nữ thiện lương trên đời, tuyệt không nên học đòi chưng diện ăn mặc hở hang theo kiểu các ngôi sao điện ảnh, bởi vì: "Trau chuốt, hở hang sẽ gợi dâm, khoe của là mời cướp".

Nếu con muốn trong tương lai mình có được gia đình hạnh phúc, thì phải luôn giữ tâm ý đoan chính trong sạch và thường niệm Quan Thế Âm Bồ tát, được vậy thì dù định mệnh an bài sẵn "phu thê ác duyên", cũng có thề chuyển thảnh "phu thê thiện duyên".

Con nghe và hiểu rõ lời ta nói chứ?

- Dạ rõ ạ!

- Được rồi!

Cứ y theo đó mà làm!

Chưa đầy một năm, sẽ gặp lang quân như ý.

Còn vận mệnh trước đây con bất hạnh thế nào, việc này còn tùy thuộc vào nhân gieo tiền kiếp của con nữa.

Bởi vậy mới có câu: "Muốn biết nhân đời trước, xem quả thọ đời này"...

Nhưng kể từ nay về sau, con phải giữ gìn ngũ giới, hành thập thiện, xem kinh sách cho nhiều, rồi từ từ sẽ minh bạch.

Cô nọ vui vẻ vâng theo lời Hòa thượng dạy.



KIM DOANH

Kim Doanh, một cô gái khoảng 30 tuổi hướng Hòa thượng Diệu Pháp khóc kể nỗi khổ của minh:

- Hồi 16-17 tuổi con tình cờ xem cuốn sách "Lịch sử Phật Thích Ca", ngay đó nhớ mãi, đối với truyện này yêu thích không muốn rời tay.

Sau đó con đọc tiếp các sách cơ bản của Phật giáo, biết Phật giáo có thánh địa Ngũ Đài Sơn, nên luôn mơ tưởng, mong được lên đó một lần, nhưng tốt nghiệp ra trường rồi thì đi làm, mãi đến năm 27 tuổi nguyện vọng này mới thực hiện được...

Vừa đến Ngũ Đài Sơn Kim Doanh có cảm giác rất thân quen, hơn nữa còn thấy Ngũ Đài Sơn mới chính là cố hương của mình.

Khi cô vào chùa, ngụ ở nhà khách và được giao tiếp cùng với các Tỳ kheo ni, cô cảm thấy họ giống như quyến thuộc của mình, vừa ở là không muốn về, cô thực sự quên luôn cảnh nhà, thậm chí quên luôn mình đã ở quá kỳ nghỉ phép, mãi đến khi Nỉ sư nhắc nhở:

- Con không về làm việc sao?

Cô mới sực tỉnh và nhớ ra, vội quay về nhà. về rồi mới biết gia đình đang chuẩn bị phái người lên Ngũ Đài Sơn tìm cô, bởi từ lúc cô rời nhà không hề gọi điện thoại về thăm một lần nào, còn ở quá ngày phép mới mò về, khiến mẫu thân nóng ruột lo lắng đến phát bệnh tim.

Cô bị người nhà trách mắng cho một hồi, mẹ cô tuyên bố:

- Từ rày về sau không được đi đâu nữa, nếu không muốn tôi mau chết!

Nhưng lần viếng Ngũ Đài Sơn đó khiến cô vương vấn nhớ nhung mãi, thậm chí nhiều lần nằm mơ còn thấy mình mặc y phục người xuất gia.

Chẳng bao lâu, cô quyết định phải đi tu, mẹ cô cực lực phản đối.

Cô thưa với mẹ:

- Mẹ cũng tin Phật mà, con xuất gia không phải là việc tốt hay sao?

Huống chi trong nhà vẫn còn anh, chị và đám con cháu vây quanh, như thế chưa đủ hay sao?

Mẹ không cho con xuất gia, mẹ có biết làm vậy con khổ lắm không?

Mẹ cô thẳng thừng bảo:

- Không được nhắc đến chuyện này nữa!

Ai muốn xuất gia cũng được, ngoại trừ con ra!

Ngày nào mẹ còn sống, mẹ nhất quyết không cho con xuất gia!

Con mà đi tu, là mẹ... chết liền cho coi!

Không còn cách nào khác, cô nghĩ "chỉ còn nước học theo Phật, trốn nhà đi tu"... bèn âm thầm xin nghỉ việc, để lại một phong thư, lén rời khỏi nhà.

Cô lên Ngũ Đài Sơn, vào chùa, xin trụ trì cho xuất gia.

Nhưng trụ trì bảo cô trước tiên khoan cạo tóc, cứ ở đây tập tu xem có thích ứng với đời sống xuất gia không?

Nào dè mới nửa tháng anh cô đã tìm đến, kể rằng cô vừa rời nhà thì hôm sau mẹ đã phái người đi tìm ngay, nhưng không ai biết cô ở chùa nào, họ đi tìm liên tục suốt nửa tháng nay, tới giờ mới lần ra chỗ cô cư ngụ.

Anh còn bảo:

- Mẹ vì em đòi xuất gia mà phát bệnh tim nặng đến phải nhập viện, hiện giờ sống chết chưa rõ...

Thế là cô phải theo anh trai trở về, mẹ cô cũng vừa mới ra viện, đang nằm ở nhà dưỡng bệnh.

Cô than với Hòa thượng :

- Đúng là con "xuất" không ra khỏi "gia".

Nhưng tâm trí con đến nay vẫn để ở chùa.

Con đã hơn ba mươi tuổi rồi, nhưng tới giờ vẫn chưa được tự do, khó thể thực hiện ước mơ của mình.

Hằng ngày con sống như cái xác không hồn...

Xin sư phụ chỉ dạy, con phải làm sao đây?...

Cô Kim vừa nói lệ tuôn đầm đìa, khóc nghẹn ngào nức nở...

Hòa thượng đợi cô bình tĩnh lại rồi bảo:

- Con chưa từ bỏ ăn mặn sao?

- Dạ chưa.

- Vậy thì hãy bắt đầu bỏ ăn mặn ngay đi.

Mỗi ngày nhớ hành trì công phu, tụng niệm các khóa lễ sáng tối cho đều đặn.

Dù có đến sở làm, thì trong lòng lúc nào cũng luôn niệm Phật, nên học thuộc "chú Đại Bi", "Tâm kinh", hay "Tứ trọng thanh tịnh minh hối" và thường trì tụng.

Tụng kinh tối xong thì ngồi tĩnh tọa từ 40 phút đến một tiếng.

Hằng ngày phải kiểm điểm những lỗi thập ác đã tạo trong đời này, phát tâm sám hối.

Con hành trì công phu đều đặn như thế thì cũng giống như người xuất gia, nên xem nhiều kinh sách, nhất là "Kinh Lăng Nghiêm", cần phải đọc cho nhiều đề tăng trí huệ.

Dù ở nhà cũng có thể hoằng pháp lợi sinh, tùy duyên độ người, không nên cưỡng cầu!

Người học Phật phải lấy lợi ích chúng sinh làm trọng, huống nữa đây là mẹ con!

- Không thể vì muốn thỏa mộng của mình mà làm tổn hại đến bà!

Thời gian con có thể xuất gia khoảng chừng ba năm nữa (nếu như hiện tại con có thể buông xả mọi chấp trước, tu tập tinh tấn như ta bày), thì chắc chắn sẽ có hy vọng...

Cô Kim nghe Hòa thượng dạy, cung kính vâng theo.

Tối đó lúc gần đi nghỉ, tôi hỏi sư phụ nhân duyên nào mà cô Kim muốn xuất gia?

Sư phụ kể:

- "Trăm năm trước, có chàng trai trẻ tu theo đạo Lão ở Ngũ Đài Sơn, được một thiên kim con nhà quý tộc kính ngưỡng.

Ngày nọ tiểu thư đi cùng con hầu đến đạo quán, hướng đạo nhân hành lễ, rồi dâng một túi vải nhỏ.

Đạo nhân tiếp nhận, sau đó mở ra xem, thấy bên trong là một số ngân lượng, lòng rất cảm động.

Cứ thế hai bên qua lại mãi, dần dần có cảm tình...

đạo nhân không chống nổi nữ sắc cám dỗ, cuối cùng thành hôn cùng tiểu thư.

Do sợ người gièm pha, tiểu thư dẫn a hoàn theo mình, cùng chồng vào chốn thanh sơn thủy tú gầy dựng mái ấm.

Sau khi kết hôn hai người chung sống hạnh phúc, tương kính như tân...

Người chồng vẫn còn ưa tu, thê tử một bề chăm sóc, ưu ái quan tâm, chàng đối với nàng tơ tình càng vấn vít... con hầu của tiểu thư cũng ở vậy phụng sự họ cho đến mãn đời.

Cô Kim đời nay là hậu thân của chàng đạo sĩ nọ.

Do tình ái sâu nặng mà bị chuyển thành thân nữ.

Mẹ cô chính là tiểu thư quý tộc, còn phụ thân Kim Doanh chính là a hoàn.

Do đời trước sống hết dạ phụng hiến chu toàn, nên đời nay được chuyển làm thân nam tử, nhưng đối với tiểu thư và đạo nhân kiếp xưa, giờ vẫn một lòng quan tâm chăm sóc"...

Nghe sư phụ khai thị, tôi chỉ biết thở dài, người tu nếu không cắt, dứt tình chấp luyến ái, cuối cùng cũng khó thoát khỏi luân hồi.

Thực là:

Tu hành khó, khó như đi lên trời

Giáo giục gian nan, như trồng sen trong lửa

Đoạn dục khó, khó như nấu cát thành cơm

Vì vậy, nghe pháp tin thọ, hành trì, tinh tấn đoạn dục khử ái... mới là căn bản của người tu.



TỤNG KINH NIỆM PHẬT CÒN BỊ TAI NẠN Ư?

Hỏi: Trong "Kinh Địa Tạng" giảng, miêu tả thiên địa quỷ thần thường hộ người niệm Phật, lễ Phật - không để cho hung sự họa hại vào cửa, không cho có các nạn thủy, lửa, trộm, cướp v.v... xảy ra, nghĩa là tất cả ác sự đều tiêu diệt.

Nhưng con thấy có nhiều cư sĩ lễ Phật tụng kinh, vẫn gặp những nạn như: Bệnh hoạn, ác nhân, đụng xe, rớt phi cơ v.v.. ngay bản thân con cũng thường gặp việc bất như ý...

Con còn thấy có các cao tăng và cư sĩ đức hạnh đột nhiên bị bệnh nặng lìa đời?

Mặc dù con không hoài nghi những gì trong "Kinh Địa Tạng" mô tả, nhưng khó tránh được thắc mắc, vì vậy xin ngài giải thích cho con hiểu thêm.

Đáp: Xin hãy đọc kỹ "Kinh Địa Tạng", đừng có ngắt câu trích nghĩa, diễn giải theo ý mình.

Phải biết mỗi khi Phật Bồ tát giảng, đề cập đến những vị được thọ ích, thì trước đoạn văn luôn có cụm từ: "Thiện nam tử, thiện nữ nhân".

Đây là nói rõ: Phàm những vị nào là "thiện nam tử, thiện nữ nhân" nếu lễ Phật, tụng kinh, khuyên người tin Phật, học Phật, sẽ được trăm ngàn quỷ thần ngày đêm theo hộ vệ.

Cũng có thể nói đổi lại thế này: "Nếu không phải thiện nam, thiện nữ mà lễ Phật, khuyên người tu học Phật... thì chỉ lả người kết Phật duyên, trồng hạt giống thiện mà thôi, không thể lập tức chiêu cảm thiên địa quỷ thần đến hộ vệ, bởi vì họ chỉ mới tin Phật, chưa chân chính học Phật, tu trì!

Không trồng thiện nhân sao có thiện quả?

Vì vậy mà chưa thực sự được hưởng lợi ích.

Thế thì tiêu chuẩn "thiện nam tử, thiện nữ nhân" ra sao?

Phật gọi nam nữ tại gia, xuất gia là "thiện nam, thiện nữ".

Thiện là: Ưa nghe pháp, tin Phật.

Tuy người tại gia có vợ chồng nhưng tất cả ngôn hạnh họ giữ gìn giống như người xuất gia.

Còn những kẻ ăn nhậu, bài bạc, hút chích, gây chửi ầm náo, ngoại tình, lăng nhăng, cướp trộm, vọng ngữ, hành thập ác...

đều không được gọi là "thiện nam, thiện nữ".

Những người này do trồng ác nhân tất phải chiêu ác quả, sao có thể mong được thiên địa quỷ thần làm hộ pháp cho?

Lâm nữ sĩ nhân dịp sangTrung Quốc công tác, đến thưa hỏi Hòa thượng Diệu Pháp thế này:

- Có một cư sĩ nọ ở Canada, làm ăn rất phát.

Ông cúng dường chùa, in kinh và sách thiện ấn tống không dưới mấy mươi vạn đô la, nhưng mới đây bị tai nạn xe, thọ thương nặng, ông một bề niệm Phật... cho đến lúc tắt hơi vẫn niệm Phật không ngừng, ông qua đời khi chưa đến 50 tuổi.

Vì vậy có người đối với Phật pháp sinh tâm nghi ngờ, xin ngài giải thích giùm.

Hòa thượng hỏi:

- Cô biết đời sống riêng của cư sĩ này ư?

- Con không rành lắm!

Hòa thượng bèn giải thích:

- Ông này trước khi quy y Tam bảo từng làm nhiễm ô nhiều cô gái trẻ, sau khi quy y rồi dù có thu thúc, nhưng vẫn chưa thanh tịnh, hơn nữa đối với hành vi tà dâm ngày trước chưa thực sự sám hối.

Nhờ lúc lâm chung ông không ngừng niệm Phật nên cũng diệt vô lượng tội, lại được các chùa làm lễ siêu độ cho, cộng thêm công đức khi sống từng cúng dường chùa, in kinh, sách... nên hiện tại đã sinh lên cõi Đao Lợi Thiên rồi.

Nếu không có công đức cúng dường Tam bảo và niệm Phật lúc lâm chung, thì ông sẽ bị "tính hóa linh tản"2.

Nghĩa là phạm lỗi ngoại tinh hay tà hạnh nhiều chừng nào thì tính linh bị tàn hóa nhiều chừng ấy, phải xuống địa ngục thọ tội, sau đó nếu được sinh làm người, thì sẽ bị làm hạng lưỡng tính (bán nam bán nữ), trí tuệ thấp, không những bản thân thống khổ mà còn bị người kỳ thị, xem thường...

Vì vậy nếu đã là đệ tử quy y Phật môn, nhất định phải đoạn ác tu thiện, không nên ỷ rằng "mình có cúng dường Phật, Pháp, Tăng, in nhiều kinh sách v.v... thì chắc chắn sẽ vãng sinh Cực Lạc, nên cứ yên lòng mà gối cao đầu ngủ"...

Phải biết "thiện có thiện báo, ác có ác báo", đây là quy luật bất biến dành cho tất cả.

Phật đối với các đệ tử không giữ giới luật bị đọa, Ngài thương xót, nhưng không thể giúp.

Thế thì làm sao có thể kỳ vọng vào mấy cây nhang hoặc tụng mấy bộ kinh mà mong tất cả sẽ được như ý mình hết?

Phải hiểu rõ giới luật Phật chế ra, không phải dùng để quản thúc đệ tử, mà là để cảnh báo đệ tử rằng: "Nếu không nghiêm giữ giới luật sẽ bị đọa, sẽ bị trừng trị theo luật nhân quả".

Vì vậy, nếu không muốn chết rồi bị đọa địa ngục và khi sống hay gặp họa ương, thì mỗi người phải tự giác tuân giữ giới luật!

Bằng không, có hối cũng muộn...

Lâm nữ sĩ nói:

- Ông ta chết đến nay mới được 30 ngày, các chùa ở Canada đã làm lễ siêu độ cho, vậy có giúp gì được cho ông chăng?

ông có thể đến Cực lạc hay không?

Hòa thượng đáp:

- Dù hiện tại ta đang giảng cho cô, nhưng ông ấy cũng nghe được và đã minh bạch phải quấy, nên phát tâm đại sám hối... nhờ vậy mà từ cõi Quang Âm Thiên đang thăng lên Phước Ái Thiên, có vẻ như còn thăng lên Quảng Quả Thiên3 nữa, vì ta nhìn thấy cõi Quảng Quả Thiên đang nhấp nháy...

- Thưa, vì sao còn nhấp nháy?

- Thì giống như thang máy vậy, đến tầng nào thì tầng đó nhấp nháy...

Lâm nữ sĩ hỏi:

- Thế ông ta có thể đến Cực lạc chăng?

Sư đáp:

- Không chắc lắm, cần phải có người đức hạnh thanh tịnh tụng 49 biến "Kinh Địa Tạng" và ba bộ "Diệu Pháp Liên Hoa" cho ông ta...

Lâm hỏi:

- Người thanh tịnh là sao?

- Là người tu hành giữ giới nghiêm minh, không sát, đạo, dâm, vọng (bất luận tại gia hay xuất gia)...

đều có thể làm được!

- Vậy con mời các sư ở chùa Canada siêu độ cho ông, có được chăng?

Đáp: Không rõ nữa.

Lâm nữ sĩ hỏi:

- Thế con... thỉnh ngài siêu độ cho ông, có được chăng?

- Khí lực ta không đủ để tụng những bộ kinh này...

- Ngài chỉ mới giảng mấy câu thì ông ấy đã thăng lên cõi trời cao ròi, vậy ngài có thể thuyết nhiều hơn, kêu ông đi thế giới Cực Lạc thì sẽ có hiệu quả mà!

- Nếu chỉ nói mấy câu mà được vậy, thì Phật A Di Đà đã làm cho chúng sinh sang Cực Lạc hết rồi!

Phải hiểu uy lực của lễ siêu độ là như thế này: Khi tứ chúng4 những vị đệ tử Phật có đức hạnh thanh tịnh mà tụng kinh niệm Phật thì sẽ chiêu vời nhiều chúng sinh từ hư không tới nghe pháp, được thọ ích lợi theo...

Chính công đức này sẽ làm tăng thêm niềm tin và hạnh nguyện cho người đã mất, giúp họ có thể đến Cực lạc.

Nhưng chỉ là ở trong hoa sen ngủ một thời gian dài, chưa thể lập tức "hoa khai kiến Phật".

Trong số các đồng tu của người mất ở tại Canada, cũng có vị đức hạnh thanh tịnh, cô có thể đến đó mời thỉnh...

Lâm: Vậy để con gọi điện hẹn mọi người thử xem?

Con đang lo... vỉ phải tụng nhiều quá, mà hạn 49 ngày sắp hết ròi, e không kịp thì biết làm sao đây?...

- Y hiện tại đã thăng lên cõi Quảng Quả Thiên, không còn mang thân trung ấm nữa nên đâu có lệ thuộc 49 ngày?

Hôm nào tụng xong cũng được mà!

-Thế thì hay quá, để con mời người tụng, xong rồi sẽ gọi điện thưa thỉnh Hòa thượng, có được chăng?

- Được!

Hỏi: Vì sao chư đại đức cao tăng cũng bị bịnh nặng tử vong?

Đáp: Phật và lịch đại cao tăng đều thị hiện tướng phàm phu sinh ra nơi đời, sắc thân các Ngài cũng là đất, nước, gió, lửa hợp thành.

Sinh lão bệnh tử là quy luật chung, mà người tu hành lại càng có liên quan mật thiết với chúng sinh.

Khi sứ mệnh chư vị ấy hoàn tất tại thế gian rồi, thì đa số đều thị hiện tướng bịnh để ly trần.

Một số tuy có tướng bệnh, mà không thống khổ, chẳng hạn như dù bị ung bướu gan, phổi, bao tử v.v... nhưng không cảm giác đau nên chẳng cần dùng thuốc chặn đau. (Chỉ là hướng mọi người thị hiện các công phu tu như tọa thiền, niệm Phật, tụng kinh, trì chú v.v... phát sinh kỳ tích Phật lực gia trì, nhằm khuyến khích các đệ tử hoặc chư vị đồng tu cần nên tinh tấn, hành trì cho tốt để đón vô thường tới).

Đương nhiên cũng có người thị hiện tướng, ngồi, nằm hoặc không bệnh mà mất.

Đây gọi là thị hiện tướng đẹp, lành, nhằm giáo dục người tinh tấn tu hành.

Trong tạng truyện Phật giáo có ghi rất nhiều!

Hòa thượng Diệu Pháp kể, khi sư Tuyên Hóa bị bệnh, có lúc trước mặt đệ tử ngài cũng thị hiện tướng đau, nhưng vừa nghe đệ tử buồn khóc, sư lập tức đổi thành tướng an lành, vui vẻ bảo:

- Các ngươi làm to chuyện lên rồi đa!

Rồi ngài nói cười bình thường.

Sau này đệ tử mới biết là sư phụ đang khảo nghiệm, thử thách mọi người.



BỒ TÁT MẬT HẠNH

Hòa thượng Diệu Pháp kể, thời gian sư đi Vạn Phật Thành bái kiến ngài Tuyên Hóa, tinh cờ gặp một vị cư sĩ hộ pháp ở Vạn Phật Thành bị tai nạn xe, tử vong.

Vị cư sĩ này mấy năm nay chưa từng gặp vợ con, đến giờ mới hội ngộ.

Khi đó ông lái xe đón vợ con từ phi trường về, lúc sắp đến Vạn Phật Thành thì xảy ra tai nạn, vợ con bị thương nhẹ, chỉ mình ông tử vong.

Có người hỏi Hòa thượng Diệu Pháp:

- Vị cư sĩ này bỏ gia quyến ở Đài Loan, một mình đến Vạn Phật Thành làm công tác hộ pháp kiêm giáo sư cho học sinh Vạn Phật Thành.

Tâm địa ông rất tốt, nhưng vì sao lại gặp nạn chết dữ như vậy?

Hòa thượng Diệu Pháp đáp:

- Người này là đẳng giác Bồ tát tái lai, đến đây giúp sư Tuyên Hóa!

Hộ trì Phật pháp vốn là bản nguyện của ông!

ông bị hoạnh tử là do phải trả nợ oan khiên tiền kiếp, đồng thời cũng nhân đây cảnh tỉnh thế gian mạng sống vô thường, phải tu hành tinh tấn!

Bởi do đời quá khứ ông từng làm hại một đôi chim lớn, nên khi ông từ phi trường về, thì đến thời điểm phải trả báo nên bị (thần thức) hai con chim (oan gia) này giương cánh ra trước kính xe, che khuất tầm nhìn, khiến ông không thấy đường lái, tông vào cột, bị tử nạn!

Hòa thượng hỏi vợ con ông:

- Có phải chồng bà đã thúc hai người mau mau qua Mỹ?

Vợ ông thưa:

- Dạ phải, mấy ngày trước "ổng" cứ dặn mãi trong điện thoại, nói rằng cho dù ông không còn hiện hữu ở bên cạnh thì chúng con cũng phải ráng mà tu hành cho tốt.

Khi đó con còn phiền bực vì thấy ông nói hoài, bây giờ ngẫm lại, mới hiểu là "ổng" đã có chuẩn bị trước...

Hòa thượng giải thích:

- Đây là do ông muốn hai người qua Mỹ gặp mình lần cuối, để tiễn ông ra đi.

Lời Hòa thượng làm cho vợ con ông cảm thấy rất an ủi, còn khích lệ họ tăng thêm tín tâm tu tập.

Họ bèn đảnh lễ ngài.

Những người tại hiện trường tin Hòa thượng nói, cũng thành kính đảnh lễ.

Nhưng cũng có nhiều người hoài nghi buông lời phản đối vang tới tai Hòa thượng:

- Cư sĩ đó mà hay ho gì, ổng cũng đâu có cống hiến to tát chi cho Vạn Phật Thành, sao có thể nói là "đẳng giác Bồ tát tái lai" được chứ?

Nếu ổng mà là Bồ tát đẳng giác thì tôi đây cũng là...

Phật tái lai!

Trong "Tứ trọng thanh tịnh minh hối" nơi "Kinh Lăng Nghiêm" Phật giảng rất rõ: Ngay cả "dâm nữ quả phụ, kẻ gian tặc, đồ tể"... cũng có thể là "Bồ tát, La hán tái lai thị hiện", huống nữa là cư sĩ và sa môn?...

Những vị tái lai này ngay lúc khai ngộ rồi, họ cũng không hề vỗ ngực tự xưng hay khoe khoang "ta đây chính thực là Bồ tát, La hán"... ngoại trừ lúc mệnh chung, họ ngầm lưu di ngôn lại, hoặc sau khi họ mệnh chung rồi thì sẽ có bậc trí tuệ nói ra thân phận họ...

Còn riêng họ thì im lặng mà đến, im lặng mà đi.

Đây đều vì cần giáo hóa người, mà thị hiện lý "sinh mệnh vô thường", tất cả đều làm theo như Phật đã an bài... chuyện này đợi lúc quý vị khai ngộ, thì tự nhiên sẽ minh bạch.

Phàm phu chúng ta trong lúc còn mê mờ chưa minh bạch thì chẳng nên buông lời phê phán hồ đồ, để tránh tạo nghiệp khẩu xấu, phạm lỗi vô biên.

Đại sư Tỉnh Am lúc 49 tuổi viên tịch, chúng ta không nên dùng nhãn quan phàm phu của mình mà bình phẩm: "ông ta tu không tốt nên bị đoản mệnh!"

- Bởi tất cả cảnh giới trước mắt, đều là thử thách khảo nghiệm đối với người tu, "nếu thật là người chân tu, thì chẳng thấy lỗi thế gian!"

"Chẳng thấy lỗi thế gian", không có nghĩa là thấy người làm việc xấu ác gì cũng không phê bình, khuyên ngăn, chế chỉ... mà chính là phải dùng quan điểm của Phật giáo để ứng phó.



CẨN THẬN KHI PHÁT NGÔN

Một sáng mùa thu năm 2000, Hòa thượng Diệu Pháp đang giảng pháp cho đám đông mấy mươi người tại nhà một cư sĩ nọ, thi bỗng ngoài cổng có một người đàn ông trung niên bước vào quỳ trước Hòa thượng Diệu Pháp, cuống quýt khẩn cầu sư phụ đến nhà cứu vợ ông giùm.

Sư phụ bảo ông đừng sốt ruột, hãy từ từ kề ra mọi chuyện.

Nguyên là tháng trước vợ ông bắt đầu đại tiện khó khăn, đau đớn vô cùng, không bao lâu tiểu tiện cũng gay go, ngót nửa tiếng mà tiểu chẳng xong, sau đó suốt hai tiếng vẫn đi vệ sinh chưa được.

Do vậy mới đi bệnh viện khám, té ra bà bị trĩ nội, đã mọc lớn như cái bánh bao (không nói khoa trương chút nào).

Hiện giờ đi đứng khó khăn, tâm tư thập phần thống khổ.

Bác sĩ trách bà vì sao để đến giờ này mới đi bệnh viện khám? bà nói do không đau không ngứa nên chẳng biết là mình bị bệnh nghiêm trọng dữ vậy.

Ông thở dài trình báo:

- Bác sĩ bảo cần phải lập tức phẫu thuật ngay, nhưng khẳng định là rất nguy hiểm, vì trước đây ông từng mổ trĩ nội nhiều lần, trong số nảy có người bị đại xuất huyết vong mạng, nhưng mà mụt trĩ của họ không có lớn dữ như bà.

Chúng con đang bối rối chẳng biết tính sao, nghe nói có sư phụ đang ghé qua vùng này, bèn mạo muội đến cầu ngài từ bi cứu mạng vợ của con giùm.

Sư phụ định thần một hồi, rồi bảo:

- Vợ ông tu hành rất tốt, tinh tấn lắm!

Chẳng phải hai vợ chồng đã phân phòng ngủ riêng rồi ư?

- Dạ phải, thưa sư phụ.

Vùng này có mấy cặp vợ chồng tu hành theo "Tứ trọng thanh tịnh minh hối" trong "Kinh Lăng Nghiêm".

Do vợ con kiên trì muốn thế, con cũng tùy thuận theo.

Tuy con không giàu đạo tâm như bà, dù không tình nguyện, nhưng cũng biết bà làm vậy là đúng, nên đành chiu theo.

Vì thành tựu cho bà cũng là thành tựu cho con.

Không hiểu sao bà tu tinh tấn như vậy mà lại chiêu vời kết quả thế này?

Hòa thượng cười cười, nói:

- Kết quả như vầy là không tốt sao?...

Bồ tát sợ nhân chúng sinh sợ quả!

Người như pháp tu hành, nhất định cũng gặp báo chướng, cũng có thể nói là nghiệp lực hiện tiền, đây chính là nhờ bà tinh tấn tu mà được trả nghiệp sớm, hoàn toàn không phải là việc xấu!

Nếu không, cái mụt trĩ lớn như thế, tại sao lại không đau đớn chứ?

Nhưng hiện thời bà đang rất bất ổn, hãy dẫn ta tới nhà ông ngay đi nào!

Nhà ông ta cách đấy không xa, người tại hiện trường cũng rùng rùng đi theo.

Bệnh nhân là bà họ Trần, quá khứ từng tu theo ngoại đạo nhiều năm, sau khi biết Phật pháp rồi thì hướng dẫn cả dòng tộc họ Trần gồm huynh đệ tĩ muội cho đến con cháu... toàn bộ mấy mươi người đều quy y Phật môn cả.

Từ người già hơn 60 xuống đến trẻ nhỏ 10 tuổi, thảy đều tự nguyện bỏ mặn ăn chay, nói theo lời thường là: "một đao cắt đứt hết ráo!"...

Hơn nữa hầu hết đều thuộc chú Lăng Nghiêm, ngay cả chị hai, chị ba của Trần cư sĩ luy không biết chữ nhưng cũng chịu khó học từng chữ một, vậy mà cuối cùng họ cũng thuộc hết chú Lăng Nghiêm, hơn nữa còn siêng năng đến chùa tụng kinh, công phu sớm tối...

Khi tôi chứng kiến cảnh này, thật là vô cùng cảm phục.

Những thời khóa sớm tối khác như chú Đại Bi, Thập chú, con cháu bà đa số thuộc làu lảu.

Trần cư sĩ được đại gia đình coi như "đầu não bộ chỉ huy", ngay cả anh trai bà là giám đốc hãng xưởng cũng nghe theo bà tu hành.

Hiện giờ bà đang nằm bình thản trên giường, dáng vẻ như đang chờ cái chết đến...

Nhác thấy Hòa thượng Diệu Pháp tiến vào, bà có vẻ rất xúc động, cảm kích nói:

- Ôi chao!

Sư phụ đến cứu con!...

Vừa nói bà vừa chắp tay định ngồi dậy thi Hòa thượng ngăn lại.

Sư phụ ngồi xuống cái ghế cạnh giường, dịu dàng hỏi:

- Con hồi xưa có mở tiệm bán vải phải không?

Bà Trần đáp:

- Dạ có, nhưng bây giờ đã nghỉ rồi.

Lúc xưa khi gây cãi với khách, con có chửi họ không?

- Hòa thượng lại hỏi.

- Dạ, làm ăn buôn bán hay xảy ra chuyện này, nhất là gặp những khách hàng kỳ khôi, nhưng mà con chưa từng chửi người!

Sư phụ hỏi tiếp:

- Giống như chuyện... có một phụ nữ tuổi hơn ba mươi, cứ nằng nặc đòi trả con một khúc vải, hai bên bắt đầu gây cãi, con đã từng thốt lời làm tổn thương họ, hãy suy nghĩ thật kỹ và kiểm lại xem có điều này hay không?

Lời sư phụ nói như ngầm nhắc nhở, Trần cư sĩ lộ vẻ xúc động, thưa:

- Ôi chao, con nhớ ra rồi, quả có việc này!

Mấy năm trước thường ngày con luôn kiểm điểm, hễ nhớ lại lỗi nào thì sám hối...

Sao mà lại quên béng việc này chứ?

Rồi bà kể:

- Đại khái là khoảng 6 năm trước, có một chị đến chỉ vào xấp vải trong số hàng con đang chưng ngoài cửa tiệm, đòi mua.

Thế là con lấy đúng loại vải đó trong tiệm, cắt bán cho chị ta mấy mét.

Nhưng hôm sau, chị lại lò dò tìm tới, đòi trả hàng.

Lúc đó làm sao con chấp nhận được?

Con nói:

- Chị lựa chọn kỹ rồi, tôi mới cắt bán cho, giờ chị đòi trả thì tôi bán cho ai đây?...

Nhưng chị ta ngang bướng nói:

- Loại vải hoa bà cắt ở trong tiệm không giống như vải đang chưng ở ngoài cửa...

Và chị cầm xấp vải mình mua đem ra so sánh với vải chưng bên ngoài.

Do hàng bên ngoài là hàng chưng đã nhiều ngày, bị phơi nắng phơi sương, tất nhiên màu sắc phải bạc đi và nhạt hơn một chút.

Còn khúc vải con bán cho chị đúng là màu gốc, màu chính thống chưa kinh qua gió sương...

Nhưng chị ta cứ một mực nói là không giống!

Còn hét la ầm ĩ đòi trả hàng!

Lúc đó quả thực con nổi tức, liền phản bác lại rằng:

- Vải ở trong nhà và ngoài trời làm sao giống nhau được?

Cũng giống như cái mặt chị và cái... mông chị vậy đó!

Lúc ấy thực tình là con ví dụ vậy để so sánh giải thích cho chị ta hiểu rõ, thế mà cũng tính là... chửi sao?

Sư phụ thấy bà Trần rất kích động, cười cười nói:

- Khi đó phải chăng có rất đông người vây quanh?

Bà Trần thưa:

- Dạ phải, vì là khu chợ sầm uất nên cỏ rất nhiều người.

Mà chị ta la to hét ầm, nói ngang cãi bướng như vậy đương nhiên thu hút nhiều người bu quanh, hơn nữa không ai ủng hộ chị ta trả vải, đều cho là chị này quá vô lý!

Sư phụ lại nói:

- Khi con nêu ví dụ như thế rồi, đám đông vây quanh đã cười ồ lên, còn xúm nhau bỡn cợt bảo chị ta... cởi quần ra để so sánh mặt và mông cho dễ?...

- Dạ... hình như là có!...

- Vậy con nghĩ kỹ xem, ví dụ của con, xét về lý thì có thể đúng.

Nếu đối với nam nhân, thì vấn đề này cũng không có lỗi gì to tát, nhưng đối với phái nữ thì không thể không xếp loại đây là một kiều sỉ nhục!

Hiện tại con đã thọ qua giới Bồ tát cư sĩ, kiểu tạo khẩu nghiệp như thế này, sao có thể không sám hối chứ?

Hình như cuối cùng con cũng cho phép chị ta trả hàng?...

- Dạ phải.

Lúc đó có người khuyên con, để vậy sẽ ảnh hưởng đến chuyện buôn bán, chi bằng rộng lượng một chút, cứ chịu thiệt để chị ta trả hàng.

Hiện có nhiều người vây quanh như thế, cũng có thể giúp tuyên truyền cho mình...

Con nghe có lý, nên làm theo.

Còn chị ta lúc đó không còn lời gì đề cãi nữa... và con đồng ý cho chị trả hàng.

Nhưng do sư phụ nói tỷ dụ của con có hàm ý sỉ nhục chị ấy, hồi đó con chưa từng nghĩ đến.

Bây giờ được ngài nhắc: lời nói ngày xưa thực sự có khơi lên tác dụng sỉ nhục chị ta.

Sao hồi đó con không nghĩ ra chứ?

Hòa thượng Diệu Pháp nói:

- Một người phát tâm đại tu hành, không chỉ đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện... mà những nghiệp đã tạo đời nay, nhất định phải nhớ tới để sám hối, như vậy mớỉ có thể giải nghiệp.

Chính nhờ con tinh tấn tu hành, nhưng lại quên béng khẩu nghiệp đã tạo hồi đó, nên mới kết thành quả ác này.

Khi ác quả chín muồi, thì phải đọa lạc.

Bây giờ hãy bế quan tự kiểm điểm, rồi ngày mai gặp ta!

Sáng hôm sau bà Trần cỡi xe đạp đến bái kiến Hòa thượng.

Bà nói:

-Thưa sư phụ, thực là kỳ diệu đến không ngờ, mụt trĩ như cái bánh bao đã không cánh mà bay!

Việc này giáo dục người học Phật quanh đấy rất nhiều.

Nhất là em gái bà Trần.

Ngày xưa cô mở tiệm bán giày ngót mấy năm, lúc ấy nổi tiếng là mồm năm miệng mười, không chịu thua ai, kẻ nào mà lỡ chọc đến cô thỉ cô mắng ra rả ngót hai tiếng.

Sau khi học Phật, dù cô đã biết sám hối lỗi, nhưng chính câu chuyện của bà Trần làn này đã khiến cô hồi tâm sửa đồi cực mạnh, chịu khó bỏ công tự kiểm điểm, rà soát lại hết mọi lỗi lầm của mình.

Thú thực là, tâm tư tôi cũng chẳng hơn gi, cũng giựt mình: lo kiểm kỹ tất cả lỗi của bản thân.



NGUYÊN NHÂN DO ĐÂU?

Trước đây không lâu, gia đình bạn tôi di cư sang nước Mỹ, sau đó vợ chồng Điền nữ sĩ về nước thăm thân nhân, bà rầu rĩ kể cho tôi nghe bệnh tình em trai Điền Kiệt của bà tại Mỹ.

Hy vọng lần về nước này tôi có thề dẫn bà đến bái kiến Hòa thượng Diệu Pháp, thỉnh giáo nguyên nhân bệnh (cả nhà Điền nữ sĩ đã quy y Phật từ năm 1993, một bề duy trì sự nghiệp hoằng pháp).

Gặp sư phụ rồi, bà kể rõ về bệnh tình em trai mình.

Điền Kiệt sang Mỹ làm được thẻ xanh rồi thì kết hôn cùng một cô gái Trung Hoa ở đấy.

Mới đầu họ sống rất hạnh phúc.

Sao đó chẳng biết cớ nào mà Điền Kiệt khởi tâm nghi ngờ một đồng nghiệp rất tốt của anh, cho rằng người bạn X này đã dùng thiết bị điện tử "điều khiển từ xa" ngầm ám hại Kiệt, khiến anh đau đầu, toàn thân khó chịu...

Do vậy Kiệt không dám đi làm, phải ở nhà.

Nhưng anh luôn cảm giác bạn X đang dùng thiết bị điện tử ngầm tấn công anh.

Kiệt nói nếu như không nhờ ngày trước mình có luyện khí công được chút công phu, thì đã bị hại chết từ lâu rồi!

Khi người khác hỏi vì sao bạn X muốn hại anh, thì Kiệt nói là do ganh ghét tài năng với anh.

Vì trình độ vi tính của anh giỏi hơn...

Bởi vậy mà Kiệt luôn lo lắng, ăn ngủ bất an, anh dán giấy bạc đầy tường quanh nhà, nói phải làm vậy để ngăn thiết bị điện tử quấy nhiễu, còn chế tạo một hòm sắt to rỗng, có khí thông hơi, để khi ngủ thỉ vào đó nằm, lại còn che trên lót dưới...

Nhưng nằm được máy ngày, anh vẫn có cảm giác chống không lại thiết bị điện xâm hại...

Thế là Kiệt bèn lấy một cái chậu bằng kim loại, úp trên đầu mình, rồi trốn dưới gầm giường hoặc nơi xó góc, tùy thời, tùy chỗ, tùy theo lúc khủng hoảng cực độ...

Tinh thần anh hầu như suy sụp.

Bác sĩ nói Kiệt bị bệnh thần kinh hoang tưởng và kê thuốc cho anh.

Nhưng Kiệt nhất quyết không uống, khăng khăng bảo là mình không có bệnh!

Điền nữ sĩ vô cùng lo lắng, sợ bệnh em trai sẽ phát nặng hơn, hậu quả khó mà nghĩ tưởng.

Vì trong thân tộc bà đã có hai người (là chú họ và con trai của chú Ba), mấy năm trước đã bị bệnh thần kinh hoang tưởng giống hệt như vầy, kết quả: Người chú họ đã tự sát, riêng con trai chú Ba tuy còn sống, nhưng lại trường kỳ nằm viện, tuy sống mà giống như đã chết.

Giờ đây chứng bệnh đó lại giáng lên đầu em trai bả, chắc chắn không thể nào dùng thuốc mà chữa khỏi được...

Bà muốn thỉnh giáo Hòa thượng, đây rốt cuộc là lỗi do đâu?

Vì sao hai ớời phụ huynh, cả ba người đều mắc phải quái bệnh giống y nhau?

Vậy tương lai bệnh này có di truyền cho đời con cháu hay không?

Hòa thượng bảo Điền nữ sĩ:

- Trong số tổ phụ con, có một vị là nhà văn, ưa viết tiểu thuyết kinh dị quỷ quái...

để tiêu khiển, di hại trầm trọng cho biết bao độc giả.

Những tác phẩm này đã khiến người xem sợ đến tim kinh thịt run, còn sinh tật nghi thần, nghi quỷ; đêm hoảng loạn ngủ không an.

Còn có nhiều thanh thiếu niên sau khi xem xong tiều thuyết này rồi thì tâm bị khủng bố, lưu ảnh hưởng rất sâu.

Có người đâm sợ bóng tối, đêm không dám ra đường...

Thậm chí có người gặp hoàn cảnh đặc biệt, chẳng hạn như bị hiện tượng âm thanh nào đó làm kinh sợ, hoảng loạn đến phát bệnh và chết đi...

"Nhân như vậy thì quả như vậy".

Bởi vì tiểu thuyết kinh dị này lưu truyền trong nhân gian, gieo hại nhiều đời độc giả và cuối cùng quả báo đó quay lại, hại đến con cháu của chính người viết sách nhảm.

Sách nào được người ưa xem, thì mực độ lưu truyền càng lâu.

Song những loại sách thiện lành, đem lại cho người tri thức, an vui, giúp người tiến lên, hướng dẫn người sống hiếu thuận, nhân nghĩa; quý trên nhường dưới, công chính liêm minh; tuân công giữ pháp... thì sẽ chiêu phúc báo lớn vì giúp cho phong khí xã hội thêm tốt lành.

Ngược lại, nếu viết những điều tệ, như các tiểu thuyết, tuồng kịch, truyền hình, phim ảnh chuyên tuyên truyền những nội dung khủng bố, sắc dục, trộm cướp, dâm uế v.v... thi chẳng những làm hại xã hội đương thời mà còn di họa đển nhiều đời sau.

Vì vậy người cầm bút nhất định phải hiểu rõ nhân quả, không nên vì tham vui ham lợi nhất thời mà sáng tác nhảm, lưu lại độc phẩm cho người, di họa vô tận cho các đời con cháu.

Phải biết dù hiện thời họ có nổi danh, hưởng cảm giác khoái vui ngàn vạn, nhưng vô thường rồi cũng đến.

Phút nhắm mắt tất cả không đem theo được gì, chỉ mang theo nghiệp xấu và để lại tai họa, nạn khổ... cho đời sau lẫn con cháu.

"Hại người cũng như hại mình" mà!

Xin hỏi Điền nữ sĩ, tổ bối của bà có ai từng viết tiểu thuyết kinh dị khủng bố chăng?

- Thưa, hoàn cảnh nhà con tương đối phức tạp, hồi bé con biết rất ít... vì nguyên nhân chính trị nên gia đình bị ly tán mỗi người một phương...

Do vậy mà chuyện về các bậc cố, tổ... con lại càng ít biết hơn.

Lớn lên, có lần con được nghe mẹ kể sơ qua một chút.

Nhờ vậy mà biết phụ thân mình xuất thân trong hàng danh gia vọng tộc thuộc dòng dõi thư hương, ồng nội và ông cố con đều là học sĩ của Thanh triều.

Con nghe nói bà cô chúng con từng dịch tiểu thuyết kinh dị của một đại tác gia nào đó sang Trung văn.

Còn như ai viết tiểu thuyết khủng bố thì con không rành...nhưng trong một gia đình mà đa số theo nghề viết văn, rất thích sáng tác tạo cảm giác mạnh... thì chuyện này chắc chắn là có...Ị

Con rất tin vào thuyết Hòa thượng giảng lúc nãy, nếu không thỉ gia tộc con vì sao liên tục phát sinh các quái bệnh giống nhau như thế?

Đã có ba người mắc phải rồi.

Hiện tại lòng con rất lo, vì không biết bao giờ những tiểu thuyết khủng bố quỷ quái đó mới tiêu hết trên thế gian?

Vậy thì chứng bệnh đáng sợ này, há chẳng phải sẽ đời đời di truyền hành con cháu hay sao?

Kính hỏi sư phụ, có cách gì cứu em con không?

Có cách gì cấm chỉ chứng di truyền này không?

Sư phụ mỉm cười đáp:

- Con đừng lo quá, tất nhiên là phải phá việc này.

Nếu như không có biện pháp giải quyết thì chẳng phải khiến các con tăng thêm tâm bệnh ư?

Lúc nãy ta nói là "liên quan đến nhân quả", vì thực tế đã có người bị loại bệnh này.

Kiếp trước của người bệnh nhất định cũng đã gieo ác nhân tương đồng như thế.

Thí như: họ đã từng dọa nạt, làm người kinh sự đến chết... cho nên đời nay mới đầu thai vào gia đình tương tự, cùng dung nhập vào một gia tộc đề gánh chịu "báo ứng nhân quả" ập đến...

Bởi vì con đã biết và tin Phật pháp, hơn nữa còn dốc sức hộ trì Phật giáo, cho nên đã tích phúc và kết Phật duyên được cho người nhà, nhờ vậy mà em trai con có hy vọng hồi phục.

Nhưng ắt là con chưa hoàn toàn ăn chay, phải không?

- Dạ đúng vậy, thưa sư phụ.

- Thế... sau khi về, con có thể ăn trường trai không?

- Không vấn đề chi, thưa sư phụ.

- Tốt.

Vậy con hãy tổ chức một pháp hội lễ sám tại chùa, nhằm siêu độ cho những người do đọc các tiểu thuyết khủng bổ kia mà bị tổn hại.

Con hãy sám hối thay cho tiền nhân (cho những tác giả trưởng bối) đã sáng tác các loại tiểu thuyết độc hại này.

Sau đó thì bản thân con có thể ở tại nhà, tụng liên tục 10 bộ Kinh Lăng Nghiêm để hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, dùng công đức này tiêu trừ tội nghiệp cho tiền nhân.

Được vậy thì từ nay trở đi trong gia tộc sẽ không còn ai mắc bệnh này nữa!

Ngoài ra, hằng ngày nhớ cúng một ly nước trước Phật, mỗi ngày con thành tâm tụng một biến kinh "Quan Thế Âm Bồ tát Phổ Môn Phẩm" và tụng ba biến chú Đại Bi, sau đó đem cho em trai con dùng, thì tinh thần nó sẽ dần chuyển tốt.

Điền nữ sĩ cung kính ghi những điều Hòa thượng Diệu Pháp chỉ bày.

Hiện nay Điền nữ sĩ đã quay về Mỹ.

Do câu chuyện này có cảnh báo hay về nhân quả, nên tôi viết ra, chia sẻ cho quý vị tham khảo và cũng hy vọng thông qua đoản văn này, nhắc nhở mọi người cảnh giác, cẩn thận lúc gieo nhân.

Xin hồi hướng công đức này cho tiên sinh Điền Kiệt, cầu ông sớm lành mạnh.

Quả Khanh



Phần 2

KINH NGHIỆM CẦU CON

Mồng 1 tháng 10 năm 2006, sư phụ Diệu Chân đi Dương Châu mở thiền thất, ngang qua chỗ tôi ngài đã ghé vào ban pháp nhũ và giảng nhiều điều hay về việc tu học Phật cho các cư sĩ đến bái kiến.

Sau đó trước Phật đường ngài tha thiết nhắc nhở tôi:

- Cư sĩ học Phật đã chục năm rồi, còn phát tâm đi khắp nơi bố thí, nhưng về kinh văn chú ngữ lại không chịu tụng đọc cho làu thông!

Hành thiện là điều quý khó làm, nhưng việc xem kinh tạng để thâm nhập, giúp tăng trưởng trí tuệ, phá vô minh... rất cần thiết và quan trọng hơn nhiều!

Nghe sư phụ dạy, tôi cảm thấy hổ thẹn, thầm nghĩ sau này nhất định phải nỗ lực tinh tấn tu hành.

Cuộc sống gia đình tôi rất hạnh phúc, con gái tôi đã mười mấy tuổi, thông minh lanh lợi, nhưng tôi vẫn khao khát muốn sinh thêm một bé trai nữa, thầm muốn cho nó được tiếp thọ Phật pháp ngay từ thai giáo, rồi cả đời vâng hành theo lời dạy của Phật, chân chính tiếp nối huệ mệnh Ngài.

Mộng ước này luôn cháy bỏng trong tôi, nhưng hiện giờ con gái tôi đã 12 tuổi, suốt thời gian dài trôi qua mà tôi vẫn chưa hoài thai, nên lòng rất tiếc nuối.

Sau khi học Phật, tôi tinh tấn hành pháp, tụng kinh... thì kỳ tích xuất hiện.

Ngày nọ tôi đi chợ, vừa thấy quả táo tươi ngon thì cứ đứng bất động, ngây người nhìn... trong lòng bỗng dấy lên cảm giác thèm ăn cực kỳ, giống như mấy bà bầu thèm ăn vậy.

Sau đó tôi tới bệnh viện chẩn khám, quả đúng là có thai!

Tin vui này khiến hai vợ chồng tôi mừng rỡ, hạnh phúc vô cùng.

Thế nhưng sau cơn phấn chấn, tôi lại nghĩ: "Chồng tôi năm nay gần 50 rồi, tôi cũng sắp 40, lỡ như đứa bé sinh ra không phải là trai thì làm sao đây?"

Động não một hồi, tôi sực tỉnh, nghĩ thầm: "Mình đã là người học Phật thì tuyệt đối không nên phá thai, vì phá thai cũng là sát sinh, quả báo sẽ khổ vô cùng!"...

Sau đó được sư phụ Diệu Chân khai thị, tôi và chồng quyết định giữ đứa bé lại.

Thời kỳ đầu mang thai, thân thể tôi rất không thoải mái, luôn thèm ngủ, người mỏi mệt, bải hoải, khó chịu.

Nghe các bạn đạo nói trong thời kỳ hoài thai nếu tụng "Kinh Địa Tạng" và "Kinh Phổ Môn" sẽ rất có lợi cho bé.

Thế là tôi quyết định vì con, thử tụng "Kinh Địa Tạng"...

Ôi!

Quả là kỳ tích, hằng ngày tôi tụng một bộ, không còn triệu chứng muốn nôn ói nữa, tâm cũng chẳng còn phiền não loạn động, trong lúc tụng kinh tôi chí thành chăm chú, tụng khoảng gần hai tiếng thì xong một bộ.

Mỗi khi gặp ngày lễ (đản sinh hay vía chư Phật, Bồ tát), thì tôi cùng các bạn đạo đi phóng sinh.

Tôi còn đến "Thông Giáo Tự" mời thỉnh mấy mươi vị tu sĩ và chúng cư sĩ, cùng tổ chức tụng một tuần "Kinh Địa Tạng" và ba ngày "Kinh Phổ Môn" để hồi hướng công đức cho thai nhỉ.

Tôi hy vọng đứa bé (khó khăn lắm tôi mới mang thai được) này sẽ có phúc huệ thâm sâu, trở thành trụ cột mai sau cho đất nước.

Mang thai khoảng sáu tháng, tôi hữu duyên được gặp cư sĩ Quả Khanh tại Bắc Kinh - là tác giả cuốn "Báo ứng hiện đời" - nghe ông khẳng định đứa bé tôi đang mang trong bụng là nữ, tôi thất vọng và buồn rười rượi.

Bởi vì trước đó có vị thầy Đông y cũng chần đoán hài nhi trong bụng tôi là nữ, ngay cả đám bạn giàu kinh nghiệm sinh dưỡng cũng đều nói bào thai trong bụng tôi là gái!

Nhưng tôi đã có một gái rồi, bây giờ rất mong mình sẽ sinh trai, nhưng vì sao lại không thể như nguyện chứ?

Tôi lo lắng hỏi cư sĩ Quả Khanh:

- Thế... tôi phải làm sao đây?

Ông đáp:

- Mặc dù các vị tin Phật, biết bố thí, phóng sinh, in kinh sách thiện... tạo công đức rất lớn, nhưng do chồng bà vẫn chưa bỏ mặn ăn chay, mà bà giữ giới cũng không thanh tịnh!

Nếu như bà thực lòng muốn sinh nam, thì hai vợ chồng hãy phát nguyện trước Phật: "Kể từ nay trở đi thệ từ bỏ hẳn tất cả thức mặn và ăn chay trường, nguyện nghiêm trì ngũ giới, cầu Phật ban cho một bé trai có thể hoằng pháp lợi sinh trong tương lai"...

Hằng ngày còn phải tụng một bộ "Kinh Địa Tạng", niệm Bồ tát Quan Thế Âm vạn lần, làm được như vậy thì thai nữ sẽ chuyển thành nam!

Tôi cuống quýt hỏi lại cho chắc:

- Thưa ông, còn một tháng nữa là sinh rồi, nếu tôi làm thế... quả thực là có hi vọng chăng?

Quả Khanh đáp:

- Phật thuyết: "Tất cả duy tâm tạo", trong kinh Phật giảng toàn là lời chân thật không hư dối, nếu bà không tin, thì xem như tôi không có nói gì!

Ông thấy tôi tín tâm chưa đủ, bèn kể cho tôi nghe:

- Ở Hà Nam có một bà mang thai, siêu âm ba lần đều thấy là nữ, còn bảy ngày nữa thì sinh, nhờ hai vợ chồng đồng phát nguyện: "Nếu như sinh trai, họ thệ từ bỏ tất cả đồ mặn, bước vào con đường học Phật!...

Kết quả, được Phật lực gia trì, sau một tuần thì họ sinh trai.

Câu chuyện này khiến tôi tăng thêm lòng tin.

Tối đó tôi ở trước Phật phát nguyện: "Chỉ cần con sinh được bé trai khỏe mạnh thông minh, từ nay về sau con nguyện nghiêm trì ngũ giới, ăn chay trường, học Phật niệm Phật và xin bỏ ra mười vạn (tương đương 16.000 USD), để in kinh làm Phật sự, hơn nữa sau này hễ có khả năng thì con nguyện rộng làm việc phúc thiện, hoằng pháp lợi sinh...

Thai nhi mỗi ngày một lớn, nhưng tôi vẫn kiên trì tụng kinh, ăn chay phóng sinh, mỗi ngày tự mình lái xe đi khắp nơi, thân không chút khó chịu.

Hôm đầu nhập viện tôi còn tự lái xe đi phóng sinh.

Dù kỳ sinh theo dự tính đã đến, nhưng tôi chẳng có dấu hiệu sắp sinh, thế là tôi tự lái xe đến bệnh viện kiềm tra trước khi sinh.

13 năm trước lúc sinh trưởng nữ tôi đã bị băng huyết, bây giờ lớn tuổi mới sinh lần thứ hai nên thực sự lòng có lo âu...

Khi kiểm tra bác sĩ nói:

- Nước ối ít, sợ thai nhi bị nguy hiểm, phải nhập viện ngay.

Nằm viện rồi, suốt ba ngày, hôm nào bác sĩ cũng tiêm thuốc thúc sinh cho tôi, nhưng chẳng tháy có hiện tượng gì là sắp sinh, tôi đi siêu âm kiểm tra tiếp, thì thấy nước ối đã có nhiều hơn trước, đến ngày thứ tư bác sĩ không tiêm thuốc thúc sinh nữa, ông để tôi nghỉ một ngày.

Qua ngày thứ năm tôi từ bệnh viện đi bộ đến ngôi chùa gần đó lễ Phật (mỗi một điện, mỗi vị Phật, mỗi Bồ tát tôi đều khấu đầu ba lần.

Từ đầu đến cuối ước chừng khoảng mấy mươi lạy.

Rồi tôi quay về bệnh viện, không cảm thấy có chút mệt mỏi, bất an chi.

Sang ngày thứ sáu tôi bắt đầu thấy hơi đau bụng, nhưng vẫn kiên trì tụng "Kinh Địa Tạng", vừa tụng xong một bộ, thì nước ối vỡ ra, bụng đau kịch liệt, tôi vẫn kiên trì niệm Phật.

Vào phòng sinh khoảng 15 phút, bác sĩ nói đã thấy đầu đứa bé, tôi vẫn tiếp tục niệm Phật và sinh ra một bé trai bụ bẫm dễ dàng.

Người bé nhìn thấy đầu tiên là ba nó, cả nhà hết sức vui, riêng tôi thì mừng hết biết.

Bạn bè nghe tin tôi sinh trai, xúm nhau mang quà tới chúc mừng và biếu đủ thứ: Nào là giò heo, cá chép, chim, gà...

đợi bạn về rồi tôi đưa mấy con vật còn sống cho người nhà đem phóng sinh hết.

Tôi cho con bú, nhưng sữa quá ít.

Người nhà ai cũng nói tại tôi không ăn thịt, không ăn canh giò heo nên mới không có sữa nhiều.

Vì quá lo cho con trai, tôi không còn kiên tri giữ giới nữa, cứ nghĩ rằng: "Thôi thì mình ăn tam tịnh nhục chắc sẽ không sao".

Tôi ngả mặn rồi thì quả nhiên có nhiều sữa, nhưng con tôi vừa bú chút ít thì không chịu bú tiếp nữa, lại còn phát bệnh.

Bác sĩ nói nó bị chứng tăng hồng cầu, nếu như không thuyên giảm thì phải chuyền lên "Bệnh Viện Bắc Kinh" chữa trị.

Nhưng bệnh thằng bé càng lúc càng tăng, sữa tôi có nhiều nhưng nó không chịu bú, tôi đành phải mớm thứ khác cho bé và nghĩ thầm: "Vì sao lúc bé mới sinh ra, sữa tôi tuy ít nhưng nó vẫn bú chùn chụt?

Bây giờ sữa có nhiều nhưng duyên cớ nào nó lại khăng khăng không chịu bú?

Tôi động não tìm hiểu nguyên nhân...

"Liệu có phải là tại tôi ăn canh giò heo chăng?

Rõ ràng là tôi đã phát nguyện, hứa ăn chay, cầu Phật Bồ tát ban cho mình một bé trai thông minh, trí huệ... nhưng tôi đã phản nguyện, ăn mặn trở lại.

Tôi đã dùng canh giò heo để thúc sữa, do vậy sữa tôi cũng bị nhiễm thức mặn hôi tanh, bé bú vào không hợp nên mới phát bệnh...

Chính vì vậy mà bé nhất định không chịu bú sữa?"...

Nghĩ đến đây, tôi đang nằm trên giường, bỗng sợ đến phát run, lòng đầy ăn năn hối hận, lệ tuôn ràn rụa... tôi ngòi dậy mặc áo tràng, bước xuống giường, quỳ trước Phật sám hối và phát nguyện lại, cương quyết kể từ giờ: "thề từ bỏ đồ mặn triệt đề, cầu cho bé sớm qua cơn nguy hiểm"...

Sau khi sám hối và phát thệ xong, tôi thử cho con bú...

Ôi chao, thật mừng là bé đã chịu bú, khi bác sĩ trích máu kiểm tra, thấy chứng tăng hồng cầu đã ngưng, quả là kỳ diệu không thể nghĩ lường!

Sau đó tôi, bỏ ra ba mươi vạn bố thí, cúng dường, làm việc thiện hồi hướng phúc cho bé.

Hiện giờ bé đã một tuổi rưỡi, hằng ngày đều tự động tới quỳ trước Phật khấu đầu lễ bái.

Bé đặc biệt thông minh cực kỳ, mặt mày sáng rỡ, xinh như châu ngọc, ai nhìn cũng yêu.

Từ đấy trở về sau, tôi càng tin: "Phật pháp là pháp bảo cho đời lẫn đạo" chỉ cần chúng ta chịu y pháp hành trì, nhất định sẽ thu được lợi ích khôn cùng.

Ngay đây tôi cũng xin cảm tạ đại ân đức của chư sư và chư vị cư sĩ đã hết lòng trợ giúp cho chúng tôi...

Quả Anh

Quả Khanh Giải thích thêm: Đây tà câu chuyện có thực, chứng minh trí tuệ tuyệt vời của Phật, càng chứng minh "Kinh Địa Tạng" là một bộ kinh chuyển đổi mệnh vận, nghiệp quả rất kỳ diệu.

Điều này là chân thật không dối.

Hy vọng độc giả có thể phát nguyện tụng "Kinh Địa Tạng" mỗi ngày một bộ hoặc mỗi tuần một bộ, ắt sẽ đem lại cho quý vị và người nhà những điều hay bắt khả tư nghị, cần lưu ý là, người tụng phải nghiêm trì giới luật, dứt tuyệt đồ mặn ăn chay trường thì mới có công đức vô lượng và có hy vọng xuất tam giới.

Ngoài ra, câu chuyện này cũng cảnh tỉnh chúng ta: đừng bao giờ phản bội, làm trái lời nguyện!



NGHỊCH DUYÊN GIỮA CHA MẸ VÀ CON

Trong cuộc sống hiện nay, khi gặp phải nhiều điều bất như ý, do không rõ nguyên nhân và hiểu thấu những lỗi lầm mình từng tạo trong quá khứ nên tâm tư càng thêm khổ não.

Phật thường giảng về nhân quả trong nhiều bộ kinh, điều này có thực không dối!

Khi ta gieo một hạt giống là nhân, lúc duyên hội đủ, chín muồi... thì sẽ kết quả, bất kể là hạt giống thiện hay ác!

Nếu như chúng ta nghe Phật giáo hóa, ai cũng chịu tin nhận, y pháp hành trì, biết nhiếp tâm giữ giới, tịnh hóa thân khẩu ý, thận trọng từ lời nói đến việc làm, niệm niệm đều thuần thiện, thì chắc chắn là người trong thế gian ắt sẽ chẳng gặp nhiều khổ nạn.

Câu chuyện nhân quả có thực dưới đây, đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về quả báo thiện ác luôn hiện hữu, theo ta như bóng theo hình.

Có một phụ nữ trung niên mặt mày sầu khổ, ủ ê.

Tia nhìn như không còn sức lực, bà yếu ớt nói với tôi:

- Quả Hồng, tôi có một việc nan giải mong cô chỉ bảo giúp cho!

- Xin hãy nói đi ạ!

Bà chỉ vào một ông tuổi trung niên, ngồi phía sau mình giới thiệu:

- Đây là chồng tôi, chúng tôi kết hôn xong thì sinh được một trai, do công tác bề bộn, không rảnh để chăm sóc bé nên đành giao nó cho bà ngoại trông nom cháu giùm.

Do thằng bé được một tay bà nuôi khôn lớn, nên tình cảm giữa hai bà cháu rất nồng hậu.

Bởi bà quá yêu cháu, nên cái gì cũng giành làm thay, chẳng cho nó mó tay vào làm việc chi.

Dù thằng bé đã 8, 9 tuổi đầu rồi, mà bà vẫn rửa mặt, chải tóc, tắm táp cho nó...

Thậm chí khi bé đến mười tuổi, lúc ăn cơm bà vẫn còn đút cho, khiến nó quen tật, hễ không đút thì nó không ăn.

Đến khi thằng bé 13 tuổi, bà ngoại sức khỏe ngày càng suy yếu, do tuổi cao, có lòng mà không còn sức nữa nên chẳng thể lo được cho cháu, đành phải giao thằng bé lại cho chúng tôi chăm sóc.

Thằng bé suốt mười mấy năm nay đã quen kiểu sinh hoạt ỷ lại như thế rồi, vợ chồng chúng tôi đã sớm nhận ra sai lầm này, nên rất lo.

Cũng từng khuyên nhắc hai bà cháu, nhưng vô phương sửa đỗi tệ trạng ấy. sẵn cơ hội nhận cháu về, hai chúng tôi nhất quyết sửa đổi, uốn nắn thằng con lại để nó biết tự lập, sống tốt hơn...

Ngờ đâu, nỗi phiền muộn lại thi nhau ập đến, khi chúng tôi phát hiện rằng: hầu như mình vô phương sửa đổi con.

Sáng dậy, nếu không thay y phục giúp nó thì nó chẳng thèm nhúc nhích.

Mười ba tuổi rồi, mà cả việc đánh răng, rửa mặt... chúng tôi còn phải phục vụ nó.

Còn lúc dùng bữa, nếu không "dâng" thức ăn đến tận miệng thì nó không ăn, lẳng lặng ôm cặp đi thẳng đến trường học.

Hiện giờ thằng bé đã 16 tuổi, nhưng chuyện rửa mặt, tắm gội v.v... (nói xin lỗi) thậm chí tới... rửa đít cũng phải do cha mẹ nó hầu, phục vụ tất!

Kề cho cô nghe mà chúng tôi thực xấu hổ, não lòng quá, vì bây giờ tất cả hầu như vô phương sửa đổi rồi...

Thế nhưng khi theo dõi cháu nơi trường lớp, thì thấy cháu cư xử với đồng bạn mọi mặt đều tốt, không có gì là bất thường.

Vợ chồng chúng tôi rất buồn khi nghĩ đến các biểu hiện lạ lùng của con trai ở nhà: cái mửng5 chờ cha mẹ mang áo đến khoác vào, mới chịu đưa tay ra, cơm dâng tận môi, mới há miệng, cũng chẳng thiết cầm đũa, không chịu mó tay vào làm bất cứ việc gì... cái kiểu sống như ông hoàng, cứ ỉ người ra mà chờ hầu hạ như thế, thì tương lai làm sao nó có thể trụ vững trong xã hội, làm sao mà sinh tồn?

Tôi và ba nó ngày nào cũng rơi nước mắt, khổ đến không thiết sống!

Xin cô hãy cứu chúng tôi!...

Đối diện với người mẹ hình dáng tiều tụy, khổ đến không muốn sống, lòng tôi ngổn ngang trăm mối... quán sát cảnh cha mẹ dốc hết tâm huyết dưỡng dục con, tôi hiểu ra vì sao họ phải trả báo nặng như thế này và không ngăn được thở dài!

Càng thấm thìa luật nhân quả đúng là không sai mảy may, câu chuyện của họ lả bằng chứng sống thực, gióng lên hồi chuông cảnh báo, nhắc nhở tất cả mọi người:

"Vào thời xa xưa, có một tiểu thiếu gia con nhà đại phú quý, mẹ chàng hết dạ cưng yêu, nâng niu như châu ngọc.

Bà chăm sóc con cực kỳ chu đáo, bắt kẻ hầu người hạ lúc nào cũng phải túc trực chung quanh.

Ngoài bảo mẫu chăm sóc tiểu thiếu gia ra, mẹ chàng còn cắt riêng một nữ tỳ và một gia đòng đề cùng bầu bạn, chơi đùa, hầu hạ chàng.

Tiểu thiếu gia được hai tớ trai tớ gái này lúc nào cũng kề cận ứng hầu, nên chàng có cảm tình nồng hậu và tin yêu họ như thân nhân mình.

Thời gian êm trôi, tiều thiếu gia dần trưởng thành, đối với hai người hầu này lòng thương mến càng tăng, cho nên chàng rất ưu ái dung túng họ.

Do vậy mả đôi nam nữ giúp việc này, đã lợi dụng lòng tín nhiệm của thiếu gia, tha hồ tác oai tác quái.

Họ làm rất nhiều điều giảo quyệt sai quấy, thường trộm tiền bạc vật dụng của chàng đem bán tiêu xài, ăn chơi cho thỏa thích... số tài sản họ trộm của thiếu gia, tính ra nhiều không kể xiết.

Hai người hầu này chẳng có chút lòng hổ thẹn sám hối, ngược lại ngày càng bành trướng tính lươn lẹo dối gian, họ cùng lên kế hoạch "sẽ quơ một mẻ to kếch sù của thiếu gia rồi trốn đi"... nhưng mưu tính của họ chẳng được thành như ý nguyện....

Thời gian trôi qua... bánh xe luân hồi vần xoay.

"Nhân như thế thì quả phải như thế!"...

Đời này, đôi người hầu gian tham trộm cắp đồ của tiểu thiếu gia kiếp xưa, đâ thành là vợ chồng, riêng tiểu thiếu gia thì đầu thai làm con họ.

Sở dĩ họ phải nuôi con vất vả khác thường như thế, chính là đề trả báo lỗi xưa, bởi họ thiếu nợ cậu quá nhiều, nhiều đến không thề nào tính xuể.

Riêng người mẹ tiền kiếp của thiếu gia, đời này lại sinh làm bà ngoại, vẫn còn lưu giữ niềm yêu thương sủng ái chàng hệt như kiếp trước.

Phần đôi vợ chồng "tôi tớ", đối với nữ chủ kiếp xưa nay thành là mẹ, tất nhiên họ luôn khép nép vâng lời, không bao giờ dám cãi bà, hễ mẹ phán là chỉ biết có dạ vâng, sự kính nề trọng vọng dành cho bà luôn tiềm tàng nơi họ.

Thấy bà ngoại quá cưng cháu, họ nghĩ đây là điều tự nhiên, nhưng đến sau này khi muốn quản giáo con thì đã không còn ki.p nữa.

Do bởi nhân xấu ác đời trước họ gieo, sang đời này đà trổ quả và đây chính là ác báo mà hai vợ chồng cùng phải gánh chịu!

Nhìn người mẹ đang ngồi khóc nghẹn ngào, tôi dịu dàng khuyên:

- Không nên oán hận con mình, càng không nên chán ghét cuộc sống, mà phải cam tâm tình nguyện đón nhận.

Bây giờ, đã hiểu rõ ngọn nguồn nhân quả rồi, thì hai vị nên chân thành ăn năn sám hối các tội mình đã tạo trong kiếp trước.

Do xưa kia không làm tròn bổn phận người hầu, ngược lại còn tham trộm tài vật chủ nhân, chiếm đoạt quá mức để tiêu xài cho thỏa...

Có ngờ đâu đến đời này vẫn phải hoàn trả lại hết đủ cả vốn lẫn lời cho chủ, vì vậy mà khổ không kể xiết!...

Bắt đầu từ nay trở về sau, hai vị phải đến trước Phật chí thành sám hối lỗi xưa.

Nhất định phải trì giới ăn chay, hằng ngày vì tiểu thiếu gia kiếp trước tụng một bộ "Kinh Địa Tạng", dùng đây để hỗ trợ, tăng thêm huệ mệnh phúc báu cho người.

Đồng thời, phải nài xin bà ngoại khuyên bảo cháu giùm: "Lớn rồi nên tự chăm sóc, tự lo!

Nếu không chịu sống tự lập thì tương lai sẽ biến thành người vô dụng, thành kẻ phế thải trong xã hội!"...

Nếu như bà ngoại đáp ứng, chịu khuyên cháu, thì con các vị nhất định sẽ nghe lời.

Phần hai vị phải dốc sức sám hối tụng kinh, ăn chay, tu sửa...

Nếu làm được vậy thì cậu con ắt sẽ thay đổi nhanh thôi.

Bởi vì bản chất cháu vốn không phải biếng lười chẳng muốn làm, mà do chịu ảnh hưởng của nghiệp lực tác động chi phối, nên mới không làm!

Tôi nói xong rồi, phương thuốc hay đã đưa ra, phần áp dụng thực hành là của các vị!

Nếu có thể làm được như lời tôi khuyên, thì tất cả đều sẽ chuyển tốt!

Câu chuyện nhân quả có thực này khiến lòng tôi trở nên nặng nề, vì nghĩ đến hiện nay trên thế gian này: "Đã có bao gia đình gặp cảnh con cái bất hiếu, hút chích ma túy, sống dật dờ, hoặc suốt ngày đêm ngồi nơi quán net chẳng thiết về nhà?

Những cảnh yêu sớm rồi phá thai, chưa kết hôn đã vội sống thử, sống chung... ngoại trừ do ảnh hưởng giáo dục sai lầm và hoàn cảnh tệ lôi cuốn ra, liệu có nhân quả góp phần chi phối trong đó hay không?

Thiết nghĩ, những vị làm cha mẹ, nên tự kiểm lại bản thân khi vấp phải những cảnh nghịch ý trái lòng tương tự"...

Chính vì tạo ác nghiệp sẽ chiêu lắm khổ báo ập tới... nên tất cả chúng ta cần phải phát nguyện: Đời đời kiếp kiếp tuân giữ ngũ giới, tu thập thiện, làm tròn bổn phận, không tham không cầu, không ích kỷ, tư lợi.

Phải biết chúng ta đang lặn hụp trong lục đạo, cứ luân hồi vần xoay trong biển khổ sinh tử, rồi từ đấy kết thân kết oán, thiếu nợ, hoàn nợ...

Thực sự bạn vĩnh viễn trốn không được, thoát không khỏi lưới nhân quả giăng rất mật thiết, tinh vi trong trời đất!

Chỉ có tiếp thọ lời Phật dạy và y giáo phụng hành mới mong có ngày được giải thoát.

Quả Hồng



GIẾT CÁO BỊ BÁO ỨNG

Chuyện này do bà tôi kể lại, được sự đồng ý của bà, tôi xin viết ra chia sẻ cùng quý độc già.

Các vị nhất định phải "Dứt tuyệt không làm ác, chuyên làm các điều lành".

Nhân vật kể trong truyện đều có thật, đều do bà tôi chứng kiến.

Sau đây là nguyên văn lời kể của bà tôi:

"Năm 1951 Bắc Kinh mới giải phóng, lúc đó tôi khoảng 5-6 tuổi, cùng phụ thân cư ngụ ngoài Vĩnh Định Môn.

Vĩnh Định Môn lúc đó còn là một vùng hoang vu hẻo lánh.

Đối diện nhà chúng tôi là gia đỉnh họ Tất, họ gồm có hai vợ chồng và các con cháu cùng ở chung.

Lúc đó phía sau nhà họ có nhiều cây táo, tôi thường cùng các bạn nhỏ đến đó chơi đùa và hái táo ăn.

Một hôm nghe ông Tất khoe: sau nhà ông có hồ ly xuất hiện, ông nhất quyết làm bẫy bắt hồ ly.

Chưa đầy mấy ngày, tôi nghe nói lão Tất đã tóm được con hồ ly.

Hơn nữa còn lột sống da của nó làm khăn choàng cổ.

Mấy ngày sau tôi tới nhà lão Tất chơi, vừa bước vào sân thì gặp ngay bà cô họ Biên, là hàng xóm của lão Tất.

Bà nói:

- Ông Tất bị bệnh nằm mẹp, không đi được nữa rồi!

Tôi liền chạy thẳng vào trong, lúc này con trai và cháu trai ông đang đứng bên cạnh giường chăm sóc.

Thật lạ, lão Tất bình thường là một người vạm vỡ, cao hơn một mét bảy, nhưng bây giờ nhìn ông nằm thu lu trên giường, co rút lại chỉ còn khoảng bảy, tám chục cm thôi, hơn nữa toàn thân ông run lập cập, mặt cũng biến dạng, mồm gắng sức lắp bắp nhưng không nói được gì.

Nghe người nhà ông kể:

- Hồi hôm ông còn gào thét, tru lên rất thảm thiết...

Mấy đứa nhỏ chúng tôi nghe vậy sợ quá, xúm nhau co giò chạy.

Đấy là lần cuối cùng tôi nhìn thấy lão Tất, vì mấy ngày sau thì ông qua đời.

Nghe nói lúc tắt hơi người ông khô kiệt, tay chân giống như hồ ly, mặt cũng giống hồ ly.

Gia đình không liệm ông trong quan tài, chĩ bỏ vào cái hộp gỗ.

Nghe bà láng giềng họ Biên kể:

- Tối đó Ông chết rồi, có rất nhiều hồ ỉy tụ lại nơi sân nhà ông, vừa kêu vừa nhảy"...

Nghe xong câu chuyện, tôi hỏi:

- Bà có nhớ lầm mà kể thiếu chính xác không vậy?

Bà đáp:

- Hoàn toàn không!

Việc xảy ra khủng khiếp này luôn ám ảnh, in sâu vào trí não bà.

Cả đời bà không sao quên được cảnh tượng ông Tất bệnh nằm trên giường!

Bà tôi lại kể tiếp câu chuyện sau đây:

NÀNG DÂU BÁT HẠNH

Năm 1965 tôi 18 tuổi, tham gia Đoản Thanh niên, đến trú đóng ở khu vực Hoàng Dương Mông Cổ.

Trong thôn làng, gần đội chúng tôi, có gia đình họ Phạm.

Họ Phạm có một trưởng nam và một gái út.

Phạm công tử lấy vợ người Thiểm Tây, (cô nảy tên gì tôi cũng không nhớ rõ) vốn mò côi cha mẹ, trước đây ở với vợ chồng người anh, tính tình hiền, rất đảm đang ngay thẳng.

Vợ chồng Phạm lang tình cảm rất khắng khít.

Nhưng do kết hôn lâu rồi mà không có con, nên nàng dâu bị cô em chồng (chưa xuất giá) hợp cùng bà mẹ chồng cư xử rất tệ, họ hay chỉ mèo mắng chó; nói bóng nói gió, buông lời cay độc mỉa mai, ngụ ý: "Nhà mình vô phước rước nhầm cái thứ không biết đẻ!".

Họ thường ngược đãi hành hạ nàng dâu, cho ăn toàn đồ thừa.

Tết đến cũng không cho may y phục mới, nhưng cô dâu này hiền lành nạnh Đoan - biên dịch chất phác, chưa từng cãi lại, cô nhẫn chịu rất giỏi mọi hành hạ cay độc.

Mấy năm sau, cô em chồng sắp xuất giá, bà mẹ chồng cay nghiệt bảo nàng dâu:

- Mày là cái thứ xui xẻo! cấm không được tham dự hôn lễ con gái tao!

Bà chì chiết lăng nhục mãi... khiến nàng dâu rất buồn tủi, cuối cùng hết chịu nổi, nàng phẫn uất uống thuốc độc tự vẫn, rồi từ trong phòng mình bò ra ngoài, đến trước cửa phòng mẹ chồng thì tắt hơi.

Mẹ chồng nàng thấy vậy sợ quá, vội đi tìm một bà phù thủy, nhờ trấn ếm giùm.

Mụ đồng nói nàng dâu này là hạng tiều nhân, nhập liệm xong thì phải dùng đinh sắt to, dài, đóng vào tay chân nàng ta và lấy đá nhét vào miệng, đè lên ngực...

để trấn yểm, khiến nàng vĩnh viễn không thể ngóc dậy quay về... nếu không, toàn gia sẽ bị quấy rối!

Bà mẹ chồng liền đi đặt thợ rèn làm nhiều đinh sắt thật to, dài... rồi cho đóng vào thi thể nàng dâu, sau đó lấy đá nhét vào miệng và đè lên ngực nàng, rồi đem thây vùi xuống đất.

Khi vợ chồng anh nàng tới thăm, tra hỏi vì sao em gái mình chết?

Nhà họ Phạm giải thích vòng vo, không ngớt miệt thị nàng dâu là hạng gái hư hèn... vợ chồng anh nàng do học ít, cũng không hiểu biết chi nhiều nên đành cam chịu.

Nhà họ Phạm bồi thường cho họ chút tiền rồi đuổi về.Tục ngữ nói "Lộ kiến bất bình đại gia đạp", (giữa đường gặp chuyện bất bình người chung quanh cùng hợp sức ra tay)...

Người lân cận chung quanh sau khi biết chuyện, liền tỉm tới Phạm gia, đề nghị: nhất định phải cho người chết một đáp án ổn thỏa, không thể để nàng ra đi bất minh, oan khuất như thế!

Phạm gia túng lý, đành phải để láng giềng đem chòng người chết tới bệnh viện lớn khám.

Kết quả: Anh chồng này bị chứng không có tinh trùng, do vậy mà không thể có con.

Xem như nàng dâu bị mắng oan, chết thảm, hoàn toàn không rõ cớ sự này.

Mấy ngày sau, bà gia và bố chồng đột nhiên đồng bị bán thân bất toại, ông liệt bên tả, bà liệt bên hữu.

Còn lão thợ rèn kia đêm nào cũng không ngủ được, lão than với mọi người:

- Tối nào cũng có một nữ nhân xõa tóc đứng nơi nhà tôi, khua đập chén bát um sùm!...

Lão biết là do mình ngu si góp phần làm việc thất đức (đáng xấu hổ với lương tâm), bèn lui về quê ở Hồ Nam.

Không bao lâu thì nghe tin lão lên núi đốn cây, bị té chết.

Cô em chồng tên Kim, trước đây thân thể cường tráng, ăn rất khỏe, một hôm đột nhiên bỏ ăn uống, đi bác sĩ khám thì mới hay mình bị ung bướu thời kỳ cuối, mấy ngày sau thì lăn ra chết.

Cô con gái chết rồi, hai ông bà gia bán thân bất toại sau đó nhân một chuyến về quê thăm ba mẹ, giữa đường họ bị xe tông chết.

Người chồng của nàng dâu bất hạnh, sau khi hiểu rõ mọi ngọn nguồn tạo thành bi kịch hôm nay, anh hối hận vì minh không đi kiểm tra sớm... thế là anh ra trước mộ vợ, khóc lóc, nói lời xin lỗi... cho đào thây nàng lên gỡ hết đinh và đá ra, thay y phục mới cho nàng.

Sau này nhà họ Phạm chỉ còn duy nhất một mình anh.

Phần bà phù thủy thế nào thì tôi không rõ, do nhà láng giềng này ở gần đoàn, nên tôi chỉ biết bấy nhiêu.

Nhưng chắc chắn bà phù thủy sẽ nhận lãnh quả báo mà bà đáng phải nhận.CẬU HAI TÔI

Tôi suy nghĩ rất lâu, mới thu hết can đảm để kề ra câu chuyện nhân quả liên quan đến bậc trưởng bối của minh.

Đúng lý thì tôi thuộc hàng con cháu mà đi kể chuyện người lớn thì thật là bất kính, nhưng tôi hi vọng nội dung câu chuyện này sẽ giúp mọi người cảnh giác mạnh và tin sâu nhân quả.

Giờ tôi xin kể về cậu Hai của mình: "ở quê tôi cậu Hai được xã hội công nhận là một người tốt gương mẫu, tính cậu thành thực, trung hậu, nhưng cuối đời lại có kết cuộc không lành: năm 2005 cậu phát bạo bệnh và tạ thế.

Cậu Hai vốn là cán bộ đảng viên, cả đời cần cù chăm chỉ.

Thuở sinh tiền giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Cục Quốc An.

Cậu sinh năm 1949, từng là ủy viên Ban Điều hành tỉnh thành, tính tình công chính, liêm minh.

Thời đó các cán bộ lãnh đạo cấp thành phố vừa được cấp xe riêng, mỗi vị đều có xe con và tài xế riêng.

Cậu Hai cũng được cấp cho một xe, nhưng hiếm khi dùng; cậu thường cưỡi xe đạp đi làm, còn anh tài xế cứ phải lái xe chạy theo phía sau cậu.

Khiến người trong gia tộc chúng tôi đều mắc cười về việc này: Bởi cậu có xe riêng mà không chịu đi, "có phúc mà không biết hưởng!"...

Các quan viên bên ngoài cũng cho là cậu cổ hủ, không biết thích ứng theo thời, do tính cương trực quá mức nên cậu làm việc không thuận lợi, hay bị chỉ trích.

Sau đó cậu mắc chứng bệnh lạ hiếm thấy: đại tiểu tiện ra máu, tiếp đến là ruột xuất huyết, phải trải qua nhiều ca phẫu thuật, thậm chí có lần mổ xong không lâu thì bị ra máu ào ào, do cậu trường kỳ xuất huyết, bị thiếu dinh dưỡng, lại thêm bị mổ xẻ nhiều, vướng bệnh nặng đến mức ai cũng hiểu là nội tạng cậu đã rã rệu, hư hết...

Cơn bệnh nặng giày vò cậu 2-3 năm, cuối cùng từng mạch máu cậu cũng bị vỡ và xuất huyết, cậu qua đời trong đau đớn thống khổ tột cùng váo lúc 50 tuổi.

Cậu ra đi trong tiếng bàn tán râm ran không ngớt của dư luận.

Mọi người đều cho rằng: cậu là một cán bộ tốt trăm năm hiếm thấy, thế mà một người trung hậu thật thà, một người cả đời không phạm chút lỗi lầm như cậu, không hiểu vì sao cuối đời lại có kết cục bệnh hoạn quá đau thương!? (Trong khi các quan tham ô đối lập với cậu lại sống rất đắc thế, tha hồ tận hưởng khoái lạc, bình an)...

Như vậy thì đời đâu có nhân quả báo ứng công bằng gì?...

Sau này tôi mới dần dần hiểu hết mọi nguyên nhân...

Do cậu công tác tại Cục Quốc An nên có nhiều súng ống đạn dược... thêm phần tính cậu rất mê săn bắn, cậu thường lên núi săn và xuống đập câu cá...

Từ đây suy ra, suốt mười mấy năm nay, cậu đã lạm sát, giết hại vô số sinh mạng, vì vậy mà cuối cùng đã chiêu cảm báo ứng bị bệnh khổ thống thiết... bởi cậu đã dùng súng, đạn dược sẵn có, thảm sát rất nhiều loài vật: khiến chúng máu chảy không ngừng, vỡ bụng lủng ruột, nội tạng lòi hết ra...

đây chính là lý do vì sao cuối đời cậu bị bệnh lạ đau đớn, cảnh tượng giống hệt như thế!"...

Khi kể đến đây, tôi đã rút ra được một kết luận: Cho dù bạn sống liêm chính, công minh; cả đời ngay thẳng cương trực, nhưng nếu đã trồng nhân sát sinh, thì khi quả báo đến vẫn phải gánh chịu, không thể do vì đã có những thiện hạnh khác mà có thể chống đỡ, thoát tội được...

Những ai thích giết hoặc tùy hỉ hùa theo giết chóc, nhất định phải cảnh giác...

Quy luật nhân quả tuyệt đối công bình, cảnh ngộ của mỗi người là phóng ảnh của nghiệp lực họ đã tạo.

Có những người xấu ác mà chưa thấy bị báo ứng, là vì: Thời quá khứ hoặc trước đây họ từng làm rất nhiều việc thiện, nên đến đời hiện tại này, phúc báu may mắn kia vẫn còn rất lớn, đủ sức trấn áp khiến quả xấu không thể trổ (đương nhiên những việc xấu họ làm không hề tiêu mất, hoặc có thể đồng thời họ vẫn ngầm làm thiện sự mà chúng ta không hề hay biết, không nhìn thấu hoặc không cho đó là việc thiện (chẳng hạn như hiếu thuận cũng được xem là đại thiện).

Vì vậy, khi sống cần gieo nhân tốt trong sạch trọn vẹn, đừng sống say chết mộng...

Nếu sống mà không tin nhân quả, cứ tùy tiện cẩu thả tạo ác thì hậu quả rất thê thảm...

Mong quý vị cẩn thận!



CÂU CHUYỆN KHIẾN TÔI RƠI LỆ

Mùa thu năm đó tôi 12 tuổi, đây là quãng thời gian thê thảm nhất của gia đình tôi: Phụ thân tôi bệnh nặng phải phẫu thuật, mất khả năng lao động.

Anh Hai tôi thi rớt đại học, còn mẹ tôi thì dùng lầm nông dược, khiến mười mẫu lúa đang trổ bị thất thu.

Cũng vào thời điểm đó tôi bị bệnh thiếu máu nghiêm trọng, thở thoi thóp, cần truyền máu gấp.

Trong nhà tôi lúc này nợ nần ngập đầu, mẫu thân bóp trán nghĩ suy đủ cách cũng không biết kiếm đâu ra tiền để cho tôi truyền máu.

Đang lúc cả nhà lo lắng vì bệnh tình nguy cấp của tôi, thì bà láng giềng họ Lý bước qua, nghiêm trang bảo mẹ tôi:

-Thím Tư à, mau ra phía sau mà xem, heo nhà bà đẻ rồi kìa!

Mầu thân được nhắc như sực tỉnh, vội chạy nhanh ra chuồng heo phía sau, thấy heo mẹ đang le lưỡi liếm sạch máu dính trên mình heo con, mẹ tôi bật khóc.

Bà mừng và cảm kích vì heo mẹ sinh lứa con này xem như cứu nguy kịp lúc cho gia đình, bà bèn trồng cây Dao Tiền gần chuồng heo tỏ ý tri ân cảm tạ...

Khi mẹ tôi giúp heo sinh con xong, thấy heo nái mệt lả đến sùi bọt mép, nó không ngừng thở lấy hơi...

Mẫu thân biết nó tuổi đã cao, cũng đã làm giàu cho nhà tôi gần chín năm rồi... lứa heo này có đến 16 trự6, mẫu thân thấy heo mẹ mệt, vội sai anh tôi đem sữa đậu nành đến cho nó uống, heo mẹ cảm kích ve vẩy hai tai, mẹ nhìn lứa heo con hồng hào mập mạp, bảo anh tôi:

- Lần này tốt rồi, xem như thằng Sơn được cứu...

Nhưng "nước xa không cứu được lửa gần", heo con phải nuôi dưỡng ít nhất ba tháng mới có thể bán, mà bệnh tôi thì ngày một nặng, ngay lúc heo con sinh ra mới được 10 ngày, thì tôi phát bệnh nặng đến không thể xuống giường.

Trong tình cảnh đó, mẹ tôi lòng nóng như lửa đốt, cứ đi tới đi lui mãi trong nhà, cuối cùng bà thở dài bảo anh tôi:

- Tuyền ơi, con vào trong xóm mời Vương đồ tể tới, mình đem heo nái bán lấy tiền trị bệnh cho thằng Sơn...

Anh tôi nghe mẹ nói, buồn bã đứng chết trân, sau đó mới khuyên can:

- Mẹ ơi, heo mẹ đang còn sống và heo con rất cần bú sữa... bệnh em Sơn dù quan trọng nhưng heo mẹ cũng rất cần được sống...

Nhưng cuối cùng, anh tôi mắt đầy lệ...

đành lủi thủi đi vào trong xóm tìm Vương đồ tể.

Mẹ tôi gấp rút dựng bếp, bắc một nồi lớn cạnh chuồng heo, lo nhóm lửa nấu nước...

Khi Vương đồ tể tới, ông đến gần chuồng heo săm soi quan sát rồi thở dài bảo mẹ tôi:

-Thím Tư à, coi như tôi giúp bà làm phước... thực ra dù có giết con heo mẹ này, thì cũng chẳng có được bao nhiêu thịt!

Nước đã sôi sùng sục, mẹ tôi mở chuồng heo.

Heo nái như đoán biết được, nên mặc cho mẹ tôi cầm ca sữa gọi nhữ đến mấy, nó vẫn đứng chết trân trong chuồng, không chịu ra.

Hết nhìn mẫu thân, thì nhìn anh tôi, sau đó nó không ngừng dùng lưỡi liếm các con nó đang chơi giỡn đuổi nhau trong chuồng...

Đột nhiên nó ngã lăn ra cái "rầm", cất tiếng "ột ột" phát tín hiệu gọi bú sữa, các heo con vừa nghe, tranh nhau chạy tới nằm dàn hàng quanh bụng mẹ và bú chùn chụt...

Mẹ tôi thở dài bảo Vương đồ tể:

- Thôi thì ông hãy đợi vậy!

Để nó cho con bú sữa lần cuối nhé?...

Vương đồ tể gật đầu.

Heo con bú sữa no nê, liền tản ra chơi đùa, nhưng heo mẹ vẫn không ngừng cất tiếng kêu, gọi con tới bú sữa... mãi đến khi con heo cuối cùng rời vú mẹ thì lúc này heo mẹ mới ngóc dậy, từ từ đi ra ngoài.

Khi heo mẹ ra khỏi chuồng rồi, nó lại quay đầu nhìn đàn con với vẻ bịn rịn lưu luyến... mẫu thân tôi bị tình của heo mẹ làm cảm động, bà quay mặt đi, lau nước mắt... còn anh tôi thì đứng như chôn chân tại chỗ...

Vương đồ tể lầm bẩm một mình:

-Thuở giờ chưa tôi thấy con heo nái nào thông minh, tính khí giống người đến vậy!

Heo mẹ hết nhìn mẫu thân, thì nhìn anh tôi và Vương đồ tể, rồi đột nhiên nó quay mình, phóng như bay vào chuồng rồi chạy quanh trong chuồng như điên.

Mẹ tôi thấy vậy ngơ ngác nhìn, rồi hỏi Vương đồ tề:

- Heo mẹ nó... muốn làm gì vậy?

Ông Vương lắc đầu, tỏ ý không hiểu...

Chạy một hồi, mọi người đều phát hiện hai hàng vú heo đã căng sữa đến sa cả xuống, từng dòng sữa trắng đang tuôn chảy...

Té ra heo mẹ chạy vậy để kích thích tuyến sữa chảy ra, nó muốn cho con mình được bú no đủ lần nữa, nhưng mặc cho heo mẹ cất tiếng gọi, đám heo con ngây thơ không chút lay động...

Anh tôi bị nghĩa cử của heo mẹ làm cho rơi lệ đầm đìa, một thanh niên 20 tuổi như anh đã bật khóc to, cất tiếng cầu cứu mẫu thân:

- Mẹ ơi, hu hu!... con van xin mẹ, đừng giết heo nái có được không?

Bệnh của em Sơn hãy để con nghĩ cách... hu hu!...

Vương đồ tể lẳng lặng ôm đồ nghề bỏ đi, mẹ tôi nước mắt đầm đìa, gật gật đầu, lúc này heo mẹ chẳng để chủ tốn sức gọi mình nữa, nó bước từng bước đi ra khỏi chuồng heo...

Sau đó, tôi nhờ truyền máu mà được cứu, đó là do anh tôi hiến máu cho tôi.

Sau này, heo mẹ lại sinh cho nhà chúng tôi bảy tám lứa heo nữa, trong lần sinh cuối cùng, heo mẹ bị sản nạn chết, cả nhà im lặng chảy nước mắt, cuối cùng mẫu thân đề nghị đem nó chôn dưới cội cây cạnh chuồng heo...

Đến nay, mỗi lần anh em chúng tôi về nhà thăm song thân, luôn trìu mến nhìn cây đại thọ cành lá xum xuê cạnh chuồng heo và bồi hồi nhớ đến con heo mẹ nghĩa tình mà trong nhà đã từng nuôi.

Tôi kính xin mọi người hãy ăn chay, không nên vì một phút ham ngon khoái miệng, mà hy sinh cha mẹ của các con vật nhỏ, hoặc ăn con hay đoạn mạng chúng....

Xin thành tâm cảm tạ mọi người.

Phật tử Thái Sơn



CHÚ ÚT CỦA BẠN TÔI

Bạn bè đều biết tôi tin Phật, do chơi thân nên hễ có thắc mắc gì về Phật giáo đều hỏi tôi, hoặc kể cho tôi nghe các việc xảy ra trong gia đình họ.

Hôm nay tôi xin thuật một chuyện (trong số các câu chuyện của bạn tôi), hi vọng quí vị đọc xong sẽ tăng thêm vô hạn tín tâm tốt lành.

Việc này xảy ra lúc tôi lên đại học.

Hôm đó dùng trưa xong còn dư giờ, tôi định đi tìm bạn bè trò chuyện thì đột nhiên gặp chị B, chị vỗ vào vai tôi, hỏi:

- Nghe nói bạn đạo Phật hả?

- Phải.

Thế là B hứng thú hỏi tôi mấy điều về Phật pháp, lúc đó tôi rất bất ngờ và cao hứng.

Bất ngờ là vì: B và tôi vốn không quen thân, quan hệ sinh viên trong trường chỉ ở mức ăn cơm với nhau vài lần.

B biết tôi tin Phật, chỉ biểu lộ sự tôn trọng thôi.

Còn cao hứng: là vỉ B không phải tín đồ Phật giáo, mà giờ đây lại tỏ vẻ thích thú muốn tìm hiểu...

Khi đó tôi hỏi B:

- Vì sao muốn tìm hiểu Phật giáo vậy?

Không còn cho đây là mê tín phong kiến nữa sao?...

Thế là B kể tôi nghe câu chuyện có thực xảy ra cho chú của mình.

Chú út của B là một người sống rất có đạo đức, tính tình cao thượng, phẩm hạnh hiền lương, ông nghiêm trì ngũ giới, tinh tấn tu, bao năm như một ngày, là một người được các bạn đạo hết mực tôn kính.

Hồi trẻ chú ra nước ngoài làm việc, hoàng thiên chẳng phụ người tốt bụng, cuối cùng chú thành công, có sự nghiệp vẻ vang.

Khi chú út trở nên giàu sang rồi, thì liền bảo lãnh song thân và vợ con ra nước ngoài sinh sống.

Chưa bao giờ chú ỷ mình giàu mà xem thường bà con nghèo.

Chú luôn luôn cư xử với mọi người hòa nhã, thân thiện, khiêm cung.

Nhưng mà một Phật tử thiện lương như chú, đột nhiên bị bệnh ung bướu, mà lại là thời kỳ cuối nữa chứ.

Việc này giống như "bom nổ trong nhà" khiến người thân của chú đều chấn động, không ai muốn tin: Một người tốt như chú lại bị ác báo như thế!

Thậm chí có người bắt đầu hoài nghi Phật pháp, trách ông trời không có mắt, vì sao "thiện nhân không được thiện báo?"...

Nhưng chú út của B vẫn thản nhiên, vì hiểu tất cả đều là nhân, quả nghiệp chướng đời trước.

Ngay lúc bác sĩ tuyên bố bệnh chú không còn chữa được nữa... chẳng những chú rất bình tĩnh, mà còn an ủi thân nhân bạn bè. (Tuy là chú không nỡ bỏ mặc cha mẹ, vợ con, nhưng một khi vô thường đến, mấy ai có thể trốn thoát được?)...

Chú tu trì thời khóa bền bĩ, mấy mươi năm như một ngày, trọn bề hành thiện tích đức, vậy mà bây giờ lại gặp phải ác báo này!

Ai cũng trách trời già bất công, nhưng chú thì không hề khởi tâm oán trách chi, còn nghĩ rằng cho dù mình có sắp chết, thì cũng phải tận dụng thời gian còn lại mà sống cho tốt... nghĩa là cư xử với mọi người nghĩa tình hơn, ráng làm thiện thêm cho nhiều... rồi sau đó thì nhất tâm niệm Phật cầu vãng sinh.

Bỗng một việc đặc biệt bất khả tư nghị phát sinh (ngay lúc B kể, tôi nghe mà còn không dám tin.

Nhưng đây là chuyện có thật, đã xảy ra).

Hôm nọ, chú út cùng gia đình đi siêu thị mua đồ, trong lúc chú đang dạo tới lui trong siêu thị thì tự dưng cảm thấy chóng mặt hoa mắt và mơ hồ nhìn thấy một ông lão mặc y phục trắng đang tiến về phía chú, ông cầm lên một quả trong hàng trái cây bảo chú:

- Hãy mau ăn trái này nhé!

Phải ăn ngay nhé!

Lúc chú út há miệng định hỏi: Vì sao?... thì ông lão đã biến mất.

Lập tức thần trí chú tỉnh lại, ngạc nhiên hơn là thấy trái quả kia đang nằm trong tay mình.

Chú Út nhìn quanh kiếm tìm... và vội hỏi người thân:

- Có nhìn thấy ông lão mặc y phục trắng không, mới thấy ông ta rõ ràng ở đây mà giờ đi đâu mất tiêu rồi?...

Cả nhà đều nhìn chú ngạc nhiên, cùng đáp là không thấy ai cả, chỉ thấy chú cầm trái cây trên tay và tự lẩm bẩm một mình mà thôi!

Sự việc này quả rất khó hiểu, chú không nói chi nữa, vội chạy ra cổng siêu thị mua loại trái cây này đem về nhà ăn, lúc đó chú cũng không nghĩ ngợi gì nhiều.

Nào ngờ chứng ung bướu thời kỳ cuối mà bệnh viện tuyên bố "hết chữa được" đó, sau khi chú ăn loại trái quả bình thường (nhưng lai lịch bất minh) kia rồi, thì tế bào ung bướu hoàn toàn biến mất, bệnh nhờ vậy được lành.

Việc này khoa học giải thích sao đây?

Sau việc lạ xảy ra đó, toàn gia chú út bắt đầu tin Phật vô cùng.

Đồng hiểu là nhờ Bồ tát từ bi gia hộ, Ngài đã dùng đại lực uy thần, trong u uẩn ngầm cứu mạng chú.

Việc này gây xúc động sâu xa đến những người thân trong nước lẫn ngoài nước...

Cũng nhờ vậy mà tôi được biết chuyện và viết ra để chia sẻ cùng mọi người!

Liên Hoa Tiểu Bính



ÔNG HÀNG XÓM HUNG DỮ

Đây là chuyện tôi nghe bà nội kể (người trong cuộc hiện vẫn còn Sống, hơn nữa đang cư ngụ tại cố hương Nam Đầu, ở cách vách nhà tôi).

Nội dung câu chicyện là thế này:

Ông hàng xóm kế nhà tôi có ba anh em, thảy đều tàn tật: Một người điếc, một người câm, một người què.

Thân phụ của họ hồi xưa cũng là láng giềng bà nội tôi.

Nghe nói tính ông nóng nảy ác độc, ưa hành hạ ngược đãi loài vật.

Do ông sinh ba trai đều bị tàn tật cả, nên rất phẫn nộ bất bình, oán trời trách đất.

Vì quá thắc mắc, nên một ngày nọ, ông đi hỏi thần để tra cho rõ nguồn cơn.

Cuối cùng được đáp án thế này:

"Nguyên nhân là hồi xưa lúc chưa kết hôn, nhà ông có nuôi một con heo nái đang mang thai, nó xổng chuồng chạy đi. vốn tính hung bạo, sẵn trên tay đang cầm con dao phảng cỏ, ông liền vung lên bổ vào con heo nái, con heo kêu thất thanh thảm thiết, ngã lăn ra giãy đành đạch, phun máu mạng vong, ổ heo con trong bụng cũng tuôn máu đầm đìa và chết luôn.

Xem như một đao của ông kết liễu tới mấy mạng.

Do ông đã gieo gốc họa bắt nguồn từ đó, vì vậy mà ngày nay sinh liên tiếp ba trai đều tàn tật"...

Đứa con bị điếc của ông (hiện giờ cũng là láng giềng ở quê tôi) sau này cũng sinh ra ba trai, thì đã có hai người bị lãng tai, nghễnh ngãng: chỉ còn duy nhất một người là bình thường, riêng ông này biết ăn chay trường và rất siêng năng bái Phật.

Nghe nói phần hai anh em lãng tai kia, con cái họ sau này cũng bị ngũ quan khiếm khuyết, tay chân tàn tật.

Qua câu chuyện này, có thể thấy quả báo sát sinh rất đáng sợ.

Theo lời bà nội tôi, câu chuyện nhân quả này là ngàn thật muôn thật.

Tạp Chí Thánh Đức số 44-15/1/1983

Tăng Chánh Huệ



NHÂN DUYÊN GIỮA TÔI VÀ BỒ TÁT

Việc này xảy ra vào cuối năm 2003, lúc đó tôi làm hướng dẫn du lịch tại công ty Tam Á ở Hải Nam.

Hằng ngày tôi phụ trách lái xe đưa rước khách, chở họ tham quan đảo hay các thắng cảnh.

Lúc đó tôi rất ưa tụng "chú Đại Bi", mỗi khi lái xe tôi thường mở đĩa tụng chú Đại Bi, các du khách cũng rất thích nghe, đặc biệt là những người già, họ càng ưa dữ.

Ngày ngày tôi mở nghe không biết chán, đối với tôi mà nói, chẳng cần học thuộc chi, tôi nghe mãi đến nhuyễn nhừ, cũng thường lẩm nhẩm tụng theo nơi miệng, đây có lẽ là thiện căn nhiều kiếp.

Có lần, tôi đi du ngoạn phố cổ Phượng Hoàng ở Hồ Nam và ở chơi tại đây ba ngày, sau đó chuẩn bị ra phi trường đáp máy bay về nhà.

Sáng hôm đó, khí trời không tốt, mưa xối xả.

Tôi bận lo thuê xe, tài xế đòi giá 350 đồng, sau đó chúng tôi cùng đi ra phi trường.

Dân Hồ Nam ai cũng biết, tuy cảnh ở đây có núi non xinh đẹp, nhưng nếu mưa lớn sẽ tạo thành chướng ngại tai ách cho lữ khách.

Nghĩa là lái xe mà gặp lúc trời mưa thì cực kỳ nguy hiểm. (Vì bùn đá trên núi chảy xuống sẽ gây sạt lở hoặc làm tắc nghẽn đường, không những cản trở giao thông mà còn làm cho xe tan người mất).

Tôi là khách viễn phương nên đâu có rành gì chuyện ở đây, hễ lên xe rồi, thì ngồi nhắm mắt lại, lòng không ngừng tụng "chú Đại Bi".

Tôi rất ưa tụng chú, không có bất kỳ mục đích chi, cũng chẳng để cầu gì, chỉ tụng theo thói quen, hễ rảnh là tụng vậy thôi.

Cũng chẳng hề biết là tụng chú sẽ đem đến cho tôi điều hay gì?

Tóm lại, mang tâm tư hoan hỉ, tôi cứ tụng "chú Đại Bi" không ngừng.

Cũng có thể nói là có lẽ "chú Đại Bi" đem đến cho tôi cảm giác bình an khoái lạc, thế thôi.

Từ phố cổ Phượng Hoàng đến phi trường đi mất ba tiếng.

Khi xe rời Phượng Hoàng được 40 phút, thì xảy ra chuyện.

Do đất cát trên núi bị mưa lớn tạo thành dòng chảy mạnh mẽ khiến đất đá rơi ào ạt xuống, còn nhắm thẳng vào xe chúng tôi công phá, khiến mặt trước và sau của xe đều móp, nát: kính xe bị vỡ, xe hư hại nghiêm trọng, nhưng may mắn là tôi và tài xế bình an, lúc đó trong lòng tôi hoàn toàn không có chút sợ hãi, còn nghĩ thầm: "Hôm nay số mình thật hên, gặp đại nạn hiểm ác mà thoát khỏi, không bị mạng vong"...

Vài năm sau, nhờ nghiên cứu Phật pháp mà tôi hiểu rõ: Té ra không phải số tôi may, gặp đại nạn được thoát chết, mà chính nhờ Bồ tát Quan Âm đã âm thầm gia hộ, Ngài biết mệnh tôi có nạn này và đã cứu sống chúng tôi.

Vì trong "chú Đại Bi" từng giảng:

"Bồ tát Quan Thế Âm phát đại nguyện cứu chúng sinh, khi đó Ngài từ Sơ địa thăng lên Thập địa (ngàn mắt ngàn tay là biểu hiện cho lòng đại từ đại bi của Bồ tát Quan Ầm).

Nhìn thấy chúng sinh ở đâu bị khổ nạn, thì Ngài đến đó trợ giúp".

Trong kinh nói: "Nếu ai chí thành tụng chú Đại Bi thì sẽ luôn được Bồ tát Quan Ám gia hộ"...

điều này là ngàn chân muôn thật, tuyệt đối chẳng nên hoài nghi.

Có lẽ bạn không tin và cho đó là tình cờ mà tôi được bình an?

Vậy thì tôi xin kể một chuyện nữa, để chứng minh là Bồ tát có "ngó" đến tôi.

Chuyện mới xảy ra gần đây.

Con gái tôi thi lên cao trung, tuy thành tích học tập thuộc loại trung bình, nhưng nó rất chăm học và có chí.

Nó luôn ao ước, mong được thi vào ngôi trường nổi tiếng ở trung tâm thành phố.

Vì: "Chúng bạn hiền lương phẩm hạnh cao, chim nương loan phượng cũng bay xa"... nếu gặp môi trường hoàn cảnh tốt thì việc học tập và phẩm hạnh sẽ được thăng hoa.

Trước lúc thi, con gái tôi hướng giáo sư chủ nhiệm trình bày chí nguyện và điền tên ngôi trường nó muốn thi vào là: "Trung học Chuyên khoaThượng Hải" (đây là một ngôi trường nổi danh, tiêu chuẩn tuyển sinh rất cao, rất khó thi vào)...

Giáo sư vừa xem qua đã trợn mắt kinh ngạc, ông dòm nó từ đầu tới chân rồi bảo:

- Chắc trò bị điên rồi!

Thành tích học tập bình thường như trò không vào nổi trường này đâu!

Vì vậy, ông thẳng thừng từ chối.

Nhưng con gái tôi không chịu thua, nó lại điền tên một trường khác, cũng ở trung tâm thành phố nhưng tiêu chuẩn chiêu sinh cực kỳ khắt khe và khó hơn ngôi trường trước đó nữa...Trường này hoàn cảnh học tập cực kỳ thượng đẳng, quy tụ toàn giáo sư giỏi, phẩm hạnh tư cách rất cao, đã có nhiều danh nhân xuất sinh từ trường này.

Nhiều gia tộc tiếng tăm lẫy lừng cũng cho con theo học trường này.

Giáo sư chủ nhiệm thấy nó ghi như vậy (thì nghĩ là bệnh "điên" của nó đã hết thuốc chữa) bèn phán:

- Thôi được, cho trò toại nguyện!

Dù sao ta dám khẳng định là trò chẳng thi vào đây nổi đâu!

Nhưng thôi, cứ cho trò mơ mộng hão một chút vậy!

Có toi công cũng ráng mà chịu nghe!

Con tôi về nhà lòng rất không vui, nó uất ức khóc kể với tôi:

- Ba à, giáo sư chủ nhiệm khinh thường con, ổng cười nhạo khi thấy con ghi tên thi vào ngôi trường đó, nhưng thực sự là con có cố gắng, con đã phấn đấu không ngừng mà, hu hu...

Tôi vỗ về, an ủi nó:

- Con gái cưng à, cổ nhân thường nói: "Có chí thì nên"...

Con có hoài bão cao thì chịu khó siêng năng học tập, nhất định sẽ được như nguyện mà.

Đây gọi là "Đạo trời bù đắp cho người có lòng!"...

Ba hứa sẽ hỗ trợ, vì con làm nhiều việc thiện, rộng tích âm đức đề hồi hướng phúc lành đến cho con!

Suốt thời gian con bé thi, tôi giữ đúng lời hứa.

Thường ngày cứ hai giờ sáng là tôi thức dậy tụng kinh niệm Phật, nhưng mấy ngày này tôi phải vì con bé cung kính tụng "Kinh Kim Cang", nguyện đem công đức này đặc biệt hồi hướng cho nó.

Bởi "Kinh Kim Cang" là khai mở đại trí huệ, tôi hi vọng con gái mình sẽ tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng phúc huệ, được Phật gia hộ...

Vào khóa tụng tối, tôi chí thành tụng "Chú Đại Bi" nhất tâm nhất ý cầu Bồ tát Quan Thế Âm gia trì cho con bé, khiến nó được toại nguyện.

Một tuần trước khi có kết quả thi, tôi nằm mơ thấy Bồ tát Quan Âm báo mộng, nói con tôi thi được 597 điểm.

Sáng ra, tôi lập tức báo tin mừng này cho vợ và con hay.

Bọn họ chẳng ai chịu tin.

Con gái tôi còn nói:

Lần này thi đậu hay không con chẳng dám nghĩ tới nữa, vì môn văn con làm chẳng đạt lắm.

Có thể điềm mộng này là "trái ngược" với thực tế đó ba!

Bảy ngày sau, con tôi lên mạng kiểm tra điềm thi, trong lòng cực kỳ lo sợ, tim nó đập như trống trận (có thể dùng câu "đảm chiến tâm kinh" diễn tả nỗi hồi hộp giống như ra pháp trường để mà hình dung)...

Nhưng nó đã thấy rõ trên màn hỉnh vi tính điểm số minh hiện ra rất cao: Môn ngữ văn dư hơn 15 điểm.

Tôi bảo:

- Mau lấy bảng tính ra cộng hết lại thử xem?

Sau một hồi cộng tính, đúng y chang 597 điểm, không thừa không thiếu.

Tôi vội nhắc:

- Con có nhớ tuần trước ba đã thông báo cho con kết quả như vầy rồi không?

Bồ tát Quan Âm đã báo mộng, nói con thi đậu, được 597 điểm mà!

Lúc này, hai mẹ con cùng ngây người một lúc, sau đó thì mừng vui cực điểm, cả nhà vui đến không gì có thể diễn tả, bởi nguyện vọng thi vào trường cao cấp ở trung tâm thành phố của con bé đã đạt thành.

Con gái tôi mừng đến nói không thành lời, nó cứ ấp úng:

- Ba...

Ba ơi!...

Tôi bảo:

- Hãy mau đến lễ tạ Bồ tát Quan Thế Âm!

Cả nhà chúng tôi vội đi thắp hương lễ bái, tôi lễ Ngài trăm lạy, bày tỏ lòng tri ân vô cùng.

Bản thân tôi hằng ngày niệm Phật 15 tiếng đồng hồ, khóa tối thì đọc văn phát nguyện của "chú Đại Bi", sau đó tụng 5 biến "chú Đại Bi" rồi niệm A Di Đà Phật!

Tiếp theo là Niệm Quan Thế Âm Bồ tát!...

Trên đời không có may mắn nào vô duyên vô cớ, con người ta gặp lúc quan trọng, nếu không nhờ phúc đức mình gia hộ cho thì chỉ có nương vào quý nhân tương trợ...

Tôi là một phàm phu nhiều tội lỗi, nghiệp chướng sâu nặng, phúc mỏng huệ bạc, nếu không có Bồ tát Quan Thế Âm cứu, thì mạng tôi sớm đã đi đời, trôi lăn trong ác đạo thọ khổ...

Hiển nhiên có thể thấy, quý nhân của tôi chính là Bồ tát Quan Thế Âm!

Đây cũng thực sự chứng minh uy thần oai lực không thể nghĩ lường "ngàn xứ cầu, ngàn xứ ứng; thuyền từ độ khắp chúng sinh trong biển khổ" của Bo tát!

Tôi đem kinh nghiệm có thật của mình chia sẻ, là mong các pháp lữ đối với Bồ tát Quan Thế Âm tăng thêm lòng tin.

Gặp thời điềm quan trọng, nguy cấp, hãy chí thành khẩn cầu Ngài gia trì cho.

Phải tin sâu không nghi, dốc lòng niệm danh Ngài để dẹp trừ tạp niệm vọng tưởng, giúp tâm trong lặng thành một phiến, không nên có tạp niệm loạn cuồng.

Trong kinh Đại Bi có giảng: Nếu người phát nguyện hằng ngày tụng khoảng 5 biến "chú Đại Bi", có thể giúp tiêu trừ trăm ngàn vạn ức kiếp sinh tử tội nặng, lúc lâm chung, tùy nguyện vãng sinh, thậm chí có thể đến Tây phương Cực lạc Thế giới.

Nếu lời nguyện này không viên mãn, Ngài tuyệt chẳng thành Phật.

Nếu người phát nguyện hằng ngày tụng khoảng 5 biến "chú Đại Bi", lúc lâm chung mà đọa vào ba nẻo ác, Ngài vĩnh viễn chẳng thành Phật.

(Bồ tát Quan Thế Âm thực ra sớm đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, lời Ngài hoàn toàn chân thực, không dối).

Cư sĩ Lâm Long Đạt

Lời người dịch: Bài viết này thực cảm động, trong đây tràn đầy lòng từ bi Phật dành cho chúng sinh và tình cha thương con.

Nếu bạn muốn nói là Phật từ bi, vì sao đợi chúng sinh kêu cầu, niệm danh mới cứu?

Cũng giống như mặt trời mặt trăng tỏa ánh sáng dành cho tất cả, nhưng ai muốn đón nhận thỉ phải mở cửa.

Nếu cứ đóng chặt cửa thì ánh sáng không thể chiếu vào.

Các đài phát thanh, truyền hình... kênh nào cũng chiếu, phát cho ta xem, nhưng ta phải bật đúng tần số mới xem được.

Tương tự vậy, muốn giao cảm với chư Phật Bồ tát thì phải niệm danh, trong thời gian niệm đó tâm ta tạp loạn ngừng, trí thanh tịnh, thì việc kết nối giao cảm với chư Phật mới được dễ dàng.

Đó là lý do phải niệm danh Ngài là vậy.

Còn người cha trong đây, là một đệ tử Phật điển hình.

Thông thường, nếu người không biết đạo, thường chạy theo vật dục, tài sắc... và ít quan tâm đến con cái, gia đình.

Nhưng người cha trong đây, ngoài việc tự tu niệm còn rất quan tâm, thương yêu con.

Con đi thi, cha phát nguyện tu thân hành thiện, tạo phúc, tích âm đức để hồi hướng cho con.

Vì vậy khi thành đệ tử Phật, đời sống con người dù chưa xuất gia vẫn hạnh phúc nhiều, vì nhờ quyết tâm giữ gìn giới cấm, chồng-vợ cư xử thủy chung, gia đình thuận hòa êm ấm, cuộc sóng chan chứa tình yêu thương...

Do không tạo ác, trong lòng thuần thiện, nên họ được hưởng phúc lạc ngay trong hiện đời.

Đây chính là lợi ích cùa những gia đình Phật hóa.



SÁU CHUYỆN NHÂN QUẢ

Gần đây có một vị họ Trương, nhà trụ tại thôn Hồ Khẩu, huyện Tân Trúc, đã viết thư tói, kể rất nhiều câu chuyện nhân quả do chỉnh ông đích thân chứng kiến hoặc nghe thuật lại.

Ông khăng định những chuyện này hoàn toàn có thực: Là người thực, việc thực, có hằng chứng hẳn hoi, xin công bố ra để thế nhân cùng cảnh giác.

Hy vọng thông qua đây mọi ngườỉ sẽ học được nhiều điều hay, càng tin sâu nhân quả để "Không làm các điêu ác, vâng làm các điều lành" nhờ đó mà phong khí xã hội được cải thiện.

Giờ xin kể ra từng chuyện theo thứ tự như sau:

1.

Ác báo của tôi

Trước khi tôi biết đến Phật pháp, tính rất tàn nhẫn, đối với loài vật không có lòng từ bi, không biết thương xót hay cảm thông chi.

Hơn 20 năm trước, cả nhà tôi công tác tại xưởng giày, có ông giáo X (dạy về kỹ thuật) rất ưa ăn thịt chó.

Lần nọ ông X ra ngoài mua về một con chó, ngỏ ý muốn tôi đem nó đi giết, lúc đó tôi không chút do dự, dùng chùy sắt đập mạnh vào đầu nó, con chó kêu rú thảm thiết, tôi vẫn không chút động tâm, tiếp tục nện tới tấp, cho đến khi đầu vỡ máu tuôn, chó hết giẫy giụa tôi mới dừng tay.

Còn nữa, nếu như tình cờ gặp con rắn nào, thì tôi nghĩ đủ trăm phương nghìn kế đề bắt cho bằng được, rồi dùng đá đập nát đầu rắn, trước khi chết con rắn không ngừng giẫy giụa, lăn lộn thống khổ, tôi cứ tỉnh bơ nhìn như không thấy gì, lòng chẳng có chút xót thương, chẳng chút áy náy vì hành động bất nhân tàn độc của mình.

Sau này tôi liên tiếp vướng nhiều chứng bệnh khổ: 7 năm trước tôi công tác tại đội làm đường nơi thì một chiếc xe đang thi công đột ngột thoái lui, tôi không đề phòng nên bị tông đến chấn thương não, phải nhập viện điều trị, rất lâu mới hồi phục.

Sau đó, chứng đau bao tử bộc phát, tôi đi khắp các bệnh viện lớn nhỏ chữa trị, uống đủ thuốc Đông lẫn Tây, nhưng vô hiệu.

Cuối cùng, bất đắc dĩ tôi phải áp dụng theo một số toa thuốc dân gian chỉ bày, do phương thuốc này cần thịt nhiều loại chúng sinh (như chó, mèo, rắn, rùa, rết, gà, vịt v.v...) phối hợp đề chưng, nấu, hầm, nướng... mới có tác dụng.

Kết quả tôi hại chết thêm nhiều sinh linh nữa...

Nhưng trải qua trường kỳ dùng đủ thứ thuốc, bệnh tôi không những chẳng giảm mà ngày càng nặng thêm.

Sau đó tôi đi các bệnh viện lớn khám, bác sĩ nói nếu không mổ ngay thì khó cứu được mạng, vì vậy phải phẫu thuật.

Bao tử tôi bị cắt bỏ hơn hai phần ba, ruột cũng bị cắt bớt một khúc, đủ thấy tình huống lúc đó cực kỳ nghiêm trọng.

Năm ngoái lúc tôi làm việc tại công xưởng, sơ ý bị máy dập làm ngón tay bị thương nát bấy, chảy máu không ngừng, đau thấu tim gan, tôi kêu la thảm thiết, suýt nữa thì ngất đi.

Khi nhìn thấy tay nát máu chảy, ngón tay run lẩy bẩy không kềm được, bất giác tôi nhớ lại hồi xưa minh từng đập rắn, giết chó... máu nhuộm đỏ khoảng sân.

Nhân đấy bắt đầu tự hỏi: "Tôi suốt mười mấy nảm nay không ngừng bị các bệnh quái ác hành hạ, còn gặp đủ tai nạn thương tật, vậy có phải đều là quả báo, do ngày xưa sát sinh hay chăng?"...

2.

Trần lão gia

Tôi có một nữ đồng nghiệp họ Trần, trong lúc họp mặt, vị tiểu thư này kể, cha cô là Trần lão gia có một sở thích đặc biệt là: Rất ưa ăn mắt cá.

Mỗi khi dùng bữa nếu trên bàn có cá, thì luôn móc mắt nó ăn, khen rằng rất ngon, ông còn dặn người nhà phải mua nhiều cá, nhất là cá phải còn sống, thì ăn mới khoái khẩu.

Sau này phụ thân cô bỗng dưng bị viêm một con mắt.

Bệnh phát và chuyển nặng nghiêm trọng, nhiều bác sĩ danh tiếng đều bó tay không chữa được.

Sau đó mắt của ba cô mù hẳn, bác sĩ bèn lấy nó ra, thay vào một nhãn cầu giả.

Năm sau, con mắt còn lại của ba cô cũng bị bệnh, không bao lâu thì mất thị lực, hiện giờ ông phải sống qua chuỗi ngày không nhìn thấy ánh sáng.

3.

Ác báo của anh em họ Trần

Tôi có một bạn học họ Trần, anh là quân nhân, mỗi lần nghỉ phép về nhà, anh và em trai thường đi câu cá, lên núi sán bắt các động vật hoặc bắn chim... xem đây là thú tiêu khiển.

Sau này nhà anh liên tục phát sinh rủi ro, đầu tiên lả em trai anh, trong lúc xây dựng công trình, sơ ý bị té từ giàn giáo lầu hai xuống, vì là nơi xây dựng nên phía dưới sắt thép nằm bừa bãi ngỗn ngang, em trai anh bị sắt đâm thủng bụng, làm ruột bị thương nặng, không lâu thì tử vong.

Tiếp đến là bản thân anh Trần, bệnh hoạn hành thê thảm, đau đớn thống thiết...

Chưa hết, chỉ vì chút việc vặt mà cãi gây cùng vợ một trận dữ dội đến phải ly hôn.

Một gia đình trước đây hạnh phúc mỹ mãn giờ thành ly tán, khiến người không khỏi thở dài.

4.

Anh bạn xạ thủ

Nơi chỗ làm của tôi có một đồng nghiệp rất ưa dùng ná bắn chim.

Tài xạ thủ vô cùng chuẩn xác, hầu như trăm phát trăm trúng.

Hễ bắn ra là trúng ngay chỗ hiểm, làm chim bị thương nơi phần đầu.

Anh mà ra tay là không con nào thoát khỏi...

Mấy năm nay đối với tài nghệ này của anh, mọi người đều hâm mộ, không tiếc lời trầm trồ ngợi khen.

Năm ngoái trong lúc đơn vị tôi tu sửa công trình, thì cần cẩu trên xe bất ngờ bị đứt và rớt từ trên cao xuống, nện thẳng vào đầu một nhân viên phía dưới, lực đập nặng nề của móc sắt khiến đầu nạn nhân bị nát (như dưa hấu bị bổ), óc bắn tứ tung, máu chảy đầy đất.

Ai chứng kiến cũng kinh tâm, không dám nhìn.

Hóa ra người bị nạn chính là anh bạn đồng nghiệp có tài xạ thủ nọ.

5.

Khi oan gia báo

Tôi có một vị trưởng bối, rất ưa ăn thịt, thích nhất là giò heo, cánh và chân gà.

Không những ngày ăn ba bữa liên tục, mà mỗi khi đối ẩm thưởng thức cùng năm-ba bạn nhậu phải luôn có các món trên, có thề nói là ông ưa ăn thịt cực kỳ, không biết chán.

Đến lúc tuổi già, vị trưởng bối này do quá thừa Acid Uric, nên tay chân biến dạng cong queo, hơn nữa trên mặt có nhiều vết lở loét đáng sợ.

Vài chỗ trên da còn phát sinh hiện tượng nát rữa, dù ông đi khắp nơi cầu trị, nhưng không chữa được.

Lần nọ ông sơ ý bị té, gãy xương đùi, ông đau đớn rên rỉ suốt mấy ngày rồi tạ thế.

Theo lời người nhà kể, vài ngày trước khi lâm chung, ông thường run rẩy kêu thét hoảng sợ:

- "Có người tới muốn bắt tôi đi!

Có người muốn bắt tôi đi!

Họ đòi làm bạn với tôi"... khiến ai nghe cũng nổi ốc.

6.

Cẩn thân khi thề thốt

Ở quê tôi các bô lão thường kể cho đám thanh niên trẻ chúng tôi nghe một câu chuyện để cảnh giác:

Ba mươi năm trước Đài Loan có một số người nghèo khổ, mưu sinh bằng cách chở hàng đi bán dạo.

Lần nọ anh bán vải chở hàng vào thôn, các phụ nữ bu xem.

Họ cầm vải chuyền tay nhau cùng xem rồi luân phiên bình phẩm, nhưng không ai mua.

Người bán thấy vậy bèn thu vải về, nhưng khi kiểm hàng anh phát hiện bị mất một xấp vải.

Lúc này ai cũng nói mình không có lấy.

Trong đám phụ nữ có một chị không những hung hăng xác định mình không lấy mà còn thề độc như sau:

- Tôi mà có lấy vải như mấy người nói, thì sẽ bị xe tông chết!

Sau đó chị ta đến Kim Môn.

Ngày nọ chị đang ngồi trong nhà, thì một chiếc xe tải bị đứt thắng, đâm thẳng vào nhà và tông chết chị.

Khi tin này truyền ra, mọi người ai cũng bàn tán xôn xao, cho đây là nhân quả báo ứng đáng sợ vô cùng.



CHUYÊN KỂ CỦA CẢNH SÁT PHÁP Y

Tôi là một cảnh sát y khoa tư pháp, người ta thường gọi là pháp y.

Tôi cung cấp tư liệu giám định Y học cho hai Pháp viện và bốn chi nhánh Công an Tư pháp.

Nói đơn giản một chút, nếu ở đâu xảy ra án mạng, thì chở xác đến chỗ chúng tôi để chúng tôi nghiệm thây kiểm tra, tìm ra nguyên nhân tử vong, rồi ghi lại báo cáo đầy đủ, giao cho Pháp viện hay Cục Công an.

Con người có sinh ắt có tử, nhưng nguyên nhân chết có đủ dạng đủ kiểu, khó mà tưởng tượng nổi...

Khi chúng tôi lập biên bản báo cáo, hành sự rất nghiêm túc kỹ lưỡng.

Phải phân tích nguyên nhân chết, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết, nguyên nhân phụ, tổng kết nguyên nhân tử vong...

Sở dĩ tôi giải thích nhiều về thuật ngữ chuyên môn, là muốn nói xã hội chúng ta đối với cái chết luôn có giải thích đúng đắn hợp pháp.

Thí dụ như có một ông già hơn 70 tuổi bị xe điện tông té, đập đầu vào cột xi măng bên đường rồi chết.

Kiểm tra thấy phần đầu tổn thương, xương sọ bị vỡ dẫn đến tử vong.

Trong đây đầu bị thương là nhân căn bản, sọ bị ảnh hưởng là nhân trực tiếp, hệ thống miễn dịch rối loạn là nhân phụ.

Nhưng giải thích như thế thực sự đã cung ứng đáp án đủ cho vấn đề trọng đại "vì sao người ta chết" hay chưa?...

Tôi làm ở Viện Pháp y 26 năm, đối với hiện tượng này luôn cảm thấy hoang mang khó hiểu.

Bởi cũng đồng bị thương như thế, mà có người chết, có người sống?!

Nghĩa là có người bị thương rất nhẹ lại chết, còn người bị thương trầm trọng khiến ai cũng tưởng tiêu đời, lại phát sinh kỳ tích sống được...

Sau này khi tôi tiếp xúc với Phật pháp, có được chút hiểu biết về đạo rồi, thì đối với các vấn đề này đều có thể lý giải.

Tử vong là một phần trong thế giới này, là điểm kết thúc của đời sống.

Nếu như nhìn từ góc độ này, chúng ta có thể hiểu rõ chân tướng của tử vong.

Những năm gần đây, tôi đối với các vụ án mình thụ lý thường để tâm điều nghiên thấu đáo và ghi lại tỉ mỉ.

Càng tìm hiểu càng thấy rõ cái chết không hề phát sinh ngẫu nhiên, mà nó chứng minh hùng hồn xác thực về lý nhân quả.

Tôi thường gặp quyến thuộc người chết nhìn tôi đau khổ khóc kể:

- Vì sao y lương thiện như thế mà lại lìa đời quá sớm?

Vì sao ông kia làm nhiều việc xấu ác mà hưởng thọ lâu?

Vì sao một người suốt đời cẩn thận hay gặp tai bay vạ gió?

Vì sao người đi đường đểnh đoảng sơ ỷ, dù có bị xe tông lại chẳng hề hấn gì?

Tôi nghĩ, sở dĩ có những oán trách này đều là: do họ chẳng minh bạch nhân quả.

Trước tiên xin kể vụ án làm cho tôi nhức óc, ưu tư khốn đốn...

Chính vụ án này đã đẩy tôi đến với Phật môn.

Tuy án không phức tạp, nhưng do thời gian điều tra kẻo dài, nên tôi tương đối nhập tâm:

1.

Cặp vợ chồng chết thảm

Năm 2002, một chàng trai 28 tuổi nửa khuya ra tay giết chết hai đấng sinh thành hơn sáu mươi tuổi của mình.

Cặp vợ chồng già này đang say ngủ thì bị con trói gô lại trên giường, sau đó y cắt cổ họ, máu văng trây dính tường, rơi vương vãi...

Hung thủ ngay trong đêm đó đã chạy trốn, rồi bị bắt tại một khu phố nhỏ ở miền nam.

Hung thủ đã kết hôn, có một con trai.

Ngay đêm xảy ra án mạng, cô vợ do hôm trước nổ ra tranh cãi nên giận dỗi bồng con về nhà cha mẹ đẻ, nhờ vậy mà tránh được ác mộng thảm sát.

Xem bề ngoài, thì đây là vụ án rõ ràng, có chứng cứ vô cùng xác thực, Viện Kiểm sát đã lấy khẩu cung, toàn bộ chứng cứ hoàn chỉnh, có đủ vật chứng, nhân chứng, tất nhiên phải nghiêm trừng, mau chóng phán quyết.

Lần xét xử đầu, án tử hình lập tức được phán ra, nhưng luật sư biện hộ nói: "Phạm nhân bị thần kinh nghiêm trọng" và yêu cầu tiến hành giám định thần kinh để xét xử sau.

Thời gian điều tra kéo dài, do kết quả chưa rõ, vì vậy mà án cứ kéo dây dưa... cuối cùng phải hoãn án tử hình lại để hai năm sau chấp hành.

Luật sư của hung thủ lại khiếu nại tiếp nữa, nhưng bị bác bỏ, xem như tới chung thẩm thì phán quyết xong, án này kết thúc.

Kể thì nghe nhanh gọn vậy chứ thực tế tính ra án này kéo dài tổng cộng bốn năm, tôi phải nhọc nhằn điều tra tỉ mỉ, lấy chứng cứ đến 7-8 lần, hồ sơ tư liệu tích lũy dày cộm.

Hung thủ là con trai duy nhất trong gia đình, từ nhỏ được cưng chìu, tính tình cực kỳ hung dữ.

Hung thủ kết hôn xong vẫn ở chung với cha mẹ, thường hay gây cãi luôn.

Mấy ngày trước khi xảy ra án, cha mẹ cùng vợ hung thủ đã nổ ra xung đột tranh chấp, sau đó hung thủ đòi cha mẹ cho tiền mua nhà, nhưng cha mẹ nói tạm thời không có tiền và chê trách con trai là hạng bất tài vô dụng, không lo làm việc, khiến họ mất mặt với láng giềng!...

Điều này đã khơi gợi ác niệm giết người nơi hung thủ.

Thế nhưng, nhiêu đây có đủ để giải thích cho động cơ giết người của hung thủ chăng?

Trên thế giới này những đứa con được cưng chìu, biến thành ngỗ nghịch, nảy sinh tranh chấp cùng gia đinh liệu có bao nhiêu?

Vì sao hung thủ cứ khăng khăng muốn giết cha mẹ mình như thế?

Trong hồ sơ, tôi phát hiện một đoạn khẩu cung cực kỳ kinh tâm, hung thủ thành thực khai báo như vầy:

- "Tôi muốn giết họ từ lâu rồi, vì họ rất vô dụng!

Bảo cho tôi tiền mua nhà mà họ cũng không chịu, thế thì giết quách!

Để làm chi?...

Tôi thảo kế hoạch từ mấy tháng trước lận (vì họ là cha mẹ nên tôi cũng không muốn để họ chết quá đau đớn).

Đầu tiên tôi nghĩ mình nên cho họ... uống thuốc rầy, nhưng đi mới nửa đường, chưa ra tới tiệm thì tôi quay về, vì nghĩ thuốc rầy sẽ thiêu đốt ruột gan.

Sau đó tôi hoạch định sẽ chở họ đến hồ nước chơi, rồi dìm chết họ.

Nhưng tôi lại không thực hiện.

Cuối cùng nghĩ tới suy lui, tôi thấy chỉ còn cách... cắt cổ là hay nhất, không quá đau đớn, lại mau chết"...

Khi tôi đọc xong đoạn khẩu cung này rồi, thì kinh hãi đến lạnh xương sống.

Giết cha mẹ mà hắn bày tỏ điềm nhiên như thể giết... gà vịt!

Điều tra tỉ mỉ xong, tôi càng hết hồn khi phát hiện thêm tình tiết này:

Cặp vợ chồng nạn nhân có mở một lò giết gà, họ làm ăn buôn bán trên thị trường rất phát.

Lúc tôi ra chợ điều tra, do chủ hàng gà bị giết, người ta cho là cửa hàng này bị xui, làm ăn không may nên ai cũng bỏ đi không thèm thuê.

Căn cứ theo lời những người ở cạnh bên thuật lại, thỉ hai vợ chồng nạn nhân khi hành nghề thường đem gà sống trói lại hết, treo lên dây thép, sau đó họ kẹp chặt đầu gà dùng dao cắt cổ nó.

Máu gà cũng không bỏ phí, bán rất được tiền.

Suốt đời họ nhờ sống bằng nghề này mà trở nên giàu có.

Nghe nói kỹ thuật cắt cổ gà là do tổ tiên họ truyền lại.

Sở dĩ tôi nhớ kỹ việc này vì đây là vụ án khiến tôi bắt đầu có niềm tin đối với tôn giáo.

Lúc mọi phân tích có được giải thích hợp lý, tôi càng tin sâu luật nhân quả và khắc cốt ghi tâm khi hiểu rõ nguyên nhân...

Tối đó hầu như suốt đêm tôi không ngủ.

Do người chết cả đời hành nghề cắt cổ gà, nổi tiếng sát sinh có kỹ thuật... bởi họ cắt cổ vật như thế nên mới chiêu ách nạn bị đứa con trai duy nhất của mình cắt cổ lại...

Báo ứng này không khiến chúng ta kinh tâm động phách hay sao?

Lời người dịch:

Dịch tới đây tôi sực nhớ tới câu chuyện kể của một pháp lữ quê ở Hà Nội: gần nhà cô có một đôi vợ chồng nọ chuyên sống bằng nghề mổ heo bán thịt, kinh tế rất khá.

Họ có đứa con trai độc nhất khoảng 15 tuổi, tính rất hiền.

Hôm nọ thằng bé đi học về, nó bỗng ra tay giết chết song thân và xẻo thịt họ ném lung tung trên nền nhà.

Sau đó nó bỏ đi lên lầu ngủ.

Khi công an đến bắt, thằng bé vẫn còn ngái ngủ.

Mọi người đều kinh hoàng vì cảnh thảm sát này và không sao giải thích được nguyên do.

Xin để quý vị suy gẫm.

Giờ mời quỷ vị xem tiếp câu chuyện khác của viên cảnh sát Pháp y:

2.

Kết cục bi thảm của giám đốc Triệu

Chúng ta thường quan niệm chết là xấu, là đáng sợ, nhưng có trường hợp "không được chết" mới càng khốn khổ thống thiết, lả hình phạt nặng nề còn hơn cả cái chết!

Đây là một vấn đề hóc búa phát sinh nơi công ty khai thác khoáng sản, mà chủ nhân là ông Triệu, người sáng lập ra "Công ty Khai thác Than đá" tại một tiểu trấn nọ.

Công ty không có bảo hiểm an toàn lao động gì, tất cả đều do tư nhân giao du mật thiết với các nhân vật quyền thế mà duy trì kinh doanh.

Tất nhiên, ông Triệu có ô dù che chở rất mạnh, nên sau khi xảy ra tai nạn tại hầm mỏ rồi, thì địa phương cũng khó điều tra thuận lợi, vỉ vậy họ đành giao cho chúng tôi thụ lý vụ án nơi miền viễn xứ này.

Việc mỏ than nổ sập xông hơi độc làm một người chết và hai người bị thương.

Thông thường thì các tai nạn xảy ra đều được dàn xếp ổn thỏa theo "quy luật ngầm", chỉ cần người chủ khéo léo xuất tiền bồi thường cho quyển thuộc của công nhân là có thể cho qua.

Nhưng xui là, đúng vào lúc đó toàn quốc lại có lệnh đại kiểm tra, buộc phải thi hành nghiêm nhặt, do vậy mà chủ công ty bị bắt.

Lúc tôi và một trinh sát viên khác đi tìm ông Triệu đế lấy chứng cứ, thì nhân viên canh gác bảo tôi:

- Ông Triệu do bị tiểu đường nên được đưa vào bệnh viện rồi.

Tôi vội chạy đến "Y viện Bộ Tư pháp" để gặp ông Triệu.

Thấy ông khoảng hơn 50 tuổi, vóc dáng khôi ngô, âm thanh hào sảng, tính cách thập phần cứng cỏi mạnh mẽ, ngó bộ không dễ dàng hợp tác.

Ông ngồi trên giường, tỏ vẻ thờ ơ đối với những vấn đề tôi nêu lên, bộ điệu lạnh nhạt chẳng thèm quan tâm đến, mãi tới khi tôi sắp đi, ông thẳng thừng tuyên bố:

- Chưa tới một tháng là có người bảo lãnh tôi ra khỏi đây rồi!

Ông nói không sai, do ban điều tra bị nhiều nguyên nhân cản trở, nên công việc tiến hành không thuận lợi, cuối cùng án được giải quyết theo kiểu cho ông tại ngoại, chỉ giám sát nơi cư trú thôi.

Nhưng chính ngay đêm ông đang vui mừng, hớn hở muốn tức khắc hồi phục nhân thân tự do, thì bệnh tiều đường và chứng mật kết sỏi bỗng phát tác nghiêm trọng, mặc dù Bộ Tư pháp lẫn Y viện chẳng hề có ý muốn lưu ông, nhưng chính bệnh tật đã níu kéo và buộc ông phải lưu lại.

Từ đó trở đi, ông Triệu không còn rời bệnh viện được nữa.

Qua hơn 4 tháng, vụ án này cuối cùng cũng được phán quyết: ông Triệu bị phạt tù 6 năm.

