Trinh Thám Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương

[BOT] Dịch

Quản Trị Viên
24/9/25
494,439
0
36
AP1GczMSw-hS90ocLDAijVzXGISzZD8EBCEORKFEj5JlT_XfeHy9bMXUgxtn_nvn5s5QXVlDQc0710P75KaT8-wT0ZdxOcGE_zhEHuSvzf7UUKc4i_5UpbUK4nADGaYlufOdeQz7s3Z4O6jMCrPo6FGon84q=w215-h322-s-no-gm

Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Tác giả: Lư Đông Hảo Sự
Thể loại: Trinh Thám, Cổ Đại
Trạng thái: Full


Giới thiệu truyện:

Khoa cử vốn dùng để chiêu mộ nhân tài lại trở thành công cụ cho các hoàng tử, những người có thế lực thành lập bè phái trục lợi. Hàng loạt những vụ vụ án nơi khoa trường gây chấn động triều đình đã xảy ra và những câu chuyện đằng sau mỗi “thư sinh nhà nghèo - tầm nhìn hạn hẹp”

Một thư sinh mở miệng hồ ngôn loạn ngữ, lấy cái chết vạch trần tấm màn đen khổng lồ trên triều đình…… "Đại nhân, có người gây rối loạn kỷ cương" chờ ngươi tìm hiểu đến cùng!

“Mau đi xem mau đi xem! Lại có người nhảy lầu!”

Một thư sinh bộ dáng tuấn mỹ đang đứng trên sân thượng Thanh Vân lâu.

Nửa người hắn đã hơi nhào ra bên ngoài, tay cầm trường kiếm, toàn thân run rẩy.

Nhưng mọi người đứng ở dưới đều không ngạc nhiên về điều này.

Sĩ tử thi rớt mỗi năm không hề ít, vừa thi rớt liền tìm chết tìm sống lại càng nhiều.

Thật sự dám từ trên mái nhà nhảy xuống, một người cũng không có.

Người xem càng nhìn thấy cảnh cầu danh này, họ càng đưa ra những nhận xét mỉa mai.

Mọi người mồm năm miệng mười, cợt nhả hô: "Nhảy đi! Sao không nhảy đi! Cho bọn ta chiêm ngưỡng nào!”

Thư sinh cũng nở nụ cười.

Tiếng cười khàn khàn phát ra từ sâu trong cổ họng, khiến hắn trông hung dữ như một ác quỷ đến từ địa ngục.

- Vi Chiêu Y, ngươi là yêu nữ mưu triều soán vị, hại nước hại dân giết cha thí con!

- Ngươi giết hại trung lương, mặc kệ thân nhân, dung túng nam sủng. Ngươi đáng chết!

Lần này không ai dám cười.

Vi Chiêu Y, đây chính là Nữ Hoàng đó! Trước mặt mọi người mắng ngài ấy, không muốn sống thật hả?

»————»

Kỷ cương rối loạn.

Hoàng Thái Hậu Vi Chiêu Y nắm giữ triều chính nhiều năm.

Ngay cả Tân Đế là con ruột cũng bị trúng độc chết thảm.

Bà ta thậm chí còn không rơi một giọt nước mắt nào,
thay vào đó, bà lại vội vã lên ngôi, tự xưng Nữ Hoàng.

Bộc lộ tham vọng không hề che giấu.

Không lâu sau, trên lầu rượu cao nhất ở Tô Châu

Cử nhân Kiều Mộc Đình cầm trường kiếm kêu oan và buông lời sỉ nhục Nữ Hoàng trên phố.

»————»

- Lập mưu soán vị, hại nước hại dân.

- Giết trung lương, hại thân hữu.

- Đây là yêu nữ.

Nói xong, Kiều Mộ Đình liền c/ắ/t cổ tu sat.

Hắn rơi từ trên cao xuống, m@‘u bắn tung tóe ba thước.

Vụ án Kiều Mộc Đình chấn động triều đình và dân gian.

Trong khoảng thời gian ngắn, dân chúng kêu than, nền tảng dao động.

Vi Chiêu Y ở Kinh Đô xa xôi nghe tin nổi giận.

Bà ra lệnh Đại Lý Tự điều tra vụ án này.

Nhưng bà lại phái thêm một nữ tử thần bí.

Che dấu mọi người, trước một bước tới Tô Châu……​
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 1: Phần 1. Hồng Hạnh


Mở đầu——

Mùa thu năm Phượng Hoàng thứ ba.

Buổi trưa ở thành Tô Châu là lúc náo nhiệt nhất, trên phố kẻ bán người mua, người qua kẻ lại.

Có mộy tòa tháp cao đứng sừng sững bên bờ Lâm Giang, lan can chạm trổ ngọc, vừa yên tĩnh vừa tao nhã lại có phần mới mẻ, chính là tửu lâu cao nhất thành Tô Châu: Thanh Vân Lâu.

Vì cái tên mang ý nghĩa tốt lành này, không ít sĩ tử trước khi lên kinh ứng thí đều đến đây dạo một vòng, mong lấy điềm may.

Lâu dần, có một truyền thuyết xuất hiện. Tương truyền chỉ cần uống một chén Trạng Nguyên tửu tại nhã gian trên tầng cao nhất, người đó sẽ thăng quan tiến chức, một bước lên mây.

Hôm nay, trước cửa Thanh Vân Lâu càng thêm huyên náo ồn ào——

“Mau đi xem, mau đi xem! Lại có người n/hả//y l/ầ/u rồi!

Trên ban công nhã gian của Thanh Vân Lâu, một chàng thư sinh nho nhã, dung mạo tuấn tú đang đứng tại đó.

Tay chàng cầm một vò rượu, nửa thân người lơ lửng bên ngoài, chao đảo như muốn rơi.

Dưới lầu có không ít người đứng xem náo nhiệt, có người còn đang cắn hạt dưa, mọi người đều thấy việc này không lạ cho lắm.

Dù sao mỗi năm đều có không ít sĩ tử thi rớt, càng nhiều hơn nữa là những kẻ thi rớt đòi tìm chet tìm sống, luôn than thở tài hoa không gặp thời, số mệnh bất công.

Nhưng thật sự dám nhảy từ trên lầu xuống thì không có một ai.

Thông thường, phần lớn người đứng lên đó than khóc chỉ để nổi mặt, hiệu quả như mong muốn là được rồi, đâu có ai thật sự muốn đùa giỡn tính mạng của mình.

Người xem náo nhiệt đã quen với những màn khoe danh lợi này rồi, lời nói mỉa mai lại càng nhiều hơn.

Mọi người thi nhau cười nói, mặt mày hí hửng hô: “Nhảy đi! Sao không nhảy nữa! Làm dứt khoát cái nào!”

Thư sinh uống say, người ta cười, chàng cũng cười theo, trông như điên như dại.

Chỉ có chưởng quỹ của Thanh Vân Lâu là hoảng sợ, ông chỉ vào thư sinh đó la lớn: “Mau, mau, mau lên! Mau kéo hắn xuống cho ta!”

Rất nhanh, tiểu nhị mồ hôi đầm đìa chạy tới báo: “Cửa nhã gian bị khóa từ bên trong rồi, còn chắn nhiều bàn ghế, tiểu nhân đẩy không ra!”

Chưởng quỹ giậm chân: “Nếu xảy ra chuyện chết người, ta còn làm ăn gì nữa!”

Có người xen vào: “Chưởng quỹ, ngài nhìn hắn kìa, chỗ nào giống muốn tu sat…”

Thư sinh buông tay, vò rượu rơi xuống vỡ tan tành bên chân người nói chuyện, mùi rượu bốc lên khắp nơi, người xui xẻo suýt bị vỡ đầu thì tức giận chửi rủa.

Thư sinh cười lớn, tiếng cười khàn khàn phát ra từ sâu trong cổ họng khiến chàng trông dữ tợn như ác quỷ đến từ địa ngục.

Đột nhiên, thư sinh lớn giọng mắng: “Vi Chiêu Y, ngươi là yêu nữ mưu triều soán vị, hại nước hại dân, giết cha thí con! Ngươi hại trung lương, dùng người không đúng, dung túng nam sủng, ngươi không biết xấu hổ!”

Lần này không ai dám cười, Vi Chiêu Y chính là Nữ Hoàng đương triều đó! Giữa ban ngày ban mặt chửi ngài ấy, đúng là không muốn sống nữa rồi.

Chưởng quỹ mặt mày xanh mét chỉ vào thư sinh điên: “Còn đứng đó làm gì, phá cửa, kéo hắn ra đây, bịt miệng lại cho ta! Đánh chet luôn cũng được!”

Bọn tiểu nhị lấy dụng cụ, tất tả chạy lại. Chẳng bao lâu sau đã nghe trên lầu vang lên tiếng đập cửa ầm ầm.

“Rầm” một tiếng, cửa gỗ đổ ầm. Bọn tiểu nhị xông ra ban công vây quanh thư sinh.

Thư sinh không biết rút từ đâu ra một thanh trường kiếm, xoay kiếm một vòng, ép bọn tiểu nhị không dám tiến lên.

Gió nhẹ thổi qua, thổi tung mái tóc rối bù trước mặt thư sinh, lúc này mới có người để ý, trên gương mặt cương nghị nhưng non nớt của chàng có hai dòng nước mắt, cùng với nỗi tuyệt vọng không thể nói thành lời.

Lưỡi kiếm sắc lạnh chạm cổ, kề sát làn da mỏng manh, đó là quyết định không thể quay đầu.

Thư sinh hét lên vang dội: “Vi Chiêu Y, ta nguyền rủa ngươi!”

Chàng khẽ lướt tay phải, lưỡi kiếm để lại một vết thương không thể cứu vãn trên cổ.

Trong khoảnh khắc, mau’ tươi như mưa tuôn xối xả rơi trên mặt đất mênh mông.

Chàng lao mình nhảy xuống, giữa tiếng la hét của mọi người, lao vào kết cục tan xương nát thịt đã định sẵn.

Có người nghe thấy lời cuối cùng của chàng, đầy ai oán và vô hạn tình cảm với một người khác.

Chàng nói: “Hồng Hạnh, xin lỗi, ta phụ nàng…”

Cơn mưa mau’ này, cuối cùng sẽ để lại dấu vết trên thế gian.

-

Khi nói tới Tô Hồng Hạnh, mỗi người trong thành Tô Châu đều muốn giơ ngón tay cái.

Tuy nàng từng lạc bước chốn hồng trần nhưng lại coi tiền bạc như cặn bã, trọng tình trọng nghĩa.

Năm xưa, khi nàng còn là hoa khôi ở Túy Hồng Lâu, người muốn được gần gũi với nàng hàng đêm đều có thể đạp vỡ bậc cửa của Túy Hồng Lâu.

Trong số đó có không ít người muốn chuộc thân cho nàng nhưng nàng lại chọn một người nghèo khó hai bàn tay trắng là Kiều Mộc Đình.

Có người cười nhạo nàng ngu ngốc, bọn hắn cho rằng đi theo một tên văn nhân nghèo kiết xác, ngày sau này không tránh khỏi việc chịu khổ.

Tô Hồng Hạnh lại không kiêu ngạo không siểm nịnh nói: “Ta chọn lang quân, trọng tình không trọng tiền.”

Lời này vừa ra, khắp mười dặm tám thôn ai nghe xong mà không khen Tô Hồng Hạnh biết nặng biết nhẹ lại có tầm nhìn.

Quả nhiên, không lâu sau có người đến nói với Tô Hồng Hạnh rằng Kiều Mộc Đình bây giờ tuy có vẻ lụn bại, nhưng từ nhỏ đã thông minh lanh lợi.

Sáu tuổi làm thơ, bảy tuổi viết văn, mười hai thi đỗ Đồng Sinh, mười lăm đỗ Tú Tài, mười tám trúng Giải Nguyên, một ngày nào đó nhất định sẽ đỗ Trạng Nguyên đưa Tô Hồng Hạnh lên làm Trạng Nguyên Phu Nhân

Tô Hồng Hạnh lại nói: “Có thể đạt được công danh đương nhiên là tốt, nhưng dù không có, ta cũng nguyện ý theo chàng suốt đời, sơn hào hải vị hay cải trắng củ cải, cũng chỉ là vật ngoài thân.”

Lời này vừa ra, Tô Hồng Hạnh lập tức đứng đầu bảng “Những nương tử mà ta muốn cưới nhất”.

[Không giống bọn truyenne thích ăn cắp không ai thèm cưới]

Nhưng nếu ngươi hỏi Kiều Mộc Đình là người thế nào, chẳng phải chính là kẻ xui xẻo thi rớt nhiều lần, cuối cùng tự tử bằng cách nhảy lầu ở Thanh Vân Lâu hay sao.

Ngày ấy, khi Kiều Mộc Đình rơi xuống đã không còn hơi thở, đừng nói tới đỗ Trạng Nguyên, ngay cả một thi thể toàn vẹn cũng không có.

Có người nhận ra Kiều Mộc Đình nên báo cho Tô Hồng Hạnh đến thu dọn thi thể.

Nàng vội vã chạy tới, khi thấy tình trạng thê thảm của Kiều Mộc Đình, gương mặt khuynh quốc khuynh thành lập tức trở nên tái nhợt.

Nghĩ đến ngày hôm qua phu quân còn ân ái mặn nồng, như keo như sơn, hôm nay đã âm dương cách biệt, trong lòng Tô Hồng Hạnh chỉ cảm thấy như bị một cây búa tạ giáng vào, khiến cho tứ chi và ngực nàng đau âm ỉ.

Nàng lao đến bên người Kiều Mộc Đình, đôi tay run rẩy, nàng muốn chạm vào khuôn mặt của phu quân, gọi tên chàng một lần nữa.

“Kiều lang…… Kiều lang……"

Nàng một tiếng so một tiếng càng thêm thống khổ, một tiếng so một tiếng càng thảm thiết hơn, nhưng bất luận nàng gọi như thế nào, đều không thể gọi phu quân nàng trở về…

……

Ta không nói nên lời khi nhìn các tỷ muội ở Túy Hồng Lâu đang cùng nhau khóc sướt mướt, được đấy, kể chuyện xưa mà ai cũng diễn xuất như thật, từng người đều thi nhau thể hiện cảm xúc trên mặt.

Rõ ràng không thấy tận mắt, vậy mà các nàng lại mô tả tâm trạng của Tô Hồng Hạnh lúc ấy thật sống động.

Ta tấm tắc lấy làm kỳ lạ, muốn nói kỳ nữ trên thế gian này không phải chỉ có một vị trong Hoàng Thành sao? Chẳng lẽ dân gian cũng có?

Lập tức, ta nhận được một loạt ánh nhìn khinh thường. Dù Túy Hồng Lâu đã đóng cửa ba năm trước nhưng không ngăn cản được các tỷ muội vẫn là những người ủng hộ trung thành của Tô Hồng Hạnh.

Các nàng mồm năm miệng mười nói cho ta biết, Tô Hồng Hạnh đã tiêu hết tài sản để tổ chức một lễ tang lớn cho Kiều Mộc Đình.

Phải nói rằng phu thê như chim liền cành, hoạn nạn đến thì mỗi người bay một ngả.

Kiều Mộc Đình chet rồi, Tô Hồng Hạnh hoàn toàn có thể cầm tài sản của chàng mà chạy đến chân trời góc biển, nhưng nàng không làm vậy mà còn thủ tiết cho phu quân, đây là nữ nhân vĩ đại cỡ nào!

Ta duy trì nụ cười lễ phép mà không kém phần ngượng ngùng một hồi lâu, không thể nói với các nàng biết thực ra mấy ngày trước, Tô Hồng Hạnh đã đến Băng Nhân Thự, nàng muốn tìm cho mình mối hôn sự mới.

Dù sao thì…

“Băng Nhân Thự của các người sẽ bảo vệ bí mật của cố chủ, không tiết lộ nửa lời ra ngoài phải không?”

Ba ngày trước, Tô Hồng Hạnh xuất hiện trước mặt ta, cả người nghiêng ngả dựa trên ghế mây, ngực áo mở rộng để lộ một vùng ngực trắng ngần, tràn đầy xuân sắc.

Tóc nàng hơi rối, gò má ửng hồng, hẳn là nàng đã uống rượu, lời nói mang vẻ lười biếng mà phong lưu.

Thấy ta gật đầu, nàng mới cười rồi nói với ta tựa như đang vỗ về một chú mèo con hay chó con: “Chuyện này xong xuôi, ta tự khắc đưa tiền thưởng cho ngươi.”

Ta lập tức cúi đầu khom lưng cười nịnh, quả nhiên khiến Tô Hồng Hạnh vui vẻ.

Nàng mang theo hơi men, cười hỏi ta: “Ngươi có thấy kỳ lạ không, phu quân ta vừa chết, sao ta lại nghĩ đến chuyện tái giá?”

Ta thành thật mà gật đầu.

Tô Hồng Hạnh nói, người đời không hiểu rõ nên cứ nghĩ nữ tử thanh lâu tặng vàng bạc cho thư sinh lên kinh dự thi là một lòng si tình kiên định.

Nhưng thực ra trong lòng mọi người đều rõ ràng, chẳng qua các nàng chọn lang quân để đánh cược, nếu thật sự có thể đổi vài lạng bạc lấy Trạng Nguyên lang, đổi cho mình một thân phận tự do, thì đó là vụ mua bán quá có lời.

Tô Hồng Hạnh cười nói: “Bọn hắn lấy tiền lộ phí từ bọn ta, bọn ta mua hy vọng từ bọn hắn, đây là việc ngươi tình ta nguyện, nào có nhiều thứ gọi là tình sâu như biển.”

Tô Hồng Hạnh vốn cũng nghĩ rằng nàng đã cược đúng.

Nhưng ai ngờ rằng, khả năng chịu đựng của Kiều Mộc Đình lại kém như vậy, đến mức nghĩ thông không mà nhảy lầu.

Tô Hồng Hạnh “ai” một tiếng, thở một hơi thật dài, lập tức thay bằng vẻ mặt đen đủi tuyệt tình.

Nàng nói: “Xúi quẩy.”

Nhìn xem, đây mới thật sự là dáng vẻ sống động của một con người.

Tô Hồng Hạnh lại cười hỏi: “Đỗ nương tử, ta biết xuất thân của ta không tốt, nhưng mà ta đã giành được thanh danh tốt cho mình, chắc là ta còn có thể tái hôn được chứ?”

Ta vội nói: “Danh tiếng của Tô nương tử vang khắp Tô Châu, người cầu thú nương tử đương nhiên rất nhiều. Chỉ có điều, phu quân của ngài…”

Tô Hồng Hạnh điềm nhiên chỉnh lại: “Tiền phu.”

“Đúng vậy, tiền phu.” Ta cười gượng hai tiếng, hạ giọng nói: “Lời tiền phu của ngài nói trước khi chet, chính là tội lớn tru di cửu tộc đó.”

Tô Hồng Hạnh nghe xong mặt cứng đờ, ngay cả tư thế ngồi cũng chỉnh đốn lại, vẻ mặt không chỉ đen đủi, có thể nói là sầu muộn.

Nàng hiển nhiên còn muốn duy trì hình tượng, nghiến răng nói một cách kìm nén:

“Miệng mọc trên người hắn, lời hắn nói có liên quan gì đến ta? Ta thấy hôm đó hắn bị quỷ nhập! Bình thường hắn chỉ biết đọc sách thánh hiền, hôm đó lại lén lấy tiền trong nhà đi uống rượu. Hừ, có khi bị oan hồn từ đâu tới ám trở thành kẻ chet thay!”

Ta nói: “Nhưng ta nghe nói hôm đó là ban ngày ban mặt, có con quỷ nào dám ra ngoài vào giờ ngọ?”

Tô Hồng Hạnh thản nhiên nói: “Vậy thì chắc là hắn uống nhiều nên hành động thất thường thôi.”

[Thất thường giống bọn truyenne thích ăn cắp của Vân Đạm Phong Khuynh]

Nàng ngừng lại một chút, lại nói giọng ấm áp: “Bảy bảy bốn chín ngày đã qua rồi, ta thấy quan phủ cũng không đến, chắc là bình an không có việc gì.”

Ta tò mò hỏi: “Tô nương tử, ngài thật sự không có chút tình ý nào với Kiều Mộc Đình sao?”

Tô Hồng Hạnh vội nói: “Lòng người đều là thịt, sao mà không có tình ý được chứ?”

Ta ngắm nghía biểu cảm của nàng, nói lời này mà mặt Tô Hồng Hạnh không có chút cảm xúc nào, thật khó mà tin được.

Chắc là thấy ta không tin, Tô Hồng Hạnh lại bắt đầu chữa cháy, vẻ mặt đầy ai oán nói:

“Đỗ nương tử, ngài cũng là nữ tử ắt hẳn hiểu điều này, nữ nhân cần sự dịu dàng săn sóc, phu quân ta đọc sách rất giỏi, nhưng lại không hiểu tình ái triền miên…”

Cho tới bây giờ, Tô Hồng Hạnh không quên được dáng vẻ của Kiều Mộc Đình khi lần đầu tiên đến Túy Hồng Lâu.

Chàng ngồi giữa một đám oanh oanh yến yến, cứng đờ đến mức ngay cả cổ cũng không dám quay, thở cũng không dám thở.

Chàng là khách quý mà Tô Hồng Hạnh đích thân tiếp đãi, thấy chàng căng thẳng, nàng bèn nghĩ cách trêu chọc để điều tiết không khí.

Các tỷ muội dâng lên chùm nho ngọt, nàng cố ý hái một quả đưa đến miệng chàng, Kiều Mộc Đình không dám nhìn thẳng vào nàng, cứ vậy mà nuốt chửng thành ra bị nghẹn.

May là bằng hữu của chàng từ phía sau ôm lấy bụng, vừa đấm vừa ép, Kiều Mộc Đình mới phun ra quả nho, giữ được một mạng.

Tô Hồng Hạnh tự biết mình gây họa, nàng sợ bị quở trách nên đứng một bên không dám nói lời nào.

Kiều Mộc Đình vội xua tay giải vây cho nàng, chàng nói không phải lỗi của cô nương, do ta không cẩn thận, tội lỗi tội lỗi.

Kiều Mộc Đình năm này qua năm khác lên kinh ứng thí, Tô Hồng Hạnh cũng năm này qua năm khác tiễn chàng.

Chàng không như các thư sinh khác miệng đầy lời âu yếm, thề non hẹn biển hay là làm thơ ngay tại chỗ, mỗi lần chàng đều đỏ mặt nghẹn nói hai chữ: “Đợi ta.”

Nhưng mỗi lần đều vô vọng mà về.

Cuối cùng đến năm Phượng Hoàng thứ nhất, Kiều Mộc Đình nản lòng thoái chí, quyết định không thi nữa.

Cũng chính vào năm đó, Túy Hồng Lâu tuyên bố đóng cửa, Tô Hồng Hạnh quyết định gả cho chàng.

Tô Hồng Hạnh mỉm cười: “Lúc đó ta nghĩ, chưa đỗ Trạng Nguyên thì chưa đỗ, ngàn vàng khó mua lang hồi đầu*, tạm bợ một chút còn hơn bán nụ cười.”

* Lang hồi đầu: Cụm từ này thường dùng để chỉ việc người đàn ông thay đổi ý định hoặc quyết định quay trở lại với người phụ nữ mình từng yêu, việc này là một niềm an ủi lớn lao, phản ánh sự trân trọng và giá trị tình cảm

Ta nhìn Tô Hồng Hạnh trước mặt, không rõ tại sao nhưng ta luôn cảm thấy sau lưng nàng còn giấu nhiều thứ chưa thể nhìn ra.

Tô Hồng Hạnh uống một ngụm trà, tự ý đổi chủ đề: “Đỗ nương tử, ta nghe nói nếu cố chủ có đối tượng ưng ý, Băng Nhân Thự của các người cũng có thể giật dây bắc cầu.”

Ta cười nói: "Đương nhiên rồi, cô nương có ai trong lòng không? Là ai vậy?"

Ánh mắt của Tô Hồng Hạnh khẽ dao động, thực sự là quyến rũ mê hoặc.

Nàng thấp giọng nói: "Thật không dám giấu giếm, ta thực sự có một người khách cũ nhưng gia môn nhà hắn không phải dễ vào. Nếu ngươi có thể giúp ta hoàn thành việc này, sau này ngươi ở Tô Châu muốn gió có gió, muốn mưa có mưa."

Tô Hồng Hạnh nhìn trái phải quanh một lượt, xác nhận không ai nghe thấy, mới ghé sát tai ta rồi nói: "Người đó chính là Tri phủ Tô Châu, Trương Hữu Thần."

Ta bày ra vẻ mặt bừng tỉnh đại ngộ, Trương Hữu Thần này ta từng gặp.

Hắn là Trạng Nguyên lang năm Phượng Hoàng thứ nhất, dung mạo đoan chính, đúng lúc đang độ tuổi ba mươi đầy phong độ khí khái.

Chỉ tiếc rằng phụ mẫu của Trương Hữu Thần lại gả cho hắn một nương tử nuôi từ bé, lớn hơn hắn mười lăm tuổi, diện mạo kém sắc, cử chỉ thô lỗ, thân hình mập mạp.

Năm đó, Trương Hữu Thần vì người thê tử này mà không ít lần bị đồng liêu cười nhạo.

Ta vội vàng đáp ứng, nói chuyện cùng Tô Hồng Hạnh một lúc rồi mới đứng dậy cáo từ.

Không ngờ bất cẩn làm đổ trà lên người, Tô Hồng Hạnh nói muốn lấy cho ta một kiện y phục, ta lục lọi quanh nhà nhân lúc nàng đi, quả nhiên tìm thấy Mê La Hương trong một chiếc hộp nhỏ trên trang đài*.

* Trang đài: bàn trang điểm của phụ nữ thời xưa.

Trước khi đến Tô Châu, ta đã kiểm tra thi thể của Kiều Mộc Đình tại phần mộ, ta phát hiện tàn tích của Mê La Hương trong mũi hắn.

Mê La Hương vốn là thảo dược được đại phu dùng để giảm đau cho người bệnh, chỉ cần tán thành bột làm hương xông, khi ngửi vào sẽ sinh ra cảm giác ảo mộng kh*** c*m, đây là loại hương thường dùng ở kỹ viện để trợ hứng.

Ta thay y phục Tô Hồng Hạnh đưa, trước khi đi còn quay lại hỏi: “Tô nương tử, ta nghe nói Túy Hồng Lâu từng là thanh lâu thịnh vượng nổi tiếng nhất Tô Châu, sao ba năm trước lại đột ngột đóng cửa?"

Tô Hồng Hạnh sửng sốt, ra vẻ ai oán thở dài: "Không biết lão bản chạy đi đâu chơi đùa rồi, bọn ta mất đi người tâm phúc đành phải đóng cửa thôi."

Ta gật đầu, sự im lặng ngắn ngủi của ta đã thu hút sự chú ý của Tô Hồng Hạnh.

Nàng cười dịu dàng nhưng ánh mắt không rời: "Đỗ nương tử không phải là người của Băng Nhân Thự sao, sao lại tò mò về những chuyện này?"

Ta cười cười, không thể nói với nàng rằng ta không phải là Đỗ nương tử thật.
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 2


Ta là Ứng Tích Triều, phụng mệnh Nữ Hoàng Vi Chiêu Y, bí mật đi tới Tô châu để điều tra vụ tu sat của Kiều Mộc Đình.

Nữ Hoàng đương nhiên không hẹp hòi như dân chúng nghĩ, chỉ vì Kiều Mộc Đình chửi ngài hai câu mà phái ta tới thu thập chứng cứ phạm tội.

Trên thực tế, ngày thứ hai sau khi Kiều Mộc Đình chết, Đại Lý Tự Khanh Tăng Tri Hứa dâng một tờ mật tấu không chữ, sau khi dùng đủ cách mới khiến mật tấu hiện ra ba chữ:

Kiều Mộc Đình

Bên cạnh còn kèm một dấu tay.

Tăng Tri Hứa từ trước đến nay luôn làm việc mạnh mẽ như sấm rền gió cuốn, chẳng mấy chốc đã tìm ra Kiều Mộc Đình là ai, dù sao mấy lời cuối của hắn đã đẩy bản thân lên đầu ngọn gió.

Sau khi đối chiếu với thi thể của Kiều Mộc Đình, Tăng Tri Hứa xác nhận mật tấu này xuất phát từ tay của hắn.

Tăng Tri Hứa tiếp tục điều tra sâu hơn, liền phát hiện ra điều kỳ lạ.

Kiều Mộc Đình vốn là người Tân Châu, thiếu niên thông tuệ, bụng đầy kinh luân, không thể chối cãi việc đây là một tài tử, những bài thi trước đây của hắn đều có văn phong bay bổng, xứng đáng với vị trí Trạng Nguyên.

Dù không đỗ Trạng Nguyên, ít nhất cũng phải là Bảng Nhãn, nhưng lạ thay, hắn luôn thi trượt.

Một người ưu tú như vậy, sao lại đột nhiên điên loạn rồi t:ự sa’t trên Thanh Vân Lâu? Và thời điểm tự sát lại trùng khớp với sự xuất hiện của mật tấu?

Nữ Hoàng nghi ngờ có điều mờ ám nên giao cho Tăng Tri Hứa điều tra.

Thế nhưng, Vi Chu hiện giờ nhìn như trời yên biển lặng, thật ra bên dưới lại là sóng lớn ngầm trào, mỗi người đều cất giấu bí mật của riêng mình.

Có những bí mật không ảnh hưởng toàn cục nhưng có những bí mật đủ để lay động căn cơ triều chính, cùng với mạng của ngài ấy.

Cho dù ngài và Đại Lý Tự Khanh đều chung một phe, khó tránh khỏi những rắc tối phức tạp của thế lực bất hoà.

Nữ Hoàng không thể hoàn toàn tin tưởng Tăng Tri Hứa, ngài cần một người ngoài cuộc hoàn toàn trung lập để gia nhập, tìm ra chân tướng sự việc và nhổ tận gốc những kẻ rắp tâm hại người.

Ta chính là người này.

Dù sao những năm qua, ta đã làm không ít việc cho ngài ấy, thậm chí còn ngồi xổm trong ám thất* ba năm, lòng trung thành có nhật nguyệt chứng giám.

* Ám thất: Gian nhà tối, ngục riêng ở nhà quan thời xưa.

Dĩ nhiên, ngoài lòng trung thành, ta nghĩ ngài ấy còn nhìn trúng khả năng nguỵ trang của ta.

Mê La Hương khiến ta nghi ngờ Tô Hồng Hạnh.

Khi tới Tô Châu, ta tìm hiểu chung quanh vài ngày, nắm bắt được đại khái về Tô Hồng Hạnh thông qua ánh mắt người khác, nàng ta thực sự là điển hình cho thanh danh bên ngoài của nữ tử chốn phong trần. (ý đoạn này của nữ chính là: kỹ nữ còn bày đặt lập đền thờ trinh tiết)

Nếu không phải bị ta phát hiện nàng lén lút ra vào Băng Nhân Thự, ta cũng muốn tặng cho nàng một cái đền thờ.

Sau đó, ta cải trang thành một nữ tử họ Đỗ trong Băng Nhân Thự, tìm cơ hội tiếp cận nàng ta.

Không thể phủ nhận việc Tô Hồng Hạnh là một người thông minh tuyệt đỉnh, nếu một người có thể quan sát tỉ mỉ mọi thứ xung quanh, lừa được gần như tất cả mọi người, sao có thể không thông minh được chứ?

Nhưng một người thật sự thông minh như vậy, e rằng nguy hiểm.

Tâm nàng rốt cuộc là trắng hay đen, là nóng hay lạnh, thật khó mà đoán được.

Ai da, nếu lúc này có mặt Tăng Tri Hứa ở đây, với cách làm việc nhất quán của mình thì hắn ta chắc chắn sẽ bắt Tô Hồng Hạnh vào Đại Lý Tự, dùng trăm loại khổ hình, bảo đảm khiến nàng ta thành thật khai báo.

Tiếc rằng, Tăng Tri Hứa đang bị việc vướng chân chưa đến được Tô Châu, sân khấu này trước mắt chỉ có một mình ta diễn.

Không, phải là ta và Tô Hồng Hạnh.

Sau ngày tiếp xúc với Tô Hồng Hạnh, ta tiếp tục âm thầm theo dõi vài ngày, quả nhiên phát hiện nàng và Trương Hữu Thần thường xuyên gặp nhau tại một ngôi nhà nhỏ hẻo lánh.

Ta leo lên mái nhà, mở mái ngói, thấy Trương Hữu Thần từ trên cao nhìn xuống bóp cằm Tô Hồng Hạnh, vẻ mặt tự đắc mà nói: “Gương mặt này xem như thuộc về ta.”

Hắn định hôn lên đôi môi thơm ấy nhưng Tô Hồng Hạnh đẩy ra, nàng khẽ cười nói: “Việc ta cần làm đã hoàn thành, còn chàng thì sao?”

Thấy Trương Hữu Thần lộ vẻ khó xử, Tô Hồng Hạnh hờn dỗi nói: “Hiện giờ ta là dân nữ nhà lành, ngày ngày tư thông như vậy thì ra thể thống gì?”

Trương Hữu Thần bị nàng làm cho mủi lòng, cắn răng nói: “Tâm can của ta, ta đáp ứng nàng, ta nhất định sớm trừ bỏ mụ già đó, quang minh chính đại rước nàng vào phủ.”

Tô Hồng Hạnh cười dịu dàng, vừa mềm mại vừa quyến rũ, nàng ta lấy một chiếc khăn thêu hoa mai từ thắt lưng của Trương Hữu Thần, hỏi: “Đường thêu này thật đẹp, lại do tình nhân nào đưa cho chàng?”

Trương Hữu Thần vội nói: “Ta có nàng rồi làm gì còn tình nhân nào khác nữa, cái này còn không phải do mụ già kia thêu hay sao? Ta phải hư tình giả ý với ả, không mang theo không được.”

Tô Hồng Hạnh dùng răng cắn một góc khăn, mắt nhìn Trương Hữu Thần: “Ta không thích chàng mang đồ của ả, ta muốn mang về cắt vụn.”

Trương Hữu Thần thấy nàng như vậy, làm sao dám nói nửa chữ không.

Vài ngày sau, nghe nói Tô Hồng Hạnh muốn đến miếu Quan Âm dâng hương, đây là lần đầu tiên nàng ta xuất hiện công khai sau sự việc của Kiều Mộc Đình.

Ta nhạy bén nhận ra sắp có kịch hay, nhanh chóng mua một gói hạt dưa theo sau nàng ta.

Trước mặt người khác, Tô Hồng Hạnh luôn ngẩng cao đầu, không kiêu ngạo không siểm nịnh.

Nàng ta lễ độ đáp lại mỗi khi có người chào hỏi, lễ nghĩa mười phần đoan chính.

Khó được còn có cả hoàng hoa đại khuê nữ* xuất thân trong sạch, chính là những người thường chỉ vào sống lưng các cô nương thanh lâu mắng không biết liêm sỉ, lúc này cũng đều nhìn nàng một cái.

* Hoàng hoa khuê nữ: Đương thời lưu hành việc dán hoa hoàng, tức nữ tính căn cứ vào sự yêu thích của mình, dùng màu vàng vẽ các hoa văn trên trán hoặc trên má. Hai chữ “hoàng hoa” 黄花 trước từ “khuê nữ” 闺女, không chỉ nói rõ cô gái đó chưa lập gia đình mà còn biểu thị cô gái đó tâm linh thuần khiết, phẩm đức cao thượng. Hoàng hoa khuê nữ trở thành đại danh từ chỉ thiếu nữ trẻ đẹp chưa lập gia đình.

Ta bỗng nhiên ý thức được, Tô Hồng Hạnh tự biến mình thành Phật sống.

Khó có thể tưởng tượng, nếu một ngày nào đó, nàng ta từ trên đám mây ngã xuống sẽ là tình cảnh gì?

Đợi tới khi đến chùa Quan Âm, ta lập tức hiểu được vở kịch này sẽ diễn như thế nào. Hôm nay Trương phu nhân kia cũng mang theo nha hoàn đến dâng hương, xem ra là tới cầu con.

Thực lòng mà nói, Tô Hồng Hạnh đứng bên cạnh Trương phu nhân, cho dù là người không có học thức cũng có thể thốt ra bốn chữ “một trời một vực”.

Tô Hồng Hạnh trẻ trung, dịu dàng quyến rũ, đôi mắt như móc câu, lúc thẹn thùng xấu hổ có thể câu mất hồn người, chính là kiểu nữ tử mà những vị đại nhân sĩ tộc tự cao tự đại ưa thích: bên ngoài thuần khiết, bên trong ph*ng đ*ng.

So qua sánh lại, ta cảm thấy có chút đau lòng cho Trương phu nhân chẳng hay biết gì.

Tô Hồng Hạnh rất đoan trang hành lễ với Trương phu nhân.

Trương phu nhân tuy rằng nhìn thô kệch nhưng chắc chắn là người tâm thiện từ bi, bà vội đỡ Tô Hồng Hạnh, chân thành an ủi: “Cô nương là Tô nương tử đúng không? Ta có nghe người ta nói về chuyện của cô nương. Người chết đã qua, người sống phải tiến về phía trước.”

Ta ngồi trên cây, vỏ dưa rơi đầy đất, thầm nghĩ thật tội nghiệp Trương phu nhân, Tô Hồng Hạnh đâu chỉ tiến về phía trước, nàng ta còn đang leo tường nhà các ngươi, sắp vào bên trong rồi.

Nhưng tố chất tâm lý của Tô Hồng Hạnh thật cao, mắt nàng đỏ hoe như rất cảm động, đôi mắt ngập nước gật đầu rồi nhẹ giọng nói: “Đa tạ phu nhân quan tâm.”

Trương phu nhân thấy bộ dạng yếu đuối như cành liễu trước gió của nàng ta thì thương tiếc đến nỗi không biết nói gì, bà vội vỗ tay Tô Hồng Hạnh, rộng lượng nói: “Nếu Tô nương tử không chê, sau này đến phủ ngồi chơi, ta có thể trò chuyện giải khuây cùng cô nương”

Hàng mi dài của Tô Hồng Hạnh khẽ run lên, hai giọt nước mắt liền lăn xuống, thật sự là nhiều thêm một chút thì nhu nhược, bớt một chút thành ra bạc tình.

Có lẽ Tô Hồng Hạnh cảm thấy thất lễ, vội rút một chiếc khăn tay từ trong ngực, vừa cảm ơn Trương phu nhân, vừa nhẹ nhàng lau nước mắt.

Trương phu nhân vẫn luôn cười hiền hậu nhưng khi bà thấy chiếc khăn thêu hoa mai, mặt lập tức trắng bệch.

Bà không tin nổi mà nhìn Tô Hồng Hạnh, miệng mở ra rồi đóng lại, một lúc lâu không nói được lời nào, toàn thân run rẩy.

Hai mắt ta tỏa sáng, cao trào của vở kịch tới rồi!

