Tâm Linh Âm Giới

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
25/9/25
169,564
0
36
174093940-256-k736733.jpg

Âm Giới
Tác giả: NguynHng903
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Mị thấy hay nên cop đọc lúc rảnh thoii
P/s: cái này mình sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau,chủ những bài này có gì hãy bl trực tiếp vào bài để mình gỡ
Link: https://www.google.com.vn/amp/s/www...coi-am-gian-sau-khi-nguoi-ta-chet-di.html/amp
Còn lại mình ghi chú hết dưới mỗi bài r Tags: bílinhtâmđọcchovui​
 
Âm Giới
#1


Sau khi con người chết rồi sẽ đi đâu, sẽ trải qua những điều gì, và lại đầu thai như thế nào?

Dưới đây là kể lại toàn bộ quá trình đi đến âm gian sau khi người ta chết đi của một linh hồn.Bài viết này không phải gieo rắc hoang mang cũng không phải là mê tín, những ai tin thì hoàn toàn có thể lý giải được, còn những ai không tin thì cũng có thể xem đây như là một truyền thuyết vậy.

Sau khi chết chúng ta sẽ trải qua điều gì, xin hãy xem tiếp...Dựa vào các nền văn hóa của tôn giáo phương Đông (Phật giáo và Đạo giáo), tương truyền rằng sau khi thọ mệnh người ta kết thúc, sẽ có quỷ sai của âm gian, cũng chính là Hắc Bạch Vô Thường đến dẫn hồn phách người ta xuống Quỷ Môn quan.Sau đó lại được Tứ đại Sứ giả của âm gian, cũng chính là Đầu Trâu Mặt Ngựa, dẫn vong linh đến Âm Tào Địa Phủ, tiếp đó được thẩm phán của chư vị Đại Phán quan của Thập Điện Diêm La dưới âm gian tiếp nhận.Cuối cùng mới quyết định vong linh là có thể đi vào cõi nào để tiếp tục luân hồi: hoặc là lên trời hưởng phúc lành, hoặc là tiếp tục đầu thai làm người nữa hoặc loại động vật nào đó, hoặc là bị đánh vào mười tám tầng địa ngục như trong truyền thuyết để chịu muôn vạn khổ hình.Để có thể được đi đầu thai thì vong hồn đó phải trải qua 7 ải lớn dưới địa ngục lần vượt là Quỷ Môn quan, Đường Hoàng Tuyền, Tam Sinh thạch, Vọng Hương đài, Vong Xuyên hà, Canh Mạnh Bà, Cầu Nại Hà.Trong đó ải thứ 6 cũng là ải mà sẽ làm cho linh hồn đó không còn nhớ gì về quá khứ nữa khi uống chén canh Mạnh Bà hay còn gọi là chén canh quên lãng và qua cầu Nại Hà tiếp tục đi đầu thai chuyển sinh.
 
Âm Giới
#2


Chặng đường đi xuống âm gian sau khi con người chết đi

Tương truyền, trong quá trình đi xuống âm gian sau khi người ta chết đi thì quan ải đầu tiên là qua Quỷ Môn quan rồi, liền phải đi qua một con đường gọi là đường Hoàng Tuyền, hai bên đường nở rộ một loại hoa đẹp, chỉ thấy hoa nở không thấy lá xanh, người cõi Dương gian gọi là hoa Bỉ Ngạn (hoa của cõi bên kia).Con đường này cần phải đi rất lâu rất lâu, đến tận cuối con đường sẽ có một con sông nhỏ gọi là Vong Xuyên Hà.

Trên sông có một chiếc cầu đá gọi là cầu Nại Hà, bờ đối diện bên kia của cây cầu có một gò đất gọi là Vọng Hương đài, bên cạnh Vọng Hương đài có một cái đình nhỏ gọi là đình Mạnh Bà.Ở đó có một người tên là Mạnh Bà.

Vậy Mạnh Bà là ai?

Truyền thuyết kể rằng Mạnh Bà là người trông chừng và nấu rồi đưa cho mỗi người qua đường một chén canh Mạnh Bà.

Uống canh Mạnh Bà sẽ khiến người ta quên hết tất cả mọi chuyệnBên bờ sông Vong Xuyên còn có một tảng đá, gọi là Tam Sinh thạch (đá ba đời), ghi chép lại đời trước, đời này và đời sau của mỗi một người.

Đi qua cầu Nại Hà, đứng trên Vọng Hương đài nhìn nhân gian một lần cuối cùng, sau đó mới đi vào cõi Âm Tào Địa Phủ.
 
Âm Giới
Ải thứ nhất: Quỷ Môn quan


Sau khi con người chết đi, trước hết là do quỷ sai nơi âm gian Hắc Bạch Vô Thường dẫn ba hồn bảy phách đi, rồi giao cho quỷ Đầu Trâu Mặt Ngựa đẫn đến Quỷ Môn quan – một quan ải cần phải đi vào cõi âm gian.Ngạn ngữ có câu: "Quỷ Môn quan, mười người đi, chín người trở về".

Trước Quỷ Môn quan có mười sáu quỷ lớn, truyền thuyết kể rằng Diêm La Vương đã đặc cách chọn ra một nhóm ác quỷ để trấn giữ cửa ải này, họ tra xét vô cùng hà khắc, nghiêm ngặt đối với những vong hồn dã quỷ tội ác đầy mình, bản tính hung ác không đổi; không để cho một ai có thể trà trộn đi qua quan này.Những người không qua được cửa ải này thường là những người có nghiệp quá lớn, không thể hóa giải, bản thân vẫn không có ý hồi tâm chuyển ý sau khi chết. (Nguồn tại: https://phongthuyso.vn/quy-mon-quan.html)Lúc còn sống bất luận là quan chức quyền quý hay bá tánh bình dân, ai đã đến nơi đây đều cần phải tiếp nhận tra xét, xem xem có mang theo lộ dẫn – giấy thông hành đến quỷ quốc hay không, đây là căn cứ của người sau khi chết đi đến quỷ quốc báo danh.Lộ dẫn dài 3 thước (90 cm), rộng hai thước (60 cm), được làm bằng giấy mềm màu vàng, mặt trên viết "Lộ dẫn do Phong Đô Thiên Vũ Diêm La Đại Đế phát cho và con người khắp thiên hạ, cần phải đi qua đường này, mới có thể đến Địa phủ chuyển thế thăng thiên".

Đồng thời, trên mặt lộ dẫn có đóng ba dấu ấn của "thành hoàng Âm ty, phủ huyện Phong Đô".

Phàm là người sau khi chết đưa vào quan tài hoặc trong lúc hỏa táng đốt bỏ nó, thì sẽ theo linh hồn đến Địa phủ.Ngoài ra truyền thuyết về cửa Quỷ Môn Quan còn được truyền lại liên quan đến ngày xá tội vong nhân - ý nghĩa rằm tháng 7 âm lịch - tháng cô hồn.

Quỷ Môn Quan được hình thành là do những linh hồn bị chết lưu lạc, chết đường chết chợ, không nơi chốn thường đi quấy nhiễu nhân dân, không cho họ làm ăn.

Nhân dân đã xin Đức Phật giúp đỡ ngài đã cho người nhốt những linh hồn đó dưới địa ngục, họ được nhốt sau cánh cửa Quỷ Môn Quan địa ngục.

Hàng năm cho phép những linh hồn đó được tự do lên trần gian một lần vào dịp tháng 7 âm lịch ngày xá tội vong nhân.

Chính vì đó mới có khái niệm về ngày mở cửa địa ngục âm phủ.

Có những truyền thuyết khác nhau về Quỷ Môn Quan nhưng tựu chung lại Quỷ Môn Quan là một nơi vô cùng rùng rợn, không chỉ có cái chết mà nơi ẩn chứa cả những tội ác mà họ đã làm khi còn sống khiến không thể đầu thai mà bị đày ải trở thành ngạ quỷ. (Nguồn tại: https://phongthuyso.vn/quy-mon-quan.html)
 
Âm Giới
Ải thứ hai: Đường Hoàng Tuyền


Qua khỏi Quỷ Môn quan, tiếp đó chính là phải đi qua một con đường Hoàng Tuyền dài đằng đẵng.

Hồn phách của người ta đến âm gian báo danh sẽ phải đi một đoạn đường rất dài, qua rất nhiều quan, vì vậy đường Hoàng Tuyền (Suối Vàng) là tên gọi chung đối với những quan và lộ trình này.Trên đường Hoàng Tuyền có hoa Bỉ Ngạn màu đỏ, từ xa mà nhìn thì giống như là tấm thảm máu trải dài, vì loài hoa này có màu đỏ như lửa nên được ví là "đường lửa chiếu rọi".

Cũng bởi nó là cảnh vật và màu sắc duy nhất trên con đường Hoàng Tuyền dài đằng đẵng này, nên mọi người cứ đi theo hoa này mà thông đến địa ngục của cõi u minh.Dương thọ của con người đến rồi thì sẽ chết, đây là cái chết bình thường; người chết bình thường trước hết cần phải đi qua Quỷ Môn quan, hồn phách của người ta đi qua quan này rồi liền sẽ biến thành quỷ.

Ngoài ra, trên đường Hoàng Tuyền còn có rất nhiều cô hồn dã quỷ, họ là những người dương thọ chưa hết mà chết bất đắc kỳ tử.Họ đã không thể lên trời, cũng không thể đầu thai, càng không thể đến âm gian, chỉ có thể lang thang trên đường Hoàng Tuyền, đợi đến dương thọ kết thúc rồi mới có thể đến âm gian báo danh, nghe Diêm La Vương phán xét."

Đường Hoàng Tuyền, hai bên đường hoa Bỉ Ngạn nở rộ, chỉ thấy hoa nở không thấy lá xanh.

"
 
Âm Giới
Ải thứ ba: Tam Sinh thạch


Bên cạnh cầu Nại Hà có tảng đá xanh tên Tam Sinh thạch (đá ba đời), chữ trên đá đỏ như máu, mặt trên có khắc bốn chữ lớn "Tảo Đăng Bỉ Ngạn" (sớm đến bờ bên kia).

Nghe nói rằng, tảng đá này ghi chép lại đời trước, đời này và đời sau của mỗi một người.

Nhân của đời trước, quả của kiếp này, duyên khởi duyên diệt, đều chất chồng mà khắc trên tảng đá ba đời.Trăm nghìn năm nay, nó đã chứng kiến sầu khổ và mừng vui, bi ai và hạnh phúc, nụ cười và nước mắt, cho đến hết thảy những món nợ và những tình cảm phải trả của tầng tầng lớp lớp chúng sinh.

Đứng trước tảng đá ba đời này là thấu tỏ hết.
 
Âm Giới
Ải thứ tư: Vọng Hương đài


Vọng Hương đài, cũng chính là Thổ Cao đài, nơi có đình Mạnh Bà, là ở phía trước cây cầu, chứ không phải ở phía sau cây cầu.

Vọng Hương đài lại gọi là "Tư Hương lĩnh" (đồi nhớ quê).Ở nơi này, có thể lên đài nhìn về ngôi nhà nơi dương thế, vậy nên nơi đây đã trở thành cửa sổ nhìn về Dương gian của quỷ hồn và Thánh địa, là nơi liên lạc tình cảm giữa người sống và người chết.Truyền thuyết kể rằng, sau khi con người chết rồi, "ngày đầu tiền không ăn cơm nơi cõi người, ngày thứ hai liền qua Âm Dương giới, ngày thứ ba đến Vọng Hương đài, nhìn thấy người thân đang khóc lóc thảm thiết".Quỷ hồn đến trước địa phủ báo cáo, rất nhớ mong người thân nơi dương thế.

Dù cho quỷ tốt giận dữ quát mắng, vẫn nhất quyết muốn lên Vọng Hương đài nhìn về quê nhà, khóc lớn một trận mới hết hy vọng và đi đến "Âm Tào Địa Phủ".Theo truyền thuyết, Vọng Hương đài là nơi mà vong hồn nhìn về dương thế tạm biệt người thân một lần cuối cùng.

Lại có truyền thuyết rằng, kiến tạo của Vọng Hương đài nơi âm gian rất kỳ lạ, trên rộng dưới hẹp, mặt như cánh cung, lưng như dây cung ngang nhau, ngoài một con đường đá rất nhỏ ra, còn lại đều là núi đao rừng kiếm, hiểm trở vô cùng.

Đứng ở trên đó, năm châu bốn biển đều có thể nhìn thấy."

Trên Vọng Hương đài quỷ hốt hoảng, mắt mở trừng trừng lệ hai hàng.

Vợ con già trẻ tựa bên hòm, bạn bè thân quyến trước linh đường".
 
Âm Giới
Ải thứ năm: Vong Xuyên hà


Vong Xuyên hà còn gọi "Tam Đồ hà", chắn ngang giữa đường Hoàng Tuyền và Âm phủ.

Nước sông có màu đỏ như máu, bên trong hết thảy đều là cô hồn dã quỷ không được đầu thai, trùng rắn khắp nơi, những trận gió tanh hôi tạt thẳng vào mặt.Đương nhiên, sau khi con người chết vì để kiếp sau có thể gặp lại người mình yêu thương nhất trong kiếp này, người ta có thể không uống canh Mạnh Bà, vậy cần phải nhảy vào Vong Xuyên hà, đợi trên nghìn năm mới có thể đầu thai.Trong nghìn năm đó, hoặc có lẽ sẽ nhìn thấy người mà mình yêu thương nhất trong kiếp này đi trên đầu, nhưng không thể nói chuyện với nhau, bạn thấy họ, nhưng họ lại không thấy bạn.Trong nghìn năm đó, bạn nhìn thấy họ hết lần này lại đến lần khác đi qua cầu Nại Hà, uống canh Mạnh Bà hết chén này lại chén khác, tuy mong họ không uống canh Mạnh Bà nhưng lại sợ rằng họ chịu không nổi cái khổ dày vò nghìn năm trong Vong Xuyên Hà này.Sau nghìn năm, nếu như lòng nhớ nhung của bạn không hề giảm đi, còn có thể nhớ được chuyện của đời trước, vậy thì có thể trở lại nhân gian, tìm kiếm người mà bạn yêu nhất trong đời trước.
 
Âm Giới
Ải thứ sáu: Canh Mạnh Bà


Canh Mạnh Bà còn gọi là Vong Tình Thủy hoặc Vong Ưu Tán, hễ uống vào liền quên hết mọi chuyện của đời này lẫn đời trước.

Mạnh Bà phân phát canh Mạnh Bà ở đầu cầu Nại Hà, chứ không phải ở trên cầu.Sau khi con người chết mỗi một người đều phải đi qua cầu Nại Hà, Mạnh Bà đều sẽ hỏi có uống canh Mạnh Bà không, nếu muốn qua cầu Nại Hà, thì cần phải uống canh Mạnh Bà.

Còn không uống canh Mạnh Bà, thì không qua được cầu Nại Hà, không qua được cầu Nại Hà, thì không được đầu thai chuyển sinh.Mỗi một người trong Dương gian đều có một cái chén của mình ở tại nơi này, canh Mạnh Bà trong chén, thật ra chính là nước mắt chảy suốt một đời của bản thân người ta khi còn sống.

Mỗi một người khi còn sống, đều sẽ chảy nước mắt: hoặc vui, hoặc buồn, hoặc đau khổ, hoặc căm hận, hoặc sầu não, hoặc yêu thương...Mạnh Bà thu giữ từng giọt từng giọt nước mắt của họ lại, đun nấu thành canh, khi họ rời khỏi nhân gian, đi đến đầu cầu Nại Hà, sẽ cho họ uống vào, quên hết yêu hận tình thù khi còn sống, kiền tịnh sạch sẽ, bắt đầu tiến nhập vào Lục đạo, hoặc là Tiên, hoặc là người, hoặc là súc sinh, v.v...Không phải mỗi người đều sẽ cam tâm tình nguyện uống canh Mạnh Bà.