Nhưng ông cũng không thể vào nhả giam, bởi sức khỏe càng lúc càng suy, nên hình phạt chỉ có nước chấp hành tại "Y viện Công an" mà thôi.

Vì lý do công việc, tôi luôn phải đến "Y viện Công an" tác nghiệp, nên thường gặp ông Triệu.

Nhờ có tiền, ông vẫn được ngụ trong phòng đơn sạch sẽ, nhưng cửa sổ có lan can sắt bao ngoài, mỗi lần gặp mặt, mắt ông mở rất to như chất chứa nhiều tâm sự.

Có lần ông hỏi tôi:

-Anh tin nhân quả không?

Tôi đáp:

- Đương nhiên là có!

Vì tôi là tín đồ Phật giáo mà.

Ông bỗng thở dài, không nói gì thêm.

Được một dạo, bệnh ông trở nặng, phải chuyển viện, giám ngục lo làm thủ tục cho ông ra ngoài.

Rất kỳ lạ là, không những giám ngục lẫn Y viện chẳng muốn lưu ông, mà ngay cả Diêm vương cũng chê, chẳng chịu thu nạp ông!

Lúc tôi gặp lại thì ông đã nằm trên giường bệnh gần tám tháng, ông cao một mét tám nhưng thể trọng đã nhanh chóng sụt ký vùn vụt.

Chúng tôi thường gặp mặt trò chuyện, ông đối với tôi càng lúc càng tin tưởng... có lúc, còn gửi gắm nhờ tôi làm một số việc.

Tôi tuy xuất thân từ ngành y, nhưng chưa thấy ai gầy dữ như ông.

Hai mắt hõm sâu vào trong hốc, xuơng má gồ lên, môi tái nhợt, xương sườn nhô cả ra, nhìn rõ từng chiếc.

Lúc ông hít thở, xương nhô lên hạ xuống, nhìn có cảm giác như chỉ cần bị va chạm nhẹ là gãy ngay.

Chân và tay ông càng khiến người ta không dám nhìn, ốm tong teo, không còn chút thịt.

Do mật kết sạn nên ông phải mổ, (vì chứng bệnh tiểu đường nên vết thương cứ dây dưa mãi chẳng lành, còn bị nhiễm trùng, lở loét lây lan ra chung quanh), nhìn hình dạng ông giống như cái đầu lâu gắn trên bộ xương, đủ để người ta sợ đến... tối ngủ còn thấy ác mộng!

Tôi điều tra quá trình bệnh của ông, thấy theo lẽ thường, những người bệnh như ông (tạng khí suy kiệt, tim cũng chẳng còn sức để duy trì mạch đập) là khó sống nổi, vậy mà ông cứ sống thật dai trong thống khổ, bị hành đau cực cùng mà vẫn không chết.

Mặc dù ông thường bày tỏ với tôi, hiện giờ chỉ uớc duy nhất một điều là...

được chết!

Nếu mà ông chết được thì xem như rất hạnh phúc.

Nhưng "phần thưởng" này "trời" cũng hà tiện, không hào phóng tặng cho ông!

Để ông sống mà mỗi giây mỗi phút đều bị giày vò thống khổ cực độ.

Có lần thèm chết quá, ông bỏ ăn uống, nhịn đói suốt mười mấy ngày, thân tâm suy đến cùng tận, bác sĩ cho rằng ông chắc chắn phải chết không nghi!

Nhưng ông vẫn cứ sống, không thể nào chết được!

Bẵng đi một thời gian dài, tôi bận công tác bù đầu nên không đến gặp ông.

Thế là một hôm ông nhờ hộ lý gọi điện mời tôi đến.

Tối hôm ấy, ông thu hết sức tàn, kể cho tôi nghe câu chuyện bí mật của mình bằng âm thanh yếu ớt...

"Hơn mười năm trước, lúc ông vừa bắt đầu khai thác quặng mỏ, do không đủ tiền nên phải nhờ người đi tới ga xe lửa, gạt những kẻ sống lang thang khờ khạo không rành luật pháp, thuê họ xuống hầm làm việc cho ông.

Nhờ vậy ồng không phải trả lương gì, chỉ cần thuê mấy tên bảo vệ trông chừng đám nhân công này là đủ.

Khi họ tích lũy cho ông thùng vàng đầu tiên rồi, để che giấu sự thật, ông cho lấp giếng than đó lại, bỏ mặc đám nhân công bị nhốt đuối mệt, đói, khát trong cảnh tối tăm, cuối cùng bọn họ đều chết ngạt!"...

(Việc ông kể về sau được chứng thực, khi công an đến chỗ đó khai quật, đã mang lên được hai mươi mấy bộ xương).

Tiếp đến ông Triệu nằm ở Y viện gần nửa năm.

Sáu tháng này, cơ hồ mỗi phút mỗi giây ông đều trải qua nguy ách cực điểm.

Nhưng bất kể xác thân bị hành hạ giày vò đau đớn thế nào, ông vẫn không chết.

Toàn bộ gia sản ông đều đổ hết vào phí Y viện, người nhà cuối cùng cũng chẳng thèm đến thăm ông nữa.

Mặc dù nguy ách cao độ, ngày đêm ông đau đớn kêu rên không ngừng, thanh âm nghe xé lòng.

Do hệ miễn dịch thiếu nghiêm trọng, vết thương trên thân chỗ nào cũng không lành, thảy đều bị nhiễm trùng, lở loét nát rữa.

Đến cuối cùng, trên mình ông không còn tìm ra chỗ nào lành lặn, toàn thân lở loét lầy lụa.

Sau đó tôi không gặp lại ông, nghe những y tá châm sóc ông kể, sau khi ông chết rồi, lúc họ dùng tấm drap bọc thây ông chuyển đi thì xương cốt găy vụn, da thịt bị nát rữa ung mủ, hóa thành một đống bầy nhầy, trước khi bỏ thây ông vào nhà xác thì hầu như nó đã biến thành đống xương thịt mục rữa.

Chuyện kế tiếp là một vụ án hết sức ly kỳ, phát sinh vào mùa đông năm ngoái.

3.

Người có miệng lưỡi độc

Nửa đêm, tôi nhận được lệnh cấp trên:

- Phải tức tốc tới hiện trường làm việc ngay!

Số là nơi ngoại thành có một cây cầu lớn, nghe dân chúng báo cáo: "Có người treo cổ chết nơi cầu này!".

Lúc chúng tôi đến hiện trường, thấy kẻ tự sát là phụ nữ.

Qua khám nghiệm, có thể thấy quyết tâm tự sát của đương sự rất cao (sợi dây thắt chặt tới nỗi xương cổ bị gãy).

Điều tra về nhân thân lý lịch, thì biết người chết cư trú gần đây (chuyện chưa phải là hết, vì còn một cảnh tượng đáng sợ đang chờ chúng tôi)...

Khi tới nhà đương sự, chúng tôi giựt mình vì nhìn thấy thi thề trần truồng của đứa bé chưa đầy một tuổi trên giuờng.

Lúc cảnh sát ập đến, cha đứa nhỏ vẫn chưa biết vợ mình đã tự sát, anh còn khóc lóc rên rí, hướng cảnh sát trách vợ um sùm và kể hết mọi việc.

Té ra sự tình không có gì phức tạp, ông chồng ra ngoài nhậu nhẹt cùng đám bạn, cô vợ ở nhà một mình chăm con.

Sau khi ông chồng quay về, cô vợ khóc lóc gây ầm lên, cứ nhất quyết khẳng định là ông ra ngoài ngoại tình, hẹn hò dan díu với cô X...

ông chồng nghe vậy, nổi tức lên, liền bỏ đi ra khỏi nhà, tìm bạn nhậu tiếp.

Cô vợ ở nhà càng nghĩ càng phẫn nộ, liền gởi cho chồng một "tối hậu thư", đại ý như sau: "Anh hãy về mà trông con, tôi không thể chăm sóc nó được nữa!"...

Nhưng ông chồng đang nhậu say bí tỉ, đâu có tâm trí mà dòm ngó tới tin nhắn trong điện thoại...

Mâi đến lúc ông về, thì phát hiện thằng bé con đã chòi đạp khiến mền rớt ra và bị chết cóng. (Các nhà ở thôn quê vào mùa đông không có lò sưởi nên rất lạnh).

Ông chồng đáng thương vẫn chưa biết vợ mình đã tự sát, một mực hướng công an căm phẫn trách móc, nói là lỗi tại vợ mình nên thằng bé mới chết cóng...

Cho đến khi nghe cảnh sát báo hung tin: "Vợ anh đã treo cổ chết rồi!"... thì ông chồng không nói được lời nào, ngã lăn ra ngất xỉu.

Bởi chút gây cãi vụn vặt mà dẫn đến mất hai mạng người, hạnh phúc gia đình vì đây tan nát...

Chúng tôi chỉ biết thở dài.

Qua khám nghiệm kỹ càng, án được chứng thực là tự sát, nên vụ việc nhanh chóng kết thúc.

Nhưng trong quá trình điều tra, chúng tôi phát hiện thêm chi tiết nữa: Chính lão Lưu (chủ tiệm sửa xe trong thôn) mới là nguyên nhân gây ra thảm án này.

Qua phỏng vấn hỏi thăm, chúng tôi được biết ông Lưu tuổi hơn 50, đã ly hôn nhiều năm, hiện đang sống một mình.

Bỉnh thường tính ông ưa đặt chuyện thêu dệt, nói thị phi, không có duyên cớ gì cũng dựng thành to chuyện được.

Chính ông đã đâm thọc, đặt điều và nói với cô vợ là chồng cô đang ngoại tình!

Hơn nữa ông còn thêm thắt, miêu tả tỉ mỉ ly kỳ giống như là có thật hẳn hoi.

Khi chúng tôi hỏi về chuyện ngoại tình của người chồng mà ông rêu rao, mới biết đây chỉ là tin vịt mà thôi.

Rất nhiều cư dân trong thôn phản ảnh, tố cáo, nói: "ông Lưu rất ưa thêu dệt đặt chuyện thị phi, đã có nhiều gia đình vi tin lời ông mà xảy ra bất hòa, phu thê trở mặt, phụ tử ác cảm, thậm chí dẫn tới đánh lộn, gây cãi"...

Mỗi khỉ ông Lưu biết được vì mình mà thiên hạ xào xáo... thì tỏ ra rất hớn hở khoái chí, ông ra ngồi ở quán nhậu với vẻ dương dương tự đắc.

Nhưng dẫu sao cũng không thể xử ông, vì không thể ghép hành vi này vào tội danh nào (mặc dù nó gieo ra thảm sự)...

Cô vợ vì lầm tin lời hoang đường của ông mà chuốc phiền treo cổ... nhưng không thể vì vậy mà ghép ông vào tội sát nhân!

Bởi thế, chúng tôi chỉ nhắc nhở, cảnh cáo ông thôi.

Bất ngờ ỉà chưa đầy một tháng, cảnh sát vùng đó báo cho tôi hay: ồng Lưu đã xảy ra chuyện!

"Vào một đêm nọ, ông Lưu đến nhà bạn bè nhậu say khướt.

Sau khi được dìu về tiệm sửa xe của mình rồi, nửa đêm ông bò ra ngoài tìm rượu uống, ông sờ soạng và vớ được một cái bình, đang mơ màng, ông tu liền một ngụm.

Nào dè đó khồng phải rượu bia, mà là bình hóa chất.

Loại nước này dùng để sơn động cơ kim loại, độ ẩm cực thấp, hễ quét qua rồi thỉ trong vòng hai giây là có thể làm đông cứng bất kỳ vật gì.

Khi đó ông Lưu ngã xuống ngất đi, may là bên cạnh có người kịp thời chở đi cấp cứu.

Lúc bác sĩ khám, phát hiện lưỡi ông bị đông cứng như kết băng, hóa chất này mà bị ngắm dù ít thì cũng xem như tiêu rồi!

Bác sĩ tuyên bố: Từ nay chẳng những ông Lưu không nói được mà kể cà vòm miệng cũng khó bảo toàn!

Sau này, xem như ông chỉ có thể ăn uống bằng ống dẫn"...

Đó là vài câu chuyện về báo ứng mà tôi muốn chia sẻ cùng quý vị.

Theo Y học, bất kỳ cái chết nào, cũng đều do bịnh tật hoặc tổn thương dẫn đến.

Cho dù có chết trong phòng ngủ hay qua đời lúc đang say giấc nồng, cũng đều do có bệnh hoặc những nguyên nhân khác.

Tôi là đệ tử Phật, cũng là bác sĩ ngành y.

Đối với quan niệm khoa học tôi luôn tôn trọng, nhưng tôi vẫn muốn nói rằng: Tầm nhìn của khoa học luôn bị giới hạn!

Mỗi người chúng ta tất nhiên đều sẽ chết, nhưng thời gian chết và cách chết có thống khổ hay không, quả thực có liên quan đến những gì chúng ta làm và luôn chịu ảnh hưởng của nhân quả!

Nếu như tôi không biết Phật pháp, khi tiến hành công tác điều tra, tôi cũng sẽ nghĩ đơn giản và kết luận: Chết là do bị tổn thương, bệnh tật... hay phạm tội bị hành quyết v.v...

Nhưng suốt thời gian tiến hành kiềm tra nhiều vụ án mạng, sau khi phân tích tìm hiểu sâu xa rồi, tôi luôn phát hiện chân lý "thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo", quả không sai chút nào.

Phật pháp nói "Nghiệp lực chúng sinh không thể lường", rất đúng!

Có thể dùng câu này đề giải thích vấn đề sinh tử trong cuộc sống ngày thường chúng ta.

Thu Dĩnh 9/7/2013

LND: Chúng ta thấy rõ: Lời nói có thể cứu người và có thể giết người!

Ông Lưu xử dụng cái lưỡi của mình để dệt thêu, đặt chuyện, lấy đây làm thú tiêu khiển, không biết làm thế là gieo nhân đại ác, gây họa hại cho bao người trong thôn làng.

Nếu cái lưỡi ông còn công năng, thì sẽ có thêm nhiều nạn nhân nữa.

Do vậy mà nguyên cái lưỡi và cả vòm miệng ông, bộ phận, cơ quan nào có thể gây họa cho thế nhân đều bị... triệt.

Hằng ngày xem báo đài, chúng ta thấy đăng tin những thiếu niên lêu lổng rủ nhau thừa lúc đêm khuya lên đứng trên cầu vượt, cùng ném đá làm vỡ kiếng các xe hơi hoặc ném đá làm vỡ kính đèn tín hiệu ở các trạm hỏa xa... lấy đó làm thú vui tiêu khiển mà không hề biết đây là những hành vi tự tàn phá phúc báu của mình!

Có đôi tay mà không làm ích lợi cho người, lại dùng nó để gieo hại, việc ném đá làm vỡ kính đôi khi còn gây thương tích trầm trọng cho người!...

Thêm nữa, chốt đèn hỏa xa mà hư thì không thể phát tín hiệu, dễ gây tai nạn giao thông thảm khốc cho khách qua đường.

Vì vậy chẳng những tự mình khiến phúc, lộc, quyền bị sạt, mà người tạo ác ngoài việc sinh vào cõi không lành, còn có thể chiêu vời quả báo không tay.

Bộ phận hay cơ quan nào làm những việc hữu ích cho người sẽ chiêu cảm quả báo tốt đẹp, ngược lại nếu chỉ toàn gieo rắc, đem đến hiểm nguy... thì sẽ bị loại.

Tùy theo phúc báo của đương sự mà ác báo trổ mau hay chậm, chứ không phải là không có báo.

Chỉ vì thiếu hiểu biết, chẳng được giảng dạy về nhân quả, do không am tường... nên người ta mới phạm tội.

Vì vậy, điều cần thiết là giúp người hiểu rõ nhân quả.

Khi đã minh bạch lý này, thỉ không cần có kẻ giám sát, người ta cũng tự động làm những điều có lợi cho mình và tha nhân, tự nguyện dúi ác hành thiện.



ÁC BÁO CỦA VU KHỐNG THÊU DỆT

Một anh bạn của tồi thuở giờ hay tạo khẩu nghiệp xấu, ưa nói dệt thêu, tung tin đồn thất thiệt, điều này càng gây nguy hại hơn khi anh làm ở lãnh vực truyền thông.

Ngày nọ, đột nhiên anh chạy đến xin lỗi tôi, vì hai năm trước đã viết bài tung lên mạng nhằm gây tai tiêng (scandal tình dục vô căn cứ) gieo hại cho tôi và khách hàng; tạo thành quấy nhiêu vô cùng khốn đốn, khiến bạn bề không dám hợp tác với chúng tôi.

Tôi rất muốn biết lý do nào đã khiến anh chịu tu sửa và thay đổi cực lớn như vậy?

Anh thành thật kể tôi nghe: Sáu tuần trước anh về miền nam tham dự tang lễ vợ bác cả là bác Thơm và sau khi biết rõ chuyện của bác Thơm anh vô cùng chấn động!

Bác Thơm có hai trai: Cậu cả giỏi giang ưu tú, mấy tháng trước trên đường lái xe về nhà thì bị tai nạn vong thân.

Còn cậu út vừa tốt nghiệp đại học, không biết buồn chuyện tỉnh cảm chi đó, mà tự thiêu, chết rất thảm.

Riêng bác Thơm do bị bệnh ung bướu, phải mổ nơi cổ và lưỡi, không thể nói năng, nằm trên giường lăn lộn đau đớn, chịu đủ mài luyện.

Khi bác bệnh đến thời kỳ cuối, mỗi khi há miệng ra, thối tới người người đều muốn nôn, không ai dám đến gần.

Hai con trai đã chết hết, giờ tới người mẹ...

Trong tang lễ, chỉ còn mỗi mình ông chồng (là bác cả) làm chủ sự, hoàn cảnh thật đáng thương.

Sau đó bác hai là em trai bác cả (bỏ quê ra đi đã mười mấy năm) bây giờ dẫn các con trở về, đến giao cho anh cả một tờ di thư (là bút tích của vợ bác hai), trong có hai hàng chữ viết bằng máu như thế này:

"Miệng hồng răng trắng, đặt chuyện xằng bậy hủy danh tiết người

Ắt phải đoạn tử tuyệt tôn, chết rồi đọa địa ngục cắt lưỡi"...

Bác cả xem thư xong, liền té quỵ xuống và bật khóc to, sau đó hướng em trai dập đầu xin lỗi, hai anh em ôm nhau cùng khóc...

Anh bạn tôi liền hỏi mẹ mình, mới biết rõ nguồn cơn:

Hồi xưa vợ bác cả vì tranh giành lòng thương của cha mẹ chồng (thầm lo ông bà gia sẽ chia nhiều tài sản cho nhà bác hai vốn ưu tú, giỏi giang) nên đã bịa chuyện phao tin đồn ác là: "Vợ bác hai tư thông với đồng nghiệp"... làm cho ba mẹ chồng hiểu lầm vợ bác hai, giữa phu thê cũng xảy ra lục đục...

Vợ bác hai bị hàm oan nên tức giận căm phẫn cực cùng, bà cắt máu tay viết di thư rồi uống thuốc rầy tự sát.

Bác hai quá đau lòng, nhưng lúc đó thế lực chị dâu cả quá mạnh, khiến chuyện khó thể phân rõ trắng đen, vì vậy bác hai chưa thể công khai di thư, đành gạt lệ dẫn hai con trai còn nhỏ đi miền đông lập nghiệp, nhiều năm không trở về.

Mẹ của anh bạn tôi hồi đó cũng hùa theo phát tán tin đồn ác này, phụ họa rêu rao bêu xấu khắp thôn.

Sau khi thấy quả báo giáng xuống nhà bác Thơm quá thảm, bà rất hãi hùng, lại thêm chứng kiến các con trai mình nhiều năm nay bị viêm thận, bệnh hành khổ sở, vô phương làm việc bình thường, mẫu thân bạn tôi lúc này vô cùng chấn động, bèn dẫn hết người nhà đến trước bài vị vợ bác hai, khấu đầu như tế sao, cầu xin tha thứ tội ngày xưa...

Anh bạn tôi sau khi biết rõ chuyện này rồi, tâm tư cũng bị chấn động chưa từng có.

Anh nghĩ mình nhiều năm nay cũng tạo nhiều nghiệp ác khẩu không lành, còn hay viết bài trên mạng gieo rắc tai tiếng, đâm thọc, ly gián hại người... lòng rất ăn năn kinh sợ, hối hận... cho nên quyết định đến thỉnh cầu những người bị hại (trong số đó có tôi) xin tha thứ, thề từ đây quyết tâm sửa đổi"...

Mẹ tôi nghe chuyện này rồi, liền cảnh báo tôi: "Khi chọn bạn trăm năm phải hết sức cẩn thận, vì lỡ như cưới nhằm vợ không hiền, độc mồm xấu bụng, phóng túng khẩu nghiệp, ăn nói quàng xiên thì sẽ di họa đến con cháu"...

Mẹ còn nhắc tôi phải luôn nhớ lời sư Chứng Nghiêm dạy: "Hãy nói như hoa thơm, đừng nói như rắn độc!".

Những ai loạn tạo khẩu nghiệp... xin hãy xem chuyện vợ bác cả mà cảnh giác.

Hiện nay bà là tấm gương kinh hoàng cho cả làng.

Tôi kề ra câu chuyện này là mong bạn đọc cẩn thận giữ gìn khẩu nghiệp, tránh được sai lầm.



XIN ĐỪNG LÀM VIỆC TỔN ĐỨC.

Thưa các thiện tri thức, các bạn đồng tu,

Tôi học Phật không lâu, đối với Phật pháp hiểu biết không uyên thâm, chẳng dám nói bàn nhiều, chỉ xin dùng kinh nghiệm bản thân chia sẻ cảnh báo với mọi người, ngàn vạn lần chớ nên làm việc tổn đức.

Đừng sát sinh hại vật, trộm cướp, tà dâm...

Ngay đây, tôi cũng xin cảm tạ trang web Phật giáo đã cho tôi cơ hội kể ra những tội mình đã tạo trước đây để mọi người cùng cảnh giác.

Nếu quý vị xem bài viết này mà muốn lăng mạ, chửi rủa hay khinh rẻ tôi, thảy đều được tất, vì đó là phúc phận của tôi.

Tôi sinh ra trong một gia đình trung bình, từ lúc biết nhận thức thì tôi đã làm một việc cực kỳ thất đức là: giành nhà xí.

Lúc đó tôi còn nhỏ lắm.

Khi ấy ông cố (là phụ thân bà ngoại), cùng ở chung với chúng tôi.

Ông cố tuổi đã cao, gặp lúc muốn đi vệ sinh, nếu như vào muộn một chút là sẽ không khống chế được và sẽ đại tiểu tiện vãi ra... trây dính cả người.

Nếu mà xảy ra chuyện này thì ông bà ngoại tôi sẽ chửi mắng cụ cố dữ dội, rất khó nghe.

Hồi đó tôi chưa hiểu biết gì, nhưng tính ưa chơi nghịch, hễ thấy cụ cố đứng dậy chuẩn bị đi nhà xí, là tôi lập tức chạy tới nhào vào trong đó trước, đóng chặt cửa lại, mặc cho cụ cố ở bên ngoài rên rỉ kêu la, tôi cũng không thèm mở cửa.

Đợi cụ cố đại tiểu tiện trây dính quần rồi, tôi mới chịu đi ra.

Chính vì tôi làm vậy mà ông cố bị bà ngoại chửi rủa thậm tệ, khiến ông rất buồn khổ, nguyên nhân lớn nhất là tại tôi, do tôi mà sinh chuyện.

Thế nhưng tôi cứ diễn mãi trò này, làm ông cố đau khổ rất nhiều.

Mãi tới sau này khi cụ cố hôn mê, trong lúc mơ màng, ông thường rên rỉ gọi tên tôi, bảo: "Hãy mau mở cửa ra".

Lúc đó tôi không biết mình làm như vậy là thất đức.

Rồi cụ cố qua đời, có lần còn báo mộng cho mẹ tồi, dặn dò rằng tôi còn nhỏ nên không hiểu chuyện, xin bà đừng có đánh tôi!

Lúc đó dù còn rất nhỏ, nhưng mỗi khi nghe mẹ kể vậy, tôi cảm thấy rất hối hận và buồn.

Tôi thường trùm chăn kín mít khóc ti tỉ.

Bây giờ nhớ lại, tôi còn thấy đau lòng.

Có lẽ do nhân xấu, do hành vi tác tệ ngày nhỏ, mà bây giờ tôi nhận lại quả báo đó.

Hiện nay tuy tuổi tôi còn trẻ, nhưng cảm thấy tình huống mình và cụ cố không khác nhau bao nhiêu.

Tôi thường hay mắc tiểu không thể nhịn được, nên rất thống khổ.

Dù có đi bệnh viện khám cũng chẳng tỉm ra nguyên nhân, tất cả đều bình thường.

Trước đây tôi không rõ, nhưng sau khi học Phật rồi, mới hiểu đó chính là quả báo do ác nghiệp ngày xưa tôi đã tạo.

Hiện giờ tôi chỉ biết gánh lấy, nếm mùi vị đó cho thấm thìa, chỉ riêng mình biết mà thôi.

Cho nên, xin các bạn đồng tu, ngàn vạn lần chớ nên làm việc xấu, sớm muộn gì quả báo cũng sẽ trổ ngay trên thân các bạn!

Hồi nhỏ tôi rất nghịch, ưa đi bắt chuồn chuồn, dế, các loài côn trùng v.v... .

Lúc đó tính tôi tàn nhẫn, nên ưa ngắt tay chân, bẻ cánh, hành hạ giày vò cho chúng chết mới vui.

Trong nhà tôi có rất nhiều thuốc men, tôi thường lấy nước sôi hòa với thuốc, tạo thành thuốc nước, sau đó dùng kim tiêm, bơm nước thuốc này vào bụng dế và các loài côn trùng...

Chúng bị tôi hành hạ rất nhiều!

Bây giờ nhớ lại, đúng là mình tạo quá nhiều nghiệp sát.

Tội lỗi dẫy đầy!

Sau đó tôi còn đi phá tổ kiến, bắt dế... tôi chế nước cho ngập hang, sau đó đắp bùn làm thành, để chặn bắt chúng... tội rất lớn.

Sau này khi lớn lên, trong nhà tôi nuôi chó liên tục (vì nuôi con nào chết con đó, nên cứ phải nuôi tiếp) chỉ cần chó không nghe lời, thi tôi đánh chúng tàn bạo.

Bây giờ viết đến đây, nhớ lại tình cảnh lúc đó, tôi thấy mình...

KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI!

Tôi xin thành tâm sám hối tội ác của mình!

Hồi đó tôi gieo trồng ác nhân, tất nhiên sẽ phải gặt quả.

Vì vậy mà mấy năm trước, tôi bị bệnh nứt da, một khi tiết trời lạnh thì tay sưng phù rất dữ, khiến đêm ngủ chẳng được, cả tay chân đều đau như bị vô số côn trùng cắn rứt, cơn đau hành hạ thống khổ tưởng có thể chết đi được!

Lúc đó tôi chưa biết là mình bị trả quả, lo chạy chữa đủ cách, nào là uống thuốc, tiêm chích, thoa đắp... nhưng chẳng hiệu quả chi, ngược lại bệnh càng nghiêm trọng.

Sau này học Phật rồi, mới hiểu ra, tất cả đều là báo ứng nhân quả, do tôi ngày xưa tàn hại các loài vật nhỏ, cho nên phải thọ quả báo như vậy.

Đúng lý phải thế thôi.

Chính nhờ học Phật, lễ Phật, mà gần hai năm nay, chứng bệnh của tôi không còn nặng nề nữa, hiện giờ tay vẫn còn nứt nẻ, nhưng thuyên giảm nhiều, điều này phải cảm tạ chư Phật Bồ tát!

Hiện nay mỗi khi tôi gặp tật bệnh chi, đặc biệt là bệnh nghiệp chướng, tôi đều rất thản nhiên, bởi vì tôi từng tạo ác, thi phải chấp nhận gánh lấy hậu quả.

Có một việc sau cùng, tôi muốn cảnh báo mọi người, ngàn vạn lần không nên tà dâm.

Lúc đó tôi chưa hiểu gì, lại do chưa được biết đến Phật pháp nên ở độ tuổi thanh xuân, sức lực sung mãn, lại thêm hay xem sách, phim đồi trụy, nên thường bị khởi dục và tôi phải tự thỏa mãn.

Một khi dục phát mà không biết điều phục, thì dần dần hình thành thói quen xấu, tệ đến mức chỉ cần vừa nhìn các hình ảnh nude là tôi khởi dục ngay và phải tự thỏa dục, đến nỗi tắm rửa gì cũng phát dục, dần thành thói quen.

Hồi chưa học Phật, chưa biết đạo, hễ dâm niệm, dục vọng khởi thì tôi cứ tự thỏa mãn, cho đó là tự nhiên.

Nhưng do làm điều này riết, tướng mạo tôi cũng thay đổi (đúng là như thế, tôi không nói dối, bởi nhân cách mình xấu thì tướng sẽ đổi tệ theo - xin bạn hãy tin tôi, nếu ai vướng phải thói xấu này, thì nên từ bỏ triệt để, sẽ rất có ích cho bản thân!).

Nguyên lả tướng mạo tôi vốn rất oai phong, hình dung thanh tú, nhưng do tôi thường hay tự thỏa dục, nên tướng mạo cũng bị thay đổi, biến thành cực kỳ thô tục.

Sức khỏe cũng kém, vì tinh lao lực tổn... cộng thêm lỗi ngày nhỏ đã phạm với cụ cố, khiến quả báo tôi lãnh càng thêm nặng.

Tiểu tiện khó, khổ đủ mọi bề...

Sau khi học Phật rồi, tôi mới hiểu và nhận ra đây là những hành vi bất hảo, nên một bề thệ nguyện từ bỏ.

Nhưng mà, dâm niệm một khi khởi, nó mạnh cuồn cuộn, rất khó chịu, nhưng tự thỏa mãn rồi lại thấy có tội, còn khổ hơn.

Mãi đến vài tháng trước tôi mới hoàn toàn chiến thắng và làm chủ được mình.

Nhờ tôi kiên trì mỗi tuần đến chùa lễ Phật, thành tâm lạy sám hối.

Sau đó được nghe giảng về lòng đại từ đại bi và ích lợi của việc niệm thánh hiệu Bồ tát Quan Âm, nên mỗi khi dâm niệm khởi, tôi liền niệm thầm "Nam mô đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ tát!"

Niệm xong tôi lại nguyện tiếp: "Xin Ngài gia hộ cho con dứt trừ lòng tà dâm" tôi cứ niệm và nguyện như thế liên tục, kết quả thật kỳ diệu: dâm niệm tự nhiên tiêu tan, thực sự tiêu mất hết!

Hồi mới tập tu, một tuần tôi khởi niệm dâm hai, ba lần, sau đó suốt hai, ba tuần đều không khởi.

Bây giờ thì không còn bóng dáng nó, vì trong lòng tôi chỉ có Phật!

Việc này phải cảm tạ Bồ tát Quan Thế Âm!

Không có Ngài, có lẽ tôi vẫn còn trầm mê vô phương tự cứu!

Khi không biết đạo, phần đông người ta thường cho rằng thỏa dục là khoái lạc nhất, nhưng nếu bạn nếm một lần hạnh phúc bình an thanh thoát của vô dục rồi, bạn sẽ không còn muốn trở lại cảnh giới đầy bùn đó nữa.

về đạo pháp tôi không dám bàn huyền nói diệu nhiều, chỉ thấy là, kể từ lúc tôi ăn năn, quyết tâm tu sửa, dẫu có bệnh hoạn gì cũng giảm nhẹ đi. cho dù phải trả quả thì cũng không quá thống khổ và kham được.

Tiểu tiện cũng không còn khó chịu nữa.

Chư vị đồng tu, đây là kinh nghiệm đích thân tôi trải qua, những lỗi tôi từng phạm, thuở giờ luôn che giấu không dám nói cùng người.

Hôm nay tôi thu hết can đảm giãi bày ra hết, vì mong rằng, những vị nào từng phạm lỗi giống tôi sẽ mau sớm sửa đổi để cùng được an lạc.

Nếu tôi không được biết đến Phật pháp, thì có lẽ hiện giờ quả báo tôi phải trả rất là nặng, rất là thê thảm...

Nhưng nhờ tôi được nghe Phật pháp, biết ăn năn, sám hối, sửa lỗi, tu tỉnh, thệ nguyện đổi mới bản thân nên hiện tại tôi sống rất hạnh phúc.

Rõ ràng là Phật pháp đem đến hạnh phúc cho con người!

Tôi xin đem kinh nghiệm của mình ra, chân thành chia sẻ, hi vọng mọi người cảnh giác, xin đừng bao giờ bước vào nẻo sai giống như tôi đã phạm, vì đó là tử lộ!

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn chư vị đã kiên nhẫn, chịu khó đọc hết bài văn lượm thượm nảy của tôi.

Nếu quý vị cảm thấy là tôi quá ti tiện, quá tàn nhẫn, đáng khinh... thì hãy lớn tiếng mắng tôi thật nhiều, bởi tôi xứng đáng bị như thế, tôi không trách quý vị, mà còn phải cảm tạ nữa...

Nếu như quý vị có thể đem chuyện của tôi, kề cho bạn bè nghe để họ cảnh giác... giúp những người trước đây từng có hành động giống như tôi sớm được tỉnh ngộ, thoát ra nẻo sai, thỉ không còn gì quý bằng!

Cầu chúc quý vị: Phẩm hạnh sạch trong, giới luật nghiêm tri, thân khẩu ý hằng thanh tịnh, tâm luôn hạnh phúc...

Người sám hối kính bút.

8/10/2012- 11:52



TÌNH CHẤP UYÊN ƯƠNG

Tôi là một người vô thần. không theo bất kỳ tôn giáo nào.

Nhưng bảy năm trước đã xảy ra một việc lạ lùng làm thay đổi cả cuộc đời tôi.

Lúc ấy tôi mới kết hôn được sáu tháng.

Khuya hôm đó tôi thức dậy đi tiểu, đầu óc hãy còn mơ màng ngái ngủ, thì bỗng thấy có một bóng trắng lướt qua trước mặt mình, thế là tôi vội mở mắt ra... nhìn thấy rõ ràng đó là một nữ quỷ mặc y phục trắng, mặt dính đầy máu, nhem nhuốc...

Lúc đó tôi cũng không biết vì sao mình có đủ dũng khí để mà vung tay... tát mạnh vào mặt nữ quỷ, tôi đánh đến nó phải biến mất tiêu!

Kể từ sau đêm đó, mặc dù tôi không còn thấy nữ quỷ nữa, nhưng cảm giác xui xẻo mỗi lúc một hiện rõ.

Trước tiên là chồng tôi bị bệnh, phải đi bác sĩ liên tục suốt mấy ngày.

Sau đó thì đến phiên tôi, nửa đêm tự dưng bụng phát đau kịch liệt, phải tới bệnh viện chữa trị mới lành.

Vì vậy, tôi cảm nhận rõ ràng là vợ chồng tôi đồng bị "trúng tà".

Để giải tà khí, chúng tôi phải đi khắp nơi tìm thầy (làm phép trục quỷ).

Nhưng chẳng ăn nhằm gì, hoạn nạn chẳng chút thuyên giảm, vẫn hoành hành y như trước.

Khi đó chúng tôi vô cùng khổ não, nhưng chẳng tim ra cách giải quyết.

Tình cờ tôi gặp một người bạn (là đệ tử Phật) khuyên tôi nên học Phật, hãy dùng Phật pháp để giải quyết vấn đề hóc búa này!

Chúng tôi lâm vào cảnh bệnh nặng cần lương y, chẳng còn cách nào khác (đành phải nhào tới ôm chân Phật thôi), vậy là chúng tôi đến với Phật giáo...

Sau khi học Phật, chúng tôi bắt đầu ăn chay, phóng sinh, tụng "Kinh Địa Tạng", chúng tôi tụng được mấy mươi bộ Địa Tạng rồi, thì một đêm nọ tôi nằm mơ thấy nữ quỷ hiện ra, khóc lóc kể lể về thân thế của cô cho tôi nghe.

Té ra mấy trăm năm trước, cô ta từng là vợ của chồng tôi, do kiếp đó cô đã treo cổ tự vận chết nên bị đọa vào cõi quỷ!

Cô đã đi tìm chồng ngót mấy trăm năm, cho đến kiếp nảy mới phát hiện ra chồng mình ở đây.

Sau khi tỏ tường sự thực, tôi tuy có cảm thông nhưng lòng rất uất phiền.

Bởi tôi đã hiểu vì sao chồng mình hay bị mộng tinh, di tinh...

Té ra là tại... con quỷ cái này (đêm nào nó cũng mò tới ngủ với chồng tôi)!

Tôi nhất quyết không nhượng bộ, biết con quỷ nửa đêm (mới có thể) đến mê hoặc chồng mình, nên tôi canh chừng, hễ gần giờ đó là bắt đầu gỗ chuông niệm Phật um sùm lên.

Do trường kỳ lo lắng và ngày nào cũng phải thức dậy vào nửa đêm để niệm Phật "hộ vệ" chồng, sức khỏe tôi ngày càng suy sụp vì thiếu ngủ nghiêm trọng, nhưng tôi vẫn gan lì, ráng cầm cự "chiến đấu" như vậy ngót hai năm.

Cuối cùng tôi thu được kết quả là: Bị bệnh tim và ngã lăn ra xỉu! (Không phải tôi bị nữ quỷ dọa cho xỉu mà do kiệt sức quá nên ngất đi)...

Cứ mửng này mãi xem ra tôi chịu hết thấu, do bị khổ não hành hạ cả thân lẫn tâm nên bệnh tim tôi càng kéo dài, khó thể sống an.

Thế là đầu xuân, hai vợ chồng tôi đồng quyết định vảo tháng Tư này sẽ cùng lên chùa xin xuất gia, để chấm dứt cái trận chiến oan nghiệt kỳ khồi giữa người và quỷ...Nhưng chúng tôi chưa kịp thực hiện dự tính thì con quỷ cái đã nhanh nhẩu ra tay trước: Lần này ả nhập thẳng vào chồng tôi, hung dữ muốn giết tôi.

Thú thực là mấy năm nay cùng ả chiến đấu ròng rã, tôi đã quá đuối mệt lẫn thương tâm... nên ngay giây phút cận kề cửa tử, tôi cũng có ý chán nản muốn buông xuôi hết.

Tôi nghĩ: 'Thôi thì cam nhận một đao của ả để kết thúc hết mọi ân oán, chỉ mong ngay đây được vãng sinh Cực lạc, rũ bỏ hết mọi sầu đau"...

Ngay lúc tôi nhắm mắt chờ... con quỷ cái đâm cho một dao để kết liễu đời mình (qua đôi tay của chồng tôi), thì bỗng nghe "Keng!" một tiếng... hóa ra nữ quỷ đã ném dao xuống đất và rầu rĩ nói: "Giết mi rồi thi ta cũng phải xuống địa ngục!

Thiệt là khổ phiền quá đi!"

Bây giờ đến lượt tôi phát khùng, tôi túm lấy xác thân chồng tôi (đang còn hồn nữ quỷ gá ở bên trong), đập cho một trận tơi bời!...

Lúc này tôi mới hiểu thế nào là: "Cầu sống không được, cầu chết không xong!"

Bị muộn phiền hành tâm tư quá sức, tôi chỉ còn một cách là đem chồng gởi vào ngôi chùa gần đấy.

Kết quả, sau đó đêm nào con quỷ cái cũng mò đến tìm tôi quấy nhiễu, nó khóc kề rùm beng bên tai tôi, than rằng: Trong chùa có thần hộ pháp canh giữ, tôi không cách chi vảo được...Nữ quỷ quấy phá làm ồn đến mức tôi chẳng tài nào ngủ được, cuối cùng tôi đành năn nỉ, thỉnh cầu sư phụ trong chùa mở lòng từ bi, lập đàn siêu độ cho nữ quỷ giùm.

Bởi chùa này chuyên tu niệm Phật, vì vậy mục đích siêu độ là cầu cho nữ quỷ được sinh về Cực Lạc.

Khi pháp hội niệm Phật được tổ chức, mang lại hiệu quả thù thắng không gì sánh bằng!

Bởi dưới uy lực gia trì của Phật, tôi đã nhìn thấy các tiền kiếp của bộ ba chúng tôi, nhìn rõ mồn một những gi xảy ra trong đời quá khứ, tháo gỡ được gút mắc cho cả ba (hai người một quỷ), chân tướng luân hồi ngàn năm cuối cùng được hé lộ như sau:

Đôi chim uyên ương

Nhiều kiếp rất lâu xa về trước, có một đôi chim uyên ương xinh đẹp ngụ nơi một cái hồ thanh vắng.

Có một thằng bé hay tới hồ chơi và phát hiện ra đôi chim này, nó thường đem thức ăn đến cho chúng, trải qua một thời gian dài.

Ngày nọ khi tới hồ chơi, thằng bé bắt gặp con chim trống đứng cô đơn, buồn rầu; chẳng thấy con mái đâu?

Thế là nó tìm khắp nơi và phát hiện trên không trung có một con chim ưng hung ác đang quắp con chim mái bay xa.

Thằng bé chẳng biết làm sao, đành mang thức ăn tới an ủi con chim trống.

Nhưng chim trống vẫn cúi rũ, không thèm động đậy.

Hôm sau, thằng bé ra thăm chim trống, nó vẫn nhịn đói không chịu ăn bất cứ thứ gì.

Mấy ngày sau, chim trống chết đi.

Thằng bé rất buồn, đành mang chim trống đi chôn, từ đó nó cũng không ra hồ chơi nữa.

Uyên ương đầu thai

Thời gian qua nhanh, thấm thoắt đã mấy trăm năm.

Đôi chim uyên ương luân hòi vần xoay cuối cùng cũng được tương ngộ, chúng đồng sinh vào cõi người: Chim trống đầu thai làm nam, chim mái đầu thai làm nữ và kết thành một đôi phu thê nghĩa tình khắng khít.

Ngày nọ người chồng đi vắng, cô vợ và bà mẹ chồng phát sinh gây cãi dữ dội tới nỗi cô dâu nhất thời nghĩ quẩn, treo cổ tự tử.

Nàng chết rồi thì đọa ác đạo, phải mang thân quỷ7; nhưng do chẳng buông xả được tình yêu đối với chồng, nên nữ quỷ này một mực đi tìm lang quân trong ngút ngàn thống khổ...

Qua từng lần, từng lần luân hồi lục đạo... mãi cho đến mấy trăm năm sau là đời hiện tại đây!

Người chồng của nữ quỷ kiếp này vẫn sinh làm nam nhân, còn tôi chính là thằng bé thuở xưa từng cho đôi uyên ương ăn... (kiếp này đã mang thân nữ), do nhân duyên chín muồi, tôi và nam nhân (là chim trống kiếp xa xưa) kết thành chồng vợ, còn nữ quỷ đang quấy phá kia, chính là hậu thân của con chim mái.

Suốt mấy năm trời cả ba chúng tôi cùng "quần thảo" nhau giờ mới biết rõ chân tướng liên quan...

Té ra đây là một trường nhân duyên hội hợp tạo thành "bi hài kịch".

Dưới Phật lực cao thâm vi diệu không thể nghĩ lường, tôi bị chiết phục và phát sinh niềm tin tuyệt đối, từ đó chúng tôi tu hành miên mật và hưởng được quả ngọt của công phu.

Tổng kết lại lịch trình tu suốt 7 năm nay, tôi rút ra được mấy điều hay, xin lược ghi để chia sẻ cùng mọi người:

I.

ĂN CHAY ĐƯỢC NHIỀU LỢI ÍCH:

Trường trai được 4 năm, tôi phát hiện ra ăn chay có mấy điểm tốt:

- Bệnh nặng dễ chữa: Năm đó chồng tôi tế bào bạch cầu giảm đến không còn lực miễn dịch, nhờ trường trai phối hợp với điều trị, vừa tốn tiền ít lại được lành bệnh.

Hiện nay bạch cầu đã phục hồi bình thường, bác sĩ khen: - Quả là kỳ tích!

- Phúc báu tăng thêm: Từ khi tôi ăn chay rồi một bề không công tác, chỉ nương vào nguồn thu nhập cho thuê phòng mà sống, nhưng lại có tiền dư để dành, sống nhàn nhã...

Bởi người ăn chay ít bị bệnh, mà dẫu có vướng bệnh chỉ cần uống chút thuốc là lành.

Đồ chay lại rất rẻ, hằng ngày hai vợ chồng tôi ăn không hết mười đồng.

- Tiêu nghiệp chướng: Người ăn chay không có kết oán cùng chúng sinh nên tiêu nghiệp nhanh hơn người ăn mặn, tu hành ít bị chướng ngại.

- Được trẻ hóa: Tôi năm nay 38 tuổi, nhờ ăn chay, mà nhìn trẻ hơn thực tế mười tuổi (Các nữ sinh ưa trẻ đẹp thì hãy ăn chay nhé).

II.

NGHỊCH DUYÊN CŨNG LÀ PHÚC

Hồi đầu, tôi luôn cho rằng gặp nữ quỷ kia đúng là quá xui xẻo, quá bất hạnh!

Vì bị mắc bệnh thì không thể làm việc kiếm tiền.

Nhưng chính nhờ đây mà tôi thấm thìa nỗi khổ "ái biệt ly" và hiểu rõ lý nhân quả luân hồi.

Do nữ quỷ này quấy phá liên tục khiến cuộc sống chúng tôi cực kỳ thống khổ, ả đã ép ngặt và thúc đầy, khiến hai kẻ vô thần như chúng tôi phải bước vào con đường học Phật.

Còn nữa, nhân vì nữ quỷ hằng ngày xuất hiện, khiến tôi ngày nào cũng phải niệm Phật ngót mười mấy tiếng đồng hồ, mỗi ngày ít nhất phải niệm năm vạn hiệu (50 ngàn) trở lên, tôi kiên trì như thế suốt ba năm.

Nhờ vậy mà đại môn của thế giới Cực lạc đã mở rộng trước mắt tôi (Kết cuộc thế này đúng là quà tặng!)...

Dù tôi có dùng lắm ngôn từ cũng không sao diễn tả hết được...

Cho nên, lúc nghịch duyên xuất hiện, cũng là thời cơ tốt giúp mình tu hành (Giống như người bị cọp dữ rượt đuổi sát mông, đương nhiên phải chạy bán mạng, lo tu chí chết)...

III.

NIỆM PHẬT HAY TUYỆT VỜI

Con đường tu học của tôi đặc biệt kỳ quái.

Do bị nữ quỷ ép ngặt, nên lúc nào tôi cũng phải đề tỉnh tinh thần để tu hành.

Vì muốn mau mau thoát khỏi con quỷ cái này (điều ả đi xa) nên tôi phải dốc hết toàn lực mà thực hiện.

Thuở mới bắt đầu tu, trước tiên tôi tụng kinh, niệm chú, buổi khuya tụng chú Lăng Nghiêm, sáng tụng kinh Di Đà, 9 giờ tụng "kinh Địa Tạng", chiều tụng "kinh Kim Cang" và ba biến chú Đại Bi, tối còn tụng một bộ "kinh Địa Tạng" nữa.

Thời gian tụng kinh rất dài và mệt.

Tôi vốn lả kẻ vô thần, do bị quỷ phá mà biến thành tín đồ ngoan đạo (phải tu rục).

Ngày tháng tụng niệm như vậy tôi kiên trì thực hành mới gần một năm thì vào buổi sáng nọ, tôi tụng kinh vừa đến Hòi hướng thì bị nữ quỷ che kinh quấy nhiễu khiến tôi rất buồn (pha lẫn tuyệt vọng nữa, vì thấy nữ quỷ không sợ kinh chú)...

(Thực ra không phải kinh chú không linh mà do tôi mới hành trì, tâm còn đầy tán loạn tham sân si nên không thể chiêu hiệu quả tốt ngay tức thời được).

Nhưng lúc đó tôi mất niềm tin, lo tìm phương cách mới.

Vợ chồng tôi bèn tìm thuê một ngôi nhà nơi hoang sơn (chung quanh có mười mấy ngôi mộ) ở đó suốt sáu tháng ròng chuyên tu "tĩnh tọa quán tưởng".

Lần đầu tiên tu quán, chúng tôi quán "Vô Lượng Thọ Kinh".

Hễ mặt trời mọc thì ngồi quán, khi hoàng hôn buông thì ngồi tĩnh tọa hai tiếng nhìn trời lặn.

Ban ngày rảnh thì niệm Phật.

Quán tưởng được mấy tháng, chẳng thu chút kết quả nào, đã vậy còn tu lạc!

Bởi vì vừa nhắm mắt thì thấy một phiến tối đen, căn bản là do thực hành không đến.

Tệ hơn nữa là tính khí nóng nảy phát sinh càng lúc càng tợn và tôi nhìn thấy quỷ mỗi lúc càng rõ hơn.

Chúng tôi ráng tu chừng nửa năm thì chịu hết nổi, cuối cùng đành cuốn gói "thu cờ" quay về.

Tụng kinh chú, tĩnh tọa, quán tưởng... gần hai năm xem ra chẳng ổn, tôi bèn thử thí nghiệm quay sang chuyên niệm thánh hiệu Phật A Di Đà và bỗng phát hiện ra: Hằng ngày chỉ cần nửa đêm tôi thức dậy, dốc tâm chí thành niệm Phật, thì nữ quỷ tuyệt đối chẳng dám đến gần giường, ngược lại còn biến mất tăm không thấy tung tích.

Có lúc vào mùa hạ, khoảng 8 giờ tối tôi đi tản bộ, vừa bước, vừa niệm, rất bình an.

Có khi gặp quỷ, thì cũng thấy chúng lui vào hai bên lề đường, còn quỳ xuống chắp tay vô cùng cung kính. (Đúng là niệm Phật, thánh hiệu hiện tiền khiến quỷ tôn kính lui xa).

Thực ra cũng nhờ thời gian kiên trì "tu rị tu rục" ban đầu làm nền tảng, đã tập cho tâm trí chúng tôi quen dần với Phật pháp, dễ nhiếp niệm an tĩnh hơn.

Tháng 3 năm 2010, tôi gặp vả nghe pháp sư Tịnh Không giảng "Tư tưởng Tịnh độ của Đại sư Thiện Đạo" càng hiểu rõ thánh hiệu vi diệu, mới biết phương pháp tu tập trước đây của mình không có kết quả là do không phù hợp.

Bởi chúng tôi căn cơ tệ lậu, tập khí xấu còn nhiều.

Nhờ tin sâu vào nguyện lực Phật A Di Đà từ bi nhiếp thọ, thầm nghĩ "nếu mình ra công niệm chuyên nhất chắc chắn sẽ vãng sinh Cực Lạc", do quá khổ, mới khát khao mong được giải thoát ngay trong đời này, vì vậy mà dũng mãnh tu, chí thiết niệm Phật, nhất tâm nương vào sự che chở của Ngài.

Nhờ vậy mà chúng tôi dốc lòng niệm danh Phật trong mọi thời khắc: Đi, đứng, ngồi, nằm... bất kể thời gian bao lâu, cứ niệm chuyên nhất không rời, ráng tạo nghiệp chánh định.

Thông qua thời gian dài hành trì niệm Phật, chuyển biến lớn đà hiển hiện (thấy rõ nhất là nơi chồng tôi).

Anh do trường kỳ sống cùng quỷ nên thần trí mê mờ, mặt bị ám đen.

Từ lúc anh biết nhiếp tâm tu, kiên trì niệm Phật chuyên nhất rồi, thì đêm ngủ bắt đầu an lành, trạng huống thân thể cũng bắt đầu hồi phục bình thường, mặt hết xám đen mà trở nên sáng rỡ.

Ngày xưa lúc mới tu, hễ anh vừa niệm Phật là sinh buồn ngủ, nhưng hiện nay có thể cả ngày tinh tấn niệm Phật, mặc dù nữ quỷ không hề muốn buông tha cho anh được vãng sinh Cực Lạc, nhưng ả cũng không còn có thể đến gần quấy nhiễu, chẳng tài nào làm chướng ngại việc niệm Phật của anh được nữa.

Ả cũng hết tìm tôi quấy rầy và tôi phát hiện những vướng mắc, luyến ái trong lòng mình cũng phai nhạt đi, tự nguyện buông hết mọi ưu tư chấp trước, xin phó thác tất cả cho Phật xếp đặt an bài, nhờ vậy mà tâm an, tôi trở nên hạnh phúc!

Khi mới đến với Phật giáo, tôi từ tâm thái tạp hạnh, tạp tu mà tiến dần đến niệm Phật chuyên nhất, tạo nghiệp chánh định.

Nhờ hiểu rõ và tin sâu rằng: Nếu dốc tâm chuyên niệm ắt được vãng sinh, do vậy mà tôi kiên định an tâm nơi câu niệm Phật, sau đó còn tích cực giới thiệu mọi người pháp môn này.

Cũng nhờ niệm Phật chuyên nhất mà tôi được Phật lực gia trì khiến tâm tư mở sáng, hiểu rõ nhân quả ba đời của ngàn năm, nhớ được tiền kiếp cả ba đứa, tôi cũng từng được thấy thánh dung Phật A Di Đà và chiêm ngưỡng thánh cảnh Tây phương, Tất cả đều nhờ uy đức của câu Phật hiệu ban tặng cho.

Xin chia sẻ mọi người câu chuyện của tôi.

Mong quý vị xem xong đều được lợi ích.

Thừa Ngọc - 11/4/2011

LND: Có lẽ do quá xúc động nên người viết cử nhắc tới lặp lui, kể thuật lộn xộn... tồi đã ráng sắp xếp đề dịch cho có thứ tự dễ hiểu.

Nếu còn chỗ nào khó tiếp thu, mong độc giả lượng thứ, vì khả năng của tôi có hạn.

Chỉ mong người xem thu được lợi ích, thì đó là phần thưởng lớn cho dịch giả.



TIẾNG GỌI ĐÊM KHUYA

Năm nay tôi 28 tuổi, sau mấy năm yêu thương nồng thắm, ngày 28/5/2011, tôi cùng người bạn trai cùng dắt tay nhau bước vào lễ đường xây dựng hôn nhân.

Thời gian này phải nói là tôi đang đắm chìm trong hạnh phúc ngập tràn.

Một ngày cuối tháng 8, tôi về nhà thăm mẹ.

Tình cờ nghe mẹ kể, không biết là người nào, hằng đêm cứ độ 22g05 phút là ở dưới lầu réo gọi tên tôi!

Tôi nghe xong đâm sợ vỉ thấy chuyện quá kỳ lạ, nên cứ vặn hỏi mẹ:

- Có phải là mẹ nghe lầm hay bị ảo thính, ảo giác gì chăng?...

Mẹ tôi khẳng định:

-Tuyệt đối không có chuyện nghe lầm.

Hồi đầu mới nghe thì mẹ cho rằng vùng này có nhiều người tên Oanh và nghĩ chắc là người ta kêu trùng hợp, nên mẹ không để tâm.

Nhưng lâu dần thì mẹ phải để ý, vì thấy chuyện này cứ tái diễn, tính ra đã ba tháng nay rồi.

Bây giờ tôi nhớ lại, thầm phục tính gan dạ của mẹ, vì trong suốt thời gian đó, tối nào trước 22 giờ bà cũng lên sân thượng đứng nhìn xuống, quan sát khắp chung quanh mong phát hiện ra ai là kẻ giở trò chơi ác?... bà đứng đợi rất lâu mà chẳng thấy chi, nhưng khi bà vào nhà thì âm thanh nữ nhân kia cứ đúng 22g05 phút là vang lên réo gọi tên tôi.

Bất đắc dĩ mẹ phải đem chuyện này kể lại cho tôi nghe.

Lúc đó, tôi vừa lo vừa sợ... cũng cho rằng có thề là do bọn thổ phỉ gian manh nào đó làm, chứ dưới bầu trời này sao lại có chuyện kỳ quái như thế được?

Lòng đầy thắc mắc lo âu, e là sẽ có việc không hay xảy đến cho mẹ, tôi cũng muốn xác minh cho rõ thực, hư... nên quyết định tối đó ngủ lại nhà mẹ.

Tôi nhìn chăm chăm vào cái đồng hồ treo trên tường, âm thanh tích-tắc tích-tắc đều đều vang lên, lòng tôi thấp thỏm không yên và bị kích động tột cùng.

Để giảm bớt lo âu, tôi và mẹ vừa chờ đợi vừa trò chuyện...

Đúng 22g05 thì tai tôi nghe rõ ràng âm thanh ôn nhu của một nữ nhân đang réo gọi tên tôi, toàn thân tôi bỗng nổi ốc hết, mồ hôi tuôn đầm đìa.

Lúc này không hẹn mà tôi và mẹ đồng buột miệng nói một câu:

- Nghe không hả?

Đúng vậy!

Rốt cuộc tôi phải tin điều kỳ quái kia là có thực!

Té ra trên thế gian này còn có cái gọi là "Quỷ kêu cửa!"...

Tôi vô cùng thắc mắc và cảm thấy khó hiểu, tâm tư sợ hãi, kinh hoảng cực kỳ!

Nhưng cái giọng réo gọi kia tôi lại có cảm giác rất quen thuộc, thân thiết...

Đêm đó tôi hoàn toàn mất ngủ, nói đúng hơn là "không dám ngủ", vì quá sợ...

Suốt đêm tôi cứ ngồi trên giường, không dám chợp mắt, sợ đến cực điềm.

Quả tình việc xảy ra này tôi chưa từng nghe ai kể qua.

Tôi bị cơn hoảng loạn vây khốn khiến tâm tư mệt nhừ.

Quá nửa đêm tôi có thiếp đi chút đỉnh và mơ thấy một nữ nhân gầy ốm, tóc ngắn, ôm một đống tiền to trước ngực, tôi định tiến lại gần, thì cô liền ném cho tôi tia nhìn đầy thù hận...

Cứ thế, tôi chịu đựng đến trời sáng.

Tôi thực sự rất sợ, chẳng hiểu đây rốt cuộc là việc gì?

Trời sáng, tôi đi tìm thầy, nhờ xem thử.

Họ không nhìn ra nguyên nhân, chỉ nói là "Dường như kẻ này đến đòi mạng".... và dặn dò tôi buổi tối không nên để mẹ đi ra ngoài, nếu không sẽ nguy hiểm, chẳng bảo đảm an toàn.

Ngoài ra thầy bảo tôi về nhà dùng năm loại ngũ cốc ngăn nữ quỷ này.

Tôi làm y như thầy bày, nhưng không thấy công hiệu chi, vẫn còn nghe tiếng gọi.

Lúc này đã gần Tết Trung thu, thầy nói đến Trung thu nếu như không nghe kêu tên nữa thì sau này sẽ không bị gọi nữa.

Nhưng âm thanh lạ đó vẫn kêu réo tên tôi mỗi đêm không ngừng, chẳng hiểu là chuyện gì?

Chớp mắt đã mùng 9 tháng 8 âm lịch, còn vài ngày nữa thì đến Tết Trung thu.

Ruột tôi nóng như lửa, cứ sợ mẹ xảy ra chuyện không hay.

Cha tôi mất sớm, chỉ có hai mẹ con hủ hỉ, nương nhau mà sống.

Tôi xem mẫu thân như sinh mạng của mình, không có bà, tôi làm sao mà đối mặt với tháng ngày còn lại?

Sáng đó, tôi liên tục gọi điện hỏi thăm xem có thầy nào đoán chuyện giỏi chăng, tôi rất muốn nữ quỷ này bỏ đi, hình như cô ta đối với tôi có mối hận vô cùng.

Được bạn bè nhiệt tình mách bảo, cho địa chỉ nhả các thầy chuyên gỡ rối.

Lúc này tôi rất hoang mang, thường tự vấn: "Không hiểu mình đã làm điều chi có lỗi, nếu quả có..." thì tôi chẳng biết phải làm sao đây?...

Trong lúc rối ren, tôi bỗng sực nhớ, mấy năm trước mình từng ghé một nữ sĩ có tài giải đoán rất hay.

Thế là tôi quyết định đến nhà cô này.

Vì ghé cách đây đã lâu nên tôi không nhớ rõ về cô ta lắm.

Sau khi liên lạc qua điện thoại, cô hẹn tôi sau 11 giờ trưa hẵng đi.

Thế là qua 11 giờ, tôi đúng hẹn tìm đến.

Đến nơi tôi mới rõ cô này theo đạo Phật.

Trong nhà thông thoáng, sạch sẽ, có thờ một tôn tượng nhìn rất quen, nhưng tôi không nhận ra là vị nào.

Sau khi tôi trình bày chuyện mình, vị nữ sĩ kia (xin tạm gọi cô Lan) đã kể ra một giai thoại thề nguyền ngàn năm, giải mối nghi này cho tôi.

Khi đó câu đầu tiên tôi hỏi là:

- Mẹ tôi có bị nguy hiểm gì không? (Bởi tôi lo cho mẹ nhất).

Cô Lan đáp:

- Không hề chi!

Lúc này tôi mới yên lòng, thở phào nhẹ nhõm.

Sau đó cô Lan định tâm một lúc rồi kể ra câu chuyện tiền kiếp của tôi.

Xin tóm tắt sơ lược như sau:

"Đời thứ nhất thuộc triều Chu, chúng tôi vốn là vợ chồng, người (gọi tên tôi hằng đêm hiện thời) lúc đó mang thân nam, làm Tể tướng.

Tôi mang thân nữ, là thê thiếp.

Nhưng tôi lại giết chết phu quân, tạo thành nghiệt duyên oan trái đời thứ nhất.

Đời thứ hai thuộc triều Đường, người kia là chủ, tôi là tớ.

Tôi lại nghe lời kẻ gian xúi giục, giết chết ông chủ.

Cho tới đời hiện tại này thì y là quỷ, tìm đến đòi mạng tôi".

Cô Lan còn ghi cho tôi bài thơ, hai câu cuối cùng rất có ý gẫm, như: "Lại gặp Bồ đề hộ cho an, giúp ta hóa giải oán cừu này"...

Cô Lan hỏi tôi:

- Có muốn hóa giải không?

Tôi vội gật đầu.

Vâng lời cô, trong tâm tôi không khởi tạp niệm, chỉ nghĩ một điều: Nhất định sẽ thực hiện, làm tốt mọi yêu cầu.

Lúc đó cô kêu tôi quỳ trước tượng Bồ tát, tôi không ngăn được sa nước mắt, chẳng biết vì sao mình cứ muốn khóc?

Cô ra hạn cho tôi ba ngày, bắt tôi mỗi ngày phải niệm ba ngàn câu A Di Đà Phật và tụng hai bộ kinh sám hối, còn đưa tôi một quyển kinh "Quan Thế Âm Bồ tát Phổ Môn Phẩm" và "kinh Kim Cang", hơn nữa còn vì tôi tụng chú, mặc dù tôi nghe không hiểu, nhưng lúc niệm danh A Di Đà Phật thì lệ tôi rơi đầm đìa, khóc nghẹn ngào...

Sau đó, cô Lan bảo:

- Yên tâm đi!

Tối nay hắn sẽ không đến nữa đâu...

Tôi lúc đó trong lòng bán tín bán nghi, tuy có thành tâm, nhưng lần đầu gặp việc như thế này, lòng đầy thắc mắc hoài nghi...

Tôi rời nhà cô Lan quay về thì đã xế chiều, tôi và các thân hữu vừa ăn cơm vừa bàn về việc này.

Cô bạn đồng đi phát biểu:

- Chẳng biết có hiệu quả gì chăng, nhưng dù sao tao cũng không tin!

Ngay lúc cô bạn nói như vậy trong lòng tôi bỗng xuất hiện câu thơ: "Lại gặp Bồ đề hộ cho an... giúp ta hóa giải oán cừu này"...

Tôi giải thích cho cô bạn nghe, nhưng mặt cô vẫn đầy nghi ngờ...

Bất kể bạn tôi phê bình, ngăn chê thế nào, tôi vẫn giữ vững lập trường: "Đã hứa thì phải làm!"

Ăn chiều xong tôi đến chỗ mẹ, kể hết mọi việc vừa rồi.

Mẹ cũng nghi ngờ thắc mắc đầy, cho rằng việc này ngoài sức tưởng, bà nói mình sống hơn nửa đời, đây là lần đầu tiên gặp việc lạ như thế này.

Ai cũng không tin, ngay cả bản thân tôi cũng còn hoài nghi, nhưng tôi vẫn phải làm.

Vì mẹ, tôi buộc phải làm!

Từ giã mẹ, tôi về với mái ấm của mình, ông xã rất lo cho tôi nhưng hoàn toàn chẳng tin được những việc kỳ cục như thế.

Vì vậy anh không bàn nhiều về chuyện này.

Tối đó mình tôi ở nhà, nhẫm đọc lại bài thơ cô Lan biên rồi nhớ đến những câu chuyện tiền kiếp xa xưa ghi trong đó, không kềm được lệ rơi tràn mặt.

Tôi buồn bã vạn phần, thầm nghĩ: "Sao mình có thể tạo tội lớn như thế chứ?

Được mang thân người là rất khó, rất quý...vậy mà tôi nhẫn tâm giết họ tới hai lần, ra tay sao quá ác?"...

Thế là tôi lại khóc, thầm tự hỏi vì sao y không sớm điểm hóa cảnh tỉnh tôi?

Tôi cảm thấy hết sức thống khổ, bèn mở cuốn kinh sám hối ra tụng mà lệ rơi đầm đìa.

Sau đó tôi đến ở nhà mẹ ba ngày.

Trên đường đi miệng tồi không ngừng niệm Phật!

ở chỗ mẹ tôi lo tụng kinh sám hối.

Dù tâm tư căng thẳng cao độ, nhưng lúc ngồi trên giường tôi liên tục niệm Phật, chẳng biết vì sao lòng cứ muốn khóc.

Ngó lên nhìn đồng hồ thấy đã hơn 22g30.

Hôm nay đúng là không còn nghe tiếng réo gọi tên tôi nữa.

Quá nửa khuya tôi ngủ thiếp đi, trong mộng thấy cô gái kia nắm tay tôi tỏ vẻ vui mừng hớn hở, ánh mắt nhìn như muốn nói: "Làm rất tốt!"...

Tôi trải qua một đêm bình an.

Buổi sáng thức dậy, tâm tư tạm ổn, nhưng vẫn còn chút lo lắng.

Đến tối, thấy mẹ lăng xăng làm việc lòng tôi cảm giác rất hoảng loạn và buồn, tôi chỉ muốn yên tĩnh nên bảo mẹ hãy ngừng tay làm việc để cùng niệm Phật với tôi.

Lúc này tôi phát hiện: Gió thổi từng cơn, rất lạnh.

Lạnh đến tôi nổi ốc, đổ mồ hôi khắp người, tôi hỏi:

- Mẹ có mở cửa sổ ra không vậy?

Bà đáp:

- Không có!

Tay tôi lạnh cóng, tôi cảm giác như khí âm đang ùa tới phủ khắp, y đã đến bên cạnh tôi.

Hình như y không tín nhiệm tôi.

Tôi bảo y hãy yên tâm và trân trọng hứa nhất định mình sẽ niệm Phật tốt, để cầu cho y được thoát ly khổ hải, tôi xin y hãy tin tôi.

Tôi vừa niệm Phật vừa khóc, niệm mãi cho đến khi tâm trở nên bình an vui vẻ, có thể mỉm cười.

Lúc này tay tôi dần dần ấm áp trở lại.

Buổi sáng thứ ba (đây là ngày cuối cùng), tôi quyết định phải ráng niệm Phật và sám hối thật nhiều, buổi sáng tôi tụng mười biến, chiều hai biến, tối hai biến, suốt ba ngày này tôi luôn giữ liên lạc cùng cô Lan.

Khi tôi đến gặp cô Lan, cô tặng tôi cuốn "Báo ứng hiện đời" của cư sĩ Quả Khanh.

Tôi đọc thấy trong đây có rất nhiều câu chuyện nhân quả tuyệt hay...

Tôi nghĩ "Mình nên tụng kinh Địa Tạng hồi hướng cho những người đã từng bị mình sát hại, gây tổn thương"...

Thế là tối đó tôi tụng năm biến kinh.

Đêm đó tôi ngủ rất an, có một việc tôi quên kề là vào buổi chiều ngày thứ hai, đã phát sinh một việc lạ lùng.

Khi đó tôi nảy ý rất thèm nghe nhạc niệm A Di Đà Phật, liền lên mạng tìm...

Tôi ngồi trước máy vi tính yên lặng lắng nghe mà lệ rơi đầy mặt, vì cảm thấy mình là một kẻ tội lỗi...

Thế là tôi liền quỳ xuống, thể hiện lòng ăn năn sám hối, lúc này tôi mới chú ý và phát hiện ra: trên màn hình máy vi tính đang rung động dữ, còn tôi thì lệ rơi đầm đìa, ngay lúc này trong máy bỗng hiện ra một cảnh tượng: Tôi đang cầm hai loại trái cây gồm chuối và nho đi đến nhà cô Lan, tôi không hiểu điều này là sao, nên không để ý lắm...

Sự việc cuối cùng được giải quyết xong, ngày thứ ba quả nhiên hết còn nghe tiếng nữ quỷ kêu réo.

Lòng đầy tri ân, nên ngày 14 âm lịch tôi bèn đi mua nho, chuối đem đến cảm tạ cô Lan (giống y cảnh tôi thấy trên vi tính hôm qua).

Cô Lan bảo tôi hãy đảnh lễ tượng Phật, lúc lễ Ngài lòng tôi cực kỳ xúc động, xúc động muốn khóc, có cảm giác rất lạ.

Chiều 14 âm lịch tôi và ông xã đi thăm mẹ, chồng tôi mua thịt lừa ăn, bình thường tôi rất thích và có thể ăn bảy, tám miếng...

Nhưng hôm đó mới ân tới miếng thứ tư thì tôi ăn không nổi nữa.

Sau đó thì bao tử bỗng phát đau khiến tôi nôn mửa dữ dội.

Khi ấy tôi nghĩ: "Chết rồi!

Chẳng lẽ minh đã phạm lỗi gì nữa chăng?"

Hôm sau là Tết Trung thu (rằm tháng 8) tôi lại mơ thấy một ác mộng kinh khủng: Trong mộng là một vực thẳm to rộng, sâu hun hút nhìn không thấy đáy, trong đó vang lên tiếng nữ quỷ trách mắng:

- Ngươi cứ sống như thế nảy thì bao giờ ta mới có thể thoát khổ?

Ngươi hãy chuẩn bị cho cái chết của mình đi!...

Tôi kinh hãi ngồi bật dậy, trời chưa sáng hẳn.

Liếc nhìn ông xã đang ngủ say bên cạnh, tôi nhẹ nhàng chỉnh thân, niệm thầm: "A Di Đà Phật!

Cầu xin Ngài ban cho con đáp án, giấc mộng vừa rồi đáng sợ làm sao, con đã làm gì không tốt ư?"...

Niệm Phật được một hồi thì tôi thiếp đi, trong mộng thấy hiện ra một câu thơ, ngay khi thức dậy tôi đã vội vàng ghi lại, nhưng không sao nhớ hết, chỉ nhớ rõ bốn từ: "AN CHAY NIỆM PHẬT!"

Sáng ra, đúng rằm Trung thu, tôi kể cho mẹ nghe mọi việc và tuyên bố kể từ đây mình sẽ ăn chay.

Cả nhà đều thắc mắc không hiểu vì sao tôi chẳng chịu ăn thịt, mẹ vốn rất thương và ưa chăm sóc tôi, đoán rằng chắc tôi muốn giảm cân...

Nhìn cảnh mọi người ăn thịt uống rượu, tôi không thèm chút nào.

Cứ thế tôi ăn chay luôn đến bây giờ mà không hề thèm mặn.

Gia trạch dần bình an, tâm tư mẹ tôi cũng tốt lên.

Trước đây mẹ tôi rất gan dạ, nhưng bây giờ mỗi khi lên sân thượng lòng đã có chút sợ.

Khi bà ở cơ quan, lúc rảnh cũng tranh thủ niệm Phật!

Bà nói bây giờ tâm tư bà đã tốt hơn nhiều.

Chồng tôi dù không tin, nhưng đối với việc ăn chay niệm Phật của tôi cũng không phản đối, anh chỉ cần tôi bình an, không sao là được.

Từ khi tiếp xúc với Phật pháp đến nay, thời gian đã hơn một tháng, trước đây nhân vì tôi bị oan gia đòi nợ mà tinh tấn tu, gần đây nhờ nghe giảng Phật pháp thường, lòng xúc động lệ tuôn không kim được.

Tôi là một người tuổi trẻ sớm thành đạt, nắm đủ danh vọng, tiền của trong tay...

Sau khi trải qua việc này rồi, tôi hiểu được những liên quan giữa con người với nhau, cũng thấy mạng sống, thâm tình là rất quý.

Quan trọng nhất là tôi đã thực sự ngộ ra và cảm nhận được Phật pháp có uy lực rất lớn, không thể nghĩ lường - việc này khiến tôi xúc động thấm thìa -

Tôi tin sâu nhân quả báo ứng, sự tình xảy ra đã giáo dục tôi và giúp tôi hiểu được ý nghĩa của đời sống, cũng như đã biết "khoan dung với lỗi người, nghiêm khắc với mình, sống phải hiếu kính cha mẹ, phàm làm gì cũng phải có ích cho mình vả người".

Đối với việc học Phật tôi luôn để tâm khắc phục, điều chỉnh từng tật nhỏ của bản thân.

Tất nhiên quá trình tu sửa này đòi hỏi sự thực hành liên tục bền chí suốt thời gian dài - Bởi bất kể bạn làm gì, trong tâm phải luôn có Phật.

Thu Oanh

LND: Trong kinh Địa Tạng Phẩm sáu có ghi:

"Phật dạy: Này Phổ Quảng!

Nếu đời vị lai nếu có những chúng sanh hay nằm mộng thấy các quỷ thần cùng những hiện tượng hãi hùng hoặc hình bóng khác, họ buồn bã, khóc lóc, rầu rĩ, than thở v.v...

đó đều là cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, quyến thuộc từ một đời, mười đời, trăm đời, hay ngàn đời trong quá khứ, hiện đang bị đọa lạc trong ác đạo, chưa được ra khỏi, không trông mong vào phước lực nơi nào đề cứu vớt, nên mới mách bảo với kẻ có tình cốt nhục hoặc người liên quan đến họ trong đời trước, mong tạo cách cứu họ thoát khỏi ác đạo.

Vì vậy ông nên dùng thần lực khiến các người (gặp quái cảnh kia) đối trước tượng của chư Phật, Bồ tát, chí tâm tụng kinh này, hoặc thỉnh người khác đọc đủ só ba biến hoặc bảy biến.

Như vậy, kẻ quyến thuộc của họ dù đang bị ở trong ác đạo, khi nghe tiếng tụng kinh đủ số mấy biến đó xong, sẽ được giải thoát, không còn hiện về trong mộng nữa."

Mới đầu tôi có hoài nghi về hiện tượng "gọi ban đêm" này, vì mãi băn khoăn nên tôi chưa thể dịch xong chuyện, thì chợt nghe tin một người thân của bạn tôi bị tai nạn đột tử, chị lìa đời khi tuổi còn rất trẻ và bỏ lại đứa con còn thơ bé.

Sau khi an táng chị xong, đêm nào cả nhà cũng nghe tiếng chị gọi tên con thảm thiết...

Bạn tôi là tu sĩ, tất nhiên khi tường thuật không hề nói dối.

Vỉ vậy mà tôi đã tự tin và an lòng ráng dịch cho xong câu chuyện này để chia sẻ cùng bạn đọc.

Còn dưới đây là câu chuyện tự thuật của một nhà thông linh8.

Ngài Tuyên Hóa thường nói: "Một thông tất cả thông!

Đạt đạo tức thông linh".

Từ "thông linh" trong đây không hề đề cập đến những người thần kinh yếu bị phần âm theo gá dựa hoặc kẻ có sức tự chủ yếu thường xuyên thấy ma quỷ (mà người bình thường dương khí mạnh, không hề thấy).

Người thông linh trong đây muốn nói - là vị có công phu đặc biệt, luôn dùng khả năng mình giúp thế nhân hướng về con đường tu sửa bản thân hoàn mỹ chân chính.Vài nét giới thiệu về vua tiên tri họ Liên:

Ông là người Đài Loan, nổi danh là nhà xem số mệnh đại tài, có thế tiếp xúc với cảnh giới vô hình mà chúng ta không nhìn thấu đến. vị mà Liên Sinh giao tiếp có tên là "Thần Phúc Lộc",9 trong quá trình làm việc, càng hiểu nhân quả ông càng kính ngưỡng Phật giáo và phát tâm qui y, thệ nghiêm trì ngũ giới, ăn chay trường, nguyện đem khả năng đặc biệt của mình để giúp thế nhân hồi đầu hướng thiện.

Sau đây là bài viết chia sẻ về luật nhân quả rất hay của ông:



THẦN PHÚC LỘC

Các bạn chẳng nên than oán là số mình không may!

Bởi thực ra khi vừa bắt đầu kiếp người, có thể phúc báu số mệnh của chúng ta rất lớn, nghĩa là bạn vốn có thể đạt được, hưởng được rất nhiều phúc lộc tuyệt hảo, tối ưu...

Nhưng chính do sự thiếu hiểu biết về nhân quả mà ta đã vô tình tàn phá phúc báu của mình (bằng những ý nghĩ, lời nói, hành vi thất đức).

Chính ý nghĩ, lời nói, hành vi không tốt của ta đã chiêu vời và tạo ra vận số long đong bất như ý cho mình.

Bạn đừng vội cho lý luận này là mê tín!

Cuộc sống quả thực có số mệnh, (dù số mệnh này do ta tạo ra và chính nó lại "đeo theo" trói lấy ta).

Nhưng "số mệnh vẫn có thể chuyển, tùy theo nghiệp tạo thiện ác của mình!"

Những người sự nghiệp thành đạt, được đại phú quý đều tin vào lý này.

Sống mà thiếu trí tuệ thì rất dễ khốn khổ bần hàn.

Khi nghe tôi nói vậy, xin bạn đừng vội buông lời miệt thị, cho là "mê tín", mà hãy chịu khó động não gẫm suy để hiểu cho rõ ngọn nguồn, hoặc hãy đích thân tự thí nghiệm thử xem sao (rồi hẵng đưa ra kết luận).

Tôi xin thưa với bạn là, những cảm nhận thấy biết thuộc các giác quan con người vốn không đáng tin, bởi ta rất thường bị chúng lừa!

Xin hãy nghĩ xem: Mắt người có thể nhìn được mấy phần trăm ánh sáng trong tổng số ánh sáng hiện hữu?

Tai ta có thề nghe mấy phần âm thanh trong tổng số âm thanh hiện hữu?

Mũi có thể ngửi được mấy phần trăm mùi trong thế giới?

Lưỡi có thể nếm mấy phần trăm trong tổng loại vị?

Ta có thể cảm xúc được vật, nhưng đạt được mấy phần trăm trong tổng số vạn vật?

Chẳng lẽ, hễ những gì giác quan ta cảm nhận không đến, không thấu (nghĩa là nhìn, nghe, nếm, chạm sờ không tới)... thì cứ quả quyết là không có tồn tại ư?...

1.

Thời còn trong quân ngũ

Hồi đó tôi gia nhập đội quân Đo Lường 5802.

Khi ấy Phó đoàn trưởng là Ngụy Thanh Bình, tay cầm một xấp tiền, bảo tôi phải trả lời ngay là ông đang cầm bao nhiêu?

Tôi đáp: Mười bốn xấp!

Ngay chính ông cũng không biết rõ mình đang cầm bao nhiêu nên khi nghe tôi trả lời, ông bèn đếm thử và trợn tròn mắt ngạc nhiên, vì kết quả đúng y như vậy.

Việc này đã khiến cái đầu vô thần của ông mềm đi, từ đó ông qui y Phật giáo, phát tâm niệm Phật tụng kinh.

Có một vị ăn nói cứng cỏi, đanh thép (tôi gọi là ông "miệng sắt"), vì ông hay nhạo báng, cười chê khi thấy mọi người tin việc dự đoán của tôi.

Một hôm ông đến chỗ tôi, nói huyên thuyên trên trời dưới đất một hòi rồi hỏi:

- Anh có thể đoán xem đêm qua tôi đã làm gì hay không?

Tôi đáp: Đánh mạt chược!

Vị "miệng sắt" này ngây người một lúc, hầu như không dám tin "vì sao lại quá đúng như thế?"

Ông bảo:

- Đúng là tôi đánh mạt chược!

Nhưng anh có thể đoán tôi thua, thắng bao nhiêu không?

Đây là một thách thức lớn, mọi người đều nhìn chăm chăm vào tôi.

Tôi đáp: Thua tám trăm tám chục đồng!

Ông "miệng sắt" kêu to:

- Đúng!

Đúng!

Đúng!

Quả nhiên đoán giỏi như thần!

Thật khiến người ta không dám tin...

Trong thiên hạ sao lại có việc này chứ?

Rồi ông "miệng sắt" kể:

- Nguyên là tôi chỉ thua tám trăm đồng, thua rồi thì thôi, tôi đang sửa soạn về thì người bạn ngồi gần ngỏ ý cho tôi vay 80 đồng.

Tôi nghĩ thầm: "Mượn 80 đồng này, biết đâu có thề gỡ gạc được!"...

Kết quả cũng thua luôn, vừa đúng 880 đồng.

Chuyện là như vậy đó!

2.

Tiên tri là bịp bọm

Có một thanh niên trẻ không tin việc tiên đoán, bị người nhà lôi đến chỗ tôi, anh ngồi thu lu trong một góc, căn bản là chẳng muốn hỏi gì.

Người nhà thúc giục, anh la to:

Những kẻ bói toán tiên tri này nọ thảy đều là gạt người, hơi đâu mà tin bọn thuật sĩ giang hồ chuyên lừa gạt?

Tát cả đều là hạng bịp bợm cả!

Tôi thản nhiên bảo anh:

- Trong thế giới này có thật, có giả!

Những hạng bịp lừa đúng là có rất nhiều.

Sao anh không chịu dùng trí tuệ, thử động não để phân biệt xem ai giả, ai thật... chứ hả?

Anh đáp:

- Tôi mặc kệ!

Dù sao bạn cũng chỉ là kẻ lừa gạt mà thôi!

Tôi bảo: Tôi biết rõ những việc của anh đấy!

- Tôi không tin!

- Anh ta thẳng thừng đáp.

Tôi mỉm cười nói: Hôm qua anh bị té xe!

Chân phải bị thương chảy máu.

Đúng không?

Anh tròn mắt ngạc nhiên, nói:

- Tôi chưa kể cho bất kỳ ai, ngay cả người thân cũng không hay, chỉ có mình tôi biết thôi.

Bạn làm sao mà rành vậy?

Rồi anh vén quần lên chìa vết thương cho mọi người xem.

Chân phải anh quả nhiên bị thương, máu đã khô.

Những chuyện tiên đoán linh nghiệm tính ra có rất nhiều.

Nhưng cũng có nhiều chuyện không linh.

Vì sao lại không linh?

Xin hãy nghe tôi kể:

3.

Quan lớn họ Đặng

Có một quan lớn họ Đặng muốn ra ứng cử Bộ trưởng.

Còn có ba người nữa (họ Triệu, Trần, Lương) cùng tranh chức này...

Ông Đặng hỏi tôi:

- Ta có thể đắc cử Bộ trưởng chăng?

Tôi đáp:

- Có thể!

Được khoảng nửa năm, vị đắc cử chức Bộ trưởng không phải họ Đặng, mà là họ Trần, ông Đặng nổi giận, tìm đến chất vấn tôi, trách vì sao ban sơ nói là ông có thể làm Bộ trưởng nhưng tại sao nay lại không đúng?

- Anh bói toán kiểu gì thế?

Căn bản là có linh hay không hả?

Chẳng phải là đang lừa người hay sao?

Anh giải thích xem?

ông họ Đặng cáu kỉnh nói.

Tôi đỏ mặt tía tai, không đáp được lời nào.

Ông Đặng lại hỏi:

- Chẳng phải anh từng tiên đoán là tôi...

"được" hay sao?

Thế này là thế nào?

Tôi đành đáp:

- Thực sự là lúc trước tôi nghe "Thần Phúc Lộc" xác nhận vậy, ông ta bảo sao thì tôi truyền đạt y như thế!...

- "Thần Phúc Lộc" ư?

Vậy "Thần Phúc Lộc" ở đâu?

- "Thần Phúc Lộc" là vô hình!

ông chuyên coi về phúc lộc của con người!

Tôi thấy và giao tiếp được, nhưng ông thì không thề.,.

- Đúng là nói bá xàm bá láp!

Ông Đặng vừa miệt thị vừa lộ vẻ bất mãn cực độ.

Ngay lúc tôi bị người chất vấn mắng như thế, bạn có thể tưởng tượng ra "thảm cảnh" này: Khi đó tôi cực kỳ lúng túng, hoàn toàn mất tinh thần, chỉ biết im lặng ngó lên không, kêu trời một mình...Nhưng bỗng một luồng sáng chiếu vào mắt tôi, "Thần Phúc Lộc" đã xuất hiện, ông nhìn tôi mỉm cười dịu dàng, viết ra một chữ "DÂM".

Cuối chữ dâm còn ghi ngày, tháng phạm lỗi rất rõ...

Tôi liền bảo họ Đặng:

- Thất cử là do ông phạm giới dâm!

Ông Đặng đáp:

- Không có!

- Đúng ngày... tháng...

đó mà!

Ông Đặng quả quyết:

- Không có thực mà!

Tôi ngẩn người, rõ ràng "Thần Phúc Lộc" đã viết chữ "DÂM" còn ghi rõ mồn một ngày, tháng phạm lỗi, chỉ thị hết sức rõ ràng, sao lại không có được?

Tôi chẳng tin, bèn bảo:

- Ổng nghĩ kỹ lại xem!?

Ông Đặng ngẫm nghĩ, bấm tay tính toán ngày tháng một hồi, cuối cùng vẫn đáp:

- Không có mà!

Lúc này Thần Phúc Lộc bèn giải thích cho tôi hiểu: "Đặng đúng vào ngày tháng đó, đã nhìn trộm cô láng giềng tắm"...

Tôi nghe Thần Phúc Lộc kể tội "rình xem khuê nữ tắm", trong bụng mắc cười quá mà không dám cười.

Tôi bảo Đặng:

- Chẳng phải lỗi tư thông, hành lạc... mà là nhìn trộm... cô láng giềng tắm!

Ông Đặng vừa nghe, ngây người một lúc, không nói năng gỉ, sau đó xẻn lẻn cúi đầu bỏ đi!

Theo tôi được biết, tình huống ông Đặng phạm lỗi là thế này: "Đúng ra là ông Đặng đáng được làm Bộ trưởng, nhưng khoảng mấy tháng trước, có một cô gái dời đến ở cạnh nhà ông Đặng.

Cô này trông rất xinh đẹp, cao ráo mỹ miều.

Ông Đặng thấy vậy đề ý, dòm hoài.

Nhà ông Đặng có cửa sổ đối diện với nhà tắm của cô gái.

Ngày, tháng, đó... cô láng giềng vào nhà tắm, quên kéo rèm che cửa sổ nên bị ông Đặng thấy được...

ông bèn đi lấy ống nhòm, cầm lên ngắm cô từ đầu tới chân, từ chân tới đầu... lòng cực kỳ hưng phấn, miệng cứ hít hà suýt soa, luôn lầm bẩm, ước ao: Giá như mà được cùng em này qua đêm một lần thì đúng là không uổng phí cuộc đời!

Khi đó ông Đặng mắt nhìn, tâm tưởng, lòng khởi đầy niệm tà...

Thần Phúc Lộc nói: Mặc dù ông Đặng chưa có hành vi cấu thảnh tội với cô láng giềng, nhưng lỡ như thấy cổ tắm, là người đàng hoàng thì phải lo mà tránh đi.

Đằng này chẳng những ông Đặng không tránh mà còn cầm viễn vọng kính lên nhìn, săm soi tỉ mỉ từ đầu tới chân, không những mắt động, tâm động, mà ý dâm phát khởi mạnh... tuy không dẫn đến hành vi tư thông cùng người nhưng cũng bị xem như phạm giới dâm!

Vì vậy mà bị mất lộc vị!

Hãy nhắn ông ta: cần phải tô bồi đức hạnh, tu sửa khoảng sáu năm nữa, mới có thể ra làm Bộ trưởng...

4.

Ngài Trung tướng

Lần nọ, Trung tướng Lữ cố10 đến tìm tôi, nói:

- Liên Sư phụ, nghe thầy tiên đoán rất tài, nên hôm nay tôi đến thỉnh ý...

Tôi nhớ hồi đó, cha mẹ tôi có đi hỏi Diệp sư phụ (cũng là vua thần toán, nổi danh tiên tri không hề sai), nhờ xem vận mệnh cho tôi.

Ông Diệp nói tôi 18 tuổi đậu thủ khoa toàn quốc, sau đó đi lính được tuyển vào Viện Nghiên cứu, 27 tuổi thì lấy bằng tiến sĩ rồi đi Mỹ ba năm, lấy thêm được cái bằng tiến sĩ khác nữa.

Đến 53 tuổi thì tôi thăng quan, làm Thượng tướng.

Lữ Cố kể them:

- Vị họ Diệp này, không như các thầy khác, ai muốn ông bói vận mệnh cho, phải trả giá rất cao, lại còn phải xếp hàng, hẹn trước, nếu tùy tiện đến đại thì ông không thèm xem đâu!

Mà người nào mệnh nhỏ ông cũng không xem!

ông Diệp coi cho tôi vô cùng chuẩn xác!

Đúng là năm 18 tôi chiếm giải thủ khoa toàn quốc, còn như đoán năm 27 tôi lấy bằng tiến sĩ, thì bị sai một chút, (vì phải hai năm sau, tới 29 tuổi tôi mới lấy bằng tiến sĩ).

Còn vụ tiên tri tôi qua Mỹ ba năm, lấy bằng tiến sĩ khác nữa thì đúng chóc!

Nhưng ông ta nói tôi 53 tuổi thăng quan làm Thượng tướng, lại bị sai!

Vì hiện nay tôi đã 56 tuổi mà vẫn còn làm Trung tướng, chưa chạm đến chức Thượng tướng được.

Vậy nên, tôi muốn nhờ Liên sư phụ xem giùm, vì lý do nào mà tôi chưa thăng lên Thượng tướng?

Tôi dùng phương thức bói quẻ xem cho Lữ Cố.

Tôi bắt ấn và niệm chú xong thì Thần Phúc Lộc như vì sao nhỏ hiện ra, lớn dần và tỏa hào quang sáng chói...

Tôi liền hỏi số mệnh cả đời ông Lữ.

Thần Phúc Lộc đáp y chang như thầy Diệp đã đoán.

Tôi thắc mắc:

- Nhưng vì sao ông Lữ lấy bằng tiến sĩ bị chậm mất hai năm?

Thần Phúc Lộc giải thích:

- Lẽ ra ông Lữ có thể lấy bằng đúng như tiên đoán, nhưng hồi tuổi trẻ đó, ông ta sau một chầu nhậu thì cùng bạn bè dẫn nhau đến kỹ viện mua vui, nghe bạn bè đốc xúi, ông cũng muốn chứng tỏ mình là tay dũng cảm, chịu chơi, nên đã ngủ với gái thanh lâu.

Vì lỗi này mà công danh bị chậm lại hai năm!

Tôi hỏi:

- Vì sao như thế?

Thần Phúc Lộc nói:

- "Đừng đến gặp kỹ nữ thanh lâu, đừng tựa cổng giai nhân bán sắc".

Phải biết quân tử luôn yêu quý thân mình, luôn gìn giữ đức hạnh mình sáng trong như ngọc nên rất sợ, rất kỵ mấy cái chuyện bậy bạ này!

ông Lữ do không hiểu biết, nên cam đọa lạc, tự làm cho phẩm hạnh mình bị tỳ vết, khiến đời bị nhiễm ô.

Bởi cách sống sai lầm nên ông bị phá tài hại thân, tình dục sa đà không những gây nhiễm bệnh lậu, mà còn chiêu họa lớn...

Thần Phúc Lộc còn giải thích thêm:

- Lấy bằng chậm hai năm, chỉ là trừng phạt nhỏ.

Bị nhiễm bệnh độc ắt phải chết.

Lãnh bằng tiến sĩ rồi tiến sĩ nữa... nhưng sau này sẽ thành tiến... tử!

Tôi thụt luỡi hết nói năng.

Lại hỏi Thần Phúc Lộc:

- Lữ Cố đúng ra 53 tuổi thăng làm Thượng tướng, nhưng vì sao đến giờ đã 56 tuổi, vẫn còn làm Trung tướng, ông ta chưa được thăng quan là do đâu?

Thần Phúc Lộc im lặng viết ra hai chữ: MẠC THƯ.

Tôi ngơ ngác hỏi:

- Mạc Thư?

- Là ý gì vậy?

Thần Phúc Lộc đáp:

- Là tên người!

- Người này có liên hệ với ông Lữ ư?

- Tất nhiên!

Thần Phúc Lộc nói:

- Số mệnh Lữ cố vốn rất tốt, ông là bậc kỳ tài trong thế gian, văn võ kiêm ưu.

Nhưng đáng tiếc thời trai trẻ phạm lỗi ngủ với kỹ nữ đã khiến công danh bị chậm lại hai năm, đây chỉ là trừng phạt nhỏ thôi!

Sau thời trung niên, ông lại không biết hối lỗi sửa đổi, lại khởi tâm tà, ưa nam sắc: sinh tâm đồng tính luyến ái cùng một nam nhân tên Mạc Thư.

Người này tuấn tú tài hoa, khôi ngô phong nhã, là thuộc hạ dưới quyền ông!

Lữ Cố ở chung với Mạc Thư tính đến nay đã tám năm.

Phạm lỗi này, hắn còn giữ được chức quan Trung tướng là may lắm rồi, há có thể mơ làm Thượng tướng được ư?

Hắn chỉ biết ham cầu lộc vị cho mình, hoàn toàn chẳng hiểu rõ nghiệt chướng mình đang tạo!

Phải biết là người có phúc nhiều mà phạm dâm tà thì bị giảm quyền, lộc, còn người phúc ít không có lộc, quyền để sạt thì bị giảm thọ...

Tôi hỏi:

- Thế... tương lai Lữ Cố ra sao?

- Sẽ ứng vào con cháu hắn!

- Như vậy nghĩa là sao?

- Bị tuyệt tự, chết yểu!

Thần Phúc Lộc đáp.

- Nhưng ai làm nấy chịu, vì sao con cháu phải gánh?

- Đây là đồng nghiệp chiêu cảm.

Cha tích phúc cũng bồi thêm cho mình và con mà!

Tôi nghe xong rất kinh hãi.

Trước tiên tôi chỉ kể cho Lữ cố nghe lý do vì sao ông lấy bằng bị chậm hai năm.

Lữ Cố nói:

- Có việc này.

Hồi trẻ chơi với bạn bè, bị họ rủ rê, nên cùng đi mua vui.

Không ngờ bị chiêu hậu quả xấu như vậy, đúng là ngoài sức tưởng!

Tôi lại giải thích vì sao ông không thể làm Thượng tướng.

Tôi viết lý do bằng hai chữ "Mạc Thư".

Ông vừa xem qua, liền cúi đầu im lặng, không nói gỉ.

Tôi hỏi:

- Có việc này chăng?

Ông gật đầu đáp:

- Có!

Rồi Lữ Cố đứng dậy bảo tôi:

- Liên Sinh, ông quả là vua tiên tri, đoán việc như thần!

Cuối cùng thì tôi cũng minh bạch, số mệnh con người tuy được định sẵn, nhưng có thể biến đổi!

Biến tới đổi lui, tất cả đều do tâm tạo ra thôi!

- Nói rất hay!

Hy vọng ông tự hiểu, từ nay lo sửa mình cho tốt để tránh không bị quả báo xấu!

Lúc Lữ Cố đi, tôi đưa ông một tờ giấy ghi mấy câu nhắc nhở:

Phu thê nam nữ ở chung

Đó là đúng lẽ - chẳng dung sai lầm!

Hạnh tà chiêu hại sâu thâm...

Ta người đều tổn, mất luôn lộc quyển

Tử tôn bị tuyệt - đã phiền

Tiền tài táng thất, muôn niên kho sầu

Dừng chân tỉnh giác mau mau

Tránh cho con trẻ lâm vào nạn tai

Làm người nên sống thẳng ngay

Báo ứng nhân quả không sai, rõ ràng!

Sau đó không bao lâu thì đứa con trai duy nhất của Lữ cố bị xe tông chết.

Phần ông cũng bị thảm nạn, đúng là tuyệt tự như đã đoán!

5.

Giám đốc Viên Mậu

Viên Mậu là giám đốc một xưởng kim loại, hồi xưa khi ông đến hỏi số mệnh, Thần Phúc Lộc đáp:

- Mười lăm năm sau ông sẽ thành đại phú thương.

Kết quả, hơn mười năm sau, Viên Mậu làm ăn thua lỗ phải đóng cửa, do vay vốn quá nhiều, nợ nần chồng chất, ông phải bôn đào ra nước ngoài trốn nợ.

Từ đó lưu vong sống tha hương, chẳng thề trở về nước.

Viên Mậu ở ngoại quốc rất gian khổ, ông buôn bán nhỏ, thu nhập rất ít, phải xin làm thợ xây dựng, vốn từng là giám đốc hãng xưởng, nay phải bò lên tuột xuống trên mái nhà người, do không giỏi tay nghề, nên bị đuổi việc.

Viên Mậu bèn xin làm công trong nhà bếp, sống tạm qua ngày.

Sau đó Viên Mậu hay tin tôi đã định cư nơi hải ngoại, bèn đi theo xe hàng đến tìm tôi.

Ông ở trên xe hàng lắc lư suốt ba ngày hai đêm mới tới chỗ tôi.

Buổi sáng gặp ông, tôi giật nẩy mình.

Viên Mậu ngày xưa, vận âu phục sang trọng, đầu chải láng mướt, ra khỏi nhà ngồi xe hơi sáng bóng, có tài xế cùng bí thư theo hộ tống...

Nhưng Viên Mậu bây giờ, đầu muối tiêu, mặt đầy nếp nhăn, dầu dãi phong trần, lếch thếch lôi thôi, dáng khắc khổ, bộ dạng chán chường thất chí, thiểu não đến tội nghiệp...

Tôi mời ông vào nhà, rót trà mời, đãi điểm tâm, ngó bộ ông chưa ăn gì.

Viên Mậu hỏi:

- Ông nói tôi 15 năm sau sẽ làm đại phú gia, là thời điểm này phải không?

- Thế đến giờ đã bao nhiêu năm rồi?

Viên Mậu đáp:

- Vừa tròn 15 lăm nè!

Rồi ông chỉ trích thêm:

- Rõ ràng là nói không đúng, đoán chẳng linh gì ráo!...

- Tôi... (cứng họng, nói chẳng thành lời).

Mặt Viên Mậu lộ vẻ uất ức khó chịu, hỏi:

- Tại sao bói không đúng, nói không linh như vậy hả?

- Đó là...

Viên Mậu kể lể:

- Hồi xưa, thuở tôi còn làm giám đốc huy hoàng, cũng từng mời ông đến hãng tôi xem phong thủy, thiết kế, chỉnh sửa mọi chỗ tốt y như ông dạy... cũng từng nhờ ông xem số cho, ông đã khẳng định là 15 năm sau tôi nhất định đại phát tài, đạt đến thành công tuyệt đỉnh, ở mức tối cao trong cuộc đời.

Đến bây giờ là đúng 15 năm, chẳng thấy gì ráo, ngược lại còn thê thảm hơn!

Ông trả lời sao đây hả??

-Tôi... (toát mồ hôi đầy mình)...

Viên Mậu nói:

- Hiện giờ tôi cùng đường rồi, ông bảo tôi phải làm sao đây?

Để tôi xem lại cho ông thử nha?...

- Đoán, xem, nữa hả?...

Có xem ra cái quái gì đâu?

Viên Mậu bốc hỏa nói.

Tôi nhắm mắt lại...

đột nhiên nhìn thấy Thần Phúc Lộc, mỗi tay dắt một đứa nhỏ...

Tôi hỏi: Đứa nhỏ này là ai?

Thần Phúc Lộc đáp:

- Là con Viên Mậu hết đấy!

- A!

Tôi hiểu rồi, Viên Mậu suốt hơn mười năm nay, sát sinh, phá thai... cho nên mới có hai vong nhi nảy.

Thế là tôi la lên:

- Viên Mậu, ông phạm tội sát sinh, người tình của ông phá hai đứa trẻ...

Viên Mậu đáp:

- Đúng vậy!

Nhưng tội phá thai có nặng đến như vậy không hả?

Thần Phúc Lộc lại hiển thị, lắc đầu nhìn tôi, ông đưa tay chỉ lên hư không, trên không hiện ra một am thất, có một nữ tu xinh đẹp yêu kiều bước ra, tay dắt hai đứa bé...

Ngay đó tôi hoảng kinh (vì hiểu hết nguyên nhân)...

Tôi nói:

- Viên Mậu!

ông gieo nhân đoản thọ, phạm đại tội làm ô nhục tu sĩ.

Đây là lý do ông bị sạt phúc, lộc và sa vào vận mạt cùng cực!

Hai đứa bé là của cô đó sinh ra, đúng không?

Lúc này Viên Mậu mặt mảy xanh lét, xuất mồ hôi đầy mình!

ông ấp úng:

- Nhưng... vị nữ tu đó cũng thích tôi mà!

- Trời đất ơi!

- Tôi thở dài - ông phải biết đây là điều đại cấm kỵ!

Trong các tu viện đều có giới luật, có thần Hộ pháp... các tu sĩ là những vị đã phát nguyện lìa tục, sống đời tu hành thanh tịnh, nếu như ông đến quyến rũ tu sĩ, tội ấy tăng thêm một bậc.

Là do ông hành động không kiểm soát, dám khởi tà dục với nữ tu đến độ có hai con, còn cho phá giết chúng...

Tội này lớn nặng như thế nào, ông lâm vào đường cùng như hiện nay, chính là do ông tự chuốc lấy đó!

- Đúng vậy ư?

- Tất nhiên rồi!

- Tôi đáp.

- Vậy tôi phải làm sao?

- Phải phát thệ nghiêm trì giới cấm của Phật, nguyện từ nay sửa lỗi đổi mới, ông nên phát lộ lỗi mình ra hết trước Phật, thành tâm lạy sám hối thật nhiều... và từ nay trở đi mỗi khởi tâm động niệm, phải cẩn thận răn dè, thề hoàn toàn không phạm đến tà dâm nữa.

Phải vĩnh viễn đoạn tận cội rễ gốc tội, hành xử luôn quang minh chính đại và thật sự bước vào con đường tu sửa đàng hoàng.

Không chỉ có thế, sau này trong tâm phải luôn giữ niệm thiện, lúc nào cũng phải (dùng miệng hoặc viết ra) khuyên người thế tục chớ phạm tà dâm và tuyệt đối không được khởi ý tà với các tu sĩ.

Kinh Phật dạy: "Người giữ giới không tà dâm, ngũ phúc tăng, không bị đọa vào ba nẻo ác"...

ông phải nỗ lực sám hối, ăn chay trường, siêng tụng kinh, hành thiện... mới mong cứu chuộc và dứt trừ tội ác.

Riêng đối với các tu sĩ phải hết lòng ủng hộ, hỗ trợ họ giữ gìn hạnh trinh khiết thanh tịnh.

Bởi mục đích của người tu là đạt đạo, liễu sinh thoát tử, trong "Bốn điều răn về hạnh thanh tịnh" trong kinh Lăng Nghiêm, Phật đã đưa ra lời giáo huấn rất rõ ràng cho các tu sĩ: "Nhất định phải cắt đứt, loại trừ tâm dâm!"

Đây là điều kiện tất yếu đầu tiên của người tu, tâm dâm dứt khoát không được lưu giữ.

Vì nếu còn nuôi dưỡng tâm này thì ắt sẽ bị lạc vào đường ma.

Nếu ông hay bất kỳ ai khởi tâm tà muốn quấy phá tu sĩ, thì đó là là ma hạnh, quả báo sau khi chết đi sẽ cực kỳ thảm khốc...

Viên Mậu nghe xong, hứa sẽ làm theo.

Tôi tặng ông mấy câu thơ cảnh giác:

Người đã tu hành xuất thế

Nào dung vui hưởng ái tình

Phá hoại giới hạnh người tu

Chẳng để Phật gia thanh tịnh

Mắt thần nhìn rõ tột cùng

Nam nữ lén lút tư tình

Ác báo kinh hoàng thảm khốc!

Man mau tu sửa, dứt sai!

Tôi tiễn Viên Mậu đi, tặng ông hai ngàn USD làm vốn, hy vọng ông từ đây quyết tâm tu, vĩnh viễn sửa lỗi, đổi mới.

Chuyện của Viên Mậu làm tôi nhớ đến bộ phim "Những con chim ẩn mình chờ chết" kể về mối tình của vị Linh mục chân tu cùng một thiếu nữ, cô này đối với Linh mục luôn khởi dục niệm và có tâm muốn chinh phục...

Hiện nay các phim ảnh, sách truyện, các dạng truyền thông rất khoái rao truyền những mối tình đạo-đời ngang trái không thành và cho đó là diễm tình, rất ưa trình chiếu, tải đăng, quảng bá... bất kể chuyện có thực hay không, đây là việc thương phong bại tục, đáng thẹn cho việc tu hành... làm vậy rất có hại cho phong khí xã hội...

Người tu nếu như phạm dâm, tính theo nhân quả, phải hiểu là trả quả rất thảm khốc, đáng sợ.

Vì đã hiểu pháp mà còn phạm.

Riêng đối với người đời, trong kinh Phật nói: "Người tạo dâm nghiệp, sẽ bị báo ứng, vợ (chồng) không chung thủy, đoạn tử tuyệt tôn, chết rồi đọa tam ác đạo, thành súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, trăm ngàn vạn kiếp, không dễ thoát ra, chẳng được làm người nữa"...

Lời này chẳng phải là hù dọa, mà hoàn toàn có thật!

Chẳng nói chi đến quả báo địa ngục xa xôi, chỉ tả về hoa báo thôi, thì ngay hiện đời người phạm giới dâm, phải mất địa vị, bại hoại danh dự, tiêu tan tài sản!

Người háo dâm, sẽ bị nhiều bịnh, dễ già suy, không trường thọ, bị xã hội thóa mạ, oán thù kết sâu, cuối cùng thân bại danh liệt!

Tôi chợt nghĩ đến các phụ nữ, nam nhân đi quyến rũ các tu sĩ và mối tương giao lộn xộn không lành giữa những người trong đạo hoặc giữa đạo và đời.

Những chuyện tình không nên, không được phép... nhưng chẳng phải là không có. (Đương nhiên các tu sĩ là kẻ chưa đắc đạo, là người phàm, không phải thánh, ai mà không có lỗi?) Nhưng xin nhắc các vị: Nếu đã phát tâm tu, thân là người xuất gia thì hãy dốc sức giữ giới như giữ mạng, phải hiểu rõ lòng dâm mang đến quả báo thảm khốc khôn lường, lỗi này tuyệt đối không nên xem thường, không thể coi là trò đùa, bỡn chơi!

Xin hãy ghi nhớ các câu chuyện thực tôi đã kể ra mà đề cao cảnh giác.

Chư vị phải thường sám hối lỗi lầm, tinh tấn tu, nghiêm trì giới luật để cứu chuộc niệm sai, thì tội kia mới có thể đoạn trừ.

Giới dâm là một trong bốn giới trọng của Phật, các bậc thánh nhân, hiền nhân đều sớm đã nhận ra thống khổ của dâm, nên mới từ bỏ khoái lạc thế tục để đạt đến cực lạc thanh tịnh.

Đối với sách thiện cùng những kinh điển có ích cho nhân tâm thế đạo, cần nên tuyên dương ủng hộ, rộng truyền trong đời.

Phải hiểu rõ đuổi theo dục lạc thể xác là vô ích, nếu phóng túng dâm dục sẽ đọa vào thống khổ tận cùng.

Quý vị chớ nên đùa bỡn lao theo, cũng đừng mê cuồng ca ngợi...

Giữ tâm hạnh trong sáng là góp phần giúp xã hội thiện lành, bình an... phong khí nếu giữ được tốt, thì lòng người sẽ thuần hậu.

Mọi việc hãy đem thân làm gương.

Xin giữ mình trinh khiết, phẩm hạnh sáng trong như ngọc!

Những việc có hại cho thân tâm tuyệt đối không làm.

Họa hại khủng khiếp không gì bằng dâm uế.

Chẳng chứa niệm tà chính là tu thân!

Liên Sinh

LND.

Tôi rất thú vị khi câu mở đầu tác giả nói: "Thực ra khi vừa bắt đầu kiếp người, có thể phúc báu số mệnh của chúng ta rất lớn... nhưng chính do sự hiểu biết nhân quả quá kém, nên ta đã: vô tình tự tàn phá phúc báu của mình - bằng những ý nghĩ, lời nói, hành vi thất đức"...

Ở Trung Hoa các thầy "đoán mạng xem tướng", nhiều nhan nhản, dẫy đầy!

Tất nhiên là thực có, giả có (nhưng giả luôn nhiều hơn thật).

Tuy vậy, chuyện bói số đoán mệnh ở Trung Hoa phổ thông tới nỗi người ta chỉ cần bỏ ra vài đồng là có thể xem hết vận mệnh cả đời.

Khi dịch xong câu chuyện này tôi đã băn khoăn, do dự rất nhiều!

Vì không biết nên tung chuyện này ra hay gác lại?

Bởi có vài tình tiết khiến tôi e ngại...

Phật nói có sáu cõi: Trời, Người, A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh.

Chúng ta chỉ thấy có hai cõi Người và Súc sinh thôi, nên bốn cõi còn lại hóa xa vời... và trong nhân loại có một số ít nhìn thấu cõi vô hình, song thấy ma quỷ thì nhiều, nhưng ít kẻ thấy Trời, Rồng, Địa ngục...

Thần thuộc về cõi phi nhân, có thiện thần và ác thần.

Thiện thần thường cổ súy điều lành, ủng hộ giới Phật chế.

Ác thần thì đáp ứng ngũ dục và hay cổ súy phạm tà dục (vì họ có tạo phúc, có tu nên cũng được làm thần).

Có câu "Phật và ma, cách nhau một sợi chỉ".

Khoảng cách như vậy là quá gần, nên rất dễ lạc - chỉ cần khởi chút niệm bất chính là rơi vào cõi tà ngay!

Ta thấy các vị trong chuyện, họ có phúc báu nhiều nhưng chỉ cần sơ suất, phạm lỗi một chút là bị tổn đến không ngờ!

Bản thân Viên Mậu phạm lỗi đã bị trừng phạt hiện thời, dù đó là hoa báo (mới ra hoa chưa kết thành quả) cũng khiến ông tuột dốc thê thảm.

Còn vị nữ tu phạm lỗi thỉ giải thích sao đây?

- Có thể nói rằng tà và chánh, Phật và ma khó phân, vì vậy mà người kém hiểu biết nhân quả, thiếu cẩn trọng, dù mặc áo Phật cũng dễ lạc lầm biến thành đệ tử ma mà không hay...

Nếu có lỗi mà biết nhận lỗi, thành tâm sám hối ăn năn, chịu nỗ lực tu bồi đức hạnh, dứt tuyệt không tái phạm nữa, thì tà có thể biến thành chánh.

Trong những chùa xưa thường có thờ hai vị thần gọi là ông Thiện, ông Ác.

ông Ác mặt mày rất ghê, mắt trừng, lưỡi le dài... nhưng vẫn được thờ là sao?

Vì ông trừ tà giúp chánh, triệt ác trợ thiện.

Tôi đã suy nghĩ hằng chục lần, đã phải tạm gác chuyện này lại, đắn đo ngót ba bốn tháng... rồi cuối cùng quyết định cho đăng với hi vọng: "Biết đâu sẽ có nhiều người nhờ đọc nó mà "kịp dừng cương trước vực thẳm", sẽ "cẩn trọng gìn giữ đức hạnh, tâm ý...

để tô bồi thêm phúc báu cho mình!?"...

Không phải đọc chuyện này xong, thì bạn nghe ai xưng thần cũng nhắm mắt vạn tuế tung hô, mà phải động não, dùng trí kiểm xem lời họ nói có tương ưng với ngũ giới của Phật, có hợp với luật Phật đặt ra chăng?

Vì giới luật Phật đặt ra không phải để tôn vinh Ngài mà nhằm bảo vệ con người sống hạnh phúc, không phạm luật nhân quả, khỏi chiêu lấy thảm báo.

Ông Liễu Phàm ngày xưa khi nghe các thầy tướng tiên đoán vận mệnh mình quá xấu, ông đã quyết tâm "sống thiện bồi đức để chuyển số" và chứng minh "vận mệnh nằm trong tay mình!".

Câu chuyện này đọc xong, nếu bạn tỉnh giác giữ gìn thân khẩu ý, lo lập hạnh bồi đức thì rất quý, còn nếu cứ ngóng thần, trông chờ ai đó phán giùm số minh ra sao để tin đại rồi buồng xuôi, buồn vui theo lời "thầy" phán thì đó là điều rất không nên!

Cũng có kẻ xưng là tiên thánh, khoe có thần thông nhưng thuộc hạng tà nhập xác - như trong "kinh Lăng Nghiêm" mô tả (có tới năm mươi loại ngũ ấm ma!) - Để phân biệt họ rất dễ, vì những hạng tà này thường ưa phỉ báng giới luật, ca ngợi ăn mặn, tà dục, mê đắm rượu, thịt... họ luôn đề cao bản ngã, tự cho mình đã chứng thánh nhưng rất dễ nổi nóng, làm gì cũng nhắm vào mục đích gạt tiền, kiếm lợi...

Nhân vật Liên Sinh trong đây tâm tư hiền thiện, ông luôn nhắm vào việc giúp người tô bồi đức hạnh.

Thậm chí còn bỏ tiền ra giúp Viên Mậu làm lại cuộc đời.

Tôi đã chứng kiến nhiều gia đình hưởng thọ phú quý, phúc lộc quyền... tột đỉnh, nhưng chỉ vì phạm lỗi sắc dục tà hạnh này mà sa vào lụn bại, bị đoản thọ, gia phá nhân vong.

Xin hãy thứ lỗi vỉ tôi đã dịch và cho đảng trung thực câu chuyện này mà không lược bỏ bất kỳ chi tiết nào.

Mong rằng mọi người đều biết trân quý phúc báo hiện có và tự bảo vệ mình thật tốt, để phúc huệ ngày một tăng, phẩm hạnh càng thêm trong sáng.



THÁI MINH THÔNG

Cách đây không lâu, tiên sinh Thái Minh Thông kể cho tôi nghe câu chuyện báo ứng có thực của gia đình ông:

Ông cố của Minh Thông rất giàu, điền sản phong nhiêu, nuôi trâu cày cấy.

Hôm nọ ông cố đang xỏ mũi con nghé, nó đau quá nên tung chân đá nhằm chỗ hiểm làm chủ nhân vong mạng, ông nội Minh Thông thấy ba mình chết thảm, nổi giận xung thiên, liền cầm chùy đến, quyết đập chết con trâu nhỏ.

Trâu mẹ thấy chủ cầm hung khí, vội quỳ xuống rống lên đau khổ, mắt tuôn lệ đầm đìa, tỏ ý van xin chủ nhân đừng giết con mình, nhưng ông nội Minh Thông cơn giận đang bốc cao khó kềm chế, nên cứ nện chùy liên tục vào đầu con trâu nhỏ, khiến máu văng bắn tung tóe vả con nghé ngã xuống đất...

ông nội liền chặt chân tay nó, treo thân thể lên cây, trâu vẫn còn sống mà bị ông lột da, xẻo từng miếng thịt, hành hạ đến tận cùng.

Do nông dân ở đây không ăn thịt trâu, cho nên ông cứ xẻo thịt ném loạn xạ trên đất, đề mặc cho nó ung thổi sinh giòi.

Con trâu bị hành hạ ngược đãi thống thiết, chịu cảnh đau đớn này kéo dài đến ba ngày sau mới tắt thở.

Sau đó, ông nội Minh Thông mơ thấy có một đứa bé nói với mình:

Ngươi khiến ta phải sớm xa lìa tình yêu thương của mẹ, còn độc ác tàn nhẫn lột da, xẻo thịt... hành ta thống khổ ba ngày mới chết, ta nguyền sẽ báo thù, khiến ba đời dòng họ nhà ngươi sống chẳng an, phải chịu cảnh "gia phá nhân vong".

Sau đó ông nội kết hôn sinh được một trai (là phụ thân của Minh Thông) thằng con mới được ba tuổi thì vợ ông mất.

Ba năm sau, ông nội tục huyền.

Phụ thân Minh Thông trưởng thành, kết hôn và sinh ra Minh Thông.

Khi Minh Thông được ba tuổi, thì mẹ ông vô duyên vô cớ bỏ nhà đi mất.

Minh Thông lên sáu tuổi, thì phụ thân tục huyền, tính ra cả hai đời họ Thái đều phải sớm lìa mẹ ruột và hứng chịu cảnh mẹ ghẻ ngược đãi.

Hiện tại, ông nội bà nội, cha mẹ Minh Thông đều đã qua đời.

Minh Thông sau khi kết hôn, cũng sinh được hai con, nhưng lúc con trai trưởng ba tuổi, con thứ một tuổi; thì tình cảm vợ chồng ông đang thắm thiết, bỗng sinh chuyện phải xa nhau, khi thằng con cả sáu tuổi, thì ông ly hôn vợ cũ và cưới vợ mới hiện nay.

Thái Minh Thông hồi nhỏ từng bị em trai đánh vào đầu gây thương tích nặng.

Hiện giờ nơi đầu còn vết lõm vào.

Người bình thường đi đường thì cẳng chân và bắp đùi phải thẳng mới dễ bước, nhưng riêng ông mỗi lần đi đường, do xương sụn chỗ đầu gối cứ nhô ra, nên đi đường hay bị va đập, vì vậy mà phải mổ lấy xương đó ra.

Không những thế, lúc ông phục vụ nơi quân ngũ, bỗng phát bệnh đau bụng, còn bị bác sĩ chẩn đoán lầm là: "Đau ruột dư, phải mổ gấp".

Nhưng lúc tiêm thuốc họ vô tình làm tổn thương thần kinh xương sống, khiến ông chẳng những không thể cúi khom mà còn khó thể đứng lâu.

Sau khi giải ngũ, ông lại gặp phải tai nạn bị gãy chân, hiện giờ do gắn trụ thép ở bên trong nên cử động càng thêm bất tiện.

Chưa hết, trước khi ngủ, ông luôn phải nhờ vợ cầm chùy đến nện vào chân mới ngủ được, ngày nào cũng vậy.

Minh Thông khẳng định: Mình chính là ông nội chuyển thế đầu thai nên đầu mới bị đánh trọng thương, bụng còn bị mổ nhầm đau đớn, đêm nào cũng phải nếm cảnh cho chùy đập vào chân mới ngủ được, các hiện tượng này đều là trả báo!...

Năm nay Thái Minh Thông 31 tuổi, nhờ tham dự Phật thất tu trì mà được cảm ứng vi diệu, có thể nhớ ra tiền kiếp và thuật lại cho tôi nghe.

Vì vậy, quý vị không nên sát sinh, phải phóng sinh và phát tâm từ giúp người bần khốn.

Nếu biết hỗ trợ giúp mọi loài sống an thì cuộc sống ta cũng được an.

Sư Huệ Thâm kể -30/10/1982 (Trích dịch Tạp chí Từ Vân quyền 7)



THÁNG SÁU TUYẾT RƠI

Trước đây tôi luôn cho rằng câu chuyện này là kịch bản hư cấu nổi tiếng do Quan Hán Khanh sáng tác, nào ngờ lại là chuyện thật.

Bảy, tám năm trước thông qua một tu sĩ trong "Vạn Phật Thành", tôi được đến Đài Loan nghe Trương giáo sư thuật lại tỉ mỉ các việc lạ lùng bà đã trải qua.

Ba mươi năm trước bà làm công tác từ thiện tại Đài Loan, chuyên tư vấn tâm lý, là người tiên phong vực dậy trào lưu tốt cho xã hội, vì vậy mà các ủy viên công tác từ thiện ở Đài Loan đều gọi bà là "Trương giáo sư".

Tôi biết tên thật của bà, nhưng ở đây chúng ta cứ gọi bà là Trương giáo sư.

Hiện nay Trương giáo sư đang ở Mỹ, tôi có điện thoại trò chuyện cùng bà, bà là cư sĩ tu tại gia, ăn chay trường, nói năng cẩn trọng, chuyên trì "chú Đại Bi" và niệm Phật, thường đi khắp nơi truyền bá Phật pháp.

Hiện nay bà hơn 70 tuổi.

Trước khi kể chuyện mình, Trương giáo sư đã mở đầu như sau:

"Những việc xảy ra cho tôi có nhiều linh dị, tôi nghĩ không phải ai cũng gặp chuyện giống như mình.

Nhưng chẳng thể vì các vị không gặp những chuyện này mà vội kết luận rằng đây là hoang đường không có thực!

Khi nghe xong câu chuyện của tôi, các vị muốn phê phán sao thì tùy, tôi không dám có ý kiến.

Nhưng tôi kể hoàn toàn trung thực, quyết không hề vọng ngữ, về điểm này xin hãy tin tôi".

Đây là câu chuyện nhân quả báo ứng tuyệt hay mà bút giả may mắn được nghe chính miệng Trương giáo sư kể ra, thiết nghĩ những người giữ chức vụ cao, nắm quyền sinh sát trong tay cũng nên xem, sẽ rất có ích.

Giờ xin ghi lại chia sẻ cùng quí vị:

"Trương giáo sư vào đại học muộn (do sinh con rồi mới thi), tốt nghiệp lúc 33 tuổi (lúc này bà đã có ba con trai).

Năm 33 tuổi, vào tháng 5 bà phát hiện mình mang thai, dự tính sẽ lâm bồn đúng vào ngày sinh nhật 34 của mình.

Khi mẫu thân bà hay tin này thì kiên quyết yêu cầu bà phá thai.

Thấy mẹ mình xưa nay tin thờ Phật, lại ăn chay nhiều năm, luôn giữ giới bất sát nghiêm nhặt.

Nhưng vì sao bây giờ lại yêu cầu mình phá thai?

Bà Trương cảm thấy rất kỳ quái, dù có gặng hỏi đến mấy, mẫu thân vẫn không chịu giải thích nguyên nhân.

Khi Trương giáo sư mang thai, xảy ra hiện tượng rất lạ.

Thứ nhất: trong người bà khó chịu khiến phải thường xuyên đập đầu vào tường.

Thứ hai: Khi nôn ọe thì cứ đòi chồng và ba con trai phải đánh mình, còn buộc họ phải dốc hết sức mà đánh (có vậy bà mới thấy dễ chịu).

Nếu chồng và con không chấp nhận, thì bà liền trở mặt với họ.

Đây là hiện tượng kỳ quái mà những lần mang thai trước bà chưa hề bị qua.

Khi bà Trương mang thai đến tháng thứ tư, thì bạn của thân mẫu bà là một tu sĩ ở Đài Trung có việc đến Đài Bắc nên tiện đường ghé thăm nhà họ.

Mỗi lần gặp vị tu sĩ này Trương giáo sư đều đảnh lễ.

Lần này bà Trương lễ rồi, lại xin lễ thêm một lần nữa.

Sư hỏi:

- Vì sao lại muốn đảnh lễ ta thêm nữa?

- Dạ, đó là con lễ thay cho hài nhi trong bụng.

Vị Sư hoan hỉ nói:

- Được rồi, ta thu nhận bé.

Nếu đã muốn cho cháu làm đồ đệ ta thì sau này có xảy ra chuyện gì, nhớ cho ta hay.

Khi thai nhi được sáu tháng, ngày nọ mẹ của Trương giáo sư muốn ăn một món chay ngon mà tiệm ăn lớn ở Đài Bắc mới có bán.

Trương giáo sư là người con chí hiếu, luôn muốn làm mẹ vui lòng nên ráng sức đi mua.

Khi bà ra khỏi nhà, bước lên xe buýt rồi, lạ một điều là người trên xe đều thấy bà mang cái bụng to thù lù, nhưng chẳng ai muốn nhường chỗ ngồi cho, thậm chí có kẻ còn vờ nhắm mắt lại để khỏi phải thấy và không ai thèm lý tới bà.

Vì vậy Trương giáo sư phải đứng suốt.

Bỗng nhiên xe tông phải vật nặng, thắng gấp, khiến bà té nhào, dẫn tới động thai; phải chở đi cấp cứu.

Tối đó bà đau bụng dữ dội, lúc này thai nhi chỉ mới hơn sáu tháng, nhưng bà đã sinh non.

Bé tuy hình dáng còn rất nhỏ, nhưng có thể nhìn ra đây là một bé trai vô cùng xinh đẹp, tuấn tú.

Bác sĩ bảo do hài nhi sinh quá sớm, họ đã làm hết sức mình, nhưng có cứu sống được bé chăng thì không dám bảo đảm, vì vậy Trương giáo sư đừng quá kỳ vọng...

Trương giáo sư hết sức tự trách, giận mình không chịu an phận ở nhà để con trẻ được bình an sinh ra.

Hiện tại bé chỉ có thể nằm trong lồng kính, bà rất mong Phật Bồ tát sẽ gia trì cứu bé.

Bỗng bà sực nhớ đến vị sư cách đây không lâu đã ghé qua nhà bà, nên gọi điện báo cáo:

- Thưa sư, con đã sinh rồi, em bé còn quá nhỏ.

Nhưng con hy vọng có thể cứu được nó.

Sư hỏi:

- Con muốn cứu nó ư?

Tốt!

Vậy hãy làm theo yêu cầu của ta.

Từ hôm nay hãy bắt đầu ăn chay trăm ngày, con thường tụng kinh gì?

- Dạ con chuyên tụng "Bạch y thần chú" ạ.

- Được rồi, thế thì con cứ tụng chú này, nhưng phải tụng một vạn (10.000) biến nhé, nếu muốn cứu cháu thì buông điện thoại xuống là tụng ngay đi!

Lúc này Trương giáo sư đang ở bệnh viện, nghe sư phụ dạy như vậy thì vội tụng Bạch y thần chú không ngừng.

Ngoại trừ lúc ngủ nghỉ ra, thời gian còn lại đều tụng suốt.

Không bao lâu bệnh viện bảo Trương giáo sư có thể về nhà.

Về nhà rồi hằng ngày bà ở trước Phật tụng chú.

Ngày ngày đều như thế.

Khi bé được một tháng, tối đó bà bỗng thấy ác mộng: Trong mơ đứa bé cứ kéo lôi bà, bà cũng giằng lại.

Bỗng bà buông tay ra, mặt đứa bé đen thui.

Bà giật mình tỉnh giấc, nghĩ điềm mộng này ắt chẳng lành, bèn bảo chồng gọi điện đến bệnh viện hỏi thăm xem con thế nào rồi?

Lúc này đã 3 giờ sáng.

Chồng bà ngại nên chưa gọi điện, trong lúc ông do dự thì bệnh viện đã gọi tới báo tin đứa bé vừa qua đời lúc ba giờ khuya.

Trương giáo sư nghe vậy thì bật khóc.

Sáng ra, khoảng hơn 6 giờ, vị sư ở Đài Trung đã bao xe đến nhà họ.

Vừa vào cửa, sư liền bảo:

- Chúc mừng bà!

Trương giáo sư ngơ ngác, thầm nghĩ: "Thằng bé con mình vừa mất, sao sư lại chúc mừng?"...

Nhưng sư đã lên tiếng hỏi:

- Phải chăng hài nhi ra đi lúc ba giờ sáng?

Trương giáo sư rất kinh ngạc, nói:

- Sao ngài biết được?

Sư kể rõ nguồn cơn:

- Hồi hôm này (khoảng 12 giờ khuya), đứa bé đến từ biệt sư.

Nó nói: Con vốn muốn đem bà ấy đi, nhưng hiện tại vô phương đoạt mạng bà.

Bởi vì bà đối với mẫu thân một bề hiếu thuận, mẹ bà muốn ăn chi, bà dù mang thai cái bụng to thè lè cũng ráng đi mua đồ cho mẹ và do bị gặp tai nạn xe như thế, khiến con không đủ khí lực để sống trong bụng bà.

Con vốn định vào đúng ngày sinh nhật (34 tuổi của bà) sẽ bắt bà đi.

Sư hỏi:

- Con theo bà rốt cuộc là có oán thù gì?

Bé đáp:

- Đây là mối thù truyền kiếp.

Cách đây nhiều đời bà ấy từng là tham quan, đã phán án sai, khiến con bị chết oan.

Vì vậy con để bà từ lúc hoài thai là bắt đầu bị hành hạ, chính là trả mối thù lúc con bị tra tấn trong ngục.

Con khiến bà húc đầu vào tường, kêu chồng, con...

đánh đập mình, là để rửa mối hận lúc con ở trong ngục thọ cực hình tàn khốc.

Nhưng hiện tại, từ lúc bà sinh con ra rồi thì không ngừng niệm Phật, do bà niệm Phật, nên chung quanh bà luôn được Phật Bồ tát che chở chúc phúc, vì vậy con vô phương tiếp cận, không có cơ hội để bắt bà đi.

Nhưng con chẳng cam tâm, luôn chờ đợi.

Do trong nhả bà có Phật đường, con không cách chi vào được, vì trong nhà bà luôn được các tôn tượng Phật bảo hộ che chở cho nên hiện tại con không đủ sức, có muốn kéo bà đi cũng không được, đành phải bỏ đi.

Pháp sư bảo Trương giáo sư, bà không nên lưu luyến đứa bé này, nó đến là để báo thù, muốn đoạt mạng, bắt bà đi...

Nghe vậy, lúc này mẫu thân của Trương giáo sư mới kể ra việc khuất tất trong dòng họ:

Dòng họ Trương giáo sư phát sinh chuyện rất kỳ lạ.

ông nội, ông cố, phụ thân bà đều đúng ngày sinh nhật năm 36 tuổi thì tạ thế.

Điều này xảy ra liên tục suốt 5 đời, các trưởng nam của dòng họ đều vô phương sống quá 36 tuổi, số mệnh họ cứ đúng ngày sinh nhật 36 là lìa nhân gian.

Còn phía con gái thì các trưởng nữ cứ đến sinh nhật 34 là tạ thế, không ai thoát khỏi...

Chuyện này mặc dù mẫu thân bà biết rất rõ, nhưng không dám nói cho Trương giáo sư nghe, vì sợ con mình sẽ bị kích động, bởi vì Trương giáo sư cũng là trưởng nữ.

Đây là lý do vì sao mẹ Trương giáo sư kiên quyết muốn bà phá bỏ thai đi.

Trương giáo sư có ba trai, mỗi mỗi đều ưu tú, nhất là cậu cả, tốt nghiệp đại học xong thì đi Mỹ du học, sau đó thành gia lập nghiệp.

Hai năm trước Trương giáo sư từ Mỹ sang thăm con trai thứ hai và trai út tại Đài Loan thì bỗng nhận được điện thoại báo tin cậu cả đang tắm bỗng bị ngạt thở, hiện đang cấp cứu.

Khi bà về đến Mỹ thì cậu cả đã qua đời.

Điều nảy đối với bà như sét đánh ngang tai, khiến bà suy sụp, té xỉu.

Nhờ mẫu thân khuyên giải nên bà ráng nén đau đớn để lo xong 49 ngày cho con.

Lúc này hầu như bà đêm ngày đều khóc, ai an ủi cũng vô dụng.

Con trai út của bà cũng tới Los Angeles, thậm chí phải nghỉ công tác để khuyên dỗ mẹ nguôi sầu.

Trương giáo sư cũng hy vọng mình có thể thoát ra khỏi nỗi đau, thế là bà nảy ý đến một ngôi chùa mả thuở giờ chưa từng ghé qua, hy vọng Phật Bồ tát có thể giúp tâm tư bà bình ổn lại.

Từ mười năm trước, Trương giáo sư đã biết có ngôi chùa này, nhưng chưa bao giờ đến viếng.

Hôm đó bà đi cùng chồng và con trai út, vừa vào cửa thì thấy trong Phật đường có hai người: Một vị là pháp sư11 Hương Cảng, một vị là cư sĩ tại gia.

Vị tu sĩ Hương Cảng vừa thấy bà Trương thì nhìn chăm chăm, mà Trương giáo sư lúc đó hễ thấy người thì khóc, pháp sư liền hỏi nguyên nhân, biết việc rồi, ông luôn mồm bảo Trương giáo sư:

- Bà yên tâm, tôi sẽ lo giúp cho bà.

Tuy mới gặp nhau lần đầu, nhưng pháp sư xin số điện thoại của bà và hẹn ngày mai gặp.

Sau đó mỗi tuần ông đều hẹn gặp và trò chuyện cùng bà, ông thường nói: "Thế gian vô thường, luôn có sinh ly tử biệt... mục đích là để an ủi cảnh tỉnh bà, nhưng bà chẳng thể nào thoát ra khỏi vực thẳm khổ sầu.

Thực sự thì cả đời Trương giáo sư chưa làm điều gì đáng thẹn với lương tâm, tại Đài Loan bà một bề tham gia công tác từ thiện xã hội, giúp đỡ biết bao người, không hiểu sao lại gặp phải cảnh này?

Một hôm pháp sư gọi điện cho bà, mời bà đến rồi bảo:

- Tôi rất muốn giúp bà, nhưng phải đúng bệnh cho thuốc.

Nhưng tôi tra không ra nhân quả khuất tất nên vô phương giúp bà.

Tôi có thỉnh một tượng Quan Thế Âm từ Đại Lục, hiện để tại Phật đường của mình, bà có thích Bồ tát Quan Thế Âm chăng?

- Dạ con từ nhỏ đã rất ngưỡng mộ Bồ tát Quan The Âm ạ!

Pháp sư bảo:

- Tôi sắp thế này, để thỉnh Bồ tát Quan Âm về nhà, trước tiên bà hãy đi mua 66cm12 vải vàng, hai bó hoa cúc, cùng hoa trái đèn hương... rồi sáng mai đến thỉnh...

Hôm đó bà cùng con trai đi đến tiệm vải để chọn.

Trong đây vải vàng rất nhiều, bà do dự chẳng biết mua loại nào thi bỗng thấy một khúc vải rất đặc biệt, liền cầm lên chuẩn bị trả tiền.

Bà chủ tiệm nói:

- Khúc vải này không bán, bởi vì nó ít quá.

Mua về cũng không thể dùng làm gì.

Trương giáo sư liền đo xem, kết quả vừa đúng 66cm, thế là bà mua ngay.

Bà đi qua hàng hoa, tiệm còn đúng hai bó hoa cúc, bà mua luôn và hôm sau đi thỉnh tượng Quan Thế Âm về nhà.

Từ đó trở đi trải qua hai tháng hơn, Trương giáo sư vẫn cảm thấy rất thống khổ, ngày ngày rửa mặt bằng nước mắt, lần nọ bà đến chỗ pháp sư, ông nói:

- Tôi nhất định phải tra cho rõ nhân quả của bà, chuyện bà không giống như người bình thường, tôi phải dùng cách thức đặc biệt để giúp bà.

Rồi ông đưa bà một tờ giấy đỏ và một bao thư, nói:

- Trên tờ giấy này bà hãy viết ra: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

Thấy bà ngơ ngác, ông giải thích:

- Kim: Là viết về gia thế, gốc gác xuất sinh.

Mộc: Là viết về bạn bè, công việc.

Thủy: Là viết ra tên họ toàn gia.

Hỏa: Kiếp này bà có oan khuất gì?

Thổ: Bà có nguyện vọng gì?

Thế nhưng cần chú ý một điểm, tuyệt đối không được cho bất kỳ ai xem qua, bao gồm cả chồng, con bà và ngay cả tôi nữa.

Viết xong rồi thì tại ngày, giờ, tháng, năm...

đó, đối trước phương hướng đó...

đọc năm lần, liên tục ba ngày, đọc tổng cộng 15 lần.

Xong đem đốt đi rồi bỏ tro vào bao thư này, đặt dưới gối nằm.

Trương giáo sư làm y theo lời thầy nói, viết tổng cộng hơn 1.600 từ, đọc đủ 15 lần, rồi đốt đi, bỏ vào bao thư, đặt dưới gối.

Được một tuần, pháp sư gọi điện cho bà, hỏi:

- Trong thời gian này không có hiện tượng gì phát sinh ư?

Trương giáo sư đáp:

- Dạ không ạ.

Đến ngày thứ mười, thầy gọi điện tới nói:

- Chúc mừng bà, tôi đã tra rõ nhân quả của bà, giờ hãy mau đến chỗ của tôi.

Con trai út bà cũng đồng đi với bà.

Đến chỗ pháp sư, bà thấy trên bàn ông đặt một tờ giấy vàng rất lớn, trên ghi chi chít chữ.

Pháp sư nói:

- Đêm qua tôi ngồi tĩnh tọa suốt đến sáng, cuối cùng từ trong thủy đàn đã tra được hết rồi.

Nghĩa là trong nước hiện chữ gì tôi đều chép ra, phải mất mấy tiếng mới chép xong, tất cả tôi đều ghi hết trong tờ giấy này.

Bà xem xong thì sẽ hiểu ngay.

Sau đó pháp sư bảo bà:

- Còn có hai tên cho bà xem đây.

Bà vừa nhìn liền nói:

- Hai người này đương nhiên con biết, bọn họ đến đòi nợ con.

Pháp sư nói:

- Có phải bà rất hận hai người này?

- Dạ đúng.

Pháp sư nói:

- Bà không nên hận họ, bởi vì đời trước bà nợ họ, đừng hận nữa.

Việc gì cũng đều có nhân quả của nó.

- Tiếp đến pháp sư đưa tờ giấy vàng cho bà đọc và nói:

Khi đọc đoạn thứ nhất, lòng bà sẽ hết sức sợ hãi, nhưng đọc đến đoạn hai, bà sẽ rất kinh ngạc, lúc đọc đến đoạn thứ ba, bà cảm thấy an ủi vô cùng.

Thế là bà bắt đầu đọc tư liệu, rất dài: Vì cả trang giấy to lớn ghi rõ hết chuyện đời trước của bà.

Điều đáng ngạc nhiên là, câu chuyện nhân quả báo ứng này cũng giống như vị pháp sư Đài Trung từng kể 19 năm trước, nhưng ở đây ghi cụ thể tỉ mỉ hơn, có tên họ hẳn hòi:

Đây là câu chuyện "Đậu Nga kỳ án" nổi danh trong lịch sử mà ai cũng biết, chuyện hoàn toàn có thật được ghi như sau:

"Trương giáo sư kiếp trước là quan Thái thú Đào Ngột, một tham quan hủ bại, không ác nào mà không làm, ông đã bắt Đậu Nga hạ ngục, xử nàng chết oan.

Đậu Nga nhân đây cùng tham quan kết huyết hải thâm thù, phát thệ đời đời sẽ truy tìm báo oán rửa hận, làm cho gia tộc kẻ thù luôn bị cảnh "gia phá nhân vong" (Đọc đoạn này bà sợ đến phát run).

Sơ lược câu chuyện "Đậu Nga kỳ án":

"Dân nữ Đậu Nga từ nhỏ mồ côi mẹ, phụ thân là một tú tài nghèo tên Đậu Thiên Chương, do muốn lên kinh ứng thí mà không có tiền đi đường nên đã vay nóng số tiền 20 lạng bạc nơi quả phụ họ Thái.

Nào ngờ năm sau do số nợ (lãi suất cao) biến thành 40 lạng, ông Chương vô phương đền trả, đành phải đem con gái là Đậu Nga vừa gán nợ vừa làm đồng dưỡng tức (cô dâu nhỏ được nhà trai nuôi từ bé) cho bà Thái.

Đậu Nga ở nhà bà Thái được 10 năm thì được gả làm dâu họ Thái.

Nhưng chưa đầy hai năm, chồng nàng chết đi.

Đậu Nga góa bụa đành ở vậy cùng mẹ chồng.