Tô Hồng Hạnh lau khô nước mắt, không biết từ khi nào đã thay đổi thành biểu cảm muốn nói lại thôi.

Nàng ta rõ ràng đã nhận ra tâm trạng của Trương phu nhân lúc này, khuôn mặt nàng theo thứ tự chính xác, lần lượt hiện rõ sự hổ thẹn, đau khổ, ai oán, cuối cùng nắm chặt tay, thể hiện bộ dạng quyết tâm.

Nhìn thấy toàn bộ sự thay đổi trên mặt Tô Hồng Hạnh, ta trợn mắt há hốc mồm: Thật lợi hại!

Tô Hồng Hạnh nhẹ giọng nói: “Trương phu nhân, dân nữ có thể mời ngài tới nơi khác nói chuyện được không?”

Trương phu nhân đã mất hồn từ lâu, cũng chưa nói được hay không, nhưng Tô Hồng Hạnh đã ghé sát tai bà thì thầm một câu.

Ta duỗi dài cổ, đáng tiếc cách quá xa nên không nghe được gì.

Trương phu nhân mất hết huyết sắc, đặt mông xuống đất, phong phạm danh môn quý phụ gì đó hoàn toàn biến mất.

Nha hoàn của bà sợ hãi, vội vàng lại đỡ, nhưng Trương phu nhân đã sớm ngồi phịch dưới đất, đôi mắt trợn tròn, mặc cho tiểu nha hoàn gọi bà như thế nào cũng không có phản ứng.

Rốt cuộc Tô Hồng Hạnh đã nói gì?

Đây là vạch trần mối quan hệ giữa mình với Trương Hữu Thần rồi thị uy với Trương phu nhân sao? Hay là vì mục đích vào cửa mà bán sự thương hại và đồng tình?

Một lát sau, Trương phu nhân thuần phác bật khóc.

[Khóc vì bị mấy coan bên truyenne ăn cướp á mà]

Ta quan sát biểu cảm của Tô Hồng Hạnh, khuôn mặt nửa che nửa hở sau chiếc khăn tay tựa như một người ôm đàn tỳ bà che nửa mặt.

Chỉ có góc độ của ta mới thấy được khóe miệng nàng hiện lên một nụ cười đắc ý.

Hay đây là thủ đoạn Tô Hồng Hạnh dùng để vào cửa nhà Tri phủ?

Nếu đã có cách thì nàng ta tìm tới Băng Nhân Thự làm gì?

Ta biết, chuyện này e rằng không cần đến ngày mai đã nhanh chóng lan truyền khắp ngõ ngách.

Chỉ là, câu chuyện mà mọi người nghe được sẽ là phiên bản nào đây?
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 3


Câu chuyện về Tri phủ Tô Châu Trương Hữu Thần khinh nam bá nữ, mưu đồ hãm hại thê tử không biết làm sao lại lan truyền rộng rãi khắp ngõ ngách Tô Châu.

Đồng thời còn lan truyền chuyện Tô Hồng Hạnh đi Băng Nhân Thự, muốn vì chính mình mà cầu thân* Trương Hữu Thần.

* Cầu thân: 1. Xin kết hôn với ai hoặc làm thông gia với nhà nào. 2. Xin kết bạn, cầu làm thân với nhau.

Hình tượng Tô Hồng Hạnh xây dựng lúc trước sụp đổ trong một đêm, kể từ đó nàng ta rơi vào tâm điểm của vụ bê bối.

Cuộc gặp gỡ giữa nàng và Trương phu nhân ngày hôm đó tại miếu Quan Âm cũng được đồn khắp thành, không biết bị ai thêm mắm dặm muối mà trở thành "Tô Hồng Hạnh tằng tịu với Trương Tri Phủ nhiều năm cuối cùng đã lộ nguyên hình, không những vậy, nàng ta vô sỉ thị uy với nguyên phối*".

* Nguyên phối: Vợ. Như: “nguyên phối”元配 vợ cả, người vợ đầu tiên, “kế phối” 繼配 vợ kế, “đức phối”德配 vợ người khác.

Những người lúc trước còn khen Tô Hồng Hạnh là một kỹ nữ nhưng đầy nghĩa khí, bây giờ đồng loạt đổi giọng quay sang mắng nàng ta không biết liêm sỉ, hoàn toàn không để ý phần lớn trong số họ, chẳng ai từng đi qua miếu Quan Âm, căn bản không ai nghe được Tô Hồng Hạnh thực sự đã nói gì với Trương phu nhân.

Nhưng điều này vẫn không gây trở ngại cho việc mọi người cùng nhau chửi bới Tô Hồng Hạnh, ai bảo nàng ta đã phản bội niềm tin của bọn họ.

Ngược lại, hình tượng của Kiều Mộc Đình lại bất ngờ được nâng cao, ngay cả việc thi cử không đỗ cũng được người ta tìm ra lý do.

Nhất định là do thượng cấp quá đen tối, có người động tay động chân!

Nếu không phải như vậy, tại sao một người tình sâu nghĩa nặng, đến chet vẫn gọi tên thê tử lại không đỗ Trạng Nguyên cơ chứ?

Tất cả đều nói chắc như đinh đóng cột, mặc dù trong đó không có mối liên hệ luận lý* nào cả.

* Luận lý: Nghị-luận theo một phương-pháp dựa vào lý-lẽ chính-xác. Đây là từ được chuyển ngữ từ từ tiếng Anh "logic", từ "logic" có thể dịch ra tiếng Việt là "luận lý" (cách dịch này xuất hiện từ trước năm 1975 nhưng người Việt hay quen dùng tiếng Anh nhiều nên ít ai biết là từ logic có thể dịch ra tiếng Việt)

Trong một đêm đó, các tỷ muội Túy Hồng Lâu trước đây đã trở thành tiêu điểm chú ý của toàn thành, bởi vì trong chuyện của Kiều Mộc Đình và Tô Hồng Hạnh, những người chứng kiến toàn bộ quá trình của họ rất có quyền lên tiếng.

Nghe nói, ngay từ lúc ban đầu, Tô Hồng Hạnh cảm thấy Kiều Mộc Đình thật phiền.

Hắn là người chất phác lại ăn nói vụng về, mỗi khi thấy nàng đều nói không nên lời.

Trong chốn phong nguyệt cái gì cũng từng thấy, lại luôn được chúng tinh phủng nguyệt*, sao Tô Hồng Hạnh có thể để mắt đến một khúc gỗ.

* Chúng tinh phủng nguyệt: chữ trong Luận ngữ; phủng có nghĩa là bưng, nâng, bế, ôm; Trăng được các vì sao vây quanh, giống như một đám người vây quanh, che chở, ủng hộ một ai đó mà họ yêu thích.

Nhưng chẳng thể làm gì khác, Kiều Mộc Đình là khách quý của lão bản Túy Hồng Lâu, Diệp Hy.

Khi đó chẳng ai có thể hiểu nổi, sao Diệp Hy lại kết giao bằng hữu với một người như Kiều Mộc Đình.

Phải nói sao nhỉ, diện mạo Kiều Mộc Đình khá đoan chính, bình thường đến mức tầm thường, thuộc kiểu người Giáp đi trên phố cũng không ai để ý.

Còn Diệp Hy thì khác, các tỷ muội ở Túy Hồng Lâu đều nói, người như Diệp Hy không ai không thích.

Trời sinh Diệp Hy có một gương mặt phong lưu tuấn lãng*, sáng trong như mỹ ngọc, đôi mắt tựa như những vì sao vô tình hạ xuống nhân gian, ánh mắt luôn mang ý cười, y đối đãi với người khác vô cùng dịu dàng và chu đáo.

* Tuấn lãng: khôi ngô tuấn tú và sáng sủa

Diệp Hy thích rượu lại không bao giờ say xỉn, y thường hay xách theo một bầu rượu, xiên xiên xẹo xẹo ngồi vắt vẻo trên lan can.

Vừa uống rượu vừa ngâm thơ hát vang tựa như trích tiên* trong Nguyệt cung, làm cho người ta hận không thể hóa thân thành một con thỏ tiến vào trong lòng Diệp Hy, được y ôm ấp vỗ về.

*Trích tiên: Tiên bị đày xuống trần.

Diệp Hy có thể là công tử nhà quyền quý nào đó, y ra tay vô cùng hào phóng, vừa đến đã mua luôn Túy Hồng Lâu.

Tưởng rằng Diệp Hy là một kẻ ăn chơi trác táng, ai ngờ y lại trả hết khế ước bán thân cho các tỷ muội ——thả các nàng được tự do.

Lúc đầu các tỷ muội không tin nhưng thấy Diệp Hy thực sự không có ý định nuốt lời, mới nhận ra rằng y đúng là một vị bồ tát sống.

Có vài người đã rời đi nhưng có người thấy mình không có chỗ nào để đi, hiện giờ trở thành người tự do bèn ở lại kiếm tiền, dù sao Diệp lão bản cũng đối xử rất tốt với các tỷ muội trong thanh lâu.

Không biết có bao nhiêu cô nương trong Túy Hồng Lâu đều ngưỡng mộ và yêu thích Diệp Hy, nhưng không ai dám đến gần vì sợ mạo phạm y.

Trong số các hoa thơm cỏ lạ kia, chỉ có Tô Hồng Hạnh có đủ dũng khí và tư cách đến gần Diệp Hy

Trang điểm của Tô Hồng Hạnh luôn rực rỡ nhất, bộ diêu trên đầu lấp lánh nhất, váy áo cũng hoa lệ nhất, nàng như một đoá mẫu đơn nổi bật giữa đám hoa thơm cỏ lạ, chỉ có nàng mới có thể bước lên lầu cao nhận lấy bầu rượu từ tay Diệp Hy.

Diệp Hy cười khanh khách mà nhìn nàng, chờ đợi hành động của nàng.

Ánh mắt nàng rực rỡ lung linh, nhấc tay nâng bầu rượu lên, cổ hơi ngửa ra, loại rượu tầm thường bỗng như như quỳnh tương ngọc dịch*, vẽ một đường cong hoàn hảo trên không trung rồi rơi vào miệng anh đào nho nhỏ của nàng.

* Quỳnh tương ngọc dịch: Quỳnh tương Lấy từ Quỳnh tương ngọc dịch. Quỳnh là ngọc đẹp, còn tương và dịch là cách gọi chất lỏng. Thành ngữ này có nghĩa là "rượu làm bằng ngọc đẹp." Người xưa cho rằng rượu làm từ ngọc ra mà uống thì có thể thành tiên. Quỳnh tương vì thế chỉ loại rượu rất quý.

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân

(Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến)

Cánh tay Tô Hồng Hạnh tựa ngó sen, mềm mại nhu nhược không xương, mười ngón tay thon dài m*n tr*n cổ áo Diệp Hy, kéo y vào lòng mình, đôi môi đỏ mọng khẽ mở truyền rượu trong suốt như pha lê vào miệng y.

Diệp Hy uống rượu một cách phóng khoáng, y ôm lấy eo nàng, hành động không chút thô bỉ ngược lại vô cùng trân trọng và thương tiếc.

Đúng như con người của Diệp Hy, tiêu sái tự tại, phong lưu mà không hạ lưu.

Diệp Hy mời Tô Hồng Hạnh cùng uống rượu và nhảy múa, bóng dáng hai người hoà quyện vào nhau, trùng trùng điệp điệp, ai nhìn thấy cũng phải thực lòng khen ngợi một tiếng tài tử giai nhân.

Nhưng ngay sau đó, Tô Hồng Hạnh nắm lấy tai Diệp Hy và mắng vào tai y: “Rượu này đáng giá hai lượng vàng một ly nhỏ, ngài uống hết thì chúng ta bán cái gì đây?”

Diệp Hy hét toáng lên, trông như một kẻ sợ thê tử.

Trong cảnh tượng tình chàng ý thiếp như vậy, Kiều Mộc Đình lại ngồi dưới lầu cười ngốc nghếch, đã vậy hắn còn vỗ tay khen ngợi cùng người khác.

Tư tưởng giác ngộ cỡ này còn không phải là người qua đường Giáp hay sao?

Kiều Mộc Đình là người được Diệp Hy nhặt về. Ngày ấy Diệp Hy thấy Kiều Mộc Đình chỉ lo học hành đến nỗi bị trộm mất tiền cũng không biết, thế nên y đành phải tốt bụng giúp hắn lấy lại túi tiền.

Sau đó, Kiều Mộc Đình đuổi theo Diệp Hy suốt hai dặm chỉ vì muốn tạ ơn y bằng số tiền lớn.

Diệp Hy thực sự không chịu nổi… không, là bị sự kiên trì của Kiều Mộc Đình làm cho cảm động, hai người nhất kiến như cố, kết làm tri kỷ.

* Nhất kiến như cố: 1. Mới gặp mà thấy như bạn cũ. § Cũng nói “nhất kiến như cựu” 一見如舊. ◇Nho lâm ngoại sử 儒林外史: “Lưỡng vị đô bất tất khiêm, bỉ thử cửu ngưỡng, kim nhật nhất kiến như cố” 兩位都不必謙, 彼此久仰, 今日一見如故 (Đệ nhị bát hồi).

Không lâu sau đó, Diệp Hy phát hiện Kiều Mộc Đình tuy chỉ là thường dân áo vải nhưng lòng mang chí lớn, tích cực tham gia khảo thí khoa cử, một lòng muốn thỉnh mệnh* vì dân.

* Thỉnh mệnh: Xin người cấp trên cho phép, ra lệnh, vd: thỉnh mệnh chúa công. Ý nghĩa câu này Mộc Đình mong muốn thỉnh mệnh ơn trên vì dân mà phục vụ.

Kiểu Mộc Đình đọc đủ thứ thi thư, xuất khẩu thành thơ, đúng kiểu tú tài đầu ngỗng ngốc nghếch trong truyện, dù hắn có hơi cổ hủ nhàm chán nhưng rất dễ trò chuyện.

Vừa khớp với Diệp Hy không đứng đắn lại rất thích nói chuyện. Kiều Mộc Đình không bao giờ thấy phiền, bất kể Diệp Hy bắt đầu bằng chủ đề chán ngắt nào, hắn cũng trao đổi rất hứng thú.

Thế nên, Diệp Hy không coi Kiều Mộc Đình là bạn cũng không được.

Tô Hồng Hạnh thường tự hỏi hai người này tụ tập lại có thể nói chuyện gì? Có một lần nàng thực sự tò mò, bèn lấy cớ hầu hạ bên cạnh để nghe Kiều Mộc Đình bàn luận viển vông, chỉ trích thời thế.

Diệp Hy cũng không nói gì, y chỉ chống cằm mỉm cười nhìn hắn.

Tô Hồng Hạnh nghe thấy mà không khỏi cười nhạt, luận điểm của Kiều Mộc Đình tuy có ý tưởng, nhưng theo nàng, những điều đó chỉ là lý luận suông.

Tô Hồng Hạnh rốt cuộc không nhịn được mà lên tiếng phản bác.

Nàng vốn tưởng rằng Kiều Mộc Đình bị nói như vậy sẽ nổi giận, dù sao những thư sinh như hắn thường rất tự cao, làm sao hắn chịu được chính kiến của mình bị một kỹ nữ phản đối.

Không ngờ Kiều Mộc Đình nghe xong ngẩn ra rồi đứng dậy, chắp tay ôm quyền với nàng, bộ dạng như chiêu hiền đãi sĩ*.

* Chiêu hiền đãi sĩ (礼贤下士 - lễ hiền hạ sĩ): hạ mình cầu hiền, trong thời phong kiến, câu này chỉ vua chúa, quan thần… hạ mình kết bạn với người hiền tài.

Điều này lại khiến cho Tô Hồng Hạnh ngượng ngùng, nàng nghĩ: mình là hoa khôi, có cảnh nào chưa thấy qua, lúc này lại không biết phải đáp lễ thế nào.

Kiều Mộc Đình thành thật nói: “Do tiểu sinh ngu dốt, tầm nhìn hạn hẹp, mong được nghe Tô cô nương tường giải* thêm.”

* Tường giải: giải thích một cách tường tận, rõ ràng

Tô Hồng Hạnh thấy Kiều Mộc Đình chân thành bèn không khách khí nữa mà nhiều lời thêm vài câu với hắn.

Kiều Mộc Đình nghe xong không ngừng gật đầu, ánh mắt nhìn Tô Hồng Hạnh càng thêm kính trọng.

Cuối cùng, Kiều Mộc Đình còn dùng lễ nghĩa cao nhất, cung kính mời Tô Hồng Hạnh một ly trà.

Tô Hồng Hạnh vốn đã nói đến khô miệng liền nhận lấy uống ngay, không ngờ bị bỏng làm cho Kiều Mộc Đình luống cuống tay chân, không biết nên đi tìm đá hay quạt cho nàng bớt nóng.

Trong cảnh hỗn loạn, Kiều Mộc Đình không cẩn thận giẫm lên chân Tô Hồng Hạnh, khiến nàng tức đến mức ngay cả cổ cũng đỏ ửng.

Lúc này, Diệp Hy mới vỗ tay cười lớn, y nói: “Ta thấy hai người các ngươi đúng là đôi đũa lệch trong miếu Thành Hoàng.”

Lúc này Tô Hồng Hạnh mới ý thức được chính mình đã bị Kiều Mộc Đình dẫn lạc đề, hiếm khi có thời gian rảnh, tại sao nàng lại lãng phí vào cái khúc gỗ này, còn làm mình lâm vào cảnh chật vật như thế.

Diệp Hy nhấc bình rượu trên bàn, loạng choạng đứng dậy muốn rời đi.

Tô Hồng Hạnh hỏi: “Ngài đi đâu vậy?”

Diệp Hy đáp một cách đương nhiên: “Uống rượu chứ sao, những gì các ngươi nói ta không hứng thú, đi đây.”

Diệp Hy ung dung rời đi, còn vẫy tay chào họ.

Kiều Mộc Đình khẽ thở dài.

Tô Hồng Hạnh cáu kỉnh hỏi: “Thở dài cái gì?”

Kiều Mộc Đình bị nàng làm giật mình, mặt đỏ bừng, ấp úng mãi mới nói: “Ta chỉ muốn nói, tài năng và mưu lược của Diệp huynh, đời này e khó tìm được mấy ai sánh bằng, ta chỉ không hiểu tại sao huynh ấy lại kháng cự con đường làm quan đến thế?”

Tô Hồng Hạnh không thể phản bác, thực ra không chỉ mình nàng thấy kỳ lạ, các tỷ muội trong Túy Hồng Lâu cũng nhận ra điều đó.

Diệp Hy chắc chắn là người học rộng tài cao, văn chương xuất chúng.

Chỉ là không hiểu vì sao, Diệp Hy suốt ngày lông bông, dường như y thích làm một kẻ nhàn rỗi vô dụng hơn.

Kiều Mộc Đình suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu cười nói: “Mỗi người có chí hướng riêng, triều đình hay giang hồ đều có cái hay của nó, chỉ cần Diệp huynh vẫn là Diệp huynh thì tốt rồi.”

Tô Hồng Hạnh ngạc nhiên: “Các người là người đọc sách, chẳng phải đều lấy việc thi đậu khoa cử làm mục tiêu hay sao? Ngươi không thấy Diệp Hy suốt ngày lêu lổng với bọn ta là không chịu cầu tiến, mê muội mất hết ý chí hay sao?”

Kiều Mộc Đình cười nói: “Nếu ta xem Diệp huynh là người không chịu cầu tiến, mê muội mất hết ý chí, Diệp huynh không phải cũng thấy ta là kẻ chỉ vì cái trước mắt, mơ mộng hão huyền, đúng không nào? Hơn nữa, các cô nương đều là người, không phải vật, càng không phải đồ chơi.”

Tô Hồng Hạnh ngẩn ngơ nhìn Kiều Mộc Đình, nàng chợt nhận ra rằng, Diệp Hy kết bạn tri kỷ với Kiều Mộc Đình không phải không có lý do.

Kiều Mộc Đình nhìn có vẻ chất phác vụng về nhưng tâm hồn lại rất thấu đáo.

Khó trách, Diệp Hy lại thích nói chuyện với hắn đến thế……….

Tô Hồng Hạnh nghĩ đến đây bỗng dưng lại có chút giận dữ, nàng trừng mắt nhìn Kiều Mộc Đình một cái.

Hoàn toàn không nhận ra bản thân nàng lúc này trông như một bé gái nhõng nhẽo, hoàn toàn mất đi vẻ đài các và khí phách của một hoa khôi.

Kiều Mộc Đình thì thật thà, hắn bị nàng lườm lập tức im bặt nhưng trong đôi mắt hắc bạch phân minh, trong veo tới mức có thể thấy đáy của hắn lại thêm một tia thưởng thức nóng bỏng.

Tô Hồng Hạnh không xa lạ gì ánh mắt đó cho lắm nhưng chân tay nàng trở nên luống cuống khi bị Kiều Mộc Đình ngốc nghếch nhìn như vậy.

Khi các tỷ muội trước đây ở Túy Hồng Lâu kể đến đây, mọi người đều chắc chắn rằng đây chính là khởi đầu của tình yêu.

Nhưng ta nhớ lại lần thăm dò Tô Hồng Hạnh lúc trước, khi nàng ta nhắc đến Kiều Mộc Đình, ta vẫn không cảm nhận được tình ý gì từ nàng.

Vậy nên, giữa bọn họ rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì mới khiến cả hai đi đến bước này?
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 4


Khi tới nhà tìm Tô Hồng Hạnh, ta phát hiện cửa nhà nàng bị ném đầy rau thối.

Trên cửa còn bị đập vài quả trứng, chất lỏng nhầy nhụa vẫn đang nhỏ xuống.

Ta đang loay hoay tìm cách vào bằng con đường sạch sẽ thì Tô Hồng Hạnh mở cửa từ bên trong, tay nàng còn cầm rổ rau.

Nàng cười tươi tiếp đón: “Đỗ nương tử đến rồi, chờ ta một chút nhé.”

Nói xong, Tô Hồng Hạnh ngồi xổm xuống, nàng thành thạo nhặt rau giữa đống rau thối.

Nàng vừa nhặt vừa than thở: “Rau tốt thế này mà lại ném đi chẳng phải tiện nghi cho ta có mấy bữa ăn ngon hay sao?”

Nhìn có vẻ thú vị, ta ngồi xuống giúp nàng nhặt rau rồi ngước lên nhìn trứng còn dính trên cửa, ta hỏi: “Có cần trứng không? Ngươi lấy bát đựng đi, có thể nấu canh được.”

Tô Hồng Hạnh suy nghĩ một lúc, đồng ý với đề nghị của ta: “Ý hay đấy.”

Tô Hồng Hạnh dẫn ta vào nhà còn mời ta ở lại ăn cơm.

Không bao lâu sau nàng ta bưng ra hai món ăn và một bát canh… ừm, nếu mấy thứ đen đen đó có thể gọi là món ăn.

Tô Hồng Hạnh hơi thẹn thùng nói: “Để Đỗ nương tử chê cười rồi, việc trong nhà toàn trước giờ toàn do Kiều Mộc Đình xuống bếp, thật sự thì ta không giỏi nấu nướng.”

Ta xua tay nói: “Không sao không sao, đồ ăn chỉ cần no bụng, không có độc là được.”

Tô Hồng Hạnh rõ ràng rất đồng tình với quan điểm của ta.

Sau ba vòng rượu*, ta giải thích với Tô Hồng Hạnh việc người lan truyền chuyện giữa nàng và Trương Hữu Thần ở Băng Nhân Thự không phải do ta làm.

* Tửu quá tam tuần: nghi thức uống rượu cổ xưa. Trong các bữa tiệc, khi khách đến, chủ nhà sẽ nâng ly chúc mừng một hiệp, cũng có thể nói là một tuần. Để tôn trọng chủ nhà, khách trả ơn bằng cách đáp lại chủ nhà, đây là hiệp thứ hai. Sau đó, để cảm ơn khách đã ủng hộ, chủ nhà một lần nữa nâng ly bày tỏ sự tôn trọng, đây được gọi là ba vòng rượu. Nhậu ba vòng có thể hiểu đã uống từ lâu, khách khứa, bạn bè có mặt đông đủ. Lời khách sáo này ý nói đến yến tiệc đã tới độ sâu nhất định, đã có thể bàn luật về bản chất làm nên bữa tiệc đó.

Tô Hồng Hạnh không chút ngạc nhiên, nàng nói: “Ta biết.”

Nàng ta bình thản như vậy làm ta cũng hiểu ra, e rằng người lan truyền chuyện này chính là bản thân Tô Hồng Hạnh.

Thực ra chuyện này nghĩ kỹ cũng dễ hiểu, Tô Hồng Hạnh là người biết cách nguỵ trang hình tượng tốt cho chính mình, nếu thực sự muốn theo Trương Hữu Thần để hưởng vinh hoa phú quý thì nàng ta có hàng trăm biện pháp để làm việc này trong âm thầm. Hoàn toàn không cần thiết phải rùm beng lên, cố tình để lộ tin tức về Băng Nhân Thự.

Nói về lý do mà Tô Hồng Hạnh làm như vậy, chắc hẳn là muốn thông qua vài miệng lưỡi để lan truyền mối quan hệ giữa nàng ta và Trương Hữu Thần.

——— Những vụ tình cảm rắc rối ấy mà, tốc độ truyền bá luôn nhanh nhất, dễ dàng trở thành đề tài bàn tán trà dư tửu hậu của mọi người.

Thực ra… nhớ lại cảnh tượng lộn xộn lúc nãy, ta phải thừa nhận rằng Tô Hồng Hạnh đã thành công.

Quả nhiên, Tô Hồng Hạnh nhìn ta, nàng mang theo vẻ mặt cảm thán mà lắc đầu: “Ta không nghĩ tới miệng lưỡi của Đỗ nương tử lại kín như vậy, quả thật ngươi rất có đạo đức nghề nghiệp.”

Tô Hồng Hạnh đã thẳng thắn thì ta cũng lười giấu diếm, ta hỏi: “Thật không dám giấu giếm, ta đã nghe khá nhiều về chuyện xưa của Tô nương tử trong mấy ngày qua. Ta tò mò một việc, trong câu chuyện của Tô nương tử liệu có Trương Hữu Thần hay không?”

Tô Hồng Hạnh cười hỏi lại: “Vì sao Đỗ nương tử cảm thấy không có?”

Ta thở dài: “Nếu trong đời một nữ tử có thể gặp được người tiêu sái ung dung như Diệp Hy và người quang minh lỗi lạc như Triệu Mộc Đình, thì trong mắt nàng ta làm sao có thể chứa đựng thêm người nào khác?”

Nụ cười của Tô Hồng Hạnh khựng lại một lúc, nhanh chóng đổi thành cười tự giễu, nàng chỉ vào thái dương của mình rồi nói: “Đỗ nương tử nói đúng, có thể coi hai người bọn họ tám lạng nửa cân, đều có vấn đề ở chỗ này.”

Ta cười hỏi thẳng: “Vậy không biết trong mắt Tô cô nương, ai mới thực sự là người đặc biệt?”

Tô Hồng Hạnh với vẻ mặt đương nhiên, hỏi lại: “Chẳng lẽ ta không thể được hưởng cả hai hay sao?”

Ta nghẹn lời trong nhất thời, còn có thể nói gì nữa chứ, đành phải gật đầu nói dĩ nhiên là được.

Tô Hồng Hạnh cười, nửa oán trách nửa thần bí nói: “Đáng tiếc, lão bản nhà ta không thích nữ nhân.”

Hai mắt ta sáng lên, trời ơi, lại thêm một tin giật gân! Nghĩ đến tin đồn về mối quan hệ giữa Diệp Hy và Triệu Mộc Đình, chẳng lẽ…

Tô Hồng Hạnh kịp thời ngắt đứt mạch suy nghĩ xa vời của ta, nàng nói: “Ngài ấy cũng không thích nam nhân.”

Ta chán nản, hỏi nàng: “Vậy y thích gì?”

Tô Hồng Hạnh đáp: “Uống rượu, co đầu rút cổ, nhặt của hời.”

Ta hỏi thêm: “… Không phải nói Diệp lão bản là người phong lưu nhưng không hạ lưu hay sao? Những lời ngươi nói sao nghe đáng khinh quá vậy?”

Tô Hồng Hạnh cười lạnh một tiếng, nói: “Không đâu, ngay cả khi đánh nhau y cũng trốn sau gối thêu hoa Triệu Mộc Đình, thật mất mặt.”

* Gối thêu hoa (绣花枕头):là một thành ngữ Trung Quốc dùng để mô tả những người bên ngoài trông có vẻ đẹp, thông minh hoặc tài năng, nhưng thực chất bên trong lại trống rỗng, không có thực chất hay năng lực. Thành ngữ này thường được dùng để ám chỉ những người chỉ có vẻ bề ngoài hào nhoáng mà không có tài năng thực sự.

Khi đó Triệu Mộc Đình đã quen với các cô nương trong thanh lâu, hắn thường giúp họ xem bệnh kê đơn, còn dạy họ đọc sách viết chữ.

Hắn ăn nói vụng về, không biết nói những lời hay ý đẹp để làm vui lòng người, nhưng lại lễ phép và tôn trọng hơn bất kỳ vị khách nào.

Ngay cả khi bắt mạch cho các nàng, hắn đều tìm khăn lụa mềm nhất để che lên cổ tay, xong xuôi mới dám đặt ngón tay lên.

Được Triệu Mộc Đình đối xử như vậy, những cô nương ở đây thực sự cảm thấy bản thân mình như châu như bảo.

Ngày đó, vài tên ăn chơi trác táng xuất hiện trong thanh lâu, bọn hắn chế nhạo Triệu Mộc Đình giả bộ đàng hoàng, coi gà rừng là gà nhà, miệng đầy lời bẩn thỉu khiến Tô Hồng Hạnh giận dữ.

Nhưng Triệu Mộc Đình kéo nàng lại, chậm rãi giải thích rằng mình đúng là đầy bụi bẩn, các ngươi không nên xúc phạm những cô nương ở đây.

Những tên công tử bột lập tức cười đồi bại, bọn hắn nói những nữ nhân này đều là giày rách, chẳng biết đã bị đụng chạm bao nhiêu lần rồi.

Các cô nương cười khẽ bỏ qua, Tô Hồng Hạnh vừa định xắn tay áo lao tới, Triệu Mộc Đình đã nắm chặt nắm đấm và đấm bay răng của tên nam nhân đứng giữa.

Đó là lần đầu tiên Tô Hồng Hạnh thấy Triệu Mộc Đình nổi giận, hắn đỏ mặt giận dữ, chỉ vào những tên nam nhân đó mà mắng: “Ngươi có tướng mạo đường hoàng, nhìn cũng có vẻ là quân tử, há cớ gì ngươi lại hèn hạ khinh rẻ nữ tử như vậy?! Đều do hoàn cảnh bắt buộc nên các nàng mới phải dùng nhan sắc để kiếm sống, ngươi nghĩ bản thân mình cao quý hơn được bao nhiêu?”

Tô Hồng Hạnh nhìn chằm chằm Triệu Mộc Đình hiếm khi toát lên vẻ nam tính mạnh mẽ. Nàng vừa định thành tâm thành ý mà khen hắn một tiếng tiêu sái đã thấy hắn bị hai người kẹp hai bên, đánh cho tới tấp, hoàn toàn không có sức phản kháng.

Tô Hồng Hạnh:…… haiz.

Tô Hồng Hạnh tính xắn tay áo lên hỗ trợ, đúng lúc đó, một bóng người mặc áo màu xanh đậm lướt tới như tia chớp, chính là Diệp Hy nhân lúc người ta không để ý mà bay lên đá một cú, tham gia cuộc ẩu đả bằng cách đánh lén.

Không ngờ Diệp Hy lúc bình thường trông không có chút xương cốt nào nhưng khi đánh nhau lại không hề nương tay.

Diệp Hy so với Kiều Mộc Đình lợi hại hơn nhiều, tung quyền xảo quyệt, chuyên chọn những chỗ đau nhất mà đánh, rất nhanh đã đánh cho mấy tên lưu manh kia bầm dập mặt mày, đau đớn kêu la.

Mấy tên lưu manh giãy giụa kêu lên: “To gan! Bọn ta là người có công danh!”

Diệp Hy vốn đã đánh đến đỏ mắt, y nghe vậy thì cười lạnh: “Hừ! Đánh chính là đánh mấy tên súc vật không biết làm người mà lại đi thi công danh như lũ chúng bây!”

Sau đó, y ra tay càng mạnh hơn.

Cuối cùng phải nhờ Kiều Mộc Đình và Tô Hồng Hạnh cùng tiến lên mới kéo được Diệp Hy ra.

Hai mắt Diệp Hi đỏ ngầu như con báo mất kiểm soát, y ác ý mắng: “Cút!”

Đó là lần đầu tiên Tô Hồng Hạnh thấy bộ dạng này của Diệp Hy, dường như y muốn trút hết mọi nỗi đau khổ và phiền muộn trong lòng ra ngoài.

Nhưng lúc đó nàng hoàn toàn không hiểu, rốt cuộc vì sao Diệp Hy lại hành động như thế.

Những khách làng chơi kia sợ đến tè ra quần bỏ chạy sạch, sau đó bọn hắn còn muốn đến quậy phá, vẫn do Tô Hồng Hạnh tìm quan hệ để dàn xếp mới không để Kiều Mộc Đình và Diệp Hi bị bắt vào tù.

Bàn tay Kiều Mộc Đình vốn chỉ biết cầm bút nhưng liên tiếp mấy ngày bị sưng đỏ, đau đến mức hắn nhăn nhó nhíu mày — ai bảo hắn là thư sinh tay trói gà không chặt cơ chứ.

Các cô nương trong thanh lâu lại càng ngưỡng mộ hắn, tranh nhau mang thuốc mỡ, đồ bổ đến cho hắn.

Điều này khiến Tô Hồng Hạnh đang cầm nhân sâm quý giá, ngược lại do dự không biết nên tiến lên thế nào.

Dù sao nàng và Kiều Mộc Đình vẫn chưa đến mức đó.

Nhưng cú đấm của Kiều Mộc Đình đúng là giúp nàng hả giận, Tô Hồng Hạnh nghĩ, dù thế nào đi chăng nữa nàng cũng nên khen ngợi hắn một câu và cảm ơn một tiếng.

Tô Hồng Hạnh đến trước cửa phòng Kiều Mộc Đình, cửa phòng khép hờ, nàng chưa kịp bước vào thì nghe thấy tiếng Kiều Mộc Đình k** r*n cầu xin từ bên trong: “Diệp huynh, Diệp huynh nhẹ tay thôi, đau quá.”

Diệp Hy cười lạnh: “Biết đau còn dám ra vẻ ta đây! Để ta cho ngươi thấy lợi hại là gì!”

Tô Hồng Hạnh nhìn trộm qua khe cửa, nàng thấy Kiều Mộc Đình và Diệp Hy ngồi bên cạnh bàn, Diệp Hy đang kéo tay Kiều Mộc Đình với vẻ mặt ghét bỏ khi bôi thuốc mỡ cho hắn.

Kiều Mộc Đình nhìn Diệp Hy rõ ràng cũng không khá hơn là bao, suy nghĩ một chút, hắn thành thật ấn vào chỗ bầm tím bên miệng y, Diệp Hy lập tức kêu lên đau đớn như heo bị chọc tiết.

Bên ngoài cửa, Tô Hồng Hạnh chứng kiến toàn bộ đã ôm bụng cười lăn lộn.

Kể đến đây, Tô Hồng Hạnh vẫn còn cười, ta nhìn thấy niềm vui nơi khóe mắt của nàng ta, thật không nỡ cắt ngang hồi ức của nàng.

Ta đột nhiên nhận ra, việc làm rõ nàng thích ai hơn, e là chuyện vô nghĩa.

Ta lại hỏi: “Nếu ba người ở bên nhau vui vẻ như vậy, tại sao ngươi lại gả cho Kiều Mộc Đình?”

Tô Hồng Hạnh cười khẽ, nàng nói: “Có gì phải hỏi tại sao, chỉ đơn giản là ôm nhau sưởi ấm thôi.”

Nàng ngừng một chút rồi nói tiếp: “Hắn là người thích che ô cho người khác, trên người hắn quả thực luôn mang theo hơi ấm không tan.”

Ta hỏi: “Nếu đã vậy, tại sao ngươi muốn gie..t hắn?”

Tô Hồng Hạnh nhìn ta, biểu cảm không hề hoảng sợ, cũng không có vẻ vội vàng.

Ta nói: “Vào cái ngày Kiều Mộc Đình tự vẫn, hắn có hành vi điên cuồng là vì Mê La Hương đúng không? Loại hương này có trong nhà ngươi, có phải ngươi muốn sát phu, sau đó chờ Trương Hữu Thần sát thê thành công, ngươi sẽ chuyển sang ôm Trương Hữu Thần, làm tri phủ phu nhân phải không?”

Tô Hồng Hạnh không đáp mà hỏi ngược lại “Đỗ nương tử, ngươi nói thử xem, tại sao mỗi năm toàn thiên hạ lại có nhiều người lên kinh ứng thí như vậy, bọn họ rõ ràng biết vị trí Trạng Nguyên chỉ có một nhưng vẫn như thiêu thân lao đầu vào lửa, tre già măng mọc cứ như vậy mà nhào tới. Việc làm quan thật sự có sức hấp dẫn lớn đến thế sao?”

Ta nói: “Chỉ cần một lần đỗ đạt có thể cá chép hóa rồng, một bước lên mây. Tay cầm quyền lực, theo đó là tiền tài và mỹ sắc vô tận. Đều là con người, ai có thể thoát khỏi sự cám dỗ này chứ?”

Ta nói: “Chỉ cần một sớm cao trung liền có thể cá mặn xoay người, một bước lên trời. Tay cầm quyền lực, tùy theo liền sẽ lấy chi bất tận tiền tài sắc đẹp. Đều là người, ai có thể tránh được loại dụ hoặc này.”

“Chẳng lẽ làm quan chỉ vì những thứ đó sao? Những kẻ quyền quý đó suốt ngày đắm chìm trong hưởng lạc Túy Hồng Lâu, hằng đêm sênh ca. Người tùy tiện lăng nhục bọn ta, xem bọn ta như món đồ chơi đổi lấy lợi ích cũng là bọn họ.”

“Ta nghĩ, nếu khổ đọc mười năm cuối cùng trở thành một kẻ như thế, mấy thứ công danh đó thật không đáng để lấy.”

“Cái gì mà minh kính cao huyền*, cái gì mà thanh liêm công chính, đều là những lời dối trá.”

* Minh kính cao huyền 明镜高悬(gương sáng treo cao). Trên đại đường ở nha môn của quan viên thời cổ, đa phần đều có tấm biển ghi câu này. Ý nghĩa là bản thân có thể thấy rõ thị phi, có thể phân biệt thiện và ác, trung thành và gian nịnh.

Ta lại nói: “Không phải nói dối gạt người. Lời này không giả, chỉ là người làm được thì ít, người làm không được lại nhiều.”

