Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Bàn Về Một Nghìn Cách Cải Tạo Tra Nam

Bàn Về Một Nghìn Cách Cải Tạo Tra Nam
Chương 180



Tương truyền Tần Hoàng có chiếc gương, có thể soi thấy lòng người, thấu tỏ thế sự, sau dùng để ví quan lại công chính nghiêm minh, xử án như thần, gọi là "Minh Kính Cao Huyền."

Trong đại đường của phủ nha nơi nào cũng có, phía sau quan ỷ luôn treo một bức "Hải Thượng Triều Nhật," thể hiện sự ngay thẳng chính trực. Công Tôn Trác Ngọc mặc quan phục, ngồi trên cao đường, phía trên đầu chính là tấm biển có dòng chữ "Minh Kính Cao Huyền."

Đỗ Lăng Xuân và tri phủ đến để nghe xử án, y ngồi một bên, tri phủ ngồi bên còn lại. Một người đợi xem tình hình, một người đợi bắt lấy nhược điểm, bên ngoài dân chúng còn bao vây chật kín, dõi cổ muốn xem Công Tôn Trác Ngọc xử án thế nào.

Đan Thu và Ngu Sinh Toàn quỳ dưới đường, sắc mặt đều tái nhợt. Đặc biệt, Công Tôn Trác Ngọc còn lệnh người khiêng thi thể vào, giữa trời quang đãng, khiến người ta hồn vía bay mất.

Công Tôn Trác Ngọc liếc nhìn về phía Đỗ Lăng Xuân, hơi gật đầu: "Tư công, bản quan muốn bắt đầu thẩm án."

Đỗ Lăng Xuân lúc nào cũng như một kẻ lười nhác bị rút hết xương cốt, nghe vậy nhấc nắp chén trà, ngón tay thon dài trắng trẻo hơi cong, lộ vẻ âm nhu. Y lạnh nhạt nói: "Công Tôn đại nhân cứ thẩm, bản tư công chỉ nghe, sẽ không tùy tiện can thiệp, hẳn tri phủ đại nhân cũng vậy."

Tri phủ chỉ đành đáp lời, cười gượng mấy tiếng.

Công Tôn Trác Ngọc thấy thế liền thu hồi ánh mắt, tay vung mạnh tấm gỗ kinh đường, âm thanh vang dội, chấn động quỷ thần. Hai bên nha dịch dùng thủy hỏa côn dậm mạnh xuống đất, đồng thanh hô to: "Uy vũ!"

Công Tôn Trác Ngọc nghiêm giọng: "Án phạm Đan Thu, Ngu Sinh Toàn, bản quan hiện trạng cáo các ngươi hai người mưu hại quản gia Lôi Toàn của biệt viện tri phủ. Các ngươi nhận hay không nhận tội?"

Đan Thu dường như bị khí thế bức người này dọa cho khiếp sợ, sắc mặt trắng bệch, không thốt nên lời. Ngu Sinh Toàn thì ngẩng đầu lên, chỉ thốt ra tám chữ:

"Muốn vu tội người, đâu sợ thiếu cớ."

Rõ ràng là định sống chết không nhận tội, cố thủ đến cùng.

Công Tôn Trác Ngọc không mảy may bận tâm, theo trình tự bắt đầu thuật lại quá trình vụ án: "Ba ngày trước, trong giếng cổ của biệt viện tri phủ phát hiện một xác chết vô danh, lúc chết mặc hồng y cô dâu, búi tóc nữ tử, cài trâm vàng của nữ nhân. Qua nhận diện từ các tỳ nữ trong phủ, toàn bộ đều là đồ vật của Đan Thu – nữ tỳ đã mất tích lâu nay trong phủ."

Nói xong, anh cố tình liếc mắt nhìn Đan Thu một cái, sau đó mới tiếp lời: "Do thi thể bị phân hủy nghiêm trọng, không rõ diện mạo, ban đầu mọi người đều cho rằng đó là thi thể của Đan Thu. Nhưng qua bản quan tra chứng, xác chết này chính là quản gia Lôi Toàn của biệt viện tri phủ, cũng là vị hôn phu của Đan Thu cô nương."

Lời này vừa dứt, lập tức khiến người dân bàn tán xôn xao. Theo tình thế này, chẳng phải là nữ nhân độc ác cấu kết với gian phu mưu hại vị hôn phu sao? Nhưng nhìn vị cô nương này yếu đuối, dịu dàng, còn Ngu đại phu luôn có tiếng tốt, thế nào cũng không giống những kẻ có thể làm ra chuyện ác như vậy.

Chắc hẳn là vị huyện lệnh ngốc nghếch kia xét xử nhầm người rồi, dân chúng thầm nghĩ như thế.

Công Tôn Trác Ngọc quyết định mở đường đột phá từ Đan Thu: "Đan Thu cô nương, có phải ngươi đã giết Lôi Toàn?"

Nghe vậy, Đan Thu theo bản năng nhìn về phía Ngu Sinh Toàn. Người sau bất động thanh sắc khẽ lắc đầu với nàng. Đan Thu nhắm mắt đau khổ, cắn chặt môi, hồi lâu sau mới khó nhọc thốt lên mấy lời: "Ta không... không giết người..."

Công Tôn Trác Ngọc nghĩ bụng, thẳng thắn nhận tội chẳng phải tốt hơn sao, lần nào cũng phải hao tổn sức lực thế này. Anh dứt khoát bước xuống công đường, mang theo đôi bao tay vải do sư gia đưa tới, giữa tiếng kinh hô của mọi người, thình lình vén tấm vải trắng phủ trên xác chết lên—

Thi thể đã được làm sạch phần thịt phân hủy, giờ chỉ còn lại bộ xương trắng toát.

Công Tôn Trác Ngọc cầm đầu lâu của thi thể lên, xoay phần khe nứt sau hộp sọ hướng về phía Đan Thu: "Lôi Toàn bị người dùng vật nặng đánh vào sau đầu, chết rồi mới bị vứt xuống giếng. Thật khéo, bản quan đã tìm được hung khí."

Vừa nói, anh vừa lệnh cho nha dịch mang ra một hòn đá cuội: "Đan Thu cô nương, trong rừng trúc bên sân viện của ngươi, bản quan phát hiện ra hòn đá này, trên đó còn vương máu của Lôi Toàn. Ngươi có muốn nhìn kỹ không?"

Vừa dứt lời, Công Tôn Trác Ngọc nhấc hòn đá đưa lên trước, Đan Thu lập tức mặt mày tái nhợt. Đỗ Lăng Xuân ngồi bên cạnh uống ngụm trà, thầm nghĩ Công Tôn Trác Ngọc đúng là kẻ bụng dạ hẹp hòi.

Đan Thu không dám nhìn thi thể, càng không dám nhìn hòn đá, lấy khăn tay che mặt, quay người lại, run rẩy lắc đầu: "Không... ta... ta không có... ta sao phải giết hắn..."

Công Tôn Trác Ngọc lạnh lùng đáp: "Vì ngươi đã có người trong lòng, không muốn gả cho Lôi Toàn."

Nói xong, anh lại lấy ra một chiếc khăn thấm mồ hôi: "Đây là khăn tay tìm thấy trong ngăn kéo phòng ngươi, phía dưới thêu chữ 'Toàn.' Ban đầu bản quan còn tưởng là chữ 'Toàn' trong Lôi Toàn, nhưng sau đó mới biết, hóa ra là chữ 'Toàn' trong Ngu Sinh Toàn."

Toàn bộ manh mối liên kết với nhau, thực ra đã đủ để suy luận ra toàn bộ vụ án.

Công Tôn Trác Ngọc khẽ phất tay áo, bước đi thong thả trước mặt Đan Thu: "Bản quan từng tìm thấy một chiếc khăn tình dưới gối của ngươi, trên đó đầy dấu vết nước mắt, khiến người ta phải đau lòng. Nhưng ngươi sắp sửa cùng vị hôn phu Lôi Toàn thành hôn, vì sao lại khóc? Là bởi ngươi đã sớm có người trong lòng."

Vừa nói, anh vừa bước đến trước mặt Ngu Sinh Toàn, trong lòng thầm ghi hận chuyện lần trước ở thanh lâu, không nhịn được dùng sức đá hắn một cái: "Và người đó chính là vị tọa quán đại phu của Ký Sinh Đường – Ngu Sinh Toàn!"

Ngu Sinh Toàn bị đau, hừ một tiếng, nhưng chỉ có thể nuốt giận vào bụng.

Đám người vây xem phía sau ăn dưa sung sướng.

Công Tôn Trác Ngọc luôn nhìn chằm chằm Đan Thu: "Nhưng ngươi là tỳ nữ sinh ra trong gia đình nô bộc của phủ tri phủ, bán thân bất toại, không thể tự mình quyết định chuyện hôn nhân. Buộc phải gả cho quản gia Lôi Toàn."

Nghe vậy, Đan Thu như nhớ lại hồi ức đau thương nào đó, đôi mắt dần đỏ lên, toàn thân run rẩy.

Công Tôn Trác Ngọc như thể tận mắt chứng kiến tất cả, giọng nói êm ái nhưng tựa kim đâm vào lòng: "Vì vậy ngươi cùng Ngu Sinh Toàn hợp mưu, gi.ết ch.ết Lôi Toàn."

Đan Thu hoảng sợ la lên: "Không! Chúng ta không có! Chúng ta không giết người!"

Công Tôn Trác Ngọc cầm hòn đá cuội dính máu trong tay, cảm thấy nó nặng nề: "Ngu Sinh Toàn dùng hòn đá này tập kích từ sau lưng Lôi Toàn, khiến hắn tử vong tại chỗ. Các ngươi lo bị phát hiện, liền ném xác xuống giếng. Nhưng dù Lôi Toàn chết, Đan Thu vẫn là thân phận nô bộc, không thể tránh khỏi sự điều tra của quan phủ, cũng không thoát khỏi thành. Thế nên các ngươi đã nghĩ ra một kế hoạch."

Nha dịch bên cạnh lần lượt trình lên vật chứng: bộ hồng y nhuốm máu, cây trâm vàng rơi lại.

Công Tôn Trác Ngọc còn cố ý so sánh kiểu tóc của Đan Thu, phát hiện tương đồng với thi thể:

"Các ngươi mặc nữ trang cho Lôi Toàn, dùng trang sức thường dùng của Đan Thu, để đảm bảo nếu thi thể bị phát hiện, người ta sẽ nhận định ngay đây là xác của 'Đan Thu.' Mà đúng lúc đó, Lôi Toàn trở về quê thăm thân, mấy ngày không có mặt trong phủ, nên chẳng ai phát hiện."

Dù thế nào, Đan Thu cũng không thoát khỏi tội danh. Nàng bị bắt tại nhà của Ngu Sinh Toàn giữa thanh thiên bạch nhật, dù có trăm miệng cũng khó bề biện minh. Nàng cắn răng, quyết tâm nhận hết tội lỗi:

"Phải! Lôi Toàn là ta giết!"

Nàng rõ ràng là một nữ tử yếu đuối, nhưng khi thốt lên lời này, đôi mắt ngoài nước mắt còn chứa đựng một tia tàn nhẫn khiến người ta kinh tâm, làm đám đông xung quanh xôn xao.

Đan Thu nhắm mắt, khóe miệng run rẩy: "Ta là nô bộc sinh ra trong phủ, chuyện hôn nhân chỉ có thể nghe chủ tử sắp đặt. Lôi Toàn biết rõ ta đã có người mình thương, nhưng vẫn cầu xin tri phủ đại nhân ban ta cho hắn..."

Nói đến đây, nàng nghẹn ngào, ngừng lại một lát rồi mới tiếp tục: "Ta đã cầu xin hắn, muốn chuộc lại bán thân, nhưng hắn nhất quyết không chịu. Không còn cách nào khác, ta đành muốn nhờ Sinh Toàn ca đưa ta cùng rời đi."

Ngu Sinh Toàn quỳ bên cạnh, lòng bất an, sắc mặt khó coi.

"Ngày ấy, khi Lôi Toàn về quê thăm thân, ta cảm thấy đây là cơ hội tốt, bèn thu dọn chút tư trang, định cùng Sinh Toàn ca bỏ trốn. Nhưng nào ngờ, Lôi Toàn lại quên mang theo lộ dẫn, giữa đường quay trở lại. Hắn bắt gặp ta và Sinh Toàn ca đang chuẩn bị tư thế bỏ trốn, lập tức lao vào đánh nhau với Sinh Toàn ca..."

Ngu Sinh Toàn căng thẳng đến mức mồ hôi lạnh túa ra ướt đẫm lưng, muốn mở miệng nói điều gì đó nhưng lại không dám, cho đến khi Đan Thu thốt lên những lời tiếp theo, hắn mới thở phào nhẹ nhõm mà không để lộ ra vẻ gì.

Đan Thu: "Ta sợ Sinh Toàn ca bị thương, liền cầm hòn đá đập Lôi Toàn, nào ngờ lỡ tay khiến hắn mất mạng. Ta bèn mặc cho hắn bộ đồ của mình, búi tóc giả làm nữ nhân, rồi đẩy hắn xuống giếng, trốn khỏi phủ và nấp trong nhà Sinh Toàn ca."

Nàng vậy mà nhận hết mọi tội trạng về mình. Không rõ là vì chán nản mà phó mặc tất cả, hay đơn thuần đã hết đường lui. Kỳ lạ thay, nàng không hề khóc nữa, chỉ nhắm mắt chờ chết.

Ngu Sinh Toàn nghe xong, trên mặt thoáng hiện vẻ áy náy, nhưng hắn cũng không nói thêm lời nào, hiển nhiên là đã ngầm thừa nhận.

Công Tôn Trác Ngọc bật cười khẽ, nói: "Cô nương quả thực là một kẻ si tình, chỉ tiếc là đã trao nhầm người."

Hôm nọ, anh còn thấy Ngu Sinh Toàn đi dạo thanh lâu, uống trà cùng hoa khôi đấy.

Vốn dĩ đã có người nhận tội, Công Tôn Trác Ngọc cũng không muốn phí công điều tra thêm. Kết án sớm chính là phong cách của anh. Chỉ là, Ngu Sinh Toàn đáng ghét đến thế, nếu dễ dàng bỏ qua thì thật không cam tâm.

Công Tôn Trác Ngọc quay sang Đan Thu, hỏi: "Trong phòng ngươi có mùi hương nồng nặc, vì nơi đó chính là hiện trường đầu tiên khi Lôi Toàn bị giết. Ngươi đã thắp hương để che lấp mùi máu tanh, đúng không?"

Đan Thu gật đầu: "Đúng vậy..."

Công Tôn Trác Ngọc hừ một tiếng: "Đã như vậy, chứng tỏ Lôi Toàn không chết ở bên giếng. Nhưng ngươi thân thể yếu đuối, khí lực không đủ, còn Lôi Toàn thì cao tám thước. Ngươi làm thế nào nhấc được một hòn đá nặng đến thế để đập chết hắn, rồi lại làm sao kéo hắn từ phòng đến giếng mà phi tang?"

Đây là một câu hỏi hết sức thực tế. Đan Thu căn bản không thể nâng nổi hòn đá đó, lại càng không đủ sức kéo lê một người như Lôi Toàn.

Nói xong, Công Tôn Trác Ngọc tiện tay đặt hòn đá xuống đất. Tiếng động nặng nề vang lên, đủ để thấy trọng lượng của nó.

Đan Thu nhận ra mình lỡ lời, sắc mặt lập tức tái nhợt. Ngu Sinh Toàn ngồi bên cạnh như bị rút hết hồn vía, ngã ngồi xuống đất, bất lực.

Công Tôn Trác Ngọc thản nhiên kết luận, chỉ vào hai người họ: "Người giết Lôi Toàn là Ngu Sinh Toàn. Đan Thu, ngươi chỉ là đồng phạm."

Cả hai không ai phản bác, thần sắc đều xám xịt.

Bên ngoài, bách tính lập tức xôn xao. Không ngờ Ngu Sinh Toàn lại chính là hung thủ, kẻ tin thì đầy phẫn nộ, người nghi ngờ thì kinh ngạc, nhưng phần đông đều kinh thán tài năng phá án của Công Tôn Trác Ngọc.

Đỗ Lăng Xuân chống cằm, không nói một lời. Nhưng qua ánh mắt hài lòng, rõ ràng y đang rất thỏa mãn.

Tri phủ thấy Công Tôn Trác Ngọc giành hết công lao, trong lòng không khỏi bực bội. Ông ta chợt nhớ ra một điểm nghi vấn, liền hỏi: "Bổn quan nhớ rằng Công Tôn đại nhân từng nói thi thể đã chết hơn mười lăm ngày. Nếu như đây là thi thể của Lôi Toàn, tại sao chỉ vài ngày ngắn ngủi lại phân hủy nhanh đến vậy?"

Công Tôn Trác Ngọc đã nghĩ đến chuyện này. Tốc độ phân hủy của thi thể thường bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh. Ban đầu, anh còn tưởng do nước trong giếng, nên cố tình thả một con chuột chết xuống để thử nghiệm. Kết quả cho thấy tốc độ phân hủy rất bình thường. Mãi đến sau đó, anh mới phát hiện ra đầu mối.

Công Tôn Trác Ngọc cười nhạt, chỉ vào Ngự Sinh Toàn: "Về chuyện này, tri phủ đại nhân nên hỏi hắn."
 
Bàn Về Một Nghìn Cách Cải Tạo Tra Nam
Chương 181



Làm thế nào để thi thể phân hủy nhanh nhất trong thời gian ngắn?

Người hiện đại sẽ nói, dùng nước cường toan. Nhưng trong thời cổ đại, khi kỹ thuật chưa phát triển, họ phải tìm đến một thứ khác, đó là lục phàn. Lục phàn vốn là một vị thuốc đông y, dùng để sát trùng hóa đờm. Nhưng nếu đun nóng, nó sẽ biến thành chất lỏng ăn mòn tương tự như axit sulfuric, thường được trộm cướp sử dụng để phá khóa.

Khi kiểm tra thi thể, Công Tôn Trác Ngọc từng ngửi thấy một mùi rất hăng, lúc đó không để ý. Mãi đến khi xác định thi thể là Lôi Toàn, anh mới lập tức hiểu ra.

Đặc biệt, với thân phận là đại phu của dược phường, Ngu Sinh Toàn hoàn toàn có thể lợi dụng chức vụ để chế tạo hóa thi thủy từ lục phàn.

Công Tôn Trác Ngọc chậm rãi quay lại, cầm lấy hộp sọ của thi thể, chỉ vào vết thương trên đó và nói với mọi người: "Xương gò má của hộp sọ có nhiều vết cắt sắc nhọn, rất có thể do dao nhỏ hoặc trâm cài gây ra. Mục đích là để phá hủy diện mạo thi thể, khiến người ta không nhận ra dung mạo. Nhưng chỉ làm vậy thôi chưa đủ để che giấu thân phận và giới tính của Lôi Toàn."

Anh bước đến bên Ngu Sinh Toàn, kín đáo đá hắn một cái, rồi tiếp tục: "Vì thế, hung thủ đã dùng lục phàn chế thành hóa thi thủy để ăn mòn thi thể Lôi Toàn. Sau đó, ngâm trong nước giếng ba ngày, khiến vết thương lở loét, thi thể phân hủy sinh giòi, tạo ra cảm giác đã chết mấy chục ngày."

Toàn bộ bí mật của Ngu Sinh Toàn bị phơi bày, khiến hắn sợ hãi ngẩng đầu lên. Hắn cảm giác như mình bị l*t s*ch quần áo, tr.ần tr.ụi dưới ánh nắng gay gắt, không còn nơi nào để che giấu.

Với một đại phu, lẽ ra phải lấy lòng nhân từ làm gốc. Nhưng hắn lại sát nhân diệt khẩu, tâm địa thật độc ác. Bách tính xung quanh thấy hắn im lặng không phản bác, càng thêm phẫn nộ, tiếng la ó vang dội khắp nơi.

Công Tôn Trác Ngọc bước lên công đường, gõ mạnh kinh đường mộc, trầm giọng hỏi lại lần cuối: "Đan Thu, Ngu Sinh Toàn, hai người có nhận tội hay không?"

Cả hai đều cúi đầu, bất lực gật nhẹ, hoàn toàn tuyệt vọng.

Giọng nói của Công Tôn Trác Ngọc không lớn, nhưng đủ để mọi người nghe rõ: "Đã vậy, vụ án giếng cổ vứt xác đến đây coi như kết thúc. Nam nhân Giang Châu là Ngu Sinh Toàn cấu kết với nha hoàn Đan Thu, sát hại quản gia tri phủ Lôi Toàn, phi tang xuống giếng. Tội ác tày trời, nay áp giải vào đại lao chờ phán quyết. Nghi phạm Lăng Sương vô tội, thả tự do. Lui đường!"

Theo tiếng "Uy vũ" vang lên từ hai bên nha dịch, Đan Thu và Ngu Sinh Toàn mặt trắng bệch bị áp giải ra ngoài. Bách tính xung quanh thấy kỳ án được phá, không kìm được vỗ tay tán thưởng, tiếng khen ngợi vang dội không ngớt.

Sau khi thẩm án xong, Công Tôn Trác Ngọc hí hửng chạy đến bên Đỗ Lăng Xuân, nghiêm túc chắp tay nói: "Tư công, hạ quan may mắn không làm nhục mệnh."

Đầu óc toàn bộ bị công danh lợi lộc chiếm lĩnh.

Thăng quan! Phát tài! Tiến kinh thành!

Hôm ấy, tuy Đỗ Lăng Xuân chỉ cho Công Tôn Trác Ngọc ba ngày điều tra vụ án, có chút ý làm khó, nhưng người kia lại hoàn thành trước hạn một ngày, thừa ra thời gian dư dả, quả thực thông minh tuyệt đỉnh.

Đỗ Lăng Xuân tuy vẻ ngoài không biểu lộ, nhưng trong lòng đã hài lòng lắm, ý tứ sâu xa mà nói: "Công Tôn đại nhân xử án như thần, thật là rường cột nước nhà. Sau khi bổn tư công về kinh, nhất định sẽ tấu trình Hoàng thượng để khen thưởng."

Y nói xong, lại liếc mắt nhìn Tri phủ Tô Đạo Phủ đang sợ hãi bất an, như đùa mà rằng: "Tô đại nhân, nếu tinh thần không đủ minh mẫn, chẳng bằng sớm nhường chức vị lại cho người tài trẻ tuổi, cũng không phải chuyện xấu."

Công Tôn Trác Ngọc đứng bên gật đầu lia lịa, trong lòng nghĩ đúng là nên nhường cho người trẻ, chẳng hạn như anh, người vừa trẻ vừa có tài!

Làm quan vốn là vì công danh lợi lộc, Tô Đạo Phủ đã bò lên vị trí tri phủ này tất nhiên là kẻ có chút khôn khéo. Làm sao nghe không ra ẩn ý trong lời của Đỗ Lăng Xuân, tim liền run bắn một cái, suýt chút nữa ngã khỏi ghế, cả người như bị sét đánh:

"Tư công... hạ quan... hạ quan..."

Đỗ Lăng Xuân chẳng buồn để tâm, vung tay áo, xoay người rời đi. Trước khi rời khỏi, y quay đầu, liếc nhìn Công Tôn Trác Ngọc, nói:

"Ngày mai bổn tư công áp giải phản đảng hồi kinh phục mệnh, tối nay tại Lạc Thủy đình tổ chức yến tiệc, Công Tôn đại nhân nhất định phải đến uống một chén mọn."

Công Tôn Trác Ngọc lập tức chắp tay thi lễ:

"Hạ quan nhất định đến đúng giờ."

Nghe vậy, Đỗ Lăng Xuân khẽ nhếch khóe môi, dường như tâm trạng rất tốt, không nói thêm gì nữa, dẫn theo hộ vệ rời khỏi nha phủ.

Công Tôn Trác Ngọc cứ thế đứng tiễn y đi, mãi đến khi không còn thấy bóng người, anh mới đứng thẳng dậy, trong lòng âm thầm hưng phấn. Nghe ý tứ của Đỗ Lăng Xuân, tám phần là muốn đề bạt anh, sau này còn sợ gì không có tiền đồ?