Lúc này, tại Sở Châu có Trương Lư Nhi là một tên lưu manh, hắn hợp cùng lão Trương là cha mình, xúm nhau bắt nạt ức hiếp hai quả phụ nhà họ Thái, ép buộc bà Thái phải lấy lão Trương.

Bà mẹ chồng họ Thái vì muốn bảo toàn tính mệnh, bất đắc dĩ phải ưng lão Trương.

Nhưng dã tâm Trương Lư Nhi không dừng ở đây, hắn muốn ép Đậu Nga lấy hắn.

Đậu Nga cương quyết từ chối, Trương Lư Nhi bèn lập mưu hãm hại nàng.

Hôm nọ mẹ chồng nàng bị bệnh, Đậu Nga nấu canh bổ đem dâng cho bà dùng.

Nhưng Trương Lư Nhi đă lén bỏ độc vào canh, thầm tính là trước tiên giết chết bà Thái rồi sau đó ép Đậu Nga thành thân với mình.

Nào ngờ lúc đó bà Thái buồn nôn nên không dùng canh, lão Trương thấy đồ ngon bèn giành lấy ăn sạch.

Trong chốc lát thì thuốc độc phát tác, ông ngã xuống, lìa đời.

Việc xảy ra hoàn toàn ngoài dự tính, Trương Lư Nhi muốn hại mẹ kế thành ra giết chết cha ruột.

Hắn gian ngoa đổ hết tội giết người cho Đậu Nga và thưa kiện lên quan.

Tri phủ Sở Châu vốn là một tham quan, do nhận nhiều bạc của Trương Lư đút lót, nên đã dùng cực hình bức cung, ép Đậu Nga phải nhận tội.

Nhưng Đậu Nga thà bị đánh chết chứ nhất quyết không nhận tội, do vậy Tri phủ bèn chuyển qua tra tấn, đánh đập bà Thái.

Thương mẹ chồng, vì muốn cứu bà thoát đòn roi bạo hình, Đậu Nga đành gạt lệ nhận tội.

Thế là nàng bị phán tử hình, bị trói dẫn ra pháp trường.

Lúc đó Đậu Nga lòng đầy bi phẫn, nàng chỉ trời đất, trách rằng:

- Trời ơi, ông để kẻ hiền bị áp bức xử oan mà cũng làm trời hay sao?

Đất ơi, chẳng biết phân xấu tốt, thiện ngay... mà cũng làm đất hay sao?

Khi đao phủ vung đại đao lên, ánh chớp sáng lòe, lúc này Đậu Nga ngước lên trời, đọc to ba lời nguyền, nàng thề rằng:

- Nếu nàng bị án oan, thì khi đao chém qua đầu thì máu không rơi xuống mà bay thẳng đến bạch kỳ, không cho một giọt máu tươi nào dính vào thi thể nàng trên mặt đất.

- Trong suốt tháng 6 (đang mùa hạ) trời phải làm tuyết rơi dày ba thước13 phủ che thi thể nàng.

- Nàng chết rồi, toàn phủ Sở Châu phải liên tục bị hạn suốt ba năm, để chứng minh là nàng chết oan.

Nàng thề xong, đao phủ vung đao chém, máu nàng quả nhiên bay thẳng lên bạch kỳ, tiếp theo đó là suốt tháng 6 trời giáng đại tuyết phủ che thi thể nàng.

Và sau khi nàng chết rồi, Sở Châu bị hạn suốt ba năm.

Ước nguyện của Đậu Nga đã được thực hiện, chứng minh rõ là nàng chết oan.

Điều này đã gióng lên lời hiệu triệu kinh thiên động địa: toàn thể bách tính phủ Sở Châu đối với tham quan Đào Ngột vô cùng oán ghét và cực kỳ cảm thông cho nàng Đậu Nga trẻ tuổi chết oan"...

Câu chuyện lịch sử này về sau đã khơi nguồn cảm hứng cho nhiều kịch bản sản sinh, có kịch bản lấy tựa là "Tháng Sáu Tuyết Rơi", trải qua trăm ngàn năm nay luôn được tán thưởng, tác giả "Quan Hán Khanh" cũng nhờ đó mà nổi danh và được xem như bậc thầy, một nhà soạn kịch tài ba cấp thế giới.

Nhưng trong kịch bản công diễn thì có thêm phần kết cuộc như thế này:

"Sau khi cha Đậu Nga là Đậu Thiên Chương lên kinh thi đậu làm cao quan, ông phụng lịnh vua đến Sở Châu khảo sát dân tình và phát hiện vùng này bị hạn, suốt ba năm trời không mưa một giọt.

Ông thầm nghĩ nhất định là có án oan, nên suốt đêm đó chong đèn tra lại vụ án Đậu Nga.

Bỗng ánh sáng lóe lên, Đậu Nga xuất hiện, kể rõ oan tỉnh, xin phụ thân chủ tri công đạo.

Đậu Thiên Chương điều tra tỉ mỉ vụ án, cho xử lại và tuyên bố Đậu Nga vô tội, phán tử hình Trương Lư Nhi, cho hành quyết tại Sở Châu.

Khi vừa tuyên án xong, trời mưa như trút"...

Khi bà Trương đọc đến đoạn thứ hai, đúng là rất ngạc nhiên, vì vào ngày tháng năm đó... bà đã viết tờ "Thiên biểu" này, (làm y như pháp sư dạy và đốt đi), tất nhiên không đề lộ cho ai đọc, nhưng toàn bộ nội dung này pháp sư đã nhận được đủ và chép lại (đúng 1633 từ bả đã viết) giống như photocopy vậy.

Đọc đến đoạn thứ ba, pháp sư đã tra ra và kết luận rằng: "Hiện tại ngay trong đời này, Trương giáo sư chưa từng làm việc gì xấu.

Lúc còn ở Đài Loan bà đã giúp đỡ không biết bao nhiêu thanh thiếu niên, nam nữ học tập tốt, khiến họ mở mang trí huệ.

Bà là người con hiếu thuận, thờ mẹ hết lòng, việc gì cũng không dám làm trái ý mẫu thân"...

Nhân đây pháp sư khuyên bà hiện tại nên dốc sức sám hối.

ông nói:

- Bà nên chí thành sám hối, chăm chỉ học Phật, tinh tấn tu.

Đọc xong đoạn cuối cùng, bà cảm thấy phi thường an ủi, liền đảnh lễ pháp sư, cảm tạ tất cả những gì ông đã làm cho bà.

Pháp sư vội nói:

- Bà không cần cảm ơn tôi, đúng ra tôi phải cảm ơn bà, bà biết vì sao tôi tới nơi này hay không?

Vì nếu tôi chẳng tra ra chuyện nhân quả của bà, thì không được phép về Hương Cảng!

Thấy bà Trương ngơ ngác không hiểu, vị tu sĩ liền giải thích::

- Sư phụ tôi vốn ở Hương Cảng, đã bế quan rồi, đúng lý thì phải "bất vấn nhân gian sự" không lưu tâm tới việc thế gian nữa.

Nhưng do trước đây từng thọ ân bà (có lần bà đã cứu ông), mà trong lúc bế quan ông phát hiện bà đang gặp nạn, rất thống khổ...

Vì vậy ông sai tôi hãy đem tôn tượng Quan Thế Âm này đến Los Angeles, tìm cho ra bà, nếu tìm không được, thì đừng hòng về Hương Cảng...

Ngày đầu tiên tôi đến đây, chỉ biết đại khái tuổi của bà (dù bà ở rất gần), nhưng Los Angeles rộng lớn thế này, tôi biết đi đâu mà kiếm cho ra?... nên cứ đinh ninh rằng mình khó bề quay về được.

Tôi vào chùa này, hỏi thăm cầu may xem có phụ nữ nào giống như bà... tình cờ ghé qua chăng, nào dè hôm sau thì bà xuất hiện.

Tôi vừa gặp bà đã nhận ra ngay: đây chính là người mình đang tìm, đúng là người mà sư phụ buộc tôi đến gặp...

Nhưng lúc đó tôi không tiện nói rõ, chỉ biết sốt sắng hứa sẽ giúp bà...

Giờ đây chuyện nhân quả của bà đã tra xong, tôi sẽ mang tư liệu này về Hương Cảng, bởi sư phụ tôi muốn giúp bà, nên ở Hương Cảng hiện giờ đang khai đàn, tổ chức pháp hội "Lễ Vạn Phật" rất trang trọng quy mô.

Bởi vì đây là nợ mạng tiền kiếp của bà, là án oan thiên cổ rất khó siêu độ, phải nhờ đến pháp hội cực kỳ lớn mới mong giải oan được.

Hiện tại bà không cần phải lo nữa, tương lai bà sẽ có dịp đến Hương Cảng đảnh lễ sư phụ.

Việc bà cần làm hiện thời là nên sám hối mỗi ngày.

Trương giáo sư, ngay giây phút đó xúc động vì cảm thấy mình tội nghiệt quá sâu nặng, liền từ bỏ công tác đang làm, nguyện dùng những ngày tháng còn lại này, chuyên tâm sám hối"...

Kể xong câu chuyện của mình, Trương giáo sư kết luận:

"Mỗi người chúng ta không nhất định đều phải trải qua những chuyện kỳ dị như thế này; nhưng từ chuyện của người khác, chúng ta cũng có thể rút tỉa được những bài học hay!

Tôi chỉ tiếc mình sám hối quá muộn, nếu có thể, mong các bạn trước hãy lo sám hối, thì những tội nghiệp vốn có tất sẽ được tiêu trừ".

Biết chuyện Trương giáo sư rồi, bút giả xúc động sâu xa nên không ngại ghi hết ra, hi vọng người hữu duyên có thể nhờ xem câu chuyện này mà tỉnh ngộ, tu sửa thân tâm...

Tôi hoàn toàn chiu trách nhiệm về tính chân thật của bài văn này, Trương giáo sư hiện đang ở tại Los Angeles, sư huynh của tôi ở tại Mỹ cũng đã từng kiểm tra và xác nhận đây là câu chuyện hoàn toàn có thực.

Phúc Đức Hải ghi

Lời người dịch:

Nếu bạn đọc thắc mắc: Bà Trương tạo tội thọ khổ đã đành, tại sao thân quyến cũng rước họa lây?

Nếu từng xem qua các cuốn sách báo ứng rồi ắt bạn sẽ hiểu là "đồng nghiệp chiêu cảm"!

Tham quan Đào Ngột ngày xưa không tạo ác đơn độc mà còn có cả phe cánh của ông.

Những quan hệ cấp trên và thuộc hạ cũng có thể biến thành thân quyến đời sau.

Cho nên theo luật nhân quả vận hành: "Có thù thì tìm đến báo, có nợ phải đền".

Do vậy mà cả gia tộc bà đều phải nếm cuộc báo thù của Đậu Nga.

Tôi đã tìm, dịch thêm câu chuyện "Thái Minh Thông" ở cuốn sách khác, đem sắp vào đây, nhằm giúp độc giả sáng tỏ thêm về lý nhân quả báo ứng, hiểu rằng một người có thể đầu thai tới lui trong dòng tộc thọ báo tương tục...

Khi dịch câu chuyện này xong, tôi rắt ngạc nhiên, Trương giáo sư hiện đời là một phụ nữ đức hạnh, nhưng kiếp trước lại là tham quan ác độc? (nếu đem so quá khứ và hiện tại thì thấy giống như là hai người khác nhau, tương phản hoàn toàn).

Nhưng mà cũng dễ hiểu thôi, tham quan Đào Ngột sau khi xử án Đậu Nga xong, nội việc chứng kiến máu bay lên bạch kỳ, tháng sáu trời làm tuyết, và sau đó hạn hán ba năm... cộng thêm lời dân chúng ta thán, chỉ trích, mắng trách... cũng đủ để ông sợ toát mồ hôi, sinh tâm ăn năn hối cải tu hành cực mạnh rồi...

Và chính nhờ cái tâm sám hối, tha thiết tu sửa mạnh mẽ đó - đã chuyền Đào ngột từ một kẻ ác độc trong kiếp quá khứ thành một kẻ đức hạnh đời hiện tại, bặt hết mọi dấu vết xấu xa lỗi lầm, đến nỗi khi kiểm điểm lại, đã thấy ngay trong đời này y chẳng còn mang theo chút thói ác nào được di truyền từ quá khứ - chỉ có kẻ bị hại là hận thù đời đời theo báo mà thôi,

Còn Đậu Nga là cô gái đặc biệt, thông thường các nàng dâu hay nghịch với mẹ chồng, nhưng Đậu Nga thì khác, nàng cư xử rắt tốt với mẹ chồng, do không nỡ chứng kiến cảnh bà bị đòn roi, nàng chấp nhận hy sinh nhận tội rồi lãnh án tử hình oan.

Có thể nói nàng là người có đức hạnh cho nên mọi lời thề nguyện của nàng đều thành sự thực.

Tôi nhớ đã từng đọc một chuyện của Tây phương (nhưng không biết chuyện này có thực không?) kể về một tử tù bị tuyên án oan, ông đã chỉ vào các nhân vật có chức quyền trong phiên tòa, thề rằng mồ ông sẽ không bao giờ mọc cỏ, để chứng minh ông bị oan.

Sau đó tại nghĩa trang, các mộ khác đều xanh cỏ, chỉ duy nhất ngôi mộ tử tù này là không bao giờ có cỏ mọc, điều này khiến các nhân vật quyền uy trong tòa chột dạ, họ bèn nhờ người mang cỏ đến trồng trên mộ ông, nhưng cỏ chết hết, mộ kẻ bị xử oan vẫn mãi mãi không mọc cỏ... (có vẻ như lời nguyền của những kẻ bị án oan có đức hạnh luôn được thực hiện)...

Thông thường ở thân phận bình dân, khi mà mọi thứ sở hữu đều khiêm tốn, người ta ít có cơ hội tạo lỗi hơn - so với lúc bản thân có chức quyền, địa vị cao - Tôi nhớ tới chuyện công chúa Thăng Hoa trong tập "Báo ứng hiện đời" 1-2: Khi làm công chúa, nàng đoạt chồng của dân nữ và giết người không gớm tay, hễ ai trái ý là nàng giết, tính nết kiêu căng, trịch thượng, quyền uy, ác độc...

Nhưng lúc tái sinh làm thường dân, nàng lại rất hiền lành, một con cua cũng không dám giết, thậm chí còn thiết tha niệm Phật cầu cho nó đừng bị chồng sát hại... (Cũng một con người đó, nhưng quá khứ tàn nhẫn ác độc, hiện tại lại hiền lành, tốt nết)...

Tất cả những thay đổi này nói chung đều xuất phát từ lòng ăn năn hối cải, nguyện dứt ác tu thiện mãnh liệt...

Có lẽ nhờ vậy mà khi tái sinh, những người ác đó đã xóa hết tập quán tệ, chỉ còn lại những nết tốt, hạnh thiện... làm hành trang đem theo qua kiếp sau...

đó là điều đáng mừng cho họ.

Nhưng không phải ai cũng biết giác tỉnh, sửa đổi mạnh như vậy...

Thật chí lý khi Phật nói tạo si phước (tạo mà không có trí tuệ) là tội nghiệp đời thứ ba!

Bởi những phước báu ta tạo quá nhiều, nếu có lên trời hưởng hết rồi cũng sẽ bị đọa.

Còn nếu được ở nhân gian hưởng phúc thì sẽ sinh làm người quyền quý, giàu sang... rồi chính vì những tiền của, quyền lực, tài sắc đó... người ta lại có cơ hội tạo tội nhiều hơn!

Cho nên Phật luôn nhắc nhở ta phải tu theo chánh pháp, để đời đời luôn có trí tuệ dẫn lối soi đường, giúp ta không đọa lạc.



TÂM SỰ MỘT NỮ KỸ SƯ

Tôi ở huyện Bảo Thanh, tỉnh Hắc Long Giang, là một phụ nữ mắc bệnh ung bướu nan y.

Vào năm 37 tuổi, tôi bị bướu mật thời kỳ cuối.

Mật của tôi hiện đã được cắt bỏ, nhưng do cắt bỏ mật vào giai đoạn bệnh đến thời kỳ cuối, nên tình trạng không ổn như lúc mới phát.

Bởi vào thời kỳ cuối, những tế bào ung bướu đã phát tán khắp thân, nên dễ tái phát tràn lan.

Sau khi cắt bỏ túi mật rồi, thì tử cung tôi lại mọc thêm ba ung bướu, tiếp đến buồng trứng bên trái sinh một bướu, chưa đầy nửa năm buồng trứng bên phải cũng có một bướu nữa.

Tiếp theo là cổ họng lại sinh bướu, mọi người nghe tôi nói chuyện giọng khàn khàn.

Sức khỏe tôi cực suy, không thể tiếp nhận những cuộc đại phẫu thuật, do vậy mà chẳng thể mổ tử cung, buồng trứng v.v...

Riêng yết hầu tôi bị bướu, chỉ cần hả miệng dùng kính soi cũng thấy rõ, nhờ vậy mà bướu ở yết hầu đã cắt được.

Hiện tại giọng nói vẫn còn khàn.

Sau đó bao tử cũng sinh bướu, trực tràng cũng bị bệnh, mọi người thường gọi là bệnh trĩ, nhưng thực chất không đúng, nơi đó cũng bị ung bướu nốt.

Những thống khổ tôi phải chịu vẫn chưa hết, vì bệnh lại lan đến phổi, cực kỳ ác liệt: nửa phận trên phổi trái có tới 5 ung bướu.

Tôi bị bệnh khổ hành hạ, giày vò...

đến hôn mê bất tỉnh.

Tôi thường ho ra máu, máu lẫn đầy tạp chất lợn cợn, ho ra từng bụm, từng bụm máu.

Tất cả bệnh này của tôi đều do ác nghiệp sát sinh tạo thành.

Tôi chuyên bán các ngư cụ đánh bắt hải sản và cung ứng đủ loại thủy tộc cho mọi người dùng.

Tôi làm việc từ năm 1981, tuy hộ khẩu ở huyện Bảo Thanh, nhưng phạm vi buôn bán mở rộng đến khắp nơi, từ miền quê cho đến thành thị...

Khắp người tôi giờ mắc bệnh ung bướu thống khổ, thảy đều do sát nghiệp (sau này học Phật pháp rồi tôi mới hiểu).

Lúc chưa biết đạo, tôi đã phá thai hai lần, đây là đại ác nghiệp.

Khi bệnh vật tôi ngã quị trên giường, nằm thở thoi thóp...

Tôi nếm đủ mùi khổ, vì hễ phía trên vừa ho sù sụ, là phía dưới nước tiểu bắn ra ướt quần, do vậy mà tôi phải lót băng, bởi vừa ho là són tiều ngay, hơn nữa còn bị các bệnh khác giày vò hành hạ, khổ hết chỗ nói.

Lúc này bác sĩ tuyên bố tôi chỉ còn sống được một tháng.

Tóc tôi bạc trắng hết, do dùng thuốc và trị hóa chất.

Sau đó không thể hóa trị nữa, bởi tôi quá suy yếu hết tiếp nhận nổi.

Do hóa trị một nửa diệt tế bào ung bướu, một nửa là diệt tế bào lành.

Mà tình trạng sức khỏe tôi như thế, không thể trị hóa chất tiếp được nữa.

Tôi yếu đến không thể đi đứng, chỉ cần nói chuyện vài câu là chóng mặt muốn xỉu.

Tôi không thể nói mà cũng không còn sức lực chi.

Sau đó, nghe con tôi kể có Hòa thượng Thể Huệ đang tổ chức Phật thất, nghe đồn lực gia trì của Phật thất này rất mạnh... thế là tôi ngỏ ý muốn tham dự thử...

Nhưng ông xã và mẹ chồng lẫn mẹ ruột tôi đều không cho đi.

Nhất là mẹ ruột tôi, bà rất cưng tôi, khăng khăng tuyên bố thà để tôi nằm nhà trị bệnh mà chết, chứ nhất quyết không cho tôi đi vào con đường mê tín như vậy!...

Bà bảo nếu tôi cứ liều lĩnh đi thì với tình trạng sức khỏe suy như thế này, e rằng tôi chưa đến nơi thì đã... bỏ xác trên hỏa xa!

Sau đó con trai tôi ra sức thuyết phục, nó thưa với mẹ tôi:

- Ngoại ơi, xin đừng ngăn cản mẹ cháu nữa, bà yêu con gái thì cháu cũng biết thương mẹ mình vậy?!

Nếu cứ để mẹ cháu nằm nhà chờ chết... thì chi bằng hãy cho mẹ thỏa nguyện, được toại ý đến với Phật pháp, làm cuộc thí nghiệm thử xem sao?...

Lúc đó bác sĩ tuyên bố với cả nhà tôi rằng:

- Mạng sống cô này chỉ còn một tháng nữa thôi, cô thích ăn gì thì cứ cho ăn...

Mẫu thân không cho tôi đi, là vì muốn trong thời gian cuối cùng này, được bày tỏ hết lòng yêu thương dành cho con gái...

Khi mẹ đòi rửa chân cho, tôi thực chẳng nỡ để mẹ làm vậy, nhưng vì muốn làm bà vui, tôi đành để mẹ tùy ý... (không muốn bà phải ôm áy náy sau khi tôi chết đi), vì vậy mà đành chia chân ra cho mẹ rửa...

Lúc mẹ rửa chân cho, tôi rơi nước mắt đầm đìa...

Khi mẹ đồng ý, chịu cho phép tôi đi thì con trai tôi (lúc đó là sinh viên theo học ở Viện nghiên cứu), liền xin nghỉ học, để hộ tống tôi đến Phật thất.

Phật thất tổ chức tại Bảo Lâm Thiền Tự ở Cẩm Châu (Liêu Ninh), tôi khi đó bước đi không vững, nhờ có con trai và một bà bạn ở Hắc Long Giang, đồng phụ đỡ dìu, đưa tôi đi.

Đến Phật thất, hằng ngày tôi phải bái Phật tới ngàn lễ, tu toàn là niệm Phật, lễ Phật...

Vậy mà kỳ tích xuất hiện.

Tại Phật thất, sư phụ dạy tôi: "Khi niệm Phật, gì cũng không nghĩ đến, tâm không tạp loạn, chỉ chú tâm niệm Phật thôi"...

Rồi sư dạy tôi lễ Phật, tôi thọ Bát quan trai giới, hành trì theo đoàn thể.

Sau đó trong khoảng thời gian từ ba đến năm ngày, tôi rất mừng vì không còn ho nữa.

Thấy tôi ngưng ho thì sư phụ bắt tôi lễ Phật, mỗi ngày phải lễ tới ngàn lạy, mà với tình trạng bệnh lúc đó, tôi đứng còn không vững thì nói gì đến lạy?

Tôi nghĩ "Vì sao sư phụ vẫn bắt con lễ Phật chứ?"... thế là tôi khóc, vì lễ không nổi nên tôi bật khóc...

Nhưng sư phụ vẫn không mềm lòng, ông cương quyết ép tôi phải lễ Phật!

Dù lễ không nổi vẫn phải lễ!

Nghĩa là có lễ được hay không, tôi cũng phải lễ!

Tôi lễ Phật được một tuần thì sư phụ bèn đi thật nhanh quanh đạo tràng, tôi cũng phải "chạy" theo.

Bởi vì tôi bệnh phổi, trong phổi ứ đầy tạp chất, không thông.

Tôi không còn khí lực và nói chẳng ra hơi, vậy mà còn phải "chạy", rất dễ bị ngạt thở chết...

Tôi không dám chạy, nhưng sư phụ khuyến khích tôi, tôi bèn thí nghiệm chạy thử, bước từng bước thật nhanh, ôi chao, từ từ tôi cảm thấy dễ chịu, thế là tôi yên tâm rảo bước theo sư phụ; lên lên xuống xuống, lòng rất vui.

Tiếp đến tuần thất thứ hai: Phải leo núi.

Sư phụ hướng dẫn tôi đi.

Thấy ngài leo núi, tôi không dám lên theo, vì sợ mình sẽ chết.

Bởi tôi biết rõ sức khỏe của mình khó kham nổi, nhưng sau đó sư phụ đến dìu tôi và nói:

- Triệu Lệ Bình hãy ráng lên núi nhé!

Tôi nghĩ "Phải nghe sư phụ thôi", ngài dạy gì tôi đều vâng theo, thế là tôi ráng sức lên núi.

Núi này cao, dốc đứng, đường toàn là dốc... tôi bò từng bước, lên được tới đỉnh tôi mừng đến lệ tuôn đầy mặt.

Tôi đứng trên núi thầm nghĩ: "Thực là ngoài sức tưởng, không ngờ mình có thể leo lên và đứng được trên đỉnh núi"...

Lặng ngắm màu trời biêng biếc, cây cối xanh tươi, tôi cảm động vô hạn, vì chính Phật thất của sư phụ đã cứu vớt vả ban cho tôi mạng sống lần thứ hai...

Sau đó tôi tham dự từng đợt, từng đợt Phật thất của sư phụ tổ chức, mãi cho đến hiện tại.

Hồi đó khi tôi bệnh đầu tóc bạc hết hai phần, còn một phần thì ngả màu tro xám xịt.

Nhưng tôi vẫn một bề theo sư phụ đả thất.

Đến bây giờ khi các bạn đạo gặp lại tôi, họ đều suýt soa:

- Ôi chao!

Tóc Lệ Bình đen lại rồi nè, hay thật đó nha!

Họ đứng trước tôi trầm trò ngắm nghía và cứ khen mãi.

Tôi thật là vui.

Trước đây ở nhà mỗi khi dùng bữa, tôi đều phải ăn cháo.

Vì vậy khi đến dự Phật thất tôi rất lo, bởi ở đây toàn ăn cơm, tôi nghĩ "bao tử mình bệnh nặng như thế, làm sao ăn cơm được?"...

Nhưng sau khi tôi theo dự Phật thất rồi, hiện nay nếp sinh hoạt chẳng hề khác người, tôi ăn dễ dàng, hơn nữa mặt mày khí sắc còn rất hồng hào, thật đó!

Bây giờ, khi theo mọi người nhiễu Phật, niệm Phật, tôi rất muốn niệm lớn tiếng.

Hồi trước lúc mới tham dự, tôi niệm chẳng có hơi, khó thành tiếng, giờ đây tôi đã có thể niệm ra tiếng và còn niệm lớn...

Về các bệnh khác như ung bướu tử cung, buồng trứng v.v... hiện tại tôi chẳng thèm đi khám hay kiểm tra chi, tôi tự biết nó đã ổn, vì sao ư?

Tôi ba mươi mấy tuổi bắt đầu bị ung bướu, bặt kinh nguyệt đã ba năm...

Trước đây bác sĩ từng nhắc tôi phải lưu ý: "Hễ thấy có hiện tượng ra máu lần nữa, thì coi như tiêu ma!"

Tôi hỏi:

- Tại sao?

Ông đáp:

-Tử cung bà đầy bướu, nó mọc chen chúc dồn ép, nếu mà vỡ ra, ắt là đại xuất huyết, thì phải chết thôi!

Lại thêm hai buồng trứng bà đều có bướu, cực kỳ xấu...

Sau khi tôi tham gia Phật thất của sư phụ, rồi dự các Phật thất kế tiếp nữa, thì đột nhiên trong thời gian này tôi cảm thấy bụng mình rất đau, đau dữ dội...

Xong Phật thất thì sư phụ quay về Đài Loan.

Còn tôi thì về quê mình ở huyện Bảo Thanh, thầm nghĩ: "Nếu sư phụ mở Phật thất nữa thì tôi sẽ tham dự tiếp"...

Về nhà rồi, tôi bỗng thấy phần bụng của mình cực kỳ nóng.

Như có luồng điện đang nung nấu và tỏa khí nóng khắp bụng dưới, khiến tôi cảm giác có chút đau.

Tôi nghĩ thầm: "Vì sao lạ như vậy?"

Tôi thấy tình cảnh mình có thể giống như lời bác sĩ từng cảnh báo là: "Mạng sống sẽ .. tiêu ma, e xảy ra đại xuất huyết"... nên vội lao vào nhà vệ sinh, bỗng nghe hạ thể kêu "xòa" một tiếng lớn, rồi trong bụng có vật gì tuôn ào ra... tiếp theo là cảm giác thư thái dễ chịu...

Khi tôi đứng dậy, nhìn vào bô, thấy toàn màu đỏ, trong có một khối u hình tròn cỡ cái chén nhỏ, mặt bằng phẳng, nhưng xung quanh giống như hoa sáu cánh.

Sau đó, tôi chẳng biết bệnh tình mình tốt hay xấu, liền đi bệnh viện siêu âm: "Rốt cuộc là chuyện gì xảy ra đây?"...

Bác sĩ kiểm tra xong, bảo:

- Bệnh bà lành rồi, không sao hết.

Từ đó, tôi hồi phục như người bình thường.

Chỉ còn bệnh phổi, nhưng tôi dứt khoát không đi khám trị gì nữa, bởi tôi nghĩ: "Đầu tóc mình đã đen lại, bệnh dù không lành hoàn toàn thì thể lực tôi cũng rất tốt, khỏe như thế này là đủ rồi".

Hiện giờ, tôi đã có thề làm việc, sinh hoạt bỉnh thường như bao người.

Nhờ cơn bệnh khốc liệt này của tôi mà bố chồng, mẹ chồng, mẹ ruột, chú út, thím út, em trai, em gái... tất cả thân nhân từng chứng kiến cảnh tôi từ bệnh thoi thóp đến khỏe an và bây giờ việc gì cũng có thể làm được thì ai nấy đều tán thán: "Phật pháp thực vi diệu, không thể nghĩ lường!".

Không chỉ khen như vậy thôi đâu, mà tất cả bọn họ đều xúm nhau ăn chay niệm Phật hết ráo.

Bố chồng tôi năm nay 81 tuổi, trước 1949 ông là nhà cách mạng lão thành, lập chiến công, huân chương nhiều, ông chỉ tin chủ tịch Mao thôi, ngoài ra không tin gì khác.

Nhưng bây giờ tất cả đều làm giống nhau: quay sang ăn chay niệm Phật, tu tinh tấn.

Chú Hai (em chồng tôi) trước đây là chủ tiệm ăn Bảo Thanh nổi tiếng.

Vì đây là nhà hàng bề thế nổi danh, ai cũng biết.

Ngày nào cũng giết một số lượng vật rất lớn vì lúc nào cũng có người đặt tiệc ít nhất mười bàn, nên tiệm phải giết đủ thứ hải sản tươi sống gồm: Cá, tôm cua, hải sâm v.v... nghĩa là sát sinh vô số, không thể đếm hết... và thu được rất nhiều tiền.

Nhưng thông qua cơn bạo bệnh của tôi, vợ chồng chú Hai cương quyết bỏ nghề.

Họ chuyển đến phố Thông Hoa làm công cho người, triệt để từ bỏ nghiệp sát.

Từ khi chửng kiến cảnh trạng của tôi, không riêng gì người nhà tôi quay sang ăn chay niệm Phật mà kể cả các bạn khắp huyện Bảo Thanh, ai cũng đều tin sâu Phật pháp .

Tu hành chân chính là như thế.

Tôi đặc biệt tri ân sư phụ, kể từ khi theo dự Phật thất của ngài, tôi thu được rất nhiều lợi ích.

Không những thân được đại lợi, mà tâm cũng thăng hoa, tiến cao.

Tôi học được rất nhiều điều hay từ ân sư.

Phật thất của sư phụ không những cứu mệnh tôi, mả còn giúp tôi noi theo đức hạnh cao cả của ngài (tôi nói đúng câu này, bởi tôi không phải là người tốt!).

Lần đầu, khi nghe mọi người bảo:

- Có lão Hòa thượng Thể Huệ từ Đài Loan sang Đại Lục tổ chức Phật thất"...

Khi đó tôi chưa tin đạo, không hiểu gì về Phật giáo, nên rất ngạo mạn.

Dù không biết rành về ngài, tôi vẫn mở miệng phỉ báng, đàm tiếu...

Tôi dùng thành kiến vô thần của mình để đo lường, tưởng tượng xấu, rồi mặc tình phê phán dè bĩu...

Tôi chê:

- Vị sư này bất hảo đủ điều... không có chỗ nào được hết!...

Ngay khi viết những dòng này tôi rất ăn năn, chỉ muốn thốt to lên rằng: "Sư phụ!

Con xin thành tâm sám hối với ngài!"...

Cho đến lúc tôi bị bệnh nặng nằm bên cửa tử, mới khởi tâm muốn đi dự Phật thất, vì nghe đòn sức gia trì từ Phật thất của ngài rất mạnh và linh! (tôi đi để cầu may thôi).

Những nghiệp ác tôi làm như sát sinh, phá thai, phỉ báng, gièm chê sau lưng ngài v.v... tất nhiên là sư phụ biết hết, ngài biết rất rõ nhưng vẫn luôn từ ái quan tâm chăm sóc một kẻ đại ác, đại sát sinh, đại khẩu nghiệp... như tôi!

Bất kể đi đâu, ăn gì, ngài đều để dành phần cho tôi và giải thích rằng: Triệu Lệ Bình bệnh hoạn suy yếu lắm, hãy đem cho cô ta dùng...

Tại Phật thất ngài cứu mạng tôi bằng cách giáo hóa vừa nghiêm khắc, vừa bao dung... và một kẻ ngạo mạn vô thần như tôi đã bị đức hạnh cao tột của ngài cảm hóa, chiết phục...

Sư phụ càng đối tốt, càng ưu ái thì tôi càng cảm thấy ăn năn xấu hổ, càng bội phục và tri ân...

Từ đó, tôi thành tâm theo dự các Phật thất của ngài liên tục gần ba năm.

Tính ra sư phụ đã tổ chức hơn 50 Phật thất, trong suốt thời gian này, sư phụ không phải chỉ đối tốt với riêng mình tôi mà là với tất cả...

Vì vậy mà tôi rất tôn kính ngài.

Nên khi bệnh lành rồi tôi vẫn còn muốn theo dự Phật thất của sư phụ, vì muốn học theo đức hạnh của ngài.

Lúc tôi ở Ngũ Đài Sơn, có gặp một cô bé khoảng 16 tuổi người Tây An, em mắc chứng bệnh hễ ăn vào là ói.

Trước đây em vốn rất xinh đẹp, khả ái, thanh tú...

Nhưng từ khi bị bệnh, em tăng cân vùn vụt, từ 45 kí thành 85 kí, phục phịch mập phù.

Em đi khắp nơi tìm thầy, do em là cô nhi, không cha mẹ, nên rất đáng thương.

Sư phụ cũng cho phép em đi theo ngài.

Lúc đó tôi nghĩ: "Sư phụ, sao lại làm như thế, con bé này bị chứng nan y, ngải dẫn nó theo bên cạnh, lỡ như mà bệnh không khỏi, thì sẽ làm tổn thanh danh ngài!"

Lúc đó tôi vì lo cho sư phụ nên nghĩ vậy, nhưng sư phụ chẳng hề quan tâm tới điều này.

Ngài bảo tôi: Lệ Bình!

Con bé đáng thương quá!

Con hãy xem nó như con và quan tâm chăm sóc nha!

Con bé đó một bề đi theo tham dự các Phật thất của sư phụ cho đến tận Ngũ Đài Sơn.

Sau đó thì nó không theo nữa, vì bệnh đã hết.

Nó phải về nhà làm việc.

Suốt thời gian theo sư phụ, tôi học được rất nhiều bài học quý từ đức hạnh của ngài.

Những phẩm chất cao thượng mà thuở giờ tôi chưa từng chứng kiến qua.

Cho nên dù bệnh lành rồi tồi vẫn tiếp tục tham dự Phật thất của sư phụ, tôi rất muốn học tập theo ngài.

Trong lòng tôi ngài là một cao tăng đức hạnh cao tột, là vị đạo sư cực kỳ vĩ đại trên thế gian.

Ngài đã làm tôi khâm phục, cảm động đến rơi lệ.

Càng theo sư phụ đả thất, tôi càng thấy đức hạnh sư phụ chói lọi, bởi vì trong cuộc sống thế tục này, tôi chưa từng gặp qua ai có phong cách như vậy, khi tiếp xúc với bậc chân tu mẫu mực như ngài, tôi mới biết thế nào là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo...

Phụ thân tôi vốn là giảng sư cao học, mẹ tôi cũng là giáo sư đại học.

Không những tôi tiếp thu đầy đủ tri thức của ba mẹ mà còn tốt nghiệp bằng cấp cao, nên những người tôi tiếp xúc đều là giới trí thức thượng đẳng.

Con trai út tôi là sinh viên Viện Nghiên cứu Đại học Nông Lâm Vũ Hán...

Có thề nói cả đời tôi toàn là tiếp xúc giao du cùng giới trí thức cao cấp thượng lưu, họ là những người mà tôi coi trọng.

Bởi có câu: "Vạn ngành đều thấp, chỉ học thức là tối cao" (Vạn bang giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao).

Đây là lời tuyên bố của cổ nhân.

Thế nên trong tâm, tôi luôn vọng hướng theo tôn chỉ này, thường nhìn và dõi theo "giới có học thức tối cao" để xem bản thân họ thực sự có tư chất tác phong ưu mỹ tốt lành như cổ thánh tiên hiền hằng ca ngợi hay không?

Nhưng thú thật sau khi tiếp xúc với sư phụ rồi, tôi mới phát hiện: Sư phụ cao tột sáng chói, vượt xa giới trí thức thượng lưu rất nhiều!

Thỉnh thoảng, những lúc đi kinh hành nhiễu quanh Phật, tôi thầm thú nhận:

- Bạch Thế Tôn!

Bây giờ con đã hiểu và cảm ngộ triệt để câu: "Thập phương thế giới ngã tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả!" (Con xem cùng khắp mười phương thế giới cũng không thấy ai tuyệt vời như Phật!).

Chư Phật đúng là từ bi và cực kỳ vĩ đại vậy!

Triệu Lệ Bình



VỊ KHÁCH ĐẾN SỚM

Ngày mai là tiết Thanh minh rồi, từ đầu xuân đến giờ tôi bận rộn suốt, không hề được nghỉ ngơi, mệt đến khí lực chẳng còn.

Hồi chiều lúc giảng pháp cho chư Phật hữu, tôi đuối đến nói không ra hơi, quả thực tôi rất thèm có thời gian được nghỉ, nhưng ước mơ này xem bộ cũng khó với tới.

Khuya nay ngủ không được, tôi quyết định thức dậy tụng khóa sớm.

Như mọi lần, tôi kéo rèm, mở cửa sổ ra... vừa nhìn bên ngoải thì bủn rủn hết hồn, tuy còn khuya nhưng bầu trời ở Đông Bắc tương đối sáng tỏ hơn thành thị.

Do tôi chưa chuẩn bị tinh thần, bỗng thấy trước mặt mình hiện sừng sững một nữ quỷ tóc xỏa dài, hai chân cách đất (không nhìn rõ mặt mày vì tóc đã che phủ hết).

Nếu như bình thường thì tôi không sợ, nhưng hôm nay do chuyện xảy ra quá đột ngột khiến tôi hoảng hốt và kinh ngạc đến há hốc mồm.

Tự trấn tĩnh một lúc, tôi hỏi thần hộ giới việc này là thế nào, họ giải thích:

- Cô gái này thường đến đây, cũng khá lâu rồi, không ngờ hôm nay bị phát hiện, có lẽ cô cùng người có duyên.

Do chúng tôi hằng ngày luôn tụng kinh hồi hướng cho chúng sinh, nên có thể là nữ quỷ này đến để nghe buổi tụng khóa sớm chăng?

Thần bảo tôi: Nếu muốn giao lưu với nữ quỷ này, xin người hãy định tĩnh, dùng tâm trò chuyện với cô ta.

Thế lả tôi liền định tĩnh, nhắm mắt lại, dùng tâm để giao cảm...

Tôi hỏi nữ quỷ bằng tư tưởng:

- Vì sao cô hiện hình nhát tôi?

Tôi vừa mới hỏi thì nữ quỷ bật khóc, tôi không hiểu gì, cũng chẳng biết làm sao để cô ngưng khóc, liền đưa tay sờ vào cô định vỗ về.

Bởi vì tôi chưa bao giờ dùng tay chạm qua chúng sinh cõi quỷ, nên bây giờ vừa sờ vào phát hiện cảm giác trống rỗng như hư vô, tôi rất ngạc nhiên và ngơ ngẩn, không biết làm sao an ủi cô.

Nhìn thái độ chưng hửng của tôi, nữ quỷ bắt tức cười, lên tiếng:Tôi biết người tên gì, cũng biết người luôn tụng kinh cầu cho tất cả chúng sinh.

Tôi nghe kinh đã được một tháng rồi, hôm nay có ý muốn đến sớm một chút, nào ngờ bị người thức dậy quá sớm và phát hiện!

Người mệt như thế mà hằng ngày còn bỏ công để tụng kinh cầu cho chúng tôi, thật rất cảm tạ!...

Ngừng một lát, nữ quỷ lại bảo tôi:

- Xin người hãy niệm "Nam Mô Diệu Sắc Thân Như Lai" thì lập tức hình dạng tôi sẽ chuyển tốt, không làm người sợ nữa.

Bởi tôi e hình dáng quỷ của mình sẽ gieo kinh hãi, cho nên mới cố tình cho tóc xõa dài che kín mặt... cũng xin người hãy giữ khoảng cách xa tôi một chút, vì loài chúng tôi âm khí rất nặng, sẽ làm tổn hại đến người, đó là điều tôi hoàn toàn không muốn...

Tôi liền làm theo lời nữ quỷ yêu cầu, chắp tay chí thành niệm "Nam Mô Diệu sắc Thân Như Lai" mười lần.

Kỳ tích xuất hiện: nữ quỷ liền biến thành xinh đẹp, đầu tóc vén lên gọn gàng, khiến tôi đã có thể nhìn rõ mặt: Trông cô rất khả ái.

Nữ quỷ xin tôi sau này hãy niệm nhiều danh Phật cho, vì rất có ích cho chúng sinh.

Tiếp đến cô kể tôi nghe, cô là người sinh ra ở địa phương này, năm 19 tuổi nhảy lầu chết.

Cô kể mình hiện là oan hồn cô độc, do tội tự tử nên không được đầu thai, phải ở nơi cõi âm thọ khổ, làm quỷ phiêu bạt vất vưởng trong nhân gian.

Tôi hỏi: Vì sao cô chẳng đọa địa ngục?

Cô đáp:

- Ác nghiệp của tôi chưa đáng phải vào địa ngục.

Nhưng dù tôi không xuống địa ngục, thì những khổ hình phải nếm qua cũng không khác địa ngục là bao.

Bởi vì hằng ngày cứ đúng giờ khắc tôi đã tự sát chết như thế nào, thì phải tái diễn lại y hệt vậy, nghĩa là tôi phải tiếp tục đứng trên lầu nhảy xuống tự tử, nếm lại cảm giác vong thân đau đớn tột cùng.

Tôi đã phải diễn cảnh nhảy lầu này suốt 10 năm rồi, ngày nào cũng phải tái hiện cảnh tự tử như thế, khổ không thể tả, chưa kể kiếp quỳ bất như ý, vất vưởng đói khát, khổ hơn làm người ức vạn lần.

Nếu biết thế này tôi đã không tự tử làm chi!

Nữ quỳ kể mười năm trước sau khi cha mẹ cô ly hôn rồi, tòa phán quyết cô về ở với mẹ.

Nhưng mẹ cô tục huyền, thành ra cô có cha ghẻ.

Sau đó vì ông cha ghẻ đồi bại này cưỡng hiếp cô, cô mách lại với mẹ ruột, nhưng bà chẳng những không tin mà còn đuổi cô ra khỏi nhà.

Thế là cô phẫn uất đứng từ trên lầu nhà mình, nhảy xuống tự sát...Cô còn mách rõ địa chỉ nơi nhà cô ở, bảo rằng nếu không tin thì tôi có thể điều tra kiểm chứng!

Cô nói:

- Chẳng phải nhả đồ đệ người ở gần nhà tôi hay sao?

Vì cách nhà mẹ tôi chỉ có mười một căn.

(Chiều đó tôi có phái đồ đệ đi điều tra sự tình, đúng là đã tìm ra nhà mẹ nữ quỷ. khi hỏi thăm, láng giềng cũng xác nhận là thực có việc này).

Nữ quỷ lại kể tôi nghe cô đã báo thù mẹ và cha ghẻ - làm cho bố dượng bị mắc bệnh ung bướu ác tính, còn mẹ cô phải ly hôn.

Cô vừa kể vừa khóc, than rằng vì sao cô báo mộng cho mẹ, xin bà tụng kinh cho cô, nhưng bà lại chẳng tin?

Cô bảo tôi, cô làm cho mẹ bị dã quỷ hành hạ, thân thể không an, ngày đêm khốn đốn... cô muốn mẹ tin nhân quả, sám hối những tội lỗi bản thân bà đã làm, đề tương lai thoát khổ...

Tôi cảm động vì cô tín nhiệm tôi, cảm tạ cô cho biết sự thật.

Tôi rất não lòng vì thấy cô quá đáng thương.

Mới 19 tuổi đầu, mà sao cô quá khổ như thế...

Tôi khuyên cô hãy buông bỏ oán hận và hứa sẽ sai đồ đệ đến tìm mẹ cô.

Tôi giải thích hiện tại sức khỏe tôi không tốt, nên tôi muốn ở nhà nghỉ dưỡng.

Tôi sẽ nhờ đồ đệ liên lạc mẹ cô, bởi vì chúng tôi chưa từng quen biết bà, nếu kể rõ mọi việc về tình cảnh và tâm nguyện của cô, nhất định mẹ cô sẽ hiểu và tin, minh bạch nhân quả.

Cô nghe xong rất mừng, còn khoe rằng cô nghe tôi tụng kinh Địa Tạng đã một tháng rồi, khoảng 6 tháng nữa cô sẽ được sinh về cõi trời, đến một nơi rất tuyệt mỹ...

Cô còn nói: Người thế gian hiện tại ngu giống y như tôi hồi xưa!

Tuy được mang thân người nhưng đa số bọn họ thảy đều không biết trân quý.

Vì vậy người nhất định phải viết ra, tả rõ về nỗi khổ của tôi cho mọi người biết, khuyên họ không nên tự tử, phải hiểu rằng quả báo tự sát rất đáng sợ, rất thống khổ - chẳng thể tưởng tượng nổi đâu!

- Được mang thân người là rất quý hiếm mà không biết, nếu cứ mê muội phụ bỏ thân người rồi sa vào cõi quỷ thì sẽ khổ vạn bội!

Thống khổ này không kể xiết.

May nhờ có người và chư vị khác tụng kinh Địa Tạng hòi hướng cho các oan hồn cô quỷ, nên tôi còn phúc duyên may mắn đến nghe mà tương lai được thăng thiên...

Nói xong, cô bảo tôi:

- Gà gáy rồi, tôi phải đi ngay, vì tôi không thể nhìn thấy thái dương!

Nữ quỷ đi rồi, tâm tư tôi trở nên nặng nề, thầm nghĩ: "Người thời nay chỉ tin vào những gì mắt họ nhìn thấy, hoàn toàn chẳng biết bệnh trên thân mình là do oan gia trái chủ tìm đến trả thù, báo oán...

Người ta ngày ngày vào bệnh viện, mà chẳng biết ở nhà nên tụng kinh, phóng sinh, sám hối, thành tâm ăn năn... lo tịnh hóa thân khẩu ý, phục thiện, để cứu chuộc các tội đã làm...

Mà dù họ chịu thực hành đi nữa, nhưng chỉ cần tụng vài biến kinh chưa thấy có hiệu quả, thì đã vội kết luận là: Phật gạt lừa người, rồi vứt hết công phu tu!

Tại sao bọn họ không chịu nghĩ đến bản thân mình nhiều đời nhiều kiếp đã từng tạo biết bao tội nghiệt chứ?

Con người thói thường lảm gì cũng muốn thu vào, không chịu cho ra!"...

Hiện tại tôi rất đuối mệt vì chuyện giao tiếp.

Bởi tính tôi hay nói thẳng, dễ đắc tội với nhiều người.

Nhưng các bạn có biết chăng?

Hiện nay người nói lời thật không có nhiều đâu!

Tôi viết như vậy không có ý gỉ khác, chỉ muốn nói rằng những lời xây dựng giúp bạn hoàn thiện phẩm hạnh thì nên chịu khó lắng nghe, tiếp thu.

Ngày mai là tiết Thanh minh rồi, người ta sẽ đốt vàng mã bên đường rất nhiều, nhưng tôi không thấy vui chút nào!

Các bạn biết vì sao không?

Bởi tôi nghĩ thay vì đốt vàng mã, các bạn nên tụng nhiều bộ kinh Địa Tạng hồi hướng cho người đã khuất, thì tổ tiên và thân nhân các bạn sẽ được nhiều lợi ích!

Nếu có thể tu sửa bản thân, ăn chay, hành thiện, phóng sinh, bố thí, tụng kinh...

đem công đức đó hồi hướng cho quyến thuộc nhiều đời tiêu nghiệp, siêu bạt toàn bộ thân nhân đã khuất, thì đây mới là đại hiếu chân chính!

Đang viết đến đây, thì chợt nghe ông lão dưới lầu qua đời, con cái báo hiếu bằng cách mướn nguyên đội nhạc, cho đàn, trống rùm beng: Diễn tấu um sùm, có đủ các khúc ca cổ lẫn ca tân...

Mắt tôi bỗng ướt đẫm: 'Trời ạ, đến bao giờ người ta mới hiểu và chịu thực hành hiếu đạo chân chánh đây?"

Xem bộ hôm nay đội nhạc đang hòa tấu ầm ĩ kia sẽ quấy rầy tôi và cả khu phố này suốt đêm!

Chân Ngữ

LND: Trước đây khi nghe ngài Tuyên Hóa giảng là những người tự tử chết đi rồi ngày nào cũng phải diễn lại cảnh tự sát của mình, tôi hoài nghi không tin, nhưng bây giờ câu chuyện này đã khiến tôi phải suy gẫm....

Thêm nữa, kinh Phật nói rằng: "Danh hiệu Phật có uy lực thù thắng vi diệu vô cùng, do công đức tu tập hoàn hào và đại nguyện của các Ngài chiêu cảm nên''.

Chúng ta ở cõi người, có muốn kiểm chứng thì cũng là kinh nghiệm cá nhân tự biết, do không phổ cập nên ít người hiểu rõ.

Khi dịch câu chuyện tới chỗ nữ quỷ yêu cầu niệm "Nam Mô Diệu Sắc Thân Như Lai'' - là một trong bảy vị Phật được nêu danh xưng niệm trong bài Thí thực cúng vong, thì nhan diện cô lập tức chuyển tốt - chứng tỏ cổ đức khi biên soạn bài kinh này đã hiểu sự huyền diệu của các Thánh danh, ở cõi người chúng ta không thấy biến hình rõ rệt và nhanh như cõi quỷ: nghĩa là khi các pháp hội lễ sám được tổ chức, các chúng sinh vô hình đến nghe kinh, phát tâm hoan hỉ, thiện lành, nhờ đó mà sắc thân chuyển tốt, nếu là quỷ đói thì được no đủ, thậm chí còn được chuyển sinh sang thiện cảnh ngay, nhờ chuyển ác tâm thành thiện tâm.

Do đó mà chư thánh xưa thường tổ chức lập đàn tràng sám pháp cầu cho người dương kẻ âm, trên bờ dưới nước...

Nhưng để người cầu cho, vẫn không bằng tự tu!

Kinh cũng giải thích nếu nhờ người cầu hay tạo phúc cho, thì người thực hành sẽ hưởng phúc sáu phần, còn kẻ được hồi hướng chỉ hưởng được một phần và các kinh điển luôn nhắc: bản thân mỗi người nên tự tu để hưởng trọn thành quả công phu.

"Kinh Địa Tạng" được xác nhận là một bộ kinh tiêu tội tiêu nghiệp, tăng công đức rất nhanh, nhờ uy lực đại nguyện của ngài Địa Tạng, nhưng đã có người bệnh nan y, lo phóng sinh, hành thiện, tụng đến 108 bộ mà vẫn không có kết quả.

Khi họ hỏi, Quả Khanh giải thích là: "Do người tụng còn ăn mặn.

Vì vậy người ăn mặn tụng sẽ không linh!

Phải cữ ngũ tân, ăn chay trì giới, giữ thân khẩu ý thanh tịnh và định tâm chuyên nhất mà tụng sẽ thấy hiệu quả rất nhanh"14 Việc này xin để độc giả tự thực nghiêm kiềm chứng.



TỰ TỬ ĐI VỀ ĐẦU

Tôi là một cư sĩ ăn chay trường, giữ ngũ giới của Phật.

Tôi rất ngưỡng mộ lời nguyện: "Địa ngục chẳng trống, thề chưa thành Phật!" của Bồ tát Địa Tạng.

Trong "kinh Địa Tạng" phẩm đầu tiên kể Thánh nữ sau khi niệm Phật một ngày đêm liền thấy mình xuống địa ngục, biết được chỗ mẹ thác sinh...

Tôi rất thích và cảm thấy thật an ủi khi đọc đoạn kinh:

"Nếu người có thể trong hai mươi mốt ngày nhất tâm chiêm lễ hình tượng Bồ tát Địa Tạng và niệm danh hiệu của Ngài đủ một vạn biến, thì sẽ được Bồ tát hiện thân vô biên, nói cho người đó cõi giới mà quyến thuộc của họ đã sanh về.

Hoặc trong giấc mộng, Bồ tát hiện đại thần lực, đích thân dắt người đó đến các thế giới để gặp quyến thuộc của mình"

Mỗi khi xem báo đài thấy đăng tin người tự tử nhan nhản, tôi buồn vô hạn.

Vì vậy tôi rất khát khao muốn biết những người tự tử, sau khi chết rồi, sẽ đi về đâu?

Trong kinh Địa Tạng phẩm 12 có ghi:

"Những người được nghe danh và thấy hình tượng Bồ tát Địa Tạng rồi chí tâm qui y, có thể mỗi ngày niệm danh Bồ tát ngàn biến, luôn đến ngàn ngày, thì điều nguyện cầu của các thiện nam thiện nữ đó sẽ chóng được thành tựu, vĩnh viễn không bị chướng ngại".

Vì vậy, tôi đã thực hiện rất nhiều, nhiều hơn lời trong kinh dạy, nghĩa là trường kỳ tụng niệm, lo tu sửa từng tâm niệm và thiết tha lễ bái Bồ tát Địa Tạng suốt một thời gian dài, chỉ nguyện một điều: "Xin cho con khai mở trí tuệ, được nhìn và hiểu thấu suốt, biết rõ người tự tử sẽ đi về đâu?"

Cuối cùng thì ước nguyện này cũng đạt thành.

Trong mơ, tôi thực sự được đi đến cõi mà những người tự tử trú ngụ, và minh bạch hết mọi vấn đề. (Trong kinh Phật tả có sáu cõi: Trời, Người, Atu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh.

Vì vậy khi tôi tả về cõi Quỷ, hy vọng bạn không ngạc nhiên) cũng có một số ít người trực tiếp thấy nhưng phần đông người ta không thấy. (Song những người gần mất, khí lực suy tinh thần yếu, cũng rất dễ nhìn thấy người bên cõi âm).

Bây giờ mời chư pháp hữu hãy xem để cùng chia sẻ kinh nghiệm quý giá này với tôi:

"Cõi âm khí rất lạnh, vì vậy khi tiếp xúc hay tham quan cõi âm rất cần có định lực mạnh, thệ nguyện lớn, tinh thần trong sáng.

Cõi Quỷ cũng rộng lớn vô biên, được phân thành nhiều khu vực.

Bạn đừng cho rằng tự sát là hết khổ, mà chính là mở màn cho thống khổ ngút trời.

Cho dù vì tình, vì thiếu nợ, vì đủ lý do v.v... mà bạn muốn nhảy lầu, nhảy sông, uống thuốc độc, cắt mạch máu, cứa cổ, treo cổ v.v... khởi niệm tự tử ...

đủ cách đủ kiểu... nhưng hễ là tự sát, thì sau khi chết rồi những thống khổ phải nhận lãnh càng thê thảm hơn.

Người tự sát, chết rồi linh thức lập tức bị giam cầm, chìm trong khốn khổ triền miên.

Phải biết tự tử có ba tội nặng:

1.

Bất hiếu với song thân.

2.

Tự hủy hoại hình hài, phụ phúc báu hy hữu được làm người, không biết quý trọng mạng sống.

3.

Ngu si vô trí.

Thân ta là do cha mẹ sinh, sống đã không tận hiếu báo ân cho cha mẹ, không làm việc ích đời lợi người, lại ngu muội tự hủy hoại, giết thân minh.

Đây là tội cực kỳ nặng.

Phải biết thân người khó được, Phật pháp khó nghe.

Kiếp này bạn được mang thân người sao lại khinh thường hủy hoại?

Do lỗi phụ bỏ thân người nên bạn sẽ rất khó có được thân người lại.

Tự tử lả quá ngu si vậy.

Thí như bạn vì thiếu nợ nên chọn tự tử, thì phải hiểu là đời này nợ chưa trả xong, thì sau vẫn phải trả nhiều hơn, hiện tại còn gánh thêm đại tội tự tử nữa, đây gọi là khổ chồng khổ!

Phải biết người tự sát chết rồi, sẽ lãnh khổ báo rất thảm.

Những người tự tử sau khi chết rồi sẽ không ngừng diễn lại động tác tự sát đó.

Thí như anh A vào 2 giờ chiều nhảy lầu tự sát, sau khi chết đi, linh thức anh sẽ bị giam cầm thọ khổ, và cứ loanh quanh ở vùng mình tự sát.

Hằng ngày hễ đến đúng giờ khắc đã tự tử, thì anh sẽ trở lại đúng địa điểm, ngôi lầu đó... mà diễn cảnh tự sát một lần.

Ngày nào cũng phải diễn như vậy, diễn mãi động tác hủy thân đó cho đến khi tuổi thọ hết.

Ví dụ như tuổi thọ anh được định là sống tới 70, nhưng vào năm 40 anh tự tử, thì sau khi chết rồi, ngày nào anh cũng phải diễn lại cảnh tự sát này, có nghĩa là anh phải... nhảy lầu suốt 30 năm, cho đến lúc dương thọ tận.

Hơn nữa hằng ngày, những tư tưởng cực kỳ thống khổ của giây phút tự sát, cộng thêm đau đớn trên thân cũng đồng loạt tái hiện lại, hoàn toàn giống y.

Nghĩa là mỗi ngày, anh phải tái lập và thể nghiệm thảm cảnh tự sát một lần, ngoài thời gian này thì anh bị nhốt tại khu "Phạm nhân tự sát" để thọ hình phạt.

Trong khu "vong tự sát" trú ngụ này phi thường u ám, rất ẩm ướt và hôi thối.

Trong đây, tâm ai cũng ôm đầy oán hận, tiếng rên khóc bi thương, thở than không ngừng...Nơi này không có nhà hay giường, không truyền hình, yến tiệc, không thức ăn v.v... gì cũng đều không tất!

Chỉ có thống khổ và khóc lóc mà thôi.

Tôi tiến đến một phòng giam, bên trong chứa đầy vong tự sát, oán khí xung thiên, phi thường khó chịu, nhìn mặt người nào cũng rất thương tâm.

Tôi bước đến gần một vong tự sát, thấy toàn thân anh ướt nhẹp, mắt lõm sâu.

Tôi chào:

- Bạn ổn không?

Anh nghiêng đầu dòm tôi, rồi hỏi:

- Ngài là ai?

- Tôi là người bình thường, phát nguyện đến cõi âm để biết những người tự sát chết rồi cảnh giới của họ sẽ ra sao?

Anh ta nói:

- Cần chi phải hỏi, nhìn là đủ biết tôi quá thống khổ rồi!

Tôi không biết nói sao đề diễn tả tâm tình hiện tại của mình, chỉ có thể nói là tôi...

KHỐ!

RÁT KHỔ!... mà thôi!

- Vì sao toàn thân anh ướt hết vậy?

- Do tôi nhảy sông tự tử...

- Nhưng tại sao anh tự sát?

- Tôi không muốn kể ra đâu, xin đừng có hỏi nữa!

- Được rồi!

Chào anh!

Tôi bước đến chỗ khác.

Thấy trước mặt mình là một nữ nhân, liền hỏi:

- Này, vì sao bạn lại ở nơi này?

Chị ta đáp:

- Ngài có thể giúp tôi tìm một đứa bé không?

Cầu xin ngài đấy.

Tôi hỏi:

- Con của chị ư?

- Đúng vậy.

Tôi cho con gái tự sát theo mình, nhưng giờ không biết bé ở đâu?

Bởi sau khi tự sát xong thì tôi liền bị áp giải vào đây, còn đứa con thì không thể tìm ra bóng dáng nó.

Tôi rất đau khổ...

- Con gái chị hiện được ở một khu vực khác, chờ đi đầu thai.

Bởi vì chị tự ý đoạn mạng con trẻ hoàn toàn không có sự đồng ý của nó nên tội chị rất nặng.

Do con chị còn bé ngây thơ chưa biết gì nên không bị tính vào tội tự sát, vì vậy mả nó được đưa đến nơi khác.

- Thế ư, không ai nói cho tôi biết điều này, tôi van cầu ngài, xin hãy dẫn tôi đi gặp nó có được không?

Tôi không thể dẫn chị đi, vì đây là cõi âm, có quy luật riêng của cõi âm.

Chị nhất định phải chịu quả báo tự sát tại đây, đó là luật!

Chị ta bật khóc thảm thiết....

Tôi đi tiếp một quãng, băng qua một ngọn núi, thì đến một nơi khác.

Trong đây là một khu biệt giam các vong tự sát khác nữa.

Tôi gặp một người đàn ông nơi bụng có đường tét dài và sâu, máu me ràn rụa...

Tôi hỏi:

- Tiên sinh, bụng ông bị sao thế?

Ông đáp:

- Đây là vết thương do tôi dùng dao rạch bụng mình, vì vợ tôi ngoại tình theo trai... nên tôi rất hận "bả"!

- Dù vậy, anh cũng không nên tự giết mình!

- Ban đầu thì tôi giết bả, sau đó mới tự sát!

Tôi chết rồi thì bị nhốt tại đây.

Hằng ngày đều phải về lại nhà tái diễn lại cảnh tự sát.

Tôi đau đớn và khổ lắm, khổ hết chỗ nói...

Tôi than:

- Ôi!

Lại là vì tình!

Tiên sinh ơi, tự sát là tội rất nặng, ông có thề niệm Phật không?

Rồi tôi dạy ông niệm: "Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát!" và bảo:

- Ông nhất định phải niệm, sẽ giảm nhẹ tội báo!

Còn nữa, ông phải sám hối, vì giết người là quá sai, do ông đã giết người lại còn tự sát, tội càng nặng hơn!

Xin hãy nghe tôi khuyên, nhất định phải ráng niệm Phật nhé!

Chỉ thấy ông ta gật gật đầu, không nói gì.

Trước mắt tôi lại hiện từng vong linh lòng đầy hận oán rất đáng sợ, có vong toàn thân toàn thân đầy máu, tuôn chảy không ngừng.

Tận mắt chứng kiến những cảnh này rồi, tôi kinh hãi vô cùng.

Người thế gian đa số cho rằng tự tử lả chấm dứt mọi thống khổ, họ không biết rằng "tự sát chính là mở màn cho thống khổ ngoài sức tưởng bắt đầu".

Thực quá ngu khờ dại dột!

Hèn chi mà thường nghe kể những nơi có người tự tử hay xảy ra cảnh "vong náo" dù không thấy họ.

Bởi vì nếu như nhà, phòng nào đó... trước đây từng có người tự tử qua, thì vong linh tự sát ngày nào cũng phải về diễn lại động tác tự tử này, thế nên nếu phòng nhà đó không có "quỷ náo" thì mới là chuyện lạ!

Vì vậy mà ta thường nghe kể "chỗ người tự tử thường hay có tiếng khóc rên rĩ... dù không thấy người.

Đó là do vong tự sát phải về diễn cảnh tự tử, bị chìm trong tâm niệm bi thương lúc hủy thân...

Phần tôi dù nương nguyện lực Bồ tát Địa Tạng Vương được chứng kiến cõi âm, nhưng thú thực nếu như tôi phải đến ngụ ở nhà hay phòng có người tự sát, chắc chắn tôi sẽ rất khổ tâm, vì sao ư?

Vì hằng ngày mắt tôi luôn thấy rõ cảnh quỷ về diễn lại màn tự sát, lại còn nhìn rõ thảm cảnh họ chết ra sao.

Thế thì làm sao mà an ổn thư thái được?

Giáo lý Phật có những bản kinh siêu độ rất haỵ và kỳ diệu.

Song bạn không thể ỷ lại vào ai đó cầu siêu cho mình trong khi bản thân bạn không chịu tu.

Nếu tâm bạn vẫn đầy ác ý, tà độc... thì vô phương cứu.

Vì cảnh sẽ tương ưng với tâm, tâm tốt chiêu cảnh tốt!

Siêu độ là giúp bạn phát thiện tâm, biết ăn năn sửa sai.

Bạn cần phải tự hoàn thiện bản thân trong lúc sống, đừng ỷ lại vào người, mới là tốt nhất.

Trong kiếp nhân sinh, ai sống mà không có não phiền, không có khổ đau?

Người giữ thân khẩu ý thiện lành thì tâm sẽ hằng an vui.

Khổ là là do bởi mình từng gieo nhân ác.

Khi phải trả quả ác, phải bồi đền nợ cũ thì đâu ai thoải mái dễ chịu?

Ngàn vạn lần xin bạn không nên khởi niệm tự sát.

Phải hiểu: tự sát không giải quyết được vấn đề, chết rồi càng thống khổ hơn!

Nếu cho rằng sống ở thế gian là khổ, nhưng bạn không hề biết kẻ chết vì tự sát sẽ bị nhốt ở khu vực chứa vong tự sát.

Người ngu si cứ tưởng chết là hết, là phủi hết muộn phiền, chấm dứt mọi sầu lo...

Hoàn toàn không biết rằng sau khi tự sát rồi thì thống khổ mới bắt đầu ập đến, cường độ mãnh liệt gấp vạn bội lần cái khổ lúc còn sống.

Còn nữa, sao không biết xót thương, tội cho thân quyến bạn sẽ buồn đau biết bao trước hành vi ngu muội này của bạn?

Bạn không nên đầy mình vào tuyệt lộ.

Người tự sát, sau khi chết và thọ xong quả báo tự sát rồi thì phải đi đến các địa ngục lớn nhỏ thọ hình tiếp, y như trong kinh Địa Tạng từng mô tả... cho đến khi nghiệp tận họ mới có thể thoát ra và đầu thai, nhưng sinh vào đâu, việc này còn tùy thuộc vào nghiệp tạo của họ.

Phật tử Thiếu Hoa

LND: Tôi đẫ đắn đo cân nhắc rất nhiều, cuối cùng thì quyết định dịch bài này, mong có thể cảnh tỉnh những người muốn tự sát.

Trong cuộc sống, cho dù khổ đến tột cùng hay tuyệt vọng đến mấy, xin bạn đừng bao giờ có ý muốn tự tử.

Vì khổ hiện tại không chịu được thì cái khổ sau khi chết còn khốc liệt hơn!

Xin nhớ: Tự tử không phải là kết thúc khổ đau, mà là mở màn cho thống khổ bất tận...

Bởi sống trong đời này ai cũng có khổ đau, chứ không riêng gì bạn, thậm chí có những thống khổ còn tày đình hơn nhưng có người vẫn không trốn chạy mà chấp nhận đối diện, can đảm bước qua để trưởng thành và lớn mạnh... (bởi vực thẳm là nấc thang cho bậc anh tài).

Thân ta dù chết, nhưng tâm vẫn hoạt động...Giết mình cũng là mang tội sát sinh: phạm vào tội thập ác không được đầu thai.

Thân xác có chết thì cảm giác lạnh, nóng, đói khát, uất phiền... vẫn còn đeo theo, không ngừng hành hạ tâm thức.

Tâm bạn nếu nhiều ác niệm thì chết phải sa đọa, đi xuống...

Tâm bạn nếu đầy từ ái thiện lành thì chết sẽ thăng lên cao.

Giống như khi bạn vừa bố thí, phóng sinh hoặc làm việc tốt giúp ai xong, đêm về sẽ ngủ rất ngon, tâm tư lâng lâng hạnh phúc...

đó là cảnh giới của tâm thiện lành.

Vì vậy những kẻ cướp của giết người, những kẻ làm toàn việc ác, chắc chắn giấc ngủ không bao giờ yên và luôn gặp ác mộng, dù luật pháp chưa trừng trị...

Khi khởi ý muốn tự tử, bạn đừng để niệm này khởi tiếp (đừng ôm mãi niềm sầu đau vô ích vì nó sẽ xúi bạn hành động dại dột) hãy cố gắng lèo lái tâm nghĩ lành, trong sáng.

Thực ra không có tuyệt lộ hay đường cùng, chỉ có tâm bạn tưởng là vậy mà thôi.

"Gieo nhân ngọt sẽ hưởng quả ngọt".

Vì vậy, lối thoát ở chính nơi tâm của bạn chứ không thuộc về người hay ngoại cảnh.

Hãy tự mở đường thoát và không nên dìm mình vào bế tắc.

Khổ vui do mình tạo, muốn được vui thì phải dứt ác hành thiện - hằng luôn giữ thân khẩu ý thiện lành, vì tâm bạn thiện được bao nhiêu thì bạn sẽ hưởng an vui bấy nhiêu, ở đây không lý luận để đối chất, muốn biết đúng sai thì chỉ có thực hành, thể nghiệm và tự rút ra đáp án cho chính mình.



QUÁN NHẬU LONG HỔ

Tốt nghiệp phổ thông xong, được người giới thiệu, tôi vào làm phục vụ bàn tại một nhà hàng có tên là "Quán Nhậu Long Hổ".

Quán nhậu này là một nơi thuộc vùng thâm sơn cây cối sầm uất, có rất nhiều dã thú.

Ông chủ quán họ Vi, được xem là vua kinh doanh vì ông mưu trí, khéo tính toán đầu tư, nhờ vậy mà hái được lắm tiền, ông treo bảng bán thịt thú rừng, chào hàng bằng mấy từ "đặc sản thôn quê" quyến rũ, thực khách tìm tới đông nghịt.

Quán càng mở rộng, quy mô.

Tiệm lão Vi càng phát tợn, khắp xa gần đều biết tiếng.

Quán có món đặc biệt tên "Long Hổ Đấu", gồm thịt đại mãng xà nấu chung với mèo rừng mà đặt thành, và chẳng mấy chốc biệt danh này thành tên gọi của quán.

Cứ kiều đó, mèo rừng và mãng xà khắp vùng phụ cận đều gặp họa ương.

Do ông chủ Vi luôn thu mua giá cao hơn người, nên nhiều dân làng hám tiền sẵn sàng liều mạng xông lướt hiểm nguy, mò vào chốn thâm sơn vắng bóng người để tìm hàng cung ứng cho lão chủ.

Cái sân phía sau tiệm ngày nào cũng nồng nặc mùi máu tanh, tiếng rên la thảm thiết không ngừng vang vọng vào tai.

Một hôm lão Vi mua được con mãng xà khủng dài sáu mét, mập độ một tấc rưỡi, có vảy óng ánh sắc hoàng kim pha chút bạc.

Nghe nói đã có rất nhiều người mất mạng vì tìm bắt con mãng xà này, nhìn vóc dáng đồ sộ của nó có thề đoán nó là vua mãng xà.

Con mãng xả nằm mê man một ngày mới tỉnh lại.

Lão Vi tiến đến gần lồng sắt nói:

- Ha!

Ngó bộ ngươi đỉnh đạc uy phong, nên ta tạm thời chưa giết, cho ngươi lưu mạng sống thêm mấy ngày nữa.

Mãng xà hình như nghe hiểu, nó ngóc đầu lên cao, đột nhiên há to miệng phun ra một bãi nước miếng hôi tanh nồng nặc vào mặt lão chủ, do lão không kịp đề phòng, chỉ biết hét to một tiếng thảm thiết, rồi quay mình bỏ chạy.

Chúng tôi nghe lão rống cũng vội chạy tới, dùng nước sạch rửa mặt cho lão.

Nước miếng mãng xà có tính ăn mòn tiêu hủy cao, nếu như cứu chữa không kịp, chắc chắn sẽ lưu thẹo, lở lói.

Lão Vi đùng đùng nổi giận, nhấc ngay nồi nước nóng giội vào chuồng mãng xà, trút giận xong rồi, lão hung tợn nói:

- Nếu chẳng phải do tốn tiền mua mi cao giá, thì ông đây đã băm vằm mi ra cho hả giận!

Hừ!

Giờ ông sẽ cho mi sống không bằng chết, rồi nửa tháng sau sẽ làm thịt, đem mi ngâm rượu mừng sinh nhật 40 của ông!

Từ ngày đó trở đi mãng xà bị nhốt đơn độc trong chiếc lồng to nơi góc vườn, không cho ăn uống, thỉnh thoảng ông còn ngược đãi hành hạ chửi mắng nó om sòm, ngày nào cũng cho giết mổ đồng loại nó, còn lột da xẻ thịt các con vật ngay trước mặt nó để thị uy.

Bảy, tám ngày trôi qua, con đại mãng xà vẫn không khuất phục, hễ thấy lão chủ là giương mắt thịnh nộ, há mồm nhe nanh.

Mỗi lần đến gần lồng nó, ai cũng đều có cảm giác bất an khủng khiếp.

Lại mấy ngày nữa trôi qua, bỗng xảy ra chuyện: Con đại mãng xà trong lồng không cánh mà bay, chẳng thấy tăm hơi, tung tích...Lão chủ vừa nghe tin này, thì mặt mảy tái nhợt, hai mắt trợn ngược, lão đến bên cái lồng nhìn trừng trừng, quan sát...Thấy lồng vẫn còn nguyên vẹn không có chút tì vết hư hại, chung quanh không có khe hở nào.

Lão đoán: "Trừ phi có ai đó cố ý thả nó ra?

Nếu không thì chắc chắn con mãng xà khủng này không thề nào thoát"...

Lão chủ tức tối quay đi, hằn học nói:

- AI?

LÀ AI THẢ NÓ RA HỬ?

Khôn hồn thú nhận thì không sao, chứ để ông đây mà điều tra ra được thì ông sẽ lột da sống... cho coi!

Chúng tôi đều sợ run người, cùng xúm nhau thề thốt là mình không có làm vậy.

Lão chủ mặt mày thiểu não, ông quay lại cái lồng sắt quan sát tiếp tục, cuối cùng cũng phát hiện ra chỗ con đại mãng xà đào thoát: Có hai thanh sắt khe hở tương đối lớn, xem ra mãng xà đã thoát bằng đường này.

Chúng tôi bàn tán cả buổi, cuối cùng đành phải thừa nhận hiện thực trước mắt: đúng là thân thể con mãng xà này có tính co giãn biến hóa cực cao, quá giỏi luồn lách; khe hở nhỏ xíu như vầy mà vẫn chui ra được.

Vì muốn tự do, nó có thể kham nhẫn mọi thống khổ ngoài sức tưởng...

Lão chủ sau khi "xả xú bắp" - trút thịnh nộ xong - thì ngó bộ đã nguôi ngoai, không còn nói năng gì nữa.

Khoảng hơn hai giờ sáng, chúng tôi ai nấy đang ngủ say sưa thì bị những tiếng thét kinh hoàng làm cho tỉnh giấc.

Tôi giật mình nhổm dậy phóng ra sân quan sát tình hình.

Vừa nhìn cảnh trạng, tôi đã hồn phi phách tán.

Dưới ánh trăng sáng, tôi thấy có mấy mươi con mãng xà bò đầy sân, có con trườn từ ngoải cửa sổ vào.

Thuở giờ tôi chưa từng chứng kiến cảnh mãng xà hành động tập thể như vầy.

Bình thường thấy đám mãng xà trong quán đều có vẻ đầu ngu não ngốc, nhưng hiện thời trước mắt tôi, những con đại mãng xà này trông bộ dạng rất khôn ngoan và đang bừng bừng lửa giận, thịnh nộ khó nguôi, khí thế cực kỳ hung hãn...

Tôi vội hét lên báo động khắp:

- Mau thức dậy, thức dậy chạy mau, bầy mãng xà đang bò vảo nhà kia kìa!

Âm vang kinh hoàng của tôi gây náo động cả một vùng.

Chớp mắt, mấy con rắn đã bò tràn lan chung quanh, nhiều con trườn đến bao vây phòng lão chủ, kín tới không còn khe hở nào.

Trong quán, mấy bếp sư và hỏa đầu quân vốn giỏi việc, vì họ từng ra tay giết vô số mãng xà, do thạo nghề quen ứng phó nên họ không hãi hùng lắm, dù có chút sợ thoáng qua thì họ cũng nhanh nhẩu chụp khí cụ truy bắt các mãng xà để giết.

Sau một trận đấu đánh dữ dội, đã có mấy người rời nhà, chạy ra sân.

Mãng xà vẫn ung dung tấn công, vài con xông thẳng đến phòng lão chủ, giống như là đến tiếp viện vậy.

Xem ra trọng điểm mãng xà muốn tấn công chính là phòng lão chủ.

Do cửa sổ mở nên đã có mấy con tiến vào trong.

Tôi dễ dàng nhận ra con mãng xà chúa từng vượt ngục, vì thân nó màu hoàng kim, lại to lớn nhất trong bầy nên rất dễ phát hiện, đồng thời tôi cũng hiểu ngay: Chính nó hướng dẫn, điều khiển bầy rắn này đến báo thù!

Kỳ quái là tôi không hề thấy bóng dáng lão chủ đâu, cũng không nghe tiếng va chạm đấu đá...

Tôi gọi to, nhắc nhở mấy người còn đứng trong sân:

- Hãy mau lên lầu, chỗ đó an toàn hơn!

Bọn họ như sực tỉnh, vội phóng lên cầu thang, ai nấy chạy bán mạng, cùng lao vào phòng như cơn lốc.

Mãng xà đang bắt đầu bò lên, chúng tôi đồng tâm hiệp lực, nương vào thế "cao quánh thấp", cuối cùng đầy lui được chúng.

Khi bầy rắn từ phòng lão chủ thoái lui, vẫn con rắn chúa to lớn màu hoàng kim hiên ngang dẫn đầu, sau đó chúng nhanh chóng biến vào rừng cây rậm rạp phía sau núi.

Khi đã chắc chắn là nguy hiểm đã qua, chúng tôi mới xuống tầng dưới.

Thấy hai anh đồ tề Nhan Trung Vĩ và Lý Trường Hữu vẫn chưa ra khỏi phòng.

Hai người này thường ngày chuyên lo việc giết rắn, họ đã giết vô số mãng xà.

Chúng tôi kinh hoàng đến há hốc mồm khi phát hiện cả hai anh gân cốt bị đứt lìa, nội tạng bị xé thủng, thất khiếu lưu huyết, đã chết từ hồi nào.

Riêng cửa sổ phòng nhóm nữ phục vụ do đóng kín nên mãng xà không thể vào, nhờ vậy mà bọn họ không ai bị thương, chỉ bị một mẻ sợ "kinh hồn bạt vía" mà thôi.

Vậy ông chủ quán Vi ở đâu?

Chúng tôi thắc mắc, đồng tiến đến cửa phòng ông.

Bên ngoài là một bãi hỗn độn, cũng không thấy bóng dáng ông.

Chúng tôi hồi hộp, ráng tiến vào trong, thấy càng loạn dữ hơn, nơi đây in đầy vết tích mãng xà giày xéo.

Hơn nữa còn lưu mùi khí tanh nồng nặc.

Kỳ quái là vẫn không thấy lão Vi đâu cả.

"Hỏng lẽ lão bị mãng xà bắt cóc hay bị nó nuốt gọn rồi?

Thật đáng sợ"...

Nghĩ đến đây đầu tôi như tê dại đi, xương sống phát lạnh, nổi ốc khắp mình...

Lúc này chúng tôi không hẹn mà đồng chú ý đến một lu to nơi góc tường, lu này cao khoảng 1m5, nắp lu bằng gỗ có tay cầm, nhưng giờ lu đang đậy nắp ngược, nghĩa là tay cầm quay vào trong, thành lu in đầy vết rắn đu đeo, quần thảo...

Ắt là lão Vi ở trong đó?

Chúng tôi gọi nhỏ:

- Ông chủ ơi, mãng xà rút rồi, ông mau ra đi!

Gọi hoài mà không nghe động tĩnh gì, chúng tôi có cảm giác không hay, bèn tới gần, run rẩy dỡ nấp lu ra.

Nhìn thấy ông Vi toàn thân co rúm, mặt tái nhợt, mắt trợn lưỡi thè, mười ngón tay bấu chặt vào nắp lu đến chảy máu, ông chết thảm đến chẳng nỡ nhìn.

Có lẽ lão Vi vừa thấy bầy mãng xà tiến vào, thì biết mình không xông ra được, liền chui vào lu và kéo nắp đậy lại.

Con rắn chúa thù ông thấu xương, dễ gì chịu buông tha?

Nó ôm phẫn nộ cực điểm hợp cùng bầy mãng xà vây quanh lu, dốc toàn lực tấn công...Bầy rắn đã đè chặt nắp lu không cho chút không khí len vào, khiến lão Vi bị chết ngộp trong đó.

Chuyện khủng khiếp chưa từng có này nhanh chóng được đồn lan, khắp vùng rồi khắp thôn làng...

Riêng dân chúng trong địa phương này chẳng còn ai dám giết rắn nữa.

Bảo Quang



CHUYỆN CÁC KHOA HỌC GIA

Tác giả bài viết này là cư sĩ Từ Quang, cà nhà ông đều là những nhà khoa học lỗi lạc.

Song thân ông là hai khoa học gia, đồng công tác tại Viện Khoa học Trung Quốc.

Sau khi tác giả nghiên cứu Phật giáo, sinh cảm phục và phát tâm qui y Tam bào.

Chính lòng hiếu thảo và tâm thành ứng dụng Phật pháp của ông đã cửu được mẹ ngay lúc một chân bà đã bước vào quỷ môn quan.

Nhờ vậy mà cha mẹ ông hồi tâm, đồng bước vào con đường tu học theo Phật.

Câu chuyện này hoàn toàn có thật và rất đáng tin.

Mời quý vị xem bài văn tự thuật của ông:

Tháng 2 năm 1989 tôi qui y Phật tại chùa Ngọa Long ở Tây An với Đại sư Trí Chân.

Năm 1991 tôi đến nhậm chức và giảng dạy tại một Cao học nọ ở Bắc Kinh.

Hơn 20 năm nay, tôi chuyên giảng dạy đào tạo người, vừa nghiên cứu khoa học vừa tu hành, tuy chưa đủ tinh tấn, nhưng trong sinh hoạt lẫn công tác đã hưởng được nhiều lợi ích thâm sâu.

Trước đây, những chuyện học Phật chiêu cảm ứng vô biên toàn là tôi được nghe các pháp lữ kể.

Nhưng sau này thì chính tôi đích thân trải qua.

Chuyện có thật này phát sinh ngay tại nhà tôi, kỳ lạ và huyền diệu không lường.

Vì muốn báo ân chư Phật, Bồ tát, tôi xỉn đem việc này thuật lại, mong chư vị Phật tử tăng trưởng thêm lòng tin chơn chánh kiên định.

Đầu năm 2008, mẹ tôi bệnh tim và cao huyết áp nghiêm trọng, chưa đầy nửa năm đã bốn lần do tim đập nhanh, ngừng đột ngột mà bị hôn mê ngất xỉu.

Có lần ba tôi ra chợ mua đồ, mới rời mẹ tôi ra ngoài chừng nửa tiếng, thì khi về đã thấy bà té nằm trên đất, dập đầu chảy máu... rồi sau đó dù bà có tỉnh, nhưng không đủ sức bò dậy.

Lúc tôi đưa mẹ đến các bệnh viện lớn điều trị, mẹ tôi không còn sức để đi.

Bác sĩ khám, thấy tim mẹ tôi đập nhanh, hay bị hồi hộp, hoảng loạn, mạch bị bế và nhảy bất thường.

Bác sĩ bảo: Người già 85 tuổi mà mổ, sẽ nguy hiểm rất lớn, nếu không suy kiệt đến cùng thì cố gắng không phẫu thuật, vì vậy chỉ có thể dùng thuốc để xoa dịu bệnh tình thôi.

Đến năm 2009, mẹ tôi cứ cách một, hai ngày là phát bệnh, cơ hồ suốt đêm không ngủ được.

Bác sĩ cho thuốc trị tim và cao huyết áp nhưng thảy đều vô hiệu.

Thế nên tôi thật buồn khi nhìn cảnh mẹ tôi trị bệnh không hiệu quả.

Những khi tiết trời thay đổi, bệnh bà càng trở nặng.

Thậm chí đài khí tượng mới dự báo khí lạnh vừa đến Tân Cương thì mẹ tôi đã cảm thấy khó chịu rồi.

Thân thể bà suy cực điểm.

Ban đêm tim thường bị ngừng đập hoặc nhảy loạn xạ, gây cho bà cảm giác hồi hộp khủng hoảng...

Thứ bảy cuối tháng 5/2009, tôi đến thôn Trung Quan thăm song thân.

Cha tôi bảo:

- Khí trời mùa hạ oi bức, nung nấu như thế này, e rằng mẹ con không qua khỏi.

Không thể ngồi đó nhìn mẹ chờ chết, trong giây phút nguy cấp tôi nghĩ đến Phật pháp, và muốn ngầm tạo công đức cho mẫu thân.

Lúc đó tôi mới thuộc "kinh Kim Cang".

Tôi biết công đức "kinh Kim Cang" vi diệu không thể nghĩ lường, nên quyết định tụng kinh "kinh Kim Cang" hồi hướng công đức cho bà, cầu chư Phật Bồ tát gia hộ bệnh mẹ tôi chuyển tốt.

Thế lả Chủ nhật tôi bắt đầu tụng, hằng ngày cứ 5 giờ sáng tôi thức dậy tụng một bộ "kinh Kim Cang", tụng rồi thì hồi hướng hai nguyện:

1.

Trước tiên là cầu cho oan gia trái chủ của mẫu thân. (Học Phật hơn 20 năm, tôi biết những bệnh chữa trị vô hiệu đều thuộc về nghiệp chướng, nhất định là do oan gia trái chủ tìm đến đòi nợ, quấy nhiễu...Vì vậy rất cần hồi hướng cho những oan gia trái chủ mà mắt phàm không nhìn thấy này).

Nội dung hồi hướng đại khái như sau:

"Tôi xin hồi hướng công đức tụng 'kinh Kim Cang' này cho tất cả oan gia trái chủ của mẫu thân, xin chư vị oan gia đừng hành hạ giày vò mẹ tôi nữa, tôi biết các vị rất khổ, mẹ tôi cũng khổ.

Nhưng cứ quấy nhiễu thế này sẽ khiến đôi bên (lưỡng bại câu thương) đều bị thiệt hại.

Giờ đây tôi tụng kinh Kim Cang xin hồi hướng công đức cho chư vị, cầu chư vị tiêu nghiệp chướng, có thể ly khổ đắc lạc, thác sinh vào cõi lành, mong chư vị phát tâm qui y Tam bảo, tin và nguyện niệm Phật, vãng sinh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới".

2.

Sau đó tôi hòi hướng cho mẫu thân như sau:

"Nguyện mẹ con nghiệp chướng tiêu trừ, phúc huệ tăng trưởng, khang kiện trường thọ, phát tâm tin và nguyện niệm Phật, sau khi mãn báo thân này, vãng sinh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới".

Tôi tụng một tuần, xong bảy bộ "kinh Kim Cang".

Bởi lúc tụng vào khoảng 5 giờ sáng, sợ làm ảnh hưởng giấc ngủ người thân nên tôi chỉ tụng thầm, lúc tụng Văn hồi hướng cũng niệm thầm, trong tâm tưởng rõ ràng từng biến, chỉ là không đọc ra tiếng.

Nhưng mà chuyện tụng "kinh Kim Cang" hồi hướng cho mẹ này, tôi tuyệt chẳng hé răng nói với mẹ hay bất kỳ ai biết.

Sau một tuần, tôi đi Trung Quan thăm song thân, khi tôi hỏi thăm bệnh tình của mẹ, phụ thân tôi tỏ vẻ hưng phấn nói:

- Thật may, cả tuần nay tim và huyết áp của mẹ con đều ổn cho nên hằng ngày bà ngủ rất ngon.

Liên tục 7 ngày mà không phát bệnh, đây là việc chưa từng có gần một năm nay.

Nghe vậy tôi khấp khởi mừng, thầm đoán rằng chuyện mình tụng kinh cho mẹ đã có tác dụng...Thế là tôi kể cho mọi người nghe sự tình, ai nghe xong cũng kinh ngạc, đồng cho là vi diệu không thể lường!

Sau đó mẹ mới khai ra chuyện bà giấu diếm bấy lâu, tôi nghe càng chấn động dữ.

Mẹ tôi thổ lộ rằng trước đây bà sợ nói ra cả nhà sẽ không ai thèm tin nên đành im lặng.

Số là gần một năm nay, tối nào bà cũng bị huyết áp tăng cao, tim mệt cực kỳ, ngủ không được, hơn nữa còn luôn nhìn thấy có người đi qua lại trong nhà.

Mẹ tôi nhấn mạnh là bà không hề nằm mơ, vẫn hoàn toàn tỉnh táo, vậy mà luôn nhìn thấy đám người đó!

Tôi hơi hoảng, hỏi liền:

- Họ ra sao?

Mẹ đáp:

- Họ có đủ nam nữ, tuổi tương đối lớn...

- Thế hình dáng thế nào?

- Đa số mẹ không nhìn rõ mặt mày.

Không chỉ có vậy, vào nửa khuya mẹ còn nghe tiếng phụ nữ khóc lóc.

Có lần còn bị một ông to lớn cường tráng, tướng mạo hung dữ nhào đến chụp cánh tay, mẹ giằng lại, thoát ra...

Mẹ giải thích:

- Bởi vì sợ thấy đám người này nên mỗi tối ngủ mẹ đều không dám quay mặt ra ngoài.

Nhưng dù có nằm quay vô vách, thì lần nọ, trước mặt mẹ chưa đầy 30cm bỗng xuất hiện một kẻ vừa già, vừa xấu, cực kỳ dơ bẩn hôi tanh...

đến nỗi mẹ phải nôn thốc nôn tháo, ói mửa liên hồi, rồi kẻ quái dị đó mới biến mất.

Trước 1949 mẹ tôi tốt nghiệp đại học, hồi chưa nghỉ hưu từng là nhân viên "Viện Nghiên cứu Khoa học cao cấp Trung Quốc", bà làm việc tại Thôn Trung Quan, do bản thân là dân trí thức cấp cao lại có bề dày công tác mấy mươi năm tại Viện Khoa học, bà đâu bao giờ tiếp xúc với những gì được xếp loại là mê tín?

Tất nhiên chẳng thể nào chấp nhận được các hiện tượng (bao gồm người và vật) thuộc lãnh vực này, bà không bao giờ tin là có quỷ thần!

Nhưng lần này, oái ăm thay!

Chính bà lại đích thân diện kiến quỷ khi còn đang sống, lại không phải do ảo giác mà thấy, điều này khiến mẹ tôi dù không muốn, cũng phải tin!

Tôi hỏi:

- Sao mẹ không nói sớm cho con biết?

Mẹ không hiểu chuyện này rất nguy và đáng sợ hay sao?

Điểm đáng sợ chính là, khi đó một chân mẹ đã bước vào quỷ môn quan rồi!

Tôi giải thích cho mẹ rõ:

- Trong lục đạo, thì Nhân đạo, Súc đạo và Quỷ đạo... cả ba cõi này đồng sống trong một không gian.

Cõi súc sinh chúng ta có thể nhìn thấy, nhưng cõi quỷ thuộc âm tính, vì vậy mà con người bình thường nhờ dương khí thịnh hơn nên những chúng sinh cõi quỷ không cách chi tiếp cận được, bởi vậy mà ta không thấy họ.

Thế nhưng các oan gia trái chủ đã qua đời hiện đọa trong Quỷ đạo luôn chực sẵn, đợi lúc con người bệnh nặng hoặc sắp chết, khí âm thịnh và dương suy, thì chúng lập tức đến tiếp cận để đòi nợ, hành hạ, báo thù...

Vì vậy ngay giây phút mẹ nhìn thấy chúng sinh cõi Quỷ tức là một chân đã bước vảo Quỷ môn quan rồi, nếu mẹ chịu báo sớm cho con hay mọi điều, thì con có thể làm Phật sự để giải cứu mẹ sớm hơn...

Mẹ nói:

- Nhưng khoảng một tuần nay mẹ không còn thấy quỷ nữa (chính là bắt đầu từ hôm tôi tụng kinh hồi hướng công đức cho mẹ và oan gia trái chủ của bà thì ngay tối đó chúng quỷ đã biến mất hết, suốt cả tuần không đến quấy rầy nữa).

Trọn cả nửa năm sau đó, tôi một bề tụng "kinh Kim Cang" hồi hướng cho song thân, tụng khoảng 100 bộ.

Kễ từ chủ nhật mùa hạ năm 2009 trở về sau, bệnh tim và chứng cao huyết áp của mẹ tôi đã chuyền tốt, mỗi ngày uống thuốc một lần, lượng thuốc cũng giảm đi phân nửa, ít hơn bình thường.

Song thân tôi thuộc giới trí thức, họ tốt nghiệp đại học trước 1949, cùng là nhà khoa học ưu tú, công tác tại Viện Khoa học cao cấp nên thuyết phục họ tin Phật rất khó.

Tôi học Phật15 đã hơn hai mươi năm, một bề tuyên dương Phật pháp cho song thân hiểu, nhưng gia phụ một mực bán tín bán nghi, còn mẹ thì dứt khoát không tin.

Nhưng kể từ lúc tôi tụng "kinh Kim Cang" cầu cho mẹ, chiêu được cảm ứng vi diệu, chính việc này đã khiến hai nhà khoa học gia cứng cỏi của tôi chấn động và cảm kích, lần này thì hai vị hoàn toàn tâm phục khẩu phục, bắt đầu tin Phật giáo và phát tâm niệm Phật cầu sinh Tây Phương.

Mẹ tôi năm nay 88 tuổi, hằng ngày, mỗi sáng, tối bà đều bỏ ra một tiếng đi tản bộ, vừa đi vừa niệm Phật, tinh thần và sức khỏe sung mãn, so với nửa năm trước giống như là hai người khác nhau vậy.

Gia phụ cũng 88 tuổi, hằng ngày ông kinh hành niệm Phật hơn hai tiếng.

Tôi còn mua một máy niệm Phật, cho mở ở nhả suốt 24 giờ, hỗ trợ song thân nhiếp tâm mạnh thêm.

Chuyện cảm ứng của tôi, nếu nhận xét theo khoa học vẫn hội đủ điều kiện đề chứng minh:

Rõ ràng là, suốt tuần lễ tôi tụng "kỉnh Kim Cang" cầu cho mẹ, tôi không hề thổ lộ điều này cho song thân hoặc bất kỳ ai biết, và ngay trong thời gian tụng kinh tôi cũng hoàn toàn không hay biết gì về chuyện bí ẩn của mẹ.

Vì vậy khi mọi sự được hóa giải êm đẹp, chẳng thể kết luận rằng tất cả đều do tôi "tự kỷ ám thị" hoặc "ảo giác" tạo thành.

Do vậy mà tôi hoàn toàn xác tín công đức "kinh Kim Cang" quả thực mầu nhiệm không thể nghĩ lường!LÁ THƯ ĐỘC GIẢ

Kính Sư cô, con xin báo một tin vui để Sư cô mừng cho con và cũng để Sư cô phấn khởi khi biết công lao dịch thuật của Sư cô đã giúp đời và giúp người vô cùng trọng đại.

Chắc Sư cô còn nhớ hơn hai năm trước mắt trái của con đỏ và chảy nước mắt, nóng rát vô cùng, Bác sĩ nhãn khoa ở Mỹ đã tận lực chữa cho con mà không khỏi, còn 20% là mù hẳn.

Sau khi đọc về Thanh xà - Bạch xà trong câu chuyện "Nước Tràn Kim Sơn Tự" nơi sách "Báo ứng hiện đời - Tập 3" của Sư cô dịch, thì một niềm hy vọng loé lên...

Thế là con trì kinh Địa Tạng và lạy sám hối Lương Hoàng Sám khoảng 10 bộ, thì bệnh mắt bớt dần, rồi sau đó khỏi hẳn.

Tới giờ tính ra đã gần ba tháng rồi.

Con báo tin chậm là do phải chờ xem mình có thật lành hẳn hay không, đến giờ thì chắc chắn bệnh đã lành hoàn toàn rồi, hiện tại con thấy đường rất rõ dù lái xe ban đêm.

Bác sĩ chữa mắt cho con cũng là một Phật tử thuần thành, sau khi nghe con tâm sự, cô ta ôm chầm lấy con mừng rỡ.

Cả thầy thuốc và bệnh nhân đều rơi nước mắt.

Một lần nữa con xin trọng ơn Sư cô.

Kính chúc sức khoẻ Sư cô.

N.T -25/10/2014

LND: Trên đây là lá thư của một nữ độc giả ở U.S.A, từng dạy cho các sinh viên Mỹ, nay đã về hưu.

Tôi xin mạn phép đăng lên để độc giả có bằng chứng xác thực và tăng thêm niềm tin. (Xin lỗi cô N.

T vì đã không hỏi ý cô mà đã tự tiện tải đăng.

Vì lợi ích bao người, mong cô tha thứ cho).

Dịch giả - 25/12/14

CHÚ THÍCH

1.

Mạn tàng hối đạo, trị dung hối dâm.

2.

Tính linh bị tàn khuyết tiêu tán.

3.

Cõi trời Phước Ái, Quảng Quả còn gọi là Phước Thiên, thuộc cõi Tứ thiền.

Nơi này có phước báo không bị Tam tai (Hỏa tai, Thủy tai, Phong tai).

4.

Bao gồm Tăng, Ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ.

5.

Tương tự như chữ: kiểu, thói, tật...

6.

Con (Từ hóm hỉnh, thân thiết dân miền Nam thường dùng).

7.

Trong kinh Phật dạy: Nếu lìa đời với tâm sân hận sẽ bị đọa vào ác dạo.

Do tội tự tử cộng thêm nghiệp tạo của bản thân mà cô vợ bị đọa vào cõi quỷ.

Cõi quỷ thọ mạng rất dài, dù yểu nhát thì cũng phải sống đến ngàn năm tuổi.

8.

Người có khả năng giao tiếp với những vị thần ở cõi vô hình.

9.

Tư Lộc Thần: Là thần coi về phúc lộc cùa con người. (Thực ra trong kinh Địa Tạng còn liệt kê có rất nhiều vị thần, như Thần Biển, Thần Sông, Thần Cây, Thần Núi, Thần Đất, Thần Ngày, Đêm, Thần chủ mạng v.v...)

10.

Tên thật đã tạm đổi.

11.

Danh từ chung người Hoa dành gọi các tu sĩ Tăng lẫn Ni.

12.

Là 2 mét tàu, 1 mét Tàu tương đương khoảng 0.33 mét Tây.

13.

Ba thước Tàu - là khoảng một mét Tây.

14.

Xin xem "Phụ giải Lương Hoàng Sám''

15.

Nghiên cứu giáo lý và tu theo pháp Phật.

MỤC LỤCLỜI NGƯỜI DỊCH 1

TÂY DU KÝ VÀ PHONG THẦN 2

CƯ SĨ CHÂN MINH 5

ĐỪNG TRUYỀN LUẬN THUYẾT HỒ ĐỒ 10

CÔ TÔI 11

CÁCH LÌA DỤC NIỆM 13

VÌ SAO HÀI NHI KHÓC 14

NGUYÊN NHÂN BẤT HẠNH 16

KIM DOANH 17

TỤNG KINH NIỆM PHẬT CÒN BỊ TAI NẠN Ư?

20

BỒ TÁT MẬT HẠNH 23

CẨN THẬN KHI PHÁT NGÔN 25

NGUYÊN NHÂN DO ĐÂU?

28

KINH NGHIỆM CẦU CON 31

NGHỊCH DUYÊN GIỮA CHA MẸ VÀ CON 35

GIẾT CÁO BỊ BÁO ỨNG 39

NÀNG DÂU BÁT HẠNH 40

CÂU CHUYỆN KHIẾN TÔI RƠI LỆ 43

CHÚ ÚT CỦA BẠN TÔI 45

ÔNG HÀNG XÓM HUNG DỮ 47

NHÂN DUYÊN GIỮA TÔI VÀ BỒ TÁT 48

SÁU CHUYỆN NHÂN QUẢ 52

CHUYÊN KỂ CỦA CẢNH SÁT PHÁP Y 55

XIN ĐỪNG LÀM VIỆC TỔN ĐỨC.

65

TÌNH CHẤP UYÊN ƯƠNG 69

TIẾNG GỌI ĐÊM KHUYA 74

THẦN PHÚC LỘC 80

THÁI MINH THÔNG 93

THÁNG SÁU TUYẾT RƠI 94

TÂM SỰ MỘT NỮ KỸ SƯ 105

VỊ KHÁCH ĐẾN SỚM 111

TỰ TỬ ĐI VỀ ĐẦU 115

QUÁN NHẬU LONG HỔ 121

CHUYỆN CÁC KHOA HỌC GIA 124

LÁ THƯ ĐỘC GIẢ 128
 
Báo Ứng Hiện Đời
Quyển 6


BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI

TẬP 6

GIAI NHÂN ÁO PHƯỢNG

Hạnh Đoan

Sưu tầm và biên dịchNHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG

MỤC LỤC BÁO ỨNG TẬP 6LỜI NGƯỜI DỊCH 4

GIỌT NƯỚC MẮT ANH TÀI CÔNG 8

TAI NẠN NỬA ĐÊM 11

CỨU KHỈ MỘT NẠN, KHỈ CỨU LẠI MỘT LÀNG 16

MỘT BUỔI QUÁN SÁT NHÂN QUẢ 17

KHÔNG NÊN ĂN CÁ 26

ÁC BÁO ĐÁNG SỢ 29

VÌ SAO KHÔNG NÊN SÁT SINH 31

CON CÁ NGÁT 33

NHỮNG ĐIỀU PHÁI NỮ CẦN BIẾT 34

ANH KỸ SƯ KIẾN TRÚC 39

BÀN VỀ GIAO TẾ, ĂN MẶC 42

NHỮNG ĐIỀU PHÁI NAM CẦN NÊN BIẾT 45

TÂM SỰ CỦA BA CHÀNG TRAI 51

KINH NGHIỆM TUYỆT DIỆU VỀ GIỚI DÂM 57

TÂM SỰ KẺ THỨ BA 62

ÍCH LỢI KỲ DIỆU CỦA VIỆC GIỚI DÂM 70

HƠN BA TRĂM MẠNG 72

HẤP TINH QUỶ 78

HIỆN THẾ BÁO CỦA TÀ DÂM 81

CHUYỆN ANH K 84

TÂM SỰ CỦA THIÊN THẦN 88

GIẤC MỘNG CỦA TÔI 90

LINH XÀ CỨU NẠN DÂN 92

50 NĂM SAU MỚI BÁO THÙ 94

ĐÔI MẮT ÂM DƯƠNG 95

GIAI NHÂN ÁO PHƯỢNG 99

BÁI KINH CỨU MẸ 107

THIÊN ĐỊA QUAN THẦN 113

TÔI ĐÃ THẤY HAI VỊ THẦN ĐỒNG SINH, ĐỒNG DANH 115

TRÊN ĐẦU BA THƯỚC CÓ THẦN LINH 118

THẦN THỔ ĐỊA 121

VẤN XUYÊN ĐẠI ĐỊA CHẤN 123

CHỊ CỦA ÍCH TÂY 127

TỰ SÁT ĐỌA CÕI ÁC 131

HƯỚNG PHẬT XIN CÔNG TÁC 134

TÂM SỰ NGƯỜI VỢ 136

MỐI DUYÊN CỦA DƯỢNG X 149

ĐÔI MẮT TRẺ THƠ 151

TÒA LẦU GIẢI TRÍ 152

VƯƠNG QUẢ PHỤ 153

CHUYỆN CỦA BA TÔI 154

CHUYỆN CÁC VŨ TRƯỜNG 155

TRẦN ĐẠI GIA 157

CON TÔI 158

KINH NGHIỆM CẦU SIÊU CHO VONG THAI 166 LỜI NGƯỜI DỊCH

Do các câu chuyện được tôi tuyển dịch từ thấp lên cao, nên trước khi xem quyển sách này, xin quý vị hãy tìm đọc năm cuốn sách "Báo Ứng" đã phát hành trước đây, như vậy sẽ giúp quý vị dễ dàng hiểu thấu và tiếp thu nội dung hơn.

Ở các sách trước, đa phần cảnh báo về lỗi Sát, riêng trong cuốn này thì chủ đề nhấn mạnh về lỗi Dâm.

Dù tôi là tu sĩ, nhưng tôi lại dịch những câu chuyện có nội dung vượt giới hạnh, nên có thể những vị khó tính sẽ trách tôi, nhưng tôi đặt lợi ích "chư độc giả số đông" lên hàng đầu, vì nghĩ: "Biết đâu sau khi đọc cuốn sách này rồi, sẽ có nhiều đóa sen vươn khỏi bùn nhơ tỏa hương thơm và những người từng phạm lỗi sẽ thệ nguyện sống một cuộc đời băng tuyết, trong sạch".

Trong sách đa số là kinh nghiệm của người đời, nên tôi hy vọng sẽ giúp ích nhiều có người thế tục (nhất là lớp thiếu niên), bởi vì do cha mẹ các em quá bận rộn mưu sinh nên không rảnh để dạy các em, mà các em đang độ tuổi ngây thơ mới lớn, vô tình gặp phải những văn hóa, truyện phim, tranh ảnh khiêu dâm đồi trụy đầy dẫy trên mạng... thì rất dễ bị nhuộm đen tâm trí và hành xử có hại cho mình.

Các tác hại khủng khiếp do văn hóa đen gây ra thực khó mà lường, vì chúng biến những người ông, người cha, người chú, người cậu, người anh... trở thành kẻ cưỡng hiếp cháu, con, em... mình, thậm chí có cả nhóm thiếu niên đi hiếp tập thể một bé gái chỉ vì mới vừa xem sex trên điện thoại xong.

Do vậy, bất đắc dĩ tôi phải dịch những câu chuyện quá mức, rất có thể bị cho là quá phàm!

Thú thực chính tôi cũng phải thu hết can đảm mới có thể hoàn thành cuốn sách này, chỉ mong rằng các mẫu chuyện trong đây sẽ giúp các em lánh xa văn hóa đồi trụy, biết cách tự bảo vệ mình, biết huân bồi phẩm hạnh tốt và có được cuộc sống hạnh phúc, không nhấn chìm tuổi thanh xuân vào lầm lạc uổng phí.

Hiện tại, do mọi người đều bận rộn đi làm không có thời gian dạy dỗ con, em... vì vậy những cuốn sách nói về nhân quả rất cần được chứa trong tủ sách mỗi gia đình, để con trẻ có thể nhìn thấy, tìm đọc mà thức tỉnh và tự biết cách sống tốt, lưu tâm bảo vệ phúc báu của mình.

Mong rằng những kinh nghiệm thực được đánh đổi bằng máu và nước mắt của người đời nay, sẽ là tấm gương giúp các bạn trẻ biết cách tránh nguy hiểm và tự chọn phương án sống hữu ích, bảo vệ tốt cho bản thân.

Có thể những câu chuyện tôi biên dịch đôi lúc sẽ khiến quý độc giả cảm thấy nhàm chán, vì có vài tình tiết trùng lặp, hoặc giả bạn đã biết rồi, nhưng tôi quan niệm: "Thừa vẫn hơn là thiếu".

Vì tôi vẫn phải kể phòng xa cho người chưa biết.

Mỗi câu chuyện trong đây là một bài học quý, mà nếu chịu khó đọc, suy gẫm, thực hành, chư vị sẽ rút ra câu trả lời đầy kinh nghiệm hay cho mình.

Tôi nghĩ rằng cuốn sách này hữu ích cho mọi giới, bao gồm đạo lẫn đời.

Chỉ những ai sinh ra vốn đã là Thánh, phẩm hạnh thanh cao, vô nhiễm, thuần khiết rồi, thì không cần đọc đến.

Tôi đã cố gắng tìm đọc thật nhiều chuyện "Báo ứng nhân quả hiện đại" bằng văn Bạch thoại, nhưng mỗi khi quyết định dịch và in ra cho bạn đọc, tôi đã đắn đo, cân nhắc rất lâu.

Lắm lúc dịch xong rồi, do quá phân vân, nên tôi không dám tung ra, đành cất trữ trong "kho" mãi, nhất là những chuyện có nội dung huyền bí hay quá phàm, vì sợ rằng độc giả khó chấp nhận, khó tin.

Song, đôi lúc tôi nghĩ: Nếu chuyện chỉ để riêng mình đọc thì riêng mình được lợi ích, còn như đánh liều tung ra, thì biết đâu sẽ có nhiều người được lợi?

Do vậy mà có những chuyện tôi "ngâm, lưu" ngót mấy năm rồi, sau đó mới thu hết can đảm tung ra, không ngờ may mắn được độc giả nồng nhiệt phản hồi, tâm sự, kể rằng: Đã được lợi và thức tỉnh rất nhiều, thậm chí còn thay đổi cả cuộc sống theo hướng tốt nhờ vào các chuyện đó.

Vì thế, nếu thấy có chuyện nào bản thân mình không ưng ý, thì xin bạn đọc hãy nghĩ rằng: "Có thể sẽ có người khác được lợi vì câu chuyện này" mà thông cảm cho việc mạo muội đăng tải của tôi!

Dịch đã khó, tuyển lựa cũng vất vả, song môi khi được người đọc gọi điện tới, nói rằng: Nhờ các dịch phẩm này mà họ thức tỉnh, không còn muốn phạm sai lầm, đã biết dứt lỗi trước, nguyện ngừa lỗi sau, đời sống họ trở nên hạnh phúc, xán lạn hơn thì tôi cảm thấy đây là phần thưởng quý giá không gì sánh bằng, bao nhọc mệt nhờ vậy cũng vơi đi.

Xin chân thành cảm ơn độc giả đã hiểu thấu và thông cảm cho việc dịch thuật khó khăn của tôi.

Lời chia sẻ của quý vị đã khiến tôi rơi nước mắt vì cảm động và cảm thấy được an ủi rất nhiều.

Một tác phẩm tôi dịch gần cả năm hoặc lâu hơn, từng đêm thấu miệt mài cân nhắc, tuyển chọn, dịch xong rồi thì lo kiểm sửa, rà soát văn từ không biết bao nhiêu lần, sau đó động não thiết kế bìa, dốc tận sức.

Chỉ mong tác phẩm mình in ra được hoàn chỉnh từ hình thức đến nội dung, cũng là thể hiện tấm lòng trân quý độc giả.

Cho nên tôi thật bất ngờ khi có độc giả gọi điện tới bảo: "Để tôi giới thiệu nhà in cho, sách in sao xấu tệ?"... hoặc: "Sách gì mà đọc chưa bao lâu thì đã bị sút bìa, rớt, bung...

đủ thứ!"...

Nhưng sau khi những vị này mang sách tới cho chúng tôi kiểm định thì mới phát hiện ra: Đây là hàng nhái, in ấn quá cẩu thả.

Tôi thừa biết có một số nhà sách đã tự động photo, sao chụp hoặc in lậu các tác phẩm của tôi, nhan diện gần giống bản chính (bảy, tám phần mười) và công khai bày bán, nhưng không ngờ là có nơi lại sản xuất sách quá tệ như thế: Thậm chí sách không được kết chỉ cẩn thận mà đóng dán qua loa, cho nên nhiều độc giả không biết, đã chọn nhằm loại sách kém chất lượng này và sau đó bực mình gọi điện tới mắng vốn chúng tôi.

Thực ra, sách chúng tôi đặt in nơi "Công ty cổ phần In Người lao động", được may và kết đóng rất kỹ, bìa màu sắc nét rõ ràng, còn những sách in lậu hay photo thì có hình bìa mờ nhạt hoặc phá màu, mẫu mã nhìn rất kém, vì vậy xin quý vị chọn lựa cẩn thận.

Cho dù những cuốn sách của tôi có được bày bán trong tiệm hẳn hoi thì phải hội đủ các tiêu chuẩn như sau: Bìa sách phải sắc nét, đẹp, chữ in rõ, sách được kết đóng kỹ lưỡng chứ không dán sơ sài, nhất là có in địa chỉ và số điện thoại để liên hệ tác giả và người phát hành đúng như sau: 0938.422.977 - số 350 Ấp 2 Phước Bình Long Thành Đồng Nai.

Nếu bìa sách không ghi địa chỉ này, hoặc có nhưng mờ nhạt, thì loại sách không đạt chất lượng, không thể bảo lưu lâu dài.

Nếu bạn không có tiền mà muốn đọc một cuốn sách đẹp, chất lượng tốt, thì bạn vẫn có thể liên hệ số 0938.422.977 để xin về đọc.

Bản thân tôi chỉ là dịch giả, không phải là người trung gian có thể giúp quý vị gặp Hòa thượng Diệu Pháp hay Quả Khanh... (xin quý vị đừng tưởng lầm và hỏi mãi).

Do tôi bế quan không tiếp khách nên quý vị có nhu cầu liên lạc, xin vui lòng gọi cho người đại diện tôi qua số phone 0938 422 977 - 098 618 4908.

Cũng xin nói rõ, chuyện tuy có thực nhưng vì lý do bảo mật nên khi dịch thuật lại, đa phần tên thật của các nhân vật trong chuyện đều được thay đổi hay phải dùng hóa danh hoặc do người kể không muốn lưu tên, mong độc giả thông cảm.

Hy vọng tập sách này tiếp tục đem lợi ích đến cho quý vị.

Xin hãy rộng lòng tha thứ cho những sai sót của tôi trong suốt quá trình phiên dịch.

Hạnh Đoan - Cuối năm 2016 

GIỌT NƯỚC MẮT ANH TÀI CÔNG

Việc này xảy ra vào khoảng hơn 20 năm trước, lúc đó nhằm thời "Văn hóa đại cách mạng" tình thế đất nước đang dầu sôi lửa bỏng.

Năm ấy tôi vừa nhận công tác lái xe cho công ty vận tải của huyện.

Đương thời toàn huyện có hai đảng đối nghịch: đảng "Bó Đuốc" và đảng "Sóng Thần".

Nhân viên trong công ty đa phần thuộc bên "Sóng Thần".

Phần tôi đối với chính trị không ưa xen dự vào.

Khi đó mới sang thu, do thành phố đang muốn thực thi ba công trình lớn nên đơn vị chúng tôi phải gấp rút làm việc.

Công ty ra lệnh cho hơn mười tài xế trẻ hợp thành một tổ, đi đến huyện lân cận cách đó hơn hai trăm cây số để chở vậy liệu xây dựng.

Chỉ có mình xe tôi lãnh nhiệm vụ chở gỗ.

Do vậy mà hằng ngày khi đội xe xuất phát, tôi và các bạn tài công chỉ song hành bên nhau khoảng nửa lộ trình, sau đó thì rẽ theo đường riêng.

Ai nấy tự lo việc chuyên chở của mình.

Tôi lái xe thẳng tiến theo lộ trình đến xưởng gỗ và khi về thành là kẻ chạy đơn độc trên lộ trình.

Từ huyện đến xưởng gỗ có hai con đường: Một con đường tráng nhựa, chạy êm, ngon nhưng dài và xa; một con đường đất gồ ghề quanh co nhưng mau đến đích.

Nếu đi đường tắt tôi có thể tiết kiệm xăng vì rút ngắn được một tiếng.

Thường thì lúc đi tôi luôn chọn đường tắt, nhưng bận về thì chọn đường nhựa, bởi vì lúc này xe chở nặng, chạy trên đường gập ghềnh sẽ không an toàn.

Thêm một điểm đáng ngại nữa là: Đi đường quê phải ngang qua một nghĩa trang rộng lớn, chứa hơn ngàn ngôi mộ.

Buổi sáng xuất phát, chạy trên đường này thì tôi không sợ, nhưng khi về, trời đã tối mà phải đi qua nghĩa địa một mình thì tôi không có can đảm.

Nhưng có hai lần tôi chạy về trên con đường quê này trong đêm và hoàn toàn không thể ngờ được rằng hai lần đó đã bất ngờ cứu mạng tôi!

Lần thứ nhất: Sau khi chất hàng xong thì trời đã nhá nhem tối, tất nhiên tôi phải lái theo con đường tráng nhựa.

Nhưng vừa mới nổ máy thì bỗng thấy có con thỏ trắng to xuất hiện ở phía trước xe, làm tôi sinh hiếu kỳ, quyết định đuổi theo nó.

Khi đó giới tài công đều biết: Loài thỏ ưa chạy đường tắt, đặc biệt là khi có ánh sáng chiếu soi thì nó giống như bị ánh đèn xe thôi miên mê hoặc, cứ cắm đầu chạy mãi, chạy hoài đến khi kiệt lực mà chết.

Vì vậy mới có câu đồn: "Loài thỏ ngu!".

Tôi vô tình bị con thỏ này "hút hồn" nên đã đuổi theo nó một quảng rất xa, lúc này trời đã tối, con thỏ đã mệt lả, nó chạy tới một bia mộ thì dừng lại và gục xuống tại đó.

Khi ấy tôi mới bừng tỉnh và nhận ra mình đã lái vào con đường quê và hiện thời đang ở trong nghĩa trang.

Tôi không ngăn được toàn thân toát mồ hôi lạnh, nhưng vẫn làm gan xuống xe.

Bởi vì bóng dáng trăng trắng của con thỏ đang ở rất gần, đủ để lôi cuốn tôi đến gần nó.

Khi tôi bồng con thỏ lên thì phát hiện nó đã chết.

Tôi cũng kịp nhìn thấy trên bia mộ có khắc hàng chữ: "Kiều Tú Văn!"

Khi cái tên này vừa đập vào mắt tôi, lập tức tôi nghĩ ngay: "Nằm trong mộ này ắt là một vị phu nhân nào đó!".

Trong lòng tôi thầm nói: "Xin thành kính phân ưu!".

Rồi tôi vội leo lên xe, quýnh quáng lái đi, chạy một mạch như điên như khùng, chỉ mong mau về tới nơi.

Té ra, chính trong đêm tôi lái vào con đường tắt đó thì ngoài con đường nhựa tôi hay về thường ngày đã xảy ra sự cố cầu sập bất ngờ, do vậy mà có hơn hai mươi chiếc xe vì không phát hiện kịp thời mà bị rơi xuống vực lãnh thảm nạn: Xe nát, người chết!

Và thời điểm phát sinh ra tai họa này, chính là lúc tôi thường về và hay đi qua cầu.

Tối hôm đó, sau khi tôi về đến nhà, hai đấng sinh thành vừa gặp mặt tôi đã bật khóc to.

Khi tôi hay được tin cầu sập, nhiều xe lẫn người đều gặp nạn thì lòng rất kinh hoàng.

Tôi không ngờ mình may mắn thoát hiểm chỉ vì đuổi theo con thỏ.

Do vậy tôi không nỡ ăn thịt con thỏ đó, cha tôi đem nó đi chôn, biểu lộ chút niềm cảm tạ ân đức cứu tử.

Lần thứ hai là: Sau đó khoảng hơn nửa tháng, xe tôi đến trại gỗ thì gặp có đám tiệc.

Trưởng xưởng vồn vã mời tôi nán lại dự tiệc.

Lúc tôi cáo từ, ông còn lấy một vò rượu ngon tặng tôi và bảo: "Hãy đem về cho thân phụ chú uống nha!".

Lúc tôi ngồi vào buồng lái, mới hay là do mình ăn tiệc nên đã bị trễ hai tiếng rồi.

Hơn nữa chất men đang dần phát tác dù uống rất ít nhưng tôi giống như người say nặng, không hiểu tại sao hay do ma xui quỷ khiến gì mà tôi lại nhè vào con đường quê mà đi.

Thực tế thì khi về, tôi không bao giờ có ý muốn chạy trên con đường gồ ghề này, nhất là vào ban đêm.

Hình như lúc đó trong đầu tôi chỉ còn ý nghĩ: Phải mau về tới nơi.

Nhưng chạy được một quãng thì xe đột nhiên tắt máy.

Tôi mày mò, chỉnh sửa đủ cách mà xe không nhúc nhích.

Tôi mệt đến hoa mắt, bởi lúc đó tôi vào nghề chưa được bao lâu nên không có nhiều kinh nghiệm sửa chữa máy móc.

Mà nơi xe dừng, lại chính là khu nghĩa trang rộng lớn, hơn nữa còn dừng đúng ngay chỗ mà lần trước tôi đã nhặt xác con thỏ.

Ba chữ "Kiêu Tú Văn" khắc trên mộ bia nhìn rõ mồn một!

Tôi nhìn chung quanh, ánh trăng mờ nhạt chiếu xuống nghĩa trang trông càng đáng sợ.

Tim tôi đập nhanh vì cảm giác như có vô số đôi mắt đang nhìn trộm mình.

Thế là tôi vội leo lên xe, cầm vò rượu lên, nốc ừng ực cho đỡ run.

Sau đó tôi gục xuống tay lái và ngủ như chết.

Sáng hôm sau, khi vầng thái dương đã lên cao, tỏa những tia nắng óng ánh chiếu vào mặt tôi, tôi mới bừng tỉnh giấc.

Nhìn xa xa, thấy các nông dân đang gặt lúa, tinh thần tôi dần ổn định.

Tôi khởi động xe thử... vẫn không tìm ra chỗ hư, đành đi bộ đến xưởng gỗ, họ liền phái thợ máy đến sửa xe cho tôi.

Nhưng anh thợ tài ba này cũng không tìm ra chỗ hỏng.

Thế là phải nhờ xe cứu hộ kéo xe về lại xưởng gỗ.

Do phải trải qua một thời gian dài chỉnh sửa miệt mài, nên tôi bắt buộc phải ngụ tạm lại đó.

Thêm một ngày nữa trôi qua.

Đến ngày thứ ba, cuối cùng tôi cũng lái xe về đến nơi, nhưng cảnh trạng tại đây càng khiến tôi kinh hoàng ngạc nhiên.

Trong huyện, khắp các con đường trọng yếu đều có Giải phóng quân trấn thủ.

Từng đoàn xe cảnh sát mang biểu ngữ, không ngừng hò hét chạy qua.

Về tới công ty, tôi mới biết giữa hai đảng "Bó Đuốc" và "Sóng Thần" đã nổ ra huyết đấu.

Kết quả là hơn hai trăm người thương vong, cơ quan tôi cũng có mười tám nhân viên gặp nạn.

Khi về tới nhà, mẹ tôi bật khóc nói:

- Trời có mắt mà, nếu như xe con không bị hư, biết đâu giờ này con cũng bị vạ lây và mất mạng rồi!

Sau ngày hôm đó, công ty tôi đình chỉ, ba công trình lớn trong huyện cũng không thể tiến hành.

Thời gian cứ thế trôi qua.

Đến hôm nay, tôi từ chàng trai trẻ ngây thơ đã biên thành một ông tuổi hơn bốn mươi, đã có vợ con yên ấm.

Qua mùa xuân 2003, cha tôi lâm bệnh nặng, trong giờ phút hấp hối, mẫu thân bỗng thổ lộ một sự thật khiến tôi chấn động, bàng hoàng:

- Con trai à, ta không phải là mẹ đẻ của con.

Té ra, bà không phải là chính thất của cha tôi.

Hơn 40 năm về trước, cha và mẹ ruột tôi sống ở huyện lân cận.

Khi sinh tôi ra được mấy ngày, thì mẹ tôi bị bệnh hậu sản và lìa đời.

Một năm sau, ba tôi tục huyền với một quả phụ giờ là mẹ hiện tại của tôi.

Sau đó do công tác thuyên chuyển, cha mẹ tôi dời đến trú ngụ tại thị trấn này.

Sở dĩ mẹ tôi phải kể ra bí mật này, là vì theo phong tục của quê tôi, khi cha tôi mất đi, chỉ được phép táng chung chỗ với người vợ cả tức là mẹ ruột sinh ra tôi.

Một tuần sau, cha tôi khép mắt vĩnh viễn.

Dưới sự hướng dẫn của chú tôi, đoàn chúng tôi tiễn đưa linh quan cha về tận nghĩa trang quê nhà.

Khi đến nơi, chú tôi chỉ vào một ngôi mộ và bảo:

- Đấy chính là mộ phần của mẹ ruột con!

Tôi vừa nhìn vào ba chữ "Kiều Tú Văn" khắc trên mộ thì ngây người ra và quỵ ngay xuống... rồi bật khóc to, khóc như mưa gió.

Từ đó tôi phát thệ ăn chay, giữ ngũ giới, hành thiện, phóng sinh... siêng năng tu trì pháp Phật, luôn gắng tạo nhiều phúc điền để hồi hướng đến cho ba mẹ

Bảo Khang

TAI NẠN NỬA ĐÊM

Tôi là một phụ nữ họ Tăng, tốt nghiệp Đại học khoa Trung Văn, hiện đã kết hôn được ba năm rưỡi và có một con trai, nhưng tâm tư tôi lúc nào cũng khao khát được xuất gia.

Do vậy mà mỗi khi tôi đi chùa thường bị chồng bất bình, dẫn đến gây cãi với nhau luôn, vì chồng tôi cương quyết nói: "Ở nhà tu cũng được, không cần phải xuất gia!".

Tôi không đồng ý, nên thường tranh cãi với anh.

Chồng tôi không chịu nổi bực phiền, có lúc nổi nóng đến phải đập, ném đồ đạc... hoặc bỏ ra ngoài nhậu nhẹt để giải khuây, do vậy mà gia đạo chúng tôi thường bất hòa, rối rắm.

Cuối tháng hai năm ngoái, phát sinh một chuyện rất đau lòng là: Hôm đó chồng tôi đi vắng, do anh phải túc trực thâu đêm ở bệnh viện để chăm sóc phụ thân bị trúng gió.

Chỉ còn tôi và đứa con trai nhỏ ở nhà.

Nào ngờ nửa đêm hôm đó, bỗng có một tên mặc y phục đen, bịt mặt, tay cầm mã tấu, đột nhập.

Hắn xông thẳng vào phòng tôi, đánh tôi bị thương nơi đầu, dùng sức mạnh cưỡng hiếp tôi.

Trước khi bỏ đi hắn còn cướp đoạt tiền bạc, tư trang của tôi.

Khi ông xã về, tôi kể lại toàn bộ tai nạn cho anh nghe, anh bừng bừng phẫn nộ, chấn động cực kỳ, vội băng bó vết thương cho tôi, rồi đưa tôi đi bệnh viện phụ sản kiểm tra vì sợ tôi bị mang thai.

Lần này tôi bị tai nạn thống khổ bất ngờ, trong lòng không ngừng cầu Bồ tát gia hộ che chở: "Xin đừng có phong ba bão táp nổi lên trong gia đình tôi nữa".

Sau tai nạn được nửa năm, tôi vẫn luôn nằm thấy ác mộng.

Không những mơ thấy tên côn đồ đến xâm hại tôi, mà thậm chí mỗi khi ông xã muốn thân mật gần gũi, thì tôi vẫn bị chuyện tên côn đồ làm nhục ám ảnh nên luôn phản ứng kinh hoàng, thậm chí tôi còn cho ông xã là tên côn đồ muốn cưỡng hiếp tôi.

Vì vậy tôi có thái độ rất chán ghét hành vi thân mật của chồng, thậm chí đối với phái nam cũng nảy sinh đầy ác cảm.

Không lâu sau đó chúng tôi dời về quê ở, những ám ảnh về tai nạn đau thương trong quá khứ cũng dần phai nhạt.

Hằng ngày tôi bắt đầu chí thành tụng kinh lễ Phật, trải qua một thời gian dài.

Có lẽ tâm thành của tôi đã cảm động đến chư Phật, Bồ tát nên cuối cũng vào năm ngoái tôi được gặp vị sư phụ trí tuệ của mình, ngài rất thông cảm về tai nạn của tôi trong quá khứ và hết lòng hóa độ tôi.

Sư phụ đưa tôi lên chánh điện thắp hương và mời thỉnh oan gia trái chủ ra mặt, để ngài chủ trì, giúp tháo gỡ oan kết.

Lúc đó tôi cực kỳ thành tâm, tha thiết sám hối, cầu nguyện.

Không ngờ chiêu cảm được sự linh ứng hiển hiện.

Chẳng mấy chốc thì oan gia thứ nhất xuất hiện: Có một đứa bé gá vào thân một tín đồ trong chùa, bày tỏ là cháu muốn tìm tôi.

Nhưng thái độ tỏ ra hết sức oán hận.

Cháu nói mình là bé gái bị tôi phá bỏ, khiến tôi sợ thất kinh hồn vía.

Sau đó tôi ngẫm nghĩ kiểm điểm, đột nhiên nhớ ra hồi đó chúng tôi vừa mới kết hôn xong, hai vợ chồng cùng bàn tính, sợ nếu có thai sớm sẽ không đủ kinh phí chăm lo nuôi dưỡng con, nên chồng tôi chọn phương án cho tôi uống thuốc ngừa thai mua ở tiệm thuốc tây.

Nào ngờ uống thuốc xong thì thành ra phá thai, cũng không hề biết vì vô tình, mà chúng tôi đã làm chết một sinh mạng bé bỏng bất hạnh.

Sau đó bé gái này còn biểu thị: Vì muốn báo thù ác tâm của tôi, nó thường quấy phá chọc cho con trai tôi khóc la ầm ỹ, hơn nữa còn làm cho cháu khóc rất lâu.

Hèn gì mà thằng bé vô duyên vô cớ cứ khóc thét hoài và khóc rất hung.

Có lúc còn tỏ ra bướng lì khó dạy, chỉ ưa chơi đùa một mình và hay cãi lời.

Hễ bảo nó đừng chơi đồ nguy hiểm thì nó luôn làm ngược lại, thỉnh thoảng bé còn tự ý chạy ra giữa đường, mặc cho cha mẹ đuổi theo kêu réo cháu cũng chẳng thèm quay đầu lại.

Có lúc còn hung tợn đánh lại mẹ.

Do vậy mà nhiều lúc không nhẫn nổi, tôi phải đánh đòn thằng bé.

Nhưng kể từ khi có duyên lành tiếp cận sư phụ và nghe niệm Phật, thì thằng bé hiền đi rất nhiều, còn tỏ ra rất ngoan ngoãn dễ dạy, đây là hiện tượng rất lạ.

Oan gia thứ hai là một cô gái.

Cô nói rằng kiếp trước tôi là nam nhân.

Vào kiếp đó cô vốn có ý định không kết hôn và khao khát muốn đi tu.

Nhưng do tôi nuôi ác ý muốn chiếm đoạt để có được cô, nên đã thừa dịp cưỡng hiếp, khiến cô mang thai và sinh ra một đứa con, làm cô ôm phiền muộn u uất mà chết.

Vì tâm nguyện xuất gia đã bị tôi phá tan, nên cô ôm mối thâm thù đại hận cực lớn, luôn muốn báo oán tôi, do vậy mà thần thức thường quanh quẩn bên tôi, luôn tạo ra đủ chướng ngại quấy phá, ngăn cản tôi tu hành!

Khiến tôi tâm tuy hướng Phạt, nhưng không bao giờ có cơ may được tiếp cận Sư phụ hay nghe kinh thính pháp gì.

Còn nữa, cô đã khiến cho hôn nhân của tôi rơi vào khổ não, bế tắc, vô phương tự cứu.

Sau đó cô trả thù thêm, là điều khiển, dẫn dụ tên côn đồ đột nhập vào nhà cưỡng hiếp và cướp đoạt tiền tài trang sức của tôi.

Cho tôi nếm lại cảm giác bị cưỡng hiếp mà kiếp xưa cô phải chịu.

Khiến tôi thân tâm đều bị dày vò, thống khổ trầm trọng, khổ đến không muốn sống.

Bây giờ tôi mới hiểu ra, đời này sở dĩ tôi bị người cưỡng hiếp, bị chém, bị thương là có liên quan đến tội mình đã tạo trong quá khứ, tôi ý thức được từng quả báo giáng xuống thân mình.

Đúng là tôi đã gieo gió nên phải gặt bão, hễ đã tạo tội là phải lãnh báo ứng, không có gì oan uổng cả.

Suốt thời gian ác báo ập đến, tâm tôi rất bất ổn, tôi không ngừng than oán, thầm trách tại sao chư Phật, Bồ tát không che chở tôi?

Vì sao cảnh sát quá dở, không giỏi phá án để tóm bằng được tên hung thủ đã hại tôi và trừng trị thật nghiêm theo quốc pháp cho xứng với tội của hắn?

Nhưng bây giờ, sau khi đã hiểu rõ nhân quả rồi, tôi liền phát nguyện trước Phật: Từ nay về sau con nguyện nỗ lực tu hành, hoàn toàn dứt ác hành thiện, xin nghiêm trì giới luật, hành đúng theo lời Phật dạy và nguyện sẽ giúp người hiểu nhân quả, liễu giải Phật pháp.

Đối với chồng và con, xin hết dạ chăm sóc yêu thương, không bao giờ dùng tâm sân hận để cư xử.

Khi tôi phát nguyện xong, chưa được bao lâu, thì đã xảy ra nhiều điều kỳ diệu, hay đến ngoài sức tưởng tượng!

Bầu không khí trong gia đình đã thay đổi, biến thành ấm áp hòa thuận.

Chồng tôi hồi xưa có tính hay ghen tuông, tôi làm gì cũng bị anh nghi ngờ, không tin.

Chỉ càn tôi trò chuyện với ông nào đó vài câu, là đã bị anh dòm ngó rất khó chịu, mất tự do.

Thậm chí ở trước mặt anh tôi cũng không dám nhắc đến tên của nam nhân nào khác.

Nếu không, sẽ bị anh nghi ngờ tra gạn mãi.

Nhưng bây giờ, mọi chuyện đã khác xưa.

Bất kể tôi đi với ai, làm gì, nói gì... anh hoàn toàn không nghi ngờ.

Nếu tôi có bàn luận đạo pháp cùng ai, thì không những anh rất hoan hỷ, mà còn ở cạnh bên chăm chú lắng nghe, tỏ vẻ rất thú vị.

Anh cũng không hạn chế tôi hành thiện, ngược lại còn cổ vũ, khuyến khích.

Anh không hề ngăn tôi đi gặp Sư phụ, nhờ vậy mà tôi được tự do học pháp nghe kinh.

Ba bốn năm trước, tôi và anh thường gây cãi ầm náo không ngừng, bầu không khí trong nhà rất u ám, đến gà chó cũng chẳng yên.

Nhưng từ khi tôi quyết tâm tu sửa bản than, thệ dứt ác tu thiện, bỏ xấu huân tốt thì chỉ trong vòng một tháng ngắn ngủi, gia đình tôi đã hòa thuận, tận hưởng hạnh phúc tràn trề.

"Đồng vợ đồng chồng tát biển đông cũng cạn", hiện giờ cả gia đình tôi đều ăn chay trường, con tôi rất ngoan và dễ dạy, khác hẳn thuở xưa.

Mặc dù cháu ăn chay, nhưng sức khỏe thể trạng đều phát triển cực tốt.

Mọi người ai cũng khen: Con tôi Thiên đình no đầy, rất có hảo tướng và tư cách đại trượng phu.

Tu theo Phật pháp, nghiêm trì giới luật, dứt ác hành thiện thì cuộc sống sẽ rất hạnh phúc, gia đình tôi là một chứng minh hùng hồn.

Bạn có muốn ứng dụng thử không?

Gieo nhân lành sẽ gặt quả lành.

Nếu muốn không khổ thì bạn đừng gieo nhân ác.

Vì sao chúng tôi có được chuyển biến kỳ diệu giống như trong phim thế?

Tôi nghĩ nguyên nhân chủ yếu không ngoài ba điểm:

1.Tôi đối với người mình làm hại trong quá khứ, chân thành sám hối, quyết tâm từ nay về sau, sửa lỗi, đổi mới không tạo ác, không phạm lỗi nữa.

2.

Bình thường tôi rất ưa làm từ thiện, còn tham dự nhiều hoạt động bố thí, phóng sanh.

3.

Nhờ Sư phụ hướng dẫn tôi tham dự nhiều pháp hội siêu độ, đem toàn bộ công đức bái sám này hồi hướng cho oan gia trái chủ.

Nhờ vậy mà được họ tha thứ, khiến tôi được giải thoát.

Từ nay về sau tôi luôn khắc ghi những lời dạy trân quý này vào lòng, luôn áp dụng để tạo hạnh phúc cho mình.

Xin thuật thêm câu huyện Sư phụ đã kể cho tôi nghe:

Có một vị giáo thọ, ba mươi năm nay bị đau lưng, dù dung thuốc chi cũng không lành.

Ông từng qua Mỹ chẩn khám song cũng không chữa được, nên cảm thấy rất đau khổ, bệnh khiến ông cử động bất tiện nên càng rầu lo.

Gần đây nhờ tin Phật chí thành, nên ông đã thu được nhiều điều thù thắng.

Dưới sự hỗ trợ dẫn dắt của sư phụ, căn bệnh nan y của ông hiện nay đã lành.

Té ra vị giáo thọ này kiếp trước là Đại cao quan của triều Thanh, do đối với phạm nhân ông hay dùng cực hình tàn khốc hung bạo, nhất là rất ưa dùng roi, trượng... quất vào lưng nạn nhân, người bị ông đánh chết rất nhiều, không thể kể xiết.

Ngoài ra ông thường dùng hình phạt kẹp tay lăng nhục và còn đánh gãy chân phạm nhân.

Do vậy mà lúc oan than trái chủ xuất hiện, thì hai tay ông không ngừng phát run, chân cũng biến thành tàn phế, vô phương đi lại, miệng luôn rên la, gào thét, không ngừng trách trời già bất công: "Ngươi tàn bạo như thế vì sao đời này vẫn được làm giáo thọ?"...

Sư phụ đã bao phen giải thích: Công danh số mệnh tốt xấu của mỗi người, tùy thuộc vào nhân duyên quả báo, chúng ta không thể nhìn vào biểu hiện của một đời mà kết luận, vì những nhân gieo ẩn khuất rong nhiều kiếp khác cũng có ảnh hưởng lien quan, bởi vậy không nên oán trời trách người, đừng sinh tâm tật đố.

Nhưng vì để cứu chuộc lỗi lầm trong quá khứ, rất cần bày tỏ tâm thành sám hối, thế nên vị giáo thọ này, ngay hiện trường đã quỳ xuống hướng về oan than trái chủ tha thiết sám hối, biểu thị lòng ăn năn tột cùng.

Hơn nữa còn đáp ứng cho họ mấy điều như sau:

1.

Lập bài vị siêu độ cho họ.

2.

Bỏ tiền ra xây dựng chùa, làm nhiều việc từ thiện.

3.

Đem hành vi bất nhân trong kiếp quá khứ công bố cho thế nhân được biết, khiến mọi người cảnh giác, không ai dám phạm lỗi này.

Trải qua những giao lưu đàm phán này rồi thì không bao lâu bệnh tình vị giáo thọ kia ngày một chuyển tốt, dần dần hồi phục và lành hẳn.

Thật là kỳ diệu!

Tăng nữ sĩ

CỨU KHỈ MỘT NẠN, KHỈ CỨU LẠI MỘT LÀNG

Tại khu rừng rậm Kim Phật Sơn (Trùng Khánh), có câu chuyện cảm động giữa khỉ và người như sau:

Cuối tháng 7 năm ngoái, tại vùng núi phía Bắc, sơn dân Vương Chí Thành vào rừng hái thuốc, gặp một con khỉ lông màu xanh đen (hơn hai tuổi) đang bị thương nới tay trái.

Ông liền bồng nó về, lo chăm sóc băng bó vết thương, để nó nghỉ dưỡng trong nhà.

Được một tuần, vết thương con khỉ đã lành, nó bèn ra đi, nhưng hằng ngày nó vẫn quay về thăm ông Vương, thậm chí còn giúp làm việc nhà.

Thỉnh thoảng có mấy con heo rừng, nhím và các loài thú khác tìm tới trộm thức ăn hoa trái trong vườn, thì con khỉ này thường xua đuổi, dọa chúng phải bỏ chạy.