Tô Hồng Hạnh cười cười, nàng nói: “Kiều Mộc Đình từng nói với bọn ta, tên gọi Mộc Đình của hắn là hy vọng có thể trở thành một cây đại thụ che chở mưa gió cho dân chúng.”

“Ngươi nói đi, một người như hắn, nếu có một ngày thật sự làm quan lớn thì hắn có thể chống lại những cám dỗ này hay không?”

Ta suy nghĩ một chút: “Dù vậy, đó vẫn là hạt bụi trong biển cả, như một người trong hoang vu, sức mạnh của một người quá nhỏ, kiên trì giữ vững bản tâm cũng quá khó khăn.

“Nếu tâm chí kiên định không lay chuyển, hắn có thể trở thành một ánh sáng chiếu rọi bản thân, cũng chiếu rọi người khác.”

Tô Hồng Hạnh nghe lời ta nói, đôi mắt trở nên bừng sáng, nàng nói: “Lời này, hắn cũng từng nói, đáng tiếc, thật đáng tiếc…”

Ta không biết nàng đang tiếc điều gì, cũng không biết người nàng nhắc tới là Kiều Mộc Đình hay Diệp Hy.

Nhưng ta biết, có lẽ thời cơ chưa đến, bây giờ Tô Hồng Hạnh sẽ không cho ta câu trả lời mà ta muốn.

Trước khi rời đi, ta đột nhiên phát hiện một vấn đề, quay sang hỏi Tô Hồng Hạnh: “Ngươi nói Túy Hồng Lâu vì lão bản biến mất nên đóng cửa, Diệp Hy đâu, hiện tại y đang ở đâu?”

Biểu cảm của Tô Hồng Hạnh nhạt đi, nàng nhìn ra ngoài cửa sổ, thế nhưng cũng hỏi ngược lại ta: “Đúng vậy, bây giờ ngài ấy ở đâu?”

Nhìn vẻ mặt của Tô Hồng Hạnh, ta bỗng nghĩ tới một điều, nếu muốn tìm một người tự do tự tại như Diệp Hy, e rằng phải huy động những con chó săn giỏi nhất thiên hạ mới làm được. (giống mấy bé cún bên truyene thích ăn cớp truyện người khác á)
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 5


Có nằm mơ Tăng Tri Hứa cũng không ngờ lúc hắn đến Tô Châu, vụ án Kiều Mộc Đình còn chưa có chút manh mối nào đã phải xử lý chuyện nhà của Tri phủ Tô Châu.

A, không còn là chuyện nhà nữa rồi.

Khi những lời đồn thổi trong thành lan truyền ầm ĩ, Trương phu nhân chịu kích động sâu sắc, bà ta chặn kiệu của Tăng Tri Hứa và tố cáo Trương Hữu Thần thuê người sát hại thê tử.

Tăng Tri Hứa áp giải Trương Hữu Thần lên công đường. Ban đầu, Trương Hữu Thần còn cứng miệng, hắn nói Trương phu nhân vì tranh giành tình cảm mới nói hươu nói vượn.

Nhưng Trương phu nhân lại khẳng định chắc chắn rằng bà có nhân chứng.

Tô Hồng Hạnh được triệu lên công đường.

Tô Hồng Hạnh lại có dịp thể hiện tài diễn xuất của mình, vừa lên đã quỳ xuống đất, khóc lóc thảm thiết.

Nàng lên án Trương Hữu Thần từ lâu đã thèm muốn sắc đẹp của nàng, không những không quan tâm nàng đã hứa hôn với người khác mà còn c**ng b*c, chiếm đoạt thân thể nàng. Không chỉ vậy, hắn còn nói muốn sát thê cưới thiếp.

Tô Hồng Hạnh thật sự sợ hãi khi nghe Trương Hữu Thần đe doạ, sau đó nàng lại nghĩ tới Trương phu nhân vốn nổi tiếng làm người lương thiện, nàng không muốn bà gặp nguy hiểm nên lấy hết dũng khí báo cho bà biết.

Nói xong, Tô Hồng Hạnh còn khen Tăng Tri Hứa là quan thanh liêm, chắc chắn sẽ làm chủ cho nàng.

Kỹ năng diễn xuất đầy nước mắt của Tô Hồng Hạnh ngay cả ta cũng cảm thấy hổ thẹn.

Trương Hữu Thần bị bất ngờ trở tay không kịp, cũng có thể do thê tử lẫn tình nhân cùng nhau phản bội, hắn tức giận đến nỗi thở hổn hển, tay chỉ vào các nàng nói không có bằng chứng, muốn các nàng đưa bằng chứng ra.

Tăng Tri Hứa kịp thời nắm bắt tiết tấu, bất ngờ quăng ra một câu: “Ngươi không phản bác việc c**ng b*c nữ tử, xem ra ngươi không phủ nhận chuyện này.”

Trương Hữu Thần không ngờ vị Đại Lý Tự khanh nổi tiếng này lại có suy nghĩ xảo quyệt như vậy, hắn đành cứng họng không nói được lời nào.

Trương phu nhân cũng là một người tàn nhẫn, bà tiết lộ một bí mật động trời: Trương Hữu Thần từng thuê sát thủ giết người, việc này hắn ta đã sớm quen cửa quen nẻo.

Trương phu nhân nói chắc như đinh đóng cột, chuyện này xảy ra vào năm Phượng Hoàng thứ nhất.

Người sĩ tử đó cùng khóa với Trương Hữu Thần. Trương Hữu Thần thấy người đó tài tình nhạy bén, rất có khả năng đỗ Trạng Nguyên, lo lắng hắn uy h**p vị trí của mình mình nên Trương Hữu Thần đã thuê người ám sát.

Chuyện này Trương phu nhân vốn không biết, chỉ là thời gian gần đây, Trương Hữu Thần không biết vì sao mà thường xuyên gặp ác mộng.

Trong mơ Trương Hữu Thần liên tục van xin:

“Ta không muốn giết ngươi, do ngươi không biết điều, cố chấp không nghe lời.”

“Người ra tay là bọn chúng, ngươi đi tìm bọn chúng đi”…….

Hằng đêm Trương phu nhân phải nghe những lời mê sảng đó đến mức da đầu tê dại.

Có một đêm, Trương phu nhân lấy hết dũng khí thử trò chuyện với Trương Hữu Thần trong lúc hắn đang ngủ, không ngờ hắn thật sự theo câu hỏi của phu nhân mà báo ra một cái tên———

“Ngươi giet ai?”

“Kiều Mộc Đình……”

Cái tên này vừa thốt ra, lập tức gây ra một trận xôn xao trong công đường. Ai cũng biết rằng Kiều Mộc Đình mới nhảy lầu tu tu cách đây không lâu, sao có thể bị Trương Hữu Thần ám sát vào ba năm trước chứ?

Quả nhiên, Trương Hữu Thần cười nham hiểm:

“Ha ha ha ha, cả thành Tô Châu đều biết Kiều Mộc Đình nhảy lầu tu tu mấy tháng trước, có liên quan gì đến ta chứ?! Hơn nữa, lời nói mớ trong mộng từ khi nào có thể làm chứng trước công đường?!”

Tăng Tri Hứa duỗi ngón tay thon dài của mình, gõ từng nhịp lên bàn, đôi mắt dần dần nheo lại.

Ta quá quen dáng vẻ này của Tăng Tri Hứa, tên đó đang cân não suy nghĩ ý đồ xấu.

Bỗng nhiên ta có chút đồng cảm với Trương Hữu Thần còn chưa biết tai họa đang đến gần.

Cuối cùng, Tăng Tri Hứa từ tốn hỏi: “Ngươi là cử nhân Lô Châu năm Phượng Hoàng thứ nhất?”

Trương Hữu Thần ngẩng cao đầu đáp: “Phải!”

“Khởi hành vào kinh vào tháng mấy?”

“Tháng ba!”

“Đi bao lâu mới đến?"

“Tròn một tháng!”

Tăng Tri Hứa lại nói: “Kiều Mộc Đình cũng là cử nhân năm đó, nói như vậy, năm đó các ngươi là cùng một khóa vào kinh. Ngươi có biết Kiều Mộc Đình không?”

Trương Hữu Thần ngập ngừng, dường như do dự không biết nên trả lời thế nào.

Tăng Tri Hứa hạ giọng, lập tức toát ra sát khí, lớn tiếng nói: “Trả lời!”

Trương Hữu Thần giật mình, hắn nói: “Không biết.”

Tăng Tri Hứa nhướng mày, từ tốn nói: “Năm Phượng Hoàng thứ nhất, Ngô Hoàng vừa lên ngôi nhưng vẫn chưa thoát khỏi nỗi đau mất con. Cùng năm đó, khoa cử diễn ra vào tháng năm, đúng vào tháng đại tang của Nhân Huệ Hoàng Đế.

“Ngô Hoàng không muốn nhìn cảnh nhớ người nên ngài đã dời khoa cử năm đó lại một tháng. Mà khi ấy, các sĩ tử đến kinh thành đều được ban chỗ ở tại Ngự Thư Phường* để đọc sách.”

* Ngự Thư Phường: “坊” trong tiếng Trung có nghĩa là “phường” hoặc “xưởng”. “御书坊” có thể hiểu là “xưởng sách của hoàng gia” hoặc “phường sách của hoàng gia”. Đây thường là nơi sản xuất, in ấn và lưu trữ sách vở, tài liệu cho hoàng gia và triều đình. Nơi này không chỉ đơn thuần là chỗ đọc sách mà còn là nơi tạo ra và bảo quản các văn bản quan trọng.

“Nếu ngươi khởi hành vào tháng ba, mất một tháng đi đường, hẳn là ngươi đến kinh thành vào tháng tư. Ngươi có ở Ngự Thư Phường hay không?”

Mặt Trương Hữu Thần trắng bệch, mãi không trả lời.

Tăng Tri Hứa nói: “Dù ngươi không trả lời, ta vẫn tìm được đáp án. Các sĩ tử ở Ngự Thư Phường năm đó đều được ghi lại trong danh sách. Ngươi nói xem, trong đó có tên Trương Hữu Thần và Kiều Mộc Đình không?”

Trương Hữu Thần vội nói: “Ta có vào Ngự Thư Phường nhưng lúc đó nhiều người như vậy, đâu phải ai ta cũng biết! Cái tên Kiều Mộc Đình kia, ta chưa từng nghe qua!

Tăng Tri Hứa thong thả nói: “Nhưng ta nghe nói, Kiều Mộc Đình rất thích kết giao bạn bè, hắn vô cùng nổi danh trong khoa cử năm đó, ngươi thật sự không biết sao?”

Ánh mắt Trương Hữu Thần có phần lạnh lẽo, khóe miệng hiện ra nụ cười châm chọc độc ác, nói: “Thật nực cười! Là cái dùi sẽ lòi ra khỏi túi, là vàng sẽ phát sáng, nếu hắn có tài đạt Trạng Nguyên, sao có thể thi trượt nhiều lần như vậy?”

Trương Hữu Thần nói đến đây, dường như càng căm hận, hắn nói thêm: “Chẳng qua chỉ là tên thường dân ngoan cố không biết tốt xấu, vậy mà dám mơ mộng trở thành Trạng Nguyên!”

Tăng Tri Hứa nói: “Nói như thế ngươi thừa nhận từng gặp hắn cũng quen biết hắn.”

Trương Hữu Thần hoàn toàn hoảng loạn, hắn cố gắng trấn tĩnh, lý lẽ rõ ràng nói: “Cho dù có quen biết cũng chỉ gặp vài lần, ta không có giet hắn!”

Tăng Tri Hứa vẫn giữ vẻ bình tĩnh, từ tốn nói: “Kiều Mộc Đình tu v/ẫ/n trên lầu cao cách đây mấy tháng, đây là chuyện ai ai cũng biết. Ngươi thực sự không giết Kiều Mộc Đình. Nhưng, nếu người ngươi giet lúc đó là người khác thì sao?”

Trương Hữu Thần như bị đánh trúng một cú mạnh, lập tức không nói được câu nào.

Tăng Tri Hứa đứng dậy, vóc dáng cao ráo, ngực nở lưng thẳng, vai rộng eo thon, chỉ với vài bước đi thong thả mà lại toát ra khí thế của Diêm Vương đòi mạng, khiến Trương Hữu Thần đang quỳ dưới công đường run rẩy không thôi.

Tăng Tri Hứa lấy ra một quyển sổ đã ngả màu vàng từ trong ống tay áo rộng thùng thình, mở một trang ra nói với Trương Hữu Thần: “Đây là sổ ghi chép các sĩ tử đăng ký ở Ngự Thư Phường, theo nội dung bên trong, lúc đó ngoài Kiều Mộc Đình vào ở còn có bằng hữu của hắn, người này tên là Diệp Hy. Mà Diệp Hy này đã mất tích từ ba năm trước, cho đến nay không ai tìm thấy tung tích. Ngươi có biết Diệp Hy không?”

Trên trán Trương Hữu Thần xuất hiện những giọt mồ hôi lấm tấm, miệng lắp bắp nhưng mãi không nói được lời nào.

Tăng Tri Hứa nói: “Ta ở kinh thành hơn mười năm, vùng ngoại ô kinh thành có rất nhiều rừng rậm hoang vu, cực kỳ phù hợp để chôn giấu thi thể. Ngươi nói xem, nếu ta sai người đào bới ngày đêm, có thể tìm thấy một bộ xương trắng hay không?”

Trương Hữu Thần phủ phục xuống đất, lớn tiếng nói: “Xin Đại Lý Tự khanh minh xét! Hạ quan không biết Diệp Hy nào hết, càng không có giet người! Xin Đại Lý Tự khanh minh xét!”

Tăng Tri Hứa lại đưa tay ra đỡ Trương Hữu Thần đứng lên.

Trương Hữu Thần kinh hồn bạt vía nhìn Tăng Tri Hứa, không biết vị Đại Lý Tự khanh có ý định gì. Không ngờ lúc này Tăng Tri Hứa lại nở một nụ cười.

Đừng nói Trương Hữu Thần, ngay cả ta cũng bị dọa đến dựng tóc gáy!

Tăng Tri Hứa nói: “Trương đại nhân đừng sợ, ngươi nói đúng, tất cả chỉ là suy đoán của bản quan, bản quan không có bất kỳ chứng cứ nào.”

Trương Hữu Thần thở phào một hơi.

Tăng Tri Hứa lại nói: “Sở dĩ bản quan nhắc đến Diệp Hy bởi vì hắn là con trai của đồng liêu đã mất tích nhiều năm, bản quan thật sự không đành lòng nhìn Tể tướng đại nhân ngày ngày nhớ thương, ảm đạm tiều tụy.”

Trương Hữu Thần vừa mới thở phào nhẹ nhõm lại bị nghẹn nơi cổ họng.

Lần này, hai chân Trương Hữu Thần bắt đầu run rẩy. “Tể, Tể tướng đại nhân……”

Tăng Tri Hứa cố ý thở dài gật đầu, hắn nói: “Nếu ta không đoán sai, Diệp Hy này chính là Tịch Nghiệp Thành, nhi tử duy nhất của Tịch tướng, người đã cãi nhau to với Tịch tướng ba năm trước rồi bỏ nhà đi, từ đó mất tích không còn tin tức.”

Tăng Tri Hứa chợt buông tay, Trương Hữu Thần mặt mày tái nhợt, ngồi phịch xuống đất, không thể đứng lên nổi.

Có lẽ hắn không ngờ rằng, lão bản thanh lâu không đáng tin cậy đó lại là con trai của Tể tướng.

Con trai của Tể tướng, làm sao mà một tiểu quan tứ phẩm như hắn có thể đắc tội nổi chứ?

Tôi thật không nhịn được mà vỗ tay khen ngợi, Tăng Tri Hứa này, chỉ mấy năm không gặp mà kỹ năng thẩm vấn lại càng điêu luyện hơn!

Ta liếc nhìn Tăng Tri Hứa phát hiện ánh mắt hắn đang nhìn về phía Tô Hồng Hạnh ở bên cạnh.

Ta nhìn theo ánh mắt ấy thấy được Tô Hồng Hạnh vốn đang quỳ an an tĩnh tĩnh cũng thoáng qua vẻ ngạc nhiên, nhưng rất nhanh đã bị nàng ta khéo léo che giấu.

Chẳng lẽ Tô Hồng Hạnh cũng không biết thân phận thật của Diệp Hy?

Ta nhìn Tô Hồng Hạnh đến ngẩn người, hoàn toàn không để ý tới ánh mắt sắc bén của Tăng Tri Hứa đã vượt qua đám đông nhìn về phía mình.

Đợi tới khi ta bất ngờ đối diện với đôi mắt bình thản không gợn sóng kia, toàn thân ta cứng đờ, mồ hôi lạnh toát ra khắp người.——————

Năm đó chính tên khốn này dùng mười đại khổ hình tra tấn ta như thế nào…..

Ta không quên đâu!!!

Tuy nhiên, ta rất tự tin với diện mạo hiện tại của mình, ta không tin hắn có thể nhận ra một người đã chết từ ba năm trước.

Vì vậy, ta ném cho hắn một ánh mắt quyến rũ, lộ ra vẻ mặt hoa si, quả nhiên, Tăng Tri Hứa hơi ngẩn ra, rồi từ từ dời ánh mắt đi.

Tăng Tri Hứa nói: “Vụ án Trương Hữu Thần, Tri phủ Túc Châu, thuê sát thủ giết thế tử, chứng cứ chưa đủ, sau này sẽ xét lại. Nhưng vụ án mưu hại Tịch Nghiệp Thành…”

Trương Hữu Thần đột nhiên nhảy lên, vùng vẫy trong tuyệt vọng: “Mưu hại cái gì! Ngươi đừng có ngậm m@‘u phun người! Ngươi vừa nói Tịch Nghiệp Thành chỉ mất tích, sống phải thấy người, chết phải thấy xác, nếu các ngươi muốn định tội ta thì đưa ra chứng cứ!”

Lúc này, Tô Hồng Hạnh đột nhiên mở miệng, nàng nói: “Dân nữ biết Diệp Hy ở đâu!”

Ánh mắt Tăng Tri Hứa trở nên thâm trầm: “Nói tiếp đi.”

Tô Hồng Hạnh nói:

“Năm Diệp Hy và phu quân vào kinh ứng thí, quả thật bọn họ ở tại Ngự Thư Phường.”

“Một ngày nọ, có lá thư nặc danh được gửi vào phòng phu quân, trên thư ước hẹn gặp vào nửa đêm tại núi Tê Đồng cách kinh thành năm dặm.”

“Nói ra thật xấu hổ, ngày đó phu quân lên phố mua trâm và trang sức cho dân nữ nên không ở trong phòng. Người cầm thư tới chỗ hẹn chính là Diệp Hy.”

Ba chữ “núi Tê Đồng” vừa thốt ra, chút giãy giụa cuối cùng trên mặt Trương Hữu Thần cũng biến mất, hắn dường như không thể tin rằng Tô Hồng Hạnh lại biết chuyện ở núi Tê Đồng.

Tô Hồng Hạnh nói đến đây, giọng nàng run rẩy: “Còn Diệp Hy, kể từ đêm gặp mặt đó không bao giờ quay trở về. Ba năm nay, dân nữ và phu quân vẫn luôn tìm ngài ấy, cố gắng đào bới từng tấc đất ở núi Tê Đồng, thế nhưng chỉ có hai người phu phụ nhà dân nữ…”

Khuôn mặt Tô Hồng Hạnh đau khổ, vô cùng tuyệt vọng mà nói:

“Chỉ có hai người, thế lực đơn bạc, cũng không có khả năng lật tung núi Tê Đồng. Ngọn núi đó, cao cao đè nặng trên đầu phu phụ, vĩnh viễn không tìm thấy thi thể của ngài ấy…”

Tăng Tri Hứa chờ một lúc mới thấp giọng nói:

“Không sao, bản quan có thể điều động toàn bộ nhân lực của Đại Lý Tự, nếu vẫn không đủ thì tấu thỉnh điều động Cấm quân.

“Một ngày không tìm thấy, thì tìm một tháng, một tháng không tìm thấy, thì tìm một năm. Nếu hắn thật sự ở đó, bản quan không tin không lật tung nổi một ngọn núi Tê Đồng, cũng không tin thiên hạ này còn có sự thật nào không tìm ra được.”

Tô Hồng Hạnh mỉm cười mãn nguyện, hai hàng lệ trong suốt cuối cùng cũng rơi xuống.

Nàng nghẹn ngào nói, “Nếu phu quân còn sống, chắc hẳn chàng có rất nhiều điều muốn nói với Đại Lý Tự khanh.”

Tăng Tri Hứa im lặng một lúc, dường như ngầm đồng ý với lời của Tô Hồng Hạnh.

Hắn lại hỏi: “Nếu ngày đó người nhận được thư nặc danh và mang thư tới chỗ hẹn là Diệp Hy, hắn lại một đi không trở lại. Tại sao ngươi và Kiều Mộc Đình biết được nội dung trong thư? Còn vụ án Kiều Mộc Đình tự sát, ngươi có điều gì muốn nói với bản quan không?”

Tô Hồng Hạnh ngẩng đầu nhìn vào mắt Tăng Tri Hứa, biểu tình kiên định dứt khoát, nàng nói: “Quả thật dân nữ biết ai là người giết Kiều Mộc Đình và Diệp Hy nhưng danh tính người đó, dân nữ sợ ngay cả Đại Lý Tự khanh cũng không dám đắc tội.”

Tăng Tri Hứa hỏi: “Ngươi muốn thế nào?”

Tô Hồng Hạnh ngẩng đầu kiêu ngạo nói: “Dân nữ muốn gặp người có quyền lực nhất thiên hạ này, cũng là người không sợ quyền lực nhất. Chỉ cần gặp được người đó, dân nữ sẽ nói cho các vị biết được chân tướng.”

Tăng Tri Hứa không hề do dự liền nói: “Được.”

Ta lại nhìn về phía Tô Hồng Hạnh, nàng ta vẫn mang vẻ mặt bình tĩnh, dường như nàng luôn chờ đợi khoảnh khắc này.

Thật khó tưởng tượng, Tô Hồng Hạnh sắp gặp người có quyền lực tối cao trên thế gian này; càng khó tưởng tượng hơn, nàng ta phải trả giá bao nhiêu mới có thể đi đến bước này.
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 6


Trương phu nhân vui vẻ cầm thư hoà ly do quan phủ cấp trở về nhà mẹ đẻ.

Lúc đó, ta đã cải trang thành binh lính và dùng kim châm phong bế huyệt đạo để thay đổi giọng nói nhằm trà trộn vào đội áp giải Trương Hữu Thần trở về kinh thành.

Suốt dọc đường đi, mọi thứ đều rất yên tĩnh. Khi đến núi Tê Đồng ở ngoại ô kinh thành, đã có người của Đại Lý Tự chờ sẵn ở đó.

Tăng Tri Hứa ra lệnh cho đội ngũ dừng lại và đóng trại tại chỗ, vì hắn muốn khai quật thi thể của Diệp Hy, trở về kinh thành cùng một lúc

Đang vào độ cuối thu, núi Tê Đồng phủ đầy lá phong đỏ, tạo nên một khung cảnh ấm áp giả tạo, làm cho người ta tạm thời quên đi cái rét buốt của gió lạnh.

Có lẽ cũng chính vì vậy mà Tô Hồng Hạnh mới có thể đứng lâu trong núi.

Ta đứng ở một góc không mấy nổi bật nhìn nàng ta, lúc này ta mới nhận ra dáng hình của nàng thực sự nhỏ bé, đặc biệt là khi đứng giữa trời đất mênh mông, như thể nàng có thể bị chôn vùi dưới làn lá đỏ bất cứ lúc nào. Nhưng lưng của Tô Hồng Hạnh vẫn thẳng, dường như sinh ra nàng đã mang trong mình dũng khí tựa như phù du muốn lay chuyển đại thụ.

Tăng Tri Hứa cho người đào núi Tê Đồng gần nửa tháng, cuối cùng tìm thấy một bộ hài cốt ở nơi sâu nhất trong núi.

Không, không chỉ một bộ.

Khi hài cốt đó mới được đào lên, những người của Đại Lý Tự đã mệt mỏi nửa tháng rất phấn chấn, họ tưởng rằng đã tìm được Diệp Hy xấu số.

Nhưng khi đoạn xương tay cuối cùng được đào lên, không ngờ họ lại bới thêm được một cái sọ nữa.

Người của Đại Lý Tự tiếp tục đào, càng đào càng toát mồ hôi lạnh.

Trước mắt họ hiện ra một cái hố lớn, bên trong chất đầy hài cốt trắng xóa, đếm sơ qua cũng có hàng chục người.

Những người có mặt đều bị cảnh tượng kinh hoàng trước mắt làm cho khiếp sợ, trong một chốc không ai dám lên tiếng.

Trong sự im lặng chết chóc, bỗng có một tiếng cười khẽ vang lên.

Tôi nhìn về phía Tô Hồng Hạnh, thấy cô ấy đang nhìn vào cái hố hài cốt, trên mặt nở nụ cười nhàn nhạt.

Nàng nhẹ nhàng nói: "Cuối cùng cũng được thấy ánh sáng mặt trời rồi…"

Tăng Tri Hứa hỏi: "Kiều phu nhân, ngươi có thể tìm ra ai là Diệp Hy trong số đó không?"

Tô Hồng Hạnh đáp: "Diệp Hy nói hồi nhỏ từng bị phụ thân trách phạt đánh gãy đùi chân phải, nhờ có danh y giúp ngài ấy nối xương mới không bị tật."

Tăng Tri Hứa gật đầu, ra lệnh cho thuộc hạ sắp xếp hài cốt và thông báo cho ngỗ tác* khám nghiệm, sau khi điều tra rõ ràng sẽ lập tức vào cung yết kiến Thánh thượng.

* Ngỗ tác: Tên một chức lại để khám xét các người tử thương. Trích Thủy hử truyện 水滸傳: “Nhất diện giáo câu tập Trịnh Đồ gia lân hữu nhân đẳng, điểm liễu ngỗ tác hành nhân, ngưỡng trước bổn địa phương quan nhân tịnh phường sương lí chánh tái tam kiểm nghiệm” 一面教拘集鄭屠家鄰佑人等, 點了仵作行人, 仰著本地方官人並坊廂里正再三檢驗 (Đệ tam hồi) Một mặt cho gọi các nhà láng giềng Trịnh Đồ, điểm lính ngỗ tác giúp quan địa phương cùng chức dịch xã phường khám nghiệm (xác chết Trịnh Đồ) lại hai ba lần.

Nói xong, Tăng Tri Hứa nhìn quanh một lượt, dường như đang tìm kiếm gì đó, cuối cùng ánh mắt lại rơi vào ta.

Ta vội cúi đầu, giả vờ sợ sệt không dám nhìn thẳng vào Diêm Vương.

Tăng Tri Hứa lại rời ánh mắt đi, hắn ra lệnh cho thuộc hạ an bài Trương Hữu Thần và Tô Hồng Hạnh ở một nơi hẻo lánh, chăm sóc cẩn thận.

Nhưng ta luôn cảm thấy có điều gì đó không ổn.

Cuộc tập kích đêm diễn ra vào canh ba.

Người của Đại Lý Tự bận rộn suốt nửa tháng, lại đào hài cốt suốt một ngày, hoàn toàn kiệt sức.

Một mùi thơm lạ theo gió thu lan ra khắp rừng, chỉ trong chốc lát đã khiến mọi người ngã xuống.

Một nhóm người áo đen bước đi trong ánh trăng, xác nhận tất cả đã ngất, họ kéo Trương Hữu Thần và Tô Hồng Hạnh đang mê man ra khỏi trại.

Một thùng nước đổ lên mặt hai người làm cho họ sặc nước tỉnh lại.

Trương Hữu Thần thấy nhóm người áo đen có ý đồ xấu, sợ đến run rẩy, còn Tô Hồng Hạnh thì rất bình tĩnh.

Lúc đó, một bóng người cao lớn mặc áo bào tách ra khỏi đám đông bước đến trước mặt họ. Thấy người đó, Trương Hữu Thần đã sợ đến nỗi không nói nên lời.

"Tịch, Tịch Tướng…"

Hai bên tóc Tịch Tướng đã bạc, ông ta không nói gì, hai người áo đen khiêng một bộ hài cốt đến bẩm báo: "Bẩm đại nhân, thuộc hạ đã tìm được công tử…"

Tịch Tướng run rẩy, ông ta như già đi cả chục tuổi chỉ sau một đêm.

Đột nhiên, trong mắt ông ta hiện lên sát ý, ông tiến lên túm lấy Trương Hữu Thần, lạnh lùng nói: "Ngươi đã giet nhỉ tử của ta!"

Trương Hữu Thần sợ đến mức ngã lăn ra đất, vội vàng khai hết mọi chuyện: "Tướng gia, tiểu nhân không biết, thật sự không biết! Đêm đó người tiểu nhân mời là Kiều Mộc Đình, không ngờ lệnh lang* lại mạo danh đến chỗ hẹn.”

* Lệnh lang: Từ cũ dùng để chỉ con trai của người nói chuyện với mình (cũ).

"Lúc đó trời tối không có ánh trăng, lệnh lang vừa đến liền mắng chúng ta cấu kết bè phái, làm loạn khoa cử, còn mắng những người có mặt ở đó là đống phân chó, đảo loạn triều đình.”

"Đúng rồi, lệnh lang còn mắng ngài… Đêm đó có Lý đại nhân và Vương đại nhân, họ đều là học trò của ngài, làm sao chịu được lời sỉ nhục đó nên ra lệnh giet ch..et…"

Tịch Tướng lại run rẩy.

Tô Hồng Hạnh ở bên cạnh nghe đến đây cũng run lên.

Nàng nhìn bộ hài cốt, xương tay cong quặp, không biết lúc chết có phải y đã trải qua giãy giụa hay không?

Nàng nhớ Diệp Hy sợ đau nhất, khi nàng véo tai trách mắng, y luôn rống lên như quỷ kêu. Nàng còn cười mắng: ngài đường đường là ngũ xích nam nhi*, sao lại sợ đau như vậy?

* Ngũ xích nam nhi: trong văn học cổ điển Trung Quốc, cụm từ này thường được sử dụng để chỉ một người đàn ông cao lớn và oai vệ, thể hiện sự nam tính và mạnh mẽ của người đàn ông.

Diệp Hy mặt dày cười cợt nói: sợ đau thì có gì đáng xấu hổ, từ nhỏ da thịt đã quý giá nhưng vì không thuận ý phụ thân nên thường bị đánh, chỉ cần ta la lên là có mẫu và di nương tới cứu.

Lúc đó, Tô Hồng Hạnh vừa bực vừa buồn cười, nàng hỏi: ngài đã biết lệnh nghiêm* nóng tính, sao còn chọc giận ông ấy.

* Lệnh nghiêm: Từ dùng gọi cha thân sinh người khác thuộc gia đình quyền quý.

Diệp Hy giả bộ buồn bã, thở dài nói: quân tử phải có cái gì nên làm và cái gì không nên làm. Phụ thân muốn ta làm điều mình không làm được, ta tình nguyện bị đánh.

Tô Hồng Hạnh hỏi tiếp: "Rốt cuộc lệnh nghiêm muốn ngài làm gì?"

Vẻ mặt Diệp Hy đổi thành trào phúng, nhẹ nhàng nói: "Làm quan chứ sao."

Tô Hồng Hạnh khó hiểu: "Ngài không thích làm quan à?"

Nụ cười trên mặt Diệp Hy nhạt dần, y nói với vẻ ghê tởm như nuốt phải nửa thùng nước thải: "Quan trường bẩn thỉu, ta chán ghét thứ đó, nhưng phụ thân không nghĩ vậy. Trong mắt ông ta, quan trường là nơi cất giấu núi vàng núi bạc và quyền lực vô hạn.

"Nàng không biết đâu, mỗi khi tới dịp lễ tết, người đến chúc mừng có thể đạp nát ngưỡng cửa, nhưng có ích gì đâu?”

"Những người đó ngoài miệng gọi là lão sư*, nhưng cũng giống như ông, toàn là rùa đen rụt cổ, ngoài việc nịnh hót và đấu đá bè phái, thì chẳng có tác dụng gì."

* Lão sư (老师): âm Hán Việt là LÃO SƯ, từ này có nghĩa là thầy giáo, cô giáo. Tuy nhiên ở Trung Quốc không phải chỉ những người làm thầy, cô giáo đi dạy học sinh mới gọi là 老师 mà cả những người có tài năng đạt đến mức độ nhuần nhuyễn bậc thầy trong một lĩnh vực nào đó cũng được gọi là 老师, để thể hiện sự kính trọng đối với họ. Trong từ điển tiếng việt (Từ điển - Lê Văn Đức) từ lão sư còn là: Ông thầy già đáng kính, tiếng gọi tôn-kính thầy mình hay thầy người.

Tô Hồng Hạnh nghĩ, trên đời này chỉ những ai có đầu óc không giống người như Diệp Hy mới mắng phụ thân mình là rùa đen.

Quả nhiên, Diệp Hy đầu óc không tốt cười ngây ngô nói: "Vì thế, ta thà ở bên các nàng, sống tiêu dao tự tại."

Sau đó, con rùa nhỏ Diệp Hy vì đối kháng với lão rùa già Từ Tịch, giả vờ mình trời sinh ph*ng đ*ng không biết kiềm chế, mỗi ngày chỉ biết lưu luyến chốn Tần Lâu Sở Quán.

Cuối cùng khiến cho phụ thân Diệp Hy cắt đứt quan hệ phụ tử, đuổi ra khỏi nhà.

Có lẽ phụ thân Diệp Hy nghĩ làm vậy sẽ khiến y khóc lóc mà thay đổi thành con người mới, nhưng không ngờ Diệp Hy lại vô tâm vô phế thu thập hành lý rồi bỏ chạy, kể từ đó bặt vô âm tín.

Lúc đó, Tô Hồng Hạnh còn nghĩ Diệp Hy chỉ là con nhà quý tộc nào đó, không ngờ y lại là nhi tử của tể tướng tam triều.

Trương Hữu Thần vì tự cứu, lại nói:

“Tướng gia, việc thông đồng với thí sinh, chia bài thi ở núi Tê Đồng ngài cũng biết mà, không ít đại nhân trong triều cũng vì thế mới trở thành môn sinh của ngài, chức quan của tiểu nhân là ngài ban cho, làm sao tiểu nhân có thể hai lòng với ngài được?

“Tiểu nhân thật sự không biết lệnh lang là con trai của ngài! Nếu biết thì có cho tiểu nhân một trăm lá gan cũng không dám động đến công tử!

“Lệnh lang vừa đến đã mắng ngài, mắng khoa cử, mắng quan trường, không ai ngờ được, con trai tể tướng lại đại nghịch bất đạo như vậy?!”

Sắc mặt Tịch Tướng càng lúc càng trắng bệch nhưng Trương Hữu Thần vì tự cứu mình, hoàn toàn không chú ý tới điều đó, bắt đầu tự hất nước bẩn:

“Tiểu nhân biết rồi! Tiểu nhân biết rồi! Người giet lệnh lang chính là Lý Miểu và Vương Lãng! Bọn họ đều là đại thần trong triều, làm sao không nhận ra công tử?

“Lúc công tử bị thắt cổ, ánh sáng mờ mịt khó phân biệt thân phận. Nhưng sau đó họ có kiểm tra thi thể!

“Thảo nào khi bọn họ đi lại hoảng hốt như vậy, còn vội ra lệnh cho người chôn xác thật nhanh, chắc hẳn bọn họ đã phát hiện bản thân phạm tội tày trời, không dám thừa nhận cho nên mới hủy xác phi tang! Ba năm nay, tướng gia vẫn luôn bị che giấu…”

Tịch Tướng phun ra một ngụm ma’u, thân thể lung lay sắp đổ.

Nhưng Tịch Tướng quả không hổ là người lão luyện, lúc này ông ta vẫn giữ được bình tĩnh ra lệnh cho thuộc hạ: “Đốt sạch, ngoài xương cốt của Nghiệp Thành, tất cả xương cốt khác đều đốt cho ta!”

Hắc y nhân lấy đuốc, muốn thiêu rụi tất cả xương cốt, hủy thi diệt tích.

Trong ánh lửa nhảy nhót, tiếng cười lành lạnh vang lên từ trong một góc, giữa canh cảnh binh hoang mã loạn* này càng thêm ghê rợn.

* Binh hoang mã loạn: Binh tan hoang, ngựa rối loạn, ám chỉ trật tự hỗn loạn.

Tiếng cười càng lúc càng lớn, mang theo bảy phần chế nhạo ba phần thê lương.

Tô Hồng Hạnh không kìm được mà bật cười lớn, tiếng cười cuồng vọng, ngay cả giọt nước mắt nơi khóe mắt cũng hòa theo.

Tô Hồng Hạnh cười lớn, ánh mắt như dao, từng nhát từng nhát cắt vào Tịch Tướng:

“Thì ra là vậy, thì ra là vậy… Ta luôn thắc mắc vì sao Diệp Hy ngày ngày u uất, hóa ra là vì ngài ấy đã bị ngươi ép buộc từ nhỏ, muốn ngài ấy thành người giống như các ngươi.

“Một người người tuỳ tiện và thấu triệt mọi thứ như Diệp Hy làm sao chịu đồng loã chung với các ngươi? … Lão rùa già họ Tịch kia, cảm giác tự tay g**t ch*t con trai mình thế nào? Cảm giác không con nối dõi thế nào? Cảm giác đoạn tử tuyệt tôn có thích không?”

Tịch Tướng lại phun ra một ngụm máu, lúc này nhìn ông ta như sắp gần đất xa trời.

Ông ta run rẩy giơ tay lên chỉ vào Tô Hồng Hạnh, hơi thở yếu ớt nói: “Gi… giet… giet hết cho ta…”

Hắc y nhân rút binh khí, Trương Hữu Thần khóc lóc cầu xin tha mạng.

Tô Hồng Hạnh không biết lấy đâu ra sức lực, nàng ta chạy về phía bộ xương của Diệp Hy!

Nàng ôm lấy đống xương đó, nhảy vào hố lửa đang cháy dữ dội.

Đôi mắt Tịch Tướng như muốn nứt ra: “Thành nhi——————”

Tô Hồng Hạnh hét: “Diệp Hy đã cắt đứt quan hệ với ngươi từ lâu rồi, dù có nghiền xương thành tro, ta cũng không để ngươi mang ngài ấy trở về!”

Ngọn lửa hung tàn không thương tiếc nuốt chửng y phục và tóc của Tô Hồng Hạnh. Nụ cười của nàng trong ánh lửa vô tình càng thêm kiêu hãnh và đắc ý, nhưng cũng sắp tan biến như khói…

Ta thật không nhìn được nữa, quấn lấy một tấm chăn đã thấm nước từ lâu rồi bay lên ôm lấy Tô Hồng Hạnh và Diệp Hi trong hố lửa, ta nhảy ra khỏi hố, luống cuống tay chân dập tắt lửa trên người Tô Hồng Hạnh.

