Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp

Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 110


Sau khi đỗ tiến sĩ, vẫn chỉ là kẻ tay trắng, cần phải vượt qua kỳ thẩm định của Lại Bộ thì mới có thể được bổ nhiệm chức quan. Nguyên Húc tài năng nổi bật, diện mạo khôi ngô, là người xuất sắc nhất trong số các tân khoa, nên lập tức được bổ làm Giáo thư lang của Thư tỉnh. Chức quan này tuy cấp bậc thấp, nhưng dễ thăng tiến, là nơi xuất phát của biết bao danh thần lương tướng. Còn ta kém xa, chỉ được đưa vào nhàn chức ở Công Bộ.

Còn Trần Sư Cổ, nhiều lần thẩm định đều bị đánh trượt. Suy cho cùng, hắn vốn không thuộc về vòng tròn ấy. Tính tình lại cứng cỏi, dù có giao thiệp với người quyền quý cũng chẳng hề nịnh bợ. Triều đình dĩ nhiên không muốn dùng một kẻ ngạo mạn, khác người như hắn, thể nào cũng phải để hắn mòn mỏi vài năm, cho mài mòn đi cốt khí, rồi mới tính đến chuyện dùng.

Nhưng Trần Sư Cổ vốn không màng chuyện làm quan. Sau khi Nguyên Húc thi xong, hắn xem như đã trọn nghĩa, liền mặc kệ quan trường, suốt ngày rong chơi nơi thành Trường An, tự xưng là “Thư đồng của Yến chi”, lấy thân phận bạn thân mà sống ung dung, không thiết tha với bổng lộc hay quyền thế.

Hắn nhìn có vẻ nghèo, thường áo vải mũ rơm, túng thiếu đến mức nợ cả tiền rượu, vậy mà trong tay lại có những món đồ cổ quý hiếm từ thời trước. Trong giới sưu tầm kim văn cổ vật, tên hắn khá có tiếng. Hỏi đồ ấy từ đâu mà có, chỉ đáp gọn lỏn: “Mua ở chợ đen Trường An.”

Thời gian trôi qua ba bốn năm, Nguyên Húc đã được thăng lên chức Ngự sử trong điện, tiền đồ rộng mở. Còn Trần Sư Cổ vẫn mặc áo vải đi dạo đầu đường cuối chợ. Từ thuở nghèo khổ lớn lên cùng nhau, nay thân phận đôi bên đã cách biệt như mây với đất. Ấy vậy mà tình bạn giữa họ chưa từng phai nhạt. Điều này khiến những người quen biết đều thấy lạ lùng. Hai người vốn khác nhau từ gốc rễ:

Nguyên Húc xem việc cứu đời giúp dân là chí hướng, trong lòng có Phật, tâm địa từ bi. Trần Sư Cổ lại hoàn toàn chẳng tin vào quỷ thần, chẳng kiêng nể gì, cho rằng dân đen vốn chỉ nhờ trời mà sống, bất kể vua sáng hay tối, quan hiền hay gian, thay ai cũng vậy. Có lẽ điều khiến hắn gắn bó với Nguyên Húc, chính là cái chí “biết là vô vọng mà vẫn làm”.

Nhưng con đường làm quan của Nguyên Húc chẳng mấy chốc bị dập tắt. Khi ấy, Tể tướng Nguyên Tai chuyên quyền lộng hành, khiến hoàng đế sinh lòng ghét bỏ, bị kết tội và ban chết, cả nhà bị xử theo. Dù Nguyên Tai và Nguyên Húc chẳng hề thân cận, chỉ là cùng họ, nhưng vì Nguyên Tai từng quý mến tài năng của Nguyên Húc, lại từng có ý nhận làm nghĩa tử (dù bị Nguyên Húc từ chối), nên triều đình vẫn nhìn hắn bằng ánh mắt nghi ngờ. Cuối cùng, Nguyên Húc bị biếm ra Lĩnh Nam, làm huyện thừa huyện Linh Thủy, Khâm Châu.

Đến đây, Đàm Lâm thở dài:

“Bị đày đi như thế chẳng có gì lạ. Ta cũng từng bị đày đến Kiềm Trung. Chốn quan trường lúc chìm lúc nổi, Diêu Sùng, Trương Thuyết, Trương Tích, mấy vị Tể tướng đời nay cũng từng bị đày đi nơi hoang vu xa xôi, huống gì những quan nhỏ. Học văn võ là để dâng thân cho đế vương, kẻ có tài cách mấy, trong mắt bậc đế vương cũng chỉ là món hàng muốn dùng thì dùng, muốn bỏ thì bỏ.”

“Nhưng chỉ cần giấu tài, đợi gió đổi chiều, rồi sẽ có ngày được trở về Trường An. Vị hoàng đế này không được thì chờ vị tiếp theo.”

Trần Sư Cổ nghĩ như vậy. Sau khi tiễn Nguyên Húc lên đường, hắn đột nhiên biệt tích vài tháng. Đến khi trở lại Trường An, trong tay mang theo nào là kính chiếu cốt, Thanh Long câu, đỉnh rồng cuộn… toàn những báu vật hiếm thấy. Lúc ấy, đứng đầu đám hoạn quan trong triều lại được hoàng thượng sủng ái, vốn say mê đồ cổ, nhìn thấy liền mê mẩn. Trần Sư Cổ không tiếc gì, dâng hết lên chỉ với một mong cầu đẩy nhanh chiếu thư phục chức cho Nguyên Húc.

May thay, hoàng đế cũng nguôi giận, điều tra rõ Nguyên Húc và Nguyên Tai chẳng liên quan, lại nghe thêm lời tốt từ vài người trong triều, liền ban chiếu khôi phục chức cũ, từ Trường An gửi đến Khâm Châu. Đường sá muôn trùng, dù đi nhanh bằng lối quan đạo cũng mất tới hai tháng.

Nhưng khi chiếu thư đến nơi, người nhận đã không còn. Nguyên Húc vốn thân thể yếu đuối, bị đày đến nơi nóng ẩm độc hại, lại chẳng buông lơi việc công, ngày đêm tận tụy, đến nỗi thành bệnh. Nơi ấy lại đầy chướng khí, không có thuốc thang cứu chữa. Chỉ trong chưa đầy một năm, chàng đã mất.

Vi Huấn chen lời:

“Chỉ vì bạn thân chết bệnh, lão Trần liền nổi điên sao?”

Đàm Lâm lắc đầu:

“Vẫn chưa đâu. Tin dữ từ Linh Thủy được một viên quan trạm mang về Trường An, kèm theo cả bức thư tuyệt mệnh. Trần Sư Cổ đau đớn tận lòng, nhưng vẫn gắng chấp nhận sự thật, còn viết thư an ủi huynh của Nguyên Húc, đính kèm bài thơ tuyệt mệnh ấy:”

“Nhật mộ yên ba giang chử ám,
Thận lâu treo ngược ánh nguyệt hàn;
Tàn đèn đem diệt quân âm yểu,
Cô ảnh hiu quạnh trục thệ xuyên.”

(Chiều rơi khói phủ bến sông,
Trăng treo lạnh ngắt, tháp lồng bóng nghiêng.
Đèn tàn lụi ánh chập chờn,
Một thân lặng lẽ theo nguồn nước trôi…)

“Bài thơ đó là của Nguyên Húc viết ư?” — Vi Huấn hỏi.

“Đúng. Trong thời gian bị đày, hai người từng gửi nhiều thư qua lại, nhưng không hiểu sao chẳng ai nhận được thư của người kia. Khi sắp qua đời, Nguyên Húc vẫn ngày đêm ngóng tin của bạn, nhưng đèn tàn thì tắt, chờ mãi chẳng thấy ai. Điều chàng lo lắng nhất khi lâm chung, lại không phải chính mình, mà là bạn thân sau khi mất đi chàng, sẽ cô độc thế nào. Con người ấy xưa nay vẫn vậy, luôn đặt người khác trước mình.

Trần Sư Cổ trong thư hứa với Nguyên Ấp và Lý Nhàn, rằng chính tay sẽ đến Linh Thủy, đưa linh cữu bạn về quê nhà, an táng trên núi Bắc Mang, nơi tổ tiên Nguyên thị an nghỉ.

Cái chết của Nguyên Húc khiến nhiều người xúc động. Chàng chính là hiện thân của bậc chính nhân quân tử: trẻ tuổi, tài cao, khí tiết vẹn toàn, dù rơi vào nghịch cảnh cũng không đổi chí khí.

Như trong Kinh Pháp Hoa có nói: thế gian này giống như một căn nhà cháy rực, người ở trong đó có kẻ gào khóc chạy trốn, có người thờ ơ, có người lợi dụng cháy nhà mà vơ vét. Nhưng cũng có vài người, rất ít, biết rõ nguy hiểm vẫn dấn thân cứu người trong lửa đỏ. Nguyên Húc chính là một người như thế.

Còn Trần Sư Cổ, sau khi trả xong nợ nần, mua một con ngựa, lên đường từ Trường An đi Lĩnh Nam, muốn đón bạn về.

Sau này, từ kết quả điều tra của Hình Bộ và Đại Lý Tự, người ta mới biết, Nguyên Húc mãi không nhận được tin của Trần Sư Cổ là vì bị huyện lệnh Linh Thủy, Hi Kiến Chương, cố ý ngăn trở. Hắn tham ô, bóc lột dân lành, Nguyên Húc thẳng thắn không chịu hùa theo, nên hắn sợ Nguyên Húc sẽ tố giác. Hắn không chỉ cắt đứt thư tín, còn cản trở việc chữa bệnh, khiến Nguyên Húc lâm bệnh mà chết.

Dĩ nhiên, đến khi bị Trần Sư Cổ gi.ết ch.ết cả nhà, chắc hẳn Hi Kiến Chương đã vô cùng hối hận.

“Vậy là, khi biết bạn bị hại, lão Trần mới nổi điên?” — Vi Huấn hỏi.

“Cũng chưa. Theo ta, khoảnh khắc khiến hắn thực sự rơi vào ma chướng, là lúc đến Linh Thủy, chuẩn bị đưa linh cữu bạn về.”

Lúc ấy đang giữa hè, mưa lũ tràn về, nước sông Linh Thủy dâng cao, cuốn trôi tất cả. Mấy trăm dặm hai bờ chìm trong bùn lầy. Nhà cửa, bia mộ đều tan biến, ngay cả hình dạng đất đai cũng thay đổi, không cách nào tìm được mộ bạn.

Vài tháng sau, có tin từ Khâm Châu gửi về Trường An: Trần Sư Cổ ở Linh Thủy huyện công khai đào mộ khắp nơi, ai cản đều bị giết, chỉ trong mấy ngày giết hơn ba trăm người. Hắn như có yêu thuật, chạm tay là đầu người rơi, chẳng ai cản nổi.

Tiết độ sứ Lưu Ẩn Quang điều động một nghìn lính giáp đi dẹp, bị hắn giết thêm mấy chục rồi trốn mất. Hai ngày sau, trong phủ tiết độ sứ, người ta thấy đầu Lưu Ẩn Quang nằm trên giường, bên cạnh thị thiếp của ông ta còn đang ngủ, hoàn toàn không hay biết.

Trần Sư Cổ như kẻ hóa điên, ngày đêm đào bới bên sông, tìm kiếm thi hài bạn trong vô vọng. Mưa lũ là thiên tai, sức người sao chống nổi?

Đến đây, Vi Huấn nhíu mày:

“Lĩnh Nam cách Trường An mấy nghìn dặm, mà ngươi lại rành rẽ từng việc như vậy, chẳng phải lạ lắm sao?”

Đàm Lâm điềm nhiên vén tay áo, để lộ cánh tay gầy trơ xương, đầy sẹo sâu đến tận xương:

“Ta vốn cũng không muốn biết rõ như thế. Nhưng chẳng thể làm khác. Khi tin dữ từ Lĩnh Nam truyền về, cả triều hoảng hốt. Dù là nơi xa xôi, thì Trần Sư Cổ cũng từng là tiến sĩ Trường An, không thể bỏ mặc. Triều đình muốn cử người đến trấn an hoặc trấn áp. Kẻ xui xẻo ấy, chính là ta.”

Ta là đồng hương với Nguyên Húc, lại là bạn đồng khoa với cả hai người. Triều đình biết quốc khố cạn kiệt, không đủ tiền điều quân, nên sai ta một mình đi khuyên giải. Nếu được thì tốt, không được cũng chỉ mất một viên quan hạng chót.

Tuy trong lòng không cam, nhưng thánh chỉ khó trái. Ta mang theo hai mươi lính cấm vệ cùng vài người hầu, vượt đường dài tới Khâm Châu. Dọc đường vất vả không kể xiết, Linh Thủy huyện khi ấy tiêu điều, dân bỏ xứ mà đi, phần vì nạn đói sau lũ, phần vì sợ bị người đó gi.ết c.hết.

Tốn không ít tiền để dò hỏi, cuối cùng được người bản địa dẫn tới bờ Linh Thủy. Gặp lại hắn, ta suýt không nhận ra. Trần Sư Cổ khi ấy mặt mày tiều tụy, áo quần rách nát, đầy bùn và máu, ánh mắt cháy rực như lửa quỷ.

Ta quên cả hai bên nói gì, chỉ nhớ đầu người rơi lả tả, máu đổ như thác. Ta trốn sau lưng đám lính, run rẩy niệm kinh, tưởng đâu sắp mất mạng, thì nghe hắn gọi:

“Vương Tuy?”

Dù đã phát điên, thần trí hắn vẫn chưa hoàn toàn mờ mịt. Nhận ra ta từng làm ở Công Bộ, lo việc thủy lợi, đắp đê, xây cầu… hắn buông tha ta, nhưng bắt ta về nhốt trong một ngôi miếu hoang…
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 111


Bên trong Phật điện, khói nhang quẩn quanh, mờ mịt như sương khói giấc mơ. Trên bức tường lớn vẽ hình mỹ nhân phản chiếu ánh sáng lên đống xương khô, phía trước đó, một lão tăng gầy guộc ngồi ngay ngắn trên tòa sen, chậm rãi trầm giọng kể chuyện… Cả gian điện như ngưng đọng, lặng lẽ mà rùng mình.

Giọng già nua của Đàm Lâm, khô khốc như nước giếng cạn, vang vọng khắp gian điện, dẫn người trở về đoạn ký ức bốn mươi năm về trước.

“Trần Sư Cổ không giết ta, trái lại bắt nhốt vào một ngôi miếu hoang, đặt một cỗ quan tài mới toanh trước tượng Phật. Ta đoán, đó là quan tài hắn chuẩn bị để mang di cốt Nguyên Húc trở về Lạc Dương.

Mục đích của hắn là ép ta tính toán độ dày bùn đất sau trận lụt, xác định hướng chảy của dòng sông, mong lần theo số liệu mà tìm ra nơi mộ bạn mình bị vùi lấp. Chỉ cần ta lưỡng lự hay phản bác, hắn liền lóc từng thớ thịt cánh tay ta để tra khảo. Ta sợ hãi đến hồn vía lên mây, chỉ biết cúi đầu làm theo.

Hắn đeo một thanh đoản kiếm, thoạt nhìn chỉ là khúc sắt rỉ. Nhưng sau khi đã chém không biết bao nhiêu người, lớp rỉ sét từng mảng tróc ra, để lộ hàng chữ vàng nhạt như ruột cá ta chợt hiểu đó là một thanh cổ kiếm danh tiếng từng thuộc các vương hầu ngày xưa. Hóa ra, đám cổ vật hắn từng đem bán khắp kinh thành, chính là lấy từ các lăng mộ trong lòng Bắc Mang Sơn nơi hắn quen Nguyên Húc lúc đầu.

Một tháng trời bị giam, ta vừa tính toán vừa tìm mọi cách nịnh bợ cầu sống. Dốc hết từ ngữ tán tụng kiếm pháp hắn: nào là ‘Mười bước một mạng, ngàn dặm không lưu bóng’, ‘Trăng rọi vỏ kiếm, sao lạc lưỡi gươm’, ‘Gươm lặng như nước, đỏ au máu đọng’… Hắn nghe xong chỉ ngơ ngác nói:

“Kiếm là vũ khí khó dùng nhất. Nhập môn đã khó, luyện thành càng khó, lại dễ mẻ gãy, lắm khi chỉ để trang trí. Ta đeo kiếm, chỉ vì Yến Chi thích loại hiệp khách trong thơ ấy. Kiếm thật hay giả, cũng chỉ là cái vỏ.”

Vi Huấn thầm nghĩ: thì ra suốt đời Trần Sư Cổ chỉ dùng loại vũ khí tệ nhất mà vẫn tung hoành thiên hạ, là vì chấp mê vào mộng tưởng trong thi văn.

“Bị nhốt càng lâu, ta càng nhận ra hắn không giống những kẻ loạn trí lang thang ngoài phố. Hắn giết người không ghê tay, nhưng vẫn giữ được sự tỉnh táo lạ kỳ. Mỗi lần ta đưa ra phép tính, hắn đều đích thân kiểm tra lại, sợ ta dối trá. Một kẻ chưa từng học số học, lại nhanh chóng hiểu được nghề ta khổ luyện mấy mươi năm, khiến ta lạnh sống lưng vì biết đâu mai này hắn không cần ta nữa.

Nghĩ vậy, ta bèn tranh thủ những lúc nghỉ ngơi tụng kinh cầu siêu cho Nguyên Húc. Nguyên Húc sinh thời sùng Phật, Trần Sư Cổ từng thấy hắn tụng kinh, nên từ đó hắn thôi không hành hạ ta nữa.

Nhưng đêm xuống, ngoài miếu thường vang vọng những tiếng hú gào chẳng ra người chẳng ra thú, rợn ngợp giữa khúc sông Linh Thủy. Nghe như tiếng oán hồn, thê lương não nề, chứa chan hối hận. Có lẽ hắn oán chính mình, hối tiếc vì không luôn ở bên bạn thân, để rồi Nguyên Húc chết tha hương, thân xác chẳng thể về cố hương.

Sau bao lần tính toán, giấy bút chất cao thành núi, cuối cùng ta đi đến kết luận linh cữu Nguyên Húc không bị chôn vùi, mà bị lũ cuốn trôi xuống sông, hòa vào dòng bùn, dạt ra biển rộng. Mỗi bước tính, hắn đều theo dõi kỹ càng nên kết quả ấy không sai.

Ta biết mình khó sống sót, liền quỳ xuống tụng kinh, chờ cái chết. Nhưng hắn không ra tay, chỉ nhìn về phía biển xa, lẩm bẩm:

“Ngươi xem, ta nói rồi, thứ trong sách độc hơn cả rắn rết trong thơ.”

Rồi hắn bỏ đi, mang theo cỗ quan tài ấy, không còn bóng dáng.

Ta quỳ đó một ngày, trong lòng nảy ra một ý nghĩ. Nếu năm ấy không có lũ lụt, hắn có lẽ đã tìm được xác bạn, đem về chôn cất, dần dần nguôi ngoai mà trở lại làm người. Nhưng vì chẳng thể đối diện, hắn bị chấp niệm gặm nhấm, hoá điên.

Lễ tang của một người từ gọi hồn, tắm rửa, cơm hàm, cáo phó, phát tang, khâm liệm… không dành cho người chết, mà để người sống dần học cách chấp nhận.

Về sau, khi về hưu, ta mở Cửu Tương Quán, giúp người rơi vào u mê tìm lại chính mình.

Nhưng chuyện ấy chưa kết thúc.

Ta lê lết nghìn dặm trở về Trường An, thân thể tiều tụy như ăn mày, cứ tưởng mọi sự sẽ lắng xuống. Nhưng ta nhầm. Đại Lý Tự lập tức bắt giam ta vì tội tắc trách. Nguyên Ấp cùng vợ chàng Lý Nhàn cũng bị bắt.

Tội của Nguyên Ấp là tiến cử một kẻ lai lịch mờ ám dự thi tức Trần Sư Cổ. Qua điều tra, phát hiện gia phả, quê quán, tổ tiên của hắn đều bịa đặt. Do loạn lạc thời Thiên Bảo, sổ hộ tịch thất lạc, Lễ Bộ không kiểm tra được, nên hắn mới qua mặt quan trường.

Khi dò theo địa chỉ hắn từng khai, người ta chỉ tìm được một lăng mộ cổ đời Hán trên núi Bắc Mang. Mộ chủ cũng họ Trần.

Thì ra, hắn không mang họ Trần. Tên ‘Sư Cổ’ chỉ là ám chỉ ‘thi cốt’. Hắn là một bóng ma không tên, bị ánh sáng từ Nguyên Húc dẫn dắt, từ địa ngục Tu La len vào trần thế, rồi lại rơi về chốn tối tăm.

Các quan Đại Lý Tự thương xót chúng ta là người bị lừa, không tra tấn, chỉ bắt chép lại từng chi tiết về Trần Sư Cổ, hết lần này đến lần khác. Nhờ thế, bốn mươi năm rồi, ta vẫn nhớ rành rọt.

“Đến lúc ấy rồi, triều đình còn mơ bắt người ấy về quy án. Nhưng chỉ một tháng sau, ảo vọng ấy tan biến.”

Trong buổi thiết triều ở điện Hàm Nguyên, khi hoàng đế vừa ngự giá, giữa điện bỗng hiện một cái đầu đẫm máu. Thủ vệ rối loạn. Có kẻ lấy máu từ đầu ấy, viết lên tường một bài thơ tang tóc:

“Chiều rơi khói phủ bến sông
Trăng treo lạnh ngắt, tháp lồng bóng nghiêng.…”

đó chính là thơ tuyệt mệnh của Nguyên Húc.