Một ngày cuối tháng 9, khoảng 3 giờ sang, Vương Chí Thành còn đang say ngủ trong nhà, đột nhiên nghe tiếng đập cửa dữ dội và tiếng la hét chí chóe khiến ông tỉnh giấc.

Ông vội mở cửa ra xem, thì thấy con khỉ về thăm.

Ông tiếng tới ôm nó, nhưng thái độ nó lộ vẻ cuống quýt lạ kỳ, nó né khỏi tay ông và gấp rút kêu to.

Ông Vương ngơ ngác không hiểu, con khỉ đưa tay chỉ về phía sau núi.

Vương nhìn theo, ông kinh hoàng khi thấy trên núi, đất đá đang đổ sụp và từng tảng đá to thi nhau rơi xuống không ngừng.

Con khỉ đưa tay kéo ông Vương chạy.

Ông Vương cuối cùng đã hiểu: Nguy hiểm đang xảy đến, thế là ông lao vào nhà, lay vợ bồng con, tất cả cùng chạy bay ra ngoài.

Tiếp đến ông đi đập cửa từng nhà.

Toàn thôn có 5 hộ, tổng cộng hơn nhai mươi người. bọn họ kịp chạy ra ngoài đào thoát trong khi sơn thạch khổng lồ đang ào ào rơi xuống hủy diệt hết nhà cửa trong thôn.

Sau khi thoát chết, nhiều thôn dân xúc động bật khóc, nói:

-Thật nguy hiểm quá, nếu không nhờ con khỉ này cứu mạng, thì chúng ta đều chết cả.

Dân làng thoát hiểm xong, xúm nhau tìm kiếm ân nhân cứu mạng, thì phát hiện con khỉ đang ở trên cây, nhìn họ đầy thương yêu và vui mừng, miệng phát ra tiếng kêu "khọt khẹt".

Xem xong câu chuyện này, xin mọi người hãy giới sát phóng sinh.

Vì ban cho vật sự sống cũng chính là ban cho mình sự sống, cứu người cũng là cứu mình.

Hành vi cứu sinh, phóng sinh, đem lại lợi ích vô cùng, công đức lớn lao không thể kể hết.

MỘT BUỔI QUÁN SÁT NHÂN QUẢ

Nghe Viện dịch kinh thong báo có Cư sĩ Quả Khanh và con gái từ Thiên Tân đến chủ trì pháp hội, giải đáp về nhân quả, thế là tôi vội đến tham dự.

Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cư sĩ Quả Khanh và con gái Quả lâm của ông.

Tôi hỏi mình mới hơn 20 tuổi, vì sao tim thường đau?

Hơn nữa luôn bị suyễn, cảm thấy hay bị hụt hơi, khó thở... nhưng y viện tìm không ra nguyên nhân.

Tôi biết mình có bệnh, nhưng chẳng hiểu là do nguyên nhân gì, lúc ấy tôi hoàn toàn không nghĩ là mình bị bệnh do báo ứng nhân quả.

Khi nghe tôi nêu câu hỏi, cả hai cha con đều nhắm mắt chừng khoảng mười giây, không nói gì, sau đó thấy Quả Lâm gật gật đầu, rồi lại lắc đầu.

Sau khi mở mắt, cô ta bảo tôi: Trên mình chị có vô số tôm, cá, cua, các loài thủy tộc, hải sản... tất cả đều tranh nhau tố cáo tội lỗi chị đã gây ra với chúng cho tôi nghe, do vậy mà chúng không thể để cho chị sống an.

Tôi lập tức phân bua là mình đã ăn chay.

Quả Lâm lại nhắm mắt tiếp, một lúc sau cô mở mắt bảo tôi:

- Những chúng sinh hành bệnh trên than chị giải thích rằng: Dù đã ăn chay, nhưng chị lại sốt sắng chỉ dạy, hướng dẫn người cách nấu đồ mặn, chẳng hạn như chế biến món tôm như thế nào.

Đến đây thì tôi cứng họng, ngẩn ngơ, vì câu đáp nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi.

Cả đời tôi chỉ có một lần dạy người chế biến món tôm, lúc đó không ai chứng kiến, vậy thì tại sao lại có kẻ biết rành như thế?

Lẽ nào, những thần thức loài vật kia đều thấu rõ từng khởi tâm động niệm của tôi?

Lúc đó tôi bật khóc, cảm thấy mình đã quá sai lầm.

Ngay khi tôi thốt lời xin lỗi các con vật từng bị tôi ăn, thệ rằng:

Sau này chẳng những tôi không ăn, mà còn khuyên người đừng ăn.

Khi đó tôi khóc mùi mẫn, nước mắt nước mũi chảy chèm nhèm, bất kể tại hội trường đông đến năm, sáu mươi người.

Bây giờ thì Cư sĩ Quả Khanh lên tiếng, ông nói tôi làm thế mới là chân thành sám hối.

Ông khuyên tôi hãy bắt đầu niệm Phật để cầu Phật siêu độ cho các chúng sinh khốn khổ kia.

Tôi mới niệm mấy câu Phật hiệu, thì Cư sĩ Quả Khanh nói:

- Phật A Di Đà đã xuất hiện ở phía trên trung tâm của hội trường...(1)

Chúng tôi ngẩng đầu lên nhìn, lúc này tôi có cảm giác cực kỳ lạ lùng, giống như vừa được nhấc tảng đá to ra khỏi tim, tôi cảm thấy lồng ngực cực kỳ sảng khoái dễ chịu và đã có thể hít thở một hơi dài thông suốt, nghe nhẹ nhõm khinh an vô cùng.

Tim bây giờ đã hết đau, không còn khó chịu... thật không sao diễn tả được trạng thái hạnh phúc, hân hoan lúc đó.

Ngay khi ấy tôi hướng về mười phương chư Phật, Bồ tát đảnh lễ, cảm tạ đã ban cho chúng tôi cơ hội trùng sinh.

Tôi cũng hướng về Cư sĩ Quả Khanh và Quả Lâm đảnh lễ, cảm tạ hai vị đã giảng giải, giúp tôi minh bạch nhân quả và còn chỉ cho phương pháp làm tiêu nghiệp.

Nếu như trên con đường học Phật, tôi có được thành tựu nào, tất cả đều nhờ công đức to lớn của hai vị đã hướng dẫn.

Tiếp đến, Cư sĩ Quả Khanh và con gái bận rộn giải đáp nhân quả và bệnh hoạn của mọi người cho đến khi tan giảng.

Tối đó tôi về nhà rồi, phát hiện hai chân mình trước đây vốn không thể khoanh lại, nay đã có thể xếp bằng, còn có thể ngồi đến cả buổi.

Nghe toàn thân nhẹ nhàng, có cảm giác công phu tu học Phật của mình đang tiến một bước dài so với trước đây.

Vì vậy tôi rất tự tin, cho là "Mình không sao rồi".

Nhưng tối đó khi đi ngủ, tôi bỗng phát hiện ra một việc rất kỳ quái: Hình như có nhiều vật lạ đang du hành trên than tôi, hơn nữa mục tiêu chuyển động của chúng thảy đều hướng về phía trái tim và lồng ngực tôi.

Việc này xảy ra lúc tôi còn chưa ngủ, thần trí cực kỳ tỉnh táo.

Tôi lặng lẽ theo dõi và phát hiện: Đầu tiên có nhiều vật đang bò từ khuỷu tay lên đến bắp tay tôi, đồng thời có nhiều loài đang bò từ đầu gối lên tới bắp đùi tôi, có nhiều vật đang bò từ bụng lên, những loài ở trên đầu thì đang di chuyển xuống.

Nghĩa là sau lưng, trước mặt, khắp trên than tôi đều có nhiều vật đang di chuyển, có loài đi nhanh, có loài đi chậm.

Nhưng tất cả đồng nhắm chung đích đến là: Tim và ngực của tôi, hình như chúng quyết chọn hai chỗ đó làm căn cứ trú ẩn.

Cả quá trình này diễn ra chưa đến một phút, tôi không thấy sợ hãi là nhờ đang niệm Phật.

Tuy tôi đã đoán được phần nào sự việc, nhưng tôi cũng cần nhờ người có trí tuệ giúp mình xác minh cho chắc chắn.

Mấy ngày sau, tôi đến tham dự hội thuyết giảng nhân quả của Quả Khanh và Quả lâm.

Cô gái trẻ (ngồi cạnh tôi) cũng có khả năng lần ra nhân quả giúp người.

Tôi bèn nhờ cô xem giùm: Hiện có loài thủy tộc nào chưa chịu theo chư Phật, Bồ tát mà còn đang trú trên than tôi?

Cô này quan sát khắp than một hồi, rồi đáp:

- Trên than bạn có rất nhiều loài thủy tộc, cá, tôm v.v...

Tôi hỏi: Còn bao nhiêu?

Cô nói:

- Nhiều lắm, nhiều không kể xiết.

Chúng đeo khắp trên thân bạn.

Nhất là hai nơi tim, ngực chứa đầy...

Sau đó nhờ cư sĩ Quả Khanh và con gái ông giải thích, tôi đã hiểu rõ và nhận thức được như sau:

Do tôi hơn hai mươi năm nay đã ăn quá nhiều loài vật, nhất là loài thủy tộc.

Nên thân luôn bị đau nhức và mắc phải nhiều bệnh, bởi những con vật này tuy đã chết rồi, song oán khí chưa tan, nên thần thức chúng kéo đến trú cả trên thân tôi.

Vì vậy mà nhất ngôn, nhất hạnh, nhất cử, nhất động của tôi... toàn bộ đều bị chúng nắm rõ.

Chúng biết tim là nơi trọng yếu của khí quan, ngực là nơi trọng yếu của tạng khí, cho nên chúng quyết định đóng đô ở đó!

Đầu tiên chúng chọn ngụ ở tim, tiếp theo là ngực, rồi bụng, đầu và tay chân.

Tùy theo số lượng chúng sinh tôi giết, ăn... tăng gia, mà tim và ngực tôi càng lúc càng bị bệnh nặng.

Khi bọn chúng khó chịu thì xúm nhau cắn xé, châm chích, rứt thịt tôi ăn...

để giải hận.

Đây chính là lúc tôi cảm thấy tim ngực mình phát đau tột cùng.

Sau khi Phật A Di Đà xuất hiện đem các chúng sinh trên thân tôi đi.

Số nào đồng ý thì đi, số không ưng thì ở lại, tiếp tục hướng tôi báo thù, đòi nợ.

Vì sao mà ngay lúc tôi nghĩ rằng: "Mình đã không sao rồi", thì ý tưởng đó rất ư là nhầm lẫn, bởi vì hãy thử nghĩ xem: Tôi có phúc đức công năng gì, mà có thể nương vào một vài câu niệm Phật hay chỉ một lần sám hối là có thể tiêu hết đại tội kia chứ?

Những chúng sinh quyết ở lại không chịu đi này, đã nhìn thấy tim ngực tôi là hai chỗ trú đóng tuyệt hảo để báo thù, do vậy mà chúng quyết không lìa xa, còn tranh nhau giành chỗ.

Đó là lý do vì sao tối đó khi đi ngủ tôi phát hiện ra có rất nhiều vật đang di chuyển trên thân mình.

Có lẽ ban ngày chúng cũng "hành quân" tranh nhau đi đến tim, ngực tôi trú đóng, nhưng do ban ngày bận rộn, không yên tĩnh bằng ban đêm, nên tôi không phát hiện ra.

Từ khi tôi có "khách không mời mà tự đến đóng đô như thế này rồi, thì kể từ đó tôi vô phương ngồi thiền (thật xấu hổ), hiện tại tôi chỉ có thể tĩnh tọa khoảng một tiếng thôi.

Đã hiểu rõ vấn đề rồi thì phải giải quyết, do trên thân tôi có nhiều chúng sinh không đi, mà sám hối là phương pháp giải oán rất hữu hiệu, nên tôi quyết định hành pháp sám hối, thỉnh cầu chư oan gia tha thứ, tôi lễ sám, tạo phúc... cầu cho họ cũng là tự giúp mình.

Ngay đây tôi cũng nhớ lại một câu chuyện nhân quả mà Quả Khanh, Quả Lâm khó hòa giải:

Có một vị Sư nọ tu rất tinh tấn, nhưng tim bị đau trầm trọng.

Cả hai cha con họ Dương đồng nhìn ra nguyên nhân là: Hiện có một con cá lớn đang đóng đô ở nơi tim vị ấy.

Cư sĩ Quả Khanh và con gái đồng khuyên con cá, nhưng nó nhất quyết không chịu bỏ đi.

Sau khi Quả Lâm trò chuyện với nó một hồi rồi diễn dịch lại, thì mới biết con cá này đang yêu cầu vị tu sĩ kia: Tự chính ông phải nhớ lại xem, đã giết nó lúc nào, nơi nào, lý do gì?

Nếu nhớ được và sám hối, thì nó sẽ bỏ đi ngay lập tức.

Bằng không thì đừng hòng... và cũng miễn bàn hay điều đình chi nữa, nó cũng không cho Cư sĩ Quả Khanh và con gái xen vào nhớ giúp.

Vị tu sĩ khốn khổ này suy nghĩ mãi mà không thể nhớ ra... do vậy con cá kia không chịu đi.

Tôi chẳng biết đến bây giờ ông ta đã nhớ ra chưa?

Tôi kể câu chuyện này vì muốn nói rằng: Oan có đầu, nợ có chủ.

Sau khi tôi sám hối xong thì Phật A Di Đà chỉ đem đi được một phần oan gia trái chủ, số còn lại còn hơn một nửa, chúng không chịu đi và quyết trụ lại để báo oán ngay trên thân tôi.

Tôi tuyệt không nghi ngờ chi việc chư Phật, Bồ tát có thể giúp tôi tiêu nghiệp, nhưng các Ngài đã giúp rất nhiều rồi, phần còn lại phải do chính tôi tự cứu và hóa giải oán kết cho đến bao giờ chủ nợ chịu tha thứ.

Tôi cần phải nỗ lực nhiều, mình làm thì mình chịu... há chẳng phải trong kinh luôn giảng: Chúng ta cần phải sám hối rất nhiều hay sao?

Câu chuyện của vị tu sĩ kia đã cung cấp cho tôi một phương pháp sám hối tốt, do oan gia luôn muốn chúng ta nhớ lại mình đã phạm lỗi với chúng như thế nào, nên tôi bắt đầu hồi tưởng lại hết: Cố nhớ cho đủ các loài, bao gồm cả những gà, cá, vịt... tôi đã ăn và giết vào trường hợp nào, ăn bộ phận nào, nơi đâu, xơi nhiều ít, lúc nào?

Tôi ráng nhớ tỉ mỉ lại hết, sau đó vì chúng sinh niệm Phật hoặc tụng chú vãng sinh để sám hối.

Tôi vừa khóc vừa niệm, bởi tôi phát hiện ra mình đã giết hại, làm tổn thương quá nhiều, do tôi sợ mình nhớ sót các chúng sinh, nên phải tìm quyển Bách khoa toàn thư mà tra thêm, kết quả tôi phát hiện thêm có một số chúng sinh đã bị tôi ăn qua và quên béng mất (do đã rất lâu tôi không ăn tới), vì bây giờ tôi đã ăn chay cho nên có rất nhiều chúng sinh bị tôi lãng quên.

Tôi bèn vì chúng sám hối, hồi hướng và phát hiện ra cách này cực kỳ hiệu quả.

Khi tôi vừa bắt đầu sám hối, tu sửa... thì phát hiện có rất nhiều loài đang chuyển động trên thân, nhưng lần này không giống lúc trước, vì đích nhắm của bọn chúng là: Ra khỏi thân tôi.

Chẳng hạn như từ đầu gối chúng di chuyển xuống mắt cá chân, chưa đến bàn chân thì đã biến mất không còn thấy nữa.

Sau đó, tùy theo số lần sám hối của tôi gia tăng, mà số vật trên thân giảm thiểu dần, sau này tôi có cảm giác hầu như không còn vật gì chuyển động trên thân mình nữa.

Tôi nghĩ, nếu như có thể mời thỉnh các chúng sinh này đi, thì đấy cũng là nhờ uy lực chư Phật, Bồ tát và công đức của danh hiệu Phật gia trì.

Xin kể thêm một điều hay nữa: Kinh và chú Lăng Nghiêm có uy lực rất lớn, có thể khiến người lập tức bỏ mặn ăn chay, mà tôi là bằng chứng rõ nhất.

Hồi trước khi qua Mỹ du học, đã có nhiều lần tôi muốn ăn chay, nhưng không được mẹ cho phép nên đành chịu.

Sau đi đến Mỹ rồi, do việc học quá bận rộn nên tôi chưa nghĩ đến việc ăn chay.

Một hôm, nhờ bạn bè rủ đến Vạn Phật Thành tham dự pháp hội, sẵn dịp tôi thỉnh một bộ kinh Lăng Nghiêm đem về nhà, khi đó tôi chẳng biết kinh Lăng Nghiêm thuyết gì, chỉ nghe bạn bè nói: "Trong kinh này có bài chú rất hay, nhất là đối với kẻ sống một thân một mình tại Mỹ như tôi, sẽ tỏa lực bảo vệ rất tốt..."

Do vậy mà sau khi về tới nhà thì tôi bắt đầu đọc kinh Lăng Nghiêm, xem được mấy trang, không hiểu gì nên tôi vội lật đến bài chú và bắt đầu đọc từng chữ, gắng nhiếp tâm trụ niệm nơi đó.

Đây là lần đầu tôi đọc chú Lăng Nghiêm, tất nhiên đọc qua chẳng dễ dàng, bởi có rất nhiều chữ tôi chưa từng thấy qua, chỉ nương vào từng chú âm, phù hiệu... mà ráng đọc từng chữ một.

Vậy mà kỳ tích phát sinh: Đọc chú chưa được một nửa, thì đột nhiên tôi quyết định phải ăn chay, hơn nữa còn tin chắc là lần này mình làm được.

Ý niệm ăn chay vừa phát thì tín tâm cũng sinh khởi theo, kiên cố đến mức ngay chính tôi cũng ngạc nhiên.

Tôi lập tức chạy ra khỏi phòng, mở tủ lạnh kiểm tra tất cả thức ăn mình có, loại bỏ hết đồ mặn đi.

Bà chủ nhà trọ nghe tiếng động liền chạy qua hỏi thăm.

Sau khi biết chuyện bà nói:

- Sao không đợi ăn hết đồ hộp mặn đi rồi hẵng ăn chay, chứ vứt bỏ như vậy tiếc quá!...

Lời lẽ và dáng điệu bà hàm chứa đầy bất bình, có vẻ như bà thấy tôi quá ngu muội.

Phải biết là nếu tôi ném bỏ thức ăn đồng nghĩa với việc tự làm hao tổn khá nhiều tiền.

Vì chỉ tính nội số đùi gà dự trữ kia thôi, cũng đủ dùng cho một tuần bởi tôi đã chi rất nhiều tiền cho thức ăn dự trữ.

Nhưng lúc đó tôi chỉ biết là mình không còn muốn ăn những thứ này, nên cương quyết loại bỏ.

Khi nghe bà chủ nhà nói bà có thể dùng thì tôi tặng hết cho bà, làm bà mừng muốn nhảy nhổm.

Một tuần sau, tôi phát bệnh, sốt li bì đến không thể xuống giường.

Bà chủ nhà nấu cháo cho tôi ăn, trong đó có chút thịt bằm.

Tôi rất khó chịu, nhưng không ăn thì không được.

Kết quả: mới ăn một ngụm thì đã phải lết vào nhà vệ sinh ói sạch hết.

Tôi hiểu ra dụng ý của Bồ tát, nên kể từ đó đến nay đã mười mấy năm, tôi không hề ăn mặn lại.

Hơn nữa cũng không thèm gì, đồng thời tôi cũng kiêng cữ luôn ngũ tân.

Nhờ chư Phật, Bồ tát đại từ đại bi gia hộ, tôi hầu như không phí chút hơi sức nào để thực hiện việc từ bỏ ăn mặn.

Tôi đã hiểu ra: Không nên cho người thức ăn mặn, cũng không nên mua đồ mặn cho người dùng.

Giờ đây tôi tự biết tội mình đã tạo, nên thiết tha sám hối, tôi nghĩ số thức ăn mặn mình muốn ném bỏ kia, đáng lẽ không nên cho bất kỳ ai.

Tôi tốt nghiệp rồi thì đến Cựu Kim Sơn(2) công tác, trước khi tìm nhà thuê, tôi thầm cầu chư Phật, Bồ tát an bài cho tôi kiếm được một nơi công tác gần nhà, gặp phòng thuê tiện nghi, an ninh, chủ nhà biết ăn chay.

Mối lo nhất của tôi là việc thuê phòng, vì những nơi xem qua tôi đều không vừa ý, cuối cùng cũng chọn được một chỗ.

Khi tôi xem nhà và quyết định thuê thì phải đến cửa tiệm của chủ nhà để giao tiền.

Lúc này tôi kinh ngạc đến ngây người, vì tiệm của chủ nhà là một nhà hàng chay.

Sau này tôi mới nhận ra: Những gì tôi nguyện cầu không gì mà không mãn ý.

Tôi quá cảm kích tri ân, bèn chí thành đảnh lễ chư Phật, Bồ tát.

Đồng trọ với tôi có một nữ sinh viên.

Hôm nọ khi tôi chuẩn bị làm cơm, thì em cũng đang làm bếp.

Trong lúc chờ đợi, tôi thấy em muốn làm món tôm nhưng vụng về không rành chế biến.

Trước khi ăn chay, tôi là vua ăn hải sản, nên các món tôm, cá, cua... tôi rất sành ăn, sành nấu.

Ngay từ nhỏ tôi luôn được dạy: Ăn hải sản thì phải chọn loại đang còn sống mới ngọt, ngon, bổ dưỡng.

Dòm thấy cô vụng về chẳng biết làm tôm như thế nào.

Tuy tôi đã ăn chay nhưng tâm chưa thanh tịnh, vì tôi đã "nổi máu anh hùng, ra tay cứu giúp cho".

Tôi lên mặt thầy, chỉ cô bạn tỉ mỉ cách làm, cách nấu, phải chế biên tôm làm sao cho ngon, cho khoái khẩu.

Đến bây giờ thì tôi đã biết mình sai, nên ngay đây xin thành tâm sám hối.

Đúng ra tôi không nên hướng dẫn chỉ dạy người cách làm đồ mặn, do vậy mà tôi bị thần thức con tôm oán trách, đeo theo báo thù.

Sau khi tổng kết, tôi rút ra được tám điều quan trọng:

1.

Tất cả những thức mặn đều không nên ăn, kể cả tam tịnh nhục, xin đừng vì khoái ăn mặn mà mượn cớ đó để dùng thịt, cá, chim, hải sản v.v...

2.

Muốn tiến trên đường tu, trước tiên cần giải quyết dứt điểm các tội nghiệp mình đã tạo, đặc biệt là nghiệp ăn thịt chúng sinh.

Sám hối là phương pháp tốt nhất.

3.

Đừng một bề ỷ vào uy lực chư Phật, Bồ tát hay tha nhân sẽ giúp đỡ làm tiêu nghiệp tội của mình, bởi đây là việc không ai có thể chịu thay, vì: Oan có đầu, nợ có chủ.

4.

Chúng ta có thành tâm sám hối hay không, Bồ tát và oan thân trái chủ của ta đều biết rõ, chẳng thể gạt được ai.

5.

Đừng dạy người làm thức ăn mặn.

Hiện tại tôi bắt buộc mình khi bị ngừoi hỏi cách làm món mặn như thế nào, tôi chẳng những không chỉ dạy mà còn khuyên họ: Nên nấu món chay.

Đây cũng bao gồm cả việc: Nếu người khác hỏi tôi một cân thịt giá bao nhiêu, tôi chẳng bao giờ hồi đáp.

Tôi không cung cấp cho người bảng giá hay thực đơn thức mặn, không bao giờ tìm tiệm mặn giúp họ, tuyệt đối không cầm hay đem thức mặn đến cho người ăn, không bao giờ thốt lời mời người ăn mặn.

Khi công ty đặt món, tôi luôn kiên trì yêu cầu họ đặt thức chay.

6.

Nếu phải cùng ngồi chung bàn ăn, mà trên bàn có thức mặn, thì tôi không bao giờ vì lịch sự mà thốt lời mời người dùng.

7.

Nếu không gặp bậc Đại thiện tri thức chỉ giáo cho, thì ta cần phải sám hối rất nhiều lần, mới có công hiệu.

Bạn đừng nghĩ sám hối một lần là đối phương sẽ hết oán và tha thứ cho bạn.

8.

Nếu đã thực hành phương pháp sám hối, thì bạn chẳng nên nôn nóng, mà phải hết sức bền tâm, dần dần sẽ thấy có hiệu quả.

Tôi dùng phương pháp phân tích mới không bị thiếu sót, phương pháp này dành cho người ngu khờ (vì tôi vốn là kẻ ngu đần).

Thí như về loài cá, tôi từng ăn qua cá chim, cá chình, cá chép, cá diêu, cá nhám, cá vàng... thì tôi ráng nhớ rõ số cá chim... mình ăn qua bao nhiêu, ở nơi nào, cá chép tôi ăn qua nhiều ít, ở đâu?

Cứ thế mà hồi tưởng và sám hối.

Tiếp theo là thịt trâu bò, tôi đã ăn qua bao nhiêu, ở đâu?

Kinh nghiệm của tôi là tuyệt đối không nên nhớ sót bất kỳ chúng sanh nào, cho nên khi nhớ rõ danh sách, sĩ số các loài chúng sinh bị hại thì bạn sẽ hiểu ra mình cần sám hối bao nhiêu biến mới được thanh tịnh.

Tôi đã sám hối rất nhiều, khi thành công thì đêm về nằm an ổn, ngủ rất ngon.

Đấy là kinh nghiệm bản thân tôi, xin chân thành chia sẻ, mong quý vị đều được lợi.

Lý Thập PhươngKHÔNG NÊN ĂN CÁ

Tôi là một phụ nữ ở Triết Giang, Đài Châu, năm nay 46 tuổi.

Mười mấy năm nay, Tôi thọ khổ tận cùng giống như sống trong địa ngục trần gian.

Tôi biết là nghiệp chướng túc thế trổ, là oan gia trái chủ làm ra.

Hai năm trước do thấy tôi không kham nổi bao thống khổ giày vò, dì tôi dẫn tôi đi qui y Tam bảo, pháp danh là Pháp Dao.

Sau đó tôi lien tục tổ chức ba đại lễ siêu độ cho oan gia trái chủ trong thân lẫn ngoài thân cầu họ vãng sinh, lìa khổ được vui.

Kể từ đó, tất cả khổ nạn khác đều tiêu tan, duy chỉ có đau đớn trên thân là không giảm, mà còn tăng nghiêm trọng.

Có lúc tôi đau như bị côn trùng rứt cắn.

Có lúc nhức như bị bò cạp chích, hơn nữa các chỗ đau đều nổi đỏ, rất khó chịu.

Mười mấy ngày trước, mặt tôi nổi mụn đỏ nhức nhối, đau đến không muốn sống, thế là tôi quỳ trước tượng Phật A Di Đà trong nhà, lệ tuôn như mưa, tôi khóc than với Phật:

- Kính thưa Phật A Di Đà, rốt cuộc là Ngài có tồn tại hay không, Ngài có thấy trên mặt con nổi đầy mụn đỏ và đau đến không muốn sống?

Cứ thế tôi vừa khóc vừa kể lể suốt mấy tiếng đồng hồ.

Tối hôm sau, tình cờ tôi biết được lão sư Trịnh Bá Đức đến Thượng Hải giảng pháp, hướng dẫn cách "làm tiêu tội nghiệp", tôi biết đây là Phật A Di Đà chỉ điểm, thầm nghĩ: "Mình được cứu rồi".

Thế là tôi cùng thân mẫu lập tức đến Thượng Hải, tham dự khóa giảng của ngài.

Đó là ngày mồng 7 tháng 7 năm 2013, tôi được phúc duyên bái kiến lão sư Trịnh Bá Đức và hiểu rõ đạo lý "chúng sinh đồng thể".

Trong pháp hội, các học viên khác đều thu được lợi ích, có cảm ứng rõ ràng, chỉ riêng tôi các nốt đỏ trên mặt càng phát dữ tợn hơn, tôi biết đây là chúng sinh oan gia không đồng ý siêu độ!

Trong số học viên có cô Xuân đã đắc Thiên nhãn, cô bảo tôi:

- Tôi thấy trên thân hcị có một con cá to đen rất có tính linh, trên đầu nó có sừng dài.

Con cá này khóc lóc, mách kể với cô Xuân rằng: Vào kiếp quá khứ tôi đã từng ăn thịt nó, cả cái đầu nó cũng nhai luôn (vì vậy mà tôi bị nó báo thù khiến đầu óc đần độn không trí tuệ).

Lòng căm hận phẫn nộ khiến con cá vô phương đầu thai vào cõi người, một bề theo tôi báo oán để hành hạ, trừng trị khiến tôi chịu đủ thống khổ, có lúc nó hành tôi đau đớn thống khổ đến không muốn sống.

Con cá còn nói nó hành như vậy là nhẹ, vì thấy mẹ thôi thành tâm ăn chay, niệm Phật hơn hai mươi năm nay, nên nó mới "nương tay", không báo thù dữ với tôi.

Nhân vì con cá này rất ưa chánh pháp của Phật, nên nó cực kỳ tức giận mỗi khi nhìn thấy tôi vì đau đớn khó kham mà đi cầu "bang môn tà đạo" giúp đỡ cho, những lúc đó nó đều dốc sức đẩy tôi quay về với Phật môn.

Cho dù con cá này chứng kiến vô lượng, vô biên chúng sinh và vô số quyến thuộc của nó nhờ pháp hội siêu độ của lão sư Trịnh mà được tiếp dẫn sang thế giới Cực Lạc, nhưng nó nhất quyết không chịu vãng sanh.

Cô Xuân liền hỏi con cá muốn ra điều kiện với tôi như thế nào?

Thì nó bảo rằng: Dù tôi thành tâm sám hối vẫn chưa đủ và yêu cầu tôi phải thực hiện hai điều:

1.

Từ nay đến vĩnh kiếp về sau, mãi mãi không được ăn cá!

2.

Phải khuyên 100 người không ăn cá.

Tôi bản tính ngu si, vừa nghe như vậy liền nghĩ: "Yêu cầu thứ nhất tôi làm được, nhưng điều thứ hai, tại sinh hoạt ven biển này tôi biết đi đâu mfa khuyên cho đủ 100 người không ăn cá đây?...

Lão sư Trịnh lập tức khuyên tôi nên viết bài đăng lên mạng (làm thế không những khuyên được trăm, mà có thể đến ngàn người, thậm chí ngàn ngàn vạn vạn người không ăn cá!)...

Tôi ngay đó liền chí thành sám hối, phát nguyện: Xin đáp ứng hai điều kiện của con cá yêu cầu.

Lão sư Trịnh từ bi lại vì tôi tiếp tục làm lễ siêu độ cho con cá nọ.

Dù đám con cháu và quyến thuộc của nó đều vãng sinh hết, nhưng nó vẫn phát biểu: Hiện giờ nó chưa muốn vãng sinh, song sau này sẽ không hành tôi nữa, nhưng nó muốn tiếp tục giám sát tôi một thời gian, xem tôi tu học thế nào, có chân thành sửa lỗi, ngôn hạnh có nhất như chăng?

Rồi sau đó, nó sẽ bất ngờ ra đi mà không báo trước.

Xin cảm tạ Phật A Di Đà, cảm tạ lão sư Trịnh, cảm ơn con cá khoan hồng đại lượng đã từ bi tha thứ và đẩy tôi vào con đường học Phật tinh tấn.

Xong pháp hội thì chứng bệnh của tôi có giảm bớt, tuy nhiên tôi vẫn còn đang thọ tội, nên dù phải mang chút khổ nạn này, tôi cam lòng đền trả.

Vì nghĩ rằng: So với thuở con cá bị tôi giết ăn đau đớn thì nỗi đau này của tôi chỉ bằng một phần ngàn thống khổ mà nó phải chịu trong kiếp xa xưa.

Chúng ta hãy nhìn xem, loài thủy tộc đang bơi lội tung tăng, ngao du tự do trong nước, song thế nhân đã giăng lưới, câu móc, nổ thuốc dùng đủ cách để bắt chúng lên mà: Lóc da, đánh vảy, mổ bụng, chặt đầu, moi nội tạng khiến chúng chảy máu đầm đìa đau đớn vô kể.

Ta giết chúng tàn nhẫn để chế biến đủ món ngon, thậm chí còn nướng sống ngay khi chúng đang giãy giụa, ta hành hạ chúng đau đến tột cùng.

Thù hận này, chúng há không ôm tận xương tủy ư?

Hãy xem hiện nay, nhân gian dưỡng nuôi thủy sản, để chúng sống trong môi trường nước bẩn ô nhiễm, dùng thức ăn trộn toàn hóa chất kích thích thúc tăng trưởng mau.

Khi ta ăn chúng, chưa kể những ký sinh trùng giun, lãi...

đều chuyển sang cư ngụ hết qua thân người, khiến con người thọ đủ bệnh tật, bị thống khổ giày vò vì ác nghiệp sát sinh.

Hãy nghĩ đến cảm giác hận thù, những cơn đau mà loài vật phải chịu và thông cảm xót thương cho chúng.

Phút giây này, tôi dùng chính kinh nghiệm đau đớn của bản thân đã trải qua, vừa rơi lệ, vừa viết những dòng này.

Khẩn cầu và xin khuyên quý vị từ nay đừng ăn cá nữa, kể cả các con vật khác như: Trâu, bò, heo, dê, gà, vịt, chim v.v... cũng không nên ăn, nghĩa là đừng ăn mặn nữa.

Phật dạy: Chúng sinh vốn đồng nhất thể, đã từng là quyến thuộc con cái, cha mẹ lẫn nhau.

Và bởi vì tất cả chúng sinh không ai muốn mình bị giết, ăn, bị sát hại nên "việc gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác!"...

Nguyện tất cả người và vật đều sống hài hòa thân ái, an vui.

Nguyện địa cầu này mãi tươi xanh, trong lành.

Nguyện môi trường chung quanh luôn được con người lưu tâm giữ gìn, khiến cảnh vật luôn được tuyệt hảo với nước biếc non xanh ưu mỹ.

Nguyện tất cả chúng sinh đều sống hoan hỷ, tu thành.

Do tôi từng nên trải kinh nghiệm bị oan gia báo thù hành hạ khổ như địa ngục nhân gian suốt mười mấy năm nên tôi chân thành khuyên các bạn: Xin đừng ăn cá, vì hiện thời bạn đang còn nhiều phúc nên không thấy mình bị báo ứng gì, nhưng một khi ác báo trổ thì rất khó kham, khó sống và nỗi đau kia không ai có thể chịu thay cho bạn.

Đây là bài học thống thiết mà tôi có được trong đời này.

Pháp Dao

ÁC BÁO ĐÁNG SỢ

Sáng nay có người ở Việt Nam dẫn hai đứa bé tới gặp tôi, nói sức khỏe chúng không được tốt, mong tôi giúp chúng mọi sự thuận lợi như ý cát tường.

Hai đứa bé này thần kinh không bình thường, tôi vừa nhìn đã nhận ra ngay, bèn hỏi chúng có từng sát sinh không?

Sau khi mẹ chúng nghe tôi giảng giải một hồi, bà mới hiểu ra và kể:

Trước đây có một cây đại thọ, họ đem chặt đi thì thấy dưới cây có hai con rắn, chúng đã chui vào trong hang.

Lúc đó hai đứa bé này đã dùng nước sôi đổ vào hang cho hai con rắn chết.

Sau việc làm đó, con trai cả của họ tự nhốt mình trong phòng, mấy ngày sau cháu ra ngoài thì phát bệnh thần kinh.

Đứa con trai đầu như thế, đứa thứ hai cũng vậy, cả hai đều bị bệnh thần kinh, bà mẹ hi vọng tôi có thể giúp họ hóa giải việc này.

Bệnh này liên quan tới sát sinh.

Do họ hành xử tàn nhẫn, không có lòng từ bi.

Hai con rắn đã chui vào hang rồi, thế mà họ còn đổ nước sôi hại chết.

Hai con rắn này vốn là hai anh em, bị họ hại bỏng chết, thì bản thân họ cũng phát bệnh điên.

Nghiệp sát sinh lãnh báo ứng rất nặng.

Cứ giết chóc rồi bị báo: hỗ tương sát, hỗ tương báo, đây là việc rất bi thảm của thế giới, dù mọi người không hiểu, không tin là tạo nghiệp sát sẽ phải lãnh ác báo, nhưng chuyện báo thù đền nợ không ngừng xảy ra, tạo thành quốc chiến, tạo thành nghiệp sát hại lẫn nhau!

Nghiệp sát càng sâu, tội tạo càng nặng, nên cứ giết chóc mãi không ngừng.

Vào năm 1980, có vị Giám đốc từ Đông Nam Á xa xôi đến Vạn Phật Thánh Thành cầu tôi cứu giúp, vì ông mắc bệnh ung thư rất nặng.

Tôi dẫn ông lên Chánh điện, cho phát lồ sám hối trước mười phương Chư Phật, Bồ tát và tứ chúng để cứu vãn nghiệp tội của ông.

Ông kể mình phạm nhiều tội ác, từng ăn vô số thịt chúng sanh như óc khỉ, chân ngỗng v.v...

Sau đó tôi hỏi:

- Ông có từng giết người không?

Ông nói: Tuyệt đối không!

Nhưng con đã từng bảo bà xã phát thai!

Tôi giải thích:

- Vì vậy, ông phát bệnh nan y đáng sợ là do tất cả những sinh mạng này tìm đến, đòi nợ ông!

Tôi xin nhắc nhở quý vị: không nên phá thai và đừng bao giờ xúi bảo người phá thai, bởi làm vậy cũng đồng tội giết người!

Người trì giới thì có công đức trì giới; kẻ phá giới thì có ác báo phá giới.

Nói theo lý nhân quả, dù quý vị có thọ giới và giữ giới hay không, nhân quả luôn tồn tại vận hành!

Hành vi sát sinh (giết thai nhi) là rất sai lầm, theo luật nhân quả, chắc chắn quý vị phải chịu báo ứng đền trả.

Tất cả những việc sát sinh này chỉ làm tăng thêm lòng oán hận, chiêu vời những bệnh lạ quái ác vào thân kèm theo những triệu chứng khác thường khó giải thích và không chữa được!

Bây giờ, ngoài ung thư còn có những bệnh nan y khác.

Những bệnh này đầu tiên bắt nguồn từ phạm giới tà dâm, sát sinh, ăn cắp, nói dối và dùng chất say, hút chích các chất ma túy...

Khi mọi người đều giữ ngũ giới, thực hành thập thiện và ăn chay thì sẽ không có thiên tai và được hưởng rất nhiều phước báo cực lớn thậm chí chính cái tâm trong lành sẽ khiến nhiều người có thần thông và khai mở ngũ nhãn.

Những câu chuyện bệnh hoạn báo ứng là có thực, là hiện thân thuyết pháp, nhưng người thế gian không tin.

Đa số còn dốc sức tạo ác, không biết ngưng sát, phóng sinh...

Nếu chúng ta muốn thế giới thái bình, thì mọi người nên giữ năm giới: Không sát, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu hay hút chích các chất ma túy...

Nếu quý vị không tạo nghiệp xấu thì thế giới sẽ không có thiên tai, đau khổ, bệnh tật và người ta sẽ sống hạnh phúc.

Hòa thượng Tuyên HóaVÌ SAO KHÔNG NÊN SÁT SINH

Quý vị hãy nhớ tích xưa trong sử, ngày mà vua Tỳ Lưu Ly giết sạch giòng họ Thích-ca, đầu Đức Phật cũng bị nhức thống thiết.

Nguyên nhân từ đâu?

Đó là vào kiếp quá khứ xa xưa, khi giòng họ Thích là dân làng chài và đức Phật Thích-ca là một cậu bé trong làng chài đó.

Khi dân chài bắt được con cá lớn, sắp giết thịt ăn, cậu bé tiền thân Phật đã đùa nghịch lấy cây đánh vào đầu nó ba cái.

Con cá lớn đó chính là tiền thân vua Lưu Ly, khi sinh làm người đã giết sạch going họ Thích-ca, còn đức Phật cũng trả báo nhẹ là bị nhức đầu.

Chuyện này quý vị không thể không tin!

Báo ứng rất rõ ràng và đáng sợ.

Vì lý do này mà Phật nghiêm cấm sát sinh.

Không những Phật từ bi với con người, mà còn thương cả đến loài trùng kiến nhỏ bé.

Bởi vì trong cái nhìn của Phật, tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật.

Trong kinh Phạm Võng nói: "Tất cả nam nhân là cha, tất cả nữ nhân là mẹ".

Chúng sinh trầm luân lưu chuyển trong sáu đường, từng làm cha mẹ quyến thuộc của nhau.

Vì vậy giết hại chúng sinh cũng xem như là giết hại cha mẹ.

Người đời không biết, không tin thuyết này nên mặc tình giết hại, ăn nuốt lẫn nhau.

Quý vị cần tin sâu nhân quả.

Nếu tin sâu nhân quả, thì trong lòng dù chưa sửa đổi, hạnh thiện cũng đã thành, vì mỗi khi hành động nghĩ suy, quý vị luôn biết thận trọng cân nhắc, cho nên hành vi sẽ tự nhiên ứng theo chiều thiện.

Những ai thường gặp tai nạn là do ác nghiệp, biệt nghiệp chiêu cảm nên.

Phải biết những tai họa xảy đến là do quý vị đã từng gieo nhân ác trong quá khứ.

Thế nên các tai nạn binh đao, chiến tranh, lụt lội, hỏa tai, địa chấn thảy đều do nghiệp quả chin mùi, đã tới lúc trổ, nên quý vị phải nhận.

Nhân thiện chiêu quả thiện!

Bằng chứng là trong hai trận Thế giới chiến vừa qua, chỉ có Hoa kiều ở Úc là được bình an.

Vì sao ư?

Vì trong tiền kiếp bọn họ không hề tạo nghiệp sát!

Năm Giáp Dần (1914) tôi đang giảng kinh tại Long Hoa Sơn, thì 4 huyện trong phủ Đại Lý phát sinh địa chấn kinh hồn, tại Đại Lý là nặng nhất: Nhà cửa thành quách đều nhất loạt sụp đổ không còn gì.

Chỉ có chùa viện, bảo tháp là không sao, vẫn đứng yên như cũ.

Trong cơn địa chấn đất rung chuyển nứt nẻ trầm trọng, còn phát sinh lử dữ cháy ngùn ngụt tràn lan.

Người ta tranh nhau chạy tránh nạn, thì dưới chân đất bỗng nứt ra, làm họ bị lọt xuống mắc kẹt trong đó, họ cố hết sức trèo lên, nhưng vừa ló được cái đều thì đất liền khép lại, cắt đầu đứt lìa nằm mắc kẹt lại trên đất.

Cảnh tượng hãi hùng nhìn giống như người đang sống mà bị hãm trong địa ngục cắt chém hay lửa thiêu, thảm đến mắt chẳng nỡ nhìn.

Mấy ngàn hộ dân trong thành tử nạn gần hết, sống sót rất ít.

Trong đây có hai tiệm vàng: Tiệm Vạn Xương của họ Triệu và tiệm Trạm Nhiên của họ Dương - khi lửa cháy đến nhà hai gia đình này thì liền tự tắt.

Chỗ họ ở cũng không hề bị địa chấn.

Mỗi hộ này chỉ có mấy mươi người, nhưng thảy đều bình an vô sự.

Nguyên do là hai dòng họ này, đời đời ăn trường trai, lại hay làm phước bố thí nên mới chiêu cảm được quả lành hi hữu như vậy.

Ai biết đến chuyện họ cũng đều xúc động.

Đã là Phật tử thì quý vị phải thấu suốt lý nhân quả khó nghĩ lường này và tin sâu không nghi.

Nếu tin sâu nhân quả thì quý vị sẽ tự nguyện hành thiện, trì giới, trường trai và không còn dám sát sinh.

Hòa thượng Hư VânCON CÁ NGÁT

Tôi sinh năm 1982.

Ngày từ thời bé tí tôi rất có hứng thú đối với Phật pháp.

Mười mấy tuổi thì bắt đầu tiếp xúc Phật giáo, lúc xem Lục Tổ Đàn Kinh thấy dễ hiểu, đối với kinh văn rất ưa thích.

Nhưng bản thân nghiệp chướng còn sâu nặng, nên tôi chưa thực sự tu trì, bởi dù có xem sách, kinh tôi chỉ hiểu cạn cợt bên ngoài.

Mãi đến năm 2009, tôi có duyên lành gặp thầy Tịnh Không nghe giảng kinh Vô Lượng Thọ... và cánh cửa lớn về con đường sinh mệnh mới... bỗng đại khai trước mắt tôi.

Lúc đó tôi tập tu niệm Phật, nhưng phát tâm chưa đủ mạnh, trì niệm không lien tục và hay gián đoạn, tâm tiến thủ không tăng.

Mãi đến sau khi trải qua kinh nghiệm báo ứng rồi, tôi mới thực sự thay đổi trên đường tu.

Mùa đông năm 2009, tôi theo chú đến Thẩm Quyến tạm trú.

Chú rất ưa câu cá.

Một chiều nọ chú câu trong hồ được con cá ngát nặng 8kg, đem về nhà.

Tôi hớn hở ra tay giết nó (thực sự xấu hổ vì tôi quá ngu si).

Khi tôi đập đầu nó liên tục 7, 8 cái, nó giẫy giụa rất dữ.

Lúc đó trong lòng tôi niệm sân bừng khởi, muốn trừng trị nó cho hả giận, nên thẳng tay xuống đao.

Ba ngày sau, tối đó tôi nằm ngủ, đang mơ màng thì bỗng cảm giác như có một đôi tay to lớn, không ngừng đấm, nện, véo, ngắt tôi... còn dùng thân thể quái dị (cực nặng) của nó đè lên tôi.

Trong lòng tôi rất sợ nhưng không biết làm sao.

Tôi vội niệm Nam mô A Di Đà Phật liên tục.

Tôi niệm mãi, không dám nghĩ gì khác.

Khoảng mười phút trôi qua, thì thấy bên ngoài cửa sổ (phía trước tôi) xuất hiện ánh bạch quang, vầng sáng này không chói mắt, ấm áp, khiến người ta cảm thấy dễ chịu, lòng trở nên an tĩnh và từ dung đức Phật hiện ra, trang nghiêm vô tả, trước Phật còn hiện ra một ao nước, bên trong có rất nhiều hoa sen, mỹ lệ vô cùng, ngày giây phút đó tất cả hoảng sợ trong lòng tôi đều tan biến.

Trải qua kinh nghiệm này rồi, tôi hiểu rõ nhân quả có thực không dối, nếu không nhờ Phật, Bồ tát cứu, ắt tôi đã gặp rắc rối lớn, thế là tôi dũng mãnh sám hối hành vi sát sinh, tụng kinh hồi hướng cho những chúng sinh bị mình giết.

Qua kinh nghiệm này, tôi tin Phật, Bồ tát luôn ở bên chúng ta, lúc nào cũng sẵn sang trợ giúp, chỉ cần ta nhất tâm tu hành, niệm danh hiệu Ngài miên mật, thì cảm ứng sẽ phát sinh, sẽ được uy lực các Ngài gia trì che chở.

Kể từ đó tôi phát khởi tín tâm kiên cố đối với Phật pháp.

Lý NamNHỮNG ĐIỀU PHÁI NỮ CẦN BIẾT

(Bài thuyết giảng của Bác sĩ Bành Hâm彭鑫)

Hôm nay, trong hội trường này tuy quý ông hiện diện tới 80% nhưng tôi vẫn xin giảng về những điều cần tránh cực kỳ quan trọng dành cho phái nữ.

Bởi vì đây là chuyện hệ trọng, liên quan đến sức khỏe và vấn đề sống còn của các cô!

Tôi muốn các cô hiểu rõ để tự bảo vệ tốt cho mình, không vì mù mờ, ngây thơ mà tự làm tổn thương tinh thần lẫn thể xác, vô tình thành tự hủy hoại mình mà không hay!

Quý vị đừng tưởng là chỉ có nam giới phóng túng tình dục mới bị tổn thương tinh thần lẫn sức khỏe, mà cả nữ giới cũng vậy!

Hôm nay tôi xin liệt kê những điều nguy hại để hai phái nam nữ cùng biết, mà tự bảo vệ tốt cho mình.

1.

Không nên thủ dâm

Xin cảnh báo với tất cả: Đây là mối nguy hại đầu tiên, bởi vì hành vi tự thỏa dục ngoài việc làm tổn thương thận, còn gây hại trực tiếp đến dáng vẻ bề ngoài nhất là đối với nữ nhân, đồng nghĩa với việc tự hủy dung nhan.

Tôi đã chẩn trị lâm sàng cho nhiều cô.

Ngay lúc đó do quá xấu hổ nên họ không dám thổ lộ gì, nhưng sau khi về nhà, họ đã viết thư cho tôi, thú nhận rằng: Từ thuở còn rất nhỏ, do sớm tiếp xúc với văn hóa đồi trụy và phim ảnh sex, nên họ đã nhiễm nặng thói xấu này.

Quý vị có biết kết quả tai hại của việc tự thỏa dục sẽ biểu hiện ra ngoài thế nào không:

Đầu tiên là tóc trên đầu sẽ bị rụng từng nhúm, từng nhúm, mặt nổi đầy mụn độc, mọc nhiều nhất ở quanh cằm vì vùng này biểu trưng cho thận.

Đối với bản thân, đương sự luôn thiếu tự tin, dễ bị đả kích.

Do thận khí không đủ, nên nhan sắc u ám.

Còn một biểu hiện xấu khác nữa là: Sắc mặt đương sự luôn tái mét, kể từ ấn đường đến vùng quanh miệng, luôn bị nhợt nhạt, mét vàng.

Một khi xuất hiện những biểu hiện trên, chứng tỏ nữ nhân đã bị suy thận.

Nếu bạn cho rằng tôi nói sai vì bạn là mỹ nữ và vẫn thấy mình hãy còn rất đẹp.

Nhưng tôi khẳng định: Hành vi tự thỏa dục đồng nghĩa với việc "tự hủy dung nhan và phước tướng"...

Nếu bạn không tự thỏa dục, bạn sẽ còn đẹp hơn rất nhiều, nhan sắc bạn sẽ rất trong sáng, thanh khiết.

Chúng ta sống, quan trọng nhất là tâm ý, nhưng các cô không chú trọng giữ tâm ý thanh khiết mà chỉ lưu tâm đến dung mạo, song chẳng hề biết rằng hành vi tự thỏa dục ngoài việc làm hại thể xác còn gây tổn thương sâu sắc đến tinh thần.

Đây là điều cảnh báo thứ nhất!

2.

Không nên phá thai

Tôi đã chứng kiến, gặp qua nhiều cô phá thai dẫn đến phát sinh bệnh phụ khoa rất nhiều.

Đa số các cô tuổi từ 25 đến 35 (Vào thập niên 1970 đến 1980 là thời điểm tệ trạng phá thai này phát ồ ạt, tập thể).

Khi các cô đến chỗ tôi khám bệnh phụ khoa thì hết 80% đều có bề dày lịch sử phá thai.

Hơn nữa, những bệnh phụ khoa liên can đến phá thai, phải nói là vô cùng khó trị.

Hiện nay, Y học cũng cho rằng: Hễ nữ nhân phá thai một lần, thì sẽ hạ thấp 25% khả năng sinh, dưỡng.

Suy ra: Nếu phá thai bốn lần thì năng lực này hạ thấp đến tận cùng.

Cho nên, quý vị hãy quan sát, thử nhìn chung quanh xem: Hiện nay đa số các cô mang thai thường bị các chứng: Sảy thai, đẻ non, thai chết trong bụng...

Phải biết nguyên nhân là do đâu?

Thực ra: Do bản thân các cô trước đây đã sống quá vô trách nhiệm, không biết trân quý mạng sống và sức khỏe mình.

Do đã có tiền sử phá thai, nên về sau các cô rất dễ mắc các bệnh "Mất khả năng sinh, dưỡng"... như tôi vừa liệt kê ra.

Phải gọi là bệnh, vì: Tuy các cô có thể mang thai nhưng rất khó sinh, khó dưỡng, là do phá thai dẫn đến tổn thương sức khỏe, chiêu lấy hậu quả này.

3.

Không nên ăn mặc hở hang

Đây là điều cần tránh.

Hiện nay đa số các cô vì muốn mình trở nên quyến rũ và hấp dẫn trước nam nhân, nên rất ưa ăn mặc hở hang.

Có người ăn vận hầu như khoe hết thân thể ra ngoài.

Đa số các cô thích mặc áo hai dây, hoặc kiểu y phục nào mà có thể khoe: Lưng, eo, hông, bụng, rốn, đùi v.v... ra ngoài.

Cho dù mặc áo hay quần, các cô vẫn luôn khoái cho hở rốn, hở eo!

Nhưng các cô hoàn toàn không biết rằng: Sau lưng và vùng bụng, eo, hông... có rất nhiều yếu huyệt quan trọng, nếu mặc hở như thế, là vô tình phơi hết các yếu huyệt ra ngoài.

Vào mùa đông, các cô còn mặc váy ngắn, quần ngắn, khoe đùi ra ngoài cho dù là có mang vớ, giày đi nữa thì vẫn khiến toàn bộ đôi chân bị phơi ra đón gió lạnh, đây gọi là: "Chịu giá rét để khoe nét mỹ lệ"... có phải không?

Tôi thấy có nữ diễn viên nọ, khi vào dự hội lãnh giải thưởng phim, cô mặc rất hở hang, xem như từ đầu đến lưng và toàn bộ phần vai, ngực đều phơi hết ra ngoài.

Nhưng cô lại ngồi dưới hướng máy lạnh phả tới, khiến cô ắt xì liên tục.

Để bớt lạnh, cô phải đưa tay ôm vai, thu mình co ro.

Ta hãy xem, trong khi quý ông thể lực mạnh hơn, cũng đồng một cảnh trạng này, nhưng họ lại ăn vận kín đáo, khoác âu phục sang trọng đến hai-ba lớp, nên bản thân họ đã an toàn lại càng khỏe thêm.

Còn cô nữ diễn viên này, đang cố phô nét đẹp của mình trong giá lạnh, hiện tại cô không thoải mái chút nào, mà cô cũng không biết mình mặc như vậy rất có hại cho sức khỏe, sau này cô sẽ bị các chứng bệnh như tôi đã liệt kê.

Các cô không hề biết ăn vận hở hang như vậy là tự làm tổn thương thân thể mình rất nghiêm trọng.

Sở dĩ các cô ăn mặc như thế là vì muốn hấp dẫn người khác phái, muốn khoe hết nét kiều diễm ra.

Cô nào muốn tỏa sức thu hút, khêu gợi, ưa khoe body, thì thường dùng phương thức này để thể hiện.

Nhưng các cô không hề biết rằng: Ăn mặc hở hang, lộ thể như thế đã vô tình khiến thân mình bị tổn thương phi thường nghiêm trọng.

Vì sao tôi khẳng định như vậy?

Tôi xin cảnh báo với tư cách là một bác sĩ đã dày dạn kinh nghiệm chẩn khám, có quá trình trị bệnh lâu năm cho quý cô, chứ không phải với tư cách của một người khó tính, ưa bắt bẻ, tùy tiện nói bừa, vô căn cứ.

Đã có một cô gái hỏi tôi:

- Không hiểu sao tôi rất dễ bị cảm, ho?

- Có phải trước đây cô ưa mặc áo hở lưng?

- Đúng thế, tôi rất hay mặc kiểu y phục này.

- Cô mặc vào thời tiết nào?

- Thường là vào mùa hạ.

Phải biết, vào mùa hạ nơi thân thể người dương khí hay bị phát tán ra ngoài, do thân toát mồ hôi nên lỗ chân lông nở to, lúc đó cô lại mặc y phục hở hang vì tưởng rằng vào mùa hè oi bức sẽ không có vấn đề gì.

Nhưng cô quên rằng: Hiện nay trong nhà, đa số chuyên xài máy lạnh, một khi cô bước vào phòng lạnh, thì hàn khí kia sẽ xông thẳng vào người cô, nó xâm nhập bắt đầu từ đâu?

Từ huyệt Đại Chùy sau lưng cô (Đại tức là đại trong lớn nhỏ, Chùy (椎) là dùi của mũi khoan), khí lạnh sẽ vào từ cửa huyệt Đại Chùy đi thẳng vào nội thể cô, trực tiếp gây tổn thương phổi (phế khí).

Một người mà phế khí không đủ, tương lai sẽ bị trăm bệnh phát sinh, dẫn đến dễ cảm.

Đây là điểm nguy hại đầu tiên do mặc y phục kiểu hai dây, hở ngực... gây tổn thương thân thể.

Còn điểm nguy hại kế nữa là: Mặc hở rốn!

Đông y chúng ta luôn cho rằng vùng dưới rốn (Đan Điền), là nơi quý báu, nếu mà mặc hở, khoe hai đại huyệt này ra ngoài chưa kể phía sau lưng còn có huyệt Mệnh Môn cũng bị phơi ra rất có hại.

Vậy có hại như thế nào?- Chính là: Khó mang thai, khó sinh, khó dưỡng.

Gọi là hội chứng: "Tử cung bị lạnh".

Chúng ta đều biết: Từ cung là nơi thai nhi trú ẩn, khi hài nhi ở trong thai mẹ, nơi trú ngụ được xem như là cung điện của bé.

Nếu phòng ở đó bị lạnh, ẩm... thì hài nhi trụ ở đó rất khó kham, khó tồn tại.

Do các cô khoái để hở các vùng: Bụng, rốn, eo, lưng... nên đã vô tình làm cho tử cung bị lạnh, sau này sẽ xuất hiện chứng: "Thai chết trong bụng".

Đó là lý do vì sao ngày nay thấy có nhiều cô mang thai ba, bốn tháng thậm được sáu, bảy tháng đi nữa vẫn hay gặp cảnh: Sảy thai, đẻ non...

Tại sao như vậy?

-Vì tử khí, hàn khí tích tụ trong thân các cô quá nặng, gây trệ huyết, nghẽn mạch mà thành ra như thế.

Thêm một điều nữa, kiểu y phục khoe đùi, khoe chân ra ngoài, vô tình hứng khí lạnh thổi tới, khiến kinh mạch đồng bế, bị nghẽn.

Quan trọng nhất là hai kinh can, thận bị bế, mà gan, thận của phụ nữ chủ về bào cung, một khi hai kinh này bị bế, thì tương lai các cô sẽ mắc các bệnh phụ khoa như: Tử cung sinh bướu, bụng bị viêm.

Còn một chứng trạng nữa, đó là bệnh gì?

Xin thưa: Chính là trong tương lai khi các cô quá 45 tuổi, sẽ bị bệnh phong thấp.

Vào năm 2003, tôi giữ nhiệm vụ đón tiếp và phiên dịch, giảng giải cho một nhóm người Âu qua đây xin tìm hiểu khoa Châm Cứu ở nước ta.

Sau khi họ quan sát các cụ già nơi đây xong, ông Trưởng đoàn ngạc nhiên phát biểu:

- Ở nước chúng tôi, đa số những người già trên 80 đều phải ngồi xe đẩy.

Nhưng không ngờ nơi đây có rất nhiều người già không cần xe đẩy mà lại đi đứng hoạt động vô cùng mạnh khỏe.

Vì sao quý vị biết không?

Bởi những văn hóa tuyên dương sự kín đáo, cẩn trọng, lễ nghi... mà Tổ tiên lưu truyền, để lại cho chúng ta thảy đều là tinh hoa quý báu.

Nếu ta biết tôn trọng, hành theo lời giáo huấn vàng ngọc này, thì thân thể sẽ tự nhiên khang kiện.

Riêng các nước Tây phương, phần đông phụ nữ rất ưa mặc kiểu khoe chân, sau sẽ bị gió lạnh xâm nhập, khiến quá tuổi 45, họ sẽ đi đứng khó khăn, không còn nhanh lẹ, dễ bị các chứng phong thấp, hoặc những bệnh tương tự.

4.

Không nên phóng túng tình dục

Điểm nguy hại cuối cùng tôi muốn nhắc nhở các cô là: Không nên phóng túng tình dục (lạm tình), sẽ gây tổn thương tinh lực.

Tôi xin nhấn mạnh lần nữa: Nếu các cô phóng túng tình dục nghĩa là một phụ nữ mà quan hệ với quá nhiều bạn tình, chuyện này đối với bản thân các cô chính là hành vi tự sát, tự hủy hoại bản thân mình.

Vì cổ nhân có câu "Tam tinh thành nhất độc, chuyên tổn bất khiết nữ", là hàm ý gì?

Có nghĩa là: Tinh dịch của ba nam nhân hợp lại, sẽ biến thành một chất kịch độc gây tổn hại cho nhưng cô bất khiết hay quan hệ nam nữ bừa bãi.

Thế thì mức độ tổn thương ra sao và nặng như thế nào?

Các cô sẽ mắc một loại bệnh, mà thời cổ đại gọi là "Sản hồi đầu", còn nói theo hiện tại thì là: "Bướu cổ tử cung".

Điều này hiện nay, khoa học cũng đã chứng minh: Tại nước Mỹ, các bác sĩ sau khi đi chẩn khám nơi một nhà giam nọ, bất ngờ phát hiện các cô gái hành nghề mại dâm bị chứng "Bướu tử cung" cao hơn gấp năm lần sao với những phụ nữ bình thường!

Phần tôi, lúc theo học Y khoa và đang thực tập tại bệnh viện (hồi đó bên cạnh Y viện là chỗ các gái điếm tụ tập), bọn họ thường vào khám bệnh Phụ khoa.

Tôi kinh ngạc khi thấy các cô hết 80% đều mắc chứng bệnh này, cổ tử cung đều bị thối rữa cả.

Bệnh phát tiếp theo chứng "Thối rữa cổ tử cung" chính là "Tử cung bị bướu".

Biến chứng phi thương lớn.

Sau bao năm làm trong ngành Y, tôi dám khẳng định những người hành nghề mại dâm bị vướng các bệnh nguy hại kia quả thực nhiều vô kể.

Điều này đã chứng minh lời cảnh báo của Cổ thánh Tiên hiền là chân thực.

Nếu các cô bất tuân hoặc vì không biết mà cứ sống buông thả, phóng túng tình dục thì chính là đang tự hủy hoại mình tự chiêu mời và rước vào những căn bệnh khủng khiếp.

Tôi chỉ cảnh báo thôi, vì nếu tôi biết mà không chịu nói ra thì rất là có lỗi.

Nhưng tin hay không, có chịu bảo vệ và yêu quý thân mình hay không, đó là phần của quý vị!ANH KỸ SƯ KIẾN TRÚC

Có một kỹ sư kiến trúc, tuổi trẻ giàu sang, rất thành đạt, mạnh khỏe.

Quanh năm lui tới Giang Tôi nhận các công trình đại thiết kết.

Tuổi còn trẻ mà giàu kếch xù, nên vô cùng đắc ý, ông tha hồ phóng túng tình dục, tận hưởng hoan lạc.

Đến năm 45 tuổi thì phát bệnh, khi đi khám mới hay là bướu phổi thời kỳ cuối.

Sau đó anh tìm đến với Phật giáo, xuất ra 25 vạn ấn tống cuốn "Nhân quả phụ giải Lương Hoàng Sám" của Quả Khanh, còn bỏ ra khoản tiền cực lớn tu sửa Niệm Phật Đường Giang Tô.

Xây dựng xong thì giao cho tín chúng tại đây niệm Phật.

Không hề thu phí một xu.

Tín chúng vùng này vì vậy rất mang ơn ông, nhưng bệnh nặng của ông lại không có biến chuyển gì tốt.

Sau nhân duyên hội đủ, nhờ một cư sĩ vùng này giới thiệu, ông được gặp Cư sĩ Quả Khanh.

Ở trước mặt Quả Khanh, ông khóc to, thống thiết sám hối, kể ra bao ác nghiệp của mình.

Nào là: Trốn thuế, lấn chiếm tiền tài trên lẫn dưới, thậm chí còn phóng túng tà dâm đủ kiểu... do giàu có nên ông tìm ăn đủ thứ sơn hào hải vị không gì mà chưa từng nếm qua.

Thậm chí cả thai non, thai hư...

ông cũng chế thành mỹ vị mà thưởng thức.

Quả Khanh nhắc ông.

Muốn sám hối phát lồ, thì nhất định phải sám cho đạt được thanh tịnh.

Bắt buộc phải thông báo ác hạnh mình làm khắp thiên địa, để cảnh tỉnh thế nhân.

Bản thân phải phát thệ: Quyết không phạm lại nữa.

Nếu làm được vậy tội ác mới tiêu trừ, bệnh ông nhất định sẽ chuyển tốt, bởi thế mới có câu: "Tội lỗi đầy trời sám hối liền tiêu"...

Nghe Quả Khanh khai thị xong, ông thống khổ nghẹn ngào, lập tức sám hối, khai rằng mình còn duy nhất một lỗi tà dâm vẫn chưa đoạn trừ.

Sau khi ông sám hối triệt để, đạt được thanh tịnh rồi, thì chứng bệnh nặng kia không bao lâu được lành, xem như ông từ cõi tử được hồi sinh.

Lúc ông đến bệnh viện kiểm tra lại, thấy chứng bướu phổi thời kỳ cuối đã tiêu tan, nhưng trong phổi vẫn còn chút nước.

Nhân đây, Quả Khanh khai thị cho mọi người hiểu:

- Bệnh là tự mình gây ra nên cũng do mình trị, nếu không chịu tu, không sửa hết mọi thói tật lỗi lầm nơi bản thân, thì dù có gặp Bồ tát Quán Thế Âm cũng vô ích.

Quả Khanh nói:

- Con người ta có ba căn bệnh là: Tham, sân, si.

Phương pháp trị rất đơn giản: phải dùng Giới, Định, Huệ chữa trị.

Trong bộ sách "Báo Ứng Hiện Đời" toàn kể những câu chuyện có thực do Quả Khanh đích thân trải qua, chứng kiến, khi tường thuật chỉ đổi tên người và địa danh.

Thực ra chuyện gặp Hòa thượng Diệu Pháp không phải xảy ra ở Ngũ Đài Sơn, đó cũng chỉ là địa danh tạm đặt.

Không ngờ sau này bị nhiều người mạo nhận, giả xưng là Hòa thượng Diệu Pháp và đi khắp nơi lường gạt, họ còn đem ảnh mình in lên sách, quảng bá lưu truyền và mạnh dạn tuyên bố rằng: Ai muốn gặp Hòa thượng Diệu Pháp một lần thì phải nộp một vạn!

Vì vậy, xin khuyên mọi người: Không nên lên Ngũ Đài Sơn tìm Hòa thượng Diệu Pháp nữa, bởi Hòa thượng Diệu Pháp chỉ là tên tạm đặt.

Có lần ngài Quả Khanh đang giảng pháp, bỗng có một ông tiến đến hỏi:

- Ngài là Dương Giáo sư?

Con đọc xong câu chuyện "Trong xưởng có gì nhà tôi có đó(3)" của Ngài, cảm thấy tình cảnh mình cũng giống như vậy, bèn làm y theo và bệnh lưng nhiều năm của con đã được lành.

Nay mạo muội tìm đến để cảm ơn ngài.

Một người không biết gì về Phật, thử đến nghe Quả Khanh giảng kinh Địa Tạng, trong lúc đang dự thính bỗng cảm giác có luồng nhiệt lượng chạy khắp người khiến toàn thân tê rần.

Nghe xong họ đi về nhà, thì phát hiện chứng bệnh đi khập khiễng của mình đã lành.

Tu hành là tu nơi tâm, không cần phô trương hình thức bên ngoài.

Cũng không nên hướng ngoại tìm cầu.

Phải nhớ rõ "Không làm các điều ác, vâng làm các điều lành, tự tịnh thân khẩu ý"... mới là làm đúng theo lời chư Phật dạy.

Bạn không nên ăn thịt loài vật, nếu ăn bạn sẽ bị bệnh rất khó kham.

Cho dù bạn không lễ Phật dâng hương, không có tượng Phật, nhưng tâm bạn hoàn toàn chuyển tốt thì bệnh gì cũng lành.BÀN VỀ GIAO TẾ, ĂN MẶC

(Buổi giảng ở Huệ Châu của Quả Khanh)

Tu hành là phải tu nơi tâm, không phải chỉ tu ở hành vi thôi.

Nếu hành vi tốt mà tâm nghĩ loạn, nghĩ xằng, thì cách tu này không có tác dụng.

Thời xưa "Nam nữ thụ thụ bất thân", không thể ôm nhau, nếu thân mật lắm thì chỉ có thể nắm tay.

Gặp nhau nếu có ái mộ thì chỉ nghĩ: Người này sao mà xinh đẹp thế?

Vì luân lý ngày xưa luôn dạy: Nam nữ hữu biệt, không cho phép hành xử buông thả.

Thời nay thì thế nào?

Bạn thấy ngay trên truyền hình, giới nữ ăn mặc cực kỳ hở hang, còn tự cho như vậy là thật tuyệt, đây gọi là không biết xấu hổ!

Bởi sự ăn vận hở hang như thế là khơi gợi lòng dâm, xúi người khởi dục phạm tội, cho nên bạn phạm tội lớn phải xuống địa ngục, rất điên đảo!

Còn nữa, nữ vốn để tóc dài, nam để tóc ngắn, nhưng bạn xem hiện tại đi, nam nhân để tóc dài, uốn, ép, sấy... hay cột đuôi, thắt bím.

Còn con gái thì để tóc như con trai, mấy ông lại mặc y phục hoa, nữ mặc màu xám, đen... hiện tại đa số như thế, ngược ngạo cả.

Thời nay nam nữ mặc y phục rất lạ: Con gái mặc hở rốn, hở bụng... tỉnh bơ đi ngoài đường, có lúc còn không mặc quần, rất là điên đảo.

Mặc hở hang khêu gợi như vậy có phải là: "Để nam nhân nhìn thấy ta thì rạo rực phát cuồng, bùng khởi ham muốn tình dục?".

Bạn có biết làm vậy là mình đang phạm tội chăng?

Bạn có biết ăn mặc vậy sẽ khiến bao nam nhân khởi dục vọng, tà niệm?

Nam nhân phạm tội là do bạn khêu gợi tạo thành, bạn cũng góp phần xúi bẩy việc phạm tội, bạn có biết không?

Lúc nghe tôi thuyết giảng, các cô gái ngồi dưới đài đều lộ vẻ xấu hổ.

Bởi các cô thuộc con nhà rất giàu, ai cũng ăn mặc đẹp, đa số toàn mặc hở ngực, hở lưng, thậm chí khoe cả bụng, rốn... ra ngay trước Phật đường.

Nhưng các cô gái này vẫn ngoan ngoãn ngồi nghe tôi giảng.

Cuối cùng, tôi hỏi họ:

- Quý vị có biết động vật và người khác nhau chỗ nào không?

- Dạ có.

Tôi hỏi: Khác thế nào?

Các cô đáp: Động vật không biết xấu hổ, còn con người biết xấu hổ.

Đúng vậy, động vật mà luyến ái, thì con đực đuổi theo con cái bộc lộ dục vọng thẳng thừng, còn loài người chúng ta thì biết e lệ, giữ gìn.

Bạn xem, chúng ta hiện nay cư xử dạn dĩ giống như động vật.

Theo quan niệm đúng đắn thì phải là: Con gái luôn biết giữ thân, ăn vận kín đáo, khéo tự bảo hộ mình, không nên khêu gợi làm người phát sinh tà niệm.

Vì nếu gặp kẻ không tự khống chế được thì họ sẽ xâm hại.

Đáng tiếc là thời nay, phái nữ ăn mặc càng lúc càng mỏng thiếu vải thậm tệ.

Đến nỗi dù đi trên đường lộ hay lái xe, vào công sở, nhìn đâu cũng thấy.

Buổi sáng các cô nghe tôi giảng rồi, thì chiều đó khi đến, tất cả các cô đều thay đổi y phục kín đáo, lịch sự, trang nghiêm.

Như vậy đủ chứng minh: Con cháu chúng ta vốn rất ngoan, chỉ vì không được ai chỉ dạy cho thôi.

Bạn chỉ cần chịu khó giải thích, thì con cháu mình sẽ hiểu ra và không thèm ăn mặc lố lăng nữa.

Giữ giới là tuân thủ, hành những điều tốt cho ta lẫn người khác.

Nếu mỗi cá nhân, mỗi gia đình đều hành đúng pháp, tất nhiên hợp đạo, ắt cuộc sống sẽ được thuận lợi.

Ai sống thất đạo vô đức, tất nhiên phúc chẳng đến cửa.

Tuy rằng chúng ta đang sống đây nhưng thực sự ai cũng phải chết, song bạn đâu biết lúc nào mình chết và sẽ chết như thế nào?

Vì vậy mà sau khi nghe giảng, hiểu pháp rồi, thì ráng tranh thủ tu hành.

Như thế thì một khi cái chết đến, bạn sẽ không bị rơi vào cõi xấu.

Hiện tại dù bạn có tiền, có quyền thế cũng đừng cho rằng mình luôn có kết quả tốt.

Bởi cho dù bạn tốt tính thì cũng không chắc chắn chi, nếu trong quá khứ bạn từng sát sinh, ăn thịt, tạo rất nhiều nghiệp xấu.

Hãy tự kiểm xem bạn đã sám hối chưa?

Lương Hoàng Sám là bộ sám văn rất hay, rất hữu hiệu, tôi mong mọi người hãy nương theo sự hướng dẫn trong đây, siêng năng sám hối.

Trong "Tứ chủng thanh tịnh minh hối", Phật Thích Ca có nói: "Thời mạt pháp dâm tâm hừng thịnh, mọi người đều xúm nhau quảng bá dâm dục, ngày ngày tán dương dâm"... bạn xem có phải là thời này chăng?

Hiện nay, ở đâu cũng thấy quảng cáo, từ ngoài đường, phố xá đến báo đài, truyền hình... gì cũng quảng cáo.

Nhưng người quảng cáo thường ăn mặc rất hở hang!

Hôm kia đi trên đường, tôi đang chờ đèn đỏ thì thấy bốn cô gái bên cạnh, mặc y phục hở cả lưng, eo...

Model bây giờ là mặc hở rốn, hở eo, phơi hết bụng ra.

Quần hay váy gì cũng cực ngắn, còn mặc tụt xuống thật thấp.

Không phải kiểu ăn mặc ít vải như thế chỉ có tại địa phương này, mà khắp nơi.

Đa số các vị mặc như muốn phơi thân hết ra ngoài, y phục càng lúc càng mỏng, ngắn cực kỳ!

Người thời nay quá chú trọng chuyện phòng the, còn ca ngợi, hướng dẫn, chỉ bày dâm tà.

Thậm chí khuyến khích cả việc thủ dâm và cho đó là bình thường vô hại!

Làm vậy tương lai đều sẽ xuống địa ngục.

Vì thế người tu phải thanh tâm quả dục, dốc sức đoạn trừ dâm dục.

Vì chúng ta là phàm phu nên vẫn còn dâm tâm, nhưng phải lo trừ khử vọng niệm này.

Quý vị có thể làm được chăng?

Nhiều độc giả xem sách tôi, họ chỉ là những cặp vợ chồng trẻ độ khoảng 20, 30 tuổi, đã có con viên mãn, song hiện nay đều rất thích tu và quyết tâm đoạn dục.

Đa số người thời nay ưa săn lùng thuốc tráng dương, cường âm... vì họ muốn làm tân lang tân nương mỗi ngày, nên xúm nhau lo kiếm thuốc săn ngực, chắc chắn... bổ chổ này, bồi chỗ kia, nữ nhân thì khoái ăn diện hở hang đến mức "Muốn nam nhân nhìn các cô là khởi dục", bạn có biết làm vậy là tạo nghiệp ác, sẽ chiêu khổ báo đến cho bản thân mình hay không?

Lần này khi đến phi trường Thượng Hải, chuẩn bị lên phi cơ, tôi nhìn thấy tấm hình cô gái quảng cáo treo trên vách một tòa lầu.

Hình cô được phóng to, lớn hơn nhiều so với người thật.

Đó là một cô gái tóc vàng mặc bikini, các ông vừa nhìn thì mắt liền dán chặt vào thân thể cô, chẳng muốn bước đi.

Họ đều nghĩ: "Chà!

Sao mà bốc lửa, bắt mắt quá!".

Đúng là cô gái này trời cho có body đẹp, tôi vừa nhìn, thì cảm giác đầu tiên là cô ta rất đẹp, nhưng cảm giác tiếp theo là: Tôi thấy rõ mồn một cô hiện đang mắc bệnh phụ khoa rất nặng.

Nghĩa là sao đây?

Bởi vì rất nhiều nam nhân vừa nhìn thấy cô, thảy đều dừng chân ngó chăm chăm, thân thể cô quả nhiên mỹ lệ và quyến rũ.

Tại phi trường này, ngày nào cũng có đông người đến đây, các ông vừa nhìn cô thì đa số đều khởi ý nghĩ xằng bậy, dục phát ào ào... bởi cô ăn vận quá hở hang, khêu gợi.

Chưa hết, sau khi các nam nhân này về đến nhà rồi, thì trong óc họ luôn tơ tưởng đến hình dáng bốc lửa của cô, kèm theo là ý tà dâm mãnh liệt.

Như vậy rất không tốt.

Tôi quán sát tiếp, thấy cô gái này vẫn chưa chết, nhưng hiện đang nằm liệt trên giường không thể cử động, bởi cô bị bệnh phụ khoa quá nặng.

Có lẽ cô sống cũng không làm việc gì bậy, lỗi... chỉ có chụp quảng cáo thôi.

Nhưng chính vì cô mặc hai mảnh quảng cáo như thế, vô tình làm hại vô lượng vô biên người, cô đã phạm lỗi: Âm thầm gợi dục, kích khởi dâm tâm người bộc phát.

Vì vậy, các cô tuyệt đối không nên ăn mặc hở hang.

Bạn muốn hở hang để lộ hàng, khoe thân?

Thì chính là đang khiêu gợi lòng dâm, mà kích thích làm một người sinh tâm dâm thôi, thì tội đã vô biên rồi!

Chúng ta hiện tại đều ca ngợi tình ái yêu đương.

Nhiều tình lắm dục để làm chi?

Bạn muốn nam nhân nhìn bạn phải nổi dục, phát tình ư?

Như vậy là muốn khơi gợi dâm tâm của người khác giới, đây chính là tội lỗi của bạn.

Đối với bản thân bạn rất có hại, vì tội này do bạn tạo ra!

Giống như cô gái trong hình quảng cáo kia, cô chẳng có làm gì bậy, nhưng chính tấm hình hở hang của cô đã gợi dục, làm loạn tâm nhiều ông, thúc đẩy tâm dâm họ bùng phát.

Hiện nay ta thường thấy những hình ảnh hay các cảnh quay quảng cáo, trong đó người mẫu hở hang tận mạng.

Những loại quảng cáo dạng này rất có hại và mang tội nghiêm trọng, vì cố ý gợi dục khơi dâm!

Cho nên, đã là đệ tử Phật, thực tâm muốn tu, thì sát, đạo, dâm, vọng... chúng ta nhất định phải đoạn trừ.

Cũng xin nhắn nhủ phái nữ: Khi đến chùa nên ăn vận kín đáo, không nên hở hang.NHỮNG ĐIỀU PHÁI NAM CẦN NÊN BIẾT

Hỏi: Thủ dâm có phải là tà dâm chăng?

Thủ dâm, mặc dù không nguy hại đến người khác, nhưng cũng là một loại tà dâm.

Lý do như sau:

"Ngẩng đầu ba thước có thần linh", người học Phật đều biết rõ điều này, trên thân mỗi cá nhân đều có thần giám sát.

Người nào sống càng chánh trực thiện lương, thì được Hộ pháp thiên long hộ vệ càng nhiều.

Được thần linh ủng hộ thì họ làm bất kỳ việc gì cũng thuận lợi, mà thủ dâm là: Tự làm việc nhơ uế, khinh lờn thần linh nghiêm trọng", lâu dần thần hộ pháp cũng lánh xa họ.

Lúc này thì bệnh quái, quỷ mị tà khí liền bắt đầu xâm nhập vào thân thể họ.

Trung y nói: "Thân có chánh khí, tà chẳng dám quấy phá" là rất có lý đấy!

Rất nhiều người sau khi nhiễm thói xấu thủ dâm rồi, thường hay bị cảm mạo, thậm chí mũi bị viêm v.v...

đây là biểu hiện chánh khí không đủ, dẫn đến tà khí xâm nhập.

Hỏi: Thủ dâm có nguy hại gì?

Thứ nhất: Nguy hại của thủ dâm đối với thân thể hiển lộ rất chậm nên đương sự tưởng là không có gì.

Người trường kỳ tự thỏa dục thì lực đề kháng rất kém, dễ bị cảm, còn bị viêm mũi, viêm họng v.v... mãn tính.

Nếu phát hiện mình dễ cảm hơn người chung quanh, hơn nữa chứng trạng luôn nặng hơn người khác, thì cần phải chú ý: Đây là tín hiệu dự báo tác hại của thủ dâm.

Thứ hai: Nếu cứ tiếp tục hành vi này, sẽ khiến nguyên khí hao tổn, phát sinh các chứng suy nhược thần kinh.

Tình trạng điển hình là tinh lực không đủ, dễ mệt mỏi, đuối sức, trí nhớ suy trầm trọng.

Thứ ba: Nếu đến lúc này mà vẫn chưa ý thức được tầm nguy hại của thủ dâm, vẫn còn sa lầy lún sâu trong thói xấu đó, thì hậu quả sẽ không tưởng tượng nổi.

Những tác hại biểu hiện như sau:

1.

Thận hư nghiêm trọng dẫn đến viêm Tiền Liệt Tuyến, người bị bệnh này đa số do trường kỳ thủ dâm, túng dục mà thành.

2.

Nam tính bị suy thoái, biến chất, dễ xuất tinh, di tinh, gây ảnh hưởng xấu đến hôn nhân sau này.

3.

Dễ bị chứng điên cuồng, trầm uất... nặng thì phát triển thành bệnh Thần kinh phân liệt.

4.

Thận bị tổn hoại, dẫn đến bệnh viêm đường tiết niệu (nhiễm trùng đường tiểu).

Hỏi: Vì sao có người ưa thủ dâm, có người không?

Đáp: Người ưa thủ dâm là do nghiệp lực chiêu cảm, cũng có nghĩa rất nhiều đời trước hạt giống dâm uế lưu sâu trong tàng thức, nên mới phát sinh hạnh xấu này.

Những người phạm tà dâm đời này, đa số tiền kiếp cũng từng phạm dâm, nay còn lưu lại tập khí xấu.

Theo mệnh lý học thì gọi những người này là "phạm đào hoa"(4), rất đúng.

Có thể nói là họ sinh ra đã có sẵn dâm tâm rất nặng.

Nếu như đời này không lo đoạn trừ thói xấu, không lo huân bồi đức hạnh, không chịu phát nguyện giới dâm triệt để, thì thói xấu kia sẽ gây nguy hại cho họ đến đời sau.

Hỏi: Vì sao các bạn học quanh tôi thủ dâm nhiều mà thấy đa số vẫn khỏe mạnh, tốt tướng?

Đáp: Mỗi một cá nhân có nghiệp lực bất đồng, nên tình huống cũng bất đồng, song họ vẫn bị ác tập thủ dâm gieo hệ lụy, gây ảnh hưởng xấu trầm trọng, có điều do mức độ nguy hại này phát chậm nên người ta không nhận ra thôi.

Giả như có người mỗi ngày thủ dâm một lần, thì chưa đến hai năm thân thể sẽ phát sinh vấn đề.

Nhất là trước 18 tuổi mà thường hay tự thỏa dục, do thân thể phát triển chưa đủ, nên ảnh hưởng xấu càng nặng, có hại đến việc phát triển thân tướng.

Tôi đề nghị: Tốt nhất xin quý vị hãy giới trừ thủ dâm triệt để, nếu không sẽ lưu toàn hạt giống xấu trong tàng thức, gây hại cho thân tâm đời này lẫn đời sau.

Tật xấu ấy không khác gì hút ma túy, phạm một lần thì muốn tái lập, bị ghiền rồi thì sẽ chuốc nguy hại to, khiến: Phúc, Lộc, Quyền...

đều bị hủy, tổn giảm.

Hỏi: Tây y chủ trương thủ dâm là vô hại, ngài thấy thế nào?

Đáp: - Có thể do bác sĩ vì an ủi người bệnh, không muốn tạo thêm áp lực cho họ, nên nói vậy thôi.

Chứ thực sự thì:

Khi một cá nhân thường xuyên thủ dâm, họ cứ nghĩ là không có ai phát hiện, nhưng thực tế trong mỗi nhà đều có thần Thổ địa và rất nhiều chư thần chuyên giám sát nhân gian đều nhìn thấy hết và ghi rõ đương sự phạm tội ngày, giờ nào.

Chưa kể là bên thân mỗi người còn có rất nhiều thần Hộ pháp, còn có vô lượng ác quỷ ở rải rác nơi cư trú của họ.

Cho nên ngay lúc người đang thủ dâm, sẽ bị thần linh khinh bỉ, chê cười, đồng thời họ còn bị vật thể âm thừa dịp xâm nhập vào thân, quấy rối, khiến tư duy họ bị lệch lạc ngu si, xảy ra nhiều vấn đề không tốt.

Đây cũng chính là nguyên nhân khiến người thủ dâm vướng đủ loại bệnh về thân lẫn tâm.

Chưa kể là có vô số bệnh độc dành sẵn cho người phóng túng tình dục, ưa dâm loạn.

Nhiều người cho rằng họ không hề lăng nhăng ngoại tình hoặc tìm gái điếm qua đêm mà chỉ giải trí bằng đồ chơi tình dục hoặc bầu bạn cùng búp bê tình dục.

Họ không biết rằng các căn bệnh: Lậu, Sùi mào gà, Si đa, Giang mai...

đều là ác báo của việc lạm dục, tà dâm.

Điều này giải thích vì sao có người vừa tìm gái, chỉ mới qua đêm rồi thì bị bệnh, thậm chí dù họ chỉ hành tà hạnh, ân ái cùng búp bê tình dục thôi, vậy mà cũng bị vướng bệnh lậu, vị viêm đường tiết niệu v.v...

Thời nay còn có thêm nhiều bệnh lạ ập đến, sắp tới sẽ có bệnh: Ung thư bộ phận sinh dục, ung thư dương vật...

Cho nên, xin hãy nhớ câu: "Bình thường không làm việc xấu hổ, nửa đêm chẳng sợ ma gõ cửa!"

Còn nữa, do tác hại của việc thủ dâm hiển lộ rất chậm nên đa số không phát hiện ra, bởi không nhìn thấy mình bị ảnh hưởng gì đáng lo, nên họ cứ lầm tưởng là thủ dâm vô hại!

Nếu cứ trường kỳ thủ dâm thì một khi ác bệnh bùng phát công phá thân tâm, lúc đó có muốn cứu vãn cũng đã quá muộn.

Tinh khí giúp tăng sức mạnh cho tinh thần, mà người tự làm thất thoát tinh khí thì sẽ trở thành một bị thịt vô tri, ngu si.

Tinh, khí (là tinh hoa, huyết dịch) theo Đông y còn gọi là "Thận thủy", là nguồn dịch nuôi tủy, não, giúp duy trì sức khỏe cực kỳ tối ưu cho cả nam lẫn nữ.

Nếu bạn luôn giữ mình trinh khiết thì chất dịch này sẽ nuôi tốt tủy, não... khiến bạn cực kỳ thông minh, sáng trí.

Thế nên người trường kỳ tà dâm, thủ dâm... là tự làm tổn thương mình nghiêm trọng, họ thường có tinh thần uể oải, sắc diện không tốt, thận bị hư hoại, sức khỏe suy đồi, do dịch tủy bị tiết ra ngoài nhiều nên xương bị rỗng, xốp, dễ gãy.

Hỏi: Tôi không tự thỏa dục nhưng có ý dâm, như vậy có sao không?

Đáp: Điều này gây hại không nhỏ.

Chúng ta phải nhận thức được tà dâm là ma tính.

Hằng ngày nếu toàn nghĩ tưởng chuyện dâm, lâu dần sẽ bị trúng tà, tà ám!

Có người còn bị bệnh thần kinh.

Quá trình nuôi dưỡng ý dâm cũng làm thất thoát tinh, khí, thần... lâu dần sẽ gây tổn hại nhiều cho thân tâm.

Phải cẩn thận!

Hỏi: Nếu trường kỳ thủ dâm dẫn đến hậu quả bị viêm Tiền Liệt Tuyến nghiêm trọng, thì phải làm sao?

Đáp: Tình trạng này xảy ra rất nhiều, có thể dùng cách chữa trị như sau:

Đầu tiên phải giới trừ tất cả hành vi tà dâm, ngay cả nghĩ tới cũng không được nghĩ.

Sinh hoạt vợ chồng cũng tạm thời đình chỉ.

Tốt nhất là một năm trở lên.

Nghe thì quá ngiêm và khó?

Thực ra cuộc sống có nhiều thú vui vô hại, thanh cao hơn nhiều, nếu bạn chịu khó tu tập tinh tấn, thì lòng dâm và ý dục sẽ dần tan.

Nên đặt tâm ý vào công phu.

Thứ hai, hãy in các sách thiện quảng bá nhân quả và khuyên dứt tà dâm.

Bạn khuyên được một người giới dâm thì sẽ giảm bớt một phần tội tà dâm, như thế phúc báu của bạn sẽ mau chóng phục hồi.

Hỏi: Vì sao tôi bị bệnh viêm Tiền Liệt Tuyến, uống thuốc rất nhiều mà không lành?

Đáp: - Nguyên nhân là do phúc báu của bạn quá ít, mà bạn tạo duyên lành hỗ trợ quá kém.

Cần tu sửa và quảng bá việc giới dâm thì sẽ có kết quả tốt.

Chuyện tu sửa mà tôi nói đây chính là: Nguyện dứt ác hành thiện, nghiêm trì giới luật, tụng kinh sám hối, cương quyết từ bỏ mọi lỗi xấu, thệ bỏ mặn ăn chay.

Ăn chay còn giúp thân thể khang kiện, dễ thanh tâm quả dục.

Hỏi: Làm sao giới trừ tà dâm, thủ dâm?

Đáp: Bởi vì thủ dâm thường dẫn đến bệnh thần kinh suy nhược, trầm uất.

Bệnh này thường phát nặng vào hai mùa thu, đông.

Nguyên nhân phát bệnh là do thủ dâm dẫn tới thận hư, thận hư khiến lực đề kháng yếu, còn bị vật thể âm xâm nhập vào thân quấy rối, dẫn đến hay suy bậy nghĩ xằng.

Cần nhận rõ nguy hại của thủ dâm, không nuôi dưỡng và cắt đứt mọi ý tưởng dâm tà.

Bạn đừng cho rằng khi bạn thủ dâm sẽ không ai nhìn thấy hay phát hiện ra, vì nhất cử, nhất động của bạn luôn có vô số quỷ thần đang nhìn rõ mồn một!

Nếu tâm dâm nặng quá bạn nên tu "Quán bất tịnh" để đối trị, phải kiên trì ăn chay, tụng kinh chú Lăng Nghiêm.

Hễ dâm niệm vừa khởi thì niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát", lâu ngày dâm tâm sẽ tiêu.

Bạn còn phải vĩnh viễn đoạt tuyệt hẳn, không bao giờ xem các phim, ảnh, sách, báo sắc tình, khiêu dâm, kích dục...

Phải dũng mãnh tự chủ, lánh xa các trang web sex đồi trụy.

Quyết không nhìn, không xem và hãy khuyên người khác đừng xem.

Muốn giới dâm thành công, thì tiếp theo nên tu pháp môn như sau, sẽ giúp bạn giữ tốt giới và sớm phục hồi sức khỏe:

Hằng ngày tụng 21 biến chú Lăng Nghiêm, 108 biến chú Đại Bi và một biến "Tứ chủng thanh tịnh minh hối".

Mỗi ngày nên siêng năng bái Phật, càng nhiều càng tốt.

Đây là khóa công phu rất hay dành cho người tại gia.

Nếu bạn kiên nhẫn hành trì sẽ thấy ma tính tự tiêu, Phật tính dần hiển lộ, đạt được pháp lạc, trụ vị bất thối, tín tâm kiên cố, phúc huệ đều tăng.

Những điều tôi nói bạn có thể không tin, nhưng hãy thực hành, tự thể nghiệm thử, rồi sẽ thấy ngay đáp án vi diệu.

Lời người dịch:

Đức Phật từng nói rằng: "Trên đời có hai hạng người dũng mãnh, hiếm quý giống như hoa Ưu-đàm khó gặp.

Một là hạng người không bao giờ làm điều ác.

Hai là người có tội mà biết ăn năn sám hối, nguyện dứt trừ lỗi xưa.

Hai hạng người này, rất là quý hiếm, khó có, khó gặp".

Thói thường nói lỗi người thì dễ nhưng tự nhận ra lỗi mình chịu sửa sai là rất khó!

Cổ nhân cũng có câu: "Làm ác mà không muốn người biết là đại ác, làm xấu mà muốn tất cả đều biết, đó là người đại thiện!".

Bây giờ tôi xin dịch giới thiệu các câu chuyện của người đại thiện, dũng mãnh, hiếm quý ngay trong thời đại này.

Chính nhờ họ hiểu giáo lý Phật, chân thành thực hành pháp, nên tự nguyện nói thật, sống thật, không dối trá, chịu phơi bày tất cả lỗi lầm bản thân.

Chính lòng ăn năn sám hối tha thiết khiến họ muốn đổi mới cuộc đời theo hướng sống tốt đẹp, nên mới không ngần ngại kể hết mọi điều xấu của mình ra và cũng vì từ tâm muốn mọi người được lợi ích, không còn phạm lỗi và được hưởng niềm an vui hạnh phúc giống như họ.

Bây giờ, mời bạn đọc tiếp các câu chuyện "Giới dâm sinh phúc" sau đây và hi vọng bạn rút tỉa được thật nhiều điều hay từ đó.TÂM SỰ CỦA BA CHÀNG TRAI

Chuyện thứ nhất

Đầu tiên, tôi xin tự giới thiệu, tôi tên An Bằng 18 tuổi.

Trước đây tôi tà dâm rất nhiều năm, hiện tại đã giới tà dâm được mấy tháng.

Sau khi phát nguyện giới dâm, tôi thường phóng sinh, bố thí, lo bồi đức lập hạnh để phục hồi phúc báu.

Nhớ lại giai đoạn còn thủ dâm, tôi bị rất nhiều hoạn nạn, xui xẻo!

Do từ nhỏ tôi đã có tính hiếu sắc, ưa tà dâm.

12 tuổi tôi đã bắt đầu tà dâm, ưa tự thỏa dục.

Người lớn khuyên thì tôi cứ giới, rồi phạm.

Nhưng bây giờ tôi đã 18 tuổi.

Trước đây lúc đi học tôi thường bị người coi khinh, xem thường, cư xử như đối với kẻ đần độn, ngu ngốc.

Sau đó do báo ứng của tà dâm, tôi học không nổi, bỏ trường đi học nghề, làm thợ... nhưng trí óc quá lú lẫn, si ngốc.

Người ta học một lần thì biết, còn tôi học đến mấy lượt mà chưa rành.

Tôi làm hơn một năm, do quá dở và chậm hiểu nên cuối cùng bị sa thải.

Những ngày tháng tiếp theo đó, tình cờ tôi tiếp xúc với trang web "Đại bi bạt khổ - Giới tà dâm" và "Đoàn Đại bi bạt khổ - Đi vào hướng quang minh" khiến tôi tỉnh giác và hiểu sâu sắc tác hại của tà dâm không những gây hại cho bản thân mà còn hại lây cả cha mẹ.

Thế là kể từ đó tôi dũng mãnh phát thệ làm người tốt, nguyện dứt trừ tà dâm, không những tự cứu mình mà còn siêng năng tham gia công tác quảng bá các thiện thư và sách nhân quả, khuyên người giới tà dâm.

Lời thệ xuất phát từ tâm cương quyết buông bỏ thói xấu, "Nguyện làm người khiết bạch chánh đại quang minh" đã giúp tôi dứt bỏ tật thủ dâm dễ dàng.

Số là hồi trước tôi sắp đi kiểm tra sức khỏe để nhập ngũ.

Nhưng do lỗi tự thỏa dục mà sức khỏe có vấn đề, nên không thể đi.

Khi tôi phát thệ giới dâm, nguyện làm toàn việc thiện rồi, thì những chuyện may mắn bỗng xảy ra.

Có một anh là con bạn mẹ tôi do có chuyện đột xuất nên không thể đi khám sức khỏe đầu quân vào chỗ ngon vì vậy mẹ anh liền mời tôi đi thay.

Vốn là tôi cũng không có đủ tiêu chuẩn để lọt vào, nhưng lúc đó không hiểu sao người ta lại sắp cho tôi vào đội "Dự bị quân", cũng xem như là lính, chỉ không mạnh bằng lính chính quy thôi (do quá khứ tôi tà dâm dẫn đến tĩnh mạch bị bệnh, cũng đã làm phẫu thuật), nếu như tôi vào bộ đội chính quy thì sẽ không kham nổi cách huấn luyện cao và nghiêm.

Còn được vào đội dự bị thông thường chỉ trông coi vũ khí, mỗi tháng còn được lãnh 500 đồng, mà chẳng bị huấn luyện nghiêm khổ chi.

Chưa kể là tôi ở đội dự bị chừng một năm, thì có thể sung thẳng vào đội chính quy, nhưng đến lúc đó tôi không còn bị khỏa hạch khắt khe, mà binh chủng vẫn xếp theo trước đó.

Khác chăng là, cũng đồng thời bước vào lính chính quy, song người ta thì bị xem là tân binh nhưng tôi lại được xem là lão binh, dù có làm Ban trưởng hay ở lại đội cũng không nhằm chi.

Hôm nay tôi viết ra bài này không phải để khoe, mà là muốn nói với mọi người, trước khi tôi chưa giới tà dâm, thì đến đâu cũng bị người khi dễ, coi thường.

Nhưng sau khi tôi nguyện tu sửa, đổi mới cuộc đời dù tôi chỉ mới giới dâm chừng vài tháng thôi, thì cơ hội tốt đã đến.

Xem như cả địa khu này họ chỉ tuyển mười nhân viên dự bị, đa số người được chọn đều là con em cán bộ cao cấp, xét hoàn cảnh nhà tôi thì xem như khó bề với tới.

Vậy mà tôi lại được thu nạp dễ dàng, bạn thấy có lạ không?

Từ khi phát nguyện tu sửa, hằng ngày tôi luôn quyết tâm dứt ác làm lành, còn viết bài khuyên người giới dâm: Nguyện không xem tất cả văn hóa sắc tình, viễn ly hẳn mọi điều liên quan đến tà dâm.

Tôi tinh tấn niệm Phật, giúp người, phóng sinh, bố thí, làm nhiều việc thiện.

Mang tâm tư hạnh phúc khinh an, tôi nguyện trọng đời, trọn kiếp, mãi mãi giới tà dâm.

Giờ đây tôi sống rất hạnh phúc.

Xin chia sẻ kinh nghiệm này cùng bạn đọc.

Mong những ai có thói xấu giống tôi, sẽ dũng mãnh từ bỏ.

Nguyện đem công đức này, trang nghiêm cõi Phật, trên báo tứ ân, dưới cứu khổ tam đồ.

Nếu có ai thấy nghe, đều phát Bồ đề tâm, mãn báo thân này sinh về cõi an vui.

Chuyện thứ hai

Tôi thi đậu vào hai trường đại học, nhưng quyết định chọn ở Viện nghiên cứu.

Trong thời gian này, tôi thường lăng nhăng cùng nhiều bạn gái và phạm thủ dâm liên tục nên thân thể dần dần phát sinh nhiều bệnh: Đầu tiên là viêm mũi, tiếp đến là viêm khớp, viêm dạ dày, viêm ruột.

Khi chơi đá banh thường bị đau nhức đến mấy ngày.

Tôi tìm y viện giỏi nhất để trị liệu, tiêu tốn rất nhiều tiền, nhưng hiệu quả không cao.

Bởi các chứng bệnh mãn tính này luôn hành hạ tôi.

Song thân tôi lao tác gian khổ, dù có cố làm thêm, lãnh nhiều việc cho mấy, cũng luôn lâm vào cảnh không dành dụm được bao nhiêu.

Phần tôi đính hôn xong thì phải chia tay, xài sạch hết của tích lũy trong nhà, công tác luôn gặp bất lợi.

Tôi làm việc luôn bị cấp trên chèn ép, thất tín, lật lọng... tôi học về ngành Luật, muốn lấy được bằng Luật sư thì phải khảo thí bên Tư pháp rồi làm thực tập hơn một năm.

Bằng Luật sư do Cục Tư pháp cấp, nhưng sau khi tôi làm thủ tục hồ sơ, thì lại ra lủng củng, ách tắc chưa thể nhận bằng.

Do giám đốc đối với tôi không tốt, lại phải thực tập tiếp, kéo dài nhiều lận đận...

Tôi chẳng biết vì sao sinh hoạt, công tác và quan hệ gia đình của tôi dần dần biến thành phức tạp rối rắm như thế?

Tôi suy nghĩ trăm lần, cũng không giải thích nổi.

Mãi đến hơn một tháng trước, tôi gặp một bạn Phật tử, có công phu tu rất cao.

Vừa nhìn tôi, anh liền giải thích rõ mọi nguyên nhân và khuyên tôi không nên tà dâm, thủ dâm nữa, bởi vì thói xấu đó làm tổn hại phúc báo rất nhiều.

Anh nói:

- Nếu bạn giới dâm rồi, chỉ sau ba tháng, bạn sẽ phát hiện gia tộc ngày càng hài hòa, sức khỏe cũng chuyển tốt, tật bệnh tự động tiêu, quan hệ giao tế mỗi lúc một khả quan.

Tài, phúc phát càng nhiều.

Trước đây do bởi bạn hay thủ dâm, lại quan hệ lăng nhăng cùng nhiều cô gái vì vậy mà tình duyên, công danh, sức khỏe đều thất bại.

Tôi tuy nửa tin nửa ngờ, nhưng cũng ngoan ngoãn làm theo lời anh khuyên.

Tôi cương quyết giới tà dâm.

Tính đến nay mới hơn một tháng, nhưng hiệu quả thu được khiến tôi kinh ngạc:

Tôi bắt đầu cảm thấy thân thể cường tráng, tinh lực sung mãn, nhất là khả năng tập trung và trí nhớ tăng cao.

Chứng viêm mũi, viêm khớp, biến chuyển sang hướng tốt.

Ban ngày không còn bị nghẹt mũi, tuy đêm ngủ còn bị chút ít.

Song thân tôi bắt đầu trở nên hòa thuận, mẹ tôi thường mỉm cười, ngay cả phụ thân bình thường nghiêm nghị cũng trở nên hoan hỉ, luôn cười sảng khoái.

Đối với các hiện tượng này tôi rất khó hiểu: Nếu bản thân tôi nhờ giới dâm mà thân thể chuyển biến tốt thì không lấy lạ, nhưng vì sao gia đình cũng có thể dần chuyển tốt theo như thế?

Anh bạn tôi giải thích:

- Nếu bạn tà dâm, bạn sẽ nhìn thấy hiện tượng: Người bên cạnh mình dần dần phát sinh bất hòa.

Gia đình là tối thân cận nhất với mình, sẽ nhận chịu liên lụy từ ảnh hưởng không may này.

Một khi gia đình bất hòa, bạn sẽ mất an ninh.

Đây chính là biến tướng mài luyện đối với bạn, mục đích khiến bạn phải chịu báo ứng tương xứng với phẩm hạnh xấu của mình.

Thế nên, tôi dùng kinh nghiệm tự thân đã trải qua, chân thành khuyên các bạn: Những ai có thói quen thủ dâm, bất luận là nam hay nữ, hãy mau mau giới trừ dứt bỏ, bạn đừng có nhẹ dạ tin vào những lời tuyên bố của mấy ông bác sĩ hay các chuyên gia cho rằng: Tà dâm, thủ dâm là chuyện bình thường, vô hại.

Thực ran guy hại của thủ dâm rất lớn, nhưng họ lại tuyên bố là bình thường, là thông cảm được v.v...

điều này rất sai lầm.

Bởi chúng ta âm thầm nhận chịu hậu quả nguy hại của thủ dâm mà không hề hay biết, do thói xấu này cực kỳ nguy hiểm, hủy hoại phúc đức của ta rất nhiều.

Những lập luận cho thủ dâm là vô hại, bình thường, là cách xả dục đơn phương, giúp giảm stress?

Nói như thế chỉ là mượn cớ để dung túng lỗi xấu, đồng thời cũng tạo cớ để tha hồ phóng túng tình dục, huân dưỡng thói quen ác mà thôi!

Những luận thuyết cho thủ dâm là có ích, tất nhiên sai hoàn toàn!

Bởi vì một người có ác tập thủ dâm sẽ không có ý chí, nghị lực vô phương khống chế mình, dễ sa vào phóng túng vô độ, sẽ tự làm tổn phúc báu lẫn sức khỏe mà không hay.

Kể từ sau khi thệ nguyện giới dâm, quyết sống trong sạch rồi, thì thân tâm tôi thay đổi hẳn, trở nên rất khinh an, thoải mái, thái độ ủ rũ nản chí trước đây không còn, từng ngày sống như được thái dương chiếu rọi.

Trước đây do tinh thần sa sút, lại thêm vận động ít, dù tôi có tới phòng tập thể dục và chơi đá banh, nhưng không đạt hiệu quả, thân thể và tinh thần đều rối rắm.

Đây là do tôi không tìm ra nguyên nhân.

Ngày xưa khi đọc câu: "Trong lòng quang minh chánh đại, giống như có thái dương soi rọi nơi tâm".

Khi đó tôi không hiểu, giờ đây cuối cùng tôi cũng cảm nhận được, bạn cứ thệ nguyện giới dâm, sống thanh khiết đi rồi bạn sẽ nếm mùi vị an lạc tuyệt vời.

Tôi cảm thấy mình vạn phần may mắn và vô cùng tri ân vị bằng hữu đã chỉ lỗi phá mê cho tôi.

Tôi cũng hi vọng bài văn này sẽ giúp ích cho bạn, tôi tin: Chỉ cần kiên trì, bạn nhất định sẽ cảm thọ được niềm hạnh phúc của thân tâm thanh khiết.

Luật sư X

Chuyện thứ ba

Quay đầu nhìn lại cuộc sống quá khứ của tôi, đa số thường thất bại.

Trước đây các cô luôn đeo theo tôi, bây giờ tôi đeo đuổi lại, mà họ chẳng thèm lý đến.

Tình cờ xem mục "Giới tà dâm" trên mạng, tôi học được rất nhiều điều hay, mới hiểu ra: "Thủ dâm là khiến cả đời bần tiện, làm việc gì cũng thất bại, không thành".

Trang web "Giới tà dâm" không những tuyên truyền giáo dục giúp chúng ta nhận ra nguy hại của tà dâm, hơn nữa còn giới thiệu nhiều điều vi diệu về chú Lăng Nghiêm.

Tôi vốn là một kẻ vô thần, mới đầu chỉ mang tâm thái xem thử, hành thử mà thôi.

Hằng ngày trước khi ngủ, tôi chịu khó tụng một biến, mặc dù không hiểu rõ câu văn, từ ngữ, nhưng ai ngờ kỳ tích lại xuất hiện.

Bây giờ, hầu như tôi rất khó có tư tưởng tà dâm với phái nữ, mỗi khi tình cờ xem các cảnh quay sex hở hang nơi truyền hình hay trong phim, lòng tôi cũng không có cảm giác gì.

Mới đầu tôi còn tưởng mình bị bệnh vô cảm, nhưng sau khi đi kiểm tra sức khỏe và đo lường mức độ "nam tính", bác sĩ mỉm cười bảo tôi rất khang kiện, bình thường về mọi mặt, nên tôi an tâm.

Trước đây, mỗi lần thấy mấy cô gái xinh đẹp là tôi khởi ưa thích, vọng động, nhưng bây giờ trong tâm hoàn toàn không có bất kỳ tư tưởng tà dục nào, tôi chỉ thấy là họ đẹp mà thôi.

Tôi đã phát thệ giới tà dâm, sống thanh khiết từ tinh thần đến thể chất.

Tính đến giờ, đã giới dâm được một tháng.

Mà nói là "giới" cũng không phải, vì khi lòng không còn dung chứa hay tồn động ý dâm, thì hành vi xấu này hết chỗ để phát sinh.

Tâm tôi không còn muốn điều ấy nữa nên "giới tự nhiên thành".

Hôm nay, tình cờ đo lại chiều cao, mới thấy có tăng thêm, bây giờ tôi đã cao hơn một mét tám.

Còn nữa, dù chương trình học tại nước Đức được nhìn nhận là khó ngay cả sinh viên bản địa cũng khó kham, vậy mà tôi thi đậu với điểm rất cao.

Điều này khiến tôi vô cùng hoan hỉ, tuyệt vời hơn nữa là công việc đang tiến triển thuận lợi, đã có mấy người bạn giới thiệu tôi làm phiên dịch cho các công ty kinh doanh lớn, vì tôi rất giỏi ngoại ngữ, biết rành ba thứ tiếng: Anh, Pháp, Đức.

Nhớ lại trước đây lúc còn thủ dâm, do hành vi này khiến tôi bị tổn phúc báu nên đi tìm công tác rất khó khăn, đến mức tôi chỉ có thể làm thông dịch viên đại hạ giá nơi các quán ăn mà thôi.

Nhưng từ khi tôi thệ nguyện giới tà dâm, quyết tu tỉnh, học Phật rồi, thì lại tìm được chỗ làm rất ngon, lương cao không ngờ.

Ít nhất tôi cũng có thể kiếm được mười ngàn Euro cho mỗi tháng.

Sau khi tu học Phật, nguyện làm người thiện lành rồi, thì cuộc sống tôi thay đổi rất nhiều.

Bây giờ thân thể tôi rất tráng kiện, dung nhan rạng rỡ.

Khi chơi đá banh, lúc người khác đã mệt bò ra thì tôi vẫn còn sung sức, chưa thấy gì.

Trí nhớ cũng trở nên cực tốt, bởi tôi có xem chi, chỉ lướt qua là đã nhớ đến tám phần mười, "vừa nhìn là nhớ ngay".

Hiện tại tôi rất vững tin, tin rằng mình có thể tốt nghiệp mỹ mãn, học theo kịp các bạn, dù trước đây họ đã vượt qua tôi rất xa.

Chính nhờ vào giới tà dâm, mà tôi đã phục hồi nhân thân, phẩm cách tốt, sống xứng đáng trong kiếp người và có thể sáng tạo tương lai xán lạn theo ý mình nhờ vào việc không ngừng tu bồi đức hạnh.

Xin chân thành chia sẻ kinh nghiệm quý giá này cùng bạn.

Mong bạn hãy từ bỏ tất cả tật xấu.

Hỡi các bạn nam, nữ: Xin hãy cương quyết giới tà dâm cùng chúng tôi.

Du học sinh A - 15/3/2016KINH NGHIỆM TUYỆT DIỆU VỀ GIỚI DÂM

Mẹ tôi vốn là một phụ nữ rất xinh đẹp, hồi nhỏ tôi cũng là một bé gái thông minh lanh lợi khả ái, nhưng do không hiểu báo ứng nhân quả, không được giáo dục tốt và chưa thấm nhuần Phật pháp, nên ngay từ 6 tuổi tôi đã nhiễm phải thói xấu thủ dâm, ác tật huân quen, một ngày phải giải quyết hai lần, lúc thực hiện cảm thấy vô cùng thích thú và lòng chưa đầy ý tà.

Thời tiểu học thành tích xem như tạm ổn, nhưng tôi phải nỗ lực nhiều mới có được điểm cao.

May là tôi có trí nhớ tốt nên cũng được xếp vào Ban Tinh Anh (nhóm tinh hoa, anh tài).

Song dù tôi có dự vào hàng ngũ này, thì cũng chẳng được đãi ngộ tốt, không được giáo sư yêu, gặp nhiều duyên xấu, việc học không phát, còn chịu nhiều áp lực khó kham.

11 tuổi dậy thì, nhưng làn da non nớt trên mặt tôi nổi đầy mụn giống như đậu mùa, do trường kỳ thủ dâm khiến tôi bị hủy dung, tâm lý hầu như bị "nam hóa", tướng mạo nhìn giống như "bà đàn ông" (nam bà) khi đi trên đường, mỗi khi thiên hạ dòm họ không phân rõ tôi là nam hay nữ, thêm phần tôi nói năng rổn rảng, ngôn hạnh cử chỉ giống như nam nhân, dung nhan trông quái lạ, khó coi nên lúc đi đường thường bị người chỉ trỏ, cười nhạo sau lưng mà không hề hay biết.

Những khi nhìn thấy các bạn trang lứa có tướng mạo thanh tú, tôi rất thèm cải biến dung nhan mình xinh đẹp, tất nhiên là lực bất tòng tâm, bởi dù tôi có cố ăn mặc thật đẹp, thật sang đúng theo model thời thượng nhưng vẫn cứ xấu xí, khó coi.

Thời trung học, tôi rất ưa xem văn hóa đồi trụy và đĩa đen nên càng kích thích tâm tà bộc khởi, tạo dịp cho thói thủ dâm càng bành trướng mạnh, hễ đã phát là khó tự khống chế.

Tôi thường đợi người nhà ngủ hết rồi mới lén mở đĩa sex ra xem, tức nhiên là dâm tâm theo đó bùng phát, lại phải tìm cách giải quyết.

Cuộc sống tà dâm đem lại vận rủi cho tôi liên tục, tôi dám xác quyết và chắc chắn điều này, vì đã có kinh nghiệm, bằng chứng hẳn hoi.

Thời trung học, tôi quen biết và giao du toàn những kẻ có tâm dâm nặng, cái này không trách ai được, chỉ có thể nói là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu vì vậy mà cả ngày chúng tôi toàn xổ ngôn tình, dâm ngữ, thốt toàn lời tục tĩu, thấp hèn.

Mà mỗi khi nghe đám bạn xấu nói tục, kể thuật các câu chuyện chứa đầy nội dung dâm ô thì tôi cảm thấy hết sức thích thú.

Nhưng may nhờ gia đình tôi thuộc hàng phong kiến bảo thủ, lễ giáo khó khăn, nên tôi không dám buông thả tìm nếm quả cấm hay vượt rào cùng người, đây chính là điều may mắn duy nhất trong cuộc sống bất hạnh của tôi.

Người có dâm tâm nặng thì âm khí thịnh, lòng chứa đầy tà trược u tối, do vậy mà dần dần tôi biến thành kẻ xấc láo, ngang ngược, sống theo kiểu mục hạ vô nhân không xem ai ra gì, không biết tôn trọng người lớn và có tính kiêu ngạo cực kỳ, hễ phát ngôn là nói toàn lời chua cay, khắc nghiệt.

Ở trong trường tôi hay chọc tức giáo sư, về nhà thì cự cãi cha mẹ, nghĩa là tôi gieo toàn hạt giống bất thiện, xấu ác.

Tôi phải cố gắng rất nhiều mới đậu đại học, nhưng chẳng dám lưu tâm đến sự nghiệp tương lai chi, không biết nắm bắt cơ hội tốt.

Suốt thời gian hoàng kim của tuổi thanh xuân, cả ngày tôi toàn mơ mộng hão, đắm chìm trong thủ dâm, giao du luôn thay đổi bạn.

Có thể nói, tôi để thời đại học trôi qua trong uổng phí.

Lúc đó tôi đi học thường xuyên cảm thấy bị áp lực, vào phòng thi hay quay cóp bài, có lần bị bắt gặp, suýt nữa thì hỏng việc.

Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đi làm, nhưng công tác bị thay đổi luôn, thường lãnh lương thấp hơn người khác, hay bị đồng nghiệp cư xử xấu, tệ... chỗ chỗ đều gặp khó khăn, khiến tôi hầu như suy sụp.

Dù cuộc sống rơi vào thống khổ như địa ngục, tôi vẫn chưa biết thức tỉnh, cứ một bề ngu muội bám vào thủ dâm để tìm vui, còn cho rằng hành vi này sẽ giúp tôi xả stress, giải tỏa áp lực như đa số các bài viết trên mạng khuyến khích.

Nhưng kết quả tôi thu được chẳng khả quan mà chỉ khiến tôi ngày càng sa lầy, chìm xuống vực sâu, khó thể ngoi lên.

Tướng mạo của tôi càng lúc càng thô tục khó coi, thậm chí bị người chê: "Nhìn tôi giống như... yêu tinh".

Tôi làm nhân viên công chức, song hay bị chèn ép, bị cấp trên đãi ngộ không tốt, luôn gặp chuyện hao tài.

Tôi cũng ráng làm việc cho qua ngày, nhưng thường gặp khó khăn, trở ngại.

Đi đâu cũng đụng phải người xấu hay kẻ tiểu nhân.

Lúc tổng kết cuối năm thì luôn bị đánh giá năng lực thấp, dù tôi làm việc gian lao nhưng chưa bao giờ được khen thưởng hay đề bạt.

Tôi mang hình dáng "bà đàn ông" thô tục đến hai mươi mấy tuổi, nếm đủ khổ sở chưa cay về tình duyên lại càng bạc phần, xui xẻo.

Gần 30 tuổi rồi mà tôi chưa nếm được mùi vị ái tình thơ mộng, chưa bao giờ nếm qua cảm giác được nam nhân yêu chiều đối xử chân tình là như thế nào.

Mỗi khi nhìn thấy bạn bè có cặp có đôi, riêng mình đi về thui thủi, đơn thân chiếc bóng, trong lòng tôi buồn không kể xiết.

Chứng kiến cảnh các bạn gái được người yêu cưng chiều, còn mình thì sống trong cô lẻ, tinh thần càng bị đả kích khó kham.

Từ nhỏ đến lớn, dẫu tôi có gặp tình duyên chi thì cũng giống như bọt nước tan mau, lại còn gặp toàn bọn nam nhân xấu nết vì họ đối với tôi vô cùng tệ, toàn là hạng đa dục, không thực lòng, dù có ngọt ngào thì cũng chỉ là giả dối trên đầu môi, họ khiến tôi càng thêm thất vọng, chuốc lắm sầu muộn khổ tâm.

Có thể vì vậy mà tôi bị chứng thần kinh suy nhược, ký ức ngày càng sa sút, đối với cuộc sống càng lúc càng chán nản.

Cả ngày tôi ru rú trong nhà không thiết làm gì, gần ba mươi tuổi, nhưng cuộc sống tôi vẫn ôm một bụng chứa đầy ý dâm, nên tôi hay tự thỏa dục, còn cho đây là thú tiêu khiển mang lại niềm vui lớn nhất vì vậy mà cứ chìm sâu trong mê muội u tối.

Lúc 27 tuổi, tôi cũng vướng vào tình yêu, tuy tôi có lòng, song đối tượng lại hững hờ, mà nếu có thì họ chỉ muốn đùa bỡn, lường gạt khiến tôi thêm tổn thương thôi, tình lang luôn khiến tôi khổ sầu đến nỗi đêm đêm nước mắt đầm đìa.

Mặc dù từ nhỏ đến lớn tôi toàn gặp vận rủi liên miên, nhưng cứ ngỡ là tại vận tốt của mình chưa tới, nên ngày ngày ngóng cổ chờ may mắn đến, đâu biết rằng: Tất cả vận tốt đã bị tôi hủy hoại bằng hành vi thủ dâm, tự phá đức của mình.

Chỉ sau khi biết đạo, học Phật pháp rồi, tôi mới bừng tỉnh và ngộ ra điều này.

Có lẽ trời cao còn thương xót, nên tôi được may mắn gặp Phật pháp, được học giáo lý Phật và hiểu ra: "Trăm hạnh hiếu đứng đầu, vạn ác dâm là tội lớn nhất"!

Khi tôi đã hiểu rõ: Chính thủ dâm đem lại cho mình nhiều ác báo và chiêu vời vận rủi liên miên, thì ngay đó tôi tỉnh ngộ, dũng mãnh hạ quyết tâm: Thệ từ đây vĩnh viễn dứt trừ tà dâm và không bao giờ thủ dâm nữa!

Việc làm đầu tiên là tôi tẩy chay tất cả văn hóa sex, lập tức xóa sạch hết những hình ảnh, truyện, phim dâm uế trong điện thoại di động.

Ở trước Phật tôi long trọng phát thệ: Từ nay vĩnh viễn từ bỏ thủ dâm, nguyện giữ giới KHÔNG TÀ DÂM nghiêm ngặt.

Thật lạ, tôi chỉ mới giới dâm trong vòng một năm ngắn ngủi, thì tướng mạo dần thay đổi, đến độ bạn bè xúm nhau hỏi tôi: Có phải bạn đã đi mỹ viện chỉnh dung?

Khiến tôi thực sự ngạc nhiên và bỗng thấm thía câu: "Tướng do tâm tạo".

Kể từ sau khi giới dâm rồi, thì tâm tư mỗi ngày một tốt lên, làm việc chi cũng kham nhẫn giỏi và có được lực tập trung rất mạnh.

Trí nhớ cũng phát huy.

Tôi làm việc đạt kết quả tốt nên hay được cấp trên khen thưởng, còn đề bạt tôi thăng chức, từ đây mọi việc hanh thông, tôi bắt đầu nhìn thấy ánh mặt trời.

Thật không ngờ việc giới dâm cũng giúp tôi giải trừ hết mọi u ám, tối tăm.

Cõi lòng tôi bắt đầu được ánh sáng trí tuệ chiếu rọi.

Mối quan hệ giữa tôi cùng mọi người trong gia đình trở nên tốt lành.

Bởi tôi đã hiểu: "Trăm thiện hiếu đứng đầu và thủ dâm chính là tự hại mình, còn làm tổn thương lây đến phụ mẫu"... vì vậy trước Tam bảo tôi chân thành sám hối tất cả tội lỗi trong quá khứ, nguyện phụng thờ song thân như kính Phật.

Sau khi giới dâm được hai năm, thì tôi gặp một người yêu lý tưởng, một tình lang rất tốt tính và đức độ, anh hết lòng yêu thương tôi, chẳng bao giờ làm tôi buồn, anh luôn khiến tôi cảm thấy an ổn, hạnh phúc.

Ngoài ra, tiền tài cũng bắt đầu phát, chỉ trong hai năm ngắn ngủi mà tôi đã gặp cơ hội đầu tư tốt, kiếm được rất nhiều tiền.

Chính việc giới dâm đem lại cho tôi sự thay đổi cực lớn và vận may ngoài sức tưởng tượng, tôi làm việc rất có uy tín, luôn được người tin, cấp trên thường cất nhắc đề bạt, cho tôi thăng chức vì vậy mà đường quan lộ của tôi cứ thăng tiến.

Viết đến đây, tôi chỉ còn biết cảm tạ chư Phật, Bồ tát đã gia trì, vì nhờ Phật pháp mà tôi biết cái thiện, biết tu sửa thay đổi tâm tính, nguyện đoạn trừ tất cả tật xấu.

Tôi nguyện đời đời làm người tốt, sống không làm điều gì đáng xấu hổ với lương tâm.

Và kể từ giây phút tôi cương quyết bỏ ác hành thiện đó, tôi gặp may mắn đến liên tục.

Tôi nghiệm ra: Giới dâm và hiếu thuận phải luôn đi đôi song hành, có vậy thì cuộc sống mới đạt được tốt đẹp về mọi mặt.

Bởi vì cha mẹ có thâm ân sinh dưỡng, "có hiếu mới có thuận" - Nhờ vào hiếu tâm mà ta biết hi sinh, hết lòng lo nghĩ cho cha mẹ và có đủ lực nhẫn nại để giới dâm.

Nếu hoài nghi, xin bạn hãy thực hành như tôi đi, rồi sẽ thấy mình đạt được hạnh phúc an vui, may mắn tốt lành ngoài sức tưởng tượng.

Xin hãy tin tôi, vì tôi chính là bằng chứng sống động, chân thực nhất.

Tôi đã vì ngu si không biết mà tự hủy hoại cuộc sống, làm uổng phí mất 22 năm hoàng kim của mình.

Nhưng sau khi nỗ lực giới dâm rồi thì một cảnh giới xán lạn đã mở ra trước mắt tôi vô cùng khiết mỹ.

Tôi chân thành chia sẻ kinh nghiệm mình từng trải qua, khẩn thiết mong các bạn nhất là những vị có lỗi giống như tôi sẽ biết hồi tâm tu sửa, sống thật có ích cho mình, cho đời.

Cầu mong tất cả các bạn đều đạt được hạnh phúc giống như tôi đang hưởng.

Tôi đã thu hết can đảm để viết ra trung thực câu chuyện của mình, hi vọng sẽ giúp ích nhiều cho các bạn.

Mong rằng mọi điều xấu xa đều được đẩy lùi, chỉ còn lại điều tốt đẹp thiện lành trong mỗi chúng ta.

Phật tử XX

Bài dịch này xin giải đáp cho các thắc mắc: Có nên làm kẻ thứ ba hay không?

TÂM SỰ KẺ THỨ BA

Chẳng biết tôi bắt đầu tự thỏa dục từ hồi nào, chỉ khi bắt đầu học Phật hiểu pháp rồi tôi mới thức tỉnh, mới biết thỉnh cầu chư Phật, Bồ tát gia trì và có đủ sức mạnh từ bỏ lỗi lầm triệt để.

Hiện giờ dù tôi đã quay đầu sửa đổi, biết sống thiện lương: Nguyện dứt ác hành thiện đúng như lời Phật dạy, nhưng tôi vẫn phải kể ra quá khứ xấu xa của mình thay cho lời sám hối mong mọi người lấy đây cảnh giác, tự bảo vệ tốt cho bản thân.

Hồi xưa thân thể tôi vốn yếu đuối nên dễ bị cảm, tuy không mắc bệnh chi nặng nề, nhưng tự thỏa dục chính là nguyên nhân khiến sức khỏe tôi càng thêm suy.

Hồi còn là sinh viên, lúc nghỉ hè, về nhà, rảnh rang không việc gì làm tôi thường tự thỏa dục, không bao lâu cảm thấy thân thể suy yếu, hay tức ngực khó thở, tim như bị đá đè, tôi giống hệt người sắp chết, nằm liệt trên giường không động đậy.

Do bệnh không chuyển tốt, nên người nhà nóng ruột khiêng tôi đi bệnh viện, nhưng y viện không khám ra, đành phải về nhà.

Trải qua thời gian lâu tôi mới dần hồi phục.

Lúc đó tôi không hề biết đây là quả báo của tà dâm, nhưng bây giờ hồi tưởng lại, chính bởi do tôi thường tự thỏa dục nên đã chiêu mời nhiều loài quỷ hấp tinh tìm tới, xâm hại, khiến sức khỏe của tôi bị thương tổn suy kiệt.

Sau này khi nghiên cứu kinh sách Phật, thực hành thâm nhập rồi tôi mới ngộ ra.

Hồi đại học tôi hay bị đau lưng, dù có xoa bóp trị liệu thì cũng chỉ bớt thạm thời rồi mấy ngày sau lại đau tiếp.

Đi chụp X quang cũng chẳng tra ra bệnh.

Thống khổ này một bề hành tôi.

Sau khi xem sách "Báo Ứng Hiện Đời" rồi, tôi mới phát hiện rằng các chứng bệnh của mình là do ác báo tà dâm chiêu cảm nên.

Sau khi ra trường đi làm rồi, thỉnh thoảng tôi cũng tự thỏa dục, xong thì thấy rất mệt, tinh thần suy, lưng nhức chân mỏi, sắc mặt vàng chạch, toàn thân như không còn sức sống và luôn thiếu tự tin.

Đôi mắt bạc nhược vô thần, vì tự thỏa dục quan hệ đến biểu hiện sức khỏe bên ngoài, càng khiến tôi thiếu tự tin.

Thời đại học tôi không có bạn trai, do nhân tà dâm xấu tích lũy theo năm dài tháng rộng đã thành là một trong các nguyên nhân khiến con đường tình cảm của tôi luôn gặp chướng.

Hồi nhỏ, gặp những kẻ chen vào làm người thứ ba, những kẻ ưa trao tim cho người đã có gia đình, tôi rất khinh thường xem rẻ, ghét cay ghét đắng, tôi cho rằng mình sẽ không bao giờ làm như vậy, tuyệt đối không bao giờ có chuyện tôi đi làm người thứ ba chen vào phá hoại hôn nhân của người khác.

Ngờ đâu, cũng có một ngày tôi rơi vào nẻo tệ này và nếm khổ không thể nói, hơn nữa còn chìm xuống tận đáy vực, khó thể thoát ra.

Mà đã gieo nhân tà dâm thì số phận luôn không may mắn, hệt như có ma đưa lối quỷ dẫn đường, tôi cứ nhè những ông có vợ mà bập vào.

Hình như chính tố chất tà dâm trong tôi đã xui tôi gặp toàn nẻo đoạn trường.

Bởi những chỗ bằng phẳng tôi không bước mà cứ sấn vào nẻo gai chông để rồi bị châm chích tả tơi, thương tích thống khổ đầy mình.

Việc tôi chuyên yêu người đã kết hôn, đây có thể là quả báo của hành vi cười chê, khinh rẻ người hồi nhỏ và cũng do ác nhân tà dâm của tôi chiêu cảm nên, khiến tôi luôn rơi vào tình duyên bất chính.

Trước khi theo gia đình xuất ngoại, tôi quen một ông tên Tuấn, là thầy khí công, bên khí công gọi ông là đại sư.

Lúc đó tôi không hiểu nhiều về Phật pháp, do tình cờ đọc một số sách thấy khí công và Phật giáo cũng có vài nét na ná nhau, nên tôi ngộ nhận, cho rằng các thầy khí công cũng là hạng tài ba giống như các nhân vật kiệt xuất trong Phật giáo, thêm phần Tuấn rất khéo che giấu khuyết điểm và luôn bao bọc mình bằng lớp vỏ huyền thuật, ông cũng hiển lộ vài tà thuật giống như thần thông hay yêu thông, quỷ thông chi đó, khiến tôi càng ngưỡng mộ sùng bái ông.

Do tôi đối với Phật giáo không hiểu gì, mà vào buổi tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng này, thì những kẻ ngu ngơ như tôi rất dễ bị quyến dụ lầm lạc.

Do vậy mà tôi xem Tuấn như một nam nhân hoàn mỹ nhất trên đời.

Đối với ông hoàn toàn tin tưởng không chút hoài nghi, còn cho rằng mình đã tìm ra được bậc thầy thông thái để qui y.

Đến khi tôi xuất ngoại, dù đang còn đi học, tôi vẫn thường liên lạc với Tuấn qua email.

Trong thời gian này Tuấn bắt đầu than rằng hôn nhân của ông không hạnh phúc, có nhiều khổ tâm khó nói, hiện đang rất muốn ly hôn.

Tôi nghe Tuấn than kể, mủi lòng xót thương an ủi, còn khuyên Tuấn hãy cố gắng bảo vệ hôn nhân của mình, đừng để tan vỡ.

Thư từ qua lại lâu dần, tôi bắt đầu nảy sinh tình cảm với Tuấn, rồi dần dà bị tà niệm dẫn dắt, si khờ rơi vào bẫy rập của Tuấn mà không hay.

Tuấn rất muốn xuất ngoại, nhưng không có cách, nên nảy ý muốn kết hôn với tôi, mong có thể nhờ đây mà xuất quốc.

Khi đó tôi thật thà, hoàn toàn tin vào những lời đường mật của Tuấn không hề đề phòng, có thể nói rằng trên thế giới này tôi không tin ai bằng Tuấn, nếu như tình cờ tôi có khởi ý niệm: "Tuấn đang muốn lợi dụng mình" thì tôi dập tắt ngay, vì tôi luôn cho rằng Tuấn không giống bao kẻ tầm thường khác, "Chàng rất tội nghiệm và đang có nỗi khổ tâm riêng".

Thế là dần dần tôi thành người thứ ba, khi đã chen vào phá hôn nhân người, tôi còn mê muội cho rằng những gì mình nghĩ, mình làm là hoàn toàn hợp lý, đáng được thông cảm, không hề mang nét phàm trần giống như bao kẻ khác!

Thực tế thì dù tôi có viện dẫn đủ lý do để giữ lý đúng, điều phải cho mình thì tất cả chỉ là hành vi tự ngụy tạo vỏ bọc, hòng che dấu tâm tà dâm ích kỷ ẩn tiềm bên trong mà thôi.

Bởi trong tình yêu, kẻ thứ ba không có bất kỳ lý do nào đúng đắn, đáng được thông cảm hay tha thứ cả, vì vừa bước vào con đường phá gia can người - Thì đã sai thậm tệ rồi!

-

Nhưng lúc đó tôi đâu có đủ trí khôn sáng suốt để tỉnh giác như khi viết những dòng này?

Thuở đó tôi hoàn toàn biến thành kẻ lụy tình, si mê với Tuấn, dù ở rất xa nhau, tôi vẫn ngây thơ trao hết con tim cho chàng, tin rằng sau này Tuấn sẽ là chồng tôi, do tâm trụ hết vào tình yêu cuồng dại nên tôi đâu có tinh thần mà học tập?

Vào lớp tôi không nỗ lực cố gắng mà hằng ngày toàn vọng ngóng đến giây phút Tuấn lên net liên lạc với mình, trông chàng gọi điện tới, quên béng rằng Tuấn là người đã có gia đình, hoàn toàn không nghĩ đến cảm nhận của vợ chàng, thậm chí tôi còn xúi Tuấn nên tránh xa tầm mắt của vợ để trò chuyện thật nhiều với tôi.

Tôi cho rằng mình hiện rất được Tuấn sủng ái và tha hồ dệt mộng về tổ ấm hạnh phúc cùng Tuấn trong tương lai.

Do Tuấn đã tìm được hướng xuất ngoại khác, nên không bao lâu, chàng đối với tôi nhạt nhẽo, không còn quan tâm như xưa, khiến tôi rất suy sụp.

Mỗi ngày về nhà tôi đều khóc, lúc nào cũng sầu muộn, không hiểu tại sao Tuấn thay đổi lạ như thế?

Cuối cùng tôi quyết định về nước tìm gặp Tuấn.

Khi tôi lên đường, trời nổi sấm xẹt chớp giăng, mưa trút ào ào.

Tới phi trường, có rất nhiều phi cơ đã hủy chuyến bay hoặc hoãn lại, nhưng những người ở sân bay không ai có hình dạng thảm hại giống như tôi, bởi vì tôi đang là kẻ có tà tâm.

Bây giờ hồi tưởng lại, tôi cảm giác như lúc đó ngay cả cảnh vật cũng cảnh báo tôi: Không nên làm việc có lỗi!

Nhưng lúc đó tôi hoàn toàn chẳng có chút tỉnh giác nào, lòng nhất quyết phải về nước gặp mặt Tuấn cho bằng được.

Gặp nhau rồi, Tuấn hứa hẹn sẽ sớm ly hôn vợ để cùng qua sống với tôi.

Tôi lại ngây thơ tin vào những lời bịp lừa của chàng và trao hết con tim lẫn thể xác cho tình lang.

Bởi tôi quá si dại, dù phát hiện Tuấn đối với mình không tốt, nhưng do đã bị niệm mê tình làm cho mù quáng, thêm phần bị ảnh hưởng tà thuật của Tuấn, tôi mất hẳn sự phán đoán khách quan.

Về lại trường rồi, hằng ngày tôi vẫn dệt lắm mộng mơ, luôn vọng ngóng, mong Tuấn sớm ly dị để kết hôn với mình.

Tôi thường hối thúc Tuấn và xao nhãng việc học.

Trong giai đoạn này do tôi tà dâm, tà tư, tà niệm quá nhiều nen thường gặp ác mộng: Tôi mơ thấy mình rơi vào một vực sâu không đáy, có lúc còn mộng thấy mình ăn phân, ăn mọi tạp chất đại tiện dơ uế, có lúc thấy mình đứng trước một sơn động sâu hun hút không ánh sáng, cùng rất nhiều người đang xếp hàng, đồng đi vào đó.

Có lúc thấy mình và đoàn người đi đến một sơn động, ngay khi đó thì tên độc không rõ từ đâu bắn ra như mưa.

Những cơn ác mộng này ngày ngày xuất hiện tiếp nối chất chồng, có vẻ như để cảnh tỉnh tôi, nhưng tôi hoàn toàn không biết.

Sau này, đến khi tôi qui y Tam bảo, học Phật rồi, lúc xem kinh Địa Tạng, tôi mới hoảng hốt khi phát hiện ra: Các điềm mộng mình từng mơ thấy chính là những cảnh giới địa ngục mà trong kinh đã mô tả.

Ăn chất đại tiện, chẳng phải là Địa ngục phân giải hay sao?

Còn Hắc sơn động?

Trong kinh tả: Phía đông có một tòa núi Thiết Vi, quanh năm không ánh sáng, chính là tôi đã đến nơi này.

Nhưng thuở chưa biết Phật pháp đó tôi còn quá si khờ nên không tỉnh giác, cứ tiếp tục sống vô đạo, thất đức.

Một ngày nọ tôi mộng thấy mình đang leo từng nấc thang tiến lên tới đỉnh cao rồi, trong lòng đang cực kỳ hung phấn, thì bỗng bị một con chim to bất thần chụp bắt và ném tôi té xuống đất.

Tỉnh dậy tôi thấy rất bất an, bắt đầu lo âu về tiền đồ của mình.

Kết quả, không bao lâu vị giáo sư chủ nhiệm bảo tôi không đủ tư cách để lấy bằng Tiến sĩ, chỉ có thể học Thạc sĩ thôi.

Tôi vô phương biện bác, đành chấp nhận quyết định này.

Tiến sĩ rõ rang bị thủ tiêu, nhưng ngay cả việc tốt nghiệp Thạc sĩ cũng quá khó.

Trong thời gian này tôi vẫn không biết thức tỉnh, tiếp tục liên lạc Tuấn, không may bị vợ ông phát hiện, bà làm ầm náo long trời, lở đất, bà không ngừng gọi điện, gởi thư và quậy tưng bừng tới nỗi tôi hết còn có thể học an, sống ổn.

Tuấn cũng bặt liên lạc cùng tôi.

Lúc đó tôi thống khổ vạn phần, vì những lời có cánh xiết bao mật ngọt của Tuấn cuối cùng đã hóa thành phũ phàng.

Gia đình tôi cũng trách mắng tôi thậm tệ, khiến tôi càng thương tâm thống khổ, dù được gia đình giáo huấn nhiều, tôi cũng không tỉnh giác, ngược lại còn luôn oán trời trách người, chẳng hiểu vì sao mình mất bằng Tiến sĩ, mất luôn người yêu, biến mình thành kẻ trắng tay không có gì.

Hằng ngày tôi khóc lóc không ngừng, tâm thần ngơ ngẩn, luôn ngóng mong Tuấn liên lạc tôi.

Mới nửa năm thôi mà tôi đã già đi rất nhiều.

Từ một thanh nữ yêu đời hưng phấn, tôi biến thành kẻ ai oán, chán chường rầu rĩ.

Cũng do tôi từng quan hệ cùng Tuấn nên bị mắc bệnh phụ khoa, hạ thể đau ngứa khôn cùng, nhưng đi khám lại không tìm ra bệnh.

Căn bệnh này hành hạ tôi một thời gian dài, lúc ngưng lúc phát, có uống nhiều thuốc cũng không hiệu nghiệm, bệnh làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống bình thường của tôi, những khổ đau này khó có thể thổ lộ với bất kỳ ai, dù là thân quyến hay bè bạn, nên tôi đành cắn răng chịu.

Bây giờ học Phật rồi, tôi mới hiểu đó là báo ứng của tà dâm, ác báo này không hề sai lệch, nhưng báo ứng vẫn chưa kết thúc.

Tốt nghiệp xong, suốt thời gian dài tôi không quen được anh chàng độc thân nào mà toàn là gặp và quan hệ với những ông đã có gia đình.