Đúng lúc này, một tia chớp lóe lên trên bầu trời, một tiếng sấm rền vang như tiếng gầm giận dữ lâu ngày.

Mưa như trút nước ào ào rơi xuống, rất nhanh đã dập tắt lửa, biến vạn vật thành khói trắng.

Ta ôm Tô Hồng Hạnh yếu ớt, nhìn đám người Đại Lý Tự ngất trước đó lần lượt đứng lên, Tằng Tri Hứa dẫn đầu đại quân cấm vệ bao vây Tịch Tướng và tay chân của ông ta.

Ta oán hận nhìn hắn, lúc này ta không quan tâm việc bị hắn phát hiện ra thân phận thật.

Hắn liếc mắt nhìn ta một cái, rồi lùi lại một bước, nhường ra một con đường.

Có người đạp lên bùn đất đã nhão từ từ tiến tới, trên đầu được người che ô cẩn thận, mưa lớn như vậy nhưng không làm ướt gấu áo của nàng chút nào.

Vi Chiêu Y nói: “Cơn mưa này, cuối cùng cũng đã trút xuống.”
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 7


Năm Phượng Hoàng thứ ba, ngày 23 tháng chạp.

Đây là trận tuyết đầu tiên, tuyết rơi rất dày, chỉ trong một đêm đã làm gãy nhiều cành cây và mái nhà trong Kinh thành.

Dân chúng bận rộn quét tuyết trên đường, bỗng nhiên, tiếng trống Đăng Văn Cổ* vang lên, làm tuyết trên mái nhà rơi xuống.

* Trống Đăng Văn Cổ: trống kêu oan, biểu tượng của công lý, được đặt ở Công Chính Đường do Tam Pháp Ty quản lý (gồm ba bộ Hình Bộ, Đô Sát Viện và Đại Lý Tự). Vào những ngày nhất định, khi dân đánh trống kêu oan sẽ được nhận đơn và đưa thẳng lên nhà vua. Thời vua Tự Đức, trong kinh thành không ai được phép đánh trống để nhà vua ngự trong Đại Nội không bị nhầm với tiếng trống Đăng Văn.

Có người hiếu kỳ đến xem, họ thấy một nữ tử bị cháy nửa mặt ôm một bộ hài cốt đang ngẩng đầu đánh trống.

Người đó cáo trạng các đại thần trong triều do Tịch Tướng Tịch Quốc Lương cầm đầu, náo loạn khoa cử, coi mạng người như cỏ rác, kết bè kéo cánh.

Nữ Hoàng Vi Chiêu Y rất coi trọng việc này, ngài triệu nữ tử đó vào cung, đồng thời bắt toàn bộ những người bị cáo buộc đến trước mặt mình, đích thân thẩm vấn.

Dưới sự uy nghiêm của Nữ Hoàng, Tri phủ Tô Châu Trương Hữu Thần nhanh chóng thú nhận: Vào ba năm trước, hắn đã cùng với Lý Diệu và Vương Lãng của Hàn Lâm Viện mưu sát các thí sinh đi thi ở Kinh thành.

Trương Hữu Thần khai rằng: Kể từ tiền triều, Tể tướng Tịch Quốc Lương đã có ý định bồi dưỡng lực lượng của mình trong triều.

Ông ta lệnh cho môn sinh Lý Diệu và Vương Lãng tiết lộ đề thi cho những sĩ tử chịu gia nhập, đồng thời họ còn đàn áp những sĩ tử không chịu đồng lõa.

Nhẹ thì tiêu hủy thành tích của họ, nặng thì trực tiếp làm họ biến mất khỏi thế gian.

Trong số đó, có Kiều Mộc Đình.

Nữ Hoàng đọc bài văn của Kiều Mộc Đình, ngài hô to: Quả là người tài xứng làm Trạng Nguyên; rồi ngài ấy lại thương tiếc vì hắn mất ở tuổi xuân.

Ngài ra lệnh cho Lễ bộ in bài văn của Kiều Mộc Đình truyền khắp triều đình và thiên hạ, biểu dương văn tài xuất sắc của hắn, đồng thời không truy cứu những lời hắn từng xúc phạm mình.

Nữ Hoàng còn lệnh cho Đại Lý Tự nghiêm khắc tra khảo Tịch Quốc Lương, ngài muốn làm rõ liệu phía sau còn dính líu lợi ích nào khác hay không, không ngờ Tịch Quốc Lương lại đập đầu vào tường chết trong Đại Lý Tự.

Cái chết của lão Tể tướng tam triều không thể ngăn được miệng lưỡi của dân chúng, những lời như “quan trường thối nát, khoa cử hư tận gốc” lan rộng trong dân gian.

Một thời gian sau, văn nhân khắp thiên hạ thất vọng tận xương, dân chúng cũng oán giận sục sôi, tình hình Vệ Châu vô cùng bất ổn.

Nữ Hoàng vì trấn an lòng dân còn đặc biệt lệnh cho Đại Lý Tự lập “Án khoa cử Kiều Mộc Đình”, dù là hoàng thân quốc thích hay trọng thần quan lớn như thế nào, thề phải một lưới bắt hết những người liên quan phía sau.

Trong lúc sự tình càng lúc càng lớn, ta tiễn Tô Hồng Hạnh rời khỏi Kinh thành.

Trên khuôn mặt từng nghiêng nước nghiêng thành của nàng để lại vết sẹo bị lửa thiêu, suốt đời khó mà xóa nhòa.

Thế nhưng nàng cười rất yên bình, trong tay ôm một cái bình sứ trắng.

Ta lại hổ thẹn, “Nếu ta sớm nói cho ngươi biết thân phận của ta, có lẽ ngươi sẽ không phải chịu đựng thế này…”

Tô Hồng Hạnh cười, nàng nói: "Chuyện trên đời này vốn như trăng, có lúc tròn có lúc khuyết, đều có thời cơ và định số. Nếu mọi chuyện đều phải tranh luận về cái "nếu", e rằng chỉ càng thêm không cam lòng."

"Tất cả mọi việc đều do ngươi và Kiều Mộc Đình liên hợp tạo ra hay sao?" Ta hỏi ra nghi vấn luôn làm mình bận lòng: "Cái chết của Kiều Mộc Đình…"

Tô Hồng Hạnh cười khổ, nàng nói: "Bọn ta cũng không còn cách nào khác."

Năm đó, Kiều Mộc Đình thi đi thi lại vẫn không đỗ, nhưng hắn không chịu bỏ cuộc, hắn tin rằng chỉ cần kiên trì sẽ có một ngày được đội mũ miện lông công*.

* Mũ miện lông công: Các quan viên thời nhà Thanh hay đội mũ có lông công (linh vũ) đằng sau. Thời nhà Thanh, lông công là dấu hiệu ban thưởng quân công, không phải quan viên nào cũng có. Nếu có vị quan nào bị tước lông công (rút linh) là do phạm phải tội nghiêm trọng.

Đêm đó, Kiều Mộc Đình lại ở Túy Hồng Lâu chuẩn bị hành trang đi thi vào năm sau, Diệp Hy đang uống rượu bên cạnh bỗng nổi giận, ném mạnh bao hành trang của hắn xuống đất.

Đây là lần đầu tiên Tô Hồng Hạnh thấy Diệp Hy nổi giận đùng đùng.

Diệp Hy chỉ vào Kiều Mộc Đình mắng: "Ngươi muốn làm quan như vậy sao? Ta đã nhìn lầm ngươi rồi, hóa ra ngươi cũng là kẻ lợi dục huân tâm *, một lòng trèo cao!"

* Lợi dục huân tâm: Hám danh lợi quá mức, ví như d*c v*ng về danh lợi luôn sôi sục trong tâm can. (đại từ điển Tiếng Việt)

Kiều Mộc Đình không bực không giận, hắn vừa cúi xuống thu dọn hành lý vừa nói: "Ta làm quan không phải vì bản thân, ta muốn có cơ hội thỉnh mệnh vì dân."

Diệp Hy cười lạnh nói:

“Đồ đầu gỗ! Ngươi nghĩ quan trường đơn giản như vậy sao? Nơi đó đã thối rữa từ lâu, đầy rẫy những kẻ câu kết với nhau, có mấy ai nhìn xuống không hả?”

"Bọn hắn vì muốn leo lên cao, giữ được cái mũ cánh chuồn của mình mà vứt bỏ lễ nghĩa liêm sỉ hết rồi!”

"Ngươi cho rằng bản thân có thể thay đổi được gì? Ngươi thi đi thi lại không đỗ chẳng lẽ còn chưa hiểu ra lý do hay sao?”

"Lần đầu tiên ngươi vào Kinh thành, có phải Vương Lãng của Hàn Lâm Viện đã từng ném cành ô liu cho ngươi đúng không?”

"Ngươi chỉ biết giữ cốt khí, không muốn gian lận, có biết khi đó số phận của ngươi đã được bọn hắn định đoạt rồi không! Chỉ cần ngươi một lần không cho bọn hắn dùng, tự nhiên bọn hắn sẽ đá ngươi ra khỏi thế cục, ngươi có thể làm được gì cơ chứ?”

Kiều Mộc Đình nói: "Ta biết."

Diệp Hi ngạc nhiên nhìn Kiều Mộc Đình: "Ngươi biết?"

Kiều Mộc Đình cười nhạt nói: "Phải, ta đã đoán ra lý do thi mãi không đỗ, ta cũng nghĩ là do ta không muốn thông đồng nên đã làm mất lòng bọn hắn. Nhưng có sao đâu, ta sẽ không khuất phục."

Kiều Mộc Đình lại nói:

“Thế giới này có đúng sai trắng đen, công lý đạo nghĩa. Sai là bọn hắn, tại sao ta phải khuất phục?”

“Cho dù cả đời này ta không thi đỗ trạng nguyên, ta cũng phải thi để bày tỏ lý tưởng và hoài bão của mình, cuối cùng sẽ có ngày ta được người nhìn thấy.”

“Cho dù cả đời này vô danh cũng không sao, ta nguyện đánh cược mạng sống của mình, đấu với bọn hắn tới cùng.”

Diệp Hi ngây người nhìn Kiều Mộc Đình, không nói được một câu nào.

Một lúc lâu sau, Diệp Hy mới cười nhẹ một tiếng, lẩm bẩm một câu "kẻ ngốc", rồi quay người rời đi.

Nhưng đến đêm trước khi Kiều Mộc Đình lên đường, Diệp Hy lại chuẩn bị hành lý cho mình.

Diệp Hy gọi Tô Hồng Hạnh vào phòng, y đưa tất cả giấy tờ nhà đất và ngân phiếu cho nàng, y nói lần này sẽ lên Kinh thành cùng Kiều Mộc Đình.

Diệp Hu lại nở nụ cười ngông cuồng, “Lão Kiều là tên đầu gỗ nàng cũng biết mà, hắn bị bắt nạt bao năm nay, ta là bạn tri kỷ duy nhất của hắn trên đời này, sao ta có thể không đòi lại công bằng cho hắn."

Tô Hồng Hạnh lúc đó không hiểu sao lại có dự cảm không lành trong lòng, nàng nắm chặt cánh tay Diệp Hy van xin: "Đừng đi."

Diệp Hy hơi ngạc nhiên, Tô Hồng Hạnh đã ngập đầy nước mắt.

Diệp Hy đưa ngón tay ra, vốn định lau đi giọt nước mắt nơi khóe mắt nàng, thế nhưng không biết nghĩ đến điều gì, y đột ngột rụt tay lại như bị thứ gì đó làm cho giật mình.

Diệp Hy nói khẽ: "Những điều nàng muốn nói, ta đều biết."

Tô Hồng Hạnh ngạc nhiên: "Ngài biết? Ngài biết ta đối với ngài… vậy sao… sao ngài lại…"

Diệp Hy hỏi: "Nàng còn nhớ đại hội hoa khôi năm đó không?"

Đêm đó, Tô Hồng Hạnh ăn mặc lộng lẫy, rực rỡ đến không thể tả, dưới chân cô là vô số công tử tranh nhau đập vàng đập bạc, một đường đuổi theo nàng.”

Kiều Mộc Đình cũng ở trong đó, hắn bị chen lấn choáng váng nhưng vẫn kiên định bước theo và bảo vệ nàng suốt quãng đường.

Tô Hồng Hạnh không ngạc nhiên khi nàng giành được danh hiệu hoa khôi, được tặng những đóa mẫu đơn lộng lẫy nhất và châu báu quý giá nhất.

Nhưng khi nàng nhìn vào đám đông lại không thấy Diệp Hy đâu.

Hội thi chưa kết thúc, Tô Hồng Hạnh đã vội vàng trở về Túy Hồng Lâu, quả nhiên nàng tìm thấy Diệp Hy đang uống rượu một mình trong sân sau, y đã say khướt.

Khi Diệp Hy thấy Tô Hồng Hạnh phải nheo mắt mới nhìn rõ người tới là nàng, y cười nói: "Thật đẹp."

Tô Hồng Hạnh ấm ức, đôi mắt đỏ hoe, nàng hỏi: "Sao ngài không đến?"

Diệp Hy cười cười không nói gì, y chỉ vỗ vai Tô Hồng Hạnh rồi lạnh lùng rời đi.

Đêm đó ở Tô Châu trời mưa rất to làm Tô Hồng Hạnh ướt sũng.

Diệp Hy nói: "Lúc đó nàng hỏi ta trong lòng nghĩ gì, sao lại không chịu để nàng hiểu. Thực ra, ta cũng chưa hiểu rõ chính mình làm sao nói cho nàng biết được?"

Tô Hồng Hạnh lắc đầu, nàng không hiểu.

Diệp Hi nói:

“Hồng Hạnh, đừng nhìn ta cùng các người quây quần mỗi ngày như không biết phiền muộn là gì, thật ra ta là kẻ vô dụng và nhát gan nhất trên thế gian này.

"Ta chán ghét cuộc đời mà phụ thân đã sắp đặt cho ta, bọn họ đều là bè lũ quan lại hủ bại thối nát, dù ta có tài hoa và tầm nhìn như nào cũng không muốn cùng họ kết bè.

"Ta tưởng rằng mình gọi đó là tự do tự tại, nhưng so với lão Kiều, ta mới biết mình chỉ là kẻ hèn nhát. Ta không có dũng khí để thay đổi hiện trạng nên cứ mãi trốn tránh."

Diệp Hu hít một hơi, giọng trở nên kiên định, tiếp tục nói: "Lần này, ta muốn can đảm một lần, cùng lão Kiều xông pha, dù có tan xương nát thịt, cũng là điều ta mong muốn. Nếu như…"

Diệp Hy cười khẽ, ở nơi khóe mắt, chân mày lộ ra một chút ngượng ngùng, y ngẩng đầu lên nhìn vào mắt Tô Hồng Hạnh rồi nói: “Nếu như ta làm được điều gì đó khiến mình hài lòng, có lẽ, ta sẽ hiểu được mình đang nghĩ gì. Đến lúc đó, ta sẽ nói cho nàng biết những điều trong lòng ta. Được không?"

Hàng mi Tô Hồng Hạnh khẽ rung, những giọt nước mắt như ngọc trai rơi xuống, nàng cũng nở một nụ cười đồng cảm

“Được.", nàng nói: "Ta sẽ đợi chàng."

Khi đó, Tô Hồng Hạnh nghĩ rằng nàng có thể như trước đây, chờ đợi họ trở về.
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 8


Sau khi Diệp Hy mất tích, Kiều Mộc Đình thậm chí bỏ luôn khoa cử mà điên cuồng tìm kiếm y.

Kiều Mộc Đình hỏi thăm khắp nơi, không quản mưa gió, nhưng vẫn không có tin tức gì về Diệp Hy.

Sau nhiều lần bị mưa ướt, Kiều Mộc Đình mắc phải bệnh phổi.

Nhưng hắn vẫn không chịu từ bỏ, tìm kiếm Diệp Hy khắp mọi ngõ ngách trong kinh thành.

Có lẽ dáng vẻ bệnh lao của hắn quá đáng thương đã khiến người khác động lòng, cuối cùng hắn được một sĩ tử không muốn tiết lộ danh tính, người này nói từng thấy Trương Hữu Thần đưa thư vào phòng của hắn vào đêm đó, sau đó lại thấy Diệp Hy mặc áo của hắn đi về phía núi Tề Đồng.

Gia đình sĩ tử đó có chút bối cảnh nên đã kể cho Kiều Mộc Đình nghe về những mờ ám ở núi Tề Đồng.

Cuối cùng, người đó thở dài khuyên Kiều Mộc Đình từ bỏ, đừng tự chuốc lấy rắc rối, hắn không thể đấu lại họ được đâu.

Nhưng Kiều Mộc Đình không tin.

[Đừng tin mấy con re-up truyện của Vân Đạm Phong Khuynh]

Kiều Mộc Đình viết đơn kiện suốt đêm, sau đó hắn đem đến nha môn, hy vọng quan phủ sẽ giúp mình đòi lại công lý. Nhưng vị quan ấy nhận đơn xong lại bắt Kiều Mộc Đình, đánh hắn ba mươi trượng, nói rằng hắn vu cáo người khác.

Nghĩ lại cũng đúng, một Kiều Mộc Đình nhỏ bé, một Diệp Hy nhỏ bé, không quyền cũng không thế, ai lại vì họ mà đắc tội với những quan lớn quyền cao chức trọng?

Kiều Mộc Đình thực sự không còn cách nào khác, mùa đông năm ấy, hắn kéo lê thân thể hấp hối về lại Túy Hồng Lâu.

Tô Hồng Hạnh nhìn thấy dáng vẻ này của Kiều Mộc Đình, lập tức hiểu ra mọi chuyện.

Kiều Mộc Đình, nam cao tám thước, quỳ trước mặt Tô Hồng Hạnh, hối hận nói rằng bản thân không nên cố chấp mà hại chết bằng hữu.

Tô Hồng Hạnh gắng gượng không khóc, nàng tiến tới nắm lấy vai Kiều Mộc Đình.

Nàng nói: "Sai không phải là ngươi, cũng không phải là chúng ta. Kiều Mộc Đình, lúc đó ngươi tin vào đúng sai, công lý, bây giờ ngươi còn tin không?"

Kiều Mộc Đình với khuôn mặt tái nhợt, hắn nhìn Tô Hồng Hạnh và im lặng rất lâu.

Tô Hồng Hạnh không để nước mắt rơi, mỉm cười kiên nghị và kiêu ngạo, nàng nói: "Nếu ngươi còn tin, chúng ta chỉ là hai mạng người, không có gì phải lo lắng, tại sao lại không thể đấu với bọn hắn?"

Mắt Kiều Mộc Đình đỏ hoe, hắn vẫn không thể phát ra tiếng.

Tô Hồng Hạnh lại nói: "Ngay cả kẻ nhát gan như Diệp Hy còn dám, chúng ta sợ cái gì?"

"Hắn không phải kẻ nhát gan."

Kiều Mộc Đình cuối cùng cũng mở miệng, mọi cảm xúc dồn nén trong lòng bùng nổ, đau khổ khóc nấc, không ngừng lặp đi lặp lại một câu.

"Hắn không phải kẻ nhát gan."

Tô Hồng Hạnh cúi đầu nhìn, nàng hỏi: "Vậy ngươi có dám không?"

Kiều Mộc Đình khẽ ừ một tiếng, rồi lại ừ một tiếng mạnh mẽ.

“Dám."

[Đúng là bọn ăn cắp truyện dám làm mọi điều luôn đó, hãy ghé Vân Đạm Phong Khuynh nhé]

Tô Hồng Hạnh không muốn liên lụy đến các tỷ muội khác, nàng đóng cửa Túy Hồng Lâu.

Để che mắt người đời, nàng và Kiều Mộc Đình giả làm phu thê. Họ vốn định tìm ra thi thể của Diệp Hy trước, sau đó vào kinh thành kiện lên triều đình.

Nhưng mãi mà họ vẫn không tìm được thi thể của Diệp Hy, càng điều tra họ càng phát hiện ra thế lực đằng sau khoa cử rắc rối khó gỡ, quyền lực ngập trời

Dù họ có tìm được chứng cứ, chỉ sợ không ai dám thẩm tra.

Thể trạng của Kiều Mộc Đình ngày càng tệ, cuối cùng có một ngày, hắn nói với Tô Hồng Hạnh rằng hắn đã nghĩ ra một cách.

Cách đó là hắn dùng cái chết của mình để gây chấn động, chỉ cần khuấy động nước ở Tô Châu, thì không lo không đến được kinh thành.

Tô Hồng Hạnh không đồng ý, Kiều Mộc Đình nắm chặt tay nàng, hắn nói:

"Nghe ta nói, ta biết mình không sống được bao lâu, nếu cứ thế mà đi, trăm năm sau chắc chắn ta sẽ không có mặt mũi nào để đối diện với nàng và Diệp Hy.

"Ta đã viết sẵn một bức thư nhờ người gửi đến Đại Lý Tự. Để phòng ngừa thư bị phá hủy giữa đường, ta không thể viết rõ nỗi oan trong thư, chỉ dùng thuốc đặc biệt viết tên mình.

"Và ta sẽ đến Thanh Vân Lâu, mắng chửi Vi Chiêu Y, hy vọng có thể thu hút sự chú ý của triều đình."

Tô Hồng Hạnh nước mắt giàn giụa, nàng nắm chặt tay Kiều Mộc Đình.

Nàng đột nhiên nhớ lại, khi họ tìm kiếm khắp núi Tề Đồng mà không có kết quả, nàng cuối cùng không thể chịu đựng được những cảm xúc dày vò, khóc nức nở trong cơn mưa lớn.

Nàng vô cùng nhớ Diệp Hy, càng muốn biết sau khi chàng ấy hiểu ra sẽ nói gì với mình.

Lúc này, một chiếc ô che cho nàng khỏi cơn mưa, theo sau đó là cơ thể rộng lớn và ấm áp của một nam nhân.

Giọng nói của Kiều Mộc Đình vang lên từ phía sau nàng, hắn nói: “Không cần quay đầu lại. Ta hiểu lòng nàng, ta chỉ muốn thay Diệp Hy che mưa cho nàng lúc này thôi.”

Kiều Mộc Đình là người như thế, quang minh lỗi lạc, thẳng tiến không lùi.

Nhưng lý tưởng và tín ngưỡng của hắn vẫn bị thế tục bẩn thỉu này phá hủy, cả cơ thể hắn cũng bị giằng xé đến tan nát.

Trên giường bệnh, khuôn mặt Kiều Mộc Đình tái nhợt, sau khi nói hết kế hoạch, hắn lại cười như huynh trưởng, cố gắng chỉnh lại tóc bên tai nàng.

Kiều Mộc Đình nói: “Ta đi trước một bước, nếu có thể gặp Diệp Hy, ta sẽ cùng hắn bảo vệ nàng trên trời; nếu hắn còn sống trên đời, ta không gặp được thì ta sẽ bảo vệ các người từ trên trời.”

Tô Hồng Hạnh gật đầu, rồi lại lắc đầu, nắm chặt tay Kiều Mộc Đình.

Nàng không thể không trách mình, tại sao không thể chia một chút tình cảm cho nam nhân trước mắt này, nhưng lại nghĩ, nếu chia ra thì đó mới là xúc phạm hắn.

Kiều Mộc Đình dường như đoán được suy nghĩ trong lòng cô, hắn mỉm cười, nhẹ nhàng lắc đầu, nói: “Sau khi ta chet, có lẽ sẽ khiến nàng chịu ấm ức.”

Lúc đó, Tô Hồng Hạnh cũng học theo Kiều Mộc Đình, mỉm cười nhẹ nhàng nhưng kiên định lắc đầu.

Tô Hồng Hạnh cười với ta, nàng nói: “Thực ra không có gì ấm ức, chúng ta là những người ngày ngày bị người ta mắng chửi sau lưng, đã sớm không quan tâm đến danh tiếng rồi.”

Ta lắc đầu nói: “Những gì ngươi làm chỉ để tạo ra nghi ngờ, khiến người ta chú ý đến ngươi, chú ý đến Kiều Mộc Đình, chú ý đến Túy Hồng Lâu và Diệp Hy.”

“Không tồi! Ta tiếp cận Trương Hữu Thần, lấy khăn tay từ hắn ta cũng để kích động mâu thuẫn giữa hắn ta và Trương phu nhân.”

Tô Hồng Hạnh cười tinh nghịch, cực kỳ thông minh và giảo hoạt, nàng nói: “Không quan tâm tình cảm tốt hay không, người bên gối luôn biết nhiều bí mật nhất.”

Ta cũng mỉm cười, nói: “Ngươi tính toán thời gian biết Đại Lý Tự sẽ nhận được thư nặc danh của Kiều Mộc Đình, sau đó kích động Trương phu nhân để bà ta báo quan?”

Tô Hồng Hạnh lắc đầu nói: “Ta không kích động, hôm đó ở chùa Quan Âm, ta nói vào tai Trương phu nhân việc Trương Hữu Thần muốn giết bà ta. Sau đó, ta hẹn gặp riêng để nói rõ lý do.”

Ta chợt hiểu ra: “Sau đó, Trương phu nhân hợp tác với ngươi, chặn kiệu Tăng Tri Hứa giữa đường, tố cáo Trương Hữu Thần thuê sát thủ giết mình. Thật không ngờ, bà ta lại giúp ngươi.”

Tô Hồng Hạnh cười nói: “Bà ta là người tốt cũng là người thông minh, biết phu quân có sát tâm, tất nhiên phải tìm cách tự cứu, chẳng lẽ lại tr/e//o c/ổ chet trên một cái cây hay sao?”

Ta nhìn Tô Hồng Hạnh rồi lại thở dài trong lòng, trên thế gian này có rất nhiều người thực sự chọn tr/e//o c/ổ chet trên một cái cây.

Ta lại hỏi: “Mê La Hương ngoài tác dụng mê hoặc tâm trí người còn có thể trong thời gian ngắn giúp người ta quên đi đau đớn, khôi phục thể lực. Đây chính là mục đích cô cho Kiều Mộc Đình dùng Mê La Hương đúng không?”

Tô Hồng Hạnh gật đầu.

Đến đây, ta cũng không còn gì muốn hỏi nữa, ta chỉ cảm thấy mọi thứ đã trở nên sáng tỏ và ta rất khâm phục.

Ta nói: “Những tên tham quan ô lại đầy tham vọng đó mới là những kẻ hay thế này thế kia. Còn các người đều là những người dũng cảm nhất mà ta từng gặp.”

Tô Hồng Hạnh nở một nụ cười rất rạng rỡ, nụ cười này khiến khuôn mặt nàng trông rất sinh động, làm ta cảm thấy cuối cùng cũng thấy được hình dáng thực sự của nàng.

Tôi hỏi: “Ngươi có kế hoạch gì tiếp theo không?”

Tô Hồng Hạnh suy nghĩ một lúc, cười nói: “Ta muốn dẫn hai người bọn họ du ngoạn khắp nơi, từ nay ba người chúng ta sẽ không bao giờ rời xa nhau nữa.”

Ta cũng cười, chúc họ thuận buồm xuôi gió, suốt đời bình an.

Phần cuối———

Ta quỳ trước mặt Nữ Hoàng, khuôn mặt ngài tràn đầy niềm vui, hỏi ta muốn nhận thưởng gì.

Ta cúi đầu, khẽ nói: “Mạng của thuộc hạ là do bệ hạ ban cho, phục vụ bệ hạ là sứ mệnh của thuộc hạ, không cần bất kỳ phần thưởng nào.”

Nữ Hoàng dường như rất hài lòng với câu trả lời của ta, ngài đứng dậy, chậm rãi bước đến trước mặt ta, đưa một bàn tay đầy chai sạn nâng cằm ta lên, bắt ta phải ngẩng đầu nhìn.

Nữ Hoàng đưa tay, vuốt tóc ta.

Ba tháng trước, ngài ấy cũng vuốt tóc ta như vậy.

Ba tháng trước, ta vẫn còn bị nhốt trong căn phòng tối tăm không có chút ánh sáng nào, lâu lắm rồi mới nghe thấy những bước chân khác với người mang cơm từ ngoài cánh cửa sắt.

Ngài ấy đến, lưng ngài hẳn là phủ đầy ánh sáng, giống như lần đầu tiên tôi gặp.

Còn ta vì bị giam cầm quá lâu trong bóng tối, đôi mắt không còn nhìn thấy ánh sáng nữa.

Ngài ấy vuốt mái tóc dài của ta, động tác nhẹ nhàng, giống như lúc ngài cứu ta từ đường phố lạnh lẽo mùa đông, tự tay chải tóc cho ta.

Ngài cao quý và rực rỡ như vậy, nhưng lại không có chút khinh miệt nào đối với ta.

Lúc đó ngài ấy nói: “Ngươi tên là Chiêu Nhi, nghe khá giống tên của ta, có lẽ chúng ta có duyên phận.”

Có lẽ vì ngài ấy là nguồn ấm áp đầu tiên mà ta cảm nhận được trong đời, nên ta mới sẵn sàng vì ngài mà giết người duy nhất đối tốt với tôi trên đời này.

Ngài ấy nói: “Chiêu Nhi, bọn hắn nói ba năm qua, ngươi không nói một lời nào. Trẫm biết ngươi đang giữ bí mật cho trẫm, trẫm rất biết ơn ngươi. Trẫm có thể thuận lợi lên ngôi, ngươi thực sự là công thần lớn nhất.”

Ngài lại nói: “Hiện tại, có một việc khó đặt trước mặt trẫm, trẫm cần sự giúp đỡ của ngươi. Ngươi có còn nguyện ý phục vụ trẫm không?”

Ta mở miệng rất khó khăn, vì quá lâu không nói chuyện mà không thể phát ra âm thanh trọn vẹn.

Từ sâu trong cổ họng ta phát ra âm thanh khàn khàn, mơ hồ, nhưng ta nghĩ, chắc chắn ngài hiểu được lòng trung thành của ta.

Quả nhiên, ngài ấy rất hài lòng, trong giọng nói còn mang theo ý cười.

Ngài lại vuốt tóc tôi, điều này làm tôi nhớ đến lúc ngài luôn v**t v* con chó trắng mà mình yêu quý nhất.

Giờ đây, Nữ Hoàng nhìn ta, nhẹ nhàng thở dài: “Chiêu Nhi, trẫm không nhớ rõ, hình dáng nguyên bản của ngươi như thế nào.”

Ta nói: “Chiêu Nhi đã chết từ ba năm trước, bệ hạ không cần nhớ dung mạo của nàng ta.”

Nữ Hoàng mỉm cười, vẫn dịu dàng như trong ký ức của ta.

Nhìn nụ cười của ngài ấy, tôi bỗng nhiên rất muốn hỏi, đêm đó ngài có thể kịp thời đến núi Tê Đồng, liệu có phải ngài đã sớm bàn bạc với Tăng Tri Hứa để giăng bẫy.

Dù sao thì Tăng Tri Hứa đã la lớn thân phận thật của Diệp Hy ở ven đường, lại rầm rộ đào hài cốt, e rằng chính là để dụ Tịch Tướng lộ ra manh mối.

Sau này ta mới biết, cái gọi là đào ra hài cốt hôm đó thực chất đều là giả, chỉ để dụ Tịch Tướng mắc câu, nên dĩ nhiên không sợ bị Tịch Tướng thiêu hủy.

Nhưng đã giăng bẫy, sao bọn họ lại không lường trước sẽ có nguy hiểm.

Đêm đó nếu không phải ta xông ra cứu Tô Hồng Hạnh, chẳng phải nàng ta sẽ chết cháy trong ngọn lửa hừng hực kia hay sao?

Hay là, trong lòng bọn họ, căn bản không để tâm đến sự sống chết của Tô Hồng Hạnh?

Nhưng ta biết mình không thể hỏi.

Nếu ta mở miệng, e rằng sẽ rơi vào kết cục giống như Tô Hồng Hạnh, đến lúc đó, ai sẽ đến cứu ta?

Nữ Hoàng đỡ tôi dậy, ngài ấy nói rằng vụ án khoa cử của Kiều Mộc Đình đã chính thức khởi động, sắp tới e rằng còn nhiều người phải khai quật, hy vọng ta có thể tiếp tục giúp ngài điều tra.

Ta còn có thể nói gì? Nữ Hoàng nói với tôi hai từ “hy vọng” đã là vinh dự lớn lao của ta rồi, nào có thể từ chối? Càng không có tư cách từ chối.

Rời khỏi hoàng cung, trời đã về chiều.

Ta nhìn quanh, bất chợt không biết nên đi đâu.

Lúc này, một luồng hơi lạnh từ sau lưng ập tới, đó là mùi của kẻ thù truyền kiếp.

Tôi quay đầu lại, chỉ thấy Tăng Tri Hứa khoanh tay, dựa lưng vào tường, đôi mắt sắc như diều hâu nhìn chằm chằm vào ta.

Mối nghiệt duyên giữa ta và Tằng Tri Hứa, phải bắt đầu từ ba năm trước.

Khi đó, ta còn là thị nữ thân cận của tân đế Tề Hàn Chi, cũng là kẻ mưu phản dùng một chén rượu độc giet chet ông ta.

Dù ta đã bày mưu tính kế, đấu trí đấu dũng với Tăng Tri Hứa nhiều lần nhưng cuối cùng vẫn bị hắn vạch trần được bố cục và phá án.

Tăng Tri Hứa bắt ta đến Đại Lý Tự tra hỏi nghiêm ngặt, buộc ta khai ra người đứng sau ra lệnh.

Ta hiểu ý của Tăng Tri Hứa, dù sao ta chỉ là một thiếu nữ yếu ớt mà dám đầu độc Hoàng Đế, nghĩ sao cũng thật khó tin.

Hoàng thái hậu Ngụy Chiêu Y nắm quyền nhiều năm, luôn bị chửi bới là sát phu tù tử, dã tâm rõ ràng.

Hiện nay, tân đế Tề Hàn Chi vừa đăng cơ đã bị đầu độc chết trong tẩm cung, ngài ấy lại không rơi một giọt nước mắt cho nhi tử thân sinh của mình.

Điều này thực sự khiến người ta suy nghĩ xa xôi.

Ta nói không có ai ra lệnh, là do ta yêu Tề Hàn Chi mà không được, vì yêu mà sinh hận.

Ta không thể chấp nhận việc ông ta sủng ái nữ nhân khác nhưng lại không cho ta danh phận, nên dứt khoát hủy diệt ông để không ai có được.

Tăng Tri Hứa căn bản không tin những gì ta nói, dùng trọng hình lên người ta, nhưng dù hắn tra hỏi thế nào, câu trả lời của ta vẫn không đổi.

Vụ án không thể mãi mắc kẹt ở Đại Lý Tự, cuối cùng, Tằng Tri Hứa chỉ có thể báo cáo lời khai của tôi, chẳng mấy chốc, Thái Hậu đang tạm quyền cai trị đã tuyên án tử hình cho ta, chờ đến mùa thu xử trảm.

Ta bình thản đối mặt với kết cục đã định sẵn, nhưng vào ngày hành hình lại được Thái Hậu cứu.

Sau đó, ta bị giam cầm trong một căn phòng tối không thấy ánh sáng.

Mãi cho đến lúc này, ta mới được thả ra.

Ta cắn răng, hành lễ cung nữ với Tăng Tri Hứa, đối phó với loại người như hắn, bất kể lúc nào cũng phải tự nhiên, tuyệt đối không được rối loạn.

Hắn chầm chậm bước đến, hỏi: “Ngươi là ai, định đi đâu?”

Tôi trả lời dối trá: “Bẩm đại nhân, nô tỳ là Xuân Hà của Hoán Y Cục, hôm nay là ngày hưu mộc* của nô tỳ, nô tỳ định ra ngoài dạo chơi, nhất định sẽ trở về đúng giờ.”

* Ngày hưu mộc: hay còn gọi là ngày nghỉ tắm gội, là ngày mà cung nữ và các quan lại trong cung đình được phép nghỉ ngơi để tắm rửa, gội đầu và chăm sóc bản thân. Trong các triều đại phong kiến, những người làm việc trong cung thường có lịch trình rất nghiêm ngặt và bận rộn, cách mười ngày họ được cấp những ngày nghỉ đặc biệt để tắm gội, giúp giữ gìn vệ sinh cá nhân và phục hồi sức khỏe.

Tăng Tri Hứa nhìn chằm chằm ta, hắn nói: “Đôi mắt của ngươi rất giống với một nữ tử mà ta từng gặp ở Tô Châu.”

Ta cung kính đáp: “Đại nhân, nô tỳ chưa từng ra khỏi Kinh Sư cũng chưa từng đến Tô Châu.”

“Ồ?” Tằng Tri Hứa nhạt nhẽo nói: “Đôi mắt của ngươi cũng làm ta rất quen thuộc, giống như một cố nhân. Ta bớt thời gian đến Băng Nhân Thư tìm thấy Đỗ nương tử kia, nhưng không biết tại sao, lần sau gặp lại, đôi mắt của người kia lại bình thường, không còn cảm giác quen thuộc đó.”

Ta vẫn giữ tư thế hành lễ mà không nói lời nào, bây giờ ta là cung nữ Xuân Hạ, ở trước mặt Diêm Vương Tăng Tri Hứa, làm sao ta dám nhiều lời?

Theo lý mà nói, giờ ta phải nên run rẩy mới đúng.

Tăng Tri Hứa cũng không bận tâm đến sự im lặng của tôi, hắn tự nói: “Kỳ lạ là, sau này trong quân của ta, ta lại thấy đôi mắt đó, chỉ có điều lần này, chủ nhân của đôi mắt đó lại là tiểu binh.”

Ta bắt đầu thêm vào chút diễn xuất run rẩy, tất nhiên, không phải run vì sợ, mà vì đôi chân đang giữ tư thế hành lễ.

Cuối cùng Tăng Tri Hứa nói: “Đứng lên đi.”

Ta sợ hãi nói: “Cảm tạ đại nhân.”

May mắn là Tăng Tri Hứa không làm khó l thêm, hắn nói: “Đi làm việc của ngươi đi.”

Ta lại hành lễ cảm tạ, cố gắng kiểm soát đôi chân muốn chạy thục mạng của mình, tránh để lộ bất kỳ sơ hở nào.

Lúc này, ta lại nghe thấy Tằng Tri Hứa nói từ phía sau: “Dù sao ngươi cũng phải trở về cung, chúng ta sẽ gặp lại.”

Tôi hít một hơi thật sâu, may mà kìm chế được, không thì đã lộ ra tiếng thở mạnh rồi.

Gặp lại?

[Hãy gặp Vân tại fb chính chủ Vân Đạm Phong Khuynh nhé]

Vậy ta phải suy nghĩ xem lần sau gặp lại, làm sao đổi đôi mắt khác đây.
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 9: Phần 2. Đào Lý


Năm ấy, Đào Lệ và Thường Tề Tinh bị người nhà chia loan rẽ thuý.

Không ngờ một tiểu thư khuê các như Đào Lệ lại tự đánh xe ngựa bỏ trốn theo tình lang mà bất chấp sự can ngăn của phụ thân, thậm chí nàng còn cắt đứt quan hệ với người trong nhà.