Lúc này ai cũng hiểu, Trần Sư Cổ có thể dễ dàng lấy đầu tiết độ sứ, thì việc vào Hàm Nguyên Điện lấy đầu vua chẳng khó. Hắn chưa ra tay, chỉ vì Nguyên Húc còn thân nhân sống. Khi họ chết đi, phong ấn cuối cùng này cũng mất đi.

Ba ngày sau, chúng ta được thả, trả về chức cũ. Để trấn an, triều đình còn phong Lý Nhàn làm huyện quân.

Vụ án chấn động này được lặng lẽ khép lại. Hàm Nguyên Điện được sơn lại, hồ sơ bị thiêu hủy, mọi lời nhắc đều bị cấm. Tựa như hai con người ấy chưa từng tồn tại.

Đó là lần cuối ta nghe về Trần Sư Cổ. Về sau, nhiều năm ta luôn sống trong sợ hãi, e một ngày hắn sẽ trở lại báo thù. Nhưng lạ thay, vợ chồng Nguyên Ấp lại thọ lâu, qua ba đời vua vẫn sống an lành.

Năm năm trước, khi còn đi lại được, ta đến thăm họ. Cảm giác ấy… như một ngọn đèn sắp tắt.

Hôm qua gặp ngươi, ta không nhịn được hỏi han tung tích Trần Sư Cổ. Nếu hắn lại xuất hiện, Đại Đường ắt rơi vào tai hoạ.”

Vi Huấn nhớ lại năm năm trước, khi mình vừa mạnh mẽ xuất sư. Trần Sư Cổ đã bệnh nặng, không còn đủ sức theo kịp đồ đệ, càng chẳng thể trèo lên tường Hàm Nguyên Điện để viết thơ bằng máu.

Suốt đời hắn bị giam trong một câu thơ và một cỗ quan tài, chẳng thể trả thù, chỉ biết moi xác đám quan lại từ dưới mồ lên mà nghiền xương trả hận. Trong số những người còn sống, chỉ còn lão tăng trước mặt.

“Yên tâm. Hắn chết rồi. Ta tận mắt chứng kiến.”

Nhớ đến Bảo Châu, Vi Huấn không muốn nghe thêm. Lau tay, hắn đứng dậy.

Đàm Lâm vội nói:

“Ngươi đã nhiễm tình độc, tâm ma sắp phát. Sao không buông bỏ mà quy y, học phép độ người, độ mình như Quan Xuyên?”

Ông chỉ vào thi thể một thiếu nữ vừa mới mất:

:Phàm có hình tướng, đều là hư ảo. Bao người vì chấp niệm mà thành ma. Trần Sư Cổ cũng thế. Ngươi là truyền nhân hắn, nhưng nếu một lòng hộ pháp, thì dù thân từ quỷ vực, cũng có thể thành thần hộ pháp. Đừng giẫm lên vết xe đổ!:

Vi Huấn dứt khoát đáp:

“Không được. Ta còn sứ mệnh. Dù có xuất gia, thì ta cũng chỉ vì nàng mà làm hộ pháp, không phải vì ông.:

Một tiếng thở dài buông ra. Đàm Lâm thất vọng nhắm mắt lại, lát sau mới nói:

“Xem ra, ngươi vẫn chấp mê, rồi sẽ lại rơi vào tuyệt lộ. Nếu chẳng còn manh mối nào, hãy xem tác phẩm cuối cùng của hắn – “Cửu Tương Đồ”. Có lẽ sẽ thấy được tâm ma trong đó.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 112


Vi Huấn chẳng rõ vì sao mình lại nấn ná lâu đến thế. Trong đại điện âm u, mùi nhang tỏa quẩn quanh, lão tăng chậm rãi tụng niệm, tiếng nói khàn khàn dường như có ma lực, lôi người chìm vào dòng hồi ức 40 năm trước, như sa vào bùn lầy, chẳng thể thoát thân.

Đàm Lâm luôn miệng khuyên nhủ đừng “dẫm vào vết xe đổ”, nhưng Vi Huấn chẳng nhìn ra điều gì đáng để học lấy. Nguyên Húc bị người hại chết, xương cốt chẳng còn; còn Bảo Châu, ngay từ đầu đã gặp phải cùng một kiếp nạn, nàng vẫn còn đây.

Sau khi xoá tên đồ đệ thứ sáu Bàng Lương Ký, cả mười hai người trong sư môn đều bị giết tận, chẳng một ai giữ được tính mạng. Ai cũng có kết cục thê thảm, Trần Sư Cổ cũng chẳng khá gì hơn. Hắn rơi vào ma chướng, bởi không còn nơi để phát tiết. Nếu khi xưa có thể giết kẻ thù trong đêm tối, e rằng mọi việc đã sớm kết thúc.

Vi Huấn chạy vội về thượng khách đường, liếc mắt đã thấy Bảo Châu đang quỳ bên hồ nước, tay với lấy một đóa sen nhưng mãi chẳng chạm tới, suýt nữa ngã nhào vào trong ao.

Hắn bật cười, ngăn nàng lại: “Muốn té xuống như gà lăn vào nồi canh à!” Rồi nhún người phóng lên núi giả giữa hồ, hỏi: “Muốn đóa nào?”

Bảo Châu chỉ tay reo lên: “Là đóa kia, vừa mới nhú lên khỏi mặt nước ấy!”

Vi Huấn đưa tay hái sen, nhảy trở về bờ, mang theo sương sớm trao vào tay nàng.

Nàng vừa mới tắm gội xong, cả người nóng ấm, ôm hoa sen hít một hơi thật sâu, khoan khoái nói: “Chính là mùi này. Tòa tháp này đầy mùi quái dị, dùng hương liệu che giấu mùi xác, càng khiến người ngột ngạt. Chỉ có hương hoa tự nhiên mới làm tỉnh thần tĩnh tâm.”

Nàng nghiêng đầu than tiếc: “Hoa sen không hợp cài tóc, nhựa làm bẩn mái đầu. Vẫn là trâm sen của ta trước kia tốt hơn… Ngươi cũng ngửi thử xem.”

Bảo Châu giơ hoa kề sát mặt Vi Huấn, hắn làm bộ hít hà, nhưng lòng thì nghĩ: chẳng có đóa sen nào thơm bằng hương thơm của nàng. Có lần nàng lén giấu túi thơm vào hành lý, mà trên người vẫn ngát hương. Mùi ấy không hẳn là từ thụy long não, mà từ chính thân thể nàng. Chỉ tiếc, hễ nghe thấy là tâm loạn ý tán, khó lòng giữ chánh niệm, chi bằng giữ khoảng cách còn hơn.

Vi Huấn kể lại hết thảy tin tức vừa nhận được từ Đàm Lâm, trong đó nhắc rằng bức họa cuối cùng của Ngô Quan Trừng “Cửu Tương Đồ” giống hệt đề tài bích họa trong Vô Thường điện. Nhưng đây không phải là đơn đặt của chùa Thiềm Quang, mà là lúc mười ngày trước hắn mất tích, bị các tăng nhân trông thấy đang điên cuồng vẽ vời. Ai gọi cũng không đáp.

Hai người tức khắc lên đường, tìm đến nơi treo bức họa.

Chỗ gần nhất là tầng thứ nhất hướng tây bắc của Phù Đồ. Ở trung tâm có đặt một cỗ quan tài, xung quanh vách tường và vòm điện là những bích họa hoa lệ, vẽ cảnh phi thiên tung hoa. Giữa tầng mây và dải lụa, các thiên nữ bay lượn vung đầy cánh hoa, cảnh tượng vừa mỹ lệ, vừa thần thánh.

Nhưng bên cạnh vách tường lại bị phá một khoảng, vẽ chằng chịt hình ảnh thi thể đang rữa nát. Hình vẽ sống động đến nỗi khiến Bảo Châu chẳng dám lại gần.

Vi Huấn ngắm kỹ rồi chậm rãi nói: “Đàm Lâm nhắc mãi về Cửu Tương Quan, quả không sai. Trình tự trên bức họa khớp với tiến trình phân hủy của tử thi ngoài đời thật.

Thứ nhất là thân xác người mới chết còn nguyên vẹn, thứ hai bụng trương phồng, thứ ba da chuyển màu bầm tím, thứ tư máu chảy loang lổ, thứ năm mủ rỉ ra, thứ sáu bị dòi bọ đục khoét, thứ bảy da thịt nứt ra, thứ tám trơ xương, thứ chín chỉ còn bộ cốt khô. Nhìn đám ruồi bay lượn quanh, đây hẳn là cảnh thứ sáu: dòi bọ đục khoét, Ngô Quan Trừng vẽ đúng thật.”

Bảo Châu nghe vậy càng thêm sợ, hỏi lớn: “Vậy quan tài kia là ai?”

Vi Huấn bước tới, gõ gõ nắp quan, nói bằng giọng nhà nghề: “Mộc âm, vật liệu quý. Người trong quan hẳn là phú quý.”

Hắn vòng ra phía bên, thấy dán câu đối phúng điếu: “Di Ái Thiên Thu Phu nhân Bí Thư Thừa Đoạn Thị.”

Vi Huấn nói: “Có lẽ di thể do thân nhân gửi nhờ chùa, đợi hợp táng hoặc chưa kịp lo mộ phần. Các chùa thường nhận việc này, đổi lấy một khoản công đức.”

Cạnh quan tài bày hoa tươi, trái cây, đèn trường minh và hương án đầy đủ. Nhìn cách bày biện, hẳn là người giàu sang.

Hắn trầm ngâm giây lát, rồi bảo Bảo Châu: “Ta mở quan xem thử?”

Bảo Châu đành gật đầu, lùi ra xa.

Vi Huấn không dùng đồ nghề, chỉ vận công Tàn Đăng Thủ, rút từng chiếc đinh quan, rồi mở nắp nặng nề. Mùi hương trộn mùi xác lập tức xộc lên, may mà phía dưới có vôi hút nước, trên phủ đầy hương quý, nên mùi mới dễ chịu đôi chút.

Trong quan là thi thể một phụ nữ đã khô quắt, dịch thể bị hút hết, áo quần chỉnh tề, đoán chừng đã chết vài tháng. Kiểu tóc và y phục cho thấy là người đã có gia thất, chỉ là tuổi khó đoán.

Vi Huấn khẽ nhấc búi tóc, thấy là tóc giả đen tuyền, bên dưới là mái tóc hoa râm, đoán tuổi người chết ngoài năm mươi.

Từ xa, Bảo Châu hỏi lớn: “Có gì lạ không?”

Vi Huấn đáp: “Không có gì. Trông rất yên bình.” Rồi đặt tóc giả lại cho ngay ngắn, đậy nắp quan tài, nói: “Đi tiếp nơi khác.”

Trước khi rời đi, hắn ngoái đầu nhìn lên vòm điện. Giữa hàng trăm hình phi thiên, hắn bỗng chú ý tới một nữ hình sáu tay. Sau lưng mọc hai cặp tay to, thân thể uyển chuyển, thân trên tr*n tr**, th*n d*** mặc váy dài mềm mại. Nàng đội mũ hoa sen, môi đỏ mọng, trang sức giống hệt các phi thiên khác. Nhưng gương mặt lại rất giống Bảo Châu.

Vi Huấn giật mình, nhìn kỹ thì ánh nến lấp loáng, đôi mắt bức họa ấy dường như chớp một cái.

“Ngươi đang nhìn gì thế?” Bảo Châu đột ngột xuất hiện trước mặt, hỏi lạnh lùng.

Vi Huấn vội dời mắt khỏi mấy bức họa mỹ nữ mặc hở hang, trả lời qua loa: “Không có gì, chỉ ngắm ánh trăng.”

Hắn thầm nghĩ: hay là Ngô Quan Trừng vẽ đôi mắt sống động kia bằng kỹ pháp vẽ mắt? Nhưng sao lại vẽ giống Bảo Châu đến vậy?

Cả hai rời tây bắc tháp, đi qua hành lang dài tới hướng đông bắc. Hai bên hành lang đều là bích họa, trong đó có bức “Địa Ngục Biến” miêu tả cảnh Vu Lan hội. Tranh xưa, màu nhạt, chi tiết bong tróc nhiều, không phải bút của Ngô Quan Trừng.

Bảo Châu chỉ vào bức họa nói: “Dù ở Trường An hay Lạc Dương, giữa bức Địa Ngục Biến đều có Địa Tạng Bồ Tát. Tuy cảnh tượng âm u, nhưng có Bồ Tát thì còn hy vọng. Thế mà bức Phúc Thủy kia chỉ vẽ một xác chết trôi. Nếu Ngô Quan Trừng bị hại, thì hung thủ thật độc ác, muốn hắn mãi mãi không được siêu sinh.”

Nói đoạn, nàng thở dài, mắt đầy lo âu.

Vi Huấn hiểu nàng nghĩ đến cảnh mình từng bị chôn sống, đè trong quan tài, mặt bị che bởi bàn cờ và đồ cúng. Chưa kịp an ủi, nàng đã tiến lại gần.

“Ta mới mở quan đấy…”

Bảo Châu không chạm vào tay dơ của hắn, mà khoác tay hắn, tựa nửa người vào.

Cảm giác mềm ấm thấu qua áo, khiến Vi Huấn sững người. Hai người đi cạnh một lúc, hắn đành thoát khỏi tay nàng: “Không được đâu, lỡ gặp mai phục, ta cần tay để ứng phó, kéo nàng chạy cho kịp.”

Bảo Châu bực bội lườm một cái, rồi chỉ nắm lấy cổ tay hắn.

“Vừa rồi nữ tử trong quan, có mang trang sức không?” Nàng hỏi.

Vi Huấn ngẫm lại: “Có, khá nhiều vòng tay trang sức. Quan tài bằng gỗ quý, chắc không phải người nghèo.”

Bảo Châu lẩm bẩm: “Ta nằm trong quan tài gỗ đế vương, mà trên đầu chẳng còn gì cả…”

Vi Huấn thấy khó hiểu, hình như nàng từng nhắc chuyện này, nhưng chẳng nhớ rõ lúc nào.

Cả hai tiếp tục đến chính điện phía bắc, nơi có một quan tài và bức họa mới của Ngô Quan Trừng vẽ cảnh thứ năm: chảy mủ. Thi thể phân hủy hơn nửa, mủ máu lan tràn, vẽ sống động như thật. Ánh sáng lờ mờ khiến bức tranh càng thêm ghê rợn.

Bảo Châu đứng nép ngoài cột, Vi Huấn mở quan. Bên trong là một nam thi cao lớn, mặc áo võ, gần như chỉ còn xương. Theo Cửu Tướng Đồ, đây là cảnh thứ tám hoặc thứ chín, không khớp với bức họa.

Nghe nàng ngáp từ xa, hắn lớn tiếng gọi: “Ngươi về ngủ đi. Một đêm nữa ta mở hết, sáng kể lại kết quả.”

Không thấy hồi âm. Một lúc sau, nàng bước ra, kiên quyết nói: “Không, phải phá án cho nhanh. Ngô Quan Trừng lúc chết tinh thần chẳng tỉnh táo, ta lo cho Ngô Quế Nhi.”

Nàng ngừng một lát, khẽ nói: “Nếu bích họa chẳng khớp tình trạng xác chết, thì sao hắn cứ nhất định phải vẽ bên cạnh quan tài kẻ khác? Những người này đều giàu sang, đâu có liên quan gì đến hắn một cô nhi nghèo khó?”

Vi Huấn kiểm tra kỹ thi thể, giúp người đã khuất chỉnh lại khăn áo.

Bảo Châu hỏi: “Ngươi không tin có ma quỷ, sao vẫn giữ lẽ với xác chết như vậy? Hôm nay là Vu Lan, chẳng lẽ sợ hồn ma tìm đến ngươi?”

Vi Huấn cười: “Xác chết vô tri, ta không sợ. Chỉ ngại lúc người nhà đến nhìn thấy thân nhân xộc xệch nên trong lòng chẳng nỡ.”

Bảo Châu khẽ lẩm bẩm: “Thật không hiểu, Trần Sư Cổ sao lại dạy ra ngươi như thế này?”

Vi Huấn đậy nắp quan, chà tay vào lá bưởi để xua mùi tử khí. Hắn thở hắt ra trong làn hương xông, lòng vẫn thấy rờn rợn.

Sau một lúc, hắn nói: “Nhưng người đó không phải lão Trần dạy ta. Ta theo ông ta làm nghề trộm mộ từ nhỏ, chẳng thấy có gì bất thường. Một hôm, đi ngang bãi tha ma, thấy một người mẹ nghèo chôn con sơ sinh. Nàng chẳng có tiền mua quan tài, cũng không thuê nổi người đào huyệt. Đành lấy một mảnh vải cũ quấn xác, chôn cạn xuống đất.

Bảy ngày sau, ta quay lại, thấy xác bé bị chó hoang moi lên, ăn mất một nửa. Mộ phần tan hoang. Mẹ nó mang ít hoa quả đến, phát hiện thì chỉ còn biết ôm thi thể đứa nhỏ vào lòng, nức nở.

Ta đứng bên, nhận ra: mình chính là con chó hoang đó. Từ đó, ta mới nhận ra nghề này sai lầm, trong lòng nhen nhóm ý định dừng tay. Nếu không phải cần thuốc cứu người, đã sớm rửa tay gác kiếm.”

Nói xong, Vi Huấn thấy câu chuyện có phần thê lương, sợ Bảo Châu buồn, bèn cười nhẹ: “Cũng may ta chưa bỏ nghề sớm, bằng không làm sao cứu được nàng từ địa cung ra?”

Hơn mười năm đụng chạm xác chết, hóa ra chỉ để đưa nàng về lại nhân gian. Thế là đủ.

Nghĩ đến đây, hắn thấy Bảo Châu đứng lặng dưới mái hành lang, gương mặt kiều diễm ánh lên trong bóng tối, ánh mắt như ngấn lệ, lại như chứa điều gì khác.

Đã đến giờ Tý. Mọi thứ chìm vào tĩnh lặng. Sương đêm trắng toát phủ lên viện cổ. Ánh trăng sáng vằng vặc, soi rọi xuống một thế giới u huyền.

Chợt trong thoáng chốc, như thể bức họa phi thiên sáu tay kia, đôi mắt nàng lại khẽ chớp một lần nữa.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 113


Sâu thẳm, kéo dài, không bờ không bến… như hành lang cổ tháp dẫn vào lòng mộ đạo.

Tương ứng với bóng tối ấy là những bức bích họa sặc sỡ và rực rỡ sắc màu trên vách tường: từng hàng thần hộ pháp mặc giáp trụ oai vệ, Bồ Tát váy lụa nâng tịnh bình, các vị thiên nhân uyển chuyển, chẳng khác gì những vẽ trong cung đình hoặc trong mộ cổ.

Bảo Châu giơ cao bó đuốc, ngắm nghía kỹ lưỡng từng nét vẽ nhân vật, thấp giọng trách khẽ:

“Bọn họ vẽ vội quá, chẳng buồn tô thêm sắc màu lên vẽ cung ta.”

Vi Huấn cảm thấy như có làn khói trầm hương phảng phất dâng lên trong lòng, từng đợt sương mờ bồng bềnh, che lấp tầm mắt. Hắn bỗng dừng lại nơi môi nàng: đỏ mọng, đầy đặn, mềm như cánh hoa, thoảng như phủ một lớp phấn hồng. Hắn biết không nên nhìn chăm chú, nhưng ánh mắt lại không sao dứt ra được.

“Ngươi còn nhớ cái hộp thất bảo lưu li ta đưa không? Cái hộp gỗ sơn chế từ thợ thủ công Thường Châu ấy?” — Bảo Châu bất chợt hỏi.

“Nhớ rõ. Trong ấy là dạ minh châu giả, ta đã bóp vỡ từ lâu.”

“Lần sau nếu mở nắp quan tài mà gặp nữ tử đeo trang sức, nhớ rút một cây trâm cho ta. Ta muốn lấp đầy cái hộp ấy.”

Vi Huấn sững người:

“Ngươi chắc chứ? Đó là trang sức trên thi thể, mùi ấy phải rèn lửa mới hết nổi.”

“Chẳng phải ngươi lúc nào cũng ám mùi tử khí sao? Ta nào có ghét bỏ.”

Vi Huấn nghẹn lời. Hắn đích xác là kẻ sống nhờ quật mộ, nhưng vẫn cảm thấy lời nàng có gì đó lạc lõng.

Nàng lại có thể nói những lời như thế sao?

Tác phẩm “Cửu tương đồ” của Ngô Quan Trừng, đến phần thứ ba: da chuyển màu bầm tím, thi thể trương phồng biến dạng, gần giống một xác trôi sông, nhưng làn da tím tái, dễ phân biệt hơn thi thể vừa chết. Bức tranh khắc họa một thiếu nữ, tóc đen rậm rạp, thoạt nhìn còn trẻ lắm.

Vi Huấn mở quan tài bên cạnh bức họa, chỉ là thi hài một bé gái bảy tám tuổi, tóc thắt, tay đeo trâm ngọc, vòng tay chuỗi hạt đều tinh xảo. Rõ ràng là con nhà quyền quý, được yêu chiều. Hắn lặng lẽ khép nắp quan tài lại, không nỡ động đến bất kỳ món đồ nào.

Trở ra khỏi thiền phòng, Bảo Châu đang ngồi tựa lưng lên một bệ cao, bỏ giày, vắt chân, chân trần đung đưa, ánh mắt chờ mong:

“Có thu hoạch gì không?”

Bệ cao chừng sáu thước, người thường khó lòng trèo lên mà không lấm lem hay trông luộm thuộm. Vậy mà nàng kẻ luôn tô son dặm phấn khi đối đầu với địch chẳng hề để lộ chút luộm thuộm.