"Công Tôn đại nhân..."

Có người đang kéo tay áo anh.

"Công Tôn đại nhân..."

Vẫn tiếp tục kéo.

Công Tôn Trác Ngọc cuối cùng lấy lại tinh thần, nhìn xuống, chỉ thấy Tô Đạo Phủ đang cười nịnh bợ, lén lút tiến lại gần, anh nhướng mày hỏi: "Đại nhân có việc gì sao?"

Tô Đạo Phủ khom lưng, cúi gập người vài phần: "Trước đây là hạ quan có mắt không tròng, nhiều lần mạo phạm Công Tôn đại nhân, mong ngài rộng lượng bỏ qua. Còn nữa, mong ngài nói vài lời tốt đẹp với tư công giúp hạ quan..."

Hắn vừa nói vừa cười xòa, đồng thời nắm lấy tay Công Tôn Trác Ngọc, kín đáo nhét vào một xấp ngân phiếu dày cộp: "Chút lòng thành nhỏ nhoi, chẳng đáng gì."

Công Tôn Trác Ngọc mắt sáng lên, đương nhiên là vui vẻ nhận lấy. Nhưng đúng lúc này, lại có một kẻ ngang ngược xen vào giữa.

Hệ thống bỗng chốc đáp xuống, ngồi ngay lên tay hai người: [Thân ái, tiền bẩn thì chúng ta không lấy đâu nhé~]

Công Tôn Trác Ngọc cảm thấy tiền này rất sạch, ngân phiếu đều là loại mới tinh, không dính lấy một hạt bụi. Nhưng vì từng bị điện giật tạo thành bóng ma tâm lý, anh đáp mà không có chút khí thế nào:

"Ngươi không lấy, nhưng ta muốn."

Hệ thống phe phẩy cánh: [Thân ái, bị điện giật đau lắm đó nha~]

Công Tôn Trác Ngọc: "..." Thật sự rất đau.

Tô Đạo Phủ vốn đang chờ Công Tôn Trác Ngọc trả lời, nào ngờ đối phương im lặng thật lâu, bỗng dưng sắc mặt sa sầm, trả ngân phiếu lại, giận dữ nói: "Bản quan là người thanh liêm chính trực, sao có thể nhận hối lộ? Tri phủ đại nhân xin hãy mang về đi!"

Công Tôn Trác Ngọc nói lời này mà lòng đau như cắt. Lão cáo già Tô Đạo Phủ kia ra tay hào phóng như thế, xấp ngân phiếu vừa rồi ít nhất cũng ba nghìn lượng bạc, phải kiếm bao lâu mới được chừng ấy chứ. Anh vậy mà trả lại hết?

Không chỉ anh, ngay cả Tô Đạo Phủ cũng không thể tin nổi. Công Tôn Trác Ngọc là kẻ nổi danh chẳng thứ gì không dám nhận, nay lại đẩy hết đống ngân phiếu trắng phau ấy đi?

Tô Đạo Phủ chỉ vào anh, lắp bắp mãi chẳng thốt nên lời: "Công Tôn Trác Ngọc, ngươi!"

Tô Đạo Phủ giờ đã thất thế, Công Tôn Trác Ngọc nào còn sợ, chỉ hừ nhẹ một tiếng, quay người bỏ đi.

Lão cáo già này còn tham lam hơn cả anh, sớm muộn gì cũng phải vào đại lao ngồi.

Công Tôn Trác Ngọc nghĩ bụng, tối nay Đỗ Lăng Xuân mở yến tiệc, chắc là các quan viên bên dưới muốn nịnh nọt, đến lúc đó hẳn sẽ có màn ca múa nối tiếp không ngừng, không ồn ào đến tận nửa đêm e rằng không chịu dừng. Anh đang định về phòng nghỉ ngơi, ai ngờ quản gia đột nhiên chạy ào đến cản đường.

"Đại nhân, xin dừng bước!"

Công Tôn Trác Ngọc mỗi lần nghe thấy quản gia gọi mình đều cảm thấy chẳng có chuyện tốt lành gì, liền lùi lại mấy bước, ánh mắt cảnh giác: "Lại thiếu bạc ở đâu nữa?!"

Quản gia sửng sốt, nhanh chóng giải thích: "Đại nhân hiểu lầm rồi, không phải trong phủ hết bạc, mà là dân chúng bên ngoài đang tụ tập, muốn gặp ngài!"

Công Tôn Trác Ngọc ngẩn ra một lúc: "Tụ tập bên ngoài? Muốn đánh ta à?"

Gần đây anh đâu có gây họa gì.

Quản gia vội vã nói rõ: "Đại nhân, không phải đánh ngài, là muốn gặp ngài thật sự!"

"Gặp rồi sẽ đánh," Công Tôn Trác Ngọc phất tay áo chán ghét, "Không đi, không đi, bảo bọn họ bản quan có việc gấp, không rảnh gặp."

Quản gia thấy mình nói không rõ, vội giữ anh lại, giải thích cặn kẽ: "Đại nhân, dân chúng ở các thôn lân cận đều cử người đến, nói cảm ơn ngài đã diệt trừ sơn tặc trên núi Thanh Phong, hổ dữ trong rừng Mật Tử, còn làm một tấm biển muốn tạ ơn ngài! Mau theo tiểu nhân ra ngoài xem đi!"

Nói xong không đợi Công Tôn Trác Ngọc phản ứng, quản gia đã kéo anh ra ngoài. Quả nhiên, bên ngoài tụ tập rất nhiều dân chúng. Người thì đánh chiêng gõ trống, thậm chí còn mời đội múa lân. Khi Công Tôn Trác Ngọc xuất hiện, không biết ai đã châm dây pháo, lập tức pháo nổ đì đùng khắp nơi.

Công Tôn Trác Ngọc lần đầu tiên thấy cảnh tượng thế này, giật mình hoảng sợ, theo phản xạ nép sau lưng quản gia. Anh đang định nói gì đó, thì trong đám đông bỗng bước ra một lão giả tóc bạc, chống gậy, vận áo vải thô, hành lễ với anh: "Lão hủ là Lưu Quan Sơn, bái kiến đại nhân."

Ngàn năm thế gia, trăm năm vương triều, mỗi gia tộc ít nhiều đều có một người cao niên như cây cổ thụ che mưa chắn gió, Lưu Quan Sơn chính là nhân vật như vậy.

Ông từng đỗ cử nhân khi còn trẻ, nhưng không chịu nổi hiểm ác chốn quan trường nên lui về mở trường dạy học. Văn chương của ông nổi tiếng khắp nơi, được coi là một đời danh sĩ.

Lưu Quan Sơn nay đã bảy mươi tuổi, cả đời thanh liêm chính trực, nhân hậu thiện lương, được dân chúng Giang Châu vô cùng kính trọng. Tuy không có chức vị, nhưng không ngoa khi nói rằng lời ông nói còn có trọng lượng hơn cả quan huyện. Dù là tri phủ Tô Đạo Phủ, đến đây cũng phải nể ông vài phần.

Công Tôn Trác Ngọc tự nhiên là nhận ra được Lưu Quan Sơn, lúc nhỏ anh còn từng học trong học đường của ông ta. Thấy vậy, anh vội từ sau lưng quản gia bước ra, đỡ lấy Lưu Quan Sơn: "Lưu lão gia khách sáo rồi. Ông đường xa mà đến, không biết là có việc gì vậy?"

Lưu Quan Sơn vuốt vuốt chòm râu bạc: "Giang Châu tuy là nơi dựa núi kề sông, phong cảnh hữu tình, nhưng vẫn luôn có hai đại nạn: Một là bọn thổ phỉ trên núi Thanh Phong, chúng đi cướp bóc khắp nơi, không chỉ chặn đường quan đạo mà còn cắt đứt đường thông thương. Hai là hổ dữ trong rừng Mật Tử, con vật hung tợn này luôn rình rập, gây nguy hiểm, khiến dân chúng kinh hãi khôn nguôi."

Công Tôn Trác Ngọc đại khái đã hiểu bọn họ vì sao mà đến, chỉ nghe Lưu Quan Sơn nói tiếp: "Thế nhưng, đại nhân mấy ngày trước chẳng những đã phái người lên núi tiễu trừ bọn thổ phỉ, mà còn bắt được cả con ác hổ ăn thịt người kia. Quả thật là giúp bá tánh Giang Châu trừ được đại họa. Chúng tôi đều là kẻ nghèo hèn, chẳng có gì đáng giá để dâng tặng, chỉ có thể làm một tấm biển mang đến tạ ơn đại nhân. Mong ngài đừng chối từ."

Lời vừa dứt, liền có hai tráng hán bước lên, tay nâng một tấm biển được phủ bằng lụa đỏ. Khi tấm lụa được vén lên, bốn chữ lớn dát vàng sáng chói liền hiện ra——

"Vì dân trừ hại."

Công Tôn Trác Ngọc đừng nói là kiếp này, kiếp trước cũng chưa từng được trải nghiệm đãi ngộ như vậy. Anh vì sao lại bái nhiều sư phụ đến thế? Chính là vì đi dạo một vòng cũng có thể bị dân chúng nhổ nước bọt hoặc ném đá, an nguy cá nhân chẳng được đảm bảo.

Thế nhưng không ngờ, chuyện được tặng biển này lại có ngày rơi xuống đầu anh?

Công Tôn Trác Ngọc đi trước đi sau, trái nhìn phải ngắm tấm biển ấy một lượt, luôn cảm thấy như đang nằm mơ. Thấy Lưu Quan Sơn cười hiền hậu nhìn mình, anh vội chỉnh lại sắc mặt, nghiêm túc nói: "Lưu lão gia nói vậy là quá lời. Bản quan làm quan ở một huyện, tất nhiên phải lo cho dân chúng dưới quyền. Việc trừ hổ dữ, diệt đạo tặc chẳng qua là bổn phận, thực sự không dám nhận sự ca ngợi này của mọi người."

Ánh mắt Lưu Quan Sơn hiền từ, giọng nói già nua chậm rãi: "Lão hủ mạn phép nói một câu, cũng coi như là nhìn đại nhân lớn lên. Chuyện trước kia không nhắc đến làm gì, nhưng nếu ngài thực tâm vì dân cầu phúc, vậy thì xứng đáng với hai chữ phụ mẫu mà dân chúng dành cho quan. Xin hãy nhận một lạy của chúng ta."

Lời vừa dứt, đám dân chúng phía sau ông đồng loạt quỳ xuống, tiếng hô như sấm: "Đa tạ Công Tôn đại nhân vì dân trừ hại!"

Công Tôn Trác Ngọc dù đã cố gắng kiềm chế, nhưng cả người vẫn sung sướng đến nỗi nở hoa, đẹp đẽ đến mức suýt chảy cả nước mũi, trên mặt lại cố duy trì vẻ bình thản, bước lên nâng mọi người đứng dậy: "Đây là việc nên làm, là việc nên làm mà!"

Công Tôn Trác Ngọc luôn nghĩ, thiên hạ này hợp rồi tan, tan rồi hợp. Trải qua hàng trăm triều đại, nhìn lại hậu thế, quân vương không dưới trăm vị, đất đai mênh mông tràn khắp, bách tính đông đúc đến hàng ngàn. Một người mang đầy tai tiếng như anh, cũng chẳng thiếu trong số đó.

Lưu Quan Sơn tuy danh tiếng vang vọng Giang Châu, nhưng uy vọng ấy là bảy mươi năm tích lũy, một đời thanh liêm mà đổi lấy. Công Tôn Trác Ngọc tự biết bản thân không thể làm được như ông, cho nên chọn một con đường khác biệt. Chỉ là, dù đã chuẩn bị tinh thần mang đầy tiếng xấu, anh vẫn không ngăn được lòng mình vui vẻ khi nghe dân chúng khen ngợi.

Mấy vị sư phụ của anh trốn ở phía sau cửa, hai tay khoanh lại, cười nhìn trò vui.

"Đây là lần đầu tiên đại nhân được người ta khen ngợi nhỉ, nhìn xem hắn vui đến nỗi mắt cũng híp lại rồi."

Tác giả có lời muốn nói:

Công Tôn Trác Ngọc: "Khoảnh khắc huy hoàng nhất trong đời!!!!!!"
 
Bàn Về Một Nghìn Cách Cải Tạo Tra Nam
Chương 182



Công Tôn Trác Ngọc nghĩ rằng Đỗ Lăng Xuân mở tiệc khoản đãi, nhất định sẽ có rất nhiều khách khứa, nhưng thực tế lại hoàn toàn trái ngược. Đối phương dường như chỉ mời mỗi mình anh.

Bốn phía của đình giữa hồ đều thả rèm lụa, từ xa nhìn lại, bên trong có chút mông lung mờ ảo. Một vầng trăng tròn soi bóng dưới nước, cành lá in bóng xiêu vẹo, hương thơm thoang thoảng. Đỗ Lăng Xuân ngồi trong đình.

Thấy vậy, Công Tôn Trác Ngọc trong lòng âm thầm thắc mắc. Anh bước tới hành lễ, rồi quỳ ngồi xuống đối diện Đỗ Lăng Xuân, nhìn quanh một lượt, phát hiện nơi đây ngoài thị nữ và hộ vệ, dường như chỉ có hai người bọn họ:

"Tư công không mời người khác sao?"

"Người khác mà ngươi nói là ai?" Đỗ Lăng Xuân lại tự mình rót cho anh một chén rượu, cười như không cười hỏi: "Là Tô Đạo Phủ ư?"

Trong mắt Đỗ Lăng Xuân, cả thành Giang Châu này, chỉ có mỗi Công Tôn Trác Ngọc đáng để y bận tâm kéo về phe mình, những kẻ khác đều không đáng gặp.

Công Tôn Trác Ngọc nhận lấy chén rượu, nghe ra ý chán ghét Tô Đạo Phủ trong lời nói của y, liền thức thời không nhắc thêm, chỉ cười: "Đa tạ tư công."

Áo của người kia lúc nào cũng là sắc đỏ hoặc tím, nhưng hôm nay hiếm thấy lại vận một bộ trường sam màu trắng, mái tóc dài đen nhánh được cố định bằng trâm ngọc. Dưới yết hầu không rõ ràng lắm, có một nốt chu sa đỏ rực, vô cùng nổi bật.

Đỗ Lăng Xuân không phải người lương thiện, từ triều đình đến chốn dân gian đều đồn như vậy.

Cho nên Công Tôn Trác Ngọc lại càng tò mò, kiếp trước y vì sao lại giúp anh? Là bởi quan hệ thân thích sao? Muốn hỏi, nhưng lại không biết mở lời thế nào, bèn chỉ có thể vòng vo, bịa chuyện lung tung: "Lần đầu gặp đại nhân, hạ quan đã cảm thấy rất thân thiết, mơ hồ nhớ rằng nhà mình có một người thân xa cũng họ Đỗ. Nói không chừng trăm năm trước vẫn còn là thân thích."

Đỗ Lăng Xuân uống một chén rượu, nhướng mắt nhìn anh: "Ai nói cho ngươi biết, họ của ta là Đỗ?"

Những kẻ nô tài vào cung hầu hạ phần lớn đều xuất thân bần hàn, có kẻ còn không cha không mẹ, chỉ là những đứa trẻ lớn lên trong ổ ăn mày. Cặp chị em họ Đỗ này bị các triều thần công kích, đả phá cũng chỉ vì xuất thân thấp kém.

Đỗ Lăng Xuân khẽ lay ly rượu, ánh sáng lấp lánh phản chiếu trên những đường hoa văn tinh xảo: "Họ này là do tỷ tỷ ta chọn."

Tỷ tỷ? Vậy chính là quý phi đương triều, Đỗ Thu Vãn.

Khi họ còn nhỏ vào cung, thậm chí đến họ cũng không có, thái giám quản sự hỏi đến, Đỗ Thu Vãn liền tùy tiện chọn chữ "Đỗ" làm họ. Đương nhiên không thể nào là họ hàng của Công Tôn Trác Ngọc.

Đỗ Lăng Xuân nói xong, như thể hồi tưởng lại chuyện cũ, y khẽ vung tay áo: "Vật đổi sao dời, Giang Châu này cũng không còn quang cảnh như xưa nữa."

Công Tôn Trác Ngọc nghe ra được một chút ý tứ ẩn sau lời y: "Tư công trước kia từng đến đây?"

Đại khái là vào lúc đêm khuya chỉ có hai người, con người thường dễ dàng buông lỏng tâm phòng bị. Đỗ Lăng Xuân chống cằm, lười biếng ậm ừ một tiếng: "Đã đến một lần, hai mươi mấy năm trước."

Nhưng khi ấy y chưa có được vẻ vang như bây giờ. Khi đó, thiên hạ đang trong thời loạn lạc, nạn đói kéo dài năm này qua năm khác. Y cùng Đỗ Thu Vãn chỉ là hai đứa trẻ ăn xin đói khát, không đủ ăn mặc, vừa đi xin vừa lần theo đường mà vào kinh, có lần từng đi ngang qua Giang Châu.

Mặc dù đó đã là chuyện từ rất lâu rất lâu về trước, nhưng cảm giác đói khát ấy vẫn như một thứ độc dược bám chặt vào tận xương tủy, không cách nào xua đi được. Huống chi khi đó là tiết đông giá rét, cái lạnh thấu tận xương, trên nền tuyết trắng xóa phủ đầy đất không chỉ có đá, mà còn có cả thi thể người chết.

Đỗ Lăng Xuân và Đỗ Thu Vãn mặc đồ rách rưới, giữa trời tuyết rơi dày, quần áo không che kín thân. Bọn họ tuổi nhỏ, cơ thể yếu đuối, không thể tranh giành thức ăn với những kẻ ăn mày khác, chỉ có thể ôm bụng đói. May mắn thay, có một vị phu nhân tốt bụng, ở trước cửa nhà phát cháo cứu giúp dân nghèo.

"Đệ đệ, mau ăn đi!"

Đỗ Thu Vãn bưng một bát cháo nóng tới, đút cho Đỗ Lăng Xuân ăn. Trời gió lạnh buốt, y cũng không biết mình nếm được vị gì, chỉ cảm thấy nóng bỏng, cứ như đang thiêu đốt trong dạ dày. Hai người co ro ở góc tường, đút qua lại, nhanh chóng uống hết bát cháo đó.

Phía sau họ có một hộ gia đình, cánh cửa lớn đột nhiên kêu "két" một tiếng mở ra, từ bên trong bước ra một vị lão gia nho nhã khoảng ba mươi tuổi. Ông ôm trong lòng một tiểu công tử, mặc đồ kín đáo, sạch sẽ, khác biệt hoàn toàn với những người tị nạn bẩn thỉu ngoài kia.

Phu nhân phát cháo nhìn thấy họ, bước tới nói: "Phu quân sao lại ra đây, chàng cảm lạnh chưa khỏi, mau vào trong đi."

"Không sao," vị lão gia nho nhã đặt tiểu công tử xuống đất, nhìn cảnh tuyết trắng xóa trước mắt thở dài, "Năm nay tuyết rơi lớn quá..."

Tiểu công tử vui vẻ chạy ra ngoài, tuy thông minh lanh lợi, nhưng lại có chút hồn nhiên vô tư: "Tuyết rơi thật là vui."

Vị lão gia nho nhã lại bế hắn lên, đi xuống hai bậc thềm đá, xung quanh toàn những kẻ ăn mày hôi hám, trong góc còn co ro hai đứa trẻ nửa lớn nửa nhỏ, tóc tai bù xù, chia nhau ăn bát cháo loãng.

Càng thấp hèn, càng thấy thấp hèn, thấp hèn đến tận cùng.

Vị lão gia nho nhã cúi đầu, nói với tiểu công tử: "Trác Ngọc, ngươi sau này phải học hành chăm chỉ, trở thành một quan tốt, đừng để những người dân này thiếu thốn quần áo, không có chỗ che mưa tránh gió."

Tiểu công tử tuy còn nhỏ, nhưng rất trưởng thành, gật đầu nói: "Hài nhi biết rồi."

Hắn nói xong, dường như thấy hai tiểu ăn mày thật đáng thương, từ trong lòng cha lấy hai cái bánh bao đưa cho họ. Hơi nóng bốc lên, cầm trong tay mà thấy nóng rát.

Đỗ Lăng Xuân đói quá, ăn ngấu nghiến. Vị tiểu công tử đứng đó nhìn họ, một lát sau mới quay người rời đi.

Thỉnh thoảng có dân đến cảm ơn vì được phát cháo, quỳ dưới đất gọi vị lão gia nho nhã là "Công Tôn đại nhân".

Giang Châu là một nơi tốt, họ Công Tôn cũng không nhiều. Chỉ tiếc rằng sau này vị Công Tôn đại nhân ấy sớm qua đời, tiểu công tử cũng quên đi những lời đã nói, lời hứa đã thề thuở bé.

Nói cho cùng, đều là nhân quả luân hồi...

Suy nghĩ dần trở về hiện tại, họ vẫn ở trong đình giữa hồ. Gió từ thủy điện thổi tới, màn lụa nhẹ bay, trên bàn đầy thức ăn ngon, không phải là thời gian tuyết lớn mùa đông ở Giang Châu năm xưa.

Đỗ Lăng Xuân bất chợt nhớ lại chuyện cũ, tâm trạng xáo trộn, vô thức uống nhiều rượu. Y nhíu chặt mày, cảm thấy những ngày tháng nghèo khổ đó như cái gai đen tối chôn sâu trong lòng, khó chịu và đáng ghét, ngực phập phồng một lúc, bỗng nhìn chằm chằm Công Tôn Trác Ngọc nói: "...Có lẽ, chúng ta thực sự đã gặp nhau từ trước."

Công Tôn Trác Ngọc đã không còn nhớ nữa, anh ta chỉ nhìn bình rượu nghiêng trên bàn, muốn nói lại thôi: "Tư công, ngươi uống nhiều rồi..."

Đỗ Lăng Xuân không biết mình có uống nhiều không, đầu óc mơ màng, không rõ là tỉnh hay say. Y lảo đảo đứng dậy, cố gắng bám vào lan can. Bên cạnh là hồ nước, Công Tôn Trác Ngọc sợ y rơi xuống, vội vàng đỡ lấy cánh tay y: "Tư công..."

Đỗ Lăng Xuân đã có chút men say, hơi thở toàn mùi rượu nhạt nhòa, mắt đảo qua, chậm rãi nhìn Công Tôn Trác Ngọc, giọng thấp trầm: "Công Tôn Trác Ngọc..."

Giọng nói vẫn mềm mại như vậy, nhưng so với thường ngày lại thêm vài phần khàn khàn.

Công Tôn Trác Ngọc đối diện ánh mắt của y, tim bỗng lỡ một nhịp, bỗng nhiên thấy tay chân luống cuống, phản xạ có điều kiện rút tay lại. Tuy nhiên, ngay giây sau Đỗ Lăng Xuân vì mất điểm tựa, bước chân loạng choạng ngã vào lòng anh.

Tiêu đời!

Công Tôn Trác Ngọc chỉ có thể đỡ lấy y, nhìn quanh một vòng, phát hiện nha hoàn đều chờ ở xa, giữa là một hành lang dài dằng dặc. Có ý muốn gọi, nhưng lại cảm thấy chỉ là say rượu, không cần làm to chuyện.

Đỗ Lăng Xuân là thái giám, thân hình mảnh mai hơn người đàn ông bình thường, cũng mềm mại hơn. Trên áo có mùi hương trầm thoang thoảng. Vải áo có cảm giác mát lạnh và mịn màng đặc trưng của lụa.

Công Tôn Trác Ngọc bỗng nhiên thấy ngượng ngùng, như thể trong lòng anh không phải là một người đàn ông, mà là một cô gái, giọng cũng lắp bắp: "Tư... Tư công, không bằng để hạ nhân hầu ngươi về phòng nghỉ ngơi?"

Đỗ Lăng Xuân lắc đầu, mày nhíu chặt chưa từng giãn ra, y không thích người khác hầu hạ sát bên. Nghĩ đến ngày mai sẽ về kinh, y nắm chặt vai Công Tôn Trác Ngọc, thấp giọng hỏi: "Ngươi có nguyện ý vì ta mà cống hiến không?"