Đoạn ái tình đại nghịch bất đạo của đôi nam nữ này giờ đây trở thành lời răn dạy cảnh tỉnh cho các tiểu thư nơi khuê phòng

Suy cho cùng, kết cục của cuộc chạy trốn bất chấp mọi thứ ấy là tiền đồ tiêu tán, cửa nát nhà tan.

———Mở Đầu

Trong Kinh lại có người chet.

Việc có người chết vốn chẳng phải chuyện gì hiếm lạ, nhưng hết lần này đến lần khác lại xảy ra tại thời điểm lòng người hoang mang như thế này, mà người chet còn là Thiện Bộ Viên ngoại lang, Trang Côn.

Điểm chết người nhất, Trang Côn chet khi đang nếm thử món ăn cho Nữ Hàng Vi Chiêu Y.

Trang Côn giỏi bình phẩm mỹ thực, vô cùng hợp khẩu vị Nữ Hoàng Vi Chiêu Y, hắn đã từng được ngài ban thưởng không ít.

Có người mắng hắn đọc bao nhiêu sách đều đổ hết vào bụng chó, chỉ biết dùng miệng để lấy lòng ân sủng, hắn cũng chẳng bận tâm.

Tuy công việc ở Thiện Bộ không vất vả, nhưng cũng không chỉ có chút lợi lộc cỏn con trên bàn tiệc.

Dù sao thì công việc ở Thiện bộ cũng không nặng nhọc, mà cũng không chỉ có chút lợi lộc bề nổi kia để mà kiếm chác.

Khi Trang Côn chet, năm mâm đậu phụ sốt thịt cua vừa được nấu xong.

Như thường lệ, hắn cầm muỗng bạc nếm thử từng món, quyết định hôm nay sẽ dâng món đậu phụ sốt thịt cua của Ngự Trù nào lên ngự tiền cho Nữ Hoàng.

Các Ngự Trù đều sốt ruột vô cùng, vì Nữ Hoàng dạo này đang thèm món đậu phụ sốt thịt cua, biết đâu chỉ nhờ một chén đậu phụ mà ai đó có thể một bước lên mây.

Trang Côn nếm thử từng món, không nói gì, chỉ chờ các Ngự trù luân phiên nhau lấy lòng hắn, lén lút nhét bạc vào tay hắn.

Đợi đến khi nhét đủ, hắn mới làm bộ làm tịch cầm lấy bút lông, chấm hai lần lên đầu lưỡi, hòa tan mực rồi chuẩn bị đánh dấu.

Nhưng không ai ngờ được, Trang Côn đang ra vẻ ta đây, bỗng dưng sắc mặt tái nhợt, hơi thở dồn dập.

Mọi người có mặt đều chưa kịp phản ứng, người hắn đã lắc lư, mềm nhũn ngã xuống đất, tắt thở ngay tức khắc.

Năm mâm đậu hũ sốt thịt cua vàng ươm, thơm lừng rơi xuống đất vỡ tan tành, giờ thì tốt rồi, chúng trộn lẫn vào nhau, không thể phân biệt ai làm nữa.

Những người có mặt đều hét lên kinh hoàng. Không biết bằng cách nào, tin đồn có người muốn đầu độc Nữ Hoàng đã lan truyền khắp nơi.

Vi Chiêu Y nổi giận lôi đình. Ngay đêm hôm đó, người của Đại Lý Tự đã vào cung. Tăng Tri Hứa dẫn theo Ngỗ Tác khám xét kỹ lưỡng từng ngóc ngách trong thi thể Trang Côn.

Kết quả cuối cùng: không phải ngộ độc, nguyên nhân cái chet không rõ.

Vi Chiêu Y càng tức giận hơn, tất nhiên là không thể chấp nhận việc có người chết dưới tầm mắt mình mà còn không biết nguyên nhân.

Mặt khác, dư âm của vụ án "Kiều Mộc Đình" vẫn chưa tan, Trang Côn lại chet không minh bạch vào lúc này, khiến người ta không khỏi suy nghĩ nhiều.

Tăng Tri Hứa cũng không thẹn với danh hiệu của hắn, lần theo manh mối Trang Côn, bất ngờ moi ra được vài vụ án lớn.

Hóa ra trong thời gian vừa rồi, triều đình có nhiều quan viên liên tiếp tử vong ngoài ý muốn, nhưng do khoảng cách thời gian không đều đặn và đều chet đột ngột mà chết cho nên không một ai xâu chuỗi được với nhau.

Tăng Tri Hứa chỉ vừa mới tra xét liền phát giác một điểm đáng ngờ rất lớn. Những kẻ vong mạng kia đều là sĩ tử cùng khoa Quốc Tử Giám, lại cùng chung một nhà trọ.

Vụ án này bỗng chốc trở nên bí ẩn khó lường.

Đèn Trường Minh trong cung Vị Ương sáng liên tục.

Vi Chiêu Y vỗ mạnh bàn, chỉ vào mũi Tằng Tri Hứa không chút nể tình mà nói: "Tra rõ cho trẫm! Không tra ra đầu đuôi sự việc, thì mang đầu ngươi về đây gặp trẫm!"

Tăng Tri Hứa vốn nổi tiếng với khuôn mặt liệt dù Thái Sơn sụp đổ trước mắt cũng không mảy may có cảm xúc, hắn điềm nhiên đáp lời: "Thần nguyện xin bệ hạ lập quân lệnh trạng nhưng thần cũng có điều thỉnh cầu."

Vi Chiêu Y vung tay, ra hiệu Tăng Tri Hứa bớt dài dòng, có gì cứ nói thẳng.

Tăng Tri Hứa thưa: "Thần muốn có một người cùng thần phá án, chính là Xuân Hạ tì nữ của Hoán Y Cục."

Vi Chiêu Y mới nãy còn lộ ra vẻ ngang ngược: "..."

Nữ Hoàng bệ hạ vốn dĩ đã trải qua bao nhiêu phen sóng gió, há có thể vì yêu cầu nho nhỏ này mà nao núng? Ngài ấy mỉm cười nói: "Trước đây trẫm chưa từng nghe nói ái khanh đi phá án còn muốn tìm người hầu hạ?"

Tăng Tri Hứa thưa: "Con người sẽ luôn có sự thay đổi bất biến, mong bệ hạ ân chuẩn."

Vi Chiêu Y: “...”

Dẫu sao Tăng Tri Hứa cũng là cáo già, Vi Chiêu Y không muốn hao tổn tinh thần đấu trí với con cáo già này, miễn cho nói nhiều sai nhiều. Do đó, ngài phất tay áo, chấp thuận yêu cầu.

Còn ta, cứ như vậy lại bị bán một lần nữa.

Nhiều năm trôi qua, ta lại đến Đại Lý Tự, nơi gần như l*t s*ch một lớp da của ta.

Lại một lần nữa đối diện với Diêm Vương Tăng Tri Hứa, hắn ta vẫn một vẻ bình thản, gật đầu với ta, ra vẻ bề trên hiền hậu.

Hắn ta nói: "Có một việc, phiền ngươi đi làm."

Ta giả vờ cười: "Đại nhân khách khí rồi, phiền phức gì chứ. Lệnh của ngài, dù lên núi đao xuống biển lửa, nô tì cũng phải hoàn thành."

Tăng Tri Hứa lạnh lùng liếc nhìn ta một cái, hỏi: "Nếu không hoàn thành thì thế nào?"

Làm sao đây? Chẳng lẽ đưa đầu cho người hay sao?

Ta tiếp tục giả vờ cười: "Xin tùy vào ý của đại nhân."

Tăng Tri Hứa gật đầu, không muốn phí thời gian làm khó ta nữa, hắn đưa cho ta một quyển hộ tịch.

Ta mở ra xem, thấy người trong sổ ghi là Thường Tề Tinh, một chức quan nhỏ Lương Đạo Thự, cũng là đồng học, đồng phòng với các vị quan lớn đã chết lúc trước ở Quốc Tử Giám.

Tăng Tri Hứa nghi rằng hắn sẽ là người bị sát hại tiếp theo nên sai ta ẩn náu bên cạnh hắn để bảo vệ, tiện thể dò la tin tức. Việc này chẳng khó, nhưng ta phải cần giả vờ làm cao, ai bảo thân phận hiện tại của ta chỉ là một cung nữ nhỏ bé, không thể tùy ý làm càn được.

Ta hít vào một hơi, vừa định lên tiếng thì Tăng Tri Hứa không thèm ngẩng đầu lên nhìn, hắn cắt ngang lời ta:

"Ngươi nói thêm một lời thừa thãi sẽ lãng phí một khắc thì giờ, cũng chậm một phút về nơi ngươi nên về."

Người này đáng ghét thật đấy!

Ta bực bội lật tung hộ tịch, bên trong ghi: Thường Tề Tinh đã có thê tử.

Mà vị thê tử ấy lại chính là con gái của vị Tế tửu* Quốc Tử Giám tiền nhiệm, tên gọi Đào Lệ.

*Tế tửu: Là chức quan đứng đầu Quốc Tử Giám, ngoài ra còn thực hiện việc cúng tế xuân thu nhị kỳ, theo sách Từ Nguyên của Trung Quốc, Tế tửu vốn là danh hiệu để chỉ những người lớn tuổi nhất, có địa vị cao nhất trong buổi tiệc được chọn làm người dâng rượu tế đất trước khi uống. Về sau lấy đó đặt làm chức quan.

Bỗng ta nhớ ra, năm xưa lúc Đào Lệ lên “kế hoạch ngu xuẩn” bất chấp sự ngăn cản của phụ thân, thúc ngựa rong đuổi cả đường dài để bỏ trốn theo Thường Tề Tinh đã gây xôn xao kinh thành đến nhường nào.
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 10


Thế nhưng, lấy tình hình hiện tại của Thường Tề Tinh và Đào Lệ mà nói, chuyện này lại trở thành một chuyện xưa cảnh tỉnh các thiếu nữ không được đắm chìm trong luyến ái.

Dù sao nếu lúc này có ai nhìn thấy Đào Lệ, tuyệt nhiên không thể nhìn ra bóng dáng của nữ học trò Quốc Tử Giám năm xưa.

Nói đúng ra thì Đào Lệ cũng không được coi là nữ học trò của Quốc Tử Giám.

Chẳng qua nàng có thể đi lại tự do trong Quốc Tử Giám là nhờ vào quan hệ của phụ thân nàng.

Tế tửu là chức quan lớn nhất trong Quốc Tử Giám, đương nhiên mọi người phải tôn trọng Đào Lệ.

Đào Lệ cũng không ngang ngược kiêu ngạo, phần lớn thời gian nàng đều yên lặng đọc sách.

Vậy mà nàng vẫn bị nói là mắt cao hơn đầu, không coi ai ra gì, chỉ vì nàng mê mẩn toán học, trong mắt chỉ toàn cộng trừ nhân chia, không còn nhìn thấy phàm nhân thế tục.

Hơn nữa còn bởi tư duy nàng nhanh nhẹn, luận lý chặt chẽ, thường xuyên tranh luận đến khi đối phương cứng họng không trả lời được.

Năm đó tiên sinh Chu Đức Vĩ – đại danh sĩ trong kinh thành còn phải tiếc nuối mà cảm khái, ông nói rằng nếu Đào Lệ là phận nam tử, không chừng đã gây dựng được sự nghiệp cho riêng mình.

Khi chuyện truyền đến tai Đào Lệ, đầu nàng cũng không ngẩng lên khỏi sách, chỉ không cảm xúc hỏi lại: Ông ta là ai?

Chu tiên sinh tức đến run người, tiếng xấu bất cận nhân tình* này đã đến tai ông rồi.

* Bất cận nhân tình” (不近人情) là một thành ngữ tiếng Hán, có nghĩa là hành động hoặc lời nói không hợp lý, không phù hợp với tình cảm hay quan niệm thông thường của con người. Nó thường dùng để chỉ những hành động lạnh lùng, tàn nhẫn hoặc thiếu sự đồng cảm, nhân ái.

Thật khó tưởng tượng được, một Đào Lệ đã từng mê tính toán đến mức đó, vậy mà hiện giờ lại trở thành một phụ nhân chỉ ở trong nhà, quanh quẩn nơi xó bếp.

Nhưng nếu nói Đào Lệ là vì yêu mà rửa tay nấu canh thì thực sự cũng không đúng lắm…

Ta nằm trên đầu tường quan sát Đào Lệ cả ngày, nàng vẫn luôn ngồi viết viết tính tính bên bàn.

Cổng nhà mở toang, không biết đứa nhỏ nhà ai vào trộm cải trắng, nàng cũng không để ý.

Ta nhìn mà lo lắng: Con chó vàng ị đầy ra trước cửa nhà ngươi rồi đấy!

Giờ Mùi, Thường Tề Tinh trở về nhà, ngày mai là ngày nghỉ hưu mộc* của y.

*Lệ ngày xưa làm quan cứ mười ngày được nghỉ một lần để tắm gội, cho nên ngày lễ nghỉ bây giờ cũng gọi là hưu mộc nhật [休沐]. Tắm gội. Được ơn nhờ người ta cất nhắc mà sang trọng gọi là mộc ân [沐].

Y đi năm ngàn năm trăm tám mươi mốt bước về đến nhà, chỉ cắm đầu đi thẳng, luôn mắt điếc tai ngơ với mọi thứ, cũng chẳng trêu hoa ghẹo nguyệt.

Đến cổng nhà, thứ đầu tiên đập vào mắt y là một bãi phân chó trước cửa, dường như y đã quá quen thuộc cảnh này, động tác quen đường quen nẻo mà cầm lấy cái chổi ở bên cạnh quét sạch phân đi.

Đi vào trong nhà, y chào hỏi nhạt nhẽo, Đào Lệ cũng lãnh đạm đáp lại, cuối cùng nàng cũng rời mắt khỏi quyển sách.

Thường Tề Tinh rửa tay, tranh thủ trời còn chưa tối ngồi bên cửa đọc sách.

Còn Đào Lệ đứng dậy, nàng lấy một gáo nước từ trong lu, lấy một ít gạo, dùng đũa đảo đều bắt đầu nấu cháo.

Ba khắc sau*, Thường Tề Tinh buông sách đi rửa tay, giúp Đào Lệ dọn cơm.

Bữa cơm gồm cháo đen, màn thầu cũng đen, cũng với một đĩa dưa muối trong vại.

Thường Tề Tinh không than phiền một câu bắt đầu ăn, phu thê hai người ngồi đối diện nhau, một mảnh yên lặng, hoàn toàn thực hiện nguyên tắc “ăn không nói”.

Ăn xong thì trời cũng đã tối.

Thường Tề Tinh dọn dẹp bát đũa, Đào Lệ kéo chiếc ghế bành xa xỉ duy nhất trong nhà ra giữa sân, hình như nàng không sợ lạnh chỉ khoác thêm một cái áo choàng dày ấm áp rồi ngồi lên ghế.

Nàng ngồi ngắm những vì sao lấp lánh trên trời, lắc lư trên ghế như đang tiêu hóa bữa ăn.

Thường Tề Tinh rửa bát xong, vừa lau tay vừa đi đến cạnh Đào Lệ, cuối cùng nói câu thứ hai sau khi hắn về đến nhà: “Tiền tháng này, Trần đại nhân nói muốn muộn một chút.”

Đào Lệ nói: “Ông ta lấy tiền của các ngươi ra ngoài cho vay, muộn một ngày cũng kiếm thêm được một trăm lượng.”

Thường Tề Tinh nhỏ giọng: “Chuyện này cũng không còn cách nào khác.”

Đào Lệ nói: “Thôi.”

Thường Tề Tinh lại nhỏ giọng nói: “Trang Côn đi rồi.”

Đào Lệ hỏi: “Ai?”

Thường Tề Tinh lắc đầu, nói: “Người chung phòng với ta, cũng là bằng hữu của ta.”

Đào Lệ vẫn lãnh đạm: “Ừ.”

Thường Tề Tinh hơi lo lắng, y nói thêm: “Có lẽ phải chuẩn bị thêm ít bạc.”

Đào Lệ hỏi: “Đây là lần thứ mấy trong năm nay rồi?”

Thường Tề Tinh khẽ thở dài: “Lần thứ tư.”

Đào Lệ nói: “Đồng học của ngươi đều đoản mệnh. Phụ thân ta cũng đoản mệnh, chắc Quốc Tử Giám của các ngươi bị nguyền gì rồi.”

Thường Tề Tinh cười khổ, cũng không nói tiếp nữa.

Đào Lệ lắc đầu, lại nói: “Ngươi tự đến hòm bạc lấy đi, lấy bao nhiêu thì ghi vào sổ, tháng sau trả.”

“Được.” Thường Tề Tinh tạm dừng, lại nói: “Ngày mai còn phải còn có công vụ, ta đi ngủ trước.”

Đào Lệ không đáp, nàng nói tiếp tục ngồi lắc lư trên ghế, ánh mắt vẫn dán lên màn đêm đầy sao như lúc nãy.

Người trong phòng đã tắt nến, tiếng ngáy đều đều cũng truyền ra.

Đào Lệ không phản ứng lại, tựa hồ nếu không phải vì trời lạnh thậm chí nàng còn có thể mặc nguyên áo mà ngủ ngoài sân một đêm.

Đào Lệ rút giấy và bút từ dưới mông, đuôi bút chỉ lên trời, cúi đầu viết lia lịa trên giấy.

Điệu bộ viết viết vẽ vẽ của nàng vừa nghiêm túc vừa chuyên chú, làm bay biến đi mùi khói bếp phàm tục, tản ra sự quyến rũ mơ mộng mê người.

Ta ghé vào mép tường, nghển cổ nhìn nàng vẽ, dưới ngòi bút của nàng, dải ngân hà trải dài cùng với những con số được sắp xếp ngay ngắn, tạo thành những phép toán kiểm chứng.

Nàng lẩm bẩm, thì ra là tính khoảng cách giữa hai ngôi sao.

Có lẽ vì đã giải được một đề bài khó, cuối cùng Đào Lệ cũng lộ ra một nụ cười thỏa mãn đầu tiên trong ngày, đôi mắt hạnh cũng sáng lấp lánh đong đầy sức sống và niềm vui.

Nụ cười này chưa hề lộ ra trước mặt Thường Tề Tinh.

Ta thậm chí còn cảm thấy, tình yêu của Đào Lệ đối với toán học còn nhiều hơn cả đối với Thường Tề Tinh.

Đôi phu thê này, nói dễ nghe là án cử tề mi* tôn trọng nhau như khách, nói khó nghe thì là đến già cũng không thân thiết.

* Cử án tề mi (举案齐眉) là một thành ngữ Trung Quốc, có nghĩa đen là “nâng khay ngang mày”. Thành ngữ này xuất phát từ câu chuyện vợ chồng Lương Hồng và Mạnh Quang, trong đó Mạnh Quang luôn nâng khay thức ăn ngang mày khi dâng cho chồng, thể hiện sự tôn kính và quý trọng.

Nhưng mà không đúng, năm đó Đào Lệ với Thường Tề Tinh bị Đào Hành chia cắt, nàng chạy từ cửa lớn Quốc Tử Giám mà ra.

Ta còn tận mắt thấy nàng tự đánh xe đi tìm tình lang rồi bỏ nhà theo y, còn vì thế mà cắt đứt quan hệ với phụ thân.

Phải biết rằng, câu chuyện tình yêu cuồng nhiệt trái ngược lẽ thường này của nàng với Thường Tề Tinh năm đó đã trở thành chuyện bên miệng của các chủ mẫu các đại gia tộc, chuyên dùng để dạy dỗ cảnh tỉnh các tiểu thư khuê các.

Sao giờ đây lại biến thành dáng vẻ không thiết tha gì nữa như vậy?

Hơn nữa, một Thường Tề Tinh bị khất nợ mà không thể đòi được, chỉ chuẩn bị ít bạc cho bạn học cũng phải đi tạm ứng của vợ rồi hẹn trả lại, sao có thể liên quan đến chốn triều đình hỗn tạp được?

Có thật y sẽ là nạn nhân tiếp theo không?

Giet Thường Tề Tinh để làm gì cơ chứ?
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 11


Muốn tiếp cận Đào Lệ cũng không phải chuyện gì khó.

Ta nhờ Tăng Tri Hứa tìm giúp vài bản đơn lẻ toán học, lại mua thêm bộ y phục của Thừa Phong thư viện.

Thừa Phong thư viện là thư viện đầu tiên dành cho nữ tử ở Vi Chu. Chuyện này xin dành để kể sau.

Chỉ nói lúc này, ta giả làm một học trò ngoan ngoãn, gõ cửa nhà Đào Lệ.

Đào Lệ đương nhiên không nhận ra ta nhưng nàng nhận ra y phục trên người ta.

“Thừa Phong thư viện sao?”

Ta khom người, nói: “Vâng, học trò cố ý tới đây thăm hỏi Đào Lệ tiên sinh.”

Đào Lệ mặt không đỏ, tim không đập mà đáp: “Nàng ấy không có nhà.”

Ta: “…”

Chẳng phải những người nghiên cứu học thuật đều là người ngay thẳng sao? Sao người này lại nói dối không chớp mắt?

May mà ta có bí kíp.

Ta lấy vài bản đơn lẻ ra, thở dài nói: “Làm sao bây giờ, có vài chỗ ta không hiểu nên chịu cảnh ngàn dặm xa xôi đến kinh thành…”

Từ lúc Đào Lệ thấy ta lấy bản đơn lẻ ra, ánh mắt nàng sáng lên. Nàng mở rộng cánh cửa, dứt khoát nói: “Vào đi.”

Ta giả vờ khó xử: “Lúc nãy người vừa nói Đào Lệ tiên sinh không có nhà…”

Đào Lệ: “Lừa ngươi đấy, chính là ta.”

Người này, quả thật ngay cả việc bịa chuyện cũng chẳng thèm.

Để kéo gần khoảng cách với Đào Lệ, ta cố ý nhờ nàng giảng bài cho ta.

Giảng đến lần thứ năm, Đào Lệ nghi ngờ hỏi: “Đầu óc này của ngươi có thể học toán hả? Quả nhiên Thừa Phong thư viện gặp ai cũng dạy được.”

“…” Ta nhịn.

Ta nói: “Thật ra, học trò rất ngưỡng mộ tiên sinh. Năm đó, tiên sinh dũng cảm theo đuổi phu quân, chạy trốn vì tình, đúng là thể hiện tinh thần bất khuất của nữ nhân. Học trò này cũng muốn giống như tiên sinh, làm một người dũng cảm theo đuổi bản thân.”

Đào Lệ bình tĩnh nhìn ta, ta nghi ngờ nàng ta không hiểu ta đang nói gì.

Ta lại nói: “Hẳn là tiên sinh không biết, chuyện tình yêu của ngài và Thường Tề Tinh, đã sớm được người đời ca tụng… Mọi người đều muốn biết hai vị làm sao mà nên duyên.”

“Ồ.” Cuối cùng Đào Lệ cũng hiểu, nàng vẫn bình tĩnh đáp một tiếng: “Đều là lời đồn thổi, hắn không thích ta.”

Ta nghẹn họng nhìn trân trối.

Đào Lệ nói thật nhanh: “Hắn cưới ta là vì lúc đó ta đi tìm hắn, hắn sợ danh tiếng của ta bị ảnh hưởng.”

Ta trợn mắt há hốc mồm.

Đào Lệ lại nói: “Nhưng ta thích hắn.”

Ta kinh hãi đến thất sắc.

Đào Lệ hỏi: “Trông ta không giống người biết yêu sao?”

Ta câm nín, quả thật không giống.

Đào Lệ cúi đầu, suy nghĩ một lát, khẳng định nói: “Nhưng ta thật sự thích hắn.”

Ta hỏi Đào Lệ vì sao, nàng nói, vì trên đời này khó mà tìm được một người thông minh như Thường Tề Tinh và nàng.

… Được rồi.

Lần đầu tiên Đào Lệ gặp Thường Tề Tình là ở trong thư phòng của Đào Hành Như tại Quốc Tử Giám.

Tuy Quốc Tử Giám là học phủ có danh tiếng và địa vị cao nhất, thế nhưng bên trong cũng phân chia giai cấp rõ ràng, điều quyết định học trò có thể học cái gì không phải dựa vào năng lực và sở trường, mà là dòng dõi xuất thân từ nơi nào.

Quốc Tử Học, Thái Học và Tứ Môn Học, chỉ có con cháu của các gia tộc tam phẩm, ngũ phẩm và thất phẩm mới có thể học.

——

“Quốc Tử học,” “Thái học,” và “Tứ môn học” là các cơ sở giáo dục cao cấp trong hệ thống giáo dục phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là trong thời nhà Đường và nhà Tống. Dưới đây là một giải thích ngắn gọn về từng loại:

Quốc Tử học (国子学): Đây là trường học cao cấp nhất dành cho con cháu hoàng gia và các quan lại cao cấp. Quốc Tử học đào tạo những người sẽ giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình.

Thái học (太学): Là trường học dành cho con cháu của các quý tộc và quan lại cấp trung. Thái học cũng có chất lượng giáo dục cao và là nơi đào tạo những người sẽ trở thành quan chức cấp cao.

Tứ môn học (四门学): Đây là trường học dành cho các con cháu của những gia đình có phẩm hàm thấp hơn và những người bình dân có tài năng. Tứ môn học tập trung vào bốn lĩnh vực chính: kinh điển Nho giáo, luật học, thư học (thư pháp) và toán học.

——

Còn những học trò xuất thân từ bách tính chỉ có thể học Luật học, Thư học và Toán học, chuyên về các kỹ năng.

Tuy nhiên, họ vẫn có cơ hội vào triều làm quan, nhưng xuất phát điểm khác nhau, chức vụ có thể đảm nhiệm cũng cách biệt như trời với đất.

Mặc dù vậy, đối với người vừa thi đỗ vào Quốc Tử Giám, Thường Tề Tinh đầy khí thế và hoài bão, những thực tế tàn nhẫn đó là nỗi đau mà y chưa kịp biết đến.

Lúc ấy, Thường Tề Tinh có đủ vốn liếng để tự tin và kiêu ngạo——Toán học chỉ lấy 30 người từ tám phẩm trở xuống và bách tính, Thường Tề Tinh không chỉ là một trong 30 người đó mà y còn là người đứng đầu.

Thường Tề Tinh là người đầu tiên mà Đào Lệ cảm thấy hứng thú.

Lúc ấy, Đào Lệ 28 tuổi, đã đánh bại rất nhiều học trò khoa toán học, ai ai thấy nàng đều đi đường vòng.

Đào Lệ nhìn khắp Quốc Tử Giám chỉ thấy toàn là những quả bí ngô và khoai tây di động. Sau khi nàng nghe được danh tiếng của Thường Tề Tinh, đương nhiên nàng muốn thảo luận về học thuật với y.

Đào Lệ chỉ có vẻ ngoài cứng nhắc nhưng đầu óc lại nhanh nhạy, nàng mượn danh nghĩa của Đào Hành Như để gọi Thường Tề Tinh đến trước cửa thư phòng.

Bên ngoài tấm bình phong, Thường Tề Tinh cung kính đọc to: “Học trò Thường Tề Tinh xin bái kiến Tế tửu.”

Đào Lệ không nói nhiều với y, nàng hạ giọng, giả giọng nam nhân hỏi: “Nay có ao vuông một trượng, sậy mọc ở giữa ao nhô lên khỏi mặt nước một thước. Kéo sậy vào bờ, vừa khít với bờ. Hỏi: Nước sâu bao nhiêu, sậy dài bao nhiêu?”

Bên ngoài chỉ im lặng một giây, Thường Tề Tinh đã đáp: “Nước sâu một trượng hai thước, sậy dài một trượng ba thước.”

Đào Lệ rất bất ngờ, nàng không ngờ Thường Tề Tinh có thể tính toán nhanh như vậy bèn hỏi thêm: “Làm sao tính được?”

Thường Tề Tinh đáp: “Bình phương nửa cạnh ao, bình phương một thước nước nhô lên, trừ đi, lấy phần dư ra nhân hai lần nước nhô lên chia cho nó, như vậy sẽ được độ sâu của nước. Cộng thêm độ sâu của nước sẽ được độ dài của sậy.”

Đào Lệ không chịu thua, lại hỏi:

“Huyện Giáp có 1.200 người, ở sát nơi cần tới; huyện Ất có 1.550 người, đi một ngày; huyện Bính có 1.280 người, đi hai ngày; huyện Đinh có 990 người, đi ba ngày; huyện Mậu có 1.750 người, đi năm ngày. Tổng cộng năm huyện, số người đi lính hàng tháng là 1.200 người. Muốn dựa vào khoảng cách xa gần, tỷ lệ hộ khẩu, nhiều ít mà phân bổ. Hỏi: Mỗi huyện phải đưa ra nhiêu người?”

Thường Tề Tinh đối đáp lưu loát:

“Huyện Giáp 229 người. Huyện Ất 286 người. Huyện Bính 228 người. Huyện Đinh 171 người. Huyện Mậu có 286 người. Cho mỗi huyện số lính, mỗi huyện theo vị trí và số ngày đi đường mà suy ra, lấy đó làm tỷ lệ. Giáp tỷ lệ 4, Ất tỷ lệ 5, Bính tỷ lệ 4, Đinh tỷ lệ 3, Mậu tỷ lệ 5, cộng lại làm mẫu số. Lấy số người nhân với số chưa cộng, mỗi huyện lấy làm tử số. Tử số chia cho mẫu số được một. Có dư thì làm tròn lên hoặc xuống dựa theo quy tắc.”

Đào Lệ không nản lòng, tiếp tục hỏi:

“Hiện có bảy đấu thóc, ba người chia nhau để xay thành gạo thô, gạo xát và gạo rãnh, sao cho số lượng mỗi loại gạo đều bằng nhau. Hỏi mỗi người lấy bao nhiêu đấu thóc để xay thành mỗi loại gạo?”

Thường Tề Tinh khẽ cười một tiếng, nụ cười có vẻ hơi bao dung.

Y đáp:

“Gạo thô lấy 2 đấu và 10/121 đấu. Gạo xát lấy 2 đấu và 38/121 đấu. Gạo rãnh lấy 2 đấu và 73/121 đấu.”

“Dựa theo phương pháp suy phân*, ta có tỷ lệ gạo thô 30, gạo xát 27, gạo rãnh 24, đảo ngược thứ tự, đổi thành mẫu số. Ta có tỷ lệ gạo thô 1/24, gạo xát 1/27, gạo rãnh 1/30. Sau đó cộng tất cả tỷ lệ sẽ có 121/1080, đặt kết quả này làm mẫu số.”

* Suy phân (衰分): Gồm những bài toán chia tỉ lệ, quy tắc tam suất đơn và kép. Đây là 1 chương thuộc “Cửu Chương Toán Thuật” thời Đông Hán.

“Phương pháp tính như sau: lấy 7 nhân với từng số chưa cộng, mỗi kết quả các loại thóc lấy làm tử số. Tử số đó sẽ chia cho mẫu số được một đấu gạo từng loại.”

“Nếu muốn biết sau khi gia công được bao nhiêu đấu gạo. Lấy gạo rãnh với tỷ lệ 30 làm ví dụ, ta lấy tỷ lệ nhân với số kết quả đấu gạo đã tính lúc nãy được 7560/121. Dùng kết quả làm tử, thóc có tỷ lệ 50 làm mẫu, ta được 1 đấu và 151/605 đấu.”

Đào Lệ gật đầu, thành thật khen ngợi: “Có chút bản lĩnh.”

Bên ngoài tấm bình phong, Thường Tề Tinh không nhịn được, y bật cười thành tiếng.

Đào Lệ lúc này mới phản ứng lại, lúc nãy nàng hỏi quá vội vàng, khen ngợi cũng quá thật lòng lại quên mất việc bóp giọng.

Thường Tề Tinh cười nói: “Cô nương, đây là thư phòng của Tế tửu đại nhân, nếu bị phát hiện thì nàng sẽ bị phạt. Tận dụng lúc chưa có ai, nàng mau đi đi.”

Đào Lệ nghiêng đầu suy nghĩ, nàng bị phát hiện tại sao phải bị phạt?

Thường Tề Tinh đợi ở bên ngoài một lúc, thấy nàng không phản ứng lại tốt bụng nói: “Nàng yên tâm, ta sẽ quay lưng lại, tuyệt đối không nhìn.”

Đào Lệ càng thêm không hiểu, nàng bước ra khỏi tấm bình phong với vẻ chân thành, thậm chí còn đi thẳng đến trước mặt Thường Tề Tinh.

Đào Lệ hỏi: “Vì sao ngươi không nhìn ta?”

Thường Tề Tinh ngây người.

Đào Lệ đợi mãi không thấy Thường Tề Tinh trả lời, câu trả lời này chắc chắn không khó hơn toán học đâu.

Trước khi nhập học, y đã nghe ngóng tin tức và biết rằng Đào Hành Như có một nữ nhi si mê toán học.

Thông qua những cuộc đối đáp vừa rồi, trên cơ bản y đã xác định được thân phận của Đào Lệ.

Ban đầu y nghĩ rằng vị tiểu thư này lại phát bệnh, nam nữ thụ thụ bất thân, y định giả vờ không biết để nàng ấy rời đi.

Không ngờ nàng ấy lại chẳng quan tâm gì mà lại tiến thẳng đến trước mặt y, không hề giữ chút dáng vẻ e thẹn của một cô nương.

Đào Lệ tò mò lại tiến lại gần, quan sát Thường Tề Tinh từ gần, Thường Tề Tinh lại hoảng hốt lùi lại một bước, tỏ vẻ hoảng sợ.

Đào Lệ kỳ lạ nhìn nhìn, sờ sờ chính mình:

Váy màu hồng đào, tóc cũng búi gọn gàng, mặt cũng không dính mực, chắc chắn không đáng sợ, không biết Thường Tề Tinh sợ cái gì.

Nàng lại nhìn thấy diện mạo của Thường Tề Tinh, mi thanh mục tú, thần sắc phong nhã, quả thật so với những quả bí ngô và cà tím béo mập trong vườn thì sạch sẽ hơn nhiều.

“Bắp cải.” Đào Lệ lẩm bẩm.

Thường Tề Tinh ngẩn ngơ, “Cái gì?”

Đào Lệ tốt bụng giải thích: “Ngươi giống như một cây bắp cải.”

Thường Tề Tinh: “…”

Được rồi, nghe có vẻ không phải là lời mắng chửi.

Đào Hành Như xuất hiện, quát một tiếng trầm thấp “Con lại quậy gì nữa!”, Thường Tề Tinh lập tức phản ứng lại, y xoay người khom lưng ôm quyền, liên tục tự kiểm điểm.

“Học trò thất lễ, xin bái kiến Tế tửu đại nhân.”

Đào Hành Như mặc quan phục có tay áo rộng, ngón cái đeo một chiếc nhẫn ngọc cực kỳ quý giá, trông rất nghiêm nghị lạnh lùng.

Ông nhìn Thường Tề Tinh từ trên xuống dưới, ánh mắt đương nhiên không thể nói là nhân từ, toàn là sự khắt khe, cay nghiệt.

Loại ánh mắt này, Đào Lệ đã gặp nhiều rồi. Mỗi khi Quốc Tử Giám có học trò mới, Đào Hành Như đều đánh giá họ như vậy, giống như một con…

“Tỳ hưu.”

Đào Lệ suy nghĩ như tính toán, nghĩ gì thì nói ra.

Trên mặt nghiêm khắc của Đào Hành Như xuất hiện một vết nứt, ông ta gần như bất lực nhìn nữ nhi của mình, cũng không nói được lời trách móc nặng nề nào.

Chỉ có thể sờ râu, ngoài cứng trong mềm nói nhỏ: “Lễ nghi của con đâu?”

Đào Lệ cung kính hành lễ, giống như con rối, động tác chuẩn xác nhưng không có chút tình cảm nào. Nàng nói: “Phụ thân.”

Đào Hành Như thở dài, rõ ràng là ông không có cách nào với nữ nhi này.

Trong suốt quá trình đó, Đào Hành Như để mặc Thường Tề Tinh cúi người, không hề có ý định nói chuyện với y.

Thường Tề Tinh rất nhanh đã lưng mỏi gối đau, nhưng trước khi được cho phép, hắn vẫn phải nhẫn nhịn, tránh mất lễ nghi.

Đào Lệ thấy hắn run run, dáng vẻ yếu đuối, tốt bụng nhắc nhở: “Ông ấy đang đợi ngươi dâng lễ.”

Thường Tề Tinh: “…”

Đào Hành Như: “…”

Thường Tề Tinh rất nhanh đã phản ứng lại, y lấy từ túi gấm ở eo một chiếc ngọc bội.

Đào Lệ nhìn hắn cẩn thận làm động tác đó, nàng biết ngọc bội này vô cùng quý giá.

Trong một khoảnh khắc thoáng qua, Đào Lệ bắt gặp một tia bất mãn và tức giận trong ánh mắt của y.

Có lẽ y nghĩ rằng Quốc Tử Giám là nơi thoát tục, sẽ không có mùi rượu thịt, nhưng không ngờ, vừa đến đã bị Tế tửu đại nhân đòi hỏi.

Thường Tề Tinh khẽ nói: “Đây là món quà gia mẫu tặng lúc chia tay, đây là ngọc bội truyền đời của nhà học trò, học trò thành tâm hiến tặng, mong Tế tửu đại nhân chớ ghét bỏ.”

Đào Hành Như lạnh lùng liếc nhìn món đồ trong tay Thường Tề Tinh, hừ nhẹ một tiếng: “Ngươi cho rằng Quốc Tử Giám là nơi nào? Cất đi.”

Thường Tề Tinh âm thầm nắm chặt nắm đấm.

Đào Hành Như vẫy tay, Thường Tề Tinh được cho phép mới thẳng lưng lên nhưng vẫn vô cùng trân trọng cất chiếc ngọc bội đi.

Đào Hành Như dùng ánh mắt kiêu ngạo nhìn kỹ khuôn mặt hắn, nàng hỏi: “Ngươi chính là người đứng đầu khoa Toán học?”

“Đúng vậy.”

“Tại sao học Toán học?”

Thường Tề Tinh không suy nghĩ mà đáp: “Để làm quan.”

Đào Hành Như cười nhạt, nói: “Không biết trời cao đất rộng.”

Thường Tề Tinh không nói gì, cũng không phản bác.

Đào Hành Như quay đầu hỏi Đào Lệ: “Con lại bày trò gì nữa?”

Đào Lệ trả lời: “Nghe nói hắn giỏi nên con đến thử hắn.”

Đào Hành Như hỏi: “Thử như thế nào?”

Đào Lệ: “Toán học không tồi, tâm địa không trong sáng, khó thành danh.”

Thường Tề Tinh ngạc nhiên nhìn nàng, có lẽ không ngờ nàng thẳng thắn như vậy, cũng không ngờ nàng cay nghiệt như vậy.