Bởi do nghiệp tà dâm chiêu cảm, tôi gặp anh A đã có vợ và phát sinh quan hệ và cũng trong một ngày chúng tôi đồng mơ thấy ác mộng.

A kể anh mộng thấy đến một nơi bị người cắt thân thể mình ra thành mấy khúc.

Tôi nghe vậy rất sợ, bởi vì tôi mộng thấy bị một con hổ cắn xé.

Tôi hỏi vợ A tuổi gì?

Anh đáp: Tuổi cọp!

Tôi lại càng thêm sợ.

Cũng có khả năng ác mộng này đang cảnh tỉnh chúng tôi không nên tiếp tục phạm tà dâm, nếu không tương lai sẽ lãnh thảm báo ở địa ngục.

Nếu chẳng có luật nhân quả, thì tại sao chúng tôi lại đồng thời mơ thấy ác cảnh nơi địa ngục?

Trong suốt thời gian yêu đương bất chính, tôi và A công tác luôn gặp bất lợi, còn xảy ra chuyện lạ là không biết vì sao cấp trên của anh A, hai tháng trước đã tự kết thúc hợp đồng lao động với anh, khiến anh phải lao đao lo tìm việc mới.

Công việc của tôi cũng vậy, luôn bị dồn ép, ngăn trở, bị kéo dài dây dưa hoặc khó thành.

Cũng do vì tôi muốn kết hôn với A nên thường xảy ra cự cãi, có lần tôi còn định dùng việc tự sát để uy hiếp, buộc anh phải sống với tôi, nhưng chẳng ích gì, cuối cùng hai đứa vẫn chia tay.

Từ đó cuộc sống của tôi thường là nước mắt chan cơm, khổ không kể xiết.

Rốt cuộc tôi đã hiểu ra, đa số người thứ ba luôn nằm ở vị trí thấp hèn.

Vậy mà hồi đầu tôi luôn ảo tưởng: Cho rằng mình có hấp lực quyến rũ đến nỗi bọn đàn ông phải bỏ vợ để đuổi theo mình.

Nhưng sự thực thì trong mắt mấy ông có vợ kia, bạn hay tôi (những kẻ đang ở vị trí thứ ba), chỉ là những món ăn tạm vào lúc các ông muốn thay đổi khẩu vị mà thôi.

Thông thường họ không thể vì bạn mà hi sinh gia đình, mà nếu họ có bỏ gia đình để cưới bạn chăng nữa, thì hạnh phúc cũng sẽ không bao giờ như ý, viên mãn giống như bạn tưởng tượng đâu.

Vì hạnh phúc khó thể hiện hữu khi chúng được xây dựng trên nền tảng của ngoại tình, tà dâm bất chính, trên đau khổ của người khác!

Bạn nghĩ xem: Những kẻ có phẩm hạnh tà dâm xấu ác tính toan cướp chồng, se duyên cùng người có tâm bội bạc muốn ruồng rẫy vợ con thì cả hai đồng có được diễm phúc toại hưởng quả lành ư?

Theo đúng luật nhân quả thì hễ đã gieo hạt đắng thì không bao giờ nếm được trái ngọt.

Hạnh phúc nếu có thì cũng sẽ tan mau như bọt nước.

Bởi vì thiên lý không bao giờ ủng hộ những cuộc tình bất chính, vậy nên may mắn thường không bao giờ đến với kẻ tà dâm.

Chỉ những người chung thủy, đức hạnh mới có đủ phúc phận nếm trải hạnh phúc!

Bây giờ tôi nghĩ: May mà anh A không ly hôn, nếu không thì tội của tôi càng lớn và phiền não nghiệp chướng tôi phải gánh chịu sẽ là vô tận vô biên!

Hồi mới quen nhau, vì tôi mà anh A hay về nhà muộn, khiến vợ anh buồn phiền nên giữa họ thường phát sinh gây cãi bất hòa.

Bây giờ tôi chỉ biết âm thầm sám hối tội nghiệt của mình thôi, bởi tôi sống mà gieo toàn hạt giống bất tịnh, vô hình làm ô nhiễm chánh khí trong trời đất, góp phần làm vẫn đục thanh khí, khiến thế giới càng thêm mất an tịnh.

Sau khi học Phật rồi, tôi luôn tự trách mình và âm thầm sám hối.

Hồi đó sau khi chia tay anh A xong thì tôi gặp anh B đang độc thân, nên cho rằng: Cuối cùng mình cũng thoát khỏi số kiếp kẻ thứ ba.

Nhưng khi B quyết định về nước, tôi vô phương van cầu anh ở lại với mình.

Trong thời gian sống chung với tôi, anh còn phản bội qua lại với cô gái khác và cư xử với tôi rất ngang ngược, hống hách.

B luôn thấy tôi chướng mắt, song tôi lại một bề nhẫn chịu, nhưng cuối cùng thì B cũng bỏ về nước, trước khi về còn nói toạc ra là anh đã có vị hôn thê ở quê nhà đang chờ mình về làm đám cưới.

Tôi cảm thấy quá bi ai, những tưởng lần yêu này là danh chánh ngôn thuận, nào biết rằng mình vẫn là kẻ thứ ba!

Tôi đau buồn rất lâu, sau đó lại quen anh C, cũng độc thân, sau bao lần trò chuyện tôi mời anh về nhà, bị ảnh hưởng của rượu, chúng tôi cùng làm việc xấu, thực đúng như câu cổ ngữ: "Bùng mau thì tắt vội".

Tình cảm giữa chúng tôi nhanh chóng nguội lạnh, cuối cùng thì chia tay.

Tôi ý thức được đây có lẽ là do lòng tôi chứa đầy tà tư, tà niệm, tà dâm nên khiến xui mình gặp toàn những người gian dối, bịp lừa, không thật lòng yêu, đa số họ chỉ là những kẻ muốn truy tìm và tận hưởng khóa cảm nhục thể, khiến tôi hết lần này đến lần khác nhận lấy biết bao tổn thương.

Một phần cũng do tôi là kẻ đa tình lắm dục, nên chiêu mời kẻ có khí chất tương đương tìm tới, rồi tự chuốc lấy thống khổ không ngừng.

Tà dâm, chính là tự hủy hoại hạnh phúc mình, cũng là nguyên nhân khiến tài, lộc, quyền... bị suy giảm rất lớn, tà dâm làm vận may tiêu tan, xui xẻo thường đến, tai họa ập tới liên miên.

Đây là lý do vì sao Phật chế giới: Không được tà dâm, tất cả nhằm để bảo vệ hạnh phúc cho chúng ta.

Mặc dù lắm lúc kẻ tà dâm nhận thấy dường như họ không bị thọ báo, nhưng nếu để ý kỹ sẽ thấy vận xui luôn bao trùm, làm gì cũng không thuận, thân thể thường sinh bệnh, nhất là những bệnh tình dục viêm nhiễm nặng, tóm lại họ phải lãnh đủ nghiệp chướng trùng trùng!

Nếu như có thêm ác nghiệp đời trước ập đến nữa, thì kể như vô phương chống đỡ.

Giờ đây tôi thành tâm phát lộ sám hối những tội tà dâm đã tạo trong quá khứ, cũng khẩn thiết khuyên những ai có hạnh tà dâm tương tự tôi, hãy mau cải hối quay đầu, phát nguyện chấm dứt triệt để, không tái phạm.

Chỉ có sám hối nghiệp chướng, tuân thủ giới luật Phật ban, nghiêm trì ngũ giới, hành thập thiện, mới giúp chúng ta tăng thiện nghiệp, mới khiến đời sống, phẩm hạnh ta thăng tiến, chiêu cảm mọi việc thuận lợi.

Do phạm lỗi tà dâm từ nhỏ đến lớn, tôi luôn gặp chướng ngại và thống khổ.

Do tà dâm xem thường trinh khiết, dễ dàng sống thử và yêu đương bất chính mà tôi thường mơ thấy cảnh địa ngục.

Hồi tưởng lại quá khứ đau buồn, tôi mới hoát nhiên đại ngộ, té ra: Tà dâm và yêu đương bất chính là tự hủy hoại, làm giảm phúc, lộc, quyền... của mình trong hiện đời, chết rồi còn phải sa địa ngục.

Sau khi đến với Phật pháp rồi, tôi biết giữ giới, dứt trừ tà dâm, lưu tâm sửa lỗi hướng thiện và hưởng được niềm bình an hạnh phúc.

Vì vậy mà tôi thu hết can đảm phát lộ sám hối nói ra tất cả lỗi lầm của mình, mong chư vị độc giả lấy đây cảnh giác.

Cũng xin khuyên các bằng hữu, ngàn vạn lần không nên đi vào con đường tà dâm ô trọc, vì đó là vực sâu dìm người vào thống khổ vô biên.

Phật tử Y

ÍCH LỢI KỲ DIỆU CỦA VIỆC GIỚI DÂM

Tôi là một phụ nữ 39 tuổi, đang công tác tại một xí nghiệp nơi thành phố T, có gia đình hạnh phúc, được chồng yêu thương, có con ngoan ngoãn khả ái, còn được cha mẹ luôn quan tâm lo cho, phải nói cuộc sống vô cùng mãn ý.

Tôi mới học Phật được một năm.

Hồi đầu khi nhìn thấy hai chữ "Tà dâm" trong giới cấm của Phật, trong lòng tôi luôn cho mình là người tốt, thiện lương, hết dạ chung thủy với chồng, chẳng làm gì dính dáng đến lỗi tà dâm nên không lưu tâm chi.

Thế nhưng theo thời gian, khi tôi học Phật thâm nhập thấm sâu giáo pháp rồi, mới phát hiện ra thảy đều do mình ngu si không biết, nên lầm cho là mình hay, mình đúng, tự ôm kiến chấp sai lệch, thậm chí đã phạm lỗi mà không hay.

Tập khí tà dâm đúng là "không thầy mà tự thông", nhớ lại hồi 17-18 tuổi, có lúc quá hưng phấn tôi tự thỏa dục, dần dà thành thói quen, mãi đến lúc kết hôn sinh con rồi mà tật này vẫn chưa từ bỏ.

Hồi mới bắt đầu phạm lỗi này, tôi thường áy náy, xấu hổ, cảm thấy mình thật dơ bẩn, hèn hạ.

Có lần tôi tình cờ xem cổ thư Trung quốc thấy ghi: Thủ dâm khiến trăm bệnh theo đó phát sinh!

Tôi liền hạ quyết tâm từ bỏ, nhưng xui xẻo là khi lên mạng, tình cờ đọc các bài văn của nhiều chuyên gia viết, thấy họ tuyên bố: Thủ dâm giúp đời sống vợ chồng thêm phong phú, nào là giúp giải phóng năng lượng cơ thể, giúp giảm stress, giúp giải tòa ức chế nhu cầu sinh lý, rất tốt cho sức khỏe, hành vi này hoàn toàn không có gì nguy hại, đây là chuyện bình thường, không có gì phải hoảng kinh hay tự trách...

Thế là tôi vịn vào mấy lời khuyến khích này mà yên chí, tha hồ bành trướng thói tật, bởi thấy ngay cả các vị có tiếng tăm hiện đại còn cho đây là hành vi hợp lý, bình thường, nên tôi cứ thực hành.

Yên tâm nghĩ rằng: Mình làm vậy không hề phản bội chồng, còn giúp cho đời sống chăn chiếu thêm phong phú, do vậy mà tôi tiếp tục vâng theo chỉ bảo của các chuyên gia trên mạng, ném phăng tất cả lời dạy cổ thánh tiên hiền, không thèm để ý đến.

Sau này, tùy theo tuổi tác ngày càng lớn, tôi mắc nhiều bệnh phụ khoa, âm đạo bị viêm v.v... nhưng tôi không chú ý lắm, bởi cứ đinh ninh rằng: Phụ nữ thời nay ai mà không mắc mấy chứng này?

Tôi nghĩ đây là chuyện bình thường, nữ giới bị bệnh phụ khoa hiện có rất nhiều, cần chi phải lưu tâm, lo lắng?

Mãi đến sau này, khi cảm thấy hạ thể thường tiết dịch xông mùi xú uế rất khó chịu, tôi mới nghĩ là mình cần vệ sinh tốt hơn nữa, nhưng cho dù tôi tắm rửa ngày mấy lần, thay y phục mấy bận, thì tình trạng này vẫn không chuyển tốt.

Đến khi học Phật rồi, tôi suýt té ngửa khi hiểu rõ ra: Thủ dâm chính là tà dâm, là hành vi cực kỳ sai lầm, rất đáng xấu hổ, cần phải dứt bỏ triệt để và các chứng bệnh mà tôi đang mắc phải chính là do quả báo của tà dâm, thủ dâm chiêu cảm!

Khi đó tôi giống như bị một gậy đánh vào đầu, tâm tư bừng tỉnh, từ giây phút đó biết thống thiết ăn năn những lỗi lầm đã phạm trước đây.

Từ đó tôi hạ quyết tâm: Triệt để dứt bỏ thủ dâm, tính đến giờ đã được năm tháng.

Tuy tôi mới đình chỉ, dứt trừ lỗi ác trong thời gian ngắn ngủi, nhưng lạ thay, những chứng bệnh phụ khoa bỗng tiêu tan, biến mất hết, điều khiến tôi hoan hỉ nhất là, hạ thể không còn xuất hiện mùi hôi.

Không ngờ giữ giới dâm lại đem đến nhiều lợi ích kỳ diệu cho thân lẫn tâm, khiến tôi mừng vui khôn xiết, vì không chỉ thế, dung mạo tôi còn chuyển hóa sáng rỡ và điều tôi vui nhất là: Mình đã thành nữ nhân thanh tịnh nhờ vâng giữ giới cấm của Phật.

Vì muốn báo ân Phật và mong quý vị được lợi ích nhờ xem bài viết này, tôi đã thu hết can đảm để viết chuyện của mình ra chia sẻ.

Là đệ tử Phật tức nhiên tôi không nói dối, xin hãy tin kinh nghiệm mà tôi đích thân trải qua là hoàn toàn chân thực.

Tôi tha thiết khuyên các chị em, đừng cho rằng mình đang sống trong thời buổi tân tiến mà khinh thường những lời dạy, những cảnh báo minh triết cổ xưa.

Chúng ta phải thận trọng sáng suốt khi xem những bài viết khuyến khích sống buông thả, cho phép bản thân phóng túng tình dục trên mạng.

Xin đừng tin vào thuyết: Thủ dâm là hành vi bình thường, đem lại lợi lạc.

Cần phải hiểu rõ rằng: Ít nhất thủ dâm cũng chiêu vời ba ác báo là:

1.

Trăm bệnh theo đó phát sinh.

2.

Thân phát mùi tanh hôi.

3.

Vận khí luôn xui xẻo.

Nguyện tất cả chị em phụ nữ đều xa lìa bệnh tật khổ não.

Nguyện tất cả mọi người đều có được thân thể khỏe mạnh khang kiện, gia đình hạnh phúc.

Minh Vũ - 20/3/2012

HƠN BA TRĂM MẠNG

Hôm qua một cô gái từ Đông Hoan gọi điện thoại tới, ngỏ ý muốn được thôi miên và hỏi tôi ngày nào rảnh?

Tôi hẹn cô tuần sau.

Nghe vậy cô tỏ vẻ rất sốt ruột, nói:

- Không được, ông Đặng ôi, xin hãy làm ơn...

ông có thể giúp tôi sớm hơn không?

Nghe giọng nói gấp gáp của cô, tôi đoán chắc cô có chuyện gì cần lắm, bèn hẹn cô ngày mai.

Hôm nay, mới hơn 9 giờ sáng, cô đã đến.

Đó là một cô gái 29 tuổi, chưa kết hôn.

Cô kể mình họ Thẩm, tôi tưởng cô có gì cấp bách mới cần thôi miên gấp, hóa ra là do cô tò mò chỉ muốn biết tiền kiếp mà thôi.

Cô Thẩm là người thật thà chất phác, lớn lên ở miền quê, cha mẹ đều là nông dân.

Cô có một em trai và một chị.

Trong mắt mọi người ai cũng tưởng cô có tuổi thơ hạnh phúc, nhưng không phải vậy.

Ngay từ nhỏ cô đã bị xem là đứa bé ngu ngốc, vì 8 tuổi mới đi học nhưng cô không thể viết chữ.

Do vậy mà cha mẹ không thương.

Phụ thân thường đánh cô, còn mẹ thì luôn thấy cô chướng mắt nên hay la mắng cô, cư xử rất bất công.

Ngay cả em trai và chị gái cũng khi dễ, ăn hiếp cô.

Cho nên từ nhỏ cô đối với cha mẹ ôm nhiều hận oán.

Cô còn bị bệnh viêm gan lâu năm, trước đây gan hay bị đau.

Cô có trí nhớ cực tồi, cô đã đến chùa làm công quả hai năm, được người ta dạy niệm câu "Nam mô A Di Đà Phật", nhưng cô không nhớ nổi.

Ngực cô thường đau, luôn có cảm giác khó thở.

Ngón tay út và áp út bên phải bị đơ cứng, khiến nhiều lúc cầm đũa cũng không được.

Từ nhỏ cô hay bị ảo thính, thường nghe có tiếng người nói bên tai.

Tôi hỏi cô vài câu đơn giản xong, thì bắt đầu giúp cô vào cuộc viễn du thám thính tiền kiếp.

Đầu tiên, tôi dẫn dụ theo phương thức thông thường, nhưng thấy cô không có chút phản ứng gì.

Chả lẽ cô thực sự quá ngu độn ư?

Xem tướng cô thấy cũng không đến nỗi tối tăm lắm, có vẻ là người thật thà.

Do cô không thông minh lanh lợi nên tôi đành hướng dẫn từ từ để khơi lại ký ức tiền kiếp của cô.

Khi tôi bảo: Cô hãy nhớ về năm lớp 10!

Thì cô mô tả mình thấy cảnh một bạn gái cùng lớp đang trò chuyện yêu đương tình tứ với một thanh niên, cô bèn chỉ cho một nữ sinh khác nhìn, thế là cô này liền đem chuyện ấy mách với nữ giáo sư, cô giáo bèn xử phạt nữ sinh kia, khiến cô ta xấu hổ bỏ nhà ra đi và bị người lường gạt đem bán đến một nơi xa, may là cô ta lanh trí chạy trốn được, nên không bị xâm hại.

Khi cô Thẩm thấy đến đây, thì lộ vẻ rất hối hận, cô bật khóc, lệ luôn đầm đìa...

Tôi lại hướng dẫn cô nhớ về thời đồng niên, cô bỗng tỏ vẻ rất sợ hãi, toàn thân phát run, tôi hỏi: Chuyện gì khiến em sợ dữ vậy?

Cô đáp bằng giọng trẻ thơ, đầy sợ sệt nói:

- Cha đang đánh tôi.

Ký ức ấu thơ đang ùa về, cô miêu tả:

Cha hay đánh tôi lắm, ông dùng roi quất vào bắp chân, rất đau, hu hu!... cô vừa khóc vừa kể.

Tôi hỏi tiếp:

- Hồi nhỏ, chuyện gì khiến cô khó quên nhất?

Một lúc sau, cô đột nhiên bật khóc, hét to lên: Mẹ cư xử thiên vị, không công bằng!

Do người mẹ luôn thấy cô chướng mắt, nên chẳng thương.

Hễ cái gì tốt thì mẹ dành cho chị và em trai chứ không cho cô.

Tết đến, chị và em cô được may y phục mới, nhưng cô thì không.

Khi cô bị cha đánh đòn thì chị và em cô đứng bên ngoài nhìn vào cười.

Điều này khiến cô rất buồn.

Cô kể đến đây thì sự uất ức bị dồn nén suốt hai mươi mấy năm như hỏa diệm sơn phun trào, cô thét lên với vẻ cừu hận qua màn nước mắt:

- TÔI HẬN HỌ!

HẬN CHẾT ĐI ĐƯỢC!

Khi viết đến đây, lòng tôi xúc động dạt dào, mặc dù tôi hành nghề chỉ mới hơn hai năm ngắn ngủi, nhưng qua những gì chứng kiến được, tôi cảm thấy thai giáo là phi thường nghiêm trọng trong (Trong khoảng từ ba đến bảy tuổi, ảnh hưởng cha mẹ đối với trẻ cực kỳ lớn).

Cô Thẩm từ nhỏ đối với cha mẹ, chị em... lòng đã ôm oán hận thâm sâu, vì từ nhỏ luôn bị cha mẹ làm tổn thương.

Khi tôi khuyên cô nên hóa giải oán hận, cô bật khóc to.

Những oan khuất và oán hận hóa thành suối lệ tuôn tràn...

Xong rồi thì cô chịu tha thứ cho người thân, đôi mày hết cau có và mặt cô dãn ra, lộ vẻ thanh thản...

Tôi tiếp tục hạ lịnh cho cô đi về kiếp trước đó nữa, để tìm cho ra nhân duyên không tốt giữa cô với cha mẹ.

Té ra vào một đời nọ tại Triều Thanh, cô là một phụ nữ nông thôn, có hai con trai: Con cả 5 tuổi, con út 3 tuổi.

Chồng cô thường vắng nhà vì phải ra ngoài làm việc kiếm tiền.

Kiếp đó cô đối với hai con trai không tốt, nhất là đối với con trai đầu, cô rất ghét, bởi vì nó rất ngu và cô thường đánh đòn nó.

Đứa con trai út cũng làm cô chướng mắt, có lúc cô mua đồ cho con cả, mà không thèm mua cho con út.

Hai con đối với cô cũng phi thường oán hận.

Trong cơn thôi miên cô Thẩm kể: Đời này cậu cả sinh làm phụ thân, cậu út nay là mẫu thân cô.

Lại tiến sâu về kiếp trước nữa, thì cô Thẩm nhìn thấy: Vào đời Minh, mình là một thiếu nữ khoảng mười mấy tuổi, mặc váy hồng, đang đứng một mình trong vườn hoa, lúc đó trời chạng vạng tối, tâm tư rất buồn khổ.

Bởi vì cha mẹ đối với cô rất tệ.

Phụ thân luôn thấy cô chướng mắt, thường hay đánh đòn, mẹ cũng rất ghét cô.

Cho nên vào kiếp đó cô cũng rất oán hận cha mẹ.

Cảnh đó giống hệt như thời ấu thơ đời này mà cô đã trải qua.

Kiếp đó cô có một em trai.

Lẽ nào đây là chân tướng luân hồi?

Đời đời kiếp kiếp không ngừng báo oán, đền bồi, giày vò nhau?

Không ngừng diễn lại nhân quả và phóng ảnh tâm linh?

Tình hình cô Thẩm và cha mẹ cứ tiếp diễn vần xoay mãi như thế, xem ra chẳng biết bao nhiêu đời rồi...

Nếu kiếp này không minh bạch, không giác ngộ, không chịu buông xả hết oán hận cưu mang trong lòng, thì khổ cảnh này sẽ tiếp tục kéo dài mãi đến đời sau, biết bao giờ mới kết thúc?

Không lẽ đây chính là điều mà Phật giáo thuyết giảng: Đời đời yêu, oán tình, thù... xui ta tìm nhau đòi nợ, đền nợ... tâm báo ân, báo oán... không ngừng tái diễn, luân lưu không dứt.

Tôi tầm cầu cho tất cả chúng sinh sớm thoát ly luân hồi thống khổ, vĩnh viễn sống trong tri ân, hạnh phúc.

Trong quá trình thôi miên, tôi còn phát hiện ra một câu chuyện nhân quả khác của cô Thẩm nữa.

Lần thôi miền đầu kết thúc, cô bảo ngực mình đã cảm thấy dễ thở rất nhiều, nhưng hình như vẫn còn chút gì đó ngăn trệ bên trong.

Khi tôi bắt đầu cuộc thôi miên lần hai, chuyện ngoài sức tưởng tượng phát sinh.

Cô Thẩm nói: Hình như có gì đang ở trong ngực, trong não tôi!

Tôi liền hướng dẫn tiếp tục, thì đột nhiên cô nói bằng giọng đàn ông, nghe rất hung ác...

Tôi vội hỏi:

- Bạn là ai?

- TA LÀ KẺ BỊ TÊN NÀY SÁT HẠI!

- Giờ bạn muốn thế nào?

- TA MUỐN Y CHẾT!

QUYẾT KHÔNG THA!

Giọng nam thốt ra với vẻ vô cùng hung ác.

Tôi ngẩn ngơ.

Vậy rốt cuộc là chuyện gì nữa đây?

Dần dần tôi hiểu ra:

Sự việc phát sinh vào đời Tống.

Lúc đó cô Thẩm là một cao quan hơn 40 tuổi tạm gọi là Khánh cho độc giả dễ phân biệt.

Trong cơn thôi miên hiện thời, cô Thẩm lộ vẻ phi thường tức giận và nói bằng giọng đàn ông chứa đầy phẫn nộ xung thiên:

- Đáng hận quá, ta muốn giết tên Khang!

Vì sao muốn giết?

- Y rất đáng chết vì dám khởi ý phản bội, mưu tính lấy đầu ta!

Té ra tên Khang là quan thuộc hạ trong triều, đang âm thầm liên kết với nhiều người để làm hại ông Khánh.

Do đã biết trước, nên một ngày nọ ông Khánh dẫn theo nhiều binh sĩ, xông vào nhà Khang, giết sạch toàn gia hơn ba trăm người, riêng thuộc hạ Khang bị Khánh đâm trúng tim mà chết.

Còn hai người nữa cũng bị chặt đầu mạng vong.

Vì vậy kẻ gá vào ngực hành hạ cô Thẩm chính là Khang do hắn bị đâm trúng tim chết, nên bây giờ trả thù bằng cách hành đau nơi ngực còn hai vong bị chặt đầu thì gá vào não cô.

Riêng ba trăm người kia thì một số gá vào đầu, số thì gá vào tay phải vì lúc tàn sát họ, cô cầm gươm bên tay phải.

Cô Thẩm đến 8 tuổi mới đi học, nhưng không thể viết chữ, trí óc không thông minh linh hoạt, tim thường bị đau... là do có liên quan đến vụ "Đại thảm sát ba trăm lẻ ba mạng này".

Sau khi thôi miên kết thúc, tôi bảo cô Thẩm:

- Hồi nhỏ không phải cô ngu ngốc hay đần độn gì cả!

Cô nói cô cũng biết rõ mình không có ngốc, nhưng hễ muốn viết chữ thì tay cứng đơ không nghe theo, giống như cố ý chống lại cô vậy.

Hơn nữa trong não cô luôn lộn xộn rối ren, nên không thể nhớ được gì.

Đối diện với hơn ba trăm mạng còn ôm đầy hận oán, tôi chỉ có thể hướng dẫn, điều đình, xin họ hóa giải.

Tôi khuyên cô Thẩm hãy nhận lỗi, sám hối.

Thế nhưng chỉ có một số ít vong linh chịu tiếp nhận, còn đa số khăng khăng ôm oán, cương quyết không tha thứ, nhất định đòi báo thù.

Tôi nhắc họ: Đây là nhân quả, cái gì cũng có nguyên nhân đầu tiên.

Do họ không phục nên tôi đành phải thôi miên cô Thẩm tiếp, dẫn dụ cô đi sâu vào kiếp trước đó nữa, để tìm cho ra nguyên nhân đầu tiên, hầu có thể giúp hai bên hóa giải hận thù.

Lần này cô Thẩm kể:

Kiếp đó vào triều Đường, cô là một phú ông họ Trương khoảng ba mươi mấy tuổi, rất giàu, có đông người hầu hạ.

Thình lình một hôm nọ, có ba người bịt mặt, dẫn theo mấy mươi người, tay cầm vũ khí xông vào dinh thự của Trương phú gia để cướp, nhưng ông Trương cương quyết chẳng nộp tiền cho chúng, nên cuối cùng không những ông bị bọn cướp giết chết mà toàn gia ông hơn trăm người cũng bị chúng giết sạch để diệt khẩu.

Khi cô Thẩm nhớ đến đây thì lộ vẻ vô cùng sợ hãi, toàn thân run rẩy, cất tiếng van xin như thể đang là Trương phú gia:

- Xin đừng giết tôi!

Đừng giết tôi!

Thế nhưng tên đầu đảng bịt mặt vẫn giết chết ông, hắn ra tay độc ác: Đâm một đao vào tim ông Trương.

Cô Thẩm nói, mặc dù họ bịt mặt, nhưng cô vẫn nhận ra tên đầu đảng giết mình chính là kẻ từng làm công cho mình trong kiếp đó.

Do thấy hắn làm việc quá tệ nên Trương phú hộ không hài lòng, đã đuổi cổ hắn đi, vì vậy mà hắn ôm hận, kết bè đảng, rủ nhau đi cướp của ông.

Ngay giây phút cô Thẩm nhớ lại tiền kiếp kia, thì ba trăm oan quỷ kia cũng đồng thời cảm nhận được họ từng là những kẻ cướp gian ác... nên không còn ôm lòng oán hận nữa!

Có thể do lúc cô Thẩm nhớ lại tiền kiếp ở triều Đường, thì bọn oan quỷ cũng nhìn thấy và nhận ra lỗi lầm của mình, cho nên không cần tôi khuyên chi nữa, tất cả bọn họ đều đồng ý hòa giải, buông hết hận thù.

Sau đó, tôi kể cho họ nghe về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà, về hạnh nguyện từ bi của Ngài, tôi miêu tả quốc độ này rất thù thắng trang nghiêm và khuyên bọn họ hãy niệm Phật cầu sinh Tây Phương.

Bọn họ rất hoan hỉ tiếp thọ.

Cuối cùng, tôi hướng dẫn họ đồng niệm "Nam Mô A Di Đà Phật" theo tôi.

Ngay trong lúc Phật hiệu vang vọng, cô Thẩm bảo tôi, cô thấy rõ bọn họ xếp thành hàng, từng người, từng người đứng trên hoa sen, theo Tam Thánh(5) và dần dần biến mất giữa không trung.

Khi cuộc thôi miên kết thúc, cô Thẩm bảo toàn thân cô nhẹ nhõm, đầu óc tỉnh táo hẳn.

Khi cô từ biệt ra về, tôi thầm nghĩ: Nếu như tôi chọn công tác khác, không biết mình sẽ ra sao?

Tôi thầm cảm ơn công việc hiện tại đã giúp tôi hiểu sâu thêm về nhân quả, rút ra được rất nhiều bài học hay, tăng thêm niềm tin kiên cố và tự biết mình cần phải tu sửa cho rốt ráo.

Dù sức tôi kém, nhưng cũng nguyện giúp đỡ hết tất cả chúng sinh.

Nhân quả báo ứng không sai mảy may, oan oan tương báo, không bao giờ dứt, hơn nữa càng báo oán, thù càng sâu nặng.

Mới đầu là giết hơn trăm người, đến lúc báo thù lại thì thành ba trăm lẻ ba người.

Chỉ có buông bỏ oán thù, chân thành sám hối.

Trong sinh hoạt thường nhật, cần đem phiến tâm thành đối đãi bình đẳng với tất cả, như vậy thì oán kết đời trước tự nhiên sẽ được tháo gỡ.

Giáo sư Đặng.HẤP TINH QUỶ

Trong các loài quỷ Phật kể, có loài hấp tinh quỷ, vậy chúng hoạt động như thế nào?

Khi nam nữ phóng túng tà dâm, ngoại tình, ngoại hôn không phải vợ chồng hợp pháp mà ân ái vụng trộm, sống lang chạ, tà hạnh thì sẽ có hấp tinh quỷ xuất hiện.

Tôi có anh bạn, mới đầu rất chống đối các trang web sex hay khiêu dâm, cho đó là vô đạo đức, sa đọa... nhưng thời gian lâu dần, anh cho rằng: Dẫu tình cờ có nhìn thấy cũng không sao.

Nào ngờ sau khi tò mò xem thử, nhìn tới dòm lui một hồi, riết rồi anh đâm ghiền.

Bỗng một hôm anh tâm sự:

Các phim, truyện, đĩa sex... có nội dung kích dâm gợi dục không nên xem, phải nói là tuyệt đối không nên xem.

Tôi đã bất ngờ nhìn thấy có hình quỷ hiện lên trong các cảnh quay các "pha" tình dục này.

Thật kinh hãi quá.

Té ra hôm đó anh lên mạng xem sex(6), bỗng phát hiện ra trong cảnh quay có hiện tượng lạ: Ngay khi cô gái mại dâm đang tiếp khách, thì phía sau giường ả hiện rõ hình dáng quỷ đang phục sẵn ở đó, nửa thân trên của quỷ lộ rõ gương mặt trắng bệch, hốc mắt đen, tóc dài bù xù nhìn giống mặt người nhưng trông rất đáng sợ.

Con quỷ hiện ở phía sau này đang nhìn chằm chằm vào dâm nữ, điều khiển cô ta diễn trò bẩn thỉu, nhãn thần ả chứa đầy vẻ khiêu dâm, mê loạn, không còn chút tỉnh táo.

Điều này khiến anh bạn tôi bị sốc vô cùng, kể từ đó anh không bao giờ xem các phim ảnh đồi trụy nữa, anh xúc động nói:

- Hèn gì mà người xưa nói: Các dạng quan hệ không phải phu thê đều có quỷ lẫn, quỷ ám!

Mà đúng là có quỷ trà trộn vào ẩn trong đó.

Kẻ bị quỷ ám sẽ bị chúng hút dần tinh, khí, thần, càng lúc càng nhiễm tà, càng trở nên ngu đần, mê muội.

Một anh bạn khác của tôi, tuy không ưa ra ngoài lăng nhăng, nhưng rất khoái xem sex trên mạng hay trong băng, đĩa.

Thỉnh thoảng anh cũng xem ảnh khiêu dâm, hình lõa thể hay "Sex nghệ thuật".

Xem được một thời gian lâu, anh kể rằng: Bỗng dưng anh cảm giác như có một luồng khí lạnh từ phía sau lưng xâm nhập vào cơ thể, khiến thân trở nên suy yếu, mất tự chủ và cứ ra mồ hôi lạnh...

Anh ý thức được hiện tượng này chẳng phải là việc tốt, lập tức đình chỉ, không xem nữa.

Thỉnh thoảng hễ theo thói quen có nhớ đến sex, thì anh liền khống chế, không cho nghĩ tiếp nữa.

Dần dần, trạng thái này ít đi, đến mức khi mở vi tính anh chẳng còn muốn xem các mục sex hay phim ảnh đồi trụy nữa, mà vội chuyển sang trang khác ngay.

Một pháp hữu có thần thông đã khai mở thiên mục từng cảm thán nói với tôi:

- Tại sao con người lại có thể làm ra những việc phi nhân cách như thế?

Phải hiểu là: Người có nhiều dâm tâm bất chánh sẽ chiêu vời tà quỷ tới... mà những phim ảnh đồi trụy thường chứa âm khí rất nặng, khiến người ưa xem, trào dâng ham muốn rồi bắt chước làm theo, dễ dàng tạo cơ hội cho loài quỷ hấp tinh tìm đến gá vào, xúi bẩy thêm khiên họ không khống chế nổi mình, cả ngày toàn chỉ muốn thực hiện những hành vi dâm ô phi nhân cách.

Loài quỷ này không phải ai chúng cũng có thể làm hại, mà chỉ những kẻ nội tâm thường nghĩ tà, đa dục, mê dâm loạn... lập tức sẽ tự chiêu mời chúng tới và đương nhiên chúng có quyền làm hại.

Các băng, đĩa, phim, ảnh sex... bao gồm các trang web đồi trụy, chính là môi trường sản sinh kích thích người phạm tội dâm loạn và đây chính là môi trường béo bở, là "Lạc Viên của quỷ hấp tinh, quỷ hành bệnh trú đóng".

Quý vị đừng cho đây là chuyện không tưởng, là chuyện nhỏ không đáng lưu tâm, mặc dù hiện thời kẻ phóng túng tà dục không thấy có bệnh gì hiển lộ, nhưng đến khi bệnh bộc phát thì xem như hết cứu.

Lúc đó bạn cử động đi đứng gì đều thấy khó khăn và sẽ nếm trải tháng ngày cực kỳ khốn đốn.

Đến lúc đó, ngay cả con cái cũng xa lánh bạn.

Việc xem sex, phóng túng tình dục... chiêu hậu quả rất đáng sợ, thực tế bạn chẳng nên dây vào.

Tầm hoa hỏi liễu: bại thân nhà

Do bởi mắt tai, ưa dâm tà

Dương thế mặc dù chưa sa lưới

Chết rồi khó thoát tội hình tra!

Kiếp người chưa tới trăm năm, chớp mắt thân này đã mất, chớ nên ham dâm lạc nhất thời mà thọ khổ vạn kiếp.

Cũng xin giải thích thêm là: Khi đoạn phim lẫn ảnh chụp cuộc mây mưa bất chính của cặp nam nữ có hiện hình quỷ thấp thoáng phía sau được tung lên, đã phát sinh "cơn bão tranh cãi" ngay trên cộng đồng mạng.

Do hình lưu truyền trong nội bộ, chỉ hội viên mới được xem.

Nhưng đây là chuyện quái lạ hi hữu chưa từng thấy, dù hình quỷ chỉ hiện thoáng qua, nhưng đủ khiến người xem nổi ốc.

Phải nói là hiện tượng kinh dị trong hình, đã châm mồi cho nhiều cuộc tranh luận bùng nổ, gây ầm náo và dậy sóng...

đến nỗi cả vùng Đông Nam Á cấm quảng bá hình này.

Riêng tôi đã xem kỹ bức hình: Lúc nam nữ đang chìm đắm trong dục lạc u muội, rõ rang có gương mặt quỷ hiện nơi góc giường nhìn họ kích tình!

Gương mặt quỷ này dù chỉ nhìn qua trong thoáng chốc, nhưng đủ khiến ta nổi ốc, kinh sợ đến mức hứng tình và dục khởi cũng tiêu tan.

Không người nào có thể giả được mặt quỷ với phẩm chất quỷ ngoài sức tưởng tượng như thế!

Hấp tinh quỷ (ảnh cắt ra từ video).

Quả ChânHIỆN THẾ BÁO CỦA TÀ DÂM

(Lời kể của một bác sĩ đã khai mở thiên nhãn)

Người dâm tâm nặng nề sẽ chiêu vời những loài yêu quái háo dâm và hấp tinh quỷ tìm đến.

Thời gian gần đây, người đến tìm tôi trị bệnh rất đông, quán sát kỹ nguyên nhân thì trong số họ hết một phần ba là: Bệnh phát sinh do tâm dâm tà chiêu cảm.

Triệu chứng thế này: Đa số bệnh nhân phát hiện mình dễ mất tự chủ, không thể khống chế, niệm dâm đê hèn cứ khởi ồ ạt mãnh liệt, mạnh tới nỗi ngay cả lúc niệm kinh, trì chú hay bái Phật cũng bị khởi niệm xấu này, vì vậy họ tìm đến tôi, hỏi vì sao như thế?

Nếu ai thấy mình bị tình huống tương tự vậy, thì tôi xin nhắc nhở: Có khả năng bạn đã bị tà yêu trói buộc quấy nhiễu.

Đây chính là điềm then chốt mà bài viết này muốn nêu lên, bởi đấy chính là ác báo hiện thế cho người có dâm tâm, tà ý nặng.

Thế thì người dâm tâm nặng sẽ chiêu cảm hiện thế báo ra sao?

Khi một người khởi dâm tâm nặng, tà ý của họ sẽ chiêu vời rất nhiều loài quỷ mị đồng thanh đồng khí tìm đến, nghĩa là những loài có dâm tâm cực mạnh, có đồng tư tưởng ô uế giống họ sẽ tụ hội bu quanh, trong đây không riêng gì người cõi âm mà bao gồm cả loài phi nhân, súc vật, chưa kể có một số là hồ ly sở hữu công phu tà tu tìm tới, cao hơn nữa là loài dâm quỷ.

Nghĩa là có đủ loài, đủ hạng, không giới hạn ác quỷ, tà thần hay súc sinh, miễn là có chung khí dâm, ý dâm, tưởng dâm, chính do ác nghiệp dâm chiêu cảm mà tìm đến trói buộc, hành hạ nhau.

Riêng đám hồ ly tà tu có dâm tâm nặng thường viễn ly chánh đạo, bởi chúng vốn không phải là hạng rèn thiện, bồi đức; chuyên nương vào việc hấp tinh khí người để tu luyện, vì vậy khi bắt được tư tưởng của người có tâm dâm nặng (những rung động tư tưởng này phóng ra giống như làn sóng vi ba), thì bọn chúng khoảng hai ba tên sẽ vây lấy đương sự và từ sáng đến tối luân phiên ngủ cùng người này, nhắm vào việc rút tinh khí để tu luyện.

Người bị bọn chúng vây nhiễu, thường sẽ bất giác khởi dâm niệm, thậm chí dù có ở trước tượng Phật cũng không kềm được tâm dâm, tối tối thường mộng thấy hành lạc hoặc họ không tự giác, đang ngủ cũng tự thủ dâm nên hay bị mộng tinh, di tinh.

Vào ban ngày, đa số những người bị quỷ mỵ hấp tinh vây hãm bầu bạn thì họ rất suy, mắt lờ đờ, ưa buồn ngủ, tinh thần không phấn chấn, thân tâm mỏi mệt, khẩu khí tanh hôi, uế trược v.v...

Nếu thân mình có các triệu chứng như trên, thì cần lưu ý, bên cạnh bạn có thể đã hiện diện loài tà vây quanh và bạn sẽ bị chúng quấy rối không buông, tôi e rằng các bạn sẽ lại tìm tôi nhờ khám bệnh nữa nên xin mách phương pháp giải quyết tốt nhất là: Phải lập tức sám hối tất cả niệm dâm dục trong quá khứ, những lỗi nhiễm ô do: Xem văn hóa phim ảnh, truyện sách sex...

đồi trụy v.v... từ trên net hay băng đĩa hoặc bất cứ ở đâu, bạn phải sám hối tất cả không được để sót và cần hạ quyết tâm từ bỏ tà dâm triệt để.

Chỉ có tự mình phát dũng khí, thệ nguyện tu hạnh thanh khiết thực sự, thì bạn mới có thể giải quyết tận cội rễ các vấn đề này.

Thủ dâm luôn có quỷ hấp tinh theo sau

Tôi quen một tiểu đệ, diện mạo ủ rũ tái xanh, quầng mắt đen thâm.

Chú hay mất ngủ và thức rất khuya.

Sau đó tình cờ mà tôi phát hiện chú có thói quen thủ dâm, nên tôi đã bỏ thời gian quán sát, tìm cách giúp chú cải sửa thói tệ này.

Khi tôi định tâm nghĩ đến chú một lúc, thì bỗng nhìn thấy một cảnh tượng hết sức bất ngờ: Trong lúc chú đang thủ dâm, thì phía sau chú có rất nhiều hấp tinh quỷ hiện diện.

Khi chú làm trò bẩn thỉu này thì đám quỷ tranh nhau hút tinh khí.

Hơn nữa chúng không phải chỉ có một hai tên thôi đâu, mà là có rất nhiều!

Tôi vừa nhìn thấy cảnh này thì nhờm tởm muốn nôn, hèn gì mà bộ dạng chú quá u ám, mỏi mệt.

Tôi thầm nghĩ: Thật không ngờ có người ngốc đến vậy, đem tinh, khí, thần quý báu của mình biếu hết cho đám yêu tà!

Nhìn thấy đám hấp tinh quỷ hằng ngày vây quanh chờ hút tinh khí của chú, trong lòng tôi rất khó chịu.

Phải biết: Tinh, khí, thần là nguyên liệu quý báu giúp thông minh sáng trí, do con người ngu muội không biết nên đã sống buông thả để mặc cho tinh hoa của mình bị thất thoát rò rỉ hết.

Chỉ vì mê vài giây hưởng khoái cảm nhục thể mà cam tâm tự hủy hoại sức khỏe mình.

Khi người ta thủ dâm, ngoại tình, tà dục, lang chạ, thì luôn có hấp tinh quỷ chầu chực, chờ đợi dùng bữa!

Những người hiểu rõ điều này ắt sẽ luôn cẩn thận, quyết giữ gìn sự trinh khiết cho bản thân, không bao giờ dám tự hủy hoại, tiêu hoang tinh, lực.

Vì tổn hại này rất khó bù đắp.

Muốn bảo tồn sức khỏe chúng ta phải nương vào tinh, khí, thần!

Nếu tinh, khí, thần không đủ thì chẳng thể sống tốt, quỷ mị cũng dễ dàng xâm hại... ngoài ra đương sự còn bị nhiều bệnh phụ khoa, nam khoa nặng nề khó cứu chữa.

Vì hiện thời có rất nhiều người do không hiểu biết mà phóng túng tà dâm nên bị tổn hại.

Tôi buộc phải viết ra bài này để cảnh báo, chỉ mong có người đọc xong chịu tin và phát tâm sám hối những lỗi, những nghiệp tội đã tạo... nguyện triệt để từ bỏ thói xấu, được vậy mới có thể hồi phục chánh khí, trăm tà chẳng xâm hại.CHUYỆN ANH K

Đây là câu chuyện có thật, xảy ra cho anh K, bệnh nhân của tôi.

Anh khôi ngô tuấn tú, khoảng 36 tuổi, làm việc tại ngân hàng, sinh hoạt giàu có, tiền bạc dư xài, rất được gia đình, bằng hữu xem trọng.

Nhưng anh bị mất ngủ nặng, tôi quan sát thấy sau lưng anh có một con yêu xà đang quấn chặt mình anh.

Khí xà dễ phát hiện, nó đang trộm hút tinh khí anh, tôi nhìn bằng linh nhãn nên không tiện nói ra với anh, đành âm thầm tìm hiểu việc này.

Thực tế trong sinh hoạt, người bị dâm xà gá thân, tất nhiên do tư tưởng chứa đầy tình dục dâm uế hoặc có nhiều tà hạnh.

Những người có ý nghĩ không thuần khiết thiện lương, lòng đầy dục nhiễm thông thường nếu đạt đến mức độ nặng thì sẽ chiêu mời các động vật yêu tà còn gọi là vật thể âm tìm đến quấy nhiễu, khiến thân họ phát đủ bệnh và loại bệnh này, tuyệt không có bác sĩ bình thường nào có thể tìm ra.

Đa số các danh y chỉ có thể phán xếp loại bệnh này vào nhóm thần kinh, như: Suy nhược thần kinh, trầm uất lo âu, tự kỷ v.v...

Để tìm ra nguyên nhân căn bệnh, hai chúng tôi đã có cuộc đối thoại như sau:

Tôi hỏi:

- Có phải anh luôn khao khát muốn kết hôn?

- Đúng vậy.

Nhưng bao lần định tiến tới đều chẳng thành.

Không phải đối tượng chẳng vừa ý tôi, mà là do bên nhà gái không chịu.

Cũng có mấy lần được bên nữ đồng ý, nhưng sau đó không hiểu vì sao vô duyên vô cớ lại bị vỡ tan.

- Từ tháng 8 năm ngoái đến nay, anh luôn bị chứng mất ngủ?

Mà hễ ngủ là thường di tinh, có phải vậy không?

- Vâng, tôi còn có cảm giác rất lạ, dường như có cái gì đó đang ngăn cản tôi kết hôn.

Nhất là trong lúc nửa tỉnh nửa mê, tôi thường mơ thấy có một cô gái đến bên mình, gợi tình, kích dục... thế là tôi không kềm chế được và bị di tinh.

Hôm sau thức dậy thấy mệt mỏi vô cùng.

- Bây giờ anh đừng thèm để ý đến chuyện mộng tinh, di tinh cùng nữ lang kia nữa, mà trước tiên cần tự kiểm lại mình đã sống tốt hay chưa?

- Chỉ cần bác sĩ trị lành bệnh, thì bảo gì tôi cũng nghe theo...

Tôi nói:

- Bây giờ xin anh hãy trả lời trung thực.

Có phải anh từng lừa gạt tình cảm một cô gái, thời gian đại khái vào lúc anh ở trong quân ngũ?

- Dạ, quả có chuyện này.

Lúc tôi đi lính đóng ở Bành Hồ, làm trong ban Truyền tin.

Do không bận rộn lắm nên hễ đến chủ nhật thì tôi xem phim, dạo chơi.

Qua bạn bè giới thiệu, tôi quen một cô gái, giao du thân thiết, thường hẹn hò cùng nhau.

Ngày nọ, máu nóng trào dâng, dâm tâm khó kềm, tôi liền gạt cô ta, nói rằng:

Anh thực lòng yêu và rất muốn cưới em!

Sau đó thì chúng tôi cùng quan hệ xác thịt.

Xui xẻo là không bao lâu cô ta mang thai.

Nghe cô báo tin, tôi lặng đi một lúc vì bất ngờ, sau đó thì giục cô ta hãy mau đi phá thai.

Bởi tôi chỉ nghĩ là mình chơi qua đường cho vui thôi.

Nhưng trước đêm tôi quay về, cô ta nói: Nội trong ba tháng mà anh chẳng đến cưới em, thì em sẽ tự sát rồi tìm anh!

Đến nay thì chớp mắt đã mười năm trôi qua, tôi cũng vì chuyện này mà lòng luôn thấp thỏm không an.

Nhưng tôi chưa bao giờ thổ lộ với người trong nhà, vì muốn giữ thể diện cho mình.

Trong lòng anh có phải luôn bị câu nói của cô ta ám ảnh?

Dù thường ngày dâm niệm hừng thịnh, nhưng do ôm mối lo này nên đành miễn cưỡng khống chế dục vọng?

Đúng vậy, hiện tại chỉ có ngài nhìn thấu tim gan tôi.

Xin hãy cứu tôi!

Tôi hiện rất thống khổ...

Thực ra cô gái đó không có chết, tuy cổ có tự sát, nhưng không thành công.

Hiện nay cô đã lấy chồng rồi, nhưng nội tâm vẫn còn ôm niềm phẫn hận cực mạnh và không ngừng phóng oán khí tới anh, tư tưởng này tuy vô hình, nhưng vẫn tạo ra lực đả kích mạnh và gây ảnh hưởng trầm trọng đến tâm linh anh.

Thêm vào đó, anh lại hoàn toàn không có tâm hối cải, chẳng hề biết ăn năn sám hối, cho nên oán khí của cô luôn bao phủ lên anh không tan!

Muốn trị lành bệnh rất đơn giản, anh không cần phải đến tận Bành Hồ để xin lỗi đâu, mà sau khi về nhà, trước tiên anh phải phát tâm sám hối, quỳ trước Phật thổ lộ tất cả những lỗi mình đã làm, không được che giấu bất cứ điều gì.

Phải lột cái mặt nạ giả trá hư ngụy ra, nguyện từ đây làm một người tốt, sống thiện lành từ thể chất đến tinh thần.

Còn nữa, anh phải phát nguyện dứt ác tu thiện, nghiêm trì giới luật, hành thiện, sống lành, tụng Kinh Địa Tạng hồi hướng cho cô gái và vong thai đã bị phá.

Còn nữa, phải in kinh sách giới dâm truyền bá để chuộc lỗi.

Chỉ cần anh bền chí tu sửa, bệnh sẽ không thuốc mà lành.

Phải biết loài yêu tà rất sợ người hành thiện sám hối!

Nếu muốn đuổi trừ loại yêu xà này thì anh cần có công phu, phải giữ giới hạnh thanh tịnh, ngôn hành băng tuyết, dứt tuyệt mọi xấu ác.

Phải thường tụng kinh hồi hướng cho kẻ bị anh xâm hại.

Quả thật oán khí mười năm nay của cô ta rất nguy hại, không nên xem thường.

Đó là anh chỉ mới hại một cô thôi, chứ nếu anh hại nhiều người, ác báo sẽ kinh khủng hơn... tùy theo phúc đức, thọ mệnh của anh nhiều ít mà trả báo mau hay chậm.

Do vậy mà có kẻ hại nhiều người nhưng vẫn chưa thấy trả báo ngay.

Còn anh đang yên đang lành, khi không gieo tội, khiến phước tổn, nghiệp dày.

Bây giờ hãy lo sửa lỗi, đổi mới, nghiêm túc hoàn thiện mình.

- Vâng, sau khi về nhà tôi nhất định sẽ làm theo lời ngài dạy.

- Do anh nuôi dâm tâm rất nặng, thường nghĩ tưởng bậy bạ, nên từ rày phải dứt tuyệt niệm xấu, không được xem các sách truyện, phim ảnh sex hoặc các thứ có nội dung đồi trụy nữa.

Anh làm nổi không?

Nghe tôi nói thế, mặt và tai anh đỏ lên, anh lộ vẻ kinh sợ, ấp úng nói:

- Chà, ngay cả việc này mà... ngài cũng biết hết?

Quả thực tôi thường đóng cửa phòng xem phim đen.

Nhất định tôi sẽ sửa.

Tôi tặng cho anh mấy cuốn sách "Báo Ứng Hiện Đời" và sách tu sửa thân tâm.

Sau khi anh về nhà, quả nhiên có sám hối tu tỉnh như lời đã hứa, mới đầu bị tà yêu phản kháng dữ, cơ hồ khiến anh mất tín tâm.

Tôi phải hướng dẫn và không ngừng theo dõi hỗ trợ.

Cuối cùng đạo tâm anh ổn định, tà yêu cũng chịu rời đi, oán khí che phủ trên thân anh đã mỏng dần, không bao lâu nữa sẽ đạt kết quả tốt.

Toa thuốc tôi ra không có gì thần kỳ, chỉ cần người phạm lỗi biết tự nhận tội, siêng sám hối, phát nguyện tu hành, thì tự nhiên nghiệp tiêu đạo tăng, bệnh tan trí sáng, có thể an nhiên mà ngủ.

Vậy anh K phạm tội thế nào mà mười năm nay mang bệnh khổ, tinh thần suy sụp?

Xin giải thích: Phá trinh tiết người là bất nghĩa, bội ước vong tình là thất tín, tuyệt tình tuyệt nghĩa là bất nhân, dâm tâm hừng thịnh không biết hối cải là vô sỉ!

Thêm một điều nữa là, anh bị oán khí nữ nhân lúc nào cũng công kích trong vô hình, làm anh tinh thần bất an, không thể ngủ.

Do lỗi bất nghĩa, bất tín, bất nhân, tà tâm túng dục vô sĩ không biết hối cải nên đã chiêu cảm thêm loài yêu xà dâm uế nặng tìm tới gá thân để hút tinh khí, khiến anh thân tâm đều bị tổn thương, báo ứng này gọi là "Hiện thế báo!".

Xin khuyên thế nhân, ngay cả ý dâm cũng không được nghĩ, phải luôn giữ chánh niệm, gìn thân khẩu ý thanh khiết, tuyệt đối không được khởi tà tư, phóng túng dâm loạn, đa tình, báo ứng của anh K chính là tấm gương nhắc mọi người cảnh giác.

Cổ nhân đã mô tả tà tâm như sau: "Hễ thấy mỹ nữ, bất kể là họ có gia đình hay chưa, thì lòng liền khởi tâm dâm, chỉ hận giai nhân chẳng thuộc về mình".

Đây là ma tâm!

Ma tâm vốn thiên biến vạn hóa, nhất là người thời nay, tuy đã kết hôn rồi mà vẫn ưa lạm dục, sống phóng túng, có lắm bạn tình, thích ngoại tình, sống thử, quan hệ lung tung.

Cảnh yêu lệch lạc như thế này chỗ nào cũng có.

Tâm đa dục còn gặp thêm phong khí bất lương, cuối cùng khiến người sa lầy trong tình dục chẳng chút kiêng dè, do tật xấu không sửa đổi, nên âm thầm tự chiêu ác báo mà không hay.

Nếu muốn giáo dưỡng con cái tốt, có được gia đình hạnh phúc thì mỗi người cần tu bồi nhân cách, giữ tư tưởng đoan chính, hằng tỉnh giác, tự khắc chế mình.

Ngoại tình, túng dục khiến hai bên đều tổn hại, gia đình đổ nát, chưa kể còn bị tiêu hao phúc, lộc, quyền...

Xin hãy cẩn thận.

Bác sĩ HoàngTÂM SỰ CỦA THIÊN THẦN

Trong các kinh điển Đại thừa, Phật thường nhắc nhở vào các ngày: Mồng 1, mồng 8, 14, 15, 24, 28, 29, 30... nhân gian nên ăn chay tu trì để tăng thêm phúc huệ, vì những ngày này có thiên thần đi thị sát (đại khái ngày mồng 1, 15 thì Tứ thiên vương đi tuần, ngày 14, 28 thì Thái tử đi tuần, còn các ngày kia thì Thiên tướng đi tuần).

Nếu nhân gian giữ thập thiện, ăn chay vào những ngày Thiên thần thị sát này, thì sẽ chiêu cảm mưa thuận gió hòa, tăng nhiều phúc báu.

Dù chúng ta không biết nhiều về các Thiên thần tuần sát này.

Nhưng quả thực có rất nhiều thần, mỗi vị giữ một chức, đảm trách nhiệm vụ riêng, ai lo việc nấy.

Những người ở thế gian tâm cực kỳ thanh tịnh, cũng có thể giao lưu cùng họ.

Sau đây là lời chia sẻ của một vị đệ tử Phật, ông giữ giới nghiêm minh, đã khai mở thiên nhãn và có khả năng giao cảm với chư thần, mỗi câu kể đều là lời chân thực, bất vọng ngữ.

Mong người hữu duyên xem xong, có thể bỏ xấu huân tốt, nỗ lực điều tâm, rộng tuyên dương để cảnh tỉnh người, thì công đức vô lượng:

"Hôm qua là ngày vía Bồ tát Đại Thế Chí, tối đến, tôi tĩnh tọa như thường lệ, thì bỗng thấy một vị thần đến gần mình, bảo:

Tôi là Thiên tướng phụ trách việc cai quản chúng sinh cõi quỷ trong nhân gian, song thường chứng kiến cảnh các nam nhân đa dục bị chúng quỷ mê hoặc.

Có lúc tôi nhìn thấy ở những nơi ăn chơi rực rỡ ánh đèn màu có rất nhiều cặp trai gái đang ngồi bên nhau, cùng uống rượu vui đùa.

Dù tôi thấy rõ những người này đều bị các tiểu quỷ mặt xanh, nanh trắng... cưỡi gáy, kẹp cổ, nhưng tại sao bọn họ lại không có cảm giác chi cả?

Có lúc tôi nhìn thấy một nam nhân lẽo đẽo theo sau một cô gái vừa mới quen, trong não anh chứa đầy tư tưởng dâm dục khoái chí, tôi thấy anh này hết sức ngu, vì anh chẳng biết mỹ nữ đi bên cạnh mình đã bị quỷ điều khiển, dẫn dắt anh sa vào đọa lạc.

Ngay lúc bọn họ đồng sàng, ân ái thì đám quỷ con, quỷ cháu của nữ quỷ này túc trực cạnh bên, nhìn họ thèm thuồng chờ đến giây phút được hút tinh huyết họ.

Nguy hơn nữa là chúng có thể ăn nguyên thần máu thịt của nam nhân.

Nhưng nam nhân kia không hề hay biết, vì đang chìm đắm trong dục vọng đê mê.

Tôi nhìn thấy các nam nhân này, tinh khí không ngừng lưu thất, thân càng lúc càng suy, nhưng họ vẫn không chút hối cải, cuối cùng thành ra: Bị chết trong tà dâm, ái dục!

Thiên tướng nói đến đây thì mặt buồn xo, ông cúi đầu thở dài, lộ vẻ rất xót xa.

Tôi hỏi:

- Chúng quỷ ngông cuồng như thế, vì sao các ông ở trên trời chẳng quản họ?

Ông nói:

- Chẳng phải là không quản, mà vì chúng tôi chỉ có quyền trị tội những chúng quỷ đi khắp nơi hại người bừa bãi, còn nếu ai nuôi dưỡng tâm dâm, ý tà thì chính là họ đã tự nguyện đi theo chúng, tức là đang kêu mời, vẫy gọi chúng tới.

Vì vậy mà cho dù rất muốn, chúng tôi cũng không thể cứu họ!

Đa số bọn họ thuộc hạng khôn ngoan thông minh, theo thế tục, tự cho mình là thành phần trí thức, có học vấn uyên bác, chỉ tin khoa học, chẳng tin có quỷ thần hay nhân quả luân hồi chi.

Nhưng đáng tiếc là họ sống quá phóng túng buông thả: Dâm tâm, tà dục quá lớn, chẳng chịu nghe lời ai khuyên, xem như tự đâm đầu vào chỗ chết.

Bọn họ không hề biết chính lòng tà dục mạnh mẽ của mình sẽ chiêu vời loài quỷ hấp tinh tìm đến, phục sẵn phía sau, đợi lúc các đôi nam nữ không phải vợ chồng này chìm trong cuộc truy hoan, thì bọn chúng tha hồ hút tinh huyết, thần khí... làm cho các nam nhân có cảm giác chóng mặt váng đầu, thần trí giống như uống nhầm thuốc mê nên chẳng còn tỉnh táo, suốt đêm lao vào hành lạc không nghỉ, khiến quỷ cháu, quỷ con...

được chiêu đãi no nê.

Sáng ra khi họ tỉnh dậy, cảm thấy mình rất yếu sức, bèn đi về nhà nghỉ ngơi, nhưng vừa mới nằm xuống thì bỗng nghe tim nói đau, một khi hai mắt vừa nhắm lại nếu phúc, lộc...

đương sự đã cạn hết thì lập tức họ sẽ biến thành cái xác không hồn.

Theo Y học chẩn đoán thì họ bị: "Đau tim và đột tử bất ngờ".

Minh Nhãn

LND: Dịch mấy câu chuyện trên xong, tôi đã đắn đo rất nhiều, cuối cùng thì quyết định tung ra.

Chỉ mong có thể góp phần cảnh báo, nhắc nhở bạn nên sống thanh khiết.

Loài hấp tinh quỷ trong các kinh điển Phật thường hay nhắc đến và giảng giải về chúng.

Bạn có quyền tin hoặc không... nhưng mong bạn sẽ sáng suốt tự chọn cách sống tốt nhất, có ích cho mình!GIẤC MỘNG CỦA TÔI

Phật môn có câu: Thiện có thiện báo, ác có ác báo, nhân quả không sai mảy may.

Hôm nay tôi kể chuyện mình gặp ác báo, để cảnh tỉnh thế nhân, chớ nên sát sinh tạo ác.

Tôi là người tỉnh Cát Lâm, thuộc phố Thông Hóa, hiện là cán bộ trợ lý Công ty Thông Cương.

Có thể nói tôi là người ương ngạnh, cứng đầu, đối với động vật không có lòng lân mẫn xót thương.

Vì tôi luôn cho rằng vật dưỡng nhân, vật sinh ra là để cho người ăn!

Tôi còn cho đó là khẩu phúc (phúc hưởng thụ của cái miệng), là lộc ăn trời cho mình hưởng!

Vì vậy mà tôi thẳng tay sát sinh, tỉnh bơ khai đao đại sát, mổ giết vật.

Tôi thường cùng bạn đồng nghiệp tụ tập nhậu nhẹt, ra vào nơi tửu quán, nhà hàng, thưởng thức thịt, cá... và đủ món hải sản, sau khi ăn uống xong, còn rủ nhau đi tới làng nướng, ăn thêm các món khoái khẩu.

Mùa thu năm 2000, đám bạn gọi điện kể đang họp mặt và rủ tôi tới ăn thịt dê.

Tôi vừa nghe vậy thì cấp tốc lái xe qua đó liền.

Té ra tụi nó để sẵn con dê mẹ, chờ tôi đến giết.

Tôi chẳng nói chi, cầm ngay con dao sáng loáng tàn nhẫn lụi vào con dê, chẳng hề nghĩ nó bị đau đớn thống khổ, sau đó thì hứng máu lột da...

Trước đó, tôi đã từng giết gà mổ vịt, sát hại hơn mười mấy con chó và một con mèo.

Khi đó tôi chẳng biết gì về Phật pháp, không hiểu sát sinh là tội nặng, nhưng chẳng thể vì không hiểu biết mà không bị quả báo.

Giết dê xong thì bao tử tôi bắt đầu đau dữ dội, đau tới chẳng thể ăn được miếng thịt dê nào.

Ngày 31 tháng 10 năm 2001, công ty tôi có chiến dịch tổng vệ sinh, tôi còn nhớ hôm đó khoảng 13 giờ 10 phút.

Tôi trèo lên thang cao làm việc, vô ý sẩy chân té xuống đất, nghe đau đớn tối tăm mặt mày, rồi không hay biết gì nữa...

Lúc tỉnh lại, tôi thấy mình nằm ở khoa chấn thương chỉnh hình nơi Y viện Thông Cương.

Trong lúc hôn mê, tôi thấy một vị thiên thần, chẳng biết tên là gì, chỉ nghe ông nói: Mi là kẻ không có chút lòng từ bi, do sát sinh nên gặp phải quả báo này.

Nói xong ông biến mất.

Khi thuốc mê tan rồi, tôi mới biết do mình té từ trên cao xuống, nên tay và chân trái bị gãy làm ba, phải nẹp trụ thép.

Nằm bệnh viện hơn ba tháng thì tôi chống nạng xuất viện, nhưng chưa được bao lâu thì ruột xảy ra vấn đề, ăn gì cũng bị ói ra, đến y viện chẩn khám, mới biết ruột bị nghẽn, đành phải phẫu thuật, đành phải phẫu thuật.

Trong lúc hôn mê tôi lại thấy vị thiên thần nọ, ông nói: Ác nghiệp của mi quá sâu, cần phải đền trả.

Kết quả là phải bị mổ xẻ.

Hôm sau xuất viện, gặp mấy người bạn cho tôi xem một số tạp chí, sách báo Phật giáo.

Ngay đây tôi xin giải thích rõ là tôi cũng từng quy y Tam bảo, cũng có ăn chay hai tháng, nhưng tôi nhịn không nổi cơn thèm nên bắt đầu ăn mặn lại, hơn nữa tôi còn hoài nghi thuyết nhân quả luân hồi, cho là không hề có thật.

Tôi cũng gièm chê nhạo báng những người học Phật.

Bây giờ nhớ lại các khổ báo phải thọ này, đúng là mình làm mình chịu, còn có thể trách ai?

Tôi đọc xong mớ sách Phật giáo rồi, mới hiểu rõ: Nhân quả là chân lý, không thể đả phá, cho dù trải qua trăm ngàn kiếp, nghiệp tạo chẳng mất, nhân duyên hội đủ, quả báo đến là thọ.

Lúc viết bài kể lại kinh nghiệm mình đích thân trải qua này.

Tôi quả có do dự, vì tôi chưa từng kể qua với ai, cũng chưa hề cho ai biết sự hung tàn của mình, do ác nghiệp mà tôi tự chiêu họa.

Nhưng giờ đây sau khi hiểu minh bạch rồi, tôi quyết định là phải viết kể ra hết, hy vọng cảnh tỉnh những người giống tôi, dừng tay không sát sinh tạo tội nữa, đồng thời cũng cảm tạ Phật pháp đã giúp tôi thức tỉnh và tăng thêm tín tâm.

Thanh LiênLINH XÀ CỨU NẠN DÂN

Đầu năm Dân Quốc, Hòa thượng Diệu Liên ở chùa Tử Vân thuộc huyện Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến, tuy tuổi hơn 80 nhưng vẫn rất khang kiện, ngài thường thuyết giảng Phật pháp giáo hóa cư dân quanh đó.

Ngài dạy họ giới sát, tin nhân quả báo ứng...

Bất kể gái, trai, già, trẻ, hễ nghe đến lời ngài khai thị đều kính ngưỡng tin phục.

Mỗi tháng vào ngày Rằm, mồng Một, chùa Tử Vân luôn tổ chức pháp hội kéo dài ba ngày, do Hòa thượng đứng ra giảng pháp.

Hễ đến mấy ngày này, cả rừng người đổ về tụ hội rất đông, ai cũng muốn được nghe ngài khai thị.

Thường ngày, mỗi sáng sớm Hòa thượng hay đi một mình lên núi, rảo một vòng khắp chung quanh, dù mưa gió cũng chẳng nghỉ ngơi.

Một hôm ngài lên núi, bắt gặp cách chỗ mình chừng trăm bước có con rắn dài hai thước bị bệnh nằm đó, đầu đuôi đều bị thương.

Máu mủ xông tanh nồng, đang thở thoi thóp.

Ngài thấy tội nghiệp, bèn cứu chữa cho nó.

Ngài nhai thảo dược, đắp lên vết thương cho rắn, chăm sóc nó xong rồi, mới quay về chùa.

Hôm sau, lúc Hòa thượng đi thăm con rắn, thì không thấy nó nữa.

Nửa tháng sau chùa tổ chức giảng pháp, lúc Hòa thượng đang thuyết pháp, bỗng có con rắn bò vào chùa, thính chúng mặc dù có kinh hoảng, nhưng không ai làm hại nó.

Hòa thượng nhận ra đó là con rắn từng được mình cứu nửa tháng trước, bèn bảo: Mọi người chớ sợ, cứ để rắn vào nghe pháp!

Con rắn bây giờ vết thương đã lành, nó bò đến trước mặt Hòa thượng, ngoan ngoãn nằm cuộn tròn lại, đầu ngóc lên, ánh mắt biểu thị đầy niềm tri ân.

Khi Hòa thượng khai thị, con rắn giống như nghe hiểu hết, khóa giảng kinh kết thúc, nó bò đi.

Từ đó, mỗi lần chùa có khóa giảng, con rắn đều vào nghe pháp rất đúng ngày, khi nghe giảng đến "giới sát" thì nó lộ vẻ rất hiểu và lãnh hội.

Như thế trải qua hơn một năm, con rắn đã dài tới ba thước.

Tăng chúng trong chùa và tín đồ đều gọi nó là: Linh xà Tử Vân Nham (Rắn linh núi Tử Vân).

Năm nọ, xứ đó bỗng phát sinh dịch bệnh, nhiều người bị sốt cao, thuốc men gì cũng vô hiệu nên đành mạng vong, ai cũng bó tay hết cách, chỉ biết buồn rầu gương mặt nhìn bao người lìa đời.

Hòa thượng thường dẫn đệ tử đi thăm người bệnh, nhưng không có cách chi chữa trị cho họ.

Ngày nọ, Hòa thượng thấy con rắn ngậm rất nhiều cỏ, chất thành đống trên núi.

Rắn thấy Hòa thượng tới, thì quay đầu nhìn ngài như muốn nói điều gì.

Hòa thượng xem xét đống cỏ tỉ mỉ, phát hiện ra: Đây là thuốc trị lành bệnh dịch, có công năng hạ sốt... ngài lập tức ôm hết mớ thảo dược về chữa cho bệnh nhân, nhờ vậy mà họ khỏi bệnh.

Sau đó Hòa thượng đi tìm loại cỏ tương tự chế thành thuốc viên, gọi là "Phiến Tử Hoàn", nhưng mọi người thường gọi là "Thuốc Hòa Thượng"... thuốc này cứu được vô số người.

Hòa thượng Diệu Liên thương yêu che chở chúng sinh, không những quan tâm con người, mà cả đến loài vật, tất cả chim, thú, côn trùng... ngài đều che chở.

Ban sơ nếu không phải ngài nhân từ cứu con rắn, khiến nó cảm động, thì làm sao có được thuốc hay để cứu mọi người?

Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có lòng đại từ như nhau, con rắn là bằng chứng rõ nhất.

Hy vọng quí độc giả nếu đã biết yêu thương người thì cũng nên mở lòng xót thương đến loài vật.

Dù là những sinh mạng nhỏ bé như côn trùng, chúng ta cũng nên che chở, tôn trọng.50 NĂM SAU MỚI BÁO THÙ

Đây là Phó chủ nhiệm tự thuật câu chuyện đã xảy ra cho phụ thân ông.

Ông Phó tính rất nghiêm cẩn, là người không hề nói vọng ngữ.

Ông kể phụ thân mình năm 70 tuổi bị bệnh nghẽn mạch máu não, qua trị liệu mới thấy hồi phục.

Sau đó chị ông rước thân phụ về nhà chăm sóc, thì đột nhiên bệnh lại tái phát.

Dùng thuốc chi cũng không hiệu quả.

Bệnh ngày càng nặng, thân nhân thấy có điểm quái lạ, bèn đi hỏi một vị trí tuệ cao và được biết là có một con rắn tìm phụ thân họ để báo thù.

Vì ban sơ có hai người đồng giết con rắn này, con rắn đã báo thù một người rồi, giờ thì đến lượt phụ thân họ.

Sau này nhờ vị trí tuệ đó hòa giải, con rắn mới chịu đi.

Bệnh phụ thân ông Phó mới hồi phục.

Khi phụ thân lành bệnh rồi, thân nhân mới tra hỏi việc này, thấy ông ngẫm nghĩ một lúc lâu rồi nhớ ra, bèn kể:

Năm 17 tuổi ông cùng người bạn trong làng cùng đập và giết một con rắn.

Người kia đã chết mấy năm trước rồi.

Ông không ngờ mình chỉ giết một con rắn thôi, lại bị hậu quả nghiêm trọng như vậy, vì chuyện xảy ra đã lâu lắm, tính đến giờ có hơn 50 năm rồi.

Ai mà biết là con rắn này vẫn một bề truy đuổi ông, đủ thấy tâm hận thù của nó rất mãnh liệt.

Nhưng chúng ta hãy thử đặt mình vào vị trí con rắn thì sẽ hiểu: Hơn 50 năm nay, nó mang thân vong linh, nếm trải nhiều thống khổ mà vô phương giải thoát.

Nếu đổi lại là chúng ta, ta sẽ làm thế nào?

Tất nhiên là thù hận phải ôm sâu.

Biết chuyện này rồi, tôi sợ đến nổi gai ốc, toát mồ hôi lạnh.

Vì hồi nhỏ tôi cùng chúng bạn có đập chết một con rắn rồi đem đi thiêu.

Tối hôm đó khi tôi ngủ còn mơ thấy một ổ đầy rắn, sợ đến muốn xỉu.

Sau đó, tôi còn đập chết một con rắn nữa, giết một con thì phải thường một mạng, mà tôi giết khá nhiều lần.

Bây giờ tôi đã hiểu ra, cảm thấy có hai điều cần làm ngay:

1.

Phải phóng sinh thật nhiều để chuộc lỗi và tụng kinh cầu cho những chúng sinh bị tôi giết.

2.

Phải nỗ lực tu hành cho đạt đạo rồi sau hoàn phục ta bà cứu độ các oan thân trái chủ, giúp họ giải thoát an vui.

Liên Hoa Diệu ÂmĐÔI MẮT ÂM DƯƠNG

Bà tôi kể hồi nhỏ, những lúc nông nhàn thì bà se nhang (làm nghề phụ).

Bà không hề tẩm hóa chất nào vào nhang, để tỏ lòng tôn kính, vì đây là vật phẩm dành để cúng dường.

Có lẽ nhờ làm nhang bằng tấm lòng thành thuần khiết, vào năm hơn 30 tuổi bà bị bệnh nặng thì được Bồ tát cứu (trên đường phố bà gặp một bà già tu Phật giúp chữa cho lành bệnh).

Bà già này đã sắc thuốc trị cho bà tôi, sau khi uống thuốc xong, bà tôi lành bệnh, nhưng kể từ đó linh nhãn cũng khai mở, bất kể là ban ngày hay ban đêm, bà đều có thể nhìn thấy một cõi không gian khác mà mắt phàm chúng ta không thể thấy.

Trước đây tôi hoàn toàn không tin vào mấy cái thuyết thiên nhãn hay mắt âm dương chi do bà thì luôn nhìn thấy những loài mà tôi không nhìn thấy, nên tôi luôn bảo bà là: Bà mắc bệnh thần kinh!

Và cho bà là cổ hủ, phong kiến, mê tín...

Sau này, kể từ khi tôi có duyên may được nghe Phật pháp rồi phát tâm nhập đạo, thì mới hiểu và biết tri ân những gì mà đôi mắt âm dương của bà nhìn thấy, bởi việc này đã giúp tăng thêm tín tâm cho tôi rất nhiều.

Tôi xin kể ra nguyên nhân khiến mình tu theo Phật.

Vào khoảng mấy năm trước, tôi đang đi trên đường thì gặp người bán lươn, nhìn cảnh họ róc xương lột da lươn, tôi thấy bất nhẫn quá... nên quyết định mua hết số lươn còn sống trong chậu đem đến ao nước trong công viên lân cận để phóng sinh.

Từ nhỏ tôi vốn sợ rắn, nên những loài có hình dạng giống chúng tôi đều sợ.

Vì vậy mà số lươn nằm trong bao tôi không dám bắt, đành phải rủ em gái cùng tôi đem tới công viên, nhờ nó bắt thả xuống ao giùm.

Do tôi sợ quá nên chỉ đứng xa xa phía sau mà nhìn thôi.

Kết quả: Khi lươn thả xuống nước xong, nhiều con còn bơi lại gần đến chỗ tôi, trông chúng mạnh khỏe, và hơn phân nửa đều ló đầu lên mặt nước, bu lại chỗ tôi, không ngừng gật đầu, cúc cung cảm tạ.

Tôi nhận rõ ý chúng là như thế, ngộ cái là, chúng không hề xúm lại quanh em gái tôi dù em ở rất gần chúng, mà lại bơi đến vây quanh chỗ tôi và không ngừng cúi chào, lâu thật lâu chúng mới chịu bỏ đi.

Chứng kiến cảnh tượng kỳ lạ này, ngay giây phút đó tôi hết sức bất ngờ và cảm động, cảm động đến lệ tuôn đầy mặt và tôi hiểu thế nào là: Chúng sinh bình đẳng, vật và người vốn có linh tính giống nhau!

Trước đây tôi vốn là kẻ mê ăn mặn, luôn phản đối ăn chay.

Hễ đến bữa ăn mà không có thịt cá thì tôi nhất quyết không chịu cầm đũa.

Nhưng sau khi phóng sinh lươn xong, quay về nhà rồi, tâm tôi đã thay đổi, tôi không còn hứng thú với việc ăn mặn nữa, tôi bắt đầu nghiên cứu kinh Phật để hiểu thêm nhiều hơn về những điều kỳ diệu trong cuộc sống và âm thầm cảm ơn những con lươn kia đã dìu tôi bước vào Phật môn.

Mới đầu, tôi xem kinh Địa Tạng, rồi từ đó mỗi tháng vào mười ngày trai (mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30) thì tôi đều tụng kinh Địa Tạng.

Bà tôi vốn không biết chữ và chẳng hiểu gì về mười ngày trai này, nhưng mỗi lúc đúng vào mười ngày trai, sau khi tôi tan sở về nhà, là bà luôn hỏi tôi: Hôm nay có phải con sẽ tụng kinh Địa Tạng không?

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Vì sao bà biết?

Bà đáp:

- Làm sao mà không biết được!

Bà thấy các chúng sinh cõi quỷ ngay từ hồi chiều đã tụ tập đầy trong nhà rồi, đông đến hết đếm nổi luôn!

Chúng đến để nghe con tụng kinh mà!

Có những hôm thấy tối quá rồi mà tôi còn làm việc, bà đến gần bảo:

- Đừng làm nữa, lo mà tụng kinh Địa Tạng đi!

Không nên để các chúng sinh kia quỳ đợi lâu, rất có tội và không tốt!

Hơn nữa, bà còn tả rõ cảnh tượng: Chúng quỷ chỉ tụ tập đúng vào mười ngày trai là những ngày tôi chọn để tụng kinh.

Bà thấy trong số đó có cả động vật và người, vong người thì mặc y phục thuộc về triều đại của họ.

Tôi trước đây mê ăn mặn, không ưa ăn chay, nên khiến bà phải khổ theo bởi vì tôi mà bà phải giết vật tạo ác nghiệp nhiều.

Trong thời gian tôi tụng kinh Địa Tạng, những chúng sinh bị giết ăn kia đều đến nghe kinh, có đủ heo, tôm, gà, cua, cá v.v...

Đặc biệt có một lần bầy cua tới, còn vung vẫy mấy cái càng to, như hướng bà muốn nói là cả nhà tôi từng ăn cua, chúng nghe tụng kinh với vẻ rất hoan hỉ.

Bây giờ tôi không còn tụng kinh Địa Tạng nữa, mà thời khóa chính của tôi là kinh Kim Cang, Tâm kinh, Chú Lăng Nghiêm v.v...

đương nhiên bao giờ cũng có chúng sinh cõi khác tụ tập đến nghe.

Học Phật vốn là buôn bỏ chấp trước, nhưng vẫn có nhiều người càng tu càng chấp.

Chấp nơi oan thân trái chủ, sợ oan thân trái chủ làm chướng mình nên muốn bỏ cuộc không tu trì.

Ngài Ấn Quang từng giảng: Quý vị chẳng biết là quỷ cùng người luôn ở chung lẫn lộn hay sao?

Bởi không chỗ nào mà không có quỷ!

Dù ta không mời quỷ đến, nhưng nhà nào cũng có quỷ.

Tính ra, chúng quỷ hiện diện đông hơn người gấp trăm ngàn lần.

Nếu người sợ quỷ, thì cần tích đức hành thiện, ắt quỷ sẽ sinh lòng kính trọng mà hộ trì.

Nếu người làm việc ám muội, thì quỷ sẽ tranh nhau dè bỉu, nên khó thể sống an.

Nếu đã biết rõ như vậy, thì dù ở một mình trong nhà tối, mọi người cũng chẳng nên khởi chút niệm quấy hay chút ý tà, huống nữa là làm ra những việc lỗi...

Loài quỷ nếu là quỷ thiện, thì thấy người đến ắt nhường đường, khi người đi khỏi chúng mới chiếm khắp đất đó.

Nếu Lệ quỷ (quỷ ác) xuất hiện, ắt có điềm chẳng lành lớn.

Phải biết trước mặt mọi người luôn có rất nhiều (thiện quỷ hay ác quỷ).

Muốn không sợ quỷ thì nên: giữ tâm tốt, nói lời tốt, làm việc tốt, được vậy thì các loài quỷ đang hiện diện đó, sẽ biến thành kẻ hộ vệ cho người.

Chỉ sợ rằng: Loài quỷ được ta khiến cho kính trọng không có nhiều, nếu có được nhiều thì càng tốt, sợ mà làm chi?

Giờ tôi xin nói đến việc truyền âm kinh luận.

Nhờ may mắn mà tôi biết được công đức này.

Nếu có thể, bạn nên sắp đặt trong ngôi kiến trúc của mình một nơi phát âm (quảng bá kinh), được vậy thì môi trường hoàn cảnh lân cận sẽ chuyển hóa triệt để, có đủ năng lực hướng dẫn nhân tâm.

Giống như cõi tịnh Phổ Đà Sơn của Bồ tát Quán Thế Âm...

Ích lợi cực lớn thu được là: Ngay trong khu vực phát âm kinh chú, không chỉ có người, mà bao gồm cả côn trùng, tất cả chúng sinh nơi đó, đều được miễn trừ đọa tam ác đạo, có thể siêu sinh cõi trời, người, hoặc cõi Tịnh của chư Phật.

Do buổi tối thời gian bận rộn nhiều, nên tôi đổi lại: Mỗi ngày tụng kinh vào buổi sáng sớm.

Trong nhà tôi sắm hai máy cho mở phát kinh thường xuyên: Một máy DVD chuyên phát kinh, chú... tôi đặt tại Phật đường, một máy phát "Văn Thù Tâm Chú" tôi đặt trên bàn nơi thư phòng.

Tôi hy vọng có thể giúp chúng sinh đến nghe kinh được thọ ích trong tất cả mọi thời.

Lúc tôi mở DVD phát đĩa kinh, đã chiêu cảm rất nhiều chúng sinh hữu duyên đến nghe, trong số đó có một con rồng.

Lần đầu bà tôi nhìn thấy vóc dáng khổng lồ của nó thì đã kinh hoàng hét lên: Ôi chao!

Con rắn này sao mà to khiếp!

Bà còn tả là nó nằm phía ngoài sân thượng của gian thờ Phật.

Nó còn lượn tới lượn lui ngoài sân canh trộm.

Tôi khuyên bà đừng sợ mà hãy nhìn kỹ xem: Con "rắn" khổng lồ bà tả đó, nó có móng hay không?

Bà nhìn kỹ rồi đáp có.

Tôi giải thích: Đó không phải là rắn, mà là Rồng (là Long thần hộ pháp!).

Năm nay con rồng ấy lại hiện thân, lần này nó nằm trên không, chỗ phát ra Văn Thù Tâm Chú.

Trong kinh điển Phật giáo, thường nhắc đến Thiên Long bát bộ, Long Thiên hộ pháp v.v... song mọi người đều không hiểu ý này.

Phật Thích Ca trước khi nhập niết bàn, đã dặn dò Long Vương, chư Thiên... nhắc nhở họ hộ trì Phật pháp.

Do đã trải qua hơn hai ngàn năm, nên nhiều người còn cho đây là chuyện thần thoại phi thực, không thể nào tin.

Tôi thực cảm ơn chư Thiện tri thức đã chỉ điểm cho trên con đường tu tập hành đạo, cũng cảm ân đôi mắt âm dương của bà, cảm ân Long Thiên hộ pháp thị hiện... khiến tôi đối với Phật pháp có đủ lòng tin.

Câu chuyện tôi kể ra hoàn toàn có thực, bạn không tin thì cứ xem như nghe chuyện thần thoại vậy.

Còn tôi thì vững tin rằng: Thế giới này thực sự có tồn tại những loài mà mắt thịt của con người không nhìn thấu.

Ngẩng đầu ba thước có thần linh, nên chúng ta giờ phút nào cũng phải quan sát và kiểm điểm từng khởi tâm động niệm của mình.

Nguyện hồi hướng công đức này đến tất cả chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, nguyện tất cả đồng tu hành, đạt đạo.

Cư sĩ Diệu Thanh

GIAI NHÂN ÁO PHƯỢNG

Lời giới thiệu của hội Phật giáo:

Đây là bài viết của Cư sĩ Triệt Ngộ, là một hội viên đã nhớ lại và kể về tiền kiếp của mình, khiến người đọc xong phải chấn động.

Tác giả có ký ức cực tốt, có thể nhớ lại cả thời còn lót tã, cũng nhớ luôn kiếp vừa rồi mình từng đọa địa ngục, thọ tội ra sao.

Trước khi đọa địa ngục, tác giả từng là một cô gái có dung nhan bá mỵ thiên kiều, do bị lừa dối tình cảm, tiền tài, mà treo cổ tự tử.

Do chết với tâm sân mãnh liệt nên lập tức bị đọa địa ngục, thọ nhiều thống khổ.

Bây giờ, mời bạn hãy nghe tác giả kể:

"Tôi hồi nhỏ có trí nhớ rất tốt, ngay từ thuở còn nằm nôi tôi đã biết và nhớ hết mọi chuyện xảy ra: Chẳng hạn như lúc tôi đang nằm trong nôi thì thấy mẹ bệnh suyễn, phụ thân chích thuốc cho... rồi lúc tôi tập đi, bị bầy ngỗng rượt đuổi như thế nào...

đến nay thảy đều nhớ rất rõ.

Có lúc trong não tôi còn xuất hiện một số hình ảnh rất kỳ quái, đó là cảnh một cô gái thanh lâu bị đọa địa ngục.

Đôi khi tôi kể cho cha mẹ nghe những điều này, thì họ luôn phì cười và âu yếm bảo tại tôi còn nhỏ nên suy nghĩ bá láp không đâu!

Nhà tôi theo ngoại đạo, thời Thần chứ không thờ Phật.

Năm sáu tuổi, bà ngoại dẫn tôi đến Thần đàn (đài thờ thần) cho tôi tham gia nghi thức tên là "Lễ khai mở Thiên nhãn": Tôi được uống rượu tẩm máu tay, viết phù chú rồi đốt.

Từ giây phút đó, cánh cửa nối liền ký ức tiền kiếp được mở ra, khiến tôi nhìn thấu suốt kiếp trước của mình, mỗi một cảnh tượng, hình ảnh đều rất rõ ràng!

Hóa ra kiếp trước tôi là một kỹ nữ, mặc áo Phượng tiên thướt tha, ưa xem "ca tử hí"(7) nhưng không biết thời đó thuộc về niên đại nào.

Do từ nhỏ gia cảnh khó khăn, tôi phải vào nấu bếp cho một nhà giàu nọ, vì có nhan sắc, nên bị ông chủ nổi tà dục cưỡng hiếp, sau đó thì tôi vào thanh lâu làm kỹ nữ.

Vợ chồng chủ thanh lâu rất yêu thương, đối với tôi cực kỳ tốt.

Lúc đó tôi là một hoa khôi trẻ trung, duyên dáng, nên đã lợi dụng sắc đẹp của mình lừa gạt tình, tiền... của biết bao người, cuối cùng thì bị một công tử khác lừa gạt lại, khiến tôi mất sạch hết tiền, tình.

Tôi phẫn hận cực độ, lòng luôn muốn báo thù và không chịu nổi thống khổ nên đã treo cổ tự vẫn.

Tôi thấy cái xác của (thây thịt) của mình đã chết, nhưng hồn lại đi đến một nơi to lớn, có lửa cháy phừng phừng, ở đây có đủ nam, phụ, lão, ấu... sắc mặt người nào cũng ủ rũ buồn thảm, dường như tất cả chúng tôi đều bước vào một con đường đã định, tỏa lực hút mạnh mẽ vô hình khiến mọi người đồng lao thẳng vào đó.

Đi một hồi, thì gặp ngả rẻ, mọi người tản ra tứ tán, tôi và một đám người cùng đi đến chỗ có cây cầu độc mộc bắc qua vực sâu thường gọi là cầu Nại Hà, trong đây âm u lạnh ẩm, tiếng thét, gào, kêu, khóc... vang dậy, từng luồng hơi xú uế tanh nồng máu huyết, xông lên mũi tôi.

Rất nhiều người từ trên cầu ẩm ướt, tối tăm, trơn trợt kia bị té nhào xuống dưới.

Tôi không muốn đi tiếp, nhưng không có quyền tự quyết, đành cứ thế mà bước lên cầu, đi không bao lâu thì cũng bị trợt chân, té nhào xuống.

Bên dưới là một vực sâu hun hút rộng hơn biển cả nữa vì không thấy biên giới hay bến bờ.

Trong đây có đủ loại mãng xà, lớn, bé...

đang nhe nanh cắn xé chúng tôi.

Những con rắn này nhiều không đếm xuể, hung hãn tấn công tôi.

Sau đó tôi mới phát hiện ra: Trong biển máu này có rất nhiều người nhưng không thấy được đầu họ, bởi vì ai cũng giống tôi, đều chìm mau trong biển rắn, những con rắn này liên tục cắn xé thân chúng tôi, khiến gân cốt rã rời, máu tuôn không ngớt.

Thân tôi giống như bị bom đạn công phá tan nát, cảm giác thống khổ tận cùng, nhưng trong phút chốc, da thịt xác thân tôi lại hồi phục nguyên trạng, rồi lại bị cắn xé hành hạ tan nát tiếp, cứ thế mà tái diễn màn thọ khổ đó mãi.

Lúc này tôi mới biết đây là địa ngục.

Nghiệp lực hiện núi đao biển lửa, cột đồng, chảo dầu, hành tội...

Tôi chỉ muốn sớm được ra khỏi cái biển máu ung thối tanh hôi, lúc nhúc độc xà tấn công kia, tôi mơ hồ nghe tiếng bao người thọ khổ kêu rên, âm thanh rất yếu ớt.

Nếm đủ khốn khổ rồi, cuối cùng tôi cũng rời khỏi nơi hành hạ này, đến được bờ.

Nhưng trèo lên bờ vẫn chưa phải là kết thúc thọ khổ nơi địa ngục.

Vừa ra khỏi biển rắn, mới bò lên bờ thì tôi thất kinh khi nhìn thấy một vị "Thần", tôi chỉ biết gọi là "Thần" thôi, vì ông ta trông rất cao lớn, mặc đạo bào màu xám đen, tướng mạo cực kỳ trang nghiêm, không giống như các Thần thờ ở thế gian, ông chẳng hề mở miệng nói, chỉ dùng cách trò chuyện bằng "tâm linh giao cảm", nghĩa là không có ngôn ngữ nào được tuôn ra ở đây (giống như cách truyền thông bằng tư tưởng vậy).

Tự dưng tôi hiểu ra: Bởi vì tôi không có tín ngưỡng nào hết, nên vị hiện trước mắt tôi không mang hình dáng tôn giáo nào.

Do tôi không tin Thần hay Phật, ngỗ nghịch với cha mẹ, sống chuyên dối gian gạt lường, lại hành nghề kỹ nữ dâm tà thất đức ở chốn thanh lâu, tôi chuyên lợi dụng mỹ sắc để gạt hại các nam nhân cho đến chết... vì gây tạo đủ tội ác, nên tôi mới tới chỗ này thọ khổ.

Ông "Thần" khuyên tôi: Sau khi nhận hình phạt rồi, thì phải nỗ lực tu hành.

Lúc đó tôi chẳng hề có chút tâm hổ thẹn ăn năn, luôn cảm thấy mình vô tội, là kẻ không có lỗi, tôi uất ức, nổi đóa, khi nghĩ: "Tại người gạt lường khiến tôi phải ngậm hờn treo cổ, vậy mà chết xuống đây còn bị độc xà cắn xé"... thế là tôi nổi thịnh nộ xung thiên... vị Thần liền biến mất.

Ông Thần biến mất rồi, tôi bị mấy tên quỷ sứ da vàng (như đau gan) xua đuổi tôi chạy lên ngọn núi cao, đường gập gềnh chông chênh, khiến tôi bị vấp té...

Ngay lúc bị té tôi mới nhận ra có cả rừng dao nhọn, đủ hình dạng kích cỡ: Ngắn, dài, to, bé từ dưới đất nhô lên, bất kể tôi đi đến đâu, chỉ cần vừa té ngã, thì những mũi dao sắc bén này liền tự động "tấn công", giống như "bàn chông" hay "bẫy kiếm" không ngừng "băm vằm" thân thể chúng tôi, khiến xương rơi thịt nát, máu chảy không ngừng, đau đến tôi chết ngất.

Sau đó thể xác lại hồi phục nguyên trạng và tôi tiếp tục lãnh cực hình này, thống khổ không gián đoạn.

Cảnh hành tội y như trong kinh Phật tả không khác, sau này học Phật rồi tôi mới biết.

Vì trong "Lương Hoàng Sám" từng viết:

Mãn kiếp địa ngục may gặp Thiện tri thức, nghe các vị Bồ tát quở trách, khuyên răn: "Phải biết ăn năn cải hối, nguyện tu sửa để thoát khổ".

Nhưng do tôi quá hung hãn, cứng đầu, ương bướng nên phải ở đó thọ hình rất lâu.

Đến giờ hồi tưởng lại, cảm giác về những thống khổ vô gián đó vẫn mới mẻ, như vừa mới tái hiện trên thân tôi.

Địa ngục quả đúng y như kinh Phật mô tả:

Từ tầng trên, đọa xuống tầng dưới, bị chó đồng nổ sủa và nhai xương nuốt tủy.

Ngục tốt La sát cầm chỉa ba đâm vào đầu... tội nhân bị lửa đốt khắp thân, lưới sắt phóng mưa đao.

Đao theo lỗ chân lông đâm vào thân thể.

Khi tôi ra khỏi núi đao rồi, thì bị ném vào một cái cối xay to khủng khiếp, to không thể tả!

Nhìn nó đang chuyển động ầm ầm, tôi rất sợ bị nghiền nát, nhưng tìm không ra chỗ để trốn, đành cứ chạy vòng vòng trên mặt cối, nhưng chẳng mấy chốc thân tôi bị xay nghiền, đau đớn vô kể... rồi sau đó thân xác lại hồi phục nguyên vẹn, lại bị xay nát tiếp, tôi nghe thanh âm tru khóc rên la không ngớt của các tội nhân, họ chạy, đứng, nằm, ngồi... hỗn loạn, thảy đều bị xay nhuyễn nhừ.

Thoát cối xay, tôi bị trói vào cột đồng rực đỏ, lửa cháy bốn bề, da thịt bị thiêu khét lẹt, thần thức mịt mờ.

Thân bị đốt cháy tiêu rồi thì lại hồi phục nguyên trạng.

Tiếp đến tôi bị trói vào một cột đồng lớn khác, quỷ sứ dùng móc câu bén nhọn lôi lưỡi tôi ra cho đến khi nó đứt lìa, tuôn máu dầm dề, đây là đền tội ác khẩu, chửi rủa, đâm thọc thêu dệt dối trá.

Sau đó tôi bị ném vào chảo dầu, thân thể giống như heo bị rán, không ngừng lăn lộn, sưng phình, cảm giác như thân bị một loại bom đạn cắt xẻ, đau đớn cực kỳ, thọ khổ tận cùng.

Nhưng rồi thân tôi lại hồi phục như cũ, chỉ cần ló đầu ra khỏi chảo, là lập tức bị quỷ sứ dùng cây chỉa ấn xuống chảo dầu lại, bắt phải thọ tiếp cảnh bị chiên rán.

Cứ thế, tôi dở sống, dở chết... hình phạt này cứ tái diễn mãi, khổ hết chỗ nói.

Do tôi tạo quá nhiều ác nghiệp, khi làm bếp cũng từng chiên rán, băm vằm, giã xay... loài vật còn đang sống, nên đây chỉ là nếm lại những gì mà mình gieo mà thôi.

Ra khỏi chảo dầu rồi, tôi và đám đông đi đến một nơi đất khô khốc, phải nắn đất thành từng viên tròn (lớn có nhỏ có, hình trạng và số lượng không đồng), hoàn thành rồi thì ném vào trong hồ lô của mình.

Cảnh này giống như làm lao dịch vậy, có người do đất khô quá, nắn không thành hình.

Từ lúc xuống địa ngục tới giờ chẳng được ăn uống gì, nên ai cũng mệt và đói, nắn đất xong thì đi đến vùng giống như hỏa khu, tất cả giao hồ lô bi ra và mỗi người nhận được một chén đầy mủ trắng vừa thúi vừa khai!

Có lẽ do nhân duyên tiền sinh còn in sâu, tôi thấy ăn uống như vầy quá kỳ cục, nên không thèm dùng!

Đầu thai chuyển thế

Sau đó, tôi được dẫn đến trước một vị chấp pháp (Phán quan), ông này mày rậm, mắt to, nhìn không dữ mà rất có uy.

Cũng giống như vị Thần tôi gặp trước biển rắn, ông dùng phương thức "tâm linh giao cảm" để nói cho tôi biết là tôi sẽ đầu thai vào thế gian làm con gái, ông dặn tôi: "Ngàn vạn lần không nên tạo ác nghiệp, không được lừa gạt người nữa, mà phải hành thiện tích đức, tu hành cho nhiều vào".

Nghe ông nói xong, tôi vô cùng bất mãn, liền hướng chấp pháp kêu than!

Viện cớ rằng đã có quá nhiều khổ đau tôi phải thọ chất chồng, nên không cam tâm làm nữ nữa, tôi muốn được làm nam để báo thù!

Nghe tôi bày tỏ vậy, quan chấp pháp lộ vẻ rất kinh ngạc, ông không hiểu vì sao tôi đã thọ đủ khổ hình mà không bị lú lẫn quên tuốt, ngược lại còn nhớ rất rõ chuyện cũ?

Nhưng ông vẫn kêu tôi đi sắp hàng, và phát cho mỗi người một thẻ bài có số, có màu.

Tôi lãnh thẻ màu hồng, ai nấy lãnh thẻ xong thì tự đi đến xếp hàng trước một cái cổng y theo màu sắc cái thẻ mình cầm trên tay, chờ đi đầu thai.

Lúc đó, tôi nghe mấy tên quỷ sứ bàn tán lao xao:

- Màu hồng đầu thai làm nữ, màu xanh đầu thai làm nam, màu lục đầu thai làm vịt, màu tía đầu thai làm...

Vừa nghe tới đó tôi vội lẻn qua hàng ngũ kế bên ngay vì tôi không muốn làm nữ, cho nên thừa lúc người không chú ý tới, tôi giựt thẻ màu xanh của đối phương và đưa thẻ hồng của mình cho họ.

Thấy quỷ sứ lao tới, tôi nhanh chân chạy trốn, lẫn vào rừng người thẻ xanh.

Sợ quỷ ngăn cản, tôi liền chạy đến một vùng có rất nhiều nhà.

Lúc đó là đêm tối, thấy ở đây có nhà sáng đèn, có nhà không.

Tôi căn cứ vào số ghi trên tấm thẻ bài mà dò tìm ra số cửa, lập tức đi vào, thế là đầu thai thành nam tử như hiện nay.

Oan gia ngõ hẹp lại tương phùng

Đời này, khi tôi vào Đại học chuyên khoa, quen với một bạn gái chính là bạch diện công tử đã lừa tôi ở kiếp trước.

Lần đầu vừa gặp, hai bên đã thấy hết sức quen, như đã từng biết nhau lâu lắm rồi.

Dần dần, ảnh hưởng tình tiết đời tước càng lúc càng rõ hơn, cuối cùng vì cha mẹ phản đối, hơn nữa tôi cũng không muốn nối lại tiền duyên, thế là chia tay (may là tôi không còn tâm muốn báo thù nữa).

Còn cặp vợ chồng chủ thanh lâu đời trước, kiếp này là cha mẹ ruột của tôi.

Chàng trai bị tôi gạt lường hại chết, kiếp này thành là vợ tôi.

Hồi mới gặp, tôi cảm thấy rất quen nhưng sống không hợp ý, bởi vì đời trước tôi không hề yêu, nên đời này nội tâm đối với cô cũng thường sinh chán ghét vô duyên vô cớ.

Do vậy mà cô luôn ôm hận đối với tôi và cư xử với người nhà tôi hết sức lạnh nhạt.

Hai bên thường dùng chiến tranh lạnh để hành nhau.

Mặc dù tôi kiếm rất nhiều tiền đem về cho cô, trả lại nợ lừa gạt tiền ngày xưa nhưng cô chẳng bao giờ tỏ ra hài lòng.

Đời trước có một nam tử thường giúp tôi dẹp bao bất bình, nay là bạn chí thân của tôi.

Sám hối tội ác quá khứ, cảnh tỉnh thế nhân tu

Học Phật rồi, tôi hiểu mọi sự đều do nhân quả.

Kiểm điểm lại bản thân mình, tôi nhận ra tất cả toàn do tâm tham ái, chấp thủ mà ra.

Đến đời này, tập khí xưa vẫn chưa mất.

Nhưng kiếp này tôi sẽ không mê muội tạo ác nữa, sẽ không tranh giành tài lộc, không dùng thủ đoạn để chiếm lấy nữa... nếu cứ chạy theo tâm tham dục không đáy, mình sẽ khổ mãi.

Tôi và người bạn gái đầu sớm đã chia tay và ai nấy đều có cuộc hôn nhân riêng, nhưng nếu nhìn nhận một cách trung thực thì tôi vẫn khó quên cô ta, trong sâu thẳm tận đáy lòng tôi nhận ra mình vẫn còn nặng tình với cô ta.

Nhưng tôi biết đây chỉ là nghiệp duyên, là ảo giác vọng tưởng mê muội nên không lao theo.

Do đời trước tôi treo cổ chết, nên đời này tôi không dám mặc y phục có cổ, vì rất sợ tái hiện cảm giác đau nơi yết hầu.

Lại do đời trước tôi từng làm nghề nấu bếp, cho nên kiếp này nghệ thuật nấu nướng của tôi rất tuyệt.

Bởi vì đã nếm qua cảm giác bị chiên trong chảo dầu, cho nên tôi đặc biệt sợ nóng, không sợ lạnh.

Đời này hễ nhìn thấy cối xay chuyển động là tôi liền sinh hoảng sợ, toàn thân nổi ốc hết.

Tóm lại những thói quen và ký ức đời trước hoàn toàn không tiêu mất.

Nhìn lại những thống khổ đã trải qua, trong đây lời dạy hiếm có của vị Thần và quan Chấp pháp đã giúp tâm tôi mở sáng.

Tôi hiểu rõ: Làm người phải trọng tín, không nên lừa gạt, không làm thương hại người, không được làm việc gì trái với lương tâm.

Tôi cũng biết, cuộc sống đa số do nghiệp lực quyết định, "tự làm tự chịu", ta tự nếm quả mình trồng.

Người hại tôi cũng không phải cố ý muốn hại tôi, tôi khổ là do phải trả báo theo luật nhân quả.

Cho nên đối với tha nhân, tôi nên bao dung khoan thứ và không được khởi tâm sân hận.

Đã nếm và hiểu rõ khổ địa ngục như thế nào rồi, bạn nghĩ tôi sẽ mê đắm ngũ dục, vùi đầu tạo ác nữa được sao?

Tuy kiếp trước tôi là kẻ đại ác, vô tôn giáo, nhưng kiếp này tôi đã biết tìm đến Phật pháp, vâng hành theo lời chư Phật dạy vì cảnh địa ngục trong kinh tả, giống y như tôi đã gặp.

Tôi bây giờ chỉ muốn tu mà thôi, tu tinh tấn đến giải thoát và không tha thiết gì ở thế gian này, tôi rất muốn được về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà, tu cho thành đạo, rồi quay lại độ chúng sinh khổ đau ở đây.

Thông qua kinh nghiệm này, tôi xin thành tâm sám hối tất cả lỗi lầm đã tạo trong dĩ vãng, cầu chư Phật, Bồ tát gia hộ, để tôi có thể tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng thiện căn, vãng sinh Tịnh độ, thoát luân hồi.

"Thực ra tất cả chúng ta đều từng xuống địa ngục, vì trong tâm chúng ta đầy niệm ác.

Nhưng do cách ấm mê muội nên không nhớ ra thôi.

Có người thậm chí còn là khách thường trực của địa ngục nữa kia, đây gọi là "mới thoát ra lại tìm vào".

Địa ngục vốn không, do ta tạo nghiệp ác mà hiện thành.

Tam giới không an, như đi trong nhà lửa, chẳng nên lưu luyến!

Tôi không dám nói chi người khác, chỉ lấy chuyện của bản thân mình mà chứng minh, tất cả hình phạt thống khổ tôi từng chịu nơi địa ngục là do thân, khẩu, ý tạo ác (sát, trộm, dâm, vọng v.v... tôi đều phạm hết).

Tôi từng là đầu bếp giỏi, chuyên sát hại sinh vật, hầm, nướng, quay, chiên... nên tôi cũng nếm mùi núi đao băm vằm, chảo dầu chiên rán, miệng tôi nói ác, lưỡi phạm nhiều tội, nên bị móc, cắt lưỡi... vì tội dâm tà nên bị thiêu cháy, ôm cột đồng.

Nếu như đời này tôi không biết ăn năn sám hối, không tỉnh giác tu sửa, lại tiếp tục tạo ác, thì chuyện tôi đọa địa ngục chắc chắn sẽ xảy ra.

Nếu ta thừa nhận địa cầu này tồn tại?

Thế thì không thể phủ nhận sự tồn tại của địa ngục và Tịnh độ!

Nghiệp lực vô tận, thế giới vô tận, chúng sinh vô tận...

Chỉ có Phật pháp là con đường giúp chúng ta thoát ly ba cõi, ra khỏi khổ đau.

Đối với điều này tôi tin kiên quyết không nghi, lòng chỉ muốn vĩnh viễn thoát ly cõi khổ, sinh về cõi Phật tu hành.

Chuyện tôi kể quý vị có tin hay không, còn tùy thuộc vào phúc phận của quý vị.

Xin hãy lấy chuyện của tôi làm gương, mà tránh tạo ác nghiệp.

Mong tất cả siêng nghe Phật pháp, nghiêm trì giới luật, chăm chỉ tu hành để thoát ly tam giới, ngàn vạn lần không nên trồng nhân xuống địa ngục".

Cư sĩ Triệt Ngộ

Lời người dịch:

Câu chuyện này tôi dịch từ hai năm trước, nhưng do e ngại mãi nên đến giờ mới tung ra.

Có một điều rất thú vị là ngay khi bắt đầu dịch, tôi không biết người đang kể là nam hay nữ?

Cuối cùng mới biết...!

Khi dịch đến đoạn bàn về thẻ xanh, thẻ hồng... tôi cũng nghi là với tính cách đó đương sự sẽ tráo đổi, nhưng tại sao lại tráo đổi được?

Tôi từng đọc nhiều tâm sự của những người đã trải qua địa ngục.

Về căn bản thì giống, nhưng so tiểu tiết thì khác, không ai giống ai.

Tôi nghĩ đương sự tráo thẻ được cũng là một chiêu "an bài" của Phán quan, có thể ông dư biết đương sự sẽ làm thế.

Thực ra thân phận, giới tính nào cũng đòi hỏi phải có phúc báu tương xứng, không thể do gian dối mà tranh giành được.

Tôi đã cố gắng dịch câu chuyện này thực đầy đủ, không bỏ sót một tình tiết nào, hầu mong bạn hiểu rõ thêm về địa ngục.

Điều quý nhất là người tự thuật đã giác ngộ, hiện tại tuy ông đi giữa hồng trần mà tâm vượt trên hồng trần!BÁI KINH CỨU MẸ

Toàn gia Cư sĩ Quả Trú thuộc thành phần tri thức, cả ba thế hệ đều là Giáo sư đại học.

Cư sĩ Quả Trú ngay lúc mẫu thân bị bệnh hiểm, đã chí thành phát tâm bái kinh hồi hướng cho mẹ, hiếu tâm này làm cảm động trời đất và lòng tinh tấn kia khiến cho người mẹ đã bước đến quỷ môn quan nhờ vậy mà được bảo toàn.

Mời quý vị nghe bà thuật lại những việc mình đã trải qua:

Cha mẹ tôi trước khi nghỉ hưu từng làm công tác giảng dạy về bộ môn "Bảo vệ thực vật, diệt côn trùng" tại một đại học ở Triết Giang.

Mẹ tôi vốn là một nữ Bác học đa văn, từng cống hiến nhiều thành quả nghiên cứu khoa học lớn lao, góp công giảng dạy uyên thâm, có thể nói là môn sinh đầy khắp thiên hạ, bà được phong là "Giáo sư ưu tú" được hưởng sự trợ cấp của chính phủ.

Hiện nay cha mẹ tôi đã hơn 70 tuổi, dù đã nghỉ hưu nhiều năm.

Nhưng vì họ đạt được thành tựu phi phàm về lãnh vực diệt côn trùng, nên luôn được Xưởng Nông dược mời thỉnh làm việc, tôi không rành về việc sát sinh của song thân, do hai vị dù ở nhà vẫn nghiên cứu chế thuốc "Diệt côn trùng" cung cấp cho hãng Nông dược, thu được rất nhiều tiền nhờ vào nghề bào chế này.

Ngay từ nhỏ tôi đã từng chứng kiến, cha tôi tối nào cũng đều mơ thấy ác mộng, luôn kêu la kinh hãi rằng có người muốn giết ông, hơn nữa da ông không được tốt, sần sùi và hay bị lở giống như ghẻ chốc, trên đầu giường ông, quanh năm thường để lọ thuốc cao dán.

Lúc ba tôi dạy tại đại học thì hay bị bệnh tiện bí, thống khổ này không ngừng hành hạ ông, sau đó còn mắc chứng bệnh động mạch vành, thường xuyên ưu lao, kinh sợ, khiến ông thuốc chẳng lìa miệng, mặt luôn u sầu, chẳng có được nụ cười.

Tôi nhờ duyên lành, tình cờ đọc qua sách "Báo Ứng Hiện Đời" của cư sĩ Quả Khanh, mới hiểu rõ chứng bệnh của ba tôi có liên quan đến công tác của ông.

Cũng hiểu rằng: Do chúng tôi tạo sát nghiệp, ngày ngày ăn thịt, ăn hải sản nên bị ác quả.

Thế là tôi bắt đầu vì những con vật mình và cha mẹ giết, ăn qua mà tụng kinh Địa Tạng, hi vọng có thể siêu độ chúng, cầu chúng tha thứ.

Thời gian đầu thì không có kết quả gì rõ rệt, dù vậy hằng ngày tôi vẫn cố gắng tụng kinh Địa Tạng... không bao lâu, một ngày nọ mẹ tôi bảo:

- Ba con gần đây ngủ rất an, không còn thấy ác mộng nữa, chứng tiện bí cũng chuyển sắc tốt.

Sắc mặt cũng khá hơn nhiều, đã có vẻ hớn hở tươi tắn, hơn nữa ông còn cai hút thuốc.

Tôi mừng rỡ vô cùng, thầm cảm tạ công đức uy thần của kinh Địa Tạng.

Quả la không thể nghĩ lường.

Sau đó tôi may được đọc "Nhân Quả Phụ Giải Lương Hoàng Sám" của Quả Khanh, những chuyện có thực trong sách khiến tôi kinh tâm và chấn động bội phần.

Tôi thầm biết cha mẹ mình tạo tội sát sinh quá nặng, cần phải lập tức dứt trừ ăn mặn, sám hối sát nghiệp, bước vào con đường học Phật, tập tu ngay.

Mặc dù cha mẹ tôi thân thể ngày càng suy yếu, nhưng chưa tỉnh ngộ, vẫn còn tạo nghiệp sát không ngừng, vậy tôi phải làm sao đây?

Nghĩ thương cha mẹ nếm trải biết bao gian khổ mới nuôi tôi khôn lớn, hiện tôi học Phật ăn chay đã mấy năm, giờ tôi rất muốn thay cha mẹ sám hối với những chúng sinh đã bị hai vị giết.

Trong kinh "Phật thuyết nghiệp báo sai biệt" từng giảng: Nếu có chúng sinh nào lễ tháp, miếu Phật, sẽ được mười công đức:

Được sắc đẹp tiếng tốt

Nếu có phát ngôn người đều tin phục

Được vô úy, không sợ hãi với chúng nhân

Được Thiên nhân ái hộ

Có đầy đủ uy thế

Chúng sinh thích đến gần

Thường được thân cận chư Phật, Bồ tát

Có đủ phúc báo lớn

Mệnh chung sinh thiên

Mau chứng Niết bàn.

Kinh Phật là pháp bảo, đại diện cho trí huệ Phật, là pháp thân xá lợi Phật, nên công đức lễ bái kinh cùng lễ bái chư Phật không khác nhau, cũng giống như công đức lễ bái tháp Phật, cổ đức có vị nhờ lễ bái kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa v.v... mà khai ngộ.

Thế là tôi quyết định vì cha mẹ lễ bái mỗi chữ trong "Kinh Địa Tạng", dùng hùng tâm tha thiết tín thành lễ bái, ắt có thể cảm được Bồ tát gia trì, khiến những chúng sinh từng bị hại được lợi ích, tiêu trừ nghiệp sát cho cha mẹ.

Trong lúc bái kinh, tôi thầm sợ mình công đức không đủ, nên đồng thời cũng lễ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, theo phương thức "nhất tự nhất bái".

Mỗi bộ kinh mỗi lần tôi bái một trang (khoảng chừng năm trăm lễ).

Thêm vào đó hằng ngày tôi còn tranh thủ tụng một quyển kinh Lăng Nghiêm, thời gian này mặc dù thân thể rất mỏi mệt, nhưng nội tâm cảm thấy rất an ủi, pháp hỷ sung mãn.

Khi tôi bái xong bốn phẩm "Kinh Địa Tạng" thì mẹ tôi không cẩn thận bị té gãy chân trái, phải nhập viện để thay xương nhân tạo.

Tôi bỗng nhớ lại, trước đây khi mẹ tôi lên lớp giảng, vì muốn các sinh viên hiểu rõ hơn, bà thường dùng kim ghim vào đầu côn trùng, hoặc ghim chân chúng lên bảng để làm giáo cụ phụ họa cho tiết giảng.

Ôi chao!

Nếu không biết Phật pháp thì rất dễ tạo tội, cử tâm động niệm không gì mà chẳng tạo ác, nhân như vậy thì quả phải như vậy, báo ứng nhân quả không sai mảy may, hiện tại hoa báo đã trổ trên thân, nếu không phải tôi phát nguyện lễ bái sám hối thay cho bà, khiến tội nặng được báo nhẹ, thì tương lai ác quả bà phải nhận trong ác đạo ắt là thảm chẳng nỡ nhìn.

Khi tôi bái xong phẩm 7, mẹ tôi lại té nữa, lần này là tổn thương phía sau đầu, kết quả khi chụp CT bị xuất huyết, da sưng phù, y viện đã thông báo bệnh tình nguy cấp, mẹ tôi đã hiện tướng địa ngục, dáng vẻ sợ hãi, mắt mở không được.

Đồng thời ở nhà, tôi và con gái tôi đang dạy tại đại học mắt cũng mở không lên, cảm thấy bị khổ tương đương.

Đây có khả năng là cảm ứng thâm tình, cũng có thể là tôi và con đồng thời phụ mẹ trả nghiệp.

Em tôi muốn giúp mẹ mở mắt, bèn dùng vải đen che ánh sáng cho mẹ, cả nhà rất căng thẳng.

Tôi yêu cầu cả nhà đừng tiếp tục sát sinh nữa, em trai tôi phát nguyện: Xin vì mẹ ăn chay ba tháng.

Ngay buổi chiều mẹ nhập viện, thì tối đó chúng tôi bỏ ra khoảng 2.300 USD, cùng nhau đi phóng sinh.

Đồng thời trong quá trình bái kinh, tôi còn ráng tụng thêm hai bộ "Địa Tạng", xem như hằng ngày tụng bốn bộ "Địa Tạng", bái một trang kinh Địa Tạng, một trang Pháp Hoa, tôi tin chắc thành tâm của tôi có thể cảm động những chúng sinh đòi nợ mẹ và Phật Bồ tát sẽ gia trì cho.

Ngày thứ hai, sau khi phóng sinh, tôi gọi điện cho em trai, hỏi thăm tình trạng mẹ, em nói:

- Vẫn thế, không tốt không xấu, bác sĩ đang theo dõi.

Tôi cảm thấy oán gia trái chủ không muốn lìa bà, vì oán hận khó tiêu mà!

Ngay đó tôi quyết định bỏ ra 1.650 USD phóng sinh và hôm sau đi phóng sinh 600 kg ốc.

Tôi quỳ trước Phật sám hối thay mẹ, mẫu tử tình thâm, nghĩ đến ân dưỡng dục nan báo, tôi rơi lệ đầm đìa, khẩn cầu chư Phật, Bồ tát từ bi cứu mẹ tôi, cứu độ những oan gia trái chủ của mẹ... cầu cho mẹ tôi có cơ hội sửa lỗi, đổi mới lại mình.

Nếu như mẹ tôi ra đi, cả nhà tôi phải làm sao đây?

Xin Phật Bồ tát từ bi, các vị oan gia trái chủ rộng lượng tha thứ.

Mấy ngày sau bệnh tình của mẹ tôi dần chuyển tốt, hóa dữ thành an.

Điều này khiến bác sĩ cảm thấy kỳ lạ và ngạc nhiên.

Tội chết mẹ tránh được, nhưng tội sống khó tha!

Mẹ phải chịu thống khổ mài luyện, hơn nữa chứng trạng đau khổ của mẹ đồng thời cũng xuất hiện trên thân tôi, hễ mẹ tại bệnh viện nôn mửa, thì cùng lúc đó ở nhà tôi cũng nôn mửa, bị ói như điên...

đến độ ngay cả nước cũng không thể uống.

Tôi lúc đó tâm rất kiên cường, cầm thau để sát bên mình, thầm nghĩ: Cho dù là chết, thì cũng phải chết trước Phật, tôi cam tâm thay mẹ đền mạng.

Nếu được thế thì rất tốt!

Nhờ nghĩ vậy mà tôi kiên trì bái kinh Địa Tạng đến hoàn mãn.

Cư sĩ Quả Khanh nói: Có một số oan gia trái chủ dù chịu tha thứ cho bạn rồi, song trước khi đi có thể chúng sẽ cắn, rứt... hành hạn thân thể bạn, đây chính là đạo lý báo nặng trả nhẹ.

Thế là suốt đêm ngót mấy tiếng, mẹ tôi toàn thân co rúm, bị hành đau đớn... bác sĩ phải túc trực cứu chữa cả đêm, nhưng sau đó khi kiểm tra sức khỏe, kết quả lại thấy bình thường.

Sáng hôm sau, lúc tôi vì mẹ tụng kinh Địa Tạng, thì phía trên đỉnh đầu tôi có một bóng đen, mãi đến khi tôi bắt đầu bái kinh Địa Tạng, thì bóng đen đó mới biến mất.

Tôi biết là oan gia trái chủ trú đóng trên đầu mẹ tôi đã đi rồi, cũng hiểu là mẹ không còn bị lưu di chứng gì nữa, bác sĩ từng nói: Người cao tuổi như mẹ, đã bị bệnh lại còn bị té chấn thương não nghiêm trọng đến thế, thực sự chẳng có hi vọng gì cứu nổi, nếu mà sống được thì cũng sẽ lưu di chứng nặng nề, sinh hoạt không thể tự xử lý được.

Tôi biết ngành nghề cha mẹ làm đều phạm vào sát sinh, tội sâu nặng, nên quyết định vì cha mẹ bái một bộ kinh Địa Tạng, đồng thời bái từng chữ trong kinh Viên Giác, Lăng Nghiêm và Pháp Hoa, tiếp tục...

Mỗi ngày tôi lễ một ngàn một trăm lạy, còn ráng tụng thêm bốn bộ kinh Địa Tạng, một quyển Lăng Nghiêm, Kim Cang và kinh Bảo Khiếp Ấn, Chú Lăng Nghiêm, Tứ Trọng Thanh Tịnh Minh Hối.

Tôi đúng là liều mạng, oan gia của cha mẹ tôi đều xuất hiện trên thân tôi, cộng thêm nghiệp nợ của bản thân tôi vốn cũng sâu nặng, cho nên thân thể cực kỳ bất ổn, nhưng tôi thầm hiểu sâu rằng, thiếu nợ thì phải trả, đây là lẽ tự nhiên, huống nữa là chúng tôi thiếu nợ mạng vô biên vô bến bờ.

Hiện tại những chúng sinh bị giết ăn không muốn đòi mệnh cha mẹ tôi, chỉ là muốn thân họ phải chịu thống khổ, nếu không nhờ Phật lực gia trì thì tôi làm chẳng được thấu đáo.

Do ngày xưa tạo ác không biết mỏi mệt thì ngày nay chuộc lỗi cũng phải chịu khổ chịu khó.

Nhờ nghĩ vậy mà tôi tinh tấn tụng kinh, lễ Phật, tôi tin vào những gì Phật thuyết giảng, lời Ngài với tôi là chân lý, vì vậy mà tôi càng tăng thêm tín tâm kiên định.

Hiện tại, mẹ tôi đã sớm khỏe mạnh và xuất viện.

Cách đây không lâu, lúc bà quay lại y viện kiểm tra, bác sĩ Chuyên khoa Thần kinh não trứ danh còn nói: Người bị chấn thương nơi đầu mà tuổi hơn bảy mươi như mẹ tôi, lại bị xuất huyết nhiều đến thế nhưng không phải trải qua bất kỳ cuộc phẫu thuật nào mà chứng sưng phù tự tiêu, máu bầm tích tụ lại có thể tự tan, tự vận hành thông suốt, không lưu bất kỳ di chứng nào.

Phải nói rằng kể từ hồi thành lập bệnh viện tới nay, đây là vụ ông mới chứng kiến duy nhất lần đầu!

Phải gọi đây là chuyện lạ trong nhân gian!

Xem ra, chuyện bị té, bệnh... nguy ách của mẫu thân, song thân tôi bị nhiều bệnh khổ mà được lành, mẹ tôi được sống lại, trở về từ cõi chết đã khiến thân bằng quyến thuộc khó mà tin nổi.

Chẳng ai dám tin bà bị té chấn thương nghiêm trọng như thế mà còn có thể sống và lại sống rất tốt nữa, vì không hề bị bất kỳ di chứng hậu chứng nào hành hạ.

Bạn có tin không?

Hiện giờ mẹ tôi đang lên net xem dò cổ phiếu (tôi không đề xướng chơi cổ phiếu, chỉ muốn kể chuyện này để chứng minh trình độ khỏe mạnh của mẹ), chứng tỏ rằng mọi nghĩ suy phán đoán của bà vẫn rất nhạy bén, lanh lẹ.

Tự bà cũng nói, đa số thân bằng quyến thuộc đến thăm bà, trước đó ai cũng tưởng rằng bà chắc bị mắt lệch, miệng méo, miệng trào bọt, nửa thân không động đậy được.

Nhưng khi thấy bà khang kiện như không có gì, thảy đều kinh ngạc, ai cũng suýt xoa khen là chuyện lạ!

Mẹ tôi nhờ đây mà trở thành nhân vật nổi danh, vì được nơi nhiệm sở đại học của bà bàn tán um sùm, khi mọi người nghe kể nhờ con gái bà (là tôi) bái kinh, tụng kinh, lễ Phật... hồi hướng mà cứu được bà thì nhiều người xúc động, cảm kích vô kể.

Họ cũng phát tâm tụng, bái kinh Địa Tạng.

Ngay cả phụ thân tôi cũng bắt đầu lấy bút cung kính sao chép kinh Địa Tạng.

Tôi hi vọng những ai đọc đến bài viết này, cho dù hiện tại thân thể đang khang kiện, thì cũng nên: Mau mau từ bỏ ăn mặn, hãy vì những vật bạn từng giết, ăn qua... mà niệm Phật hoặc bái kinh, hồi hướng cho chúng mới mong tránh khỏi cảnh giây phút tai nạn ập đến, lúc ấy dù có hối hận thì cũng đã muộn.

Nếu như tôi viết bài này có chút công đức nào, xin đem công đức ấy hồi hướng cho cha mẹ.

Nguyện song thân tôi sớm phát tâm đại sám hối, học Phật, ăn chay.

Nguyện hai vị trường thọ mạnh khỏe, khang kiện.

Ngài Ấn Quang từng giảng:

Các hình thức tu trì như: Bái, tụng, trì niệm...

đều lấy thành kính làm chủ.

Cho dù đang ở địa vị phàm phu, nếu tâm thành đạt đến cực độ, thì sẽ chiêu cảm công đức không thể nghĩ bàn và thu được lợi ích rất lớn.

Bình: Cha mẹ có ân sâu nặng, khó báo đền.

Phận làm con, lúc cha mẹ mang trọng bệnh, lâm chung... hãy vì cha mẹ ăn chay tụng kinh, bái kinh, phóng sinh... khiến cha mẹ chuyển nguy thành an, không những bản thân mình được bồi phúc tăng huệ, mà cũng nhân đó hóa độ được song thân, đây mới là hiếu chân chính.THIÊN ĐỊA QUAN THẦN

Thiên có thiên thần, địa có địa thần cùng các quỷ thần.

Chư thần quan, thiên tướng... trong trời đất là những vị đảm trách công tác điều tra, gọi là "Tư quá chi thần" chuyên giám sát công, tội ở nhân gian.

Trong kinh Phật giảng: Thiên thần và quỷ thần đều có ngũ thông, ngũ thông này là phúc báo của họ.

Họ chỉ không có lậu tận thông thôi, chứ thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mệnh, thần túc... họ đều có đủ.

Nếu so sánh thì oai lực của địa thần chẳng bằng thiên thần và năng lực của thiên thần lại thua kém người tu hành chứng quả.

Song đối với người thế gian chúng ta thì năng lực của họ đã rất đầy đủ.

Vì mỗi khởi tâm động niệm của chúng ta, họ đều biết hết và ghi rõ...

đợi đến khi ta chết rồi thì căn cứ theo đó mà phán quyết.

Chúng ta khởi tâm động niệm cũng là tạo ác, nhưng phát ra hành vi thì càng nghiêm trọng hơn.

Nếu đã hiểu rõ rồi, thì mỗi khi khởi tâm, động niệm... chúng ta cần phải luôn cẩn trọng vì sợ quả báo.

Nếu bạn khởi niệm ác, làm ác, tương lai không tránh được ác báo.

Vì vậy mới nói: Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt.

Đạo lý chân thực này, thời nay ít người biết.

Gặp kẻ không có thiện căn, không có phúc, mà bạn nói với họ những điều này, thì họ sẽ cười chê, miệt thị là bạn quá mê tín, quá ngu muội... nên nói toàn lời hoang đường!

Do họ khó thể tin, nên không tiếp thu được.

Nhưng đến khi quả báo hiện thì có hối cũng đã muộn, mà có khi họ chẳng biết đây là ác báo trổ.

Do họ không tin, đó là: Nghi!

-Mà các niệm: Tham, sân, si, mạn, nghi...

đều thuộc nhóm phiền não cực lớn, làm chướng ngại trí huệ, xui bạn tạo vô biên tội.

Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật giảng: Mỗi người khi sinh ra, đều có hai vị thần luôn theo bên cạnh, một vị tên Đồng Sinh, một vị tên Đồng Danh, trọn đời không lìa xa bạn.

Hai vị thần này ở trên vai, chúng ta không thể thấy hay biết được, mọi người không ai thấy tới.

Nhưng hai Thiên nhân này (cũng tính là thiên thần), ngày đêm không rời bạn.

Trong kinh Phật cũng có gọi họ bằng tên khác là: Thiện, Ác đồng tử.

Một vị coi việc thiện cả đời bạn, một vị coi việc ác cả đời bạn.

Như vậy thử nghĩ xem, bạn làm gì không có ai biết ư?

Dù làm ác không ai thấy, bạn cho rằng mình có thể trốn thoát được ư?

Không ai trốn được, phải nói là vô phương trốn vì vậy những kẻ đụng chết người trong đêm khuya mà rồ ga bỏ chạy, cuối cùng cũng sa lưới pháp luật, nếu thoát được, thì điều này phải xét thêm về nhân quả oan trái khuất tất trong nhiều kiếp giữa họ và nạn nhân, bởi không có gì bất công và tình cờ.

Hai đồng tử Thiện, Ác chính là hai vị thần Đồng Sinh và Đồng Danh mà trong kinh Hoa Nghiêm nhắc đến.

Phật giảng rằng: Cả đời mỗi người chúng ta, có hai vị "Thiện, Ác đồng tử" ngày đêm theo sát, không rời phút giây nào.

Nếu bạn thường nghĩ đến có hai đồng tử này luôn ở bên ta, vậy thì sao mỗi lúc khởi tâm động niệm, nói năng, tạo tác, bạn lại không cẩn trọng?

Lời Phật giảng ra, quyết định không phải là lời giả, thế thì chắc chắn Ngài không hề lừa dối chúng ta.

Ngày xưa ta có nhiều dịp tu học, được phụ mẫu, thầy giáo dạy dỗ, bạn lành khuyên răn, nên tạo ác ít, làm lành nhiều.

Nhưng bây giờ, người thời nay thường chê nền văn hóa giáo dục truyền thống xưa là cổ hủ, họ không cần đến, cũng không thèm tin, mà cha mẹ cũng không thể dạy, hoặc không rảnh để mà dạy... giáo sư cũng chẳng để ý tới điều này, thế là cả đời chúng ta chỉ biết chìu theo phiền não, tập khí ác, tạo vô lượng tội.

Thế thì làm sao mà không đọa lạc và không bị "Thiên địa quỷ thần" trừng phạt chứ?

Ngoài hai thần Đồng Sinh và Đồng Danh ra, còn có "Thiên địa quỷ thần giám sát" thế gian, cũng ghi lại thiện, ác của người, chư quỷ thần này đông không kể xiết, các tôn giáo đều nhắc đến, đều có ghi.

Như vậy, mỗi khi chúng ta khởi tâm, động niệm, nói năng, tạo tác... liệu có thể giấu được ai chứ?

Vì vậy ta cần khắc phụ phiền não, tật xấu của mình, lo sửa lỗi đổi mới, nỗ lực tu thiện.

Chúng ta sống phải biết hướng thượng thăng hoa, mục tiêu chúng ta là: Phẩm hạnh nhân cách, hành vi... phải luôn xứng đáng, tuyệt hảo, tối ưu, tốt lành.

Được vậy tất nhiên chúng ta sẽ ở cảnh tương xứng với tâm hạnh của mình.

Sư Quảng HóaTÔI ĐÃ THẤY HAI VỊ THẦN ĐỒNG SINH, ĐỒNG DANH

Vừa rồi bàn đến hai vị thần Đồng Sinh và Đồng Danh, nhờ nhân duyên đặc biệt, tôi cũng đã nhìn thấy họ, vóc dáng giống như đứa bé 7-8 tuổi (hèn gì mà Phật gọi họ là đồng tử).

Đó là vào năm Dân Quốc 56 (1967) lúc ấy tôi đang làm Giáo sư Chủ nhiệm, giảng dạy tại Phật học viện Từ Minh Tự.

Trường khai giảng vào ngày 14 tháng giêng.

Nhưng trước đó một hôm là ngày 13, thì tôi bị bệnh trĩ phát tác, gây đau đớn không cùng, đáng lo hơn nữa là vì sáng mai là lễ khai giảng.

Phật học viện Từ Minh tổ chức Lễ khai giảng rất long trọng, có nhiều Sư trưởng và các Nghị viên cùng quan chức chính quyền đến tham dự.

Tôi phải giới thiệu mọi người diện kiến và thuyết giảng.

Nhưng tôi bệnh thế này làm sao mà dự lễ đây?

Thôi thì xức thuốc cho ổn, hi vọng ngày mai có thể đứng, có thể nói.

Thế là tôi đi tìm thuốc cao dán.

Không ngờ lại lấy lộn thuốc, nên khi vừa thoa vào, nghe đau thấu trời đất, lại còn đứng lên hết nổi, máu mủ chảy tùm lum.

Ôi chao!

Cơn đau hành hạ nửa ngày, tôi phải cắn răng chịu, ráng lết về phòng dỗ giấc, nhưng suốt đêm không tài nào ngủ được.

Sáng hôm sau, khi thức dậy, vừa nhìn thì thấy ngay một đống máu mủ bầy nhầy nằm ướt nhẹp trên giường, nghe trong người rất khó chịu, tôi vẫn cố gắng đi dự lễ.

Trong buổi lễ, tôi chỉ nói được mấy câu thì ngồi xuống.

Đến trưa, ăn cơm xong thì nghỉ ngơi.

Tôi cởi áo tràng ra, vừa nhìn vô tà áo phía mông, thấy một đống ướt nhẹp, thiệt là xấu hổ và thất lễ biết bao.

Ai biết tôi bệnh thì có thể thông cảm, còn người không biết thì sẽ đánh giá tôi thế nào đây?

Tôi từng phẫu thuật, cũng đã uống thuốc, nhưng vẫn không lành.

Lần này phải nhờ tới Phật pháp chữa trị thôi.

Thế là tôi bảo đồ đệ:

Tối nay xong khóa tối, các ngươi lui ra hết đi.

Ta muốn ở lại chánh điện bái Phật, xem như liều mạng với mụt trĩ nghiệp chướng này!

Nếu như qua được thì sáng mai ta sẽ dự tiếp khóa lễ sáng, còn chẳng qua nổi, thì ngày mai các con lên đại điện khiêng xác ta xuống!

Tụng khóa tối xong, mình tôi ở đại điện lễ bái.

Tôi thưa với chư Phật, Bồ tát:

- Cầu xin chư Phật, Bồ tát gia hộ cho bệnh con được lành, nếu không thì con chẳng cách chi tiếp tục nhiệm vụ giảng dạy của mình.

Nếu bệnh không lành thì con quyết không lui ra, giả như con phải chết, thì xin chết ở đây!

Hạ quyết tâm xong, tôi một mực lễ bái.

Bái đến hơn mười giờ thì muốn hôn mê, nhưng tôi vẫn ráng để tỉnh mà lễ, hơn 10h30 thì đứng hết nổi, bởi vì hôm trước mất ngủ, hôm sau bị cơn đau hành hạ cả ngày, cho nên không còn cầm cự nổi và té nhào ra trên đất.

Sau đó thân tôi hết động đậy, chỉ miệng là còn động đậy được thôi.

Tôi nhủ thầm: Mình nên đến chỗ Hải Triều Quan Âm, nơi đó có vách ngăn đỡ, dù có ngã xuống cũng sẽ không bị thương!

Thế là tôi lết đến Hải Triều Quan Âm, ở trước Bồ tát Quan Thế Âm một bề xướng niệm: "Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ tát!"...

Tôi niệm mãi cho tới khi miệng hết động đậy.

Đến nước này thì tôi đành đánh cược với số mệnh, miệng hết niệm nổi thì vẫn còn tâm để đối phó, tôi tập trung toàn lực hướng về Bồ tát Quan Âm khẩn cầu:

Thưa Bồ tát, xin Ngài đáp ứng cho con, khiến mụt trĩ của con được lành, nếu không thì hôm nay con... chết tại đây cho Ngài xem.

Đang khấn thầm như thế, thì tôi bỗng nghe choáng váng, hình như có trận gió đang thổi tới, tiếp theo là một âm thanh vang lên.

Tôi ngẩng đầu nhìn thì thấy trước tượng Bồ tát Quan Âm ngồi trên bàn, có hai vị thần đang quỳ, đầu họ khoảng ngang gối Bồ tát.

Hai người này chính là thần Đồng Sinh và Đồng Danh.

Họ trình báo gì đó và Bồ tát Quan Âm đang giảng nói.

Tôi nhìn bọn họ chăm chăm, thầm nghĩ: "Hóa ra Bồ tát Quan Âm cho gọi hai vị này tới trình sổ báo cáo về tôi đây mà!".

Bất kể họ nói thế nào, trong lòng tôi đã thầm tính trước, tôi tin mình thiện nhiều ác ít, như vậy bệnh nhất định sẽ được lành.

Do nghĩ như thế, nên tâm tôi trở nên cao hứng, tôi quay lại nhìn thì thấy hai vị thần đã biến mất tiêu.

Tôi bèn hướng Bồ tát Quan Âm, xin phép trở về phòng mình.

Tôi sờ mụt trĩ của mình kiểm tra, thấy nó thực sự đã tiêu mất rồi, xem như bệnh tôi hoàn toàn lành rồi.

Ái chà chà!

Khi đó tâm tôi rất vui, vô cùng cảm kích Phật Bồ tát gia ân, nỗi niềm này không sao diễn tả được, bởi tôi đã dẹp xong cái mụt trĩ quỷ quái kia.

Đây là việc tôi tự thân trải qua, chứng kiến...

Tôi kể lại cho quý vị nghe, là mong mọi người đều biết và tin rằng, phút giây nào trên thân mỗi chúng ta cũng đều có thần giám sát và ghi lại đủ hết thiện ác của ta, nên tương lai mỗi người sẽ tùy theo nghiệp thiện ác mình đã tạo mà thọ nhận khổ vui, điều này chẳng sai mảy may.

Vì vậy quý vị phải tuân thủ lời Phật dạy, hành đúng theo pháp, phải hết sức cẩn trọng giữ gìn giới luật của mình đã thọ, lúc nào cũng phòng vệ, cẩn thận không để tạo lỗi.

Phải ghi vào lòng câu: Dù có chết cũng không được phạm giới.

Vì Giới là đạo sư, giới còn là Phật pháp còn.

Trích "Quảng Hóa Luật sư hoằng pháp cổ sự"TRÊN ĐẦU BA THƯỚC CÓ THẦN LINH

Người Trung Quốc có câu: "Trên đầu ba thước có thần linh".

Còn có một thuyết khác nữa là: "Ngẩng đầu ba thước có thanh thiên, có thể dối người, nhưng không thể dối trời!".

Câu này nhắc chúng ta trong mỗi thời khắc đều phải kiểm soát các khởi tâm động niệm của mình, từng hành động ý nghĩ, đều phải hướng về dứt ác hành thiện.

Riêng nhà Phật thì giảng: Trên thân mỗi người có hai vị thần, là thần Đồng Danh và thần Đồng Sinh.

Thần Đồng Danh thì trắng, là nam, chuyên ghi thiện.

Còn thần Đồng Sinh thì đen, là nữ, chuyên ghi ác.

Bất kỳ khởi tâm động niệm thiện ác nào của chúng ta, các thần đều ghi lại hết.

Cho nên tốt nhất chúng ta không nên khởi tâm động niệm cẩu thả, tránh gieo nhân ác.

Nếu lỡ tạo ác, thì phải mau hồi đầu, không nên tiếp tục phạm giới luật.

Kinh Vô Lượng Thọ thuyết: Thần minh ghi biết, phạm tội không tha.