Vi Huấn cúi đầu, hít sâu một hơi. Trong lòng hắn, muôn vàn phương án phó đang lần lượt hiện ra. Với bản lĩnh của mình, vốn dĩ chẳng cần lắm lo toan, nhưng nếu kẻ thù ngụy trang giống hệt nàng, thì khi ra tay… hắn có dám xuống tay không?

Hắn tiến tới, ngẩng đầu ra lệnh:

“Xuống đây.”

Bảo Châu nghe lời nhảy xuống. Vừa chạm đất, Vi Huấn lập tức vung tay khóa chặt vai nàng, ép chặt vào tường.

“Ngươi làm gì vậy?” — nàng kinh ngạc.

“Nàng đâu?” — Vi Huấn lạnh lùng hỏi.

“Nàng nào?” — nàng cau mày, khó hiểu.

Không dám nhìn vào mắt nàng, hắn chỉ chăm chăm nơi xương quai xanh:

“Đừng dùng giọng nàng ấy để nói chuyện. Nếu không ta sẽ móc cổ họng ngươi ra!”

“Ngươi làm ta đau. Muốn tạo phản sao?” — nàng vẫn như chưa hiểu chuyện gì.

Vi Huấn không còn nhẫn nại. Hắn ấn mạnh lên mặt nàng, tìm dấu vết dịch dung. Nếu là phấn sẽ nhanh chóng nhòe đi. Nhưng lần này, chỉ là da thịt mềm mại, chỉ có một chút son môi nhòe.

Hắn cúi nhìn bàn tay dính son đỏ, trong lòng bỗng dấy lên cảm giác hoảng loạn. Phấn ấy đã bị chính hắn vứt bỏ. Giữa chùa chiền đầy tăng lữ này, nàng lấy đâu ra phấn son?

“Hoắc Thất nói ngươi hung dữ. Quả nhiên không sai, ngươi là con mèo hoang thô bạo.” — nàng rên nhẹ, đầy ẩn ý.

Vi Huấn càng thêm nghi hoặc. Hắn bất thần kéo tay nàng, vặn ngược, ép nàng quay mặt vào tường, xé rách áo.

Dưới xương vai trái có một vết bớt đỏ bằng móng tay út, hình như cánh hoa đào…

Không sai, đúng ngay chỗ đó.

Bảo Châu không vùng vẫy, chỉ run nhẹ mi dài, nước mắt loáng ánh trăng:

“Còn chỗ nào nữa không? Cánh tay trái có nốt ruồi, sau đùi cũng có… nơi ấy chính ta còn không rõ lắm”.

Vi Huấn buông nàng ra, thoái lui, ánh mắt hoang mang.

“Ngươi biết những chỗ nhỏ nhặt ấy, vì lúc cứu ta ra khỏi địa cung, phải kiểm tra kỹ xem trong người có cắm trâm thép hay thứ gì cấm kỵ. Khi ấy ngươi như kẻ vụng về, chỉ là đang lật thi thể thôi, ai ngờ hai tháng sau, bỗng nhiên nhớ lại trong mơ, rồi mất ngủ… phải không?”

Vi Huấn bước lui từng bước. Trong lòng dấy lên muôn câu hỏi: Nàng là ai? Sao lại giống Bảo Châu đến thế, đến cả dấu vết kín đáo cũng không sai? Sao lại biết chuyện ở Thúy Vi Tự?

Hắn vội lao về phía khách đường, phá cửa sổ xông vào. Trong phòng chỉ có những trang kinh Vu Lan còn bay lượn theo làn gió. Trống trơn. Không một bóng người.

“Bảo Châu?!”

Hắn vội chạy sang khu suối nước nóng. Vẫn không thấy ai. Chỉ có tiếng nước nhỏ qua bức tường trúc. Hắn trèo lên nhìn qua.

Giữa làn hơi nước mờ mịt, nàng đang ngâm mình.

“À, cuối cùng cũng dám qua đây. “— nàng giơ cánh tay trắng ngần vẫy hắn —” Lại đây, chẳng phải ngươi vẫn mong ta chạm vào ngươi sao?”

Vi Huấn trượt chân, sững sờ đứng bên ao.

Từ tường trúc vọng sang tiếng nàng:

“À phải rồi, ngươi không dám. Bởi ngươi biết ta chẳng còn gì: không thân phận, không quyền thế, chẳng châu báu hay thị vệ. Gọi là công chúa, kỳ thực như trẻ mồ côi, chỉ còn mỗi lòng kiêu hãnh. Ngươi sợ chạm vào, sợ làm vỡ đi thứ kiêu hãnh mong manh ấy, nên luôn nhẫn nhịn.”

“Nhưng khát khao không biến mất. Ngươi rất thích nhìn ta khóc, đúng chứ? Khi bị ép, khi tủi thân, như lúc nãy vậy…”

Lời nàng sắc lạnh hơn cả lưỡi kiếm, rạch từng vết nơi lòng hắn.

Là mộng chăng? Sao lại như thật thế này?

Vi Huấn tái mặt, ngước nhìn trăng, mong xác định phương hướng. Nhưng bầu trời u ám, không ánh sáng.

Hắn chạy. Vừa chạy vừa gọi tên nàng. Không ai đáp lại.

Xa xa có ánh sáng. Hắn lao tới như bắt được cứu cánh.

“Bảo Châu!”

“Mèo?

Nàng đứng giữa ánh trăng, tóc đen xõa dài, đưa tay đón hắn:

“Đừng đứng trong bóng tối, ta nhìn không thấy ngươi.”

Vi Huấn chững bước, ngỡ ngàng nhìn bóng dáng ấy.

Nàng mỉm cười:

“Hay là… ngươi vốn không phải mèo quý?”

Nàng tiến lại gần, hắn lùi từng bước.

“Ngươi từ trong bóng tối ngước nhìn trăng, bị ánh sáng hấp dẫn, thu lại móng vuốt, giả làm người lương thiện, quỳ bên ta.”

“Ta không giả…” — Vi Huấn lẩm bẩm.

“Vậy thứ trên tay ngươi là gì?”

Hắn giơ tay lên. Máu.

“Một đòn kết liễu. Kẻ ngươi giết, đều đáng chết cả sao?”

Đúng thế, bên nàng, ý niệm giết chóc bị che lấp. Nhưng chưa từng biến mất.

Bảo Châu sà vào, nâng tay chạm mặt hắn. Vi Huấn kinh hãi nhảy vọt lên nóc.

Hắn tung người, phóng qua từng gác chuông, tòa thiền, sân viện, chạy mãi l*n đ*nh Phù Đồ.

Từ cao nhìn xuống, chùa Thiềm Quang chìm trong bóng tối, chỉ le lói đèn trường minh nơi quàn xác.

Đáng lẽ phải cắt đuôi rồi chứ? Không ai nhanh hơn hắn cả.

“Sao có thể?”

Giọng nói ấy bất ngờ vang lên sau lưng. Toàn thân Vi Huấn cứng đờ. Một thân thể mềm mại, ấm áp, ôm lấy hắn.

“Dù ngươi khinh công đệ nhất thiên hạ, cũng không thể thoát khỏi thân thể mình. “— nàng thì thầm bên tai — “Ta là dụ.c vọ.ng, là tâm ma của ngươi. Ngươi vĩnh viễn không thể vượt qua ta.”

Vi Huấn giật mình, túm lấy kẻ sau lưng, giật ra trước mặt.

Ánh trăng lặng lẽ, vu lan bồn đêm đen kịt. Trên đỉnh Phù Đồ, bóng dáng thướt tha như tiên nữ dần hiện ra.

Dải lụa tung bay, đầu đội hoa sen, chân trần Xích Túc, sáu cánh tay dài mảnh vươn ra từng nhánh…

Chỉ là một ước vọng thầm kín: mong nàng chạm vào mình. Nhưng đêm nay, ở ranh giới âm dương, ước vọng ấy vặn vẹo, hóa thành thứ quỷ dị đáng sợ.

Sáu cánh tay: một đôi nâng mặt, một đôi siết eo, một đôi trườn xuống dưới…

“Đây là ảo tưởng cuồng dại nhất của ngươi, phải không? “— nàng cúi đầu, nở nụ cười thần bí.

“Không! Không phải! “— Vi Huấn hoảng hốt kêu lên.

Nhưng ngay lúc hắn cất tiếng, đôi môi kia đã phủ xuống, môi lưỡi siết chặt, hòa vào nhau trong nụ hôn.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 114


Mây đen âm u dồn nén bên trên đại chùa Thiềm Quang, phía đỉnh Phù Đồ, hai thân ảnh đan xen trong nụ hôn.

Thiên Ma Bảo Châu, sáu tay quấn chặt lấy Vi Huấn như dây thép lạnh, nhưng hắn không đáp lại, chỉ nghiến răng cố chống cự. Sau một hồi hôn mãnh liệt, nàng cảm nhận trên mặt hắn lành lạnh ướt đẫm, liền buông lưỡi, nhẹ l**m môi hắn, khẽ hỏi:

“Ngươi khóc sao? Vì lần đầu không đúng như ngươi từng mộng tưởng? Không phải cảnh tượng ngươi luôn nghĩ đến sao?”

“Nàng ở đâu?”

Rơi vào cảnh ngộ đảo điên mê loạn ấy, lòng Vi Huấn rối như tơ vò. Rõ ràng hắn chưa từng bước vào giấc mộng hay ký ức nào, vậy vì cớ gì lại hiện lên ảo giác khó gọi thành lời như thế này? Đây là ác mộng, hay là tâm ma kéo đến? Vậy Bảo Châu thực sự đang ở đâu? Nàng rốt cuộc gặp chuyện gì? Chẳng lẽ nàng cũng lâm vào một tình cảnh quỷ dị đến mức không sao tưởng nổi.

Bị nhốt ở nơi nào đó, giãy giụa tuyệt vọng, mà không thể nào thoát ra?

“Ta chính là nàng, nàng cũng là ta.”

Tiếng nói Thiên Ma Bảo Châu dịu dàng như nước chảy, nàng thì thầm:

“Ta là khao khát sâu kín nhất trong tâm ngươi. Ngươi chẳng luôn mong nàng chủ động đến gần, chạm vào ngươi sao? Vì thế ta hiện hình như thế này. Giờ đây, chỉ cần ngươi buông lòng kháng cự, hãy tận hưởng, ta sẽ dịu dàng đối đãi. Dẫu sao… chỉ là một giấc mộng. Là mộng đẹp hay ác mộng, là do chính ngươi chọn lấy.”

Cánh tay mềm mại tựa rắn quấn lấy thân thể hắn, luồn vào trong vạt áo xanh.

Hắn rùng mình, nói với tâm ma:

“Không thể được.”

“Không thể được.”

Hắn siết chặt tay, tự nhủ lại một lần nữa.

Dẫu rã rời và hỗn loạn, Vi Huấn vẫn cắn răng gắng sức thoát ra, từng chút từng chút giằng khỏi sáu cánh tay quấn riết. Hắn rút từng tay khỏi người, cuối cùng đẩy mạnh nàng ra.

Thiên Ma Bảo Châu bật cười rực rỡ, lùi lại một bước trên đỉnh Phù Đồ, chân trần đạp hư không, tưởng như sắp rơi xuống từ trên cao.

Nàng có cùng khuôn mặt, thân hình và giọng nói như Bảo Châu. Vi Huấn hoảng hốt, vô thức đưa tay đỡ lấy, nhưng bàn tay xuyên qua người nàng bởi nàng chỉ là một làn sương khói mơ hồ.

“Đến nước này rồi, mà vẫn không yên lòng sao?”

Nàng trôi bồng bềnh, một cái lộn vòng vui vẻ giữa không trung, rồi áp sát mặt hắn:

“Vậy ta nói cho ngươi một bí mật…”

Nàng thì thầm bên tai:

“Ta ở cùng Quế Nhi.”

Dứt lời, sáu tay Thiên Ma nữ tan biến thành khói, không chút dấu vết.

Ở cùng Quế Nhi? Ngô Quế Nhi?

Nhớ lại kết cục thê thảm của Ngô Quan Trừng, nhớ đến bức họa “Cửu Tương Đồ” cuối cùng, một luồng dự cảm xấu bao trùm tim hắn. Vi Huấn vội vã từ đỉnh tháp lui xuống, nào ngờ lảo đảo suýt ngã.

Tay chân hắn nặng trĩu, không còn sức. Thân thể lạnh toát, đầu óc trống rỗng. Đây là điềm dữ báo tử? Là lúc bệnh tái phát sao?

“Bảo Châu…”

Hắn bám vào tường, lê từng bước về phía trước, không rõ định đi đâu. Mạch máu xanh tím hiện rõ trên tay, tư duy dần rối loạn, tâm trí như hóa thành bùn lầy.

Phía trước lờ mờ một thân ảnh lực lưỡng vận giáp trụ. Vi Huấn lập tức căng người, chuẩn bị ứng chiến. Nhưng người kia không cầm vũ khí, mà giơ một ngọn kỳ lệnh tang nghi.

Rồi người thứ hai xuất hiện. Rồi người thứ ba…

Từng võ sĩ hộ pháp từ tranh tường bước xuống, giáp trụ cấm quân Trường An đầy đủ, tay cầm cờ, nghiêm trang mà trầm lặng. Họ lặng lẽ bước đi, không để tâm đến Vi Huấn, như không thấy hắn hiện diện. Đội hình dài, cờ màu trắng viền đen của kỳ tang.

Sau đó, từ bên kia tường tranh, các thiên nữ áo lụa bước xuống, tay ôm gương đồng chạm trổ phượng hoa là vật tế. Rồi thị nữ cung đình tay cầm tịnh bình, kim bồn, lược ngọc, lần lượt từ tranh hiện thân. Gương mặt ai nấy u buồn, đi lặng lẽ bên cạnh đội ngũ cấm quân tang lễ.

Có người đặt ngọc ve trong miệng tử thi thực hiện lễ chặn miệng bằng ngọc.

Ai là người được cử hành tang lễ này? Quy mô lớn như thế, vàng mã đầy đủ, cấm quân mở đường, thị nữ tế phẩm, đội ngũ dài dằng dặc…

Dưới hoa bay hóa giấy tiền, Vi Huấn như bị cuốn theo. Bóng người trước mắt cứ nối tiếp nối tiếp, tràng cờ phủ đầy trời. Đoàn người cứ thế lặng lẽ bước đi, dài không thấy cuối, tiến về phía trước.

Là ai đang được tiễn đưa?

Vi Huấn không biết. Chỉ biết, hắn đi theo như kẻ vô hồn. Lỡ chạm vào ai, người đó liền tan thành khói, rồi lại tụ hình vài bước sau. Một vòng luẩn quẩn, dẫn lối hắn đi mãi không dừng.

Cuối cùng, trước mặt hiện ra một tòa mộ lớn. Quan tài gỗ quý được đặt giữa mộ thất, nắp đậy phủ kinh phật và phù chú, hai bên đốt Bác Sơn lư hương, hương liệu phả lên mùi hương kỳ dị, ngăn không cho mùi tử thi lan ra.

Hắn từng khai quật quan tài này. Đã từng từ đây mang ra một người vô cùng quan trọng. Nhưng giờ, người ấy đang ở đâu?

Hắn lần lượt rút ra từng đinh gỗ, xốc lớp vải phủ kinh văn, mở nắp quan tài.

“Là ngươi từ chối mộng đẹp, lựa chọn ác mộng.”

Giọng Thiên Ma nữ lại vang bên tai.

Quan tài mở ra. Một thiếu nữ áo hoa nằm đó, trên mặt đeo mặt nạ quỷ quái.

Có còn kịp cứu nàng không? Như lần trước?

“Bảo Châu…”

Hắn khẽ gọi, như một lần cuối cùng chống cự. Không có ai đáp lời.

Mặt nàng xanh tím, hai mắt khẽ mở, ánh sáng trong trẻo ngày xưa nay đã mờ đục, phủ tầng sương trắng. Một thanh kiếm găm sâu vào bụng nàng là Ngư Tràng kiếm, cán tê giác cắm đến tận chuôi.

Vi Huấn run tay chạm lên gương mặt ấy, khẩn cầu đây chỉ là ảo ảnh, nhưng da thịt lạnh băng chân thực khiến hắn tuyệt vọng.

Hắn ôm nàng ra khỏi quan tài. Thi thể lạnh cứng, không còn chút hơi ấm nào, càng không còn hương thơm quen thuộc. Từng đụng đến không biết bao nhiêu tử thi, hắn chưa từng ảo tưởng, nhưng lần này, lòng hắn như tan nát.

Quanh hắn, đưa tang cấm quân và thị nữ lặng lẽ nhìn.

Mọi thứ lại trở về điểm đầu. Chỉ là, lần này không có con đường cứu nàng.

Hắn ôm nàng, dựa vào quan tài, ngồi bệt xuống, tâm trí hoàn toàn ngưng đọng.

“Ngươi giống Trần Sư Cổ, là Tu La mang tai họa, chỉ khiến người bên cạnh gặp nạn.”

Tâm ma lại lên tiếng.

“Ta chỉ muốn được ở bên nàng…”

Hắn nhìn gương mặt ấy, nước mắt từng giọt rơi xuống, hòa với máu, loang ra màu đỏ nhạt trên da nàng.

“Ngươi học giết chóc, không phải cứu người. Một ngày nào đó, ngươi sẽ tự tay làm nàng tổn thương.”

“Ta chưa từng muốn hại nàng…”

“Vậy vũ khí giết ta là gì? Ngươi xem đi.”

Thi thể đột ngột cử động, môi hé mở:

“Ngươi không phải đang siết cổ ta sao?”

Giật mình, Vi Huấn phát hiện hai tay mình đã siết chặt lấy cổ nàng.

“Đây là định mệnh. Đây là ngươi đã giết ta.”

Thi thể nói xong câu cuối, lại im lặng.

Vi Huấn buông tay, lòng bàn tay đặt lên Bác Sơn lò hương bên quan tài. Da thịt phỏng rộp, đau buốt toàn thân. Trong mộng vẫn có thể cảm thấy đau sao?

Hắn cố không động đậy, để cơn đau thiêu cháy thần trí. Cho đến khi mùi thịt cháy xộc lên, hắn mới vung tay đánh đổ lư hương, hương liệu bay tứ tán, bụi phấn rơi khắp đất.

Đủ rồi. Có phải thế là đủ rồi?

Hắn vẫn ôm thi thể trong tay, lặng im.

Thời gian trôi đi theo từng nhịp thở. Ký ức kéo ngược trở về: tử thi, đói khát, bệnh tật, tuyệt vọng đi tìm thuốc…

Không biết đã bao lâu, lòng hắn tĩnh lại. Ngẩng đầu, thấy bóng người quanh mình đều biến mất. Nên trả nàng về quan, an táng yên ổn chăng?

Hắn nâng thi thể, cúi đầu nhưng đó không phải Bảo Châu.

Là một nữ tử xa lạ, chết đã mười ngày, mặt mày tím tái, gầy gò, không rõ tướng mạo, chỉ có mái tóc đen dày cho thấy nàng còn trẻ. Môi nàng hé mở, như thể đang gọi một ai đó.

Một cơn gió đêm lướt qua, khiến tư duy hắn lưu chuyển trở lại.

Kỳ đầu, cờ trấn hồn, Ngư Tràng kiếm đều biến mất. Vi Huấn đưa mắt nhìn quanh, nhận ra đây không phải mộ hoàng thất, mà là phòng thiền trong tháp cổ. Quan tài kia cũng không phải mộc tơ vàng, chỉ là gỗ thường mà nhà giàu có thể dùng được.

Mộng đã tan? Ảo giác lặng lẽ rời đi, chỉ còn lòng bàn tay phỏng rộp đau nhức, kéo hắn về với thực tại.

Lư hương tắt, mây tan trăng sáng, ánh trăng luồn qua hành lang chiếu vào thiền đường. Vi Huấn thấy trong miệng tử thi có vật phản sáng. Hắn thò tay lấy ra là một khối đường trong suốt như băng, lẫn vụn hình như là cánh hoa quế.

Là đường hoa quế.

Một khối đường đặt trong miệng nữ thi.

Nhớ đến lời tâm ma: “Ta ở cùng Quế Nhi”, Vi Huấn như ngộ ra điều gì.

Đây là nàng nhắn gửi?

Ôm lấy tử thi lạ mặt, Vi Huấn đứng lên, dưới ánh trăng Vu Lan Bồn, bước vào giây phút mà người chết có thể mở miệng nói lời cuối cùng…
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 115


Không rõ vì cớ gì, Vi Huấn cứ có linh cảm rằng: chỉ khi phá xong trận này, chàng mới có thể thật sự tìm được Bảo Châu.

Chàng nhẹ tay đặt lại xác nữ tử lạ vào quan tài, cẩn thận cởi y phục nàng, lần lượt xem xét khắp thân thể để tìm dấu vết thương tổn khi còn sống. Vết thương chí mạng chỉ có một: vết bầm sâu ở cổ. Trong ảo ảnh, Vi Huấn từng tự trách, nhưng tay chàng khi ấy chưa từng dùng hết sức, vậy mà dấu ấn trước mặt lại đậm đến mức lõm hẳn xuống, không đàn hồi, đã hình thành từ mười ngày trước.

Kẻ ra tay dùng lực tàn bạo, không chỉ bóp nát cổ nàng, mà còn để lại vết xước hình trăng non do móng tay cào xước. Trong đó còn sót lại chút sắc tố đỏ thắm là một loại màu dùng trong tranh vẽ.

Chàng giúp nữ tử mặc lại y phục, chỉnh lại búi tóc đơn sơ, rồi khẽ bẻ hàm nàng để xem kỹ trong khoang miệng.