Nhưng Đào Lệ vốn không quan tâm đến những điều đó, nàng rất thành thật tiếp tục nói: “Tuy nhiên, hắn chỉ biết cái trước mắt, ngược lại có vẻ hợp với người tham lam hư vinh như phụ thân.”

Đào Hành Như hơi nheo mắt, sắc mặt u ám, không thể nhìn ra vui buồn.

Đào Lệ dường như hoàn toàn không nhận thức được mình đã xúc phạm phụ thân, nàng khom người hành lễ với Đào Hành Như, rồi cứ thế đi.

Đào Hành Như vung vung tay áo, cũng quay người vào trong, hoàn toàn để mặc Thường Tề Tinh cứ như vậy mà ăn bế môn canh.

Thường Tề Tinh bị bỏ còn một mình, trên mặt đầy vẻ khó xử nhưng cuối cùng cũng không ai quan tâm.

Nhìn những học sinh tài năng, xuất thân hiển hách của Quốc Tử Giám, y vốn là người vô danh tiểu tốt, thất bại và đáng thương nhất.

Tâm trạng Thường Tề Tinh không khỏi buồn bã, lúc y trở về mới phát hiện trong phòng của y còn có bốn người vô danh tiểu tốt không khác gì mình: Trang Côn, Hồ Càn, Trần Tế Đường, Đổng Xuân Lai.

Họ đều xuất thân hàn vi, nhiều đời là dân thường, đã vậy họ còn bị Đào Hành Như gây khó dễ khi mới vào cửa.

Trang Côn, Đổng Xuân Lai có chút gia sản, lễ vật dâng lên khá hậu hĩnh, Đào Hành Như không cự tuyệt mà nhận luôn.

Thường Tề Tinh lúc này mới phản ứng lại, Đào Hành Như không nhận ngọc bội của hắn là vì chê hắn nghèo.

Năm người tụ lại, tức giận mắng Đào Hành Như và thế đạo bất công, rất nhanh cả năm đã trở thành hảo hữu thề ước với nhau: Không thể sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày, nhưng nguyện chet cùng năm cùng tháng cùng ngày.

Chỉ là không ngờ, bây giờ còn lại mỗi Thường Tề Tinh.

Ta lại hỏi Đào Lệ, vì sao nàng lại cảm thấy Thường Tề Tinh không thích nàng?

Đào Lệ nói: “Phụ thân ta cướp đi công danh của hắn. Nam nhân coi trọng cái này nhất, phụ thân ta làm vậy giống như giết phụ mẫu hắn, là kẻ thù của hắn.”

Nàng dừng lại rồi nói: “Phụ thân ta là tham quan.”

Năm đó thi cử, Thường Tề Tinh rõ ràng đỗ đạt, đứng đầu danh sách, chiếu theo thành tích hoàn toàn có khả năng đi Thái Sử Cục.

Nhưng Đào Hành Như đã cản y, bởi vì học trò hạng nhì đó gia cảnh giàu có, hắn đã đưa cho Đào Hành Như không ít bạc để lo lót thay thế vị trí của Thường Tề Tinh.

Đào Hành Như tham ô, gần như có thể nói là đã tước đoạt hết hy vọng của Thường Tề Tinh trong cuộc đời.

Thái Sử Cục là nơi gần quyền lực Hoàng đế nhất, đó cũng là cơ hội tốt nhất để xoay chuyển số phận.

Còn Lương Đạo Sứ* hoàn toàn là chức quan khổ sai, huống chi Thường Tề Tinh còn bị phái làm Lương Đạo Sứ của Bính Châu, nơi ấy hạn hán triền miên, khắp nơi đều là người chết đói.

* Lương Đạo Sứ (粮道使) là chức quan chịu trách nhiệm quản lý và điều phối lương thực trong một khu vực nhất định. Chức quan này có nhiệm vụ đảm bảo việc thu hoạch, lưu trữ, vận chuyển và phân phối lương thực để đáp ứng nhu cầu của quân đội, chính quyền và dân chúng.

Cho nên, dù Thường Tề Tinh có tình cảm với Đào Lệ nhưng ngăn cách giữa hai người là lý tưởng và tương lai bị phá hủy của y, khiến cho y không thể đối mặt với Đào Lệ một cách bình thường.

“Nhưng oan uổng quá!”

Ta khuyên Đào Lệ: “Không thể vì chuyện xưa mà không sống tiếp được? Huống chi phụ thân ngài đã mất lâu rồi, chi bằng ngài chủ động một chút? Thậm chí đá cũng có thể ủ ấm được mà! Học trò thấy Thường Tề Tinh rất chiều chuộng ngài.”

Đào Lệ im lặng, dường như đang suy nghĩ những lời ta nói.

Nàng đột nhiên nói: “Năm đó tại tang lễ của phụ thân ta, nhiều học sinh hàn vi tụ tập ở cửa Quốc Tử Giám, đánh chiêng, bắn pháo, uống rượu say sưa, ăn uống no say, họ vui vẻ như ngày Tết.”

Nàng dừng lại, lại nói: “Ngươi nói trong số những người đó, có Thường Tề Tinh không?”

Ta giật mình, cảm thấy có thứ gì đó trong màn sương mù trở nên rõ ràng hơn.
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 12


Ta và Tằng Tri Hứa đến Sử Quán mượn được hồ sơ của năm Thuận Thiên thứ mười tám, tức là năm năm trước.

Sử quan ghi chép rằng, Quốc tử giám Tể tửu Đào Hành Như qua đời vì bệnh tim đập nhanh. Tại lễ tang của ông, rất nhiều quan to trong triều đều đến, nước mắt nước mũi tung hoành, tranh nhau truy niệm Đào Hành Như.

Nhưng cuộc náo loạn do các học trò xuất thân hàn môn gây ra thì lại không được ghi chép trong hồ sơ, cứ như thể nó chưa từng xảy ra.

Ta hỏi Tằng Tri Hứa vì sao lại như vậy, hắn nói rằng loại chuyện này nếu truyền ra ngoài chắc chắn sẽ làm các quan lại mất lại, tự nhiên sẽ có người âm thầm che giấu sự việc.

Dù sao việc thay đổi triều đại là chuyện trăm năm, đến lúc đó mọi người đều hóa thành tro bụi, làm gì còn ai nhớ rõ mấy chuyện ân oán tình thù.

Không ai nhớ đến, tức là không tồn tại.

Nhưng Đào Lệ nhớ.

Thực ra cũng không phải nàng nhớ, vào lúc đó nàng đã đuổi theo Thường Tề Tinh đến Biện Châu rồi, do gia nhân trong nhà kể lại cho nàng.

Đêm đó, có người mắng Đào Hành Như khi làm Tế tửu vừa phù phiếm tham tiền lại vừa dựa dẫm quyền quý.

Họ nói ông chỉ qua lại với các học trò của Quốc tử học và Thái học.

Những học trò thuộc khoa Luật học, Thư học và Toán học, dù họ có là thiên tài xuất chúng, ngàn dặm có một cũng bị ông khinh miệt vì thân phận thường dân.

Một kẻ sâu mọt của Quốc tử giám như thế cuối cũng đã chết, thật là một chuyện thiên đại hỷ sự, đương nhiên đáng để đốt pháo.

Nhưng cũng có người đứng ra chỉ trích các đại thần có mặt trong tang lễ, họ nói rằng trong số những người ở đây, có không ít người được Đào Hành Như tự tay tiến cử.

Thay vì đến linh đường của ông làm hiếu tử, chi bằng đến âm phủ trực tiếp tìm Đào Hành Như luôn cho rồi.

Tóm lại, họ nói những lời cay nghiệt nhất như sợ Đào Hành Như không bật dậy từ trong quan tài.

Quả là thiếu đạo đức khi tới linh đường của lão sư* mà đốt pháo mừng, chắc chắn bọn họ đều bị Đào Hành Như chèn ép mất đi tiền đồ, vì vậy mà hận ông ta đến tận xương tủy.

* Lão sư: Ông thầy già đáng kính, tiếng gọi tôn-kính thầy mình hay thầy người.Nguồn tham khảo: Từ điển – Lê Văn Đức

Vấn đề của Đào Lệ nhắc nhở ta.

Nếu lúc đó Thường Tề Tinh đang ở Biện Châu cùng nàng ta, thì tại sao nàng lại hỏi Thường Tề Tinh có mặt tại lễ tang của Đào Hành Như không?

Trừ phi, trong màn kịch đó, Thường Tề Tinh cùng năm người kia cũng tham gia.

Tuy nhiên, khi Tăng Tri Hứa kiểm tra hồ sơ của Thường Tề Tinh, hắn phát hiện từ khi Thường Tề Tinh đến Biện Châu cho đến khi bị điều trở lại, không có ghi chép nào về việc hắn quay về kinh thành.

Hồ sơ công vụ của bốn người còn lại cũng tương tự, chứng minh rằng ngày diễn ra lễ tang, họ không có thời gian xuất hiện tại hiện trường.

Điều này thật kỳ lạ, năm người vốn dĩ căm ghét Đào Hành Như cuối cùng lại không xuất hiện tại đại hội lên án ông ta.

Chúng ta còn phát hiện, năm đó, Hồ Càn và Trần Tế Đường có trải qua tình cảnh giống Thường Tề Tinh, hai người đều bị điều đến nơi mà quỷ không ị phân, chim không đẻ trứng.

Trang Côn và Đổng Xuân Lai thì khôn ngoan hơn, biết tốn tiền chạy chọt, cuối cùng được ở lại kinh thành.

Tằng Tri Hứa tìm được sổ sách chạy chọt của những người đó và chức vị hiện tại của họ tương xứng với số tiền đã chi ra.

Cũng không có gì lạ, trong năm người, chỉ có Thường Tề Tinh vẫn là một tiểu quan vô danh.

Tằng Tri Hứa quyết định đi dự tang lễ của Trang Côn.

Lúc này, có lẽ chỉ còn Trang Côn, người sắp qua đầu thất* là manh mối duy nhất của chúng ta.

* Đầu thất: hay còn gọi là cúng thất, cúng bảy ngày sau khi người đó mất

Tuy nhiên có một điều ta không ngờ tới, không biết có phải Đào Lệ nghe theo đề nghị của ta hay không mà nàng ta thật sự chủ động tiếp cận Thường Tề Tinh.

——Nàng chủ động cùng Thường Tề Tinh đến dự tang lễ của Trang Côn.

Thường Tề Tinh ngạc nhiên trước đề nghị của Đào Lệ nhưng không từ chối, y cẩn thận đỡ nàng lên xe ngựa——chính là chiếc xe mà năm đó Đào Lệ cướp từ cổng Quốc tử giám để đuổi theo.

Y đánh xe vững vàng bảo vệ phu nhân của mình trên cả quãng đường.

Nếu không biết rõ cách họ đối xử với nhau khi ở riêng, ai nhìn vào cũng sẽ khen ngợi họ như đôi phu thê cử án tề mi.

Trong tang lễ, các thê thiếp của Trang Côn quỳ bên cạnh khóc lóc thảm thiết thật đáng thương.

Các đồng liêu trên triều đình khóc thương vài tiếng rồi lại than thở vài câu tuổi xuân mất sớm, trời không cho trường mệnh trước linh vị của hắn, sau đó bắt đầu trò chuyện xã giao trong tang lễ——Không phải trao đổi về hướng đi của đối thủ, thì cũng là chia sẻ những thông tin về các con mồi béo bở có thể khai thác.

Thường Tề Tinh cùng Đào Lệ yên lặng dâng hương, lễ nghĩa chu toàn rồi lùi ra một bên, toàn bộ quá trình đều không ai để ý, không người hỏi han.

Dù sao Thường Tề Tinh chỉ là một tiểu quan, tiền tháng nhận được cũng ít ỏi nhất, công vụ trong người lại cực nhọc nhất.

Trong triều không có ai chống lưng cho y, càng không có gì gọi là vận làm quan hanh thông*.

* Hanh thông: “Thông” đặt ngay sau “hanh” có nghĩa tích cực là làm việc gì cũng thuận lợi, may mắn, làm đến đâu tốt đến đó, không gặp phải bất kỳ khó khăn hay chướng ngại nào.

Dù nữ nhi của Tế tửu có gả cho y, dù nhiều quan lớn có mặt ở đây đều là học trò cùng khóa với y, dù tài học của y vượt xa họ.

Huống chi, Tế tửu Quốc tử giám đã thay người từ lâu, thân phận nữ nhi Tế tửu của Đào Lệ e rằng cũng không còn giá trị.

Đào Lệ đương nhiên không quan tâm những điều đó, có lẽ nàng thật sự ghi nhớ lời dạy của ta, lúc nào cũng nghĩ đến việc chủ động với Thường Tề Tinh.

Vì vậy, Đào Lệ quan tâm hỏi: “Ngươi có buồn không?”

Thường Tề Tinh có chút ngạc nhiên nhìn Đào Lệ, nàng nghiêm túc nói: “Nếu ngươi buồn thì ta có thể ôm ngươi.”

Thường Tề Tinh cười khổ, y lắc đầu, lại mỉm cười với Đào Lệ.

Đào Lệ thấy kỳ lạ, nàng hỏi: “Không buồn sao? Không phải ngươi và hắn là bằng hữu tốt nhất sao?”

Thường Tề Tinh thản nhiên nói: “Tưởng niệm trong lòng là đủ.”

Đào Lệ ồ một tiếng, không giấu được tiếc nuối nói: “Vậy thì không thể ôm rồi.”

Thường Tề Tinh ngây người, y đờ đẫn nhìn Đào Lệ, đôi tai từ từ đỏ lên.

Đào Lệ không để ý đến sự thay đổi của Thường Tề Tinh, lại nói: “Nói đến đây, khi các bằng hữu cùng phòng của ngươi chet, ngươi cũng như vậy.”

Thường Tề Tinh ừ một tiếng.

Đào Lệ tiếp tục câu chuyện: “Khi phụ thân ta chet, ngươi lại không vậy, ngươi rất vui mừng.”

Thường Tề Tinh ngay lập tức cứng đờ.

Đào Lệ nói: “Lúc đó chúng ta còn ở Biện Châu, khi ta nhận được thư nhà nói phụ thân mất, lòng ta rất đau buồn.

“Ông là tham quan, còn hại tiền đồ của ngươi. Dù ngươi có hận ông ấy, ta có thể hiểu. Mẫu thân ta mất sớm, tuy ông giao toàn bộ việc chăm sóc ta cho nhũ mẫu nhưng ông cũng không đối xử tệ với ta.”

Thường Tề Tinh khẽ run rẩy.

Đào Lệ dường như đã mở được lòng, nàng càng nói càng hăng.

“Những năm qua, mỗi khi đến ngày giỗ của phụ thân, ngươi đều viện cớ ra ngoài mà không ở nhà. Ta biết, ngươi không muốn đến thăm ông cũng không sao cả.”

“Nếu ta là ngươi, vốn có thể với tay hái sao, lại bị ông đàn áp, ta cũng sẽ tức giận. Nhưng, ngươi có thể cho ta biết, ngươi còn định tức giận bao lâu nữa?”

Thường Tề Tinh nắm chặt tay, y mở miệng lắp bắp nửa ngày nhưng không nói được lời nào.

Đào Lệ nói tiếp: “Ta luôn nghĩ, ngày tháng phía trước còn dài, ta và ngươi cũng không thể mãi như thế này. Ta phải làm gì mới có thể bù đắp những thiếu sót của phụ thân ta đối với ngươi ….”

“Đừng nói nữa!”

Thường Tề Tinh hét lên, tiếng hét như tiếng sấm, lập tức át đi mọi tiếng ồn, thu hút sự chú ý của tất cả mọi người có mặt.

Đào Lệ ngơ ngác nhìn Thường Tề Tinh, thấy khuôn mặt y đỏ bừng, toàn thân run rẩy, dáng vẻ tức giận đến mức không thể kiềm chế.

Thường Tề Tinh lẩm bẩm, giống như cầu xin: “Đừng nói nữa…”

Đào Lệ cúi đầu, nàng khẽ nói: “Được.”

Vị đại quan lớn nhất trong toàn bộ buổi lễ, là Tư lễ đại nhân, có lẽ cho rằng tiếng hét của Thường Tề Tinh rất bất kính, vừa định tiến lên dạy dỗ, thì bên ngoài đột nhiên vang lên tiếng trống gõ vang dội.

Cổng bị một đội trống kèn chặn lại, tất cả đều mặc áo đỏ, buộc nơ đỏ, kèn loa thổi vang trời, cảnh tượng vô cùng náo nhiệt.

Những đứa trẻ nhà gần đó không biết chuyện gì xảy ra, còn tưởng là ai đón dâu nên đòi kẹo mừng.

Cái đèn lồng trắng viết chữ “Tế” treo trước cửa Trang phủ, có lẽ nó bị không khí vui mừng nhiệt làm cho giật mình mà “phịch” một tiếng rơi xuống đất.

Tư lễ là người đứng dậy đầu tiên, bộ râu dê rung rung, hét lên bằng giọng khàn khàn: “Ai cho các ngươi đến! Không biết ở đây làm tang lễ sao? Thật là bát nháo! Xúc phạm lễ nghi!”

Câu trả lời của bọn họ là một chuỗi pháo nổ tung đến chân ông ta, nổ “rầm rầm”, lửa bay tung tóe làm cho Tư lễ đại nhân sợ đến nỗi tè ra quần, râu cũng bị cháy mất một nửa.

May mắn là có hai gã sai vặt đỡ được, ông ta mới có thể đứng vững.

Thường Tề Tinh vội vàng nghiêng người, bảo vệ Đào Lệ, tránh cho nàng bị pháo nổ văng trúng người.

Khói mù từ pháo tan đi, người đốt pháo cũng đã biến mất.

Tư lễ đại nhân bị mất mặt, tức giận đá loạn xạ, không cẩn thận lại đạp thẳng vào chân Thường Tề Tinh đang đứng sau lưng ông ta.

Thường Tề Tinh bị đau r*n r* một tiếng, người rung lên, nhưng vẫn giữ thẳng lưng, không lộ vẻ sợ hãi.

Nhưng Đào Lệ lại nhíu mày.

Tư lễ thấy mình đá nhầm người, vốn còn hơi lo lắng sợ đắc tội với vị đại quan nào đó, kết quả vừa nhìn thấy Thường Tề Tinh một thân áo tiểu quan, ông ta lập tức nhíu mày không vui.

“Tiểu quan này ở đâu ra, dám vượt qua những vị đại nhân để đứng bên cạnh bản quan sao? Người nãy giờ gào rú như quỷ là ngươi hả?”

Thường Tề Tinh hơi cúi người nói: “Hạ quan bất kính, xin đại nhân thứ tội.”

Tư lễ nheo mắt nhìn Thường Tề Tinh một lúc, ông ta nhìn sang Đào Lệ luôn đứng bên cạnh y đang trừng đôi mắt hạnh, ông ta bỗng nhiên cười nói: “A! Có phải là Đào tiểu thư năm đó bỏ nhà đi? Thật không ngờ, ta có thể gặp được nhân vật trong truyền thuyết ở đây.”

Thường Tề Tinh cau mày, y không nói gì mà chỉ bước lên một bước, chắn trước mặt Đào Lệ, che chắn cho nàng khỏi những ánh mắt không thiện ý đó.

Tư lễ lắc đầu, vẻ mặt tiếc nuối nói: “Đào tiểu thư, ngươi có biết năm đó bao nhiêu người muốn làm phu tế của Đào công không vậy? Sao lại chọn một kẻ áo trắng bần hàn như vậy? Tiếc thay, Đào Hành Như cả đời chỉ biết giả vờ giả vịt, sinh ra nữ nhi lại nổi loạn phóng túng……. Ợ.”

Tư lễ còn chưa nói hết, Thường Tề Tinh bỗng nhiên bước lên một bước.

Trong lúc mọi người chưa kịp phản ứng, y co năm ngón tay, chính xác không sai một li, khóa chặt cổ Tư lễ, đập mạnh ông ta vào tường.

Đôi mắt y lóe lên ánh sáng lạnh lẽo, biểu cảm lạnh lùng vô tình.

Thường Tề Tinh dần dần dùng sức, giống như lưỡi dao cùn mài thịt, làm cho Tư lễ trợn tròn mắt khó thở.

Đào Lệ cũng ngây người, nàng chưa từng thấy Thường Tề Tinh như vậy, y tàn nhẫn như một người khác.

Thường Tề Tinh không cho phép phản bác: “Xin lỗi phu nhân của ta.”

Tư lễ run run: “Ta, ta phải tố cáo ngươi, ta phải trị tội ngươi…”

Trên mặt Thường Tề Tinh chỉ còn lại sự tàn nhẫn và cố chấp, y bình tĩnh nói: “Tốt nhất đại nhân có thể giải quyết ta trong một lần, đảm bảo ta không thể đầu thai. Nếu không, ta có xuống âm phủ cũng sẽ tìm đại nhân làm đệm lưng cho ta.”

Hai chân Tư lễ mềm nhũn không ngừng run rẩy.

Nhưng Đào Lệ càng nghe càng hoảng, nàng sợ Thường Tề Tinh thực sự bị thù hận che mờ lý trí mà đi xuống âm tào địa phủ.

Đào Lệ đưa tay ra giữ chặt Thường Tề Tinh.

Nàng không biết lúc này mình lộ ra biểu cảm gì, chỉ thấy Thường Tề Tinh khi đối mặt với ánh mắt của nàng, y hơi sửng sốt, tất cả những biểu cảm đáng sợ trên mặt y trong nháy mắt biến mất, thậm chí còn trở nên cẩn thận.

Thường Tề Tinh vội vàng buông tay, giấu bàn tay giống như móng vuốt vào trong tay áo.

Tư lễ đại nhân thì thoát lực, ngồi bệt xuống đất.

Thường Tề Tinh dịu dàng vỗ tay Đào Lệ, nhẹ nhàng nói với giọng điệu ấm áp: “Không sao rồi…”

Nói xong, Thường Tề Tinh còn nở một nụ cười.

Đây có lẽ là nụ cười hiếm hoi của y, từ lông mày đến khóe mắt, đều như băng tuyết tan chảy, vạn vật hồi sinh, từ từ mở ra.

Đào Lệ ngơ ngác nhìn y, lại cảm thấy Thường Tề Tinh trước mặt và Thường Tề Tinh lúc nãy không phải là một người.

Thường Tề Tinh nói: “Chúng ta về nhà thôi.”

Thường Tề Tinh muốn nắm tay Đào Lệ rời đi, Đào Lệ suy nghĩ một chút, nhưng lại lắc đầu rồi đi đến chỗ Tư lễ đang ngồi bệt trên đất, mặt nàng tái nhợt quỳ xuống.

Đào Lệ một thân áo trắng, không trang dung, gương mặt như băng giá, mắt như vực thẳm, vẻ ngoài còn tàn nhẫn hơn Thường Tề Tinh, Tư lễ run rẩy như con chó con bị ngã xuống nước.

Đào Lệ nói: “Tư lễ đại nhân đúng không? Khi phụ thân ta còn sống đã để lại năm trăm lượng vàng cho ngươi.”

Tư lễ vừa nghe đến đây, lưng không còn đau, chân không còn mỏi, hai mắt ông ta sáng lên, vội vàng truy hỏi: “Thật sao?”

Đào Lệ không thay đổi sắc mặt nói tiếp: “Bảo đảm thật, nhưng ông ta nói, ngươi chỉ là 250.”

* 250 (二百五) thường dùng để chỉ một người ngu ngốc hoặc thiếu suy nghĩ. Đây là một cách nói lóng có tính châm biếm, không mấy lịch sự.

Tư lễ chưa hiểu, lẩm bẩm lặp lại: “Ta là 250? Là sao?”

Những người đã hiểu ra không nhịn được, “phụt” một tiếng cười.

Đào Lệ lúc này mới thong thả đứng dậy, đưa tay cho Thường Tề Tinh, để y nắm tay nàng rời đi.

Toàn bộ sự việc chỉ còn lại Tư lễ đại nhân sau khi tỉnh ngộ thì tức giận vô cớ, chửi rủa với không khí: “Tiểu tiện nhân ngỗ nghịch, làm việc trái luân thường đạo lý, bảo sao chuyện gì cũng làm được!”
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 13


Không lâu sau đó, Tằng Tri Hứa đã tìm ra người bắn pháo trong tang lễ của Trang Côn.

Đó là một vài ngự trù bị Trang Côn bóc lột nhiều năm, họ hận Trang Côn đến tận xương tủy nên đã bàn bạc rồi đến trước linh đường bắn pháo để xả giận.

Thế nhưng tất cả đều phủ nhận mình là hung thủ giet Trang Côn, để chứng minh sự trong sạch, họ còn kể thêm chuyện bắn pháo trước linh đường do chính Trang Côn nói lúc trước.

Hóa ra, trong lễ tang của Hồ Càn, Trần Tế Đường và Đổng Xuân Lai cũng đều có người gõ chiêng trống, bắn pháo ăn mừng trước cổng.

Những người bắn pháo này sau đó cũng bị tìm ra, đa phần đều là những khổ chủ bị ba người này hãm hại khi còn làm quan.

Người nhà của ba người đó thấy đây không phải là chuyện vinh quang gì nên chưa từng lan truyền ra ngoài.

Nghe có vẻ giống hệt lúc Đào Hành Như chết.

Nguyên nhân cái chet của Trang Côn mới đây đã được điều tra rõ, chết vì bệnh tim, không có gì đáng nghi, y như cái chet của Đào Hành Như.

Tiếp tục điều tra, ta phát hiện ra cái chet của Hồ Càn và những người khác thực ra rất có điều đáng ngờ:

Hồ Càn bị ngã ngựa, chết ngoài ý muốn.

Trần Tế Đường vì uống quá nhiều rượu mà té cuống sông đào bảo vệ quanh thành, chet chìm ngoài ý muốn

Đổng Xuân Lai, người rất thích tìm hoa vấn liễu, chết một cách thảm hại nhất, chet vì “thượng mã phong” trong kỹ viện.

Những người này đều đang ở tuổi tráng niên, ngay cả Đào Hành Như năm năm trước cũng chưa đến tuổi biết mệnh trời, sao có thể đột ngột chet như vậy?

Rõ ràng, nguyên nhân cái chết của họ có vấn đề.

Có người mưu sát bọn họ và nguỵ tạo cái chet thành ngoài ý muốn.

Và tất cả những điều này, có lẽ bắt đầu từ Đào Hành Như.

Liên tưởng đến lời của Đào Lệ trong lễ tang của Trang Côn và thái độ lạnh lùng của Thường Tề Tinh, Tăng Tri Hứa nhanh chóng tập trung vào một người—Thường Tề Tinh, người vẫn còn sống đến nay.

Nhưng Thường Tề Tinh có thù với Đào Hành Như thì còn có thể hiểu được, còn với bốn người kia không phải là bằng hữu của y sao? Tại sao lại muốn giet họ?

Hơn nữa, ta đã tra qua các ghi chép làm việc của Thường Tề Tinh trong hai năm qua, lúc bốn người kia chet, y đều có chứng cứ ngoại phạm.

Đúng lúc này, ta nhớ lại lời của Tư Lễ mắng Đào Lệ.

Người trái với luân thường đạo lý, chuyện gì cũng làm được.

Trong đầu ta đột nhiên hiện ra một giả thuyết táo bạo, nếu các vụ án của Đào Hành Như và Trang Côn cùng bốn người khác không phải do một hung thủ gây ra thì sao?

Năm đó, Thường Tề Tinh và bốn người kia vì thù riêng mà giet Đào Hành Như và làm cho cái chet của ông ta trông như là tai nạn, còn xúi giục những người xuất thân hàn môn trong trường đến lễ tang của Đào Hành Như, làm nhục người chet.

Một ngày nào đó, Đào Lệ, người đầu gối tay ấp với Thường Tề Tinh, phát hiện ra bí mật của họ, nàng chọn cách dùng cùng một phương pháp để báo thù cho phụ thân mình.

Ta và Tằng Tri Hứa thực sự chỉ có thể tìm thấy chứng cứ ngoại phạm của Thường Tề Tinh, nhưng không tìm thấy của Đào Lệ.

Nếu hung thủ thực sự là Đào Lệ thì đoạn hôn nhân thất bại của nàng ta và Thường Tề Tinh, một mối quan hệ mà cả hai đều dày vò lẫn nhau nhưng không chịu hoà ly, dường như có thể tìm được một lời giải thích hợp lý.

Khi ta gõ cửa nhà Đào Lệ một lần nữa, nàng ta đang nấu ăn.

Mấy ngày không gặp, nàng ta đột nhiên hứng chí, bỏ cuốn sách toán yêu quý sang một bên, nàng đi theo đại nương nhà kế học nấu cơm nhà.

Đôi tay quen cầm bút giờ đây cũng có thể cầm dao nhỏ, dùng bí đao để khắc hoa tăng thêm thú vui cuộc sống.

Ta hỏi nàng không phải không có hứng thú với nấu ăn sao?

Đào Lệ khắc hoa rất tập trung, đợi đến khi hoàn thành, mới nhạt nhẽo đáp lời ta, con người luôn thay đổi.

Nhìn Đào Lệ, nhìn dáng vẻ tỉ mỉ nghiêm túc của nàng, ta khó mà nói rõ nàng đó có phải là một kẻ cuồng yêu hay không.

Nhân lúc Đào Lệ đang nấu ăn ở nhà, ta đi dạo quanh nhà hai người họ nhằm tìm kiếm chút manh mối.

Rất nhanh ta phát hiện ra một điểm kỳ lạ, trong nhà Đào Lệ và Thường Tề Tinh không có nghiên mực, họ dùng bát để mài mực.

Đào Lệ đã nấu xong bữa nhưng nàng lại nói với ta hôm nay không phải ngày Thường Tề Tinh nghỉ, hắn không về nhà.

Ý nàng là dùng thái độ nhiệt tình độc đáo của mình giữ ta ở lại dùng bữa, không, đúng hơn là thử độc.

Nhưng thật bất ngờ, món ăn của Đào Lệ nấu rất ngon, quả không hổ danh là người có khả năng học hỏi tuyệt vời.

Ta dùng việc nấu ăn làm mồi, bắt đầu gợi chuyện: “Khả năng nấu nướng này của tiên sinh có thể đi làm đầu bếp rồi, hồi nhỏ ngàu thật sự chưa từng học qua sao?”

Đào Lệ đáp: “Khi ta còn nhỏ đều do phụ thân nấu, tay nghề của ông rất tốt, chắc là thấm nhuần dần mà thôi.”

Ta thuận thế hỏi: “Tiên sinh không kịp gặp mặt Đào đại nhân lần cuối, chắc là rất đau buồn?”

Ánh mắt Đào Lệ u ám, nàng nói: “Lúc đó ta đang ở Biện Châu, dù ta có muốn về chịu tang, nhưng đường xá xa xôi, dẫu gấp rút đến đâu cũng không kịp.”

Có lẽ thực sự bị ta chạm đến nỗi đau giấu kín nhiều năm, Đào Lệ thật sự mở lòng kể chuyện.

Đào Lệ nói: “Phụ thân là người đầu tiên phát hiện ra ta có tình cảm với Thường Tề Tinh. Ông hỏi ta có phải thích Thường Tề Tinh không, ta nghĩ một lúc, cảm thấy không phải là không thích bèn thừa nhận.”

“Lúc đó ông không nói gì nhưng ta không ngờ vừa quay đầu ông liền cản trở tiền đồ của Thường Tề Tinh, khiến hắn phải rời Biện Châu. Lúc đó ta mới nhận ra, thì ra những sự dung túng của ông, chỉ là đánh lừa ta mà thôi.”

“Phụ thân căn bản không đồng ý ta thích hắn, từ đầu đã có ý định chia rẽ chúng ta.”

“Lúc đó ta tức giận, lần đầu tiên trong đời chống đối ông mà đánh xe ngựa đuổi theo Thường Tề Tinh.”

“Bây giờ nghĩ lại, dẫu có bao nhiêu oán giận không hài lòng, ông cũng đã là một nắm đất, còn có gì để hận hay không?”

Đào Lệ nói đến đây thì cười khổ.

Ta đột nhiên nhận ra, chiến tích huy hoàng năm đó của Đào Lệ, thay vì nói là tâm tình yêu đương, chi bằng nói là một sự giận dữ và không cam lòng vì phụ thân phản bội mình.

Đào Lệ lại nói: “Sau này ta trở về lo liệu hậu sự cho ông, khi ta kiểm kê tài sản thì tìm thấy một bức thư tay do ông để lại.

“Đó là thư ông viết cho Lại Bộ, hy vọng Lại Bộ Thị Lang có thể giúp đỡ, tìm cách điều Thường Tề Tinh trở lại kinh thành. Lý do là dù sao hắn cũng là con rể, ông không muốn nữ nhi chịu khổ.”

“Ngươi tin không? Khi ta nhìn thấy bức thư này, thực sự không thể rơi nổi một giọt nước mắt.”

“Lúc đó ta mới phát hiện ra, thì ra phụ thân ta không phải là người vô tình vô nghĩa, ngược lại, ta mới thực sự là kẻ lòng lang dạ sói, không biết tốt xấu.”

Sau này, Thường Tề Tinh nhờ vào bức thư đó trở về kinh thành, dù y vẫn chỉ có thể làm việc trong Lương Đạo Thự* nhưng đãi ngộ tốt hơn nhiều so với ở Biện Châu.

* Lương đạo thự (粮道署) là một cơ quan trong hệ thống chính quyền thời phong kiến Trung Quốc, chịu trách nhiệm về việc quản lý và điều phối nguồn lương thực, đảm bảo cung cấp lương thực cho quân đội, các cơ quan chính quyền và dân chúng.

Đào Lệ lắc đầu, nàng lại nói:

“Ta từng nghĩ rằng người thanh cao như Thường Tề Tinh, nhất định sẽ từ chối ý tốt của phụ thân, đoạn tuyệt với ông ấy. Nhưng ta đã đánh giá quá cao lòng tự trọng của hắn.”

“Ta lại nghĩ, khoảng cách giữa ta và Thường Tề Tinh sẽ tan thành mây khói sau khi trở lại, nhưng ta đã đánh giá thấp khúc mắc giữa hắn đối với phụ thân. Nói đến cùng, tất cả là do ta tự chuốc lấy, không liên quan đến ai.”

Ta suy nghĩ một lúc rồi hỏi Đào Lệ: “Đến giờ, ngài còn yêu Thường Tề Tinh không?”

Đào Lệ cầm đũa, cho đến khi bát canh trong tay nàng ta đã nguội lạnh vẫn không trả lời câu hỏi của ta.

Ta lại hỏi: “Vậy ngài có hận hắn không?”

Lần này Đào Lệ trả lời rất nhanh, nàng ta cười cười, kể lại một chuyện.

Khi đó là mùa thu đầu tiên sau khi họ trở lại kinh thành, Thường Tề Tinh không muốn sống ở phủ Tế tửu, Đào Lệ liền theo y chuyển đến căn nhà nhỏ này.

Một ngày, một cặp phu thê mang hai giỏ lớn, vui vui vẻ vẻ gõ cửa nhà Đào Lệ, hỏi nàng có phải là nữ nhi của Đào Hành Như hay không.

Thấy Đào Lệ gật đầu, phụ nhân nữ hớn hở đẩy giỏ đến trước mặt Đào Lệ, bên trong toàn là những quả vải tròn trịa.

Phụ nhân nói nàng tên là Xuân Thiền đến từ Kế Châu, nàng muốn cảm ơn Đào Hành Như đại nhân đã bỏ tiền ra lập trường học ở quê nhà, cho đệ đệ cơ hội đọc sách để sau này thi khoa cử.

Phụ nhân đó còn nói mình đã hỏi thăm rất lâu mới biết được tên Đào đại nhân, tiên sinh ở tư thục luôn nói người tốt muốn giữ bí mật, nhưng Xuân Thiền cảm thấy đã nhận ân huệ thì không thể không báo đáp.

Phụ nhân nghe nói nữ nhi của người tốt đó thích ăn vải, đây là đặc sản nổi tiếng ở Kế Châu nên nàng luôn muốn mang một ít đến kinh thành.

Nhưng từ Kế Châu đến kinh thành xa xôi, vải làm sao mà mang đến được? Đúng lúc năm nay nàng gả cho phu quân là một người làm trong trạm dịch, nhân tiện thời tiết này mới có thể mang đến.

Đào Lệ nhìn chằm chằm vào hai giỏ lớn đầy vải, mãi vẫn không động đậy.

Đêm đó, kinh thành mưa như trút nước.

Đào Lệ ở nhà đợi đến khuya, mới thấy Thường Tề Tinh ôm một gói bánh ngọt chạy về nhà trong mưa.

Đào Lệ không chờ nổi nữa, lao ra ngoài mưa, lao thẳng vào lòng Thường Tề Tinh.

Thường Tề Tinh thấy nàng như một con chuột lội nước, chạy nhanh lao tới mình, y vội vàng ôm lấy nàng, che chở cho nàng.

Nhưng như vậy, gói bánh ngọt trong tay y lại không giữ được mà rơi thẳng xuống vũng nước.

Đào Lệ không để ý đến bánh ngọt, nàng nắm lấy vạt áo của Thường Tề Tinh, xúc động nói: “Thường Tề Tinh, có người nói với ta, phụ thân từng lập tư thục ở quê nhà…”

Thường Tề Tinh ngẩn ra, giọng nói nhanh chóng bị mưa lớn nuốt chửng, cũng không biết có phát ra tiếng hay không.

Đào Lệ tiếp tục nói: “Ngươi nói xem ông ấy có phải… có phải… không phải người xấu không?”

Nàng nhìn Thường Tề Tinh đầy hy vọng, nàng muốn y giúp nàng điều tra: Nếu Đào Hành Như không phải người xấu, liệu có thể minh oan cho phụ thân, liệu có thể xóa bỏ khoảng cách giữa họ không?

Thường Tề Tinh ngắt lời ảo tưởng của Đào Lệ.

Y nói: “Nếu ông ta không phải người xấu thì bây giờ ta đã ở Thái Sử Cục chứ không phải ở nha môn, cũng không phải là một chức quan nhỏ ai cũng có thể giẫm đạp.”

Hy vọng trên mặt Đào Lệ ngay lập tức đông cứng lại.

Thường Tề Tinh nhìn bánh ngọt dưới đất đã bị mưa đập nát biến thành một đống bùn lầy, thở dài một hơi, y nhét cây dù vào tay Đào Lệ.

“Vào đi.” Thường Tề Tinh nói, “Nàng dầm mưa rồi, sợ là sẽ bị cảm, để ta đi lấy thuốc.”

Thường Tề Tinh chạy vào mưa, bóng lưng bị nước mưa làm mờ đi rồi nuốt chửng, lại một lần nữa rời khỏi Đào Lệ.

Đào Lệ kể đến đây mắt đã ngấn lệ.

Đây là lần đầu tiên ta thấy nàng ta khóc.

