Cập nhật mới

Dịch Full Mê Tông Chi Quốc

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 200: Hồi 7: vết lõm


Tư Mã Khôi đoán, khe đất sâu hút không nhìn thấy đáy là đường nứt do biến động địa chất từ nghìn tỷ năm trước để lại, dòng sắt nóng chảy ở biển nóng nơi tâm Trái đất gặp lạnh liên kết tụ thành lớp vỏ. Sau đó có mấy ngọn núi đá và vài loài sinh vật bò sát tiền sử đã tuyệt chủng từ lâu bị rơi vào đây trong một kiếp nạn long trời lở đất nào đó. Mấy ngọn núi đá chính là đại điện thờ phụng dị thần. Đội khảo cổ thâm nhập lối vào bị tấm bia đá Bái Xà chặn trước cửa, men theo từng cỗ di hài các con thú khổng lồ thời tiền sử và tìm thấy ngọn núi đá ở nơi sâu nhất. Thực tế, cả hội vẫn chưa hề rời khỏi hắc động dưới lòng đất, nhưng Nhị Học Sinh đã bị khẩu súng săn hai nòng bắn trúng, mà thời gian không hề quay trở về thời điểm mười một giờ đúng.



Tư Mã Khôi lại gần quan sát thi thể Nhị Học Sinh, anh nghĩ thầm: “Chẳng lẽ bọn ta đã vô tình thoát ra khỏi kẽ hở thời gian mà không hề hay biết gì ư? Mọi vật trong động không đáy sẽ không trở về trạng thái ban đầu theo sự quay ngược của thời gian nữa chứ?”



Bốn người cảm thấy mờ mịt như thể họ đang đứng giữa màn sương mù, không thể xác định nổi điều gì vừa xảy ra, càng không thể tưởng tượng được điều gì sắp xảy ra, có điều gian điện đèn đuốc sáng trưng từ trong ra ngoài này đích xác là nơi mà người Bái Xà cổ đại thờ phụng dị thần, không những vậy, nó còn được bảo tồn vô cùng nguyên vẹn, nói không chừng cả hội lại tìm thấy một vài manh mối ở trong này cũng nên.



Hành lang trong núi đá vừa sâu vừa rộng, gian thanh điện to lớn, hoành tráng, dáng vẻ cổ xưa, những tượng đá ở đây đều cao gấp đôi người bình thường. Ngoại trừ những ngọn đèn âm u mờ tối trên tường, thì trong này còn có rất nhiều bích họa với nội dung vô cùng kỳ quái, phần đa miêu tả cảnh tượng đáng sợ ma quỷ ăn thịt người, vì ánh nến chỉ phát ánh sáng mờ ảo nên phải có ánh sáng đèn quặng trợ giúp cả hội mới nhìn thấy rõ, khung cảnh này càng làm mọi người cảm thấy rùng mình bất an.



Hội Tư Mã Khôi không tin trên đời tồn tại thần tiên, hay chí ít thần tiên cũng không thể là loại quái vật mà người Bái Xà cổ đại từng thờ phụng, cúng tế. Con quái vật bị tấm bia đá chặn lại chắc chắn là sinh vật sống có hình dáng, da thịt; không chừng nơi sâu trong đại điện vẫn còn lưu giữ một vài hình vẽ hay tượng đá về nó, có lẽ đó chính là sự mô tả trực quan nhất của người Bái Xà cổ đại về con quái vật này.



Thắng Hương Lân thì thầm với Tư Mã Khôi: “Vách đá ở thần điện màu xanh rêu, mùi tử khí ở sâu bên trong tỏa ra rất nặng nề, trông nó chẳng khác nào một nấm mồ màu xanh!”




Tư Mã Khôi gật đầu: “Có lẽ thứ bị tấm bia đá nhốt trong động có gương mặt giống như gương mặt của Nấm mồ xanh, thậm chí nó chính là Nấm mồ xanh, dù gì thì gương mặt của nó chính là điểm then chốt giải đáp mọi ẩn số”.



Cả hội bàn bạc mấy câu, rồi đi xuyên qua hành lang, vào trong đại điện, họ thấy trên vách đá vẽ một vị thần đang tạo ra vạn vật từ hỗn độn, nhưng cụ thể bức họa vẽ gì thì rất khó phân biệt. Trong điện trống hoác không có bất cứ vật gì, trên mặt đất là một hố dài bị lún sâu xuống, cả hội dùng đèn quặng soi vào trong thì thấy nó khá vuông vức, nhưng nơi này mờ tối nên khi đứng từ trên cao, họ chẳng thể nhìn thấy phía dưới có gì.



Tư Mã Khôi bảo ba người bạn đồng hành đứng yên tại chỗ, còn mình vác súng, chiếu ánh đèn quặng rồi tụt xuống dưới dò đường. Anh bò theo vách tường dựng đứng, khi hai chân chạm đất, anh giơ tay xua màn sương khí vấn vít quanh mình, thì thấy tứ phía đều có các vách đá khắc hình thần quỷ yêu ma, ở giữa là một bệ đá bằng phẳng, trông giống như một chiếc giường đá, nó cao chừng nửa mét, bên trong lõm xuống theo hình cơ thể người, vừa vặn đủ cho một người vào trong ngửa mặt nằm thẳng.



Tư Mã Khôi thấy nơi lạ lùng này trông khá quen thuộc, bản thân anh cũng không thể giải thích nổi vì sao mình có cảm giác như vậy. Anh thấy ở đây không còn điểm gì khác thường bèn bò ngược lên miệng động, định gọi hội Thắng Hương Lân xuống theo, nhưng vừa lên anh đã thấy cả ba người họ đều căng thẳng dính mắt về hướng cửa điện, súng trong tay cũng chĩa thẳng về phía đó, anh lập tức khom người, nhỏ giọng hỏi thăm tình hình. Cao Tư Dương chỉ ra hành lang, lắp bắp: “Anh nghe mà xem… phía đó có tiếng bước chân…”



Tư Mã Khôi lặng người, thầm nghĩ: “Ở hướng đó ngoài cỗ thi thể của Nhị Học Sinh vừa bị súng săn gấu của Hải Ngọng bắn thủng ra, thì làm gì còn thứ gì khác nữa, lẽ nào thứ giống tá thi hoàn hồn đó lại sống dậy?”



Mọi người cố nín thở, chờ đợi một hồi, tuy nhiên ngoài điện lại không còn động tĩnh gì nữa, chỉ có ánh nến âm u, bập bùng như ánh lửa ma trơi đang lập lòe bất định.



Hải ngọng bấm đốt ngón tay tính nhẩm một hồi, anh không nhớ mình từng bắn Nhị Học Sinh mấy lần, có điều đạn ghém số tám chỉ còn lại bốn viên, nơi này tà mị quá sức chịu đựng, nhưng giờ không phải lúc tự mình nhát ma mình.



Cao Tư Dương lo lắng: “Mọi người đều nghe thấy tiếng bước chân, không thể là ảo giác được!”



Thắng Hương Lân nhắc nhở: “Mọi chuyện cứ cẩn trọng thì hơn!”, rồi cô quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có phát hiện thấy thứ gì ở dưới đó không?”



Tư Mã Khôi đáp: “Có thứ rất lạ, hay cô xuống nhìn thử xem thế nào!”



Cao Tư Dương lại tưởng Tư Mã Khôi định chia cả hội thành hai nhóm, liền vội vàng phản đối, bảo rằng nhiều người vững dạ hơn, cứ cùng nhau hành động là thượng sách.



Tư Mã Khôi cũng cảm thấy phân tán lực lượng đúng là dễ xảy ra chuyện, nên anh dẫn cả ba người trèo xuống đáy đại điện. Tới nơi, anh soi đèn quặng vào bệ đá, rồi bảo: “Tôi thấy cái này rất quen mắt, nhưng chưa nhớ ra đã gặp nó ở đâu”.




Hải ngọng bước lại gần, nheo mắt nhìn, nhưng chẳng thấy quen mắt chút nào, anh hỏi: “Người sống hai chân thì dễ tìm chứ tìm đâu ra ếch ba chân, tớ cũng thấy nó quen quen, phần máng lõm xuống trên bệ đá chẳng phải dùng đặt người nằm vào trong hay sao?”



Tư Mã Khôi bĩu môi: “Nói thừa! Vấn đề là nó dành cho người như thế nào nằm? Kẻ đó chúng ta từng nhìn thấy trước đây hay chưa?”



Thắng Hương Lân quan sát, ngẫm nghĩ hồi lâu, xung quanh bệ đá khắc rất nhiều hình vẽ mô tả cảnh tế lễ, trông nó hao hao giống một cái khám thờ thần, trên bốn bức tường của đại điện lần lượt vẽ các bức bích họa về thần, quỷ, người, ma, tượng trưng cho sự phân chia đẳng cấp mà người Bái Xà cổ đại tôn thờ. Hoa văn khắc xung quanh khám thần nhuốm cảm giác kính sợ đối với cái chết, nhưng đồng thời cũng mang theo chí hướng sinh tồn vô cùng mạnh mẽ, điều đó ám chỉ con người chết đi sẽ luân hồi sống lại, duy chỉ phần ở giữa là bị khuyết, không biết đó là một cỗ cổ thi hay một pho tượng thần? Giờ nó đã biến đi đâu? Và tại sao Tư Mã Khôi mới nhìn cảnh tượng này thôi đã thấy quen mắt?



Cao Tư Dương nhận xét: “Anh Khôi rất ít khi nhìn lầm, lẽ nào thứ mất tích trong khám thần lại chính là Nhị Học Sinh”.



Hải ngọng lắc đầu phủ định: “Khả năng này hoàn toàn không thể xảy ra, thằng oắt con đó người ngắn một mẩu. Kẻ có thể nằm trong bệ đá chí ít phải…”, nói rồi anh thử nằm luôn lên bệ.



Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng nằm trong bệ đá, hai đầu vẫn còn thừa chỗ, nhưng cơ thể cậu ta đô con nên chiều ngang của cái hố hơi hẹp. Lúc này anh mới để ý đến đặc trưng vô cùng nổi bật của khám thần, nó vừa dài lại vừa hẹp, nên anh trông mới quen mắt, trước đây đúng là mình từng nhìn thấy một thứ có thể đặt vừa trong khám thần, đó chính là cỗ di hài liệm trong quan tài bằng ngọc của Sở U Vương dưới biển Âm Dụ.



Cỗ di hài này không phải di hài thật, mà chỉ là các loại châu ngọc đá quý ghép lại. Nó được Thần Nông thị gá gỗ làm tổ nhặt được trên đảo cổ Âm Sơn, rồi lưu truyền mãi đến thời Xuân Thu Chiến Quốc, thì rơi vào tay Vu Sở, Sở Vương coi đó là vũ khí bí mật và bảo vật quốc gia. Xem ra, cỗ di hài đó là do người Bái Xà cổ đại tạo nên để thờ phụng trong ngôi miếu thần nơi tận cùng địa mạch. Sau đó, không rõ vì duyên cớ gì, mà nó theo hóa thạch của ốc anh vũ, trôi nổi trên biển cõi âm, rồi bị núi từ dưới lòng đất hút chặt, cuối cùng mới được con người bất ngờ phát hiện. Tất cả những sự kiện này có lẽ đều xảy ra trước khi người Bái Xà dùng tấm bia đá bịt cửa động lại.



Tuy mọi chuyện xem ra đều hoàn toàn hợp tình hợp lý, nhưng vẫn khiến cả hội bất ngờ. Tư Mã Khôi đang định nhìn lại xem trong khám thần còn manh mối gì khác không, thì đột nhiên chút đất cát trên đỉnh đầu bỗng rơi xuống lạo xạo. Mọi người giật mình ngẩng đầu lên nhìn thì thấy một khuôn mặt trắng bệch, cứng đơ đang thò xuống, đó chính là gã Nhị Học Sinh vừa chết ở gần cửa điện, lỗ thủng bị súng săn bắn trên người hắn vẫn đang nhỏ máu ròng ròng, hai con mắt hắn nhìn chằm chằm vào Hải ngọng.



Dẫu bốn người đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng để đón nhận mọi điều bất ngờ và khủng khiếp, nhưng đột nhiên thấy cảnh tượng này, cả hội đều bất giác dựng đứng tóc gáy. Họ thấy Nhị Học Sinh chẳng khác nào con ác ma đòi mạng đang bò vào thạch điện.



Hải ngọng hét to một tiếng: “Đến đúng lúc lắm!”, rồi giương khẩu súng săn hai nòng, ngắm thẳng vào sọ Nhị Học Sinh bóp cò, nào ngờ đối phương há ngoác mồm cắn vào họng súng, chỉ nghe đạn nổ “bụp” một tiếng nhỏ, rồi khói súng bốc ra từ miệng Nhị Học Sinh, nhưng đầu hắn thì vẫn lành lặn như chưa hề có gì xảy ra, không biết viên đạn ghém cỡ tám đã bắn đi phương nào.



Tư Mã Khôi thấy hắn mang tà ý, liền vội vàng kéo Hải ngọng lùi lại sau, rồi cùng hai người còn lại nhanh chóng lùi thêm mấy bước nữa, lưng dựa vào vách đá, họng súng và đèn chiếu nhất tề chĩa thẳng về phía Nhị Học Sinh, chỉ đợi đối phương lại gần là nhất loạt nổ súng.




Nhưng Nhị Học Sinh dường như không hề có ý định tiến lên phía trước, hắn bò rạp trên bờ đá, giương mắt nhìn bốn người, ánh mắt vô hồn, toát ra ma khí âm u, đột nhiên mắt hắn chảy máu, rồi cái miệng cứng đơ há ra, run rẩy rặn từng tiếng: “Sao… sao… các người… lại muốn bắn tôi?”



Hải ngọng rút dao săn ra, quát lên dọa dẫm: “Thằng chó! Mày mà dám lại gần nửa bước, ông sẽ xẻ thịt mày làm nhân bánh!”



Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân đều cảm thấy gã Nhị Học Sinh kia quả là bám dai như đỉa đói, khổ nỗi hội anh lại không có cách nào đối phó lại được, nên đành lặng lẽ quan sát xem sẽ xảy ra biến cố gì, rồi đợi thời cơ hành động. Trong đại điện tĩnh mịch, âm u, cục diện giằng co căng thẳng làm không gian như muốn đông cứng lại.



Thắng Hương Lân thấy giờ đây đạn dược của cả hội gần như cạn kiệt, pin đèn còn lại cũng chỉ đủ duy trì trong một ngày, tình hình này càng kéo dài, thì đội khảo cổ càng gặp nhiều bất lợi, nghĩ vậy cô liền cất tiếng hỏi: “Sao anh cứ đi theo chúng tôi?”



Nhị Học Sinh thể hiện vẻ mặt vô cùng tuyệt vọng, hắn nói khi đội khảo cổ phát hiện ra thạch thất, hắn đã muốn cản trở không cho mọi người vào, bởi vì nếu đi theo manh mối vẽ trên bích họa trong thạch thất thì sẽ thoát ra được động đạo, tuy nhiên hậu quả của việc bước chân vào vùng cấm địa này còn đáng sợ hơn hội Tư Mã Khôi có thể tưởng tượng gấp nhiều lần, có điều mọi chuyện giờ đã quá muộn.



Hải ngọng điên tiết quát: “Mẹ mày, đừng tốn nước bọt nhát ma bọn tao, gian thạch thất đã mấy ngàn năm không có người bước vào. Làm sao mày biết bên trong có gì chứ?”



Nhị Học Sinh tự nhận bản thân mình giấu đội khảo cổ một số chuyện, có điều nhiều chuyện trong số đó mãi đến khi bước vào động không đáy hắn cũng mới được biết, tất cả đều do thứ bị tấm bia đá nhốt trong hắc động kể cho hắn nghe.



Mọi người nghe hắn nói vậy, bất giác nhớ đến truyền thuyết có liên quan đến xà nữ, giờ đây gã Nhị Học Sinh tá thi hoàn hồn này sau khi chết đi lại biến thành một cỗ máy điện đàm, thu nhận tín hiệu truyền đến từ hư vô. Không hiểu thứ bị tấm bia đá giam trong động nói với hắn những bí mật gì? Ngoài ra, vì sao thứ đó không trực tiếp lộ diện? Nó có quan hệ gì với cỗ di hài cổ xưa? Phải chăng lúc đầu Nấm mồ xanh đã đào tẩu khỏi lòng đất cùng cỗ di hài ấy?



Cao Tư Dương không kiềm chế được lòng hiếu kỳ cô lấy can đảm hỏi Nhị Học Sinh: “Anh biết thứ bị tấm bia đá nhốt trong động là gì ư? Vậy Nấm mồ xanh là ai?”



Nhị Học Sinh lắp bắp thanh minh, từ khi mình cùng đội thông tin gia nhập đội khảo cổ ở rừng rậm nguyên thủy Đại Thần Nông Giá, đến khi đi xuyên qua thủy thể mênh mông ở 30° vĩ Bắc và cả suốt chặng đường xuống cửu tuyền vào sinh ra tử, hắn chưa bao giờ sinh lòng hãm hại ai, chỉ có điều hắn có vài chuyện không dám tiết lộ với mọi người, bởi một khi nói ra thì hắn không còn đường quay đầu trở lại. Kỳ thực, lời Triệu Lão Biệt nói với đội khảo cổ không hề sai, đúng là Tư Mã Khôi đã tận mắt nhìn thấy khuôn mặt thật sự của Nấm mồ xanh, nhưng chỉ kẻ nào đã chết mới nhìn thấy khuôn mặt ấy, bởi vậy thay vì cố nhớ xem anh đã từng gặp ai, thì chi bằng hãy nghĩ xem mình đã từng chết một lần vào khi nào? Chẳng lẽ anh không còn nhớ thật ư?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 201: Hồi 8: máy điện đàm


Tư Mã Khôi cho rằng gã Nhị Học Sinh trước mặt rất có khả năng chính là thứ đang bị tấm bia đá nhốt lại, lời hắn nói sao nổi, nhưng không hiểu sao anh lại phảng phất nỗi lo đó là sự thật, lẽ nào mình lại thực sự quên mất một chuyện quan trọng như vậy ư?



Nhị Học Sinh ấp úng nói một hồi, tinh thần mới dần ổn định trở lại. Hắn nói, hắn có chuyện luôn giấu đội khảo cổ, nhưng ngọn nguồn cụ thể của mọi việc thì hắn cũng chỉ mới hiểu rõ chân tơ kẽ tóc cách đây không lâu. Bắt đầu từ hoàn cảnh hắn phải xa quê và bị đẩy đến lâm trường Đại Thần Nông Giá vào cuối những năm sáu mươi. Rừng rậm nguyên sinh nơi đó cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, công việc chính của hắn là đốn gỗ chặt cây, cả ngày chỉ ăn đường nuốt rau, cơ thể thiếu dinh dưỡng trầm trọng nên chẳng bao lâu bị công việc đơn điệu và nặng nhọc quật ngã.



Vào những ngày nghỉ, công nhân trong lâm trường thường vào rừng hái nấm và săn thú hoang để cải thiện bữa ăn. Nếu hái được chút nấm rơm, linh chi, lại săn được đôi con gà rừng mà nấu canh thì coi như đó là những ngày lên tiên có điều công việc ở lâm trường luôn bận rộn, rất hiếm khi có cơ hội vào núi để chiều cái miệng.




Khi ấy, vì hiểu chút ít kỹ thuật, nên Nhị Học Sinh đã sửa được chiếc radio bán dẫn hiệu Xuân Phong duy nhất của lâm trường, nhờ đó cấp trên cũng thường nhắm một mắt mở một mắt bỏ qua cho hắn, nên cho dù hắn cùng dân bản địa vào núi săn bắn hoặc đến trạm thông tin trên ngọn núi chính của đỉnh Đại Thần Nông Giá để sửa chữa máy điện đàm, thì cũng đều được tính công như tham gia chặt gỗ.



Trong thời gian này, hắn phát hiện có gã chuyên hái thuốc, săn hươu tên là Dư Sơn Tử, mặt mũi nom quái dị chẳng khác nào loài vượn cổ trong rừng sâu, khắp người toát ra mùi tử khí, lúc nào cũng che kín khuôn mặt, hành tung lại vô cùng mờ ám, lén lút, gã ta thường lẻn vào căn nhà gỗ của công nhân lâm trường, thậm thà thậm hụt sờ sờ mó mó cái máy radio, miệng lẩm bẩm tự nói chuyện một mình. Ban đầu, Nhị Học Sinh cho rằng gã này đang nghe trộm đài địch, nhưng cái đài rách lẽ ra phải vứt vào thùng rác từ lâu này làm sao mà tiếp sóng được đài địch cơ chứ? Trong dải núi Đại Thần Nông Giá, ngay đến tín hiệu đài của quân mình nó còn lẹt xẹt nhiễu sóng, lúc có lúc không nữa là, mà dẫu bắt được sóng thì cũng chẳng thể nghe rõ nổi, chứ đừng nói là nghe đài địch phát sóng! Bởi vậy, hắn cũng không nghĩ nhiều đến chuyện này. Sau đó, Nhị Học Sinh lại phát hiện gã hái thuốc toàn lởn vởn xung quanh khu vực trạm thông tin, nhân lúc không có người chú ý là gã bắt đầu sờ mó máy điện đàm chuyên dùng cho việc cấp báo phòng cháy chữa cháy của khu.



Nhị Học Sinh biết chiếc máy điện đàm phòng cháy trong trạm thông tin là thiết bị mà bộ đội thải ra không dùng nữa, hôm nay nó có vấn đề, ngày mai thi hỏng hóc, gã hái thuốc lại cầm cái ống nghe của máy điện đàm lên nghe như thể nghe điện thoại, sự việc này đúng là vô cùng khó hiểu. Nhị Học Sinh nghĩ chắc chắn không phải gã Dư Sơn Tử tư thông với địch, cũng không phải gã bị ma nhập, mà có khi hắn mắc chứng đa nhân cách, chẳng hiểu gã tự mình lẩm bẩm điều gì với chính mình?



Nhưng người dân miền sơn cước ở Đại Thần Nông Giá thì không hiểu điều này, họ nghe thấy trong đài có tiếng nói, lại cho rằng trong chiếc “hộp đó” quả thực có các cô gái đang nói chuyện, một số người phát hiện Dư Sơn Tử lén lút sờ mó chiếc radio và máy điện đàm thì khăng khăng cho rằng gã là gián điệp của địch. Nhưng chẳng bao lâu sau, gã Dư Sơn Tử vào khe núi Yến Tử Ô vách dựng đứng để hái thuốc, thì bị con khỉ lông vàng gặm đứt sợi dây leo núi, gã rơi thẳng xuống khe sâu và mất tích, thế là từ đó không ai truy cứu tiếp chuyện này nữa.



Tư Mã Khôi nghe tái đây thì rất lấy làm kinh ngạc. Các thành viên trong tổ chức ngầm Nấm mồ xanh đều được gọi là một gian phòng, gã hái thuốc Dư Sơn Tử cũng coi là một gian phòng trong tổ chức. Hắn tự xưng mình kế thừa bức mật điện từ lão sư phụ làm thổ tặc, có điều cả đời gã chưa bao giờ rời khỏi núi sâu nên chẳng nhận được mấy mặt chữ, có lẽ trước đây gã cũng chưa nhìn thấy máy điện đàm bao giờ, thế mà gã có thể đơn độc liên lạc được với Nấm mồ xanh thì thật là chuyện bất bình thường. Dư Sơn Tử tự nói chuyện một mình với cái máy, phải chẳng hắn đang nói chuyện với ma? Vấn đề là con ma đó đang ở đâu?



Bất giác trong lòng Tư Mã Khôi dội lên cảm giác chẳng lành, nếu những căn phòng khác đều như vậy thì trong những kẻ may mắn sống sót đi tìm chiếc tiêm kích vận tải ở sơn cốc Miến Điện có lẽ cũng có “gian phòng” nào đó đang giấu mình giống như Lão Xà hái thuốc.




Nhị Học Sinh nói, lúc đó hắn cũng không biết nhiều về những chuyện liên quan đến Dư Sơn Tử, tuy lờ mờ cảm thấy gã hái thuốc không có khả năng thu sóng nghe đài địch, nhưng vì lời nói của hắn không có trọng lượng, nói ra chẳng đáng mấy lạng, nên hắn đành ngậm miệng làm thinh cho xong. Chẳng bao lâu sau, chính hắn cũng quên bẵng chuyện này. Mãi đến đầu xuân năm nay, hắn phát hiện mình mắc bệnh Khắc Sơn, hắn tuyệt vọng đến tột độ trước tiền đồ và số phận của mình, đến con ong cái kiến còn biết tiếc thương sinh mệnh, huống hồ là con người, nếu nói hắn không quan tâm đến bệnh tình của bản thân thì chắc chắn đó chỉ là lời nói dối, nhưng trong núi thiếu thuốc men, y cụ, ngay cả người bạn để tâm tình chia sẻ cũng không có, cứ nghĩ đến việc mình phải chết ở nơi rừng thiêng nước độc, vắng bước chân người, thi thể cũng chẳng thể trở về với cố hương, lòng hắn lại đau như cắt, nước mắt âm thầm tuôn rơi. Sau đó, hắn biết trong núi sâu ở Đại Thần Nông Giá có rất nhiều loại thảo dược quý hiếm, trong đó có loài hà thủ ô ngàn năm với hình dáng giống một đôi nam nữ dính liền vào nhau. Loại hà thủ ô này có công dụng vô cùng đặc biệt, có thể khiến người đang mắc bệnh nan y vô phương cứu chữa lập tức cải tử hoàn sinh. Không quản loại thảo dược này có công dụng thật hay không, hắn vẫn liều mạng trèo lên vách đá dựng đứng đi tìm, nhưng hà thủ ô ngàn năm đúng là ngàn năm mới gặp, đâu phải loại dễ tìm, ngay cả những tay hái thuốc lão luyện trong núi cũng rất hiếm khi có cơ duyên gặp được, huống hồ một kẻ ngoại đạo như hắn đương nhiên chỉ hoài công vô ích, ngay cả cái lá của hà thủ ô cũng chẳng thấy đâu, mà mấy lần suýt chút nữa thì bị ngã lộn cổ xuống khe sâu, làm mồi cho dã thú.



Một lần, hắn vô tình nghe thấy chuyện gã hái thuốc săn hươu Dư Sơn Tử từng tìm thấy hà thủ ô ngàn năm, nhưng không rõ gã ấy đã bán đi hay tự mình ăn hết, chỉ biết sau khi gã ta chết, chẳng ai tìm thấy nó trong nhà gã nữa. Năm đó, có tay thợ săn nhìn thấy Dư Sơn Tử ra đào mộ của sư phụ, sau khi bới một cái hố lớn, hắn lại lấp đất lại như cũ, chưa biết chừng gã giấu những thứ đáng giá xuống mộ làm vật bồi táng cho lão sư phụ thổ tặc của mình cũng nên. Thời gian trong lâm trường trôi đi chậm chạp, thêm vào đó núi cao, vua xa, nên lúc rảnh rỗi mọi người toàn ngồi tập trung một chỗ rồi đem những chuyện quái dị ra kể, ngày nào họ không đàm luận về những tin đồn này mới là điều bất bình thường. Kẻ nói thì cứ thao thao bất tuyệt, nước bọt bắn tứ tung, cứ như thể mình tận mắt chứng kiến không bằng, còn người nghe thì há hốc mồm lên hóng, có điều cứ nói xong nghe xong rồi thôi, chứ chẳng ai tin là thật.



Nhưng Nhị Học Sinh nghe được chuyện này thì lại ghi nhớ trong lòng, không thể nào quên được. Biết được mộ của lão thổ tặc ở bên bờ sông, nơi đó thường vắng người lai vãng, vì muốn cứu lấy mạng sống, Nhị Học Sinh bèn xin nghỉ một ngày, vác quốc xẻng và súng săn đi đào trộm mộ, ngôi mộ hoang còn không có cả tấm bia dựng lên, tìm mãi mới thấy. May cho Nhị Học Sinh là mộ đào khá nông, ngay cả quan tài cũng chẳng có, người chết được bó trong manh chiếu cói, vùi xuống lòng đất, dẫu mộ vùi đơn giản như vậy nhưng cũng đủ hành hạ Nhị Học Sinh suốt một ngày trời, mãi tới khi trời tối hẳn, hắn mới moi được hài cốt trong mộ ra.



Đêm sâu âm u, mây đen dày đặc, vắng ánh trăng sao, những dãy núi sừng sững vây quanh tứ phía giờ trở nên đen sì sì, chẳng nhìn rõ hình khối của nó nữa, Nhị Hoc Sinh nghe tiếng chim hoang bay lượn trên đầu và kêu xáo xác, hắn vã mồ hôi lạnh, toàn thân run lập cập, nhưng có câu “chẳng gì đáng sợ hơn cái chết”, xuất phát từ bản năng sinh tồn, hắn cố quên đi những lời đồn đại về cô hồn dạ quỷ, hồ ly tinh hay thi biến, hắn quỳ xuống đất dập đầu mấy cái, vái trước thi hài trong mộ, miệng lẩm bẩm dăm câu cho thêm vững dạ: “Xin lão sư phụ chớ trách tội quấy rầy giấc ngủ, âm gian lấy bảo, dương gian lấy nghĩa”, sau đó lẩy bẩy bò ra đất sờ khắp người thi thể một lượt, cuối cùng chỉ tìm thấy một thứ đen thùi lùi hao hao giống miếng thịt, được gói trong mấy tầng giấy dầu, vật đó bốc mùi hôi thối, chẳng rõ đó có phải hà thủ ô hay không, bên cạnh đó còn mấy trang giấy cuộn vào trong ống da. Nhị Học Sinh mở ra xem thì thấy ở đầu thư vẽ ký hiệu hình con quái xà, nét chữ viết trong thư cẩu thả, chi chít, bé tí như đàn kiến. Lúc ấy, hắn không có thời gian xem kỹ, cho rằng đó là bí kíp hái thuốc, nên vội vàng đút vào trong áo, lấp ngôi mộ lại như cũ, rồi mò mẫm trong bóng tối, vội vã trở về lâm trường.



Nhị Học Sinh tìm chốn không người, mở hai vật tìm thấy trong mộ quan sát tỉ mỉ một lượt, lúc đó hắn mới phát hiện ra bí mật của Nấm mồ xanh, thứ trông hao hao như hà thủ ô đó, càng nhìn lại càng giống miếng thịt trên cơ thể người chết.



Trong cổ tịch, người ta gọi miếng thịt trên mình cương thi là “muộn hương”, thứ trong mộ lão thổ tặc tương tự với vật này, nhưng nó không hề bị phân hủy, mà chỉ bốc ra mùi thối thum thủm quái đản của người chết. Mấy trang giấy mỏng là bức thư lão thổ tặc để lại cho gã đệ tử Dư Sơn Tử, đại khái nói: Từ thời kỳ Dân quốc, vị sư đã đi theo Nấm mồ xanh, muốn gia nhập tổ chức này, ngoại trừ được tuyển chọn ra, thì còn phải ăn thịt trên người Nấm mồ xanh, như vậy mới trở thành một thể với tổ chức, bởi vậy nên mỗi thành viên trong tổ chức mới được gọi là “gian phòng”. Sau này, Nấm mồ xanh sẽ tìm thấy thông đạo dẫn đến miếu thần. Ta đợi đến ngày ấy để được giải thoát khỏi sự trói buộc của kiếp sinh tử. Ngoại trừ miếng thịt cắt trực tiếp trên người Nấm mồ xanh ra, thì thịt của mỗi gian phòng sau khi đặt vào trong một gian phòng kể nhiệm, và sẽ bị phân hủy khi gian phòng đó chết đi. Ngặt nỗi kiếp này, vi sư chưa có được cơ duyên đó, đợi bao năm như vậy mà vẫn chưa đợi được đến ngày thái lai, nay số đã tận, nên ta móc miếng thịt báu trong bụng mình ra, để lại cho đệ tử và xem sau này đệ tử được tạo hóa ra sao.




Nhị Học Sinh đọc xong thư, lòng nghĩ ăn thứ này sẽ có cơ hội được trường sinh bất tử thật sao? Mà mình phải đi đâu mới tìm thấy Nấm mồ xanh? Tuy hắn cũng được học hành, nhưng tư tưởng mê tín vẫn chưa được thanh lọc tận gốc, lúc này không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào hắn nhắm mắt nhắm mũi ăn một miếng, chẳng ngờ chỗ bị hắn cắn mất nhanh chóng mọc lại như cũ. Hắn sợ hãi, may mà không ăn nhiều, hắn bèn lập tức tìm chỗ chôn miếng thịt người chết đi, sau đó đốt bức thư thành tro, bởi khi đó, tội đào trộm mộ nhẹ thì ngồi nhà đá, nặng thì ăn đạn. Từ đó trở đi, hắn không dám hé môi tiết lộ chuyện này với bất kỳ ai.



Nhị Học Sinh tự phân tích nội tình, hắn đoán, năm đó có người nhìn thấy gã Dư Sơn Tử đào mộ, chính là lúc gã muốn tìm miếng thịt người chết trên mình lão thổ tặc, Dư Sơn Tử cũng không ăn hết miếng thịt người chết nên đem chôn đi, không lâu sau, miếng thịt lại tự động mọc ra như cũ, còn bức thư mà sư phụ để lại gã không hề động đến bởi vì gã không biết chữ. Trước đây, mọi người thường nhìn thấy gã hái thuốc Dư Sơn Tử lén lút sử dụng điện đàm, như thể đang tự nói chuyện một mình, chẳng lẽ là do miếng thịt người chết gã ăn vào người đang phát huy tác dụng? Nhị Học Sinh nghĩ đến đây, trong lòng bỗng thấy hối hận, nhưng dẫu có nôn cũng chẳng thể nôn ra nổi, càng nghĩ hắn lại càng sợ hãi, may mà sau đó không thấy có biểu hiện gì khác thường, chỉ là hàng đêm hắn hay nằm mơ thấy ác mộng mà thôi.



Mãi đến khi hắn theo tổ thông tin đi sửa máy điện đàm ở tháp canh, rồi gặp đội khảo cổ, sau đó chạm trán với gã hái thuốc trong căn nhà gỗ ở trạm thông tin, hắn mới biết quả thực có tồn tại tổ chức Nấm mồ xanh, hắn cho rằng mình còn cơ hội được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, bởi vậy hắn mới không dám lên tiếng. Suốt dọc đường, hắn chỉ dựa vào ý chí mưu cầu sinh tồn mãnh liệt để gắng gượng trải qua mọi gian khổ, hắn muốn cùng đội khảo cổ đến miếu thần để tìm hiểu rõ mọi chuyện, mong tìm thấy bí mật trường sinh bất tử, kết quả rõ ràng hắn đã bị lừa, thực ra sự “trường sinh” đó chính là cái chết. Những người bước chân vào miếu thần sẽ sa xuống hắc động và trải qua vô vàn lần chết.



Hải ngọng cảm thấy rất bất ngờ, anh khen: “Thằng tiểu tử này được! Không ngờ ý chí, mẹ nó chứ, lại kiên cường thế vì mạng sống mà dám ăn cả thịt người chết ư?”



Tư Mã Khôi nghe Nhị Học Sinh kể một hồi, trong lòng anh cảm thấy bội phần bất an, anh từng nghe người ta nói, người ở cõi dương gian mà vào cõi âm, trên đường không được phép ăn bất cứ thứ gì của cõi âm, bởi vì nếu ăn những thứ ở cõi âm thì sẽ biến thành một phần của cõi âm, không bao giờ trở lại dương thế được nữa. Những thành viên gia nhập tổ chức buộc phải ăn thịt của Nấm mồ xanh, rồi trở thành một bộ phận của Nấm mồ xanh, và cũng chỉ những thành viên giống như con rối này mới có thể liên lạc được với Nấm mồ xanh thông qua một cỗ máy điện đàm không hề tồn tại ngoài đời thực, nhưng Nấm mồ xanh là ai? Chẳng lẽ hắn là một bộ phận của thứ bị nhốt trong động này sao?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 202: Hồi 9 - mất trí 99%


Nghe Nhị Học Sinh kể, Tư Mã Khôi cũng thấy bán tín bán nghi – ai ăn thịt Nấm mồ xanh, kẻ đó sẽ trở thành một phần của hắn? “Gian phòng” cũng được chia ra thành hai loại: “phòng có đánh số” và “phòng không đánh số”. Gian phòng được đánh số là những người trực tiếp ăn thịt người chết, sẵn sàng cảm tử vì Nấm mồ xanh, nhưng ngay cả những người này cũng không biết gì về lai lịch của hắn. Còn loại “phòng không được đánh số” là những người gián tiếp bị ăn thịt người chết, họ chẳng khác nào đang mang trong mình một mầm quỷ thai mà không hề hay biết, từ đó họ bị âm hồn nhập xác, rồi biến thành “gian phòng” một cách vô thức, những người này đến chết cũng không hiểu rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra với mình.



Căn cứ vào đó có thể suy đoán, khi cơn bão nhiệt đới đổ bộ vào Miến Điện, trong đội thám hiểm xâm nhập khe cốc núi Dã Nhân đi tìm chiếc tiêm kích vận tải, ít nhất phải có một “gian phòng” gián tiếp chịu sự khống chế của tổ chức Nấm mồ xanh lẩn vào hàng ngũ. Nếu là vậy, Tư Mã Khôi có thể dễ dàng giải thích được điều kỳ lạ xảy ra với máy thu âm và quả bom địa chấn khi ấy. Gian phòng ấy có thể chính là thủ lĩnh đội thám hiểm Ngọc Phi Yến, có điều giờ đây anh không còn cách nào truy cứu chân tướng sự việc được nữa.



Ba người còn lại nghe Nhị Học Sinh nói mà thấy như có cơn gió buốt lanh dội thẳng vào óc, ai nấy đều cố vắt óc nhớ xem mình có vô tình ăn phải thịt người chết bao giờ không.



Tư Mã Khôi ra hiệu bảo mọi người không cần lo lắng về chuyện ấy, Nấm mồ xanh không thể đi xuyên qua tấm bia đá để vào bên trong, thứ trong động lại không thể thoát ra được bên ngoài. Nghĩ đến đây anh chợt giật mình, hỏi Nhị Học Sinh vì sao hắn lại kể cho đội khảo cổ biết bí mật này?




Nhị Học Sinh nói, bây giờ thì chẳng ai có thể thoát ra khỏi gian đại điện này được nữa, câu chuyện vặt vãnh của hắn cũng đâu cần phải giấu giếm làm gì. Bởi từng ăn thịt người chết, nên giờ hắn giống như một cỗ máy điện đàm, có thể bắt được tín hiệu từ trong động không đáy, bởi vậy hắn mới hiểu hết toàn bộ bí mật.



Hắn nói, những chuyện mà đội khảo cổ đã trải qua bị quấn tròn giữa nguyên nhân và kết quả, nhưng có một đường thẳng có thể xâu chuỗi tất cả những ẩn số này, đó chính là cỗ di hài trong quan tài ngọc của Sở U Vương, trong đó Nấm mồ xanh, Triệu Lão Biệt, quốc vương Chăm Pa, tấm bia đá Bái Xà, đội khảo cổ và cả núi từ 30° vĩ Bắc đều là một mắt xích quan trọng trong vòng tuần hoàn không lối thoát này.



Tất cả nguyên nhân đều bắt nguồn từ phong tục thờ lưỡng thần của người Bái Xà cổ đại. Đầu tiên, người Bái Xà cổ đại tin rằng sau khi chết, họ sẽ được thần Vũ Xà dẫn đi, thi thể được đặt trong động không đáy, vì thế họ đã xây mấy tòa thạch điện ở đây, nhưng sau nhiều năm, người Bái Xà mới phát hiện trong động tồn tại một thứ vô cùng đáng sợ. Trên thực tế, những âm hồn của vô số người chết đều bị nó kéo vào cõi vạn kiếp không thể siêu sinh, chỉ trừ những người chết ra, còn lại không ai có thể nhìn thấy chân tướng của nó. Người Bái Xà cổ đại vừa tôn kính vừa khiếp sợ nó, coi nó là thần thánh và không ngừng tế lễ, còn cỗ di hài chính là một pho tượng thần được thờ phụng ở trong tòa đại điện này.



Cỗ di hài được tạo thành từ đá quặng và mã não ở nơi sâu nhất trong địa mạch. Giữa hộp sọ của cỗ di hài, người Bái Xà đặt một miếng thịt lấy ra từ cơ thể thứ đó, cỗ di hài trở thành vật tượng trưng cho chân thân của vị thần cổ xưa này. Nhưng vị thần cổ trong động không ngừng nổi lòng tham vô độ, càng ngày càng đòi ăn thịt người nhiều hơn, mãi đến khi người Bái Xà cổ đại bất ngờ nghe được bí mật vốn dĩ không nên tồn tại trên thế giới này từ miệng xà nữ, nhân cơ hội vị thần cổ cứ mỗi năm lại ngủ say một thời gian, họ bèn khắc lời nguyền chết chóc kia lên tấm bia đá.



Lúc đó, nội bộ tộc người Bái Xà chia ra làm hai phe, một phe do quá khiếp sợ dị thần nên họ ra sức ngăn chặn những người tin thờ thần Vũ Xà đặt tấm bia đá trước cửa động, nhưng sau đó nhóm này thất bại, bị tộc Bái Xà đối lập tàn sát giết hại, có điều cỗ di hài không ở trong động nữa mà lại bị mang ra thế giới bên ngoài. Sau đó, dưới lòng đất xảy ra nạn đại hồng thủy, cỗ dĩ hài cùng loài ốc anh vũ cổ đại trôi nổi trên dòng thủy thể mênh mang ở 30° vĩ Bắc, rồi bị hòn đảo cổ ở núi Âm Sơn hút chặt, ngọn núi từ đó có khả năng xóa sạch trí nhớ của bất kỳ sinh vật sống nào, bởi vậy miếng thịt nằm trong sọ cỗ di hài cũng dần dần quên hết những chuyện liên quan đến người Bái Xà cổ đại, cuối cùng cỗ di hài bất ngờ được con người trên mặt đất nhặt về, thời thế gìn giữ nó đến thời Xuân thu chiến quốc thì bị Sở U Vương niêm phong trong chiếc quan tài bằng ngọc khổng lồ có vẽ hình đầu lâu.



Hội Tư Mã Khôi phát hiện tình hình hiện tại có điểm bất thường, cả hội đang định đợi cơ hội để ra tay giải quyết Nhị Học Sinh, chẳng ngờ đối phương lại nói ra bao điều quan trọng như thế, dẫu bây giờ trời có sập xuống thì cả hội cũng quyết phải nghe cho được kết quả cuối cùng. Trước đây, hội anh cũng lờ mờ đoán được vài phần nội tình của chuỗi ẩn số, nhưng mãi đến lúc này thì mọi chuyện mới được liên kết thành một mạch thông suốt. Phải chăng Nấm mồ xanh chính là một miếng thịt của vị thần cổ nằm trong động? Vậy chẳng lẽ hắn vốn dĩ đã không có khuôn mặt sao? Tư Mã Khôi tự thấy mình quả thực chưa bao giờ gặp một người kỳ bí như thế, huống hồ chỉ những người đã chết mới có thể nhìn thấy dung nhan của hắn, nhưng lời của Triệu Lão Biệt thì phải giải thích thế nào? Tại sao “không nhìn thấy cảnh sắc núi Lô Sơn”?




Nhị Học Sinh nói, người Bái Xà gây ra vụ đại hồng thủy, từ đó không thể chấn hưng lại nòi giống, những người còn sống sót đều trở thành nô lệ của vương triều nhà Hạ, họ bị Vũ Vương đẩy xuống lòng đất để đào long môn, dẫn nước lũ vào Vũ khư và trông coi đỉnh Vũ Vương trấn thủy ở trong địa mạch, những chuyện liên quan đến tấm bia đá của người Bái Xà dần dần đi vào quên lãng, tất cả chỉ còn là những truyền thuyết ly kỳ đến khó tin. Những hậu duệ còn sót lại của tộc người Bái Xà vẫn không ngừng đi tìm tấm bia đá, mãi đến khi họ chết hết, thì mọi bí mật về tấm bia đá cũng theo đó tiêu tan trong dòng chảy thời gian.



Miếng thịt người chết trong sọ cỗ di hài vốn có ký ức, nhưng nó đã bị núi từ xóa sạch đến chín mươi chín phần trăm. Vào thời Sở U Vương, nó bị một tên kiếm khách ăn trộm, hắn chỉ để lại cỗ di hài rỗng, bởi tên đó nhầm tưởng vật này là nhục chi ngàn năm trong lòng đất, nếu ăn vào sẽ trường sinh bất tử. Kết quả, sau khi ăn nó, hắn liền biến thành một phần của con quái vật, tự dưng nhận mình từ lòng đất chui lên, nhưng thông đạo ở đâu, thì không thể nhớ nổi, ngoại trừ ký hiệu hình con quái xà trong miếu thần ra, thì điều duy nhất hắn còn nhớ là huyệt động bị rêu phủ lên màu xanh thẫm.



Hắn chính là Nấm mồ xanh đời sớm nhất, chỉ có điều khi ấy người ta vẫn chưa gọi hắn bằng cái tên này. Miếng thịt không bao giờ bị tiêu hóa hay phân hủy trong bụng người sống, nhưng nó có thể ghi lại toàn bộ trí nhớ trong não của người ấy, đồng thời kẻ ăn nó cũng sẽ bị nó nuốt chửng, họ không thể trường sinh bất tử, nhưng toàn bộ trí nhớ sẽ được lưu giữ lại, rồi mang đến não của một người khác khi người đó ăn một miếng thịt trên thi thể họ. Bởi vậy, xét theo trường nghĩa nào đó, thì đúng là Nấm mồ xanh đã sống mấy ngàn năm rồi.



Nấm mồ xanh từng bước chiêu mộ các kỳ nhân dị sĩ khắp nơi về làm môn đồ dưới trướng mình, hắn tẩy não họ đi để họ tin rằng dưới lòng đất có cánh cửa khổng lồ thông đến thế giới vĩnh hằng, đồng thời tự cắt thịt trên người mình ra cho các môn đồ ăn, bằng cách này hắn có thể khống chế được các môn đò. Ký ức của miếng thịt được hắn cắt ra khỏi cơ thể sẽ nhập vào một thể với chủ thể người ăn miếng thịt đó, nhưng cùng lắm chỉ chuyển đến người thứ hai thì miếng thịt đó sẽ tự động phân hủy. Còn miếng thịt nằm trong bụng của Nấm mồ xanh, sau khi hắn chết đi sẽ do người kế nhiệm được chọn nuốt hết toàn bộ, và trở thành thủ lĩnh đời tiếp theo. Tổ chức kỳ bí và quái dị này lùng sục khắp nơi để tìm ra huyệt động thông xuống lòng đất, do hành tung của tổ chức này vô cùng bí ẩn nên rất ít người trên thế gian biết đến sự tồn tại của nó.