Phải biết chư thần chuyên ghi những thiện ác chúng ta tạo ra, mỗi tháng có hơn sáu lần họ đến thiên đường và địa ngục để giao nộp sổ thiện ác, chúng ta tùy theo nghiệp thiện ác đã tạo của mình mà đi thọ khổ vui.

Tôi kể những điều này là để nhắc mọi người nên trì giới nghiêm cẩn.

Trước khi học Phật, tôi từng đọc qua một cuốn tạp chí thế gian, giờ xin kể lại câu chuyện đăng trong đó cho mọi người nghe:

Cuối đời Thanh, có một thư sinh muốn đến Bắc Kinh thi Trạng Nguyên, khoa này mở vào tiết xuân, tức phải qua năm mới thi.

Nhiều người ở những vùng xa, thì ngay từ mùa đông đã vội khăn gói lên kinh, mới mong tham dự kịp kỳ thi mùa xuân.

Tại Đại lục, mỗi khi đến mùa đông, thì phương Bắc băng tuyết phủ đầy, trắng xóa cả một vùng.

Khiến người khó nhìn ra lối đi, nếu khởi hành mà lỡ gặp tuyết phủ kín đường, thì chỉ có chờ đợi, vì không chỗ để đi.

Thư sinh X giữa đường lên kinh thành, đã gặp phải tình huống đó, nên vô phương tiếp tục hành trình.

Đành náu tạm nơi một quán trọ bình dân.

Nhưng chủ quán lại là một quả phụ còn trẻ, chồng vừa chết không lâu.

Thư sinh X thầm nghĩ: "Mình tạm ngụ ở đây một đêm, rồi sáng mai tiếp tục lên đường"...

Nào ngờ tuyết rơi liên tục bất đoạn, phủ kín đường đi dày mịt, khiến anh vô phương khởi hành, bất đắc dĩ phải tiếp tục ngụ lại nơi quán trọ.

Một ngày, rồi một ngày trôi qua.

Khách là thanh niên tuấn tú, chủ là quả phụ xinh đẹp, trẻ trung, cả hai đều ở vị đơn đọc, mà ngày nào cũng gặp mặt nhau, nên tâm liền vọng động...

Thế là thư sinh bèn đi tới trước phòng nữ chủ.

Đầu tiên, anh đưa tay lên định gõ cửa, thì chợt nghĩ: "Không nên!

Ta đang muốn thi Trạng nguyên, nếu tiến vào thì sẽ phạm dâm, Thiên đình sẽ gạch tên mình, phải quay về thôi!"...

Chàng vừa quay trở về, thì trong lòng nữ chủ cũng khởi niệm muốn đi đến tìm chàng.

Vừa ra khỏi cửa phòng, thì nàng chợt nghĩ: "Chậc!

Rất không nên!

Ta là quả phụ, phải giữ tiết hạnh mới đúng lẽ, sao vừa nhìn thấy trai đẹp là vội quên hết khuôn phép?

Không nên như thế, mau quay về thôi!".

Chàng thư sinh quay về rồi, lại ngăn không nổi lửa dục trào dâng, lại đi đến trước phòng quả phụ.

Lúc chàng này gõ cửa, ngay khi quả phụ ra mở cửa, thì chàng đã nhanh chóng bỏ đi, bởi chàng cảm thấy mình không nên làm như thế.

Lại sợ phạm dâm... sẽ bị mất công danh.

Thời cổ đại chúng ta có một thuyết là: Cho dù bạn có học tốt đến đâu, dù số mệnh ấn định đậu Trạng nguyên, nhưng nếu phạm dâm, hoặc tạo ác... thì Thiên đình sẽ gạch bỏ danh phận Trạng nguyên kia ngay.

Vì vậy mà khi chàng đến và nàng sắp mở cửa, thì chàng đã nhanh chân quay về.

Nhưng góa phụ tình cảm sinh dạt dào, liền đi đến trước phòng chàng, gõ cửa... ngay lúc này nội tâm nàng lại lên tiếng, trách mắng nàng: Không nên thất tiết, thế là nàng bèn quay về.

Cứ thế, bọn họ cứ đi tới, đi lui... như vậy ngót mấy bận.

Lần cuối cùng, chàng thư sinh đứng dậy mở cửa.

Hai người đứng đó, nửa tiến nửa lùi, lòng vừa muốn vừa không, dùng dằng chưa quyết.

Ngay lúc chưa ngả ngũ ra sao, họ cứ dằng co nửa muốn phạm, nửa không... thì bỗng nghe trên không trung có âm thanh vang lên: Hai tên ngốc cà giựt này, thực ra bọn mi có muốn phạm lỗi hay không vậy?

Báo hại bọn ta ghi ghi, xóa xóa trong sổ thiện ác đến nát nhừ rồi nè!

Âm thanh nói xong thì có vật gì được ném xuống, lúc này hai người đang ngồi trên giường, vừa nghe tiếng nói thì đã sợ phát run, vội lượm vật đó lên xem: Té ra là cuốn "Sổ ghi công tội", trong có đề rõ tên bọn họ:

"XX số ấn định là Trạng nguyên năm nay, phạm dâm bị loại công danh.

YY quả phụ đức hạnh, chết sẽ được thăng thiên, nhưng hiện tại phạm dâm...

Tiếp theo sau là những hàng chữ bị gạch xóa liên tục, ghi đầy như sau: "Phạm", "không phạm", "phạm" (rồi gạch bỏ) lại ghi tiếp "không phạm", "phạm", "không phạm"... suốt cuốn sổ ghi cứ ghi tới ghi lui như vậy và xóa sạch tơi bời, chỉ nhìn thôi cũng thấy rối nùi, vì vậy mà chư thần cũng phải nổi đóa, lên tiếng quát to".

Hai người này vừa xem qua, vội vã bỏ về phòng mình.

Từ đó chẳng còn ai dám khởi dâm niệm hay muốn phạm lỗi chi nữa.

Phần chư trưởng bối ngày xưa, mỗi khi kể cho con cháu nghe câu chuyện này, họ luôn khẳng định: "Tà dâm bị tước công danh, triệt hết phúc, lộc, quyền... là có thực".

Vì vậy mà vào thời xưa, các con em thuộc dòng dõi thư hương đều được nghe kể câu chuyện này để cảnh giới, tự giữ phẩm hạnh mình như ngọc quý.

Có học vấn tốt, thì đạo đức phẩm hạnh cũng phải cao tột, không thiếu sót... mới lấy được công danh.

Xét người thế tục mà còn phải như vậy thì đã là kẻ xuất gia, ta cần phải chú ý đến điểm này hơn nữa.

Vì một khi phạm giới dâm thì: Phúc báu, thọ mệnh, công đức... gì cũng bị tiêu ma, cho nên các tu sĩ phải hết sức cẩn thận!

Trích dịch từ "Giới học Thiển Đàm"

THẦN THỔ ĐỊA

Thổ địa được tôn là "Phúc đức chánh thần", danh xưng này kết hợp bằng bốn từ, chẳng dễ dàng có hay tùy tiện tôn đại.

Phần đông những người kém hiểu biết còn lầm Thổ địa với Thần tài, nhưng thực sự không phải thế.

Là Thần Thổ địa thì phải hội đủ bốn điều:

1.

Phải có đủ phúc báu.

2.

Phải có đức hạnh.

3.

Phải thuộc chánh đạo (không tà).

4.

Phải là Yếu thần (tức là vị thần rất quan trọng, không thể xem thường).

Trong kinh Địa Tạng phẩm mười từng nhắc và xác nhận: Nếu người nào ăn chay, tu tốt... thì thần Thổ địa rất hoan hỉ, luôn hộ vệ trú xứ đó hạnh phúc bình an.

Bạn không nên cho rằng mình qui y rồi, thì thành bậc chánh tâm, có phúc báu đức hạnh tốt, cao hơn và vượt xa tất cả.

Xin bạn hãy nhớ câu này: "Đạo cao long hổ phục, đức trọng quỷ thần khâm!".

Bạn phải có đủ đức hạnh tốt, thì quỷ thần mới khâm phục.

Nếu đức hạnh thiếu, quỷ thần sẽ khinh chê bạn.

Mà quỷ thần dù là hạng thấp nhất đi nữa, họ cũng có ngũ thông, còn chúng ta thì chẳng có thông nào.

Điều mà chúng ta cần có là đức hạnh và lòng khiêm cung.

Nếu ta tu mà có tâm cao ngạo, khinh rẻ quỷ thần hay bất cứ chúng sinh nào, thì chẳng xứng đáng là kẻ học Phật chân chính.

Đại sư Thánh Nghiêm từng kể câu chuyện:

Khi ngài và đệ tử ở Pháp Cổ Sơn, lúc đi trên đường có ngang qua một miếu Thổ địa nọ.

Ngài bèn bước vào xá lễ.

Vị đệ tử thấy vậy hết sức bất bình, nói liền:

- Thưa sư phụ, đây đều thuộc phe đảng của Diêm la vương, chẳng nên dây dưa... là người học Phật sao có thể xá lễ quỷ thần kia chứ?

Ngài Thánh Nghiêm đáp:

- Người học Phật đối với tất cả chúng sinh cần phải có tâm khiêm cung.

Ta lễ kính là vì ông Thổ địa đây cũng là bậc đức cao hạnh quý, hộ trì một phương.

Nói xong hai người lại tiếp tục đi, nhưng chuyện xảy ra sau đó rất lạ: Khi họ đi qua một thửa ruộng, thì anh đệ tử không cẩn thận bị té nhào xuống, hạ thể dính đầy bùn, lại bị lún càng lúc càng sâu, không thể nào thoát ra được.

Ngài Thánh Nghiêm lập tức hiểu ngay, mỉm cười bảo đệ tử:

- Con hãy mau mau hướng về ông Thổ địa sám hối, nói: Là Đại thần chẳng nên chấp nhất lỗi người nhỏ mà chi.

Đệ tử làm y lời, thì chân liền bước lên được.

Chuyện này là có thực, phải biết vị được làm Thổ địa không phải là chuyện dễ, ít nhất lúc còn sinh tiền, đã tạo rất nhiều phúc thiện, đức hạnh cao, làm lợi cho một cõi bá tính.

Thế nên sau khi chết rồi, căn cứ vào phúc đức, phẩm hạnh sâu dày... mới có thể làm thần Thổ địa.

Vì vậy bạn không nên xem thường công đức của Thổ địa, Thần Thổ địa cũng hộ pháp.

Thí như bạn đến một địa phương nọ, tại địa phương này: Của người thì người quản, của quỷ thần thì quỷ thần quản.

Mà cai quản chư quỷ thần đây, một số là Thần hoàng, Thổ địa...

Bạn nghĩ xem, nếu như chúng sinh cõi quỷ không ai quản, chẳng phải chúng sẽ làm loạn lên cả hay sao?

Trong chùa có thờ cúng Già Lam Bồ tát, hằng ngày đều tán tụng, vị này cũng giữ việc quản lý quỷ thần, hộ trì an ninh cho các ngôi tự viện.

Là người học Phật, đối với mọi người cần có tâm khiêm cung lễ độ.

Hướng nữa là đối với vị Phúc đức chánh thần?

Về điểm này bạn phải nhớ cho kỹ, không nên nghĩ rằng: Ta qui y rồi, thì xem thường tất cả.

Đã qui y rồi, nếu nhìn thấy ông Thổ địa thì vẫn nên xá chào, để tỏ lòng cảm tạ ngài đã hộ trì địa phương, khiến phong điều vũ thuận.

Cần nên cảm ân và học tập theo gương tốt của Thổ địa, vì ông đã làm việc phúc thiện cho bá tính cả một vùng.

Hành xử khiêm cung lễ độ như vậy mới là tô bồi thêm phúc đức cho mình.

Điểm này rất quan trọng, không nên quên.

Qui y Tam bảo: Là quy hướng, nương về Tam bảo, còn cung kính đối với Thổ địa, là cảm ân ông.

Phải biết chuyện xá lễ tuyệt đối không thể thay thế cho qui y, không phải là qui y ông.

Sống phải biết cung kính và cảm ân, đây chính là phẩm đức và nhân cách cần có của con người, chúng ta không nên kiêu căng khinh mạn, vì cống cao ngã mạn là điều đại kỵ đối với người học Phật.

Mỗi vị Phật đều có danh hiệu biểu trưng như: Phật là Vạn đức trang nghiêm, Bồ tát Quan Âm là Từ bi, Bồ tát Địa Tạng là Hiếu thuận, ngài Văn Thù là Trí tuệ, thần Già lam là Trung nghĩa, còn Thổ địa thì là phúc đức chánh thần vì ông có phúc báu lẫn đức hạnh.

Chúng ta xá chào Thổ địa, không phải để cầu xin chi, mà chỉ là muốn làm giống như ông, học hạnh phụng hiến, muốn biểu lộ lòng cảm ân, tri ân ông mà thôi.

Thế nên, mọi người phải khéo tu và quan tâm bảo vệ chánh pháp, Đạo tràng.

Quý vị hành trì kinh Địa Tạng, thì nên cung kính cảm tạ Thần hoàng, Thổ địa, đó là thể hiện lòng tri ân.

Sư Quảng HóaVẤN XUYÊN ĐẠI ĐỊA CHẤN

Cả đời tôi tin sâu hai điều:

1.

Nhân quả Phật giảng chân thật không dối, người ta thực sự có bị báo ứng nhân quả.

2.

Có những cảnh mắt thịt chúng sinh không nhìn thấu nhưng vẫn hiện hữu và người học Phật chân chánh có thể cải đổi vận mệnh.

Tôi muốn nói rằng: Không có việc gì vô duyên vô cớ xảy ra.

Xin lấy chuyện chồng và con gái tôi mà nói, nhân duyên rất xấu.

Cho dù tôi học Phật nhiều năm, song vẫn khó thể buông xả, cắt đứt.

Trong giấc mộng mới đây, tôi mơ thấy có một kiếp mình là tú tài nghèo, đã có vợ rồi, nhưng vì muốn cưới vợ bé mà ruồng bỏ vợ lớn.

Con gái hiện nay của tôi vào kiếp trước là thiếu nữ, từng bị tôi cưỡng bức.

Cô ta căm giận nói: Tôi thù ông đời đời kiếp kiếp, nguyện sẽ làm ông tiêu tan tất cả...

Tỉnh dậy tôi ngẫm kỹ, thấy quả đúng không sai.

Đời này tôi mang thân nữ, lo nhà cho chồng xong thì chia tay.

Hiện nay chồng và con gái đối với tôi lạnh nhạt như người dưng, họ chỉ liên hệ khi cần tiền, ngoài việc đó ra, thì chẳng thèm để ý đến tôi.

Những chuyện xảy ra cho chính bản thân tôi đều là có thực.

Hôm nay tôi kể ra chỉ mong rằng những ai hữu duyên xem đến bài viết này, sẽ cảnh giác, nhất tâm nhất ý sám hối tu hành, làm theo lời Phật dạy, chọn pháp môn tu thích hợp căn cơ mình, hành cho thấu đáo để giải thoát xa lìa khổ đau.

Riêng bản thân tôi tu pháp môn niệm Phật.

Cha mẹ tôi qua đời rồi tôi mới biết đến Phật pháp, ở công ty cha mẹ của tôi luôn được mọi người ca ngợi là hiền lành, trung thực, tốt bụng.

Nhưng mẹ tôi đến 57 tuổi thì chết vì bệnh ung bướu thực quản, phụ thân tôi lúc 63 tuổi thì bị gãy xương chân dẫn đến bại liệt và qua đời.

Song thân tôi đồng mất trong một năm, chỉ cách nhau ba tháng.

Sau khi cha mẹ tôi mất, đã để lại cho tôi rất nhiều đả kích.

Khiến tôi hầu như sống không bằng chết, có một thời gian tôi rất muốn chết luôn theo họ.

Trong tình huống tinh thần suy sụp như thế, tình cờ tôi biết đến Phật pháp (thực là tri ân).

Khi đó sư huynh khuyên tôi nên tụng kinh Địa Tạng, tôi nhất tâm nhất ý thực hành, không có bất kỳ tạp vọng nào khi tụng kinh.

Tụng đến chỗ nàng Quang Mục độ mẫu thân, tôi cảm động vì lời thệ nguyện lớn lao của nàng, nên lệ tuôn đầm đìa...

đồng thời lòng như dao cắt, khi nghĩ đến song thân.

Đau đến không muốn sống.

Sau đó tôi mơ thấy Bồ tát Quan Thế Âm bảo tôi:

- Con đừng buồn thái quá, cha mẹ con lâm bạo bệnh qua đời là do nghiệp lực chiêu cảm...

Bỗng nhiên tôi hiểu ra: Do cha mẹ tôi sát sinh quá nặng.

Mẹ tôi ưa giết gà, còn cha tôi ưa bắt cá, bắn chim.

Trong kinh Địa Tạng đã tả đủ tướng trạng và tội nghiệp của người, trong đó có cha mẹ tôi.

Lúc chưa biết Phật pháp tôi cũng đã đích thân chứng kiến.

Lúc đó tôi còn cho là có lẽ do bệnh nằm lâu trên giường, bị tiêm thuốc mãi nên phát sinh ảo giác.

Nhưng thực ra không phải thế.

Đến sau này khi tôi tụng kinh Địa Tạng thấy tả cảnh oan gia trái chủ giả biến làm thân nhân người mất, đến dẫn dụ họ ra đi... thì tự dưng đầu óc bừng tỉnh và hiểu ra.

Thậm chí những việc hồi nhỏ tôi đều nhớ lại rõ hết giống như xem cuộn phim chiếu trên màn bạc vậy.

Tụng kinh Địa Tạng đến ngày thứ ba, tôi lại nằm mộng thấy Bồ tát Quan Âm bảo:

- Cha con đã đến Tây phương, nhưng mẹ con thì còn hiện tướng: Thân trên là người còn thân dưới có một chân là dê, một chân là bò...

Nguyên là mẹ tôi hồi còn sống ở thế gian rất ưa ăn thịt bò, dê, còn hay giết gà.

Bà bị bướu thực quản phải mổ, xem như bà giết gà thế nào thì khi mổ giống thế ấy, cổ bị rạch 10cm, bụng cũng bị mổ... thảm đến chẳng nỡ nhìn.

Cha tôi hồi còn sống ưa bắt chim trói chân chúng lại.

Ngày nọ ông té từ trên cao xuống đất khoảng cách chỉ độ một mét, vậy mà bị gãy chân, dẫn đến liệt não, khổ hết chỗ nói.

Sở dĩ tôi kể lể dài dòng, là vì muốn chư vị hiểu rõ: Ai được nghe Phật pháp là có phúc duyên rất lớn, hãy dốc lòng tha thiết tín, nguyện, hành... và đem lòng tri ân tự biết lỗi sám hối, chân thành tu niệm.

Còn một việc nữa, trước đêm Vấn Xuyên bị đại địa chấn, tôi nằm mơ, thấy rất đáng sợ:

Có Thiên nhân phẫn nộ nói:

- Bọn các ngươi, những tội sát, đạo, dâm, vọng, không ác nào mà không làm.

Kể cả kẻ tu học Phật mà tâm miệng chẳng tương ưng, phải để cho các ngươi tự nếm ác quả của mình!

Nói xong, một chân thiên nhân tung ra đạp chết rất nhiều người, đá sập rất nhiều nhà.

Bàn chân ông to khổng lồ, định tiến tới giẫm đạp tôi.

Tôi phát hoảng, vội cầm miếng giáp sắt màu trắng che trên đỉnh đầu, miệng liên tục niệm Nam mô A Di Đà Phật và thoát nạn.

Tỉnh dậy, mồ hôi tuôn đầy, nghe ngoài đường con chó đối diện sủa rất ghê.

Tôi lập tức ngồi bật dậy đọc câu: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng"...

để tự trấn an mình.

Nào dè trưa hôm sau Vấn Xuyên xảy ra động đất.

Điều thứ ba là, lúc tôi học Phật có một dạo hay chạy đông rảo tây.

Đối với việc tu học và pháp môn niệm Phật sinh thối tâm... nên có lúc muốn buông hết, bỏ không tu nữa.

Nào dè tối đó tôi nằm mộng, thấy Phật Thích Ca bảo:

- Con phải kiên tâm!

Tây phương có Cực lạc, có Phật A Di Đà!

Nói xong đưa tay chỉ... tôi liền thấy Phật A Di Đà tỏa ánh kim quang chói lọi chiếu đến tôi, giữa không còn xuất hiện hàng chữ vàng thật to, trên viết mấy chữ: Tây phương có Cực lạc!

Tây phương có Phật A Di Đà!

Qua đây, tôi muốn nói: Nhân quả không hư dối.

Kinh Kim Cang từng ghi: Lời Như Lai là chân ngữ, thật ngữ, bất dị ngữ!

- Quả đúng như vậy.

Hôm nay tôi kể những việc này, theo Phật pháp giảng là không nên nói ra, nhưng do tôi thấy rất nhiều chúng sinh học Phật chỉ chú trọng hình thức mà chẳng thực tu, trong lòng rất đau xót.

Phật pháp không dễ gặp, không dễ được nghe, thân người cũng khó được, ai được nghe, được biết đến Phật pháp... thì có thể nói là nhiều đời nhiều kiếp họ đã trồng căn lành chính muồi nên mới được gặp Phật pháp.

Đã gặp rồi thì nên tu tốt để báo đáp Phật ân.

Nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả, cầu cho tất cả oan thân trái chủ những chúng sinh bị hại, đời này tâm hận chấp tiêu trừ, phúc huệ tăng trưởng, sớm vãng sinh thiện đạo.

Cư sĩ Viên Chiếu

Nữ sĩ Viên Chiếu tụng Kinh Địa Tạng đạt hiệu quả rất mau, vì cô không khởi tạp niệm.

Khi tụng đến chỗ nàng Quang Mục độ mẫu thuân, cô cảm động, vì lời thệ nguyện lớn lao của nàng, lệ tuôn đầm đìa, lòng như dao cắt khi nghĩ đến song thân.

Đây là hiếu tâm và sự đồng cảm với tâm tình của nàng Quang Mục, do vậy mà chiêu cảm Bồ tát Quan Thế Âm báo mộng, mô tả rõ cảnh trạng hiện thời của song thân cô.

Đây là lý do vì sao có người mới tụng vài bộ thì đạt cảm ứng liền, có người lại chẳng thấy chi, là do có đủ thành tâm hay không thôi.

Điểm thú vị là Kinh Địa Tạng tuyên dương ca ngợi Bồ tát Địa Tạng và giảng rõ công hạnh, thệ nguyện của Ngài, nhưng lần này vị Bồ tát báo mộng lại không phải là Bồ tát Địa Tạng, mà là Bồ tát Quan Âm, chứng tỏ chư Bồ tát luôn hỗ tương liên kết, không hề phân biệt, đùn đẩy trách nhiệm như phàm nhân.

Phật ký thác chúng sinh cõi Ta bà cho Bồ tát Địa Tạng và yêu cầu Bồ tát phải độ cho chúng sinh không đọa ác đạo cho đến khi Bồ tát Di Lặc (đương lai Phật) giáng trần.

Đây là một trọng trách cực kỳ khó.

Vậy mà Bồ tát Địa Tạng vẫn hứa...

Phật từng xác nhận: Ngài và chư Bồ tát hóa thân trăm, ngàn, ức... vào cõi Ta bà độ chúng sinh.

Chắc chắn Bồ tát Địa Tạng vẫn phải tiếp tục độ chúng sinh như lời đã hứa với Phật, mà cách tốt nhất giúp chúng sinh không đọa cõi ác là giúp họ hiểu nhân quả để hành đúng chánh pháp, biết tự bảo vệ mình.

Có điều, khi chúng ta được tiếp xúc với hóa thân Bồ tát Địa Tạng, ta vẫn không hề hay biết và chẳng nhận ra.

Song cũng rất dễ nhận ra Bồ tát, vì bất cứ ai gặp ngài hay ở xa mà nhận được lời dạy của ngài, thì đều có chung một điểm là:Lực tỉnh giác mãnh liệt, tinh tấn tu, dũng mãnh nguyện dứt ác tu thiện, bỏ mặn ăn chay, nghiêm trì giới luật, chặn đứng con đường sa vào ác đạo ngay trong hiện đời.CHỊ CỦA ÍCH TÂY

Bài này là nguyên tác của A Minh, thuộc bên Phật giáo Tây Tạng.

Kể về một phụ nữ tự sát.

Thông thường những người tự sát đều đọa địa ngục, nhưng nhân vật nữ trong đây không những chẳng đọa địa ngục mà còn chuyển sinh làm nam, xin chuyển đến quý vị làm tư liệu nghiên cứu.

Trong giới luật Phật chế, không những cấm tự sát, mà còn luôn nhấn mạnh: Tự sát là tội cực kỳ nặng.

Người tự sát, lúc chết thân tâm mang nhiều thống khổ, tạo thành cừu hận... vì những niệm này mà sau khi tự sát rồi: Nếu phúc mỏng, phải sa vào địa ngục, thọ đại thống khổ.

Những người có hành vi tự sát ngay trong đời này, là đã gieo hạt giống tự sát vào tàng thức, tạo thành tập quán, nên có thói quen ưa tự sát, khiến tương lai đời đời kiếp kiếp họ rất dễ dàng tái lập hành vi tự sát, hơn nữa kiếp sống nào cũng bị quả báo mang nhiều bệnh, đoản thọ vì tội không biết quý sự sống mình từng có được.

Trong bài này, người tự sát là chị của Ích Tây, chị ông từ khi phát hiện ngực mình có khối u, khi đến y viện khám mới hay là ung bướu ác tính thời kỳ đầu, bắt buộc phải phẫu thuật.

Nhưng do y viện không đủ điều kiện nên phẫu thuật không thành công mà còn dẫn đến hậu chứng viêm nặng, sau đó bệnh phát tán dữ dội.

Chị ông chữa trị một thời gian rồi, do không chịu nổi bịnh đau và thống khổ hành hạ, lại vì bệnh này mà khiến kinh tế gia đình càng thêm khó khăn, cùng đường, chị treo cổ chết.

Ích Tây mỗi lần kể lại chuyện này tỏ ra rất thương tâm.

Ông đã mời thỉnh rất nhiều cao tăng người Tạng lẫn Hán, liên tục tụng kinh cầu siêu cho chị mình.

Do tôi và Ích Tây có duyên lành, may mắn được quen nhiều vị có thần thông, vì vậy ông đã nhiều lần hỏi họ về việc chuyển thế đầu thai của chị mình.

Kết quả, mỗi lần hỏi đều có đáp án trùng khớp nhau đến ngạc nhiên.

Trong đây có vài lần tôi tận mắt chứng kiến.

Vì muốn cho quý vị có tư liệu tham khảo nên tôi không ngại mình vụng về thiển lậu, xin ghi ra đây để chia sẻ.

Do chuyện này xảy ra đã khá lâu, nên khi thuật lại khó đầy đủ chi tiết, nhưng điểm chính là việc này hoàn toàn có thực, ngàn chân muôn thực!

Lần thưa hỏi vị thần thông thứ nhất:

Tôi quen nữ Lạt ma này, nên đã xin bà cái hẹn để dẫn Ích Tây tới gặp, giúp ông giải tỏa những điều thắc mắc.

Dù Ích Tây nghe tôi giới thiệu rồi, song vẫn có chút hoài nghi về năng lực của vị này.

Gặp nhau xong, qua một hồi thưa hỏi, ông mới tin vị này thực sự có thần thông.

Thế là ông hỏi việc chuyển thế của chị mình.

Sau một hồi quán sát, vị Sư nữ này tả rõ tình huống chuyển thế của chị ông.

Mặc dù tôi có mặt tại đó, nhưng thời gian tính đến nay đã quá lâu, nên quên hết các tình tiết tỉ mỉ.

Tôi chỉ nhớ rằng vị này nói chị của Ích Tây đã chuyển thế đầu thai đến một gia đình có sáu người, hiện là một bé trai hai tuổi, còn tả rõ nhà đó có mấy phòng, không phải nhà lầu, xây nơi sườn núi và có một con sông gần đó, tương đối bà mô tả rất kỹ.

Nghe vậy Ích Tây nửa tin nửa ngờ.

Bởi lúc chị ông chết người trong nhà không kịp báo tin cho ông hay, phải một thời gian lâu ông mới biết.

Ích Tây nghĩ rằng chị mình treo cổ chết, hơn nữa suốt 49 ngày người nhà không có mời Đại đức Cao tăng siêu độ, như vậy theo lý đương nhiên thì phải vào địa ngục, không thể nào có chuyện chị chẳng vào địa ngục mà còn được chuyển sinh làm nam.

Tôi bèn biện bác:

- Cho dù anh biết hung tin chị mất rất muộn, nhưng cũng đã tận lực tụng kinh cầu cho chị, nên nhờ vậy mà chị được siêu thoát.

Hơn nữa số tuổi đứa bé tái sinh kia rất ứng hợp với thời gian sau khi chị anh mất.

Nhưng Ích Tây vẫn không chịu thừa nhận.

Anh khăng khăng nói là mình tu hành không giỏi, cho dù có tụng kinh cầu siêu thì cũng không có uy lực mạnh như thế.

Tôi phản đối: Người tụng kinh có thể kém công đức, nhưng uy lực kinh điển Đại thừa là vô biên, hơn nữa nghiệp duyên không thể nói hay suy lường được, chị anh chẳng vào địa ngục mà chuyển sinh làm nam cũng không phải là chuyện khó tin.

Hơn nữa anh cũng có mời chư tăng Hán, Tạng cầu cho mà...

Nhưng Ích Tây vẫn còn băn khoan.

Lần hỏi thứ hai:

Sau đó hai năm, tôi và Ích Tây lại tìm hỏi một vị thuật sĩ Lạt ma Kiên Tán.

Ông này sau một hồi quán sát đã cho đáp án giống y như lời vị nữ Lạt ma trước đây đã nói, nhưng ông mô tả tỉ mỉ hơn.

Có điểm khác biệt là bé trai kia giờ đã tăng thêm hai tuổi (do hai năm sau Ích Tây mới thưa hỏi tiếp).

Lần này Ích Tây rất kích động, anh đã bắt đầu tin về tình huống chuyển sinh của chị mình, nhưng anh vẫn nói với tôi: Phải thỉnh một vị Thượng sư tu Kim Cang thừa quán sát giùm cho lần nữa, thì anh mới yên lòng.

Lần thứ ba: Thỉnh vị Phật sống Kagyu trứ danh cầu mộng quan sát.

Chúng tôi quen với một vị Lạt ma nổi danh ở huyện lân cận, kiếp trước ngài là một Rimpoche vô cùng nổi danh ở đất Tạng hầu như ai cũng biết.

Mặc dù đời trước Ngài có học thức vô cùng uyên thâm, nhưng ngài lại nổi tiếng về thần thông cao tột.

Đời này ngài tái sinh, xuất gia học pháp tu trì, sự nghiệp độ sinh vô cùng sung mãn, vẫn hiển lộ nhiều chuyện thần kỳ.

Tôi và Ích Tây rất có duyên lành với ngài, hơn nữa ngay lần đầu Ích Tây đến bái kiến Thượng sư, thì đêm trước đó ngài đã mơ thấy một điềm lành.

Chúng tôi ngụ tại chỗ Thượng sư mấy tháng, cùng học Tạng ngữ và giúp ngài về Hán ngữ.

Hôm nọ, Ích Tây thu hết can đảm, hỏi Thượng sư về việc chuyển thế đầu thai của chị mình.

Phải nói là Ích Tây rất có duyên lành nên được Thượng sư đặc biệt quan tâm.

Tối đó ngài nhập mộng quan sát...

Sáng ra, ngài truyền thị giả kêu tôi và Ích Tây vào phòng mình rồi dịu dàng thuật lại tình huống chuyển sinh của chị Ích Tây, về căn bản thì cũng giống như hai lần trước.

Có khác chăng là Thượng sư giải thêm cho Ích Tây hiểu: Do bé trai (hậu thân của chị ông) kiếp trước tự sát chết, nên đời này sẽ phải chiêu láy hậu quả bị nhiều bệnh hoạn, đoản thọ.

Vì vậy Ích Tây cần phải tụng kinh và phóng sinh thật nhiều để hồi hướng cho chị, may ra mới có thể hóa giải tình huống bất lợi kia.

Cuối cùng Thượng sư nói, chỗ của chị ông chuyển thế, cư ngụ rất gần nhà Ích Tây.

Ngài mỉm cười hỏi Ích Tây:

- Con có muốn đi tìm gặp bé trai là chị mình chuyển sinh hay không?

Lần này Ích Tây đã hoàn toàn tin vào việc đầu thai vào cõi thiện của chị mình, hơn nữa đối với Thượng sư còn phát sinh niềm tin vô hạn, anh xin được thọ giáo, học pháp với ngài.

Thượng sư bèn quán sát căn cơ và nhân duyên Ích Tây, rồi truyền cho anh pháp "Bổn tôn" phi thường thù thắng, sau đó ngài giới thiệu anh đến thọ giáo với một vị Lạt ma thành tựu đại viên mãn.

Thực không ngờ, vị thầy mà Ích Tây đến thọ pháp lại chính là sư Kiên Tán.

Thực ra còn có mấy vị Thượng sư khác nữa cũng đều giải rõ chuyện này nhưng tôi chỉ kể bao nhiêu đây thôi.

TỰ SÁT ĐỌA CÕI ÁC

Thượng sư Đặc-ni được công nhận là một vị hóa thân thù thắng, công phu cao, thành tựu đại viên mãn.

Thời thanh niên ngài trường kỳ bế quan khổ tu, chứng thực kiếp trước giác tỉnh tròn đầy.

Bề ngoài ngài làm ra vẻ như là kẻ phong điên, nhưng có đủ thần thông tự tại.

Ngài thường đem giáo pháp làm lợi chúng sinh hữu duyên.

Mặc dù có thần thông nhưng ngài không hiển lộ cẩu thả, chỉ khi quán sát cơ duyên kỹ càng rồi, ngài mới thực hành bi hạnh lợi sinh.

Thế nên, dù có nhiều người thỉnh ngài quán sát vị lai hay các nhân duyên khác, ngài thường dịu dàng từ chối, lấy cớ mình là phàm phu, không rành việc ba đời và giải thích rằng tất cả đều do nghiệp quá khứ đã chín muồi nên trổ quả, cần thản nhiên gánh lấy... và chân thành cầu Tam bảo gia trì cho tất cả vô ngại.

Nhưng khi gặp nhân duyên thù thắng, thì ngài cũng tùy cơ tiết lộ, làm lợi cho chúng sinh hữu tình.

Bây giờ tôi xin ghi lại sơ những điều mình đích thân chứng kiến cảnh ngài dùng trí tuệ cao thâm quán sát nhân quả ba đời...

để chia sẻ cùng mọi người.

Đầu tháng 6 năm 2000, ngài được mời đến Trung Quốc hoằng pháp, tạm trú vài ngày ở Thành Đô.

Được vô số tín chúng đến bái kiến, thỉnh giáo.

Ngài không nề mỏi mệt luôn đáp ứng cho họ mãn nguyện.

Một chiều nọ, có cô X khoảng tuổi trung niên, đến bái kiến thưa thỉnh, cầu ngài quán sát xem dùm tình huống chuyển sinh của thân mẫu đã quá cố...

Cô x kể rằng vao năm 1994, do gây cãi trong gia đình, mẫu thân cô uống thuốc độc tự sát.

Khi đó cô chưa biết Phật pháp, chưa qui y Tam bảo.

Do chẳng hiểu đạo nên không kịp thời làm siêu độ cho mẫu thân.

Mấy năm sau cô mới qui y Tam bảo, học hỏi giáo lý Phật và biết được người tự sát đa phần đều phải đọa địa ngục, do vậy trong lòng hết sức lo âu, nên khẩn cầu ngài quán sát siêu độ giùm.

Sau khi tôi phiên dịch cho ngài nghe xong, ngài khai thị:

- Ta là phàm phu, không thể quán sát mẫu thân con hiện thời ở đâu.

Nhưng nếu con phóng sinh năm trăm mạng, ta sẽ phụ gia công tu trì hồi hướng, người chết ắt có thể vãng sinh cõi lành.

Cô X nghe dạy, cảm ân vạn phần, không ngừng hướng ngài đảnh lễ, mắt tuôn lệ đầm đìa.

Có lẽ nhờ hiếu tâm chiêu cảm, Đại sư bỗng thốt ra lời giải rõ việc chuyển sinh của thân mẫu cô.

Té ra mẫu thân người Ấn Độ của cô, sau khi tự sát rồi, lập tức đọa vào cõi ác, sinh làm độc xà.

Cứ thế trải qua nhiều kiếp sinh sinh, tử tử... bà vẫn làm độc xà, chưa từng thoát ly thân rắn.

Sau này, nhờ người nhà thỉnh Tăng chúng siêu độ cho, nên mẫu thân cô trong thời gian ngắn, tạm thoát kiếp độc xà, được chuyển sinh vào cõi lành.

Nhưng do thiếu thiện căn, chẳng được biết Phật pháp tu trì, nên bà lại đọa làm độc xà tiếp tục.

Cứ thế mang thân rắn tới lui rất nhiều lần.

Kỳ này Đại sư đặc biệt hứa sẽ tụng kinh gia trì, hỗ trợ bà vãng sinh Tịnh độ.

Ngài còn dặn dò cô X nhất định phải tạo phúc: Phóng sinh, tụng kinh... hồi hướng cho mẹ.

Tôi phiên dịch lời ngài dạy cho nữ sĩ nghe, cô phi thường cảm kích, xác nhận: Sư nói về mẹ cô như thế là rất đúng.

Bởi vì, lúc mẫu thân qua đời, cô vẫn chưa qui y, mãi đến 2005 mới bắt đầu qui y.

Qui y xong thì cô đã nhiều lần tại các chùa trên đất Hán tổ chức Đạo tràng Thủy lục để cầu siêu cho mẫu thân.

Sau đó cô thường nằm mộng thấy mẹ mình hiện tướng rất thống khổ.

Vì vậy trong lòng luôn lo lắng bất an.

Gần đây có lần cô nằm mơ thế này: Mới đầu thấy mình cùng mẫu thân đi dạo trên đại lộ, sau đó thì không thấy mẫu thân đâu, chỉ thấy có con đại mãng xà đang đẻ trứng bên đường.

Tỉnh mộng rồi, trong lòng cô càng thêm bất an khủng hoảng, sợ rằng mẫu thân đã đọa vào thân rắn.

Lần này nghe tin Đại sư tạm lưu lại Thành Đô, cô mạo muội đến thỉnh giáo.

Không ngờ may mắn được nghe ngài nói ra chuyện chuyển sinh của mẹ.

Đối với ân đức này, cô vô vàn tri ân và càng tăng thêm tín tâm.

Cô hứa sẽ làm theo lời ngài dạy, nỗ lực tạo phúc cho mẹ và xin được y chỉ Thượng sư, nương theo ngài tu trì thật tốt, để sớm thoát luân hồi, làm lợi chúng sinh.

Những người có phúc duyên hiện diện tại đó, sau khi nghe Đại sư giảng, đều phát sinh tín tâm đối với ngài và nhân quả ba đời, nguyện theo ngài, hành pháp tu trì.

Những điều tôi ghi thuật ra đây, đều có chúng cư sĩ tại hiện trường làm chứng, là chuyện chân thực không dối.

Giải thích thêm:

Có những cuốn sách do người khai mở thiên nhãn (bên Tây phương lẫn Đông phương) viết thuật, họ kể về cảnh giới của người tự sát sau khi chết rất thê thảm, có nhiều điểm giống nhau.

Nếu người tự sát biết rõ cảnh khổ khốc liệt đang đón chờ thì chắc chắn họ sẽ không dám tìm đến cái chết.

Kẻ tự sát sau khi chết rồi, phải nhận lãnh thống khổ to lớn gấp trăm lần khi sống.

Tất nhiên thông thường họ phải đọa địa ngục.

Nhưng do dương thọ chưa tận, đời này quả báo phải trả cũng chưa hoàn xong, nên quả báo càng chồng chất và họ phải tự gánh lấy, chưa kể còn có thêm tội bất hiếu và lỗi tự hủy hoại thân.

Sau khi người tự sát được định án xong, liền bị quỷ sứ đưa đến chỗ họ đã tự sát.

Nếu tuổi thọ họ là 70 mà 40 đã tự sát thì họ phải quay về địa điểm mình đã tự sát, hằng ngày tái hiện lại hành vi này, kẻ nhảy lầu thì mỗi ngày đều tại địa điểm đó tái hiện động tác nhảy lầu, nghĩa là phải diễn lại động tác đã tự sát của họ suốt ba mươi năm, cho đến khi hết dương thọ thì mới rời khỏi nơi đây và quay xuống địa ngục thọ báo, mãn kiếp thì lên làm súc sinh hoặc người không bình thường hay tàn tật.

Hơn nữa, họ còn bị nghiệp tự sát tiền thế một bề đeo đẳng khiến họ đời đời kiếp kiếp ưa tự sát, điều này rất đáng sợ, vì chủng tử tự sát đã đeo theo, ăn sâu vào tàng thức họ, vì vậy ngàn vạn lần bạn không nên tự sát, vì sẽ khổ vạn kiếp khó ngoi lên.

Lạt ma () Đỉnh Quả Khâm từng nói: Khi một người chọn tự sát, trừ việc thần thức phải đi theo ác nghiệp ra, họ tuyệt không có được lựa chọn nào khác, chưa kể họ có thể bị lệ quỷ khống chế, sử dụng lực sinh mệnh của họ.

Lúc sống, đa số người đều cho rằng: Chết là hết, là kết thúc, là giải thoát khỏi mọi thống khổ, họ hoàn toàn không biết rằng sau khi tự sát xong họ sẽ khổ khốc liệt, lúc này có hối hận thì cũng đã muộn.

Những vong tự sát rất khó có được cơ hội sinh làm người.

Bởi thân người khó được mà họ lại chẳng biết trân quý, tự đi tìm cái chết, phụ bỏ thân người, phụ bỏ cơ hội sống nhân nghĩa lương thiện, phụ bỏ ân dưỡng dục của cha mẹ.

Người tự sát còn gây ra nhiều ảnh hưởng xấu cho nhân gian, nên họ thường phải sinh vào cõi thú, không dễ mang thân người.

HƯỚNG PHẬT XIN CÔNG TÁC

Tôi học Phật được mấy năm, do gần đây con trai bị bệnh, tôi đã đem cháu đi chữa trị khắp nơi, nhưng vô hiệu.

Sau này tình cờ lên net nhìn thấy trang web "Tiểu Viện Sơn Tây" của Phật giáo, tôi bèn thỉnh một cuốn kinh Địa Tạng đem về nhà đọc, với hi vọng biết đâu may gặp thuốc hay có thể cứu được con.

Thế nhưng, vừa mới lật vài trang đã tháy quá khó, do văn tự nhiều, lại là chữ phồn thể, hơn nữa trong đây còn miêu tả rất nhiều loài quỷ thần hoàn toàn trái ngược với thuyết vô thần mà và quan niệm của thế giới hiện đại mà tôi từng học trong trường.

Đọc kinh không hiểu, nên tôi rất muốn nghe giải thích, vì vậy tôi bèn lên mạng tìm trang web giảng giải kinh của Pháp sư Tịnh Không, kể từ đó tôi được lợi rất nhiều.

Rõ ràng nhất là sức khỏe tôi được cải thiện tốt hơn, trước đây tôi theo phong trào giảm cân, ăn kiêng, nhưng không giảm mập, còn khiến bao tử, ruột... bị bất ổn, trong người nóng, sinh chứng bí tiểu, không còn khí lực, sức khỏe rất tệ.

Tụng kinh được mấy năm tôi thấy sức khỏe mình chuyển tốt hẳn lên, đặc biệt là bệnh của con trai, khi ở trong thành tôi vô phương chữa trị chứng co rút của cháu, lúc về quê thì tình cờ gặp một vị Đông y vô cùng hiền thiện, trải qua gần một năm chẩn trị, bệnh tình thằng bé hồi phục hết chín phần mười.

Đây cũng là động lực khiến tôi càng kiên trì tu học Phật.

Năm nay, vì lý do cá nhân, tôi nghỉ việc, ở nhà ngót sáu tháng.

Sau đó tôi quyết định đi tìm việc mới.

Nhưng một kẻ không có sở trường chuyên môn như tôi, lại ở vào độ tuổi trung niên, không có tài gì vượt trội lớp trẻ, nên tôi có cảm giác nếu không khéo sẽ bị xã hội đào thải.

Bởi vào những năm 2008, 2009 các thế hệ hậu bối nhân tài xuất hiện đầy, nên một phụ nữ trung niên như tôi, muốn tìm được công tác thích hợp không phải là chuyện dễ.

May mà tôi được nghe Phật pháp, gặp thầy chỉ dạy, nên hiểu tất cả đều là nhân duyên, vì vậy mà có thể quẳng gánh ưu tư để vui vẻ sống.

Trong lúc lên net tình cờ tôi nhìn thấy các pháp hữu, huynh đệ khác cũng đăng tin rao tìm việc, xem rất hay, lạ và thú vị, thế là tôi cũng bắt chước, tự thảo một tờ "Đơn tìm việc" như sau:

Tôi rất mong tìm được việc theo tiêu chuẩn:

1.

Chánh nghiệp, chánh mạng.

2.

Chỗ làm gần nhà, để có thời gian học Phật.

Xin phát nguyện:

1.

Mỗi một cử tâm động niệm, đều luôn cẩn thận, nguyện đoạn ác tu thiện, cầu sinh Tịnh độ.

2.

Hằng ngày xin tụng một bộ kinh Vô Lượng Thọ, niệm Phật từ một tiếng đồng hồ trở lên, lạy Phật trăm lễ.

3.

Nếu có được công tác rồi thì mỗi tháng sẽ trích ra 20% thu nhập dùng làm từ thiện, in ấn, phóng sinh, cứu bần v.v...

Tờ nguyện vọng công tác tôi viết giản đơn, bởi vì thấy mình không có phúc báu, nên chẳng dám đòi hỏi nhiều, chỉ mong được chỗ làm gần nhà, có thời gian chăm sóc gia đình và tu học thì quý rồi.

Tờ đơn tìm việc viết xong, tôi cứ theo công khóa ấn định trong đó mà thực hành.

Nếu có thông báo tuyển người, thì sẽ thấy trên mạng.

Hai tuần trôi qua, chưa có kết quả gì.

Đến tuần thứ ba, thấy trên mạng có nhà nọ thông báo tuyển dụng, nhưng xem lại điều kiện, tôi thấy không hợp với mình nên chẳng xin vào.

Lại mấy ngày trôi qua, có đơn vị nọ thông báo tuyển dụng, tôi thu hết can đảm viết "Đơn xin việc", gởi đi.

Nào ngờ được công ty hồi đáp, mời đến gặp mặt thử.

Sau đó tôi vào sở làm như hiện nay.

Sáng 9 giờ, chiều 5 giờ, chỗ làm cách nhà chừng 45 phút lái xe y như tâm nguyện mong muốn của tôi, vì đây là công tác giúp đỡ người, thuộc chánh mạng, chánh nghiệp.

Tôi nhớ đến lời Pháp sư Tịnh Không từng nói: Trong Phật môn "Có cầu tất ứng".

Nếu cầu bất ứng, vấn đề là do nơi chúng ta.

Hiện tại tôi đã đi làm việc được hai tháng rồi.

Xin cảm ơn chư Phật, Bồ tát, Long, Thiên, Thiện thần, cảm ơn chư Pháp sư đã hết lòng dạy dỗ con.

Đệ tử Tam bảo - 10/1/2016TÂM SỰ NGƯỜI VỢ

Bài tự thuật này là của Viên Viên hội viên đoàn Tâm Thượng Liên Hoa.

Chị ngày xưa đã trải qua kinh nghiệm thống khổ tận cùng.

Sau đó, may gặp thiện tri thức, chị phát tâm sám hối, tu trì, sửa lỗi và từng bước, từng bước mài luyện tâm.

Đến nay, chị hoàn toàn thay đổi, được "hoán cốt trùng sinh".

Sau đây là lời kể của chị:

1.

Tự làm tự chịu

Lúc còn là thanh nữ ở nhà, tôi sống rất bất hiếu.

Do phụ thân có tính nóng nảy, khi vui thì cư xử tốt với mẹ con tôi, nhưng hễ lên cơn giận thì không đánh cũng là quát tháo, mắng chửi...

Khiến tôi mang cảm giác sống không an toàn.

Tâm tư luôn bị áp chế kìm nén.

Do vậy mà tôi thường tránh mặt phụ thân.

Hiếm khi chịu trò chuyện cùng ông, hễ vừa thấy ông là tránh ngay, tôi không hề nghĩ đến cảm thọ của cha, không hề biết điều này sẽ làm ông tổn thương, khó chịu.

Sau này, từ An Huy tôi chuyển đến Thượng Hải sống và quen biết người chồng hiện tại bây giờ.

Mới đầu, hằng ngày chúng tôi nhắn tin cho nhau, bỏ nhiều thời gian trò chuyện qua phone.

Tình cảm ngày càng thắm thiết, hơn một năm thì kết hôn.

Kết hôn xong, tôi sống chung với ba mẹ chồng.

Mới đầu qua giai đoạn khách sáo rồi thì bầu không khí chuyên chế, hung hãn, áp bức, nghi ngờ... bắt đầu bủa quanh tôi.

Chồng tôi bận đi làm đến tối mới về, tôi đa nghi như Tào Tháo nên hay nghi thần nghi quỷ, không ngừng gọi điện cho anh.

Bây giờ nghĩ lại, đây cũng do tôi lớn lên từ gia đình có cảm giác không an toàn, lại thêm tôi chưa hiểu Phật pháp, quen chìm trong vô minh, không biết tỉnh giác kiểm soát tự ngã.

Tôi lúc đó rất lười nhác, tan sở về nhà thì lo ngủ, ngủ cho tới lúc ăn cơm, tôi vẫn không vui.

Bản thân tôi hễ cho ra chút gì là luôn muốn được nhận lại, không thu được chi thì ôm phiền vào lòng.

Có lần tôi còn đến công ty của chồng mách chuyện, không hề nghĩ mình làm như vậy sẽ tạo thành ảnh hưởng không tốt nơi đơn vị anh.

Chồng tôi rất tức giận, lại thêm những mâu thuẫn trước đây tích lũy, khiến anh rất khó khăn, kết quả: Đây là lần đầu anh đề nghị ly hôn.

Đương nhiên tôi chẳng đồng ý, mặc dù bên ngoài tôi giả bộ nhún nhường, nhẫn nhịn, nhưng trong lòng tôi rất tức giận, cảm thấy bọn họ (cả nhà chồng) đều có lỗi với tôi.

Đã cưới tôi về, vì sao không cho tôi vui vẻ?

Mặt mày tôi cả ngày u sầu, nhất là mỗi khi nhìn thấy mẹ chồng thì hận không được lập tức chạy về phòng đóng cửa lại ngay.

Lúc ăn cơm, chồng tôi là khó khăn nhất, vì phải ngồi giữa hai người đàn bà nghịch nhau nên sắc mặt rất khó coi.

Vì vậy mà anh về nhà càng lúc càng muộn, chuyên đi vắng, du ngoạn... ngày càng nhiều, khiến tôi oán khí trong lòng càng lớn.

Kết hôn được hơn một năm, tôi sinh ra đứa con gái.

Đây đúng ra phải là một việc hạnh phúc, nhưng những ngày tháng thống khổ của tôi lại bắt đầu.

Bởi vì đối với mọi sự tình, tôi luôn nhìn theo chiều hướng xấu.

Mẹ chồng chăm sóc tôi suốt thời gian ở cữ, bà có bệnh suy nhược thần kinh, tối hay bị mất ngủ.

Cha chồng còn phải đi làm, nên các việc trong nhà, bồng cháu, nấu nướng...

đều do bà lo.

Tôi còn oán bà buổi tối không chịu trông cháu.

Hết tháng ở cử rồi, tôi chăm sóc con, càng cảm thấy mẹ chồng chỗ nào cũng muốn gây khó dễ cho mình.

Hễ tôi xem ti vi, bà cố ý nghiêng người không cho tôi xem, tôi thay đồ cho con rồi, bà lại cố tình thay cho cháu bộ khác nữa.

Bây giờ nghĩ lại, thực sự những việc mẹ chồng làm là không có gì sai, tất cả đều do tôi quá nhạy cảm, quá đa nghi, tự mình suy diễn chủ quan thôi.

Lúc đó mỗi lần về nhà thăm cha mẹ ruột, tôi luôn than kể mẹ chồng và phu quân đối với tôi không tốt.

Mẹ tôi yêu con gái, nên bênh tôi và nghiến răng trách họ.

Cha tôi ở cạnh cũng nổi lôi đình theo.

Khi con tôi được sáu tháng, tôi đòi đi làm, đem con giao cho mẹ chồng.

Vì không muốn gặp mặt mẹ chồng nên tôi cứ "sớm đi tối về", chồng và con tôi đều chẳng quản, cuối cùng dẫn tới một ngày: Xung đột bùng phát, mẹ chồng thấy tôi cả ngày chẳng quản gia đình, cũng chẳng lo cho con, bà hết nhịn nổi, bèn tìm đến nhà tôi để mắng vốn.

Do trước đó tôi đã ca cẩm nhà chồng rồi, nên khi mẹ chồng tôi vừa vào tới cửa, thì mẹ tôi nổi đóa, gây cãi với bà, ầm ỹ tới mức đồ đạc bị ném tung ra ngoài.

Lần xung đột này mở màn cho chồng tôi cùng đứng lên bênh mẹ, anh kiên quyết yêu cầu ly hôn, hơn nữa còn cấm không cho phép tôi ngụ lại trong nhà họ.

Một mình tôi thuê nhà ngụ bên ngoài, con gái không thể gặp, chồng cũng không thấy đến, tôi còn phải đối diện với sự truy hỏi và tức giận của cha mẹ.

Lúc đó trong lòng tôi có hối hận, nên đã ngỏ lời xin lỗi với chồng.

Phu quân tôi rất tốt, anh cho tôi tiền thuê phòng, mỗi cuối tuần đều để tôi được gặp con gái.

Bây giờ nghĩ lại, mới thấy anh và mẹ chồng tôi thật là từ bi, khoan hồng độ lượng!

Duy chỉ lần này bất kể tôi cầu xin thế nào anh vẫn kiên quyết đòi ly hôn, hằng ngày tôi thui thủi một mình trong phòng thuê, ngồi khóc mướt, ngày nào cũng chỉ ngủ ba, bốn tiếng, khóc mệt thì ngủ, sau đó thức dậy thì tiếp tục khóc ướt đẫm chiếc gối.

Tôi nhớ con gái, trong lòng đau như dao cắt, đầu tóc tôi, chỉ mấy tháng mà bạc đi rất nhiều.

2.

Càng đi càng sai

Chìm trong mê muội thống khổ cực đoan, tôi bỗng nhớ tới Bồ tát Quan Âm cứu khổ cứu nạn, thế là vội đến chùa, chiêm lễ tôn tượng từ bi của Ngài, rồi thỉnh một tượng nhỏ của Ngài về thờ.

Hằng ngày đứng trước Ngài lễ bái.

Lúc đó tôi hoàn toàn không hiểu thế nào là tu hành chân chánh theo Phật pháp, chỉ nghĩ rằng lễ trước Ngài như vậy là tin Phật, Ngài sẽ chúc phúc cho tôi.

Không ngờ đối với một kẻ hiểu biết Phật pháp cạn cợt như tôi mà Bồ tát cũng rũ lòng xót thương gia hộ.

Ba tháng sau, chồng tôi nghe bạn bè khuyên giải, chẳng đòi ly hôn nữa.

Lúc đó tôi tuy có ý hối hận và mừng vui vì nguyện ước đạt thành, nhưng trong lòng vẫn còn nhiều điều chưa cam tâm, còn cảm thấy mình là kẻ bị hại, là một nàng dâu trẻ bị bên chồng ức hiếp đuổi ra khỏi nhà.

Tôi ở ngoài thuê nhà cư ngụ ngót ba năm, trong ba năm này, chồng tôi cũng thành ra ở hai chỗ.

Những tình tiết trong đây khó mà kể hết.

Sau ba năm, nhà cũ bên chồng tôi được phá bỏ, giải tỏa, di dời định cư, nên chúng tôi được chia một căn nhà.

Lúc đó tôi nghĩ: Bây giờ cuối cùng đã có thể không còn phải ngụ chung với mẹ chồng nữa.

Tôi không nhìn thấy mẹ chồng tóc ngày một bạc, hình dung tiều tụy, thân thể gầy ốm, đối với những gì bà đã hi sinh cho con trai.

Lúc đó tôi nghĩ rằng tất cả bất hạnh của mình là do bà tạo ra!

Thế nên tôi tự tạo nghiệt chướng hết chỗ nói.

Mang tâm tư đó, thì bi kịch chắc chắn phải xảy ra.

Trong thời gian sửa sang nhà mới, chồng tôi để tôi quản lý, phụ lo.

Nhưng tôi bất kể, tôi chỉ chăm chăm nhìn vào một điều là: Trên giấy tờ nhà có viết tên tôi hay không?

Chồng tôi nói muốn làm giấy tờ nhà thì nội giao tế chi phí cũng tốn mấy vạn, hiện tại anh chưa có đủ tiền, nên khuyên tôi hãy đợi mấy năm nữa hẵng làm giấy, không cần phải gấp.

Tôi nghe anh nói vậy rất tức giận, bắt đầu nghi ngờ anh, tôi không thèm nấu cơm cho anh ăn, hằng ngày chiến tranh lạnh, con gái tôi cũng không thèm quản.

Trong óc tôi toàn chỉ nghĩ: "Anh chẳng làm giấy tờ nhà chính là không thực lòng sống với tôi".

Càng nghĩ càng tức, ôm đầy sầu muộn, dường như khí giận khiến tôi bị ung bướu tuyến sữa.

Khi đi khám thì tế bào đã biến dị, phải chữa hóa trị đan xen.

Bác sĩ nói, để muộn sáu tháng sẽ khó trị.

Trong một lần chồng tôi muốn ăn cơm mà tôi không thèm nấu, nên xảy ra xung đột, anh nhịn hết nổi đã ra tay đánh tôi.

Tôi liền báo cảnh sát.

Sau đó tôi càng nghĩ càng uất, bèn đến "Hội phụ nữ" than oán mẹ chồng, do chẳng nghĩ đến hậu quả, trong lúc bực tức tôi tìm tới đài truyền hình rêu rao trên tiết mục hòa giải, kể oán mẹ chồng đủ điều, gây ra ảnh hưởng và tai tiếng cực xấu cho mẹ chồng.

Bây giờ nghĩ lại, đúng là lúc đó tôi không bằng cầm thú.

Thuở tôi và chồng mới quen nhau, anh từng khuyên tôi đi học kế toán và sắp xếp cho tôi đến công ty bà con anh để học, giúp tôi biết rành việc sổ sách.

Kết hôn rồi thì anh tài trợ cho tôi học Đại học Tài Chính.

Sau đó nhờ có mẹ chồng giúp trông con, nên tôi mới toàn tâm toàn ý học thành tài.

Khi mẹ ruột tôi bị bướu bao tử, chồng tôi đã lo giúp cho bà nhập viện, tìm bác sĩ hay chữa trị, mua thuốc (việc mua thuốc men lúc đó khó khăn, dù có tiền cũng khó mua được), mẹ chồng còn giúp tôi tìm phòng thuê hạ giá để cha mẹ tôi xuất viện rồi có thể cư trú an lạc.

Tất cả đều là đại ân đức, nhưng tôi đối với họ thế này...

3.

Gặp Phật pháp, được trùng sinh

Do vụ đứng tên giấy tờ nhà và con gái đi học mà tôi xảy ra tranh chấp không ngừng với chồng, cộng thêm những uất ức, oan khuất trước đó, nên trong cơn tức giận, không nghĩ đến hậu quả, tôi đã đến Pháp viện đệ đơn ly hôn.

Khi chồng tôi nhận được giấy tòa đòi, liền tìm tôi bàn bạc, nhưng tôi tránh mặt, chẳng thèm nói chuyện với anh.

Bây giờ hồi tưởng lại, lúc đó tôi thiệt vô minh hết chỗ nói.

Do tôi luôn có cảm giác không an toàn, cộng thêm bản tính hay cho mình là trung tâm, thực ra tôi cần tiền, cần nhà, cần con, chứ không hề muốn ly hôn, tôi chỉ muốn chồng quan tâm tới mình, nghe mình mà thôi.

Trong thời gian đó, tôi đúng là sống không bằng chết, nghĩ lại mình trước đây vốn là một cô gái thuần khiết, bị cả nhà họ áp bức đến nỗi biến thành như thế này!

Thế nhưng vì sao lại đến nước này?

Làm thế nào mới đúng?

Sâu thẳm trong đáy lòng tôi có cảm giác mình làm vậy là không đúng, nhưng lại không tìm ra đáp án.

Trong thống khổ mê muội, tôi lại đến chùa lễ Bồ tát, vẫn là giống như trước đây, tôi cứ khấu đầu lạy, cầu Bồ tát gia hộ, chỉ điểm phá mê.

Lần này tôi tiến thêm một bước là: Kết duyên cùng Phật kinh.

Một cuốn thiên thư không phải kinh Phật, ngay đó hấp dẫn tôi, ngoài bìa có đóa sen trang nhã.

Tôi nhìn rất ưa, đó là cuốn "Tâm thượng liên hoa thứ đệ khai" tập sáu.

Mỗi câu chuyện trong sách thu hút hấp dẫn tôi, khiến tôi đọc đi đọc lại ngót mấy lần.

Nhất là trong đây có một bài viết của người vợ có cảnh ngộ giống hệt như tôi nói lên nỗi niềm thức tỉnh giác ngộ, tự nhìn ra lỗi.

Tôi cảm thấy mình thua xa cô vợ kia, vì cô ta phản tỉnh thực là sâu sắc... tôi nghĩ đến những điều mình đã làm, lương tri bắt đầu thức tỉnh.

Sau khi về nhà, tôi ngồi kiểm điểm bản thân một hồi, rồi bật khóc to.

Lần này không phải là khóc vì oan khuất, mà vì cảm thấy mình có lỗi với người quá nhiều, thật quá nhiều đi!

Tôi là kẻ vô ân, những gì người làm cho mình thì luôn cho là lẽ đương nhiên, tôi sống không có trách nhiệm với cha mẹ ruột lẫn cha mẹ chồng.

Là con không tròn hiếu đạo, là vợ không tròn bổn phận... nhìn góc độ nào, tôi cũng đều không tốt!

Khi tôi nhận ra mình đã sai quá mạng, thì vội vàng đi rút đơn kiện lại.

Nhưng đã muộn, tôi vừa rút đơn thì chồng tôi cũng đã nộp đơn khởi tố, còn dứt khoát bảo tôi: Anh đã tha thứ cho tôi vô số lần, nhẫn nhịn tôi vô số lần, anh chịu đựng quá đủ rồi, nên kiên quyết ly hôn.

Bây giờ tất cả xem như vô phương cứu chữa, tôi cảm thấy mình thực tại quá thống khổ, không ai có thể hiểu, thông cảm cho, thế là ngay trong ngày xét xử, tôi uống hết một liều thuốc ngủ, viết một phong thư tuyệt mệnh rồi nằm trên giường lịm đi.

Trước thời gian tự sát, tôi được Liễu sư tỷ dìu dắt, hướng dẫn kết duyên với kinh Địa Tạng, ngày nào cũng tụng, hi vọng Bồ tát từ bi, không bỏ rơi tôi.

Đồng thời tôi cũng cố gắng tham gia đội Liên Hoa, trong ngày cuối cùng, tôi có biểu lộ ý nghĩ lìa bỏ thế giới này.

Sau đó tôi được biết: Trong suốt hai ngày tôi hôn mê, các pháp hữu trong đội luôn tụng kinh niệm Phật hồi hướng cho tôi.

Các đồng nghiệp bạn thân thấy tôi hai ngày rồi không tới sở làm, mà liên lạc tôi cũng không được, nên họ lo lắng, cùng tới nhà tôi thăm thử... phát hiện tôi đang hôn mê bất tỉnh nên vội chở tôi tới y viện cấp cứu, đúng là chư Phật, Bồ tát không hề bỏ rơi tôi, nhờ vậy mà tôi được cứu sống.

Mấy ngày trước khi tự sát, tôi từng gởi tiền phóng sinh cho đoàn Liên Hoa, có lẽ nhờ ý thiện muốn mở con đường sống cho loài vật, mà trong vô hình cũng đã mở sinh lộ cho chính tôi.

4.

Bắt đầu chuyển đổi

Phu quân tôi yêu cầu khởi tố ly hôn, song do tôi tự sát nên bị hoãn lại.

Thế nhưng việc gì đến phải đến, không thể do tôi thực sự nhận ra sai lầm mà cứu chữa được ngay.

Tại pháp đình dù tôi khóc lóc van xin thế nào, chồng tôi vẫn lạnh như băng, không mảy may xúc động, anh thẳng thừng nói không còn chút cảm tình nào với tôi, lời lẽ lạnh lùng, ánh mắt băng giá càng khiến tôi khóc ngất.

Tôi kiên quyết không đồng ý ly hôn, lúc đó tòa cũng không phán ly hôn, chỉ bảo tôi: Có cố níu kéo cũng vô nghĩa tôi, nếu sớm biết có ngày nay thì ban sơ đừng làm như vậy.

Hôm đó tôi khóc sướt mướt cho đến khi về tới nhà, vẫn còn khóc mãi, khóc đến không còn sức để khóc nữa, thì nằm chết dí trên giường mà rên rỉ.

Trong thời gian này một mình tôi cô lẻ ngụ tại căn nhà mới, chồng và con tôi ở bên nhà chồng.

Phu quân hầu như không nói chuyện cùng tôi.

Có nói gì thì chỉ là yêu cầu ly hôn.

Tôi chỉ có thể gặp con gái mỗi cuối tuần một lần.

Tinh thần và sức khỏe tôi cực kỳ tồi tệ: Mặt mày ảm đạm, không còn chút sinh khí.

Mỗi lần con gái gọi điện tới nói "nhớ mẹ", tôi đều khóc, khóc đến không còn sức để khóc.

Đêm đến tôi thường mất ngủ, dù có ngủ cũng luôn thấy ác mộng, thức dậy thì lại bắt đầu khóc tiếp.

Ban ngày tôi luôn rơi vào ưu tư sầu khổ, hễ nghĩ là nhớ tới những điều sai tôi đã làm trong quá khứ, không kềm được toàn thân phát run, thở cũng không nổi, mồ hôi tuôn đầy, chẳng muốn ra khỏi cửa, tôi rất sợ gặp người... cả thân tâm đều bị dày vò bởi niềm xấu hổ, không thể tưởng tượng được rằng mình có thể sống tiếp trong tương lai.

Điều khiến tôi cảm động nhất là, cho dù tôi xấu xa như thế, chư Phật, Bồ tát vẫn từ bi không bỏ rơi một chúng sinh đang quẫy đạp trong đau khổ như tôi, vẫn nhất định cứu tôi.

Các sư trưởng bằng hữu thân thiết cũng không lìa bỏ tôi, từ bi giúp tôi.

Các pháp hữu trong đội Tâm Thượng Liên Hoa cũng không bỏ rơi hay ngại tôi làm phiền chi, ngược lại còn rất nhẫn nại hướng dẫn tôi.

Dưới sự dìu dắt của chư pháp hữu Phật tử, tôi ra sức sửa lỗi đổi mới, khởi sự tụng kinh Địa Tạng, tụng mỗi ngày, hơn nữa còn sao chép, lễ lạy Bồ tát Địa Tạng Vương, viết ra những cảm ngộ nhờ tụng kinh mà tâm chuyển hóa.

Ở trước chư Phật, Bồ tát tôi thành tâm ăn năn, sám hối những lỗi sai của mình, phát nguyện sửa lỗi đổi mới.

Khi tôi hồi tưởng đến những lỗi bất hiếu trong quá khứ của mình, tôi chìm đắm trong khổ sầu không ngoi lên được, đến tụng kinh chẳng nổi.

Các pháp hữu khuyên tôi, những sai lầm trong quá khứ đã vô phương cứu chữa và nhân quả hiện tại cũng đã trừng trị tôi rồi.

Tại nơi đây, tôi đặc biệt muốn cảm ơn các pháp hữu trong đội Liên Hoa, nhất là Sư tỷ Tố Tâm, trong ngày tháng khốn khổ cực cùng của tôi, chị Tố Tâm luôn kề vai sát cánh, chia sẻ kinh nghiệm tu hành của chị nơi nhà mẹ chồng, để khuyến khích cổ vũ tôi, đem đến cho tôi sự phù trợ lớn lao không gì có thể sánh.

Nếu như không nhờ chị, có lẽ tôi khó thể chuyển đổi nhanh như thế này.

Chị Tố Tâm dạy tôi nên bắt đầu sửa đổi từ những chi tiết nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống.

Chẳng hạn như phải quét dọn nhà sạch sẽ, phòng ốc giữ thanh khiết, vật gì không cần thì thanh lý, cho đi.

Khi tôi quét nhà, lau dọn, tôi có cảm giác như đang lau chùi tâm mình, quét sạch hết mọi ô uế ra khỏi tâm, sau đó thì niệm Phật mới tịnh hóa.

Còn có pháp hữu khuyên tôi đọc Liễu Phàm Tứ Huấn, bảo tôi hãy để tất cả lỗi lầm chết theo ngày hôm qua, xem hôm nay là một ngày mới bắt đầu.

Rằng nghiệp lực tuy lớn, nhưng nguyện lực từ bi của chư Phật, Bồ tát còn lớn hơn.

Hãy đem nỗi niềm cảm ngộ tri ân chư Phật, Bồ tát theo mình, để khi đi đường, ngồi xe, làm cơm, nấu bếp hay quét dọn... nghĩa là làm gì, trong bất cứ thời khắc nào, cũng phải âm thầm niệm Phật, nên hành xử tương xứng với lòng từ và trí huệ của chư Phật, Bồ tát và nguyện đem phúc điền này hồi hướng cho chúng sinh.

Có thế, từng bước, từng bước... tôi huân tập thói quen tốt này, tâm tư dần chuyển sáng.

Tôi thật sự ý thức: Làm tổn hại người chính là tự làm tổn hại mình.

Muốn sửa quan niệm ích kỷ xa xưa của mình.

Tôi không nóng nảy hấp tấp, không cho mình là trung tâm, luôn đặt mình vào vị trí người mà thông cảm, hiểu thấu, khoan dung, nhẫn nại, chịu khó với người.

Tôi thường quan sát kiểm lỗi nội tâm mình, hễ vừa khởi niệm xấu thì lập tức sám hối để tiêu trừ ngay.

Lo buông bỏ ngã chấp, học và hành theo gương từ bi trí huệ của chư Phật, Bồ tát, chỗ chỗ đều nghĩ cho người, học cách sống: Biết tri ân và báo đáp...

5.

Sửa lỗi, học tri ân

Ngẫm kỹ lại, trước đây tôi có rất nhiều điều không phải.

Là con thì bất hiếu, chẳng quan tâm cha mẹ, làm dâu thường xung đột mẹ chồng, làm vợ không dịu hiền.

Hiện thời tôi cần làm tròn bổn phận mình, thậm chí phải làm cho chu đáo, ưu tú.

Đầu tiên tôi phải sửa đổi với gia đình, sau đó thì tôi chẳng quan tâm tới việc có ly hôn hay không, bất kể chồng tôi quyết định thế nào, tôi đều phải sửa lỗi, đổi mới, lo hoàn thiện bản thân mình chứ chẳng phải vì muốn không ly hôn mà sửa.

Bởi trong quá khứ tôi đã làm sai, đã mang lại nhiều thống khổ cho người bên cạnh, vì vậy mà tôi muốn chuộc tội bằng cách sửa đổi chính mình, dù thế nào tôi cũng phải chu toàn trách nhiệm của mình, nếu như duyên phận chúng tôi đã hết, anh muốn ly hôn, thì tôi xin chìu ý và chân thành chúc anh hạnh phúc.

Tâm được bình hòa lại rồi, tôi không còn chấp trước hay muốn thủ riêng gì nữa, dần dần những ưu tư trói buộc tôi càng ít đi, hồi xưa mỗi ngày cứ khoảng ba giờ chiều là tâm tôi suy sụp buồn bã, cứ muốn khóc, muốn phát khùng, thậm chí muốn tự sát.

Giờ đây các suy nghĩ tiêu cực này ngày càng ít đi.

Cho đến qua năm mới, thì không còn nữa.

Ban đêm tôi cũng không còn mất ngủ hay nằm thấy ác mộng chi, mà ngủ rất ngon, khiến các bạn bè và Sư trưởng chung quanh, đều khen tôi thay đổi lạ đến mức hầu như không còn giống gì ngày trước, sắc diện cũng trở nên đẹp hơn.

Trong công tác, tôi đối với công ty, đồng sự... quan tâm nhiều hơn, nhiệt tình chăm chỉ, mối quan hệ giao hảo rất tốt.

Về công tác cảm thấy rất thuận lợi, trong sinh hoạt, càng lúc càng chan hòa lòng yêu thương, tri ân, từ bi.

Nhưng quá trình sửa lỗi của tôi, kể thì thấy dễ vậy chứ trong thực tế tôi thường phải tập tành làm đi làm lại nhiều lần.

Vì chỉ cần một chút không cẩn thận, là mất tỉnh giác, tập khí mê muội hồ đồ sẽ bộc phát y như xưa và khiến tôi làm sai.

Có một dạo tôi chìm trong chấp trước, đắm trong thống khổ mà chẳng thể ngóc đầu lên.

Những lúc đó tôi rất phiền muộn nên tìm chị Tố Tâm nhờ tháo gỡ giùm.

Hồi đầu, có lần tôi nhắn tin cho chồng, rất lâu mà không thấy hồi âm.

Tôi nhân đó bị chìm vào vực thẳm buồn sầu.

Chị Tố Tâm khuyên phải tin chư Phật, Bồ tát, chị bảo tôi tụng 21 biến Tâm kinh để dừng vọng niệm, hãy y theo Phật pháp dạy mà làm đúng bổn phận con gái, nàng dâu, vợ hiền...

Tôi cũng đến nhà cha mẹ ruột, sám hối với phụ thân vì trước đây cư xử lãnh đạm, làm ông buồn.

Tôi khóc, phụ thân cũng khóc.

Tôi nói mình bất hiếu, đã biết lỗi sai.

Xin phụ thân tha thứ.

Cha tôi bảo biết sai là tốt, ông tha thứ cho tôi.

Hiện tôi và song thân cảm tình rất tốt.

Tính cáu gắt của phụ thân cũng đỡ rất nhiều.

Tôi nhắn tin cho chồng và mẹ chồng, cảm tạ đại ân đại đức của họ, cảm ân họ quan tâm chăm lo cho con gái tôi, hướng họ sám hối những lỗi sai của mình.

Tất nhiên bên chồng tôi không thể nào chấp nhận ngay được, tôi hiểu "Băng kết dày ba thước, khó thể làm tan chảy mau trong sớm chiều".

Bởi trước đây tôi đã làm họ tổn thương quá sâu.

Mới đầu, mỗi cuối tuần khi tôi đến đón con gái, mẹ chồng không cho tôi vào cửa, còn các món quà tôi mua đem đến biếu, bà đều bỏ ngoài cửa.

Lúc đó trong lòng tôi nghĩ: Cho dù mẹ chồng có đánh hay chửi mắng, hoặc ném đồ vào tôi, thì tôi vẫn không bỏ cuộc, vẫn tiếp tục tặng quà... bởi tất cả những gì tôi làm bây giờ là để cứu chuộc, tạ lỗi... mà thôi.

Dần dần, mẹ chồng đã chịu gọi điện tới dặn tôi mua thứ này, thứ nọ (những đồ cần cho việc học tập của con gái) đem đến, cuối tuần khi chồng tôi tới đón con, anh cũng ghé vào nhà xem ti vi đôi chút.

Mặc dù không trò chuyện cùng tôi, không ăn cơm tôi nấu, thì tôi cũng rất cảm ân rồi.

Tôi luôn giữ nhà cửa sạch sẽ, anh tới thì tôi luôn pha trà nóng bưng lên mời.

Do anh thường đi làm, tôi bảo anh để y phục dơ cho tôi giặt (giải thích là mẹ đã rất cực nhọc rồi, nên để tôi làm tiện hơn).

6.

Cải biến triệt để

Khi trong lòng không còn đòi quyền lợi cho mình, toàn tâm toàn ý chăm sóc người, chỉ muốn biểu lộ lòng tạ ân, chỉ muốn làm được chút gì đó cho người, hành vi này đã khiến nội tâm tôi hoàn toàn chuyển biến và người cũng cảm nhận được lòng tôi.

Cuối năm nay, chồng tôi ghé qua, tất nhiên không ăn cơm mà sẽ dùng tiệc Tất niên bên chú, anh cũng không mời tôi đi.

Tôi cũng chẳng giận, còn làm bánh ngon gởi tặng.

Sau đó mình tôi ở nhà quét dọn nhà cửa sạch sẽ, đợi anh và con gái ăn tiệc xong quay về.

Qua mấy ngày sau, anh nói muốn tôi viết đơn nhận lỗi, muốn tôi chủ động từ bỏ quyền sở hữu nhà cửa.

Tôi hoàn toàn đồng ý, hơn nữa trong lòng rất vui vẻ, vì anh đã cho tôi cơ hội sám hối, tôi viết hai đêm thì xong.

Lúc này chồng tôi chủ động nói sẽ tặng tôi 20 phần trăm sản quyền, nhưng tôi không hề yêu cầu, còn xác nhận mình tự nguyện buông bỏ tất cả sản quyền, phòng ốc.

Trước đây tôi xem trọng nhất là tài sản, nhưng bây giờ tôi thực tâm muốn buông bỏ hết mọi vật chất mà xưa kia tôi rất chú trọng.

Bạn biết không?

Buông xả rồi thì trong lòng phi thường thoải mái, nhẹ nhõm, tôi tận hưởng niềm khinh an khoái lạc chưa từng có, đây là điều tôi thu được quá lớn lao!

Qua xuân, tôi vẫn kiên trì làm những gì cần làm, quét dọn vệ sinh, lau nhà sạch sẽ, nhiệt tình làm cơm nấu bếp, tôi lưu tâm nghiên cứu các món chay ngon để nấu đãi người.

Ngày xưa tôi vốn là cô gái lười nhác, nhưng bây giờ, dù anh chỉ ghé thoáng qua, thì thức ăn, nước uống, chăn mền, ghế, giường... tôi đều giữ sạch sẽ, bất kể anh có đến ở hay không, có dùng cơm hay không, thì tôi luôn làm mâm cơm tươm tất để sẵn.

Lâu dần anh cũng nhận ra tôi có thay đổi, bắt đầu giao hảo tốt hơn.

Một ngày trung tuần tháng ba năm nay, hôm đó trời rất đẹp, anh bỗng đến bảo tôi thu xếp hành lý, giải thích là bạn anh vừa mua xe, mời cả nhà chúng tôi đồng đi du ngoạn.

Tôi ngoan ngoãn chuẩn bị hành lý, dẫn con gái cùng đi.

Trong chuyến du hành anh mua kẹo mạch nha cho tôi ăn, nhưng mạch nha dẻo quá nên tôi ăn lúng túng, dính tùm lum khiến anh bật cười, chúng tôi du ngoạn rất vui.

Con gái tôi rất vui sướng, cả ba chúng tôi cùng hạnh phúc, niềm hạnh phúc mấy năm rồi chưa từng có.

Từ lần đi chơi đó về, anh bắt đầu ăn cơm tôi nấu, chúng tôi bắt đầu giao lưu cảm thông nhiều hơn.

Năm nay, ngày mồng 1 tháng 5, tôi và chồng đồng lên núi, lạy Bồ tát Địa Tạng Vương.

Ngụ lại núi một đêm.

Buổi khuya nghe trong chùa tụng kinh khóa sáng, trong lòng đối với Bồ tát bỗng thấy lưu luyến vô hạn...

Tháng mười năm nay, em gái tôi sắp kết hôn, chúng tôi hẹn nhau sẽ đi bái Bồ tát Địa Tạng.

7.

Hạnh phúc như mơ

Bây giờ, trong cuộc sống, chỗ nào cũng nhìn thấy tấm lòng tốt của chồng tôi bàng bạc.

Khi anh ở nhà, thì từ sáng sớm đã thức dậy nấu nước nóng, pha trà, đặt bên cửa sổ, đợi con gái và tôi thức dậy rồi, thì có trà ấm nóng để uống.

Khi tôi và con gái đi đánh răng rửa mặt, thì anh vào xếp mền, tôi bảo anh đừng xếp, để đấy lát nữa tôi làm... nhưng anh dịu dàng nhìn tôi, vừa gấp xong cái mền.

Tôi thực là không tròn phận vợ.

Khi tôi tình cờ nói thích ăn sầu riêng, thì hôm sau anh lập tức mua về, còn mua thêm quả vải to ở tận Sơn Trúc.

Anh giải thích: Phải ăn sầu riêng chung với trái vải Sơn Trúc, như vậy mới tốt, nếu không sẽ dễ bị nóng lắm.

Anh thực là ông chồng chu đáo quá đi.

Đúng lúc bạn bè tới thăm, tôi cùng họ dùng sầu riêng, từ sở làm anh gọi điện về, hỏi tôi ăn có ngon không?

Không phải vì lời hỏi thăm mà chính cung cách thể hiện tấm lòng quan tâm ân cần của anh khiến tôi thấy ấm áp vô hạn.

Bây giờ, mẹ chồng hằng ngày đều thay tôi đón con gái giùm, bà dành cho tôi rất nhiều sự thoải mái, để tan sở, tôi có thể đi làm những gì mình thích.

Tôi thầm tri ân bà.

Mẹ chồng còn luôn gọi điện dặn dò tôi chú ý: Khi trong người bị nóng thì phải ăn gì, bụng không thoải mái nên ăn gì, thật là "Nhà có người già như có trân bảo vậy".

Bình thường trong sinh hoạt, chồng tôi rất tế nhị, anh quan tâm lo cho tôi từng chút.

Luôn kiểm tra xe để tôi chạy an toàn, khi tôi đi họp bạn, anh âm thầm nhét tiền vào bóp tôi, sợ tôi không đủ dùng.

Ngày cuối tuần, anh chẳng nói lời nào, dẫn tôi đi đến tiệm quần áo, tôi ngỡ anh muốn mua y phục cho mình, ai ngờ anh toàn mua cho tôi.

Ngày nghỉ, anh chở tôi đi ăn thức chay ngon ở khu phố lớn (tôi là chúa ưa ăn hàng, rất khoái tẩm bổ thân thể đó nha).

Sau khi ăn xong, thì anh dẫn tôi đi xem phim.

Cuối tuần trước, anh chở tôi đến khu Đại lâu cao 46 tầng để ngắm cảnh.

Những gì anh làm cho tôi đều biểu lộ tình thương nồng ấm.

Tôi đứng bên song say sưa ngắm cảnh, góc độ nào cũng đẹp.

Tôi nhìn thấy hòn ngọc Đông Phương, trung tâm Hoàn Châu, trung tâm Thượng Hải, đẹp quá trời đi.

Rồi tôi nhìn sang anh, thầm nghĩ tấm lòng anh mới là đẹp nhất, đẹp hơn mọi mỹ cảnh quanh đây, anh đối với tôi thật ấm áp, chan hòa tình thương, khiến tôi như tan biến trong đó.

Cuộc sống gia đình hạnh phúc quá tuyệt vời mà tôi có được đây, chính là nhờ Phật pháp, nhờ chư Thiện tri thức đã chỉ dẫn tôi, giúp tôi thức tỉnh, nguyện sửa đổi mình, phát tâm sám hối, tri ân.

Biết nhìn điểm tốt nơi người bên cạnh mình, từ bỏ lòng ích kỷ nhỏ nhen, hiểu rằng: Sống nên biết cho ra, thay vì cứ đòi nhận.

Kể từ đó tất cả đều thay đổi, tôi không ngờ mình lại thu hoạch quá nhiều điều vi diệu, đến nỗi tôi chỉ biết kinh ngạc và mừng vui bất tận.

Hiện tại tôi chỉ có thể công phu vào lúc rảnh, do bận đi làm, bận lo cho gia đình.

Dù thời khóa công phu được tôi dành cho thời gian rất ít, nhưng đối với Phật pháp tín tâm tôi càng lúc càng mạnh.

Tôi không còn chấp vào quá khứ để khổ đau, tiếp tục học tập thực hành Phật pháp, vui với hạnh phúc an lạc hiện tại.

Trước mắt, tạm thời chồng tôi vẫn chưa hiểu việc tu trì, tụng kinh của tôi, vì không muốn làm phiền anh nên tôi thường tụng thầm, niệm Phật, niệm Bồ tát Địa Tạng Vương âm thầm, tiếp tục hồi hướng cho chúng sinh, cho thế giới.

Ghi thêm: Hôm kia, chúng tôi làm giấy tờ nhà, anh lại ghi tên tôi vào.

Hi vọng câu chuyện của tôi sẽ giúp các chị em phụ nữ đồng cảnh ngộ còn đắm trong vô minh đau khổ... sẽ tìm được lối thoát giống như tôi.

Bình: Anh chồng trong đây là người tử tế có trách nhiệm.

Anh không hề lăng nhăng hay giở thói trăng hoa trong suốt thời gian dài xa các bất hòa với vợ.

Viên Viên viết bài tự thuật này trong trạng thái hoàn toàn tỉnh giác, nên luôn thấy ưu điểm bên nhà chồng và sẵn sàng tự nhận chỗ sai của mình.

Cô đã nếm vị ngọt nhờ vào lòng chân thành hành trì pháp Phật và tu sửa bản thân.

Hạnh phúc này do chính cô tạo ra và tự chiêu cảm lấy.

Sau đây là một câu chuyện kể khác nữa của Viên Viên:MỐI DUYÊN CỦA DƯỢNG X

Dượng X là chồng của cô tôi.

Mẹ dượng X do xung đột trong gia đình, khó kham nên tự sát.

Tính cô tôi vốn nóng nảy không tốt, đối với dượng rất lạnh nhạt, có thể nói là hôn nhân họ chẳng hợp nhau.

Hồi đó dượng rất muốn ly hôn, nhưng sau khi nghe một người bạn nói, do anh ta ly hôn mà con trai tự sát.

Nên dượng vì lo nghĩ cho con trai mà không ly hôn.

Đợi đến khi con trưởng thành rồi, dượng mới ly hôn.

Dượng và cô tôi ly hôn rồi, nhân duyên chuyển xoay khiến dượng gặp người vợ hiện tại đây.

Do vợ sau là cô gái trẻ đẹp, kém dượng hai mươi tuổi nên dượng cũng sợ nếu kết hôn sẽ không ổn nên đối với việc tái hôn này lòng rất ưu tư.

Dượng có một người bạn là đệ tử một vị Sư tu ở ngôi chùa nơi Quảng Tây, được bạn giới thiệu đi gặp sư phụ.

Dượng dẫn theo cô gái trẻ đẹp đến chùa, nhưng để cô bạn gái đứng bên ngoài chờ đợi.

Sau khi dượng vào chùa rồi, Sư phụ liền bảo: Ông bình sinh xử việc rất tốt, vợ của ông hiện đang đứng đợi ở bên ngoài.

Rồi Sư phụ giảng rõ căn nguyên mối lương duyên hiện thời của dượng như sau:

"Khoảng 30 năm trước, lúc ông đang học Đại học, lần nọ đi đường tình cờ gặp một thiếu nữ chết đuối, ông đã bỏ ra mười đồng nhờ thuyền phu vớt cô gái ấy lên (hồi ấy mười đồng là số tiền rất lớn), do cô gái được vớt lên không còn y phục, nên ông liền cởi áo khoác đắp cho cô, sau đó đặt thi thể cô bên đường, đợi người thân đến nhận.

Cô gái này hiện nay đã chuyển thế, chính là vị cô nương đang đứng bên ngoài đợi ông".

Dượng cũng kể cho tôi nghe, cô gái hiện thời so với cô gái chết đuối năm xưa diện mạo rất giống nhau, tuổi tác tính từ năm cô chết đến sinh ra cũng rất phù hợp.

Sau khi nghe sư phụ giảng nhân quả, dượng mới an lòng và quyết định kết hôn với mỹ nữ này.

Về sau, họ có một con trai.

Dượng độ 50 tuổi, còn cô vợ xinh như hoa kia chỉ khoảng ba mươi.

Họ là cặp đôi chồng già vợ trẻ điển hình, chung sống rất hạnh phúc.

Dượng bản tính tốt, rất trọng nghĩa, nhà lại rất giàu.

Cho dù đã ly hôn, dượng cũng chia nhà và nhiều tiền cho vợ trước.

Khi vợ trước bệnh, dượng lo cưu mang, chăm sóc chu đáo.

Nhưng lúc dượng bệnh thì vợ trước không lo.

Tất cả đều do một tay cô vợ sau chăm sóc.

Lúc dượng sinh bệnh, các bác sĩ chuyên môn đều nói là bị ung bướu.

Sư phụ dạy dượng nên phóng sinh, tuy không hiểu biết gì nhưng dượng cũng mua nhiều rùa thả.

Nói ra cũng lạ, bệnh dượng lại được lành, chẳng biết cùng phóng sinh có quan hệ chi chăng, nhưng tôi cảm thấy dượng rất có duyên với Phật.

Sau khi lành bệnh dượng bèn dẫn vợ con đi triều lễ thánh địa của chư Phật, Bồ tát.

Tôi kể chuyện dượng là muốn nói về nhân quả, do mẹ tôi không tin Phật, nhưng vì câu chuyện của dượng chân thật như thế, nên mẹ tôi nhờ đây mà bắt đầu tin sâu nhân quả.

Vợ chồng là duyên, do ác duyên hay thiện duyên mà tìm đến nhau.

Không duyên thì chẳng kết.

Cô tôi là vợ trước, lại chẳng chăm lo cho dượng, có lẽ duyên và nợ không sâu.

Nhưng cô vợ sau, vì báo ân mà tìm đến, dù ngày xưa dượng chỉ cứu thân xác cô.

Nhưng nghĩa cử và tấm lòng nhân hậu của dượng vẫn được thiện báo.ĐÔI MẮT TRẺ THƠ

Mùa xuân năm 1976, tôi đến chợ Cáp Nhĩ mua đồ, nghe thiên hạ bàn tán xôn xao về một chuyện vừa xảy ra cách đó không lâu.

Có một bà dẫn cháu ngoại lên chuyến xe khách đường dài để về quê.

Lên xe xong rồi, thằng cháu ngoại khoảng 3, 4 tuổi bỗng khóc thét lên, nằng nặc đòi xuống xe, làm thế nào cũng khăng khăng đòi rời khỏi xe, nó khóc càng lúc càng dữ.

Bà ngoại không hiểu vì sao cháu cứ khóc to đòi xuống xe, liền khuyên, quở nó.

Nhưng thằng bé không thay đổi ý định, càng khóc tợn và tỏ vẻ khủng hoảng dữ.

Bất đắc dĩ bà ngoại đành dẫn cháu xuống xe.

Đi khỏi xe rồi, bà mới hỏi nó:

- Vì sao mà khóc?

Thằng bé đưa tay chỉ về hướng chiếc xe, tỏ vẻ kinh hoàng, nói:

- Người trên xe đều không có đầu, làm con sợ chết khiếp!

Bà ngoại nghe xong thì hiểu: Con mắt trẻ nít thanh tịnh, có lúc chúng nhìn thấy những sự vật mà người lớn không thể thấy.

Kết quả xe vừa khởi hành, chạy chưa được bao lâu, thì lao thẳng xuống sông, toàn bộ hành khác trên xe đều chết.

Thằng bé nhìn thấy là cảnh hiện trước những u linh sắp chết.

(Tai nạn xe này xảy ra tại tỉnh Hắc Long Giang trấn Mai Lý Tư, do lão Chu Ngọc Hương 62 tuổi chính miệng kể vào tháng 5 - 2001).TÒA LẦU GIẢI TRÍ

Năm 1936 khi quân Nhật chưa chiếm lĩnh các thành phố lớn trong nước, chúng thường cho phi cơ oanh tạc Nam Kinh, khiến mọi người khắp nơi đều kinh hoàng.

Ngày nọ một ông lão hơn 60 dẫn thằng bé khoảng 8, 9 tuổi đi bộ đến "Thắng Kỳ Lầu", đây là khu giải trí của dân thành phố đương thời, nghĩa là khi rảnh rỗi mọi người có thể vào đây đọc sách, chơi cờ, ngâm thơ, ca hát, tùy ý, vì trong đây có đủ trò giải trí.

Ông lão dẫn thằng bé lên lầu xem đánh cờ, bỗng dưng thằng cháu sống chết gì cũng không chịu đi theo, còn khóc to kéo tay ông, nằng nặc đòi về.

Ông lão thương cháu nên đành chìu ý nó, đi khỏi khu giải trí chừng 300 mét, ông mới hỏi cháu vì sao mà khóc?

Thằng bé tỏ vẻ sợ hãi, hét to:

- Ông hãy mau chạy đi, những người ở đó đều không có đầu, toàn thân bê bết máu... làm còn sợ chết được, có vui gì đâu mà vào đó?

Ông không nhìn thấy hay sao?

Hai ông cháu còn đang trò chuyện thì từ trên không, một phi cơ Nhật bay tới, lượn vòng quanh và hướng tòa "Thắng Kỳ Lầu" dội bom.

Lập tức người trong đó đều tử nạn, chỉ có mười mấy người ở gần tòa lầu là thoát nạn.

Ông lão cảm thán buột miệng: Không ngờ thằng cháu đã cứu mạng mình!

Tin tức này đương thời được đăng lên nhật báo Đông Nam, toàn Nam Kinh đều biết.

Việc này chứng minh: Trẻ con nguyên thần thuần chánh, nhãn quan có thể nhìn thấy trước những điều linh dị sắp xảy ra.

Tỉnh An Huy, phố Tuyên Châu, trấn Tôn Phụ, lão nhân Đinh Tiết ghi.VƯƠNG QUẢ PHỤ

Trước giải phóng, nơi thị trấn bà ngoại tôi cư ngụ, có một cô họ Vương.

Chồng đã mất sớm, chỉ còn cô nhi quả phụ nương nhau mà sống, nếm trải nhiều cơ cực gian nan, cư dân quanh đó thường giúp đỡ cho họ.

Sau khi giải phóng rồi, nhà Vương quả phụ được xếp vào loại bần hàn, lý lịch tốt, con trai được nhận vào làm cho nhà nước, địa vị thăng cao... rồi chàng cưới vợ, bà có dâu, cuộc sống họ thay đổi cực tốt.

Vương bần phụ bây giờ là thân phận quyền quý, là mẹ của con trai có chức vụ cao, nhưng bà lại thuộc hạng tiểu nhân hễ đắc thế nhất thời thì đâm ra hống hách, coi người chẳng ra chi, bà sống theo kiểu "mục hạ vô nhân" thẳng thừng ngoảnh mặt quay lưng với láng giềng xưa kia đã hết lòng giúp đỡ mẹ con bà, trong mắt bà hiện thời chỉ có cán bộ và công xã, đối với láng giềng chung quanh bà rẻ rúng coi khinh, thấy ai cũng chướng mắt.

Do bà không biết tạo phúc tích đức nên chẳng bao lâu thì con trai lăn ra chết, nàng dâu cũng vội vàng cải giá, vì vợ chồng họ trước đây không có con... bỏ bà ở lại một mình, sống tiếp tháng ngày cô khổ linh đình.

Lúc hơn 70 thì bà mắc bệnh, nằm liệt trên giường.

Có ông A là láng giềng, cho bà thức ăn.

Bà không còn thái độ kiêu ngạo như ngày trước, biến thành lễ phép nhũn nhặn.

Bà chết rồi, ngay cả quan tài cũng không có, láng giềng dùng chiếu đắp cho, vùi thân bà xuống đất.

Xem như chuỗi ngày cuối đời của bà kết thúc trong thê thảm, lạnh lẽo.

Nhưng đúng ra chẳng phải bà nghèo tới không quan tài chôn, người tạo ra thảm cảnh này chính là ông láng giềng thân tín.

Chính ông A đã tạo ra bi kịch "chết không quách chôn" cho bà.

Nguyên là hồi sinh tiền bà Vương rất tín nhiệm ông A, nên trước lúc lâm chung đã ký thác số tiền 300 đồng là của cải mình từng tích lũy giao cho ông A nhờ mua quan tài, lo hậu sự giúp bà.

Nhưng vào thời buổi đó, 300 đồng là số tiền cực lớn, khiến ông A bị tối mắt vì tâm tham nổi lên, ông đã âm thầm nuốt gọn số tiền to đó.

Ông A làm vậy là quá táng tận lương tâm.

Kết quả ông A cũng chẳng được hưởng phúc dài lâu, gia đình bỗng suy sụp lụn bại.

Ông có hai con trai, nhưng một đứa thì bị hỏa xa tông gãy chân, cả đời tàn phế, còn một đứa thì bị chết yểu.

Láng giềng chung quanh đều nói: Ông A bị báo ứng!

Bình: Tuy Vương quả phụ hống hách kiêu ngạo, cũng chẳng phải là nguyên nhân khiến con trai yểu mệnh.

Nhưng người được phú quý mà không huân bồi lòng nhân, không lưu tâm tích thiện tạo phúc, lại sống vô ơn bạc nghĩa... thì khó hưởng phúc dài lâu, cũng không thể tìm ra người sống thực lòng với mình được nữa.

Còn ông A, ngay cả tiền mua quan tài cho người chết cũng dám tham chiếm, nuốt trọn, dù hồn bà Vương không theo ám, thì thiên lý cũng khó dung.

Do ông A dám làm việc xấu này, nên đã chiêu cảm quả xấu khiến gia đình lụn bại.CHUYỆN CỦA BA TÔI

Ba tôi kể: Vào thời đất nước đang lửa bỏng dầu sôi, ông là một sinh viên.

Lúc đó có hai đảng phái chống đối nhau, đảng A ném bom vào trường khiến người bị thương vong rất nhiều.

Nhưng ngay đêm trước khi xảy ra thảm họa, ba tôi tình cờ nhìn thấy một con dơi đang bị đuối nước trong ao, đồng lòng xót thương, ông liền đi kiếm cây sào thả xuống cho dơi bám vào, đu lên mà được toàn mạng sống.

Sáng hôm sau thì đại họa bùng phát, ba tôi tận mắt chứng kiến các sinh viên quanh mình bị bom dội: Lớp chết, lớp bị thương...

Một bạn học của ông bị vỡ đầu, não văng tứ phía ngay trước mắt ông.

Ba tôi may mắn được bình an không sao, tất nhiên ông có thể tự mình trốn thoát, nhưng nhìn thấy các bạn học đang bị thương, nên ông không nỡ bỏ mặc, tự nguyện ở lại, lớn tiếng kêu gọi mọi người cùng hợp sức cứu thương, do vậy mà cuối cùng ông cũng bị đảng khủng bố bắt.

Họ nhốt ông suốt gần một tuần không cho ăn uống.

Đến ngày thứ sáu, ông thừa lúc ban canh gác sơ ý, từ lầu ba ông nhảy qua cây cột điện cách đó gần hai mét, tụt xuống đất thoát thân.

Ba tôi kể lại chuyện này với vẻ hờ hững bình thản như chuyện của người ta.

Song tôi khó mà hình dung ra cảnh: Một người bị nhốt suốt sáu ngày, không cho ăn uống, vẫn có thể dùng ý chí kiên quyết và sức mạnh để thực hiện màn nhảy lầu!

Lỡ như ba tôi nhảy trật không ôm trúng được cột điện, hoặc xui xẻo bị điện giựt thì ắt là giờ này không thể có tôi ngồi đây để viết ra câu chuyện này.

Ba tôi luôn nhắc nhở: "Trên đầu ba thước có thần linh", vì vậy con sống phải biết hành thiện tích phúc.

Tâm lúc nào cũng chứa thiện niệm.

Đừng chê thiện nhỏ mà không làm, đừng cho ác nhỏ mà mạnh tay làm.

Lời phụ thân dạy, tôi luôn ghi khắc trong lòng.

Tôi rất hãnh diện vì tấm lòng và cách sống của ba tôi.

Bình: Từ việc cứu con dơi bị đuối nước trong ao, đến quyết tâm không chạy trốn, nhất định ở lại chốn nguy hiểm để cứu thương các bạn học, đủ để ta nhìn ra tấm lòng từ bi hiền thiện của người cha ta trong câu chuyện.

Người có tâm linh như thế, lẽ nào con đường của ông lại rơi vào tuyệt lộ được chứ?

CHUYỆN CÁC VŨ TRƯỜNG

Mười năm trước, quê tôi có rất nhiều quán bar, vũ trường bên ngoài là nơi nhảy nhót khiêu vũ, nhưng thực chất là kiểu treo đầu dê bán thịt chó, bởi bên trong có cơ sở ngầm bán nhiều chất gây nghiện kiêm phục vụ tình dục, chuyên mồi chài gạ gẫm, giăng bẫy dụ khách ăn chơi sa đà.

Các vũ trường này làm ăn rất phát, giám đốc nhờ vậy mà giàu sụ, phất to.

Mười năm trôi qua, bây giờ nhìn lại, các tụ điểm ăn chơi này sớm đã vắng tẻo lạnh tanh, suy sụp hết cả.

Giám đốc Khang, chủ vũ trường X bây giờ khoảng 60 tuổi, vẫn còn làm việc, nhưng đang thiếu ngân hàng và tư nhân khoản nợ lớn, từ lâu đã phải gán nợ, trừ nợ và đang ở bên bờ vực phá sản.

Ông Khang còn bị ung bướu thời kỳ cuối, gia đình tan nát từ lâu, hiện sống trong cảnh cô khổ đơn độc.

Ông có hai con: Một trai một gái, nhưng con trai nhập băng xã hội đen làm chuyện xấu, nên bị chính phủ bắt nhốt mấy lần, đến giờ vẫn còn ở trong ngục.

Con gái thì mê đánh bạc nghiện ma túy, làm điếm bán thân cho người mua vui.

Phần giám đốc B, giờ đã 50 tuổi, nhưng vũ trường và cơ sở phục vụ tình dục của ông đều bị xóa, phải ra ngoài làm thầu công trình, nhưng lại bị người gạt lừa mấy mươi vạn, đến nay vẫn chưa thu được tiền.

Cuối cùng là quán bar Y, nổi tiếng là chốn ăn chơi lộng lẫy hào hoa, có thể nói vào mùa hè năm 2005, quán phất lên tột đỉnh, "lên như diều gặp gió"... vậy mà khi không lại xảy ra một trận đại hỏa hoạn, khiến quá bar này bị thiêu trụi, tổn thất hơn hai trăm vạn.

Hiện tại giám đốc còn thiếu nợ um sùm, phải bôn đào chạy trốn.

Còn nữ giám đốc họ Lưu, hồi trẻ bà cùng chồng mở vũ trường kiêm cơ sở bán dâm, kiếm hơn trăm vạn tiền đen, tại địa phương chúng tôi thời đó, họ góp phần làm nhiều gia đình tan nát.

Bản thân bà Lưu rất có tài làm ăn nên nhanh chóng phất lên giàu sụ.

Nhưng "cảnh sướng không hưởng bền", vì chồng bà đã cùng một vũ nữ xinh đẹp nắm tay nhau trốn đi xây tổ uyên ương, bỏ lại mình bà đơn độc nuôi con.

Không bao lâu bà sa vào bài bạc, tiền thua càng lúc càng nhiều.

Chỉ trong vòng bảy năm, cả gia sản đồ sộ bị tiêu sạch.

Hiện tại bà còn thiếu nợ lãi cao, bị xã hội đen ép ngặt, thúc đòi rất khốn khổ.

Điểm sơ qua số phận các giám đốc quán bar, vũ trường... thấy rõ do họ sống chuyên nương vào nghề tà dâm, ức hiếp người mà phát tài.

Mới đầu thấy như thu lợi to, được giàu sụ, nhưng thực chất sau này họ bị lỗ khủng khiếp.

Phải hiểu là: Ngay đời hiện tại mà họ được giàu sang, có nhiều tài sản, là nhờ bản thân trong quá khứ đã từng tích lũy phúc đức sâu dày.

Vì vậy, trong kiếp hiện tại tuyệt đối không nên khởi nghiệp bằng phương thức tà, mà nên làm ăn đàng hoàng (chánh nghiệp), như vậy mới gọi là biết kinh doanh, kiếm tiền chân chính.

Nếu làm giàu bằng phương thức bất chính, thì chắc chắn không thể giữ tiền lâu, chưa kể còn rước thêm ác nghiệp sâu dày vào thân.

Phải biết đồng tiền mà "hung nhập" ắt sẽ "hung xuất".

Tiền đến đã không sạch thì khi đi cũng không thoải mái.

Hơn nữa những khổ nạn ta chứng kiến bọn họ phải chịu kia, chỉ mới là hoa báo... quả báo thực sự vẫn chưa bắt đầu.

TRẦN ĐẠI GIA

Ông Trần là người thông minh tài giỏi.

Tướng mạo tuấn tú, con nhà phú quý, tính tình phóng khoáng, ăn nói rất có duyên, thu hút.

Lúc ông làm việc, người ta cả tháng mới bán được một hai sản phẩm, còn ông thì hằng ngày có thể bán tới bảy tám bộ sản phẩm.

Ông rất có tài chào hàng, là bậc kỳ tài trong giới kinh doanh.

Thế nhưng ông lại có một tật xấu, là rất ưa chuyện mây mưa trăng gió, thường tìm kỹ nữ mua vui...

ông kể đã truy hoan với rất nhiều cô.

Tôi là đồng nghiệp, thường cố gắng thuyết Phật pháp khuyên can ông.

Tôi nói: Người có phúc, lộc... nhiều mà đắm vào bao gái, ăn chơi sẽ làm suy phúc, còn người có phúc lộc mỏng ắt sẽ bị giảm thọ.

Nhờ làm việc chung, ông cũng có chịu nghe lời tôi khuyên nên đối với nữ sắc có lưu tâm kềm chế.

Sau này ông dời đến nơi khác, cùng bạn bè hùn hạp mở tiệm, giao du toàn những người hiếu sắc, ăn chơi nên chẳng bao lâu lại đắm chìm trong sa đọa phóng túng.

Ông còn khoe là: Bạn bè luôn khuyên nên phá đời các thiếu nữ để tăng thêm may mắn.

Do vậy mà các bé gái mới 12, 13 tuổi đã bị ông và đám bạn nhiễm nặng thuyết tàn nhẫn bất lương này xâm hại.

Tôi nghe xong rất buồn, vội khuyên ông dừng lại và giải thích rằng: Hành vi này không phải là việc xả xui giúp phát tài, hay tăng đại may mắn, mà chỉ càng hủy hoại phúc, lộc, quyền và khiến bản thân ông đoản thọ.

Tuyệt đối chẳng nên tin theo tà thuyết này!

Nhưng ông vẫn cuồng tín không nghe, hăm hở bỏ tiền ra phá đời các thiếu nữ.

Sau đó khoảng chừng hai ba tháng, ông lái xe hơi mui trần đi ngao du cùng bạn tình thì bỗng bị xe tông, khiến ông văng lên cao mười mấy mét rồi té xuống, não dập nát bét, chết thảm đến kinh hồn.

Phụng Tây NgôCON TÔI

Tôi nhớ có người từng hỏi Đức Lạt ma: Hiện thời Trung Quốc mỗi năm có mười lăm triệu phụ nữ phá thai, ngài sẽ nhắn nhủ gì với các vị này?

Lạt ma nói:

- Đừng để mang thai.

Hãy dùng đủ phương pháp để không phải mang thai.

Nếu như đã mang thai, thì không nên phá.

Bởi vì sinh mệnh bạn đang mang đó, rất có thể là người bạn cực kỳ yêu thương, hoặc là người rất yêu thương bạn!

Chúng ta không thể biết trước được, bởi vì hiện tại ta chỉ quan tâm, chỉ nghĩ đến trách nhiệm phải lo cho đứa bé mà không hề biết là nó có thể làm thay đổi cả cuộc đời mình.

Bản thân tôi suýt nữa cũng phá thai và đánh mất con, nhưng hiện thời bé đã được 5 tuổi rồi.

Đối với tất cả chuyện này, tôi thấm thía, khắc ghi tận xương tủy.

Lúc mới hoài thai tôi không hay biết, chỉ cảm thấy rất mệt, thèm ngủ, một ngày có thể ngủ đến 18 tiếng, so với người bình thường mỗi ngày ngủ 6 tiếng thì sự thay đổi quá cỡ của tôi khiến ông xã phát hoảng.

Thế là anh chở tôi đi bệnh viện khám.

Đến Viện Trung y của Bệnh viện Đồng Thiện, ở Kuala Lumpur (Cu-a-la Lăm-pơ).

Bệnh viện này là bệnh viện tư vô cùng nổi tiếng tại thủ đô Mã Lai, hội đủ ba viện: Trung y, Tây y và Học viện.

Viện Trung y hằng năm đều có học giả Trung Quốc đến chẩn khám giao lưu.

Lúc đó viện Trung y có bác sĩ tụ tập đông nhất.

Một bác sĩ Nam Kinh bắt mạch cho tôi, không thấy hiện tượng mang thai, nên ông bổ cho tôi mười thang thuốc.

Tôi dùng được hai thang thì tối đó bỗng nằm mộng: Thấy trên trời rơi xuống một đóa hoa sen vàng óng ánh, chói lọi.

Thức dậy tôi cảm thấy rất lạ kỳ, liền đi mua que thử thai.

Trời ạ, rõ ràng hiện hai vạch, vậy là có thai rồi, làm sao đây?

Bởi không biết mình mang thai, nên tôi đã cùng chồng đi máy bay suốt 4 tiếng, ai cũng biết, áp lực không trung rất bất lợi cho thai nhi.

Không những thế, tôi còn đi dự tiệc và uống rất nhiều rượu vang, chưa kể còn uống thuốc ngừa nữa.

Vì vậy tôi nghĩ nếu lưu đứa bé lại, tôi e rằng nó sẽ không khỏe mạnh, mà loại bỏ đi?

Thực quá bất nhẫn, tôi rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan.

Cuối cùng tôi quyết định cùng chồng đi đến viện Tây y của Bệnh viện Đồng Thiện hỏi bác sĩ xem sao.

Bởi Đồng Thiện là y viện rất có danh tiếng: Các bác sĩ vào đây làm, bắt buộc phải có tay nghề cao, kỹ thuật giỏi.

Đa số họ đều du học từ Anh quốc hay Canada về.

Chúng tôi chọn bác sĩ Dư Vĩ Vân, ông khoảng hơn 50 tuổi, đã từng du học và tốt nghiệp hạng ưu tại Canada, rất giỏi và giàu kinh nghiệm.

Chúng tôi kể tình huống mình cho bác sĩ nghe, lúc đó tôi thiên về khuynh hướng loại bỏ thai nhi.

Bác sĩ Dư nghe xong, trầm ngâm một hồi, rồi bảo:

- Tôi không dám nói là cháu bé này sẽ khang kiện, nhưng tôi tin sức sống của bé rất mạnh mẽ.

Nếu hai vị chẳng muốn lưu đứa bé, thì xin tìm nơi khác, vì xưa nay tôi chẳng bao giờ làm công việc nạo phá thai!

Nếu các vị chọn phương án lưu bé lại, thì ngày mai hãy đến gặp tôi.

Tôi và chồng bàn bạc một ngày, cuối cùng thì quyết định: Đành cắn răng lưu đứa bé lại.

Bé được ba tháng thì tôi đi bệnh viện khám.

Thấy trên màn hình bé cử động không ngừng.

Dư bác sĩ mỉm cười bảo: Chà, là một cục cưng rất lanh lẹ, linh hoạt đó nha, vậy là tốt rồi, xem như thai nhi mạnh khỏe.

Sau đó ông chỉ vào các điểm trên màn hình giải thích đây là xương sống, tay, chân v.v...

Trong chớp mắt tôi cảm nhận được niềm vui của người làm mẹ, có lẽ nhờ biết thai mạnh khỏe, cũng nhờ tôi giỏi Anh văn nên hôm đó khám xong, tôi còn trò chuyện rất hào hứng với bác sĩ và phát hiện ra: Vị bác sĩ này quả không tầm thường.

Dư bác sĩ là hậu duệ đời thứ hai của người Hoa, tốt nghiệp Đại học ở Canada xong thì ông về nước, làm việc tại Bệnh viện này, tính ra đã hơn hai mươi năm.

Bác sĩ nói tiếng anh và tiếng Mã hết sức sành sỏi, ông còn là một hành giả tu Mật tông rất chí thành.

Ông kể vào năm 2004, nước Thái Lan bị trận đại sóng thần.

Lúc đó nơi này cần đoàn bác sĩ đến trợ giúp gấp, do công dân hai nước Mã Lai và Thái Lan có thể tự do lưu hành qua lại nên Bác sĩ Dư liền lái xe nhà đi thẳng đến đảo Phổ-kết (Phuket), bất kể là chữa trị cho người bị nạn hay khiêng dời xác chết, ông đều dốc toàn tâm toàn lực để giúp.

Ông làm công tác cứu hộ ở đây ngót năm ngày, sau khi quay về cũng không kể cho ai nghe nghĩa cử này.

Hôm nọ ông đến bái kiến Sư phụ là một cao tăng Lạt ma (ông không cho tôi biết tên của ngài).

Sư phụ vừa nhìn thấy ông thì bảo:

- Vừa rồi con đã làm gì mà có quá đông người đi theo phía sau vậy?

Họ đều là người ngoại quốc.

Nghe vậy, ông ngơ ngác nhìn Sư phụ, vì thấy trong phòng hiện giờ chỉ có hai thầy trò mà thôi.

Sư phụ mỉm cười nói tiếp:

- Ta nói, là chỉ đám người đang theo phía sau ông kìa.

Ông kinh ngạc sững người ra.

Sực nhớ lại ở đảo Phổ-kết suốt năm ngày ông đã giúp xử lý gần 200 thi thể, hơn nữa những người gặp nạn đều là du khách Tây phương.

Sư phụ lại cười bảo:

- Bọn người này đối với ông hoàn toàn có ý tốt, nên không có gì phải lo ngại.

Bác sĩ kể tôi nghe xong thì bảo là, sau việc đó ông bắt đầu tin: Trên đầu ba thước có thần minh, phải trân trọng tất cả mạng sống, đó là lý do ông kiên quyết không hành nghề phá thai.

Thời gian dần trôi qua, tình cảm trong lòng người mẹ cũng dần tăng trưởng.

Tôi vẫn còn âu lo cho bé nên đi "Thiên Hậu Cung" rút thẻ xăm.

"Thiên Hậu Cung" vốn có tên là "Hải Nam Hội Quán", do các hậu duệ người Hoa hùn tiền xây dựng nên, xem như từng viên gạch, cọng cỏ... trong đây đều không dùng một xu của chính phủ.

Bởi do người Hải Nam kiến lập, cho nên trong đây cúng thờ Thánh Mẫu nương nương.

Nghe nói thẻ xăm ở đây cực kỳ linh, đến nỗi sau này tên "Hải Nam Hội Quán" bị người ta quên lãng, ngược lại tên "Thiên Hậu Cung" càng lúc càng nổi như cồn.

Khi tôi rút thẻ, tôi khấn thầm điều mình muốn hỏi, kết quả trên thẻ ghi bằng tiếng Anh như thế này: "You are pregnant, Please guardian Angel!..."

Ý nghĩa là: Bạn đã có thai, xin thỉnh thiên thần hộ vệ.

Lòng tôi có chút ngạc nhiên, thầm nghĩ: "Chắc là vô tình trùng hợp mà thôi".

Thế là tôi lại rút tiếp một thẻ khác, lại ra đáp án y chang như lần trước.

Tôi cảm thấy dường như trong vô hình, trời cao đang muốn hậu đãi đứa bé này, hiện thời tôi cần phải quan tâm chăm sóc cho bé.

Chớp mắt, thai nhi đã được chín tháng, do tôi tẩm bổ quá nhiều, dẫn đến phát sinh cao huyết áp, nên phải đi kiểm tra nhiều lần.

Lúc chẩn khám cuối cùng, bỗng gặp một đoàn rất đông bác sĩ và các Y sinh của học viện vào tham khảo.

Trong đây có một nữ bác sĩ Ấn Độ tên là Amy, là Giảng sư dạy tại học viện.

Lúc này màn hình hiện rõ chính diện đứa bé, chúng tôi đồng thấy rõ.

Nữ bác sĩ Ấn Độ mỉm cười nói:

- "A boy! (Một bé trai), chính tôi cũng nhìn thấy vậy, nhưng tôi vẫn hỏi lại mấy lượt cho bảo đảm: "A boy?

Are you sure?"

- Là con trai, bác sĩ chắc thế chứ?

- Xin cam đoan là đúng như thế.

Mọi người đều khẳng định như vậy.

Bác sĩ Dư chụp siêu B cho tôi, ghi tư liệu.

Do tôi có thai nên chứng cao huyết áp mỗi lúc càng tăng, nên cuối cùng bị quyết định là phải sinh mổ, sẽ phẫu thuật vào lúc 9h30 ngày mồng 6 tháng 12.

Nhưng một ngày trước khi mổ, tôi đã mơ thấy giấc mộng rất lạ.

Bà ngoại tôi thuở sinh tiền sống rất thiện lương, bà đã qua đời hai mươi năm rồi, thuở giờ tôi chưa từng mơ thấy bà.

Nhưng tối đó tôi mơ thấy mình đến nhà thờ Tổ tiên, ông ngoại tôi đang nằm trên ghế dài, còn tôi ưỡn cái bụng thè lè đứng cạnh bên, nhưng dường như ông không trông thấy tôi, bà ăn vận cực kỳ xinh đẹp, thanh khiết, đầu đội mão có đính viên ngọc màu xanh lục, mỗi bên tai xỏ hai lỗ, đeo hai bông tai, cũng là bảo ngọc màu lục.

Tuy đang nằm mơ nhưng tôi nhớ rất rõ điều này: Vào thời Trung Quốc cổ đại không phải tai ai cũng có thể tùy tiện xỏ nhiều lỗ và đeo nhiều bông tai, chỉ người có thân phận cao quý mới có quyền xỏ nhiều lỗ, đeo nhiều bông tai.

Sau khi bà qua đời, mẹ tôi từng nhờ người xem dùm bà sinh về đâu, thì có được đáp án là: Bà ngoại tôi nhờ cả đời sống thiện lương, tâm tốt lành nên đã được lên cõi cao tu hành rồi.

Bây giờ tôi nhìn thấy bà ăn mặc tôn quý như thế, xem ra người ta coi không sai.

Có điều là dường như bà không nhìn thấy tôi.

Lúc này ông tôi cầm gậy chỉ vào bà hỏi:

- Đến đây làm chi?

Bà trả lời, nhấn mạnh hai lần:

- Tôi muốn quay về, tôi muốn quay về!

Bà đáp xong thì tôi giật mình tỉnh giấc, mồ hôi tuôn đầy mình.

Nhìn đồng hồ thấy đúng 5h30.

Do không thể ngủ tiếp được, tôi liền chuẩn bị hành lý đi tới Bệnh viện.

Trước đó đã định là 9h30 mổ sinh cho tôi.

Nhưng ngay lúc này lại xuất hiện bà nhất định cản lại, làm khó nên bác sĩ buộc phải điều đình thương lượng cùng tôi.

Tôi nói:

- Được, tôi đợi một chút cũng không sao mà.

Ai ngờ, gần 12 giờ thì con gái tôi sinh ra.

Lúc bé chào đời, chồng tôi không ngừng chất vấn bác sĩ:

- Sao trước đó lại nói là con trai?

Dư Bác sĩ rơi vào tình thế khó giải thích, đành xin lỗi, nhận là ông khám lầm.

Lúc ấy tôi cũng tin là: Khám lầm!

Nhưng sau đó nghĩ lại, tôi thấy tuyệt đối không thể là khám lầm!

Bản thân Dư bác sĩ có bề dày kinh nghiệm mấy mươi năm, tạm thời tôi không nói làm chi, nhưng lúc đó tại hiện trường có rất đông người chứng kiến, ai cũng đều nhìn nhận và xác quyết giống như nhau, ngay cả nữ Bác sĩ Amy từng giảng dạy về Khoa phụ sản hơn mười năm và các chuẩn bác sĩ lưu học ở đây nữa!

Một người xem thì có thể lầm, nhưng cả đoàn đều lầm hết thì quá vô lý.

Cho dù có khám lầm đi nữa, vậy thì "trái ớt" của đứa bé trong hình giờ vẫn còn nhìn thấy rõ mồn một, từ đâu mà có?

Do vậy, bác sĩ nhận mình khám sai là điều không thể.

Tuyệt đối không phải khám sai!

Điều ly kỳ nhất là dái tai con gái tôi hiện mờ mờ đường nét như đã từng xỏ hai lỗ, có đeo bông rồi vậy.

Lẽ nào đứa bé sắp sinh là trai, nhưng khi bà tôi quyết định trờ về thì thai kia hóa thành nữ?

Đây chỉ là những nghi vấn âm thầm trong lòng tôi mà thôi.

Bé đầy tháng thì tôi đến "Thiên Hậu Cung" rút thẻ xăm để xem vận mệnh bé thế nào?

Bởi lúc bé sinh ra chỉ có 2 kg rưỡi, thuộc dạng thể trọng yếu, lại thêm do tôi phải uống thuốc trị cao huyết áp, nên lòng có chút lo lắng về bé.

Kết quả, trên thẻ ghi: "Hồng quang trên đầu chiếu, quý nhân giáng lâm nhà".

Lúc con tôi sinh ra là gần 12 giờ trưa, đúng là: Hồng quang chiếu trên đầu a!

Lúc bé gần một tuổi, hôn nhân tôi phát sinh xung đột, dẫn đến vô phương duy trì.

Kết quả, tôi bồng con quay về nước.

Lúc đó tôi rất sợ mẫu thân không tiếp nhận, vì bà thuộc loại người quá xem trọng thể diện và có tính trọng nam khinh nữ.

Ai ngờ mẫu thân đối với cháu cực kỳ thương yêu.

Thực ra lúc bà ngoại còn sống, mẹ tôi và bà quan hệ rất tốt, đến nỗi khi bà qua đời rồi, nhiều năm sau mẹ tôi vẫn còn nhung nhớ không nguôi.

Có lần mẹ tôi mắng yêu cháu ngoại: Này!

Không biết tại sao bà lại bị cái thứ... chó con như cháu hớp hồn kia chứ?

Trong quãng thời gian này do tôi cùng chồng liên tục tranh cãi, nên tôi không tha thiết gì tới tương lai.

Tối đó tôi đang trực tại nhà máy phát điện, trong lúc đàm thoại qua phone cùng chồng, lòng rất bực tức khó chịu.

Tôi liền tắt phone, đi bật máy phát điện và đột nhiên nảy ý muốn tự tử.

Đây là khu công nghiệp điện áp cao, chỉ cần tôi đưa tay vào là có thể kết thúc cuộc đời, chấm dứt mọi thống khổ, hơn nữa hiện thời không có ai bên cạnh, nếu có xảy ra chuyện thì mọi người sẽ tưởng là do tai nạn bất ngờ mà thôi.

Như vậy con gái tôi có thể hưởng được một khoản tiền trợ cấp, còn tôi thì cũng giải thoát.

Tôi đang nghĩ như thế, thì bỗng nhiên nghe ruột nóng điên cuồng, không ngừng nhớ đến con, vì vậy mà không thể hành động liều lĩnh, nội tâm tranh đấu dằng co suốt hai tiếng.

Cuối cùng dường như có một lực cản vô hình rất mạnh ngăn tôi lại, tôi nghĩ đến con mình đã bất hạnh không được cha yêu, nếu tôi mà chết rồi thì mạng nó mong manh như cọng cỏ, thế là tôi lau nước mắt, vịn tường, lảo đảo bước ra ngoài như cái xác không hồn.

Hôm sau, mẹ tôi đột nhiên lo lắng hỏi tôi:

- Tối qua con không có chuyện gì chứ?

Tôi cả kinh, tưởng rằng đã bị bà nhìn thấu tim gan, vội nói cho qua:

- Dạ không, chẳng có chuyện gì cả mẹ à.

Nghe vậy, mẹ tôi thở phào nhẹ nhõm, nói:

- Không có gì thì tốt rồi.

Tại tối qua con bé cứ liên tục khóc thét, không ngừng gọi mẹ ơi mẹ hỡi khiến ta cho rằng con bị xảy ra chuyện gì rồi chứ?

Tội vội hỏi: Lúc đó là khoảng mấy giờ?

- Khoảng từ 6 giờ đến 8 giờ!

Nó không ngừng khóc gào gọi mẹ liên tục!

Dỗ thế nào cũng không nín, làm ta mệt chết đi được.

Từ 6 giờ đến 8 giờ là khoảng thời gian tôi ở trong nhà máy phát điện và đang có ý muốn tự tử.

Đúng là tôi bị con bé kêu về, bởi vì nó là đứa con đặc biệt vui vẻ dễ nuôi.

Hầu như không hề bệnh, mà cũng chẳng quấy rầy người.

Hơn nữa tình huống nó kêu gào khóc lóc như vậy chỉ xuất hiện duy nhất có một lần đó thôi, trước đây chưa từng có, sau này cũng không.

Hồi đó tôi đánh liều lưu thai nhi lại, ai ngờ có ngày được cháu bé cứu mạng tôi.

Con tôi không có biểu hiện gì là thông minh nổi trội, trừ sở thích ưa mỹ thuật (là gien di truyền cơ bản của cha mẹ ra) thì cháu chẳng có điểm gì xuất sắc đáng nói.

Nó cũng không thừa hưởng ưu điểm hay sở trường nào của cha và mẹ.

Nhưng tôi luôn quan niệm rằng: Vì sao phàm phu chúng ta lại căn cứ vào trí thông minh và sự xinh đẹp để phán đoán phúc họa sớm chiều của một người kia chứ?

Bởi có biết bao đứa trẻ, mới đầu nhìn thấy thông minh lanh lợi, nhưng sau này lại khiến cha mẹ chuốc lấy nhiều nghiệt chướng lo phiền?

Đã có biết bao cô bé xinh đẹp, nhưng sau khi lớn lên, lại chẳng trốn thoát kiếp "hồng nhan bạc mệnh".

Hiện nay có rất nhiều thiếu phụ trẻ chung quanh tôi đang lo uống thuốc hoặc nốc thật nhiều rượu vì chẳng muốn lưu con, họ khiến thân thể kém khỏe mạnh không tốt cho thai nhi rồi viện cớ sợ con chẳng đủ thông minh, thể trạng không bình thường... họ nếu đủ lý do để có thể dễ dàng loại bỏ thai nhi, giống như tôi ngày xưa suýt phá bỏ con vậy.

Chuyện phẫu thuật phá thai nguy hiểm chẳng nói làm chi vì bất kỳ ca phẫu thuật nào cũng nguy hiểm.

Điều quan trọng là khi giết con, bạn không hề biết đứa bé bạn phá bỏ đó vốn là người yêu thương nhất của đời mình, hoặc là người đem lại may mắn nhất cho bạn?

Tôi nhớ lúc con gái tôi gần ba tuổi, mẹ tôi muốn tôi tái hôn, tôi không đồng ý, nên chúng tôi cãi nhau.

Việc này trôi qua ước chừng vài tháng.

Một hôm, con gái tôi ngồi chơi cùng bà, nó bỗng nói: Bà ngoại, xin đừng bức ép mẹ cháu nữa, làm vậy cháu buồn lắm.

Mẹ tôi nghe cháu nói chỉ biết rơi nước mắt, sau đó bà bảo tôi:

- Mày có đứa con như vậy, mẹ thực đỡ lo.

Sau khi qui y Tam bảo, tôi dẫn con đi Phổ Đà Sơn, nơi đây có Thiền Viện Mai Phúc nổi danh, ai cũng biết trong đây có mấy vị Sư nữ công phu tu rất thâm hậu.

Hôm đó, lúc tôi dẫn con lên đến nơi thì gặp vị Ni sư già đang sưởi nắng, bà nhìn thấy con tôi thì liền gọi chúng tôi tới, sau đó nói nhiều câu rất cát tường.

Còn Sư phụ mà tôi qui y là một vị Tỳ kheo ni khoảng mấy mươi tuổi.

Sư xuất gia từ bé và tốt nghiệp Phật học viện Mân Nam (Phúc Kiến).

Suốt quá trình ở bên Sư phụ, tôi nhận ra bà có thần thông, nhưng Sư không bao giờ tự nhận là mình có năng lực phi phàm.

Thế nhưng tôi nghĩ gì Sư đều biết hết.

Sư luôn dặn dò tôi phải chăm sóc tốt cho bé.

Có lúc tôi không nhịn được cứ than thở với Sư là con bé khờ quá.

Sư chỉ mỉm cười không nói gì, rồi sau đó hóm hỉnh bảo: nếu như con không muốn nuôi bé thì hãy cho ta!

Mẫu thân tôi thường lén đi xem hậu vận cho tôi.

Trùng hợp là có rất nhiều vị thầy đoán mệnh nổi danh đều phán: Con tôi mang tài lộc tới!

Mà kể ra cũng lạ, khi tôi ôm con về nước một thời gian thì dễ dàng xin vào một Đại xí nghiệp, hơn nữa trước khi tôi đến làm thì cơ quan này không phát lắm.

Nhưng từ khi tôi bắt đầu làm việc thì hiệu quả đột nhiên tăng cao, nhờ vậy mà trừ lương tháng ra, tôi thường xuyên được thưởng, được hưởng chế độ ưu đãi, có quyền mua những nhu yếu phẩm với giá đặc biệt.

Mặc dù tôi trở thành bà mẹ đơn thân một mình nuôi con, nhưng kinh tế tương đối khấm khá.

Đã có nhiều nhà tiên tri bao gồm cả sư phụ tôi đều nói hậu vận của tôi phi thường tốt.

Thực sự tôi nghĩ: Người thế gian nếu nói tuổi già tốt thì đầu tiên phải căn cứ vào con cái tốt, bởi vì: "Chẳng sợ sự nghiệp không thành công, chỉ sợ con cái bất hảo"...

đây mới là điều quan trọng khiến ta lao đao khó thể hạnh phúc.

Tôi đem kinh nghiệm bản thân kể ra, chia sẻ cùng mọi người, mong rằng tất cả nhất là các thiếu phụ sẽ cư xử tốt với các mầm sống vừa tượng hình trong lòng mình.

Các nước Tây âu thường chỉ trích nước ta về vấn đề nhân quyền, mới đầu tôi cũng cho đó là âm mưu chính trị.

Nhưng bây giờ tôi không còn thấy như thế, bởi khi tôi đi khắp các nước như: Tân Gia Ba, Thái Lan, Ấn Độ, Mã Lai v.v... tôi chẳng thấy có quốc gia nào giống như đất nước chúng ta, một đất nước mà ngay từ trên báo chí cho đến khắp hang cùng ngỏ hẻm nghĩa là ở bất cứ đâu cũng trương quảng cao, cổ súy, khuyến khích, tán dương phá thai!

Thậm chí còn khoe rằng: Phá thai không đau đớn gì!

Làm sao mà không đau được chứ?

Chưa kể đứa bé đến đầu thai ấy, là người có duyên rất sâu với ta, là máu trong máu, thịt trong thịt... cùng ta.

Vậy mà ta đành đoạn đem chúng phá bỏ, làm vậy cũng là ta đang phá luôn hạnh phúc của đời mình!

Tôi hi vọng các nam nhân đọc đến bài viết này thì đối với gia đình nên có trách nhiệm với người vừa mang thai con mình.

Nếu quý ông sống vô trách nhiệm, thì không phải làm hại một đời người, mà là hại tới hai mạng.

Theo luật nhân quả vần xoay, những gì bạn tạo tác, cuối cùng đều sẽ hoàn trả lại cho bạn.

Xin đừng nghĩ là do mình mới mang thai, dù có phá đi thì chỉ là hòn máu nhỏ mà thôi.

Thực ra khi phôi thai tượng hình là đã có thần thức, bé vẫn biết đau, buồn thương và giận ghét, biết lo sợ khi nghe cha mẹ phá bỏ, chỉ là không thể nói hay biểu lộ ra ngoài cho cha mẹ hiểu được mà thôi.

Khi thai quá lớn mà bị phá bỏ, thì đầu mình, từng cánh tay, khúc chân bé bị cắt lìa để lôi ra...

đau đến xé lòng.

Giết hại mạng sống tương đương tội giết người.

Huống chi đó lại là đứa con, cha mẹ nào đành tâm giương mắt nhìn con bị cắt xẻ đau đớn?

Nếu bé chỉ là hòn máu, thì hòn máu ấy vẫn biết đau, biết thống khổ khi bị bức tử... vì vậy, xin bạn đừng bao giờ phá thai.

Thổ Đăng Hy

KINH NGHIỆM CẦU SIÊU CHO VONG THAI

Năm 2001, con gái tôi không cẩn thận bị dính thai lần hai, nó gọi điện tới hỏi phải làm sao?

Tôi bảo: Phá thai là tội sát nghiêm trọng, vì vậy nếu con đã mang thai rồi thì phải sinh ra, tuyệt đối không được phá!

Ái nữ tôi đã có con trai 7 tuổi, nên rất muốn có thêm một bé gái nữa, nó cảm thấy lần mang thai này phản ứng không giống lần trước, nên cho rằng rất có thể là con gái, liền thuận theo ý kiến của tôi.

Nào ngờ ba tháng sau, khi y viện chẩn khám, thì phát hiện thai nhi không có nhịp tim và đã ngưng tăng trưởng cả tuần nay rồi.

Do vậy mà bác sĩ đề nghị làm phẫu thuật lấy ra, thế là con tôi đồng ý.

Sau khi tôi học Phật rồi, hiểu rõ người chết còn mang thân trung ấm trong vòng 49 ngày là rất quan trọng, vậy nên suốt thời gian này, nếu vong linh được thân quyến tụng kinh niệm Phật, siêu độ cho thì sẽ rất có hiệu quả, thu được lợi ích, vì qua 49 ngày họ sẽ nương vào lực hỗ trợ tạo thiện của thân nhân mà được đầu sinh vào cảnh tốt lành.

Do vậy, sau khi biết con gái bất đắc dĩ phải bỏ thai rồi, tôi quyết định dốc sức vì vong thai bé bỏng bất hạnh, tụng 7 bộ Kinh Địa Tạng cầu siêu cho cháu.

Tôi nghĩ đứa bé này khi nhập thai đã hành mẹ ngót ba tháng ròng rồi mới đi, xem ra rõ ràng là oan gia trái chủ tìm đến báo oán, do vậy việc tụng kinh của tôi có thể giúp hai bên tháo gỡ oan kết và cũng giúp cho con gái tôi được bình an vô sự.

Vì lo cho con gái chẳng khéo tự chăm sóc mình, nếu như không nghỉ dưỡng tốt thì rất dễ sinh bệnh, nên từ Nam Kinh tôi vội vàng mua vé đến Bắc Kinh để chăm sóc cho con gái và tụng kinh siêu độ cho cháu luôn.

Do vé xe khó mua mà tôi lại cần đi gấp, nên phải dùng vé chợ đen.

Tôi tới nhà con gái vào chiều hôm sau, dùng cơm tối xong thì đã mệt đuối, bèn nhủ thầm với vong thai:

Cháu à, hôm nay ta mệt quá, thôi thì sáng mai, bà sẽ bắt đầu tụng kinh cho cháu nhé.

Nhưng mới hơn 4 giờ sáng, tôi đã bị thằng rể vào phòng đánh thức, nói:

Mẹ hãy vào ngủ với bé Tài, Ngọc Hân (là tên con gái tôi) đau bụng dữ dội suốt cả đêm qua, giờ con phải chở vợ đến y viện khám.

Tôi nhìn đồng hồ thấy đã gần 5 giờ, bèn vội đi khai Kinh Địa Tạng, tụng bộ đầu tiên.

Con gái tôi đến bệnh viện khám thì thấy không có vấn đề gì, bèn quay về nhà nằm nghỉ, thông tiện xong thì hết đau.

Sau này các bạn đạo của tôi phân tích, diễn giải rằng: Có thể do tôi phát nguyện tụng kinh siêu độ cho cháu bé, nên cháu làm vậy để cảnh tỉnh tôi tụng sớm cho cháu.

Do tôi vừa phải trải qua chuyến đi đường dài khá mệt, hằng ngày phải lo đảm trách việc bếp núc, chăm sóc con gái và tụng kinh cầu siêu cho cháu nên rất bận, buổi trưa nghỉ ngơi một chút thì tôi tranh thủ tụng Kinh Địa Tạng.

Nấu cơm chiều xong thì lo khóa công phu tối và niệm Phật một tiếng.

Lúc này tôi đã 67 tuổi, tuy cảm thấy rất mệt, nhưng trong lòng luôn vững tin, vì nghĩ rằng mình đang làm việc cần làm của một đệ tử Phật.

Mấy ngày này hễ tụng khóa tối xong, do quá mệt nên tôi vừa nằm xuống là ngủ ngay, không chút mộng mị.

Nhưng một đêm nọ, tôi thấy một điềm mộng lạ và sau khi thức dậy vẫn còn nhớ rất rõ ràng: Tôi mơ thấy cách vách có tiếng hai người nói chuyện với nhau, một vị nói:

- Hãy quán sát xem vong này sẽ sinh về đâu?

Cõi trời hay cõi người?

Vị kia đáp: Theo ta thấy thì vong này sẽ sinh về cõi trời!

Nghe đến đây thì tôi giật mình tỉnh giấc, lòng rất ngạc nhiên.

Bao đêm rồi tôi không hề nằm mộng, hơn nữa từ lúc học Phật đến nay, tôi chưa hề mơ thấy giấc mộng nào có nội dung lạ như thế.

Tôi sực nhớ ra trong Kinh Địa Tạng có nói: Nếu thân quyến tụng xong đủ số, vong linh ắt được giải thoát.

Vậy có phải là tôi đã tụng kinh đủ bảy biến rồi chăng?

Do mấy ngày này tôi bận rộn đến tối tăm mặt mày nên cũng không lưu tâm tính đếm số biến kinh đã tụng.

Bây giờ tôi mới bắt đầu nhẩm tính: "Chiều thứ tư tôi đến Bắc Kinh, sáng thứ năm thì bắt đầu tụng, vậy tối hôm qua là thứ tư, cũng vừa xong bảy bộ".

Trong lòng tôi rất mừng, không phải vì từ khi học Phật đến nay, lần đầu được thấy mộng có nội dung đặc biệt, mà bởi vì giấc mộng này cho tôi hiểu rõ: Mình đã tụng kinh cầu siêu cho cháu ngoại thành công, chứng minh rằng lời chư Phật, Bồ tát chẳng hề hư dối.

Tôi càng thấm thía sâu sắc câu: Lời chư Phật, Bồ tát là chân ngữ, thật ngữ, bất dối... trong Kinh Kim Cang miêu tả.

Giấc mộng này tôi thấy rất rõ và có ấn tượng sâu sắc, tôi thầm tri ân chư Phật, Bồ tát đã điểm hóa, khiến tôi đối với việc học Phật càng tăng thêm lòng tin kiên cố.

Tôi lập tức rời giường đến trước chư Phật, Bồ tát chí thành lễ lạy và niệm một ngàn danh hiệu Bồ tát Địa Tạng để bày tỏ lòng tri ân vô cùng vô tận.

Hôm sau tôi nghĩ: "Việc siêu độ đã hoàn tất mỹ mãn, sức khỏe con gái cũng đã hồi phục tốt", nên tôi cho phép mình được thư thả, có quyền hưởng nhàn, giải trí đôi chút, bù lại nhưng ngày nhọc mệt đã qua.

Vừa vặn tối đó truyền hình cho chiếu bộ phim trinh thám mà tôi rất thích (do tôi học Phật chưa đủ thâm nhập nên chưa kháng lại sức cám dỗ của truyện phim).

Thế là chiều đó tôi lo lụng khóa tối sớm, để buổi tối có thời gian thong thả xem phim.