Cành ô liu chìa ra quá nhanh, có người chưa nghe rõ.

Công Tôn Trác Ngọc: "A?"

Đỗ Lăng Xuân nheo mắt dài, men say lên đầu, lại thấp giọng lặp lại lần nữa: "Công Tôn Trác Ngọc, nếu ngươi theo ta, ngày sau vào nội các, bước lên mây xanh, chỉ là chuyện một câu nói của ta."

Y vừa nói xong, đối với Công Tôn Trác Ngọc, như thể từ trên trời rơi xuống một chiếc bánh vàng, khiến anh choáng váng, nửa ngày cũng không phản ứng lại. Mà Đỗ Lăng Xuân lâu không nghe thấy câu trả lời, tưởng anh còn đang do dự, ánh mắt u ám một lát: "Chẳng lẽ ngươi cũng như bọn họ, chê ta là một thái giám?"

Công Tôn Trác Ngọc theo bản năng nói: "Sao có thể."

Anh từ trước đến nay không phân biệt đối xử.

Đỗ Lăng Xuân nghe vậy không nói, không nhúc nhích nhìn chằm chằm vào mắt anh, dường như muốn phân biệt anh nói thật hay nói dối, tuy nhiên Công Tôn Trác Ngọc vẻ mặt bình thản, không giống nói dối.

"Công Tôn Trác Ngọc," Đỗ Lăng Xuân trong đêm tối mênh mông, trầm giọng, "Hạc sinh ở cửu cao, phượng đậu trên cây ngô đồng, ta có thể cho ngươi quyền thế giàu sang mà người đời khao khát mà không thể với tới, ngươi là người thông minh, nên chọn cành tốt mà đậu."

Trong đình bốn góc đặt lư hương thú linh, miệng thú bốc lên một làn khói lượn lờ, nhưng không lâu sau lại bị gió thổi tan. Mặt hồ yên tĩnh dậy lên gợn sóng, làm vỡ tan ánh trăng lạnh lẽo, lấp lánh sáng ngời.

Công Tôn Trác Ngọc đáp...

"Nguyện vì Tư công, cống hiến hết sức."

Đỗ Lăng Xuân nghe vậy nheo mắt, khóe miệng khẽ nhếch, dường như rất hài lòng với câu trả lời này, còn muốn nói thêm gì đó, nhưng đã mờ mắt, đầu nặng chân nhẹ, trực tiếp say ngã vào lòng Công Tôn Trác Ngọc.

Đôi môi ấm áp mềm mại của y vô tình lướt qua bên má đối phương, cuối cùng lại rơi xuống cổ. Cảm giác ẩm ướt nhẹ nhàng như chuồn chuồn lướt nước chỉ thoáng qua, nhưng đủ để khiến người trong cuộc cứng đờ cả người, vành tai lập tức đỏ bừng.

Công Tôn Trác Ngọc thực sự muốn gọi nha hoàn tới, lưỡi như bị thắt lại: "Mau... mau... mau... mau tới đây!"

Lập tức có một nha hoàn chạy vào trong đình: "Công Tôn đại nhân có gì sai bảo?"

Công Tôn Trác Ngọc đỡ Đỗ Lăng Xuân, như thể đang cầm một củ khoai nóng bỏng tay: "Tư công uống say rồi, các ngươi mau đưa y về phòng nghỉ ngơi."

Nha hoàn nghe vậy vô thức đưa tay ra, muốn giúp đỡ, nhưng chưa chạm tới tay áo Đỗ Lăng Xuân, chẳng biết nghĩ tới điều gì, lại nhanh chóng rút tay về: "Đại nhân thứ lỗi, Tư công không thích chúng nô tỳ hầu hạ gần gũi, nếu phạm phải quy tắc, e rằng khó giữ mạng."

Nếu Đỗ Lăng Xuân là một nam nhân bình thường, có lẽ còn có nha hoàn liều mạng, mạo hiểm leo lên giường. Nhưng tình hình hiện tại là, giúp đỡ Đỗ Lăng Xuân không chỉ không có lợi gì, mà còn có thể mất đầu.

Công Tôn Trác Ngọc sững sờ: "Vậy phải làm sao?"

Nha hoàn cắn môi, khó xử lắc đầu.

Công Tôn Trác Ngọc dỗ dành nàng: "Tư công hiện giờ đang say, các ngươi tìm hai người đưa y về, y sẽ không biết đâu."

Nha hoàn thấy anh đỡ Đỗ Lăng Xuân, do dự nói: "Không bằng làm phiền đại nhân, đưa Tư công về phòng nghỉ ngơi?"

Công Tôn Trác Ngọc: "......"

Nhiệt độ ở tai Công Tôn Trác Ngọc vừa hạ xuống một chút, nghe vậy lại bùng lên. Nhưng đối diện ánh mắt nha hoàn, anh chỉ có thể cắn răng, đỡ Đỗ Lăng Xuân lên lưng: "Cô nương đi trước dẫn đường."

Tác giả có lời muốn nói: Công Tôn Trác Ngọc: Ôi, ngượng quá.
 
Bàn Về Một Nghìn Cách Cải Tạo Tra Nam
Chương 183



Công Tôn Trác Ngọc vẫn là lần đầu tiên thấy vị Đỗ công công quyền nghiêng triều đình này lộ ra bộ dạng như thế, nhìn tay mình, cũng không rút lại. Anh cúi đầu ghé sát bên môi Đỗ Lăng Xuân, muốn nghe rõ y đang nói gì.

"Đừng..."

Giọng nói căng thẳng sợ hãi.

"Đừng chạm vào ta..."

Mang theo một chút phẫn hận không cam lòng.

Bị thiến từ nhỏ, có lẽ đó là cơn ác mộng suốt đời của Đỗ Lăng Xuân. Dù sau này quyền cao chức trọng, y vẫn luôn khắc khoải trong lòng. Hơi thở y dồn dập, thân hình không tự giác co lại, áo lụa trắng nhăn nhúm thành một khối, đầu ngón tay gần như c*m v** thịt của Công Tôn Trác Ngọc.

Công Tôn Trác Ngọc chậm một nhịp mới hiểu y vì sao như vậy, không tiếp tục động tác vừa rồi. Chỉ là kéo tấm chăn bên cạnh, đắp kín Đỗ Lăng Xuân, thuận theo lời y nói ban nãy: "Được, không chạm vào ngươi."

Năm đó Công Tôn Trác Ngọc rơi vào ngục giam, cũng từng sợ hãi cung hình, huống chi Đỗ Lăng Xuân bị tịnh thân khi chỉ là một đứa trẻ, ác mộng khó tránh khỏi.

Kẻ ác cũng không phải không có báo ứng, có lẽ khi con đường này còn chưa bắt đầu đi, ông trời đã sớm giáng xuống trừng phạt. Đỗ Lăng Xuân có được cuộc sống phú quý vinh hoa đầy trời, cái giá phải trả cũng đã đủ.

Công Tôn Trác Ngọc thấy Đỗ Lăng Xuân vẫn đang run rẩy, kéo chăn đắp chặt thêm cho y, như đang dỗ dành trẻ con mà vỗ nhẹ vài cái. Sau đó vén lọn tóc đen ướt mồ hôi của y ra, chỉ thấy gương mặt y tái nhợt, môi nhạt màu, mỏng manh như tờ giấy, chỉ có hai hàng lông mày dài mảnh kéo dài tới tận tóc mai, sinh ra vài phần âm trầm độc ác.

Nhìn một cái đã biết không phải người hiền lành, nhất định đầy mưu kế.

Nhưng điều đó không quan trọng, Công Tôn Trác Ngọc nhún vai, dù sao anh cũng chẳng phải người tốt lành gì.

Anh ở trong phòng đến tận nửa đêm, đợi Đỗ Lăng Xuân thực sự ngủ say mới lặng lẽ rút tay mình ra đi, trên cổ tay in hằn bốn vết bầm tím, có thể thấy y đã nắm chặt đến mức nào.

Tuy nhiên, Công Tôn Trác Ngọc lại quên mất một chuyện, anh đã cởi áo của Đỗ Lăng Xuân, còn chưa kịp thay áo mới cho y đã vỗ mông bỏ đi.

Trăng đã lên cao, người trong phủ nha đều ngủ say. Công Tôn Trác Ngọc ngáp dài, cũng chui vào chăn, chẳng mấy chốc đã ngủ, và mơ một giấc mộng mơ hồ, ám muội.

Trong mơ, anh ôm một thân thể, không thấy rõ mặt.

Mảnh mai, trắng trẻo, mang theo hương trầm nhạt nhòa, tựa như thuốc phiện khiến người ta mê đắm.

Công Tôn Trác Ngọc cảm thấy nóng bừng mặt, bản năng muốn tránh né, nhưng đối phương lại cứ quấn lấy anh không buông. Mái tóc dài đen như lụa đổ xuống, chạm vào lạnh lẽo, mềm mại như rắn. Y khẽ cười bên tai anh.

Công Tôn Trác Ngọc như bị mê hoặc, không kiềm chế được mà hôn đối phương. Năm ngón tay đan vào tóc đen, ánh mắt trượt xuống, dừng lại nơi cổ trắng trẻo, cuối cùng nhẹ nhàng hôn lên một nốt ruồi son.

Đỏ như máu, cuốn hút lòng người.

Công Tôn Trác Ngọc mơ hồ cảm thấy có gì đó không đúng, lý trí đã sớm bỏ đi. Anh dùng đầu ngón tay chà xát nốt ruồi son đó, dường như nghe thấy đối phương khẽ r*n r*, âm thanh vừa âm u vừa mang theo tiếng thở dài.

Núi lửa lặng im, cuối cùng bất ngờ phun trào, lại như mặt biển sóng gió đột nhiên yên bình, trở lại với gió êm sóng lặng.

Công Tôn Trác Ngọc thở hổn hển, cố gắng nhìn rõ mặt người đó, nhưng trong đầu đột nhiên hiện lên một đôi mắt dài hẹp, quen thuộc vô cùng, rõ ràng là của Đỗ Lăng Xuân. Một sợi dây bất ngờ đứt phựt, anh lập tức giật mình ngồi bật dậy.

Trời ạ!

Công Tôn Trác Ngọc trừng lớn mắt, ngực phập phồng, hơi thở dồn dập, không thể nào tưởng tượng nổi mình lại mơ thấy Đỗ Lăng Xuân. Anh đưa tay sờ, mồ hôi đầy đầu, theo bản năng nhìn quanh, mới phát hiện trời đã sáng.

Anh ngẩn người một lát, vén chăn, chậm chạp định dậy, nhưng không biết phát hiện gì, cúi đầu nhìn quần, rồi vội vàng ngồi xuống.

Công Tôn Trác Ngọc đỏ bừng mặt, lúc này trong đầu chỉ có hai chữ rõ ràng—

Mất mặt!

Người trong phủ đều biết, huyện thái gia của họ, không ngủ đến khi mặt trời lên cao thì sẽ không dậy. Nhưng hôm nay, khi nha hoàn vào bếp lấy bữa sáng, lại hiếm thấy thấy Công Tôn Trác Ngọc đã dậy, đang ngồi bên giếng kỳ cọ quần áo, lén lút như kẻ trộm.

Nha hoàn nghi ngờ mình nhận nhầm người, bước chân xoay chuyển, đi lên phía trước, thăm dò gọi một tiếng: "Đại nhân?"

Công Tôn Trác Ngọc lập tức cảnh giác quay đầu: "Ai!"

Nha hoàn giật mình: "Đại nhân, ngài đang làm gì ở đây?"

Nói xong thấy anh ngâm quần áo trong chậu, dưới đất còn chất đống một đống, vội vàng bước tới ngăn lại: "Đại nhân, sao ngài có thể làm việc nặng nhọc như giặt quần áo được, vẫn nên để nô tỳ làm cho."

Công Tôn Trác Ngọc nghe vậy lập tức che chậu nước: "Không cần, hôm nay ta vừa hay rảnh rỗi, hoạt động gân cốt, ngươi làm việc của mình đi."

Nha hoàn nghĩ Công Tôn Trác Ngọc nếu hoạt động gân cốt thì cũng nên tập kiếm trong sân, sao lại chạy tới đây giặt quần áo. Tuy thấy lạ nhưng không dám hỏi nhiều, chỉ đành thu tay lại, ba bước quay đầu rời đi.

Cô có lẽ nghĩ Công Tôn Trác Ngọc có bệnh.

Công Tôn Trác Ngọc mặc kệ cô, bưng chậu nước trốn vào một góc hẻo lánh, tiếp tục ngồi xổm giặt. Vừa giặt vừa không ngừng nhớ lại chuyện hôm qua, nghĩ chẳng lẽ vì Đỗ Lăng Xuân quá giống nữ tử nên mình mới mơ giấc mơ hỗn độn đó?

Công Tôn Trác Ngọc là kẻ tham công tiếc việc, thỉnh thoảng cũng thích nhìn ngắm mỹ nhân. Nhưng thời này nam nữ phòng bị nghiêm ngặt, không làm gì được. Nữ tử thanh lâu tuy cởi mở, Công Tôn Trác Ngọc cũng không dám tùy tiện, lỡ như dính phải bệnh hoa liễu, thời cổ đại này không có chỗ chữa trị.

Anh hơi mơ màng, đến mức không nhận ra có một bóng người đang tiến lại gần, cho đến khi tiếng bước chân gần hơn, mới theo phản xạ ngẩng đầu, sau đó như lửa đốt nhảy dựng lên: "Nương...nương ... nương... sao nương lại tới đây!"

Lão phu nhân chống gậy, trong tay có một chuỗi tràng hạt đen bóng, đôi mắt bà có bệnh, không nhìn thấy Công Tôn Trác Ngọc đang giặt gì, nghe thấy động tĩnh, hỏi một câu: "Là Trác Ngọc sao?"

Công Tôn Trác Ngọc lắp bắp: "Nương... là là là ta."

Lão phu nhân nhạy bén nghe ra sự chột dạ trong giọng anh, hỏi một câu: "Ngươi đang làm gì đấy?"

Công Tôn Trác Ngọc không động thanh sắc đá chiếc chậu nước ra xa: "Nương, ta không làm gì cả, sao nương lại ra đây một mình, không có a hoàn đỡ?"

Lão phu nhân khẽ gẩy chuỗi hạt Phật trong tay: "Ngày mai là ngày giỗ của cha ngươi, ta bảo a hoàn đi lấy hương nến đã xếp sẵn, nên không có ai ở bên cạnh."

Công Tôn Trác Ngọc suy nghĩ kỹ một lúc, nhận ra ngày mai quả thực là ngày giỗ của phụ thân, vỗ trán một cái: "Ngày mai ta sẽ bảo người chuẩn bị xe ngựa, cùng đi thắp hương cho cha."

Lão phu nhân không nói gì, dùng gậy dò dẫm trên mặt đất, cuối cùng chạm vào mép chậu gỗ, bên trong ngâm đầy quần áo: "Đây là gì?"

Công Tôn Trác Ngọc giật mình: "Nương nương nương! Đừng động vào, đây là quần áo bẩn."

Lão phu nhân càng nghi hoặc: "Ngươi đang giặt quần áo ở đây sao?"

Công Tôn Trác Ngọc vừa bê chậu đi xa vừa nói: "Ta là quan phụ mẫu, tất nhiên không thể hưởng lạc, có việc gì cũng nên tự mình làm, hơn nữa trong nhà thiếu người, nên ta tự giặt."

Lão phu nhân mỉm cười, không rõ là tin hay không: "Thật không giống lời ngươi thường nói, vậy ngươi giặt đi, ta về Phật đường tụng kinh."

Công Tôn Trác Ngọc thở phào nhẹ nhõm, mồ hôi đổ đầy lưng vì căng thẳng: "Nương, nương đi một mình không tiện, để ta gọi a hoàn đỡ nương đi."

Nói xong anh gọi lớn trong viện: "Có ai không... à không, mau lại đây, đưa lão phu nhân về Phật đường."

Công Tôn Trác Ngọc kỳ cọ sạch sẽ chiếc quần, rồi phơi lên. Ban đầu anh định về phòng ngủ thêm, nhưng đã hết buồn ngủ. Anh chợt nhớ ra hôm nay Đỗ Lăng Xuân sẽ áp giải phản đảng về kinh, dù sao cũng nên tiễn một chút, liền bảo người chuẩn bị xe ngựa, đến biệt viện hôm qua, nhưng không ngờ lại không gặp ai.

"Đại nhân đến muộn một bước," a hoàn coi nhà nói, "sáng nay tư công đã dẫn theo đại đội nhân mã lên đường, ước chừng bây giờ đã ra khỏi địa phận Giang Châu."

Công Tôn Trác Ngọc nghĩ sao lại đi rồi, anh vén rèm, nhìn a hoàn hỏi: "Tư công không để lại lời nào sao?"

Nói gì đến việc thăng chức cho anh? Nói gì đến việc đưa anh vào kinh làm quan? Sao lại đi rồi?

Đại lừa đảo!

A hoàn bị anh nhìn đến đỏ mặt, dùng tay áo che mặt lắc đầu: "Không để lại một lời nào."

Nhưng không nói sáng nay Đỗ Lăng Xuân từ phòng tỉnh lại, không biết vì sao, nổi một trận lôi đình, vẻ mặt âm trầm đáng sợ. Đồ đạc trong phòng bị đập tan tành, còn phạt mấy gia nhân.

Toàn phủ im thin thít, gan mật như muốn vỡ tung. May mà đại a hoàn Chi Hà giải thích rằng tối qua Công Tôn Trác Ngọc luôn ở bên, mới miễn cưỡng làm nguôi giận tư công, bằng không không biết bao nhiêu người sẽ mất mạng.

Công Tôn Trác Ngọc phe phẩy quạt trong tay, lòng vô hạn bồi hồi. Tư công lừa đảo, dối trá, hôm qua còn uống rượu thề thốt sẽ đưa anh vào nội các, thăng quan tiến chức, một đêm mà đã đi mất.

Thôi thôi, đều tại mình quá ngây thơ.

Công Tôn Trác Ngọc buông rèm, dùng quạt nhẹ gõ cửa xe, nói với Thạch Thiên Thu: "Sư phụ, về thôi."

Thạch Thiên Thu vung roi ngựa, tò mò quay đầu lại nhìn, thấy Công Tôn Trác Ngọc nằm bên trong, bộ dạng ủ rũ, ấm ức, không khỏi cười: "Đại nhân làm gì vậy, trông như bị ai bắt nạt."

Công Tôn Trác Ngọc thở dài một hơi, chỉ nói năm chữ: "Gặp người không tốt."

Tưởng rằng tiền đồ sáng lạn, không ngờ giờ thật sự tiền đồ vô vọng.

#Đỗ_Lăng_Xuân_đại_lừa_đảo#

Thạch Thiên Thu đã quen với dáng vẻ thần thần bí bí của anh, vừa lái xe trở về, vừa nói: "Đại nhân hà tất phải như thiếu nữ, nam nhi đại trượng phu, có gì mà không vượt qua được."

Công Tôn Trác Ngọc mắt lộ vẻ buồn bã: "Ngươi không hiểu."

Thạch Thiên Thu: "..."

Họ lái xe về phủ nha, Công Tôn Trác Ngọc vừa từ xe ngựa bước xuống, không xa đột nhiên có tiếng vó ngựa dồn dập. Anh theo phản xạ nhìn, thấy một nam tử mặc áo đen mang kiếm phi ngựa đến, kéo cương dừng lại trước mặt mình.

Không ai khác chính là thị vệ thân cận của Đỗ Lăng Xuân, Ngô Việt.

Hắn cưỡi ngựa, kéo cương nói: "Công Tôn đại nhân chủ nhân của ta có lời nhắn cho ngài."

Công Tôn Trác Ngọc ngẩng đầu: "Lời gì?"

Ngô Việt trầm giọng nói: "Hạc sinh nơi cửu cao, phượng đậu chốn ngô đồng, Công Tôn đại nhân đã chọn cành tốt, không thể đổi ý. Ngày tái ngộ sẽ là dưới chân thiên tử, sớm chuẩn bị."

Nói xong ném một hộp gấm vào lòng anh, rồi thúc ngựa phi đi, thoáng chốc đã mất dạng.

Công Tôn Trác Ngọc theo phản xạ đón lấy hộp, rồi dùng tay áo quạt bụi trước mặt, nghĩ thầm "ngày tái ngộ sẽ là dưới chân thiên tử", chẳng lẽ Đỗ Lăng Xuân sẽ thăng chức cho mình vào kinh?!

Anh cúi đầu nhìn hộp gấm trong tay, mở ra, thấy bên trong là một tấm thẻ bài làm bằng huyền thiết đen, khắc chữ "Đỗ" lớn, chính là thẻ bài riêng của Đỗ Lăng Xuân.

Thạch Thiên Thu bên cạnh nhìn, sợ hộp có ám khí: "Đại nhân, đây là vật gì?"

Công Tôn Trác Ngọc cầm thẻ bài, ngụ ý nói: "Có vật này, có thể ngang dọc kinh thành, tự nhiên là thứ tốt."

#Tư_công_tuyệt_thế_nam_nhân#

#Không_chấp_nhận_phản_đối#

Còn ở ngoài thành năm dặm, một đoàn người ngựa đang phi nhanh, Ngô Việt đuổi kịp đại đội, rồi thấp giọng nói với người trong xe ngựa: "Bẩm Tư công, lời đã truyền đạt."

Rèm xe được một bàn tay thon dài vén lên, lộ ra gương mặt âm nhu của Đỗ Lăng Xuân, thần sắc hơi âm trầm——

Có lẽ vì sáng sớm nổi giận.

Đỗ Lăng Xuân mặt không biểu cảm: "Hắn có nói gì không?"

Ngô Việt: "..."

Ngô Việt hình như chưa đợi Công Tôn Trác Ngọc nói đã thúc ngựa đi, hắn cúi đầu, nắm chặt dây cương, lúng túng nói: "Công Tôn đại nhân trông rất vui."

Đỗ Lăng Xuân cười lạnh một tiếng, nặng nề buông rèm: "Hắn lại vui rồi."

Đỗ Lăng Xuân nhớ lại dáng vẻ mình buổi sớm mai thức dậy, y phục không chỉnh tề, trong lòng vẫn dâng lên một ngọn lửa vô danh. Ngoài phẫn nộ, còn có bất an và kinh hãi. Y không dám chắc hôm qua Công Tôn Trác Ngọc đã làm gì, hoặc nhìn thấy những gì.

Y chỉ nhớ mang máng có người cách chăn ôm lấy mình, ở lại rất lâu, rất lâu...

Đoàn xe di chuyển rất nhanh, thành Giang Châu đã bị bỏ lại xa tít phía sau, dần hóa thành một chấm đen nhỏ, chỉ còn hai bên đường, hoa vàng nở rộ. Đỗ Lăng Xuân vén rèm xe, nhìn ra bên ngoài, rồi lại trầm ngâm buông mắt xuống.

Công Tôn Trác Ngọc, chúng ta sẽ sớm gặp lại thôi...

Thời gian như dòng nước trôi, ngày đêm không ngừng. Công Tôn lão đại nhân đã khuất nhiều năm, mọi thứ xung quanh đều thay đổi, chỉ có ông là nằm yên dưới đất sâu, dùng cái chết chống chọi lại sự thay đổi mà thời gian mang đến.

Công Tôn lão đại nhân cả đời thanh bạch, nơi an nghỉ cũng chẳng phải huyệt địa phong thủy tốt đẹp gì, chỉ là một vị trí cao hơn một chút trên núi hoang, dựng một tấm bia đá trông còn có phần tươm tất.

Con đường núi gập ghềnh, xe ngựa đi đến chân núi thì không thể tiến thêm, mọi người đành xuống xe. Lão phu nhân chân yếu tay mềm, không cho Công Tôn Trác Ngọc cõng, chỉ chống gậy tự mình đi. Thạch Thiên Thu đi theo phía sau, cầm một gói hành lý, bên trong chứa hương nến cùng các vật phẩm cúng bái.

Hắn cũng đến để tế bái Công Tôn đại nhân.

Công Tôn Trác Ngọc đỡ lão phu nhân, thấy bà đi từng bước loạng choạng, không khỏi nói: "Nương, để ta cõng nương nhé."