Bởi vì một đời này, sẽ luôn có người từng yêu không muốn quên đi.

Mạnh Bà sẽ nói với họ: "Nước mắt cậu rơi vì người ấy đều đã nấu thành chén canh này, uống nó rồi, chính là uống vào tình yêu cậu dành cho người đó vậy".

Một ký ức được xóa đi sau cùng trong mắt người ta chính là người mà họ yêu nhất trong đời này, uống canh vào, hình bóng người trong mắt dần dần phai nhạt đi, con mắt trong sáng như đứa trẻ sơ sinh.Uống canh Mạnh Bà rồi, có thể quên đi hết thảy sầu khổ, buồn vui nơi trần thế, chỉ uống canh thuốc của bà, mối thù trong đời này kiếp này sẽ quên sạch đi, đến thế gian làm một con người hoàn toàn mới.Những người mong nhớ, những người thống hận, đời sau đều sẽ là người xa lạ; loại canh khiến người ta gặp nhau mà chẳng biết nhau này chính là canh Mạnh Bà.
 
Âm Giới
Ải thứ bảy: Cầu Nại Hà


Nại: Làm sao?

Thế nào?

Hà: tiếng dùng để hỏi.

Nại hà?: Làm sao?

Làm thế nào?

Nại hà kiều: Cầu Nại Hà, là cây cầu bắc ngang sông lớn mà người đi đến đó không biết cách nào để đi qua cầu cho khỏi té xuống sông, nên hỏi nhau: Nại hà?

Làm sao?Cây cầu chia thành ba tầng, tầng trên đỏ, tầng giữa màu vàng đen, tầng dưới cùng là màu đen, càng ở tầng thấp thì càng chật, càng hung hiểm vô cùng.

Khi sống làm việc thiện thì đi tầng trên, người nửa thiện nửa ác thì đi tầng giữa, những người hành ác thì chính là đi tầng dưới cùng.Bên dưới cầu là con sông có vô số cô hồn dã quỷ không được đầu thai; những quỷ hồn chết đuối kia đều là ở trên dưới nhịp cầu hoặc trái phải đầu cầu, mong tìm thế thân cho mình, để bản thân có thể đầu thai chuyển thế.Những người đi tầng dưới sẽ bị quỷ hồn chặn lại, lôi vào trong sóng lớn bẩn thỉu, bị rắn đồng chó sắt cắn xé, chịu đủ thống khổ dày vò không được giải thoát."

Đi qua đầu cầu Nại Hà, một đi không ngoảnh đầu nhìn lại".
 
Âm Giới
Các cõi có thể đi...


Đi qua hết cầu Nại Hà bèn có thể thông đến sáu nơi, tức là đi vào cõi lục đạo luân hồi: cõi người trời, cõi A-tu-la, cõi người, cõi súc sinh (cũng gọi là đường bên cạnh), cõi quỷ đói, cõi địa ngục.Trong đó, người trời, A-tu-la là cõi người thuộc về ba đường trên, còn súc sinh, ác quỷ, địa ngục thì thuộc về ba đường dưới.*Cõi trời

Cõi trời là cõi của những chúng sinh có nhiều phước báu.

Mặt không tốt của cõi này là mọi thứ quá tuyệt vời, khiến cho các chúng sinh cõi trời chỉ biết hưởng thụ mà bỏ quên việc tu tập giải thoát.

Do vậy, họ dần mất đi những phúc báo mà họ đã tích lũy từ các kiếp trước nên khi hết phúc họ lại tái sinh vào những cõi thấp hơn.Những chúng sinh ở cõi trời thường sống rất lâu nhưng vẫn có giới hạn, hiểu biết rất nhiều nhưng không phải tất cả.*Cõi thần

Cõi thần (A-tu-la) là cõi của các chúng sinh có tuổi thọ và hạnh phúc nhiều hơn cõi người nhưng không bằng cõi trời.

Họ là những chúng sinh có không ít phước, làm nhiều việc thiện nhưng bản tính còn hung dữ và đố kỵ.*Cõi người

Cõi người là cõi của con người.

Sự tái sinh vào cõi này được cho là có lợi nhất trong tất cả các cõi luân hồi về mặt tu hành giải thoát vì chúng sinh cõi người dễ nghe và làm theo chánh pháp.

Sự hạnh phúc và đau khổ của con người tuỳ vào nghiệp.

Việc tái sinh làm con người được cho là một sự hiếm hoi, Phật ví cơ hội được làm người giống như một con rùa mù trăm năm mới nổi lên một lần và chui đầu được vào một khúc cây có lỗ thủng nổi lênh đênh trên biển. *Cõi súc sinh

Cõi súc sinh là cõi bao gồm tất cả các loài động vật, côn trùng, vi sinh vật trừ con người.

Phật dạy không nên sát sinh vì có thể những động vật hiện tại đã từng là người thân của chúng ta ở những kiếp trước.*Cõi ngạ quỷ

Cõi ngạ quỷ là cõi của những con quỷ đói hoặc ma đói bởi vì chúng luôn bị đói khát nhưng lại không thể ăn được.Cõi địa ngục

Cõi địa ngục là cõi hoàn toàn đau khổ, đầy đoạ những chúng sinh có nhiều nghiệp ác do mình đã tạo ra.Còn về đi về cõi nào, là dựa vào nghiệp thiện ác tích được của vong hồn lúc còn sống mà phân loại.

Người thiện nghiệp nhiều luôn luôn sẽ được bố trí ba đường trên, những người ác nghiệp nhiều luôn luôn được bố trí ba đường dưới.Quá trình đi xuống âm gian của người ta sau khi chết vốn không thông dụng với hết thảy mọi người.

Những người tu hành làm thiện nếu như công đức đạt đến viên mãn, sau khi hết mệnh sẽ không phải trải qua quá trình âm gian này mà trực tiếp được Phật tiếp dẫn đến thế giới đơn nguyên do một vị Phật nào đó cai quản ví dụ như thế giới Tây Phương Cực Lạc, thế giới Lưu Li, thế giới Liên Hoa, thế giới Pháp Luân..vv.

Những kẻ đại ác làm nhiều việc gian ác cũng có thể sẽ không trải qua quá trình âm gian này, bởi nghiệp lực dẫn dắt mà sẽ bị đánh thẳng vào địa ngục và chịu khổ hình.Sinh mệnh con người cũng như diễn viên đóng một vai diễn ở một không gian, một kiếp sống rồi khi bỏ lớp ra người này chúng ta lại tiếp tục một vai diễn khác, mang một vẻ khác.Ở không gian hữu hình này chúng ta khó mà lý giải cho sáng tỏ những gì của không gian khác.

Dù bạn cho những điều trên là có tồn tại hay là truyền thuyết hoặc là mê tín cũng vậy.

Nhưng xác thực nếu nó có tồn tại thì nó vẫn luôn luôn tồn tại ở đó.Điều này đã được lưu truyền hàng ngàn năm nay.

Khoa học ít nhiều đã chứng thực qua các công trình nghiên cứu rất nghiêm túc các hiện tượng như nhớ lại kiếp trước, nhớ lại những cảnh tượng mô tả dưới địa phủ sau khi chết đi sống lại, ở nhiều địa phương và quốc gia.Theo bạn có tồn tại thế giới sau khi chết không?
 
Âm Giới
Truyền thuyết về quỷ môn quan


Trong tháng này thường âm khí rất thịnh, tháng mà nhiều người kiêng kị và cho rằng không nên làm gì, cũng là tháng mà khá nhiều người gặp xui xẻo...Để tìm hiểu rõ hơn về truyền thuyết của tháng cô hồn, hãy cùng nghe chuyên gia phong thuỷ Linh Quang chia sẻ.Truyền thuyết dân gian cho rằng từ mùng 2/7, Diêm Vương ra lệnh bắt đầu mở Quỷ Môn Quan và đến rằm tháng 7 thì "thả cửa" để cho ma quỷ túa ra tứ phương, đến sau 12 giờ đêm ngày 14/7 thì kết thúc và các ma quỷ phải quay lại địa ngục.

Bởi vậy, vào đêm 14/7, người ta thường đốt nến, hóa vàng bạc hoặc giết gà vịt cúng quỷ đói để cầu được bình an và những điều tốt đẹp, không bị ma quỷ hại phá, đó chính là nguồn gốc của tên gọi Tết Quỷ.

Nguồn cội của Tết Quỷ gắn liền với văn hoá Đạo giáo của Trung Quốc, bởi Phật giáo không có chủ trương sát sinh hoặc đốt vàng bạc hàng mã để cúng tế quỷ thần.

Đạo giáo gọi Thiên – Địa – Thuỷ là "Tam Nguyên".

Nguyên tức là sự khởi đầu của tất cả, Trời – Đất – Nước là ba nguyên khí căn bản tạo ra và nuôi dưỡng con người cùng vạn vật.

Nếu đem Tam Nguyên này xếp vào ba ngày âm lịch trong năm, thì sẽ có "Tam Nguyệt Nhật": 15/1 là Thượng Nguyên, 15/7 là Trung Nguyên và 15/10 là Hạ Nguyên.

Theo truyền thuyết, Tam Nguyên Nhật là sinh nhật của Tam Quan Đại Đế trong Đạo giáo, địa vị của ba đại đế này chỉ đứng sau Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Ngày Thượng Nguyên là sinh nhật của "Thiên quan tứ phúc đại đế", ngày Trung Nguyên là sinh nhật của "Địa quan xá tội đại đế", còn ngày Hạ Nguyên là sinh nhật của "Thủy quan giải nguy đại đế".

Ba đại đế chia nhau cai quản khắp nơi, cho nên Tam Nguyên Nhật trở thành ba ngày lễ lớn quan trọng của Đạo giáo.Trong dân gian có rất nhiều truyền thuyết về Tam Quan, và thường người ta ghép Thiên Quan, Địa Quan, Thuỷ Quan vào Tam Hoàng: Nghiêu, Thuấn, Vũ.

Thiên Quan (Nghiêu Đế) chủ về ban phúc cho nên rất được dân gian tín phụng.

Thuỷ Quan (Vũ Đế) chủ về trị thủy, làm cho dân chúng được an cư lạc nghiệp.

Còn Địa Quan (Thuấn Đế) chia Trung Quốc thành 12 châu, làm cho dân chúng có cuộc sống ổn định, hơn nữa vua Thuấn lại là người con chí hiếu, cho nên Tam Nguyên Nhật cũng còn được gọi là "Lễ báo hiếu".

Thời cổ, vào ngày lễ báo hiếu, người Trung Quốc giết dê, gà và đốt hương, hoá vàng để tế ông bà tổ tiên, rồi dần dần được mở rộng ra thành ngày phổ độ cho cả cô hồn và từ đó mang tên gọi "Trung Nguyên phổ độ".Nhưng ngày 15/7 cũng chính là Lễ Vu Lan của Phật giáo, như vậy Lễ Vu Lan của Phật giáo và Tết Quỷ trong dân gian Trung Quốc là không hoàn toàn giống nhau.

Ở Trung Quốc, Lễ Vũ Lan đầu tiên được bắt đầu từ thời Lương Vũ Đế, đến đời Đường (thế kỷ 7-10) đã rất thịnh hành.

Vu Lan là dịch ý từ tiếng phạn Ullambana, nghĩa là giải thoát khỏi sự "khốn khổ vì bị treo ngược".

Mẹ của tôn giả Mục Kiền Liên từng sống sa đọa, gây nhiều ác nghiệp, khi chết bị đoạ địa ngục làm quỷ đói và chịu hình phạt treo ngược người như vậy.

Ý nghĩa và nguồn gốc Lễ Vu Lan được ghi chép và giải thích rõ trong Vu Lan Bồn Kinh:"Thời Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, trong số 10 đại đệ tử của ngài có một vị tôn giả tên Mục Kiền Liên.

Sau này Mục Kiền Liên đắc quả A La Hán thoát khỏi nghiệp sinh tử và có pháp lực thần thông cao cường.

Trước khi Mục Kiền Liên tu thành chánh quả, cha mẹ của ngài đều đã mất sớm và trở thành quỷ đói bị đoạ vào địa ngục.

Sau khi đắc đạo, Mục Kiền Liên muốn báo ân phụ mẫu bèn dùng thiên nhãn quan sát khắp nơi, thấy song thân ngài đang bị giam hãm dưới âm ty với hình dạng quỷ đói hết sức đáng sợ: bụng to như núi, mà cổ họng chỉ nhỏ như cây kim, không thể ăn uống gì được, thân thể hai người chỉ còn da bọc xương mà thôi.

Mục Kiền Liên thấy vậy vô cùng đau xót bèn cầm một bát thức ăn dùng thần lực mang xuống âm phủ cho mẹ, nhưng thức ăn vừa đưa sát miệng liền hoá thành tro bụi.

Mục Kiền Liên đành chịu bất lực, vội đi bái kiến và thuật chuyện của mình cho Phật Thích Ca nghe.

Đức Phật nói: "Cha mẹ ngươi thời còn sống đạ tạo ra vô số tội lỗi, cho nên sau khi chết phải bị đoạ vào địa ngục làm quỷ đói để chịu quả báo, một mình ngươi không thể đủ sức cầu độ cho họ được, mà phải dựa vào uy lực của tăng chúng mười phương mới mong giải thoát nổi.

Vào ngày rằm từ tháng 4 đến tháng 7 hàng năm, tất cả tăng chúng đều cùng tụ họp tinh tiến tu hành, đến ngày rằm tháng 7 thì kết thúc và trong ngày này sẽ có nhiều tăng chúng đắc chánh quả.

Ngày ấy, nếu ngươi muốn cứu song thân khỏi khổ quỷ đói, phải cúng dường cơm chay cho tăng chúng, như vậy công đức rất lớn, không những việc làm đó có thể giải thoát cho song thân ngươi khỏi khổ quỷ đói, mà thậm chí còn có thể khiến 7 kiếp của song thân người còn được hưởng phúc trên trời.

Giá như cha mẹ ngươi còn tại thế, thì việc cầu cúng ấy cũng có thể khiến họ được thêm phúc đức và trường thọ".

Mục Kiền Liên làm theo lời Phật dạy, quả nhiên cha mẹ của tôn giả thoát được kiếp quỷ đói và siêu thăng".Dân gian tin rằng rằm tháng 7 là ngày Quỷ Môn Quan mở để ma quỷ được tự do về dương thế, đó cũng là ngày "âm khí xung thiên", cho nên ngoài việc cầu cúng, người ta cũng đặt ra nhiều điều kiêng cấm để bảo vệ bản thân mình.

Dưới đây là 18 điều cần kiêng tránh mà dân gian Trung Quốc thường tuân thủ trong ngày Lễ Vu Lan:1.

Không treo chuông gió ở đầu giường vì tiếng chuông sẽ thu hút sự chú ý của ma quỷ, khi ngủ sẽ dễ bị chúng xâm nhập quấy phá.

2.

Người yếu bóng vía, không nên đi chơi đêm vào ngày này, nếu không sẽ dễ gặp điều không may.

3.

Không được nhổ lông chân vào ngày này, vì dân gian cho rằng "Một sợi lông chân quản ba con quỷ", người càng có nhiều lông chân thì ma quỷ càng ít dám đến gần.

4.

Không tuỳ tiện đốt giấy, vàng mã vì như vậy sẽ khiến ma quỷ bu đến.

5.

Không ăn vụng đồ cúng, vì đó là đồ dành cho ma quỷ, nếu chưa cúng và cầu xin mà lấy ăn sẽ rước tai hoạ vào mình.