Thi thể này được quàn ở điện Phù Đồ, nơi đặt linh cữu tất nhiên không thể thiếu đèn trường minh và lư hương. Đều là lễ nghi cúng tế, nên không ai nghi ngờ điều gì.

Vi Huấn dừng hơi thở, lần lượt hất đổ những chiếc lư hương khả nghi. Quả nhiên, trong đó giấu đầy những chất độc như gan công, chì trắng, thủy ngân, chu sa, đồng nguyên, tất cả đều là vật liệu luyện đan, đồng thời cũng là nguyên liệu chế màu vẽ.

Khi đốt cùng hương liệu, các thứ ấy khiến khứu giác sai lệch, làm chàng không kịp nhận ra mình đang rơi vào bẫy. Hít phải độc khí, chàng mê man mà không hay. Nếu khi ấy vẫn như lúc trộm mộ, nín thở hành sự, có lẽ đã không nhiễm độc quá sâu. Nhưng đêm đó, vì muốn làm dịu nỗi sợ của Bảo Châu, chàng không ngừng nói chuyện, chẳng ngờ từ tỉnh táo lại bước thẳng vào mê loạn.

Rốt cuộc, từ khi nào nàng không còn là Bảo Châu thật sự? Vi Huấn lắc đầu, cố dẹp bỏ suy nghĩ ấy. Chàng mở từng cỗ quan tài, soi đèn dầu xem xét từng khoang miệng của xác chết.

Chàng nhớ lần đùa giỡn cùng Bảo Châu: “Muốn biết thân thế người, chỉ cần nhìn răng là hiểu.”

Đó là một kinh nghiệm học lỏm từ những năm tháng hành nghề tại Tàn Dương Viện. Người giàu từ bé ăn toàn đồ mềm, răng ít mòn. Người nghèo ăn đồ thô lạt, răng mòn nặng. Những thi thể này, ngoại trừ xác nữ tử trẻ có ngậm viên đường sương hình hoa quế, ai nấy đều thuộc hàng phú quý. Còn nàng răng mòn nát là kẻ từng lớn lên kham khổ.

Ngô Quế Nhi. Nàng mất tích đã nửa tháng. Thân nhân vẫn ngờ nàng bị giấu trong chùa Thiềm Quang giờ được chứng thực. Kẻ ra tay bóp cổ nàng chính là trượng phu Ngô Quan Trừng kẻ từng là tăng nhân hoàn tục. Dưới móng tay để lại dấu vết màu vẽ của họa sư.

Vậy còn xác họa sư kia thì sao?

Giờ đã đến lúc hỏi hắn. Vi Huấn lặng lẽ bước vào sau điện, nơi đặt cái xác trương phình của kẻ tên Quan Trừng. Tắt lư hương, thắp đèn dầu, chàng ngồi xuống.

Xác vẫn nằm trong hố vôi, bốc mùi tanh tưởi. Vi Huấn không tránh né, chỉ nhẹ nhàng nói: “Làm phiền.” Rồi vén tay áo, dùng ngón tay chuyên hành nghề Tàn Đăng Thủ mà mổ phanh thi thể, từng bộ phận nội tạng được lấy ra.

Nếu lúc đầu chàng không sợ Bảo Châu ghét bỏ, không cố tránh việc khám nghiệm, hẳn sự đã không đi đến nước này. Giờ, tất cả đều do mình tự chuốc lấy.

Phổi của xác phình lớn, bên trong như bọt biển là chết đuối không sai. Nhưng khác biệt là: khoang miệng, yết hầu phủ đầy vết loét bởi chất độc là hậu quả từ việc nhiễm độc thuốc vẽ lâu ngày.

Nhớ lại ảo cảnh, Vi Huấn từng bóp cổ “Bảo Châu”, cảm giác ấy không khác mấy nỗi tuyệt vọng hiện giờ. Nay, chàng đã hiểu rõ vì sao Quan Trừng lại điên đến vậy.

Tất cả những gì chàng từng thấy: sáu tay thiên ma, điện Phù Đồ, địa cung hóa ra chỉ là hồi ức hỗn độn từ nhiều năm trước. Còn Quan Trừng, có lẽ cũng chìm trong ảo giác riêng, rồi trong mê loạn gi.ết chế.t thê tử mình Quế Nhi. Đến khi tỉnh lại, không chịu nổi tội lỗi, hắn phát điên.

Nhưng hắn không hề ghét nàng.

Không thể mua nổi quan tài, liệm nàng trong cỗ hào môn của người khác.

Không có hương liệu quý, chỉ rải hoa quế, đặt vào miệng nàng viên đường thứ nàng chưa từng ăn.

Hắn vẽ tranh suốt trong chùa, không phải để dọa người, mà là để tự cứu mình để đuổi đi tâm ma. Nhưng chấp niệm vẫn còn, nên cứu không được.

Rồi hắn tự buộc mình xuống đáy ao trong bức vẽ Địa Ngục Biến, nguyền rủa chính mình không được siêu sinh. Khi xác nổi lên, dây buộc đã mục, nên xác lồ lộ trước mắt thiên hạ, gây nên thảm họa giẫm đạp.

Vi Huấn thò tay vào họng xác, lấy ra một vật, cẩn thận cất đi.

Xác đã chết ba ngày, kẻ đầu độc trong lư hương không thể là hắn.

Trước khi đi, chàng soi mình trong chiếc gương treo ở tường. Trong gương, khuôn mặt phủ một lớp khí xám, hai mắt đỏ lòm. Tuy đầu óc đã tỉnh táo hơn, nhưng độc khí vẫn chưa tan, khiến nét mặt trông dữ tợn.

Đã mở hơn chục cỗ quan, mà vẫn chưa tìm được tung tích Ngô Quan Trừng. Giờ thân thể chàng bốc mùi chẳng khác gì xác chết.

Xem ra, người chết rồi, dẫu sướng hay khổ, cũng không thể thoát khỏi dấu tích từng có trong đời. Cũng như hàm răng kia, mỗi vết mòn, mỗi vết nứt, đều là ghi chép không thể chối cãi.

Kẻ địch của hắn có thể là ba người.

Vừa bước khỏi gian phòng thi thể, chàng đã bị một kẻ to cao chặn lại.

“Ta thấy có ánh đèn, đoán là ngươi.” Người ấy nói, nét mặt dửng dưng. Chính là Quan Xuyên.

Vi Huấn nghĩ thầm: “Xem ra, đây là kẻ đầu tiên.” Trong đầu nhớ lại lời Đàm Lâm từng nói: “Phẫn nộ, cuồng si là ma chướng của kẻ ngu muội.”

Chàng hỏi thẳng: “Ngươi giấu Dương Phương Hiết ở đâu?”

Quan Xuyên nhíu mày: “Sao ai cũng đến chùa đòi người? Nàng chẳng phải đang ở Thượng Khách Đường nghỉ lại sao? Là con gái quan triều đình, ta sẽ cho cha con họ rời đi an toàn.”

Vi Huấn nhếch môi lạnh lùng: “Vậy ngươi chính là thừa nhận, muốn giữ ta lại.”

Quan Xuyên gật đầu: “Không sai. Nhưng ta và sư phụ không cùng quan điểm. Hắn muốn độ hóa ngươi, còn ta chỉ muốn đánh chết ngươi. Loại người như ngươi và Trần Sư Cổ, không thể quay đầu.”

Vi Huấn động tâm, hỏi thử: “Ngươi là hậu nhân Diệp Già?”

Quan Xuyên gật đầu: “Năm xưa, tổ sư ta nghe tin Trần Sư Cổ sa ngã, đã rời Lạc Dương vào Quan Trung khuyên can, kết quả bị giết, tâm pháp Bát Nhã Sám cũng bị cướp. Sau này ta gặp Đàm Lâm, ông khuyên ta bỏ thù hận, vào Phật môn hộ pháp…”

Vi Huấn bỗng bật cười lớn. Quan Xuyên cau mày: “Ngươi cười gì?!”

Chàng cười đến ch** n**c mắt, nói: “Thì ra Đàm Lâm ai cũng dùng một bài nói cũ rích ấy, chỉ xem kẻ nào ngu dại mà câu được. Gã nói về tâm ma, tam độc, vô thường, nói yêu là ngược gió cầm đuốc… nghe thì thâm sâu, hóa ra chỉ là thủ đoạn đầu độc người ta.”

Chàng cúi nhìn tay mình bàn tay từng thiêu cháy vì hương độc lẩm bẩm: “Tay ta bỏng, thì vẫn là tay ta bỏng. Chẳng thể thay đổi rằng đó chính là sự thật”

Quan Xuyên phẫn nộ, cổ họng vang lên tiếng gầm gừ: “Ngươi đã nhập ma, ta sẽ giết ngươi.”

Gân xanh nổi lên, y bước tới, chuẩn bị tung đòn. Vi Huấn nheo mắt, biết hắn đã luyện đến cảnh giới thân thể như thép, không dễ phá giải.

Còn mình, vừa trúng độc, vừa bị thương, chỉ còn lại nửa phần sức.

Chàng khẽ rùng vai, các khớp tay phát ra tiếng răng rắc, lẩm bẩm: “Không đem theo đồ nghề, thôi thì tạm có gì thì đánh đấy mà thôi.”

Suốt quãng đường đi, muốn giữ nàng bình an, thì phải chém qua hết mọi thứ.
Phật đến, giết Phật. Ma tới, trảm Ma.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 116


Đàm Lâm ngồi thiền định trong điện Quy Vô Thường, lặng lẽ suy tính xem kế sách đã chuẩn bị có thể thuận lợi tiến hành hay không.

Hắn vừa thêm một nhúm an tức hương vào lò, thứ hương liệu khiến người buông lỏng và dễ dàng chìm vào mộng tưởng. Ngày thường, hắn dùng nó để bản thân dễ nhập định, chứ ít khi để người khác ngửi qua. Một khi đã hít phải, người ta thường mất đi cảnh giác, dễ rơi vào trạng thái mê muội như trong mây mù. Khi ấy, chỉ cần giảng một hai câu chuyện, ý niệm đã dễ dàng thấm vào đầu óc người nghe.

Hắn kể cho Vi Huấn nghe chuyện Trần Sư Cổ, một phần vì muốn khơi gợi hiếu kỳ để giữ chân y lại trong điện, một phần vì tuổi già ngày một rõ rệt, hắn thật lòng muốn truyền lại bí mật năm xưa cho người kế thừa. Nhưng điều quan trọng hơn cả, là hắn hy vọng có thể khuyên Vi Huấn quy y, thực hiện chí nguyện cao tăng họ Diệp năm nào chưa thể làm trọn.

Ngày đó, bóng dáng Tu La ấy đã in sâu trong cơn ác mộng máu tanh không dứt của Đàm Lâm. Dẫu bốn mươi năm trôi qua, hắn đã vượt xa người binh thường, nhưng nỗi khiếp sợ xưa kia vẫn nhiều lần trở lại mỗi đêm. Nếu có thể thu đồ đệ của Trần Sư Cổ vào môn hạ, có lẽ ông ta sẽ hóa giải được tâm ma đã ăn sâu vào cốt tủy.

Thiếu niên áo xanh kia… liệu có thể hiểu được lòng hắn không?

Đàm Lâm còn đang trầm ngâm thì đột nhiên, một trận địa chấn vang dội nổi lên. Cả tòa điện Quy Vô Thường rung chuyển, tro bụi rào rạt rơi từ xà nhà xuống.

Chuyện gì vậy? Động đất sao? Đàm Lâm lập tức mở to mắt, nhưng rồi ngay sau đó nhận ra đó là tiếng gầm giận dữ của Quan Xuyên. Tiếng gầm ấy vốn mang tên “Lôi Âm Rống”, Về sau được hắn đổi thành “Vô Úy thanh”, một môn công phu sâu xa.

Trong Phật pháp, “vô úy” (không sợ hãi) là tâm thế khi thuyết pháp có thể trấn áp mọi tà thuyết, hàng phục ngoại đạo.
Kinh Phật thường ví Phật như sư tử giữa đại ngàn, lời Phật thốt ra như tiếng rống của sư tử, nên được gọi là “vô úy thanh” (không sợ ). Năm xưa, chính là nhờ điểm ấy mà Đàm Lâm từng thuyết phục Thù Kiên Thành bỏ tà theo chính, quy y cửa Phật, trở thành đệ tử của mình. Dù là con cháu danh gia thế tộc, hay là hiệp khách chốn giang hồ. Thì trong đáy lòng mỗi người, vẫn luôn có một khoảng trống. Và họ đều cần một tín ngưỡng nào đó để tựa vào, để giữ vững mình giữa cõi hư vô.

Còn bản thân hắn Đàm Lâm lại buộc phải dựa vào một cao thủ võ lâm trung thành để bảo hộ, để ngăn cản tâm ma từng bị Trần Sư Cổ tạo ra năm xưa trỗi dậy.

Bỗng nhiên, lại một tiếng gầm vang dội như sấm nổ giữa trời quang, tiếng gào cuồn cuộn như lôi đình muôn quân, đến mức mặt đất cũng rung chuyển, nền điện lớn cũng bắt đầu lay động.

Đàm Lâm chấn động trong lòng, nghi hoặc thầm nghĩ:
“Chẳng lẽ Quan Xuyên đang giao chiến với ai?”

Đến lần thứ ba tiếng gào vọng tới, trong âm thanh phẫn nộ đã xen vào một chút hoảng hốt, như thể một con sư tử chốn hoang dã đang bị mãnh thú đánh úp bất ngờ.

Vu Lan đêm ấy, kinh động ngàn tín đồ cũng chỉ là một tiếng hô là đủ. Thế thì lần này là ai? Kẻ địch nào có thể khiến Quan Xuyên cảm thấy khó đối phó đến vậy?

Chẳng lẽ là… Vi Huấn? Nhưng sau khi hắn hít phải thứ kia, đáng lẽ không thể còn chút sức lực nào để hành động nữa mới phải…

Đàm Lâm rất muốn đứng dậy bước ra ngoài xem rốt cuộc là chuyện gì đang xảy ra, nhưng đôi chân hắn lúc này rã rời đến mức không thể đứng dậy, không có người đỡ, hắn hoàn toàn chỉ có thể ngồi im.

Tiếng gầm rống của sư tử mỗi lúc một dồn dập, con mãnh thú thần bí kia liên tiếp tung ra những đòn tấn công dữ dội với tốc độ khủng khiếp. Sư tử dần trở nên yếu thế, đến cuối cùng, tiếng rống lại xen lẫn cả những âm thanh như gào lên vì đau đớn co rút, rõ ràng là đã bị thương.

Đàm Lâm thấp thỏm lo lắng. Quan Xuyên vốn có thân thể cứng như sắt, dù là đao kiếm trong tay cũng không thể để lại lấy một vết xước trên da hắn. Vậy mà đối phương là ai, lại có thể xuyên thủng được thân xác kiên cố ấy?

Tiếng gào rống dần dần yếu đi, trong đó vang lên nỗi tuyệt vọng không thể tin nổi. Cuối cùng, là một tiếng gào dài, thống thiết, như xé rách cả tâm can — rồi đột ngột im bặt giữa chừng.

Cả điện Quy Vô Thường lặng ngắt như tờ.

Mồ hôi lạnh đã thấm ướt cả áo tăng của Đàm Lâm, hắn càng thêm hoảng loạn vì chính mình đến nửa bước cũng không nhúc nhích nổi…

Một lúc lâu sau, từ trong bóng đêm vô biên vô tận ngoài đại điện, một bóng người lặng lẽ, không một tiếng động lần mò bước vào. Trước mặt hắn có một tấm bình phong che khuất, nên không thể nhìn rõ là ai — chỉ mơ hồ thấy một thân hình như dã thú, bốn chi áp đất, lặng lẽ bò tới vài bước, đến gần bình phong rồi mới từ từ đứng thẳng người dậy.

“Tuy ngươi chỉ là một lão tăng chẳng biết võ công, sống gần đất xa trời, nhưng lại là kẻ âm hiểm, khó đối phó nhất trong tất cả những địch thủ ta từng gặp.” Bóng người cất giọng khàn khàn, nghèn nghẹn nói.

“Tuy ông là một lão già không biết võ công, nhưng lại là địch thủ âm hiểm khó phòng nhất ta từng gặp.”

Đàm Lâm nghe ra đó là giọng của Vi Huấn, liền khẽ thở phào một hơi, vừa định mở miệng trích một đoạn kinh Phật sâu xa nào đó để kéo chú ý của hắn, thì đối phương đã ném tới một vật nặng nề.

Thứ ấy bay qua tấm bình phong, lăn lộc cộc trên nền, đến khi lăn vào vùng ánh sáng của chân đèn, mới lộ rõ ra đó là một cái đầu người đẫm máu. Hai mắt Quan Xuyên trợn trừng sắp bật ra khỏi hốc mắt, cổ họng bị xé toạc, để lộ cả khí quản và mạch máu. Vết cắt nơi cổ nham nhở, không giống như bị chém bằng dao sắc, mà giống như bị móng vuốt mãnh thú xé toạc.

Đàm Lâm kinh hãi tột độ, muốn bỏ chạy, nhưng hoàn toàn không đủ sức đứng dậy. Cả người hắn chỉ khẽ nghiêng một chút đã từ trên tòa sen ngã lăn xuống đất. Hắn chỉ còn biết hy vọng trong chùa có ai nghe thấy tiếng gầm của Quan Xuyên mà tới xem xét. Nhưng lại hiểu rõ rằng: Điện Quy Vô Thường nằm tách biệt bên ngoài chùa, âm thanh chưa chắc có thể truyền ra xa đến thế. Huống hồ, hắn càng hiểu lòng người — sau vụ án mạng thảm khốc đêm Vu Lan, cho dù có tăng nhân nào nghe được tiếng lạ, e là cũng không dám mở cửa bước ra xác nhận.

Vi Huấn lạnh lùng cất tiếng: “Không mang theo dao, tay không xé xác có hơi bất tiện, làm rối tung cả lên,”

Hắn lục lọi trong chiếc túi da mang theo bên người, rồi lần lượt ném ra hai vật, là hai cánh tay bị lóc trơ cả cơ và gân.

“Mười ngón tay Quan Xuyên đều dính vết thuốc màu, Hắn chẳng phải họa sư, vốn không nên động tới mấy thứ ấy. Loại thuốc màu thông thường còn tẩy được, nhưng xem ra đây là thuốc màu gốc dầu, cực khó rửa sạch nhất thời cũng không thể gột trôi hết được đâu. Ngươi thân thể tàn tật, liền sai hắn thay ngươi ra tay hạ độc. Gọi hắn là sư tử, chẳng bằng nói là một con chó trung thành biết nghe lời.”

Vi Huấn dừng lại một chút, rồi tiếp:

“Nhưng đây chẳng qua là màn thứ hai trong kế hoạch đầu độc của ông.”

“Ông bảo Ngô Quan Trừng dùng thuốc màu khó rửa để diễn ảo thuật vẽ thủy họa, phun màu. Thủy họa thì không sao, nhưng phun tranh lại cần ngậm thuốc màu mà phụt lên tường. Lâu dần, thuốc độc ăn mòn miệng hắn, khiến hắn phát điên. Hắn vốn không hại người, nhưng đến khi trúng độc, ảo giác liên tục xuất hiện, hắn ngộ sát vợ mình rồi tự tử. Dù ông không tự tay giết, thì cái chết của họ đều do ông mà ra.”

“Ông không chỉ muốn hắn chết, mà còn muốn hắn thân bại danh liệt.”

Thế nhưng, xem ra Quan Trừng vốn không có ý hại ai. Cho đến khi độc phát ngày một sâu, ảo giác ngày càng nhiều, hắn lỡ tay gi.ết ch.ết Ngô Quế Nhi, rồi tự dìm mình xuống hồ phóng sinh, trong cơn mê sảng còn vẽ nên bức 《Địa Ngục Biến, cuối cùng gây ra trận giẫm đạp kinh hoàng giữa đám người.

“Tuy không phải ông trực tiếp ra tay, nhưng tất cả những cái chết này, rốt cuộc cũng phải tính trên đầu .”

Vi Huấn vừa nói, vừa lấy ra vật thứ ba từ chiếc túi da — một chiếc lưỡi người đã thối rữa, dính đầy đủ loại thuốc màu loang lổ. Ngay sau đó, hắn bước ra khỏi bóng tối sau tấm bình phong, tiến vào vùng ánh sáng mờ mờ của cây đèn. Nhìn rõ dung mạo hắn, Đàm Lâm toàn thân cứng đờ, hồn bay phách lạc. Người đứng trước mặt hắn thân thể đầy thương tích, mắt, tai, mũi, miệng đều đang rỉ máu, đôi mắt đỏ tươi như phát điên, ánh lên một thứ ánh sáng tà dị, cuồng loạn, giống hệt Trần Sư Cổ năm xưa nhập ma.

“Vì sao lại hạ độc mưu hại chính đệ tử của mình? Vì sao lại ra tay với kẻ mà mình từng dang tay cưu mang? Ta nghĩ, một phần là vì Ngô Quan Trừng kiên quyết đòi hoàn tục, rời khỏi tầm kiểm soát của ông, khiến ông cảm thấy bản thân đang dần đánh mất quyền khống chế. Phần khác, là vì lòng ghen ghét.

Cũng giống như họa thánh Ngô Đạo Tử năm xưa, vì đố kỵ mà sinh lòng sát hại, đã mưu sát thiếu niên thiên tài Hoàng Phủ Chẩn. Ông cũng vậy ganh ghét tài năng của Quan Trừng, ganh ghét tuổi trẻ của hắn, nhất là khi chính ông ngày một già đi, mà hắn lại đang rực rỡ bừng lên một luồng sinh khí mới. Ta chỉ cần nhìn qua bức 《Cửu Tương Đồ》 của hắn, rồi nhìn lại tranh của ông, thì dù ta là kẻ ngoài nghề, cũng có thể nhận ra ai cao ai thấp.”