Lão phu nhân lắc đầu: "Mắt ta không tốt, mỗi năm chỉ có lúc này đến thăm cha ngươi, không cần vội, cứ đi chậm thôi."

Công Tôn Trác Ngọc nghĩ, bà luôn nhốt mình trong Phật đường, bình thường cũng không mấy khi ra ngoài, coi như nhân dịp này thư giãn một chút, bèn đồng ý. Hai mẹ con vừa đi vừa trò chuyện dọc đường.

Lão phu nhân hỏi: "Xung quanh đây đều là ruộng đồng sao?"

Công Tôn Trác Ngọc nhìn quanh rồi đáp: "Dưới chân núi thì có, trên núi thì không nhiều."

Lão phu nhân tuy mắt kém, nhưng ánh nhìn vẫn hiền từ: "Mong rằng năm nay bá tánh có được một vụ mùa bội thu, gia đình thường dân chỉ cầu no ấm, chẳng mong gì hơn."

Đường núi lởm chởm đá vụn, càng đi sâu thì lại dần bằng phẳng hơn. Lão phu nhân như có cảm giác, bỗng hỏi: "Trác Ngọc, có phải đã gần đến mộ cha ngươi rồi không?"

Công Tôn Trác Ngọc ngạc nhiên, nghĩ bụng bà làm sao biết được, nhìn về phía tấm bia mộ phía trước, đáp: "Nương, mắt nương khỏi rồi sao?"

Lão phu nhân lắc đầu: "Mắt ta vẫn mù, sao mà khỏi được. Chỉ là mắt mù, nhưng lòng ta thì không."

Đang nói, họ đã đến trước mộ.

Bà dò dẫm đưa tay chạm vào tấm bia đá lạnh buốt, từ từ vuốt xuống, lần lượt lướt qua hai chữ "Công Tôn", tiếp tục hạ tay, cuối cùng dừng lại ở hai chữ "Liêm Kính". Bà khẽ v.uốt ve hai chữ ấy một lúc lâu, đầy yêu thương.

Công Tôn Liêm Kính, đó là danh tự của lão đại nhân. Cuộc đời ông, quả thực xứng đáng với cái tên này.

Lão phu nhân khẽ thở dài: "Trác Ngọc, cạnh bia mộ có cỏ dại không?"

Công Tôn Trác Ngọc nhìn quanh một lượt, đáp: "Nương, không có."

Lão phu nhân không nói gì thêm, quỳ xuống chiếc bồ đoàn, cắm ba nén hương vào lò đã đầy tro hương, lạy hai lạy, rồi nói: "Trác Ngọc dạo này đã có chút tiền đồ, nghe các nha hoàn bảo ngươi phá được hai vụ án lớn, sau này nói không chừng cũng sẽ được bá tánh yêu mến như cha ngươi."

Công Tôn Trác Ngọc không mấy bận tâm đến câu "được bá tánh yêu mến". Anh nghĩ, sau này mình chết đi, nhất định không muốn bị chôn ở nơi núi rừng hẻo lánh, chim không thèm ghé, gà chẳng buồn gáy thế này. Ai còn nhớ đến một người như vậy chứ?

Khi xưa Bao Công từng nói, hậu thế con cháu làm quan có phạm tội th*m nh*ng, không được quay về quê quán, không được chôn trong lăng tẩm tổ tiên. Không tuân theo ý ta, không phải con cháu ta. Vì thế mới có câu "Bất hiếu tử tôn, bất đắc nhập mộ".

May mà Công Tôn lão đại nhân không để lại lời như vậy, nếu không, Công Tôn Trác Ngọc chết rồi e rằng cũng chẳng được chôn trong phần mộ tổ tiên.

Lão phu nhân lâu không nghe thấy anh nói gì, ngước nhìn xa xăm, trầm ngâm nói: "Trác Ngọc, cha ngươi tuy nản lòng với quan trường, nhưng lúc qua đời chưa từng hối hận về con đường ông ấy đã chọn. Ngươi rất thông minh, chỉ là nườn không biết ngươi sẽ đi theo con đường nào..."

Công Tôn Trác Ngọc lập tức nói lời lấy lòng: "Tự nhiên là lưu danh sử sách, không phụ kỳ vọng của nương."

"Danh?" Lão phu nhân nhẹ nhàng xoay chuỗi tràng hạt trong tay: "Ngươi và cha ngươi không giống nhau. Ngươi cầu danh vọng trên giấy, cha ngươi cầu sự bình an trong lòng. Cái trước chỉ tồn tại trên sách vở, cái sau lại sống mãi trong lòng người..."

Bà vừa nói vừa chạm tay vào tấm bia lạnh giá: "Bá tánh vẫn còn nhớ cha ngươi..."

Trên núi hoang vu, cỏ dại mọc đầy, nhưng xung quanh mộ phần lại sạch sẽ, không chút tạp nhạp. Lò hương đầy tro, chứng tỏ thường xuyên có người đến tế bái. Ngay cả con đường dẫn lên núi, càng gần mộ phần lại càng bằng phẳng dễ đi.

Trên đời này, ai rồi cũng sẽ rời đi, sau đó bị thế nhân lãng quên. Bá tánh không còn nhắc đến Công Tôn đại nhân nữa, Công Tôn Trác Ngọc cho rằng họ đang dần quên lãng ông, nhưng không biết rằng tất cả đều đang được lưu giữ, tồn tại bằng một cách khác.

Anh cầu danh trên giấy, còn cha anh lại để lại tiếng thơm muôn đời.

Công Tôn Trác Ngọc dường như cũng nhận ra điều gì đó, nhìn quanh một lượt, muốn phản bác nhưng lại không tìm được lời, đành mím môi im lặng.

Thạch Thiên Thu đốt nến trắng, hóa tiền giấy, quỳ xuống trước bia mộ, chắp tay nói: "Đại nhân thiên cổ."

Con đường xuống núi đi nhẹ nhàng hơn lúc lên, nhưng Công Tôn Trác Ngọc lại hiếm khi giữ im lặng, không nói một lời, trầm mặc vô cùng. Trong mắt anh thoáng hiện lên vẻ mờ mịt, có lẽ anh bắt đầu do dự về con đường mình sẽ đi trong tương lai.

Nhưng bản tính anh thích hưởng nhàn, tránh khổ, chắc chắn không thể trở thành một vị quan tốt. Nhà này mất bò, nhà kia mất chó, anh còn có thể cố sức mà giúp đỡ, nhưng nếu vụ án liên quan đến quyền quý, thì chỉ có lòng mà bất lực.

Công Tôn Trác Ngọc là một người ích kỷ, khi đại nạn ập đến, anh chỉ biết chọn bản thân, không thể lo được cho người khác, thiếu đi khí độ hy sinh vì dân, rõ ràng còn xa mới xứng với hai chữ "thanh quan".

Anh chìm vào suy tư, vô cùng bối rối, muốn biết mình sau này nên đi con đường nào. Nhưng còn chưa nghĩ thông, một đạo thánh chỉ từ Lại Bộ đã đánh anh choáng váng.

"Hoàng thượng có chỉ, lệnh Giang Châu tri huyện Công Tôn Trác Ngọc lập tức tiến kinh, trợ giúp Hình Bộ phá án!"

Đây là một vụ án mạng liên hoàn liên quan đến triều thần cấp cao...

Tác giả có lời muốn nói: Công Tôn Trác Ngọc (lập tức không còn bối rối): Kinh thành, ta tới đây, xông xông xông!
 
Bàn Về Một Nghìn Cách Cải Tạo Tra Nam
Chương 184



Từ bộ Hộ truyền xuống một tờ điều lệnh, chỉ ngắn ngủi vài dòng chữ, nhưng Công Tôn Trác Ngọc lại ngửi ra một chút hương vị bất thường từ giữa những con chữ đó.

Hỗ trợ bộ Hình phá án?

Vậy thì chắc hẳn kinh thành đã xảy ra chuyện. Nhưng thời cổ đại thông tin liên lạc không phát triển, nếu có tin tức gì cũng phải mất mười ngày nửa tháng mới có thể nhờ các thương nhân qua lại mang về, vì vậy Công Tôn Trác Ngọc hoàn toàn không biết kinh thành rốt cuộc đã xảy ra vụ án gì nghiêm trọng.

Nhưng đã nhận được điều lệnh thì dù sao cũng là chuyện tốt, ít nhất anh không phải cả đời co ro ở cái nơi hoang tàn như Giang Châu này nữa.

Công Tôn Trác Ngọc không trì hoãn, lập tức thu dọn hành lý để lên đường. Chuyện này không giống đời sau, đi làm trễ cùng lắm chỉ bị trừ lương hay đuổi việc, nhưng chọc giận thiên tử thì đầu lìa khỏi cổ chỉ trong nháy mắt.

Thạch Thiên Thu biết Công Tôn Trác Ngọc phải đi kinh thành, bèn đề nghị cùng đi: "Chốn kinh kỳ phức tạp, hiểm ác khôn lường. Tại hạ lo lắng đại nhân đi một mình, nguyện xin theo hầu, bảo vệ đại nhân trên đường."

Công Tôn Trác Ngọc nghĩ thầm: Đại sư phụ, vốn dĩ ta định dẫn theo ngươi mà. Trong mười mấy sư phụ thì ngươi là người lợi hại nhất, không dẫn ngươi thì dẫn ai đây.

Anh vừa đếm lại ngân phiếu vừa đáp: "Nếu đã vậy, đại sư phụ cùng ta vào kinh, làm phiền ngươi đi mua hai con ngựa tốt ở phố Đông, chúng ta ngày đêm lên đường, sớm đến nơi thì tốt hơn."

Thạch Thiên Thu lĩnh mệnh: "Tuân lệnh, đại nhân."

Nhưng lại đứng im không nhúc nhích.

Công Tôn Trác Ngọc ngẩng đầu: "Đại sư phụ còn gì nữa?"

Thạch Thiên Thu đáp: "Đại nhân, ngài chưa đưa ngân lượng."

Công Tôn Trác Ngọc: "Ồ..."

Nếu đã rời nhà, dĩ nhiên Công Tôn Trác Ngọc không yên tâm để lão phu nhân ở lại một mình, nên căn dặn các sư phụ còn lại chăm sóc bà thật chu đáo, sau đó mới bắt đầu kiểm tra lại tiền bạc. Tất cả cộng lại chỉ có hơn bốn mươi tờ ngân phiếu mệnh giá nhỏ. Anh đưa một tờ cho Thạch Thiên Thu đi mua ngựa, còn lại thì nhét vào trong ngực mình.

Công Tôn Trác Ngọc chưa bao giờ thấy mình nghèo đến thế. Ngẩng đầu nhìn trời, anh không khỏi hoài niệm những ngày tháng làm quan tham trước đây: "Haizz..."

Hệ thống không biết từ đâu nhảy ra, "boing" một cái ngồi lên đầu anh: [Thân ái, suy nghĩ này rất nguy hiểm nha~]

Cái thân mình của nó giống như chất nhầy, vừa mềm vừa lạnh, Công Tôn Trác Ngọc luôn cảm thấy mình đang đội một thứ không thể nói ra trên đầu: "... Ngươi có thể xuống được không? Ta cứ thấy trên đầu mình có một bãi phân."

Hệ thống nghe vậy thì sững người, dường như trong một thời điểm xa xưa nào đó, từng có một ký chủ cũng nói câu tương tự. Nó lấy lại tinh thần, dùng đôi cánh của mình vỗ vỗ đầu Công Tôn Trác Ngọc: [Ngươi mới là phân, ngươi mới là phân.]

Công Tôn Trác Ngọc né tránh hai cái, thấy không đau gì cả thì mặc kệ nó luôn. Anh khoanh tay đứng dựa vào cửa, chờ Thạch Thiên Thu mua ngựa trở về, nhìn mặt trời mọc mà thầm nghĩ: "Ta sắp phải vào kinh thành rồi."

Nơi đây là trung tâm của phồn hoa thiên hạ, cũng là nơi anh mất mạng ở kiếp trước.

Hệ thống vẫn nói câu cũ: [Phải làm một vị quan tốt.]

Lần này nó không đánh anh nữa, chỉ nhẹ nhàng dùng cánh vuốt đầu anh.

Công Tôn Trác Ngọc nghe câu đó đến mức tai mọc kén. Anh thấy nha hoàn đã thu dọn xong hành lý, bèn quay vào tiểu Phật đường, từ biệt lão phu nhân, nói rõ với bà chuyện mình phải đi xa.

Lão phu nhân không nói nhiều, chỉ dặn: "Đi đi, nhưng phải sớm trở về, Giang Châu mới là nhà của ngươi."

Công Tôn Trác Ngọc cúi đầu: "Hài nhi đến kinh thành sẽ gửi thư về báo bình an, nương cũng phải bảo trọng thân thể."

Không lâu sau, Thạch Thiên Thu trở về. Hai con ngựa tốt màu hồng tía, tốn không ít ngân lượng, ở hiện đại thì cũng tương đương siêu xe. May mà chỉ đi hai người, thêm vài người nữa thì Công Tôn Trác Ngọc đành đi bộ.

Hai người lên đường đến kinh thành. Tính cả thời gian nghỉ chân tại các khách đ**m vào ban đêm, phải mất đúng mười lăm ngày mới tới nơi.

Đây là nơi phồn hoa nhất thiên hạ, cũng là trung tâm quyền lực.

Tường thành cao lớn uy nghi, thương nhân qua lại ăn mặc sang trọng. Chưa vào hẳn bên trong mà tiếng ồn ào náo nhiệt đã vọng tới tai. Hồ cơ trong tửu quán đang nhảy múa, nô lệ da đen từ Côn Luân biểu diễn tạp kỹ bên đường, quả thật là những điều trước nay chưa từng thấy.

Thạch Thiên Thu dắt ngựa, qua cửa thành bị binh lính tra xét, nhìn cảnh tượng cũng không khỏi cảm thán: "Đại nhân, kinh thành thật sự rất phồn hoa."

Hắn là người trong giang hồ, không câu nệ tiểu tiết, mặc bộ y phục đơn giản, phong trần bụi bặm, trên người giá trị nhất chính là thanh kiếm.

Công Tôn Trác Ngọc thì khác. Anh mặc trường sam lụa thêu họa tiết trúc đen, bên ngoài khoác áo sa trắng, thắt đai ngọc, tay cầm quạt xếp phe phẩy, cộng thêm đôi mắt đa tình, chỉ khiến người ta nhớ đến bốn chữ: Phong lưu phóng khoáng.

Từ lúc vào cổng thành, không ít cô nương nhìn anh đỏ cả mặt.

Công Tôn Trác Ngọc đi đông ngó tây: "Dưới chân thiên tử, sao có thể không phồn hoa? Chỗ này quả thực tốt hơn Giang Châu rất nhiều."

Thạch Thiên Thu thấy anh đi dạo tứ tung, trông như kẻ lãng tử: "Đại nhân, chúng ta có nên đến bộ Lại trước không?"

"Không vội." Công Tôn Trác Ngọc lắc đầu. "Chơi vài ngày trước, nghe ngóng tình hình."

Nếu đã tới bộ Lại, chắc chắn sẽ bị chuyện vụn vặt quấn thân. Bọn họ đã vất vả suốt dọc đường, dĩ nhiên phải nghỉ ngơi dưỡng sức. Với lại cũng cần bái lạy vài nơi, chẳng hạn đến phủ Tư Công gửi danh thiếp.

Công Tôn Trác Ngọc từng đến kinh thành một lần khi còn tại chức ở kiếp trước, nên cũng coi như quen thuộc. Ở đây có một tửu lâu lớn nhất tên là Tụ Hiền Các, dù là nơi ăn uống nhưng phong nhã vô cùng. Nhiều văn nhân sĩ tử tụ tập ở đó, chuyện trò tứ phương, cũng là nơi có tin tức nhiều nhất.

Công Tôn Trác Ngọc hiếm khi hào phóng: "Đi thôi, đại sư phụ, ta mời ngươi ăn bữa ngon."

Hành lý của họ không nhiều, chỉ có hai con ngựa, tìm chỗ buộc lại là xong. Cả hai men theo đường đến Vĩnh Bình Phường, chẳng mấy chốc đã thấy một tửu lâu khí phái sừng sững ở đó, bảng hiệu đề ba chữ lớn: Tụ Hiền Các.

Tầng một uống rượu ăn cơm, tầng hai nói chuyện luận đạo. Công Tôn Trác Ngọc đứng dưới lầu đã có thể nghe thấy mấy văn nhân phun nước miếng bay tán loạn.

Một tiểu nhị thấy bọn họ, lập tức chạy tới nghênh đón: "Khách quan, ngài muốn ăn cơm hay uống trà?"

Ăn cơm ở tầng một, uống trà lên tầng hai.

Công Tôn Trác Ngọc thu quạt lại, theo y vào trong: "Tất nhiên là ăn cơm."

Tiểu nhị dẫn bọn họ đến một chiếc bàn sạch sẽ, chỉ vào thực đơn treo trên tường rồi nói: "Khách quan muốn ăn món gì, cứ việc gọi. Nhưng món gà vàng trứ danh của quán, nhất định phải thử một lần."

Công Tôn Trác Ngọc thành thạo gọi vài món ăn, trong đó có cả món gà vàng nổi danh, cuối cùng nói thêm: "Lại thêm một ấm trà ngon nữa."

Anh những ngày qua gió bụi dặm trường, chỉ toàn ăn lương khô bánh mì, cả người gầy đi trông thấy, nên giờ muốn được thoải mái ăn uống, tạm thời gác chuyện tiền bạc sang một bên.

Tiểu nhị đáp: "Được rồi, khách quan chờ một lát, lập tức có món ngay."

Công Tôn Trác Ngọc ngồi xuống, vừa uống trà vừa lắng nghe động tĩnh xung quanh, tiếng trò chuyện của bàn bên cạnh lác đác vọng lại.

"Chà, không biết triều đình bao giờ mới bắt được hung thủ, đã chết ba người rồi, tuy đều là quan lại, nhưng ai biết được có ngày nào đó đến lượt chúng ta hay không."

"Gì mà sốt sắng thế, nghe nói Hoàng thượng đã triệu tập các cao thủ phá án khắp nơi về kinh, ngay cả Đường Phi Sương cũng đã nghe tin mà đến đây rồi. Người đó chính là một thiếu niên kỳ tài, phá vô số kỳ án, chức quan đưa tới trước mặt mà còn không thèm nhận."

Dân chúng kinh thành lúc rảnh rỗi cũng không thiếu thói quen hâm mộ người tài, Đường Phi Sương là một nhân vật nổi tiếng. Ông nội hắn là các lão đương triều, địa vị cực kỳ quan trọng, bản thân hắn cũng là người xuất sắc. Khi còn trẻ đã thi đỗ trạng nguyên, nhưng lại không muốn làm quan, thay vào đó chu du thiên hạ, phá không ít vụ án lớn.

Người bình thường thấy nhân vật như vậy, khó tránh khỏi thêm phần ca tụng. Nhưng Công Tôn Trác Ngọc lại cảm thấy Đường Phi Sương quá mức kiêu ngạo, tự cao tự đại. Không muốn làm quan thì thi cử làm gì, thật là nhàn rỗi không có việc gì làm.

#Ta chua xót, nhưng không muốn thừa nhận#

Cách một chiếc bàn, Thạch Thiên Thu cũng ngửi được trên người Công Tôn Trác Ngọc một mùi chua nồng. Hắn biết rõ nguyên nhân, bèn an ủi: "Đại nhân cơ trí hơn người, ngày nào đó tất cũng sẽ nổi danh thiên hạ như vậy."

Công Tôn Trác Ngọc: "Không, ngươi không hiểu."

#Người ta có ông nội tốt, còn ta cha mất sớm#

Đang nói, tiểu nhị bưng đồ ăn lên: "Khách quan, món gà vàng trứ danh của ngài đây—"

Công Tôn Trác Ngọc không có tâm trí đâu mà quan tâm gà hay không gà, thản nhiên ra hiệu cho tiểu nhị lại gần, đồng thời đặt một xâu tiền nhỏ lên bàn: "Ta là thương nhân từ nơi khác tới, gần đây ở quý thành có sự việc gì mới mẻ, kể ta nghe xem."

Tiểu nhị cầm tiền lên, lắc lắc, vui mừng cười toe toét: "Nếu nói chuyện mới mẻ, tất nhiên là có, chỉ e dọa khách quan sợ thôi."

Công Tôn Trác Ngọc: "Cứ nói đừng ngại."

Tiểu nhị nói: "Thực ra đây cũng không phải chuyện bí mật gì. Chừng nửa tháng trước, viên Thứ sử Lương Châu trên đường về kinh đột nhiên chết bất đắc kỳ tử, chết trạng rất thảm. Bộ Hình đến nay vẫn chưa tra ra manh mối, ngay sau đó lại đến lượt một Thị lang Bộ Hộ mất mạng. Hề, khách quan nói xem có trùng hợp không, toàn là quan lớn cả."

Tiểu nhị hạ giọng: "Hoàng thượng giận lắm, lệnh phải điều tra triệt để, vậy mà chưa được bao lâu, Kinh Triệu Doãn lại chết một cách kỳ lạ tại nhà. Hiện nay mọi người trong thành đều hoảng sợ, Bộ Hình và Kinh Luật Tư bắt bớ khắp nơi, đã nhốt không ít người rồi."

Công Tôn Trác Ngọc trầm ngâm: "Vậy Hoàng thượng có động thái gì chăng?"

Tiểu nhị đúng là thính tai nhanh nhẹn, đáp ngay: "Hoàng thượng tức đến phát bệnh nặng, trong triều nghị luận ầm ĩ. Tể tướng Nghiêm Phục đã tiến cử công tử nhà họ Đường, Đường Phi Sương, đến kinh điều tra án này. Còn Kinh Luật Tư đề đốc Đỗ Lăng Xuân thì tiến cử một người khác, nghe đâu là kỳ tài phá án Giang Châu, tên Công Tôn Trác Ngọc gì đó."

Nghe đến đây, Công Tôn Trác Ngọc chỉ khẽ phe phẩy quạt, chưa nói gì, tiểu nhị đã tiếp lời: "Nhưng theo tôi thấy, muốn phá án này, vẫn phải dựa vào công tử Đường. Hoàng thượng từng triệu không ít nhân tài vào cung, nhưng tiếc là ai cũng không ra gì."

Công Tôn Trác Ngọc cười lạnh, không chút ý tứ: "Sao ngươi dám khẳng định Công Tôn Trác Ngọc bất tài vô dụng?"

Tiểu nhị cười cười: "Người vô danh tiểu tốt, làm sao so được với công tử Đường? Người ta mười bảy tuổi đã đỗ trạng nguyên, kỳ tài ngút trời kia mà."

Công Tôn Trác Ngọc nghe vậy liền lấy lại tiền trên bàn. Tiểu nhị vội vàng giữ chặt: "Ấy ấy ấy, công tử, ngài làm gì vậy, sao lại lấy tiền của tiểu nhân?"

Công Tôn Trác Ngọc, với bản tính nhỏ nhen, giật mạnh lại xâu tiền: "Cái gì mà của ngươi? Đây là tiền của ta, ta đặt tử tế trên bàn, sao lại vào tay ngươi?"

Tiểu nhị kinh hãi, cả đời chưa gặp ai trơ trẽn đến thế: "Ngài, ngài, ngài..."

Công Tôn Trác Ngọc: "Ngài cái gì mà ngài, đi dọn đồ ăn đi."

Thạch Thiên Thu đã quen nhìn cảnh này, bình thản quay mặt sang hướng khác, giả bộ không quen anh.

Công Tôn Trác Ngọc nổi nóng, phe phẩy quạt nghe phành phạch, đến nỗi chẳng còn tâm trạng ăn uống. Nếu không phải khi xưa lười học bát cổ văn, anh đã sớm đỗ trạng nguyên, đâu đến lượt Đường Phi Sương lên mặt.

Từ trên các nhã gian tầng lầu, cách lan can vọng lại tiếng các thư sinh tranh luận sôi nổi. Càng nói lớn tiếng, càng hy vọng các quan to quyền quý trong tửu lầu nghe thấy.