Nàng mang theo vô vàn hận ý nói: “Ta hận bản thân mình, tại sao ta lại yêu hắn.”
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 14


Mấy ngày sau, Thường Tề Tinh trở về nhà, nghênh đón y là một bàn đầy ắp những món ăn phong phú.

Dù sao Đào Lệ mỗi ngày đều tính toán cẩn thận, tiền bạc được sử dụng một cách chính xác, tuyệt đối không xài trước trả sau, càng không bao giờ xuống bếp.

Đào Lệ giải thích: “Ta cố tình học đó.”

Thường Tề Tinh ngạc nhiên, khẽ nói: “Ngươi không cần phải làm như vậy.”

Đào Lệ đã quen với sự xa cách của Thường Tề Tinh, cũng không phản bác mà tự cầm bát đũa ăn một mình.

Thường Tề Tinh cũng quen với tính cách của Đào Lệ, y bắt đầu ăn.

Kết quả, tối hôm đó hai người đều bị ngộ độc.

Thường Tề Tinh đang ngủ thì cảm thấy bụng đau quặn, dạ dày thì buồn nôn.

Y mơ màng tỉnh dậy, thấy Đào Lệ nằm bên cạnh đã toát mồ hôi, mặt mày tái nhợt.

Thường Tề Tinh đột nhiên nhận ra không ổn, muốn lao ra ngoài gọi người nhưng phát hiện tay chân đều mềm nhũn, y lăn xuống giường, bò ra ngoài từng chút từng chút một.

Theo lời kể của đại nương nhà bên bị Thường Tề Tinh gõ cửa lúc giữa đêm, khi y bò đến cửa nhà bà, y chỉ còn nửa cái mạng.

Câu đầu tiên y nói khi thấy bà là: “Cứu thê tử của ta.”

Đại phu chẩn đoán hai người bị ngộ độc thức ăn do ăn phải nguyên liệu không sạch, may mà Thường Tề Tinh kịp thời kếu cứu, nếu không chỉ sợ cả hai đã sớm hồn về cõi âm.

Đào Lệ hiểm hóc giữ lại được mạng sống, khi đại nương nhà bên mang cháo đến cho nàng, bà không ngớt lời khen Thường Tề Tinh, nói chưa từng thấy nam nhân nào tình sâu nghĩa nặng như vậy, còn khen Đào Lệ có phúc.

Đào Lệ yên lặng nghe, trông có vẻ không cảm xúc.

Sau đó, Đào Lệ xin lỗi Thường Tề Tinh, nói rằng mình quá chú tâm vào việc nghiên cứu hương vị, đến nỗi không nhận ra thịt heo mua về không tươi.

Thường Tề Tinh dĩ nhiên không trách nàng, thậm chí còn nói nếu Đào Lệ thích, nàng vẫn có thể tiếp tục nấu ăn, bất kể nấu gì, y cũng có thể ăn hết.

Đào Lệ nghe xong thì cúi đầu, không biết đang nghĩ gì, cũng không rõ trên mặt nàng có thật sự động lòng hay không.

Đúng là, những lời chiều chuộng sâu sắc như vậy, ai nghe thấy mà không động lòng?

Dù người đó có xa cách hay lạnh nhạt, cũng sẽ có lúc chìm đắm trong tình yêu, cam chịu trong hạnh phúc.

Đào Lệ không nấu ăn nữa, Thường Tề Tinh tạm thời giữ được mạng sống.

Nhưng Thường Tề Tinh không biết bị vận xui nào chiếu rọi, y bắt đầu gặp phải những tai nạn đẫm mau’.

Gần đây Thường Tề Tinh gặp toàn tai nạn, khi thì bị đánh vào đầu lúc đi trên đường, khi thì bị đẩy xuống sông lúc đi qua đám đông.

Những vận xui đó giống như của các đồng môn cùng phòng cuối cùng cũng giáng xuống đầu Thường Tề Tinh, như nhắc nhở y rằng đại hạn sắp đến, có người muốn lấy mạng y.

Hôm đó, khi Thường Tề Tinh đi kiểm tra kho lương thực, không biết ai đã đổ dầu lên thang, làm y không cẩn thận ngã cắm đầu vào thùng gạo.

Gạo như những cát sỏi nặng nề, lại giống như vũng bùn kéo y vào chỗ sâu hơn.

Thường Tề Tinh càng vùng vẫy càng lún sâu, rất nhanh, không khí trong lồng ngực y bị khí tấn công của gạo ép ra ngoài, sự giãy giụa của y cũng yếu dần…

May thay Đào Lệ kịp thời đến, khó khăn lắm mới nắm được tay Thường Tề Tinh, kéo y ra khỏi thùng gạo.

Mặt và người Thường Tề Tinh dính đầy gạo, y kinh hãi nhìn Đào Lệ với vẻ mặt không thể tin nổi.

Đào Lệ thở hổn hển, nàng đột nhiên tát mạnh vào mặt Thường Tề Tinh.

Thường Tề Tinh bị đánh đến choáng váng, lúc này y mới nhận ra Đào Lệ đang run rẩy, đôi mắt đỏ hoe, khuôn mặt đầy sợ hãi.

Thường Tề Tinh mới sâu sắc nhận ra rằng, dù nữ nhân trước mặt có tính tình kỳ lạ đến đâu, dù nàng có vô tình vô nghĩa thế nào, tình cảm của nàng dành cho y đã khắc sâu vào tận xương tuỷ.

Yêu và hận không ngừng đan xen trong lòng Đào Lệ, đó mới là nguồn gốc cho mọi nỗi đau của nàng.

Sau sự cố ở kho lương thực, Thường Tề Tinh cuối cùng nhận ra bên ngoài quá nguy hiểm, y xin nghỉ phép, ở nhà tĩnh dưỡng.

Mối quan hệ của y và Đào Lệ vì cái tát đó mà thay đổi một cách kỳ lạ.

Thường Tề Tinh không biết từ đâu mang về một chồng sách toán học cũ nát làm Đào Lệ nhìn mà mắt sáng lên.

Nhưng những sách đó đa phần đều bị rách nát, có chỗ còn không đọc được chữ, Đào Lệ lại buồn bực.

Thường Tề Tinh nhìn Đào Lệ cúi đầu, y dịu dàng nói: “Chúng ta cùng phục hồi chúng, được không?”

Lúc này đôi mắt Đào Lệ mới bừng sáng.

Việc phục hồi sách toán học không phải là chuyện đơn giản, ngoài việc chép lại, còn phải bổ sung nội dung, điều này đòi hỏi họ phải tính toán và suy diễn nhiều lần.

Thường Tề Tinh và Đào Lệ cuối cùng hiếm khi ngồi lại yên tĩnh cùng nhau, hoàn thành một việc mà cả hai đều yêu thích.

Họ sẽ vui mừng khôn xiết khi giải được một bài toán, thậm chí ôm nhau đầy mãnh liệt, mặc dù sau khi tách ra cả hai đều có chút ngượng ngùng.

Họ cũng sẽ cãi nhau đỏ mặt tía tai vì một vấn đề, ai cũng không thèm để ý đến ai, cuối cùng đều vì tiếng kêu của bụng mà nhìn nhau, nhịn không được đều chê cười sự ấu trĩ của đối phương.

Cuối cùng, Thường Tề Tinh nấu một nồi cơm thơm phức, rồi đến quán rượu mua nửa cân rượu vàng và nửa cân thịt bò. Hai phu thê hiếm khi ngồi xuống, vừa ăn vừa cười nói vui vẻ.

Đào Lệ uống một ngụm rượu, mặt đã đỏ bừng.

Nàng tựa cằm vào tay, mắt ánh lên vẻ kiên định: “Thường Tề Tinh, ngươi rõ ràng rất thích toán học.”

Thường Tề Tinh ngẩn ngơ nhìn Đào Lệ, có lẽ không ngờ nàng lại nói điều này.

Đào Lệ hỏi: “Chỉ khi giải toán, mắt ngươi mới phát sáng, mặt ngươi mới có nụ cười.

“Năm đó ngươi đứng đầu bảng vào Quốc Tử Giám, ngươi muốn làm quan, khi đó ta mới nghĩ toán học với ngươi chẳng qua chỉ là bàn đạp. Ngươi rõ ràng rất thích, nhưng lại không bao giờ nói ra sự yêu thích đó, tại sao vậy?”

Thường Tề Tinh cười, y nhìn vào mắt Đào Lệ, nhẹ nhàng nói: “Ta rõ ràng rất thích, nhưng chưa bao giờ nói ra, không chỉ là toán học.”

Đào Lệ đón nhận ánh nhìn của Thường Tề Tinh, hai má như bừng lửa, nàng hỏi: “Còn gì nữa?”

Thường Tề Tinh cử động miệng, lại cười nhẹ, nhưng tiếng cười mang theo chút đắng cay khó tả.

Thường Tề Tinh nói: “Có vẻ ta chưa từng kể cho ngươi về quá khứ của ta?”

Thường Tề Tinh từ khi sinh ra đã cực kỳ nhạy bén với số học và toán học.

Khi những đứa trẻ khác còn đang học đếm bằng ngón chân, y đã có thể đi học tư thục, tranh trả lời câu hỏi của tiên sinh trước những học trò trưởng thành.

Vị tiên sinh ở làng khen y có năng khiếu, khuyến khích y tiếp tục học, tuyệt đối không được bỏ cuộc.

Thường Tề Tinh cũng cảm thấy mình có tài năng này, có lẽ có thể nhờ vào khả năng này mà tiến bước, thay đổi bản thân, thậm chí thay đổi vận mệnh của cả làng.

Nhưng, hắn xuất thân nơi làng nghèo, sở trường chỉ là toán học mà thôi.

Khi Thường Tề Tinh chen lấn, thi đỗ vào Quốc Tử Giám, mới nhận ra rằng đỉnh cao trong cuộc đời y chỉ là một khởi điểm không đáng kể.

Xuất thân của y và ngành học đã định sẵn rằng: dù y có giỏi tới đâu cũng chỉ có thể làm một quan lại nhỏ.

Những điều về việc thay đổi bản thân và vận mệnh cả làng chỉ là người si nói mộng mà thôi.

Khi y làm toán, ở trong những biển đề nghiêm ngặt nhưng đầy thú vị, y cứ tưởng đưa tay ra là có thể chạm vào những vì sao trên bầu trời, nhìn thấy vũ trụ bao la.

Nhưng đó chỉ là những ảo giác đẹp đẽ giả tạo để thỏa mãn tinh thần.

Bụng y vẫn đói, trong lòng vẫn còn sự bất mãn, trên đầu vẫn còn bị đè nặng bởi tầng tầng lớp lớp giai cấp tựa như những dãy núi.

Từ trước đến nay, y chưa từng thấy bầu trời.

Đào Lệ nhíu mày, không hiểu sao lại lo lắng, mặt nàng đỏ bừng, nàng loạng choạng đứng dậy kéo tay Thường Tề Tinh lôi ra sân.

Thường Tề Tinh lo nàng ngã, cẩn thận đỡ lấy, Đào Lệ lại nắm chặt tay y, chỉ vào bầu trời đầy sao, gấp gáp nói:

“Bầu trời ở ngay đó! Chỉ cần ngươi ngẩng đầu là có thể nhìn thấy! Những đám mây che mắt ngươi, chỉ cần ngươi muốn gạt chúng ra là có thể gạt đi!”

“Nếu ngươi vẫn không thấy, không sao, ta có thể giúp ngươi, ta có thang, ta dẫn ngươi lên mái nhà, ta…”

Thường Tề Tinh đứng lặng, trong mắt ngoài Đào Lệ đang gấp gáp nói chuyện với y, còn có bầu trời đầy sao, còn có vũ trụ.

Sau đó, y nhận ra những gì Đào Lệ mô tả là những thứ mà đời này y không bao giờ với tới được.

Nhưng Đào Lệ sống động trước mắt, nhiệt độ từ cơ thể nàng nhắc nhở y rằng đó là điều mà mình có thể sở hữu.

Không ai có thể chống lại sức quyến rũ của sự sống.

Thường Tề Tinh khẽ dùng lực kéo Đào Lệ vào lòng, nâng khuôn mặt nàng lên, cúi đầu hôn sâu đắm.

Đào Lệ mất một lúc không biết phải phản ứng thế nào, nàng chỉ cảm thấy Thường Tề Tinh ôm nàng ngày càng chặt, ngày càng chặt.

Nụ hôn của Thường Tề Tinh tràn đầy nhiệt độ và sức mạnh, còn mang theo sự mãnh liệt và đam mê chưa từng có, như một ngọn núi lửa ngủ yên trăm năm đột nhiên bùng nổ trong một đêm.

Sự mãnh liệt và cháy bỏng của Thường Tề Tinh thiêu đốt cơ thể Đào Lệ, cũng thiêu đốt trái tim nàng.

Đào Lệ lúc này mới nhận ra cảm giác kỳ diệu khi môi răng gần gũi nhau là điều mà nàng không bao giờ có thể tính toán ra được.

Thường Tề Tinh quấn lấy lưỡi nàng, vô cùng quý trọng mà l**m láp, Đào Lệ chỉ có thể phát ra tiếng rên khẽ.

Thường Tề Tinh cười nhẹ, nhưng tiếng cười đó phập phồng liên tục, nghe như đang khóc.

Quả thật có thứ gì đó ấm áp ướt át thấm vào mặt nàng.

Đào Lệ cảm thấy kỳ lạ, nàng mở mắt cố gắng nhìn Thường Tề Tinh, phát hiện không biết từ lúc nào, nước mắt y đã rơi đầy mặt.

Thường Tề Tinh dừng lại nụ hôn sâu, chuyển sang hôn nhẹ từng chút một vào khóe miệng Đào Lệ, như thể không bao giờ hôn đủ.

Đào Lệ để mặc y hôn, nàng cũng cảm thấy không bao giờ đủ.

Giọng Thường Tề Tinh khàn khàn, không biết là đang khóc hay cười, nói: “Ta sẽ không nỡ.”

Đào Lệ suy nghĩ một lúc, nhẹ nhàng nói: “Vậy thì đừng buông, sẽ mãi mãi có được.”

Thường Tề Tinh ngẩn ra, như thể từ một giấc mộng dài bừng tỉnh.

Y kéo Đào Lệ đang dựa vào mình, chỉ trong chớp mắt lại trở thành Thường Tề Tinh lạnh nhạt bình thản.

Thường Tề Tinh nhìn vào mắt nàng, đôi mắt còn chưa tan hết d*c v*ng và lưu luyến của y nhìn thẳng đôi mắt của Đào Lệ.

Y nói: “Nàng biết rõ, không thể mà.”

Thường Tề Tinh tiếp tục nói: “Trong mắt nàng đã có vũ trụ hồng hoang, thiên địa ngân hà, tại sao phải dành cả đời ở bên một kẻ nhỏ bé như ta?”

Đào Lệ còn đang ngẩn ngơ, cơ thể đã lạnh ngắt, giữa mùa đông giá rét không có gió, nhưng nàng lại cảm thấy lạnh lẽo đến tận xương.

Thường Tề Tinh hít sâu một hơi, y nói: “Đào Lệ, chúng ta hoà ly đi.”

Đào Lệ im lặng, lâu lắm không nói gì.

Thường Tề Tinh lại nói: “Trong mối quan hệ của chúng ta, nàng luôn cố gắng tìm cách hòa giải, nhưng trong toán học cũng có khái niệm vô nghiệm. Tất cả đều do nhân quả luận lý tạo thành, không liên quan đến con người, chúng ta không nên ép buộc.”

“Ta biết, những năm qua, nàng luôn muốn giải tỏa những khúc mắc trong lòng ta, muốn trở lại những ngày đầu, nhưng thời gian luôn tiến về phía trước, những sai lầm đã phạm phải trong quá khứ không bao giờ có thể sửa chữa.

“Ta không đáng để nàng lãng phí thời gian, nàng vốn không cần phải như vậy.”

Lâu lắm, Đào Lệ mới cười khẽ.

“Đúng vậy.”

Nàng trả lời đồng ý.

Cuối cùng, nàng nói với Thường Tề Tinh: hãy làm bất cứ điều gì ngươi muốn, Thường Tề Tinh.

Thường Tề Tinh ngạc nhiên nhìn Đào Lệ, như nghe nàng nói một điều hoang đường.

Nhưng khi hắn hiểu ra, y chỉ có thể gật đầu sâu, vân đạm phong khinh* mà đáp lại:

“Đa tạ.”

* Vân đạm phong khinh (云淡风轻): thờ ơ, lạnh nhạt, bình thản, không màng đến điều gì khác, tựa như gió nhẹ mây hờ hừng trôi.
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 15


Đào Lệ lên kế hoạch sẽ rời đi vào mùa xuân, đánh chiếc xe ngựa của mình, mang theo những bản đơn lẻ toán học quý giá và một số món văn phòng tứ bảo.

Thường Tề Tinh lặng lẽ sửa chữa xe ngựa. Y có đôi tay khéo léo, dường như không có việc thủ công nào mà y không làm tốt.

Thường Tề Tinh đã dùng một khoảng thời gian ngắn để sửa chữa xe ngựa trở nên mới mẻ, rồi đánh nó đến phủ Tế Tửu, gõ nhẹ cửa và rời đi trước khi có người mở cửa.

Đào Lệ biết đó là y, để tránh tình huống gặp mặt khó xử, nàng đợi y rời đi rồi mới mở cửa.

Con đường dài nhìn xa không thấy tận cùng, trước mắt chỉ còn lại một bóng dáng cô đơn.

Sau khi hoà ly, Đào Lệ trở lại phủ Tế Tửu. Ngôi nhà của Đào Hành Như đã nhiều năm không có người ở mà trở nên hoang vu, nhưng Đào Lệ không để tâm đến điều đó.

Hôm đó, ta đến tiễn nàng, câu đầu tiên Đào Lệ hỏi ta là: “Ngươi là người của Đại Lý Tự phải không?”

Đây là lần đầu tiên tôi bị người khác vạch trần thân phận một cách trực diện, cảm thấy không thể chối cãi.

Đào Lệ lạnh nhạt nói: “Ngươi đã làm rất tốt, chỉ là khi ngươi đến hỏi ta về toán, diễn xuất của ngươi quá vụng về, không giống học trò của Thừa Phong thư viện.”

Ta cười gượng.

Vì Đào Lệ thẳng thắn như vậy, ta cũng không cần giấu giếm nữa mà vào thẳng vấn đề: “Trang Côn và những người kia, có phải do ngươi giet không?”

Đào Lệ không nói gì, nhưng cũng không ngạc nhiên, rõ ràng là ta đã đoán đúng.

Đào Lệ đưa cho ta một cái túi vải, bên trong là một chồng sổ sách.

Đào Lệ là người đam mê toán học, nàng ta luôn khao khát giải đáp hơn bất kỳ ai trong chúng ta.

Năm đó, sau khi phụ nhân mang theo quả vải đến, Đào Lệ trở về Đào phủ, nàng nhớ lại trò chơi mà phụ thân rất thích chơi với nàng khi còn nhỏ – Đào Hành Như giấu quà trong sân, sau đó đặt ra bài toán để Đào Lệ giải đáp tìm kho báu.

Đào Lệ lại nhớ, trước khi nàng theo đuổi Thường Tề Tinh bỏ trốn, nàng vẫn đang chơi trò chơi này với Đào Hành Như.

Chỉ là lúc đó, nàng chìm đắm trong lòng thương xót Thường Tề Tinh và giận dữ với phụ thân mà bỏ lỡ đáp án.

Đáp án không khó tính, Đào Lệ rất nhanh đã tìm ra địa điểm giấu quà lần này, nó nằm trên mái nhà nàng thường lén học trộm, ở ô gạch thứ 15 theo hàng dọc và 102 theo hàng ngang.

Đào Lệ lật viên gạch lên, bên trong là một gói đồ được bọc bằng giấy dầu chống nước, mở ra thì thấy vài cuốn sổ sách.

Đào Lệ đã mất ba ngày để kiểm tra các sổ sách này.

Khi đó trời đã rạng sáng, bầu trời đầy sao dần tàn nhạt dưới ánh mặt trời đang lên.

Và Đào Lệ không biết từ lúc nào cảm thấy khuôn mặt ướt đẫm, nàng sờ lên mặt mình, chạm vào những giọt nước mắt cuối cùng rơi xuống.

Đào Lệ nói với ta:

“Đây là sổ sách của phụ thân ta, từ ngày ông làm quan nhận chức Tế Tửu Quốc Tử Giám, mỗi tháng trên sổ sách của ông đều có tám phần lương thực biến mất và cả những món quà ông nhận từ các đại thần trong triều, đều quy đổi thành bạc.”

“Ta đã kiểm tra, số tiền này được ông gửi đến các huyện, ủy thác cho người xây dựng trường tư, mời tiên sinh dạy các đứa trẻ nhà nghèo đọc sách viết chữ…”

Đào Lệ nói đến đây, giọng nói không tự chủ được mà run rẩy, hốc mắt đỏ hoe nhưng cố gắng kiềm chế, nàng cảm thấy không nên khóc vào lúc này.

Đào Lệ lại nói: “Ta tin rằng phụ thân không phải là người như họ nghĩ.”

Ta nhìn vào cuốn sổ trong tay, cảm thấy thật nặng trĩu, nếu Đào Hành Như không phải là quan tham mà là người lén lút lấy tiền của mình xây trường, hỗ trợ học trò nghèo.

Vậy tại sao ông lại cản trở tương lai của Thường Tề Tinh?

Đào Lệ lại nói: “Chính họ đã giet phụ thân, ta muốn báo thù cho ông ấy!”

Ta nhìn Đào Lệ, muốn phân biệt lời nàng ta nói thật giả ra sao.

Ta khuyên: “Đào Lệ, đừng làm điều dại dột, càng không nên nhận những việc mình không làm.”

Đào Lệ hỏi ngược lại ta: “Ngươi nghĩ tại sao Thường Tề Tinh muốn hoà ly với ta? Không phải hắn ta muốn thả ta tự do mà chỉ vì sợ ta làm hại hắn, chẳng qua là trò tự bảo vệ mình mà thôi.”

Ta không cam tâm, lại hỏi: “Vậy ngươi giet Trang Côn và những người kia như thế nào?”

Đào Lệ nói: “Khi các người tìm ra cách họ giet phụ thân ta, tự nhiên sẽ biết ta giet họ thế nào.”

Đào Lệ giơ hai tay lên không trung, muốn ta còng nàng lại, hệt như con thiêu thân lao vào lửa.

Mặc dù thiếu chứng cứ, nhưng do Đào Lệ tự nhận là hung thủ, chúng ta đành phải giam nàng lại trước.

Sau đó, bất kể ai hỏi gì, nàng đều quyết tâm không mở miệng.

Thường Tề Tinh không đến giải cứu, lạ thay, từ khi Đào Lệ bị bắt, những tai nạn y gặp phải cũng dừng lại.

Những dấu hiệu dường như đều chỉ ra rằng Đào Lệ thật sự là người đã ẩn mình nhiều năm để báo thù cho phụ thân.

Thường Tề Tinh vẫn lên triều như bình thường, Tăng Tri Hứa vì thời hạn mà Nữ Hoàng đưa ra sắp hết, hắn phải nhanh chóng đưa ra phán quyết, vì vậy Đào Lệ đã bị kết án, c/hé//m đầu sau mùa thu.

Không ngờ lúc này, Thường Tề Tinh lại đến Đại Lý Tự.

Nhưng ta không nghĩ tới y đến đây lại không liên quan gì tới Đào Lệ, y đến Đại Lý Tự để tố cáo: Thường Tề Tinh muốn kiện Đốc Lương Thự tham ô.

Lão hồ ly Tăng Tri Hứa luôn không biểu lộ cảm xúc, hỏi theo: “Ngươi biết gì, kể chi tiết ra.”

Thường Tề Tinh liền kể lại cách Đốc Lương tham ô, giả mạo sổ sách như thế nào trong những năm qua.

Theo lơi y nói, trong một lần kiểm kê giữa năm, khi y liếc qua sổ sách, trên bề mặt không có vấn đề, chỉ có một số đơn vị nhỏ có sai lệch.

Thường Tề Tinh suy đoán rằng sổ sách đã bị làm giả, dưới những con số đó ẩn chứa những gian dối lớn.

Nhưng tiếc thay, khi y cố gắng kiểm tra kỹ hơn, Đốc Lương đã phát hiện ra sự bất thường và tiêu hủy tất cả sổ sách.

Thường Tề Tinh nhờ Tăng Tri Hứa, bằng mọi cách phải tìm ra sự thật.

Bởi vì số liệu chỉ sai một chút thôi nhưng đối với dân chúng, mất một hạt gạo cũng là vấn đề sinh tử.

Nghe xem, có mấy ai có thể nói những điều không có bằng chứng mà lại thuyết phục và đầy nghĩa khí như vậy.

Khi Thường Tề Tinh sắp rời đi, ta không nhịn được nữa bèn tiến lên hỏi: “Vụ án của thê tử nhà ngươi, ngươi thật sự không lo sao?”

Thường Tề Tinh lạnh lùng nhìn ta, mặt không cảm xúc nói: “Ta không có thê tử.”

Sự vô tình và lạnh lùng này, thật khiến người ta muốn ăn tươi nuốt sống y.

Ta vẫn không tin lời khai của Thường Tề Tinh, liền đi hỏi Đào Lệ, người giỏi toán có thể chỉ nhìn một cái là biết sổ sách có vấn đề không?

Đào Lệ nhìn ta, không nói gì.

Ta nhận ra mình hỏi một câu thừa, những cuốn sổ về Đào Hành Như mà nàng đã đưa chẳng phải là câu trả lời sao.

Ta lại hỏi, ngoài nàng ra, trên đời này còn ai có thể làm được như vậy không?

Đào Lệ không suy nghĩ mà trả lời ngay: “Thường Tề Tinh.”

Đào Lệ nói, có những người sinh ra đã nhạy cảm với con số, việc phát hiện ra vấn đề dựa vào trực giác được hình thành qua nhiều năm.

Nàng có thể làm được, Thường Tề Tinh cũng có thể.

Bởi vì, Thường Tề Tinh là một thiên tài thực sự.

Ta không tin Đào Lệ là hung thủ.

Khi ta hỏi nàng làm thế nào để giet Trang Côn và những người kia, nàng vẫn không trả lời trực tiếp câu hỏi của ta mà dùng một cách giải thích mơ hồ.

Thậm chí đến cái chet của Đào Hành Như, Đào Lệ có lẽ cũng không rõ ràng.

Trong lòng Đào Lệ chắc hẳn có một dự đoán đại khái, nên nàng ta luôn tìm kiếm, để xác nhận câu trả lời đúng nhất.

Một người luôn nghiêm cẩn và điềm tĩnh, có tư duy giải quyết vấn đề, liệu có hành động bốc đồng khi chưa tìm ra đáp án không?

Ta không tin đó là điều Đào Lệ sẽ làm.

Để tìm ra sự thật, phải giải mã cái chet của Đào Hành Như và Trang Côn cùng những người khác, hiện tại manh mối duy nhất có thể là điểm đột phá chính là Trang Côn.

Ta và Tằng Tri Hứa trở lại Ngự Thiện Phòng, các ngự trù ở đây đã được thay đổi một lượt.

Tổng quản mới nói rằng mình không hiểu rõ những chuyện trước kia, nhưng không ngần ngại nịnh bợ đại nhân Đại Lý Tự Tằng Tri Hứa.

Tổng quản ngự trù cố gắng tìm kiếm, cuối cùng mang ra một cái bọc, hết sức tận tình nói với Tằng Tri Hứa rằng đây là những di vật của Trang Côn.

Vì sự việc xảy ra đột ngột, thêm vào đó hậu cung không phải nơi người thường có thể tùy tiện ra vào, nên những thứ này vẫn còn lại trong cung.

Ta và Tằng Tri Hứa mở di vật của Trang Côn, không ngờ lại phát hiện một cái bát dính mực.

Ngay lập tức ta nhớ đến cái bát ở nhà Đào Lệ, cái mà Thường Tề Tinh dùng làm nghiên mực, tại sao họ không dùng nghiên mực mà lại có thói quen dùng bát?

Ta và Tằng Tri Hứa ngay lập tức điều tra Trần Tế Đường và những người khác, từ miệng gia quyến biết được rằng họ cũng có thói quen này: Mài mực không bao giờ dùng nghiên mực mà dùng bát. Có người còn nói rằng thói quen này họ không phải lúc nào cũng có, mà bắt đầu từ năm Thuận Thiên thứ mười tám.

Năm Thuận Thiên thứ mười tám, chính là sau khi Đào Hành Như qua đời.

Có lý do gì khiến năm người này đều sợ sử dụng nghiên mực.

Ta chỉ cảm thấy màn sương mù trước đây cuối cùng cũng từ từ tan biến, ta nhớ lại ngày hôm đó tiễn Đào Lệ, trong số văn phòng tứ bảo nàng mang theo có nghiên mực.

Chiếc xe ngựa của Đào Lệ vẫn đỗ ở sân sau Đại Lý Tự, nó được Tằng Tri Hứa ra lệnh trông coi cẩn thận.

Ta lên xe lục lọi một hồi, cuối cùng tìm thấy nghiên mực đó.

Nghiên mực tinh xảo và thanh lịch, nhìn một cái là biết được làm thủ công, những vết xước trên đó chứng tỏ chủ nhân rất yêu thích nên nó được sử dụng thường xuyên.

Khi đặt nghiên mực lên mũi ngửi, ta còn ngửi thấy một mùi hương nhàn nhạt.

Ta mơ hồ hiểu ra điều gì đó, bao gồm nguyên nhân cái chet của Đào Hành Như và ai là hung thủ.

Khi ta muốn Tằng Tri Hứa bắt Thường Tề Tinh và thẩm vấn nghiêm khắc để trả lại sự trong sạch cho Đào Lệ, Tăng Tri Hứa lại nói không được.

Bởi vì Thường Tề Tinh đã thật sự tìm được sổ sách của Đốc Lương.

Điều đó trở thành bùa hộ mệnh của y lúc này.
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 16


Vụ án tham ô của Lương Đạo Thự bị Thường Tề Tinh bóc mẽ tạo thành một vụ bê bối lớn.

Tuy nhiên, dường như y không hề cảm thấy mình đang ở tâm điểm của cơn bão, y vẫn giữ phong thái bình thường và xuất hiện tại buổi thẩm tra do Tăng Tri Hứa chủ trì.

Đốc Lương* là một nam nhân tinh tường, nổi danh gần xa về sự thanh liêm và cần mẫn.

* Đốc lương (督粮) là một chức quan trong hệ thống quan lại thời phong kiến Trung Quốc, có trách nhiệm giám sát và quản lý việc thu thập, lưu trữ và phân phối lương thực. Chức quan này đảm bảo nguồn lương thực được cung ứng đầy đủ và kịp thời cho quân đội, triều đình và dân chúng.

Đứng trước những cáo buộc của Thường Tề Tinh, ông ta giận dữ, chỉ thẳng vào mũi Thường Tề Tinh mắng y là vu khống, rồi đau khổ kể lể về sự tận tâm, cần mẫn của mình trong suốt những năm qua, nói cách khác, ông ta hoàn toàn khẳng định sổ sách kia là giả mạo.

Thường Tề Tinh bình tĩnh hỏi lại Đốc Lương: Sao ông biết sổ sách này là giả? Phải chăng vì ông biết sổ sách thật đã bị hủy?

Câu hỏi khiến Đốc Lương câm nín.

Sau đó Thường Tề Tinh yêu cầu Đốc Lương cử người đến đối chiếu số liệu, nếu có thể tìm thấy một lỗi nhỏ trong sổ sách, y sẽ thừa nhận đã vu cáo.

Đốc Lương liền gọi đến mười vị trướng phòng tiên sinh* cùng đối chiếu sổ sách với Thường Tề Tinh.

* Trướng phòng tiên sinh (帐房先生) là một thuật ngữ chỉ người quản lý sổ sách và tài chính trong một gia đình, doanh nghiệp hoặc tổ chức. Trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, đây thường là người có kỹ năng tính toán, giữ sổ sách và quản lý tài chính một cách cẩn thận và chính xác.

Thường Tề Tinh vẫn giữ vẻ bình tĩnh, thậm chí không hề nhúc nhích tay đang đặt trước ngực, lần lượt trả lời các câu hỏi của các vị trướng phòng tiên sinh.

Rõ ràng, y đã thuộc lòng nội dung trong sổ sách.

Dưới sự chính xác của Thường Tề Tinh khi đọc số liệu, rất nhanh họ đã xác định được chính xác Đốc Lương đã biển thủ bao nhiêu bạc, thậm chí cả việc ông ta lấy tiền công của những quan chức nhỏ để cho vay, kiếm lãi mỗi ngày bao nhiêu đồng cũng được tính toán rõ ràng.

Trên gương mặt của Đốc Lương cuối cùng cũng xuất hiện một vết nứt.

Ông ta gào khóc, quỳ xuống đất, nói rằng mình bị mê muội nhất thời nên mới phạm phải lỗi lầm, cầu xin Tằng Tri Hứa mở lòng khoan dung.

Tuy nhiên, Thường Tề Tinh không định tha cho ông ta, y tiếp tục cáo buộc: “Các quan chức nhỏ còn tố cáo Trần Đốc Lương đã thuê người ám sát, nhiều lần muốn giết người để bịt miệng.”

Sau đó, Thường Tề Tinh kể lại từng chi tiết về việc Trần Đốc Lương đã âm mưu giết mình như thế nào, từ việc ném đồ vật từ trên cao xuống để làm bị thương đầu, đến đẩy y xuống sông lạnh lẽo, hoặc nhốt y vào trong lu gạo để ngạt thở.

Như vậy, vô hình chung đã rửa tội cho Đào Lệ về tội danh sát phu.

Trần Đốc Lương đành phải thú nhận mọi tội lỗi, phải chịu nhiều tội cùng lúc.

Khi bị áp giải đi, Trần Đốc Lương vẫn còn mang vẻ mặt khó hiểu, ông ta không cam tâm hỏi Thường Tề Tinh, nói rằng sổ sách rõ ràng đã bị chính ông ta hủy bỏ, tại sao Thường Tề Tinh có thể sao lưu?

Thường Tề Tinh nhìn xuống ông ta, lạnh lùng nói: “Vì sổ sách đó thực sự là do ta giả mạo.”

Đúng vậy, chỉ dựa vào một lỗi số liệu, Thường Tề Tinh đã tham khảo và đối chiếu tất cả các sổ sách công khai trong những năm gần đây, và đã tính toán ra được nội dung chính xác của sổ sách thật, không sai lệch một li.

Đào Lệ nói đúng, Thường Tề Tinh quả thực là một thiên tài.

Khi Đốc Lương bị áp giải, ông ta lớn tiếng chửi rủa, mắng Thường Tề Tinh sẽ bị tuyệt tử tuyệt tôn, ông nhất định sẽ không để cho y yên ổn.

Thường Tề Tinh nghe vậy nhưng không hề nao núng, vẻ mặt không hề sợ hãi, quả là một kẻ tàn nhẫn.

Tằng Tri Hứa hỏi Thường Tề Tinh có biết tội giả mạo bằng chứng là gì không? Thường Tề Tinh vẫn giữ vẻ bình tĩnh, thậm chí còn bắt đầu mặc cả với Tằng Tri Hứa.

Thường Tề Tinh nói: “Ta biết đại nhân đang điều tra vụ án của Trang Côn cùng đồng bọn, nếu đại nhân đồng ý với ta một điều kiện, ta sẽ giúp ngài phá án.”

Tằng Tri Hứa lắc đầu nói: “Ngươi không có tư cách để thương lượng với ta.”

Thường Tề Tinh khẽ cười, y thong thả nói: “Nhưng nếu ta không giúp, cả đời đại nhận cũng không tìm ra hung thủ.”

Tằng Tri Hứa không phải là người dễ bị dọa, hắn nói: “Ngươi không cần phải diễn trò với ta, ta biết, những kẻ đã giey hại bốn người đó và ngụy tạo cái chet của họ thành tai nạn chính là ngươi.”

Tằng Tri Hứa dừng lại, nói tiếp: “Thậm chí cả cái chet của cựu Quốc Tử Giám Tế tửu Đào Hành Như cũng do tay ngươi gây ra.”

Thường Tề Tinh không vội vàng, ngược lại hỏi: “Bằng chứng đâu?”

Tằng Tri Hứa hơi khựng lại, vẻ mặt có phần bất lực.

Ta chạy lên công đường giúp Tăng Tri Hứa.

Ta giơ cao nghiên mực trong tay, từng chữ từng chữ nói:

“Đây chính là bằng chứng ngươi giet Đào Hành Như. Tay nghề của ngươi rất tốt, việc làm một chiếc nghiên không phải là việc khó đúng không? Ngươi đã động tay động chân vào nghiên mực này, biến nó vật hung khí giet chet Đào Hành Như!”

Thường Tề Tinh nhìn sâu vào nghiên mực trong tay ta, bỗng nhiên cười, y nói: “Ngay cả khi ngươi có thể chứng minh ta đã giet Đào Hành Như, thì làm sao chứng minh ta có liên quan đến cái chet của Trang Côn cùng đồng bọn?”

Ta nghiến răng nghiến lợi, “Ngươi có biết Đào Lệ đã nhận tội thay cho ngươi không? Ngươi không yêu nàng, lại còn lợi dụng nàng, còn muốn nàng nhận tội thay cho ngươi, nàng đã làm gì sai đối với ngươi mà phải chịu đựng điều này?!”

Nụ cười của Thường Tề Tinh dần biến mất, rồi nhanh chóng bình tĩnh lại.

Y nhìn Tằng Tri Hứa, hỏi: “Tăng Tri Hứa đại nhân là người chấp pháp nghiêm minh, chắc chắn sẽ không phạm pháp, ngụy tạo chứng cứ giống như ta. Giao dịch này, ngài có làm hay không?”

Tằng Tri Hứa nhún nhường hỏi: “Điều kiện của ngươi là gì?”

Thường Tề Tinh nghiêm nghị nói: “Ta muốn ngài điều tra toàn bộ Lương Đạo Thự cả đế quốc, nếu có ai tham ô lương thực của dân chúng, ngài nhất định phải trừng trị họ.”

“Mà sau này, mỗi lần bổ nhiệm Đốc Lương, ngài đều phải giám sát trực tiếp, tuyệt đối không được để quan tham ngồi lên vị trí này.”

Yêu cầu của Thường Tề Tinh thật bất ngờ, y nói một cách nhẹ nhàng.

Nhưng việc liên quan đến việc bổ nhiệm và lựa chọn các quan chức trong triều đình, lại liên quan đến vụ án th*m nh*ng đế quốc, đây không phải là một vụ án dễ tra.

Tằng Tri Hứa hỏi: “Tại sao lại yêu cầu ta như vậy?”

Thường Tề Tinh im lặng một lúc, nói: “Lão sư đã từng đã nói với ta, Lương Đạo Thự là vị trí khổ sai, nhưng cũng là vị trí ảnh hưởng nghiêm trọng quan đến bá tánh dân sinh. Muốn định quốc an bang, phải cho dân chúng no đủ, lòng không sợ hãi. Vì vậy, Lương Đạo Thự tuyệt đối không được có quan tham.”