“Vị đại nhân vật ở Lạc Dương kia, thật ra vốn không hề ủy thác cho ông. Hắn trực tiếp tìm đến Ngô Quan Trừng để nhờ vẽ bức ‘Cửu Tương Đồ’ trừ tà, đúng chứ?”

Kẻ Tu La đẫm máu ấy, tuy thân thể máu me be bét, trông chẳng khác nào Trần Sư Cổ năm xưa, nhưng giọng nói lại rõ ràng, mạch lạc, từng lời sắc bén như dao, mỗi câu nói ra đều đánh thẳng vào chỗ yếu, từng bước ép sát.

Thấy sắc mặt Đàm Lâm dần xám như tro, Vi Huấn biết mình đoán trúng, khóe miệng hắn nhếch lên thành một nụ cười quái dị, kéo rách cả vết thương đang rỉ máu, nửa cười nửa rỉ máu mà nói:

“Thật đáng thương. Ông bỏ ra bao năm sống giữa những xác chết thối rữa, ngửi đủ loại mùi tanh tưởi độc hại, gắng dựng lên hình tượng một đại đức cao tăng, một thánh thủ luyện đan, một cao nhân ẩn thế. Cuối cùng đến già, lại bị chính đệ tử trẻ tuổi của mình lấn lướt nổi bật, Vậy thì trong lòng hẳn là tuyệt vọng biết bao.

Ông từng giảng với ta rằng: Tam độc Tham – Sân – Si, trong đó Tham là lòng ha.m mu.ốn danh, lợi, tài, mọi thứ thuộc về thế tục. Ông thì sao? Ông càu danh trục lợi, vơ vét không ngừng, từ đó mới sinh ra sát ý. Có thể nói ông chính là kẻ Tham nhất trong lòng Tham. Thế nhưng, điều đáng sợ nhất… là ông khéo ăn nói, giỏi mê hoặc lòng người, biết tô vẽ cho mọi hành vi của mình một lớp vỏ vàng son đẹp đẽ.

“Muốn vạch trần những lời dối trá của ông, thực sự vô cùng khó. Ngay cả Trần Sư Cổ, Thù Kiên Thành những cao thủ ấy, cũng từng sập bẫy của ông. Năm xưa Trần Sư Cổ tha cho ông một mạng, là sai lầm một sai lầm quá lớn.”

“Ông rất giỏi bịa chuyện Chỉ cần vài câu ba tấc lưỡi là biến thành những giai thoại cảm động lòng người. Như cái gọi là chuyện ‘Thiền sư độ hóa Tu La’, nghe thì tưởng có huyền cơ thiền ý, kỳ thực chi tiết hoàn toàn không khớp sự thật. Ta tuy là đệ tử của Trần Sư Cổ, nhưng chưa từng học qua “Bát Nhã Sám” mà các ông truyền tụng, cũng không phải người thừa kế chân truyền tâm pháp. Người được chọn là một tiểu tử khác kia kìa. Những thứ ông thường dùng để xem tướng, đoán mệnh, phán số, cái vẻ ‘huyền huyền ảo ảo’ kia…toàn bộ chỉ dựa vào chút bản lĩnh suy đoán mà dựng nên trò bịp bợm, đúng không?”

Vi Huấn cười một tiếng chua chát:

“Lúc ấy, lẽ ra ta nên tin nàng, chứ không phải ngồi nghe một lão hòa thượng như ngươi tụng kinh gõ mõ. Nếu ta chịu nghe lời nàng, thì đã không rơi vào kết cục thế này…Rõ ràng nàng đã đoán được hết động cơ hại người trong chuyện này, chỉ tiếc là ta không chịu để tâm.”

Trong đầu hắn như có tiếng sấm nổ liên hồi. Vị Đàm Lâm từng nổi danh là miệng lưỡi lanh lợi, giỏi nói giỏi lý, giờ đây lại hoàn toàn trầm mặc. Vi Huấn trong lòng sinh nghi, liền hỏi:

“Sao ông không nói gì? Lặng im thế này lại càng đáng ngờ đấy.”

Hắn mắt đã mờ, lảo đảo tiến sát gần thêm vài bước, tới khi còn cách chừng năm bước,
mới nhìn rõ môi lão tăng vẫn đang mấp máy liên tục.

Vi Huấn sững người một lúc, rồi đưa tay sờ lên tai mình. Ngón tay dính cả máu khô lẫn máu tươi mới chảy ra.

“À…Thì ra ta bị Quan Xuyên gầm đến thủng màng nhĩ, điếc tai rồi…Cũng tốt thôi, như vậy sẽ không phải nghe ông nói mấy lời dối trá vớ vẩn nữa.””

Khuyên dụ, biện giải, đe dọa, đùn đẩy, van xin tha mạng chỉ trong nửa nén nhang, Đàm Lâm đã dùng hết mọi cách để cầu sống, nhưng Vi Huấn vẫn không mảy may lay động. Khi thấy hắn xách theo chiếc lưỡi người ghê rợn kia chầm chậm bước đến gần, trong đầu Đàm Lâm chợt hiện lên ký ức 40 năm về trước ở bờ Linh Thủy — đầu người rơi lả tả, máu phun như thác lũ, Trần Sư Cổ cầm huyết kiếm bước về phía mình…

Tên Tu La trẻ tuổi này khẽ niệm:

“Nhật mộ yên ba, giang chử ám…Thật khó cho ông, mấy chục năm qua vẫn luôn ghi nhớ bài thơ ấy. Trần Sư Cổ đã chết, thì để ta thay ông ấy dùng Nhật Mộ Yên Ba Chưởng, tiễn ông một đoạn đường.”

Vi Huấn bước sát lại gần, giơ tay lên, đột nhiên cười:

“Thiên hạ đồn rằng, chân Phật, chân Bồ Tát, trên thân đều mang theo mùi hương kỳ lạ… Còn ngươi,
chỉ là một tên giả Phật, trên người chẳng có gì ngoài mùi hôi hám của một lão già sắp chết.”

Chưởng phong vung xuống rất khẽ, nhẹ như thiên nữ rải hoa, rơi đúng vào lồng ngực gầy xương lởm chởm của lão tăng.

Kẻ địch thứ hai đã bị tiêu diệt.

Trong đầu Vi Huấn mịt mờ hỗn loạn, vẫn còn vang vọng một mệnh lệnh cuối cùng: Phải đốt bức bích họa. Hắn đạp đổ đèn tràng, dầu lửa văng lên tấm bình phong, ngọn lửa lặng lẽ bò dần lên khung gỗ.

Xách theo thi thể của Đàm Lâm, Vi Huấn loạng choạng lê bước về phía gian phòng sau điện. Sau lần liều mạng chịu đựng tiếng sư rống của Quan Xuyên, hắn không chỉ thất khiếu chảy máu, mà còn mất cả khả năng giữ thăng bằng,
lúc bước đi thường phải chống cả tay chân xuống đất như dã thú.

Vi Huấn ném thi thể Đàm Lâm xuống hố vôi, rồi lấy chiếc lưỡi dùng làm chứng cứ đặt lại vào cổ họng của Quan Trừng. Nghĩ ngợi một lúc, hắn lại bẻ hàm Đàm Lâm ra, rút luôn chiếc lưỡi đỏ tươi kia ra khỏi cái miệng ba tấc đầy xảo trá. Thân thể người này gầy khô, héo úa như củi mục, chỉ riêng chiếc lưỡi là vẫn còn đỏ au, đầy máu tươi, tựa như vẫn sống.

Hắn cúi xuống, nhẹ giọng nói với Quan Trừng: “Ngươi có thể thay sư phụ báo oán, trả thù. Ta đã rút lưỡi của hắn, từ nay hắn sẽ không thể lừa gạt bất kỳ ai nữa.”

Trước khi rời đi, Vi Huấn lướt qua tấm “An Hồn Kính” treo trên tường, lờ mờ thấy phản chiếu bên trong một vật gì đó tà dị và khủng khiếp. Tấm mặt nạ của “kẻ đuổi tà trấn quỷ” giờ đây đã bị xé toang hoàn toàn, bộ mặt thật của hắn lộ ra Tu La đội lốt người, tàn độc, hắc ám, như thứ sinh ra từ bùn lầy đáy sông.

Ngọn lửa trong điện Quy Vô Thường bắt đầu bùng lên, lan rộng. Vi Huấn ném những mảnh thi thể còn sót lại của Quan Xuyên vào lửa, lúc xoay người, hắn thoáng thấy một pho tượng đất sét dùng để “cung dưỡng” đặt ở góc tường.

Sau khi tấm bình phong đổ sập, bức tượng mộc ấy nghiêng về phía bức họa người chết, như thể từ đầu tới cuối vẫn chăm chăm nhìn mỹ nhân trên vách bích họa kia.

Vi Huấn xách pho tượng lên, rồi dẫm nát nốt đầu của gã hòa thượng cuối cùng trong đại điện. Dưới phần đế tượng, lộ ra mấy dòng chữ nhỏ:

“Nhật nguyệt thường tương vọng,
Uyển chuyển không rời tâm,
Thấy quân hành ngồi chỗ,
Dường như lửa đốt thân.”

Chỉ trong chốc lát, những dòng chữ không ai để ý kia đã bị ngọn lửa thật sự nuốt trọn.

Rời khỏi đại điện Quy Vô Thường chìm trong biển lửa, Vi Huấn chạy băng qua viện chính của chùa Thiềm Quang, giữa bóng đêm nhảy thoăn thoắt trên mái hiên, hành lang, tìm kiếm từng gian thiền phòng.

Mắt hắn giờ đã mờ, phủ đầy tơ máu, tai đã điếc, chẳng nghe được gì, miệng tanh mùi máu tươi, ngũ giác suy kiệt, chỉ còn lại khứu giác là chưa hoàn toàn mất đi.

Thỉnh thoảng, hắn dừng lại, áp mặt sát mái ngói, ngửi ngửi thứ hương vị đặc biệt đang trôi trong gió đêm, cố lần theo đó như dã thú đánh hơi vết máu con mồi.

Đêm Vu Lan Bồn, cửa địa ngục rộng mở, vong hồn lẩn khuất khắp nhân gian, kẻ sa vào ác mộng mê man, người thao thức suốt đêm chẳng ngủ. Không ai dám bước ra khỏi cửa, chỉ có những bức bích họa quỷ lệ khắp vách tường lặng lẽ lay động trong bóng tối, tựa thần, tựa ma, tranh thủ khoảnh khắc u huyền mà hiện hình.

Một bóng quỷ vật thân đầy vết thương tím bầm, lặng lẽ lướt qua lòng tháp cổ, đi tìm ánh trăng đã thất lạc.

Nàng ở đâu? Bị giấu nơi nao giữa cõi mê sương mờ mịt?

Kẻ thù…Còn một kẻ cuối cùng.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 117


Từng phiến mái ngói bị nhấc tung lên, một mảng rồi lại một mảng mất hút vào bóng tối, lộ ra khoảng trống vừa đủ cho thân ảnh luồn qua. Một quỷ vật đầu xanh, phủ đầy vệt máu bầm, len lén trườn mình vào khe hở. Hắn không ngừng đánh hơi, ngửi lấy từng mùi vị lẫn trong không khí phòng thiền. Chỉ chờ bắt được tia hương thơm đã truy tìm bấy lâu, thân thể liền chấn động, kinh hỉ đến phát run, lập tức mở rộng cửa ngói, lặng lẽ luồn hẳn vào trong phòng, bốn chi men theo xà nhà bò xuống, không phát ra lấy nửa tiếng động.

Nàng sao lại ở đây?

Đây vốn là khu phòng dành cho thượng khách, nằm ở một góc hẻo lánh, không được trang H**ng X* hoa như những gian thiền phòng khác, song cửa nẻo lại kín bưng, cửa sổ thông vào khung tường, khó lòng ra vào như thể được bố trí để canh phòng cẩn mật. Trong phòng không thấy bóng ai canh giữ, thanh quỷ bèn thả lỏng cảnh giác, lần theo mùi hương kia, lặng lẽ lần từng bước một, cho đến khi tìm thấy bóng dáng dưới ánh trăng nơi sát khung cửa sổ.

Từ xa, khó lòng trông rõ mặt nàng, chỉ thấy trong màn đêm như có một vầng sáng trắng mờ mờ, khiến hắn không dám tin vào mắt mình. Bò sát lại gần, hắn tỉ mỉ đánh hơi khắp lượt, một lần nữa xác nhận. Không sai. Là Bảo Châu.

Nàng không nằm nghỉ trên giường, mà cùng nghiêng người trên một chiếc trường kỷ hẹp dài. Gò má tựa vào lòng bàn tay phải, dáng nằm thảnh thơi, ngủ rất đỗi yên lành, trầm tĩnh tựa như Quan Âm tọa liên, an nhiên giữa liên đài thanh tịnh. Bên gối lót một mảnh chiếu tinh xảo mà đơn sơ.

Cớ sao nàng lại có thể an nhiên ngủ say nơi đây? Không bị giam cầm, không chút đề phòng?

Thanh quỷ lấy làm khó hiểu, men theo trường kỷ mà bò vòng quanh, ngấm ngầm tìm kiếm dấu vết quỷ dị. Bỗng ở chiếc bàn thấp bên cạnh, phát hiện một tượng đắp Vi Đà Thiên chưa đầy một thước cao.

A… thì ra là thế.

Nàng từng quỳ dưới tượng Vi Đà Kim Cương mà thầm cầu hộ, hắn cũng trộm miệng khẩn cầu vị đồng họ ấy thay mặt bảo hộ nàng. Vi Đà bất luận ở đâu, lúc nào, vẫn luôn là hộ pháp trung thành của Quan Âm, dù người kia mới chỉ là một thiếu nữ chưa đắc đạo, vẫn được thần linh ấy âm thầm gìn giữ. Có lẽ chính bởi có thần hộ pháp thực sự đang âm thầm trấn giữ, nên nàng mới có thể an ổn vượt qua đêm Vu Lan — đêm trăm tà vạn quỷ dấy loạn, giữa trùng trùng hiểm họa bủa vây mà vẫn bình yên vô sự.

Thanh quỷ nheo đôi mắt đỏ tươi, lặng lẽ nhìn về phía pho tượng Vi Đà nhỏ bé kia. Giữa màn máu mờ mịt trong tầm mắt,
hắn dường như trông thấy bóng dáng Thiên Uy Vi Đà đột ngột trở nên cao lớn dị thường, thân ảnh hiển hiện uy vũ, thần sắc điềm nhiên, nhưng trên mặt đã hiện rõ dáng vẻ trừng mắt, tay cầm chày báu lấp lánh kim quang, tựa hồ đang chuẩn bị nện thẳng xuống đầu hắn một đòn không thể tránh.

Chẳng lẽ… ảo giác vẫn chưa tan?

A, phải rồi… Vẫn còn sót lại một kẻ địch cuối cùng chưa diệt. Sau một thoáng trầm tư, Thanh quỷ bỗng bừng tỉnh đại ngộ: Tại sao Vi Đà lại sinh ra phản ứng phòng ngự dữ dội đến vậy?

Lúc này, ngay khoảnh khắc này, đang có một Tu La khát máu, kẻ sát nhân không thể khống chế, lặng lẽ tiến gần Quan Âm, ý đồ khuấy động giấc ngủ bình yên của nàng.

Tam độc: Tham – Sân – Si. Sân ma — đã bị hắn xé nát. Tham ma — đã rút lưỡi, đuổi hồn về Tây Thiên. Còn lại, chỉ còn Si ma… Si ma đang trú trong chính thân xác hắn.

Si chính là mê muội vì tình, bởi luyến ái mà đắm chìm không thể tự thoát, khiến ý nghĩ rối loạn, từ đó sinh ra những hành vi sai lạc trái đạo, trái lòng.

Tối nay, trận ác mộng vặn vẹo biến hình, quỷ dị như ma chướng, tuy khởi phát bởi trúng độc, song mọi chi tiết bên trong những ẩn dụ, dấu hiệu, cảnh tượng lạ lùng đều bắt nguồn từ d.ục vọ.ng sâu kín trong chính hắn. Tâm vừa động, ý niệm đê tiện cũng theo đó sinh ra, ý nghĩ loạn cuồng không thể nói ra, thậm chí dẫn tới hành vi bất chính. Hắn đã có sát ý, muốn khinh nhục nàng, tổn thương nàng. Dẫu là trong mộng, hắn đích thực đã ra tay.

Giết Quan Xuyên, diệt Đàm Lâm xong, người nguy hiểm nhất trong đại chùa Thiềm Quang này đối với nàng chính là hắn.

Hiện tại, đã tới thời khắc chém trừ ba độc, đoạn diệt tâm ma, chứng tâm ngộ đạo.

Thanh quỷ lặng lẽ lấy ruột cá từ gối nàng, lùi về sau mấy bước, hai đầu gối chạm đất, chậm rãi quỳ xuống.

Một luồng đau đớn sắc bén từ đầu gối truyền tới, mình đầy thương tích, nhưng so với tất cả, đau đớn nơi tâm can này vẫn khiến hắn không thể không run rẩy.

Đàm Lâm tuy giảo hoạt, xảo ngôn như vàng ngọc, chuyện xưa kể về Trần Sư Cổ chưa chắc toàn là sự thật. Nhưng chỉ có một điều hắn không hề nói sai: Trần Sư Cổ cùng hắn cả thầy lẫn trò đều không thích hành lễ quỳ.

“Đầu gối Kỳ lân” trong giới võ học, là một trong bảy loại cốt tướng hiếm có mà những kẻ có tư chất kỳ tài mới sở hữu. Hai bên đầu gối, bên dưới, mỗi bên đều có một mảnh xương nhô lên sắc bén. Người có cốt tướng này, trời sinh linh hoạt, thân pháp nhẹ như chim hồng sà xuống nước, tựa rồng uốn lượn giữa trời. Chỉ cần thêm đôi chút luyện rèn, ắt có thể đạt đến cảnh giới tuyệt đỉnh của khinh công.

Trần Sư Cổ năm xưa mua hắn từ trong đám dân đói, chính vì nhận ra hắn cũng mang cốt tướng giống mình, rất hợp để rèn luyện võ nghệ. Cốt tướng tuy tuyệt hảo, duy chỉ có một khiếm khuyết là không thể ngồi quỳ lâu. Một khi quỳ xuống, đầu gối sẽ đau như gãy xương, giống như chịu cực hình. Hắn và Trần Sư Cổ không phải vì ngạo mạn mà khinh thường lễ nghi quyền quý, mà là thân thể đã định sẵn, không thể nào quỳ được.

Hắn vẫn nhớ, thuở thiếu niên mới học chữ đọc sách, mấy lần vì ngang ngạnh không chịu sửa lời mà bị sư phụ đánh đến thâm tím. Trần Sư Cổ liền bắt hắn quỳ dưới hành lang, nói rằng: “Nếu có thể kiên trì đến rạng đông, ta sẽ dạy ngươi đọc sách.”

Trong lúc bị phạt, hắn từng nghe Trần Sư Cổ cắn răng đau đớn mắng: “Đầu gối Kỳ lân, ngoài miệng thì nói là tướng cốt thiên mệnh, chỉ khi gặp được chân long thiên tử mới có thể quỳ xuống đều là lời ba hoa xằng bậy cả! Ta đã từng diện kiến chân long thiên tử, quỳ xuống y theo lễ, đau đến muốn chết. Cái gọi là đầu gối kỳ lân, vốn chẳng phải phúc tướng gì, chỉ là nghịch cốt không được hậu thế dung tha mà thôi! Học đạo đọc sách, chính là phải rèn cho thân yên ổn giữa khổ ải phản cốt, dám bước vào con đường máu chảy bụi gai, mặc cho đạo tặc tra tấn, làm nhục. Ngươi muốn học, thì cứ thử xem: dựa vào hai cái chân này, liệu có thể chịu đựng đến cuối đường hay không?”

Cuối cùng, hắn chưa chịu nổi một canh giờ đã đau đến ngất xỉu, ngã vật xuống đất. Từ đó về sau, không còn dám mở miệng xin học chữ với sư phụ nữa.

Khi ấy còn nhỏ chưa hiểu, nay nhớ lại mới hay: Cái gọi là “học đọc sách” theo lời Trần Sư Cổ, không phải chỉ là học chữ nghĩa, mà là con đường dấn thân vào khoa cử, bước chân vào triều đình. Nếu Đàm Lâm có một lời thật, thì có lẽ năm xưa Trần Sư Cổ tuổi trẻ cũng từng muốn ma luyện thân tâm, đổi lấy đường tiến thân trong thế giới xa lạ ấy, chỉ là… cuối cùng lại không muốn rời đi.

Mà lúc này, hắn cũng đã có trong lòng một người như thế một người khiến hắn tình nguyện cam chịu xé thân phản cốt.

Bước vào thế giới Sa bà như mình đang bước giữa rừng gai bụi rậm, tâm vừa động, thân liền loạng choạng, mà hễ loạng choạng, ắt bị thương, thân đau, xương rạn. Cũng bởi vậy, mới thấu hiểu trăm ngàn khổ ải của cõi trần.

Vi Huấn gắng gượng nén cơn đau dưới đầu gối, ngồi quỳ lặng lẽ trước mặt Bảo Châu, dùng khổ hạnh này để răn lòng, dằn xuống ý niệm thất lễ nàng.