Phú hào thường tìm rể quý ở bảng công danh, còn quyền quý tới đây để chiêu hiền tài.
 
Bàn Về Một Nghìn Cách Cải Tạo Tra Nam
Chương 185



"Năm xưa Hoàng thượng đăng cơ xưng đế, ban chiếu khắp thiên hạ, chiêu mộ hiền tài làm quan, không bỏ sót người nào. Vậy mà nay quyền gian nắm quyền, triều đình loạn lạc, khiến chúng ta chỉ đành u uất mà thôi, thật khiến người ta đau lòng!"

Một thư sinh say rượu tức giận vỗ lan can: "Đỗ Lăng Xuân chỉ vì chút lỗi nhỏ mà trừng phạt không ngừng, bao nhiêu năng thần vô tội bị liên lụy, kẻ thì thắt cổ, người thì bị chém, thậm chí cả lão thần như Bùi công cũng bị giáng chức đi Mặc Châu. Loại tai họa này, để thêm một ngày là thêm một ngày hại nước!"

Bùi công vốn là lão thần triều đình, phụng mệnh đi phương Nam trị thủy, không đành lòng nhìn dân đói khổ, bèn mở cửa thành cho dân chạy lánh nạn. Vì việc này, ông bị phe Đỗ Lăng Xuân buộc tội, giáng chức đi Mặc Châu.

Khi còn trẻ, Bùi công từng chủ trì khoa cử, bồi dưỡng không ít nhân tài, sĩ tử cả thiên hạ đều kính trọng ông như thầy. Có thể tưởng tượng được, chuyện này chẳng khác nào đụng vào tổ ong vò vẽ.

Vụ việc từng gây ra làn sóng tranh cãi không nhỏ, ngay cả Công Tôn Trác Ngọc kiếp trước cũng có nghe phong thanh. Nhưng đứng giữa thanh thiên bạch nhật, ở Tụ Hiền Các công khai phản đối, đúng là quá mức l.ỗ m.ãng, cũng chẳng sợ chết chút nào.

Hơn nữa, nghe một tiếng "hoạn quan" lại một tiếng "hoạn quan", Công Tôn Trác Ngọc cảm thấy không thoải mái.

"Các hạ nói vậy sai rồi. Bùi công bị giáng chức là vì thả dân lánh nạn, chuyện này thì có liên quan gì đến Đỗ đại nhân?"

Mọi người chỉ nghe một giọng nam trong trẻo từ phía dưới vọng lên, bất giác nhìn theo. Chỉ thấy một công tử áo trắng đang ngồi bên dưới, tay phe phẩy chiếc quạt giấy. Phong thái chính trực là thế, nhưng lời vừa nói lại không dễ chịu chút nào.

Có người lạnh lùng chất vấn: "Ngươi chẳng phải là chó săn dưới trướng của Đỗ Lăng Xuân sao?"

Công Tôn Trác Ngọc nhấp một ngụm trà, đáp lời: "Không phải, tại hạ chẳng qua chỉ nói đúng sự thật."

Vị thư sinh vừa giận dữ lên tiếng lập tức bước đến cạnh lan can, lớn tiếng: "Bùi công cho dân chạy nạn vào thành, là vì nghĩ cho bách tính, vì nghĩ cho thiên hạ! Nếu không phải đám người trong phe cánh của Đỗ đại nhân dâng lời gièm pha lên Hoàng thượng, ông ấy làm sao bị giáng chức đến nơi xa xôi ngàn dặm?"

Lời này vừa dứt, cả tửu lâu rúng động, ngay cả những thực khách đang ăn uống cũng đồng loạt ngoảnh đầu nhìn. Rốt cuộc, dân chúng thường có xu hướng đồng cảm với kẻ yếu thế.

Công Tôn Trác Ngọc không chút hoang mang, từ tốn đáp: "Hoàng thượng vốn không ban chỉ dụ cho phép dân chạy nạn vào thành. Bùi công tuy có ý tốt, nhưng lại tự ý làm chủ. Quốc gia không thể thiếu phép tắc, cho nên bị giáng chức ba ngàn dặm cũng là đúng luật định."

Vị thư sinh nhìn Công Tôn Trác Ngọc với ánh mắt chẳng khác gì nhìn phân chó: "Chẳng lẽ ngươi đành mắt thấy dân chạy nạn đói khát mà khoanh tay đứng nhìn hay sao?"

Công Tôn Trác Ngọc dứt khoát đứng dậy, phẩy nhẹ tay áo, nói: "Huynh đài nói sai rồi. Ngươi chỉ biết dân chạy nạn đói rét, nhưng đã nghĩ đến hậu quả nếu để họ vào thành chưa?"

Nói xong không đợi đối phương trả lời, anh tiếp lời: "Những dân chạy nạn đó không có lộ dẫn, nếu để họ vào thành, rất dễ lẫn lộn với kẻ có mưu đồ bất chính. Hơn nữa, bọn họ đều là những người già yếu, phụ nữ và trẻ em, nếu chẳng may mang theo dịch bệnh, thì chẳng phải sẽ gây họa cho cả một huyện hay sao? Ngươi nếu chịu hỏi Bùi công, sẽ biết sau khi ông ấy cho dân chạy nạn vào thành, toàn bộ mười sáu tiệm lương thực trong huyện đều bị họ cướp sạch, loạn lạc đến nhường nào."

Khi đám dân chạy nạn mất kiểm soát mà tràn vào thành phố, tỷ lệ tội phạm chắc chắn sẽ gia tăng chóng mặt. Lương thực của một huyện không thể nào nuôi đủ hai huyện, khi vượt quá giới hạn, hệ thống sẽ ngay lập tức sụp đổ.

Góc nhìn của Công Tôn Trác Ngọc rất sắc bén. Lời anh vừa nói ra khiến đối phương nghẹn họng, mặt đối mặt nhìn nhau mà không ai dám lên tiếng.

Công Tôn Trác Ngọc từ dưới lầu ung dung nói tiếp: "Việc làm của Bùi công đã là sai, nếu sai thì nên chịu phạt. Việc bị giáng chức đến Mặc Châu cũng là điều ông ấy đáng nhận. Ta nghe các vị ở đây xôn xao phẫn nộ, không hỏi nguyên do mà đổ lỗi cho người khác, thật không nhịn được mới lên tiếng nói vài lời công đạo. Mong các vị đừng trách."

Vị thư sinh kia bị mất mặt một cách ê chề, đứng bên lan can ngắm nhìn Công Tôn Trác Ngọc, phát hiện chưa từng gặp anh ở kinh thành bao giờ, chắc chắn không phải hạng quyền quý gì, liền lạnh lùng nói: "Bùi công dù có sai lầm, nhưng xuất phát điểm của ông ấy là vì điều tốt. Đỗ Lăng Xuân là hoạn quan, ỷ thế lộng hành, bài trừ phe cánh đối lập, thâu tóm tài sản, ức h**p kẻ sĩ như chúng ta, đây chẳng phải là sự thật hiển nhiên sao? Các hạ sao lại không phân rõ trắng đen?"

Mọi người xung quanh nghe vậy đều âm thầm gật đầu đồng tình.

Công Tôn Trác Ngọc thầm nghĩ, quan trường vốn đã vẩn đục, ngươi đấu không lại người ta thì trách ai được. Anh ngước nhìn đối phương, cười nhẹ: "Ồ, vậy tại sao huynh đài không dâng tấu lên Hoàng thượng? Hoàng thượng thánh minh, chắc chắn sẽ xử lý đám người của Đỗ đại nhân."

Thư sinh muốn nói rằng Hoàng đế căn bản sẽ không nghe, nhưng làm sao có thể nói Hoàng thượng không thánh minh? Đành nghiến răng đáp: "Tại hạ không có quan chức trong người!"

Công Tôn Trác Ngọc bật cười: "Hóa ra ngay cả chức quan cũng không có, vậy chẳng phải đến kỳ thi Hương còn chưa qua, cũng không biết ngài đã làm được việc thực tế nào cho bách tính? Huynh đài ở đây khua môi múa mép hùng hồn như vậy, nếu gan lớn thật, sao không đến cửa cung đập đầu chết tại chỗ, hoặc đứng trước phủ Đỗ đại nhân mà nói mấy lời vừa rồi? Lúc đó ta còn khâm phục ngươi vài phần."

Nói đoạn, anh dùng quạt chỉ thẳng vào thư sinh: "Tư Mã Thiên viết Sử Ký, Thái Luân phát minh thuật chế giấy, Dương Tư Úc bình định Tây Nam man, Đồng Quán kinh lược U Yên, ngay cả Đỗ đại nhân cũng từng liều mình hộ giá cứu giá. Còn huynh đài ở đây một lời lại một lời hoạn quan mà rủa, e rằng bản thân còn chẳng bằng hoạn quan, đúng là nực cười!"

Lời lẽ của Công Tôn Trác Ngọc lúc này quả thật là lưỡi dao sắc bén, thẳng thừng đâm vào chỗ đau của đối phương, chẳng khác nào tát hai cái thật mạnh ngay giữa đám đông.

Thư sinh tức giận đến mức run tay, cả buổi không nói nên lời. Không phải vì gì khác, mà bởi Công Tôn Trác Ngọc nói toàn là sự thật. Quan lớn quyền quý khâm phục người có tài, còn kẻ dám nói thẳng thường khiến họ nhìn bằng con mắt khác. Thư sinh thao thao bất tuyệt chẳng qua chỉ mong thu hút sự chú ý của kẻ quyền thế để trèo cao mà thôi.

Công Tôn Trác Ngọc châm chọc một hồi, cơn bực bội vì bị tiểu nhị mỉa mai ban nãy rốt cuộc cũng tan biến đôi phần. Anh liếc qua bàn ăn, thấy thức ăn đã bị Thạch Thiên Thu ăn gần hết, vừa định mở miệng bảo rời đi, không ngờ bên ngoài chợt vang lên tiếng bước chân dồn dập. Ngay sau đó, một toán người mặc áo đen bước vào, ai nấy đều mang đao bên hông, khiến mọi người xung quanh hoảng sợ.

Nếu nói kinh thành này có nơi nào khiến người ta vừa nghe đã kinh hồn bạt vía, thì chắc chắn phải là Kinh Luật Tư. Đám người áo đen này toàn là những kẻ giết người không chớp mắt, đã vào bên trong thì không có ai sống sót trở ra.

Chưởng quầy giật nảy mình, vội vã bước ra, chắp tay cúi người với người dẫn đầu nhóm Huyền Y Vệ: "Không biết quan gia đến đây có việc gì vậy ạ?"

Công Tôn Trác Ngọc vừa nhìn liền nở nụ cười, hóa ra là Ngô Việt.

Ngô Việt vẫn giữ nguyên vẻ mặt lạnh tanh, bên hông đeo lệnh bài Phó sứ Kinh Luật Tư, trầm giọng nói: "Phụng mệnh Đỗ Tư Công, đến đây truy bắt nghi phạm triều đình."

Chưởng quầy sợ hãi:b"Quán nhỏ của tiểu nhân vốn làm ăn lương thiện, chưa từng có nghi phạm nào ghé qua. Vả lại... vả lại chủ nhân của chúng tôi... mong Đỗ Tư Công nể chút thể diện mà châm chước."

Cái quán này tên Tụ Hiền Các, đặt ngay tại nơi sầm uất nhất kinh thành, nơi mà các văn nhân nho sĩ có thể tha hồ luận bàn cao xa. Chủ nhân đứng sau tất nhiên là có chút bối cảnh, nhưng Ngô Việt chẳng hề nể mặt, lạnh nhạt đáp: "Vậy thì bảo chủ nhân nhà ngươi tự đến gặp Đỗ Tư Công nói chuyện, lục soát!"

Lời vừa dứt, thuộc hạ lập tức phong tỏa cửa trước cửa sau, lần lượt kiểm tra từng thực khách. Ngô Việt đi thẳng lên lầu hai, hướng tới mục tiêu là thư sinh vừa nãy lên tiếng.

"Dạo gần đây, quan viên triều đình bị ám sát, Đỗ Tư Công hạ lệnh nghiêm tra những kẻ khả nghi. Các người có mang thân thiết* không? Lấy ra để kiểm tra."

*(Thân thiết: Loại giấy tờ giống chứng minh nhân dân thời hiện đại).

Thư sinh khi nãy vừa nói xấu Đỗ Lăng Xuân nên trong lòng thấp thỏm lo sợ, lắp bắp đáp: "Có... có mang theo..."

Hắn rút thân thiết ra đưa, Ngô Việt chỉ liếc qua rồi lạnh lùng phán: "Không phải người bản địa kinh thành, bắt đi!"

Thư sinh nghe xong tái mặt, thần thái hào hùng lúc nãy đã tan biến sạch, vội vàng biện bạch: "Ta... ta... ta là tú tài, sao có thể là nghi phạm triều đình được?!"

Huyền Y Vệ chẳng buồn nghe, lôi y xuống lầu như lôi một con chó chết. Công Tôn Trác Ngọc giơ quạt che mặt, đứng bên cạnh cười không chút nể nang.

"Đáng đời! Ngươi muốn trèo cao, kết quả lại bám vào nhầm sói dữ mà thôi!"

Thư sinh bất giác liếc thấy Công Tôn Trác Ngọc qua khóe mắt, đột nhiên vùng vẫy dữ dội, chỉ vào anh mà hét lớn: "Hắn mang theo hành lý, hành tung khả nghi, chắc chắn là người từ nơi khác tới. Quan gia, nếu phải tìm nghi phạm thì chính là hắn!"

Công Tôn Trác Ngọc ngây người, chuyện này sao lại dính dáng đến anh nữa rồi. Còn chưa nghĩ ra cách đối phó, đã thấy Ngô Việt nhìn về phía mình, đồng thời trên đầu vang lên một giọng nói không mang theo chút cảm xúc nào: "Công Tôn đại nhân."

Ngô Việt từ lúc bước vào tửu lâu đã nhìn thấy anh.

Công Tôn Trác Ngọc chỉ còn cách gấp quạt lại, đưa tay gãi gãi chóp mũi, chỉ vào Ngô Việt nói: "Ngươi không phải là... là cái người đó... Ngô Thị vệ?"

Ngô Việt tự báo danh: "Tại hạ Ngô Việt. Tư công đã chờ đại nhân từ lâu, xin hãy theo tại hạ đi một chuyến."

Các thực khách xung quanh thấy vậy đều đưa mắt nhìn nhau, âm thầm suy đoán thân phận của Công Tôn Trác Ngọc, không ngờ người này lại có thể được nhất đẳng hộ vệ bên cạnh Đỗ Lăng Xuân đối đãi khách sáo như thế.

Công Tôn Trác Ngọc ngẩn người: "Chờ từ lâu?"

Ngô Việt không trả lời. Đỗ Lăng Xuân ở kinh thành tay mắt thông thiên, bất kỳ động tĩnh nào y đều nắm rõ. Từ khi Công Tôn Trác Ngọc đặt chân đến địa phận kinh thành, nhất cử nhất động của anh đã bị Đỗ Lăng Xuân hoàn toàn nắm trong lòng bàn tay.

Ngô Việt vừa phân phó huyền y vệ mang thư sinh kia đi, vừa đơn giản nói: "Xe ngựa đã đợi bên ngoài, xin Công Tôn đại nhân."

Công Tôn Trác Ngọc rất hưởng thụ cảm giác "oai phong lẫm liệt" này, nghe vậy thì khẽ hắng giọng, âm thầm ra hiệu cho Thạch Thiên Thu lấy đồ rồi đi theo, cứ thế mà rời khỏi Tụ Hiền Các.

Công Tôn Trác Ngọc bụng dạ hẹp hòi, ghét nhất bị người khác chơi xỏ. Thấy thư sinh kia bị mang đi, anh lén nhặt một viên đá, vèo một tiếng ném ra, không lệch không chệch trúng ngay đầu gối đối phương. Chỉ nghe "bịch" một tiếng, người nọ ngã nhào xuống đất như chó ăn phân.

Công Tôn Trác Ngọc phe phẩy cây quạt tạo ra âm thanh phần phật, đắc ý nói đúng ba chữ: "Đánh chó rớt."

Thư sinh kia lộ vẻ phẫn hận, cố sức đứng dậy: "Có gan thì để lại tên!"

Công Tôn Trác Ngọc nghĩ bụng, cái gì chứ, còn định tìm anh báo thù, không được, anh không có thói quen kết thù với người khác. Cất giọng vang dội: "Ta chính là Trương Cát Cát ở Giang Châu, có gan thì tới tìm ta mà tính sổ!"

#Anh có thói quen kết thù với người khác#

Ngô Việt liếc nhìn anh một cái: "Công Tôn đại nhân?"

Công Tôn Trác Ngọc hoàn hồn, ngượng ngùng hắng giọng hai tiếng, tươi cười giải thích: "À thì, ta còn có tiểu danh là Cát Cát, Công Tôn Cát Cát, người quen đều gọi ta như vậy."

Nói xong, anh vội vàng trèo lên xe ngựa.

Ngô Việt không nói thêm, ngồi lên càng xe ngựa, vung roi thúc ngựa chạy về phía Tư công phủ.

Phía đông thành gần hoàng thành, địa thế đắt đỏ, phủ đệ của quan lại cũng tập trung đông đúc. Phủ nào càng gần hoàng thành, càng cho thấy được ân sủng của hoàng thượng. Mà Tư công phủ của Đỗ Lăng Xuân chính là phủ đệ rộng rãi và xa hoa nhất trong số đó.

Trước thư phòng treo một chiếc lồng chim, bên trong nuôi một con vẹt biết nói. Đỗ Lăng Xuân dùng lông chim đùa nghịch với nó một lát, liếc mắt nhìn thấy thị nữ tiến đến, bèn đặt lông chim xuống: "Người đâu?"

Thị nữ bước lên một bước, cung kính đáp: "Hồi Tư công, xe ngựa đã tới trước phủ, Ngô Thị vệ đang dẫn người đến đây."

Đỗ Lăng Xuân nghe xong không nói gì, phất tay ra hiệu nàng lui xuống, bản thân lại xoay người vào trong thư phòng. Y vốn định ngồi đợi, nhưng đi qua đi lại trong phòng nửa ngày vẫn không yên lòng.
 
Bàn Về Một Nghìn Cách Cải Tạo Tra Nam
Chương 186



Trên bức tường phía đông thư phòng có treo một bức tranh thủy mặc, núi non trùng điệp, nhật nguyệt luân phiên, chính là bức Sơn Xuyên Nhật Nguyệt Đồ mà năm xưa Công Tôn Trác Ngọc dâng lên. Đỗ Lăng Xuân không phải người yêu thi thư, nhưng lại đặc biệt yêu thích bức tranh này, mang nó về tận kinh thành.

Chuyện như vậy thật trái với tác phong thường ngày của y.

Khi Đỗ Lăng Xuân đang ngồi lặng trong thư phòng, Công Tôn Trác Ngọc cũng được Ngô Việt dẫn đến trước cổng Tư công phủ. Đám nha hoàn đã chờ sẵn từ lâu, thấy vậy liền tiến lên nói: "Tư công có lệnh, mời Ngô Thị vệ dẫn Công Tôn đại nhân đến thư phòng."

Thư phòng là trọng địa, ngày thường trừ vài tâm phúc mưu sĩ của Đỗ Lăng Xuân, người khác không được tùy tiện ra vào.

Ngô Việt biết rõ sự coi trọng của Đỗ Lăng Xuân đối với Công Tôn Trác Ngọc nên cũng không lấy làm ngạc nhiên, chỉ khẽ gật đầu tỏ ý đã hiểu.

Tư công phủ rất lớn, đi qua mấy cổng nhỏ, rồi qua một khu vườn cảnh, cuối cùng đến một hành lang ngoằn ngoèo. Đình đài lầu các, non bộ suối chảy, thậm chí nuôi không ít dị thú quý hiếm, hoàn toàn khiến Công Tôn Trác Ngọc được mở mang tầm mắt về hai chữ "xa hoa."

Anh cảm thấy bản thân chẳng khác gì bà cụ Lưu vào Đại Quan Viên, một kẻ quê mùa lên kinh thành, nhìn gì cũng thấy mới lạ.

Công Tôn Trác Ngọc kín đáo thăm dò: "Ngô Thị vệ, tư công nuôi dưỡng dị thú ở đây, chẳng sợ dọa đến nữ quyến trong phủ sao?"

Ngô Việt nghiêm túc trả lời: "Trong phủ không có nữ quyến."

Công Tôn Trác Ngọc thở dài: "Tráng lệ là thế, nhưng nơi lớn như vậy chỉ có mỗi tư công ở, thật khó tránh khỏi quạnh quẽ."

Không biết có tiện để mang thêm anh vào ở không, khách đ**m kinh thành hơi mắc.

"Không quạnh quẽ," Ngô Việt nói, "còn có nha hoàn, gia nhân, hộ vệ, môn khách."

Công Tôn Trác Ngọc: "..."

Họ lại đi thêm nửa nén nhang, cuối cùng mới đến trước thư phòng. Ngô Việt tiến lên gõ cửa, giọng cung kính: "Bẩm tư công, Công Tôn đại nhân đã tới."

Đỗ Lăng Xuân nghe thấy tiếng động, theo bản năng đứng dậy, nhưng không biết nhớ tới điều gì, lại ngồi xuống, dừng một lát mới nói: "Vào đi."

Hai chữ này rõ ràng chỉ dành cho Công Tôn Trác Ngọc.

Ngô Việt nghiêng người nhường đường: "Mời Công Tôn đại nhân vào."

Công Tôn Trác Ngọc thực ra hơi căng thẳng, không rõ nguyên do. Anh đứng ngoài chuẩn bị tâm lý một lúc lâu mới đẩy cửa bước vào. Chính giữa thư phòng đặt một lư hương chạm trổ hình thú nửa người cao, bên dưới trải thảm hoa văn, giữa phòng dùng một tấm bình phong họa chim hoa ngăn cách.

Công Tôn Trác Ngọc nhìn quanh một vòng, cuối cùng dừng ánh mắt trên tấm bình phong, thử thăm dò cất tiếng: "Tư công?"

Đỗ Lăng Xuân cầm trong tay chén trà, nghe thấy giọng nói của Công Tôn Trác Ngọc, khó tránh nhớ lại chuyện lần trước, nắp chén trên tay kêu "cạch" một tiếng ném xuống bàn.

Y từ trên ghế đứng dậy, vạt áo cọ nhẹ mặt đất, vang lên tiếng lụa sột soạt. Y đi đến trước bình phong, rồi dừng lại, giọng lạnh lùng hỏi: "Công Tôn Trác Ngọc, ngươi có biết tội không?"

Công Tôn Trác Ngọc đứng sau bình phong, nghe vậy ngẩn ra, trong đầu lập tức nhớ lại xem mình đã làm gì đắc tội Đỗ Lăng Xuân, nhưng kết quả lại chẳng có gì cả. Trừ... trừ lần trước nằm mộng...

Công Tôn Trác Ngọc không dám nghĩ đến giấc mộng kia, mỗi lần nghĩ tới, tai anh lại nóng bừng lên. Anh vô thức bóp bóp vành tai, qua bình phong nói: "Thưa tư công, hạ quan không rõ mình đã phạm lỗi gì..."

Đỗ Lăng Xuân qua những hoa văn chạm khắc trên bình phong, thấy Công Tôn Trác Ngọc gấp đến mức mồ hôi túa ra. Y nghĩ người này vừa nãy ở Tụ Hiền Các còn đấu khẩu với thư sinh kia miệng lưỡi sắc bén như thế, sao đứng trước mặt mình lại lắp ba lắp bắp đến đáng thương.

Một mảnh tĩnh lặng.

"..."

Đỗ Lăng Xuân hạ mắt, giọng y khó đoán, không rõ là vui hay giận: "Việc lần trước ngươi làm, bản thân ngươi không rõ sao?"

Công Tôn Trác Ngọc càng mơ hồ hơn. Chẳng phải anh chỉ giúp Đỗ Lăng Xuân thay bộ y phục thôi sao, có làm gì khác đâu. Anh chịu không nổi, thò đầu ra khỏi bình phong, nói: "Tư công, hạ quan chỉ thay áo cho ngài, thật sự không làm gì khác."