6.

Không phơi quần áo vào ban đêm, vì ma quỷ trông thấy sẽ "mượn" và để lại "quỷ khí" trong các quần áo ấy.

7.

Những người khi đi chơi đêm không được réo gọi tên nhau, nếu không ma quỷ sẽ ghi nhớ tên người được gọi, đó là điềm xấu.

8.

Không nên bơi lội, vì ma quỷ sẽ cùng đùa với bạn, nếu không cẩn thận, bạn sẽ bị chúng làm trặc trẹo chân.

9.

Không hù doạ người khác khiến họ giật mình "hồn bay phách lạc" dễ bị ma quỷ xâm nhập.

10.

Cây đa trước nhà là nơi hội tụ âm khí, ma quỷ rất thích những chỗ như vậy, cho nên kỵ đứng, ngồi, nằm, trốn...

ở đó.

11.

Không nên thức quá khuya, vì như vậy tinh thần sẽ hao tổn suy nhược, dễ nhiễm "quỷ khí".

12.

Nơi góc tường xó tối là những chỗ ma quỷ thường tụ tập nghỉ ngơi, không nên đến gần những chỗ ấy.

13.

Không nhặt tiền bạc rơi vãi trên đường, vì có thể đó là tiền người ta cúng mua chuộc bọn quỷ đầu trâu mặt ngựa, nếu người nào phạm kỵ, sẽ gặp tai hoạ không chừng.

14.

Khi đi đến qua những nơi vắng vẻ, không ngoái cổ quay đầu nhìn lại phía sau, dù có cảm giác "hình như" có người đang đi theo mình hoặc gọi tên mình.

Vì đó có thể do ma quỷ trêu chọc.

15.

Khi lên giường ngủ không để mũi dép hướng về phía giường, nếu không ma quỷ nhìn thấy sẽ đoán rằng có người sống đang nằm trên giường và chúng sẽ lên giường ngủ chung với bạn.

16.

Không cắm đũa đứng giữa bát cơm, vì đó là hình thức cúng tế, cũng giống như kiểu thắp hương, dễ dẫn dụ ma quỷ vào nhà ăn chung.

17.

Không nên ở một mình trong thời gian này, nếu không sẽ dễ bị ma quỷ dẫn dắt hoặc quấy phá.

18.Không chụp ảnh vào ban đêm, bởi ma quỷ luôn lảng vảng chung quanh đó sẽ "vô hình" vào ảnh chung với người sống, đó là điều không tốt.Như đã nói ở trên, sau 12h đêm ngày 14/7 thì tất cả ma quỷ âm vong đều quay lại cửa ngục, vậy cho nên sau ngày 15/7, tính khoảng từ ngày 16/7 trở đi, dương thế gần như đã trở lại bình thường, âm khí đã tiêu tan, dương khí bắt đầu sinh sôi trở lại.

Do đó, trước ngày rằm tháng 7 nên hạn chế làm những việc quan trọng như xây dựng, kinh doanh mua bán, cưới xin, động thổ...Tuy nhiên, sau ngày rằm, mọi việc đều diễn biến trở lại bình thường mà không cần thiết phải kiêng kị quá nhiều, có thể an tâm tiến hành mọi việc mà không lo sự quấy nhiễu của âm vong.

————————————————————

Link: http://congly.vn/giai-tri/van-hoa/t...g-co-hon-thang-le-vu-lan-bao-hieu-263794.html
 
Âm Giới
Hoa bỉ ngạn


Bỉ Ngạn hoa có 3 màu chính: Trắng, đỏ và vàng.

Bỉ Ngạn Hoa màu trắng gọi là Mạn Đà La Hoa (mandarava), Bỉ Ngạn Hoa màu đỏ gọi là Mạn Châu Sa Hoa (Manjusaka).1.Ý nghĩa – Biểu Trưng

Nhật Bản: Hồi ức đau thương

Triều Tiên: Nhớ về nhau

Trung Quốc: Ưu mỹ thuần khiết.

Còn có ý nghĩa là "phân ly, đau khổ, không may mắn, vẻ đẹp của cái chết" , nhưng nhiều người hiểu ý nghĩa hoa là "hồi ức đau thương" .2.Xuất xứ

Hoa Bỉ ngạn ban đầu được tìm thấy ở Trung Quốc.

Nó cũng được tìm thấy ở Nhật Bản.

Ở Hoa Kỳ các Lycoris radiata phát triển ở Bắc Carolina , Texas , và nhiều tiểu bang phía Nam khác.

Loài cây này được trông thấy ở Hoa kỳ lần đầu tiên năm 1854.

Đó là khi Hoa Kỳ mở cửa thương mại cho Nhật Bản.

Thuyền trưởng William Roberts trong một lần trở lại Hoa kỳ đã mang theo loài Lycoris radiata này từ Nhật.

Ông mang theo 3 cây, và những cây này được trồng và chăm sóc bởi cô cháu gái.

Sau một thời gian chăm sóc và cô thấy rằng loài cây này không nở hoa cho đến khi sau một cơn mưa đầu mùa của mùa thu.3.Đặc điểm

Lycoris radiata không thích nhiệt.

Nó thích một môi trường ấm áp.

Khi nhiệt độ vào mùa hè quá cao, các cây Lycoris radiata sẽ chết.

Các cây Bỉ Ngạn thường được trồng ở những khu vực có hệ thống thoát nước tốt để các bông hoa không bị tổn hai và phát triển bình thường.

Đặc biệt là khu vực trồng cũng không bị ảnh hưởng bởi gió quá nhiều vào những tháng mùa đông.

Ba ngày trước và sau xuân phân gọi là Xuân Bỉ Ngạn, ba ngày trước và sau thu phân gọi là Thu Bỉ Ngạn.

Bỉ Ngạn hoa nở vào Thu Bỉ Ngạn, thời gian rất chính xác cho nên mới gọi là Bỉ Ngạn hoa.

Lúc Bỉ Ngạn hoa nở thì không thấy lá, khi có lá thì không thấy hoa, hoa là không bao giờ gặp gỡ, đời đời dở lỡ.

Bởi vậy mấy có cách nói: " Bỉ Ngạn hoa nở nơi Bỉ Ngạn, chỉ thấy hoa, không thấy lá" .

Nhớ nhau thương nhau nhưng vĩnh viễn mất nhau, cứ như thế luân hồi và hoa lá không bao giờ nhìn thấy nhau, cũng có ý nghĩa là mối tình đau thương vĩnh viễn không thể gặp gỡ.Trong Phật kinh có ghi "Bỉ Ngạn hoa, một nghìn năm hoa nở, một nghìn năm hoa tàn, hoa diệp vĩnh bất tương kiến.

Tình bất vi nhân quả, duyên chú định sinh tử"
 
Âm Giới
Truyền thuyết hoa bỉ ngạn


Tương truyền loài hoa này nở nơi hoàng tuyền, đa số người đều nhận định rằng Bỉ Ngạn hoa nở bên cạnh Vong Xuyên hồ ở Minh giới.

Hoa có màu đỏ rực rỡ như máu, phủ đầy trên con đường thông đến địa ngục, mà có hoa thì không có lá, đây là loài hoa duy nhất của Minh giới.

Theo truyền thuyết hương hoa có ma lực, có thể gọi về kí ức lúc còn sống của người chết.

Trên con đường Hoàng Tuyền nở rất nhiều loài hoa này, nhìn từ xa như một tấm thảm phủ đầy máu, màu đỏ đó như là ánh lửa nên bị gọi là "hỏa chiếu chi lộ", đây cũng là loài hoa duy nhất mọc trên con đường Hoàng Tuyền, và cũng là phong cảnh, là màu sắc duy nhất ở nơi đấy.

Khi linh hồn đi qua vong xuyên, liền quên hết tất cả những gì khi còn sống, tất cả mọi thứ đều lưu lại nơi bỉ ngạn, bước theo sự chỉ dẫn của loài hoa này mà hướng đến địa ngục của u linh.Bỉ Ngạn hoa, sự dịu dàng của ác ma

Bỉ Ngạn hoa là đóa hoa trong truyền thuyết tình nguyện đi vào địa ngục, bị chúng ma quỷ bắt quay về nhưng vẫn ngập ngừng trên con đường Hoàng Tuyền, chúng ma quỷ không nhịn được nên đều đồng ý cho nàng nở trên con đường này, cho những linh hồn đã rời khỏi nhân giới có một sự chỉ dẫn và an ủi.

————————————————————

[ Tương quan truyền thuyết 1 ]Truyền thuyết nói, rất lâu rất lâu trước đây, ven thành thị nở một dải lớn Bỉ Ngạn hoa – cũng chính là Mạn Châu Sa Hoa.

Bảo vệ bên cạnh Bỉ Ngạn hoa là hai yêu tinh, một người tên là Mạn Châu, một người tên là Sa Hoa.

Bọn họ đã canh giữ Bỉ Ngạn hoa suốt mấy nghìn năm nhưng trước giờ chưa từng tận mắt nhìn thấy đối phương ......

Bởi vì lúc hoa nở nhìn không thấy lá; khi có lá lại không thấy hoa.

Giữa hoa và lá, cuối cùng cũng không thể gặp nhau, đời đời lầm lỡ.

Thế nhưng, bọn họ điên cuồng nhung nhớ đối phương, và bị nỗi đau khổ hành hạ sâu sắc.

Cuối cùng có một ngày, bọn họ quyết định làm trái quy định của thần, lén gặp nhau một lần.

Năm đó, sắc đỏ rực rỡ của Mạn Châu Sa Hoa được sắc xanh bắt mắt bao bọc lấy, nở ra đặc biệt yêu diễm xinh đẹp.

Thế nhưng vì việc này mà Thần trách tội.

Mạn Châu và Sa Hoa bị đánh vào luân hồi, và bị lời nguyền vĩnh viễn không thể ở cùng nhau, đời đời kiếp kiếp ở nhân gian chịu đựng nỗi đau khổ.

Kể từ đó về sau, Mạn Châu Sa Hoa chỉ nở trên con đường Hoàng Tuyền, hoa có hình dạng như những cánh tay hướng về thiên đường để cầu khẩn, mỗi khi Mạn Châu và Sa Hoa luân hồi chuyển thế, trên con đường Hoàng Tuyền ngửi thấy mùi hương của Bỉ Ngạn hoa thì có thể nhớ lại bản thân ở kiếp trước, sau đó thề không bao giờ chia lìa nữa nhưng vẫn lần nữa bị lời nguyền kéo vào vòng luân hồi.——————————————————

Hoa Bỉ Ngạn trong quan điểm nhà Phật

Trong kinh Phật thường thấy xuất hiện nhiều tên Hoa trong thời thuyết pháp của Phật như: Mưa hoa Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa, hoa Ma-ha Mạn Đà La, hoa Ma-ha Mạn Thù Sa.

Thông thường mọi người đều biết hoa Mạn Đà La là một loại hoa trà, rất hiếm người biết nó là hoa Mạn Thù Sa, hoặc là hoa Mạn Châu Sa

Chúng ta đều biết rõ con người sau khi chết, sẽ không còn chấp trước.

Nhưng chúng ta không thể vì điều này mà cam chịu thụt lùi, cho rằng làm người dù sao đi nữa thì cũng phải trở về, thích sống như thế nào thì cứ sống như thế đó, điều này không được, đây gọi là "chấp không".

Trong kinh Phật nói, thân người khó được.

Đời sống của người thế tục cho dù không có ý nghĩa, nhưng suốt cuộc đời của một con người trải qua mấy mươi năm lại rất quý.

Chúng tôi thông qua việc học Phật, thông qua sự nỗ lực tu hành, thông qua phương thức sinh hoạt với thế tục, thì cuộc sống có ý nghĩa khác, đó chính là thành Phật.

Có người nói, Phật cũng là người.

Đúng, Phật cũng là người, nhưng lại là Người đã giác ngộ.

Cho nên kinh nói, chúng sanh là Phật chưa giác ngộ, Phật là chúng sanh đã giác ngộ.

Không nên cho rằng sau khi thành Phật, ngồi trên tòa sen trong Đại Hùng Bảo Điện, khói hương xông ướp, được muôn người bái lạy.

Như thế có đúng không?

Sau khi đức Thích Ca thành Phật, qua 49 năm đi trong mưa gió thuyết pháp độ sanh, với chiếc bình bát du hóa suốt cả đời.

Vậy thì sau khi thành Phật, người vẫn là người đó, nhưng trạng thái tâm lý của họ đã phát sanh sự thay đổi căn bản, họ đã trở thành người thanh tịnh sáng suốt, không còn sự trói buộc nào, bừng bừng sức sống.

Tóm lại Tâm Kinh Bát nhã đã kết thúc loài hoa Mạn Thù Sa: Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, nhưng sắc tức là không, không tức là sắc, thọ, tưởng , hành thức cũng lại như thế.

Tương truyền hoa này chỉ nở ở Huỳnh Tuyền, là phong cảnh duy nhất trên đường Huỳnh Tuyền, hoa nơi đó nở hàng loạt, nhìn từ xa có thể thấy nó giống như tấm thảm màu hồng tươi rực rỡ trải dài, vì màu của nó đỏ như lửa, trắng như lau, giống như máu mà được gọi là "con đường rực lửa"

Hoa Mạn Châu Sa còn gọi là hoa Bỉ Ngạn.

Thông thường cho rằng đây là loài hoa tiếp dẫn, sanh trưởng bên bờ sông Tam đồ.

Theo truyền thuyết, mùi hương của hoa có ma lực, có thể gọi ký ức thuở còn sanh tiền của người chết trở về.

Ba ngày Xuân lần lượt đi qua gọi là Xuân Bỉ Ngạn, ba ngày Thu chầm chầm trôi qua gọi là Thu Bỉ Ngạn.

Là ngày thăm mồ mã.

Hoa Bỉ Ngạn nở giữa thời kỳ Thu Bỉ Ngạn rất đúng giờ, cho nên mới gọi là hoa Bỉ Ngạn

Hoa Bỉ Ngạn lúc nở hoa nhìn không thấy lá, khi có lá thì không thấy hoa.

Hoa lá không thấy nhau, nhưng chúng đan xen với nhau đời đời.

——————————————————

Link: https://www.google.com.vn/amp/s/tru.../04/20/hoang-tuyền-bỉ-ngạn-truyền-thuyết/amp/
 
Âm Giới
Truyền thuyết về tam sinh thạch


Từ xưa đến nay, dân gian đều lưu truyền một truyền thuyết rằng, người chết trước khi được đầu thai chuyển thế nhất định phải đi qua một con đường u minh gọi là Hoàng Tuyền lộ để đến sông Vong Xuyên.Truyền thuyết kể rằng trên con sông Vong Xuyên ấy có một cây cầu gọi là Nại Hà, đi qua cầu Nại Hà lại gặp Vọng Hương Đài.

Nơi đó có một bà lão phân phát canh Mạnh Bà cho các vong hồn gọi là Mạnh Bà địa ngục.

Bên bờ sông Vong Xuyên, đầu cầu Nại Hà có một tảng đá lớn gọi là "Tam Sinh Thạch".

Tương truyền rằng, trên Tam Sinh Thạch có ghi chép lại kiếp trước, kiếp này và kiếp sau của một linh hồn.

Linh hồn trước khi đầu thai, đứng trên Vọng Hương Đài trông về phía xa, đưa mắt nhìn về phía gia đình, người thân ở dương gian một lần cuối sau rồi uống bát nước canh của Mạnh Bà dưới địa ngục cho quên hết mọi chuyện buồn vui ở kiếp trước, đồng thời cũng mở ra một kiếp trầm luân mới.