Hắn chậm rãi rút ra con dao nhỏ giấu nơi ruột cá, đặt mũi dao sáng loáng bên cạnh, lấy ánh bình minh làm mốc giới nếu trước khi trời sáng không thể tận diệt ma tâm, không thể chứng thật thân tâm, thì sẽ dùng chính thanh dao này để chém xuống Tu La trong lòng mình.

Từ trước đến nay, chưa từng có pháp môn huyền diệu nào có thể độ hóa thân Tu La thành hộ pháp thiện thần, trừ phi chính bản thân nó tự nguyện, tự ngộ, tự sám hối.

Tảng sáng, ánh nắng ban mai xuyên qua khung cửa sổ, chim chóc ríu rít hót ca, Bảo Châu trong giấc say dần dần tỉnh giấc. Nàng cảm thấy từ sau khi rời cung tới nay, chưa từng được ngủ một giấc yên lành đến vậy, thậm chí trong mộng cũng không thấy điều gì. Dưới ánh sớm nhẹ nhàng ấy, bóng tượng Vi Đà Bồ Tát in ngược trong phòng, dáng vẻ như một võ sĩ mặc giáp thực thụ, khiến lòng người bất giác thấy yên ổn lạ lùng.

Bảo Châu ngáp một cái, lim dim cuộn mình thêm một lát trên trường kỷ. Đêm qua đường xa mệt mỏi, nàng vốn chỉ định nghỉ một chút rồi lại thức dậy điều tra vụ án, nào ngờ vừa nằm xuống đã thiếp đi tới tận bình minh. Phòng này dường như có một lớp kết giới vô hình, ngay cả tiếng chuông tụng sáng của các tăng nhân nàng cũng không hề hay biết.

Ngủ nướng thật lâu trong cơn lười nhác mơ màng, đến khi tỉnh hẳn, Bảo Châu phát hiện trên người mình được đắp một tấm chăn mỏng, trong lòng chợt thấy lạ. Trời không đến nỗi lạnh, người thì quá mệt, nàng chẳng nhớ nổi mình ngủ trong tình trạng thế nào. Mở mắt ra, nàng đảo mắt nhìn quanh, bài trí trong phòng không chút thay đổi. Chỉ là trước trường kỷ còn đọng lại một vũng nước trong, vệt nước kéo dài về phía cửa, tựa như có ai đó ướt sũng toàn thân đứng lặng nơi ấy, dõi mắt nhìn nàng hồi lâu, đắp chăn cho nàng xong rồi lặng lẽ rời đi…

Nhớ lại chuyện xác chết trôi trong hồ phóng sinh đêm qua, Bảo Châu thoắt cái bị dọa đến hồn phiêu phách tán rồi tỉnh táo lại trong chớp mắt. Bởi nàng còn nhớ rõ ràng rành mạch, trước khi đi ngủ đã vì an toàn mà cài chặt hết thảy then cửa lẫn song cửa sổ.

Vệt nước kéo dài chừng nửa trượng, xem ra người kia đã rời đi được một lúc. Bảo Châu vội vã từ trên sập bò dậy, xỏ giày chỉnh tề, quay đầu hướng về Vi Đà Thiên tượng khẽ khấn một tiếng cảm tạ, rồi lập tức men theo dấu nước đuổi ra cửa, trong lòng không khỏi nghi hoặc vệt nước ngoằn ngoèo xiêu vẹo, tựa như dấu chân của kẻ say rượu, bước đi lảo đảo.

Quả nhiên then cửa đã bị mở. Bảo Châu dè dặt hé một cánh cửa, ngó đầu nhìn ra ngoài hành lang.

Chỉ thấy dưới mái hiên nơi hành lang, một thiếu niên ướt sũng đang ngồi xếp bằng, chân trần, tóc dài nhỏ giọt, chưa kịp vấn lên, rối tung rối mù xõa trên vai. Cả thân mình như vừa ngâm mình lâu trong suối nóng, y phục tuy sạch, lại dính đầy máu tươi.

Bảo Châu kinh hãi mở toang cửa, nhìn thấy Vi Huấn cả người bê bết nước, vết thương chồng chất khắp nơi. Da môi, sống mũi đều nứt toác, hai bàn tay kín đầy vết trầy xước, không chỗ nào lành lặn. Quần áo tuy đã được giặt sạch, nhưng thương tích dưới lớp vải vẫn rỉ máu thấm ra ngoài, đặc biệt là hai đầu gối, vết máu bầm đen đã loang thẫm cả xiêm y…

Hắn cứ thế, cả thân mình thê thảm, ngồi canh giữ ngoài cửa suốt đêm, tựa đầu vào một cột trụ hoa sen mà ngủ vùi.

Chuyện gì đã xảy ra vậy? Chẳng lẽ trong đêm có kẻ địch nhân cơ hội đánh úp? Cớ sao nàng lại chẳng hay biết gì?

Bảo Châu lặng lẽ bước đến gần, ngửi được trên người hắn thoang thoảng hương bạc hà hòa cùng vị quất vỏ tươi mát, xem ra thân thể đã thực sự được tẩy rửa hoàn toàn. Thấy dáng ngủ của hắn phờ phạc rã rời, nàng không khỏi động lòng thương xót, nhẹ đưa hai tay ôm lấy mặt hắn.

Vi Huấn bị sự va chạm bất ngờ đánh thức, toàn thân khẽ chấn động, bừng tỉnh dậy. Ánh mắt ban đầu mờ mịt, tản mác vô định, cho đến khi tầm nhìn cuối cùng dừng lại trên gương mặt Bảo Châu, ánh mắt hắn mới dần dần ngưng tụ lại chút thần sắc, thấp giọng gọi thử:

“Bảo Châu?”

“Là ta đây, ngươi làm sao rồi?”

Bảo Châu thấy trong đôi mắt trong suốt sáng ngời kia lại vương tơ máu đỏ, không rõ hắn đã chịu phải thương tích ra sao, lòng lại càng lo lắng bất an.

Đêm qua hắn vừa điều tức vừa vận khí chữa thương, đến giờ thị lực và thính giác cũng đã phần nào hồi phục. Vi Huấn không dám tin vào mắt mình, ngơ ngác nhìn nàng thật lâu, ánh dương buổi sớm soi lên gương mặt nàng, mỗi sợi tóc bên thái dương đều như phủ một lớp hào quang, ánh mắt nàng chan chứa quan hoài, hắn mới dám xác nhận, đây là Bảo Châu thật sự, chứ không phải ảo ảnh nào đó trong cơn mê.

Một cơn mỏi mệt dữ dội lẫn cảm giác trống rỗng đột ngột ập đến, trong đó lại xen lẫn chút tủi thân khó gọi thành tên. Suốt đêm qua, hắn không biết đã gọi bao nhiêu lần cái tên “Bảo Châu”, mãi đến giờ mới thực sự nhận được một tiếng hồi đáp từ chính nàng.

Ý chí kiên cường, trải trăm lần gãy mà không đổ, đến lúc này cũng như đã cạn kiệt hoàn toàn, trái tim động lay, chẳng thể gượng ép nữa. Vi Huấn nhịn không nổi, khẽ nghiêng mặt tựa vào lòng bàn tay mềm mịn mát rượi của nàng, nhẹ nhàng cọ sát như một đứa bé tìm hơi ấm.

Bảo Châu bỗng thấy như có một luồng lực vô hình vô ảnh đập mạnh vào tim, thân thể khẽ run lên, rung động đến tận xương tủy, trong lòng trỗi dậy một xúc cảm mãnh liệt rằng nàng chỉ muốn ôm hắn thật chặt vào lòng.

Người vốn ngày thường kiêu ngạo khó thuần, giờ phút này mang theo thương tích, mái tóc rối tung ướt đẫm, thật sự khiến người vừa thấy thương xót, vừa thấy đáng yêu đến nao lòng.

Dẫu đã được dạy dỗ nghiêm cẩn từ thuở nhỏ, tâm ý vẫn cố gắng khắc chế cơn xúc động kỳ quặc này, nhưng trong lòng Bảo Châu không khỏi luyến tiếc thầm nghĩ nếu hắn thật là một chú mèo rừng xù lông, nàng nhất định phải ôm vào lòng, xoa vuốt, nựng nịu thật lâu.

Tâm lay động, ngơ ngẩn trong chốc lát, phải cố lắm nàng mới bình tâm trở lại, vội vàng hỏi:

“Rốt cuộc ngươi đã bị thương thế nào? Có phải có kẻ địch đánh úp trong đêm?”

Vi Huấn khẽ thở dài, trận chiến đêm qua vừa hao tổn thể xác vừa rã rời tinh thần, hắn cũng chẳng biết nên bắt đầu kể từ đâu. Nhưng điều trước tiên, là phải làm rõ một nghi hoặc lớn nhất trong lòng Vi Huấn ngước nhìn Bảo Châu, ánh mắt chăm chú, giọng nói dè dặt:

“Trước hết… có thể cho ta hỏi một chuyện không?”

Bảo Châu hơi nghiêng đầu:

“Chuyện gì vậy?”

Hắn nhìn thẳng vào nàng, chậm rãi hỏi:

“Tại sao… nàng lại ngủ trong phòng của Thập Tam Lang?”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 118


Vi Huấn nhẹ giọng hỏi:

“Đêm qua ta tìm khắp nơi cũng chẳng thấy bóng dáng nàng, vì sao lại ngủ trong phòng của Thập Tam Lang?”

Bảo Châu nghe hỏi liền cảm thấy lạ lùng:

“Chuyện ấy chẳng phải là đương nhiên sao? Cũng là tại ngươi cả đấy!”

Vi Huấn ngạc nhiên:

“Tại ta?”

Bảo Châu thấy hắn chẳng hiểu gì, trong lòng vừa thẹn vừa bực, khẽ trách:

“Cũng bởi… cây hòe ấy!”

Chỉ vì cây hòe.

Cây hòe…

A…

Lời giải cho điều nghi hoặc lớn nhất cuối cùng cũng hiện ra. Vi Huấn bỗng như trút được gánh nặng trong lòng, thân thể cũng buông lơi, khẽ dựa vào cột hành lang sau lưng, đôi vai thả xuống.

Phải rồi… là vì cây hòe.
Hôm trước lúc hai người cùng tắm bên tường gỗ, hắn nổi lòng xấu hổ, lấy cớ nói trên cây hòe có quỷ sâu thắt cổ để dọa nàng đi. Nàng vốn sợ sâu, lại nghe lời hắn nói, nhất định chẳng dám trở lại gian tắm cũ dưới cây hòe nữa, tự nhiên phải tìm một suối nước nóng khác không có cây ấy.

Lại nói thêm, trước kia gian phòng nàng vốn đã đổi cho Dương Hành Giản, lúc này tạm thời đổi tiếp với Thập Tam Lang, cũng là chuyện thuận tay. Mà Thập Tam Lang hôm qua ở thiền đường suốt đêm tụng niệm, không về phòng nghỉ, thành ra gian kia vẫn bỏ trống. Nàng vốn e sợ, lại thấy tiện, liền ở luôn nơi ấy.

Điều tưởng như huyền bí không thể nào lý giải, hóa ra lại có lời giải giản đơn đến không ngờ.

Bảo Châu lại nói tiếp:

“Hôm qua ta mệt đến mở mắt không nổi, có nói với ngươi là về phòng chợp mắt một lát trước đã, chẳng lẽ ngươi quên rồi sao?”

Vi Huấn ngẩn người nhớ lại: khi ấy có lẽ chính mình đã bắt đầu bị tâm ma quấy nhiễu, cho nên không hề để ý tới lời nàng nói. Bảo Châu xưa nay vốn sợ hãi thi thể cùng quan tài, từ đầu đến cuối cũng chưa từng tới gần điện, chỉ đứng nhìn từ xa, vậy nên mới không hít phải hương độc từ lư hương, mà vô tình tránh được một kiếp.

Còn chuyện vì sao nàng luôn mệt mỏi, e rằng chỉ bởi sáng sớm hôm qua bị tiếng chuông sớm trong chùa đánh thức, hiếm hoi mới dậy sớm một lần như vậy thôi.

Vậy thì… nàng từ đầu tới cuối, thực ra chưa từng tham dự vào đoạn thăm dò sau nửa đêm ấy? Nghĩ lại bao nhiêu cảnh tượng hỗn loạn mờ ảo trong đêm qua, Vi Huấn chỉ thấy xấu hổ khó nói nên lời, chẳng dám truy hỏi sâu thêm, đành chôn giấu tất cả vào tận đáy lòng.

Bảo Châu nhẹ nâng mặt hắn, khẽ v.uốt ve từng chút, lại lật bàn tay hắn lên xem, thấy tay phải thương tích chồng chất, rách nát chẳng nỡ nhìn, tức thì vừa giận vừa đau, nước mắt đã muốn trào ra nơi khóe mi. Nàng nghiêm giọng ép hỏi:

“Rốt cuộc là ai đánh ngươi?! Là Quan Xuyên phải không? Nếu tên ấy thực sự là da đồng xương sắt, đao thương bất nhập, thì ta nhất định sẽ nghĩ cách trừ khử hắn!”

Chưa kịp để Vi Huấn trả lời, Dương Hành Giản đã thở hồng hộc chạy xộc vào trong đình viện. Hắn cũng chẳng buồn để ý đến chuyện hai người đang tay nắm tay, chỉ hốt hoảng hướng về phía Bảo Châu mà báo:

“To chuyện rồi! Nghe nói điện Quy Vô Thường nửa đêm bốc cháy! Chùa Thiềm Quang đều làm bằng gỗ, nếu không mau chạy, e rằng sẽ như lần quân Hồi Hột phóng hỏa đốt chùa Bạch Mã, chẳng mấy chốc hóa thành tro tàn mất!”

Bảo Châu giật mình đứng phắt dậy. Vừa rồi bao tâm trí đều để vào người Vi Huấn, giờ mới chợt nhận ra trong không khí quả thực đang vương mùi khét nồng, cay xộc mũi thứ mùi cháy sém đặc trưng, còn gắt hơn cả khói nhang miếu thường ngày.

Vi Huấn khẽ lẩm bẩm:

“Ta đã chặt đứt dãy hành lang rồi, chắc lửa không lan đến viện này đâu.”

Bảo Châu và Dương Hành Giản đồng loạt nhìn sang hắn, vẻ mặt đầy nghi hoặc. Vi Huấn điềm nhiên đáp:

“Chẳng phải ngươi bảo muốn hủy bức bích họa ấy sao? Ta nhân đêm qua phóng hỏa trong chính điện, tiện tay… cũng giết luôn Quan Xuyên và Đàm Lâm rồi.”

“Ngươi, ngươi nói gì cơ?!”

Bảo Châu trợn tròn mắt, há miệng lặng người. Dương Hành Giản thì giật nảy, tròng mắt suýt rơi ra ngoài, mặt cắt không còn giọt máu, run giọng lặp lại:

“Phóng hỏa? Giết người? Ngươi… ngươi nói thật sao?!”

Thập Tam Lang nghe tin cháy từ phía chư tăng, vội vã chạy đến gọi Bảo Châu dậy chạy trốn. Vừa trông thấy Vi Huấn cả người thương tích ngồi nơi hành lang, hắn liền sững sờ tại chỗ. Lại nhìn kỹ hai tay Vi Huấn, da tróc thịt bong, lập tức liền hiểu ra, kinh hô:

“Đại sư huynh cùng cái gã hòa thượng Quan Xuyên kia động thủ rồi phải không? Sao không thấy lôi luôn tên kia về trị?”

Là vì muốn trừ tà cho Bảo Châu.

Vi Huấn lại thở dài một tiếng, nghĩ bụng: đêm qua Bảo Châu có thiên tượng Vi Đà hộ thân, lại thêm Tê Chiếu kiếm trong tay, tránh được tam độc tham sân si vây hãm, thoát khỏi một kiếp hiểm nguy, xem ra vận số của nàng quả thực không tầm thường.

Đối diện ba người đồng hành, hắn đem mọi chuyện đêm qua đại khái kể lại một lượt Đàm Lâm làm sao dụ dỗ, sai khiến Quan Xuyên âm thầm hạ độc, hại chết Quế Nhi, khiến Quan Trừng rơi vào đường cùng, tự mình chết chìm trong hồ phóng sinh, mở màn cho thảm án đêm Vu Lan. Chỉ là lược qua đoạn bản thân chìm trong ảo giác, không nhắc đến.

Dương Hành Giản nghe đến đây, cả người run như cầy sấy:

“Không nói đến Quan Xuyên, chỉ riêng Đàm Lâm thượng nhân đã là danh tăng đất Lạc Dương, lại từng đảm đương tam phẩm đại chức, danh vọng lẫy lừng! Ngươi… ngươi lại nói giết là giết, cứ thế mà đánh chết hắn sao?”

Vi Huấn kiêu ngạo hỏi ngược lại:

“Thì đã sao? Nếu ta thấy không thuận mắt, dẫu hắn có là Thiên Vương lão tử, ta cũng khiến hắn không thấy nổi mặt trời ngày mai.”

Bảo Châu kinh ngạc liếc nhìn hắn một cái. Vừa rồi thấy hắn thương tích chồng chất, thân thể yếu ớt tưởng như chỉ chạm nhẹ cũng tan vỡ, nàng thương xót không thôi, suýt nữa đã định dìu hắn về phòng nghỉ ngơi. Nào ngờ vừa dứt miệng đã là giọng điệu ngạo mạn cuồng ngông như thường, hệt như một khắc sau còn có thể bật dậy đánh liền mười người.

Nhìn thấy vẻ mặt kinh ngạc của nàng, Vi Huấn chớp mắt một cái, rồi thu mình lại, khoanh tay ôm đầu gối, từ từ rút vào một góc. Tuy hắn đã chứng thân vào giờ khắc trước bình minh, thoát khỏi hình thái Tu La, nhưng thời gian quá ngắn, trong người dường như vẫn còn chút tàn dư chưa tiêu tan hết.

Dương Hành Giản lại thúc giục mọi người rời khỏi chùa, vẻ mặt càng lúc càng hoảng hốt.

Bảo Châu lại chẳng muốn đi, thần sắc đầy bối rối, buồn bã nói:

“Đàm Lâm… thế mà đã chết…”

Lời nàng thốt ra mang theo một tia tiếc nuối, khiến mọi người đều lấy làm khó hiểu. Chỉ nghe nàng thấp giọng, như tự mình lẩm bẩm:

“Nếu ngay cả phương trượng cũng là kẻ đứng sau mọi chuyện, vậy thì lời ông ấy hứa với ta đêm qua về nghi thức bố thí Vu Lan Bồn, chỉ e cũng là lừa gạt. Ông ấy chẳng qua là lấy cớ dụ chúng ta bước vào bẫy, để tiện ra tay với Vi Huấn.”

Ba người đều hiểu rõ ẩn ý trong lời nàng. Dương Hành Giản dịu giọng an ủi:

“Công chúa có tâm địa Bồ Tát, trời cao ắt nhìn thấu. Nhưng lương thảo kia thực khó lòng đủ để cứu tế nạn dân, chúng ta vẫn nên lấy việc bảo toàn bản thân làm trọng, mau chóng rời khỏi chùa Thiềm Quang là hơn.”

Bảo Châu vẫn ngẩn người trầm ngâm, không chịu động đậy. Vi Huấn chống vào cột hành lang đứng dậy, định cùng Thập Tam Lang chia nhau đi thu xếp hành lý, dắt lừa chuẩn bị lên đường. Nào ngờ nàng bỗng hỏi:

“Ngươi xử trí Đàm Lâm ra sao? Cũng giống như lúc giết Bảo Lãng, lấy đầu hắn đem đi ư?”

Vi Huấn lắc đầu:

“Tối qua không mang theo dao găm, tay không ra tay hơi bất tiện, nên chỉ dùng một chưởng đánh chết hắn.”

“Sau đó… ném vào Quy Vô Thường điện thiêu hủy thi thể?”

Vi Huấn thấy nàng hỏi đến tường tận như thế, hơi lấy làm lạ, nhưng vẫn đáp:

“Không, hôm qua chúng ta là những người cuối cùng gặp mặt hắn, nếu thi thể bị thiêu mất thì tăng nhân trong chùa khó tránh sinh nghi. Ta liền chôn hắn sau điện, trong hố vôi cạnh nhà trụ trì, chỉ là vội vàng đi tìm nàng nên đào cũng khá cạn.”

Ánh mắt Bảo Châu sáng bừng lên:

“Nói vậy tức là… thi thể vẫn không hiện ra dấu tích rõ ràng của thương tích?”

Hồi tưởng đến hành vi rút lưỡi khi nãy, Vi Huấn khẽ ho một tiếng, thấp giọng nói:

“Chắc cũng không sai biệt lắm… chỉ cần hắn nhắm lại cái miệng từng lừa người là được rồi…”

Bảo Châu vừa đi vừa gấp rút cân nhắc tính toán trong đầu, vừa lẩm bẩm một mình:

“Già Cái Diệp… xả thân… thân thể thành Phật… thân thể thành Phật…”

Để xác định kế hoạch có thể thực hiện hay không, nàng lại hỏi:

“Người đã chết rồi, có thể bày ra tư thế đặc biệt nào đó được không?”

Ba người nghe vậy đều lấy làm kỳ quái. Vi Huấn đáp:

“Chết đã hai canh giờ, thi thể sớm cứng đờ. Nếu muốn bày ra dáng vẻ nào đó thì phải bẻ gãy khớp, rồi dùng dây cố định. Nàng… chẳng lẽ chưa hết giận, định treo hắn lên bêu đầu thị chúng?”