Thường Tề Tinh nói xong, cung kính cúi đầu hành lễ với Tằng Tri Hứa, nói: “Thỉnh đại nhân giám sát việc lựa chọn quan chức của Lương Đạo Thự, nhất định phải tìm ra những quan chức giỏi về toán học, hết lòng vì dân, Thường Tề Tinh xin thay mặt thiên hạ vạn dân cảm tạ ân điển của ngài.”

Tằng Tri Hứa nhìn người đang quỳ trước mặt mình, cung kính bái lạy chào, cuối cùng hắn mới lên tiếng.

Tằng Tri Hứa nói: “Điều kiện của ngươi thật sự gian nan hà khắc, nói thật, rất khó thực hiện. Nhưng ta sẵn sàng thử.”

Thường Tề Tinh ngẩng đầu lên, nhìn Tằng Tri Hứa, khóe mắt hơi đỏ, y lại cúi đầu chào, lớn tiếng nói: “Cảm tạ đại nhân.”

Tằng Tri Hứa hỏi: “Vậy ngươi sẽ giúp ta phá án như thế nào?”

Thường Tề Tinh gằn từng chữ từng chữ nói: “Hung phạm Thường Tề Tinh, nguyện nhận tội đền tội.”

Tằng Tri Hứa hít một hơi thật sâu, rồi khẽ thở dài.

Tằng Tri Hứa: “Ngươi phạm tội gì?”

“Sát sư diệt hữu.”

“Sư là ai?”

“Cựu Quốc Tử Giám Tế tửu Đào Hành Như.”

“Hữu là ai?”

“Đồng học ngày xưa, Trang Côn, Hồ Càn, Trần Tế Đường, Đổng Xuân Lai.”

“Thường Tề Tinh, ngươi giet năm người có biết sẽ bị tội gì không?”

“Theo luật pháp của Vi Chu, giết người như ma, tội ác tày trời, phải bị xử tử, ngũ mã phân thây, áp dụng hình phạt cực hình.”

“Ngươi có gì muốn bào chữa cho mình không?”

“Tội nhân Thường Tề Tinh mau’ lạnh vô tình, phụ lòng thánh ân, xin nghe theo mọi quyết định của đại nhân.”

Ta ẩn nấp sau bức rèm, nghe Thường Tề Tinh nói đến đây, không nhịn được thở dài trong lòng.

Ta rất muốn biết, tại sao y lại làm như vậy. Và trong câu chuyện của y, Đào Hành Như và Đào Lệ rốt cuộc là những nhân vật gì.

Tất cả phải bắt đầu từ việc Thường Tề Tinh bị Đào Hành Như điều đến Lương Đạo Thự ở Biện Châu.

Lúc đó, Thường Tề Tinh đã chứng kiến đủ sự tham lam của Đào Hành Như, y vẫn còn hy vọng rằng sự bất công này sẽ không xảy ra với mình.

Không ngờ, Đào Hành Như vẫn không chiều lòng y, khi Thường Tề Tinh đỗ đạt, tưởng rằng có thể làm quan ở Thái Sử cục, lại bị điều đến Biện Châu.

Thường Tề Tinh vô cùng tức giận, y rõ ràng đã thấy vị tân khoa hạng nhì kia bí mật ôm một cái bao lớn vào thư phòng của Đào Hành Như, rồi vui vẻ bước ra.

Lần đầu tiên trong đời, y bỏ qua lễ nghi, xông vào thư phòng của Đào Hành Như chất vấn tại sao ông ta lại th*m nh*ng như vậy, cắt đứt con đường tương lai của người khác?

Đào Hành Như bình tĩnh nhìn y, dường như không hề bận tâm đến sự tức giận của y, hay là đã quen với tình cảnh này.

Đào Hành Như chỉ nhẹ nhàng nói: “Ngươi hợp với Lương Đạo Thự hơn bất kỳ ai khác.”

Thường Tề Tinh cười giễu cợt, “Chỉ vì ta xuất thân hàn môn hay sao? Không có tiền hối lộ cho ngươi, nên không được phép đến những nơi tốt đẹp để làm quan?”

Đào Hành Như nói: “Số liệu của Lương Đạo Thự không được phép có sai sót.”

Thường Tề Tinh cười càng thêm cay đắng, “Biết sớm như vậy, ta không nên học toán, làm người đứng đầu thì có gì hay, chẳng phải vẫn bị các người nắm giữ hay sao?”

Đào Hành Như không hề để ý đến những lời cáo buộc của Thường Tề Tinh, ông ta lạnh lùng đuổi khách, Thường Tề Tinh không thể làm gì khác.

Sau đó, Thường Tề Tinh cùng Trang Côn và những người khác uống rượu say, trong lúc nói chuyện về Đào Hành Như, mọi người đều căm phẫn.

Không biết ai là người bắt đầu, Trang Côn lại đề nghị, hoặc là không làm, đã làm phải làm đến cùng, giet chet Đào Hành Như để trả thù mối hận này.

Thường Tề Tinh siết chặt ly rượu trong tay.

Trang Côn nhìn sắc mặt của Thường Tề Tinh, tiếp tục kích động.

“Tề Tinh, trong chúng ta, ngươi là người thiệt thòi nhất, nếu ngươi có thể đến Thái Sử cục, bảo đảm sẽ có cơ hội thăng tiến, sau này cưới Đào Lệ sư muội, chắc chắn không phải là chuyện khó. Bây giờ thì sao, người mất, chức mất, chẳng phải là do Đào Hành Như hại sao.”

Đổng Xuân Lai cũng tiếp lời: “Đúng vậy, chúng ta học hành khổ cực bao năm trời, chính là mong muốn phát huy tài năng, vì dân thỉnh mệnh*. Chúng ta dựa vào thực lực để thi đậu Quốc Tử Giám, tại sao bây giờ lại chịu cảnh phân ba bảy loại, áp bức mọi nơi?!”

* Thỉnh mệnh: Xin người cấp trên cho phép, ra lệnh, vd: thỉnh mệnh chúa công. Ý nghĩa câu này là mong muốn thỉnh mệnh ơn trên vì dân mà phục vụ.

Thường Tề Tinh uống cạn ly rượu rồi đập mạnh xuống bàn vỡ tan tành.

Trang Côn lại nói: “Nếu chúng ta muốn giet Đào Hành Như, phải nghĩ ra kế hoạch hoàn hảo, không thể vì giet ông ta mà bồi luôn mạng vào đó.”

“Ta có cách.”

Cuối cùng, Thường Tề Tinh lên tiếng, trong mắt y là sự thù hận chưa từng có.

Khi Thường Tề Tinh rời khỏi Quốc Tử Giám lên đường đến Biện Châu nhậm chức, y lại đến thăm Đào Hành Như, xin lỗi ông về sự l* m*ng và vô lễ trước đó.

Để thể hiện thành ý, Thường Tề Tinh còn tặng Đào Hành Như một nghiên mực.

Thường Tề Tinh nói: “Theo lời Tế tửu đại nhân ngày hôm ấy, học trò đã suy nghĩ cẩn thận, do học trò ngu dốt nên không hiểu được cách tận dụng lợi thế, lo cho bá tánh. Nghiên mực này do tự tay học trò làm, mong Tế tửu đại nhân nhận lấy.”

Đào Hành Như không từ chối.

Thậm chí biểu hiện của ông còn nhu hoà hơn, đây là lần đầu tiên trong nhiều năm học tại Quốc Tử Giám, Thường Tề Tinh thấy Đào Hành Như có vẻ mặt hiền từ như vậy.

Đào Hành Như nói: “Lương Đạo Thự là một vị trí khổ cực, nhưng cũng là ảnh hưởng trực tiếp tới bá tánh dân sinh. Muốn định quốc an bang, phải cho dân chúng no đủ, lòng không sợ hãi…”

Thường Tề Tinh gật đầu, thật ra y không hề để ý Đào Hành Như đang nói gì.

Ánh mắt y dừng lại trên nghiên mực, khi làm nghiên mực, anh ta đã bí mật cho vào một lượng lớn Dương Địa Hoàng*.

* Dương Địa Hoàng: Cây được trồng lấy lá, để chiết xuất glycoside với các công dụng như làm cường tim, tăng thêm sức co bóp của tim.

Mà Đào Hành Như lại mắc bệnh tim.

Sau khi sử dụng chiếc nghiên này trong thời gian dài, bệnh tim của Đào Hành Như sẽ trầm trọng hơn, như vậy có thể giet chet Đào Hành Như một cách thần không biết quỷ không hay.

Thực ra, sau khi tặng nghiên mực đi, Thường Tề Tinh thoáng chốc hối hận một giây, nhưng y nhanh chóng tự an ủi mình, kế hoạch này không nhất thiết phải có hiệu quả, dù sao Đào Hành Như cũng không bao giờ coi trọng đồ vật của y.

Vì vậy, khi sau đó nhận được tin Đào Hành Như qua đời, Thường Tề Tinh ngẩn ngơ rất lâu mới hoàn hồn.

Lúc đầu, Thường Tề Tinh cảm thấy vui mừng khôn tả, đó là sự hả hê khi biết kẻ thù phải chịu kết cục không tốt đẹp, nhưng rất nhanh sau đó y lại cảm thấy bơ vơ.

Y đã giet Đào Hành Như.

Đào Hành Như đã dùng nghiên mực của y.

Rõ ràng trước đó Đào Hành Như không bao giờ coi trọng y, tại sao ông ta lại dùng nghiên mực y tặng?

Nhưng lúc này Đào Lệ đã ở bên cạnh y, không thể để lộ việc này, y tuyệt đối không thể để cho Đào Lệ biết y là người giết phụ thân nàng.



Ta nhìn Thường Tề Tinh, đây là lần đầu tiên y thực sự thể hiện tình cảm dành cho Đào Lệ, thật đáng tiếc là đã quá muộn.

Tăng Tri Hứa hỏi, tại sao y lại giet Trang Côn và những người khác?

Thường Tề Tinh nói: “Vì họ đã lợi dụng ta để giet Đào Hành Như.”

Thường Tề Tinh nhận ra điều bất thường bắt đầu từ khi Đào Lệ kể cho y nghe việc Đào Hành Như dùng tiền của mình để xây trường tư thục.

Thường Tề Tinh không muốn tin rằng Đào Hành Như còn có tấm lòng tốt như vậy, y âm thầm điều tra một thời gian và phát hiện ra: trong số những trường tư thục mà Đào Hành Như tài trợ, có cả trường nơi quê nhà của y.

Thường Tề Tinh không thể chấp nhận kết quả này, người mà y tự tay giết lại là người đã âm thầm chỉ dẫn y bước vào con đường dốc lòng cầu học.

Lí do Đào Hành Như dùng nghiên mực mà y tặng, cũng dần dần sáng tỏ.

Thường Tề Tinh lại tìm cớ đến dự tiệc rượu cùng Trang Côn và những người khác.

Rượu vào lời ra, y giả vờ say, lừa gạt được sự thật từ miệng Trang Côn và những người khác.

Lúc này, Thường Tề Tinh mới biết, hóa ra sự tham lam và đê tiện của Đào Hành Như, đều do chính ông dàn dựng.

Ông giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám, bề ngoài xem như vinh hoa phú quý, thực chất lại phải cẩn thận khôn ngoan, xoay sở giữa các phe phái trong triều.

Các phe phái khác nhau muốn những người khác nhau, cũng muốn đưa người của mình vào Quốc Tử Giám.

Đào Hành Như đã chứng kiến rất nhiều học trò đầy tham vọng bị che mắt bởi lợi ích, quên đi lý tưởng ban đầu khi làm quan; cũng đã chứng kiến những học trò ngay thẳng, không màng nguy hiểm, bị hãm hại, mãi mãi không thể ngóc đầu dậy.

Vì vậy, ông ta cẩn thận khôn ngoan xoay sở, giả vờ giao hảo với những quan lại quyền quý.

Thực chất là ông cố gắng bảo vệ những người học trò này, đưa người đúng đắn vào những vị trí phù hợp, duy trì sự thanh liêm trong triều đình.

Nhưng hành động của Đào Hành Như đã sớm khiến những người đứng sau bất mãn.

Họ không cho phép người giữ vị trí Tế tửu Quốc Tử Giám này lại có hai lòng, họ muốn tìm cơ hội hãm hại Đào Hành Như thay bằng người của mình.

Trang Côn và Đổng Xuân Lai đã sớm bị họ mua chuộc, lợi dụng sự căm ghét của Thường Tề Tinh, khiến y ra tay sát hại.

Thường Tề Tinh biết mình đã giet nhầm phụ thân của Đào Lệ, y không còn mặt mũi nào để đối mặt với nàng nữa.

Y biết Đào Lệ yêu mình rất nhiều, sợ rằng khi nàng biết sự thật sẽ đau khổ, vì vậy y cẩn thận che giấu, đối xử hờ hững với Đào Lệ, hy vọng dần dần sẽ làm phai nhạt tình cảm của nàng dành cho mình.

Việc đề nghị hoà ly với nàng vì y hy vọng sẽ không liên lụy đến nàng nữa.

Thường Tề Tinh báo thù cho Đào Hành Như, dùng cách thức tương tự để giet Đổng Xuân Lai và những người khác, rồi tìm người đến lễ tang của họ đánh trống gõ chiêng, giống như cách họ đã từng sỉ nhục Đào Hành Như, sỉ nhục những kẻ có tội.

Thường Tề Tinh nói:

“Ta phạm tội tày trời, tự biết tội này phải bị nghiêm trị nhưng ta không thể chet như vậy, ta dự định tìm ra hung phạm thật sự rồi mới đền tội.”

“Tiếc là, ta chỉ điều tra được Trần Đốc Lương rồi không điều tra được gì nữa, Trần Đốc Lương muốn giet ta để bịt miệng, ngoài việc ta nắm giữ sổ sách, ông ta còn biết ta đang điều tra người đó.”

“Kẻ giật dây đằng sau, khuấy động triều đình, làm rối loạn chính trường, quyền lực của hắn ta còn lớn hơn ta tưởng tượng rất nhiều, không phải sức lực của ta có thể tìm ra để báo thù.”

“Ta muốn thỉnh cầu đại nhân điều tra việc mua quan bán chức trong Quốc Tử Giám, việc để cho quan lại quyền quý kết bè kết phái, bồi dưỡng đảng phái. Học phủ không trong sạch, thì triều đình cũng không trong sạch!”

Tằng Tri Hứa nói: “Ta đồng ý với ngươi.”

Thường Tề Tinh cúi đầu một cách nặng nề, đứng dậy một cách oai phong lỗi lạc, đột nhiên, y rút thanh kiếm của thị vệ bên cạnh, đưa lên cổ mình….t/ự s/á/t!

Máu từ cổ họng mỏng manh của y phun ra, bắn tung tóe khắp nơi, dính vào sàn nhà, dính vào tấm biển “Minh kính cao huyền”.

* Minh kính cao huyền 明镜高悬(gương sáng treo cao). Trên đại đường ở nha môn của quan viên thời cổ, đa phần đều có tấm biển ghi câu này. Ý nghĩa là bản thân có thể thấy rõ thị phi, có thể phân biệt thiện và ác, trung thành và gian nịnh.

Khi Thường Tề Tinh ngã xuống đất vẫn còn hơi thở.

Thường Tề Tinh nằm trong vũng mau’ chảy lênh láng, ánh mắt vẫn luôn nỗ lực nhìn ra ngoài cửa.

Ta theo ánh mắt của y nhìn ra ngoài, đó là một mái hiên, sau mái hiên là bầu trời trong xanh.
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 17


Sau khi Thường Tề Tinh nhận tội và đền tội, tự nhiên Đào Lệ cũng được thả tự do.

Khi biết tin Thường Tề Tinh tu sat, Đào Lệ tỏ ra rất bình tĩnh, nàng ta xin phép Tằng Tri Hứa nhận lại thi thể của Thường Tề Tinh, đưa y về quê hương để an táng.

Tằng Tri Hứa đồng ý.

Dưới tay nghề xếp cẩn thận của ngỗ tác, vết thương trên cổ của Thường Tề Tinh được khâu lại bằng kim chỉ một cách tỉ mỉ, trông giống như y chỉ đang ngủ say vậy.

Đào Lệ đứng bên cạnh Thường Tề Tinh, nàng nhìn y một lúc, một giọt nước mắt rơi xuống, nhưng rất nhanh được nàng lau đi.

“Phụ thân ta cũng là do hắn giết sao?” Đào Lệ bình tĩnh hỏi.

Ta không nói được gì, chỉ có thể gật đầu.

Đào Lệ cười khổ, “Ta đoán được đại khái nhưng ta không để bản thân suy nghĩ sâu hơn nữa.”

Ta hỏi Đào Lệ, tại sao lúc đó nàng ta lại ra ngoài nhận tội thay cho Thường Tề Tinh?

Đào Lệ nói, nàng phát hiện ra cái chet của Trang Côn và những người trước đó đều liên quan đến Thường Tề Tinh, lúc đầu nàng không hiểu tại sao y lại làm vậy.

Những tiếng pháo trong lễ tang của Trang Côn khiến nàng nhận ra, có thể Thường Tề Tinh đang báo thù, y đang báo thù cho phụ thân của nàng.

Vì vậy, Đào Lệ chọn cách không ngăn cản.

Sau đó, Đào Lệ lại nghĩ, rõ ràng Thường Tề Tinh rất ghét Đào Hành Như, sao lại có thể báo thù cho ông ấy?

Vậy chỉ có một khả năng, y đang chuộc tội.

Đào Lệ có thể sắp xếp rõ ràng những mối liên hệ phức tạp trong đó.

Nhưng sự thật hiển nhiên lại giống như một hố đen khổng lồ có thể nuốt chửng nàng mãi mãi.

Vì vậy, Đào Lệ không cho phép bản thân suy nghĩ sâu hơn nữa.

Sau đó, Thường Tề Tinh nhiều lần bị ám sát, Đào Lệ nhận ra chắc hẳn y đang điều tra điều gì đó mà bị người ta theo dõi.

Để hợp tác với y, Đào Lệ giả vờ muốn sát phu, nhằm làm cho những kẻ muốn truy sát Thường Tề Tinh mất cảnh giác, tranh thủ thời gian cho y.

Sau đó, Thường Tề Tinh đề nghị hoà ly với nàng, Đào Lệ đoán y hẳn là đang chuẩn bị có hành động lớn, để bản thân không trở thành gánh nặng cho y nên nàng đã đồng ý.

Ta nhìn Đào Lệ, không thể phủ nhận một điều, nàng ta rất thông minh.

Đào Lệ và Thường Tề Tinh rõ ràng là một cặp đôi chưa bao giờ chia sẻ tâm tư với nhau, thế nhưng lại hiểu được suy nghĩ của đối phương hơn bất kỳ ai khác.

Cuối cùng Đào Lệ thở dài, nàng hỏi ta, Thường Tề Tinh có nói gì trước khi chet không.

Ta nói, y chỉ nhìn chằm chằm vào mái hiên, nhìn lên bầu trời phía sau.

Đào Lệ ngẩn người một lúc, khẽ cười, cuối cùng cũng bật khóc.

Thực ra, cuộc sống của Đào Lệ ngày xưa không hề dễ dàng.

Nàng rất thích toán học, nhưng Quốc Tử Giám không nhận nữ học trò, nàng không thể nghe phu tử* giảng bài như những học trò khác.

* Phu tử (夫子) là một từ Hán Việt, thường dùng để chỉ một người thầy, một học giả, hoặc một người có tri thức uyên thâm. Trong văn hóa Trung Hoa cổ đại, “phu tử” thường dùng để tôn kính gọi các bậc thầy như Khổng Tử (孔子), Mạnh Tử (孟子), v.v.

Như lời kể lúc trước, Đào Lệ tuy là người có tình cảm đơn thuần, nhưng đầu óc lại linh hoạt, không lâu sau nàng đã tìm được chỗ lý tưởng để nghe lén bài giảng – trên mái nhà.

Đừng xem thường Đào Lệ, thân hình tuy nhỏ bé mà leo tường rất nhanh nhẹn.

Nàng nhét giấy bút vào miệng rồi leo lên thang.

Đến được nóc nhà, Đào Lệ nhẹ nhàng như một con mèo, tìm chỗ phù hợp để nằm xuống, nhấc hai tấm ngói lên nghe phu tử giảng bài.

Hôm đó, mọi chuyện đều như thường lệ. Đột nhiên, phu tử giảng một bài toán khó, Đào Lệ chăm chú suy nghĩ, không để ý mực đã chảy xuống từng giọt theo tấm ngói bị nhấc lên.

Thường Tề Tinh chính là kẻ xui xẻo bị mực bắn trúng.

Lúc đầu, Thường Tề Tinh còn tưởng mình nhìn nhầm, nhưng sau đó y cảm thấy có thứ gì đó lạnh lẽo, thơm thơm chảy xuống trán.

Thường Tề Tinh đưa tay lau đi, tay dính đầy mực đen.

Thường Tề Tinh sửng sốt bèn ngẩng đầu lên, trên nóc nhà bị mở một lỗ vuông, lộ ra khuôn mặt nghiêng nghiêng của Đào Lệ.

Nàng đang mỉm cười, có lẽ đã tính toán ra điều gì đó, miệng lẩm bẩm, hoàn toàn không biết gì về mọi thứ xung quanh.

Thường Tề Tinh vô thức há miệng, nghĩ cách nào để nhắc nhở nàng về mực, bỗng một giọt mực lại rơi xuống từ trên mái ngói, bắn thẳng vào miệng y.

Thường Tề Tinh: “…” Được rồi.

Phu tử vốn đang say sưa giảng bài, ông quay đầu lại thấy đầu Thường Tề Tinh đầy mực, vẻ mặt mơ màng.

Phu tử tức giận: “Thường Tề Tinh! Ngươi đang nhìn cái gì?!”

Tiếng gầm của phu tử cuối cùng cũng đánh thức Đào Lệ đang ở trên nóc nhà, nàng sực tỉnh rồi cúi đầu nhìn xuống đụng phải ánh mắt hắc bạch phân minh của Thường Tề Tinh, đầu đầy mực, răng đen thui.

Trước khi mọi người theo tầm mắt của y nhìn lên, Thường Tề Tinh thu hồi ánh mắt, vô thức dùng tay áo quét qua nghiên mực, đứng dậy một cách tự nhiên, y nói: “Học trò vô ý đánh đổ nghiên mực, thỉnh phu tử tha tội.”

Nói xong, Thường Tề Tinh còn đưa ra bàn tay đen nhánh, chứng minh lời nói của mình là sự thật.

Phu tử: “Hữu nhục tư văn, hữu nhục tư văn*. Ngươi mau đi rửa sạch, tiết sau cũng không cần đến nữa.”

* Hữu nhục tư văn có nghĩa là làm xấu hổ hoặc làm ô danh văn chương, thường ám chỉ hành động hoặc lời nói không phù hợp, xúc phạm đến giá trị của học thuật, văn hóa, hoặc tri thức.

Thường Tề Tinh cúi đầu thật sâu, thong thả rời đi.

Khi tan học, Đào Lệ leo xuống nóc nhà, Thường Tề Tinh đã súc miệng, rửa mặt sạch sẽ, đang đứng chờ nàng bên cạnh chiếc thang.

Dù Đào Lệ đơn thuần nhưng nàng cũng biết mình đã liên lụy đến người khác, nàng trịnh trọng hành lễ, thành tâm cúi đầu nói: “Xin lỗi, đã làm phiền ngươi.”

Thường Tề Tinh không nói gì, đi về phía Đào Lệ.

Đào Lệ lập tức căng thẳng, nàng suy nghĩ nếu Thường Tề Tinh ra tay thì mình có nên đánh trả không, không ngờ Thường Tề Tinh đã đi qua, đi thẳng về phía chiếc thang đằng sau nàng.

Thường Tề Tinh cầm lấy chiếc thang, y nói: “Chiếc thang này ta nhìn thấy từ lúc nãy đã không chắc chắn rồi, ta giúp ngươi sửa lại.”

Đào Lệ nghiêng đầu nhìn y, một lúc lâu vẫn không hiểu.

Thường Tề Tinh cười nói: “Yên tâm, ta khéo tay lắm, đồ đạc ở quê nhà đều do ta tự tay làm.”

Thường Tề Tinh nói xong, không biết lấy từ đâu ra nhiều dụng cụ nhỏ, cúi đầu cặm cụi sửa chữa.

Lần đầu tiên, Đào Lệ tò mò về những việc khác ngoài toán học, nàng ngồi cạnh Thường Tề Tinh, xem y làm việc.

Lúc đó trời đã xế chiều, học trò trong Quốc Tử Giám đã về hết, trong vườn tĩnh lặng chỉ còn tiếng Thường Tề Tinh dùng búa nhỏ gõ vào ống tre.

Bàn tay thon dài, đôi tay của y linh hoạt hành động, một chiếc thang gỗ nhỏ đã bị Đào Lệ dẫm lên nhiều năm, vốn cũ kỹ được hồi sinh trong tay Thường Tề Tinh.

“Xong rồi.” Thường Tề Tinh đặt chiếc thang vào sát tường, quay đầu cười nhìn Đào Lệ: “Muốn thử không?”

Đào Lệ gật đầu.

Nàng bước lên, dùng hết sức đạp mạnh mấy cái.

Thường Tề Tinh ngẩn người.

Đào Lệ gật đầu đồng ý: “Rất chắc chắn.”

Thường Tề Tinh không nhịn được, bật cười ha ha.

Đào Lệ không hiểu y cười gì, nàng nhìn Thường Tề Tinh đầy thắc mắc, bỗng nhiên kêu lên một tiếng, giơ một ngón tay lên, chạm vào răng của Thường Tề Tinh.

Thường Tề Tinh ngẩn người.

Đào Lệ: “Mực chưa rửa sạch.”

Thường Tề Tinh không cười được nữa, nhưng nụ cười của y không hề ta tan biến mà lưu lại trên khuôn mặt y rất lâu.

Ánh chiều tà cứ thế lặng lẽ treo trên bầu trời, tạo ra một dải mây hồng ấm áp cho họ.

——Kết thúc

Đào Lệ quyết định làm lễ tang cho Thường Tề Tinh ở nhà trong bảy ngày, sau đó hỏa táng.

Thường Tề Tinh là người phạm tội, tự nhiên không có ai đến viếng.

Ta và Tằng Tri Hứa đến, trong nhà Đào Lệ thật lạnh lẽo, chỉ có một mình nàng ta đang đốt vàng mã cho Thường Tề Tinh.

Lúc này, ngoài cửa đột nhiên vang lên tiếng bước chân hỗn loạn.

Chẳng lẽ lại có người đến đốt pháo? Ta và Tằng Tri Hứa nhìn nhau, vội vàng chạy ra ngoài, nhưng lại thấy những người dân đội khăn trắng, đeo thắt lưng trắng tiến đến.

Trên gương mặt họ đều lộ vẻ đau buồn, trong đó có một số người còn đi giày thủng lỗ, rõ ràng là đã đi đường dài mới đến kinh thành.

“Tiễn biệt Lương Đạo Sứ Thường Tề Tinh đại nhân!”

Không biết ai trong đám đông hô lên, câu nói này nhanh chóng vang lên khắp nơi.

Những người dân ấy đã đi đường xa để tiễn biệt Thường Tề Tinh, họ vô cùng đau buồn, nhưng tất cả đều trông rất khỏe mạnh, rõ ràng là ăn no, ăn ngon.

Ánh mắt của Đào Lệ nhìn qua đám đông, hướng về phía xa xa, mơ hồ nhìn thấy Đào Hành Như và Thường Tề Tinh đang đứng đó.

Đào Hành Như vuốt râu cười, mặc áo trắng, vẫy tay chào nàng, bảo nàng đi đến nơi cao hơn, xa hơn; còn Thường Tề Tinh thì nhìn nàng từ xa, gật đầu với nàng, rồi chỉ tay lên bầu trời.

Đào Hành Như vuốt râu cười, mặc áo trắng, vẫy tay chào nàng, bảo nàng đi đến nơi cao hơn, xa hơn; còn Thường Tề Tinh thì nhìn nàng từ xa, gật đầu với nàng, rồi chỉ tay lên bầu trời.

Đào Lệ ngước nhìn lên, bầu trời trong xanh không một gợn mây, phong cảnh thật đẹp.
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 18: Phần 3. Đông Thanh


Ta quỳ giữa con phố dài, đầu đội nón cỏ, khóc đến xé lòng xé ruột.

Xung quanh có một vòng người tụ tập xem náo nhiệt, không ngớt khen ta bán mình táng phụ thật có hiếu, khóc đến mức gan ruột của họ cũng run rẩy theo.

Có vài vị đại lão nhân tâm mềm muốn mua ta về nhà, ta không để ý đến họ.

Người ta muốn chờ không phải là bọn họ.

Chẳng bao lâu sau, Viên Tử Vọng từ xa đi tới.

Ta lén nhéo mạnh vào đùi mình một cái, khóc càng to hơn.

"Phụ thân! Phụ thân chet oan uổng quá, phụ thân! Nữ nhi vô dụng, không để phụ thân được hưởng những ngày an nhàn sung sướng!"

Trong tiếng khóc thương thảm thiết của ta, quả nhiên Viên Tử Vọng bước tới. Mọi người đều nhận ra hắn là vị thiếu niên tài ba Lại bộ Thượng thư, nổi danh ái thê, tất cả đều vội vàng nhường đường, gọi hắn là Viên đại nhân.

Viên Tử Vọng hướng về phía bách tính gật đầu chào hỏi, đi tới trước mặt ta, cúi đầu nhìn ta. Ta nhân cơ hội ôm chặt lấy chân hắn, khóc lóc cầu khẩn: "Đại nhân, xin ngài động lòng từ bi, thưởng cho nô gia chút bạc để nô gia chôn cất phụ thân, nô gia nguyện làm trâu làm ngựa để đền đáp đại ân đại đức của ngài!"

Viên Tử Vọng đỡ ta dậy, rồi lập tức buông tay, giữ khoảng cách với ta.

"Ta sẽ lo chu đáo an táng cho phụ thân ngươi, ngươi không cần phải đền đáp, sau này tự tôn tự trọng, sống tốt cuộc đời của mình."

Ta lau nước mắt, nói: "Như thế không được, thân phụ nô gia thường dạy rằng, nhận ơn phải ghi nhớ nghìn năm, chẳng lẽ đại nhân khinh thường nô gia sao?"

Viên Tử Vọng gặp ta, chẳng khác nào văn nhân gặp phải quân lính. Trong tiếng cười đùa ám muội của đám người xung quanh, cuối cùng Viên Tử Vọng cũng mở lời, nói rằng trong phủ thiếu người chăm sóc cho phu nhân, bằng lòng đưa ta về phủ làm nô tỳ.

Ta vội vã ngàn lần cảm tạ, lén lút ra dấu hiệu thành công với Tằng Tri Hứa đang đứng ở góc đường.

Khi ta đi theo Viên Tử Vọng rời đi, nghe thấy đám đông bàn tán đầy ẩn ý, đại khái nói rằng vì phu nhân không có con, ta là tiểu thiếp mà Viên Tử Vọng lấy danh nghĩa mua nha hoàn để mang về nhà.

Ta có chút lo lắng, hỏi: "Viên đại nhân, ngài mang nô gia về nhà, phu nhân sẽ không tức giận chứ?"

Viên Tử Vọng mỉm cười, lộ ra một nụ cười ôn nhu, quả quyết đáp: "Không."
 
Bẩm Đại Nhân - Có Người Gây Rối, Nhiễu Loạn Triều Cương
Chương 19


Khi ta theo Viên Tử Vọng về phủ, mới biết thế nào là khổng tước mở màn, tự mình đa tình.

Chúng ta về đến nhà, Viên phu nhân đang chuẩn bị bữa trưa, một bàn đầy những món ăn được bày biện tinh tế còn đang bốc khói nghi ngút, chứng tỏ phu nhân đối với Viên Tử Vọng vô cùng chu đáo.

Viên Tử Vọng vừa thấy phu nhân thì chẳng để ý tới ta, vội vàng bước tới đỡ nàng, hạ giọng nói: "Phu nhân vất vả rồi."

Viên phu nhân lắc đầu nhìn Viên Tử Vọng cười, trong mắt chỉ có mỗi mình y.

Viên Tử Vọng nắm tay phu nhân ngồi xuống mới giới thiệu ta với nàng, nói ta là nha đầu y mua về từ trên phố, thân thế đáng thương, nhờ nàng chiếu cố.

Viên phu nhân gật đầu, hướng về phía ta nở một nụ cười rất thân thiện, rồi vẫy tay nói: "Lại đây cùng ăn đi."

Ta khựng lại, đã lâu rồi không nghe những lời chân thành không tâm cơ như thế. So với những kẻ thủ đoạn ta đã gặp gần đây, nàng thực sự giống một người bình thường tốt bụng, không có gì nổi bật.

Viên phu nhân nhìn có vẻ yếu đuối nhỏ bé, dung mạo cũng thường thường vô kỳ, lại còn một dáng vẻ bệnh tật. Có thể khen ngợi duy nhất là đôi mắt hiền lành, trông như một người hiền lành nhẫn nhục, chịu đựng.

Nhưng Viên Tử Vọng nhìn nàng với ánh mắt dịu dàng, hết mực yêu thương, như thể nàng là bảo vật quý giá nhất đời y.

Một bữa cơm, bọn họ ăn đầy tình ý, còn bát của ta lại toàn cẩu lương.

Nha hoàn hồi môn của phu nhân lo ta có ý định quyến rũ lão gia, đặc biệt đến nhấn mạnh tình cảm sâu đậm của phu thê bọn họ, mong ta biết khó mà lui.

Thấy ta tỏ ra không quan tâm, nàng bực bội kể cho ta nghe câu chuyện tình yêu của phu thê Viên thị, nàng khẳng định chắc nịch:

"Họ là cặp phu thê ân ái nhất mà ta từng thấy, tình yêu của họ đáng được người đời ca tụng!"

Viên Tử Vọng và Viên phu nhân quen biết qua mai mối. Nghe nói, họ chỉ gặp nhau một lần qua rèm sa mà đã thề non hẹn biển với đối phương.

Viên phu nhân tên là Đồng Thấm, một tiểu thư khuê các chính tông.

Còn Viên Tử Vọng là nhi tử của đại gia tộc họ Viên, hai người môn đăng hộ đối. Lúc nhỏ, qua mai mối mà quen biết, chỉ cách một tấm rèm mà đã định thân. Lệnh phụ mẫu, lời người mai mối cũng chưa chắc là vô căn cứ, ít nhất Viên Tử Vọng chắc chắn rất vừa ý Đồng Thấm, hắn hứa với nàng: Chờ y thi đỗ đạt cao thì tám kiệu lớn rước nàng về.

Nào ngờ Đồng Thấm phải chờ tận mười năm.

Theo lý mà nói, y có thể dựa vào gia tộc mà làm quan trong chốn quan trường cũng không khó, nhưng Viên Tử Vọng lại cảm thấy như thế không công bằng, y không muốn đi cửa sau, chỉ muốn dựa vào tài năng của mình mà đỗ đạt công danh, đường đường chính chính rước người trong lòng về.

Nhưng trên đời này có những chuyện không phải cứ nỗ lực là được, ít nhất Viên Tử Vọng cắm đầu học mười năm trời cũng chẳng được gì, ngược lại phụ thân của Đồng Thấm được thăng chức, cả nhà dọn đến Tô Châu.

Năm đó, Đồng Thấm đã hai mươi sáu tuổi, Đồng lão gia quyết không cho nữ nhi đợi nữa, ông mắng Viên Tử Vọng là cục bùn không trát nổi lên tường, quay đầu gả Đồng Thấm cho người khác.

Vốn ngoan ngoãn thuận thảo, lần đầu tiên Đồng Thấm dám trái lời phụ mẫu, nhưng nàng lại yếu đuối nhỏ bé, từ trước tới giờ chưa từng làm một việc gì phản nghịch, nàng bị Đồng lão gia chỉ vào mặt mắng không biết xấu hổ, không biết nàng đã khóc bao nhiêu nước mắt, cuối cùng nàng bị mẫu thân ép đội khăn phượng, đẩy lên kiệu hoa đỏ rực.

Phu kiệu khỏe mạnh dễ dàng nâng kiệu lên, chẳng chút lắc lư. Tuy nhiên, chưa đi được bước nào, đã nghe thấy tiếng ngựa hí từ xa tới gần.

Viên Tử Vọng mặc áo mãng bào màu trúc xanh, đội mũ hoa linh, thúc ngựa mà đến, phía sau như mang theo ánh hào quang bảy màu.

Viên Tử Vọng ghìm ngựa dừng gấp, đôi mắt ẩn giấu sự sắc bén quét qua kiệu hoa, nhìn đám người Đồng gia đang đưa dâu, cười lạnh một tiếng, khí phách có thể lật trời.

Viên Tử Vọng lớn tiếng nói: "Tân khoa trạng nguyên Viên Tử Vọng đặc biệt đến Đồng phủ cầu thân. Đồng đại nhân, hôn sự này, ngài còn muốn phá bỏ không?"

Đồng lão gia ấp úng, người Đồng gia nhìn nhau, còn chiếc kiệu thì bất ngờ rung lên mạnh, Đồng Thấm từ bên trong xông ra, giật phăng khăn che mặt.

Nàng vốn bình thường, nhưng sau khi trang điểm, trên gương mặt không có gì đặc biệt lại hiện lên vài nét diễm lệ rực rỡ. Nàng không dám tin nhìn Viên Tử Vọng, tay nàng run lên, một cây kéo từ cổ tay áo rớt ra ngoài rơi trên mặt đất, tại thời khắc yên tĩnh phát ra âm thanh vang dội.

Viên Tử Vọng nhìn về phía Đồng Thấm, ánh mắt vẫn là bình tĩnh nhưng khi y nhìn đến cây kéo trên mặt đất, trong mắt lúc này mới nhiều thêm vài phần dịu dàng.

Không ai lại không yêu người thâm tình trung trinh.

Viên Tử Vọng cứ như vậy đoạt người, dựa theo hứa hẹn dùng kiệu tám người nâng, vẻ vang đưa Đồng Thấm về. Hai người thành thân nhoáng lên ba năm, trước nay không hề cãi vã, phu thê hai người kiêm điệp tình thâm, thập phần ân ái.

Ta nhìn ra được Đồng Thấm đối với Viên Tử Vọng thật sự thâm tình, ta cũng tin tưởng Đồng Thấm hiểu biết con người Viên Tử Vọng, vì thế, ta kín đáo hỏi thăm nàng chuyện cách đây nửa tháng trước, chính là cái đêm sanh thần của nàng.

Quả nhiên Đồng Thấm ngẩn ra, do dự không ra lời. Ta biết nàng đang sợ cái gì, đêm đó Viên Tử Vọng đã giet người.
 
Back
Top Bottom