Tối đến, khi tôi đang ngồi xem phim một mình trong phòng, thì bỗng nghe tiếng động vang lên ngoài cửa, xin giải thích: Nắm cửa nhà con gái tôi là vạch ngang chứ không phải hình tròn, mỗi khi ta nắm xoay thì nó sẽ chuyển từ hình ngang thành hình dọc, tôi chăm chú nhìn nắm cửa đang xoay và biến đổi từ hình ngang sang dọc rất rõ nên cứ đinh ninh rằng bé Tài muốn vào chơi với tôi.

Nhưng đợi một lúc lâu mà vẫn không thấy cháu vào, tôi nhủ thầm: "Cháu không vào quấy quá làm ồn thì cũng tốt, xem như tôi được an ổn xem phim".

Nhưng đúng lúc phim vừa kết thúc, thì tôi chợt nghe ngoài cửa vang lên tiếng gọi: Bà ơi!

Tôi khen thầm: Thằng bé này ngoan quá, đợi tôi xem phim xong rồi mới đòi vào chơi, bèn lên tiếng:

- Cháu Tài hả, vào đây với ngoại nào!

Nhưng không thấy tiếng hồi đáp, cũng không nghe bên ngoài có động tĩnh gì.

Tôi liền bước tới mở cửa, nhìn quanh thì thấy bên ngoài chẳng có ai.

Tôi liền gọi: Tài ơi!

Con gái tôi đang nằm phòng kế bên, vội lên tiếng:

- Bé tài xuống dưới lầu chơi từ lâu rồi mẹ à.

Tôi hỏi:

- Thế chẳng phải hai mươi phút trước nó có đến mở cửa phòng mẹ hay sao?

Nó xuống dưới chơi nên giờ hơn cả tiếng rồi, đâu có ở đây.

Vậy thì là con hay đứa nào đã đến xoay nắm cửa nơi phòng mẹ?

Ngọc Hân đáp:

Tụi con ai cũng muốn để mẹ được an tĩnh xem phim, đâu ai qua đó quấy rầy mẹ làm gì!

Tôi bảo:

- Không đúng, quả thực hồi nãy có ai đến xoay tay nắm nơi cửa làm nó chuyển động, hơn nữa mẹ còn nghe rõ ràng tiếng gọi "bà ơi" mà!

Lúc này, tôi đột nhiên nhớ ra trong Kinh Bách Nghiệp có một đoạn kể rằng: Chư thiên mới sinh có nguyên tắc là họ sẽ lập tức làm ngay ba điều:

1.

Xem mình từ đâu đến?

2.

Nhờ nhân duyên gì mà sinh thiên?

3.

Sẽ đi đến đó cảm tạ.

Tôi lập tức hiểu ra: Đây nhất định là vong thai đã sinh thiên rồi và quay xuống cảm tạ tôi, bởi vì nếu như cháu được thuận lợi sinh ra thì cũng sẽ kêu tôi bằng bà.

Bản thân tôi vốn là một người lý trí, từ khi học Phật đến nay, tôi không hề có bất kỳ ảo giác nào, hơn nữa những việc này phát sinh sau khi tôi đã tụng kinh cầu siêu hoàn mãn, và vào lúc tôi hoàn toàn nghỉ ngơi thư thái thì tuyệt đối không thể đổ cho là do ảo giác hay giải thích theo các kiểu tương tự thế.

Tôi bỗng nhớ đến giấc mộng hôm trước và trong lòng tôi thầm chấn động cả kinh, càng thấm thía lời chư Phật, Bồ tát quả vô cùng chân thực không hư dối và tôi chợt nhận ra: Công đức của Kinh Địa Tạng thật vi diệu khôn lường.

Hồi mới học Phật, khi đọc Kinh Địa Tạng tôi chỉ nghĩ là chư Phật, Bồ tát do vì muốn dạy người ác hướng thiện nên mới thuyết như vậy thôi, nên đối với những lời trong kinh tôi chưa hoàn toàn tin hẳn.

Ngay cả khi đọc Kinh Bách Nghiệp, tôi cũng thấy những chuyện kể trong đây sao mà giống như thần thoại.

Thế nhưng, sau khi trải qua những việc lần này và các sự tình khác nữa, tôi đã cảm nhận sâu sắc rằng: Dù Kinh Phật có khiến người ta cảm thấy quá kỳ bí, cao xa, khó hiểu, khó nghĩ lường, nhưng những điều chư Phật, Bồ tát đã nói ra quả là rất chân thật, không dối.

Chỉ cần chúng ta có tín tâm kiên cố, chịu hành trì trung thực đúng như Phật dạy, thì sẽ thể nghiệm được Phật tính sẵn có nơi mỗi người.

Từ đó tôi đối với Bồ tát Địa Tạng sinh lòng tri ân sâu nặng: Bất kể đi đâu, đến đâu, hễ nhìn thấy tượng Ngài là tôi chí thành lễ bái.

Bởi vì Bồ tát Địa Tạng đã giúp tôi tăng tín tâm học Phật, chính nhờ công đức chân thực của Bồ tát và Kinh Địa Tạng...

đã dìu dắt, giúp tôi kiên định bước đi trên con đường trí tuệ giác ngộ của Phật.

Hôm nay là ngày khánh đản Bồ tát Địa Tạng, để báo đáp thâm ân vô tận của Ngài, tối qua tôi đã viết ra bài văn này, xin đem một phần kinh nghiệm tự thân nếm trải qua, trân trọng chia sẻ cùng mọi người, hi vọng quý vị có thể thâm tín nhân quả, tin sâu lời Phật: Không sát sinh, không phá thai.

Thành tâm sám hối tất cả nghiệp đã tạo trong quá khứ.

Xin hãy vì những chúng sinh mình từng làm hại trong quá khứ, mà tụng kinh siêu độ, cầu họ sinh cõi lành gặp Phật pháp tu hành đồng chứng Bồ đề.

Vân Phong

HẾT
 
Báo Ứng Hiện Đời
Quyển 7 ( quyển cuối )


NƠI MẸ TÔI ĐẾN

(Báo Ứng Tập 7)

Biên dịch: Hạnh Đoan

MỤC LỤC BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI TẬP 7

LỜI NGƯỜI DỊCH 3

1.

ANH BẠN SINH VIÊN 5

2.

CÂU CHUYỆN CỦA TÔI 7

3.

CHUYỆN CỦA FRANK 11

4.

ĐẠI LỄ MÔNG SƠN CỨU ĐỘ VONG LINH 13

5.

BÌNH RƯỢU THUỐC 22

6.

NƠI MẸ TÔI ĐẾN 24

7.

BUỔI CẦU SIÊU KỲ LẠ 29

8.

CÔ BẠN TIẾN SĨ 34

9.

NGỌN GIÁO NƠI TƯỢNG QUAN CÔNG 36

10.

HAI BẢN KINH ĐẦU TIÊN 39

11.

ĐẠI SƯTHĂM BỊNH 42

12.

QUỶ THẦN 46

13.

GIÀ LAM CÓ THÊM MỘT VỊ HỘ PHÁP 49

14.

NGƯỜI XƯA NAY Ở ĐÂY 58

16.

ÔNG TRÙM XÃ HỘI ĐEN 66

17.

HẬU THÂN LÝ BẠCH 81

18.

NHẤT KIẾN CHUNG TÌNH 90

19.

SIÊU ĐỘ ÔNG NGOẠI 93

20.

NHỮNG LẦN TRIỀU SƠN CÙNG NGÀI HƯ VÂN 97

LỜI NGƯỜI DỊCH

Trước tiên, tôi xin cảm ơn độc giả đã nhiệt tình chào đón các dịch phẩm của tôi.

Cuốn Giai Nhân Áo Phượng được đa số độc giả tán thưởng (nhất là giới trẻ) phát biểu rằng họ rất cần những cuốn sách như thế.

Có người còn bày tỏ sự cảm kích xin tri ân vạn lần, mong tôi tiếp tục dịch chủ đề về giới dâm thêm nữa để góp phần ngăn cơn sóng tà dục đang gieo nguy hại trầm trọng trong xã hội.

Những lời tâm sự, cổ vũ, khuyến khích của độc giả khiến tôi rất cảm động, mặc dù gần đây sức khỏe suy kém… tôi đã định gác bút, nhưng chính vì nhiệt tình và những tâm sự đáng quý của độc giả đã khiến tôi phải tiếp tục công việc.

Có người hỏi tôi về việc nghe đọc các sách Báo ứng hiện đời đã dịch, xin trả lời: Quý vị có thể Iên Google, vào trang Youtube, gõ tìm các tựa như sau:

Báo ứng hiện đời 1 (2, 3, 4)… thì sẽ thấy các file đọc hiển thị và hãy click vào đó để nghe.

Tìm cuốn Báo ứng hiện đời 5 thì đánh tựa: Nhân Quả Giải Theo Phật Giáo, muốn nghe Báo ứng hiện đời 6 thì đánh tựa: Giai nhân áo phượng.

Ngoài ra còn có các file đọc Nhân Quả Phụ Giải Lương Hoàng Sám tập 1 và 2, xin quý vị chọn đọc của Diệu Pháp Âm sẽ đầy đủ hơn,còn bản do nghệ sĩ Thanh Kim Huệ đọc thì bị thiế phần 2, nội dung có chỗ bị loạn thứ tự.

Nếu quý vị muốn tìm nghe cổ nhạc về sử Phật giáo, thì cũng lên Google, vào trang Youtube, gõ tìm: CHƠN TẦM 7 sẽ thấy video HUYỀN SỬ THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT (do Chơn Tâm Media post) để nghe mười bài hát về Thập Thánh Tăng.

Còn nếu muốn nghe cổ nhạc về Thập Thánh Ni thì hãy gõ tìm mười tên: 1.

Thánh ni KIỀU ĐÀM 2.

Thánh ni DA DU 3.

Thánh ni KHÊ MA 4.

Thánh ni DIỆU HIỀN 5.

Thánh ni MA ĐĂNG GIÀ 6.

Thánh ni PATACHARA 7.Thánh ni ISIDASI 8.

Thánh ni BADA 9.

Thánh ni AMBALI 10.

Thánh ni KISA (do nghệ sĩ ưu tú Thanh Ngân ca diễn).

Về tác phẩm NƠI MẸ TÔI ĐẾN, tôi đã săn tìm những câu chuyện có thực để dịch ra với mục đích chia sẻ các điều hay trong cuộc sống, giúp quý vị tin sâu nhân quả, gìn giữ thân khẩu ý, tự tạo hạnh phúc cho mình, chứ không phải cố tình tung ra những điều huyền bí để mê hoặc người đọc.

Nếu thấy những nhân vật trong sách có khả năng siêu nhiên đặc biệt, dù họ mang hình thức thế tục, song có thể nhiều đời trước họ đã từng tu hành, có công phu định lực cao.

Tùy theo quy hướng họ nhắm tới mà có người tái sinh lại tiếp tục sở hữu thần thông, còn tỉnh giác và phát bi nguyện giúp đời.

Nhưng cũng có kẻ mê mờ không biết đến đạo pháp và trở thành nạn nhân của chính khả năng kỳ lạ mà mình có được.

Đúng như Phùng Phùng (một vị có thần thông bẩm sinh), đã từng tuyên bố:“Nếu không có pháp nhãn và huệ nhãn hướng dẫn đương sự đi vào chánh đạo, thì dù có thiên nhãn cũng chẳng ích gì, cao lắm là chỉ để thấy quỷ thần mà thôi, như vậy rất dễ lạc vào ma!

Cho nên, không cần truy cầu thần thông mà chỉ cần học hiểu chánh pháp cho sâu và hành trì nghiêm túc.

Khi tâm định thì diệu dụng hiển bày!”

Lúc dịch và tải đăng, tôi luôn muốn ghi rõ tên tác giả.

Nhưng có chỗ tác giả ẩn danh, hoặc chỉ đề hóa danh nên tôi buộc phải tuân theo và rất tiếc với những bài không đề tên tác giả.

Có nhiều em đã hỏi về việc sống thử, sống chung trước khi cưới, do không tiện trả lời mãi, nên tôi đã dịch câu chuyện ANH BẠN SINH VIÊN thay cho lời đáp.

Do tôi bế quan không tiếp khách nên quý vị cần sách hay có nhu cầu liên lạc, xin vui lòng gọi cho người đại diện tôi qua số phone: 0938 422 977 – 098 618 4908

Đối với những câu hỏi về việc phá thai, tất nhiên lời đáp luôn là: Trăm lần không, ngàn lần không!

Vì hành vi phá thai sẽ khiến quí vị nhận lấy quả báo bi thảm về sau và rất khó tìm được hạnh phúc – bởi ác báo của việc hủy hoại một mầm sống sắp chào đời sẽ không ngừng đeo ám!

Nếu gặp hoàn cảnh ép ngặt, bức xúc… quí vị có thể liên lạc qua Email: [email protected]

Đã có em chịu nghe lời khuyên, thực hành theo chánh pháp và cuối cùng thu được kết quả tốt đẹp vượt ngoài mong đợi.

Hy vọng tập sách này tiếp tục đem lợi ích đến cho người xem.

Xin hãy rộng lòng tha thứ cho những sai sót của tôi trong suốt quá trình phiên dịch.

Hạnh Đoan – Cuối năm 2017

1.

ANH BẠN SINH VIÊN

TÚ là bạn học chung trường với tôi.

Anh cao vừa tầm, dung mạo bình thường, gia cảnh nghèo, tính nhút nhát hay mắc cỡ, anh giống tôi ở chỗ ưa lướt net vui chơi, học tập nhàn nhã.

Chúng tôi đồng học Văn khoa, cùng chưa xong năm tư.

Thời buổi này, sinh viên đứa nào cũng mơ ước sau khi tốt nghiệp tìm được công tác ngon, thu nhập mãn ý, vì vậy ai cũng lo phấn đấu, mong gặp may, vớ được cơ hội tốt.

Anh Tú thời cao trung đã có bạn gái.

Sau đó mỗi người thi đậu vào trường đại học riêng, tuy khác thành phố, nhưng hai bên vẫn duy trì tình cảm mật thiết.

Hôm nọ, cô bạn sinh viên tìm đến thăm, hơn nữa còn chủ động muốn trao thân cho anh.

Lúc này Tú đã có nhà trọ riêng, song ngay vào thời diểm quan trọng nhất, anh vẫn kiên trì giữ mình như ngọc, nhất quyết dùng lý trí chiến thắng dục vọng, không chịu vượt qua lễ giáo khi chưa kết hôn.

Trước sự cự tuyệt của anh, cô bạn gái xấu hổ hóa giận, sau khi bỏ ra về rồi thì dứt khoát chia tay với anh.

Tôi hỏi anh:

– Có hối tiếc vì thái độ cư xử phong kiến bảo thủ ấy chăng?

Anh đáp: Tuyệt đối không!

Và anh giải thích rằng đó là khuôn vàng thước ngọc mà cổ thánh tiên hiền từng nhắc nhở, bản thân anh bắt buộc phải tôn trọng, vâng theo.

Mặc cho bạn bè cười đùa, chế nhạo rằng: Anh làm vậy là thiếu nam tính, không chuẩn “men”, họ còn nghịch ngợm tỏ vẻ nghi ngờ, nói: Hay là anh thuộc loại… pê đê?

Anh vẫn tỉnh bơ không thèm để ý và luôn nghiêm túc giữ mình, trung thành với câu “nhất quyết không vượt qua lễ giáo khi chưa kết hôn”.

Do vậy mà anh không bao giờ suồng sã với ai.

Chỉ trích chế nhạo riết không nhằm gì, chúng tôi xoay qua kính phục tính nết đoan chính của anh.

Dù vậy, chúng tôi vẫn không tha, thường trêu anh là “động vật quý hiếm” còn sót lại trên thế gian này.

Vì nếu gặp tay chúng tôi mà cô nào sẵn lòng trao thân thì… sẽ nhiệt tình đáp ứng ngay.

Dạo gần tốt nghiệp, các sinh viên vừa học, vừa lo kiếm tìm công tác cho lúc ra trường, ai cũng bận bù đầu, chỉ riêng Tú là thong dong nhàn nhã, anh không lộ vẻ ưu tư chi, vì vậy mà chúng tôi thường trêu anh: “Nếu không biết lo xa thì sau khi tốt nghiệp cũng đồng nghĩa với thất nghiệp đấy”…

Nhưng Tú vẫn không đề lòng.

Kết quả: Sau khi tốt nghiệp xong, anh thất nghiệp thiệt, do vậy mà anh phải đi Thẩm Quyến để tìm việc…

Nhưng không ai ngờ được là, sau đó không lâu, Tú đã nhanh chóng được quý nhân giúp đỡ, tiến thẳng vào làm trong đài truyền hình X, một nơi rất nổi danh (có tiêu chuẩn tuyển người rất khắt khe, song là một chỗ làm cực kỳ ngon mà đa số chúng tôi đều mơ ước nhưng không phải ai cũmh với tới được).

Vì vậy mà Tú đã khiến tất cả bạn bè đều tròn mắt ngạc nhiên, bởi các nhân vật tài ba ưu việt muốn vào làm trong đài truyền hình X này mà còn chưa được, vậy mà hạng xoàng mới ra trường như Tú lại trúng tuyền ngon ơ.

Phải nói đây là may mắn đặc biệt hiếm, không phải ai cũng tốt số như anh.

Nếu bàn về may mắn thì tôi có thể giải thích theo lời của cổ nhân: Người nào có được may mắn kỳ lạ thì nhất định là họ đã sở hữu được những đức hạnh làm kinh động quỷ thần!

Vâng, đức hạnh đó chính là nết đoan chính ngay thẳng, không chịu làm điều gì ám muội khuất tất.

Vì ngay giây phút bạn gái nhào vào lòng anh, chủ động hiến thân, anh vẫn có đủ sáng suốt kịp thời dừng lại, không hành tà hạnh, không tự phá đức mình.

Anh không hề tham dâm hiếu sắc, cho dù anh rất yêu bạn gái, nhưng vẫn nhất quyết cự tuyệt hành vi phi lễ…

định lực và phẩm hạnh này của anh, đã khiến nhiều người khâm phục.

Nghe kể thời cổ đại cũng có rất nhiều thư sinh, nhờ cự tuyệt tà dâm, không chịu vụng trộm với nữ nhân mà thu được phúc báo lớn.

Những chuyện này hiển nhiên là có thực không dối, vì chuyện của anh Tú bạn tôi là một bằng chứng sống động gần đây nhất.

Suốt bốn năm đại học, tôi cùng anh Tú sinh hoạt, ăn ở…

đồng như nhau, hai chúng tôi đều có tính ham vui, ưa chơi thích nhàn, nên học tập tương đối trung bình.

Thế nhưng, tôi có một cá tính khác hẳn anh, là tà hạnh.

Tôi rất mê dâm tham sắc, vì vậy mà đường quan lộ của tôi luôn gập ghềnh, trắc trở, khó tìm được việc ngon như anh.

Tôi và anh là đôi bạn thân, nhưng chúng tôi lại có hai nếp sống tương phản thuộc về đức hạnh.

Sự tương phản này há chẳng phải là đang nhắc chúng ta cái đạo lý muôn đời: “Giới sắc thì được phúc, tham dâm thì rước họa”… hay sao?

Đương nhiên ngoài việc giới trừ tà dâm, còn phải huân thêm nhiều phẩm hạnh khác nữa.

Sau bao nhiêu kinh nghiệm đau thương, tôi thu thập được nhiều bài học xương máu và chợt nhớ tới 2 câu răn dạy của thánh hiền:

Số vốn giàu sang, do tham dâm nên sổ lộc bị tước đi lầu ngọc.

Đáng phận hiển vinh, do phóng đãng mà danh phong bị xóa nơi bảng vàng.

Tôi cũng muốn thốt một câu:

“Con sẵn sàng giữ giới không tà dâm và nguyện trau giồi đức hạnh để có được phúc báo và thành công, có được việc làm như ý, có được hạnh phúc mỹ mãn”…

Tôi xin dừng bài viết này ở đây và nếu có hứng thú muốn biết rõ những kinh nghiệm đau thương vì thiếu đức của tôi, xin bạn tìm hãy đọc bài “Câu chuyện của tôi”.

Lời người dịch:

Do tác giả không viết liền lạc trong một bài, nên tôi đã cất công tìm kiếm một thời gian và cuối cùng đã có được bài tiếp theo cho bạn đọc như sau:

2.

CÂU CHUYỆN CỦA TÔI

Năm nay tôi 27 tuổi.

Hồi học lớp ba tiểu học, thông qua người khác, tôi biết đến phim ảnh sex và kể từ đó tôi giã biệt tính ngây thơ của tuổi đồng niên, lún sâu vào vực thẳm tà dâm.

Thời trung học, tôi cũng thường tiếp xúc với đĩa sex, dù không hoàn toàn chìm đắm, nhưng thành tích học do vậy mà bắt đầu suy, nhung trải qua các kỳ thi, nhờ phúc đức tổ tiên, tôi vẫn vượt qua thuận lợi và đậu đại học với điểm cao.

Vào đại học, tôi bắt đầu say cuồng truy đuổi tình yêu, đến nổi: học, chơi, vận động, ăn ngủ… bất kề thời gian nào, ngay cả trong trong mộng tôi cũng chẳng lìa dâm ái, vì vậy mà thần phách luôn điên đảo, lúc nào cũng ngân ngân ngơ ngơ như cái xác không hồn.

Tuy tâm mê tình mãnh liệt, nhưng bản tính nhút nhát, nên tôi chưa có cơ hội giao du nhiều với phái nữ để phát tác bản chất háo sắc ham dâm của mình.

Qua học kỳ hai, tôi sắm máy vi tính, đây là lúc tôi bắt đầu chìm đắm.

Vì đã có cơ hội để săn lùng, tải xuống những bộ phim, ảnh… không lành mạnh để xem thường xuyên.

Trong khi cùng bạn bè giao lưu, thỉnh thoảng cũng tôi cũng giải trí bằng cách xem sex, còn tỏ ra rất tà dục, bộc lộ hết thói phóng đãng, tôi thích săn lùng youtube lõa thể, những phim đen kích thích tình dục…Tất nhiên những loại giải trí dơ bẩn này vô hình đã làm ô nhiễm khí chất thuần chơn của tôi.

Xong năm hai, thì nghỉ hè, tôi quen thói thủ dâm, hình như cứ hai ngày phải giải quyết một lần.

Bây giờ nghĩ lại, đó là quá khứ cực kỳ thống khổ, khó kham nhất của tôi, do vì tôi mỗi lần tầm cầu khoái lạc tạm thời (mà không biết đó là căn nguyên khổ) nhất là một khi “tự xử” rồi, thì rất dễ phóng túng buông thả bản thân, khiến tôi càng thêm say đắm khoái lạc, ưa nhậu, ham ăn, mê muội, ngủ nhiều, nông nổi, nóng nảy… mà tất cả điều này lại khiến bản thân tiếp tục trầm luân, vô phương ngoi lên.

Suốt 4 năm đại học, tôi biểu hiện cực kỳ xoàng, có thể nói là thất bại.

Đầu tiên, tôi không được xác nhận là học sinh giỏi, chẳng được xếp vào hàng danh dự, (từ tiểu học đến cao trung, tồng cộng tôi có được tám chín lần xếp vào bảng danh dự và một lần ưu tú).

Lần này, tôi không lãnh được suất học bổng nào, thành tích xem như thụt lủi.

Tóm lại, do bị nhiễm thói xấu thủ dâm nên học vấn sa sút, tôi rước vào toàn suy sụp hỏng bét, chỉ có học qua ngày, không còn minh mẫn, có thể thấy thủ dâm giống như ma túy (nhưng còn độc hơn ma túy).

Cuối năm tư, tôi vẫn trong trạng thái tinh thần sa sút mịt mờ, dù tốt nghiệp đại học rồi, tôi vẫn nằm nhà ăn chực.

Thời gian đó tôi chuẩn bị thi vào Viện nghiên cứu, tôi vẫn giở tật cũ là thường thủ dâm, mỗi lần phỏng túng xong thì tinh thần suy sụp, suốt thời gian dài, tôi cứ tái lập dưỡng nuôi thói xấu này, nên không có tinh thần để thi.

Sáu tháng đầu năm 2010, tôi buồn rầu tự kiểm điểm và tìm đọc các tác phẩm khuyên dứt trừ tà dâm, bắt đầu hiểu được Phật pháp chút ít và khám phá ra: Sở dĩ mình gặp nhiều xui xẻo bất hạnh thảy đều do thói tà dâm!

Sau đó, tôi nghiên cứu tập tu Phật pháp, nguyện thực hành theo và không ngừng sám hối.

Quyết từ bỏ tật xấu, lo tu thiện.

Tôi bắt đầu đoạn tuyệt với những văn hóa không lành, nhờ từ lực chư Phật, Bồ tát gia trì… dần dần tôi dứt bỏ thói xấu thủ dâm.

Đại khái từ tháng 8 năm 2010 đến nay, trừ trong mộng ra (vì trong mộng có lúc còn bị dâm quỷ mê hoặc nên tôi bị động thỏa dục, đây là do sức tu chưa đủ), hễ một lần không thắng tật thủ dâm là thân tâm khó tìm được sự yên tĩnh.

Từ đó, tôi cũng hiểu ra: Phương thuốc hay giúp dứt tuyệt tà dâm chính là Phật pháp!

Sau bao cố gắng tu sửa thân tâm, cuối cùng tôi cũng thi đậu vào một Viện nghiên cứu cao cấp ưng ý và được nhà nước đài thọ học bổng.

Trước đây, vào thời gian tôi thi, cha mẹ tôi từng đi khắp nơi xem bói, nào là rút thẻ, hỏi bốc sư, tìm thầy đoán mệnh…

Hầu như ai cũng đều nói tôi có số khoa bảng, sẽ đậu cao, nhưng kết quả luôn khiến song thân tôi thất vọng…

Bây giờ nghĩ lại, Vấn đề chủ yếu là do nơi bản thân tôi!

Hơn nữa, tôi hiểu được hai điều:

1.

Tà dâm làm tiêu hao phúc báo rất lớn, rất mau.

2.

Mệnh, phúc… là do ta tự tạo ra.

Từ khi tôi quyết chí tu đức, giữ giới dâm thì: Hảo sự đã xuất hiện, tôi thi đậu đứng ngay đầu bảng.

Vừa bắt đầu thi là tôi đã cảm thấy có điều hay bất khả tư nghị, sau này tôi càng có niềm tin kiên cố khi nhận ra nhân quả không dối.

Thân bằng hảo hữu ai cũng bảo tôi năm nay thời vận đến nên quan vận chuyển tốt!

Tôi chỉ mỉm cười.

Vì tôi rất hiểu và thấm thìa cái gọi là “Vận may”, nó không phải từ trên trời rơi xuống, mà hoàn toàn nằm trong tay chúng ta, vận may đó nằm ở chỗ: “ĐOẠN TRỪ TÀ DÂM, DỨT ÁC TU THIỆN”

Phải biết nhân tố cốt yếu gieo ảnh hưởng trầm trọng đến cuộc sống chúng ta chính là: Tà dâm!

Khi phạm tà dục là bạn tự làm tổn hao tinh lực, nguyên khí… khiến thân suy nhược, đầu óc trì độn, chưa kể sẽ chiêu vời xui xẻo đến liên miên.

Nếu biết đoạn tuyệt tà dâm, bạn sẽ biến thành người có tinh lực sung mãn, đầu óc linh hoạt và vận may luôn tới không ngừng.

Trong xã hội mà trí tuệ xếp đứng đầu như hiện nay, thì hành vi tà dâm sẽ khiến thể lực và trí óc bị hạ thấp, khiến ta rơi xuống tầng lớp thấp kém tận cùng trong xã hội, biến thành kẻ tầm thường vô năng, sống ôm phiền muộn cả đời.

Có một kinh nghiệm thầm kín là, trong thời gian đầu nguyện giới dâm, nhằm mùa thi cử, có lần tôi không khống chế được nên tái phạm thủ dâm.

Kết quả sau khi thi là: Tôi bị xếp vào hàng chờ cứu xét…

Sau đó, tôi biết lỗi, vội sám hối phát thệ cương quyết dứt trừ tà dâm.

Thì thu được kết quả đậu vớt.

Điều này khiến tôi giật mình và càng gắng sức tu sửa.

Tôi phát hiện hễ tôi càng tu sửa gìn giữ đức hạnh thì mọi việc hanh thông, thi đậu rất cao, quan lộ thăng tiến, song thân được vui lòng.

Đây là tất cả những gì tôi muốn thổ lộ, chia sẻ, mong các bạn hãy giới dâm.

Vô Tri Vô Ngại

Lời người dịch:

Đọc những chuyện nhân quả tôi dịch tiếp theo đây, bạn sẽ thấy xuất hiện nhiều người có khả năng phi phàm.

Điều này không lạ, vì nói như Quả Khanh thì những nhân vật đặc biệt này ông từng tiếp xúc qua có hơn trăm người.

Có người do công phu tu mà được, nhưng có người vừa sinh ra đã sở hữu khả năng thần bí rồi.

Đặc biệt những vị này khi vừa sinh ra họ luôn có xu hướng thích ăn chay, lớn lên không hề quan tâm đến chuyện kết hôn.

Họ có thể xuất gia, hoặc làm cư sĩ sống giữa dòng đời nhưng không bị ngũ dục mê hoặc.

Họ dễ dàng tỉnh ngộ và thâm nhập rất sâu khi vừa nghe Phật pháp.

Nếu như họ chịu hành trì pháp Phật thì khả năng phi phàm càng phát.

Đó là lý do vì sao bạn đọc bắt gặp những câu chuyện mang đầy tính chất huyền bí trong các dịch phẩm của tôi.

Xin giới thiệu cùng bạn đọc hai câu chuyện của tác giả Phùng Phùng, kinh nghiệm tâm linh của ông rất tuyệt và sâu sắc.

Nếu tôi còn sức khỏe, có đủ thời gian và nhân duyên lành, tôi sẽ dịch tiếp các câu chuyện thú vị của ông ở cuốn sách tiếp theo.

Còn bây giờ mời bạn tiếp tục đọc.

3.

CHUYỆN CỦA FRANK

Ngày 28 tháng Tư năm 1982, tôi gọi thợ tới sửa vật dụng trong nhà mình, anh tên Frank, nhân phẩm rất tốt.

Nghe Frank nói tiếng Anh pha giọng Đức, tôi bèn đổi sang dùng tiếng Đức đàm thoại với anh.

Nhờ hai mươi năm trước tôi từng lãnh giải thưởng văn học ở Vienna nước Áo, nên đối với người sống ở thủ đô Vienna cũng rất có cảm tình, tôi và anh nói chuyện rất tương đắc.

Đột nhiên tôi thấy một cảnh lạ, nên đã lên tiếng khuyên anh: Này!

Đừng có vào sơn lâm săn bắn nhé!

Săn bắn sát sinh là tội lớn, mà anh lại quá ưa thích đi săn!

Frank kinh ngạc, trố mắt nhìn tôi hỏi:

– Làm sao ông biết tôi ưa đi săn?

– Tôi biết!

Tôi thấy cảnh anh tiến vào khu rừng hồng mộc phía bắc Cali để đi săn, trong lòng anh lúc đó rất kinh nghi, vì anh cảm giác giống như có ai đang nhìn lén mình, anh còn nghe được tiếng thở, nhưng khi ngó xung quanh lại không thấy ai!

Anh biết không?

Đó là tinh linh của cây hồng mộc đang nhìn anh.

Những cổ thụ hằng trăm năm này đều có trí huệ.

Anh ta kinh ngạc thất sắc, nói:

– Đúng rồi!

Tôi đã từng trải qua kinh nghiệm y như ông mô tả.

Lúc đó tôi hoảng đến muốn chạy trốn, tôi chưa từng kề ai nghe việc này, vì sao ông biết rõ hết vậy?

Tôi đáp: Không những tôi nhìn thấy việc đã qua, mà còn thấy trong tương lai, vào khoảng tháng 9 tới, anh sẽ vào núi đi săn nữa!

– Ông có thiên nhãn ư?

– Không!

Là Bồ tát Quan Thế Âm kêu tôi khuyên và cảnh báo cho anh biết, anh không nên sai lầm, tiếp tục săn bắn giết chóc loài vật vô tội nữa.

Nếu không, anh sẽ tự chiêu lấy họa hiểm!

Nghĩa là sẽ có viên đạn bay vào hướng bên phải dầu anh, thậm chí làm anh mất mạng!

Song nếu như lòng anh có niệm thiện, từ bỏ không sát sinh nữa, thì anh sẽ thoát nạn này!

Frank nhún vai nói: Tôi là tín đồ đạo Tin Lành, tôi không tin lời ông nói đâu!

Tôi đáp: Anh không tin cũng chẳng quan trọng.

Nhưng mà, cho phép tôi yêu cầu anh một điều: Vào khoảng tháng 9, lúc anh vào sơn lâm săn bắn, anh sẽ gặp một con nai có thai, xin hãy buông tha, đừng bắn chết nó!

Nếu anh chịu khởi lòng xót thương, Bồ tát ắt sẽ bảo hộ anh bình an quay về.

Frank mỉm cười rồi bỏ đi.

Khoảng đầu tháng 10, Frank đột nhiên đến thăm, lộ vẻ cảm kích nói:

– Peter! (Peter là tên khác của tôi), ông thực là tài đó!

Tôi cười: Quả nhiên tôi nói không sai!

Anh bị viên đạn bắn sượt qua lỗ tai phải rồi phải không?

– Đúng vậy!

Cuối tháng 9 tôi nghỉ phép, được bạn bè rủ vào rừng săn bắn.

Chúng tôi đồng vào thâm sơn, lặn lội mấy ngày trong tuyết lớn, mới thấy có một con nai!

Tôi là người phát hiện ra nó đầu tiên, lúc đó tôi giương súng lên, đang nhắm cho chuẩn, thì bỗng chú ý tới cái bụng bầu to của nó, thế là tôi chợt nhớ tới lời thỉnh cầu của ông, tim tôi mềm lại, tôi bèn chỉa nhanh súng lên trời cho nổ một phát, hòng giúp con nai chạy thoát, tránh cảnh nó bị các bạn tôi phát hiện ra, bắn chết…

Sau đó, ngay tối hôm ấy, mọi người ngồi bên đống lửa cạnh lều ăn nhậu, các bạn tôi lau súng, một đứa không cẩn thận bóp nhằm cò súng và viên đạn bay ngang qua đầu tôi, hên là nó chỉ sượt qua vành tai phải!

Tôi nói: Viên đạn đó vốn là sẽ ghim đúng vào ấn đường của anh, nhưng nhờ anh khởi một niệm thiện, nên Bồ tát đặc biệt che chở cứu mạng anh, từ rày về sau xin anh không nên sát sinh nữa, mà cũng không thề không tin Bồ tát!

Frank nói: Tôi tin!

Tôi tin rồi!

Ngay lúc thoát chết đó tôi đã hoảng sợ tới kinh hòn bạt vía, sau khi định thần lại thì nhớ ngay đến lời anh.Tôi quyết từ bỏ hẳn thú vui săn bắn này và vội vã quay về.

Từ rày thề sẽ không sát sinh nữa!

Bây giờ Frank tin thờ Chúa lẫn chư Phật, Bồ tát.

Tôi cảm thấy không có trở ngại chi.

Chỉ cần tâm anh hướng thiện, không sát sinh là tốt rồi!

4.

ĐẠI LỄ MÔNG SƠN CỨU ĐỘ VONG LINH

Trước đây, ở Vancouver người tin Phật không nhiều, nên số lượng đến nghe Phật pháp có thể đếm trên đầu ngón tay.

Nhưng bây giờ đã tiến triển khả quan.

Năm nay, lần đầu tiên trong lễ khánh đản Bồ tát Quan Âm ở Vancouver đã có hơn 1.800 người đến nghe kinh lễ Phật, vốn là điều chưa từng có!

Tất nhiên là người Hoa chiếm đa số nhưng người Tây phương tham dự cũng không ít!

Mấy ngày trước, lần đầu tiên Giáo Hội Phật Giáo tổ chức đại lễ “Mông sơn thí thực” suốt ba ngày, do lão pháp sư Trúc Ma chủ trì, có các cư sĩ giàu đạo tâm liên tục hộ pháp, cùng góp công sức, phụ siêu độ chư cô hồn dã quỷ bơ vơ khốn khổ lang thang ở khắp mọi miền Canada.

Đây là một việc làm có công đức rất lớn!

Vì những chúng cô hồn lang thang vất vưởng không nơi nương tựa này sống rất khổ đau, đói lạnh, đáng thương!

Sư Trúc Ma chủ trì đại lễ cầu siêu này đã làm chấn động toàn Vancouver, rất nhiều người tò mò hiếu kỳ đến xem, cũng sinh lòng kính ngưỡng, sự kiện này đã được đăng trên báo, dù tờ báo Anh đăng tin ngắn gọn, nhưng ít nhất cũng khiến độc giả Tây phương bắt đầu hiểu được là Phật pháp có thể siêu độ vong linh, Phật giáo có thể làm đại lễ cứu bạt lớn lao, đối với cộng đồng xã hội Canada đã có ý nghĩa giáo dục rất lớn trong tương lai.

Khi đại lễ Mông Sơn tiến hành ngày đầu tiên, hằng đêm có hơn hàng chục ngàn cô hồn dã quỷ tìm đến nhận thọ, bao gồm các vong linh tổ tiên thuộc thổ dân da đỏ trước đây, các vong linh người da trắng và các vong linh người Hoa cùng những vong linh mới mất gần đây.

Những vong linh này đều tụ hội đông đảo xung quanh đại điện đón nhận sự hướng dẫn cứu rỗi của Phật giáo và hoan hỉ rời đi.

Tôi ở tại nhà nhìn xa xa cũng có thể thấy được tình huống phồn thịnh đông đúc của buổi lễ.

Mà nói ra cũng lạ, kể từ lần đầu tiên, sau khi tổ chức đại lễ Mông Sơn, thì ở Vancouver các trường hợp tai nạn giao thông và số người chết đột nhiên giảm hẳn!

Mấy tháng nay rất ít xảy ra hiện tượng người bị chết vì tai nạn xe cộ.

Trước đây, thông thường vào mùa hè, người dân thường lái xe đi chơi.

Tai nạn xe theo đó cũng phát sinh rất nhiều.

Nhưng mùa hè năm nay, tai nạn xảy ra rất ít, nếu nói là nhờ đại lễ Mông Sơn cũng được, hay muốn đổ cho sự trùng hợp ngẫu nhiên cũng tùy, nhưng tai nạn giao thông giảm là có thật.

Ngay viên quan địa phương sau khi kiểm tra tình hình và tra xét dữ liệu hồ sơ tai nạn xong đã phải công bố: Tai nạn giao thông có giảm hơn mùa hè năm ngoái đến năm mươi hai phần trăm!

Trước lễ Vu Lan, Phật giáo cũng tổ chức lễ Mông Sơn thí thực thêm lần nữa, kéo dài ba ngày, đề siêu độ cứu rỗi vong linh.

Lần này, người dân Canada bất kể là có đạo hay không, có theo Phật hay không, dù là người hoa hay người Tây phương, đều tranh nhau tới tham dự lễ, nhiệt tình thiết lập bài vị đề cầu cho vong linh tổ tiên thân nhân quá cố được siêu thăng, đông tới mức không còn chỗ để đặt bài vị.

Thậm chí những người vì quá yêu thú cưng của mình cũng xin lập bài vị cầu siêu cho chúng như: Mèo Mi Mi, chó Bốp Bi v.v…

Lễ Mông Sơn lần hai này do sư Trúc Ma đã quay trở về chùa mình bên Mã Lai, nên đại lễ ở Vancouver được một cao tăng khác đảm nhiệm thay, cùng với sự hộ pháp nhiệt tình của chư cư sĩ.

Vong quỷ đến thọ pháp vẫn rất đông, tôi thấy có nhiều vong ở rất xa cũng tìm đến.

Hội Phật giáo lúc này cũng đang xây lại ngôi Đại Hùng Bảo Điện mới, dự án từng bị chậm do ảnh hưởng cuộc đình công của đám thợ xây địa phương.

Nhưng sau đại lễ, chẳng máy chốc ngôi chánh điện nguy nga đã được xây thành, tượng Phật cực lớn cũng được cung thỉnh từ Đài Loan đem qua, tương lai sau này ngôi chùa có thể chứa hàng ngàn người đến dự lễ, không còn phải đứng chen chúc đông nghịt ngoài sân như trước đây nữa.

Nói về cô hồn dã quỷ thì không thể không đề cập đến vài tình hình có thực: Trước cổng vào Đại học British Columbia là một đại lộ dài, âm u, rợp bóng cây.

Khách bộ hành ít, nhưng xe chạy qua lại rất nhiều.

Thường thường vào ban đêm tại đây hay có một cô gái Tây phương đứng bên vệ đường, đưa tay ngoắc người lái xe yêu cầu cho đi nhờ, nhưng khi cô lên xe rồi, thì trong nháy mắt tài xế không thấy cô đâu nữa.

Đây là “Ma nữ đại học” nổi tiếng nhất mà báo chí Vancouver thường nhắc đến, vì tên cô cũng có trong danh sách người mất thuộc hồ sơ của trường, có nhiều bài báo viết về cô.

Nhưng lần này rất ít nghe báo chí nhắc đến nữa, có thể là cô đã được đại lễ Mông Sơn siêu độ.

Khu vực thành phố Vancouver vào thời trước năm 1980 địa thế rất nhỏ hẹp, chung quanh chỉ rộng vài cây số vuông, sau đó khu đô thị này không ngừng tăng trưởng nên đến nay có hai ba nghĩa trang vị trí thuộc vùng ngoại ô, giờ đã nằm gọn trong đô thị này.

Hồi đó “Nghĩa trang cảnh núi”, tọa lạc ở phía nam vùng ngoại ô, đến nay chung quanh đã được bao bọc bởi các cửa hàng, nhà cao tầng và khu cao ốc của dân cư.

Còn “Nghĩa trang cảnh biển”, thì trụ tại một góc đông nam của núi tương đối vẫn còn hoang vu hẻo lánh, nhưng bên ngoài tường, đã có các đường giao thông trọng yếu, nhộn nhịp, xa mã rộn ràng.

“Nghĩa trang cảnh núi” là khu nghĩa trang cũ xưa, xây theo lối cổ, các ngôi mộ nằm chen chúc, mộ bia bằng đá có khắc cây thánh giá và hình thiên thần, vườn hoa… có nhiều mộ còn xây mái che ở trên theo kiểu Hy Lạp.

Mộ người Hoa cung nằm một góc trong đây, bia mộ dựng san sát, khắc chữ Anh lẫn Hoa.

Hình dáng cũ kỹ, rêu phong của các ngôi mộ này khiến người nhìn vào (dù là ban ngày) vẫn có cảm giác rờn rợn vì quỷ khí phủ dày đặc, đừng nói chi là ban đêm, càng đáng sợ nhiều hơn.

Khu “Nghĩa trang cảnh biển” được xây theo phong cách hiện đại, không cho dựng bia mộ, nên bảng bia chỉ là một mặt phẳng bằng đồng dơn giản nằm phía trên, vì vậy nơi này nhìn từ xa thấy không giống nghĩa trang, mà giống một khu hoa viên.

Trông rất sáng sủa, tươi thoáng, nên không mang nét đáng sợ, ở đấy còn có thể nhìn ngắm cảnh biển xa xa…

Hàng ngàn mộ bia người Hoa nằm tại “Nghĩa trang cảnh núi”, vào mấy thập kỷ đầu do chịu ảnh hưởng phong trào bài Hoa của Canada, nên đa số mộ họ bị người da trắng ác ý ra tay phá hủy, vì vậy đến nay vẫn diện mạo vẫn hoàn không, tiêu ma.

Một số ngôi mộ thậm chí còn bị người da trắng đào lên, ném thây cốt ra đất, mặc cho chó hoang gặm nhắm..

Sau đó, vong nào có con cháu, thì được xây dựng, phục hồi lại.

Những vong không có thân nhân hay con cháu, thì để mặc cho người và vật bài tiết phóng uế lên.

Đáng thương nhất là các cô hồn không con cháu thân nhân, họ vẫn quyến luyến ở bên mộ mình, khóc than, bi ai, âm thanh thảm não này người đi đường còn nghe thấy.

Những cô hồn dã quỷ bơ vơ này, nguyên là mấy thập kỷ trước họ từng vượt biển đến đây để kiếm sống.

Lúc đó người Hoa chưa được nhập quốc tịch, nên không được phép đón quyến thuộc sang Canada.

Những lao công này, lại không thể kết hôn, họ gian khổ kiếm được mấy đồng bằng mồ hôi nước mắt, thì nhìn nhút gởi về cố hương cho cha mẹ vợ con, còn bản thân họ thì ở Canada làm trâu làm ngựa, sống kiếp lệ đổ máu tuôn, sầu não đến cuối đời, nên ôm mối hận khó tiêu.

Do vậy mà mấy mươi năm nay họ thường ở bên mộ khóc than.

Những hồn quỷ lang thang kia, lần này đã có một số đến thọ lãnh sự siêu độ của pháp hội Mông Sơn.

Tuy nhiên, theo những gì tôi nhìn thấy, thì vẫn còn rất nhiều người không chịu đến dự lễ cầu siêu, do họ quá yêu luyến thi thể của mình nên chẳng chịu rời đi và tiếp tục cuộc sống thống khổ khóc lóc.

Khu vực nghĩa trang này hay có người lái xe đi ngang qua vào đêm khuya, họ thường thấy cỏ người từ trong mộ đi ra và băng qua đường, do vậy mà tài xế phải vội vã đạp thắng để tránh tông vào khách, nhưng sau khi phanh khẩn cấp rồi, lại thấy trên đường không có ai!

Chuyện bóng ma ở “Nghĩa trang cảnh núi” thường xuyên hiện ra ngáng đường là tin nóng nổi tiếng ở vùng này, nhưng khoảng hai ba tháng nay, kể từ sau khi thiết lễ Mông Sơn thí thực rồi, thì tình trạng này rất ít xuất hiện.

Đi qua khu vực ven quốc lộ 41 (đối diện với cảnh núi) chính là “Nghĩa trang quân đội”, là mộ phần của những quân nhân bị chết trong thời kỳ đại chiến, chung quanh giờ đã có những dãy nhà mọc lên san sát như rừng.

Vào nửa đêm mùa đông, lúc mưa thê gió thảm, thỉnh thoảng các hộ dân quanh đây bỗng nghe tiếng nói, còn nhìn thấy cảnh binh sĩ xếp hàng tập trận trong “Nghĩa trang quân đội”, những người lính này không đầu hoặc không có tay chân hay toàn thân bê bết máu, có lúc còn nghe âm thanh hỏa pháo bắn ầm ầm, đạn kêu veo véo.

Thế nhưng năm nay không còn nghe thấy những cảnh như vậy nữa.

Tôi thường khuyên bè bạn không nên không lái xe qua “Nghĩa trang cảnh núi” vào ban đêm, để tránh vương phải âm khí.

Nơi “Nghĩa trang cảnh biển” có chôn hai người bạn thân của tôi: Một là bác sĩ Nguyên, hơn mười năm trước anh lái xe về trong đêm thì bị một thanh niên trẻ chạy xe tông chết.

Bác sĩ Nguyên chỉ mới ba mươi mốt tuổi, là một thanh niên trẻ có tiền đồ rạng rỡ mang đầy hứa hẹn ở tương lai.

Anh là một cô nhi.

Trong thời chiến tranh Trung Quốc đại lục, sau khi cha mẹ anh bị nạn chết đi thì anh lưu lạc đến Đài Loan, vừa đi làm vừa đi học và tốt nghiệp trường Y với thành tích ưu và được xuất ngoại du học.

Tại Vancouver anh vừa hoàn tất học nghiệp xong, anh mới thuê một tòa nhà làm văn phòng.

Đêm đó là Giáng sinh, anh được bạn bè mời đến dự lễ hội khiêu vũ, ngay trong đêm anh trở về thì gặp nạn.

Trước đêm anh chết, anh kể cho tôi nghe tối qua khi anh thực tập tại Bệnh viện st.

Paulo, do bài vở gấp, nên buổi tối còn ở lại một mình trong phòng giải phẩu thây.

Vào khoảng ba giờ khuya, anh đột nhiên nhìn thấy trong phòng các thi thể đang nằm, bỗng xúm ngồi dậy hết, làm anh hoảng kinh phải xô cửa mà chạy ra ngoài!

Anh hỏi tôi việc này có điềm gì không?

Khi đó tôi vẫn chưa khôi phục khả năng thiên nhãn tiền kiếp (như thuở ấu thời), nên chưa nhìn ra nhân quả, mà anh thì theo đạo Ki Tô.

Tôi làm sao có thể khuyên anh đây?

Tôi đành nói: “Đó không phải là điềm lành, nhưng tôi nghĩ lễ hội khiêu vũ đêm mai tốt nhất anh đừng đi!”.

Sau đó, anh hỏi tôi: Một người sau khi chết rồi, có lỉnh hồn không?”

Tôi đáp: Có!

Anh ngồi trên ghế, trầm ngâm một lúc rất lâu không nói năng gì, tôi vẫn còn nhớ dáng vẻ này, đêm đó tôi khuyên anh nên chuyển sang tin Phật pháp, anh phát biểu anh cảm thấy Phật giáo quá mê tín và cho rằng chỉ có tin Chúa Jesus mới được vĩnh sinh, sống đời đời!

Tôi thấy không tiện nói gì nên chẳng bản luận với anh nữa.

Sau khi chết, anh được chôn cất trong “Nghĩa trang cảnh biển”, hoàn toàn không có ai đến thăm.

Chỉ có tôi hằng năm mang hoa đến viếng anh, rất nhiều năm.

Sau đó thì tôi không đến nữa.

Nhớ lại mỗi khi tôi đặt bó hoa trên bia mộ bằng đồng của anh, thì luôn cảm thấy từ bia đồng tỏa ra một lực rất mạnh hút tay tôi, kéo tay tôi để lên mộ bia (giống như có người dùng lực kéo tôi vậy), khi bị anh kéo như thế, nước mắt tôi rơi dài, tôi khóc và bảo: Bác sĩ Nguyên, Nguyên đại ca ơi, anh thật là khổ đó!

Vào thời điểm đó khả năng thiên nhãn của tôi vẫn chưa hồi phục nên chưa thể nhìn thông suốt hết, tôi chỉ cỏ thể cảm nhận hình bóng và sức mạnh của anh thôi.

Thực ra anh và tôi quen nhau chỉ mới vài tháng, do anh đọc sách của tôi sinh cảm phục, xúc động, nên tự nguyện làm bạn hữu lẫn anh trai.

Phần tôi thân lưu lạc tại ngoại quốc, cũng cô khổ, nhìn quanh chẳng có ai thân, có được bạn tốt như anh, chưa kịp vui, đã phải ngậm ngùi chào vĩnh biệt.

Sau này có một năm tôi bị bệnh, phải nhập viện.

Đang nằm thì nửa đêm bỗng nhìn thấy anh lên lầu đến thăm tôi, ân cần chào hỏi và an ủi tôi: – Em sẽ nhanh chóng khỏe lại, đừng có buồn!

Tôi tỉnh dậy, dòm quanh thấy tất cả mọi người trong phòng bệnh đều đang ngủ say, dưới ánh đèn nào có thấy bóng của ai?

Khi tôi lành bệnh xuất viện, tôi mang hoa đến mộ anh, khóc một trận, bia mộ đồng của anh lại hút chặt tay tôi, lâu thật lâu vẫn chưa chịu buông ra.

Lần thiết đại lễ Mông Sơn kỳ hai này, tôi ngóng vọng mong anh đến lãnh thọ, nhưng không hề thấy anh đến, vì anh quá đam luyến xương cốt của mình, không chịu rời đi.

Tôi đành hi vọng trong tương lai, sẽ có một ngày anh giác ngộ hết quyến luyến thây và chịu đi đầu thai.

Tại “Nghĩa trang cảnh biển” tôi còn một bạn thân nữa, là người Tây phương.

Em là con trai cưng của một bác sĩ mà tôi quen biết.

Gia đình em theo đạo Ki Tô, tên em là Stephen.

Mới đầu khi tôi đến Canada, từng được gia đình em mời đến nhà họ ở vài tháng, huynh đệ của em đông, chỉ có em và tôi là rất hợp tính nhau, chúng tôi cùng đi hái trái cây và chơi đùa, cha mẹ em nói rằng họ xem tôi như con của họ.

Nhưng tôi không muốn làm phiền họ nhiều, vì vậy tôi ra ngoài thuê phòng để sống chung với mẹ tôi.

Sau này do tôi ít tới nên Stephen thường đến thăm tôi.

Chúng tôi giao lưu vui vẻ. khi đó em đã vào đại học, là ngành Địa lý, năm thứ tư.

Một ngày nọ khi đến nhà tôi ăn trưa, em kể mình muốn đi lên miền Bắc để kiếm việc làm vào mùa hè.

Vì em muốn tự lo tự túc, không lấy tiền của cha chu cấp nữa.

Tôi khuyên em đừng đi, hãy an tâm học cho thành tài, thì tương lai mới có thể tự lập, nhưng em không chịu nghe lời tôi khuyên.

Em cứ đi lên miền Bắc, làm công tác đo đạc đường lộ.

Lúc hoàng hôn, xe lu chạy đến, không thấy em, nên xe đã cán nhẹp em dưới trọng tải nặng mấy tấn, chưa đầy mấy phút em đã chết, đáng thương hơn là toàn thân đều bị nghiền nát!

Stephen lúc này mới hai mươi hai tuổi!

Dung nhan em vốn rất thanh tú, anh tuấn, em to cao và đẹp trai, nhưng cái chết đã biến thi thể em thành một đống thịt nát!

Khi quan tài em chuyển về Vancouver, ba mẹ, huynh đệ em từ Hoa Kỳ đến để dự tang lễ.

Theo phong tục của người Tây phương, họ thường nhờ bạn thân khiêng quan tài, em có năm huynh đệ, mà di quan cần sáu người, còn thiếu một người nữa, nên mẹ em đã mời tôi lấy thân phận nghĩa huynh tham gia khiêng quan tài, xét theo tình và lý, tôi đều phải làm, tôi nên làm!

Bởi vì tôi rất quý mến em, trừ bác sĩ Nguyên ra, thì em là bạn thân nhất của tôi.

Tôi cùng năm huynh đệ kia, họ đều là hạng hùng tráng cỏ sức khỏe, cùng hợp lực khiêng linh cữu em đến trước cổng giáo đường, bất ngờ nó trở nên quá nặng, nhưng chúng tôi vẫn dốc sức khiêng đặt lên xe tang.

Sau khi chạy đến “Nghĩa trang cảnh biển”, thì sáu chúng tôi cùng khiêng linh cữu em ra khỏi xe để hạ huyệt.

Dè đâu ngay lúc này, cả sáu người hè nhau khiêng, mà quan tài không động đậy.

Quan tài bấy giờ cực kỳ nặng, tôi có cảm giác nặng tương đương hàng chục tấn, làm thế nào cũng khiêng không lên được.

Thực ra, ngoài người anh cả rất yêu Stephen, thì bốn người kia do không hợp tính với em, nên lúc này họ chẳng hề buồn khóc chi.

Tôi là người nhiều tình cảm nên lúc này lệ rơi đầy mặt, còn mẹ anh thì khỏi nói, bà khóc đến ngã quỵ trên đất.

Tôi cảm giác là Stephen không muốn rời xa mẫu thân, tôi liền nói:

– Thưa bác, Stephen đang rất bịn rịn không muốn lìa xa mẹ, bác hãy đến khuyên cậu ấy đi, như vậy mới hạ huyệt được.

Mẹ của anh nghẹn ngào nói: – Cậu hãy thay tôi khuyên dùm, tôi… tôi… và bà khóc nấc lên.

Thế là tôi vỗ nhẹ tay vào quan tài nói:

– Stephen, tất cả chúng tôi đều không muốn rời em, nhưng cuối cùng em phải hạ huyệt mới ổn, đừng khiến mẫu thân em quá thương tâm!

Stephen, chúng tôi yêu em, hãy làm một đứa con ngoan nhé.

Tôi sẽ tụng kinh Phật cho em.

Sau đó, tôi nghe thấy một tiếng thở dài nức nở trong quan tài, năm huynh đệ kia cũng đều nghe thấy!

Bốn người anh không hợp kia đều sợ hãi bỏ chạy, còn anh cả thì khóc ngất.

Tôi trở thành người duy nhất điều khiển, tôi ra lệnh cho bốn anh kia quay lại và cha em cũng ủng hộ tôi.

Sau đó sáu người cùng nhau nâng quan tài.

Lần này, quan tài di chuyển nhẹ nhàng, chúng tôi khiêng đi hạ huyệt.

Sau đó, mỗi năm một mình tôi mang hoa đến, toàn gia em đều đã chuyển đến Hoa Kỳ sống, vì vậy mà chỉ có tôi hằng năm đi thăm em.

Chỗ em nằm gần kề bác sĩ Nguyên, nên mỗi lần đến là tôi thăm mộ cả hai.

Mộ của Stephen cũng toát ra lực thu hút giữ lấy tôi giống anh Nguyên vậy, không chịu buông cho tôi rời đi.

Lần thiết lễ Mông Sơn này, tôi đã nhìn thấy Stephen đến lắng nghe, nhưng em không chịu tiếp nhận sự siêu độ.

Quý vị cho là tôi điên ư?

Cho là tôi biên xằng viết bậy?

Bạn không tin là người chết rồi vẫn có biết ư?

Họ vẫn biết sau khi chết!

California có hai nhà khoa học bề thế, một nhà Vật lý học và một nhà Tâm lý học, cả hai đều mang theo máy ghi âm đến nghĩa trang để thu.

Họ đặt máy ghi âm vào nghĩa trang ngay ban ngày và bấm phím thu.

Lúc này đài truyền hình cũng phái một đại đội nhân viên nhiếp ảnh đến để quay hiện cảnh và cho chiếu trực tiếp.

Sau mười lăm phút ghi âm, kết quả như sau: Từ máy ghi âm đã thu được những âm thanh xào xạc, có giọng nói yếu ớt cùa người nam than rằng: Nơi này rất buồn!

Đây là một đoạn thực nghiệm thu âm ghi hình gần đây nhất của hai công ty truyền hình Hoa Kỳ và Canada nổi tiếng.

Họ tuyên bố bản ghi âm này là đúng thực không hề ngụy tạo.

Hàng triệu khán giả người Hoa Kỳ và Canada khi xem video trực tiếp này đều kinh ngạc, tin tức này từng làm chấn động một thời.

Hai nhà khoa học kia, mới đầu tuyên bố rằng họ hoàn toàn không tin là có linh hồn tồn tại, vì vậy họ mới đến nghĩa trang để nghiên cứu xác nhận xem có linh hồn hay không.

Sau ghi máy thu âm đặc biệt ghi lại rất nhiều lời thoại ma, nào là thở dài, khóc rên… có đủ loại âm thanh ma quỷ, thì các nhà khoa học đã nói: Quả thật vô phương giải thích tình huống bất thường này.

Đoạn phim khó tin này cũng được chiếu nhiều nước trên thế được đông đảo khán giả xem, không phải tôi bịa đặt!

Theo tôi, việc thổ táng không hay bằng hỏa táng, vì khiến linh hồn dễ biến thành “quỷ luyến thây”, cứ đeo bám quanh mộ không chịu đầu thai.

Bất luận ở phương diện nào, nếu nhìn và so sánh thì thổ táng không tốt bằng cách thức hỏa táng của Phật giáo, rất sạch sẽ và thích hợp, bởi sau khi hỏa thiêu rồi, linh hồn không thể quyến thây nên dễ giải thoát nhờ vào pháp Phật hỗ trợ vãng sinh.

Hiện nay, chư tăng các chùa khắp nơi đều có tổ chức đại lễ Mông Sơn siêu độ vong quỷ.

Việc này tạo công đức vô lượng.

Từ những sự thật đã kể trên, có thể thấy Phật giáo siêu độ vong quỷ rất hữu hiệu, việc này rất cần thiết, thực tế và càng không thể cho là mê tín!

Phùng Phùng -1983

5.

BÌNH RƯỢU THUỐC

Một người bạn đồng tu của tôi kể thân mẫu cô bị chứng tiểu đường thời kỳ cuối đang nhập viện, nhờ tôi giúp quán sát nhân quả cho bà dùm, cô cầm ảnh bà tới cho tôi xem, tôi vừa nhìn vào thì phát hiện có một con vật đang “đóng đô” nơi bàng quang của bà, nhìn giống như rắn mà không phải rắn, vì thân mập to phình, màu sắc giống như con lươn khủng bị nuôi bằng thuốc thúc tăng trưởng, nhưng tướng mạo hình dáng coi bộ lại giống rắn hơn lươn, tôi suy đoán mãi, mà vẫn không nhìn ra nó là con gì, bèn hỏi nó:

Này, sao mà nhào vô ở trong bụng của người ta ở vậy?

Trụ trong bàng quang như thế nào có thoải mái chi?

Bà này có quan hệ gì với ngươi?

Con vật mập phình này động đậy một chút rồi khóc kể: Bọn họ bắt tôi đem ngâm rượu đấy!

(Té ra không phải nó mập mà do bị ngâm nước nên thân mới sưng phình, thật là đáng thương).

Do họ dùng rắn ngâm rượu, nên xà linh đã báo oán khiến cho mẹ cô bị bệnh tiểu đường nghiêm trọng.

Tôi liền kể chuyện này cho người bạn khuyên cô ta nên phóng sính, tụng chú “Khổng tước minh vương” siêu độ cho linh xà, cô bạn vốn tin hiểu nhân quả nên vội thực hành như tôi bảo, xong xuôi, cô đem toàn bộ câu chuyện siêu độ linh xà do chính mình trải qua viết thành bài vặn: “Sự thực trước mắt không thể không tin” như sau:

Mẹ tôi vào bệnh viện, bao người lo lắng, nhưng trong lòng tôi hiểu rõ đây là nghiệp chướng hiện tiền, chắc chắn là bị oan thân trái chủ hành hạ rồi.

Mẹ tôi nhập viện một ngày thì tôi cầm ảnh bà đến nhờ người bạn đồng tu cao minh quán sát nhân quả giùm.

Hóa ra là có một con linh xà đang báo oán trên thân bà.

Thực tình tôi cảm thấy rất ngạc nhiên, vì mẹ tôi đâu tiếp xúc với rắn bao giờ?

Sau đó tôi được biết rõ nguyên nhân do con linh xà này đã kể cho bạn tôi nghe : Rằng chính người nhà chúng tôi đã đem nó ngâm rượu.

Tôi biết trong nhà mình vốn có một bình rượu to.

Nhìn sơ thấy trong bình toàn là thảo dược, chưa từng nghe nói là trong đó có rắn.

Hôm qua tôi về nhà, liền đem việc này hỏi phụ thân:

– Bình rượu nhà mình có ngâm rắn ở trỏng hay không?

Cha tôi đáp có.

Nguyên là mấy năm trước khi bạn bè tặng con rắn cho, ông bèn đem nó ngâm rượu, nhưng bình rượu đó lâu rồi không ai động đến và ông cũng quên hẳn chuyện này luôn.

Tôi đến gần bình rượu quan sát, thấy bên trong toàn là thảo dược, vậy thì con rắn ắt hẳn đang bị vùi chôn trong lớp thảo dược này.

Tôi lấy đôi đũa dài thò vào trong bình mò tìm và gắp ra được con rắn.

A Di Đà Phật!

Nó rất dài to, còn có thêm tắc kè, hải mã và mấy con gì nữa mà tôi không biết tên.

Tổng cộng có cả thảy là bảy con vật trong bình rượu, đem hết ra rồi thì tôi đặt chúng trước mặt và quy y chú nguyện cho chúng, tiếp theo thì tụng 21 biến chú Vãng Sinh, rồi đem chôn chúng gần phía sau chùa.

Tiếp đến tôi tới chùa in kinh, phóng sinh, bố thí cúng dường, tạo công đức hồi hướng cho chúng.

Tối đến thì tôi tụng kinh Kim Cang cầu siêu cho chúng.

Hôm nay thì nhận được tin: Thân thể linh xà đã dần dịu lại, người bạn thông tuệ của tôi còn nói: Hèn gì mà thấy con rắn thân sưng phình như phù thùng, hóa ra là nó bị người đem ngâm rượu!

Mặc dù đây là việc xảy ra rất lâu rồi, nhưng tôi vẫn cảm thấy hỗ thẹn áy náy vì quá có lỗi với các chúng sinh này.

Bởi khi quyến thân mình có chút bệnh khổ, thì chúng tôi đều lo lắng nóng ruột nóng gan, thế thì những thống khổ mà các chúng sinh kia phải nếm chịu thì sao?

Bọn chúng đã thọ lãnh nỗi đau vô tận vượt xa hẳn chúng tôi.

Cây cối, động vật và nhân loại trên địa cầu này, đều cần được bảo hộ che chở.

Mong tất cả chúng ta cư xử cảm thông từ ái.

Biết quý trọng sinh mạng của tất cả.

Ghi chép của tác giả:

Cô bạn đồng tu của tôi đem rắn chôn phía sau gần chùa rồi, thì hôm sau linh xà đến cảm tạ tôi, kể rằng nó đã được siêu độ, sinh về cõi trời.

Thân mẫu cô bạn tôi sau khi bệnh viện tái khám đã tuyên bố là bà hoàn toàn hồi phục và được bác sĩ cho phép xuất viện.

Thế nhưng việc tốt còn lắm dũa mài, trong lúc quyến thân đang chuẩn bị làm giấy ra viện, thì mẹ cô bạn tôi đột nhiên phát bệnh, đêm đó khoảng ba bốn giờ khuya bà bị chứng tiểu không cầm được.

Tôi vừa nghe tin này, trong lòng đã minh bạch mấy phần, bời do đã có kinh nghiệm trải qua mấy vụ tương tự như thế này rồi, nên tôi khẳng định: Chắc chằn là do ma phá.

Tối đó khoảng ba bốn giờ khuya, tôi quan sát nơi phòng bà cụ: Quả nhiên nhìn thấy cỏ bốn con ma đang nắm tay nhau múa may, Tôi định thỉnh Bồ tát Vi Đà đến bắt chúng đi, nhưng sau đó nghĩ lại: Thử dùng công lực tụng niệm của cô bạn đồng tu xem sao?

Tôi cũng ráng thức hộ vệ cho mẹ bạn, sau khi trời sáng, tôi bảo cô bạn:

– Bên thân mẹ cô có ma phá nên cô hãy tự xử lý.

Ban đêm khi đến bệnh viện trông coi cho mẹ, cô nhớ tụng chú Lăng Nghiêm, đặc biệt là vào thời điểm mẹ cô phát bệnh, thì phải tụng liên lục, không được ngưng.

Cô bạn tỏ vẻ rất hiểu và ngoan ngoãn làm theo.

Tối đó cô tụng chú bảo vệ cho thân mẫu.

Một đêm bình an trôi qua, hôm sau thì mẹ cô xuất viện.

Phúc Trạch Miên Trường

Lời người dịch:

Sư Quảng Hóa là đệ tử của Hòa thượng Từ Hàng (một vị cao tăng nổi danh ở Đài Loan, sau khi viên tịch đã lưu lại nhục thân bất hoại).

Dù lúc ở đời sư Quảng Hóa từng sát sinh rất nhiều.

Nhưng sau khi xuất gia, nhờ giữ giới tinh nghiêm, hành pháp chân chính mà sư đạt được nhiều lợi ích và đã kể ra những câu chuyện thú vị.

Bây giờ, mời bạn đọc tiếp câu chuyện của sư: Nơi Mẹ Tôi Đến.

6.

NƠI MẸ TÔI ĐẾN

Mẹ tôi chết ở Đại Lục, tôi đem công đức xuất gia hồi hướng cho bà và đích thân chứng kiến mẹ thăng thiên, đây là việc ngàn chân muôn thật, (địa điểm xảy ra tại Tháp Thất Bảo Điện Địa Tạng, thuộc chùa Đại Giác ở Cơ Long, Đài Loan).

Một tối nọ, tôi mộng thấy mẫu thân đang bị giam trong ngục, sau đó bà từ trong ngục đi ra, níu tôi, cất giọng sầu thảm nói:

– Con ơi, hãy mau cứu mẹ!

Tôi hỏi: Vì sao mẹ lại ở trong đây?

Mẹ tôi nói rất nhiều, bà thuật chuyện bị người đem nhốt vào ngục như thế nào, khổ sở ra sao và thúc hối tôi hãy mau cứu bà ra.

Tôi nói:

– Được rồi, xin mẹ hãy chờ, con nhất định sẽ cứu mẹ.

Tôi vừa trở mình thì thức giấc, liền ngồi bật dậy.

Khi tôi nằm thấy ác mộng này nhằm vào lúc chùa Đại Giác đang mở Đại giới đàn tại Cơ Long.

Sáng ra, tôi vì mẹ lập một bài vị để cầu siêu.

Quý vị chú ý cách thức tôi lập bài vị: Trước tiên tôi chắp tay lại, tụng một quyển kinh A Dỉ Đà và 21 lần chú Vãng Sinh, tụng xong thì cầm bút viết bài vị, khi thảo mỗi một nét chữ tôi luôn niệm Phật.

Viết xong thì tôi lại tụng 21 lần chú Vãng Sinh, đọc hồi hướng và cung thỉnh chư Phật Bồ tát gia hộ cho mẫu thân được siêu thăng… ly khổ đắc lạc.

Sau đó tôi cầm bài vị đưa cho một chú Sa di nhờ đem đến đặt ở bàn thờ vong nơi “Công Đức Đường” giùm.

Vì tôi còn phải đi làm nhiệm vụ dẫn lễ của mình, nên cũng chẳng rõ chú tiều đã an trí bài vị của mẫu thân mình ở chỗ nào.

Tối đó tôi lại nằm mơ, thấy mình kéo mẫu thân thoát ra khỏi địa ngục, tay tôi vẫn giữ chặt mẫu thân, và từ không trung bay thẳng về Đài Loan.

Tôi chỉ nhớ được từ trên không trung ở Kim Môn, chỉ một bước thôi là tôi nhảy thẳng qua eo biển Đài Loan, khi đến trên không chùa Đại Giác thì tôi liền hạ xuống đứng trước cổng Niệm Phật Đường.

Sau đó tôi hộ tống mẫu thân lên lầu, thỉnh bà ngồi một góc nơi phía bên phải và nóí:

– Mẹ hãy ngồi ở đây đợi con nha!

Con sẽ siêu độ cho mẹ!…

Nói xong tôi thức giấc.

Hôm sau vì quá bận rộn truyền giới, nên cả ngày tôi chưa rảnh để qua xem thử tình hình linh vị mẹ được an định thế nào.

Đến chiều, khi mọi người đều đi dùng bữa cả, do tôi quá ngọ không ăn, nên tôi tranh thủ thời gian này, đi đến Niệm Phật Đường để xem cho biết bài vị mẫu thân được đặt ở đâu?

Đến nơi, vừa nhìn, thì…

ôi chao!

Quả đúng như chỗ tôi đã từng đặt mẫu thân ngồi trong giấc mộng.

Đối diện với linh vị mẹ mình, bất giác niệm buồn thương khởi lên, tôi không kiềm được lệ rơi sùi sụt.

Thế là tôi bèn tụng một quyển kinh A Di Đà và 21 biến chú Vãng Sinh cho mẹ, chí thành cầu Phật siêu độ cho bà.

Tụng xong thì đi ra, trong lòng bùi ngùi không vui.

Tôi ngoái đầu nhìn Thất Bảo Tháp, nếu như mọi lần thì tôi chỉ xá rồi đi ra, hôm ấy thì khác, vừa bước đến sân Điện Quan Âm, nhìn thấy tượng Bồ tát Quan Âm thì tôi liền bái, trong lòng chỉ có một ý nghĩ: “Cầu xin Bồ tát từ bi siêu độ cho mẹ con”…

đi tiếp đến Điện Phổ Hiền, Văn Thù, Thích Ca… tôi đều lần lượt lễ bái, cầu Phật lực gia hộ cho mẫu thân, sau đó tôi đi lạy từng nơi, trong lòng chỉ có một niệm: Xin cầu siêu cho mẫu thân.

Quay về lại Điện Quan Âm, vốn là tôi dô định đi ra, vì khi đó trời đã tối, thì bỗng phát hiện nơi góc tường bên kia có ánh sáng và từ trong dổ thổi ra một luồng âm phong lạnh lẽo thê lương, khiến tôi cảm thấy sợ, lẽ nào đó là âm vong của oan quỷ không siêu thoát?

Vì muốn biết đây có phải oan quỷ hay không tôi bèn đi đến xem thử!

Khi tới chỗ đó, tôi lớn tiếng nói:

– Này!

Có phải là hồn oan quỷ nào đó chăng?

Nếu có thì hãy đến tìm tôi, tôi có thể giúp cho các vị giải oan (vì trước đây tôi làm ở bộ Tư pháp, hiện giờ cũng cỏ rất nhiều bạn bè làm Pháp quan, Kiểm sát quan, tôi có thể thưa giúp các vị giải oan.

Âm phong không còn nữa, tôi cúi đầu ngó xuống, thấy bên dưới là một tầng hầm, phải xuống cầu thang hình trôn ốc mới vào tới được.

Thế là tôi đi xuống đó.

Nguyên đây là gian thờ cốt, bên trong có thờ Bồ tát Địa Tạng.

Vừa nhìn thấy Ngài tôi liền nhớ đến chuyện xưa kia Bồ tát cũng từng cứu giúp mẫu thân, thế là tôi liền thỉnh cầu Bồ tát siêu độ cho mẹ.

Tôi nói:

– Con chẳng cầu chi khác, bởi có câu: “Một người con xuất gia tu hành chân chính, có thể độ cửu huyền thất tổ được siêu thăng!”…

Đây là lời Phật nói, mà Phật thì không hề vọng ngữ!

Vì vậy con khẩn cầu Bồ tát Địa Tạng, xin tối nay hãy hiển hiện cho con xem, con muốn được tận mắt nhìn thấy cảnh mẫu thân thăng thiên, nếu bà không thăng thiên, con xin quỳ ở đây mãi không đứng dậy!

Nói xong, tôi quỳ trước Bồ tát Địa Tạng, niệm chú triệu thỉnh mẫu thân, chú triệu thỉnh rất lỉnh, lúc niệm chú, tay tả tôi kết ấn Kim Cang, tỳ vào eo, tay phải bắt Hoa ấn, miệng niệm Chú triệu thỉnh.

Trước đây tôi niệm luôn có cảm ứng, cho nên tôi tin khi tôi triệu thỉnh, mẹ sẽ tới…

Sau đó tồi lại tụng Diệt Định Nghiệp Chơn ngôn của Bồ tát Địa Tạng, lúc niệm tôi chắp tay, dùng tâm quán tưởng câu chú chữ Phạn…

Cứ thế, tôi tụng chú Diệt Định Nghiệp tiêu trừ cõi quỷ cho mẫu thân, tiếp đến lại vì bà niệm “Diệt Nghiệp Chướng Chơn Ngôn”, tôi kiết thủ ấn, quán tưởng chữ Phạn trong tay phóng quang, ánh sáng sắc trắng, cầu cho mẹ tiêu trừ nghiệp chướng.

Ba câu chú này vừa niệm xong, tôi thưa với Bồ tát Địa Tạng:

– Thưa Bồ tát, việc con đã làm xong, tiếp đến là phần của Ngài, Ngài nhất định phải siêu độ mẹ con, một ngày mẹ con chẳng siêu thì con xin quỳ tại đây một ngày không đứng dậy, hai ngày chẳng siêu thì con quỳ hai ngày không dậy, bảy ngày chằng siêu thì con quỳ bảy ngày không đứng dậy… cho đến bao giờ mẹ con thăng thiên mới thôi.

Con muốn chứng kiến tận mắt, chứ không muốn thấy cảnh mẹ con siêu thăng qua giấc mộng, nhất định con phải nhìn thấy mẫu thân siêu mới được”…

Nói xong, tôi quỳ xuống niệm:

– Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát!

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát!

Mắt lệ tuôn tràn, tôi cầu nguyện tha thiết, vừa khóc vừa niệm, chẳng biết niệm đến bao lâu, thì phát hiện trên nền đất, dưới tòa Bồ tát Địa Tạng Vương bỗng có một làn khói xanh bay lên, mới đầu nhìn giống như làn khói nhang thật lớn.

Chà!

Có khói hiện?

Chẳng lẽ đã được cảm ứng?…

Trong lòng tôi vừa nghĩ thế thì liền gia công niệm:

– Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát, Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát!…

Lúc đó vầng khói xanh dần dần bay lên cao, ra khỏi mái ngói, kết thành hình một vòm hang và bay lên từng tầng, từng tầng… qua tầng thứ hai, tầng thứ ba vẫn cứ thế không thay đổi biến hóa gì.

Nhưng khi bay đến tầng thứ tư, làn khói xanh đó mới hóa thành hình hoa sen, đến tầng thứ năm, thì trên hoa sen hiện có một người ngồi, hình dáng giống như mẹ tôi lúc ở nhà.

Đến từng thứ sáu, mẫu thân tôi đã biến thành thiên nhân, đến từng thứ bảy, trông bà càng trang nghiêm, đẹp dịu dàng như hình ảnh tổ mẫu nương nương mà nhân gian thường thờ phụng bái lạy, bà đội mũ Phượng, mặc y trời, trên tay cầm viên ngọc.

Trong chớp mắt tòa sen bay tít lên cao, trong khoảnh khắc xoay chuyển biến đổi ấy, tôi vội hướng Bồ tát Địa Tạng Vương van cầu:

– Thưa Bồ tát Địa Tạng, xin Ngài hãy mau mau cho con biết và thấy rõ, chứng thực được người ngồi trong hoa sen đó chính là mẹ của con!

Tôi vừa dứt lời, ôi chao!

Người ngồi trong hoa sen lập tức quay đầu lại, ngó xuống gọi: Nguyên ơi! (Là thế danh của tôi)

Tôi lập tức hồi đáp:

– Dạ, con nghe thưa mẹ !

Mẹ tôi mỉm cười, vẻ rất hân hoan và bà hóa thành làn khói xanh bay thẳng lên mây rồi biến mất giữa trời cao.

Tôi quay lại nhìn tượng Bồ tát Địa Tạng Vương, cảm kích rơi lệ nói:

– Thưa Bồ tát!

Cảm tạ Ngài đã siêu độ mẹ con thăng thiên.

Cuối cùng, ngày hôm ấy, ngay tại đây tôi mới tận mắt chứng kiến mẹ thăng thiên.

Nhờ vào dâu?

Chính nhờ vào việc tôi xuất gia.

Thế thì vì sao có biết bao người xuất gia nhưng mẹ không thể siêu thăng?

Chuyện này bạn phải tự hỏi và kiểm điểm chính mình có phạm giới hay không?

Nếu như xuất gia, đã thọ giới mà phạm giới, thì tính ra chuyện bản thân xuống địa ngục là có dư, thì còn nói chi đến việc đủ phúc đức nhờ vào việc xuất gia mà hóa độ cõi âm sinh thiên, làm sao có được?

Nếu như bạn xuất gia, nghiêm trì giới luật, tinh tấn niệm Phật tu hành, phụ mẫu sẽ nhờ công đức xuất gia này của bạn mà sinh thiên, chắc chắn điều này có thực không nghi.

Từ xưa đến nay, sự tích chứng thực việc này có rất nhiều.

Phần tôi đem kinh nghiệm về mẫu thân của mình kể ra cho quí vị nghe, không phải là tự thổi phồng khoe khoang mình, mà chính vì muốn chứng minh lời Phật nói không hề hư vọng.

Tôi chỉ là phàm phu, song vẫn có thể nương vào công đức xuất gia tu hành, khiến mẹ được sinh thiên.

Tôi hi vọng quý vị đều có thể nghĩ như vậy, vì xuất gia mình không thể phụng dưỡng mẹ cha, nên tâm hằng nguyện phải nghiêm trì tịnh giới, nỗ lực tu hành, hầu có thể dùng công đức này hồi hướng cho mẹ cha.

Nếu như quý vị có thề làm được như thế, thì không còn gì quý hơn.

Như vậy mới đúng với câu: Đệ tử Phật là đại hiếu, vì báo được ân cha mẹ nhiều đời.

Đây mới chính là chân chánh báo đền đại ân đại đức của quyến thân vậy.

7.

BUỔI CẦU SIÊU KỲ LẠ

Hôm qua tôi được mời đi làm lễ siêu độ cho một thanh niên trẻ, thuộc con nhà giàu có.

Ông nội và phụ thân y đều là phú thương.

Trong lúc tổ chức lễ sám, cúng phẩm chưng bày rất phong nhiêu.

Tôi lên pháp tòa, mới ngồi chưa bao lâu, thì thấy quan Táo thần trong nhà, cầm một tám vải trắng, trên viết hai từ: “DÂM BÁO”, đưa cho tôi xem.

Tôi xem xong im lặng không nói gì, nhưng trong lòng rất kinh ngạc.

Tôi ngồi trên tòa cao, đọc bài báo cáo, biết thanh niên này tên Từ Bổn, chết năm 25 tuổi, chết không rõ nguyên nhân.

Trong lúc tôi dẫn thỉnh vong linh, tôi luôn quan sát xem hồn có tới chăng, đây là điểm đặc biệt: Nếu tôi thấy linh có tới và đi, tức là làm siêu độ được.

Còn không, thì chỉ là biểu hiện giả dối có siêu độ bên ngoài mà thôi.

Tôi đã niệm chú triệu thỉnh, đốt văn trình báo xong rồi mà vẫn không thấy hồn của tên Từ Bổn tới, bốn bề mênh mông trống rỗng!

Nếu cứ thế này thì buổi lễ xem như vô phương tiếp tục tiến hành (nếu như là chư sư khác, thì pháp sự vẫn cứ làm, bởi dù sao người nhà họ đâu ai nhìn thấy gì).

Tôi bèn bắt ấn câu triệu của Mật giáo để câu hồn phách, nhưng vong linh vẫn không tới!

Chỉ thấy ông Táo thần lò dò tới, công vẫn cầm miếng vải trắng, nêu rõ hai từ: “DÂM BÁO!”

Táo thần là tên thế gian thường gọi, song ông còn có danh khác là “Tư mệnh chân quân”, là vị thần trông coi nhà bếp.

Theo âm lịch thì ngày mồng 3 tháng 8 là sinh nhật Táo thần, còn ngày 23 tháng chạp thì Táo thần lên trời, cũng gọi là “thượng thiên ngôn hảo sự, hạ địa báo bình an” (lên trời trình hảo sự, xuống dưới báo bình an).

Táo thần chuyên trông coi về thiện ác, công, tội của mỗi nhà.

Hằng năm ông báo cáo lên trời, rồi y theo đó mà định nhân gian qua năm mới phúc họa ra sao, cần tước phúc hay ban phúc, việc này thuộc trên trời định luận.

Tôi hỏi Táo thần:

– Vong hồn Từ Bổn hiện đang ở đâu vậy?

Táo đáp: Vô! (Không!)

Tôi nói: sống là người, chết thành vong, vậy mà ngay cả hồn cũng không, điều này quá vô lý!

Có phải ông giấu linh hồn Từ Bổn chăng?

Táo lắc đầu nói:

– Không có!

Tôi ngẩn ngơ.

Táo không giấu vong linh Từ Bổn?

Mà tôi đã dùng u minh thiệp triệu thỉnh, nếu hồn Từ Bổn hiện ở cõi âm, thì đúng lý phải sớm bay tới đây rồi?

Thế nhưng tại sao đợi mãi vẫn không đến?

Tôi đang hoang mang thắc mắc, vì chẳng thấy tăm hơi hồn Từ Bổn đâu!

Tại dương gian Từ Bổn đã chết, thế mà lại không tìm ra hắn tại âm gian.

Vậy y hiện đang ở đâu?

Đến chỗ nào kia chứ?

Tôi tự hỏi mãi, trong bốn chỗ: Phong, địa, thủy, hỏa… y đang trụ ở đâu đây?

Tiếp đến tôi lại trì một câu chú, đại ý là: “Nếu có thể tìm được trong vi trần, trong thủy thế giới, trong tất cả tàng thân thế giới vi tế, hễ chỗ nào có… thì xin đều hiển hiện!”…

Nhưng kết quả vẫn là không!

Tôi biết rõ uy lực câu triệu của Mật chú này, vì trong pháp siêu độ triệu thỉnh, Mật chú có trăm ngàn vạn ức đại oai thần lực, nếu đã đọc lên triệu thỉnh… mà không thấy vong đến, thì pháp sự này chẳng cần làm nữa, vì có làm cũng uổng công vô ích.

Thế là tôi liền xuống tòa, bảo chủ nhà:

– Không thề tiến hành siêu độ được.

Chủ nhà hỏi:

– Có chỗ nào không đúng ư?

Là do tiền không đủ ư?

– Không!

Không phải vấn đề tiền, mà là có chuyện rất quái lạ…

– Quái lạ gì hả?

Tôi thật thà nói: Là do khí phận rất lạ, hồn chẳng đến, điều này liên quan đến việc vong linh phạm tội đại ác về dâm!

Do vậy mà cá nhân tôi không cách chi làm lễ siêu độ được!

Gia chủ xẵng giọng:

– Thầy nói tức cười chưa?

Lẽ nào lại thế?

Nói vậy không phải quá vô lý ư!

Chỉ một lễ siêu độ nhỏ thôi mà thầy không ưa làm thì cứ nói không làm!

Đâu cần phải đổ thừa lung tung nào là do: Khí phận, hồn phách và miệt thị con tôi bị dâm báo như vậy?

Thầy không làm thì chúng tôi sẽ thỉnh người khác đến làm!

Có hề chi đâu?

Tôi chào chủ nhà cùng các thân hữu tại hiện trường rồi ưu tư ra về.

Nghe kể tối đó chủ nhà mời rất nhiều đoàn nổi tiếng đến tụng kinh, phối hợp đủ màn diễn tấu với đầy đủ dụng cụ điện tử hiện đại, tạo thành một lễ cầu siêu rất náo nhiệt.

Sau đó chủ nhà còn thốt lời chê bai cười nhạo tôi.

Tôi từng vì chuyện siêu độ này mà cảm thấy khó kham, bởi mình đã lên pháp tòa rồi mà lại tuột xuống, còn thốt lời nói với chủ sự là: “Không thể làm lễ siêu độ này!”…

Nói thực, đến bây giờ tôi cũng không thể làm!…

Điều này quả thực là chuyện hi hữu, rất hiếm khi xảy ra trong đời tôi!

Tuyệt không phải do tôi cống cao ngã mạn, chỉ vì tôi biết quá rõ: Vong hồn Từ Bổn không đến!

Nếu vong không đến, làm sao tôi có thể tiến hành pháp sự siêu độ được?

Do không thể tận mắt thấy vong linh siêu thăng, thì làm sao tôi có thể nói là: Buổi lễ này tiến hành viên mãn tốt đẹp được chứ?…

Tôi rất muốn tìm hiểu linh hồn của anh chàng Từ Bổn này, rốt cuộc là đang ở chỗ nào, bèn bỏ công đi đến miếu Thành hoàng, quyết điều tra cho bằng được mới thôi.

Tôi hỏi Tôn thần Thành hoàng:

– Hồn Từ Bổn đang ở đâu?

Thần hoàng liền kiểm tra, dòm trong sổ thấy không chứng lục (Xin giải thích: Có hai hạng người sau khi chết rồi, không trải qua chứng lục số liệu.

Một là: Hạng người tu hành, được trực tiếp siêu thăng, nhưng hạng này tương đối hiếm.

Hai là: Hạng đại ác, do phải thọ thảm báo, nên hình hài thần hồn đều diệt, gọi là: “Hình thần câu diệt” nên vô tư liệu).

Tôi hỏi:

– Vậy thì Từ Bổn được phi thăng rồi ư?

Thành hoàng xác định:

– Đương nhiên là không.

– Vậy… y bị “hình thần câu diệt” rồi ư?

– Điều này hoàn toàn có thể!

Thành hoàng nói: Hiện nay, xét nguyên nhân phạm tội: Sát nhân là đại ác, dâm nhân là đại độc, hiếp sát là cực ác, tất phải thọ u báo là chuyện hiển nhiên.

Tôi cảm tạ Tôn thần Thành hoàng chỉ điểm.

Sau khi quay về am rồi, tôi vì việc này mà suy tư mãi.

Rõ ràng tôi đã nhìn thấy Táo thần cầm tấm vải trắng, trên viết hai từ DÂM BÁO, thế thì có thể do Từ Bổn phạm dâm ác mà bị hình thần câu diệt, linh phách đều thọ tội…

Tôi ngồi xuống tĩnh tọa, nhắm mắt quán sát, bỗng thấy trước mắt hiện ra một màn bạc, hoạt cảnh diễn tiến rõ ràng hệt như cuộn phim được trình chiếu:

Các nữ tỳ giúp việc đều bị Từ Bổn bức hại cưỡng dâm, làm thương phong bại tục, tuổi trẻ y dâm tâm hừng thịnh, không gì mà không phạm.

Càng phóng túng, càng ngông cuồng!

Từ Bổn chẳng kiêng dè ở trước Táo hành dâm, nên tội bị tăng thêm một bậc!

Y mặc tình dâm dục chẳng khác thú cầm, hệt kẻ điên si!

Nơi Phật môn thanh tịnh cũng dám cả gan làm chuyện nhiễm ô, gây bại hoại cho người thanh tu, đây là hành vi cực kỳ ác.

Tội này nặng gấp trăm, không thể trốn thoát, xem ra y không ác gì mà không làm!

Hễ gặp mỹ phụ, thì y tâm đầy dục loạn, giở thói cưỡng hiếp, ép càn.

Bị mỹ phụ kháng cự thà chết chẳng thuận, nên Từ Bổn đã bóp cổ, giết hiếp họ…

Sau khi hiếp mỹ phụ và giết chết, y vùi thây nàng nơi hoang sơn, tâm không chút cải hối còn hại luôn gái nhà lành.

Trong cơn thiền quán, từng chữ từng câu lội trạng Từ Bổn hiện lên vô cùng rõ ràng trên màn ảnh, tôi xem mà hết hồn!

Tôi đã hiểu rõ: Từ Bồn chết là bị La sát quỷ trừng hại, trong lễ cầu siêu vong hắn không thể đến, nguyên nhân là do đây!

Một hôm tôi đang đi trên đường, tình cờ gặp một ông lão, ông vồn vã hỏi thăm:

– Có phải Thầy Lư đó không ạ?

– Phải!

– Ngài không nhận ra tôi ư?

– Chỉ thấy quen quen thôi.

Xin lỗi nhé, do hằng ngày tôi tiếp xúc cả trăm người, nên nhất thời chưa thể nhớ ra…

Ông già tự giới thiệu:

– Tôi họ Tô, là quản gia nhà tỷ phú họ Từ, tôi trông coi cậu Từ Bổn từ nhỏ đến lớn.

Lúc thầy làm Lễ siêu độ, tôi cũng có mặt ở đó.

– À!

Ra là vậy?

Tôi nhớ rồi, đã có gặp lão mấy lần, từng trò chuyện căn dặn lão sắp đặt đàn tràng làm sao… cho tôi xin lỗi nhé, quả thực tôi vô phương siêu độ Từ Bổn, tôi đã cố hết sức rồi!

Lão Tô thân mật nói:

– Ngài là một tu sĩ chân chánh, đúng bậc chánh hạnh!

Ngài không giả dối lại thẳng tính, chẳng ưa che giấu điều gì.

Rồi lão hạ giọng nói nhỏ vào tai tôi:

– Đối với những việc Từ Bổn làm, chúng tôi rất rành và quá hiểu các hành vi bất hảo, tác oai tác quái của y.

Cho nên chuyện ngài vô phương siêu độ là đúng thực, bọn chúng tôi ai cũng tin.

Thế nhưng phận làm công ăn lương nhà họ Từ, chúng tôi nào dám nói…

Rồi lão thở dài than:

-Từ bổn háo sắc đại tà, tạo ác kinh thiên, do vậy mà bị yểu mạng, chết không lành.

Số nữ gia nhân của Từ gia có bốn vị, còn nam quản gia chỉ có mình tôi.

Hôm nọ, lão nô ngủ không được, muốn rít một hơi thuốc bèn đứng dậy đi ra hoa viên, chuẩn bị mồi thuốc hút… thì bỗng chứng kiến cảnh Từ Bổn đang hành tà sự, hiếp nữ tỳ…

Còn bà giúp việc họ Trần đã kết hôn, đã có chồng ở nhà.

Sau cũng bị y hành tà dục tại bếp.

Càng không tưởng tượng được là cả đám tỳ nữ giúp việc tổng cộng bốn người, y đều xâm hại, Từ Bổn không bỏ qua ai…

Tôi nói: Y không tha nữ tu và còn giết hiếp cả quả phụ nữa…

Lão nghe tôi nói, kinh sợ đến giật cả mình:

– Làm sao mà ngài biết rành hết vậy?

Tôi đáp:

– Muốn người đừng biết, thì mình đừng làm!

Lão Tô nói: Vâng, tôi hiểu rồi.

Ôi chao!

Cái gã Từ Bổn ngông cuồng dâm ác này, hắn ỷ thế giàu sang tạo tội vô số, khó mà kể hết.

Làm ác thì phải thọ ác báo!

Y không biết ăn năn sám hối thì làm sao có thể siêu độ được chứ?

Lão quản gia lắc đầu than thở… sau đó lão lễ phép cáo biệt tôi, buồn bã bước đi…

Lư Lão sư

8.

CÔ BẠN TIẾN SĨ

Cô Y bạn tôi là Tiến sĩ Kinh tế kiêm Giảng sư cao học, cô không hiểu Phật giáo, không học Phật, nhưng lại ngộ ra chuyện sinh tử của kiếp người là một vòng tuần hoàn liên tục chẳng đáng sợ.

Cô không hay tụng niệm, nhưng lại nhìn thấy cảnh giới của người lâm chung, hiểu rõ cần phải niệm Phật mới có thể giúp người mất bình an chuyển sinh.

Rằng: Muốn giúp đỡ người sau khi chết, thì điều cần làm đầu tiên là nên thỉnh tu sĩ các chùa làm lễ siêu độ cho.

Cô Y bẩm sinh đã có ngộ tính và trí huệ cao, tất cả đều xuất phát từ tâm thanh tịnh từ ái, không tham mê danh lợi hồng trần của cô.

Xưa kia, gia tộc cô cũng có một vị là tu sĩ ở trong Tử cấm thành chuyên hướng dẫn hoàng cung tu.

Cô kể tôi nghe, lần nọ, ông Tú là thân nhân của bạn cô tạ thế, cô đến thăm, để tránh làm phiền tang quyến, cô đứng bên ngoài phòng bệnh.

Gia đình người mất hoàn toàn không theo tôn giáo nào.

Thế nhưng chị dâu ông Tú lại tin Phật, niệm Phật.

Cho nên bà bất chấp những người trong gia đình ngăn cản, cương quyết tiến vào phòng bệnh, niệm Phật cầu cho người mất.

Cô Y không hiểu gì về Phật, cô chỉ chắp tay lại, chí thành nguyện cầu cho ông Tú ra đi an lành.

Có lẽ chị dâu của người mất niệm Phật thành tâm nên được cảm ứng, Vì cô Y nhìn thấy rõ cảnh tượng người mất biến hóa đến kinh ngạc.

Ngay trong tiếng niệm Phật vang vang của chị dâu, cô thấy vong linh từ giường bệnh bay ra khỏi xác, hình dáng trong suốt, nhẹ như khói mây, đầu tiên ông bay lên dừng nơi trần nhà phòng bệnh, nhìn thật lâu vào tất cả những đang gì xảy ra trên xác thân ông.

Cuối cùng, trước mặt ông đột nhiên xuất hiện một con đường sáng xông thẳng lên trời, thế là vong linh nương theo con đường hình trôn ốc tràn ngập ánh sáng đó, bay thẳng lên vũ trụ vô biên…

Cô Y tận mắt chứng kiến sự tình này thì đột nhiên khai ngộ, hiểu rằng chuyện tử vong của con người không đáng sợ, bởi vì tiếp theo sau cửa tử, một đời sống mới lại bắt đầu…

Có đáng sợ chăng là nghiệp ác người mất đã tạo và phải đem theo mà thôi.

Do vậy khi sống ta cần phải làm toàn điều thiện.

Còn nữa, khi làm đám cho người chết, nhất định thân quyến không được giết chóc cúng mặn, mà phải cúng chay!

Khi người thân chết, quyến thuộc tuyệt đối không được khóc, vì làm vậy sẽ khiến người mất tâm bất an, bị quyến luyến vương vấn, làm rối lòng, mà nếu họ khởi một niệm loạn, sai, thì sẽ bị đọa…

Cô còn bảo tôi, lúc ba chồng cô qua đời, cô thấy rõ vong linh ông bay lên vách tường phòng, nên lập tức bảo chồng:

– Ba chưa đi đâu, hiện vẫn còn ở trong phòng này.

Một lát sau vong ba chồng cô từ từ bay ra cửa sổ… cô đem kinh nghiệm này kể tôi nghe và nói: Tử thực tế là tiếp tục sinh, cho nên đối với tử vong không có gì đáng sợ, nếu như bạn luôn sống thiện.

Nhưng trong thời đại khoa học này, khó mà giải thích cho người ta hiểu được chuyện chết và cảnh giới hậu tử tiếp theo sau đó, do đa số mọi người đều chẳng biết chết là thế nào, họ chỉ biết hễ sống thì lo tranh đấu, giành giựt, tham ái, ăn ngon…Do mê lầm này nên họ tạo đủ tội ác, đem đến vô vàn thống khổ cho tâm và thân.

Thượng sư tôi đã nhiều lần nhắc nhở: Các chứng bệnh của con người ta như: Nghẽn mạch máu não, Si-đa (AIDS), bại liệt, trúng phong, ung bướu, thần kinh… là từ đâu đến?

Là do tham ái tạo thành, là do sát, đạo, dâm, vọng… chiêu cảm.

Tại Mỹ, thông thường khoảng hai ba tháng trước khi người bệnh sắp tạ thế, bác sĩ luôn thông báo rõ tình hình cho người bệnh biết để họ tiện xử lý mọi việc khi còn sống và bình tĩnh đón cái chết đến.

Còn đa số người đông phương chúng ta, xưa nay không được giáo dục như thế, lại không có chút hiểu biết về sinh và tử.

Cho nên mỗi khi có người bệnh lìa đời, thì gia quyến còn biểu diễn cảnh khóc lóc, níu kéo… gây náo động rùm beng, khiến người chết càng bị ái luyến trói buộc, thống khổ nhiều thêm.

Chưa kể những nguy hại do tang quyến sát sinh quá nhiều để cúng tế…

Họ hoàn toàn không biết rằng: Làm như thế chỉ khiến linh thức người mất đọa vào ác đạo, đối với người mất chỉ có hại, tuyệt không giúp ích được gì.

Thế nên, nếu chúng ta yêu thương gia đình và thân hữu, thì nhất định trong lúc họ còn sống, phải nói cho họ hiểu rõ về cái chết, để mọi người ngay trong lúc còn sống, biết chuẩn bị thực tốt cho phút ra đi: Bằng thiện nghiệp tích lũy của chính mình.

Và ngay giây phút người thân chết đi, không nên khóc lóc làm ầm, phá rối sự vãng sinh của họ.

Muốn đoạn trừ phiền não, liễu sinh tử, chứng bồ đề, thì phải tu hành.

Ai tu nấy đắc, chẳng tu thì chẳng đắc.

Việc quan trọng tối cần của mỗi người chính là liễu sinh tử!

Thanh Tịnh Tâm -14/3/2016

9.

NGỌN GIÁO NƠI TƯỢNG QUAN CÔNG

Đa số chúng tôi đều rất tin nhân quả báo ứng, vì đã chứng kiến nhiều vụ án ly kỳ mà khoa học không thề giải thích được.

Phần đông các bạn đồng nghiệp của tôi, trên xe đều thờ tượng Phật hoặc đeo chú hộ thân…

Trước khi xuất phát chúng tôi thường chắp tay niệm Phật, im lặng cầu nguyện, điều này đã thành quy luật bất thành văn.

Thành phố Bắc Kinh là nơi tôi công tác, đã phát sinh nhiều vụ án rất quái, phải nói là khó mà tưởng tượng ra.

Trước hết xin tự giới thiệu: Tôi làm cảnh sát đã 17 năm, mới đầu tôi làm ở đồn công an.

Sau đó tôi được điều đến Đại Hưng, phục vụ tại trường cảnh sát một năm, khi cấp trên đến tuyển người tác nghiệp đặc biệt, một lão cảnh sát già dặn kinh nghiệm đã chọn tôi.

Thế là ông trở thành sư phụ Hình cảnh của tôi, cho đến nay vẫn còn làm việc chung với nhau

Chúng tôi giống như hai cha con.

Sư phụ tôi năm nay 52 tuổi, ông làm cảnh sát đã 35 năm rồi.

Ông dạy tôi rất nhiều điều hay.

Giờ tôi xin kể một vụ án lạ, nhưng xin phép được ẩn tên người lẫn địa chỉ và thay bằng hóa danh.

Trước tiên, xin kể chuyện khi tôi vừa đến đội Hình cảnh công tác.

Lúc đó vào năm 1994, chúng tôi nhận được tin báo có người chết gần nhà hát mới vừa khai trương.

Kẻ báo án nói là do xảy ra đánh lộn trước cửa nhà hát, nên phát sinh chết người.

Nhưng khi chúng tôi tới hiện trường điều tra thì không phải vậy!

Lý do khiến người bị tử vong, nói ra rất kỳ quái: Nạn nhân vừa bước vào trước cửa nhà hát thì bị trợt chân loạng choạng, rồi va vào mũi trường thương nơi tượng Quan công cao hơn một mét và bị mũi giáo đâm lủng yết hầu nhằm ngay động mạch chính, người quanh đó nhìn thấy máu nơi cổ ông phun bắn ra… thảy đều hoảng kinh, nhưng không ai dám tiến tới gần, do vậy mà việc cấp cứu bị chậm trễ, khiến nạn nhân tử vong.

Lúc đó nhà hát có ít người, đương thời trước cửa nhà hát là một chốn rất hào hoa, nơi cửa đặc biệt trang thờ một tôn tượng Quan Công tay cầm cây trường thương, đây cũng chính là nguyên nhân phát sinh kỳ án.

Chúng tôi mời ông giám đốc tên Vạn Nguyên về đồn thẩm vấn một lúc lâu, sư phụ tôi hỏi ông:

– Ông kinh doanh thì sao lại cúng thờ tượng Quan Công? (Bởi vì đa số người làm ăn thường cúng tượng thần tài.

Cũng có thuyết cho Quan Công là Võ tài thần – Võ thần lẫn Tài thần).

Giám đốc nói:

– Đây là do đám ca sĩ tặng cho tôi sẵn trước rồi, tượng vừa mới được chở tới tối đó thôi…

Chúng tôi lập tức tìm người bạn chuyên làm nghề đồng của giám đốc tên là Tử Hưng, (Y là nghệ nhân đã làm ra cây trường thương này) để thẩm vấn.

Lúc ấy người nhà Tử Hưng mới phát hiện ra: ông ta mất tích đã ba ngày nay rồi, không ai nhìn thấy ông.

Gọi điện liên lạc cũng không được.

Lúc đó chúng tôi linh cảm trong đây nhất định là có chuyện.

Chúng tôi vội quay lại tìm ông giám đốc hỏi về quan hệ của Tử Hưng.

Vạn Nguyên kể ông và Hưng chỉ là bạn làm ăn, nói đến đây ông sực nhớ ra: Hai ngày trước tại quán nhậu, Hưng ngỏ ý muốn mua xe, giám đốc có bảo Hưng là: Sẽ tốn tiền nhiều lắm đó!

Nhưng Hưng tỏ vẻ rất muốn mua, còn vui miệng bảo: sắm xe mới xong sẽ cho giám đốc lái thử.

Vạn Nguyên nghe y phát biểu thì thầm nghĩ đây chỉ là lời nói đùa trong lúc nhậu nên ông chỉ mỉm cười mà không lưu tâm.

Chúng tôi nghe tới đây liền hỏi giám đốc: Ông ta có kinh doanh gì khác nữa không?

Bình thường có ưa tiêu xài lớn chăng?

Vạn Nguyên đáp: ôi dào, tính Tử Hưng không những bỏn sẻn mà lại nhát gan, cho dù gã làm nghề đồng, trong tay có được mấy vạn, nhưng nếu muốn mua xe thì tiền vẫn chưa đủ.

Sau hai tuần điều tra về Tử Hưng, Chúng tôi phát hiện ba vạn mốt ông cất trong nhà đã biến mất, hơn nữa cũng hay tin ông từng khoe với nhiều bạn bè là mình muốn mua xe.

Mới đây ông có hợp tác với người bạn bên xây dựng kiếm thêm được mớ tiền, hơn nữa người thợ xây này gần đây hay ghé nhà tình nhân của ông uống rượu.

Trong thời gian đó, bên Sở công an Tây La Viên báo tin, họ vớt được cái đầu người đã phân hủy trong dòng Tây La Viên, qua khám nghiệm điều tra của Pháp y và Hình cảnh, mới biết đây chính là đầu của Tử Hưng, ông bị hung thủ dùng búa chặt đầu, sông Tây La Viên chỉ là nơi hung thủ ném thủ cấp phi tang.

Chúng tôi lập tức phái người tìm ả tình nhân tên Mỹ Lệ của Tử Hưng, trải qua bao quanh co lắt léo mới kiếm ra mụ ta đang ẩn trốn ở miền quê Hà Nam, bèn mời về Bắc Kinh thẩm vấn.

Tối đó Mỹ Lệ khai: Ả và Tử Hưng quen nhau hơn hai tháng, một hôm lão dẫn về một gã thợ xây khoảng 30 tuổi tên Sang, người Đông Bắc.

Trong tiệc nhậu Tử Hưng luôn mồm khoe mình muốn mua xe.

Sau đó tên Sang đã một mình tìm đến nhà Mỹ Lệ, hỏi thăm số tiền Tử Hưng muốn mua xe hiện đang cất ở đâu?

Mỹ Lệ nói hiện cất trong nhà ông ta.

Sau đó y ghé nhà Mỹ Lệ mấy lần, bị Tử Hưng phát hiện, thế là giữa Sang và Hưng xảy ra ẩu đả.

Khi Sang bỏ đi rồi, có lần y quay lại tìm Mỹ Lệ, rủ ả cùng hợp tác để giết chết Hưng, chiếm lấy số tiền và đưa nhau về Hắc Long Giang ở, sẽ không ai phát hiện ra.

Hai người cùng bàn bạc kế mưu là sẽ giết Hưng như thế nào.

Sau đó Sang bảo trước tiên Mỹ Lệ hãy giao chìa khóa nhà cho gã, rồi cố gắng chuốc cho Hưng uống say, sau đó gã sẽ ra tay.

Đêm đến, hai người làm y theo kế hoạch, Sang thừa dịp Hưng uống say thì rút chìa khóa tự mở cửa tiến vào, Tử Hưng nghe tiếng động liền ngoái đầu ra nhìn, thì bị Sang dùng búa chém, thi thể Hưng được họ chôn dưới gốc cây trong vườn.

Chúng tôi lập tức truy nã tên sát nhân, tìm một hồi thì phát hiện ra tên Sang chính là nạn nhân ba tuần trước đã bị té, cổ va vào ngọn giáo rồi vong thân ngay trước nhà hát.

Lúc này mọi người mới hiểu ra ngọn nguồn.

Ai cũng nói: Do tên Sang là hung thủ giết người, nên y đã bị hồn Tử Hưng hiển linh báo thù.

ông đã khiến Sang phải bỏ mạng dưới ngọn giáo do chính tay ông làm ra.

Tình tiết vụ án quả là ly kỳ ngoài sức tưởng, chứng minh nhân quả báo ứng hiện rất nhanh và không hề hư dối.

Tôi kể câu chuyện này hy vọng bạn đọc thâm tín nhân quả: Hễ khởi tâm động niệm, hành sự chi…

đều phải cực kỳ cẩn trọng và chớ nên làm thương hại người khác.

Cảnh sát T

10.

HAI BẢN KINH ĐẦU TIÊN

Đây là câu chuyện có thực do tôi đích thân trải qua, tuyệt không nói dối.

Nhà chúng tôi vốn không khá giả, trước đây sống rất gian khổ, xem như khó thể mua nhà.

Sau đó, tôi được biết đến Phật pháp, cũng là lần đầu được tiếp xúc với Tâm kinh và chú Đại Bi, nói chung tri thức về Phật pháp tôi rất kém, bởi tôi không biết gì khác ngoài hai bộ kinh này.

Nguyên nhân là lúc đó hai bộ kinh này lưu truyền rộng rãi, tôi thấy cũng dễ tiếp thu, nên đã lên mạng tải về tụng.

Lúc đó tôi hoàn toàn không có mục đích chi, chỉ cảm thấy hễ đọc tụng thì trong lòng rất thư thái, phiền não cũng giảm thiểu, bầu không khí chung quanh toát ra vẻ tôn nghiêm…

Nên tôi cực kỳ thích tụng, không hề có ý muốn nguyện cầu hay xin xỏ gì…Mấy tháng sau, có một chuyện lạ xảy ra.

Cơ quan phụ thân tôi làm đột nhiên tuyên bố: Cho góp tiền mua nhà, bởi vì đất thổ cư lúc dó thuộc khu vực biên viễn, nên giá rất rẻ, xem như là rẻ nhất thành phố.

Hơn nữa số nhà công ty cho mua cũng giới hạn, dù có nhu cầu song cũng phải thuộc diện có đủ điều kiện mới được phép đăng ký xin mua, do có rất đông người muốn mua nhà, nhưng do thiếu điều kiện nên không thể mua được, họ vô cùng tiếc nuối.

Phụ thân tôi tuy chỉ là một viên chức phổ thông, nhưng may mắn được tham dự mua.

Sáu tháng sau, cơ quan tuyên bố cho rút số, bắt thăm chọn nhà, xem như dựa vào may mắn.

Hôm đó tôi đang ở nhà tụng Tâm kinh và chú Đại Bi, riêng cha mẹ tôi thì đi tham dự buổi rút thăm.

Ban tổ chức sắp thứ tự theo tên họ ABC… cha tôi bị xếp ở hàng chót.

Đến lúc cha tôi rút được thăm, thì số nhà chỉ còn lại năm cái.

Lúc đó cha và mẹ tôi chẳng hi vọng mình được có may mắn chi, thầm nghĩ dù có được nhà thì cũng là ngôi cư trú tệ nhất mà thôi.

Lúc ấy mẹ gọi điện cho tôi rầu rĩ nói: Xem như xong rồi, không còn hi vọng chi nữa.

Tôi an ủi mẹ mấy câu.

Sau khi buông điện thoại xuống, tôi vẫn an định tụng Tâm kinh và chú Đại Bỉ tiếp tục.

Lòng chẳng hề buồn hay lo lắng, cũng chẳng có tâm hướng Phật Bồ tát xin xỏ gì, tôi cứ chí thành tụng kinh với tâm vô tạp niệm, vì đây là thói quen của tôi.

Hai tiếng sau, mẹ tôi đột nhiên gọi điện về, vui vẻ báo tin:

– Thực là kỳ lạ con ạ, lúc chúng ta bắt thâm, đúng là nhà chỉ còn năm cái.

Mấy ông nhân viên thảy đều đang thu dọn đồ để ra về, mẹ chẳng còn bất kỳ hi vọng chi, chỉ tiện tay rút đại một cái thăm trong hộp ra, ai dè lại trúng ngay… ngôi nhà tốt nhất tiểu khu.

Lúc này các nhân viên công tác ai cũng giật mình chấn động, tỏ vẻ rất ngạc nhiên.

Xem như gia đình mình… buồn ngủ gặp chiếu manh, cùng đường gặp lối thoát!

– Cha mẹ tôi báo tin với vẻ sướng vui vạn phần.

Tôi không ngạc nhiên, bởi vì tôi mơ hồ có linh cảm rất tốt lành, luôn cứ nghĩ là không cần phải lo, tôi cũng không rõ là tại sao mình lại có tư tưởng như vậy?

Chỉ thấy trong tâm âm thầm có cảm giác rất hạnh phúc bình an, thế thôi.

Chuyện xảy ra tiếp theo là thế này, nguyên chỗ chúng tôi là thuộc vùng biên viễn, sau đó được quy hoạch, nên biến thành chốn cực kỳ đắc địa, hiện tại đã thành đất ngon.

Thành một khu vực cao giá nhất thành phố, mà giá nhà hồi đó thấp nhất, bây giờ đã biến thành cao nhất, nhà chúng tôi tính đến nay giá đã tăng lên gấp bốn lần.

Qua vụ này, gia đình tôi đều cảm thấy rất lạ.

Mỗi khi có ai nhắc đến chuyện mua nhà của gia đình chúng tôi, họ đều tỏ vẻ thèm thuồng, ngưỡng mộ, mọi người thường hay hỏi: Vì sao nhà chúng tôi lại gặp may, có số đỏ… như thế?

Cha tôi luôn hồi đáp: Cứ ở hiền thì sẽ gặp lành!

Tôi thể hội: Người học Phật như chúng tôi, bất kể ngày hay đêm đều phải hành theo lời Phật dạy, hằng dứt ác tu thiện, phải luôn bảo trì tâm từ bi, tuyệt không nên có tâm hại người hay tính toán với ai.

Không đợi đến hiện ra hành vi, mà ngay từ khởi tâm động niệm cũng phải hết sức cẩn trọng.

Cho dù bị người tính toán, khi dễ, ăn hiếp… thì tôi cũng không bao giờ cho phép mình được phản ứng tệ.

Ngay cả lúc niệm Phật, tụng kinh, cũng không nên mang tâm hám lợi, hướng Phật Bồ tát cầu xin này nọ… mà chỉ nên hành trì bằng tâm thanh tịnh, vô tạp niệm.

Được vậy mới gọi là lãnh ngộ Phật pháp.

Mới có thể cùng chư Phật, Bồ tát đạo giao cảm ứng và tự nhiên được gia trì.

Cả nhà chúng tôi sở dĩ may mắn, vì tất cả đều luôn: Nguyện sống hiền thiện, thực thà, không bao giờ tính toán với người, dù có gặp phải oan khuất, thì cũng nguyện kham nhẫn, sống không thủ đoạn mưu lợi… có lẽ nhờ vậy mà chiêu cảm phúc đến.

Còn nữa, tôi nghĩ thường trì Tâm Kinh và chú Đại Bi để điều tâm vô tình cũng giúp chiêu vời may mắn đến.

Bồ đề Tử 

11.

ĐẠI SƯTHĂM BỊNH

Câu chuyện có thực này xảy ra vào đầu năm 1990.

Trương cục trưởng ngay từ đầu năm nay bỗng vướng bịnh lạ, tự dưng ông phát lạnh run, lạnh khủng khiếp tới buốt đầu choáng váng, vào mùa hạ tháng sáu mà phải mặc áo bông.

Từ lúc bị quái bệnh này, mặt ông tái nhợt, toàn thân ẩm ướt, một chút sức lực cũng chẳng còn, cho nên đành nằm dưỡng bệnh tại nhà.

Hai năm nay ông đi khắp các bênh viện danh tiếng chẩn khám, nhưng không nơi nào tìm ra bệnh.

Tiêu tốn mấy chục triệu rồi, nhưng chẳng thể tìm ra nguyên nhân bệnh, vô phương chữa trị.

Mấy hôm gần đây, có người bà con giới thiệu là có một vị đại sư thần thông quảng đại giỏi trị bệnh, dù các y viện bó tay, ngài đều có thể chữa khỏi.

Trương cục trưởng chẳng tin, mới đầu ông từ chối, không chịu đi khám bệnh, sau vì thân nhân khuyên mãi, nên đành nghe theo, ông cũng muốn thử xem, biết đâu gặp thầy hay, thì có thể chữa lành.

Khi Đại sư tới, Trương cục trưởng đang nằm trên giường, ngày hè tháng năm mà ông lạnh tới răng va vào nhau lập cập.

Đại sư trông còn trẻ, khoảng hơn 50 tuổi, dáng chất phác phúc hậu, thuần khiết.

Đại sư chỉ liếc sơ ông Trương một cái, thì ông đã run lẩy bẩy, tỏ vẻ kinh sợ cực kỳ.

Đại sư như hiểu rõ, dịu dàng nói:

Vong linh đang chịu oan khuất kia đừng sợ, ta đến là để giúp ngươi giải oan, tuyệt không hề có ý làm hại, nên xin hãy yên tâm, đừng lo lắng.

Đại sư trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Ai là thân nhân của Trương cục trưởng thì ở lại nghe tôi nói chuyện, còn những người khác xin vui lòng tránh đi hết cho!…

Mọi người đi ra hết, trong phòng giờ chỉ còn lại Trương cục trưởng và cô em gái khoảng hơn 30 tuồi.

Đại sư lên tiếng:

– Thực ra bệnh này cũng dễ trị, nhưng phải xem thái độ ông Trương như thế nào…

Trương muội là em gái ông, nghe nói bệnh có thể chữa lành, thì rất mừng, vội hỏi cách chữa trị như thế nào?

Đại sư giải thích:

– Bệnh này là do một cô nương tìm đến báo oán, cô ta vốn là em vợ ông Trương, chuyện giữa hai người, ông là người rõ nhất…

Đại sư vừa nói xong thì sắc mặt xanh lét của ông Trương bỗng đỏ bừng rồi chuyển sang tái nhợt, dáng vẻ trông rất khó coi.

Trương muội muội như sực nhớ, bèn hỏi:

– Ý Đại sư nói là giữa anh con và cô em vợ Lâm Lâm ư?

Cô ấy đã bị chết đuối khi còn rất trẻ…

Chuyện này thì cô nên hỏi anh trai mình thì sẽ rõ.

Nếu cô ta tự té xuống nước chết đuối thì đâu có gì phải ôm hờn, báo oán?

Đại sư bảo Trương muội:

– Cái chết của cô Lâm có liên quan đến anh trai cô, ông đã làm hại tới hai mạng người!

Đại sư càng nói càng huyền hoặc, khiến Trương muội ngơ ngác không hiểu thế nào.

Đại sư bảo:

– Hiện giờ không có người ngoài nào khác, xin ông Trương hãy tự mình nói ra mọi chuyện, nếu không, làm sao tôi có thể chữa trị cho ông được?

Lúc này ông Trương cúi gằm đầu xuống không nói câu nào, nhưng hình ảnh quá khứ lại hiện về trong tâm trí ông.

Đó là một ngày mùa xuân, lúc đó ông đã kết hôn được hai năm.

Trong thời gian này, nhạc phụ và nhạc mẫu ông bỗng nối tiếp nhau tạ thế, bỏ lại đứa con gái út mới mười sáu tuổi.

Vợ của ông do cảnh nhà chỉ có hai chị em, chẳng còn cách nào khác, đành phải rước em gái về ngụ chung nhà với chồng mình.

Hôm nọ, vợ ông có việc phải ra ngoài qua đêm.

Ông Trương nhìn thấy cô em vợ tuy tuổi nhỏ nhưng thân thể đã nẩy nở, nên lòng dâm bộc phát, thế là tối đó ông dụ dỗ cưỡng đoạt cô em vợ.

Nào ngờ sau đó Lâm Lâm mang thai, do tuổi còn quá nhỏ nên cô rất sợ hãi, lại thêm khó bề mở miệng kể ra với chị mình, thấy bụng ngày càng phình to, lúc này nhằm vào niên đại 70, đang là thời kỳ đầu cải cách.

Nếu như để người ngoài biết được thì chỉ càng xấu hổ thêm, Lâm Lâm rơi vào tình cảnh nếu như không chết thì cũng bị phỉ nhổ… cùng đường nghĩ quẫn, cô đành nhảy sông tự vận…

Đại sư thấy ông Trương cứ ngồi im không chịu khai gì, liền nói:

– Có vẻ như ông không muốn ta chữa bệnh cho?

Thôi thì ta về đây.

Trương muội thấy Đại sư đòi về, bèn bảo Trương:

– Anh Hai, chúng ta đều là người nhà cả, có gì mà khó nói chứ?

Muốn trị lành bệnh thì anh phái kể ra như thầy yêu cầu đi!

Thấy ông Trương vẫn nín thinh không mở miệng, Trương muội đành quay qua năn nỉ Đại sư, xin ngài chỉ bảo cho.

Đại sư đem những gì mình nhìn thấy, kể hết ra và thở dài bảo:

Xem như ông… hại tới hai mạng người lận đa!

Chứng lạnh rét trên thân ông, là phản ảnh cảnh giới thọ khổ của vong linh cô nương bị oan khuất tủi nhục kia.

Ông Trương không ngờ là hôm nay mình lại gặp một thần nhân biết rõ quá khứ ẩn tình của mình như thế, liền tỏ rõ thành ý: Nếu như được lành bệnh, sư dạy chi ông cũng làm theo.

Đại sư nói:

– Tốt!

Vậy thì nội trong bảy ngày thôi, ông sẽ thấy mình khỏe lại.

Sang ngày thứ tám thì qua đây đón tôi tới làm lễ siêu độ cho vong linh.

Đại sư còn nhấn mạnh:

– Nếu như ông không thực lòng sám hối, chẳng muốn siêu độ đàng hoàng cho vong linh, thì bệnh sẽ không lành đâu nhé!

Hãy nhớ kỹ lời tôi nhắc nhở…

Quả nhiên đến ngày thứ ba, chứng rét run trên người ông Trương biến mất, ngày thứ bốn rồi thứ năm, ông đã có thể xuống giường bước đi giống như người bình thường.

Đến ngày thứ bảy, thấy trên thân không còn cảm giác bệnh hoạn chi, giống như quái bệnh được bắt đem đi mất, chỉ thấy sức khỏe hơi còn yếu thôi.

Tính ra đã hai năm rồi ông không có được cảm giác khỏe khoắn dễ chịu như thế này, ông Trương ngắm nhìn bầu trời bên ngoài, lòng cảm thấy cực kỳ hưng phấn.

Nhưng qua ngày thứ tám, ông không thèm làm theo lời dặn là phải đi thỉnh Đại sư tới…

Bởi ông thầm nghĩ: Mình đã được khỏe thế này, xem như bệnh lành rồi, thì còn đến thỉnh Đại sư làm chi nữa?!

Cho dù ổng có là thần tiên, mình cũng không muốn đối mặt với người biết rõ chuyện xấu mình từng làm…

Qua ngày thứ chín, bệnh của ông Trương bỗng tái phát mãnh liệt, mức độ còn nặng và nguy hiểm hơn cả trước đây.

Toàn thân ông rét run, răng va lập cập, mặt tái nhợt… nhìn giống như người sắp chết tới nơi.

Trong tình thế cấp bách này, vợ ông vội kêu xe vượt mấy mươi dặm xa đến mời Đại sư, nhưng Đại sư đã đi vắng, nghe nói phải hai ngày sau Sư mới quay về.

Nhưng chưa tới hai ngày, thì Trương cục trưởng đã mạng vong.

Sau đó, tôi hỏi Đại sư, vì sao ngài cố tình tránh mặt đi vắng?

Đại sư đáp:

– Gặp hạng người bội tín, chẳng có lòng tin, hành xử vô lương tâm, thì tôi chẳng thể nào chữa trị, vì chỉ phí công vô ích…Hãy xem ông ta hại cô em vợ, tính thêm đứa con trong bụng nữa thì là hai mạng người, tội này lớn lắm!

Vì sao tôi biết rõ chuyện, nhưng vẫn muốn ông ta tự mình nói ra?

Chính vì muốn tạo cho ông ta có cơ hội phát lộ sám hối, tự mình thú nhận kể tội trước thân nhân…

Nhưng ông ta một bề không biết lỗi, không có chút tâm ăn năn.

Hạng người như thế, tôi làm sao có thể giải oan giúp cho được?

Oan có đầu, nợ có chủ, đành phải phó mặc cho oan quỷ đến bắt ông ta đi thôi!

Đại sư còn kể cho tôi nghe, những kẻ hại người, vướng phải quái bệnh… ngài đã từng gặp qua rất nhiều, nhưng đa số đều chữa khỏi, tùy vào tâm thiện và tấm lòng thành biết ăn năn sám hối của đối phương.

Chẳng hạn như có một cán bộ X nọ, bị đau lưng ngót mười mấy năm, ông đau đến cứ nằm trên giường lăn lộn rên siết… tuy đã đi khám, chẩn trị nhiều, uống thuốc chất đống, mà chẳng có chút thuyên giảm.

Sau đó ông ta tìm đến Đại sư, sư bảo:

- Hồi mới giải phóng, ông có giết một tù binh rất tàn nhẫn.

Giờ y tìm ông báo thù!

Nguyên tù binh đó là trưởng đoàn bên đối nghịch, tính rất ương bướng, ngoan cố.

Lúc đó ông X đang làm Trung đội trưởng, bèn sai lính thừa đêm tối, đứng từ phía sau chém vào lưng tù binh, khiến ông ta chết đi.

Lão cán bộ nghe nói, rất khâm phục Đại sư, bèn làm y theo lời ngài dạy: ông về nhà siêng năng tụng kinh niệm Phật, hành thiện tạo phúc, chí thành cầu siêu cho nạn nhân.

Hằng năm đều làm giỗ cúng.

Kể từ đó lưng ông cán bộ hết đau, ông nhân đây tỉnh ngộ, sống rất cẩn trọng, không dám phạm qua một lỗi lầm nào nữa.

Đại sư kết luận:

- Làm người trên thế gian, sống phải có lương tâm.

Bản thân nếu lỡ làm ác, thì phải biết ăn năn sám hối, tu sửa chuộc lỗi.

Chỉ những bệnh nhân nào sống có lương tâm, biết thủ tín và biết nhận lỗi sửa sai… thì tôi mới có thể chữa trị lành bệnh.

(Tên nhân vật chính trong chuyện đều đã được thay đổi).

12.

QUỶ THẦN

Đầu tiên phải biết, quỷ thần sống trong chiều không gian bất đồng cùng chúng ta.

Họ thực có tồn tại và cũng có hình dáng sinh mệnh, về điểm này, hiện nay các khoa học gia đều có thể chứng minh sự tồn tại của họ.

Thế nên, chúng ta đối với quỷ thần nhất định phải cảnh giác.

Sở dĩ, Tăng Tử từng cảnh cáo: Quân tử luôn thận trọng khi ở một mình (dù ta ở một mình nhưng vẫn nằm trong hoàn cảnh: “Thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ” (Mười mắt nhìn, mười tay chỉ).

Phải biết, nhất cử nhất động của ta chư quỷ thần đều nhìn thấy!

Những người hiểu rõ việc này, làm sao mà không răn dè run sợ?

Làm sao mà lúc ở một mình, lại dám có hành vi khinh suất được?

Bên cạnh chúng ta quả có nhiều sinh mệnh mà mắt phàm không nhìn thấy tới.

Thánh nhân từng nói: Loài nào tụ theo loài đó.

Chúng ta trong sinh hoạt ngày thường đều biết và thấy rõ: Khắp năm châu bốn biển, xét người thuộc các quốc gia hay từng khu vực, thì kể về tướng mạo tính cách, văn hoá cũng đã bất đồng: Bất đồng về địa khu, tập tục v.v…

đúng với câu loài nào tụ theo loài đó.

Trong Phật pháp gọi đây là cộng nghiệp, nghĩa là: Quân tử ưa đến cùng người nhân đức, hồ cáo thì ưa bầu bạn với khuyển cẩu tanh hôi.

Chính là đạo lý này!

Vì vậy mà Thánh hiền thường giảng: Chỉ cần nhìn bạn bè, là đủ biết người đó thế nào.

Bởi do cộng nghiệp chiêu cảm, nên tự nhiên cùng loại sẽ tự tìm đến với nhau.

Vì vậy mà người cả đời hành thiện, sau khi mệnh chung sẽ thăng thiên, người làm ác, chết rồi sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Trong đây tuyệt không do bất kỳ thần minh nào cầm quyền làm chủ mà do thần thức chúng sinh bị nghiệp lực của chính họ chiêu cảm đi đến đó.

Điều này tuyệt không mê tín, phải nói là rất có lý vậy.

Thế thì quỷ thần quan hệ cùng ta cũng tương tự vậy, trong kinh từng thuyết: Nhà làm ác tất có hiện tượng “ác quỷ trú môn”, những ác quỷ này đều là do túc thế cùng bạn có nghịch duyên oan gia trái chủ, do ác niệm, ác hạnh của bạn chiêu cảm mà chúng tìm tới bên bạn.

Đương nhiên, nếu bạn có thể nhìn thấy các sinh mệnh ở chiều không gian bất đồng này, thì bạn sẽ phát hiện rằng: Trong nhà, trên trên, dưới dưới đều hiện hữu chật kín những ác nhân ác quỷ đáng sợ kia.

Hễ làm ác tức là cùng ác quỷ kết duyên, gọi là đồng thanh đồng khí tương tụ, tương cầu.

Do vậy mà vận khí của kè thủ ác ta có thể tưởng tượng ra được: Sự nghiệp không thuận, gia đình bất hòa, cháu con bất hiếu…

Thực ra đây hoàn toàn là do ác nghiệp bạn chiêu cảm, dẫn dắt tới…

Cho nên, hiện nay ở tại rất nhiều tụ điềm ăn chơi, là thuộc loại “Khu vực thanh sắc khuyển mã”.

Bởi những khu vực này bảo đảm luôn có “Ác quỷ trú môn”, chúng đông đến không thể tính đếm số lượng.

Nguyên do là: Nhân tâm nơi địa phương đó đều bất chính, thế nên sẽ chiêu gọi bọn ác quỷ tìm tới trú đóng (nằm vùng trong đây).

Qua đó mà suy, thì chư giám đốc các vũ trường, quán bar, hộp đêm… những vị có khuynh hướng phát triển kinh doanh: Ma túy, tình dục, luyến ái lệch lạc, túng tình, lạm dục… thảy đều sẽ chiêu lấy kết cục: Sự nghiệp mai hậu càng lúc càng bất lợi, chưa kể sẽ xảy ra các tai nạn cháy nổ, chém giết v.v… nghĩa là họa ương bất ngờ thường xảy ra khiến mất mạng, thương vong…

Lý do là: Tại các tụ điểm ăn chơi trác táng, tiêu hoang lãng phí như thế sẽ làm tổn giảm rất nhiều phúc báu bản thân, ngoài ra nơi đó còn là môi trường chiêu mời rất nhiều ác quỷ tới, là nguyên nhân khiến vận khí suy bại.

Thế thì ngược lại, người chuyên hành thiện, sống thiện, người có tâm địa quang minh chính đại, chắc chắn sẽ chiêu cảm thiện quỷ, thiện thần đến.

Nhắc đến quỷ thần, thì mọi người không nên kinh sợ, tuy gọi là quỷ thần, nhưng thực ra họ chỉ là những sinh mệnh sống ở chiều không gian bất đồng với chúng ta mà thôi.

Như đã nói qua, những thiện quỷ, thiện thần này, thảy đều rất ưa làm việc phúc thiện, ưa thành nhân toàn mỹ.

Do quý vị sống thiện lương nên đã làm cảm động họ, chiêu cảm họ tìm đến ngự trong nhà, khiến vận khí quý vị càng thêm tốt đẹp hài hòa, bọn họ sẽ phù trợ quý vị tăng trưởng đức hạnh bản thân.

Do vậy mà trong sinh hoạt công tác, bạn sẽ được thuận lợi vừa lòng.

Đương nhiên, quỷ thần chỉ là trợ duyên, bởi do đức hạnh của bản thân bạn tự làm cảm động gia đình bạn, cũng sẽ ảnh hướng tốt đến đồng nghiệp, thuộc hạ, công nhân viên hay thượng cấp…

đối với bạn.

Nhờ vậy mà lừ đó gia đình bạn sống hài hòa, công việc thuận lợi, quan hệ nhân sự sẽ càng lúc càng tuyệt.

Ngôn hạnh của bạn cũng sẽ ảnh hưởng đến những quỷ thần thiện lương, khi bọn họ nhìn thấy tư tưởng hành vi thiện của bạn, sẽ rất hoan hỉ…

Vì vậy nếu như bọn họ thấy bạn nói tốt, mà hành xấu, ngôn hạnh bất nhất, thì họ sẽ thất vọng chán nản, rời xa, từ bỏ bạn.

Thay vào đó, bạn sẽ chiêu cảm đám quỷ ác tìm tới, tất nhiên bọn này sẽ làm cho gia đình bạn bất hòa, sự nghiệp lụn bại…

Đương nhiên ác quỷ chỉ là duyên phụ, mà tật tánh tập khí xấu xa của bạn mới là nguyên nhân chính phá tan phúc báu bạn!

Còn nữa, những oan gia trái chủ có thể gây ảnh hưởng đến từ trường khu vực, quấy nhiễu sóng não của bạn, khiến bạn ý loạn thần mê, phiền não tăng gia, hay nóng nảy mê muội, vướng nhiều bệnh, gặp đủ xui xẻo không thuận lợi…

Ngoài ra, tư tưởng một cá nhân nếu như không thiện lương, nếu trong não chứa đầy tự tư ích kỷ, danh văn lợi dưỡng, tham sân si dẫy đầy… thì quan hệ nhân sự của họ nhất định sẽ không tốt, gia đình cũng bất hòa, lại thêm có những ác quỷ kia cùng phụ đổ dầu vào lửa, thì tình cảnh không cần tả cũng đủ biết là tứ bề thọ nạn, giông bão quay cuồng…

Cho nên học Phật rồi, hiểu đạo rồi, phải trừ bỏ tận gốc mọi thói hư tính xấu, cuộc sống có tốt đẹp chăng đều nằm trong tay bạn.

Thực ra, đời người quan trọng nhất là: Không nên đề thời giờ trôi qua uổng phí, bởi quá khứ đã qua, vị lai chưa tới.

Chỉ có hiện tại là quan trọng nhất, hãy nắm bắt giây phút ngay đây cho tốt, tức là bạn có thể cải biến vận mệnh mình, cần nhớ kỹ: Tất cả được tạo thành do mỗi một phút giây hiện tiền này!

13.

GIÀ LAM CÓ THÊM MỘT VỊ HỘ PHÁP

Đại Tướng quân Lý Mật triều đường, sau khi chết sinh làm Thần, đã hồi tâm quy y theo Phật môn và khuyên hóa nhiều chúng quỷ theo Phật.

Nơi các đạo tràng Phật giáo Trung quốc, trong khóa tụng thường nhật vào mỗi sáng tối, đệ tử Phật đa số đều có tụng bài Tán Già Lam để cảm ân công đức hộ pháp vệ giáo thù thắng của Bồ tát Già lam.

Già lam là khuôn viên Tăng chúng cư trú, cho chư thần Hộ pháp bảo hộ Già lam, gọi chung là Già lam Thánh chúng Bồ tát.

Trong cuốn Phật Tổ Thống Ký có ghi rõ câu chuyện: Tướng Quan Vũ thời Tam quốc sau khi chết thành thần đã xin thọ quy y ngũ giới, trở thành vị thần hộ pháp Phật giáo.

Từ đó về sau, tại các tự viện Trung Quốc thường thờ hình tượng Quan công đại biểu cho Bồ tát Già lam, chư vị Hộ pháp chuyên hộ vệ đạo tràng Phật giáo, bảo hộ đệ tử Phật không bị xâm hại, công không luống uổng, tương lai cũng tu thành Phật.

Tại đất Vân Nam thị trấn Hạ Quan này, phong cảnh đẹp như tranh vẽ, có ngôi miếu được xây vào năm Gia Tĩnh tên “Tướng Quân Động”, cũng có tên khác nữa là “Tướng Quân Miếu”.

Trong “Tướng Quân Động” có thờ một vị đại tướng quân nổi tiếng tên Lý Mật.

Vào thời Đường, lúc chiến tranh ông mang quân chinh phạt đất Nam Chiếu, bị thua trận đã nhảy sông tuẫn tiết. (Tướng quân Lý Mật sống rất được ba quân tướng sĩ yêu mến, nên cái chết của ông khiến nhiều người trong số các binh sĩ đã than khóc đến khạc ra máu).

Điều kỳ lạ là tuy Tướng quân Lý Mật phụng lệnh xuất chinh đến tận nơi này, nhưng nhân dân nơi này chẳng những không thù hận, ngược lại còn tôn kính ông trung nghĩa.

Trong dân gian đến nay còn lưu truyền rất nhiều câu chuyện ly kỳ về Tướng quân Lý Mật, họ kể rằng: ông dù chết rồi vẫn rất hiển linh tại vùng đất này, hằng tỏa oai thần giúp đỡ người thế gian.

Do vậy mà kề từ đó Đại Tướng quân Lý Mật được người vùng này tôn là “Lợi Tế Tướng Quân” (Vị tướng cứu tế làm ích lợi cho dân).

Thành một trong vị Bản chủ (Thần vương) trứ danh đương địa.

Nơi đây khói hương nghi ngút, người đến xem bói cát, hung… náo nhiệt tấp nập, tín chúng thường mang lễ phẩm cúng dâng, cảm tạ Lý Mật đã hiển linh chúc phúc.

Họ cúng dâng những gì?

Do không hiểu nhân quả, nên họ thường hiến tế máu thịt chúng sinh, toàn là các thức mặn như gà, vịt, cá, heo v.v…

Vì sao tôi phải giới thiệu về “Tướng Quân Động” và Đại Tướng quân Lý Mật vậy?

Bởi vì đã có câu chuyện xảy ra vào ngày 23 tháng 5 năm 2011 như sau:

Hôm đó tôi nhận được điện thoại Quả Tịnh, cô sinh ra tại Vân Nam Đại Lý, lớn lên được gả đến miền nông thôn Tứ Xuyên.

Trước khi học Phật, do bên cạnh cô không có người am tường Phật pháp hướng dẫn, bản thân cô cũng chưa gặp kinh Phật hay đọc qua các sách chánh pháp chi, vì vậy mà cô tu lạc, đi lòng vòng qua rất nhiều nẻo sai, nếm không ít khổ nhọc, rồi tình cờ nhờ một nhân duyên đặc biệt mà quen biết tôi.

Kể từ đó cô thường điện cho tôi hỏi về Phật pháp.

Xin giải thích một chút về Quả Tịnh: Kiếp trước cô vốn tu Thiền, nhưng chưa minh tâm kiến tánh, do không có ý cầu giải thoát, cũng chẳng hề tin và muốn vãng sinh Tịnh độ, nhưng lại rất khao khát ham có thần thông, do vậy mà cô tiếp tục luân hồi sinh tử, nếm đủ mùi khổ.

Tuy trầm luân mê muội, nhưng đời này cô vẫn thừa hưởng khả năng đặc biệt từng tu trong kiếp trước, nghĩa là từ nhỏ đã có thể nhìn thấy những sự vật mà người thường không thấy, cô có khả năng thông linh, giao tiếp cùng các cảnh giới phi nhân.

Bởi do sống nửa đời người mà chưa gặp Phật pháp, thiếu trí tuệ hướng dẫn, nên năng lực này chẳng hề đem lại cho cô bất kỳ điểm tốt nào, ngược lại còn tạo ra vô vàn thống khổ và tai họa cho cô.

Những chuyện đó sau này tôi sẽ kể trong một bài viết khác, còn ở đây tạm thời tôi không bàn đến.

Năm 2005 Quả Tịnh vẫn đang ở Vân Nam, vì mưu sinh nên cô chưa tiếp xúc với Phật pháp, trong thời gian còn mù mờ này, cô được người giới thiệu đến “Tướng Quân Động” công tác, đảm nhiệm việc giải đáp quẻ xăm cho người.

Do cô có khả năng thông linh giao cảm với các cõi chúng sinh, nên dễ dàng nhìn ra nguyên nhân nguồn gốc sự tình, nhờ vậy mà cô làm ăn rất khấm khá, thu được thành quả cao.

Thế nhưng, cô hành nghề chưa được một tuần thì do trong gia đình có chuyện, nên phải buông bỏ công tác quay về quê nhà.

