Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp

Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 100


“Nang nói rất đúng, dạo gần đây ta cũng cảm thấy khoẻ hơn nhiều.”

Nghe hắn đích thân thừa nhận, Bảo Châu bỗng nổi hứng đắc ý, cười rạng rỡ nói:

“Ta từ trước tới nay vẫn may mắn lạ thường, Hoắc Thất Lang cũng từng bảo rằng nét tướng của ta sinh ra là để hưởng phúc, phú quý cát tường. Chia cho ngươi vài phần vận may, e rằng cũng đủ cho ngươi tiêu cả đời.”

Nàng ngẫm nghĩ rồi lại nói:

“Trần Sư Cổ đã khuất núi, về sau ngươi có thể đổi sang một cái tên hay hơn, may mắn hơn. Ta sẽ giúp ngươi chọn một cái thật hay.”

Vi Huấn bật cười:

“Nàng đã đặt tên cho cả dao, nhưng ta không cần Dù sao cũng chỉ là một cách xưng hô, có người gọi, có người kêu, thế là đủ. Nàng rõ ràng có cái tên rất hay, vậy mà chẳng ai dám gọi, không phải cuối cùng chỉ còn lại khắc lên bia mộ hay sao?”

Bảo Châu khựng lại trong khoảnh khắc trầm mặc. Rồi nàng chậm rãi thốt lời, giọng lạnh:

“Tên ta là thiên cơ, sử quan chưa chắc đã biết. Sao ngươi dám cam đoan chắc chỉ có thể khắc vào bia mộ? Chẳng lẽ… ngươi từng đào trộm lăng mộ công chúa khác?”

Một luồng khí lạnh luồn dọc sống lưng Vi Huấn, hắn bất giác chìm dần xuống nước, lòng dâng cơn hoảng loạn. Đêm nay lơ là, tùy tiện trò chuyện, khiến hắn lỡ lời nói ra điều suốt bao năm vẫn cố tình tránh né.

Trần Sư Cổ trộm mộ không chừa ai, đặc biệt thích đào lăng tẩm đế vương quyền quý. Bao nhiêu kẻ khi sống quyền cao chức trọng, đến khi chết cũng chẳng thoát khỏi móng vuốt của ông ta. Trong số đó, chẳng ít là tổ tiên huyết thống của Bảo Châu. Dĩ nhiên, trò này đâu thể thiếu tay trợ thủ là hắn.

Bất kể trong cảnh huống nào, câu “ta từng đào mộ tổ tiên nàng” cũng chẳng bao giờ là câu nói dễ nghe.

Bảo Châu lúc ấy tuy chưa nghĩ sâu đến thế, nhưng cũng nổi trận lôi đình. Nàng giận dữ quát:

“Ta không phải công chúa duy nhất? Còn có công chúa khác nữa sao? Ngươi cũng từng… ôm họ từ trong quan tài ra?”

Vi Huấn hoảng đến chân tay luống cuống, vừa muốn trốn, lại biết chạy đi cũng không xong, đành nghĩ đến tuyệt chiêu xưa kia sư phụ từng dạy: mỗi người trong môn đều học qua một bài chụp nồi cho người khác.

Hắn lập tức vội vàng phân bua:

“Từ trước đến nay là Trần Sư Cổ chọn mộ, ta chỉ là người bị bắt đi theo phụ giúp. Mấy vị công chúa kia… đều là xương trắng mục nát, trong quan tài chẳng còn gì ngoài mấy chiếc răng vỡ, ai mà nhìn ra được nam hay nữ!”

Bảo Châu bán tín bán nghi:

“Thật vậy chăng?”

Vi Huấn gật đầu lia lịa:

“Thật! Mộ của nàng là ta lần đầu tiên chạm đến mộ công chúa, cũng là duy nhất! Rượu trong địa cung nàng, là rượu ngon nhất mà ta từng nếm.”

Nói dối hay thật cũng chẳng phân định nổi, Bảo Châu chỉ ngẫm thấy mình có chút vô lý. Giận dỗi vì hắn từng đào mộ công chúa khác, thật chẳng ra làm sao. Dù sao thân phận Vạn Thọ Công Chúa, theo lý mà nói, cũng đã chết. Tên gọi Bảo Châu cũng chỉ là ẩn danh, một khi đã khắc vào ngọc điệp và bia mộ, nào còn ai nhớ đến? Vạn sự đã xong, một đời cứ vậy kết thúc.

Nghĩ đến sau này ngoài a huynh, sẽ chẳng còn ai thân thiết gọi nàng là Bảo Châu, trong lòng không khỏi dâng nỗi cô đơn.

Tên họ chỉ là một tiếng gọi. Dù có mỹ miều thế nào, nếu không có ai xưng tụng, cũng chỉ là âm thanh rơi vào cõi lặng. Có lẽ, sự cố chấp với tên húy cũng chỉ là một niềm vương vấn không đáng giữ nữa.

Nàng im lặng hồi lâu, rồi hạ quyết tâm:

“Nếu chuyện do Trần Sư Cổ gây nên, ta sẽ không truy cứu nữa.”

Nói xong, nàng hơi ngập ngừng, nhưng cố giữ giọng dõng dạc:

“Ngươi… ngươi từ nay có thể gọi ta là Bảo Châu.”

Dưới bóng đêm, hơi nước mịt mờ lay động như cảnh trong mộng. Trúc tường lặng lẽ, một tiếng gọi vang lên từ phía bên kia:

“Bảo Châu.”

“Ừ…”

Tên thật ấy, nghe tưởng chừng đơn giản, nhưng lại như một lưỡi dao mềm thấm sâu vào tim gan. Chẳng biết vì sao, hai người đang cùng ngâm mình trong ao nước, cách nhau một bức trúc tường, lại bỗng dưng đồng loạt đỏ mặt, co người giấu mình vào làn nước ấm.

Bảo Châu chỉ còn để lộ mắt và mũi trên mặt nước, da thịt ngâm đến đỏ bừng, mặt thì như muốn chảy máu. Nàng choáng váng, tựa hồ say rượu, lòng lo sợ nếu chẳng may ngất đi, chỉ còn kẻ kia bên cạnh biết mà vớt nàng lên chẳng phải là quá mất mặt hay sao?

Sau một hồi yên lặng, Vi Huấn bỗng cất tiếng:

“Thực ra… vẫn có một loại quỷ dễ dàng lẩn vào chùa chiền.”

Bảo Châu ngẩn người:

“Quỷ gì?”

“Loại gọi là quỷ sâu thắt cổ.”

Hai thứ nàng ghét nhất là quỷ và sâu, nghe đến đó, chân mày đã nhíu lại.

Vi Huấn ung dung kể, giọng trầm thấp như đang thuật chuyện ma:

“Loại sâu ấy sinh trên cây hòe, mùa thu hóa hình, nhả tơ treo mình xuống cành cây, trông hệt người treo cổ, nên dân gian gọi là quỷ sâu thắt cổ.”

Bảo Châu đang ngâm mình trong nước nóng bỗng rùng mình, chẳng hiểu sao đang nói chuyện êm đềm, hắn lại lôi ra chủ đề rùng rợn.

Còn chưa kịp ngăn lại, đã nghe hắn nói lời kết:

“Trên đầu nàng… chính là một cây hòe.”

Toàn thân Bảo Châu nổi da gà, nàng bất đắc dĩ ngẩng đầu nhìn quả nhiên thấy mấy con sâu tròn trịa treo lủng lẳng giữa không trung.

Bảo Châu lập tức kêu “Á!” một tiếng, nhảy vọt khỏi mặt nước:

“Tên khốn nịnh nọt chó cắn ngươi! Ngươi đợi đó cho ta!”

Rồi vội vã quấn áo, ba chân bốn cẳng chạy về phòng.

Hơn hai tháng nơi dân gian khác xa thuở mới tỉnh dậy ngập ngừng lắp bắp, nay mắng chửi người cũng đã có phong cách.

Dù vậy, giờ khắc này, Vi Huấn chỉ cảm thấy mình thật sự giống một con mèo xám gầy gò, vụng về và đáng xấu hổ. Tường rúc có thể ngăn tầm mắt, nhưng không thể ngăn hương thơm dìu dịu từ nàng lan qua từng đợt hơi nước, hương thơm ấy hoà với mùi thụy long não và hơi thở của nàng, khiến hắn không thể giữ nổi tĩnh tâm.

Lúc dòng nước bị nàng khuấy động tràn qua bên này, hắn chỉ thấy một luồng vô hình như lướt qua thân, khiến cả người run rẩy. Hắn đành dọa ma để ép nàng bỏ đi.

Không phải lần đầu. Gần đây, mỗi lần nàng đến gần, hắn đều thấy khí huyết rối loạn, hoặc cuồn cuộn trào dâng, hoặc đi xuống bụng dưới. Chỉ còn cách kéo giãn khoảng cách, âm thầm né tránh.

Năm xưa ở Tàn Dương Viện, khi học Nhật Mộ Yên Ba Chưởng, đồng môn thường bảo: “Đầu học được, thân lại không nghe lệnh.” Hắn từng cười chê là lười biếng kiếm cớ. Giờ mới hiểu họ không hề nói đùa.

Nửa đêm, những xao động khó gọi tên thường len lỏi khiến hắn trằn trọc không yên. Có lần Thập Tam Lang đi ngang, thấy hắn luyện công, hỏi:

“Huynh cả ngày lẫn đêm khổ luyện, muốn tranh ngôi đệ nhất thiên hạ sao?”

Vi Huấn không đáp được. Vì hắn chẳng muốn tranh đệ nhất gì cả chỉ là sợ bị người ta cười chê.

Hắn cuộn người lặn sâu xuống ao, để dòng nước phủ lấy thân thể, che đi mọi cảm giác, ngăn năm giác quan, chỉ mong lắng dịu tâm can.

Thế nhưng dù nàng đã rời khỏi, dù thanh âm, bóng dáng và hương thơm đều biến mất, trong tâm khảm hắn, vẫn vang lên một tiếng gọi, âm thầm mà mãnh liệt:

“Bảo Châu.”

“Bảo Châu.”

“Bảo Châu.”

Tên ấy, như dòng điện chấn động tận đáy tim.

Nàng đã đồng ý, cho phép hắn gọi tên thật.



Ngâm mình lâu trong nước nóng, huyết khí dồn ứ cũng dịu đi ít nhiều, làn da xanh tím cũng phai bớt. Vi Huấn chợt nhớ còn chưa vẽ xong tranh, bèn mặc lại y phục, vấn tóc gọn ghẽ, tìm dây thừng và hũ màu, vòng quanh khách đường một vòng rồi định đến Quy Vô Thường điện tiếp tục công việc.

Thế nhưng lòng vẫn lo lắng, hắn bèn nhón lên mái nhà, ngó qua xem nàng đã ngủ hay chưa.

Bảo Châu đang ngồi bên cửa sổ, tóc xõa tung, một tay vuốt tóc, một tay cầm bút chép kinh. Cung tên đặt sát bên.

Vi Huấn men theo mái hiên, nhẹ nhàng gõ lên khung cửa ba tiếng. Chưa kịp thò đầu vào, quả nhiên, đã có một mũi tên bay ra đáp lễ. Hắn vội vàng rụt lui.

Đợi một lát, lần này đưa vào một đóa hoa sen mới nở.

Sắc hoa tươi tắn giữa đêm mát lành như ý tứ làm lành. Bảo Châu thấy rõ, không giương cung nữa, nhưng cũng chẳng buồn để ý hắn, chỉ cúi đầu viết tiếp.

Vi Huấn buông mình lặng lẽ đáp xuống, đặt đóa sen lên bàn.

Bảo Châu cười lạnh:

“Ngươi mặc áo xanh, treo ngược như vậy, trông chẳng khác gì cái sâu cổ treo trên cây hòe.”

Vi Huấn chớp mắt:

“Vậy coi như ta thay mặt bọn sâu ấy đến xin lỗi nàng.”

Bảo Châu hừ một tiếng:

“Rồi một ngày nào đó, ta sẽ đốn sạch mọi cây hòe trong tầm mắt, không để lũ sâu ấy có chỗ sinh sôi nữa.”

Vi Huấn trầm ngâm một lúc, rồi nói:

“Cây hòe dù có sâu, nhưng mùa xuân nở hoa thơm, mùa ra hạt còn là cứu tinh cho những kẻ đói khát.”

Bảo Châu khựng bút. Một cảm giác áy náy mơ hồ lại dâng lên.

“Còn có cây nào ăn tạm được khi đói nữa?”

“Còn cây du. Trong thành Trường An, một nửa là cây hòe, một nửa là cây du. Ta thì thích quả du hơn, ăn chắc bụng hơn.”

Nàng nghe thế, mắt sáng rỡ. Nhưng hắn lại tiếp lời:

“Chỉ tiếc, khi đói kém, những thứ ấy cũng bị nhổ sạch cả rồi. Mà giờ cũng chẳng phải mùa.”

Nàng thoáng thất vọng, ánh mắt lại ảm đạm đi.

Người xưa nói: “Đào hoa nhan sắc hảo như mã, quả du tân khai xảo tựa tiền” — song kẻ đói thì đâu còn tâm trí ngắm hoa.

Cuối cùng, nàng nhặt hoa sen lên, nhẹ nhàng ngửi một cái, rồi thì thầm:

“Thôi… ta tha thứ cho cây hòe.”

Vi Huấn hiểu ý, lặng lẽ buông tay đáp đất. Hắn định chui vào phòng như mọi khi, nhưng vì chuyện xảy ra khi nãy, thấy nàng chỉ mặc trung y, liền ngừng lại, chỉ ghé cằm vào bậu cửa, lặng im ngắm nàng viết chữ.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 101


Khách đường vốn là thiền phòng mà các danh gia Lạc Dương xưa thường dùng tu hành, mọi vật như giấy kinh, bút mực đều sẵn đầy đủ. Bảo Châu chuyên tâm chép lại kinh Vu Lan Bồn, mong siêu độ cho vong linh, cầu phúc cho người thân.

Vi Huấn thích dáng vẻ nàng dũng cảm cầm cung, nhưng càng ngưỡng mộ khi thấy nàng cầm bút chuyên chú, khí chất yên bình. Nhìn nàng chép kinh xong một tờ, hắn đưa tay lấy xem, thấy bên dưới lại là vài hàng con số: Một đấu mười cân, một thạch mười đấu, một thạch sáu đấu là trăm sáu mươi cân gạo, đủ cho một trăm sáu mươi người ăn.

Hắn hiểu nàng đang tính toán số gạo cần dùng cho tang lễ ở chùa Thiềm Quang hôm nay, liền nói:
“Ngươi biết không, cái việc họ làm ấy phần lớn chẳng phải vì lòng từ bi gì đâu. Chỉ e họ đang muốn lấy thi thể để dựng lên họa đồ Cửu Tương gì đó. Số lương thực này, họ sẽ không chia ra phát đâu.” “

Bảo Châu không đổi sắc mặt, rút lại tờ giấy, vò nát ném về phía sau:
“Biết. Không nói lương trữ trong chùa vốn chẳng đủ cứu tế nạn dân, cho dù ta có làm quan lưu thủ Đông Đô hay trấn thủ Hà Nam, thì cũng khó lòng giải quyết gốc rễ việc đứt đoạn của vận chuyển đường thủy. Có những người định sẵn phải chết, cho nên ta mới nửa đêm chép kinh, mong họ sớm được siêu thoát, đầu thai sang kiếp tốt hơn.”

Vi Huấn hiểu nàng canh cánh trong lòng, bèn rút cán bút, lấy lọ thuốc màu đưa nàng xem:
“Nếu việc chẳng thể do sức người, thì thôi đừng nghĩ ngợi. Mặc đồ vào, cùng ta đi chơi một chuyến.”

Bảo Châu vốn nặng lòng khó ngủ, nghe lời rủ rê cũng có phần xiêu lòng:
“Tóc ta chưa vấn xong.”

Vi Huấn cười:
“Cứ để xõa đi, đi một vòng sẽ khô thôi. Các tăng nhân đến giờ Dần đều dậy tụng kinh, giờ này hẳn ngủ cả. Mà có lỡ bị ai nhìn thấy, chỉ biết ngưỡng mộ ngươi tóc nhiều thôi.”

Nàng chẳng do dự thêm, mặc áo sam, buộc nhẹ mái tóc đen, theo hắn rời phòng.

Đêm khuya trong chùa Thiềm Quang yên tĩnh lạ thường, chẳng mõ canh, chẳng bóng tuần tra. Bảo Châu cầm đèn dầu, ánh lửa mảnh nhỏ chỉ soi sáng một vòng tròn nhỏ. Vi Huấn lẩn khuất trong rìa sáng ấy, khi thì biến mất giữa bóng tối, khi thì trở lại bên ánh đèn.

Gió đêm thổi nhẹ, tóc nàng rối bời, lần đầu phiền não vì xõa tóc ra ngoài, nàng khẽ nói:
“Lễ nghi đã bỏ, y phục cũng vứt, cứ thế này đi mãi, đến U Châu có khi a huynh chẳng còn nhận ra. Không biết ta còn có thể làm ra trò gì vượt khuôn vượt phép nữa… Cưỡi lừa ăn cơm bên đường chăng?”