Anh không biết rằng, chỉ hai chữ "thay áo" đã vô tình nhảy múa trên điểm mấu chốt trong lòng Đỗ Lăng Xuân.

Đỗ Lăng Xuân trừng mắt: "Nghịch thần, ngươi còn dám nhắc đến!"

Y không hiểu tại sao, nghĩ đến việc Công Tôn Trác Ngọc có khả năng đã nhìn thấy vết sẹo xấu xí không nên thấy trên người mình, đầu ngón tay y run rẩy. Y không rõ là vì giận dữ hay vì xấu hổ, đến mức cả người cứng đờ, không nhúc nhích nổi.

Công Tôn Trác Ngọc lập tức giơ tay đầu hàng, ngoan ngoãn ngậm miệng: "Không nhắc nữa, không nhắc nữa."

Nhìn dáng vẻ vô tội của anh, Đỗ Lăng Xuân làm thế nào cũng không phát được cơn giận. Y đành phất tay áo quay lưng lại, im lặng không nói lời nào. Một lát sau, nhận ra bản thân vừa rồi phản ứng hơi quá, không giống thái độ nên có khi muốn kéo người về phe mình.

Đỗ Lăng Xuân hạ giọng, ôn hòa hỏi: "Ngươi đến kinh thành từ bao giờ?"

Công Tôn Trác Ngọc bắt ngay cơ hội, đáp: "Hồi tư công, hạ quan đến kinh sáng nay."

Đỗ Lăng Xuân liếc nhìn sắc trời bên ngoài, đã là giờ Ngọ, nhíu mày hỏi: "Tại sao không tới tìm ta?"

Công Tôn Trác Ngọc đưa tay gãi mũi, đáp: "Ban đầu định tìm chỗ ở trước, sau đó mới đến bái kiến tư công."

Không biết có phải ảo giác không, nhưng Đỗ Lăng Xuân dường như gầy hơn so với lúc ở Giang Châu, dung mạo vốn âm nhu nay lại thêm phần đơn bạc, không giống nam tử bình thường mạnh mẽ, đầy sức sống.

Nghe Công Tôn Trác Ngọc giải thích, tâm tình Đỗ Lăng Xuân dịu đi đôi chút. Y nhướng mày hỏi: "Tìm chỗ ở? Hay là tư công phủ ta không chứa nổi Công Tôn đại nhân đây?"

Công Tôn Trác Ngọc nghe vậy thì cười tươi như hoa, trong lòng nghĩ: Đợi ngài nói câu này lâu lắm rồi. Anh tiến thêm một bước, nói: "Vậy thì làm phiền tư công, hạ quan quấy rầy."

Là một nam tử đường hoàng, dáng người anh cao lớn khỏe mạnh. Khi anh tới gần, khí tức quanh anh tràn ngập áp lực, dễ khiến người đối diện bị bao phủ trong cảm giác bị đe dọa. Đỗ Lăng Xuân khẽ cứng người, muốn né đi nhưng không hiểu sao lại không nhấc chân nổi.

Thái giám trong cung dù đã mất đi nam tính nhưng đa phần vẫn yêu nữ tử, ít ai có thói đoạn tụ. Đỗ Lăng Xuân từ trước đến nay luôn vô tâm với chuyện nam nữ, nhưng khi đối diện Công Tôn Trác Ngọc, y lại không dám chắc nữa.

Đỗ Lăng Xuân ngồi xuống sau án thư, kéo giãn khoảng cách giữa hai người một cách kín đáo, đôi mày dài nhíu chặt, rồi đổi sang đề tài khác: "Ngươi có biết vì sao bệ hạ triệu ngươi vào kinh không?"

Công Tôn Trác Ngọc đáp: "Hạ quan có nghe qua, triều đình gần đây vô cớ có ba quan viên chết thảm, bệ hạ muốn chúng ta điều tra rõ sự thật."

Đỗ Lăng Xuân lại nói: "Đây chỉ là một phần."

Y vừa nói, vừa nghiến răng nghiến lợi, ngón tay chậm rãi v.uốt ve: "Đô úy kinh thành bị ám sát, vị trí đó liền bỏ trống. Ta vốn định dâng tấu lên bệ hạ, để ngươi từ Giang Châu điều về thay thế vị trí ấy. Nhưng ai ngờ lão hồ ly Nghiêm Phục lại chen ngang, nói ngươi tư lịch còn cạn, cần phải rèn luyện thêm, trực tiếp bác bỏ."

"Hả?"

Công Tôn Trác Ngọc nghĩ bụng: Mình cũng thảm quá rồi đi, miếng thịt béo đến miệng còn bị bay mất? Nghiêm Phục đúng là đồ đáng ghét!

Đỗ Lăng Xuân như nhìn thấu suy nghĩ của anh, lạnh giọng: "Ngươi cũng không cần lo lắng. Trước mắt cứ ở lại kinh thành, phụ giúp tra án, sớm muộn ta cũng để ngươi bước lên vị trí đó."

Công Tôn Trác Ngọc dù phá được vài vụ án nhưng cũng chỉ là mấy chuyện của bách tính thường dân. Vụ này lại liên quan đến quan chức triều đình, ắt hẳn không đơn giản. Anh không dám chắc bản thân có thể phá án, liền liếc nhìn Đỗ Lăng Xuân, hỏi: "Vậy nếu hạ quan không tra được..."

Đỗ Lăng Xuân ngẩng lên: "Không tra được thì không tra được, chẳng lẽ bản tư công ăn thịt ngươi chắc?"

Lời này nghe qua thì có lý, nhưng ngẫm lại lại chẳng hợp lý chút nào. Y đã muốn bồi dưỡng Công Tôn Trác Ngọc, tất nhiên là vì coi trọng năng lực của anh. Nếu vụ án này anh không tra ra được, chẳng khác nào trở thành quân cờ vô dụng, không cần phí công bồi dưỡng.

Nhưng bản thân Đỗ Lăng Xuân hoàn toàn không nhận ra rằng, ý nghĩ muốn Công Tôn Trác Ngọc thăng tiến còn lớn hơn cả kỳ vọng đối với năng lực trợ giúp của anh.

Công Tôn Trác Ngọc cười nhẹ: "Hạ quan nhất định không để tư công thất vọng."

Đỗ Lăng Xuân muốn tiến cử anh, còn Nghiêm Phục lại tiến cử Đường Phi Sương. Nếu đến lúc đó Công Tôn Trác Ngọc không phá được án, chẳng phải khiến cả y mất mặt, còn bị Nghiêm Phục đè bẹp.

Nghĩ đến đây, Công Tôn Trác Ngọc không khỏi hỏi: "Vậy những thông tin về ba người chết đó có hồ sơ chi tiết không?"

Đỗ Lăng Xuân sớm đoán được anh sẽ hỏi vậy, bèn đưa tập hồ sơ trên bàn cho anh: "Đây là hồ sơ từ hình bộ, ngươi cứ xem qua. Đợi Đường Phi Sương nhập kinh, các ngươi sẽ cùng diện thánh, phối hợp phá án."

Người đầu tiên chết là Đổng Thiên Lý, thứ sử Lương Châu. Trên đường về kinh báo cáo, ông ta nghỉ lại tại một khách đ**m. Sáng hôm sau, người ta phát hiện ông chết thảm trên giường, mặt bị l*t s*ch da, thân mình nằm trong vũng máu.

Trên bàn gần đó, hung thủ để lại một tờ giấy. Theo lời nha hoàn quét dọn, tờ giấy đó được gửi đến vào đêm trước khi Đổng Thiên Lý chết.

Trên giấy viết một bài thơ Biệt Đổng Đại của Cao Thích:

"Thiên lý hoàng vân bạch nhật huân,Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân.
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ,
Thiên hạ thùy nhân bất thức quân."

[*] Dịch thơ by Kally

"Ngàn dặm mây vàng, nắng trắng phai,

Gió bấc đưa nhạn, tuyết bay đầy trời.

Chớ buồn đường trước thiếu tri âm,

Trong thiên hạ, ai chẳng người hiểu ta!"

Công Tôn Trác Ngọc cảm thấy thú vị, tiếp tục lật hồ sơ.

Người thứ hai chết là Quách Hàn, thị lang bộ hộ. Ông ta bị ám sát trong một khuê phòng hoa khôi ở thanh lâu, thân thể bị cắt đôi từ phần eo, ruột gan đổ cả ra ngoài.

Trước khi chết một ngày, ông cũng nhận được một tờ giấy. Trên đó viết nửa đầu bài từ Thiên thu tuế. Thuỷ biên sa ngoại của Tần Quan:

"Thủy biên sa ngoại,
Thành quách xuân hàn thoái.
Hoa ảnh loạn, oanh thanh toái.
Phiêu linh sơ tửu trản,
Ly biệt khoan y đái.
Nhân bất kiến,
Bích vân mộ hợp không tương đối."

[**] Dịch thơ by Kally

Bên bờ nước, ngoài đồng xa,

Xuân tàn, thành quách nhạt nhòa gió bay.

Hoa rơi bóng loạn vơi đầy,

Oanh ca khúc vỡ, chuỗi ngày tiêu dao.

Chén rượu nhạt, áo xiêm xao,

Biệt ly khoan nhẹ xiết bao não nùng.

Người đâu thấy bóng trùng phùng,

Chiều buông mây biếc mịt mùng trời xa.

Công Tôn Trác Ngọc nhìn đến đoạn này, đã phát hiện điều gì đó, nhưng để xác nhận, anh tiếp tục lật sang trang tiếp theo.

Người chết thứ ba là Kinh Triệu Doãn Sở Liên Giang. Ông bị hung thủ móc đi đôi mắt, thi thể treo lơ lửng giữa đại sảnh nha môn, bên dưới kinh đường mộc có đè một tờ giấy. Trên giấy là bài thơ Phù Dung Lâu Tống Tân Tiệm của Vương Xương Linh:

"Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô,
Bình minh tống khách Sở sơn cô.
Lạc Dương thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ."

[*] Dịch thơ by Kally:

Mưa lạnh sông dài đêm tới Ngô,

Sớm mai tiễn khách, bóng Sở mờ.

Bạn hiền Lạc Dương nếu ai hỏi,

Xin gửi lòng trong ngọc sáng tơ.

Công Tôn Trác Ngọc nhìn về phía Đỗ Lăng Xuân:
"Tên hung thủ này quả thật quá ngông cuồng."

Đỗ Lăng Xuân nhướng mày: "Ngươi nhìn ra điều gì rồi?"

Công Tôn Trác Ngọc mỉm cười: "Hạ quan cho rằng, tên hung thủ này là một kẻ yêu thích sách vở. Chỉ là chưa tận mắt thấy thi thể và chứng vật, nên hạ quan không dám tùy tiện phán đoán."

Hiện tại, ba vị quan viên triều đình đã chết, mà trước khi chết, hung thủ đều đặc biệt gửi đến một tờ giấy có bài thơ liên quan đến tên họ của họ. Xét về một khía cạnh nào đó, hung thủ này võ công cao cường, tính cách ngông cuồng, dường như đang trêu chọc, chế giễu sự bất lực của triều đình.

Vụ án liên hoàn này có một quy luật rõ ràng: kẻ tiếp theo nhận được bài thơ sẽ trở thành mục tiêu của hắn. Có thể tưởng tượng được, trong triều từ văn thần đến võ tướng, người người đều lo sợ bất an, chỉ sợ chính mình bị cuốn vào.

Đỗ Lăng Xuân tất nhiên muốn Công Tôn Trác Ngọc nắm bắt thêm nhiều thông tin, để tránh bị Đường Phi Sương đoạt mất công lao. Y nói: "Ngày mai ta đưa ngươi tới Hình Bộ một chuyến, thi thể của ba người kia hiện đang được đặt ở đó. Ngươi muốn điều tra thế nào cũng được, có ta ở đây, người khác không dám nhiều lời."

Công Tôn Trác Ngọc thầm nghĩ, đây chính là cảm giác có chỗ dựa sao? Anh lặng lẽ quan sát dung nhan mày kiếm mắt phượng của Đỗ Lăng Xuân, bất giác mỉm cười, nhưng lại buột miệng nói một câu chẳng liên quan: "Tư công dường như gầy đi đôi chút..."

Giọng nói trầm thấp, mang theo sự quan tâm chân thành, hoàn toàn khác với vẻ cợt nhả ngày thường.

Đỗ Lăng Xuân nghe vậy, theo bản năng ngẩng lên, không ngờ lại bắt gặp ánh mắt anh đang nhìn mình, nhất thời tay run lên, suýt chút nữa làm rơi chén trà. Công Tôn Trác Ngọc nhanh tay đỡ lấy chén trà, sau đó đặt vững trên tay y, thấp giọng nói: "Tư công cẩn thận."

Tác giả có lời muốn nói: Công Tôn Trác Ngọc: Ôi, chạm tay rồi này!
 
Bàn Về Một Nghìn Cách Cải Tạo Tra Nam
Chương 187



Ngón tay hai người khẽ chạm vào nhau, thoạt nhìn như một tư thế nắm lấy tay nhau. Nhưng Đỗ Lăng Xuân lại cảm thấy lòng bàn tay Công Tôn Trác Ngọc còn nóng hơn cả chén trà, may mắn thay người kia chỉ chạm vào một lát đã lập tức thu tay lại, không để tình cảnh thêm lúng túng.

"..."

Đỗ Lăng Xuân liếc nhìn Công Tôn Trác Ngọc một cái, cố gắng phớt lờ cảm giác khác thường ban nãy, đặt chén trà xuống bàn: "Ngươi cứ ở lại viện phía đông, tối nay ta mở tiệc, giới thiệu ngươi với vài người."

Đỗ Lăng Xuân có thể đi đến địa vị ngày hôm nay, tất nhiên không phải nhờ vào một nhóm người bất tài vô dụng. Dưới trướng y có nhiều mưu sĩ, trong đó nổi bật nhất là Tống Khê Đường và Lãnh Vô Ngôn, đều là những danh sĩ đầy mưu lược.

Công Tôn Trác Ngọc nghe vậy hơi sững sờ, nghĩ rằng Đỗ Lăng Xuân đây là muốn đưa mình vào nhóm thân cận nhất hay sao? Trong lòng khó tránh khỏi kinh ngạc. Tuy đều là môn hạ, nhưng cũng có sự phân biệt về đẳng cấp, thân sơ. Nhất là đối với người ở vị trí cao như Đỗ Lăng Xuân.

Thử phá tan lớp giấy mỏng kia, quan lại ai mà không kết bè kết đảng, ai mà không nhận hối lộ, ai mà không làm chuyện không thể để lộ ra ngoài? Và những chuyện này đều cần giao cho tâm phúc xử lý. Nếu chẳng may gặp kẻ lòng dạ hiểm ác, bị đối thủ chính trị nắm được nhược điểm, chẳng khác nào nguy hiểm đến tính mạng, bởi vậy càng phải thận trọng.

Nhìn phim truyền hình không thấy sao? Nhân vật chính muốn được lòng tin của phản diện, thường phải mất mấy chục năm ẩn nhẫn, liều mạng. Công Tôn Trác Ngọc là người đầu tiên trực tiếp được đưa vào trung tâm thế lực.

Anh nghĩ Đỗ Lăng Xuân liệu có quá mức tin tưởng mình không, không nhịn được hỏi: "Tư công không sợ..."

Đỗ Lăng Xuân hỏi ngược lại: "Sợ gì?"

Công Tôn Trác Ngọc không hiểu sao nuốt lời định nói vào, lắc đầu đáp: "Không có gì."

Buổi tối, tiệc được mở tại gác lầu Phong Lai Thủy Tạ. Tống Khê Đường đi ngang qua hồ Lạc Nguyệt, vừa khéo gặp Lãnh Vô Ngôn, hắn vuốt vuốt bộ râu ngắn chưa tới tấc của mình, mỉm cười tiến lại gần:"Lãnh tiên sinh, thật là trùng hợp."

Lãnh Vô Ngôn là một người mang bệnh lao, sắc mặt xanh xao, nói hai câu phải ho mười tiếng, nhưng lại đầy bụng kinh luân, mưu lược hơn người, bởi vậy được Đỗ Lăng Xuân thu nhận làm môn hạ. Hắn nhìn thấy Tống Khê Đường, che miệng ho hai tiếng, giọng khàn khàn: "Tống tiên sinh."

Tống Khê Đường đi cùng hắn, vừa tiến về phía Phong Lai Thủy Tạ vừa trò chuyện: "Không biết Công Tôn Trác Ngọc này là người thế nào, có thể khiến Tư công coi trọng đến vậy, hôm nay rốt cuộc cũng được gặp rồi."

Hắn cả đời không có sở thích nào khác, chỉ thích đồ cổ tranh họa, đối với bức Sơn Xuyên Phong Nguyệt Đồ mà Đỗ Lăng Xuân mang về từ Giang Châu thì trầm trồ kinh ngạc, không thể rời mắt. Chỉ tiếc đã nhiều lần xin mà không được, bởi vậy trong lòng rất có cảm tình với Công Tôn Trác Ngọc.

Lãnh Vô Ngôn lại ho thêm hai tiếng, thản nhiên nói:
"Ta nghe nói người này ở Giang Châu phá được nhiều kỳ án, kêu oan cho dân, thanh danh không tệ."

Ngụ ý là, vốn không cùng đường với bọn họ, đột nhiên đầu nhập vào dưới trướng Đỗ Lăng Xuân, chỉ e tâm tư không thuần.

Tống Khê Đường là người thông minh, lập tức hiểu ra ý tứ trong lời y, nhưng không để tâm: "Tư công xưa nay thận trọng, đã làm vậy chắc chắn có an bài."

Trong lúc nói chuyện, hai người đã đến yến đình. Tống Khê Đường chỉ thấy Đỗ Lăng Xuân ngồi ở vị trí chính, bên dưới là một vị công tử áo gấm, đai ngọc trắng, phong thái thanh chính, đoán rằng chính là Công Tôn Trác Ngọc.

Tống Khê Đường hành lễ với Đỗ Lăng Xuân: "Tư công thứ tội, tại hạ đến muộn."

Hắn đã đến sớm hơn nửa chung trà, nhưng không ngờ Đỗ Lăng Xuân lại phá lệ đến sớm hơn, bởi vậy xin tội.

Lãnh Vô Ngôn cũng chắp tay hành lễ, sau đó không nhịn được mà ho khan hai tiếng.

Công Tôn Trác Ngọc âm thầm quan sát hai vị mưu sĩ thân cận này. Chỉ thấy họ đều khoảng trên dưới ba mươi tuổi, Tống Khê Đường để râu đen, mang khí chất văn nhân, còn Lãnh Vô Ngôn thì thân hình tiều tụy, ba phần giống ma, bảy phần giống người, rõ ràng là mang bệnh lâu ngày.

Đỗ Lăng Xuân phất tay áo: "Không sao, tiên sinh mời ngồi."

Nói xong, y lại giới thiệu với Công Tôn Trác Ngọc:
"Đây là Tống tiên sinh Tống Khê Đường, vị kia là Lãnh tiên sinh Lãnh Vô Ngôn."

Tống Khê Đường là người tinh ý, khi ngồi xuống, liền chắp tay nói với Đỗ Lăng Xuân: "Xin hỏi Tư công, vị này chính là Công Tôn đại nhân?"

Công Tôn Trác Ngọc vội đứng dậy: "Không dám nhận tiếng đại nhân, cứ gọi ta là Trác Ngọc được rồi."

Hai người đều là bậc thông đạt nhân tình, trên môi thoáng ý cười.

Đỗ Lăng Xuân trong lòng nghĩ, cũng không thấy Công Tôn Trác Ngọc đối với mình thân cận đến mức nào, khi gặp mặt vẫn là một câu "hạ quan", một câu "Tư công". Y cúi đầu uống một ngụm trà, giọng điệu không nghe ra cảm xúc: "Công Tôn Trác Ngọc phá án vô song, ta điều hắn vào kinh, có ý định bổ nhiệm chức vị Kinh Triệu Doãn, tiên sinh thấy thế nào?"

Tống Khê Đường nói: "Kinh Triệu Doãn quản lý kinh kỳ, là một chức vị quan trọng. Nếu có thể sắp xếp được, tự nhiên là tốt, chỉ e rằng những người như Nghiêm tướng sẽ gây trở ngại."

Hơn nữa, Công Tôn Trác Ngọc hiện chỉ là tri huyện, nay một bước thăng lên làm Kinh Triệu Doãn, quả thật có phần quá nhanh. Trừ phi lập được đại công, nếu không rất khó dập tắt lời đàm tiếu.

Đỗ Lăng Xuân đáp: "Không sao. Dạo gần đây triều đình xảy ra nhiều vụ quan viên bị giết, Hoàng thượng đã hạ chỉ để Công Tôn Trác Ngọc phối hợp Bộ Hỉnh điều tra vụ án. Đợi khi hắn phá được án, lập được đại công, việc thăng chức tự nhiên cũng thuận lý thành chương."

Kẻ luôn trầm mặc như Lãnh Vô Ngôn bỗng lên tiếng: "Công Tôn đại nhân giỏi phá án sao?"

Công Tôn Trác Ngọc nhìn sang, không rõ tại sao hắn lại hỏi vậy: "Chỉ hiểu sơ qua chút kỹ thuật vụn vặt."

Lãnh Vô Ngôn là một người mưu kế thâm sâu, bất kể việc gì cũng phải tính toán kỹ lưỡng. Hắn trầm ngâm một hồi rồi nói: "Nếu có thể làm giả chút chứng cứ, dẫn họa tới chỗ Nghiêm Phúc, làm gãy vài cánh tay của hắn, chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện sao?"

Công Tôn Trác Ngọc nghĩ, quả thật Lãnh Vô Ngôn danh xứng với cái tên "Quỷ Diện Thanh Xà", tâm tư như rắn độc. Nhưng thật đáng tiếc, phá án anh làm được, chứ chuyện giả mạo chứng cứ thì thật sự không biết, vì vậy không nói lời nào.

Lãnh Vô Ngôn ho nhẹ một hồi, ngước mắt nhìn Công Tôn Trác Ngọc, ánh mắt như thể có thể nhìn thấu suy nghĩ trong lòng anh: "Công Tôn đại nhân không muốn?"

Mấy chữ đơn giản rơi vào tai người khác không khỏi khiến họ nghĩ ngợi nhiều hơn. Nhất là Đỗ Lăng Xuân vốn tính đa nghi, không chừng sẽ nghĩ rằng Công Tôn Trác Ngọc có hai lòng. Rõ ràng, đây là Lãnh Vô Ngôn đang khéo léo đào hố.

Tống Khê Đường đứng một bên không khỏi lo lắng.

Công Tôn Trác Ngọc lại thẳng thắn nói: "Quả thực không muốn."

Lãnh Vô Ngôn không ngờ anh lại nói thẳng như vậy, theo bản năng nhìn về phía Đỗ Lăng Xuân. Thế nhưng y chẳng thấy chút giận dữ nào, chỉ nhàn nhạt đáp: "Hắn đến đây là để phá án, mấy chuyện lộn xộn này không làm được."

Trong lời nói rõ ràng mang theo sự thiên vị, ai nghe cũng hiểu được.

Lãnh Vô Ngôn lần đầu tiên trong đời đoán sai phản ứng của Đỗ Lăng Xuân. Hắn vốn nghĩ đối phương sẽ giận dữ hoặc âm thầm nghi ngờ khi nghe câu trả lời của Công Tôn Trác Ngọc. Nhưng kết quả lại hoàn toàn ngược lại, nhẹ nhàng cho qua chuyện như thế.

"Tư công nói phải."

Lãnh Vô Ngôn đành lên tiếng, nhưng lòng vẫn không giảm nghi ngờ. Hắn nghĩ, hành xử của Công Tôn Trác Ngọc rõ ràng không cùng một đường với bọn họ. Nếu anh là mật thám do Nghiêm Phục cài vào thì sao?

Công Tôn Trác Ngọc thực ra sau khi nói câu đó liền có chút hối hận, nếu lỡ làm Đỗ Lăng Xuân không vui thì sao. Anh nhấp một ngụm rượu, lén liếc nhìn lên ghế trên, lại bất ngờ bắt gặp ánh mắt Đỗ Lăng Xuân cũng đang nhìn mình, lập tức cúi đầu, sau đó không dám ngẩng lên nữa.