Sở dĩ hôm đó Quả Tịnh gọi điện cho tôi, là vì lúc ấy cô đang làm nông ở Tứ Xuyên thì bỗng thấy Tướng quân Lý Mật hiện thân, ông đã nhiều lần tìm đến cô, tỏ vẻ rất ngưỡng mộ năng lực giao lưu với các cõi phi nhân của cô nên đã ngỏ lời: Mời cô đến “Tướng Quân Động”, tiếp tục công tác giải quẻ xăm, ông còn hứa là sẽ trọng thưởng cho cô rất hậu, bảo đảm cô có thể sống một cuộc đời sung sướng viên mãn không bao giờ túng thiếu, chẳng còn phải bận tâm kiếm tiền, tha hồ thoải mái vô ưu.

Vì vậy mà cô gọi điện đến cho tôi, để hỏi xem cô nên hồi đáp Tướng quân Lý Mật như thế nào?

Tôi hỏi Quả Tịnh:

– Tướng quân Lý Mật hiện đang ở đâu?

– Ông ấy hiện đang đứng bên cạnh tôi, dung mạo rất tuấn tú khôi ngô, cao lớn vạm vỡ, thân khoác áo giáp, tay cầm đại đao (loại mà các tướng quân thời cổ hay dùng), ông cưỡi con chiến mã lông trắng, dẫn theo mười mấy binh sĩ tùy tùng, đều ăn mặc giống như thời cổ đại.

Ông ta đến, tỏ vẻ rất thành tâm, muốn mời thỉnh tôi đi, bởi vì tại chỗ đó rất ít người có thể giao lưu được với cõi của ông.

Ngài nghĩ xem bây giờ tôi nên làm thế nào? – Quả Tịnh hỏi.

Tôi đáp: Đương nhiên là cô chẳng nên quay lại làm cái công việc giải quẻ xăm đó!

Cho dù cô có kiếm được kim ngân tài bảo đầy nhà thì cũng không nên làm, bởi vì công việc này đối với đệ tử Phật cũng bị xem như là tà mệnh (nghề nghiệp không chính, như Phật đã mô tả), vì vậy cô nhất định phải nhìn cho thấu đáo, để từ bỏ và kiên quyết giữ gìn tâm đạo của mình.

Đành rằng việc đoán mệnh giải xăm mặc dù cô có thể nói chính xác sự tình, song điều này cũng không đem lại lợi ích rốt ráo giúp đoạn trừ phiền não hay giải thoát sinh tử luân hồi cho chúng sinh chi cả.

Hiện tại cô đã là đệ tử Phật, mặc dù sinh hoạt có bần khổ, nhưng nếu cô chịu siêng năng trì giới tu hành, thì chuyện liễu sinh tử, vãng sinh Tịnh độ, xuất ly tam giới… cô đều có thể đạt được.

Tại sao cô lại vì chút lợi ích kinh tế nơi thế gian hữu hạn, mà cam tâm đem kho báu tu hành tối trân quý của mình ném phăng đi chứ hả?

Tướng quân Lý Mật chỉ là một vị Thần, là vua trong chúng quỷ, bản thân ông nghiệp chướng vốn sâu nặng, chỉ nhờ hành thiện mà tích lũy được một số phúc báu, nhưng phúc đó chỉ có thể làm Thần mà thôi, một khi phúc báo hưởng tận, há không phải ông ta vẫn phải tiếp tục luân hồi chịu khổ?

Cô đã quy y Tam bảo, thành là đệ tử Phật, thì sao có thề đi theo phụng hầu chư quỷ thần chứ hả?

– Tôi hiểu rồi, do trong kiếp quá khứ tôi tu hành khởi niệm sai, nên kiếp này nửa đời trước bị sống mịt mờ không được biết đến Phật pháp, chỉ toàn dùng năng lực thần thông giao lưu cùng chúng sinh.

Nếu không đưa chúng sinh vào con đường tu hành Phật pháp Đại thừa, thì chúng sinh vô phương đạt đến lợi ích chân thật.

Hơn ba mươi năm nay, tôi luôn bị các loài phi nhân quấy nhiễu, trải qua tháng ngày sống chẳng bằng chết, không có một phút giây an tĩnh.

Những đoạn trường này khó mà tưởng tượng nổi.

Bây giờ tôi đã được biết chánh pháp, nếu như lại ham giàu, dồn hết thời gian vào việc giải quẻ xăm kiếm tiền, thì e rằng trong kiếp tương lai tôi cũng sẽ thọ đủ khổ nạn giống như hiện đời…

Thôi!

Thôi!

Tôi không dám bước vào con đường này nữa đâu!

– Hiểu vậy là tốt!

Cô cứ hồi đáp Tướng quân Lý Mật như những gì đã nói với tôi là được.

– Thực ra ông ấy đã nghe rõ nội dung hai bên đàm thoại và hiện đang có lời muốn nói với chúng ta…

Quả Tịnh ngừng một lúc, sau đó cô chuyển đạt lại từng câu Tướng quân Lý Mật muốn nói cho tôi nghe:

- Ông ta nói, sau khi nghe hai chúng tôi đàm thoại với nhau, ông cũng bị xúc động và có tỉnh ngộ.

Vì ông và các quyến thuộc (gồm chư quỷ thần) đều ở tại “Tướng Quân Động”, hằng ngày tiếp nhận lễ phẩm chúng sinh cúng dường, ông chẳng từ gian lao, chiếu theo nguyện vọng của dân mà giải ưu bạt khổ.

Bao năm nay chưa từng thay đổi, nhưng xem ra ông chỉ có thể trợ giúp họ một phần nào trong cuộc sống, chứ không thể giúp chúng sinh thay đổỉ mệnh vận.

Tất cả chúng sinh, người nào cũng có phiền não nối tiếp phiền não, khổ nạn nối tiếp khổ nạn, làm sao cũng nhìn không thấu tận đầu nguồn, chưa kể trong cõi quỷ thần của ông, chỗ nào cũng có dẫy đầy chinh phạt, giết chóc…

Hơn ngàn năm trước hai bên chết đi trong chiến tranh, giờ gặp mặt nhau trong cõi phi nhân, họ vẫn còn chém giết, sát phạt như cũ, oan oan tương báo…Tất cả điều này không sao ngưng dứt, khiến ông cảm thấy rất khó kham và quá mệt mỏi, chưa biết phải làm sao.

Thêm nữa, do dân chúng mến mộ tri ân, nên rất nhiều người đã dùng đồ mặn, toàn là máu thịt sinh mạng loài vật đem đến cúng tế ông, họ giết rất nhiều, vô số loài vật.

Tại vùng đất đó họ lạm sát để hiến tế, khiến máu loài vật tuôn chảy nhuộm hồng cả dòng nước, ở trong miếu thì cảnh trạng náo nhiệt đông vui, song bên ngoài là những sinh vật bị giết, hồn oan của chúng khóc than, âm thanh vang trời, mặc dù ông là võ tướng có phúc báu, nên tạm thời trấn giữ cư trụ ở đó, nhưng tâm ông thường bất an, ông luôn muốn tìm một phương pháp để giải thoát đau khổ tận gốc cho cuộc sống, hôm nay được nghe chúng tôi đàm thoại, lòng cảm thấy rất có lý.

ông ngỏ ý muốn xin thọ quy y Tam bảo giống như chúng tôi, được cùng làm đệ tử Phật, để nghe kinh thính pháp, tinh tấn tu trì, không muốn luân hồi nữa…

Tôi những tưởng là Tướng quân Lý Mật sẽ rất không vui khi nghe rõ cuộc đàm thoại giữa tôi và Quả Tịnh, ai ngờ ông có ngộ tính cao.

Sau khi nghe ông bày tỏ tâm sự, thâm tâm tôi thầm tán thán thiện căn thâm hậu và sự tỉnh giác hùng mạnh của ông.

Tôi bảo Tướng quân Lý Mật:

Nghi thức Tam quy chính thức phải do Tỳ kheo thanh tịnh đại diện Tăng đoàn truyền thọ, chúng tôi chỉ là Phật tử tại gia, nên sẽ tạm dẫn ông đến trước Phật tự thệ Tam quy, sau này hội đủ điều kiện thì có thể thọ Tam quy với bậc thanh tịnh Tăng.

Tôi hướng dẫn tướng quân đọc Tam quy, và giải thích các ý nghĩa quan trọng của Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện…

Tướng quân Lý Mật lại hỏi:

– Tôi cần phải đến đạo tràng nào để tu hành?

Tôi bảo:

– Nếu lúc nào cũng siêng năng trì giới, niệm Phật… cầu sinh Tây phương, thì ngay đây vẫn có thể là đạo tràng!

Muốn tu học theo Phật thì phải dụng công tu nơi tâm, đừng có ngoài tâm cầu pháp, nên giữ giới thanh tịnh, thường đến đạo tràng chánh tri chánh kiến, nghe kinh thính pháp giúp tăng trưởng trí huệ, hằng thân cận Thiện tri thức chân chính, y giáo phụng hành.

Tại Ta bà thế giới sống một ngày, tu một ngày, thuận tiện thì dùng náng lực phi phàm của ông hộ trì tạt cả đệ tử Phật trong thiên hạ, rộng hành thiện sự, lấy đây làm tư lương để vãng sinh Tịnh độ.

Tướng quân Lý Mật đồng ý và sau đó chào từ biệt chúng tôi.

Tối đó, Quả Tịnh lại gọi đển, kể rằng Tướng quân Lý Mật còn có chuyện muốn hỏi, ông nói như sau:

– Tôi hiện tại đã được tu hành theo Phật, nhưng còn chư tướng sĩ thuộc hạ, sau khi chết rồi họ vẫn một bề theo tôi.

Còn có những oan hồn chúng sinh bị giết ngoài “Tướng Quân Động” nữa, tôi phải làm sao với họ đây?

Quả Tịnh giải thích rằng Tướng quân Lý Mật vào thời Đường phụng mệnh chinh chiến vì quốc gia, khi bại trận ông đã dẫn đầu tướng sĩ đến Hạ Quan phía tầy sông Nhĩ Hải trầm mình tuẫn tiết, thuộc hạ cũng nhảy sông tự vận theo.

Có số chết rồi vẫn theo làm thuộc hạ Tướng quân Lý Mật, có số sớm đã chuyển sinh làm cá hay các loài súc sinh khác… lại có một số đến nay vẫn còn làm quỷ trong sông này, trải qua hơn ngàn năm rồi mà tuổi thọ kiếp quỷ chưa hết.

Kể từ đó đến nay chúng vẫn còn ở trong dòng nước, luôn giãy giụa kêu cứu, vì mỗi khi chúng bơi đến bờ, thì nước lại dâng cao, nhấn chìm; khiến chúng không làm sao trèo lên bờ được, đành phải ở trong dòng nước tuyệt vọng, chịu đói lạnh, thống khổ, kêu rên…

Tôi bảo Tướng quân Lý Mật:

– Ông sống thì là Đại tướng quân, chết rồi sinh làm Thần vương, là vua của chư quỷ thần, được tôn thờ như Bản chủ, ông nên lợi dụng điều này, khuyên gọi tất cả chúng sinh hữu duyên với ông hãy nên quy y Tam bảo, học Phật tu hành, hầu có thể giúp họ ly khổ đắc lạc.

Tướng quân Lý Mật nghe rồi, lập tức ra lệnh cho tùy tùng đi rao truyền chỉ dụ của ông đến các chúng sinh hiện có trong khu vực thuộc quyền ông cai quản, khuyên tất cả đều hãy mau quy y Tam bảo, tu hành theo Phật.

Sau đó tôi hướng dẫn tướng quân vì chư thuộc hạ và chúng sinh hữu duyên đọc lời quy y.

Bỗng nhiên Quả Tịnh trở nên căng thẳng.

Âm thanh của cô lộ vẻ sợ hãi khủng khiếp, cô run giọng mô tả:

– Bên cạnh tôi đột nhiên hiện ra một số quỷ nước, toàn thân phình trương, y phục đều ướt đẫm, da tái nhợt, mặt mày thảm não, đầu rối bù, tóc dài đến lưng, mắt phát ánh sáng xanh lè.

Trong đây có một tên đột nhiên bật cười to và chạy tới gần, muốn ôm tôi, hắn lộ vẻ hoan hĩ nhìn giống như là muốn phát khùng vậy.

Tôi kêu Quả Tịnh phải lập tức niệm Phật ngay, loài thủy quỷ đột nhiên rời xa, còn con quỷ nước quái dị kia thì cười ha ha bảo Quả Tịnh:

– Tôi biết cô, vào thời Đường, thuở đồng niên ấy bạn chỉ mới 10 tuổi, còn tôi thì lớn hơn.

Chúng ta vốn là đôi bạn thanh mai trúc mã, đồng trưởng thành trong một thôn trang.

Đến lúc tôi đi lính thì gia đình bạn có hứa là: Sau cuộc chiến sẽ đồng ý cho tôi đến rước dâu, có ngờ đâu tôi vào binh ngũ đến nơi này, do bị chiến bại đành phải nhảy sông tự tử, một bề làm quỷ trong sông nước mênh mông, chẳng biết trải qua bao nhiêu năm tháng rồi.

Tôi tuy chết đi nhưng không hề quên lời thề hẹn ngày xưa.

Hôm nay có người vì chúng tôi truyền Tam quy, nhờ vậy mà chúng tôi có thể ra khỏi nước, không ngờ mới vừa lên tới bờ, thì đã thấy bạn đứng ngay trước mắt, bảo tôi không mừng vui sao được?

Tôi ngóng vọng tân nương biết bao thời gian dài đăng đẳng, cuối cùng thì cũng được gặp nhau!

Tôi bảo tên quỷ nước kia:

– Quá khứ tâm bất khả đắc, những sự việc cũ xưa đã trôi qua, vĩnh viễn không thể quay trở lại.

Quả Tịnh hiện nay là đệ tử Phật, cũng đã gả cho người rồi, chẳng nên vô lễ.

Tướng quân Lý Mật và chư Hộ pháp quỷ vương lập tức đưa tất cả loài quỷ nước đi xa khỏi Quả Tịnh.

Tôi và Quả Tịnh liền mời Tướng quân Lý Mật hướng dẫn tất cả cùng niệm Phật.

Nương theo âm thanh “Nam Mô A Di Đà Phật”, Quả Tịnh nhìn thấy: Phía sau Tướng quân Lý Mật có rất nhiều chúng sinh đang lục tục kéo đến, họ sắp hàng thành một đội ngũ dài vô kể, gồm thuộc hạ của tướng quân và các chúng sinh bị giết ngoài “Tướng Quân Động”, còn có chư cô hồn dã quỷ đương địa, bọn chúng thảy đều bắt chước niệm Phật theo, có rất nhiều chúng sinh tướng mạo xấu xí, nay được biến đổi thành trang nghiêm trở lại, còn có một số chúng sinh cơ duyên thuần thục, dưới Phật lực gia trì ngay đó được thoát ly ác đạo, chuyển sinh vào cõi nhân, thiên hay thiện đạo… tu hành.

Từ đó trở đi, Tướng quân Lý Mật tùy thời mà đến đạo tràng nghe kinh thuyết pháp, tinh tấn tu hành, chưa được mấy ngày, lại thông qua Quả Tịnh, nhờ cô gọi cho tôi chuyển đạt các thắc mắc của Lý Mật như sau:

– Tôi được nhân dân Hạ Quan yêu mến, nay có mấy việc muốn nhờ ngài:

Một: Vì hiện tại tôi đã là đệ tử Phật nên không thể ăn thịt, sát sinh; mong hai cư sĩ mau nghĩ cách thông báo cho tất cả bách tính của “Tướng Quân Động” và Hạ Quan biết, tuyệt đối không nên đem máu thịt chúng sinh đến cúng tôi nữa, toàn bộ lễ phẩm xin hãy đổi thành đồ chay, nếu không, sẽ chẳng được phúc mà còn bị họa!

Phần tôi cũng bị thọ tội, chịu khổ lụy theo vì họa sát sinh này.

Loài vật vốn từng làm người, nên việc sát hại chúng chẳng khác nào giết người, nếu đem máu thịt vật đề cúng tế thần, là không thể, vì chúng cũng là dân của thần.

Hai: Xin hãy thay tôi cảnh báo người thế gian rằng: Tội phúc phân minh, chuyện nhân quả báo ứng, lục đạo luân hồi… tuyệt không hư dối.

Tôi hiện nay đã tìm được đại đạo quang minh, triệt để lìa khổ được vui, thoát ly lục đạo luân hồi, đó là Phật pháp.

Nên cũng hi vọng dân chúng hãy biết dứt ác tu thiện, siêng tu học Phật pháp, cùng đạt được lợi ích.

Tôi cũng phát nguyện gia nhập hàng ngũ Hộ pháp Thiên Long bát bộ, nguyện phù trì tất cả người học Phật hành thiện.

Mọi người nhất định phải biết: Nếu rộng hành thiện, thì phúc kia tự đến, không cần phải cực nhọc giết hại chúng sinh tế cúng thần, để cầu được phù trì cứu khổ ban vui…

Vì bản chất Thiện thần là: Luôn gia hộ chúc phúc cho những ai hành thiện.

Nghe ông tỏ bày, tôi tán thán lòng từ của ông và trân trọng đáp ứng sự ký thác của Tướng quân Lý Mật.

Những điều Tướng quân Lý Mật ký thác quả rất quan trọng và có ý nghĩa.

Ẩm thực là vấn đề lớn mà quỷ thần luôn phải đối diện.

Trong Phật giáo có các nghi thức tụng niệm chuẩn xác, hỗ trợ bố thí thức ăn thanh tịnh cho quỷ thần như: Kỉnh “Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni, Mông Sơn Thí Thực” v.v… nên cần truyền rộng và giới thiệu về lý nhân quả.

Đây là nền tảng cần thiết cho việc nhập môn học Phật.

Sau đó tôi nhiều lần liên lạc vớỉ ban quản lý địa phương “Tướng Quân Động”, nhưng vẫn chưa thể liên hệ thành công, lại do nhân sự bận rộn quá nhiều nên vô phương đến Vân Nam Đại Lý lo liệu việc này.

Gần đây, Quả Tịnh mấy lần nhìn thấy Tướng quân Lý Mật, ông vì chúng tôi lo việc chưa thành mà tâm sinh phiền muộn, ông than rằng: Gần một năm nay có rất nhiều dân chúng giết vật mang tới cúng tế “Tướng Quân Động”, tạo thêm nghiệp chướng làm liên lụy việc thanh tu của ông, khiến oan trái tăng thêm, e rằng tương lai ông khó tránh bị đọa vào cõi súc sinh hoàn nợ mạng.

Ông thúc hối tôi hãy mau nghĩ cách thực hiện tâm nguyện giúp cho ông.

Tôi cũng cảm thấy việc này không thể trù trừ mãi được, đành đem câu chuyện này viết thành văn, hi vọng chư tín chúng Phật tử và khách du lịch xứ Vân Nam, sau khi đọc bài văn này rồi, cùng đem những điều Tướng quân Lý Mật ký thác, truyền lưu, thông báo cho nhân dân bản xứ “Tướng Quân Động”.

Đồng thời cũng hi vọng việc này mang đến sự khai thị tốt cho người, khiến họ từ bỏ triệt để tập quán giết sát loài vật tàn nhẫn.

Xin khuyên tất cả thế nhân: Chớ nên dùng máu thịt chúng sinh cúng tế thần linh và người mất!

Trong kinh Địa Tạng thuyết: Xin khuyên chúng sinh ngày lâm chung cẩn thận, chớ nên sát hại tạo ác cúng tế quỷ thần…

Vì sao?

Bởi việc sát hại cúng tế không đem lại chút công đức lợi ích nào cho bản thân họ và người chết, ngược lại còn khiến tội tăng nặng thêm, nếu người mất đáng được sinh vào cõi nhân thiên, hay đắc thánh quả, do bởi lâm chung bị chư quyến thuộc sát sinh cúng tế mà phải bị ương lụy lây, nên chậm sinh vào cõi thiện.

Huống chi người sắp lâm chung, khi sống chưa từng tạo lành, phải theo nghiêp xấu vào cõi ác, tại sao quyến thuộc còn nhẫn tâm giết chóc khiến họ càng tăng thêm khổ nghiệp?

Kinh Địa Tạng đã ân cần nhắc nhở, chúng ta phải ghi khắc trong lòng.

Thần vương Lý Mật qui Tam bảo

Già lam Bồ tát nay tăng thêm

Hộ pháp tâm từ tha thiết gọi

Cúng ngài xin hãy dùng thức chay!

Nguyện đem công đức bài văn này, cầu cho Tướng quân Lý Mật cùng chư quyến thuộc bộ hạ, và các loài vật bị giết, cùng tất cả chúng sinh trong lục đạo…

đều được ẩm thực thanh tịnh, no đủ mỹ mãn, ly khổ được vui, tin thọ Phật pháp, vãng sinh Tịnh độ, tu chứng Bồ đề!

Quả Trụ kính ghi – 23/5/2012

Giải thích: Lý Mật sinh 582 mất năm 619, hưởng dương 37 tuổi.

Tính từ năm ông mất đến lúc quy y Tam bảo vào năm 2011 thì ông và chư thuộc hạ đã trải qua 1.639 năm.

14.

NGƯỜI XƯA NAY Ở ĐÂY

Một pháp hữu trong nhóm bạn đồng tu của tôi xin tạm gọi là cô X.

Cô dung mạo xinh đẹp, có năng khiếu âm nhạc bẩm sinh, tuổi còn thơ đã vào học viện âm nhạc, trong mắt thầy bạn, cô là ngôi sao nhỏ, đã sớm lên sân khấu biểu diễn, được kết nạp vào đoàn âm nhạc chuyên nghiệp và vinh dự ký hợp đồng với công ty ca vũ nổi tiếng.

Năm 2000 cô phát tâm quy y học Phật và ngưng ca hát tính đến nay đã hơn 10 năm, nhưng tài không hề mất, khả năng thưởng thức âm nhạc vẫn rất tinh tế, cô dễ dàng nhận ra những sai sót nhỏ trong lúc các minh tinh biểu diễn mà không ai nhận ra.

Cô tài hoa, xinh đẹp, đặc biệt từ khuôn mặt thanh thoát luôn toát ra nét anh hùng oai phong.

Dù cô sống phong lưu quyền quý, nhưng không hiểu kiếp trước cô đã tạo nghiệp chi mà đời này hiển lộ rất nhiều bệnh lạ:

1.

Da quá mẫn cảm

Khi cô đến tiệm may thử y phục, hễ y phục vừa chạm vào hay quét sơ qua, thì toàn thân cô giống như bị roi đánh, lập tức một lằn đỏ xuất hiện trên da, nhìn rất đáng sợ.

Tay cô mà bị ngứa thì nhìn cũng giống như bị roi đánh qua, vì có từng lằn đỏ nổi lên.

Thậm chí đối với ánh sáng huỳnh quang cô cũng bị dị ứng, hễ ở trong phòng có ánh sáng này chừng 10 phút, là da cô nổi đỏ.

Rửa mặt cũng bị nổi đỏ đầy mặt, phài mười phút sau mới hết.

Dù có đến các y viện, đi khám đủ bác sĩ Đông lẫn Tây thì họ đều nói: Cô bị bịnh mề đay mẫn cảm, trong máu có độc, năng lực miễn dịch đề kháng cao, do hệ thống phòng vệ quá mức, có thể nói giống như kiểu: “Ngay cả cỏ cây cũng nghi là giặc”.

Cô tốn tiền chữa trị nhiều mà bệnh không thuyên giảm.

Năm 2001, cô lên Ngũ Đài Sơn lễ Bồ tát Văn Thù.

Qua hôm sau thì không hiểu sau da cô bị mẫn cảm nghiêm trọng, mặt cô nổi đỏ và sưng phù.

Cô sợ rằng sẽ bị hủy dung, nên chuẩn bị quay về Bắc Kinh khám bệnh.

Lúc ấy, sư phụ cô an ủi giải thích: Không nên lo, đây là hiện tượng tiêu nghiệp!

Nghe nói thế, cô an tâm phần nào nên không về Bắc Kinh nữa.

Cô dẫn mấy người bạn cùng đi lễ khắp Ngũ Đài.

Từ Ngũ Đài Sơn quay về, cô rửa mặt xong thì hết thấy sưng, kể từ đó độ mẫn cảm của da cũng giảm hơn phân nửa.

Tận đáy lòng cô rất tri ân Bồ tát Văn Thù đã từ bi gia hộ.

Sau khi cô phát nguyện ăn chay trường thì bệnh trạng bắt đầu chuyển tốt, độ mẫn cảm của da giảm đi sáu bảy phần.

Đến nay cô đã ăn chay hơn mười năm, song chứng bệnh vẫn chưa dứt tuyệt gốc.

2.

Luôn thấy thiếu nước

Cô khoảng 50 kí, nhưng hễ thức dậy là uống nước không ngừng, uống mãi cho đến đêm khuya đi ngủ mới thôi.

Hằng ngày cô uống khoảng tám đến mười lăm pound nước, lúc nào cũng mang nước kè kè theo bên mình.

Còn phải phun nước lên mặt.

Do cô cần nước nên rất thích tắm rửa, bơi lội, cô có thể tắm, ngâm nước lâu cả ngày, mới chịu lên bờ.

Nếu theo thuật bói toán “Bát tự” thì ngày tháng năm sinh của cô cung mệnh vững, thổ chắc, thủy vượng, không hề bị thiếu nước chi.

Nhưng thực tế nhìn vào cách sinh hoạt, thì thấy cô cư xử như luôn bị thiếu nước, không nước thì không thể sống, thường khát nước, uống không ngừng, còn phải rưới nước lên mặt và ưa ngâm mình trong nước.

3.

Mộng thấy tiền thân

Mấy năm trước, mẹ cô mộng thấy nhân duyên kiếp trước của hai người (mẹ cô cũng là một Phật tử thuần thành, đồng quy y một lượt với cô.

Sau khi quy y Phật rồi, bà cũng ăn chay trường đến nay đã hơn mười năm.

Bà thường xuyên lễ bái, sám hối, hằng ngày sớm tối đều công phu, tĩnh tọa, niệm Phật không biếng lười).

Bà mộng thấy con gái kiếp quá khứ là một vị Nguyên soái tóc xanh trẻ tuổi, còn bà là một danh tướng đầu bạc dưới trướng của vị nguyên soái này.

Tỉnh dậy bà hiểu ra, hèn gì mà đời này, con gái vẫn có thói quen thích chỉ huy bà, bà cũng một bề nương tựa, nghe theo, phục vụ…

Nhưng cũng có lúc bà nhìn lại, cảm thấy con gái sao mà vượt quá phận, dám sai sử bà, nên tỏ thái độ phản kháng không vui.

Nhất là khi bà sực nhớ mình là mẫu thân, không thể để cho con tùy tiện sai sử.

Mẹ và con đều có tính quật cường, lãnh đạo.

Chính vì vậy mà đời này, giữa họ thường xảy ra xung đột, cãi nhau chẳng ngưng, đến nổi nhiều lần phát sinh giận hờn chia xa.

Nhưng rồi Sự việc vẫn như cũ, vì tình thương khó chia khó cắt, mẹ một bề sống theo con gái, con cũng hết lòng phụng dưỡng mẹ.

Mẹ sống cứ thỉnh thoảng bị lâm vào cảnh con chỉ huy, họ vô tình hành xử theo thói quen và nghiệp lực quá khứ còn gieo ảnh hưởng đến đời này, hoàn toàn không biết mình là ai, vì sao như thế?

4.

Vén màn quá khứ, sám hối lỗi xưa

Tháng 7 năm 2012, dưới Phật lực gia trì, nhân duyên khuất tất trong đây được một vị đồng tu thông tuệ tình cờ đến nhà họ tham dự đại lễ cầu siêu và ngụ lại ba ngày, đã giải ra đáp án.

Sau khi đại lễ hoàn tất, mọi người cùng ngồi trò chuyện thì vị thông tuệ bỗng im bặt, nhìn chăm chú vào cô X, đầy vẻ ngạc nhiên…

Cô X thấy vậy thì mĩm cười hỏi:

– Sao ông nhìn lạ thế, đã thấu tiền kiếp của tôi rồi phải không?

Vị này nghiêm trang gật đầu, đáp:

– Tôi nhìn có một trại quân vào thời cổ đại, vị nguyên soái thập phần oai vệ anh tuấn.

CHÍNH LÀ CÔ!…

đang đóng trú ở đó!

Lão sư Trịnh Bá Đức nghe vậy liền hỏi:

– Ông xem trên lá cờ của vị nguyên soái này ghi chữ gì?

– Ô!

Tôi nhìn thấy rồi, là chữ “Chu”!

Họ “Chu” ư? – Chúng tôi đồng suy nghĩ, thế thì ông tướng “Chu” này thuộc triều đại nào đây?…

Vị thông tuệ nhắm mắt một lát thì nói:

– Tôi nhìn thấy cô rồi: Là một nam tử trẻ trông rất uy vũ anh tuấn, mọi người chung quanh đều gọi cô là Đô đốc”…

– Đô đốc ư? – Chúng tôi đồng lên tiếng hỏi, nhìn nhau ngần ngơ…

– Phải!

Cô chính là Đô đốc Chu Du của nước Ngô thời Tam quốc, mẹ cô là tướng quân Hoàng Cái nổi danh với khổ nhục kế…

“trá hàng” để gạt Tào Tháo.

Căn cứ theo sử ghi, để đối địch với quân Tào hùng mạnh, Hoàng Cái đã cùng Chu Du đề ra mưu kế hỏa thiêu Xích Bích.

Hoàng Cái nói: Địch đông ta ít, khó đánh lâu.

Tôi quan sát thấy thuyền Tào nối liền đầu đuôi, có thề dùng hỏa công để thắng…

Tôi cam chịu ngài đánh thảm sau đó sẽ ra bộ bất mãn và lén gửi thư cho Tào Tháo trước, giả vờ đầu hàng.

Đợi quân sĩ Tào chủ quan, thì ta phóng hỏa.

Nương sức gió mạnh, lửa sẽ thiêu cháy hết doanh trại của địch”.

Lão tướng Hoàng Cái cùng Chu Du đồng diễn màn kịch gạt Tào thành công.

Thế là trong trận Xích Bích, tướng sĩ quân Tào bị thiêu chết thương vong không thể tính kể…

Hóa ra hai mẹ con họ là Chu Du và Hoàng Cái, hai vị tướng tài, danh đồn vang dội?

Không riêng gì mọi người mà ngay cả cô X cũng kinh ngạc đến há hốc mồm, không nói được lời nào.

Vị thông tuệ kể rằng: ông nhìn thấy, những tướng sĩ bị thương hại này nằm trong các đội ngũ cực kỳ to lớn, do bị thiêu chết nên không còn mặt mày, tứ chi thi thể tàn khuyết, rất nhiều người hiện nay còn chìm trong ác đạo, thọ khổ không thể nói, muốn thoát ra cũng không có ngày…

Một số bọn họ đang hiện thân ở trước chúng ta, thỉnh cầu siêu độ cho họ…

Vị thông tuệ bảo cô X:

– Do cô hiện tại còn phúc báu lớn, nên oan gia trái chủ không thể quấy rối cô nhiều được, nhưng cô nhất định phải sám hối, hơn nữa phải dốc sức giúp cho những oan gia bị hại chết này được xuất ly khổ hải, bọn họ thật quá thảm và đáng thương!

Nghe đến đây, cô X rơi lệ, phát tâm sám hối, cô hướng về các chúng sinh bị hại thốt lời xin lỗi, và phát nguyện dùng Phật pháp làm lợi cho họ.

Đô đốc Chu Du vào thời đó, là vị nguyên soái trẻ tuổi oai hùng, tài hoa xuất chúng, danh lưu truyền khắp thiên hạ, song do sát sinh nhiều nên ông chỉ sống tới 36 tuổi.

Hiện thời là 2012, là năm rồng, cũng là năm mệnh vận 36 tuồi của cô trong đời này.

Nhờ cô biết tu theo Phật pháp nên sự việc còn có thể cứu vãn, cô hiểu được vì sao mình bị nhiều bệnh khổ và đã tìm ra đáp án.

Riêng tôi cảm thấy, do quá khứ là Chu Du nên đời nay cô X vẫn còn mang theo hào khí anh hùng.

Chu Du trong quá khứ vốn là một mỹ nam tài hoa, anh tuấn?

Thì đời hậu thân vẫn là mỹ nữ thanh tú, trên mặt còn toát ra khí chất nam tử anh hùng, tính vẫn ưa đọc sách, phong cách lịch lãm, học rộng tài cao.

Quá khứ Chu Du tính phóng khoáng, đại lượng, cư xử đắc nhân tâm, tuồi còn trẻ đã được Tôn Quyền nước Ngô đề bạt trọng dụng.

Trong “Tam quốc diễn nghĩa”, tác giả La Quán Trung tả Chu Du bị chọc tức chết, nhưng đó chỉ là lời bịa đặt chứ không phải sự thực.

Đời này xem hậu thân Chu Du tính cách vẫn hào sảng, khoan dung, rất thích hành thiện bố thí, rộng kết duyên lành.

Chu Du từ thời thiếu niên đã giỏi âm nhạc, ông có thính giác rất tinh tế về nhạc, nghe kể rằng dù ông đã uống ba bình rượu, nhưng khi nghe nhạc tấu lên mà bị sai, ông vẫn nhận ra và lập tức quay đầu nhìn nghệ nhân.

Vì vậy mà đương thời còn lưu truyền câu ca dao: “Nhạc nếu tấu sai, là Chu lang lập tức ngoái đầu nhìn!”…Người ta thường kể nhiều giai thoại thú vị về thiên tài âm nhạc của ông.

Do quá khứ Chu lang là một trong những người đã lập mưu hỏa thiêu quân Tào, nên hiện tại cô X cũng phải trả báo, bởi làm người chết cháy, thèm nước…

Nên bản thân cô luôn khát nước và bị cảm giác nóng dày vò triền miên.

Cô X đã phát tâm sám hối dũng mãnh, chân thành hướng về tất cả những chúng sinh bị hại, nguyện từ đây dùng Phật pháp làm lợi ích cho họ, đời đời dùng công đức tu tập hành thiện cùa mình hồi hướng cho tất cả bọn họ được thoát ly biển khổ sinh tư.

Tất nhiên đại nguyện được phát ra với tâm ăn năn sám hối vô bờ, vì thương xót những nạn nhân chết thảm mà cô quyết tâm thực hành sự cứu chuộc chân chính, bền bĩ.

Bệnh cô nhờ đó được tiêu tan.

Tín tâm càng thêm kiên cố, thu được kết quả tốt đẹp.

Đây là tất cả những gì tôi chứng kiến và viết ra trung thực, bạn cỏ thể không tin.

Nhưng tôi hi vọng câu chuyện này sẽ đem đến lợi ích cho những ai hữu duyên đọc đến nó.

15.

TIỀN KIẾP CỦA CỤ RÙA

Ngày 25 tháng 6 năm 2011 tôi và một số Phật tử đến tham dự pháp hội siêu độ nơi chùa Thúy Phong (núi Cửu Hoa) để cầu siêu cho tất cả chúng sinh tử nạn vì chiến tranh, thiên tai, họa ương.

Lúc mọi người rời Sư Tử Hống Đường, thì bỗng nghe một pháp hữu kể: Hôm nay có người đem cặp rùa già mới mua tới chùa phóng sinh!

Nghe nói hai cụ rùa này sống đã mấy trăm năm, hiện đang để tại điện Địa Tạng.

Chúng tôi rủ nhau cùng đến thăm.

Thế là mọi người đồng đến điện Địa Tạng.

Thấy hai con rùa này dài khoảng 70cm, nặng độ mấy mươi kí, đang nằm yên trên đất.

Mọi người đồng niệm quy y cho chúng ba lần, rồi bảo:

– Hai vị cần sám hối, cải ác hướng thiện, ráng tu hành cho tốt, thành tâm phát nguyện tương lai mình lìa khổ được vui, xả bỏ thân súc sinh, sinh sang Tây phương cực lạc, thoát khổ luân hồi lục đạo…

Một vị reo lên:

– Mọi người xem, rùa gật đầu kìa!

Ai nấy nhìn theo… thấy con rùa to nhất nãy giờ đang rụt đầu trong vỏ, giờ đã thò ra, liên tục gật đầu trước Phật, giống như đang đảnh lễ… và cũng tỏ thái độ như thể là nó đã nghe và hiểu thấu những gì mọi người nói.

Quả Tịnh cũng từ Tứ Xuyên đến tham gia pháp hội, sẵn dịp cô kể cho mọi người nghe nhân quả của hai con rùa này:

Con rùa to nhất là rùa đực, đời trước vốn là người tu hành.

Vào một kiếp ở Án Độ, nó vốn là người xuất gia, nhưng chỉ biết tu phúc, tạo thiện, tính rất ưa phóng sinh, nên đã phóng thích vô số sinh mệnh, tích lũy được nhiều phúc báo…

Nhưng do chẳng minh bạch là: Tu hành phải có chí cầu thoát ly sinh tử, nó chỉ thiên về tu phúc không tu huệ, nên nội tâm còn đầy tham, sân, si, phiền não…

Kết quả, nó vô phương giải thoát sinh tử, sang đời sau nhờ phúc thiện từng tạo nên nó sinh làm phú ông, lại sống si mê, bung mình thụ hưởng, hoàn toàn quên mất chuyện tu hành, trọn đời chỉ biết tận tình thọ hưởng thụ ngũ dục.

Đời sau nữa, nó sinh ra làm gã lái thuyền đưa người qua sông, bị tham tâm sai sử, nên thấy sắc tài là mê đắm, lý trí bị che mờ.

Nó chiêu mộ nhiều tên lưu manh cùng xúm nhau làm ác.

Hễ thấy khách có mang theo nhiều tiền bạc, hành lý… thì chờ khi thuyền đến giữa giòng, ra tay đoạt hết của, xô người xuống sông, làm cho họ chết chìm.

Còn hễ thấy gái đẹp thì chúng liền bỏ thuốc cho các nàng mê man rồi cưỡng hiếp, sau đó đem nạn nhân bán cho kỹ viện, lấy tiền tiêu xài.

Do trong quá khứ ông rùa này đã tạo ác nghiệp vô lượng vô biên, đúng ra là tội nặng phải đọa địa ngục, nhưng nhờ xưa có tạo phúc, quả lành hưởng chưa hết, nên sau khi chết rồi hắn chỉ đầu thai vào cõi thú, sinh làm rùa đen.

Hắn được trường thọ là nhờ quá khứ đã phóng sinh Vô Số loài, hồng phúc còn nên tiếp tục hưởng…

Chỉ đáng tiếc, do ngu si tham sân mà hành sự điên đảo, nên giờ mang thân súc sinh chỉ hưởng được phúc trường thọ mà thôi.

Còn con rùa nhỏ hơn nằm bên cạnh, chính là vợ hắn trong các kiếp trước.

Do khi chồng làm ác, vợ cũng tùy hỉ, hân hoan tiêu thụ tiền bất chánh, cùng vui vẻ hưởng thụ với nhau, chẳng hề biết ngán cản mà luôn a dua, tán thán việc ác chồng làm.

Do cộng nghiệp đó mà cũng đồng sinh vào cõì thú, cùng sống bên nhau.

Nhân quả không mảy may sai lệch, hôm nay người cứu chúng thoát khỏi tay đồ tể, đem đến đây phóng sinh, chính là một vị trong kiếp trước được chúng phóng sinh.

Hiện giờ chúng đến đạo tràng Địa Tạng Vương này, được nghe Phật lý và nguyên nhân đọa lạc của mình, chúng đã nhớ lại các sự tình, hiện đang sa nước mắt… khóc lóc sám hối các tội trong quá khứ đấy!

Rõ ràng là cặp rùa đang khóc, dĩ nhiên là tôi nhìn thấy.

Tôi còn cúi thật thấp đề quan sát cho rõ hơn.

Chính xác là cặp rùa không ngừng rơi lệ.

Mắt chúng nhòa nhẹt, ướt đẫm…

Có một pháp hữu nghi ngờ hỏi:

– Nghe khoa học nói: Rùa biển và rùa nước có thể khóc, vừa để đào thải muối ra, vừa giúp làm cho mắt tươi nhuận, có phải không?

Quả Tịnh nói:

– Đúng vậy!

Nhưng hiện thời chúng khóc không phải vì tình huống này đâu, chúng khóc: Là do quá xúc động!

Bởi tôi nhìn thấy nơi ánh mắt hai con rùa đang hiển lộ nét sầu thảm áo não… nhìn giống như cặp vợ chồng cổ trang thời xưa!

Quả thực là chúng đang buồn rầu khóc lóc, hiện tại không những chúng hối hận các lỗi đã tạo trong quá khứ, mà còn nhớ đến những cháu con quyến thuộc đang bị ly tán…

Té ra là vậy, mọi người xúm nhau an ủi cặp rùa, bỗng Quả Tịnh bảo tôi: Lão rùa có chuyện muốn nói.

Nó hỏi: Các vị đều khuyên nó nguyện cầu tương lai vãng sinh Cực lạc thế giới, nhưng trước đây nó chưa từng nghe qua tên địa phương này, nó muốn biết vùng này như thế nào?

Đến đó có tốt không?

Quả Tịnh bảo tôi: Muội không rành giảng kinh, xin huynh vui lòng giảng Phật pháp cho chúng hiểu rõ dùm.

Tôi bèn giảng đại ý: “Phật thuyết A Di Đà kinh” cho chúng nghe, rồi nương theo đó giải thích Tây phương Tịnh độ là nơi chư thượng thiện nhân đồng cư, thọ mệnh vô tận, cảnh giới trang nghiêm, tu hành bất thoái, nhất định sẽ đạt Phật quả thù thắng…

Hai con rùa chăm chú lắng nghe và liên tục gật đầu.

Chiều ngày 26 pháp hội kết thúc, chúng tôi bịn rịn từ biệt tự viện.

Chuyện cặp rùa khiến mọi người xôn xao xúc động… vì thấy tam giới như nhà lửa, luân hồi là khổ, thân người là quý báu, nếu phiền não không trừ, nhất định sẽ phải lưu chuyển sinh vào cõi thấp kém…

Do vậy mà tất cả cùng nguyện: Đời này không lưu luyến ta bà, cầu sinh Tịnh độ, vĩnh biệt sinh tử.

Tất cả chúng sinh đều có đủ Phật tính, nhưng vì vô minh che bản tâm.

Xin khuyên mọi người chớ để thời gian trôi qua uổng phí, hãy tinh tấn tu cho giải thoát để xuất ly sinh tử.

Nguyện tất cả chúng sinh đều tin thọ Phật pháp, biết trân quý sinh mạng, đoạn trừ sát sinh, dứt ác hành thiện, đồng ngộ Phật lý, cùng tu tinh tấn để sớm chứng Bồ đề.

Quả Trụ

16.

ÔNG TRÙM XÃ HỘI ĐEN

Lần đầu gặp, tôi thấy Mã huynh đang phóng sinh chim trong Niệm Phật Đường cùng với một pháp hữu khác.

Mã huynh hiện nay hơn 40 tuổi, là một đại hán Sơn Đông điển hình, tướng mạo giống như nhân vật Võ Tòng đánh hổ trong truyện Thủy Hử.

Ông mày rậm mắt to, vóc dáng cường tráng, tính cách hào sảng, giọng nói như chuông ngân, nội lực mạnh mẽ, nhìn rất oai phong, khí thế.

Câu chuyện tu hành của Mã huynh cũng lắt léo, ly kỳ… có thể dùng câu “lãng tử hồi đầu” để mô tả.

Ông luyện võ từ nhỏ, sau đó đi lính, thân thể rất vạm vỡ, khang kiện.

Sau khi giải ngũ, ông ở nhà.

Khi luyện võ có một số anh em tới tìm, dần dần lập thành một băng nhóm xã hội đen.

Huyện Hoàn Đài nổi danh là nơi ăn chơi, có nhiều vũ trường, nhà hát, quán bar, thanh lâu…

Hễ nơi nào các dạng ăn chơi, đấu đá… càng phát, thì thế lực xã hội đen càng mạnh.

Mã huynh rất giỏi võ lại thông minh khôn khéo, sau nhiều lần tỉ thí, ông nhanh chóng đạt được “vương vị” và nổi danh trong giới xã hội đen.

Ông tự lập đảng phái, làm trùm một cõi, thế lực ngày càng mạnh, nghề nghiệp cũng phát tương đương, có đệ tử, thuộc hạ rất nhiều, thập phần oai phong dũng mãnh.

Một ngày vào năm 2003, ông đến phố Đại Tập, huyện Hoàn Đài dạo chơi, tình cờ nhìn thấy một ông già bán tượng Quan Âm, chẳng biết chất liệu tượng thế nào, nhưng ông vừa dòm lòng đã rất hoan hỉ.

Thế là ông lại gần hỏi giá, ai dè tới 180 đồng!

ông thấy mắc quá nên bỏ đi.

Một tháng sau khi dạo chơi tiếp ông cũng gặp lão già đó.

Lần này lão hạ giá xuống còn 100 đồng, nhưng ông vẫn thấy mắc, nên không chịu mua.

Bản thân là trùm giang hồ, nắm quyền sinh sát trong tay, theo bình thường nếu thích thì ông đã cưỡng đoạt từ lâu rồi, nhưng đây là tượng Quan Âm, nên ông không dám giở thói giang hồ ngông nghênh.

Qua nửa tháng sau, ông đi chơi, lại gặp ông già ấy nữa.

Thấy tượng Quan Âm vẫn chưa bán đi.

Lần này không đợi ông hỏi, lão già tự động mở lời:

– Ngó bộ tượng Phật này và ông có duyên dữ a, thôi thì lão chỉ tính giá 60 đồng, xem như vừa bán vừa tặng đó nha!

Nghe vậy ông liền móc tiền ra trả rồi đem tượng về nhà đặt trên bàn trong phòng ngủ của mình, sau đó ngồi ngắm tới ngắm lui, lòng rất hoan hỉ.

Một tối nọ, sau khi nhậu say bí tỉ, vừa về tới nhà là ông lăn ra đánh giấc.

Khoảng 4 giờ sáng ông thức dậy uống nước, nhìn thấy tượng Quan Âm trên bàn, ông chợt nẩy ra ý nghĩ lạ lùng: “Nghe nói Bồ tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn, phi thường linh ứng, chẳng biết điều này có thực chăng?…

Nếu như có thực, thì hôm nay xin Bồ tát hãy hiển linh, cho tôi trông thấy rõ ràng thì tôi mới tin!”… (ông vốn là một người vô thần, chưa từng biết khom lưng cúi đầu trước ai, ông chẳng hề tin mấy cái thuyết nhân quả hay là có quỷ thần chi.

Nhưng trước đây khi luyện võ ông cũng thường ngồi tĩnh tọa, song đấy chỉ là luyện khí công mà thôi)…

Ông vừa vái thầm như thế xong, tự ngẫm nghĩ rồi tủm tỉm cười, sau đó thì quay về giường ngủ tiếp, nhưng mà ngủ không được…

Đang nhắm mắt mơ mơ màng màng, thì đột nhiên ông nhìn thấy tượng Bồ tát Quan Âm như đang phóng quang, ánh sáng màu vàng rực nhưng tỏa chiếu rất ôn nhu, ông nhìn ánh kim quang lấp lánh lòng cảm thấy dễ chịu khôn cùng…

Bỗng ông giựt mình bừng tỉnh, thì không thấy Bồ tát phóng quang nữa, nhưng hễ nhắm mắt lại, thì thấy Bồ tát lại đang phóng quang…

Ông bắt đầu nghi ngờ: “Chắc tại mình uống nhiều rượu quá nên sinh ảo giác đó thôi!”…

Nhưng rõ ràng tượng Bồ tát đang cười tủm tỉm, ông nhìn thấy mặt mày, ánh mắt Ngài… rất rõ.

Thế là ông hết ngủ được.

Tờ mờ sáng hôm sau ông vội ra ngoài để tìm hiểu những gì liên quan đến Phật giáo, sau khi hỏi thăm mấy người bạn, mới biết gần đấy có chùa Kim Lăng, thế là ông lập tức đến đó.

Đây là lần đầu ông đến chùa, ông đi vòng quanh và xá chào trước mỗi điện, nhưng chả thấy có gì thần kỳ linh ứng, trong lòng không khỏi chán nản…

Nhìn thấy mớ sách thiện báo ứng nhân quả (chùa cho đọc miễn phí để kết duyên), ông liền thỉnh mấy cuốn đem về nhà xem…

Đây là lần đầu tiên ông tiếp xúc với đạo, càng xem càng ưa, càng xem càng sợ…

Ông nghĩ mình mấy năm nay làm toàn việc xấu, trong lòng bắt đầu hối hận hoảng sợ, nhờ đọc các chuyện nhân quả báo ứng trong sách, ông hiểu ra tất cả ác nghiệp mình tạo đều là tội đáng đọa địa ngục…

Xem xong mấy cuốn thiện thư rồi, Mã huynh suy gẫm lung lắm, thế là trong lòng phát sinh thay đổi.

Kể từ đó ông tu sửa rất nhiều, hành sự không còn hung hăng dữ tợn nữa.

Nhưng là dân trong giới giang hồ, mọi sự chẳng do mình tự quyết hết, ông phải thường tham dự việc của hắc đảng, chỉ là từ đó về sau ông có niệm Phật, bái Phật…

Kế đến, ông còn thỉnh một bức hình “Quan Âm cưỡi trên con rồng đen” về treo trên vách phòng khách, rồi cao hứng, ông tới trước tượng khấu đầu mấy cái…

Mãi đến một đêm thu năm 2008…

Tối đó ông về nhà, khoảng chừng tám chín giờ, vừa bước vào nhà thì thấy Bồ tát Quan Thế Âm (trong hình treo nơi phòng khách đang bước ra, đứng trên không nhìn xuống ông).

Mã huynh hết hồn, vội quỳ xuống, vừa dập đầu như tế sao vừa lớn tiếng réo gọi vợ mau ra xem, lúc vợ ông chạy ra thì không còn gì, ông ngẩng đầu lên thấy Bồ tát trên không cũng biến mất…

Lần này ông hết sức tỉnh táo, khẳng định trăm phần trăm mắt mình nhìn thấy rõ ràng chứ không phải là ảo giác.

Bởi vì ông đã tận mắt nhìn thấy Bồ tát Quan Âm, nhăn thần ghi khắc tận xương tủy, cảm giác xúc động này như xuyên thấu cả người ông…

Lần này thì ông đã tâm phục khẩu phục, triệt để hối ngộ.

Ngay đó ông liền phát thệ trước Bồ tát Quan Âm: “Từ đây con quyết sửa lỗi đổi mới, dứt khoát rời khỏi giang hồ, một lòng hướng thiện, nguyện làm lại cuộc đời!”

Mã huynh tính rất dứt khoát, hễ nói là làm, vì vậy hôm sau ông triệu tập đám thuộc hạ tuyên bố giải tán, tha thiết khuyên họ từ bỏ việc xấu và giải thích: “Thiện ác có báo ứng, nhân quả không dối, gieo gì gặt đó, đừng để ác báo trổ rồi hối không kịp”…

Buông bỏ dễ, làm lại rất khó.

Mã huynh vốn tính hào sảng, trọng nghĩa khí…

Hồi trước thuở còn cầm đầu hắc đảng, hễ tay này thu, thì tay kia chi ra, nên đâu có dành dụm được bao nhiêu?

Vì vậy chẳng mấy chốc ông đã lâm vào cảnh phải tìm kế sống…

Trước tiên thì vay mượn người, sau đó thì cũng tìm được việc trong một hãng xưởng nọ.

Bắt đầu đi làm, lương lãnh thấp, lại phải lao lực nhiều, hoàn cảnh công tác mọi thứ xem như cực kỳ tệ.

Nhờ ông có sức mạnh, yêu cầu cũng không cao, đã nhận việc thì ráng làm.

Nhưng khó chịu nhất là: Phải làm, nghỉ, đúng giờ; chịu đủ luật lệ gò bó.

Chưa kể còn phải nhìn mặt thượng cấp mà sống, mà hành xử.

Hễ không cẩn thận là bị lãnh đạo mắng té tát cho mất mặt…

Tình cảnh này so với thời ông làm thủ lĩnh hét ra lửa, nắm quyền uy một thời, vào ra luôn được anh em cúi đầu vâng dạ… thì đúng là cách xa trời vực.

Cứ thế, suốt thời gian dài Mã huynh cắn răng chịu đựng, luôn đi làm sớm và về thật muộn…

Bởi ông sợ lỡ đi đường mà gặp người quen sẽ bị họ cười chê.

Khi đến xưởng thì ông vừa làm, vừa mải miết trì chú Chuẩn đề, nên chẳng giao tiếp với ai.

Lúc về nhà thì đa số thời gian đều dành cho việc lạy sám hối trước tượng Bồ tát Quan Âm.

Ông sám hối tất cả ác hạnh xưa kia, cầu Bồ tát khoan thứ gia hộ…

Như thế được hơn nửa năm, ông mới bắt đầu giao lưu cùng đám thợ trong xưởng, nhưng hễ trò chuyện là ông khuyên người hướng thiện, tin nhân quả v.v…

Sau này nhờ ông cảm hóa mà trong xưởng có được hơn 70 người tin Phật, chịu thờ Phật…

Một năm sau, đột nhiên ban lãnh đạo xưởng cho ông thuyên chuyển đến chỗ khác làm việc.

Công tác nơi đây tương đối thanh nhàn, mấy ngày không làm cũng chẳng ai đến hỏi, lương cũng cao hơn nhiều.

Mã huynh hiểu rõ đây là Bồ tát Quan Thế Âm che chở, ngầm giúp ông có điều kiện để tu hành tốt hơn, vì vậy ông càng thêm tinh tấn.

Chùa Hoa Nghiêm mỗi năm thường tổ chức đả Thiền thất, chỉ cần lúc rảnh không làm việc thì ông đến tham gia, có khi tham dự ba Thiền thất, hành trì không chút giải đãi.

Lúc này ông đã phát Thiên nhãn thông, nhìn thấu suốt rõ ràng, trong thời gian tham dự Thiền thất, ông thường thấy Thiền đường biến thành một ao sen cực lớn, trên không có rồng vàng bay lượn chung quanh, có lúc còn xuất hiện Thiên nữ đến đạo tràng, rải hoa Mạn-đà-la lên các vị đồng tu…

Có lúc ông nhìn thấy các cảnh như trong kinh tường thuật, nhìn thấu xuống địa ngục, thấy vua Diêm La vừa mập vừa thấp, còn hai quỷ vô thường hắc bạch thì ốm, cao; nhưng trông dáng vẻ chẳng hung ác.

Có lúc không nhịn được, ông đem những điều mình thấy hỏi thầy trụ trì Thường Tịnh, thì sư phụ luôn nhắc ông:

– “Phàm những gì có hình tướng đều là hư giả”… cảnh lạ dù có hiện rồi cũng hóa thành không, ngàn vạn lần chớ nên chấp trước vào đó, nếu không sẽ bị lạc tà…

Do ông có túc duyên rất sâu, khả năng thần thông càng tu càng phát mạnh, sư phụ sợ ông chấp trước sẽ bị lạc ma cảnh, nên kể cho ông nghe rất nhiều chuyện người ta vì mê chấp, tham cầu thần thông, mà bị tầu hỏa nhập ma…

Mã huynh cung kính thọ giáo.

Tham dự Thiền thất xong, ông nhận thấy thời mạt pháp “đạo yếu ma mạnh”, đám ngoại đạo thiên ma, yêu tà, quỷ mỵ… tàn hại bừa bãi.

Người tu nếu thiếu chút cảnh giác không cẩn thận, thì sẽ bị rơi vào cảnh quỷ ngay!

Do vậy ông liền phát đại nguyện: “Cả đời con xin dâng hết cho việc hộ trì chánh pháp, hộ trì người tu!”

Phát nguyện xong, ông lập tức đến Phật Sơn Cổ Tự ở Tứ Xuyên, Bành Châu, bái kiến hòa thượng Quảng Ngộ (đệ tử của đại sư Tế Trần), học pháp “Uế Tích Kim cang”.

Học xong, về nhà ông tiếp tục tu thiền định.

Pháp “Uế Tích Kim cang” thuộc Mật tông đời Đường, cũng thuộc dạng giáo ngoại biệt truyền như Thiền tông, là pháp môn phương tiện Phật Thích Ca đặc biệt khai mở, thuộc về biệt mật.

“Uế Tích Kim cang” được hóa thân Phật Thích Ca tuyên thuyết, lúc Ngài thị hiện nhập niết bàn.

Pháp này không sợ ô uế, cho nên gọi “Uế Tích Kim cang”, dùng đại thần lực hàng phục quỷ đạo, hộ trì người tu hành đời sau, còn có tên là “Đại Quyền Thần Vương Phật”.

Đầu năm 2009, một tu sĩ tới tìm Mã sư huynh, vừa bước vào nhà thì đến trước Phật lễ bái, lễ xong thầy liền nói: Quả là Bồ tát Quan Thế Âm hiện hữu nơi Phật đường của ông!

Thầy này là pháp sư Minh Đăng, đồ tôn của Hòa thượng Hư Vân.Thầy Minh Đăng xuất gia từ nhỏ, cả nhà vốn rất sùng mộ Phật nên từ ấu thơ thầy đã biết kính tin Phật pháp.

Lúc ở nhà, thầy thường bế quan tu hành.

Năm đó thầy bế quan, giao cho muội muội hộ thất, sắp tròn 100 ngày, thì bỗng có một bà lão vác bị đến nhà thầy gõ cửa xin ăn.

Lúc đó nhằm buổi độ ngọ (dùng trưa), phụ thân thầy đang ăn cơm, trên bàn có hai đĩa rau, ông thuận tay liền trút một đĩa cho bà già.

Bà lão bỗng ngước lên trời cười to, rồi bỏ đi…

Phụ thân không để ý, cứ tiếp tục ăn cơm.

Lúc này Minh Đăng đang nhập định bỗng thấy linh ảnh Bồ tát Địa Tạng xuất hiện, bảo:

– Vừa rồi Bồ tát Quan Âm đến nhà, vì sao không ra nghinh tiếp?

Thầy lập tức xuất định, kêu muội muội hỏi thăm: Vừa rồi có ai đến nhà mình hay không?

Muội muội đáp:

– Có, là một bà lão xin ăn…

Và cô kể cho thầy nghe tình huống lúc đó.

Thầy Minh Đăng liền giậm chân than:

– Cha chúng ta làm lỡ mất dịp tiếp đón Bồ tát Quan Thế Âm rồi! (Trong các cổ sử Phật giáo thường kể, chư Bồ tát hay hóa hiện qua thân phận ăn mày để độ sinh, vì vậy việc này không có gì lạ).

Sau khi chủ và khách đều yên vị rồi, Minh Đăng mới kể cho Mã huynh nghe, nguyên là mấy ngày trước, thầy mộng thấy Bồ tát Quan Âm nói rằng: Hiện có hai vị cư sĩ đang cần bế quan và bảo thầy hãy nên tìm đến hộ thất giúp đỡ, tận sức chăm sóc họ.

Ngài còn mách rõ tính danh và địa chỉ hai người này.

Một người ở Tế Nam là nữ, còn một người chính là Mã huynh!

Sau đó hai bên cùng bàn luận Phật pháp rất tương đắc, hoan hỉ.

Kế đến thầy Minh Đăng gọi điện thoại dặn dò cho vị sư huynh ở Tế Nam lo liệu các việc cần, rồi dẫn Mã huynh theo thầy đến khu Thiền thất đặc biệt dành riêng cho người bế quan chuyên tu.

Mã huynh nhập thất đến ngày thứ hai, trong định thấy đích thân tôn giả Mật tông (Stongkhapa) hiện ra, bảo:

– Ngôi thất này là đất thành Phật, nhất định ông phải tu cho tốt.

Mã huynh cảm thấy được khích lệ rất lớn, liền phát nguyện: Con nhất quyết tu cho đến khi đạt chánh định vô thượng.

Nhập thất đến ngày 21, các chủng tử xa xưa và túc nghiệp hiện hành, đủ loại cảnh “tiền trần hậu thế” tranh nhau kéo đến, khiến phiền não bùng khởi, xâu xé, làm Mã huynh suýt phát cuồng, khó thể nhẫn thọ, chỉ muốn đứng dậy xuất quan…

Trong giây phút khốn khó, lúng túng nơi ải quan sinh tử, nằm giữa lằn ranh thành bại, thì đạl sư Stongkhapa một lần nữa lại xuất hiện, Ngài giảng pháp “tâm yếu đại thừa” cho, Mã huynh nghe xong thì cuồng niệm tan dần, đột nhiên trong khoảnh khắc, cảm giác thân như có vật gì rụng rơi và hoát nhiên nhập định…

Đến lúc xuất định, như có sở ngộ, Mã huynh liền nói kệ:

Ngàn dặm tới đây để bế quan

Chỉ vì chưa thấy được trời xanh

Bất ngờ đất bằng rền tiếng sấm!

Từ đây mê ngộ hết liên quan!

Đến ngày 41, tâm khinh an hỉ lạc, pháp hỉ sung mãn, xuất định rồi ông lại nói kệ:

Đảnh lễ Tối Thượng Tôn!

Thích Ca Đại Hiền Nhân

Con nay hết mê hoặc

Từ đây rõ tự tâm!

Đến ngày 46, thân tâm câu vong, nhập đại chánh định, lúc xuất định, thì không còn khác biệt giữa xuất định và nhập định nữa, ông lại nói kệ:

Thân chưa xuất gia, tâm xuất gia!

Có tóc cũng như không tóc mà

Từ nay học theo Bồ tát hạnh…

Áo vải thay cho áo cà sa!

Tối đó công đức viên mãn, Mã huynh cười lớn ra thất.

Kể từ đó ông bắt đầu hiện đại thần thông, quảng độ chúng sinh.

Xin kể sơ hai chuyện:

Năm 2009 huyện Cao Thanh có một phụ nữ được chồng lái xe chở tới chỗ Mã huynh.

Cô này làm “thần bà” (là bà đồng) điển hình, quanh năm xem bệnh, chữa trị cho người.

Trước đây cô bị hồ ly dựa xác, rất linh, nên kiếm được bộn tiền.

Tùy theo tham tâm ngày càng thịnh mà âm khí trên mình cô ngày càng lớn, kết quả đã chiêu vời thêm hai con rắn đến dựa xác nữa.

Hai bên (hồ ly và rắn) gá dựa thì tránh sao cho khỏi cảnh tranh quyền?

Chúng đấu nhau một hồi, do hồ ly đạo hạnh cao hơn nên đã thắng.

Nhưng hồ ly không gá dựa trên mình cô hoài, vì nhiều lúc nó phải quay về chỗ của nó.

Do vậy hai con rắn không cam tâm, chỉ đợi hồ ly vừa rời đi, thì liền gá vào thân cô này báo thù…

Cô này bị giày vò lăn lộn khó chịu, đau tới chết đi sống lại.

Khi đó cô đi bệnh viện khám nhưng bác sĩ đâu thể trị loại bệnh này, vì vậy cô khám nhiều lần, tốn tiền lắm, mà chẳng có kết quả…

Chứng kiến vợ bị bệnh hành nguy hiểm, chồng cô đi khắp nơi tìm người cứu, đã đến rất nhiều chỗ, nhưng không ai trị nổi, cuối cùng đành tìm đến Mã huynh.

Khi xe dừng trước cổng, phụ nữ nọ sống chết gì cũng không chịu xuống xe.

Té ra hai con yêu gá trên mình cô do quá sợ Mã huynh nên phản ứng như vậy.

Mã huynh nhìn thấy chúng rất rõ, nên ông lập tức trì chú Chuẩn Đề, thỉnh thiên tướng đến thu phục hai con rắn thì cô này mới chịu vào nhà.

Lúc đó mặt mày cô tái nhợt, lộ vẻ mệt nhọc, vừa vào thì nằm dài trên đất…

Mã huynh hỏi tà dựa xác:

– Vì sao hại người?

Con rắn dựa xác lên tiếng (qua miệng của cô), nó giải thích là chỉ định dựa vào cô xem bệnh cho người, nhưng do đấu không lại con hồ ly trên mình cô, nên thừa lúc hồ ly đi vắng, nhập vào báo thù, còn khai là bọn chúng đã hút phân nửa khí huyết trên người cô rồi, chỉ còn lần nữa thì hút sạch…

Mã huynh biết rắn nói thực, vì ông quan sát thấy, nếu cứ theo đà này, bà đồng kia không sống được 20 ngày nữa.

Hai con rắn này gồm một lớn một nhỏ: Con lớn thuần trắng, còn con nhỏ màu trắng nhưng cuối thân có một lằn đen, chúng sống lâu cũng đã bảy tám trăm năm.

Do có túc thế nhân duyên với bà đồng này, lại thêm tham tâm trong lòng bà quá cao, nên mới chiêu cảm chúng tìm đến.

Trong tình cảnh này, chỉ có hòa giải đôi bên mà thôi, Mã huynh hỏi con rắn:

– Dựa trên thân người này, các ngươi được lợi gì?

Chúng đáp:

– Một là được vang danh, tiếng tăm đồn xa, còn có được nhiều đồng loại tìm tới quy phục, tăng thêm nhiều quyến thuộc, thế lực càng lớn.

Hai là, có nhiều lợi dưỡng cúng dường, hễ người bị dựa kiếm được nhiều tiền thì phải cung phụng bọn chúng, nhờ vậy mà hưởng dụng càng phong nhiêu.

Thực ra thế giới loài rắn cũng giống như nhân gian, đều có tâm tham cầu vinh danh, lợi dưỡng, nhưng ở rắn tâm tật đố mạnh hơn, và tâm tranh đoạt cũng hung dữ hơn, theo kiểu một mất một còn: “Mày chết tao sống!”…

Mã huynh bèn giảng Phật pháp cho hai con rắn nghe, khuyên chúng hãy buông bỏ tâm tham, sân, si… và nên giải oán kết cùng phụ nữ này, khéo tích đức hành thiện, tu hành cho tốt, để tương lai được sinh vào cõi lành, tu thoát luân hồi, không còn thọ khổ nữa.

Hai con rắn cung kính thọ giáo, chúng đồng ý rời khỏi phụ nữ kia, nhưng ngỏ ý xin được theo Mã huynh 5 năm để nghe pháp tu hành.

Mã huynh chấp thuận rồi, thì phụ nữ kia lập tức đứng dậy, hồi phục như bình thường.

Sợ cô ta sau này lại giẫm vào vết xe cũ, Mã huynh liền hỏi cô có muốn láy hồ ly ra khỏi thân chăng?

Cô vội vã lắc đầu lộ vẻ rất không đồng ý, vì sợ mất hết thần thông (của hồ ly) rồi thì sau này sẽ không kiếm được nhiều cúng phẩm tiền bạc béo bở nữa…

Mã huynh liền khuyên cô: Hồ ly đó đã tu hơn 1300 năm, nếu hiện tại cô không chịu giải quyết cho dứt khoát, thì tương lai lúc nó bỏ đi cô sẽ càng thê thảm hơn hiện thời nữa!

Nhưng cô ta vẫn khăng khăng không chịu.

Do tâm cô không hướng thiện thì định nghiệp cũng khó chuyển (cho dù Phật tái lai cũng khó độ người không duyên)!

Mã huynh đành để tùy ý cô.

Còn chuyện thứ hai phức tạp, lằng nhằng hơn, nhưng chúng sinh được hóa độ rất nhiều.

Cũng vào năm 2009, một học sinh ở huyện Hoàn Đài đột nhiên bị quái bệnh.

Một lần ngủ tới mấy ngày, ăn uống vô độ, hễ bệnh phát nặng thì chửi rủa, đánh mắng người…

Do bệnh nghiêm trọng, nên em phải nghỉ học ở nhà chữa trị.

Do học sinh này là con trai duy nhất, nên cha mẹ rất sầu lo.

Cha em là giám đốc một hãng xưởng nọ, thuộc nhà giàu có, nên ông đã đem con đến rất nhiều y viện đề khám, nhưng chữa trị không kết quà.

Sau đó ông đành đem con về nhốt trong nhà, giao cho người mẹ chăm sóc.

Nhưng kỳ quái là, mẹ em sau đó cũng bị bệnh, đột nhiên bà bắt đầu hút thuốc, uống rượu (những điều trước đây chưa từng làm) tinh thần rất kích động, có lúc liên tục mấy ngày không ngủ, miệng luôn lẩm bẩm lầm thầm, chẳng biết nói gì?…

Chứng kiến một gia đình đàng hoàng, bỗng dưng thành ra như thế, cha em chỉ biết ngây mắt nhìn, tinh thần suy sụp.

Tình cờ, được người giới thiệu, ông tìm đến Mã huynh, hỏi xem có cách nào trị chăng?

Mã huynh vừa nhìn qua đã biết ngay tình huống phức tạp, đơn giàn là không dễ mó tay vào.

Nguyên là bệnh của con trai và vợ ông này là do bị tà nhập vào quấy nhiễu, nhưng tà trong đây không phải một, mà có tới năm vị, chủng loại cũng bất đồng.

Trong đám dựa nhập này có một kẻ là oan quỷ, cũng không hề xa lạ, chính là anh ruột của ông giám đốc.

Do y lúc sống công tác không thuận lợi, ở đâu cũng gặp trắc trở, lòng thập phần chán nản.

Nhưng em trai y lại tài giỏi, sự nghiệp thành đạt.

Vì muốn giúp anh, ông giám đốc có lòng tốt, hỗ trợ cho anh tự lập một chi nhánh, để anh tạo sự nghiệp riêng.

Vốn tính tiết kiệm, người anh bèn chọn địa điểm xây dựng hảng xưởng nhỏ nơi một nền nhà cũ bỏ hoang tại nông thôn.

Mộ tổ tiên ông cũng nằm trong đây.

Do bị cỏ tạp mọc đầy, nên chẳng còn trông thấy mộ phần…

Lúc đào nền lên, tài xế không rõ tình huống, nên đã cho san ủi hết mộ tổ tiên.

Khiến xương cốt vùng này bị trộn lộn rối beng.

Ngay ngày hôm đó.

Anh của ông giám đốc đến hiện trường chỉ huy, xui xẻo bị một tàng đá từ trên cao rơi xuống đè nhẹp, khiến anh chết không toàn thây, thi thể máu thịt bầy nhầy, thân biến dạng hoàn toàn, thảm đến chẳng nỡ nhìn.

Do anh chết chẳng lành, lúc thần thức lìa thây, oán khí dâng tràn, anh cho rằng do tại thằng em nên mình mới gặp nạn đột tử như thế, nên nhất quyết báo thù.

Biết em mình cưng nhất đứa con trai một, nên anh đã gá dựa vào và hành xác thằng nhỏ, khiến toàn gỉa người em đau khổ, sợ hãi khó kham, tài sản cũng bị tổn thất hư hao…

Trước tiên Mã huynh nói chuyện với vong linh người anh, giải thích rằng: Việc em ông làm là xuất phát từ lòng tốt muốn giúp anh tạo sự nghiệp, nhưng anh bị hoạnh tử là ngoài ý muốn, chẳng nên oán trách em mình…

Nhưng oan quỷ nói: Trên đời này cái gì cũng có nguyên nhân, kiếp trước người em này từng hại y và thiếu nợ y rất nhiều.

Đời nay do họ đầu thai cùng làm anh em, nên hắn mới có hảo tâm giúp y, nhưng lại khiến y chết thảm, vì vậy nợ tiền kiếp lẫn hiện kiếp gì, y cũng nhất quyết phải thanh toán cho xong.

Mã huynh khuyên: Oán thù nên giải chớ nên kết, nếu y đồng ý, ông sẽ siêu độ cho y về thiện đạo hưởng phúc.

Nhưng oan quỷ rất cố chấp, khăng khăng nhất định đòi báo thù.

Bất đắc dĩ, Mã huynh đành trì chú thỉnh Diêm vương đến, cưỡng dắt hồn y đi chỗ khác đầu thai…

Nào dè chừng hai tiếng sau, thấy oan quỷ lại lót tót quay về.

Té ra sau khi Diêm vương tra sổ xem án đời trước, thấy rõ ràng người em quả có thiếu nợ y rất nhiều, y muốn báo thù là do định nghiệp xui khiến, đây là lẽ đương nhiên, Diêm vương cũng không có quyền can thiệp, đành phải thả cho y trở về, được phép tùy ý báo thù.

Hiểu rõ định luật nhân quả rồi thì không ai có thể sửa đổi, chỉ nương vào hòa giải khiến hai bên hài lòng mà thôi.

Mã huynh tiếp tục khuyên ông giám đốc (là người em) nên sám hối nghiệp tiền khiên, đồng thời cần phải bỏ tiền ra tạo công đức hồi hướng cho anh, bản thân Mã huynh cũng sẽ làm lễ siêu độ cho người anh vãng sinh thiện đạo, ly khổ đắc lạc…

Oan quỷ nghe nói vậy thì cuối cùng cũng chấp nhận, y bày tỏ: Trước tiên sẽ không hành hạ con trai người em nữa, nhưng nếu muốn y rời đi thì phải chờ xem người em biểu hiện lòng ăn năn và chuộc lỗi có thành tâm hay không rồi hẵng tính…

Việc này coi như tạm xong.

Trừ oan quỷ này ra, trên mình em học sinh kia còn có bốn loài khác dựa xác, gồm: Một con rắn bạch, một con rắn hồng, một con hồ ly, một con sói hoang.

Con bạch xà cầm đầu cả nhóm, bọn chúng cùng kết làm quyến thuộc với nhau.

Theo Mã huynh tả, thì con bạch xà này dài khoảng 50 mét, to như thùng nước, nó tu đã hơn ngàn năm.

Bà ngoại của em học sinh này xưa vốn là bà đồng, quanh năm xem việc cho người.

Kể từ thuở đó, bốn vị này đã tìm tới gá dựa rồi, sau đó thì chúng gá tiếp vào chồng bà, thân xác ông ngoại em học này sinh do âm khí quá nhiều, nên ăn không tiêu và sớm tạ thế.

Vì đã có túc duyên cùng nhau từ đời trước, nên bốn con yêu này hiện đang gá vào thân bà vợ giám đốc, để bà tiếp nối tổ nghiệp, làm bà đồng.

Nhưng do hiện thời trên thân bà giám đốc này dương khí còn quá mạnh, nên bọn chúng không thể gá nương, vì vậy trước tiên phải hành đứa con trai độc nhất của bà, buộc bà phải sầu lo tiều tụy, sức khỏe bị ảnh hưởng sẽ khiến dương khí suy sụp, khi đó chúng sẽ gá vào thân bà.

Mã huynh lại đàm phán cùng chúng, bốn vị này rất có thiện căn, lập tức đồng ý sẽ không quấy nhiễu nữa, nhưng ra điều kiện là: Mã huynh phải sắp xếp thời gian làm lễ siêu độ, cầu cho chúng vãng sinh cõi thiện!

Mã huynh hoan hỉ đáp ứng.

Ngay hiện trường ông truyền Tam quy cho chúng và ban pháp danh: Minh Tâm, Minh An, Minh Lý, Minh Đắc.

Hàm ý là kể từ đây sau khi chúng quy y theo chánh pháp rồi thì “tâm an lý đắc”, tu hành giải thoát…

Mã huynh kể: Khi đó bạch xà đã thố lộ tâm tư rất cảm động, tôi nghĩ nên thuật lại đề cảnh tỉnh mọi người.

Vì cõi súc sinh là một trong tam ác đạo, hết sức khổ!

Bốn con vật dựa xác này đều có thọ mạng hơn ngàn năm trở lên, chúng đã trải qua biết bao cuộc phong vũ tang thương, chứng kiến bao triều đại đổi thay, chúng sống được đến giờ phải nói là chuyện không dễ!

Nhưng chúng khẩn cầu Mã huynh dốc sức siêu độ, vì muốn được vãng sinh thiện đạo, nên khi thỉnh cầu như vậy có nghĩa là chúng chấp nhận kết thúc thọ mạng còn dài đang sở hữu, chấp nhận từ bỏ cuộc sống hơn cả ngàn năm (đã có thần thông) và tình nguyện được mau chóng chết!

Do vì quy luật trong vũ trụ là: Chỉ có thông qua thân người mới có thể tu hành giải thoát, nên những loài ở cõi súc sinh vĩnh viễn không thề tu thành chính quả, thoát luân hồi.

Chỉ trừ một thiểu số cực ít, đặc biệt, mới có ngoại lệ.

Những thiểu số này chính là Phật Bồ tát thị hiện, chẳng hạn như trong kinh Pháp Hoa có Long nữ 8 tuổi thành Phật.

Long nữ sở dĩ có thề chuyển thân nam ngay, lập tức thành Phật (ngoại trừ bậc thượng trí lợi căn ra, thì quan trọng nhất vẫn là tâm xả ly!)…

Bởi long châu không những có giá trị liên thành, mà đối với loài rồng còn là quan hệ sinh tử, một khi bị mất đi, tính mệnh sẽ khó bảo toàn!

Nhưng Long nữ không chút do dự, đã đem bảo châu cực quý trong tay hiến cúng Phật và lập tức thành Phật…

Có thể giải thích rằng nhóm bạch xà (gồm bốn vị chủng loại khác nhau đó)… tâm xả ly của họ so với Long nữ có thể nói là “dị khúc đồng công”, vì Xà cũng thuộc Long tộc), mà loài rắn biết cầu tiến thường hiếm, có hai trường hợp cho chúng là:

Một: Phải hội đủ nhân duyên phúc báo lớn mới gặp được bậc tu hành cao, thanh tịnh, có tâm từ bi, đủ sức niệm Phật siêu độ cho chúng.

Nương vào Phật lực gia trì mà chúng được trực tiếp sinh sang cõi tịnh của chư Phật.

Hai: Khi báo thân súc sinh kết thúc, chúng sẽ tiếp tục đầu thai, mang thân người, được hữu duyên gặp Phật pháp, có thể theo trình tự thứ lớp tu hành, vượt thoát luân hồi.

Nhưng hai tình huống này tính ra rất hi hữu khó gặp, xem như khó chồng khó.

Bạch xà nói: Chúng tôi muốn có được thân người tu hành là rất khó, khó cực kỳ!

Nhưng đa số loài người các vị có được thân người lại không biết trân quý, không biết nương vào thân người để nắm bắt cơ hội tu hành, lại tham mê ngũ dục, túng tình phóng dật, một khi mất thân người, trầm luân đọa lạc, có muốn tu hành cũng khó!

Tôi thực là ước ao thèm muốn và tiếc cho loài người các vị…

Sau khi Mã huynh bàn bạc ổn thỏa cùng bốn kẻ dựa xác xong, thì chúng vui vẻ rời đi.

Lập tức em học sinh kia bình an trở lại, trạng thái hồi phục bình thường.

Không ngờ mẹ em thần trí tiếp tục bất ổn, hóa ra lại có những chúng sinh khác gá vào.

Mã huynh vừa hỏi, mới biết đó là cha mẹ ruột của bà đã mất, nhân vì lúc sống họ bị gá dựa làm đồng, chết rồi thần thức không thể chuyển sinh, thảy đều trở thành quyến thuộc của quỷ vương La sát, nhận chịu đòn roi, thọ khổ hết chỗ nói.

Họ cũng năn nỉ cầu xin được siêu độ, Mã huynh hoan hỉ đáp ứng.

Sóng trước vừa đi, sóng sau liên tục tới. tất cả đều là lịch đại tồ tông của mẹ em học sinh, do lâu nay họ lưu lạc trong quỷ đạo, giờ nghe tin biết Mã huynh sắp tổ chức đại lễ nên vội đến cầu xin ông siêu độ cho, bởi hữu duyên thì đến…Mã huynh đều nhất nhất đáp ứng.

Nhóm cuối cùng, là hai vị rất lạ, khi họ nói lai lịch ra, mọi người tại hiện trường đều kinh ngạc, hết hồn.

Bởi vì đó là hai vị trời ở cõi Tứ Thiên Vương.

Do bọn họ vốn có túc duyên với gia đình này, thuở còn sống nhờ biết tu thập thiện, rộng tạo công đức nên sau khi chết rồi họ được sinh vào tầng trời thấp nhất của dục giới, là cõi Tứ Thiên Vương, cùng vui hưởng phúc trời.

Nhưng giờ đây họ vẫn ngỏ ý cầu xin Mã huynh siêu độ cho, mục đích của họ là muốn được sinh về Tây phương Cực lạc thế giới.

Mã huynh có chút nghi ngờ, liền chất vấn.

Hai vị trời bèn giải thích:

– Mặc dù cõi Tứ Thiên Vương có phúc báu thù thắng, thọ mệnh tới 500 tuổi.

Một ngày ở đây bằng 50 năm nhân gian, 500 tuổi thọ cõi trời này tương đương chín triệu một trăm hai mươi lăm ngàn năm (9.125.000) ở trần gian.

Thế nhưng phúc trời một khi hưởng hết rồi, thì chúng tôi vẫn phải theo nghiệp đã tạo trước đó mà thọ sinh, nếu phúc đã hưởng hết rồi, thì e là vẫn có thể bị đọa vào ba cõi ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, tiếp tục cảnh luân hồi thọ khổ trong lục đạo.

Vì vậy hiện thời tuy cảnh vui nơi cõi trời thù thắng vi diệu vượt xa cõi người, nhưng ngẫm lại không được rốt ráo bền lâu, nên chúng tôi thấy chẳng có gì đáng lưu luyến.

Vì vậy mà đồng muốn xả bỏ thọ mệnh cõi trời đề cầu vãng sinh Cực lạc, chủ yếu là nương nguyện lực Phật A Di Đà tiếp dẫn…

Nhưng muốn được vậy cần có đủ nhân duyên chín muồi… mà nhân duyên hiện thời được gặp ngài đây đúng là hi hữu khó có, thế nên chúng tôi mới phải hiện thân khẩn khoản thỉnh cầu ngài, ngài chỉ cần đáp ứng nhận làm lễ cầu cho chúng tôi thôi, không phải lo gì khác!

Hai vị trời còn đề xuất thêm một yêu cầu nữa, họ kề rằng vị lãnh đạo địa phương này vốn có túc duyên cùng họ (và cũng khai báo rõ họ tên của viên quan đó cho Mã huynh biết), họ khẩn khoản thỉnh cầu thầy khi cơ duyên đến, xin hãy từ bi, xét theo căn cơ mà hóa độ cho ông ta tin Phật, niệm Phật giùm. (Hiện nay vị lãnh đạo này dưới sự cảm hóa của Mã huynh, cũng đã bắt đầu tin Phật, tập tu rồi).

Mã huynh sau khi nghe hai vị trời bày tỏ nỗi lòng, liền phát đại bi tâm, vui vẻ nhận lời, ấn định thời gian làm lễ siêu độ cho hai vị trời (chuyện Thiên nhân cầu siêu độ, thật là hiếm có, đáng để chúng ta khảo chứng).

Chuẩn bị đầy đủ xong xuôi, mấy ngày sau, vào đêm nọ, Mã huynh đúng hẹn tổ chức đại lễ siêu độ cực lớn.

Trước tiên ông làm lễ triệu thỉnh các chúng sinh đến ứng cúng, sau gia trì pháp thực, cam lồ thủy để họ hưởng dụng tận tình, cuối cùng là cung thỉnh chư Thánh…

Mã huynh hướng dẫn các chúng sinh hiện có đồng chí thành niệm “Nam mô A Di Đà Phật!” và Cung thỉnh chư Phật, Bồ tát quang lâm, từ bi tiếp dẫn…

Theo như Mã huynh và những người có thiên nhãn đồng chứng kiến và tường thuật, thì tối đó Phật quang đại hiển, không trung tràn ngập những đóa sen hồng, Tây phương Tam Thánh và vô số Bồ tát đòng hiện thân đến, các chúng thiên nhân, quỷ, súc sinh… sở hữu, đều có mặt tại hiện trường, tùy theo thiện cãn và túc nghiệp bất đồng, mà hướng đi của họ cũng khác nhau.

Những vị đủ phúc thì vào được liên hoa, liên hoa liền bay lên, toàn bộ đồng theo Phật A Di Đà Vãng sinh Tây phương Cực Lạc thế Giới.

Còn những ai không vào được liên hoa, thì Bồ tát Quan Thế Âm hướng dẫn họ đầu sinh cõi thiện, đợi nhân duyên chín muồi, sau đó nghe pháp thực hành, tu đến giải thoát…

Đại lễ kéo dài bốn tiếng, các cõi chúng sinh đều được đại hoan hỉ, mỗi mỗi tự thác sinh vào chỗ của mình.

Người tham gia cũng tiêu trừ nghiệp chướng, pháp hỉ sung mãn, đối với Phật pháp càng sinh khởi tín tâm kiên định không gì sánh bằng.

Long Thọ ghi

17.

HẬU THÂN LÝ BẠCH

Ngày 28 tháng 9, nữ sĩ Hàng Minh, nhà thôi miên trứ danh từ New York đến Los Angeles để thuyết giảng, có mời tôi tham dự, tôi nghĩ đây là hoạt động ý nghĩa, liền nhận lời đến phụ diễn thuyết.

Chuyện thôi miên, tiền kiếp hậu kiếp… có lẽ bạn vừa nghe qua cảm thấy rất khó tin?

Đây là việc bình thường, bởi vì hồi xưa tôi cũng vậy!

Thế nên bây giờ khi nghe kể những câu chuyện mang đầy tính chất mơ hồ xa xôi này, mà nếu bạn bực bội không kiềm được, muốn mắng tôi mấy câu, thì cứ việc, còn như muốn cầm dao (thì xin hãy lưu tình), vì khi bạn muốn thể hiện sự bất mãn hay muốn trút cơn giận đang bộc phát thì tôi không thể phản đối, bởi chính tôi lần đầu tiếp xúc với thôi miên quả thật cũng rất khó mà tin, nên tôi thông cảm cho sự bát bình của tát cả…

Trải qua kinh nghiệm thôi miên rồi, tôi nhận ra thiên hạ vốn một nhà và xúc động làm bài thơ:

Trải qua bao kiếp luân hồi

Tử sinh sinh tử nhiều đời đến nay

Đã làm vương tướng quyền đầy

Từng vì cứu nước phơi thây chiến trường

Mẹ cha huynh đệ khắp phương

Cháu con tiếp nối… chưa ngưng bao giờ!

Nhìn quanh… phất hiện: Một nhà!

Luân hồi nhiều kiếp, ruột rà hóa xa

Ngẫm ra: Người cũng như ta!

Từng là quyến thuộc, nên hòa với nhau

Dù cho da có khác màu…

Cũng đồng máu đỏ, tình thâm cao vời

Sống cần bác ái với đời

Yêu thương trải khắp… ban vui, xóa buồn!

Sau khi tôi tiếp nhận thôi miên, tận mắt chứng kiến bao cuộc luân hồi chuyền thế của mình rồi, thì quan niệm của tôi đã thay đổi hẳn.

Hồi xưa, tôi là người theo chủ nghĩa duy vật, đâu dễ dàng tán đồng, chịu đi tuyên dương thuyết chuyển thế luân hồi?

Nguyên nhân bắt nguồn từ đây:

Cô em “Từ trên trời rơi xuống”

Tháng 9 năm 2006, một chiều nọ, tôi bỗng nhận được một cuộc điện thoại bên Đài Loan gọi qua, là của một nữ sĩ xa lạ chẳng hề quen, nhưng cùng trò chuyện với nhau rất lâu, rất nhiều.

Mới đầu, tôi ngạc nhiên hỏi:

-Tại sao cô biết tôi?

Cô nói cô thấy tôi trên Facebook.

Sau đó cô thường gọi điện, gởi bưu phẩm, tôi cũng lịch sự đáp lễ.

Có lần cô nói:

– Ông chắc chắn là người anh tiền kiếp của tôi!

Mới đầu tôi hoàn toàn chẳng tin, để thuyết phục, cô kể ra câu chuyện ly kỳ của mình và tặng tôi hai cuốn sách nói về kiếp trước đời này của các nhà thôi miên trứ danh Đài Loan.

Cô tên Tiết Noãn Thù (Noãn Thù: Có nghĩa ấm áp tốt đẹp), từng qua Mỹ du học 8 năm, sau khi thành tài thì về Đài Loan.

Tình cờ khi em trai cho cô xem phim “Thái Bình Thiên Quốc” thì không hiểu sao cô bật khóc thống thiết, lệ tuôn như mưa…

Người nhà cảm thấy kinh ngạc nên không cho cô xem nữa, nhưng cô nhất định đòi xem, vừa coi vừa khóc mùi mẫn, còn khi xem các tiết mục khác thì cô tỉnh bơ, tỏ ra rất bình thường.

Gia đình cảm thấy quá lạ lùng, bèn dẫn cô đi khám thần kinh, nhưng bác sĩ nói cô tất cả đều ổn.

Cuối cùng, người thân nhớ đến thầy thôi miên, bèn dẫn cô tới một nhà thôi miên trứ danh, sau khi tiến hành thôi miên cho cô liên tục nhiều lần, thì kết quả đã khiến cô ngây người sửng sốt: Té ra, kiếp trước cô là muội muội của Thái Bình Thiên Vương Hồng Tú Toàn.

Trong kiếp đó cô tên là Hồng Tuyên Kiều, làm nữ tướng thống lĩnh nữ binh.

Trong cơn thôi miên, cô cũng nhìn thấy các thân nhân bằng hữu khác như: Thiên vương Hồng Tú Toàn, Càn vương Hồng Nhân Can, Đông vương Dương Tú Thanh v.v…

Mới đầu, cô đối với kết quả thôi miên cũng bán tín bán nghi, vì muốn thấu triệt, cô buông bỏ viện thiết kế thời trang và tiệm bán hàng đồ Nhật đang rất ăn khách của mình, để chuyên tâm học tập nghiên cứu thôi miên, và lấy được bằng thôi miên.

Thông qua nhiều lần thôi miên, cô tiến một bước xa, thấu triệt tiền thế của mình và chắc chắn rằng đời trước mình chính là Hồng Tuyên Kiều.

Trải qua một thời gian dài liên lạc, chúng tôi trở nên thân thiết.

Vì muốn tôi biết rõ tiền thế của mình, cô gác lại bao việc bận rộn, bay từ Đài Loan đến Mỹ, ở tại Los Angeles ba ngày, hỗ trợ tôi tiến hành cuộc thôi miên chuyên môn.

Cô dùng kỹ thuật thôi miên siêu cấp của mình, hướng dẫn tôi viễn du vào cõi tâm linh, lúc đến triều Hán, khi về triều Đường và đến Thái Bình Thiên Quốc, rồi về thời Dân quốc…

đối với những người có liên quan tôi, cô còn cho tiến hành cuộc thôi miên giao thoa.

Suốt ba ngày viễn du vào cõi tâm linh đã khiến thế giới quan của tôi thay đổi triệt để.

Đầu tháng 7 năm nay, đảng Xã Hội ở Âu châu sang phỏng vấn và mời chúng tôi đến Hương Cảng dự hội tọa đàm, đoàn chúng tôi gồm đại diện các hội viên, đồng bay đến Hương Cảng.

Tiết nữ sĩ hay tin cũng đến Hương Cảng thôi miên cho chúng tôi và đối với những người có liên quan cũng tổ chức tiến hành giao thoa thôi miên.

Thông qua tôi và các giao thoa thôi miên của cô, chúng tôi đồng xác định, tiền thế cô là Hồng Tuyên Kiều, còn tôi là Càn vương Hồng Nhân Can, thời này chúng tôi là anh em họ, còn vào thời Tây Hán trước đó, thì hai chúng tôi từng là phu thê, tôi là vua tiểu quốc Tây vực còn cô là vương phi Xương Cát (Changji).

Thông qua mấy lần thôi miên, tôi nhìn thấu sâu xa và hiểu: Có tiền thế, hậu thế, thuộc quá khứ, vị lai… của bản thân mình và người, có tiều sự gia đình và đại sự quốc gia…

Phải nói là mọi việc khiến tôi kinh ngạc đến ngần ngơ sửng sốt.

Mới đầu, tôi không tiết lộ, vì hồi nhỏ, ông ngoại tôi từng nói: “Thiên cơ bất khả lậu”, cho nên tôi đã thủ khẩu như bình suốt một thời gian dài.

Thế nhưng, những gì nhìn thấy và biết rõ trong các cuộc thôi miên đã khai sáng cho tôi rất nhiều, sự khai mở quan trọng nhắt là tôi đã nhận ra: Thiên hạ vốn một nhà, mọi người đều có quan hệ thâm tình liên quan nhau, thế nên phải thương yêu và không được tương tranh, tương đấu, tương hại, tương… lừa như hiện tại.

Nhưng khi tôi nói ra thuyết này, có mấy ai chịu tin?

Xem khắp thế nhân, vì không rõ tiền thế mình, cũng không rõ luân hồi chuyển thế của người, nên đã hành xử giống như kè mù, họ không ngần ngại hại người, mà cũng không biết làm vậy chẳng khác nào hại mình, điều này khiến tôi rất nóng ruột, xót xa.

Do vậy mà lắm lúc, tôi muốn đem những chuyện mình thấy trong cơn thôi miên kể hết ra để cảnh tỉnh thế nhân, nhưng tôi lại sợ… nếu mình tiết lộ thiên cơ thì sẽ bị trừng tội và… bị yểu mệnh!

Tôi cũng sợ người sẽ mắng tôi điên, hoặc cho tôi là kẻ dối gạt…

Tôi cũng sợ nếu mình sơ hở tiết lậu mọi chuyện, có thể trong giây phút thiếu kiểm soát sẽ vô tình làm hại, hoặc thành hủy hoại hay làm ô danh lịch đại tiền thế của mình.

Tóm lại, tôi rất sợ… vì vậy mà tôi thường bị giằng co mâu thuẫn giữa tiết lộ và im lặng.

Nhưng gần đây, tôi nghĩ: “Mình nên nói ra một ít”…

Bởi vì, có những chuyện nói ra, sẽ giúp cảnh tỉnh thế nhân, khiến mọi người lưu tâm tích đức hành thiện, sống bác ái hòa bình… có tác dụng phi thường quan trọng.

Nếu vì vậy mà bản thân mình, phải bị trừng tội thì đành chấp nhận thôi.

Nặng lắm thì bất quá chỉ… chết một lần, mà hễ chết sớm thì chuyển thế sớm, vì đời người ai cũng một lần chết, đâu có ai thoát?

Thế nên dẫu có bị đoản mạng cũng không đáng sợ.

Chúa vì cứu thế, cam hi sinh thân bị treo trên thập tự giá, Bồ tát Địa Tạng Vương vì cứu chúng sinh, tình nguyện vào địa ngục, vậy thì tôi cũng chẳng nên bo bo ích kỷ, cố giữ thân mình quá mức…

Đương nhiên tôi nghĩ, có một số chuyện liên quan đến người và chuyện vị lai, thì tất nhiên tôi ít bàn sẽ tốt hơn.

Tôi không ngại chi, quan trọng là phải tránh mang phiền phức đến cho người.

Mặc dù có một số chuyện tiền thế bản thân trong lúc tôi được thôi miên đã có thu âm lại, mà nếu người nghe dễ tính không đòi bằng chứng chăng nữa, thì tôi cũng không muốn tiết lộ ra.

Trong cuộc thôi miên của tôi, đã có mười mấy tiền thế, cũng giúp khai thị cho tôi rất nhiều, thông qua đó tôi hiểu thấu nguyên nhân những vinh nhục trong các cuộc luân hồi sau này, xin chia sẻ cùng bạn mấy điểm:

1.

Thiên hạ một nhà

Như bản thân tôi tử sinh chuyển thế qua bao đời, mỗi đời đều có con cháu, mà mỗi đời tử tôn cũng đang chuyển thế.

Dòng dõi hậu đại lưu truyền sinh sôi đông nhiều, nối tiếp đến hiện tại, tính ra nhiều vô kề.

Giữa các hậu đại còn có thông gia, thông hôn, tạo thành thân thích, bằng hữu hiện diện khắp thiên hạ…

Vậy mới nói: Thiên hạ vốn một nhà.

Thế nên ta không thể hại người, lừa người, mà phải dùng thiện lương đối đãi trợ giúp nhau.

Bởi vì, bạn không hề biết: Người bạn hại hôm nay có thể quá khứ đã từng là thân nhân hay hậu duệ của bạn, cũng có thể là phụ mẫu, huynh đệ, phu thê, con cái bạn… trong một tiền kiếp nào đó.

Tôi nhận ra thiên hạ một nhà, nên sống cần phải bác ái với thế nhân, xin kể một tiền thế của tôi: Là Tướng quân Lý Quảng thời Tây Hán để làm bằng chứng:

Lý Quảng có rất nhiều con cháu nổi danh như: Con trai Lý Cảm, cháu Lý Lăng, hậu đại Lý Cảo; Lý Uyên, Lý Thế Dân (tức Đường Thái Tông) Lý Bạch… tính số con cháu sinh sôi đến hiện tại, ít nhất cũng hơn mấy trăm vạn.

Nếu tôi không cẩn thận, gây thương hại những người này, há chẳng phải là tôi đang làm hại hậu duệ của chính mình hay sao?

Còn nếu đem những hậu duệ chuyển thế của tôi mà tính thêm, thì con số sẽ rất nhiều, thật là tính không xuề, nói không chừng ngồi tại dưới tòa này cũng có hậu duệ một tiền kiếp nào đó của tôi nữa….

Chưa kể là trong chuỗi chuyển thế đó, đều có ông bà, cha mẹ, thê tử, con cái, và lịch đại ông bà, cha mẹ, phụ mẫu, thê tử, con cái đã chuyển thế đến hiện tại, có thể họ xa tận chân trời hoặc gần ngay trước mắt…

Tôi trong lúc thôi miên, đã nhìn ra những ông bà, cha mẹ, thê tử… các đời trước của mình, có người đến đời này tôi vẫn còn nhận ra, cũng có người do họ chẳng biết tôi, hay do bởi địa vị bị chênh lệch khác xa nhau quá, nên dẫu tôi có muốn nhận họ đi nữa, thì rất sợ đem đến bất tiện cho họ, nên tôi chỉ đành giữ im lặng, thầm cầu phúc cho họ âm thầm mà thôi.

2.

Nhân quả báo ứng

Trong lúc thôi miên, tôi nhìn thấy nhiều chuyện vận hành đúng theo nhân quả đến chấn động tâm tư.

Xin nêu hai chuyện:

Một: Mọi người đều biết Lý Quảng vì chống Hung nô xâm phạm, đã chém giết giặc nhiều, công trạng rất lớn, thế nhưng điều đáng tiếc nhất của ông là không được phong Hầu.

Sau khi ông chết rồi, thì chuyển sinh làm một vị quốc vương bên Tây Vực.

Lúc hơn ba mươi tuổi, giặc Hung nô qua xâm phạm và Nguyên soái Hung nô đã bị ông giết chết, trong lúc truy kích, ông bị đại đội Hung nô bao vây và cho xạ tiễn bốn bề, khiến chiến mã ông bị thương, ông liền xuống ngựa múa gươm gạt tiễn, cuối cùng sức lực cạn kiệt, bị trúng tên mà chết, bỏ lại vương phi xinh đẹp và đứa con trai mới 6 tuổi.

Xin hãy xem: Lý Quảng công lao đáng được phong Hầu mà không phong, thì qua đời sau, ông sinh làm quốc vương, tiếp tục hưởng vị trí đáng được phong Vương đó, đây chính là bù đắp cho thiệt thòi tiền thế.

Nhưng do Lý Quảng tạo ác nghiệp sát nặng: Bắn giết quá nhiều Hung nô, nên đời sau phải bị Hung nô bao vây xạ tiễn tới chết, trả lại nợ tiền thế, đây gọi là báo ứng nhân quả!

Thí dụ tiếp theo là Tào Tiết và Khương Duy.

Vào cuối thời Đông Hán tôi từng sinh làm hoạn quan Tào Tiết.

Lúc đó ngoại thích (bà con bên ngoại vua) là Đại tướng quân Đậu Hiến và Thừa tướng Trần Phiên, có ý muốn tiêu diệt hoạn quan Tào Tiết, Tào biết được vội ra tay giết chết Đậu Hiến và Trần Phiên.

Sau khi Tào Tiết chết rồi, thì sinh làm Khương Duy, là Thống soái nước Thục.

Khương Duy muốn quản chế hoạn quan Hoàng Hạo, nhưng nhiều lần bị Hoàng Hạo quấy phá.

Kết quả: Khương nếm đủ mùi thống khổ, thất bại đến vong thân.

Đây gọi là báo ứng.

Bởi vì lúc làm hoạn hoan tôi đã giết Đại tướng quân, nên khỉ tôi làm Đại tướng quân, thì bị hoạn quan giết lại, xem ra rất công bình!

3.

Chớ giết người

Trong lúc thôi miên, tôi đã thấy và nhận ra tên đao phủ giết chết Hồng Nhân Can (là tôi trong tiền kiếp), qua đời này, y rất thân với tôi.

Mặc dù về lý trí tôi rất muốn tha thứ cho y, nhưng theo bản năng tự phát, tận đáy lòng tôi đối với y lại vô cùng không ưa!

Tôi cũng nhìn thấy người bị tôi giết chết trong đời trước.

Như Khương Duy chết rồi tái sinh làm tướng quân triều Tấn.

Tại chiến trường, ông dùng trường thương đâm chết vị Nguyên soái của giặc.

Vị tướng giặc này trong lúc thôi miên tôi chưa nhận ra, chỉ có cảm giác là: Hình như mình có quen biết y.

Một lần nọ, tôi cùng một người bạn ngồi trò chuyện, đang lúc cao hứng, anh bạn đột nhiên trợn mắt nhìn tôi giải thích, lúc đó tôi kinh ngạc đến ngây người, vì đã nhận ra: Đây há chằng phải là vị Nguyên soái từng bị tôi giết chết vào triều Tấn hay sao?

Có khác chăng là, ông tướng kia có hàm râu quai nón to rậm, còn anh bạn tôi hiện thời râu cạo sạch sẽ… nhưng đôi mắt ấy của anh, chính là tia nhìn của vị tướng địch thuở xưa.

Từ đó về sau, mỗi lần nghĩ đến anh bạn này, trong lòng tôi rất buồn rầu, tự cảm thấy mình quá có lỗi với anh ta.

Qua đây tôi rút ra một điều: Bất kể gặp sự tình gì, đều không nên giết người.

Bởi chết rồi không phải là kết thúc, vì hồn linh vẫn tồn tại và tiếp tục chuyển thế, tất nhiên kẻ bị hại sẽ tìm bạn tính sổ, điều này rất đáng sợ.

Một đời này của tôi, từ nhỏ đã nếm rất nhiều đau khổ, tôi nghĩ: Đây là do trong các đời trước tôi đã sát sinh quá nhiều, nên luôn bị ác báo.

Chẳng hạn như: Khi tôi sinh làm Lý Quảng, Tào Tiết, Khương Duy, Đại tướng quân Từ Đạt khai quốc Minh triều, Thừa tướng Trương Cư Chánh nhà Minh, làm Càn vương Hồng Nhân Can, làm Ngọc soái Ngô Bộ Phù thời Dân quốc… tôi đều đã giết rất nhiều người, vì vậy mà đời này phải thọ khổ liên miên.

Phật giáo giảng có luân hồi, khuyên người quảng kết thiện duyên, là rất đúng.

Cơ đốc giáo tin linh hồn vĩnh sinh, khuyên người thương yêu nhau, cũng rất đúng.

Những tín ngưỡng khác cũng vậy, chỉ cần khuyên người hướng thiện đều là chính xác.

Quá trình chuyển thế luân hồi bao đời của tôi đã chứng minh, nhục thể có thề thay tới đổi lui, nhưng hồn phách luôn vĩnh sinh trong bao cuộc luân hồi chuyển thế, tôi rất muốn đem chuyện mình đã thấy biết, chia sẻ… hi vọng mọi người thu được lợi ích dứt ác, hành thiện.

Những chuyện thú vị tôi đã chứng kiến:

Trong lúc thôi miên, tôi nhìn thấy rất nhiều chuyện thú vị, xin kể ra vài chuyện, góp vui cho mọi người.

Đương nhiên là để chúng ta cười chút cho vui thôi, chứ chẳng nên chấp chặt vào đó các bạn nhé.

Tôi thấy giữa Lý Bạch và Dương Quý Phi rất trong sáng, họ không có lên giường như vài vị biên sử đơm đặt.

Có điều Dương Quý Phi là một nữ nhân cao lớn đầy đặn, dung mạo bà không “kiều mỵ tuyệt trần” giống như trong sử mô tả đâu nhé.

So với cung nữ bình thường thì bà cao hơn họ cái đầu, nhìn giống như… con hạc giữa bầy gà.

Bà rất kính phục Lý Bạch và giữa hai người tuyệt không hề có quan hệ tình dục như trong các sách thêu dệt ghi kể.

Do Tiết muội đã từng đọc qua các sách này, nên trong lúc thôi miên cho tôi, vừa nghe tôi xưng mình là Lý Bạch, thì cô ấy muốn kiểm chứng ngay những gì từng đọc qua, nên đã chất vấn tôi:

-Anh thấy Dương Quý Phi chăng?

– Thấy rất rõ!

– Bà ấy có thích anh không?

– Thích!

Bà ấy đối với tôi rất tôn kính.

– Thế… anh có thích bà ấy chăng?

– Thích, nhưng không biểu lộ ra.

– Giữa hai người có quan hệ gì đặc biệt chăng?

– Không có, mỗi lần bà đến gặp tôi, đều dẫn theo hai cung nữ, giữa tôi và bà rất trong sạch!

Tôi còn nhìn thấy thê tử hiện đời của mình, vào thời Thái Bình Thiên Quốc nàng cũng là vợ Hồng Nhân Can (tiền thân tôi).

Ngay lúc tôi lâm vào cảnh binh bại, nàng đã đập đầu vào tường tự sát, con trai chúng tôi lúc đó chưa đầy tuổi, cũng được cung nữ ẳm đi nhảy giếng tự tử.

Trong lúc thôi miên, tôi nhìn thấy thảm cảnh vợ mình đập đầu vào tường chết, khi đó thân tôi tuy đang nằm trên giường, mắt nhắm nghiền nhưng tôi đã gào thét và khóc rất to…

Làm cho Tiết muội cũng bị cảm động khóc theo, không thể hỏi tôi tiếp tục, do tôi cứ khóc lớn không nín, khiến vợ tôi ngồi bên cạnh rất lo sợ, nàng sợ tôi khóc to quá sẽ làm kinh động, khiến cảnh sát tìm tới… may mà Tiết muội đã kịp tỉnh và tiếp tục truy hỏi lái sang hướng khác, nhờ vậy tôi mới ngừng khóc.

Tỉnh dậy rồi, tôi và Tiết muội giải thích lý do vì sao tôi khóc cho vợ tôi nghe, nàng rất cảm động.

Từ đó, quan hệ giữa chúng tôi càng tốt hơn xưa.

Lúc mới trải qua quá trình thôi miên, tôi cảm thấy rất kỳ quái.

Suốt một thời gian dài tôi bị ám ảnh đến không muốn làm gì.

Có lúc, tôi rất muốn đến các chỗ trải qua nhiều đời sinh tử của mình để thám thính, cũng rất muốn biết các đời hậu duệ của mình bao gồm cả thê tử, cha mẹ, huynh đệ…

Tôi cũng rất muốn liên lạc họ, nhưng lại ngại.

Trong thời gian dài bị mâu thuẫn dằng co, gần đây tôi đã ổn định lại, vì tôi đã minh bạch: Tiền thế là tiền thế, đời nay là đời nay, vậy thôi.

Biết quá khứ là để rút kinh nghiệm mà sống tốt hơn cho kiếp hiện tại, chứ không phải để ôm phiền không đâu vì nó.

Nếu như các sử học gia đối với các tiền thế của tôi cảm thấy hứng thú, thì tôi có thể phối hợp cùng họ, mô tả tỉ mỉ các đời.

Tôi đã nhìn thấy vương cung nơi tiểu quốc Tây Vực, mái tròn đỉnh bằng, có nhiều cột trụ rất độc đáo.

Tôi chưa từng nhìn qua ngôi kiến trúc nào tuyệt mỹ như vậy.

Tôi còn nhìn thấy rất nhiều chi tiết tuyệt vời mà trong sử không ghi.

Có rất nhiều điều cực kỳ giá trị.

Tôi muốn đem tất cả viết ra thành sách, tiếc là không có thời gian, thôi để sau vậy.

Nếu có ai hoài nghi tính trung thực tôi kể, tôi tình nguyện tiếp nhận chính quyền kiềm nghiệm, đo lường, giám định… mức độ hoang ngôn, nếu như tôi nói dối, xin chấp nhận bị trừng phạt.

Rất mong những gì tôi kể ra sẽ đem lại ích lợi cho bạn đọc.

Lưu Nhân Toàn

18.

NHẤT KIẾN CHUNG TÌNH

Bất kỳ chuyện gì cũng có nhân quả, thỉ như khi ta khởi niệm yêu thương, xét ra giữa phu thê và huynh đệ, đều không giống nhau.

Chẳng hạn như người vừa mới gặp, trong tiền kiếp họ vốn là phu thê hay người yêu từng đã có tình sâu, đời trước từng hẹn thề phát nguyện: cầu được mãi mãi bên nhau… thì đời này có thể sẽ cùng tiếp nối tiền duyên.

Còn nếu đời trước hai bên chỉ là huynh đệ tỷ muội, khi gặp lại cũng có cảm giác vừa nhìn đã thương, nhưng vì không có duyên phu thê nên sẽ không đi đến hôn nhân.

Bài văn này do A Minh tự thuật kinh nghiệm “nhất kiến chung tình” đã xảy ra với một phụ nữ Tạng, nguyên văn như sau:

Lần đầu khi tôi đến chùa của Thượng sư (ở Tây Tạng), do hằng ngày bận học, nên tôi tiếp xúc toàn tu sĩ Tạng, không có liên hệ với người dân.

Ba năm sau, tôi buông bỏ công tác chuyên môn nơi đất Hán, tìm đến tự viện Tạng, xin y chỉ Thượng sư là bậc tu trì đại viên mãn.

Hai vị Thượng sư đều rất vui, mặc dù tôi không phải là người xuất gia, nhưng các Ngài vẫn ưu tiên cho phép tôi vào ở trong Bế quan viện (nơi cư ngụ của các Tăng sĩ Tạng) ở cùng ích Tây, sau do tôi muốn học Tạng ngữ, nên các ngài đồng ý cho tôi được ra khỏi Bế quan viện mà không cần xin phép.

Mới đầu tôi định tìm một thầy giáo ở ngoài, do trong Viện phiên dịch quá bận, sau đó tôi được học với vị Kham bố của tự viện (là Tăng quan ở Tây Tạng), nhưng chẳng bao lâu vì sức khỏe kém nên ông đến đất Hán trị bệnh và đă giới thiệu một Tăng sĩ Tạng khác kèm cho tôi.

Vị Tăng sĩ này tên Tam Đan, là cháu trai ngài Phật sống Kiệt Tôn, cha thầy là anh ruột ngài Phật sống.

Nhà thầy có sáu trai hai gái, trong sáu trai đã xuất gia hết năm người, nhưng trừ thầy ra thảy đều hoàn tục, còn hai cô gái thì một vị đã đi lấy chồng, còn một cô là em út hiện đang sống chung với ba mẹ.

Tôi và Tam Đan, một học Hán ngữ, một học Tạng ngữ, cùng giúp nhau trau giồi, do chúng tôi rất chăm chỉ chịu khó nên đều tiến bộ rất nhanh.

Do ở Bế quan viện ẩm thực rất tệ nên Tam Đan thường làm thức ngon cho tôi dùng.

Chẳng bao lâu thì mùa đông đến.

Một tối nọ tôi thấy Tam Đan và cháu ngoại đang thu xếp hành lý, tôi liền hỏi thăm, thầy đáp:

Theo lịch Tạng thì năm mới sắp đến, nhà chúng tôi ngày mai thỉnh chư tăng đến tụng kinh mấy ngày cầu tiêu trừ chướng ngại, chúc năm mới cát tường như ý…Thầy còn ân cần mời tôi nhất định phải tới nhà thầy, vì ngày mai có tiệc rát ngon.

Hôm sau, tôi vẫn chưa đến nhà thầy, có hai điều khiến tôi ngại: Một là sợ Tam Đan bận rộn, tôi không muốn làm phiền.

Hai là lòng tôi có chút xấu hổ, tới nhà thầy thế này khác nào mình tới kiếm ăn?

Vả lại, tôi có thói quen ít khi tụ tập chung vui với người lạ.

Hôm sau nữa tôi cũng không đi.

Khi mặt trời sắp lặn, cháu ngoại Tam Đan tìm tới, tha thiết mời tôi đến nhà họ dùng cơm, tôi không đi thì cháu cứ kéo lôi mãi, vì vậy tôi đành đi đến chỗ họ.

Vừa bước vào cửa, tôi thấy Tam Đan cùng các Tăng sĩ khác đang cùng nhau ăn uống chuyện trò.

Vừa thấy tôi sư liền mời tôi ngồi cạnh.

Tôi từ chối mãi không được bèn ngồi xuống nền đất cạnh thầy (theo phong tục đương địa thì người tại gia không được ngồi ngang hàng với người xuất gia).

Cháu ngoại Tam Đan vội mang đến cho tôi một bát ê hề thức ăn, lúc này Tam Đan giới thiệu tôi cùng với mọi người, rất nhiều tu sĩ khen tôi có lòng thành đến Tạng cầu pháp, công đức rất lớn (mặc dù khi họ nói tôi nghe không hiểu, nhưng vẫn có thề đoán sơ đại ý) tôi nghe họ khen chỉ biết lễ phép cúi đầu, mặt và tai nóng bừng vì xấu hổ.

Mấy tiếng đồng hồ sau, các tu sĩ dần dần rời đi.

Tam Đan bèn dẫn hết người thân: Bao gồm cha mẹ, chị, em…

đang làm việc trong bếp… ra giới thiệu với tôi.

Lúc tôi vừa nhìn thấy em gái út Tam Đan, thì bỗng có cảm giác kỳ lạ như có luồng điện chạy qua, điều này bao năm rồi chưa từng có, lúc đó tôi hơi mất tự chủ, khiến tách trà đang cầm trên tay rơi xuống…

đồng thời tôi phát hiện: Mắt cô út kia cũng lộ vẻ kinh ngạc và rực sáng, hình như cô cũng có cảm giác giống hệt như tôi.

Sau đó tôi được biết cô tên Bát muội (tôi dùng hóa danh), chưa đến hai mươi tuổi, là con gái út trong nhà.

Do người Tạng mùa hạ sống đời du mục còn mùa đông thì về ở cố định một nơi, vì vậy trong tự viện muốn tổ chức các buổi giảng kinh hay pháp sự trọng đại thì đều tiến hành vào mùa đông.

Vào mùa đông Bát Muội cũng thường đến chùa để tụng kinh, Tam Đan kể Bát Muội sức khỏe kém, nên nhờ tôi mua giúp em vài thang thuốc (do người Tạng không biết chữ Hán, nên thường bị gạt, hay mua nhầm thuốc giả).

Tôi liền nhắn gia đình gởi thuốc đến, nào dè Bát Muội sau khi uống xong, sức khỏe dần hồi phục, do vậy cô rất cảm kích tôi, thường dốc sức giúp tôi vài chuyện nhỏ, rất cần và tiện lợi cho chúng tôi.

Mỗi lần tôi và Tam Đan học tập, cô thường đứng ở ngoài phòng lắng nghe, (phụ nữ Tạng nếu không có chuyện đặc biệt thì không được phép tùy tiện vào phòng các Tăng sĩ).

Có lúc cô đem trà sữa cho chúng tôi, khi thì thúc chúng tôi ăn cơm, hơn nữa mọi phương diện cô đối với tôi đều lộ vẻ ưu ái, chăm lo dặc biệt.

Tôi rất mong Tam Đan nhận ra điểm này để ngăn lại bớt, nhưng có lẽ người Tạng không có khái niệm gì về mấy cái chuyện này trong đầu, nên mãi đến sau khi Bát Muội vu quy rồi, thì mọi việc mới kết thúc.

Đối với Bát Muội tôi luôn có cảm giác mình khống chế tình cảm rất khỏ.

Thí như lúc tham gia pháp hội, dù ở giữa đám đông, tôi vẫn không kiềm được, cứ dõi nhìn về hướng Bát Muội (cho dù rất khó trông rõ cô) hơn nữa trong lòng tôi cũng khởi lên một cảm giác như có luồng điện chạy qua mỗi khi tình cờ chạm phải mắt cô.

Lúc đó tôi biết rất rõ, chuyện tình cảm giữa tôi và cô hoàn toàn không có hi vọng, chẳng nói đến rào cản ngôn ngữ, tập quán, sinh hoạt, thói quen hay nếp sống không phù hợp, mà do mục đích tôi đến Tạng là để học Phật, nếu tôi để xảy ra chuyện, thì khác nào đã làm trái với chí nguyện tu học của mình?

Vì vậy, tôi một bề không muốn có gì vương vấn tâm tư, nhưng mãi đến ngày giã biệt nhau tôi mới hiểu tỏ tường nguyên nhân khởi niệm ái sâu đậm này.

Qua Tết Âm lịch Tạng, hai vị Thượng sư mời tôi theo họ về đất Hán phóng sinh.

Trước khi đi, tôi tới nhà Tam Đan từ biệt.

Bát muội cũng đang ở đó, thế là hai anh em họ đồng tiễn tôi và Thượng sư lên xe.

Tôi nhìn thấy rõ Bát muội rất buồn, cứ nhìn chăm chăm vào tôi, bản thân tôi cũng không kiềm được, cứ nhìn cô mãi…

Ngay lúc xe chúng tôi khởi động, mắt Bát muội bỗng rưng rưng đôi giòng lệ, còn tôi thì nghe mũi mình cay cay, rồi nước mắt cũng trào ra… nhưng tôi ráng kiềm chế.

Trong lúc này tôi đột nhiên nhớ lại lời tiên tri của một vị Sư Tạng và bỗng nhận ra: Bát muội chính là em gái tiền kiếp của tôi.

Khi hiểu rõ điều này thì tâm tôi liền an định và vô cùng hoan hỉ.

Chuyện luân hồi thật quá kỳ diệu: Ngay khi cố nhân thình lình hiện ra trước mắt, bạn sẽ mất tự chù và tâm tư bị chấn động!

Sau đó Bát muội được gả cho người thuộc một bộ tộc khác và tôi rất ít gặp cô.

Có một lần vào Tết âm lịch, vợ chồng cô dẫn con gái đến chùa, con bé trông khả ái, rất giống mẹ.

Nhìn thấy cả gia đình cô hạnh phúc, tôi cũng vui lây, tự nhủ thầm: “Em gái của tôi ơi, tôi cầu mong em dược mãi mãi hạnh phúc!”…

Muội muội tiền kiếp tôi đã gặp rồi, thế thì ca ca tiền kiếp của tôi đang ở đâu?

Tôi cũng đã nhận ra: Tam Đan chính là ca ca tiền kiếp của tôi.

A Minh-25/07/2009

19.

SIÊU ĐỘ ÔNG NGOẠI

Năm 2011 là thời điểm cuộc sống của tôi cực kỳ xuống dốc, sức khỏe cũng không tốt.

Vì vậy tôi bèn lên mạng tra tìm phương pháp thay đổi mệnh vận, thì tình cờ gặp trang web “Chuyên tu kinh Địa Tạng”…

Trưởng đoàn biết tôi là kẻ sơ cơ mới nghiên cứu giáo lý Phật, chưa có kinh sách gì, bèn gởi tặng tôi: Kinh Địa Tạng, kinh Kim Cang, kinh Dược Sư và một số sách nhân quả, thiện thư…

Tôi là sinh viên đại học, đã nhiều năm hấp thụ nền giáo dục hướng theo chủ nghĩa duy vật, thế nên vừa đọc vài trang kinh Địa Tạng, thì đã cảm thấy nội dung trong đó giống như chuyện thần thoại hoang đường, nên không thèm đọc nữa.

Đây là lần đầu tôi tiếp xúc sơ qua với Phật giáo.

Tiết Thanh minh năm nọ, tôi không về nhà bà ngoại để tảo mộ cho ông ngoại.

Mấy ngày sau, tôi mộng thấy ông ngoại, trông ông có vẻ suy sụp và đang ở một vùng tối tăm, ông tuyệt vọng hỏi tôi: Vì sao lâu rồi cháu không đến thăm ông?

Thức dậy, tôi rất buồn.

Thời điểm tôi chào đời, bà nội lần đầu gặp, vừa nhận ra tôi là con gái, thì kể từ đó về sau bà chẳng thèm lý đến tôi nữa, mẹ tôi do vậy cũng nếm đủ mùi lạnh nhạt rẻ rúng từ bên chồng.

Do đó mẹ cứ băn khoăn với ý nghĩ: Liệu có nên đem tôi cho nhà khác nuôi hay không?

Ông ngoại tôi biết được, bèn khuyên răn mẹ tôi, sau đó bà đem tôi về nhà cho ông bà ngoại nuôi dưỡng.

Nhờ vậy mà tôi thoát cảnh bị đem cho nhà người, nên tôi rất mang ân ông ngoại.

Tôi ở nhà ngoại được một năm, thì ông ngoại tạ thế.

Lần này đột nhiên mơ thấy ông ngoại, tôi cảm thấy rất bất ngờ và buồn.

Hai ngày sau tôi xin nghỉ phép về thăm bà ngoại, kể cho bà nghe chuyện nằm mơ…

Tại quê tôi có một thuyết là: Nếu mộng thấy người quá cố, thì vận khí sẽ không may, nên bà ngoại lo lắng bảo tôi mua mấy kí thịt heo đem về cúng tế ông ngoại (bây giờ nhớ lại, thấy lúc đó sao mà mình ngu si quá cỡ!)…

Do cậu tôi gần 40 tuổi mà chưa cưới được vợ, nên điều này trở thành nỗi lo day dứt của bà ngoại và các chị em cậu.

Vì vậy mà hễ nghe đồn ở đâu có thầy bà nào linh, thì họ vội đến hỏi về tương lai hôn sự của cậu.

Có lần dì tôi hỏi một bà thầy:

– Tại sao ông ngoại chẳng chịu chúc phúc cho con trai?

Bà này xem một hồi thì nói: ông ngoại cô hiện đang ở một nơi tối tăm không có ánh mặt trời, xung quanh toàn là nước, lại bị hai con mãng xà quản thúc, bản thân ông còn khó bảo trọng, nói gì đến chuyện giúp người thân?

Thế là các dì tôi bèn thỉnh bà thầy làm phép: Cho giết một con gà, một con vịt, một con dê để cúng tế ông ngoại.

Bây giờ nhớ lại tôi càng đau lòng, vì hồi đó ngu si không hiểu Phật pháp, nên cứ tưởng làm vậy là giúp ông ngoại, nào ngờ càng hại ông khổ thêm.

Bởi trong kinh Địa Tạng có nói: Người thân sát sinh giết hại để cúng tế cho người mất, tuyệt không có công đức gì, không có lợi gì cho người mất, mà càng làm tăng thêm tội nặng cho mình và người mất…

Tôi hồi đó liên tục chìm trong mê muội, tiếp theo còn làm thử rất nhiều phương pháp, mà vẫn thấy mệnh vận cứ xui xẻo.

Cho đến cuối năm 2012 tôi tình cờ gia nhập đoàn “Tâm Thượng Liên Hoa”, sau khi học Phật, mới bắt đầu hiểu ra.

Lúc đó tôi chỉ nghĩ học Phật là phép thử cuối cùng, xem như mình vớ được cọng rơm cứu mạng vậy thôi.

Thế nên hễ nghe các pháp hữu nói có pháp môn nào tốt, thì tôi liền tìm đọc và tu theo pháp đó.

Năm 2013, nghe tin Sư tỷ Bất Ngữ đến chùa Đông Lâm làm công quả, tôi liền nhờ chị làm giúp mấy Linh vị cầu siêu.

Do lúc đó tôi chẳng biết tên ông ngoại, mà cũng không dám về nhà hỏi, sợ gia đình biết tôi học Phật thì sẽ cười chê, nên trên bài vị tôi chỉ ghi là “ông ngoại của Trần Minh Anh”…

Sau khi học Phật, hiểu biết chút ít, nghĩ tới lời bà thầy nói ngày xưa, tôi rất đau lòng cho ông ngoại.

Vì vậy mà bất kể tụng kinh, chú… hay làm việc phúc thiện gì, tôi đều hồi hướng hết cho ông ngoại.

Lúc đó tuy tôi chẳng biết tên ông nhưng tôi nghĩ: Chư Phật, Bồ tát từ bi ắt sẽ biết hết, nên ông ngoại tôi chắc chắn là sẽ được lợi ích.

Tiết Thanh minh năm 2014, đoàn Liên Hoa tổ chức pháp hội: Tụng bảy bộ kinh Địa Tạng để cầu siêu cho tổ tiên.

Tôi vốn là người có tính nôn nóng, thuở giờ luôn cảm thấy kinh Địa Tạng quá dài, ít khi chịu tụng.

Nhưng nghe mọi người nói: Kinh này có công năng siêu độ thân nhân đã mất rất hay, nên cũng chịu khó theo đoàn trì tụng bảy bộ.

Lúc đó Liễu sư tỷ nói: Nếu ở trước mộ cúng tế thức chay đơn giản, tụng Thí thực và chú Vãng sinh thì có thể làm lợi ích nhiều cho người mất.

Vì vậy mà buổi tối trước tiết Thanh minh, tôi ráng học thuộc chú vãng sinh.

Sáng ra, lúc đi tảo mộ dâng lễ, tôi cúng Thí thực, trì chú Lục Tự Đại Minh và tụng bảy lần chú Vãng sinh hồi hướng cho ông ngoại và Cửu huyền thất tổ.

Vào khoảng tháng 5, một đêm nọ tôi mộng thấy ông ngoại, ông không nói gì với tôi, chỉ dùng bút sắt viết ra tên ông.

Sáng hôm sau, tôi về thăm bà ngoại, hỏi bà có phải ông ngoại tên là Tô Tuấn Ân… không?

Bà ngạc nhiên hỏi: Làm sao mà con biết được?

Lúc đó tôi rất xúc động, như vậy đúng thật là ông ngoại báo mộng cho tôi rồi.

Tôi lại hỏi:

– Có phải ông ngoại dáng người vừa tầm, cao khoảng một mét sáu lăm, xương gò má hơi cao, ưa mặc bộ đồ lãnh tụ màu xám tro, túi bên tả thường vắt một cây bút sắt, phải không?

Bà ngoại đáp: Đúng vậy!

Tôi vô cùng kinh ngạc.

Phải biết là, khi tôi một tuổi thì ông ngoại lìa đời, nên tôi hoàn toàn không rõ vóc dáng ông, nhưng hình ảnh này tôi thấy ông trong mộng, sau khi đem ra hỏi bà thì hoàn toàn phù hợp.

Lúc đó bà ngoại còn lẩm bẩm:

– Cái Ông già này, mắc chứng gì mà về quấy rối con nhỏ kia chứ?

Biết được tên ông ngoại rồi, tôi bèn nhờ chị Bất Ngữ và chị Tiểu Đào giúp tôi làm linh vị cho ông.

Lúc tôi đến Nam Sơn Tự tham dự Phật thất, cũng trịnh trọng làm bài vị Vãng sinh cho ông ngoại.

Suốt một năm này nhờ tôi tham dự đoàn Liên Hoa học Phật nên đã hiểu rất nhiều, dần dần đối với chú Đại Bỉ sinh khởi tín tâm, tôi bắt đầu trì tụng chú Đại Bi, vì nghe nói: Mỗi ngày trì 108 lần cộng thêm ba biến Tâm kinh, có thể siêu độ cho người mất rất vi diệu.

Từ đó về sau tôi chuyên trì chú Đại Bi và tụng Tâm kinh để hồi hướng cho ông ngoại.

Trong thời gian đó tôi còn bỏ ra mấy ngàn để phóng sinh, cúng thí thực cho ông.

Có lần còn ấn tống kinh Địa Tạng để cầu cho ông.

Tháng 10, tôi đi Nam Sơn Tự về rồi, thì lại mơ thấy ông ngoại, ông không còn vẻ buồn bã suy sụp như trước đây nữa, mà ăn mặc rất đẹp, trang nghiêm, dung nhan sáng rỡ, ông nhìn tôi mỉm cười sung sướng.

Từ đó về sau, tôi không còn mơ thấy ông ngoại nữa, tôi biết ông đã vãng sinh cõi lành rồi.

Trần Minh Anh

20.

NHỮNG LẦN TRIỀU SƠN CÙNG NGÀI HƯ VÂN

Lời người dịch:

Ngài Hư Vân là một vị thánh tăng ngôn hành cao khiết.

Cuộc đời ngài có rất nhiều điều thần bí, khi Ngài viếng núi Kê Túc thì chuông mõ tự ngân, lên chùa Cao Đảnh thì lan tiên tỏa hương thơm ngào ngạt, lúc giảng kinh thì cây khô sống lại, mai trổ sen, rau cải trong vườn trổ sen, thậm chí tất cả nến thắp trong đạo tràng cũng nở hình sen.

Cầu mưa được mưa, cầu tuyết được tuyết, toan tính gì đều có thần ngầm phò trợ: giúp dời đá, lấp sông…

Khi Ngài bắt buộc phải đốn cây cổ thụ thì cây đổ cũng lựa hướng bình an cho chùa.

Lúc Nhật nhắm vào chùa Ngài dội bom thì bom lại rơi xuống chỗ vắng, không thiệt mạng ai nhưng phi cơ Nhật tử nạn, vỡ nát.

Nhật sợ đến độ sau đó hễ có việc phải bay thì cũng đi đường vòng chứ không dám bay ngang chùa Ngài.

Con vật nào được Ngài quy y thì lập tức ăn chay, tánh hung dữ hiếu chiến bỗng chuyển thành hiền lành.

Bò cũng tìm đến Ngài cầu cứu, hổ cũng biết tìm Ngài cầu giới…

Thọ thần, Long vương đều hóa hiện thân người tìm tới xin thọ giới…

Thuở ban đầu, vào Năm 43 tuổi Ngài phát tâm triều lễ núi Ngũ Đài, ba bước lạy một lạy, lễ Đức Văn Thù suốt từ Nam đến Bắc để cầu báo ân cho mẹ, ngót ba năm mới đến nơi.

Điều đáng nói là giữa đường ngài bệnh nặng suýt chết, khiến Bồ tát Văn Thù “chịu hết nổi’phải xuống trần dưới thân phận gã ăn mày để cứu nguy, gánh đồ, nấu nướng, phụ việc cho Ngài…

Dưới đây là một giai thoại ly lỳ về việc triều sơn của ngài (lúc này có lẽ ngài gần trăm tuổi, do đệ tử ngài kể lại), mà tôi may mắn được đọc đến, xin chia sẻ phúc duyên này cùng độc giả:

NHỮNG LẦN TRIỀU SƠN CÙNG NGÀI HƯ VÂN

Hôm nọ, tại núi Nhạn Sí thuộc Xuyên Bắc, chúng tôi gặp một bầy khỉ, chẳng biết chúng phát thiện tâm hay có tính hiếu kỳ, mà có mấy con leo lên cây hái quả ném xuống, còn hướng về chúng tôi kêu chí chóe.

Khi chúng tôi tiến đến lượm trái cây, thì thấy một con khỉ rất to giống như khỉ chúa, vừa kêu vừa đưa tay ngoắc, ra dấu với chúng tôi.

Ngài Hư Vân giải thích:

Con xem, nó muốn chúng ta căng bao ra hứng đấy.

Chúng tôi vội mở bao ra, bầy khỉ ở trên cây liền hái quả ném xuống, chúng hái lựa toàn quả ngon.

Khi chúng tôi ăn trái cây, chúng ở trên cây nhìn xuống kêu vang, lộ vẻ rất vui sướng.

Hòa thượng Hư Vân nói: Thật dễ thương quá!

Nhưng chuyện này chưa phải là lạ, vì sau đó chúng tôi còn gặp mấy chuyện ly kỳ hơn, trong suốt hành trình đi cùng ngài Hư Vân.

Cầu bắc qua vực thẳm

Một ngày nọ, chúng tôi đang đi trên núi Vĩnh Phong thì bị lạc lối, cùng đường.

Vì phía trước là một vực thẳm rộng hơn mười mét, nhìn xuống sâu hun hút không thấy đáy, xem như không thể nào đi qua bờ đối diện bên kia.

Lúc này trời dần tối, hết cách xoay sở nên chúng tôi đành ngồi xuống tĩnh tọa, bắt đầu thời khóa tu, chuẩn bị qua đêm ở đây.

Ngay lúc đó một trận cuồng phong nổi lên, đến khi gió lặng, thì bỗng thấy bờ bên kia núi xuất hiện một con mảng xà khổng lồ, bề ngang gần nửa thước, miệng há to như cái chậu, Sư phụ bảo tôi:

– Thánh An, chúng ta có thể đi qua vực thẳm được rồi!

Lúc này tôi thấy con đại mãng xà, miệng há to, lưỡi lo le, mắt nhấp nháy, mắt đầu hướng về chúng tôi gật gật, tôi sợ rụng rời, khi nghĩ đến cảnh nó sẽ ăn thịt mình, tôi quay lại thưa với Sư phụ:

– Có phải ngài nói đùa với con không, có chắc là nó sẽ không ăn thịt chúng ta chứ?

Hòa thượng Hư Vân mỉm cười bảo:

– Đừng sợ, đó là Bồ tát sai nó đến giúp chúng ta!

Sư phụ thấy tôi vẫn còn sợ, ngài bảo tôi nhắm mắt lại và nắm tay tôi dắt đi, tôi hí mắt nhìn, thấy cảnh con đại mảng xà vươn đầu qua vực thẳm và nằm mọp giống như tư thế bắc cầu.

Hòa thượng Hư Vân bước qua trước, tôi cũng nối gót theo sau, có cảm giác như đạp trên chiếc cầu to có độ đàn hồi vậy.

Cuối cùng chúng tôi qua được bờ đối diện, lúc này mới phát hiện con mãng xà này dài quá sức tưởng, vì tôi không nhìn thấy đuôi nó nằm ở đâu.

Đi qua bờ xong rồi, thì Hòa thượng Hư Vân liền ngồi xuống, tụng kinh.

Một trận gió nổi lên, khi chúng tôi mở mắt ra thì không thấy mãng xà đâu nữa.

Tiếp tục đi khoảng chừng ngàn dặm (một cây số) thì đến một thôn, tên là Tây Tiêu Thôn, có tám mươi hộ dân sống trong đây, chúng tôi ngụ lại ba ngày.

Hơi ấm giữa rừng

Còn một lần nữa, khi chúng tôi đi vào vùng sơn lâm nguyên thủy, núi này có tên là Hổ Khâu Sơn…

Thì bỗng dưng khí trời thay đổi, gió bụi nổi lên mịt mù, trời càng lúc càng tối.

Nơi đây phía trước không có thôn làng, phía sau chẳng có quán xá.

Chỉ có tiếng gió vụt vù.

Một lát sau, mưa trút xuống ào ạt, băng đá rơi đầy, một hồi sau mới tạnh.

Cơn mưa lớn qua rồi, khắp nơi ẩm ướt, đường trơn trợt, trời mỗi lúc một tối, thế là chúng tôi đành trú ngụ tại đây.

Tôi đi lấy nước, kiếm ít củi để nhóm lửa nấu nước.

Do chúng tôi ai cũng mặc đơn sơ, lại bị một trận mưa to giáng xuống, nên toàn thân đều ướt và lạnh.

Tôi vừa nấu nước vừa thổi lửa, thì bỗng nghe có tiếng hổ rống to.

Chỉ nghe âm thanh chứ không nhìn thấy hổ.

Nhưng một tiếng rống cất lên lại được mấy tiếng rống khác hòa đáp, hưởng ứng theo, coi bộ không phải chỉ có một con hổ!

Sư phụ thấy mặt mày tôi biến sắc, liền nói:

– Lại nhát gan nữa rồi! số chúng ta chưa hết thì sẽ sống mà, nếu mạng tận thì mới làm thức ăn cho hổ.

Con hãy tới gần đây nương vào ta này, như vậy con sẽ không sợ nữa!

Do chúng tôi quá ngọ không ăn, giờ đành uống nước nóng lót dạ và ngồi tựa vào nhau.

Tôi khi đó còn nhỏ lắm, bởi đi đường quá mệt, nên chốc lát là ngủ say.

Đến nửa đêm, tôi cảm thấy càng lúc càng ấm, vừa mở mắt ra thì…

Ôi trời ơi!

Hiện có sáu con hổ bự đang vây quanh chúng tôi.

Đã vậy Hòa thượng Hư Vân còn đưa tay vuốt ve đầu con hổ chúa to nhất nữa chứ.

Lúc này đầu óc tôi thật sự hoang mang, vì không biết mình đang mơ hay là tỉnh?

Lẽ nào tôi đang nhìn thấy cảnh “Hổ phục La hán”?

Đã ba lần tôi định đứng dậy, nhưng Sư phụ đều ngăn lại không cho tôi đứng lên, ngài bảo tôi hãy mau niệm kinh, nhiếp tâm.

Được một lát, tôi lại thiếp đi.

Trời sáng, khi tôi thức dậy, Sư phụ cười bảo:

– Đêm qua con sợ lắm hả?

Là Sơn thần đến thăm đấy.

Đón và đưa

Ở Ngũ Đài Sơn có một câu châm ngôn: Bồ tát đối với người hữu duyên thì…

“Xa tiếp tám trăm, tiễn đến ngàn dặm” đương nhiên chung quanh Ngũ Đài Sơn khoảng tám trăm dặm không hề có thổ phỉ.

Hôm đó chúng tôi đang dừng nghỉ, đồng ngồi trò chuyện, Hòa thượng Hư Vân giải thích cho tôi hiểu các chuyện đã xảy ra.

Ngài nói: Khi đó chúng ta gặp không phải mãng xà đâu, mà chính là rồng.

Còn khi ở trên núi loài chúng ta gặp cũng không phải là hổ, mà là vương báo.

Con xem, khi lên gần đến Ngũ Đài Sơn thì sẽ có người tiếp chúng ta.

Hôm đó trời đầy sương, Sư phụ hơi bị choáng đầu, chúng tôi nghỉ một chút thì lại lên núi tiếp.

Đi tới lưng chừng núi, thì bỗng thấy phía trước sáng rực, giống như có ánh điện quang vậy, Hòa thượng Hư Vân liền bảo chúng tôi hãy mau mau quỳ xuống hành lễ.

Lúc này, thấy trên sườn núi xuất hiện Bồ tát Văn Thù, tay cầm phất trần phe phẩy, giống như muốn nói chi đó, cảnh tượng này kéo dài năm phút, quả thực là Bồ tát Văn Thù có hiện đón chúng tôi thiệt, điều này khiến chúng tôi mừng vui, toàn thân như được tăng thêm sức mạnh.

Cả ngày lội bộ ngót mấy cây số, bữa trưa không ăn mà giờ cũng không thấy đói.

Đến tối chúng tôi mới tới chùa Hạ Phong và ngụ lại đây hai ngày.

Sau đó khỉ chúng tôi ra về, rời khỏi Ngũ Đài chừng khoảng ba mươi dặm, thì thấy sườn núi bỗng dưng sáng rực ánh Phật quang, có một lão thái thái từ trên đi xuống, từ xa đã lên tiếng hỏi chúng tôi:

– Có mệt không?

Lúc này đang là mùa thu, bà lão lấy từ trong giỏ ra mấy trái hạnh to tặng cho bốn người chúng tôi.

Bà nói: Ăn trái thứ nhất thì không đói, ăn trái thứ hai thì không khát, ăn trái thứ ba thì hết mệt, ăn trái thứ tư thì toàn thân nhẹ nhàng tâm tình thư thái.

Tôi nhận quả hạnh xong, nhìn lại thì không thấy bà lão đâu nữa.

Lúc này chúng tôi mới hiểu ra: Đây nhất định là Bồ tát Quan Thế Âm đã giúp chúng tôi.

Bởi vì lúc đó là tiết thu, mùa thu thì làm sao có trái hạnh?

Nhưng trong tay chúng tôi rõ ràng đang có trái hạnh.

Trái hạnh này ăn xong rồi, đúng là mấy ngày không thấy khát, cũng chẳng thấy đói, tinh thần cực kỳ tốt.

Đây là những kỷ niệm hi hữu khó quên trong những lần chúng tôi triều sơn cùng Hòa thượng Hư Vân.

Thánh An
 
Back
Top Bottom