Vi Huấn phá lên cười:
“Trong tưởng tượng của nàng, việc thất lễ nhất chỉ là cưỡi lừa ăn cơm thôi sao?”

Bảo Châu nghiêm nghị:
“Trước đám đông, ăn cơm bên đường là thất nghi. Quan lại như thế sẽ bị ngự sử tấu dâng, bị giáng chức, phạt nặng. Vậy còn ngươi, hành vi ngông cuồng nhất là gì?”

Vi Huấn hơi ngập ngừng:
“Ờm… chắc… chắc là nắm lừa ăn cơm?”

Bảo Châu khịt mũi:
“Lại nói dối. Ngươi với Thập Tam Lang thường ngày chẳng phải vẫn làm vậy sao?”

Vi Huấn cười mà không đáp, lặng lẽ bước vào bóng tối, Bảo Châu vội theo kịp.

Hai người sánh bước trong chùa, ánh nến lay động rọi lên tường những bức họa vẽ Phật, Bồ Tát, hộ pháp, thiên thần… hình dạng đủ kiểu: khi thì uy nghi, lúc lại hùng dũng, có cả Tu La, dạ xoa, quỷ dị thần bí. Những hình ảnh ấy, ẩn hiện trong ánh sáng mờ mờ, làm Bảo Châu thoáng lạnh sống lưng. Dù tay nàng nắm cung, nhưng đối với thứ siêu nhiên dị giới, luôn có cảm giác binh khí phàm trần chẳng ích gì.

Cho đến khi dừng chân trước một bức “Quan Âm Thành Đạo”, nàng mới chuyên tâm ngắm nhìn.

Tượng Quan Âm này theo lối vẽ sau thời Võ Chu: thân nữ, vóc người dong dỏng, nét mặt dịu dàng, tóc búi cao điểm sen vàng, áo mỏng phấp phới, vòng tay khảm ngọc, dáng vẻ thanh quý đoan trang. Sau lưng bà là vị hộ pháp thân tín: Vi Đà thiên tướng, luôn kề cận bên Quan Âm.

Thấy móng tay đỏ thắm, vòng tay vàng rực, Bảo Châu khe khẽ thốt:
“Mẫu thân ta trước cũng hay vẽ móng như thế. Dùng phèn chua hòa với nước hoa phượng tiên mà nhuộm. Từ bà mà thành thịnh hành, hai mươi năm rực rỡ như triều đình mở hội. Bài thơ “Sáp quang treo cao chiếu sa không…” cũng là để tả những cung nữ chuẩn bị hoa ấy cho bà.”

Vi Huấn hỏi:
“Dung mạo Quan Âm này giống mẫu thân nàng sao?”

Bảo Châu hơi ngẩn ra, chốc lắc đầu, chốc lại gật:
“Cũng như những bức ở điện Quy Vô Thường, dáng vẻ và thần thái rất giống, nhưng nói thật chi tiết khuôn mặt thì không phải. Chắc họa sư chưa gặp bà, chỉ nghe người ta kể lại.”

Vi Huấn gật đầu:
“Bảo sao lúc ấy nàng vừa ra, ta liền muốn bôi xóa đi. Vậy bức này có muốn xóa không?”

Bảo Châu trầm ngâm một hồi, rồi lắc đầu:
“Không cần. Bức kia là xác chết ta không chịu được. Nhưng đây là thần phật, có phần cao quý thanh tịnh. Trong cung ca tụng dung mạo nữ nhân, lời khen cao nhất cũng là “giống Bồ Tát”.”

Nàng ngắm nhìn hồi lâu, dịu dàng nói:
“Ngươi biết không, Quan Âm khi xưa cũng là một công chúa, tên gọi Diệu Thiện.”

Nàng chỉ vào chiếc mũ sen trên đầu tượng Quan Âm:
“Ta cũng từng có chiếc giống vậy do mẫu thân để lại. Ta tính khi xuất gia sẽ đội nó, tiếc là chưa kịp… chẳng biết có ai cho ta chôn cùng. Giờ chẳng còn đồ trang sức gì, chỉ còn mỗi mái tóc này thôi.

Đứng dưới ánh đèn dịu nhẹ, sau lưng là tượng Quan Âm phát hào quang sáng rực, ánh trăng như lụa phủ tóc nàng, dung nhan trong vắt, trầm tĩnh, tựa như một bức tượng sống.

Công chúa… giống Bồ Tát.

Vi Huấn nấp nơi ánh nến chẳng tới, lặng lẽ nhìn nàng, trong lòng như có dòng nước ấm âm thầm chảy qua. Bao ý niệm mờ ám tan biến.

“Nếu sớm biết nàng, ta đã vào địa cung tìm chiếc mũ ấy cho nàng rồi. Nhưng ta thấy tóc nàng đã quý hơn trăm ngàn báu vật.”

Bảo Châu nghe câu khen, tuy thẹn, vẫn mỉm cười kiêu hãnh.

Hai người tiếp tục bước đi, gió thổi nhẹ, cỏ lay động. Thấy nàng vẫn còn thoáng sợ, Vi Huấn chần chừ giây lát, rồi âm thầm lật tay, đổi bình thuốc màu sang tay kia, ngón tay khẽ động, như thử dò ý.

Nghĩ thầm: nếu nàng không nhìn thấy, thì thôi; còn nếu thấy mà vờ như không, hay chẳng hiểu…

Chưa kịp nghĩ hết, Bảo Châu đã đưa tay nắm lấy, tay nàng mềm mại, ấm nóng, nắm chặt tay hắn đầy mãn nguyện. Chỉ là ánh mắt nàng có chút hờn trách, như muốn hỏi vì sao giờ hắn mới nắm tay nàng.

Mùi rượu ủ từ gốc hoa vương nhẹ trong gió. Hai người sóng bước, chẳng ai nói gì. Giữa đêm lặng, tiếng tim đập như trống.

Bảo Châu vừa rung động, vừa thấy yên lòng. Nắm tay hắn, nàng cảm nhận được một chút ấm áp, khác hẳn lần trước, xem ra thuốc và nước ấm quả thực có công hiệu.

Muốn xua bớt cảm xúc rối bời, nàng nói đùa:
“Ta ban cho ngươi suối nước nóng ở Hoa Thanh cung đó, nơi ấy giờ hoang vu chẳng ai lui tới, ngoài vài con chim chóc thỏ hoang, đến lũ người hầu cũng chẳng còn mấy.”

Vi Huấn chỉ khe khẽ ừ một tiếng, đầu óc trắng xóa, chẳng biết phải đáp ra sao. Ngày thường uống ngàn chén chẳng say, hôm nay chưa uống giọt nào, đã lảo đảo bước, nếu không nắm tay nàng, có khi đã bay lên.

Từ thượng khách đường đến điện Quy Vô Thường phải qua hơn nửa ngôi chùa, hai người đi chưa bao xa đã đến. Lúc buông tay, cả hai đều có phần tiếc nuối. Trước hành lang dẫn vào đại điện, Bảo Châu chợt do dự:

“Khó khăn lắm mới thấy nhẹ nhàng thanh thản, không muốn lại ngửi thứ mùi ấy nữa. Ngươi vào đi, ta chờ ở đây.’

Vi Huấn ngước nhìn, từ đây tới đại điện chỉ có lác đác vài cây, chẳng cản tầm mắt. Nhưng lòng còn e ngại chùa miếu này có điều bất ổn, hắn không yên tâm.

Bảo Châu thấy bên hiên có pho tượng Vi Đà hộ pháp uy mãnh, liền đứng dưới tay cầm kiếm của ông:
“Vị hộ pháp này cũng họ Vi, ta đứng đây, người xấu nào thấy cũng phải nể mặt mà không dám động đến ta.”

Vi Huấn vốn không tin thần phật, nghe nàng nói, liền nửa đùa nửa thật:
“Vậy nhờ đồng tộc này trông giùm ta một lát.”

Hắn nhìn nàng lần nữa, rồi theo đường cũ men theo hành lang, nhẹ nhàng leo lên mái, hướng thẳng về phía đại điện.

Sau mấy lần bật nhảy, hắn lên được nóc điện, nhẹ tay gỡ vài viên ngói, buộc chắc dây, miệng ngậm hỏa chiết, một tay ôm vại màu, tay kia bám dây, lặng lẽ chui vào.

Điện Quy Vô Thường tối đen như mực, tường vách tiêu điều, trống trải lạnh lẽo, hắn như rơi vào một cổ mộ xưa. Mùi thi thể lờ mờ khiến Vi Huấn thấy rợn, càng thấy may mắn vì không đưa Bảo Châu vào cùng.

Đang định theo trí nhớ ban ngày đi phá hoại bức vẽ, bỗng nghe thấy một tiếng hít thở mỏng manh, như nghẹn nơi cổ họng.

Hắn lần đến trước bức vẽ “Tân tử tướng”, thấy một bóng người gầy gò ngồi xếp bằng, quay lưng về phía bích họa. Người ấy bất động như thiền nhập định.

Chính là phương trượng Thiềm Quang tự — Đàm Lâm lão tăng.

Giữa đêm thế này, ông không ngủ mà ngồi đó thiền, chẳng lẽ muốn lật tội hắn sao?

Vi Huấn ngẫm nghĩ chốc lát, vừa định mở lời, thì từ miệng vị tăng già đang nhắm mắt, một tiếng khàn khàn chậm rãi vang lên:

“Trần Sư Cổ… còn sống chăng?”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 102


“Trần Sư Cổ còn sống không?”

Lời vừa dứt, Vi Huấn không một tiếng động đưa tay bóp lấy cổ họng của lão tăng.

Thế nhưng Đàm Lâm chẳng kháng cự, thậm chí không buồn mở mắt, chỉ cất tiếng khàn đặc:

“Ngươi đã nhiễm độc sâu, không còn sống được bao lâu.”

Giọng ông ta đều đều như tụng kinh, không hề sợ hãi.

Vi Huấn trong dạ chấn động. Hắn không hiểu sao lão tăng biết mình đang mang mầm chết, lại càng chẳng hiểu sao ông ta nhắc đến tên Trần Sư Cổ. Lúc ấy, hắn phân vân liệu có nên g.iết ch.ết lão cho xong.

“Ta trúng độc gì?”

“Phật gia nói tam độc là tham, sân, si. Tham là ha.m m.uốn danh lợi, tiền tài; sân là giận dữ, sát hại; si là mê muội vì tình, không tự chủ. Trong ba thứ ấy, ngươi chính là si độc.”

Vi Huấn cười nhạt:

“Ta không đọc sách, nghe không hiểu thứ ngụy ngôn mê hoặc đó.”

Đàm Lâm hé mắt nhìn hắn, tỏ vẻ ngạc nhiên:

“Đệ tử Trần Sư Cổ, vậy mà không từng đọc sách?”

Vi Huấn thầm kinh: lão đầu trọc này từng làm quan triều trước, sao lại biết người trong giang hồ? Hắn giả ngây hỏi lại:

“Trần Sư Cổ là ai? Ta chẳng quen biết.”

Đàm Lâm chỉ vào chuôi dao găm bên hông hắn, nặng giọng nói:

“Chuôi này khắc hoa văn hình xương cá, chữ khắc theo nét kim văn năm xưa chính lão tăng ta là người nhận ra thứ đó. Trước vốn là một thanh đoản kiếm, đúng không?”

Vi Huấn cau mày, không nói gì.

Đàm Lâm nói tiếp:

“Kẻ mê tình như cầm đuốc ngược gió, tất sẽ bị cháy tay. Sư phụ ngươi vì si tình mà lỡ đường, cả đời trầm luân. Ngươi cũng muốn đi vào vết xe đổ?”

“Lão Trần đã chết từ lâu, là bệnh chết, chẳng phải trúng độc.”

Vừa nói, hắn vừa rảo bước đến bên cửa sổ, hé nhìn ra ngoài. Thấy Bảo Châu vẫn đứng dưới pho tượng Vi Đà, tay cầm đèn dầu, hắn mới hơi yên lòng.

Đàm Lâm lại nói:

“Ngươi chấp nhất nàng ấy, nhưng nàng có biết bộ mặt thật của ngươi trong bóng tối là gì không?”

Vi Huấn lạnh mặt:

“Nàng không cần biết. Cũng chẳng liên quan đến ngươi.”

Đàm Lâm lấy trong tay áo ra một mảnh giấy tiên, đặt xuống đất, đẩy về phía hắn:

“Đây là mệnh số ta viết cho ngươi. Cầm xem đi.”

Vi Huấn nhếch mép:

“Ngay cả ngày sinh cũng không biết, ông bịa từ đâu ra cái mệnh số này?”

“Gọi là mệnh số của ngươi, chẳng bằng nói là của Trần Sư Cổ. Ngươi và hắn cùng một mạch. Vừa thấy ngươi, ta đã biết. Các ngươi giống nhau cậy tài khinh người, cao ngạo khó thuần, chẳng bao giờ chịu quỳ trước ai.”

Lời ông ta đoán trúng tâm tư, khiến Vi Huấn khó chịu, nhưng lòng lại bị hiếu kỳ giày vò. Hắn do dự chốc lát, rồi cúi người nhặt tờ giấy lên. Trên đó là một bài thơ:

“Nhật mộ yên ba giang sở ám,
Thận lâu treo ngược ánh nguyệt hàn;
Tàn đèn đem tắt quân âm yểu,
Cô ảnh hiu quạnh đuổi thệ xuyên.”

(Chiều xuống, sông khói phủ, bến mờ sương,
Tháp canh thấp thoáng, trăng lạnh treo ngược.
Ngọn đèn tàn sắp tắt, bóng người khuất dần trong âm thanh lặng lẽ,
Bóng cô liêu theo dòng nước cuốn về chốn xa xăm.)



Vi Huấn trở về từ quy vô thường điện, Bảo Châu mơ màng sắp ngủ, mở mắt hỏi:

“Thành công chứ?”

Vi Huấn lắc đầu:

“Đàm Lâm suốt đêm nhập định, không làm được gì. Để hôm khác ta quay lại.”

Bảo Châu thất vọng, nhưng nghĩ việc phá hủy bức vẽ mà để người ta gặp sẽ không còn là trò đùa, mà là tội lớn, cũng đành gật đầu quay về nghỉ.

Vi Huấn đưa nàng về thượng khách đường, đợi nàng cài then cửa sổ cẩn thận xong mới quay lại phòng mình.

Lúc ấy, hắn lấy tờ giấy tiên ra xem lại. Tuy không giỏi thơ phú, nhưng từng chữ hắn đều đọc được. Tâm pháp của Trần Sư Cổ là do tổ sư Xích Túc đạo nhân truyền. Một nhánh công pháp khác, Bát Nhã Sám, lại là do hắn đoạt từ tay một vị tăng người Phạn.

Ba chiêu tuyệt kỹ nổi danh Nhật Mộ Yên Ba chưởng, Thận Lâu bộ, Tàn Đăng thủ là do sư phụ tự nghĩ ra khi trung niên, mỗi người trong Tàn Dương Viện đều học ít nhất một chiêu.

Nhưng Nhật Mộ Yên Ba chưởng quá khó luyện, đến cuối cùng chỉ còn mình Vi Huấn thành thục, mà hắn lại không phô trương, nên giang hồ ít ai biết đến.

Bài thơ trên giấy tiên gói gọn cả ba chiêu, không thể là trùng hợp. Đàm Lâm quả thực từng quen biết Trần Sư Cổ.

Vi Huấn rút chủy thủ ra khỏi vỏ, nhìn kỹ hoa văn kim văn khắc trên đó. Thanh đao thu được từ cổ mộ này in bóng thiếu niên với khuôn mặt tái nhợt, ánh mắt nặng trĩu ưu tư.

“Bộ mặt thật trong bóng tối”… Hắn nghĩ, rốt cuộc mình thật sự là ai? Dù sao, hắn không muốn để nàng thấy. Kể từ khi nàng gọi hắn là ‘người uống máu người hầu’, hắn chỉ muốn mang thân phận mới mà sống trước mặt nàng, không nhắc đến chuyện xưa nữa.



Gà chưa gáy canh ba, chuông chùa Thiềm Quang đã vang lên giục các tăng nhân bắt đầu dậy.

Bảo Châu hôm nay ngủ nướng, bị chuông đánh tỉnh, trong lòng ấm ức, mặt hầm hầm đến trai đường. Chú tiểu Diệu Chứng đã mang trà cụ đến, nhóm lửa, đun nước, thêm gừng, muối, quất khô và bạc hà để thanh tỉnh.

Nàng ngáp dài than thở:

“May mà ta không làm quan, nếu không ngày nào cũng dậy sớm mặc triều phục, lên triều lúc trời còn chưa sáng, trời rét mưa tuyết thì càng khổ.”

Dương Hành Giản nghĩ thầm, công chúa được sủng ái mới được miễn lễ tiết, bằng không ai làm con cái mà không dậy sớm hầu hạ cha mẹ. Nhưng hắn không dám nói thật, chỉ mỉm cười:

“Chỉ quan từ ngũ phẩm trở lên mới phải dự triều hằng ngày. Quan nhỏ như thần , mùng một và mười lăm mới vào cung, chẳng mấy khi thấy mặt Thánh thượng.”