Rượu qua ba tuần, yến tiệc cũng tan.

Tống Khê Đường lại bất ngờ phát hiện ra hắn và Công Tôn Trác Ngọc rất hợp ý, chẳng hạn như cả hai đều yêu thích cổ vật, thư họa, kỳ trân dị bảo, nên trò chuyện rất hợp nhau.

Tống Khê Đường khi chia tay còn tỏ vẻ tiếc nuối:
"Công Tôn đại nhân, ngày khác nhất định tại hạ sẽ thỉnh giáo ngươi về thư họa, mong ngươi không tiếc lòng chỉ giáo."

Công Tôn Trác Ngọc: "Đâu dám, chỉ là cùng nhau trao đổi mà thôi."

Lãnh Vô Ngôn đi ngang qua anh, ho khan vài tiếng, giọng nói lịch sự mà không lộ chút sơ hở: "Công Tôn đại nhân, tại hạ không chịu được gió, xin cáo từ trước."

Công Tôn Trác Ngọc tươi cười đáp: "Lãnh tiên sinh bảo trọng."

Quay đầu lại, anh phát hiện Đỗ Lăng Xuân đã rời đi. Y đi qua nửa hành lang quanh co, phía trước có nha hoàn cầm đèn dẫn đường. Anh vội vã chạy theo: "Tư công, tư công!"

Đỗ Lăng Xuân dừng chân một chút nhưng không dừng hẳn. Chờ Công Tôn Trác Ngọc đuổi kịp, y mới cất giọng lãnh đạm: "Có việc?"

Công Tôn Trác Ngọc nhạy bén nhận ra y có gì đó không vui, anh nhận lấy chiếc đèn lồng từ tay nha hoàn bên cạnh, cười nói: "Ta sẽ cầm đèn soi đường cho tư công."

Hành lang quanh co nằm ngay cạnh hồ sen. Dưới ánh trăng, bóng hoa sen thấp thoáng. Trong tay Công Tôn Trác Ngọc cầm một chiếc đèn lồng lưu ly chế tác tinh xảo, ánh sáng vàng nhạt khiến con đường phía trước thêm phần mờ ảo, bóng sáng đổ dài trên mặt đất.

Anh lên tiếng hỏi: "Tư công có phải đang giận?"

Đỗ Lăng Xuân nghĩ, chẳng phải Công Tôn Trác Ngọc vừa trò chuyện vui vẻ với Tống Khê Đường sao, giờ lại chạy đến tìm mình làm gì. Y khẽ vung tay áo, đôi mày nhíu lại, khóe môi hơi nhếch, đáp ngược: "Ta giận gì?"

Công Tôn Trác Ngọc nghĩ, rõ ràng y đang giận, bèn thấp giọng đáp: "Nếu tư công muốn hạ bệ Nghiêm Phục, tại hạ nhất định sẽ tận tâm tận lực. Chỉ là ta vụng về, biết phá án, nhưng không giỏi chuyện giả mạo chứng cứ, sợ làm hỏng việc lớn của tư công."

Anh nghĩ Đỗ Lăng Xuân vì chuyện này mà giận.

Đỗ Lăng Xuân híp mắt lại, nghiêng đầu nhìn anh:
"Vậy ngươi đúng là vụng về."

Công Tôn Trác Ngọc: "..."

QAQ, anh rõ ràng rất thông minh mà!

Đỗ Lăng Xuân nhìn không nổi dáng vẻ vô tội của anh, phất tay áo ra hiệu cho nha hoàn lui ra xa, sau đó mới nói: "Ngươi chỉ cần lo phá án, tra ra chân tướng, những chuyện khác không cần ngươi bận tâm, đã có ta lo."

Ở kinh thành, muốn đứng vững không chỉ cần có tiền bạc và quyền thế, mà còn cần có chỗ dựa. Công Tôn Trác Ngọc chỉ là một tri huyện nhỏ, nếu không có Đỗ Lăng Xuân che chở, chỉ e rằng đã bị người ta xé sạch không còn mảnh vụn.

Anh tự biết điều này, trong lòng không rõ cảm xúc ra sao, chỉ đơn thuần cảm thấy... có người bảo vệ... thật tốt.

Công Tôn Trác Ngọc nhìn bóng dáng Đỗ Lăng Xuân dưới ánh trăng, gầy gò và đơn bạc, không nhịn được mà lại gần hơn một chút, thấp giọng nói:
"Đa tạ tư công."

Trong tay Công Tôn Trác Ngọc cầm chiếc đèn lồng, đột nhiên tiến lại gần, như một đốm sáng mờ nhạt, khiến người ở trong bóng tối khó thích ứng. Đỗ Lăng Xuân theo bản năng lùi lại, nhưng không ngờ dưới chân là ba bậc đá xanh, liền bước hụt —

"Tư công cẩn thận!"

Công Tôn Trác Ngọc nhanh tay giữ lấy cổ tay y, giúp y đứng vững, Đỗ Lăng Xuân lúng túng đáp: "Không sao."

Hành lang này y đã đi qua không dưới nghìn lần, vậy mà hôm nay lại bị trượt chân, quả thực mất mặt.

Công Tôn Trác Ngọc vốn định buông tay y ra, nhưng do dự trong chốc lát, cuối cùng lại siết chặt cổ tay của y thêm lần nữa: "Trời tối đường trơn, để ta đỡ tư công vậy."

Đỗ Lăng Xuân không biết vì sao lại không từ chối. Qua lớp áo, y mơ hồ cảm nhận được đầu ngón tay mạnh mẽ của Công Tôn Trác Ngọc, thậm chí cả lòng bàn tay ấm áp. Như muốn xua tan không khí ngượng ngùng, y hỏi bâng quơ: "Ngươi tên là Trác Ngọc?"

Công Tôn Trác Ngọc gật đầu như gà mổ thóc: "Ừm ừm, phụ thân nói rằng, quân tử như ngọc, trước phải mài giũa, sau mới thành khí, vì thế đặt tên là Trác Ngọc."

Đỗ Lăng Xuân ừ một tiếng, không nói gì thêm. Một lát sau, y lại bất ngờ mở miệng: "Bức tranh ngươi tặng ta..."

Công Tôn Trác Ngọc theo bản năng ngẩng đầu: "Tranh? Làm sao vậy?"

Đỗ Lăng Xuân mím môi: "Tại sao không sáng nữa?"

Bức tranh đó ban ngày là cảnh mặt trời chiếu sáng núi non, ban đêm lại là trăng rằm soi bóng giang hà, nhưng theo thời gian, những phần phát sáng dần mờ nhạt.

Công Tôn Trác Ngọc bừng tỉnh: "Tư công hãy mang tranh ra phơi nắng thường xuyên, nó sẽ sáng trở lại."

Loại khoáng thạch đó vốn không tự phát sáng, chỉ mang đặc tính huỳnh quang, phải được ánh mặt trời kí.ch thích mới có thể phát sáng trong một khoảng thời gian.

Đỗ Lăng Xuân nghe vậy, hơi thở phào nhẹ nhõm. Y còn muốn nói thêm điều gì đó, nhưng đã đến trước cửa phòng ngủ, bất giác dừng bước.

Công Tôn Trác Ngọc không kiềm được, đầu ngón tay khẽ vuốt nhẹ cổ tay của Đỗ Lăng Xuân, chỉ cảm thấy vô cùng mảnh mai, tựa như chỉ cần dùng thêm chút lực là có thể làm gãy. Anh khẽ nói: "Tư công, nghỉ ngơi sớm đi."

Không hiểu sao, anh lại không nỡ buông tay y ra.

Mà Đỗ Lăng Xuân dường như cảm giác được điều gì, trái tim bỗng nhiên lỡ nhịp, sau đó đập dồn dập như muốn nhảy ra khỏi lồng ng.ực. Trong bóng tối, y nhìn về phía Công Tôn Trác Ngọc, cổ họng nghẹn lại, hồi lâu mới đáp với giọng điệu cứng ngắc: "Biết rồi."

Rồi từ từ rút tay về.

Ống tay áo lạnh lẽo tựa nước trôi qua đầu ngón tay, chỉ để lại chút dư âm ấm áp. Công Tôn Trác Ngọc chậm rãi thu tay lại, nhìn Đỗ Lăng Xuân một cái, khẽ nói: "Vậy... hạ quan xin về phòng trước."

Đỗ Lăng Xuân đáp: "Về đi, ngày mai ta đưa ngươi đến Hình Bộ."

Trăng đã lên đ.ỉnh trời, sáng trong như ngọc.

Do vụ án mạng liên hoàn này liên quan đến nhiều người, thi thể các quan viên bị hại đều đang được bảo quản trong phòng lạnh, chưa được an táng. Theo lý, nếu không có đặc cách thì không ai được phép vào, nhưng nếu là Đỗ Lăng Xuân muốn xem, tự nhiên chẳng ai dám cản.

Người trông coi phòng lạnh là một ông lão khoảng năm mươi tuổi, ông dùng chìa khóa mở cửa, chỉ vào ba thi thể được phủ vải trắng bên trong, nói:
"Đều ở đây, đại nhân chớ ở lâu, dễ nhiễm phong hàn."

Công Tôn Trác Ngọc bước vào trước, lập tức bị khí lạnh bao trùm. Nhưng nhờ từng tập võ, anh vẫn chịu được. Anh vén tấm vải trắng lên, nhìn vào thi thể đầu tiên. Đập vào mắt là khuôn mặt máu thịt lẫn lộn của Đổng Thiên Lý, Thích Sử Lương Châu. Anh không khỏi hỏi: "Da mặt của ông ấy đâu?"

Tác giả có lời muốn nói: Đổng Thiên Lý: Ta không cần nữa được không?
 
Bàn Về Một Nghìn Cách Cải Tạo Tra Nam
Chương 188



Ông lão đứng bên cạnh giải thích: "Đổng đại nhân chết quá lâu, da mặt ông ấy lại mỏng, đã mục nát không còn hình dạng, chỉ còn thi thể này."

Công Tôn Trác Ngọc đã chuẩn bị sẵn một đôi găng lụa. Anh cúi xuống quan sát kỹ khuôn mặt của Đổng Thiên Lý, phát hiện vết cắt trên da vô cùng gọn gàng, cơ bắp trên mặt bị tổn hại đồng đều, rõ ràng hung thủ có kỹ thuật dùng dao rất cao.

Một kẻ cực kỳ theo đuổi sự hoàn hảo...

Công Tôn Trác Ngọc tiếp tục nhìn xuống, phát hiện trên người Đổng Thiên Lý có nhiều vết kiếm, đây là nguyên nhân khiến ông mất máu quá nhiều mà chết. Vết kiếm dày đặc, nhưng độ sâu và vết cắt đều đồng nhất, cho thấy hung thủ có võ công cao cường, am hiểu kiếm thuật nhanh.

Đỗ Lăng Xuân đứng bên cạnh, dùng khăn che miệng mũi. Từ khi vào phòng lạnh, chân mày y luôn cau lại không giãn ra: "Sao rồi, có phát hiện gì không?"

Công Tôn Trác Ngọc lắc đầu, nhận ra vụ án này rất khó nhằn: "Hung thủ võ công cực cao, dù tra được, e rằng cũng không dễ bắt."

Đỗ Lăng Xuân không cho rằng đây là vấn đề, nghe vậy thì lộ vẻ khinh thường, khẽ hừ một tiếng: "Kinh Luật Tư cao thủ vô số, chẳng lẽ không bắt được một tên tội phạm?"

Công Tôn Trác Ngọc lập tức cười rạng rỡ, thấy rất có lý: "Tư công nói phải."

Dù y nói gì, anh cũng cảm thấy đúng.

Đỗ Lăng Xuân nghe xong, khẽ cụp mắt xuống, tuy không nói gì, nhưng vẻ hài lòng trên mặt không khó để nhận ra. Hiển nhiên rất hưởng thụ sự đồng thuận của anh.

Công Tôn Trác Ngọc tiến đến thi thể thứ hai. Nạn nhân là Thị Lang Bộ Hộ Quách Hàn, chết trong khuê phòng của hoa khôi, bị người ta chém đứt ngang lưng mà chết. Anh vén vải trắng lên xem, phát hiện vết thương ở eo rất gọn gàng, trên người cũng có những vết kiếm giống hệt của Đổng Thiên Lý.

Công Tôn Trác Ngọc thích thu thập manh mối từ hiện trường vụ án, nhưng hai người này đã chết được một thời gian, một người chết ở khách đ**m, một người chết ở thanh lâu, ngoài việc xem xét thương tích ra, không thể thu thập thêm quá nhiều thông tin.

Anh đắp lại vải trắng, rồi bước đến thi thể thứ ba. Kinh Triệu Doãn Sở Liên Giang là người có thời gian tử vong gần đây nhất, thi thể vẫn còn được bảo quản khá tốt. Ông bị giết bởi kiếm nhanh, sau đó bị treo trên công đường của nha môn.

Loại vụ án này phiền phức nhất. Hung thủ võ công cao cường, xuất quỷ nhập thần, rất có khả năng không liên quan gì đến nạn nhân, tra xét chẳng khác nào mò kim đáy bể.

Công Tôn Trác Ngọc tháo găng tay ra, hỏi ông lão:"Ba người này trước khi chết đều nhận được một bài thơ, vật đó vẫn còn chứ?"

Ông lão đáp: "Tất nhiên còn, đại nhân chờ một chút, lão phu sẽ đi lấy."

Nói xong, ông lão bước chậm rãi ra khỏi phòng lạnh.

Công Tôn Trác Ngọc tranh thủ nhìn về phía Đỗ Lăng Xuân, thấy môi y đã tái nhợt, không nhịn được cất tiếng hỏi: "Tư công lạnh rồi sao?"

Đỗ Lăng Xuân đương nhiên rất lạnh. Y là hoạn quan, sức khỏe không được như nam tử bình thường, ở đây lâu thì lạnh thấm vào toàn thân, khó mà chịu đựng nổi. Nghe hỏi, y hơi cau mày, đang định nói không sao, thì một bàn tay lạnh băng bỗng bị ai đó nắm lấy.

"..."

Công Tôn Trác Ngọc có chút ngượng ngùng cúi đầu, nắm lấy một tay của Đỗ Lăng Xuân, khẽ nói:
"Hạ quan tập võ nhiều năm, khí huyết dồi dào, tự nhiên không sao. Nơi này rất lạnh, tư công đừng để nhiễm phong hàn."

Anh có nội lực trong người, chỉ trong chốc lát đã khiến tay của Đỗ Lăng Xuân ấm lên. Ban đầu chỉ đơn thuần muốn làm ấm tay, nhưng chẳng hiểu sao, dưới sự che chắn của tay áo, lại bất giác biến thành tư thế mười ngón tay đan xen vào nhau.

Đỗ Lăng Xuân khẽ giãy giụa hai lần nhưng không thoát được, trong lòng bỗng trào lên một cảm giác khác thường. Y nghiêng đầu dời tầm mắt, trong lòng vừa thẹn vừa giận, thầm mắng: "Công Tôn Trác Ngọc cái tên khốn kiếp này, vừa sờ xác chết xong đã đến sờ tay của y!"

Công Tôn Trác Ngọc không biết trong đầu Đỗ Lăng Xuân đang nghĩ gì, chỉ cảm thấy hai tai nóng bừng, bàn tay lặng lẽ m.ơn tr.ớn đầu ngón tay thon dài mảnh mai của đối phương dưới tay áo, cảm thấy bàn tay này thực sự quá đẹp.

Cho đến khi ông lão cầm vật chứng đi đến, hai người họ mới như bị điện giật mà lập tức buông ra, cứ như vừa làm chuyện gì mờ ám vậy.

Ông lão nói: "Đại nhân, đây chính là bài thơ mà hung thủ để lại."

Công Tôn Trác Ngọc ho khan một tiếng che giấu sự lúng túng, cất lời cảm ơn rồi nhận lấy. Anh vốn nghĩ bài thơ này là do hung thủ tự tay viết, nhưng nhìn kỹ thì phát hiện nó được xé ra từ một tập thơ thông thường. Góc giấy vuông vức, chữ viết kiểu khải chính vuông vắn, trên đó còn loang lổ những vết máu.

Trong đầu Công Tôn Trác Ngọc bắt đầu hiện lên một vài nét phác thảo mơ hồ về chân dung hung thủ:

1. Là một người theo chủ nghĩa hoàn mỹ cực đoan.

2.Đã đọc sách thánh hiền, có tài văn chương, khác biệt với hạng dân đen tầm thường.

3.Có ý thức về nghi lễ, giết người với một quy tắc và logic riêng.

4.Võ công cao cường, am hiểu kiếm pháp nhanh.

5.Căm ghét quan phủ, hoặc có lẽ là căm ghét loại người như nạn nhân. Hắn rõ ràng có thể một kiếm đâm chết người, nhưng lại cố tình chọn phương pháp rườm rà nhất.

6.Hắn đang âm thầm khiêu khích triều đình, và rất có thể sẽ tiếp tục ra tay...

Công Tôn Trác Ngọc suy nghĩ chốc lát, cuối cùng trả lại tờ giấy, nhưng giữ lại một tờ cho mình, rồi hỏi ông lão: "Có thể để tờ này lại cho tại hạ nghiên cứu một chút không?"

Ông lão vốn hơi do dự, định nói vật chứng không được phép mang ra ngoài, nhưng thấy ánh mắt âm trầm của Đỗ Lăng Xuân nhìn mình, ông lập tức đổi giọng: "Đại nhân cứ cầm lấy."

Dù sao cũng chỉ là một tờ giấy.

Công Tôn Trác Ngọc cười, chắp tay cảm tạ: "Đa tạ."

Những người bị giết trong vụ án giết người liên hoàn này chắc chắn phải có một điểm tương đồng nào đó, nên mới bị hung thủ chọn làm mục tiêu. Việc cấp bách hiện tại là tìm ra điểm chung giữa ba người này. Nhưng trước mắt, ngoài việc đều là quan lại, thì về đặc điểm ngoại hình lại chẳng có gì giống nhau.

Công Tôn Trác Ngọc cùng Đỗ Lăng Xuân rời khỏi hình bộ, nhưng không ngờ vừa bước ra khỏi cổng lớn, đã thấy một nam tử áo xanh cưỡi ngựa phi như bay tới, rồi bất ngờ ghìm cương lại trước mặt hai người họ.

Các cấm vệ mặc áo đen xung quanh lập tức đứng chắn trước Đỗ Lăng Xuân, rút kiếm ngăn cản:

"Láo xược, dám thúc ngựa xông vào!"

Nam tử áo xanh lại gan to tày trời, trực tiếp nhảy xuống ngựa, cười khẩy nói: "Đường lớn mọi người đều có quyền đi, chẳng lẽ đường phố kinh thành đều thuộc về kinh luật tư các ngươi, tay dài cũng nên biết chừng mực."

Dứt lời, hắn như chẳng hề thấy Đỗ Lăng Xuân, trực tiếp đẩy cấm vệ trước mặt mình ra, lạnh lùng nói: "Ta phụng chỉ điều tra án, kẻ nào cản trở, giết không tha."

Dứt lời, liền bước thẳng vào Hình Bộ.

Hộ vệ áo đen vốn chỉ để bảo vệ an toàn cho Đỗ Lăng Xuân, thấy vậy cũng không ngăn cản, lần lượt thu kiếm vào vỏ.

Công Tôn Trác Ngọc quay đầu nhìn, nghĩ bụng: Người này đã biết hộ vệ là người của Kinh Luật Tư, nhưng lại chẳng tỏ vẻ e dè, có lẽ là xuất thân giàu sang hoặc quyền quý. Vừa rồi còn nói phụng chỉ điều tra án, anh lờ mờ đoán ra thân phận đối phương, liền cất lời hỏi: "Người này là Đường Phi Sương?"

Đỗ Lăng Xuân thản nhiên cúi mắt, cười mà như không cười, đáp: "Chính là tên ngốc nhà họ Đường."

Hắn đã nhập kinh, vậy có lẽ ngày mai Hoàng thượng sẽ triệu kiến hắn và Công Tôn Trác Ngọc.

Đường Phi Sương là người cậy tài khinh người, ngang dọc trong kinh thành, chẳng qua cũng nhờ vào thế lực của ông nội hắn. Nhưng hắn lại không có chí làm quan, Đường các lão tuổi đã cao, e rằng chẳng còn mấy ngày vinh quang nữa.

Đường các lão mà mất, chính là ngày nhà họ Đường suy tàn. Đường Phi Sương lại phóng túng cuồng ngạo, trắng trợn đắc tội với Đỗ Lăng Xuân – một quyền thần như y, dùng hai chữ "tên ngốc" để chỉ hắn quả thực rất chuẩn xác.

Bên đường, hoa dại mọc đầy, cao đến tận đầu gối. Đỗ Lăng Xuân tiện tay ngắt một đóa, ẩn ý nói với Công Tôn Trác Ngọc: "Ngươi xem, hoa này hiện tại rực rỡ là thế, nhưng khi qua thời, chỉ còn là cát bụi, mặc người giẫm đạp."

Dứt lời, y vứt bông hoa đi, từ tốn lấy khăn lau đầu ngón tay, rồi lên xe ngựa. Công Tôn Trác Ngọc hiểu ý tứ trong lời nói của y, nghĩ bụng Đường Phi Sương mà là hoa ư? Rõ ràng là một ngọn cỏ đuôi chó.

Hai người ngồi xe trở về phủ. Công Tôn Trác Ngọc đang định về phòng nghiên cứu mục tiêu tiếp theo của hung thủ, ai ngờ vừa cùng Đỗ Lăng Xuân bước đến cửa thư phòng đã thấy Tống Khê Đường và Lãnh Vô Ngôn đứng đó, mặt mày tái mét, người run rẩy, trông vô cùng đáng thương.

Đỗ Lăng Xuân thấy vậy, không khỏi dừng bước:
"Nhị vị tiên sinh cớ sao đứng đây?"

Công Tôn Trác Ngọc đứng phía sau cũng gật đầu, tỏ vẻ nghi hoặc.

Lãnh Vô Ngôn nghe hỏi, xúc động muốn nói điều gì, nhưng vừa mở miệng đã ho sù sụ. Tống Khê Đường vội vàng giành lời, mặt mày u ám, giọng nói đầy lo lắng thưa với Đỗ Lăng Xuân: "Thưa Tư công, đại sự chẳng lành rồi!"

Đỗ Lăng Xuân nghe vậy, nhíu mày, tưởng rằng triều đình xảy ra biến cố: "Chuyện gì?"

Nào ngờ, Tống Khê Đường run rẩy lấy từ tay áo ra một tờ giấy: "Tư công, hôm nay ta cùng Lãnh tiên sinh đến trà lâu bàn việc với quan viên Lễ bộ, đang bàn dở thì không biết ai đã để tờ giấy này lên bàn. Trên đó viết một bài thơ..."

Nhắc đến chuyện này, lòng người lập tức hoang mang. Ai ở kinh thành mà không biết, mỗi khi tên hung thủ liên hoàn kia giết người, đều để lại một bài thơ kèm theo tên người chết. Mà người nhận được bài thơ, trong vòng ba ngày chắc chắn phải chết!

Công Tôn Trác Ngọc nghe xong không khỏi kinh hãi, nghĩ bụng: Không phải trùng hợp vậy chứ? Vừa rồi anh còn nghĩ kẻ xui xẻo tiếp theo là ai, không ngờ lại ứng nghiệm ngay, mà lại xảy ra trong Tư công phủ?!

Sắc mặt Đỗ Lăng Xuân hơi biến, lập tức rút lấy tờ giấy, chỉ thấy trên đó chép bài "Giá Cô Thiên – Nga Hồ Quy Bệnh Khởi Tác Kỳ" của Tân Khí Tật:

Chẩm tiệm khê đường lãnh dục thu, đoạn vân y thủy vãn lai thu.

Hồng liên tương ỷ hồn như túy, bạch điểu vô ngôn định tự sầu.

Thư đột đột, thả hưu hưu. Nhất khâu nhất hác dã phong lưu.