Tam Sinh, theo như bên Phật gia thì là tam thế chuyển sinh, tức là kiếp trước, kiếp này, kiếp sau.

Phật gia cho rằng, sinh mệnh là vĩnh hằng, cho nên sinh mệnh có luân hồi chuyển thế.

Kiếp trước là nhân, kiếp này là quả, kiếp sau là duyên.

Nhân duyên tụ hợp, duyên diệt duyên khởi, nợ tình duyên còn phải hoàn trả, oan trái...hết thảy đều được ghi lại rõ ràng trên Tam Sinh Thạch – Đá Ba Đời.

——————————————————

những năm tháng cuối thời nhà Đường, tại chùa Huệ Lâm ở Lạc Dương có hòa thượng tên Viên Quan, biết trồng trọt, có nhiều lương thực và của cải.

Ngoài việc am hiểu Phật học ra, ông còn rất tinh thông âm luật.

Người đương thời gọi ông là Phú hòa thượng, nhưng không ai biết lai lịch của ông.Cũng thời ấy, Lý Nguyên vốn thuộc dòng dõi quan to trong triều.

Trong năm Thiên Bảo (niên hiệu Đường Huyền Tông), cả ngày ông ăn uống vui chơi, say sưa trong ca múa và rượu, mặc sức hưởng lạc.

Cha của Lý Nguyên là Lý Khải canh giữ ở biên cương, về sau bị An Lộc Sơn giết hại.Từ đó về sau, Lý Nguyên từ bỏ cuộc sống ăn chơi trước đây, ẩn cư ở chùa Huệ Lâm, đồng thời ông đem toàn bộ gia sản quyên tặng cho chùa Huệ Lâm, phát thệ nguyện không cầu công danh, bổng lộc, không kết hôn, không thuê mướn nô bộc.Bởi vậy, Lý Nguyên và Viên Quan trở thành đôi bạn tốt, không có gì giấu nhau.

Hai người ngày ngày ngồi nói chuyện cùng nhau, từ sáng sớm đến khi hoàng hôn, không ai biết rõ họ nói những gì.

Cứ như vậy, họ chung sống và kết giao bạn bè ba mươi năm.Một hôm họ hẹn nhau đi chơi Thục Châu, đến núi Nga Mi ở Thanh Thành tìm Đạo và xin thuốc.

Viên Quan muốn đi qua Trường An nên chọn tuyến đường từ Tà Cốc đi ra.

Lý Nguyên muốn đi qua Kinh Châu, nên chọn tuyến đường từ Tam Hiệp đi bằng đường thủy.

Họ liên tục tranh luận cùng nhau, đến nửa năm trời mà vẫn không thống nhất ý kiến.

Lý Nguyên khăng khăng giữ ý kiến của mình nên Viên Quan đành phải nói:

"Đi đường nào thực sự không thể theo ý muốn cá nhân, hãy đi đường thủy từ Tam Hiệp đi".Hôm ấy đến Nam Phổ, thuyền dừng lại ở bên bờ.

Họ gặp một người phụ nữ mang thai đang múc nước ở bên bờ sông.

Lúc ấy, Viên Quan rơi lệ nói với Lý Nguyên:

"Tôi không muốn đi con đường này chính là vì sợ gặp người phụ nữ này.

Người phụ nữ này họ Vương, kiếp sau tôi phải chuyển sinh thành con của người phụ nữ này.

Cô ấy mang thai đã ba năm mà vẫn chưa sinh nở, chính là vì chờ tôi đầu thai.

Hôm nay đã gặp người phụ nữ này, tức là mệnh của tôi đã đến lúc tận, cũng chính là luân hồi chuyển kiếp mà Phật gia thường nói."

Viên Quan lại nói:

"Mong ông giúp tôi tụng mấy câu bùa chú để tôi mau được đầu thai.

Ông cho thuyền dừng lại vài ngày rồi chôn tôi dưới chân núi.

Sau ba ngày đứa trẻ ra đời thì ông đến nhà họ Vương hỏi thăm, nếu như đứa trẻ vừa gặp ông đã cười tức là nó có quen biết ông.

Đêm đó đứa trẻ ấy cũng sẽ chết đi.

Mười hai năm sau, vào đêm trung thu, ở chùa Thiên Trúc tại Hàng Châu, chúng ta sẽ gặp lại nhau".Lý Nguyên lúc này vô cùng hối hận vì đã khăng khăng lựa chọn con đường này.

Trong lòng ông cảm thấy cực kỳ bi thương.

Thế rồi, ông dặn dò người phụ nữ kia chuẩn bị chu đáo cho ngày sinh nở.

Còn Viên Quan thì đi tắm gội sạch sẽ rồi thay đồ mới, đêm hôm đó vừa lúc Viên Quan tọa hóa thì người phụ nữ kia cũng hạ sinh một bé trai.

Ba ngày sau, Lý Nguyên liền tới thăm hài nhi mới sinh, quả nhiên đứa trẻ vừa nhìn thấy ông đã nở nụ cười.

Đêm hôm đó, đứa trẻ cũng qua đời.

Lý Nguyên bèn đem câu chuyện kể lại với người phụ nữ họ Vương và chôn cất đứa trẻ.Mười hai năm sau, vào ngày trung thu, Lý Nguyên tới chùa Thiên Trúc ở Hàng Châu như Viên Quan đã hẹn năm xưa.

Đang không biết tìm bóng dáng Viên Quan ở đâu, Lý Nguyên nhìn thấy trên bãi cát bên bờ sông có một chú bé cưỡi trâu (mục đồng) ngâm khúc "trúc tri từ", cưỡi trâu vừa đi vừa gõ vào sừng trâu, khi đến trước chùa Thiên Trúc thì nhận ra chính là Viên Quan.Lý Nguyên chào nói:

"Quan Công, ông có khỏe không?"

Mục đồng trả lời:

"Ông đúng là người biết giữ chữ tín ước hẹn.

Bây giờ chúng ta đi con đường khác nhau, không nên gần nhau nữa.

Duyên kiếp của anh vẫn chưa tận, nên hy vọng rằng anh sẽ cố gắng tu hành, nếu có thể cố gắng tận lực tu hành, chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau thôi".Lý Nguyên vì không thể tiếp tục làm bạn với Viên Quan như những tháng ngày trước đây được nữa, nên đành bất lực nhìn theo Viên Quan mà lã chã rơi lệ.Viên Quan vừa cưỡi trâu đi vừa ngâm nga bài trúc chi từ, hình bóng mỗi lúc một xa dần.

Dù cho núi non trùng điệp, sông nước mênh mông nhưng vẫn có thể nghe được giai điệu ngân nga.

Khi ông đến trước chùa thì nghe ca là: "Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn, thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luận.

Tàm quý tình nhân viễn tương phóng, thử thân tuy dị tính trường tồn."

(Tạm dịch: Tôi chính là linh hồn thực sự của Đá Ba Đời, tôi không còn muốn nói chuyện ngắm trăng, ngâm thơ, đàm luận gì nữa.

Thật vui khi người bạn thân thương từ xa đến thăm viếng.

Thân xác thịt của tôi tuy đã đổi khác nhưng tôi vẫn là tôi.)————————————————————

Vì sao Tam Sinh Thạch mang ý nghĩa nhân duyên tiền định?

"Tam Sinh Thạch" chính là có nguồn gốc từ trong câu "Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn" mà Viên Quan ca, dựa theo nhân duyên giữa Lý Nguyên và Viên Quan bao gồm Viên Quan, đứa trẻ sơ sinh, đứa trẻ cưỡi trâu (mục đồng), vừa đúng là ba đời.

Vì thế, người đời sau gọi tảng đá lớn ở bên sông chỗ hai người gặp nhau khi xưa là "Tam Sinh Thạch" (Đá Ba Đời).

Và từ đó, Tam Sinh Thạch cũng được dùng để ẩn dụ nhân duyên tiền định.

Văn học gia triều nhà Tống, Tô Đông Pha trong cuốn "Tăng Viên Trạch truyện" cũng viết về việc Lý Nguyên và Viên Quan hết lòng giữ chữ tín, tuân thủ ước định, nhưng vị tăng nhân này trong truyện của Tô Đông Pha tên là Viên Trạch mà không phải là Viên Quan.

Ở ngã tư của núi Nam Liên Hoa và Núi Phong Đông cũng có tảng đá "Tam Sinh Thạch" và là một trong 16 di tích ở Tây Hồ.

Người ta nói rằng đó là nơi ngày xưa Viên Quan gặp Lý Nguyên.

Tảng đá này cao khoảng 10 m, rất dốc và bên trên tảng đá có khắc ba chữ Triện rất to "Tam Sinh Thạch".

Trên tảng đá có bia văn "Tam sinh thì tích" của hòa thượng Viên Trạch, nhà Đường

___________________________

Link: https://www.google.com.vn/amp/s/www.dkn.tv/van-hoa/dang-dich-tam-sinh-thach.html/amp
 
Âm Giới
Vong Xuyên


* Nguồn gốc

Vong là quên lãng, mất, thất lạc

Xuyên là dòng sông

=>Vong Xuyên là dòng sông quên lãng, đó là dòng sông giao nhau giữa hai bờ Sinh Tử của hai cõi Dương Gian và Âm Gian.

Những người ở giai đoạn chết lâm sàng, hoặc hấp hối, hoặc thần thức, hay chơn hồn đang rời khỏi thân xác nhưng vì lí do còn mong muốn tiếp tục được sống, hoặc là do chưa tới số chết thì trước mắt chơn hồn ấy xuất hiện dòng sông lãng quên này.

Chơn hồn ấy nếu đi qua bờ bên kia của dòng sông, tức là đã bước vào cõi Trung Giới, quên lãng những chuyện muốn làm, quên chuyện muốn tiếp tục sống, hồn đã lìa khỏi xác thực sự, khó lòng trở lại đặng.* Tính chất đặc trưng

Có những người khi kết thúc thọ mạng của mình, chơn hồn của họ vẫn chưa chấp nhận được việc mình đã chết.

Họ muốn tiếp tục được sống, tiếp tục ở lại thân xác của mình hoàn thành nốt các nguyện vọng chưa thực hiện được.

Lúc bấy giờ dòng sông lãng quên sẽ xuất hiện trước mắt họ, bên bờ kia của sông là hình ảnh của những người thân đã quá vãng của họ.

Nếu muốn đoàn tụ với thân nhân của mình thì tự nhiên sẽ tìm cách vượt qua Vong Xuyên.

Lúc bấy giờ trên sông có thể sẽ xuất hiện một chiêc thuyền nhỏ từ từ tiến đến gần họ.

Trên thuyền có một người toàn thân khoác áo đen, có khăn trùm phủ từ đỉnh đầu xuống qua vai, người ấy sẽ mời họ lên thuyền để chở họ qua bờ bên kia đoàn tụ gia đình.

Khi ấy, vì ý muốn đoàn tụ mãnh liệt, người ta sẽ quên mất việc tiếp tục muốn được sống, quên mất những việc muốn hoàn thành tâm nguyện, quên cả nỗi sợ hãi khi đứng trước cảnh sắc lạ lùng và gặp một người bí ẩn đón mình trên sông như vậy.

Chơn hồn ấy theo lời mời gọi giúp đỡ từ thuyền nhân sẽ nhanh chóng được đưa sang bờ bên kia đoàn tụ gia đình, đó chính là lúc hồn của họ rời khỏi thân xác hoàn toàn.

Cũng có những trường hợp chơn hồn vì mong muốn được qua bờ bên kia mãnh liệt đến nỗi chỉ một niệm đã biến hiện qua bờ ấy, hoặc tự họ bơi qua bờ bên kia nhanh chóng chẳng cần thuyền đưa rước.

Dòng nước chảy trong Vong Xuyên là dòng kí ức, tư niệm của người đứng ở bờ ấy.

Khi đứng ở bờ, hoặc lúc đi qua sông thì những hình ảnh vui buồn, những điều được khắc sâu trong tâm tư của người ấy sẽ xuất hiện rõ ràng trên mặt nước.

Sự xuất hiện từ tâm thức mang tính khơi gợi cảm xúc này, cùng những hình ảnh thân nhân bên bờ kia sẽ quyết định việc người ấy muốn tiếp tục qua bờ, buông xả chấp niệm, để mặc những kí ức ấy lặng lẽ trôi theo dòng sông quên lãng, hay ôm ấp ý muốn được sống và quay trở lại thân xác.

Bên bờ Vong Xuyên có Bỉ Ngạn Hoa rất nhiều màu sắc, từ đỏ hồng tươi thắm, đỏ cam, vàng, trắng, hồng, xanh lam, đỏ thẫm và đen tuyền.

Người ở trước bờ Vong Xuyên, khi tâm tình của họ cảm thấy an vui khoái lạc, có thể qua được Vong Xuyên, buông xả tư niệm, ý muốn níu kéo thọ mạng của mình.

Lúc bấy giờ, tự nhiên họ sẽ nhìn thấy muôn đóa hoa hai bên bờ liền chuyển màu sang trắng hoặc vàng, hay ửng màu hồng nhạt, đỏ thắm đầy tươi vui an lạc.

Nếu tư niệm của người ấy khát khao được sống để hoàn thành các tâm nguyện của mình một cách mạnh mẽ thì hoa sẽ chuyển sang màu xanh.

Nếu họ vì oán hận muốn tiếp tục sống để báo oán, không cam lòng chuyển sinh thì sẽ thấy hoa biến thành màu xám, đen hay đỏ đen.* Sự khác biệt giữa Vong Xuyên và Nại Hà Kiều.

Vong Xuyên xuất hiện khi chơn hồn rời khỏi thân xác nhưng thần thức vẫn còn muốn tiếp tục níu kéo sự sống với thân xác.

Người ấy có thể đã đến ngày giờ kết thúc thọ mạng của mình, có thể chưa đến ngày kết thúc nhưng vì lý do hôn mê, ngất xỉu, tai nạn, bệnh tật, thần thức rời thân xác lúc ngủ hoặc nhập định, hay do có ai đó dẫn dắt mà du hành rồi có duyên nhìn thấy Vong Xuyên.

Bước qua bờ bên kia thì chơn hồn ấy khó lòng nhập về xác lại được, coi như người đó sẽ thực sự chết, hoặc là thân thể rơi vào trạng thái đời sống thực vật đến khi kết thúc thọ mạng.

Là lằn ranh giao nhau của Sinh và Tử

Có người lái thuyền giúp qua sông thuận tiện

Bên dưới Vong Xuyên là dòng ký ức của người đang ở bờ Vong Xuyên.

Khi đi qua sông sẽ hồi tưởng lại những điều mình từng tư niệm bám chấp.

Nếu ký ức ấy làm cảm động để quay lại thì người ta không qua bờ kia, nếu người ta lặng lẽ cho qua để hướng đến việc đoàn tụ thân nhân thì ký ức ấy sẽ dần lặng chìm, trôi theo dòng sông lãng quên.

Bên bờ Vong Xuyên có Bỉ Ngạn Hoa, tùy theo tâm tư tình cảm, ý muốn của người ấy mà sẽ nhìn thấy các đóa hoa cùng chuyển thành những màu giống nhau.

Nếu muốn tiếp tục sống, tuyệt đối không bước qua bờ Vong Xuyên.

Nại Hà Kiều xuất hiện khi chơn hồn muốn chuyển sinh, nhưng lại lo lắng sợ hãi việc chuyển sinh ấy, trong trạng thái tâm thức vừa muốn lại vừa sợ nên không dám thực hiện ý muốn ấy.

Bên dưới Nại Hà Kiều là Hắc Hải, là Biển Đen hay còn gọi là Biển Chết.