Do điều kiện thời cổ đại rất hạn chế, nên những huyệt động dưới lòng đất được tìm thấy đa phần đều không đủ sâu. Mãi đến thời kỳ cận đại, trước thềm thế chiến thứ hai, tổ chức này đã phát triển đến một quy mô nhất định, chúng chủ yếu mai phục ở dải Đông Nam Á, bởi hệ thống sông ngòi ở đây giao thoa phức tạp, khắp nơi phân bố toàn động đá vôi với địa mạo Karst đặc trưng, nhất là ở thành cổ Chăm Pa trong khe núi Dã Nhân, Miến Điện. Nghe nói, trong gian mật thất dưới thành cổ ghi chép vị trí của thông đạo và còn ẩn giấu vận may vô hạn trong khuôn mặt như thần Phật của quốc vương Chăm Pa, nhưng khe núi đó quanh năm bị sương mù dày đặc bao phủ, tầng sương mù đó là do thực vật dưới lòng đất trong tòa thành Nhện Vàng tạo ra, con người chỉ cần lại gần sẽ lập tức tử vong, duy loài rắn bay mới vào được trong sương. Thế là tổ chức ngầm liền lợi dụng một chiếc tiêm kích vận tải của không quân hoàng gia Anh, chở trái bom địa chấn chứa đầy chất độc màu da cam, lái vào trong khe núi Dã Nhân phủ kín sương mù, kết quả đội bay đó một đi không trở lại.



Tư Mã Khôi càng nghe càng thấy quá sức kỳ dị, bây giờ tin cũng không được mà không tin cũng chẳng xong. Trước đêm quân đội Anh rút lui khỏi Miến Điện vào năm 1949, Nấm mồ xanh đã mượn chiếc tiêm kích và lần đầu tiên thâm nhập vào khe cốc. Lần thứ hai, hắn đến đây là vào mùa hè năm 1974, khi cơn bão nhiệt đới tràn vào Miến Điện, trong chuyến đi đó, hắn đã thành công và tìm thấy sóng điện u hồn trong mật thất. Nếu truy ngược về ngọn nguồn, thì manh mói này chính là tin tình báo then chốt mà đội khảo cổ đã lỡ tiết lộ ra khi ở trong chiếc hộp thời gian, nhờ vậy Nấm mồ xanh mới nắm được bí mật về thông đạo. Đây là một vòng tuần hoàn khép kín không lối thoát. Nó không phân định rạch ròi giữa nguyên nhân và kết quả, hành động tiếp theo của hội Tư Mã Khôi ngoài mục đích trả thù cho những người đồng chí đồng đội của mình ra, thì nguyên nhân chủ yếu chính là hi vọng có thể bù đắp lại lỗi lầm đã gây ra trong quá khứ, kịp thời ngăn chặn Nấm mồ xanh đạt được mục đích. Không hiểu Triệu Lão Biệt và Tư Mã Khôi đã lần lượt nhìn thấy khuôn mặt thật của Nấm mồ xanh vào lúc nào và ở đâu? Nấm mồ xanh đã ký gửi trên thân thể một người nào đó, thì vì sao từ đầu chí cuối hắn không dám để lộ khuôn mặt?



Thắng Hương Lân thì thào nhắc nhở Tư Mã Khôi, nếu Nhị Học Sinh đã ăn thịt của người chết, thì sau khi chết hắn sẽ biến thành một phần của con quái vật trong động, chuyện hắn biết nhiều bí mật không có gì là lạ, nhưng việc hắn chủ động nói ra mọi chuyện thì chắc chắn phải có ý đồ nào đó.




Tư Mã Khôi thầm nghĩ, đội khảo cổ bọn anh đã sa chân vào động không đáy thì khác nào cá nằm trên thớt, huống hồ thuốc nổ cũng đã hỏng rồi, giờ không có cách nào phá hủy tấm bia đá được nữa, không hiểu đối phương còn muốn thế nào? Hắn định kéo dài thời gian sao? Đợi khi toàn bộ pin đèn còn lại tiêu hao đến cạn kiệt, thì sẽ đẩy họ vào tuyệt cảnh trong bóng tối vô tận ư?



Nhị Học Sinh giải thích, không có chuyện ấy, bởi vì pin đèn của đội khảo cổ chí ít vẫn còn đủ dùng trong một ngày, còn bí mật dẫu nhiều đến đâu cũng không thể nói mãi tới lúc đó. Thực ra, ngay từ đầu hắn đã biết mình sẽ chết, nhưng khi ở trong động đạo hắn lại chạm trán đội khảo cổ khi họ đi xuyên qua tấm bia đá, lúc ấy hắn không muốn nói rõ chân tướng vì động đạo này là một kẽ hở thời gian, thời gian bên trong đó chỉ là một hai giây bị kéo dài ra vô hạn. Nếu ở bên ngoài thì hoàn toàn không cảm giác thấy, nhưng hễ bước chân vào trong thì chớ nghĩ đến việc có thể thoát được ra ngoài. Hắn cho rằng bất kể thế nào, nếu chỉ ở trong một giây của kẽ hở thời gian, chí ít hắn vẫn còn lưu lại được trí nhớ của bản thân, nhưng nếu đã đi theo ám thị vẽ trên bích họa trong thạch thất mà ra khỏi động đạo, thì chắc chắn hắn sẽ trở thành tế phẩm bị tuẫn táng sống. Thứ bị nhốt trong động không đáy đã ăn thịt quá nhiều người Bái Xà cổ đại, nên đương nhiên nó cũng đọc được bí mật trên tấm bia. Mỗi lần nhìn thấy tấm bia, nó lập tức rơi vào trạng thái khô quắt và chết rũ, nhưng nó không chết hẳn, mà chẳng bao lâu sau sẽ tự mình phục hồi như cũ, để rồi sau đó lại nhìn thấy tấm bia và lại chết. Mãi đến tận ngày nay, nó vẫn không ngừng lặp đi lặp lại quá trình ấy.



Nếu xuyên qua kẽ hở thời gian và đi vào không gian ở phía sau tấm bia đá, thì quá trình thời gian trôi trong hắc động chính là quá trình con quái vật đó trải qua cái chết trong động. Hội Tư Mã Khôi, bao gồm cả Nhị Học Sinh cũng sẽ biến mất theo cái chết của nó và khi nó hồi sinh, tất cả sẽ lại phục hồi về trạng thái ban đầu, nhưng một khi đội khảo cổ bước chân vào thanh điện thì họ sẽ vĩnh viễn bị xóa sổ, bởi phàm những vật thể có ý thức đến đây đều bị nó nuốt chửng, sau khi chết đi ngay cả ma cũng không làm nổi, đó chính là cái chết toàn diện về cả thể xác và linh hồn.



Bởi vậy, Nhị Học Sinh mới ra sức ngăn cản mọi người, nhưng cứ mỗi lần định mở miệng thì lại bị Hải ngọng đánh ngất, bây giờ tất cả đã bước chân vào thạch điện trong núi đá, dẫu có nói gì chăng nữa thì cũng không thể cứu vãn nổi tình thế, bởi vậy hắn mới bày hết sự thật ra trước mặt mọi người, để mọi người có thể biết được toàn bộ chuỗi nhân quả trước khi mình chết.



Hội Tư Mã Khôi nghe xong, ai nấy đều tim đập chân run, Thắng Hương Lân liếc mắt nhìn đồng hồ, từ lúc đồng hồ chỉ mười một giờ đúng đến giờ, đã mấy tiếng trôi qua rồi. Không rõ cả quá trình từ sống đến chết của con quái vật lai lịch bất minh sống trong hắc động này kéo dài trong bao lâu?



Nhị Học Sinh trả lời với vẻ tuyệt vọng tột độ: “E rằng chỉ người chết đã mất tích trong hắc động không đáy này mới biết rõ thời gian cụ thể mà thôi. Cũng có thể là ngay một giây sau!”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 203: entroypy hồi 1: căn phòng ăn thịt người


Mọi người nghe Nhị Học Sinh kể ra điểm đáng sợ của sự việc, ai nấy đều hốt hoảng rùng mình. Xem ra, trên thực tế thứ bị tấm bia đá nhốt chính là cái hắc động không đáy này, thời gian mà đội khảo cổ cảm nhận được chỉ là một trong những quá trình nó chết đi sống lại vô số lần khi nhìn thấy tấm bia đá.



Hải ngọng cuống quýt giục: “Cảm giác đợi chết khó chịu lắm, phải nghĩ cách gì tìm đường thoát ra khỏi đây trước đã!”



Tư Mã Khôi níu Hải ngọng lại, bảo: “Đừng vội đi, chưa rõ mọi chuyện, biết trốn đi đằng nào?”. Nói xong, anh quay sang Nhị Học Sinh, lòng thầm nghĩ: thời gian tồn tại của thứ bị nhốt trong lòng đất còn có lịch sử lâu đời hơn cả lịch sử của tộc người Bái Xà cổ đại, trong khi giờ đây người Bái Xà đã diệt vong hàng ngàn năm, mà nó vẫn còn sống, chỉ có điều nó bị tấm bia đá nhốt lại mà thôi, bởi vậy nó mới lún trong vòng tuần hoàn thời gian mà chết đi sống lại vô hạn, không thể thoát ra nổi; nhưng dẫu thứ đó có thật sự tồn tại chăng nữa, thì làm sao nó có thể hiểu được bí mật trên bia đá là gì?



Nhi Học Sinh bảo: “Dẫu sao bây giờ cả hội cũng đã bước vào ngõ cụt, chi bằng tôi cứ nói hết tất cả những gì mình biết cho mọi người nghe, có điều còn cơ hội nói nốt hay không tôi cũng không dám chắc. Nấm mồ xanh và thứ trong động thực ra là một thể, Nấm mồ xanh là tên của nó ở ngoài động, còn thứ nằm trong động từ xưa đến nay đều không có tên, mấy năm gần đây có người gọi nó là Entroypy, nếu ví tổ chức có kết cấu nhiều gian phòng như một cái ô, Nấm mồ xanh là cánh tay cầm ô, thì Entroypy là phần thịt của cánh tay đó.




Nguyên nhân hình thành nên Entroypy đại khái là từ đống tử thi cổ đại bị vứt vào trong động và vô số âm hồn đã chết bị sinh vật cổ đại vô tri vô giác nuốt mất, dần dần chúng hợp lại thành một thể. Bởi vậy, nó biết đọc chữ trên tấm bia đá Bái Xà. Trong khi đó, Nấm mồ xanh – khi đó còn ở trạng thái là miếng thịt nằm trong sọ cỗ di hải cổ chôn dưới lòng đất – lại trôi nổi theo cỗ di hài, đến hòn đảo cổ ở núi Âm Sơn, thì hắn bị núi từ xóa sạch trí nhớ, bởi vậy hắn không thể hiểu được chữ viết trên tấm bia đá, cũng như không hề biết gì về sự tồn tại của người Bái Xà. Qua nhiều năm thăm dò tin tức, tổ chức của Nấm mồ xanh mới dần dần phát hiện ra bí mật về cổ quốc Bái Xà, nhưng những điều chúng biết hãy còn vô cùng ít ỏi, mãi đến khi Nấm mồ xanh cùng đội khảo cổ trở về hòn đảo trên núi từ và trôi nổi trong dòng thủy thể 30° vĩ Bắc, hắn mới nhớ lại tất cả mọi chuyện.



Nhị Học Sinh ngập ngừng nói ra không ít bí mật, nhưng nhiều bí mật trong sổ đó hội Tư Mã Khôi không thể nào hiểu được.



Thắng Hương Lân thận trọng thăm dò ý tứ của hắn, rồi ghé sát tai Tư Mã Khôi thì thầm: “Theo mô tả của Nhi Học Sinh, bất kỳ người nào từng ăn thịt Nấm mồ xanh, đều sẽ biến thành một “gian phòng” bị hắn khổng chế, thậm chí ngay cả tên thủ lĩnh của tổ chức cũng là một “gian phòng”, còn Nấm mồ xanh giống như một chiếc máy điện đàm u hồn giấu mặt trong gian phòng đó. Hắn sở hữu nguồn điện trường sinh vật cực mạnh, nếu thoát ly khỏi gian phòng, hắn sẽ lập tức trở thành một u hồn, tương đương với một đoạn tín hiệu phát ra từ máy điện đàm trong “gian phòng”, tín hiệu này mạnh đến nỗi đủ khiến người gần đó cảm nhận trực quan được sự tồn tại của hắn trong phạm vi ít nhất mấy chục mét, có điều u hồn thì không có năng lực thực hiện bất kỳ hành động gì, nó đành phải mượn tay những “gian phòng” để thực hiện mục đích. Tổ chức này có thể sản sinh ra rất nhiều “gian phòng”, nhưng Nấm mồ xanh thì chỉ có một. Nó có thể ẩn nấp trong những “gian phòng” khác nhau, ngoài ra Nấm mồ xanh và miếng thịt người chết trong các “gian phòng” đều tồn tại thông qua nguồn điện trường sinh vật, bởi vậy bất kể có trốn trong các “gian phòng” hay không thì nó và các “gian phòng” đều không thể đi xuyên qua tấm bia đá.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ quả đúng như vậy, mỗi chuyến hành động từ trước đến nay của họ đều diễn ra ở một địa điểm khác nhau, các thành viên của đội cũng có sự thay đổi. Chuyến đi đầu tiên là dưới khe núi Dã Nhân ở Miến Điện, trong đội thám hiểm lúc ấy nhất định có người vô tình ăn phải thịt của Nấm mồ xanh, nhiều khả năng người đó chính là thủ lĩnh đội thám hiểm – Ngọc Phi Yến, bởi vậy cô mới có khả năng nhận lệnh của Nấm mồ xanh thông qua chiếc điện thoại vô hình, có điều ngay cả bản thân cô cũng không hề ý thức được chuyện này. Lần thám hiểm thứ hai, Tư Mã Khôi đi cùng đội khảo cổ của giáo sư Nông địa cầu, thâm nhập kính viễn vọng Lopnor – cách bề mặt Trái đất hơn mười ngàn mét – rồi gặp phải gã quái thai Điền Khắc Cường. Hắn chính là “gian phòng” trung thành tuyệt đối với Nấm mồ xanh, nhưng chính hắn cũng không biết thủ lĩnh đang trốn trong bụng của mình.



Sau khi Điền Khắc Cường chết, hội Tư Mã Khôi đi xuyên qua kính viễn vọng Lopnor, từ bồn địa Turpan chạy thoát khỏi cực vực. Khoảng thời gian từ đó đến khi cả hội đến lâm trường Đại Thần Nông Giá, Nấm mồ xanh đều không hề xuất hiện, mãi đến khi đội khảo cổ bắt đầu phối hợp hành động với tổ thông tin, truy bắt gã hái thuốc Dư Sơn Tử, thì Nấm mồ xanh mới lại bám đuôi theo đội khảo cổ, bởi vì Dư Sơn Tử và Nhị Học Sinh chính là hai “gian phòng” từng ăn thịt người chết.



Sau đó, gã hái thuốc Dư Sơn Tử thiệt mạng, đội khảo cổ bị rơi vào thủy thể 30° vĩ Bắc dưới biển Âm Dụ, cuối cùng phát hiện thấy hòn đảo cổ trên núi từ và cỗ tàu ngầm Z - 615 bị hút ở gần đó. Lúc ấy, Tư Mã Khôi cảm thấy rằng Nấm mồ xanh dường như hiểu rõ mối quan hệ nhân quả giữa người Bái Xà cổ đại và tấm bia đá như trong lòng bàn tay, điều đó chứng tỏ lúc đó hắn đã nhớ lại phần ký ức năm xưa, và cũng bắt đầu từ khi ấy, thái độ của Nấm mồ xanh với hội Tư Mã Khôi đã quay ngoắt 180°. Ban đầu hắn chỉ muốn nhanh chóng trừ khử hội Tư Mã Khôi, nhưng sau đó, hắn lại muốn lợi dụng đội khảo cổ để họ giúp hắn tìm ra tấm bia đá Bái Xà.




Bao nhiêu ẩn số làm hội Tư Mã Khôi đau đầu suy nghĩ, giờ đã lần lượt được tháo gỡ, nhưng trong sợi dây này còn thiếu vài mắt xích quan trọng. Đầu tiên là khi đội khảo cổ từ sa mạc Lopnor chạy thoát ra ngoài, suốt dọc đường, hội Tư Mã Khôi đều mai danh ẩn tích, lẳng lặng tiến thẳng vào lâm trường Đại Thần Nông Giá, cả quá trình này ngoại trừ lão Lưu Hoại Thủy ra, họ không hề tiếp xúc với bất kỳ ai có thể làm lộ thông tin, vậy sao Nấm mồ xanh lại biết bước hành động tiếp theo của đội khảo cổ là sẽ đến Đại Thần Nông Giá? Lẽ nào lão Lưu Hoại Thủy cũng là một “gian phòng”?



Vì Nhị Học Sinh là một “gian phòng” từng ăn thịt người, nên mọi chuyện mà Nấm mồ xanh biết thì Nhị Học Sinh cũng đều biết rõ ngay sau khi chết, bởi vì cả hai cùng là một bộ phận của Entroypy. Sau đó, hắn liền kể tiếp với hội Tư Mã Khôi: Năm 1958, đội khảo sát liên hợp Trung Xô thâm nhập cực vực đã chụp một bức ảnh tập thể trước khi xuất phát, trong đó có một bức ảnh ma, con ma trong ảnh là lính của cục thiết kế UKB Liên Xô, tên này cũng là một “gian phòng” bị tổ chức khống chế, phàm những kẻ nào là “gian phòng” của tổ chức, thì khi chụp ảnh đều không thể nhìn thấy khuôn mặt, chính vì thế tên này bị phía Liên Xô nghi ngờ. Chẳng bao lâu sau, hắn bị xử lý bí mật, sau đó đội khảo sát mới tạm thời bổ sung thêm thành viên mới. Lúc ấy, Nấm mồ xanh không kịp cài cắm gián điệp vào trong đội hình, nên đành cấy bọ ăn xác vào cơ thể cả đoàn người và hại chết tất cả họ, đồng thời hắn cài người thâm nhập lòng đất, nhưng đúng lúc đó tình hình thế giới có nhiều biến động, không lâu sau, đoàn chuyên gia Liên Xô rút khỏi Tân Cương, thông đạo dẫn đến kính viễn vọng Lopnor bị đánh thuốc nổ phá hủy. Toàn bộ kế hoạch của Nấm mồ xanh bị gác lại và đình trệ tại đây. Mãi đến năm 1974, giáo sư Tống Tuyển Nông mới dẫn đoàn khảo cổ thâm nhập Hắc môn ở Lâu Lan, rồi xuống trạm thám trắc dưới lòng đất. Tấm ảnh chụp đội khảo sát mà Tư Mã Khôi phát hiện thấy ở đây cũng là một vật thể tiếp được sóng u hồn của Nấm mồ xanh, tuy rằng rất yếu ớt. Nhưng vì nó luôn được đội khảo cổ mang bên mình cho tới khi đến được chỗ miếu thần của người Bái Xà – nơi dựng tấm bia đá, chính bởi thế nên hành động và tung tích của cả hội suốt dọc đường đều bị Nấm mồ xanh thông qua tín hiệu kết nối với bức ảnh mà nắm như trong lòng bàn tay.



Mọi người nghe tin này, lòng thấy hối hận tột độ, may mà sau khi đi xuyên qua tấm bia đá, bức ảnh chết tiệt đó không còn phát huy tác dụng được nữa, tảng đá đè nặng trong lòng họ cũng như được nhấc đi.



Tư Mã Khôi nói với Nhị Học Sinh: “Nút thắt thứ nhất coi như được tháo gỡ, nhưng vẫn còn một nút thắt lớn hơn. Nếu bí mật của Nấm mồ xanh đúng thật như mày nói, thì có bao nhiêu “gian phòng” nghĩa là có bấy nhiêu Nấm mồ xanh, hắn vẫn mang bộ dạng con người, nhưng sao hắn lại không dám để lộ khuôn mặt của mình? Triệu Lão Biệt từng nói ‘không nhìn được cảnh sắc núi Lô Sơn’ nghĩa là sao? Tại sao mày lại bảo chỉ người chết mới nhìn thấy Entroypy? Trước đây, tao từng gặp nó ở đâu? Nếu mày không thể giải đáp được những câu hỏi lớn này, thì bọn tao cũng khó mà tin nổi mấy lời quỷ quái của mày”.



Nhị Học Sinh từ từ giơ tay ra, chỉ về bức phù điêu vẽ ở đế bệ đá trong đại điện, rồi chậm rãi nói: “Khuôn mặt thật của Nấm mồ xanh ở đó, anh tự nhìn đi, rồi khắc hiểu!”



Tuy Tư Mã Khôi đã cố bình tĩnh, nhưng tim vẫn đập liên hồi như trống trận, từ lúc bước chân vào đại điện, anh chỉ mải để ý đến vết lõm hình cơ thể người trên bệ đá, chứ không hề để ý đến mấy bức họa thần quỷ kỳ lạ và quái dị ở gần đó, bởi rất nhiều nội dung vẽ trên đó rất khó lý giải ý nghĩa. Lúc này, anh chỉnh đèn quặng chiếu vào phía dưới bệ đá, vừa nhìn một cái anh đã kinh hãi đến đờ người.



Hình phù điêu ở đáy bệ đá là trăm ngàn con mắt vô hồn của không động. Trong sát na, Tư Mã Khôi lập tức hiểu ý câu nói của Triệu Lão Biệt. Thì ra, con quái vật bị gọi là Entroypy đã từng xuất hiện trong chiếc hộp thời gian.




Lúc Tư Mã Khôi túm áo Triệu Lão Biệt, truy hỏi đối phương xem khuôn mặt thật sự của Nấm mồ xanh là gì, đôi mắt gian tặc biệt bảo của lão ta đã trở nên vô cùng khác thường, nhất định lão đã nhận ra chân tướng của Nấm mồ xanh, biết rằng con quái vật đó có mặt ở khắp mọi nơi và đang theo dõi nhất cử nhất động của lão, nên lão mới không dám nói thẳng, mà chỉ nói một tràng ám thị, ra hiệu cho Tư Mã Khôi biết – anh từng nhìn thấy khuôn mặt thật sự của Nấm mồ xanh.



Tư Mã Khôi có thể xác định lời của Triệu Lão Biệt hoàn toàn đáng tin, anh thầm điểm mặt những người anh và Triệu Lão Biệt cùng gặp không biết bao nhiêu lần, thực ra những người phù hợp với điều kiện ấy quả không nhiều, vấn đề then chốt là Triệu Lão Biệt chẳng biết được mấy người mà Tư Mã Khôi đã từng gặp mặt, ngoại trừ Thắng Hương Lân, Hải ngọng, đội trưởng đội thông tin Lưu Giang Hà, Nhị Học Sinh và Cao Tư Dương ra, thì chỉ còn quốc vương Chăm Pa Anagaya đã chết từ ngàn năm trước.



Thậm chí Tư Mã Khôi còn nghĩ đến chiếc máy bay Hải Âu C - 47 xuất hiện trong chiếc hộp thời gian. Năm 1949, chiếc máy bay này bị rơi xuống kính viễn vọng Lopnor, trên máy bay không còn người nào sống sót, trong khoảnh khắc trước khi biến mất, chiếc Hải Âu C - 47 đã rơi vào chiếc hộp thời gian. Khi ấy, Triệu Lão Biệt cứ tưởng đội khảo cổ định buông tay lão ra, nên sợ hãi chẳng khác nào con chim sợ cành cong, lão bèn liều mạng chui vào khoang máy của chiếc C - 47, hội Tư Mã Khôi vội vàng đuổi theo, phát hiện cả chiếc Mải Âu C - 47 đang ở trạng thái gần như là tĩnh tại, các hành khách bên trong và cả phi hành đoàn đều chết bất thình lình, trên mặt họ còn vẹn nguyên nỗi khiếp đảm và tuyệt vọng đến cùng cực, cơ thể cứng đờ ngồi bất động tại chỗ. Tất cả những nạn nhân trong sự cố rơi may bay đều có thể coi là những người mà Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt từng cùng gặp mặt, nhưng điều duy nhất mà anh không ngờ tới là những nạn nhân bị rơi vào sự kiện tuần hoàn khép kín trong chiếc hộp thời gian không chỉ có mỗi đội khảo cổ, Triệu Lão Biệt và C - 47, mà ngoài ba đối tượng này ra vẫn còn tồn tại một thứ khác. Lúc Tư Mã Khôi đào thoát khỏi chiếc hộp thời gian, anh đã nhìn thấy bóng đêm sâu thẳm bỗng nứt ra một kẽ hở, ở trong đó dường như có vô số con mắt, thì ra khi ấy Entroypy cũng bước vào chiếc hộp thời gian, và không chỉ một mình đội khảo cổ nhìn thấy sát thực cảnh tượng đáng sợ này, mà Triệu Lão Biệt có lẽ cũng nhìn thấy, bởi vậy lão mới bảo Tư Mã Khôi từng nhìn thấy chân tướng của Nấm mồ xanh mà không hề hay biết. Tư Mã Khôi càng không thể ngờ rằng Nấm mồ xanh lại trốn trong một trong cơ thể của những kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ để xuống được đến cửu tuyền.



Còn về việc từ đầu chí cuối Nấm mồ xanh không dám để lộ khuôn mặt thật sự của mình thì đúng như Tư Mã Khôi từng tiên liệu trước đây. Khuôn mặt chính là yếu điểm của hắn, bởi vì một khi bị người ta phát hiện ra chân tướng của mình, đương nhiên, sẽ biết hắn chính là một dị vật khắp thân thể toàn là mắt ở dưới cửu tuyền, nếu vậy ai còn tin lời hắn và sẵn sàng chết vì hắn nữa? Hơn thế, ngoại trừ những kẻ đã chết ra, thì chỉ trong trường hợp vô cùng đặc biệt, người ta mới có thể nhìn thấy tướng mạo thực sự của Entroypy.



Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi yên lặng hồi lâu, sắc mặt khó coi đến khiếp người, sau đó cô lại được nghe Thắng Hương Lân kể lại vắn tắt đầu đuôi câu chuyện, nên lòng cô càng lúc càng cảm thấy kinh hãi, lẽ nào lời của Nhị Học Sinh nói đều là sự thật?



Tư Mã Khôi quay sang nhìn chằm chằm vào Nhị Học Sinh, ngẫm nghĩ lại toàn bộ chuỗi sự việc mấy lượt nữa, rồi tự nhủ: “Những việc ác trước kia làm vẫn chưa đủ nhiều ư? Sao giờ ma xui quỷ khiến thế nào mình lại đi tin lời một kẻ đã chết?”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 204: Hồi 2: thi thể biến mất


Tư Mã Khôi linh cảm thấy tình hình không ổn, anh thầm nghĩ – những chuyện Nhị Học Sinh kể phù hợp thực tế đến chín mươi chín phần trăm, nhưng dẫu chỉ một phần trăm còn lại là giả dối, thì cũng đủ đẩy đội khảo cổ rơi xuống hố sâu không đáy rồi.



Lúc này, Thắng Hương Lân lại hỏi Nhị Học Sinh thêm vài chuyện nữa, được biết các “gian phòng” trong tổ chức Nấm mồ xanh đều được đánh số, kẻ cầm đầu gọi là “căn phòng số 0”, sự tồn tại của hắn khiến số lượng các thành viên trong tổ chức không ngừng phát triển để đủ cung cấp phòng cho Nấm mồ xanh trú ngụ và thâm nhập đến mọi ngóc ngách trên thế giới. Tuy nhiên, miếu thần của người Bái Xà nằm dưới cửu tuyền, cách xa lớp vỏ Trái đất, đồng thời còn chịu ảnh hưởng của địa từ trường, nên hắn không thể liên lạc được với Entroypy đang bị tấm bia đá nhốt trong hắc động. Điều không may hơn là “căn phòng số 0” đời cuối cùng đã vô tình làm lộ ra khuôn mặt thật của mình.



Đó là vào năm 1949, sau khi “căn phòng số 0” đương nhiệm chết đi, thi thể hắn được đặt nằm trong chiếc hòm gỗ hóa thạch, chôn ở khu mộ địa lộn xộn những mộ táng. Trước đây, cái hòm đó dùng để đựng Lôi công mặc trong miếu, vì sự việc xảy ra quá đột ngột, nên tổ chức chưa kịp tìm “căn phòng số 0” kể nhiệm, rồi cỗ thi thể với hình dạng quái dị ấy bị bọn thổ tặc đào trộm mộ móc lên, chẳng bao lâu sau, chuyện này bị quân đội phát hiện và sinh nghi, họ đưa chiếc hòm gỗ hóa thạch lên máy bay vận tải Hải Âu C - 47 vận chuyển đến chỗ quân liên minh. Tuyến đường bay được xác định từ hướng nam sang hướng tây bắc, nhưng giữa đường chiếc máy bay đột ngột mất tích, không thấy bóng dáng đâu nữa, mãi mười năm sau người ta mới phát hiện thấy xác máy bay ở sa mạc Lopnor.



Chiếc máy bay vận tải hàng không Douglas C - 47 có biệt danh Hải Âu chính là chiếc máy bay bị mất tích mà đội khảo cổ của Tư Mã Khôi gặp trong chiếc hộp thời gian, bởi vì mọi sự vật bị rơi vào chiếc hộp thời gian sẽ hoàn toàn biến mất trong một khoảng thời gian ngoài đời thực, nên cũng có thể nói hội Tư Mã Khôi đã từng chết một lần, mãi cho đến khi cả hội thoát được ra ngoài. Lúc ấy, Triệu Lão Biệt trốn vào trong khoang máy bay C - 47 trước, lão nhìn thấy trên mép hòm dán niêm phong các dải phù chú, nên tưởng nhầm là Lôi công mặc mà mình ngày ước đêm mong, lão vội vàng mở ra xem, chẳng ngờ bên trong là một khối gì đen thù lù, được gói trong túi da lớn, lúc ấy lão bị đội khảo cổ đuổi theo quá gấp nên không có thời gian phân biệt kỹ lưỡng, đành kéo cả bao bò từ khoang trước ra bên ngoài, nào ngờ vừa mới ló mặt ra đã bị cơn cuồng phong cuốn đi. Trong khoanh khắc đó, lão nhìn thấy vị thần cổ xưa khắp thân thể mọc toàn những con mắt đang ẩn hiện trong vực thẳm sâu hút, lão sợ hết hồn vía, đâu còn để ý đến cái tải da đựng thi thể kia nữa. Sau khi lão thoát ra khỏi chiếc hộp thời gian, thi thể của “căn phòng số 0” cũng mất tích kể từ đó, bởi vì một khi thi thể nằm trong chiếc máy bay vận tải C - 47 rời khỏi nơi đây, nó sẽ vĩnh viễn biến mất theo dòng khí nhiễu động phía ngoài thời gian. Từ đó, tổ chức Nấm mồ xanh không còn “căn phòng số 0” nữa, số lượng các “gian phòng” càng ngày càng giảm, trên thực tế, tổ chức này đã bước đến mạt lộ. Nào ngờ trong hoàn cảnh tưởng chừng hoàn toàn tuyệt vọng, Nấm mồ xanh lại thâm nhập được xuống cửu tuyền nhờ sự trợ giúp của đội khảo cổ, nghĩ lại tất cả những chuyện đó đều là sự run rủi của số phận.



Hội Tư Mã Khôi nghe Nhị Học Sinh kể mà đứng lặng người, đau như thể vừa bị ai đánh một cú vào mặt, những chuyện xảy ra đều đã trở thành sự thật, không thể cứu vãn được nữa, may nhờ Tư Mã Khôi hành sự cẩn trọng, kịp thời gỡ bỏ dây dẫn nổ của cuộn thuốc pháo, nếu không cả hội đã lỡ tay phá hủy mất tấm bia đá, đó mới là tai họa trời giáng, bây giờ cả đội khảo cổ đều bị nhốt đến chết trong động, tuy vậy có thể khiến Entroypy cùng chết với mình, thì cũng coi như không uổng phi.




Thắng Hương Lân cho rằng sự việc không dễ kết thúc như thế, nhưng cô không thể phân biệt nổi lời nào Nhị Học Sinh nói lời nào là giả, lời nào mới là thật.



Tư Mã Khôi nói với hội Thắng Hương Lân: “Quá nửa chuyện Nhị Học Sinh kể đều là sự thật, có điều con người này không đáng tin, hắn nói mình là ma, nhưng tôi thấy hắn chính là Entroypy, là thứ tá thi hoàn hồn, nên làm sao hắn có thể mang ý tốt với chúng ta được? Mọi thứ xảy ra trong động tất cả đều nhàm mục đích ép chúng ta ra tay phá hủy tấm bia đá”.



Hải ngọng thắc mắc: “Nhưng giờ thuốc nổ đã mất tác dụng, nếu chỉ dựa vào sức của mấy người chúng ta, dẫu có muốn xô đổ tấm bia thì khác nào châu chấu đá voi?”.



Tư Mã Khôi nhất thời không thể đoán được rốt cuộc đối phương muốn gì, đột nhiên anh nhìn thấy đèn hỏa diệm nhiệt độ cao mà Cao Tư Dương đang cõng trên lưng, một suy nghĩ chợt lóe lên trong đầu, chùm sáng của loại đèn này phát ra còn mạnh hơn lửa cồn, ngay cả quái thú tiền sử khổng lồ nằm săn mồi ở đáy hồ pha lê mà đội khảo cổ gặp phải lúc trước cũng bị chùm sáng của ngọn đèn thiêu rơi mất sọ, nhưng tấm bia đâu phải sinh vật sống, dẫu có dùng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao soi vào, thì cũng chẳng thể xuyên qua nổi tấm bia dày đến thế, huống hồ khắp tấm bia đều khắc chi chít chữ cổ, tấm bia lại cao to sừng sững đến vậy, cho dù đốt được mấy hàng chữ thì vô số chữ còn lại cũng vẫn đủ sức nhốt Entroypy trong động mãi mãi.



Nét mặt Nhị Học Sinh buồn rầu đến thảm hại, hắn nói với Tư Mã Khôi: “Anh không tin tôi thì thôi, khoảnh khắc các anh vượt qua tấm bia đá, bước vào trong động đạo thì số phận đã định đoạt các anh không thể trở về rồi, dẫu có phá hủy tấm bia đá thì mọi người cũng bị Entroypy nuốt chửng, huống hồ giờ đây đội khảo cổ không còn thuốc nổ, nên càng trở thành vật vô giá trị với Entroypy. Tôi biết cả quá trình nguyên nhân kết quả của chuỗi sự việc nên có ý tốt muốn các anh cũng được biết rõ trước khi chết, như thế lòng tôi sẽ thấy thanh thản hơn, đợi khi thời gian ở đây trôi đến điểm tận cùng, thì cả thể xác và linh hồn chúng ta đều bị tiêu diệt, sao tôi còn phải nói dối để lừa các anh làm gì?”



Tư Mã Khôi vẫn không thèm đếm xỉa đến lời của hắn, anh khẳng định gã Nhị Học sinh này chính là con yêu quái trong động biến thành, mục đích của nó là dụ đội khảo cổ phá hủy tấm bia đá, nhưng không hiểu rốt cuộc nó sẽ thực hiện điều đó bằng cách nào?



Nhị Học Sinh thấy Tư Mã Khôi im lặng, thì quay sang hỏi Cao Tư Dương: “Lẽ nào đến cô cũng không tin tôi sao? Ban đầu tôi ăn thịt người chết ở lâm trường Đại Thần Nông Giá cũng chỉ vì khẩn thiết muốn được sống, thử hỏi trên đời này có người nào không sợ chết cơ chứ? Nhân lúc hãy còn thời gian, tôi muốn nói với mọi người một vài chuyện vô cùng quan trọng…”



Cao Tư Dương nhất thời không biết phải nói gì, cô nghĩ đi nghĩ lại và thấy rằng mình nên tin lời Tư Mã Khôi thì hơn, vì Tư Mã Khôi chưa bao giờ làm sai điều gì.



Tư Mã Khôi vẫn không nói gì, anh chỉ nghĩ thầm: “Nếu tôi chưa bao giờ làm sai, thì đã chẳng rơi vào bước đường ngày hôm nay”.




Hải ngọng nói chen vào: “Ai nói trên đời này không có ai không sợ chết hả? Ông Hải ngọng đây từ khi bỏ nhà ra đi vào khu Hắc ốc, dựa vào nắm đấm để dẹp mọi chuyện bất bình, nói chơi chứ dăm ba thằng nhào vô cũng chẳng động đến được sợi lông chân của ông. Sau đó đến Miến Điện làm bộ đội tác chiến, dao súng cắt tay tiện chân như cơm bữa, trận chiến nào ông chưa từng gặp hả? Thế mà mày có thấy ông nhăn mày kêu đau bao giờ chưa?”



Tư Mã Khôi biết Hải ngọng mà mở đài thì chẳng bao giờ muốn nhấn nút tắt, thế là anh bèn giơ tay lên ra hiệu bảo cậu ta đừng nói gì nữa, lúc này anh đã tính đến nước xấu nhất, anh dự đoán tấm bia đá Bái Xà trước sau gì cũng sẽ sụp đổ, tuy bây giờ vẫn chưa nghĩ ra được nguyên nhân, nhưng sự việc nhất định sẽ diễn tiến theo chiều hướng để xảy ra kết quả ấy, còn Nhị Học Sinh đứng đây con cà con kê với cả đội chẳng qua vì muốn cố tình kéo dài thời gian, mưu đồ làm tiêu hao toàn bộ pin đèn quặng của đội khảo cổ trước khi tấm bia đá bị phá hủy. Đến lúc đó, thứ nằm cuối động sẽ lập tức từ dưới lòng đất thoát ra ngoài, trong khi mọi người lại đang chìm trong bóng tối. Tới nước ấy thì ngay cả một phần vạn cơ hội thoát thân cũng đừng nghĩ đến. Trong huyệt động dưới lòng đất này, thò tay ra còn chẳng nhìn thấy ngón, môi trường khắc nghiệt khiến tốc độ tiêu hao của pin đèn nhanh gấp mấy lần so với ở điều kiện bình thường, số pin đèn còn sót lại của đội khảo cổ chẳng còn đủ duy trì trong bao lâu nữa, bởi vậy giờ là lúc không được phép nấn ná chần chừ. Ngoài ra, đối phương chủ động tiết lộ những ẩn số này cũng đủ chứng minh hắn không còn e sợ bất cứ điều gì nữa, giờ bốn thành viên của đội khảo cổ chẳng khác nào kiến đang bò trong miệng chén.



Tư Mã Khôi nghĩ đến đây liền quyết định lựa thời cơ hành động, nhưng nếu cứ không làm gì để phá vỡ cục diện căng thẳng hiện tại, thì cũng sẽ chẳng có cơ hội nào tự dưng rơi xuống, thế là anh lập tức ra hiệu cho mọi người ra tay hành động. Anh bảo Cao Tư Dương chuẩn bị dùng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao soi vào Nhị Học Sinh, chiếc đèn này là phát minh của “Kỹ sư” trong đội thám hiểm Corot Maar. Thời kỳ chiến tranh lạnh, đủ các loại vũ khí trang thiết bị chiến tranh kỳ dị cổ quái xuất hiện nhan nhản trên các chiến trường, Tư Mã Khôi cũng tự cho rằng mình nhìn thấy không ít loại vũ khí lợi hại, nhưng loại đèn phun lửa nhiệt độ cao này thì anh chưa nhìn thấy bao giờ, mà uy lực của nó thì đúng là vô cùng khiếp người. Anh nghĩ bất kể đối phương là loại yêu quái nào, chỉ cần bị chùm sáng nhiệt độ cao này chiếu vào, thì nó cũng lãnh đủ.



Hải ngọng và Thắng Hương Lân từ trước đến giờ đều sống chết theo Tư Mã Khôi, tiến cùng tiến mà lùi cùng lùi, nên cả hai lập tức theo anh tiến lên, duy có Cao Tư Dương là hơi do dự một chút, nhưng cuối cùng cô cũng vẫn cõng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao đi theo chân anh.



Nhị Học Sinh không ngờ Tư Mã Khôi lại chẳng đánh bài như lẽ thường, anh hoàn toàn triệt đường thương thảo giữa đôi bên, trong lúc vội vàng, hắn cuống quýt lui về phía sau khám thần.



Nào ngờ, Hải ngọng còn ra tay nhanh hơn, anh bước lên bệ đá trước một bước, đảo ngược báng súng, dùng hết sức quất thẳng vào đầu Nhị Học Sinh, xương cổ hắn kêu “rắc” một tiếng, cái đầu bị báng súng đánh trúng liền quay một vòng 360°, trong khi thân dưới vẫn không hề xê dịch nửa bước, lúc khuôn mặt quay trở về vị trí cũ, tử khí trên gương mặt của hắn càng toát ra nặng nề hơn, hai mắt nhìn chòng chọc vào Hải ngọng ánh lên tia độc địa, oán hờn, đột nhiên hắn há ngoác cái miệng đen ngòm ra.



Hải ngọn giật nảy mình, vội vàng né sang một bên mà quên mất mình đang đứng trên bệ đá của khám thần, lúc lùi về sau, chân anh bước hụt vào khoảng không, Hải ngọng vội hét lên thất thanh: “Ối mẹ ơi”, rồi ngã ngửa xuống mặt đất.



Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân vội vàng chạy lại hai bên tiếp ứng, lần lượt chĩa họng súng vào Nhị Học Sinh bắn liền mấy phát, đạn bay “chíu chíu” trong gian đại điện tối om, găm thẳng vào người Nhị Học Sinh, nhưng vẫn không thể ngăn được tốc độ của hắn đang nhào về phía Hải ngọng.



Lúc này, Cao Tư Dương cũng đến gần khám thần, lúc trước cô còn hơi do dự, nhưng khi thấy khuôn mặt Nhị Học Sinh toát ra vẻ độc ác và luồng tử khí nặng nề, thì cô không dám chậm trễ nữa, đầu ngọn đèn hỏa diệm nhiệt đột cao vẫn đang gác trên vai, cô vội vàng mở nắp đèn, chĩa thẳng vào Nhị Học Sinh.




Nhị Học Sinh dường như ý thức được mức độ lợi hại của vật này, hắn sợ hãi, sắc mặt thay đổi hẳn, miệng không ngừng phát ra những tiếng kêu “khục khục” đầy quái dị.



Chiếc đèn này bị rơi từ trên khinh khí cầu xuống nên đã bị hỏng khá nặng, hình như chạm mạch thì phải, sửa mãi mà không được, trên đường đi lúc dùng được lúc không. Giờ đây, Cao Tư Dương soi đèn về phía Nhị Học Sinh, nhưng ngọn đèn chẳng hề phát ra chút tia sáng nào, chỉ có đèn quặng gắn trên chiếc mũ liễu là chiếu thắng vào khuôn mặt đối phương ở cự ly gần.



Dường như Nhị Học Sinh rất sợ bị đèn chiếu vào, hắn không dám để mình lộ ra phạm vi chiếu sáng của ngọn đèn, nên quay người tụt xuống khám thần và lẩn về phía sau.



Hải ngọng thấy Nhị Học sinh trốn sau khám thần, anh lập tức nhảy lên, gân nổi cuồn cuộn khắp người, gắng sức nâng cả khám thần được đẽo từ tảng đá khổng lồ lên, định đẩy nó đè chết Nhị Học Sinh, song khám thần nặng ngàn cân nên, tuy Hải Ngọng có sức khỏe phi thường, thì cũng chỉ nhấc nó lên được 45° thì đã thấy hai vai tê dại, khí huyết trong lồng ngực như muốn chảy ngược, phun ra khỏi miệng.



Hội Tư Mã Khôi thấy vậy cũng vội ghé vai hợp sức, hét vang một tiếng như sấm rền, rồi cả hội nhấc được khám thần lên, Nhị Học Sinh không trốn kịp, hắn bị cả tảng đá khổng lồ đổ sập xuống người, thoáng chốc đã biến thành đống thịt nát bấy máu, không thể động đậy nổi nữa.



Mọi người thấy ngón tay lộ ra phía dưới tảng đá vẫn không ngừng cử động, thì cùng cúi xuống kiểm tra, đột nhiên cái đầu nát bét của Nhị Học Sinh chui ra khỏi khám thần như một con rắn.



Cao Tư Dương khiếp đảm đến cực độ, trong tay vẫn cầm đèn hỏa diệm nhiệt độ cao, cô vội vàng chiếu thẳng vào Nhị Học Sinh, cuối cùng thì lần này cái đèn cũng không hỏng nữa, chùm sáng còn mạnh hơn lửa chiếu đi, cái đầu bẹp dúm của Nhị Học Sinh tự nhiên biến mất, nhưng cũng trong khoảnh khắc chùm sáng phụt ra, toàn bộ đèn nến trong và ngoài điện, bao gồm cả đèn quặng gắn trên mũ bốn thành viên đội khảo cổ đều nhạt nhòa dần đi, trước mắt tối đen chẳng khác nào đít nồi.



Mọi người thất kinh, quả nhiên đội khảo cổ vẫn chưa bước ra khỏi kẽ hở trong động không đáy, thời gian đang quay vùn vụt về thời điểm mười một giờ đúng, đồng thời đưa đột khảo cổ đến nơi mà Tư Mã Khôi vứt chiếc hộp thiếc. Entroypy có thể tự do dịch chuyển thời gian trong kẽ hở theo ý muốn, mà không cần đến yếu tố Nhị Học Sinh sống hay chết, và cũng chẳng liên quan gì đến vị trí mà đội khảo cổ đứng trong động không đáy, chỉ cần nó thấy mọi người có hành động nào có khả năng phá hủy được tấm bia, thì sẽ lập tức sẽ khiến cho thời gian trong động không đáy lập tức quay ngược lại, đem theo bốn người trở lại nơi cửa động gần tấm bia đá để việc bia đá bị phá hủy càng dễ dàng trở thành sự thực như ý nó.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 205: Hồi 3: bản chất sự thật


Sở dĩ hội Tư Mã Khôi ý thức được việc thời gian trong động không đáy lại lần nữa quay ngược về điểm xuất phát là vì hành động của đội khảo cổ có khả năng phá hủy tấm bia đá, có điều đèn hỏa diệm nhiệt độ cao chắc không thể gây ra nguy hiểm cho tấm bia, ý nghĩ vừa xẹt qua đầu thì đèn quặng đã vụt sáng, thời gian trở lại lúc mười một giờ đúng trong động đạo, tấm bia đá Bái Xà hiện ra sừng sững ngay trước mặt họ.