Bảo Châu thuận theo mạch suy nghĩ, càng nghĩ càng hứng khởi, xoa tay hào hứng gọi Thập Tam Lang:

“Sư huynh đệ bị thương rồi, để hắn nghỉ ngơi, ngươi theo ta một chuyến đến Quy Vô Thường điện, cùng nhau đào thi thể lão hòa thượng lên!”

Ba người đồng loạt trố mắt nhìn nàng.

Bảo Châu nghiêm giọng nói:

“Đàm Lâm khi còn sống dùng gạo thóc đổi lấy xác chết, thì ta sẽ làm ngược lại lấy xác ông ấy đổi về gạo thóc!”

Nói xong quay sang chỉ huy Dương Hành Giản:

“Ngươi ở lại nơi này, theo lời ta mà viết một phong di thư.”

Trời còn chưa sáng hẳn, phương Bắc đã thấp thoáng thấy ánh lửa bốc lên, đỏ như ráng hồng lúc bình minh, nhuộm hồng cả chân trời. Dương Hành Giản nghe nàng nói muốn xông vào nơi đại điện đang cháy, lại còn bảo lưu lại di thư, lập tức cuống đến đỏ bừng cả mặt:

“Tàn nhẫn quá rồi! Công chúa tuyệt đối không thể thân mình mạo hiểm như vậy!”

Bảo Châu đáp thản nhiên:

“Ai nói là ta viết di thư? Ta bảo ngươi bắt chước khẩu khí Đàm Lâm, viết cho ông ấy một phong di thư. Chúng ta vốn là những người cuối cùng nhìn thấy hắn đêm qua, nếu lão hòa thượng trước khi chết có lời trối trăn nhờ ngươi truyền đạt, thì lời ấy hợp tình hợp lý, các tăng nhân cũng không dám nghi ngờ danh vọng của một triều quan viên.”

Nói đoạn, nàng giản lược thuật lại đại ý kế hoạch, lệnh cho Dương Hành Giản y theo đó mà viết.

Dương Hành Giản nghe xong, biết rõ nàng định xử trí thi thể Đàm Lâm thế nào, mặt mày tái nhợt như tro tàn, liều mình can gián:

“Công chúa! Việc này xúc phạm thiên mệnh, tất sẽ gặp báo ứng!”

Bảo Châu chỉ nhếch môi cười lạnh:

“Đây gọi là ‘tận dụng phế vật’. Hơn nữa, mục đích cuối cùng là để làm điều thiện. Phật Bồ Tát tự nhiên sẽ hiểu thấu nỗi khổ tâm của ta, sao lại trách phạt được?”

Dương Hành Giản vẫn không chịu:

“Lão thần… thật sự không thể…”

Y là người duy nhất trong nhóm biết cách chấp bút văn thư theo thể thức triều đình, nhưng lại vì mê tín dị đoan mà cứ đùn đẩy thoái thác. Trong khi ấy, hỏa thế bốc càng lúc càng dữ, thời cơ không thể chậm trễ, Bảo Châu bèn giận dữ quát lớn:

“Câm miệng! Ta không cần biết quá trình, chỉ cần kết quả! Mau lấy bút ra viết, viết ngay lập tức cho ta!”

Nghe câu nói như sét đánh bên tai: “Mặc kệ quá trình, chỉ cần kết quả”, Dương Hành Giản giật mình rùng mình một cái, cảm thấy một luồng lạnh buốt như băng chạy dọc sống lưng, gai ốc lấm tấm nổi khắp người. Trong khoảnh khắc, trước mắt y hiện lên đủ loại ảo ảnh: hai mươi năm qua từng phụng dưỡng không biết bao nhiêu vị chủ công, thân ảnh các bậc bề trên ấy giờ đây đều chồng lấn lên một người chính là nàng thiếu nữ đứng trước mặt.

Lòng chợt ê ẩm, Dương Hành Giản thầm hiểu: công chúa vẫn là công chúa, dù ngoài mặt trông như tiểu cô nương nhu mì, nhưng bản chất thì vẫn là người ở trên đầu người khác.

Cũng như thuở trước, Thánh Hoàng đăng cơ bằng thân nữ nhi, tự xưng là Di Lặc chuyển thế, sai người bày mưu lập kế, chế ra bộ “Đại Vân Kinh”, ban bố khắp thiên hạ. Thuận theo thì là thần, trái ý thì thành ma loại người ở ngôi cao ấy, xưa nay chưa từng tin vào chuyện nhân quả báo ứng.

Dương Hành Giản đành chấp nhận số phận, lẳng lặng lấy từ túi ra bút mực giấy viết, bắt đầu chuẩn bị viết di thư.

Bảo Châu thấy vậy rất đỗi hài lòng, lập tức mang theo Thập Tam Lang phóng thẳng về phía điện Quy Vô Thường đang bốc lửa nghi ngút.

Vi Huấn vốn không yên tâm để nàng một mình xông vào đám cháy, liền cố nhịn thân thể đau đớn, xỏ giày vào chân, lảo đảo đuổi theo hai người, không dám rời bước.

Năm ấy triều đình buông thả quân Hồi Hột cướp phá Lạc Dương, chùa Bạch Mã trong trận đại hỏa hoạn bị thiêu rụi, mấy vạn sinh linh chết cháy trong biển lửa. Lúc ba người đi về phía điện Quy Vô Thường, dọc đường gặp vô số tăng nhân đang hối hả trốn chạy vì lo sợ ngọn lửa lan rộng, người người vác theo tay nải của cải, chen chúc kéo nhau ra khỏi chùa.

Trong đám người tháo chạy hỗn loạn, bóng dáng Bảo Châu lại lẻ loi một mình đi ngược dòng, khiến Vi Huấn bỗng nhớ đến đoạn kinh văn mà Đàm Lâm từng trích dẫn trong 《Pháp Hoa Kinh》. Kẻ thuyết kinh kia tuy bụng dạ khó lường, nhưng đoạn kinh ấy, vào lúc này ngẫm lại, quả là thỏa đáng.

Cõi nhân gian ví như căn nhà rực lửa, lửa cháy hừng hực thiêu đốt khắp nơi, khổ nạn lan tràn, khiến người người hoảng sợ thất kinh. Kẻ ở trong căn nhà ấy, người thì khóc gào tìm đường thoát thân, kẻ thì dửng dưng mặc kệ, có người lại nhân lúc cháy nhà tranh thủ vơ vét của cải.

Thế nhưng giữa muôn người ấy, lại có một hai kẻ hiếm hoi không sợ không lui, dù biết rõ con đường phía trước đầy hiểm nguy, vẫn gắng gượng đi ngược dòng, dốc hết tâm sức tìm cách cứu người khỏi biển lửa. Dù tâm chưa khỏi non nớt, dù sức mỏng lực cô, nhưng tấm lòng chân thành ấy lại khiến người ta không thể không động tâm.

Sau trận gào thét của Quan Xuyên, Vi Huấn bị chấn thương tai, ù tai đến giờ vẫn chưa dứt. Chung quanh bao nhiêu âm thanh đều trở nên mơ hồ hỗn độn. Thế nhưng giữa cơn hỗn loạn ấy, hắn lại dường như nghe thấy một tiếng động dị thường, như thể đâu đó vang lên tiếng vỏ trứng đang nứt vỡ.

Chẳng lẽ… là thai phượng hoàng đang muốn phá vỏ mà ra đời?

Đại chùa Thiềm Quang, ngày hôm qua vừa mới xảy ra chuyện quỷ nước nổi lên nơi ao phóng sinh, gây nên thảm kịch Vu Lan với cảnh chen lấn giẫm đạp hỗn loạn, nay lại lan ra thêm một việc kinh thiên động địa khiến cả vùng Lạc Dương xôn xao chấn động.

Vị đại đức cao tăng lừng danh gần xa Đàm Lâm thượng nhân được truyền rằng đã được một vị thiên nữ mọc cánh dẫn lối, vì muốn an ủi những oan hồn thiệt mạng trong đêm Vu Lan, đồng thời cứu giúp bách tính đói khổ trôi dạt tứ phương, nên đã tự nguyện xả thân thành nhân, lấy thân mình siêu độ u hồn lầm than.

Theo lời di ngôn truyền lại từ một người từng là cấp dưới của ngài, đêm ấy khi bóng tối phủ xuống, ngài vẫn như thường ngày nhập tịnh trong điện Quy Vô Thường, bất ngờ nơi Phật điện phát hỏa. Lửa bén quá nhanh, quy mô điện đường lại lớn, khiến cho ngọn lửa cuồng nộ không thể dập được, cứ thế bùng cháy suốt một ngày đêm, mãi đến khi trời sẩm tối mới dần lụi tàn.

Khi tăng nhân vào lại giữa đống tro tàn lửa tắt, giữa lớp tro than nóng bỏng họ phát hiện di hài khô ráo của Đàm Lâm thượng nhân. Sắc diện ngài an hòa đoan chính, thân thể không chút tổn hại, chắp tay ngồi ngay ngắn giữa đài sen cháy dở người đời nói ngài đã hóa thân thành tức thân Phật.

Ngài để lại một bài kệ từ bi như sau:

“Nguyện đem công đức này, trang nghiêm tịnh độ Phật.
Báo bốn ân sâu dày, cứu ba đường khổ nạn.
Nếu ai nghe hiểu được, tất phát tâm Bồ Đề.
Thân này xin báo tận, cùng sinh cõi Cực Lạc.”

Không chỉ thân thể hóa Phật, mà đến cả nghiệp hỏa thiêu đốt cũng chẳng làm tổn hại mảy may kỳ tích ấy khiến người người chấn động, tin tức lan truyền nhanh chóng khắp nơi. Từ Lạc Dương cho tới vùng Kinh Kỳ, tin chúng đều vì đó mà rung động. Từ con cháu hoàng thân quốc thích cho đến thứ dân trăm họ, vô số người đổ về đại chùa Thiềm Quang, chỉ mong được tận mắt chiêm ngưỡng dung nhan viên tịch trang nghiêm của vị cao tăng sau khi niết bàn.

Phật kệ mà Đàm Lâm thượng nhân lưu lại có lời lẽ sáng rõ: chỉ cần khởi thiện tâm, cứu giúp kẻ hoạn nạn, thì có thể như ngài, thẳng thăng vãng sinh Cực Lạc, không còn vướng khổ luân hồi.

Giáo pháp, kinh kệ dẫu có thâm sâu diệu nghĩa đến đâu cũng khó sánh với thần tích hiển hiện trước mắt: thân thể bất hoại, ngồi hoa sen mà nhập định, như tức thân Phật. Các nhà quyền quý, phú hào Đông Đô đều chấn động. Dẫn đầu là Đậu Kính, phủ doãn Hà Nam, rồi đến chư công khanh, huân quý, phú thương, danh gia vọng tộc… thi nhau mở kho, dâng tiền tặng gạo, thóc lúa, ngân lượng dồn về như sóng lớn sông Lạc, dũng mãnh không ngừng, so với lễ bố thí Vu Lan hôm trước, còn vượt xa gấp trăm ngàn lần.

Chiếu theo di ngôn của Đàm Lâm thượng nhân, chùa Thiềm Quang không giữ lại một hạt thóc, một đồng tiền, toàn bộ đều đem đi cứu tế dân nghèo nơi nơi đói khổ.

Vị đệ tử được ngài yêu quý nhất, đồng thời là người mang từ tâm lớn lao điển tòa Quan Triều chính thức kế thừa y bát, đảm nhận chức trụ trì mới của đại chùa Thiềm Quang, thay thầy gánh vác việc đời, thống lý tài vật, sắp đặt mọi chuyện cứu tế chu toàn đâu vào đó.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 119


Để nghiệm chứng kế sách của Bảo Châu liệu có thể thuận lợi tiến hành hay không, đoàn người tiếp tục ở lại chùa Thiềm Quang thêm mấy ngày.

Thi thể Đàm Lâm sau khi được vôi trong hút hết khí ẩm, lại trải qua hơi lửa sót lại từ vụ hỏa hoạn hun đốt hồi lâu, đã hóa thành một khối xác khô định hình, toàn thân mất nước.

Tăng chúng chùa Thiềm Quang vốn sẵn tinh thông thuật xử lý di thể, lại có Vi Huấn âm thầm chỉ dẫn, bèn lặng lẽ lấy nội tạng Đàm Lâm ra, trong khoang bụng lấp đầy vôi sống và hương liệu, toàn thân thoa lên dầu trẩu chống phân hủy, tương lai còn có thể mạ thêm một lớp vàng ròng. Từ đó, xác thân này, phát ra hương khí nhàn nhạt, đủ để xưng là tức thân Phật, bảo tồn bất hoại hai ba trăm năm cũng chẳng phải việc khó.

Về phần Quan Xuyên mất tích, mọi người chỉ cho rằng hắn vốn là một giang hồ hiệp khách, đến thì vô ảnh, đi cũng vô tung. Nay Đàm Lâm đại sư đã viên tịch hóa Phật, hộ pháp của hắn coi như đã mãn, âm thầm rút lui cũng là lẽ thường.

Mây nổi non cao, dòng triều lặng ngắt. Trong năm vị đệ tử thân truyền, nay chỉ còn lại ba người, mà di chúc Đàm Lâm lại minh bạch chỉ rõ người kế thừa y bát chính là Quan Triều. Chúng tăng không ai dám dị nghị, lập tức cùng nhau nghênh thỉnh vị tăng trẻ tuổi dung mạo tuấn tú ấy bước lên tọa chủ trụ trì, tiếp nhận trọng trách bố thí cứu tế dân đói, gánh vác việc lớn sau hỏa nạn.

Quan Triều vốn từ trước đã chưởng quản đại sự, chuyên lo liệu việc bếp núc, hương hỏa, kho và trai đường, phụ trách cơm chay mỗi ngày cho hơn nghìn tăng chúng trong chùa Thiềm Quang cùng thí chủ đến tá túc. Những việc vụn vặt, rối rắm hằng ngày ấy, hắn đều nắm rõ như lòng bàn tay, lại thêm tâm địa từ bi, chẳng mấy chốc đã thu xếp thỏa đáng, tiếp nhận lễ hiến của tin chúng, rồi lại thay mặt Phật môn đem phân phát cứu tế dân nghèo đói khát.

Lúc này, bốn người Bảo Châu hội họp nơi phòng Dương Hành Giản, âm thầm bàn luận những điều gần đây quan sát được, đều đồng lòng tán thành tài cán cùng cách hành sự của Quan Triều.

Dương Hành Giản một mực thành tâm, thành ý mà tán thưởng rằng:

“Công chúa có con mắt biết người, lại giỏi giao người làm việc. Phật môn có câu rằng: ‘Từ xưa đại liêu xuất tổ sư’. Bởi lẽ chỉ người từng qua việc nhỏ nhặt hằng ngày, từng quán xuyến gốc rễ mới hiểu được Phật pháp là gì. Nếu chỉ ngồi yên luận kinh nói nghĩa, thì cũng như xây lâu đài giữa hư không vậy.”

Bảo Châu nghe mà không khỏi nghi hoặc, nói:

“Ta vốn chẳng quen biết hắn, đâu biết hắn giỏi giang đến đâu.”

Thập Tam Lang băn khoăn hỏi:

“Nhưng chẳng phải chính miệng Cửu Nương phân phó để Quan Triều hòa thượng kế nhiệm trụ trì đó sao?”

Bảo Châu hơi nhướng mày, khóe môi cong lên, cười đắc ý:

“Bởi vì hắn lớn lên trông rất tuấn tú. Ta tin rằng ‘tướng do tâm sinh’, người đẹp ắt lòng cũng thiện, tâm địa cũng tốt lành.”

Còn lại ba người nhất thời không biết nên nói gì thêm, bầu không khí thoáng chốc chìm vào yên lặng.

Bảo Châu lại ung dung, thản nhiên mà tiếp lời:

“Làm hòa thượng, điều quan trọng nhất chính là dung mạo khiến người nhìn vào cảm thấy thư thái dễ chịu. Chúng ta hằng ngày gặp gỡ biết bao tăng nhân đạo sĩ, phần nhiều đều là đến hóa duyên xin của, làm gì có dư hơi mà lần lượt khảo xét ai có đạo hạnh sâu hay tâm tánh cao. Bởi thế, cứ ai trông thuận mắt, nói chuyện lại dễ nghe, thì sẽ dễ được người bố thí.”

Vì Vi Huấn còn đang dưỡng thương, mấy ngày nay đều là Thập Tam Lang theo nàng bôn ba lo liệu, lại thêm lanh lợi, biết nghe lời, khiến Bảo Châu trong lòng càng thêm quý mến. Nàng khẽ cười, quay sang khen ngợi chú tiểu:

“Đệ trông cũng rất khá, ánh mắt cũng tốt, mai sau trưởng thành tất nhiên sẽ là một vị hòa thượng tuấn tú đủ tư cách. Tới khi đó, ta sẽ thay đệ an bài một tòa chùa lớn như Thiềm Quang, để đệ làm trụ trì, chịu không?”

Thập Tam Lang nghe vậy, khuôn mặt nhỏ lập tức sáng bừng như nắng mới, biết rằng đời mình từ nay có công chúa làm chỗ dựa, vui sướng đến nỗi không ngồi yên được, bật nhảy lên kêu to:

“Công chúa nói thì phải giữ lời đó nha!”

Niềm hân hoan lớn lao khiến trong lòng hắn như có pháo nổ rộn ràng, không kìm được, lại nhảy đến trước mặt Vi Huấn, hưng phấn chia sẻ:

“Đại sư huynh, huynh có nghe không? Sau này đệ không cần vất vả luyện võ nữa! Đệ sẽ làm… hòa thượng của công chúa đó!”

Vi Huấn như đang trầm ngâm điều gì, mắt vẫn không rời tiểu sư đệ, một hồi lâu sau mới nghiêm túc nói:

“Vậy thì đệ lại càng phải sớm hôm siêng năng, dốc lòng khổ luyện công phu mới được.”

Thập Tam Lang ngẩn ra, khó hiểu hỏi lại:

“Vì sao chứ?”

Vi Huấn ngoắc tay bảo sư đệ lại gần, vòng tay ôm lấy vai hắn, rồi ghé sát tai thì thầm bằng giọng âm trầm:

“Bởi vì… làm hòa thượng của công chúa thì cực kỳ dễ bị người ta chém ngang lưng! Không luyện được thân kim cương bất hoại, thì lấy gì mà chịu nổi đao kiếm bay đầu?”

Ánh mắt hắn lấp lánh vẻ gian giảo, khóe môi nhếch lên nụ cười tà ác như mèo rình chuột. Thập Tam Lang nhìn thấy sư huynh vẫn thân thiết thường ngày, nay lại mang vẻ dọa người như vậy, trong lòng chỉ thấy rùng mình một trận lạnh sống lưng, song vẫn không hiểu rõ dụng ý trong lời nói.

Được một lời hứa hẹn tốt đẹp như vậy, hắn vốn hưng phấn vô cùng, thế mà đại sư huynh chẳng những không chia vui, lại còn hù dọa người ta đến mức khó hiểu. Mũi hắn ê ẩm, ấm ức lầm bầm một câu:

“Đại sư huynh thật là xấu…”

Vi Huấn nhìn bộ dạng tiu nghỉu đó, chỉ thầm cười trong bụng: đã gieo được một hạt mầm nghi hoặc vào lòng sư đệ, từ nay về sau nếu hắn thật sự chăm luyện Bát Nhã Sám, mười mấy năm nữa e sẽ thành ra một thân hình cao lớn vạm vỡ như Quan Xuyên, chứ chẳng phải phong tư nhã nhặn như Quan Triều…

Đại khái là… vậy?

Bảo Châu lại đột nhiên nhớ ra một chuyện lạ, quay sang hỏi Thập Tam Lang:

“Vu lan đêm hôm ấy, đệ nói một mình đi tụng niệm, kết quả cả đêm không thấy bóng dáng, rốt cuộc là làm thứ gì mà vất vả như vậy?”

Thập Tam Lang đáp:

“Sư phụ lúc lâm chung có để lại hai lời trối. Một điều là chuyện mọi người đều biết, chính là cái gọi là ‘họa loạn điên đảo’ nọ. Còn điều kia thì người chỉ nói riêng với đệ mỗi tháng, mùng Một hay mười lăm, chọn một ngày bất kỳ để tụng kinh siêu độ, cầu phúc cho một người bằng hữu của người.”

Bảo Châu sửng sốt, hỏi lại:

“Hạng người cố chấp kỳ quái như ông ấy mà cũng có bằng hữu sao? Vị đó phải là Bồ Tát sống mới chịu nổi tính nết của ông ta chứ?”

Thập Tam Lang lắc đầu:

“Ông chưa từng nói rõ. Nghĩ lại thì sư phụ là người quái đản như vậy, chắc cũng chẳng có nhiều bạn bè. Đệ đoán chỉ cần tụng một câu ‘bằng hữu của Trần Sư Cổ’ là người nơi âm phủ sẽ nhận được rồi.”

Vi Huấn không lên tiếng. Bảo Châu trầm ngâm chốc lát, bỗng trong lòng loé lên điều gì, nghiêm giọng chất vấn:

“Khoan đã! Tụng kinh thì không nói làm gì, nhưng sao kinh thì ít nhất cũng phải biết chữ, lại còn phải biết viết nữa chứ. Chẳng lẽ đệ biết viết chữ?”

Thập Tam Lang gật đầu thành thật:

“Sư phụ trước lúc mất đã dạy đệ viết Tâm kinh hai trăm sáu mươi chữ, còn cả Đại Bi chú bốn trăm mười chữ nữa.”

Bảo Châu nghe vậy liền giật mình biến sắc, thật không ngờ trong đám người của Tàn Dương Viện, kẻ có học vấn đầu tiên lại chính là tiểu sa di nhỏ bé đứng hàng cuối này. Sau một hồi kinh ngạc, nàng quay sang nói với Vi Huấn:

“Trần Sư Cổ vốn nghiêm cấm các ngươi học chữ đọc sách, thậm chí vì chuyện ấy mà đánh Bàng Lương Ký thành tàn phế, thế mà cuối cùng lại thiên vị một mình Thập Tam Lang, dạy đệ ấy học chữ sao kinh. Những người sư huynh, sư tỷ kia chẳng lẽ không có ý kiến gì à?”

Vi Huấn chỉ đành bất lực đáp:

“Trong muôn vàn tật xấu của ông ấy, bất công e là loại vô hại nhất, chúng ta còn có thể nói gì?”

Những ngày qua, hắn vẫn mãi nghĩ suy về đoạn lời tự thuật của Đàm Lâm rằng chuyện giữa Trần Sư Cổ và Nguyên Húc năm xưa rốt cuộc bao nhiêu phần là thật. Hai lời trối trăn trối trước lúc lâm chung của sư phụ, ban đầu ai nghe cũng thấy mơ hồ khó hiểu, nay dường như đã có một lời giải đáp.

Trần Sư Cổ vốn biết rõ năm ấy Đàm Lâm chỉ vì cầu sống mà giả vờ tụng kinh vì Nguyên Húc, thế nhưng ông ta vẫn tha cho hắn một con đường sống. Một người chẳng hề tin vào thần Phật, bốn mươi năm sau, lại để một tiểu đệ tử bé bỏng của mình tiếp tục gánh lấy cái việc tụng kinh hão huyền vô ích ấy, chẳng rõ là vì tin, hay vì nợ.

Trần Sư Cổ tuy mang ma chướng, nhưng cũng không hề là kẻ bình tĩnh, lý trí như mọi người lầm tưởng.

Có được một thân xác thành Phật trăm năm khó gặp, đại chùa Thiềm Quang cũng vì thế mà không còn xem trọng những kỳ quan từng dùng để thu hút thập phương thí chủ. Đàm Lâm vừa qua đời, không còn ai tình nguyện tiếp tục tu hành Cửu Tương Quan, càng chẳng có họa sư nào chịu học theo cái phép xem trừng xác chết rồi họa hình tỉ mỉ như xưa. Tất thảy thi thể trong chùa đều được đưa ra mộ viên ngoài thành an táng.

Không còn xác người, cũng không cần đốt ngàn cân hương liệu để át mùi ô uế, tân trụ trì Quan Triều dứt khoát xóa bỏ lệ phí đắt đỏ này. Tháp cổ ngày xưa quanh năm mịt mù sương khói, giờ trở nên thoáng đãng, trong lành lạ thường. Bầu không khí vốn nặng nề âm trầm, cũng hóa nhẹ như khói sớm ban mai.

Để tiết kiệm gạo thóc, mở rộng nhân lực cứu tế, Quan Triều còn miễn luôn cả việc sai người ủ men ủ rượu dưới gốc mộc tê. Hắn công khai nói: chùa Thiềm Quang vốn dựng trên nguồn suối ấm, đất ở đây ấm hơn nơi khác, dù không bón phân cũng chẳng hại gì đến vụ nở hoa.

Trước khi rời Thiềm Quang, Bảo Châu một lần cuối đến thưởng lãm bức tranh 《Mục Liên cứu mẹ》 của Ngô Quan Trừng. Vụ án đã sáng tỏ, hung thủ đền tội, nàng chỉ không rõ, vị họa sư thiên tài từng bị hãm hại đến chết ấy, liệu đã trút bỏ oán hận mà thoát khỏi biển khổ địa ngục hay chưa? Không biết, nơi tàng cây mộc tê ấy, hắn có gặp lại được Quế Nhi hay không?

Chỉ tiếc rằng, kỹ pháp vẽ mà hắn sáng tạo, cùng với bí thuật vẽ rồng điểm nhãn của Ngô Đạo Tử, đều đã cùng hắn mai một. Từ nay về sau, e là không ai còn vẽ được nữa.

Cảm khái mà thở dài, Bảo Châu ngoảnh đầu nhìn lại đình viện, khóe mắt vô tình bắt gặp bóng người đứng lặng dưới hành lang Vi Huấn đang lặng lẽ dõi mắt trông nàng, thần sắc nửa sáng nửa tối, dáng vẻ ấy vừa tịch mịch lại vừa như quỷ ảnh lẩn khuất.

Từ đêm Vu Lan ấy sau trận chiến kinh tâm, hắn dường như biến đổi ít nhiều, khác hẳn vẻ thong dong ngày trước. Trước kia còn có thể sóng vai kề vai, nắm tay trò chuyện, nay lại lấy cớ vết thương chưa lành mà cứ né tránh, sống chết chẳng chịu đến gần. Hắn thường xuyên lặng lẽ trốn trong một góc, mắt thì dán lấy nàng, ánh nhìn ấy khiến người ta rợn gai, khó mà dửng dưng cho được.

Nể tình hắn bị thương nên nhất thời thất thường, Bảo Châu đã nhẫn nhịn nhiều ngày, không trách móc nửa lời. Nhưng đến hôm nay, rốt cuộc nàng cũng không nhịn nổi nữa, đưa tay ngoắc hắn lại gần.

Vi Huấn chầm chậm bước tới, hỏi:

“Sao vậy?”

Bảo Châu nhíu mày, không vui mà nghi hoặc nói:

“Dạo gần đây ngươi thật kỳ quái.”

Không bằng cái đêm hôm ấy còn kỳ quái hơn. Vi Huấn thầm nghĩ trong bụng.

Hắn vốn cho rằng, sau khi trải qua chứng tâm* rồi, mọi ảo giác cuồng loạn kia đều có thể rũ bỏ hết, để lại phía sau lưng. Nào ngờ, tâm trạng tuy đã yên, mà ký ức lại chẳng chịu nguôi. May thay, những ngày qua đã tập luyện nhiều lần, đến nay mới có thể miễn cưỡng áp chế bản thân đưa mắt nhìn nàng như một người bình thường, là nhìn toàn thể, nhìn gương mặt, y phục, dáng đi, chứ không còn bị đôi môi, d** tai, xương quai xanh… mấy chỗ vụn vặt ấy mê hoặc ánh nhìn nữa.

Chứng tâm (證心): Có thể hiểu là một loại pháp tu khắc nghiệt, giúp người đối mặt với tâm ma, tạp niệm và ảo giác.

Bảo Châu chất vấn, giọng mang chút không vui:

“Ngươi rốt cuộc nhìn cái gì?”

Vi Huấn đáp khẽ:

“Trên tóc nàng… hôm nay không cài trâm.”

Bảo Châu biết đầu mình hôm nay để trống, bởi hôm nọ xông vào biển lửa, tóc đuôi bị cháy sém, đành phải cắt đi hai tấc. Nàng buồn bực nói:

“Cái cây cũ dùng mãi cũng chán rồi. Chờ đến Lạc Dương, lãnh được tiền ở quầy phường, ta nhất định phải đi dạo phố, chọn vài kiểu mới. Còn muốn mua thêm son phấn nữa.”

Vi Huấn gật đầu, không nói thêm gì. Trong những ảo ảnh kia, nàng cũng chỉ quẩn quanh những việc như thế đủ thấy là thật lòng mong muốn.

“Đưa tay đây.” Bảo Châu thản nhiên nói.

Vi Huấn biết lần này không tránh được, đành chậm rãi nâng tay phải, vẻ mặt như ra chiến trường, hiên ngang mà đưa sang.

Bảo Châu nhẹ nhàng từng chút tháo bỏ lớp vải băng bó, hai tay nâng lấy bàn tay kia, cẩn thận quan sát. Bàn tay ấy chi chít thương tích, móng vuốt rớm máu, nhưng vì là kẻ luyện khí, thương thế lành nhanh hơn thường nhân nhiều. Nơi tróc da nứt thịt đã dần khép miệng, phần lòng bàn tay bị bỏng đỏ tươi nay cũng bắt đầu ngả sẫm lại.

Hung thủ tuy đã đền tội, nhưng khi nhìn đến vết thương này, Bảo Châu vẫn không khỏi tức giận. Nàng nói:

“Hôm ấy khi lão tặc đầu trọc nhắc đến kẻ ‘không sợ chết’, ta đã thấy có chỗ chẳng lành. Nghĩ kỹ lại, người hợp với câu ấy nhất… chính là ngươi.”

Vi Huấn trầm ngâm. Từ lúc bước chân vào chùa Thiềm Quang tới nay, hắn vẫn canh cánh trong lòng, chỉ e có kẻ ngấp nghé Bảo Châu. Nào ngờ người trong chùa vốn kiêng nể thân phận quan viên của Dương Hành Giản, chưa từng dám sinh lòng tà ác. Trái lại, mọi sự cuối cùng lại thành trò cười do trời xui đất khiến.

Bảo Châu căn dặn:

“Lần sau nếu lại cùng người động thủ, nhớ gọi ta một tiếng. Dù cái tên hiệu kia nghe không ra gì, nhưng ta cũng xem như là nhân vật có tiếng trên giang hồ.”
Nghĩ ngợi một thoáng, nàng lại nói nhỏ, giọng có chút ngượng ngùng:

“Chỉ là… gọi tên ta thôi, đừng gọi tên hiệu.”

Vi Huấn bật cười, gật đầu:

“Được.”

Mấy ngày nay đã cố nhẫn nhịn để giữ tâm bình khí hoà, vẻ ngoài trông như chẳng có chuyện gì. Thế nhưng tay bị nàng nhẹ nhàng nắm lấy, lại vừa vỗ về vừa xoay trở chơi đùa, lòng hắn vẫn không khỏi rối như tơ vò. Nếu không phải nhờ ý chí chống đỡ, chỉ sợ đã không chịu nổi lại phát tác thêm lần nữa.

Đợi đến khi nàng cẩn thận băng lại tay phải cho hắn, vừa định đưa tay trái ra, Vi Huấn liền đưa một chiếc hộp sơn son đặt vào tay nàng chính là chiếc hộp lưu ly thất bảo từng đoạt được ở huyện Hạ Khuê.

Bảo Châu ngẩn người, chưa rõ hắn có ý gì.

Vi Huấn hơi nghiêng người sát lại, hạ giọng nói khẽ:

“Rời khỏi chùa Thiềm Quang rồi hẵng mở ra. Trong ấy… là vật ta trộm về.”

Bảo Châu trong lòng chấn động, người này… thế mà lại mang tang vật đi tặng người khác như lễ vật?

Hộp còn nằm trong tay, Vi Huấn đã quay lưng bỏ đi, đúng lúc một đoàn tăng nhân tay ôm rơm mới phơi ngang qua. Sợ chuyện bại lộ, kinh động chúng tăng, Bảo Châu hoảng hốt giấu vội chiếc hộp vào ngực áo, không dám để lộ nửa phần.

Đoàn người rời khỏi đại chùa Thiềm Quang, khi bước ngang qua sơn môn, như thường lệ ở các ngôi tự khác, nơi cửa chùa sừng sững một pho tượng Vi Đà hộ pháp cao lớn nghiêm trang.

Vi Huấn đưa dây cương cho Thập Tam Lang, rồi hai tay ôm quyền, chắp tay nhất bái về phía Vi Đà, thần thái tiêu sái, tràn đầy phong vị giang hồ.

Dương Hành Giản trông thấy kẻ trước nay không tin thần Phật như hắn mà cũng chịu cúi đầu trước Bồ Tát, lấy làm kinh ngạc đến há hốc miệng không khép được. Lại ngẫm, người khác bái Phật đều chắp tay trước ngực cung kính, riêng người này lại bái theo lối ôm quyền của võ lâm giang hồ, dường như coi Vi Đà cũng là một vị hiệp khách, trong lòng càng thêm khó hiểu.

Mọi người ngoái đầu, đưa mắt nhìn lần cuối về câu đối khắc hai bên sơn môn:
“Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ứng tác như thị quán.”
(Dịch nghĩa: Tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng, như sương như điện chớp, nên quán chiếu như thế.)

Ra khỏi cổng, thế giới bên ngoài cũng chẳng phải thanh tịnh gì hơn. Từ xa nhìn lại, hàng dài dân đói nối đuôi nhau chờ lĩnh cháo từ chùa Thiềm Quang bố thí, vẫn chưa thấy điểm tận cùng. Nhưng bởi nơi đây là tịnh địa của Phật môn, lại có từ bi của Đàm Lâm thượng nhân tức thân Phật lưu lại che chở, nên tuy sắc mặt người người hốc hác vì đói khổ, vẫn chẳng đến nỗi tuyệt vọng.

Bảo Châu cưỡi lừa, mắt nhìn khắp xung quanh. Nhận thấy vì đại chùa Thiềm Quang gần đây hương khói hưng vượng, người có tiền kéo đến dâng lễ cũng đông, nên quanh vùng bắt đầu tụ họp nhiều quầy hàng nhỏ bán bánh trái, lại có người cõng rương bán đường mạch nha ngọt lịm, tiếng rao vang vang trên đường.

Nàng sai Thập Tam Lang đi mua đường mạch nha. Chú tiểu chạy đi hỏi giá, chưa vội trả tiền, rồi quay về báo lại:

“Cửu Nương, hắn nói hai mươi văn một chiếc.”

Bảo Châu nghe xong liền nổi giận:

“Thật là cướp giữa ban ngày! Đường kia chẳng lẽ có nạm vàng hay sao? Ở Quan Trung một hai văn cũng mua được, hắn sao dám hét giá ngông cuồng như thế!”

Vi Huấn nghe nàng đường đường là kim chi ngọc diệp, cao quý thanh nhã mà cũng có ngày vì giá cả đắt đỏ ngoài phố mà oán trách, không nhịn được bật cười:

“Đường mạch nha làm từ lúa mạch nảy mầm, giờ lương thực đắt đỏ, thứ này dĩ nhiên cũng đội giá theo.”

Bảo Châu nghe ra căn nguyên, có phần đỏ mặt, bối rối thanh giọng, rồi dõng dạc phân phó Thập Tam Lang đi mua ba chiếc.

Từ trước tới nay nàng vốn không ăn những thứ vặt vãnh bày bán ven đường thường dính đầy tro bụi, chẳng sạch sẽ gì nên Thập Tam Lang khi mang về, hớn hở giơ cao đưa tới, liền bị nàng nghiêm trang từ chối:

“Ta đang cưỡi lừa, sao có thể vừa đi vừa ăn, mất hết thể thống. Đệ chia với sư huynh ngươi, còn lại cái cuối cùng, đưa cho đứa trẻ kia.”

Nàng chỉ tay về phía hàng người dài dằng dặc đang xếp hàng chờ lĩnh cháo. Giữa dòng người, có một người đàn ông gánh đôi sọt, trong một sọt ngồi vắt vẻo một đứa bé ngăm đen, gầy nhom, khô xác như que củi. So với mấy ngày trước, có một điểm khác biệt cây cỏ cắm trên đầu nó để rao bán đã được gỡ xuống.

Nàng chưa yên dạ, dặn dò thêm:

“Đệ đứng đó trông cho hắn ăn xong hẵng về, kẻo có kẻ cướp giật mất phần.”

Thập Tam Lang lĩnh mệnh, vừa ngậm một chiếc đường mạch nha trong miệng, vừa nhét chiếc còn lại vào tay Vi Huấn, hớn hở chạy đi.

Đứa trẻ ngồi trong sọt, bất ngờ được tặng quà, mừng rỡ mà cắm đầu cắn lấy cắn để, như thể từ trước đến nay chưa từng được nếm món gì ngon lành đến vậy.

Vi Huấn nhìn cảnh tượng ấy, chẳng hiểu sao trong lòng chợt dấy lên cảm giác quen thuộc, như đã từng thấy ở nơi nào rồi. Chẳng rõ hôm nay vì cớ gì, tâm tình hắn tựa như thả trôi vào suối nước ấm, cả người nhẹ lâng lâng, như được một làn ánh sáng êm dịu bao bọc lấy, nâng hắn lên khỏi mặt đất. Trong thoáng chốc, hắn cảm tưởng người được kéo lên từ hầm mộ sâu thẳm kia là mình, chứ chẳng phải nàng.

Rốt cuộc khi ấy là ai cứu ai?
Kỳ thực… nói cho rõ, cũng chẳng ai phân định được.

Rời khỏi chùa Thiềm Quang một chặng dài, gần đến cửa thành Lạc Dương, Bảo Châu đã chẳng còn nhẫn nại được nữa, bèn lấy chiếc sơn hộp kia ra.

Vi Huấn lặng lẽ nhìn nàng, ánh mắt đong đầy chờ mong.
Thế nhưng Bảo Châu lại vì bao phen xấu nết, rối ren hắn từng gây ra trước đó, mà bỗng dưng ngần ngại do dự…

“Trêu ghẹo ta à? Đừng nói là ngươi giấu sâu lông trong hộp nhé?” — Bảo Châu nghi ngờ nheo mắt nhìn hắn, giọng còn có chút đề phòng.

“Ta nói cho ngươi biết, nếu lần này còn dám dọa ta nữa, ta nhất định… nhất định…”

Nhưng nghĩ tới đôi tay hắn bị thương, đánh cũng không được, nàng nhất thời nghẹn lại, chưa nghĩ ra nên phạt thế nào, đành trừng mắt hăm dọa:

“Hừ, nói chung là tuyệt không tha nhẹ đâu!”

Vi Huấn khẽ cười, từ tốn đáp:

“Quả là vật hái trên cây, nhưng không phải để dọa nàng. Mở ra mà xem.”

Bảo Châu vẫn còn nghi ngờ, không dám lập tức mở hộp, chỉ hé hé nắp một khe nhỏ nhìn vào, chưa kịp thấy rõ bên trong, đã ngửi thấy hương thơm thanh mát, ngọt lành từ trong hộp tỏa ra.

Nàng như chợt hiểu ra điều gì, lập tức mở nắp hộp, gương mặt bừng sáng, kinh hỉ reo lên:

Là cái này!”

Trong sơn hộp, nằm yên một đóa hoa quế vừa hé nở, sắc vàng rực rỡ còn hơn cả vàng ròng, mùi thơm dìu dịu mà thấm sâu, còn hơn cả hương quý nào ta từng biết.

Vi Huấn nói nhỏ:

“Lúc sắp rời đi, ta ngửi được từ mộc tê bay tới một tia hương dịu, mấy tên đầu trọc trong chùa thì đang bận nấu cháo cứu tế, chẳng ai để ý năm nay hoa quế sớm nở, ta liền lặng lẽ trèo lên, hái về một đóa.”

Bảo Châu cười tươi đến nỗi không khép được miệng, nâng hoa lên ngửi mấy lượt, lại ngắm nghía hồi lâu, vui vẻ kêu lên:

“Mau! Mau cài lên trâm cho ta!”

Nàng cúi đầu, giục Vi Huấn cắm đóa hoa lên búi tóc, nơi hai lớp lụa vấn chồng thành dáng.

Dương Hành Giản thấy giai nhân cài mộc tê rực rỡ dưới nắng sớm, cũng không nén được lời khen, lập tức lấy giọng cung kính khen tặng như đang dâng biểu chương cho thượng cấp, ân cần nói:

“Thiên tử bao năm chưa hạ cố tới Đông Đô, nay khắp Lạc Dương nữ tử tôn quý nhất chính là Công chúa, được cành hoa quế đầu tiên năm nay cũng là chuyện nên. Việc hôm nay kinh mà nghĩa trọng, nào thể gọi là trộm? Mộc tê sinh vân tường, vốn là ứng với cảnh công chúa đăng tiên phượng liễn vậy.”

Bảo Châu nghe xong, trong dạ rộn ràng, càng thêm rạng rỡ, cằm khẽ nâng, ngồi thẳng lưng lừa mà ngẩng cao đầu kiêu hãnh. Dáng vẻ như thể nàng không chỉ là một thiếu nữ đơn độc, mà đang cưỡi xe loan ngọc giữa hàng trăm thị vệ và cung nữ theo hầu, nghi trượng uy nghi chẳng khác gì long giá.

Nhìn nàng vì một cành hoa mà hoan hỉ đến như vậy, Vi Huấn bật cười, cười đến nỗi vết thương nơi khóe môi cũng rạn nứt đau nhói.

Trong lòng hắn thầm nghĩ:
“Bảo Châu và Nguyên Húc tuy giống nhau về khí cốt, nhưng cũng có một điểm khác biệt. Nàng thân thể mạnh mẽ, ăn được ngủ được, lại khoáng đạt rộng lòng, dẫu mai sau có vào chốn độc trùng phương Nam hay đến miền U Châu biên tái băng giá, tất cũng có thể mạnh mẽ mà sống, không ai có thể khuất phục nàng.”

“Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán.”
Kinh Phật từng dạy: hết thảy sự đời, đều tựa như ảo ảnh trong mộng, như sương mai đầu ngọn cỏ, như ánh chớp thoáng qua hư không chợt đến rồi chợt đi, không nên chấp trước.

Nhưng chính là những giấc mộng đẹp từng qua như suối nước nóng trong đêm lạnh, giọt sương đầu cánh sen, hay một tia chớp soi thấu mê lộ từng khoảnh khắc ấy, tựa như tơ mảnh mỏng manh mà thuần tịnh, lại khắc sâu nơi tâm khảm, không sao xóa nhòa.

Dẫu cho đời người ngắn ngủi, tựa như bọt nước lững lờ giữa dòng, thì chỉ cần từng có một khắc chân tình, một giây khoảnh khắc ngời sáng cũng đã không uổng kiếp này.



《Cửu Tương Quan》 kết.
 
Back
Top Bottom