Dưới Hắc Hải ấy có hàng hà sa số các loài ngư trùng thủy tộc tà linh ác thú hung tợn vô cùng, sẵn sàng cấu xé chơn hồn nào rơi xuống đó.

Có Mạnh Bà ở gần chân cầu khi vừa xuất hiện trước mắt chơn hồn.

Mạnh Bà giúp an ủi, động viên, cho uống chén Trà Vô Ưu hay ăn bát Cháo Lú được ấm lòng, để quên đi những rối ren phiền muộn mà đủ tự tin, buông xả các chấp niệm sợ hãi, từ đó chơn hồn thuận lợi bước qua đầu cầu bên kia để chuyển sinh.

Ở bờ Nại Hà Kiều, xung quanh nơi Mạnh Bà cư ngụ có Vong Luyến Chi Huyên hay còn goi là Vô Ưu Thảo, là loại tiên thảo nguyên liệu chính Mạnh Bà dùng để tinh luyện Vô Ưu Trà hay Cháo Lú.————————————————————

Link:
 
Âm Giới
Truyền thuyết Canh Mạnh Bà


Người ta nói rằng, sau khi con người chết đi, linh hồn sẽ phải đi qua một con đường gọi là Hoàng Tuyền lộ.

Cuối đường có dòng sông Vong Xuyên, nước chảy không ngừng.

Bắc ngang qua sông là cầu Nại Hà, đi hết cây cầu này sẽ đến Vọng Hương Đài.

Những linh hồn được đầu thai làm người đều phải qua Vọng Hương Đài này, rồi uống bát canh quên lãng của một bà lão tên là Mạnh Bà.Bất cứ ai uống bát canh Mạnh Bà ấy thì mọi chuyện trong quá khứ đều trôi theo dòng nước Vong Xuyên mà chìm vào quên lãng.

Những hỷ nộ ai lạc, những ân oán tình thù, hết thảy đều tan đi như làn khói, chỉ còn lại ký ức trống rỗng cùng một gương mặt yên bình.Vậy Mạnh Bà là ai mà có thể điều chế ra thứ canh quên lãng kỳ diệu ấy?Truyền thuyết kể rằng Mạnh Bà tên gọi là Mạnh Nguyệt Nương, là một người phụ nữ sống vào thời Tây Hán.

Mạnh Nguyệt Nương là tiểu thư khuê các của một gia đình giàu có, nhưng từ nhỏ đã không màng đến công danh lợi lộc, cũng không màng tới cuộc sống nơi thế gian, mà chỉ có một nguyện ước được tu hành.

Đến năm 20 tuổi, Mạnh Nguyệt Nương cải trang thành con trai, vân du khắp nơi để tầm sư học Đạo.Một ngày kia, Mạnh Nguyệt Nương đến núi Võ Đang.

Sẵn có thiên tính bẩm sinh, bà biết rằng trên núi có chân nhân tọa trấn, nên muốn nhân cơ hội này đến diện kiến.

Núi Võ Đang vốn là nơi ở của Chân Vũ Đại Đế, một trong bốn vị thần tinh tú của Đạo gia.

Trước khi Mạnh Nguyệt Nương lên núi, thần Chân Vũ đã tiên đoán được sự xuất hiện của một bậc cao nhân, bèn sai đồ đệ đi tiếp đón.Vị đồ đệ của Chân Vũ vừa gặp Mạnh Nguyệt Nương đã có ý khinh thường, cho rằng đó chỉ là một thôn nữ bình thường, không đáng để được tiếp đón.

Thế là, vị đồ đệ này sai một tiểu đồng mang chén trà ra mời khách, còn mình thì bỏ đi luyện công, để mặc khách một mình ngắm cảnh.Mạnh Nguyệt Nương trong lòng phật ý nên định bụng sẽ cho vị đồ đệ kia một bài học.

Thế là, bà lấy ra một ít thảo dược bí truyền bỏ vào chén trà, sau đó nằm lăn lộn trên mặt đất, vừa ôm bụng vừa kêu lên: "Trong trà có độc, trong trà có độc!"

Vị đồ đệ biết chuyện, trong lòng giật mình kinh sợ, bèn vội vã chạy đến.

Lúc ấy Mạnh Nguyệt Nương đang nằm co ro rên rỉ, miệng không ngừng kêu thét.

Vị đồ đệ bưng chén trà lên xem xét, đúng lúc ấy bị nữ khách đổ chén trà vào miệng anh ta, còn cười lớn rằng: "Cho ngươi chịu đắng xem thế nào!"

Bột thuốc ấy vốn là thảo dược bí truyền của Mạnh gia, chuyên dùng để bôi ngoài da.

Nhưng nếu uống vào sẽ đắng đến 3 tháng sau mới hết.Mạnh Nguyệt Nương chỉ định đùa một trận, nhưng không ngờ sau khi uống phải chén trà kia, vị đồ đệ ấy lại trở nên ngờ nghệch, đôi mắt cứ lơ đãng nhìn xung quanh.Chuyện gì đang xảy ra thế này?

Mạnh Nguyệt Nương bối rối không biết phải làm sao.

Đúng lúc ấy Chân Vũ Đại Đế hiện ra trước mặt, nói rằng: "Đạo hữu, ta có lòng mến khách, dùng trà tiên thảo của núi Võ Đang chiêu đãi đạo hữu, cớ sao ngươi lại giở trò với đệ tử ta?"

Mạnh Nguyệt Nương biết mình sai, nhưng vẫn cố cãi lại: "Đồ đệ của ông bất kính với ta, ta cũng chỉ đùa một chút chứ không có ý làm hại, vậy sao ông còn bênh vực đồ đệ của mình như thế?"

"Đạo hữu hiểu nhầm rồi, bần đạo đến đây chỉ để nói lời cảm tạ.

May nhờ tiên dược của đạo hữu, tên đồ đệ chẳng ra sao của ta nay đã tu thành kim đan đại đạo!"

Mạnh Nguyệt Nương kinh ngạc hỏi lại: "Sao có thể thế được?

Thuốc của ta chỉ để trị vết thương ngoài da, hà cớ gì lại giúp người ta tu thành được?"

Chân Vũ Đại Đế cười lớn: "Đồ đệ của ta đã tu hơn 300 năm rồi, đáng lẽ đã có thể thành đạo, nhưng vì tư tưởng chứa đầy tạp niệm nên mới lẹt đẹt mãi không lên được.

Nhờ có tiên dược của đạo hữu, tên đồ đệ ngốc ấy đã quên đi quá khứ, tâm trí thanh tịnh, cho nên chỉ trong nháy mắt đã đắc đạo thành tiên".Thì ra, bột thuốc của Mạnh Nguyệt Nương khi pha lẫn cùng với trà tiên thảo của núi Võ Đang lại có thể giúp người ta quên đi quá khứ, đạt đến độ thân tâm thuần tịnh.Sau đó, Chân Vũ Đại Đế lấy ra một gói đồ tặng cho Mạnh Nguyệt Nương để tỏ lòng thành kính: "Đây là tiên thảo trà đặc biệt của núi Võ Đang, nay xin tặng lại đạo hữu để thay lời cảm kích"Cũng kể từ đó, Mạnh Nguyệt Nương và Chân Vũ Đại Đế kết làm huynh muội.

Bà đã ở lại núi Võ Đang tu luyện suốt 49 năm trước khi đắc đạo thành tiên.

Món trà quên lãng chính là được tìm ra như thế, nó gắn liền với câu chuyện tu đạo của bà.

Đây là loại trà thần bí mà chỉ có mình Mạnh Nguyệt Nương mới có thể chế xuất ra được.

Nó là thứ báu vật có sức mạnh kinh thiên động địa, chấn động quỷ thần, biết bao người tu tiên luyện đạo muốn có mà không thể được.Có câu chuyện kể rằng Mạnh Nguyệt Nương từng kết bạn với Thập điện Diêm Vương.

Diêm Vương ngỏ ý mời bà về cai quản tầng thứ 11, nhưng Mạnh Nguyệt Nương lại nguyện ý đến cầu Nại Hà, ban phát món canh quên lãng cho những vong hồn trước khi đầu thai, giúp họ thanh tịnh thân tâm, quên đi tất cả những ký ức đau buồn để bắt đầu một cuộc đời mới.

Người ta nói trẻ em ngây thơ trong sáng như những thiên thần, ấy là bởi đã được uống một bát canh của Mạnh Bà...————————————————————

Theo Blog Huỳnh Chương Hưng

Hồng Liên

Link: https://mb.dkn.tv/van-hoa/ba-lao-di...-quen-lang-o-cua-dia-nguc-rot-cuoc-la-ai.html
 
Âm Giới
Truyền thuyết canh mạnh bà 2 -Mạnh Bà Thang


Qua cầu Nại Hà cũng không uống canh Mạnh Bà .

Để kiếp sau... còn nhớ , kiếp sau... còn mãi đi tìm...Gió âm thổi từng cơn ớn lạnh.

Cô tỉnh lại, thấy xung quanh khung cảnh âm u, ghê rợn.

Mùi tanh hôi đáng sợ bốc lên nồng nặc.

Dưới cầu Nại Hà, Vong Xuyên giang nước trôi không ngừng nghỉ.

Như dòng chảy của thế nhân, trôi rồi có hay về đâu chẳng biết.-Hài tử, con tỉnh lại rồi đấy à?Giọng nói già nua làm cô thấy lạnh người.

Có một bà lão đang đứng khuấy một cái nồi rất to.

Bà không nhìn đến cô, cầm một cái bát, múc từ trong nồi ra đưa cho cô.-Hài tử, uống đi.

Uống xong con sẽ được qua Vong Xuyên giang.Cô đờ cả người ra.

Không hiểu bà lão muốn mình uống thứ gì.

Trong bát là một thứ chất lỏng trong suốt.

Cô đỡ lấy, nhìn rồi hỏi:-Thưa bà, đây là cái gì ạ?-Con không biết sao, đây là Mạnh Bà Thang.Cô giật mình, suýt thì làm rơi bát canh trên tay.

Nhưng thật kì lạ, nó như bám chặt lấy tay cô, không rơi ra được.

Bà lão lại tiếp tục khuấy cái nồi, nói chậm rãi:-Đừng phí phạm như thế.

Không uống nó, con sẽ không qua được Vong Xuyên giang, vĩnh viễn không được siêu sinh.Cô vẫn không hiểu bà muốn nói gì.

Cô chỉ muốn khóc.

Chẳng lẽ cô chết thật rồi sao?-Phải... con đã chết rồi - Bà nói như đọc được ý nghĩ của cô.-Không, con không tin.-Hài tử, chưa uống canh mà con đã quên hết rồi sao?

Con đã quên mình xuống đây thế nào rồi sao?Cô không nói gì, chỉ cúi mặt.

Bây giờ cô mới thấy, mình đang mặc một bộ đồ trắng, đôi chân rớm máu, mái tóc xõa rối bù.

À đúng rồi, cô đã chết rồi.

Cô có thể quên tất cả nhưng vẫn nhớ lời hẹn thề bên dòng sông Hoàng Phố.-Nếu sau này anh chết, em sẽ làm sao?-Em sẽ đi kiếm người yêu khác?-Thật hả?

Em ác thế?-Anh lại không thế?

Thế nếu em chết anh sẽ làm thế nào?-Anh không biết.

Nhưng nếu anh chết, anh sẽ đứng bên cầu Nại Hà đợi cho đến khi em đến.-Em không đợi anh đâu.

Nhưng em cũng sẽ không uống canh Mạnh Bà.

Để kiếp sau còn nhớ anh, còn đi tìm anh đòi nợ-Qua cầu Nại Hà cũng không uống canh Mạnh Bà.

Để kiếp sau... còn nhớ, kiếp sau... còn mãi đi tìm...Cô không nói gì, tựa vào vai anh nhìn những ánh đèn trong màn đêm huyền diệu của Thượng Hải.

-Qua cầu Nại Hà cũng không uống canh Mạnh Bà.

Để kiếp sau... còn nhớ, kiếp sau... còn mãi đi tìm...Cô lẩm bẩm, nhìn bát canh trong suốt.

Canh được nấu bằng nước sông đục ngầu mà múc vào bát lại trong như nước không nguồn.

Sau khi uống bát canh này, liệu cô còn nhớ gì nữa không?-Mạnh Bà, vì sao con chết?Cô hỏi.

Mạnh Bà không nói gì, chỉ lùi về đằng sau cho phiến đá nãy giờ bị mình che lấp xuất hiện trước mắt cô.

Bà khẽ xoa tay vào phiến đá, nói chậm rãi:-Đây... là Tam Sinh Thạch.

Nó ghi lại kiếp trước, kiếp này của con.Rồi bà lùi lại.

Hình ảnh bỗng hiện lên trên phiến đá.

Có một cô gái và một chàng trai đang nắm tay nhau đi trên đường.

Cả hai đều rất vui vẻ.-Đó là con?

- Cô lại hỏi.

Mạnh Bà gật đầu - Vậy... kia là ai?Cô chỉ vào chàng trai đang nắm tay mình.

Mạnh Bà không nói gì.

Cô lại nhìn chăm chú tiếp.

Một loạt những hình ảnh quen thuộc chạy rất nhanh qua đầu cô.

Cô ôm đầu rồi bất thần thốt lên.-Bách Kiều.Mạnh Bà gật đầu.

Nhưng cô không nhìn thấy.

Hai mắt cô cứ chăm chăm vào phiến đá.

Hai người vui vẻ, nắm tay dắt nhau qua đường.

Bỗng cô làm rơi một cái gì đó.

Thế là cô buông tay anh, chạy theo nhặt nó lại.

Nhưng cùng lúc đó, có một chiếc xe tải lớn chạy đến từ đằng sau.

Khi cô cầm được vật đó lên tay cũng là lúc Bách Kiều chỉ kịp hét lên:-Tiểu Băng!

Cẩn thận!!!!!Rầm...Một tiếng động khủng khiếp.

Cô quay mặt đi, không dám nhìn.

Hình ảnh trên đá Tam Sinh cũng dần biến mất.

Mạnh Bà bước lại, cầm bát canh cô đặt dưới đất lên:-Con biết rồi chứ?

Bây giờ thì hãy uống đi.

Uống rồi đi đầu thai kiếp khác.Cô đờ đẫn.

Phải rồi, cô nhớ lúc đó có tiếng còi xe rất to, có tiếng Bách Kiều hét gọi cô.

Và sau đó tất cả là một màu đen.

Ừ, đúng rồi.

Tháng sau là hai người đám cưới rồi.

Vậy mà khi cô lên Vọng Hương Đài nhìn về nhân gian lần cuối, cô lại không thấy Bách Kiều đâu.

Sao lại thế, tại sao mọi chuyện lại nhanh chóng và kinh hoàng như thế?-Không, con không muốn uống, con muốn gặp anh ấy... một lần nữa thôi.-Hài tử ngốc.

Chẳng phải khi lên Vọng Hương Đài con cũng không nhìn thấy hắn sao?

Trước giờ có bao nhiêu si nam ái nữ, chờ đợi nhau ở đây.

Rồi cuối cùng cũng phải bước qua Nại Hà Kiều kia hết.

Uống đi con, uống rồi sẽ quên hết khổ đau, phiền muộn, quên hết cả tam sinh, thế gian.Mạnh Bà đưa cho cô bát canh.

Cô không còn tâm trạng mà đón lấy nó nữa.

Cô mở bàn tay ra nhìn.

Một ánh sáng nhỏ lóe lên.

À, chiếc nhẫn.

Hôm đó cô và Bách Kiều cứ mở ra đóng vào cái hộp nhẫn nên nó mới bị rơi ra.

Hóa ra, đó chính là chiếc nhẫn.-Uống đi con, uống và quên đi những khổ đau, tình ái...-Không...

Cô hét lên, chạy khỏi chỗ Mạnh Bà.

Bà dường như vô cảm, không mấy ngạc nhiên với những trường hợp như thế này.

Vẫn giọng chậm rãi, bà nói:-Mau bắt nó về đây.Cô chạy lao ra khỏi diêm đài.

Lao qua chiếc cầu bắc vào Âm Phủ.

Cô nghe thấy đằng sau là tiếng chó sủa, tiếng của quỷ tru tréo gọi tên mình.-Tiểu Băng...

Tiểu Băng...

Đứng lại.Nhưng cô làm như không nghe thấy.

Cô chạy thật nhanh ra khỏi cánh cổng dẫn vào địa ngục.

Ánh nắng chiếu vào làm cô cảm thấy bỏng rát.

Âm hồn không đứng được trước ánh nắng mặt trời.

Cô nhìn xung quanh.

Có một chiếc ô rách của người đốn củi bỏ lại.

Cô nhặt lấy rồi chạy thật nhanh.

Ngoại trừ những ngạ quỷ, đầu trâu mặt ngựa đang đuổi đằng sau, những gì người ta có thể thấy là một chiếc ô rách đang bị gió thổi.

Cô chạy ra khỏi khu rừng, tìm đường chạy vào thành phố.

Những bóng âm hồn đuổi sau cô dường như còn mạnh hơn cả ánh nắng mặt trời.

Chúng đi đến đây, gió lốc, bụi mờ làm không gian tối đen đến đó.

Như có một cơn bão lớn hay một trận mưa to sắp đến.

Cô không biết tìm Bách Kiều ở đâu.

Giữa nhân gian này, cô thật lạc lõng.

Cô tìm đến bên sông Hoàng Phố.

Nhưng cả con sông dài như thế, biết Bách Kiều ở đâu mà tìm.

Cô cứ chạy dọc theo con sông, nương theo cơn gió.

Nhưng bên sông lúc này chỉ là khói tỏa của những bếp cơm chiều đang sôi sục.

Cô ngồi thụp xuống, cái ô cũng rơi xuống.

Chẳng lẽ cô không bao giờ được nhìn thấy Bách Kiều nữa sao?Cô cầm cái ô, lang thang bước vào một công viên nhỏ.

Trời đã hơi tối.

Bọn quỷ đói có thể tìm thấy cô bất kì lúc nào.

Cô mở bàn tay ra.

Cái nhẫn vẫn ánh lên một thứ ánh sáng leo lắt, hiu hắt buồn.

Bỗng, cô nghe thấy tiếng.-Em đừng lo, anh sẽ ở bên mỗi lúc em buồn.Tiếng nói đó thật thân thuộc biết mấy.

Bách Kiều đang ngồi cách đó không xa, cạnh anh là một cô gái lạ.

Cô cầm tay Bách Kiều, thỏ thẻ:-Anh hứa nhé.-Anh hứa, sẽ luôn quan tâm mỗi lúc em buồn.

Sẽ chăm sóc cho em.Từ đôi mắt trong suốt, hai hàng nước bỗng chảy dài xuống khuôn mặt cô.

Đó có phải là Bách Kiều cô yêu thương, là người đã hứa sẽ đợi cô bên cầu Nại Hà cho đến khi cô đến không?

Đó có phải là người mà cô luôn tin tưởng, là người cuối cùng cô nghĩ đến không?Cô gái đó vòng tay, định ôm lấy Bách Kiều.

Cô quay đi, đưa hai ống tay áo màu trắng trong suốt lên lau nước mắt.

Cô không biết, bọn quỷ đã đứng bên cạnh từ lúc nào.-Cô đã nhìn thấy những gì mình muốn.

Bây giờ thì đi thôi.Rồi con quỷ nắm lấy cổ tay cô, kéo xuống đất.

Chiếc ô rách trên ghế đá bỗng rơi xuống.

-Hài tử, con đã nhìn thấy rồi đấy.

Trên đời này không có tình yêu đâu.Lũ quỷ đưa cô đến trước mặt Mạnh Bà.

Chúng không muốn phải chơi đuổi bắt với cô một lần nữa nên túm chặt lấy hai tay cô.

Mạnh Bà lắc đầu, cầm bát canh đưa đến trước mặt cô.-Uống đi.

Đã xuống Hoàng Tuyền thì không thể quay trở lại.

Uống và quên hết đi.Lũ quỷ thả cô ra.

Cô cầm lấy bát canh, lòng bộn bề suy nghĩ.

Nhưng rồi cô còn nghĩ gì được nữa đây, sau khi cô uống bát canh này.

Cô sẽ quên đi Bách Kiều và cả tình yêu mà hai người đã đánh mất trong bể nhân sinh.

Tất cả sẽ là hư ảo.

Cả tình yêu, cả Bách Kiều, cả tam sinh này nữa.-Qua cầu Nại Hà cũng không uống canh Mạnh Bà.

Để kiếp sau... còn nhớ, kiếp sau... còn mãi đi tìm...Cô đưa bát canh lên trước mặt, khẽ nói.

Rồi bỗng cô hất bát canh xuống Vong Xuyên giang và chạy vụt qua cầu Nại Hà.-Đừng...

- Mạnh Bà kêu lên.Nhưng đã quá muộn, cô chạy lên chiếc cầu hình cầu vồng.

Khi đến giữa cầu, bỗng cô trượt chân, ngã xuống sông Vong Xuyên.

Cả người cô rơi xuống.

Nhưng đôi môi cô vẫn cười.

Qua cầu Nại Hà cũng không uống canh Mạnh Bà.

Để kiếp sau... còn nhớ, kiếp sau... còn mãi đi tìm...

Phải rồi...

Kiếp sau còn nhớ...

Kiếp sau còn mãi đi tìmMột giọt nước mắt trong suốt rơi trong không trung.

Thân hình nhỏ bé của cô bị dòng nước sông đục ngầu nuốt trọn.————————————————————

Link: http://santruyen.com/manh-ba-thang-p.html
 
Âm Giới
Truyền Thuyết Cầu Nại Hà


Tương truyền, nơi cõi Âm phủ có một cây cầu rất mỏng manh, bắc ngang một con sông lớn, ván lót gập ghình, trơn trợt, rất khó lên cầu để đi qua sông.

Hơn nữa, dưới cầu là sông lớn có đủ các thứ rắn độc, cua kình hung dữ, đợi người nào lọt xuống thì chúng xúm lại xé thây ăn thịt.Các chơn hồn nơi Âm phủ, khi đến cầu nầy, muốn lên cầu qua sông, nhìn thấy cảnh tượng như thế thì nản lòng thối bước, không biết làm thế nào để đi qua cầu cho được an toàn.

Nhiều người cố đi qua, nhưng đến giữa cầu thì bị té xuống sông, rắn rít cua kình giành nhau phanh thây ăn thịt, thật là ghê gớm.Có tất cả là sáu loại cầu Nại Hà:- cầu làm bằng vàng, bạc, ngọc, đá, gạch, cây.

Tương ứng với Lục đạo.

Điện thứ mười là nơi nhận những quỷ hồn của các điện khác chuyển đến.

Sau khi thẩm định phước phần của mỗi hồn, sẽ cho đi Đầu thai vào các nơi tương xứng, theo các tình trạng:- nam hay nữ, giàu hay nghèo, sang hay hèn, khôn hay ngu, thọ hay yểu v.v...Mỗi tháng, các điện sẽ chuyển giao một lần các quỷ hồn đến đây.

Việc thọ sanh (đi đầu thai) này rất chi tiết, tỉ mỉ, phức tạp như là: - đường nào trong bốn đường thai, noãn, thấp, hóa; như loài vật thì có loài không chân, hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân.

Có loài thì tự chết, có loài thì bị giết chết...Việc đúc kết rất cẩn thận vì tầm quan trọng lớn lao của nó.

Kết quả sẽ ghi kỹ lưỡng cho mỗi quỷ hồn để đưa đến Phong Đô đầu thai.Truyền thuyết Trung Quốc nói rằng, điện Diêm Vương thứ 10 (Thập Điện Chuyển Luân Vương) cai quản việc chuyển kiếp đầu thai.

Tại điện này có cầu Nại Hà bắc qua sông Vong Xuyên hình cầu vồng, rất trơn.

Ven sông Vong Xuyên, có một tảng đá, gọi là Tam Sinh Thạch.

Những kẻ giết người, gian ác phải leo qua cầu, dưới sông đầy thuồng luồng, cá sấu; hai đầu cầu lại lại có bầy chó ngao sẵn sàng cắn xé.

Những linh hồn được đi đầu thai trở lại làm người đều phải qua Vong Đài (đài quên), uống canh Quên Lãng của Mạnh bà để quên hết chuyện kiếp trước.

Canh Mạnh Bà khiến người quên đi hết thảy, Tam Sinh Thạch ghi lại kiếp trước kiếp này của con người.

Nhiều người còn nói là "uống nước sông Nại Hà" để quên đi kiếp trước trước khi đầu thai.
 
Âm Giới
#3


Cầu Nại Hà

Cầu Nại Hà là cây cầu ở Địa ngục thứ 10 (Thập Điện Chuyển Luân Vương) là ranh giới cuối cùng của Địa ngục, đi qua cầu này, linh hồn sẽ được chuyển đến Phong Đô, là nơi đầu thai chuyển kiếp.

Theo kho tàng văn hóa dân gian: Thập Điện Diêm Vương là 10 vua cai quản cõi âm, nơi sẽ trừng phạt kẻ có tội.

Trong điện có gương Nghiệt kính đài.

Tất cả những hành vi của người chết lúc còn tại thế sẽ hiện ra trong gương.

Chiếu theo bản án của Diêm Vương ghi chép, linh hồn có tội sẽ bị quỷ sứ điệu đi thụ hình tại các ngục.

Tổng cộng có 8 cửa ngục lớn, và 128 cửa ngục nhỏ.

Mỗi cửa ngục lại có kiểu trừng phạt riêng: mổ bụng, moi tim, đun trong vạc dầu sôi, chặt tay, chặt chân, cưa người,...Kiểu nào cũng đáng sợ và đau khổ ghê gớm.

Ngoài ra Diêm Vương còn có Bổ kinh Sở để phạt các sư sãi tụng kinh không đủ, phải vào đó tụng bù.

Điện Diêm Vương thứ 10 (Thập Điện Chuyển Luân Vương) cai quản việc chuyển kiếp đầu thai.

Tại điện này có cầu Nại Hà bắc qua sông Vong Xuyên hình cầu vồng, rất trơn.

Ven sông Vong Xuyên, có một tảng đá, gọi là Tam Sinh Thạch.

Những kẻ giết người, gian ác phải leo qua cầu, dưới sông đầy thuồng luồng, cá sấu; hai đầu cầu lại lại có bầy chó ngao sẵn sàng cắn xé.

Những linh hồn được đi đầu thai trở lại làm người đều phải qua Vong Đài (đài quên), uống canh Quên Lãng của Mạnh bà để quên hết chuyện kiếp trước.

Canh Mạnh Bà khiến người quên đi hết thảy, Tam Sinh Thạch ghi lại kiếp trước kiếp này của con người.Nại hà kiều: Cầu Nại hà, là cây cầu bắc ngang sông lớn mà người đi đến đó không biết cách nào để đi qua cầu cho khỏi té xuống sông, nên hỏi nhau: Nại hà?

Làm sao?Tương truyền, nơi cõi Âm phủ có một cây cầu rất mỏng manh, bắc ngang một con sông lớn, ván lót gập ghình, trơn trợt, rất khó lên cầu để đi qua sông.

Hơn nữa, dưới cầu là sông lớn có đủ các thứ rắn độc, cua kình hung dữ, đợi người nào lọt xuống thì chúng xúm lại xé thây ăn thịt.Các chơn hồn nơi Âm phủ, khi đến cầu nầy, muốn lên cầu qua sông, nhìn thấy cảnh tượng như thế thì nản lòng thối bước, không biết làm thế nào để đi qua cầu cho được an toàn.

Nhiều người cố đi qua, nhưng đến giữa cầu thì bị té xuống sông, rắn rít cua kình giành nhau phanh thây ăn thịt, thật là ghê gớm.Có tất cả là sáu loại cầu Nại Hà:- cầu làm bằng vàng, bạc, ngọc, đá, gạch, cây.

Tương ứng với Lục đạo.

Điện thứ mười là nơi nhận những quỷ hồn của các điện khác chuyển đến.

Sau khi thẩm định phước phần của mỗi hồn, sẽ cho đi Đầu thai vào các nơi tương xứng, theo các tình trạng:- nam hay nữ, giàu hay nghèo, sang hay hèn, khôn hay ngu, thọ hay yểu v.v...Mỗi tháng, các điện sẽ chuyển giao một lần các quỷ hồn đến đây.

Việc thọ sanh (đi đầu thai) nầy rất chi tiết, tỉ mỉ, phức tạp như là:- đường nào trong bốn đường thai, noãn, thấp, hóa; như loài vật thì có loài không chân, hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân.

Có loài thì tự chết, có loài thì bị giết chết...Việc đúc kết rất cẩn thận vì tầm quan trọng lớn lao của nó.

Kết quả sẽ ghi kỹ lưỡng cho mỗi quỷ hồn để đưa đến Phong Đô đầu thai.Truyền thuyết Trung Quốc nói rằng, điện Diêm Vương thứ 10 (Thập Điện Chuyển Luân Vương) cai quản việc chuyển kiếp đầu thai.

Tại điện này có cầu Nại Hà bắc qua sông Vong Xuyên hình cầu vồng, rất trơn.

Ven sông Vong Xuyên, có một tảng đá, gọi là Tam Sinh Thạch.

Những kẻ giết người, gian ác phải leo qua cầu, dưới sông đầy thuồng luồng, cá sấu; hai đầu cầu lại lại có bầy chó ngao sẵn sàng cắn xé.

Những linh hồn được đi đầu thai trở lại làm người đều phải qua Vong Đài (đài quên), uống canh Quên Lãng của Mạnh bà để quên hết chuyện kiếp trước.

Canh Mạnh Bà khiến người quên đi hết thảy, Tam Sinh Thạch ghi lại kiếp trước kiếp này của con người.

Nhiều người còn nói là "uống nước sông Nại Hà" để quên đi kiếp trước trước khi đầu thai.

Người ta nói rằng sau khi con người chết, trên đường hướng tới âm gian, trước khi qua cầu Nại Hà, nhất đinh phải uống một loại chất lỏng.

Khi rời khỏi thế giới này để đến một thế giới khác, thì nơi trước tiên phải qua đó là Mạnh Bà, trước cầu Nại Hà.Người Trung Quốc thường hay nói, uống canh Mạnh Bà, sẽ khiến người ta có thể quên hết tất cả : Những phiền muộn, đau đớn, những lo lắng , yêu thương và thù hận...hết thảy mọi thứ.

Vì vậy, canh Mạnh Bà cũng có một tên gọi khác bằng tiếng Anh là Five-Flavored Tea of Forgetfulness (có nghĩa là 5 hương vị trà giúp người ta lãng quên ).Người ta nói rằng sau khi con người chết, trên đường hướng tới âm gian, trước khi qua cầu Nại Hà, nhất đinh phải uống một loại chất lỏng.

Khi rời khỏi thế giới này để đến một thế giới khác, thì nơi trước tiên phải qua đó là Mạnh Bà, trước cầu Nại Hà.

Con người khi còn sống, gặp nhiều khổ nhiều nạn, thì uống một bát canh này, sẽ đem lại một loại cảm giác rất nhẹ nhõm, đây là một cách thực hiện triệt để hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ. (Ngoài ra, được biết, khi từ cõi âm gian quay trở lại thế giới này luân hồi chuyển sinh, tất cả các linh hồn đều phải uống canh Mạnh Bà, cũng là để quên đi tất cả những gì đã tồn tại liên quan đến mình trong các kiếp sống quá khứ.Như vậy thì canh Mạnh Bà chính xác là cái gì?

Theo truyền thuyết, có một con đường được gọi là Hoàng Tuyền Lộ, có một con sông được gọi là Vong Xuyên Hà, trên dòng sông có một chiếc cầu bắc qua được gọi là cầu Nại Hà, đi qua cầu Nại Hà có một nơi gọi là Vọng Hương Đài , cạnh Vọng Hương Đài có một lão bà tên là Mạnh Bà chuyên bán canh, bên cạnh sông Vong Xuyên có một hòn đá gọi là Tam Sinh Thạch, canh Mạnh Bà giúp người ta quên hết tất cả mọi thứ, đá Tam Sinh thì ghi lại toàn bộ cuộc sống từ kiếp trước cho đến hiện tại.

Khi qua cầu Nại Hà, tại Đài Vọng Hương nhìn lại lần cuối cùng nhân gian và uống một bát canh Mạnh Bà được nấu từ nước sông Vong Xuyên.Sự thật về loại canh quên lãng con người uống trước khi về thế giới bên kia - anh 1

Cảnh nồi da nấu thịt dưới địa ngục

Sống ở Nhân gian, bao bọc trong lòng những thất tình lục dục, ảo tưởng và bi phẫn.

Có những việc không thể buông bỏ được, những niềm vui và nỗi buồn ly hợp trong cõi hồng trần cuồn cuộn, uống bát canh Mạnh Bà mà dần dần trôi xuống họng, ngập ngừng bước tới cầu Nại Hà mà kết thúc, nhìn lại quãng thời gian mà nỗi buồn được lấp đầy bởi những giọt nước mắt, đã hoá thành những đám mây mù sương, rồi nhẹ nhàng phân tản đi.

Chính là một đời tràn đầy hối hận?

Là sự tiếc nuối của sự cách biệt âm dương?

Hay là quyết định buông bỏ mà rời đi? ......

đều đã không còn quan trọng.

Bởi vì sau khi uống bát canh Mạnh Bà này, thì tất cả mọi thứ sẽ không phải bận tâm đến nữa.Vậy canh Mạnh Bà được làm thành như thế nào?Truyền thuyết về phương pháp chế biến canh Mạnh Bà như sau, trước tiên cần lấy các quỷ hồn mà được phán định tại Diêm la thập điện làm người ở các nơi, sau đó thêm vào các loại thảo mộc được thu thập từ trần thế, điều chế thành như một nửa bát canh rượu, chia thành ngọt, đắng, chát, chua, mặn 5 loại khẩu vị.

Đối với những linh hồn mà chuẩn bị đầu thai, họ đều phải uống một bát mê hồn canh của Mạnh Bà .Nếu như một linh hồn nào đó mà có sự khôn lanh xảo quyệt, từ chối uống, thì phía mặt dưới của chân liền mọc ra con dao móc vào hai chân, đồng thời ở cổ họng thì xuất hiện một miếng đồng sắc nhọn đâm xuyên qua.

Không có bất kì một linh hồn nào có thể được miễn.

Có một cách nói khác, khi con người còn sống, tất cả họ đều đã từng khóc: do vui, do buồn, do đau, do hận thù, do yêu.

Mạnh Bà sẽ thu trở lại từng giọt từng giọt nước mắt đó, mà làm thành canh này.Có rất nhiều những ghi chép được lưu lại nói về Mạnh Bà, ví dụ như " Truyền thuyết về xuất thân tu hành của Quán Âm Bồ Tát Nam Hải" của Chu Đỉnh Thần thời đại nhà Minh, "Lịch Đại Từ Thoại" của Vương Dịch Thanh và "Hài Đạc" của Trầm Khởi Phong đều được ghi lại từ triều đại nhà Thanh.

Chuyện về cầu Nại Hà

Tiểu Ngạ quỷ bên cầu Nại Hà

Ai cũng nói hễ chết không còn vương vấn.

Bao nhiêu chuyện đời vẫn kể đấy thôi.

Không mất không hết.

Không tử không sinh...

————————————————————

Tôi là một ngạ quỷ.Tôi là một tiểu ngạ quỷ lắm chuyện ở dưới Âm ty, hầu hạ dưới quyền Ty chủ cõi Luân hồi.Chúng tôi được coi là loài ti tiện nhất thấp bé nhất trong cõi đất trời, chỉ sống trong địa ngục tăm tối, đời đời kiếp kiếp.Công việc của tôi là đi tuần bên cầu qua (sông Lú), một việc nhàn hạ, bởi ngoài những bóng hồn lẻ quỷ đói đôi khi đi qua, thì không có gì xảy ra, sẽ chẳng có gì xảy ra.Tôi thường đờ đẫn ngồi bên cầu Nại Hà, đờ đẫn nhìn những hồn phách cô đơn, lẻ loi bay qua.Ngày ngày, tháng tháng, năm năm, ngày nối ngày, năm lại năm.Một ngày, Ty chủ cõi Luân hồi gọi tôi tới, nói tôi đã trung thành canh giữ, bởi tôi đã đi tuần cầu Nại Hà suốt 300 năm, chưa hề xảy ra sai sót.

Bởi vậy nên cho tôi làm sứ giả đi câu hồn, cho tôi cơ hội lên chốn nhân gian.Cõi người thật sự rất tươi đẹp, thứ gì cũng có, so với chốn địa ngục tối đen u ám này thật như một giấc mộng.

Nhưng chỉ tiếc mỗi lần tôi đi lên cõi nhân gian đều là nửa đêm, mà đều là đi lấy hồn phách con người.Thời gian lâu dần, tôi biết loại người như tôi, à không, phải nói là loài quỷ như tôi, làm loài người sợ hãi đau khổ nhất, bởi hễ chúng tôi xuất hiện, có nghĩa là một cuộc đời người kết thúc.Tôi chỉ có thể cười đau khổ, bởi con người tin vào số mệnh, nhưng lại sợ hãi số mệnh, rồi căm ghét lây sang cả chúng tôi.Thời gian trôi thật nhanh, một trăm năm lại đã trôi qua.

Ty chủ cõi Luân hồi nói với tôi, ngươi đã có 400 năm đạo hạnh rồi, chờ khi ngươi tu đủ 500 năm đạo hạnh, ngươi có thể lên cõi người để đầu thai, hoặc tiếp tục tu hành nơi địa ngục, rồi đi làm một thần tiên.Khi đó tôi rất vui mừng, vui tới mức cười lên, có lẽ là lần đầu tiên tôi cười.

Bạch Vô Thường đại ca lúc đó trêu tôi, nói tôi cười còn xấu hơn quỷ.Tôi nghĩ: Tôi chính là quỷ đây, mà Bạch Vô Thường cười còn xấu hơn tôi, loài người mà nhìn thấy anh ta cười, hẳn quá nửa sợ chết giấc.Trong một trăm năm cuối cùng này, tôi tiếp tục cố gắng làm trọn mọi việc Ty chủ giao cho.

Nhưng sao tôi thấy 100 năm sao dài hơn cả 400 năm trước đây?

Tôi rất hy vọng nó trôi nhanh, để một ngày, tôi sẽ được đầu thai...Một ngày, tôi đi bên cầu Nại Hà, trong bóng tối mơ hồ tiếng khóc thút thít rất mảnh.

Tôi bước tới xem, thì ra là một quỷ nữ đang khóc phía đó.

Tôi hỏi vì sao cô đến đây, cô ta bảo, cô ta vô ý đã làm tắt mất ngọn đèn lồng soi sáng đường luân hồi chuyển kiếp rồi.Những lúc vui vẻ, tôi cũng thường hay giúp đỡ người khác (quỷ khác), lúc đó tôi đang vui vẻ, nên tôi bảo, tôi có thể dẫn cô quay về phủ Luân Hồi.

Quỷ nữ gạt nước mắt, cười với tôi, nói: "Cảm ơn anh!".Trong sát na đó, ngực tôi như bị cái gì đấm mạnh một cái, tim hỗn loạn...Tôi chưa bao giờ thấy một hồn quỷ cười đẹp như thế, tôi chỉ cảm thấy sao chân tôi mềm nhũn ra...Quay về phủ Luân Hồi, Ty chủ tra sổ ký lục của quỷ nữ, nói cô ta là vong chết oan, không được đầu thai chuyển kiếp, chỉ có thể vào giam trong Thành Chết Oan (Uổng Tử Thành) mà thôi.Cô ta khóc than, tôi phút chốc cũng thấy thương xót, hỏi Ty chủ liệu có cách gì cho cô ta đi đầu thai không?

Ty chủ nổi trận lôi đình, mắng nhiếc tôi thậm tệ, mắng đến mức toàn thân tôi run lẩy bẩy, cô ta cũng sợ hãi không dám khóc nữa.Tôi cúi đầu nuốt giận dẫn quỷ nữ đến thành Uổng Tử, trên đường đi tôi không nói một lời.Đến thành Uổng Tử, tôi để cô ta đi vào, cô ta gật đầu, đi vào trong.

Tôi nhìn theo cô ta đi khuất, lúc đó, cô ngoái lại, lại nói một câu: "Cảm ơn anh".

Bóng quỷ nữ tan ra trước cổng thành, chỉ còn lại tôi thẫn thờ đứng đấy.Ngày lại qua ngày, tôi thất kinh phát hiện ra tôi vẫn nhớ đến cô ta.Nên đôi khi tôi chạy tới thành Uổng Tử, lén nhìn cô.Tôi phát hiện cô ta thường vội vã chạy ra Lầu Nhớ Quê (Vọng Hương Đài) từ rất sớm, rồi ở đó đứng nhìn ra suốt một ngày, cuối cùng khóc lóc đi về.

Tôi không hiểu vì sao, mỗi lần nhìn thấy cô ta khóc, tôi cũng rất muốn khóc...Mùa xuân đã lặng lẽ tàn, những bông liễu tan tác đã biến thành đầy trời tuyết bay.

Khi chim nhạn trở về, chân trời những đám mây chiều tà sáng lên màu tuyệt diệu, xa như đôi mắt như nước chảy tiêu tan, gần như đã in vào sâu trong trái tim.Vô tình, có nỗi niềm cảm động mơ hồ dường như đang quấn quýt mãi trong lòng, chưa từng theo nhạn phương Nam bay về miền di cư.

Tiết Thanh minh tảo mộ năm ấy, tôi đã tìm thấy mộ của cô ta.Một doi hoàng thổ, trước có cốc rượu, đĩa trái cây ba màu (tam sắc quả phẩm), hai người đang than khóc, một người lớn, một đứa trẻ con.Tôi thẫn thờ đứng nhìn hai người họ, một nỗi buồn và mất mát tôi chưa từng bao giờ cảm thấy đã đến quấn lấy tim tôi, tôi ở lại nơi đó rất lâu, đến tận nửa đêm.Uống một chén rượu nhân gian, rượu mạnh đắng cay, lòng tôi có dư vị không biết nên gọi là gì.Một lần, tôi vô tình hỏi Bạch Vô Thường đại ca, những người chết oan thì làm thế nào đầu thai được?

Anh ta nói, cần có nhân quả.

Tôi hỏi, nhân quả là gì?Anh bảo, nhân quả thực ra chính là sự trả giá, nếu có người gieo nhân ắt có người nhận quả, như có người tặng cơ may đầu thai thì người chết oan có thể trở lại cõi người.

Anh còn nói, cơ hội đầu thai thì có quỷ nào ngu lắm cũng không bao giờ nhường.Ngày nối ngày trôi mãi mãi, Ty chủ cõi Luân hồi kêu tôi tới, bảo tôi biết năm trăm năm đã qua.

Ngài hỏi tôi chọn gì.

Tôi nói tôi rất muốn được đi đầu thai, Ty chủ hỏi tôi thích đầu thai đi xứ nào, tôi trả lời tôi mong được cô ấy đi đầu thai.Ty chủ trợn mắt nhìn tôi – sứ giả câu hồn, Bạch Vô Thường đại ca còn kinh hãi hơn, lưỡi anh rơi xuống đất.Ty chủ phán, nếu tôi từ bỏ 500 năm đạo hạnh, tôi sẽ lại trở thành một tiểu ngạ quỷ đi tuần quanh sông Nại Hà.Tôi đáp: "Con xin vâng!"

Nói xong, tôi lặng lẽ đi ra, lúc này lòng tôi yên tĩnh, dường như chưa có gì xảy ra...Ngày cô ấy ra đi, tôi lén lút trông theo, cho đến lúc quỷ nữ uống bát canh Mãnh Bà lãng quên tất cả, rồi bước lên Đài hoá kiếp (Chuyển Luân Đài).Xa quá, tôi không thể nhìn thấy cô ấy nữa, tôi không kìm được bước từ chỗ nấp ra, ngóng tới phương đó.

Mãnh Bà giật mình ngạc nhiên nhìn tôi, bà thở dài, rồi lại tiếp tục nấu món canh lãng quên...Tôi lại biến thành tiểu ngạ quỷ, tôi vẫn giữ nhiệm vụ đi tuần bên sông Nại Hà, tôi hàng ngày vẫn đi đến chân cầu Nại Hà, tôi đi ngóng.Tôi tin tưởng, rồi một ngày nào đó, khi cái chết đến, cô ấy sẽ quay trở lại qua đây...Một vết nước mắt lăn qua giấc mơ.Ngày lại nối ngày lại một ngày qua.Tôi ở bên chân cầu ngóng đợi ngày lại ngày.Ngày trôi nhiều quá tôi không nhớ đã trôi bao ngày.Ty chủ cõi Luân hồi kêu tôi tới, nói, tôi đã canh gác đủ 500 năm rồi, giờ tôi có thể tự quyết định con đường sau này.Ty chủ vừa dứt lời, tôi đã bàng hoàng, lại đã 500 năm rồi ư, suốt 500 năm nay tôi luôn đợi ở chân cầu cõi Chết nơi âm ty này, nhưng vì sao tôi không thấy cô ấy quay về đây...Ty chủ nhìn thấy tôi thần trí hoảng hốt mơ hồ, chỉ thở dài.

Trong cơn mê man tôi lại bước chân ra đến bên chân cầu Nại Hà.

Ở cây cầu cõi Chết này, tôi đã ngồi một nghìn năm nay.Ở bên cây cầu này, tôi đã chờ đợi suốt 500 năm nay.

Năm trăm năm một cuộc bể dâu, ngay cả đá cũng lên xanh rêu.

Nhưng tôi thì không thấy cô ấy quay lại...

Sau này, Bạch Vô Thường nói cho tôi hay rằng, mỗi hồn lên trần gian đầu thai, có trời mới biết cô ấy đã đầu thai thành ai, là nam hay là nữ.Phút chốc tôi thấy mình rất ngu ngốc, quá ngốc.

Nhưng vì sao lại có sự xếp đặt đó.

Và trong khoảnh khắc đó mắt tôi duềnh lên những lệ...

Trong sâu thẳm đêm tối, một con quỷ khóc than.Giờ đây tôi không biết mình còn chờ đợi gì nữa, quá khứ đã trở thành quá khứ, y như vết nước mắt lăn trong giấc mơ đêm qua, sáng nay tỉnh dậy nào biết tìm nơi đâu.Những nỗi niềm trong mộng, mơ màng như tiếng trống vỗ xa xôi, kinh hoảng như thế giới sụp đổ.

Khi tỉnh mộng chợt chỉ còn sót lại những mảnh vỡ không thể nào ghép vừa nhau, như những chữ nghĩa viển vông, khó lòng nói được.Nhưng những lời thì thầm còn lấp ló đâu trong trí óc thì như mảnh sáng chớp điện, xé toạc màn đêm vĩnh hằng trong tâm trí.

Không biết mộng thấy gì, cũng không mong đuổi theo phù vân trong mơ.

Tôi biết, nếu không đau lòng, sẽ không phải rơi nước mắt.Lướt phím tơ khẽ ngâm, hát gì khúc bi ai, trong cõi hồng trần đã quá nhiều chuyện bi thương.Buồn tay giở bút mực, khó viết nổi câu cười, những hoan lạc vui vầy thế gian nào ai biết?Và tôi như bông hoa dại trong gió sương, tôi biết vì ai mà nở.Lại như ngọn cỏ dại cô đơn giữa hoang vu, tôi biết xanh vì ai?Tôi một lần nữa vứt bỏ cơ hội được đầu thai, tôi sợ phải gặp lại chốn vạn dặm bụi trần từng mê hoặc tôi...

Tôi sợ phải nhìn thấy nụ cười duyên dáng làm tôi vĩnh viễn không thể nào quên...Ty chủ thấy tôi thì than, loại quỷ còn giằng giữ nghiệp chướng cõi trần như tôi có tu cũng chẳng thể thành thần tiên.Tôi lại ngồi bên chân cầu Nại Hà, tôi làm một tiểu ngạ quỷ, tôi chờ đợi một người có lẽ chưa từng bao giờ tồn tại.Lại ngồi đầu cầu bên này, tôi nhìn những hồn ma quỷ đi qua cầu, mặt chúng dường như đều vẽ nên một câu chuyện, trong những đôi mắt trống rỗng của chúng, phảng phất kể lại một khoảnh khắc nào của dĩ vãng.Nhìn chúng nhớn nhác, tôi thầm mừng vui bởi tôi còn tri giác, còn cảm nhận, tôi dần dần hiểu, cõi nhân gian đã mang cho tất cả mọi người vô số dấu hỏi, mà câu trả lời biết tìm nơi đâu?

Địa ngục này ư?Tôi nghĩ không phải, bởi trong tim tôi, cũng vẫn còn quá nhiều chất ngất những câu hỏi.Tôi một lần nữa lại quay về với cuộc tồn tại không vui sướng, không hy vọng, không đau buồn, cuộc tồn tại của một hồn quỷ.Buồn tay lướt dây đàn, vốn định hát bâng quơ trường ca, ai ngờ tiếng đàn não nề, đỗ quyên rỉ máu, người mong về cội.

Thời thanh xuân nào biết đến sầu thương, phổ chi lời thơ mang buồn...Nào ai hay giữa bạt ngàn thanh âm bỗng hai tim gặp gỡ, để một đời sầu nhớ!

Dây đàn rung cùng tiếng trái tim, hận tay vụng khó đàn lên nỗi lòng, để cho nửa khúc vụng lời, cả điệu bi ai.Chìm nổi ngàn kiếp, trong nỗi nhớ chỉ còn ngàn điều hụt hẫng.

Ngoái lại ngày cũ, người với việc thiếu gì thị phi phải trái.

Hy vọng biết bao mọi nỗi nhớ về hội tụ, ai ngờ lại thành chiếc thuyền vô hướng không người chèo lái băng giữa hoang vu.Thời gian cứ ngày nối ngày trôi qua, tôi ngày nối ngày đi lại bên cầu, tuy rằng tôi đã không còn gì để mong mỏi, nhưng mỗi lần đi qua tôi lại không kìm lòng được ngóng sang, nhìn xem trên cầu liệu có xuất hiện hình bóng tôi nhớ nhung.Cứ mỗi lần như thế, tôi đều tự mắng mình thậm ngốc, tự mắng thầm mình vài câu, nhưng, chỉ cần đi tới đấy, tôi lại làm cái việc ngu xuẩn ấy.

Thậm chí tôi còn ngớ ngẩn đến mức đi ra thành Uổng Tử, nhìn xem liệu có vong nào đang khóc trên Vọng hương đài chăng.Trong những ngày sau này, tôi bắt đầu có chút hối hận, hối hận vì sao lúc cô ấy ra đi tôi không bước lên nói với cô ấy một câu; hối hận vì sao khi cô ấy ra đi tôi không trốn đi để khỏi phải nhìn cô ấy lần cuối; hối hận vì sao khi cô ấy ra đi...Thế gian hạnh phúc bởi còn ký ức, còn có thể ghi nhớ sắc màu thế giới; Thế gian bi ai bởi còn ký ức, còn có thể ghi nhớ bóng tối của thế giới.Ma thuật của thời gian đã chồng màu sắc lên đen và trắng, xé toạc chúng ra, phủ bụi lên... còn lại đầy trời bay những mảnh giấy vụn, cho tôi đuổi theo với, cho tôi ghép lại...

Để quên.

Để không thể quên.

Để quên mà không thể.

Tất cả.Trên những đoá hoa tươi nở trong mưa mùa xuân, giữa những cánh hoa rụng bay tan tác trong gió thu, hãy để những gì tươi đẹp sau cùng ngân lên khúc ca tình yêu lưu luyến không rời dưới tia nắng.Hỡi những cánh hoa không chịu lìa xa, sao giống trái tim tôi nát tan vụn vỡ.

Hỡi thiên nhiên, người làm những cơn gió xuân dịu dàng gọi thức linh hồn hoa, sao người nỡ để những cơn mưa thu bịt bùng giết chết đời hoa, vì sao trên thế gian này có khởi đầu tức là có kết thúc...Li biệt vẫn luôn vội vã thế, vẫy tay nhé, vầng mây bên trời xa vẫn cũ.

Người qua vội vã, chỉ giây lát ngoái lại người mới chợt hiểu.

Mà lúc đó đã là cuối cuộc vui, nhạc tàn người tan, vẫy tay chào nhau, nhìn nhau như sắp lìa xa nhau.Có tiếng người đi trong gió thu, những nếp áo vấn quanh mềm mại, những tiếng dịu êm bên tai, như sợi diều gió, diều càng bay càng vời xa.

Sợi dây đã đứt từ lâu, và cánh diều giờ biết lưu lạc phương nào.Tôi không ngờ rằng tất cả đã kết thúc, tôi còn giữ chặt sợi dây, tôi chờ cánh diều quay lại, quay lại.

Biệt ly vội vàng quá, vẫy tay chào nhau, còn ghi nhớ hơi thở em, còn nhớ đến tóc dài em, còn đôi khi tìm hình bóng em...Khi mùa thu quay trở lại, tôi không biết phải tất cả đã như bông hoa bị mưa dập nát bị gió cuốn đi, tan tác, mai một, mất đi không dấu vết.Khó lòng gặp nhau, sao dễ lìa nhau, mà hoa như tuyết dễ tàn...Rất lâu về sau, rất lâu, rất lâu...Hôm đó, tôi gặp được Địa Tạng Vương Bồ Tát.Địa Tạng Vương Bồ Tát là vị Phật tối cao của chốn địa ngục, cũng là người hiền hoà thiện lương nhất.Huệ nhãn của Địa Tạng Vương Bồ Tát thoáng chốc nhìn thấu nỗi do dự mê hoảng đau đớn tích tụ nghìn năm trong lòng tôi.

Bồ Tát kinh hãi bởi, một hồn quỷ như tôi sao lại có tâm sự.

Bồ Tát thở dài: "Chúng sinh nơi bể khổ, quay đầu lại là bờ".Nhưng tôi đã không hiểu lời của Ngài.Tôi mang tất cả những nỗi lòng dồn nén của tôi kể cho Bồ Tát nghe.

Bồ Tát hỏi tôi: "Cái gì là Duyên?"

Tôi không trả lời nổi.Bồ Tát lại hỏi tôi: "Cái gì là Tình?"

Tôi hoàn toàn không rõ.Cuối cùng, Bồ Tát hỏi tôi: "Ngươi muốn gì?".Không ghìm giữ nổi bản thân, tôi khóc ròng đau đớn van xin Bồ Tát cho tôi được một lần làm người, xin Bồ Tát hãy cho tôi và cô ấy kết một đoạn trần duyên.Bồ Tát đồng ý, đồng ý cho tôi đổi nghìn năm tu đạo hạnh lấy một cơ duyên được cùng cô ấy làm người trong một kiếp luân hồi.Cuối cùng, Bồ Tát nói: "Vạn sự tuỳ Duyên, đừng Chấp nữa!".Hôm đó, tôi cuối cùng đã được chuyển thế làm người rồi.

Nhà tôi là danh gia vọng tộc trong vùng, tôi vừa sinh ra đã là Thiếu gia.

Thời gian trôi, tôi lớn lên, tôi phải lòng cô gái nhà hàng xóm.Nhà cô ấy là nô bộc cho nhà tôi, từ nhỏ cô ấy đã hầu hạ trong nhà tôi, ngày nhỏ chúng tôi thường cùng chơi đùa với nhau, nhưng lớn lên chúng tôi dần lạnh nhạt với nhau.Nhưng tôi nhận ra, tôi càng ngày càng thích cô ấy.Và tôi nghĩ, cô ấy hẳn cũng phải thích tôi.

Năm cô 18 tuổi, cha mẹ không ngăn cản được ý tôi, đành sang nhà cô ấy cầu thân, gia đình cô tất nhiên nhận lời ngay.Hôm đó, tôi chạm mặt cô ấy ở cửa, tôi vui vẻ định nói với cô vài câu, ai ngờ được, tôi chỉ thấy trong mắt cô tràn ngập căm hờn.

Trái tim tôi phút chốc ngưng đọng lại, tôi nôn nao quay về, mơ hồ dự cảm một điều gì đó sẽ xảy ra.Quả nhiên, ngày tôi đón dâu về, cô ấy đã bỏ trốn cùng một người con trai trong làng.Cha tôi nổi trận lôi đình, sai đám gia đinh đông đúc trong nhà đuổi theo, tôi hoang mang cũng chạy theo đám người.

Không mấy lâu chúng tôi bắt được đôi trai gái, tôi kinh ngạc, mê hoảng, khiếp sợ, không biết nên nói gì, chỉ biết đứng đực ra nhìn cô.Cô ấy cũng nhìn tôi, con ngươi trong đôi mắt trong như một vực xoáy đầy hận thù nuốt chửng tôi.

Trong lúc bối rối hoang mang, trái tim tôi co thắt lại:"Cô ấy hận thù tôi!"

Trước mắt tôi tối sầm...Chờ lúc tôi tỉnh lại, gia đinh nói cho tôi biết cô ấy đã cùng chàng trai kia chạy trốn, cuối cùng cả hai nhảy xuống vực sâu tự sát...Tôi vừa nghe thấy tin đó, cả thế giới dường như không còn tồn tại nữa, thời gian, không gian như hoá thành hư không...

Người yêu dấu ngày xưa nay chỉ còn lại nét mặt xám tối.Viên thuỷ tinh quá khứ đã vụn thành cát lỏng trong tay tôi, bị những ngọn gió thời gian và không gian thổi bay tung, bay mất dần, tan vào trong gió.Gió ơi gió về đâu?

Sao không mang tôi đi theo, nhưng gió đã lấy trái tim tôi đi xa, làm ơn đừng vứt bỏ tôi ở lại một mình, gào thét ở tận cùng thế giới, thét gào vô tận.Đêm đen sẽ đến, sự sống sẽ tiêu tàn, vì sao tương tư nhau mà không thể quay lưng nhau, vì sao tương tư nhau mà không thể oà lên nhau?

Chờ đến lúc tôi tỉnh dậy một lần nữa, tôi phát hiện mình đã ở bên cầu Nại Hà, Bạch Vô Thường đang đứng bên cạnh nhìn tôi.Chờ khi tôi định thần, Bạch Vô Thường nói cho tôi biết, sau khi ngất đi không lâu, hồn tôi đã lìa khỏi xác...Anh ta còn nói cho tôi biết, người con gái vì tình mà tự vẫn kia, chính là hồn quỷ nữ năm nào tôi đau khổ chờ đợi, giờ đã phải đi vào thành Uổng Tử rồi!Đầu óc tôi mụ mị, tất cả mọi ký ức đều dội tới, tôi không biết phải làm gì...

Bạch Vô Thường dắt tay tôi đến trước Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ Tát mỉm cười im lặng.Tôi không nén được hỏi ngài: "Vì sao cô ấy hận thù tôi?".Bồ Tát nói, đấy là nhân quả.Tôi hỏi, nhân quả là gì.Bồ Tát nói: "Hữu duyên chính là nhân quả.Ngươi đã từng cho cô ấy một kiếp luân hồi, cô ấy cả đời hầu hạ ngươi, đó chính là nhân quả.Ngươi cho cô ấy một kiếp luân hồi, là bởi vì cô ấy đã bị chết oan vì ngươi.Cô ấy vì ngươi mà chết, cho nên cô ấy đòi ngươi đền cô ấy một kiếp luân hồi.Con người thường bảo là có Tiền sinh Hậu thế (kiếp trước thế nào thì kiếp sau nhận báo ứng thế), nhưng thực ra làm gì có trước và sau, chỉ có kiếp này ở đây thôi!

Có đến có đi, nhưng trước sau không có sinh không có tử".Tôi cảm thấy tất cả là một sai lầm lớn, vào một thời điểm đặc biệt, gặp một người đặc biệt, xảy ra một điều gì đặc biệt.

Dường như có thể thấy sẵn một kết quả, nhưng thế sự đâu phải thế.Tôi đã sai lầm.

Tôi đã bỏ lỡ mất một ngàn năm của tôi.

Tôi đã bỏ lỡ mất hai kiếp đầu thai đáng lẽ được hạnh phúc làm người của tôi.Trong khoảnh khắc đó tôi ngộ được hai chữ luân hồi, con người còn phải luân hồi, là bởi con người có vô vàn sai lầm, vô vàn ân hận, vô vàn mất mát, nên phải đi tới kiếp sau để đền bù.Nhưng nếu cứ luân hồi mãi mãi, con người làm sao nhớ được kiếp trước đã làm gì, trong một cõi nhân gian hẹp hòi, để chỉ đường cho kiếp sau đi hoá giải?Luân hồi là lời kinh của Phật, để chúng sinh mê muội hiểu rằng ngoái đầu là bờ, nhưng những người còn Chấp thì sao hiểu ý nghĩa lời Phật, ngoảnh lại những việc mình đã làm họ lại hối tiếc.Còn tôi, chí ít, tôi đã không hối tiếc.Giờ đây, tôi đã hiểu lời Phật nhắc tôi, nhưng tôi vẫn không đáp lời Phật, tôi cũng không muốn đi ngẫm ngợi lời Bồ Tát.Bởi tôi đã nếm trải được hạnh phúc, nếm trải được đau thương, đã từng hạnh phúc, đã từng đau thương.

Đã có được một giấc mộng một nghìn năm, đã có nợ kiếp trước duyên kiếp này, đã có tất cả, tôi đã mãn nguyện rồi.Tôi, cuối cùng, đã vứt bỏ mọi cơ hội tiếp tục luân hồi hay tu đạo hạnh, tôi tình nguyện vĩnh viễn quẩn quanh ở cái kiếp tiểu ngạ quỷ mà tôi đã ảo mộng suốt nghìn năm, vĩnh viễn làm một tiểu ngạ quỷ bên chân cầu Nại Hà.Bởi tôi tin tưởng, lại sẽ có một ngày, tôi sẽ gặp lại cô ấy, một cô gái vĩnh viễn không đổi thay...————————————————————

Link:
 
Back
Top Bottom