Bảo Châu lẩm bẩm:

“Ngày nào cũng dậy sớm, rồi cũng sớm chết…”

Vi Huấn và Thập Tam Lang đã uống trà xong. Thập Tam Lang nói:

“Hôm nay lễ Vu Lan, chùa có nhiều diễn xướng náo nhiệt lắm. Cửu Nương uống thêm chút trà, tỉnh táo mà xem. Tiếc là đệ phải tụng kinh, không đi được.”

Bảo Châu hỏi:

“Thế đệ cũng phải đi thượng triều sao?”

Thập Tam Lang ậm ừ:

“Có chút việc…”

Vi Huấn chen lời:

“Sớm nói với ngươi rồi, lão Trần trước khi chết thần trí mơ hồ, đừng tin lời ông ấy.”

Thập Tam Lang hoảng hốt:

“Nếu trên đời có lệ quỷ chắc chắn là sư phụ biến thành. Hôm nay âm hồn lên dương thế, ta sợ ông ấy trở lại tìm ta lắm.”

Vi Huấn không để ý, chỉ rút tờ giấy tiên ra đưa Bảo Châu:

“Giúp ta đọc xem trên này viết gì.”

Bảo Châu mắt còn lim dim, cầm lấy xem, là bài thơ bảy chữ từng dòng rõ nét.

Nàng đọc nhỏ:

“Bài thơ này viết không tệ, ý tứ sâu xa, mờ ảo, nỗi nhớ được gửi gắm trọn vẹn trong từng chữ. Chỉ tiếc là giọng điệu quá bi lụy, réo rắt thê lương.. Bốn chữ ‘Nhật Mộ Yên Ba’ có lẽ lấy từ bài thơ thất luật nổi tiếng Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu:

‘Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.’

(Chiều buông, quê cũ nơi đâu?
Khói sóng trên sông khiến lòng sầu thắt.)

Lúc hoàng hôn, mặt trời lặn, chẳng biết quê nhà nơi nao, chỉ thấy khói sóng giăng đầy mặt nước – cảm giác mênh mang ấy khiến con người không khỏi sinh buồn nhớ. Trong cảnh giới u buồn, mơ hồ, tựa ảo mộng như vậy, thi nhân gửi gắm nỗi nhớ quê, tưởng như đang nhìn thấy tháp canh treo ngược dưới đáy nước như ảo ảnh hải thị thận lâu. Ngọn đèn tàn dần lụi, tiếng người mỏng manh thoi thóp – hẳn là đang đợi tin ai đó, nhưng đau đớn thay, người ấy mãi chẳng đến. Những từ ngữ như ngày mộ, tàn đèn, bóng cô quạnh, trôi theo suối lặng đều chất chứa nỗi bi thương sâu sắc. Có thể đây là bài thơ được viết ra khi thi nhân đang mắc trọng bệnh, như thể lời trăng trối, một dạng thơ tuyệt mệnh vậy.”

Dương Hành Giản tò mò lại gần:

“Ở đâu mà ngươi có?”

“Đàm Lâm viết cho ta.”

Hắn khen:

“Đàm Lâm thượng nhân xuất thân tiến sĩ khoa bảng, thơ phú quả nhiên không tầm thường.” Nhưng nghĩ lại thì nổi giận: “Ta đưa ông ấy sinh thần của Thiều Vương và Công chúa, vậy mà ông ta lại lo đi đoán mệnh cho ngươi trước?!”

Bảo Châu vừa nghe nói bài thơ bi ai ấy là mệnh số của Vi Huấn, liền xé nát, vo tròn bỏ vào lò trà, đốt sạch thành tro:

“Viết chẳng ra sao, coi như chưa từng thấy. Lần sau ta bắt ông ấy viết lại một bản tốt hơn.”

Vi Huấn cười:

“Quý nhân các nàng đoán mệnh cũng tùy tiện thế sao? Không ưng thì bắt viết lại?”

Bảo Châu gật đầu nghiêm túc:

“Dĩ nhiên. Họ muốn chúng ta nâng đỡ thì phải nói những lời dễ nghe. Dù là Lý Thuần Phong hay Viên Thiên Cương cũng phải nể mặt. Ngươi đến sinh nhật mình còn không biết, ông ấy dựa vào đâu viết mấy lời đen đủi ấy?”

Vi Huấn đáp:

“Người đoán mệnh, chín phần là lừa thiên hạ kiếm ăn. Người thật sự có bản lĩnh, chẳng cần bát tự sinh thần.”

Bảo Châu hừ một tiếng:

“Dù sao Đàm Lâm cũng chẳng có bản lĩnh ấy.”

Vi Huấn thấy nàng cứng miệng, chỉ cười không nói.

Hắn không tin phê mệnh của Đàm Lâm, nhưng sư tổ Xích Túc đạo nhân quả có tài xem thiên tượng, đoán đại thế, đoán cát hung. Nếu ông ấy cũng nói một câu như “Tàn đèn đem tắt”, thì dù có đốt cũng không đốt hết số mạng.

Dương Hành Giản phụ họa:

“Xem ra Đàm Lâm đặt hết tâm trí vào đạo Phật và vẽ tranh, gặp mặt còn chẳng đoán ra sang hèn, đủ biết phố phường đồn thổi chẳng đáng tin.”

Mọi người đang chuyện trò, thì trời đã dần sáng. Quan Triều cho người mang cơm sáng tới. Nhưng chưa kịp vào đến cửa, một đám dân áo vải đã chắn đường, làm loạn một phen.

“Mấy người là nô không giữ quy củ! Giấu con gái nhà ta đi đâu?!”

Bảo Châu cùng mọi người nghe ồn ào liền ra xem. Chỉ thấy vài người dân giận dữ túm cổ áo tăng nhân đưa cơm, hăm dọa đánh người.

Mấy vị tăng nhân luống cuống phân bua:

“Đây là chùa, toàn hòa thượng, tìm con gái nhà các ngươi làm gì ở đây?”

“Quế Nhi bị các ngươi dụ dỗ, gả cho gã hoàn tục đầu óc không bình thường. Giờ mười mấy ngày không về nhà, chẳng lẽ không liên quan? Mau gọi kẻ trông coi ra đây!”

Một người khác thấy Bảo Châu, liền chỉ tay:

“Nói là chùa, sao lại có nữ nhân trẻ tuổi ở đây? Ta xem chùa Thiềm Quang là ổ dụ dỗ đàn bà con gái!”

Đám tăng nhân không dám thừa nhận là người trên cho phép Bảo Châu tá túc, đành lấp l**m:

“Vị nữ thí chủ này là đại thí chủ, đến dự lễ Vu Lan, chẳng liên can gì đến con gái các ngươi.”

Hai bên tranh cãi gần đánh nhau. Bảo Châu nghe chốc lát, đoán được hẳn là thê tử của họa sư Ngô Quan Trừng là Ngô Quế Nhi nhiều ngày chưa về, người nhà không tìm thấy, đành đến chùa kiếm chuyện.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 103


Tiếng huyên náo dậy lên như sóng cồn, tăng chúng trong chùa, lữ khách tá túc trong liêu phòng, khách hành hương sớm tới tham lễ Vu Lan… mọi hạng người nối nhau tụ về, người vây xem ba tầng trong ba tầng ngoài chen chúc quanh sân.

Người nhà họ Ngô thấy người càng đông, tiếng quát tháo lại càng lớn. Cha của Ngô Quế Nhi, ông Ngô A Vinh, chỉ tay mắng thẳng vào mặt các tăng nhân:

“Khi Ngô Quan Trừng cầu thân, lời ngon tiếng ngọt, dập đầu ở rể. Ấy thế mà cưới xong không ở nhà một ngày, cả ngày mê mải ở bãi tha ma, vẽ người chết chơi trò quái đản. Nhà ta làm ăn buôn bán thức ăn, vốn đã không dám nhờ hắn giúp đỡ, đã không chịu làm lụng, lại còn dắt con gái ta bỏ trốn, chẳng khác chi bắt cóc!”

Nhà buôn nhỏ, người nào cũng phải góp công góp sức. Ban đầu bằng lòng gả con gái cho một kẻ côi cút, vốn chỉ vì thấy hắn không vướng bận gia sự. Nào ngờ sau cưới vẫn chỉ lo cầm bút, vẽ vời hình ảnh rùng rợn. Nếu là họa sư kiếm tiền thì không nói, đằng này suốt ngày vẽ ma, vẽ quỷ, lời ra tiếng vào khắp xóm, khiến nhà họ Ngô chịu không ít điều tiếng. Vợ chồng Ngô A Vinh khuyên con gái đoạn tuyệt, nhưng Quế Nhi tính khí cứng đầu, bị dồn ép quá bèn bỏ nhà ra đi.

Giờ đây, họ Ngô cố ý chọn ngày lễ Vu Lan, kéo cả họ đến tận chùa Thiềm Quang đòi người, lại lôi hết chuyện nhà ra giữa thiên hạ, khiến chúng tăng xấu hổ không để đâu cho hết. Không tìm được Ngô Quan Trừng, họ bèn gọi chưởng quản chùa, tức sư Quan Xuyên ra đối chất.

Bảo Châu và Dương Hành Giản đang đứng gần, thấy họ Ngô rút dao dọa người, ánh thép sáng quắc trông đến khiếp đảm. Vi Huấn và Thập Tam Lang thấy thế liền bước lên, kéo hai người về phía sau, tránh rơi vào vòng hỗn loạn.

Không lâu sau, Quan Xuyên xuất hiện. Dáng người cao lớn vững chãi, thần sắc nghiêm trang. Thấy hắn, vợ chồng Ngô A Vinh có phần sợ hãi song trước mặt bao người, vẫn lớn tiếng quát tháo, ép chùa Thiềm Quang giao người.

Quan Xuyên chắp tay, bình thản đáp:

“Thưa quý vị, kẻ gọi là Quan Trừng đã hoàn tục từ lâu, chẳng còn là môn hạ trong chùa. Dẫu đôi lúc vẫn tới đây vẽ vời, nhưng đã mười ngày không thấy bóng. Chúng tôi thực sự không biết hắn và lệnh ái đang ở nơi nào.”

“Đừng chối!” — có kẻ từ họ Ngô quát — “Hễ ở Lạc Dương có pháp hội cúng cô hồn, đều thấy hắn biểu diễn vẽ tranh. Hôm nay mười lăm tháng bảy, ta cố tình tới để vạch mặt! Nếu không giao người, thì cho chúng ta vào tìm!”

“Phật môn thanh tịnh, không dung kẻ phá phách”— Quan Xuyên đáp, tuy nhẹ nhàng nhưng kiên quyết.

Một cụ già trong họ Ngô, tuổi ngoài sáu mươi, nghĩ mình lớn tuổi, bèn tiến lên giáng thẳng một quyền vào mặt Quan Xuyên.

Quan Xuyên trúng đòn mà không hề lay chuyển, tay vẫn chắp trước ngực, vững như tùng trong gió. Họ Ngô thấy hắn không phản kháng, càng đánh càng hăng. Nhưng đánh mãi chỉ như đấm vào da dày, chẳng chút xê dịch. Cuối cùng, ông Ngô A Vinh hoa mắt ù tai, vung dao đâm thẳng vai hắn. Tiếng “đinh” vang lên giòn giã, con dao gãy làm đôi, một nửa văng ra giữa không trung.

Trong đám đông, một người áo xanh nhẹ xoay tay, nửa lưỡi dao bay tới bị hắn hứng gọn trong lòng bàn tay.

Động tác quá nhanh, chẳng ai kịp nhìn thấy, chỉ thấy con dao đã nằm gọn trong tay người nọ. Đám đông trố mắt, rồi hò reo kinh ngạc:

“Thân kim cương bất hoại! Đao thương bất nhập! Hòa thượng này là hộ pháp thành tiên!:

Ngô A Vinh đứng sững tại chỗ. Quan Xuyên không thèm ngoái lại, mà khẽ liếc về phía Vi Huấn.

Dù chưa từng chạm mặt, hai người ấy trong chốn giang hồ, chỉ một ánh mắt cũng thành thách thức.

Vi Huấn hiểu ý, rút lấy đoạn dao gãy, phẩy nhẹ vào cột đá bên, lưỡi thép lập tức ăn sâu vào bên trong, không một tiếng động. Nhìn sơ qua chỉ thấy một đường khảm mờ, chẳng ai ngờ trong cột đá ẩn một mảnh kim loại.

Hai người dùng cách riêng chào hỏi, âm thầm hiểu nhau, không cần lên tiếng.

Quan Xuyên sau đó đón ý lui binh, lời lẽ nhẹ nhàng mời họ Ngô vào nói chuyện, tạm dẹp sóng gió. Đám đông lần lượt tản đi, nhưng không ngớt bàn tán về việc vừa rồi.

Dương Hành Giản ngạc nhiên:

“Hòa thượng ấy có mặc giáp dưới áo tăng không? Hay thật sự luyện được thần công?’

Bảo Châu nhớ đến lần đụng độ “Quỷ Thủ Kim Cương” Khâu Nhậm của Tàn Dương Viện, hắn cũng không đau không ngứa, liền nói:

“Chỉ sợ chẳng phải hòa thượng thường, mà là tay cao thủ võ lâm đấy.”

Dương Hành Giản gật đầu:

“Nghe nói thuở Bắc Ngụy, tổ sư Thiền tông là Đạt Ma từng ở Lạc Dương truyền đạo, cũng luyện được thân kim cương. Có lẽ là thật.”

Bảo Châu nói:

“Ta chẳng tin chỉ tụng kinh mà thành thân sắt da đồng. Đàm Lâm kia tay chân như cành khô, đụng là gãy, võ công hẳn cũng chỉ để hù dọa con nít.”

Hai người nói chuyện dong dài, hết chuyện nọ lại lạc chuyện kia.

Vi Huấn không góp lời, quay sang hỏi Thập Tam Lang :

“Ngươi thấy tăng nhân ấy, so với Lão Tứ, Lão Ngũ nhà ta thì sao?”

Thập Tam Lang nghĩ một lúc rồi lắc đầu:

“Nhìn không ra… chỉ biết mạnh hơn đệ nhiều.”

Vi Huấn khích lệ:

“Gắng luyện “Bát Nhã Sám” cho vững. So với đám dùng công, ta thà đấu với Lão Nhị, Lão Tam còn hơn. Đánh công phải đánh dứt điểm, không thì rất mệt.”

Thập Tam Lang cười khổ:

“Sư phụ mất rồi, sư huynh cũng không luyện “Bát Nhã Sám”, đệ thì chẳng có thiên tư. Chi bằng sau chuyến này vào chùa cạo đầu làm hòa thượng, an phận tụng kinh gõ mõ, sống như mấy sư ông chốn sơn lâm, e còn thong dong hơn.”

Vi Huấn lặng thinh. Hắn biết mình không còn sống được bao lâu, cũng chẳng dạy được sư đệ võ nghệ gì. Có lẽ sau này phải phó thác y cho Bảo Châu, để tìm một lối khác dễ sống hơn.

Thập Tam Lang lại nói:

“Chỉ một môn công phu luyện đến cực hạn đã đủ sánh thiên hạ. Bằng không sư phụ sao cướp được tâm pháp từ Phạn tăng kia?”

Vi Huấn bật cười:

“Chúng ta là hộ pháp Quan Âm, chứ không phải đi một đường giết hết từ phật đến ma. Có thể không động thủ, thì không nên động thủ.”

Bên kia, Bảo Châu và Dương Hành Giản vẫn còn đang tranh luận xem vị sư ấy có phải là cao thủ võ lâm hay không.

Lễ Vu Lan bắt đầu vào chính ngọ, giờ âm dương giao thoa. Tăng nhân từ sớm đã tụng xong khóa sáng, bắt đầu bày biện đàn tràng. Giữa chùa có sân lớn có thể chứa cả ngàn người, chính giữa là hồ phóng sinh, phía đông dựng đài cao mười trượng, vươn ra trên mặt nước, lễ hội sẽ xoay quanh nơi ấy.

Các tăng nhân treo cờ ngũ sắc khắp đàn tràng, quanh hồ xếp hàng trăm chậu sành lớn, để đến lúc ấy, khách hành hương ném tiền của, đồ ăn vào, cúng dường trai tăng, cũng là cách siêu độ vong linh người thân, ấy là tích xưa về “Vu Lan Bồn”.

Khách hành hương có điều kiện từ sáng đã cử người mang ghế tới chiếm chỗ, mong có chỗ tốt ngắm các tiết mục cúng cô hồn, xiếc, diễn trò.

Ăn xong bữa sáng thứ hai, nhóm Bảo Châu dạo quanh chùa, xem các gánh xiếc dựng sân khấu. Nào là xiếc dây, múa kiếm, tung hứng, đủ kiểu đa dạng, chẳng kém gì trong cung.

Bảo Châu thấy ở vách phía nam đàn tràng có một mảng tường trắng để trống, lấy làm lạ. Chùa Thiềm Quang vốn nổi danh với tranh vẽ, nơi dễ thấy như vậy sao lại không vẽ? Nàng thấy một lão họa sư đang chỉ đồ đệ tu bổ tranh cổ, liền lại hỏi.

Lão họa sư nhìn qua mảng tường, nói:

“Đó là chỗ dành riêng cho Ngô Quan Trừng phun tranh. Người biểu diễn tạp kỹ nhiều, riêng hắn có tuyệt kỹ ít ai sánh kịp, phương trượng cố ý giữ chỗ này cho hắn.”

Bảo Châu hỏi:

“Phun tranh là gì?

Đồ đệ đáp thay:

“Là ngậm thuốc màu trong miệng rồi phun lên tường vôi, lát sau bức tranh hiện lên ngay trên mặt tường. Tết Thượng Nguyên vừa rồi, hắn phun ra bức “Duy Ma chất vấn bệnh”, làm chấn động cả Lạc Dương.”

Dương Hành Giản nghe mà ngạc nhiên:

“Còn tuyệt kỹ kia là gì?”

“Là thủy họa” — lão họa sư đáp —” Dùng bút vẽ tranh nổi trên mặt nước, màu không loang, không tan, cả ngày vẫn còn như cũ.”

Tiểu đồ chừng mười lăm, ánh mắt đầy sùng bái. Lão họa sư lắc đầu:

“Đây có khi là lần cuối được thấy hắn biểu diễn. Nghe nói sau Vu Lan, hắn sẽ rời Lạc Dương, vào Trường An tìm đường tiến thân.”

Dương Hành Giản nói:

“Giống hệt Ngô Đạo Tử năm xưa, luyện vẽ ở Lạc Dương, nổi danh ở Trường An.”

Lão họa sư gật đầu:

“Ngô Quan Trừng tự xưng là họa thánh chuyển thế, rất giỏi dùng màu, lại có tài biến hóa kỳ diệu, đúng là hợp với hoàng thất. Chắc chẳng bao lâu nữa sẽ thành ngự họa sư, giá tranh cao vút, kẻ giàu cũng phải chờ mới mua được.”

Bảo Châu nghĩ ngợi, gật đầu tán thành. Quả thật hoàng thất thích sắc màu rực rỡ, lại mê xiếc lạ thần kỳ. Nhưng nếu muốn chen chân vào chốn ấy, Ngô Quan Trừng cần phải dứt bỏ thói mê thi thể, nếu không khó mà đứng vững.

Tiểu đồ đệ ánh mắt đầy ngưỡng mộ, vừa giúp thầy tô màu, vừa thì thầm:

“Bao giờ ta mới được như hắn, đi Trường An tìm vinh hoa?”

Họa sư khi vẽ, chia hai bước: đầu tiên là phác thảo bố cục, gọi là “bạch họa”, rồi mới tô màu. Bạch họa là phần khó nhất, chỉ dành cho họa sư bậc cao, còn tô màu thường để học trò làm, từ đó phân biệt đẳng cấp trong giới vẽ.

Ngô Quan Trừng từng là học trò của Đàm Lâm, chuyên tô màu. Nhưng với tài năng hiếm có, hắn sớm vượt mặt, bỏ qua bước phác thảo, dùng màu sắc để tạo bố cục phá vỡ hoàn toàn lề lối cũ. Muốn vẽ cách ấy, cần loại thuốc màu không tan trong nước, xưa kia chưa từng có.

Lão họa sư thở dài:

“Ta thì nghèo rớt mồng tơi, đâu bằng Đàm Lâm thượng nhân. Hắn có thể lo cho Ngô Quan Trừng mọi thứ từ thuốc màu cho đến… cả thi thể.”

Tiểu đồ đệ đỏ bừng mặt, không nói thêm lời.

Bảo Châu thầm nghĩ: Cùng là nhìn thi thể, một bên là cao tăng tu hành, một bên là kẻ mồ côi say nghề vẽ, mà thiên hạ lại phán xét khác nhau. Đủ thấy tiêu chuẩn trong cõi đời chưa bao giờ thống nhất.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 104


Hà Nam phủ doãn Đậu Kính nhận được lời mời từ chùa Thiềm Quang, đúng buổi hoàng hôn thì bước vào ngôi cổ tự này, tham dự lễ Vu Lan ngày rằm tháng Bảy.

Thân là quan đứng đầu vùng Lạc Dương, việc ông đích thân có mặt phần nhiều là bởi có giao tình với phương trượng Đàm Lâm. Thiềm Quang tự là nơi tu hành lâu đời, được kính trọng trong giới Phật giáo. Lẽ ra nơi ấy phải mang lại cảm giác thanh tịnh, an hòa, song Đậu Kính vẫn cảm thấy bất an, thấy những bức bích họa nơi đây có gì đó âm u, nặng nề.

Đàm Lâm dù đã khoác áo cà sa nhiều năm, nhưng nhờ xuất thân từ dòng dõi Vương thị đất Thái Nguyên và có gốc rễ sâu với Phật giáo Lạc Dương, ông vẫn là bậc cao tăng có ảnh hưởng lớn ở Đông Đô. Những khi con cháu quý tộc có điều trăn trở về đạo Phật, hoặc phạm điều trái lương tâm muốn sám hối, thường tìm đến ông để được khai trí.

Là một quan chức trong triều, tham dự các lễ lớn là việc thuộc bổn phận. Đậu Kính cũng muốn nhân dịp này cầu siêu cho tổ tiên bằng việc bố thí cúng dường. Trước mắt là màn xiếc mở hội, diễn viên hóa thân thành thần tiên cưỡi dây thừng qua lại giữa không trung. Dù quanh ông có đến hơn chục gia nhân và hộ vệ, lòng ông vẫn dấy lên nỗi sợ mơ hồ, khiến ông đứng ngồi chẳng yên.

Giữa dòng người đông đúc chen vai thích cánh, ánh mắt Đậu Kính bất ngờ bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc. Đó là một dung nhan xinh đẹp, thanh quý, vốn không nên xuất hiện ở nơi này, càng không nên tồn tại giữa cõi người. Nếu là ngày thường, có thể ông sẽ cho rằng chỉ là người giống người. Nhưng hôm nay là Vu Lan, ngày hồn phách lang thang trở về nhân thế, làm ông càng thêm lạnh sống lưng.

Đậu Kính từng giữ chức Trung thư xá nhân, Khởi Cư xá nhân ở Trường An, từng ra vào cung cấm, nên không thể nào lầm lẫn dung nhan của bậc hoàng tộc. Đôi tai nàng đeo hoa tai hình chuỗi ngọc Phật, khi ánh chiều tà rọi xuống, làn da ánh lên sắc lưu ly mờ ảo, đẹp đến nao lòng nếu nàng chưa từng chết.

Một luồng lạnh buốt từ bàn chân lan lên tận tim, Đậu Kính có cảm giác mình đang bị cuốn vào một trận cuồng phong khó lòng thoát thân.

Cái chết của vị công chúa ấy từng dấy lên nhiều lời đồn đãi trong triều. Dưới chân núi Chung Nam, ngôi mộ nàng nằm đơn độc giữa nghĩa trang, nơi ấy vẫn ngày đêm cử hành nghi lễ trấn hồn, cầu siêu không dứt. Giờ đây nàng trở lại dương thế, chẳng lẽ là vì một mục đích nào đó?

Mồ hôi lạnh túa ra từ khăn đội đầu, áo trong ướt đẫm bám sát vào da, Đậu Kính không thể chịu đựng thêm, bèn ghé tai một tên tùy tòng nói nhỏ: “Ngươi mau đến báo với phương trượng Đàm Lâm, nói ta bỗng lên cơn đau đầu, hoa mắt chóng mặt, không thể tiếp tục ở lại pháp hội.”

Tên tùy tòng nghe cấp trên nói vậy, cuống quýt khuyên: “Chùa Thiềm Quang có phòng thượng khách rất danh giá, ngài hãy nghỉ ngơi chốc lát cho lại sức?”

Đậu Kính mặt tái như giấy, cương quyết lắc đầu: “Không! Ta phải về phủ, mau đi!” Ông để lại một viên phó quan, rồi vội vã rời đi cùng đoàn tùy tùng. Khi đã bước qua ngạch cửa lớn, Đậu Kính quay đầu lại nhìn lần cuối người thiếu nữ kia đã biến mất không để lại chút dấu vết.

Vi Huấn đứng trên mái hiên nhìn theo bóng đoàn người tháo chạy, liền nhảy xuống, báo với Bảo Châu: “Bị dọa chạy rồi.”

Bảo Châu bước ra từ sau gốc cây mộc, thở dài: “Ta quên mất kẻ đó đã được điều tới Lạc Dương.”

Dương Hành Giản cũng nhận lỗi: “Là thần sơ ý, không ngờ Đậu phủ doãn lại đến Thiềm Quang tự dự pháp hội.”

Bảo Châu thầm nghĩ, bản thân không phải là người ẩn mình khuê các, thuở trước thường dự yến tiệc trong cung, cùng đám hoàng thân quốc thích chơi bóng, săn thú, xem kịch, số người từng gặp nàng đông không kể xiết. Sau biến cố, nàng sống ẩn dật giữa dân gian, lại không quen biết những kẻ từng bị kết tội theo phe phản nghịch, nên mới quên rằng bản thân nay đã là người chết trong mắt thiên hạ.

Đậu Kính trông thấy nàng trong lễ Vu Lan, hoảng hốt bỏ chạy, ắt đã tin là oan hồn Vạn Thọ công chúa về dương thế báo thù.

Vi Huấn nói: “Trên đời này người giống nhau không hiếm. Hắn ngủ một giấc, sáng mai tỉnh dậy sẽ tự nhủ do mình hoa mắt nhìn lầm mà thôi.”

Bảo Châu gật đầu đồng tình. Nàng hiện tay trắng, ngay cả thân phận công chúa cũng chẳng thể chứng minh. Nhìn từ xa trong đám đông, ai dám chắc đó là ai?

Tiếng trống xiếc rộn ràng, chỉ thiếu Thập Tam Lang vẫn chưa thấy bóng dáng. Bảo Châu hỏi: “Đệ ấy đâu? Sao không đến xem hội?”

Vi Huấn đáp khẽ: “Hôm nay đệ ấy muốn tụng kinh.”

Bảo Châu nhớ đến cảnh mồ côi của Thập Tam Lang. Đêm lễ Vu Lan, người có duyên với Phật ắt muốn vì thân nhân khuất bóng mà cầu nguyện.

Hoàng hôn đã hoàn toàn khuất sau sông Lạc, bầu trời chỉ còn vệt đỏ lờ mờ, ánh chiều dần tắt. Âm thanh tạp kỹ cũng dần lắng xuống. Một hồi chuông ngân lên, giọng Quan Xuyên vang vang trầm hùng: “Thỉnh phương trượng Đàm Lâm lên pháp đài thuyết giảng kinh pháp.”

Đậu Kính đã rời đi, không còn gì phải tránh né. Bảo Châu muốn dự lễ cầu phúc cho mẫu thân, liền vội vã chạy về phía pháp đài trung tâm.

Bốn tăng nhân Sơn, Xuyên, Vân, Triều cùng khiêng một tòa sen gỗ sơn đỏ dát vàng lên đài Linh Chi, dựng cao giữa biển phóng sinh. Một lão tăng thân hình khô gầy mặc pháp y tím, ngồi xếp bằng nơi giữa tòa, trang nghiêm như tượng Phật được tăng đồ bảo vệ. Vài chú tiểu đứng bên, tay nâng pháp khí, ốc biển, hương trầm, bài trí đầy đủ quanh chỗ ngồi.

Mọi người nín lặng, ánh mắt trang nghiêm đổ dồn về phía đại đức cao tăng — người được đồn rằng, chỉ cần nghe ngài giảng một buổi pháp, liền có thể tăng thêm phúc thọ một năm.

Đàm Lâm niệm hương tán, rồi bắt đầu tục giảng kinh Vu Lan. Tục giảng tức là lối kể kinh Phật bằng lời thường, lồng ghép chuyện xưa, để người bình dân cũng hiểu. Ông kể tích Mục Liên cứu mẹ chuyện ai ai cũng biết trong lễ Vu Lan. Tiếp đó, ông chuyển sang giảng về Thiền sư độ Tu La.

“Xưa kia, tại Lạc Dương có một vị cao tăng nước Thiên Trúc, hiệu là Già Cái Diệp, tu luyện đạt đến thân kim cương bất hoại. Nghe tin có một kẻ mang oán độc sa vào đường ác, ngày đêm sát sinh tạo nghiệp, ngài quyết đến khuyên răn.

Ngài giảng kinh ba ngày ba đêm, mong người ấy tỉnh ngộ. Nhưng Tu La cứng đầu, nói năng sắc bén, không chịu nghe lời. Già Cái Diệp bèn thi triển võ công, giao đấu suốt ba ngày, mong lấy sức mạnh cảm hóa hắn. Song Tu La trời sinh hiếu chiến, không chịu khuất phục.

Cuối cùng, Già Cái Diệp quyết hi sinh bản thân, nguyện chết để độ người. Ngài buông vũ khí, ngồi yên để mặc Tu La đánh trọng thương. Lúc hấp hối, ngài truyền tụng bài kinh “Bàn Nhược sám” tâm pháp đắc đạo của mình rồi bảo: Nếu ngươi chưa hiểu nổi lòng ta, hãy truyền bài kinh này cho đời sau. Biết đâu, một ngày hậu nhân ngươi sẽ thành người thiện. Nói rồi, ngài tọa hóa.”

Cả pháp hội lắng nghe đến đây, ai nấy đều chăm chú, song Đàm Lâm bất ngờ ngừng lại. Có người lên tiếng hỏi: “Rồi sau đó thế nào?”

Ông đáp: “Già Cái Diệp nhờ lòng từ bi mà thành Phật. Còn Tu La… Truyền nhân của hắn, hôm nay cũng đang ngồi giữa chùa Thiềm Quang này, lặng lẽ nghe ta giảng kinh.”

Lời ấy vừa dứt, một luồng cảm xúc phức tạp lan khắp hội trường khó tả là sợ hãi hay xúc động.

Đàm Lâm nay tuổi cao sức yếu, sau hai chuyện ấy liền kết thúc buổi giảng.

Tiếp đó là nghi lễ cúng cô hồn và thả đèn hoa. Khách hành hương chen nhau đổ gạo thóc, lụa là, tiền bạc vào những chiếc bồn lớn. Rồi họ thả đèn giấy hình hoa sen có nến cháy giữa vào ao phóng sinh, cầu cho vong linh người thân được siêu thoát.

Trời đã tối hẳn. Hơn trăm ngọn đèn lập lòe trôi trên mặt nước như ảo ảnh. Người đời tin rằng hồn ma trong địa ngục không thấy được ánh sáng, nhưng nếu trông thấy một ngọn đèn, có thể theo đó mà siêu sinh.

Bảo Châu từ sáng sớm đã mua một đèn hoa sen màu vàng, lặng lẽ ghi tên húy mẫu th*n d*** chân đèn. Nàng đón lấy lửa từ Vi Huấn, châm nến, rồi đặt đèn vào ao, tay chắp lại, miệng tụng kinh cầu phúc.

Sông phóng sinh thường ngày không có dòng nước chảy, nên đèn hoa sen trôi rất chậm. Nhưng bỗng từ đáy ao dâng lên từng chuỗi bọt khí, mặt nước khẽ gợn sóng.

Có người hốt hoảng kêu: “Dưới nước hình như có vật gì trồi lên!”

“Là cái gì vậy? Kiếm à? Rắn? Hay quỷ rút lưỡi?”

“Ta thấy có xác người! Quỷ đói ăn người!”

Vi Huấn thấy tình hình bất thường, lập tức vỗ vai Bảo Châu ra hiệu. Nàng mở mắt, đứng dậy nhìn xuống, chỉ thấy một bức tranh “Địa Ngục Biến” rực rỡ đang từ đáy ao từ từ hiện lên, màu sắc sống động đến rùng rợn.

Một người trong đám đông hô lớn: “Là tranh nước! Là tranh của họa sư Ngô Quan Trừng!”

Nghe thế, mọi người xô đến bờ ao chen chúc xem tranh, khiến vài người ngã xuống nước. Tranh vẽ quỷ súc dữ tợn, màu không loang, dưới ánh đèn hoa sen lại càng thêm ghê rợn.

Thông thường tranh “Địa Ngục Biến” luôn có Bồ Tát tọa liên hoa ở trung tâm, cứu rỗi chúng sinh. Nhưng bức họa này để trống chính giữa.

Giữa lúc ấy, lại có một vật từ đáy ao trồi lên, phủ khít phần trống của bức tranh. Đó là thứ gì trắng bệch, căng phồng như xác chết trôi. Một mùi tanh nồng nặc tỏa ra. Vi Huấn lập tức kéo Bảo Châu lùi lại, nhưng không còn kịp nữa.

Toàn bộ khách hành hương đều thấy rõ một xác chết lớn, mặt ngửa lên trời, trôi bồng bềnh đúng vào phần trung tâm của bức họa, khép lại kiệt tác địa ngục bằng cách rùng rợn nhất.

Tiếng hét kinh hoàng vang lên, người người dẫm đạp nhau mà chạy. Hình ảnh địa ngục từ mặt nước lan đến bờ, rồi tràn khắp ngôi chùa Thiềm Quang như một cơn ác mộng — nhân gian luyện ngục.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 105


Thân bị vây giữa đám đông, một khi xảy chen lấn dẫm đạp, thì khó lòng thoát thân. Tuy thân thể mềm mại, nhưng dưới sức ép khổng lồ chồng lên nhau, chẳng khác gì bị những tấm sắt ép nghiền, khiến người ta không tài nào thở nổi. Nếu sơ ý ngã xuống, lập tức sẽ bị người khác giẫm thành thịt vụn.

Không kịp bàn bạc đối sách, Vi Huấn lập tức vươn tay trái kéo Bảo Châu lên, tay phải nắm lấy đai lưng Dương Hành Giản, thân hình phóng vút khỏi mặt đất, trong khoảnh khắc đã thoát khỏi ba vị trí đứng cũ, nơi ấy liền bị thân người khác lấp kín.

Hắn mang theo hai người nhảy lên dây xiếc mà nghệ nhân còn để lơ lửng trên không, trước tiên đặt Dương Hành Giản xuống. Ông lão nào biết đi dây xiếc, tuy nhất thời thoát khỏi cảnh bị giẫm nát, nhưng lại vô cùng chật vật, tay chân bám chặt lấy dây, treo lủng lẳng giữa không trung, khăn vấn đầu rơi mất, miệng la hét om sòm, song vì tiếng ồn xung quanh quá lớn nên chẳng ai nghe được ông ta kêu gì.

Vi Huấn đang lưỡng lự chưa biết an trí Bảo Châu thế nào, nàng đã ghé tai hét lên: “Lên chỗ cao! Càng cao càng tốt!”

Vi Huấn lập tức ôm nàng vào lòng, hai chân đạp trường thằng mà lao đi như giẫm đất bằng, phóng thẳng về phía bảo tháp gần nhất. Bộ pháp Thận Lâu tuyệt thế vô song, tuy ôm theo một người mà vẫn nhanh như tia chớp. Bảo Châu chỉ cảm thấy gió ào ào bên tai, cảnh vật lướt nhanh qua mắt, mi vừa nhắm vừa mở thì hắn đã bắt đầu trèo tháp.

Chỉ mấy cú tung người, nhẹ như khói, hắn đã đưa nàng lên đến đỉnh tầng năm của bảo tháp. Vi Huấn buông Bảo Châu xuống, hỏi: “Chỗ này đủ cao chưa?”

Nơi ấy cách mặt đất ba mươi trượng, dưới chân là mái ngói lung lay sắp đổ, Bảo Châu vội ôm lấy đỉnh nhọn của tháp để giữ thăng bằng. Vi Huấn đợi nàng đứng vững liền xoay người muốn quay xuống, nhưng bị nàng níu tay áo lại.

“Cứu từng người thì không kịp đâu! Để ta quan sát xem tình hình dưới sân.”

Đứng trên đỉnh bảo tháp, toàn cảnh chùa Thiềm Quang thu hết vào tầm mắt. Đêm đã buông, may thay hôm nay là lễ hội, khắp nơi đều thắp đèn dầu. Mắt Bảo Châu tinh tường, thấy ở sườn tây nam có một cửa nhỏ đóng kín. Dù quanh đó cũng đầy người chen lấn như muốn ép sát vào tường, nhưng cửa ấy vẫn chưa có ai mở ra.

“Nơi đó!” Nàng chỉ tay về phía ấy. Không đợi giải thích, Vi Huấn đã như mũi tên trong tay nàng rời cung mà lao vút đi. Cửa nhỏ ấy vốn hằng ngày không dùng, bị xích sắt khoá chặt. Vi Huấn tung một chưởng, khóa gãy răng rắc, rồi xoay người tung cước, đá văng cánh cửa sắt gỉ.

Bất ngờ có lối thoát, đám người quanh đó lập tức ùa ra, hơn trăm người thuận lợi thoát hiểm. Sức ép ở phía tây nam cũng vơi bớt. Nhưng trong bóng tối hỗn loạn, những nơi khác người vẫn như ruồi mất đầu, không tìm được đường thoát.

Vi Huấn men theo mép tường chạy, thấy có người cõng trẻ nhỏ trên vai thì liền vươn tay kéo lên, đặt cho họ ngồi trên tường. Lại thử kéo những người ép sát bên tường ra ngoài, nhưng bọn họ đã bị tầng tầng lớp lớp thân người ép thành một khối, hễ động vào liền thảm, cánh tay tưởng chừng sắp rời.

Cứ thế kéo ra vài người, những người già yếu, thể trạng nhỏ bé phần nhiều đã ngất lịm vì ngộp thở. Dù đã hôn mê nhưng thân thể không đổ, người bên cạnh nhìn thấy đồng bạn trợn trắng mắt, sùi bọt mép, sợ đến nỗi hồn phi phách tán, bật khóc k** r*n.

Vi Huấn chạy một vòng, mới hiểu vì sao chỉ một xác chết trôi mà gây nên thảm họa như vậy. Do tập tục truyền thống, chùa miếu thường xây ngạch cửa cao hơn đầu gối người lớn. Ngày thường đi qua đã phải chậm rãi, huống hồ trong cơn hoảng loạn, người già trẻ nhỏ còn cần được đỡ.

Khi xác chết trôi bất ngờ nổi lên ở biển phóng sinh, người gần đó hoảng sợ bỏ chạy. Kẻ ngoài không rõ nguyên do, nhưng thấy đám người kia mặt mày thất sắc, lại bị cảm xúc kinh hoảng lan truyền, nên đua nhau tháo chạy ngược ra cổng chính.

Ngạch cửa cao khiến tốc độ chạy chậm lại, người chân yếu vấp ngã, người sau tiếp tục vấp vào người trước, thân thể chồng chất như núi, trực tiếp bịt kín cổng lớn. Người sau không rõ vì sao cửa bị chắn, lại càng thêm hoảng, xô đẩy nhau như điên, khiến cho đám đông đổ sụp, khó lòng thoát ra.

Cùng lúc ấy, trên đài Linh Chi treo giữa không trung, các tăng nhân đang tiếp khách hay xem mây nước cũng không kịp trở tay. Có người nhìn xuống xác chết trôi mặt mày biến dạng, lẩm bẩm: “Quỷ nước kia là ai vậy?”

Quan Triều vội hét lên: “Đừng lo nó là ai! Cứ thế này nữa, chỉ sợ chết thêm nhiều người!”

Giam viện hòa thượng thấy Vi Huấn đá văng cửa nhỏ, bèn vội thổi tù và, hướng đám người hét lớn: “Cửa tây nam mở rồi! Mau chạy lối ấy!”

Tù và có tác dụng khuếch đại âm thanh, nhưng giữa cảnh hỗn loạn ầm ĩ như vậy thì chẳng mấy ai nghe được lời chỉ dẫn.

Đàm Lâm trầm tư chốc lát, vẫy Quan Xuyên đến gần, nghiêm giọng: “Dùng tiếng hống dẹp yên đám đông.”

Quan Xuyên hiểu ý, cùng ba sư huynh đệ đỡ Đàm Lâm lui vào góc, bịt kín tai. Quan Xuyên bước tới mép đài Linh Chi, hít sâu, vận nội lực, gân xanh nổi lên.

Một tiếng gào rền như sấm nổ vang khắp bốn bề, đất rung nhà chuyển, mái hiên rơi ngói, đám đông đang chen lấn kinh hoàng tột độ. Dương Hành Giản sợ đến run bần bật, Bảo Châu phải ôm chặt lấy đỉnh tháp mới không rơi xuống, người ở gần còn nôn thốc nôn tháo vì chấn động quá mạnh.

“Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Nam mô kim cương bất hoại Phật! Nam mô sư phụ hiện thân! Nam mô lìa khỏi sợ hãi hiện thân! Nguyện thân này dứt trần, cùng sinh về cõi Cực Lạc!”

Quan Xuyên như sư tử rống nơi Phật tiền, vận nội lực gầm vang đoạn Phật hiệu, khiến mấy ngàn người kinh hãi bỗng như tỉnh mộng. Sau đó lại hô lớn:

“Quỷ nước trong biển đã bị sư phụ Đàm Lâm hàng phục, chư Phật tại đây bảo hộ, mọi người chớ sợ, hãy đứng yên tại chỗ!”

Không rõ là vì lời tụng Phật an ủi, hay bị tiếng gầm hù dọa, người phía sau không dám xô đẩy nữa, tiếng kêu la cũng dịu đi. Thiềm Quang tự có gần ngàn tăng nhân, lúc này bắt đầu ra tay cứu viện, dựng thang, dỡ người từng bước khỏi đống người chồng chất ở cổng lớn.

Vi Huấn nghe lời hô của Quan Xuyên, lòng khẽ động, tay chân vẫn không ngừng. Hắn kêu to, dẫn người quanh cửa nhỏ đi ra, ai vấp ngã lập tức đỡ dậy, tránh lặp lại bi kịch như cổng chính.

Hơn ngàn người lần lượt rời khỏi sân, sức ép dần hạ, rất nhiều người hoàn hồn mới nhận ra xác chết chỉ là một thi thể chết trôi thường thấy trên sông Lạc, chỉ vì xuất hiện đúng lúc ở trung tâm ảo thuật “Địa Ngục Biến”, lại trùng vào đêm Vu Lan âm khí nặng nề, mới dẫn đến tâm lý hoảng loạn, gây nên thảm án.

Lúc Vi Huấn bế Bảo Châu từ đỉnh tháp xuống, đám người đã bớt, trên đất vương vãi đầy giày dép, túi tiền, khăn vấn, người bị thương được đưa vào phòng nghỉ, đếm số người tử vong có bảy người do dẫm đạp, nghẹt thở.

Thêm cả một xác chết trôi vô danh trong sông phóng sinh.

Đêm ấy, giam viện hòa thượng an bài người bị thương xong, tới thượng khách đường truyền lời Đàm Lâm thăm hỏi. Dương Hành Giản còn chưa hoàn hồn, cầm chén nước tay run bần bật, đáp cho có lệ: “Là chuyện ngoài ý muốn, xin thượng nhân chớ để tâm, sáng sớm mai chúng tôi sẽ rời khỏi Thiềm Quang tự, đi Lạc Dương.”

Hòa thượng do dự, rồi nói thêm: “Ngoài việc thăm hỏi, thượng sư còn một yêu cầu, muốn mời vị thanh y hiệp sĩ đồng hành cùng ngài đến điện Vô Thường một chuyến, hỗ trợ điều tra chân tướng vụ thảm kịch.”

Dương Hành Giản kinh ngạc chỉ Vi Huấn: “Hắn?”

Vi Huấn cười nhạt: “Chân tướng chẳng phải do các người sắp xếp bất cẩn, tham lam gom tiền, mới khiến quá nhiều người tụ tập đó sao? Có can hệ gì tới ta? Lại nói, nếu muốn nhờ giang hồ trợ giúp, các người đã có một cao thủ đứng đầu.”

Hòa thượng tuân lệnh Đàm Lâm, dẫu bị trách mắng cũng không dám thất lễ, chân thành đáp: “Sư đệ Quan Xuyên đã rời thế tục từ lâu, nhiều năm nay ngoài tụng kinh và hộ vệ sư phụ, không can dự chuyện khác, thật chẳng giúp gì được.”

Bảo Châu ở trên cao thổi gió lạnh nửa đêm, hồn phách phiêu tán, giờ uống vài chén trà an thần mới tỉnh táo. Nàng ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói với hòa thượng:

“Nếu Đàm Lâm chấp thuận điều kiện của ta, ta sẽ bảo Vi lang hỗ trợ, còn không thì miễn bàn.”

Hòa thượng sững sờ, nhìn sang Dương Hành Giản, thấy ông ta chỉ uống trà, không nói lời nào. Trong lòng thầm nghĩ, rõ ràng vị này là quan viên, nhưng như thể tiểu thư mới là người đứng đầu đoàn.

Vi Huấn lần đầu nghe nàng gọi mình là “Vi lang” trước mặt người ngoài, bất giác ngây người, không thốt nên lời.

Hòa thượng xem xét thời thế, cung kính hỏi: “Xin hỏi tiểu thư có điều gì dặn dò?”

Bảo Châu không vòng vo: “Các người hãy đem toàn bộ tiền gạo thu được trong lễ Vu Lan hôm nay đi cứu tế nạn dân, ta sẽ giúp điều tra chân tướng.”

Hòa thượng giật mình: “Đó là lễ vật cúng Phật, sao có thể dùng tùy tiện?”

Bảo Châu lười tranh luận, uống trà rồi phất tay tiễn khách.

Hòa thượng thấy chẳng còn đường thương lượng, không dám tự quyết, đành cáo lui về bẩm với Đàm Lâm.

Bảo Châu nói: “Sáng nay người Ngô gia tới tìm con gái mất tích, ban đầu ta tưởng xác chết là Ngô Quế Nhi, nhưng dẫu ánh đèn lờ mờ, cũng nhìn ra đó là một thi thể khổng lồ, khác hẳn người thường.”

Vi Huấn lắc đầu: “Người chết trôi vài ngày thường trương phồng lên như vậy, nam hay nữ phải xem kỹ thân thể mới rõ. Có lẽ đợi khách hành hương rời hết, các tăng nhân sẽ vớt xác.”

Dương Hành Giản nghe thế liền buồn nôn, chỉ muốn về phòng nằm giả chết.

Hồi lâu sau, hòa thượng trở lại báo: “Sư phụ đã đồng ý, mời các vị vào thương nghị.”

Sau cơn hoảng loạn cũng có tin mừng, Bảo Châu phấn chấn tinh thần, dù không ưa bầu không khí u ám của điện Vô Thường, nhưng vẫn cùng Vi Huấn và Dương Hành Giản tới gặp Đàm Lâm.

Đêm nay đại điện đèn đuốc sáng trưng. Dù Đàm Lâm đã về hưu với chức tán viên tam phẩm, hưởng lương triều đình, nhưng khi xảy ra đại sự vẫn phải báo cáo lên triều. May mắn quan phủ Hà Nam là Đậu Kính đã cáo bệnh rời đi từ trước, bằng không lỡ có gì nguy hiểm, e khó cứu vãn.

Đàm Lâm vì chân yếu phải người dìu đỡ, được an trí ngồi trên tòa sen trong điện, lưng tựa ghế gỗ. Quan Xuyên lực lưỡng vẫn như thường đứng bên, như thần hộ pháp trước Phật.

Bảo Châu ngồi đối diện trên đệm hương bồ, Vi Huấn ngồi đối diện Quan Xuyên.

Đàm Lâm quan sát nàng hồi lâu, rồi chậm rãi nói: “Nghe nói cô nương có lòng từ bi, nguyện dùng tiền Vu Lan cứu đói dân nghèo. Tiếc rằng đường thủy gián đoạn, người cần giúp lại đông, số tiền ấy chỉ đủ lo bữa cơm cho ngàn người, qua hôm sau họ lại đói tiếp.”

Bảo Châu không nao núng: “Vậy thì hôm nay ngàn người ấy sẽ biết ơn. Ai biết ngày mai có gì đổi khác? Nếu đường thông, vận lương bằng thuyền từ Giang Hoài về đây chỉ mất bốn mươi ngày. Sẽ có ngày ai cũng được ăn no.”

Đàm Lâm ngắm khuôn mặt trẻ trung tự tin của nàng, mỉm cười:

“Lão nạp sinh thời Khai Nguyên, từng được thấy cảnh thịnh trị Đại Đường, nhưng ngay cả thời ‘gạo trắng chất đầy kho, quan dân đều no đủ’ ấy, cũng không có chuyện ‘mọi người đều ăn no’. Dưới thời Trinh Quán, Khai Nguyên, mùa màng thuận lợi, nhưng vẫn ba phần dân cần cứu trợ, miễn cưỡng không chết đói thôi.”

Lời này hoàn toàn trái với hiểu biết trước nay của Bảo Châu, thậm chí chạm đến kiêu hãnh hoàng tộc họ Lý. Nàng giận dữ nói: “Ngài nói láo!”

Đàm Lâm thản nhiên tiếp lời:

“Lão nạp làm ở Bộ Công hơn bốn mươi năm, quản đồn điền, thủy lợi, sản vật núi rừng, không ai hiểu rõ cuộc sống người dân hơn lão. Trong Kinh Pháp Hoa có dạy: ‘Tam giới chẳng yên, như nhà cháy lớn, trăm khổ tràn ngập, thật đáng sợ thay. Chỉ có giác ngộ mới thoát được lửa thiêu trần thế.’

Nước Đại Đường đến nay hơn hai trăm năm, riêng vùng Lạc Dương đã từng bốn mươi trận lụt, ba mươi đợt hạn, thêm động đất, châu chấu, bão… kể không xuể. Năm nào chẳng có người đói chết. Đó là số kiếp của cõi Sa Bà, chỉ có giác ngộ mới mong thoát khỏi bể khổ.”

Ông thở dài, như nhớ về thuở xưa:

“Cô nương còn trẻ, khi chúng tôi bằng tuổi cô nương, ai cũng ôm chí hướng ‘cho thiên hạ ai nấy đều no đủ’. Giờ tóc bạc da mồi, nhìn lại thuở ấy, chỉ thấy mình khi xưa quá ngây thơ buồn cười.”

Ánh mắt ông dừng ở Vi Huấn, nói chậm rãi:

“Trừ sư phụ ngươi là Trần Sư Cổ…”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 106


Bảo Châu đứng trên hành lang dài trước điện Quy Vô Thường, nước mắt lấm lem đầy mặt.

Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công—Công Bộ chính là một trong lục bộ thuộc hàng cuối, xưa nay trên triều đình hiếm khi có cơ hội thể hiện. Quan lại có thế lực đều tìm cách rời đi, chỉ còn lại một số ít người trầm mặc, an phận giữ thân, trong yến tiệc không chỉ ít lời, ngay cả lúc khiêu vũ cũng vụng về, quê mùa.

Ấy vậy mà, cũng chính nơi ấy lại gần dân nhất. Những người như Đàm Lâm, cả đời làm việc, mấy chục năm kinh nghiệm mở miệng ra là viện dẫn sử sách, đưa ra số liệu rành rọt, nói đâu ra đó. Bảo Châu sống trong mây trắng, chưa từng đối mặt thực tiễn, đương nhiên không phải đối thủ. Chỉ vài câu, đã bị bác bỏ đến mức nước mắt tuôn tràn. Không muốn để lộ yếu thế, nàng đành bỏ đi khóc một mình.

Vi Huấn lấy khăn đưa nàng, vừa dỗ vừa cười: “Ngươi là lấy tra án đổi lương, chứ có phải đem hạt đậu vàng ra đổi đâu, khóc nữa lại mệt đó.”

Bảo Châu nức nở: “Ta… ta nhịn không nổi mà…”

Ở Biện Kinh, những cao tăng nói năng trôi chảy đã quen, nhưng Đàm Lâm chẳng cần hùng biện, chỉ cần sự thật. Ông đã trải qua bao nhiêu năm cứu tế, từng đích thân trông coi công trình sau lũ lụt ở Lạc Dương, từng đụng chạm vô số vụ đói nghèo. Với một người như vậy, nàng không thể phản bác được.

So với Đàm Lâm, nàng thật quá non nớt. Từ nhỏ đến lớn, nàng luôn được che chở. Mỗi lần tranh luận đều chiếm phần thắng, hoặc là vì đối thủ yếu thế, hoặc là nương thế quan uy của Dương Hành Giản. Hôm nay mới lần đầu tiên gặp người không hề kiêng nể thân phận nàng, khiến nàng nhận ra sự nông nổi của chính mình. Càng nghĩ càng tuyệt vọng. Đàm Lâm cả đời làm việc mà cũng kết luận rằng không thể cứu vãn, chỉ còn cách quy y cửa Phật, mong giải thoát.

Dương Hành Giản khuyên không được, lại không thể tiết lộ thân phận công chúa, cũng chẳng dám đắc tội quan lớn như Đàm Lâm, chỉ còn biết âm thầm trách bản thân chính là người đề nghị đến chùa Thiềm Quang tìm chỗ nghỉ, hối hận đến muốn tự tát.

Bảo Châu khóc ướt khăn của mình, lại lấy khăn của Vi Huấn. Nàng u oán nói: “Ngươi biết ta chủ ý sai rồi, sao không nhắc ta sớm?”

Vi Huấn cười nói: “Giờ thì nàng biết hoa hòe và quả du không thể ăn thay cơm rồi đấy. Thế là tiến bộ rồi. Câu nói ‘ngàn người một bữa, ngày mai lại xem chuyển biến’ cũng không tệ chút nào.”

Bảo Châu úp mặt vào khăn, thầm nghĩ: khi ở trong cung, nào có ai dám đối đầu với nàng? Ra ngoài cung, người tranh luận thì yếu thế, người cãi lý thì phải kiêng nể Dương Hành Giản. Nay mới biết thế nào là gặp thực sự cao thủ, dù Vi Huấn có dỗ dành thế nào, cũng không che giấu được nỗi nhục bại trận.

Vi Huấn thấy nàng khóc càng lúc càng thê lương, cũng muốn an ủi, nhưng chẳng biết làm sao. Chỉ còn biết rút từng chiếc khăn ra đưa. Từ khi biết nàng có thói xấu này, ngày nào hắn cũng mang theo bốn năm chiếc khăn để sẵn.

Thua trận, lòng không vui. Phượng hoàng non chưa kịp ra đời, lần đầu đối mặt với gió sương ngoài vỏ trứng, sao có thể không thua? Nếu là thần điểu đã thành, sao có thể để người mưu hại mà bị chôn sống trong địa cung?

Cuối cùng, Bảo Châu cũng ngừng khóc, lau khô nước mắt, hít sâu một hơi, rồi quay bước trở lại điện Quy Vô Thường.

Vi Huấn dặn dò: “Nếu điều kiện đã đặt ra rồi, ngươi cứ mặc kệ lão đầu trọc ấy là được.”

Bảo Châu đáp: “Mẫu thân từng dạy, cách giữ vững quan hệ lợi ích vững bền nhất là đôi bên đều có điều mong cầu. Hắn ghét ta là vì chướng mắt ta thể hiện. Ta càng phải thể hiện cho hắn thấy. Với lại, hắn đã về hưu, sao lại quen biết Trần Sư Cổ? Chuyện này ta rất muốn làm rõ.”

Nói rồi nàng quay vào điện, ngồi lại đệm hương bồ đối diện Đàm Lâm, hỏi thẳng:

“Ngài nhắc tới người họ Trần kia là có ý gì?”

Đàm Lâm lần này quay sang nhìn Dương Hành Giản: “Nếu biết lễ nghĩa thì phải biết người ấy. Trần Sư Cổ là bạn đồng khoa năm ấy với ta, cùng bảng tiến sĩ.”

Dương Hành Giản gật đầu: “Chuyện đó hạ quan chỉ nghe kể lại. Nghe nói hắn là kỳ tài đỗ tiến sĩ khi mới ngoài hai mươi, nhưng chẳng bao lâu lại phát bệnh điên, bỏ chức quan mà đi.”

Người đời có câu: “Ba mươi tuổi mới hiểu kinh, năm mươi mới đỗ tiến sĩ”, kỳ thi ấy xưa nay khó như lên trời. Người hơn hai mươi đỗ đạt, lại bỏ dở, quả là chuyện hiếm thấy.

Đàm Lâm lắc đầu: “Không phải bệnh điên, mà là trúng độc mê hồn. Sau này, hắn rời quan trường, quay lại chốn giang hồ, bắt đầu thu nhận đệ tử.”

Lời này như sét đánh ngang tai. Bảo Châu và Dương Hành Giản cùng há hốc miệng, quay sang nhìn Vi Huấn, mà hắn thì chỉ mở tay, làm vẻ vô tội: “Nửa đầu chuyện đó ta chưa từng nghe đến.”

Dương Hành Giản ho khan, cố gắng lấy lại vẻ nghiêm trang: “Thượng nhân nhầm rồi, người kia tuy trùng tên Trần Sư Cổ, nhưng là một tên trộm mộ khét tiếng, không dám ra ánh sáng.”

Đàm Lâm vẫn bình thản: “Không nhầm đâu. Trần Sư Cổ tuy xuất thân thứ dân, nhưng văn hay chữ tốt, võ nghệ cao cường, trí tuệ hơn người. Đỗ tiến sĩ xong vẫn giết người, cướp của, đào mộ, trộm báu. Năm đó gặp lần đầu ở Khúc Giang, ta thấy hắn mang chính thanh kiếm kia bên hông.”

Ông chỉ vào thanh kiếm bên hông Vi Huấn: “Lão nạp nghiên cứu cổ vật đã nhiều năm, không thể nhận sai loại binh khí cổ như vậy.”

Sau một lúc im lặng nặng nề, Dương Hành Giản bỗng hét to: “Không thể nào! Tại hạ không tin!”

Hắn run tay, đứng bật dậy, kích động phủ nhận liên hồi. Là người danh môn, xưa nay luôn lấy lễ nghĩa làm gốc, Bảo Châu chưa từng thấy hắn thất thố đến vậy, không khỏi sững sờ. Đàm Lâm khẽ thở dài:

“Biết lễ là tốt, nhưng cố chấp quá cũng không hay.”

Nhà họ Dương vốn dòng dõi thế gia, bao đời làm quan, thi cử đỗ đạt không ít. Nhưng Dương Hành Giản thì không may, thi rớt cả tiến sĩ lẫn minh kinh, cuối cùng phải dựa ân điển tổ tiên mà vào triều. Vì thế trong lòng luôn có vết sẹo, càng tự ti lại càng coi khinh kẻ thất học.

Nay nghe Vi Huấn, kẻ hắn xem thường nhất, lại là môn đồ của tiến sĩ năm nào, còn là người được trọng vọng, hắn chẳng khác nào sụp đổ.

Vi Huấn thấy hắn tức đến rơi nước mắt, liền trêu: “Sư phụ ta nói đọc sách là việc vô dụng nhất. Chẳng lẽ ngươi, bậc danh sĩ, lại không bằng một tên trộm mộ?”

“A!!!” Dương Hành Giản gào lên, rồi òa khóc, bỏ chạy khỏi điện Quy Vô Thường.

Vi Huấn thích chí vô cùng, vừa quay đầu lại thì thấy ánh mắt Bảo Châu như muốn thiêu cháy mình, vội mím môi nín cười.

“Hắn là người cùng phe với ta!” nàng giận dữ nói.

Đây là người thứ hai trong nhóm khóc lóc bỏ đi ngay tại trận. Bảo Châu giận Vi Huấn không phân biệt nặng nhẹ, nếu trong tay có thước, chắc đã đánh cho hắn bầm dập. Vi Huấn chột dạ lảng sang bên, lí nhí:

“Ta… không nhịn được…”

Bảo Châu tuy không đến mức như Dương Hành Giản, nhưng trong lòng cũng đầy ngạc nhiên. Ai ngờ được người từng đỗ tiến sĩ lại đem kiến thức truyền cho một nhóm môn đồ không biết chữ trong Tàn Dương Viện?

Cả ba người đều bàng hoàng, còn Đàm Lâm và Quan Xuyên thì đã nhìn ra: nàng tuyệt đối không phải con gái của Dương Hành Giản.

Đàm Lâm nói: “Nếu có hứng thú với chuyện cũ của Trần Sư Cổ, ngày khác ta sẽ kể. Giờ xin giúp chùa Thiềm Quang, điều tra cho rõ chân tướng.”

Vi Huấn đáp: “Ảo thuật dưới nước chỉ có tên họa sĩ ngốc Ngô Quan Trừng mới làm được. Tìm được hắn, hỏi rõ rồi nói sau.”

Đàm Lâm im lặng. Quan Xuyên lên tiếng:

“E rằng không kịp nữa. Thi thể ấy… rất có thể là chính sư đệ Ngô Quan Trừng.”

Bảo Châu sửng sốt: “Các ngươi nhận ra mặt mũi ư?”

Quan Xuyên lắc đầu: “Xác đã sưng biến dạng. Nhưng tóc vừa chấm tai, không đủ dài để búi, đầu bù tóc rối, không phải kiểu tóc thường thấy. Chỉ có người mới hoàn tục như Ngô sư đệ mới giữ kiểu tóc như vậy.”

Bảo Châu trầm ngâm một lúc: “Nếu ngày thường hắn đã giữ bộ dạng đó, hẳn sẽ có nhiều người nhận ra. Biết đâu có ai cố ý cắt sửa tóc xác chết, để người khác nghĩ đó là hắn.”

Hai thầy trò đưa mắt nhìn nhau, giật mình hỏi: “Vì sao phải làm vậy?”

Bảo Châu đáp: “Ta từng gặp vụ án kẻ giết người rồi cắt đầu nạn nhân, chỉ để che giấu thân phận là một vị tăng nhân.”

Cả điện lặng đi trong khoảnh khắc.

Vi Huấn cất tiếng phá tan không khí nặng nề: “Xác ấy hiện đặt ở đâu? Chưa mai táng chứ? Cho ta xem qua.”

Quan Xuyên đáp: “Đang đặt sau điện, trong kho chứa vôi.”

Vi Huấn đứng dậy: “Dẫn đường.”

Dương Hành Giản không biết chạy đi đâu, Bảo Châu và Vi Huấn theo Quan Xuyên vòng ra sau điện. Trước mặt là một dãy nhà kho thấp bé, xưa nay để thi thể.

Trên đường đi, Vi Huấn tiện tay bẻ một nhành cây, hỏi bâng quơ: “Từng nghe trên giang hồ có cao thủ hiệu ‘Lôi Âm Nghê’, nổi danh với nội công thép và tiếng rống sư tử, khoảng bốn năm trước bỗng dưng mất tích. Đại hòa thượng, tục danh ngươi chẳng hay là Thù Kiên Thành?”

Quan Xuyên dửng dưng: “Tên họ vốn là thứ hư ảo, đã xuất gia thì chẳng còn liên hệ với trần tục. Họ Ân hay họ Thù, có khác gì nhau.”

Bảo Châu hiểu ý Vi Huấn, ngẫm nghĩ rồi thầm thì: “‘Lôi Âm Nghê’ nghe oai thật. Toan Nghê là mãnh thú giống sư tử, mà sư tử lại là thánh thú nhà Phật. So với lừa thì hơn nhiều.”

Quan Xuyên nhìn nàng kỳ lạ. Câu ấy nghe như lời khen, nhưng vẻ mặt nàng đầy bất bình, mà nhắc tới lừa là ý gì?

Vi Huấn suýt bật cười, cắn môi nhịn. Từ khi nàng có biệt hiệu Kỵ Lư Nương Tử, luôn muốn tìm người sánh vai, nhưng ai cũng có vẻ oai hơn nàng.

Vừa nói chuyện, họ đã tới gian phòng chứa xác. Dãy nhà kho trước kia để xác chờ hỏa táng, nay dọn trống hết, chỉ đặt một xác trôi sông mới vớt. Quan Xuyên mở khóa, mời vào.

Vi Huấn quay sang Bảo Châu: “Ngươi đợi ngoài. Xác chết phình lên còn đáng sợ hơn cây hòe thắt cổ.”

Bảo Châu vốn đã sợ, vội gật đầu. Vi Huấn bước vào phòng, nơi đây đào sẵn một hố vuông, lót vôi bên dưới. Xác đặt trong hố, hơi nước đã bị vôi hút khô, bên trên là nhang đếm giờ, một chiếc kính chiêu hồn, và một lư trầm hương khử mùi thi thể.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 107


Vi Huấn bước vào phòng đặt xác, nơi đây bài trí chẳng khác gì điện Quy Vô Thường. Trên nền đất có một hố vuông trát vôi, thi thể vớt từ sông đặt giữa lòng hố, nước thấm ra đã bị vôi hút khô ráo. Trên vách treo hương tính giờ cùng một chiếc gương trấn hồn, bên cạnh còn có lò đàn hương cháy âm ỉ, tỏa mùi thơm nồng, dùng để át mùi thi thể.

Ngay khi bước vào, hắn liền thi triển công phu nín thở, lặng lẽ đi quanh quan sát. Xác chết trương phồng như ba người hợp lại, đầu to như thúng, chân thô như cột, thoạt nhìn chẳng còn ra hình người, tựa một kẻ khổng lồ dị dạng. Chỉ lờ mờ còn sót lại chút dấu vết của na giới.

Từ ngoài cửa, Bảo Châu cất giọng hỏi vọng vào:
“Không phải là nữ sao?”

Vi Huấn đang nín thở, không tiện đáp lời, song nghĩ nàng đứng một mình bên ngoài ắt sẽ sợ, bèn bỏ bế khí, lớn tiếng đáp:
“Là nam giới.”

Thi thể vì trương sình mục nát nên xiêm y đã rách tơi tả, dấu vết bên ngoài cũng chẳng còn phân biệt rõ, vết bớt, hình xăm đều khó thấy. Một vài chỗ thịt da thối rữa để lộ vết lõm sâu. Vi Huấn dùng cành cây khều thử, da thịt lún xẹp như bột nát.

Quan Xuyên nói:
“Những chỗ rách này là do lúc vớt xác làm ra. Chính thân thể không thấy có vết thương chí mạng.”

Vi Huấn gật đầu, tiếp tục xem xét. Hai tay thi thể có chỗ hằn lõm như bị thắt buộc, nơi cổ tay phải còn quấn một đoạn cỏ tranh mềm mại.

Hắn trầm ngâm một lúc, ném cành cây đi rồi quay bước ra ngoài.

Bảo Châu vội hỏi:
“Thế nào? Có phát hiện gì không?”

Vi Huấn hít một hơi dài, lấy lại hơi thở rồi nói:
“Căn cứ thời tiết hôm nay, người này đã chết độ ba bốn ngày. Trên thân không thấy vết thương rõ rệt, mũi miệng còn vương chất nhầy, trong tay nắm rong nước, e là chết đuối. Còn thân phận, rất có thể chính là Ngô Quan Trừng.”

Bảo Châu hỏi:
“Sao ngươi dám chắc?”

Vi Huấn đáp:
“Ngoài tóc dài, ngón tay phải của người này có dấu hiệu biến dạng do cầm bút lâu năm. Mười đầu móng tay còn sót lại thuốc màu ngũ sắc. Thi thể phơi trong nước đã lâu, mà màu vẫn chưa phai, có thể là do thuốc vẽ ngấm sâu theo năm tháng, hoặc là loại màu không tan trong nước.

Quan Xuyên hỏi:
“Vậy nguyên nhân cái chết chỉ là chết đuối?”

Vi Huấn lắc đầu:
“Kỳ quái là ở chỗ đó. Dấu vết nơi tay chân cho thấy từng bị trói, nhưng lại không hề có vết cào xước hay tổn thương vì giãy giụa, chứng tỏ không kháng cự. Hơn nữa vật dùng để buộc là cỏ tranh mềm, không đủ sức giữ chặt người trưởng thành. Nếu người này còn sống, chỉ cần vùng một cái là đứt.”

Bảo Châu trầm ngâm:
“Bị trói mà không giãy? Chẳng lẽ là bị trói rất chặt?”

Vi Huấn tiếp lời:
“Cũng không. Dây buộc là thứ yếu, chẳng đáng để khống chế. Nếu người này thật sự bị ép chết đuối, tất nhiên sẽ có dấu tích vùng vẫy. Nhưng không có.”

Giá như có lão Khâu Nhậm ở đây, hẳn đã mổ xác xem nội tạng, nhưng Vi Huấn không muốn mình dính mùi xác thối, nên thôi.

Ba người vẫn chưa tìm ra manh mối nào. Quan Xuyên xoay người khóa cửa lại, cả bọn quay về điện Quy Vô Thường.

Nếu thi thể vô danh kia đúng là Ngô Quan Trừng, thì sau khi chết hắn làm sao còn dựng được ảo ảnh dưới nước như đêm vu lan vừa rồi? Nếu không phải, thì ai đã bày bố thế trận ấy, dựng nên một bức vẽ kinh hoàng như vậy? Hắn đã chết, hay cố tình che mắt? Hay chỉ là một tai nạn?

Bảo Châu không tìm được đáp án, ánh mắt dời quanh đại điện. Khi lướt qua bức tường có vẽ hình vị mỹ nữ, nàng cảm thấy khó chịu, liền quay đi, rồi nhìn vào góc điện nơi đặt bức tượng người cúng dường.

Nàng hỏi:
“Người nuôi bọn họ vốn là một vị tăng nhân, vậy tại sao còn phải bỏ tiền xây thêm chùa khác?”

Đàm Lâm vẫn nhắm mắt, đáp ngắn gọn:
“Không thể nói.”

Bảo Châu không vui, quay sang Vi Huấn:
“Ở đây ngồi ngắm xác cũng chẳng có ích gì, chi bằng ra ngoài dạo một vòng tìm manh mối.”

Vi Huấn lập tức đứng dậy, theo nàng rời khỏi điện.

Càng rời xa điện Quy Vô Thường, càng thoát khỏi mùi đàn hương lẫn tanh nồng, Bảo Châu hít một hơi thật sâu, nói:
“Dù cơm chay có ngon, có suối nóng thư giãn, ta cũng chẳng muốn ở đây thêm một ngày. Cứ thấy chỗ nào cũng hôi.”

Vi Huấn khẽ nhắc:
“Đi rửa mặt đi, nghẹt mũi nên ngửi cái gì cũng thấy khó chịu.”

Bảo Châu ngó quanh, thấy không ai theo sau, bèn hạ giọng:
“Thi thể đúng là chết đuối, lại không có dấu vết vùng vẫy. Khi ấy giữa đài lễ, mọi người giẫm đạp, Quan Xuyên lại dùng chiêu sư tử hống dọa người, ta ở xa còn choáng váng buồn nôn, chẳng lẽ hắn dùng chiêu ấy hạ gục Ngô Quan Trừng, rồi ném xuống ao?”

Vi Huấn đáp:
“Ta cũng nghĩ đến khả năng đó. Nhưng với bản lĩnh của hắn, muốn giết người có trăm cách dễ hơn. Rống một tiếng làm tim phổi vỡ tung là chuyện nhỏ, thậm chí khiến người đổ máu thất khiếu mà chết cũng có thể. Nếu đã vậy, cần gì dùng dây buộc? Chẳng đáng để phiền lòng.”

Bảo Châu chợt nhớ:
“Đàm Lâm kể chuyện thiền sư độ Tu La, chẳng lẽ “Tu La” đó là Trần Sư Cổ? Nếu không phải ngươi, thì người nào có mặt tại pháp hội lại nghe ra ngụ ý đó?”

Vi Huấn nhún vai:
“Lão Trần đâu có phức tạp thế. Hắn chỉ bảo năm xưa từng giết một tăng Phạn khó chơi, rồi lấy được một quyển tâm pháp, vậy thôi.”

Bảo Châu nói:
“Nhưng Đàm Lâm lại vì một mình ngươi mà thuyết pháp trước vạn người, còn viết mệnh số cho ngươi, rõ là coi trọng quá mức. Dù có từng đỗ khoa thi cùng năm, cũng chẳng đến mức mấy chục năm vẫn không quên.”

Vi Huấn đáp:
“Người Tàn Dương Viện thì ai cũng muốn quên sớm. Hắn bị xem như tai họa, chết rồi ai cũng thở phào. Chẳng ai còn nghĩ đến ân tình gì nữa.”

Càng nghĩ Bảo Châu càng thấy lạ. Nàng lo lắng:
“Quan Xuyên trước kia cũng là người trong giang hồ, chẳng lẽ… Đàm Lâm muốn nhân dịp này khuyên ngươi vào chùa? Như vậy hắn sẽ có đủ hai hộ pháp!”

Nghĩ đến vẻ lọc lõi, mưu lược thâm sâu của Đàm Lâm, Bảo Châu vừa tức vừa hơi sợ, nghiêm giọng:
“Người này lòng tham vô đáy, đã có sư tử rồi còn muốn đoạt linh miêu của ta, ngươi đừng nghe hắn giảng kinh giảng nghĩa. Không nghe, không được nghe!”

Vi Huấn cười bật tiếng:
“Sao vậy, nàng thì được tu hành, còn ta thì không được động ý nghĩ xuất gia?”

Bảo Châu nghẹn lời, nhận ra mình đúng là thiên vị. Trong nhóm tuy đã có một chú tiểu, lại còn là sư đệ Vi Huấn, nhưng chẳng rõ vì sao nàng không thích nghĩ đến cảnh Vi Huấn khoác áo cà sa. Đành tìm cớ tránh né, nghiêm nghị nói:
“Ta nói thật đó, đầu trọc không đẹp bằng bây giờ đâu!”

Vi Huấn thấy bên tai nóng bừng, may mà tóc che kín, nếu không da đầu đỏ lựng thì mất mặt biết bao.”

Hắn trấn tĩnh lại, nói:
“Thế thì hay, chúng ta ước định, nàng còn để tóc thì ta cũng không cạo.”

Bảo Châu nghe vậy rất đỗi hài lòng, lập tức gật đầu đồng ý.

Lần này hai người chọn con đường khác để đi dạo. Hai bên đường, bích họa vẫn phủ kín tường. Đêm khuya tĩnh mịch, cổ tự chìm trong yên lặng, tường vẽ những hình quỷ thần, tà ma như sống lại giữa ánh trăng.

Sau hai ngày lễ tẩy họa, hai người đã quen mắt, dễ dàng nhận ra nét vẽ của Ngô Quan Trừng.

Tranh của hắn có phong cách rất riêng: không dùng đường nét rõ ràng, chỉ dùng khối màu để dựng hình; màu sắc lại rực rỡ, hoàn toàn khác hẳn phong cách trầm đậm cổ truyền; sờ tay lên còn thấy cả lớp màu chồng dày; điều đặc biệt là cực kỳ chân thực, không chút ước lệ, từ nét mặt nhân vật đến từng gân cốt đều hiện ra sống động.

Điều làm người rùng mình hơn cả là đôi mắt quỷ thần trong tranh như phát sáng, ánh nhìn tựa như có sinh khí, dường như chuyển động theo người đang dõi xem.

Thấy vậy, ngay cả Vi Huấn cũng rợn người. Bảo Châu nói:
“Ngô Đạo Tử xưa từng sáng tạo thuốc vẽ đặc biệt để tô mắt thần Phật, khi vẽ lên thì sinh thần hiệu ứng. Về sau kỹ pháp thất truyền, chỉ còn tranh trong cung còn giữ lại được. Có lẽ Ngô Quan Trừng tìm được những thứ đó trong phòng thiền xưa của họ Ngô?”

Vi Huấn gật đầu:
“Cũng có lý. Nhưng ta nghe nói hắn vì vẽ tranh mà từng giải phẫu thi thể, nhìn kỹ xác chết để vẽ cho giống. Người như vậy, vì tranh mà nhập ma, thật là đáng sợ.”

Bảo Châu nghĩ đến hôm nay là đêm Vu Lan, linh hồn u uất về lại nhân gian, tưởng tượng Ngô Quan Trừng đang ôm cái đầu người đi lượn lờ quanh đây, bất giác rùng mình, siết chặt tay áo.

Vi Huấn nghĩ, người nhập ma quả thật rất đáng sợ.

Trần Sư Cổ khi xưa từng đào xác từ nghĩa địa về, giải phẫu chia phần, cho đồ đệ tập nối xương, khâu thịt. Chính loại phương pháp trái luân thường đạo lý này đã khiến võ học Tàn Dương Viện trở thành dị biệt trong giang hồ, cũng là nguyên nhân hắn bị mọi người ghét bỏ.

Từ bé sống giữa đói khát, thi thối, Vi Huấn đã quen cảnh gió tanh mưa máu. Giờ đây đứng cạnh nàng trong bộ dạng sạch sẽ, khiến chính hắn cũng thấy như giấc mộng.

“Quan Trừng? Quế Nhi?”

Một giọng già nua vang lên nơi hành lang, mang theo chút run rẩy vì kinh sợ.

Bảo Châu quay đầu nhìn, thấy đó là lão họa sư đã gặp ban ngày. Mắt lão lờ đờ, nâng đèn dầu run rẩy soi ngó, nhìn kỹ một lúc mới biết nhận nhầm người, thở phào nhẹ nhõm.

Vi Huấn cảnh giác hỏi:
“Sao, chúng ta giống họ lắm sao?”

Lão họa sư lắc đầu:
“Không giống hẳn, nhưng đều là trai gái trẻ, lại đứng ngắm tranh đêm Vu Lan, ta tưởng là hồn về.”

Bảo Châu hỏi:
“Lẽ nào ông cho rằng cả hai người ấy đều đã chết?”

Lão họa sư thở dài:
“Khi vớt xác, tóc của người chết chẳng lẫn vào đâu được… Tin Ngô Quan Trừng chết đã lan khắp chùa rồi. Còn Quế Nhi, lão từng mong nó còn sống, nhưng nhà nó đã tới đây làm ầm lên, bảo mất tích cả nửa tháng.”

Vi Huấn nói:
“Đàm Lâm nhờ bọn ta điều tra chuyện này. Lão nếu biết rõ phu thê họ Ngô , xin cứ kể lại đầu đuôi.”

Lão họa sư lại thở dài. Giữa đêm u tịch, được trò chuyện với người sống dường như giúp lòng nhẹ nhõm hơn.

“Lão làm ở chùa Thiềm Quang nhiều năm, chính mắt nhìn thấy thằng bé lớn lên…”
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 108


“Lão ở chùa Thiềm Quang đã nhiều năm, là người chứng kiến Quan Trừng lớn lên từ thuở nhỏ. Nó là cô nhi được thượng nhân Đàm Lâm nhận nuôi. Từ khi còn bé đã bộc lộ tài năng hội họa, sớm là đệ tử thân truyền, cũng là cánh tay đắc lực của phương trượng trong việc vẽ vời. Hồi ở Lạc Dương, lão và nhà họ Ngô cùng sống tại phường Quảng Lợi, tuy chẳng thân thiết nhưng cũng biết mặt biết tên. Nhà họ chỉ làm ăn buôn bán nhỏ, sống rất chắt chiu, quanh năm rau cháo qua ngày. Ngô Quế Nhi, con gái lớn nhà ấy, chưa từng biết mùi vị đường phèn là gì.”

“Quế Nhi chẳng biết vẽ, nhưng rất mê xem tranh. Chùa Thiềm Quang nổi danh với bích họa, nàng thường lấy cớ lễ Phật hay mua hoa quế để vào xem. Từ đó mới quen biết Quan Trừng. Cả hai đều nghèo, có ý định rời chùa sống đời thường, nhưng đến một đồng bạc cũng không có, quả là túng thiếu vô cùng.”

Bảo Châu thắc mắc: “Nhưng Quan Trừng vẽ giỏi đến thế, lẽ nào không kiếm được tiền?”

Lão họa sư hừ khẽ, không vui: “Nó là học trò, nghề nào cũng vậy, học trò thì không có thù lao. Có bữa cơm no là phúc. Ta dạy đồ đệ cũng vậy. Thượng nhân Đàm Lâm tuy rộng rãi, thuốc màu không tiếc tiền, nhưng vẫn không cho xuất sư. Kỹ pháp cốt lõi vẫn giữ chặt trong tay, Quan Trừng chỉ được phép tô màu.”

“Nhưng đứa trẻ ấy thật tài hoa. Bỏ qua bước vẽ phác, trực tiếp dùng màu sắc cấu hình tranh, tự tạo ra lối vẽ riêng biệt. Vì vậy chuyện xuất sư cũng không còn quan trọng. Khi ấy, nó yêu Quế Nhi, hai người quyết hoàn tục, Đàm Lâm đành buông tay, chỉ dẫn nó đi tìm thứ thuốc màu đặc biệt của riêng mình, cũng có thể thử vẽ ảo thuật, là con đường tắt để tạo danh tiếng.”

“Quan Trừng nghe lời, nghĩ ra cách dùng dầu thay nước để điều màu, còn sáng chế ra kỹ pháp ‘thủy họa, phun màu’, đi khắp nơi biểu diễn kiếm chút tiền, mong ngày về cưới Quế Nhi.”

Bảo Châu nói: “Nghe thì có vẻ suôn sẻ, sao lại thành ra vẽ tranh bằng thi thể?”

Lão họa sư lắc đầu: “Ai mà biết. Có thể là khi đi theo phương trượng xem xác thì đột nhiên nảy sinh ý tưởng lạ. Theo tục truyền trong nghề, ‘Họa long bất điểm nhãn’*, Quan Trừng lại mê nhất là vẽ mắt. Thần quỷ nếu được vẽ quá chân thật thì sẽ chiêu gọi u linh về. Nó mải miết tích góp, định mang Quế Nhi lên Trường An, dựa vào tay nghề mà đổi đời. Ai dè lại chết chìm, mà còn chết một cách rùng rợn, không phải quỷ quấy thì là gì?”

*“Họa long điểm nhãn” (vẽ mắt rồng): trong dân gian hay ví von là công đoạn cuối cùng, khiến hình vẽ sống động như thật – nhưng cũng dễ bị xem là xâm phạm cấm kỵ, đặc biệt khi vẽ hình âm linh, quỷ ảnh.

Bảo Châu cùng Vi Huấn liếc nhau, trong lòng mỗi người đã lờ mờ đoán ra điều gì.

Lão họa sư kể hết những điều mình biết, sau đó khuyên hai người nên quay về khách phòng nghỉ ngơi, chớ lang thang trong đêm Vu Lan. Bảo Châu hỏi địa điểm chỗ ở cũ của Ngô Đạo Tử, ông ta liền vội vã rời đi.

Hai người lần theo lối nhỏ, tìm đến nơi họa thánh từng ở.

Bảo Châu vừa nghe đến chuyện “quỷ quấy phá” liền cảm thấy toàn thân gai lạnh. Một cơn gió thoảng qua cũng khiến nàng giật mình, giống như chim nhỏ sợ cành cong.

Vi Huấn nhìn dáng vẻ ấy, cố nhịn rồi rốt cuộc không nén được, bèn hỏi điều vẫn canh cánh trong lòng: “Nàng thật sự từng gặp quỷ sao? Vì sao lại ái ngại thứ vốn chỉ tồn tại trong chuyện kể? Nàng là người gan dạ, võ nghệ cao, còn dám đơn thân phá cả La Sát Điểu môn, còn sợ gì hơn?”

Bảo Châu trầm ngâm một lát, rồi khẽ nói: “Lúc nhỏ, bên cạnh ta có một nội thị tên Duệ An, theo ta nhiều năm, rất thân thuộc. Một lần, hắn kể cho ta nghe chuyện trong cung xuất hiện ‘huyết đồ quỷ’.”

“Là bức tranh máu ở Cửu Tương Quan sao?”

Bảo Châu lắc đầu: “Không rõ, chỉ nói là một hồn ma toàn thân tắm máu, đầy oán khí, lẩn khuất trong cung.”

Vi Huấn an ủi: “Hoàng cung từng nhiều lần rời đô, trong đó người chết oan cũng chẳng ít.”

Bảo Châu sắc mặt tái đi: “Đáng sợ không phải chỉ ở chuyện kể. Mấy ngày sau, ta muốn hỏi lại Duệ An cho rõ, thì phát hiện hắn biến mất. Cung nhân ai nấy đều nói chưa từng có người tên đó. Những nội thị thân quen với hắn cũng lắc đầu. Tên, lời nói, kỷ niệm tất cả như bị xóa sạch. Giống như bị huyết đồ quỷ nuốt trọn. Ta hoảng sợ đến độ phải ngủ cùng vú nuôi suốt mấy đêm.”

“Ta không sợ người sống, chỉ cần có hơi thở, thì dù mạnh cỡ nào cũng có cách ứng phó. Nhưng với thứ không hình, không bóng này…… Sau này lớn hơn, ta hiểu, Duệ An là vì đã lỡ lời nói điều không nên, nên mới gặp họa. Hắn là người đầu tiên bên ta biến mất. Rồi lại thêm hai người nữa. Không ai dám nhắc đến, như thể họ chưa từng tồn tại.”

Giọng nàng khẽ run: “Lần cuối cùng, người bị xóa khỏi trần thế, chính là ta. Và để xóa được ta, cả những người xung quanh cũng bị vạ lây. Cái gọi là huyết đồ quỷ đó, đến nay ta vẫn không biết là thứ gì.”

Trong bóng tối, không hay từ khi nào, Bảo Châu đã nắm tay Vi Huấn. Da tay hắn lạnh như sương, sức nắm lại mạnh đến đau, thế nhưng nơi ấy lại khiến nàng thấy yên tâm.

Bảo Châu cố làm ra vẻ nhẹ nhõm: “Mà nghĩ lại thì, giờ ta cũng là thứ không dám gặp ánh mặt trời. Vừa ló mặt, đã khiến Đậu Kính hoảng hồn bỏ chạy. Dọa người cũng thật thú vị.”

Vi Huấn yên lặng nghe nàng trút lòng, rất lâu sau mới khẽ nói: “Kỳ thật nàng từng gặp một con quỷ, nó luôn bám theo nàng.”

Bảo Châu tưởng hắn lại nói đùa, bèn cười: “Là quỷ sâu thắt cổ trên cây hòe?”

“Không phải.”

Vi Huấn dừng chân, lấy từ túi bên hông một hòn đá xanh, đưa lên tường vẽ mấy nét giữa đám tượng hộ pháp uy nghiêm. Rất nhanh, trên bức tường hiện ra hình một con mèo nghênh ngang, ánh mắt chế giễu, dáng vẻ kiêu hãnh.

“Đó, là quỷ trêu người.”

Bảo Châu tức giận nhưng cũng không nhịn được cười: “Đây là bích họa trong chùa, đâu phải quán trọ mà vẽ bậy. Ngươi không sợ thần phật trách phạt sao?”

Vi Huấn tỉnh bơ: “Ta là hộ pháp của công chúa, chẳng lẽ không xứng có một chỗ trên tường sao?”

Lời hắn khiến tâm trạng nhẹ hẳn. Bảo Châu nhớ lại ngày đầu vào chùa, cũng sai hắn vẽ lại bích họa, lúc ấy đâu nghĩ đến chuyện báo ứng. Nghĩ đến đây, nàng thấy mình đã bị tên “quỷ trêu người” này làm hư rồi.

Nói chuyện một hồi, cả hai đã đến nơi xưa kia Ngô Đạo Tử từng ở. Vi Huấn thành thạo mở khóa, gọi nàng vào cùng xem.

Tuy là nơi danh nhân từng sống, phòng không quá cũ, bụi cũng không dày, hẳn là có người chăm sóc. Một số tranh dở trên tường cho thấy nét bút thuở đầu còn non kém. Giấy màu trên án thư nhìn như bản nháp đời sau bắt chước, chứ không phải vật cũ quý giá.

Vi Huấn nói: “Nếu không biết đây là nơi họa sư từng ở, ta đã tưởng đây là phòng của thuật sĩ.”

Bảo Châu hỏi: “Sao lại nghĩ vậy?”

Vi Huấn chỉ từng lọ trên kệ: “Gan công, vân mẫu, đồng thanh, chu sa, thư hoàng, hùng hoàng, chì trắng đều là thứ luyện đan. Khác nhau là một bên mài ra để vẽ, một bên đem ném vào lò.”

Bảo Châu trầm trồ: “Ngươi xem mấy thẻ tre tu tiên luyện đan chẳng uổng công.”

“Còn bên kia có gì?”

Bảo Châu lắc đầu: “Chẳng thấy gì đáng kể. Thực ra ta không ưa Ngô Đạo Tử, tuy là họa thánh, nhưng phẩm cách thấp kém.”

Vi Huấn tò mò: “Là sao?”

“Hắn già rồi, danh tiếng lẫy lừng, thế mà lại ganh tỵ với thiếu niên tài năng Hoàng Phủ Chẩn, sinh ra cũng ở Lạc Dương, sau này lên Trường An tìm đường lập nghiệp. Vì sợ bị vượt mặt, Ngô sinh thuê người ám sát.”

“Thật sao?”

“Họ Ngô đó là họa sư trong cung, rất được hoàng đế sủng ái, nên vụ ấy bị Kinh Triệu Doãn ém nhẹm. Người đã danh tiếng vang xa, vậy mà vẫn để tâm ganh ghét. Nếu Hoàng Phủ Chẩn không chết, hẳn đã là đời thứ hai của họa thánh. Thật uổng một nhân tài.”

Nàng thấy một lọ sứ chứa bột đỏ như son, liền chấm thử rồi định thoa lên môi, nhưng bị Vi Huấn chặn lại.

“Đừng! Đó là thần sa, pha từ thủy ngân và lưu huỳnh, có độc.”

Bảo Châu hốt hoảng lau tay bằng giấy bỏ đi. Tờ giấy từng bọc gì đó, có cả dây thừng tế lễ.

Vi Huấn rút ra, nhận ra dây là loại cỏ tranh mềm, trùng với loại thấy trên cổ tay xác chết. Trong giấy còn sót một mảnh nhỏ nửa trong suốt, đưa lên mũi ngửi, rồi đưa nàng ngửi thử.

Bảo Châu nhận ra: “Mùi đường hoa quế?!”

Vi Huấn gật đầu: “Là giấy gói đường. Loại này vẫn dùng trong chợ để gói bánh kẹo.”

Nếu nơi ở xưa của Ngô Đạo Tử còn sót lại giấy gói đường của Ngô gia, thì hoặc Quan Trừng, hoặc Quế Nhi từng ghé qua.

Đây tuy không phải manh mối trực tiếp, nhưng cũng lóe lên chút tia sáng.

Ra khỏi căn phòng cũ, Bảo Châu ngáp dài. Từ canh Dần đã bị tiếng chuông trong chùa đánh thức, lại trải qua nhiều chuyện, sớm đã mệt rã rời.

Vi Huấn khuyên: “Về nghỉ đi. Thi thể đã nằm trong hố vôi, ngày mai cũng chẳng chạy đâu.”

Bảo Châu cố mở mắt: “Ta tắm rửa tỉnh táo rồi sẽ ra ngay. Mau chóng phá án, còn lấy lại vật trong tay Đàm Lâm, rời khỏi chốn quái dị này.”

Vi Huấn đưa nàng đến cửa Thượng khách đường, gỡ kiếm Ngư Tràng đưa nàng đeo bên hông.

“Sừng tê giác trừ tà, chính miệng nàng nói.”

Bảo Châu nhận lấy, vừa lúc gặp Thập Tam Lang cũng ngáp dài bước tới.

“Hôm nay không hiểu sao mệt quá trời.”

“Đệ ăn bao nhiêu bánh canh tối qua?”

“Bốn chén.”

Bảo Châu bật cười: “Ăn thế, không no mới lạ.”

“Đệ đi rửa mặt tỉnh người.”

“Vừa hay, bồi tỷ niệm kinh trừ tà.”

Hai người vừa cười vừa bước đi, đèn lồng trong tay nàng soi rọi ánh trăng. Dưới ánh sáng, bóng nàng khoác nguyệt huy, nhẹ như dải lụa phiêu du, tựa thiên nữ đang về lại cung trăng.

Vi Huấn đứng lặng trong bóng tối, bỗng nhiên thấy lòng thấp thỏm. Không kìm được gọi: “Bảo Châu?”

Lần đầu bị gọi tên thật khi ở bên ngoài, nàng khựng lại, xoay người: “Gì vậy?”

Vi Huấn ấp úng: “Không… không gì. Chỉ là muốn xem nàng có trả lời không.”

“Có, ta sẽ luôn trả lời.”

Nàng cười dịu dàng, rồi quay lưng rời bước.
 
Đại Đường Tích Châu Ký - Phạn Tạp
Chương 109


Sau khi Bảo Châu trở về phòng nghỉ ngơi, Vi Huấn cầm theo dây thừng tìm được trong chỗ ở cũ của Ngô Đạo Tử, lặng lẽ bước vào gian phòng phía sau điện Quy Vô Thường. Trong phòng hương khói u tịch cuộn tròn như mây, quyện lẫn mùi xác thối và đàn hương, tạo thành một thứ có mùi kỳ lạ, đặc quánh trong từng ngóc ngách.

Vi Huấn thấm ướt dây thừng, đối chiếu với cỏ tranh tìm được trên thi thể Ngô Quan Trừng, nhận ra là cùng một loại. Rõ ràng hắn đã từng tới nơi đây, thậm chí từ chỗ họa thánh ở phát hiện ra được thứ thuốc màu thần bí nào đó, khiến kỹ pháp vẽ mắt của hắn đạt tới cảnh giới chân thực đến lạnh người.

Từ bên xác chết đứng dậy, Vi Huấn bỗng thấy toàn thân nặng trĩu, mỏi mệt như có làn sương mờ vây phủ.

Giờ Tý vừa mới điểm, ánh nến trên tường hắt lên vách đá hình ảnh chập chờn. Hắn vén tay áo ngó vào bắp tay, không có nước nóng tắm rửa như mọi khi, sắc tím đậm của kinh mạch càng lộ rõ. Gương an hồn phản chiếu gương mặt hắn trắng bệch như xác không hồn. Ý niệm thoáng lướt, Vi Huấn chợt nghĩ đến một mai mình cũng sẽ như Trần Sư Cổ, rơi khỏi đài danh vọng, không theo kịp bước chân đồ đệ.

Do từng chạm phải thi thể, hắn lo trên mình còn mùi tử khí, lát nữa lại còn muốn nắm tay Bảo Châu, bèn tìm chút đồ để rửa sạch. Qua điện Quy Vô Thường, thấy Đàm Lâm đang đốt lò hương, ngồi bên ao vôi, liền chẳng khách khí mà vào lấy bạc hà, vỏ quất, muối… tự pha một bát nước súc tay.

Đàm Lâm ngồi đối diện tro trắng, ánh mắt mê mẩn, thong thả nói:
“Hai thầy trò các ngươi thực giống nhau. Sinh nơi u tối, rất dễ bị ánh sáng dịu dàng của người lương thiện hấp dẫn.”

Vi Huấn ngồi xếp bằng lau tay, đáp:
“Phải, hạng như ta sống nơi tối tăm, thì đương nhiên mê thích những gì trong trẻo. Bằng không sao? Ai ưa mấy lão đầu âm u như ngươi?”

Đàm Lâm tiếp lời:
“Nhân sinh như kẻ đi qua rừng gai, tâm không động thì thân yên, không động thì không đau. Nhưng khi tâm dao động, thì thân sẽ bị thương. Vì thế mới biết thế gian lắm khổ. Ngươi nếu chẳng thuộc về chốn hồng trần này, cớ gì phải tham luyến chút ấm áp giả tạm để chuốc lấy khổ đau?”

Vi Huấn gọn lỏn đáp:
“Ta tự tìm lấy.”

Đàm Lâm chăm chú nhìn hắn:
“Chẳng lẽ ngươi không muốn biết chuyện cũ của Trần Sư Cổ?”

Vi Huấn dứt khoát lắc đầu:
“Không, ta không tò mò gì hết.”

“Kẻ khôn nên lấy gương người trước. Khi đã rơi vào tay tâm ma, ai cũng khó lòng tự cứu. Lúc đó có hối hận cũng muộn. Ngươi chẳng lo cho cô nương kia sao? Một khi ngươi điên loạn, cô nương ấy làm sao chịu nổi một đòn của ngươi?”

Động tác lau tay của Vi Huấn chậm lại.

Đàm Lâm thấy hắn không phản bác, tiếp lời:
“Năm xưa người quen Trần Sư Cổ, giờ sống sót chỉ còn ta. Một mai ta cũng đi, chẳng ai biết đoạn quá khứ kia nữa. Nhưng hắn để lại không ít tai họa cần có người phòng bị. Ngươi cứ xem như nghe chuyện phiếm, sau đó phản ứng thế nào là việc của ngươi.”

“Ta gặp Trần Sư Cổ lần đầu là mùa xuân năm ấy, trong bữa tiệc Khúc Giang. Đó là buổi yến hội lớn mừng tân tiến sĩ, tổ chức trên ngự thuyền giữa dòng Khúc Giang, long trọng vô cùng.”

“Khi chưa kịp lên thuyền, ta thấy một người trẻ tuổi bị Kim Ngô Vệ ngăn lại. Da ngăm đen, dáng cao gầy rắn rỏi, bên hông treo đoản kiếm, mặc áo đơn giản nhưng thần thái hiên ngang y hệt người luyện võ. Rõ ràng không giống văn sĩ.”

‘Vệ binh không cho hắn lên thuyền. Ban đầu hắn định bỏ đi, sau bạn hắn khuyên giữ lại, hắn mới đưa thiệp vàng chứng minh thân phận tân tiến sĩ, rút kiếm ra kiểm tra, chỉ là thanh sắt gỉ.”

“Người đó chính là Trần Sư Cổ. Khi ấy ta chưa biết hắn, nhưng bạn hắn Nguyên Húc thì rất thân với ta.

“Nguyên Húc là người Lạc Dương, tổ tiên là quý tộc Bắc Ngụy, tuy đã sa sút nhưng vẫn là nhà nho. Mồ côi từ nhỏ, được anh trai Nguyên Ấp và chị dâu Lý Nhàn nuôi lớn. Từ thuở bé đã được mệnh danh thần đồng, mười bốn tuổi đậu châu học, có tư cách dự thí, là ứng viên trẻ tuổi nhất trong khoa bàng năm ấy.”

Vi Huấn ngắt lời:
Liên quan gì tới ta? Ta không hứng thú.”

Đàm Lâm không giận, chỉ thở dài:
“Nếu bỏ qua Nguyên Húc, thì chẳng thể hiểu vì sao Trần Sư Cổ nhập ma. Nguyên Húc từng từ chối đề cử của thầy mình, lý do là đợi bạn mới học chữ đuổi kịp để cùng đi Trường An thi.”

“Nguyên Ấp nổi giận, nhưng Húc rất kiên quyết. Bạn hắn là Trần Sư Cổ một thiếu niên nghèo, áo rách, nhỏ người vì đói . Hắn tự xưng là con nhà nghèo vùng Bắc Mang, mồ côi cha mẹ, sống nhờ ông nội. Nhưng Nguyên gia quen biết hắn hơn chục năm chưa từng gặp thân thích nào của hắn.”

“Nguyên Húc thương xót, dạy hắn học chữ, khen hắn thông minh hơn mình. Nguyên Ấp thì phản đối, cho là thằng nhỏ nghèo cản đường tương lai dẹ ẹ. Nhưng rồi loạn Thiên Bảo nổ ra, binh An Sử tràn vào Trung Nguyên, dân tình khốn khổ.”

“Trong cảnh loạn, chính Trần Sư Cổ cứu Nguyên gia, dẫn họ trốn lên núi, vượt lửa băng sông. Nguyên Ấp mới biết hắn không phải kẻ tầm thường, mà có thể là hiệp khách giang hồ.”

“Từ đó hai người kết nghĩa. Mấy năm sau, triều đình mở lại khoa cử. Nguyên Húc và Trần Sư Cổ cùng tới Trường An. Húc đổi tự là Yến, văn chương ôn hòa, lại có huynh trưởng nâng đỡ, đậu tiến sĩ là chuyện sớm muộn.”

‘Còn Trần Sư Cổ thân phận thấp, không quen biết ai trong triều. Thi hành quyển, người ta chẳng muốn nhìn mặt. Nếu không nhờ tài viết truyền kỳ quái văn, chỉ gửi nửa cuốn, khiến người ta tò mò gọi đến hỏi nốt phần sau, thì có lẽ đã bị loại từ đầu.”

“Hắn nổi danh vì tài văn, thứ hai là vì dáng dấp oai vệ nhưng tính cách kiêu ngọ, có danh xưng “Trần không quỳ”. Sau đó được Trung Võ tướng quân phá lệ đề cử.”

Vi Huấn đưa tay xoa đầu gối, không lên tiếng.

“Thi đậu rồi, đến tiệc Khúc Giang. Trên thuyền chật, phải ba lần quỳ lễ. Ai nấy đều chuẩn bị thi phú, riêng Trần Sư Cổ mặt mày ủ dột, ngồi nửa canh giờ mồ hôi đầm đìa, sau được Nguyên Húc xin phép thánh nhân cho lui vì bệnh. Thánh nhân đan vui, liền cho.”

“Lúc đó ta cười thầm, tưởng hắn hèn kém không biết nắm cơ hội. Mãi sau ta mới nhớ: thuyền trôi giữa dòng, xa bờ mấy chục trượng, hắn rời đi bằng cách nào? Nhưng rồi cũng quên đi trong men rượu.”

“Không ngờ, chính chuyện ấy lại là mở đầu cho một huyết án chấn động Lĩnh Nam…”
 
Back
Top Bottom