Bất tri cân lực suy đa thiểu, đã giác tân lai lãn thượng lâu.

[*] Dịch thơ by Kally:

Gối đệm nhà bên lạnh đón thu,Mây tan bên nước ánh chiều thu.
Sen hồng nghiêng ngả như say ngủ,
Chim trắng lặng im ngẫm nỗi sầu.

Viết dăm ba chữ, thôi đừng chấp,
Một cõi thanh nhàn vốn phong lưu.
Không biết sức mình hao tổn mấy,
Chỉ thấy giờ đây ngại bước lầu.

Hóa ra bài thơ lại vừa khéo trùng khớp với tên của hai người bọn họ!

...Vậy thì vấn đề đặt ra là, hung thủ muốn giết ai trong số họ?

Đã là người thì không ai không sợ chết. Tống Khê Đường dĩ nhiên cũng sợ, nghĩ đến cái chết thảm khốc của ba người trước đó, hắn càng thêm hoảng loạn, cố gắng trấn an bản thân, đồng thời tìm người xác nhận: "Tư... Tư công... tại hạ cho rằng bài thơ này nhắm đến Lãnh tiên sinh, chúng ta phải sớm chuẩn bị thôi."

Lãnh Vô Ngôn vốn đã mắc bệnh, nghe vậy liền giận đến mức suýt thổ huyết. Hắn khàn giọng nhắc nhở: "Bài thơ này cũng có tên của ngươi đó, Tống tiên sinh!"

Tống Khê Đường lắp bắp giải thích, cố gắng tìm một tia hi vọng sống: "Chỉ... chỉ có tên, không có họ."

Công Tôn Trác Ngọc ngẫm nghĩ rồi nói: "Tân Khí Tật hình như là người thời Tống?"

Tống Khê Đường nghe vậy suýt bật khóc, thiếu chút nữa quỳ xuống trước anh: "Trác Ngọc huynh, xin ngươi cứu ta với!"

Công Tôn Trác Ngọc vội đỡ hắn dậy, muốn nói rằng bản thân bây giờ cũng không có manh mối gì. Nhưng bài thơ này đúng là phiền phức, chẳng lẽ cứ trơ mắt nhìn hai người bọn họ đi chịu chết?

Đỗ Lăng Xuân cũng không tỏ vẻ dễ chịu hơn.

Công Tôn Trác Ngọc cau mày, suy nghĩ một lúc, chần chừ nói: "Hung thủ võ nghệ cao cường, nếu muốn giữ mạng, hiện tại chỉ còn một cách có thể thử."

Tống Khê Đường nghe vậy liền túm lấy tay anh, ánh mắt đầy hi vọng: "Cách gì?"

Công Tôn Trác Ngọc: "Mau về nhà nhờ mẫu thân ngươi đổi tên cho ngươi đi, càng nhanh càng tốt."

Tống Khê Đường: "..."

Thời xưa, mọi người đặt tên thường văn vẻ, hay dẫn thơ trích điển, vì thế có cả đống tên trùng với thơ ca. Lần này thì rước họa vào thân rồi! Nếu trực tiếp đổi tên thành Tống Cẩu Đản hay Lãnh Thúy Hoa, anh không tin hung thủ còn tìm được bài thơ nào.

Tác giả có lời muốn nói: Tống Khê Đường: Ta rủa cả nhà ngươi.
 
Bàn Về Một Nghìn Cách Cải Tạo Tra Nam
Chương 189



Tống Khê Đường nghe vậy sững sờ, ý nghĩ đầu tiên lóe lên trong đầu là Công Tôn Trác Ngọc đang đùa cợt mình. Vừa thẹn vừa giận, hắn tức tối dậm chân: "Công Tôn đại nhân, giờ là lúc nào rồi mà ngươi còn đùa cợt tại hạ!"

Chẳng lẽ hôm nay hắn đổi tên, ngày mai lại phải gõ trống khua chiêng thông báo khắp phố phường sao?!

Công Tôn Trác Ngọc khẽ chạm mũi, cũng cảm thấy cách này hơi lố. Anh chỉ đơn giản nghĩ rằng hung thủ là kẻ theo chủ nghĩa hoàn hảo, thậm chí có chút ám ảnh cưỡng chế. Đổi tên có khi thật sự hữu hiệu.

"Ta muốn xem hắn dám đến đây không." Đỗ Lăng Xuân cười lạnh, siết chặt tờ giấy trong tay, ra lệnh cho Ngô Việt: "Điều toàn bộ Huyền Y Vệ nhất đẳng của Kinh Luật Tư đến đây canh giữ. Nếu hung thủ xuất hiện, có thể bắt thì bắt, không thì giết không tha!"

Trừ cỏ tận gốc, ấy là phong cách của y.

Công Tôn Trác Ngọc nghe vậy, liền đồng cảm nhìn Tống Khê Đường và Lãnh Vô Ngôn. Theo kịch bản phim truyền hình, thường thì dù có bao nhiêu vệ binh cũng vô ích, cuối cùng người vẫn sẽ bị gi.ết ch.ết bằng những cách kỳ lạ trong phòng.

#Công Tôn Trác Ngọc: Nhìn người chết bằng ánh mắt đồng cảm.jpg#

Tống Khê Đường bị Công Tôn Trác Ngọc nhìn chằm chằm đến mức mồ hôi lạnh chảy ròng, toàn thân nổi da gà: "Trác Ngọc huynh, tại sao lại nhìn ta như vậy?"

Lãnh Vô Ngôn khàn giọng hỏi: "Công Tôn đại nhân có phải cho rằng chúng ta không thoát được kiếp nạn này?"

Công Tôn Trác Ngọc nghĩ bụng câu này quá dễ chuốc oán: "Không phải, không phải. Tại hạ chỉ đang lo lắng thay hai vị mà thôi."

Nói xong, anh lén lút nhìn Đỗ Lăng Xuân, rồi từng chút, từng chút, rút tờ giấy nhăn nhúm từ tay y ra, đem so với tờ giấy lấy từ Hình Bộ. Quan sát hồi lâu, anh phát hiện chất giấy, đường cắt, nét chữ, độ mới cũ của mực đều giống nhau, rõ ràng được xé ra từ cùng một quyển sách.

Điều đó có nghĩa, bài thơ này đúng là của hung thủ gửi đến.

Công Tôn Trác Ngọc trầm ngâm, chợt như nhìn thấy manh mối nào đó. Nhưng khi còn chưa kịp nghĩ thông, đã nghe Đỗ Lăng Xuân nói: "Các ngươi ở đây chờ tin. Công Tôn Trác Ngọc theo ta vào cung, diện kiến Thánh thượng."

Công Tôn Trác Ngọc kinh hãi: "Cái gì?!"

Cả đời trước lẫn đời này cộng lại, anh e rằng chưa vào cung được mấy lần. Không ngờ lần này vào cung, lại trong tình cảnh như thế.

Xe ngựa của Tư công phủ lao như bay trong đêm, cuối cùng dừng trước Sùng Vũ Môn. Thống lĩnh Cấm quân trực ca tiến lên chặn xe: "Trên xe là ai?!"

Đỗ Lăng Xuân vén rèm, ánh mắt u ám: "Mau nhường đường."

Thống lĩnh Cấm quân thấy y, sững người, vội vàng hạ tay: "Hóa ra là Tư công."

Nói đoạn, hắn ra hiệu cho thuộc hạ nhường đường, đồng thời hạ giọng nói nhanh một câu: "Nghiêm tướng vừa dẫn Đường Phi Sương vào cung nửa canh giờ trước, đang cùng bệ hạ nghị sự tại Vô Cực Điện."

Nghe vậy, Đỗ Lăng Xuân thoáng suy tư, lạnh lùng buông rèm xuống, lòng thầm nhủ Nghiêm Phục thật gian xảo. Giờ này mang Đường Phi Sương vào cung, chẳng qua muốn chiếm thế thượng phong.

Y nghĩ đến đây, không khỏi liếc nhìn đối diện.

Công Tôn Trác Ngọc đang ngồi nghiên cứu hai tờ giấy, lật qua lật lại, dường như chìm đắm trong suy nghĩ, toàn bộ sự chú ý đều tập trung vào đó.

"Công Tôn Trác Ngọc." Đỗ Lăng Xuân đột ngột gọi.

"Hử?" Người kia lập tức ngẩng đầu, đôi mắt sáng rỡ: "Tư công có gì căn dặn?"

Đỗ Lăng Xuân vốn không có việc gì, chỉ đơn giản muốn gọi một tiếng. Y nghiêng đầu, dời ánh mắt đi:"Không có gì."

Hoàng cung tường cao sừng sững, con đường lát đá kéo dài đến tận cùng, nhìn mãi không thấy điểm dừng. Hoàng hôn nhuốm đỏ một góc trời, chuyển thành sắc tím nhạt pha lẫn vàng kim, tựa máu đọng. Trên mái điện, các con thú trang trí đứng uy nghi, đầu ngẩng hướng Đông, dưới bầu trời chỉ còn là bóng đen cắt hình rõ rệt.

Bánh xe lăn chầm chậm trên đá xanh, cung nữ thái giám qua lại đều lặng lẽ tránh sang hai bên, chờ xe đi qua mới tiếp tục di chuyển.

Đỗ Lăng Xuân khép mắt, tay chống đầu, không biết nghĩ gì. Những ngày tháng thấp hèn nhất đời y trôi qua ở nơi đây, những ngày tháng hiển hách nhất cũng ở đây. Cùng với tỷ tỷ từng bước, từng bước trèo lên bậc thang trời ấy. Nhưng trong lòng vẫn không nói nên cảm giác vui sướng.

Họ đã đi rất cao, nhưng vẫn chưa đủ cao...

Đỗ Lăng Xuân chầm chậm mở mắt, bất giác phát hiện Công Tôn Trác Ngọc chẳng biết từ lúc nào đã ngồi xuống cạnh mình, tay cầm hai tờ giấy, ánh đèn chiếu vào tạo nên một quầng sáng mờ ảo, trông vô cùng chăm chú.

Đỗ Lăng Xuân bất giác ngồi thẳng lưng, ngón tay khẽ vuốt phẳng nếp áo, nghiêng mắt nhìn Công Tôn Trác Ngọc: "Ngươi ngồi sang đây làm gì?"

Công Tôn Trác Ngọc nghe vậy ngẩng đầu, khẽ cười với y, trong đôi mắt chứa chan tình ý, mang theo chút phong lưu vô tội: "Nơi này ánh sáng tốt hơn."

Nói xong, anh xếp hai tờ giấy lại, cất vào tay áo, không tiếp tục xem nữa.

Công Tôn Trác Ngọc thực ra có phần lo lắng, sợ Đỗ Lăng Xuân đuổi mình về chỗ đối diện ngồi, nhưng chờ một hồi lâu, thấy đối phương dường như không có ý này, anh mới hơi thả lỏng.

Một cơn gió chiều thổi qua, nhấc bổng rèm xe ngựa.

Công Tôn Trác Ngọc bất giác nhích người, nhưng phát hiện bản thân đã ngồi rất gần Đỗ Lăng Xuân, liền khựng lại. Vai họ chạm vai, chân chạm chân, chỉ cách một lớp áo mỏng manh, không thể ngăn cản hơi ấm từ cơ thể đối phương truyền đến.

Đỗ Lăng Xuân nắm chặt đầu ngón tay, thầm nghĩ Công Tôn Trác Ngọc thật là đồ vô lại, sao càng ngồi càng sát. Y cảm thấy bối rối, không để lộ dấu hiệu nào, khẽ nhích người ra ngoài, nhưng chưa bao lâu, đối phương lại nghiêng sát vào.

Đỗ Lăng Xuân trừng mắt nhìn anh: "Ngươi làm gì?"

Công Tôn Trác Ngọc nói năng lắp bắp: "Hạ quan... hạ quan lần đầu tiên diện thánh, có chút hồi hộp..."

Anh vừa nói vừa xòe bàn tay phải, các ngón tay thon dài, lòng bàn tay trắng nõn phơi ra trong không khí: "Tư công không tin thì sờ thử xem, mồ hôi lạnh đã túa ra rồi."

Đỗ Lăng Xuân nghĩ bụng có gì mà hồi hộp, nhưng thấy ánh mắt Công Tôn Trác Ngọc vô tội nhìn mình, không hiểu sao lại làm theo, nhẹ nhàng chạm vào lòng bàn tay anh. Cảm giác ẩm ướt, mát lạnh, quả thực có mồ hôi. Y định rút tay về thì Công Tôn Trác Ngọc đột nhiên nắm lấy, thấp giọng gọi:
"Tư công..."

Đỗ Lăng Xuân bị hành động của anh làm cho tim đập loạn nhịp: "Ngươi làm gì?"

Có vẻ như y chỉ biết nói mỗi câu này.

Công Tôn Trác Ngọc hơi mấp máy môi, định nói điều gì đó, nhưng chưa kịp mở miệng thì bên ngoài chợt vang lên tiếng bẩm báo: "Tư công, đã đến bên ngoài Thái Cực điện."

Nghe vậy, Đỗ Lăng Xuân miễn cưỡng trấn tĩnh lại: "Biết rồi."

Nói xong, y không thèm nhìn Công Tôn Trác Ngọc, hơi lúng túng rút tay ra, xuống xe trước. Công Tôn Trác Ngọc thấy vậy cũng chỉ đành đi theo.

Thái Cực điện lớn tựa quảng trường, bên ngoài vây quanh bằng tường đỏ, xe ngựa chỉ có thể dừng ở ngoài tường, đoạn đường còn lại phải tự mình đi bộ vào.

Trong điện đèn đuốc sáng trưng, hoàng đế ngồi sau ngự án, dáng vẻ không giận mà uy nghiêm. Dưới bậc thềm vàng đứng hai người. Một người tóc bạc râu trắng, mặc quan bào màu đỏ thẫm, rõ ràng là tể tướng đương triều Nghiêm Phục. Người còn lại khoảng chừng hai mươi tuổi, vận áo xanh, chính là Đường Phi Sương đã đột nhập Hình Bộ hôm nay.

Nghiêm Phục từ khi vào điện đã bẩm báo hoàng đế vài việc về tình hình xử lý nạn lũ lụt ở phương Nam, sau đó mới như vô tình nhắc đến vụ án giết người liên hoàn: "Hung thủ thực sự quá ngông cuồng, khiến triều đình bất an. May thay Đường công tử đã vào kinh, chắc không lâu nữa sẽ tra ra chân tướng."

Nhắc đến việc này, hoàng đế cũng nhíu mày, nhìn Đường Phi Sương với ánh mắt yêu mến dành cho người tài: "Đường Phi Sương, ngươi dù không có chức vị, nhưng trẫm đặc biệt cho phép ngươi điều tra vụ án này. Đừng để người ngoài xem thường."

Đường Phi Sương chắp tay nói: "Thưa bệ hạ, thảo dân hôm nay đã đến Hình Bộ xem qua thi thể, ba vị đại nhân đều chết dưới kiếm pháp nhanh như chớp. Hung thủ xem ra võ công không tầm thường. Tuy khó đối phó nhưng không phải không có manh mối. Giờ chỉ cần đợi hắn gửi bài thơ thứ tư, chúng ta có thể âm thầm mai phục, bắt hắn tại trận."

Quan viên triều đình liên tục bị sát hại, hoàng đế cảm nhận rõ sự thách thức của hung thủ, giọng nói trầm hẳn xuống: "Các ngươi nhất định phải bắt được kẻ này, nếu không, truyền ra ngoài, hoàng thất sẽ trở thành trò cười, quan viên Đại Yến cũng thành trò cười. Sau này làm sao có uy tín trong dân chúng mà trị quốc?"

Lời vừa dứt, tổng quản thái giám bỗng vội vàng chạy vào, cúi người nói nhỏ bên tai hoàng đế: "Thưa bệ hạ, Đỗ Tư công cầu kiến."

Hoàng đế rất tin tưởng Đỗ Lăng Xuân, huống hồ vì có quý phi Đỗ Thu Vãn, nên cũng yêu ai yêu cả đường đi. Ngài cười, ném tấu chương trong tay sang một bên: "Hắn thật biết chọn thời điểm, vừa khéo chạm mặt Nghiêm tướng."

Như thể không hề hay biết cuộc tranh đấu ngầm giữa hai phe Nghiêm-Đỗ.

Thái giám lại thì thầm: "Đỗ Tư công còn mang theo một người trẻ tuổi."

Hoàng đế suy nghĩ một chút, dường như biết là ai, phất tay nói: "Không sao, đó là người trẫm triệu đến hỗ trợ điều tra. Bảo họ vào đi."

Đường Phi Sương thoáng nhìn ra ngoài, hoàng đế bắt được động tác nhỏ này, bèn nói: "Người đó tên Công Tôn Trác Ngọc, tuy chỉ là một tri huyện, nhưng rất giỏi phá án. Theo trẫm thấy, tài năng không thua kém ngươi. Trẫm thật tò mò, hai người các ngươi ai sẽ phá án trước."

Đường Phi Sương quả thực có tài, mà người tài thường ít nhiều kiêu ngạo. Huống hồ từ nhỏ đã được tung hô, khó tránh tự phụ. Nghe vậy, hắn nở nụ cười như có như không: "Thảo dân cũng rất muốn thử sức với vị Công Tôn đại nhân này."

Thần thái lại tỏ ra hờ hững.

Bên ngoài, Công Tôn Trác Ngọc theo Đỗ Lăng Xuân vào điện, giữ đúng nguyên tắc "thêm một việc không bằng bớt một việc", ngoan ngoãn cúi đầu nhìn thảm gấm hoa văn dưới chân, không dám nhìn nhiều thứ xung quanh.

Đỗ Lăng Xuân bước đến bậc cửa, quay đầu liếc anh một cái: "Đi theo ta, không cần lo lắng."

Công Tôn Trác Ngọc ngẩn ra một chút, rồi mới phản ứng kịp rằng y đang nói với mình, thấp giọng đáp: "Có Tư công ở đây, dĩ nhiên không sợ."

Đỗ Lăng Xuân lúc này mới khẽ vung tay áo, bước vào đại điện. Y nhìn thấy Nghiêm Phục, lạnh lùng cười một tiếng, sau đó thu lại ánh mắt, chắp tay hành lễ trước hoàng đế: "Vi thần bái kiến bệ hạ."

Công Tôn Trác Ngọc làm theo: "Vi thần bái kiến bệ hạ."

Hoàng đế phất tay:b"Ái khanh miễn lễ. Đêm khuya cầu kiến, không biết có việc gì quan trọng?"

Đỗ Lăng Xuân thưa: "Hôm nay trong lúc các mưu sĩ phủ vi thần tụ họp tại trà lâu, vô tình nhận được bài thơ thứ tư do hung thủ gửi tới. E rằng hắn sắp ra tay lần nữa, vi thần không dám trì hoãn, đặc biệt đến bẩm báo bệ hạ."

Nói xong, y dâng tờ giấy thứ tư lên.

Mọi người nghe tin, ít nhiều đều tỏ ra kinh ngạc. Hoàng đế nhíu mày nhận lấy tờ giấy, sau đó truyền cho Nghiêm Phục và Đường Phi Sương xem, sắc mặt lạnh lùng nói: "Kẻ này sát ý không nhỏ."

Đã giết ba người, giờ đến người thứ tư, không biết hắn định giết bao nhiêu mới chịu dừng tay.

Đường Phi Sương cũng từ Hình Bộ mang theo một tờ giấy, y lấy ra từ trong áo, so sánh hai tờ với nhau, một lát sau mới nói: "Chất giấy giống nhau, nét chữ giống nhau, quả nhiên đều cùng một người viết."

Đỗ Lăng Xuân tâu với hoàng đế: "Vi thần đã điều người của Kinh Luật Tư nghiêm ngặt canh gác, tên hung thủ chỉ cần dám đến, nhất định sẽ khó lòng thoát thân."

Công Tôn Trác Ngọc thầm nghĩ: Tư công, chúng ta đừng nói chắc như vậy, đến lúc bị vả mặt thì khó coi lắm. Anh cuối cùng không nhịn được, ngẩng đầu nhìn lên, lại thấy hoàng đế đang ngồi trên ngai rồng, hứng thú nhìn mình.

Hoàng đế vốn có ấn tượng sâu sắc với Công Tôn Trác Ngọc, bỗng nhiên hỏi: "Công Tôn Trác Ngọc, ngươi còn nhớ trẫm chăng?"

Công Tôn Trác Ngọc: "..."

Đây chẳng phải là ông già lắm lời mình gặp lúc xử án nhà họ Dư sao?

Công Tôn Trác Ngọc không ngờ ông lão ấy lại là hoàng đế. Sau khi kinh ngạc, anh ngượng ngùng cười hai tiếng: "Có lẽ đã từng gặp qua một lần, trông bệ hạ rất thân thiện."

Hoàng đế nói: "Khi trẫm vi hành đến Giang Châu, từng chứng kiến ngươi xử án, rất là xuất sắc. Đối với vụ án này, ngươi có nhận xét gì chăng?"

Đỗ Lăng Xuân nhìn Công Tôn Trác Ngọc, khẽ gật đầu, cằm hơi nhếch, ra hiệu anh cứ mạnh dạn nói, đây là cơ hội tốt để thể hiện.

Công Tôn Trác Ngọc bước lên một bước, chắp tay bẩm: "Vi thần đã đến Hình Bộ xem qua thi thể, phát hiện trên cơ thể bọn họ đều có những vết kiếm dày đặc. Hình dạng và kích thước vết thương đồng nhất, chứng tỏ hung thủ võ công cao cường, sở trường dùng trường kiếm, và có mối hận thù sâu đậm với các nạn nhân..."

Hoàng đế nhíu mày: "Hận thù? Làm sao nhận ra?"

Công Tôn Trác Ngọc tâu: "Hung thủ võ công cao cường, vốn có thể gi.ết ch.ết bọn họ chỉ với một nhát kiếm, nhưng lại sử dụng các phương pháp như rạch mặt, chém ngang lưng, treo cổ để hành hạ đến chết. Nếu không phải vì thù hận, thì là kẻ sinh tính hung bạo."

Nghiêm Phục đứng bên liếc nhìn anh, khẽ gật đầu, trên mặt lộ vẻ tán thưởng. Rõ ràng ông không ngờ trong hàng môn hạ của Đỗ Lăng Xuân lại có người làm được việc.

Công Tôn Trác Ngọc nói tiếp: "Trước khi giết người, hung thủ nhất định gửi một bài thơ có tên của nạn nhân. Điều này cho thấy hắn làm việc rất có quy luật, và những người bị giết ắt hẳn phải có điểm chung nào đó để hắn nhắm đến. Chỉ là vi thần ngu muội, tạm thời chưa tìm ra điểm chung ấy."

Đường Phi Sương bất chợt mở miệng, giọng điệu như có ý chỉ trích: "Điều đó chẳng phải rất dễ thấy sao? Đổng Thiên Lý cùng ba người kia tai tiếng lẫy lừng, đều là kẻ chuyên ức h**p bá tánh. Bị hung thủ nhắm đến cũng không có gì lạ. Còn về việc vì sao hai mưu sĩ của Đỗ Tư công lại nhận được bài thơ, thì e rằng phải hỏi chính họ."

Lời này hàm ý, Tống Khê Đường và Lãnh Vô Ngôn là hạng người cá mè một lứa, tay dính đầy tội ác, ngay cả Đỗ Lăng Xuân cũng bị kéo vào vũng bùn.

Đỗ Lăng Xuân nghe vậy, đôi mắt khẽ nheo lại, trong lòng đã dấy lên sát ý đối với Đường Phi Sương, nhưng chỉ cười nhạt: "Đường công tử nói vậy là có ý gì?"

Đường Phi Sương nhún vai: "Không có ý gì cả."

Công Tôn Trác Ngọc đứng bên, khẽ nhíu mày, cảm thấy mục tiêu của hung thủ không nên là hai vị mưu sĩ hành sự thận trọng kia. Nhưng tạm thời anh vẫn chưa nghĩ ra mấu chốt vấn đề.

Tác giả có lời muốn nói: Công Tôn Trác Ngọc: Lão già này miệng nhỏ, nói nhiều.

Hoàng đế:......
 
Back
Top Bottom