Ngọn lửa dữ dội và nóng rát phun ra từ đèn hỏa diệm nhiệt độ cao chiếu vào chính giữa tấm bia đá, có điều khoảng cách từ chỗ mọi người đứng đến cửa động nơi đặt tấm bia đá còn mấy bước chân, trong khi độ dài của vòi lửa khá ngắn, mà chữ trên tấm bia lại khắc rất sâu, bởi vậy dẫu nó bị vòi lửa hun đốt thì cũng không bị ảnh hưởng nghiêm trọng lắm.



Cao Tư Dương thất sắc, vội vàng xoay vòi lửa sang hướng khác, cô muốn tắt đèn mà không thể nào tắt được, loại đèn này phun lửa nhờ vào nguồn năng lượng pin đeo trên lưng, thời gian chiếu sáng liên tục rất ngắn, nếu không nhanh chóng tắt đèn, thì chẳng mấy chốc sẽ cạn kiệt năng lượng và hoàn toàn mất công hiệu.



Tư Mã Khôi thấy kẽ hở thông với tấm bia đá đã mở, thì không nghĩ ngợi gì nữa, anh lập tức giúp Cao Tư Dương gỡ đèn hỏa diệm trên vai, rồi vứt toẹt xuống đất, gọi hai người còn lại mau chóng chạy đến chỗ tấm bia đá. Cả hội chạy như điên, cuống quýt tay chân bò lồm ngồm lên đỉnh tấm bia đá. Bốn người gắng hết sức trèo tới nơi, lòng nghĩ thật may mắn, xem ra đôi khi ông trời vẫn còn rủ lòng thương xót, nhất định con quái vật Entroypy trong động tưởng rằng đèn hỏa diệm có thể đốt cháy hết chữ trên tấm bia, nên trong khoảnh khắc đội khảo cổ sử dụng đèn, nó đã điều khiển thời gian quay vùn vụt về chỗ gần tấm bia đá, nhờ đó đội khảo cổ vẫn còn hi vọng sống sót thoát ra khỏi tuyệt cảnh. Xem ra, vị dị thần cổ xưa này rốt cuộc chỉ là con quái vật không chết nổi mà thôi, chứ không phải thần thánh thực sự thông hiểu mọi kiếp nhân quả trên đời.



Tuy cảm thấy vô cùng may mắn, nhưng Tư Mã Khôi vẫn rất hoang mang, anh cảm giác sự việc không thể đơn giản như thế, lúc ba người còn lại đều trốn thoát và đứng trên đỉnh tấm bia, anh lấy hết can đảm quay đầu liếc nhìn phía sau, định xem vì sao cả hội chưa bị vô số bàn tay ma quái trong động thò ra túm ngược trở lại động như lần trước, nào ngờ chẳng nhìn thì chẳng sao, nhìn rồi anh thấy như bị một quả bom ném trúng đầu.




Lúc này, pin dự trữ của đèn hỏa diệm nhiệt độ cao vẫn chưa cạn kiệt hẳn, ánh lửa dữ dội chói lòa chiếu sáng choang cả động đạo, anh thấy cuộn thuốc nổ bị vứt lại lúc trước vụt hiện ra trong quầng sương đen, tuy ngòi nổ đã bị gỡ bỏ, nhưng bột thuốc nổ quân dụng màu vàng đúc đầy bên trong thì vẫn còn nguyên, ngọn lửa chiếu đúng vào vị trí cuộn thuốc và lập tức kích nổ.



Tư Mã Khôi thấy tình hình không ổn, anh cuống quýt thét gọi hội Hải ngọng nằm sấp xuống tránh luồng sóng xung kích. Tuy uy lực của cuộn thuốc nồ rất kinh người, nhưng cũng khó khiến tấm bia đá Bái Xà dày nặng thế kia sụp đổ, có điều trong động đạo âm thanh không hề bị khuếch tán, loại địa hình này càng khiến sóng xung kích của vụ nổ được khuếch đại lên gấp bội, tiếng bom nổ vang lên ầm ầm chẳng khác nào trời long đất lở.



Hội Tư Mã Khôi nằm rạp người trên đỉnh tấm bia đá tránh vụ nổ, họ nghe thấy tiếng ầm ầm không ngớt vang lên bên tai, thân thể như bị trận cuồng phong quét qua, mỗi tấc da thịt đều đau đớn không thể chịu đựng nổi, hồn gần như lìa khỏi xác, lục phủ ngũ tạng lộn nhào mấy vòng, đầu kêu ong ong, cổ họng trào ngược vị mằn mặn, tai và mũi đều ộc máu tươi, khắp người không ngừng run lên bần bật, dường như tấm bia đá Bái Xà đang rung chuyển dữ dội.



Khoảnh khắc tấm bia đá sụp xuống, Tư Mã Khôi cảm thấy hồn vía mình cũng nát vụn theo, trong lúc hoảng hốt, anh nhìn thấy một vật thể to lớn tựa như một cây cổ thụ tán lá rợp trời in hiện trong làn khói diêm tiêu, nó vươn dài tua rễ trong hắc động, giãy giụa đòi thoát ra, trên thân thể mọc vô số con mắt quái đản, xanh âm u. Có lẽ đó chính là chân tướng của Entroypy.



Ngay sau đó, sinh vật hình cây đại thụ quanh mình toàn mắt bị quầng sương đen dày đặc bủa vây xung quanh, còn bốn thành viên đội khảo cổ đang đứng trên đỉnh tấm bia đá cũng bị ngã ụp xuống đất theo luồng đất đá sụp đổ, mặt mũi dính toàn đất bụi trộn máu tươi, khó khăn lắm, họ mới giãy đạp đứng dậy được. Tấm bia đá Bái Xà trước mặt đã biến thành đống đá vụn đổ nát, không thể ráp nổi một dòng chữ cổ nào nữa.



Đầu óc Tư Mã Khôi vẫn khá tỉnh táo, anh biết phen này đúng là cả hội đã trót lấy gậy chọc rách trời mất rồi, hậu quả thực khôn lường, con quái vật Entroypy giống như loài cây viễn cổ bị mắc kẹt trong hắc động không thể thoát thân, nó liên tục sa vào vòng tuần hoàn chết đi sống lại cũng chỉ vì nhìn thấy dòng chữ cổ mà người Bái Xà khắc trên tấm bia. Bây giờ tấm bia đã hoàn toàn sụp đổ, không thứ gì trên đời có thể cản trở được nó nữa. Từ lúc xuất hiện đến lúc diệt vong, tộc người Bái Xà cổ đại đã tồn tại qua bao tuế nguyệt đằng đẵng, họ sử dụng tất cả các phương pháp mà còn không làm gì nổi Entroypy, huống chi đội khảo cổ giờ đây chỉ có mấy khẩu súng và số lượng đạn dược ít ỏi sót lại, mong gì đối đầu được với nó. Điều đáng nói hơn là, dẫu cả hội bỏ mạng ở đây



thì cũng không thể bù đắp lỗi lầm mà mình vừa gây ra, bây giờ cả hội chỉ còn một con đường duy nhất, đó là phải liều mạng chạy trốn.



Tiếng ầm ầm vẫn vang vọng bên tai, máu từ mũi và miệng mọi người cũng chưa ngưng chảy, chẳng ai có thể lên tiếng nói được câu gì, nhân lúc Entroypy chưa ra khỏi động sâu, cả hội gắng gượng bò ra khỏi đống đá ngổn ngang, cuống cuồng chạy thoát thân mặc dòng nhiệt lưu đang ùn ùn chảy đến.



Địa động nóng như cái nồi hấp, vết thương trên mình Thắng Hương Lân vẫn chưa khép miệng, chẳng chạy được bao xa cô đã gục ngã, gương mặt cắt không còn giọt máu, Thắng Hương Lân đẩy Tư Mã Khôi ra, bảo mọi người đừng lo cho mình, mau mau chạy đi.



Hội Tư Mã Khôi sao nỡ bỏ Hương Lân lại một mình, anh và Hải ngọng thay nhau cõng cô trên lưng, rồi bảo Cao Tư Dương lấy đèn quặng soi đường, tiếp tục chạy xuyên qua dãy huyệt động trùng trùng điệp điệp.




Trang thiết bị vật tư mà đội khảo cổ mang theo gần như đều đã dùng hết, ngoại trừ bình nước, súng săn, pin đèn và chút ít lương thực ra, thì trên người chẳng còn mấy thứ. Tư Mã Khôi và Hải ngọng quen chiến đấu nhiều năm ở Miến Điện, việc vác nặng hành quân trong rừng rậm nhiệt đới là chuyện bình thường như cơm bữa, có điều sức người có hạn, chạy được một đoạn, họ phải dừng lại nghỉ một hồi, may nhờ trước đây người Bái Xà đặt rất nhiều khối đá tảng to lớn ở trong đường hầm dẫn vào miếu thần nên chúng cũng khiến tốc độ Entroypy bò từ vực sâu ra ngoài giảm xuống kha khá.



Mọi người tháo chạy đến gần cổng vào thông đạo, thì thính giác dần dần phục hồi, nhưng chân không thể lết thêm được nữa. Tư Mã Khôi đành bỏ Thắng Hương Lân đang hôn mê xuống bên cạnh, tạm thời dừng bước thở hổn hển. Đúng lúc này, bên tai anh văng vẳng tiếng sinh vật khổng lồ đang di chuyển từ xa lại gần chỗ mọi người, có lẽ Entroypy đang bám đuổi theo sau, trong thông đạo dẫn đến miếu thần có rất nhiều tảng đá to, mới khiến hành động của nó chậm lại đôi chút, nhưng một khi đã ra khỏi miếu thần, thì phía trước sẽ là con đường hầm dài dặc nối liên thông từ ngọn núi này sang ngọn núi kia, địa hình trong đó vô cùng thoáng đãng, bằng phẳng, có chạy trốn được ra ngoài, thì cả hội cũng bị Entroypy đuổi kịp và nuốt chửng mà chẳng tốn mấy thời gian.



Hải ngọng tuyệt vọng đến tột cùng, anh nắm chặt khẩu súng săn chỉ còn sót lại ba viên đạn ghém, rồi quay sang bảo Tư Mã Khôi: “Tớ ở lại chặn nó, các cậu nhân cơ hội này mau chạy đi, sống được người nào hay người đó!”



Khi nãy Cao Tư Dương đã thấp thoáng nhìn thấy hình dạng của sinh vật khổng lồ ẩn hiện trong hắc động, cô khiếp đảm nói với với Hải ngọng: “Súng đạn không thể đối phó được thứ này đâu, nó sống hàng vạn năm mà không chết, chỉ e chẳng ai biết nó là loại quái vật gì, mấy người chúng ta khác nào con kiến trước mũi nó, anh có liều mình ở lại cũng chỉ vô nghĩa thôi…”



Hải ngọng nói: “Hay chúng ta phân tán lực lượng, đột phá vòng vây, chứ chẳng lẽ ngồi đợi nó đến đớp một miếng hết cả lũ sao?”



Cao Tư Dương nói: “Các anh có nhớ quả cầu sắt khổng lồ trong Tử thành không? Nó có thể đưa người ta vào cơn ác mộng quái dị vô cùng vô tận, chẳng biết nó nhốt được con quái vật này không nhỉ?”



Tư Mã Khôi trầm ngâm suy nghĩ một hồi, rồi bảo: ‘Tử thành cách đây xa quá, sợ không kịp, chúng ta phải tìm cách dụ nó đến đầm lầy dạ quang. Đó là cơ hội cuối cùng của chúng ta”.



Lúc trước, khi bị nhốt trong động không đáy, Tư Mã Khôi đã tiên liệu trước việc tấm bia đá sụp đổ nhất định sẽ xảy ra, bởi vậy lòng anh cũng đã trù tính sẵn. Bây giờ nghĩ lại, anh thấy, khối cầu sắt khổng lồ nằm trong tòa Tử thành chất đầy xương khô đúng là có khả năng khiến ý thức của sinh vật sống bị chìm vào ác mộng, nếu không bị tác động của lực bên ngoài, thì kẻ bước chân vào thành sẽ mãi mãi chịu trói trong cơn ác mộng, không cách gì thoát ra nổi, nhưng chắc chắn nó cũng không thể cản trở được Entroypy, nó chỉ có thể nhốt giữ âm hồn, không cho Entroypy nuốt chửng mà thôi, nếu không người Bái Xà cồ đại đã không đặt nó trong Tử thành. Huống hồ, sau khi đội khảo cổ thoát ra khỏi Tử thành, cả hội đã đi không biết bao nhiêu ngày đêm trong đường hầm dưới lòng đất mới tới được miếu thần. Giờ làm sao mà lập tức tới đó được, nước xa đâu cứu được lửa gần.



Trong khi đó, giữa đường hầm đi xuyên qua dãy núi dưới lòng đất tồn tại một dải đầm lầy dạ quang kéo dài mấy kilomet, lúc đó nghe Thắng Hương Lân nói, đây là đầm lầy được hình thành do sự tích tụ của các vật chất hóa hợp và chịu quá trình xâm thực của hồ axit sulfuric, niên đại hình thành chắc chưa đến hai ngàn năm, nó phân bố ở khá nhiều thực vật phát quang hiếm gặp và loài đom đóm khổng lồ nằm ẩn mình trong hang động, địa chất ở đó rất xốp và yếu, lớp bùn trên bề mặt chỉ cần giẫm nhẹ là lún xuống, người đi lên còn tạm qua được, nhưng nếu Entroypy bò qua đầm lầy, thì nhất định sẽ bị lún sâu xuống hồ axit, nó sẽ bị lượng axit đậm đặc vô cùng vô tận dưới lòng đất ăn mòn đến hoại mục, dẫu nó không ngừng phục hồi nguyên dạng, thì cũng vĩnh viễn không thể ra khỏi đó.




Hải ngọng và Cao Tư Dương nghe xong liền gật đầu liên tiếp, tuy trước mắt, họ chưa thể giải thích nổi Entroypy rốt cuộc là thứ gì, nhưng một điều có thể chắc chắn, nó là sinh vật sống tồn tại dưới dạng vật chất, nên chỉ cần nó rơi vào đầm lầy dạ quang axit, thì chắc chắc sẽ bị lún sâu xuống đó, không thể thoát ra nổi.



Thấy có tia hi vọng, tinh thần mọi người phấn chấn hẳn lên. Tư Mã Khôi lập tức cõng Thắng Hương Lân đi xuyên qua tường ngoài của miếu thần, chạy một mạch vào đường hầm dưới các dãy núi, địa thế trước mắt càng lúc càng khoáng đạt, phía xa đã là đầm lầy dập dềnh ánh sáng trải dài thành một dải, uốn lượn như dải ngân hà vô bờ lạc xuống chốn hoang tàn bao la.



Nhờ ánh sáng đom đóm trôi nổi giữa không trung, Cao Tư Dương nhìn thấy khe hở trong lòng núi, cô không khỏi lo lắng khi nghĩ con quái vật hình cây cổ thụ khổng lồ kia sẽ trèo thẳng lên đó để thoát ra ngoài, sau đó trốn vào nơi sâu dưới lớp vỏ Trái đất nuốt chửng các sinh linh, hậu quả này thực không dám nghĩ tiếp.



Tư Mã Khôi suy đoán, Entroypy không thể ngờ cả hội có thể trốn chạy xa như thế, mà đội khảo cổ lại biết quá nhiều bí mật, nên chắc chắn nó không cho phép bốn người có thể sống sót, dẫu cả hội cũng chẳng thể thoát khỏi nơi tận cùng lòng đất này, thì nó cũng nhất quyết phải nuốt chửng mọi người bất kể còn sống hay đã chết vào bụng thì mới yên lòng, bởi vậy, chắc chắn nó sẽ đuổi theo mọi người đến đầm lầy dạ quang.



Mọi người mải miết chạy, họ đã mệt muốn đứt hơi mà vẫn phải cố gắng chạy tiếp. Cuối cùng, cả hội đã tới rất gần đằm lầy dạ quang, ai nấy vội vã lấy khăn che mũi lại, bất chợt phía sau vang lên tiếng động nghe như tiếng gỗ mục bị giẫm gãy, tiếng động nhanh chóng áp sát họ. Đội khảo cổ quay đầu lại thì thấy sương đen giăng kín đến vô tận, bên trong đậm đặc mùi tử khí nặng nề.



Hội Tư Mã Khôi thầm kinh hãi, lập tức vắt chân lên cổ chạy qua đầm lầy, họ nghe âm thanh như tiếng gỗ mục càng lúc càng gần hơn, dường như chỉ cần quay đầu lại là thấy trăm ngàn con mắt quái dị, nhưng lúc này chẳng ai dám nhìn lại phía sau, ai nấy điên cuồng chạy, chỉ mong vượt qua được đầm lầy. Đột nhiên, họ thấy dưới chân mình bỗng mềm nhũn, rồi cả thân người đồ ụp xuống đất, thì ra không biết tự lúc nào mặt đất bắt đầu nghiêng dần về phía sau và chìm lún, đám thực vật dạ quang gần đó cũng nghiêng ngả theo, bầy đom đóm ẩn mình trong hang động như thể cũng cảm thấy đại nạn sắp ập xuống, chúng cuống cuồng túa ra bay tán loạn khắp nơi.



Cả hội quay đầu lại, thì thấy đầm lầy dạ quang phía sau đang chìm dần xuống dưới, xem ra tầng bùn đất tích tụ bên trên đầm lầy không thể chịu nổi trọng lượng cơ thể của Entroypy, cả khu đầm dần dần chìm xuống mặt hồ chứa đầy axit sulfuric, từng mảng, từng mảng một. Quầng sương đen trải rộng vô cùng vô tận đó cũng bị chìm sâu, không thể giãy giụa thoát ra nổi, nơi nó lún xuống giống như một hố xoáy nạm đầy dạ quang lấp lánh, ở giữa là hố động đen ngòm không đáy đang ngoác ra nuốt chửng không gian.



Lúc này, mọi người có chắp cánh cũng khó lòng thoát thân, trước hố xoáy khổng lồ đó, bốn thành viên đội khảo cổ bé nhỏ chẳng khác nào con sâu cái kiến, họ còn biết làm gì hơn ngoài nín thở và nhìn chằm chằm vào cảnh tượng tuyệt vọng đang diễn ra trước mắt. Họ chìm dần vào vực sâu cùng với cả mảng đầm lầy.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 206: Hồi 4: nuốt chửng


Hội Tư Mã Khôi sức cùng lực kiệt, mắt trừng trừng nhìn mình lún dần vào hắc động cùng với đầm lầy, trong cơn tuyệt vọng tận cùng, anh thầm nghĩ: “Thì ra tất cả chúng ta đều chết ở đây”, có điều nơi sâu nhất dưới lòng hồ của đầm lầy dạ quang chính là vùng đất vạn kiếp không thể siêu sinh, dùng tính mạng của mình mà dụ được Entroypy vào đây, thì anh nhắm mắt cũng an lòng.



Lúc này, đèn quặng của cả hội đột nhiên tối sầm lại, thảm thực vật phát sáng như thể bị dòng nước triều đen ngòm nuốt chửng, trước mắt họ tối như bưng, đầu óc cũng tự nhiên trở nên trống rỗng, chẳng thể suy nghĩ gì thêm nữa.



Cả hội mê man không biết bao nhiêu lâu, mãi họ mới dần dần tỉnh lại, thấy trên người như bị đúc đầy bi chì nặng trịch, không thể động cựa nổi.



Hồi lâu sau, Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Cao Tư Dương mới cắn răng đứng dậy, còn Thắng Hương Lân vẫn mê man bất tỉnh, gương mặt cô trắng bệch, hơi thở vô cùng yếu ớt.




Ba người rất lo lắng, trong bình quân dụng của Cao Tư Dương vẫn còn chút nước sạch, cô liền mang đến đổ vào miệng Thắng Hương Lân.



Để tiết kiệm pin đèn khỏi tiêu hao, mọi người chỉ bật một ngọn đèn quặng để quan sát địa hình xung quanh, hình như cả hội đang đứng dưới đáy một động huyệt, xung quanh là những vách đá phủ đầy rêu rong, trên mặt đất mọc nhan nhản loại nấm cỏ, trông rất giống loài nấm cục, trong đó còn có cả địa nhĩ, nấm hoàng sơn… những cụm nấm vân chi giống như những chiếc ô cao quá đầu người, chúng mọc thành tầng tầng lớp lớp đan xen vào nhau. Giữa đám cỏ thi thoảng lại có vài con đom đóm đuôi dài bay túa ra, lượn lờ lởn vởn như những u hồn, hình dạng rất ư kỳ quái.



Hải ngọng đang đói meo, vừa nhìn thấy nấm anh đã thèm nhỏ dãi, trước đây anh từng ăn loại nấm này, bây giờ trên người chẳng còn bao nhiêu lương khô, nên định hái mấy miếng cho vào miệng để thỏa cơn đói.



Tư Mã Khôi vội giữ bàn tay đang thò ra của Hải ngọng, cảnh báo: “Đừng sờ mó lung tung, cậu không để ý thấy chỗ này rất kỳ lạ sao? Không biết cái động này ở đâu à?”



Hải ngọng ngẫm nghĩ hồi lâu, bảo: “Tớ chỉ nhớ chúng ta không ngừng bị lún sâu xuống đàm lầy, lúc mở mắt ra thì đã ở đây, hồi trước chúng ta từng đến nơi này rồi sao?”



Cao Tư Dương hiểu ý Tư Mã Khôi, cô kinh ngạc thốt lên: “Chẳng lẽ chúng ta bị thứ trong sương đen nuốt vào bụng rồi ư?”



Tư Mã Khôi gật đầu, lòng nghĩ quá nửa là vậy, đội khảo cổ dụ Entroypy đến đầm lầy, lúc bị lún xuống, nó đã kéo mọi người vào trong quầng sương đen, bụng nó có vẻ giống một huyệt động không đáy, đồng thời nó còn có thể tự do điều chỉnh thời gian trong động theo ý mình, bên ngoài có thể chỉ là một giây, nhưng ở trong động, một giây đó lại biến thành dài rộng đến vô hạn, xét theo khía cạnh nào đó, thì điều ấy đồng nghĩa với việc thời gian đã dừng lại.



Cao Tư Dương cũng có một chiếc đồng hồ cơ, hàng Thượng Hải, từ lúc lênh đênh trên thủy thể 30° vĩ Bắc, cô vẫn chưa lên giây cót, bởi vì dưới lòng đất không nhìn thấy ánh mặt trời, thời gian cũng đâu có ý nghĩa gì, mãi đến khi đội khảo cổ liên tiếp trải qua bao nhiêu việc quái dị xảy ra phía sau tấm bia đá, thì cô mới biết thời gian chính là điểm tham chiếu vô cùng quan trọng, bấy giờ cô mới lên giây cót, lúc này nhìn lại thấy kim đồng hồ vừa vặn chỉ đến con số 2: 30, đồng thời kim vẫn hoạt động bình thường theo nhịp điểm của thời gian.



Tư Mã Khôi cảm thấy tứ bề yên ắng đến lạ kỳ. Anh đoán, thời gian trong Entroypy ngừng lại ngay sát na nó bị rơi xuống đầm lầy và vẫn chưa bị chìm xuống đáy hồ axit sulfuric. Điều kỳ lạ là sau khi bị Entroypy nuốt chửng vào bụng, đội khảo cổ vẫn không hề chết, vậy sao thứ đó lại không ăn thịt cả hội cơ chứ? Lẽ nào nó còn muốn lợi dụng họ để thoát ra khỏi vùng đầm lầy đang bị lún xuống hồ sâu hay sao? Nhưng thuốc nổ và đèn hỏa diệm nhiệt độ cao của đội khảo cổ đều đã sử dụng hết, dẫu nó có thể khiến mọi thứ trong động không đáy trở về nguyên dạng như ban đầu, thì những vật đã sử dụng cũng không thể xuất hiện lại lần nữa. Bao nhiêu nghi vấn đó chỉ e phải đợi khoảnh khắc thời gian quay ngược mới có thể tìm ra đáp án.




Mọi người chạy đến đầm lầy đom đóm, thì nghĩ rằng mình phen này chết chắc, nào ngờ cả hội lại lần nữa rơi vào động không đáy. Entroypy bị tấm bia đá nhốt từ ngàn năm trước khó khăn lắm mới thoát thân ra khỏi hắc động, làm gì có chuyện nó cam tâm rơi xuống nơi vạn kiếp không thể siêu sinh ở nơi sâu dưới lòng đầm? Ba người suy đoán mấy khả năng, nhưng vẫn không tìm được manh mối nào, càng không biết tiếp đến mình sẽ gặp phải cảnh ngộ gì. Mọi người chỉ biết chuẩn bị súng ống đạn được để đề phòng bất trắc có thể xảy ra.



Tư Mã Khôi nhìn Thắng Hương Lân vẫn đang hôn mê, thầm nghĩ: “Tư duy của Thắng Hương Lân lúc nào cũng rành mạch, rõ ràng, giá giờ đây có cô ấy ở bên và giúp cả hội đưa ra một ý kiến thì hội ta cũng đâu đến nỗi lúng túng thế này, chỉ mong người tốt sẽ gặp điều lành, cô ấy không được chết trong động không đáy này”.



Tư Mã Khôi định thần lại, anh lấy khẩu súng Walther P38 của Thắng Hương Lân khoác lên người mình. Khẩu P38 là khẩu súng còn nhiều đạn nhất lúc này, anh vứt khẩu Winchester 1887 của mình đi, rồi đưa toàn bộ số đạn còn lại cho Cao Tư Dương, đếm thấy còn lại đúng mười viên, đạn ghém cỡ tám trong khẩu súng săn hai nòng Canada của Hải ngọng chỉ còn ba viên, đến khi đạn dược hoàn toàn hết sạch, thì đội khảo cổ chỉ còn cách sử dụng dao săn.



Ba người chia nốt số lương khô cuối cùng ra ăn cho đỡ đói, không có nước, cả hội đành nhuộm nhoạm nhai và cố nuốt chỗ lương khô ấy, vì họ đều sợ nếu ăn thứ dưới âm gian thì sẽ trở thành một bộ phận của âm gian, nên họ thà chịu chết đói chứ không dám động đến đám thực vật trong động, đề phòng bị Entroypy khống chế trở thành con rối của nó.



Hải ngọng đã phục hồi thể lực đôi chút, anh vừa ăn vừa hỏi Tư Mã Khôi: “Đèn quặng chỉ duy trì được thêm mấy tiếng nữa, nếu trước mắt hoàn toàn tối như hũ nút, chả nhìn thấy cái gì vào cái gì, thì dẫu chúng ta có cao siêu hơn nữa cũng chẳng thi triển đằng trời được, vì thế bây giờ chúng ta phải mau bàn bạc, tính toán xem bước tiếp theo nên đi thế nào!”



Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, đội khảo cổ bị Entroypy nuốt chửng vào bụng, nghĩa là họ vẫn còn giá trị để cho nó lợi dụng, nếu hình dung Entroypy là cái động không đáy, thì nó chỉ có thể kéo dài thời gian trong động không đáy ra vô hạn, thậm chí có thể khiến mọi vật trong động khôi phục lại nguyên dạng ban đầu, nhưng nó lại không thể thay đổi được thời gian bên ngoài động, điều đó cũng có nghĩa là việc Entroypy rơi xuống đầm lầy là sự thực đã xảy ra, bất kể sức mạnh nào cũng không thể thay đổi được sự thực ấy, còn việc đội khảo cổ rơi vào trong động không đáy như thế này là do thời gian đã bị dừng lại tại khoảnh khắc Entroypy vừa rơi xuống đầm lầy.



Dựa vào lý thuyết trong tướng vật và bí kíp biệt bảo, Tư Mã Khôi suy đoán, rất có khả năng con quái vật toàn thân mọc mắt với hình dạng giống như cây đại thụ kia là một loài sinh vật từ thời viễn cổ, nó thoát ly khỏi phạm trù tiến hóa, hay nói cách khác nó đã tiến hóa đến đỉnh điểm, đủ khả năng để không ngừng tự mình tái sinh ra bộ phận mới, thay thế cho cơ thể bị hỏng và chết đi. Phần lớn thi thể và linh hồn người chết mà tộc Bái Xà cổ đại chất đống trong động đều bị nó nuốt chửng, rồi hợp nhất thành một thể, nó khiến khối thịt người khổng lồ đó mang theo dòng điện trường sinh học cực mạnh, giống như một cỗ máy điện đàm công suất cao, có thể kết nối với hắc động của thế giới hư vô. Mọi sự vật trong hắc động chưa hẳn thực sự tồn tại, hoặc giả có thể nói, mọi cảm giác này đều là do ý thức của đội khảo cổ bị cỗ máy đó ảnh hưởng, giống như lúc đội thám hiểm ở thành Nhện Vàng trong khe núi Dã Nhân, Miến Điện, vì trong đội thám hiểm có “gian phòng” của tổ chức Nấm mồ xanh ẩn nấp, mới dẫn tới việc mọi người cứ tưởng Nấm mồ xanh thực sự xuất hiện ngay trước mặt mình, trong khi đó dòng điện trường sinh học của bản thân Entroypy còn mạnh gấp nhiều lần Nấm mồ xanh – một bộ phận cơ thể của nó – bởi vậy mọi sự việc mà đội khảo cổ tiếp xúc trong động không đáy, bao gồm cả tên “Nhị Học Sinh” chết đi sống lại hết lần này đến lần khác, cả đội quân sên trần và cả thần điện, tất cả đều chỉ là sóng điện u hồn, chúng không hề tồn tại trong thực tế, chỉ có hành động của đội khảo cổ là điều đã xảy ra thực sự. Đây chính là năng lực của vị thần cổ xưa này.



Hải ngọng nghe Tư Mã Khồi nói suy đoán của mình, anh thấy chín mươi phần trăm sự thật chính là như vậy, bây giờ Entroypy đã sa chân vào đầm lầy dạ quang, đợi khi nó rơi xuống tới đáy thì dẫu không thể chết cũng vĩnh viễn chẳng thể thoát ra nổi, chỉ riêng với kết quả ấy thôi, cho dù chúng ta có chết bao nhiêu lần chăng nữa, cũng coi như đã lấy lại được hết vốn, có điều nếu vẫn còn sống thì không thể khoanh tay ngồi đây đợi chết, anh liền bảo với mọi người: “Tôi thấy địa thế hang động này thoai thoải theo chiều đi xuống, nói không chừng cứ xuôi theo sườn dốc sẽ phát hiện thấy manh mối gì cũng nên, các cậu đừng ủ rũ như gà mắc mưa thế nữa, đây đã phải nơi sơn cùng thủy tận đâu, trước đây đội khảo cổ từng khốn đốn mắc kẹt trong vòng tròn quái dị ở 30° vĩ Bắc, nơi đó hung hiểm đến chừng nào mà bọn ta vẫn thoát thân ra như thường đấy thôi!”




Tư Mã Khôi cho rằng, không bao giờ thay đổi được những chuyện đã xảy ra, việc đội khảo cổ có thể sống sót thoát khỏi kiếp nạn này thật chẳng khác gì nằm mơ, vòng tròn quái dị ở 30° vĩ Bắc làm sao có thể so sánh được với huyệt động không đáy này, có điều cả hội cũng phải cố hết sức để tự cứu lấy mình, người xưa có câu “sống chết tại trời”, nhưng còn có câu “phúc lớn tránh đại nạn”, đừng lúc nào cũng đau đáu nghĩ tới hai chữ “rủi ro”, cả hội sống được đến ngày hôm nay chẳng phải phúc dày mạng lớn lắm hay sao? Anh thực sự không muốn chết ở nơi mà ngay thi thể và linh hồn mình đều bị Entroypy nuốt chửng, lúc này mà cứ ngồi đây suy nghĩ linh tinh, rồi đoán già đoán non thì cũng chẳng gặt hái được kết quả gì, chi bằng thử làm theo lời Hải ngọng, đi tiếp về phía trước xem sao, nghĩ vậy anh quay sang hỏi Cao Tư Dương xem cô có thể gắng gượng đi tiếp hay không?



Cao Tư Dương gật đầu thật mạnh, biểu thị mình vẫn có thể tiếp tục hành động. Tuy cô cũng cảm thấy tuyệt vọng, nhưng nhìn Tư Mã Khôi và Hải ngọng dường như không hề lo lắng trước hoàn cảnh trước mắt, lòng cô cũng vững vàng hơn ít nhiều. Cô cúi xuống kiểm tra tình hình sức khỏe của Thắng Hương Lân, sau đó nai nịt phần ống quần thật chắc chắn, rồi lên đạn khẩu MP3 8.



Tư Mã Khôi phân công Hải ngọng cõng Thắng Hương Lân, rồi dặn dò mọi người không được đi cách nhau quá một cánh tay, ngoài ra cần phải tiết kiệm đạn dược, nếu chưa đến bước đường cùng thì tuyệt đối không được nổ súng, sắp xếp xong xuôi, anh đi sau cùng đề phòng bất trắc, cả hội rẽ bụi nấm cỏ và linh chi rậm rịt, lần mò từng bước hướng về phía sâu trong huyệt động. Dọc đường đi, mọi người lại bắt thêm mấy con đom đóm đuôi dài để làm vật chiếu sáng.



Loài côn trùng phát sáng ẩn nấp dưới lòng đất này cũng bị Entroypy nuốt vào trong bụng, nó biến mất rồi phục hồi theo quá trình quay ngược của thời gian trong động không đáy, có lẽ chỉ vài tiếng sau, chúng sẽ lần lượt chết đi, nhưng cho chúng vào hộp thiếc rỗng thì cũng có thể thay thế được đèn quặng một thời gian, chỉ có điều ánh sáng của nó khá yếu ớt, phạm vi chiếu sáng hẹp hơn đèn quặng rất nhiều.



Mọi người xuôi theo địa thế của hang động, đi xuyên qua rừng nấm muôn hình vạn trạng, ngoại trừ mấy con đom đóm lác đác, thì cả hội không nhìn thấy bất kỳ sinh vật nào khác tồn tại ở đây, tứ phía tối thui và đặc biệt yên ắng, cảm giác như không khí nơi đây cũng đông đặc bất động, thấy vậy mọi người càng cảm thấy bất an. Hội Tư Mã Khôi không dám bất cẩn, tay nắm chặt khẩu súng, từng bước tiến sâu hơn, vì ở trong bóng tối nên cả hội chẳng hiểu mình đã đi được bao xa. Cao Tư Dương đi trước dẫn đường, đột nhiên cô phát hiện một cánh cửa đá rất to lộ ra trong lùm nấm, ánh sáng yếu ớt chỉ chiếu được phạm vi cách xa vài bước, hơn nữa lại bị lùm nấm Vân Chi gần đó che khuất tầm mắt, nên mọi người không nhìn thấy gì nhiều. Cả hội đứng trước khe hở của cánh cửa đá đang rộng mở, hai bên và trên đầu tối om, nhưng mọi người vẫn có thể cảm nhận được quy mô của cánh cửa đá to lớn vượt quá sức tưởng tượng.



Hải ngọng đặt Thắng Hương Lân xuống, anh xách súng săn, bật đèn quặng lên, nơi ánh sáng có thể soi đến chỉ thấy bóng tối trải dài đến vô tận, không gian phía sau cánh cửa đá sâu hun hút, trên vách đá phủ lớp rêu khô rất dày, chẳng ai biết đây là đâu.



Tư Mã Khôi giơ tay sờ vách đá ở cửa động, anh giật thót người, không hiểu vì nguyên nhân gì mà anh cảm thấy sự tồn tại của huyệt động này vô cùng chân thực. Ban đầu, đội khảo cổ đi xuyên qua tấm bia đá Bái Xà, lần đầu bị nhốt trong động không đáy, rồi gặp hàng loạt chuyện kỳ bí tuy rằng cũng giống như thật, nhưng chúng đều vô cùng quái dị và sặc mùi tử khí, không thể che đậy cũng chẳng thể xua tan. Nhưng sao cánh cửa đá mà mọi người vừa phát hiện lúc nãy lại đem đến cảm giác “chân thực” một cách mạnh mẽ đến vậy? Rốt cuộc nó dẫn đến nơi nào?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 207: Hồi 5: cõi mê


Tư Mã Khôi phát hiện trong huyệt động sâu hút mắt này, ngoại trừ bốn thành viên đội khảo cổ và loài côn trùng phát sáng nơi đầm lầy ra, thì ở đây còn có một cánh cửa bằng đá bị che khuất giữa lùm nấm rậm rạp, đó là vật thể tồn tại ngoài cõi thực.



Có điều anh không thể đưa ra được bất kỳ chứng cứ gì để trực tiếp xác thực, tất cả chỉ là sự mách bảo của trực giác, cảm giác này tương tự lúc anh gặp Nhị Học Sinh trong động đạo, tuy gã đó có máu, có thịt, còn có cả hơi thở giống như người sống, nhưng Tư Mã Khôi luôn quả quyết rằng, hắn chính là thứ bị tấm bia đá nhốt nơi tận cùng địa mạch biến thành. Cả tòa đại điện đèn đuốc sáng trưng và khảm thần đặt trong đó nữa. Tất cả những thứ đó luôn váng vất hơi thở quái dị đến khó lòng hình dung. Bây giờ nghĩ lại anh mới thấy trăm ngàn ngọn nến trường minh vạn năm không tắt ấy thực ra chính là những con mắt của Entroypy. Trong khi đó, cánh cửa đá này đem đến cho anh cảm giác hoàn toàn khác, nó không thuộc về động không đáy, có lẽ nó là di chỉ mà người Bái Xà cổ đại lưu lại trong Entroypy.



Mọi người không cam tâm bó gối đợi chết, họ quyết tâm đi vào huyệt động phía sau cánh cửa đá đó thăm dò tình hình, xem bên trong có thứ gì, sau đó mới quyết định bước hành động tiếp theo. Hải ngọng lập tức cõng Thắng Hương Lân lên lưng, Tư Mã Khôi xách hộp thiếc đựng đầy đom đóm đi trước dẫn đường, cả hội xuyên qua khe hở của cánh cửa khổng lồ, đi mãi vào trong.



Cao Tư Dương nắm chặt cây súng. bám sát sau lưng Tư Mã Khôi, tuy ánh sáng đom đóm yếu ớt và phạm vi chiếu sáng khá hẹp, nhưng cả hội vẫn không khỏi ngạc nhiên trước vẻ cao lớn hùng vĩ của cánh cửa đá, mấy người đi qua khe cửa mà thấy như thể đang xuyên qua một khe cốc hẹp.



Sau khi vào phía trong cánh cửa, mọi người mới phát hiện nơi mình đang đứng là một gian động thất, vách đá bằng phẳng, mặt đất phủ lớp rêu dày, ngoại trừ phiến đá nằm chỏng trơ, đơn độc ở giữa ra thì xung quanh trống trơn. Không hề có đồ vật gì khác, phía cuối gian còn có một cách cửa hình vòm, nằm chìm trong tường, xem ra từ đó có thể đi vào sâu hơn nữa.



Hội Tư Mã Khôi phát hiện trên phiến đá trong động có hình vẽ, liền xúm lại xem. Khi bóc lớp rêu khô phủ bề mặt đi, dưới ánh sáng nhờn nhợn của đom đóm, Tư Mã Khôi thấy đó là hình vẽ tô tem vị thần cổ xưa hình cây khổng lồ. toàn thân mọc chi chít con mắt quái dị, có mắt nhưng không thể nhắm lại, có bụng nhưng không có lục phủ ngũ tạng, nó bất tử bất diệt và đang ngơ ngác chào đời giữa hư vô mông muội, giữa hỗn độn vạn vật. Xung quanh đó toàn là thi thể người và dã thú, khắp nơi cỏ lá héo khô tự thủa nào, tuyệt không thấy bong dáng con người, bức họa được điêu khắc vô cùng tinh tế và tỉ mỉ, toát ra vẻ thần bí khó diễn tả bằng lời.




Cao Tư Dương rất kinh ngạc, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Bức họa này mô tả sự ra đời của Entroypy à?”



Tư Mã Khôi gật đầu, anh giải thích thêm: “Cổ nhân thường mang những chuyện cũ khắc thành tranh để lưu lại cho hậu thế”, nói xong, anh lại chăm chú quan sát phía trên và phía dưới phiến đá thêm mấy lượt nữa, nhưng không phát hiện điểm gì bất thường. Động thất tuy lớn, nhưng chỉ có phiến đá và những hình vẽ cổ khắc trên nó, ngoài ra, không tìm thấy bất kỳ vật nào khác.



Hải ngọng nói: “Nếu sớm tìm ra hình vẽ khắc trên phiến đá thì chúng ta đã không mất công chạy xa lắc xa lơ xuống lòng đất, rồi chui đầu vào rọ chịu chết thế này, bây giờ mới xem thì còn tác dụng mẹ gì nữa?”



Cao Tư Dương đề nghị: “Hình như phia sau động thất này vẫn còn không gian khác nữa, không rõ bên đó có gì, hay chúng ta sang xem rồi bàn sau?”.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng có ý đó, vậy là cả hội liền sang gian bên cạnh, vừa nhìn đã thấy kết cấu và vẻ ngoài của gian này rất giống gian trước đó, trên mặt đất cũng có phiến đá khắc hình vẽ. Bức họa khắc trên phiến đá thứ hai này vẽ một cảnh tượng khủng khiếp – Entroypy đang nuốt chửng vạn vật, phía dưới có vô số người Bái Xà cổ đại quỳ rạp xuống đất cầu xin.



Lúc này, mọi người mới biết, các hình vẽ khắc trên phiến đá có nội dung liên quan với nhau, động thất này có lẽ vẫn chưa phải gian cuối cùng, mà còn có thể tiếp tục vào sâu hơn nữa. Bức tranh vẽ trên phiến đá trong gian động thất thứ ba vẽ cảnh người Bái Xà cổ đại tôn Entroypy làm thần sống, mấy vị vương gia đều đội trang sức hình cây cổ thụ khổng lồ trên đầu và liên tục hiến người sống vào trong động làm vật tế thần.



Những ghi chép liên quan đến Entroypy, hội Tư Mã Khôi đều đã biết từ trước, nên giờ không ai thấy lạ lẫm hay bất ngờ với nội dung này, nhưng cả hội không thể nghĩ ra nguyên do vì sao lại có những phiến đá khắc hình vẽ kia? Rốt cuộc nơi đây còn bao nhiêu phiến đá như thế nữa? Vì sao chúng lại được phân chia và đặt trong các gian động thất khác nhau? Liệu những bức họa phía sau còn ẩn giấu bí mật động trời nào nữa chăng?



Nghi vấn trong lòng mỗi lúc một nhiêu thêm, nên mọi người chỉ xem lướt qua, rồi vội vàng đi tiếp vào gian trong.



Dọc đường, Cao Tư Dương vẫn đặc biệt để ý đến kim đồng hồ, cô thấy thời gian chưa hề xuất hiện sự thay đổi khác thường nào.



Cả đoàn rào bước nhanh hơn vào gian động thất đặt bức tranh thứ tư. Bức họa này vẽ hình người Bái Xả xây miếu thần cho Entroypy, tôn tô tem cây cổ thụ và rắn bay lâm lưỡng thần, đồng thời mô tả Entroypy giống như một hắc động giữa hư vô. Thi thể và linh hồn của người Bái Xà cổ đại sau khi chết đi đều được đưa vào trong động và bị vị thần cổ xưa ăn mất. Kiếp người vốn “sinh tử vô thường”, nhưng ai được Entroypy nuốt chửng sẽ không bao giờ phải chết thêm lần nữa, bởi vì kể từ đó họ đã trở thành một bộ phận của động không đáy, con đường dẫn tới cõi trường sinh thực ra chính là cái chết vĩnh viễn.




Phiến đá thứ năm ghi lại câu chuyên người Bái Xà cổ đại lừa dị thần Entroypy. Họ dùng tấm bia khắc lời nguyền chết chóc để nhốt Entroypy vào nơi tận cùng của địa mạch.



Do khắp người con quái vật hình cây cổ thụ khổng lồ này mọc toàn những con mắt không bao giờ khép lại, nên những bộ phận nhìn thấy tấm bia đá của nó sẽ lập tức khô quắt và chết, nhưng phần còn sống tiếp tục tái sinh, thay thế cơ thể bị hoại tử trước đó, nhưng khi vị thần cổ hoàn toàn sống lại thì nó lại nhìn thấy tấm bia đá và chết đi lần nữa. Từ đó, nó chìm sầu vào vòng xoáy sinh tử và không thể tự mình thoát ra nổi.



Mọi người xem một mạch đến phiến đá thứ sáu. Đó là cảnh tượng xảy ra sau khi người Bái Xà cổ đại dùng tấm bia đá nhốt vị thần cổ trong hắc động, họ cũng không tránh khỏi kiếp nạn của đất trời, đa số người Bái Xà bị hồng hoang nuốt chửng, tàn nhánh ít ỏi sống sót cũng dần dần diệt vong.



Hải ngọng sốt ruột, anh thấy đội khảo cổ đã biết hết những chuyện này, giờ xem đi xem lại phỏng có ích gì?



Tư Mã Khôi lại cảm thấy bức họa khắc trên các phiến đá rất bất thường. Sau khi người Bái Xà cổ đại dựng tấm bia đá, thì họ mới bị tổn hao nguyên khí do ảnh hưởng của chiến tranh, rồi lại bị hồng hoang nuốt chửng dẫn đến họa diệt vong, còn những bức họa trong động thất này rõ ràng xuất hiện trước khi người Bái Xà dựng bia đá. Từ bức họa thứ năm trở đi, thì cảnh tượng được vẽ hoàn toàn chưa xảy ra. Vì sao những tiên đoán về chuyện người Bái Xà cổ đại sẽ trải qua lại xuất hiện trước ở đây như vậy?



Hải ngọng bừng tỉnh ngộ: “Ừ nhỉ! Sao tớ không nhận ra điều này, sao xảy ra chuvện đó được?”



Cao Tư Dương ngạc nhiên quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Ai có thể biết trước chuyện chưa hề xảy ra? Lẽ nào đây là lời tiên tri mà người Bái Xà cổ đại để lại cho hậu thế?”



Ngay lúc này, Tư Mã Khôi cũng không thể đoán nổi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, điều quan trọng nhất là anh luôn cảm nhận được một cách vô cùng mạnh mẽ về sự tồn tại của gian động thất này. không giống như lúc cả hội thâm nhập tòa thạch điện đèn đuốc sáng trưng trong hắc động, ở đó từ trong ra ngoài đều bốc mùi tử khí từ hư vô. Không rõ liệu đây có phải là di tích mà người Bái Xà cổ đại để lại trong động không đáy? Sao ở đây lại có các bức họa miêu tả những việc chưa hề xảy ra vào thời điểm đó? Lẽ nào giữa cõi âm gian này lại thực sự tồn tại sức mạnh thấu hiểu mọi tiền nhân hậu quả trên đời? Bức họa trên phiến đá tiếp theo liệu sẽ ám thị những bí mật gì?



Mọi người bị lòng hiếu kỳ thúc giục, nên tiếp tục rảo nhanh bước chân đi xem các phiến đá tiếp theo. Cả hội хеш hết phiến này đến phiến khác, những bức họa cồ đại càng lúc càng khiến hội Tư Mã Khôi kinh ngạc hơn. Bức họa khắc trên phiến đá thứ bảy vẽ một vật thể hình người khổng lồ đứng sừng sững trong vực sâu thăm thẳm, những con rắn kỳ quái bay lượn xẹt qua xẹt lại, còn con quái vật đáng sợ quanh người toàn mắt thì ẩn nấp dưới vực thẳm lén lút quan sát mọi việc.



Tư Mã Khôi càng ngạc nhiên hơn khi nhìn thấy nội dung vẽ trên bức họa đá chính là chiếc hộp thời gian. Đó là máy bay Hải Âu C-47 bị rơi giữa chặng đường bay. Không rõ rốt cuộc bức họa cổ quái này xuất xứ từ đâu?



Mọi người bất giác bị các hình vẽ thần bí và quái dị trên các bức điêu khắc đá thu hút tự bao giờ, ai nấy đều khẩn trương muốn xem điều gì sẽ xuất hiện trong những bức tranh kế tiếp, nên chẳng bận tâm nghĩ ngợi nhiều, lập tức đi tìm phiến đá tiếp theo. Một bức họa trong số đó vẽ cảnh tấm bia đá ở tận cùng địa mạch, bên ngoài tấm bia có bốn người đang đứng và một cỗ thi thể nằm đổ rạp, tuy không nhìn rõ từng đường nét, nhưng chỉ cần không bị mù thì lập tức có thể nhận ra mấy người đó chính là đội khảo cổ đang tìm cách tiếp cận tấm bia đá, còn kẻ đố gục trên mặt đất chính là Nhị Mục Sinh, phía trong tấm bia đá có vô số con mắt vô hồn đang dõi theo từ trong bóng tối. Có lẽ đó chính là cảnh tượng lúc đội khảo cổ chuẩn bị vượt qua tấm bia đá.




Xem tiếp mấy bức họa trên các phiến đá tiếp theo, lần lượt hiện ra các cảnh tượng đội khảo cố kích nổ cuộn thuốc, khiến tấm bia đá sụp đổ, rồi vị thần cổ bị nhốt trong động nhờ đó đã thoát khỏi trạng thái chết khô, phục hồi nguyên dạng, đội khảo cổ có cơ hội trốn thoát, chạy một mạch đến đầm dạ quang, vị thần hình cây khổng lồ liền đuổi theo, nhưng sau đó bị sa chân vào đầm lầy, từ từ chìm xuống hồ axit. Trong phút giẫy giụa cuối cùng, nó đã nuốt cả bốn kẻ may mắn sống sót cúa đội khảo cổ vào trong bụng, sau đó chính là cảnh đội khảo cổ mò mẫm tìm đường trong động không đáy, cho đến khi phát hiện ra cánh cửa khổng lồ này và bước vào trong xem các hình vẽ.



Hải ngọng vừa хеm vừa kinh ngạc hỏi: ‘Tớ thấy chẳng phải các cảnh tượng vẽ trong bức họa đều miêu tả chuyện của chúng ta sao? Rốt cuộc kẻ nào đã tiên liệu trước tất cả nhừng việc này và khắc lên phiến đá nhi?”



Tư Mã Khôi và Cao Tư Dương kinh hãi, ngạc nhiên đến cực điểm. Mọi người xem một mạch, đến lúc này họ không rõ mình đã xem bao nhiêu bức tranh rồi, nhưng xem ra các phiến đá trong động thất dường như vẫn trải dài dến vô cùng vô tận. Điều kỳ lạ nhất là nội dung miêu tả trong các bức họa tính đến thời điểm hiện giờ thì hoàn toàn trùng khớp với hành động của đội khảo cổ. Đây là di tích cổ đã tồn tại trên đời từ hàng ngàn năm trước? Hay chỉ lả sản phẩm tưởng tượng do Entroypy tạo ra?



Cao Tư Dương nhìn những phiến đá phía trước, cô chỉ muốn mau chóng được xem tiếp nội dung sau đó, nhưng xem đến chỗ nảy, lòng cô không khỏi khiếp đảm, cô lo lắng nóí với Tư Mã Khôi; ‘” Những bức họa tiếp theo khắc trên phiến đá chính là những chuyện sắp xảy ra…”



Tư Mã Khôi cũng thấy kỳ lạ, anh bảo: “Neu vẫn còn những phiến đá tiếp theo, thì không hiểu chúng sẽ vẽ những cảnh tượng gì? Chỉ cần là những sự việc ghi chép trong tranh, dẫu chưa xảy ra, nhưng sau này nhất định sẽ trở thành sự thực sao?”



Tư Mã Khôi nói, Entroypy không hề được ghi chép trong sử sách cổ đại, tuy nó được người Bái Xà tôn thờ thành thần thánh, nhưng thực ra nó chẳng qua chỉ là một dị vật bất tử bất diệt trốn dưới cửu tuyền mà thôi, còn lâu mới đạt tới trình độ ‘cưỡi gió đằng vân, đi xuyên qua vật’, chắc không thể nhìn thấy những sự thực chưa xảy ra, bởi nếu nó quà thật có khả năng ấy, thì đã không đến nỗi bị đội khảo cổ dụ xuống đầm lầy. Nhưng nghĩ sâu xa hơn một chút, anh lại thấy bất kể sức mạnh nào cũng không thể thay đổi được sự thực đã được định đoạt là sẽ xảy ra, cho dù ai đó biết trước được tiền nhân hậu quả, thì chắc chắn cũng không thể thay đổi được kết quả tệ hại, nếu không điều nó thấy trước sẽ không còn là sự thực.



Đồng thời, Tư Мã Khôi cũng suy ngẫm: “Nếu Entroypy muốn ăn thịt mấy người đội khảo cổ, thì nó chẳng cần tốn chút công sức nào, nhưng đội khảo cổ chỉ bị rơi vào động không đáy thêm lần nữa chứ chưa bị Entroypy nuốt chửng. Có lẽ những bức họa được vẽ liên liếp trên các phiến đá chỉ là ảo tưởng do Entroypy tạo ra, không hiểu nó làm vậy nhằm mục đích gì? Ngoài ra, cảm giác gian động thất phía sau cánh cửa đá đang tồn lại vẫn vô cùng mãnh liệt trong tâm thức của cả hội, chính họ cũng không hiểu là vì nguyên cớ gì?



Hải ngọng nóng ruột không đừng dược, liền hấp tấp nói: “Chưa bao giờ gặp phải việc quái quỷ thế này, tớ nghĩ nát óc mà vẫn chẳng ra kết quả, thôi thì cứ xem tiếp mấy phiến đá phía sau là hiểu ngay chứ gì!”, nói xong anh lại cõng Thắng Hương Lân đang hôn mê lên lưng bước tiếp.



Tư Mã Khôi thầm linh cảm thấy điềm chẳng lành, anh ra hiệu cho Cao Tư Dương chú ý động tĩnh xung quanh, cùng lúc đó anh giơ cao hộp thiếc chứa đầy đom đóm bên trong, bám sát theo sau Hải ngọng, tiến về phía phiến đá kế tiếp, lấy dao cạo sạch rêu khô trên bề mặt. Nhờ ánh sáng đom đóm yếu ớt, cả hội nhìn thấy hình vẽ khắc trên phiến đá, nhưng mới nhìn vào bức họa, ba người đã bất ngờ kinh ngạc đến nỗi miệng há hồi lâu mà mãi chưa ngậm lại được.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 208: Hồi 6: rung chuyển


Hội Tư Mã Khôi sốt ruột muốn biết ngay kết quả, nhưng khi xem phiến đá tiếp theo thì thấy hình vẽ hoàn toàn trùng lặp với hình trước đó, những phiến đá ở các gian động thất phía trong cũng giống hệt nhau, tất cả đều mô tả cảnh tượng đội khảo cổ đang xem bích họa trong động thất, ngay cả động tác cũng không hề thay đổi.



Ba người sững sờ ngạc nhiên, không hẹn mà cũng thốt lên hỏi đối phương: “Vì sao bích họa trên các phiến đá phía trong lại giống hệt nhau như vậy nhỉ?’ ’



Hải ngọng chửi thề: “Con mẹ nó, tà mị quá! Nếu nội dung trên bích họa trở thành sự thực thì tiếp sau đây…”



Cao Tư Dương nối lời: “Theo như tiên đoán… tiếp sau đó chúng ta cứ xem mãi hay sao?”



Hải ngọng nói: “Nhưng nếu không xem tiếp, thì không biết phía sau còn vẽ nội dung khác biệt nào không, phải làm sao bây giờ?”



Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Không đúng, mấy bức họa này đã làm phân tán và chuyển hướng sự chú ý ban đầu của bọn ta, lúc mới vào đây, chắc chắn cả hội đã bỏ qua chuyện gì đó…” Anh lập tức rời mắt khỏi phiến đá, giơ cao hộp thiếc đựng mấy con đom đóm đang tỏa ra thứ ánh sáng yếu ớt, anh soi khắp tứ phía, nhưng trong gian động thất tối om hoàn toàn trống trơn, tất cả những gì anh nhìn thấy ở đây chỉ có những mảng rong rêu âm u bám đầy vách tường.




Hải ngọng nhìn thấy hành động khác thường cùa Tư Mã Khôi, lại ngỡ xảy ra biến cố gì, anh vội vàng nhẹ nhàng đặt Thắng Hương Lân nằm xuống đất, rồi bật đèn quặng lắp trên mũ liễu, đồng thời giương cao khẩu súng săn gấu Canada lên.



Thắng Hương Lân chạm lưng vào mặt đất lạnh lẽo, cô dần dần tỉnh lại, nhưng sắc mặt vẫn vô cùng khó coi.



Hội Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân tỉnh lại, ai nấy đều mừng thầm trong bụng, thi nhau hỏi dồn dập: “Cô thấy thế nào rồi? Đã khỏe hơn chưa?”



Thắng Hương Lân khe khẽ gật đầu, hỏi lại: “Chúng ta đang ở đâu đây?”



Cao Tư Dương kể vắn tắt cho Thắng Hương Lân nghe một lượt từ khi tấm bia đá đổ sụp, việc đội khảo cổ vừa tháo chạy vừa dụ Entroypy vào đầm lầy axít, rồi giờ cả hội lại bị rơi vào động không đáy lần nữa…



Thắng Hương Lân nghe xong, đôi mày thanh tú chau lại, cô nghĩ thầm đội khảo cổ đã phát hiện thấy bích họa khắc trên các phiến đá với nội dung vô cùng ly kỳ trong động thất phía sau cánh cửa khổng lồ, rất có khả năng tất cả sự việc này là do Entroypy đã lợi dụng mấy bức bích họa để dụ đội khảo cổ vào đây.



Tư Mã Khôi cũng có cảm giác này, bích họa chỉ phát huy tác dụng thu hút sự chú ý của đội khảo cổ, dưới sự thúc giục của lòng hiếu kỳ, cả hội đi xuyên qua hết căn phòng này đến căn phòng khác, mà bỏ qua bản thân gian động thất, vì sao không gian phía sau cánh cửa khổng lồ kia lại tồn tại nhiều căn phòng với kết cấu hao hao giống nhau đến thế? Ngoài ra, Tư Mã Khôi còn lờ mờ nhớ rằng, trước đây, cả hội đã từng có một trải nghiệm tương tự như vậy, vì thế dự cảm bất an trong lòng anh càng lúc càng trở nên mãnh liệt.



Cao Tư Dương nhớ, dường như cả hội đã đi qua hơn một chục gian phòng. Để tiết kiệm pin đèn, suốt dọc đường, họ chỉ nhờ ánh đom đóm soi sáng, phạm vi tầm nhìn không vượt quá dăm ba bước, hầu như không có vật tham chiếu, chẳng lẽ kết cấu của những gian động thất này lại thực sự giống nhau ư? Vì sao càng đi sâu vào trong, cô càng thấy không gian chật hẹp hơn?



Tư Mã Khôi lập tức nhận ra, anh liên tục mắng mình quá sơ ý, rồi vội vàng rút dao săn ra, cạo lớp rêu dày phủ trên mặt đất, anh thấy phía dưới là tầng đá với dấu hoa văn hình biển gợn sóng, Tư Mã Khôi thầm than khổ: “Toi rồi! Động thất này chính là hóa thạch của vỏ ốc anh vũ cổ đại!”



Trước đây, đội khảo cổ cũng từng đi qua cái vỏ rỗng hóa thạch của ốc anh vũ, để đến đại dương sâu khôn lường ở 30° vĩ Bắc, từ đó thâm nhập cửu tuyền, chẳng ngờ trong động không đáy này cũng có một vỏ ốc hóa thạch, xem ra nó là vật mà người Bái Xà cổ đại đã để lại, suốt dọc đường cà hội chỉ mải xem nội dung trên bích họa mà không để ý các gian phòng càng lúc càng nhỏ dần, không hiểu Entroypy dụ đội khảo cổ đến đây rốt cuộc nhằm mục đích gì?



Tư Mã Khôi đoán, con quái vật hình cây cổ thụ kia không thể chui qua vỏ ốc hóa thạch để nổi lên khỏi cửa tuyền, lẽ nào nó muốn lợi dụng bốn kẻ may mắn sống sót trong đội khảo cổ mang một phần của nó ra khỏi lòng đất? Cũng giống như năm đó, Nấm mồ xanh đã trốn vào trong cỗ di hài để chạy thoát khỏi vực sâu dưới cửu tuyền.



Bản thân vỏ ốc anh vũ hóa thạch là di vật mà người Bái Xà để lại trong động không đáy, nó cũng giống như đội khảo cổ, đom đóm, chiếc hộp thiếc và súng đạn, đều là những vật vốn tồn tại ở bên ngoài động, bởi vậy Tư Mã Khôi mới cảm thấy sự tồn tại của nơi này hết sức rõ ràng, còn bích họa trên các phiến đá bên trong động chỉ là ảo giác mà Entroypy tạo ra, chiếc vỏ rỗng này có khả năng giúp vật thể sống tránh khỏi sức ép của địa áp, nổi lên mặt thủy thể 30° vĩ Bắc. Vấn đề là con quái vật đã chìm xuống đầm lầy, làm sao nó có thể khiến vỏ ốc anh vũ rời khỏi nơi đây được?




Hải ngọng cho rằng, bây gíờ biết cũng vẫn chưa muộn, cả hội phải nhanh chóng quay ngược trở lại và chạy ra khỏi vỏ ốc, còn đứng ngây người ở đây chỉ tổ làm lỡ thời gian mà thôi.



Tư Mã Khôi nói: “Chúng ta đã vào quá sâu, bây giờ quay trở ra chắc chắn không kịp nữa…”, lời còn chưa dứt thì đèn quặng và hộp thiếc đựng đom đóm đột nhiên tối sầm lại, một màu đen đặc bao trùm khắp động, đến người đối diện, họ cũng không nhìn thấy rõ nữa.



Tư Mã Khôi biết thời gian lại bắt đầu quay ngược, cái động không đáy Entroypy này giống như một kẽ hở thời gian có thể tự khép mở, trong đó một giây được kéo dài đến vô hạn, quá trình đội khảo cổ đi vào nơi sâu nhất của vỏ ốc hóa thạch chẳng qua chỉ là khoảnh khắc một giây mà Entroypy chìm xuống đầm lầy.



Sau khi đèn đóm của đội khảo cổ bị tắt hết, chỉ nháy mắt sau tất cả lại khôi phục chức năng chiếu sáng như cũ, toàn bộ bích họa trên các phiến đá và rong rêu trong động thất của vỏ ốc đều biến mất dạng, kim đồng hồ trên tay Cao Tư Dương cũng quay như bay về thời khắc xuất phát.



Hội Tư Mã Khôi thấy mình vẫn đứng trong vỏ ốc hóa thạch, lòng tự dưng thấy khiếp đảm, bỗng chốc bốn bức tường rung lên ầm ầm, mặt đất rung chuyển dữ dội, mọi vật quay cuồng, cả hội thấy vậy vội vàng đỡ Thắng Hương Lân lên, cố dựa vào vách động để đứng vững.



Hải ngọng hét lên: “Ối ông địa ơi, trong động không đáy mà cũng động đất cơ à?”



Cao Tư Dương đính chính: “Không phải động đất, hình như cái vỏ ốc đang bị chìm xuống!”



Tư Mã Khôi biết rõ sự thực chính xác là vậy, giây phút này, họ không nhìn thấy tình hình bên ngoài động, chỉ cảm thấy đúng là cả hội đang rơi, chắc hẳn Entroypy đã bị chìm xuống đầm. Dưới đáy khu đầm có rất nhiều sinh vật phát sáng này là hồ axit sulftiric với quy mô vô cùng rộng lớn, lượng axit trong hồ đủ khiến vẫn thạch sắt cũng bị ăn mòn. Sau khi Entroypy chìm xuống đáy hồ, dẫu cơ thể nó liên tục tái sinh thay cho phần bị ăn mòn hoại tử, rồi phục hồi nguyên dạng, nhưng axit đậm đặc xung quanh nó cũng sẽ không ngừng tiếp tục ăn mòn nó, huống hồ dưới đáy hồ là thế giới không tồn tại sinh mệnh sống, xuống sâu hơn nữa chính là biển nóng nơi tâm Trái đất, ở đó chỉ có đại dương mênh mông ngày đêm cuồn cuộn dòng sắt nóng chảy, đâu đâu cũng toàn những vòng sáng khổng lồ phát ra từ điện từ, bất cứ vật thể gì bị rơi xuống đó đều không thoát khỏi số phận tan thành mây khói. Giờ con quái vật đã khó lòng thoát thân, vậy sao nó còn dụ mọi người đi vào vỏ ốc hóa thạch? Trong thời khắc cuối cùng, sinh vật cổ xưa hàng vạn năm không chết này còn muốn cố gắng giãy giụa như thế nào nữa?



Ý nghĩ còn chưa tan trong đầu, thì cả hội thấy mình bị bắn vọt lên cao một cách thần tốc theo chiếc vỏ ốc, chẳng khác nào cưỡi gió đằng vân, cả thân thể như sắp nổ tung đến nơi. Trong chùm sáng chập chờn bất định, cả hội thấy gân trên cánh tay nổi lên cuồn cuộn, chắc chắn huyết quản đang giãn nở theo sự thay đổi đột ngột của địa áp.



Mọi người nhìn nhau kinh hãi, không rõ vì sao vỏ ốc hóa thạch lại đột nhiên bắn vọt lên không trung, với tốc độ rời khỏi vực sâu nhanh vun vút thế này, dẫu ở trong vỏ ốc hóa thạch giống như khoang giảm áp thiên nhiên thì huyết dịch toàn thân cũng sôi sục mà chết.



Đầu óc cả hội quay cuồng dữ dội, trong lúc mơ mơ màng màng, mọi người nhanh chóng mất ý thức. Chẳng rõ bao lâu thời gian qua đi, Tư Mã Khôi cảm thấy mình đang nằm rạp trên mặt đất lạnh lẽo, bên tai vang lên tiếng ong ong không ngớt, anh văng vẳng nghe thấy âm thanh sóng biển ầm ầm dội lại. Trong cơn hoảng hốt, anh mới nghĩ ra: Entroypy không thể làm thời gian thực sự bên ngoài quay ngược trở lại, bởi vậy sự thực nó đã bị rơi xuống đầm lầy cũng không cách gì thay đổi được, sau khi đội khảo cổ đi sâu vào trong vỏ ốc hóa thạch, nó bèn vươn dài người xuyên thủng dòng biển nóng ở tâm Trái đất, rồi lập tức nôn chiếc vỏ ốc ra ngay sau đó, dòng khí phun trào từ dòng biển nóng đã đẩy vỏ ốc đi, bắn thẳng lên trên thủy thể thông qua kẽ nứt của địa cốc.




Giữa thủy thể 30° vĩ Bắc và dãy núi dưới lòng đất bao phủ tầng khí hỗn độn mù mịt, nếu không ẩn mình ở nơi sâu trong chiếc vỏ ốc hóa thạch giống như khoang giảm áp, thì cả đội khảo cổ sớm đã bị địa áp và dòng khí nhiều động xé tan thành mảnh vụn rồi. Lúc này, nghe tiếng sóng biển vỗ bờ, cà hội biết mình đã nồi lên mặt biển ở dưới lòng đất 30° vĩ Bắc. Việc Entroypy để mấy người bọn họ sống sót chắc chắn vì nó muốn các thành viên đội khảo cổ biến thành “gian phòng” đem nó lên mặt đất, có điều cơ thể con quái vật quá to lớn, nên nó không thể mang toàn bộ thân mình bò vào vỏ ốc, nó đành giấu một phần thịt ở đâu đó quanh đây, còn cơ thể nó đã bị dòng biển nóng nơi tâm Trái đất nhấn chìm.



Tư Mã Khôi suy nghĩ miên man trong trạng thái nừa tỉnh nửa mơ, bao nhiêu ý niệm dồn dập ùa đến. Anh đoán, chắc chắn Entroypy vẫn đang trốn trong vỏ ốc hóa thạch. Nghĩ đến đây, người anh bất giác run lên lập cập, mặc cho thân thể vẫn đang đau nhức như muốn chết, anh cắn chặt răng, gọi hội Hải ngọng dậy. Phát hiện tất cả đom đóm nhốt trong hộp thiếc đều đã chết rụi, cả hội liền nhặt súng lên, rồi liêu xiêu dìu nhau ra ngoài cửa động.



Bản năng sinh tồn trỗi dậy mãnh liệt khiến cả hội liên tục chạy xuyên qua mười mấy gian động thất, ra đến ngoài cửa động hóa thạch, họ thấy trước mắt sóng biền cuộn trào, mặt biển trải rộng tít tắp, trên cao mây đen bủa vây, sấm chớp ẩn hiện, chiếc vỏ ốc hóa thạch khổng lồ đang trôi nổi tự do trên dòng đại dương mênh mông nơi 30° vĩ Bắc.



Thoát khỏi kiếp nạn và may mắn sống sót, bốn người ngơ ngác đứng chôn chân tại chỗ, người nọ nhìn người kia, trông ai cũng như ma hiện hồn giữa nhân gian. Trong sát na đó, bao nhiêu cảm xúc đan xen dâng trào, họ chỉ biết câm lặng nhìn nhau, chẳng ai ngờ mình còn giữ được mạng sống thoát ra khỏi cõi cửu tuyền u minh, nhưng giờ đây đạn hết, lương thực cũng cạn kiệt, không tàu không bè, trôi nổi trên biển không điểm tận cùng, thì cũng khác nào sắp chết?



Hải ngọng động viên mọi người: “Lạc quan lên nào! Chạy được đến đây coi như chúng ta phúc dày mạng lớn rồi, nói gì thì nói vẫn tốt hơn nhiều việc bị cái động không đáy đó nuốt chửng”.



Cao Tư Dương lẩm bẩm: “Trôi nổi trên đại dương ở dưới lòng đất thế này, nếu không bị chết đói, thì cũng bị núi từ hút chặt mà thôi, rồi tất cả sẽ biến thành con ma biết đi trên hòn đảo cổ cả lượt!”.



Tư Mã Khôi cảm thấy mọi chuyện vẫn chưa kết thúc ở đó, Entroypy nhất định còn đang trốn trong vỏ ốc hóa thạch, mấy thành viên đội khảo cồ có thể sống sót và nồi lên thủy thể 30° vĩ Bắc chẳng qua là do Entroypy cần người mang nó chạy trốn khỏi nơi này, rồi trở thành một Nấm mồ xanh khác, bởi vậy bây giờ mọi người phải nhanh chóng rời khỏi vỏ ốc hóa thạch mới được. Anh quan sát tứ phía xung quanh, phát hỉện có mấy vỏ ốc cúc đá dính ở ven rìa vách động, bề mặt được tráng lớp nham thạch hóa nguội. Một trong những vỏ ốc đó đã xuất hiện vết nứt vỡ khá lớn ở nơi dính liền với phần vách hóa thạch, vỏ ốc to cỡ hai cái bàn Bát tiên, đủ sức chứa bốn, năm người, vừa vặn có thể biến nó thành chiếc thuyền nhỏ vượt biển. Anh ngẫm nghĩ sóng nước ở thủy thể dưới lòng đất rất hung dữ, kích thước thuyền càng nhỏ thì tốc độ chạy càng nhanh, thế là anh gọi Hải ngọng đến giúp một tay đẩy nó xuống nước.



Mọi người liên thử đẩy vỏ ốc cúc đá, sau đó lần lượt trèo lên. Trong làn sóng dập dềnh đưa cả hội ra khơi xa, cái cửa động khổng lồ quái dị của vỏ ốc anh vũ hóa thạch kia trong chớp mắt đã biến mất trên mặt biển đen ngòm.



Lúc này, Thắng Hương Lân đột nhiên nhớ đến một việc vô cùng đáng sợ, cô lo lắng hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có chắc, đến giờ phút này, chúng ta vẫn chưa biến thành… ‘gian phòng’ ăn thịt người chết đấy chứ?”



Hải ngọng nghe vậy cũng lo lắng, anh hấp tấp nói: “Có lý! Không chừng lúc chúng ta hôn mê bất tỉnh, thứ đó đã chui vào bụng mình lúc nào không hay ấy chứ. Nếu cứ phải sống ngày nào biết ngày đó thế này, tôi thà tự bắn một phát kết liễu cuộc đòi, chứ tuyệt đối không muốn bị biến thành Nấm mồ xanh đâu”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 209: Hồi 7: phân biệt


Lúc này, Tư Mã Khôi cũng cảm thấy bất an, vị thần cổ hàng vạn năm không chết đó đã thả đội khảo cổ ra khỏi động không đáy chẳng qua chỉ vì một mục đích duy nhất. Việc nó đã rơi vào tâm Trái đất là sự thật không thể thay đổi, nên nó đành lựa chọn một con đường khác để tiếp tục được sống, đó chính là khiến một trong bốn thành viên hoặc tất cả các thành viên của đội khảo cổ biến thành Nấm mồ xanh.



Nếu ai trực tiếp ăn thịt vị thần cổ, thì kẻ đó sẽ trờ thành “gian phòng số 0” của tổ chức, ý thức và cơ thể của người đó sẽ dần dần bị nó chiếm lĩnh, tuy nhiên ngay bản thân người đó cũng không thể nhận ra điều này khi mới ăn thịt. Bây giờ chẳng ai nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra lúc mình bị mất ý thức trong vỏ ốc hóa thạch nữa, không biết con quái vật khắp người toàn mắt có nhân cơ hội đó chui vào trong bụng mình chăng?



Mọi người đưa mắt nhìn nhau mà chẳng biết nói gì. Trong bốn kẻ may mắn sống sót giờ đây, ít nhất có một người đã biến thành “gian phòng”, nhưng làm cách nào để nhận ra người ấy? Điều khó xử hơn là khi nhận ra được, thì buộc phải giết chết kẻ đó. Cả hội đã cùng nhau trải qua bao nhiêu biến cố sinh tử, nguy hiểm, gian nan mới có thể ra khỏi cửu tuyền và sống sót đến giờ phút này, bất kể ai bị biến thành “gian phòng”, thì người ấy cũng chỉ còn con đường chết, vấn đề là người nào có thể đang tâm ra tay giết chết bạn đồng hành của mình?



Tư Mã Khôi nhớ lại chuyện của Nhị Học Sinh, anh biết không thể nhận ra “gian phòng” nếu chỉ thông qua các biểu hiện bề ngoài, anh rất hối hận vì lúc trước đã không chép dòng chữ khắc trên tấm bia Bái Xà vào cuốn sổ, suy đi tính lại mới thấy chỉ dòng chữ ấy mới có thể xác định được rốt cuộc ai là “gian phòng” mà thôi.



Thắng Hương Lân nói với giọng đầy lo âu: “Nếu vô tình mang Nấm mồ xanh ra khỏi lòng đất thì đúng là chết trăm lần cũng không chuộc hết tội rồi”.




Hải ngọng đưa ra ý kiến: “Nếu ai cảm thấy mình đã ăn thịt người chết, thì nhân lúc chưa muộn hãy tự giơ tay lên, ngày xưa các cụ nói câu nghe chí phải ‘núi giấu ngọc, núi xanh non; cát giấu vàng, cát phát sáng; quỷ thai giấu trong phủ tạng, lời ăn tiếng nói đều bất bình thường…”



Tư Mã Khôi nói: “Không chừng tất cả chúng ta đều đã biến thành ‘gian phòng’ mà không hay ấy chứ, đây đâu phải vấn đề của riêng ai, phải mau chóng nghĩ cách phân biệt chính xác mới được!”



Hải ngọng bảo: “Nếu quả thực không còn cách nào khác, nếu không thể nhận ra…”, nói đến đây, anh chỉ ngón tay vào huyệt thái dương của mình, rồi tiếp lời: “… Thì chi bằng chúng ta cứ bắn một phát vào đây, thi thể chìm xuống biển, như vậy mới đảm bảo không xảy ra sự cố gì, mọi người đi trước, tôi chặn hậu, chúng ta hẹn gặp lại kiếp sau vậy!”



Tư Mã Khôi sớm chẳng màng đến chuyện sống chết, anh không hề nghĩ mình có thể thoát khỏi cửu tuyền, huống hồ lần trước bị bom địa chấn mang chất độc màu da cam vấy bỏng khắp người, ngờ rằng có sống cũng chẳng mong được cái kết có hậu, chỉ cần giải quyết triệt để Nấm mồ xanh thì dẫu chết, anh cũng an lòng nhắm mắt; nhưng nếu phải chết một cách vô duyên vô cớ ở đây thì anh cũng không cam tâm, chẳng lẽ không còn cách nào phân biệt được hay sao?



Giữa cái khó người ta thường ló cái khôn, điều đội khảo cổ đang lo lắng lúc này là chẳng biết khi mình mất ý thức ở trong vỏ ốc hóa thạch liệu có bị biến thành “gian phòng” ăn thịt người chết hay khồng? Con quái vật hình cây khắp người toàn mắt nom từa tựa một miếng thịt, nó được tạo thành từ khối tử khí không ngừng ngưng kết qua hàng vạn năm, bởi vậy mới nói nó chính là miếng thịt người chết, tất cả những “gian phòng” trực tiếp ăn thịt nó, thì mọi vết thương trên người đều tự động liền lại, nếu ai xuất hiện triệu chứng khác thường này, thì trong bụng kẻ ấy chắc chắn có miếng thịt người chết.



Mọi người phập phồng lo lắng, lần lượt lấy dao rạch một đường trên mu bàn tay, nhưng không ai xảy ra hiện tượng bất thường gì, điều đó chứng tỏ trong đội khảo cổ không có sự tồn tại của “gian phòng”, bấy giờ mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.



Tư Mã Khôi nghĩ thầm, Entroypy rốt cuộc cũng chỉ là một sinh vật sống, có lẽ trong lúc xuyên qua thủy thể 30° vĩ Bắc, nó đã mất ý thức do chịu ảnh hưởng của địa áp, bốn người đội khảo cổ lại tỉnh dậy và phục hồi tri giác trước nó và nhanh chóng rời khỏi vỏ ốc hóa thạch, chính vì vậy, họ mới may mắn thoát khỏi tai họa. Tuy nhiên tất cả chỉ là suy đoán, mong rằng mọi chuyện xảy ra đúng như suy đoán ấy.



Lúc này, bốn người vừa lạnh vừa đói, mệt rũ muốn lả. Cao Tư Dương giúp cả đội băng bó lại vết thương trên tay, rồi chui vào trong vỏ ốc, nằm cuộn tròn ngủ thiếp đi, mặc cho vỏ ốc cúc đá trôi nổi bập bềnh theo dòng nước mênh mông, không thấy bờ bến.



Những chấn động do dòng biển nóng phun trào gây ra đã khiến hàng đàn cá với hình dạng quái dị sống ở nơi sâu trong lòng thủy thể sợ hãi, chúng lũ lượt nổi lên mặt nước. Phần lớn các loài cá sống ở vùng nước sâu đều có bộ phận phát sáng, bộ phận này là mồi nhử giúp chúng săn mồi.



Mọi người lần lượt tỉnh dậy sau giấc ngủ dài, họ ra tay bắt mấy con cá, tuy chưa phân biệt được đó là loài cá gì, nhưng vì đang đói đỏ mắt, nên cả hội cũng chẳng buồn bận tâm, họ lập tức lấy dao đánh vảy, rồi ăn sống luôn. Vị cá tươi ngọt, lớp mỡ dày, nhiều nước tứa ra, mùi tanh sực lên không thể chịu nổi. Sau khi ăn xong, sắc mặt Thắng Hương Lân mới hồng hào hơn chút ít.



Tư Mã Khôi để lại phần xương cá, đồng thời anh gom được chất phát sáng sinh học và cao dầu từ đống cá họ vừa ăn, làm thành mấy cây nến xương cá dùng tạm. Loại nến này có ưu điểm ở chỗ dẫu có thả xuống nước hay bị gió thổi cũng đều không tắt. Trong địa động tối đen như mực, sương từ dày đặc bủa vây mịt mù, thỉnh thoảng mới có tia sét lướt xẹt qua đỉnh đầu. Bây giờ có nến xương cá, lại thêm cả ánh sáng trắng phát ra từ sương từ, nên đội khảo cổ không cần sử dụng đèn quặng nữa.




Hải ngọng thấy hình dạng mấy con cá này rất quái lạ, phía sau còn có hai cặp vây, trông nhang nhác giống tứ chi của con người, bất giác anh nhớ đến bọn quái vật cương thi sống gần hòn đảo cổ ở núi Âm Sơn, nói không chừng lũ cá này là do người chết biến thành!



Cao Tư Dương nghe Hải ngọng nói vậy, rồi lại thấy hình dạng cổ quái của mấy con cá đang bơi trong nước thì càng lúc cô càng thấy ghê cổ, rồi không nhịn được, cô nằm ẹp xuống mạn thuyền nôn ồng ộc.



Thắng Hương Lân nói, loài cá tiền sử sống trong lòng biền 30° vĩ Bắc cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài này có lẽ là loài cá thuộc kỷ Devon, khi ấy ngay cả cá mập cũng có vảy, phần đa là loài cá có nhiều xương, dần dần chúng biến thành động vật lưỡng cư, bởi vậy một số loài cá mới mọc bốn vây trông giống như bốn chân ngắn nhỏ, nhưng chắc chắn đó không phải lũ quỷ nước trên đảo cổ Âm Sơn.



Nghe Thắng Hương Lân phân tích, Cao Tư Dương mới cảm thấy yên tâm, có điều ngồi trong vò ốc cúc đá, lênh đênh giữa dòng thủy thể không phân biệt ngày đêm thế này, rồi cuối cùng cả hội sẽ bị núi từ hút chặt mà thôi. Căn cứ vào tình hình thực tại, dẫu hiện tại có giữ được mạng sống, thì vài ngày nữa cũng bị lũ cương thi trên núi lôi đi ăn thịt. Mà nếu đội khảo cổ may mắn không bị chúng ăn thịt đi nữa, thì sau thời gian dài tiếp xúc với núi từ, cả hội cũng sẽ bị mất trí nhớ và thoái hóa thành loài quái vật nửa người nửa cá.



Hội Tư Mã Khôi biết rõ khó có thể tránh khỏi sự thật này, nhưng giờ đây, ngồi trong vỏ ốc hóa thạch, xung quanh sóng dữ vỗ ầm ầm, nước biển đen ngòm trải rộng bao la, cả hội lại không thể điều khiển được phương hướng, rơi vào tình cảnh này, dẫu bản lĩnh có lớn bằng nào chăng nữa cũng khó lòng thi triển, đến nước này mọi người chỉ biết nghe theo mệnh trời mà thôi.



Do chịu sự ảnh hưởng của cơn địa chấn dữ dội lúc trước, nên mặt biển ầm ầm dậy sóng, thỉnh thoảng lại đổ một cơn mưa lớn, đôi lúc còn xuất hiện trận mưa đá lạnh thấu xương như băng tuyết, môi trường khắc nghiệt đến cực điểm, vậy mà không ngờ đội khảo cổ vẫn chịu được cái ầm ướt và lạnh lẽo đến khủng khiếp này, có lẽ do lúc trước mọi người đã ăn nhục chi trong địa cốc nên sức chịu đựng mới dẻo dai được như vậy, hơn nữa bây giờ lại lánh nạn trong vỏ ốc cúc đá, chứ nếu không, họ đã chẳng thể bảo toàn nổi tính mạng.



Bốn người ngồi trong vỏ ốc cúc đá cứ thế bòng bềnh trên mặt biển, họ chẳng còn phân biệt được ngày hay đêm nữa. Vỏ ốc mải miết trôi về phía trước theo dòng nước đục ngầu đang cuồn cuộn chảy. Tuy phải trải qua hoàn cảnh bế tắc, nhưng ý niệm mưu cầu sinh tồn trong mỗi người vẫn rất mãnh liệt, cả hội cố gắng tiết kiệm số đạn dược và pin đèn cacbua còn sót lại, đồng thời thu thập thêm chất phát sáng sinh học để tạo ra nhiều nến xương cá hơn.



Hôm ấy, Hải ngọng bảo Tư Mã Khôi, từ khi mọi người bước chân vào khe núi Dã Nhân ở Miến Điện và gặp Nấm mồ xanh đến nay cũng mới chỉ nửa năm, nhưng trong nửa năm ấy, họ phải trải qua vô số biến cố, gặp phải bao sự việc mà người thường khó lòng tưởng tượng. Suốt dọc đường, họ phải chứng kiến sự hi sinh của bao nhiêu người thân yêu như giáo sư Nông địa cầu, Tuyệt, Ngọc Phi Yen, Karaweik, tiểu đoàn trưởng Mục, đội trưởng thông tin Lưu Giang Hà, Nhị Học Sinh… May mà sau khi phá hủy tấm bia đá Bái Xà, cả hội đã kịp thời ngăn không cho con quái vật kinh hoàng kia bò lên khỏi vực sâu. Nếu lần này có thể sống sót thoát thân ra khỏi thủy thể 30° vĩ Bắc thì lúc về Hải ngọng anh nhất định sẽ thắp mấy bó hương chất lượng thượng hạng để cảm tạ Phật tổ đã phù hộ độ trì mới được.



Tư Mã Khôi cảm thấy Entroypy giống như một cỗ máy điện đàm u hồn khổng lồ, bên trong tồn tại tín hiệu điện sinh học cực mạnh, sau khi người sống bị nó nuốt chửng, thì ý thức sẽ chìm vào một huyệt động vô đáy không có lối ra, mọi thứ mà họ nhìn thấy trong động thực ra chỉ là ảo ảnh do con quái vật Entroypy tạo nên, bởi vậy sau khi các sự vật tồn tại trong động bị phá vỡ, chúng lại có khả năng phục hồi nguyên dạng giống như ban đầu. Con quái vật này đã sống hàng vạn năm mà không chết, chẳng ai làm gì được nó, nên người Bái Xà có tôn nó là thần thì cũng chẳng hề quá đáng, nhưng một khi để nó chạy thoát ra ngoài, thì chắc chắn sẽ dẫn đến đại họa không thể tưởng tượng nổi. Chính vì đội khảo cổ không nghe lời cổ nhân cảnh cáo, luôn muốn tìm lời giải cho những ẩn số mà con người không được phép biết đến, tự tiện tiếp cận tấm bia đá Bái Xà, nên mới bị sa chân vào động không đáy, suýt chút nữa đã kéo rèm mở màn cho một tấn thảm kịch. Giờ này ngồi trên thuyền nghĩ lại cảnh ngộ bị nhốt trong động mà người nào người nấy vẫn tim đập chân run. Xem ra, nếu ngọn nến số mệnh chưa đến lúc tắt, thì không chừng cả hội vẫn còn cơ hội thoát khỏi vòng tròn quái dị không đầu không cuối ở dải Bắc vĩ độ thứ ba mươi này. Bởi vậy, mọi người quyết không được từ bỏ hi vọng.



Nghĩ là nghĩ vậy, nhưng đại dương bao la dưới lòng đất nom giống hình con rắn cuộn tròn này vào thì dễ chứ ra thì vô cùng khó, ngoại trừ ngọn núi từ nồi trên biển, thì không còn bất cứ vật tham chiếu nào khác, mà nếu tiếp cận núi từ thì cả hội lại gặp phải sự tấn công của lũ thủy quái nửa người nửa cá, không những vậy, họ còn phải đối mặt với nguy cơ mất hết trí nhớ và trở thành những xác chết biết đi.




Mọi người suy đi tính lại một hồi, ai nấy đều cảm thấy khi đối mặt với sóng biển dữ dội và mênh mông, đối diện với bầu không gian bao la và đen ngòm, thì tiền đồ của cả hội đúng là lành ít dữ nhiều, vậy nên không khí lập tức trâm hẳn xuống



Tư Mã Khôi nói với ba người còn lại: “Tôi đoán, nỗi sợ của con người đối với đại dương dưới lòng đất ắt hẳn không phải xuất phát một cách ngẫu nhiên, mà nguyên nhân gốc rễ bắt nguồn từ vụ đại hồng thủy do người Bái Xà cổ đại gây nên năm xưa. Trận lũ lụt lịch sử đó đã nhấn chìm rất nhiều lục địa và hủy hoại trên chín mươi phần trăm thành tựu của nền văn minh cổ đại, trong đó có rất nhiều lĩnh vực mà con người không thể khôi phục lại từ đầu. Đến tận ngày nay, con người vẫn cực kỳ nhạy cảm đối với các di chỉ nước ngầm, đồng thời vẫn giữ nguyên nỗi sợ hãi không gì sánh nổi đối với dòng nước sâu. Trên thực tế, tâm lý ấy xuất phát từ ký ức mông lung của loài người về kiếp nạn thời tiền sử. Tuy đại dương dưới lòng đất này rất đáng sợ, nhưng chúng ta đã hiểu sơ qua tình hình của nó, nên chắc chắn sẽ tìm thấy đường thoát thân thôi. Mối nguy hiểm lớn nhất ở đây chính là ngọn núi từ….”



Anh vừa dứt lời, thì thấy phía xa có lằn sét sáng trắng xẹt qua, trên mặt biển thấp thoáng xuất hiện một dải bóng đen lờ mờ, dường như đó là những dãy núi nhấp nhô.



Bốn người lặng phắc, mắt nhìn chằm chằm về phía trước, nhưng luồng sét trong sương không xuất hiện lại nữa, mặt biển chỉ còn màn đêm bao la và tiếng sóng ầm ào cuộn trào.



Khi thủy thể 30° vĩ Bắc tuần hoàn trở lại, đội khảo cổ ngồi trong vỏ ốc, dập dềnh trôi theo dòng nước, sớm muộn cũng sẽ bị núi từ dưới lớp vỏ Trái đất hút chặt, có điều cụ thể khi nào xảy ra điều đó thì họ không thể tiên liệu trước được. Tuy vậy, chẳng ai ngờ cả đội lại tiếp cận núi từ một cách mau chóng đến vậy.



Gần hòn đảo cô độc ấy có rất nhiều cương thi giống như con ma chết đuối, tổ tiên của chúng đều là những nạn nhân bị hút chặt vào đây, họ dần dần thoái hóa thành loài động vật máu lạnh nửa người nửa cá, rồi trốn biệt trong hang động hoặc dưới nước sâu, tập tính vô cùng hung hãn, tàn ác. Chúng trèo qua vách núi chẳng khác nào đi trên đất bằng, đó chính là những đối thủ khó đối phó nhất.



Cao Tư Dương dõi mắt nhìn dãy núi nhấp nhô, cô vội vã cầm chắc tay súng, căng thẳng nhìn vùng nước lân cận một cách chăm chú, như thể đang đề phòng bọn ma nước đột ngột trèo lên vỏ ốc.



Tư Mã Khôi vốn là người điềm tĩnh trước mọi biến cố, anh thắt lại dây mũ cho chắc, mở chốt an toàn của khấu súng Walther P38, sau đó cất hầu hết số nến xương cá dự trữ vừa chế vào trong ba lô sau lưng, chỉ để lại mấy cây đưa cho Thắng Hương Lân soi đường.



Hải ngọng lập tức giương khẩu súng săn Canada lên kiểm tra, thấy chỉ còn ba viên đạn ghém, tất cả đều chưa bị ẩm ướt, anh liền nạp đạn vào ổ, hai mắt dán chặt vào mặt nước đen ngòm, rồi hỏi: “Khi nãy mọi người có nhìn rõ không? Đó là núi từ thật à? Sao tôi thấy nó to thế nhỉ?”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 210: Hồi 8: núi từ 30 độ vĩ bắc


Lúc này, lại có một lằn sét khác lóe lên bầu trời, ngoằn ngoèo như rắn lượn. Nhờ ánh sáng tia sét, Tư Mã Khôi nhìn ra xa và thấy bóng dáng nhấp nhô của ngọn núi ẩn hiện mờ mờ phía trước, trông nó chẳng khác nào một vị thần khổng lồ, đen sì, nằm nghiêng mình trên biển với dáng vẻ trầm mặc bất diệt từ thời hằng cổ. Địa hình này hoàn toàn khác so với lần trước hội anh nhìn thấy, có điều lần đó đội khảo cồ từ Đại Thần Nông Giá rơi xuống thủy thể 30° vĩ Bắc, trôi nổi trên mặt biển không biết bao nhiêu ngày đêm, rồi mới phát hiện chiếc tàu ngầm Z-615 bị mất tích và một hang động khổng lồ, thực ra hang động đó chính là vỏ ốc hóa thạch, nó và chiếc tàu ngầm đều bị núi từ hút dính vào xung quanh chân núi. Tuy vậy, đội khảo cổ chưa bao giờ thực sự đặt chân lên ngọn núi đó, hơn nữa khi ấy tứ bề tối thui, không hề có ánh sáng, ngay cả hình dáng đại khái của hòn đảo ấy trông như thế nào, hội anh còn chẳng rõ. Giờ đây nhìn kỹ, thấy quy mô ngọn núi quả thực to lớn ngoài sức tưởng tượng, ai nấy đều bất giác hít ngược một hơi lạnh.



Giữa lúc sấm rung chớp giật, khoảng cách giữa vỏ ốc và núi từ càng lúc càng rút ngắn dần. Tư Mã Khôi tranh thủ thời gian nói với ba người còn lại: “Sóng biển ở đây rất dữ dội, hơn nữa núi từ lại tồn tại một lực hút vô hình cực mạnh, bởi vậy con thuyền không thể đi vòng sang hai phía. Bây giờ chúng ta chỉ còn cách đi xuyên qua núi từ, chỉ một chốc nữa thôi, vỏ ốc cúc đá sẽ bị núi từ hút vào bờ và mắc kẹt ở đó, nếu chúng ta cứ quanh quẩn ở khu vực gần mặt nước thì rất dễ bị tấn công, vì vậy khi thuyền cập bến, chúng ta phải lập tức trèo lên hòn đảo cổ, sau đó chạy một mạch về phía trước, tuyệt đối không được dừng lại giữa đường, chúng ta mà bị chôn chân ở đó, thì chỉ hai, ba ngày sau chắc chắn sẽ mất trí nhớ, rồi thoái hóa thành bọn ma nước nửa người nửa cá đấy”.



Mọi người biết rõ, quanh núi Âm Sơn lảng vảng vô số bọn cương thi, dẫu trong tình trạng đầy đủ súng ống đạn dược cũng khó lòng mà xuyên qua nồi vòng vây của chúng, huống hồ bây giờ trang thiết bị lại thiếu thốn chừng ấy, e rằng chưa đi được nửa chặng đường thì đã bị bọn người không ra người, cá không ra cá kéo đi ăn thịt mất rồi, nhưng tình cảnh trước mắt buộc cả hội chỉ được tiến lên chứ chẳng thể lùi lại, vì thế mọi người đành hạ quyết tâm đâm đầu vào con đường mạo hiểm, ai nấy nắm chặt lòng bàn tay đang ướt đầm mồ hôi lạnh.



Lúc này, đột nhiên vỏ ốc rung lên từng hồi, mọi người ngã chúi về phía trước, thì ra vỏ ốc đã chạm phải bãi nước nông.




Tư Mã Khôi lấy nến xương cá soi tứ phía xung quanh, anh thấy phía trước là một dãy núi đen sì sì. Tư Mã Khôi nắm chặt súng, nhảy lên bờ trước tiên, hội Hải ngọng cũng lục tục trèo ra khỏi thuyền. Tuy chỉ vừa chạm chân lên mặt đất, nhưng dòng nước ngầm lạnh thấu xương ngập đến gằn đầu gối, thêm vào đó sóng biển dữ dội xô ào ạt vào bờ đây mọi người ngã dạt về phía trước, vì thế bốn người không thề dừng lại ở đây lâu thêm giây phút nào, họ buộc phải lội nước, trèo lên hòn đảo cổ núi Âm Sơn.



Cả hòn đảo cổ này là một ngọn núi từ to lớn khác thường, bị dòng thủy thể không ngừng đẩy đi, nó cứ không ngừng trôi giữa đại dương ngầm, phần lớn hòn đảo bị chìm dưới nước, phần núi lộ trên mặt nước chỉ cao hơn trăm mét. Hòn đảo là một khối thạch từ đen tuyền khổng lồ, địa thế thoai thoải bằng phăng, bề mặt nhẵn thín, ngay một ngọn cỏ cũng không có, khá nhiều vỏ ốc cúc đá và vỏ ốc anh vũ bị hút chặt vào khu vực xung quanh nó, trông cái nào cũng giống như một hang động bằng đá khổng lồ và quái dị.



Cả hội hồi hộp lo lắng, trèo lên hòn đạo cổ. Mới đi được vài bước, chân họ đã cảm thấy nặng trịch như đeo chì, họ biết ngọn núi từ này có lực hút sắt, càng lại gần thì lực hút càng mạnh. Chẳng còn cách nào khác, họ bất lực đành bỏ các vật dụng kim loại như dao săn, bình nước đi… Những vật này vừa rời khỏi tay mọi người, đã nghe thấy tiếng “keng” vang lên, rồi bị dính chặt vào mặt đất, muốn nhặt lên cũng khó.



Mọi người nhìn cảnh tượng ấy mà hãi hùng, giờ trên ngưòi chỉ còn vài vật dụng nhỏ bằng kim loại như nút cúc trên y phục và súng đạn, nên mọi người cũng miễn cường chịu đựng được lực hút, cũng vì phải ứng phó với nguy hiềm có khả năng xuất hiện bất cứ lúc nào, nên miễn còn đi được, là họ sẽ không dám vứt toàn bộ vũ khí phòng thân.



Cả hội thuận theo thế núi quanh co khúc khuỷu đi về phía trước, nhưng suốt chặng đường chẳng hề có bất kỳ động tĩnh gì, điều này rõ ràng vô cùng bất thường, thấy vậy hội Tư Mã Khôi không khỏi sinh nghi, vì sao toàn bộ lũ quái vật thường lảng vảng gần đó lại bỗng dưng biến mất?



Ngay từ thời cổ đại, ngọn núi từ 30° vĩ Bắc đã được coi là núi Âm Sơn nhốt giữ vô số ác quỷ. Thời Xuân thu, rất nhiều nô lệ và tù binh bị vứt vào trong núi, không chỉ vậy còn có máy bay và tàu thuyền bị mất tích gặp nạn ở mọi nơi xung quanh vành đai 30° vĩ Bắc. Tất cả những người may mắn sống sót sau vụ tai nạn và cả những người bị nhốt trên hòn đảo cổ núi Âm Sơn đều bị xóa sạch hết ký ức, rồi thoái hóa thành loài sinh vật máu lạnh nửa người nửa cá, sau đó chúng cũng sinh sản thêm khá nhiều. Ngày nay, chúng thường trốn trong hang động trên núi hoặc dưới mặt nước xung quanh chân núi. Khi đội khảo cổ phát hiện thấy chiếc tàu ngầm Z-615 và chui vào hang động hóa thạch ốc anh vũ, mọi người đã từng giao chiến kịch liệt với chúng, suýt nữa thì mất mạng. Giờ khi cả hội đã chuẩn bị sẵn sàng chạm trán với chúng, thì chúng lui biến mất dạng.



Hải ngọng cảm thấy vô cùng may mắn, anh cảm khái: “Ai bảo suốt đời đen như chấy, đôi khi cuộc sống cũng lên hương đấy chứ!”.



Tư Mã Khôi cảm thấy có lẽ chuyện này liên quan đến cơn địa chấn xảy ra ở tâm Trái đất, các loài cá lớn sống dưới vùng nước sâu đều nổi lên mặt nước, chắc bọn cương thi quanh núi Âm Sơn cũng sợ quá mà bò đi hết rồi, nhưng chưa biết chừng chúng lại đang đứng đợi cơ hội ở phía trước, dẫu sao không gặp vẫn tốt hơn là gặp, bây giờ anh chẳng thể bận tâm đến nhiều điều thế, mọi người buộc phải nhanh chóng vượt núi, rồi còn phải nghĩ cách tìm phương tiện vượt biển ở đầu bên kia và rời thật xa ngọn núi từ này.




Cao Tư Dương cho rằng hi vọng sống sót thật mờ mịt, cứ cho lần này cả hội có thể vượt núi an toàn, nhưng ra đến đầu bên kia thì vẫn là mặt biển đen ngòm rộng mênh mông, rồi cả hội lại lênh đênh trôi theo những con sóng cuồn cuộn, cho đến khi lại đâm vào núi từ lần nữa. Sau đó thì sao? Đế tránh bị xóa mất ký ức và biến thành những con quỷ vô hồn, mọi người lại phải cố gắng vượt núi từ lần nữa, vòng chạy trốn khắc nghiệt ấy cứ tuần hoàn hết lần này đến lần khác, bao giờ mới là điểm tận cùng?



Tư Mã Khôi nói: “Chẳng ngờ chúng ta lại chạm trán núi từ sớm thế, thậm chí còn chưa kịp nghĩ ra kế sách, muốn trốn khỏi đại dương dưới lòng đất này, chúng ta phải nghĩ ra cách trong lúc đi đường, còn nếu cứ ở lại đây thì chỉ còn đường chết, điều có thể làm lúc này là phải tranh thủ từng giờ từng phút đi xuyên qua ngọn núi. Bởi vậy chúng ta tuyệt đối không được phép do dự”.



Nói là nói vậy, nhưng thực ra trong lòng Tư Mã Khôi cũng thấy gờn gợn, tuy nhiên chân anh vẫn không dám dừng lại nửa bước. Địa thế dần dần cao lên, cả hội đi đến gần sống lưng núi thì thấy trước mặt là tàn tích một chiếc máy bay, thân máy bay đã hư hỏng nghiêm trọng, lại bị nước biển ăn mòn nên lớp vỏ ngoài han gỉ chằng chịt, không thể nhận ra nó mang số hiệu gì nữa, nhưng có lẽ đó là một chiếc máy bay ném bom hạng nặng. Khu vực vòng quanh vành đai 30° vĩ Bắc đều là khu vực dễ xảy ra sự cố tai nạn, số tàu thuyền, máy bay cũng như con người mất tích ở nơi đây nhiều không kẻ xiết, phần lớn nguyên nhân đều liên quan đến núi từ dưới lòng đất.



Hội Tư Mã Khôi vốn nghĩ rằng, tàu ngầm Z-615 là trường hợp đặc biệt, nhưng lúc này họ mới phát hiện không chỉ một mình nó bị núi từ hút vào đây. Ngoại trừ chiếc máy bay ném bom hạng nặng, gần đó còn có tàn tích của một vài chiếc máy bay khác, có lẽ sau khi bị mất tích ở hải vực tam giác Bermuda, chúng bị dòng khí nhiễu động cuốn xuống lòng đất, rồi dính vào ngọn núi từ này.



Hải ngọng đang giương tròn mẳt nhìn, thì đột nhiên cảm thấy một lực hút rất mạnh khiến khẩu súng săn gấu hai nòng bị tuột khỏi tay, bay thẳng về phía vách núi trước mặt. Khẩu súng săn gấu Canada có kết cấu với khá nhiều linh kiện thép nên khi tới nơi sâu trong núi có lực hút vô cùng mạnh mẽ, thì nó bị hút đi trước tiên. Tư Mã Khôi và Cao Tư Dương cũng không thể giữ nổi khẩu súng Walther P38 và khẩu súng trường trong tay, nên cả hai đành buông chúng ra.



Bốn người thấy các nút áo và nắp ba lô đều sắp bị một lực vô hình giật tung, cả hội bất giác nhìn nhau thất sắc, không ngờ núi từ dưới lòng đất lại sở hữu lực hút kinh hồn đến vậy! Bây giờ thấy tình cảnh hai tay trống không, lòng dạ ai nấy càng thêm phát hoảng. Tư Mã Khôi lập tức phân phát nến xương cá cho mọi người chiếu sáng, rồi rảo nhanh bước chân vượt đỉnh núi.



Lúc này, tầng mây trên cao như bị rạch một đường, rồi từ vết rạch ấy rơi xuống một quả cầu lửa, tiếng động ầm ầm rung chuyển đất trời, nghe như thể tiếng nổ ấy vang lên ngay sát vách tai. Tóc trên đầu dựng ngược, mọi người hốt hoảng nằm rạp xuống đỉnh núi. Bóng dáng ngọn núi đen sì ẩn hiện dưới ánh sáng chói lòa của lằn sét, cả hội thấy địa thế khá gô ghề, phía trước nhô ra một đỉnh núi nữa còn cao hơn cả đỉnh núi này.



Mọi người không biết hệ thống núi từ này rốt cuộc to lớn đến mức nào, vì họ đã vượt qua một đỉnh núi rồi mà vẫn chưa nhìn thấy điểm tận cùng ở đâu, ngặt nỗi giờ chẳng còn đường lui, đành phải cố đấm ăn xôi tiếp tục tiến về phía trước. Cả hội nghe nói năm đó Sở U Vương từng đúc chín pho tượng người bằng vàng để cố định ngọn núi này, thực không thể tưởng tượng chín pho tượng ấy quy mô hoành tráng cỡ nào, hơn nữa người cổ dại đã dùng phương pháp gì dể đúc ra những bức tượng ấy?




Bốn người vứt hết các dụng cụ kim loại mang theo người như đèn quặng, pin, la bàn… ngay cả khuy kim loại trên ba lô cũng gỡ bỏ, như vậy, họ mới có thể tiếp tục hành động.



Cả đội thở hổn hển cố gắng trèo lên đỉnh núi thứ hai, mãi mới trèo lên được đến đỉnh thì lại nhìn thấy đỉnh núi thứ ba, độ cao thấp hơn hai đỉnh còn lại khá nhiều. Khi vừa quan sát rõ địa hình và định tiếp tục cuộc hành trình đầy gian nan, thì đột nhiên Cao Tư Dương giật mạnh áo của Tư Mã Khôi, cô chỉ về phía sau với vẻ mặt đầy nỗi khiếp đảm: “Chết rồi! Con quái vật đó đã đuổi theo tới đây!”



Tư Mã Khôi quay đầu lại nhìn, thì thấy phía sau dải núi nhấp nhô xuất hiện một bóng đen hình cây cổ thụ khổng lồ, nó vươn dài vô số cánh tay trông như rễ cây, khắp người lập lòe những con mắt quái đản, sương đen vởn vũ xung quanh, cái bóng mơ hồ và dị hợm của nó khiến người ta hãi hùng, nhưng vị thần cổ xưa kia đáng lẽ đã rơi xuống tâm trái đất mới đúng, làm sao giờ này nó có thể xuất hiện ở quanh khu vực núi từ?



Mọi người trông thấy cảnh tượng diễn ra trước mặt ai nấy đều thất sắc, tất cả súng ống đạn dược trên người họ đều bị núi từ hút mất rồi, mà cứ coi trong tay vẫn còn súng, thì cũng hoàn toàn không thể chống lại được con quái vật bất tử bất diệt này. Cơ sự đến nước này thì cũng chẳng còn cách gì để nghĩ nữa, càng chẳng kịp ngẫm ngợi xem rốt cuộc đang xảy ra chuyện gì, giờ thượng sách nhất là chuồn, thế là tất cả mọi người liền co giò bán sống bán chết chạy lên đỉnh núi.



Đường núi nhấp nhô, xuống còn dễ chứ lên thì rất khó, lúc bắt đầu trèo lên đỉnh núi thứ ba, tốc độ của cả hội chậm hơn hẳn, mọi người vừa chạy vừa tính kế. Entroypy đã sống cả vạn năm, nó giống như con đường nối liền với động không đáy của cõi hư vô, nó có khả năng không ngừng khôi phục những phần cơ thể bị hủy hoại. Ngoại trừ vỏ ốc hóa thạch mà người Bái Xà cổ đại để lại ra, thì tất cả các sự vật tồn tại trong động không đáy đều chỉ là sự cảm nhận trong ý thức của mọi người, có điều nếu ý thức đã có thể cảm nhận “hư vô” một cách chân thực như vậy, thì cõi hư vô ấy nào khác gì cõi thực?



Trong khoảnh khắc Entroypy sa vào tâm Trái đất, nó tự biết mình đã rơi xuống cõi vạn kiếp không thề siêu sinh, nên liền hút đội khảo cổ vào động không đáy, định biến cả bốn người họ thành “gian phòng” và giúp nó đem một phần cơ thể lên khỏi mặt đất, trong khi đó bản thân Entroypy vẫn chưa bị dòng axít đậm đặc làm tan chảy, nhờ tấm thân không ngừng tái sinh phục hồi như cũ, nó đã bò ra khỏi nơi sâu dưới cửu tuyền, hội Tư Mã Khôi quả thực không biết phải làm cách nào mới đẩy con quái vật đó vào chỗ chết. Có điều, sau khi đuổi theo đội khảo cổ đến núi Âm Sơn, quầng sóng từ giống như sương đen bao quanh người nó bắt đầu bị ngọn núi hút mất dần, bởi vậy chân tướng của nó mới lờ mờ hiện ra. Nếu nó bị nhốt trong núi từ một thời gian, thì cũng sẽ biến thành vật vô tri vô giác, nhưng quá trình ấy cần ít nhất vài ngày, trong khi đó chỉ cần một tiếng, nó đã có thể nuốt hết những thành viên may mắn sống sót của đội khảo cổ vào bụng, rồi rời khỏi núi từ, tìm nơi nào đó và đợi chờ cơ hội ngoi lên khỏi vực sâu.



Trong đầu Tư Mã Khôi liên tục nghĩ ra mấy cách, nhưng chẳng cách nào khả thi, chưa bao giờ anh cảm thấy tuyệt vọng như bây giờ, anh chỉ hối hận năm ấy sao mình không chết quách ở Miến Điện cho nhẹ nợ, được thế thì giờ đã không xảy ra kết quả đáng sợ này, đáng tiếc thay trên đời đâu có loại thuốc nào có tên gọi là thuốc hối hận. Trong nỗi kinh hoàng và khiếp đảm tột độ, họ phát hiện con quái vật đã đuổi theo đến đỉnh núi cuối cùng. Bầu trời sấm rung chớp giật, họ quay lại nhìn phía sau, thì thấy bóng cây cổ thụ ẩn hiện trong quầng sương quyện đặc, nó gần như hòa thành một thể với bóng núi đen sì, phía trước là mặt biển đang cuồn cuộn tung sóng cuồng bạo, trải dài tít tắp vô biên. Cả nhóm đã không còn đường thoát thân.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 211: Hồi 9: đi vào lịch sử


Hệ thống núi từ nổi trên thủy thể 30° vĩ Bắc có ba đỉnh núi, đội khảo cổ đã trèo lên đỉnh núi thứ ba, phía dưới là mặt biển tung bọt trắng xóa, cuồng loạn cuộn trào, đại dương dưới lòng đất sâu thăm thẳm, nếu lỡ rơi xuống, dẫu bơi giỏi đến đâu thì cũng chẳng khác gì một giọt máu nhỏ xuống đầm lầy, trong thoáng chốc đã mất hút trong sóng nước mênh mông.



Bốn người thấy trước mắt không còn đường chạy thoát, liền giơ nến xương cá soi tứ phía xung quanh, định tìm một vật nổi nào đó, cho dù chỉ là một khúc cây khô cũng được. Họ phát hiện lòng núi gần đó đều bị nứt toác thành những đường sâu, nên đành chui vào đó trốn tạm trong lúc cấp bách. Chẳng ai kịp nghĩ ngợi gì, họ lũ lượt kéo nhau nhảy xuống.



Khe núi rất hẹp, hai vách dựng đứng, chỗ rộng nhất cũng chỉ đủ hai người đi sát nhau, cả hội tiến sâu vào bên trong thì thấy có mấy hang động nữa nối liền với nhau, mùi tanh hôi sộc thẳng vào mũi.



Hải ngọng bình thường mà nổi máu yêng hùng, thì không góc trời nào anh không dám quậy, nhưng cũng có lúc gan anh chẳng bằng lá gan chuột nhắt, giờ đây tay không tấc sắt, lại thấy bên trong tối thui, chẳng nhìn thấy cái gì vào cái gì, tự nhiên đảm khí của anh biến đâu mất sạch, anh lo lắng quay sang hỏi Tư Mã Khôi xem tiếp theo định làm gì?



Tư Mã Khôi nói: “Bây giờ thì đừng mong trốn thoát! Chúng ta đã lâm vào đường cùng, đạn hết, lương thực cạn kiệt, rơi vào thủy thể 30° vĩ Bắc, bị nhốt trong núi từ, kiểu gì cũng chết. Nhưng Entroypy vẫn đuổi theo đến đây, chắc vì đội khảo cổ biết quá nhiều bí mật nên nếu nó không ăn thịt được hết các thành viên, thì nó chắc chắn không chịu dừng lại. Bởi vậy, chúng ta phải cố gắng kéo dài cuộc chạy trốn và sống sót càng lâu càng tốt, để Entroypy phải quanh quẩn ở núi từ và dần dần bị núi từ xóa sạch mọi ý thức mới được”.




Hải ngọng hiểu làm như vậy chẳng khác gì đôi bên cùng chết, đội khảo cổ và Entroypy sẽ cùng bị núi từ xóa sạch trí nhớ, nhưng làm vậy còn tốt hơn là chết một cách vô nghĩa, nên anh chẳng hề do dự lập tức đồng ý.



Cao Tư Dương nói với Tư Mã Khôi: “Anh nói cứ như thánh phán ấy! Làm sao anh biết con quái vật đó đến đây để ăn thịt đội khảo cổ? Biết đâu nó cũng bị núi từ hút đến một nơi mà mình chẳng hay biết thì sao?”



Thắng Hương Lân từ đầu chí cuối chẳng nói chẳng rằng, giờ đột ngột cất tiếng: “Tư Mã Khôi đoán không sai đâu! Con quái vật mà người Bái Xà coi là dị thần ấy trước đây liên tục ở trong trạng thái ngủ đông do phải đối mặt với tấm bia đá. Khi đội khảo cổ chúng ta chui qua tấm bia vào trong động không đáy, Entroypy chắc chắn nó sẽ dụ được chúng ta phá hủy tấm bia, nhưng trong khoảnh khắc tấm bia bị phá hủy, nó buộc phải thả mấy người chúng ta ra khỏi động không đáy, nếu không mọi sự kiện xảy ra trong động sẽ không thể chạm tới tấm bia đá Bái Xà đang ở ngoài động. Hơn nữa, nó lại lo lắng mình đã chết cứng suốt bao năm, sau khi phục hồi không thể lập tức một đớp nuốt chửng hết cả chúng ta, cho nên nó mới nói ra rất nhiều bí mật, hòng làm pin đèn của chúng ta nhanh chóng bị tiêu hao, như vậy dẫu đội khảo cổ có trốn thoát ra khỏi miếu thần, thì trong tình trạng không có thiết bị chiếu sáng, cũng không thể chạy trốn được bao xa. Nhưng sau đó, mọi sự phát sinh chẳng ai lường trước được, hó bị chúng ta dụ chạy theo đến đầm lầy dạ quang, rồi chết chìm trong hồ axit, nó đành kéo đội ta vào động không đáy, rồi đâm thủng dòng biển nóng gây ra cơn địa chấn dữ dội, khiến vỏ ốc hóa thạch bắn lên dòng thủy thể 30° vĩ Bắc. Mục đích của Entroypy là sẽ có người biến thành “gian phòng” giúp nó mang một phần cơ thể ra khỏi lòng đất, còn bản thân nó thì cũng theo dòng biển nóng trôi nổi đến tận đây. Thực ra, nó cũng hoàn toàn bất ngờ trước mọi sự xảy ra, lúc này nó bơi qua biển, trèo lên núi từ chính là vì muốn nuốt hết toàn bộ các thành viên của đội khảo cổ, bởi vì chúng ta đã biết quá nhiêu bí mật của nó, để bất kỳ ai sống sót cũng đều có khả năng trở thành mầm họa về sau”.



Cao Tư Dương phản bác: “Cô cũng chỉ đoán mò thôi! Làm sao biết chính xác được?”



đọc truyện tại truyện của tui - net -



Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói mà lòng đột nhiên len lỏi một nỗi sợ không tên: “Những lời Thắng Hương Lân vừa nói không giống đoán mò, sao cô ấy biết rành mạch thế nhỉ? Chẳng lẽ…”



Tư Mã Khôi biết trong vỏ ốc hóa thạch trôi nổi trên dòng thủy thể 30° vĩ Bắc nhất định có miếng thịt người chết, ai ăn miếng thịt ấy sẽ biến thành người trực tiếp ăn thịt vị thần cổ và sẽ biến thành một phần của vị thần cổ. Từ đó, thịt trên mình dẫu có bị cắt đi cũng sẽ phục hồi như cũ, người xung quanh ăn thịt kẻ ấy sẽ biến thành “gian phòng” gián tiếp, thành con rối bị khống chế, nhưng ngoại trừ kẻ trực tiếp ăn thịt dị thần ra, thì những “gian phòng” khác không có khả năng tự phục hồi cơ thể, bởi vậy để phân biệt xem ai đã bị ăn miếng thịt người chết, bốn thành viên của đội khảo cổ đều tự rạch mu bàn tay của mình, sau khi xác nhận không ai xuất hiện hiện tượng tự phục hồi vết thương, cả hội mới trút được hòn đá tảng trong lòng. Sau đó, suốt mấy ngày ròng rã trên biển, sức sống vốn mong manh như sợi chỉ mành của Thắng Hương Lân cũng dần dần phục hồi, khí sắc đã hồng hào hơn trước, nhưng cả ngày cô chẳng hề mở miệng nói câu nào, không rõ trong lòng đang trĩu nặng tâm sự gì.



Không phải Tư Mã Khôi không phát hiện thấy biểu hiện khác thường của Thắng Hương Lân, chỉ là anh hoàn toàn không muốn tin cô đã biến thành “gian phòng” ăn thịt người chét, nhất thời lòng anh rối rắm như trăm mối tơ vò. Tư Mã Khôi đang định mở miệng hỏi cho ra nhẽ, thì đột nhiên từ sâu trong huyệt động vọng lại những tiếng động quái lạ nghe sột soạt, anh liền vội vàng chĩa nến xương cá về phía trước.



Nến xương cá chính là bó đuốc làm bằng xương cá, phía trước bôi cao dầu cá và chất phát sáng sinh học, ánh sáng lạnh âm u này có thể chiếu sáng trong phạm vi hơn mười bước chân. Đứng trong hang động dưới lòng đất quánh đặc màu đen cũng đủ khiến người ta dựng tóc gáy, giờ đây lòng động được chiếu sáng, hội Tư Mã Khôi nhìn thấy một vật thể nửa người nửa cá đang bò ngược từ trên vách động xuống, trên khuôn mặt quái dị và trắng bợt của nó thè ra cái lưỡi dài, thất khiếu đều tụ máu, con ngươi xám ngoét vô cùng nhạy cảm với ánh sáng, thế mà nhìn thấy ánh nến, nó không những không tránh mà còn hành động vô cùng mau lẹ, thoắt một cái đã bò xẹt qua đỉnh đầu bốn người, động tác cực kỳ thần tốc, nó đáp xuống đất khẽ khàng không một tiếng động nhỏ.



Tư Mã Khôi ngửi thấy một luồng gió tanh đang áp sát sau lưng, anh biết chắc chắn bọn cương thi ở quanh khu vực núi Âm Sơn đang đến gần họ. Khả năng bọn chúng cảm nhận được Entroypy đang đến gần, nên tất cả đều trốn vào trong hang núi, vừa gặp hơi người sống, thì bản chất khát máu săn



mồi của chúng lại trỗi dậy, ngặt nỗi hiện giờ súng ống và dao săn của hội Tư Mã Khôi đều bị núi từ hút mất, nên họ chẳng thể giao chiến trực diện với chúng, nghĩ vậy anh đành kéo Thắng Hương Lân né người lẩn trốn.




Con cương thi nửa người nửa cá vồ hụt mồi, nó lập tức quay đầu, há miệng rộng ngoác, lộ ra hàm răng sắc nhọn, trắng ởn, định lao tới lần nữa, nhưng Tư Mã Khôi đã ra tay nhanh hơn, anh gí mạnh ngọn nến xương cá đang cầm trong tay vào thẳng mặt nó, khiến nó đau đớn lăn lộn trên đất, miệng không ngừng phát ra những âm thanh quái đản.



Lúc này, không ít cương thi đã bu đến xung quanh chỗ hội Tư Mã Khôi đang đứng. Vì hang động tối om, nên họ chẳng rõ có tất cả bao nhiêu con, Cao Tư Dương phát hiện bên cạnh có một hang động nữa, bên trong tối đen như mực, yên ắng không nghe thấy bất cứ động tĩnh gì, cô vội vàng gọi hội Tư Mã Khôi chạy vào trong lẩn trốn.



Trong lúc hoảng loạn, Tư Mã Khôi cũng chẳng còn bận tâm lựa chọn đường đi. Khi vào bên trong, anh mới nhìn thấy, cửa động là một cánh cửa đá bằng phẳng và dày nặng, ba người họp sức để đẩy cánh cửa đóng lại, nhưng cánh cửa đá này vốn làm bằng từ thạch trong núi Âm Sơn, nặng không dưới ngàn cân, hơn nữa hơn hai ngàn năm chưa hề bị dịch chuyển, nên chân nó như bén rễ cắm sâu xuống lòng đất.



Mọi người biết nếu không đóng được cánh cửa đá, thì coi như xong đời, nên ai nấy cũng cố gắng hết sức đẩy. Cánh cửa đá kiên cố phát ra tiếng kêu “kẹt kẹt”, rồi cuối cùng cũng từ từ chuyển động, nhưng đúng trong sát na ấy, một con quái vật nửa người nửa cá đã kịp bò qua khe cửa, hai con khác thò được nửa thân mình vào trong thì bị kẹp chết khi cánh cửa đóng chặt, số còn lại bị chặn cả ở phía ngoài. Con bò được vào bên trong leo lên vách đá, nhảy bổ vào mặt Hải ngọng, há ngoác miệng định cắn anh, Hải ngọng dựa lưng vào cánh cửa, hai chân đang trụ để tạo lực đẩy về phía sau, nên đành lấy hai tay banh hai mảnh hàm của đối phương, anh ra sức xé mạnh, chỉ nghe “roẹt” một tiếng, cái mồm đỏ au của con quái vật bị xé toạc thành hai mảnh.



Cùng với tiếng hét chói tai của Hải ngọng, cuối cùng cánh cửa đá cũng khép lại hoàn toàn, mọi người thấy hang động phía sau cánh cửa rất khoáng đạt, thông ra tứ phía, có lẽ núi từ là ngọn núi rỗng lòng, rất có khả năng bọn cương thi không ra người chẳng ra cá kia sẽ vào đây bằng các ngả đường khác, bởi vậy cả hội không dám dừng chân, họ lập tức soi nến xương cá, định tiến thẳng về phía trước, tìm một nơi nhỏ và đủ kín đáo để nương náu, nào ngờ càng đi sâu vào trong, hang động lại càng rộng rãi, dường như cả hội đã vào đến rốn núi.



Từ thời hằng cổ đến nay, ngọn núi từ đã tồn tại phía dưới lóp vỏ Trái đất, trên đỉnh núi không chỉ có khá nhiều tàn tích của máy bay, tàu thuyền, mà ngay Sở U Vương cũng từng xây điện tế quỷ ở đây, bởi vậy trong lòng núi vẫn có chút vết tích của các công trình còn sót lại, nhưng nhiều nơi trong lòng núi đã bị nứt toác, nước ngầm ngấm dần xuống dưới, các di tích lịch sử dường như không thể nhận dạng được nữa. Hải ngọng đi đầu, anh nhặt được một thanh kiếm ngắn trong đống xương khô, thanh kiếm dài chừng nửa cánh tay người, thân kiếm khá dày và rộng bản, đen sì sì. Thanh kiếm được tra vào vỏ bằng da cá mập, không trang trí thêm bất cứ hoa văn, họa tiết gì, trông khá cổ phác và nặng nề.



Hải ngọng định dùng nó để phòng thân, nhưng khi cầm trong tay mới phát hiện đó chỉ là một thanh gỗ, bởi vậy mới không chịu lực hút của núi từ. Anh chửi một câu: “Vô dụng!”, rồi tiện tay quẳng luôn xuống đất.



Tư Mã Khôi nhặt lên, anh phát hiện thanh kiếm cổ này không phải vàng cũng chẳng phải sắt, nhưng nó cứng hơn gỗ rất nhiều, chuôi kiếm có khắc tám chữ triện cổ trông như giun dế. Anh thử cầm kiếm cắt một mẩu dây da, thì thấy “xoẹt” một cái đã đứt mất một mẩu. Anh không ngờ kiếm lại sắc như vậy. Đoán đây là bảo vật của nhà Sở, Tư Mã Khôi liền đưa nó cho Hải ngọng phòng thân, tuy không hữu dụng như khẩu săn gấu hai nòng Canada, nhưng có nó trong tay vẫn hơn là không có gì.



Cả hội men theo vách đá, vội vàng tiến về phía trước, Tư Mã Khôi thấy bọn cương thi trong hang động không còn bao vây nữa, thì định nhân cơ hội này hỏi Thắng Hương Lân mấy câu, nào ngờ mới đi được vài bước, phía trước đã là mạt lộ. Thì ra, cách chỗ họ đứng không xa đáy động lún xuống



thành một cái hố to, bên trong toàn bùn lầy đen quánh, bong bóng nổi lên “ùng ục”. Mọi người thấy hai mắt cay xè, ứa nước. Có lẽ đây là bùn lầy dưới đáy hồ chảy vào lòng núi qua một kẽ nứt nào đó và tích tụ dần thành đầm cho đến ngày nay, phía dưới tầng bùn đất nhất định chứa rất nhiều khí metan, gặp phải lửa là lập tức bén cháy. Mọi người cuống quýt lùi lại mấy bước, lòng nghĩ, thì ra trong lòng núi tồn tại lượng khí metan lớn đến vậy, trách gì bọn cương thi trong hang động mới không dám bén mảng lại gần.




Tư Mã Khôi đang định rút mặt nạ phòng độc ra che mặt, thì đột nhiên anh nhìn thấy trên cao có một ánh sáng lóe lên. Tư Mã Khôi vô thức ngẩng đầu lên, phát hiện chỗ mọi người đang đứng là lòng đỉnh núi thứ hai, tàn tích chiếc máy bay mà cả hội trông thấy lúc trước rơi vào giữa khe núi, nửa thân dưới của nó tụt hẳn vào trong lòng núi. Tư Mã Khôi lại nghe thấy âm thanh di chuy ển của một sinh vật khổng lồ, anh đoán chắc là vị thần cổ hình cây kia đang bò đến. Một kế hoạch táo bạo lập tức hiện ra trong đầu anh, nếu có thể thành công, phen này chắc chắn hội anh có thể giáng một cú chí mạng vào lịch sử.



Súng ống và dao săn mà bốn người mang theo đều bị núi từ hút mất, khắp nơi trong lòng núi lảng vảng toàn bọn cương thi, mọi người chỉ mải miết lo chạy thoát thân, mệt mỏi rã rời, hoàn toàn không có cơ hội đánh trả, chỉ e chẳng thể trụ được mấy hồi nữa, trong khi đó con quái vật toàn thân chi chít mắt cũng đã bò lên được núi từ, chỉ cần mọi người rời khỏi lòng núi là lập tức bị nó nuốt chửng. Nếu bây giờ có thể dẫn khí metan nơi sâu trong núi này tới để số bom trong chiếc máy bay ném bom hạng nặng kia phát nổ, thì cho dù không phá nát được núi từ, nhưng hoàn toàn có khả năng làm khe nứt trong lòng núi nới rộng ra nhiều lần, khiến Entroypy rơi xuống đây, chỉ cần nó bị nhốt ở nơi này mấy ngày là ổn.



Tư Mã Khôi không chắc kế hoạch này có thể thành công hay không, vả lại làm như vậy thì mấy mạng người của đội khảo cổ cũng đừng mong sống sót, nhưng giờ phút này, hoàn cảnh chẳng cho phép anh suy nghĩ nhiều đến vậy, con quái vật đã đuổi theo đội khảo cổ tới núi từ, có thể nói tất cả đều là sự an bài của số phận, chỉ là chẳng ai tiên liệu trước được kết quả cuối cùng sẽ diễn biến như thế nào mà thôi.



Lúc này, trong khe núi trên cao ẩn hiện vô số con mắt quái dị, Tư Mã Khôi nhìn thấy chúng mà da đầu bỗng như tê dại, anh nắm chặt nến xương cá, đang định vứt nó vào đầm lầy trước mặt, chẳng ngờ vừa mới giơ tay thì đã bị Thắng Hương Lân ngăn lại.



Tận trong sâu thẳm trái tim, điều Tư Mã Khôi không hi vọng xảy ra nhất chính là Thắng Hương Lân trở thành “gian phòng” ăn thịt người chết, anh thầm nghĩ, chỉ cần làm nổ đầm khí metan dưới đáy động, thì tất cả thành viên đội khảo cổ sẽ tan tành xác pháo bất kể là ngọc nát hay ngói lành, chẳng ai còn sống sót để mà phải bận tâm đến việc truy cứu kết quả.



Thắng Hương Lân cầm lấy cây nến xương cá trong tay Tư Mã Khôi, cô lột bỏ miếng băng dán trên mu bàn tay, vết thương mấy hôm trước đã hoàn toàn biến mất.



Tuy Tư Mã Khôi đã chuẩn bị tâm lý, nhưng khi thực sự chứng kiến cảnh ấy, anh cảm thấy chẳng khác gì bị sét đánh trúng đỉnh đầu, anh sững người hãi hùng, miệng lắp bắp: “Cô…”



Thắng Hương Lân đã phát hiện mình đã trở thành một phần của Entroypy, nhưng quá trình này phải mất mấy ngày mới phát tác, nên bây giờ cô vẫn chưa bị Entroypy khống chế, cô rõ hơn ai hết mình không thể sống sót thoát khỏi nơi đây, nên cam tâm tình nguyện trở thành người đi dẫn nổ khí metan, hi vọng có thể nhờ đó thay đổi được tình thế, nhường cơ hội sống sót cho ba người còn lại. Giờ phút này, ý chí cô đã quyết, cô ngẩng đầu đăm đắm nhìn Tư Mã Khôi hồi lâu, rồi quay sang nhìn Hải ngọng và Cao Tư Dương một lượt, sau đó lẳng lặng quay người bỏ đi.



Hải ngọng và Cao Tư Dương đương nhiên chẳng thể nghĩ ra được biến cố không lời ấy, khi họ còn chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra, thì đã thấy Thắng Hương Lân cầm nến xương cá lao vào nơi sâu trong hang động. Họ đứng ngây người tại chỗ, há hốc miệng mà chẳng biết nên làm gì. Trong chớp mắt, bóng dáng nhanh nhẹn, thanh thoát ấy đã mất hút giữa bóng tối vô biên.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 212: hồi 1: nhiễu động khí


Thắng Hương Lân xả thân lao đi, cô châm nến xương cá đốt đầm lầy tích tụ khí metan dưới đáy động. Vụ nổ của thể khí màu đen tạo thành nấm mây khổng lồ dội ngược lên bầu trời.



Hội Tư Mã Khôi như đứt lìa từng khúc ruột, lúc này không biết số bom trên tàn tích của chiếc máy bay nằm kẹt ở vát nứt trong khe núi có phát nổ hay không, chỉ thấy trên cao cũng bắn ra một quả cầu lửa khổng lồ.



Tần suất phóng thích nhiệt và mật độ khói trong huyệt động trong phút chốc đã tăng đến kịch điểm, ba người còn sống sót bị dòng khí đẩy ngã lăn ra phía sau, trong lúc ngạt thở, họ vẫn kịp nhìn khe núi đã bị nứt toác một khoảng rộng, con quái vật khắp người toàn mắt đang bò trên núi, một phần cơ thể giống như râu rễ sa xuống núi từ, nhưng chẳng bao lâu sau nó đã bò lên và rút người ra khỏi khe núi. Lòng núi nứt vỡ chẳng thể nào cầm chân được nó.



Ba người thấy nhiệt độ trong huyệt động quá cao, không thể tiếp tục dung thân được nữa, họ đều biết giờ không phải lúc buồn thương, nên đành nén nỗi đau, chui qua huyệt động gần đó, rời khỏi lòng núi. Lúc này, mọi người thấy trọng tâm ngọn núi bị nghiêng sang một bên, dường như núi từ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của vụ nổ, nó lệch ra khỏi dòng thủy thể 30° vĩ Bắc, bọn quái vật nửa người nửa cá trong động đều tháo chạy tứ tán.



Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Cao Tư Dương lồm ngồm dùng cả tay lẫn chân bò ra khỏi lòng núi, họ phát hiện mình đang ở rất gần đỉnh núi thứ ba. Vì cơn chấn động nên núi từ dưới lòng đất nghiêng hẳn sang một bên, nó lệch khỏi vị trí ban đầu trong những con sóng cuồn cuộn điên cuồng. Biên độ nghiêng của ngọn ngúi khá lớn nên mọi người đang nằm rạp trên đỉnh núi cũng khó bề di chuyển. Khoảng cách từ chỗ họ đến vị thần cổ hình cây khổng lồ chỉ khoảng mấy chục mét, nên cả hội thấy rõ vị thần cổ đang thò vô số cánh tay quái dị, dài ngoằng và khô quắt về phía ba người như muốn tóm lấy họ.




Hội Tư Mã Khôi hãi hùng muốn xỉu, họ biết nếu không bị núi từ hút phần lớn sương đen bao quanh người vị thần cổ, thì họ chẳng bao giờ nhìn thấy chân tướng thật sự của nó. Lúc thường chỉ cần liếc nhìn nó một cái là lập tức bị nhấn chìm vào động không đáy hư vô, vĩnh viễn không thể thoát ra nổi, nếu chỉ dựa vào thân xác phàm trần thì tuyệt đối không thể chống cự được nó, giờ cả hội đành liều chết không ngừng di chuyển trên sườn núi nghiêng.



Lúc này, ngọn núi đột nhiên rung chuyển dữ dội, hội Tư Mã Khôi quay cuồng đầu óc, không rõ lại sắp xảy ra biến cố gì. Mọi người nhìn xuống dưới núi, nhờ tia lửa điện phát ra tù tầng mây trên cao, họ thấy trên mặt biển đen mênh mông xuất hiện một hố xoáy lớn, có khả năng phía dưới dòng thủy thể 30° vĩ Bắc tồn tại một không động, lượng nước lớn đang không ngừng trút như thác đổ vào trong lòng nó. Sau khi núi từ bị xê dịch vị trí, nó trôi nổi đến đây và cũng bị cuốn vào hố xoáy. Ngọn núi từ rất đồ sộ, tuy không bị hút vào vực sâu, nhưng nó cũng không thể thoát khỏi dòng xoáy mãnh liệt, nó xoay chuyển theo dòng chảy mạnh đến nỗi không thể cưỡng lại.



Vị thần cổ giống như thân cây khổng lồ chỉ chăm chăm muốn nuốt hết hội Tư Mã Khôi, nên không để ý đến những chấn động trong lòng núi, nó lỡ chân rơi xuống hố xoáy. Tuy sức nó rất mạnh, nhưng cũng bị dòng nước cuốn vào vực sâu, có điều nửa thân của nó vẫn mắc vào núi từ, không thể thoát ra nổi, nó chỉ biết bám lấy núi từ, không ngừng xoay vòng trong cơn tuyệt vọng khôn cùng, vài ngày nữa thôi, nó sẽ hoàn toàn bị xóa mất ký ức và trở thành một khối thịt mục nát vô tri vô giác.



Hội Tư Mã Khôi nằm rạp trên đỉnh núi chứng kiến toàn bộ cảnh tượng ấy, chẳng ai ngờ kết quả này lại xuất hiện, nếu không phải vụ nổ khiến núi từ xê dịch khỏi vị trí ban đầu và con quái vật toàn thân là mắt kia chỉ mải đuổi theo để nuốt đôi khảo cổ, thì nó đã không rơi vào bước đường cùng này. Giờ đây, con quái vật khác thường bất tử bất diệt dưới cửu tuyền này, tuy thân xác còn tồn tại nhưng toàn bộ ý thức sẽ bị núi từ xóa sạch, có lẽ đó mới là cái chết thực sự đối với nó.



Ba người tự biết mình cũng chẳng thể trốn thoát, sắc mặt ai cũng xám ngoét, may mà đại sự đã định, coi như sự hi sinh của bao nhiêu con người đã không trở nên vô ích.



Cao Tư Dương đột nhiên nhớ ra một việc không hay, trên đảo Âm Sơn còn có rất nhiều cương thi nửa người nửa cá, nếu chúng ăn thịt Entroypy, dẫu chỉ một, hai con trốn thoát ra ngoài, cũng đủ gây ra hậu họa khôn cùng.



Tư Mã Khôi lắc đầu, anh bảo: “Quanh khu vực núi Âm Sơn toàn bọn xác chết biết đi đã thoái hóa, trong khi Entroypy chỉ khống chế được những sinh vật sống, thế nên dẫu chúng có ăn thịt vị thần cổ thì cũng chẳng ảnh hưởng gì, huống hồ chúng cũng không thể rời khỏi núi từ. Chẳng bao lâu nữa, luồng điện sinh học giống như âm hồn tồn tại trong cơ thể vị thần cổ hình cây kia cũng sẽ bị núi từ dưới lòng đất này xóa bỏ triệt để, mà thứ bị xóa bỏ ấy vạn kiếp sẽ không thể phục hồi được nữa. Bởi vậy, chúng ta không cần lo đến hậu họa đó”.



Ba người nằm phủ phục trên đỉnh núi, nhớ đến chuyện của Thắng Hương Lân mà tim như giỏ từng giọt máu, ai cũng nuối tiếc, đau đớn khôn nguôi.



Hải ngọng ngậm ngùi bảo Tư Mã Khôi: “Hương Lân chỉ đi trước chúng ta một bước thôi, dẫu sao cũng chẳng thể thoát ra khỏi đây được, nếu phải biến thành lũ cương thi dật dờ trong núi Âm Sơn, thà ta cứ nhảy xuống đây chết cho thống khoái…”



Lời còn chưa dứt, thì cả hội thấy sương mù dày đặc trên đỉnh đầu cũng xuất hiện hố xoáy. Thì ra, ngọn núi từ cao hơn mặt nước chừng trăm mét, lúc nó chuyển động trong hố xoáy đã tạo ra một luồng khí xoay tròn, khiến màn sương vô biên bao phủ trên cao cũng thay đổi theo. Lúc này, phía dưới là sóng dữ vỗ ầm ầm, phía trên là sương mù vây bủa cuồn cuộn, nước biển và sương mù tạo thành một hố xoáy khổng lồ và đen ngòm, chẳng thể phân biệt ranh giới đâu là nước, đâu là sương, dòng khí nhiễu động mãnh liệt xoáy bay tất cả mọi vật ở những nơi nó đi qua, thổi vạt áo kêu phần phật, chỉ e hễ buông lỏng tay một chút là sẽ bị dòng khí nhiễu động cuốn phăng lên không trung.



Tư Mã Khôi hạ kính chắn gió trên mũ bấc Pith Helmet xuống, anh thấy trong quầng sương dày đặc trên cao lộ ra một cửa hang lớn, quầng khí khổng lồ đang không ngừng vần vũ theo hướng đi lên trên. Anh bất giác lóe lên một ý tưởng, càng nghĩ càng thấy đây đúng là cơ hội ngàn năm khó gặp, đội khảo cổ chẳng có lý do gì phải chịu chết dưới lòng đất, tuẫn táng theo Entroypy, nếu đã không thể thoát khỏi cái chết, thì sao ta không mạo hiểm thử liều một phen?




Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi nhìn lên cửa động trong sương mù, cô định nói: “Anh đừng nghĩ hồ đồ, dòng khí nhiễu động tuy mạnh, nhưng cũng không thể cuốn người lên trên cao như thế đâu…”, ngặt nỗi cô chẳng thể thốt thành lời, nên cứ khoa tay múa chân ra hiệu.



Tư Mã Khôi chỉ tay về phía tàn tích chiếc máy bay ở gần đỉnh núi, ra hiệu cho Hải ngọng và Cao Tư Dương đừng hỏi nhiều, chỉ cần đi theo anh là được.



Ba người khó nhọc di chuyển trong dòng khí nhiễu loạn, bò lên sườn núi nghiêng nghiêng, lắc lư chao đảo. Cuối cùng, họ cũng tiếp cận được tàn tích một chiếc máy bay mà vẻ ngoài có vẻ còn nguyên vẹn nhất. Đó là một chiếc máy bay trực thăng kiểu cũ bị núi từ hút vào đây.



Hải ngọng chợt nhớ đến vụ chiếc máy bay tiêm kích của không quân Anh bị mắc kẹt trong đám dây leo ở khe núi Miến Điện, đội thám hiểm đã lái nó trượt xuống vực sâu, anh cứ ngỡ Tư Mã Khôi định thực hiện lại pha ấy, nhưng chiếc tiêm kích vận tải kia là loại máy bay có kết cấu toàn bằng gỗ hiếm, khả năng bảo tồn rất cao, thêm vào đó khe núi Dã Nhân sâu hơn hai ngàn mét, địa hình khoáng đạt, rộng rãi, dễ phát sinh hiệu ứng nhà kính nên họ mới có thể hạ cánh bình an vô sự, còn chiếc máy bay này đã bị núi từ hút chặt, huống hồ toàn bộ khung máy đã han gỉ nghiêm trọng, dẫu trong mơ cũng chẳng dám hi vọng nó có thể chở được người mà bay lên.



Hải ngọng tự nhận mình là người dám nghĩ dám làm nhưng anh vẫn chưa đủ độ điên khùng như Tư Mã Khôi để nghĩ ra ý tưởng kỳ quặc ấy, rõ ràng Tư Mã Khôi đã bị chủ nghĩa mạo hiểm điển hình và chủ nghĩa liều mạng điều khiển mất rồi. Nghĩ vậy, Hải ngọng vội vàng xua tay can ngăn: “Muốn đi thì các cậu cứ đi, khó khăn lắm mới được chết một lần, sao không chọn cách chết nào bình thường một chút cơ chứ?”



Cao Tư Dương lại cho rằng, có thể do Tư Mã Khôi quá đau lòng trước cái chết của Thắng Hương Lân, nên đầu óc nhất thời hồ đồ, cô định đến gần ngăn cản anh không nên làm những việc vô nghĩa ấy.



Tư Mã Khôi biết nếu không nhanh chân thì thời cơ sẽ vụt mất, nên anh không kịp giải thích cho mọi người hiểu, anh bò vào trong khoang máy bay, lật tung đồ đạc như muốn tìm thứ gì đó, tìm mãi không có kết quả, anh lại chui vào trong xác một chiếc máy bay khác, cuối cùng cũng lôi ra được một cái bao khá lớn, sau khi phủi lớp bụi bên trên đi và xác nhận lại lần nữa, anh mới gỡ nó ra.



Hải ngọng thấy hành động kỳ lạ của Tư Mã Khôi, thì liền lại gần giúp một tay, sau khi cởi hết các nút thắt, anh mới nhận ra và ngạc nhiên kêu lên: “Dù thoát hiểm sao?”



Tư Mã Khôi chỉ về phía cửa động trong sương mù, rồi bảo: “Có thoát được khỏi đây hay không, còn phải xem cái dù này hữu dụng đến đâu nữa”.



Tư Mã Khôi tìm thấy dù thoát hiểm trong xác một chiếc máy bay, thực ra đó chỉ là loại dù cứu sinh không quân thông dụng, không phải loại chuyên dụng dành cho lính dù, lỡ không kéo tung được cánh dù chính thì còn có cánh dù dự bị, nó sẽ giống như con diều, nương theo dòng khí nhiễu động đưa cả hội lên cao, chí ít sẽ rời được khỏi núi từ, cơ hội sống còn chỉ nằm trong khoảnh khắc này mà thôi, nếu lỡ xảy ra sai sót gì thì cùng ỉắm là chết, bởi vậy đội khảo cổ cũng chẳng thèm bận tâm xem dù cứu sinh có chịu nổi trọng lượng của ba người hay không. Tư Mã Khôi lập tức gỡ bao dù, ra hiệu cho hai người còn lại quấn dây thật chắc.




Hải ngọng đã hiểu ý đồ của Tư Mã Khôi, anh biết Tư Mã Khôi muốn thả con “diều người”, nên lập tức ra tay túm lấy dây dù.



Cao Tư Dương hơi do dự, cô thấy cách này tuy vô cùng nguy hiểm, nhưng rất đáng để liều một phen, nên cô cũng làm theo cách của hai người bạn đồng hành.



Ba người vừa buộc dây dù vào người xong, thì dù thoát hiểm đã bị dòng khí nhiễu động cuốn lên cao, không khí thổi căng cánh dù, chỉ nghe “bùng” một tiếng, dây dù đã bị kéo thẳng đứng, đưa ba người lắc la lắc lư nâng dần lên cao. Họ cuống quýt bám chặt dây dù, mỗi người tự lấy khán tay che mũi, chỉ nghe dòng khí kêu ù ù bên tai. Dù cứu sinh treo lơ lửng giữa tầng không, xuyên qua hố xoáy khổng lồ, xoay tròn trong màn sương mù dày đặc và bay bồng bềnh lên cao.



Trong hố xoáy khổng lồ dưới lòng đất, chiếc dù chẳng khác nào phiến lá nhỏ bé và mong manh chao đảo giữa cơn lốc điên cuồng, tứ phía là sóng nước mênh mông và màn sương quánh đặc như vĩnh viễn chẳng thể xua tan.



Tư Mã Khôi thấy dù thoát hiểm đã bay lên cao, anh cúi đầu nhìn xuống và thấy vô số con mắt tuyệt vọng, vô hồn dưới vực sâu đang trừng mắt dõi theo đội khảo cổ. Nhưng chẳng bao lâu sau, màn sương mù dày đặc đã che khuất tầm nhìn của anh, tất cả đều bị bóng tối hư vô nuốt chửng, vạn vật lại trở về với hỗn độn, mọi chuyện từng trải qua trước đây chỉ giống như một cơn ác mộng kinh hoàng kéo dài đằng đẵng.



Lúc dù thoát hiểm tiếp cận phần đáy lóp vỏ Trải đất, thì dòng khí nhiễu động trong núi Âm Sơn bắt đầu suy giảm đột ngột, dù cứu sinh không thể nâng đỡ được trọng lượng ba người, nó nghiêng sang một bên, rồi mắc vào các nhũ đá lởm chởm, phía dưới chỗ dù mắc lại là sương mù mênh mang, chỉ cần hội Tư Mã Khôi hơi mạnh tay mạnh chân một chút là dây dù sẽ đứt và rơi xuống. Thân mình cả ba người treo lủng lẳng giữa không trung, chẳng ai dám thở mạnh.



Tư Mã Khôi biết giờ không phải lúc được phép chậm trễ, anh hít sâu một hơi, thò tay rút thanh kiếm cổ gài sau lưng Hải ngọng, tự cắt dây dù trên người mình, rồi thi triển tuyệt kỹ Bọ cạp đảo đầu leo tường, bò ngược theo sợi dây lên trên, sau đó chui vào khe nứt trên đỉnh động gần đó, kéo dây thừng lại gần và đỡ hai người bạn cùng bò vào trong động.



Khe nứt ở nơi sâu dưới lớp vỏ Trái đất cũng được hình thành do vụ nổ dữ dội khi nãy, đá vụn quanh đó vẫn không ngừng rơi xuống rào rào, ba người rời khỏi chiếc dù cứu sinh đang mắc vắt vẻo giữa không trung, khe nứt phía sau lưng họ đã bắt khép lại trong cơn rung chuyển mãnh liệt, họ đành tiếp tục di chuyển xuôi theo địa thế hang động, bò sâu vào trong khe đá, lúc ấy chấn động mới dần lắng xuống, mình mẩy ba người bất giác ướt đẫm mồ hôi lạnh tự lúc nào, tay chân không ngừng run rẩy, cả hội nằm rạp trên mặt đá lạnh lẽo, chẳng thể nhúc nhích được nữa.



Tư Mã Khôi cảm thấy mọi thứ trước mắt tối sầm, trong lúc mê man mơ hồ và niềm tâm sự dâng đầy, anh nhớ đến lúc đội quân Miến Điện Cộng hòa bị tan rã, mình theo đội thám hiểm tiến vào núi Dã Nhân đi tìm tung tích chiếc máy bay tiêm kích vận tải, rồi bị bom địa chấn đưa đến tòa thành cổ ở nơi sâu hơn, sau đó bắt đầu chạm trán với Nấm mồ xanh, vì muốn vạch rõ chân tướng của u hồn này, anh đã theo đội khảo cổ do giáo sư Tống Tuyển Nông dẫn đầu thâm nhập kính viễn vọng Lopnor, lần theo manh mối bước chân vào rừng rậm nguyên sinh Đại Thần Nông Giá, xuyên qua biển Âm Dụ và thủy thể 30° vĩ Bắc, rồi đến miếu thần đặt tấm bia đá Bái Xà ở dưới cửu tuyền. Những ngày tháng bất thường đã trở thành quá đỗi bình thường với anh, suốt dọc đường bao nhiêu người đã chết, cái giá phải trả để tìm ra ẩn số quả thực quá đắt, nhưng mong rằng tất cả những sự hi sinh ấy đều được đáp đền xứng đáng, nghĩ đến đây nỗi buồn từ đâu bất giác ùa đến, nhấn chìm anh xuống bể đau thương, mãi lâu sau anh mới bình tâm trở lại. Hình ảnh Thắng Hương Lân lao mình vào màn đêm mênh mông trong động tối không ngừng hiện lên trong trí não anh, trái tim anh như bị ai bóp nghẹt, đớn đau và thổn thức.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 213: Hồi 2: lạc đường


Ba người mê man hồi lâu dưới lòng đất, mãi lâu sau họ mới tỉnh dậy bởi cơn đói cồn cào, dẫu sao cũng đã giữ được cái mạng trở về, giờ đây đi bước nào tính tiếp bước ấy vậy.



Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Chúng ta đã sống được đến ngày hôm nay thì xem ra trời cao cũng có đức hiếu sinh, ông trời chẳng nỡ để con sẻ mù phải đói khát, bởi vậy bây giờ dẫu gặp khó khăn hơn nữa, thì cũng phải tìm cơ hội trốn thoát, rồi báo cáo hết mọi chuyện với cấp trên, may ra lại được mấy suất liệt sĩ cho những anh em trong đội khảo cổ bị gặp nạn, người xưa có câu ‘vì dân quên mình, tổ quốc ghi công’, chỉ lấy mỗi cái danh hiệu chắc không có gì quá đáng đâu nhỉ?”



Tư Mã Khôi gạt ngay: “Cậu mau đào thải ngay mấy tư tưởng đó di, tiết lộ chuyện này ra ngoài chỉ tổ rước vạ vào thân, nhớ rằng sau này chỉ trời biết, đất biết và ba chúng ta biết mà thôi, không được hé môi với bất kỳ ai, nghe chưa?”



Hải ngọng rầu rĩ: “Không nói thì thôi, nhưng chí ít cũng phải thắp nén nhang, đốt chút tiền giấy cho họ vào tiết Thanh minh chứ, nếu không, còn ai nhớ đến họ nữa?”



Tư Mã Khôi nghe mà lòng không khỏi ngậm ngùi, anh thấy Hải ngọng nói rất đúng, phải có người nhớ đến đội khảo cổ từng thâm nhập thế giới ngầm dưới lòng đất này chứ!




Cao Tư Dương đứng cạnh, thở dài: “Hai anh nghĩ đi đâu thế? Bây giờ chỉ còn mấy ngọn nến xương cá, không nước, không lương thực, không súng ống đạn dược, ngay các vật dụng như đồng hồ cũng bị núi từ hút mất rồi, bị nhốt dưới lòng đất tối như hũ nút thế này làm sao mà thoát ra được?”



Tư Mã Khôi trấn tĩnh, anh ngẩng đầu nhìn ngó tứ phía xung quanh, rồi nói: “Trước tiên phải kiểm tra xem chúng ta còn những vật dụng gì, sau đó sẽ nghĩ cách tiếp!”



Ba người tự kiểm tra ba lô của mình một lượt, hầu như chằng còn thứ gì, chỉ sót lại mặt nạ phòng độc hình mang cá do Liên Xô chế tạo, nửa hộp diêm chống ẩm, hai túi muối, một chiếc la bàn không thể chỉ hướng nam, ngoài thanh kiếm cổ thời Sở ra, thì chẳng còn vật gì đáng giá.



Cao Tư Dương vô cùng tuyệt vọng. Khi đội khảo cổ bước chân vào rừng rậm dưới lòng đất đến biển Âm Dụ, tuy trang thiết bị không mấy hiện đại, nhưng chí ít cũng khá đầy đủ, nào là đèn đuốc, đạn dược, lương thực, pin đèn…, nhưng bây giờ đi ra chỉ có hai bàn tay trắng, lại chẳng thể phân biệt nổi phương hướng, thì làm gi còn hi vọng sống sót thoát khỏi đây?



Tư Mã Khôi từng trải qua bao hành trình gian nan, nguy hiểm, trước đây anh cùng từng vượt cực vực sâu thăm thẳm trở về mặt đất, bởi vậy anh chẳng hề lo lắng trước những khó khăn mà Cao Tư Dương vừa nói. Lòng đất là nơi vào thì khó nhưng ra thì khá dễ dàng, độ dày của lớp vỏ Trái đất áng chừng tám ngàn đến mười ngàn mét, cứ cho nhiều nhất mười kilomet là cùng. Nếu từ mặt đất chui xuống mà không có bản đồ, thì chỉ có cách lần theo các huyệt động bị mạch nước ngầm ăn mòn để đi xuống tầng vỏ, nhưng hệ thống sông ngòi dưới lòng đất phân bố chằng chịt chẳng khác nào mạng nhện, trong quá trình mạch nước ngầm chảy xuống dưới, nó liên tục bị tầng đáy nuốt chửng, nên nếu cứ đi theo mạch nước ngầm thì rất dễ đâm đầu vảo ngõ cụt. Nhưng giờ đây, mọi người đang ở sâu dưới lớp vỏ Trái đất, muốn đi lên lại không đến nỗi khó khăn lắm, bởi dòng thủy thể 30° vĩ Bắc lúc nào cũng cuộn trào chẳng dứt, chắc chắn có rất nhiều dòng sông ngầm ăn thông ra biển, mạch nước ngầm không tự nhiên sinh ra, tất cả đều chảy từ trên mặt đất xuống, chỗ nào có nước thì ắt sẽ thông với các dòng sông ngầm, còn hang động không có nước đa phần cũng đều dược hình thành do từng bị nước ngầm ăn mòn dần dần hết năm này qua năm khác, chỉ cần lần theo những dấu vết ngoằn ngoèo lượn sóng giữa địa mạch và các tầng đá, rồi đi ngược lên trên, thì kiểu gì cũng tìm được lối ra.



Điều đáng lo ngại nhất hiện tại là đội khảo cổ thiếu công cụ chiếu sáng, có điều Tư Mã Khôi lại thông hiểu tướng vật, hơn nữa anh còn đọc khá kỹ cuốn cổ tịch biệt bảo bí mật của Triệu Lão Biệt, nên anh chắc chắn sẽ tìm thấy vài loại nấm dưới lòng đất và đá quặng phát sáng trong lúc đi đường.



Dẫu vậy, dọc dường đi vẫn tiềm ẩn rất nhiều hiểm nguy, đặc biệt là các loại tai nạn địa chất, tần xuất xảy ra tai nạn địa chất ở đây nhiều gấp mấy lần trên mặt đất, nhưng ý chí mưu cầu sinh tồn của ba người rất mãnh liệt nên họ không hề bận tâm đến những trở ngại và hiểm nguy ấy. Lúc này, cả hội chỉ còn nến xương cá dùng để chiếu sáng, họ đứng dậy lần mò dưới lớp vỏ Trái đất để tìm lối ra.



Tư Mã Khôi biết việc đầu tiên cần giải quyết chính là dụng cụ chiếu sáng, nếu nến xương cá mà cháy hết thì chẳng thể hi vọng mò mẫm trong bóng tối mà thoát ra khỏi đây được. Nghĩ vậy, anh không dám chậm trễ, đầu tiên anh cố gắng phân biệt hướng nước ngầm, rồi tìm thấy một huyệt động có nước ngầm chảy qua. Khắp nơi trong động toàn là tinh thể đá vôi hình cầu, nom giống như những cây nắm hóa thạch, chỉ cần giẫm chân lên là chúng nát vụn và chảy ra thứ bột mịn phát sáng, nếu bôi nó lên người hoặc lên xương cá thì có thể dùng làm vật chiếu sáng. Đấy chính là “thạch trùng” được ghi chép trong cổ tịch biệt bảo, nó thường xuất hiện ở tận cùng của những dòng sông ngầm đã hình thành từ hàng vạn năm trước. Anh vội bảo mỗi người bốc lấy một ít, cất trong ba lô dự phòng lúc đi đường cần dùng đến.



Ở sông ngầm, chỉ cần không phải suối nước nóng, thì thông thường đều có từng bầy cá bơi lượn trong làn nước dưới lòng đất, ba người lội xuống lòng sông bắt mấy con lên ăn cho đỡ đói, rồi tiếp tục xuôi theo hang động có sông ngầm chảy qua tiến về phía trước, dọc dường họ hái nấm và bắt cá mù trong hang động làm thức ăn.



Khoáng vật trong lớp vỏ Trái đất rất ít khi tồn tại đơn độc, chúng thường tập hợp lại một chỗ theo quy luật nhất định, trong đó đá vôi chính là thể tổng hợp của khoáng vật thiên nhiên, nó thường được hình thành do một hoặc nhiều loại khoáng vật tập hợp lại, bởi vậy căn cứ vào độ sâu khác nhau trong lớp vỏ Trái đất, thì sự phân bố của tầng đá vôi cũng tồn tại những điểm khác biệt khá rõ rệt, một phần trong số chúng được cấu thành từ thủy tinh núi lửa, chất kết dính và di thế của các loài sinh vật.




Hội Tư Mã Khôi men theo hang động có dòng nước ngẩm chảy qua, từng bước tiến về phía trước. Suốt dọc đường, họ nhìn thấy gần sông ngầm có rất nhiều loại mỏ quặng như mỏ bạch kim thiên nhiên, mỏ đồng thiên nhiên, mỏ than chì, Aourit, pyrit, corundum, mi ca.. Chúng phân bố tầng tầng lớp lớp dưới lòng đất. Sông ngầm thường có nhánh, lúc rộng lúc hẹp, khi êm ả, khi chảy xiết, muốn tìm lối ra cũng không phải chuyện dễ.



Hải ngọng đưa ra ý kiến, cứ men theo nơi tập chung mỏ quặng mà đi, dẫu chết mà có bao nhiêu đá quý làm đồ bồi táng thế này, thì cùng coi như hòa vốn.



Tư Mã Khôi phát hiện, trong dòng sông ngầm có mấy con cá, nom chúng không giống loài cá mù thân mình dải mành, bé nhỏ trong hang tối, loài cá này thân dài, mình dẹt, đầu nhọn, miệng rộng, đuôi bằng, trên người còn có các vân màu đen bất quy tắc, chất thịt tươi ngon, béo mỡ màng, đó là loài cá nước ngọt sống trong các dòng hạ lưu nơi rừng rậm. Anh đoán, con sông ngầm này chảy tới một cánh rừng nào đó trong khe núi. Bây giờ mọi người cứ ngược theo nhánh sông này lên thượng nguồn, nếu lại gặp loài cá mù hang động ở đó, thì quay lại đây tìm đường khác.



Đế giảm bớt sự ảnh hưởng của địa áp, ba người không dám đi quá nhanh, họ thong thả lội ngược dòng nước, lúc đi lúc nghỉ. Dưới lòng đất chẳng thể phân biệt được ngày và đêm, cả hội cũng không rõ mình đã đi bao xa, chỉ biết cuối cùng họ phải lặn qua một hang động bị ngập hoàn toàn trong nước. Sau khi lặn sang đến bờ bên kia, sự ảnh hưởng của địa áp đã giảm đi rõ rệt. Địa hình ở đây trở nên vô cùng khoáng đạt, trong tầm mẳt toàn là cây rừng um tùm, cao to sừng sững, khắp nơi mọc đầy hoa thơm cỏ lạ, các phiến lá to bản đến lạ kỳ, độ cao của các loài thực vật ở đây dễ phải trên mấy



chục mét. Do lượng nước trong rừng vô cùng dồi dào, nên thảm thực vật được chia thành rất nhiều tầng, tầng nọ đan cài và bao trùm lên tầng kia, vô số loài cây rủ chùm rễ hình trụ buông thõng giữa không trung, dây leo đan cài chằng chịt từ gốc cây nọ sang gốc cây kia, tạo thành một bức mành khiến người ta khó lòng xuyên qua nổi. Hai bên bờ sông ngầm đều là loài thực vật tầm gửi hoặc thực vật hủ sinh. Trong bụi cây cách chỗ Tư Mã Khôi đứng không xa bỗng xuất hiện một con rắn lớn, nó thò đầu nhả khí thành mây, khiến lũ chim rừng kinh sợ, chúng vừa kêu inh ỏi vừa túa ra bay tán tác. Tiêng kêu vang vọng mãi bên tai, phá vỡ màn tĩnh lặng vốn có của khu rừng nguyên sinh.



Ba người thấy tình hình quái dị trước mắt, lòng cũng bất giác rờn rợn. Hang động quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời nảy rõ ràng vẫn ở dưới lòng đất, thì làm sao có thể tồn tại cả cánh rừng nguyên sinh rậm rạp dường này được? Chẳng lẽ quanh vành đai 30° vĩ Bắc lại có một nơi như vậy ư?



Tư Mã Khôi cảm thấy không khí trong rừng ẩm ướt, oi nóng, tuy điều kiện nguồn nước và thổ nhưỡng rất phù hợp để thảm thực vật ở đây phát triển sinh sôi, nhưng trong môi trường không có ánh mặt trời, thì các loài thực vật cũng không thể sinh trưởng, lẽ nào mọi người vẫn chưa thoát khỏi ảo ảnh trong động không đáy do Entroypy tạo ra sao? Anh bám vào các sợi dây leo, trèo lên đỉnh ngọn cây, thấy vách đá dựng đứng bao vây tứ phía, ngửa mặt nhìn lên thì thấy một đường chân trời.



Chẳng rõ bao lâu rồi, ba người họ chưa được nhìn thấy bầu trời thực sự, bị nhốt ở dưới này khác gì âm dương cách biệt đâu chứ. Họ đứng trân người hồi lâu, mãi mới nghĩ đến việc phải tìm đường rời khỏi khe núi sâu.



Để tránh côn trùng độc và thú dữ, hội Tư Mã Khôi bện củi khô thành bó đuốc đơn giản, di thể thực vật đã hóa than được chôn ủ ở đầu nguồn con sông ngâm đều là chất dễ cháy, chỉ cần châm lửa là có thể dùng để phòng thân và chiếu sáng. Mọi người mò mẫm đi xuyên qua cánh rừng rậm rạp, họ phát hiện đây là một khe núi sâu bị dòng hà lưu chia cắt, độ sâu của nó phải xấp xỉ ngàn mét, địa hình kiểu thắt cổ chai, trên hẹp dưới rộng. Từ ngàn vạn năm trước, dòng hà lưu ở tầng địa biểu dần dần hạ thấp, rồi trở thành dòng sông ngầm chảy qua khe núi kéo dài ngàn mét như hiện nay. Thêm vào đó, không khí dưới lòng đất nóng ẩm cho phép các loài thực vật từ trên cao rơi xuống tiếp tục sinh sôi nảy nở và hình thành nên cánh rừng rậm rạp um tùm ở nơi này. Do hai vách đá cao vút, chắn sừng sững hai bên, ngay cả chim cùng khó lòng vượt qua, nên các loài dã thú bị dòng khí cuốn vào đây không thể thoát ra ngoài được nữa, chúng buộc phải sinh tồn và sinh sản trong khe núi cách biệt hoàn toàn với thế giới này, cùng nhờ vậy rất nhiều loài động thực vật quý hiếm trong giới tự nhiên được bảo tồn đến tận bây giờ, con người cũng khó lòng mà đặt chân tới đây được.




Khe núi sâu thăm thẳm giống như một cái bẫy của tự nhiên, dòng sông ngầm chảy xuyên qua lòng nó đến mấy dặm, chẳng thấy điểm tận cùng, tầng lá mục nát phủ trên mặt đất tòa ra mùi ngai ngái khiến người ta muốn ngộp thở, trên cao mây sương che kín bầu trời, hội Tư Mã Khôi đành mạo hiểm bám dây leo, trèo lên vách đá dựng đứng, ban đêm lại trú mình trong khe đá. Suốt một thời gian dài, cả hội đã sống trong bóng tối, nếu lập tức để mắt tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời, thì rất có khả năng sẽ bị mù, bởi vậy bây giờ họ phải sống trong khe núi mấy ngày để làm quen dần với môi trường mới. Tuy coi như đã tìm được con đường sống, nhưng họ vẫn không biết mình đang ở nơi nào, nghĩ đến tiền đồ khó lường trước mắt, lòng dạ ba người lại ngổn ngang những nỗi lo.



Hôm ấy, cuối cùng mọi người cũng trèo ra khỏi khe núi, bầu trời xanh biêng biếc, ngọn núi tuyết phía xa xa sừng sững nguy nga, trải dài liên miên theo hình nhấp nhô lượn sóng, giữa những dãy núi cao là dòng sông băng nằm vắt vẻo, sương mây quấn quanh, nhìn gần thấy cây cối rậm rạp, biển rừng mênh mông và ngọn núi tuyết chọc trời như hòa quyện thành một thể. Mọi người tròn mắt nhìn, lòng chất chứa bao nghi vấn. Đúng lúc còn ngẩn người ngạc nhiên, thì bỗng đâu một con gấu đen từ trong rừng lao ra, người bê bêt máu, kéo theo cả chùm phèo ruột trắng hếu, hai mắt lộ hung quang, nó loạng choạng đứng thẳng bằng hai chân và làm động tác như sắp vồ người.



hiện ở đây, ai nấy giật nảy người, chưa kịp phản ứng gì thì đã nghe thấy hai tiếng “pằng pằng” vang lên, con gấu cao gần hai mét đổ vật xuống đất chẳng khác nào cây gỗ bị đốn ngã nằm im bất động.



Định thần nhìn lại, thì ra là hai tay thợ săn trong rừng tay cầm súng săn đang đuổi theo con gấu, một người là thanh niên cao to lực lưỡng, còn người kia là lão thợ săn đã có tuổi, gương mặt tiều tụy. Hai người bọn họ đều mặc áo choàng den, đầu dội mũ da hươu, trước ngực đeo niệm răng và xương thú, cách ăn vận khá đặc biệt. Trước mũi súng còn lắp thêm mũi đinh ba, khi này chính hai người thợ săn này bắn súng đã hạ gục con gấu từ phía sau, xem ra họ đã đuổi theo con gấu một mạch đến tận đây.



Tư Mã Khôi bước lại gần định đánh tiếng hỏi thăm xem đây rốt cuộc là nơi nào.



Ai ngờ, hai người thợ săn, một già một trẻ vừa nhìn thấy hội Tư Mã Khôi liền hét lên thất thanh, rồi quay đầu bỏ chạy.



Hải ngọng cuống quýt gọi lại: “Ấy, các bác dừng sợ, quân hoàng gia không giết người cướp của, quân hoàng gia chỉ đến xây dựng nhà nước lý tưởng thôi…”



Hai người thợ săn nghe thấy tiếng la hét, thì dần bước chậm lại, rồi dừng hẳn, tay vẫn lăm lăm khẩu súng săn, họ quay đầu lại ngơ ngác nhìn ngó.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 214: Hồi 3: vị trí


Hai người thợ săn mặc áo choàng đen, một già, một trẻ sững sờ nhìn hội Tư Mã Khôi cứ như vừa phát hiện thấy vật thể lạ, họ lò dò bước lại gần một cách cẩn trọng, vừa đi vừa thầm xét đoán hội Tư Mã Khôi, miệng không ngừng lẩm nhẩm tụng niệm câu kinh gì đó.



Tư Mã Khôi bị họ nhìn chăm chú quá cũng thấy lạnh cả người, anh thầm nghĩ: “Hai tay thợ săn này là tín đồ Phật giáo, quanh đây lại toàn núi tuyết cao sừng sững, không hiểu họ là dân Tạng hay dân Nepal nhỉ?”



Người thợ săn đứng tuổi cũng bập bẹ nói được vài từ phổ thông, sau một hồi vừa nói vừa khoa tay múa chân, cuối cùng Tư Mã Khôi cũng hiểu ra chút ít manh mối. Thì ra, hai người họ đều là thợ săn người dân tộc Monpa, còn nơi đây là một nhánh thuộc lưu vực sông Yarlung Tsangpo (1) , tuy mọi người vẫn chưa trở về được Đại Thần Nông Giá, nhưng cũng gần như đã đi một vòng dưới lòng đất xung quanh vành đai 300 vĩ Bắc.



(1) Sông Yarlung Tsangpo: bắt nguồn ở các bình nguyên băng Jima Yangzong gần núi Kailash ở phía bắc dãy Đó là con sông lớn cao nhất trên thế giới, nó hình thành nên hẻm núi Yarlu Tsangpo, được coi là hẻm núi sâu nhất thế giới.



Vùng đất này hơi chếch về hướng nam khu tự trị Tây Tạng, xung quanh toàn núi cao và rừng rậm. Vào những năm 1950, bộ đội vẫn thường lui tới nơi đây, hồi ấy bác thợ săn già người Monpa từng là hướng đạo cho bộ đội, nên bác mới hiểu chút tiếng Hán, còn anh thợ săn trẻ hơn là con trai bác. Lúc trước nhìn thấy hội Tư Mã Khôi, hai cha con cứ ngỡ gặp phải ma núi, giờ mới biết ba người họ vừa bò từ trong khe núi ra. Chẳng rõ vì duyên cớ gì mà hai người thợ săn Monpa lại kinh ngạc dường ấy, thậm chí họ còn tỏ thái độ sợ sệt, kính cẩn, rồi đưa hội Tư Mã Khôi về nhà.



Các hộ dân ở đây vẫn giữ phương thức sinh hoạt nguyên thủy là canh nông và săn bắn. Nhà bác thợ săn này còn một cô con gái, họ đựng rượu ngô và thịt nai trọng chậu đồng, rồi bắc lên bếp hầm nhừ. Bác thợ săn mời ba người hội Tư Mã Khôi ngồi quanh bếp lửa, không ngừng rót rượu, tiếp thức ăn cho ba người.




Tư Mã Khôi lấy làm lạ, nghĩ bụng: “Mình từng nghe nói thợ săn trong núi rất nhiệt tình, hiếu khách. Trước chỉ được nghe chứ chưa từng được gặp, nay gặp rồi đúng là phục sát đất luôn, họ khoản đãi người không quen biết thật thịnh tình. Thôi thì nhập gia tùy tục, mình cũng chẳng khách sáo làm gì”, nghĩ vậy anh phồng mồm ăn đến no căng bụng mới thôi. Với họ giờ đây, loại rượu ngô bình dân trở nên tuyệt diệu chẳng khác gì nước cam lồ (2).



(2) Nước cam lồ: Một loại nước bất tử xuất hiện trong thần thoại Ấn Độ.



Bác thợ săn người dân tộc Monpa chỉ nói được rất ít tiếng Hán, nói mãi Tư Mã Khôi mới hiểu được một đôi câu, nhưng chỉ cần nắm rõ phần cơ bản là có thể lý giải được nội dung đối phương muốn biểu đạt.



Qua trao đổi, anh được biết lưu vực sông Yarlung Tsangpo chảy qua rất nhiều khe núi, xung quanh đấy toàn núi tuyết, sông băng và rừng rậm nguyên sinh. Khe núi mà hội Tư Mã Khôi vừa mới trèo ra đã xuất hiện ở đây từ thuở khai thiên lập địa, nghe nói bên trong là lãnh địa bí mật của thần linh, chỉ những bậc hiền đức thấm nhuần Pháp thời luân Kim Cang (3) và tu hành mười kiếp thì mới có cơ duyên ra vào vùng đất thánh ấy, cũng bởi lý do đó họ mới có thái độ cung kính như thế với hội Tư Mã Khôi, họ còn gọi hội Tư Mã Khôi là “Hán Tashi” (4) , thậm chí họ chẳng bao giờ định hỏi xem rốt cuộc ba người từ đâu đến.



(3) Pháp thời luân Kim Cang: là một pháp tu thuộc bộ Tối Thượng Du Dà của phái Mật Tông Tây Tạng.



(4) “Hán Tashi”: Theo tiếng Tạng nghĩa là “người Hán mang lại may mắn”.



Tư Mã Khôi vô cùng cảm kích trước tấm lòng của người thợ săn già, anh móc mấy thỏi flourit có thể dùng để chiếu sáng mà lúc trước nhặt được dưới lòng đất, đem ra tặng bác ta. Đồng thời mang số còn lại đổi lấy ba bộ quần áo và giày mũ. Giao thông ở khu vực núi cao hẻm sâu này gặp nhiều trở ngại, phần lớn áo mũ đều được làm từ da thú, nên nhất thời không gom đủ bộ, may mà flourit là loại khoáng quặng quý hiếm nên mới đổi được mấy bộ ở những nhà thợ săn khác.



Hội Tư Mã Khôi ở dưới lòng đất suốt mấy tháng trời, tuy sau khi ăn nấm Vân Chi thì khí huyết trong người cũng được bổ sung đáng kể, nhưng môi trường dưới lòng đất vô cùng khắc nghiệt, lúc oi bức ẩm ướt. khi âm u lạnh giá, thêm vào đó lại thiếu thốn thuốc men lương thực, nên khắp người bò lồm ngồm toàn đĩa vắt và chấy rận, sau lưng và dưới chân bị eczema từng mảng lớn, các vết thương đều lở loét và tấy mủ. Máu mủ và quần áo dính vào nhau, lúc lột quần áo ra, cả mảng da lớn cũng rách toác theo, bởi vậy cả hội chẳng thể gỡ bỏ nổi quần áo.



Bác thợ săn người Monpa thấy vậy liền bảo cô con gái đắp thuốc chữa trị cho hội Tư Mã Khôi, họ điều trị suốt mười mấy ngày, vết thương mới lành miệng.



Ba người vô cùng biết ơn bác thợ săn già. Đúng lúc định cáo từ ra đi, thì bác thợ săn lại xua tay, lắc đầu bảo: “Các cậu không thể ra khỏi đây được đâu!”



Tư Mã Khôi rất đỗi kinh ngạc, anh hỏi kỹ mới biết bây giờ là mùa đóng cửa núi, vì muốn vượt núi buộc phải đi qua mấy con sông băng và vùng dễ xảy ra lở đất, dọc đường toàn núi sâu rừng rậm, vách đá cheo leo dựng đứng, vả lại cũng không thuận đường, nếu muốn đi phải đợi sau khi sang xuân mới được.




Hội Tư Mã Khôi đành kiên nhẫn chờ đợi. Họ ở lại căn nhà gỗ của người thợ săn để dưỡng thương, đôi lúc rảnh rang họ còn lang thang đến các khe núi gần đó đi săn với dân bản địa. Tuy điều kiện sống giản dị nhưng với họ, đó là những chuỗi ngày bình yên nhất trong cuộc đời mình, cả thân thể và tinh thần đều dần dần phục hồi trở lại.



Tối hôm đó, nghe tiếng nước chảy ầm ầm cùa dòng Yarlung Tsangpo từ xa vọng lại. Cao Tư Dương hỏi Tư Mã Khôi và Hải ngọng xem hai người định đi đâu sau khi ra khỏi núi?



Tư Mã Khôi thấy đây luôn là vấn đề khiến anh đau đáu nhất, bản thân anh và Hải ngọng thì chẳng có gì đáng bàn, nhưng Cao Tư Dương vốn thuộc về quân đoàn 302, cô được cử đến lâm trường Đại Thần Nông Giá, nhận lệnh cùng Nhị Học Sinh và cậu dân binh Hổ Tử cùng đến tháp canh trên ngọn núi chính để sửa chữa cỗ máy điện đàm chuyên dùng cấp báo cho công tác phòng cháy chữa cháy, lúc ấy vì bất đắc dĩ nên cô mới phải gia nhập đội khảo cổ thâm nhập lòng đất. Tuy giờ đây cô đã sống sót quay trở về, nhưng hai thành viên còn lại của tổ thông tin thì lại tử nạn. Có lẽ giờ đây trong hồ sơ cùa lâm trường, vụ án Cao Tư Dương đã sớm khép lại bằng hai chữ chú thích “mất tích”, nhưng nói gì thì nói cô vẫn là bộ đội xuất thân từ quân ngũ, nên khi trở về bắt buộc phải giải trình cặn kẽ mọi việc với lãnh đạo. Đến lúc đó, nếu phải giải thích vì sao lại mất tích lâu như thế, suốt thời gian đó cô đi làm gì và đi những đâu, thì thực không phải chuyện dễ, còn nếu bảo cô bị lạc đường trong rừng rậm Đại Thần Nông Giá, thì tại sao đột nhiên xuất hiện trở lại sau nửa năm bặt vô âm tín? Đặc biệt là vấn đề làm sao chứng minh được những điều cô nói xảy ra trong suốt thời gian qua là sự thực? Nếu hai thành viên còn lại của tổ thông tin đều đã chết, thì thi thể của họ giờ ở đâu? Việc nói tròn trịa tất cả những nghi vấn trên lại không phải sở trường của Cao Tư Dương.



Cao Tư Dương cũng nhiền lần vắt tay lên trán trăn trở vì chuyện này, nhưng giờ sắp phải đối mặt với nó mà cô vẫn chưa nghĩ ra được cách nào, lo lắng quá khiến nước mắt cô bất giác rơi xuống má tự lúc nào.



Tư Mã Khôi bảo Cao Tư Dương, việc anh dặn cô đừng nhắc gì đến chuyện đội khảo cổ tuyệt đối không phải xuất phát từ ý định cá nhân ích kỷ, cả hội chẳng làm gi có lỗi với đất nước, với nhân dân mà cần giấu giếm, có điều, chuyện này can hệ quá sâu đến nhiều người, hơn nữa bây giờ chính anh cũng chẳng rõ các thành viên của tổ chức Nấm mồ xanh còn nằm vùng ở những đâu nữa, lỡ bị chúng phát hiện đội khảo cổ vẫn còn người sống sót, thì mấy cái mạng này củng khó bảo toàn, bởi vậy từ nay về sau mọi người buộc phải mai danh ẩn tích, có chuyện gi ít ra cũng phái đợi đến khi trời yên bể lặng, sóng gió qua đi hoặc khi xác định chắc chắn tuyệt đối an toàn mới xét sau.



Cao Tư Dương cũng hiểu mức độ nguy hiểm của chuyện này. Có điều cô không muốn ở lại trong núi, cô quệt nước mắt hạ quyết tâm, rồi nói với Tư Mã Khôi: “Tôi nhớ trước đây anh từng nói – giải được ẩn số Nấm mồ xanh không có nghĩa là kết thúc mọi chuyện. Thậm chí không phải sự bắt đầu của kết thúc mà cùng lắm chỉ là sự kết thúc cùa một khởi đầu mới”.



Tư Mã Khôi thấy không ổn, anh ậm ừ: “Hình như… hình như tôi có nói vậy, thế thì sao?”



Cao Tu Dương nói: ‘Tốt! Thế thì từ giờ trở đi các anh đi đâu, tôi sẽ theo đấy, cho đến khi nào mọi chuyện hoàn toàn kết thúc mới thôi!”



Tư Mã Khôi và Hải ngọng đưa mắt nhìn nhau, thầm nghĩ: “Anh em ta còn chẳng biết đi đâu nữa là…”



Bấy giờ đang là thời kỳ nhà nước bao cấp, nếu không có hộ khẩu hoặc thân thế thì có đi đâu cũng chẳng thể kiếm nổi miếng cơm, ngay cả sống trên mảnh đất quê cha đất tổ cũng không chốn dung thân. Nếu muốn sống sót, ngoại trừ lẩn trốn ở núi rừng Tây Tạng ra, thì ba người buộc phải tìm nơi nào đó kiếm cơm, nhưng đi đâu bây giờ? Huống hồ trên người chẳng còn xu dính túi, muốn nhờ vả, dựa dẫm vào ban bè thân thich cũng không xong. Giờ họ mới thấu thế nào gọi là “Trời đất tuy rộng lớn, nhưng chẳng chốn nào dành cho ta”.



Cuối cùng thực không biết phải làm sao, sau khi mở cửa núi, Tư Mã Khôi đành nhờ anh con trai của bác thợ săn dẫn cả hội băng núi, vượt mấy chục dặm đường đến huyện thành, mang khoáng thạch lấy về từ lòng đất và đồ da đổi thành tiền làm lộ phí đi đường. Ngày hôm sau, họ lên tàu trở về Trường Sa, tạm thời dừng chân ở Hắc Ốc, định tiếp tục ăn cơm đường sắt, lánh mặt một thời gian. Bây giờ làm ăn khó khăn, Tư Mã Khôi thấy nếu không có thân thế thì không thể tính kế lâu dài, mà chủ yếu là anh không đành lòng để Cao Tư Dương đi theo chịu khổ cùng mình. Anh biết lão Lưu Hoại Thủy của đội khảo cổ là người có quan hệ rộng rãi, nên anh đành dắt Hải ngọng cùng Cao Tư Dương đến Bắc Kinh.



Bấy giờ đang lúc giữa hạ, thời tiết nắng nóng cực điểm, để tránh tai mắt thiên hạ, Tư Mã Khôi phải đi một mình đến nhà lão Lưu Hoại Thủy trước, anh mang theo thanh kiếm cổ thời Sở tặng cho lão, đồng thời nói rõ hoàn cảnh hiện tại của mình, mong lão giúp đỡ tìm cách tháo gỡ.




Lão Lưu Hoại Thủy nghe tin Thắng Hương Lân chẳng may nằm lại mãi mãi dưới lòng đất sâu, lão ngậm ngùi suốt hồi lâu, rồi đồng ý nhận lời giúp đỡ, nhưng lão cũng nói trước thời thế này mà muốn an cư lập nghiệp, kiếm miếng cơm quả thật không hề dễ dàng. Sau đó, lão quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Bát lão gia là chân truyẻn Kim Điển, trong đạo tướng vật cũng có pháp tướng kiếm, lão gia thử chiếu cố nhìn xem thanh kiếm này có lai lịch thế nào?”



Tư Mã Khôi biết tướng của vạn vật trên đời, trong thuật tướng vật đũng là có đề cập đến tướng kiếm.



Thời Xuân thu chiến quốc có một người tên là Tiết Trùng, sinh thời đọc rất nhiều kiếm phổ, thông hiểu mọi loại kiếm trên đời. Ông ta xem tướng kiếm chẳng khác gì người ta xem tướng số, bất kể thanh kiếm nào vào tay ông ta, ông ta cũng đều xem rất kỹ càng, rồi nói thanh kiếm đó mang vận tốt hay vận hung, ví như ông ta vừa nhìn thanh Ngư trường kiếm đã biết thanh kiếm này không thuận đạo lý, là hung khí khiến quan giết vua. con giết cha… Chỉ có điều, bí thuật cổ này đã thất truyền từ lâu. Lão Lưu Hoại Thủy làm nghề đánh trổng con, làm gì hiểu được mấy chuyện này, chẳng qua chỉ vì lão không rõ thanh kiếm thời Sở này có điểm gì đáng đồng tiền bát gạo nên mới nhờ Tư Mã Khôi giảng giải mà thôi.



Tư Mã Khôi nhận ra ngay ý tứ của lão, nên đương nhiên anh chỉ nói điểm tốt của nó. Anh khua môi múa mép rằng đây là bảo vật trấn quổc cùa nhà Sở, bị vùi dưới lòng đất hơn hai ngàn năm chưa từng khai quật, ngay cả núi vàng cũng chẳng thể đổi được vật này.



Lão Lưu Hoại Thủy vừa nghe là biết tỏng ý đồ của Tư Mã Khôi, lão nói thanh kiếm này không thấy nhắc đến trong các thư tịch cổ, cũng chưa bao giờ nghe nói đến lai lịch cùa nó. Nên dẫu có là đồ cổ lưu lạc đến nay thì cũng chẳng đáng mấy tiền, huống hồ nhìn sắc kiếm cũng không được đẹp mắt cho lắm…



Tư Mã Khôi bực mình nhíu mày, anh thẳng thừng nói: “Cứ theo lời cùa mấy tay đánh trông con nhà lão thì dưới vòm trời này chẳng có thứ gì đáng tiền. Giờ tôi có bê cả Tiền Môn đặt trước mặt lão, thì lão cũng nói đó chỉ là ngôi nhà làm bằng giấy. Lão thích thì lấy, còn như không thích thì để tôi mang về cho rồi!”



Lão Lưu Hoại Thủy vội vàng cười cầu hòa: “Ấy đừng! Xin lão gia chớ trách! Nếu tôi biết nó tốt thì đã chẳng thể kiếm cơm bằng nghề đánh trống con. Biết làm sao được! Đây là ngón nghề tồ tiên truyền lại mà!”, nói xong lão cất thanh kiếm cổ thời Sở xuống gầm giường, sau đó lúng túng một hồi lão mói nói, thực ra việc Tư Mã Khôi nhờ, bản thân lão không thể giúp nổi. Trong xã hội cũ, nghề đánh trống con làm lớn tới đâu thì cũng chỉ mở được cái sạp là cùng, chứ nào có bản lĩnh gì cao cường. Lão không thể giúp hội Tư Mã Khôi gia nhập đội khảo cổ giống như giáo sư Tống Tuyển Nông được, tuy lão không thể giúp, nhưng có người lại có thể giúp, lão chỉ đặt mối cho thôi, còn việc thành hay bại thì còn phải xem Tư Mã Khôi nói năng với người ta như thế nào đã.



Ngày hôm sau, theo chỉ điểm cùa Lưu Hoại Thủy, hội Tư Mã Khôi tìm đến nhà hóa thân ở ngoại thành, đây là cách gọi tránh húy kỵ của dân gian, thực tế đó chính là nơi hỏa táng người chết. Tất cả người chết ở phía đông thành đều được đưa đến đây, khu này vô cùng hoang vắng, cỏ dại mọc cao quá nửa người. Khi cả hội tìm đến nơi thì sắc trời đã bảng lãng. Tối đó, thời tiết oi bức, không mưa, mây đen bủa vây bốn phía, bầu không tịnh vắng bóng sao, cũng chẳng có lấy một làn gió, tứ bề tối thui. Tiếng ếch và côn trùng kêu khiến người ta nổi da gà. Xung quanh hoàn toàn quạnh quẻ, chỉ có người canh xác đang gác đêm trong phòng để thi thể.



Hải ngọng cũng thấy hơi rờn rợn, anh vừa đi vừa hỏi Tư Mã Khôi: “Chẳng lẽ tay họ Lưu kia lừa chúng ta hay sao mà xui chúng ta đi tìm gã canh xác làm thời vụ ở nhà hỏa tang Mà cậu cũng cả tin thật, lúc thường cậu đa nghi lắm cơ mà?”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 215: Hồi 4: ông trùm


Thì ra, người canh phòng hóa thân tên là “Lý cóc”, thường ngày lão gác đêm trong nhà hỏa táng, nhưng đây chỉ là công việc làm thêm, thực ra lão là “ông trùm” của cả tứ cửu thành (1) này, tất cả các việc lặt vặt mà các quan bên trên không quản, ví như: thó tiền, cắt tóc, đánh trống con, đồng nát… thì đều do lão cai quản. Thời xưa, những kẻ như vậy được gọi là “trưởng môn cái bang”, những kẻ này được ăn hai mang – cả công lẫn tư. Nghe nói năm xưa Lý cóc từng cứu mạng một viên quan cấp cao, mà người ta thường nói “quan hệ chính” là bát cơm, thêm vào đó, năng lực hoạt động xã hội của lão cũng khá mạnh, các mối quan hệ cứ thế đan xen keo kết với nhau, có điều, Lý cóc rất ít khi lộ mặt ra ngoài xử lý mọi việc, nên chẳng mấy ai gặp được lão.



(1) Tứ cửu thành: Ám chỉ Bắc Kinh, trong đó “tứ” là chỉ bốn phía tường thành vây quanh, gồm: đông, tây, nam, bắc; còn “cửu” là chỉ chín cửa thành, gồm: cửa Chính Dương, cửa Tuyên Vũ, cửa Phụ Thành, cửa Tây Trực, cửa Đức Thắng, cửa An Định, cửa Đông Trục, cửa Triều Dương và cửa Sùng Ván.



Lão Lưu Hoại Thủy xui hội Tư Mã Khôi đến bái kiến “ông trùm”, chỉ cần Lý cóc gật đầu một cái thì muốn tìm nơi nào làm ăn đều chẳng thành vấn đề.



Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe danh Lý cóc, chẳng ngờ đến giờ lão vẫn còn sống, thế là anh liền dẫn Hải ngọng và Cao Tư Dương đến bái kiến. Đừng thấy trong xã hội đặt ra bao nhiêu quy định mà cho là quá ngặt nghèo, thực ra người xưa đã có câu: “Đi đường công không được sai bằng cái kiến, đi đường tư sai bằng con ngựa vẫn cứ thông”, nếu anh không có cửa, không có quan hệ thì cứ thế mà thực hiện theo đúng những quy định cứng nhắc kia, không được phép sai một ly một lai, nhưng nếu tìm đúng cửa, thì chẳng chuyện gì là không hanh thông.



Bốn phía khu hỏa táng đều có tường rào bao quanh, bên trong có hai tòa nhà, một tòa ở phía trước, một tòa ở phía sau, tòa nhà phía trước có hai tầng, tòa nhà phía sau có ba tầng, bảo vệ ngồi gác ở tầng một tòa nhà phía trước. Tư Mã Khôi gọi cửa, vừa nhìn đã thấy một lão già người thấp lùn một mẩu nhưng khá đô con, đầu lão nhẵn bóng, miệng rộng ngoác tận mang tai, phưỡn cái bụng tròn vo như trống cái, mũi củ tỏi, mí mắt chảy xệ, miệng chẳng khác gì miệng ếch, không cần hỏi cũng biết đó là ai.




Do đã làm thủ tục chào hỏi từ trước, nên gã Lý cóc cũng biết ý định của ba người mới đến. Lão dẫn ba người vào phòng, dọc hành lang đặt mấy cỗ quan tài đựng xác chết, trong phòng tĩnh lặng đến lạ kỳ, ở đó chỉ kê một cái giường và hai chiếc ghế dài, trên bàn có bát gan xào và một túi thịt dê khá lớn, còn cả nửa bình rượu trắng.



Lý cóc cười hì hì, hỏi: ‘Thế nào ba vị? Làm một tí chứ hả?”



Tư Mã Khôi và Hải ngọng chạy lông nhông suốt nửa ngày trời, bụng đang rỗng tuếch, nghe lão mời cũng thấy lạ: “Ái chà! Lão già này cũng hiểu phép tắc đấy chứ…”, thế là hai người chẳng khách sáo gì, ngồi ngay xuống ghế, bốc miếng thịt nhét vào miệng, chỉ riêng Cao Tư Dương sau khi bước chân vào tòa nhà, cô thấy toàn thân không thoải mái, càng chẳng có tâm trạng nào mà ăn uống, nhưng đến thì đã đến rồi, không thể quay ngoắt đi luôn được, cực chẳng đã cũng phải ngồi xuống theo hội Tư Mã Khôi.



Lý cóc chỉ mải uống rượu, nhắm mắt dưỡng thần, chẳng nói năng gì nữa, trông nét mặt rất ư lạnh lùng.



Tư Mã Khôi đành phải khơi mào trước, anh cất tiếng: “Từ lâu đã nghe đại danh về ông trùm khét tiếng, rằng tiẽn sinh là bậc cao nhân, bản lĩnh cao cường, trọng nghĩa khinh tài, giao tiếp rộng rãi, tấm lòng quảng đại, chỗ nào trên quả đất cũng là địa bàn của tiên sinh, đúng là một người dẫn cả ngàn người theo sau đấy ạ…”



Lý cóc nghe đến đây thì đột nhiên há ngoác miệng cười khan mấy tiếng, rồi bảo: “Cái gì mà chùm với không chùm, chẳng qua là việc trời trời làm, việc người người làm mà thôi, chúng ta đừng phí lời sáo rỗng với nhau nữa, bạn bè bốn bể đến tìm tôi, nếu có tài nghệ, thì cứ thử luận gia môn xem thế nào!”



Tư Mã Khôi vừa nghe đã hiểu ý của đối phương, đại khái lão ta muốn bảo: “Cậu đừng nịnh nọt tôi làm gì, đã nói đến mặt đáy biển giang hồ, thì cứ luận xuất thân gia môn trước đã, xem rốt cuộc cậu có tài nghệ gì kiếm được bát cơm đây?”



Ý tứ mấy lời này không sâu sa lắm, nên Hải ngọng loáng thoáng hiểu, nói đến tài nghệ thì anh cũng có vải tài nghệ đáng mang ra khoe khoang, nên đang định ba hoa một phen cho đối phương mở rộng tầm mắt.



Tư Mã Khôi biết không thể làm vậy. Anh vốn là người xuất thân từ giới lục lâm cũ, giỏi tuyệt kỹ Bọ cạp đảo đầu leo tường, đồng thời là chân truyền Kim điển, cũng được đọc cổ tịch biệt bảo, không những vậy lại có kinh nghiệm chiến đấu trong quân đội, trên đời này có chuyện gì anh còn chưa biết cơ chứ? Trộm nghĩ dẫu bản lĩnh của Lý cóc có mạnh hơn nữa, cũng chẳng đáng kể nếu so với anh, nhưng “kẻ mạnh còn có người mạnh hơn”, nếu định lấy bản lĩnh đè người thì hỏi rằng cuối cùng ai sẽ đắc tội với ai? Cứ vậy thì dưới vòm trời này, đi tới đâu cùng chỉ thấy toàn dịch thủ, huống hồ bây giờ mình còn có việc phải nhờ vả người ta, bởi vậy lúc này



không được phép ba hoa thể hiện, nghĩ vậy, anh chỉ nói qua quýt cho xong phần báo danh, sau đó đề cập thẳng vào vấn đề chính là định nhờ Lý cóc tìm cửa để ba người hội anh có thể thay đổi lý lịch, hòng kiếm miếng cơm manh áo.




Lý cóc gật đầu bảo: “Cậu đã nói rõ như thế thì chắc cũng hiểu luật hết luật lệ rồi phỏng? “



Tư Mã Khôi đã có chuẩn bị từ trước, nên đáp luôn: “Đương nhiên rồi! Chúng tôi nào dám tay không đến đây gõ cửa làm phiền”. Nói xong, anh liếc mắt ra hiệu cho Hải ngọng.



Hải ngọng và Tư Mã Khôi thường ngày vẫn kẻ tung người hứng như vậy, nên rất hiểu ý nhau. Hải ngọng vội móc trong túi ra một hộp giấy, cẩn thận bày lên mặt bàn rồi nói: “Chẳng giấu gì tiên sinh, anh em chúng tôi chỗ nào cũng tốt, dù có điều sinh ra đã bại gia, nên cuộc sống qua ngày rất vất vả, từ trước tới giờ sống ngày nào biết ngày đó, ăn bữa nào biết bữa đó, kiếm được một đồng thì tiêu hai đồng, nên tay nải cứ nhẹ tênh tênh, thật xấu hổ lắm thay! Hôm nay, chúng tôi đến đây định nhờ tiên sinh giúp đỡ mà trong tay lại chẳng có gì đáng giá. Trộm nghĩ tiên sinh đây chắc đã quen tiêu xài tiền to, nên dẫu chúng tôi có mang bạc năm vàng mười ra bày trước mặt, thì chưa chắc tiên sinh đã thèm ngó ngàng đến. Chúng tôi bàn đi tính lại, không biết mang gì đến cho tiên sinh mới thỏa đáng, cổ nhân nói thế nào nhỉ? ‘Nghèo không rời quẻ bói, giàu không rời nồi thuốc’, chúng tôi thấy nhân vật có tiếng tăm giống như tiên sinh đây, trong tay chẳng bao giờ thiếu tiền, chắc chắn không phải mệnh bói toán, còn cơ thể xương cốt tiên sinh nom cũng chẳng có vẻ gì cần đến thuốc thang, vấn đề là phàm con người thì đều phải ăn ngũ cốc mới sống được, nên khó tránh khỏi những lúc nhức đầu sổ mũi. Ông tổ nhà chúng tôi lại đúng là thái y làm việc trong cung, chuyên khám bệnh cho hoàng thượng, trước lúc cưỡi hạc quy tiên, ngài để lại cho con cháu một hộp ‘Cửu chuyến hoàn hồn đơn’, có câu ‘ngoại khoa ngán ghẻ, nội khoa ngán hen’, nghĩa là bệnh ngoại khoa khó chữa nhất chính là các loại viêm da, ghẻ lở hắc lào, còn bệnh nội khoa khó chữa nhất chính là hen xuyễn, khó thở. Đó mới là hai loại bệnh nan y, tức là ‘lưỡng chuyển’, vẫn còn những ‘thất chuyển’ nữa mới thành ‘cửu chuyển’ đó ạ! Thuốc của ông tổ nhà chúng tôi có thể chữa được ‘ngũ lao thất thương’ (2) tức là năm loại lao, bảy loại tổn thương cho tất cả các đối tượng già trẻ gái trai, chữa khỏi chứng viêm họng khó thở vào thời kỳ trước xuân sau thu, ngay cả người đã chết uống vào cũng có thể lập tức đánh ngay phát rắm.



Tiên sinh bảo không tin trẽn đời tồn tại loại thuốc tiên này sao? Đừng nói tiên sinh không tin, nếu đổi ngược lại là tôi, thì tôi cũng không tin, nhưng thực sự phải nói với tiên sinh, cổ nhân bảo rằng ‘thảo dược đánh bại danh y, thuốc dân gian chữa khỏi bệnh nan y’, cái này gọi là ‘trên đời chẳng hiếm chuyện lạ’. Nếu tiên sinh là người có con mắt nhìn hàng, thì lập tức sẽ biết viên thuốc của nhà chúng tôi được làm bằng các dược liệu quý hiếm, như: rết, bọ cạp, hoa kim ngân, đuôi đương quy, xác ve sầu, tằm đông cứng, bột phấn thiên hoa, rồi nấu thành một nồi canh độc, cổ nhân lại nói thế nào nhỉ ‘uống mười thang thuốc, không cần động một mũi kim châm’, lại có câu ‘tám một mũi kim châm, hơn cả mười thang thuốc’, thế mà viên cửu chuyển hoàn hồn đơn gia truyền nhà chúng tôi, uống một viên còn công dụng hơn cả mười mũi kim châm. Tiên sinh xem, nó thần diệu đến nhường nào? Hôm nay, chúng tôi biếu nó cho tiên sinh để tỏ lòng hiếu kính, tiên sinh nhất định phải cất nó thật cẩn thận. Thuốc gia truyền nhà chúng tôi không sợ để lâu, để càng lâu, tác dụng càng linh nghiệm, nếu không thì sao có thể dám xưng danh là thuốc bí truyền cơ chứ? Tiên sinh đừng thấy viên thuốc nhỏ mà nghĩ rằng công dụng chữa bệnh của nó kém. Loại thuốc này, gián chuột đều không dám gặm nhấm, bảo quản trong nhà bao lâu, chất lượng vẫn không suy suyển, cách vài năm mới lôi ra uống tiếp cũng chẳng vấn đề. Nếu trời ban cho tiên sinh sức khỏe hơn người, không cần uống thuốc cũng không hề gì, tiên sinh cứ cất đi dành tặng bạn bè, người thân, nếu tiện thì tiên sinh rỉ tai cho mọi người mua giùm để anh em chúng tôi kiếm chút tiếng tăm, cái này gọi là ‘tiếng không truyền, lợi không đến, nhỏ không truyền, lớn không đến, không truyền được tiếng tăm thì chớ mong phát tài’. Mai này chúng tôi có đi đâu, cũng chẳng bao giờ quên dành phần lộc cho tiên sinh đâu ạ!”



(2) Ngũ lao là lao tim, lao gan, lao tỳ, lao phổi và lao thận. Thất thương là “chạy quá tổn thương tỳ, giận quá tổn thương gan, bê đỡ nặng hay ngồi lâu quá tổn thương thận, lạnh quá tổn thương phổi, lo lắng quá tổn thương dạ dày, mưa gió dạn dày tổn thương hình thức, sợ hãi quá tổn thương ý chí” .



Lý cóc ngồi bên cạnh nghe, sắc mặt càng lúc càng sa sầm, cuối cùng lão quát: “Đây toàn là mấy lời khua môi múa mép của bọn bán thuốc dạo giang hồ. Các cậu dám đem nó ra để giỡn mặt ta đấy hả?”



Tư Mã Khôi cũng biết Lý cóc là tay giang hồ lõi đời, anh đương nhiên chẳng dám mang mấy lời này ra che mắt lão, anh chỉ định báo Hải ngọng thăm dò lão một phen, sau đó mới đến lượt mình trổ tài ăn nói.



Nào ngờ, Lý cóc xua tay ra hiệu không cần nhiều lời, lão bảo cứ làm theo luật cũ, tôi giúp anh một việc thì anh phải làm một việc khác để giúp lại tôi.



Lúc lão nói, Tư Mã Khôi thấy một con ngài sà xuống đậu bên tai lão, lão liền thè cái lưỡi trong mồm, “chiu” một cái đã liếm được con ngài và đưa vào miệng, nhai rau ráu rồi tớp thêm ngụm rượu. Tất cả động tác trên chỉ xảy ra trong nháy mắt, nhanh không thể tưởng tượng noổi, thêm vào đó ngọn đèn treo trong phòng tôi mở, khiến người ta nhìn mà hoa cả mắt.



Tư Mã Khôi lạnh người, anh thầm nghĩ: “Lưỡi người thường sao dài thế được? Chẳng rõ gã Lý cóc này luyện được môn công phu gì, đúng là khác người! Không hiểu lão muốn bọn ta làm việc gì giúp lão đây?”, nghĩ vậy, anh liền hỏi thẳng Lý cóc.




Kiểu ông trùm như Lý cóc bắt đầu xuất hiện từ giữa hai triều đại Minh – Thanh. Trước đây người ta thường gọi những người này là trưởng môn cái bang, chúng kéo bè kết đảng, lấy hiệu là Lý gia môn. Thực ra ăn mày trên phố không phải tất cả đều là những người cùng khổ, thiếu cơm ăn áo mặc, đâm đầu vào tuyệt lộ. Loại ăn mày rời bỏ quẽ hương bản quán, đói khát, nheo nhóc kéo con cái đi ăn mày nơi đầu đường xó chợ chỉ là nạn dân, còn phần lớn ăn mày chuyên nghiệp đều có hội nhóm riêng cả. Ban ngày, chúng kéo nhau vào thành giúp các thương nhân móc lò, đổ nước, rồi sau đó có khi chúng được chủ quán cho phép xách cả thùng cơm thừa về. Gặp phải ngày lễ ngày tết, đám hiếu đám hỷ, bọn chúng châu đến trước cửa cùng người ta ca hát hoặc than thay khóc mướn cho xôm tụ, thế là có thể xin được cơm nóng rượu ngon và cả chút tiền thưởng. Thường ngày, bọn chúng trộm gà bắt chó, kiếm ít tiền đổi lấy thuốc phiện và thuốc lá, tối đến chúng tụ tập trong hang ổ, ăn thức ăn thừa, bếp lửa cháy rừng rực, ngay cả những ngày tháng chạp rét mướt cũng chẳng bao giờ bị lạnh. Lúc ấy, mỗi người bọn chúng lại châm ngọn đèn con, lấy nha phiến ra hít, rồi nhả khói phì phèo, hai con mắt lim dim phê thuốc. Cái nghề này trời không coi, đất không quản, vương pháp cũng nhắm mắt bỏ qua, những ngày tháng của chúng qua đi vô cùng tự do tự tại, bởi vậy người ta mới bảo “ba năm ăn mày còn hơn làm thầy quan huyện”. Kiểu ăn mày này cũng chia ra thành các bang hội khác nhau, nhưng đều bái hoàng đế khai quốc triều Minh – Chu Nguyên Chương – làm sư tổ, mỗi bang phái lại có gia môn khác nhau, Phạm gia môn là một trong những bang hội khá lớn trong giới ăn mày.



Bang hội này phát triển đến độ sau đó trở nên rất cặn bã, bẩn thiu, chúng có mối quan hệ vô cùng mật chiết với cả hai phái hắc bạch, ngay bọn trộm vặt, kỹ nữ hay tay sai cùng muốn nương nhờ dưới bóng tùng, rồi mới nghĩ đến chuyện thi triển tài nghệ; không chịu về dưới trướng trưởng môn cái bang thì chớ nghĩ đến chuyện kiếm được miếng cơm mà nhét vào mồm. Nếu ai lỡ đắc tội với các quan bên trên hoặc gây ra phiền phức đại họa, thì sẽ bị phán vào tội tịch thu tài sàn, giết chết cả nhà, san phẳng mồ mả chứ chẳng chơi, nhưng nếu tìm trưởng môn đứng ra điều đình, thì không chừng chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa chẳng có gì, các quan bên trên cũng mắt nhắm mắt mở cho qua.



Tất cả những ai nhận được sự chiếu cố của trưởng môn thì coi như đang nợ trưởng môn một món, có thể nhất thời ông ta chưa nghĩ ra nên lấy cái gì của anh, nhưng sớm muộn gì anh cũng phải trả đầy đủ cho trưởng môn, lúc trả bằng người, lúc trả bằng sức, đôi khi còn phải trả bằng mạng sống của chính mình. Nếu anh muốn trốn nợ cũng không xong, bởi sẽ cõ người liên tục đến “làm phiền” anh. Trưởng môn sẽ dùng khả năng hoạt động xã hội của anh để đi giúp dỡ người khác, cũng nhờ thế, địa bàn của ông ta càng lúc càng rộng lớn, các mối quan hệ cũng kết giao càng thêm sâu sắc, chẳng mấy chốc đã kết thành một mạng lưới bủa vây khắp xã hội. Lý cóc chính là ké ăn cơm bằng cái bát ấy.



Lão đồng ý giúp hội Tư Mã Khôi tìm nơi để an cư lập nghiệp, có thể nhờ người giới thiệu vào đội khảo cổ làm chân chuyên xúc đất và trở thành đồ đệ của lão Lưu Hoại Thủy. Họ sẽ phải đến những nơi xa xôi vắng vẻ làm việc, trốn dăm ba năm chắc không thành vân đề, đến khi nào lão nhớ ra cần dùng Tư Mã Khôi vào việc gì, thì lão đương nhiên sẽ không khách sáo.



Tư Mã Khôi biết sau này Lý cóc sẽ yêu cầu mình làm ba việc, ba việc ấy chắc chắn sẽ rất khó khăn, kẻ làm ông trùm như hắn ấy à, có bắt chó ăn cám thì chó cũng phải ăn, chứ đâu phải loại dễ bỏ qua. Có điều, chuyện Lý cóc đã hứa sẽ giúp, thì lão ta sẽ giúp đến nơi đến chốn, lão đã hứa chí ít sẽ tạm thời sắp xếp cho ba người có chỗ dung thân.



Hội Tư Mã Khôi cảm ơn Lý cóc rồi cáo từ, rời khỏi khu hỏa táng mà trong lòng như nhấc được hòn đá tảng. Lúc trở về, vì muốn đi tắt, nên cả hội vòng ra con đường đất ở ngoại ô, trên đường không bóng người bộ hành, cánh đồng hoang tối om, chẳng le lói nổi một ánh đèn, ngẩng đầu lên thì thấy mây đen che kín bầu trời, dường như đang thai nghén một cơn giông lớn.



Hải ngọng bảo Tư Mã Khôi: “Trời vừa oi vừa bức, ngột ngạt quá! Đêm nay kiểu gì cũng mưa lớn cho xem, mưa gột bớt cái nóng đi, oánh một giấc mới ngon!”



Tư Mã Khôi đột nhiên quay đầu lại, anh đứng giữa đường nhìn chằm chằm vào bầu không giăng kín mây đen, anh cảm thấy ở phía xa có thứ gì đó đang cố gắng xuyên qua tầng mây và từ từ tiến sát đến gần chỗ mọi người.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 216: Hồi 5: biến động kinh hoàng


Cao Tư Dương thấy mây đen giăng cuồn cuộn khắp bầu trời, đường vắng tanh, tĩnh mịch lạ thường, tứ bề đều là cánh đồng hoang ngoài ngoại ô, cô không phát hiện thấy có điểm gì bất thường, nên quay lại hỏi: “Có thứ gì đâu?”



Hải ngọng cũng nói với Tư Mã Khôi: “Đằng kia chỉ có mỗi khu hỏa táng, canh khuya lắt lẻo thế này, cậu đừng tự nhát ma mình nữa!”



Tư Mã Khôi lắc đầu, ngay bản thân anh cũng không hiểu sao mình lại có cảm giác quái lạ như vậy, anh đành nói: “À, ý tớ bảo cơn dông sắp kéo đến rồi, chúng ta mau về nhà thôi!”



Hải ngọng lắc đầu: “Biết trước thế này, chúng ta đã mượn xe đạp cho rồi, bây giờ phía trước chẳng thấy quán hàng, phía sau chẳng thấy thôn bản, trời lại sắp đổ mưa to, không khéo lại ướt như chuột lột mất thôi!”



Cao Tư Dương trách Tư Mã Khôi: “Khi nãy anh bảo hình như phía sau có thứ gì sắp tiến lại gần, làm tôi giật cả mình đấy! Tôi cứ ngỡ trên đường…”



Tư Mã Khôi bỏ ngoài tai mấy lời Cao Tư Dương vừa nói, anh lại dừng bước chân, quay đầu nhìn phía sau, nhưng vẫn không phát hiện được điểm gì khả nghi.




Hải ngọng thấy phía sau là khoảng không trống trải, thời tiết oi nồng, chẳng có lấy một cơn gió nhẹ. Trên đường ngoài ba người ra, thì ngay cả chó mèo hoang cũng chẳng thấy con nào, lấy đâu ra thứ gì đuổi theo phía sau? Anh bực mình trách Tư Mã Khôi cứ sợ bóng sợ gió vớ vẩn, có điều nghĩ lại anh cũng thấy phải, suốt cuộc đời này, hai người hội anh chưa bao giờ được trải qua một ngày yên ổn, chính vì vậy nên bây giờ Tư Mã Khôi mới thấy không quen.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ, chắc là vậy thật, mà dẫu không có gió lay cỏ động thì ở cánh đồng hoang ngoài ngoại ô vẫn thường xuất hiện bọn chuột đồng, có lẽ tại thần kinh anh quá căng thẳng cũng nên, thế là anh bắt đầu phiếm chuyện với Hải ngọng và Cao Tư Dương, bảo rằng khi nãy chỉ mải nói chuyện mà quên chưa ăn no, chút nữa về phải nấu ít mỳ ăn đêm mới được.



Hải ngọng vừa rút đèn pin ra soi, vừa bảo: “Thời tiết nóng thế này ăn mỳ làm gì, nếu ăn thì phải ăn mỳ lạnh Triều Tiên. Nghe nói, trong thành có quán Diên Cát, ngày xưa ngay cả đồng chí Kim Nhật Thành nhân chuyến sang thăm Trung Quốc cũng vào quán này ăn mỳ lạnh đấy, hương vị mỳ ở quán đó rất truyền thống, thời tiết nóng bức thế này mà ăn một bát mỳ lạnh trộn thật nhiều ớt với đồ nhắm lạnh và một chai bia lạnh thì tuyệt cú mèo…



Mới nói đến đây, thì anh nhìn thấy đằng trước bỗng xuất hiện một con chó hoang bị trụi hết lông đuôi, thân mình gầy nhom chỉ còn nhúm da bọc xương, nhưng hai con mắt lộ ra hai tia hung quang rất dữ dằn, nó đi về phía ba người.



Hội Tư Mã Khôi đương nhiên chẳng có gì phải sợ sệt con chó hoang ở vùng ngoại ô này, chỉ cần người không trêu chó thì chó sẽ chẳng bao giờ cắn người, cứ mặc kệ con chó đó đường ai nấy đi thì tự nhiên sẽ bình an vô sự.



Con chó đi lướt qua ba người. Ở vùng ngoại ô, gặp chó hoang lảng vảng là chuyện rất bình thường, có điều Tư Mã Khôi nhìn thấy trên mình con chó này còn loang ít máu tươi. Anh nghĩ, có lẽ nó chui vào trong hố bắt chuột đồng, lúc chui ra bị thành hang làm xước da nên trên lông vẫn còn vết máu đây mà. Anh cũng chẳng để tâm vào con chó nữa, nhưng lúc này anh lại đột nhiên cảm thấy như phía sau có vật gì đang sắp sửa tiến lại gần, anh vô thức quay đầu lại nhìn, thì phát hiện con chó trụi lông đuôi khi nãy đã biến mất tăm mất dạng.



Tư Mã Khôi giật đèn pin trong tay Hải ngọng soi kỹ phía sau, con đường đất trải dài xuyên qua cánh đồng hoang, tuy mây đen che kín bầu trời, đường cũng chẳng có đèn, nhưng không có nghĩa là tối thui không nhìn thấy gì. Địa thế ở đây bằng phẳng, khoáng đạt, nhìn ngút tầm mắt, anh không phát hiện xung quanh có lùm cỏ hay hang đất nào, con chó trụi lông đuôi vừa đi qua trước mặt, còn chưa đầy mấy giây mà sao đã biến mất ngay được?



Hai người bạn đồng hành cũng thấy chuyện này hết sức quái dị. Lúc trước, Tư Mã Khôi đã linh cảm dường như có vật gì xuyên qua tầng mây chuẩn bị tiếp cận đến gần, chẳng biết có phải vật đó đã nuốt mất con chó hoang vừa đi qua hay không? Nó là vật gì mà chẳng hề phát ra tiếng động nhỏ vậy?



Ba người nghĩ đến đó đã thấy da đầu tê bì, Tư Mã Khôi soi đèn lên không trung, nhưng trên đó tối tù mù, chẳng nhìn thấy bất cứ vật gì.



Hải ngọng nhặt một viên đá, lấy hết sức ném về phía sau, chẳng biết nó đã rơi xuống nơi nào trong bóng tối. Bên vệ đường có một tấm biển chỉ đường bàng gỗ đứng cô độc, lẻ loi, ngoài ra chẳng còn gì khác.



Tư Mã Khôi thầm thấy quái lạ, anh nghĩ: “Quanh đây không hề có hang đất, sao con chó đó nói biến là biến mất ngay được? Chẳng lẽ nó hóa thành không khí được sao?”, rồi anh lại nghĩ: “Hay con chó đó đã trốn vào chỗ nào đó, chẳng qua bọn ta không phát hiện ra mà thôi…”




Cao Tư Dương căng thẳng, cô vội giục Hải ngọng và Tư Mã Khôi: “Đừng tìm kiếm nữa, chúng ta mau đi thôi!”



Tư Mã Khôi thấy việc này rất bất thường, anh linh cảm sắp tới chắc chắn sẽ xảy ra biến cố lớn, nguy hiểm đang kéo đến gần, nhưng anh lại chẳng lần ra manh mối gì, chỉ biết đề phòng cảnh giác hơn mà thôi, anh gọi Hải ngọng đừng nấn ná ở đây thêm nữa.



Ba người bật đèn pin, tiếp tục tiến về phía trước trên con đường rộng thênh thang và tối đen như mực vừa đi vừa không kìm được, cả hội lại bàn về chuyện con chó hoang vừa đột nhiên biến mất, chuyện đó đúng là quái dị ngoài sức tưởng tượng.



Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Địa bàn này nằm trong lòng bàn tay cậu còn gì, trước đây cậu có nghe nói nơi đây từng xảy ra chuyện gì quái lạ không? Cắm đầu cắm cổ đi mãi thế này cũng thấy vô vị, đằng nào cũng rỗi, hay cậu kể vài câu chuyện đi, nghe cho đỡ buồn!”



Tư Mã Khôi nói: “Nghe nói trước giải phóng, khu vực này toàn là cỏ dại và đầm lầy, nó được sử dụng làm pháp trường chuyên hành hình tử tội. Trước thời nhà Thanh, người ta thường áp giải phạm nhân ra đầu đường cổng chợ để hành quyết, nhằm mục đích thị uy dân chúng, nhưng bắt đầu đến thời Dân quốc và thời kỳ quân Nhật chiếm đóng, thì người ta mới chuyển địa điểm của pháp trường đến đây. Trong cánh đồng hoang có một cái hố rất lớn, trong những tử tội, ngoại trừ kẻ gian thần xiểm nịnh ra, thì không thiếu trung lương nghĩa sĩ hoặc người tốt bị hàm oan. Sau khi hành quyết, tất cả những thi thể không có người nhà đến thu liệm thì đều được cuộn trong chiếu cói, buộc túm hai đầu bằng dây thừng, rồi kéo lê đến miệng hố và đá bay xuống đó, mặc cho xương thịt mục nát và bốc mùi hôi thối, chó tha quạ mổ, cảnh tượng thê thảm khó nói thành lời, bởi vậy nơi ấy chẳng bao giờ thái bình, hễ đến tối là ma hờn quỷ khốc. Nghe nói có người đi qua đây, đột nhiên thấy cái đầu người chết từ trên trời rơi xuống ngay trước mặt, anh ta sợ chết đứng. Thực ra, cái đầu đó bị mấy con quạ đen tranh nhau chí chóe trên trời, rồi không may bị tuột rơi xuống ngay sát anh ta. Những chuyện tương tự như vậy từng xảy ra khá nhiều, tuy nhiên chuyện này vẫn có thể giải thích được, còn nhiều chuyện khác đến nay vẫn là một ẩn số không lời giải. Sau đó, người ta mời thầy phong thủy đến xem đất, phát hiện ở đây có một ngôi miếu cổ bỏ hoang, trong miếu có tòa bảo tháp bảy tầng, tòa bảo tháp này nằm chính giữa giao lộ, nó chắn ngang con đường đi đầu thai của các cô hồn dã quỷ, nên chúng cứ lảng vảng quanh đây, không siêu thoát được. Mãi đến khi người ta dỡ bỏ tòa bảo tháp đi, thì những chuyện quái lạ mới dần dần biến mất, sau giải phóng thì hoàn toàn không thấy xuất hiện bất cứ hiện tượng khác thường nào nữa.



Có điều, đầu những năm sáu mươi, người ta lại đào được mộ cổ của vị quý phi nào đó, có thể là quý phi thời nhà Nguyên, rất nhiều quý phi nằm trong quan tài lúc sinh thời đã đắc tội với hoàng hậu, nên mới bị nhét vào quan tài chôn sống, lúc khai quật thấy thành quan tài còn lưu dấu vết móng tay cào cấu bấn loạn. Từ đó, con đường này lại không được yên ổn nữa, rất ít người dám qua lại nơi đây vào ban đêm, bởi vì nghe nói nếu một mình đi trên đường, thì sẽ phát hiện phía sau có thứ đang đi theo anh, thậm chí có bàn tay của một người đàn bà tóm lấy anh, lúc ấy bất luận sợ hãi đến độ nào cũng tuyệt đối không được quay đầu lại, bởi vì, nếu anh quay đầu lại…”



Cao Tư Dương nghe Tư Mã Khôi kể mà rợn hết tóc gáy nhưng cô cũng rất tò mò, nửa đêm đi trên đường không một bóng người, phía sau đột nhiên có cánh tay của người đàn bà lạnh giá, trắng toát đột nhiên thò ra, chẳng lẽ đó là ác ma do vị quý phi kia biến thành hiện lên đòi mạng ư? Vì sao lại không được phép quay đầu lại? Nếu quay đầu lại thì chuyện gì sẽ xảy ra?



Tư Mã Khôi trả lời: “Điều đó thì làm gì có ai biết bởi vì tất cả những người quay đầu lại nhìn con ma nữ phía sau thì đều không còn cơ hội sống sót mà ngồi kể lại mọi chuyện nữa”.



Khi cơn mưa rào sắp kéo đến, không khí trong cánh đồng hoang ngoài ngoại ô oi bức đến kỳ lạ, vậy mà nghe xong câu chuyện vẫn khiến người ta cảm thấy ớn lạnh.



Cao Tư Dương bảo Tư Mã Khôi đừng kể nữa, trên đường tối lửa tắt đèn, lại chẳng một bóng người, vậy thôi đã đủ khiến cô sợ hết hồn, sớm biết thế này thì cứ đi đường cái lớn cho xong.



Hải ngọng không tin mấy chuyện ma mãnh, anh nói: “Tớ thấy những chuyện này chẳng qua là do tự mình sợ bóng sợ gió mà ra thôi, khi nãy chúng ta còn đang nói chuyện về con chó hoang gặp giữa đường cơ mà, sao loanh quanh thế nào lại bàn sang chuyện ma nữ hiện hồn thế? Tớ còn đang muốn xem con ma nữ đấy trông thế nào đây này. Cậu bảo đêm nay cô ta có lượn lờ đến cánh đồng hoang không?”



Tư Mã Khôi đáp: “Nếu có ma nữ thật, thì cậu định trêu ghẹo người ta chắc? Tớ thấy những câu chuyện liêu trai chí dị kể về ma nữ chuyên đi câu hồn, thực ra không phải chỉ nhằm mục đích dọa cho người ta sợ đâu. Thời xưa, người phụ nữ phải chịu sự trói buộc hà khác nghiệt của các lễ giáo phong kiến, từ nhỏ đã phải học ‘Liệt nữ truyền’, một bước không ra khỏi cửa, nửa bước cũng không được ra khỏi cửa, trước khi hành lễ văn tự, thì ngay cả các khuê nữ con nhà danh giá cũng không được phép lộ mặt, nếu bị người khác chạm phải tay thì cũng nghiêm trọng chẳng khác nào thất tiết, ngay chuyện cưới hỏi cũng phải răm rắp nghe theo cha mẹ và mối lái, lại còn phải giữ gìn tiết hạnh theo đạo lý cổ xưa ‘Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử’. Nhưng trong các cuốn liêu trai chí dị, thì các ma nữ toàn là chủ động đi dụ dỗ đàn ông, giống như con ác ma do vong hồn của quý phi trên con đường này biến thành, âm hồn không thể siêu thoát, nó thò tay túm lấy người đi đường từ phía sau. Vị quý phi đó lúc còn sống dám làm như vậy không? Lại chẳng bị hoàng thượng cho ngũ mã phanh thây ấy chứ! Những chuyện mà lúc sinh thời cô ấy không dám làm, đành phải đợi sau khi chết, biến thành ma mới dám làm. Chính vì vậy, tớ thấy trên thực tế, những chuyện liêu trai chí dị kia muốn thể hiện sự phản kháng của đại đa số phụ nữ đối với sự trói buộc của các lễ giáo phong kiến. Các cậu nghe chuyện mà chỉ thấy phần kinh dị, rùng rợn trong đó, thì xem ra sự kiến giải cũng hơi nông cạn đấy!”




Hải ngọng lầm bầm: “Điên thật! Nói kiểu gì cũng bị cậu chiếm thế thượng phong, để cho người khác một cơ hội phát ngôn cũng không được sao?”



Tư Mã Khôi cảm thấy con đường này đúng là bất thường, chắc chắn có thứ gì đó đang theo đuổi phía sau, khi nãy con chó hoang đi ngược chiều, rồi đột nhiên biến mất không tăm tích, chuyện này quá ư kỳ lạ! Anh vừa nói chuyện vừa để ý động tĩnh phía sau, cứ kể mãi chuyện ma, trong lòng anh tự nhiên cũng thấy rờn rợn, anh sợ nếu quay đầu lại nhìn thì sẽ có một ma nữ tóc tai rũ rượi, mặt mày lem vết máu thực sự xuất hiện trước mặt, nên vừa rồi chỉ tìm lý do để tự mình trấn an mình mà thôi.



Từ trước đến giờ, phía sau vẫn chưa có động tĩnh gì, nhưng trong lúc ba người nói chuyện, đột nhiên anh nghe thấy tiếng bước chân vang lên, trên con đường trước mặt có một người đang bước lại gần.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Mẹ cha nó, mình đúng là thối mồm, nhắc đến Tào Tháo là Tào Tháo đến liền. Gặp con chó hoang giữa cánh đồng lúc canh khuya cũng chẳng có gì lạ, nhưng ngoại trừ chúng ta ra, sao còn có người nào đi ngang qua đây? Xem phương hướng, thì có vẻ người đó định đến nhà hỏa táng, canh ba nửa đêm một người còn đang sống sờ sờ lại muốn đến nơi đó làm gì nhỉ?”



Nghĩ đến đây, anh liền đề cao cảnh giác. Khoảng cách giữa hai bên càng lúc càng rút ngắn, rồi anh nhìn thấy bộ dạng người ấy trông có vẻ giống nông dân, cách ăn vận giản dị, tay cầm đèn pin. Đúng là mẫu nông dân điển hình của vùng ngoại ô, nếu gặp lúc ban ngày thì chẳng bao giờ anh buồn để mắt đến.



Người nông dân đó đi với vẻ vội vàng, khi đối mặt với ba người, anh ta có vẻ không ngờ lại gặp kẻ khác giữa đường, nên bất giác cũng ngước mắt thầm đánh giá hội Tư Mã Khôi.



Tư Mã Khôi giả bộ hỏi đường, nói là hồi sáng mấy người hội anh đến nhà hỏa táng để thiêu xác, có uống tí rượu để tăng đảm khí nhưng lỡ uống nhiều quá, lúc trời tối định về thì lại chẳng có xe pháo gì cả, nên cả hội đành phải cuốc bộ theo đường tắt xuyên qua cánh đồng.



Người nông dân tin ngay, anh ta liền chỉ đường cho ba người, bảo cứ đi thẳng con đường này về phía có ánh đèn là được. Vợ người anh em của anh ta mang thai chín tháng, tối nay đột nhiên lâm bồn, nhưng người anh em kia lại đang ở ngoài đồng canh đêm, bởi vậy anh ta phải nhanh chóng đến đó đưa tin, nói xong, anh ta vội vàng bước như chạy trên con đường nhỏ về hướng ngược lại.



Tư Mã Khôi không nhận thấy anh ta có điểm gì khác thường, nên cũng tạm yên tâm, anh tiếp tục cùng Hải ngọng và Cao Tư Dương đi về phía trước, đột nhiên anh nhớ đến con chó hoang xuất hiện trên đường, thấy người nông dân đi một mình như vậy rất dễ xảy ra nguy hiểm, nên định nhắc người ấy đề phòng, anh quay đầu lại gọi: “Ông anh! Trên đường có chó hoang, tốt nhất nhặt lấy cây gậy mà phòng thân…”, nhưng khi anh quay đầu lại, thì thấy phía sau không hề có ai cả.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 217: Hồi 6: tiếp xúc


Tư Mã Khôi và người nông dân đi lướt qua nhau, tiếng bước chân đối phương vẫn còn vang vọng phía sau, nhưng khi anh quay đầu lại thì trên đường vắng ngắt, tiếng bước chân cũng đột nhiên biến mất, con đường đất giữa cánh đòng hoang tuyệt không một bóng người. Tuy Tư Mã Khôi là người can đảm, nhưng lúc này anh cũng nổi hết da gà, làm sao chỉ trong nháy mắt mà người nông dân vừa đi ngang qua đây lại có thể bốc hơi nhanh đến vậy?



Hải ngọng và Cao Tư Dương cũng vô cùng kinh ngạc. Hải ngọng thắc mắc: “Con chó hoang khi nãy còn có thể bảo nó chui vào trong hang đất, nhưng anh nông dân to như thế thì làm sao mà bỗng dưng biến mất ngay được? Lạ hơn là, cả người và chó đều biến mất trong khoảnh khắc mà không hề để lại bất kỳ tiếng động gì. Chẳng lẽ họ bay lên trời cả sao? Hay nơi này có ma? Họ đã bị con ác ma do oan hồn của quý phi biến thành bắt mất rồi à?”



Tư Mã Khôi nói: “Lời đồn ở đây có hồn ma của quý phi có lẽ chỉ là chuyện bịa, rồi một đồn năm, năm đồn mười, chứ chưa chắc đã là thật”.



Hải ngọng nói: “Không có lửa sao có khói, người ta đã đồn đại như vậy thì chứng tỏ cánh đồng này nhất định từng xảy ra những chuyện quái dị. Tớ thấy, chắc chúng ta sa chân vào đường âm dương rồi, tay nông dân và cả con chó trụi lông đuôi đều là ma, nếu không làm sao chúng có thể biến mất chỉ trong tích tắc?”



Cao Tư Dương phản bác: “Anh đừng nói linh tinh, người đó còn nói chuyện với chúng ta, làm sao là ma được?”




Hải ngọng nói: “Cô còn non lắm, làm sao phân biệt được người và ma? Người sống ấy à, phải hội đủ ba điều kiện ‘hình, ảnh, hồn’. ‘Hình’ là chỉ thân thể máu thịt, có tay có chân, có hơi thở, ‘ảnh’ là chỉ con người không chỉ có hình hài, mà khi đứng dưới đèn còn phải có bóng để chứng tỏ mình không phải hư vô, còn ‘hồn’ chính là hồn phách, ít nhất phải có ý thức bản ngã. Chỉ khi hội tụ cả ba đặc điểm trên thì mới được coi là người sống đúng nghĩa, bằng không thì tất thảy đều là ma”.



Cao Tư Dương nghe Hải ngọng nói mà thần kinh của cô càng lúc càng căng như dây đàn, ban đầu cô vốn không tin, nhưng cô không thể giải thích nổi vì sao một người vừa mới đi lướt qua trước mặt lại có thể biến mất chỉ trong một cái đảo mắt. Còn cách lý giải nào hợp lý hơn cách lý giải gặp ma?



Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Theo kinh nghiệm của tớ, gặp phải chuyện này thì tuyệt đối không được quay trở lại đường cũ, nếu đi về phía đó nghĩa là sẽ cùng đường với những âm hồn đến thành Hàm oan, tốt nhất chúng ta phải đi thẳng về phía trước, càng nhanh càng tốt, bất kể phía sau xảy ra chuyện gì bất thường cũng tuyệt đối không được quay đầu lại”.



Tư Mã Khôi lấy can đảm, soi đèn pin tứ phía xung quanh, trong đầu thầm nghĩ đến mọi khả năng có thể xảy ra. Tất nhiên anh chẳng bao giờ tin những chuyện như ác ma do quý phi biến thành câu hồn người trên đường, hay vô thức lạc vào đường âm dương hoặc thứ anh gặp trên đường là hồn ma đi đầu thai… nhưng anh thực sự không thể tưởng tượng nổi vì sao con chó trụi lông đuôi và người nông dân qua đường lại có thể vô duyên vô cớ đột nhiên biến mất ngay sau lưng mình? Không những vậy anh còn lờ mờ cảm thấy có thứ gì đó đang tiến sát lại gần, không hiểu nó rốt cuộc là vật thể gì?



Lúc này, anh chợt phát hiện có dấu vết bất thường, con đường phía sau nối liền với cánh đồng hoang tối om, mây đen vần vũ trên đỉnh đầu, xa xa cuối con đường và không gian đều nhuốm màu đen, đó là vì không có đèn đường, hơn nữa trời lại đang âm u, bởi vậy tầm nhìn chỉ được duy trì trong phạm vi chừng ba mươi mét, con chó hoang và người nông dân đi lướt qua mặt dẫu có nhanh chân thế nào thì cũng không thể vượt khỏi tầm nhìn của hội Tư Mã Khôi chỉ trong thời gian chớp mắt. Nếu dùng hai từ “mất tích” để hình dung hiện tượng quái dị này thì chưa được thỏa đáng cho lắm, có lẽ nên nói là họ đã biến mất trong phạm vi hai mươi mét phía sau lưng Tư Mã Khôi sẽ chuẩn xác hơn.



Hải ngọng bĩu môi: “Thế mà cũng gọi là phát hiện, tớ cứ tưởng cậu biết con chó và tay nông dân biến đi đâu mới tài chứ”.



Cao Tư Dương nhìn theo hướng tay Tư Mã Khôi chỉ, mặt cô đột nhiên biến sắc, miệng lúng búng: “Biển… biển chỉ đường ư?”



Thì ra, lúc ba người đi tới thì giữa đường đã nhìn thấy một tấm biển được làm bằng gỗ, trên biển đề ba chữ “Đường Tiền Tiến”, trước đây ở ngoại ô không có con đường đất này nó chỉ là một con đường nhỏ mọc đầy cỏ dại. Mấy năm trước học sinh, sinh viên trong thành phố đến đây làm nghĩa vụ công ích, tu sửa lại thành con đường đất như thế này. Thời đó, người ta quen đặt tên đường là Tiền Tiến, mang hàm ý “hương đến thắng lợi”, chuyện đó rất bình thường, bản thân tấm biển kia chỉ là ván gỗ sơ sài làm tạm, chẳng có gì đặc biệt cả.



Vậy mà lúc ba người gặp con chó hoang, phát hiện con chó biến mất sau khi nó vừa đi ngang qua mặt, Hải ngọng còn nhặt viên đá ném ra xa xem con chó có trốn ở chỗ nào sợ quá mà chạy ra không, nhưng viên đá ném đi chẳng một động tĩnh phản hồi trở lại, trên đường vắng tanh vắng ngắt, cách đó chừng ngoài ba mươi mét chỉ có một tấm biển sơ sài đứng chơ vơ một mình bên vệ đường.



Sau đó, hội Tư Mã Khôi tiếp tục đi về phía trước, đi khoảng hơn hai mươi phút, chân bước liên tục không ngừng nghỉ giây phút nào, mãi đến khi cả hội chạm trán người nông dân đi theo hướng ngược lại, sau khi người này đi lướt qua mặt cả hội, anh ta đột nhiên biến mất, mà nhìn kỹ phía sau, họ thấy tấm biển chỉ đường đơn sơ mà mình thấy cách đây hai mươi phút trước vẫn ở ngoài xa chừng ba mươi mét. Lẽ nào mọi người đi suốt bao lâu như vậy mà vẫn chỉ loanh quanh gần điểm xuất phát thôi sao?




Cao Tư Dương cố gắng nghĩ theo hướng tích cực, cô lý giải: “Có thể trên con đường này có nhiều biển chỉ đường, chúng ta chỉ mải nói chuyện, có để ý đến quang cảnh xung quanh đâu”.



Tư Mã Khôi lắc đầu: “Không thể có chuyện đó, mọi vật trên đường làm sao lọt khỏi mắt tôi được? Suốt cả quãng đường này, tôi chỉ nhìn thấy một tấm biển gỗ duy nhất đó thôi”.



Mặt Cao Tư Dương biến sắc, ba người liên tục bước không ngừng nghỉ về phía trước, từ chỗ người nông dân lướt qua trước mặt đến con chó trụi lông đuôi bỗng dưng biến mất cách nhau khá xa, tại hai địa điểm khác nhau, mọi người đều quay đầu lại xem, nhưng vẫn nhìn thấy cùng một tấm biển chỉ đường ấy, không hiểu chuyện này rốt cuộc là vì nguyên nhân gì?



Hải ngọng nói: “Chuyện này, mẹ nó, tà mị quá! Chẳng lẽ chúng ta bị cô hồn dã quỷ trên đường thôi miên sao? Hay chúng ta quay lại chỗ tấm biển nhìn xem ở đó có gì quái lạ không!”



Tư Mã Khôi cảm thấy dường như có vật gì vô hình đang bám theo mọi người, trong tình trạng mọi thứ còn chưa rõ ràng mà liều lĩnh quay đầu lại thì quá nguy hiểm. Anh suy nghĩ một lát, đoạn lấy chiếc khăn mang theo trên người đặt xuống mặt đường, lấy hòn đá chẹn lên làm ký hiệu, sau đó cùng Hải ngọng và Cao Tư Dương tiếp tục đi thêm bảy, tám mét nữa, rồi dừng lại quan sát, anh thấy chiếc khăn màu trắng chỉ còn lấp ló trên đường, trong khi tấm biển ghi ba chữ “Đường Tiền Tiến” thì vẫn cách chỗ mọi người đứng chừng ba mươi mét.



Cả hội thầm kinh ngạc, khoảng cách giữa tấm biển và chiếc khăn rõ ràng đã được rút ngắn, như thể con đường phía xa đang chạy đến gần, điều đó cũng có nghĩa là khoảnh đất dựng tấm biển đang cùng hội Tư Mã Khôi di chuyển về phía trước, chuyện này có thể xảy ra thật sao? Thế là anh cứng gan bước thêm hai bước nữa, anh hãi hùng phát hiện chiếc khăn mà mình để lại trên đường làm dấu đã biến mất phương nào, còn tấm biến bằng gỗ vẫn ở xa xa cách chỗ anh đứng ngoài ba mươi mét.



Hội Tư Mã Khôi thất sắc nhìn nhau, có lẽ nói khoảnh đất cắm tấm biển chỉ đường đang di chuyển về phía trước là không chính xác, mà phải nói khoảnh đất ở giữa nơi ba người đang đứng và tấm bia chỉ đường đang dần dần biến mất, có thể hình dung thế này, phía sau ba người xuất hiện một thứ vô hình, đoạn đường mà cả hội đi qua đều bị thứ này nuốt mất, thứ đó đang ở trong phạm vi ba mươi mét giữa hội Tư Mã Khôi và tấm biển chỉ đường, con chó trụi lông đuôi, người nông dân qua đường và chiếc khăn để lại làm dấu, thậm chí cả đoạn đường mà hội anh bước chân qua đều bị nó lặng lẽ nuốt chửng.



Chuyện lạ khó tin này chẳng ngờ lại xảy ra ngay trước mắt, khiến người nào người nấy tim đập dồn dập như trống trận thu quân, không rõ thứ đó là vật thể đáng sợ đến độ nào? Vì sao nó lại bám theo sau ba người? Sau khi con chó hoang và người nông dân kia bị nó nuốt chửng, thì họ đã đi đâu?



Hải ngọng nói: “Trên đời này có thứ gì vô hình đến nỗi mắt thường không thể nhìn thấy nhỉ? E là chỉ có ma mà thôi! Chắc chắn chúng ta gặp ma rồi, hay là oan hồn trên đường đang tìm cách tóm cổ kẻ thế thân? Tóm lại kiểu gì cũng chết…”



Tư Mã Khôi cũng không khỏi nghi ngờ cả hội đang bị trúng phép che mắt của ma quỷ. Còn nhớ năm đó, anh và Hải ngọng từng có một trải nghiệm tương tự trong lần đi tìm bảo vật cùng Triệu Lão Biệt ở khu nghĩa địa La Sư gần Hắc ốc. Khi ấy, nghe Triệu Lão Biệt nói, đi đường ban đêm thường sợ gặp ma, có điều bản thân mình gặp chuyện lạ mà không coi đó là chuyện lạ, thì chuyện lạ sẽ tự khắc biến mất, dẫu gặp phải thứ không sạch sẽ, nhưng chỉ cần hát to mấy câu để tăng đảm khí, rồi cứ thế mà tiến thẳng về phía trước, kiểu gì cũng sẽ đi qua được.




Nhưng tòa thành ma xuất hiện ở khu nghĩa địa La Sư gần Hắc Ốc chẳng qua chỉ là bầy đom đóm bay lượn giữa cánh đồng bao la, trên thực tế đó không phải ma quỷ yêu quái gì, nhưng hôm nay lại khác, cả hội đã chạm trán với thứ mà mình chưa bao giờ được nghe nói đến, ngay cả trong ác mộng cũng chưa từng xuất hiện tình hình quái dị như vậy. Bằng linh tính bản năng, anh đã cảm thấy thứ xuất hiện sau lưng mình, nó không chỉ bám như hình với bóng theo hội anh mà nó còn đang không ngừng tiến lại gần hơn, có điều tốc độ di chuyển vô cùng chậm chạp. Lòng anh cũng thấy chờn, anh cùng hai người bạn đồng hành dồn nhanh bước chân tiến về phía trước.



Ngặt nỗi có bước nhanh đến đâu cũng không thể cắt đuôi nó nổi, ba người vừa đi vừa chạy suốt hồi lâu, nhưng dẫu chạy bao xa, chỉ cần quay đầu là lại nhìn thấy tấm biển gỗ sơ sài kia vẫn đứng lẻ loi ở ven đường cách chỗ cả hội mấy chục mét.



Cao Tư Dương bắt đầu hoảng loạn, cô nghĩ, cứ chạy trốn như vậy cũng vô nghĩa, thứ đó đang không ngừng tiến lại gần hơn, đến khi nó đuổi tới nơi thì chết hết cả lũ, giờ phải nhanh chóng nghĩ ra đối sách mới được.



Hải ngọng nói: “Việc đó cô không phải lo, sóng to gió lớn cỡ nào cũng trải qua hết rồi, làm gì có chuyện lật thuyền ở cái rãnh nông này. Có điều, chúng ta vẫn chưa rõ thứ đang đuổi theo sau rốt cuộc là quái vật phương nào, nhưng mặc kệ nó, chỉ cần chúng ta chạy thục mạng về phía trước, phía trước có nhà dân rồi, nơi đó dương khí của người sống rất vượng, không chừng nó sẽ sợ mà bỏ chạy cũng nên…”



Mải nói, Hải ngọng không để ý dưới chân, nên vấp phải hòn đá chắn đường, do đang chạy nhanh, kết quả anh ngã chổng vó xuống đất, máu bắt đầu loang ra khắp mặt.



Tư Mã Khôi đang định đỡ Hải ngọng đứng dậy, đột nhiên anh cảm thấy thứ đó đã đứng ngay sát sau lưng, gần đến mức không thể gần hơn được nữa, rồi một vật lạnh băng chạm vào vai anh, trong phút chốc đầu anh vang lên một tiếng “ong”, khắp người như có dòng điện chạy qua, từng sợi tóc dựng đứng cả lên. Xuất phát từ phản ứng bản năng, anh vô thức nhìn lên vai mình, thì phát hiện có một bàn tay của phụ nữ, trắng trẻo và mịn màng, anh bất giác nghĩ đến chuyện ác ma do quý phi biến thành tóm người đi đường, nhưng đó chẳng qua chỉ là chuyện liêu trai chí dị, dã sử đâu có ghi chép những sự kiện này? Lẽ nào những chuyện đó thực sự tồn tại sao? Nghe nói tất cả những người đi đường quay đầu nhìn con ma thì đừng nghĩ đến chuyện sống sót, nếu lúc này anh quay đầu lại, liệu sẽ nhìn thấy cảnh tuợng kinh dị đến mức nào?



Ngoại trừ ba người hội anh, nếu trên đường có thêm tiếng bước chân nào, Tư Mã Khôi sẽ lập tức phát giác ra ngay, huống hồ họ đang chạy điên cuồng, làm sao có người dễ dàng bắp kịp được?



Tư Mã Khôi cậy mình gan dạ, tài nghệ cao thâm, anh nghĩ thầm: “Để tao xem rốt cuộc mặt mũi con oắt này trông ngang dọc thế nào!”, rồi anh hạ quyết tâm quay đầu lại nhìn, nhưng đúng khoảnh khắc ấy, anh cảm giác cảnh vật xung quanh đột nhiên chìm vào bóng tối, không còn nhìn thấy gì trước mắt nữa, dường như ngoại trừ bàn tay đó vẫn đang tồn tại rất thật trên vai anh ra, thì mọi sự vật khác đều biến mất như mây khói, thời gian đang vùn vụt quay ngược


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 218: Hồi 7: thoát thân


Vào khoảnh khắc Tư Mã khôi bị bàn tay đó chạm vào sau lưng, anh đột nhiên thấy trước mắt mình tối sầm lại, anh bay theo thời gian giật lùi về phía sau, đầu óc kêu “ong ong”, miệng sùi toàn bọt máu vừa tanh vừa mặn. Khi anh mở được mắt ra, thì thấy kẻ đang kéo dây ba lô trên vai mình là một cô gái trẻ đội mũ Pith Helmet, trên mũ còn gắn kính chắn gió và đèn quặng, vận bộ quân phục sa mạc, dung mạo thanh tú, xinh xắn, chỉ có điều sắc mặt tái nhợt, lại còn bám ít bùn đất và vết máu.



Tư Mã Khôi ngồi phịch xuống đất, lòng dạ thảng thốt như kẻ mất hồn, anh thầm nghĩ: “Chẳng lẽ là Ngọc Phi Yến, thủ lĩnh đội thám hiểm đi tìm chiếc tiêm kích vận tải trong rừng rậm Miến Điện ư? Sao cô ấy lại đội mũ Pith Helmet? À đúng rồi, là Thắng Hương Lân của đội khảo cổ, tại sao ma nữ tóm cổ khách bộ hành trên đường lại là cô ấy?”, nhớ đến Thắng Hương Lân, anh lại thấy đau lòng, suýt chút nữa nước mắt đã tuôn trào, rồi anh lại nghĩ: “Chẳng lẽ giờ mình đã chết thật rồi sao?”



Nhưng khi Tư Mã Khôi nhìn kỹ lại, thì thấy Cao Tư Dương và Hải ngọng cũng ôm súng ngồi xổm ngay cạnh, khắp mặt lem vết máu, ánh sáng đèn quặng gắn trên mũ cứ loang loáng quét qua quét lại khiến anh không mở nổi mắt, bầu không khí đặc quánh đất bụi và khói diêm tiêu sau vụ nổ.



Tư Mã Khôi lấy tay che ánh sáng đang chiếu vào mặt, anh thấy tai liên tục kêu “ong ong”, rồi thấp thoáng nghe thấy Hải ngọng bảo: “Đừng lo, chỉ bị chấn động thôi!”




Tư Mã Khôi càng hoài nghi, chẳng lẽ đây là ác mộng sao? Anh chỉ nhớ lúc rời khỏi khu hỏa táng, cả hội đi đường tắt, vòng ra con đường đất chạy xuyên cánh đồng hoang ngoài ngoại ô, hội anh thấy con chó trụi lông đuôi và người nông dân đi ngang qua trước mặt bỗng biến mất một cách kỳ lạ bất kể mọi người cố gắng chạy nhanh về phía trước đến mức nào, thì mặt đất cách đó khoảng mấy chục mét ở phía sau vẫn cứ di chuyển theo, dường như trong đó ẩn nấp vật gì không ngừng tiếp cận lại gần, nó cứ thế nuốt chửng cọn đường mà hội anh đi qua, cho đến khi Tư Mã Khôi bị một bàn tay tóm lấy bả vai, anh liền quay mạnh đầu lại nhìn, rồi chuyện gì xảy ra thế nhỉ?



Lúc này Tư Mã Khôi vô tình sờ tay lên mặt đất, cảm giác lạnh lẽo, âm u và nặng nề vô tận chạm tới đầu các ngón tay anh, dường như mình đang nằm trên một tảng đá rất lớn. Anh giật thót người, thần trí mơ màng đột ngột trở nên tỉnh táo hơn rất nhiều. Đây là tấm bia đá Bái Xà. Thì ra đội khảo cổ vẫn chưa hề chạy thoát khỏi động không đáy! Tư Mã Khôi bàng hoàng tỉnh lại, lúc đèn hỏa diêm nhiệt độ cao chiếu vào cuộn thuốc nổ, đã xảy ra vụ nổ kịch liệt, bốn người đội khảo cổ vội vàng núp sau đỉnh bia đá lẩn tránh, sóng xung kích khiến các vết rạn hình mai rùa trên tấm bia đá Bái Xà càng nứt toác rộng thêm, mọi người cũng bị chấn động thất điên bát đảo, lục phủ ngũ tạng nhào lộn cả vào nhau, máu mồm máu mũi hộc ra từng ngụm, giây phút ấy, Tư Mã Khôi cảm thấy tấm bia đá Bái Xà sắp vỡ đến nơi, nên anh vội vàng bảo ba người còn lại vội vàng vượt qua tấm bia đá chạy trốn. Lúc ấy, anh liếc mắt quay lại nhìn vào trong hang động tối om, anh lờ mờ thấy một vật thể khổng lồ khắp người toàn là những con mắt, hình dáng nom như cây cổ thụ tán lá rơp trời, nó hiện nguyên hình giữa lớp sương đen dày đặc, cũng chính khoảnh khắc ấy, ý thức anh bị rơi vào động không đáy do Entroypy tạo ra.



Sau đó, tấm bia đá cửa người Bái Xà sụp đổ, bốn thành viên đội khảo cổ chạy tháo mạng ra khỏi miếu thần, dụ vị thần cổ hình cây đến đầm lầy dạ quang, lúc con quái vật đó rơi xuống vực sâu, nó đã nuốt đội khảo cổ vào bụng, cả hội bị con quái vật dụ bước chân vào vỏ ốc hóa thạch. Trong cơn địa chấn do Entroypy tạo ra, vỏ ốc xuyên qua thủy thể 30° vĩ Bắc, nổi lên gần núi từ, tiếp sau đó toàn bộ trang thiết bị của đội khảo cổ như súng ống, dao săn đều bị núi từ hút mất, may nhờ Thắng Hương Lân tình nguyện đi dẫn nổ đầm lầy khí metan trong sơn động, vụ nổ khiến núi từ lệch khỏi vị trí vốn có của nó, rồi bị cuốn vào dòng xoáy khổng lồ giữa biển sâu dưới lòng đất, cuối cùng vị thần cổ hình cây bị mắc vào núi từ, nó rơi vào dòng xoáy và không ngừng xoay vần trong dòng khí nhiễu động, chẳng mấy ngày nữa, nó sẽ bị núi từ xóa sạch ý thức.



Trong nỗi tuyệt vọng vô bờ, ba thành viên may mắn sống sót của đội khảo cổ tìm thấy một chiếc dù hạ cánh trong tàn tích của một chiếc máy bay, họ sử dụng dù cứu sinh nương theo dòng khí nhiễu động, bay dần lên không trung, rồi mò mẫm dọc dòng sông ngầm chạy thoát khỏi lòng đất. Sau đó, họ được người thợ săn dân tộc Monpa sống ở lưu vực sông Yarlung Tsangpo cứu mạng. Cả hội mai danh ẩn tích, sau mấy tháng dưỡng thương và hồi phục, họ định tìm một nơi yên ổn để kiếm miếng cơm. Vậy mà tất cả những chuyện này lại không hề xảy ra ngoài đời thật, đó chỉ là ước vọng trong tiềm thức của Tư Mã Khôi khi mắc kẹt trong động không đáy mà thôi. Ngoài hiện thực, thời gian chỉ mới trôi qua hai giây, nhưng trong cảm nhận của Tư Mã Khôi, anh lại thấy mình đã trải qua khoảng thời gian dài đằng đẵng. Nếu Thắng Hương Lân không kéo anh di chuyển ra ngoài tấm bia đá, thì ý thức của anh vẫn còn lưu lại trong động không đáy, thậm chí anh còn mơ đến lúc mình quay về đội khảo cổ, cứ thế sống ngày nọ nối tiếp ngày kia, nơi đó tuy thật bình lặng, yên ổn, nhưng đó chỉ là sự tồn tại hư vô trong ý thức, bây giờ anh phải quay trở lại thực tế nguy hiểm và tàn khốc.



Tư Mã Khôi đoán việc Entroypy mắc kẹt trong núi từ, Thắng Hương Lân hi sinh, ba người còn lại của đội khảo cổ trốn thoát ra ngoài, tìm cơ hội vào lại đội khảo cổ đều là mong muốn tận đáy lòng mình. Entroypy bị núi từ xóa sạch ý thức chính là kết quả mà anh hi vọng sẽ xảy ra nhất. Thắng Hương Lân vốn đã bị thương trên người, Tư Mã Khôi luôn cảm thấy lo lắng cho cô, nỗi lo đó đã xảy ra trong tiềm thức, tương tự như vậy, việc trở lại đội khảo cổ làm việc cũng là ước nguyện của anh, còn tấm biển gỗ “Đường Tiền Tiến” xuất hiện trên con đường đất chính là lúc Thắng Hương Lân giơ tay định kéo anh ra phía ngoài tấm bia đá, trước khi tay cô chạm vào người anh, anh đã cảm giác thấy. Tất cả chỉ là những hoạt động đặc biệt xuất hiện trong ý thức của Tư Mã Khôi khi anh sa chân vào động không đáy, bởi vậy con chó trụi lông đuôi và người nông dân đi lướt ngang qua mới đều biến mất trên đường.



Lúc trước, đội khảo cổ gặp “Nhị Học Sinh” trong động không đáy, rồi không ngừng trải qua quá trình thời gian quay ngược, là khi bọn anh đã đi vào hư vô thực sự. Còn những chuyện mà Tư Mã Khôi vừa mới trải qua thì chỉ xảy ra trong trí não của bản thân anh mà thôi. Đó là khoảnh khăc anh bị vị thần cổ hình cây khắp người toàn mắt chiếm mất ý thức, nên anh mới cảm thấy mọi việc xảy ra giống y như thật. Trong khi đó ba thành viên còn lại của đội khảo cổ hoàn toàn không hề hay biết Tư Mã Khôi đã trải qua những gì trong khoảnh khắc ấy bởi họ đều đứng ở vị trí gần sát phía ngoài trên đỉnh tấm bia đá.



Ý thức của Tư Mã Khôi đã dừng lại một khoảng thời gian khá dài trong hư vô, giờ đầu anh đau như muốn vỡ tung, các ý niệm đan xen cuộn trào, anh nôn liền ra hai ngụm máu đen, mãi hồi lâu mới định thần trở lại. Thấy Thắng Hương Lân vẫn bình an vô sự, lòng anh vừa ngạc nhiên, vừa vui sướng phát điên.




Hải ngọng thấy thần sắc Tư Mã Khôi lúc vui lúc buồn, lại cho rằng anh vừa bị chấn động bởi vụ nổ, nên túm lấy vai anh ra sức lắc mạnh.



Tinh thần u ám của Tư Mã Khôi dần dần được xua tan, anh đẩy tay Hải ngọng ra. Tư Mã Khôi ý thức tấm bia đá Bái Xà vẫn chưa bị sụp đổ, luồng sóng xung kích mạnh mẽ do vụ nổ gây ra chỉ khiến vết rạn hình mai rùa trên tấm bia bị kéo rộng ra hơn mà thôi, nhưng vì tấm bia đá ấy quá dày nặng và cao lớn nên nó vẫn bất động đứng sừng sững nơi tận cùng địa mạch, đó cũng có thể coi là may mắn lớn nhất trong vạn điều không may. Vị thần cổ hình cây bị tấm bia chặn lại quả thực quá đáng sợ, nó mà thoát thân ra ngoài được thì e cả thế gian sẽ rơi vào cơn ác mộng bất tận, còn chuyện nó bị dụ đến đầm lầy và mắc kẹt dưới núi từ chẳng qua chỉ là ước mong của bản thân anh mà thôi, hiện thực nào được thuận lợi như thế, không khéo chưa thoát khỏi đại điện đặt tấm bia đá Bái Xà, thì đội khảo cổ đã bị Entroypy nuốt chửng. Với sức người thường như hội anh thì làm sao đối kháng được với nó, may mà tấm bia đá Bái Xà lại vô cùng chắc chắn, sóng xung kích phát ra từ vụ nổ mạnh nhường ấy mà nó vẫn vững như bàn thạch, lúc này không trốn còn đợi đến lúc nào?



Tư Mã Khôi mặc kệ mình vẫn đang ù tai hoa mắt, không dám quay lại nhìn thứ ẩn đằng sau tấm bia đá Bái Xà, anh vội vàng giơ tay ra hiệu cho ba người mau chóng rời khỏi tấm bia. Rốt cuộc, trời không tuyệt đường người, cuối cùng tấm bia đá vẫn bình an vô sự, nhưng bắt đầu từ giờ phút đội khảo cổ vượt qua tấm bia đá, thì thân thể và ý thức của cả hội đã rơi vào động không đáy, tất cả những sự kiện có thể tưởng tượng và không thể tưởng tượng mà hội anh từng trải qua dường như đã lẫn lộn thành một, hư thực khó phân định rõ ràng, may mà vị thần hình cây toàn mắt kia cũng không nhìn thấy trước những chuyện chưa xảy ra, tuy nó dụ cho đội khảo cổ kích nổ cuộn thuốc, nhưng tấm bia đá vẫn chưa hoàn toàn bị sụp đổ, ngược lại, con quái vật còn tạo cơ hội cho mọi người thoát ra khỏi hang động.



Hải ngọng cũng hiểu được hoàn cảnh của cả hội hiện giờ nên anh chỉ muốn mau chóng rời khỏi tấm bia đá, chạy được bao xa thì chạy, cả đời không dám tiếp cận động không đáy nữa. Tấm bia đá Bái Xà còn có thể kiên cường đứng nơi tận cùng địa mạch bao nhiêu năm nữa thì mặc kệ nó, còn điều mọi người có thể làm bây giờ chỉ là phải giữ kín bí mật, chuyện sau này thì cứ để cho hậu thế suy nghĩ và giải quyết. Nghĩ vậy, anh lập tức quay người lùi về phía sau, khoác khẩu súng săn gấu hai nòng Canada trên lưng, dùng cả tay lẫn chân bò lồm ngồm ra phía ngoài tấm bia.



Tư Mã Khôi bám sát phía sau, anh cảm thấy vị thần cổ hình cây trong trạng thái đông cứng kia đang giương mắt dối theo mình, bất giác anh lạnh toát cả người, thế là Tư Mã Khôi nắm chắc khẩu Walther P38 trong tay, đầu không ngoảnh lại, chĩa súng bắn liền mấy phát về phía sau, rồi vội vã chui qua làn khói bụi còn vương lại sau vụ nổ, cùng ba người bạn bò xuống tấm bia, tới tận lúc này mà nỗi sợ hãi vẫn còn đọng lại nguyên vẹn trong anh. Anh cứ cảm thấy cả hội không thể thoát thân một cách dễ dàng như thế, bởi rốt cuộc vị thần cổ hình cây kia đã bị tấm bia đá chặn lại hàng mấy ngàn năm, mãi mới có con người thâm nhập miếu thần dưới cửu tuyền, lẽ nào nó không lường trước được tình huống vụ nổ xảy ra nhưng không thể gây ra tổn hại nghiêm trọng đến tấm bia sao?



Hội Tư Mã Khôi đều thắc thỏm lo lắng, chưa thoát ra được bên ngoài thì còn chưa yên tâm được. Có lẽ đúng là “ghét của nào trời trao của ấy”, khi đang định bò xuống phía ngoài tấm bia đá, thì đột nhiên cả hội cảm thấy gió xung quanh nổi lên ầm ầm, mây đen từ đâu ùn ùn kéo đến, bủa vây kín tấm bia đá. Tư Mã Khôi cảm thấy sự việc không ổn, vội vàng tóm Hải ngọng đang bò đến mặt cạnh tấm bia đá giật ngược trở lại. Khi soi đèn quặng ra bốn phía xung quanh, thì anh thấy phần đáy tấm bia đá Bái Xà đã chìm ngập trong mây đen, không nhìn thấy mặt đất đâu nữa.



Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Thắng Hương Lân vội vàng lấy mặt nạ phòng độc hình mang cá do Liên Xô chế tạo đeo trước ngực, phòng lúc sương đen ùn lên sẽ đeo vào mặt.



Cao Tư Dương cũng có mặt nạ phòng độc mà cô tìm thấy trên tàu ngầm Z-615, cô rút ra để sẵn sàng sử dụng khi cần thiết, chỉ vì tầm nhìn trong sương đen quanh tấm bia đá gần như bằng không, nếu đeo mặt nạ phòng độc và nhìn qua lớp kính chắn, thì chẳng trông thấy bất cứ thứ gì nữa, bởi vậy mọi người đều đợi đến giây phút cuối cùng mới sử dụng.




Bốn người ngồi xổm trên đỉnh tấm bia đá, phát hiện phía trước và phía sau đều bị sương đen nhấn chìm, ngay cả phần trên đỉnh cũng đang bị sương đen bủa vây, vách động vốn chỉ cần giơ tay ra là với tới, thì nay cũng không nhìn thấy đâu nữa.



Hải ngọng lấy can đảm đưa tay ra sờ phía sau, nhưng thò cả nửa cánh tay, mà anh chỉ chụp được làn sương vô ảnh, anh bật kêu lên: “Thôi toi rồi! Vòm động biến đâu mất nhỉ?”



Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng đừng động đậy, nếu trong sương đen có vật gì ẩn nấp, thò tay ra là cụt luôn đấy.



Hải ngọng vội rụt tay lại, thấy trong lòng bàn tay mình toàn là tàn tro và bụi đất màu đen, anh ngạc nhiên hỏi: “Cái gì đây?”



Thắng Hương Lân ngước nhìn quầng sương đen dày đặc xung quanh, cô kinh ngạc thốt lên: “Chết rồi! Chúng ta lại phải đối mặt với chuyện từng xảy ra ở thông đạo kính viễn vọng Lopnor…”



Tư Mã Khôi nhìn thấy cảnh tượng trước mặt, tim anh đập thình thịch, thì ra con quái vật khắp người toàn mắt ở phía sau tấm bia đá đã lôi cả đội khảo cổ lẫn tấm bia đá vào “chiếc hộp thời gian!”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,843
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 219: Hồi 8: va chạm


Cao Tư Dương phát hiện sắc mặt của Tư Mã Khôi đột ngột thay đổi, cô thầm thấy lạ, vì từ trước đến giờ dẫu gặp trở ngại lớn đến đâu, anh luôn điềm tĩnh ứng phó, gương mặt trước giờ không hề toát ra nửa tia sợ hãi, sao lúc này nhìn thấy quầng sương dày đặc giống như khói đen này, anh lại tỏ vẻ tuyệt vọng đến vậy? Ít ra tấm bia Bái Xà bình an vô sự, thì đội khảo cổ vẫn trong vòng an toàn cho phép mới đúng chứ.



Tư Mã Khôi rõ hơn ai hết, khối sương đen dày đặc này chỉ xuất hiện trong chiếc hộp thời gian, lần trước đội khảo cổ đã gặp Triệu Lão Biệt, máy bay Hải Âu C47 và vô vàn con mắt âm u ở gần chỗ người sắt khổng lồ dẫn đường trong biển cát cực vực, dường như lần trải nghiệm hồn xiêu phách lạc ấy chỉ mới xảy ra ngày hôm qua, vì anh còn nhớ như in từng chi tiết nhỏ nhất.



Nấm mồ xanh tìm kiếm thông đạo dẫn xuống lòng đất bao nhiêu năm mà không có kết quả, chính trong chiếc hộp thời gian, đội khảo cổ đã tiết lộ cho Triệu Lão Biệt một loạt thông tin như sóng điện u hồn trong mật thất dưới thành cổ, gương mặt giống như thần Phật của quốc vương Chăm Pa, chỉ có rắn bay mới vào được trong sương mù dưới khe núi sâu. Khi tiết lộ những điều ấy, đội khảo cổ đã đẩy chính mình vào vòng tuần hoàn khép kín không lối thoát, có thể nói, nếu không có chiếc hộp thời gian trong biển cát ở cực vực, thì mọi sự việc xảy ra – bắt đầu từ khi hội Tư Mã Khôi bước chân vào khe núi Dã Nhân, Miến Điện đi tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải cho đến bây giờ – đều chẳng bao giờ xảy ra. Có lẽ, nếu sau khi quân nhân dân Miến Điện Cộng hòa tan rã hội Tư Mã Khôi, Hải ngọng và Tuyệt xuyên thẳng rừng rậm nguyên sinh trở về tổ quốc, thì số phận của tất cả mọi người đã sang một trang khác, nhưng sự thật đã xảy ra thì không bao giờ có thể quay lại được nữa.



Trong cực vực dưới động đạo kính viễn vọng Lopnor, đội khảo cổ bị cuốn vào chiếc hộp thời gian giữa quầng sương, không một sức mạnh nào có thể thay đổi sự thật đã xảy ra đó, nếu quy kết căn nguyên thì chính chiếc hộp này là gốc rễ của mọi bí mật, vị thần cổ hình cây trong vực sâu cũng lộ nguyên hình trong chiếc hộp thời gian.



Bởi vậy những người từng bước vào chiếc hộp thời gian như Tư Mã Khôi, Thắng Hương Lân và Hải ngọng đều biết tình hình đang xảy ra đáng sợ đến mức nào. Bây giờ nghĩ lại mới thấy, rất có khả năng lúc ấy vị thần cổ hình cây kia đã bóp méo thời gian, vì muốn thoát khỏi quá trình bị tấm bia đá nhốt trong động và không ngừng lặp đi lặp lại cái chết, nên nó mới tiết lộ chút ít bí mật thông qua chiếc hộp thời gian, để dụ đội khảo cổ thâm nhập cửu tuyền, giúp nó phá hủy tấm bia đá Bái Xà.




Sau khi đội khảo cổ tiếp xúc với tấm bia đá, con quái vật đã thử mấy lần nhưng không lần nào phá hủy được tấm bia. Có thể nói chắc rằng con quái vật đã sớm tiên liệu được tình huống này, nó biết thuốc nổ chưa đủ sức phá hủy tấm bia đá dày nặng và to lớn chừng kia, nó chỉ cần nguồn năng lượng do vụ nổ mang lại để đẩy tấm bia đá rơi vào chiếc hộp thời gian. Đó mới là ý đồ thực sự của nó.



Còn vì sao con quái vật lại làm vậy, thì có thể dựa vào những việc đã xảy ra trước đây để dễ dàng đoán ra. Chiếc hộp thời gian giống như chiếc đồng hồ cát đặt ngược, khi thời gian trong đó chảy hết thì chiếc hộp sẽ tan ra và biến mất trong hắc động. Trong khoảnh khắc chiếc hộp tan biến, mọi sự vật bị cuốn vào trong chiếc hộp sẽ trở về tọa độ thời gian của chúng trước đây, những vật không thể trở về thì sẽ cùng tan biến với chiếc hộp, nhưng những vật có thể trở về, trừ phi chúng hội tụ đủ điều kiện đặc biệt, còn nếu không, cũng sẽ không thể trở về vị trí ban đầu.



Trong chiếc hộp thời gian mà đội khảo cổ rơi vào lần trước tổng cộng xuất hiện bốn sự kiện: đầu tiên là Triệu Lão Biệt vốn đang ở trong động đạo ở hoang mạc để đào bảo vật, sau khi đi qua chiếc hộp thời gian, lão tỉnh dậy trên một sa mạc rộng lớn, suýt chút nữa đã bị mặt trời sấy thành xác khô; tiếp theo là trường hợp của đội khảo cổ vì họ đã kịp thời trở về chỗ người sắt khổng lồ trong sa mạc ở cực vực, nên vị trí không bị thay đổi; sự kiện thứ ba là chiếc máy bay Hải Âu C-47 gặp nạn vào năm 1949, hành trình dự kiến của nó vốn từ hướng nam bay sang tây bắc, nhưng giữa đường, nó bị lạc vào chiếc hộp thời gian, cuối cùng khi rơi ra khỏi chiếc hộp thì nó xuất hiện ở nơi mà nó căn bản không thể bay qua – ven rìa sa mạc Lopnor.



Sự kiện thứ tư xuất hiện trong chiếc hộp là trăm ngàn con mắt khổng lồ giữa khe nứt dưới vực sâu, có thể nói bản thân chiếc hộp chính là vị thần cổ hình cây, sương đen mênh mông vô bờ tỏa khắp bốn phía trong chiếc hộp cũng do nó phun ra, chỉ cần không có vật gì làm thay đổi vị trí của nó thì sau khi chiếc hộp biến mất, nó sẽ vẫn bất động ở chỗ cũ.



Trong chiếc máy bay Hải Âu C-47 bị rơi năm ấy còn chở miếng thịt người chết được mang ra khỏi vực sâu theo cỗ di hài Sở U Vương, Triệu Lão Biệt ngỡ đó là báu vật liền đánh cắp và trèo ra khỏi khoang máy bay, bởi sự kiện đó nên miếng thịt người chết đã biến mất vĩnh viễn trong dòng khí nhiễu động bên ngoài chiếc hộp thời gian.



Hội Tư Mã Khôi không thể xác định làm cách nào vị thần cổ hình cây kia có thể xuất hiện trong chiếc hộp vào lần ấy, họ chỉ suy đoán có thể là do địa chấn dưới cửu tuyên gây nên, còn lần này thì chắc chắn liên quan đến cuộn thuốc nổ mà đội khảo cổ mang theo, nhưng vì sao trước đây nó không để tấm bia đá xuất hiện luôn trong chiếc hộp mà phải lòng vòng qua bao nhiêu trường đoạn như vậy?



Tuy Tư Mã Khôi là người phản ứng thần tốc, khả năng nhìn nhận sự việc cũng vô cùng nhanh chóng, nhưng anh không thế giải thích nổi chi tiết này, anh đành quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Nếu lần trước tấm bia đá Bái Xà xuất hiện trong chiếc hộp thời gian, thì có phải con quái vật bị nhốt bên trong đã sớm được phóng thích ra ngoài rồi không?”



Thắng Hương Lân cũng cảm thấy rất lạ, cô đoán: “Chắc là con quái vật đó không dám vào sâu trong chiếc hộp, bởi vì nó đang ở trong trạng thái dở sống dở chết, không thể rời xa tấm bia đá, mà mọi sự kiện xuất hiện trong chiếc hộp thời gian lại nằm ngoài sự khống chế của nó, lỡ bị một ngoại lực nào đó bất ngờ tác động lên và khiến nó chệch khỏi vị trí ban đầu, thì nó không thể tiên liệu được kết quả cuối cùng sẽ là như thế nào. Bây giờ nó lôi cả tấm bia đá và đội khảo cổ vào trong chiếc hộp cũng đồng nghĩa với việc nó đang đánh cược vào canh bạc này, có lẽ nó hiểu rõ, ngoại trừ mấy kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ ra, thì rất nhiều năm nữa cũng sẽ chẳng có ai bước chân xuống cửu tuyền, vậy là, nó quyết nắm bắt lấy cơ hội cuối cùng, khiến tấm bia đá rời khỏi vị trí ban đầu, đợi khi thời gian trong chiếc hộp trôi chảy đến điểm tận cùng, thì tấm bia đá Bái Xà và đội khảo cổ sẽ phải đối mặt với hai kết cục: Thứ nhất là bị dịch chuyển khỏi vị trí ban dầu; thứ hai là sẽ vĩnh viễn biến mất trong hắc động”.



Cao Tư Dương đột nhiên chỉ tay về phía đám sương đen, thảng thốt gọi: “Nhìn kìa! Hình như trong sương mù có gì đó!”




Tư Mã Khôi nghiêng tai nghe ngóng, quả nhiên anh nghe thấy âm thanh ồn ào giống như tiếng máy điện đàm bị nhiễu sóng, không những vậy thể tích truyền âm khá rộng.



Hải ngọng đứng ngồi không yên, anh không muốn bó tay chịu chết, nên liền xách khẩu súng săn gấu hai nòng đứng bật dậy, lao vào đám sương đen cách đó không xa, định quyết đấu một phen.



Tư Mã Khôi ngăn lại: “Lấy súng đạn thông thường đối phó với kẻ địch chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, cậu liều mạng xông vào đó chỉ tổ hi sinh vô ích mà thôi. Vị thần cổ hình cây khắp người toàn mắt kia là khối thịt người chết khổng lồ. Trước mặt nó, con người bé nhỏ giống như con kiến. Súng đạn bắn vào người nó cùng lắm chỉ để lại một cái lỗ, rồi trong chớp mắt cái lỗ bé xíu ấy sẽ phục hồi nguyên dạng, đấy là còn chưa nói, nếu cậu tiếp cận nó quá gần thì ý thức của cậu sẽ bị hút vào trong động không đáy, trải nghiệm đó còn đáng sợ hơn cả cái chết đấy!”



Hải ngọng nghiến răng hỏi: “Thế thì phải làm sao? Vũ khí chúng ta mang theo chỉ có súng và dao săn, tớ thấy dù sao súng săn vẫn tốt hơn, nếu không thể dùng súng đạn để hạ gục nó, chẳng lẽ chúng ta phỉ nước bọt để hạ gục nó sao?”



Bốn người đang luống cuống vì không có chỗ trốn, thì nghe thấy tạp âm trong sương đen càng lúc càng lớn. Âm thanh này đến từ phía ngoài tấm bia đá, rõ ràng không phải xuất phát từ chỗ vị thần cổ. Con quái vật, đội khảo cổ và tấm bia đá thuộc về cùng một sự kiện, còn sự kiện xuất hiện trong chiếc hộp thời gian thì chắc chắn không chỉ có một, chẳng rõ thứ gì đang bị cuốn vào đó?



Cao Tư Dương nghe thấy âm thanh trong sương đen đã vang to đến mức kinh hồn bạt vía, phàm khi người ta càng không nhìn thấy thì càng thấy sợ, cô hoảng hốt thốt lên: “Hình như nó định lao đến chỗ chúng ta thì phải, rốt cuộc là thứ gì thế?”



Tư Mã Khôi nghe âm thanh này hơi quen, đột nhiên anh chợt hiểu ra, anh trầm giọng nói: “Thứ trong sương đen đang đến gần chúng ta chính là… số mệnh”.



Hải ngọng bất mãn với cách nói của Tư Mã Khôi, anh cằn nhằn: “Lúc nào rồi mà còn nói bóng nói gió, số mệnh là cái gỉ? Tròn hay méo, ăn được không hả?”



Lúc này, Tư Mã Khôi đang nghĩ, bốn sự kiện xuất hiện trong chiếc hộp thời gian lần trước, nguyên nhân và hệ quả của bốn sự kiện ấy cứ đan cài chồng chéo vào nhau và đều liên quan đến vị thần cổ hình cây bị nhốt trong vực sâu dưới lòng đất. Ví dụ như chiếc máy bay Hải Âu C-47, đầu tiên hội Tư Mã Khôi cho rằng nó không hề liên quan đến cả chuỗi sự kiện, nó chỉ chẳng may bị dòng khí nhiễu động cuốn vào chiếc hộp thời gian mà thôi, nhưng thực ra trong khoang máy bay C-47 đó chứa miếng thịt người chết, còn Triệu Lão Biệt và đội khảo cổ thì đương nhiên đều là những kẻ tham gia trực tiếp vào chuỗi sự kiện. Entroypy không thể lựa chọn hoặc quyết định ai hoặc vật gì sẽ bị cuốn vào trong chiếc hộp, nhưng những đối tượng đã rơi vào chiếc hộp thì đều bị số phận ràng buộc lại với nhau. Lấy Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt làm ví dụ, thực ra cả hai người họ đều không muốn nhúng mũi vào vụ này, nhưng vì sao không phải người khác mà lại là chính họ bị cuốn vào đây? Chuyện này chẳng ai có thể giải thích nổi, chỉ có thể nói kết quả đã tạo ra nguyên nhân, bởi vậy nên những sự kiện xuất hiện trong chiếc hộp đều có quan hệ rất mật thiết với nhau.




Vậy thì trong chiếc hộp giờ đây, sự kiện thứ nhất mà họ đã biết là đội khảo cổ và tấm bia đá, bất kể sự kiện thứ hai đang từ trong sương mù tiến lại gần là vật gì, thì nó đã được an bài để trở thành một phần trong vòng tuần hoàn khép kín.



Lúc này, tiếng ồn trong sương đen đã trở nên ầm ầm đinh tai nhức óc, có điều nó vẫn chưa hiện ra khỏi sương mù.



Tư Mã Khôi nghe động tĩnh này, anh biết mình không đoán nhầm, quả nhiên thứ đó đang lao đến gần.



Ba người còn lại không hiểu gì, họ thấy âm thanh này có vẻ giống một chiếc máy bay cỡ lớn đang xuyên thủng màn sương đen và đâm thẳng vào tấm bia đá Bái Xà, làm sao Tư Mã Khôi lại biết trước việc này?



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Cao Tư Dương đúng là không hề hay biết gì về việc này, Thắng Hương Lân cũng biết chút ít nhưng không thể giải thích tường tận được, chỉ có anh và Hải ngọng là biết rõ ràng nhất, thứ đang bay từ trong sương mù ra, có lẽ chính là chiếc máy bay vận tải chiến thuật Ilyushin-12 đã xảy ra sự cố vào năm 1963”. Lưu Hoại Thủy của đội khảo cổ và giáo sư Thắng Thiên Viễn, cha của Thắng Hương Lân đều ngồi trên chuyến bay ấy, lão Lưu Hoại Thủy từng kể lại cho Tư Mã Khôi nghe trải nghiệm đáng sợ lần ấy một cách tường tận.



Năm đó, đội khảo cổ do giáo sư Thắng Thiên Viễn dẫn đầu đáp chuyến bay Ilyunshin-12 đến sa mạc để tìm lối vào kính viễn vọng Lopnor, đây là chiếc máy bay vận tải chiến thuật cánh quạt hai động cơ do Liên Xô chế tạo, có thể bay với tốc độ 340km/h, khi bay gần đến ven rìa sa mạc Kumgtag, thì đột nhiên nó gặp phải hiện tượng tương tự như nhiễu động trời trong, sau một hồi rung lắc và chấn động dữ dội, thân máy bay tựa hồ bị một con quái vật khổng lồ nắm chặt, toàn bộ hành khách và phi hành đoàn đều mất hết ý thức. Đến khi mọi người tỉnh lại thì tất cả đồng hồ trên tay họ cũng dừng lại không chạy nữa, động cơ máy bay ngừng quay, động cơ Diesel của cánh quạt và bộ phận cất cánh bên trái bị hỏng, không thể tiếp tục bay lên cao được nữa, độ cao càng lúc càng hạ thấp, may mà vị cơ trưởng chỉ huy phi hành đoàn là viên phi công dày dạn kinh nghiệm, nên ông không hề hoảng loạn trước sự cố và đã cho máy bay hạ cánh thành công xuống vùng rốn sa mạc, tránh khỏi thảm họa bốc cháy phát nổ. Nhưng thông qua thiết bị định vị, người ta phát hiện địa điểm hạ cánh của chiếc Ilyushin-12 lúc đó là 40°52’ 29” vĩ Bắc và 91° 55’ 22” kinh Đông, cách xa địa điểm dự kiến mấy chục kilomet. Điều đó đồng nghĩa, trong quá trình toàn bộ hành khách mất ý thức, máy bay đã bay xuyên ngang sa mạc Kumtag theo chiều từ đông sang tây.



Tư Mã Khôi được chính người trong cuộc kể lại từng chi tiết cụ thể của cả chuỗi sự kiện, nhưng sau đó bao nhiêu biến cố dồn dập xảy ra, khiến anh chẳng còn hơi mà thở, bởi vậy anh cũng quên khuấy mất chuyện này. Bây giờ nghe thấy âm thanh ầm ầm phát ra từ động cơ cánh quạt trong sương mù, anh mới chợt nhớ tới sự cố xảy đến với chiếc máy bay vận tải Ilyushin-12 của không quân Trung Quốc vào năm 1963, thực ra nó đã trải qua một lần ra vào chiếc hộp thời gian và khi ấy nó đã đâm vào một vật…


 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom