Cập nhật mới

Dịch Full Mê Tông Chi Quốc

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 180: Hồi 4: giấc mộng quái dị


Mọi người dựng đứng tóc gáy, đồng thanh hét lên một tiếng rồi cùng giương súng ngắm bắn, bên tai văng vẳng vang lên âm thanh nghe rào rào, đá vụn và bụi đất rơi lả tả xuống mặt, cỗ cương thi đột nhiên thụt lùi vào trong bóng tối, mất tăm mất dạng.



Chẳng ai dám đứng lại xem tiếp, Tư Mã Khôi xốc nách Nhị Học Sinh đang dở sống dở chết cùng cả hội loạng choạng chạy trốn vào tít sâu trong thành cổ. Vừa mới chạy được mấy chục bước thì họ bỗng thấy giữa vách tường đổ nát có một quả cầu sắt lớn đen sì sì nằm lõm thụt vào trong, dường như đó là khoáng thạch thiên nhiên trong mạch đất, bề mặt nó lồi lõm, xù xì, đường kính dễ chừng tới chục mét, có lẽ vật thể khổng lồ đó từ trên trời rơi xuống thông đạo trong tòa thành cổ, khiến mặt đất lún sâu, trông giống như một dấu hỏi lớn không thể lý giải mà người cổ đại để lại cho hậu thế.



Tuy Tư Mã Khôi đi nhiều biết rộng nhưng khi nhìn thấy quả cầu sắt lớn như vậy xuất hiện trong tòa thành cổ, anh vẫn không khỏi hít ngược một hơi lạnh, lòng thầm nghĩ: “Không hiểu thứ quái này từ đâu rơi xuống nhỉ?”



Mọi người cũng thấy run chân, nhưng đầu không xuôi thì đuôi khó lọt, chạy được đến đây cũng đã gắng gượng lắm rồi, chân ai nấy đều nặng trịch như bị đổ nhựa đường, nhìn thấy vách tường cạnh quả cầu sắt bị ép vỡ thành một khe nứt, phía trong là một hốc đá tuy chật hẹp nhưng vẫn đủ chỗ cho mọi người nương thân, thế là cả hội mặc kệ mọi sự, ra dấu cho nhau lách qua khe nứt, trèo vào trong rồi chen chúc năm vật xuống đất, lấy ba lô bịt kín lối vào lại. Cả hội toàn thân mệt bã như bị ai rút kiệt sức lực, ngay cả ngón tay cũng không thể cử động nổi, lúc này lỡ cương thi có bò đến, thì cũng đành phó mặc số phận, giờ cứ phải ngồi thở giây lát đã rồi mới tính tiếp. Bên ngoài lặng ngắt như tờ, không hề có một tiếng động nhỏ.



Tư Mã Khôi nghĩ thầm, đợi cơ thể ổn trở lại, cả hội sẽ lập tức đi tìm nguồn nước, nếu không sẽ chết vì khát mất, có điều đã mấy ngày nay Tư Mã Khôi chưa hề chợp mắt, tuy trong đầu biết rõ giờ không phải lúc ngủ nhưng ý chí nào điều khiển nổi bản năng, anh vô thức chìm sâu vào giấc ngủ, rồi một cơn ác mộng khủng khiếp hiện ra…




Trong lúc chập chờn, Tư Mã Khôi thấy mình trở về Miến Điện, lúc đó quân đội Miến Điện cộng hòa nhân dân đã bị đánh tan tác trong chiến dịch Kunlong, cũng không hiểu các chiến hữu khác như Tuyệt và Hải ngọng đã tử trận hay bị bắt làm tù binh, tóm lại giờ chỉ còn mình anh cô độc. Lòng vừa lo lắng vừa tuyệt vọng, anh liền chạy trốn vào rừng rậm nguyên sinh quanh năm không thấy ánh sáng mặt trời, loạng choạng tiến sâu vào trong núi không biết bao lâu. Giữa đường đi, anh nhìn thấy một ngôi chùa cổ tan hoang đổ nát, anh thắc mắc không hiểu ở tận nơi sâu trong rừng rậm không dấu chân người, cũng chẳng có đường đi lối lại này, sao lại mọc ra một ngôi miếu tự? Tư Mã Khôi lẩm bẩm chắc là mình gặp phải tà ma gì rồi, nhưng anh đã giết bao nhiêu người như thế còn sợ gì ma quỷ, nghĩ vậy anh quyết định trốn trong ngôi chùa cổ một đêm rồi hãy tính.



Tư Mã Khôi giương súng chầm chậm bước vào cửa, bên trong có một vị tăng nhân trẻ, mình khoác cà sa, thấy Tư Mã Khôi bước vào, ông ta không hề ngạc nhiên hay hoảng sợ, miệng vừa niệm Phật hiệu vừa chủ động bước tới gần chào hỏi. Tư Mã Khôi đang mặc quân phục quân Miến Điện, nên không cách nào che giấu được lai lịch, anh đành kể rõ sự thật với vị tăng nhân rồi hỏi ông ta xem trong rừng còn con đường nhỏ nào có thể thoát thân được không? Vị tăng nhân không đáp mà chỉ dẫn Tư Mã Khôi đến trước một miệng giếng nằm phía sau chùa. Ông ta nói đây là cái giếng máu, sâu không thấy đáy, mỗi lần có người sắp chết đến viếng thăm chùa, thì nước trong giếng lập tức biến thành màu đỏ máu, chuyện này cứ lặp đi lặp lại hàng ngàn năm nay, chưa bao giờ sai dù chỉ một lần.



Nói xong, ông ta lấy dây thừng thả gầu gỗ xuống giếng, múc lên một gầu nước, nước trong gầu quả nhiên đỏ au như máu. Tư Khôi thấy vậy liền hỏi: “Giờ nước trong giếng đã biến thành máu, lẽ nào đó là dấu hiệu sắp có người chết sao?”. Vị tăng nhân nói: “Xem ra đường của anh… đã tận rồi”. Tư Mã Khôi lắc đầu không tin: “Trong chùa có hai người là tôi và hòa thượng, làm sao biết chắc ai là kẻ sắp chết?”. Vị tăng nhân điềm tĩnh nói: “Tôi quanh năm chỉ ở trong ngôi chùa cổ này thờ phụng Phật tổ, chẳng tranh giành gì với thế nhân. Còn anh, anh đã gây ra những nghiệp chướng nào, e rằng trong lòng anh rõ hơn ai hết. Phật tổ từ bi, xét tình xét lý, anh mới là người đáng chết”.



Tư Mã Khôi nói: “Hay cho một cao tăng thờ phụng Phật tổ, thầy nói thầy quanh năm sống trong ngôi chùa này, vậy sao trong Phật điện bụi đắp dày đến cả đốt ngón tay, cũng chẳng nhìn thấy nửa vết tích hương khói?”. Vị tăng nhân bị hỏi vặn thì ngớ người, lắp bắp không đáp thành lời, thẹn quá hóa giận bèn chỉ mặt Tư Mã Khôi quát tháo: “Cái miệng giếng này bắt ngươi chết thì ngươi phải chết!”. Tư Mã Khôi đã cố nén giận mà đối phương còn không biết đường làm anh lộn tiết lên đầu, trong lòng bất giác nổi tia sát cơ, anh lập tức giương súng xung phong bắn vị tăng nhân lỗ chỗ như tổ ong, rồi đạp xác xuống miệng giếng, sau đó quay đầu bỏ đi, nhưng chưa đi được mấy bước anh bỗng nghe thấy từng tràng cười gian ác vang lên khe khé phía sau lưng.



Tư Mã Khôi vội vàng quay người lại nhìn, chỉ thấy cổ của vị tăng nhân đột nhiên vươn dài ra mãi, cái đầu be bét máu ở đáy giếng thò cả ra bên ngoài, thần sắc khuôn mặt vô cùng quái đản, cái miệng há rộng ngoác, lộ toàn răng lao tới cắn xé. Tư Mã Khôi vừa kinh hoàng, vừa bấn loạn, ngặt nỗi chân tay anh khi đó đã mềm nhũn không điều khiển nổi, muốn ngăn cản nó cũng không vung tay được, muốn chạy trốn cũng không thể nhấc nổi chân lên, anh đành để mặc nó cắn vào vai, rồi cả người anh bị nó kéo đến sát miệng giếng, cuối cùng lộn cổ rơi tõm xuống giếng máu.



Tư Mã Khôi giật thót mình bừng tỉnh giấc, thoát khỏi cơn ác mộng, lòng thầm nghĩ cơn ác mộng về cái giếng máu quá sức cổ quái, hơn nữa cảm giác lại thật đến khiếp người, anh đoán, chắc do mình không tìm thấy đường hầm trong tòa thành cổ, cũng chẳng tìm thấy nguồn nước, con đường phía trước vô định không thể tiên liệu trước, trong lòng tràn ngập sự bất an lo lắng, nên anh mới mơ thấy giấc mộng quái đản đến vậy, may mà đó không phải sự thật.



Lúc này, hội Hải ngọng cũng lần lượt tỉnh giấc, sắc mặt ai cũng toát lên vẻ kinh hoàng, khiếp sợ. Mọi người hỏi thăm nhau, mới biết người nào cũng nằm mơ thấy ác mộng, tuy cảnh trong ác mộng không giống nhau, nhưng đều là những cảnh kinh dị, đáng sợ, cuối cùng đều bị cơn ác mộng của chính mình làm tỉnh giấc, giờ ngồi nghĩ lại ai cũng thấy lạnh gáy.



Thắng Hương Lân vừa run vừa nói: “Vừa nãy liều quá, sao cả hội dám ngủ ở nơi nguy hiểm thế này cơ chứ…”



Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh cũng đã đi lại đươc liền bảo: “Tôi cũng cảm thấy tòa thành cổ này tỏa ra toàn mùi tà khí, may mà vẫn chưa xảy ra sơ sẩy gì, giờ mọi người đã hồi phục sức khỏe, phải nhanh chóng rời khỏi đây thôi, mong là có thể tìm ra nguồn nước trong đường hầm này”.




Hải ngọng nói: “Chỗ này tà mị bỏ mẹ. Cậu nói xem bọn cương thi tộc người Bái Xà đã rơi xuống đây, sao đột nhiên lại chạy mất tiêu được? Rồi cả hội đều nằm mơ thấy ác mộng là sao?”



Cao Tư Dương cũng thêm vào: “Còn quả cầu sắt khổng lồ nữa chứ? Rốt cuộc nó là vật gì? Sao lại xuất hiện dưới lòng đất?”



Thắng Hương Lân giải thích: “Người chết đã mấy ngàn năm làm sao còn sống lại được? Theo các ghi chép tôi đọc được trên các bức phù điêu trên vách Tử thành, thì xung quanh đây có lẽ chôn vùi rất nhiều xương cốt của người Bái Xà, tuy chúng vẫn chưa thành hóa thạch, nhưng trong môi trường khô nóng thế này ít nhiều vẫn phải để lại chút tàn tích, kỳ lạ là suốt dọc đường, chúng ta không nhìn thấy nửa khúc xương khô, ở giữa các khe vách trong đoạn tường đổ nát phân bố rất nhiều lỗ lớn, trên mặt đất vương vãi đầy vụn đá, hoàn toàn không có dấu vết nào do địa chấn tạo thành; bởi vậy, tôi đoán dưới lòng đất tồn tại loài động vật ăn xác thối nào đó, bọn chúng đã ăn sạch bách xương cốt trong tòa thành này, mấy cỗ cương thi đầu đội trang sức vàng kia có lẽ cũng bị bọn chúng kéo đi thanh toán gọn rồi!”



Mọi người đều biết khả năng Thắng Hương Lân vừa nêu ra nhiều phần là sự thật, nhưng vật gì có thể tạo ra nhiều hố lỗ to như vậy, lại còn kéo cả cỗ cương thi di chuyển lên đỉnh động nữa chứ? Hơn nữa, tung tích của quả cầu sắt đường kính trên chục mét kia cũng thật đáng ngờ, họ nghĩ nát óc mà cũng không ra nguồn gốc lai lịch của nó.



Tư Mã Khôi quyết đoán đưa ra kế hoạch hành động: “Theo kế hoạch, chúng ta sẽ đi xuyên qua tòa Tử thành, hướng về đường hầm dưới lòng đất, rồi bắt tay tìm kiếm tấm bia đá của người Bái Xà, đừng đứng núi này trông núi nọ kẻo đêm dài lắm mộng, nhân lúc chân còn lết được thì mau đi thôi!”. Nói xong, anh vác ba lô và súng lên vai, xuyên qua khe nứt của bức tường, vừa định tiếp tục cuộc hành tình, bất giác anh phát hiện, mình chưa hề tỉnh khỏi cơn ác mộng.



Hội Hải ngọng bám theo sau nhìn thấy cảnh tượng trước mắt thì đều đứng thần người ra, độ sâu của khe nứt hẹp trong vách tường vốn dĩ dài chưa tới chục mét, chỉ cần bước ra là đã đến thông đạo rộng rãi trong tòa thành cổ hoang phế, nhưng cả hội đã lần sờ vách tường đá đi mấy chục bước chân, mà địa hình dài hẹp của khe nứt vẫn chưa thấy điểm tận cùng. Mọi người lại quay lại điểm xuất phát để dò lại đường, nhưng cũng không thấy điểm tận cùng.



Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, khe nứt của vách tường đâu có sâu đến vậy, rõ ràng chỉ trong ác mộng mới gặp phải tình huống này, anh véo vào cổ tay mình một cái thật mạnh nhưng cảm giác thật mơ hồ, anh không thấy đau, ngoài nỗi hoảng sợ, bất an thì chẳng còn cảm giác gì hết, như thể anh vẫn chìm đắm trong cơn ác mộng, chưa tỉnh dậy được dẫu cho đầu óc đang vô cùng tỉnh táo.



Những thành viên còn lại cũng có chung cảm giác như vậy, lúc này ngoài ý thức tỉnh táo ra, thì mọi hiện tượng vật lý khác đều hoàn toàn biến mất. Thực ra, giấc mơ được chia ra thành rất nhiều loại, đôi lúc do chịu sự tác động của tiềm thức, nên ngay khi não đang rơi vào cõi mơ ly kỳ khủng khiếp, thì đầu óc vẫn giữ độ tỉnh táo nhất định. Hoàn cảnh hiện tại của đội khảo cổ có lẽ rơi vào trường hợp này.



Tư Mã Khôi tạm thời yên tâm đôi chút, anh nói với những người còn lại: “Lúc trước, tôi mơ thấy trong giếng máu ở Miến Điện có con yêu tăng, nên giật mình tỉnh dậy, nào ngờ đó lại là con ác mộng kỳ quái đến cực điểm, ác mộng lồng trong ác mộng, bây giờ vẫn chưa tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng tầng thứ hai, có điều may mà đây chỉ là cơn ác mộng đáng sợ, chứ không phải sự thật!”




Hải ngọng trách móc: “Cả đời chúng ta ngày nào hễ mở mắt là tính mạng lại ngàn cân treo sợi tóc, lên trời xuống đất chịu bao khó khăn nguy hiểm thì thôi cũng đành, nhưng ngay cả mơ cũng mơ phải ác mộng xui xẻo, cậu nói xem sao số chúng ta chó ỉa thế không biết?”



Tư Mã Khôi hùa theo: “Tớ nghĩ, đầu thai phải có tí kỹ thuật mới được, nói thật sống những ngày tháng thế này tớ cũng ngán đến tận cổ rồi, nếu may mắn sống sót chui ra khỏi lòng đất, tớ nguyện tìm một ngôi chùa xuống tóc đi tu, ngày ngày thành tâm hầu hạ Phật tổ, biết đâu kiếp sau lại giành được suất đầu thai thành địa chủ”.



Hải ngọng châm chọc: “Cái ngữ cậu có mà tu hú. Thôi! Cậu tuyệt đối đừng đến làm phiền Phật tổ người ta”.



Tư Mã Khôi đang định nói tiếp thì chợt ý thức, đây chỉ là giấc mơ của mình, Hải ngọng trước mặt cũng đâu phải người thật, việc gì phải lãng phí nước bọt? Hơn nữa, giấc mơ này hình như kéo dài cũng khá lâu rồi, sao mình vẫn chưa tỉnh lại nhỉ?



Thực ra, không chỉ Tư Mã Khôi, những thành viên còn lại cũng chung ý nghĩ như vậy, nhưng mọi người đều mau chóng phát hiện giấc mơ này không hề giống giấc mơ bình thường, dường như năm người đều đang cùng trải qua một cơn ác mộng quái dị, hơn nữa không ai có thể tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng của chính mình. Thông đạo dài bất tận không điểm đầu không điểm cuối này chỉ là không gian trong cơn ác mộng, do nó chỉ là sản phẩm của tưởng tượng trong tiềm thức nên nó hoàn toàn không có quy luật logic hay tính chất vật lý nào, dẫu bây giờ có đập đầu vào tường, cả hội cũng không thể nào tỉnh lại được, bởi vì tất cả những hành động ấy không hề xảy ra ngoài đời thực.



Tư Mã Khôi biết rõ nấm mọc ra trong miệng của đầu lâu chỉ có thể dần dần hút kiệt khí huyết của con người chứ không thể sản sinh ra các ảnh hưởng khác, nói không chừng cơn ác mộng này lại liên quan đến quả cầu sắt khổng lồ trong tòa thành cổ, vì mới nhìn vật thể to lớn đen sì sì đó thôi người ta đã có cảm giác không lành rồi, vì vậy rất có khả năng nó chính là căn nguyên của cơn ác mộng.



Lúc đầu, mọi người chỉ coi đó là phỏng đoán chưa có căn cứ, nhưng Hải ngọng vừa nghe đã tin chắc chắn là vậy, bởi anh rất hiểu bản thân, dẫu có nằm mơ anh cũng không thể tự mình nghĩ ra giả thiết cao siêu chừng ấy, nên xem ra phán đoán của Tư Mã Khôi không thể sai được – giờ đây mọi người đang bị nhốt trong cùng một cơn ác mộng – việc cần làm bây giờ không phải ngồi nghĩ xem tại sao cơn ác mộng lại xuất hiện, mà phải mau chóng tìm cách tỉnh dậy để thoát khỏi cơn ác mộng, vì nếu cứ tiếp tục chìm sâu vào giấc ngủ trong tòa thành cổ vùi đầy hài cốt người Bái Xà, thì không biết cả hội sẽ phải gánh chịu hậu quả gì?



Thực ra, không cần Hải ngọng thức tỉnh, Tư Mã Khôi và những người còn lại cũng tự hiểu, nếu bị nhốt mãi trong cơn ác mộng thì chẳng khác nào cận kề cái chết. Không chỉ vậy, thời gian trong giấc mơ còn trôi nhanh hơn cả thời gian thực tế ngoài đời thật, cũng có nghĩa là các thành viên đội khảo cổ đang ngày càng rơi nhanh hơn theo hình xoắn ốc xuống điểm tận cùng của cái chết.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 181: Hồi 5: trùng lặp


Hội Tư Mã Khôi lánh nạn trong khe nứt hẹp giữa vách tường, rồi bất giác ngủ thiếp đi, không ngờ lại bị nhốt trong giấc mộng chung quái đản kéo dài bất tận, dẫu cả hội đã nghĩ hết mọi cách, nhưng rốt cuộc vẫn không thể thoát khỏi cơn ác mộng ma mị ấy. Nếu chỉ nhờ vào ý thức của bản thân, thì họ không thể nào tỉnh dậy được, mà cần phải có một ngoại lực tác động vào, ngặt nỗi khắp nơi trong tòa thành cổ dưới lòng đất toàn xương khô, đến một bóng ma còn không có nữa là. Xem ra, mọi cách đều rơi vào ngõ cụt, họ chỉ còn biết đợi chờ chiếc bóng của thần chết viếng thăm trong nỗi sợ hãi và dày vò.



Giữa cái khó, Hải ngọng chợt ló cái khôn: “Lúc trước, mấy cỗ cương thi cũng rơi vào thành cổ rồi đột nhiên biến mất dạng, sau đó lại thình lình xuất hiện ngay trên đỉnh động, nhất định có con vật nào đó đã kéo chúng lên đó, chắc bọn này là loài động vật ăn xác thối dưới lòng đất, chúng đã đục được cái hố to thế trong vách tường, thì không chừng chúng sẽ lần theo mùi hơi, chui vào trong khe tường, chỉ cần chúng chạm vào người một cái là bọn ta có thể tỉnh dậy ngay tức thì”.



Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Cậu tưởng hễ đeo kính cận là thành bác học được chắc, trí thức dỏm? Cậu nghĩ kỹ xem nếu bọn quỷ ăn xác thối săn mồi dưới lòng đất chui vào trong khe tường, thì mẹ kiếp, chúng nó còn để cho cậu yên chắc? Không khéo lúc cậu tỉnh lại, thì nửa cái sọ của cậu đã chuyển chỗ đến dạ dày chúng nó xong đâu vào đấy rồi!”



Thắng Hương Lân nói: “Đừng hi vọng xảy ra trường hợp ấy! Vì đề phòng bất trắc nên ngay từ lúc đầu chúng ta đã lấy ba lô bịt chặt miệng khe nứt, dẫu bên ngoài có con gì thì chúng cũng không thể chui vào trong này được đâu”.




Cao Tư Dương lo lắng nhìn Tư Mã Khôi: “Thường ngày anh nổ ghê lắm cơ mà, sao vào giờ phút then chốt lại tắc tịt thế?”



Tư Mã Khôi cũng không cam tâm chờ chết, bụng bảo dạ: “Bao gian nan nguy hiểm dọc đường đều đã vượt qua, giờ cái bia đá đã lù lù ngay trước mắt, làm gì có chuyện chịu chết tức tưởi ở đây? Lúc này có lo sợ hay hoảng loạn thì cũng vô ích, chi bằng ta phải tìm hiểu rõ hoàn cảnh trước mắt, xem có cách nào phá giải được cơn ác mộng quái đản này không… nghĩ đến đây, anh bảo mọi người lần lượt kể lại cơn ác mộng xem họ đã mơ thấy gì.



Xuống đến đáy Tử thành, rồi trốn vào trong khe nứt giữa bức tường để lánh nạn, lúc này cả hội đã mệt nhoài, cổ họng khát cháy, từ lúc bắt đầu rơi vào trạng thái ngủ mê mệt, mỗi người đều mơ thấy một cơn ác mộng vô cùng đáng sợ và kỳ lạ.



Cơn ác mộng của Nhị Học Sinh xảy ra trong núi Đại Thần Nông Giá, khi ấy cậu ta vẫn đang làm việc trong khu lâm trường Hầu Tử Thạch. Để kiếm thêm chút công điểm, cậu ta đi canh ruộng ngô vào ban đêm cùng một người bản địa họ Trần, biệt danh là Trần “liều”. Lâm trường khai hoang được mấy chục mẫu đất trên núi để trồng ngô, đến đêm mùa hạ, họ phải dựng một gian nhà tranh, rồi tìm người canh ngô hòng tránh dã thú và kẻ trộm. Nhưng nơi đó rừng sâu núi thẳm, bóng người thưa thớt nên khó tránh khỏi những lời đồn đại về hồn ma bóng quế, bình thường chẳng ai dám đi canh đêm, bởi thế người nào trong lâm trường chịu đi sẽ được gấp đôi công điểm.



Trần liều là người không tin chuyện ma mãnh, càng nghèo lại càng liều, gặp cơ hội tốt thế không tranh đi mới lạ. Hôm đó đến phiên anh ta và Nhị Học Sinh canh đêm, hai người mang theo súng tự chế để tránh thú dữ, rồi vào núi. Ban ngày, hai người đặt bẫy được một con thỏ hoang, liền lột da rửa sạch, đợi đêm xuống mới lấy chiếc nồi gốm trong gian nhà tranh vách đất mang ra hầm thỏ, hai người vừa canh nồi vừa chấm chấm mút mút, thịt thỏ trong nồi càng hầm càng thơm nức mũi. Trần liều không khỏi cảm thán kể, nhà anh ta lít nhít một đống con, đứa nào đứa nấy cứ như là những con ma đói đầu thai, thường ngày nếu anh có săn được lợn hay thỏ rừng thì cũng phải nhường con ăn trước, đợi đến khi kẻ làm cha là anh ta được động đũa thì đến khúc xương cũng chẳng còn, bây giờ ra ngoài canh đêm đúng là tự do, cứ việc ăn no căng bụng thì thôi, nói xong anh ta liền gắp một miếng thịt thỏ to đùng đút vào miệng.



Bụng Nhị Học Sinh cũng lép kẹp, đói mờ cả mắt nhưng cậu ta nào dám thò đũa ăn tranh với Trần liều, mắt nhìn chằm chằm đối phương đang ngon lành nhét miếng thịt thỏ vào mồm. Đột nhiên, cậu ta nghe thấy tiếng “ầm” vang lên, rồi vách đất bỗng thủng một lỗ lớn, một bàn tay to như cái quạt, lông lá đen sì thò từ ngoài vào, bàn tay xòe rộng khua khoắng khắp nơi, có vẻ như muốn tìm nồi thịt thỏ đang bốc khói nghi ngút. Hai người biết mình không may gặp phải dã nhân ở Thần Nông Giá, thì sợ mềm nhũn cả chân tay. Trần liều thường ngày tuy rất liều, nhưng giờ cũng sợ vãi đái ra quần, cuống cuồng đặt nồi thịt thỏ xuống đất, mặc cho cánh tay đen sì toàn lông lá khua khoắng, vớt lên ăn. Nào ngờ, gã người rừng ăn hết thịt trong nồi nhưng vẫn chưa chịu bỏ đi, nó tiếp tục thò cánh tay vào trong gian nhà tranh sục sạo.



Nhị Học Sinh và Trần liều đành đâm thủng vách tường phía sau, xách theo khẩu súng tự chế rồi chui ra ngoài chạy trốn. Họ nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp đuổi theo, liền ngoái đầu lại nhìn, vừa nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, hai người suýt nữa thì lăn ra ngất xỉu tại trận, cách đó không xa là con quái vật hình người đứng thẳng bằng hai chân, lông dài thượt phủ kín toàn thân, tóc tai rũ rượi, dáng hình cao lớn, trông lừng lững chẳng khác nào người khổng lồ, có điều dưới ánh trăng bàng bạc, họ cũng không nhìn rõ mặt mũi nó ra sao. Trần liều hoảng quá hóa liều, cuống quýt giương súng săn lên bắn, trong lúc hoảng loạn dường như anh ta bắn mù một mắt con dã nhân, nó ôm đầu dừng bước, không đuổi theo hai người nữa.



Hai người loạng choạng bỏ chạy, chạy đến một khe núi, thì hai chân cứng đơ không thể nhích được nữa, đến lúc sắc trời hửng trắng như bụng cá, đoán chắc giờ đã bình an vô sự, Trần liều mới thở phào nhẹ nhõm, huênh hoang nói với Nhị Học Sinh: “Chắc nó không phải dã nhân đâu, dã nhân làm sao cao to thế được? Không chừng là sơn tiêu hay ma cây gì đấy. May mà chú đi cùng Trần liều anh đấy, chứ nếu là người khác thì lấy đâu ra dũng khí giương súng lên bắn nó?”, anh ta miệng nói tay khua, đang lúc thao thao bất tuyệt thì đột nhiên bên tai vang lên một âm thanh quái lạ, rồi một bàn chân khổng lồ lông rậm rì giẫm xuống khe núi.




Trần liều đáng thương bị giẫm nát bét, thân thể bấy máu. Cái đùi to lớn của con vật đó lại nhấc lên chuẩn bị giẫm vào Nhị Học Sinh. Cậu ta sợ hãi trân mắt đứng nhìn, hồn vía bay chín tầng mây, kinh hoàng tỉnh dậy, lúc ấy mới biết đó chỉ là một giấc mơ. Điều quái lạ là cơn ác mộng này lại lồng trong một cơn ác mộng khác, mà tầng thứ hai của cơn ác mộng đến giờ vẫn còn chưa tỉnh.



Trong thực tế cũng từng diễn ra sự việc này, điều khác biệt duy nhất là, hôm đó lẽ ra Nhị Học Sinh phải đi gác đêm với Trần liều, nhưng cậu ta lại mắc chứng Khắc Sơn, lúc ấy đột nhiên thấy khó chịu trong người, nên phải ở lại lâm trường, một mình Trần liều vác súng tự chế vào bãi canh ngô, kết quả ngày hôm sau người khác đến thay ca thì phát hiện Trần liều đã mất tích, trong gian nhà tranh chỉ còn chiếc nồi gốm vỡ nát, trên vách có nhiều lỗ thủng rất to.



Cuối cùng người ta phát hiện thấy Trần liều chết thảm trong khe núi, thi thể nát bét nom rất đáng thương, như thể bị người khổng lồ dùng chân giẫm chết, súng tự chế văng sang một bên, người trong lâm trường nghi thủ phạm là dã nhân, nên tập hợp dân binh mang theo súng săn lùng sục trong núi dọc theo dải Hầu Tử Thạch trong suốt nửa tháng, nhưng từ đầu chí cuối chẳng tìm thấy nửa sợi lông của dã nhân, rồi vụ án cũng khép lại, từ đó trở đi không ai dám canh đêm ở bãi ngô nữa. Nhị Học Sinh tận mắt thấy bộ dạng nằm chết thảm thương của Trần liều, hình ảnh ấy khắc sâu vào trí não cậu ta, nên giờ mắc kẹt dưới lòng đất này cậu lại nằm mơ thấy cảnh tượng đó, nhưng có lẽ vì giấc mơ chịu sự tác động của tiềm thức, nên Nhị Học Sinh mới mơ thấy mình trực tiếp cùng Trần liều trải qua sự kiện bị dã nhân giẫm chết năm ấy.



Cơn ác mộng của những thành viên còn lại đều liên quan đến những sự kiện bản thân từng trải qua, mỗi cơn ác mộng đều có điểm ly kỳ, đáng sợ riêng, người nào người nấy kể vanh vách giấc mơ của mình như thể vừa mới thực sự trải qua.



Tư Mã Khôi biết rõ mình có thể mơ thấy giếng máu trong rừng rậm Miến Điện, nhưng không thể mơ thấy chuyện gặp phải dã nhân ở Thần Nông Giá, mà dẫu có mơ thấy cũng không thể chi tiết, sống động như vậy được, điều đó đủ để chứng minh giờ đây mọi người đang cùng trải qua một cơn ác mộng trùng lặp. Giải mộng, xem phong thủy, bói toán đều là đạo thuật trong Kim Điển, bởi vậy Tư Mã Khôi cũng thông hiểu ít nhiều. Anh nhớ cổ nhân từng giải thích cặn kẽ từng loại giấc mộng, trên đời ngoài cương thi ra, không người nào không nằm mơ, nếu tỉnh dậy cảm thấy không hề mơ thì chẳng qua là do trí não đã hoàn toàn quên hết. Giấc mơ thường chia ra thành hai loại, giấc mơ nông và giấc mơ sâu.



Tầng thứ nhất của giấc mơ là tầng nông nhất, thường gọi là “thân cảnh” tức giấc mơ cõi người, những chuyện xảy ra trong giấc mơ này liên quan đến bản thân người ngủ mơ và nó chịu sự ảnh hưởng của môi trường xung quanh, ví dụ khi cơ thể bị trói thì trong giấc mơ thường thấy rắn xuất hiện, nếu mái nhà bị dột, thì sẽ mơ thấy mình bị rơi xuống nước, cái này gọi là “ngày ra sao, đêm chiêm bao là vậy”. Tầng thứ hai của giấc mơ sâu hơn, gọi là “linh chúc” tức ngọn nến cõi tâm linh, căn nguyên của giấc mơ này xuất phát từ nội tâm, chủ yếu chịu sự tác động của tiềm thức, bởi vậy đôi khi những chuyện ngày thường không làm, đột nhiên lại xuất hiện trong giấc mơ. Tầng thứ ba của giấc mơ là tầng sâu nhất, gọi là “hồn yểm” tức là chỉ hồn rời khỏi xác đi chu du trong cõi mơ, lỡ gặp phải trường hợp này, thì chỉ còn cách đợi người khác đánh thức mình dậy mà thôi.



Tư Mã Khôi nhớ trong cổ tịch tướng vật có ghi chép rằng, ở núi Côn Lôn có loại sắt huyền thiết, loại sắt này có khả năng nhốt người ta vào cơn ác mộng khó lòng tỉnh giấc. Nghe nói, Hán Vũ Đế cũng từng có một viên. Quả cầu sắt to lớn đen sì nằm lún trong thành cổ có lẽ chính là loại dị vật kiểu này, mọi người nhất thời sơ ý, lăn ra ngủ mê mệt ngay trong khe nứt giữa vách tường, nên đều lần lượt chìm vào ác mộng, khi giật mình bừng tỉnh giấc, thì lại trượt vào một tầng ác mộng khác sâu hơn, không những vậy tiềm thức của tất cả mọi người chồng chéo, trùng lặp tại một điểm. Tuy đã hiểu ra vấn đề, nhưng cả hội nghĩ nát óc vẫn không thể tìm được cách hóa giải nút thắt hóc búa này.



Lúc này, Hải ngọng lên tiếng bảo đã tìm ra kế sách giúp cả hội thoát khỏi không gian của cơn ác mộng quỷ quái. Thường ngày, ác mộng sẽ kết thúc khi ta sợ hãi quá độ và giật mình tỉnh giấc…




Thắng Hương Lân không đợi Hải ngọng nói dứt lời, đã hiểu ý anh muốn nói gì, cô vội vàng xua tay gạt đi. Cơn ác mộng quái đản này vô cùng bất thường, hoàn toàn khác với những ác mộng con người từng mơ thấy, nó đã khiến chúng ta sợ hãi đến tột độ, nhưng vẫn không thể đánh thức chúng ta dậy, ngược lại còn kéo chúng ta xuống tầng mộng sâu hơn.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ, com ác mộng quái lạ này quả thực diễn ra quá dài và dường như không có khởi đầu, cũng chẳng có kết thúc, chắc điểm tận cùng là mọi người sẽ dần dần biến mất, từng người từng người một, bởi một khi cơ thể chết đi, thì tiềm thức cũng không thể tồn tại. Để tìm con đường sống, cách gì cũng phải thử mới được, ngay cả ý tưởng ngu ngốc của Hải ngọng cũng phải thử một lần. Đang lúc Tư Mã Khôi còn mải đăm chiêu suy nghĩ, thì anh lờ mờ phát hiện tựa có bóng người thấp thoáng trốn sau lưng Cao Tư Dương, bóng người ấy co rúm, ngồi xổm trong góc tối, án binh bất động, nom bộ dạng khá quen mắt, có điều trong chốc lát anh không thể nhớ ra đã từng gặp ở đâu.



Tư Mã Khôi bỗng lạnh gáy, trong tòa Tử thành này, ngoại trừ năm thành viên của đội khảo cổ ra, chẳng lẽ còn có người thứ sáu may mắn sống sót? Nghe nói, mộng là hệ quả của quá trình ngủ động mắt nhanh(1) và tiềm thức tầng sâu, chính vì vậy người nào cũng phải ngủ mơ, thậm chí cả chó mèo cũng vậy. Mỗi người, mỗi loài có một giấc mơ riêng biệt, nói theo quan niệm mê tín thì bản thân trong giấc mộng chính là “hồn sống”, còn giấc mộng là không gian hỗn độn giao thoa giữa cõi âm và cõi dương, dương hồn của người sống có thể nằm mơ, âm hồn của người chết cũng có khả năng đi vào giấc mộng, bởi vậy mới xảy ra chuyện người chết thác mộng cho người sống.



Chẳng lẽ kẻ mới đến là âm hồn của người đã chết cách đây mấy ngàn năm, đang đi nhầm vào cõi mộng của các thành viên đội khảo cổ? Hay hắn chính là linh hồn của Nấm mồ xanh đang tàng hình ẩn trốn? Nếu là vậy thì chẳng lẽ hồn phách của Nấm mồ xanh cũng bị nhốt trong cơn ác mộng ư?



1 Ngủ động mắt nhanh: là một trong hai giai đoạn mang tính chu kỳ của giấc ngủ, gồm có: ngủ động mắt nhanh và ngủ không động mắt nhanh.



Suy nghĩ ấy vừa lóe lên, Tư Mã Khôi đã xách súng, bước nhanh đến gần, thò tay tóm lấy kẻ lạ mặt. Gã đang cúi đầu rất thấp, khi bị tóm mới chầm chậm ngẩng lên, mặt đối mặt với Tư Mã Khôi. Có điều, khuôn mặt đó nhẵn thín như mặt thớt, không hề có mắt mũi tai miệng, nom như dán một lớp giấy trắng rất dày lên mặt vậy. Tư Mã Khôi có cứng gan đến đâu, thì trong khoảnh khắc đó, tim gan cũng thấy thấu lạnh. Anh hiểu, đó là âm hồn nhập mộng, nhưng không hiểu âm hồn không có mặt đó là ai?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 182: Hồi 6: chạy thoát khỏi tử thành


Hội Tư Mã Khôi lánh nạn trong khe nứt hẹp giữa vách tường, rồi bất giác ngủ thiếp đi, không ngờ lại bị nhốt trong giấc mộng chung quái đản kéo dài bất tận, dẫu cả hội đã nghĩ hết mọi cách, nhưng rốt cuộc vẫn không thể thoát khỏi cơn ác mộng ma mị ấy. Nếu chỉ nhờ vào ý thức của bản thân, thì họ không thể nào tỉnh dậy được, mà cần phải có một ngoại lực tác động vào, ngặt nỗi khắp nơi trong tòa thành cổ dưới lòng đất toàn xương khô, đến một bóng ma còn không có nữa là. Xem ra, mọi cách đều rơi vào ngõ cụt, họ chỉ còn biết đợi chờ chiếc bóng của thần chết viếng thăm trong nỗi sợ hãi và dày vò.



Giữa cái khó, Hải ngọng chợt ló cái khôn: “Lúc trước, mấy cỗ cương thi cũng rơi vào thành cổ rồi đột nhiên biến mất dạng, sau đó lại thình lình xuất hiện ngay trên đỉnh động, nhất định có con vật nào đó đã kéo chúng lên đó, chắc bọn này là loài động vật ăn xác thối dưới lòng đất, chúng đã đục được cái hố to thế trong vách tường, thì không chừng chúng sẽ lần theo mùi hơi, chui vào trong khe tường, chỉ cần chúng chạm vào người một cái là bọn ta có thể tỉnh dậy ngay tức thì”.



Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Cậu tưởng hễ đeo kính cận là thành bác học được chắc, trí thức dỏm? Cậu nghĩ kỹ xem nếu bọn quỷ ăn xác thối săn mồi dưới lòng đất chui vào trong khe tường, thì mẹ kiếp, chúng nó còn để cho cậu yên chắc? Không khéo lúc cậu tỉnh lại, thì nửa cái sọ của cậu đã chuyển chỗ đến dạ dày chúng nó xong đâu vào đấy rồi!”



Thắng Hương Lân nói: “Đừng hi vọng xảy ra trường hợp ấy! Vì đề phòng bất trắc nên ngay từ lúc đầu chúng ta đã lấy ba lô bịt chặt miệng khe nứt, dẫu bên ngoài có con gì thì chúng cũng không thể chui vào trong này được đâu”.




Cao Tư Dương lo lắng nhìn Tư Mã Khôi: “Thường ngày anh nổ ghê lắm cơ mà, sao vào giờ phút then chốt lại tắc tịt thế?”



Tư Mã Khôi cũng không cam tâm chờ chết, bụng bảo dạ: “Bao gian nan nguy hiểm dọc đường đều đã vượt qua, giờ cái bia đá đã lù lù ngay trước mắt, làm gì có chuyện chịu chết tức tưởi ở đây? Lúc này có lo sợ hay hoảng loạn thì cũng vô ích, chi bằng ta phải tìm hiểu rõ hoàn cảnh trước mắt, xem có cách nào phá giải được cơn ác mộng quái đản này không… nghĩ đến đây, anh bảo mọi người lần lượt kể lại cơn ác mộng xem họ đã mơ thấy gì.



Xuống đến đáy Tử thành, rồi trốn vào trong khe nứt giữa bức tường để lánh nạn, lúc này cả hội đã mệt nhoài, cổ họng khát cháy, từ lúc bắt đầu rơi vào trạng thái ngủ mê mệt, mỗi người đều mơ thấy một cơn ác mộng vô cùng đáng sợ và kỳ lạ.



Cơn ác mộng của Nhị Học Sinh xảy ra trong núi Đại Thần Nông Giá, khi ấy cậu ta vẫn đang làm việc trong khu lâm trường Hầu Tử Thạch. Để kiếm thêm chút công điểm, cậu ta đi canh ruộng ngô vào ban đêm cùng một người bản địa họ Trần, biệt danh là Trần “liều”. Lâm trường khai hoang được mấy chục mẫu đất trên núi để trồng ngô, đến đêm mùa hạ, họ phải dựng một gian nhà tranh, rồi tìm người canh ngô hòng tránh dã thú và kẻ trộm. Nhưng nơi đó rừng sâu núi thẳm, bóng người thưa thớt nên khó tránh khỏi những lời đồn đại về hồn ma bóng quế, bình thường chẳng ai dám đi canh đêm, bởi thế người nào trong lâm trường chịu đi sẽ được gấp đôi công điểm.



Trần liều là người không tin chuyện ma mãnh, càng nghèo lại càng liều, gặp cơ hội tốt thế không tranh đi mới lạ. Hôm đó đến phiên anh ta và Nhị Học Sinh canh đêm, hai người mang theo súng tự chế để tránh thú dữ, rồi vào núi. Ban ngày, hai người đặt bẫy được một con thỏ hoang, liền lột da rửa sạch, đợi đêm xuống mới lấy chiếc nồi gốm trong gian nhà tranh vách đất mang ra hầm thỏ, hai người vừa canh nồi vừa chấm chấm mút mút, thịt thỏ trong nồi càng hầm càng thơm nức mũi. Trần liều không khỏi cảm thán kể, nhà anh ta lít nhít một đống con, đứa nào đứa nấy cứ như là những con ma đói đầu thai, thường ngày nếu anh có săn được lợn hay thỏ rừng thì cũng phải nhường con ăn trước, đợi đến khi kẻ làm cha là anh ta được động đũa thì đến khúc xương cũng chẳng còn, bây giờ ra ngoài canh đêm đúng là tự do, cứ việc ăn no căng bụng thì thôi, nói xong anh ta liền gắp một miếng thịt thỏ to đùng đút vào miệng.



Bụng Nhị Học Sinh cũng lép kẹp, đói mờ cả mắt nhưng cậu ta nào dám thò đũa ăn tranh với Trần liều, mắt nhìn chằm chằm đối phương đang ngon lành nhét miếng thịt thỏ vào mồm. Đột nhiên, cậu ta nghe thấy tiếng “ầm” vang lên, rồi vách đất bỗng thủng một lỗ lớn, một bàn tay to như cái quạt, lông lá đen sì thò từ ngoài vào, bàn tay xòe rộng khua khoắng khắp nơi, có vẻ như muốn tìm nồi thịt thỏ đang bốc khói nghi ngút. Hai người biết mình không may gặp phải dã nhân ở Thần Nông Giá, thì sợ mềm nhũn cả chân tay. Trần liều thường ngày tuy rất liều, nhưng giờ cũng sợ vãi đái ra quần, cuống cuồng đặt nồi thịt thỏ xuống đất, mặc cho cánh tay đen sì toàn lông lá khua khoắng, vớt lên ăn. Nào ngờ, gã người rừng ăn hết thịt trong nồi nhưng vẫn chưa chịu bỏ đi, nó tiếp tục thò cánh tay vào trong gian nhà tranh sục sạo.



Nhị Học Sinh và Trần liều đành đâm thủng vách tường phía sau, xách theo khẩu súng tự chế rồi chui ra ngoài chạy trốn. Họ nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp đuổi theo, liền ngoái đầu lại nhìn, vừa nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, hai người suýt nữa thì lăn ra ngất xỉu tại trận, cách đó không xa là con quái vật hình người đứng thẳng bằng hai chân, lông dài thượt phủ kín toàn thân, tóc tai rũ rượi, dáng hình cao lớn, trông lừng lững chẳng khác nào người khổng lồ, có điều dưới ánh trăng bàng bạc, họ cũng không nhìn rõ mặt mũi nó ra sao. Trần liều hoảng quá hóa liều, cuống quýt giương súng săn lên bắn, trong lúc hoảng loạn dường như anh ta bắn mù một mắt con dã nhân, nó ôm đầu dừng bước, không đuổi theo hai người nữa.



Hai người loạng choạng bỏ chạy, chạy đến một khe núi, thì hai chân cứng đơ không thể nhích được nữa, đến lúc sắc trời hửng trắng như bụng cá, đoán chắc giờ đã bình an vô sự, Trần liều mới thở phào nhẹ nhõm, huênh hoang nói với Nhị Học Sinh: “Chắc nó không phải dã nhân đâu, dã nhân làm sao cao to thế được? Không chừng là sơn tiêu hay ma cây gì đấy. May mà chú đi cùng Trần liều anh đấy, chứ nếu là người khác thì lấy đâu ra dũng khí giương súng lên bắn nó?”, anh ta miệng nói tay khua, đang lúc thao thao bất tuyệt thì đột nhiên bên tai vang lên một âm thanh quái lạ, rồi một bàn chân khổng lồ lông rậm rì giẫm xuống khe núi.




Trần liều đáng thương bị giẫm nát bét, thân thể bấy máu. Cái đùi to lớn của con vật đó lại nhấc lên chuẩn bị giẫm vào Nhị Học Sinh. Cậu ta sợ hãi trân mắt đứng nhìn, hồn vía bay chín tầng mây, kinh hoàng tỉnh dậy, lúc ấy mới biết đó chỉ là một giấc mơ. Điều quái lạ là cơn ác mộng này lại lồng trong một cơn ác mộng khác, mà tầng thứ hai của cơn ác mộng đến giờ vẫn còn chưa tỉnh.



Trong thực tế cũng từng diễn ra sự việc này, điều khác biệt duy nhất là, hôm đó lẽ ra Nhị Học Sinh phải đi gác đêm với Trần liều, nhưng cậu ta lại mắc chứng Khắc Sơn, lúc ấy đột nhiên thấy khó chịu trong người, nên phải ở lại lâm trường, một mình Trần liều vác súng tự chế vào bãi canh ngô, kết quả ngày hôm sau người khác đến thay ca thì phát hiện Trần liều đã mất tích, trong gian nhà tranh chỉ còn chiếc nồi gốm vỡ nát, trên vách có nhiều lỗ thủng rất to.



Cuối cùng người ta phát hiện thấy Trần liều chết thảm trong khe núi, thi thể nát bét nom rất đáng thương, như thể bị người khổng lồ dùng chân giẫm chết, súng tự chế văng sang một bên, người trong lâm trường nghi thủ phạm là dã nhân, nên tập hợp dân binh mang theo súng săn lùng sục trong núi dọc theo dải Hầu Tử Thạch trong suốt nửa tháng, nhưng từ đầu chí cuối chẳng tìm thấy nửa sợi lông của dã nhân, rồi vụ án cũng khép lại, từ đó trở đi không ai dám canh đêm ở bãi ngô nữa. Nhị Học Sinh tận mắt thấy bộ dạng nằm chết thảm thương của Trần liều, hình ảnh ấy khắc sâu vào trí não cậu ta, nên giờ mắc kẹt dưới lòng đất này cậu lại nằm mơ thấy cảnh tượng đó, nhưng có lẽ vì giấc mơ chịu sự tác động của tiềm thức, nên Nhị Học Sinh mới mơ thấy mình trực tiếp cùng Trần liều trải qua sự kiện bị dã nhân giẫm chết năm ấy.



Cơn ác mộng của những thành viên còn lại đều liên quan đến những sự kiện bản thân từng trải qua, mỗi cơn ác mộng đều có điểm ly kỳ, đáng sợ riêng, người nào người nấy kể vanh vách giấc mơ của mình như thể vừa mới thực sự trải qua.



Tư Mã Khôi biết rõ mình có thể mơ thấy giếng máu trong rừng rậm Miến Điện, nhưng không thể mơ thấy chuyện gặp phải dã nhân ở Thần Nông Giá, mà dẫu có mơ thấy cũng không thể chi tiết, sống động như vậy được, điều đó đủ để chứng minh giờ đây mọi người đang cùng trải qua một cơn ác mộng trùng lặp. Giải mộng, xem phong thủy, bói toán đều là đạo thuật trong Kim Điển, bởi vậy Tư Mã Khôi cũng thông hiểu ít nhiều. Anh nhớ cổ nhân từng giải thích cặn kẽ từng loại giấc mộng, trên đời ngoài cương thi ra, không người nào không nằm mơ, nếu tỉnh dậy cảm thấy không hề mơ thì chẳng qua là do trí não đã hoàn toàn quên hết. Giấc mơ thường chia ra thành hai loại, giấc mơ nông và giấc mơ sâu.



Tầng thứ nhất của giấc mơ là tầng nông nhất, thường gọi là “thân cảnh” tức giấc mơ cõi người, những chuyện xảy ra trong giấc mơ này liên quan đến bản thân người ngủ mơ và nó chịu sự ảnh hưởng của môi trường xung quanh, ví dụ khi cơ thể bị trói thì trong giấc mơ thường thấy rắn xuất hiện, nếu mái nhà bị dột, thì sẽ mơ thấy mình bị rơi xuống nước, cái này gọi là “ngày ra sao, đêm chiêm bao là vậy”. Tầng thứ hai của giấc mơ sâu hơn, gọi là “linh chúc” tức ngọn nến cõi tâm linh, căn nguyên của giấc mơ này xuất phát từ nội tâm, chủ yếu chịu sự tác động của tiềm thức, bởi vậy đôi khi những chuyện ngày thường không làm, đột nhiên lại xuất hiện trong giấc mơ. Tầng thứ ba của giấc mơ là tầng sâu nhất, gọi là “hồn yểm” tức là chỉ hồn rời khỏi xác đi chu du trong cõi mơ, lỡ gặp phải trường hợp này, thì chỉ còn cách đợi người khác đánh thức mình dậy mà thôi.



Tư Mã Khôi nhớ trong cổ tịch tướng vật có ghi chép rằng, ở núi Côn Lôn có loại sắt huyền thiết, loại sắt này có khả năng nhốt người ta vào cơn ác mộng khó lòng tỉnh giấc. Nghe nói, Hán Vũ Đế cũng từng có một viên. Quả cầu sắt to lớn đen sì nằm lún trong thành cổ có lẽ chính là loại dị vật kiểu này, mọi người nhất thời sơ ý, lăn ra ngủ mê mệt ngay trong khe nứt giữa vách tường, nên đều lần lượt chìm vào ác mộng, khi giật mình bừng tỉnh giấc, thì lại trượt vào một tầng ác mộng khác sâu hơn, không những vậy tiềm thức của tất cả mọi người chồng chéo, trùng lặp tại một điểm. Tuy đã hiểu ra vấn đề, nhưng cả hội nghĩ nát óc vẫn không thể tìm được cách hóa giải nút thắt hóc búa này.



Lúc này, Hải ngọng lên tiếng bảo đã tìm ra kế sách giúp cả hội thoát khỏi không gian của cơn ác mộng quỷ quái. Thường ngày, ác mộng sẽ kết thúc khi ta sợ hãi quá độ và giật mình tỉnh giấc…




Thắng Hương Lân không đợi Hải ngọng nói dứt lời, đã hiểu ý anh muốn nói gì, cô vội vàng xua tay gạt đi. Cơn ác mộng quái đản này vô cùng bất thường, hoàn toàn khác với những ác mộng con người từng mơ thấy, nó đã khiến chúng ta sợ hãi đến tột độ, nhưng vẫn không thể đánh thức chúng ta dậy, ngược lại còn kéo chúng ta xuống tầng mộng sâu hơn.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ, com ác mộng quái lạ này quả thực diễn ra quá dài và dường như không có khởi đầu, cũng chẳng có kết thúc, chắc điểm tận cùng là mọi người sẽ dần dần biến mất, từng người từng người một, bởi một khi cơ thể chết đi, thì tiềm thức cũng không thể tồn tại. Để tìm con đường sống, cách gì cũng phải thử mới được, ngay cả ý tưởng ngu ngốc của Hải ngọng cũng phải thử một lần. Đang lúc Tư Mã Khôi còn mải đăm chiêu suy nghĩ, thì anh lờ mờ phát hiện tựa có bóng người thấp thoáng trốn sau lưng Cao Tư Dương, bóng người ấy co rúm, ngồi xổm trong góc tối, án binh bất động, nom bộ dạng khá quen mắt, có điều trong chốc lát anh không thể nhớ ra đã từng gặp ở đâu.



Tư Mã Khôi bỗng lạnh gáy, trong tòa Tử thành này, ngoại trừ năm thành viên của đội khảo cổ ra, chẳng lẽ còn có người thứ sáu may mắn sống sót? Nghe nói, mộng là hệ quả của quá trình ngủ động mắt nhanh(1) và tiềm thức tầng sâu, chính vì vậy người nào cũng phải ngủ mơ, thậm chí cả chó mèo cũng vậy. Mỗi người, mỗi loài có một giấc mơ riêng biệt, nói theo quan niệm mê tín thì bản thân trong giấc mộng chính là “hồn sống”, còn giấc mộng là không gian hỗn độn giao thoa giữa cõi âm và cõi dương, dương hồn của người sống có thể nằm mơ, âm hồn của người chết cũng có khả năng đi vào giấc mộng, bởi vậy mới xảy ra chuyện người chết thác mộng cho người sống.



Chẳng lẽ kẻ mới đến là âm hồn của người đã chết cách đây mấy ngàn năm, đang đi nhầm vào cõi mộng của các thành viên đội khảo cổ? Hay hắn chính là linh hồn của Nấm mồ xanh đang tàng hình ẩn trốn? Nếu là vậy thì chẳng lẽ hồn phách của Nấm mồ xanh cũng bị nhốt trong cơn ác mộng ư?



1 Ngủ động mắt nhanh: là một trong hai giai đoạn mang tính chu kỳ của giấc ngủ, gồm có: ngủ động mắt nhanh và ngủ không động mắt nhanh.



Suy nghĩ ấy vừa lóe lên, Tư Mã Khôi đã xách súng, bước nhanh đến gần, thò tay tóm lấy kẻ lạ mặt. Gã đang cúi đầu rất thấp, khi bị tóm mới chầm chậm ngẩng lên, mặt đối mặt với Tư Mã Khôi. Có điều, khuôn mặt đó nhẵn thín như mặt thớt, không hề có mắt mũi tai miệng, nom như dán một lớp giấy trắng rất dày lên mặt vậy. Tư Mã Khôi có cứng gan đến đâu, thì trong khoảnh khắc đó, tim gan cũng thấy thấu lạnh. Anh hiểu, đó là âm hồn nhập mộng, nhưng không hiểu âm hồn không có mặt đó là ai?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 183: Hồi 7: đầm lầy dạ quang


Hội Tư Mã Khôi lánh nạn trong khe nứt hẹp giữa vách tường, rồi bất giác ngủ thiếp đi, không ngờ lại bị nhốt trong giấc mộng chung quái đản kéo dài bất tận, dẫu cả hội đã nghĩ hết mọi cách, nhưng rốt cuộc vẫn không thể thoát khỏi cơn ác mộng ma mị ấy. Nếu chỉ nhờ vào ý thức của bản thân, thì họ không thể nào tỉnh dậy được, mà cần phải có một ngoại lực tác động vào, ngặt nỗi khắp nơi trong tòa thành cổ dưới lòng đất toàn xương khô, đến một bóng ma còn không có nữa là. Xem ra, mọi cách đều rơi vào ngõ cụt, họ chỉ còn biết đợi chờ chiếc bóng của thần chết viếng thăm trong nỗi sợ hãi và dày vò.



Giữa cái khó, Hải ngọng chợt ló cái khôn: “Lúc trước, mấy cỗ cương thi cũng rơi vào thành cổ rồi đột nhiên biến mất dạng, sau đó lại thình lình xuất hiện ngay trên đỉnh động, nhất định có con vật nào đó đã kéo chúng lên đó, chắc bọn này là loài động vật ăn xác thối dưới lòng đất, chúng đã đục được cái hố to thế trong vách tường, thì không chừng chúng sẽ lần theo mùi hơi, chui vào trong khe tường, chỉ cần chúng chạm vào người một cái là bọn ta có thể tỉnh dậy ngay tức thì”.



Tư Mã Khôi lắc đầu bảo: “Cậu tưởng hễ đeo kính cận là thành bác học được chắc, trí thức dỏm? Cậu nghĩ kỹ xem nếu bọn quỷ ăn xác thối săn mồi dưới lòng đất chui vào trong khe tường, thì mẹ kiếp, chúng nó còn để cho cậu yên chắc? Không khéo lúc cậu tỉnh lại, thì nửa cái sọ của cậu đã chuyển chỗ đến dạ dày chúng nó xong đâu vào đấy rồi!”



Thắng Hương Lân nói: “Đừng hi vọng xảy ra trường hợp ấy! Vì đề phòng bất trắc nên ngay từ lúc đầu chúng ta đã lấy ba lô bịt chặt miệng khe nứt, dẫu bên ngoài có con gì thì chúng cũng không thể chui vào trong này được đâu”.




Cao Tư Dương lo lắng nhìn Tư Mã Khôi: “Thường ngày anh nổ ghê lắm cơ mà, sao vào giờ phút then chốt lại tắc tịt thế?”



Tư Mã Khôi cũng không cam tâm chờ chết, bụng bảo dạ: “Bao gian nan nguy hiểm dọc đường đều đã vượt qua, giờ cái bia đá đã lù lù ngay trước mắt, làm gì có chuyện chịu chết tức tưởi ở đây? Lúc này có lo sợ hay hoảng loạn thì cũng vô ích, chi bằng ta phải tìm hiểu rõ hoàn cảnh trước mắt, xem có cách nào phá giải được cơn ác mộng quái đản này không… nghĩ đến đây, anh bảo mọi người lần lượt kể lại cơn ác mộng xem họ đã mơ thấy gì.



Xuống đến đáy Tử thành, rồi trốn vào trong khe nứt giữa bức tường để lánh nạn, lúc này cả hội đã mệt nhoài, cổ họng khát cháy, từ lúc bắt đầu rơi vào trạng thái ngủ mê mệt, mỗi người đều mơ thấy một cơn ác mộng vô cùng đáng sợ và kỳ lạ.



Cơn ác mộng của Nhị Học Sinh xảy ra trong núi Đại Thần Nông Giá, khi ấy cậu ta vẫn đang làm việc trong khu lâm trường Hầu Tử Thạch. Để kiếm thêm chút công điểm, cậu ta đi canh ruộng ngô vào ban đêm cùng một người bản địa họ Trần, biệt danh là Trần “liều”. Lâm trường khai hoang được mấy chục mẫu đất trên núi để trồng ngô, đến đêm mùa hạ, họ phải dựng một gian nhà tranh, rồi tìm người canh ngô hòng tránh dã thú và kẻ trộm. Nhưng nơi đó rừng sâu núi thẳm, bóng người thưa thớt nên khó tránh khỏi những lời đồn đại về hồn ma bóng quế, bình thường chẳng ai dám đi canh đêm, bởi thế người nào trong lâm trường chịu đi sẽ được gấp đôi công điểm.



Trần liều là người không tin chuyện ma mãnh, càng nghèo lại càng liều, gặp cơ hội tốt thế không tranh đi mới lạ. Hôm đó đến phiên anh ta và Nhị Học Sinh canh đêm, hai người mang theo súng tự chế để tránh thú dữ, rồi vào núi. Ban ngày, hai người đặt bẫy được một con thỏ hoang, liền lột da rửa sạch, đợi đêm xuống mới lấy chiếc nồi gốm trong gian nhà tranh vách đất mang ra hầm thỏ, hai người vừa canh nồi vừa chấm chấm mút mút, thịt thỏ trong nồi càng hầm càng thơm nức mũi. Trần liều không khỏi cảm thán kể, nhà anh ta lít nhít một đống con, đứa nào đứa nấy cứ như là những con ma đói đầu thai, thường ngày nếu anh có săn được lợn hay thỏ rừng thì cũng phải nhường con ăn trước, đợi đến khi kẻ làm cha là anh ta được động đũa thì đến khúc xương cũng chẳng còn, bây giờ ra ngoài canh đêm đúng là tự do, cứ việc ăn no căng bụng thì thôi, nói xong anh ta liền gắp một miếng thịt thỏ to đùng đút vào miệng.



Bụng Nhị Học Sinh cũng lép kẹp, đói mờ cả mắt nhưng cậu ta nào dám thò đũa ăn tranh với Trần liều, mắt nhìn chằm chằm đối phương đang ngon lành nhét miếng thịt thỏ vào mồm. Đột nhiên, cậu ta nghe thấy tiếng “ầm” vang lên, rồi vách đất bỗng thủng một lỗ lớn, một bàn tay to như cái quạt, lông lá đen sì thò từ ngoài vào, bàn tay xòe rộng khua khoắng khắp nơi, có vẻ như muốn tìm nồi thịt thỏ đang bốc khói nghi ngút. Hai người biết mình không may gặp phải dã nhân ở Thần Nông Giá, thì sợ mềm nhũn cả chân tay. Trần liều thường ngày tuy rất liều, nhưng giờ cũng sợ vãi đái ra quần, cuống cuồng đặt nồi thịt thỏ xuống đất, mặc cho cánh tay đen sì toàn lông lá khua khoắng, vớt lên ăn. Nào ngờ, gã người rừng ăn hết thịt trong nồi nhưng vẫn chưa chịu bỏ đi, nó tiếp tục thò cánh tay vào trong gian nhà tranh sục sạo.



Nhị Học Sinh và Trần liều đành đâm thủng vách tường phía sau, xách theo khẩu súng tự chế rồi chui ra ngoài chạy trốn. Họ nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp đuổi theo, liền ngoái đầu lại nhìn, vừa nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, hai người suýt nữa thì lăn ra ngất xỉu tại trận, cách đó không xa là con quái vật hình người đứng thẳng bằng hai chân, lông dài thượt phủ kín toàn thân, tóc tai rũ rượi, dáng hình cao lớn, trông lừng lững chẳng khác nào người khổng lồ, có điều dưới ánh trăng bàng bạc, họ cũng không nhìn rõ mặt mũi nó ra sao. Trần liều hoảng quá hóa liều, cuống quýt giương súng săn lên bắn, trong lúc hoảng loạn dường như anh ta bắn mù một mắt con dã nhân, nó ôm đầu dừng bước, không đuổi theo hai người nữa.



Hai người loạng choạng bỏ chạy, chạy đến một khe núi, thì hai chân cứng đơ không thể nhích được nữa, đến lúc sắc trời hửng trắng như bụng cá, đoán chắc giờ đã bình an vô sự, Trần liều mới thở phào nhẹ nhõm, huênh hoang nói với Nhị Học Sinh: “Chắc nó không phải dã nhân đâu, dã nhân làm sao cao to thế được? Không chừng là sơn tiêu hay ma cây gì đấy. May mà chú đi cùng Trần liều anh đấy, chứ nếu là người khác thì lấy đâu ra dũng khí giương súng lên bắn nó?”, anh ta miệng nói tay khua, đang lúc thao thao bất tuyệt thì đột nhiên bên tai vang lên một âm thanh quái lạ, rồi một bàn chân khổng lồ lông rậm rì giẫm xuống khe núi.




Trần liều đáng thương bị giẫm nát bét, thân thể bấy máu. Cái đùi to lớn của con vật đó lại nhấc lên chuẩn bị giẫm vào Nhị Học Sinh. Cậu ta sợ hãi trân mắt đứng nhìn, hồn vía bay chín tầng mây, kinh hoàng tỉnh dậy, lúc ấy mới biết đó chỉ là một giấc mơ. Điều quái lạ là cơn ác mộng này lại lồng trong một cơn ác mộng khác, mà tầng thứ hai của cơn ác mộng đến giờ vẫn còn chưa tỉnh.



Trong thực tế cũng từng diễn ra sự việc này, điều khác biệt duy nhất là, hôm đó lẽ ra Nhị Học Sinh phải đi gác đêm với Trần liều, nhưng cậu ta lại mắc chứng Khắc Sơn, lúc ấy đột nhiên thấy khó chịu trong người, nên phải ở lại lâm trường, một mình Trần liều vác súng tự chế vào bãi canh ngô, kết quả ngày hôm sau người khác đến thay ca thì phát hiện Trần liều đã mất tích, trong gian nhà tranh chỉ còn chiếc nồi gốm vỡ nát, trên vách có nhiều lỗ thủng rất to.



Cuối cùng người ta phát hiện thấy Trần liều chết thảm trong khe núi, thi thể nát bét nom rất đáng thương, như thể bị người khổng lồ dùng chân giẫm chết, súng tự chế văng sang một bên, người trong lâm trường nghi thủ phạm là dã nhân, nên tập hợp dân binh mang theo súng săn lùng sục trong núi dọc theo dải Hầu Tử Thạch trong suốt nửa tháng, nhưng từ đầu chí cuối chẳng tìm thấy nửa sợi lông của dã nhân, rồi vụ án cũng khép lại, từ đó trở đi không ai dám canh đêm ở bãi ngô nữa. Nhị Học Sinh tận mắt thấy bộ dạng nằm chết thảm thương của Trần liều, hình ảnh ấy khắc sâu vào trí não cậu ta, nên giờ mắc kẹt dưới lòng đất này cậu lại nằm mơ thấy cảnh tượng đó, nhưng có lẽ vì giấc mơ chịu sự tác động của tiềm thức, nên Nhị Học Sinh mới mơ thấy mình trực tiếp cùng Trần liều trải qua sự kiện bị dã nhân giẫm chết năm ấy.



Cơn ác mộng của những thành viên còn lại đều liên quan đến những sự kiện bản thân từng trải qua, mỗi cơn ác mộng đều có điểm ly kỳ, đáng sợ riêng, người nào người nấy kể vanh vách giấc mơ của mình như thể vừa mới thực sự trải qua.



Tư Mã Khôi biết rõ mình có thể mơ thấy giếng máu trong rừng rậm Miến Điện, nhưng không thể mơ thấy chuyện gặp phải dã nhân ở Thần Nông Giá, mà dẫu có mơ thấy cũng không thể chi tiết, sống động như vậy được, điều đó đủ để chứng minh giờ đây mọi người đang cùng trải qua một cơn ác mộng trùng lặp. Giải mộng, xem phong thủy, bói toán đều là đạo thuật trong Kim Điển, bởi vậy Tư Mã Khôi cũng thông hiểu ít nhiều. Anh nhớ cổ nhân từng giải thích cặn kẽ từng loại giấc mộng, trên đời ngoài cương thi ra, không người nào không nằm mơ, nếu tỉnh dậy cảm thấy không hề mơ thì chẳng qua là do trí não đã hoàn toàn quên hết. Giấc mơ thường chia ra thành hai loại, giấc mơ nông và giấc mơ sâu.



Tầng thứ nhất của giấc mơ là tầng nông nhất, thường gọi là “thân cảnh” tức giấc mơ cõi người, những chuyện xảy ra trong giấc mơ này liên quan đến bản thân người ngủ mơ và nó chịu sự ảnh hưởng của môi trường xung quanh, ví dụ khi cơ thể bị trói thì trong giấc mơ thường thấy rắn xuất hiện, nếu mái nhà bị dột, thì sẽ mơ thấy mình bị rơi xuống nước, cái này gọi là “ngày ra sao, đêm chiêm bao là vậy”. Tầng thứ hai của giấc mơ sâu hơn, gọi là “linh chúc” tức ngọn nến cõi tâm linh, căn nguyên của giấc mơ này xuất phát từ nội tâm, chủ yếu chịu sự tác động của tiềm thức, bởi vậy đôi khi những chuyện ngày thường không làm, đột nhiên lại xuất hiện trong giấc mơ. Tầng thứ ba của giấc mơ là tầng sâu nhất, gọi là “hồn yểm” tức là chỉ hồn rời khỏi xác đi chu du trong cõi mơ, lỡ gặp phải trường hợp này, thì chỉ còn cách đợi người khác đánh thức mình dậy mà thôi.



Tư Mã Khôi nhớ trong cổ tịch tướng vật có ghi chép rằng, ở núi Côn Lôn có loại sắt huyền thiết, loại sắt này có khả năng nhốt người ta vào cơn ác mộng khó lòng tỉnh giấc. Nghe nói, Hán Vũ Đế cũng từng có một viên. Quả cầu sắt to lớn đen sì nằm lún trong thành cổ có lẽ chính là loại dị vật kiểu này, mọi người nhất thời sơ ý, lăn ra ngủ mê mệt ngay trong khe nứt giữa vách tường, nên đều lần lượt chìm vào ác mộng, khi giật mình bừng tỉnh giấc, thì lại trượt vào một tầng ác mộng khác sâu hơn, không những vậy tiềm thức của tất cả mọi người chồng chéo, trùng lặp tại một điểm. Tuy đã hiểu ra vấn đề, nhưng cả hội nghĩ nát óc vẫn không thể tìm được cách hóa giải nút thắt hóc búa này.



Lúc này, Hải ngọng lên tiếng bảo đã tìm ra kế sách giúp cả hội thoát khỏi không gian của cơn ác mộng quỷ quái. Thường ngày, ác mộng sẽ kết thúc khi ta sợ hãi quá độ và giật mình tỉnh giấc…




Thắng Hương Lân không đợi Hải ngọng nói dứt lời, đã hiểu ý anh muốn nói gì, cô vội vàng xua tay gạt đi. Cơn ác mộng quái đản này vô cùng bất thường, hoàn toàn khác với những ác mộng con người từng mơ thấy, nó đã khiến chúng ta sợ hãi đến tột độ, nhưng vẫn không thể đánh thức chúng ta dậy, ngược lại còn kéo chúng ta xuống tầng mộng sâu hơn.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ, com ác mộng quái lạ này quả thực diễn ra quá dài và dường như không có khởi đầu, cũng chẳng có kết thúc, chắc điểm tận cùng là mọi người sẽ dần dần biến mất, từng người từng người một, bởi một khi cơ thể chết đi, thì tiềm thức cũng không thể tồn tại. Để tìm con đường sống, cách gì cũng phải thử mới được, ngay cả ý tưởng ngu ngốc của Hải ngọng cũng phải thử một lần. Đang lúc Tư Mã Khôi còn mải đăm chiêu suy nghĩ, thì anh lờ mờ phát hiện tựa có bóng người thấp thoáng trốn sau lưng Cao Tư Dương, bóng người ấy co rúm, ngồi xổm trong góc tối, án binh bất động, nom bộ dạng khá quen mắt, có điều trong chốc lát anh không thể nhớ ra đã từng gặp ở đâu.



Tư Mã Khôi bỗng lạnh gáy, trong tòa Tử thành này, ngoại trừ năm thành viên của đội khảo cổ ra, chẳng lẽ còn có người thứ sáu may mắn sống sót? Nghe nói, mộng là hệ quả của quá trình ngủ động mắt nhanh(1) và tiềm thức tầng sâu, chính vì vậy người nào cũng phải ngủ mơ, thậm chí cả chó mèo cũng vậy. Mỗi người, mỗi loài có một giấc mơ riêng biệt, nói theo quan niệm mê tín thì bản thân trong giấc mộng chính là “hồn sống”, còn giấc mộng là không gian hỗn độn giao thoa giữa cõi âm và cõi dương, dương hồn của người sống có thể nằm mơ, âm hồn của người chết cũng có khả năng đi vào giấc mộng, bởi vậy mới xảy ra chuyện người chết thác mộng cho người sống.



Chẳng lẽ kẻ mới đến là âm hồn của người đã chết cách đây mấy ngàn năm, đang đi nhầm vào cõi mộng của các thành viên đội khảo cổ? Hay hắn chính là linh hồn của Nấm mồ xanh đang tàng hình ẩn trốn? Nếu là vậy thì chẳng lẽ hồn phách của Nấm mồ xanh cũng bị nhốt trong cơn ác mộng ư?



1 Ngủ động mắt nhanh: là một trong hai giai đoạn mang tính chu kỳ của giấc ngủ, gồm có: ngủ động mắt nhanh và ngủ không động mắt nhanh.



Suy nghĩ ấy vừa lóe lên, Tư Mã Khôi đã xách súng, bước nhanh đến gần, thò tay tóm lấy kẻ lạ mặt. Gã đang cúi đầu rất thấp, khi bị tóm mới chầm chậm ngẩng lên, mặt đối mặt với Tư Mã Khôi. Có điều, khuôn mặt đó nhẵn thín như mặt thớt, không hề có mắt mũi tai miệng, nom như dán một lớp giấy trắng rất dày lên mặt vậy. Tư Mã Khôi có cứng gan đến đâu, thì trong khoảnh khắc đó, tim gan cũng thấy thấu lạnh. Anh hiểu, đó là âm hồn nhập mộng, nhưng không hiểu âm hồn không có mặt đó là ai?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 184: Hồi 8: miếu thần


Mọi người đang ở dưới hoàng tuyền, trong khi núi từ ở 30 độ vĩ Bắc đã bị phá hủy, hiện tượng dị thường trời đất xâm thực lẫn nhau không còn xuất hiện nữa, bây giờ muốn từ cực vực lên lại mặt đất còn khó hơn bắc thang lên trời, bởi vậy, sau khi suy đi tính lại, đội khảo cổ quyết định, trước tiên phải bắt vài con đom đóm hang động còn sống, nhốt vào hộp thiếc, đục một cái lỗ nhỏ cho lưu thông không khí để chúng phát sáng thay đèn, sau đó tiến thẳng vào thông đạo dẫn đến miếu thần.



Miếu thần của người Bái Xà cổ đại cao lớn hùng vĩ, bốn mặt có bốn bức tượng khổng lồ, đứng sừng sững và đối xứng nhau. Bên trong thông đạo khoáng đạt, rộng rãi, địa thế hơi dốc xuống, dường như cả ngôi miếu thần chỉ là một cửa động, bích họa bên trong và các vết tích màu sắc của tượng đá còn lưu lại khá rõ, đề tài trong các bức họa và điêu khắc chủ yếu là các loại cầm thú kỳ dị và yêu ma thần tiên.



Tư Mã Khôi thấy mọi người kiệt sức đến độ bước chân xiêu vẹo, loạng choạng, trong khi miếu thần lại sâu hun hút và rộng mênh mông, nên anh bảo mọi người tìm góc khuất nghỉ ngơi giây lát, nhân tiện nghĩ xem làm cách nào để nhìn được tấm bia đá kỳ bí kia. Anh phân công cho Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương kiểm đếm lại lương thực và đạn dược, còn mình và hai thành viên còn lại lục tìm mẩu xà phòng nhỏ, chia thành ba phần, lấy dao săn để tranh thủ cạo râu, con đường sắp tới sẽ dẫn đến địa ngục hay thiên đường thật khó đoán, nếu phải chết trong lúc mặt mũi bẩn thỉu, râu ria xồm xoàm thế này cũng thật khó coi.



So với ba đấng nam nhi, Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương sống ở thành phố, , nên được hưởng nền giáo dục văn minh, hai cô bài trừ mọi thói quen và hành vi mất vệ sinh, thiếu văn minh từ tận sinh lý đến tâm lý, tuy ở dưới lòng đất thiếu ánh sáng mặt trời đã bao ngày, còn phải chịu đói chịu khát, kiệt sức đến tiều tụy, bị côn trùng độc cắn chi chít khắp người, khăn áo cũng rách bươm, thân hình gầy guộc, nhưng nom hai người vẫn sạch sẽ, gọn gàng hơn hội Tư Mã Khôi nhiều.



Mọi người kiểm đếm lương thực, những thứ không cần dùng đến đều nhất loạt vứt bỏ. Tư Mã Khôi lại cho phân chia số pin đèn, đạn dược và đuốc còn lại cho các thành viên, vì thế ba lô nhẹ đi rất nhiều. Tuy lương thực và pin đèn không còn bao nhiêu, nhưng vẫn đủ để duy trì cuộc sống trong vòng dăm ba ngày, có điều đạn dùng cho khẩu Winchester và khẩu súng săn gấu Canada thì dùng phát nào là hao tổn đạn phát đấy.




Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân lo lắng vì đạn dược không đủ dùng, anh nhớ lại lúc cả hội còn ở nông trường khai hoang số 34 ở Tân Cương, rồi trải qua bao biến cố sinh tử ở kính viễn vọng Lopnor, không biết bắt đầu từ khi nào, anh không còn nhìn thấy Hương Lân cười nữa, dường như ngay cả trong giấc mộng, gương mặt cô cũng chỉ nhuốm một vẻ u sầu, đó là hệ quả do cô phải chịu đựng áp lực quá lớn trong suốt thời gian dài, mà đúng là những việc đã xảy ra thực sự vượt quá sức chịu đựng của một cô gái liễu yếu đào tơ như Hương Lân, thế là anh bèn bảo mọi người nghỉ ngơi trong thông đạo năm tiếng để lấy lại sức, rồi mới đi tiếp.



Tư Mã Khôi gác ca đầu tiên, anh ôm súng, châm điếu thuốc, dựa vào vách tường cạnh đó. Trong bóng đêm, dưới ánh sáng le lói của đom đóm, anh nhìn thấy hình người hình thú trên các bức bích họa trong miếu thần hiện ra vô cùng quái dị. Những gì anh biết về tín ngưỡng sùng bái thần bí của tộc người Bái Xà vô cùng có hạn, anh chỉ có cảm giác những truyền thuyết và ghi chép cổ quái ấy quá ư kỳ dị, chi bằng cứ đến thẳng tấm bia đá đó xem một lần có phải đơn giản hơn không.



Nhưng khi chăm chú quan sát các bức bích họa trên tường, Tư Mã Khôi phát hiện nội dung của nó cũng khá trực quan, thần hệ của tộc người Bái Xà thuộc về thần hệ tiền sử, hoàn toàn khác biết với hai thần hệ lớn thời Viêm Đế và Hoàng Đế, tô tem thần thị mà họ sùng bái còn nguyên thủy cổ xưa hơn nhiều, đó là các tô tem kiểu như cây cổ thụ và mãng xà. Những dãy bích họa trước mắt đều miêu tả nguồn gốc của bí mật khác trên tấm bia đá. Người đầu tiên nói ra bí mật là một cô gái đầu người mình rắn, cô nằm phủ phục ở một nơi trong hang động, dường như đang mở miệng thầm thì với mấy vị vương gia trong tộc người Bái Xà đứng ở bên cạnh, họ chăm chú lắng nghe từng lời của cô gái.



Tư Mã Khôi đang tập trung quan sát, đột nhiên anh nghe thấy Cao Tư Dương nhỏ giọng hỏi: “Yêu quái đầu người mình rắn… sao lại biết nói chuyện nhỉ?”. Thì ra trong lòng Cao Tư Dương cũng đang bề bộn những nỗi lo lắng không yên, nên không thể chợp mắt nổi, cô ngồi dậy quan sát các bức bích họa khắc trên vách tường của miếu thần.



Tư Mã Khôi nói: “Có lẽ người cổ đại có một loài rắn đầu giống đầu người, gọi là nhân xà, nó có thể nói được tiếng người, sau đó bị tuyệt chủng không còn dấu tích gì nữa”.



Hải ngọng thả lỏng đầu óc, đánh một giấc thật đã. Nhị Học Sinh kiệt sức, hai mí mắt dính chặt vào nhau, không thể cạy ra nổi, còn Thắng Hương Lân không cách nào cố ru mình vào giấc ngủ được, cô nói: “Tôi lại không nghĩ cô gái ấy là quái vật, cô ấy là người rắn”.



Thắng Hương Lân vừa nhắc, Tư Mã Khôi liên sực tỉnh. Nghe đồn, thời Hạ Thương có truyền thuyết về người rắn, cũng có nơi gọi nó là “xà nữ”, nhưng sau thời Xuân Thu chiến quốc thì bị tuyệt diệt. Thực ra xà nữ cũng là người, đồng thời chỉ thấy có giống cái, không có giống đực. Lúc mới sinh ra, xà nữ cũng bình thường như bao em bé khác, nhưng đến thời kỳ phát dục trưởng thành, thì các khớp xương trên người bắt đầu dần dần thoái hóa, cuối cùng chỉ còn sót lại cột sống và xương cổ, từ đó người con gái ấy chỉ có thể trườn bò giống như loài rắn, lớp da thịt của tứ chi vẫn còn tồn tại, nhưng não thì hoàn toàn biến mất, nó không biết khóc, cũng chẳng biết cười, càng không thể nói được. Có lẽ đó là một căn bệnh thoái hóa trở về thời thủy tổ quái lạ và hiếm gặp, chứ không liên quan gì đến loài rắn. Người xưa thường mê tín thái quá, họ tin rằng đó là dấu hiệu yêu dị của việc người hóa rắn.



Rất có khả năng, cô gái đầu người mình rắn trên bức họa trong miếu thần chỉ là sản phẩm của sự tô vẽ về bí mật của xà nữ. Trong nhật ký của đội thám hiểm Corot Maar cũng có tài liệu tương tự nói về việc này, nhưng xà nữ trông có vẻ giống cương thi vô tri vô giác, làm sao có thể nói ra bí mật kinh thiên động địa gì được chứ?



Tư Mã Khôi kể chuyện về xà nữ cho Cao Tư Dương nghe, rồi quay sang nêu thắc mắc của mình với Thắng Hương Lân.



Thắng Hương Lân xách hộp thiếc có mấy con đom đóm bên trong, giơ lên cao, nửa trên của bức tranh hiện ra trước mắt. Thì ra, phía đỉnh đầu của xà nữ và mấy vị vương gia chính là thần Vũ Xà đang ở trong biển sương.




Tư Mã Khôi bỗng nhiên sáng tỏ: “Chẳng lẽ vị thần cổ đại mà tộc người Bái Xà tín ngưỡng lại truyền tin thông qua nữ xà? Những chuyện ma quỷ thực ra chỉ là hư cấu, thần Vũ Xà chẳng qua là một tô tem cổ xưa, dường như bức bích họa muốn kể rằng, xà nữ giống như xác chết biết đi kia chính là chiếc cầu nối để giao tiếp giữa thế giới hiện thực và thế giới hư vô, nó đã nói ra một bí mật vô cùng khiếp đảm, bí mật ấy được lần lượt kể cho năm vị vương gia của tộc người Bái Xà nghe, nhưng mỗi người chỉ được nghe một phần khác nhau. Tư Mã Khôi lại nhìn bức bích họa bên cạnh, nội dung đại khái là bí mật này truyền đến hậu thế, cũng lần lượt do chín vị vương gia nắm giữ, cuối cùng toàn bộ bí mật đó được khắc trên tấm bia đặt trong miếu thần.



Lúc khắc bia, người ta che kín phần người trước đã khắc, người sau chỉ được phép tiếp tục khắc phần bí mật mà mình nắm giữ, bởi vì bí mật này không được phép nói, cũng không được phép nhìn. Bất kỳ kẻ nào cả gan xem trộm, người đó sẽ sợ hãi đến nỗi lăn ra chết tức thì. Nội dung bức bích họa ở đây hoàn toàn trùng khớp với nội dung bích họa khắc trong thành cổ, có điều ngôi miếu thần này dường như không hề thờ phụng vị thần nào, tác dụng duy nhất của nó là trở thành nơi đặt tấm bia đá. Bức bích họa này cũng chứng tỏ lời nói của Triệu Lão Biệt hoàn toàn là sự thật, bí mật ghi chép trên tấm bia đá chỉ có mấy chữ, nhưng được khắc lặp đi lặp lại rất nhiều lần.



Thắng Hương Lân thầm nghĩ, bích họa trong miếu thần nhiều vô số, những gì tầm mắt họ có thể nhìn thấy chỉ là một bộ phận nhỏ, nhưng cũng có thế thấy người Bái Xà vừa kính cẩn vừa sợ hãi trước bí mật khắc trên tấm bia, có điều tại sao tấm bia ấy lại bị chìm dưới lòng đất trong ngôi miếu thần nhỉ? Chẳng lẽ ngôi miếu thần này chứa đựng điều đặc biệt gì sao? Hơn nữa, Nấm mồ xanh sẵn sàng trả mọi giá để tìm ra tấm bia đá vùi sâu dưới lòng đất, chắc chắn hắn có mưu đồ gì đó mà người thường không thể đoán ra nổi. Chúng ta đều cho rằng bí mật trên tấm bia đá có liên quan đến Nấm mồ xanh, chẳng lẽ bí mật ấy lại chính là thân thế của Nấm mồ xanh? Có điều, nghĩ kỹ lại, khả năng này gần như không thể xảy ra, bời vì tấm bia đá của người Bái Xà đã bị hủy diệt theo khói mây lịch sử.



Nếu Nấm mồ xanh không ra tay hành động liên tiếp như vậy, thì chẳng ai ngờ dưới lòng đất sâu lại có cổ vật này. Dường như Nấm mồ xanh nắm rõ tấm bia đá của người Bái Xà như trong lòng bàn tay, thậm chí còn tường tận hơn cả những ghi chép trên bích họa ở nơi này này. Hắn đã biết bí mật khắc trên tấm bia đá, thì hẳn phải biết lời nguyền về cái chết bất đắc kỳ tử với bất cứ kẻ nào có ý đồ nhòm ngó nó, vậy mà tại sạo hắn lại liều mạng lặn lội mò xuống tận lòng đất để kiếm tìm nó? Rốt cuộc, tấm bia cổ chỉ là một tảng đá khổng lồ, mấy chữ khắc trên đó mới là mấu chốt vấn đề. Thực ra, chỉ cần giải được bí mật khắc trên phiến đá, thì mọi ẩn số đan cài chồng chéo lên nhau sẽ tự khắc có đáp án, vấn đề là hễ nhìn vào bí mật đó, là lập tức lăn ra chết, giờ phải làm sao mới vẹn toàn được đây?



Cao Tư Dương lại nghĩ, đội thông tin của họ vốn có ba người, định đến tháp canh ở Thần Nông Giá để sửa đường dây điện thoại, kết quả bất ngờ bị cuốn vào chuyện của Nấm mồ xanh, bây giờ lại ở dưới vực sâu cách mặt đất cả chục ngàn mét, chỉ sợ phen này vĩnh viễn chẳng còn nhìn thấy hi vọng sống sót trở về nữa. Cao Tư Dương xuất thân trong gia đình quân nhân, từ trước đến giờ luôn hãnh diện với bộ quân phục mặc trên mình, tuy bên ngoài cô luôn tỏ ra kiên cường, dũng cảm, nhưng tận sậu thẳm trong lòng, cô vẫn không thể át chế được nỗi sợ hãi và tuyệt vọng.



Cô biết hàng năm vẫn có vài ba trường hợp mất tích trong núi rừng Đại Thần Nông Giá ngút ngàn này mà không rõ nguyên nhân, họ biến mất như một làn khói nhẹ bị gió thổi tan, vĩnh viễn không bao giờ trở lại mà chẳng một ai buồn bận tâm kiếm tìm, bởi không ai và không có cách gì có thể tìm thấy họ giữa cánh rừng già mênh mông. Những sinh mệnh đang ấm hơi thở cuộc sống cuối cùng chỉ lưu lại vỏn vẹn hai chữ “mất tích” khô cứng và lạnh lùng trên bảng thống kê hàng năm.



Cao Tư Dương cũng đã chuẩn bị tâm lý từ trước, hơn nữa lại đặt niềm tin tuyệt đối vào hội Tư Mã Khôi, có điều khi tới ngôi miếu này, cô bỗng nảy sinh một dự cảm không lành khó diễn tả thành lời, dường như một trận gió tanh mưa máu khiến người ta rùng rợn đang sắp sửa ập đến, lòng cô cồn cào sóng cuộn, nên nhất thời không thể ngủ được. Thế là Cao Tư Dương bảo sẽ thay Tư Mã Khôi gác ca thứ hai, rồi cứ thế thất thần nhìn chằm chằm vào bích họa vẽ trên vách tường của miếu thần.



Tư Mã Khôi cũng không thể ngủ ngon, mọi người thay phiên nhau ngả lưng mấy tiếng đồng hồ rồi bắt đầu chuẩn bị lên đường.



Nhị Học Sinh lo mình bị ép phải nhìn tấm bia đá, nên cậu ta bảo với Tư Mã Khôi, chẳng mấy chốc nữa sẽ sửa xong đèn hỏa diệm nhiệt độ cao thôi, chỉ cần cho cậu thêm chút thời gian nữa là được.




Tư Mã Khôi nhận ra ngay ý của Nhị Học Sinh. Quả vậy, lúc này không có đạn dược, nếu muốn phá hủy tấm bia đá, thì cần phải dựa vào đèn hỏa diệm nhiệt độ cao.



Hải ngọng thấy bộ dạng tham sống sợ chết của Nhị Học Sinh thì rất chối mắt, anh hỏi: “Nếu thằng Khôi ép chú phải nhìn tấm bia đá, thì chú tính sao?”



Nhị Học Sinh im lặng hồi lâu, không biết trả lời thế nào, chỉ run rẩy hỏi lại Hải ngọng: “Thế… thế… tôi nên tính sao?”



Hải ngọng nói: “Chưa gì đã sợ vãi tè ra quần, miệng lắp ba lắp bắp. Anh thấy, khéo đến lúc ấy chú mày chẳng cần nói gì, mà sẽ khóc như mưa như gió, dù sao bản thân việc khóc cũng là một sự tố cáo không lời, là hình thức biểu hiện cao nhất của sự đau khổ…”



Lúc này, Tư Mã Khôi đã soi đèn quặng đến điểm tận cùng, dường như thông đạo bị vách đá chắn lại, không rõ có phải vách đá đó chính là tấm bia đá của người Bái xà hay không, anh xua tay bảo Hải ngọng đừng nói năng lung tung nữa.



Mọi người không dám liều lĩnh tiến lại gần mà dừng quan sát từ xa, họ thấy bên trong thông đạo khoáng đạt chất đầy những tảng đá lớn đen sì sì, bịt kín lối ra, những tảng đá đen này rất to và nặng, lại vô cùng kiên cố, đủ hình đủ dạng nhưng ở các góc đều có khe hở và trên mặt đất họ thấy còn sót lại chút cát đen.



Cao Tư Dương nói: “Trong thông đạo của miếu thần lấp đầy đá macma thế này, chắc là không muốn để người ngoài xâm nhập vào đây mà”.



Tư Mã Khôi lại cho rằng chưa hẳn là vậy, những khối đá đen rõ ràng chưa hề được đẽo gọt, nếu không muốn người ngoài xâm nhập vào trong, thì người ta không thể để lại những khe hở to như vậy được. Có lẽ những khối đá này không phải dùng để phòng bị, trông nó giống như ngăn không cho vật bên trong thoát ra ngoài, có lẽ thứ bị nhốt ở bên trong có cái đầu rất to, xem ra trong miếu thần không chỉ có một mình tấm bia đá của người Bái Xà, ở nơi sâu nhất vẫn còn thứ gì khác chăng? Nói rồi, Tư Mã Khôi lấy hết can đảm, chui qua khe hở giữa các khối đá. Thông đạo tiếp tục vươn dài chếch xuống phía dưới, Tư Mã Khôi mới đi được hơn chục bước mà lòng đã thấy rờn rợn, anh tự hỏi rốt cuộc phía dưới miêu thần còn sâu bao nhiêu? Những tảng đá khổng lồ trong thông đạo dùng để ngăn cản vật gì thoát ra ngoài?


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 185: Hồi 9: tấm bia đá


Miếu thần giống như một hang động hình ống, thông đạo bên trong bị những khối đá khổng lồ chắn ngang, mọi người đành chui qua mấy khe hở giữa các khối đá, thâm nhập vào bên trong thạch điện, phần thông đạo nằm ở phía đối điện với thạch điện lại tiếp tục vươn dài xuống dưới.



Mọi người ngẩng đầu, hướng đèn quặng soi lên vách đá, những bức phù điêu của người Bái Xà hiện ra với đủ hình thái quái dị, trong bức phù điêu có vô số hình người xếp thành hàng ngũ nghiêm trang, đứng nghiêng người, mặt hướng theo chiều dốc của thông đạo. Trên mặt đất ngổn ngang toàn chum vò bằng gốm đất, phủ đầy bột đá ráp màu đen, chỉ cần chạm nhẹ là vỡ tan tành, lộ ra cỗ thi thể khô quắt ngồi bên trong và rất nhiều minh khí bằng vàng ngọc, bề mặt chạm khắc các họa tiết cổ phác hình chim bướm, cá rùa…



Hải ngọng nói: ‘‘Mấy món đồ này khá cổ đây, ai từng nói ấy nhỉ – cướp đồ của người chết thì không tính là ăn cướp – tôi nẫng vài món về kính biếu lão Lưu Hoại Thủy mới được…”, nói xong anh liền thò tay định nhặt.



Thắng Hương Lân thấy vậy vội ngăn lại: ‘Trên ngọc có vết máu, tốt nhất anh đừng sờ vào, kẻo rước họa vào thân đấy!”



Tư Mã Khôi ngồi xổm xuống quan sát, phát hiện vân ngọc cổ có sắc hồng tươi, không giống vết máu của tử thi. Thông thường, sau khi ngọc ra khỏi lòng đất, nếu ngâm trong nước thì thường có màu trắng vân sương, nếu chìm trong đất sẽ có màu vàng, nếu ngâm trong thủy ngân sẽ chuyển màu đen, nếu ngâm đồng ngọc sẽ có màu lục, còn nếu nhiễm khí tử thi thì nó sẽ chuyển màu tím đen. Trong thân ngọc có vô số lỗ nhỏ, nếu quanh năm vùi dưới lòng đất hoặc chôn dưới mộ cổ, ngọc sẽ nhiễm sắc theo môi trường xung quanh, đặc biệt là miếng ngọc đeo trên người tử thi.




Trong quá trình tử thi rữa nát, tử khí sẽ truyền nhiễm, xâm lấn, khiến ngọc xuất hiện các vết đốm màu tím thẫm, tục gọi là “thi tẩm”. Nếu trên ngọc khí có màu đỏ, điều đó chứng tỏ xác chết đựng trong vò gốm đều bị trói, đút vào trong vò, rồi bị ai đó dùng dao nhẫn tâm chặt nạn nhân ra làm mấy khúc khi người đó vẫn còn sống, máu tươi chảy ra, thấm vào trong ngọc, và biến mảnh ngọc đó thành loại ngọc “huyết tẩm”. Xem ra, rất nhiều bình trong thạch điện này đều là tế phẩm của miếu thần, họ bị giết chết.



Cao Tư Dương thắc mắc: “Trong ngôi miếu thần này không hề có tượng thần, vậy những đổ tế lễ này dùng để hiến tế cho tấm bia đá sao? Hơn nữa, sao thông đạo trong miếu thần lại sâu thế? Lẽ nào đây là động không đáy?”



Tư Mã Khôi nói: “Cô hỏi thế làm tôi nhớ lại lúc Triệu Lão Biệt trong biển cát ở cực vực từng nói ở đây có một cái động không đáy. Tất nhiên, khi ấy lão ta cũng không biết tường tận, lão chỉ kể lại lời đồn đại không rõ thực hư thế nào mà thôi”.



Nhị Học Sinh nói với hội Tư Mã Khôi, trên đời quả thực có tồn tại “động không đáy”, cậu ta từng đọc một tài liệu trong thư viện nói rằng, Hi Lạp có một hang động lớn trong núi ở gần biển, bên trong sâu không thấy đáy, hàng ngày khi triều dâng, nước biển lại chảy ào ào như trút vào trong miệng dộng. Người ta suy đoán, hàng ngày có khoảng ba, bốn vạn tấn nước biển chảy vào huyệt động. Điều kỳ lạ là, nước biến chảy nhiều như thế, nhưng chưa bao giờ có thể làm đầy miệng động, cũng không thấy nước tràn ra ngoài. Người ta đoán, nơi sâu của hang động này có địa mạo Karst được hình thành bởi đá vôi, địa hình tương tự với động thoát nước hình phễu dựng đứng, bất kể bao nhiêu nước biển cũng không thể đổ đầy.



Có điều thủy hệ trong địa mạo Karst có phức tạp đến đâu, thì chắc chắn cũng tồn tại một lối thoát nước. Vậy rốt cuộc, lượng nước lớn như vậy đổ vào huyệt động đã chảy đi đâu? Để giải đáp nghi vấn này, có một nhà thám trắc đã tạo ra hàng chục ngàn phao tiêu bằng cao su mang theo những kí hiệu đặc biệt, rồi ném xuống biển theo từng đợt, để chúng bị sóng triều cuốn xuống động, chỉ cần một phao tiêu xuất hiện ở một nơi khác, ông sẽ phát hiện thấy lối thoát nước của động không đáy, nhưng hàng chục ngàn phao tiêu kia đi vào dường như đều đã bị động không đáy nuốt chửng, cho đến ngày nay, người ta vẫn không thể tìm thấy, dẫu chỉ là một cái phao tiêu trong số đó.



Tư Mã Khôi nói: “Kết cấu địa tầng ở đây vô cùng phức tạp, dù là địa mạo Karst cũng có thể tồn tại những vũng mù không có lối thoát ra ngoài, nói không chừng những phao tiêu kia đã trôi đến nơi đó rồi cũng nên. Tất nhiên, điều này chưa thể chứng minh trên thế giới tồn tại động không đáy. Tôi cảm thấy biển Âm Dụ ở vành đai 30 độ vĩ Bắc cũng là động không đáy không có lối ra, nhưng thực ra nó vẫn không hẳn là không có đáy một cách đúng nghĩa, vị trí hiện tại của đội khảo cổ còn nằm bên dưới xung quyền, nếu còn xuống sâu hơn nữa sẽ không thấy nước ngầm và tầng đá nữa, mà chỉ có đại dương mênh mông được hình thành bởi thể khí nóng bỏng, nó có thể biến vạn vật trên đời tan tành thành mây khói, bởi thế miếu thần chắc chắn không thể là động không đáy, có lẽ chỉ cần đi thêm mấy bước nữa là tới đáy thôi”.



Cao Tư Dương gật gù bảo: “Thì ra vậy, tấm bia Bái Xà nằm ở điểm tận cùng của thông đạo. Lẽ nào bao nhiêu bộ xương khô được khâm liệm trong vò gốm là dùng để tế lễ tấm bia đó sao?”



Thắng Hương Lân nói: “Có lẽ trong miếu còn tồn tại thứ gì khác, chỉ như vậy mới có thể giải thích vì sao họ lại lấy đá chặn thông đạo lại, bởi tấm bia đá không thể tự mình mọc chân chạy mất được”.



Cao Tư Dương nghe Thắng Hương Lân giải thích thì bỗng thấy rùng mình, không hiểu ở nơi sâu trong miếu thần còn có thứ gì khác được chứ? Lẽ nào là “xà nữ” mà bức bích họa đã vẽ?




Tư Mã Khôi cũng không dám chắc chuyện xà nữ của Cao Tư Dương có khả năng xảy ra hay không, vì ngay cả việc miếu thần của người Bái Xà cổ đại đã tồn tại bao nhiêu niên đại cũng nào ai biết? Từ trước khi Vũ Vương đúc đỉnh đồng Đồ Sơn đến nay, tộc người Bái Xà đã trải qua hơn 4700 năm, chưa nói đến xà nữ, mà bất kỳ thể loại yêu quái nào cũng không thể sống lâu như vậy được.



Tư Mã Khôi lại không lo sẽ gặp phải nguy hiểm trong miếu thần, bắt đầu từ khi đào thoát khỏi khe cốc khổng lồ trong núi Dã Nhân, những ngày bất thường đối với anh đã trở nên quá đỗi bình thường. Chỉ có điều, sau khi gặp được chân thân của Triệu Lão Biệt dưới lòng đất, mọi sự việc dường như đều tiến triển thuận lợi ngoài sức tưởng tượng của họ, đầu tiên là việc cả hội tìm thấy trang thiết bị vật tư, lương thực bổ sung của một đội thám hiểm khác trên khinh khí cầu nhiệt bị lâm nạn, sau đó đi xuyên qua mê cung với vô số đụn pha lê giao thoa chằng chịt, rồi lại may mắn thoát thân khỏi Tử thành chôn thây của tộc người Bái Xà, tiến vào đường hầm nằm dưới đáy dãy núi rồi đi một mạch đến đây và tìm thấy miếu thần.



Tuy cả hội chịu không ít gian nan vất vả cùng bao phen sợ hãi, hoảng loạn, nhưng so với những gì trải qua trước đây thì như vậy vẫn quá thuận lợi, mà ở nơi đây mọi sự bình thường lại là điều bất thường lớn nhất. Lẽ nào lúc này mọi hành động của đội khảo cổ trong miếu thần đều nằm trong vòng kiểm soát của Nấm mồ xanh? Bởi chẳng ai có thể lường trước được kết quả của định luật Murphy – càng sợ điều gì, điều ấy lại càng dễ xảy ra – trong cuộc đời vĩnh viễn không thể tránh được hai chữ “rủi ro”.



Hải ngọng phản đối: “Không phải! Chúng ta tuy đói nhưng đầu gối chưa bao giờ chịu bò, cũng chưa từng phản bội nhân dân hay phản bội Đảng, chưa bao giờ làm chuyện gì xấu xa, vậy sao kiếp này chúng ta phải chống nạng mò xuống hố quặng bới mấy viên than ghẻ còn sót lại này? Ông trời còn chẳng nỡ để con sẻ mù đói ăn nữa là, ai quy định chúng ta không có ngày gặp vận may? Theo tớ, nhân lúc vận may đang đến, chúng ta đừng chần chừ nữa, mau phá hủy tảng đá đó đi kẻo đêm dài lại lắm mộng!”



Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng xách súng định chạy về phía trước, thì lập tức giơ tay giật lại, chửi: “Tiên sư Hải ngọng, cậu vội đi ăn chém thế cơ à? Chốc nữa, tôi chưa đồng ý, cấm ai được động vào tấm bia đá đấy!”



Tư Mã Khôi biết bí mật khắc trên tấm bia Bái Xà là manh mối duy nhất giải đáp vô số ẩn số, nhưng anh thực sự không thể tưởng tưởng nổi trong đó ẩn chứa mối logic cổ quái kỳ dị như thế nào. Giờ đây, hội anh chỉ có thể đi đến đâu hay đến đó. Đầu tiên, anh đi xuyên qua đường hầm của thạch điện, ở nơi sâu hơn lại là một tòa đại điện tương tự như lúc trước, sau đó họ lại đi khoảng trăm bước, trèo qua vài tảng đá đen chắn đường và tiến vào đại điện ở tầng thứ ba phía dưới cổng miếu thần.



Nơi này địa hình lún xuống theo chiều thẳng đứng và chính là hốc macma rỗng sâu nhất trong rốn núi, bên trong đủ sức chứa một sân bóng đá, ở giữa có một thanh xà đá dài chừng trăm mét, có thể đi qua được, ở đầu bên kia là một phiến đá bằng phẳng khổng lồ hình chữ nhật hiện lên sừng sững trên vách, chiều rộng và độ cao đều tầm vài chục mét. Mặt đá xanh thẫm, vân nổi loang lổ, phủ đầy những vết nứt hình mai rùa, nông sâu không đều nhau, xung quanh khắc hình dị thú, đó chính là tấm bia Bái Xà khiến người ta chết khiếp vì sợ.



Quả nhiên hội Tư Mã Khôi đã nhìn thấy tấm bia đá nằm ở nơi sâu trong miếu thần, bí mật cổ xưa đang gần ngay trước mắt, ngón tay ai nấy đều không tự chủ run rẩy từng hồi, cũng chẳng rõ là do lúc này đang kích động hay căng thẳng. Họ chiếu chùm sáng đèn quặng lên tấm bia Bái Xà, nhưng vẫn giữ khoảng cách nhất định để không nhìn rõ dấu vết của các văn tự trên đó, họ không dám bước lại gần nửa bước, mà chỉ dừng lại quan sát từ xa vị trí và hình dáng đại khái của tấm bia đá.



Tấm bia đá của người Bái Xà là phiến đá khổng lồ khắc đầy chữ triện cổ, mỗi chữ to như cái đấu, nét chữ tựa con bọ nhậy, cũng không giống với loại bia đá mà con bí hí cõng trên lưng mà hậu thế vẫn thấy, người xưa chỉ tận dụng phiến đá bằng phẳng có sẵn dưới lòng đất để khắc chữ lên mà thôi, tuy xung quanh cũng trang trí phù điêu mặt thú, nhưng vẻ nguyên thủy bề ngoài cùa phiến đá nham thạch tự nhiên thì vẫn chưa được mài giũa hoàn chỉnh nên trông nó vẫn nặng nề và thô sơ. Do văn tự được khắc rất sâu lên tấm bia, nên nhìn từ xa, nom nó giống vô số hố lõm chi chít, thời gian và đất bụi vẫn chưa thể mài mòn và che phủ lên nó. Thạch điện tối om làm người ta có cảm giác đè nén muốn ngộp thở.




Hải ngọng thấy tấm bia Bái Xà không có điểm gì khác thường, thì soi đèn quặng lên thanh xà đá nhìn ngó, anh phát hiện hài cốt chất đống như núi dưới đáy động đen ngòm, anh rùng mình, hít ngược một hơi lạnh, xem ra phỏng đoán lúc trước của cả hội không sai, tấm bia đá Bái Xà này đúng là tấm bia bị nguyền rủa.



Tư Mã Khôi cũng nhìn xuống theo, anh không thể hiểu tại sao bí mật trên tấm bia đá lại có khả năng tước đi sinh mạng của con người, nhớ thời kỳ đánh nhau ở Miến Điện, nghe Chu Tử Tài, một chiến hữu từng tham gia lao động thời vụ ở khu quặng Vân Nam nói rằng, ở biên giới Vân Nam có một khe núi gọi là khe Đà Mộc với địa mạo rất kỳ quái. Theo tiếng bản địa thì khe Đà Mộc có nghĩa là khe núi mọc nhiều cỏ dại, sau này người ta cho đào một mỏ quặng trong khe núi. Do đãi ngộ công nhân khai thác mỏ khá tốt, một năm phát hai bộ đồng phục, mỗi tháng cho một túi đường trắng với nửa cân thịt lợn gọi là quà bồi dưỡng, không những vậy, công việc ở đây cũng không nặng nhọc lắm, cho nên các thành viên ở nông trường và binh đoàn tranh nhau đi.



Nhưng công việc ở đây không giống với công việc đào than, đối với công việc đào than, bạn chỉ cần nhìn bằng mắt thường là phát hiện thấy tầng than ở dưới giếng quặng, nhưng hố quặng ở khe Đà Mộc thì lại cần dùng một thiết bị hình vuông, đen sì sì đi khắp nơi đo đạc, nghe chiếc hộp phát ra âm thanh cảnh báo tút tút, thì lấy cuốc đào lên, thời gian lâu dần bắt đầu có người xuất hiện hiện tượng buồn nôn, chóng mặt, rồi rụng tóc, rụng từng nắm một. Lúc đó, người ta đề xướng tinh thần “thứ nhất không sợ khổ, thứ hai không sợ chết”, đàn bà ở nông thôn sinh con không cần đi bệnh viện, thì rụng mấy sợi tóc sao có thể coi là bệnh được? May mà trong những thành viên tham gia khai thác quặng ở khe Đà Mộc còn có một thầy giáo từng giảng dạy ở Học viện địa chất Bắc Kinh, bị đẩy về đó cải tạo lao động.



Ông khá thân thiết với Chu Tử Tài, thường ngày Tài cũng rất quan tâm đến ông, tình cảm của hai người chẳng khác nào tình thầy trò. Một ngày, thầy dạy địa chất kéo Chu Tử Tài ra một chỗ vắng người, thì thầm bảo: “Chỗ này không ở được lâu đâu, nếu cậu có thể đi, thì mau đi đi!”. Chu Tử Tài cũng sớm cảm thấy nơi đây có gì đó bất thường, nhưng không biết cụ thể là ở điểm nào, anh ta bèn hỏi thầy giáo xem tóm lại có chuyện gì. Thầy giáo nói: “Chúng ta đang ở trong hố quặng Uranium, phóng xạ trong giếng cực kỳ mạnh, cho nên cỏ trên mặt đất không thể mọc được nửa cọng, thiết bị thám trắc lúc thường mình hay dùng gọi là thiết bị đo tia



gama, tia xạ gama vượt quá năm mươi, sẽ gây ra nguy hiểm cho cơ thể con người. Chưa nói đến độ phóng xạ trong giếng cao bao nhiêu, chỉ riêng ở giường ngủ dưới lòng đất, thì độ phóng xạ đã vượt quá hai trăm, tiếp tục ở lại trong mỏ quặng nhất định sẽ mất mạng”. Thầy giáo địa chất nọ tuổi đã ngoại ngũ tuần, ông chấp nhận số phận, không muốn chạy trốn, bởi vậy chỉ tiết lộ bí mật cho một mình Chu Tử Tài, ông thấy cậu thanh niên này tuy trẻ tuổi, nhưng chắc sẽ có tiền đồ. Sau khi nghe được thông tin ấy, anh ta liền chạy đến Miến Điện tham gia đội du kích quân Cộng hòa nhân dân, sau đó anh cũng không bao giờ gặp lại người thầy giáo tốt bụng ấy nữa.



Tư Mã Khôi nghĩ đến đây thì nêu nghi vấn với mọi người: Phải chăng tấm bia đá Bái Xà là một loại tầng quặng nằm trong lòng đất giống như mỏ quặng ở khe Đà Mộc? Không những vậy phóng xạ còn cực mạnh, có thể nhanh chóng khiến con người tử vong, đáng tiếc đội khảo cổ không có thiết bị thám trắc đo tia gama ở đây nên không chứng thực được điều này.



Thắng Hương Lân nói: “Anh không cần lo lắng về chi tiết này, phía dưới tấm bia đá có vết rêu mọc, điều đó cho thấy đây không phải tảng đá hàm chứa tia phóng xạ, riêng điểm này tôi có thể bảo đảm”.



Tư Mã Khôi nghe vậy liền gật đầu, lòng thầm nghĩ: “Vậy tấm bia mang đến lời nguyền chết chóc này cũng chỉ là ở bí mật khắc trên nó. Nếu nhìn thấy nó mà lập tức lăn ra chết, thì chúng ta phải thăm dò bí mật ấy bằng cách nào đây?”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 186: bí mật - hồi 1: bí mật


Hội Tư Mã Khôi thấy nơi sâu trong miếu thần không có động tĩnh gì thì liền tắt đèn quặng, mượn ánh sáng yếu ớt của đom đóm nhốt trong hộp thiếc đi vòng qua thanh xà đá để xuống dưới chân tấm bia đá cao sừng sững, đứng đối diện lưng với tấm bia, rồi dừng lại, tim đập thình thịch, không ai dám quay đầu lại nhìn xem bên trên đó khắc chữ gì.



Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Cuối cùng cũng đi đến cuối con đường, cậu mau nghĩ ra cách gì đi, rốt cuộc có xem tấm bia đá hay không?”



Tư Mã Khôi nói: “Xem thì chắc chắn là phải xem rồi, nhưng tớ vẫn chưa nghĩ ra được cách nào để xem”. Anh nói, rồi thò tay ra sờ tấm bia đá nặng nề và lạnh lẽo phía sau lưng, khi đầu ngón tay Tư Mã Khôi chạm vào những vết khắc lõm hẳn xuống, không rõ vì nguyên cớ gì mà tự nhiên da đầu anh lại có cảm giác tê bì.



Lúc này, Hải ngọng nói: “Sao tớ thấy chuyện này cứ tà mị thế nào ấy nhỉ, có đúng tấm bia đá này khiến người ta lăn quay ra chết vì sợ thật không?”



Thắng Hương Lân nói: “Tấm bia đá vô cùng cổ quái, càng đến nước này, chúng ta càng phải cẩn thận hơn, đi sai một bước là càn khôn khó xoay chuyển đấy!”.




Tư Mã Khôi cũng thấy lời Tháng Hương Lân nói rất đúng. Cả hội lúc này chỉ có hai con đường: con đường thứ nhất là không xem bí mật khác trên tấm bia nữa, trực tiếp nghĩ cách xóa những dòng chữ ấy đi, có điều hành động này cũng đồng nghĩa với việc mọi người sẽ mất cơ hội làm rõ chân tướng sự thật, và cũng không thể tưởng tượng được việc làm ấy sẽ dẫn tới những hậu quả gì; con đường thứ hai là chọn ra một thành viên, liều chết nhìn trộm bia đá, nếu lời nguyền chết chóc thực sự tồn tại, thì người này sẽ chết ngay lập tức, những thành viên khác chưa xem tấm bia đá vẫn sẽ không biết bí mật kinh thiên động địa kia rốt cuộc là gì. Có thể thấy, cả hai lựa chọn này đều không phải kế sách vẹn toàn.



Từ trước tới giờ, Tư Mã Khôi luôn là người hành sự quyết đoán, nhưng lúc này anh cùng không tránh khỏi do dự, tiến thoái lưỡng nan. Trong lúc Tư Mã Khôi đang đau đầu nghĩ cách thì Nhị Học Sinh đứng bên cạnh đột nhiên co người thu lu một đống, run rẩy cầu xin Tư Mã Khôi: “Đừng nhìn tấm bia đá nữa, tôi… tôi có chết cũng không dám quay đầu lại đâu…”



Cao Tư Dương nghe thấy vậy liền nhớ lại lời Hải ngọng nói lúc trước cho rằng Tư Mã Khôi là hạng người không coi mạng người ra gì, cô ngỡ anh đang ép buộc Nhị Học Sinh phải nhìn vào tấm bia, nên không nhịn được, cô nhướn lông mày, trừng mắt nhìn anh và nói: “Anh đúng là hạng phát xít mất hết nhân tính!”



Tư Mã Khôi ngớ người chưa hiểu sự tình, anh thấy Hải ngọng và Thắng Hương Lân cũng nhìn mình với ánh mắt quái dị, thì quay sang hỏi Nhị Học Sinh tại sao khi nãy lại nói vậy? Hay sợi thần kinh nào bị chập mạch?



Thì ra, Nhị Học Sinh đứng ngay cạnh Tư Mã Khôi, cũng quay lưng về phía tấm bia đá, trong khi nơm nớp lo sợ mình bị bắt làm bia đỡ đạn, là kẻ sẽ quay đầu lại xem tấm bia đá giết người kia, thì đột nhiên cậu ta cảm thấy phía sau có một bàn tay to lớn động đậy, trong bóng tối, cậu ta cứ ngỡ là Tư Mã Khôi đang cố ý dọa để lừa cậu ta quay đầu lại nhìn tấm bia, cậu ta sợ hết hồn, toàn thân run lẩy bẩy, nên quay sang van xin Tư Mã Khôi nương tay.



Hải ngọng nghe xong, bảo Tư Mã Khôi: “Cậu cũng thật là! Lúc nào rồi mà còn bày trò, nghiêm túc một tí cho tớ nhờ! Cậu phải biết nỗi sợ có sức mạnh giết người đấy biết chưa? Cậu nói xem, cậu vừa trêu trọc gì Nhị Học Sinh đấy? Mà trêu cậu ta thì được nước gì cơ chứ?”



Tư Mã Khôi thầm cảm thấy lạ, anh chửi: “Gà bịt đít thì đẻ thế mẹ nào được! Tớ chạm vào cậu ta lúc nào?”, anh vừa nói xong thì giật mình, trong đầu chợt lóe lên một ý nghĩ, lẽ nào trên tấm bia đá có thứ gì đó đang động đậy?



Lúc này, dưới ánh sáng đom đóm yếu ớt, Nhị Học sinh có thể nhìn thấy hai tay Tư Mã Khôi vẫn ôm chặt khẩu Winchester, thì biết ngay anh ta không thể sờ vào lưng cậu được, phía sau cậu ta giờ đây chỉ có tấm bia đá, trong khi đó bàn tay quái lạ lạnh lẽo vẫn đang ở sau vai. Nhị Học Sinh sợ hãi đến đỉnh điểm, cậu ta hoảng loạn bật đèn quặng quay ra sau nhìn, vừa quay ra sau, cổ cậu lập tức cứng đơ như hóa đá, không thể cử động được nữa.



Tư Mã Khôi đang đứng quay lưng về phía tấm bia đá, thấy Nhị Học Sinh đột nhiên ngoảnh đầu lại phía sau nhìn, anh vội vàng hét lên ngăn cản, nhưng Nhị Học Sinh chỉ đứng trơ ra đó, trừng mắt bất động, trên mặt còn vẹn nguyên nét méo mó do quá sợ hãi. Tư Mã Khôi biết cậu ta đã xảy ra chuyện, bèn giơ tay đẩy Nhọc Học Sinh ngã rầm xuống đất, cậu ta câm lặng không nói gì, cổ vẫn ngoẹo ra sau.



Mọi người kinh hãi, chạy lại gần đỡ Nhị Học sinh lên, lúc ấy họ mới phát hiện không còn thấy hơi thở và nhịp tim. Chẳng ngờ cậu ta lại lăn ra chết ngay trước tấm bia đá.




Hội Tư Mã Khôi từ rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá xuống cửu tuyền dưới lòng đất, ngoại trừ cậu dân binh Hổ Tử mất mạng trong kho pháo lõi kép ở đinh Thần Nông ra, thì dẫu trên đường gặp nhiều hung hiểm, nhưng vẫn chưa bị tổn thất thêm thành viên nào, không ngờ vừa mới đến được tới tấm bia đá lại đột ngột mất đi một thành viên, nghĩ đến những kỷ niệm đồng cam cộng khổ bao ngày qua, nghĩ đến một người đang sống sờ sờ bỗng dưng biến thành một tử thi lạnh lẽo, mọi người đều thấy đau xót trong lòng.



Cao Tư Dương nhất thời không thể chấp nhận được sự thực, cô vẫn muốn cố gắng cứu sống Nhị Học Sinh, nên dùng tay liên tiếp ấn vào ngực cậu ta, máu đen từ miệng Nhị Học Sinh bất ngờ ùng ục trào ra ngoài. Cao Tư Dương vừa cuống, vừa buồn, nước mắt thi nhau tuôn rơi.



Mọi người thấy cảnh tượng ấy thì đều cảm giác lồng ngực mình nặng trịch như có tảng đá đè lên, rồi nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt mà không khỏi lạnh sống lưng: “Xem ra chuyên sợ quá lăn ra chết là hoàn toàn có thật. Lẽ nào tấm bia đá đó có thể giết người thật sao?”



Hải ngọng cảm thán: “Đúng là đàn gẩy tai trâu, sớm biết không được nhìn tấm bia đó, sao tiểu tử nhà cậu vẫn dám quay đầu lại? Thế chẳng phải tự chui đầu vào chỗ chết hay sao hả Nhị Học Sinh?”



Thắng Hương Lân nói: “Tuy tính Nhị Học Sinh rất tò mò nhưng lại cũng rất nhát gan. Tôi dám chắc cậu ta không dám tự tiện quay đầu nhìn tấm bia đâu, nhưng sao khi nãy cậu ta lại đột nhiên quay đầu lại nhỉ? Hay là bị trúng tà?”



Khi trước, Tư Mã Khôi vốn đã quan sát thấy trên tấm bia đá có thứ gì đó khẽ động đậy, nên lúc này anh nín thở nghe ngóng xem quả thật có gì hay không, nhưng chờ hồi lâu mà phía sau vẫn hoàn toàn im ắng, không một tiếng động nhỏ.



Lúc này, Cao Tư Dương lấy tay áo quệt vệt nước mắt còn đọng cuối mi, cô nói: “Nhị Học Sinh là người rất hay sợ bóng sợ gió, nếu Tư Mã khôi và Hải ngọng không dọa, thì cậu ta cũng không đến nỗi vừa nghe thấy gió lay cỏ động đã vội quay đầu lại nhìn đâu”.



Thắng Hương Lân phân trần: “Hai người họ tuy hơi độc miệng, nhưng lòng dạ rất tốt, nhiều khi nói chỉ để nói chứ không có ác ý gì đâu”.



Cao Tư Dương không tin, cô bảo, bí mật khắc trên bia đá có thể giết chết người, không ai có thể phủ nhận chuyện này là sự thật, nhưng chỉ có cách quay đầu lại nhìn mới có thể biết rõ chân tướng của nó mà thôi, giờ đây chúng ta lại cần đi tìm sự thật, ắt phải có người phải hi sinh, chuyện này không cần phải nói ra, nhưng để giải câu đố tấm bia đá, thì nhất định phải thực hiện việc đó.



Tư Mã Khôi nói: “Ban đầu tôi cũng nghĩ giống cô, nếu không nhìn tấm bia đá thì vĩnh viễn không thể biết người Bái Xà để lại bí mật gì, nhưng nhìn rồi sẽ lăn ra chết ngay lập tức, bí mật khắc trên tấm bia giống như một mối nối không thể tháo gỡ, cũng không thể đi vòng qua, chỉ có người đã chết mới biết rốt cuộc trên tấm đá có gì. Tôi thực sự không tưởng tượng được trên đời này lại tồn tại vật như vậy, nhưng trời cao đất rộng, vật lạ gì mà chẳng có, nếu lỡ liếc nhìn một cái là lập tức phái trả giá bằng tính mạng, thì việc vén bức màn của toàn bộ chuỗi ẩn số này còn có tác dụng gì nữa? Có điều tôi cho rằng, sở dĩ chúng ta bị sa lầy trong ‘mối nối chết’ này là vì chúng ta chưa lý giải được quy tắc của bí mật, hay nói cách khác là chưa hiểu được quy tắc của cái chết”.



Mọi người chưa hiểu ý Tư Mã Khôi, liền thắc mắc: “Bí mật khắc trên tấm bia đá… còn có quy tắc sao?”




Để mọi người hiểu được ý mình, Tư Mã Khôi liền nhắc lại rất nhiều manh mối mà mình phái hiện thấy ở dưới cửu tuyền, những manh mối ấy đã giúp anh dần dần hình dung ra được tổng thể của tấm bia đá cổ xưa và quái dị này.



Bản thân tấm bia đá đứng sừng sững dưới lòng đất này không hề gây hại cho con người, nó chỉ là một khối đá macma khổng lồ mà thôi. Thời đó, có một con quái vật đầu người mình rắn, có lẽ đó chính là “xà nữ” bị mắc chứng thoái hóa trở về thời thủy tổ, bản thân nó chỉ là một cương thi vô tri vô giác, nó đã tiết lộ một bí mật kinh động trời đất, không một ai biết nguồn gốc của bí mật ở đâu, chỉ biết nó đến từ hư không, bởi người Bái Xà tin rằng các vị thần đã truyền đạt bí mật đó tới bộ tộc thông qua xà nữ. Cảnh tượng này được mô tả rất sinh động trong các bức bích họa, nếu dùng sự so sánh trực quan để hình dung, thì quái vật đầu người mình rắn giống như một cỗ máy điện đàm có thể thu được tín hiệu truyền đến từ hư vô.



Tư Mã Khôi cho rằng, âm thanh mà xà nữ giống như cương thi kia thốt ra, rất có khả năng chỉ là âm hưởng khác thường phát ra từ cổ họng, chứ chưa chắc đã là do thần Vũ Xà nhập thể. Tuy người Bái Xà cổ đại sùng kính thần quỷ, nhưng thần quỷ thực sự trông như thế nào, e rằng chưa ai tận mắt nhìn thấy, còn về hiện tượng xà nữ kia thì giờ đây chẳng ai tìm ra chứng cứ được nữa. Tóm lại, nội dung câu nói thốt ra từ miệng xà nữ trở thành một bí mật có thể giết hại con người, phàm ai biết toàn bộ nội dung bí mật này đều sẽ bị chết tức khắc, bởi vậy người Bái Xà cổ đại mới áp dụng phương pháp phân chia cho chín vị vương giả lưu giữ từng phần của bí mật, cuối cùng chẳng rõ vì nguyên nhân gì, họ khắc nội dung hoàn chỉnh của bí mật đó lên tấm bia đá đặt ở miếu thần, đồng thời để lại lời nguyền khủng khiếp ‘kẻ nào dám nhìn trộm bí mật, kẻ đó sẽ chết ngay tức khắc’.



Tư Mã Khôi nối những manh mối ấy lại với nhau, anh phát hiện tấm bia đá Bái Xà tồn tại một “quy tắc”, bí mật này đại khái có tám, chín chữ, không ai có thể thông hiểu nội dung của nó từ đầu đến cuối, chỉ cần nắm bắt được toàn bộ bí mật sẽ lập tức lăn ra chết, nhưng nếu chỉ nhìn thấy một phần bí mật thì sẽ không gặp phải nguy hiểm gì, chính người Bái Xà đã sử dụng cách thức này nên mới có thể lưu truyền và giữ gìn bí mật suốt nhiều năm như thế.



Ngoài ra, mọi người chỉ chăm chăm đoán xem bí mật gì có thể gây chết người, mà bỏ qua một chuyện, đó là tất cả các chữ đều khắc bằng chữ triện cổ long ấn, loại chữ triện cổ trông loằng ngoằng như giun dế kia sớm đã thất truyền từ mấy ngàn năm trước, hội Tư Mã Khôi chỉ căn cứ vào những ghi chép mà đội khảo sát Lopnor để lại dần dần đối chiếu từng chút một và phân biệt, nhưng cuối cùng cũng không thể dám chắc có giải đọc được toàn bộ nội dung hay không, hơn nữa những đường nét vết khắc mà người Bái Xà để lại dẫu có cổ quái thế nào chăng nữa, cũng không đến mức gây nguy hại chết người, bởi thế cho dù bây giờ cả hội có đứng trước tấm bia và nhìn chữ triện cổ, thì chắc chắn cũng không gặp phải nguy hiểm gì.



Ý niệm đó cứ luẩn quẩn trong đầu Tư Mã Khôi, chỉ có điều anh vẫn chưa hoàn toàn nghĩ thông suốt, bởi vậy trước khi nói ra cho mọi người biết, anh cũng không vội quay lại nhìn dòng chữ tấm bia đá, mà đợi đến khi có đối sách mới ra tay hành động.



Cao Tư Dương nghe xong, biết là mình đã trách lầm Tư Mã Khôi thì cảm thấy rất áy náy, có điều lời đã nói ra không rút lại được. Nhưng nghĩ cũng thật kỳ lạ, Nhị Học Sinh chắc chắn không biết gì về chữ triện cổ khắc trên tấm bia đá, vậy sao cậu ta lại lăn ra đột tử dưới chân bia?



Tư Mã Khôi cho rằng cơ thể Nhị Học Sinh yếu ớt, gắng gượng suốt chặng đường từ rừng rậm Thần Nông Giá đến đây thì kiệt sức như ngọn đèn cạn dầu, cậu ta phải chịu áp lực trong môi trường không có ánh sáng dưới lòng đất trong thời gian dài, cộng thêm tinh thần lo sợ, hồi hộp quá độ nên khuỵu xuống chết đột ngột cũng không có gì kỳ lạ. Tư Mã Khôi thầm biết việc lớn đang chờ trước mắt, giờ không phải lúc đau thương trước cái chết thảm của người bạn đồng hành, nên anh cùng ba thành viên còn lại bắt đầu hành động. Anh gỡ huy hiệu và chiếc bút máy mà Nhị Học Sinh vẫn cài trên ngực, cho vào trong túi, rồi dỡ chiếc đèn hỏa diệm nhiệt độ cao xuống, giao cho Hải ngọng vác trên lưng, sau đó anh tưới dầu vào thi thể Nhị Học Sinh, châm lửa hỏa thiêu và đẩy di hài xuống dưới thanh xà đá. Cuối cùng cả hội quay người bước đi, nhìn về phía tấm bia đá đang đứng sừng sững ở điểm tận cùng của dãy núi.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 187: Hồi 2: kẻ xuất hiện ở phía bên kia


Căn cứ vào cảnh tượng vẽ trong bức bích họa trên tường Tử thành, Tư Mã Khôi suy đoán tấm bia Bái Xà có một quy luật, quy luật đó là: nếu chỉ biết một phần bí mật, thì sẽ tương đối an toàn, hơn nữa không ai trong hội Tư Mã Khôi biết nửa chữ triện cổ Bái Xà khắc chìm trên tấm bia đá, nên tất nhiên không thể hiểu được nội dung tấm bia đá viết gì, điều đó đồng nghĩa với việc dẫu hội Tư Mã Khôi có đứng gần xem thì cũng không gặp phải nguy hiểm, có điều anh không chắc chắn trăm phần trăm về điều này, bởi rốt cuộc Nhị Học Sinh cũng vẫn đột ngột lăn ra chết đấy thôi, sự việc dường như đang phát triển theo hướng không thể lường trước. Tuy vậy, Tư Mã Khôi vẫn là tay liều mạng, dám nghĩ dám làm, dám chấp nhận mạo hiểm, anh ra hiệu cho hội Hải ngọng không được manh động, còn mình quay đầu lại và ngẩng lên nhìn tấm bia đá.



Trên tấm bia đá cao sừng sững như bức tường thành chằng chịt ngang dọc những vết nứt mai rùa chỗ nông, chỗ sâu, trải qua sự mài mòn của tuế nguyệt, những vằn vện trên tấm bia đã trở nên loang lổ đến thảm hại, bề mặt còn mọc thảm rêu khá dày, hàng chữ triện cổ được khắc sâu xuống lòng đá, mỗi chữ to như cái đấu nên dẫu bao năm tháng phôi pha, nhưng các chữ vẫn không bị ảnh hưởng nghiêm trọng lắm.



Tư Mã Khôi soi chùm sáng đèn quặng lên tấm bia, quầng sáng chiếu đúng vào một chữ cổ, cảm giác ngộp thở bỗng đâu ập đến, anh hít một hơi thật sâu, rồi soi đèn quặng ra xung quanh, chỉ thấy từng hàng từng hàng chữ long triện với hình dạng tương tự nhau hiện ra trước mặt, quả nhiên người Bái Xà đã khắc lặp đi lặp lại một câu duy nhất thành nhiều dòng, chỉ cần tiếp cận tấm bia đá, thì dẫu ờ góc độ nào, đều có thể nhìn thấy hàng chữ cổ ấy.



Chữ tượng hình của người Bái Xà cổ đại là tiền thân của chữ triện cổ triều Hạ, nó còn xuất hiện sớm hơn cả chữ giáp cốt thời Ân Thương. Tư Mã Khôi từng nhiều lần nhìn thấy loại chữ này trong thành Nhện Vàng ờ Miến Điện và trong biển cát ở cực vực Lopnor. Đội khảo sát liên hợp Trung Xô gặp nạn ở kính viễn vọng Lopnor có một chuyên gia khảo cổ tinh thông các loại văn tự bị thất truyền, trước khi chết, ông đã để lại một cuốn sổ ghi chép dùng biện pháp đối chiếu để giải mã ý nghĩa của chữ long triện triều Hạ. Hội Tư Mã Khôi cũng đọc khá kỹ các ghi chép trong cuốn sổ, nhưng vẫn chưa thành thục đến độ chỉ cần nhìn là biết ý nghĩa, mà phải đối chiếu từng chữ mới hiểu được nội dung.



Tư Mã Khôi hồi hộp nhìn tấm bia đá, một lúc sau, anh vẫn không phát giác thấy hiện tượng gì khác thường, anh nghĩ có lẽ dự đoán của mình không sai, nên liền bảo ba người còn lại cũng quay đầu lại nhìn.



Mọi người đứng lặng trước tấm bia hồi lâu, mối nghi ngờ càng lúc càng dâng trào trong lòng, họ không hiểu bí mật ghi chép trên tấm bia đá có thể là gì? Giống như Hải ngọng nói lúc trước, nếu chỉ có mấy chữ thì nói một câu có khi còn chưa rõ nghĩa, chứ làm sao có thể còn ẩn chứa bí mật kinh thiên động địa gì? Hơn nữa, vì sao dòng chữ ấy lại được khắc lặp đi lặp lại nhiều lần? Điểm then chốt nhất ở đây là bí mật này liệu có liên quan gì đến Nấm mồ xanh không?




Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Tớ có ý kiến thế này, đã xem thì phải xem hết, vậy mới biết mấy cái ký tự quỷ quái đó rốt cuộc có ý nghĩa gì chứ!”



Tư Mã Khôi nói, nếu xem toàn bộ bí mật chắc chắn sẽ mất mạng, chúng ta không thể không phòng chuyện này được, có điều nếu chỉ xem một phần bí mật chắc sẽ không sao, một phần nghĩa là ít nhất một chữ, nhiều nhất cũng chỉ bốn, năm chữ, tóm lại bí mật khắc trên bia Bái Xà tổng cộng có chín chữ, chúng ta giải được hai, ba chữ là đã có thể tìm ra manh mối để suy đoán rồi, đương nhiên nhìn con cọp qua ống tre, thì cùng lắm cũng chỉ thấy nhúm lông, khác gì chúng ta bây giờ bị bịt kín hai mắt.



Tuy trong tay Tư Mã Khôi có cuốn sổ giải mã chữ triện cổ, nhưng bảo anh đối chiếu từng chữ một thì còn khó hơn lên trời, thế là anh quay sang hỏi Thắng Hương Lân xem cô có thể giải một hai chữ không?



Thắng Hương Lân từng nhìn thấy rất nhiều phù hiệu tượng hình chữ triện cổ trong kính viễn vọng Lopnor và Tử thành của người Bái Xà và cũng thử giải mã khá nhiều chữ, bởi vậy cô có thể cầm chắc tám phần là giải được. Thắng Hương Lân móc cuốn sổ ghi chép chăm chú đối chiếu với tấm bia, chẳng bao lâu sau, cô đã giải được một chữ trong đó.



Hội Tư Mã Khôi thấy sắc mặt Thắng Hương Lân lộ vẻ ngạc nhiên, hồi lâu không nói gì, thì không rõ cô không thể giải mã nổi hay do tình hình xảy ra điều gì ngoài dự kiến, lòng dạ ai nấy đều hồi hộp không yên. Tư Mã Khôi không nhịn được bèn cất tiếng hỏi: “Chữ đó có nghĩa gì?”



Bí mật ghi chép trên tấm bia Bái Xà liên quan đến sự sống chết và quyết định tiến hay lùi của cả hội, bởi vậy Thắng Hương Lân đâu dám bất cẩn. Nhờ cuốn nhật ký, cô giải được một chữ, rồi xác nhận đi xác nhận lại mấy lấy liền, khi đã chắc chắn không thể xảy ra nhầm lẫn, cô mới nói với hội Tư Mã Khôi: “Chữ đầu tiên trên tấm bia đá là 0”.



Tư Mã Khôi không hiểu đầu đuôi thế nào, dồn dập hỏi: “Không… nghĩa là gì?”



Thắng Hương Lân đáp: “Trong hệ chữ triện cổ Bái Xà thì đây là phù hiệu tượng trưng cho hư vô, có thể dùng số 0 trong hệ chữ số Ả Rập để biểu thị”.



Tư Mã Khôi nhíu mày, anh im lặng suy nghĩ, từ chuyện mô tả trong bức bích họa ở thành cổ thì thấy bí mật này do các vị thần cổ đại tiết lộ thông qua xà nữ, mà những chuyện thần tiên quỷ quái thực ra chỉ là hoang đường. Có lẽ tất cả chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, dù gì nó cũng không có nguồn có gốc, xà nữ nói một câu hoàn chỉnh gồm tất cả chín chữ, không rõ chín chữ đó kinh thiên động địa đến cỡ nào mà người Bái Xà cổ lại phải ghi chép thành nhiều đoạn và giữ gìn suốt nhiều năm cho đến khi họ khắc bí mật đó vào tấm bia đá nặng ngàn cân chìm sâu dưới cửu tuyền thăm thẳm này.



Điều kỳ lạ nhất, cũng là điều khó hiểu nhất của bí mật này chính là ‘hễ biết toàn bộ nội dung bí mật sẽ lập tức lăn ra chết’, chính bởi vậy không ai dám nhìn trộm toàn bộ diện mạo của nó, giờ chỉ còn cách giải mã một vài chữ trong dãy chữ, sau đó tìm biện pháp suy đoán nốt phần nội dung còn lại mà thôi, có điều anh không ngờ chữ đầu tiên được giải được lại chẳng mang ý nghĩa gì như thế, nên đành bảo Thắng Hương Lân tiếp tục giải mã thêm vài chữ nữa, xem có thể tìm thấy manh mối gì hữu dụng không.



Thắng Hương Lân soi đèn quặng vào tấm bia đá, lần lượt tìm từng chữ, rồi đối chiếu với nội dung ghi trong cuốn sổ, cô phát hiện ký tự tiếp theo vẫn là một chữ số – số 9.




Hải ngọng sốt ruột, giật mũ xuống, vò đầu bứt tai chửi: “Bọn người cổ đại này định giở trò gì không biết, sao lại khắc bao nhiêu chữ số trên tấm bia thế chứ?”.



Cao Tư Dương nói với Thắng Hương Lân: “Ngoại trừ số ra, trên tấm bia chắc chắn phải có nội dung khác, nếu không người Bái Xà đâu cần thiết phải vùi nó xuống nơi còn sâu hơn cả địa ngục này, cô tiếp tục giải mấy chữ nữa xem sao!”



Ánh mắt Thắng Hương Lân đưa theo chùm sáng, từ từ quét một lượt trên tấm bia đá đầy những vết rạn nứt và rêu khô, thần sắc hoang mang, cô nói: “Không cần tiếp tục giải mã nữa đâu, bí mật trên tấm bia của người Bái Xà chắc chắn là một dãy số”.



Cao Tư Dương lắc đầu, thử nghĩ xem một dãy số thì sao có thể khiến người đang sống bỗng lăn ra chết được? Dãy số này ẩn chứa tai họa lớn đến chừng nào? Vì sao người Bái Xà lại vừa kinh vừa sợ nó? Hơn nữa, Thắng Hương Lân mất không ít thời gian mới giải được hai chữ, vậy sao bảy chữ còn lại, cô ấy chỉ xem chốc lát, mà đã dám chắc những chữ khắc trên tấm bia là một dãy số?



Thắng Hương Lân nói: “Ký tự chữ số trong hệ chữ triện cổ Bái Xà có kết cấu tương tự nhau, nắm được quy luật là biết ngay thôi, tuy tôi không biết cụ thể từng số, nhưng dựa vào hình khắc trên tấm bia, tôi có thể phán đoán rằng, tất cả những ký tự này tượng trưng cho các chữ số, đây là điều không còn nghi ngờ gì nữa”.



Hải ngọng nghiến răng, trợn mắt: “Từ rừng rậm Miến Điện đến cửu tuyền dưới lòng đất, trên đường chết bao nhiêu mạng người, chịu biết bao khổ cực, lòng vòng vạn lý, chết đi sống lại bao phen, khó khăn lắm mới tìm thấy tấm bia đá của người Bái Xà, vậy mà sao bí mật khắc trên đó chỉ là mấy chữ số? Làm gì có trò đùa ác như thế? Tớ nghĩ chắc bọn mình và Nấm mồ xanh đều mắc lừa rồi, ai từng thấy dãy số nào lại giết chết được người không?”, nói xong, anh phẫn nộ từ đáy lòng, nhặt một viên đá định ném thẳng vào tấm bia.



Tư Mã Khôi vẫn rất sáng suốt, anh nhướng vai che trước Hải ngọng: “Đừng vội động thủ, nếu đúng như tớ dự liệu, thì dãy số đó chính là lời giải cho tất cả ẩn số đấy, chỉ có điều bản thân lời giải ấy cũng là một ẩn số”.



Thắng Hương Lân chăm chú nhìn tấm bia đá, nghĩ ngợi một hồi, thấy Tư Mã Khôi nói không sai, cô bèn lần lượt giải từng chữ theo cuốn sổ: 0…9…1…0…



Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân sắp đọc hết cả dãy số, anh lập tức lấy cuốn sổ che tấm bia lại và nói: “Không nên xem hết bí mật thì hơn!”



Hải ngọng không hiểu, liền thắc mắc: “Đã đến nước này rồi thì còn sợ bóng sợ gió gì nữa, tốt nhất cứ xem hết xem nó khắc những gì!”



Tư Mã Khôi nói với hội Hải ngọng: “Bây giờ đã biết bí mật trên tấm bia là một dãy số, thế là đủ, nếu giải toàn bộ dãy số đó, ai mà biết sau này sẽ xảy ra chuyện gì? Tuy những ghi chép trong bích họa ở Tử thành về tấm bía đá nghe có vẻ hoang đường, nhưng giờ ngẫm lại thấy cũng không hoàn toàn là bịa đặt cả đâu. Nếu con quái vật đầu người mình rắn đúng là xà nữ, thì tôi nghĩ chắc chắn mụ cương thi đó không thể nói điều gì phức tạp, bởi vậy cổ nhân chỉ nghe được ngắt quãng mấy con số từ miệng xà nữ mà thôi, phân tích như vậy sẽ thấy chuỗi sự việc diễn ra khá hợp tình hợp lý. Mọi người có nghĩ xem vì sao người Bái Xà lại tôn kính dãy số đó như tôn kính thần quỷ vậy không? Hơn nữa, còn chôn vùi nó xuống tận nơi sâu thăm thẳm dưới cửu tuyền và không ngừng cảnh cáo hậu thế rằng tuyệt đối không được nhìn, cũng không được đọc, thậm chí còn không được nghĩ về những chữ khắc trên tấm bia, kẻ nào phá vỡ cấm kỵ, kẻ đó sẽ lập tức chết thảm?”




Hải ngọng nói: “Người xưa mê tín, chuyên môn giả thần giả quỷ, cậu chưa ngốc đến nỗi tin vào mấy chuyện này đấy chứ?”



Tư Mã Khôi nói: “Triệu Lão Biệt, Nấm mồ xanh, các thành viên đội khảo sát kính viễn vọng Lopnor và cả đội thám hiểm đi khinh khí cầu nhiệt xuống lòng đất đều ít nhiều biết về bí mật của người Bái Xà, điều đó cho thấy tuy tấm bia bị vùi xuống lòng đất khá lâu, nhưng bí mật này không hẳn đã được bảo mật kín bưng, vì hậu duệ của người Bái Xà vẫn tiếp tục tồn tại mấy ngàn năm sau mới hoàn toàn bị tuyệt diệt, chỉ có điều thánh hiền từ cổ chí kim chưa ai có thể phá được cửa ải này thôi. Nếu bí mật trên tấm bia đá của người Bái Xà đúng là một dãy số, thì dãy số đó nhất định phải ẩn giấu một thứ gì đó rất ghê gớm”.



Hải ngọng nói với Tư Mã Khôi: “Điên thật! Các cậu kẻ tung người hứng, nhưng nếu chúng ta không xem hết các chữ trên tấm bia, thì làm sao biết được thứ ghê gớm mà cậu nói rốt cuộc là thứ gì?”



Tư Mã Khôi nói: “Bí mật trên tấm bia đá không thể suy đoán ra được, tớ thấy chỉ dựa vào mấy cái đầu bọn mình, e là không thể giải được ẩn số này. Ngoài ra, nếu đọc hết nội dung khắc trên tấm bia sẽ dẫn đến hậu quả gì? Liệu dự báo của bức họa trên vách tường ở Tử thành có trở thành sự thật? Mọi chuyện đều rất khó lường, suốt chặng đường đi, chúng ta đã trải qua bao chuyện ly kỳ, quái lạ, ai biết sắp tới sẽ phải đụng độ với lời nguyền quỷ quái thế nào, nếu chưa đến bước đường cùng, chúng ta tuyệt đối không nên mạo hiểm!”



Thắng Hương Lân gật đầu đồng ý, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Theo anh, chúng ta nên làm gì bây giờ?”



Tư Mã Khôi nói: “Tôi thấy, trong các di chỉ của người Bái Xà có rất nhiều ghi chép về tấm bia đá, đương nhiên người ta không nhắc đến bí mật khắc trên tấm bia, nhưng còn một chuyện mà không rõ do vô tình hay cố ý mà từ đầu chí cuối người ta cũng giấu nhẹm — đó là vì sao họ lại cất giấu bí mật trong một miếu thần nằm sâu trong động ngầm dưới lòng đất?”



Hải ngọng ngạc nhiên hỏi: “Chẳng lẽ động ngầm này có gì bất thường sao?”



Điều Tư Mã Khôi đang băn khoăn chính là chuyện này, trong chốc lát không thể giải câu đố trên tấm bia, anh đành phải tìm manh mối từ chỗ khác, thế là anh vừa thì thầm bàn bạc với hai người còn lại, vừa soi đèn quặng quan sát địa hình xung quanh. Bất chợt anh thấy Cao Tư Dương nắm chặt báng súng, mắt nhìn trừng trừng vào tấm bia đá, anh hỏi: “Cô nhìn gì vậy?”.



Tư Mã Khôi hỏi đến câu thứ hai, Cao Tư Dương mới định thần trở lại, nét mặt cô toát lên vẻ khiếp sợ và kinh ngạc tột độ, cô chỉ lên vết rạn nứt của tấm bia, rồi trả lởi bằng giọng run rẩy: “Tôi nhìn thấy người vừa mới chết… đứng ở phía bên kia… bên kia của tấm bia đá!”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 188: Hồi 3: khe nứt


Tư Mã Khôi thấy thần sắc Cao Tư Dương kỳ quái anh thầm nghĩ: “Người vừa mới chết ư? Ngoài cậu thanh niên trí thức đến từ lâm trường tên là Nhị Học Sinh ra thì còn ai nữa chứ?”



Trước đây, giới lục lâm kết bè đảng với nhau hoạt động ở những nơi hẻo lánh, người nào không may gặp nạn mất mạng, thì đồng bọn sẽ đem tử thi đi hỏa thiêu, chứ không nhập thổ chôn thây, bởi vì những nơi sơn cùng cốc hẻm có rất nhiều côn trùng, rắn rết và dã thú, lại không có quan tài để đặt thi thể, nên chẳng bao lâu sau thi thể sẽ bị dã thú kéo đi ăn thịt hoặc nếu chết ở sa mạc khô nóng, tử thi sẽ khô quắt lại, da thịt không thể tiêu hủy trong suốt nhiều năm, mà sẽ giữ nguyên ở hình dạng cũ, đừng nói nếu âm hồn biết sẽ đau lòng, mà ngay cả người sống cũng không nỡ nhìn, bởi vậy họ mới chọn cách hỏa thiêu người chết.



Lúc trước, Nhị Học Sinh bất ngờ đột tử trước tấm bia đá, chính tay Tư Mã Khôi đã hỏa thiêu thi thể, rồi thả cái xác đã bị thiêu cháy ấy xuống hố sâu dưới đáy động, vậy sao đột nhiên giờ Nhị Học Sinh lại xuất hiện ở phía bên kia của tấm bia đá được?



Trăm nghe không bằng một thấy, tim Tư Mã Khôi đập thình thình, anh nhìn về phía tay Cao Tư Dương đang chỉ, chính là nơi Nhị Học Sinh vừa đứng. Tấm bia cổ khổng lồ và dày nặng đứng sừng sững cả mấy ngàn năm ở tận cùng địa mạch, do chịu sức nặng không tương xứng, nên chỗ nào cũng chằng chịt những vết nứt hình mai rùa, chỗ nông chỗ sâu; có điều kết cấu tấm bia thì vẫn vô cùng chắc chắn, nếu không xảy ra địa chấn dữ dội thì khả năng nó còn giữ nguyên hình dạng này đến mãi mãi. Thời gian trôi chảy hết năm này qua năm khác, nó vẫn đứng uy nghiêm trong động ngầm, phần phía dưới chân tấm bia có vết nứt ngang, ngoài rộng trong hẹp, Tư Mã Khôi đứng trước vết nứt, chỉ cần khẽ cúi xuống là có thể nhìn xuyên sang phía bên kia của tấm bia.



Hóa ra vết nứt này khá sâu, anh tháo đèn quặng trên đầu xuống để soi cho rõ, lúc ánh sáng xuyên qua khe nứt hẹp, anh có thể nhìn thấy phía bên kia của bia đá, bên đó tối đen như mực, nhưng dường như thông với một lối đi. Phạm vi chiếu sáng của đèn quặng khá nhỏ, góc chiếu lại bị giới hạn trong phạm vi khe nứt, nên rất khó nhìn thấy tình hình ờ phía bên kia, dù vậy vẫn đủ để anh thấy một bóng đen đứng lù lù trong màn đêm dày đặc, dường như kẻ đó đang đứng quay lưng lại với anh. Nhận thấy ánh đèn soi về phía mình, kẻ đó từ từ quay đầu lại, khuôn mặt méo mó vì sợ hãi rất quen thuộc kia nhìn thẳng vào Tư Mã Khôi qua khe nứt của bia đá, rồi anh thấy khuôn mặt đó đột nhiên rụt về phía sau và biến mất.




Tư Mã Khôi hết hồn, anh mở to mắt cố nhìn sang phía bên kia của tấm bia, nhưng trước mặt chỉ còn màn đêm đen ngòm, khi hội Hải ngọng và Thắng Hương Lân lại gần tấm bia đá và nhìn sang, thì không còn thấy gì nữa.



Cao Tư Dương vẫn không dám tin vào những gì mình vừa nhìn thấy, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có nhìn rõ không? Rốt cuộc đó là người hay ma?”



Tư Mã Khôi kể lại cảnh tượng mình vừa trông thấy cho ba người còn lại nghe, lòng anh biết rõ kẻ xuất hiện ở phía bên kia của tấm bia đá chính là Nhị Học Sinh – người vừa mới chết cách đây không lâu, đó là sự thật không thể sai được, có điều người chết giống như ngọn đèn đã tắt, hài cốt của Nhị Học sinh đã bị thiêu cháy thành tro, hơn nữa cậu ta lại không phải dị nhân có khả năng thông hiểu yêu thuật như Triệu Lão Biệt, thì làm sao còn có thể hiện hình sau khi đã chết được?



Thắng Hương Lân đoán: “Trong mạch đất tồn tại sương đen mang từ tính, có lẽ vừa rồi chỉ là hư ảnh xuất hiện trong sương mà thôi. Lần trước, dưới hố tế lễ Sở Vương ở biển Âm Dụ phía dưới Đại Thần Nông Giá, chẳng phải chúng ta cũng từng gặp phải hiện tượng này rồi sao?”



Tư Mã Khôi lại cảm thấy lần này dường như không giống lần trước, vì chỉ khi tiếp xúc với sương đen, một vật mới có thể để lại hư ảnh của nó trong sương, nhưng xung quanh tấm bia nào có sương mù dày đặc, hơn nữa khe nứt trên tấm bia rất hẹp, người thường, không thể chui qua được, nên trước khi chết chắc chắn Nhi Học Sinh chưa từng chui qua khe nứt để sang phía bên kia của tấm bia đá.



Hải ngọng nói: “Thế thì chắc là ma rồi, nghe nói người nào chết bất đắc kỳ tử, thì oan khí lúc sinh thời không thoát ra được, nó khiến cho âm hồn mãi mãi không thể tiêu tan…”



Tư Mã Khôi nói: “Tớ thấy Nhị Học Sinh ở phía bên kia bia đá rõ ràng là người sống, ít nhất khi cậu ta quay mặt lại thì vẫn còn đang sống, nhưng thoáng một cái sinh khí đó vụt biến mất, rồi bộ dạng cậu ta y hệt như lúc sợ quá mà chết ấy!”



Cao Tư Dương sợ hãi nói: “Hay những chuyện đã xảy ra ở bên này của tấm bia, sẽ xảy ra lần nữa ở phía bên kia của tấm bia?”



Lời nói của Cao Tư Dương tuy chỉ vô tình, nhưng hội Tư Mã Khôi nghe mà thấy lạnh hết tóc gáy – những chuyện đã xảy ra sẽ diễn lại một lần nữa ở phía bên kia tấm bia sao?



Lẽ nào đây chính là bí mật của tấm bia đá? Rốt cuộc phía bên kia của tấm bia tồn tại thứ khủng khiếp gì?



Thắng Hương Lân nói, người Bái Xà cho rằng thế giới chia ra thành hai phần hư và thực, chúng tồn tại tương ứng, vạn vật vạn sự mà chúng ta biết thuộc về thế giới thực, còn những thứ tồn tại ở thế giới hư thì không ai biết, lẽ nào phía bèn kia của tấm bia chính là thế giới hư?




Tư Mã Khôi nói: “Trước đây nghe giáo sư Nông địa cầu nói về thuyết âm dương và thái cực đồ, đó là một vòng tròn có hai sắc đen trắng, mỗi màu chiếm một nửa, trong phần đen có một chấm tròn trắng, còn trong phần trắng có một chấm đen, ở giữa là dải phân cách hình chữ S tượng trưng cho hỗn độn giữa hai cõi âm dương, đen trắng, hư thực, dải chữ S cong cong đó gọi là đường gì ấy nhỉ? Tóm lại tấm bia đá của người Bái Xà chính là ranh giới giữa hai cõi hư thực giống như dải phân cách hình chữ S kia.”



Thắng Hương Lân nói, có lẽ đó là đường cong lưu chuyển thái cực, nếu thực sự tồn tại đường cong này thì phía đối diện của tấm bia chính là thế giới hư.



Hải ngọng kinh ngạc nói: “Chỗ chúng ta đang đứng đã sâu đến mức không thể sâu hơn nữa, nếu tiếp tục đi xuống dưới sẽ là biển lửa, suối nóng đủ luộc chín người, trách gì phía sau tấm bia đá vẫn còn thông đạo để có thể đi sâu hơn nữa, không những vậy còn thấy hàn khí âm lạnh bốc lên, thì ra nơi đó thông với cái gì mà… “hư”… đó sao?”



Tư Mã Khôi im lặng, anh vẫn không thể xác định tấm bia đá này rốt cuộc có điểm gì cổ quái, bởi vậy anh lại ngó đầu vào khe nứt nhòm sang phía bên kia sâu hút, nhưng ở đó chỉ có màn đêm mênh mang, không nhìn thấy gì hết, nơi sâu thẳm đó chứa đầy hơi thở của cái chết tuyệt vọng, nó khiến người ta thấy thấu lạnh tim gan. Nhưng nếu theo phương pháp suy đoán này, thì tấm bia đá dường như tồn tại ở đây để ngăn chặn thứ gì đó bò ra từ thế giới hư, có điều tấm bia đá của người Bái Xà cũng chỉ là một tảng nham thạch khổng lồ, bị vùi hàng ngàn năm dưới cửu tuyền, khắp bề mặt lỗ chỗ toàn vết rạn nứt loang lổ, trên tấm bia khắc lặp đi lặp lại một dãy số, nhưng dẫu vậy cũng làm sao có thể ngăn chặn nổi thứ gì? Hơn nữa, nếu suy đoán như vậy thì hoàn toàn không khớp với truyền thuyết về tấm bia đá của người Bái Xà.



Vấn đề then chốt của tấm bia chính là không ai được phép nhìn, cũng như không được phép nghĩ về dãy số đó, bí mật này nhất định có liên quan đến tên Nấm mồ xanh không bao giờ dám lộ mặt, mọi suy đoán một chiều dường như chỉ khiến tư duy sa vào ngõ cụt, không biết bây giờ nên tìm manh mối từ đâu? Xem ra chỉ có cách mạo hiểm leo sang phía bên kia của tấm bia mới có cơ hội tìm ra chân tướng sự thật.



Tư Mã Khôi nghĩ vậy liền vác súng lên vai, bám vào các vết nứt trên tấm bia để trèo lên chỗ cao, rồi soi ánh đèn quặng, đưa mắt tìm kiếm. Anh phát hiện tấm bia đá được đặt như găm sâu vào vách đá, nhưng giữa phần đỉnh của tấm bia đá bị sụt xuống và tầng đá phía trên có một khe hở vừa sâu vừa hẹp, nơi cao nhất trong khe hở cũng gần một mét, chỉ cần khom lưng xuống là có thể chui qua đó để sang mặt bên kia tấm bia, phần phía trên tấm bia dày mấy mét cũng khắc đầy những kỳ tự số cổ quái, nét vẽ cổ xưa, thô cứng, đặc biệt là khắc rất sâu, tuy nó cũng bị đất cát và rong rêu phủ lấp, nhưng vẫn có thể lờ mờ nhìn thấy dấu tích văn tự trên mặt bia, Tư Mã Khôi muốn đứng từ nơi cao nhìn xuống phần chân tấm bia, nhưng chùm sáng đèn quặng đã bị bóng tối nuốt chửng, nên tầm nhìn của anh gần bằng không, tuy vậy mũi thoang thoảng ngửi thấy mùi thối của xác chết, luồng âm phong lạnh thấu xương thổi thốc lên làm anh cảm giác như mình đang đứng trước miệng vực dựng đứng và sâu hút.



Lúc này, hội Hải ngọng cũng lồm cồm bò lên đến phần trên cùng bia, nhìn về phía hang động đen ngòm. Tuy cả hội toàn những người cứng gan, nhưng trèo lên đến đây vẫn thấy tim đập chân run.



Hải ngọng xách súng săn liếc mắt nhìn xuống dưới mấy lượt, càng không nhìn thấy gì trong lòng anh lại càng thấy rờn rợn, anh bảo Tư Mã khôi: “Sao chỗ này cứ có mùi người chết thế nhỉ? Tớ thấy mặc kệ phía dưới có thứ gì, nhưng đây chắc chắn là nơi có đi mà không có về, chi bằng ta nghĩ cách cạo sạch dãy số mà Nấm mồ xanh đang muốn tìm cho xong, sau đó chạy trốn càng xa càng tốt, có chết cũng đừng chết ở nơi đến ma cũng không thể tìm thấy thế này”.



Tư Mã Khôi lắc đầu nói: “Bây giờ còn không rõ vì sao Nấm mồ xanh muốn tìm tấm bia đá, cho nên trước khi xác định rõ ý nghĩa của dãy số, không ai được động tay vào tấm bia!”



Tư Mã Khôi vừa nói vừa chuẩn bị lửa đuốc chiếu sáng, anh đang định chui vào động tối phía bên kia của tấm bia để tìm hiểu cho rõ.




Thắng Hương Lân vẫn là người chu đáo hơn cả, cô nhắc nhở Tư Mã Khôi, chính vì không đoán được ý đồ của Nấm mồ xanh, nên mỗi hành động trước tấm bia đá đều có thể tạo ra một kết quả không thể cứu vãn được, mà chưa biết chừng mục đích của Nấm mồ xanh chính là… muốn những kẻ may mắn sống sót chúng ta chui xuống cửu tuyền để vén bức màn bí mật này cũng nên.



Tư Mã Khôi nghe xong, tim chợt hụt đi một nhịp, cách hành xử của Nấm mồ xanh quái dị, khó lường nên khả năng đó cũng chưa hẳn không thể xảy ra, vì sao bí mật khắc trên tấm bia không được phép nhìn, cũng không được phép nói ra? Đằng sau dãy số kia ẩn giấu bí mật khiếp người nào? Vì sao rất nhiều nhà thám hiểm và nhà khảo cổ đều cho rằng nó chính là bí mật lớn nhất thế giới? Nó là mật mã? Tín hiệu? Ám ngữ? Lời nguyền? Hay một loại tần số sóng điện nào đó?



Bất kể đáp số là gì, thì làm sao nó có thể giết người được? Hang động ở phía đầu bên kia của tấm bia có phải thế giới hư vô? Khuôn mặt chưa bao giờ dám để người khác trông thấy của Nấm mồ xanh liệu có mối quan hệ gì với chuỗi ẩn số này? Góc chết trong lòng mọi người bây giờ chính là một loạt câu đố không thể né tránh nhưng cũng không thể đáp, nó dày vò, buộc họ phải tìm ra chân tướng, có điều họ đều không biết sau khi làm vậy xong thì hậu quả sẽ ra sao?



Tuy Tư Mã Khôi có tài ứng biến, nhưng anh chưa bao giờ chiếm được thế thượng phong trong những lần giao đấu với Nấm mồ xanh. Chỉ vì không biết người biết ta, nên một Triệu Lão Biệt có những ba sinh mệnh, một gã hái thuốc quái nhân ở núi Thần Nông Giá, đội thám hiểm Corrot thâm nhập vực sâu bằng khí cầu nhiệt và cả mấy người hội Tư Mã Khôi dường như đều là những quân cờ trong tay Nấm mồ xanh, những quân cờ quay cuồng trong sức mạnh thấu hiểu mọi quy luật nhân quả, và bất luận họ giãy giụa thế nào cũng không thể thay đổi được vận mệnh. Có điều giờ phút này vẫn còn đường lui cho hội Tư Mã Khôi nếu họ lựa chọn cách cuối cùng, đó chính là từ bỏ cơ hội vén tấm màn bí mật, dẫu cho không thể sống sót tháo chạy khỏi lòng đất, thì cũng phải lập tức rời xa tấm bia đá.



Vì muốn phá giải ẩn số về Nấm mồ xanh và tấm bia đá của người Bái Xà, hội Tư Mã Khôi đã phải trả một giá đắt đến nỗi không thể đắt hơn, giờ trong lòng ai cũng chuẩn bị sẵn tâm lý quyết tử, trước mắt chỉ còn một bước cuối cùng nữa thôi, nếu đột ngột thay đổi quyết định quay đầu trở lại, thì quả cũng không dễ dàng gì.



Đang lúc do dự, đột nhiên cả hội nghe thấy một tiếng động phát ra từ trong hố sâu phía dưới thanh xà đá. Biết có điều lạ, mọi người liền dùng tay ra hiệu rằng tất cả sẽ bò xuống chân tấm bia theo đường cũ. Cả hội giữ chắc súng, tiến về phía xà đá, rồi cúi đầu xuống quan sát, nhưng ở đó xương khô chất đống cao như núi. Họ giơ đuốc về phía ấy nhưng chỉ thấy một khối sáng nhờ nhờ, bỗng trong góc tối mà chùm sáng đèn quặng không thể chiếu tới vọng ra tiếng người với âm sắc lạnh lùng, giọng nói này không hề xa lạ với hội Tư Mã Khôi, đó chính là gã Nấm mồ xanh thoắt ẩn thoắt hiện như ma quỷ, ngặt nỗi đối phương trốn trong góc chết, không nằm trong tầm ngắm súng ngắn của họ.



Đầu Hải ngọng muốn bốc hỏa, anh định nhảy ngay xuống tóm cổ Nấm mồ xanh.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ, sao Nấm mồ xanh chẳng xuất hiện sớm hơn hoặc muộn hơn, mà nhằm đúng lúc mình đang một bụng nghi ngờ, do dự không biết nên tránh xa tấm bia đá hay không để xuất hiện? Điều đó chứng tỏ phán đoán của Thắng Hương Lân hoàn toàn chính xác. Xem ra, bí mật khắc trên tấm bia đá của người Bái Xà quả nhiên không được phép tiết lộ, lúc này nếu hành sự lỗ mãng, chưa biết chừng lại trúng kế của đối phương, thế là anh ra hiệu cho Hải ngọng không được rời khỏi xà đá.



Nấm mồ xanh cười khan mấy tiếng sau đống xương khô, rồi bảo Tư Mã Khôi: “Các ngươi đúng là còn ranh hơn ma, không ngờ lại phát hiện ra ý đồ của ta vào giờ khắc then chốt cuối cùng, đúng là ta muốn bọn mi xóa hết bí mật trên bia đá. Đến nước này thì ta cũng chẳng ngại nói thẳng toẹt ra với các ngươi, nếu ta nói cho bọn mi biết vì sao dãy số kia là bí mật lớn nhất thế giới, chỉ e ngay cả các ngươi cũng không muốn để nó tiếp tục tồn tại trên cõi đời này nữa đâu”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 189: Hồi 5: dãy số


Tư Mã Khôi im lặng nấp trên thanh xà đá, lòng thầm nghĩ, tuy viên sĩ quan quân đội Sa hoàng kia đã phát hiện thấy phần còn lại của tấm bia trong hố quặng số 111, nhưng thứ nhất chữ viết trên tấm bia là chữ triện cổ, thứ hai nội dung lại khuyết, không còn toàn vẹn, hơn nữa sau khi phá hủy tấm bia, ông ta lại lưu vong ở nước khác, mấy năm sau mới chết, xem ra cái chết của ông ta hoàn toàn không liên quan đến lời nguyền sẽ chết lập tức sau khi nhìn thấy tấm bia, lẽ nào Nấm mồ xanh đang bịa chuyện?



Nấm mồ xanh cũng biết hội Tư Mã Khôi bắt đầu nghi ngờ, bèn nói: “Các ngươi không cần đa nghi thế, nghe tiếp câu chuyện tự khắc sẽ hiểu thôi. Cựu quý tộc Sa hoàng Rasputin tháo chạy sang một nước khác ở châu Âu, nhưng vẫn còn tâm niệm nghĩ đến kho báu khổng lồ nằm dưới lòng đất trong hố quặng số 111. Năm đó, việc ông ta phá hủy tấm bia cũng là vì không muốn để kho báu này bị bại lộ ra ngoài.



Cứ khi màn đêm buông xuống, Rasputin lại trốn trong phòng, giở cuốn sổ ghi chép ra xem đi xem lại, hi vọng sẽ giải mã được ẩn số trên tấm bia, ngặt nỗi ông ta chỉ biết mang máng cách đọc mấy chữ tượng hình bí ẩn và cổ quái kia mà thôi, ngay cả thứ tự trước sau của chúng thế nào, ông ta cũng không rõ, nên cứ lộn lên lộn xuống xem không biết bao nhiêu lần, thậm chí ngay cả trong mơ ông ta cũng mơ thấy mình đang giải chữ. Nhưng mãi mà Rasputin vẫn không có thêm bất cứ phát hiện gì, hơn nữa trong lòng ông lại khôn nguôi nỗi nhớ cố hương. Những việc này khiến Rasputin luôn cảm thấy âu sầu, nên cuối đời, ông thường mượn rượu giải buồn.



Một buổi tối chủ nhật, ông ta đến một nhà hàng gần đó ăn tối, trong nhà hàng có một tay chơi dương cầm thuận tay trái đang tấu nhạc khúc phục vụ khách ăn. Rasputin xuất thân từ tầng lớp cựu quý tộc Sa hoàng, nên được hưởng nền giáo dục khá cao cấp, ông ta không chỉ hiểu về âm luật, mà còn giỏi chơi dương cầm, đặc biệt là các tác phẩm của Tchaikovsky. Rasputin vừa nghe đã phát hiện tay chơi dương cầm thuận tay trái này chỉ là tay chơi hạng thường, không có khả năng thiên phú, thế là ông ta bảo người đánh đàn tránh sang một bên, tự mình lên tấu khúc, chẳng ngờ tiếng đàn xuất phát từ tiếng lòng, trong đầu Rasputin khi đó bất giác lại nghĩ đến các văn tự khắc trên tấm bia cổ, khiến một đoạn âm luật vô cùng quái dị đã hòa vào trong khúc nhạc.




Lúc ấy, quán ăn đang đầy khách, nhưng suốt thời gian Rasputin tấu khúc, cả gian phòng bỗng chốc im phăng phắc. Tấu xong khúc nhạc, ông ta rời khỏi quán ăn với khuôn mặt cực kỳ u ám, về đến nhà, ông ta lập tức châm lửa tự thiêu. Cả tòa nhà và toàn bộ tài sản của ông đều cháy rụi trong ngọn lửa rừng rực, không ai hiểu vì sao ông ta đột nhiên lại dùng cách tàn khốc như vậy để kết liễu sinh mệnh của chính mình, trong khi trước đó ông ta không hề có dấu hiệu muốn tự tử.



Không những vậy, những chuyện đáng sợ hơn còn ở phía trước, tất cả thực khách nghe khúc dương cầm trong quán ăn lúc ấy đều bước vào tuyệt lộ một cách kỳ bí. Liên tiếp trong vòng ba ngày, người thì nhảy lầu, kẻ thì treo cổ, cứa cổ tay tự tử, mọi người lần lượt tìm đến cái chết. Nhưng vì những người này ngoại trừ cùng ăn trong quán ăn tối hôm ấy ra, thì không hề có mối liên quan gì với nhau, nên không tạo rạ sự chú ý cho cộng đồng thời bấy giờ.



Chỉ duy tay chơi dương cầm thuận tay trái nọ may mắn thoát nạn, bởi anh tạ bị Rasputin làm mất mặt, trong lòng bực bội nên nhanh chóng rời khỏi quán ăn. Đi đến nửa đường, anh ta mới phát hiện mình quên mang theo áo khoác, nên đành quay trở lại lấy áo. Lúc quay trở lại quán, anh ta chỉ nghe được một đoạn trong khúc nhạc của Rasputin, nhưng tiếng nhạc với những âm luật kỳ quái đó như khắc sâu trong trí não anh ta, muốn xóa bỏ cũng không thể xóa nhòa được. Trong sát na, anh ta cảm thấy đất trời u tối, không khí tuyệt vọng và sợ hãi bao trùm khắp nơi, tay chơi đàn tay trái kinh sợ, vội vàng bỏ đi khỏi quán.



Sau đó, tay chơi đàn thuận tay trái soạn ra một khúc dương cầm, đặt tên là “Gloomy Sunday” cũng chính là ca khúc “Chủ nhật buồn”. Mấy ngày sau đó, anh ta tấu khúc nhạc này cho bạn gái nghe, cô bạn gái mới nghe được một nửa thì mặt đã tái đi như xác chết, lập tức chia tay với tay chơi dương cầm, vài tháng sau cô ta tự sát. Hàng trăm người nghe khúc nhạc đã tìm đến cái chết, chuyện này lan truyền khắp đàu đường cuối phố, hễ nhắc đến nó, mọi người lại biến sắc, ngay cả giới cảnh sát phụ trách điều tra vụ án cũng đều thiệt mạng, tay chơi dương cầm thuận tay trái Seress Rezso đương nhiên không thoát khỏi vận đen, anh ta cũng nhảy lầu tự tử không lâu sau đó.



Do gây ra cái chết bất thường của hàng trăm người, nên “Gloomy Sunday” bị mệnh danh là “Bài hát thần chết” và nghi mang theo lời nguyền, nó bị cấm lưu hành và thu hồi để tiêu hủy trên phạm vi toàn thế giới. Trên thực tế, Seress chỉ dựa vào một đoạn ngắn mà mình nghe được trong quán ăn khi ấy và cải biên lại mà thôi, có thể nói nó chỉ là hợp chất diễn sinh của tam bia đá Bái xà. Viên sĩ quan quân đội Sa hoàng Rasputin căn bản chưa hiểu nhiều về bí mật của tấm bia đá, cùng lắm mới vô tình đọc được một nửa, trong khi đó “Chủ nhật buồn” là diễn sinh gián tiếp từ một nửa bí mật ấy, nó sớm đã mất đi bản chất vốn có, vậy mà vẫn khiến nhiều người phải bỏ mạng đến vậy, từ đó có thể thấy bí mật khắc trên tấm bia đá khủng khiếp và đáng sợ đến mức nào.



Hội Tư Mã Khôi nghe đến đây thì từng ẩn số xoắn kết trong lòng dần dần được gỡ ra. Thì ra, dãy số trên tấm bia và đáp án của nó không phải là nội dung, mà là âm thanh, chỉ khi dùng hệ ngôn ngữ nguyên thủy để đọc nội dung tấm bia thì nó mới khiến người ta mất mạng.




Nấm mồ xanh nói, người Bái Xà cổ đại biết đến bí mật này từ miệng một xà nữ giống như cương thi, não của ả đã khô quắt, chỉ có thể phát ra những âm thanh thì thào trong miệng, một vài người Bái Xà thấy xà nữ nói thì ghé tai vào nghe, những người này nghe xong, hai mắt lập tức trợn ngược, não hóa lỏng chảy xuống khoang mũi. Những người Bái Xà khác thấy vậy, trong lòng vô cùng kinh hãi, cho rằng những người này đều bị bí mật thần bí kia giết sống ngay tại chỗ, nên đành áp dụng phương pháp cho mỗi người nghe từng đoạn một, rồi ghi chép lại bí mật vốn không nên tồn tại trên cõi đời và khắc trên bia đá. Ngàn năm dâu bể trôi qua, chỉ duy có phiến đá bị chôn vùi dưới cửu tuyền này là tránh được muôn vàn kiếp nạn và nguyên vẹn tới ngày nay.



Người Bái Xà cổ đại đào đất quá sâu, dẫn đến nạn lũ lụt và họa diệt vong, may nhờ Vũ Vương khai phá Long môn nên họ mới sống sót, nhưng họ lại bị bắt làm tù bịnh, trở thành nô lệ, chuyên làm việc dưới lòng đất để dẫn nước lũ vào Vũ khư. Đám nô lệ này không cam tâm chịu đựng ách thống trị tàn khốc của vương triều nhà Hạ, bèn nảy sinh ý nghĩ tìm lại tấm bia đá bị chôn sâu dưới cửu tuyền để đối phó với Hạ Vũ nhưng lũ lụt lại bịt kín thông đạo ban đầu, mãi đến khi hậu duệ cuối cùng của tộc người Bái Xà hoàn toàn bị diệt vong, họ vẫn chưa được thỏa nguyện, bí mật cổ đại ghi chép trên tấm bia Bái Xà dần dần bị cát bụi của lịch sử vùi lấp cùng tuế nguyệt.



“Chủ nhật buồn” sớm thu hút sự chú ý của Liên Xô ngay từ thời kỳ đầu chiến tranh lạnh, thông qua nhiều con đường, bộ phận gián điệp đã nắm được cội nguồn của tín hiệu chết người này xuất phát từ mảnh vỡ trên tấm bia cổ đại chôn dưới lòng đất Tân Gương, tuy những ghi chép của viên sĩ quan quân đội Sa hoàng Rasputin đã bị tiêu hủy và những mảnh còn lại của tấm bia Bái Xà cũng không còn tồn tại, nhưng người Liên Xô vẫn không từ bỏ ý đồ của mình.



Họ hợp tác với Trung Quốc tiến hành khai quật hố quặng số 111 với quy mô lớn, đồng thời bắt dầu thực hiện “kế hoạch kính viễn vọng địa cầu”. Căn cứ vào suy đoán của phía Liên Xô, trong não người tồn tại hơn một trăm tỉ nơron thần kinh, bình thường con người chỉ sử dụng một phần nhỏ trong số đó, phần còn lại sẽ nằm trong trạng thái say ngủ mãi cho đến khi họ chết đi. Chỉ cần hiểu cách đọc ngôn ngữ Bái Xà, bất luận là nhìn hay đọc, thậm chí trong đầu nghĩ đến bí mật của tấm bia Bái Xà, thì tự khắc trong não sẽ sản sinh ra một tín hiệu khiến những tế bào thần kinh ở nơi sâu nhất sẽ bài tiết với tốc độ chóng mặt, chẳng bao lâu quá trình đào thải ấy sẽ vượt quá sức chịu đựng, cuối cùng dẫn đến hậu quả đại não bị tan chảy trong xương sọ.



Mọi người nghe xong đều sợ hãi đến lạnh người, nếu nói vậy thì dãy mật mã chết người này sẽ khiến não người hóa lỏng. Tư Mã Khôi không tin điều này, anh đâu hiểu thế nào là nơron thần kinh, nhưng nghe nói thời cổ đại cho rằng trong cơ thể con người có “tam thi cửu trùng”, nếu những người trong môn đạo mong muốn trường sinh bất tử, thì trước hết cần phải chém chết tam thi(1), sau đó loại bỏ cửu trùng, trong đó thượng thi có tên gọi là Bành Cư, sống trong não người, lúc thường nó chỉ ẩn thân bất động, thỉnh thoảng mới xuất hiện trong giấc mơ làm loạn thần trí của con người, nhưng một khi nó thực sự tác oai tác quái thì sẽ nuốt chửng tủy não, khiến con người nhanh chóng mất mạng. Bí mật trên tấm bia đá Bái Xà giống như một loại tín hiệu “đánh thức Bành Cư dậy.”



[1] Tam thi: hay còn gọi là Tam Bành, gồm Bành Cự, Bành Chất, Bành Kiện, ba vị thần này lần lượt cư trú trong đầu, bụng, tim của con người, chuyên xúi giục con người làm điều xấu.



Tư Mã Khôi không lạ lẫm gì với tam thi, nghe nói tam thi trông giống như sợi thịt, trong đó thượng thi là kẻ tàn độc nhất. Thời Tống có một viên chỉ huy cấm quân tên là Triệu Minh Dương thường hay luyện khí, thông qua các cổ tịch, ông ta biết được có ba vị thần tam thi trốn trong cơ thể con người, làm hạn chế tuổi thọ của con người, thế là ông ta âm thầm uống thuốc, dần dần khống chế được các thi thần, về sau ông ta dẫn binh ra ngoài chinh phạt, đêm xuống khoanh gối ngồi một mình trong màn luyện khí, bỗng thấy một luồng khí thanh trong ngực dội ngược lên, ông không tự chủ, được hét to lên một tiếng. Trong đêm thanh vắng, tiếng hét đó nghe vang như tiếng rồng gầm trong đầm lớn, binh lính khắp doanh trại không ai không run sợ.




Tới khi quân lính chạy tới trại của tướng quân xem xét, thì thấy Triệu Minh Dương đã thoát hình mọc cánh. Từ xa xưa đã xuất hiện rất nhiều truyền thuyết kiểu này, đa phần đều nói về một dị sĩ nào đó chặt chém tam thi để giải thoát khỏi sự ràng buộc của kiếp sinh tử, cuối cùng từ thi thể phàm trần hóa thành thánh nhân. Những chuyện như vậy thực ít hư nhiều, nhưng nếu đứng từ góc độ này thì Tư Mã Khôi thấy không khó để lý giải bí mật của bia đá Bái Xà. Nói tóm lại, nội dung khắc trên tấm bia là một chuỗi âm thanh tuyệt đối không thể phát ra từ miệng người bình thường, âm thanh này tựa hồ tín hiệu chết chóc đến từ vực sâu, khi nó xuất hiện trong não người ở bất cứ ý thức nào, thì đều khiến thượng thi ẩn sâu trong não người tỉnh dậy tác quái, khiến con người mất mạng.



Tư Mã Khôi tin rằng đây chính là đáp án đích thực của tấm bia đá Bái Xà, quả nhiên đó là một bí mật không được phép nói ra, không được phép nhìn, cũng không được phép nghĩ đến. Nấm mồ xanh không hề nói dối mọi người, bởi rốt cuộc chỉ có cách giải thích này mới hợp logic, nếu đối phương không nói thẳng ra, thì với hiểu biết của hội Tư Mã Khôi chắc chắn không thể tìm được đáp án, mọi người nghe xong đều khiếp sợ, không ai thốt được lên lời.



Nấm mồ xanh thấy bốn người đều im lặng không thốt được câu nào, hắn cười khan một tiếng rồi nói: “Bây giờ các ngươi đã biết bí mật khắc trên tấm bia đá Bái Xà nguy hiểm như thế nào rồi chứ? Ngay cả ta cũng chỉ mới biết về lai lịch của bí mật này, hoàn toàn không biết nội dung của nó, nếu không mạng này làm sao còn tồn tại tới tận bây giờ? Nguyện ước kiếp này của ta rốt cuộc đã trở thành sự thực, có thể hủy hoại bí mật vốn không nên tồn tại trên cõi đời này, bởi vì một khi tấm bia đá Bái Xà bị người khác phát hiện, thì ít nhất nửa dân số trên cõi đời này sẽ bị thiệt mạng, điều lợi hại của nó không nói ra các ngươi tất cũng hiểu, bởi vậy trước đây ta không dám tiết lộ nửa chữ.



Từ cổ chí kim những người làm được đại sự đều không câu nệ tiểu tiết, ta khuyên chư vị không nên ghi nhớ thù cũ, chuyện giữa chúng ta ngày sau nói cũng chưa muộn, đây gọi là “quân tử báo thù mười năm chưa muộn, tiểu nhân báo thù chỉ tính hôm nay”, đợi sau khi triệt tiêu được mầm họa động trời từ tấm bia đá, ta hứa sẽ cho các người một… vừa ý. Bây giờ cơ hội hiếm có, bên người các người chẳng phải có thuốc nổ hay sao? Hãy nắm bắt thời gian, mau chóng phá hủy tấm bia đá Bái Xà, hành động này sẽ giúp các người tích được không ít dương đức đâu, nói không chừng lại có cơ hội sống sót thoát ra khỏi lòng đất cũng nên.”



Tuy Tư Mã Khôi liều mạng và không sợ chết, nhưng sau khi biết bí mật của tấm bia đá, anh cũng không khỏi cảm thấy ớn lạnh, anh không sợ sự nguy hiểm của tấm bia đá mà anh cảm thấy cùng với lời giải dần dần được sáng tỏ, thì ẩn số về lai lịch Nấm mồ xanh càng trở nên đáng sợ hơn. Lúc này, Nấm mồ xanh đã mở lời tiết lộ về chân tướng sự thật và mong muốn hội anh giúp hắn phá hủy tấm bia đá, xóa bỏ triệt để tín hiệu chết người kia khỏi cõi đời. Xem ra, đối phương không hề muốn chiếm hữu bí mật động trời ấy làm của riêng, nhưng cách hành sự của Nấm mồ xanh từ trước đến giờ đều vô cùng nham hiểm, độc ác, tâm địa khó lường, sao bỗng dưng hắn lại sinh lòng thiện như thế? Khuôn mãt thật sự của hắn rốt cuộc là gì? Làm sao hắn biết được tất cả ngọn nguồn của chuyện này? Lẽ nào giống như lời Triệu Lão Biệt từng nói, hắn là một người nào đó mà đội thám hiểm cùa anh từng gặp trước đây?



Tuy Tư Mã Khôi không thể nhìn thấu lai lịch của Nấm mồ xanh, nhưng có một điểm anh có thể dám chắc, đó là phía sau tấm bia đá ở nơi sâu dưới cửu tuyền này ẩn giấu một ẩn số còn sâu hơn cả cửu tuyền, việc Nấm mồ xanh không dám đọc nội dung của tấm bia, chứng tỏ hắn thông hiểu hệ ngôn ngữ cổ đại đã bị thất truyền từ rất lâu, trên đời làm gì còn tồn tại nhân vật nào như vậy? Nói không chừng bản thân hắn chính là con quỷ bị nhốt trong tấm bia đá. Trước đây hội Tư Mã Khôi đã để lỡ mất hai cơ hội ở thành Nhện Vàng, Miến Điện và trên hòn đảo cổ dưới lòng đất ở 30° vĩ Bắc, không thể quá tam ba bận, bất luận đối phương là người hay ma, phen này anh nhất quyết phải lột mặt nạ của hắn!


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 190: Hồi 6: tiệm cận vô hạn


Tư Mã Khôi biết rõ tầm quan trọng của tấm bia đá, nên trước khi tìm ra được điều cổ quái còn ẩn giấu phía sau hang động, anh tự như mình tuyệt đối không thể manh động, nhưng đồng thời anh cũng không cam tâm để Nấm mồ xanh cứ thế chạy thoát. Tư Mã Khôi cố gắng phân biệt phương hướng và vị trí âm thanh phát ra trong bóng tối, hố sâu phía dưới cách xà đá khoảng hơn chục mét, anh áng chừng có thể thi triển chiêu “Bọ cạp đảo đầu leo tường” bò xuống vách, rồi tóm thẳng cổ Nấm mồ xanh lôi ra khỏi đám xương khô. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi bèn ra hiệu cho ba người còn lại chuẩn bị hành động.



Hải ngọng đã mất kiên nhẫn từ lâu, anh không thể đợi chờ thêm nữa, đầu nghĩ thầm: “Bất kể Nấm mồ xanh là người hay ma, thì ông đây cũng phải làm lông nó rồi hẵng tính!”, lúc này thấy Tư Mã Khôi phát tín hiệu, anh lập tức bật nút đèn quặng trên đầu, lên nòng kim hỏa khẩu súng săn gấu hai nòng.



Cao Tư Dương lặng lẽ giơ đuốc lên, sẵn sàng thắp sáng và ném xuống đáy hố bất cứ lúc nào, vị trí cả hội đang đứng là trên cao nhìn xuống, chỉ cần thấy rõ địa hình, cô chắc chắn có thể xuyên vài cái lỗ trên người Nấm mồ xanh.



Súng lục của Thắng Hương Lân đã lên đạn, thấy Tư Mã Khôi và hai người kia đều chuẩn bị lâm trận, đột nhiên cô cảm thấy có một dự cảm chẳng lành. Mọi người vốn không cách nào đoán được đáp án của ẩn số trên tấm bia đá, nhưng Nấm mồ xanh đã chủ động tiết lộ bí mật ấy, vì thế mọi người mới trực tiếp ý thức được sự nguy hiểm của tấm bia. Việc đã đến nước này, ai cũng có thể thấy rõ, trong hang động bị tấm bia đá chặn ngay phía trước nhất định tồn tại một bí mật còn đáng sợ hơn cả tấm bia đá, bởi vậy bất luận xảy ra chuyện gì, mọi người đều không được động đến tấm bia đá, nếu không sẽ gây ra hậu họa sụp trời khó lòng cứu vãn.



Vấn đề là với kẻ tâm địa thâm hiểm như Nấm mồ xanh, thì chắc chắn mỗi bước đi của hắn đều kín kẽ không một khe hở, việc mọi người không định nghe theo lời đối phương phá hủy bia đá chắc cũng không nằm ngoài dự định của hắn, chẳng ai đoán thấu ý đồ thực sự của hắn cả. Thắng Hương Lân suy tính đến đây, liền vội vàng lấy tay ra hiệu cho ba người còn lại không được vội vàng manh động, tình cảnh bây giờ nguy hiểm như đứng ở miệng vực ngó xuống, như đi trên mặt băng mỏng, chỉ cần bước sai một bước sẽ lập tức rơi vào vùng đất vạn kiếp không thể siêu sinh.




Tư Mã Khôi hiểu vì sao Thắng Hương Lân lại sợ hãi như vậy, cả hội đã đặt cược sinh mệnh mình vào trận đấu này với Nấm mồ xanh, chỉ có điều, một phe ở ngoài ánh sáng, còn một phe lại nấp trong bóng tối, trước mắt mọi người bây giờ chỉ một màu đen, đi bước nào hay bước đấy, trong khi đó Nấm mồ xanh lại thông hiểu tất cả tiền nhân hậu quả, chí ít có thể nhìn trước ba bước. Xưa có câu “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, Nấm mồ xanh cũng không hẳn nắm ưu thế tuyệt đối, bí mật tồn tại trên người hắn chính là nhược điểm lớn nhất, đặc biệt là hắn cần sự trợ giúp của đội thám hiểm mới có thể phá hủy tấm bia đá, mà miếu thần lại nằm ở tận cùng của mạch đất, sâu không thể với tới, những kẻ may mắn sống sót thâm nhập khe cửu tuyền giờ chỉ còn lại bốn người mà thôi, dựa vào những nhân tố có lợi này thì có lẽ hội Tư Mã Khôi vẫn còn cơ hội để xoay chuyển cục diện.



Nấm mồ xanh thấy hội Tư Mã Khôi không nói cũng không hành động gì, thì cất tiếng cười nham hiểm và lạnh lùng: “Không ngoài dự đoán của ta, chắc các vị đã nghĩ ra vài manh mối rồi chứ gì, không định lại gần bia đá nữa phải không? Nhưng ta có thể khẳng định..”



Hải ngọng không kìm được cơn tức, lập tức lớn tiếng chửi: “Khẳng cái mẹ mày!”, cùng lúc ấy anh thò người ra khỏi thanh xà đá, chĩa khẩu súng săn hai nòng và ngắm bắn, xương cốt trong hố sâu đen ngòm vỡ vụn, nhưng Hải ngọng chẳng nhìn thấy rõ Nấm mồ xanh nấp ở đâu, anh chỉ dựa vào âm thanh để xác định phương hướng, hai nòng súng của Hải ngọng bắn đi một loạt đạn, không ngờ địa hình dưới đáy hố lại cộng hưởng âm mạnh như vậy, tiếng đạn bắn tạo thành âm thanh ầm ầm rung chuyển, vang hơn lúc thường gấp mấy lần, âm thanh vọng lại giữa hai vách đá tựa nước triều dâng, mãi vẫn còn văng vẳng bên tai.



Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng ra tay trước, dẫu biết cơ hội chưa chín muồi, nhưng anh vẫn huýt sáo ra hiệu cho Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương nhất loạt xông lên.



Cao Tư Dương nhanh chóng vứt bó đuốc xuống hố, quầng lửa xé toang màn đêm quánh đặc, giúp cả hội lờ mờ thấy Nấm mồ xanh đang nấp phía sau đống xương khô.



Nhờ ánh đuốc, Tư Mã Khôi có thể nhìn rõ địa hình, ba chân bốn cẳng lao lên trên thanh xà đá, bò vèo vèo xuống nhanh như gió cuốn chim bay, trong nháy mắt đã xuống đến đáy hố.



Hải ngọng đỏ mắt, anh không kịp nạp thêm đạn đã vội xách súng săn rồi trượt xuống vách đá, theo chân Tư Mã Khôi phóng đến nơi ẩn nấp của Nấm mồ xanh.



Dưới hố, khắp nơi đều là xương vụn, hôi thối nhức mũi, mỗi bước ai người họ giẫm lên đều phát ra tiếng lạo xạo dưới chân, lại gần mới thấy lẫn trong đám xương người chất cao như núi có lẫn cả xương thú, nhiều bộ xương còn dính cả máu thịt, dường như nó bị một hàm răng sắc nhọn gặm xé.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng thầm kinh ngạc, lúc trước họ cứ ngỡ đây là một hố tế lễ vừa sâu vừa rộng, là nơi người Bái Xà cổ đại dùng để giết mổ tuẫn táng vật tế cho tấm bia đá, xương bên dưới đã tích tụ ở đó hàng mấy ngàn năm, dẫu không vụn nát hóa cát bụi thì cũng đã chóng biến thành hóa thạch; nhưng bây giờ xem ra cách đây chưa lâu, không ít bộ hài cốt có lẽ bị xé thịt lột da trong lúc còn sống rồi bị vứt xuống hố này. Hai người vừa ngẩn người trong giây lát thì bóng dáng Nấm mồ xanh đã hoàn toàn biến mất tăm tích.



Hải ngọng đành nhặt bó đuốc, yểm trợ Tư Mã Khôi lục soát những đống xương cốt gần đó. Hóa ra dưới đáy hố có khá nhiều thông đạo ngang dọc, chúng đều nằm ở đầu bên kia của tấm bia đá, một mé đường hầm gần miếu thần có rất nhiều cửa động bị xương chồng lên bịt kín, phía ngoài còn có cánh cửa đá và những bức tượng thần đã đổ nát, tô tem rắn bay khắc trên đó vẫn lờ mờ nhận ra được, phía trong đường hầm ngoằn ngoèo thâm u, cũng chẳng biết nó dẫn đến nơi nào. Xem ra Nấm mồ xanh đang ẩn nấp ở một trong những thông đạo ấy.




Việc Tư Mã Khôi vượt bao nhiêu cây số dưới lòng đất để tìm miếu thần cũng chỉ vì muốn lột trần khuôn mặt thật sự của Nấm mồ xanh, nên giờ làm gì có chuyện anh chịu buông tay bỏ qua. Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương cũng xuống đến đáy hố thì bảo hai người đó ở lại tiếp ứng, còn mình và Hải ngọng thì tiến sâu vào trong lục soát từng thông đạo.



Cao Tư Dương lo lắng hỏi Tư Mã Khôi: “Dưới đáy hố có nhiều cửa động thế, làm sao anh biết Nấm mồ xanh trốn ở chỗ nào? Ngoài ra, tôi thấy hắn đâu giống người sống…”



Tư Mã Khôi hiểu ý Cao Tư Dương muốn nói Nấm mồ xanh là ma, hoặc giả hắn là một u hồn có hình mà không có chất.



Điều này trước đây anh cũng từng nghĩ đến vô số lần, tuy Tư Mã Khôi không nhìn thấu được bí mật trên người Nấm mồ xanh, nhưng lời nói và hành động của gã Triệu Lão Biệt tâm địa hẹp hòi thì không thể che giấu được anh. Triệu Lão Biệt sợ Nấm mồ xanh đến cực điểm, đồng thời bảo với Tư Mã Khôi là ông ta từng nhìn thấy khuôn mặt thực sự của Nấm mồ xanh, chỉ có điều trong lòng Tư Mã Khôi dường như tồn tại một góc chết nên anh không nghĩ ra được lai lịch của hắn mà thôi. Những lời của Triệu Lão Biệt có lẽ là thật, nhưng lạ là ở chỗ Tư Mã Khôi đã điểm danh từng khuôn mặt mình từng gặp trong đời, bất luận là người sống hay người chết, anh đều cố gắng lục lọi trong trí nhớ đến hàng trăm hàng ngàn lần, mà vẫn không tìm thấy người nào trùng hợp với các đặc điểm của Nấm mồ xanh, có thể thấy hắn trốn rất kỹ. Càng nghĩ, anh càng không thể tìm ra lý do vì sao đối phương không dám để lộ khuôn mặt thật của mình.



Có điều bây giờ, trong đầu Tư Mã Khôi đã bắt đầu thấp thoáng ẩn hiện gương mặt thật của Nấm mồ xanh, bởi cùng lúc đối phương tiết lộ bí mật về tấm bia đá, hắn cũng vô tình để lộ một vài đặc trưng then chốt nhất về lai lịch của mình. Thứ nhất, hắn là người thông hiểu hệ ngôn ngữ cổ đại, nên không dám nhìn thẳng vào tấm bia đá, nhưng đồng thời hắn cũng nắm hết mọi bí mật liên quan đến tấm bia đá của người Bái Xà. Thứ hai, hắn không dám lộ diện trước mọi người, nguyên nhân vì sao thì vẫn còn là một ẩn số. Điểm thứ ba cũng là điểm quan trọng nhất, hắn là người mà anh và Triệu Lão Biệt cùng đã từng nhìn thấy mặt. Thử hỏi trên đời này có mấy người hoàn toàn phù hợp với những điều kiện trên, bởi vậy phạm vi đối tượng đã thu hẹp lại khá nhiều.



Khi nãy, Tư Mã Khôi nhất thời hăng máu đuổi theo hắn vào thông đạo, nhưng giờ bình tĩnh nghĩ đi nghĩ lại anh lại thấy hãi hùng, chẳng lẽ Nấm mồ xanh là kẻ đó?



Hải ngọng nghe Tư Mã Khôi bảo đã biết thân thế của Nấm mồ xanh, liền vội hỏi: “Rốt cuộc hắn là ai? Tớ từng nhìn thấy bao giờ chưa?”



Tư Mã Khôi kể lại với mọi người những điều kiện mà anh vừa suy đoán, rồi kết luận gọn gàng với ba người bạn đồng hành: “Trên đời này chỉ có một người duy nhất phù hợp với tất cả những điều kiện trên”.



Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương đều kinh ngạc, nhưng họ không biết kẻ Tư Mã Khôi từng gặp là ai, bởi vậy cũng chẳng thể suy đoán gì hơn, đành hỏi: “Hắn… là ai?”




Thực ra, bản thân Tư Mã Khôi cũng không dám tin đáp án này, nhưng ngoại trừ quốc vương Chăm Pa Anagaya – kẻ bị lột mất da mặt, thì còn ai vào đây?



Vị quốc vương Chăm Pa có khuôn mặt như thần Phật, được tôn là “người cận kề Thiên quốc nhất”, ông ta từng phát hiện thấy địa cùng cung di vật kỷ Devon ở sâu trong khe cốc nứt vỡ, vật đó từng là di tích mà người Bái Xà để lại. Thông qua lời của thánh tăng – người sau này bị ông ta giết chết diệt khẩu thì quốc vương Chăm Pa đã giải mã được những cổ văn tượng hình trong mật thất dưới địa cung, bởi vậy ông ta có thể thông hiểu bí mật về tấm bia đá của người Bái Xà, đồng thời cũng có thể đọc được dòng chữ viết trên tấm bia.



Sau khi chết, quốc vương Chăm Pa được an táng trong lăng tẩm dưới lòng đất, mấy chục năm trước, vương lăng đó đã bị bọn trộm mộ đào xới. Tuy nhiên sau đó, toàn bộ bọn đạo tặc định mở quan tài lấy cắp bảo vật đều chết bất minh, bởi vậy quan tài vẫn được niêm phong kín và chưa hề bị mở ra. Trải qua bao năm vật đổi sao dời, thi thể trong quan tài quốc vương Chăm Pa lại mất tích trong khói lửa chiến tranh. Còn về chuyện lột da mặt của quốc vương để có được may mắn vô song thì chỉ là lời nói một phía từ Nấm mồ xanh, nếu bản thân kẻ đó chính là Nấm mồ xanh, thì những lời nói ấy đương nhiên trở thành bức màn che mắt thiên hạ. Trong khi đó khuôn mặt trông giống như thần Phật của quốc vương Chăm Pa trông quá quái dị, âm u và vô cùng đặc biệt, e rằng từ cổ chí kim dưới vòm trời này không có mấy người sở hữu dung mạo giống như ông ta, điểm then chốt là Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt cùng từng nhìn thấy khuôn mặt ấy.



Tư Mã Khôi không chỉ nhìn thấy chân dung trên bức bích họa trong thành cổ, mà anh còn tận mắt nhìn thấy khuôn mặt ấy ở cự ly gần dưới địa cung, bây giờ nhớ lại phút giây ấy, anh vẫn thấy toàn thân lạnh ngắt. Còn về Triệu Lão Biệt nhìn thấy quốc vương Chăm Pa vào thời điểm nào, thì e rằng chỉ mình lão tặc ấy mới biết mà thôi, nhưng không có gì phải nghi ngờ về việc Triệu Lão Biệt chắc chắn đã từng nhìn thấy khuôn mặt quái dị ấy, đồng thời lão cũng biết Nấm mồ xanh chính là quốc vương Chăm Pa đã chết từ hàng ngàn năm trước, nếu không, lão đâu đến nỗi vừa mới nhắc đến kẻ đó đã sợ mất mật như thế?



Vấn đề là quốc vương Chăm Pa đã chết từ ngàn năm trước, sao có thể chạy thoát ra khỏi quan tài? Giờ rốt cuộc hắn ta là ác ma âm hồn không thể siêu thoát hay là con quái vật chết đi sống lại? Và vì sao hắn lại muốn dụ đội khảo cổ phá hủy tấm bia đá Bái Xà dưới lòng đất? Những cụm ẩn số diễn sinh từ kết quả này khiến mọi người không hẹn mà cùng cảm thấy ngộp thở.



Hải ngọng càng nghĩ lại càng thấy sợ, anh nói trong nỗi hãi hùng: “Hẳn nào trên người Nấm mồ xanh lúc nào cũng nặng mùi tử khí, thì ra hắn vốn không phải người sống. Đúng là chúng ta gặp phải cương thi thành tinh rồi, nhưng vì sao hắn lại muốn tìm tấm bia đá Bái Xà?”



Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ giây lát, rồi quay sang nói với Tư Mã Khôi: “Căn cứ vào chiều hướng phát triển của sự việc, thì mấy điều kiện anh giả định có lẽ không sai, nhưng Nấm mồ xanh chưa chắc đã phải quốc vương Chăm Pa, thử hỏi trên đời này có ai đã chết rồi mà còn sống lại được không? Hay vẫn còn người nào khác phù hợp với ba điều kiện trên nhưng anh lại không để ý tới?”



Đến lúc này, Tư Mã Khôi có thể khẳng định lai lịch của Nấm mồ xanh chắc chắn không thể khác xa ba điều kiện mình vừa nêu ra, về điểm này anh có thể lấy mạng sống ra đảm bảo, nhưng ngẫm đi nghĩ lại, anh vẫn thấy quả thực không thể nghĩ ra ai khác ngoài quốc vương Chăm Pa, ngoại trừ con ma ở âm thế này ra thì còn ai khác nữa? Thân phận giống như một ẩn số của Nấm mồ xanh tựa hồ sự tồn tại có thể tiếp cận vô hạn nhưng vĩnh viễn không thể chạm tới.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 191: Hồi 7: hơi thở bỏng rát


Tư Mã Khôi vốn cho rằng Nấm mồ xanh chín phần chính là quốc vương Chăm Pa, bởi những người mà anh và Triệu Lão Biệt cùng gặp chỉ đếm trên đầu ngón tay, theo lý mà nói dung mạo giống như thần Phật trên trời giáng phàm của quốc vương Chăm Pa vẫn được lưu giữ đâu đó trên các di tích lịch sử hoặc trên các bức bích họa ở đền chùa miếu mạo. Năm đó, khi ở khe cốc núi Dã Nhân, đội trưởng đội tìm kiếm máy bay tiêm kích Ngọc Phi Yến vừa nhìn một cái đã liền nhận ra, trộm nghĩ, Triệu Lão Biệt xông pha nam bắc chắc đương nhiên cũng biết. Ngoài ra, đội khảo cổ từng kể trải nghiệm ở Miến Điện của đội thám hiểm cho Triệu Lão Biệt nghe lúc trong biển cát dưới cực vực, bởi vậy lão mới biết Tư Mã Khôi từng nhìn thấy khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa.



Trước đây, Cao Tư Dương đã nghe chuyện hội Tư Mã Khôi trải qua ở núi Dã Nhân, Miến Điện. Tuy cô chưa bao giờ nhìn thấy khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa, nhưng chỉ tưởng tượng thôi đã thấy lạnh thấu tim gan, cô hỏi: “Thế kẻ vừa ở dưới hố nói chuyện rốt cuộc là cương thi hay âm hồn vậy?”



Hải ngọng thêm mắm thêm muối: “Theo tôi, lão quốc vương Chăm Pa kia chính là thây ma tu luyện hàng ngàn năm. Ngày trước ở vùng đông bắc, người ta thường hay nói, phàm con người sau khi chết thi quàn trong quan tài, nếu vì nguyên nhân nào đó không thể hạ táng được thì nhiều năm qua đi, người chết trong quan tài không bị mục rữa, nếu gặp hơi khí của người sống, nó sẽ dễ biến thành cương thi. Tùy vào môi trường thủy thổ ở từng nơi khác nhau, mà xảy ra nhiều loại thi biến khác nhau, nghe nói có cương thi gió, cương thi đá, cương thi huyết và cương thi bột, trong đó ghê gớm nhất là cương thi bột, phần lớn nó là ma nữ. Đặc biệt, loại xác chết cổ đại khắp mình máu huyết trong suốt là đáng sợ nhất.



Loại cương thi này có khuôn mặt như phết một lớp bột vôi nên mới bị gọi là cương thi bột, ban ngày chúng ẩn nấp, ban đêm mới ra ngoài lộng hành, bọn này có thể bay vèo vèo trên không trung, chụp được người sống sẽ ôm chặt há mồm hút máu, nếu chưa hút cạn máu chúng sẽ không chịu buông tay, dẫu có vác gậy sắt ra nậy cũng không thể nậy được. Điều đáng sợ hơn là bọn cương thi này còn có ý thức, bắt chước được tiếng người, chắc lúc sinh thời chúng đều tu luyện được chút đạo hành, sau khi chết có thể khiến âm hồn nhập tràng không siêu thoát, xuất ra thì thành ma, nhập vào thì thành cương thi, thời gian tu luyện càng lâu thì đạo hành càng uyên thâm. Tôi đồ rằng lão quốc vương Chăm Pa chính là loại yêu quái này, lúc trước trong mật thất dưới địa cung ở Miến Điện, thi thể của lão đã nổ tan tành rồi cháy rụi, nên chẳng còn thấy mặt mũi gì nữa, sau này Nấm mồ xanh mà chúng ta gặp đều là ác ma lộng hành trong bóng tối”.




Tư Mã Khôi lắc đầu: “La trại chủ, cậu hiểu nhiều biết rộng thật đấy nhỉ, hóa ra người chết đút trong quan tài lại là yêu quái loại này, không những thế, khi biến thành cương thi rồi mà vẫn còn phân ra thành các chủng loại nữa cơ đấy?”



Hải ngọng trọn mắt nói: “Chính cậu bảo Nấm mồ xanh là quốc vương Chăm Pa trước còn gì, sao giờ nháy mắt một cái đã đổ vấy sang cho tớ?”



Thắng Hương Lân giảng hòa: “Các anh đừng đấu khẩu nữa, Nấm mồ xanh chắc chắn không thể là quốc vương Chăm Pa được, tuy quốc vương Chăm Pa phù hợp với ba điều kiện anh nêu, nhưng tiền đề là sau khi con người chết đi phải thực sự biến thành ma, hơn nữa phán đoán này chưa chắc đã vững vàng, các anh nghĩ kỹ mà xem, quốc vương Chăm Pa đã chết cách đây hàng mấy ngàn năm, bất luận hắn là âm hồn không siêu thoát hay là cương thi tác oai tác quái thì rốt cuộc vẫn chỉ là người chết, một người đã chết sao còn sợ nhìn thấy tấm bia đá? Mật mã khắc trên tấm bia là một tổ hợp tín hiệu chết chóc, nếu giải mã nội dung của nó sẽ khiến người đang sống bỗng chốc lăn ra chết, nhưng nó không thể khiến một người đã chết lại chết thêm một làn nữa được”.



Tư Mã Khôi nói: “Quả thực tôi cũng không dám tin quốc vương Chăm Pa đã chết rồi mà vẫn có thể bò ra khỏi quan tài chạy lông nhông như vậy”.



Nhưng dưới vòm trời này chỉ có hắn mới phù hợp với ba điều kiện của Nấm mồ xanh, thực ra nói chính xác hơn là hắn phù hợp với hai điều kiện, bởi vì quốc vương Chăm Pa rất coi trọng dung mạo như thần Phật của mình, dẫu hắn đã bị thiêu cháy thành tro trong mật thất của thành Nhện Vàng, thì một cô hồn dạ quỷ như hắn cũng không có lý do gì cần phải giấu khuôn mặt thật sự của mình. Trong khi đó, lý do khiến Nấm mồ xanh không hề đám lộ mặt là vì khuôn mặt thật sẽ làm lộ ra yếu điểm của hắn, còn nguyên nhân vì sao thì có lẽ chỉ có thể tìm thấy đáp án ở phía bên kia của tấm bia đá mà thôi.



Hải ngọng nói: “Phía bên kia của tấm bia trông giống hệt một cái động không đáy, nói dại miệng, tớ chỉ ngó vào trong đó một cái đã cảm thấy suýt nữa thì rớt mất hồn phách rồi, cậu định vào trong đó thật à?”



Thắng Hương Lân cũng lo rằng Nấm mồ xanh đang muốn dụ mọi người sang phía bên kia của tấm bia đá, hoàn cảnh lúc này đúng là tiến thoái lưỡng nan. Theo lý mà nói chỉ cần lộ chút dấu vết chân tơ kẽ tóc thì sẽ lần ngược ra được lai lịch của Nấm mồ xanh, nhưng giờ cả hội nắm trong tay bao nhiêu manh mối như thế mà mọi chuyện dường như vẫn nằm trong đám sương mù dày đặc, không hề thấy rõ chân tướng, đây cũng chính là điểm Nấm mồ xanh khiến người khác lạnh gai ốc nhất. Suy đoán theo mấy lời mập mờ của Triệu Lão Biệt thì dường như chỉ một mình quốc vương Chăm Pa mới có thể giải mã được văn tự cổ trên tấm bia, vì cho dù những thành viên đội khảo sát Lopnor năm xưa còn sống, thì cùng lắm họ cũng chỉ nhận biết được phần nội dung mà thôi, nếu không hiểu cách phát âm của hệ ngôn ngữ cổ này, thì dẫu có nhìn thấy bí mật trên tấm bia cũng không bị chết, nhưng nếu là vong hồn hàng ngàn năm của quốc vương Chăm Pa đang tác quái thì quả thực không thể nghĩ ra lý do vì sao hắn phải cố tình giấu kín khuôn mặt thật sự của mình như vậy.



Trong những người Tư Mã Khôi từng gặp trước đây, rốt cuộc còn ai phù hợp với những điều kiện giống quốc vương Chăm Pa nữa? Bây giờ hội anh không phải không dám đoán mà là không thể đoán ra, nếu cứ suy luận theo chiều hướng này thì chẳng khác nào chui vào ngõ cụt, trừ phi làm rõ bí mật ở phía đầu kia của bia đá rốt cuộc là gì, nếu không mãi mãi không thể phả giải được vòng tròn quái dị luẩn quẩn kia. Nấm mồ xanh cố tình tiết lộ những thông tin bí mật với ý đồ mượn tay đội khảo cổ để phá hủy tấm bia đá, điểm này rất dễ thấy, mọi việc tiến triển đến đây thì sa vào ngã ba, rốt cuộc hội anh nên phá hủy tấm bia hay từ bỏ cơ hội tìm ra chân tướng sự thật và tháo chạy khỏi miếu thần? Nhưng con đường nên lựa chọn thực ra cũng rất dễ thấy, mọi người chắc chắn sẽ không làm theo lời Nấm mồ xanh ra tay phá hủy tấm bia đá, lạ một điều là tại sao Nấm mồ xanh hành sự vốn kín kẽ và chu đáo là thế mà lại không lường trước được điểm này?




Tư Mã Khôi biết hội anh chịu thiệt chính là vì không thể mò ra gót chân Asin của Nấm mồ xanh, điều ấy khiến mọi người luôn lâm vào tình thế bị động và chịu khống chế, chẳng khác nào để người ta bịt mắt muốn dắt tay đi đâu thì đi. Khi nãy vì muốn nghe đối phương nói ra bí mật trên tấm bia đá mà cả hội vô tình không biết mình đã để lỡ khá nhiều thòi gian, chi sợ trong miếu thần sắp xảy ra biến cố nguy hiểm nào đó, không khéo giờ đây việc nghĩ xem có nên lại gần bia đá hay không đã trở thành vô nghĩa vì cả hội không còn đường nào để lựa chọn nữa.



Hải ngọng không tin, anh nghiêng đông ngó tây một hồi, rồi nói: “Biến cố gì cơ? Gã kia chắc chắn nấp trong đường ngầm dưới đáy hô tìm cách chạy thoát thân, nếu còn không đuổi theo thì hắn sẽ chạy xa tít mù khơi cho xem…”, nói xong, anh liền giơ đuốc, rướn người vào trong thông đạo quan sát.



Tư Mã Khôi thấy xương người vương vãi khắp nơi dưới đáy động, anh đoán trong miếu thần còn ẩn nấp loài sinh vật ăn thịt nào đó, liền vội vàng nhắc Hải ngọng chú ý an toàn.



Hải ngọng cậy có khẩu súng săn họng lớn hỏa lực mạnh nên không coi lời Tư Mã Khôi vào đâu, nhưng dưới đáy hố toàn là thông đạo trông như những lỗ động, phạm vi chiếu sáng của bó đuốc lại chỉ rộng chừng bốn năm cửa động, thêm vào đó các vết nứt giữa các tầng nham thạch cũng khá lớn, thực không thể biết Nấm mồ xanh đang ẩn nấp ở nơi nào. Hải ngọng sốt ruột, hai mắt muốn tóe lửa, cổ họng khô khốc, anh lập tức lấy bình nước giắt ở hông, mở ra tu ừng ực một mạch đến hết nhẵn.



Lúc này, Tư Mã khôi phát hiện xung quanh càng lúc càng nóng, không những vậy nhiệt độ tăng cao một cách vô cùng nhanh chóng khiến mồ hôi trên người cả hội toát ra đầm đìa, anh lo thầm: “Chuyện gì thế nhỉ?”, ý nghĩ vừa xẹt qua đầu, đột nhiên trong thông đạo bên cạnh có rất nhiều bóng đen đang nhảy vọt ra, trông như ma núi nửa người nửa sói, tứ chi bò lồm ngồm, trong phút chốc đã ập đến ngay trước mặt, anh vội vàng liệng mình, chộp lấy Hải ngọng kéo giật lại sau né nạn.



Hội Tư Mã Khôi liên tục thối lui mấy bước, họ còn ngỡ mấy con quái vật từ thông đạo chui ra giống như lũ cương thi trong núi Âm Sơn dưới vực sâu, nhưng dưới ánh lửa bập bùng bất định, anh thấy bọn chúng trông hao hao giống loài sơn tiêu, da mặt đều bị lột mất, đôi mắt chỉ còn lại hai hốc đen ngòm, trên mặt đầy răng sắc lẻm, nhọn hoắt chìa ra ngoài, chúng lũ lượt trèo lên nơi cao trên vách đá.



Mọi người kinh ngạc tột độ, xem ra sinh vật nửa người nửa quỷ này là những người Bái Xà cổ đại ở lại canh miếu, không ngờ nhánh tộc này có thể nấp trong môi trường khắc nghiệt, thoát khỏi bao kiếp nạn long trời lở đất để tiếp tục sống sót cho đến tận ngày nay. Sử cũ ghi chép, người Bái Xà “xuyên hắc thủy, sống ở địa cùng, mắt sáng như nến, không quen hỏa tính”.



Những người Bái Xà ở lại canh miếu này rõ ràng ngay từ lúc mới sinh ra đã bị móc mất mắt, nguyên do có lẽ vì họ không dám nhìn tấm bia đá, nhưng đời này nối tiếp đời khác sống lâu trong địa động sâu thăm thẳm dưới cửu tuyền, cách biệt với thế giới bên ngoài, nên giờ họ gần như đã bị thoái hóa giống bọn cương thi trong dãy núi Âm Sơn. Có lẽ họ không còn nhớ đến bí mật trên tấm bia đá Bái Xà nữa, thậm chí còn quên hẳn mệnh lệnh của tổ tiên là phải ngăn cản không cho người ngoài lại gần bia đá, chỉ có điều thói quen khoét bỏ đôi mắt đã ăn sâu bén rễ trong trí não, hố sâu dưới tấm bia đá có lẽ chính là mảnh đất vùi thân truyền đới của họ.




Tư Mã Khôi từng nghe kể thợ săn ở biên giới có lần đã mục kích thấy ma núi, tương truyền bọn chúng vô cùng tà ác, đồn rằng chúng là những người chết trong mộ cũ biến thành. Theo quan điểm hiện đại thì ma núi chỉ là một loài vượn cổ hoặc dã nhân sinh sống trong huyệt động mà thôi, thỉnh thoảng mới tìm thấy bộ xương khô không còn nguyên vẹn. Lần này, bất ngờ gặp được người Bái Xà trong miếu thần dưới lòng đất, hội Tư Mã Khôi mới hiểu truyền thuyết và thông tin ma núi xuất hiện nơi địa đầu hoang vắng là có cơ sở của nó, có điều anh không không thể lý giải được vì sao những con quái vật trông như ma núi này lại đột ngột chui ra khỏi động đạo, cũng may chúng không nhìn thấy gì, nếu không chúng mà nhất tề xông lên thì chỉ dựa vào mấy khẩu sủng lục ắt hội anh chẳng thể cản trở được chúng. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi lập tức ra dấu cho ba người còn lại không được phát ra tiếng động.



Tư Mã Khôi đang định bảo Hải ngọng lẳng lặng tắt đuốc, ai ngờ mấy người Bái Xà dung mạo như ma núi bò gần đó bỗng quay ngoắt lại, đột nhiên há to mồm lao đến định cắn với tốc độ thần tốc, khả năng phán đoán và định vị phương hướng chính xác đến kỳ lạ.



Hải ngọng nhanh tay nhanh mắt, giương súng, lên nòng khẩu súng, săn, rồi ngắm thẳng mục tiêu, trong tiếng nổ đinh tai nhức óc, đạn của khẩu súng săn họng lớn xé tan một con ma núi thành đôi mảnh, máu thịt vương vãi khắp mặt đất. Dưới ánh sáng của đèn quặng, ba người còn lại cũng lần lượt giương súng bắn, đồng thời nép vào những đống xương khô chất đầy dưới đáy động, vội vàng lui về sau.



Tư Mã Khôi phát hiện cánh tay trái của thắng Hương Lân bị thương trong lúc hỗn loạn, nhưng tình thế cấp bách, không có thời gian ngồi băng bó vết thương cầm máu cho cô, nhìn cảnh này, Tư Mã Khôi không ngăn được nỗi lo lắng dấy lên trong lòng. Trong khi đó, hố sâu dưới tấm bia đá càng lúc càng khô nóng vượt mức chịu đựng, trước mắt giống như có một bức tường thép nung đỏ rực đang dần dần đè xuống, thật chẳng khác nào vầng mặt trời chuẩn bị áp sát họ, ngay cả tóc và lông mày cũng bị sấy khô đến sắp cháy rụi.



Hải ngọng khản giọng nói: “Không xong rồi! Suối nước nóng dưới lòng đất sắp phun trào, không chạy mau là biến thành gà luộc cả lũ bây giờ!”



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Nơi này nằm ở nơi tận cùng của cửu tuyền, phía dưới làm gì còn suối nước nóng nào nữa, phía dưới miếu thần có lẽ là đại dương mênh mông do thể khí nóng bỏng tụ hợp thành. Vùng biển này không hề tĩnh lặng bất động từ thời hằng cổ, mà thủy triều cũng lên xuống giống như hít vào thở ra vậy, cứ cách một khoảng thời gian nhất định, dòng nhiệt lưu lại chảy ào vào miếu thần, với nhiệt độ này thì người thường không thể nào chịu đựng được. Giờ cả hội mới phát hiện ra điều này, e rằng có muốn chạy trốn cũng không kịp nữa. Sở dĩ Nấm mồ xanh chịu nói ra bí mật của tấm bia đá là vì hắn muốn kéo dài thời gian để đợi dòng nhiệt lưu dâng cao, buộc bọn ta phải chạy sang đầu kia của tấm bia đá tránh nạn, không ngờ hắn còn nắm rõ thời gian cụ thể lên xuống của nước triều như trong lòng bàn tay vậy”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 192: Hồi 8: bên kia tấm bia đá


Tư Mã Khôi vốn cho rằng Nấm mồ xanh chín phần chính là quốc vương Chăm Pa, bởi những người mà anh và Triệu Lão Biệt cùng gặp chỉ đếm trên đầu ngón tay, theo lý mà nói dung mạo giống như thần Phật trên trời giáng phàm của quốc vương Chăm Pa vẫn được lưu giữ đâu đó trên các di tích lịch sử hoặc trên các bức bích họa ở đền chùa miếu mạo. Năm đó, khi ở khe cốc núi Dã Nhân, đội trưởng đội tìm kiếm máy bay tiêm kích Ngọc Phi Yến vừa nhìn một cái đã liền nhận ra, trộm nghĩ, Triệu Lão Biệt xông pha nam bắc chắc đương nhiên cũng biết. Ngoài ra, đội khảo cổ từng kể trải nghiệm ở Miến Điện của đội thám hiểm cho Triệu Lão Biệt nghe lúc trong biển cát dưới cực vực, bởi vậy lão mới biết Tư Mã Khôi từng nhìn thấy khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa.



Trước đây, Cao Tư Dương đã nghe chuyện hội Tư Mã Khôi trải qua ở núi Dã Nhân, Miến Điện. Tuy cô chưa bao giờ nhìn thấy khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa, nhưng chỉ tưởng tượng thôi đã thấy lạnh thấu tim gan, cô hỏi: “Thế kẻ vừa ở dưới hố nói chuyện rốt cuộc là cương thi hay âm hồn vậy?”



Hải ngọng thêm mắm thêm muối: “Theo tôi, lão quốc vương Chăm Pa kia chính là thây ma tu luyện hàng ngàn năm. Ngày trước ở vùng đông bắc, người ta thường hay nói, phàm con người sau khi chết thi quàn trong quan tài, nếu vì nguyên nhân nào đó không thể hạ táng được thì nhiều năm qua đi, người chết trong quan tài không bị mục rữa, nếu gặp hơi khí của người sống, nó sẽ dễ biến thành cương thi. Tùy vào môi trường thủy thổ ở từng nơi khác nhau, mà xảy ra nhiều loại thi biến khác nhau, nghe nói có cương thi gió, cương thi đá, cương thi huyết và cương thi bột, trong đó ghê gớm nhất là cương thi bột, phần lớn nó là ma nữ. Đặc biệt, loại xác chết cổ đại khắp mình máu huyết trong suốt là đáng sợ nhất.



Loại cương thi này có khuôn mặt như phết một lớp bột vôi nên mới bị gọi là cương thi bột, ban ngày chúng ẩn nấp, ban đêm mới ra ngoài lộng hành, bọn này có thể bay vèo vèo trên không trung, chụp được người sống sẽ ôm chặt há mồm hút máu, nếu chưa hút cạn máu chúng sẽ không chịu buông tay, dẫu có vác gậy sắt ra nậy cũng không thể nậy được. Điều đáng sợ hơn là bọn cương thi này còn có ý thức, bắt chước được tiếng người, chắc lúc sinh thời chúng đều tu luyện được chút đạo hành, sau khi chết có thể khiến âm hồn nhập tràng không siêu thoát, xuất ra thì thành ma, nhập vào thì thành cương thi, thời gian tu luyện càng lâu thì đạo hành càng uyên thâm. Tôi đồ rằng lão quốc vương Chăm Pa chính là loại yêu quái này, lúc trước trong mật thất dưới địa cung ở Miến Điện, thi thể của lão đã nổ tan tành rồi cháy rụi, nên chẳng còn thấy mặt mũi gì nữa, sau này Nấm mồ xanh mà chúng ta gặp đều là ác ma lộng hành trong bóng tối”.




Tư Mã Khôi lắc đầu: “La trại chủ, cậu hiểu nhiều biết rộng thật đấy nhỉ, hóa ra người chết đút trong quan tài lại là yêu quái loại này, không những thế, khi biến thành cương thi rồi mà vẫn còn phân ra thành các chủng loại nữa cơ đấy?”



Hải ngọng trọn mắt nói: “Chính cậu bảo Nấm mồ xanh là quốc vương Chăm Pa trước còn gì, sao giờ nháy mắt một cái đã đổ vấy sang cho tớ?”



Thắng Hương Lân giảng hòa: “Các anh đừng đấu khẩu nữa, Nấm mồ xanh chắc chắn không thể là quốc vương Chăm Pa được, tuy quốc vương Chăm Pa phù hợp với ba điều kiện anh nêu, nhưng tiền đề là sau khi con người chết đi phải thực sự biến thành ma, hơn nữa phán đoán này chưa chắc đã vững vàng, các anh nghĩ kỹ mà xem, quốc vương Chăm Pa đã chết cách đây hàng mấy ngàn năm, bất luận hắn là âm hồn không siêu thoát hay là cương thi tác oai tác quái thì rốt cuộc vẫn chỉ là người chết, một người đã chết sao còn sợ nhìn thấy tấm bia đá? Mật mã khắc trên tấm bia là một tổ hợp tín hiệu chết chóc, nếu giải mã nội dung của nó sẽ khiến người đang sống bỗng chốc lăn ra chết, nhưng nó không thể khiến một người đã chết lại chết thêm một làn nữa được”.



Tư Mã Khôi nói: “Quả thực tôi cũng không dám tin quốc vương Chăm Pa đã chết rồi mà vẫn có thể bò ra khỏi quan tài chạy lông nhông như vậy”.



Nhưng dưới vòm trời này chỉ có hắn mới phù hợp với ba điều kiện của Nấm mồ xanh, thực ra nói chính xác hơn là hắn phù hợp với hai điều kiện, bởi vì quốc vương Chăm Pa rất coi trọng dung mạo như thần Phật của mình, dẫu hắn đã bị thiêu cháy thành tro trong mật thất của thành Nhện Vàng, thì một cô hồn dạ quỷ như hắn cũng không có lý do gì cần phải giấu khuôn mặt thật sự của mình. Trong khi đó, lý do khiến Nấm mồ xanh không hề đám lộ mặt là vì khuôn mặt thật sẽ làm lộ ra yếu điểm của hắn, còn nguyên nhân vì sao thì có lẽ chỉ có thể tìm thấy đáp án ở phía bên kia của tấm bia đá mà thôi.



Hải ngọng nói: “Phía bên kia của tấm bia trông giống hệt một cái động không đáy, nói dại miệng, tớ chỉ ngó vào trong đó một cái đã cảm thấy suýt nữa thì rớt mất hồn phách rồi, cậu định vào trong đó thật à?”



Thắng Hương Lân cũng lo rằng Nấm mồ xanh đang muốn dụ mọi người sang phía bên kia của tấm bia đá, hoàn cảnh lúc này đúng là tiến thoái lưỡng nan. Theo lý mà nói chỉ cần lộ chút dấu vết chân tơ kẽ tóc thì sẽ lần ngược ra được lai lịch của Nấm mồ xanh, nhưng giờ cả hội nắm trong tay bao nhiêu manh mối như thế mà mọi chuyện dường như vẫn nằm trong đám sương mù dày đặc, không hề thấy rõ chân tướng, đây cũng chính là điểm Nấm mồ xanh khiến người khác lạnh gai ốc nhất. Suy đoán theo mấy lời mập mờ của Triệu Lão Biệt thì dường như chỉ một mình quốc vương Chăm Pa mới có thể giải mã được văn tự cổ trên tấm bia, vì cho dù những thành viên đội khảo sát Lopnor năm xưa còn sống, thì cùng lắm họ cũng chỉ nhận biết được phần nội dung mà thôi, nếu không hiểu cách phát âm của hệ ngôn ngữ cổ này, thì dẫu có nhìn thấy bí mật trên tấm bia cũng không bị chết, nhưng nếu là vong hồn hàng ngàn năm của quốc vương Chăm Pa đang tác quái thì quả thực không thể nghĩ ra lý do vì sao hắn phải cố tình giấu kín khuôn mặt thật sự của mình như vậy.



Trong những người Tư Mã Khôi từng gặp trước đây, rốt cuộc còn ai phù hợp với những điều kiện giống quốc vương Chăm Pa nữa? Bây giờ hội anh không phải không dám đoán mà là không thể đoán ra, nếu cứ suy luận theo chiều hướng này thì chẳng khác nào chui vào ngõ cụt, trừ phi làm rõ bí mật ở phía đầu kia của bia đá rốt cuộc là gì, nếu không mãi mãi không thể phả giải được vòng tròn quái dị luẩn quẩn kia. Nấm mồ xanh cố tình tiết lộ những thông tin bí mật với ý đồ mượn tay đội khảo cổ để phá hủy tấm bia đá, điểm này rất dễ thấy, mọi việc tiến triển đến đây thì sa vào ngã ba, rốt cuộc hội anh nên phá hủy tấm bia hay từ bỏ cơ hội tìm ra chân tướng sự thật và tháo chạy khỏi miếu thần? Nhưng con đường nên lựa chọn thực ra cũng rất dễ thấy, mọi người chắc chắn sẽ không làm theo lời Nấm mồ xanh ra tay phá hủy tấm bia đá, lạ một điều là tại sao Nấm mồ xanh hành sự vốn kín kẽ và chu đáo là thế mà lại không lường trước được điểm này?




Tư Mã Khôi biết hội anh chịu thiệt chính là vì không thể mò ra gót chân Asin của Nấm mồ xanh, điều ấy khiến mọi người luôn lâm vào tình thế bị động và chịu khống chế, chẳng khác nào để người ta bịt mắt muốn dắt tay đi đâu thì đi. Khi nãy vì muốn nghe đối phương nói ra bí mật trên tấm bia đá mà cả hội vô tình không biết mình đã để lỡ khá nhiều thòi gian, chi sợ trong miếu thần sắp xảy ra biến cố nguy hiểm nào đó, không khéo giờ đây việc nghĩ xem có nên lại gần bia đá hay không đã trở thành vô nghĩa vì cả hội không còn đường nào để lựa chọn nữa.



Hải ngọng không tin, anh nghiêng đông ngó tây một hồi, rồi nói: “Biến cố gì cơ? Gã kia chắc chắn nấp trong đường ngầm dưới đáy hô tìm cách chạy thoát thân, nếu còn không đuổi theo thì hắn sẽ chạy xa tít mù khơi cho xem…”, nói xong, anh liền giơ đuốc, rướn người vào trong thông đạo quan sát.



Tư Mã Khôi thấy xương người vương vãi khắp nơi dưới đáy động, anh đoán trong miếu thần còn ẩn nấp loài sinh vật ăn thịt nào đó, liền vội vàng nhắc Hải ngọng chú ý an toàn.



Hải ngọng cậy có khẩu súng săn họng lớn hỏa lực mạnh nên không coi lời Tư Mã Khôi vào đâu, nhưng dưới đáy hố toàn là thông đạo trông như những lỗ động, phạm vi chiếu sáng của bó đuốc lại chỉ rộng chừng bốn năm cửa động, thêm vào đó các vết nứt giữa các tầng nham thạch cũng khá lớn, thực không thể biết Nấm mồ xanh đang ẩn nấp ở nơi nào. Hải ngọng sốt ruột, hai mắt muốn tóe lửa, cổ họng khô khốc, anh lập tức lấy bình nước giắt ở hông, mở ra tu ừng ực một mạch đến hết nhẵn.



Lúc này, Tư Mã khôi phát hiện xung quanh càng lúc càng nóng, không những vậy nhiệt độ tăng cao một cách vô cùng nhanh chóng khiến mồ hôi trên người cả hội toát ra đầm đìa, anh lo thầm: “Chuyện gì thế nhỉ?”, ý nghĩ vừa xẹt qua đầu, đột nhiên trong thông đạo bên cạnh có rất nhiều bóng đen đang nhảy vọt ra, trông như ma núi nửa người nửa sói, tứ chi bò lồm ngồm, trong phút chốc đã ập đến ngay trước mặt, anh vội vàng liệng mình, chộp lấy Hải ngọng kéo giật lại sau né nạn.



Hội Tư Mã Khôi liên tục thối lui mấy bước, họ còn ngỡ mấy con quái vật từ thông đạo chui ra giống như lũ cương thi trong núi Âm Sơn dưới vực sâu, nhưng dưới ánh lửa bập bùng bất định, anh thấy bọn chúng trông hao hao giống loài sơn tiêu, da mặt đều bị lột mất, đôi mắt chỉ còn lại hai hốc đen ngòm, trên mặt đầy răng sắc lẻm, nhọn hoắt chìa ra ngoài, chúng lũ lượt trèo lên nơi cao trên vách đá.



Mọi người kinh ngạc tột độ, xem ra sinh vật nửa người nửa quỷ này là những người Bái Xà cổ đại ở lại canh miếu, không ngờ nhánh tộc này có thể nấp trong môi trường khắc nghiệt, thoát khỏi bao kiếp nạn long trời lở đất để tiếp tục sống sót cho đến tận ngày nay. Sử cũ ghi chép, người Bái Xà “xuyên hắc thủy, sống ở địa cùng, mắt sáng như nến, không quen hỏa tính”.



Những người Bái Xà ở lại canh miếu này rõ ràng ngay từ lúc mới sinh ra đã bị móc mất mắt, nguyên do có lẽ vì họ không dám nhìn tấm bia đá, nhưng đời này nối tiếp đời khác sống lâu trong địa động sâu thăm thẳm dưới cửu tuyền, cách biệt với thế giới bên ngoài, nên giờ họ gần như đã bị thoái hóa giống bọn cương thi trong dãy núi Âm Sơn. Có lẽ họ không còn nhớ đến bí mật trên tấm bia đá Bái Xà nữa, thậm chí còn quên hẳn mệnh lệnh của tổ tiên là phải ngăn cản không cho người ngoài lại gần bia đá, chỉ có điều thói quen khoét bỏ đôi mắt đã ăn sâu bén rễ trong trí não, hố sâu dưới tấm bia đá có lẽ chính là mảnh đất vùi thân truyền đới của họ.




Tư Mã Khôi từng nghe kể thợ săn ở biên giới có lần đã mục kích thấy ma núi, tương truyền bọn chúng vô cùng tà ác, đồn rằng chúng là những người chết trong mộ cũ biến thành. Theo quan điểm hiện đại thì ma núi chỉ là một loài vượn cổ hoặc dã nhân sinh sống trong huyệt động mà thôi, thỉnh thoảng mới tìm thấy bộ xương khô không còn nguyên vẹn. Lần này, bất ngờ gặp được người Bái Xà trong miếu thần dưới lòng đất, hội Tư Mã Khôi mới hiểu truyền thuyết và thông tin ma núi xuất hiện nơi địa đầu hoang vắng là có cơ sở của nó, có điều anh không không thể lý giải được vì sao những con quái vật trông như ma núi này lại đột ngột chui ra khỏi động đạo, cũng may chúng không nhìn thấy gì, nếu không chúng mà nhất tề xông lên thì chỉ dựa vào mấy khẩu sủng lục ắt hội anh chẳng thể cản trở được chúng. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi lập tức ra dấu cho ba người còn lại không được phát ra tiếng động.



Tư Mã Khôi đang định bảo Hải ngọng lẳng lặng tắt đuốc, ai ngờ mấy người Bái Xà dung mạo như ma núi bò gần đó bỗng quay ngoắt lại, đột nhiên há to mồm lao đến định cắn với tốc độ thần tốc, khả năng phán đoán và định vị phương hướng chính xác đến kỳ lạ.



Hải ngọng nhanh tay nhanh mắt, giương súng, lên nòng khẩu súng, săn, rồi ngắm thẳng mục tiêu, trong tiếng nổ đinh tai nhức óc, đạn của khẩu súng săn họng lớn xé tan một con ma núi thành đôi mảnh, máu thịt vương vãi khắp mặt đất. Dưới ánh sáng của đèn quặng, ba người còn lại cũng lần lượt giương súng bắn, đồng thời nép vào những đống xương khô chất đầy dưới đáy động, vội vàng lui về sau.



Tư Mã Khôi phát hiện cánh tay trái của thắng Hương Lân bị thương trong lúc hỗn loạn, nhưng tình thế cấp bách, không có thời gian ngồi băng bó vết thương cầm máu cho cô, nhìn cảnh này, Tư Mã Khôi không ngăn được nỗi lo lắng dấy lên trong lòng. Trong khi đó, hố sâu dưới tấm bia đá càng lúc càng khô nóng vượt mức chịu đựng, trước mắt giống như có một bức tường thép nung đỏ rực đang dần dần đè xuống, thật chẳng khác nào vầng mặt trời chuẩn bị áp sát họ, ngay cả tóc và lông mày cũng bị sấy khô đến sắp cháy rụi.



Hải ngọng khản giọng nói: “Không xong rồi! Suối nước nóng dưới lòng đất sắp phun trào, không chạy mau là biến thành gà luộc cả lũ bây giờ!”



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Nơi này nằm ở nơi tận cùng của cửu tuyền, phía dưới làm gì còn suối nước nóng nào nữa, phía dưới miếu thần có lẽ là đại dương mênh mông do thể khí nóng bỏng tụ hợp thành. Vùng biển này không hề tĩnh lặng bất động từ thời hằng cổ, mà thủy triều cũng lên xuống giống như hít vào thở ra vậy, cứ cách một khoảng thời gian nhất định, dòng nhiệt lưu lại chảy ào vào miếu thần, với nhiệt độ này thì người thường không thể nào chịu đựng được. Giờ cả hội mới phát hiện ra điều này, e rằng có muốn chạy trốn cũng không kịp nữa. Sở dĩ Nấm mồ xanh chịu nói ra bí mật của tấm bia đá là vì hắn muốn kéo dài thời gian để đợi dòng nhiệt lưu dâng cao, buộc bọn ta phải chạy sang đầu kia của tấm bia đá tránh nạn, không ngờ hắn còn nắm rõ thời gian cụ thể lên xuống của nước triều như trong lòng bàn tay vậy”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 193: Hồi 9: sự thật không thể chịu đựng


Vách trong của tấm bia đá khắc mấy chữ cổ không trọn vẹn, Thắng Hương Lân chỉ nhận ra mấy chữ trong số đó, còn phần lớn đã bị rong rêu xâm thực nên đã mờ nhạt không còn rõ nữa.



Tư Mã Khôi mơ hồ không hiểu “Nhìn thấy sự thật không thể chịu đựng nổi” rốt cuộc muốn ám chỉ điều gì? Tô tem và những chữ tượng hình khắc trên vách đá còn cổ xưa hơn cả tấm bia đá, nội dung ghi chép trên đó rất có khả năng nói về cảnh ngộ gặp phải trong hang động của tổ tiên người Bái Xà, bởi vậy dòng chữ này không phải chỉ tín hiệu chết chóc trên bia đá, mà ám chỉ hang động phía sau tấm bia, nơi ấy đen ngòm, sâu hút không thấy đáy, nào ai thấy được bên trong có thứ gì?



Thắng Hương Lân cũng băn khoăn không hiểu, cô soi đèn quặng lên vách động, rồi nói với hội Tư Mã Khôi: “Quanh đó còn có những hình vẽ kỳ quái, dường như đây là nghi thức tế lễ trong hang động của tổ tiên người Bái Xà”.



Tư Mã Khôi hướng mắt về phía tay Thắng Hương Lân chỉ, anh thấy trên vách động khắc hình ảnh một đám người đứng xếp hàng, tất thảy đều lấy tay che mặt, thần sắc đượm vẻ sợ hãi. Cấu tứ bức tranh tuy đơn điệu cổ phác nhưng lại ẩn hiện truyền đạt một hơi thở thần bí và ma quái, một hàm ý mà người hiện đại không thể nào giải mã được.



Tư Mã Khôi ngạc nhiên hỏi: “Trong này còn có thứ khiến người Bái Xà sợ hãi hơn cả tấm bia đá ư?”



Thắng Hương Lân nói: “Căn cứ vào những chi tiết khắc trên vách đông, xem ra tổ tiên người Bái Xà từng phát hiện thấy một sinh vật vô cùng đáng sợ tồn tại trong hang, đầu tiên do quá khiếp sợ nên họ tế lễ, nhưng sau đó họ lấy bia đá bịt cửa động lại, không hiểu trong động không đáy này tồn tại… thứ gì nhỉ?”




Mọi người không biết phải suy đoán thế nào, liền quyết định cứ vào trong tìm hiểu trước đã. Thấy xung quanh toàn là vách đá bị rong rêu che phủ, Tư Mã Khôi liền đi trước dẫn dường, Hải ngọng đi sau cùng, bốn chiếc đèn quặng đều bật hết lên, cả hội men theo vách đá mò mẫm đi sâu vào trong hang.



Trên người Tư Mã Khôi luôn mang theo một hộp thiếc rỗng, bề ngoài đục nhiều lỗ, bên trong đựng mấy con đóm đóm anh bắt được trong huyệt động, tạm thời sử dụng làm đèn trại, nhưng loài đom đóm đuôi dài này đều không có miệng, không thể lấy thức ăn để duy trì sinh mệnh, nên thời gian tồn tại của chúng vô cùng ngắn ngủi, tuổi thọ sớm nở tối tàn chẳng khác nào một đóa phù dung, chỉ khoảng hai mươi tiếng sau khi ra đời, chúng sẽ chết. Từ đầm dạ quang đến tấm bia đá, cả hội đi mất gần hai ngày, mấy con đom đóm đuôi dài bắt ở đầm giờ đã dần mờ ánh sáng, rồi lần lượt chết, còn lại hai con sống sót, nhưng ánh sáng cũng chỉ le lói mờ ảo, không thể phát huy tác dụng chiếu sáng được nữa, cũng chẳng thể tận dụng để đo hàm lượng oxy dưới lòng đất.



Tư Mã Khôi thấy mang theo cái hộp bên người chỉ tổ phiền phức, anh bèn phóng sinh cho hai con đom đóm, mặc chúng tự sinh tự diệt, chỉ thấy hai con đom đóm sải rộng đôi cánh, quét vệt sáng mờ màu vàng chanh ở đuôi lướt qua đỉnh đầu mọi người, chúng lượn quanh nửa vòng rồi mất hút trong bóng đêm vô biên, chỉ còn lại chiếc hộp rỗng không, Tư Mã Khôi tiện tay quẳng luôn xuống đất.



Lúc này, Thắng Hương Lân giơ tay nhìn đồng hồ, kim ngắn vừa vặn chỉ mười một giờ đúng. Ở dưới cửu tuyền cách biệt với thế giới bên ngoài, mọi người vốn chẳng cần phân biệt ngày và đêm, chỉ có điều Thắng Hương Lân muốn lấy thời gian làm điểm tham chiếu, lúc tiến sâu vào trong có thể tính toán độ sâu của hang động.



Bốn người lần theo tấm bia chậm chạp tiến về phía trước, Hải ngọng đi sau cùng, vô tình vấp phải hộp thiếc mà Tư Mã Khôi vừa vứt khi nãy, chân đứng không vững, liền bổ nhào ngã ụp xuống đất, đầu đâm cả vào ba lô Cao Tư Dương đang khoác trên lưng, ba người còn lại được phen hú vía, cùng quay phắt người lại xem chuyện gì xảy ra.



Hải ngọng lồm ngồm bò dậy, trách Tư Mã Khôi: “Cậu vứt cái hộp sao chả vứt xa một chút. Nơi tối lửa tắt đèn thế này giẫm phải ngã gãy xương chứ chẳng chơi, may mà tớ đã luyện võ…”



Tư Mã Khôi thấy không có chuyện gì, thì không đếm xỉa đến Hải ngọng nữa, anh quay người đang định tiến về phía trước, thì đột nhiên phát hiện trước chùm sáng đèn quặng thấp thoáng hiện ra khuôn mặt của một người.



Trong động tối đen như mực, chỉ cần ở cách mấy bước chân đã không nhìn thấy tia sáng cũng như không nghe thấy bất cứ âm thành nào rồi, bởi vậy đến khi cách người trước mặt rất gần, Tư Mã Khôi mới nhận ra. Tuy khuôn mặt kẻ mới đến trông chỉ lờ mờ, nhưng các đường nét vô cùng quen thuộc, rõ ràng đó là Nhị Học Sinh, người mới chết cách đây không lâu lúc ở phía ngoài bia đá. Tư Mã Khôi vốn bạo gan cứng vía nên anh chỉ lặng lẽ quan sát, rồi đột ngột thò tay ra phía trước tóm thật nhanh, lôi cổ kẻ mới đến lại gần nhìn cho rõ.



Nhị Học Sinh dường như đang hoảng hốt, loạng quạng bước về phía này, do mắt cận nặng nên cậu ta không nhìn thấy người ở trước mặt. Tư Mã Khôi ra tay nhanh như gió, khiến cậu ta không né kịp, Tư Mã Khôi tóm chặt cổ cậu ta chẳng khác nào đại bàng quắp chim sẻ, rồi anh vật mạnh Nhị Học Sinh xuống, khiến mặt cậu ta vàng như nghệ, ngồi co ro thành một đống.



Ba người còn lại phát hiện động tĩnh bất thường, đều quay đầu lại, lúc đèn quặng soi sáng khoảng không gian trước mặt, mới thấy tay Tư Mã Khôi đang tóm cổ một người, mà người này lại chính là Nhị Học Sinh, cả hội thấy da đầu bỗng dưng tê bì, da gà nổi toàn thân.



Hải ngọng vừa kinh ngạc vừa tò mò, bước lại gần Nhị Học Sinh nhìn không chớp mắt, tình hình lúc này thật chẳng khác gì đang trải qua một cơn ác mộng, nhưng những vết phỏng trên người do dòng nhiệt lưu bắn lên vẫn đau rát như nhắc anh – rõ ràng không phải đang mơ, anh không kiềm được lẩm bẩm tự hỏi: “Gã này là người hay ma không biết?”, lời vừa thốt ra ngay cả bản thân cũng thấy không đúng. Cậu Nhị Học Sinh kia cơ thể vốn đã mong manh yếu ớt, lại thêm phải chịu bao nỗi vất vả, bao phen sợ hãi dọc đường, cậu ta kiên trì đến được bia đá thì như ngọn đèn hết dầu, chết gục trước tấm bia, ngay cả thủ cấp cũng bị mọi người tẩm dầu, hỏa thiêu thành tro để phòng người chết không bị côn trùng, chuột bọ gặm nhấm, chỉ lưu lại mấy di vật tùy thân như chiếc bút máy, huy hiệu…



Nếu cả hội có thể sống sót thoát khỏi lòng đất, thì sẽ mang những di vật này về cố hương lập áo quan, coi như cậu ta không bị chết nơi đất khách quê người, đây cũng là một cách an táng từ thời xưa truyền lại. Cổ nhân có câu “người chết như đèn tắt”, một người đã bị hóa xương cốt thành tro, sao bỗng dưng có thể chạy ra từ động không đáy phía sau tấm bia đá? Nếu không phải yêu quái biến thành, thì hẳn cũng là ma hiện hồn, nghĩ đến đây anh lập tức giương khẩu súng săn hai nòng dí thẳng vào đỉnh đầu Nhị Học Sinh, chuẩn bị bóp cò bắn sọ đối phương nát như tào phớ.




Nhị Học Sinh sợ vãi đái, hai chân mềm nhũn khuỵu xuống đất, lúng búng van xin: “Đừng… đừng đừng… xin đừng nổ súng, tôi… tôi… tôi…”



Cao Tư Dương thấy người chết sống lại, trong lòng hãi hùng cực độ, nhưng cô thấy người ấy dung mạo và thần thái, cả động tác, lời nói nữa đều giống y chang cậu thư sinh Nhị Học Sinh đến từ Đại Thần Nông Giá, cô nhớ Tư Mã Khôi từng nói cách phân biệt giữa người và ma, “dưới đèn có bóng, áo mặc có đường may” thì chắc chắn là người chứ không phải ma, nếu xét như vậy thì người trước mặt rõ ràng là người sống sờ sờ không còn nghi ngờ gì nữa. Cô nghĩ chắc có nguyên do, nội tình gì đó ẩn chứa bên trong, nên vội vàng đẩy khẩu súng săn gấu đã lên nòng của Hải ngọng sang một bên.



Hải ngọng nóng mắt quát lớn: “Nhị Học Sinh có phải Triệu Lão Biệt biết găm biệt bảo trong người đâu mà có thể chết đi sống lại được, hắn không phải ma thì cũng là yêu quái, cô tuyệt đối không được nhất thời mềm lòng mà bị nó làm mờ mắt, tránh ra để tôi ‘bòm’ một phát cho sạch sẽ nào!”



Thắng Hương Lân đứng bên quan sát, trong lòng cũng thầm kinh ngạc tột độ, tấm bia đá Bái Xà rốt cuộc là vật vô cùng cổ quái, khó lòng dùng các lý thuyết thông thường để xét đoán. Chẳng lẽ người chết ngoài bia đá sẽ xuất hiện phía trong bia đá và ngược lại? Cô lại thấy Nhị Học Sinh vẫn gài bút và huy hiệu trên người, trông không khác gì di vật mà mọi người mang theo, cô bèn khuyên Hải ngọng đừng vội động thủ, cứ hỏi cho rõ rồi xử hắn sau cũng chưa muộn.



Tư Mã Khôi không nói gì, tóm cổ Nhị Học Sinh lại gần nhìn chăm chú một hồi lâu, nhưng không nhận thấy điểm gì khác thường. Người đã chết lại xuất hiện phía trong tấm bia đá, bản thân chuyện này vốn đã bất thường, anh bèn ra dấu bằng mắt cho Hải ngọng: “Xử đẹp thằng này đi!”



Hải ngọng vốn đã muốn giết hắn, nên lại giơ họng súng săn chĩa thẳng vào Nhị Học Sinh, trợn mắt nói: “Đừng trách anh lòng lang dạ sói, chú mày nghĩ mà xem, chú mày như ngọn đèn đã tắt, còn lưu luyến gì trên cõi đời này nữa mà phải trở lại nhập tràng? Bây giờ anh Hải ngọng chỉ còn cách tiễn chú một đoạn mà thôi…”



Nhị Học sinh bị họng súng đèn ngòm chĩa thẳng vào trán, cậu ta sợ run cầm cập, há hốc mồm, không thốt ra được nửa lời.



Cao Tư Dương chặn trước họng súng, nói với Tư Mã Khôi và Hải ngọng: “Sao các anh cứ động một tý là ra tay giết người, hỏi cho rõ đã rồi tính sau!”



Thắng Hương Lân cũng nói: “Người này lai lịch bất minh, chúng ta nên làm rõ xem rốt cuộc đang xảy ra chuyện gì trước đã!”



Tư Mã Khôi nghĩ thầm: ‘‘Từ sau bia đá bò ra không phải ma mới lạ, làm sao hỏi được cái cóc khô gì, nếu để lại hậu họa sẽ khôn lường”, anh lo phạm vi sát thương của đạn ghém hoa cải trong khẩu súng săn gấu hai nòng quá rộng, nên đẩy Nhị Học Sinh vào vách động, lấy khoảng không cho Hải ngọng tiện ngắm bắn.



Nhị Học Sinh bị đẩy mạnh đập cả người vào vách đá, mắt thấy hội người này định hạ thủ thật, thì sợ hãi đến nỗi chẳng giãy giụa được gì, cuống cuồng dùng cả tay lẫn chân vừa bò vừa lăn chạy tháo mạng.




Hải ngọng không chút chậm trễ, giương súng bóp cò, một tiếng “pằng” vang lên, đạn ghém cỡ tám trong họng súng siêu lớn bắn trúng vào lưng Nhị Học Sinh. Loại súng săn kiểu cũ của Canada này có thể hạ gục cả loài gấu nâu nặng ngàn cân thường lảng vảng trên dãy Rocky ở khoảng cách gần, nay bắn vào người thì làm gì có chuyện còn sống sót?



Nhị Học Sinh đứng cách mũi súng có mấy bước, cả cơ thể như chiếc lá bị cuồng phong giật tung lên, đạn xuyên thủng một lỗ lớn, người đập mạnh vào vách động, rồi mới rơi phịch xuống.



Cả hội lại gần xem, thì thấy Nhị Học sinh nằm thẳng cẳng trên mặt đất, đạn ghém cỡ tám đâm một lỗ từ sau lưng ra đến trước bụng, lòi cả phèo ruột ra ngoài, hai mắt mở trừng trừng vô định và chan chứa nỗi tuyệt vọng, miệng ùng ục nôn ra toàn bọt máu, tay chân co giật một hồi thì đoạn khí.



Cao Tư Dương thấy Nhị Học Sinh rõ ràng có máu có thịt, lại còn mang hơi khí của người sống, chẳng giống ma quỷ chút nào, cô phẫn nộ oán trách Tư Mã Khôi và Hải ngọng chưa hỏi rõ trắng đen đã ra tay hạ độc thủ luôn, rất có thể cả hai đã phạm phải sai lầm không cách nào cứu vãn.



Thắng Hương Lân cũng muốn khuyên nhủ cũng đã muộn, thấy cảnh tượng này thê thảm quá mức, nên cô không dám lại gần xem, nhưng người chết phía ngoài tấm bia đá lại xuất hiện ở đây, rõ ràng chuyện này có nguyên do của nó, không biết tiếp theo còn xảy ra những biến cố gì nữa?



Hải ngọng đã quen nhìn bao người chết trên chiến trường Miến Điện với đủ tư thế, anh biết lúc giết gà, con gà bị cắt cổ vẫn có thể nhào lên chạy mấy vòng, người chết chân tay co giật cũng là chuyện bình thường, chỉ một lát nữa thôi sẽ không còn cử động được gì nữa, có điều bộ dạng phèo ruột lòi cả ra ngoài thì đúng là cũng hơi khác so với những cái chết khác, lẽ nào anh thực sự đã ra tay giết người vô tội?



Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng đừng nghĩ nhiều, anh vẫn kiên định với câu nói trước đây, Nhị Học Sinh đi cùng đội khảo cổ ở rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá thực sự đã chết rồi, bất kể thứ bị nhốt trong hang động phía sau bia đá có giống cậu ta cỡ nào thì cũng không được tin đó là thật, nếu không dẫu có bao nhiêu cái mạng cũng không đủ lấp đầy hang động này đâu.



Hải ngọng nói: “Cậu đã nói vậy thì tớ yên tâm, chúng ta tiếp tục đi sâu vào trong chứ?”



Cao Tư Dương thấy Tư Mã Khôi không hề đếm xỉa gì đến lời nói của mình, cô chau mày bảo: “Muốn đi thì các anh tự đi. Tôi không hành động với lũ thổ phỉ bọn anh nữa!”



Lúc này, thấy Nhị Học Sinh đang nằm thẳng cẳng trên mặt đất, chân tay đã dần dần ngừng co giật, chút hơi tàn cũng đã trút hết, đúng lúc này, đèn quặng trên đầu bốn người đột nhiên tối sầm lại, trong nháy mắt tất cả chìm vào bóng đêm sâu thẳm và dày đặc không thể nào xuyên qua.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 194: động không đáy - hồi 1: 11:00


Tư Mã Khôi thấy đèn tự nhiên vụt tắt, không hiểu do hết pin hay chạm mạch, anh chửi thầm: “Mẹ mày, tà mị đến thế là cùng, sao toàn đợi lúc này mới sinh chuyện?”



Bóng tối vô biên hòa quyện với hơi khí chết chóc đầy mùi tuyệt vọng, lan tỏa đặc quánh khắp không gian. Bốn người sợ hãi, dựa sát vào nhau, nghe rõ cả hơi thở của người khác, không ai dám tự tiện xê dịch nửa bước, tim họ như đang muốn trồi lên tận cổ.



Mọi việc chỉ xảy ra trong nháy mắt, chẳng bao lâu sau đèn đã sáng trở lại, chiếu rõ mọi vật xung quanh.



Thắng Hương Lân căng thẳng hỏi Tư Mã Khôi: “Chuyện gì xảy ra khi nãy ấy nhỉ? Đèn quặng đang bình thường, sao tự nhiên tắt ngóm hết thế?”



Tim trong lồng ngực Tư Mã Khôi vẫn đập thình thịch, anh lắc đầu ý bảo không biết, lúc cúi xuống xem mới phát hiện cái xác của Nhị Học Sinh vốn nằm ngay trước mặt, nay bỗng không cánh mà bay, ngay cả máu thịt bắn tung tóe trên vách động cũng hoàn toàn bị xóa sạch.



Cao Tư Dương toát mồ hôi lạnh, cô vô cùng hối hận đã trách lầm hành động khi nãy của cả hội, may mà Tư Mã Khôi không chấp vặt.



Tư Mã Khôi đâu để bụng mấy chuyện đầu thừa đuôi thẹo, anh cảm thấy sự việc này vô cùng quái dị, nhưng vẫn cố lấy can đảm dò dẫm bước về phía trước tìm kiếm. Đang định di chuyển, thì đột nhiên chân anh đá phải một vật thể bằng kim loại, nhặt lên mới biết chính là hộp thiếc anh vừa quăng đi lúc nãy, trên hộp còn vết dao khoét thành nhiều lỗ thủng, trước đây dùng đựng mấy con đom đóm đuôi dài để đo chất lượng không khí, tuy chỉ là vật không hề bắt mắt, nhưng chắc chắn không thể tìm thấy cái thứ hai giống y chang như vậy.




Thắng Hương Lân ngạc nhiên hỏi: “Khi nãy anh đã vứt nó đi rồi, giờ còn nhặt lại làm gì?”



Tư Mã Khôi cầm hộp thiếc quan sát hồi lâu, lòng hãi hùng cực độ, anh nói: “Tôi nhớ rõ ràng lúc men theo vách đá vào sâu bên trong, thì tiện tay vứt cái hộp xuống đất, kết quả hại Hải ngọng đi sau cùng vấp phải ngã lăn quay, sau đó cả hội lại đi vào sâu hơn, mới gặp Nhị Học Sinh ở phía trong tấm bia đá. Cả quãng đường, chúng ta không ngừng đi về phía trước, chẳng hề lùi lại nửa bước, điều đó nghĩa là cái hộp đáng lẽ ra phải bị bỏ lại sau lưng, sao bây giờ nó lại mọc chân chạy đến ngay dưới chân tôi nhỉ?”



Hải ngọng nói: “Đúng thế, khi ấy tôi giơ chân đá nó về phía sau, tuyệt đối nó không thể lăn ra phía trước được, lí nào chúng ta sa vào hẻm ma ám, quay trở lại đường cũ rồi?”



Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ rồi nói: “Động đạo này vừa sâu vừa rộng, nhưng chúng ta mới đi được hơn chục bước, đâu dễ gì bị lạc hướng…”, nói xong cô liếc mắt xem đồng hồ, rồi khiếp đảm thốt lên: “Không phải chúng ta đi vòng trở lại, mà là thời gian đang quay ngược trở về lúc mười một giờ đúng!”



Tư Mã Khôi có dự cảm rất xấu, sao thời gian có thể trôi ngược được? Lúc vứt cái hộp, rồi bắt đầu đi sâu vào trong hang là mười một giờ đúng, sau đó thì gặp Nhị Học Sinh, Hải ngọng giơ súng săn gấu hai nòng bắn chết hắn, đèn quặng vô duyên vô cớ chợt vụt tắt, cả quá trình chí ít cũng kéo dài chừng mười phút, nhưng sau khi đèn quặng chiếu sáng trở lại, thì anh lại giẫm phải hộp thiếc vốn đã bị ném ở phía sau, đồng thời thời gian cũng chạy lùi về khoảnh khắc mười một giờ đúng. Tại sao như vậy được nhỉ?



Đúng lúc mọi người đang kinh ngạc tột độ, đột nhiên lại nghe thấy tiếng bước chân trong động đang đi tới gần, Tư Mã Khôi bật đèn quặng, thì nhìn thấy Nhị Học Sinh hốt hốt hoảng hoảng, bước thấp bước cao chạy đến. Do động đạo nuốt hết mọi ánh sáng và âm thanh, nên khi họ nghe thấy tiếng bước chân, thì hắn đã đến rất gần.



Tư Mã Khôi sợ hãi tột cùng, giơ chân ngoắc một cái, khiến kẻ mới đến ngã vật xuống đất, rồi thuận thế lấy báng súng đập mạnh.



Gáy Nhị Học Sinh bị báng súng đập trúng, chẳng ho he được tiếng nào đã lăn quay bất tỉnh nhân sự, hắn nằm rạp xuống đất trông chẳng khác nào con chó chết.



Hải ngọng rảo bước đến gần, lật ngửa Nhị Học Sinh lên, soi đèn quặng vào mặt đối phương, trợn mắt nhìn kỹ, càng nhìn càng ngạc nhiên: “Nó đúng là đồ ma quái, khi nãy rõ ràng bị súng bắn chết rồi, sao giờ sống lại được nhỉ?”



Tư Mã Khôi cảm thấy sự việc có gì không ổn, sau khi đèn quặng tắt, thời gian trong thông đạo lại trở về lúc mười một giờ đúng, anh giẫm phải hộp thiếc, rồi chạm trán Nhị Học Sinh. Những điểm thời gian này cứ xuất hiện lặp lại một lần, nếu quả đúng như vậy, thì đội khảo cổ khác chi đang bị nhốt trong một không gian chỉ có mười phút, họ sẽ phải trải qua một chuỗi sự kiện trùng lặp hết lần này đến lần khác. Trước mắt, anh chỉ biết hình dung như vậy, nhưng chưa có cách nào giải thích nguyên nhân.



Cao Tư Dương nói: “May mà chúng ta cách tấm bia Bái Xà không xa, hay ta rút khỏi động đạo trước, sau đó hẵng tính kế?”



Hải ngọng tóm lấy Nhị Học Sinh hỏi: “Thế con ma chết giẫm này thì xử lý thế nào?”



Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng kéo hắn theo, nhân lúc vẫn có thể đi thì phải đi mau, có chuyện gì thì đợi sau khi rút ra ngoài tấm bia đá hãy nói tiếp.




Bốn người lập tức xếp hàng theo thứ tự ngược lại lúc vào, kéo theo Nhị Học Sinh đang hôn mê, lần theo vách động đi ngược trở ra, nhưng cả hội đi hơn chục mét mà vẫn chưa nhìn thấy tấm bia đá chắn trước cửa động đâu.



Tư Mã Khôi đoán dẫu có đi tiếp chắc cũng không thể thoát ra được, liền ra hiệu cho mọi người dừng lại, nghĩ cách khác. Động không đáy phía trong tấm bia đá còn đáng sợ hơn cả tưởng tượng ban đầu của anh, vì cả hội vừa bước vào đã bị nhốt chặt.



Hải ngọng vẫn đang cõng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao trên lưng, giờ còn kéo thêm Nhị Học Sinh sống dở chết dở, mới bước một đoạn, anh đã hổn hà hổn hển, vừa thở vừa hỏi Thắng Hương Lân: “Từ điểm xuất phát đến giờ đã mất bao nhiêu thời gian rồi? Chẳng lẽ đèn quặng lại sắp tắt à?”



Thắng Hương Lân nhìn đồng hồ, kim dài đã chỉ quá mười hai phút, nhưng thời gian vẫn chưa quay ngược. Cao Tư Dương nghe vậy mới yên tâm đôi chút, cô gạt mồ hôi lạnh trên trán, rồi nói: “Thế thì tốt, nhưng cửa động lúc trước chúng ta vào nằm ở đâu nhỉ?”



Lúc này, Nhị Học Sinh bị mọi người kéo đi dường như bắt đầu tỉnh khỏi cơn mê, hắn giãy giụa định vùng dậy.



Hải ngọng tưởng Nhị Học Sinh nhân cơ hội chạy trốn anh lập tức giương súng gí thẳng vào đầu đối phương hét lớn: “Cứ thử động đậy xem, ông khắc cho mày biết tay…”



Nào ngờ, lời còn chưa dứt thì một tiếng nổ lớn vang lên, khẩu súng săn bị cướp cò, họng súng kề ngay trước trán Nhị Học Sinh, đạn ghém cỡ tám trong họng súng siêu hạng thoát ra khỏi rãnh trượt dũng mãnh chẳng khác nào pháo bắn, cả hộp sọ của Nhị Học Sinh bị bắn vỡ tung, não tủy bay tan tác, cỗ thi thể không đầu lắc lư mấy cái, rồi đổ rầm xuống đất như cây chuối.



Hải ngọng nhìn cái xác dưới chân, ngẩn người tại trận, miệng lắp bắp giải thích: “Tôi chưa nổ súng đâu nhé, cái này… cái này… hoàn toàn là sự cố ngoài ý muốn…”



Ba người còn lại tuy đứng cách đó không xa, nhưng cũng không thể lường trước sự việc này. Chưa ai kịp nói câu nào, thì đèn quặng trên đầu đột nhiên tối sầm. Trong phút chốc, tầm nhìn của mọi người hạ thấp đến mức chỉ thấy bóng đêm đang dần nhả màu đen trên năm đầu ngón tay. Giữa lúc mù mịt tăm tối chẳng biết làm gì, thì đèn quặng lại phục hồi khả năng chiếu sáng, cỗ thi thể bị bắn vỡ sọ trước mắt không biết đã biến đi đằng nào.



Trong khi đầu óc còn đang mụ mị, Tư Mã Khôi phát hiện ngón chân lại chạm vào một vật cứng, bấm đèn quặng cúi đầu xuống nhìn, thì ra đó là cái hộp thiếc rỗng không anh từng vứt đi. Một người can đảm như anh đến giờ này cũng phải hít ngược một hơi lạnh thấu tim: “Thời gian trong động đạo lại trở về lúc mười một giờ rồi!”



Lúc này, cả hội nghe thấy tiếng bước chân, khuôn mặt ngơ ngác, hoảng sợ của Nhị Học Sinh xuất hiện trong phạm vi chiếu sáng của đèn quặng.



Mọi người đưa mắt nhìn nhau, thì ra chỉ cần Nhị Học Sinh chết ở phía trong tấm bia đá, thì thời gian trong động đạo sẽ quay ngược nhanh như chớp.



Tư Mã Khôi nhất thời không kịp nghĩ nhiều, đành lấy báng súng đánh ngất Nhị Học Sinh đang quờ quạng bước lại gần, sau đó anh đặt cái hộp về chỗ cũ.



Thắng Hương Lân đến bên, giơ tay để trước mũi Nhị Học Sinh, hơi thở của hắn giống hệt người còn sống, tuy lai lịch quái dị, nhưng cô không phát hiện ra điểm gì bất thường.




Cao Tư Dương nói: “Sao không thử hỏi Nhị Học Sinh xem, biết đâu hắn biết gì đó!”



Tư Mã Khôi nói: “Trước khi xác định được lai lịch của hắn, tuyệt đối không nên nghe lời hắn nói, hắn nói gì cũng không được tin. Chúng ta cứ đi thẳng vào trong hang động trước, xem tên này mọc ra từ chỗ nào!” Thế là, Hải ngọng kéo lê Nhị Học Sinh trên mặt đất, Thắng Hương Lân châm đuốc đi giữa soi sáng cho cả hội. Mọi người dò dẫm từng bước tiến về phía trước.



Cao Tư Dương bất lực, đành nắm chắc súng đi theo đoàn. Thắng Hương Lân lấy bút dạ quang đưa cho Cao Tư Dương, bảo cô đánh ký hiệu trên vách động.



Hải ngọng không hiểu móc đâu ra một đống đạo lý, anh vừa đi vừa kể với ba người bạn đồng hành: “Tôi thấy thằng cha kia vẫn thở như người sống, đương nhiên hắn không giống hồn ma bóng quế, chắc chắn là yêu quái thành tinh chứ chẳng sai. Năm đó, tôi ở Hắc Ốc từng được nghe kể một chuyện rất rùng rợn: Ở ngoại thành Trường Sa có mấy ngôi mộ cổ lai lịch hàng trăm năm, chẳng ai khảo chứng chúng xuất hiện từ triều đại nào, tóm lại mấy khu mộ đó cỏ mọc xanh um, phía trước có bia mộ.



Tương truyền, ma quỷ lộng hành ở đây rất kinh, nên giữa ban ngày ban mặt cũng rất ít người dám lai vãng đến gần, ngay bọn trộm mộ cũng chẳng bén mảng. Ở ngoại thành có ông chủ họ Chu chuẩn bị gả khuê nữ, gia chủ liền mời anh thợ mộc đóng mấy đồ mộc làm của hồi môn cho con gái. Anh thợ mộc là người ngoại tỉnh, mang theo một đồ đệ trẻ để giúp việc, do thời gian bị hối thúc gấp gáp nên hàng ngày hai thầy trò họ miệt mài lao động bất kể sớm khuya. Bình thường, sau khi làm xong việc, họ sang ngủ ở căn phòng trước vườn. Một hôm, hai thầy trò vô tình phát hiện vài điểm bất thường, mỗi lần tắt đèn, họ đều nghe thấy tiếng kèn kẹt ở cổng vườn, dường như có con gì đang lấy vuốt cào cửa.



Họ bạo gan quan sát mấy ngày, mới phát hiện, gia chủ vốn nuôi một con chó mực rất lớn, hàng đêm khi mọi người tắt đèn đi ngủ, thì con chó mới đứng thẳng như người, lẳng lặng dùng vuốt mở then cửa cổng, sau đó thậm thà thậm thụt chuồn ra ngoài, đợi khi trời sáng mới quay về nhà, dùng vuốt đẩy cửa, nhẹ nhàng cài lại then ngang. Hai thầy trò cảm thấy vô cùng kỳ lạ, có câu “gà gáy sáng, chó canh đêm”, đó là đặc tính thiên định của tạo vật. Khi màn đêm buông xuống, con chó đen không gác nhà, mà lẻn ra ngoài, không hiểu rốt cuộc nó đi đâu? Hai thầy trò nhất thời tò mò, liền bám đuôi xem trộm.



Sau một thời gian bám theo dấu vết, họ phát hiện hàng đêm con chó đen lại mò đến nghĩa địa hoang ở ngoại thành, ở đó có một nấm mồ rất lớn, không biết là mộ cổ từ thời nào còn sót lại, nấm mồ mọc đầy cỏ dại khỏa lấp một miệng hang ở phía dưới, thông thẳng xuống đáy mộ. Thấy con chó đen chui vào trong hang, hai thầy trò cứ ngỡ con chó đang ăn thịt người chết trong mộ, ngẫm nghĩ một lát thấy không chừng đây là cơ hội kiếm trác được chút kim ngân ngọc ngà bồi táng cũng nên, thế là hai người bò đến cửa động nghe ngóng động tĩnh.



Họ nghe thấy dường như có mấy người đang thì thào bàn tán gì đó, nghe kỹ thì thấy họ đang nói xem nhà tài chủ họ Chu tất cả lớn bé già trẻ gái trai có mấy nhân khẩu, đặc điểm cơ thể và dung mạo của từng người ra sao, thích mặc đồ gì, thích ăn cái gì, đồng thời thảo luận tìm cơ hội lọt vào nhà hại chết tất cả mười mấy mạng ngựời, sau đó, bọn chúng sẽ biến hình, giả dạng thành người nhà họ Chu, tới dương gian hưởng phúc mấy chục năm. Hai thầy trò nhà nọ nghe xong mà hồn vía lên mây, không ngờ con chó đen đã câu kết với bọn yêu quái dưới mộ để hại chủ.



Họ không dám giấu giếm, sau khi quay về nhà liền kể lại sự việc cho ông chủ họ Chu. Ông chủ họ Chu kinh hãi, vội cho người đánh chết con chó đen, rồi tập hợp dăm ba chục thanh niên can đảm, nhân lúc trời sáng, tìm ra nghĩa địa, lấy cỏ khô hun đen nấm mồ, sau đó bới đống đất lên, thì thấy trong hang nằm ngổn ngang mấy con chồn thành tinh, con to con nhỏ, tính cả con chó đen, thì số lượng vừa vặn trùng khớp với số người nhà họ Chu.



Hải ngọng nói: “Nếu vô căn vô cứ, sao lại có truyền thuyết này? Điều đó chứng minh chuyện quái dị ấy có từ thời cổ, thì không chừng trong động không đáy tồn tại loài yêu quái nào đấy, nếu người phía ngoài tấm bia đá chết đi, thì nó sẽ giả dạng ngoại hình của người ấy chạy đi tác oai tác quái. Tấm bia đá ở cửa động được đặt ở đó để chặn nó thoát ra ngoài, vì nếu nó thoát được ra, thì tai họa thật không lường hết được”.



Từ trước đến giờ, Cao Tư Dương chưa từng tin mấy chuyện ma mãnh, giờ nghe Hải ngọng kể, cô sợ hết hồn. Cô vô tình phát hiện bút dạ quang trong tay đã hết mực từ bao giờ, mà động đạo thâm u, đen ngòm vẫn kéo dài như không có điểm tận cùng.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 195: Hồi 2: tá thi hoàn hồn


Tư Mã Khôi thấy đèn tự nhiên vụt tắt, không hiểu do hết pin hay chạm mạch, anh chửi thầm: “Mẹ mày, tà mị đến thế là cùng, sao toàn đợi lúc này mới sinh chuyện?”



Bóng tối vô biên hòa quyện với hơi khí chết chóc đầy mùi tuyệt vọng, lan tỏa đặc quánh khắp không gian. Bốn người sợ hãi, dựa sát vào nhau, nghe rõ cả hơi thở của người khác, không ai dám tự tiện xê dịch nửa bước, tim họ như đang muốn trồi lên tận cổ.



Mọi việc chỉ xảy ra trong nháy mắt, chẳng bao lâu sau đèn đã sáng trở lại, chiếu rõ mọi vật xung quanh.



Thắng Hương Lân căng thẳng hỏi Tư Mã Khôi: “Chuyện gì xảy ra khi nãy ấy nhỉ? Đèn quặng đang bình thường, sao tự nhiên tắt ngóm hết thế?”



Tim trong lồng ngực Tư Mã Khôi vẫn đập thình thịch, anh lắc đầu ý bảo không biết, lúc cúi xuống xem mới phát hiện cái xác của Nhị Học Sinh vốn nằm ngay trước mặt, nay bỗng không cánh mà bay, ngay cả máu thịt bắn tung tóe trên vách động cũng hoàn toàn bị xóa sạch.



Cao Tư Dương toát mồ hôi lạnh, cô vô cùng hối hận đã trách lầm hành động khi nãy của cả hội, may mà Tư Mã Khôi không chấp vặt.



Tư Mã Khôi đâu để bụng mấy chuyện đầu thừa đuôi thẹo, anh cảm thấy sự việc này vô cùng quái dị, nhưng vẫn cố lấy can đảm dò dẫm bước về phía trước tìm kiếm. Đang định di chuyển, thì đột nhiên chân anh đá phải một vật thể bằng kim loại, nhặt lên mới biết chính là hộp thiếc anh vừa quăng đi lúc nãy, trên hộp còn vết dao khoét thành nhiều lỗ thủng, trước đây dùng đựng mấy con đom đóm đuôi dài để đo chất lượng không khí, tuy chỉ là vật không hề bắt mắt, nhưng chắc chắn không thể tìm thấy cái thứ hai giống y chang như vậy.




Thắng Hương Lân ngạc nhiên hỏi: “Khi nãy anh đã vứt nó đi rồi, giờ còn nhặt lại làm gì?”



Tư Mã Khôi cầm hộp thiếc quan sát hồi lâu, lòng hãi hùng cực độ, anh nói: “Tôi nhớ rõ ràng lúc men theo vách đá vào sâu bên trong, thì tiện tay vứt cái hộp xuống đất, kết quả hại Hải ngọng đi sau cùng vấp phải ngã lăn quay, sau đó cả hội lại đi vào sâu hơn, mới gặp Nhị Học Sinh ở phía trong tấm bia đá. Cả quãng đường, chúng ta không ngừng đi về phía trước, chẳng hề lùi lại nửa bước, điều đó nghĩa là cái hộp đáng lẽ ra phải bị bỏ lại sau lưng, sao bây giờ nó lại mọc chân chạy đến ngay dưới chân tôi nhỉ?”



Hải ngọng nói: “Đúng thế, khi ấy tôi giơ chân đá nó về phía sau, tuyệt đối nó không thể lăn ra phía trước được, lí nào chúng ta sa vào hẻm ma ám, quay trở lại đường cũ rồi?”



Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ rồi nói: “Động đạo này vừa sâu vừa rộng, nhưng chúng ta mới đi được hơn chục bước, đâu dễ gì bị lạc hướng…”, nói xong cô liếc mắt xem đồng hồ, rồi khiếp đảm thốt lên: “Không phải chúng ta đi vòng trở lại, mà là thời gian đang quay ngược trở về lúc mười một giờ đúng!”



Tư Mã Khôi có dự cảm rất xấu, sao thời gian có thể trôi ngược được? Lúc vứt cái hộp, rồi bắt đầu đi sâu vào trong hang là mười một giờ đúng, sau đó thì gặp Nhị Học Sinh, Hải ngọng giơ súng săn gấu hai nòng bắn chết hắn, đèn quặng vô duyên vô cớ chợt vụt tắt, cả quá trình chí ít cũng kéo dài chừng mười phút, nhưng sau khi đèn quặng chiếu sáng trở lại, thì anh lại giẫm phải hộp thiếc vốn đã bị ném ở phía sau, đồng thời thời gian cũng chạy lùi về khoảnh khắc mười một giờ đúng. Tại sao như vậy được nhỉ?



Đúng lúc mọi người đang kinh ngạc tột độ, đột nhiên lại nghe thấy tiếng bước chân trong động đang đi tới gần, Tư Mã Khôi bật đèn quặng, thì nhìn thấy Nhị Học Sinh hốt hốt hoảng hoảng, bước thấp bước cao chạy đến. Do động đạo nuốt hết mọi ánh sáng và âm thanh, nên khi họ nghe thấy tiếng bước chân, thì hắn đã đến rất gần.



Tư Mã Khôi sợ hãi tột cùng, giơ chân ngoắc một cái, khiến kẻ mới đến ngã vật xuống đất, rồi thuận thế lấy báng súng đập mạnh.



Gáy Nhị Học Sinh bị báng súng đập trúng, chẳng ho he được tiếng nào đã lăn quay bất tỉnh nhân sự, hắn nằm rạp xuống đất trông chẳng khác nào con chó chết.



Hải ngọng rảo bước đến gần, lật ngửa Nhị Học Sinh lên, soi đèn quặng vào mặt đối phương, trợn mắt nhìn kỹ, càng nhìn càng ngạc nhiên: “Nó đúng là đồ ma quái, khi nãy rõ ràng bị súng bắn chết rồi, sao giờ sống lại được nhỉ?”



Tư Mã Khôi cảm thấy sự việc có gì không ổn, sau khi đèn quặng tắt, thời gian trong thông đạo lại trở về lúc mười một giờ đúng, anh giẫm phải hộp thiếc, rồi chạm trán Nhị Học Sinh. Những điểm thời gian này cứ xuất hiện lặp lại một lần, nếu quả đúng như vậy, thì đội khảo cổ khác chi đang bị nhốt trong một không gian chỉ có mười phút, họ sẽ phải trải qua một chuỗi sự kiện trùng lặp hết lần này đến lần khác. Trước mắt, anh chỉ biết hình dung như vậy, nhưng chưa có cách nào giải thích nguyên nhân.



Cao Tư Dương nói: “May mà chúng ta cách tấm bia Bái Xà không xa, hay ta rút khỏi động đạo trước, sau đó hẵng tính kế?”



Hải ngọng tóm lấy Nhị Học Sinh hỏi: “Thế con ma chết giẫm này thì xử lý thế nào?”



Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng kéo hắn theo, nhân lúc vẫn có thể đi thì phải đi mau, có chuyện gì thì đợi sau khi rút ra ngoài tấm bia đá hãy nói tiếp.




Bốn người lập tức xếp hàng theo thứ tự ngược lại lúc vào, kéo theo Nhị Học Sinh đang hôn mê, lần theo vách động đi ngược trở ra, nhưng cả hội đi hơn chục mét mà vẫn chưa nhìn thấy tấm bia đá chắn trước cửa động đâu.



Tư Mã Khôi đoán dẫu có đi tiếp chắc cũng không thể thoát ra được, liền ra hiệu cho mọi người dừng lại, nghĩ cách khác. Động không đáy phía trong tấm bia đá còn đáng sợ hơn cả tưởng tượng ban đầu của anh, vì cả hội vừa bước vào đã bị nhốt chặt.



Hải ngọng vẫn đang cõng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao trên lưng, giờ còn kéo thêm Nhị Học Sinh sống dở chết dở, mới bước một đoạn, anh đã hổn hà hổn hển, vừa thở vừa hỏi Thắng Hương Lân: “Từ điểm xuất phát đến giờ đã mất bao nhiêu thời gian rồi? Chẳng lẽ đèn quặng lại sắp tắt à?”



Thắng Hương Lân nhìn đồng hồ, kim dài đã chỉ quá mười hai phút, nhưng thời gian vẫn chưa quay ngược. Cao Tư Dương nghe vậy mới yên tâm đôi chút, cô gạt mồ hôi lạnh trên trán, rồi nói: “Thế thì tốt, nhưng cửa động lúc trước chúng ta vào nằm ở đâu nhỉ?”



Lúc này, Nhị Học Sinh bị mọi người kéo đi dường như bắt đầu tỉnh khỏi cơn mê, hắn giãy giụa định vùng dậy.



Hải ngọng tưởng Nhị Học Sinh nhân cơ hội chạy trốn anh lập tức giương súng gí thẳng vào đầu đối phương hét lớn: “Cứ thử động đậy xem, ông khắc cho mày biết tay…”



Nào ngờ, lời còn chưa dứt thì một tiếng nổ lớn vang lên, khẩu súng săn bị cướp cò, họng súng kề ngay trước trán Nhị Học Sinh, đạn ghém cỡ tám trong họng súng siêu hạng thoát ra khỏi rãnh trượt dũng mãnh chẳng khác nào pháo bắn, cả hộp sọ của Nhị Học Sinh bị bắn vỡ tung, não tủy bay tan tác, cỗ thi thể không đầu lắc lư mấy cái, rồi đổ rầm xuống đất như cây chuối.



Hải ngọng nhìn cái xác dưới chân, ngẩn người tại trận, miệng lắp bắp giải thích: “Tôi chưa nổ súng đâu nhé, cái này… cái này… hoàn toàn là sự cố ngoài ý muốn…”



Ba người còn lại tuy đứng cách đó không xa, nhưng cũng không thể lường trước sự việc này. Chưa ai kịp nói câu nào, thì đèn quặng trên đầu đột nhiên tối sầm. Trong phút chốc, tầm nhìn của mọi người hạ thấp đến mức chỉ thấy bóng đêm đang dần nhả màu đen trên năm đầu ngón tay. Giữa lúc mù mịt tăm tối chẳng biết làm gì, thì đèn quặng lại phục hồi khả năng chiếu sáng, cỗ thi thể bị bắn vỡ sọ trước mắt không biết đã biến đi đằng nào.



Trong khi đầu óc còn đang mụ mị, Tư Mã Khôi phát hiện ngón chân lại chạm vào một vật cứng, bấm đèn quặng cúi đầu xuống nhìn, thì ra đó là cái hộp thiếc rỗng không anh từng vứt đi. Một người can đảm như anh đến giờ này cũng phải hít ngược một hơi lạnh thấu tim: “Thời gian trong động đạo lại trở về lúc mười một giờ rồi!”



Lúc này, cả hội nghe thấy tiếng bước chân, khuôn mặt ngơ ngác, hoảng sợ của Nhị Học Sinh xuất hiện trong phạm vi chiếu sáng của đèn quặng.



Mọi người đưa mắt nhìn nhau, thì ra chỉ cần Nhị Học Sinh chết ở phía trong tấm bia đá, thì thời gian trong động đạo sẽ quay ngược nhanh như chớp.



Tư Mã Khôi nhất thời không kịp nghĩ nhiều, đành lấy báng súng đánh ngất Nhị Học Sinh đang quờ quạng bước lại gần, sau đó anh đặt cái hộp về chỗ cũ.



Thắng Hương Lân đến bên, giơ tay để trước mũi Nhị Học Sinh, hơi thở của hắn giống hệt người còn sống, tuy lai lịch quái dị, nhưng cô không phát hiện ra điểm gì bất thường.




Cao Tư Dương nói: “Sao không thử hỏi Nhị Học Sinh xem, biết đâu hắn biết gì đó!”



Tư Mã Khôi nói: “Trước khi xác định được lai lịch của hắn, tuyệt đối không nên nghe lời hắn nói, hắn nói gì cũng không được tin. Chúng ta cứ đi thẳng vào trong hang động trước, xem tên này mọc ra từ chỗ nào!” Thế là, Hải ngọng kéo lê Nhị Học Sinh trên mặt đất, Thắng Hương Lân châm đuốc đi giữa soi sáng cho cả hội. Mọi người dò dẫm từng bước tiến về phía trước.



Cao Tư Dương bất lực, đành nắm chắc súng đi theo đoàn. Thắng Hương Lân lấy bút dạ quang đưa cho Cao Tư Dương, bảo cô đánh ký hiệu trên vách động.



Hải ngọng không hiểu móc đâu ra một đống đạo lý, anh vừa đi vừa kể với ba người bạn đồng hành: “Tôi thấy thằng cha kia vẫn thở như người sống, đương nhiên hắn không giống hồn ma bóng quế, chắc chắn là yêu quái thành tinh chứ chẳng sai. Năm đó, tôi ở Hắc Ốc từng được nghe kể một chuyện rất rùng rợn: Ở ngoại thành Trường Sa có mấy ngôi mộ cổ lai lịch hàng trăm năm, chẳng ai khảo chứng chúng xuất hiện từ triều đại nào, tóm lại mấy khu mộ đó cỏ mọc xanh um, phía trước có bia mộ.



Tương truyền, ma quỷ lộng hành ở đây rất kinh, nên giữa ban ngày ban mặt cũng rất ít người dám lai vãng đến gần, ngay bọn trộm mộ cũng chẳng bén mảng. Ở ngoại thành có ông chủ họ Chu chuẩn bị gả khuê nữ, gia chủ liền mời anh thợ mộc đóng mấy đồ mộc làm của hồi môn cho con gái. Anh thợ mộc là người ngoại tỉnh, mang theo một đồ đệ trẻ để giúp việc, do thời gian bị hối thúc gấp gáp nên hàng ngày hai thầy trò họ miệt mài lao động bất kể sớm khuya. Bình thường, sau khi làm xong việc, họ sang ngủ ở căn phòng trước vườn. Một hôm, hai thầy trò vô tình phát hiện vài điểm bất thường, mỗi lần tắt đèn, họ đều nghe thấy tiếng kèn kẹt ở cổng vườn, dường như có con gì đang lấy vuốt cào cửa.



Họ bạo gan quan sát mấy ngày, mới phát hiện, gia chủ vốn nuôi một con chó mực rất lớn, hàng đêm khi mọi người tắt đèn đi ngủ, thì con chó mới đứng thẳng như người, lẳng lặng dùng vuốt mở then cửa cổng, sau đó thậm thà thậm thụt chuồn ra ngoài, đợi khi trời sáng mới quay về nhà, dùng vuốt đẩy cửa, nhẹ nhàng cài lại then ngang. Hai thầy trò cảm thấy vô cùng kỳ lạ, có câu “gà gáy sáng, chó canh đêm”, đó là đặc tính thiên định của tạo vật. Khi màn đêm buông xuống, con chó đen không gác nhà, mà lẻn ra ngoài, không hiểu rốt cuộc nó đi đâu? Hai thầy trò nhất thời tò mò, liền bám đuôi xem trộm.



Sau một thời gian bám theo dấu vết, họ phát hiện hàng đêm con chó đen lại mò đến nghĩa địa hoang ở ngoại thành, ở đó có một nấm mồ rất lớn, không biết là mộ cổ từ thời nào còn sót lại, nấm mồ mọc đầy cỏ dại khỏa lấp một miệng hang ở phía dưới, thông thẳng xuống đáy mộ. Thấy con chó đen chui vào trong hang, hai thầy trò cứ ngỡ con chó đang ăn thịt người chết trong mộ, ngẫm nghĩ một lát thấy không chừng đây là cơ hội kiếm trác được chút kim ngân ngọc ngà bồi táng cũng nên, thế là hai người bò đến cửa động nghe ngóng động tĩnh.



Họ nghe thấy dường như có mấy người đang thì thào bàn tán gì đó, nghe kỹ thì thấy họ đang nói xem nhà tài chủ họ Chu tất cả lớn bé già trẻ gái trai có mấy nhân khẩu, đặc điểm cơ thể và dung mạo của từng người ra sao, thích mặc đồ gì, thích ăn cái gì, đồng thời thảo luận tìm cơ hội lọt vào nhà hại chết tất cả mười mấy mạng ngựời, sau đó, bọn chúng sẽ biến hình, giả dạng thành người nhà họ Chu, tới dương gian hưởng phúc mấy chục năm. Hai thầy trò nhà nọ nghe xong mà hồn vía lên mây, không ngờ con chó đen đã câu kết với bọn yêu quái dưới mộ để hại chủ.



Họ không dám giấu giếm, sau khi quay về nhà liền kể lại sự việc cho ông chủ họ Chu. Ông chủ họ Chu kinh hãi, vội cho người đánh chết con chó đen, rồi tập hợp dăm ba chục thanh niên can đảm, nhân lúc trời sáng, tìm ra nghĩa địa, lấy cỏ khô hun đen nấm mồ, sau đó bới đống đất lên, thì thấy trong hang nằm ngổn ngang mấy con chồn thành tinh, con to con nhỏ, tính cả con chó đen, thì số lượng vừa vặn trùng khớp với số người nhà họ Chu.



Hải ngọng nói: “Nếu vô căn vô cứ, sao lại có truyền thuyết này? Điều đó chứng minh chuyện quái dị ấy có từ thời cổ, thì không chừng trong động không đáy tồn tại loài yêu quái nào đấy, nếu người phía ngoài tấm bia đá chết đi, thì nó sẽ giả dạng ngoại hình của người ấy chạy đi tác oai tác quái. Tấm bia đá ở cửa động được đặt ở đó để chặn nó thoát ra ngoài, vì nếu nó thoát được ra, thì tai họa thật không lường hết được”.



Từ trước đến giờ, Cao Tư Dương chưa từng tin mấy chuyện ma mãnh, giờ nghe Hải ngọng kể, cô sợ hết hồn. Cô vô tình phát hiện bút dạ quang trong tay đã hết mực từ bao giờ, mà động đạo thâm u, đen ngòm vẫn kéo dài như không có điểm tận cùng.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 196: Hồi 3: bom hẹn giờ


Tư Mã Khôi thấy đèn tự nhiên vụt tắt, không hiểu do hết pin hay chạm mạch, anh chửi thầm: “Mẹ mày, tà mị đến thế là cùng, sao toàn đợi lúc này mới sinh chuyện?”



Bóng tối vô biên hòa quyện với hơi khí chết chóc đầy mùi tuyệt vọng, lan tỏa đặc quánh khắp không gian. Bốn người sợ hãi, dựa sát vào nhau, nghe rõ cả hơi thở của người khác, không ai dám tự tiện xê dịch nửa bước, tim họ như đang muốn trồi lên tận cổ.



Mọi việc chỉ xảy ra trong nháy mắt, chẳng bao lâu sau đèn đã sáng trở lại, chiếu rõ mọi vật xung quanh.



Thắng Hương Lân căng thẳng hỏi Tư Mã Khôi: “Chuyện gì xảy ra khi nãy ấy nhỉ? Đèn quặng đang bình thường, sao tự nhiên tắt ngóm hết thế?”



Tim trong lồng ngực Tư Mã Khôi vẫn đập thình thịch, anh lắc đầu ý bảo không biết, lúc cúi xuống xem mới phát hiện cái xác của Nhị Học Sinh vốn nằm ngay trước mặt, nay bỗng không cánh mà bay, ngay cả máu thịt bắn tung tóe trên vách động cũng hoàn toàn bị xóa sạch.



Cao Tư Dương toát mồ hôi lạnh, cô vô cùng hối hận đã trách lầm hành động khi nãy của cả hội, may mà Tư Mã Khôi không chấp vặt.



Tư Mã Khôi đâu để bụng mấy chuyện đầu thừa đuôi thẹo, anh cảm thấy sự việc này vô cùng quái dị, nhưng vẫn cố lấy can đảm dò dẫm bước về phía trước tìm kiếm. Đang định di chuyển, thì đột nhiên chân anh đá phải một vật thể bằng kim loại, nhặt lên mới biết chính là hộp thiếc anh vừa quăng đi lúc nãy, trên hộp còn vết dao khoét thành nhiều lỗ thủng, trước đây dùng đựng mấy con đom đóm đuôi dài để đo chất lượng không khí, tuy chỉ là vật không hề bắt mắt, nhưng chắc chắn không thể tìm thấy cái thứ hai giống y chang như vậy.




Thắng Hương Lân ngạc nhiên hỏi: “Khi nãy anh đã vứt nó đi rồi, giờ còn nhặt lại làm gì?”



Tư Mã Khôi cầm hộp thiếc quan sát hồi lâu, lòng hãi hùng cực độ, anh nói: “Tôi nhớ rõ ràng lúc men theo vách đá vào sâu bên trong, thì tiện tay vứt cái hộp xuống đất, kết quả hại Hải ngọng đi sau cùng vấp phải ngã lăn quay, sau đó cả hội lại đi vào sâu hơn, mới gặp Nhị Học Sinh ở phía trong tấm bia đá. Cả quãng đường, chúng ta không ngừng đi về phía trước, chẳng hề lùi lại nửa bước, điều đó nghĩa là cái hộp đáng lẽ ra phải bị bỏ lại sau lưng, sao bây giờ nó lại mọc chân chạy đến ngay dưới chân tôi nhỉ?”



Hải ngọng nói: “Đúng thế, khi ấy tôi giơ chân đá nó về phía sau, tuyệt đối nó không thể lăn ra phía trước được, lí nào chúng ta sa vào hẻm ma ám, quay trở lại đường cũ rồi?”



Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ rồi nói: “Động đạo này vừa sâu vừa rộng, nhưng chúng ta mới đi được hơn chục bước, đâu dễ gì bị lạc hướng…”, nói xong cô liếc mắt xem đồng hồ, rồi khiếp đảm thốt lên: “Không phải chúng ta đi vòng trở lại, mà là thời gian đang quay ngược trở về lúc mười một giờ đúng!”



Tư Mã Khôi có dự cảm rất xấu, sao thời gian có thể trôi ngược được? Lúc vứt cái hộp, rồi bắt đầu đi sâu vào trong hang là mười một giờ đúng, sau đó thì gặp Nhị Học Sinh, Hải ngọng giơ súng săn gấu hai nòng bắn chết hắn, đèn quặng vô duyên vô cớ chợt vụt tắt, cả quá trình chí ít cũng kéo dài chừng mười phút, nhưng sau khi đèn quặng chiếu sáng trở lại, thì anh lại giẫm phải hộp thiếc vốn đã bị ném ở phía sau, đồng thời thời gian cũng chạy lùi về khoảnh khắc mười một giờ đúng. Tại sao như vậy được nhỉ?



Đúng lúc mọi người đang kinh ngạc tột độ, đột nhiên lại nghe thấy tiếng bước chân trong động đang đi tới gần, Tư Mã Khôi bật đèn quặng, thì nhìn thấy Nhị Học Sinh hốt hốt hoảng hoảng, bước thấp bước cao chạy đến. Do động đạo nuốt hết mọi ánh sáng và âm thanh, nên khi họ nghe thấy tiếng bước chân, thì hắn đã đến rất gần.



Tư Mã Khôi sợ hãi tột cùng, giơ chân ngoắc một cái, khiến kẻ mới đến ngã vật xuống đất, rồi thuận thế lấy báng súng đập mạnh.



Gáy Nhị Học Sinh bị báng súng đập trúng, chẳng ho he được tiếng nào đã lăn quay bất tỉnh nhân sự, hắn nằm rạp xuống đất trông chẳng khác nào con chó chết.



Hải ngọng rảo bước đến gần, lật ngửa Nhị Học Sinh lên, soi đèn quặng vào mặt đối phương, trợn mắt nhìn kỹ, càng nhìn càng ngạc nhiên: “Nó đúng là đồ ma quái, khi nãy rõ ràng bị súng bắn chết rồi, sao giờ sống lại được nhỉ?”



Tư Mã Khôi cảm thấy sự việc có gì không ổn, sau khi đèn quặng tắt, thời gian trong thông đạo lại trở về lúc mười một giờ đúng, anh giẫm phải hộp thiếc, rồi chạm trán Nhị Học Sinh. Những điểm thời gian này cứ xuất hiện lặp lại một lần, nếu quả đúng như vậy, thì đội khảo cổ khác chi đang bị nhốt trong một không gian chỉ có mười phút, họ sẽ phải trải qua một chuỗi sự kiện trùng lặp hết lần này đến lần khác. Trước mắt, anh chỉ biết hình dung như vậy, nhưng chưa có cách nào giải thích nguyên nhân.



Cao Tư Dương nói: “May mà chúng ta cách tấm bia Bái Xà không xa, hay ta rút khỏi động đạo trước, sau đó hẵng tính kế?”



Hải ngọng tóm lấy Nhị Học Sinh hỏi: “Thế con ma chết giẫm này thì xử lý thế nào?”



Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng kéo hắn theo, nhân lúc vẫn có thể đi thì phải đi mau, có chuyện gì thì đợi sau khi rút ra ngoài tấm bia đá hãy nói tiếp.




Bốn người lập tức xếp hàng theo thứ tự ngược lại lúc vào, kéo theo Nhị Học Sinh đang hôn mê, lần theo vách động đi ngược trở ra, nhưng cả hội đi hơn chục mét mà vẫn chưa nhìn thấy tấm bia đá chắn trước cửa động đâu.



Tư Mã Khôi đoán dẫu có đi tiếp chắc cũng không thể thoát ra được, liền ra hiệu cho mọi người dừng lại, nghĩ cách khác. Động không đáy phía trong tấm bia đá còn đáng sợ hơn cả tưởng tượng ban đầu của anh, vì cả hội vừa bước vào đã bị nhốt chặt.



Hải ngọng vẫn đang cõng đèn hỏa diệm nhiệt độ cao trên lưng, giờ còn kéo thêm Nhị Học Sinh sống dở chết dở, mới bước một đoạn, anh đã hổn hà hổn hển, vừa thở vừa hỏi Thắng Hương Lân: “Từ điểm xuất phát đến giờ đã mất bao nhiêu thời gian rồi? Chẳng lẽ đèn quặng lại sắp tắt à?”



Thắng Hương Lân nhìn đồng hồ, kim dài đã chỉ quá mười hai phút, nhưng thời gian vẫn chưa quay ngược. Cao Tư Dương nghe vậy mới yên tâm đôi chút, cô gạt mồ hôi lạnh trên trán, rồi nói: “Thế thì tốt, nhưng cửa động lúc trước chúng ta vào nằm ở đâu nhỉ?”



Lúc này, Nhị Học Sinh bị mọi người kéo đi dường như bắt đầu tỉnh khỏi cơn mê, hắn giãy giụa định vùng dậy.



Hải ngọng tưởng Nhị Học Sinh nhân cơ hội chạy trốn anh lập tức giương súng gí thẳng vào đầu đối phương hét lớn: “Cứ thử động đậy xem, ông khắc cho mày biết tay…”



Nào ngờ, lời còn chưa dứt thì một tiếng nổ lớn vang lên, khẩu súng săn bị cướp cò, họng súng kề ngay trước trán Nhị Học Sinh, đạn ghém cỡ tám trong họng súng siêu hạng thoát ra khỏi rãnh trượt dũng mãnh chẳng khác nào pháo bắn, cả hộp sọ của Nhị Học Sinh bị bắn vỡ tung, não tủy bay tan tác, cỗ thi thể không đầu lắc lư mấy cái, rồi đổ rầm xuống đất như cây chuối.



Hải ngọng nhìn cái xác dưới chân, ngẩn người tại trận, miệng lắp bắp giải thích: “Tôi chưa nổ súng đâu nhé, cái này… cái này… hoàn toàn là sự cố ngoài ý muốn…”



Ba người còn lại tuy đứng cách đó không xa, nhưng cũng không thể lường trước sự việc này. Chưa ai kịp nói câu nào, thì đèn quặng trên đầu đột nhiên tối sầm. Trong phút chốc, tầm nhìn của mọi người hạ thấp đến mức chỉ thấy bóng đêm đang dần nhả màu đen trên năm đầu ngón tay. Giữa lúc mù mịt tăm tối chẳng biết làm gì, thì đèn quặng lại phục hồi khả năng chiếu sáng, cỗ thi thể bị bắn vỡ sọ trước mắt không biết đã biến đi đằng nào.



Trong khi đầu óc còn đang mụ mị, Tư Mã Khôi phát hiện ngón chân lại chạm vào một vật cứng, bấm đèn quặng cúi đầu xuống nhìn, thì ra đó là cái hộp thiếc rỗng không anh từng vứt đi. Một người can đảm như anh đến giờ này cũng phải hít ngược một hơi lạnh thấu tim: “Thời gian trong động đạo lại trở về lúc mười một giờ rồi!”



Lúc này, cả hội nghe thấy tiếng bước chân, khuôn mặt ngơ ngác, hoảng sợ của Nhị Học Sinh xuất hiện trong phạm vi chiếu sáng của đèn quặng.



Mọi người đưa mắt nhìn nhau, thì ra chỉ cần Nhị Học Sinh chết ở phía trong tấm bia đá, thì thời gian trong động đạo sẽ quay ngược nhanh như chớp.



Tư Mã Khôi nhất thời không kịp nghĩ nhiều, đành lấy báng súng đánh ngất Nhị Học Sinh đang quờ quạng bước lại gần, sau đó anh đặt cái hộp về chỗ cũ.



Thắng Hương Lân đến bên, giơ tay để trước mũi Nhị Học Sinh, hơi thở của hắn giống hệt người còn sống, tuy lai lịch quái dị, nhưng cô không phát hiện ra điểm gì bất thường.




Cao Tư Dương nói: “Sao không thử hỏi Nhị Học Sinh xem, biết đâu hắn biết gì đó!”



Tư Mã Khôi nói: “Trước khi xác định được lai lịch của hắn, tuyệt đối không nên nghe lời hắn nói, hắn nói gì cũng không được tin. Chúng ta cứ đi thẳng vào trong hang động trước, xem tên này mọc ra từ chỗ nào!” Thế là, Hải ngọng kéo lê Nhị Học Sinh trên mặt đất, Thắng Hương Lân châm đuốc đi giữa soi sáng cho cả hội. Mọi người dò dẫm từng bước tiến về phía trước.



Cao Tư Dương bất lực, đành nắm chắc súng đi theo đoàn. Thắng Hương Lân lấy bút dạ quang đưa cho Cao Tư Dương, bảo cô đánh ký hiệu trên vách động.



Hải ngọng không hiểu móc đâu ra một đống đạo lý, anh vừa đi vừa kể với ba người bạn đồng hành: “Tôi thấy thằng cha kia vẫn thở như người sống, đương nhiên hắn không giống hồn ma bóng quế, chắc chắn là yêu quái thành tinh chứ chẳng sai. Năm đó, tôi ở Hắc Ốc từng được nghe kể một chuyện rất rùng rợn: Ở ngoại thành Trường Sa có mấy ngôi mộ cổ lai lịch hàng trăm năm, chẳng ai khảo chứng chúng xuất hiện từ triều đại nào, tóm lại mấy khu mộ đó cỏ mọc xanh um, phía trước có bia mộ.



Tương truyền, ma quỷ lộng hành ở đây rất kinh, nên giữa ban ngày ban mặt cũng rất ít người dám lai vãng đến gần, ngay bọn trộm mộ cũng chẳng bén mảng. Ở ngoại thành có ông chủ họ Chu chuẩn bị gả khuê nữ, gia chủ liền mời anh thợ mộc đóng mấy đồ mộc làm của hồi môn cho con gái. Anh thợ mộc là người ngoại tỉnh, mang theo một đồ đệ trẻ để giúp việc, do thời gian bị hối thúc gấp gáp nên hàng ngày hai thầy trò họ miệt mài lao động bất kể sớm khuya. Bình thường, sau khi làm xong việc, họ sang ngủ ở căn phòng trước vườn. Một hôm, hai thầy trò vô tình phát hiện vài điểm bất thường, mỗi lần tắt đèn, họ đều nghe thấy tiếng kèn kẹt ở cổng vườn, dường như có con gì đang lấy vuốt cào cửa.



Họ bạo gan quan sát mấy ngày, mới phát hiện, gia chủ vốn nuôi một con chó mực rất lớn, hàng đêm khi mọi người tắt đèn đi ngủ, thì con chó mới đứng thẳng như người, lẳng lặng dùng vuốt mở then cửa cổng, sau đó thậm thà thậm thụt chuồn ra ngoài, đợi khi trời sáng mới quay về nhà, dùng vuốt đẩy cửa, nhẹ nhàng cài lại then ngang. Hai thầy trò cảm thấy vô cùng kỳ lạ, có câu “gà gáy sáng, chó canh đêm”, đó là đặc tính thiên định của tạo vật. Khi màn đêm buông xuống, con chó đen không gác nhà, mà lẻn ra ngoài, không hiểu rốt cuộc nó đi đâu? Hai thầy trò nhất thời tò mò, liền bám đuôi xem trộm.



Sau một thời gian bám theo dấu vết, họ phát hiện hàng đêm con chó đen lại mò đến nghĩa địa hoang ở ngoại thành, ở đó có một nấm mồ rất lớn, không biết là mộ cổ từ thời nào còn sót lại, nấm mồ mọc đầy cỏ dại khỏa lấp một miệng hang ở phía dưới, thông thẳng xuống đáy mộ. Thấy con chó đen chui vào trong hang, hai thầy trò cứ ngỡ con chó đang ăn thịt người chết trong mộ, ngẫm nghĩ một lát thấy không chừng đây là cơ hội kiếm trác được chút kim ngân ngọc ngà bồi táng cũng nên, thế là hai người bò đến cửa động nghe ngóng động tĩnh.



Họ nghe thấy dường như có mấy người đang thì thào bàn tán gì đó, nghe kỹ thì thấy họ đang nói xem nhà tài chủ họ Chu tất cả lớn bé già trẻ gái trai có mấy nhân khẩu, đặc điểm cơ thể và dung mạo của từng người ra sao, thích mặc đồ gì, thích ăn cái gì, đồng thời thảo luận tìm cơ hội lọt vào nhà hại chết tất cả mười mấy mạng ngựời, sau đó, bọn chúng sẽ biến hình, giả dạng thành người nhà họ Chu, tới dương gian hưởng phúc mấy chục năm. Hai thầy trò nhà nọ nghe xong mà hồn vía lên mây, không ngờ con chó đen đã câu kết với bọn yêu quái dưới mộ để hại chủ.



Họ không dám giấu giếm, sau khi quay về nhà liền kể lại sự việc cho ông chủ họ Chu. Ông chủ họ Chu kinh hãi, vội cho người đánh chết con chó đen, rồi tập hợp dăm ba chục thanh niên can đảm, nhân lúc trời sáng, tìm ra nghĩa địa, lấy cỏ khô hun đen nấm mồ, sau đó bới đống đất lên, thì thấy trong hang nằm ngổn ngang mấy con chồn thành tinh, con to con nhỏ, tính cả con chó đen, thì số lượng vừa vặn trùng khớp với số người nhà họ Chu.



Hải ngọng nói: “Nếu vô căn vô cứ, sao lại có truyền thuyết này? Điều đó chứng minh chuyện quái dị ấy có từ thời cổ, thì không chừng trong động không đáy tồn tại loài yêu quái nào đấy, nếu người phía ngoài tấm bia đá chết đi, thì nó sẽ giả dạng ngoại hình của người ấy chạy đi tác oai tác quái. Tấm bia đá ở cửa động được đặt ở đó để chặn nó thoát ra ngoài, vì nếu nó thoát được ra, thì tai họa thật không lường hết được”.



Từ trước đến giờ, Cao Tư Dương chưa từng tin mấy chuyện ma mãnh, giờ nghe Hải ngọng kể, cô sợ hết hồn. Cô vô tình phát hiện bút dạ quang trong tay đã hết mực từ bao giờ, mà động đạo thâm u, đen ngòm vẫn kéo dài như không có điểm tận cùng.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 197: Hồi 4: rùng rợn


Tư Mã Khôi vụt hiểu mình đã mắc lừa, giống như truyền thuyết núi Lan Khả, thời gian ở đây tồn tại những quỹ tích khác nhau, khe nứt phía trong bia đá thật sự có tồn tại. Nếu ví thời gian với cuốn băng, ta sẽ thấy nó có khả năng chạy đi, khả năng tua lại và cả khả năng đứng yên tương đối, vậy thứ bị tấm bia đá nhốt trong động là con quái vật có năng lực vận hành cuốn băng theo ý mình, còn thời gian trong động đạo không ngừng lặp đi lặp lại là vì nó muốn ép đội khảo cổ phải nghĩ cách dùng thuốc nổ thoát thân, khoảnh khắc phát nổ sẽ khiến thời gian quay như bay về quỹ đạo thông thường, nhờ đó sẽ phá hủy được tấm bia đá Bái Xà chắn ngoài cổng.



Ba người còn lại nhìn thấy tấm bia cũng tỉnh ngộ ngay tức khắc, nhưng mọi chuyện đã quá muộn, dây dẫn cháy đến mức không thể dập tắt nổi nữa, vạn niệm trong lòng nguội lạnh, giờ họ chỉ còn biết nhắm mắt chờ chết.



Hải ngọng đột nhiên máu bốc lên đầu, thò tay giật lấy cuộn thuốc nổ, nằm đè người lên, định dùng thân thể làm giảm bớt sóng xung kích của vụ nổ, nhưng dây dẫn cháy đến tận cùng mà cuộn thuốc vẫn chẳng thấy động tĩnh gì, không chịu nổi giày vò, Hải ngọng điên tiết chửi đổng: “Con mẹ nó, xui gì mà xui tận mạng, muốn chết cho thống khoái mà cũng vất vả thế không biết?”



Thắng Hương Lân thầm ngạc nhiên, thời gian trong động đạo khôi phục bình thường, chính là khoảnh khắc vụ nổ diễn ra, theo lý mà nói lúc cả hội còn chưa kịp hiểu ngô khoai gì, thì đã bị nổ banh xác mới đúng, nhưng sao đến tận giờ vụ nổ mãi chưa xảy ra nhỉ?



Lúc này, Tư Mã Khôi lại gần, kéo Hải ngọng dậy, thì thào vào tai: “Nãy tớ vừa nghịch cuộn thuốc nổ tí đấy, không nổ nữa đâu mà sợ, nhân lúc nhìn thấy bia đá, mau chạy ra ngoài động thôi!”



Thì ra, khi bắt tay chuẩn bị cuộn thuốc, Tư Mã Khôi đã lo sợ vụ nổ sẽ ảnh hưởng đến tấm bia đá. Anh nghĩ, từ lúc chạm trán Nấm mồ xanh trong núi Dã Nhân ở Miến Điện đến giờ, chưa bao giờ anh gặp vận may, mà mấy năm trước đó cũng thế, lớn lên giữa thời thế loạn lạc, chọn lối nào đi cũng gập ghềnh khúc khuỷu, có thể nói vận rủi luôn luôn kề vai sát cánh bên anh, tuy nhiều lần may mắn thoát chết, nhưng chẳng thà chết được còn nhẹ nhàng hơn, bây giờ anh cũng nghĩ thông suốt rồi, nếu đã không thể trốn tránh nó, chi bằng hãy nghĩ cách biến nó thành người bạn đồng hành của mình.




Sự việc toàn phát triển theo chiều hướng xấu, thì có gì khó đoán nữa đâu, bất kể đội khảo cổ tính toán kín kẽ đến độ nào, cuối cùng cũng vẫn dẫn đến kết quả: tấm bia bị phá hủy. Vì muốn đi vòng qua kết quả do vận rủi mang đến, nên lúc nhận cuộn thuốc nổ từ tay Hải ngọng, anh âm thầm gỡ dây dẫn nổ của ống kíp, anh hành động lặng lẽ, thần không biết quỷ không hay, quả nhiên lúc này đã xoay chuyển được cục diện. Anh lại phát hiện thứ bị tấm bia đá nhốt chặt có thể khiến khe nứt giống như động không đáy khép lại và mở ra, một khi rơi vào trong khe nứt, với khả năng người trần mắt thịt của đội khảo cổ, dẫu chết cũng đừng mong thoát nổi ra ngoài.



Bất luận sinh vật đáng sợ kia là quái vật phương nào, thì đội khảo cổ vĩnh viễn không thể trờ thành đối thủ của nó, nói cách khác, đội khảo cổ mãi mãi không bao giờ có khả năng giành chiến thắng, điều duy nhất có thể làm bây giờ là nhân cơ hội này chạy thoát ra ngoài tấm bia đá.



Ba người còn lại thấy hành động của Tư Mã Khôi, lập tức hiểu ra nội tình, tất cả đều co cẳng chạy nhanh về phía tấm bia đá.



Trên vách đá loang lổ vệt rêu vẫn còn hình vẽ phù điêu mà người Bái Xà để lại, lúc này chúng đều nằm trong phạm vi chiếu sáng của ánh đuốc, cửa động chỉ cách chỗ cả hội đứng vài bước chân, nhưng hội Tư Mã Khôi còn chưa kịp nhấc chân lên chạy, thì cảm thấy sau lưng có một cánh tay khổng lồ, âm u và lạnh lẽo thò ra, tóm lấy cẳng chân và cánh tay của cả bốn người kéo giật ngược trở lại, mặc cho họ giãy giụa thế nào cũng không thể thoát ra được, họ đành bất lực phó mặc cho cánh tay ấy kéo mình vào trong bóng đêm, tấm bia đá càng lúc càng xa dần trước mắt.



Tư Mã Khôi cảm thấy sau lưng là cả tòa thành địa phủ, nơi đó có vô số con ma đang thò cánh tay quái dị, tóm mấy người còn sống sót kéo xuống cõi âm gian. Cùng với nỗi hãi hùng từ đâu ùa đến, ánh đuốc bỗng vụt tắt, bốn phía bị bóng tối tĩnh mịch nuốt chửng, mọi thứ đều quay trở về trạng thái ban đầu, như thể chưa từng xảy ra bất cứ chuyện gì, không gian chỉ còn tồn tại tiếng thở gấp gáp và tiếng tim đập dữ dội của cả hội.



Mọi người căng thẳng bật đèn quặng lên quan sát, phát hiện cái hộp thiếc vẫn ở dưới chân, cuộn thuốc nổ mất dây dẫn cũng nằm lăn lóc cạnh đó, hai đầu của con đường vẫn đen kin kịt và sâu hun hút, cả hội biết mình lại bị rơi vào kẽ hở thời gian, bất giác cùng đưa mắt nhìn nhau, mặt cắt không còn giọt máu, trong lòng trào lên nỗi sợ chưa bao giờ từng trải qua.



Đúng lúc này có tiếng bước chân vọng đến gần, khuôn mặt trắng nhợt, hốt hoảng ngác ngơ của Nhị Học Sinh một lần nữa lại xuất hiện thấp thoáng trong động đạo thăm thẳm.



Tư Mã Khôi không nói không rằng, giơ tay tung một đấm, nện Nhị Học Sinh không kịp ừ hữ gì đã lăn ra đất mềm như bún. Lúc kích nổ cuộn thuốc súng, Cao Tư Dương đã tận mắt nhìn thấy máu chảy ra từ hai hốc mắt Nhị Học Sinh, trên mặt toát ra quầng tử khí chết chóc, nom không giống người sống chút nào, lúc ấy cô mới biết mình đã trách nhầm Tư Mã Khôi.



Tư Mã Khôi nói với Cao Tư Dương: “Tôi thấy gã Nhị Học Sinh này lai lịch quái đản, tuy mắt tôi không bằng con mắt biệt bảo của bọn giặc đất, chưa thể nhìn gió xem khí, nhưng tôi có thể nhìn xuyên thấu mọi tướng vật trên đời, trên xuyên thiên đình, dưới thấu địa phủ, giữa thấy vạn dặm nhân gian… ”



Hải ngọng nói: “Thế cậu thử mở to mắt nghía xem thằng cha kia rốt cuộc do của khỉ gì biến thành?”



Tư Mã Khôi nói: “Tớ bảo bao lần rồi còn gì, Nhị Học Sinh xuất hiện trong động đạo chẳng qua là thứ quái vật tá thi hoàn hồn, còn chuyện cậu hỏi, tớ cũng không giải thích được, trừ phi hiểu được thứ đang bị tấm bia đá chặn lại rốt cuộc là thứ gì”.



Hải ngọng thở dài: “Cậu nói thế cũng bằng không nói, bôn ba mãi cuối cùng lại trở về điểm xuất phát chỗ cái hộp thiếc, chút nữa chỉ sợ còn phải lòng vòng chán với con quái vật tá thi hoàn hồn, chẳng biết đến lúc nào mọi việc mới kết thúc đây?”.




Thắng Hương Lân thấy cơ thể Nhị Học Sinh vốn yếu ớt, lại mắc chứng Khắc Sơn, rất dễ căng thẳng dẫn đến chuột rút, điều đó sẽ khiến các bó cơ trở nên co cứng và đột tử. Hai lần trước, hắn bị Hải ngọng cầm súng bắn chết, còn lần thứ ba là bị trói, rồi sắc mặt đột nhiên xanh lè, hai mắt chảy máu rồi lăn ra chết. Đó chính là một loại triệu chứng đột tử, bởi vậy không thể cho rằng hẳn là quái vật tá thi hoàn hồn, có lẽ hắn chỉ là một u hồn bị cuốn băng ghi lại mà thôi.



Tư Mã Khôi nói: “Trước đây, tôi cũng tán đồng với giả thiết “cuốn băng tua”, thời gian trong kẽ hở không ngừng tuần hoàn lặp đi lặp lại, hễ Nhị Học Sinh lăn ra chết là thời gian lại nhanh chóng quay trở về điểm xuất phát, ngoại trừ hộp thiếc, đạn trong khẩu súng săn và bốn người chúng ta, thì mọi sự vật trong động không đáy bao gồm cả Nhị Học Sinh đều bay vùn vụt ngược thời gian trở về trạng thái ban đầu, chỉ khi hành động của đội khảo cổ có khả năng phá hủy tấm bia đá, thì cuốn băng liên tục tua đi tua lại ấy mới xuất hiện vết khuyết, có điều bây giờ tôi thấy giả thiết này dường như không chính xác, chúng ta đã bị ‘vòng tuần hoàn’ đánh lừa cảm giác”.



Thắng Hương Lân biết Tư Mã Khôi sẽ không dám mở miệng nói liều trong trường hợp này, nên việc anh khẳng định chắc chắn như vậy, phải chăng đã tìm thấy chứng cứ nào đó?



Tư Mã Khôi soi đèn quặng về phía Hải ngọng, rồi quả quyết: “Chứng cứ nằm ở đây!”



Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương hướng mắt theo ánh đèn, cả hai đều lộ vẻ kinh ngạc đến tột độ, dường như họ đã phát hiện thấy hiện tượng rất đỗi dị thường.



Hải ngọng bị ba người nhìn chằm chằm như vậy, lòng cũng rờn rợn, anh lúng búng phản kháng: “Đúng là chó cắn càn, chứng cứ thì liên quan gì đến tôi cơ chứ?”



Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng: “Cậu cúi đầu nhìn xem trên người cậu có cái gì!”



Hải ngọng đưa mắt nhìn xuôi theo chùm sáng đèn quặng, anh thấy trên người mình lấm tấm vệt máu vẫn còn chưa khô. Lúc trước, anh nổ súng làm đứt cánh tay Nhị Học Sinh, vì đứng quá gần, nên không tránh khỏi bị máu bắn lên quần áo, lúc đó tình hình hỗn loạn, anh cũng chẳng để ý đến, lẽ nào mấy vết máu này có gì bất hợp lý sao?



Thắng Hương Lân lập tức hiểu ra, nếu mọi sự vật trong động đạo đều quay ngược thời gian trở về trạng thái ban đầu, thì máu trên người Nhị Học Sinh bị súng bắn túa ra cũng phải biến mất hết mọi dấu vết mới phải, nhưng bây giờ vết máu vấy lên người Hải ngọng vẫn chưa khô, đồng thời lại có một Nhị Học sinh lành lặn, nguyên vẹn xuất hiện trước mặt đội khảo cổ, điều đó chứng tỏ…



Tư Mã Khôi tiếp lời: “Điều đó chứng tỏ, mỗi lần xuất hiện lại là một Nhị Học Sinh khác nhau, nếu nói ‘tá thi hoàn hồn’, thì có lẽ cùng một âm hồn, nhưng có nhiều cái xác vô hồn làm vỏ cho âm hồn trú ngụ, vết máu và thi thể ba lần trước của ba Nhị Học Sinh đều bị con quái vật mà cả hội không nhìn thấy che giấu, nó cố ý khiến đội khảo cổ ngỡ rằng mình đang trải qua thời gian tuần hoàn, nguyên nhân cụ thể thì đến bây giờ vẫn chưa nghĩ ra, tóm lại, nó muốn ép chúng ta phải sử dụng thuốc nổ để phá hủy tấm bia đá, điều đó chứng tỏ thứ tồn tại phía sau tấm bia đá không chỉ là sinh vật sống, mà nó còn là sinh vật có ý thức”.



Hải ngọng ngạc nhiên hỏi: “Mẹ nó, rốt cuộc là vật gì được nhỉ? Bị nhốt mấy ngàn năm trong động đạo, mà nó vẫn còn sống sao?”



Tư Mã Khôi nói: “Điều này tớ cũng không đoán ra nổi, đừng quên câu này – mọi nguyên nhân phức tạp đều xây dựng trên một kết quả – bây giờ chúng ta cố gắng đừng để tâm đến chuyện sống chết, hãy nghĩ cách tìm ra ‘kết quả’ cuối cùng”.




Hải ngọng nói: “Nhưng hai đầu động đạo đều không thấy điểm tận cùng, đi về phía nào cũng chẳng ra nổi, giờ phải làm sao?”



Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh vẫn nằm rạp trên mặt đất, bèn bảo: “Hắn chính là manh mối duy nhất, bây giờ trên người hắn có rất nhiều ẩn số không thể lý giải, đúng như Thắng Hương Lân nói, có lẽ hắn chỉ là một âm hồn bị cuốn băng ghi lại, là một vong hồn bị lạc đường trong động đạo, lúc chúng ta kích nổ bom hẹn giờ, vì hắn bị trói, tuyệt vọng quá độ dẫn đến các bó cơ xơ cứng và đột tử. Chân tướng những việc này chỉ có trời biết, đất biết, chứ người thì chịu chết, chúng ta không thể phân biệt được nên tốt nhất là cứ đánh hắn ngất xỉu cho xong”.



Cao Tư Dương nói với Tư Mã Khôi: “Anh đánh ngất hắn thì làm sao hỏi hắn lối ra nằm ở đâu được?”



Tư Mã Khôi khom lưng cúi xuống, ra hiệu cho ba người ấn đèn quặng lên mặt đất quan sát, trong động đạo có rất nhiều rêu ẩm, vết chân Nhị Học Sinh đi từ đàng xa đến vẫn còn lưu lại rất rõ ràng.



Thắng Hương Lân mừng rỡ nói: “Đúng vậy, chỉ cần lần theo vết chân khi đến của Nhị Học Sinh, sẽ biết hắn mọc ra từ kẽ hở nào”.



Tư Mã Khôi không thể xác định liệu có phải một Nhị Học Sinh này chết đi, sẽ mọc ra một Nhị Học Sinh khác hay không, nhưng người xưa nói chí phải ‘cây dịch chuyển thì chết, người dịch chuyển thì sống’, chỉ cần đi theo vết chân, chắc chắn sẽ phát hiện ra điều gì đó, dẫu sao vẫn tốt hơn ngồi một chỗ mà rầu rĩ, đến lúc ấy nếu không có kết quả thì cùng lắm lại tìm cách khác. Thế là, anh bảo Hải ngọng kéo Nhị Học Sinh đang bất tỉnh nhân sự cùng cả hội lần mò về phía trước theo vết chân trong động đạo.



Bây giờ chỉ còn lại hai cây đuốc, vì vậy chưa đến lúc quan trọng, cả hội tuyệt đối không được sử dụng lãng phí, thể nên mọi người đành bật đèn quặng chiếu sáng, lần mò từng bước tiến về phía trước trong động đạo triền miên đêm đen. Vết chân Nhị Học Sinh để lại không bám sát vào vách động, hắn đi ngoằn ngoèo, ước chừng khoảng hơn ba mươi bước thì không thấy dấu chân trên rêu nữa.



Cả hội dừng bước, quan sát tỉ mỉ, hóa ra chỗ phiến đá trên mặt đất có một khe hở, Tư Mã Khôi lấy tay chạm vào cảm giác có thể nậy lên được, anh liền nậy lên, vừa mở được thì thấy bên trong là một gian thạch thất tối om.



Tư Mã Khôi nghĩ thầm, chắc Nhị Học Sinh bò từ gian thạch thất này ra. Chẳng lẽ hắn là củ cải trong lòng đất, nhổ một củ lại mọc lên một củ khác? Bên trong chắc chắn còn có thứ gì đó.



Bốn người đang định soi đèn quặng nhìn cho rõ, thì Nhị Học Sinh choàng tỉnh dậy, hắn nhìn thấy gian mật thất phía dưới động đạo, cả cơ thể bất giác run rẩy như muốn ngất, hai hàm răng va vào nhau lập cập, hai tay nắm chặt lấy dây ba lô của Hải ngọng không chịu buông.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 198: Hồi 5 ký hiệu


Hải ngọng không nuốt trôi trò này, liền tiện tay vung cú đấm, Nhị Học Sinh lập tức bổ ngửa ra đất ngất xỉu.



Tư Mã Khôi thầm thấy lạ, nếu suy đoán theo dấu chân thì Nhị Học Sinh bò ra từ dưới lòng đất, nhưng sao vừa mở mắt nhìn thấy gian thạch thất, hắn lại hoảng sợ đến vậy?



Cao Tư Dương không đồng tình với Hải ngọng, cô trách móc: “Sao anh chưa hỏi đầu cua tai nheo đã đánh hắn ngất xỉu thế?”



Hải ngọng nói: “Thằng này có lá gan chuột nhắt, tự hắn sợ quá ngất đi đấy chứ, mà hắn chết thì kệ hắn, có điều nếu để hắn chết thì chuyến đi này của chúng ta toi công à?”



Tư Mã Khôi gật đầu bào: “Chí phải!”, bây giờ định thần ngẫm kỹ lại mới thấy thứ bị tấm bia đá Bái Xà nhốt trong động có thể khống chế việc khép mở của kẽ hở thời gian, nhưng nó không thể thay đổi được chiều thời gian, những sự việc đã xảy ra nghĩa là đã xảy ra, không thể bắt chúng xuất hiện lại được. Giả sử độ rộng của kẽ hở thời gian là một giây, thì nó chỉ có khả năng kéo dài vô tận khoảng thời gian một giây trong kẽ hở mà thôi, khi ấy đội khảo cổ sẽ phải trở về điểm xuất phát và lại gặp Nhị Học Sinh. Hai lần đầu tuy cùng là thời gian một giây, nhưng khoảng cách lần thứ hai gần thời gian một giây hơn lần một, lần thứ ba lại càng gần hơn chút nữa, những lần sau có khi sẽ càng tiệm cận vô hạn hơn, nhưng trong kẽ hở không hề có lối ra, nên họ sẽ vĩnh viễn không thể đến được thời điểm một giây đích thực. Mỗi vòng tuần hoàn mà đội khảo cổ trải qua, trên thực tế là việc động đạo không ngừng trở về trạng thái ban đầu, mà bản chất của trở về trạng thái ban đầu và tuần hoàn thì hoàn toàn khác nhau. Việc trở về trạng thái ban đầu tương tự với khái niệm “tái sinh”, một Nhị Học Sinh chết đi sẽ xuất hiện một Nhị Học Sinh khác theo sự trở về trạng thái ban đầu của động đạo. Đáp án của bí mật này rất có khả năng đang nằm trong gian thạch thất dưới kia, tuy ở đó ẩn giấu vô số nguy hiểm, nhưng đã đến nước này thì cả hội buộc phải xuống đó một chuyến xem sao.




Thắng Hương Lân tán đồng với phán đoán của Tư Mã Khôi, nhưng phản ứng của Nhị Học Sinh khi nhìn thấy cửa động lại vô cùng quái đản, thứ trong gian thạch thất hẳn không phải tầm thường, có lẽ bốn người nên chia ra thành hai nhóm để hành động sẽ ổn thỏa hơn.



Tư Mã Khôi bảo Hải ngọng và Cao Tư Dương một nhóm, ở lại cửa động tiếp ứng, đồng thời trông chừng Nhị Học Sinh, còn anh và Thắng Hương Lân xuống thăm dò tình hình dưới thạch thất, tuy chỉ còn hai cây đuốc, nhưng giờ đành phải thắp sáng một cây, để tránh trường hợp khí độc tồn tại ở dưới gây chết người.



Cao Tư Dương thấy vết thương trên người Thắng Hương Lân vẫn chưa khép miệng, nên tự nguyên thay cô cùng Tư Mã Khôi xuống dưới, nói xong cô nhanh chóng bỏ ba lô ra để lại, rồi cầm lấy đuốc đi theo Tư Mã Khôi.



Tư Mã Khôi thấy cũng hợp lý. Để dễ bề hành động, anh đổi vũ khí cho Thắng Hương Lân, sau đó ôm khẩu Walther P38, rồi cùng Cao Tư Dương tụt xuống vách đá dựng đứng, vào trong gian thạch thất.



Gian mật thất dưới động đạo khá chật chội và bức bối, chắc rộng chưa đầy hai chục mét vuông, xung quanh là bốn vách đá khắc đầy hình vẽ, hai đầu có cánh cửa đá đã bị đổ sụp, vào trong này có cảm giác tựa như chui vào trong một cỗ quách đá khổng lồ, may mà không khí lưu thông tốt, không hề thấy bí bách, ngột ngạt.



Hai người thò đuốc vào trước, nhờ ánh sáng lúc mờ lúc tỏ, họ nhìn thấy phần lớn các bức phù điêu trên vách vẽ hình đầu thần mặt quỷ, dưới chân có tô tem rắn quấn quanh, đây là những thần thị cổ xưa đến nay đã bị người đời lãng quên, có hình hao hao giống cá, có hình lại hao giống chim, có hình lại nửa người nửa thú, tất cả đều được bảo tồn ở trạng thái nguyên thủy nhất, có điều trong lòng đất âm u, trông chúng hiện lên vẻ vô cùng quái dị.



Cao Tư Dương thấy xung quanh không có vật gì khác, bốn bức tường bám đầy bụi bặm, cánh cửa đá đổ sụp đã chặn đứng lối ra, có lẽ hàng ngàn năm nay chưa hề có người bước vào đây, thì trong lòng không khỏi cảm thấy kỳ lạ, cô định nói với Tư Mã Khôi, khả năng không phải Nhị Học Sinh bò ra từ gian thạch thất này, nhưng chợt thấy Tư Mã Khôi bất thần nhìn xuống mặt đất một cách chăm chú, cô không nhịn được bèn cất tiếng hỏi: “Anh phát hiện ra điều gì sao?”



Tư Mã Khôi nghe Cao Tư Dương hỏi, giật mình quay lại, chỉ xuống chân mình, chậm rãi nói: “Đây là ký hiệu của Nấm mồ xanh”.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng từng nhìn thấy chiếc máy bay tiêm kích vận tải chở bom địa chấn dưới đáy khe núi Dã Nhân ở Miến Điện. Nó là vật sở hữu của tổ chức ngầm do Nấm mồ xanh khống chế, chúng âm mưu định dùng chất độc màu da cam chứa trong bom địa chấn để phá hủy thảm thực vật khổng lồ sinh trưởng dưới đáy cốc, giúp đội thám hiểm dễ dàng xâm nhập thành Nhện Vàng của quốc vương Chăm Pa. Trên thân chiếc máy bay tiêm kích vận tải đó khắc ký hiệu hình con quái xà đang vươn đầu thè lưỡi, đây chính là ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh, lúc này, nhìn thấy hình vẽ trên mặt đất trong gian thạch thất, từng hình ảnh đã trải qua trong đáy cốc rừng rậm như lần lượt hiện ra trước mắt anh.




Trước đây, Tư Mã Khôi từng đoán già đoán non không biết bao nhiêu lần về mối quan hệ giữa Nấm mồ xanh với người Bái Xà cổ đại, nhưng từ đầu chí cuối anh không hề lần ra bất cứ manh mối gì, ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh là con quái xà, người Bái Xà cổ đại cũng tôn rắn làm thần, có điều hai loại rắn này hoàn toàn không giống nhau, ký hiệu cùa Nấm mồ xanh là con rắn toàn thân cuộn lại, vươn đầu thè lưỡi, nom rất tà ác, độc địa, còn tô tem mà người Bái Xà cổ đại sùng bái là thần Vũ Xà, đó là một hình tượng hư vô, nó giống như hình ảnh vòng tròn tượng trưng cho thủy thể ở 30° vĩ Bắc dưới lòng đất đã được người cổ đại thần thánh hóa. Trong các di tích của người Bái Xà, anh cũng chưa từng nhìn thấy tô tem hình rắn giống như ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh, còn về chuyện Nấm mồ xanh biết được hệ ngôn ngữ của người Bái Xà cổ đại và nắm được bí mật về tấm bia đá rõ ràng như trong lòng bàn tay, thì có khả năng là hắn đã biết được từ một thông tin đặc biệt nào đó.



Gian thạch thất nằm sâu nơi tận cùng địa mạch là nơi hàng ngàn năm nay không ai vào được, vậy mà nó lại tồn tại một tô tem hình rắn giống như ký hiệu của tổ chức Nấm mồ xanh, sự thật không thể chối cãi này chỉ có thể chứng minh – Nấm mồ xanh có mối quan hệ vô cùng sâu sắc với tổ tiên của người Bái Xà, có lẽ nó sâu xa đến mức không thể truy được ngọn nguồn, ngay cả quốc vương Chăm Pa đã chết hàng ngàn năm trước, cũng không thể có mối quan hệ với người Bái Xà sâu xa đến thế, Tư Mã Khôi thực sự không thể tưởng tượng trong những người mình từng gặp mặt trong quá khứ lại tồn tại một nhân vật bí hiểm dường vậy.



Cao Tư Dương không hiểu vì sao Tư Mã Khôi lại ngạc nhiên đến thế, cô thấy trong thạch thất không có hiện tượng gì khác thường, liền gọi Thắng Hương Lân và Hải ngọng leo xuống.



Hải ngọng khoác khẩu súng săn trên lưng, một tay kẹp Nhị Học Sinh, theo chân Thắng Hương Lân vào thạch thất, vừa nhìn thấy hình vẽ rắn trên mặt đất, anh cũng ngạc nhiên không kém Tư Mã Khôi.



Hải ngọng quẳng Nhị Học Sinh xuống đất, hốt hoảng nói: “Đây chẳng phải ký hiệu của Nấm mồ xanh sao? Xem ra, tên quái thai không bao giờ dám lộ diện là nghiệt chủng còn lưu lại hậu thế của tộc người Bái Xà, lẽ nào nó hiểu bí mật khắc trên tấm bia đá?”



Thắng Hương Lân nghĩ một lát, rồi nói: “Chỉ sợ mọi việc không đơn giản như thế, người Bái Xà có thể hiểu được bí mật khắc trên bia đá, thứ đang bị tấm bia đá chặn trong động kia cũng hiểu được bí mật đó, nếu không tấm bia đá chẳng thể nhốt nổi nó trong động đạo, bởi vậy Nấm mồ xanh chưa chắc đã thuộc nhánh tộc Bái Xà còn sót lại.”



Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói vậy, liền đột nhiên nhớ tới lúc phát hiện thấy đỉnh đồng đen Vũ Vương ở bồn địa Turpan dưới lòng đất Lopnor, nghe một thành viên của đội khảo sát liên hợp từng nói rằng, theo như ghi chép thời tiền sử, tiên vương cổ thánh tăng cảnh cáo hậu thế không được khai quật kho báu chôn dưới lòng đất, bởi vì ở đó ẩn nấp “kẻ địch cổ đại”, sinh vật nằm trong động mà người Bái Xà dùng tấm bia đá chặn lại phải chăng chính là “kẻ địch cổ đại” đó? Đương nhiên, tên gọi này cũng có thể ám chỉ dãy số khắc trên tấm bia, nhưng bất kể nói thế nào thì dùng danh xưng ấy để hình dung về con quái vật trong động nghe có vẻ rất thỏa đáng, nếu Nấm mồ xanh không phải hậu duệ của người Bái Xà, thì chắc chắn hắn phải liên quan đến “kẻ địch cổ đại”, có điều Triệu Lão Biệt từng nói Tư Mã Khôi đã nhìn thấy mặt kẻ đó, đây chính là nút thắt mà anh không thể nào tháo gỡ nổi.



Hải ngọng nói, dòng biển nóng dưới lòng đất mà dâng lên, thì ngay cả La Hán mình đồng da sắt cũng không chịu nổi nhiệt, nếu Nấm mồ xanh quả thực là người sống, thì với thân xác máu thịt bình thường chắc đã tan tành mây khói từ lâu rồi, làm gì có chuyện còn sống sót tới tận bây giờ.



Tư Mã Khôi thẫm nghĩ, không hiểu thứ nấp đàng sau tấm bia đá là sinh vật gì, hơn nữa đến lúc này anh cũng chưa có cách nào biết được Nấm mồ xanh là ai, trước mắt phải xem xem Nhị Học Sinh mọc từ đâu ra, có điều bụi trong thạch thất bám một lớp rất dày, không giống thường xuyên có người ra vào nơi này, anh không hiểu tại sao lại vậy, nên đành giơ cao đuốc quan sát tỉ mỉ từng hình vẽ trên các bức phù điêu khắc trên vách đá trước xem sao.




Trong phòng không hề khắc chữ triện cổ Bái Xà. Qua các bức phù điêu với nội dung ly kỳ và quái đản, mọi người cũng có thể suy đoán xung quanh động đạo này có rất nhiều gian thạch thất tương tự như vậy, bởi người Bái Xà là tộc sùng bái lưỡng thần, một mặt tôn sùng thần Vũ Xà nắm giữ luân hồi của vạn vật; mặt khác lại vô cùng kính sợ và ra sức tế lễ dị thần, mãi đến khi họ dùng tấm bia đá nhốt được vị thần quái dị đó trong động đạo thì mới ngưng nghi thức tế lễ. Vì trước đây phải thường xuyên vào trong này tế lễ dị thần, nên phần lớn các gian thạch thất ở gần động đạo được đào thông với di chỉ của miếu thần ngày trước, gian thạch thất này chỉ là một trong số đó. Lúc người Bái Xà đặt tấm bia đá, họ đã xóa sạch toàn bộ mọi hình ảnh liên quan đến vị dị thần trên các bức phù điêu, ngay cả danh xưng cũng không lưu lại. Trực quan nhất chính là bốn bức phù điêu tuần hoàn thành hình tròn trên tấm bia, phần đỉnh có con rắn bay mọc cánh chim trên lưng, đó chính là thần Vũ Xà đứng trên tất thảy vạn vật, phía dưới chân là hình người cổ đại đứng xếp hàng trông sống động như thật, hai bên toàn những hình vẽ ma quái, phần chính giữa thì đã bị người xưa cạo mất.



Bốn người thầm kinh ngạc, thần thánh là thứ mà không thể gọi là có hay không, dẫu có thật thì người trần mắt thịt cũng chẳng thể nào nhìn thấy, chỉ có quỷ mới biết thứ bị tấm bia đá chặn lại rốt cuộc là loại quái vật gì. Cả hội xem tiếp thì thấy phía chân bức phù điêu khắc thần đạo và cung điện, trong bức tranh dài này có vẽ cảnh tượng nô lệ bị bắt làm tế phẩm, đi theo hoa văn vân rắn trên mặt đất, xuyên qua động đạo và bị dị thần ăn thịt ở nơi tận cùng của miếu thần.



Hội Tư Mã Khôi thấy trong thạch thất không có phát hiện gì đáng giá nữa, nên quyết định trước tiên cứ đi theo manh mối này để tìm đường ra. Tư Mã Khôi đổi lại súng cho Thắng Hương Lân, sau đó quay trở lại động đạo, nhổ sạch đám rong rêu bám trên mặt đất, tìm kiếm những viên gạch có vẽ hoa văn rắn, rồi tiến về phía trước. Họ đi mãi đến khi cây đuốc cháy hết, thì phía trước hiện ra một con đường cắt ngang, địa hình khúc khuỷu, sâu hun hút, không gian bỗng chốc trở nên khoáng đạt, chẳng khác nào một bình rượu đặt nằm ngang, sau khi đi xuyên qua phần cổ chai chật hẹp, trước mặt họ bây giờ hiện ra một hố động khổng lồ, đen ngòm và rộng vô bờ bến.



Lúc này, đuốc cháy đến đoạn cuối cùng và tắt rụi, ánh sáng còn lại vô cùng ảm đạm, Tư Mã Khôi đi đằng trước không nhìn rõ địa thế, chân vừa giẫm xuống một cái, suýt nữa thì ngã nhào xuống động sâu, may nhờ Cao Tư Dương đứng đằng sau giơ tay túm lấy ba lô giữ lại, trong bóng tối chỉ nghe thấy tiếng đá vụn bị giẫm phải rơi xuống rào rào.



Tư Mã Khôi thấy đã ra khỏi được động đạo, nhưng vẫn chưa dám yên tâm, thời gian đang không ngừng trôi về phía trước, điều đó chứng tỏ cung điện dưới lòng đất thờ các vị thần cổ xưa cũng đang bị lún vào kẽ hở thời gian, may mà cuộn thuốc nổ đã bị vô hiệu hóa, nên bất kể họ dùng cách nào cũng không thể phá hủy nguyên trạng của tấm bia đá được nữa. Tư Mã Khôi nghĩ đã đến nước này, thì trừ phi chẳng may bị chết, còn nếu không anh phải xem bằng được thứ trong động không đáy rốt cuộc là gì. Anh dập cây đuốc cuối cùng, cùng ba người còn lại bật đèn quặng lên, kéo Nhị Học Sinh tụt xuống vách đá dốc dựng đứng, trượt khoảng mười mấy mét thì địa thế bắt đầu bằng phẳng dần.



Trên mình bốn người đều mang theo súng và dao săn, mấy bình nước đeo bên mình đập vào vách phát ra tiếng “coong coong”, âm thanh sắc lạnh, không giống tiếng phát ra khi đập vào đá, mà giống như cả hội đang đứng trên một khối sắt khổng lồ.



Hải ngọng bị ngã, đau khắp mình mẩy. Anh thò tay sờ mặt đất, cảm giác bề mặt nhẵn thín và bằng phẳng, không những vậy xúc giác từ tay cảm nhận thấy sự cứng chắc, lanh lẽo, dày dặn và mịn màng cho thấy phía dưới chân họ không phải một phiến đá thông thường, anh buột miệng chửi đổng: “ Mụ nội nó, chỗ này giống như đáy của cái nồi khổng lồ, không ngờ toàn sắt là sắt!”


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,711
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 199: Hồi 6: lớp vỏ ngoài


Không gian dưới hố động như một thế giới hoàn toàn khác biệt, bốn phía tối đen như mực, yên ắng không một tiếng động, sự cô tịch tưởng như kéo dài. Sa chân vào cảnh ngộ này, lòng ai nấy đều bất giác dội lên cảm giác rùng rợn, hãi hùng tột độ, thấy cõi này sao bao la rộng lớn mà bản thân thì quá bé nhỏ, không thể nghĩ ra nổi vì sao đáy động lại là lớp vỏ sắt khổng lồ.



Tư Mã Khôi lấy ngón tay gõ lên mặt đất, anh phát hiện lớp vỏ sắt này dày không thể tưởng tượng nổi, hơn nữa nó lại là sắt nguyên khối, khối lượng riêng cũng lớn khác thường, chỉ e một cục to bằng nắm tay cũng phải nặng đến cả trăm cân. Trong động khắp nơi đều ẩm thấp, âm u, nhưng chất sắt này vẫn đen sì sì, không hề xuất hiện vết tích han gỉ.



Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Đáy động là hố quặng sắt hả Khôi?”



Tư Mã Khôi lắc đầu, chưa bao giờ anh thấy loại sắt nào rắn chừng ấy, cho dù đạn ghém cỡ tám của khẩu súng săn gấu hai nòng bắn vào, e là cũng chẳng thể để lại một vết lõm nông, tuy người Bái Xà cổ đại rất giỏi đào huyệt động, nhưng chắc chắn họ cũng không thể nào đào lên được lớp vỏ sắt to đến thế.



Hải ngọng soi đèn quặng ra xa, thì thấy mặt đất bằng phẳng, kéo dài tít tắp đến vô tận, đỉnh động cong cong, có chiều hơi chúi xuống, được bao phủ bởi một mành sắt – loại sắt giống với phần đáy, bề mặt phân bố các lỗ dày chi chít, đường kính lỗ rộng nhất chừng hơn một mét, lỗ hẹp nhất chỉ tầm hai đốt ngón tay, các lỗ thưa thớt không đều nhau, lộn xộn chẳng theo quy luật nào, nhưng tất thảy đều nhẵn bóng và bằng phẳng, có lẽ toàn bộ đáy động được bao bọc bởi một khối sắt trọn vẹn như thế, thực không biết nó còn che phủ bao nhiêu cây số nữa?




Tư Mã Khôi nghe người ta nói, biển nóng ở tâm Trái đất toàn là sắt nóng chảy, anh đoán lớp vỏ sẳt khổng lồ bao phủ cả nơi tận cùng của mạch đất chính là sắt nóng chảy đông kết lại tạo nên, chỉ có khả năng biến hóa vô cùng vô tận của đất trời mới có thể tạo ra kiệt tác xứng danh kỳ tích này.



Thắng Hương Lân đồng ý với suy luận của Tư Mã Khôi, có điều những lỗ hình tròn to nhỏ khác nhau trên vỏ sắt thì không hiểu từ đâu mà có, soi đèn quặng vào trong thấy tối om, sâu hun hút, lỡ không may sa chân xuống, nhẹ thì đứt gân gãy xương, nặng thì không thể thoát thân ra nổi, nhưng có vẻ nó không giống cạm bẫy trên đường, hơn nữa vì khả năng có hạn, người Bái Xà cổ đại không thể đục khoét được những lỗ to như vậy trên khối vỏ sắt khổng lồ được.



Hải ngọng nói: “Trong động chẳng phải có thứ bị tấm bia đá nhốt lại sao? Lẽ nào đó là dấu vết nó để lại khi hoạt động? Mà ngẫm lại, mẹ nó chứ vẫn chả hiểu nó rốt cuộc là món đồ chơi gì?”



Tư Mã Khôi nói: “Thì thứ bị tấm bia đá chặn lại một vị thần thánh cổ xưa nào đó mà người Bái Xà thờ phụng còn gì, nhưng dung mạo và tên của nó đã bị họ xóa mất rồi. Giờ chúng ta không thể đoán nổi mặt mũi thật sự của nó. Thực ra chuyện thần quỷ chỉ là hư vô, nếu nói cái thứ có hình dáng diện mạo kia là thần, chi bằng bảo nó là con quái vật vượt ngoài phạm trù hiểu biết của người Bái Xà cổ đại có khi còn đúng hơn. Chính vì ở tận cùng địa mạch có khối vỏ sắt to chừng này, nên nó mới bị tấm bia đá chặn lại không cho thoát ra ngoài, có thể nếu đi tiếp vào sâu hơn, chúng ta sẽ tậu mắt nhìn thấy hình dạng thật sự của nó; còn về các lỗ thủng trên mặt đất có phải dấu tích nó để lại khi di chuyển hay không thì bây giờ rất khó phán đoán”.



Lúc trước, cả hội quay đi quay lại mấy vòng trong động đạo phía sau tấm bia đá nhưng vẫn không tìm thấy lối ra. Thế mà sau khi Tư Mã Khôi ngắt bỏ dây dẫn nổ, cả hội lại vào được trong hố động khổng lồ bị vỏ sắt bao phủ xung quanh, chuyện này ắt có lý do, bây giờ Tư Mã Khôi cũng không thể phân biệt việc khép mở của kẽ hở thời gian, chính vì vậy, cả hội cũng không dám mạo hiểm xông lên phía trước, họ đành tìm kiếm lần mò ở quanh đó. Họ nhìn thấy một số bộ khung xương thú khổng lồ thời tiền sử vương vãi trên mặt đất, xương cốt đã hóa thạch từ hàng vạn năm trước, trông nhấp nhô như dãy núi dài triền miên, xương sống hình rắn từ trên dốc thả ngoằn ngoèo xuống phía dưới. Dọc đường từ đáy động thông vào nơi sâu toàn là tượng thú đá nằm đổ nghiêng xiêu vẹo, diện mạo trông lờ mờ, quái dị và đáng sợ, Tư Mã Khôi đoán có lẽ đây là thần đạo, cả hội đang định tiếp tục đi sâu vào trong.



Lúc này, Nhị Học Sinh tỉnh khỏi cơn hôn mê, mắt nhắm mắt mở nhìn trái nhìn phải, đột nhiên sắc mặt hắn lập tức biến đổi, hắn quay người định trốn về động đạo, nhưng bị Hải ngọng lấy báng súng vạng mạnh vào sau gáy, hắn chỉ kịp kêu “ối” một tiếng, rồi lại ngã lăn ra đất ngất xỉu.



Tư Mã Khôi thấy trên vẻ tuyệt vọng trên mặt Nhị Học Sinh giống hệt khi hắn nhìn thấy gian thạch thất, anh biết lúc nãy mình đã đoán nhầm, không phải gã này sợ gian thạch thất, mà là hắn sợ đội khảo cổ sẽ thoát ra khỏi động đạo theo manh mối tìm thấy trong gian thạch thất, vì sao hắn không dám bước chân vào nơi này? Phải chăng hắn cố tình làm rối trí bọn ta, hay còn có nguyên nhân nào khác? Có câu “âm dương khó đoán chính là ma, huyền thâm khôn cùng chính là thần”. Bây giờ cảnh ngộ mà cả hội gặp trong động không đáy quả rất ứng với câu nói này, để một kẻ không phải người cũng chẳng phải ma đi cùng mình, sớm muộn gì cũng rước họa vào thân, ngặt nỗi hiện tại Tư Mã Khôi cũng chưa nghĩ ra cách gì thoát khỏi hắn, nên đành đánh ngất hắn rồi tha theo cùng, cái này gọi là “biết rõ không phải bạn, nhưng lúc cấp bách vẫn phải đồng hành”.



Bốn người kéo Nhị Học Sinh mềm oặt như con chó chết trèo vào thần đạo, đứng ở nơi cao trên xương sống sinh vật cổ nhìn về phía trước, họ thấy ở điểm tận cùng của con đường có ánh đèn sáng mờ mờ, hình như đó là một tòa cung điện nguy nga, hai bên ngổn ngang thú đá và thạch thất đã bị sụp đổ, có thể thấy thời xưa đây là một tòa cung điện cổ dưới lòng đất với quy mô vô cùng bề thế và không khí uy nghiêm, hùng tráng. Điều kỳ lạ là tuy tầm nhìn xung quanh được nâng lên khá nhiều, nhưng cự ly chiếu sáng của đèn quặng cũng chỉ tỏa được chưa đầy hai mươi mét, căng mắt lắm cũng chỉ nhìn thấy vách động dựng đứng trên đỉnh đầu, thế mà không hiểu vì sao cả hội lại có thể nhìn ánh lửa đèn âm u từ tận đằng xa của thần đạo. Ngoài ra, người Bái Xà vốn không quen dùng lửa, trong lịch sử, họ chưa bao giờ phát minh cũng như sử dụng bất kỳ dụng cụ chiếu sáng nào, vậy tại sao trong huyệt động dưới cửu tuyền cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài lại có nến trường minh không bao giờ tắt?



Mọi người vừa ngạc nhiên vừa hoài nghi, có điều sự việc đã đến nước này thì đương nhiên chỉ tiến chứ không thể lùi, điều đáng ngại lúc này là lương thực và đạn dược cả nhóm mang theo gần như đã cạn kiệt, trong ba lô chỉ còn ít pin đèn và lương khô, ngoài ra không còn thứ gì khác, đuốc cũng chỉ còn lại một cây cuối cùng, trên người họ giờ nhẹ tênh, nhưng lòng lại hoang mang, trĩu nặng.



Hải ngọng sờ đạn trong bao, mới phát hiện chỉ còn bốn viên đạn ghém cỡ tám của khẩu súng săn gấu Canada, tính cả hai viên đang nằm trong ổ, mới có sáu viên, đạn sắp hết làm lòng can đảm của anh cũng giảm sút trông thấy, thêm vào đó đường đi toàn hố vũng gập ghềnh, anh không thể kéo Nhị Học Sinh di chuyển như lúc trước được nữa, mà đành phải cõng hắn lên lưng. Tuy gã này gầy nhom chỉ toàn da bọc xương, nhưng anh còn phải cõng cả đèn hỏa diệm nhiệt độ cao trên lưng, nên oằn người khó nhấc chân nổi.




Chiếc đèn hỏa diệm nhiệt độ cao này tuy uy lực rất lớn nhưng lại đang bị hỏng, chẳng hiểu chạm mạch ra sao mà sửa mãi vẫn lúc lành lúc què, có điều cả hội không nỡ vứt thứ vũ khí hiện đại này đi, nên bàn đi tính lại, họ đành để Cao Tư Dương cõng thay Hải ngọng.



Bốn người nhanh chóng chỉnh đốn xong xuôi, men theo xương sống hóa thạch của sinh vật tiền sử bước thấp bước cao vất vả tiến về phía trước. Huyệt động này giống như một đường nứt ngang trong vỏ sắt, trông cục bộ thì có vẻ bằng phẳng, nhưng địa hình của tổng thể thì gập ghềnh khúc khuỷu, chỗ hẹp nhất thậm chí có thể với tay tới vách động trên đỉnh đầu. Mới đi được chưa tới chục bước, Tư Mã Khôi đột nhiên lấy tay ra hiệu cho mọi người dừng lại, anh ngẩng đầu soi đèn quặng lên đỉnh động.



Cao Tư Dương thấy vậy liền hỏi: “Chuyện gì vậy?”



Thắng Hương Lân ra hiệu im lặng: “Hình như trong vỏ sắt có động tĩnh…”



Hải ngọng vội vàng vứt Nhị Học Sinh xuống đất, giương súng săn lên, cảnh giác nhin phía trên, anh thấy ở nơi sâu trong vách động có tiếng sột soạt rất nhỏ vọng đến.



Mọi người lần theo âm thanh, điều chỉnh chùm sáng đèn quặng, soi vào một lỗ thủng trên đỉnh động, trong mớ âm thanh sột sà sột soạt đó, cả hội thấy hai con mắt gắn trên đỉnh hai cái xúc tu đang thò vào trong lỗ thủng, phía sau là một cơ thể trơn nhẫy dấp dính dài chừng nửa mét. Tư Mã Khôi từng nhìn thấy hình ảnh của sinh vật này trong cuốn cổ tịch biệt bảo ở biển cát, nom nó chẳng khác gì con ốc sên khổng lồ không có vỏ, tương tự như loài sên trần chuyên ăn kim loại mà cổ tịch nhắc đến, thì ra các lỗ thủng trên vách động đều do con sên này nhả dịch nhớt làm hoen gỉ rồi gặm nhấm mục ruỗng dần mà ra. Anh biết sên trần gặm kim loại là loài dị chủng, hễ bị nó bám phải thì không dễ thoát thân, thế là anh lập tức gọi mọi người nhanh chóng rời khỏi thông đạo. Bốn người loạng choạng chạy một hồi, cuối cùng, họ cũng thấy ánh đèn lập lòe như đốm lửa ma trơi ở đằng xa dần dần trở nên rõ ràng hơn, nơi sâu nhất của huyệt động là một tòa nhà màu xanh lục.



Tòa đại điện này nằm trong một ngọn núi đá, ngọn núi đá này lại lún vào nơi sâu của vỏ thép khổng lồ, trong lòng núi người ta đục rất nhiều gian phòng lớn nhỏ, trên vách bám đầy lớp rêu màu xanh sẫm, các hình vẽ thần quỷ khắc xung quanh đều bị thảm rêu che phủ. Phía vách ngoài, cứ cách nửa thước lại đục một khám động nhỏ, bên trong đặt một chiếc đèn bệ đá, số lượng không dưới trăm ngàn cái, chúng tỏa ra thứ ánh sáng mờ tối, khiến người ta cảm thấy âm u, đè nén hơn.



Hội Tư Mã Khôi liều mạng chạy như bay lại gần, anh mệt đến nỗi không thở ra hơi. Mọi người nhìn thấy cửa núi dưới cung điện cổ được mở rộng, hành lang phía trong ngoằn ngoèo, sâu hút, hai bên toàn khắc tượng mặt người vô hồn, thì lòng không khỏi bật ra suy nghĩ: “Người Bái Xà cổ đại không quen dùng lửa, hai mắt họ có thể nhìn thấy mọi vật dưới lòng đất tối om, vậy vì sao trong cung điện mịt mù ma khí này đèn đuốc lại sáng trưng?”, nghĩ đến đây, ai nấy đều bất giác bước chậm lại.



Lúc này, từng cơn chấn động từ đâu bỗng truyền đến, rồi một con sên trần khổng lồ mình vằn vện đỏ au đang bò từ đáy động lên thần đạo, nó há ngoác cái miệng nhầy nhụa, lộ ra vô số chiếc răng nhọn hoắt, ào ào như vũ bão trườn tới phía sau lưng mọi người.



Tư Mã Khôi nhớ trong cuốn cổ tịch biệt bảo có nhắc đến tông tích của loài sên trần gặm kim loại, chúng thường xuất hiện ở Tây Vực. Năm đó, một vị quốc vương Ba Tư đúc thành đồng dưới lòng đất để giấu vàng, ba năm sau ngài cho mở địa khố, phát hiện núi vàng chất cao ngất ngưởng bỗng không cánh mà bay, hóa ra nguyên nhân là do địa khố đó thông với mạch quặng, vàng bị bọn sên trần gặm sạch bách. Loài sinh vật này không chỉ gặm sắt, nhấm vàng, mà chúng còn ăn vật sống có máu có thịt, từng gây ra hiểm họa một thời cho Tây Vực, hậu thế không nhìn thấy loài sinh vật nguy hiểm ấy nữa, chỉ nghe đồn con nào thân mình có vằn đỏ thì là sên chúa, con đang tấn công phía sau lưng mọi người có khả năng chính là sên chúa. Thấy bị tấn công đột ngột, mọi người đành quay người lại rút súng ra bắn trả.




Hải ngọng một tay giương khẩu súng săn kề lên vai, bóp cò, nhưng đạn ghém bắn trúng người con sên chúa cũng chỉ làm nó giảm tốc độ chậm lại một chút, trên mình thêm vài lỗ thủng chảy nước đen, rồi nó lại lảo đảo trườn đến chỗ mọi người.



Cao Tư Dương định lấy đuốc xua kẻ địch, nhưng cô lại lỡ tay làm rơi, không biết bao nhiêu con sên trần lớn nhỏ dưới đáy động ngọ nguậy bò lên bao vây tứ phía, nhìn chúng mà da đầu cả hội ớn lạnh.



Trong chớp mắt, đàn sên trần đã vây kín bốn người đén nỗi không còn đường rút lui, hội Tư Mã Khôi thấy tình hình không ổn, nếu cứ tiếp diễn như vậy, nói không chừng họ chưa kịp rút vào địa cung thì đã bị lũ sên trần này nuốt chửng.



Hải ngọng ném Nhị Học Sinh xuống đất, định bắn chết hắn để thời gian quay ngược về điểm mười một giờ đúng trong động đạo, dẫu phải bắt đầu lại từ đầu cũng còn tốt hơn bó tay chịu chết ở đây.



Chẳng ngờ, Nhị Học Sinh bị quăng mạnh xuống đất, chợt tỉnh khỏi cơn hôn mê, thấy lũ sên xung quay đang bao vây bốn phía, hắn sợ quá co giò bỏ chạy. Hải ngọng đứng đăng sau giương súng bắn một phát vào lưng, cả cơ thể hắn giật tung lên như chiếc lá bị gió cuốn, rồi lăn vào cánh cửa đá đang rộng mở của tòa thạch điện. Nhưng lạ thay sau đó, lửa đèn trên khắp các vách tường vẫn sáng trưng, thời gian cũng không hề quay ngược trở lại.



Mọi người thầm kinh sợ, chẳng lẽ thời gian cả hội đang trải qua lúc này là thời gian thực tế sao? Hay chỉ khi Nhị Học Sinh chết ở trong động đạo thì thời gian mới quay ngược?



Hoàn cảnh giờ đây đúng là ngàn cân treo sợi tóc, trong cái khó Thắng Hương Lân chợt ló cái khôn, cô dốc nửa hộp dầu hỏa còn sót lại ra mặt đất và châm lửa. Lũ sên trần quen sống trong môi trường tối tăm, ẩm ướt, nên vừa gặp ánh lửa, chúng vội vàng co cụm lại. Nhân cơ hội này, bốn người xông lên phía trước, chạy trốn vào trong động đá, hợp lực đẩy cánh cửa khép lại. Đèn nến phía trong và phía ngoài tòa địa cung cổ đại thắp sáng trưng, nên bọn sên trần không dám lại gần, chúng tản ra bốn phía, rồi chui vào các lỗ trong vách động, thoáng chốc đã mất tăm mất dạng.



Bốn người chạy như bay vào trong thạch điện, không kịp để hơi thở điều hòa trở lại đã vội vàng nạp đạn đẩy ổ, đồng thời soi đèn quặng thăm dò phía trước. Họ phát hiện ngực Nhị Học Sinh bị đạn xuyên thủng một lỗ to, mất mở trừng trừng, miệng há hốc, nằm rạp trên mặt đất, hắn ngừng thở và chết cứng từ bao giờ.


 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom