Cập nhật mới

Dịch Full Mê Tông Chi Quốc

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Mê Tông Chi Quốc

Mê Tông Chi Quốc
Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
Tình trạng: Đã hoàn thành




Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng

Thể loại: Trinh Thám, Huyền Huyễn

“Mê tông chi quốc” là bộ tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm dài kỳ gồm 4 tập, kể về những chuyến đi đầy mạo hiểm của một đoàn thám hiểm gồm những kẻ trộm chuyên nghiệp, những chiến sĩ chạy trốn sự truy đuổi của kẻ thù và những nhà khảo cổ dạn dày kinh nghiệm, họ bắt đầu hành trình với những nhiệm vụ khác nhau nhưng lại gặp nhau giữa rừng hoang núi thẳm và cùng chiến đấu để chống lại hiểm nguy, giành giật sự sống.

Chuyến đi của họ là hành trình sinh tử đầy ly kỳ và mạo hiểm, vượt thời gian, vượt không gian với những khám phá kinh hoàng về một vương triều cổ đại, một đất nước bị lãng quên dưới lòng đất và những điều bí ẩn chưa ai từng biết đến. Góc chết tâm linh chưa bao giờ chạm tới. Bóng tối tầm mắt khó có thể dò tìm Một tổ chức thần bí, một nhiệm vụ bất khả thi Con đường U Linh bí ẩn trong lịch sử một lần nữa hiện ra trước mắt Máy bay không người lái bay lượn trong khe núi sâu Đỉa ăn thịt người bao vây thảm sát cả đoàn người. Trong rừng rậm bí ẩn, bạn làm cách nào để chiến thắng nỗi sợ hãi và xoay chuyển vận mệnh? Sự thật chôn vùi dưới lòng đất sâu, lời giải ẩn kín trong lớp sương mù...

Rút cục ai là kẻ cận kề Thiên quốc nhất? Thân mời các bạn đọc tiếp!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Phần mở đầu


Giai đoạn cuối đời nhà Thanh là những năm tháng thời thế thay đổi loạn lạc, đầy biến động, cương thường bại hoại, luật pháp lỏng lẻo, trộm cắp cướp giật nhiều không kể xiết. Chỉ riêng hai thành phố Bắc Kinh và Thiên Tân đã xuất hiện bốn tên đạo tặc lừng danh, bọn chúng là hung thủ thực hiện bao vụ trọng án kinh thiên động địa, gây hiểm họa kinh hoàng cho dân chúng.



Câu chuyện được lưu truyền trong dân gian đều không tránh khỏi có chút thay hình đổi dạng, thêm thắt ít nhiều. Truyền kỳ về bốn tên đạo tặc tài ba có lẽ cũng vậy, chúng trở thành đề tài nóng hổi để bàn dân thiên hạ mang ra bàn luận khắp nơi, từ thôn cùng ngõ hẻm đến các tửu lầu, trà quán; thậm chí người ta còn sáng tác rất nhiều khúc hát, lời vè, truyện truyền miệng về chúng, các bài báo lá cải cũng liên tiếp đăng tải vô số chương hồi giật gân về những hành động mới nhất của bốn tên gian tặc này. Những chuyện về chúng được đồn đại rộng rãi đến nỗi người người đều tỏ, ngõ ngõ đều tường. Nhưng trên thực tế, cuộc đời của bốn tên đạo tặc đó không nhuốm đầy màu sắc thần bí như trong truyền thuyết, chỉ có điều để được nhân gian đồn thổi ghê gớm như vậy chắc hẳn chúng cũng phải có chút bản lĩnh ưu việt, có ý chí không chịu an phận thủ thường, có những tài năng mà người thường không thể so bì.



Tên gian tặc đầu tiên, cũng là kẻ thành danh sớm nhất, phải kể đến Khang Tiểu Bát. Khang Bát Gia kỳ thực không thể coi là bậc đạo tặc kỳ tài, tên này nhà rất nghèo, bản thân là kẻ vô lại, ăn không ngồi rồi, sống ở phía đông kinh thành, trong khu doanh gia họ Khang. Trong một lần tình cờ, hắn đánh cắp được khẩu súng lục trên người viên công sứ Anh, từ đó hắn ngông cuồng đến mức quên cả mình là ai, đi đến đâu cũng giết người cướp của.



Khang Tiểu Bát tâm địa đen tối, ra tay tàn độc, hễ thấy ai không thuận mắt là hắn lập tức bóp cò nổ súng, trên lưng hắn không biết đã cõng bao nhiêu mạng người. Đơn cử có một lần, Khang Tiểu Bát đi cắt tóc, đang cắt dở chừng hắn quay lại hỏi người thợ: "Ngươi đã nghe tiếng Khang Tiểu Bát bao giờ chưa?"



Anh thợ cắt tóc thực thà thuận miệng đáp: "Biết chứ, tên tiểu tử đó chẳng phải thứ gì hay ho."



Khang Tiểu Bát trong lòng ức lắm nhưng không nói ra, lại hỏi: "Sao lại chẳng phải thứ gì hay ho? Ngươi quen hắn à?"



Anh thợ lại bảo: "Không quen, nghe thiên hạ nói hắn chỉ giỏi làm những chuyện xằng bậy."




Nghe tới đó, Khang Tiểu Bát quay người lạnh lùng thả từng tiếng: "Được, vậy hôm nay ta sẽ cho ngươi biết ông đây là ai!"



Lời chưa dứt, hắn đã rút súng ra, sáu tiếng nổ đanh sắc vang lên, anh thợ cắt tóc lăn ra chết tại chỗ.



Khang Tiểu Bát giết người như giết rận, tội ác chất chồng như núi. Tuy tâm địa tàn ác nhưng hắn lại là kẻ vô cùng nhát gan, càng giết nhiều người hắn càng hay sinh nghi, lúc nào cũng lo sợ có người đang ngầm tìm cách báo thù. Một mình đi trong đêm tối, chỉ cần nghe thấy tiếng bước chân đằng sau, không thèm hỏi là ai, hắn lập tức quay đầu rút súng. Khang Tiểu Bát làm mưa làm gió suốt một thời gian dài, cuối cùng cũng bị tuần bổ tóm sống và xử tử, đầu của hắn bị treo trên cổng chợ cho thiên hạ bêu riếu.



Thời Dân quốc có không ít kẻ ngồi rỗi hóng chuyện, thích loan tin giật gân để kích thích lòng hiếu kỳ của dân chúng, đã cố tình liệt Khang Tiểu Bát vào danh sách những hảo hán lục lâm[1], rồi viết hẳn thành một kịch bản mới cho hắn. Trong nhiều cuốn tiểu thuyết truyền kỳ hạng ba hoặc tiểu thuyết chốn trà lầu, thư trường cũng có nói đến hắn. Không ngờ trong lời hát, lời kể, hắn đã được miêu tả thành một hiệp khách trộm đạo võ nghệ cao cường, sánh ngang với các bậc hào kiệt lục lâm như Triệu Tư Hổ, Đậu Nhĩ Đôn...



Kẻ xếp thứ hai trong tứ đại gian tặc thời bấy giờ là Tống Tích Bằng. Thời điểm tên này thành danh cũng gần kề với thời điểm Khang Bát Gia náo loạn Bắc Kinh. Có điều, Tống Tích Bằng không phải người Bắc Kinh chính gốc, tổ tiên tám đời nhà hắn sống gần chùa Vệ Nam ở Thiên Tân. Từ nhỏ, Tống Tích Bằng đã theo một bậc lão nhân người Hồi ngày ngày luyện võ. Hắn được trời phú cho sức khỏe hơn người, có thể dễ dàng nâng được tảng đá nặng mấy chục cân bằng một tay, rồi đủng đỉnh dạo quanh sân một vòng mà mặt không hề biến sắc. Hắn có một cơ thể rắn như thép, nội công thâm hậu, trên người hắn hằn lên một vết sẹo trắng do dao chém, một nốt chấm trắng do súng bắn. Mọi người tặng hắn biệt hiệu "Thạch Phật Tống". Tống Tích Bằng từng làm tiêu sư trong tiêu cục một vài năm. Sau này, khi Sơn Đông gặp loạn Nghĩa Hòa Đoàn, dân luyện võ mọi ngả đều tập trung lại giơ cao ngọn cờ "phục Thanh diệt ngoại xâm" hừng hực khí thế Bắc tiến vào kinh, Thạch Phật Tống cũng tham gia hoạt động, rồi nhờ vào chút võ nghệ hơn người nên hắn trở thành đại sư huynh.



Năm Canh Tý, cuộc nổi loạn bị dập tắt, Nghĩa Hòa Đoàn bị trấn áp tàn khốc, nhiều người bị quan phủ bắt giữ chém đầu. Tống Tích Bằng may mắn chạy thoát và trở thành thảo khấu thổ phỉ. Hắn tập hợp được một nhóm thủy tặc, đến Thiên Tân cướp thuyền Diêm đạo[2], bên trong chất đầy quan ngân. Loại bạc này thời xưa gọi là "hoàng cống", mỗi thỏi một trăm lượng, mười thỏi đựng vào một ống. Tống Tích Bằng tinh thông phi tiêu, bách phát bách trúng. Hắn vung tay phi tiêu mấy phát, liền hạ gục năm vị quan quân, rồi cướp đi ba mươi vạn lượng "hoàng cống". Tống Tích Bằng tự biết mình gây ra đại họa tày trời, nên sau khi phân chia số bạc cướp được cho đồng bọn, liền vội vàng chạy trốn đến Thương Châu mai danh ẩn tích.



Một năm sau, Tống Tích Bằng nghĩ sóng gió đã qua, mọi người đã quên chuyện cũ liền âm thầm trở lại Thiên Tân tìm người thân. Nào ngờ, hắn vừa lộ mặt lập tức bị người của cục tra xét để mắt tới. Lần này, hắn muốn cao chạy xa bay cũng chẳng còn đường thoát thân, nên đành phải liều mạng ra tay giao đấu nhưng ít không địch nổi nhiều nên hắn nhanh chóng bị tuần cục vật ngửa ra đất, bắt sống giải về phủ xử tội.



Vụ án Tống Tích Bằng làm kinh động đến cả triều đình, khiến Từ Hy thái hậu trong Tử Cấm Thành ngồi không cũng phải cảm thấy khó chịu. Nghe nói chòi canh Thiên Tân đã bắt được tên đại tặc, thái hậu liền muốn ra xem rốt cục hắn là anh hùng hảo hán phương nào. Lý tổng quản lệnh cho thị vệ ngự tiền áp giải Tống Tích Bằng, tay bị khóa còng, chân đeo xích, đến trước đại điện diện kiến Lão Phật Gia thái hậu.



Nhưng cứ thử tưởng tượng xem, tù nhân mà mắc phải trọng tội như thế, nay bị rơi vào bước đường này thì tinh thần làm sao còn ngùn ngụt khí thế như trước được? Vì vậy, Từ Hy thái hậu sau khi xem mặt hắn xong thì cảm thấy vô cùng thất vọng, người chỉ lạnh nhạt nói một câu: "Kẻ to gan gây họa tày đình chẳng qua chỉ thế này thôi sao?"



Mấy hôm sau, Tống Tích Bằng bị tuyên xử trảm, quân lính giải hắn đến pháp trường chém đầu thị uy dân chúng, rồi treo trên cổng thành suốt hai tháng ròng.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m.



Đệ tam gian tặc là kẻ gây náo loạn Bắc Bình vào những năm đầu thời kỳ Dân quốc, tên hắn là Yến Tử Lý Tam. Nghe nói Lý Tam Gia thuở nhỏ bần hàn, từng gọt đầu xuất gia làm tiểu hòa thượng nương nhờ cửa Phật. Sau này thành nghệ, hắn mới hoàn tục trở lại. Bình sinh Lý Tam Gia rất giỏi khinh công, có thể thi triển tuyệt kỹ bí truyền "Đăng bình độ thủy", đạp bèo qua sông như người ta đi trên đất bằng, hắn đi trên tường, bay qua mái nhà, thi triển khinh công ra vào cổng thành mà không để lại dấu tích, dễ dàng chẳng khác nào chủ nhân ra vào bằng cổng chính. Trình độ khinh công của Lý Tam Gia thậm chí ngang ngửa với thần trộm Giang Nam Triệu Hoa Dương. Chỉ trong một đêm, hắn có thể liền tay trộm đồ trong tám cửa hiệu lớn, trước khi bỏ đi còn để lại phi tiêu "Yến Tử" làm hiệu. Trong một thời gian ngắn, tiếng tăm của hắn vang khắp Bắc Bình.



Trên thực tế, Yến Tử Lý Tam không hẳn thần thông được như đồn đại, có điều hắn quả thực có một vài bản lĩnh đáng nể. Tên trộm này rất giỏi trèo tường, đi lại trên mái nhà vô cùng nhanh nhẹn. Khi hành sự, hắn thường đeo năm sáu đôi tất để di chuyển nhẹ nhàng và không bị trơn trượt, để lúc đáp xuống đất cũng không gây tiếng động. Không những thế, Yến Tử Lý Tam còn là người có tố chất làm kẻ trộm, khôn ngoan, nhanh nhẹn hơn người. Nhiều lần quan phủ tiến hành vây bắt, nhưng chưa lần nào tóm được hắn.



Đáng tiếc thay, Lý Tam Gia lại bị nghiện nặng, ngày nào cũng phải hít hết một chầu "Cao Phù Dung"[3] thượng hạng thì mới có tinh thần hành sự. Một lần coi như hắn gặp vận xui, khi trong lòng nghĩ: "nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất", nên hắn cả gan trốn trên nóc nhà phòng xử án đội tuần tra nằm nghỉ, không ngờ đúng lúc này cơn nghiện tự dưng phát tác. Không thể nhịn được, hắn liền bật lửa châm điếu thuốc đang giắt trong mình.




Kết quả không may là hắn bị một nhóm tuần tra đang đi tuần phát hiện, khi viên đội trưởng nhìn thấy trên nóc nhà có một đốm sáng bỗng nhiên lóe lên giữa màn đêm đen dày đặc. Lòng cảm thấy bất thường, viên đội trưởng đoán định chắc hẳn có gian tặc đang ẩn mình bên trên, nên lập tức lặng lẽ bố trí quân lính bao vây tứ phía ngôi nhà, quyết tâm bắt bằng được ếch trong chum, Yến Tử Lý Tam lại không biết bay như chim yến, nên đành bó tay chịu trói.



Trời vừa hửng sáng, đội tuần tra liền áp giải phạm nhân vào nhà lao Nam Thành. Quan phủ lo sợ ngộ nhỡ Lý Tam lại giở chiêu "Thoát cốt pháp" co xương để đào tẩu, nên sau khi đánh gẫy hai chân hắn, liền rút hai sợi gân bên trong ra rồi dùng xích sắt xuyên qua hai xương bánh chè khiến hắn trở thành người tàn phế. Lý Tam Gia vừa chịu đau đớn về thể xác, vừa bị cơn nghiện dày vò nên không kịp đợi đến lúc hành hình, hắn đã về âm tào địa phủ gặp Diêm Vương trước một bước.



Tên giặc cỏ cuối cùng trong bộ tứ gian tặc, kỳ thực là bộ đôi anh em song sinh, huynh trưởng tên Điền Hóa Tinh còn được mệnh danh là "Địa Lôi Cổn", nhị đệ Điền Hóa Phong, mệnh danh "Tọa Địa Pháo". Thời điểm huynh đệ họ Điền nổi danh cũng chính là thời điểm mà đội quân phiệt huy động một lực lượng lớn đi khai quật lăng mộ các vua chúa ngày xưa. Khi đội quân đào phá đến Cảnh Lăng cung của hoàng đế Khang Hy, cửa mộ vừa bị phá nổ, nào ngờ một dòng nước màu đen âm u lạnh buốt từ dưới lòng đất ùng ục trào lên, mặc cho đội quân ra sức hút vẫn không thể hút cạn. Đội khai quật không thể xâm nhập vào bên trong, cuối cùng đành tạm thời từ bỏ.



Nào ngờ sự việc này lọt đến tai đám sơn tặc, kẻ cầm đầu chính là Điền Hóa Tinh. Hắn là người tộc Kỳ, đã luyện thành chân truyền "Thập Tam Tiết thảng địa tiên"[4], tự ình gan dạ anh hùng hơn người, thế gian không có chuyện gì hắn không dám làm. Có lẽ bị mê muội bởi những khúc kịch, xướng, thư, thuyết thời cổ do dân gian truyền lại, nên Điền Hóa Tinh luôn đinh ninh câu chuyện "Dương Hương Vũ ba lần ăn trộm chén Cửu Long" là có thật. Theo truyền thuyết, hoàng đế Khang Hy có một bảo vật vô giá tên gọi là "Cửu Long Bôi". Đó là chiếc chén ngọc vô cùng lung linh huyền ảo, chạm khắc vô cùng tinh xảo, công phu không gì sánh nổi, chỉ cần đổ đầy mỹ tửu, đáy chén sẽ tức khắc hiện ra chín con rồng thiêng bay lượn uốn mình bội phần sinh động, sống động như hiển hiện ra trước mắt, càng nhìn càng giống thật, nên thế nhân gọi cảnh tượng ly kỳ này là "Chín rồng quậy biển".



Điền Hóa Tinh nghe các bậc nguyên lão trong tộc kể lại, chiếc chén ngọc ngoài đời không ly kỳ như trong truyền thuyết, nhưng quả thực chất ngọc vô cùng trong sáng, mịn màng, tỏa ánh lung linh, kỹ nghệ trau chuốt tinh tế phi phàm khiến người xem không thể rời mắt. "Cửu Long Bôi" tuyệt đối xứng danh là báu vật hoàng gia hiếm có trên đời. Không những vậy, chén ngọc quả thực được chôn theo chủ nhân ở Cảnh Lăng.



Điền Hóa Tinh nghe chuyện lòng tham trỗi dậy, hắn đem chuyện trộm mộ bàn luận với đám thuộc hạ rồi nói: "Cơ hội trước mắt đúng là thời cơ giúp ta phát tài, tuyệt đối không thể để lỡ, mất rồi không thể tìm lại. Nếu huynh đệ chúng ta trộm được những bảo vật quý giá ở Cảnh Lăng, tất cả những thứ khác mỗ không cần, mỗ chỉ cần chiếc chén Cửu Long chôn cạnh thi thể vua Khang Hy, còn lại anh em huynh đệ muốn chia nhau thế nào thì tùy ý."



Mọi người đều đồng lòng nhất trí. Tối hôm đó trăng sáng sao thưa, đội trộm mộ đem theo các loại dụng cụ xâm nhập khu lăng mộ. Hội Điền Hóa Tinh thông thạo địa hình ở đây hơn đội quân phiệt nhiều. Không tốn bao nhiêu công sức, bọn họ đã tìm thấy vị trí ngôi mộ, chặn đứng mạch nước, rồi mạo hiểm xông vào bên trong lăng tẩm. Bọn Điền Hóa Tinh định cậy nắp từng chiếc quan tài của hoàng đế và các phi tần ra để tìm kiếm bảo vật, ai ngờ khi Điền Hóa Tinh vừa bật một nắp quan tài lên, ghé đèn vào bên trong nhìn thì thấy người chết nằm trong quan tài trừng trừng nhìn hắn ngoác miệng cười.



Có câu: "Kẻ trộm chột dạ, kẻ đào mộ sợ ma" nên cũng có thể do Điền Hóa Tinh tự mình dọa mình, nhưng trong ánh nến chập chờn lúc ấy, không ai rõ rốt cục đã xảy ra chuyện gì, chỉ biết sau cú hoảng hồn đó, Điền Hóa Tinh sợ đến nỗi hai chân mềm nhũn quỳ gục trên đất, sắc mặt tái nhợt, hai hàm răng va vào nhau lập cập, run rẩy đến rúm ró, canh ba thì được đồng bọn khênh về nhà, muốn cậy miệng hắn để đút một thìa canh nóng cũng không được, chưa đến năm ngày sau thì hắn rũ áo chầu trời.



Tuy Điền Hóa Tinh chân đã bước vào địa phủ, nhưng nhị đệ của hắn là Điền Hóa Phong vẫn coi nhẹ sống chết, đêm hôm sau lại lần mò vào địa cung Cảnh Lăng. Cuối cùng, hắn cũng trộm được "Cửu Long Bôi", nhưng khi mở nắp quan tài, đột nhiên một ngọn lửa màu xanh từ bên trong vụt phun ra, thiêu mù một con mắt của Điền Hóa Phong, và dung mạo của hắn cũng bị hủy hoại một nửa. Từ đó, hắn bị mọi người đặt cho biệt danh "Mặt quỷ".



Chưa đầy nửa năm, bọn đạo tặc, trong đó có cả "Mặt quỷ" Điền Hóa Phong đều bị quan phủ tóm sống ở Bảo Định, Hà Bắc rồi bị xử bắn, tất cả châu báu ăn trộm đều bị tịch thu. Nhưng số báu vật lấy được ở Cảnh Lăng để trong quan khố cũng không cánh mà bay, tới giờ vẫn không ai rõ tung tích, để lại một mớ nghi vấn.



Bốn tên đại tặc vừa kể trên tuy cũng xuất thân lục lâm, cũng gây ra những vụ án kinh thiên động địa, nhưng nếu luận về bản lĩnh và kinh nghiệm thì cùng lắm chúng cũng chỉ thuộc hàng vai phụ, mà chẳng qua những câu chuyện lưu truyền rộng rãi về chúng đã được dân gian thêu hoa dệt gấm, thêm thắt nhiều yếu tố ly kỳ, nên chúng mới trở thành những anh hùng thảo khấu hiệp nghĩa.



Thủ thuật lục lâm phân chia thành nhiều đẳng cấp cao thấp khác nhau, kẻ cao siêu ăn trộm bảo vật trong nội phủ, kẻ trung đẳng thì chôm chỉa vật báu trong đại viện, kẻ cấp thấp thì ăn cắp vặt của nả của thường dân. Nhân vật thực sự có bản lĩnh, tài năng thường bị mai một giữa đồng cỏ trần ai, không cần lịch sử lưu lại tông tích. Trước đây, ở khu vực hồ Động Đình thuộc tỉnh Hồ Nam, có một nhóm đạo tặc tên là "Nhạn đoàn", bắt đầu hành hiệp giang hồ vào những năm cuối triều đại Thanh, dưới quyền một thủ lĩnh họ Trương. Người này có biệt danh là "Tặc ma", trước đây từng làm quan trong quân đội. Nghe nói người họ Trương này võ thuật cao siêu, quỷ thần khó lường, sánh ngang tầm với những nhân vật lừng danh thời cổ đại như: Bạch Viên Công, Hồng Tuyến Nữ, Côn Luân Nô.



Thời Dân quốc, gia tộc họ Trương truyền đến đời Trương Hồ Lô. Do tiền nhân nhiều đời trước tích cóp được nhiều của cải, gia tộc có nền móng khá vững vàng, nên họ Trương sớm đã rửa tay gác kiếm, không muốn sử dụng những tuyệt kỹ gia truyền nữa mà trở về cố hương, mở mấy cửa tiệm ở Bắc Bình, Thiên Tân làm ăn buôn bán như những người bình thường khác.



Trước đây, những hộ giàu có trong nhà thường dựng miếu thờ "trạch tiên"[5]. Trạch tiên có rất nhiều loại, tùy phong tục tập quán từng nơi khác nhau mà phụng thờ, có nơi thờ thần Ngũ Thông, có nơi thờ vàng bạc, châu báu, ngọc quý, còn gia tộc họ Trương chỉ thờ một "Đồng Miêu". Đó là tượng con mèo làm bằng đồng linh thiêng dị thường. Nào ngờ khi Trương Hồ Lô chuyển nhà lại vô tình đánh mất "trạch tiên", kết quả cả nhà không tránh khỏi tai họa giáng đầu, gia đình từ đó dần dần suy vong.




Người xưa có câu rất hay: "Cùng nghề là oan gia", lúc bấy giờ ở Bắc Bình tiệm Thịnh Nguyên là cửa tiệm lớn nhất trong thành. Chủ tiệm này họ Mục, tính tham lam vô độ, lại còn câu kết với quan phủ. Họ Mục vốn đố kỵ với nhà họ Trương nên từ lâu đã coi Trương Hồ Lô là cái gai trong mắt. Không những thế, hắn còn vô tình biết được trong nhà kho gia đình họ Trương có rất nhiều đồ cổ quý hiếm, tất cả đều là những báu vật kỳ lạ hiếm có trên đời, được ăn cắp từ mộ cổ, lăng tẩm trong núi sâu hoặc trong đại viện hoàng cung. Thế là hắn liền nổi lòng tham, lập mưu chiếm phần sản nghiệp này. Hắn đã nghĩ trăm phương ngàn kế để hãm hại liền mấy mạng người nhà họ Trương. Hai nhà kể từ đó nuôi thù kết oán rất sâu sắc.



Khi ấy Trương Hồ Lô còn là một thanh niên sung sức, tính khí nóng nảy, không chịu được cảnh bị kẻ khác bắt nạt, liền nhân một đêm gió cao trăng mờ quyết định trở thành "kẻ ám sát". Ông ta lẩn vào nhà họ Mục, liền một mạch giết sạch mười một mạng người, gồm cả già trẻ gái trai. Tất cả xác chết đều bị Trương Hồ Lô cắt phăng thủ cấp. Lúc đi ngang qua đồn cảnh sát, họ Trương cũng tiện tay chặt phăng luôn cái đầu của viên cảnh sát trưởng, rồi thi triển tuyệt kỹ "Bọ cạp đảo đầu" leo tường thành rồi xuyên tim mười hai cái thủ cấp đang ròng ròng máu tươi thành một xiên, treo lủng lẳng trên gác mái lầu canh ở cổng thành. Cuối cùng, Trương Hồ Lô còn cảm thấy vẫn chưa hả giận, liền phóng hỏa thiêu rụi luôn tiệm Thịnh Nguyên thành tro mới chịu dừng tay.



Vụ án Trương Hồ Lô đã gây chấn động khắp vùng, và họ Trương tự biết gầm trời này không còn chỗ dung thân. Theo thông lệ lục lâm từ trước đến nay, nếu ai chẳng may gây nên đại họa, thì chỉ còn cách cao chạy xa bay mới tránh khỏi lệnh truy nã vượt đại dương của quan phủ, nên những kẻ rơi vào tình thế ngặt nghèo như Trương Hồ Lô chỉ có mấy con đường để chọn, hoặc là "xuống Nam Dương", hoặc là "đi Tây Khẩu", nếu không phải "vào Quan Đông". Trương Hồ Lô đành cam tâm bỏ lại tất cả gia sản, chỉ vội vã cõng mẹ già chạy thẳng một mạch đến Sơn Đông, rồi vượt biển trốn ra quan ngoại. Từ đó, ông ta mai danh ẩn tích, đổi họ thành "Tư Mã" theo họ mẹ. Vì kế sinh nhai, Trương Hồ Lô lên núi làm sơn tặc nối nghiệp tổ tông ngày trước.



Sau này, cả nhà họ Trương chuyển đến vùng Đông Bắc, thực hiện theo chính sách cải cách ruộng đất. Khi liên quân Dân chủ tiến hành chiến dịch tiễu phỉ, Trương Hồ Lô và đồng bọn liền bỏ vũ khí quy hàng và được bộ đội thu nạp vào tổ chức tham gia chiến dịch xuống Giang Nam bảo vệ Lâm Giang, cùng đại quân từ bắc tiến vào nam, đánh chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.



Trong suốt thời gian đó, tuy Trương Hồ Lô không lập được công trạng lớn lao, nhưng cũng trải qua muôn vàn gian khổ. Có điều họ Trương xuất thân từ lục lâm, lý lịch không trong sạch nên cuối cùng vẫn không được trọng dụng. Sau giải phóng, họ Trương được điều động đến Trường Sa làm việc, từ đó an cư lạc nghiệp, lấy vợ sinh con, đến năm 1953 thì đẻ được một đứa con trai. Trương Hồ Lô không dám nhắc lại chuyện cũ, sợ rằng nếu nói ra sẽ liên lụy đến cả nhà, gây nên những phiền phức không cần thiết, vì thế khi đặt tên cho con, ông liền viết vào sổ hộ khẩu ba chữ: "Tư Mã Khôi".



Những kẻ xuất thân lục lâm, đại bộ phận đều làm những nghề phạm vào lệnh cấm của quan phủ, quanh năm lăn lộn nơi đầu súng ngọn giáo, chẳng biết khi nào phải đền cả tính mạng. Trương Hồ Lô vô cùng tin tưởng và bái phục "Kim Điểm tiên sinh", một vị thầy tướng số có tài suy đoán hung cát họa phúc rất chính xác. Vì thế, Trương Hồ Lô đã đích thân về tận quê cũ mời thầy Kim Điển đến xem tướng cho con trai. Theo cách nói của người xưa, mệnh đứng im còn vận thì luôn luôn chuyển động, cái tên là biệt hiệu suốt đời của một người, nên tên tất phải hợp với bố cục trong mệnh thì mới có thể đem đến vận may. Tuy rằng hậu bối nhà họ Trương từ nay phải mai danh ẩn tích, nhưng vẫn nên xem xét cẩn thận mới được.



Lúc bấy giờ tuy là thời đại mới, nhưng Trương Hồ Lô suy cho cùng vẫn là kẻ xuất thân từ tầng lớp thấp, quan niệm còn khá cổ hủ nên tuyệt đối tin tưởng vào thầy tướng Kim Điển tiên sinh; hơn nữa lòng tin đó vô cùng kiên cố, ăn sâu vào tận xương tận tủy, nên mặc cho vật đổi sao dời, lòng tin vẫn khó lòng dịch chuyển.



Chỉ thấy thầy Kim Điển lắc lư đầu mấy cái rồi bấm đốt ngón tay hồi lâu, cuối cùng tính ra số mệnh của đứa bé này là thổ, tức mệnh Thổ. Theo cách nói trong Thiên Can tám chữ, đứa bé mệnh "Trung ương mậu dĩ thổ" vừa vặn liệt vào hàng thứ tám, nếu sắp xếp thứ tự theo ngôi vị tám con vật thần thánh, thì vị trí thứ tám chính là khôi gia, tức con chuột. Trước đây, các đoàn kịch thường thờ cúng "Khôi bát gia", để đề phòng ông chuột gặm nhấm hết trang phục đạo cụ diễn xuất của họ. Dân gian tục truyền "Khôi bát gia mệnh thổ", vì thế Kim Điển tiên sinh liền đặt tên cho đứa bé là Tư Mã Khôi.



Trương Hồ Lô nghe xong kính phục đến nỗi không hạ nổi lưỡi xuống, cứ há miệng khen tên hay. Người nào lần đầu nghe tên này thì lại tưởng chữ Khôi trong từ Tư Mã Khôi có nghĩa khôi ngô, sáng láng; ai ngờ chữ Khôi này lại mang ý khôi cốt, than tro, hắc ám. Tóm lại, chữ Khôi đó đúng là đặt rất chuẩn xác, những mong rằng tương lai đứa bé này phải làm nên công trạng gì to lớn mới hay.



Trương Hồ Lô rốt cuộc vẫn là kẻ xuất thân từ lục lâm, nên ông cho rằng những thứ được dạy trong trường học thời đại mới chẳng có mấy tác dụng thực tế, hơn nữa, lại không muốn bí kíp tuyệt kỹ của tổ tông để lại bị thất truyền, nên vài năm sau ông liền gửi Tư Mã Khôi đến Bắc Kinh theo một vị ẩn sĩ tên là "Văn Võ tiên sinh" để học nghệ. Từ đó Tư Mã Khôi bắt đầu khổ công học hành, canh năm tỉnh giấc, nửa đêm bò dậy, thức thông đêm qua hai lần thay dầu đèn, cuối cùng cũng học được một chút chân truyền. Khi Tư Mã Khôi mười ba tuổi thì sư phụ cưỡi gió quy tiên, thi thể chôn ở núi Bạch Mã ngoại ô Bắc Kinh, đến lúc này cuộc đời cậu bắt đầu chuyển sang ngã rẽ khác.



Tập I "Chăm Pa Ẩn Sương" của bộ truyện "Mê Tông Chi Quốc" kể về những trải nghiệm ly kỳ của Tư Mã Khôi khi chạy trốn kẻ địch đã vô tình tham gia một đoàn thám hiểm bí ẩn và thoát khỏi bàn tay tử thần từ khu rừng rậm nguyên sinh huyền bí. Có câu: "Người mất đầu khó chạy, câu mất đầu khó thông"; về việc Tư Mã Khôi vì sao lại gia nhập đoàn thám hiểm thì phải bắt đầu kể từ đây. Mở đầu có phần chi tiết như vậy cốt là để độc giả hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: Hắc ốc


Đúng như Tư Mã Khôi vẫn thường nói: “Vận xui là một loại vậy may vĩnh viễn không bao giờ bị bỏ lỡ”.



Năm mười lăm tuổi, cha mẹ của Tư Mã Khôi đều bị buộc tội hữu khuynh, kẻ trước người sau lần lượt nhắm mắt xuôi tay vì bạo bệnh ngay trong lớp cải tạo, song thân ra đi vội vã đến nỗi chẳng kịp nhắn nhủ cậu con trai ở lại câu gì. Khi đó không có ai nói cho Tư Mã Khôi hay cậu nên đi đâu học, đến đâu ăn, cũng chẳng người nào thèm để mắt xem cậu sống hay chết. Đợi khi tất cả của cải trong nhà đều bị đem bán sạch trơn, từ trong ra ngoài chẳng có thứ gì đáng giá, cậu mới tỉnh ngộ từ nay về sau chỉ còn biết dựa vào chính mình mà thôi. Để tìm một con đường sống, cậu đành phải chạy đến nơi mà trước đây ngay cả nằm mơ cậu cũng không dám mơ đến – Hắc ốc để mưu sinh qua ngày.



“Hắc ốc” không phải là một tòa địa ốc màu đen mà đó là biệt danh của một xóm nhỏ ở vùng ngoại ô heo hút, con xóm nằm kẹp ngay giữa hai dải núi trọc, quanh năm mưa không thuận, gió không hòa, đất xấu dân nghèo, vô cùng xa xôi hẻo lánh. Thời chiến tranh, nơi đây từng bị máy bay thả bom dữ dội, sau đó xảy ra một trận hỏa hoạn rất lớn, nhà cửa bị thiêu cháy sụp đổ, khắp nơi tang thương, khói lửa dày đặc hun tất cả những bức tường vỡ nát còn sót lại thành một màu đen xì xì, vì thế người dân ở đây gọi nơi này là “Hắc ốc”.



Suốt mười năm loạn lạc, khu vực “Hắc ốc” vẫn chưa được chính phủ trùng tu. Bao nhiêu năm đến giờ không hề có người dân chính thức nào của con xóm quay lại cố hương sinh sống. Nhưng ngay trong lòng thôn xóm hoang tàn lại có một con đường sắt xuyên qua, hàng ngày rất nhiều chuyến tàu chuyên chở hàng hóa chạy đi chạy lại, đã thu hút một lượng lớn số người ăn theo đường sắt đến đây trú ngụ. Ngày qua tháng lại, nơi đây dần dần trở thành cứ địa tụ tập của những cư dân thuộc tầng đáy xã hội.



Đương nhiên ở đây không tránh khỏi việc vàng thau lẫn lộn, cát bùn nhào trộn cả vào nhau. Trong xóm có rất nhiều thành phần, từ trẻ mồ côi không nhà không cửa đến những kẻ nhặt rác lưu lạc tứ phương, những nông dân từ nông thôn chạy lên thành phố kiếm sống, những người nhặt than vụn rơi trên đường sắt, phu khuân vác ở bến tàu, kẻ bán khoai lang dạo, thậm chí còn có cả những thanh niên trí thức không chịu được công việc lao động chân tay gian khổ nơi hoang vu hẻo lánh một mình chạy trốn về đây ẩn náu.



Bọn họ chia bè kết phái sống ở Hắc ốc, đa số đều mưu sinh nhờ vào công việc buôn bán lặt vặt trái phép hoặc đào hầm lấp hố, chẳng người nào có công việc tử tế để làm, đương nhiên trong số đó không thiếu những kẻ phá khóa trộm đồ, bò vào xe lửa ăn cắp, còn có cả bọn lưu manh vô lại chuyên đâm thuê giết mướn kiếm tiền.



Những kẻ rập rình ẩn hiện ở khu vực Hắc ốc hầu như tất cả đều là thành phần đã bị bài trừ ra khỏi hệ thống xã hội, những việc chính phủ nghiêm cấm không được làm chúng đều nhúng tay làm cả. Nhưng trong khi thế giới bên ngoài đang hừng hực đấu tranh chính trị một mất một còn giữa các đảng phái thì ở đây dường như bị đoạn tuyệt hoàn toàn với thị phi tranh chấp, ngay cả tin tức giật gân chữ to in đậm ngay trên bìa báo cũng không lọt đến được nơi này. Mỗi lần có cớm vào xóm truy quét lùng sục, bang Hắc ốc chỉ cần đánh động vài tiếng là cả hội đã rút gọn không còn vết tích, đợi khi sóng yên bể lặng, lại kéo nhau trở về tụ tập. Tất cả các thế lực trong chính phủ dường như đều bất lực, chẳng làm gì được chúng, đành phải nhắm một mắt mở một mắt bỏ qua. Hơn nữa, chỉ cần bọn họ đừng gây ra trọng án kinh thiên động địa thì ai thèm để ý đến lũ “cặn bã của xã hội” sống ở khu ven thành phố bị bỏ hoang phế.




Băng đảng của Tư Mã Khôi là một nhóm gồm toàn những đứa trẻ khoảng tầm mười bốn mười lăm tuổi, trong đó có cả nam và nữ, đa số bọn chúng đều là con cái trong những gia đình có bố mẹ bị quy chụp thành phần cánh hữu, chúng lại chưa đến tuổi nhập ngũ để tham gia quân đội nên đành phải phiêu dạt nay đây mai đó, trôi nổi giữa xã hội, chúng không có việc làm cũng không được đi học, càng chẳng có bà con thân thích nào có thể nương tựa. Bọn chúng đúng là những kẻ “bà không yêu, cậu không chiều, thím nhìn thấy đá cho ba cái, ngay đến chó cũng nguýt dài quay mặt”.



Trong đám trẻ mới lớn này, tuy có một vài đứa cũng được nhận mấy đồng trợ cấp sinh hoạt phí, nhưng số tiền ít ỏi đó chẳng thấm vào đâu, bản năng sinh tồn buộc chúng phải tập hợp lại thành băng nhóm tranh giành cơm áo với xã hội. Khi đó thường thịnh hành khẩu hiệu “Tư tưởng Mao Trạch Đông như luồng gió xuân thổi đến muôn nơi” nên hội Tư Mã Khôi quyết định đặt tên cho nhóm là “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” và còn nghiêm trang phát thệ trước tượng đài Mao chủ tịch: “Từ nay cả nhóm phải đoàn kết, đồng cam cộng khổ, cùng làm cách mạng”. Trên thực tế, khẩu hiệu này chỉ là cái cớ để chúng làm loạn, gây họa khắp nơi, quấy nhiễu an ninh khiến chó cắn gà kêu không ngày yên ổn, dân chúng cách mạng trong thành không người nào nhìn thấy chúng mà không muốn chửi mắng cho thỏa giận.



Tính chất của “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” có vài phần tương tự với nhóm “Đồng Đảng” trong lịch sử từng nhiễu nhương thành phố sương mù Luân Đôn ở Anh, tuổi đời các thành viên đều tương đối thấp, hoạt động của nhóm có tính chất nguy hại nhất định đối với xã hội. Chẳng bao lâu sau, “Nhóm chiến đấu Xuân Phong” tự thấy rằng thành phố không phải nơi dễ kiếm cơm nên đành rút lui về khu vực gần Hắc ốc. Hội Tư Mã Khôi đánh mấy trận sống mái với bọn lưu manh bản địa, tuy chịu không ít thiệt thòi nhưng “không đánh bất thành bạn”, cuối cùng hai bên đã hóa giải được hận thù và đạt được nhận thức chung một cách không ngờ. Qua nhiều cuộc thương thuyết kéo dài, hai bên đã phân định ranh giới địa bàn của mỗi bên rất rạch ròi, cục diện hỗn loạn từ đó tạm thời ổn định trở lại.



Trong “Nhóm chiến đấu Xuân Phong”, Tư Mã Khôi có một người bạn thân tên là La Đại Hải. La Đại Hải khí chất hào hiệp lại rất dũng cảm, cha cậu ta là La Vạn Sơn, từng là bộ đội chuyển ngành làm cán bộ trong tòa án địa phương, sau này do bị điều động công tác nên cả gia đình từ Đông Bắc phải chuyển xuống Hồ Nam. Trong chiến dịch bài trừ hàng ngũ cán bộ suy đồi, ông La Vạn Sơn bị áp giải vào trại cải tạo lao động, còn lại một mình La Đại Hải tứ cố vô thân đành phải phiêu dạt đầu đường xó chợ. Tên tiểu tử này trông khá khôi ngô tuấn tú, tướng mạo đường hoàng, chiều cao và thể lực đều hơn hẳn các bạn cùng trang lứa, cậu ta rất thích ngồi rỗi lo chuyện thiên hạ, hay ra tay dẹp chuyện bất bình, vì thế có sức hiệu triệu rất lớn đối với các thành viên trong nhóm. Chỉ có điều khi còn nhỏ ở Đông Bắc, La Đại Hải bị rét đến nỗi đóng băng hỏng cả lưỡi nên khi nói không mấy rõ ràng, lại thêm cái tật nói nhiều vì vậy bị mọi người ở đây đặt cho biệt danh Hải ngọng.



Vì từ nhỏ Tư Mã Khôi đã bái “Văn Võ tiên sinh” làm thầy nên cũng thủ thân được chút ít bản lĩnh lục lâm, cậu ta không chỉ thân thủ nhanh nhẹn, ra tay gọn gàng, gan to hơn người mà còn rất giỏi ăn nói giảo biện, lại hiểu được các quy tắc của giới giang hồ trước giải phóng, biết rằng “Hành bang các phái, coi nghĩa khí làm trọng”. Trong những kẻ chiếm cứ khu Hắc ốc có không ít tên xuất thân từ xã hội cũ, chỉ có Tư Mã Khôi mới giao lưu được với chúng. Bởi vậy Tư Mã Khôi và La Đại Hải tự dưng trở thành thủ lĩnh của nhóm “Xuân Phong”, cầm đầu cả hơn trăm thiếu niên nam nữ, suốt ngày náo loạn con đường sắt hoang phế, thoát ẩn thoắt hiện, di chuyển nhanh như lốc cuốn.



“Xuân Phong đoàn” tuy đã giao kèo được vấn đề lãnh thổ với “Hắc Ốc bang”, rằng lấy đường sắt làm ranh giới phân định, nhưng vấn đề sinh tồn của hội Tư Mã Khôi vẫn chưa được giải quyết. Cứ theo thành phần xuất thân mà xét, bọn họ tuyệt đối không cam tâm đi nhặt than rơi trên đường sắt hoặc làm các công việc lao động chân tay thấp hèn. May mà Tư Mã Khôi có nhiều tai mắt, lại nhanh trí, cuối cũng cũng nghĩ ra một kế mưu sinh thượng sách. Cậu bảo các thành viên trong nhóm khuân tất cả đồ đạc còn sót lại trong nhà chuyển đến lều trại dựng tạm ở đây để xây dựng cứ điểm hoạt động, đồng thời sai đám con nít nhỏ tuổi lợi dụng hoàn cảnh gia đình bi thảm trở về nhà bếp cơ quan nơi bố mẹ chúng đã làm trước đây để “thuận tay dắt bò”. Kế sách này được gọi là “Khổ nhục kế”. Kế hay ở chỗ cho dù lỡ bị người ta phát hiện cũng không sao, bởi vì thành viên được phái đi thực hiện nhiệm vụ chỉ là những đứa trẻ khoảng trên mười tuổi. Hơn nữa các nhân viên làm trong nhà bếp đa phần lại là đồng nghiệp cũ, quen biết với cha mẹ chúng, chẳng ai nỡ lòng nào tóm cổ chúng giao nộp cho chính quyền, ngược lại phần lớn họ đều lấy cơm thừa canh cặn trong nhà bếp mang ra chia cho đám trẻ.



Thử nghiệm được vài ngày, các nhà bếp quả nhiên đều tình nguyện để lại cơm thừa cho bọn trẻ. Tư Mã Khôi thấy kế này khả thi liền cho bắc mấy cái bếp ở chân tường đổ nát, rồi đi trộm vài chiếc nồi to. Khi thức ăn kiếm về không đủ liền thả thêm vào đó mấy cọng rau nát, đồ khô thì mang lên hấp, đồ có nước thì cho vào nồi nấu thành một thứ thức ăn hỗn hợp. Vì đây là những đồ ăn thừa ở các nhà bếp khác nhau nên khẩu vị mỗi món một khác, sau khi đổ lẫn vào nhau nấu lên, mùi vị lại hấp dẫn khác thường, mùi thơm tỏa ra khắp nơi. Cả nhóm đắc chí đặt tên cho nó mỹ danh “Khách sạn Lục Quốc”.



Có điều hội Tư Mã Khôi không thèm ăn mấy đồ đó mà bán lại cho bọn “Hắc Ốc bang” ở bên kia đường sắt. Đám người đó đều là dân lao động chân tay, cả năm quần quật làm những công việc nặng, bụng lúc nào cũng rống tuếch, hơn nữa cả đời chưa bao giờ được thưởng thức các món ăn ở nhà bếp cơ quan, chính phủ. Bọn họ nhìn đồ ăn trong nồi của “Khách sạn Lục Quốc” vô cùng phong phú, lại láng một lớp dầu hoa ở bên trên, thấy ngon hơn hẳn đồ ăn thường ngày của mình nên người nào người nấy lần lượt móc tiền trong hầu bao ra mua từng bát lớn. Họ đút cả cơm lẫn cháo vào miệng nhai nuốt ngon lành. Những kẻ không có tiền thì dùng vật để trao đổi. “Khách sạn Lục Quốc” do Tư Mã Khôi phát minh ra ngày nào cũng cháy hàng, nồi niêu sạch trơn, cung không đủ cầu.



Hành động lần này của hội Tư Mã Khôi đã nhiều phần hóa giải được ánh mắt thù địch lẫn nhau giữa hai bang phái bên đường sắt, hơn nữa lại mang đến khoản lợi nhuận không nhỏ giúp cả hội duy trì những nhu cầu của cuộc sống.



Cứ như vậy qua hết mùa xuân, ngày càng lúc càng dài, chớp mắt đã bước vào mùa hè oi bức. Những ngày này chẳng thấy bóng dáng của một giọt mưa, trời hanh vật khô, nóng bỏng như trên chảo lửa. Lúc sắp trưa cũng là thời khắc khu Hắc Ốc yên tĩnh nhất trong ngày, mọi người đều tản ra các ngả lao động kiếm cơm, chỉ có mấy cô gái ở nhà lo chuyện bếp núc, chuẩn bị nấu thức ăn thừa từ ngày hôm trước, để phần cho những người ở lại ăn.



Buổi sáng ngày hôm đó, La Đại Hải đặt bẫy ở khu đất hoang và tròng cổ được một con lợn rừng cỡ nhỡ, liền mang về Hắc ốc giết thịt, mổ bụng lột da, xử lý hết nội tạng rồi ngoắc cả tảng thịt tiết rỏ ròng ròng lên móc câu, thuận tay vứt luôn cái đầu lợn vừa cắt ra khi nãy lên tấm gỗ để ngay bên cạnh, chuẩn bị nổi lửa nấu nồi thịt cải thiện bữa tối cho cả nhóm. Đợi đến buổi trưa mới xong việc, cậu ta liền ngồi phệt đít xuống tấm đá xanh đặt trước cửa trại ngồi nghỉ ngơi hóng mát.



Lúc này, Hải ngọng nóng bức đến nỗi mồ hôi ướt đầm lưng áo nhưng trên đầu vẫn đội khư khư chiếc mũ quân nhân rách nát đi cướp được từ đời thủa nào, miệng phì phèo điếu thuốc, vừa hút vừa thao thao bất tuyệt nói chuyện với Tư Mã Khôi, chủ đề vẫn quanh quẩn mấy chuyện đợi khi nào bố cậu ta phục chức trở lại làm việc như trước, bọn rác rưởi dám đăng tin việc nhà cậu lên trang nhất hãy chống mắt lên mà xem cậu đây trả thù như thế nào.



Tư Mã Khôi tuy tuổi còn nhỏ nhưng lại trải nghiệm không ít những gập ghềnh trên đường đời, điều đó khiến tâm lí phản nghịch xã hội của cậu trở nên vô cùng nghiêm trọng. Dường như cậu đã sớm dập tắt hết mọi hi vọng trong lòng nên nghe Hải ngọng nói vậy chỉ ậm ừ đáp bừa vài câu lấy lệ.




Đúng lúc này, cậu chợt nhìn thấy một lão già đi vào trong ngõ. Tư Mã Khôi vô cùng thính tai tinh mắt, bất kể gió lay cỏ động khẽ khàng thế nào cũng không lọt khỏi tầm mắt. Chững lại thầm ước lượng một lát, cậu cảm thấy kẻ mới đến có chút gì đó khá cổ quái.



Quay đầu nhìn kỹ, chỉ thấy lão già đó ăn mặc rách rưới, quê cục, hơn nữa trông mặt rất lạ, chắc chắn không phải là người sống ở bên khu Hắc ốc hoang phế này. Lão già xem chừng tầm hơn năm mươi tuổi, dáng người nhỏ thó, mắt la mày lém, hai bên mép còn để hai chòm râu chó, cổ đeo chuỗi “bánh đả cẩu”, đầu đội chiếc mũ chóp cao rách nát, tay cầm bồ cào, vai cõng một túi vải đay phồng to cồm cộm, trên người mặc chiếc áo khoác bằng da trông khá cũ, trước ngực áo còn có một hàng séc, quần dài áo dài, chân đi đôi giày đen đế dày cộp đá bò bò chết, mũi giày há hoác miệng lòi ra góc tất trắng bên trong. Bây giờ đúng là ngày hạ chí, trời nóng như đổ lửa nhưng nhìn cách ăn mặc đông không ra đông, hè không ra hè của lão già khiến người ta không khỏi cảm thấy khác thường.



Lão già lạ mặt đó dùng cặp mắt cú vọ ngó đông nhìn tây một hồi, đợi lúc đi đến trước cửa căn lều gỗ của Tư Mã Khôi, hốt nhiên lão ta dừng lại, giả bộ quỳ xuống xách giày, đồng thời thò đầu vào trong lều ngó nghiêng dò xét.



Cử chỉ này của lão có thể che mắt mọi người nhưng không thể che mắt Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi quan sát hành động và cách ăn vận của người này, trong lòng cảm thấy vô cùng quái dị, lập tức đề cao tinh thần cảnh giác, đồng thời mở miệng dò hỏi một câu: “Xem lão gia không quen mặt, chẳng biết từ đâu đến thế?”



Lão già nghe hỏi lập tức đứng thẳng người dậy, đuôi mắt quét quanh một lượt, liền nhận ra Tư Mã Khôi và La Đại Hải chính là chủ nhân căn lều hoang phế này, lập tức ngoác miệng cố nặn ra một nụ cười trên khuôn mặt già nua. Lão ta nói với hai người: “Không dám nhận lão gia, mỗ đây họ Triệu, quê ở Quan Đông, từ trước đến nay không có biệt hiệu gì, những người quen biết đều gọi mỗ là Triệu Lão Biệt. Trước giải phóng mỗ lưu lạc đến đây, mấy năm nay phiêu dạt khắp nơi trong ngoài thành, dựa vào công việc đan làn cỏ, nhặt phế liệu sống qua ngày. Hôm nay đến vùng đất quý này là muốn đổi một số vật phẩm thiết yếu trong cuộc sống”.



Tư Mã Khôi nghe lão trình bày khá rõ ràng, trong lòng ngầm giảm bớt cảm giác đề phòng, tiếp tục hỏi Triệu Lão Biệt: “Sao Triệu sư phụ lại ăn mặc như vậy? Trời hè oi bức, lão không sợ ủ thối người ra à?”



Triệu Lão Biệt mỉm cười nhẹ, trả lời ngay: “Bậc hậu sinh các cậu không hiểu đấy thôi, chiếc áo mỗ đây mặc được gọi là áo khoác anh hùng như ý, tứ bề thông thoáng, rất thoát gió đấy”.



Tư Mã Khôi nghe thấy mấy lời lão già nói có vài phần giống tiếng lóng trong giới giang hồ, người thời nay làm gì còn ai nói năng như vậy nữa? Lòng càng cảm thấy kỳ quái hơn, cậu bèn hỏi gặng: “Xem lão nói năng không phải hạng phàm tục, chân tay lại khá nhanh nhẹn nhưng sao đi vào nơi ngói vỡ gạch nát hoang tàn này, không sợ bị què chân, lạc đường ư?”



Triệu Lão Biệt hiểu ngay ẩn ý trong lời lẽ của Tư Mã Khôi, nhưng dường như không thể tin những lời ấy lại phát ra từ miệng một đứa trẻ ranh như cậu, nên liền nảy ý thăm dò lại. Lão ta bước lên một bước, chân trước chân sau đứng chéo nhau, không ra hình chữ đinh, cũng không ra hình chữ bát rồi nói: “Mỗ đây chân cứng, đế dày, đi chắc, đứng vững, cất bước tiêu dao hoạt bát”.



Đoạn đối đáp của hai người toàn bộ là ám ngữ của thế giới ngầm trong “Đáy biển giang hồ”, Hải ngọng đứng bên cạnh nghe chẳng hiểu gì, ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, nhưng Triệu Lão Biệt và Tư Mã Khôi thì ngấm ngầm hiểu đối phương không phải hạng tầm thường nên tuyệt đối không dám khinh xuất.



Triệu Lão Biệt dường như không có ý định bỏ đi ngay, lão nói trời nắng chang chang, trên đường đi vừa mệt vừa khát, muốn xin hai vị “đầu lĩnh” cho trú chân nghỉ ngơi giây lát uống ngụm nước chè. Miệng chưa nói xong, không đợi chủ nhà đồng ý, lão đã tự ý ngồi sụp xuống ngay trước lều.



Tư Mã Khôi cũng muốn xem rốt cục người này muốn làm gì cho nên cũng chẳng xua đuổi làm gì, ngược lại còn mang cho lão một chiếc bát, bên trong là nước trà “Lão Âm” vừa mới cắt ban sáng.



Triệu Lão Biệt chỉ “cảm ơn” hai tiếng rồi giơ tay đón lấy bát nước uống ực một hơi, cạn đến tận đáy, xong mới ngẩng mặt lên khen: “Loại trà Lão Âm có sâu trà quả đúng là thức uống giải khát bậc nhất”. Nói đoạn lão liền móc ra một tẩu thuốc, dốc ngược đáy xuống gõ mấy cái lên bàn, rồi nhét đầy sợi thuốc lá vào trong, châm lửa đầu tẩu thuốc, tí ta tí tách hút liền mấy hơi, vừa hút vừa chuyện trò mấy câu vô bổ cùng Tư Mã Khôi và La Đại Hải. Lòng vòng một hồi lâu cuối cùng lão cũng chịu đi vào chuyện chính.



Lão già Triệu Lão Biệt này tự nhận mình bước chân vào giang hồ mưu sinh từ rất sớm, thông thạo nhân tình thế thái, bây giờ lão ta có mối quan hệ rất tốt với một số đường dây đặc biệt trong thành, không những có thể hối lộ mà còn có thể lấy được rất nhiều đồ tốt trong thế giới ngầm. Cuộc nói chuyện khi nãy với Tư Mã Khôi khiến lão nhận thấy cậu tuy trẻ tuổi nhưng khá thông hiểu các quy tắc ngầm, chắc hẳn phải xuất thân từ một gia đình thế tộc, gốc gác không phải hạng vừa. Tục ngữ nói rất hay “Trọc đầu thì vào chùa, đội mũ thì làm quan”, nay người cao tay lại gặp bậc kỳ tài, thật đúng là duyên trời sắp đặt, vì thế lão tình nguyện để Tư Mã Thiên và La Đại Hải đi theo mình cùng hưởng phúc.




Giống như lão biết phép thần thông biến hóa vậy, lời nói vừa dứt thì lôi ngay từ trong túi vải đay rách nát của mình ra ba tút thuốc lá thơm hảo hạng, cười tít mắt bày cả lên mặt đất.



Gia thế nhà La Đại Hải cũng thuộc hạng có gốc gác, cậu ta lại là người khá trải đời nên vừa nhìn thấy liền biết loại thuốc lá này chỉ cung cấp hạn chế cho các cán bộ cấp cao, chứ lão bách tính thường dân hầu như chẳng bao giờ được nhìn thấy, cho dù ở chợ đen cũng khó lòng tìm ra, có tiền cũng không mua được. Lão già này xuất chiêu độc thật, một phát rút ra liền ba tút khiến Hải ngọng hai mắt vụt sáng, vội vã thò tay ra lấy, miệng còn nói: “Hôm nay, chúng ta coi như bèo nước tương phùng, lần đầu gặp mặt mà lão đã rộng rãi như thế, khiến anh em bọn tôi thấy xấu hổ vô cùng. Thế lão ở đơn vị nào? Lần sau anh em bọn tôi nhất định sẽ viết bức thư biểu dương, tỏ lòng cảm tạ sự giúp đỡ vô tư và khẳng khái này của lão”.



Triệu Lão Biệt cũng nhanh tay không kém, liền giơ tay ngăn không cho La Đại Hải rờ vào mấy tút thuốc: “Người anh em xin đừng vội, thứ này mỗ đâu dễ kiếm nhưng bất kể nói thế nào chúng ta gặp được nhau đúng là có duyên, hôm nay kết giao thành bằng hữu, hai bên xem như không còn vấn đề gì khúc mắc nữa. Hai vị đầu lĩnh thử xem, mỗ có thể dùng ba tút thuốc lá hảo hạng này để đổi lấy một … một vật trong căn lều của hai cậu không?”



La Đại Hải cười to: “Lão Triệu ơi lão Triệu, chẳng giấu gì lão, anh em bọn tôi đúng là những kẻ “Sói vàng bị cắt mất đuôi – trên người chẳng còn nửa cọng lông đáng tiền”, chỉ cần lão không chê mấy đồ giẻ rách trong căn lều của chúng tôi, nhìn thấy vật gì thích hợp lão cứ thỏa sức mà lấy”.



Tư Mã Khôi nhìn thấy tình hình như vậy, trong lòng không khỏi ngầm cảm thấy kỳ lạ, tuy cậu cũng muốn giữ ba tút thuốc lá thơm nhưng đầu óc vẫn khá tỉnh táo, nên liền tiến đến cạnh ngăn Triệu Lão Biệt rồi nói: “Khoan đã! Cuộc trao đổi này e rằng chưa xong, trước hết lão phải nói rõ xem rốt cục muốn đổi lấy vật gì trong lều đã”.



Triệu Lão Biệt dường như không thể nhẫn nại thêm nữa, con ngươi đảo một vòng rồi thò tay vào túi vải đay lấy ra một hộp tai lợn kho tàu, bốn ống thịt bò hộp chất cả lên mặt đất, đoạn nói: “Muốn đổi lấy vật gì, thì phải vào lều chọn xem mới biết được. Nhưng Triệu Lão Biệt mỗ cũng nói trước, trong hai thứ đồ ăn và thuốc lá, các cậu chỉ được đổi lấy một món, tuyệt đối không được lấy hơn”.



Tư Mã Khôi nhận thấy Triệu Lão Biệt dường như có ý rất quyết tâm muốn lấy bằng được vật đó, chưa đâu vào đâu, lão đã chủ động nâng giá, có câu “Càng mời càng không mua, càng hối càng không bán, nếu hối thúc quá đáng, mua bán cũng bất thành”, lão đã không tiếc mang ra bao nhiêu đồ quý hiếm để đổi lấy thứ trong căn lều thì thứ đó chắc hẳn cũng không phải loại tầm thường, làm sao Tư Mã Khôi có thể chấp nhận trao đổi dễ dàng như vậy.



Hơn nữa Tư Mã Khôi còn nhớ lại một việc, trước đây khi cậu còn ở miền Bắc, từng nghe người ta kể về truyền thuyết “Man di biệt bảo”, trong đó nói những nơi phong thủy tốt đều chôn giấu báu vật, không những vậy báu vật ấy vô cùng quý giá do trời đất tạo hóa, được thần quỷ ngầm bảo vệ. Nếu ai tự tiện sờ vào khó tránh khỏi rước họa vào thân, muốn đoạt được tất phải dùng những bí thuật kỳ môn cổ xưa mới xong. Bởi vậy họ không thể nói với người ngoài mình là kẻ quật táng, trộm ngọc mà nói lóng thành “biệt bảo”.



Nghe nói bí thuật “biệt bảo” khởi nguồn từ khu vực Giang Tây, muốn học món bản lĩnh này tất phải luyện tập từ nhỏ, người ta mang đứa trẻ vừa mới sinh nhốt vào mật thất kín mít không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, đợi đến ngày thứ 100 mới ẵm ra ngoài, từ đó nhãn lực của đứa bé trở nên khác biệt với mọi người, có thể phân biệt được mọi báu vật trên đời, họ gọi khả năng này là “Khai địa nhãn”, những loại truyền thuyết kiểu này là thật hay giả, người ngoài khó lòng mà biết.



Tư Mã Khôi thấy cách ăn vận và cử chỉ của Triệu Lão Biệt vô cùng kỳ quái, rõ ràng thần bí khó lường, không biết có trùng hợp với mấy truyền thuyết đó không, xem ra lão ta chắc hẳn là bậc kỳ tài hiểu biết về dị thuật biệt bảo. Chỉ có điều trong căn lều mà mình đang sống chỉ dặt đũa gẫy, bát sứt, bàn ghế chẳng cái nào còn nguyên lành, hoàn toàn không giống với dáng vẻ ngôi nhà để người ta sinh sống, quả đúng như lời La Đại Hải vừa nói, trong căn lều ngay cả chiếc bát uống trà tử tế cũng chẳng tìm thấy, thì làm gì có bảo vật gì đáng giá? Không biết thứ mà Triệu Lão Biệt muốn lấy rốt cục là thứ gì? Hơn nữa, lão ta lại vừa chân ướt chân ráo đến đây, làm sao phát hiện ra nơi này có giấu bảo vật dị thường?



Trong khi Tư Mã Khôi còn đang suy đoán mông lung thì Triệu Lão Biệt sớm đã thò đầu vào trong lều dò xét, ánh mắt nhìn chằm chằm vào một chiếc cọc gỗ lớn, đó chính là chiếc án dài cổ xưa, dùng để giết mổ gia súc, đã bị mục nát nhiều phần, ngày thường vẫn dùng để thái thịt, băm rau, nên mặt án trông nhớt nhát bẩn thỉu, bốc mùi tanh hôi, không hề bắt mắt. Ai ngờ thứ mà Triệu Lão Biệt nhìn trúng ý lại là vật này, ánh mắt tham lam của lão đậu mãi trên chiếc án, không chịu rời sang chỗ khác.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: Biệt bảo


Tư Mã Khôi thấy cách hành xử của Triệu Lão Biệt vô cùng ngoài dự liệu, chẳng ngờ lão chịu mang thuốc lá hảo hạng và đồ hộp đáng giá để đổi lấy chiếc án mổ thịt mục nát, càng nghĩ càng thấy sự việc này rất kỳ lạ.



Trong đống đổ nát ở Hắc ốc chỗ nào cũng có vật vô chủ, ai nhặt được thì của người ấy, cái án này vốn là một trụ gỗ mục nát rỗng ruột, to bằng một vòng ôm, xung quanh buộc ba vòng dây thừng gai, quanh năm bị máu tiết dầu mỡ bám nhằng nhợ, màu sắc đã bị phai nhạt biến đổi từ lâu, sau khi nhặt về chủ yếu được dùng làm thớt thái rau, chẳng ai biết rõ lai lịch cụ thể của nó, xem ra ngoài việc thấy nó có niên đại sử dụng từ khá lâu thì chẳng thấy có điểm gì khác thường. Không hiểu sao vô duyên vô cớ lại có người quan tâm đến nó?



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Cái án chặt thịt chắc chắn là một bảo vật, nếu bây giờ mình động lòng vì miếng lợi nhỏ mà dễ dàng trao đổi với Triệu Lão Biệt, bất kể lão già đó giơ ra vật gì thì mình cũng vẫn bị thiệt, trước tiên phải kiếm cớ để lão ấy thấy cái án này đúng là đồ quý cái đã”. Thế là cậu thuận miệng khua môi múa mép một hồi: “Triệu lão sư phụ này, lão không biết đấy thôi, thực ra gia đình mấy đời nhà tôi đều mở cửa hàng bán thịt dê ở Bắc Kinh để làm nghề mưu sinh, chiếc án mục này tuy rằng nhìn có vẻ bình thường nhưng lại là vật gia truyền mấy đời nhà tôi để lại, tôi không chỉ dùng nó quen tay mà còn “nhìn cương nhớ ngựa, nhìn vật nhớ người”, mỗi khi nhìn thấy nó là tôi như nhìn thấy liệt tổ liệt tông đã quy tiên nhà mình. Cái án này cùng gia đình tôi trải qua những năm tháng dưới thời Quang Tự, rồi tới Nghĩa Hòa Đoàn bao vây tấn công khu đại sứ quán Đông Giao Dân Cảng khiến liên quân tám nước tràn vào thành Bắc Kinh. Đám quỷ tây này dặt là bọn man di từ nước ngoài dẫn xác đến, lũ bợm đó chẳng có nửa tên tốt đẹp, đến Trung Quốc chúng ta ngang nhiên đốt nhà giết người cướp của, chẳng tội ác nào chúng không dám làm, đánh đập người mù, mắng nhiếc kẻ điếc, cuối cùng chúng nó cũng ào vào nhà tôi, mấy tên lính tây ngắm thấy con mèo tam thể nhà tôi nuôi rất đẹp liền định cướp về, mang dâng tặng cho nữ hoàng điện hạ nhà chúng nó, ông tổ nhà tôi liền nổi giận lôi đình mắng chúng: ngày xưa lão phật gia Từ Hy thái hậu rất ưng ý con mèo này, định mang Thập Tam cách cách ra đổi lấy nó mà ông đây còn tiếc không nỡ đem đổi, tiên sư chúng mày chứ, chúng mày là thứ tép riu gì mà dám cướp trắng của ông hả?! Trong cơn thịnh nộ, cụ lao thẳng ra phố tham gia phong trào phục Thanh diệt ngoại xâm, trước lúc đi còn ôm theo chiếc án này, gặp tên giặc tây nào là lấy án đập chết tên ấy, không biết dưới gầm án đã chôn bao nhiêu mạng tướng tây lính tây. Sau đó chiếc án truyền đến đời ông nội tôi, nó lại cùng ông lưu lạc đến Giang Tây tham gia hồng quân công nông, cứ thế được mấy đời nhà tôi giữ gìn cho đến tận bây giờ. Có thể trong mắt người khác, khúc gỗ này chẳng đáng cái đinh gỉ nhưng đối với tôi nó chính là vật chứng chứng kiến cả gia đình tôi đã trải qua cách mạng cận đại Trung Quốc, là kỷ niệm không thể xa lìa, ngày nào tôi cũng phải bày nó ra trước mặt sáng thỉnh an, tối hồi báo, nếu ngày nào không nhìn thấy nó tinh thần tự nhiên trở nên hoảng loạn, đến nỗi ngay cả hướng bắc ở đâu cũng không biết, một ngày không gặp cách tựa ba thu, nếu lỡ ba ngày không gặp có khi lo lắng đến tẩu hỏa nhập ma vẫn là nhẹ. Lời tôi nói đây câu nào cũng là thật, nếu lão không tin thì cứ tìm một miếng đậu phụ về đây, tôi sẽ đập đầu vào đấy cho lão xem”.



Hải ngọng đứng bên cạnh nghe, không nhịn nổi cười thầm trong bụng, cậu ta cũng nhân cơ hội để nâng giá cái án, bảo chí ít Triệu Lão Biệt phải thò ra thêm ba tút thuốc lá nữa thì mới đồng ý đổi.



Triệu Lão Biệt nghe hai người bọn họ kẻ tung người hứng mà trợn mắt á khẩu, lão còn cho rằng có khi mình nhìn lầm, liền quay lại đăm đăm ngắm nghía cái án một hồi lâu, sau đó lắc đầu tỏ ý không tin, đồng thời mở toang cái túi vải đay ra cho hai người nhìn, bên trong chẳng còn thứ gì đáng giá, đoạn lão nói: “Mỗ không thể trả giá thêm cho hai cậu được”.



Tư Mã Khôi thấy việc đã đến nước này thì cứ nói thẳng toẹt cho xong: “Bọn tôi và lão kẻ cắp gặp bà già, cóc cần sử dụng mấy chiêu thụt thò như bơi chó. Chẳng thà đừng ai giở trò với ai nữa. Mấy bài của lão bọn tôi biết tỏng từ khuya, trước đây cũng gặp nhiều rồi, nói chuyện cũng không cần vòng vo tam quốc, giấu giấu diếm diếm làm gì. Bọn tôi đã sớm nhìn ra Triệu Lão Biệt lão đích thị là tên biệt bảo, nếu không chẳng người nào đang sống nhe nhởn lại quàng trên cổ chuỗi bánh đả cẩu như lão."




Cái thứ “bánh đả cẩu” này thực ra là một loại bánh thuốc, dùng để xua đuổi chó mèo. Thời xưa, ở vùng nông thôn mỗi khi trong nhà có người chết, lúc đặt thi thể vào quan tài thường đeo lên cổ xác chết chuỗi vòng này để đề phòng bị lũ chó đói gặm nát thủ cấp hoặc bị mèo hoang nhảy qua khiến người chết nhập tràng sống dậy. Những kẻ biệt bảo thường xuất hiện ở những nơi rừng già núi thẳm hoặc mộ hoang, đất dữ, để tránh rắn độc, dã thú, họ cũng có thói quen đeo “bánh đả cẩu”.



Triệu Lão Biệt cũng nhận thấy cậu Tư Mã Khôi này tuy chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi đầu nhưng vô cùng tinh quái, hiểu biết rất nhiều chuyện và không dễ bị bắt nạt nhưng tuyệt đối không thể tưởng tượng tên tiểu tử ấy lại có thể nhìn xuyên thấu hành tung của lão, trong lòng không tránh khỏi thất kinh một phen, liền bội phần khâm phục nói: “Vị đầu lĩnh này đúng là nhãn lực hơn người, không ngờ thời thế này vẫn còn có người biết đến nghề biệt bảo của bọn mỗ”.



Việc đến nước này, Triệu Lão Biệt chỉ còn cách thẳng thắn thừa nhận mình quả thực là một tay biệt bảo, hôm nay gặp vận may lớn, khi vô tình đi ngang qua khu Hắc ốc hoang phế liền phát hiện ra chiếc án chặt thịt, đúng là “Đi mòn gót giày tìm chẳng thấy, đứng lại ngồi nhìn ở ngay đây”. Cuối cùng lão ta nói với bọn Tư Mã Khôi và La Đại Hải: “Lão mỗ đây chẳng nói sai với người ngay thẳng, có gì nói nấy, cái án gỗ cổ dùng để chặt thịt của hai cậu đích thị là một vật vô cùng quý hiếm, nhưng chỉ sợ trên đời này ngoại trừ Triệu Lão Biệt mỗ ra thì chẳng còn người thứ hai hiểu được giá trị của nó. Hôm nay trời đã muộn, chúng ta tạm thời cáo biệt ở đây, hai người các cậu cứ bàn bạc kỹ xem. Lời đã nói thẳng như vậy thì mỗ cũng chẳng để hai cậu phải chịu thiệt thòi quá đáng. Trong thành mỗ còn giấu một vật rất tốt, ngày mai sẽ mang đến đây. Nếu lúc đó các cậu vẫn khăng khăng không chịu đổi hàng, mỗ sẽ không nói đến câu thứ hai, cất bước đi luôn, đã đi là không quay trở lại, có câu nói xưa mỗ thấy rất hay “Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông”, đến lúc đó hai cậu đừng có hối hận”.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải gật đầu đồng ý, hai người nhìn Triệu Lão Biệt đi khỏi “Hắc ốc” liền lập tức trở lại lều, khêu to ngọn đèn dầu cho sáng, khênh chiếc án nhớt nhát dính đầy dầu mỡ đặt lên mặt đất, lật đi lật lại hồi lâu, nhưng cả hai xem tới xem lui mãi vẫn không phát hiện ra Tý Sửu Dần Mão gì ẩn chứa bên trong chiếc án, đầy bụng nghi hoặc. Đêm hôm đó, cả hai suy đi tính lại, nghĩ trước nghĩ sau, chập chờn mất ngủ suốt đêm.



Sáng sớm hôm sau, Triệu Lão Biệt quả nhiên lại tìm đến, lần này trong túi vải đay của lão có thêm chiếc áo lông da sáng bóng, mềm mại, lớp lông da màu đen pha lẫn ánh đỏ, có vài phần khá giống với da báo nhưng rất nhẹ và mỏng. Có điều Tư Mã Khôi và La Đại Hải đừng nói da báo, ngay cả lông chồn Đại Liên cũng chưa bao giờ nhìn thấy nửa cọng, bèn giả vờ am hiểu hỏi Triệu Lão Biệt: “Đây là da con gì vậy? trông lớp da bóng láng, sáng sủa cũng không tệ, là da xịn hả?”



Triệu Lão Biệt nghe xong càng thêm đắc ý, lão liền khoe khoang: “Lai lịch chiếc áo lông da này của mỗ đúng là bất phàm”. Sau đó liền kể lại lai lịch của nó cho hai người nghe. Lão bảo trước giải phóng thường đến núi Trường Bạch để đào nhân sâm, đêm đến tá túc ở một lâm trường gỗ bỏ hoang. Trong lâm trường có một con mèo già, lông vằn vện như lông hổ, to béo mập mạp, lại vô cùng linh hoạt nhanh nhẹn, lên cây bắt được chim, xuống đất vồ được chuột.



Triệu Lão Biệt ở trong lâm trường lâu dần cũng trở nên quen thuộc với nó, thường cho con mèo ăn thức ăn của mình. Về sau mỗi buổi sáng trước khi vào núi, lão đều nhìn thấy con mèo nằm rạp trên cành cây, thở hổn hển, trông có vẻ sức cùng lực kiệt, ngay cả đuôi cũng chẳng buồn động đậy, suốt nhiều ngày trời nó đều trong tình trạng như vậy.



Triệu Lão Biệt thầm thấy quái lạ, với con mắt cú vọ của kẻ biệt bảo, lão vừa nhìn là biết ngay con mèo này chắc chắn đã gặp kỳ ngộ gì đây, liền nảy ra ý định phải tìm hiểu ngọn ngành cho rõ. Thế là lão âm thầm quan sát theo dõi, phát hiện chỉ cần màn đêm vừa buông xuống, con mèo già liền chạy vào miếu Sơn Thần, nó luồn vào khe cửa rồi náu mình trong bóng tối nơi góc tường, mai phục ở đó án binh bất động.



Đợi đến khi đêm đã trở về khuya, không gian tĩnh lặng, trên chiếc kèo gỗ của miếu Sơn Thần bất ngờ phát ra một tiếng động nhỏ, trông lên chỉ thấy một con chuột khổng lồ to như con chó, hai mắt sáng quắc như đèn pha, đang bò từ trên kèo nhà xuống trước mặt các vị thần, đến nơi nó dùng đuôi ngoáy vào trong chiếc đèn dầu, ăn trộm dầu đèn mà người ta dâng cúng cho Sơn Thần, đồng thời ôm ngọn nến mỡ bò gặm nham nhở, phát ra âm thanh nghe “lọt cọt lọt cọt”.



Lúc này con mèo già đột ngột từ trên góc tường nhảy vọt ra, quyết đấu sống mái với con chuột. Con chuột tuy to người nhưng không hề đù đờ, chẳng những vậy còn vô cùng hung tàn hiểm ác, dường như không hề sợ sệt kẻ địch. Con mèo già di chuyển nhanh thoăn thoắt mà vẫn không làm gì được nó, hai con quái thú vật đi vật lại huỳnh huỵch, đánh nhau không biết mệt mỏi, đúng là chúng quyết chiến sống chết một phen, con nào cũng thần thông, khó phân định cao thấp.



Nhờ vào ánh trăng, Triệu Lão Biệt có thể nhìn rõ sự việc và hiểu được chân tướng. Thì ra đêm nào con mèo cũng phải đến đây quyết đấu với con chuột cho nên khi trời sáng nó mới mệt đến nỗi không lết nổi thân. Lão nhìn trộm trận ác chiến giữa hai kẻ địch mải mê đến độ quên hết mọi thứ xung quanh, toàn thân căng thẳng theo nhịp độ của trận đấu, vô tình lão chạm vào một cánh cửa bị hỏng khiến nó đổ rầm xuống đất.




Con chuột khổng lồ đang toàn tâm toàn ý tập trung vào trận ác đấu với con mèo già, đột nhiên nghe thấy âm thanh lạ từ đằng sau vọng đến liền giật nảy người, chỉ cần mấy giây mất tập trung cũng khiến nó lộ ra yếu điểm và bị con mèo già quật ngã, cắn đứt cổ họng, phút chốc máu trào ra như suối, nhuộm đỏ cả gạch ngói vương trên mặt đất miếu thần, giãy dụa một hồi cuối cùng cũng trợn ngược mắt, thở hắt ra mà chết. Đây đúng là “Tranh hùng quyết sống mái, phút cuối phân thắng bại”.



Triệu Lão Biệt là tay sành sỏi trong nghề, vừa nhìn là biết con chuột này đã nhiều năm ăn dầu đèn, gặm sáp nến, chắc chắn đã thành tinh, đạo hành cũng không ít nên liền lấy dao lột da nó, mang về đem đi gia công làm thành một chiếc áo khoác da thú. Vào những ngày tháng chạp băng giá, Quan Ngoại rỏ nước thành băng nhưng chỉ cần khoác chiếc áo da chuột trên người, cho dù bên trong để mình trần thì trán vẫn đổ mồ hôi như thường. Chỉ có điều lão ta chưa bao giờ tiết lộ cho người ngoài biết đây là chiếc áo da chuột trăm năm mà chỉ gọi nó là “Xích long tuấn mã”.



Triệu Lão Biệt lại bảo Tư Mã Khôi và La Đại Hải, đừng thấy bây giờ là mùa hè nóng bức, mà cho rằng chiếc áo này vô dụng, đợi khi mùa thu đến, lá trên cây ngả sang màu vàng, hàng đàn chim ưng kêu “quang quác” bay về phương nam tránh rét, đến lúc ấy nếu các cậu vẫn sống trong căn lều rách khu Hắc ốc này chắc khó lòng chống chọi nổi với cái lạnh căm căm và không khí ẩm ướt, chẳng chóng thì chày cũng nhuốm bệnh vào thân. Lúc đó hai cậu không thể rời xa chiếc áo da “Xích long tuấn mã” của mỗ đây một bước đâu.



Tư Mã Khôi trong lòng tự biết chiếc áo khoác da này chắc chắn là cái giá cuối cùng Triệu Lão Biệt đồng ý trả, dù sao dựa vào nhãn lực và kiến thức của mình cũng không thể nhìn ra cái án chặt thịt mục nát đó rốt cục là bảo vật phương nào, chi bằng cứ đổi quách đi cho xong, bèn chấp nhận điều kiện trao đổi. Nhưng cậu vẫn giao kèo với Triệu Lão Biệt: “Vụ làm ăn này giữa bọn tôi và lão chắc không có vấn đề gì, nhưng xin lão sư phụ không ngại chỉ dạy cho, đừng để chúng tôi chịu thiệt một cách mù mờ, lão hãy nói cho bọn tôi biết rõ toàn bộ ngọn nguồn lai lịch của chiếc án chặt thịt, đồng thời nói luôn rốt cục lão làm cách nào phát hiện ra nó có điểm khác thường và mang nó đi để dùng vào việc gì? Nếu có chỗ nào giải thích không rõ ràng, Tư Mã Khôi tôi đây thả chẻ nó ra làm củi đun cũng tuyệt đối không chịu để cho lão hưởng lợi dễ dàng như thế đâu”.



Triệu Lão Biệt vô cùng khó xử, nhăn mặt nói: “Tư Mã đầu lĩnh, cái lý của cậu có phần không đúng cho lắm, người xưa có câu “Khăn thêu uyên ương, mặc người thưởng ngoạn. Kỹ nghệ kim chỉ, một mình mình hay”, hai bên chúng ta tiến hành giao dịch là lấy vật đổi vật, lại không để cậu thiệt thòi chút nào, sao nhất định phải ép mỗ nói ra gốc gác của nó?”



Tuy rằng Tư Mã Khôi và La Đại Hải phiêu bạt giang hồ đã nhiều năm nhưng rốt cục vẫn không thoát khỏi tâm lý hiếu kỳ của trẻ con, mọi chuyện đều phải biết rõ chân tướng mới thỏa mãn, nếu trắng đen mập mờ, cả đêm ngủ cũng không ngon giấc, hai người kẻ đánh người xoa, nằng nặc đòi bằng được Triệu Lão Biệt giải thích cặn kẽ, lại còn thề thốt sau này tuyệt đối không hối hận mà thay đổi quyết định, cũng không trở thành kẻ phản đồ tiết lộ bí mật cho người khác biết chuyện.



Triệu Lão Biệt gặp phải hai hòn đá tảng cứng đầu đành tự nhận mình đen đủi, buộc phải tiết lộ vài phần sự thực: thế gian đều nói bọn man di biệt bảo mắt sắc như dao, sự thực quả đúng như vậy. Trưa hôm qua khi đi ngang khu Hắc ốc hoang phế, Triệu Lão Biệt đảo mắt một cái liền phát hiện căn lều có điểm khác thường.



Nhãn lực nhận biết bảo vật là một môn công phu, hơn nữa còn là kinh nghiệm được tích lũy nhiều năm, nói sao được nhỉ? Kỳ thực phải nói trắng ra thế này, khả năng ấy không hề tà ma như dân gian vẫn truyền miệng, cũng không phải cái gì xa xôi giống như kiểu nhìn thấy ánh hào quang lấp lánh tỏa ra từ căn lều gỗ, chỉ đơn giản là người làm nghề biệt bảo rất giỏi quan sát, họ có thể phát hiện ra những chi tiết nhỏ bé mà người thường dễ dàng bỏ sót.



Triệu Lão Biệt liền đi đến căn lều thì phát hiện gần khu vực đó có rất nhiều hiện tượng khác thường. Theo lẽ tự nhiên, thời tiết oi bức thế này, khu vực Hắc ốc rác rưởi chồng chất như núi, La Đại Hải lại vừa mới cắt chiếc thủ lợn vứt quay lơ trên mặt án, khiến khắp nơi đều nhuốm mùi máu tanh, xung quanh lẽ ra phải có rất nhiều ruồi nhặng bay lượn vo ve không ngớt mới đúng. Thế nhưng xung quanh căn lều phía đằng sau Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại tịnh không thấy bóng dáng nửa con ruồi, đó chẳng phải chuyện rất lạ hay sao?



Triệu Lão Biệt đoán chắc gần đây có giấu bảo vật, liền lập tức dừng bước, giả bộ xin bát nước chè, nhân cơ hội này ngồi luôn xuống trước cửa lều, nhìn quanh bốn phía cẩn thận dò xét, cuối cùng ánh mắt dừng lại ở chiếc án mục nát dùng để chặt thịt. Chiếc án chặt thịt là phần bên trên của một thân trụ gỗ, bốn phía buộc dây thừng gai, trên mặt án còn đặt một chiếc đầu lợn mắt trợn trừng không chịu nhắm, máu tươi nhỏ ròng ròng xuống, nhưng lạ một điều là không nhìn thấy giọt máu nào chảy ra ngoài mà từ từ thấm ngược vào trong thân gỗ.



Triệu Lão Biệt liếc mắt một cái liền đoán định ra bên trong chiếc án gỗ nhuốm đầy dầu mỡ này hẳn phải có một kỳ vật. Khúc gỗ để làm chiếc án chắc chắn được lấy từ một thân cây cổ thụ. Trước khi bị người ta đốn chặt, trong thân nó có lỗ hổng do sâu đục, vừa vặn để một con rết cỡ nhỏ chui lọt. Con rết ở trong thân cây lâu ngày, cơ thể dần phình to, khó lòng chui ra ngoài thoát thân, đành chịu bị nhốt ở bên trong, gỗ mang tính âm, lại tiết ra dịch thông qua thớ gỗ, nuôi con rết nhiều năm không chết.




Sau này, cây cổ thụ bị đốn xuống làm nguyên liệu, khúc gỗ được bào thành chiếc án cắt tiết chặt thịt gia súc lại chính là khúc gỗ có con rết trốn bên trong. Con rết liên tục được hút tiết lợn, năm dài tháng rộng lâu dần cơ thể nó tiết ra một viên “Ngọc Định Phong”. Nghe nói vì viên ngọc có thể chữa trị bệnh thống phong nên người ta mới đặt cho nó tên ấy, chứ không phải đó là viên ngọc mà Tôn Ngộ Không năm xưa dùng để mượn quạt Ba Tiêu của mụ La Sát trên đường đi lấy tây kinh. Về sau chiếc án gỗ chặt thịt bị chủ hàng vứt bỏ, không biết lưu lạc thế nào lại đến được khu Hắc ốc hoang phế, con rết già nằm bên trong đã bị chết đói từ lâu, nhưng viên ngọc thì vẫn còn. Viên “Ngọc Định Phong” này là loại linh đơn được kết tụ bởi rất nhiều âm tà huyết khí, nên lũ ruồi muỗi mới không dám bén mảng đến gần. Vật mà Triệu Lão Biệt muốn có, chính là viên ngọc quý này.



Nhất thời Tư Mã Khôi không thể tin nổi, làm gì có chuyện chuẩn xác đến thế? Cậu lập tức đi tìm cái rìu bổ củi, bổ toang cái án chặt thịt ra làm mấy mảnh, trong đó quả nhiên có một con rết lớn, toàn thân đỏ au au nằm cuộn tròn người, bị rìu chặt ra làm hai đoạn, tuy nó đã chết nhưng trông vẫn sinh động như đang sống, trong miệng con rết ngậm một viên ngọc trắng phơn phớt, tròn vành vạnh, không hề tỏa ánh sáng bóng, mà nhìn giống như một cái “mắt cá” màu đùng đục.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải nhìn chằm chằm không rời mắt, đến lúc này mới coi như thực sự tâm phục khẩu phục, có trách thì chỉ trách bản thân mắt mờ, ở bên cạnh bảo vật bao lâu nhưng không hề nhìn thấy, sau này muốn hối hận cũng không kịp, tối nay cứ việc nằm đợi mà nuôi muỗi.



Triệu Lão Biệt cười hì hì, trong lòng vô cùng đắc ý nhưng vẫn giả bộ khuyên giải hai người: “Có câu nói xưa thế nào nhỉ… “Số mệnh ba thước, khó cầu một trượng”. Hai vị đầu lĩnh tuổi trẻ xuất anh hùng, tuy rằng vô duyên với viên ngọc này nhưng ngày dài tháng rộng, hơn nữa còn đổi được chiếc áo da, thuốc thơm và nhiều đồ nhai sướng miệng nữa, thì cũng nên biết thỏa mãn. Hai bên chúng ta đều có được vật mà mình muốn có, chẳng ai thiệt thòi cả, núi không chuyển thì sông chuyển, sau này chắc chắn còn có cơ hội gặp mặt”. Nói đoạn lão nắm chặt viên “Ngọc Định Phong” trong tay, quay người định đi.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải đang lúc hưng phấn, làm gì có chuyện buông tay bỏ qua dễ dàng như thế, hai người liền vội vàng ngăn Triệu Lão Biệt lại: “Lão vẫn chưa nói rõ hết mọi chuyện, sao nói đi là đi ngay được? Viên ngọc trông giống cái mắt cá này rốt cục có công dụng gì? Lão mang nó đi định dùng vào việc gì?”



Triệu Lão Biệt có vẻ hơi ngần ngừ một chút, lão vốn không định nói thêm nữa nhưng thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải gan to ngang trời, ngông cuồng chẳng biết sợ thần quỷ gì cả, bây giờ một mình lão vào núi biệt bảo lại đang cần trợ thủ, nếu được hai thiếu niên trẻ tuổi ở bên cạnh giúp sức thì chẳng phải công việc sẽ thêm phần suôn sẻ hơn sao? Nghĩ đến đây, Triệu Lão Biệt liền nheo mắt nhìn trời rồi thấp giọng bảo: “Xem cái thị trấn cổ trong Hắc ốc này địa hình không phải hạng xoàng, vốn là mảnh đất vàng, phong thủy thuận chiều “Phượng hoàng sải cánh, tung ngọc rải vàng”, nhưng bao năm nay không biết vì lý do gì mà đất đai trở nên cằn cỗi, người vật cùng kiệt?”



Tư Mã Khôi và La Đại Hải cảm thấy không thể lý giải nổi, liền hỏi: “Mấy cái thuật phong thủy địa lý cổ xưa, anh em bọn tôi cóc hiểu lắm nhưng nghe nói Hắc ốc từ trước đến nay đều nghèo xơ xác thế này, cỏ dại mọc um tùm, đất đai nứt nẻ, trồng cây gì chết cây đấy, thì làm sao có thể gọi là mảnh đất vàng được?”



Triệu Lão Biệt nói: “Lúc trước mỗ đã nói gì nhỉ, có trách thì chính là trách điều này, nơi đây tuy rằng địa lý vốn rất tốt nhưng lại nằm ở giữa hai dải núi, thiếu mất nguồn linh khí mà những mảnh đất vàng phong thủy tốt vẫn có, vì thế mỗ đây dám phỏng đoán rằng bên trong ngọn núi hoang vu phía tận cùng mạch đất, nơi con người chưa hề đặt chân tới chắc chắn có chôn giấu một cổ vật ngàn năm mang âm khí rất nặng nề, chính vật này đã hút cạn tinh hoa của trời đất, ám hại thổ nhưỡng sông ngòi nơi này. Nhưng vẫn có câu “Phải nhìn tận mắt mới hay thật giả”, rốt cục trong lòng núi cất giấu vật gì, bây giờ mỗ cũng không dám đoán bừa”.



Triệu Lão Biệt tự nhận mình phải dùng trăm phương ngàn kế mới lấy được viên “Ngọc Định Phong” trong chiếc án chặt thịt mục nát. Lão muốn mượn vật này để đi đào bảo vật chôn giấu dưới lòng núi. Trước khi đi, lão ta còn nhắn nhủ: “Này hai vị đầu lĩnh! Nếu hai cậu có gan thì giờ tý đêm nay đến chân cầu La Sư phía sau khu Hắc ốc đợi mỗ, tới lúc đó mỗ sẽ cho hai cậu mở rộng tầm mắt. Có điều hai cậu phải tuyệt đối nhớ kỹ, việc này không được tiết lộ với bất kỳ ai”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Cầu la sư


Triệu Lão Biệt dặn dò xong xuôi, hẹn mười hai giờ đúng đêm nay hai người đợi lão ở chân cầu La Sư cùng đi biệt bảo, sau đó liền nhét viên “Ngọc Định Phong” vào trong người, vội vàng bỏ đi mất dạng.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải từ lúc đó đứng ngồi không yên, hai người vô cùng ngứa ngáy chân tay, cảm giác mách bảo chuyện tối nay chắc hẳn vừa mạo hiểm vừa hấp dẫn, nói không chừng còn được chia không ít đồ tốt, thế là liền khởi động chuẩn bị chu đáo mọi việc.



Trước tiên hai người phân phát thuốc lá và đồ hộp cho mọi người trong nhóm, sau đó tìm một ngọn đèn dầu còn dùng được, lại lo lỡ đâu gặp phải bất trắc bên ngoài, mỗi người bèn thủ trong mình một con dao díp ba khía. Loại dao díp này có ba mặt lưỡi, rãnh sâu khoét trên khe, nếu xuyên vào gan tụy người nào thì vết thương không thể khép miệng, cho dù được đưa đến bệnh viện kịp thời vẫn không thể tránh khỏi cái chết do mất quá nhiều máu. Trong khu vực Hắc ốc không thiếu loại hung khí kiểu này. Hai người thu xếp gọn gàng đâu vào đấy, chỉ chờ màn đêm buông xuống là lập tức đến chân cầu La Sư tìm gặp Triệu Lão Biệt.



Đợi mãi mặt trời mới xuống núi, hai người liền đứng dậy chuẩn bị xuất phát. Ai ngờ đúng lúc này, một cô gái tên là Hạ Cần lại đến tìm gặp. Trước khi nghỉ học ở trường, Hạ Cần từng là bạn cùng lớp với Tư Mã Khôi và La Đại Hải, tuy rằng cô nàng không phải hạng xinh gái nhưng thân hình cân đối, khuôn mặt dễ nhìn, thành tích học tập cũng khá, quan trọng hơn là điều kiện chính trị của gia đình rất tốt, sớm muộn cô nàng cũng tham gia quân đội, con đường tương lai có thể nói vô cùng sáng lạn. Từ trước đến nay Hạ Cần rất ít khi kiếm chuyện thị phi với đám người La Đại Hải, thế mà hôm nay đột nhiên đến đây tìm gặp khiến Tư Mã Khôi và La Đại Hải cảm thấy vô cùng ngạc nhiên.



Hạ Cần không đội mũ, hàng tóc mái Hỉ Nhi lòa xòa trước trán, đằng sau kết thành hai bím dài và nhỏ, trên người mặc bộ quân phục loại đắt tiền, quần kaki màu xanh da trời, ngực cài huân chương của Mao chủ tịch. Cô nàng vội vàng từ thành phố chạy đến đây, quần áo ướt đẫm mồ hôi, dường như có chuyện gì quan trọng lắm muốn thông báo cho hội Tư Mã Khôi biết nhưng nhìn thấy bộ dạng ngang ngược, vô lại, bất cần đời của hai người bọn họ, liền cảm thấy vô cùng thất vọng. Hạ Cần thở dài bất lực, lời nói vốn dĩ sắp vọt ra khỏi miệng lập tức bị nuốt ngược vào trong, thay vào đó không ngừng trách mắng bọn họ một thôi một hồi, nói họ không nên cam tâm buông thả bản thân như vậy mà phải tìm cơ hội học tập nhiều thêm một ít, nếu không sẽ lãng phí mất tuổi thanh xuân quý giá.



Điều Tư Mã Khôi ghét nhất là phải nghe người khác lên mặt dạy đời, trong lòng thầm nghĩ: “Cái con nha đầu này sao lắm chuyện thế không biết, bây giờ là thời đại nào rồi mà còn học tập?”, tuy nghĩ vậy nhưng miệng vẫn điềm nhiên lấp liếm: “Cậu nghĩ bọn tôi muốn thế này à? Vì sao người ta phải học tập hử? Đương nhiên là vì muốn thể hiện giá trị cái tôi của bản thân. Nhưng tôi lại nghe có một nhà hiền triết nói thế này, người ta sinh ra trên đời nhất thiết phải lần lượt đi theo các tiêu chí: trước tiên là sinh tồn, tiếp đến là cảm giác an toàn, thứ ba là tình yêu, gia đình, thứ tư là sự tôn trọng, xếp hàng thứ năm mới là thể hiện cái tôi. Bây giờ bọn tôi ăn bữa sáng lo bữa tối, cuộc sống có hôm nay mà không có ngày mai, ngay cả tiêu chí đầu tiên cũng chẳng đạt được thì làm gì còn tâm trí mà nghĩ đến việc học hành nữa”.



Hạ Cần tự biết miệng lưỡi mình không thể thắng nổi Tư Mã Khôi, chỉ có quỷ mới biết nhà hiền triết nào đã nói với cậu ta mấy triết lý đó hay chính cậu ta thuận miệng nói nhăng nói cuội, cô nàng đành nói: “Bạn Khôi ạ! Chúng mình dù sao cũng là bạn cùng lớp với nhau, tớ nói thế chẳng qua là muốn tốt cho các cậu mà thôi!”. Cô nàng thấy điệu bộ Tư Mã Khôi và La Đại Hải có vẻ như muốn kết thúc câu chuyện ở đây. Hai người bọn họ tay cầm chiếc đèn dầu, thắt lưng dắt theo hung khí, Hạ Cần lại tưởng hai tên này chuẩn bị ra ngoài đánh lộn với người ta liền vội vàng hỏi họ định đi đâu?




Đầu óc La Đại Hải không thể nhanh nhạy như Tư Mã Khôi nên nghe hỏi liền thuận miệng trả lời ngay: “Bọn tôi đến cầu La Sư…”. Cậu ta nói được nửa câu, tự biết mình lỡ lời, lập tức lấy tay bịt mồm lại.



Hạ Cần từng nghe nói đến cầu La Sư ở vùng ngoại ô hẻo lánh, đó là chiếc cầu bằng đá cổ xưa đã bị bỏ hoang từ lâu, đi qua cầu là rừng sâu núi thẳm và khu nghĩa địa rộng lớn, ở đó tịnh không có bóng người qua lại, không hiểu hai người bọn họ đến đó làm gì vào đêm hôm khuya khoắt thế này? Cô nàng không khỏi sinh nghi, trong lòng chắc mẩm bọn họ đến đó chỉ để gây họa mà thôi.



Tư Mã Khôi vội vàng giải thích, bọn họ đến đó tuyệt đối không phải để đánh nhau mà là… mà là để bắt chim cút. Khu vực gần cầu La Sư cỏ hoang mọc rậm rạp, cao ngút ngang thắt lưng, trong bụi cỏ có rất nhiều tổ chim cút.



Cậu ta nói vậy cũng không hoàn toàn sai sự thật, vì người ngoài mới vào khu Hắc ốc muốn đứng chắc chân ở đây thì buộc phải đánh nhau với bọn lưu manh vô lại bản địa. Trừ phương pháp hai bên mang quân lính đánh nhau lộn tùng bậy ra, cách tốt nhất chính là “chọi chim cút”.



“Chọi chim cút” là một hình thức cá độ, bắt nguồn từ cuối thời Minh và được lưu hành rộng rãi trong dân gian cũng giống như các trò “chọi chim, đấu chó, chọi dế”. Lúc đầu, khi mới đến đây, vì Tư Mã Khôi tìm được một con chim cút mỏ sắt, lông vũ tím biếc, trong vòng ba ngày nó liên tiếp hạ gục mười lăm con chim cút khác của bang Hắc ốc nên cục diện mới được thay đổi và hội Tư Mã Khôi mới giành được chỗ dung thân.



Sau sự việc ấy, mỗi lần hai bên có tranh chấp gì đều lấy phương thức “chọi chim cút” để giải quyết, nhưng chim cút không nuôi bộ được lâu nên Tư Mã Khôi phải tìm trăm phương nghìn kế ra bãi cỏ hoang bắt chim. Có điều nửa đêm nửa hôm thế này thì không thể bắt nổi, giờ lấy lý do đó quả thực chỉ là miễn cưỡng viện cớ mà thôi.



Hạ Cần nghe giải thích bán tín bán nghi, khăng khăng đòi đi theo bằng được mới chịu tin. Tư Mã Khôi khuyên giải thế nào cũng không được, nhìn lên thấy sắc trời đã nhá nhem tối, bây giờ cũng không thể đuổi cô nàng về thành phố nên đành phải chấp nhận cho bám đuôi.



Đêm hôm đó, vòm trời chi chít sao nhưng lại không có trăng, không gian chẳng có lấy một sợi gió mát, oi bức ngột ngạt đến khó thở. Ba người xách theo ngọn đèn dầu lặng lẽ rời khỏi khu Hắc ốc, bước thấp bước cao đi rất lâu trong khu đất vắng vẻ, cuối cùng cũng nhìn thấy chiếc cầu đá đã bị sập mất một nửa, bắc ngang qua lòng sông khô cạn. Đây chính là cầu La Sư. Đối diện với cầu La Sư là một vùng hoang vu, gò đồi nhấp nhô lượn sóng, trong đó là đồng cỏ mênh mông không biết đâu là bờ và khu nghĩa địa cổ rộng lớn có từ ngàn năm trước, mộ phần chôn cất lộn xộn chẳng có lớp lang gì cả, phần lớn là mộ vô chủ, người bị chôn dưới đất đều là người nghèo, thậm chí có những mộ mấy khẩu chôn cùng một hố. Nghe nói ở đây ma quỷ hoành hành rất dữ nên ít người dám qua lại sau khi trời tối.



Trời vào hạ, lòng sông phía dưới gầm cầu tích đầy bùn cát, cỏ dại mọc um tùm, phía sâu bên trong lùm cây ếch ộp không ngừng cất tiếng kêu ộp ộp, bọ gậy nhung nhúc từng bầy bơi lội trong mấy vũng nước tù, những con ngài to hơn cả chim thỉnh thoảng lại liệng vèo qua trước mặt khiến người ta sợ đến vã mồ hôi lạnh. Có điều Tư Mã Khôi và La Đại Hải sống ở nơi hoang vu này đã quen rồi nên vẫn điềm nhiên như chẳng nhìn thấy gì. Xem chừng thời gian vẫn còn sớm, mấy người bọn họ liền ngồi bừa xuống một bãi đất dưới chân cầu, tắt đèn dầu, vừa hút thuốc vừa chờ đợi.



Tư Mã Khôi thấy cơ sự đã đến nước này, sợ rằng không thể giấu diếm thêm được nữa liền thuật lại việc gặp Triệu Lão Biệt cho Hạ Cần nghe một hồi, rồi bắt cô nàng hứa khi về tuyệt đối không được hé môi kể với bất kỳ ai.



Hạ Cần thấp giọng đồng ý: “Cậu cứ yên tâm, tớ nhất định không bao giờ thành kẻ phản đồ đâu, nhưng hai người các cậu cứ làm mấy việc thị phi này, chẳng sớm thì muộn cũng gặp phải đại họa. Mấy hôm trước tớ nghe bố tớ nói, cục cảnh sát đã quyết định bài trừ tận gốc bang Hắc ốc đấy. Nếu các cậu không muốn bị nhốt vào tù thì phải sớm trở về thành phố mới được”.



Tư Mã Khôi nghe tin ấy, trong lòng cảm thấy hơi khó chịu. Thông qua sự tiếp xúc trong những ngày ở đây, cậu phát hiện cái gọi là “Bang Hắc ốc” thực ra là những con người rất thuần phát, họ chỉ là những người đẩy xe bán khoai lang, bánh hành dạo, nếu không thì là những kẻ lưu lạc không nhà không cửa, tất cả bọn họ đều sống nhờ vào con đường sắt, chẳng gây ra tội ác tày trời nào cả, nếu quả thực bắt họ phải rời khỏi túp lều hoang tàn này thì họ phải đi đâu để tìm chốn dung thân?



Trái lại, La Đại Hải chẳng buồn để tâm, cậu ta nói nếu như không thể sống trong Hắc ốc thì sẽ dẫn Tư Mã Khôi đi Đông Bắc, ông già cậu ta trước đây gốc rễ trong quân đội sâu tận đâu cơ chứ, muốn quan hệ có quan hệ, muốn đường đi có đường đi, nói không chừng đợi khi đủ tuổi còn được sắp xếp vào trong quân đội ấy chứ, việc gì phải cố kiết ở lại đây mà chịu uất ức.



Hạ Cần nói: “Đông Bắc thì có gì hay cơ chứ, đến mùa đông lạnh chết người đi được, chẳng phải lưỡi của cậu khi nhỏ bị đông cứng hỏng mất đấy sao?”



La Đại Hải bĩu môi tỏ ý khinh thường: “Cậu thì hiểu gì? Đồ con gái tóc dài, trí tuệ ngắn!”, đoạn quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Khôi này, bố cậu sau này cũng đến Quan Ngoại phải không? Cậu bảo cái vùng ấy như thế nào nhỉ?”




Tuy rằng Tư Mã Khôi mơ hồ cảm thấy cái thằng như mình đây tiền đồ mờ mịt, số phận khó đoán nhưng từ trước đến nay đều tự hóa nguy thành an, sớm đã chẳng buồn quan tâm đến điều này nữa, bây giờ nghe La Đại Hải gợi lại chuyện Quan Ngoại, liền nói: “Tớ chưa bao giờ đến vùng Đông Bắc, trước đây chỉ nghe ông già kể, ở đó vào mùa đông đúng là tuyết bay ngập trời, khắp nơi đóng băng đông cứng, vạn vật đều chìm vào giấc ngủ, có người còn bị đóng băng cả mũi. Nhưng trong rừng già núi sâu, những việc quái lạ nhiều vô cùng, chỉ cần ngồi trong lâm trường nghe người già kể chuyện cổ xưa, nghe suốt cả mùa đông cũng vẫn không hết”.



Để giết thời gian, Tư Mã Khôi liền kể cho La Đại Hải và Hạ Cần nghe câu chuyện ly kỳ mà ông bố Trương Hồ Lô từng gặp ở Quan Ngoại. Ông bảo ở ngôi miếu hoang trong núi sâu vùng Quan Ngoại một hôm bỗng nhiên có lão đạo sĩ đến, lão ta thu nạp một đồ đệ ở dưới núi làm đạo đồng, đồng thời xây một tòa điện để thờ sư tổ. Hai thầy trò cùng nhau ở trong đó tháng nọ tiếp tháng kia. Trước cửa điện um tùm rậm rạp, bất kể ở đây chỉ toàn cỏ dại cây hoang nhưng hôm nào cũng nhìn thấy hai đứa trẻ hồn nhiên nô đùa ở ngoài hang núi. Mỗi ngày lão đạo sĩ gặp chúng đều thuận tay đưa cho hai đứa bé khi thì viên kẹo, khi thì cái bánh. Thời gian lâu dần, hai bên trở nên khá thân thiết. Nhưng hai đứa trẻ đó tuyệt đối không dám lại gần cửa điện một bước.



Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, tất cả đều bình an vô sự, mãi cho đến một ngày, lão đạo sĩ từ dưới núi mang về mấy quả đào tươi ngon, trên cuống còn dính mấy chiếc lá, quả nào quả nấy căng mọng mỡ màng. Lão mang chúng bày lên hương án trong điện thờ, dâng lên sư tổ. Lão đạo sĩ đi suốt một ngày đường, vừa mệt lại vừa buồn ngủ, thần thái lờ đờ, cứ thế ngồi trong điện, ôm hương án, dần dần thiếp đi.



Lúc này, một trong hai đứa trẻ đứng thập thò ở ngoài, rồi bò lên bậu cửa nhòm vào bên trong. Nó nhìn thấy mấy trái đào tươi mọng, không nhịn nổi liền khe khẽ lẻn vào trong điện ăn trộm. Ai ngờ lão đạo sĩ đột nhiên hèm lên một tiếng, nhảy bật người dậy, giơ tay tóm lấy đứa trẻ, chẳng nói chẳng rằng kẹp mạnh nó vào dưới nách, ba chân bốn cẳng xông thẳng vào lò đốt hương phía sau điện, cuống quýt chân tay lột sạch quần áo của đứa trẻ, dùng nước tắm rửa sạch sẽ rồi vứt sống nó vào miệng một nồi nước to, lấy nắp gỗ nắp chặt lại, rồi dùng tảng đá to chèn lên trên.



Lão đạo sĩ lại gọi tiểu đạo sĩ đồ đệ đến, ra lệnh cho hắn chất thêm củi vào lò, tuyệt đối không được ngớt lửa, cũng không được mở nắp vung xem bên trong là thứ gì, sau đó lão ta chạy đi tắm rửa thay quần áo, tế bái thần linh.



Tiểu đạo sĩ trong lòng thầm nghĩ, người xuất gia nên lấy thiện làm gốc mới phải, sao lại ăn thịt người tàn nhẫn như thế? Chỉ e rằng sư phụ đang muốn tu luyện môn công phu tà đạo nào đó. Tai hắn nghe thấy đứa trẻ bên trong nồi khóc thét giẫy giụa, lòng cảm thấy không nhẫn tâm, định mở vung nồi phóng sinh cho nó. Nhưng lại sợ lỡ đâu sư phụ chẳng ăn được thịt người, sẽ lấy dao mổ thịt hắn, thế nên lại không dám kháng lệnh.



Lửa càng cháy càng đượm, tiếng kêu thét càng lúc càng nhỏ, dần dần trở nên u tịch vô thanh, tiểu đạo sĩ nghĩ rằng đứa trẻ chắc đã bị đun chết. Hắn lo nước trong nồi bị cạn nên nhè nhẹ hé mở nắp vung, đang định nghé mắt vào xem, đột nhiên nghe thấy “bùm” một tiếng, đứa bé từ bên trong nhanh thoăn thoắt chui ra ngoài trốn mất dạng.



Vừa lúc đó, lão đạo sĩ đang ôm hộp thuốc chạy tới, trông thấy sự tình, vội vàng giục đồ đệ chạy ra ngoài cửa tìm kiếm, kết quả tìm khắp nơi mà đứa bé vẫn biệt vô âm tín. Lão đạo sĩ đành gạt nước mắt than dài: “Đồ nhi ngu ngốc, mi làm hỏng việc lớn của ta rồi! Ta ở bao nhiêu năm trong chốn rừng sâu núi thẳm này chỉ vì quả nhân sâm ngàn năm đó thôi. Nếu nấu nó thành nước uống cùng với thuốc, có thể trường sinh bất lão. Xem ra mệnh của ta không đủ phúc phận, ước nguyện thành tiên cũng vô vọng rồi. May mà nước canh trong nồi và quần áo của đứa trẻ vẫn còn giữ lại, đem luyện thành linh đơn uống cũng được thượng thọ, miễn nhiễm bách bệnh”. Nói xong, hai thầy trò liền gấp gáp quay trở vào trong điện.



Nhưng khi bọn họ trở về tìm kiếm quần áo thì phát hiện không biết chúng đã biến mất từ lúc nào, chẳng những thế nước trong nồi cũng bị một con chó hoang trụi lông uống cạn, một giọt cũng không còn. Lão đạo sĩ thất vọng quá mức liền bị đổ bệnh, mấy tháng sau thì âu sầu lìa đời. Còn con chó hoang, nghe nói về sau lông đen mọc kín toàn thân, óng mượt tuyệt luân, từ đó nó bỏ vào rừng sâu không bao giờ quay trở lại nữa.



Trên núi chỉ còn sót lại vị tiểu đạo sĩ, một mình ngồi thủ điện sư tổ trống toang hoang, sau này hắn rơi vào tình cảnh cùng quẫn, không kế sinh nhai, đành buộc phải gẫy cành thành cướp, theo chân ông Trương Hồ Lô làm thổ phỉ. Câu chuyện này do chính miệng hắn kể lại cho ông Trương Hồ Lô nghe.



La Đại Hải và Hạ Cần nghe Tư Mã Khôi kể với giọng rất quả quyết, như thể thực tế đúng là đã từng xảy ra việc ấy, trong lòng cảm thấy rất mơ hồ, không thể phân biệt nổi câu chuyện này là sự thực hay do Tư Mã Khôi bịa láo.



Tư Mã Khôi giải thích: “Đã là truyền thuyết thì đừng thắc mắc nó thật hay giả, nhưng các cậu có biết vì sao tôi kể chuyện này ra không? Là vì tôi cứ cảm thấy cái lão già Triệu Lão Biệt đi lùng bảo vật kia hao hao giống với tên đạo sĩ đi lùng bắt nhân sâm thành tinh”



La Đại Hải cũng gật đầu đồng ý: “Mẹ kiếp! mấy lũ bợm đó chẳng đứa nào ra gì! Cậu xem bây giờ là mấy giờ rồi mà lão già chết tiệt ấy còn chưa đến? Tớ thấy, chắc quá nửa là bọn mình bị lão cho leo cây rồi”.



Tư Mã Khôi gật gật đầu, lớn giọng sang sảng: “Là con người, ai chẳng có tính xã hội, mà xã hội lại là cái quần thể tạp nham đầy tính mâu thuẫn. Mấy năm kinh nghiệm mách bảo cho chúng ta rằng, bất luận thế nào cũng đều phải tin câu này – trên thế giới, loại khốn nạn nào cũng có”. Cậu nói xong liền nhổm người đứng dậy, định bụng nhìn quanh xem Triệu Lão Biệt đã đến chưa, không ngờ vừa ngẩng đầu trông ra phía xa thì giật nảy người. Cậu dường như không tin vào cảnh tượng mình đang nhìn thấy, vội vàng đưa tay dụi mắt rồi nhìn lại.




Lúc bấy giờ, mây đen u ám, che phủ mọi vì sao vốn chi chít trên nền trời, bóng tối bao trùm bủa vây khắp không gian. Chỉ duy phía đối diện với cầu La Sư, nơi tận cùng đầu bên kia của cánh đồng hoang là lung linh ánh đèn. Không thể ngờ ở đó lại có một thành trì trải rộng hàng trăm dặm, có sức chứa trên dưới vạn người, quy mô quả thực không nhỏ. Có điều do màn đêm mịt mùng, tầm nhìn bị mộ phần và cỏ hoang che lấp, lại thêm khói bay sương phủ la đà, nên khi nhìn qua đó chỉ thấy khung cảnh chập chờn lúc mờ lúc tỏ bất định. Trong thành hiện rõ ma khí vô cùng nặng nề, khiến người ta không khỏi dựng tóc gáy sợ hãi.



La Đại Hải và Hạ Cần cũng phát hiện ra cảnh tượng dị thường đó, ba người đều cảm thấy da gà nổi lên từng đợt. Chưa bao giờ bọn họ nghe nói trong khu nghĩa địa bỏ hoang này lại có sơn thôn, thị trấn. Nơi đây tuy rất hiếm dấu tích của con người nhưng ban ngày thỉnh thoảng vẫn có kẻ qua lại trên đường, có điều chưa ai từng nhìn thấy người sống trong khu nghĩa địa, chẳng hiểu sao tự nhiên hôm nay lại nổi lên một tòa thành lớn như vậy? Nhìn tòa thành đó âm hiểm dị thường, lẽ nào đó là ma thành dưới âm phủ?



Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều không tin vào mấy chuyện ma mãnh, hai người mau chóng định thần, thắp sáng ngọn đèn dầu, rút con dao díp ba khía ra, cầm lăm lăm trong tay, hướng thẳng vào bức thành trì chập chờn mờ tỏ như ma chơi rồi tiến từng bước đến đó. Bọn họ định nhìn xem rốt cục là thứ gì đang tác oai tác quái. Hạ Cần tuy rằng không muốn đi nhưng cô nàng càng không muốn ở lại một mình dưới chân cầu, nên đành níu áo Tư Mã Khôi, theo sát phía sau.



Ba người hướng tầm mắt nhìn về phía tòa thành ma, lần mò từng bước trong nghĩa địa, vừa đi vừa phạt cỏ tiến lên. Tuy rằng cả bọn đi rất lâu trong bóng tối nhưng dường như càng đi càng cảm thấy chột dạ, bất luận tiến về phía đó bao xa thì trước sau vẫn không thể đến gần tòa thành ẩn hiện ánh đèn nến ấy.



La Đại Hải trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, liền khuyên Tư Mã Khôi: “Tớ thấy bọn mình nên rút đã, hảo hán sợ gì cái thiệt trước mắt, nếu tiếp tục đi không khéo lại lạc đường mất”.



Tư Mã Khôi nhìn thấy sắc trời đúng là tối quá, trong lòng cũng thầm cảm thấy lực bất tòng tâm, nên đành quyết định rút lui rồi tính tiếp. Ba người bèn quay đầu về phía sau, ai ngờ cánh đồng cỏ hoang rộng mênh mông, đêm đen bao trùm mịt mùng, chút ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn dầu chỉ đủ soi rõ trong phạm vi ba bước. Ánh sáng le lói của ngọn đèn hiện lên giữa khu nghĩa địa hoang vắng này chẳng khác nào ánh lửa ma chơi. Tất cả những gì có thể nhìn thấy bây giờ chỉ là những nấm mồ nối tiếp nấm mồ. Ba người bọn họ đi không biết bao lâu nhưng vẫn không thể quay về lòng sông khô cạn dưới chân cầu La Sư, ngoái đầu nhìn lại, thấy khoảng cách giữa họ và tòa thành trì ẩn hiện ánh sáng ma quỷ đằng kia dường như vẫn không hề thay đổi.



Trên trời giờ đã không nhìn thấy bóng dáng nửa ngôi sao, nên cũng chẳng thể phân biệt đâu là hướng nam, đâu là hướng bắc. Mất vật tham chiếu, cảm giác không gian bồng bềnh như không tồn tại. Trong đêm hè oi bức, thời gian phảng phất như dừng lại, ngưng tụ tại một điểm.



Trán La Đại Hải đầm đìa mồ hôi lạnh, không nhịn được lẩm bẩm thành tiếng: “Thế này chẳng phải đang gặp ma à? nghe người ta đồn những hồn ma bị chết oan khuất thường xuất hiện trên đường vào ban đêm để dẫn lối cho lữ khách, bắt họ đi vòng vo một hồi rồi quay trở lại điểm xuất phát, cuối cùng khiến họ cùng quẫn mà chết, tục truyền con đường đó gọi là “Hẻm ma ám”. Chẳng lẽ hôm nay anh em bọn mình lại đâm vào con hẻm ma?



Tư Mã Khôi vẫn bình tĩnh hơn cả: “Cùng lắm thì lãng phí một đêm ở đây, sáng ngày mai đợi khi chim kêu trời sáng thì cô hồn, dạ quỷ gì cũng phải tiêu tan”. Cậu lại vung dao huơ huơ trước mặt: “Có thứ giết người này trong tay, bất kể trong nghĩa địa có vật gì không thanh sạch, ông đây cũng phanh thây chúng ra thành ba mảnh”.



Tuy cứng miệng như vậy nhưng thời khắc này dường như cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, mỗi giây mỗi phút đều kéo dài đằng đẵng tựa ngàn thu, hoàn toàn không thể cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian. Ba người khó lòng át chế được sự phát tác của chủ nghĩa duy tâm, họ lo rằng bọn họ thực sự đang bị sa vào con hẻm ma ám. Đường ma đi, người không thể đi, ngộ nhỡ lạc bước vào trong đó, chỉ e vĩnh viễn không thể đợi đến thời khắc chim kêu trời sáng.



Hải ngọng đột nhiên nhớ ra một việc, cậu ta kể với Tư Mã Khôi và Hạ Cần, theo cách nói lưu truyền của dân gian vùng Đông Bắc, nếu một người đi lạc trong núi, thì thường lỡ bước vào nhầm thành cổ, trong thành chắc chắn chẳng có ai là người sống, chỉ có một lão già gầy gò như thanh củi khô, da dẻ nhăn nheo, đầu đội mũ chóp nhọn, khi nhìn thấy bạn thì tự nhận: “Đầu đội mũ hoàng kim, mình mặc áo lưu ly, bản quan là đại vương trong mộ, cưỡi thỏ ngọc đi tuần”.



Nếu gặp phải tình huống như vậy thì lão già đó tuyệt đối không phải là người, mà là con chồn tinh còn gọi là “Hoàng đại tiên” từ trong núi chui ra, nếu bạn còn muốn sống sót thoát ra khỏi hẻm ma ám, phải lập tức dập đầu cúi lạy và cầu xin nó dẫn đường.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: Hẻm ma ám


Nửa đêm canh khuya, hội ba người Tư Mã Khôi đi lạc trong khu nghĩa địa bỏ hoang, càng lúc càng hoảng loạn, loanh quanh một hồi, trong lòng cảm thấy rùng rợn đến nỗi không còn phân biệt nổi phương hướng nữa.



Bình thường La Đại Hải là tay vô cùng gan dạ, chẳng biết sợ sệt gì sất, nhưng cũng phải tùy việc, nếu luận đến việc đánh nhau, gây vạ, cậu ta có thể dùng que chọc thủng trời, ngưu ma, xà thần gì cũng chẳng phải đối thủ. Có điều khi còn nhỏ, cậu ta từng leo lên cây ăn trộm trứng trong tổ chim, không ngờ vừa lúc đó một con chồn hoa cũng luồn vào, đẩy cậu ta ra rồi cắn chết chim mẹ ngay tại trận. Lúc này quanh miệng con chồn dính toàn máu chim, hai mắt đỏ ngầu, nhìn cảnh tượng ấy La Đại Hải sợ mất vía, kể từ đó trở đi sự việc này trở thành chiếc bóng u tối ám ảnh tâm lý cậu ta một cách nặng nề, mãi đến tận bây giờ vẫn không thể phai mờ. Bởi vậy thứ duy nhất trên đời này khiến cậu ta khiếp đảm có lẽ chính là con chồn, trước đây cậu ta thường tỏ ra không hề gì, thực ra chỉ là cố tình giả bộ. Bây giờ gặp phải tình cảnh kinh dị vượt qua cả phạm vi nhận thức của con người, nên trong lòng cậu ta khó tránh khỏi việc liên tưởng đến chuyện cũ. Lúc này cậu ta quả đúng là gan nhỏ hơn cả gan thỏ. Khi ở Đông Bắc, Hải ngọng từng nghe kể rất nhiều truyền thuyết dân gian với thể loại tương tự như vậy, nên giờ cứ một mực quả quyết rằng mấy người bọn họ đang bị chồn tinh nằm dưới mộ huyệt mê hoặc, nghĩ đến đây cậu ta cảm thấy dường như có một luồng khí lạnh xuyên thẳng vào đáy tim, bắp chân tự nhiên co cứng như bị chuột rút.



Hạ Cần nghe cậu ta nói có chồn tinh trong thành ma, chỉ cần nghĩ thôi mà da gà đã nổi hết cả lên, cô nàng không thể tự kiềm chế được nỗi sợ hãi đang dần trào dâng trong lòng, sắc mặt trở nên tái nhợt.



Tư Mã Khôi hoàn toàn không tin vào mấy thuyết pháp tà ma kiểu đó, cậu biết khu vực Đông Bắc rất sùng bái “Hoàng tiên”, nhưng trước thời Mãn Thanh, những người dân mê tín chuyện này ở Quan Nội tồn tại không nhiều lắm, thậm chí có thể nói là gần như không còn, mãi cho đến sau khi chế độ thiết giáp bát kỳ (chế độ quân đội và hộ khẩu thời Mãn Thanh có tám màu cờ) tràn vào Quan Nội, hai nền văn hóa Hán Mãn bị ảnh hưởng lẫn nhau, Quan Nội mới dần bắt đầu nảy sinh tập tục thờ hoàng tiên. Còn về nguyên nhân hình thành “Hẻm ma ám” có rất nhiều cách giải thích, mấy thuyết pháp dân gian kia chưa hẳn là sự thật, khu mộ hoang này cũng chưa hẳn bị bọn chồn hoang quấy nhiễu, chỉ là tình hình đang gặp trước mắt quả thực quá sức quái dị, khó có thể dùng lý lẽ thông thường để phán đoán. Cho dù Tư Mã Khôi đảm khí cứng rắn, lại giỏi tùy cơ ứng biến nhưng rốt cục cậu ta tuổi vẫn còn trẻ, kiến thức còn nông cạn nên lúc này khó tránh khỏi cảm giác bất lực.



Lúc này, Tư Mã Khôi phát hiện ánh sáng của chiếc đèn dầu đang cầm trên tay mỗi lúc một trở nên yếu ớt, như báo hiệu sắp sửa tắt hẳn. Trong lòng cậu chợt dội lên cảm giác không lành. Cậu nói với La Đại Hải và Hạ Cần: “Chắc chắn chúng ta bị lạc đường rồi, chỉ sợ không dễ thoát ra khỏi nơi này, dầu trong đèn cũng chẳng còn lại bao nhiêu, xem chừng không thể duy trì được lâu nữa, người xưa thường nói “đèn tắt ma tìm đến”, nếu chúng ta muốn bảo toàn mạng sống, bắt buộc phải nhanh chóng tìm ra cách thoát khỏi đây. Nếu không đợi thêm chút nữa, khi ánh đèn hoàn toàn tắt hẳn, trước mắt tối thui thui, thì càng chẳng có cơ hội thoát thân đâu”.



La Đại Hải bất lực nói: “Tớ coi như hết sạch chiêu rồi, thường ngày toàn thằng ôn con nhà cậu nghĩ ra bao nhiêu quỷ kế, theo cậu bây giờ chúng ta nên làm thế nào?”.




Tư Mã Khôi vắt óc nghĩ ngợi hồi lâu. Khi cậu còn ở Bắc Kinh theo “Văn Võ tiên sinh” học nghệ, cũng biết đến một vài điển cố lục lâm. Cái từ “ngựa vang” (tiếng lóng vùng Đông Bắc ám chỉ bọn thảo khấu) vốn chuyên dùng để chỉ “Trên đường Sơn Đông, nếu nhìn thấy kẻ cưỡi ngựa đeo chuông, thì ngầm hiểu đó chính là ám hiệu của đạo tặc lục lâm, bọn họ coi trọng khí chất nghĩa hiệp, chúng ta khó lòng biết thực ra họ là kẻ xấu hay người tốt, khó phân biệt điều họ làm là sai hay đúng, họ bí mật cướp của, tàng hình giết người”. Tiếng lóng này sau đó được phát triển rộng ra thành bất luận “râu xồm” ở Sơn Đông, “giặc cướp ngựa” ở Quan Tây, “nhà ưng” ở Giang Nam hay “bang thuyền” ở Hồ Bắc và Hồ Nam, phàm là những tên cướp tự cho mình là “cướp của người giàu chia cho người ngoài, thay trời hành đạo”, đồng thời bái mười tám vị la hán làm sư tổ thì đều được quy vào hàng ngũ “ngựa vang”.



Trước đây, “ngựa vang” thường phải chạy vào sâu trong khe núi để trốn khỏi sự truy đuổi của quan quân, cánh rừng rậm nguyên thủy quanh năm không trông thấy mặt trời này, cỏ mọc còn cao hơn đầu người, đưa mắt nhìn quanh chỉ thấy bốn bề cỏ hoang mọc bạt ngàn, những người không thông thổ lỡ chân lạc bước vào đây sẽ lập tức bị bầy “muỗi biển” hút sạch máu và trở thành xác khô. Ngoài rừng rậm ra, thì đầm lầy, sơn cốc băng tuyết, khe vực đều là những cứ địa vàng để “ngựa vang” nương thân tránh họa và thoát khỏi vòng vây truy sát của quân lính. Bọn họ và quan quân chỉ giao đấu vài hiệp rồi lập tức tản ra, chạy vào khu rừng già nơi không có dấu chân người qua lại để ẩn thân, đợi khi sóng gió qua đi mới tụ tập trở lại.



Chính vì vậy, người đời mới nói “ngựa vang rất giỏi tìm đường”, cho dù chạy vào nơi sơn cùng thủy tận, địa hình phức tạp, khi bị lạc đường, họ vẫn có thể xác định được phương hướng dựa vào việc quan sát vị trí của chòm sao bắc đẩu. Vào những ngày trời âm u, không có sao, họ sẽ đi tìm mạch nước nguồn, chỉ cần xuôi theo hướng nước chảy là nhất định sẽ tìm được lối ra. Nhưng tình hình trước mắt bây giờ vừa không có sao, lại không có sông suối gì cả, thì làm gì còn phương pháp nào mà nghĩ?”



Cuối cùng Tư Mã Khôi nhớ lại “thuật thôi môn” được ghi chép trong “Lục Lâm truyền kỳ”, trong đó nói, người ta có thể thông qua phương thức mê tín để suy đoán cánh cửa sinh tồn, đây là một bí thuật trong “Thuật âm dương bát quái”, thông thường chỉ có bọn quân sư vớ vẩn mới sử dụng thủ thuật này. Tư Mã Khôi không biết cái món bí thuật này có tác dụng thật hay không, cũng chưa bao giờ thực hành cụ thể, nhưng vì phải giành giật sự sống khỏi bàn tay thần chết nên quyết định liều một phen, cậu đành nhìn mèo vẽ hổ, nhìn bầu vẽ dưa để bắt chước phương pháp cổ xưa mà tiền nhân truyền lại, lấy ba hòn đá vun đống trước mộ, xếp thành hình phủ thờ sư tổ, sau đó đắp đất thành lò đốt hương, cuối cùng cắm lên đó mấy cọng cỏ dại làm nhang.



Lúc này lẽ ra cậu phải ngồi niệm “Thôi môn lệnh” nhưng Tư Mã Khôi đã quên béng bài chú này từ đời nào, nên đành tạm thời chắp vá mấy câu khác vào thay thế, chỉ thấy miệng cậu ta tụng niệm một hồi dài, nghe cũng rất ra văn ra vẻ : “Con xin thỉnh quan phu tử giáng đàn, Lý lão quân hạ thế, mời các vị sư tổ, ngọc hoàng thượng đế, quan âm bồ tát, tổng tư lệnh, ba vị nguyên lão, bốn vị thiếu gia trên trời, mau mau hiện thân đến cứu đệ tử khỏi vòng hiểm nguy…”, nói xong liền giơ tay giật chiếc mũ La Đại Hải đang đội trên đầu, vứt vèo một cái vào không trung, rồi đưa mắt nhìn xem chiếc mũ rơi xuống chỗ nào, chỗ rơi xuống chính là cửa sinh, chỉ cần đi theo hướng đó sẽ tìm thấy con đường sống.



La Đại Hải hoàn toàn mù tịt mấy món này, cậu ta chỉ tiếc đứt ruột chiếc mũ quân nhân, bèn hét to: “Thằng điên này! sao cậu lại mù quáng đi tin mấy chuyện quỷ thần mê tín dị đoan thời phong kiến thế hả?”, Nói xong liền chạy bổ đi tìm chiếc mũ rơi trên mặt đất, nhưng trong nghĩa địa, chỗ nào cũng tối hù hù, cỏ lại mọc cao quá đầu gối, chiếc mũ bay từ trên trời rơi xuống đồng cỏ hoang rồi biến mất dạng, biết tìm ở đâu bây giờ?



La Đại Hải cuống đến nỗi nước mũi chảy cả xuống miệng, không kiềm chế được liền mở miệng trách móc Tư Mã Khôi. Bất ngờ, từ nơi sâu xa nào đó trong đám cỏ vang lên những tiếng “loạt xoạt”, cậu ta cứ nghĩ chồn tinh đang từ dưới mộ huyệt chui lên, bất giác sợ đứng tim, mồm há hốc, phệt đít ngã lăn xuống đất.



Tư Mã Khôi không ngờ chiêu vứt mũ ấy lại có hiệu quả thật, trong lòng cũng cảm thấy kinh dị, miệng lầm bầm: “Lẽ nào sư tổ hiển linh chỉ đường cho mình thật?”. Cậu kéo Hạ Cần ra phía sau lưng, giơ cao ngọn đèn dầu với ánh sáng bé bằng hạt đậu soi về phía phát ra tiếng động, thì nhìn thấy trong đám cỏ hoang bị sương đêm bủa vây, có một người đang đi đến. Người đó tay xách đèn kéo quân, miệng lẩm bẩm rất khẽ bài đồng dao mà ngày thường trẻ nhỏ vẫn hát: “Hôm nay thần tài giáng phàm trần, thiên hạ người người đều nhanh chân, tiền sạch cá độ Triệu thái gia, tiền bẩn cá cho Thập Bát gia, ngàn núi vạn sông một bông hoa, tiền sạch tiền bẩn đều là tiền, anh phát tài tôi xin hưởng chút, tôi ăn thịt chia súp cho anh …”



Giọng hát vừa sai lời vừa sai nhạc, lệch cả nhịp điệu cứ vang lên càng ngày càng rõ trong đêm tối, mãi cho đến khi người đó đi tới gần, Tư Mã Khôi mới nhìn rõ, kẻ mới đến chính là Triệu Lão Biệt.



Thì ra Triệu Lão Biệt đến chân cầu La Sư đúng giờ như đã hẹn, nhưng không thấy bóng dáng của Tư Mã Khôi và La Đại Hải đâu, lại phát hiện có ánh đèn lay động trong nghĩa địa, chẳng cần hỏi cũng đoán được chuyện gì đã xảy ra. Thế là lão vội vàng mò xuống tìm. Vừa gặp hội ba người Tư Mã Khôi, lão ta liền nói: “Đã bảo các cậu giờ Tý đợi mỗ ở dưới chân cầu La Sư, thế mà dám cả gan tự tiện xông vào khu nghĩa địa này, lại còn dẫn theo một ả nha đầu nữa. Các cậu muốn bỏ mạng à? Ngộ nhỡ rơi vào hố sâu trong mộ huyệt, bị bọn hồ ly lôi đi, thì cho dù các cậu có bản lĩnh tài giỏi thế nào đi nữa cùng đừng mơ trèo lên được!”



Vị cứu tinh La Đại Hải đang mong chờ cuối cùng cũng xuất hiện, cậu ta mừng rỡ ra mặt, nhưng vẫn giả bộ cứng giọng: “Lão Triệu, ngay từ đầu sao lão chẳng bảo bọn tôi không được vào khu nghĩa địa này, đến bây giờ thì chớ giở cái giọng Tiểu Gia Cát Lượng lột khố - khai sáng cho mọi người nữa”.



Triệu Lão Biệt chẳng thèm bận tâm đến mấy lời nhăng cuội của La Đại Hải, lão chỉ vào Hạ Cần rồi hỏi Tư Mã Khôi: “Con nhỏ này là đứa nào vậy?”




Tư Mã Khôi nhìn thấy trên chiếc áo sơ mi Triệu Lão Biệt đang mặc có mấy mụn vá, phía sau lưng cũng có chiếc bóng đổ dài dưới ánh đèn, liền biết lão là người chứ không phải ma. Cậu bèn đem việc của Hạ Cần kể tóm tắt cho lão ta nghe một lượt.



Lúc này, Hạ Cần đã biết Triệu Lão Biệt là bạn của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, tuy rằng nhất thời chưa thể hoàn hồn nhưng vẫn giữ thái độ lịch sự cần có, cô nàng bước đến phía trước giơ tay ra bắt rồi chào hỏi: “Cháu chào Triệu lão sư phụ!”



Triệu Lão Biệt không hề ỏ ê đến cô nàng, quay mặt sang Tư Mã Khôi cau mày tỏ ý khó chịu: “Mỗ đã nói trước không được dẫn theo người ngoài đến rồi mà, các cậu quên sao?”



Tư Mã Khôi lái câu chuyện sang hướng khác: “Việc này để sau tính cũng chưa muộn”. Nói đoạn, cậu kể vắn tắt tình hình trước mắt cho lão ta nghe. Nơi này đúng là cửa tà, nếu có người đứng ở bờ sông khêu đèn lên tiếp ứng thì tốt biết mấy, nhưng bây giờ tất cả bốn người đều ở trong nghĩa địa này rồi, e rằng không đợi đến khi trời sáng hoặc khi mây tan trăng sáng thì rất khó thoát thân.



Triệu Lão Biệt nheo cặp mắt nhỏ ti hí nhìn bốn xung quanh rồi thấp giọng nói: “Thực ra nếu phải đi gấp trong đêm ở nơi núi sâu rừng thẳm thì khó tránh khỏi sa vào hẻm ma ám, nhưng chỉ cần đừng để cô hồn dạ quỷ bám theo mình, thì chẳng có gì đáng ngại nữa cả. Có điều đi đêm tuyệt đối không được im lặng, mà hãy làm theo cách người xưa truyền lại, đi trong hẻm ma thì phải hát hý văn, như vậy sẽ trấn áp được bách tà. Chúng ta vừa hát vừa hét để xông ra khỏi chỗ này nhé!”.



Hội Tư Mã Thiên nghe mấy câu này đều thấy mù mờ chẳng hiểu gì: “Chuyện này bọn tôi mới nghe nói đến lần đâu, đi lạc trong hẻm ma ám phải hát hý văn thật sao? Là vở “Đèn lồng đỏ” hay vở “Núi Đỗ Quyên”? Triệu sư phụ có biết hát không?”



Triệu Lão Biệt không lên tiếng trả lời mà chỉ dặn dò mấy câu: “Các cậu chỉ cần đi theo sau mỗ là được rồi, có điều phải nhớ tuyệt đối không được quay đầu nhìn lại đằng sau, phía thành trì đèn nến lập lòe đó, nếu không đừng nghĩ thoát khỏi chỗ này”.



Tư Mã Khôi không hiểu ý lão muốn ám chỉ điều gì, liền hỏi: “Sao lão lại nói vậy?”



Triệu Lão Biệt nói: “Tòa thành đó trông giống như ánh lửa ma chơi, ẩn ẩn hiện hiện giữa đám cỏ úa khói tàn trong rừng cây tạp chủng. Nhìn nó như gần như xa, biến đổi quái dị khó lường, càng nhìn càng cảm thấy mơ hồ, bất luận thế nào chúng ta cũng không thể xác định phương hướng dựa vào vị trí của nó được, ngộ nhỡ bị sa chân vào bên trong, thì chỉ có mà vạn kiếp không thể siêu sinh”. Thì ra khúc hát lão đang ngâm nga trong miệng là bài “Điệu khúc ngâm” đã bị thất truyền từ lâu trong dân gian, tuy rằng tiếng hát khàn đục nhưng lại vang lên giữa đêm khuya, khiến nó càng mang âm hưởng hùng tâm tráng chí, hiên ngang khí phách.



Không biết có phải bài hát ảnh hưởng đến tâm lý hay không mà khi Triệu Lão Biệt vừa hắng giọng ngân nga mấy câu, hội Tư Mã Khôi đã không còn cảm thấy rùng rợn nữa, vội vàng lên giây cót tinh thần, vùi đầu nhắm thẳng về phía trước. Không ngờ, một lát sau cả hội đã thoát khỏi nghĩa địa và quay trở về chỗ chiếc cầu La Sư vỡ nát bị bỏ hoang.



Ba người thấy cuối cùng cũng thoát được ra ngoài, ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm. Đến lúc này, Tư Mã Khôi càng thêm khẳng định Triệu Lão Biệt chắc chắn là một kỳ nhân bí ẩn khó lường, đừng thấy lão ta ăn mặc lôi thôi quê mùa mà coi thường, lão già này quả ứng với câu “nhìn mặt khó bắt hình dong, nước biển khó lòng đo đếm”. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền bám theo xin thỉnh giáo xem vừa rồi rốt cục đã xảy ra chuyện gì? Vì sao khi bị sa vào hẻm ma ám, chỉ cần hát hý văn là có thể tìm đường đi ra được?



Triệu Lão Biệt dường như khi nãy đi gấp quá nên giờ ngồi phệt xuống đất nghỉ ngơi. Lão ta rút tẩu thuốc châm lửa hút, nhắm nghiền mắt tham lam hít hai hơi vào phổi. Sau khi khoan khoái nhả từng ngụm khói lên trời mới từ từ nhã nhặn trả lời: “Vì sao ấy hả? Chỉ vì – đi đêm vạn dặm đều là họ Hổ!”




Câu này có nghĩa là gì? Thì ra họ “Hổ” trong câu “đi đêm vạn dặm đều là họ Hổ” muốn ngầm ám chỉ đến sơn thần, khi lạc đường trong núi tất nhiên phải hát “Ngâm khúc qua núi”.



La Đại Hải cũng chạy đến bên hỏi Triệu Lão Biệt, tòa thành trì rực rỡ ánh đèn nến ở phía xa rốt cục là nơi nào? Trong đó có chồn tinh không?



Triệu Lão Biệt bảo nơi đó là “Thành hàm oan”, bên trong có hai loại ma “hàm oan và uẩn khuất”, ngoài ra còn có năm ngàn âm binh đầu trâu mặt ngựa đứng bên ngoài canh gác, người sống khó lòng tiếp cận. Sau đó, lão móc viên “Ngọc Định Phong” trong người ra, rồi nói chỉ cần có vật này trong tay, thì ta có thể liều chết mà xông vào thành thăm dò một chuyến. Các cậu có gan dám đi cùng mỗ không?



Hải ngọng nghe nói trong đó không có chồn tinh liền lập tức hứng khởi trở lại, cậu ta nhướng nhướng mày, quệt ngang nước mũi dính trên mặt rồi nói: “Tôi chả bao giờ tin mấy cái món này, chúng ta đều là người có hai cái chân, hai cánh tay, lão cũng chẳng phải kẻ mọc nhiều hơn tôi một cái đầu, chỉ cần Triệu Lão Biệt lão dám đi thì cớ gì La Đại Hải cậu đây không dám hử?”



Tuy rằng Triệu Lão Biệt quả thực có một vài bản lĩnh nhưng lão lại là kẻ bụng dạ hẹp hòi, nhìn thấy La Đại Hải phát ngôn ngông cuồng, thì chỉ cười nhạt, giơ tay trái ra nói: “Thực ra trong mắt mỗ, các cậu chẳng qua chỉ là đám trẻ ranh mới lớn, vì thế các cậu hãy khoan khoác lác! Cậu xem bàn tay trái của mỗ có mấy ngón? chẳng phải nhiều hơn cậu một ngón tay hay sao? Nếu có bản lĩnh cậu thử mọc thêm một ngón nữa cho mỗ đây được mở rộng tầm mắt”.



La Đại Hải thấy Triệu Lão Biệt đúng là có sáu ngón tay thật, đành cãi bừa: “Cái này thì có gì đáng phải đem ra khoe khoang! Lão đừng quên núi cao còn có núi cao hơn. Lão có sáu ngón tay thì không còn biết trời cao đấy dày nữa phỏng? Thực chẳng dám giấu, La Đại Hải tôi đây lúc mới sinh cũng có đến ba cánh tay lận, nhưng ông già tôi hưởng ứng khẩu hiệu vĩ đại của Mao chủ tịch, cần kiệm liêm chính làm cách mạng, ông không muốn lãng phí vải vóc để may thêm một cánh tay áo nữa cho tôi, bèn đè tôi ra lấy dao thái rau chặt phéng đi một cánh, bây giờ cánh tay đó vẫn để ngâm muối ở trong vại dưa nhà tôi đấy, không tin lão cứ theo tôi về nhà mà xem”.



Lúc này Triệu Lão Biệt mới phát hiện loại người như Hải ngọng chẳng thể nói bằng lý được, đành phải ngậm miệng không tiếp lời. Lão ta quay đầu sang nhìn Tư Mã Khôi và Hạ Cần, hỏi hai người bây giờ định thế nào.



Cũng giống như Hải ngọng, Tư Mã Khôi không tin vào mấy chuyện thần quỷ rùng rợn của Triệu Lão Biệt, trên thế giới này làm gì có chuyện tồn tại “Thành hàm oan”, cậu cũng quyết định phải vào đó một chuyến để nhìn xem rốt cục nó là cái gì. Còn Hạ Cần không dám ở lại đây một mình, nên một lần nữa đành phải lựa chọn đi theo bọn họ.



Bốn người từ lòng sông đi vòng qua khu nghĩa địa rộng lớn, rồi lại quanh co mấy vòng rất xa. Nói ra cũng lạ, lần này cùng với sự di chuyển của bước chân, tòa thành trì lập lòe ánh lửa ma quỷ cách họ càng lúc càng gần. Đợi khi đến thật gần, Triệu Lão Biệt đột nhiên dừng lại, thổi tắt đèn kéo quân và lấy tay ra dấu, bảo hội Tư Mã Khôi quỳ xuống, phủ phục trong ổ cỏ, lặng lẽ nhìn về phía trước.



Tư Mã Khôi dụi dụi mắt, định thần nhìn kỹ lại, chỉ thấy trong đám mộ hoang cỏ dại có từng quầng lửa liên tục nhấp nháy lập lòe, thì ra đó là đom đóm, số lượng nhiều không kể xiết, chúng lập bầy lập đàn bay lượn giữa cánh đồng hoang, nhung nhúc kết bè với nhau tạo thành bức bình phong tường thành, chỉ thấy ánh sáng xanh ngập trời, biến hóa khôn lường, từ đằng xa nhìn lại quả đúng là một kỳ quan độc nhất vô nhị. Có thể nói không ngoa rằng nó chẳng khác nào một tòa thành lửa di động.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: Đom đóm


Bầy đom đóm kết bầy kết đàn bay lượn vờn vũ đầy trời, ánh sáng mơ ảo tụ hợp lại, khiến “Thành hàm oan” bị chôn sâu dưới lòng đất một lần nữa được tái hiện giữa nhân gian.



Ba người nấp đằng sau lưng Triệu Lão Biệt cứ tròn mắt nhìn mãi cho đến khi hoa hết cả lên, lúc này cả hội mới hay “thành đom đóm” mà lúc trước họ nhìn thấy từ đằng xa chỗ bãi cỏ hoang hóa ra lại là hàng triệu con đom đóm tập hợp lại mà thành. Nếu không phải đêm nay tất cả đều được tận mắt chứng kiến thì khó lòng tưởng tượng được trên thế gian này lại có kì quan độc đáo như vậy.



Tư Mã Khôi nhớ lại việc từng nghe người ta nói câu “cỏ mục hóa sâu”, đom đóm âu cũng là loài vật được hóa thân từ cỏ dại mục nát. Nếu chúng tâp hợp lại thành đàn lớn ở chỗ nào thì chỗ đó âm khí ngưng tụ dày đặc, bọn chúng hễ ngửi thấy mùi dương khí tỏa ra từ người sống lập tức rút lui và “thành đom đóm” cũng theo đó mà từ từ di chuyển. Lúc trước vì ba người hội Tư Mã Khôi lấy ánh sáng đom đóm phía xa làm vật tham chiếu nên họ mới bị lạc đường trong nghĩa địa. Bất luận bạn đi nhanh hay đi chậm, tiến hay lui, sớm muộn gì cũng sẽ bị mất cảm giác phương hướng, càng đi càng như sa vào mê cung chẳng khác nào bước chân vào “hẻm ma ám”.



Nhưng vì sao bây giờ bọn họ lại có thể ở cách “thành đom đóm” gần đến thế? Tư Mã Khôi thầm băn khoăn một lúc, rồi cuối cùng cũng hiểu ra nguyên nhân. Chắc chắn là do âm khí tỏa ra từ viên “Ngọc Định Phong” rất nặng, nó đủ sức che lấp và lấn át sinh khí toát ra từ cơ thể bốn người sống. Có điều, đến lúc này cậu vẫn không thể lý giải nổi vì sao Triệu Lão Biệt phải tìm đủ mọi cách để tiếp cận “thành đóm đóm”.



Đúng lúc đó chợt thấy Triệu Lão Biệt cố tình hạ giọng thật thấp, nói với ba người Tư Mã Khôi: “Bọn đom đóm giống như ánh lửa ma chơi kia đều từ xác chết thối rữa hoặc cỏ khô mục nát hóa thân thành. Mỗ trộm nghĩ thành trì được tạo ra bởi vô số con đom đóm như thế này hẳn không phải là cảnh tượng mà người ở trần gian có thể nhìn thấy. Chuyện này đủ sức chứng minh phía dưới lòng đất chắc chắn có chôn giấu một vật mà âm khí nặng nề không thể tưởng tượng được, chỉ có nó mới đủ sức khiến lũ đom đóm kết bầy kết đàn tụ tập lại với số lượng lớn, hơn nữa lũ đó chỉ bay thêm vào chứ chẳng thấy con nào bay đi. Cả đời Triệu Lão Biệt mỗ đây bắt đầu đi tìm từ Quan Đông tìm tới Quan Trung, rồi lại tìm suốt mấy tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, gót chân in khắp nửa vùng trời, hao tổn không biết bao nhiêu thời gian và tâm huyết, cũng chính là để tìm kiếm vật này đây. Tiếc thay một bàn tay chẳng thể phát ra tiếng, bây giờ được các cậu sát cánh tương trợ như thế này thì còn gì bằng. Sau khi xong việc, mỗ nhất định sẽ báo đáp hậu hĩnh”.



Thì ra Triệu Lão Biệt là kẻ vô cùng tinh thông cổ thuật, ngoài bản lĩnh biệt bảo ra, lão còn được kỳ nhân truyền thụ cho Liễu Trang tướng pháp vô cùng thâm hậu. Những bí thuật như bát quái ngũ hành, kỳ môn tuần giáp lão đều thuộc làu như lòng bàn tay. Thường ngày lão vẫn đi khắp thôn cùng ngõ tận để tìm kiếm bảo vật quý hiếm, vô tình được biết ở gần mộ địa dưới chân cầu La Sư có “thành đom đóm”, tòa thành này biến hóa khôn lường, và chỉ xuất hiện giữa đêm hạ chí vào những năm đặc biệt.



Nghe nói những con đom đóm này đều được hóa thân từ lửa ma chơi hoặc lân quang trong thành hàm oan. Tòa thành lửa như bóng ma ấy ẩn hiện bất định, không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy, mà chỉ trong những năm liên tiếp xảy ra trộm cướp, thiên tai, khi cánh cửa âm tào địa phủ mở rộng ra để thu nạp người vào bên trong thì nó mới xuất hiện, hơn nữa sự xuất hiện của nó chẳng mang theo bất kỳ điềm báo tốt lành nào.




Triệu Lão Biệt suy đoán ở gần “thành đom đóm” nhất định có chôn giấu một vật gì đó rất kỳ dị, không những thế vật đó còn hút cạn cả tinh hoa nhật nguyệt, linh khí trời đất, khiến cả dải long mạch đều trở nên khô cằn. Vật đó tuyệt đối là vật vô cùng khác thường. Chỉ có cách kiếm cơ hội dò tìm tông tích, làm rõ xem căn nguyên của “thành đom đóm” rốt cục nằm ở chỗ nào, như vậy mới có thể thi triển bí thuật biệt bảo.



Thành phố Trường Sa diện tích lên đến cả trăm dặm, chỗ nào cũng là đất phong thủy “Chín rồng hội tụ”. Ở đây tất cả có chín dải long mạch, chín dải đó hình thành nên nhiều loại địa thế khác nhau, độ tốt xấu cũng không nơi nào giống nơi nào. Dải đất quanh khu vực này mộ cổ đặc biệt nhiều, mộ cũ có khi có từ thời Xuân Thu chiến quốc, mộ mới cũng phải bắt đầu từ thời Minh thời Thanh. Ở đó mai táng vô số bậc vương hầu tướng quân và những người quyền cao chức trọng. Thông qua địa hình nơi phát hiện ra mộ cổ, ta có thể đại khái tiến hành phán đoán – những người được chôn ở nơi có địa thế bằng phẳng, mộ phần thường sơ sài qua loa, ngược lại những người được chôn ở nơi sơn cùng thủy tận, thì mộ phận lại vô cùng sa hoa tráng lệ.



Có điều Triệu Lão Biệt không phải dân trộm mộ, thứ mà lão muốn tìm là dải long mạch nghèo nàn, cũng chính là dải đất kéo dài từ “Hắc ốc” hoang phế cho đến “nghĩa địa La Sư”, bởi “thành đom đóm” chỉ xuất hiện ở xung quanh khu vực này. Từ trước đến giờ lão đã tiến hành thăm dò, khảo sát rất nhiều lần, cuối cùng cũng đã phát hiện ra “nghĩa địa La Sư” là vùng đất hoang có vô số mộ phần nằm san sát liền kề nhau, trong đó có rất nhiều ngôi mộ cổ, tất cả là những mộ huyệt chôn người chết từ những năm trước thời Dân Quốc, đa số mộ phần ở đây đều không có bia mộ, địa hình nhấp nhô bị cây dại cỏ hoang cao ngút ngàn che phủ, chồn hoang rất thích náu mình bên dưới mộ huyệt âm u lạnh lẽo, vì thế phía dưới mộ cỏ, đâu đâu cũng toàn là hang mộ do chồn hoang đào bới.



Những hang ổ và hố mộ này có độ nông sâu rất khác nhau, giăng mắc chi chít như bàn cờ, bên ngoài lại bị cỏ hoang che khuất, dường như chẳng ai phát hiện ra hiểm họa ở ngầm sâu dưới lòng đất. Nếu ai đó đi ngang qua, lỡ rủi thụt chân xuống hố, cho dù may mắn không bị gẫy chân nhưng đợi khi khó khăn lắm mới rút được ra ngoài thì chuột đồng, chồn hoang ẩn trốn trong hang đã gặm hết sạch da thịt, giơ cẳng lên nhìn, chỉ thấy lòng bàn chân trơ lại đoạn xương trăng trắng, lấp ló lộ ra giữa đám máu nhầy nhụa.



Nơi này cho dù đi giữa thiên thanh bạch nhật cũng rất dễ bị lạc đường, nói chi “thành đom đóm” lại chỉ hiện hình vào giữa đêm khuya, không những vậy chỉ cần người sống tiến đến gần, nó lập tức di chuyển sang chỗ khác, vì thế muốn truy tìm tông tích của nó đâu phải chuyện dễ dàng. Nếu ai mù quáng đi đào bới lung tung giữa khu nghĩa địa thì chẳng khác nào mò kim đáy bể.



Trên đời này vạn việc thành bại đều nằm ở chữ duyên, duyên chính là cơ hội, vì thế còn gọi là “cơ duyên”. Cơ duyên cái thứ này chỉ có thể gặp chứ không thể cầu. Triệu Lão Biệt tìm kiếm khắp nơi trong nhiều năm ròng, vắt kiệt tâm trí, cuối cùng cũng tìm thấy viên “Ngọc Định Phong” trong chiếc án mục ở Hắc ốc. Có thể nói lão ta đã chuẩn bị vạn sự đều đầy đủ, chỉ còn thiếu gió Đông. Bây giờ, điều lão đang chờ đợi chính là thời cơ tiếp cận “thành đom đóm”.



Triệu Lão Biệt dự đoán vật mà mình đang muốn tìm hẳn là một vật khá lớn, muốn vận chuyển nó từ mộ huyệt dưới lòng đất về thành phố chắc không phải điều dễ. Bởi vậy lão liền tìm cách lôi kéo hội ba người Tư Mã Khôi đến giúp sức, đồng thời còn hứa thưởng lớn cho bọn họ. Nhưng chiếu theo lệ cũ, trước khi sự việc thành công thì tuyệt đối không cho những người đi theo giúp đỡ được biết những chi tiết cụ thể.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải vốn dĩ chỉ định đi theo để tìm hiểu rõ ngọn ngành, giờ tự dưng lại nhìn thấy cái lợi trước mắt, đương nhiên đều nhận lời cả. Hạ Cần biết rõ cái cậu Tư Mã Khôi này một khi đã quyết định phải làm việc gì thì cho dù Lão Tử Thiên Vương thò ra ngăn cản cũng không thể ngăn nổi. Việc đã đến nước chỉ có tiến mà không có lùi, nên cô nàng đành đồng ý đi theo giúp sức.



Triệu Lão Biệt vẫn có đôi chút chưa yên tâm, liền nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi: “Chúng ta cứ mất lòng trước được lòng sau mà đánh bài ngửa với nhau thì hơn, sau khi sự việc thành công, chỉ cần những thứ Triệu Lão Biệt mỗ đây có, cái gì cũng đều có thể cho các cậu, nhưng chỉ duy vật mà đêm nay mỗ tìm thấy thì không thể được”.



Tư Mã Khôi giọng bất cần nói: “Lão phải nhìn xem Tư Mã Khôi này là ai chứ hả, chí ít tôi cũng là kẻ xuất thân từ lục lâm. Ngày trước trong gia phủ nhà tôi, có loại ngọc quý, bảo vật nào mà không có hả? Ngay đến sợi dây thừng buộc lừa ở chuồng gia súc phía sau vườn cũng là sợi dây thừng gai mà Dương Quý Phi dùng để treo cổ tự vẫn ở dốc Mã Ngôi, giấy dán tường đều là bản đồ địa lý càn khôn của Bắc Tống. Lão tưởng tôi thèm cái của lão đào được ở nơi núi hoang rừng thẳm này hay sao?”



Triệu Lão Biệt không chỉ đồng tử nhỏ mà tâm địa càng nhỏ hẹp hơn, lão ta lại thường lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, từ bụng ta mà suy ra bụng người, nghe xong mấy lời của Tư Mã Khôi vẫn chưa dám tin, liền gặng hỏi lại: “Lời này có thật không vậy?”



Tư Mã Khôi chửi thầm trong bụng: “Ông mày là hạng người nào mà lời nói ra còn không đáng tin hử?”, nghĩ vậy liền cất lời thề độc: “Triều đình có vương pháp, giang hồ có luật lệ, kẻ vô lại làm chuyện trái với lương tâm, khó tìm chốn dung thân trong thiên hạ. Có mười tám vị la hán sư tổ ở trên trời chứng giám, nếu như tôi nói nửa lời gian dối, sẽ chết không có chỗ chôn thây”.



Triệu Lão Biệt nghe xong liền gật đầu: “Lời thề như thế là đủ trọng lượng rồi, xem ra Tư Mã đầu lĩnh quả nhiên không phải là người chỉ biết nói xuông. Bây giờ thời gian không còn sớm nữa, chúng ta phải mau chóng bắt tay hành sự mới kịp”. Nói xong lão liền dẫn ba người Tư Mã khôi mai phục trong lùm cỏ, khẽ khàng theo sát “thành đom đóm” đang không ngừng di chuyển giữa cánh đồng cỏ hoang.



Lúc bấy giờ bầu trời tối đen như mực, bốn bề chỉ thấy rất nhiều con đom đóm lẻ đàn từ nơi nào sâu trong lùm cỏ chập chờn bay ra, không ngừng gia nhập vào “thành đom đóm”, bức tường lửa được kết tụ bởi ánh sáng của ngàn vạn con đom đóm tỏa ra từng quầng sương sáng xanh nhấp nháy, trông rực rỡ như chốn thiên đình.



Vì khoảng cách rất gần, nên giờ đây trong mắt họ điều duy nhất có thể nhìn thấy là hàng đàn hàng đàn đom đóm chen chúc nhấp nháy tỏa sáng, chúng quyện vào nhau tạo thành từng vòng sương ánh sáng, bay lượn bất định. Ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Hạ Cần nhìn những con đom đóm thoắt nhiên tiêu tan như ảo mộng, thật khiến người ta hoa hết cả mắt mũi, cứ ngỡ mình đang lạc vào cõi mơ, cảm thấy giờ đây mắt không còn đủ dùng nữa.




Triệu Lão Biệt quan sát tỉ mỉ một hồi lâu, cuối cùng cũng nhận ra dòng chảy đom đóm phần lớn đều túa ra từ phía sau một ngôi mộ hoang. Nơi có thể khiến cỏ khô hóa thành sâu bọ chắc chắn phải là vùng đất âm khí vô cùng nặng nề, tối tăm mục rữa, xem ra dưới lòng đất chỗ đó phải có chút gì cổ quái. Nghĩ vậy, lão liền dẫn ba người dò dẫm đi về phía trước.



Giữa lùm cỏ là một hố sâu trũng hơn những vùng khác một chút, nhìn địa thế của nó rất giống với hình dạng đáy nồi, bên trong mọc đầy cỏ dại. Nhổ mấy đám cỏ cao hơn đầu người lên, bọn họ liền nhìn thấy một đường nứt bị cỏ che lấp ở phía dưới. Khe nứt đó hẹp và dài, độ sâu phải đến hàng mét, chỗ rộng nhất một người có thể chui lọt. Trên hai mép vách đất âm u lạnh lẽo, rễ cỏ bám chắc kết bánh lại với nhau, bên trong um tùm rậm rạp, giữa đám cỏ hoang ấy là la liệt những con nhộng đom đóm chưa kịp thành hình, ở nơi sâu nhất, từng luồng gió lạnh thổi vù vù, phía dưới đen ngòm ngòm không thể nhìn thấy đáy. Nghĩa địa La Sư có kết cấu địa chất lỏng lẻo, lại thêm thời tiết nắng nóng, ít mưa nên ở đây xuất hiện khá nhiều khe nứt kéo dài, độ nông sâu không giống nhau, thêm vào đó là sự hoành hành của vô số chuột đồng và chồn hoang, chúng tạo ra không biết bao nhiêu hang hố dưới lòng đất, những hang hố này không kiên cố, bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ sụt lở cùng với sự chuyển động của đất đá. Bởi thế chẳng ai muốn bước chân vào nơi này trừ phi cảm thấy chán sống.



Bọn họ thả dây thừng dài mười mấy mét xuống bên dưới chiếc hố, nhờ vào ánh sáng chập chờn mờ tỏ của ngọn đèn, mọi người có thể thấp thoáng nhìn thấy một viên đá đen ở trong khe đất. Bề mặt của nó lồi lõm không bằng phẳng, lỗ chỗ nhiều hố to nhỏ khác nhau, chất liệu mịn bóng như ngọc. Viên đá đó trông to như cái đấu đong gạo, ước chừng nặng khoảng mười mấy cân, phát ra ánh sáng lạnh lẽo yêu dị dưới ánh đèn.



Triệu Lão Biệt nằm rạp ra đất, quăng một sợi dây thừng dài xuống bên dưới, rồi thò cả người ra mép hố để nhìn cho rõ. Vừa nhìn thấy vật ấy, lão ta liền kích động đến nỗi hai tay run lẩy bẩy, miệng lầm bầm không ngớt: “Ông trời có mắt”.



Ngược lại với thái độ mừng rỡ tột độ của Triệu Lão Biệt, hội Tư Mã Khôi dường như bị rơi vào màn sương mù, trước đây bọn họ vẫn cho rằng bảo vật mà lão ta muốn tìm kiếm ắt phải là thứ gì đó vô cùng kinh thiên động địa, ai ngờ nó chỉ là một viên đá đen không hề bắt mắt một chút nào.



Sau khi định vị chính xác vị trí của viên đá, Triệu Lão Biệt liền kéo chiếc đèn kéo quân lên, cởi sợi dây thừng ra rồi buộc vào ngang thắt lưng mình. Lão ta muốn tự xuống dưới đó lấy báu vật, đồng thời bảo với hội ba người Tư Mã Khôi đứng ở bên trên để thả dây.



Hạ Cần thấy vô cùng hiếu kỳ, cô nàng không nhịn nổi đành quay sang hỏi: “Xin hỏi Triệu lão sư phụ, vật đó có phải quặng đá không vậy?”



Triệu Lão Biệt không thể che giấu được sự đắc ý đang dâng trào trong lòng, liền cười hì hì đáp lời: “Cái gì? Quặng đá? Ha ha! Cái con nhóc miệng còn hôi mùi sữa nhà cậu đúng là cóc hiểu biết gì cả, chẳng lẽ Triệu Lão Biệt mỗ đây trông giống một tên đi khai thác quặng đá lắm sao?”



La Đại Hải ăn không tiêu mấy lời này của lão ta, liền vênh mặt lên hất hàm nói: “Đừng có giở trò úp úp mở mở với bọn này, niệm tình chúng ta từng quen biết nhau, nên tôi có lời cảnh cáo, lão tuyệt đối không nên đánh giá sai lầm về tình thế mà lão đang phải đối mặt, nếu bây giờ không lập tức giải thích rõ ràng mọi chuyện cho bọn tôi nghe, lão có tin đợi sau khi lão bò xuống tới nơi, bọn tôi ở trên này sẽ xúc đất chôn sống lão không hử?”



Triệu Lão Biệt nghe xong trong lòng thất kinh, lão tuyệt đối tin rằng loại người như Hải ngọng nói được là làm được, vì thế đành mềm giọng xuống nước: “Các thiếu gia xin chớ làm thế, cứ cho là khi nãy mỗ phỏng đoán sai lầm tình thế trước mắt đi, như thế là được chứ gì? Các cậu tuyệt đối đừng giở chiêu đó ra với mỗ đấy!”.



La Đại Hải không kiên nhẫn thêm được nữa, liền đốp lại: “Cái gì mà coi như? Tiên sư nhà lão, khi nãy chính xác là lão phỏng đoán sai con mẹ nó rồi. Mau nói cho bọn tôi biết rốt cục viên đá đó là thứ gì?”



Triệu Lão Biệt bí thế đành phải tạm thời giải thích ngọn ngành, tẩu thuốc vẫn không rời miệng, lão lại ngồi xổm xuống đúc đầy sợi thuốc vào trong tẩu, vừa phì phèo hút vừa hỏi mấy người hội La Đại Hải: “Các cậu có biết thứ này xuất xứ từ đâu không?”



La Đại Hải và Hạ Cần nào có biết nó từ đâu đến, nên khi bị hỏi lập tức cứng miệng không tiếp lời nổi. La Đại Hải giận quá hóa khùng, liền mắng luôn: “Đừng nhiều lời, biết rồi thì còn hỏi lão làm cái chết tiệt gì?”. Chỉ có Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt coi viên đá đen không hề bắt mắt ấy là vật báu, trong bụng suy đoán vật này tuyệt đối không phải loại tầm thường. Suy nghĩ thêm một chút, cậu trả lời: “Đây là khu nghĩa địa bỏ hoang chẳng hề có bóng dáng con người, nếu không phải do tự nhiên sinh ra thì chắc hẳn là do người cổ xưa chôn nó ở đó, nhưng không hiểu rốt cục lai lịch cụ thể của nó như thế nào”.



Phàm là những người có bản lĩnh thực sự đều không muốn đem sự tình nói ra tuốt tuột, bởi như vậy sẽ thể hiện bản thân là kẻ nông cạn. Triệu Lão Biệt cũng mắc phải tật đó, lão ta đắc ý cười hì hì: “Vật này vô cùng quý hiếm, ngay cả Từ Hy thái hậu đương thời cũng chỉ có một mẩu to bằng cái móng tay thôi. Cậu muốn hỏi lai lịch của nó ấy à?”, Triệu Lão Biệt nói đến đây thì cố tình ra vẻ thần bí đưa tay chỉ lên trời: “Nó từ trên trời rơi xuống đấy!”




Tư Mã Khôi ngơ ngác chưa hiểu ý lão định ám chỉ điều gì, liền ngửa mặt lên nhìn bầu trời đêm, đột nhiên cậu bừng tỉnh ngộ, quay sang hỏi: “Lẽ nào, đây là … Lôi Công Mặc (người Trung Hoa cổ đại gọi vẫn thạch pha lê là Lôi Công Mặc)



Triệu Lão Biệt gật đầu công nhận: “Vật này có rất nhiều tên gọi khác biệt căn cứ theo từng khu vực và niên đại, giới quan lại và dân thường cũng gọi nó bằng những tên không giống nhau, có nơi còn gọi nó là đá Lôi Công hoặc Tịch Lịch Kham. Thực ra cái gọi là Lôi Công Mặc hay đá Lôi Công nói toẹt ra chẳng qua là một cục thiên thạch từ trên trời rơi xuống. Theo các ghi chép trong sử sách, năm đó có một viên đá Lôi Công trên mình còn mang theo lửa trời rơi xuống thành Hàm Dương, thiêu cháy toàn bộ đám đông vây xung quanh thành tro bụi, chất liệu của đá Lôi Công được so sánh với ngọc đen, nó đã được luyện qua sức nóng không thể tưởng tượng nổi, lại từ trên trời rơi xuống, cho nên được người xưa coi là báu vật, thậm chí còn tôn nó thành bí mật của trời đất”.



Triệu Lão Biệt lại nói: “Đâu chỉ có vậy, tương truyền từ rất xa xưa, đá có thể trấn tà, Lôi Công Mặc vô cùng thích hợp để dùng làm “trạch tiên”. Những hộ giàu có bậc nhất ở Sơn Tây, Sơn Đông ngoài vườn đều có từ đường hoặc miếu thờ, bên trong đó người ta thường đặt than Lôi Công, để bảo vệ cả gia đình được bình an, vinh hoa phú quý, không cầu mà được, thu nạp hết vàng bạc của cải trong thiên hạ, mà không cần phải lao động vất vả nữa”.



“Nghĩa địa La Sư” là một long mạch trong quần thể long mạch “Chín rồng hội tụ”, mỗ e rằng viên Lôi Công Mặc này chính là viên ngọc được ngậm trong miệng rồng. Tuy rằng thiên thạch không phải vật hiếm có trên thế gian nhưng đa số chúng đều mang thuộc tính của đá hoặc sắt, chỉ có những viên có chất liệu giống như ngọc đen mới được gọi là “Lôi Công Mặc”, than đá là vật có âm khí rất nặng, nó có khả năng hủ hóa cỏ mục, thu hút dòng chảy đom đóm trong núi tụ tập lại với nhau xây thành dựng quách. Có thể nói không ngoa rằng, nó chính là một bảo vật hiếm có trên đời.



Nhưng theo ghi chép trong sách cổ, nếu muốn thờ phụng “Lôi Công Mặc” làm trạch tiên thì cũng không thể làm tùy tiện được, bởi nếu lỡ có chút sai sót, nó sẽ đem lại tai ương cho gia chủ. Vì thạch tính của Lôi Công Mặc âm khí quá nặng, người sống khó lòng đến gần, chỉ khi nào tìm được viên ngọc được tiết ra từ cơ thể con rết già, sau đó mang viên ngọc đó nhét vào bên trong Lôi Công Mặc để dưỡng khí. Thời gian lâu dần, trên bề mặt của than đá sẽ từ từ sản sinh ra một tầng biểu bì, đến lúc đó âm khí tối tăm của viên Lôi Công Mặc mới hoàn toàn tiêu tán.



Không chỉ có vậy, gia chủ ngày nào cũng phải giết mổ gà đen, chó trắng, rồi mang tiết gà, tiết chó còn tươi nguyên tưới lên phần biểu bì của viên Lôi Công Mặc, chỉ khi thờ cúng được như vậy mới có thể giữ được trạch tiên. Từ đó trở về sau nhà Lão Triệu ta sẽ phú quý vô biên, vinh hoa vô hạn, phát tài không ngớt, hưởng hết mọi phúc đức trên đời. Nhưng nếu chỉ cần một ngày ngơi nghỉ hương hỏa cho trạch tiên, tất cả mọi đen đủi rủi ro sẽ lập tức giáng xuống đầu, không chỉ khiến gia chủ khuynh gia bại sản mà còn phải gánh chịu vô số tai họa, có muốn tránh cũng không thể tránh được.



La Đại Hải nghe xong cảm thấy không thể tin được, liền nói xen vào: “Nếu thật như vậy chẳng phải ngày nào đêm nào cũng nơm nớp lo sợ hay sao? Xem ra kẻ vô sản triệt để như bọn ta lại hóa ra thoải mái hơn cả, giai cấp vô sản chúng mình sẵn sàng đạp cả táo quân vương gia dưới gót giày, chỉ cần nhấc chân một cái là cả nhà lên đường, cuộc đời này lấy tứ hải làm nhà, sống tiêu dao tự tại, chẳng cần lo nghĩ gì sất”.



Tư Mã Khôi cũng cảm thấy những lời của Triệu Lão Biệt vừa nói không phải sự thật, đi đâu tìm mới có thể tìm thấy gà đen chó trắng mỗi ngày? Lão già này đi đào quật “Lôi Công Mặc” chắc chắn phải có ý đồ gì khác, nhưng trong lòng cậu cũng biết rõ cho dù có hỏi gặng nữa thì lão ta cũng không nhổ ra chân tướng sự việc, vì thế cậu đành giữ im lặng.



Lúc này Triệu Lão Biệt đã hút gần hết điếu thuốc, những lời cần nói thì đã nói cả rồi nên bây giờ lão liền đứng dậy chui vào trong khe nứt, ba người còn lại hợp sức kéo dây thừng, cẩn thận từng chút một thả lão xuống bên cạnh viên “Lôi Công Mặc”.



Triệu Lão Biệt dùng tay nhổ mấy bụi cỏ, giẫm chân lên lớp đất, phủi hết kén nhộng đom đóm sang một bên. Căn cứ vào tàn tích để lại gần đó, thì có thể nhận ra nơi này trước tiên bị thiên thạch từ không trung rơi xuống, sau đó địa tầng mới nứt rạn. Giờ đây viên Lôi Công Mặc đen nhánh một cách dị thường lại treo mình chơi vơi ở giữa khe nứt, cách hai mép vách một khoảng tương đối gần, chắc chỉ rộng như nắm đấm là cùng, dường như chỉ cần khẽ lay động, nó sẽ thuận chiều lăn xuống vực sâu phía dưới.



Triệu Lão Biệt không muốn “miếng ăn đến miệng còn để rơi”, nên lão vô cùng cẩn trọng. Lão ta bảo Tư Mã Khôi thả sợi dây thừng thứ hai xuống, đoạn nhẹ nhàng buộc vào viên Lôi Công Mặc, xem chừng vòng buộc đã chắc chắn, lão ta mới giơ đèn kéo quân lên huơ huơ vài vòng giữa không trung.



Ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Hạ Cần nhìn thấy tín hiệu, lập tức gắng hết sức kéo sợi dây thừng lên. Không ngờ cùng với sự tác động của ngoại lực, một ngọn lửa ma quỷ màu xanh lam nhạt đột nhiên phun ra từ trong đêm tối, phút chốc cả khe nứt vụt sáng bừng. Triệu Lão Biệt không kịp tránh sáng bên cạnh, liền bị ngọn lửa bén mồi. Lão ta đau đớn kêu lên thảm thiết, hai chân đạp bừa vào vách đất. Chỉ trong chớp mắt, ngọn lửa u hồn đó liếm đứt hai sợi dây thừng, Triệu Lão Biệt và viên Lôi Công Mặc cùng lúc rơi vèo xuống phía dưới, đất đá bùn cát bị sụt lở, rào rào rơi theo, chôn sống lão ta dưới lòng đất.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: Bọ cạp đảo đầu bò tường


Gần mộ huyệt khu nghĩa địa ở ngoại thành chôn giấu rất nhiều “lò lửa”, những lò lửa đó đều do xác chết mục rữa phân hủy, trộn lẫn với bùn Hydrocacbua dưới lòng đất, từ đó hình thành một loại khí đốt đặc biệt. Hỗn hợp chất này bị vùi lấp nhiều năm trong động huyệt, một khi bất ngờ được giải phóng và tiếp xúc với không khí bên ngoài, nó sẽ sinh ra hiện tượng đốt cháy cực mạnh.



Lần này coi như Triệu Lão Biệt gặp vận rủi, viên Lôi Công Mặc mà lão ta muốn có lại vừa vặn nằm ngay giữa lò lửa tràn ngập khí hydrocacbua, lão nhờ mọi người buộc sợi dây thừng vào viên đá để kéo lên, vô tình đã khiến vách đất hai bên mép khe bị sụt lở, hàng chuỗi cầu lửa từ trong kẽ phun lên nghe “phừng phừng”, quả cầu lửa thiêu đốt toàn thân khiến Triệu Lão Biệt giãy dụa quằn quại đầy đau đớn, thảm thiết gào thét cha mẹ, sợi dây thừng buộc quanh người lão ta cũng bị đứt thành từng đoạn, cả người và viên đá cùng rơi tõm xuống kẽ đất sâu hun hút.



Hội ba người Tư Mã Khôi nhìn thấy sự việc diễn ra ngoài dự liệu liền vội vàng trườn người xuống xem tình hình bên dưới, chỉ thấy đất đá cát sỏi từ hai bên vách đất rào rào lăn xuống, chiếc đèn kéo quân cũng bị rơi tắt cả lửa, dưới đáy hố tối như hũ nút, không thể nhìn thấy bất kỳ thứ gì ở bên trong.



May mà ở gần chỗ viên Lôi Công Mặc là sào huyệt sinh sôi nảy nở của vô vàn kén nhộng đom đóm, hàng ngàn vạn con đom đóm bị giật mình, bay túa ra từ gốc cỏ, điên loạn đâm lung tung khắp nơi, ánh sáng đom đóm chập chờn di chuyển khắp khe nứt trong lòng đất. Nhờ vào màn sương ánh sáng nhàn nhạt âm u, hội Tư Mã Khôi có thể nhìn thấy lờ mờ cảnh tượng phía dưới. Sau khi Triệu Lão Biệt bị rơi xuống khe, lão ta nằm ở chỗ cách mặt đất khoảng ba mươi mấy mét, bị một đụn nham thạch thò ra chắn lấy, đầu lão ta cắm xuống, chẳng rõ sống chết thế nào.



Tư Mã Khôi ở bên trên ra sức hét gọi Triệu Lão Biệt mấy câu, không nghe thấy tiếng trả lời, trong lòng cậu bắt đầu cảm thấy lo lắng, bèn định mạo hiểm lao xuống cứu người.



Hải ngọng thấy vậy vội cuống quýt can ngăn: “Thằng điên này! khe đất kia là cái bình đất rỗng ruột đấy, bất cứ lúc nào cũng có thể bị sụt lở, cậu giờ mà xuống chắc chắn sẽ bị nó chôn sống dưới đó. Lưng dắt mỗi cái cào gẫy mà dám liều mạng vào rừng săn cọp. Tớ nói cho cậu tỉnh ngộ, lúc này không phải lúc giở thói anh hùng ra đâu nhé!”.



Hạ Cần cũng bấn loạn hết cả lên, nhưng cô nàng còn thiếu chủ kiến hơn cả Hải ngọng, chỉ biết hỏi rối rít: “Bây giờ phải làm sao? Hay là chúng ta mau quay về tìm người đến giúp….”




Tuy rằng Tư Mã Khôi cũng biết việc này vô cùng nguy hiểm, nhưng trực giác mách bảo cho cậu, Triệu Lão Biệt là một nhân vật kỳ tài hiếm có với bản lĩnh rất đỗi phi phàm, nếu lão ta phải bỏ mạng một cách lãng nhách và bất minh như vậy trong nghĩa địa La Sư này thì quả là đáng tiếc, cậu không thể thấy chết mà vô tình nhắm mắt, phẩy tay làm ngơ được. Trước mắt việc cứu người là quan trọng, Tư Mã Khôi không thể nghĩ ngợi thêm nữa, chỉ rờ rờ vào dây lưng cài vũ khí buộc chặt ở ngang hông, đầu thoắt nghĩ một thoáng bèn nảy ra một kế sách. Cậu lập tức bảo La Đại Hải và Hạ Cần đưa dây lưng của hai người cho mình rồi để họ ở bên trên tiếp ứng, sau đó liền phi thân bò xuống khe nứt phía dưới.



La Đại Hải và Hạ Cần vốn định tiếp tục khuyên ngăn nhưng nhìn thấy tư thế bò xuống hố của Tư Mã Khôi, cả hai đều tròn mắt cứng miệng kinh ngạc. Nếu là người bình thường, bất luận là bò lên hay bò xuống, đương nhiên đều phải “đầu hướng lên trên, lòng bàn chân hướng xuống dưới”, nhưng Tư Mã Khôi lại làm trái ngược hoàn toàn, chỉ thấy cậu ta “Đỉnh đầu chúc xuống dưới, hai gối co lại, ngón chân bám chặt vào mép đá, hai cánh tay dang rộng đan chéo nhau nâng đỡ trọng tâm, trông chẳng khác nào một con thạch thùng bám chặt vào bờ tường chúc đầu thong dong bò xuống”, hai người bọn họ chưa từng nhìn thấy loại thủ pháp quái dị như thế này trước đây, cho nên giờ cứ ngây người ra, tim dường như trồi lên, đập phập phồng ngay trên cổ họng.



Thì ra món bản lĩnh leo vách vượt tường này của Tư Mã Khôi vốn là một tuyệt kỹ lục lâm được tổ tiên truyền lại, có tên “Bọ cạp đảo đầu bò tường”, hay còn gọi “cởi giầy ngược”. Nghe nói, món “Bọ cạp bò tường” này vốn là một môn trong nghệ thuật xiếc dân gian, quê hương nổi tiếng nhất của bộ môn xiếc ở Trung Quốc phải kể đến huyện Ngô Kiều thuộc tỉnh Hà Bắc, nơi này từ ông cụ đã 99 tuổi đến đứa trẻ mới chập chững biết đi, bất luận già trẻ gái trai người nào người nấy đều có vài món bí kíp nhà nghề dắt lưng, phòng khi gặp phải những năm tình cảnh làm ăn khốn khó, họ liền tụ hợp nhau lại thành từng nhóm đi nơi khác mãi nghệ mua vui cho người để kiếm chút tiền mưu sinh. Đây là truyền thống của người bản địa đời con nối đời cha từ thời thủa xa xưa, chẳng ai nói được chính xác phong tục này bắt đầu hình thành từ triều đại nào. Cách đây không lâu, ở gần khu vực Ngô Kiều, người ta mới khai quật được một ngôi mộ cổ có từ thời Ngụy Tấn, trên vách tường mộ thấy khắc một bức bích họa, trong đó mô tả các động tác biểu diễn xiếc thời cổ đại như “rốn đội bát, bọ cạp bò tường, lửa sao băng”, điều đó chứng tỏ những tuyệt kỹ kiểu này đã có từ xa xưa với lịch sử rất lâu đời.



Tuy nhiên trong các động tác tạp kỹ có từ mấy trăm năm trước, môn công phu “bọ cạp đảo đầu bò tường” đã sớm bị thất truyền, có điều nó vẫn được tiếp tục kế thừa và giữ gìn trong hàng ngũ quân nhân trong quân đội ngày xưa, những kẻ nắm giữ được bí kíp này phần lớn đều là những đạo tặc lục lâm được triều đình chiêu an, khi bọn họ lẻn trộm vào doanh trại hoặc ra vào thành đều dùng chiêu thức đầu chúc ngược xuống, hai chân ôm lấy góc tường thành, nhanh chóng bò lên trên với tốc độ như gió cuốn. Những người nhìn thấy cảnh tượng này không ai không kinh ngạc, liền đặt tên cho tư thế đó là “bọ cạp đảo đầu bò tường”.



Kỳ thực, kỹ thuật chúc đầu leo tường trong tuyệt kỹ “bọ cạp đảo đầu bò tường” rất thích hợp với lý thuyết về thể lực con người, chỉ có điều ít ai có đủ can đảm thử nghiệm chúng, thậm chí những người có đầu óc bình thường ngay cả nghĩ cũng không thể nghĩ ra tư thế quái dị đó. Tổ tiên mấy đời trước nhà Tư Mã Khôi từng làm quân quan trong quân đội thời mạt Thanh, lại là nhân vật kiệt xuất trong giới lục lâm, thực sự là người có bản lĩnh “thượng thông thiên đường, hạ triệt địa phủ” nên mới đủ khả năng khiến bí thuật này đến tận bây giờ vẫn còn truyền nhân. Từ nhỏ, Tư Mã Khôi đã theo học Văn Võ tiên sinh và luyện thành một thân tuyệt kỹ. Có điều hỏa hầu chưa đủ đượm nên từ trước đến nay, cậu không dám thi triển nó trước mặt người khác.



Lúc này Tư Mã Khôi hít một hơi dài rồi bám chặt lấy mép vách nhanh chóng di chuyển xuống phía dưới, chẳng mấy chốc đã bò xuống cạnh thi thể Triệu Lão Biệt, nhờ vào ánh sáng lờ mờ phát ra từ từng đàn đom đóm bay lượn gần đó, cậu phát hiện mũi và miệng lão ta đều đang chảy máu, nằm vật ra bất tỉnh nhân sự. Tuy rằng chiếc áo da thú dày dạn khoác trên người coi như đã cứu lão một mạng khỏi bàn tay tử thần nhưng những vết bỏng loang rộng khắp cơ thể vô cùng nghiêm trọng, thò tay ra sờ thử, cậu phát hiện trên mũi lão phập phồng hơi thở yếu ớt, nếu kịp thời cõng trở lên, nói không chừng vẫn còn cơ hội cứu sống.



Tư Mã Khôi lập tức quay ngược lại, dùng thắt lưng da buộc vào ngang hông Triệu Lão Biệt, sợi còn lại đem nối với chiếc thắt lưng da mà mình đang đeo trên người, rồi buộc lão trên lưng. May mà cơ thể Triệu Lão Biệt mỏng dẹt như thanh củi khô, hom hem toàn da bọc xương, thêm vào đó sợi thắt lưng vũ trang dùng cho quân nhân khá chắc chắn nên cậu có thể miễn cưỡng lôi lão lên. Tư Mã Khôi nheo mắt ngắm nhìn lớp đất dưới đáy khe, nó trông có vẻ rất yếu ớt, chẳng biết sẽ sụt xuống lúc nào, cậu không dám chần chừ nán lại đây lâu thêm nữa. Trong lúc Tư Mã Khôi đang định bò ngược trở lên theo đường cũ, đột nhiên nghe thấy Triệu Lão Biệt rên rỉ một tiếng trong cổ họng, thì ra lão ta đã thoát khỏi hôn mê và tỉnh lại. Lão dùng chút sức lực yếu ớt gắng sức giơ tay lên chỉ xuống chỗ sâu hút ở phía dưới khe nứt.



Tư Mã Khôi cúi đầu xuống thấp, thuận theo chiều tay lão ta chỉ. Cậu nhìn thấy trong tầng tầng lớp lớp ổ đom đóm giữa khe nứt, màn ánh sáng xanh mờ mờ bao trùm lên viên Lôi Công Mặc đen bóng như ngọc. Viên vẫn thạch pha lê vừa vặn rơi cách đó chừng nửa mét về phía dưới, khoảng cách không xa lắm, gần như chỉ cần dang tay ra là có thể chạm tới.



Dường như Triệu Lão Biệt có ý muốn Tư Mã Khôi mang viên Lôi Công Mặc theo cùng, bởi vì khe đất sâu cả mấy trăm mét, lớp vỏ bên ngoài và tầng nham thạch lại có thể sập xuống bất cứ lúc nào, nó sẵn sàng chôn vùi mọi thứ dưới đáy khe rồi nêm lại chặt cứng. Tuy toàn thân Triệu Lão Biệt đang bị thương nặng nhưng tà niệm tham sân si trong đầu óc lão ta còn nặng nề hơn nhiều, lão không đành lòng vứt bỏ miếng ngọc Lôi Công Mặc ngàn năm khó gặp này dưới đáy vực sâu nên đến giờ vẫn còn vọng tưởng chiếm lấy nó làm của riêng.



Tư Mã Khôi cõng Triệu Lão Biệt trên lưng, leo lên được vách đá đã thấy rất vất vả, hơn nữa nếu trọng lực quá lớn thì lớp đất đá phía bên trong địa tầng sẽ bị lở ra và rơi xuống càng mạnh mẽ hơn. Cậu nhìn thấy tình hình không hay, trong lòng thầm định lượng sự sống mới là điều quan trọng, làm gì còn tâm trạng nào mà để ý đến viên Lôi Công Mặc. Nghĩ đoạn cậu liền hít một hơi thật sâu rồi thi triển tuyệt kỹ “bọ cạp bò tường” leo ngược lên mặt đất.



La Đại Hải và Hạ Cần đứng ở bên trên nhìn từng mảng từng mảng đất đá lớn đang không ngừng sụt xuống, lại thấy Tư Mã Khôi mấy lần suýt bị chôn sống dưới nấm mồ, bọn họ không tự chủ nổi cơ tim co thắt lên từng hồi. Cuối cùng khi thấy cậu ta lên được gần mặt đất, cả hai liền vội vàng chìa tay ra, gắng hết sức kéo bật cả Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt lên. Hai người họ vừa mới thoát thân ra khỏi miệng khe nứt thì nghe thấy một tiếng “ầm ầm” nổi lên, một lượng lớn đá sỏi bùn đất từ bên trên thi nhau rào rào chảy xuống, lấp kín mít miệng hố, viên Lôi Công Mặc và vô vàn con đom đóm đều bị chôn vùi tận sâu trong lòng đất, xem ra chúng khó có ngày trở lại chốn phàm trần.



Tư Mã Khôi lên được tới nơi thì mồ hôi đã chảy ướt đầm đìa lưng áo, cậu ngồi phịch xuống đất thở hổn hển. Khi nãy, trong lúc bốc đồng, máu yêng hùng nổi lên ngùn ngụt khiến cậu làm mà không hề suy tính nhưng giờ nghĩ lại cũng cảm thấy rợn hết cả chân tóc, chỉ cần chậm một bước thôi, có lẽ giờ này cậu đã chôn thây ở dưới lòng đất kia rồi.




La Đại Hải nhìn thấy Tư Mã Khôi bình an vô sự mới thở phào nhẹ nhõm, ngoảnh mặt sang bên cạnh nhìn thấy thương thế của Triệu Lão Biệt, cậu ta liền phẩy tay than dài: “Vừa bị bỏng lại vừa bị ngã thế kia, lão này chắc tiệt đường sống rồi, chỉ e bây giờ có đưa đến bệnh viện cũng không còn kịp. Nhân lúc còn sớm sủa, bọn ta hãy đào một cái hố chôn lão xuống cho xong, không khéo lôi thôi lại vướng vào án giết người thì bọn mình chẳng gánh vác nổi đâu”.



Tư Mã Khôi định thần lại, nói: “Khó khăn lắm mới cứu được lão ta từ dưới đáy mồ lên đây, ít ra cậu cũng phải nghĩ ra cách gì cứu sống lão, trước khi ký giấy khai tử chứ. Lão ta vẫn còn thoi thóp thở đấy, làm gì có chuyện nói chôn là chôn quách ngay được?”



La Đại Hải bất lực bảo: “Bọn mình chẳng phải bác sĩ, làm sao cứu lão được? Không tin cậu cứ thử nhìn xem, cái lão Triệu này bây giờ thở ra thì mạnh, hít vào thì yếu, nửa khuôn mặt đã bị thiêu rụi, toàn thân lùng nhùng một mớ nhầy nhụa, chẳng mấy chốc nữa là lão cất bước xuống hố nghe dế kêu cho mà xem”.



Tư Mã Khôi đột nhiên nhớ ra một việc: “Mẹ của Hạ Cần là bác sĩ trong bệnh viện quân khu, chắc chắn con nhỏ cũng được tôi luyện từ môi trường của gia đình, ít nhiều cũng phải hiểu đôi chút về y thuật chứ”. Thế là cậu vội vã bắt Hạ Cần nghĩ cách cấp cứu cho Triệu Lão Biệt, sau đó sẽ tìm biện pháp đưa đi bệnh viện.



Hạ Cần còn chưa đầy mười sáu tuổi, làm gì có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tuy cô nàng cũng hiểu biết đôi chút về những kiến thức y học thường thức. Nhưng bây giờ nhìn thấy cả người Triệu Lão Biệt bê bết toàn là máu, gương mặt lại bị cháy mất một nửa, hai hàm răng chìa hết cả ra ngoài, trông bộ dạng vô cùng đáng sợ. Đầu óc cô nàng chỉ quay mòng mòng mỗi hai chữ “hoảng sợ”, thì làm gì còn nghĩ ra nổi cách nào mà cứu chữa. Hơn nữa, quả đúng mẹ cô nàng làm bác sĩ không sai, nhưng bà lại là bác sĩ khoa sản.



Tư Mã Khôi thực lòng không muốn nhìn thấy Triệu Lão Biệt cứ như vậy từ giã cõi đời nên dù chỉ còn một tia hi vọng, cũng đừng mong cậu bỏ qua. Cậu ngoan cố yêu cầu Hạ Cần: “Bác sĩ khoa sản thì cũng vẫn là bác sĩ chứ gì, cậu cóc cần phải nghĩ ngợi nhiều thế, chỉ cần chữa được ngựa chết thành ngựa sống là ổn. Nói chi ông lão Triệu đang nằm cong queo chờ chết đằng kia chắc cũng chẳng thèm quan tâm bệnh viện nhà cậu treo biển hiệu gì đâu”.



Hạ Cần không nỡ khước từ lời thỉnh cầu tha thiết của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, nên đành bạo gan đến kiểm tra tình trạng vết thương của Triệu Lão Biệt. Ngoại trừ những vết bỏng vô cùng nghiêm trọng trên gương mặt lão ra thì xương sườn cũng bị gẫy mất mấy thanh, đâm rách cả nội tạng, gây nên tình trạng xuất huyết trong, miệng lão sủi lên toàn bòn bọt máu, hô hấp ngắt quãng từng hơi, thần trí lúc tỉnh lúc mơ. Khu vực nghĩa địa La Sư này lại nằm ở vùng ngoại ô hoang vắng, nên bọn họ căn bản khó có thể đưa lão đến bệnh viện được, mà cho dù có đưa tới nơi chăng nữa, cũng chắc chắn không thể cứu sống nổi.



Tuy Hạ Cần tất bật cứu chữa suốt một hồi nhưng cô nàng vừa không có kinh nghiệm lại không có y cụ, cuối cùng cũng đành bó tay bất lực. Hạ Cần lo lắng đến nỗi nước mắt bỗng dưng không ngừng tuôn rơi.



Đúng lúc này, cả hội chợt nghe thấy Triệu Lão Biệt ho lên mấy tiếng, dường như lão ta vừa tỉnh lại từ cơn hôn mê sâu. La Đại Hải lại tưởng rằng Hạ Cần có bản lĩnh cải tử hoàn sinh, liền không ngớt lời ngợi khen cô nàng y thuật cao siêu.



Nhưng Tư Mã Khôi lại nhìn thấy Triệu Lão Biệt lúc này hồi quang phản chiếu, tính mạng chắc chỉ còn tính từng khắc nữa thôi, trong lòng không kiềm chế nổi cảm giác u buồn ứ lên tận cổ, cậu nhỏ giọng ân cần hỏi: “Lão Triệu ơi! lão có còn anh em bạn bè thân thích nào nữa không? Có muốn nhờ bọn tôi nhắn nhủ điều gì đến họ không?”



Triệu Lão Biệt đưa cặp mắt đờ dại nhìn Tư Mã Khôi một thoáng rồi lắc đầu, ngắt quãng nói phều phào: “Triệu Lão Biệt mỗ… kiếp này sóng to gió lớn nào cũng từng trải qua, chẳng ngờ lại bị lật thuyền ở rãnh con sông nhỏ nơi nghĩa địa La Sư này, xem ra tất cả đều tại số mệnh cả, hừ…số mệnh tám thước, khó cầu một trượng, câu nói này quả chẳng sai chút nào. Nhưng điều càng khiến mỗ bất ngờ hơn là Tư Mã đầu lĩnh cậu đây mới một nhúm tuổi mà có thể thi triển được tuyệt kỹ “Bọ cạp đảo đầu bò tường”, cậu được cao nhân nào truyền dạy bản lĩnh này vậy?”



Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt có vẻ sẽ sắp đoạn khí đến nơi, trong lòng nghĩ chẳng cần phải giấu diếm lão ta thêm điềm gì nữa, liền tóm tắt cho lão nghe tất cả lai lịch xuất thân gia đình của mình.



Triệu Lão Biệt có đôi chút kinh ngạc nhưng lão cũng cảm thấy mệnh mình chẳng kéo dài được bao lâu, nên gắng gượng dùng chút sức tàn chăng chối lại: “Triệu Lão Biệt mỗ trên đời này tứ cố vô thân, niệm tình bằng hữu ít nhiều chúng ta từng có với nhau, các cậu hãy giúp mỗ đưa nắm xương già này vùi ở nghĩa địa La Sư, sống chẳng có phúc nhìn thấy Lôi Công Mặc thì sau khi chết mỗ sẽ hóa thành quỷ thủ bên cạnh nó cũng tốt vậy….”, lời nói đến đây, lão khẽ rùng mình mấy cái, tay chỉ xuống phía dưới lòng đất, rồi đầu môi mấp máy một câu: “Núi đá vàng sinh ra bò vàng, đại kiếp đến ta cưỡi mây ngàn…”




Tư Mã Khôi hướng mắt theo tay lão chỉ, thì ra đó chính là nơi viên Lôi Công Mặc vừa bị đất đá sụt vỡ chôn vùi ở bên dưới. Cậu lại nghe thấy mấy lời sau cùng của Triệu Lão Biệt có phần rất cổ quái liền vội vàng quay sang hỏi: “Lão vừa nói gì vậy?”.



Nhưng ánh mắt của Triệu Lão Biệt hốt nhiên trở nên thất thần, chẳng đợi nói dứt câu thì đã không thể thở ra nổi nữa, lão ta nằm chết ngay trước mặt Tư Mã Khôi.



Hội ba người Tư Mã Khôi tuy rằng chỉ quen biết Triệu Lão Biệt được ít lâu nhưng lại cùng trải qua cơn hoạn nạn, nay tận mắt nhìn thấy lão chết mà không được toàn thây, trong lòng ai nấy không tránh khỏi cảm giác đau buồn, bùi ngùi. Mọi người lặng lẽ ngồi thủ bên thi thể lão một hồi khá lâu, mãi cho đến khi thành đom đóm bay tứ tán khắp cánh đồng hoang rồi từ từ biến mất, cả hội mới đứng dậy dùng mấy phiến đá nhọn đào một chiếc hố nông, khiêng xác lão chôn xuống đó.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ trong lòng, viên Lôi Công Mặc đã bị vùi chôn ở nơi sâu nhất dưới đáy khe, từ nay về sau e rằng người đời chẳng bao giờ còn nhìn thấy kỳ quan “thành đom đóm” tái hiện giữa nhân gian thêm lần nữa, cậu lại tự nhủ mình đợi đến tết Thanh minh, nhất định sẽ quay về đây quét mộ cho Triệu Lão Biệt một chuyến.



Ba người cùng nhau cáo biệt trước nơi Triệu Lão Biệt chôn thân, rồi lững thững quay trở lại cầu La Sư, trên đường về trong lòng người nào cũng nặng đầy tâm sự, chẳng ai mở miệng nói với ai câu nào, đợi mãi khi đến chân cầu, La Đại Hải mới nhớ ra một chuyện, quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Câu Triệu Lão Biệt nói trước khi lâm chung có ý nghĩa gì nhỉ?”, Tư Mã Khôi lắc đầu trả lời: “Tớ chẳng nghe rõ, đại loại là mấy lời lung tung lúc hấp hối ấy mà”. Nói vậy nhưng trong lòng cậu vẫn đang suy nghĩ rất mông lung, chẳng ai có thể hỏi được đáp án từ miệng người đã chết, giờ đây thân thế lai lịch của Triệu Lão Biệt và cả bí mật ẩn giấu trong viên Lôi Công Mặc nữa, tất cả đều trở thành một chuỗi câu đố vĩnh viễn không có lời giải.



Trong lòng Tư Mã Khôi tâm sự trĩu nặng, ngẩng đầu lên, cậu mới phát hiện lúc này hừng đông đã lộ ra vầng trắng sáng như bụng cá, hồi tưởng lại toàn bộ sự việc xảy ra đêm hôm qua, quả giống như một cơn ác mộng, vươn vai một cái để co giãn gân cốt cho bớt đau người, cậu quay sang nói với Hạ Cần: “Cả đêm hôm qua cậu không về nhà, chắc bố cậu phải lên cơn điên mất, không khéo lúc này đã điều động cả thế giới đi săn tìm tông tích của cậu cũng nên, mau về nhà đi!”.



La Đại Hải cũng vội vàng dặn dò theo: “Đừng có kể với bố cậu chuyện của tôi và Tư Mã Khôi đấy, thanh danh hai đứa bọn tôi từ trước đến nay cực kỳ trong sạch”.



Hạ Cần lắc đầu nói: “Không sao đâu, tôi đã nói trước với bố sẽ ngủ qua đêm ở nhà dì rồi”.



Hải ngọng tủm tỉm cười: “Khôi ơi, cậu xem bạn Hạ Cần đối xử với anh em ta tốt chưa kìa, cậu ấy nghe thấy bố mình nói sắp tới đây quét sạch băng đảng xã hội cặn bã rác rưởi, liền đặc biệt nói dối cha mẹ đi qua đêm không về nhà, lại từ xa xôi mãi tít trong thành chạy vội về đây mật báo cho chúng ta nữa đấy”.



Hạ Cần lại lắc đầu, tỏ ý không phải vậy. Do dự một lát, cô nàng mới thổ lộ: “Thực ra lần này tớ đến tìm các cậu là có một việc rất quan trọng muốn nói, nhưng tớ sợ sau khi các cậu biết rồi sẽ lại gây ra tai họa, cho nên bây giờ vẫn chưa quyết định được rốt cục có nên nói hay không”.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải vừa nghe nói liền cùng nhau vội vã hỏi xem rốt cục cô nàng có chuyện gì hay ho muốn kể? Dù sao thì trong con mắt của quần chúng nhân dân bọn họ sinh ra vốn đã là một tai họa, bây giờ từ trong thành đến ngoài thành, chỗ nào có thể đập phá được thì đã đập phá cả rồi, còn tai họa gì có thể gây ra thêm nữa? Hai con người trẻ tuổi nghĩ vậy mà không hề biết rằng: “Nhân tình thế thái mênh mang tựa biển lớn, kiếp con người nào thiếu sóng gió phong ba”.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: Núi dã nhân


Sau khi nghe xong mấy lời của Hạ Cần, Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều cảm thấy vô cùng kỳ quái, lờ mờ nhận thấy sự việc này không phải chuyện tầm thường, nhưng bọn họ thực lòng không thể nghĩ ra một cô bé mới mười sáu tuổi như cô nàng thì có nổi tin tức gì đáng để hai người họ phải kinh ngạc cơ chứ. Thế là hai cậu liên tục hỏi đồn cho đến khi cô nàng chịu nói ra mới thôi.



Hạ Cần cẩn thận nhìn quanh bốn phía đều không có người mới ngập ngừng tiết lộ: “Anh họ tớ… từ vùng nông thôn… vừa mới trốn về nhà”. Tư Mã Khôi và La Đại Hải gần như không dám tin những lời cô bạn vừa thốt ra là sự thật, còn cho rằng tai mình có vấn đề nên nghe nhầm.



Thì ra anh họ của Hạ Cần tên là Hạ Thiết Đông, thân hình cao tới một mét tám mươi sáu, trên sống mũi luôn gắn một cặp kính cận nhưng nhìn anh không hề yếu ớt kiểu thư sinh trói gà không chặt mà ngược lại trông rất trí thức, uyên bác. Anh ấy thích đánh bóng rổ, khi cách mạng văn hóa bắt đầu, anh ấy đang học đại học ở Bắc Kinh, từng đọc rất nhiều tiểu thuyết phương tây, tư tưởng khá cấp tiến, tài ăn nói hùng biện rất xuất sắc, yêu thích tham gia mọi hoạt động thể thao và là một trong những thành viên cốt cán tham gia phong trào Hồng Vệ binh sớm nhất.



Vì Hạ Thiết Đông là người có tấm lòng hào phóng quảng đại, tính tình trung thực, trọng chữ tín, dám làm dám chịu, thêm vào đó văn võ song toàn, lúc nào cũng hừng hực sức sống, tầm hiểu biết lại rất rộng. Bất kể chuyện quốc gia đại sự hay tình hình thế giới, chẳng lĩnh vực nào anh ấy không thông tỏ. Hơn thế nữa, anh ấy lại rất coi trọng nghĩa khí, đọc làu làu các tác phẩm của Karl Marks, Lê nin, Mao Trạch Đông cùng các tác giả nổi tiếng trong và ngoài nước khác, ví dụ như thơ của Puskin, bất kể nói đến đoạn nào anh ấy đều có thể thuộc lòng như cháo chảy. Không chỉ vậy, anh ấy còn sở hữu khí chất đặc biệt của kẻ lãnh đạo được đám đông, bởi thế xung quanh luôn có rất nhiều anh em muốn đi theo.



Năm Tư Mã Khôi và La Đại Hải mười ba tuổi, hai cậu từng theo anh Thiết Đông lúc đó mới từ Hồ Nam trở về tham gia phong trào Hồng Vệ binh do sinh viên tổ chức, từng đi con đường trường chinh, lại lên núi Cảnh Cương. Trong suốt thời gian hơn nửa năm đó, họ đã được mở rộng tầm mắt, trưởng thành lên và trải nghiệm thêm rất nhiều điều, hai cậu thường nghe vị đại ca lớn tuổi này giảng giải không ít về “Chân lý cách mạng”. Khi đó, Hạ Thiết Đông nói với bọn họ: “Chỉ kẻ nào dám đương đầu với mạo hiểm và vất vả thì kẻ đó mới mong thành đại sự”. Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của Hạ Thiết Đông đến nỗi bất kể những gì anh nói họ đều tin là điều tất nhiên. Tự đáy lòng, hai đứa trẻ sùng bái anh chẳng khác nào thần tượng.




Sau này, chủ tịch Chu Ân Lai ra chỉ thị mới, phong trào Hồng vệ binh cuối cùng cũng được hạ màn trên phạm vi toàn quốc, Hạ Thiết Đông trở về Bắc Kinh, còn Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại phiêu dạt nơi đầu đường xó chợ trên dải dất Trường Sa, hai bên kể từ đó đứt liên lạc với nhau. Chỉ nghe phong thanh Hạ Thiết Đông vì nguyên nhân nào đã đó đã cuốn vào một sự vụ chính trị rất nghiêm trọng. Tuy rằng chưa đến nỗi bị kết án nhưng tiền đồ sáng lạn của anh ấy coi như hoàn toàn tiêu tan thành mây khói. Năm ngoái anh bị đẩy xuống một vùng quê nghèo khó thuộc tỉnh Thiểm Bắc.



Nhưng hai ngày trước, Hạ Thiết Đông cùng hai thanh niên trí thức khác, một nam một nữ, tất cả ba người bọn họ chạy trốn về lại quê nhà. Anh không dám lộ mặt ra phố nên đành nhờ Hạ Cần giúp mình tìm lại những bạn bè bằng hữu khi xưa rồi triệu tập họ lại, nói rằng anh muốn gặp mặt mọi người, sau đó dự định sẽ vượt biên giới rời khỏi Trung Quốc, cả đời này không chừng chẳng còn cơ hội sống sót mà quay trở về cố hương.



Hạ Cần biết mối giao tình giữa Hạ Thiết Đông và hội Tư Mã Khôi rất tốt, vì thế cô nàng lo lắng với hạng người có tính cách vô thiên vô pháp như cậu không những chẳng thể khuyên nhủ anh Thiết Đông đi theo lẽ phải mà ngược lại còn đâm đầu đi theo anh ấy trốn ra nước ngoài cũng nên, bởi vậy cô nàng cứ mãi do dự không quyết, cuối cùng chẳng thể giấu được hơn mới đành thổ lộ ra mọi chuyện.



Tư Mã Khôi nghe xong câu chuyện liền nói với Hạ Cần: “Tiểu Hạ! cậu đa nghi quá đấy thôi, anh họ cậu là người như thế nào, bọn tớ rõ hơn ai hết, anh ấy tuyệt đối không thể nào trở thành kẻ hàng giặc phản quốc. Cậu cứ nghe tên của anh ấy là biết, Hạ Thiết Đông, Thiết là sắt đá, Đông có nghĩa Mao Trạch Đông, ý nói anh ấy một lòng sắt đá đi theo tư tưởng của Mao Trạch Đông, người như vậy làm sao có thể trốn ra nước ngoài đầu hàng kẻ địch? Cho dù bị cậu chặt đầu, bọn tớ cũng cóc tin”.



Hải ngọng cũng hoàn toàn tán thành quan điểm của Tư Mã Khôi: “Bản lĩnh của Lâm Xung lớn đến cỡ nào, thế mà muốn đến Lương Sơn Thủy Bạc làm anh hùng thảo khấu vẫn phải giết một mạng người cắt đầu về nạp cho Tống Giang làm khế ước sinh tử, chứ anh Thiết Đông bây giờ chẳng qua chỉ là một thanh niên trí thức lên rừng núi, xuống nông thôn, lại chẳng biết gì về chuyện cơ mật quốc gia, cho dù anh ấy có toan tính hàng giặc phản quốc thật đi chăng nữa, có lẽ người ta cũng chẳng buồn cho anh ấy chơi cùng”. Hai người nghĩ vậy liền lập tức quyết định, phải nhanh chóng đến chỗ anh Thiết Đông gặp mặt một chuyến.



Chạng vạng chiều ngày hôm đó, Tư Mã Khôi dẫn theo mấy đồng chí ngày trước cùng tham gia phong trào Hồng Vệ binh cùng với Hạ Thiết Đông vượt sông vào thành phố. Trong một ngôi nhà dân đơn sơ gần nghĩa trang liệt sĩ, bọn họ đã gặp lại anh cả Hạ Thiết Đông – người đã chia ly từ nhiều năm trước.



Hạ Thiết Đông đen hơn trước rất nhiều, người cũng gầy đi trông thấy, vẻ mặt ưu tư nhưng những ngày lao động nặng nhọc dưới ánh nắng chói chang của mùa hè ở vùng nông thôn Thiểm Bắc đã khiến cơ thể của anh trở nên vô cùng rắn rỏi. Nhìn thấy những vị tiểu huynh đệ ngày nào còn lẽo đẽo bám theo chân mình, giờ đã trưởng thành, trong lòng anh cảm thấy rất đỗi vui mừng. Hạ Thiết Đông giơ tay bắt chặt lấy tay của Tư Mã Khôi và La Đại Hải theo phương thức giao thiệp giữa người lớn với nhau. Niềm vui ngày gặp mặt khó lòng cưỡng chế khiến khóe mắt của cả ba người đều hoe hoe đỏ và nhòe nước. Họ nhìn nhau một hồi lâu mà chẳng thốt nên lời.



Tiếp sau đó rất nhiều thanh niên lũ lượt kéo nhau đến, khiến căn phòng vốn dĩ không rộng rãi cho lắm giờ chở nên chật cứng. Bọn họ đều là bạn học hoặc đồng chí tốt của anh Thiết Đông. Mọi người tụ hợp nhau lại chẳng khác nào giờ họp của đội sản xuất nhà máy, họ ngồi quây quần rôm rả hàn huyên đủ thứ chuyện. Tuổi đời của hội mấy người Tư Mã Khôi nhỏ hơn bạn bè của Hạ Thiết Đông một chút nên khi lọt thỏm giữa bọn họ, mấy cậu trông chẳng khác nào lũ đàn em ngồi chầu rìa.



Hạ Thiết Đông nhìn thấy rất nhiều bạn cũ năm xưa, tâm trạng càng trở nên kích động mãnh liệt. Sau một hồi cảm khái, anh liền kể cho mọi người nghe ngọn nguồn câu chuyện. Năm 68, anh bị đẩy đến Diêm Vương câu ở Thiểm Bắc, lúc đầu còn cảm thấy mình xuống nông thôn để rèn luyện bản thân, chấp nhận việc tái giáo dục từ thành phần bần nông, nhưng sau khi đến đó mới dần dần phát hiện ra, nơi đó căn bản không hề hoan nghênh các anh, bởi vì đất đai vùng ấy nghèo nàn, bất luận có tăng cường lực lượng lao động cho đội sản xuất thêm bao nhiêu chăng nữa thì sản lượng thu hoạch một năm vẫn chỉ có ngần đó. Đa số thời gian của mọi người dùng vào việc ngồi trông chờ vào sự ban ân của trời đất. Điều này cách xa với lý tưởng nhân sinh của Thiết Đông, bởi thế chẳng đợi được một năm, anh đã cảm thấy không thể nào tiếp tục kéo dài kiếp sống mòn mỏi ở nơi đây. Hơn nữa, chỉ cần nghĩ cả đời phải bám rễ ở nơi hoang vắng thê lương đến độ chim chẳng buồn ị *** này là anh không thể nào chấp nhận nổi hiện thực tàn khốc.



Tuy rằng Hạ Thiết Đông là người tài hoa xuất chúng nhưng loại người này cũng có một nhược điểm rất rõ rệt, đó là trạng thái chủ nghĩa lý tưởng quá trầm trọng, anh ấy cũng giống như đa số thanh niên đương thời lúc nào cũng tràn đầy khí thế và lòng nhiệt huyết với cách mạng thế giới, đồng thời cảm thấy việc khai hoang trồng trọt trong nước khó lòng giúp họ làm nên trò trống gì, bởi thế liền hạ quyết tâm cùng hai đồng chí chạy trốn về quê nhà. Anh nói với mọi người kế hoạch mai sau của mình: “Nơi này không trọng ông thì khác có chỗ trọng ông, nếu chẳng nơi nào trọng ông, thì ông sẽ đầu quân cho Bát Lộ, thay vì ngồi nhà chơi lông bông, liên lụy đến mẹ cha, chi bằng nhân lúc này hòa mình vào dòng hồng thủy của cách mạng thế giới”.



Đám người La Đại Hại đều mong ngóng được tận tay sờ vào súng thật đạn thật từ lâu, nhưng bọn họ lại chẳng hiểu ý tứ trong lời hiệu triệu của Hạ Thiết Đông, nên đứng bên cạnh hỏi: “Lũ quỷ Nhật Bản ác ôn đã sớm đầu hàng tận năm nào rồi, bây giờ làm gì còn nơi nào tồn tại Bát Lộ quân nữa hả anh?”




Hạ Thiết Đông giải thích: “Tuy rằng về cơ bản chủ nghĩa Phát xít đã bị sụp đổ nhưng dân chúng lao khổ chiếm hai phần ba tổng dân số trên toàn thế giới thì vẫn còn đó, họ vẫn bị hầm da nấu thịt trong cảnh nước sôi lửa bỏng của cuộc sống cũ. Chừng nào chủ nghĩa đế quốc chưa hoàn toàn bị diệt vong, thì nhân dân toàn thế giới chừng đó vẫn không thể hưởng thụ cuộc sống tươi đẹp”.



Đa số mọi người có mặt tại hiện trường nghe mấy lời ấy đều cảm thấy không vững tin cho lắm: “Lão Mỹ người ta là một siêu cường quốc, nếu chỉ dựa vào mấy người lẻ tẻ bọn ta qua đó, sợ rằng chẳng thể giải phóng nổi giới cần lao. Hơn nữa, cứ cho bọn ta có đủ quyết tâm đấu tranh thì cũng chẳng tìm đâu ra thuyền và vũ khí. Đừng nói đến tên lửa, đại bác, máy bay ném bom, ngay cả một con dao thái rau bây giờ bọn ta cũng chẳng kiếm nổi. Chắc anh không định để chúng ta mỗi người dắt lưng vài ba quả lựu đạn rồi trèo lên chiếc thuyền đánh cá vượt Thái Bình Dương đi đánh Mỹ chứ hả?”



Hạ Thiết Đông lại nói: “Siêu cường quốc chẳng qua chỉ là con hổ giấy, chẳng có gì đáng sợ, quân Mỹ tàn bạo nhưng nhu nhược, tất cả chỉ dặt lũ lính con nhà giàu. Hơn nữa không phải toàn bộ người Mỹ đều là dân tư bản, 99% trong số họ cũng là giai cấp lao động bị bóc lột, chúng ta có thể dùng tư tưởng của Mao Trạch Đông võ trang cho anh em công nông binh và giai cấp vô sản ngay trong lòng địch, kích động bọn họ giơ cao ngọn cờ “Tạo phản nội bộ”, chỉ cần làm được công tác trong ứng ngoài hợp, cộng với việc Fidel Castro trong hậu viện của Mỹ cùng chúng ta kẻ trước người sau khép chặt gọng kìm thì chẳng có gì phải lo không đánh đổ được đế quốc Mỹ. Có điều… trước mắt lực lượng của chúng ta quả thật vẫn còn rất yếu mỏng, nếu trực tiếp vượt Thái Bình Dương xâm nhập vào lãnh thổ nước Mỹ thì e không được thực tế cho lắm. Nhưng chẳng phải đế quốc Mỹ đang xâm lược Việt Nam láng giềng đó sao? Tôi thấy chi bằng chúng ta đi chi viện cho nhân dân Việt Nam, đến vùng rừng rậm nhiệt đới tham gia đánh du kích, cùng quân Mỹ tỉ thí một chuyến xem sao, đợi đến ngày thắng lợi khải hoàn, vinh quang thái lai, thì chúng ta có thể khiến người trong nước phải nhìn mình bằng con mắt khác, xem chúng ta rốt cục là nhà cách mạng chân chính hay cách mạng giả dối”.



Những thanh niên này tuy rằng trong lồng ngực tràn đầy nhiệt huyết và hùng tâm tráng chí nhưng lại chẳng thèm biết trời cao bao nhiêu, đất dày mấy tấc. Hạ Thiết Đông vừa dứt lời lập tức có vài người đồng thanh hưởng ứng: “Những nhà cách mạng vô sản tiền bối đã dùng thời gian 28 năm để tạo ra một Trung Quốc mới thì hà cớ gì chúng ta không thể dùng 28 năm tiếp theo để giải phóng toàn nhân loại?”



La Đại Hải lại càng là hạng người chỉ lo thiên hạ bất loạn, có đám náo nhiệt thế này làm gì có chuyện cậu ta chịu ngồi yên trong nhà. Hơn nữa khu Hắc Ốc cũng sắp bị giải tỏa đến nơi, nếu bọn họ ở lại thành phố, thì trước cuối năm nay kiểu gì cũng bị tống xuống vùng nông thôn cải tạo lao động.



Tuy nói rằng làm cách mạng không phân biệt sang hèn cao thấp, hàng triệu quân giải phóng chỉ cần rời khỏi sự trợ giúp tích cực của anh em nông dân là lại quay về con đường cũ, nhưng trên thực tế chẳng ai tình nguyện sống cuộc sống bán lưng cho đất bán mặt cho trời như vậy cả đời. Lúc bấy giờ trong tâm trí của hàng ngũ thanh niên trí thức chỉ có trở thành quân nhân mới là sự nghiệp thần thánh vinh quang nhất. Đã không thể làm lính trong nước thì sang Việt Nam đánh trận cũng là một con đường thoát thân, dù sao thì người cầm súng vẫn mạnh hơn kẻ cầm cuốc. Bọn họ lại suy ngẫm anh em mình từ ngàn dặm xa vất vả đến Việt Nam chi viện cho sự nghiệp giải phóng của nhân dân nước láng giềng, cho dù chẳng có công lao cũng có khổ lao. Hơn nữa nếu luận về kinh nghiệm chiến thuật và lý luận chiến lược thì người Trung Quốc chúng ta chính là bậc thầy của họ, từ cổ chí kim hai bên từng đánh nhau hàng ngàn năm, xét về thứ bậc đương nhiên chúng ta là anh cả, giờ sang Việt Nam, kiểu gì họ chẳng bố trí cho chúng ta chức vụ đại loại như sư đoàn trưởng hay chí ít cũng là trung đoàn trưởng.



Tuy rằng Tư Mã Khôi từng sống ở Bắc Kinh mười mấy năm, ngày ngày cũng đến trường đi học nhưng từ nhỏ đã được Văn Võ tiên sinh thu nạp truyền nghệ, lại chịu ảnh hưởng rất sâu sắc bởi hoàn cảnh gia đình, kết cấu tư duy của cậu không phải là kết cấu tư duy được hình thành dưới mô thức giáo dục đơn nhất, bởi vậy cậu không hoàn toàn tán đồng với kế hoạch mà Hạ Thiết Đông vừa nói hôm nay. Có điều Tư Mã Khôi là người vô cùng coi trọng hai chữ “nghĩa khí”, hội La Đại Hải đều đã quyết định theo chân Hạ Thiết Đông đến Việt Nam tham chiến thì cậu cũng không thể để mình tụt hậu lại phía sau, hơn nữa rời khỏi Hắc ốc, cậu cũng chẳng còn chốn dung thân. Thế là Tư Mã Khôi liền quyết định theo mọi người cùng đến Việt Nam.



Những người lựa chọn đến Việt Nam đa số đều là con em có cha mẹ mắc tội hữu khuynh, không nhà không cửa, tương lai mờ mịt, trừ một vài người cá biệt không dám đi ra thì mọi người đều tự viết một bức huyết thư thể hiện lòng quyết tâm cao độ, sau đó đập nồi niêu bán sắt vụn, gom tiền vào làm lộ phí, cùng nhau bỏ nhà cất bước sang xứ người.



Hạ Cần thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải quả nhiên đi theo mọi người, trong lòng không tránh khỏi cảm giác hối hận muộn màng. Trong lúc tiễn biệt, cô nàng còn muốn khuyên nhủ bọn họ hồi tâm chuyển ý nhưng Tư Mã Khôi đâu chịu nghe người khác khuyên bảo. Cậu biết Hạ Cần là người rất kín miệng, không bao giờ tiết lộ với người ngoài kế hoạch bí mật của cả nhóm, nên cũng chẳng cần thiết phải dặn dò thêm điều gì. Tư Mã Khôi lại nghĩ đến việc giờ đây phải rời xa cố hương sang nước người đánh nhau với quân Mỹ trong làn mưa rơi lửa đạn đâu phải chuyện đùa, súng đạn vô tình, lành ít dữ nhiều, ngộ nhỡ trở thành thây ma chốn sa trường thì cả đời này chẳng về nổi tổ quốc cũng nên. Người ta ai cũng khó lòng rời bỏ quê mẹ, nên cậu đương nhiên không tránh khỏi cảm giác bùi ngùi lưu luyến, trong lúc thần trí trở nên bấn loạn, tâm sự trĩu nặng, những lời định nói ra đều quên khuấy mất.



Hạ Thiết Đông dẫn theo hai mươi mấy bằng hữu tiễn biệt người ở nhà trong dòng nước mắt chia ly. Cả đoàn lặng lẽ lên đường, vượt ngàn dặm Nam tiến. Trên đường đi, mọi người gặp phải biết bao sóng gió gập ghềnh, khó khăn không thể diễn tả hết bằng lời. Có điều vất vả lắm mới đến được biên giới Việt Trung, rồi lẻn qua cửa khẩu Hữu Nghị, đặt chân lên lãnh thổ Việt Nam, vừa nhìn thấy cảnh tượng khói lửa ngụt trời, máy bay ném bom của không quân Mỹ gầm rít ầm ầm khắp vòm trời miền Bắc Việt Nam khiến cả đoàn mãn nhãn đúng như mong đợi, trong lòng ai nấy đều dấy lên ý chí muốn quyết chiến sống mái một phen với quân thù, vừa định xông ra tiền tuyến tham gia chiến đấu, ngờ đâu tráng chí vẫn chưa được báo đáp, chẳng ai kịp nhìn tận mắt đại binh nước Mỹ trong truyền thuyết mặt mũi trông thế nào thì lại gặp ngay phải mấy đồng chí công an Bắc Việt. Mấy đồng chí ấy thấy cả đoàn đều mặc trang phục quân nhân nhưng lại chẳng đeo hàm hiệu gì cả, liền cho rằng họ là quân giải phóng đào ngũ đang chạy nhầm hướng, lập tức bắt tất cả đem nhốt lại mà chẳng cần hỏi han ngọn nguồn đen trắng gì sất. Do hai bên bất đồng ngôn ngữ, giải thích thế nào các đồng chí ấy cũng lắc đầu không hiểu. Thế là cả đoàn bị nhốt trọn một đêm trong song sắt.




Ngày hôm sau họ trói gô tất cả mọi người lại như trói lợn, rồi đem áp giải trở về Trung Quốc.



Đám người trẻ tuổi ấy sau khi trả về nước, trước tiên bị đem ra thẩm vấn một chập, sau đó được trực tiếp điều phối đến nông trường Vân Nam để cải tạo lao động. Khi đến nông trường lao động, họ nghe được một thông tin, nói là Miến Điện cũng đang đánh nhau, hơn nữa trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, đầu người đều bị mang ra đánh như đầu chó. Ở Vân Nam có rất nhiều thanh niên trí thức từng chạy đến đó gia nhập hàng ngũ quân đội cộng hòa nhân dân Miến Điện. Miến Điện Cộng Hòa luôn nồng nhiệt chào đón người Trung Quốc, bất luận họ thuộc thành phần gì chăng nữa, cũng chẳng ai hỏi thân phận cao thấp sang hèn, lập tức phát súng thật cho mình, muốn chọn súng ngắn hay súng trường tùy sở thích, xưởng thuốc súng mở toanh mặc kệ ai muốn dùng bao nhiêu thì dùng. Tuy rằng ở đó không có máy bay rải bom nhưng hỏa tiễn anti-tank AT4, pháo cao xạ, súng máy hạng nặng thì muốn bao nhiêu cũng có, bọn họ còn thành lập “doanh trại đặc vụ thanh niên trí thức”. Đó là một nhóm bộ đội lập được rất nhiều công trạng lớn lao, khiến bọn địch sợ vỡ mật.



Hội Hạ Thiết Đông vẫn chưa được tham gia chiến đấu ở Việt Nam, trong lòng ai nấy đều cảm thấy không cam tâm, vừa nghe nói tình hình chiến sự ở Miến Điện như vậy, mọi người đều vô cùng ngứa ngáy chân tay. Cả nhóm chụm đầu bàn mưu tính kế, thấy rằng nông trường được bảo vệ rất lỏng lẻo, nên đều quyết định sẽ lẻn trốn ra ngoài một lần nữa. Thế là họ từ Vân Nam âm thầm xuất cảnh, vượt dòng Nô Giang tham gia quân đội nhân dân của tổ chức Cộng hòa Miến Điện.



Từ khi đến Miến Điện, Hạ Thiết Đông tham gia tất cả hàng trăm trận chiến lớn nhỏ, tuy rằng anh chỉ mới hai mươi mấy tuổi đầu nhưng do trình độ văn hóa tương đối cao lại được tôi luyện nhiều năm từ các bộ phim nội chiến trong nước, vì thế tầng kiến thức và lý luận về chiến thuật chiến lược của anh có thể nói là không thầy mà tự hiểu, tác chiến vô cùng anh dũng, đương nhiên được sự trọng dụng của quân đội Miến Điện. Những chiến hữu này đều tụng xưng anh ấy là Che Guevara của Trung Quốc.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải luôn sát cánh bên cạnh anh Hạ Thiết Đông, trong suốt cuộc chiến tranh tanh mùi máu kéo dài suốt bao nhiêu năm, họ đã trải qua vô số lễ rửa tội của máu và lửa, từ cuộc hành quân trinh sát hiểm nguy mai phục tứ phía đến cuộc đấu tranh sinh tồn vô cùng gian khổ nơi hoang dã, từ việc đối diện với màn mưa rơi lửa đạn trên chiến trường đến những áp lực tinh thần khó lòng chịu đựng sau khi sống sót. Tất cả nỗi khiếp sợ, hoảng loạn trong chiến tranh dường như đều giáng xuống đầu họ, giúp họ sớm rèn luyện được phẩm chất độc lập đương đầu với thực tế, kiên gan trước cục diện tàn khốc sau này. Trong hậu kỳ cuộc chiến tranh, bộ đội Cộng hòa Miến Điện liên tiếp bại trận, nội bộ quân đội nhân dân xảy ra mâu thuẫn gay gắt, liên đới lẫn nhau, phạm vi khống chế càng ngày càng bị thu hẹp, tình hình trở nên vô cùng khó khăn. Cuối cùng tiểu đội của Tư Mã Khôi cũng bị đại đội quân chính phủ vây bắt và dồn vào ven rìa khu rừng rậm bí ẩn của núi Dã Nhân nằm ở phía bắc Miến Điện.



Những chiến hữu rời bỏ đất nước theo chân Hạ Thiết Đông sang Miến Điện năm đó, giờ đây người thì chết trận, kẻ thì mất tích trong khi chiến đấu, số người sống sót chẳng còn bao nhiêu, vì thế tất cả đành phải rút lui vào núi đánh du kích. Trong một lần đi trinh sát, Hạ Thiết Đông dính trọng thương rồi bị địch bắt sống, sau đó anh bị chúng hành hình tàn khốc bắt đem đi chôn sống, đến nay ngay cả thi thể cũng không tìm thấy.



Tàn dư của đội du kích chỉ còn khoảng bốn mươi mấy người, cả ngày chạy tháo mạng mệt không kể xiết, cuối cùng phải lui về gần núi Dã Nhân. Bọn họ không chỉ thiếu thốn lương thực đạn dược mà ngày nào cũng phải đối mặt với thương vong chết chóc. Cho dù bản lĩnh của hội Tư Mã Khôi có giỏi giang hơn nữa thì giờ khắc này cũng khó lòng xoay chuyển được đại cục.



Quân chính phủ đã sớm coi nhóm người này là cái gai trong mắt, chúng treo giải thưởng lớn cho người nào cắt được thủ cấp tên cầm đầu. Tuy rằng bọn chúng không dám mạo hiểm vào sâu trong núi Dã Nhân Bắc Miến để truy bắt nhưng lại điều động một lực lượng lớn binh sĩ phong tỏa khắp các cửa núi. Mục đích của họ là dồn tất cả các thành viên còn lại của đội du kích vào núi sâu rừng thẳm, nhốt sống trong đó cho đến chết.



Núi Dã Nhân là một khu vực vô cùng nguy hiểm và thần bí đến khó lường. Dải địa hình của nó cực kỳ phức tạp, hệ thực vật trong rừng nguyên sinh um tùm rập rạp dị thường, quanh năm mây mù che phủ, không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời. Bởi vậy nơi đây được mệnh danh là “địa ngục chốn rừng sâu”. Thời tiết luôn luôn ẩm ướt, oi bức tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh dịch phát triển tràn lan, côn trùng độc sinh sôi nảy nở, muỗi vắt nhiều vô số, bất kể loài nào trong số chúng đều có thể hút cạn máu người thành xác khô ngay trong phút chốc. Tương truyền, rừng rậm còn là nơi ẩn náu của yêu quái “Phi đầu man” (loại yêu quái thường xuất hiện dưới hình hài con người, ban đêm đầu và cơ thể tách rời nhau, phần đầu đi khắp nơi săn mồi), nó có thể nuốt chửng một con mãng xà dài mười mấy mét, còn biết phun sương tạo mây. Trên cạn đã vậy, dưới nước lại là nơi cư ngụ của từng bầy từng đàn cá ăn thịt người, bởi thế chẳng ai vào núi mà dám cả gan đến gần ao hồ sông suối. Từ xưa đến nay, chưa một người nào có thể sống sót trở về sau khi lạc bước đến chỗ này. Hiện giờ, đội du kích rút chạy về đây thì rơi vào tuyệt lộ. Họ chịu sự kìm kẹp đồng thời từ cả hai phía trong và ngoài, cho dù chọn cách phá vòng vây hay trốn vào núi sâu thì kết cục cuối cùng vẫn khó lòng thoát khỏi bàn tay thần chết.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: Karaweik


Trong lần đột phá vòng vây ác liệt sau cùng, vai trái của Tư Mã Khôi bị mảnh lựu đạn cầm tay găm vào trọng thương, mảnh đạn tuy không lớn lắm nhưng đâm sâu vào tận xương khiến máu không ngừng chảy ra, may mà La Đại Hải quên mình lao ra cõng anh quay trở về mới giữ được mạng sống. Có điều trong rừng rậm núi sâu thế này lại thiếu thốn thuốc men nên không đủ điều kiện để làm phẫu thuật.



Tuyệt là người duy nhất trong đội du kích am hiểu về y thuật. Cô là người Hồ Nam, thân hình gầy guộc, tâm địa lương thiện, ưa sạch sẽ, cho dù lâm vào tình cảnh trốn vào rừng sâu núi thẳm tháo chạy khỏi tay bọn lính truy sát thì cô vẫn cố gắng thu vén để bản thân trông gọn gàng ngăn nắp nhất có thể. Sau khi tốt nghiệp trung học, cô cũng lên rừng núi, xuống nông thôn như bao thanh niên trí thức khác, đồng thời cũng là một trong những thành viên theo chân anh Thiết Đông trốn chạy khỏi Vân Nam năm đó. Trong quá trình tham gia cải tạo lao động, cô từng làm bác sĩ bấm huyệt chân, vì thế hiểu được đôi chút về cách điều chế thuốc, đặc biệt cô có tài nắn xương cho người khác.



Cố nội nhà cô tên là Tô Lão Nghĩa, cụ là một tín đồ theo đạo Thiên chúa, hiểu biết khá nhiều về tiếng tây, thời Dân Quốc, cụ còn học được mấy tuyệt chiêu thủ thân từ người Pháp. Ngoại trừ nội khoa và ngoại khoa ra, cụ còn học được món kỹ thuật nắn xương. Nếu có ai bị thương gẫy xương, cụ Tô Lão Nghĩa chẳng cần phẫu thuật, mà chỉ cần dùng tay nắn nắn mấy cái là biết ngay thương thế nặng nhẹ ra làm sao, ví dụ như gẫy mấy chiếc xương, mức độ gẫy nghiêm trọng đến mức nào. Sau đó cụ nắn hai xương vào nhau cho thật khớp rồi đắp thuốc lên trên, lấy thanh gỗ hoặc nẹp tre nẹp chắc, lại dùng băng vải cuốn chặt xung quanh, cuối cùng cụ cho bệnh nhân uống mấy viên thuốc. Kẻ bị thương sau khi được cụ chữa trị sẽ hồi phục như trước, không để lại bất kỳ dấu hiệu tàn phế nào, ngay cả những hôm trái gió trở trời cũng chẳng hề bị đau nhức.



Tuyệt có thể coi là truyền nhân dòng họ Tô, cô được truyền thụ lại kỹ thuật nắn xương nổi tiếng của gia đình, nhưng trong thời gian diễn ra cách mạng văn hóa, cô cũng bị liên lụy bởi cố nội, vì thế chưa kịp trở thành bác sĩ quân y, cô đã bị đẩy xuống vùng nông thôn khi chưa tròn mười sáu tuổi. Năm đó anh Thiết Đông thấy cô còn ít tuổi, thân hình lại gầy gò, mỏng manh nên thường làm giúp những công việc nặng nhọc cần dùng nhiều đến sức lực, sau đó mọi người chạy trốn khỏi Vân Nam cũng dẫn cô theo cùng. Bắt đầu từ ấy, Tuyệt trở thành “bác sĩ quân y” kiêm “liên lạc viên” cho bộ đội Cộng hòa Miến Điện.



Sau khi xem xét tình hình thương thế của Tư Mã Khôi, Tuyệt phát hiện nếu không nhanh chóng phẫu thuật gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể thì có khả năng sẽ dẫn đến việc mất quá nhiều máu mà nguy hiểm đến tính mạng. Thế là cô lập tức bắt tay chuẩn bị, đồng thời quay sang hỏi Tư Mã Khôi xem anh có chịu đau nổi không?



Sau khi Hạ Thiết Đông mất đi, trong lòng Tư Mã Khôi không lúc nào ngớt đau buồn, cộng thêm vết thương trên vai máu chảy như tháo cống khiến khuôn mặt anh trở nên tái nhợt, nhưng không muốn để mọi người lo lắng nên vẫn gắng gượng nói cứng với Tuyệt: “Cô đúng thật là! Muốn xử lý cái thân này thế nào thì cứ làm đi, nếu tôi mà có rên “hừ” lên một tiếng thì cứ để người ta xông vào đánh cho thỏa tay”




La Đại Hải đứng bên cạnh lo lắng nói: “Tiên sư nhà cậu, chẳng biết sống chết gì sất, cậu tưởng mình là Quan Công chắc, cạo xương trị độc mà chẳng thèm nhăn mày lấy một cái. Đến lúc không thể chịu được nữa thì cậu cứ việc thoải mái gào thét, ở đây cũng chẳng có ai mà lo mất thể diện, hay là để tớ đi kiếm thanh gỗ cho cậu cắn mà mài răng nhé!”



Tư Mã Khôi nghiến chặt răng rồi nói: “Thực ra chuyện Quan Vân Trường cạo xương trị thương cũng chẳng phải điều gì ghê gớm lắm, trong lịch sử còn có nhiều nhân vật hổ báo hơn ông ấy nhiều. Thời kỳ dấy lên cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, rất nhiều tướng lĩnh bị quân địch bắt sống phải chịu cực hình tùng xẻo, khổ hình này đúng là từng dao từng dao cắt dần từng miếng thịt trên cơ thể xuống nhưng làm gì có ai được bôi thuốc tê? Người ta còn ghi chép rõ ràng về hai vị tướng, một người tên Lâm Phụng Tường, còn người kia là Thạch Đạt Khai. Lâm Phụng Tường bị trói ở cổng chợ chịu hình. Trong quá trình chịu cực hình, mặc cho máu chảy ròng ròng đầm đìa khắp cơ thể nhưng ánh mắt vẫn nhìn chừng chừng theo động tác dao của tên tùng xẻo đưa qua đưa lại trên người mình, ánh mắt chăm chú đến nỗi khiến tên kia phải cảm thấy ghê tay. Còn Thạch Đạt Khai bị quân Thanh xử tùng xẻo ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên, đầu tiên ông bị cắt rời tứ chi sau đó cắt đứt cổ họng nhưng từ đầu chí cuối thần thái họ Thạch vẫn điềm nhiên, chẳng hề giống với kẻ đang bị chịu cực hình, mà ngược lại giống như đang được tắm gội trong bồn tắm nước nóng dễ chịu. Chết như thế quả đúng như xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, đó mới là khí khái của người anh hùng”.



La Đại Hải biết chẳng thể nào giận dữ với anh được, liền lắc đầu bảo: “Cái thằng này đúng là đồ Hồ ly gặm bình trà, nói xuôi cũng được nói ngược cũng xong – Miệng toàn chữ là chữ”.



Tuyệt nói với Tư Mã Khôi: “Cậu cũng đừng cố gượng quá làm gì, khi nãy tôi cũng vừa tìm thấy mấy cây “Quỷ tu tử” ở gần đây, loại cỏ dại này có tác dụng giảm đau nhất định nhưng vẫn rất đau đấy, cậu ráng chịu nhé!”



Tư Mã Khôi không nói thêm câu gì, cố gắng nén cơn đau để Tuyệt gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể, trên trán đọng từng giọt mồ hôi to như hạt đỗ xanh nhưng anh vẫn kiên cường, từ đầu chí cuối không hề kêu rên một tiếng nào.



Tay nghề phẫu thuật của Tuyệt phải nói vô cùng cao siêu, từng động tác chính xác mà nhanh thoăn thoắt, chẳng đầy mấy phút đã gắp được mảnh đạn ra. Sau khi lấy tro cỏ khử trùng, cô liền xử lý băng bó vết thương. Đợi khi hoàn tất mọi việc, khóe mắt cô liền đỏ lên, hoen hoen nước, rồi chẳng cầm lòng được thêm, nước mắt thi nhau tuôn chảy.



Tư Mã Khôi nhịn đau hỏi: “Sao Tuyệt lại khóc?”



Tuyệt cúi đầu, dùng tay quệt ngang dòng nước mắt đầm đìa trên má: “Khi nãy tôi nhớ lại việc lúc chúng ta rời khỏi đất nước, cả đoàn hào hùng như thế, vậy mà giờ đây chỉ còn sót lại ba người bọn mình”.



Nhắc đến việc này, cả Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều trùng lòng xuống, rất nhiều anh em bằng hữu phải bỏ mạng ở vùng đất Miến Điện này, hơn nữa cái chết của họ không những chẳng lãng mạn, oanh liệt chút nào mà còn hoàn toàn vô nghĩa. Họ âm thầm nằm lại trên mảnh đất lạnh lẽo nơi xứ người, vĩnh viễn không thể trở về cố hương, còn người thân ở nhà từ nay cũng chẳng biết tông tích của họ lưu lạc chốn nào mà tìm.



La Đại Hải trầm ngâm hồi lâu, mãi mới lắc đầu than thở: “Tớ nghĩ mãi vẫn không ra, lúc bắt đầu khởi binh, thanh thế của Miến Điện Cộng hòa đúng là thắng như chẻ tre, dường như sắp đánh đến ngày thắng lợi khải hoàn đến nơi, ấy thế mà sau này nói hỏng là hỏng hẳn, tốc độ tan rã còn rách nhanh hơn cả giấy dán diều”. Tư Mã Khôi bất lực nói: “Đây vốn dĩ không phải đất làm cách mạng, vì thiên không thời, địa không lợi, nhân không hòa. Tớ thấy cho dù Guevara có tái thế mà bị quăng vào cái xó này thì cũng chẳng thể làm nên trò trống gì”.



Nhân thời khắc nghỉ ngơi ngắn ngủi giữa cuộc chiến đấu, ba người liền ngồi phân tích cục diện đang phải đối đầu trước mắt, quân đội nhân dân Cộng hòa Miến Điện cho đến thời điểm này, thì thực tế chỉ còn mỗi hư danh mà thôi, đội du kích lẻ tẻ mấy người bọn họ khó mà làm nên kỳ tích gì. Hơn nữa tàn dư của quân đội chính quy đều hợp nhất với quân đặc phái vũ trang của địa phương để trở thành quân đội quân phiệt chiếm cứ mỗi người một phương, họ trồng anh túc, buôn bán vũ khí quân đội, chỉ coi trọng cái lợi của bản thân, không phân biệt tốt xấu gì sất, chẳng chuyện gì họ không dám nhúng tay vào làm.




Các thành viên trong đội du kích do Tư Mã Khôi lãnh đạo, tên nào chạy trốn được thì đã chạy mất tăm mất dạng, những người còn lại đều đang bị quân đội chính phủ phát lệnh truy nã đặc biệt, chỉ cần ló mặt ra là chắc chắn mất mạng, tuyệt đối chẳng có kết cục tốt đẹp nào đón đợi họ ở phía trước, bởi vậy đừng nói đến việc ngồi xuống đàm phán thỏa thuận mà ngay cả buông súng đầu hàng cũng chẳng mong đợi bọn chúng chừa cho một con đường sống. Nay cả đội lại bị nhốt trong núi Dã Nhân, trong không có lương thực, ngoài không có viện binh, nếu định cố thủ tại chỗ chẳng khác nào ngồi đợi thần chết đến rước.



Đội du kích vẫn còn một lựa chọn – chạy sâu vào rừng rậm nguyên sinh trong lòng núi Dã Nhân, nhưng người Miến Điện cứ nhắc đến nơi ấy là “xanh mắt tái mào”, chốn rừng rậm sâu thăm thẳm này không có đường đi, địa hình lại nhấp nhô gồ ghề, môi trường phức tạp khó mà tưởng tượng, chưa kể đến những rừng cây um tùm rậm rạp và đầm lầy trải rộng quanh năm âm u không nhìn thấy mặt trời, thì độc xà ác thú lảng vảng khắp nơi, chẳng biết chúng thình lình xuất hiện lúc nào, chướng khí sương độc bao trùm cả không gian, đã vào thì đừng nghĩ đến chuyện thoát được ra. Mấy năm gần đây, những kẻ mất tích trong đó số lượng nhiều không kể xiết.



Nghe đồn, tính cho đến thời điểm này, lần mất tích lớn nhất phải kể đến đội sư đoàn tàn dư quân Nhật, chúng dễ còn đến hơn hai ngàn tên, bị quân Anh đánh cho không còn đường thoát thân, đành tháo chạy vào một đầm lầy lớn phía sườn nam của núi Dã Nhân, kết quả cả sư đoàn lạc đường, rồi đột nhiên bị vô số đàn cá sấu tấn công, hơn hai ngàn tên lính Nhật được vũ trang đến tận răng mà vẫn trở thành mồi nuôi cá sấu, chỉ có vài tên may mắn sống sót.



Bởi vậy đội du kích Cộng hòa Miến Điện chắc chắn không thể sống sót mà thoát ra khỏi núi Dã Nhân, lùi hàng vạn bước mà nói, cứ cho họ may mắn thoát chết khỏi núi Dã Nhân thì sau đó sẽ ra sao? Bắc Miến chắc không có chỗ cho họ dung thân, chỉ còn cách vượt biên sang Trung Quốc nhưng vài năm trước hội Tư Mã Khôi đều chạy trốn khỏi trại cải tạo lao động để đến đây, nếu bây giờ quay trở về, chẳng cần nghĩ cũng biết kết quả gì đang chờ đợi ở phía trước.



Cơ sự đã đến nước này, La Đại Hải cũng chẳng buồn màng đến sự sống chết, anh dùng mũi dao găm vạch một dấu X lên mặt đất bùn, thể hiện tình hình lúc này “lên trời vô lối, xuống đất vô môn”, sau đó quay sang hỏi Tư Mã Khôi và Tuyệt: “Mọi người rõ cả rồi chứ? Hiện giờ chúng ta rơi vào tình cảnh như vậy đấy!”.



Tư Mã Khôi gật gật đầu, cười đau khổ: “Hiểu, chúng ta ngay cả cơ hội chết rồi đầu thai sang kiếp sau cũng chẳng có nữa là, dù sao thì cũng chết, chỉ còn xem rốt cục bị chết như thế nào mà thôi”.



Tuyệt cũng trầm mặc trong lòng, nhưng bây giờ biết rằng mình chắc chắn sẽ chết không còn nghi ngờ gì nữa, tự nhiên lại cảm thấy điềm nhiên hơn nhiều, cô nói: “Dù sao thì cũng khó tránh khỏi cái chết, tôi chẳng muốn bị bắt sống rồi để mặc cho chúng hành quyết, chúng ta có chết cũng không thể chết trong rừng sâu núi thẳm nơi đất khách quê người thế này được”.



Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng chung suy nghĩ đó. Ba người họ muốn cùng mạo hiểm đi xuyên qua núi Dã Nhân. Nếu mệnh ai lớn có thể sống sót thoát ra ngoài thì sẽ gắng sức nghĩ cách càng về gần Trung Quốc càng tốt, mọi chuyện sau này sẽ nghe theo sự an bài của số phận. Bất luận nói thế nào, về đến tổ quốc cho dù bị bắt, xấu đẹp gì thì cũng rơi vào tay người nước mình, chí ít họ cũng giao cho bộ phận có liên quan thẩm vấn sau đó mới đem đi xử bắn, so ra như thế vẫn tốt hơn để bọn quân phiệt Miến Điện tóm được, lũ người này chẳng thèm hỏi đến câu thứ hai, lập tức kề súng vào sọ, nã đạn cho đến khi óc nở hoa mới thôi.



Ba người nguội lạnh hết cả ý chí, sau khi bàn bạc và xác định phương hướng rõ ràng, liền triệu tập tất cả thành viên còn sống sót bao gồm cả những người bị thương trong đội du kích lại, nói rõ tình cảnh tuyệt vọng mà cả nhóm đang lâm vào và tuyên bố phải phân tán lực lượng để đột phá vòng vây. Cái gọi là “phân tán lực lượng đột phá vòng vây” thực ra chỉ là cách nói khéo để người khác dễ lọt tai, kỳ thực muốn ám chỉ kể từ giờ trở đi, đội ngũ của chúng ta không còn sự ràng buộc về kỷ luật và tổ chức gì nữa, cha chết mẹ đi lấy chồng – ai tự lo thân người nấy.



Thông tin vừa tuyên bố ra, chẳng hề có ý kiến phản đối, bởi vì cả nhóm đều biết việc này sớm muộn gì cũng xảy ra. Sau nghi thức chào tạm biệt trân trọng, mọi người lặng lẽ bước đi theo con đường riêng mà mình lựa chọn. Tuyệt đại đa số thành viên thà bị quân đội chính phủ bắt được đem xử ngũ mã phanh thây, cũng không dám bước chân vào khu rừng rậm.



Nhưng những người quyết định lựa chọn con đường mạo hiểm này, ngoại trừ hội ba người Tư Mã Khôi ra không ngờ còn có thêm một thiếu niên người Miến Điện khoảng chừng mười sáu, mười bảy tuổi. Tên tiểu tử này là đứa trẻ mồ côi không nhà không cửa, cũng chẳng có lấy một cái tên hẳn hoi, người gầy như chú khỉ, khoác tấm saron rách nát, đầu cạo trọc, vẻ mặt ngờ nghệch, cả ngày chỉ trình ra mỗi bộ dạng ngố ngố với nụ cười hềnh hệch thường trực trên môi. Các thành viên trong đội du kích gọi cậu ta là Karaweik hoặc Kara.




Karaweik là từ dùng để chỉ một loài chim trong truyền thuyết của người bản địa. Mười hai con giáp Miến Điện khác với mười hai con giáp Trung Quốc, ở đây chỉ có tám con vật lần lượt tương trưng cho các ngày trong tuần, thứ hai là con hổ, thứ ba là sư tử, thứ tư hơi đặc biệt một chút, nếu sinh vào ban ngày là con voi hai ngà, nếu sinh vào ban đêm thì lại là con voi cụt ngà, thứ năm là con chuột, thứ sáu là chuột lang, thứ bảy là con rồng, chủ nhật là chim khổng tước. Từ đây có thể phán đoán có lẽ cậu bé được sinh vào ngày chủ nhật, bởi thế hội Tư Mã Khôi liền đặt cho cậu một cái tên Trung Quốc là “Chủ Nhật”.



Hai tháng trước, Karaweik còn là một cậu bé mồ côi được Hạ Thiết Đông cứu sống từ một làng quê Bắc Miến, cả nhà cậu đều chết hết trong chiến tranh loạn lạc, từ đó trở đi cậu một mực theo chân quân đội nhân dân Cộng hòa đi khắp nơi, muốn tách cậu ra cũng chẳng tách nổi. Bây giờ Hạ Thiết Đông không còn nữa, Karaweik liền sống chết đòi bám theo Tư Mã Khôi.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Có lẽ cậu bé nghĩ nếu theo chân chúng ta tiến về phía trước sẽ phá được vòng vây mà sống sót, chẳng ngờ ba người bọn ta chỉ có một con đường chết đang chờ đợi”. Thế là anh bèn chỉ về hướng ngoài núi, đoạn nói: “Cậu hãy lên núi mà làm hòa thượng”.



Nhưng Karaweik nào chịu nghe lời, nếu theo cách nói của người Bắc Kinh thì cậu ta quá “lỳ”, quá cứng đầu, bất kể làm việc gì, chỉ cần bản thân cho rằng đúng thì sẽ chạy theo mãi một lối cho đến khi trời tối. Không những thế tuy rằng cậu có thể nghe hiểu được tiếng Hán nhưng lại chỉ biết bập bẹ vài câu tiếng Trung nghe lơ lớ, ngay cả Tư Mã Khôi cũng chẳng hiểu cậu muốn nói gì, trong lúc bất lực, anh đành phải dẫn Karaweik theo mình cùng tiến vào núi.



Tư Mã Khôi cho rằng đã rơi vào tình cảnh này thì thêm một người hay bớt một người cũng chẳng hề gì. Hơn nữa ở quê nhà Tuyệt cũng có một người em trai, nhưng giờ đây thân cô đang ở Miến Điện, hoàn toàn đoạn tuyệt mọi tin tức với trong nước, hai chị em đã nhiều năm không được gặp mặt, tính ra độ tuổi của nó cũng tương đồng với Karaweik. Thế là cô liền chăm sóc cậu bé ân cần như chăm sóc chính em trai của mình vậy.



Tư Mã Khôi và Tuyệt còn dễ thuyết phục, duy chỉ có Hải ngọng thì chẳng muốn Karaweik gia nhập đoàn chút nào. Bởi vì người bản địa có tính lề mề chậm chạp, mặc cho bạn tha hồ thúc giục, họ cứ từ từ mà làm, ngay cả đi cũng lững tha lững thững. Karaweik cạo trọc đầu là vì người bản địa rất sùng bái đạo Phật. Theo tập tục này, đàn bà con gái đã vào am làm ni cô thì vĩnh viễn không được hoàn tục, ngược lại đàn ông có thể trở thành hòa thượng ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào, khi không muốn làm hòa thượng nữa thì nghiễm nhiên có thể hoàn tục. Lý do để người ta vào chùa làm hòa thượng cũng muôn hình vạn trạng. Có người thì do tâm trạng không tốt muốn làm hòa thượng vài ba ngày cho vui, có người lại do dạo này hay gặp vận đen nên xuất gia làm tăng nhân mấy bữa để giải hạn.



Do sự ảnh hưởng của Phật pháp vô hình trung đã thay đổi họ tự lúc nào không biết, nên người bản địa dần dần trở nên tiêu dao, lười nhác, rất nhiều người là kẻ ba phải, phản ứng chậm chạp, chẳng bao giờ lo lắng nghĩ ngợi, sống thì sống, chết thì chết. Trong tư duy của họ, qua hết kiếp này sẽ có kiếp khác, chẳng việc gì phải dằn vặt về những chuyện trước mắt. Karaweik chính là một trong số đó. “Nhân sinh quan tiêu cực” của họ khiến La Đại Hải vô cùng phản cảm.



Sau một hồi than thở, Hải ngọng nhìn thấy những người còn lại đều tản ra bốn phía, anh liền đem mấy tập tài liệu còn sót lại mang ra đốt sạch, nhìn sang thấy Tuyệt và Karaweik đang bày chiếc máy điện đàm quân dụng không dây ra đất, bèn thúc giục họ nhanh lên còn vào rừng, cố gắng vứt bớt đồ đạc để đi lại cho nhẹ nhàng, hơn nữa bây giờ cũng chẳng còn anh em bộ đội nào nữa mà cần liên lạc, giữ bộ điện đàm này chỉ tổ mệt người, thà đập nát nó ra cho sớm chợ.



Tuy tiếng phát ra từ chiếc máy bộ đàm cũ kỹ toàn là tạp âm, những tiếng “xẹt xẹt” vang lên không ngớt, giọng người nói mơ hồ khó phân biệt nổi nhưng lúc này Tuyệt đang chăm chú theo dõi, hoàn toàn không để ý xem Hải ngọng nói gì. Mấy năm gần đây, Tuyệt thường tìm cơ hội để học ngôn ngữ của người bản địa và gần như có thể trở thành phiên dịch. Cô bịt một bên tai, tập trung cao độ cố gắng nghe tiếng phát ra từ bộ đàm, sắc mặt càng lúc càng xấu. Trong sóng điện lẫn tạp âm lẹt xẹt, chập chờn lúc được lúc mất, dường như cô đã nghe được tin tức gì đó vô cùng đáng sợ.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: bảo vật trong hắc ốc - hồi thứ nhất: hắc ốc


Đúng như Tư Mã Khôi vẫn thường nói: "Vận xui là một loại vận vĩnh viễn không bao giờ tránh được".



Năm mười lăm tuổi, cha mẹ của Tư Mã Khôi đều bị buộc tội hữu khuynh[6], rồi kẻ trước người sau lần lượt nhắm mắt xuôi tay vì bạo bệnh ngay trong lớp cải tạo. Song thân ra đi vội vã đến nỗi chẳng kịp trăng trối lại cho cậu con trai câu gì. Khi đó không có ai nói cho Tư Mã Khôi biết cậu nên đi đâu học, đến đâu ăn, và cũng chẳng người nào thèm để mắt xem cậu sống hay chết. Đợi khi tất cả của cải trong nhà đều bị đem bán sạch trơn, đến mức từ trong ra ngoài chẳng có thứ gì đáng giá, thì lúc ấy cậu mới tỉnh ngộ là từ nay về sau chỉ còn biết dựa vào chính mình mà thôi. Để tìm một con đường sống, cậu đành phải chạy đến Hắc Ốc, nơi mà trước đây ngay cả nằm mơ cậu cũng không dám mơ đến, để mưu sinh qua ngày.



Hắc Ốc không phải là một tòa nhà màu đen, mà đó là biệt danh của một xóm nhỏ ở vùng ngoại ô heo hút, nằm kẹp ngay giữa hai dải núi trọc, quanh năm mưa không thuận, gió không hòa, đất xấu dân nghèo, vô cùng xa xôi hẻo lánh. Thời chiến tranh, nơi đây từng bị máy bay oanh tạc dữ dội, sau đó xảy ra một trận hỏa hoạn rất lớn, nhà cửa bị thiêu rụi, khắp nơi hoang tàn, khói lửa dày đặc hun tất cả những bức tường vỡ nát còn sót lại thành một màu đen kịt, vì thế người dân ở đây gọi nơi này là Hắc Ốc.



Suốt mười năm loạn lạc, khu vực Hắc Ốc vẫn chưa từng được chính phủ trùng tu; rồi bao nhiêu năm nay không hề có người dân gốc gác nào cửa xóm này quay lại cố hương sinh sống. Nhưng ngay trong lòng thôn xóm hoang tàn đó lại có một con đường sắt xuyên qua, và hàng ngày rất nhiều chuyến tàu chuyên chở hàng hóa chạy đi chạy lại, đã thu hút một số lượng lớn những người ăn theo đường sắt đến đây trú ngụ. Ngày qua tháng lại, nơi đây dần dần trở thành cứ địa tụ tập của những dân nghèo thuộc tầng đáy xã hội.



Đương nhiên ở đây không tránh khỏi việc vàng thau lẫn lộn, cát bùn trộn cả vào nhau. Trong xóm có rất nhiều thành phần, từ trẻ mồ côi không nhà không cửa đến những kẻ nhặt rác lưu lạc tứ xứ, những nông dân từ quê chạy lên thành phố kiếm sống, những người nhặt than vụn rơi trên đường sắt, phu khuân vác ở bến thuyền, kẻ bán khoai lang dạo, thậm chí có cả những thanh niên trí thức không chịu được công việc lao động chân tay gian khổ nơi hoang vu hẻo lánh nên một mình chạy trốn về đây ẩn náu.



Bọn họ chia bè kết phái sống ở Hắc Ốc, đa số đều mưu sinh nhờ vào việc buôn bán lặt vặt trái phép hoặc đào hầm lấp hố, bởi chẳng người nào có công việc tử tế để làm. Đương nhiên trong số đó không thiếu những kẻ phá khóa trộm đồ, bò vào xe lửa ăn cắp, còn có cả bọn lưu manh vô lại chuyên đâm thuê giết mướn, bọn chao chác ăn tiền.



Những kẻ rập rình ẩn hiện ở khu vực Hắc Ốc hầu như đều là thành phần đã bị bài trừ ra khỏi hệ thống xã hội, bởi những việc chính phủ nghiêm cấm thì chúng đều nhúng tay làm cả. Nhưng, trong khi thế giới bên ngoài đang hừng hực đấu tranh chính trị một mất một còn giữa các đảng phái, thì ở đây dường như lại đoạn tuyệt hoàn toàn với thị phi tranh chấp, ngay cả những tờ báo chữ to[7] dán khắp nơi cũng không lọt đến được nơi này. Mỗi lần có "cớm" vào xóm truy quét lùng sục, bang Hắc Ốc chỉ cần đánh động vài tiếng là cả hội đã rút gọn không còn vết tích, đợi khi sóng yên bể lặng lại kéo nhau trở về tụ tập. Tất cả các thế lực trong chính phủ dường như đều bất lực chẳng làm gì được chúng, nên đành mắt nhắm mắt mở lờ đi. Hơn nữa, chỉ cần bọn họ đừng gây ra trọng án kinh thiên động địa thì ai thèm để ý đến lũ "cặn bã của xã hội" sống ở khu ven thành phố bị bỏ hoang phế đó nữa.




Băng đảng của Tư Mã Khôi là một nhóm gồm toàn những đứa trẻ chừng mười bốn mười lăm tuổi, trong đó có cả nam và nữ, đa số bọn chúng đều là con cái trong những gia đình có bố mẹ bị quy chụp thành phần cánh hữu. Chúng lại chưa đến tuổi nhập ngũ để tham gia quân đội nên đành phải phiêu dạt nay đây mai đó, trôi nổi giữa xã hội, chúng không có việc làm cũng không được đi học, càng chẳng có bà con thân thích nào có thể nương tựa. Tóm lại, bọn chúng đúng là những kẻ "bà không yêu, cậu không chiều, thím nhìn thấy muốn đá cho ba cái, ngay đến chó cũng nguýt dài quay mặt".



Trong đám choai choai này, tuy có một vài đứa cũng được nhận mấy đồng trợ cấp sinh hoạt, nhưng số tiền ít ỏi đó chẳng thấm vào đâu, nên bản năng sinh tồn buộc chúng phải tập hợp lại thành băng nhóm tranh giành cơm áo với xã hội. Khi đó thường thịnh hành khẩu hiệu "Tư tưởng Mao Trạch Đông như luồng gió xuân thổi đến muôn nơi" nên hội Tư Mã Khôi quyết định đặt tên cho nhóm là "Nhóm chiến đấu Xuân Phong" và còn nghiêm trang tuyên thệ trước tượng đài Mao chủ tịch: "Từ nay cả nhóm phải đoàn kết, đồng cam cộng khổ làm cách mạng." Trên thực tế, khẩu hiệu này chỉ là cái cớ để chúng làm loạn, gây họa khắp nơi, quấy nhiễu an ninh khiến chó cắn gà kêu không ngày nào yên ổn. Dân chúng cách mạng trong thành không người nào nhìn thấy chúng mà không muốn chửi mắng cho thỏa giận.



Tính chất của "Nhóm chiến đấu Xuân Phong" có vài phần tương tự với nhóm "Đồng Đảng" trong lịch sử từng nhiễu nhương thành phố sương mù Luân Đôn ở Anh. Tuổi đời các thành viên trong nhóm đều rất trẻ, hoạt động của nhóm có tính chất nguy hại nhất định đối với xã hội. Chẳng bao lâu sau, "Nhóm chiến đấu Xuân Phong" tự thấy rằng thành phố không phải nơi dễ kiếm cơm nên đành rút lui về khu vực gần Hắc Ốc. Hội Tư Mã Khôi đánh mấy trận sống mái với bọn lưu manh bản địa, tuy chịu không ít thiệt thòi nhưng "không đánh nhau không nhận anh em", cuối cùng hai bên đã hóa giải được hận thù và đạt được nhận thức chung một cách không ngờ. Qua nhiều cuộc thương thuyết kéo dài, hai bên đã phân định ranh giới địa bàn của mỗi bên rất rạch ròi, cục diện hỗn loạn từ đó mới tạm thời ổn định.



Trong "Nhóm chiến đấu Xuân Phong", Tư Mã Khôi có một người bạn thân tên là La Đại Hải. La Đại Hải khí chất hào hiệp lại rất dũng cảm, cha cậu ta là La Vạn Sơn từng là bộ đội chuyển ngành làm cán bộ trong tòa án địa phương, sau này do bị điều động công tác nên cả gia đình từ Đông Bắc phải chuyển xuống Hồ Nam. Trong chiến dịch bài trừ hàng ngũ cán bộ suy đồi, ông La Vạn Sơn bị áp giải vào trại cải tạo lao động, còn lại một mình La Đại Hải tứ cố vô thân đành phải phiêu dạt đầu đường xó chợ. Cậu trai này trông khá khôi ngô tuấn tú, tướng mạo đường hoàng, chiều cao và thể lực đều hơn hẳn các bạn cùng trang lứa. Cậu ta lại rất thích ngồi rỗi lo chuyện thiên hạ, hay ra tay dẹp chuyện bất bình, vì thế rất có uy với bọn trẻ khác trong nhóm. Chỉ có điều, khi còn nhỏ ở Đông Bắc, La Đại Hải bị rét đến nỗi đóng băng hỏng cả lưỡi nên từ đó lưỡi cậu ta bị tật, phát âm không rõ ràng, lại thêm cái tật nói nhiều, vì vậy bị mọi người ở đây đặt cho biệt danh "Hải ngọng".



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om.



Vì từ nhỏ Tư Mã Khôi đã bái "Văn Võ tiên sinh" làm thầy nên cũng thủ thân được chút ít bản lĩnh lục lâm, cậu ta không chỉ thân thủ nhanh nhẹn, ra tay gọn gàng, gan to hơn người, mà còn rất giỏi ăn nói, lại hiểu được các quy tắc của giới giang hồ trước giải phóng, biết rõ: "Hành bang các phái, coi nghĩa khí làm trọng". Trong những kẻ chiếm cứ khu Hắc Ốc có không ít tên xuất thân từ xã hội cũ, mà chỉ có Tư Mã Khôi mới giao lưu được với chúng. Bởi vậy, Tư Mã Khôi và La Đại Hải tự dưng trở thành thủ lĩnh của nhóm "Xuân Phong", cầm đầu cả hơn trăm thiếu niên nam nữ, suốt ngày náo loạn con đường sắt hoang phế, thoắt ẩn thoắt hiện, di chuyển nhanh như lốc cuốn.



"Xuân Phong đoàn" tuy đã giao kèo được vấn đề lãnh thổ với "Hắc Ốc bang", rằng lấy đường sắt làm ranh giới phân định, nhưng vấn đề sinh tồn của hội Tư Mã Khôi vẫn chưa được giải quyết. Cứ theo thành phần xuất thân mà xét, bọn họ tuyệt đối không cam tâm đi nhặt than rơi trên đường sắt hoặc làm các công việc lao động chân tay thấp hèn. May mà Tư Mã Khôi có nhiều tai mắt, lại nhanh trí, nên cuối cũng cũng nghĩ ra một kế mưu sinh thượng sách. Cậu bảo các thành viên trong nhóm khuân tất cả đồ đạc còn sót lại trong nhà, chuyển đến lều trại dựng tạm ở đây để xây dựng cứ điểm hoạt động, đồng thời sai đám con nít nhỏ tuổi, lợi dụng hoàn cảnh gia đình bi thảm, tìm đến nhà bếp cơ quan nơi bố mẹ chúng đã làm trước đây để thó trộm thức ăn. Kế sách này được gọi là "Khổ nhục kế". Kế hay ở chỗ cho dù lỡ bị người ta phát hiện cũng không sao, bởi vì thành viên được phái đi thực hiện nhiệm vụ chỉ là bọn nhóc con trên dưới mười tuổi. Hơn nữa, các nhân viên làm trong nhà bếp đa phần lại là đồng nghiệp cũ, quen biết với cha mẹ chúng, chẳng ai nỡ lòng nào tóm cổ chúng giao nộp cho chính quyền, ngược lại, phần lớn họ đều lấy cơm thừa canh cặn trong nhà bếp mang ra chia cho chúng.



Thử nghiệm được vài ngày, quả nhiên các nhà bếp đều tình nguyện để lại cơm thừa cho bọn trẻ. Tư Mã Khôi thấy kế này khả thi liền cho bắc mấy cái bếp ở chân tường đổ nát, rồi đi trộm vài chiếc nồi to. Khi thức ăn kiếm về không đủ, liền thả thêm vào đó mấy cọng rau nát, đồ khô thì mang lên hấp, đồ có nước thì cho vào nồi nấu thành một thứ thức ăn hỗn hợp. Vì đây là những đồ ăn thừa ở các nhà bếp khác nhau, nên khẩu vị mỗi món một khác, sau khi đổ lẫn vào nhau nấu lên, mùi vị lại hấp dẫn khác thường, mùi thơm tỏa ra khắp nơi. Cả nhóm đắc chí đặt tên cho nó mỹ danh: "Quán cơm Lục Quốc".



Có điều, hội Tư Mã Khôi không thèm ăn mấy đồ đó mà bán lại cho bọn "Hắc Ốc bang" ở bên kia đường sắt. Đám người đó đều là dân lao động chân tay, cả năm quần quật làm những công việc nặng, bụng lúc nào cũng rỗng tuếch, và hơn nữa, cả đời chưa bao giờ được thưởng thức các món ăn ở nhà bếp cơ quan, chính phủ. Bọn họ nhìn đồ ăn trong nồi của "Quán cơm Lục Quốc" vô cùng phong phú, lại láng một lớp mỡ bóng lộn ở bên trên, đã thấy ngon hơn hẳn đồ ăn thường ngày của mình, nên người nào người nấy lần lượt móc tiền trong hầu bao ra mua từng bát lớn. Họ đút cả cơm lẫn cháo vào miệng nuốt ngon lành. Những kẻ không có tiền thì dùng vật để trao đổi. "Quán cơm Lục Quốc" do Tư Mã Khôi phát minh ra, ngày nào cũng cháy hàng, nồi niêu sạch trơn, cung không đủ cầu.



Hành động lần này của hội Tư Mã Khôi đã nhiều phần hóa giải được ánh mắt thù địch lẫn nhau giữa hai bang phái bên đường sắt, hơn nữa, lại mang đến khoản lợi nhuận không nhỏ giúp cả hội duy trì những nhu cầu của cuộc sống.



Cứ như vậy qua hết mùa xuân, chớp mắt đã bước vào mùa hè oi bức, ban ngày càng lúc càng dài. Những ngày này chẳng thấy bóng dáng của một giọt mưa, trời hanh vật khô, nóng rang như trên chảo lửa. Lúc sắp trưa cũng là thời khắc khu Hắc Ốc yên tĩnh nhất trong ngày, mọi người đều tản ra các ngả lao động kiếm cơm, chỉ có mấy đứa con gái ở nhà lo chuyện bếp núc, chuẩn bị nấu thức ăn thừa từ ngày hôm trước, để phần cho những người ở lại ăn.



Buổi sáng ngày hôm đó, La Đại Hải đặt bẫy ở khu đất hoang và tròng cổ được một con lợn rừng nhỡ, liền mang về Hắc Ốc giết thịt, mổ bụng lột da, xử lý hết nội tạng rồi ngoắc cả tảng thịt tiết rỏ ròng ròng lên móc câu, thuận tay vứt luôn cái đầu lợn vừa cắt ra khi nãy lên tấm gỗ để ngay bên cạnh, chuẩn bị nổi lửa nấu nồi thịt, cải thiện bữa tối cho cả nhóm. Đợi đến buổi trưa mới xong việc, cậu ta liền phệt mông xuống tấm đá xanh đặt trước cửa trại, nhàn nhã hóng mát.



Lúc này, Hải ngọng nóng bức đến nỗi mồ hôi ướt đầm lưng áo, nhưng trên đầu vẫn đội khư khư chiếc mũ quân nhân rách nát chôm được từ đời thuở nào, miệng phì phèo điếu thuốc, vừa hút vừa thao thao bất tuyệt nói chuyện với Tư Mã Khôi, chủ đề vẫn quanh quẩn mấy chuyện như đợi khi nào bố cậu ta phục chức trở lại làm việc như trước, cậu ta sẽ xử lý hết bọn rác rưởi dám đăng tin việc nhà cậu lên báo, lúc đó cứ chống mắt lên mà xem cậu ta trả thù như thế nào.



Tư Mã Khôi tuy ít tuổi, nhưng lại trải nghiệm không ít những gập ghềnh trên đường đời, điều đó đã khiến tâm lí phản nghịch xã hội của cậu trở nên vô cùng nghiêm trọng. Dường như cậu đã sớm dập tắt hết mọi hi vọng trong lòng, nên nghe Hải ngọng nói vậy, cậu chỉ ậm ừ đáp bừa vài câu lấy lệ.




Đúng lúc này, cậu chợt nhìn thấy một lão già đi vào trong ngõ. Tư Mã Khôi vô cùng thính tai tinh mắt, nên bất kể gió lay cỏ động khẽ khàng thế nào cũng không lọt khỏi tầm mắt cậu. Chững lại ngẫm nghĩ giây lát, cậu cảm thấy kẻ mới đến có chút gì đó kì quặc.



Quay đầu nhìn kỹ, chỉ thấy lão già đó ăn mặc rách rưới, quê cục, hơn nữa trông mặt rất lạ, chắc chắn không phải là người sống ở bên khu Hắc Ốc hoang phế này. Lão già tầm ngoài năm mươi tuổi, dáng người nhỏ thó, mắt la mày lém, hai bên mép còn để hai chòm râu chó, cổ đeo chuỗi "bánh đả cẩu", đầu đội chiếc mũ chóp cao rách nát, tay cầm cái bồ cào loại chuyên cào phân, vai cõng một túi vải đay phồng to cồm cộm, trên người mặc chiếc áo khoác bằng da cũ kĩ, trước ngực áo còn có một hàng khóa, quần chùng áo dài, chân đi đôi giày đen đế dày cộp tới nỗi đá bò bò chết, mũi giày há toác miệng lòi ra góc tất trắng bên trong. Hôm ấy đúng là ngày hạ chí, trời nóng như đổ lửa, nhưng nhìn cách ăn mặc đông không ra đông, hè không ra hè của lão già, khiến ai nhìn vào cũng không khỏi cảm thấy quái gở.



Lão già lạ mặt đó dùng cặp mắt cú vọ ngó đông nhìn tây một hồi, một lúc sau mới đi đến trước cửa cái lán gỗ của Tư Mã Khôi, rồi đột nhiên lão ta dừng lại, giả bộ quỳ xuống xách giày, đồng thời thò đầu vào trong lán ngó nghiêng dò xét.



Cử chỉ này của lão có thể che mắt mọi người, nhưng không thể che mắt Tư Mã Khôi. Tư Mã Khôi quan sát hành động và cách ăn vận của người này, mà trong lòng cảm thấy vô cùng khó hiểu nên lập tức đề cao tinh thần cảnh giác, đồng thời mở miệng dò hỏi một câu: "Xem ra lão gia không quen mặt, chẳng biết từ đâu đến thế?"



Lão già nghe hỏi lập tức đứng thẳng người dậy, đưa mắt quét quanh một lượt, liền nhận ra Tư Mã Khôi và La Đại Hải chính là chủ nhân chiếc lán hoang phế này, nên lập tức ngoác miệng cố nặn ra một nụ cười trên khuôn mặt già nua. Lão ta nói với hai người: "Đâu dám nhận là lão gia, mỗ đây họ Triệu, quê ở Quan Đông, từ trước đến nay không có biệt hiệu gì, những người quen biết đều gọi mỗ là Triệu Lão Biệt. Trước giải phóng mỗ đã lưu lạc đến đây, mấy năm nay phiêu dạt khắp trong thành ngoài thành, dựa vào công việc đan làn cỏ, nhặt phế liệu sống qua ngày. Hôm nay đến vùng đất quý này là muốn đổi một số vật phẩm thiết yếu trong cuộc sống."



Tư Mã Khôi nghe lão trình bày khá rõ ràng, trong lòng đã bớt đôi chút cảm giác đề phòng, tiếp tục hỏi Triệu Lão Biệt: "Sao Triệu sư phụ lại ăn mặc như vậy? Trời hè oi bức, lão không sợ ủ thối người ra à?"



Triệu Lão Biệt nhoẻn miệng cười, trả lời ngay: "Bậc hậu sinh các cậu không hiểu đấy thôi, chiếc áo mỗ đây mặc được gọi là áo khoác anh hùng như ý, tứ bề thông thoáng, rất thoát gió đấy!"



Tư Mã Khôi nghe thấy mấy lời lão già nói, cũng có vài phần giống tiếng lóng trong giới giang hồ, mà người thời nay làm gì còn ai nói năng như vậy nữa, nên càng cảm thấy kỳ quái hơn. Cậu bèn gặng hỏi: "Xem lão nói năng không phải hạng phàm tục, chân tay lại khá nhanh nhẹn, nhưng sao đi vào nơi ngói vỡ gạch nát hoang tàn này, không sợ bị què chân, lạc đường ư?"



Triệu Lão Biệt hiểu ngay ẩn ý trong lời lẽ của Tư Mã Khôi, nhưng dường như không thể tin những lời ấy lại phát ra từ miệng một tên nhãi ranh như cậu, nên liền nảy ý thăm dò lại. Lão ta bước lên một bước, chân trước chân sau đứng chéo nhau, không ra hình chữ đinh, cũng không ra hình chữ bát, rồi nói: "Mỗ đây chân cứng, đế dày, đi chắc, đứng vững, cất bước khoan thai đĩnh đạc."



Đoạn đối đáp của hai người toàn bộ là ám ngữ của thế giới ngầm trong "Đáy biển giang hồ", Hải ngọng đứng bên cạnh nghe chẳng hiểu gì, ù ù cạc cạc như vịt nghe sấm, nhưng Triệu Lão Biệt và Tư Mã Khôi thì ngấm ngầm hiểu đối phương không phải hạng tầm thường, nên tuyệt đối không dám khinh suất.



Triệu Lão Biệt dường như không có ý định bỏ đi ngay, lão nói trời nắng chang chang, trên đường đi vừa mệt vừa khát, nên muốn xin hai vị "đầu lĩnh" cho trú chân nghỉ ngơi giây lát uống ngụm nước chè. Miệng chưa nói xong, không đợi chủ nhà đồng ý, lão đã tự ý ngồi sụp xuống ngay trước lán.



Tư Mã Khôi cũng muốn xem rốt cục người này muốn gì cho nên chẳng xua đuổi làm gì, mà ngược lại còn mang cho lão một chiếc bát, bên trong là nước trà "Lão Âm" vừa mới hãm ban sáng.



Triệu Lão Biệt chỉ "cảm ơn" hai tiếng rồi giơ tay đón lấy bát nước uống ực một hơi, cạn đến tận đáy, xong mới ngẩng mặt lên khen: "Loại trà Lão Âm có sâu trà quả đúng là thức uống giải khát bậc nhất." Nói đoạn, lão liền móc ra một tẩu thuốc, dốc ngược đáy xuống gõ "cạch, cạch" mấy cái lên bàn, rồi nhét đầy sợi thuốc lá vào trong, châm lửa đầu tẩu thuốc, tí ta tí tách hút liền mấy hơi, vừa hút vừa chuyện trò mấy câu vô bổ cùng Tư Mã Khôi và La Đại Hải. Lòng vòng một hồi lâu, cuối cùng lão cũng chịu đi vào chuyện chính.



Lão già Triệu Lão Biệt này tự nhận mình bước chân vào giang hồ mưu sinh từ rất sớm, thông thạo nhân tình thế thái. Bây giờ lão đã có mối quan hệ rất tốt với một số đường dây đặc biệt trong thành, không những có thể hối lộ, mà còn có thể lấy được rất nhiều đồ tốt trong thế giới ngầm. Cuộc nói chuyện khi nãy với Tư Mã Khôi đã khiến lão nhận thấy cậu tuy trẻ tuổi, nhưng khá thông hiểu các quy tắc ngầm, chắc hẳn phải xuất thân từ một gia đình thế tộc, gốc gác không phải hạng vừa. Tục ngữ nói rất hay: "Trọc đầu thì vào chùa, đội mũ thì làm quan", nay người cao tay lại gặp bậc kỳ tài, thật đúng là duyên trời sắp đặt, vì thế lão tình nguyện để Tư Mã Thiên và La Đại Hải đi theo mình cùng hưởng phúc.




Giống như biết phép thần thông biến hóa vậy, lời nói vừa dứt lão đã lôi ngay từ trong túi vải đay rách nát của mình ra ba tút thuốc lá thơm hảo hạng, cười tít mắt rồi bày cả lên mặt đất.



Gia thế nhà La Đại Hải cũng thuộc hạng có gốc gác, cậu ta lại là người khá trải đời, nên vừa nhìn thấy liền biết loại thuốc lá này chỉ cung cấp hạn chế cho các cán bộ cấp cao, chứ bách tính thường dân hầu như chẳng bao giờ được nhìn thấy, cho dù ở chợ đen cũng khó lòng tìm ra, có tiền cũng không mua được. Lão già này xuất chiêu độc thật, một phát rút ra liền ba tút, khiến Hải ngọng hai mắt vụt sáng, vội vã thò tay ra lấy, miệng còn nói: "Hôm nay, chúng ta coi như bèo nước tương phùng, lần đầu gặp mặt mà lão đã rộng rãi như thế, khiến anh em bọn tôi thấy xấu hổ vô cùng. Thế lão ở đơn vị nào? Lần sau anh em bọn tôi nhất định sẽ viết bức thư biểu dương, tỏ lòng cảm tạ sự giúp đỡ vô tư và khẳng khái này của lão."



Triệu Lão Biệt cũng nhanh tay không kém, liền giơ tay ngăn không cho La Đại Hải rờ vào mấy tút thuốc: "Người anh em xin đừng vội, thứ này mỗ đâu dễ kiếm, nhưng bất kể nói thế nào thì chúng ta gặp được nhau đúng là có duyên, hôm nay kết giao thành bằng hữu, hai bên xem như không còn vấn đề gì khúc mắc nữa. Hai vị đầu lĩnh thử xem, mỗ có thể dùng ba tút thuốc lá hảo hạng này để đổi lấy một... một vật trong lán của hai cậu không?"



La Đại Hải cười to: "Lão Triệu ơi lão Triệu, chẳng giấu gì lão, anh em bọn tôi đúng là những kẻ Sói vàng bị cắt mất đuôi, trên người chẳng còn nửa cọng lông đáng tiền, chỉ cần lão không chê mấy đồ giẻ rách trong lán của chúng tôi, thì nhìn thấy vật gì thích hợp, lão cứ thỏa sức mà lấy."



Tư Mã Khôi nhìn thấy tình hình như vậy, trong lòng không khỏi ngầm cảm thấy kỳ lạ, tuy cậu cũng muốn giữ ba tút thuốc lá thơm nhưng đầu óc vẫn khá tỉnh táo, nên liền tiến đến cạnh ngăn Triệu Lão Biệt rồi nói; "Khoan đã! Cuộc trao đổi này e rằng chưa xong, trước hết lão phải nói rõ xem rốt cục muốn đổi lấy vật gì trong đây đã."



Triệu Lão Biệt dường như không thể nhẫn nại thêm nữa, đảo con ngươi một vòng rồi thò tay vào túi vải đay lấy ra một hộp tai lợn kho tàu, bốn ống thịt bò hộp, chất cả lên mặt đất, đoạn nói: "Muốn đổi lấy vật gì, thì phải vào lán chọn xem mới biết được. Nhưng Triệu Lão Biệt mỗ cũng nói trước, trong hai thứ đồ ăn và thuốc lá, các cậu chỉ được đổi lấy một món, tuyệt đối không được lấy hơn."



Tư Mã Khôi nhận thấy Triệu Lão Biệt dường như rất quyết tâm lấy bằng được vật đó nên dù chưa đâu vào đâu, lão đã chủ động nâng giá. Có câu: "Càng mời càng không mua, càng hối càng không bán, nếu hối thúc quá đáng, mua bán cũng bất thành", nên khi lão đã không tiếc mang ra bao nhiêu đồ quý hiếm để đổi lấy thứ có trong lán thì thứ đó chắc hẳn cũng không phải loại tầm thường, vậy làm sao Tư Mã Khôi có thể chấp nhận trao đổi dễ dàng như vậy.



Hơn nữa, Tư Mã Khôi còn nhớ lại một việc, trước đây khi cậu còn ở miền Bắc, từng nghe người ta kể về truyền thuyết "Man tử biệt bảo", trong đó nói những nơi phong thủy tốt đều chôn giấu báu vật; không những vậy báu vật ấy lại vô cùng quý giá bởi do trời đất tạo ra, được thần quỷ ngầm bảo vệ. Nếu ai tự tiện sờ vào thì khó tránh khỏi rước họa vào thân, nên muốn đoạt được tất phải dùng những bí thuật kỳ môn cổ xưa mới xong. Bởi vậy, họ không thể nói với người ngoài mình là kẻ quật táng, trộm ngọc mà nói lóng thành "biệt bảo"[8].



Nghe nói bí thuật "biệt bảo" khởi nguồn từ khu vực Giang Tây, muốn học món bản lĩnh này tất phải luyện tập từ nhỏ. Người ta mang đứa trẻ vừa mới sinh nhốt vào mật thất kín mít không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, đợi đến ngày thứ 100 mới ẵm nó ra ngoài, từ đó nhãn lực của đứa bé trở nên khác biệt với mọi người, có thể phân biệt được mọi báu vật trên đời, họ gọi khả năng này là "Khai địa nhãn". Những loại truyền thuyết kiểu này là thật hay giả, người ngoài khó lòng biết được.



Tư Mã Khôi thấy cách ăn vận và cử chỉ của Triệu Lão Biệt vô cùng kỳ quái, rõ ràng là thần bí khó lường, không biết có trùng hợp với mấy truyền thuyết đó không? Nhưng xem ra lão ta chắc hẳn là bậc kỳ tài hiểu biết về dị thuật biệt bảo. Chỉ có điều, trong cái lán tạm mà mình đang ở chỉ rặt đũa gẫy, bát sứt, bàn ghế chẳng cái nào còn nguyên lành, hoàn toàn không giống với dáng vẻ ngôi nhà để người ta sinh sống. Quả đúng như lời La Đại Hải vừa nói, trong lán ngay cả chiếc bát uống trà tử tế cũng chẳng tìm thấy, thì làm gì có bảo vật gì đáng giá? Không biết thứ mà Triệu Lão Biệt muốn lấy rốt cục là thứ gì? Hơn nữa, lão ta lại vừa chân ướt chân ráo đến đây, làm sao phát hiện ra nơi này có giấu bảo vật dị thường được?



Trong khi Tư Mã Khôi còn đang suy đoán mông lung thì Triệu Lão Biệt sớm đã thò đầu vào trong lán dò xét, ánh mắt nhìn chằm chằm vào một trụ gỗ lớn, đó chính là chiếc bàn dài cổ xưa, dùng để giết mổ gia súc. Nó đã bị mục nát nhiều phần, ngày thường vẫn dùng để thái thịt, băm rau, nên mặt bàn nhớt nhát bẩn thỉu, bốc mùi tanh hôi, không hề bắt mắt. Ai ngờ thứ mà Triệu Lão Biệt nhìn trúng ý lại là vật này, ánh mắt thèm thuồng của lão cứ dán chặt vào chiếc bàn, không chịu rời sang chỗ khác.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: Hồi thứ hai: biệt bảo


Tư Mã Khôi thấy cách hành xử của Triệu Lão Biệt khác hẳn với dự liệu; chẳng ngờ lão chịu mang thuốc lá hảo hạng và đồ hộp đáng giá để đổi lấy chiếc bàn mổ thịt mục nát, càng nghĩ càng thấy sự việc này rất kỳ lạ.



Trong đống đổ nát ở Hắc Ốc chỗ nào cũng có vật vô chủ, ai nhặt được thì của người ấy. Cái bàn này vốn là một trụ gỗ mục nát rỗng ruột, to bằng một vòng ôm, xung quanh buộc ba vòng dây thừng gai, quanh năm bị máu tiết dầu mỡ bám nhằng nhợ, màu sắc đã phai nhạt biến đổi từ lâu. Sau khi nhặt về, nó chủ yếu được dùng làm thớt thái rau, chẳng ai biết rõ lai lịch cụ thể của nó, và xem ra ngoài việc thấy nó có niên đại sử dụng từ khá lâu thì chẳng thấy có điểm gì khác thường. Nay không hiểu sao vô duyên vô cớ lại có người quan tâm đến nó?



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: "Cái bàn chặt thịt chắc chắn là một bảo vật, nếu bây giờ mình động lòng vì miếng lợi nhỏ mà dễ dàng trao đổi với Triệu Lão Biệt, thì bất kể lão già đó giơ ra vật gì mình cũng vẫn bị thiệt. Vậy nên trước tiên mình phải kiếm cớ để lão ấy thấy cái bàn này đúng là đồ quý cái đã." Thế là cậu thuận miệng khua môi múa mép một hồi: "Triệu lão sư phụ này, lão không biết đấy thôi, thực ra gia đình mấy đời nhà tôi đều mở cửa hàng bán thịt dê ở Bắc Kinh để mưu sinh, chiếc bàn mục này tuy rằng nhìn có vẻ bình thường, nhưng lại là vật gia truyền mấy đời nhà tôi để lại, tôi không chỉ dùng nó quen tay mà còn nhìn cương nhớ ngựa, nhìn vật nhớ người. Bởi mỗi khi nhìn thấy nó, là tôi như nhìn thấy liệt tổ liệt tông đã quy tiên nhà mình. Cái bàn này đã cùng gia đình tôi trải qua những năm tháng dưới thời Quang Tự, rồi tới Nghĩa Hòa Đoàn bao vây tấn công khu đại sứ quán Đông Giao Dân Cảng, khiến liên quân tám nước tràn vào thành Bắc Kinh. Đám quỷ tây này rặt là bọn man di từ nước ngoài dẫn xác đến, lũ bợm đó chẳng có nửa tên tốt đẹp, đến Trung Quốc chúng ngang nhiên đốt nhà giết người cướp của, chẳng tội ác nào không dám làm, đánh đập người mù, mắng nhiếc kẻ điếc, rồi cuối cùng chúng nó cũng ào vào nhà tôi. Mấy tên lính tây ngắm thấy con mèo tam thể nhà tôi nuôi rất đẹp liền định cướp về, mang dâng tặng cho nữ hoàng điện hạ nhà chúng nó, ông tổ nhà tôi liền nổi giận lôi đình mắng chúng: Ngày xưa lão phật gia Từ Hy thái hậu rất ưng ý con mèo này, định mang Thập Tam cách cách ra đổi lấy nó mà ông đây còn tiếc không nỡ đem đổi. Tiên sư chúng mày chứ, chúng mày là thứ tép riu gì mà dám cướp trắng của ông hả?! Trong cơn thịnh nộ, cụ lao thẳng ra phố tham gia phong trào phục Thanh diệt ngoại xâm, trước lúc đi còn ôm theo chiếc bàn này, gặp tên giặc tây nào là lấy bàn đập chết tên ấy, nên không biết dưới gầm bàn đã chôn bao nhiêu mạng tướng tây lính tây. Sau đó chiếc bàn truyền đến đời ông nội tôi, nó lại cùng ông lưu lạc đến Giang Tây tham gia hồng quân công nông, cứ thế được mấy đời nhà tôi giữ gìn cho đến tận bây giờ. Có thể trong mắt người khác, khúc gỗ này chẳng đáng cái đinh gỉ, nhưng đối với tôi nó chính là vật chứng chứng kiến cả gia đình tôi đã trải qua cách mạng cận đại Trung Quốc, là kỷ niệm không thể xa lìa, ngày nào tôi cũng phải bày nó ra trước mặt, sáng thỉnh an, tối hồi báo. Nếu ngày nào không nhìn thấy nó, tinh thần tự nhiên trở nên hoảng loạn, đến nỗi ngay cả hướng bắc ở đâu cũng không biết; một ngày không gặp cách tựa ba thu, nếu lỡ ba ngày không gặp có khi lo lắng đến tẩu hỏa nhập ma vẫn là nhẹ. Lời tôi nói đây câu nào cũng là thật, nếu lão không tin thì cứ tìm một miếng đậu phụ về đây, tôi sẽ đập đầu vào đấy cho lão xem."



Hải ngọng đứng bên cạnh nghe, không nhịn nổi cười thầm trong bụng, cậu ta cũng nhân cơ hội để nâng giá cái bàn, bảo ít ra Triệu Lão Biệt cũng phải thò ra thêm ba tút thuốc lá nữa thì mới đồng ý đổi.



Triệu Lão Biệt nghe hai người bọn họ kẻ tung người hứng mà trợn mắt á khẩu. Lão còn cho rằng có khi mình nhìn lầm, liền quay lại đăm đăm ngắm nghía cái bàn một hồi lâu, sau đó lắc đầu tỏ ý không tin, đồng thời mở toang cái túi vải đay ra cho hai người nhìn, bên trong chẳng còn thứ gì đáng giá, đoạn lão nói: "Mỗ không thể trả giá thêm cho hai cậu được."



Tư Mã Khôi thấy việc đã đến nước này thì cứ nói thẳng toẹt cho xong: "Bọn tôi và lão là kẻ cắp gặp bà già, cóc cần sử dụng mấy chiêu thụt thò như bơi chó. Chẳng thà đừng ai giở trò với ai nữa. Mấy bài của lão bọn tôi biết tỏng từ khuya, trước đây cũng gặp nhiều rồi, nói chuyện cũng không cần vòng vo tam quốc, giấu giấu giếm giếm làm gì. Bọn tôi đã sớm nhìn ra Triệu Lão Biệt lão đích thị là tên biệt bảo, nếu không, chẳng người nào đang sống nhe nhởn lại quàng trên cổ chuỗi bánh đả cẩu như lão."




Cái thứ "bánh đả cẩu" này thực ra là một loại bánh thuốc, dùng để xua đuổi chó mèo. Thời xưa, ở vùng nông thôn, mỗi khi trong nhà có người chết, lúc đặt thi thể vào quan tài thường đeo lên cổ xác chết chuỗi vòng này để đề phòng bị lũ chó đói gặm nát thủ cấp hoặc bị mèo hoang nhảy qua khiến người chết nhập tràng sống dậy. Những kẻ biệt bảo thường xuất hiện ở những nơi rừng già núi thẳm hoặc mộ hoang, đất dữ, để tránh rắn độc, dã thú, họ cũng có thói quen đeo "bánh đả cẩu".



Triệu Lão Biệt cũng nhận thấy cậu Tư Mã Khôi này tuy chỉ mới mười lăm mười sáu tuổi đầu nhưng vô cùng tinh quái, hiểu biết rất nhiều chuyện và không dễ bị bắt nạt. Thế nhưng tuyệt đối lão không thể tưởng tượng tên tiểu tử ấy lại có thể nhìn xuyên thấu hành tung của mình, nên trong lòng không tránh khỏi thất kinh một phen, liền bội phần khâm phục nói: "Vị đầu lĩnh này đúng là nhãn lực hơn người, không ngờ thời thế này vẫn còn có người biết đến nghề biệt bảo của bọn mỗ."



Việc đến nước này, Triệu Lão Biệt chỉ còn cách thẳng thắn thừa nhận mình quả thực là một tay biệt bảo, hôm nay gặp vận may lớn, khi vô tình đi ngang qua khu Hắc Ốc hoang phế, liền phát hiện ra chiếc bàn chặt thịt, đúng là "Đi mòn gót giày tìm chẳng thấy, đứng lại ngồi nhìn ở ngay đây". Cuối cùng lão đã nói với bọn Tư Mã Khôi và La Đại Hải: "Lão mỗ đây chẳng nói sai với người ngay thẳng, có gì nói nấy, cái bàn gỗ dùng để chặt thịt của hai cậu đích thị là một vật vô cùng quý hiếm, nhưng chỉ sợ trên đời này, ngoại trừ Triệu Lão Biệt mỗ ra thì chẳng còn người thứ hai hiểu được giá trị của nó. Hôm nay trời đã muộn, chúng ta tạm thời cáo biệt ở đây, hai người các cậu cứ bàn bạc kỹ xem.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Lời đã nói thẳng như vậy thì mỗ cũng chẳng để hai cậu phải chịu thiệt thòi quá đáng. Trong thành mỗ còn giấu một vật rất tốt, ngày mai sẽ mang đến đây. Nếu lúc đó các cậu vẫn khăng khăng không chịu đổi hàng, mỗ sẽ không nói đến câu thứ hai, cất bước đi luôn, đã đi là không quay trở lại, có câu nói xưa mỗ thấy rất hay Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông, đến lúc đó hai cậu đừng có hối hận."



Tư Mã Khôi và La Đại Hải gật đầu đồng ý, hai người nhìn Triệu Lão Biệt đi khỏi Hắc Ốc liền lập tức trở lại lán, khêu to ngọn đèn dầu cho sáng, khênh chiếc bàn nhớt nhát cáu bẩn dầu mỡ đặt lên mặt đất, lật đi lật lại hồi lâu, nhưng cả hai xem tới xem lui mãi mà vẫn không phát hiện ra Tý Sửu Dần Mão gì ẩn chứa bên trong chiếc bàn nên đầy bụng nghi hoặc. Đêm hôm đó, cả hai suy đi tính lại, nghĩ trước nghĩ sau, trằn trọc mất ngủ cả đêm.



Sáng sớm hôm sau, Triệu Lão Biệt quả nhiên lại tìm đến, lần này trong túi vải đay của lão có thêm chiếc áo lông da trơn bóng, mềm mại, lớp lông da màu đen pha lẫn ánh đỏ, có vài phần khá giống với da báo nhưng rất nhẹ và mỏng. Có điều Tư Mã Khôi và La Đại Hải thì đừng nói da báo, mà ngay cả lông chồn Đại Liên cũng chưa bao giờ nhìn thấy nửa cọng, nên hai người đành giả vờ am hiểu hỏi Triệu Lão Biệt: "Đây là da con gì vậy? Trông lớp da bóng láng, sáng sủa cũng không tệ, là da xịn hả?"



Triệu Lão Biệt nghe xong càng thêm đắc ý, lão liền khoe khoang: "Lai lịch chiếc áo lông da này của mỗ đúng là bất phàm." Sau đó lão kể lại lai lịch của nó cho hai người nghe. Lão bảo trước giải phóng thường đến núi Trường Bạch để đào nhân sâm, đêm đến tá túc ở một lâm trường bỏ hoang. Trong lâm trường có một con mèo già, lông vằn vện như lông hổ, to béo mập mạp, lại vô cùng linh hoạt nhanh nhẹn, lên cây bắt được chim, xuống đất vồ được chuột.



Triệu Lão Biệt ở trong lâm trường lâu dần cũng trở nên quen thuộc với nó, bởi thường cho con mèo ăn thức ăn của mình, về sau, một buổi sáng trước khi vào núi, lão nhìn thấy con mèo nằm rạp trên cành cây, thở hổn hển, trông có vẻ sức cùng lực kiệt, ngay cả đuôi cũng chẳng buồn động đậy, suốt nhiều ngày trời nó đều ở trong tình trạng như vậy.



Triệu Lão Biệt thầm thấy lạ. Với con mắt cú vọ của kẻ biệt bảo, lão vừa nhìn là biết ngay con mèo này chắc chắn đã gặp kỳ ngộ gì đây, liền nảy ra ý định phải tìm hiểu cho rõ ngọn ngành. Thế là lão âm thầm quan sát theo dõi, phát hiện chỉ cần màn đêm vừa buông xuống, con mèo già liền chạy vào miếu Sơn Thần, nó luồn vào khe cửa rồi náu mình trong bóng tối nơi góc tường, ở đó án binh bất động.



Đợi đến lúc đêm đã về khuya, cả không gian tĩnh lặng, thì trên chiếc kèo gỗ của miếu Sơn Thần bất ngờ phát ra một tiếng động nhỏ, trông lên chỉ thấy một con chuột khổng lồ to như con chó, hai mắt sáng quắc như đèn pha, đang bò từ trên kèo nhà xuống trước mặt các vị thần. Đến nơi, nó dùng đuôi ngoáy vào trong chiếc đèn dầu, ăn trộm dầu đèn mà người ta dâng cúng cho Sơn Thần, đồng thời ôm ngọn nến mỡ bò gặm nham nhở, phát ra âm thanh nghe "lọt cọt lọt cọt".



Lúc này con mèo già đột ngột từ trên góc tường nhảy vọt ra, quyết sống mái với con chuột. Con chuột tuy to xác nhưng không hề đù đờ, chẳng những vậy nó còn vô cùng hung tàn hiểm ác và dường như không hề sợ sệt kẻ địch. Con mèo già di chuyển nhanh thoăn thoắt mà vẫn không làm gì được nó, hai con quái thú quần nhau huỳnh huỵch, đánh nhau không biết mệt mỏi, đúng là quyết chiến sống chết một phen, bởi con nào cũng thần thông, nên khó phân định cao thấp.




Nhờ vào ánh trăng, Triệu Lão Biệt có thể nhìn rõ sự việc và hiểu được chân tướng. Thì ra đêm nào con mèo cũng phải đến đây quyết đấu với con chuột cho nên khi trời sáng nó mới mệt đến nỗi không lết nổi thân. Lão nhìn trộm trận ác chiến giữa hai kẻ địch, mải mê đến độ quên hết mọi thứ xung quanh, toàn thân căng thẳng theo nhịp độ của trận đấu, rồi vô tình lão chạm vào một cánh cửa bị hỏng khiến nó đổ rầm xuống đất.



Con chuột khổng lồ đang toàn tâm toàn ý tập trung vào trận ác đấu với con mèo già, đột nhiên nghe thấy âm thanh lạ từ đằng sau vọng đến liền giật nảy mình và chỉ cần mấy giây mất tập trung cũng khiến nó lộ ra yếu điểm để con mèo già quật ngã, cắn đứt cổ họng. Phút chốc máu nó trào ra như suối, nhuộm đỏ cả gạch ngói vương trên mặt đất miếu thần. Nó giãy giụa một hồi rồi cuối cùng cũng trợn ngược mắt, thở hắt ra mà chết. Đây đúng là: "Tranh hùng quyết sống mái, phút cuối phân thắng bại".



Triệu Lão Biệt là tay sành sỏi trong nghề, vừa nhìn đã biết con chuột này đã nhiều năm ăn dầu đèn, gặm sáp nến, chắc chắn đã thành tinh, đạo hành cũng không ít, nên liền lấy dao lột da nó, mang về đem đi thuê người làm thành một chiếc áo khoác da thú. Vào những ngày tháng chạp băng giá, ở quan ngoại nước nhỏ thành băng, nhưng chỉ cần khoác chiếc áo da chuột trên người, thì cho dù bên trong để mình trần, trán vẫn đổ mồ hôi như thường. Chỉ có điều, lão ta chưa bao giờ tiết lộ cho người ngoài biết đây là chiếc áo da chuột trăm năm, mà chỉ gọi nó là "Hỏa long tuấn mã".



Triệu Lão Biệt lại bảo Tư Mã Khôi và La Đại Hải: "Đừng thấy bây giờ là mùa hè nóng bức mà cho rằng chiếc áo này vô dụng. Hãy đợi khi mùa thu đến, lá trên cây ngả sang màu vàng, hàng đàn chim ưng kêu quang quác bay về phương nam tránh rét; đến lúc ấy nếu các cậu vẫn sống trong cái lán rách khu Hắc Ốc này, chắc khó lòng chống chọi nổi với cái lạnh căm căm và không khí ẩm ướt, chẳng chóng thì chày cũng nhuốm bệnh vào thân. Lúc đó hai cậu không thể rời xa chiếc áo da Hỏa long tuấn mã của mỗ đây một bước đâu."



Tư Mã Khôi trong lòng tự biết chiếc áo khoác da này chắc chắn là cái giá cuối cùng mà Triệu Lão Biệt đồng ý trả; và dù sao dựa vào nhãn lực và kiến thức của mình, cậu cũng không thể nhìn ra cái bàn chặt thịt mục nát đó rốt cục là bảo vật phương nào, chi bằng cứ đổi quách đi cho xong, nên chấp nhận điều kiện trao đổi. Thế nhưng cậu vẫn giao kèo với Triệu Lão Biệt: "Vụ làm ăn này giữa bọn tôi và lão chắc không có vấn đề gì, nhưng xin lão sư phụ không ngại chỉ dạy cho, đừng để chúng tôi chịu thiệt một cách mù mờ. Lão hãy nói cho bọn tôi biết rõ toàn bộ ngọn nguồn lai lịch của chiếc bàn chặt thịt, đồng thời nói luôn rốt cục lão làm cách nào để phát hiện ra nó có điểm khác thường, và mang nó đi để dùng vào việc gì? Nếu có chỗ nào giải thích không rõ ràng, Tư Mã Khôi tôi đây thà chẻ nó ra làm củi đun chứ tuyệt đối không chịu để cho lão hưởng lợi dễ dàng như thế đâu."



Triệu Lão Biệt vô cùng khó xử, nhăn mặt nói: "Tư Mã đầu lĩnh, cái lý của cậu có phần không đúng cho lắm, người xưa đã có câu: Khăn thêu uyên ương, mặc người thưởng ngoạn. Kỹ nghệ kim chỉ, một mình mình hay. Hai bên chúng ta tiến hành giao dịch lấy vật đổi vật, mỗ lại không để cậu thiệt thòi chút nào, sao nhất định phải ép mỗ nói ra gốc gác của nó?"



Tuy rằng Tư Mã Khôi và La Đại Hải phiêu bạt giang hồ đã nhiều năm, nhưng rốt cục vẫn không thoát khỏi tâm lý hiếu kỳ của trẻ con, mọi chuyện đều muốn biết rõ chân tướng mới thỏa mãn, nếu trắng đen mập mờ, cả đêm ngủ cũng không ngon giấc. Vậy nên hai người kẻ đánh người xoa, nằng nặc đòi Triệu Lão Biệt giải thích bằng được, lại còn thề thốt sau này tuyệt đối không hối hận mà thay đổi quyết định, cũng không trở thành kẻ phản đồ tiết lộ bí mật cho người khác.



Triệu Lão Biệt gặp phải hai hòn đá tảng cứng đầu đành tự nhận mình đen đủi, buộc phải tiết lộ vài phần sự thực. Thế gian đều nói bọn man tử biệt bảo mắt sắc như dao, sự thực quả đúng như vậy. Trưa hôm qua, khi đi ngang khu Hắc Ốc hoang phế, Triệu Lão Biệt đảo mắt một cái liền phát hiện trong lán có điểm khác thường.



Nhãn lực nhận biết bảo vật là một môn công phu hơn nữa còn là kinh nghiệm được tích lũy nhiều năm, nói sao được nhỉ? Kỳ thực phải nói trắng ra thế này, khả năng ấy không hề tà ma như dân gian vẫn truyền miệng, cũng không phải cái gì xa xôi giống như kiểu nhìn thấy ánh hào quang lấp lánh tỏa ra từ cái lán gỗ, mà chỉ đơn giản là người làm nghề biệt bảo rất giỏi quan sát, họ có thể phát hiện ra những chi tiết nhỏ bé mà người thường dễ dàng bỏ qua.



Triệu Lão Biệt liền đi đến cái lán thì phát hiện gần khu vực đó có rất nhiều hiện tượng khác thường. Theo lẽ tự nhiên, thời tiết oi bức thế này, khu vực Hắc Ốc rác rưởi chồng chất như núi, La Đại Hải lại vừa mới cắt chiếc thủ lợn vứt quay lơ trên mặt bàn, khiến khắp nơi đều nhuốm mùi máu tanh, thì xung quanh lẽ ra phải có rất nhiều ruồi nhặng bay lượn vo ve không ngớt mới đúng. Thế nhưng xung quanh cái lán phía đằng sau Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại tịnh không thấy bóng dáng nửa con ruồi, đó chẳng phải chuyện rất lạ hay sao?



Triệu Lão Biệt đoán chắc gần đây có giấu bảo vật, liền lập tức dừng bước, giả bộ xin bát nước chè, rồi nhân cơ hội này ngồi luôn xuống trước cửa lán, nhìn quanh bốn phía cẩn thận dò xét, cuối cùng ánh mắt dừng lại ở chiếc bàn mục nát dùng để chặt thịt. Chiếc bàn chặt thịt là phần bên trên của một thân trụ gỗ, bốn phía buộc dây thừng gai, trên mặt bàn còn đặt một chiếc đầu lợn mắt trợn trừng không chịu nhắm, máu tươi nhỏ ròng ròng xuống, nhưng lạ một điều là không nhìn thấy giọt máu nào chảy ra ngoài mà từ từ thấm ngược vào trong thân gỗ.



Triệu Lão Biệt liếc mắt một cái, liền đoán định ra bên trong chiếc bàn gỗ nhuốm đầy dầu mỡ này hẳn phải có một kỳ vật. Khúc gỗ để làm chiếc bàn chắc chắn được trong thân nó có lỗ hổng do sâu đục, vừa vặn để một con rết cỡ nhỏ chui lọt. Con rết ở trong thân cây lâu ngày, cơ thể dần phình to, khó lòng chui ra ngoài thoát thân, đành chịu bị nhốt ở bên trong. Gỗ mang tính âm, lại tiết ra dịch thông qua thớ gỗ, nuôi con rết nhiều năm không chết.




Sau này, cây cổ thụ bị đốn xuống làm nguyên liệu, khúc gỗ được bào thành chiếc bàn cắt tiết chặt thịt gia súc lại chính là khúc gỗ có con rết trốn bên trong. Con rết liên tục được hút tiết lợn, qua năm dài tháng rộng, lâu dần cơ thể nó tiết ra một viên "Ngọc Định Phong". Nghe nói vì viên ngọc có thể chữa trị bệnh thống phong nên người ta mới đặt cho nó tên ấy, chứ không phải đó là viên ngọc mà Tôn Ngộ Không năm xưa được Tiên Ông ban cho để chiến đấu mượn được quạt Ba Tiêu của Bà La Sát trên đường đi Tây Thiên thỉnh kinh, về sau, chiếc bàn gỗ chặt thịt bị chủ hàng vứt bỏ, không biết lưu lạc thế nào lại đến được khu Hắc Ốc hoang phế, con rết già nằm bên trong đã bị chết đói từ lâu, nhưng viên ngọc thì vẫn còn. Viên "Ngọc Định Phong" này là loại linh đơn được kết tụ bởi rất nhiều âm tà huyết khí, nên lũ ruồi muỗi mới không dám bén mảng đến gần. Vật mà Triệu Lão Biệt muốn có, chính là viên ngọc quý này.



Lúc ấy, Tư Mã Khôi không thể tin nổi, làm gì có chuyện chuẩn xác đến thế? Cậu lập tức đi tìm cái rìu bổ củi, bổ toang cái bàn chặt thịt ra làm mấy mảnh, và trong đó quả nhiên có một con rết lớn, toàn thân đỏ au au nằm cuộn tròn người. Bị rìu chặt ra làm hai đoạn, tuy nó đã chết nhưng trông vẫn sinh động như đang sống, còn trong miệng con rết ngậm một viên ngọc trắng phơn phớt, tròn vành vạnh, không hề tỏa ánh sáng bóng, mà nhìn giống như một cái mắt cá màu đùng đục.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải nhìn chằm chằm không rời, và đến lúc này mới coi như thực sự tâm phục khẩu phục, có trách thì chỉ trách bản thân mắt mờ, ở bên cạnh bảo vật bao lâu nhưng không hề nhìn thấy, sau này muốn hối hận cũng không kịp, tối nay cứ việc nằm đợi mà nuôi muỗi.



Triệu Lão Biệt cười hì hì, trong lòng vô cùng đắc ý nhưng vẫn giả bộ khuyên giải hai người: "Có câu nói xưa thế nào nhỉ... Số mệnh ba thước, khó cầu một trượng. Hai vị đầu lĩnh tuổi trẻ xuất anh hùng, tuy rằng vô duyên với viên ngọc này, nhưng ngày dài tháng rộng, hơn nữa còn đổi được chiếc áo da, thuốc thơm và nhiều đồ nhai sướng miệng nữa, thì cũng nên biết thỏa mãn. Hai bên chúng ta đều có được vật mà mình muốn có, chẳng ai thiệt thòi cả, núi không chuyển thì sông chuyển, sau này chắc chắn còn có cơ hội gặp mặt." Nói đoạn, lão nắm chặt viên "Ngọc Định Phong" trong tay, quay người định đi.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải đang lúc hưng phấn, làm gì có chuyện buông tay bỏ qua dễ dàng như thế, hai người liền vội vàng ngăn Triệu Lão Biệt lại: "Lão vẫn chưa nói rõ hết mọi chuyện, sao nói đi là đi ngay được? Viên ngọc trông giống cái mắt cá này rốt cục có công dụng gì? Lão mang nó đi định dùng vào việc gì?"



Triệu Lão Biệt có vẻ hơi ngần ngừ một chút. Lão vốn không định nói thêm nữa, nhưng thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải gan to ngang trời, ngông cuồng chẳng biết sợ thần quỷ gì cả, mà bây giờ một mình lão vào núi biệt bảo lại đang cần trợ thủ, nếu được hai thiếu niên trẻ tuổi ở bên cạnh giúp sức thì chẳng phải công việc sẽ thêm phần suôn sẻ hơn sao? Nghĩ đến đây, Triệu Lão Biệt liền nheo mắt nhìn trời rồi thấp giọng bảo: "Xem ra cái thị trấn cổ trong Hắc Ốc này địa hình không phải hạng xoàng, vốn là mảnh đất vàng, phong thủy thuận chiều Phượng hoàng sải cánh, tung ngọc rải vàng, nhưng bao năm nay không biết vì lý do gì mà đất đai trở nên cằn cỗi, người vật cùng kiệt?"



Tư Mã Khôi và La Đại Hải cảm thấy không thể lý giải nổi, liền hỏi: "Mấy cái thuật phong thủy địa lý cổ xưa, anh em bọn tôi cóc hiểu lắm, nhưng nghe nói Hắc Ốc từ trước đến nay đều nghèo xơ xác thế này, cỏ dại mọc um tùm, đất đai nứt nẻ, trồng cây gì chết cây đấy, thì làm sao có thể gọi là mảnh đất vàng được?"



Triệu Lão Biệt nói: "Lúc trước mỗ đã nói gì nhỉ, có trách thì chính là trách điều này, nơi đây tuy rằng địa lý rất tốt nhưng lại nằm ở giữa hai dải núi, thiếu mất nguồn linh khí mà những mảnh đất vàng phong thủy khác vẫn có, vì thế mỗ đây dám phỏng đoán rằng bên trong ngọn núi hoang vu phía tận cùng mạch đất, nơi con người chưa hề đặt chân tới, chắc chắn có chôn giấu một cổ vật ngàn năm mang âm khí rất nặng nề, chính vật này đã hút cạn tinh hoa của trời đất, ám hại thổ nhưỡng sông ngòi nơi này. Nhưng vẫn có câu Phải nhìn tận mắt mới hay thật giả, rốt cục trong lòng núi cất giấu vật gì, bây giờ mỗ cũng không dám đoán bừa."



Triệu Lão Biệt tự nhận mình phải dùng trăm phương ngàn kế mới lấy được viên "Ngọc Định Phong" trong chiếc bàn chặt thịt mục nát. Lão muốn mượn vật này để đi đào bảo vật chôn giấu dưới lòng núi. Trước khi đi, lão ta còn nhắn nhủ: "Này hai vị đầu lĩnh! Nếu hai cậu có gan thì giờ Tý đêm nay đến chân cầu La Sư phía sau khu Hắc Ốc đợi mỗ, tới lúc đó mỗ sẽ cho hai cậu mở rộng tầm mắt. Có điều hai cậu phải tuyệt đối nhớ kỹ, việc này không được tiết lộ với bất kỳ ai."


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: Hồi thứ ba: cầu la sư


Triệu Lão Biệt dặn dò xong xuôi, hẹn đúng mười hai giờ đêm nay hai người đợi lão ở chân cầu La Sư cùng đi biệt bảo, sau đó liền nhét viên "Ngọc Định Phong" vào trong người, vội vàng bỏ đi mất dạng.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải từ lúc đó đứng ngồi không yên, hai người vô cùng ngứa ngáy chân tay, linh tính mách bảo chuyện tối nay chắc hẳn vừa mạo hiểm vừa hấp dẫn, nói không chừng còn được chia không ít đồ tốt, thế là liền vội vàng chuẩn bị mọi việc.



Trước tiên, hai người phân phát thuốc lá và đồ hộp ọi người trong nhóm, sau đó tìm một ngọn đèn dầu còn dùng được, lại lo lỡ đâu gặp phải bất trắc bên ngoài, nên mỗi người đều thủ trong mình một con dao díp ba khía. Loại dao díp này có ba mặt lưỡi, rãnh sâu khoét trên khe, nếu xuyên vào gan tụy người nào thì vết thương không thể khép miệng, cho dù được đưa đến bệnh viện kịp thời vẫn không thể tránh khỏi cái chết do mất quá nhiều máu. Trong khu vực Hắc Ốc không thiếu loại hung khí kiểu này. Hai người thu xếp gọn gàng đâu vào đấy, chỉ chờ màn đêm buông xuống là lập tức đến chân cầu La Sư tìm gặp Triệu Lão Biệt.



Đợi mãi mặt trời mới xuống núi, hai người liền đứng dậy chuẩn bị xuất phát. Ai ngờ đúng lúc này, một cô gái tên là Hạ Cần lại đến tìm gặp. Trước khi nghỉ học ở trường, Hạ Cần từng là bạn cùng lớp với Tư Mã Khôi và La Đại Hải, tuy rằng cô nàng không phải hạng xinh gái nhưng thân hình cân đối, khuôn mặt dễ nhìn, thành tích học tập cũng khá, mà quan trọng hơn là điều kiện chính trị của gia đình rất tốt, sớm muộn cô nàng cũng tham gia quân đội, con đường tương lai có thể nói là vô cùng xán lạn. Từ trước đến nay, Hạ Cần rất ít khi kiếm chuyện thị phi với đám người La Đại Hải, thế mà hôm nay đột nhiên đến đây tìm gặp, khiến Tư Mã Khôi và La Đại Hải cảm thấy vô cùng ngạc nhiên.



Hạ Cần không đội mũ, hàng tóc mái hỉ nhi lòa xòa trước trán, đằng sau kết thành hai bím dài và nhỏ, trên người mặc bộ quân phục loại đắt tiền, quần kaki màu xanh da trời, ngực cài huy hiệu Mao chủ tịch. Cô nàng vội vàng từ thành phố chạy đến đây, quần áo ướt đẫm mồ hôi, dường như có chuyện gì quan trọng lắm muốn thông báo cho hội Tư Mã Khôi biết, nhưng khi nhìn thấy bộ dạng ngang ngược, vô lại, bất cần đời của hai người bọn họ, cô cảm thấy vô cùng thất vọng. Hạ Cần thở dài bất lực, lời nói vốn dĩ sắp vọt ra khỏi miệng lập tức bị nuốt ngược vào trong, thay vào đó cô nàng đã không ngừng trách mắng bọn họ một thôi một hồi, nói họ không nên cam tâm buông thả bản thân như vậy mà phải tìm cơ hội học tập nhiều thêm một ít, nếu không sẽ lãng phí mất tuổi thanh xuân quý giá.



Tư Mã Khôi ghét nhất phải nghe người khác lên mặt dạy đời, nên trong lòng thầm nghĩ: "Cái con nhóc này sao lắm chuyện thế không biết, bây giờ là thời đại nào rồi mà còn học tập?" Tuy nghĩ vậy nhưng miệng cậu ta vẫn điềm nhiên lấp liếm: "Cậu nghĩ bọn tôi muốn thế này à? Vì sao người ta phải học tập hử? Đương nhiên là vì muốn thể hiện giá trị cái tôi của bản thân. Nhưng tôi lại nghe có một nhà hiền triết nói thế này, người ta sinh ra trên đời nhất thiết phải lần lượt đi theo các tiêu chí: trước tiên là sinh tồn, tiếp đến là cảm giác an toàn, thứ ba là tình yêu, gia đình, thứ tư là sự tôn trọng, xếp hàng thứ năm mới là thể hiện cái tôi. Bây giờ bọn tôi ăn bữa sáng lo bữa tối, cuộc sống có hôm nay mà không có ngày mai, ngay cả tiêu chí đầu tiên cũng chẳng đạt được thì làm gì còn tâm trí mà nghĩ đến việc học hành nữa."



Hạ Cần tự biết miệng lưỡi mình không thể thắng nổi Tư Mã Khôi, bởi chỉ có quỷ mới biết nhà hiền triết nào đã nói với cậu ta mấy triết lý đó, hay chính cậu ta thuận miệng nói nhăng nói cuội? Cô nàng đành nói: "Bạn Khôi ạ! Chúng mình dù sao cũng là bạn cùng lớp với nhau, tớ nói thế chẳng qua là muốn tốt cho các cậu mà thôi!"



Thấy điệu bộ Tư Mã Khôi và La Đại Hải có vẻ như muốn kết thúc câu chuyện ở đây, hai người bọn họ, tay cầm chiếc đèn dầu, thắt lưng giắt theo hung khí, Hạ Cần lại tưởng hai tên này chuẩn bị ra ngoài đánh lộn với người ta, liền vội vàng hỏi họ định đi đâu?




Đầu óc La Đại Hải không thể nhanh nhạy như Tư Mã Khôi nên nghe hỏi liền thuận miệng trả lời ngay: "Bọn tôi đến cầu La Sư..." Nói được nửa câu, cậu ta tự biết mình lỡ lời, lập tức lấy tay bịt mồm lại.



Hạ Cần từng nghe nói đến cầu La Sư ở vùng ngoại ô hẻo lánh, đó là chiếc cầu bằng đá cổ xưa đã bị bỏ hoang từ lâu, đi qua cầu là rừng sâu núi thẳm và khu nghĩa địa rộng lớn; ở đó tịnh không có bóng người qua lại, không hiểu hai người bọn họ đến đó làm gì vào đêm hôm khuya khoắt thế này? Cô nàng không khỏi sinh nghi, trong lòng chắc mẩm bọn họ đến đó chỉ để gây họa mà thôi.



Tư Mã Khôi vội vàng giải thích, bọn họ đến đó tuyệt đối không phải để đánh nhau mà là... mà là để bắt chim cút. Khu vực gần cầu La Sư cỏ hoang mọc rậm rạp, cao ngút ngang thắt lưng, trong bụi cỏ có rất nhiều tổ chim cút.



Cậu ta nói vậy cũng không hoàn toàn sai sự thật, vì người ngoài mới vào khu Hắc Ốc, muốn chắc chân ở đây thì buộc phải đánh nhau với bọn lưu manh vô lại bản địa. Trừ phương pháp hai bên mang quân lính đánh nhau lộn tùng bậy ra, cách tốt nhất chính là "chọi chim cút".



"Chọi chim cút" là một hình thức cá độ, bắt nguồn từ cuối thời Minh và được lưu hành rộng rãi trong dân gian, cũng giống như các trò chọi chim, đấu chó, chọi dế khác. Lúc đầu, khi mới đến đây, vì Tư Mã Khôi tìm được một con chim cút mỏ sắt, lông vũ tím biếc, rồi trong vòng ba ngày nó liên tiếp hạ gục mười lăm con chim cút khác của bang Hắc Ốc nên cục diện mới được thay đổi, và hội Tư Mã Khôi mới giành được chỗ dung thân.



Sau sự việc ấy, mỗi lần hai bên có tranh chấp gì đều lấy phương thức "chọi chim cút" để giải quyết; nhưng chim cút không nuôi bộ được lâu nên Tư Mã Khôi phải tìm trăm phương nghìn kế ra bãi cỏ hoang bắt chim. Có điều, nửa đêm nửa hôm thế này thì không thể bắt nổi, giờ lấy lý do đó quả thực chỉ là miễn cưỡng viện cớ mà thôi.



Hạ Cần nghe giải thích mà bán tín bán nghi, khăng khăng đòi đi theo bằng được mới chịu tin. Tư Mã Khôi khuyên giải thế nào cũng không được, nhìn lên thấy sắc trời đã nhá nhem tối, bây giờ cũng không thể đuổi cô nàng về thành phố nên đành phải chấp nhận cho bám đuôi.



Đêm hôm đó, vòm trời chi chít sao nhưng lại không có trăng, không gian chẳng có lấy một ngọn gió mát mà oi bức ngột ngạt đến khó thở.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Ba người xách theo ngọn đèn dầu lặng lẽ rời khỏi khu Hắc Ốc, bước thấp bước cao đi rất lâu trong khu đất vắng vẻ, cuối cùng cũng nhìn thấy chiếc cầu đá đã bị sập mất một nửa, bắc ngang qua lòng sông khô cạn. Đây chính là cầu La Sư. Đối diện với cầu La Sư là một vùng hoang vu, gò đồi nhấp nhô lượn sóng, trong đó là đồng cỏ mênh mông không biết đâu là bờ, và khu nghĩa địa cổ rộng lớn có từ ngàn năm trước, mộ phần chôn cất lộn xộn chẳng có lớp lang gì cả, phần lớn là mộ vô chủ, người bị chôn dưới đất đều là người nghèo, thậm chí còn có những mộ tận mấy người chôn cùng một hố. Nghe nói ở đây ma quỷ hoành hành rất dữ nên ít người dám qua lại sau khi trời tối.



Trời vào hạ, lòng sông phía dưới gầm cầu tích đầy bùn cát, cỏ dại mọc um tùm, phía sâu bên trong lùm cây ếch nhái không ngừng cất tiếng kêu ộp ộp, bọ gậy nhung nhúc từng bầy bơi lội trong mấy vũng nước tù, những con dơi to hơn cả chim thỉnh thoảng lại liệng vèo qua trước mặt, khiến người ta sợ đến vã mồ hôi hột. Có điều, Tư Mã Khôi và La Đại Hải sống ở nơi hoang vu này đã quen rồi nên vẫn điềm nhiên như chẳng nhìn thấy gì. Xem chừng vẫn còn sớm, mấy người bọn họ liền ngồi bừa xuống một bãi đất dưới chân cầu, tắt đèn dầu, vừa hút thuốc vừa chờ đợi.



Tư Mã Khôi thấy cơ sự đã đến nước này, sợ rằng không thể giấu giếm thêm được nữa, liền thuật lại việc gặp Triệu Lão Biệt cho Hạ Cần nghe một hồi, rồi bắt cô nàng hứa khi về tuyệt đối không được hé môi kể với bất kỳ ai.



Hạ Cần thấp giọng đồng ý: "Cậu cứ yên tâm, tớ nhất định không bao giờ thành kẻ phản bội đâu, nhưng hai người các cậu cứ làm mấy việc thị phi này, chẳng sớm thì muộn cũng rước họa vào thân. Mấy hôm trước, tớ nghe bố tớ nói, cục cảnh sát đã quyết định bài trừ tận gốc bang Hắc Ốc đấy. Nếu các cậu không muốn bị nhốt vào tù thì phải sớm trở về thành phố mới được."



Tư Mã Khôi nghe tin ấy, trong lòng cảm thấy hơi khó chịu. Thông qua sự tiếp xúc trong những ngày ở đây, cậu phát hiện cái gọi là "Bang Hắc Ốc" thực ra là những con người rất thuần phác, họ chỉ là những người đẩy xe bán khoai lang, bánh hành dạo, nếu không thì là những kẻ lưu lạc không nhà không cửa. Tất cả bọn họ đều sống nhờ vào con đường sắt, chẳng gây ra tội ác tày trời nào cả; nếu quả thực bắt họ phải rời khỏi túp lều hoang tàn này thì họ phải đi đâu để tìm chốn dung thân?



Trái lại, La Đại Hải chẳng buồn để tâm, cậu ta nói nếu như không thể sống trong Hắc Ốc thì sẽ dẫn Tư Mã Khôi đi Đông Bắc. Ông già cậu ta trước đây có gốc rễ sâu trong quân đội đến tận đâu đấy chứ, muốn quan hệ có quan hệ, muốn đường đi có đường đi, không chừng đợi khi cậu đủ tuổi còn được sắp xếp vào trong quân đội, việc gì phải cố sống cố chết bám trụ ở đây mà chịu uất ức.



Hạ Cần nói: "Đông Bắc thì có gì hay cơ chứ, đến mùa đông lạnh chết đi được, chẳng phải lưỡi của cậu khi nhỏ bị đông cứng nên giờ mới thế này sao?"




La Đại Hải bĩu môi tỏ ý khinh thường: "Cậu thì hiểu gì? Đồ con gái tóc dài, óc ngắn!" Đoạn cậu quay sang hỏi Tư Mã Khôi: "Khôi này, bố cậu sau này cũng đến Quan Ngoại phải không? Cậu bảo cái vùng ấy như thế nào nhỉ?"



Tuy rằng Tư Mã Khôi mơ hồ cảm thấy cái thằng như mình đây tiền đồ mờ mịt, số phận khó đoán, nhưng từ trước đến nay đều tự hóa nguy thành an, nên sớm đã chẳng buồn quan tâm đến điều này nữa, bây giờ nghe La Đại Hải gợi lại chuyện Quan Ngoại, liền nói: "Tớ chưa bao giờ đến vùng Đông Bắc, trước đây chỉ nghe ông già kể, ở đó vào mùa đông đúng là tuyết bay ngập trời, khắp nơi đóng băng đông cứng, vạn vật đều chìm vào giấc ngủ, có người còn bị đóng băng cả mũi. Thế nhưng trong rừng già núi sâu, những việc quái lạ nhiều vô cùng, nên chỉ cần ngồi trong lâm trường nghe người già kể chuyện cổ xưa, nghe suốt cả mùa đông cũng vẫn không hết."



Để giết thời gian, Tư Mã Khôi liền kể cho La Đại Hải và Hạ Cần nghe câu chuyện ly kỳ mà ông bố Trương Hồ Lô từng gặp ở Quan Ngoại. Ông bảo ở ngôi miếu hoang trong núi sâu vùng Quan Ngoại, một hôm bỗng nhiên có lão đạo sĩ đến; lão ta thu nạp một đồ đệ ở dưới núi làm đạo đồng, đồng thời xây một tòa điện để thờ sư tổ. Hai thầy trò cùng nhau ở trong đó tháng nọ tiếp tháng kia. Trước cửa điện um tùm rậm rạp, bất kể ở đây chỉ toàn cỏ dại cây hoang, nhưng hôm nào cũng nhìn thấy hai đứa trẻ hồn nhiên nô đùa ở ngoài hang núi. Mỗi ngày lão đạo sĩ gặp chúng, đều thuận tay đưa cho hai đứa bé khi thì viên kẹo, khi thì cái bánh. Thời gian lâu dần, hai bên trở nên khá thân thiết, nhưng hai đứa trẻ đó tuyệt đối không dám lại gần cửa điện một bước.



Cứ như vậy nhiều năm trôi qua, tất cả đều bình an vô sự, mãi cho đến một ngày, lão đạo sĩ từ dưới núi mang về mấy quả đào tươi ngon, trên cuống còn dính mấy chiếc lá, quả nào quả nấy căng mọng mỡ màng. Lão mang đào bày lên hương án trong điện thờ, dâng lên sư tổ. Lão đạo sĩ đi suốt một ngày đường, vừa mệt lại vừa buồn ngủ, thần thái lờ đờ, cứ thế ngồi trong điện, ôm hương án, dần dần thiếp đi.



Lúc này, một trong hai đứa trẻ đứng thập thò ở ngoài, rồi bò lên bậu cửa nhòm vào bên trong. Nó nhìn thấy mấy trái đào tươi mọng, không nhịn nổi liền len lén lẻn vào trong điện ăn trộm. Ai ngờ lão đạo sĩ đột nhiên hèm lên một tiếng, nhảy bật người dậy, giơ tay tóm lấy đứa trẻ, chẳng nói chẳng rằng kẹp mạnh nó vào dưới nách, ba chân bốn cẳng xông thẳng vào lò đốt hương phía sau điện, chân tay cuống quýt lột sạch quần áo của đứa trẻ, dùng nước tắm rửa sạch sẽ rồi vứt sống nó vào một nồi nước to, lấy nắp gỗ nắp chặt lại, rồi dùng tảng đá to chèn lên trên.



Lão đạo sĩ lại gọi tiểu đạo sĩ đồ đệ đến, ra lệnh cho hắn chất thêm củi vào lò, tuyệt đối không được bớt lửa, cũng không được mở nắp vung xem bên trong là thứ gì, sau đó lão ta chạy đi tắm rửa thay quần áo, tế bái thần linh.



Tiểu đạo sĩ trong lòng thầm nghĩ, người xuất gia nên lấy thiện làm gốc mới phải, sao lại ăn thịt người tàn nhẫn như thế? Chỉ e rằng sư phụ đang muốn tu luyện môn công phu tà đạo nào đó. Tai hắn đã nghe thấy đứa trẻ bên trong nồi khóc thét giẫy giụa, nên cảm thấy không nhẫn tâm, định mở vung nồi phóng sinh cho nó. Thế nhưng lại sợ lỡ đâu sư phụ chẳng ăn được thịt người, sẽ lấy dao mổ thịt hắn, thế nên hắn lại không dám kháng lệnh.



Lửa càng cháy càng đượm, tiếng kêu thét càng lúc càng nhỏ, rồi dần dần trở nên u tịch vô thanh, khiến tiểu đạo sĩ nghĩ rằng đứa trẻ chắc đã bị đun chết. Hắn lại lo nước trong nồi bị cạn nên nhè nhẹ hé mở nắp vung, đang định nghé mắt vào xem, đột nhiên nghe thấy "bùm" một tiếng, đứa bé từ bên trong nhanh thoăn thoắt chui ra ngoài trốn mất dạng.



Vừa lúc đó, lão đạo sĩ đang ôm hộp thuốc chạy tới, trông thấy sự tình, vội vàng giục đồ đệ chạy ra ngoài cửa tìm kiếm, kết quả tìm khắp nơi mà đứa bé vẫn biệt vô âm tín. Lão đạo sĩ đành gạt nước mắt than dài: "Đồ nhi ngu ngốc, mi làm hỏng việc lớn của ta rồi! Ta ở bao nhiêu năm trong chốn rừng sâu núi thẳm này cũng chỉ vì quả nhân sâm ngàn năm đó thôi. Nếu nấu nó thành nước uống cùng với thuốc, có thể trường sinh bất lão. Xem ra ta không đủ phúc phận, ước nguyện thành tiên cũng vô vọng rồi. May mà nước canh trong nồi và quần áo của đứa trẻ vẫn còn giữ lại, đem luyện thành linh đơn uống cũng được thượng thọ, miễn nhiễm bách bệnh." Nói xong, hai thầy trò liền gấp gáp quay trở vào trong điện.



Nhưng khi bọn họ trở về tìm kiếm quần áo thì phát hiện không biết chúng đã biến mất từ lúc nào, chẳng những thế nước trong nồi cũng bị một con chó hoang trụi lông uống cạn, một giọt cũng không còn. Lão đạo sĩ thất vọng quá tới mức đổ bệnh, mấy tháng sau thì âu sầu lìa đời, còn con chó hoang, nghe nói về sau lông đen mọc kín toàn thân, óng mượt tuyệt trần, từ đó nó bỏ vào rừng sâu không bao giờ quay trở lại nữa.



Trên núi chỉ còn sót lại vị tiểu đạo sĩ, một mình ngồi giữ điện sư tổ trống toang hoang, sau này hắn rơi vào tình cảnh cùng quẫn, không kế sinh nhai, đành buộc phải phá giới thành cướp, theo chân ông Trương Hồ Lô làm thổ phỉ. Câu chuyện này do chính miệng hắn kể lại cho ông Trương Hồ Lô nghe.



La Đại Hải và Hạ Cần nghe Tư Mã Khôi kể với giọng rất quả quyết, như thể thực tế đúng là đã từng xảy ra việc ấy, trong lòng cảm thấy rất mơ hồ, không thể phân biệt nổi câu chuyện này là sự thực hay do Tư Mã Khôi bịa ra.



Tư Mã Khôi giải thích: "Đã là truyền thuyết thì đừng thắc mắc nó thật hay giả, nhưng các cậu có biết vì sao tớ kể chuyện này ra không? Là vì tớ cứ cảm thấy cái lão già Triệu Lão Biệt đi lùng bảo vật kia, hao hao giống với tên đạo sĩ đi lùng bắt nhân sâm thành tinh."



La Đại Hải cũng gật đầu đồng ý: "Mẹ kiếp! Mấy lũ bợm đó chẳng đứa nào ra gì! Cậu xem bây giờ là mấy giờ rồi mà lão già chết tiệt ấy còn chưa đến? Tớ thấy, chắc quá nửa là bọn mình bị lão cho leo cây rồi."



Tư Mã Khôi gật gật đầu, lớn giọng sang sảng: "Là con người, ai chẳng có tính xã hội, mà xã hội lại là cái quần thể tạp nham đầy tính mâu thuẫn. Mấy năm kinh nghiệm đã mách bảo cho chúng ta rằng, bất luận thế nào cũng đều phải tin câu này: trên thế giới, loại khốn nạn nào cũng có." Cậu ta nói xong liền nhổm người đứng dậy, định bụng nhìn quanh xem Triệu Lão Biệt đã đến chưa, không ngờ vừa ngẩng đầu trông ra phía xa thì đã giật nảy người. Dường như không tin vào cảnh tượng mình đang nhìn thấy, cậu ta vội vàng đưa tay dụi mắt rồi nhìn lại.




Lúc bấy giờ, mây đen u ám, che phủ mọi vì sao vốn chi chít trên nền trời, bóng tối bao trùm bủa vây khắp không gian, chỉ duy phía đối diện với cầu La Sư, nơi tận cùng đầu bên kia của cánh đồng hoang là lung linh ánh đèn. Và, không thể ngờ ở đó lại có một thành trì trải rộng hàng trăm dặm, có sức chứa trên dưới vạn người, quy mô quả thực không nhỏ. Có điều, do màn đêm mịt mùng, tầm nhìn bị mộ phần và cỏ hoang che lấp, lại thêm khói bay sương phủ la đà, nên khi nhìn qua đó chỉ thấy khung cảnh chập chờn lúc mờ lúc tỏ bất định. Trong thành đó hiện rõ ma khí vô cùng nặng nề, khiến người ta không khỏi dựng tóc gáy sợ hãi.



La Đại Hải và Hạ Cần cũng phát hiện ra cảnh tượng dị thường đó, và ba người đều cảm thấy da gà nổi lên từng đợt. Chưa bao giờ bọn họ nghe nói trong khu nghĩa địa bỏ hoang này lại có sơn thôn, thị trấn. Nơi đây tuy rất hiếm dấu tích của con người, nhưng ban ngày thỉnh thoảng vẫn có kẻ qua lại trên đường, có điều chưa ai từng nhìn thấy người sống trong khu nghĩa địa, nên chẳng hiểu sao tự nhiên hôm nay lại nổi lên một tòa thành lớn như vậy? Nhìn tòa thành đó âm hiểm dị thường, lẽ nào đó là ma thành dưới âm phủ?



Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều không tin vào mấy chuyện ma quỷ nên hai người mau chóng định thần, thắp đèn dầu, rút con dao díp ba khía ra, lăm lăm trong tay, hướng thẳng vào bức thành trì chập chờn mờ tỏ như ma trơi rồi tiến từng bước đến đó. Bọn họ định nhìn xem rốt cục là thứ gì đang tác oai tác quái. Hạ Cần tuy rằng không muốn đi, nhưng cô nàng càng không muốn ở lại một mình dưới chân cầu, nên đành níu áo Tư Mã Khôi theo sát phía sau.



Ba người hướng tầm mắt nhìn về phía tòa thành ma, lần mò từng bước trong nghĩa địa, vừa đi vừa phạt cỏ tiến lên. Tuy rằng cả bọn đi rất lâu trong bóng tối, nhưng dường như càng đi càng cảm thấy chột dạ, vì bất luận đã đi được khá xa nhưng trước sau vẫn cảm thấy như không thể đến gần tòa thành ẩn hiện ánh đèn nến ấy.



La Đại Hải trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, liền khuyên Tư Mã Khôi: "Tớ thấy bọn mình nên rút đã, hảo hán sợ gì cái thiệt trước mắt, nếu tiếp tục đi không khéo lại lạc đường mất!"



Tư Mã Khôi nhìn thấy sắc trời đúng là tối quá, trong lòng cũng thầm cảm thấy lực bất tòng tâm, nên đành quyết định rút lui rồi tính tiếp. Ba người bèn quay đầu về phía sau, ai ngờ cánh đồng cỏ hoang rộng mênh mông, đêm đen bao trùm mịt mùng, chút ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn dầu chỉ đủ soi rõ trong phạm vi ba bước. Ánh sáng lói của ngọn đèn hiện lên giữa khu nghĩa địa hoang vắng này chẳng khác nào ánh lửa ma trơi. Tất cả những gì có thể nhìn thấy bây giờ chỉ là những nấm mồ nối tiếp nấm mồ. Ba người bọn họ đi không biết bao lâu, nhưng vẫn không thể quay về lòng sông khô cạn dưới chân cầu La Sư, còn ngoái đầu nhìn lại, thấy khoảng cách giữa họ và tòa thành trì ẩn hiện ánh sáng ma quỷ đằng kia dường như vẫn không hề thay đổi.



Trên trời giờ đã không nhìn thấy bóng dáng nửa ngôi sao, nên cũng chẳng thể phân biệt đâu là hướng nam, đâu là hướng bắc. Mất vật tham chiếu, cảm giác không gian càng bồng bềnh như không tồn tại. Trong đêm hè oi bức, thời gian phảng phất như dừng lại, ngưng tụ tại một điểm.



Trán La Đại Hải đầm đìa mồ hôi lạnh, cậu ta không nhịn được lẩm bẩm thành tiếng: "Thế này chẳng phải đang gặp ma à? Nghe người ta đồn những hồn ma bị chết oan khuất thường xuất hiện trên đường vào ban đêm để dẫn lối cho lữ khách, bắt họ đi vòng vo một hồi rồi quay trở lại điểm xuất phát, cuối cùng khiến họ cùng quẫn mà chết. Tục truyền con đường đó gọi là Hẻm ma ám. Chẳng lẽ hôm nay anh em bọn mình lại đâm vào con hẻm ma?"



Tư Mã Khôi vẫn bình tĩnh hơn cả: "Cùng lắm thì lãng phí một đêm ở đây, sáng ngày mai đợi khi chim kêu trời sáng thì cô hồn, dạ quỷ gì cũng phải tiêu tan."



Cậu lại vung dao huơ huơ trước mặt: "Có thứ giết người này trong tay, bất kể trong nghĩa địa có vật gì không thanh sạch, ông đây cũng phanh thây chúng ra thành ba mảnh."



Tuy mạnh miệng như vậy nhưng thời khắc này dường như cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài, mỗi giây mỗi phút đều kéo dài đằng đẵng tựa ngàn thu, bởi hoàn toàn không thể cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian, nên ba người khó lòng át chế được sự phát tác của chủ nghĩa duy tâm. Họ lo rằng bọn họ thực sự đang bị sa vào con hẻm ma ám, đường ma đi, người không thể đi, ngộ nhỡ lạc bước vào trong đó, chỉ e vĩnh viễn không thể đợi đến thời khắc chim kêu trời sáng.



Hải ngọng đột nhiên nhớ ra một việc, cậu ta kể với Tư Mã Khôi và Hạ Cần rằng theo cách nói lưu truyền của dân gian vùng Đông Bắc, nếu một người đi lạc trong núi, thì thường lỡ bước vào nhầm thành cổ, trong thành chắc chắn chẳng có ai là người sống, chỉ có một lão già gầy đét như thanh củi khô, da dẻ nhăn nheo, đầu đội mũ chóp nhọn, khi nhìn thấy người thì tự nhận: "Đầu đội mũ hoàng kim, mình mặc áo lưu ly, bản quan là đại vương trong mộ, cưỡi thỏ ngọc đi tuần".



Nếu gặp phải tình huống như vậy thì lão già đó tuyệt đối không phải là người, mà là con chồn tinh, còn gọi là "Hoàng đại tiên" từ trong núi chui ra, nếu ai còn muốn sống sót thoát ra khỏi hẻm ma ám, thì phải lập tức dập đầu cúi lạy và cầu xin nó dẫn đường.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: Hồi thứ tư: hẻm ma ám


Hồi thứ tư: Hẻm ma ám



Nửa đêm canh khuya, hội ba người Tư Mã Khôi đi lạc trong khu nghĩa địa bỏ hoang, rồi càng lúc càng hoảng loạn, loanh quanh một hồi, trong lòng cảm thấy rùng rợn đến nỗi không còn phân biệt nổi phương hướng nữa.



Bình thường La Đại Hải là tay vô cùng gan dạ, chẳng biết sợ sệt gì sất, nhưng cũng phải tùy việc, nếu luận đến việc đánh nhau, gây vạ, cậu ta có thể dùng que chọc thủng trời, ngưu ma, xà thần gì cũng chẳng phải đối thủ. Có điều khi còn nhỏ, cậu ta từng leo lên cây ăn trộm trứng trong tổ chim, không ngờ vừa lúc đó một con chồn hoa cũng luồn vào, đẩy cậu ta ra rồi cắn chết chim mẹ ngay tại trận. Lúc ấy quanh miệng con chồn dính toàn máu chim, còn hai mắt thì đỏ ngầu, nhìn cảnh tượng ấy La Đại Hải sợ mất vía. Kể từ đó trở đi sự việc này đã trở thành chiếc bóng u tối ám ảnh tâm lý cậu ta một cách nặng nề, mà mãi đến tận bây giờ vẫn không thể phai mờ. Bởi vậy, thứ duy nhất trên đời này khiến cậu ta khiếp đảm có lẽ chính là con chồn. Trước đây cậu ta thường tỏ ra không hề gì, thực ra chỉ là cố tình giả bộ, còn bây giờ gặp phải tình cảnh kinh dị, vượt qua cả phạm vi nhận thức của con người, nên trong lòng cậu ta khó tránh khỏi việc liên tưởng đến chuyện cũ. Lúc này cậu ta quả đúng là gan nhỏ hơn cả gan thỏ. Khi ở Đông Bắc, Hải ngọng đã từng nghe kể rất nhiều truyền thuyết dân gian với thể loại tương tự như vậy, nên giờ cậu cứ một mực quả quyết rằng mấy người bọn họ đang bị chồn tinh nằm dưới mộ huyệt mê hoặc. Nghĩ đến đây cậu ta cảm thấy dường như có một luồng khí lạnh xuyên thẳng vào đáy tim làm bắp chân tự nhiên co cứng như bị chuột rút.



Hạ Cần nghe cậu ta nói có chồn tinh trong thành ma, nên chỉ cần nghĩ thôi mà da gà đã nổi hết cả lên, cô nàng không thể tự kiềm chế được nỗi sợ hãi đang dần trào dâng trong lòng, sắc mặt trở nên tái nhợt.



Tư Mã Khôi hoàn toàn không tin vào mấy thuyết pháp tà ma kiểu đó. Cậu biết khu vực Đông Bắc rất sùng bái "Hoàng tiên", nhưng trước thời Mãn Thanh, những người dân mê tín chuyện này ở Quan Nội tồn tại không nhiều lắm, thậm chí có thể nói là gần như không còn, mãi cho đến sau khi chế độ thiết giáp bát kỳ[9] tràn vào Quan Nội, hai nền văn hóa Hán Mãn bị ảnh hưởng lẫn nhau, Quan Nội mới dần bắt đầu nảy sinh tập tục thờ Hoàng tiên, về nguyên nhân hình thành "Hẻm ma ám" cũng có rất nhiều cách giải thích, mấy thuyết pháp dân gian kia tuy chưa hẳn là sự thật, khu mộ hoang này cũng chưa hẳn bị bọn chồn hoang quấy nhiễu, chỉ là tình hình đang gặp trước mắt quả thực quá sức quái dị, nhưng thật khó có thể dùng lý lẽ thông thường để phán đoán. Cho dù Tư Mã Khôi lý trí cứng rắn, lại giỏi tùy cơ ứng biến, nhưng rốt cục cậu ta tuổi vẫn còn trẻ, kiến thức còn nông cạn nên lúc này khó tránh khỏi cảm giác bất lực.



Lúc này, Tư Mã Khôi lại thấy ánh sáng của chiếc đèn dầu đang cầm trên tay mỗi lúc một trở nên yếu ớt, như báo hiệu sắp sửa tắt hẳn, trong lòng cậu chợt dội lên cảm giác không lành. Cậu nói với La Đại Hải và Hạ Cần: "Chắc chắn chúng ta bị lạc đường rồi, chỉ sợ không dễ thoát ra khỏi nơi này, dầu trong đèn cũng chẳng còn lại là bao, xem chừng không thể duy trì được lâu nữa. Người xưa thường nói đèn tắt ma tìm đến, nếu chúng ta muốn bảo toàn mạng sống, bắt buộc phải nhanh chóng tìm ra cách thoát khỏi đây. Nếu không đợi thêm chút nữa, khi ánh đèn hoàn toàn tắt hẳn, trước mắt tối thui thui, thì càng chẳng có cơ hội thoát thân đâu."



La Đại Hải bất lực đáp: "Tớ coi như hết sạch chiêu rồi, thường ngày toàn thằng ôn con nhà cậu nghĩ ra bao nhiêu quỷ kế, theo cậu bây giờ chúng ta nên làm thế nào?"




Tư Mã Khôi vắt óc nghĩ ngợi hồi lâu. Khi còn ở Bắc Kinh theo "Văn Võ tiên sinh" học nghệ, cậu cũng biết đến một vài điển cố lục lâm. Cái từ "ngựa vang"[10] vốn chuyên dùng để chỉ: "Trên đường Sơn Đông, nếu nhìn thấy kẻ cưỡi ngựa đeo chuông, thì ngầm hiểu đó chính là ám hiệu của đạo tặc lục lâm, bọn họ coi trọng khí chất nghĩa hiệp, chúng ta khó lòng biết thực ra họ là kẻ xấu hay người tốt, khó phân biệt điều họ làm là sai hay đúng; họ bí mật cướp của, tàng hình giết người". Tiếng lóng này sau đó được phát triển rộng ra đến mức bất luận là "râu xồm" ở Sơn Đông, "giặc cướp ngựa" ở Quan Tây, "chim nhạn" ở Giang Nam hay "bang thuyền" ở Hồ Bắc và Hồ Nam, phàm là những tên cướp tự ình là "cướp của người giàu chia cho người ngoài, thay trời hành đạo", đồng thời cũng bái mười tám vị la hán làm sư tổ thì đều được quy vào hàng ngũ "ngựa vang".



Trước đây, "ngựa vang" thường phải chạy vào sâu trong khe núi để trốn khỏi sự truy đuổi của quan quân. Nơi đó là cánh rừng rậm nguyên thủy, quanh năm không trông thấy mặt trời, cỏ mọc còn cao hơn đầu người, đưa mắt nhìn quanh chỉ thấy bốn bề cỏ hoang mọc bạt ngàn. Những người không thông thổ lỡ chân lạc bước vào đây sẽ lập tức bị "biển muỗi" hút sạch máu và trở thành xác khô. Ngoài rừng rậm ra thì đầm lầy, sơn cốc băng tuyết, khe vực đều là những cứ địa vàng để "ngựa vang" nương thân tránh họa và thoát khỏi vòng vây truy sát của quân lính. Bọn họ và quan quân chỉ giao đấu vài hiệp rồi lập tức tản ra, chạy vào khu rừng già, nơi không có dấu chân người qua lại để ẩn thân, đợi khi sóng gió qua đi mới tụ tập trở lại.



Chính vì vậy, người đời mới nói "ngựa vang rất giỏi tìm đường", cho dù chạy vào nơi sơn cùng thủy tận, địa hình phức tạp, khi bị lạc đường, họ vẫn có thể xác định được phương hướng dựa vào việc quan sát vị trí của chòm sao Bắc đẩu.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Vào những ngày trời âm u, không có sao, họ sẽ đi tìm mạch nước nguồn, chỉ cần xuôi theo hướng nước chảy là nhất định sẽ tìm được lối ra. Thế nhưng tình hình trước mắt bây giờ vừa không có sao, lại không có sông suối gì cả, thì làm gì còn phương pháp nào mà nghĩ?



Cuối cùng Tư Mã Khôi đã nhớ lại "thuật thôi môn" được ghi chép trong "Lục Lâm truyền kỳ", trong đó nói: người ta có thể thông qua phương thức mê tín để suy đoán cánh cửa sinh tồn; đây là một bí thuật trong "Thuật âm dương bát quái", mà thông thường chỉ có bọn quân sư vớ vẩn mới sử dụng thủ thuật này. Tư Mã Khôi không biết cái món bí thuật này có tác dụng thật hay không, và cũng chưa bao giờ thực hành cụ thể, nhưng vì phải giành giật sự sống khỏi bàn tay thần chết nên quyết định liều một phen. Cậu đành nhìn mèo vẽ hổ, nhìn bầu vẽ dưa để bắt chước phương pháp cổ xưa mà tiền nhân truyền lại, lấy ba hòn đá vun đống trước mộ, xếp thành hình án thờ sư tổ, sau đó đắp đất thành lò đốt hương, cuối cùng cắm lên đó mấy cọng cỏ dại làm nhang.



Lúc này lẽ ra cậu phải ngồi niệm "Thôi môn lệnh" nhưng Tư Mã Khôi đã quên béng bài chú này từ đời nào, nên đành tạm thời chắp vá mấy câu khác để thay thế, chỉ thấy miệng cậu ta tụng niệm một hồi dài, nghe cũng rất ra văn ra vẻ: "Con xin thỉnh quan phu tử giáng đàn, Lý lão quân hạ thế, mời các vị sư tổ, Ngọc hoàng thượng đế, quan âm bồ tát, tổng tư lệnh, ba vị nguyên lão, bốn vị thiếu gia trên trời, mau mau hiện thân đến cứu đệ tử khỏi vòng hiểm nguy..." Nói xong, cậu liền giơ tay giật chiếc mũ La Đại Hải đang đội trên đầu, vứt vèo một cái vào không trung, rồi đưa mắt nhìn xem chiếc mũ rơi xuống chỗ nào, chỗ rơi xuống chính là cửa sinh, chỉ cần đi theo hướng đó sẽ tìm thấy con đường sống.



La Đại Hải hoàn toàn mù tịt mấy món này, cậu ta chỉ tiếc đứt ruột chiếc mũ quân nhân, bèn hét to: "Thằng điên này! Sao lại mù quáng đi tin mấy chuyện quỷ thần mê tín dị đoan thời phong kiến thế hả?" Nói xong, cậu liền chạy bổ đi tìm chiếc mũ rơi trên mặt đất, nhưng trong nghĩa địa, chỗ nào cũng tối mù mù, cỏ lại mọc cao quá đầu gối, chiếc mũ bay từ trên trời rơi xuống đồng cỏ hoang rồi biến mất dạng, biết tìm ở đâu bây giờ?



La Đại Hải cuống đến nỗi nước mũi chảy cả xuống miệng, không kiềm chế được liền mở miệng trách móc Tư Mã Khôi. Bất ngờ, từ nơi xa xăm nào đó trong đám cỏ vang lên những tiếng "soạt soạt", cậu ta cứ nghĩ chồn tinh đang từ dưới mộ huyệt chui lên, bất giác sợ đứng tim, mồm há hốc, phệt đít ngã lăn xuống đất.



Tư Mã Khôi không ngờ chiêu vứt mũ ấy lại có hiệu quả thật, trong lòng cũng cảm thấy kinh dị, miệng lầm bầm: "Lẽ nào sư tổ hiển linh chỉ đường ình thật?" Cậu kéo Hạ Cần ra phía sau lưng, giơ cao ngọn đèn dầu với ánh sáng bé bằng hạt đậu soi về phía phát ra tiếng động, thì nhìn thấy trong đám cỏ hoang bị sương đêm bủa vây, có một người đang đi đến. Người đó tay xách đèn kéo quân, miệng lẩm bẩm rất khẽ bài đồng dao mà ngày thường trẻ nhỏ vẫn hát: "Hôm nay thần tài giáng phàm trần, thiên hạ người người đều nhanh chân, tiền sạch cá độ Triệu thái gia, tiền bẩn cá cho Thập Bát gia, ngàn núi vạn sông một bông hoa, tiền sạch tiền bẩn đều là tiền, anh phát tài tôi xin hưởng chút, tôi ăn thịt chia nước cho anh..."



Giọng hát vừa sai lời vừa sai nhạc, lệch cả nhịp điệu cứ vang lên càng ngày càng rõ trong đêm tối, mãi cho đến khi người đó đi tới gần, Tư Mã Khôi mới nhìn rõ, kẻ mới đến chính là Triệu Lão Biệt.



Thì ra Triệu Lão Biệt đến chân cầu La Sư đúng giờ như đã hẹn, nhưng không thấy bóng dáng của Tư Mã Khôi và La Đại Hải đâu, lại phát hiện có ánh đèn lay động trong nghĩa địa, chẳng cần hỏi cũng đoán được chuyện gì đã xảy ra. Thế là lão vội vàng mò xuống tìm. Vừa gặp hội ba người Tư Mã Khôi, lão ta liền nói: "Đã bảo các cậu giờ Tý đợi mỗ ở dưới chân cầu La Sư, thế mà dám cả gan tự tiện xông vào khu nghĩa địa này, lại còn dẫn theo một ả nha đầu nữa. Các cậu muốn bỏ mạng à? Ngộ nhỡ rơi vào hố sâu trong mộ huyệt, bị bọn hồ ly lôi đi, thì cho dù các cậu có bản lĩnh tài giỏi thế nào đi nữa cùng đừng mơ trèo lên được!"



Vị cứu tinh mà La Đại Hải đang mong chờ cuối cùng cũng xuất hiện, cậu ta mừng rỡ ra mặt, nhưng vẫn giả bộ cứng giọng: "Lão Triệu, ngay từ đầu sao lão chẳng bảo bọn tôi không được vào khu nghĩa địa này, đến bây giờ thì chớ giở cái giọng Tiểu Gia Cát Lượng lột khố, khai sáng ọi người nữa."




Triệu Lão Biệt chẳng thèm bận tâm đến mấy lời nhăng cuội của La Đại Hải, lão chỉ vào Hạ Cần rồi hỏi Tư Mã Khôi: "Con nhỏ này là đứa nào vậy?"



Tư Mã Khôi nhìn thấy trên chiếc áo sơ mi mà Triệu Lão Biệt đang mặc có mấy mụn vá, phía sau lưng cũng có chiếc bóng đổ dài dưới ánh đèn, liền biết lão là người chứ không phải ma. Cậu bèn đem việc của Hạ Cần kể qua cho lão ta nghe một lượt.



Lúc này, Hạ Cần đã biết Triệu Lão Biệt là bạn của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, tuy rằng nhất thời chưa thể hoàn hồn nhưng vẫn giữ thái độ lịch sự cần có, cô nàng bước đến phía trước giơ tay ra bắt rồi chào hỏi: "Cháu chào Triệu lão sư phụ!"



Triệu Lão Biệt không hề ỏ ê đến cô nàng, quay mặt sang Tư Mã Khôi cau mày tỏ ý khó chịu: "Mỗ đã nói trước không được dẫn theo người ngoài đến rồi mà, các cậu quên sao?"



Tư Mã Khôi lái câu chuyện sang hướng khác: "Việc này để sau tính cũng chưa muộn." Nói đoạn, cậu kể vắn tắt tình hình trước mắt cho lão ta nghe. Nơi này đúng là cửa tà, nếu có người đứng ở bờ sông khêu đèn lên tiếp ứng thì tốt biết mấy, nhưng bây giờ tất cả bốn người đều ở trong nghĩa địa này rồi, e rằng nếu không đợi đến khi trời sáng hoặc khi mây tan trăng sáng thì rất khó thoát thân.



Triệu Lão Biệt nheo cặp mắt nhỏ ti hí nhìn bốn xung quanh rồi thấp giọng nói: "Thực ra, nếu phải đi gấp trong đêm ở nơi núi sâu rừng thẳm thì khó tránh khỏi sa vào hẻm ma ám, nhưng chỉ cần đừng để cô hồn dạ quỷ bám theo mình, thì chẳng có gì đáng ngại nữa cả. Có điều, đi đêm tuyệt đối không được im lặng, mà hãy làm theo cách người xưa truyền lại, đi trong hẻm ma thì phải hát hý văn, như vậy sẽ trấn áp được bách tà. Chúng ta vừa hát vừa hét để xông ra khỏi chỗ này nhé!"



Hội Tư Mã Khôi nghe mấy câu này đều thấy mù mờ chẳng hiểu gì: "Chuyện này bọn tôi mới nghe nói đến lần đầu, đi lạc trong hẻm ma ám phải hát hý văn thật sao? Là vở Đèn lồng đỏ hay vở Núi Đỗ Quyên? Triệu sư phụ có biết hát không?"



Triệu Lão Biệt không lên tiếng trả lời mà chỉ dặn dò mấy câu: "Các cậu chỉ cần đi theo sau mỗ là được rồi, có điều phải nhớ tuyệt đối không được quay đầu nhìn lại đằng sau, phía thành trì đèn nến lập lòe đó, nếu không đừng mong thoát khỏi chỗ này."



Tư Mã Khôi không hiểu ý lão muốn ám chỉ điều gì, liền hỏi: "Sao lão lại nói vậy?"



Triệu Lão Biệt nói: "Tòa thành đó trông giống như ánh lửa ma trơi, ẩn ẩn hiện hiện giữa đám cỏ úa khói tàn trong rừng cây tạp chủng. Nhìn nó như gần như xa, biến đổi quái dị khó lường, càng nhìn càng cảm thấy mơ hồ, bất luận thế nào chúng ta cũng không thể xác định phương hướng dựa vào vị trí của nó được, ngộ nhỡ bị sa chân vào bên trong, thì chỉ có mà vạn kiếp không thể siêu sinh." Thì ra khúc hát lão đang ngâm nga trong miệng là bài "Điệu khúc ngâm" đã bị thất truyền từ lâu trong dân gian, tuy rằng tiếng hát khàn đục nhưng lại vang lên giữa đêm khuya, khiến nó càng mang âm hưởng hùng tâm tráng chí, hiên ngang khí phách.



Không biết có phải bài hát ảnh hưởng đến tâm lý hay không, mà khi Triệu Lão Biệt vừa hắng giọng ngân nga mấy câu, cả hội Tư Mã Khôi đã không còn cảm thấy rùng rợn nữa, vội vàng lên dây cót tinh thần, vùi đầu nhắm thẳng về phía trước. Không ngờ, một lát sau cả hội đã thoát khỏi nghĩa địa và quay trở về chỗ chiếc cầu La Sư vỡ nát bị bỏ hoang.



Thấy cuối cùng cũng thoát được ra ngoài, ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm. Đến lúc này, Tư Mã Khôi càng thêm khẳng định Triệu Lão Biệt chắc chắn là một kỳ nhân bí ẩn khó lường, đừng thấy lão ta ăn mặc lôi thôi quê mùa mà coi thường. Lão già này quả ứng với câu: "Nhìn mặt khó bắt hình dong, nước biển khó lòng đo đếm". Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền bám theo xin thỉnh giáo là vừa rồi rốt cục đã xảy xa chuyện gì? Vì sao khi bị sa vào hẻm ma ám, chỉ cần hát hý văn là có thể tìm đường đi ra được?



Triệu Lão Biệt dường như khi nãy đi gấp quá nên giờ ngồi phệt xuống đất nghỉ ngơi. Lão ta rút tẩu thuốc châm lửa hút, nhắm nghiền mắt tham lam rít hai hơi thật sâu vào phổi. Sau khi khoan khoái nhả từng ngụm khói lên trời, lão mới từ từ trả lời: "Vì sao ấy hả? Chỉ vì, đi đêm vạn dặm đều là họ Hổ!"




Câu này có nghĩa là gì? Thì ra họ "Hổ" trong câu "đi đêm vạn dặm đều là họ Hổ" muốn ngầm ám chỉ đến sơn thần, khi lạc đường trong núi tất nhiên phải hát "Ngâm khúc qua núi".



La Đại Hải cũng chạy đến bên hỏi Triệu Lão Biệt là tòa thành trì rực rỡ ánh đèn nến ở phía xa rốt cục là nơi nào? Trong đó có chồn tinh không?



Triệu Lão Biệt bảo nơi đó là "Thành hàm oan", bên trong có hai loại ma "hàm oan" và "uẩn khuất", ngoài ra còn có năm ngàn âm binh đầu trâu mặt ngựa đứng bên ngoài canh gác, người sống khó lòng tiếp cận. Sau đó, lão móc viên "Ngọc Định Phong" trong người ra, rồi nói chỉ cần có vật này trong tay, thì ta có thể liều chết mà xông vào thành thăm dò một chuyến. Các cậu có gan dám đi cùng mỗ không?



Hải ngọng nghe nói trong đó không có chồn tinh liền lập tức hứng khởi trở lại, cậu ta nhướng nhướng mày, quệt ngang nước mũi dính trên mặt rồi nói: "Tôi chả bao giờ tin mấy cái món này. Chúng ta đều là người có hai chân, hai tay, lão cũng chẳng phải kẻ mọc nhiều hơn tôi một cái đầu, chỉ cần Triệu Lão Biệt lão dám đi thì cớ gì La Đại Hải tôi đây lại không dám hử?"



Tuy rằng Triệu Lão Biệt quả thực có một vài bản lĩnh nhưng lão lại là kẻ bụng dạ hẹp hòi, nhìn thấy La Đại Hải phát ngôn ngông cuồng, thì chỉ cười nhạt, giơ tay trái ra nói: "Thực ra trong mắt mỗ, các cậu chẳng qua chỉ là đám trẻ ranh mới lớn, vì thế các cậu hãy khoan khoác lác! Cậu xem bàn tay trái của mỗ có mấy ngón? Chẳng phải nhiều hơn cậu một ngón tay hay sao? Nếu có bản lĩnh cậu thử mọc thêm một ngón nữa ỗ đây được mở rộng tầm mắt!"



La Đại Hải thấy Triệu Lão Biệt đúng là có sáu ngón tay thật, đành cãi bừa: "Cái này thì có gì đáng phải đem ra khoe khoang! Lão đừng quên núi cao còn có núi cao hơn. Lão có sáu ngón tay thì không còn biết trời cao đất dày nữa phỏng? Thực chẳng dám giấu, La Đại Hải tôi đây lúc mới sinh cũng có đến ba cánh tay lận, nhưng ông già tôi hưởng ứng khẩu hiệu vĩ đại của Mao chủ tịch, cần kiệm liêm chính làm cách mạng, ông không muốn lãng phí vải vóc để may thêm một cánh tay áo nữa cho tôi, bèn đè tôi ra lấy dao thái rau chặt phéng đi một cánh, bây giờ cánh tay đó vẫn để ngâm muối ở trong vại dưa nhà tôi đấy, không tin lão cứ theo tôi về nhà mà xem."



Lúc này Triệu Lão Biệt mới phát hiện là loại người như Hải ngọng chẳng thể nói bằng lý được, đành phải ngậm miệng không tiếp lời. Lão ta quay đầu sang nhìn Tư Mã Khôi và Hạ Cần, hỏi hai người bây giờ định thế nào.



Cũng giống như Hải ngọng, Tư Mã Khôi không tin vào mấy chuyện ma quỷ rùng rợn của Triệu Lão Biệt, trên thế giới này làm gì có chuyện tồn tại "Thành hàm oan", nên cậu cũng quyết định phải vào đó một chuyến để nhìn xem rốt cục nó là cái gì. Hạ Cần thì vì không dám ở lại đây một mình, nên một lần nữa cũng đành phải lựa chọn đi theo bọn họ.



Bốn người từ lòng sông đi vòng qua khu nghĩa địa rộng lớn, rồi lại quanh co mấy vòng rất xa. Nói ra cũng lạ, lần này cùng với sự di chuyển của bước chân, tòa thành trì lập lòe ánh lửa ma quỷ cách họ càng lúc càng gần. Đợi khi đến thật gần, Triệu Lão Biệt đột nhiên dừng lại, thổi tắt đèn kéo quân và lấy tay ra dấu, bảo hội Tư Mã Khôi quỳ xuống, phủ phục trong ổ cỏ, lặng lẽ nhìn về phía trước.



Tư Mã Khôi dụi dụi mắt, định thần nhìn kỹ lại, chỉ thấy trong đám mộ hoang cỏ dại có từng quầng lửa liên tục nhấp nháy lập lòe, thì ra đó là đom đóm, số lượng nhiều không kể xiết, chúng lập bầy lập đàn bay lượn giữa cánh đồng hoang, nhung nhúc kết bè với nhau tạo thành bức bình phong tường thành, chỉ thấy ánh sáng xanh ngập trời, biến hóa khôn lường, từ đằng xa nhìn lại quả đúng là một kỳ quan độc nhất vô nhị. Có thể nói không ngoa rằng nó chẳng khác nào một tòa thành lửa di động.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: hồi thứ năm: đom đóm


Hồi thứ năm: Đom đóm



Bầy đom đóm kết bầy kết đàn bay lượn đầy trời, ánh sáng mờ ảo tụ hợp lại, khiến "Thành hàm oan" bị chôn sâu dưới lòng đất, một lần nữa được tái hiện giữa nhân gian.



Ba người nấp sau lưng Triệu Lão Biệt cứ tròn mắt nhìn mãi cho đến khi hoa hết cả mắt lên, lúc này cả hội mới biết "thành đom đóm" mà lúc trước họ nhìn thấy từ đằng xa chỗ bãi cỏ hoang, hóa ra lại là hàng triệu con đom đóm tập hợp lại mà thành. Nếu không phải đêm nay tất cả đều được tận mắt chứng kiến, thì cũng khó lòng tưởng tượng được trên thế gian này lại có kì quan độc đáo như vậy.



Tư Mã Khôi nhớ lại việc từng nghe người ta nói câu "cỏ mục hóa sâu", đom đóm chắc cũng là loài vật được hóa thân từ cỏ dại mục nát. Nếu chúng tập hợp lại thành đàn lớn ở chỗ nào thì chỗ đó âm khí ngưng tụ dày đặc, bọn chúng hễ ngửi thấy mùi dương khí tỏa ra từ người sống thì lập tức rút lui, và "thành đom đóm" cũng theo đó mà từ từ di chuyển. Lúc trước vì ba người hội Tư Mã Khôi lấy ánh sáng đom đóm phía xa làm vật tham chiếu, nên họ mới bị lạc đường trong nghĩa địa. Bất luận bạn đi nhanh hay đi chậm, tiến hay lui, sớm muộn gì cũng sẽ bị mất cảm giác phương hướng, càng đi càng như sa vào mê cung chẳng khác nào bước chân vào "hẻm ma ám".



Nhưng vì sao bây giờ bọn họ lại có thể ở cách "thành đom đóm" gần đến thế? Tư Mã Khôi thầm băn khoăn một lúc, rồi cuối cùng cũng hiểu ra nguyên nhân. Chắc chắn là do âm khí tỏa ra từ viên "Ngọc Định Phong" rất nặng, nó đủ sức che lấp và lấn át sinh khí toát ra từ cơ thể bốn người sống. Có điều, đến lúc này cậu vẫn không thể lý giải nổi vì sao Triệu Lão Biệt phải tìm đủ mọi cách để tiếp cận "thành đóm đóm".



Đúng lúc đó chợt thấy Triệu Lão Biệt cố tình hạ giọng thật thấp, thì thầm với ba người Tư Mã Khôi: "Bọn đom đóm giống như ánh lửa ma trơi kia đều từ xác chết thối rữa hoặc cỏ khô mục nát hóa thành. Mỗ trộm nghĩ, thành trì được tạo ra bởi vô số con đom đóm như thế này hẳn không phải là cảnh tượng mà người ở trần gian có thể nhìn thấy. Chuyện này đủ sức chứng minh phía dưới lòng đất chắc chắn có chôn giấu một vật mà âm khí nặng nề khồng thể tưởng tượng được, chỉ có nó mới đủ sức khiến lũ đom đóm kết bầy kết đàn tụ tập lại với số lượng lớn khủng khiếp như vậy. Hơn nữa, lũ đó chỉ bay thêm vào chứ chẳng thấy con nào bay đi. Cả đời Triệu Lão Biệt mỗ đây bắt đầu đi tìm từ Quan Đông tìm tới Quan Trung, rồi lại tìm suốt mấy tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây. Gót chân lão đã in khắp nửa vùng trời, hao tổn không biết bao nhiêu thời gian và tâm huyết, cũng chính là để tìm kiếm vật này đây. Tiếc thay một bàn tay chẳng thể phát ra tiếng, bây giờ được các cậu sát cánh tương trợ như thế này thì còn gì bằng. Sau khi xong việc, mỗ nhất định sẽ báo đáp hậu hĩnh."



Thì ra Triệu Lão Biệt là kẻ vô cùng tinh thông cổ thuật, ngoài bản lĩnh biệt bảo ra, lão còn được kỳ nhân truyền thụ cho Liễu Trang tướng pháp[11] vô cùng thâm hậu. Những bí thuật như bát quái ngũ hành, kỳ môn tuần giáp... lão đều thuộc làu như lòng bàn tay. Thường ngày, lão vẫn đi khắp thôn cùng ngõ tận để tìm kiếm bảo vật quý hiếm, vô tình được biết ở gần mộ địa dưới chân cầu La Sư có "thành đom đóm", tòa thành này biến hóa khôn lường, và chỉ xuất hiện giữa đêm hạ chí vào những năm đặc biệt.



Nghe nói những con đom đóm này đều được hóa thân từ lửa ma trơi hoặc lân quang trong "thành hàm oan". Tòa thành lửa như bóng ma ấy ẩn hiện bất định, không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy, mà chỉ trong những năm liên tiếp xảy ra trộm cướp, thiên tai, khi cánh cửa âm tào địa phủ mở rộng ra để thu nạp người vào bên trong thì nó mới xuất hiện; hơn nữa sự xuất hiện của nó chẳng mang theo bất kỳ điềm báo tốt lành nào.




Triệu Lão Biệt suy đoán ở gần "thành đom đóm" nhất định có chôn giấu một vật gì đó rất kỳ dị; không những thế vật đó còn hút cạn cả tinh hoa nhật nguyệt, linh khí trời đất, khiến cả dải long mạch đều trở nên khô cằn. Vật đó chắc chắn phải là vật vô cùng khác thường. Chỉ có cách kiếm cơ hội dò tìm tông tích, làm rõ xem căn nguyên của "thành đom đóm" rốt cục nằm ở chỗ nào, bởi như vậy mới có thể sử dụng bí thuật biệt bảo.



Thành phố Trường Sa diện tích lên đến cả trăm dặm, chỗ nào cũng là đất phong thủy "Chín rồng hội tụ", ở đây tất cả có chín dải long mạch, chín dải đó hình thành nên nhiều loại địa thế khác nhau, độ tốt xấu cũng không nơi nào giống nơi nào. Dải đất quanh khu vực này mộ cổ đặc biệt nhiều, mộ cũ có thể có từ thời Xuân Thu chiến quốc, mộ mới cũng phải bắt đầu từ thời Minh, thời Thanh, ở đó mai táng vô số bậc vương hầu tướng quân và những người quyền cao chức trọng. Thông qua địa hình nơi phát hiện ra mộ cổ, ta có thể đại khái phán đoán: những người được chôn ở nơi có địa thế bằng phẳng, mộ phần thường sơ sài qua loa, ngược lại những người được chôn ở nơi sơn cùng thủy tận, thì mộ phận lại vô cùng nguy nga, tráng lệ.



Có điều Triệu Lão Biệt không phải dân trộm mộ, thứ mà lão muốn tìm là dải long mạch nghèo nàn, cũng chính là dải đất kéo dài từ Hắc Ốc hoang phế cho đến nghĩa địa La Sư, bởi "thành đom đóm" chỉ xuất hiện ở xung quanh khu vực này. Từ trước đến giờ, lão đã tiến hành thăm dò, khảo sát rất nhiều lần, cuối cùng cũng đã phát hiện ra nghĩa địa La Sư là vùng đất hoang có vô số mộ phần nằm san sát liền kề nhau, trong đó có rất nhiều ngôi mộ cổ, tất cả là những mộ huyệt chôn người chết từ những năm trước thời Dân quốc, mà đa số mộ phần ở đây đều không có bia mộ, địa hình nhấp nhô bị cây dại cỏ hoang cao ngút ngàn che phủ. Chồn hoang rất thích náu mình bên dưới mộ huyệt âm u lạnh lẽo, vì thế phía dưới mộ cỏ, đâu đâu cũng toàn là hang hốc do chồn hoang đào bới.



Những hang ổ và hố mộ này có độ nông sâu rất khác nhau, giăng mắc chi chít như bàn cờ, bên ngoài lại bị cỏ hoang che khuất, nên dường như chẳng ai phát hiện ra hiểm họa ở ngầm sâu dưới lòng đất. Nếu ai đó đi ngang qua, lỡ rủi thụt chân xuống hố, cho dù may mắn không bị gãy chân, nhưng đợi đến khi khó khăn lắm mới rút được ra ngoài thì chuột đồng, chồn hoang ẩn trốn trong hang cũng đã gặm hết sạch da thịt, giơ cẳng lên nhìn, chỉ thấy lòng bàn chân trơ lại đoạn xương trăng trắng, lấp ló lộ ra giữa đám máu nhầy nhụa.



Nơi này cho dù đi giữa thanh thiên bạch nhật cũng rất dễ bị lạc đường, nói chi đến "thành đom đóm" lại chỉ hiện hình vào giữa đêm khuya. Không những vậy, chỉ cần người sống tiến đến gần, nó lập tức di chuyển sang chỗ khác, vì thế muốn truy tìm tông tích của nó cũng đâu phải chuyện dễ dàng.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Nếu ai mù quáng đi đào bới lung tung giữa khu nghĩa địa thì chẳng khác nào mò kim đáy bể.



Trên đời này vạn việc thành bại đều nằm ở chữ duyên, duyên chính là cơ hội, vì thế còn gọi là "cơ duyên". Cơ duyên là thứ mà chỉ có thể gặp, chứ không thể cầu. Triệu Lão Biệt tìm kiếm khắp nơi trong nhiều năm ròng, vắt kiệt tâm trí, cuối cùng cũng tìm thấy viên "Ngọc Định Phong" trong chiếc bàn mục ở Hắc Ốc. Có thể nói, lão ta đã chuẩn bị mọi sự đầy đủ, chỉ còn chờ thời cơ. Bây giờ, điều lão đang chờ đợi chính là thời cơ tiếp cận "thành đom đóm".



Triệu Lão Biệt dự đoán vật mà mình đang muốn tìm hẳn là một vật khá lớn, muốn vận chuyển nó từ mộ huyệt dưới lòng đất về thành phố ắt không phải điều dễ. Bởi vậy, lão liền tìm cách lôi kéo hội Tư Mã Khôi đến giúp sức, đồng thời còn hứa thưởng lớn cho bọn họ. Nhưng chiếu theo lệ cũ, trước khi sự việc thành công thì tuyệt đối không cho những người đi theo giúp đỡ được biết những chi tiết cụ thể.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải vốn dĩ chỉ định đi theo để tìm hiểu rõ ngọn ngành, giờ tự dưng lại nhìn thấy cái lợi trước mắt, đương nhiên đều nhận lời. Hạ Cần biết rõ cái cậu Tư Mã Khôi này một khi đã quyết định làm việc gì, thì cho dù Lão Thiên Vương có muốn ngăn cản cũng không thể ngàn nổi. Việc đã đến nước chỉ có tiến mà không có lùi, nên cô nàng đành đồng ý đi theo giúp sức.



Triệu Lão Biệt vẫn có đôi chút chưa yên tâm, liền nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi: "Chúng ta cứ mất lòng trước được lòng sau mà đánh bài ngửa với nhau thì hơn, sau khi sự việc thành công, chỉ cần những thứ Triệu Lão Biệt mỗ đây có, cái gì cũng đều có thể cho các cậu, nhưng chỉ duy vật mà đêm nay mỗ tìm thấy thì không thể được."



Tư Mã Khôi đáp giọng bất cần: "Lão phải nhìn xem Tư Mã Khôi này là ai chứ hả, chí ít tôi cũng là kẻ xuất thân từ lục lâm. Ngày trước trong gia phủ nhà tôi, có loại ngọc quý, bảo vật nào mà không có hả? Ngay đến sợi dây thừng buộc lừa ở chuồng gia súc phía sau vườn cũng là sợi dây thừng gai mà Dương Quý Phi dùng để treo cổ tự vẫn ở dốc Mã Ngôi, còn giấy dán tường đều là bản đồ địa lý càn khôn của Bắc Tống. Lão tưởng tôi thèm cái của lão đào được ở nơi rừng hoang núi thẳm này chắc?"



Triệu Lão Biệt không chỉ mắt híp mà tâm địa càng nhỏ hẹp hơn. Lão ta lại thường lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, từ bụng ta mà suy ra bụng người, nên khi nghe xong mấy lời của Tư Mã Khôi, lão vẫn chưa dám tin, liền gặng hỏi lại: "Lời này có thật không vậy?"



Tư Mã Khôi chửi thầm trong bụng: "Ông mày là hạng người nào mà lời nói ra còn không đáng tin hử?" nghĩ vậy xong liền cất lời thề độc: "Triều đình có vương pháp, giang hồ có luật lệ, kẻ vô lại làm chuyện trái với lương tâm, khó tìm chốn dung thân trong thiên hạ. Có mười tám vị la hán sư tổ ở trên trời chứng giám, nếu như tôi nói nửa lời gian dối, sẽ chết không có chỗ chôn thây."



Triệu Lão Biệt nghe xong liền gật đầu: "Lời thề như thế là đủ trọng lượng rồi, xem ra Tư Mã đầu lĩnh quả nhiên không phải là người chỉ biết nói suông. Bây giờ thời gian không còn sớm nữa, chúng ta phải mau chóng bắt tay hành sự mới kịp." Nói xong, lão liền dẫn ba người Tư Mã Khôi mai phục trong lùm cỏ, khẽ khàng áp sát "thành đom đóm" đang không ngừng di chuyển giữa cánh đồng cỏ hoang.



Lúc bấy giờ bầu trời tối đen như mực, bốn bề chỉ thấy rất nhiều con đom đóm lẻ đàn từ những nơi sâu trong lùm cỏ chập chờn bay ra, không ngừng gia nhập vào "thành đom đóm", bức tường lửa được kết tụ bởi ánh sáng của ngàn vạn con đom đóm tỏa ra từng quầng ánh sáng xanh nhấp nháy, trông rực rỡ như chốn thiên đình.




Vì khoảng cách rất gần, nên giờ đây trong mắt họ điều duy nhất có thể nhìn thấy là hàng đàn hàng đàn đom đóm chen chúc nhấp nháy tỏa sáng, chúng quyện vào nhau tạo thành từng vòng sương ánh sáng, bay lượn bất định. Ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Hạ Cần nhìn những con đom đóm thoắt lại tiêu tan như ảo mộng, thật muốn hoa hết cả mắt, cứ ngỡ mình đang lạc vào cõi mơ, cảm thấy giờ đây mắt không còn đủ dùng nữa.



Triệu Lão Biệt quan sát tỉ mỉ một hồi lâu, cuối cùng cũng nhận ra dòng chảy đom đóm phần lớn đều túa ra từ phía sau một ngôi mộ hoang. Nơi có thể khiến cỏ khô hóa thành sâu bọ chắc chắn phải là vùng đất âm khí vô cùng nặng nề, tối tăm mục rữa, và xem ra dưới lòng đất chỗ đó phải có chút gì cổ quái. Nghĩ vậy, lão liền dẫn ba người dò dẫm đi về phía trước.



Giữa lùm cỏ là một hố sâu trũng hơn những vùng khác một chút, nhìn địa thế của nó rất giống hình dạng đáy nồi, bên trong mọc đầy cỏ dại. Nhổ mấy đám cỏ cao hơn đầu người lên, bọn họ liền nhìn thấy một đường nứt bị cỏ che lấp ở phía dưới. Khe nứt đó hẹp và dài, độ sâu phải đến hàng mét, chỗ rộng nhất thì một người có thể chui lọt. Trên hai mép vách đất âm u lạnh lẽo, rễ cỏ bám chắc kết bánh lại với nhau, bên trong um tùm rậm rạp, và giữa đám cỏ hoang ấy là la liệt những con nhộng đom đóm chưa kịp thành hình, ở nơi sâu nhất; từng luồng gió lạnh thổi vù vù, phía dưới đen ngòm ngòm không thể nhìn thấy đáy.



Nghĩa địa La Sư có kết cấu địa chất yếu, lại thêm thời tiết nắng nóng, ít mưa, nên ở đây xuất hiện khá nhiều khe nứt kéo dài, độ nông sâu không giống nhau, thêm vào đó là sự hoành hành của vô số chuột đồng và chồn hoang đã tạo ra không biết bao nhiêu hang hố dưới lòng đất. Những hang hố này không kiên cố, mà bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ sụt lở. Bởi thế chẳng ai muốn bước chân vào nơi này, trừ khi cảm thấy chán sống.



Bọn họ thả dây thừng dài mười mấy mét xuống bên dưới chiếc hố, nhờ vào ánh sáng chập chờn mờ tỏ của ngọn đèn, mọi người có thể thấp thoáng nhìn thấy một viên đá đen ở trong khe đất. Bề mặt của nó lồi lõm không bằng phẳng, lỗ chỗ nhiều hố to nhỏ khác nhau, nhưng lại mịn bóng như ngọc. Viên đá đó to cỡ cái đấu đong gạo, nặng chừng mười mấy cân, phát ra ánh sáng lạnh lẽo, yêu dị dưới ánh đèn.



Triệu Lão Biệt nằm rạp ra đất, quăng một sợi dây thừng dài xuống bên dưới, rồi thò cả người ra mép hố để nhìn cho rõ. Vừa nhìn thấy vật ấy, lão ta bị kích động đến nỗi hai tay run lẩy bẩy, miệng lầm bầm không ngớt: "Đúng là ông trời có mắt."



Ngược lại với thái độ mừng rỡ tột độ của Triệu Lão Biệt, hội Tư Mã Khôi dường như bị rơi vào màn sương mù. Trước đây bọn họ vẫn cho rằng, bảo vật mà lão ta muốn tìm kiếm ắt phải là thứ gì đó vô cùng kinh thiên động địa, ai ngờ nó chỉ là một viên đá đen không hề bắt mắt chút nào.



Sau khi định vị chính xác vị trí của viên đá, Triệu Lão Biệt liền kéo chiếc đèn kéo quân lên, cởi sợi dây thừng ra rồi buộc vào ngang thắt lưng mình. Lão ta muốn tự xuống dưới đó lấy báu vật, nên dặn hội Tư Mã Khôi đứng ở bên trên để thả dây.



Hạ Cần thấy vô cùng hiếu kỳ, cô nàng không kìm được đành quay sang hỏi: "Xin hỏi Triệu lão sư phụ, vật đó có phải quặng đá không vậy?"



Triệu Lão Biệt không thể che giấu được sự đắc ý đang dâng trào trong lòng, liền cười hì hì đáp lời: "Cái gì? Quặng đá? Ha ha! Cái con nhóc miệng còn hôi mùi sữa nhà cô đúng là cóc hiểu biết gì cả, chẳng lẽ Triệu Lão Biệt mỗ đây trông giống một kẻ chuyên khai thác quặng đá lắm sao?"



La Đại Hải nghe không lọt tai mấy lời này của lão ta, liền vênh mặt lên hất hàm nói: "Đừng có giở trò úp úp mở mở với bọn này, nể tình chúng ta từng quen biết nhau, nên tôi có lời cảnh cáo, lão tuyệt đối không nên đánh giá sai lầm về tình thế mà lão đang phải đối mặt. Nếu bây giờ không lập tức giải thích rõ ràng mọi chuyện cho bọn tôi nghe, lão có tin đợi sau khi lão bò xuống tới nơi, bọn tôi ở trên này sẽ xúc đất chôn sống lão không hử?"



Triệu Lão Biệt nghe xong trong lòng thất kinh, lão tuyệt đối tin rằng loại người như Hải ngọng nói được là làm được, vì thế đành mềm giọng xuống nước: "Các thiếu gia xin chớ làm thế, cứ coi như là khi nãy mỗ phỏng đoán sai lầm tình thế trước mắt đi, thế là được chứ gì? Các cậu tuyệt đối đừng giở chiêu đó ra với mỗ đấy!"



La Đại Hải không kiên nhẫn thêm được nữa, liền đốp lại: "Cái gì mà coi như? Tiên sư nhà lão, khi nãy chính xác là lão phỏng đoán sai mẹ nó rồi. Mau nói cho bọn tôi biết rốt cuộc viên đá đó là thứ gì?"



Triệu Lão Biệt bí thế đành phải dịu giọng giải thích ngọn ngành, tẩu thuốc vẫn không rời miệng, lão lại ngồi xổm xuống nhồi đầy sợi thuốc vào trong tẩu, vừa phì phèo hút vừa hỏi mấy người hội La Đại Hải: "Các cậu có biết thứ này xuất xứ từ đâu không?"



La Đại Hải và Hạ Cần nào có biết nó từ đâu đến, nên khi bị hỏi lập tức cứng miệng không tiếp lời nổi. La Đại Hải giận quá hóa khùng, liền đốp lại luôn: "Đừng nhiều lời, biết rồi thì còn hỏi lão làm cái chết tiệt gì?" Chỉ có Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt coi viên đá đen không hề bắt mắt ấy là vật báu, trong bụng suy đoán vật này tuyệt đối không phải loại tầm thường. Suy nghĩ thêm một chút, cậu ta trả lời: "Đây là khu nghĩa địa bỏ hoang chẳng hề có bóng dáng con người, nếu không phải do tự nhiên sinh ra thì chắc hẳn là do người cổ xưa chôn nó ở đó, nhưng không hiểu rốt cục lai lịch cụ thể của nó như thế nào."




Phàm là những người có bản lĩnh thực sự đều không muốn đem sự tình nói ra tuốt tuột, bởi như vậy sẽ thể hiện bản thân là kẻ nông cạn. Triệu Lão Biệt cũng mắc phải tật đó, lão ta đắc ý cười hì hì: "Vật này vô cùng quý hiếm, ngay cả Từ Hy thái hậu đương thời cũng chỉ có một mẩu to bằng cái móng tay thôi. Cậu muốn hỏi lai lịch của nó ấy à?" Triệu Lão Biệt nói đến đây thì cố tình ra vẻ thần bí đưa tay chỉ lên trời: "Nó từ trên trời rơi xuống đấy!"



Tư Mã Khôi ngơ ngác chưa hiểu ý lão định ám chỉ điều gì, liền ngửa mặt lên nhìn bầu trời đêm, đột nhiên cậu bừng tỉnh ngộ, quay sang hỏi: "Lẽ nào, đây là... Lôi Công Mặc?"



Triệu Lão Biệt gật đầu công nhận: "Vật này có rất nhiều tên gọi khác nhau căn cứ theo từng khu vực và niên đại, quan lại và dân thường cũng gọi nó bằng những tên không giống nhau, có nơi còn gọi nó là đá Lôi Công hoặc Tịch Lịch Kham. Thực ra cái gọi là Lôi Công Mặc hay đá Lôi Công, nói toẹt ra chẳng qua là một cục thiên thạch từ trên trời rơi xuống. Theo các ghi chép trong sử sách, năm đó có một viên đá Lôi Công, trên mình còn mang theo lửa trời, rơi xuống thành Hàm Dương, thiêu rụi toàn bộ đám đông vây xung quanh thành tro bụi. Chất liệu của đá Lôi Công được so sánh với ngọc đen, nó đã được luyện qua sức nóng không thể tưởng tượng nổi, lại từ trên trời rơi xuống, cho nên được người xưa coi là báu vật, thậm chí còn tôn nó thành bí mật của trời đất."



Triệu Lão Biệt lại nói: "Đâu chỉ có vậy, tương truyền từ rất xa xưa, đá có thể trấn tà, Lôi Công Mặc vô cùng thích hợp để dùng làm Trạch tiên. Những hộ giàu có bậc nhất ở Sơn Tây, Sơn Đông ngoài vườn đều có từ đường hoặc miếu thờ, bên trong đó người ta thường đặt đá Lôi Công, để bảo vệ cả gia đình được bình an, vinh hoa phú quý, không cầu mà được, thu nạp hết vàng bạc của cải trong thiên hạ, mà không cần phải lao động vất vả nữa."



"Nghĩa địa La Sư" là một long mạch trong quần thể long mạch "Chín rồng hội tụ", mỗ e rằng viên Lôi Công Mặc này chính là viên ngọc được ngậm trong miệng rồng. Tuy rằng thiên thạch không phải vật hiếm có trên thế gian, nhưng đa số chúng đều mang thuộc tính của đá hoặc sắt, chỉ có những viên có chất liệu giống như ngọc đen mới được gọi là "Lôi Công Mặc". Loại đá này là vật có âm khí rất nặng, nó có khả năng hủ hóa cỏ mục, thu hút dòng chảy đom đóm trong núi tụ tập lại với nhau xây thành dựng quách. Có thể nói không ngoa rằng, nó chính là một bảo vật hiếm có trên đời.



Nhưng theo ghi chép trong sách cổ, nếu muốn thờ phụng Lôi Công Mặc làm trạch tiên thì cũng không thể tùy tiện được, bởi lỡ có chút sai sót, nó sẽ đem lại đại họa tai ương cho gia chủ. Vì thạch tính của Lôi Công Mặc âm khí quá nặng, người sống khó lòng đến gần, chỉ khi nào tìm được viên ngọc được tiết ra từ cơ thể con rết già, sau đó mang viên ngọc đó nhét vào bên trong Lôi Công Mặc để dưỡng khí. Thời gian lâu dần, trên bề mặt của đá sẽ từ từ sản sinh ra một tầng biểu bì, đến lúc đó âm khí tối tăm của viên Lôi Công Mặc mới hoàn toàn tiêu tán.



Không chỉ có vậy, gia chủ ngày nào cũng phải giết thịt gà đen, chó trắng, rồi mang tiết gà, tiết chó còn tươi nguyên tưới lên phần biểu bì của Lôi Công Mặc, chỉ khi thờ cúng được như vậy mới có thể giữ được trạch tiên. Từ đó trở về sau nhà Lão Triệu ta sẽ phú quý vô biên, vinh hoa vô hạn, phát tài không ngớt, hưởng hết mọi phúc đức trên đời. Nhưng nếu chỉ cần một ngày ngơi nghỉ hương hỏa cho trạch tiên, tất cả mọi đen đủi rủi ro sẽ lập tức giáng xuống đầu, không chỉ khiến gia chủ khuynh gia bại sản mà còn phải gánh chịu vô số tai họa, có muốn tránh cũng không thể tránh được.



La Đại Hải nghe xong cảm thấy không thể tin được, liền nói xen vào: "Nếu thật như vậy chẳng phải ngày nào đêm nào cũng nơm nớp lo sợ hay sao? Xem ra kẻ vô sản triệt để như bọn ta lại hóa ra thoải mái hơn cả, giai cấp vô sản chúng mình sẵn sàng đạp cả Táo quân vương gia dưới gót giày, chỉ cần nhấc chân một cái là cả nhà lên đường, cuộc đời này lấy tứ hải làm nhà, sống phiêu diêu tự tại, chẳng cần lo nghĩ gì sất."



Tư Mã Khôi cũng cảm thấy những lời của Triệu Lão Biệt vừa nói không phải sự thật, đi đâu tìm cho đủ gà đen chó trắng mỗi ngày? Lão già này đi đào tìm Lôi Công Mặc chắc chắn phải có ý đồ gì khác; nhưng trong lòng cậu cũng biết rõ: cho dù có hỏi gặng nữa thì lão ta cũng không nhổ ra chân tướng sự việc, vì thế cậu đành im lặng.



Lúc này Triệu Lão Biệt đã hút gần hết điếu thuốc, những lời cần nói thì đã nói cả rồi, lão đứng bật dậy để chuẩn bị chui vào trong khe nứt, ba người còn lại hợp sức kéo dây thừng, cẩn thận từng chút một thả lão xuống bên cạnh viên Lôi Công Mặc.



Triệu Lão Biệt dùng tay nhổ mấy bụi cỏ, giẫm chân lên lớp đất, phẩy hết đám kén nhộng đom đóm sang một bên. Căn cứ vào tàn tích để lại gần đó, thì có thể nhận ra nơi này trước tiên bị thiên thạch từ không trung rơi xuống, sau đó địa tầng mới nứt rạn. Giờ đây viên Lôi Công Mặc đen nhánh một cách dị thường, lại mắc chơi vơi ở giữa khe nứt, cách hai mép vách một khoảng tương đối gần, chắc chỉ rộng như nắm đấm là cùng, nên dường như chỉ cần khẽ lay động, nó sẽ thuận đà lăn xuống vực sâu phía dưới.



Triệu Lão Biệt không muốn "miếng ăn đến miệng còn để rơi", nên lão vô cùng cẩn trọng. Lão ta bảo Tư Mã Khôi thả sợi dây thừng thứ hai xuống, đoạn nhẹ nhàng buộc vào viên Lôi Công Mặc, rồi xem chừng vòng buộc đã chắc chắn, lão ta mới giơ đèn kéo quân lên huơ huơ vài vòng giữa không trung.



Ba người Tư Mã Khôi, La Đại Hải và Hạ Cần nhìn thấy tín hiệu, lập tức gắng hết sức kéo sợi dây thừng lên. Không ngờ cùng với sự tác động của ngoại lực, một ngọn lửa ma quỷ màu xanh lam nhạt đột nhiên phun ra từ trong đêm tối, phút chốc cả khe nứt vụt sáng bừng. Triệu Lão Biệt khồng kịp né sang bên cạnh, liền bị ngọn lửa bén trúng. Lão ta đau đớn kêu lên thảm thiết, hai chân đạp liên hồi vào vách đất. Chỉ trong chớp mắt, ngọn lửa u hồn đó đã liếm đứt hai sợi dây thừng, Triệu Lão Biệt và viên Lôi Công Mặc cùng lúc rơi vèo xuống phía dưới, đất đá bùn cát bị sụt lở cũng rào rào rơi theo, chôn sống lão ta dưới lòng đất.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: hồi thứ sáu: bọ cạp đảo đầu bò tường


Gần mộ huyệt khu nghĩa địa ở ngoại thành chôn giấu rất nhiều "lò lửa", những lò lửa đó đều do xác chết mục rữa phân hủy, trộn lẫn với bùn hydrocacbua dưới lòng đất, từ đó hình thành một loại khí đốt đặc biệt. Hỗn hợp chất này bị vùi lấp nhiều năm trong động huyệt, một khi bất ngờ được giải phóng và tiếp xúc với không khí bên ngoài, nó sẽ sinh ra hiện tượng đốt cháy cực mạnh.



Lần này coi như Triệu Lão Biệt gặp vận rủi, viên Lôi Công Mặc mà lão ta muốn có lại nằm ngay giữa lò lửa tràn ngập khí hydrocacbua. Lão nhờ mọi người buộc sợi dây thừng vào viên đá để kéo lên, vô tình đã khiến vách đất hai bên mép khe bị sụt lở, hàng chuỗi cầu lửa từ trong kẽ phun lên nghe "phừng phừng". Quả cầu lửa thiêu đốt toàn thân khiến Triệu Lão Biệt giãy giụa quằn quại đầy đau đớn, thảm thiết gào thét; sợi dây thừng buộc quanh người lão ta cũng bị đứt thành từng đoạn, cả người và viên đá cùng rơi tõm xuống kẽ đất sâu hun hút.



Hội Tư Mã Khôi chứng kiến sự việc diễn ra ngoài dự liệu, liền vội vàng trườn người xuống ngó xem tình hình bên dưới, chỉ thấy đất đá cát sỏi từ hai bên vách đất rào rào lăn xuống, chiếc đèn kéo quân cũng rơi theo tắt ngấm, dưới đáy hố tối như hũ nút, không nhìn thấy bất kỳ thứ gì bên trong.



May mà ở gần chỗ viên Lôi Công Mặc là sào huyệt sinh sôi nảy nở của vô vàn kén nhộng đom đóm. Hàng ngàn vạn con đom đóm bị đánh động, bay túa ra từ gốc cỏ, điên loạn lao lung tung khắp nơi, ánh sáng đom đóm chập chờn di chuyển khắp khe nứt trong lòng đất. Nhờ vào màn sương ánh sáng nhàn nhạt âm u, hội Tư Mã Khôi có thể nhìn thấy lờ mờ cảnh tượng phía dưới. Sau khi Triệu Lão Biệt bị rơi xuống khe, lão ta nằm ở chỗ cách mặt đất khoảng ba mươi mấy mét, nơi một đụn nham thạch thò ra chặn lại, đầu lão ta cắm xuống, chẳng rõ sống chết thế nào.



Tư Mã Khôi ở bên trên ra sức hét gọi Triệu Lão Biệt mấy câu. Không nghe thấy tiếng trả lời, trong lòng cậu bắt đầu cảm thấy lo lắng, nên định mạo hiểm lao xuống cứu người.



Hải ngọng thấy vậy vội cuống quýt can ngăn: "Thằng điên này! Khe đất kia là cái bình đất rỗng ruột đấy, bất cứ lúc nào cũng có thể bị sụt, cậu mà xuống chắc chắn sẽ bị chôn sống dưới đó. Lưng giắt mỗi cái cào gãy mà đòi liều mạng vào rừng săn cọp. Tớ nói cho cậu tỉnh, giờ không phải lúc giở thói anh hùng ra đâu!"



Hạ Cần cũng bấn loạn hết cả lên, nhưng cô nàng còn thiếu chủ kiến hơn cả Hải ngọng, chỉ biết rối rít hỏi: "Bây giờ phải làm sao? Hay là chúng ta quay về tìm người đến giúp..."




Tuy rằng Tư Mã Khôi cũng biết việc này vô cùng nguy hiểm, nhưng trực giác mách bảo cậu: Triệu Lão Biệt là một nhân vật kỳ tài hiếm có, bản lĩnh rất đỗi phi phàm, nếu lão ta phải bỏ mạng một cách lãng nhách và bất minh như vậy trong nghĩa địa La Sư này thì quả là đáng tiếc, nên cậu không thể thấy chết mà vô tình nhắm mắt, phẩy tay làm ngơ được. Trước mắt, việc cứu người là quan trọng, Tư Mã Khôi không nghĩ ngợi thêm nữa, chỉ rờ rờ vào dây lưng cài vũ khí buộc chặt ở ngang hông, trong đầu nảy ra một kế sách. Cậu lập tức bảo La Đại Hải và Hạ Cần đưa dây lưng của hai người ình rồi để họ ở bên trên tiếp ứng, sau đó liền phi thân bò xuống khe nứt phía dưới.



La Đại Hải và Hạ Cần vốn định tiếp tục khuyên ngăn nhưng nhìn thấy tư thế bò xuống hố của Tư Mã Khôi thì cả hai đều tròn mắt cứng miệng kinh ngạc. Nếu là người bình thường, bất luận là bò lên hay bò xuống, đương nhiên đều phải "đầu hướng lên trên, lòng bàn chân hướng xuống dưới", nhưng Tư Mã Khôi lại làm trái ngược hoàn toàn, chỉ thấy cậu ta "Đầu chúc xuống dưới, hai gối co lại, ngón chân bám chặt vào mép đá, hai cánh tay dang rộng đan chéo nhau nâng đỡ trọng tâm, trông chẳng khác nào một con thạch sùng bám chặt vào bờ tường chúc đầu thong dong bò xuống". Hai người bọn họ chưa từng nhìn thấy loại thủ pháp quái dị như thế này trước đây, cho nên giờ cứ ngây ra, tim dường như trồi lên, đập phập phồng ngay trên cổ họng.



Thì ra món bản lĩnh leo vách vượt tường này của Tư Mã Khôi vốn là một tuyệt kỹ lục lâm, được tổ tiên truyền lại, có tên "Bọ cạp đảo đầu bò tường", hay còn gọi "tháo ủng ngược". Nghe nói, món "Bọ cạp bò tường" này vốn là một môn trong nghệ thuật xiếc dân gian, mà quê hương nổi tiếng nhất của bộ môn xiếc ở Trung Quốc thì phải kể đến huyện Ngô Kiều thuộc tỉnh Hà Bắc. Tại nơi này, từ ông cụ đã chín mươi chín tuổi đến đứa trẻ mới chập chững biết đi, bất luận già trẻ gái trai, người nào người nấy đều có vài món bí kíp nhà nghề giắt lưng, phòng khi gặp phải những năm làm ăn khốn khó, họ liền tụ hợp nhau lại thành từng nhóm đi nơi khác, mãi nghệ mua vui cho người để kiếm chút tiền mưu sinh. Đây là một truyền thống của người bản địa mà đời con nối đời cha từ thời thuở xa xưa, chẳng ai nói được chính xác phong tục này bắt đầu hình thành từ triều đại nào. Cách đây không lâu, ở gần khu vực Ngô Kiều, người ta mới khai quật được một ngôi mộ cổ có từ thời Ngụy Tấn, trên vách tường mộ có khắc một bức bích họa, trong đó mô tả các động tác biểu diễn xiếc thời cổ đại như "rốn đội bát", "bọ cạp bò tường", "lửa sao băng". Điều này chứng tỏ những tuyệt kỹ kiểu này đã có từ xa xưa với lịch sử rất lâu đời.



Tuy nhiên trong các động tác tạp kỹ có từ mấy trăm năm trước, môn công phu "bọ cạp đảo đầu bò tường" đã sớm bị thất truyền, có điều nó vẫn được tiếp tục kế thừa và giữ gìn trong hàng ngũ quân nhân trong quân đội ngày xưa, mà những kẻ nắm giữ được bí kíp này phần lớn đều là những đạo tặc lục lâm được triều đình chiêu an. Khi bọn họ lẻn trộm vào doanh trại hoặc ra vào thành đều dùng chiêu thức đầu chúc ngược xuống, hai chân ôm lấy góc tường thành, nhanh chóng bò lên trên với tốc độ như gió cuốn. Những người nhìn thấy cảnh tượng này không ai không kinh ngạc, liền đặt tên cho tư thế đó là "bọ cạp đảo đầu bò tường".



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om.



Kỳ thực, kỹ thuật chúc đầu leo tường trong tuyệt kỹ "bọ cạp đảo đầu bò tường" rất thích hợp với lý thuyết về thể lực con người, chỉ có điều ít ai có đủ can đảm thử nghiệm, thậm chí những người có đầu óc bình thường ngay cả nghĩ cũng không thể nghĩ ra tư thế quái dị đó.



Tổ tiên mấy đời trước của Tư Mã Khôi từng làm quân quan trong quân đội cuối đời Thanh, lại là nhân vật kiệt xuất trong giới lục lâm, vốn thực sự là người có bản lĩnh "thượng thông thiên đường, hạ triệt địa phủ" nên mới đủ khả năng khiến bí thuật này đến tận bây giờ vẫn còn truyền nhân. Từ nhỏ, Tư Mã Khôi đã theo học "Văn Võ tiên sinh" và luyện được tuyệt kỹ này, có điều hỏa hầu[12] chưa đủ đượm nên từ trước đến nay, cậu không dám thi triển nó trước mặt người khác.



Lúc này Tư Mã Khôi hít một hơi dài rồi bám chặt lấy mép vách, nhanh chóng di chuyển xuống phía dưới, chẳng mấy chốc cậu đã bò xuống bên cạnh Triệu Lão Biệt. Nhờ vào ánh sáng lờ mờ phát ra từ từng đàn đom đóm bay lượn gần đó, cậu phát hiện mũi và miệng lão ta đều đang chảy máu, lão nằm vật ra bất tỉnh nhân sự. Tuy rằng chiếc áo da thú dày dặn khoác trên người coi như đã cứu lão một mạng khỏi bàn tay tử thần, nhưng những vết bỏng loang rộng khắp cơ thể lại vô cùng nghiêm trọng, nhưng khi thò tay ra sờ thử, cậu phát hiện trên mũi lão vẫn phập phồng hơi thở yếu ớt, nếu kịp thời cõng lên mặt đất, không chừng vẫn còn cơ hội cứu sống.



Tư Mã Khôi lập tức quay ngược lại, dùng thắt lưng da buộc vào ngang hông Triệu Lão Biệt, sợi còn lại đem nối với chiếc thắt lưng da mà mình đang đeo trên người, rồi buộc lão trên lưng. May mà cơ thể Triệu Lão Biệt mỏng dẹt như thanh củi khô, hom hem toàn da bọc xương, thêm vào đó sợi thắt lưng loại chuyên dùng cho quân nhân khá chắc chắn, nên cậu hy vọng sẽ lôi được lão lên. Tư Mã Khôi nheo mắt quan sát lớp đất dưới đáy khe, nó có vẻ không chắc chắn, chẳng biết sẽ sụt xuống lúc nào, nên cậu không dám chần chừ nán lại đây thêm nữa. Trong lúc Tư Mã Khôi đang định bò ngược trở lên theo đường cũ, đột nhiên nghe thấy Triệu Lão Biệt rên rỉ một tiếng trong cổ họng, thì ra lão ta đã thoát khỏi hôn mê và tỉnh lại. Lão dùng chút sức lực yếu ớt gắng sức giơ tay lên chỉ xuống chỗ sâu hút ở phía dưới khe nứt.



Tư Mã Khôi cúi đầu xuống thấp, hướng theo chiều tay lão ta chỉ. Cậu nhìn thấy trong tầng tầng lớp lớp ổ đom đóm giữa khe nứt, màn ánh sáng xanh mờ mờ bao trùm lên viên Lôi Công Mặc đen bóng như ngọc. Viên thiên thạch rơi cách đó chừng nửa mét về phía dưới, khoảng cách không xa lắm, gần như chỉ cần đưa tay ra là có thể chạm tới.



Dường như Triệu Lão Biệt có ý muốn Tư Mã Khôi mang viên Lôi Công Mặc lên cùng, bởi vì khe đất sâu cả mấy trăm mét, lớp vỏ bên ngoài và tầng nham thạch lại có thể sập xuống bất cứ lúc nào, nó sẵn sàng chôn vùi mọi thứ dưới đáy khe rồi nêm lại chặt cứng. Tuy toàn thân Triệu Lão Biệt đang bị thương nặng, nhưng tà niệm tham sân si trong đầu óc lão ta còn nặng nề hơn nhiều, lão không đành lòng vứt bỏ miếng ngọc Lôi Công Mặc ngàn năm khó gặp này dưới đáy vực sâu, nên đến giờ vẫn còn vọng tưởng chiếm lấy nó làm của riêng.



Tư Mã Khôi cõng Triệu Lão Biệt trên lưng, leo lên được vách đá đã thấy rất vất vả, hơn nữa nếu trọng lực quá lớn thì lớp đất đá phía bên trong địa tầng sẽ càng lở nhanh và rơi xuống nhiều hơn. Cậu đã nhìn thấy tình hình không ổn, lòng thầm cân nhắc sự sống mới là điều quan trọng, nên chẳng còn tâm trạng nào để ý đến viên Lôi Công Mặc. Nghĩ đoạn, cậu liền hít một hơi thật sâu rồi thi triển tuyệt kỹ "bọ cạp bò tường" leo ngược lên mặt đất.



Đứng ở bên trên chứng kiến từng mảng từng mảng đất đá lớn đang không ngừng sụt xuống, lại thấy Tư Mã Khôi mấy lần suýt bị chôn sống dưới khe đất, La Đại Hải và Hạ Cần không kìm được những cơn cơ tim co thắt từng hồi. Cuối cùng, khi thấy cậu ta lên được gần mặt đất, cả hai liền vội vàng chìa tay ra, gắng hết sức kéo bật cả Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt lên. Hai người họ vừa mới thoát thân ra khỏi miệng khe nứt thì nghe thấy một chuỗi tiếng "ầm ầm" nổi lên, một lượng lớn đá sỏi bùn đất từ bên trên thi nhau rào rào chảy xuống, lấp kín mít miệng hố. Viên Lôi Công Mặc và vô vàn con đom đóm đều bị chôn vùi tận sâu trong lòng đất, xem ra chúng khó có ngày trở lại chốn phàm trần.



Tư Mã Khôi lên được tới nơi thì mồ hôi đã chảy ướt đầm lưng áo, cậu ngồi phịch xuống đất thở hổn hển. Khi nãy, trong lúc bốc đồng, máu yêng hùng nổi lên ngùn ngụt khiến cậu hành động mà không chút đắn đo, nhưng giờ nghĩ lại cũng cảm thấy rợn cả tóc gáy, chỉ cần chậm một bước thôi, có lẽ giờ này cậu đã chôn thây ở dưới khe đất kia rồi.




La Đại Hải nhìn thấy Tư Mã Khôi bình an vô sự mới thở phào nhẹ nhõm, ngoảnh mặt sang bên cạnh nhìn thấy tình trạng của Triệu Lão Biệt, cậu ta liền phẩy tay thở dài: "Vừa bỏng lại thương tích đầy mình thế kia, lão này chắc tiệt đường sống rồi, chỉ e bây giờ có đưa lão đến bệnh viện cũng không kịp. Nhân lúc còn sớm sủa, hãy đào một cái hố chôn quách lão xuống cho xong, không khéo lôi thôi lại vướng vào án giết người thì bọn mình chẳng gánh vác nổi đâu."



Tư Mã Khôi định thần lại, nói: "Khó khăn lắm mới cứu được lão ta từ dưới đáy mồ lên đây, ít ra cũng phải nghĩ cách gì cứu sống lão, trước khi ký giấy khai tử chứ. Lão ta vẫn còn thoi thóp thở đấy, làm gì có chuyện nói chôn là chôn ngay được?"



La Đại Hải bất lực chống chế: "Bọn mình chẳng phải bác sĩ, làm sao cứu lão được? Không tin cậu cứ nhìn xem, cái lão Triệu này bây giờ thở ra thì mạnh, hít vào thì yếu, nửa khuôn mặt đã bị thiêu rụi, toàn thân lùng nhùng một mớ nhầy nhụa, chẳng mấy chốc nữa lão sẽ cất bước xuống hố nghe dế kêu à xem."



Tư Mã Khôi đột nhiên nhớ ra một việc: "Mẹ Hạ Cần là bác sĩ trong bệnh viện quân khu, chắc chắn con cái cũng được tôi luyện từ môi trường của gia đình, nên ít nhiều cũng phải hiểu đôi chút về y thuật chứ?" Thế là cậu vội vã bắt Hạ Cần nghĩ cách cấp cứu cho Triệu Lão Biệt, sau đó sẽ tìm cách đưa đi bệnh viện.



Hạ Cần còn chưa đầy mười sáu tuổi thì làm gì có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tuy cô nàng cũng biết đôi chút về những kiến thức y học thường thức, nhưng bây giờ nhìn thấy cả người Triệu Lão Biệt bê bết toàn máu, gương mặt lại bị cháy mất một nửa, hai hàm răng chìa hết cả ra ngoài nên trông bộ dạng vô cùng đáng sợ. Đầu óc cô chỉ quay mòng mòng mỗi hai chữ "hoảng sợ", thì làm gì còn nghĩ ra nổi cách cứu chữa nào. Hơn nữa, quả đúng mẹ cô làm bác sĩ, nhưng bà lại là bác sĩ khoa sản.



Tư Mã Khôi thực lòng không đành nhìn Triệu Lão Biệt cứ như vậy từ giã cõi đời, nên dù chỉ còn một tia hi vọng, cậu cũng quyết không bỏ qua. Cậu ngoan cố yêu cầu Hạ Cần: "Bác sĩ khoa sản thì cũng vẫn là bác sĩ, cậu cóc cần phải nghĩ ngợi nhiều thế, chỉ cần cứu ngựa chờ chết thành ngựa sống là ổn; hơn nữa lão Triệu đang nằm còng queo chờ chết đằng kia, chắc cũng chẳng thèm quan tâm bệnh viện nhà cậu treo biển hiệu gì đâu."



Hạ Cần không nỡ khước từ lời thỉnh cầu tha thiết của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, nên đành bạo gan đến kiểm tra tình trạng vết thương của Triệu Lão Biệt. Ngoại trừ những vết bỏng vô cùng nghiêm trọng trên gương mặt lão ra thì xương sườn cũng bị gẫy mất mấy đoạn, đâm rách cả nội tạng, gây nên tình trạng xuất huyết trong, miệng lão sủi lên toàn bọt máu, hô hấp ngắt quãng từng hơi, thần trí lúc tỉnh lúc mơ. Khu vực nghĩa địa La Sư này lại nằm ở vùng ngoại ô hoang vắng, nên bọn họ căn bản khó có thể đưa lão đến bệnh viện được, mà cho dù có đưa tới nơi chăng nữa, cũng chắc chắn không thể cứu sống nổi.



Hạ Cần tất bật cứu chữa suốt một hồi, nhưng vì cô vừa không có kinh nghiệm lại không có y cụ, nên cuối cùng cũng đành bó tay bất lực. Cô lo lắng đến nỗi nước mắt cứ lã chã tuôn rơi.



Đúng lúc này, cả hội chợt nghe thấy Triệu Lão Biệt ho lên mấy tiếng, dường như lão ta vừa tỉnh lại từ cơn hôn mê sâu. La Đại Hải lại tưởng rằng Hạ Cần có bản lĩnh cải tử hoàn sinh, liền không ngớt lời ngợi khen cô nàng y thuật cao siêu.



Nhưng Tư Mã Khôi lại nhìn thấy Triệu Lão Biệt lúc này là hồi quang phản chiếu, tính mạng chắc chỉ còn tính từng khắc nữa thôi, nên trong lòng không kiềm chế nổi cảm giác u buồn dâng lên tận cổ. Cậu nhỏ giọng ân cần hỏi: "Lão Triệu ơi! Lão có còn anh em bạn bè thân thích nào nữa không? Có muốn nhờ bọn tôi nhắn nhủ điều gì đến họ không?"



Triệu Lão Biệt đưa cặp mắt đờ dại nhìn Tư Mã Khôi một thoáng rồi lắc đầu, ngắt quãng nói phều phào: "Triệu Lão Biệt mỗ... kiếp này sóng to gió lớn nào cũng từng trải qua, chẳng ngờ lại bị lật thuyền ở con rãnh nhỏ nơi nghĩa địa La Sư này, xem ra tất cả đều tại số mệnh, hừ... số mệnh tám thước, khó cầu một trượng, câu này quả chẳng sai chút nào. Thế nhưng điều càng khiến mỗ bất ngờ hơn là Tư Mã đầu lĩnh đây mới một nhúm tuổi mà có thể thi triển được tuyệt kỹ Bọ cạp đảo đầu bò tường. Cậu được cao nhân nào truyền dạy bản lĩnh này vậy?"



Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt có vẻ sẽ sắp đoạn khí đến nơi, trong lòng nghĩ chẳng cần phải giấu giếm lão ta thêm điềm gì nữa, liền tóm tắt cho lão nghe tất cả lai lịch xuất thân gia đình của mình.



Triệu Lão Biệt có đôi chút kinh ngạc, nhưng lão cũng cảm thấy mệnh mình chẳng kéo dài được bao lâu, nên gắng gượng dùng chút sức tàn trăng trối lại: "Triệu Lão Biệt mỗ trên đời này tứ cố vô thân. Niệm tình bằng hữu ít nhiều chúng ta từng có với nhau, các cậu hãy giúp mỗ đưa nắm xương già này vùi ở nghĩa địa La Sư, sống chẳng có phúc nhìn thấy Lôi Công Mặc thì sau khi chết mỗ sẽ hóa thành quỷ ở bên cạnh nó cũng tốt vậy..." Nói đến đây, lão khẽ rùng mình mấy cái, tay chỉ xuống phía dưới lòng đất, rồi đầu môi mấp máy một câu: "Núi đá vàng sinh ra bò vàng, đại kiếp đến ta cưỡi mây ngàn..."



Tư Mã Khôi hướng mắt theo tay lão chỉ, thì ra đó chính là nơi viên Lôi Công Mặc vừa bị đất đá sụt lở chôn vùi ở bên dưới. Cậu lại nghe thấy mấy lời sau cùng của Triệu Lão Biệt có phần rất cổ quái liền vội vàng quay sang hỏi: "Lão vừa nói gì vậy?"




Nhưng ánh mắt của Triệu Lão Biệt đột nhiên trở nên thất thần, chẳng đợi cậu nói dứt câu, lão đã hồn lìa khỏi xác, lão ta nằm chết ngay trước mặt Tư Mã Khôi.



Hội ba người Tư Mã Khôi tuy rằng chỉ quen biết Triệu Lão Biệt được ít lâu, nhưng lại cùng trải qua cơn hoạn nạn, nay tận mắt nhìn thấy lão chết mà không được toàn thây, nên trong lòng ai nấy không tránh khỏi cảm giác đau buồn, bùi ngùi. Mọi người lặng lẽ ngồi bên thi thể lão một hồi khá lâu, mãi cho đến khi thành đom đóm bay tứ tán khắp cánh đồng hoang rồi từ từ biến mất thì cả hội mới đứng dậy dùng mấy phiến đá nhọn đào một chiếc hố nông, khiêng xác lão chôn xuống đó.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ trong lòng, viên Lôi Công Mặc đã bị vùi chôn ở nơi sâu nhất dưới đáy khe, từ nay về sau e rằng người đời chẳng bao giờ còn nhìn thấy kỳ quan "thành đom đóm" tái hiện giữa nhân gian thêm lần nữa. Cậu lại tự nhủ mình đợi đến tết Thanh minh, nhất định sẽ quay về đây quét mộ cho Triệu Lão Biệt một chuyến.



Ba người cùng nhau cáo biệt trước nơi Triệu Lão Biệt chôn thân, rồi lững thững quay trở lại cầu La Sư. Trên đường về, trong lòng người nào cũng nặng trĩu tâm sự, chẳng ai nói với ai câu nào. Mãi khi đến chân cầu, La Đại Hải mới nhớ ra một chuyện, quay sang hỏi Tư Mã Khôi: "Câu Triệu Lão Biệt nói trước khi lâm chung có ý nghĩa gì nhỉ?"



Tư Mã Khôi lắc đầu trả lời: "Tớ chẳng nghe rõ, đại loại là mấy lời lung tung lúc hấp hối ấy mà." Nói vậy nhưng trong lòng cậu vẫn đang suy nghĩ rất mông lung, chẳng ai có thể hỏi được đáp án từ miệng người đã chết. Giờ đây, thân thế lai lịch của Triệu Lão Biệt và cả bí mật ẩn giấu trong viên Lôi Công Mặc kia nữa, tất cả đều trở thành một chuỗi câu đố vĩnh viễn không có lời giải.



Trong lòng Tư Mã Khôi chất chứa bao suy tư; ngẩng đầu lên, cậu mới phát hiện lúc này hừng đông đã lộ ra vầng trắng sáng như bụng cá. Hồi tưởng lại toàn bộ sự việc xảy ra đêm hôm qua, quả giống như một cơn ác mộng, cậu vươn vai một cái để co giãn gân cốt cho bớt đau người, rồi quay sang nói với Hạ Cần: "Cả đêm hôm qua cậu không về nhà, chắc bố cậu phải lên cơn điên mất, không khéo lúc này đã điều động cả đoàn quân đi tìm tung tích của cậu rồi cũng nên, mau về nhà đi!"



La Đại Hải cũng vội vàng dặn với theo: "Chớ kể với bố cậu chuyện của tớ và Tư Mã Khôi đấy, kẻo ảnh hưởng tới thanh danh trong sạch của hai đứa bọn tớ!"



Hạ Cần lắc đầu trấn an: "Không sao đâu, tớ đã nói trước với bố sẽ ngủ qua đêm ở nhà dì rồi."



Hải ngọng tủm tỉm cười: "Khôi ơi, cậu xem Hạ Cần đối xử với anh em ta tốt chưa kìa! Cậu ấy nghe thấy bố mình nói sắp tới đây quét sạch băng đảng xã hội cặn bã rác rưởi, liền cố tình nói dối cha mẹ đi qua đêm không về nhà, lại từ xa xôi mãi tít trong thành chạy vội về đây mật báo cho chúng ta nữa đấy!"



Hạ Cần lại lắc đầu, tỏ ý không phải vậy. Do dự một lát, cô nàng mới thổ lộ: "Thực ra lần này tớ đến tìm các cậu là có một việc rất quan trọng muốn nói, nhưng sợ sau khi các cậu biết rồi sẽ lại gây ra tai họa, cho nên bây giờ vẫn chưa quyết định được rốt cục có nên nói hay không?"



Tư Mã Khôi và La Đại Hải vừa nghe nói liền vội vã đồng thanh hỏi xem rốt cục cô nàng có chuyện gì hay ho muốn kể? Dù sao thì trong con mắt của quần chúng nhân dân, bọn họ sinh ra vốn đã là một tai họa. Bây giờ từ trong thành đến ngoài thành, chỗ nào có thể đập phá được thì đã đập phá cả rồi, còn tai họa gì có thể gây ra thêm nữa? Hai con người trẻ tuổi nghĩ vậy mà không hề biết rằng: "Nhân tình thế thái mênh mang tựa biển lớn, kiếp con người nào thiếu sóng gió phong ba".


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: máy bay tiêm kích - hồi thứ nhất: núi dã nhân


Sau khi nghe xong mấy lời của Hạ Cần, Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều cảm thấy vô cùng khó hiểu, lờ mờ nhận thấy sự việc này không phải chuyện tầm thường, nhưng bọn họ thực lòng không thể nghĩ là một cô bé chưa đầy mười sáu tuổi như cô nàng thì làm gì có nổi tin tức đáng để hai người họ phải kinh ngạc cơ chứ. Thế là hai cậu liên tục hỏi dồn cho đến khi cô nàng chịu nói ra mới thôi.



Hạ Cần cẩn thận nhìn quanh bốn phía đều không có người mới ngập ngừng tiết lộ: "Anh họ tớ... từ vùng nông thôn... vừa mới trốn về nhà." Tư Mã Khôi và La Đại Hải gần như không dám tin những lời cô bạn vừa thốt ra là sự thật, còn cho rằng tai mình có vấn đề nên nghe nhầm.



Thì ra anh họ của Hạ Cần tên là Hạ Thiết Đông, thân hình cao tới một mét tám mươi sáu, trên sống mũi luôn găn một cặp kính cận, nhưng nhìn anh không hề yếu ớt kiểu thư sinh trói gà không chặt, mà ngược lại trông rất trí thức, uyên bác. Anh ấy thích đánh bóng rổ, khi Cách mạng văn hóa bắt đầu, anh ấy đang học đại học ở Bắc Kinh, từng đọc rất nhiều tiểu thuyết phương Tây, tư tưởng khá cấp tiến, tài ăn nói hùng biện rất xuất sắc, thích tham gia mọi hoạt động thể thao và là một trong những thành viên cốt cán gia nhập phong trào Hồng vệ binh sớm nhất.



Vì Hạ Thiết Đông là người hào phóng quảng đại, tính tình trung thực, trọng chữ tín, dám làm dám chịu, thêm vào đó văn võ song toàn, lúc nào cũng hừng hực sức sống, tầm hiểu biết lại rất rộng, nên bất kể chuyện quốc gia đại sự hay tình hình thế giới, chẳng lĩnh vực nào anh ấy không thông tỏ. Hơn thế nữa, anh ấy lại rất coi trọng nghĩa khí, đọc làu làu các tác phẩm của Các Mác, Lê nin, Mao Trạch Đông cùng các tác giả nổi tiếng trong và ngoài nước khác, ví dụ như thơ của Puskin, bất kể nói đến đoạn nào anh ấy đều có thể đọc thuộc lòng như cháo chảy. Không chỉ vậy, anh ấy còn sở hữu khí chất đặc biệt của kẻ lãnh đạo được đám đông, bởi thế xung quanh luôn có rất nhiều anh em muốn đi theo.



Năm Tư Mã Khôi và La Đại Hải mười ba tuổi, hai cậu từng theo anh Thiết Đông, lúc đó mới từ Hồ Nam trở về tham gia phong trào Hồng vệ binh do sinh viên tổ chức, từng đi dọc con đường trường chinh, lại lên núi Cảnh Cương. Trong quãng thời gian hơn nửa năm đó, họ đã được mở rộng tầm mắt, trưởng thành lên và trải nghiệm thêm rất nhiều điều. Hai cậu thường nghe vị đại ca lớn tuổi này giảng giải không ít về "Chân lý cách mạng". Khi đó, Hạ Thiết Đông nói với bọn họ: "Chỉ kẻ nào dám đương đầu với mạo hiểm và vất vả thì kẻ đó mới mong thành đại sự." Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của Hạ Thiết Đông, đến nỗi bất kể những gì anh nói, họ đều tin là điều tất nhiên. Tự đáy lòng, hai đứa trẻ sùng bái anh chẳng khác nào thần tượng.



Sau này, chủ tịch Chu Ân Lai ra chỉ thị mới, phong trào Hồng vệ binh cuối cùng cũng phải hạ màn trên phạm vi toàn quốc. Hạ Thiết Đông trở về Bắc Kinh, còn Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại phiêu dạt nơi đầu đường xó chợ trên dải đất Trường Sa, và hai bên kể từ đó đứt liên lạc với nhau, chỉ nghe phong thanh Hạ Thiết Đông, vì nguyên nhân nào đã đó đã bị cuốn vào một sự vụ chính trị rất nghiêm trọng. Tuy rằng chưa đến nỗi bị kết án, nhưng tiền đồ xán lạn của anh ấy coi như đã hoàn toàn tiêu tan thành mây khói. Năm ngoái, anh lại bị đẩy xuống một vùng quê nghèo khó ở tỉnh Thiểm Tây.




Nhưng hai ngày trước, Hạ Thiết Đông cùng hai thanh niên trí thức khác, một nam một nữ, chạy trốn về quê nhà. Anh không dám lộ mặt ra phố nên đành nhờ Hạ Cần giúp mình tìm lại những bạn bè bằng hữu khi xưa rồi triệu tập họ lại, nói rằng anh muốn gặp mặt mọi người, sau đó dự định sẽ vượt biên giới rời khỏi Trung Quốc, cả đời này không chừng chẳng còn cơ hội sống sót mà quay trở về cố hương.



Hạ Cần biết mối giao tình giữa Hạ Thiết Đông và hội Tư Mã Khôi rất tốt, vì thế cô nàng lo rằng với hạng người có tính cách vô thiên vô pháp như cậu thì không những chẳng thể khuyên nhủ anh Thiết Đông đi theo lẽ phải, mà ngược lại, còn đâm đầu đi theo anh ấy trốn ra nước ngoài cũng nên, bởi vậy cô nàng cứ do dự mãi không quyết, cuối cùng chẳng thể giấu được thêm mới đành thổ lộ mọi chuyện.



Tư Mã Khôi nghe xong câu chuyện liền quả quyết với Hạ Cần: "Tiểu Hạ! Cậu đa nghi quá đấy thôi. Anh họ cậu là người thế nào, bọn tớ rõ hơn ai hết, anh ấy tuyệt đối không thể là kẻ hàng giặc phản quốc. Cậu cứ nghe tên của anh ấy là biết, Hạ Thiết Đông, Thiết là sắt đá, Đông có nghĩa Mao Trạch Đông, ý nói anh ấy một lòng sắt đá đi theo tư tưởng của Mao Trạch Đông. Người như vậy làm sao có thể trốn ra nước ngoài đầu hàng kẻ địch? Cho dù bị cậu chặt đầu, bọn tớ cũng cóc tin."



Hải ngọng cũng hoàn toàn tán thành quan điểm của Tư Mã Khôi: "Bản lĩnh của Lâm Xung lớn đến cỡ nào, thế mà muốn đến Lương Sơn Thủy Bạc làm anh hùng thảo khấu vẫn phải giết một mạng người cắt đầu về nạp cho Tống Giang làm khế ước sinh tử; chứ anh Thiết Đông bây giờ chẳng qua chỉ là một thanh niên trí thức lên rừng núi, xuống nông thôn, lại chẳng biết gì về chuyện cơ mật quốc gia, nên cho dù anh ấy có toan tính hàng giặc phản quốc thật đi chăng nữa, có lẽ người ta cũng chẳng buồn cho anh ấy chơi cùng." Hai người nghĩ vậy liền lập tức quyết định, phải nhanh chóng đến gặp anh Thiết Đông một chuyến.



Chạng vạng hôm đó, Tư Mã Khôi dẫn theo mấy người ngày trước cùng tham gia phong trào Hồng vệ binh cùng với Hạ Thiết Đông, qua sông vào thành phố. Trong một ngôi nhà đơn sơ gần nghĩa trang liệt sĩ, bọn họ đã gặp lại anh cả Hạ Thiết Đông - người anh đã xa từ nhiều năm trước.



Hạ Thiết Đông đen hơn trước rất nhiều, người cũng gầy đi trông thấy, vẻ mặt ưu tư, nhưng những ngày lao động nặng nhọc dưới ánh nắng chói chang của mùa hè ở vùng nông thôn Thiểm Tây, đã khiến cơ thể anh trở nên vô cùng rắn rỏi. Nhìn những chú nhóc ngày nào còn lẽo đẽo bám theo chân mình, giờ đã trưởng thành, trong lòng anh cảm thấy rất đỗi vui mừng. Hạ Thiết Đông giơ tay bắt chặt lấy tay của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, theo cách giao thiệp giữa người trưởng thành với nhau. Niềm vui ngày gặp mặt khó lòng cưỡng lại đã khiến khóe mắt của cả ba người đều hoe đỏ và nhòe nước. Họ nhìn nhau một hồi lâu mà chẳng thốt nên lời.



Tiếp sau đó có rất nhiều thanh niên khác lũ lượt kéo nhau đến, khiến gian nhà vốn dĩ không rộng rãi cho lắm giờ trở nên chật cứng. Bọn họ đều là bạn học hoặc đồng chí tốt của anh Thiết Đông. Mọi người tụ hợp nhau lại chẳng khác nào giờ họp của đội sản xuất nhà máy; họ ngồi quây quần rôm rả hàn huyên đủ thứ chuyện.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Hội Tư Mã Khôi nhỏ hơn bạn bè của Hạ Thiết Đông vài tuổi, nên khi lọt thỏm giữa bọn họ, mấy cậu trông chẳng khác nào lũ đàn em ngồi chầu rìa.



Hạ Thiết Đông gặp lại bạn cũ năm xưa, tâm trạng càng trở nên kích động mãnh liệt. Sau một hồi xúc động, anh liền kể ọi người nghe ngọn nguồn câu chuyện. Năm 1968, anh bị đẩy đến Diêm Vương Câu ở vùng phía Bắc Thiểm Tây. Lúc đầu anh còn cảm thấy mình xuống nông thôn để rèn luyện bản thân, nên chấp nhận việc tái giáo dục từ thành phần bần nông; nhưng sau khi đến đấy, anh mới dần dần phát hiện ra, nơi đó căn bản không hề chào đón các anh. Bởi vì đất đai vùng ấy nghèo nàn, nên dù có tăng cường lực lượng lao động cho đội sản xuất thêm bao nhiêu chăng nữa, thì sản lượng thu hoạch một năm cũng vẫn chỉ có ngần đó. Đa số thời gian của mọi người ở đây cũng chỉ dùng vào việc ngồi trông chờ vào sự ban ân của trời đất. Điều này khác xa với lý tưởng nhân sinh của Thiết Đông, bởi thế chẳng đầy một năm, anh đã cảm thấy không thể nào tiếp tục kéo dài kiếp sống mòn mỏi ở nơi này. Hơn nữa, chỉ cần nghĩ cả đời phải bám rễ ở nơi hoang vắng thê lương "chó ăn đá, gà ăn sỏi" này là anh không thể nào chấp nhận nổi hiện thực tàn khốc.



Tuy Hạ Thiết Đông là người tài hoa xuất chúng, nhưng người như anh cũng có một nhược điểm rất rõ rệt, đó là trạng thái chủ nghĩa lý tưởng quá trầm trọng. Anh cũng giống như đa số thanh niên đương thời, lúc nào cũng tràn đầy khí thế và nhiệt huyết với cách mạng thế giới, đồng thời cảm thấy việc khai hoang trồng trọt trong nước khó lòng giúp họ làm nên trò trống gì, bởi vậy liền hạ quyết tâm cùng hai đồng chí chạy trốn về quê nhà. Anh tâm sự với mọi người kế hoạch mai sau của mình: "Nơi này không trọng ta thì có chỗ khác trọng ta, nếu chẳng nơi nào trọng, thì ta sẽ đầu quân cho Bát Lộ, thay vì ngồi nhà chơi lông bông, liên lụy đến mẹ cha. Nhân lúc này chi bằng hòa mình vào dòng hồng thủy của cách mạng thế giới."




Đám người La Đại Hại đều mong ngóng được tận tay sờ vào súng thật đạn thật từ lâu, nhưng bọn họ lại chẳng hiểu chút ý tứ gì trong lời hiệu triệu của Hạ Thiết Đông, nên đứng bên cạnh thắc mắc: "Lũ quỷ Nhật Bản ác ôn đã sớm đầu hàng tận năm nào rồi, bây giờ làm gì còn nơi nào tồn tại Bát Lộ quân nữa hả anh?"



Hạ Thiết Đông giải thích: "Tuy rằng về cơ bản chủ nghĩa phát xít đã bị sụp đổ, nhưng dân chúng lao khổ chiếm hai phần ba tổng dân số trên toàn thế giới thì vẫn còn đó, họ vẫn bị nồi da nấu thịt trong cảnh nước sôi lửa bỏng của cuộc sống cũ. Chừng nào chủ nghĩa đế quốc chưa hoàn toàn bị diệt vong, thì chừng đó nhân dân toàn thế giới vẫn không thể hưởng thụ cuộc sống tươi đẹp."



Đa số mọi người có mặt tại hiện trường khi nghe mấy lời ấy đều cảm thấy không vững tin cho lắm: "Nước Mỹ người ta là một siêu cường quốc, nếu chỉ dựa vào mấy người lẻ tẻ bọn ta qua đó, thì sợ rằng chẳng thể giải phóng nổi giới cần lao. Hơn nữa, cứ cho là bọn ta có đủ quyết tâm đấu tranh đi nữa thì cũng chẳng tìm đâu ra thuyền và vũ khí. Đừng nói đến tên lửa, đại bác, máy bay ném bom, ngay cả một con dao thái rau bây giờ bọn ta cũng chẳng kiếm nổi. Chắc anh không định tính chúng ta mỗi người giắt lưng vài ba quả lựu đạn, rồi trèo lên chiếc thuyền đánh cá vượt Thái Bình Dương đi đánh Mỹ chứ?"



Hạ Thiết Đông vẫn kiên trì giải thích: "Siêu cường quốc chẳng qua chỉ là con hổ giấy, chẳng có gì đáng sợ, quân Mỹ tàn bạo nhưng nhu nhược, tất cả chỉ rặt lũ lính con nhà giàu. Hơn nữa, không phải toàn bộ người Mỹ đều là dân tư bản, 99% trong số họ cũng là giai cấp lao động bị bóc lột, chúng ta có thể dùng tư tưởng của Mao Trạch Đông võ trang cho anh em công nông binh và giai cấp vô sản ngay trong lòng địch, kích động bọn họ giơ cao ngọn cờ Tạo phản nội bộ. Chỉ cần làm được công tác trong ứng ngoài hợp, cộng với việc Fidel Castro ở sân sau của Mỹ cùng chúng ta kẻ trước người sau khép chặt gọng kìm, thì chẳng có gì phải lo không đánh đổ được đế quốc Mỹ. Có điều... trước mắt lực lượng của chúng ta quả thật vẫn còn rất yếu mỏng, nếu trực tiếp vượt Thái Bình Dương xâm nhập vào lãnh thổ nước Mỹ thì e không thực tế cho lắm. Thế nhưng chẳng phải đế quốc Mỹ đang xâm lược Việt Nam láng giềng đó sao? Tôi thấy chi bằng chúng ta đi chi viện cho nhân dân Việt Nam, đến vùng rừng rậm nhiệt đới tham gia đánh du kích, cùng quân Mỹ tỉ thí một chuyến xem sao? Đợi đến ngày thắng lợi khải hoàn, vinh quang thái lai, chúng ta có thể khiến người trong nước phải nhìn mình bằng con mắt khác, xem chúng ta rốt cục là nhà cách mạng chân chính hay cách mạng giả dối."



Những thanh niên này tuy rằng trong lồng ngực tràn đầy nhiệt huyết và hùng tâm tráng chí, nhưng lại chẳng thèm biết trời cao đất dày gì cả. Hạ Thiết Đông vừa dứt lời lập tức có vài người đồng thanh hưởng ứng: "Những nhà cách mạng vô sản tiền bối đã dùng thời gian 28 năm để tạo ra một Trung Quốc mới thì hà cớ gì chúng ta không thể dùng 28 năm tiếp theo để giải phóng toàn nhân loại?"



La Đại Hải lại càng là hạng người chỉ lo thiên hạ bất loạn, có đám náo nhiệt thế này thì làm gì có chuyện cậu ta chịu ngồi yên trong nhà. Hơn nữa, khu Hắc Ốc cũng sắp bị giải tỏa đến nơi, nếu bọn họ ở lại thành phố, thì trước cuối năm nay kiểu gì cũng bị tống xuống vùng nông thôn cải tạo lao động.



Tuy nói rằng làm cách mạng không phân biệt sang hèn cao thấp, hàng triệu quân giải phóng chỉ cần rời khỏi sự trợ giúp tích cực của anh em nông dân là lại quay về con đường cũ, nhưng trên thực tế chẳng ai tình nguyện sống cuộc sống bán mặt cho đất bán lưng cho trời như vậy cả đời. Trong tâm trí của hàng ngũ thanh niên trí thức thời bấy giờ thì chỉ có trở thành quân nhân mới là sự nghiệp thần thánh vinh quang nhất. Đã không thể làm lính trong nước thì sang Việt Nam đánh trận cũng là một con đường thoát thân, bởi dù sao thì người cầm súng vẫn mạnh hơn kẻ cầm cuốc. Bọn họ lại suy ngẫm, anh em mình từ ngàn dặm xa vất vả đến Việt Nam chi viện cho sự nghiệp giải phóng của nhân dân nước láng giềng, thì cho dù chẳng có công lao cũng có khổ lao. Hơn nữa nếu luận về kinh nghiệm chiến thuật và lý luận chiến lược thì người Trung Quốc chúng ta chính là bậc thầy của họ, từ cổ chí kim hai bên từng đánh nhau hàng ngàn năm, xét về thứ bậc đương nhiên chúng ta là anh cả, giờ sang Việt Nam, kiểu gì họ chẳng bố trí cho chúng ta chức vụ đại loại như sư đoàn trưởng hay chí ít cũng là trung đoàn trưởng.



Tuy rằng Tư Mã Khôi từng sống ở Bắc Kinh mười mấy năm, ngày ngày cũng đến trường đi học, nhưng từ nhỏ đã được "Văn Võ tiên sinh" thu nạp truyền nghệ, lại chịu ảnh hưởng rất sâu từ hoàn cảnh gia đình, nên kết cấu tư duy của cậu không phải là kết cấu tư duy được hình thành dưới mô thức giáo dục đơn nhất, bởi vậy cậu không hoàn toàn tán đồng với kế hoạch mà Hạ Thiết Đông vừa nói hôm nay. Có điều Tư Mã Khôi là người vô cùng coi trọng hai chữ "nghĩa khí", nên khi hội La Đại Hải đều đã quyết định theo chân Hạ Thiết Đông đến Việt Nam tham chiến thì cậu cũng không thể để mình tụt hậu lại phía sau. Hơn nữa, rời khỏi Hắc Ốc, cậu cũng chẳng còn chốn dung thân. Thế là Tư Mã Khôi liền quyết định theo mọi người cùng đến Việt Nam.



Những người lựa chọn đến Việt Nam đa số đều là con em có cha mẹ mắc tội hữu khuynh, không nhà không cửa, tương lai mờ mịt, trừ một vài người cá biệt không dám đi ra, thì mọi người đều tự viết một bức huyết thư thể hiện lòng quyết tâm cao độ, sau đó đập nồi niêu bán sắt vụn, gom tiền vào làm lộ phí, cùng nhau bỏ nhà cất bước sang xứ người.



Hạ Cần thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải cũng đi theo mọi người thì trong lòng không tránh khỏi cảm giác hối hận, dù muộn màng. Trong lúc tiễn biệt, cô vẫn muốn khuyên nhủ bọn họ hồi tâm chuyển ý, nhưng Tư Mã Khôi đâu chịu nghe người khác khuyên bảo. Cậu biết Hạ Cần là người rất kín miệng, không bao giờ tiết lộ với người ngoài kế hoạch bí mật của cả nhóm, nên cũng chẳng cần thiết phải dặn dò thêm điều gì. Tư Mã Khôi lại nghĩ đến việc giờ đây phải rời xa cố hương, sang nước người đánh nhau với quân Mỹ trong làn mưa rơi lửa đạn thì cũng đâu phải chuyện đùa; súng đạn vô tình, lành ít dữ nhiều, ngộ nhỡ trở thành thây ma chốn sa trường thì cả đời này chẳng về nổi tổ quốc cũng nên. Người ta ai cũng khó lòng rời bỏ quê mẹ, nên cậu đương nhiên không tránh khỏi cảm giác bùi ngùi lưu luyến, trong lúc thần trí trở nên bấn loạn, tâm sự trĩu nặng, những lời định nói ra đều quên khuấy mất.



Hạ Thiết Đông dẫn theo hai mươi mấy bằng hữu tiễn biệt người ở nhà trong dòng nước mắt chia ly. Cả đoàn lặng lẽ lên đường, vượt ngàn dặm Nam tiến. Trên đường đi, mọi người gặp phải biết bao sóng gió gập ghềnh, khó khăn không thể diễn tả hết bằng lời. Có điều, vất vả lắm mọi người mới đến được biên giới Việt Trung, rồi lẻn qua cửa khẩu Hữu Nghị, đặt chân lên lãnh thổ Việt Nam và được nhìn thấy cảnh tượng khói lửa ngụt trời, máy bay ném bom của không quân Mỹ gầm rít ầm ầm khắp vòm trời miền Bắc Việt Nam. Điều này đã khiến cả đoàn mãn nhãn đúng như mong đợi, trong lòng ai nấy đều dấy lên ý chí muốn quyết sống mái một phen với quân thù. Thế nhưng vừa định xông ra tiền tuyến tham gia chiến đấu, có ngờ đâu tráng chí vẫn chưa được báo đáp, chẳng ai kịp nhìn tận mắt đại binh nước Mỹ trong truyền thuyết mặt mũi trông thế nào, thì lại gặp ngay phải mấy đồng chí công an Bắc Việt. Mấy đồng chí ấy thấy cả đoàn đều mặc trang phục quân nhân, nhưng lại chẳng đeo hàm hiệu gì cả, liền cho rằng họ là quân giải phóng đào ngũ đang chạy nhầm hướng, nên lập tức bắt tất cả đem nhốt lại mà chẳng cần hỏi han ngọn nguồn đen trắng gì sất. Do hai bên bất đồng ngôn ngữ, giải thích thế nào các đồng chí ấy cũng lắc đầu không hiểu. Thế là cả đoàn bị nhốt trọn một đêm trong song sắt. Ngày hôm sau, họ trói gô tất cả mọi người lại, rồi đem áp giải trở về Trung Quốc.




Đám người trẻ tuổi ấy sau khi bị trả về nước, trước tiên bị đem ra thẩm vấn một chập, sau đó được điều động đến nông trường Vân Nam để cải tạo lao động. Khi đến nông trường lao động, họ nghe được một thông tin, nói là Miến Điện[13] cũng đang đánh nhau, hơn nữa trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, đầu người đều bị mang ra đánh như đầu chó. Ở Vân Nam đã có rất nhiều thanh niên trí thức từng chạy đến đó gia nhập hàng ngũ quân đội cách mạng Miến Điện. Miến Điện luôn nồng nhiệt chào đón người Trung Quốc, bất luận họ thuộc thành phần gì chăng nữa, và cũng chẳng ai hỏi thân phận cao thấp sang hèn, mà lập tức phát ngay cho súng thật, muốn chọn súng ngắn hay súng trường tùy sở thích, xưởng thuốc súng cũng mở toang ai muốn dùng bao nhiêu thì dùng. Tuy rằng ở đó không có máy bay ném bom, nhưng tên lửa chống tăng AT4, pháo cao xạ, súng máy hạng nặng thì muốn bao nhiêu cũng có. Bọn họ đã thành lập "doanh trại đặc vụ thanh niên trí thức", đó là một nhóm bộ đội lập được rất nhiều công trạng lớn lao, khiến bọn địch sợ vỡ mật.



Hội Hạ Thiết Đông vẫn chưa được tham gia chiến đấu ở Việt Nam, nên trong lòng ai nấy đều cảm thấy không cam tâm. Khi vừa nghe nói tình hình chiến sự ở Miến Điện như vậy, mọi người đều vô cùng ngứa ngáy chân tay. Cả nhóm chụm đầu bàn mưu tính kế, thấy rằng nông trường được bảo vệ rất lỏng lẻo, nên đều quyết định sẽ lẻn trốn ra ngoài một lần nữa. Thế là, họ từ Vân Nam âm thầm xuất cảnh, vượt dòng Nộ Giang tham gia quân cách mạng Miến Điện.



Từ khi đến Miến Điện, Hạ Thiết Đông tham gia tất cả hàng trăm trận chiến lớn nhỏ, tuy rằng anh chỉ mới hai mươi mấy tuổi đầu nhưng do trình độ văn hóa tương đối cao, lại được "tôi luyện" nhiều năm từ các bộ phim nội chiến trong nước, vì thế tầng kiến thức và lý luận về chiến thuật chiến lược của anh có thể nói là không thầy mà tự hiểu. Anh tác chiến vô cùng anh dũng, nên đương nhiên là được sự trọng dụng của quân đội Miến Điện. Những chiến hữu này đều ca tụng và gọi anh là Che Guevara của Trung Quốc.



Tư Mã Khôi và La Đại Hải luôn sát cánh bên cạnh Hạ Thiết Đông. Trong suốt cuộc chiến tranh tanh mùi máu kéo dài suốt bao nhiêu năm, họ đã trải qua vô số lễ rửa tội của máu và lửa, từ cuộc hành quân trinh sát hiểm nguy mai phục tứ phía, đến cuộc đấu tranh sinh tồn vô cùng gian khổ nơi hoang dã, từ việc đối diện với màn mưa rơi lửa đạn trên chiến trường, đến những áp lực tinh thần khó lòng chịu đựng sau khi sống sót. Tất cả nỗi khiếp sợ, hoảng loạn trong chiến tranh dường như đều giáng xuống đầu họ, giúp họ sớm rèn luyện được phẩm chất độc lập đương đầu với thực tế, kiên gan trước cục diện tàn khốc sau này.



Trong hậu kỳ cuộc chiến tranh, quân giải phóng Miến Điện liên tiếp bại trận, nội bộ quân đội nhân dân xảy ra mâu thuẫn gay gắt, liên đới lẫn nhau, phạm vi kiểm soát càng ngày càng bị thu hẹp, tình hình trở nên vô cùng khó khăn. Cuối cùng, tiểu đội của Tư Mã Khôi cũng bị đội quân chính phủ vây bắt và dồn vào ven rìa khu rừng rậm bí ẩn của núi Dã Nhân nằm ở phía bắc Miến Điện.



Những chiến hữu rời bỏ đất nước theo chân Hạ Thiết Đông sang Miến Điện năm đó, giờ đây người chết trận, kẻ thì mất tích trong khi chiến đấu, số người sống sót cũng chẳng còn bao nhiêu, vì thế tất cả đành phải rút lui vào núi đánh du kích. Trong một lần đi trinh sát, Hạ Thiết Đông bị thương nặng rồi bị địch bắt sống, sau đó anh bị chúng hành hình tàn khốc bắt đem đi chôn sống, đến nay ngay cả thi thể cũng không tìm thấy.



Tàn dư của đội du kích chỉ còn khoảng bốn mươi mấy người, cả ngày chạy tháo mạng mệt không kể xiết, cuối cùng phải lui về gần núi Dã Nhân. Bọn họ không chỉ thiếu thốn lương thực đạn dược, mà ngày nào cũng phải đối mặt với thương vong chết chóc. Cho dù bản lĩnh của hội Tư Mã Khôi có giỏi giang hơn nữa, thì giờ khắc này cũng khó lòng xoay chuyển được đại cục.



Quân chính phủ đã sớm coi nhóm người này là cái gai trong mắt, chúng treo giải thưởng lớn cho ai cắt được thủ cấp người cầm đầu. Tuy rằng bọn chúng không dám mạo hiểm vào sâu trong núi Dã Nhân phía bắc Miến Điện để truy bắt, nhưng lại điều động một lực lượng lớn binh sĩ phong tỏa khắp các cửa núi. Mục đích của họ là dồn tất cả các thành viên còn lại của đội du kích vào núi sâu rừng thẳm, cầm chân trong đó cho đến chết.



Núi Dã Nhân là một khu vực vô cùng nguy hiểm và thần bí đến khó lường. Dải địa hình của nó cực kỳ phức tạp, hệ thực vật trong rừng nguyên sinh um tùm, rậm rạp dị thường, quanh năm mây mù che phủ, không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời. Bởi vậy, nơi đây được mệnh danh là "địa ngục trần gian". Thời tiết ở đây luôn luôn ẩm ướt, oi bức tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh dịch phát triển tràn lan, côn trùng độc sinh sôi nảy nở, muỗi vắt nhiều vô số, bất kể loài nào trong số chúng cũng đều có thể hút cạn máu người thành xác khô ngay trong phút chốc. Tương truyền, rừng rậm còn là nơi ẩn náu của yêu quái "Phi đầu man"[14]. Nó có thể nuốt chửng một con mãng xà dài mười mấy mét, còn biết phun sương tạo mây. Trên cạn đã vậy, dưới nước lại là nơi cư ngụ của từng đàn cá ăn thịt người, bởi thế chẳng ai vào núi mà lại dám cả gan đến gần ao hồ sông suối. Từ xưa đến nay, chưa một ai có thể sống sót trở về sau khi lạc bước đến chốn này. Hiện giờ, đội du kích rút chạy về đây thì đúng là rơi vào tuyệt lộ. Họ chịu sự kìm kẹp từ cả hai phía trong và ngoài, cho dù chọn cách phá vòng vây hay trốn vào núi sâu thì kết cục cuối cùng vẫn là khó lòng thoát khỏi bàn tay thần chết.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: hồi thứ hai: karaweik


Trong lần đột phá vòng vây ác liệt sau cùng, vai trái của Tư Mã Khôi đã bị mảnh lựu đạn cầm tay găm vào trọng thương, mảnh đạn tuy không lớn lắm nhưng đâm sâu vào tận xương khiến máu không ngừng chảy ra. May mà La Đại Hải đã quên mình lao ra cõng bạn nên Tư Mã Khôi mới giữ được mạng sống. Có điều, trong rừng rậm núi sâu thế này lại thiếu thốn thuốc men nên không đủ điều kiện để làm phẫu thuật.



Trong đội du kích, Tuyệt là người duy nhất am hiểu về y thuật. Cô là người Hồ Nam, vóc dáng mảnh khảnh, tốt bụng, ưa sạch sẽ, nên cho dù lâm vào tình cảnh trốn vào rừng sâu núi thẳm tháo chạy khỏi tay bọn lính truy sát, cô vẫn cố gắng thu vén để bản thân trông gọn gàng ngăn nắp nhất có thể. Sau khi tốt nghiệp trung học, cô cũng lên rừng núi, xuống nông thôn như bao thanh niên trí thức khác, đồng thời cũng là một trong những thành viên theo chân anh Thiết Đông trốn chạy khỏi Vân Nam năm đó. Trong quá trình tham gia cải tạo lao động, cô từng làm thầy thuốc bấm huyệt chân, vì thế hiểu được đôi chút về cách điều chế thuốc, đặc biệt cô có tài nắn xương cho người khác.



Cố nội nhà cô tên là Tô Lão Nghĩa, cụ là một tín đồ theo đạo Thiên chúa, biết khá nhiều tiếng Tây. Thời Dân quốc, cụ còn học được mấy tuyệt chiêu thủ thân từ người Pháp. Ngoài nội khoa và ngoại khoa ra, cụ còn học được kỹ thuật nắn xương. Nếu có ai bị thương gãy xương, cụ Tô Lão Nghĩa chẳng cần phẫu thuật, mà chỉ cần dùng tay nắn nắn mấy cái là biết ngay mức độ vết thương nặng nhẹ ra sao, ví dụ như gãy mấy chiếc xương, mức độ gãy nghiêm trọng đến mức nào... Sau đó cụ nắn hai xương vào nhau cho thật khớp rồi đắp thuốc lên trên, lấy thanh gỗ hoặc nẹp tre nẹp chắc, rồi dùng băng vải cuốn chặt xung quanh; cuối cùng cụ cho bệnh nhân uống mấy viên thuốc. Kẻ bị thương sau khi được cụ chữa trị sẽ hồi phục nhanh chóng mà không để lại bất kỳ dấu hiệu tàn phế nào, mà ngay cả những hôm trái gió trở trời cũng chẳng hề bị đau nhức.



Tuyệt có thể coi là truyền nhân dòng họ Tô, cô được truyền thụ lại kỹ thuật nắn xương nổi tiếng của gia đình, nhưng trong thời gian diễn ra Cách mạng văn hóa, cô cũng bị liên lụy bởi cố nội, vì thế chưa kịp trở thành bác sĩ quân y, cô đã bị đẩy xuống vùng nông thôn khi chưa tròn mười sáu tuổi. Năm đó, anh Thiết Đông thấy cô còn ít tuổi, thân hình lại gầy gò, mảnh khảnh nên thường làm giúp những công việc nặng nhọc cần phải dùng nhiều sức lực. Sau đó, khi mọi người chạy trốn khỏi Vân Nam họ cũng dẫn cô theo cùng. Bắt đầu từ ấy, Tuyệt trở thành "bác sĩ quân y" kiêm "liên lạc viên" cho bộ đội cách mạng Miến Điện.



Sau khi xem xét tình trạng vết thương của Tư Mã Khôi, Tuyệt phát hiện: nếu không nhanh chóng phẫu thuật gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể thì sẽ dẫn đến việc mất quá nhiều máu mà nguy hiểm đến tính mạng. Thế là cô lập tức bắt tay chuẩn bị, đồng thời quay sang hỏi Tư Mã Khôi xem anh có chịu nổi đau đớn không?



Sau khi Hạ Thiết Đông mất đi, trong lòng Tư Mã Khôi không lúc nào ngớt đau buồn, cộng thêm vết thương trên vai máu chảy như tháo cống nên khuôn mặt anh trở nên tái nhợt, nhưng vì không muốn để mọi người lo lắng nên anh vẫn gắng gượng nói với Tuyệt một cách cứng rắn: "Cô đúng thật là! Muốn xử lý cái thân này thế nào thì cứ làm đi, nếu tôi mà có rên hừ lên một tiếng thì cứ để người ta xông vào đánh cho sướng tay."




La Đại Hải đứng bên cạnh lo lắng nói: "Tiên sư nhà cậu, chẳng biết sống chết gì sất, cậu tưởng mình là Quan Công chắc, cạo xương trị độc mà chẳng thèm nhăn mày lấy một cái. Đến lúc không thể chịu được nữa thì cậu cứ việc thoải mái gào thét, ở đây cũng chẳng có ai mà lo mất thể diện, hay là để tớ đi kiếm thanh gỗ cho cậu cắn mà mài răng nhé!"



Tư Mã Khôi nghiến chặt răng nói: "Thực ra chuyện Quan Vân Trường cạo xương trị thương cũng chẳng phải điều gì ghê gớm lắm, trong lịch sử còn có nhiều nhân vật hổ báo hơn ông ấy nhiều. Thời kỳ dấy lên khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc có rất nhiều tướng lĩnh bị quân địch bắt sống rồi phải chịu cực hình tùng xẻo, khổ hình này đúng là từng nhát từng nhát cắt dần từng miếng thịt trên cơ thể, nhưng làm gì có ai được bôi thuốc tê? Người ta còn ghi chép rõ ràng về hai vị tướng, một người tên Lâm Phụng Tường, còn người kia là Thạch Đạt Khai. Lâm Phụng Tường bị trói ở cổng chợ chịu hình. Trong quá trình chịu cực hình, mặc áu chảy ròng ròng đầm đìa khắp cơ thể, nhưng ánh mắt vẫn nhìn trừng trừng theo từng nhát dao của tên tùng xẻo đưa qua đưa lại trên người mình, ánh mắt chăm chú đến mức khiến tên kia phải cảm thấy ghê tay. Thạch Đạt Khai thì bị quân Thanh xử tùng xẻo ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên, đầu tiên ông bị cắt rời tứ chi sau đó cắt đứt cổ họng; nhưng từ đầu chí cuối, thần thái họ Thạch vẫn điềm nhiên, chẳng hề giống với kẻ đang bị chịu cực hình, mà ngược lại giống như đang được tắm gội trong bồn nước nóng dễ chịu. Quả đúng như xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, đó mới là khí khái của người anh hùng."



La Đại Hải biết chẳng thể nào giận dữ được, liền lắc đầu bảo: "Cái thằng này đúng là đồ hồ ly gặm bình trà, nói xuôi cũng được nói ngược cũng xong. Miệng toàn chữ là chữ."



Tuyệt cũng động viên Tư Mã Khôi: "Cậu cũng đừng cố gượng quá làm gì, khi nãy tôi cũng vừa tìm thấy mấy cọng cỏ râu ma ở gần đây, loại cỏ dại này có tác dụng giảm đau nhất định, nhưng vẫn rất đau đấy, cậu ráng chịu nhé!"



Tư Mã Khôi không nói thêm câu gì, cố gắng nén cơn đau để Tuyệt gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Trên trán đọng từng giọt mồ hôi to như hạt đỗ xanh nhưng anh vẫn kiên cường, từ đầu chí cuối không hề kêu rên một tiếng nào.



Tay nghề phẫu thuật của Tuyệt phải nói vô cùng cao siêu, từng động tác chính xác mà nhanh thoăn thoắt, nên chẳng đầy mấy phút đã gắp được mảnh đạn ra. Sau khi lấy tro cỏ khử trùng, cô liền xử lý băng bó vết thương. Đợi khi hoàn tất mọi việc, khóe mắt cô liền đỏ lên, ngân ngấn nước, rồi chẳng cầm lòng được thêm, nước mắt cứ thế thi nhau tuôn rơi.



Tư Mã Khôi nén đau hỏi: "Sao Tuyệt lại khóc?"



Tuyệt cúi đầu, dùng tay quệt ngang dòng nước mắt đầm đìa trên má: "Khi nãy tôi nhớ lại việc lúc chúng ta rời khỏi đất nước, cả đoàn hào hùng như thế, vậy mà giờ đây chỉ còn sót lại ba người bọn mình."



Nhắc đến việc này, cả Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều chùng lòng xuống. Rất nhiều anh em bằng hữu đã phải bỏ mạng ở vùng đất Miến Điện xa xôi này, hơn nữa cái chết của họ không những chẳng hùng tráng, oanh liệt chút nào mà còn hoàn toàn vô nghĩa. Họ âm thầm nằm lại trên mảnh đất lạnh lẽo nơi xứ người, vĩnh viễn không thể trở về cố hương, còn người thân ở nhà từ nay cũng chẳng biết họ lưu lạc chốn nào mà tìm.



La Đại Hải trầm ngâm hồi lâu, mãi mới lắc đầu than thở: "Tớ nghĩ mãi vẫn không ra, lúc bắt đầu khởi binh, thanh thế của Miến Cộng đúng là mạnh như chẻ tre, dường như sắp đến ngày thắng lợi khải hoàn đến nơi, ấy thế mà sau này nói hỏng là hỏng hẳn, tốc độ tan rã còn rách nhanh hơn cả giấy dán diều."



Tư Mã Khôi bất lực nói: "Đây vốn dĩ không phải đất làm cách mạng, vì thiên không thời, địa không lợi, nhân không hòa. Tớ thấy cho dù Guevara có tái thế mà bị quăng vào cái xó này thì cũng chẳng thể làm nên trò trống gì."




Nhân một chốc nghỉ ngơi ngắn ngủi giữa cuộc chiến đấu, ba người liền ngồi phân tích cục diện đang phải đối đầu trước mắt. Quân đội nhân dân Miến Điện cho đến thời điểm này, thì thực tế chỉ còn mỗi hư danh mà thôi, đội du kích lẻ tẻ mấy người bọn họ khó mà làm nên kỳ tích gì. Hơn nữa, tàn dư của quân đội chính quy đều hợp nhất với quân đặc phái vũ trang của địa phương để trở thành quân đội quân phiệt, chiếm cứ mỗi người một phương, họ trồng anh túc, buôn bán vũ khí quân đội, chỉ coi trọng cái lợi của bản thân, không phân biệt tốt xấu gì cả, chẳng chuyện gì họ không dám nhúng tay vào.



Các thành viên trong đội du kích do Tư Mã Khôi lãnh đạo, ai chạy trốn được thì đã chạy mất tăm mất dạng, những người còn lại đều đang bị quân đội chính phủ phát lệnh truy nã đặc biệt, chỉ cần ló mặt ra là chắc chắn mất mạng, tuyệt đối chẳng có kết cục tốt đẹp nào đón đợi họ. Bởi vậy đừng nói đến việc ngồi xuống đàm phán thỏa thuận, mà ngay cả buông súng đầu hàng họ cũng chẳng mong đợi bọn chúng chừa ột con đường sống. Nay cả đội lại bị nhốt ở núi Dã Nhân, trong không có lương thực, ngoài không có viện binh, nếu cố thủ tại chỗ chẳng khác nào ngồi đợi thần chết đến rước.



Đội du kích vẫn còn một lựa chọn là chạy sâu vào rừng rậm nguyên sinh trong lòng núi Dã Nhân, nhưng người Miến Điện cứ nhắc đến nơi ấy là "xanh mắt tái mặt". Chốn rừng rậm sâu thăm thẳm này không có đường đi, địa hình lại nhấp nhô gồ ghề, môi trường phức tạp khó mà tưởng tượng, chưa kể đến những rừng cây um tùm rậm rạp và đầm lầy trải rộng quanh năm âm u không nhìn thấy mặt trời, còn độc xà ác thú lảng vảng khắp nơi, chẳng biết chúng thình lình xuất hiện lúc nào, chướng khí sương độc bao trùm cả không gian, đã vào thì đừng nghĩ đến chuyện thoát được ra. Mấy năm gần đây, những kẻ mất tích trong đó số lượng nhiều không kể xiết.



Nghe đồn, tính đến thời điểm này, lần mất tích lớn nhất là một sư đoàn tàn quân của Nhật. Chúng dễ còn đến hơn hai ngàn tên, bị quân Anh đánh cho không còn đường thoát thân, đành tháo chạy vào một đầm lầy lớn phía sườn nam của núi Dã Nhân. Kết quả là cả sư đoàn lạc đường, rồi đột nhiên bị vô số đàn cá sấu tấn công, hơn hai ngàn tên lính Nhật được vũ trang đến tận răng mà vẫn trở thành mồi nuôi cá sấu, chỉ có vài tên may mắn sống sót.



Bởi vậy, đội du kích Miến Cộng chắc chắn không thể sống sót mà thoát ra khỏi núi Dã Nhân. Cho dù lùi hàng vạn bước mà nói, thì cứ cho là họ may mắn thoát chết khỏi núi Dã Nhân, nhưng sau đó sẽ ra sao? Bắc Miến chắc không có chỗ cho họ dung thân, chỉ còn cách vượt biên sang Trung Quốc. Thế nhưng vài năm trước hội Tư Mã Khôi đã chạy trốn khỏi trại cải tạo lao động để đến đây, nếu bây giờ quay trở về, chẳng cần nghĩ cũng biết điều gì đang chờ đợi ở phía trước.



Cơ sự đã đến nước này, La Đại Hải cũng chẳng buồn màng đến sự sống chết, anh dùng mũi dao găm vạch một dấu X lên mặt đất bùn, thể hiện tình hình lúc này "lên trời vô lối, xuống đất vô môn", sau đó quay sang hỏi Tư Mã Khôi và Tuyệt: "Mọi người rõ cả rồi chứ? Hiện giờ chúng ta rơi vào tình cảnh như vậy đấy!"



Tư Mã Khôi gật gật đầu, cười đau khổ: "Hiểu, ngay cả cơ hội chết rồi đầu thai sang kiếp sau chúng ta cũng chẳng có nữa là, dù sao thì cũng chết, chỉ còn xem rốt cục bị chết như thế nào mà thôi."



Tuyệt cũng trầm mặc trong lòng, nhưng bây giờ đã biết rằng mình chắc chắn sẽ chết, không còn nghi ngờ gì nữa, thì tự nhiên lại cảm thấy điềm nhiên hơn nhiều. Cô nói: "Dù sao thì cũng khó tránh khỏi cái chết, tôi chẳng muốn bị bắt sống rồi để mặc cho chúng hành quyết, chúng ta có chết cũng không thể chết trong rừng sâu núi thẳm nơi đất khách quê người thế này được."



Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng chung suy nghĩ đó. Ba người họ muốn cùng mạo hiểm đi xuyên qua núi Dã Nhân. Nếu mệnh ai lớn, có thể sống sót thoát ra ngoài, thì họ sẽ gắng sức nghĩ cách càng về gần Trung Quốc càng tốt, mọi chuyện sau này sẽ nghe theo sự an bài của số phận. Bất luận thế nào, về đến tổ quốc, cho dù bị bắt, xấu đẹp gì thì cũng rơi vào tay người nước mình, chí ít họ cũng phải qua bộ phận có liên quan thẩm vấn rồi sau đó mới đem đi xử bắn; nhưng so ra như thế vẫn tốt hơn để bọn quân phiệt Miến Điện tóm được. Lũ người này chẳng thèm hỏi đến câu thứ hai, lập tức kề súng vào sọ, nã đạn cho đến khi óc nở hoa mới thôi.



Ba người nguội lạnh hết cả ý chí, sau khi bàn bạc và xác định phương hướng rõ ràng, liền triệu tập tất cả thành viên còn sống sót, bao gồm cả những người bị thương trong đội du kích lại, nói rõ tình cảnh tuyệt vọng mà cả nhóm đang lâm vào rồi tuyên bố phải phân tán lực lượng để đột phá vòng vây. Cái gọi là "phân tán lực lượng đột phá vòng vây", thực ra chỉ là cách nói khéo để người khác dễ lọt tai, kỳ thực muốn ám chỉ: kể từ giờ trở đi, đội ngũ của chúng ta không còn sự ràng buộc về kỷ luật và tổ chức gì nữa, cha chết mẹ đi lấy chồng, ai tự lo thân người nấy.



Thông tin vừa tuyên bố ra, chẳng hề có ý kiến phản đối, bởi vì cả nhóm đều biết việc này sớm muộn gì cũng xảy ra. Sau nghi thức chào tạm biệt trân trọng, mọi người lặng lẽ bước đi theo con đường riêng mà mình lựa chọn. Đa số thành viên thà bị quân đội chính phủ bắt được đem xử ngũ mã phanh thây, cũng còn hơn bước chân vào khu rừng rậm.




Những người quyết định lựa chọn con đường mạo hiểm này, ngoài hội ba người Tư Mã Khôi, không ngờ còn có thêm một thiếu niên người Miến Điện khoảng chừng mười sáu, mười bảy tuổi. Tên tiểu tử này là đứa trẻ mồ côi không nhà không cửa, cũng chẳng có lấy một cái tên hẳn hoi, người gầy như khỉ đói, khoác miếng xà rông[15] rách nát, đầu cạo trọc, vẻ mặt ngờ nghệch, cả ngày chỉ trình ra mỗi bộ dạng ngô ngố với nụ cười hềnh hệch thường trực trên môi. Các thành viên trong đội du kích gọi cậu ta là Karaweik hoặc Kara.



Karaweik là từ dùng để chỉ một loài chim trong truyền thuyết của người bản địa. Cách tính con giáp Miến Điện khác với cách tính con giáp Trung Quốc, là chỉ có tám con vật lần lượt tượng trưng cho các ngày trong tuần, thứ hai là con hổ, thứ ba là sư tử, thứ tư - hơi đặc biệt một chút - nếu sinh vào ban ngày là con voi hai ngà, nếu sinh vào ban đêm thì lại là con voi cụt ngà, thứ năm là con chuột, thứ sáu là chuột lang, thứ bảy là con rồng, chủ nhật là chim Diệu sí[16]. Từ đây có thể phán đoán có lẽ cậu bé được sinh vào ngày chủ nhật, bởi thế hội Tư Mã Khôi liền đặt cho cậu một cái tên Trung Quốc là Chủ Nhật.



Hai tháng trước, Karaweik còn là một cậu bé mồ côi được Hạ Thiết Đông cứu sống từ một làng quê ở phía bắc Miến Điện, cả nhà cậu đều chết hết trong chiến tranh loạn lạc, từ đó trở đi cậu một mực theo chân quân đội cách mạng đi khắp nơi, muốn tách cậu ra cũng chẳng tách nổi. Bây giờ Hạ Thiết Đông không còn nữa, Karaweik liền sống chết đòi bám theo Tư Mã Khôi.



Tư Mã Khôi thầm nghĩ: "Có lẽ cậu bé nghĩ nếu theo chân chúng ta tiến về phía trước sẽ phá được vòng vây mà sống sót, chẳng ngờ ba người bọn ta chỉ có một con đường chết đang chờ đợi". Thế là anh bèn chỉ về hướng ngoài núi, đoạn nói: "Cậu hãy lên núi mà làm hòa thượng đi."



Nhưng Karaweik nào chịu nghe lời, nếu theo cách nói của người Bắc Kinh thì cậu ta quá "lỳ", quá cứng đầu, bất kể làm việc gì, chỉ cần bản thân cho rằng đúng thì sẽ nhất nhất làm đến cùng mới thôi. Không những thế, tuy rằng cậu có thể nghe hiểu được tiếng Hán nhưng lại chỉ biết bập bẹ vài câu tiếng Trung lơ lớ, mà ngay cả Tư Mã Khôi cũng chẳng hiểu cậu ta muốn nói gì. Thuyết phục không được, anh đành bất lực phải cho Karaweik theo nhóm mình cùng tiến vào núi.



Tư Mã Khôi cho rằng đã rơi vào tình cảnh này thì thêm một người hay bớt một người cũng chẳng hề gì. Hơn nữa, ở quê nhà Tuyệt cũng có một người em trai, nhưng giờ đây thân cô đang ở Miến Điện, hoàn toàn đoạn tuyệt mọi tin tức với trong nước, hai chị em đã nhiều không được gặp mặt, tính ra cậu nhóc đó cũng trạc tuổi Karaweik. Thế là cô liền chăm sóc cậu bé ân cần như chăm sóc chính em trai của mình vậy.



Tư Mã Khôi và Tuyệt còn dễ thuyết phục, duy chỉ có Hải ngọng thì chẳng muốn Karaweik gia nhập đoàn chút nào. Bởi vì người bản địa có tính lề mề chậm chạp, mặc cho người khác tha hồ thúc giục, họ cứ từ từ mà làm, ngay cả bước đi cũng lững tha lững thững. Karaweik cạo trọc đầu là vì người bản địa rất sùng bái đạo Phật. Theo tập tục này, đàn bà con gái đã vào am làm ni cô thì vĩnh viễn không được hoàn tục, ngược lại đàn ông có thể trở thành hòa thượng ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào, khi không muốn làm hòa thượng nữa thì nghiễm nhiên có thể hoàn tục. Lý do để người ta vào chùa làm hòa thượng cũng muôn hình vạn trạng, có người thì do tâm trạng không tốt muốn làm hòa thượng vài ba ngày cho vui, có người lại do dạo này hay gặp vận đen nên xuất gia làm tăng nhân mấy bữa để giải hạn.



Do sự ảnh hưởng của Phật pháp mà người bản địa cũng thay đổi họ tự lúc nào không biết. Họ dần trở nên tiêu dao, lười nhác, rất nhiều người là kẻ ba phải, phản ứng chậm chạp, chẳng bao giờ lo lắng nghĩ ngợi, sống thì sống, chết thì chết. Trong tư duy của họ, qua hết kiếp này sẽ có kiếp khác, chẳng việc gì phải dằn vặt về những chuyện trước mắt. Karaweik chính là một trong số đó. "Nhân sinh quan tiêu cực" của họ đã khiến La Đại Hải vô cùng khó chịu.



Sau một hồi than thở, Hải ngọng nhìn thấy những người còn lại đều tản ra bốn phía, anh liền đem mấy tập tài liệu còn sót lại mang ra đốt sạch. Nhìn sang thấy Tuyệt và Karaweik đang bày chiếc máy điện đàm quân dụng không dây ra đất, anh bèn thúc giục họ làm nhanh còn vào rừng, cố gắng vứt bớt đồ đạc để tiện đi lại, hơn nữa bây giờ cũng chẳng còn đồng đội nào nữa mà cần liên lạc, giữ bộ điện đàm này chỉ tổ mệt người, thà đập nát nó ra cho sớm chợ.



Tuy tiếng phát ra từ chiếc máy bộ đàm cũ kỹ toàn là tạp âm, những tiếng "xẹt xẹt" vang lên không ngớt, giọng người nói mơ hồ khó phân biệt nổi, nhưng lúc này Tuyệt đang chăm chú theo dõi, hoàn toàn không để ý xem Hải ngọng nói gì. Mấy năm gần đây, Tuyệt thường tìm cơ hội để học ngôn ngữ của người bản địa và gần như có thể trở thành phiên dịch. Cô bịt một bên tai, tập trung cao độ, cố gắng nghe tiếng phát ra từ bộ đàm, sắc mặt càng lúc càng xấu. Trong sóng điện lẫn tạp âm lẹt xẹt, chập chờn lúc được lúc mất, dường như cô đã nghe được tin tức gì đó vô cùng đáng sợ.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: hồi thứ ba: con đường u linh bị lãng quên


Hồi thứ ba: Con đường u linh bị lãng quên



Có lẽ vận đen đúng là một loại vận không bao giờ tránh được. Đúng lúc tiểu đội quyết định trốn vào núi Dã Nhân thì Tuyệt nghe được tin tức sau cùng phát ra từ bộ đàm: cơn bão nhiệt đới "Buddha"[17] sắp tràn vào Ấn Độ Dương và dần dần di chuyển về hướng bắc, cơn đầu tiên đang tiếp cận núi Dã Nhân với quy mô cực lớn và cấp độ cực mạnh. Cơn bão hung bạo như thế này rất hiếm xảy ra trong gần ba mươi năm trở lại đây.



Hội Tư Mã Khôi đã tham gia chiến đấu nhiều năm ở Miến Điện, không chỉ một lần chứng kiến hậu quả thiên tai ghê gớm do bão nhiệt đới mang lại, nên họ hiểu rất rõ tin tức này có nghĩa là gì.



Trong rừng rậm nguyên sinh, hiểm nguy bủa vây tứ bề, hiểm họa thực sự không phải đến từ cá sấu và mãng xà khổng lồ mà đến từ rắn độc, côn trùng độc. Hơn nữa, hành quân trong rừng rậm núi sâu là một việc vô cùng gian nan, mỗi bước di chuyển đều phải dùng dao "phạt núi mở đường" mới đi qua được. Vì những nguyên nhân này, nên đường thủy vẫn là con đường tắt nhanh chóng và an toàn nhất.



Nhưng giờ đây, sự xâm nhập và tấn công của cơn bão nhiệt đới chắc chắn sẽ kéo theo lũ lớn tràn về. Nó không chỉ khiến hội Tư Mã Khôi không thể lợi dụng mạng lưới sông ngòi chằng chịt ngang dọc, mà còn khiến những khe rãnh trũng sâu trong lòng núi cũng chịu sự công kích bất ngờ của nước lũ, mà trở nên vô cùng nguy hiểm.



Núi Dã Nhân không chỉ là một ngọn núi mà là tên gọi chung của cả dải núi. Hàng trăm triệu năm trước, đây từng là nơi tập trung giải phóng nguồn năng lượng của lớp vỏ trái đất, tạo thành khu vực nguy hiểm với tần số hoạt động cực kỳ mạnh mẽ. Nó chính là sản vật từ quá trình vận động tạo sơn cổ đại của dãy Himalaya, phía tây dải núi cuốn quanh con sông Irrawaddy[18], phía bắc tiếp giáp với vùng núi Gao Li Gong, phía nam là bình nguyên Bago rộng lớn, tạo hình rất giống với người khổng lồ đang ngủ say giấc. Nó vắt mình qua ba nước Miến Điện, Lào và Trung Quốc.




Đội du kích cộng sản Miến Điện bị nhốt vào vành đai dài hẹp nằm kẹp giữa đầm lầy và rừng rậm nguyên sinh, nên chỉ đi về hướng bắc rồi xuyên qua núi Dã Nhân mới có thể tiếp cận biên giới Trung Quốc. Trong tay Tư Mã Khôi lại không có bản đồ, để tránh đi lạc đường, vốn dĩ anh lên kế hoạch men theo con sông lần ngược lên thượng nguồn, nhưng giờ đây cơn bão nhiệt đới đã mang theo mưa to gió lớn, chắc chắn sẽ khiến cơn lũ bất ngờ tràn về với tốc độ và cấp độ kinh hoàng. Nếu đi ngược dòng, chắc chắn sẽ lãnh hậu quả khủng khiếp bị lũ cuốn trôi và nuốt chửng, mà cho dù tránh đường thủy để chuyển sang đi trên mỏm núi thì cũng phải chịu sự uy hiếp không kém từ nguy cơ sụt lở và dòng chảy bùn đá.



Thế là ngay cả tia hy vọng cuối cùng cũng bị dập tắt, có điều Tư Mã Khôi cũng hiểu rất rõ, bất luận tình thế xoay chuyển ra sao thì cuối cùng họ vẫn đâm ra con đường chết, chỉ là xem đích đến kết thúc ở đâu mà thôi. Sau khi cân nhắc một lúc, anh cảm thấy được chết càng gần tổ quốc bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi bèn quay lại giục mọi người nhanh chóng nai nịt hành lý chuẩn bị lên đường, đồng thời bảo La Đại Hải cho nổ luôn chiếc máy bộ đàm quân dụng không dây, sau đó cả đoàn không hề do dự một phút, lập tức đứng dậy khởi hành.



Miến Điện là một quốc gia cổ xưa có truyền thống lịch sử rất lâu đời. Thời cận đại, nước này từng bị thực dân Anh thống trị gần một trăm năm, trong đại chiến thế giới lần thứ hai, Anh, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản lần lượt chạy qua chạy lại nơi đây như đèn kéo quân, đánh nhau loạn xì ngầu, khó khăn lắm mới thoát khối chủ nghĩa thực dân và giành được độc lập. Ngờ đâu những ngày thái bình chưa hưởng thụ được bao lâu thì đất nước lại rơi vào cuộc nội chiến đẫm máu, kéo dài suốt nhiều năm.



Thời gian đầu, khi uy danh của quân cộng sản Miến Điện còn vững chắc, vật chất dự trữ và vũ khí quân đội luôn vô cùng đầy đủ, ngay cả súng cối, ống hỏa tiễn, xe tăng thiết giáp cũng được trang bị, các loại súng ống đạn dược nhiều không kể xiết. Từng thùng, từng thùng bom mìn và lựu đạn cầm tay chất đống cao như núi, các loại vũ khí quân dụng của Trung Quốc, Mỹ, Anh, Nhật, Liên Xô, Đức muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, thậm chí còn có cả xưởng sản xuất vũ khí chiến tranh bản địa "nhãn hiệu Miến Điện", xưởng này có thể làm nhái súng ngắn và súng trường của Anh. Nơi đây quả không hổ danh với biệt hiệu: "bảo tàng trang thiết bị vũ khí đa quốc gia". Thế nhưng quân cộng sản Miến Điện lại rất ít vũ khí đời mới, mà đại bộ phận đều là đồ lưu cữu từ những thời kỳ chiến tranh trước.



Rồi kể từ khi chiến dịch Kunlong thảm bại, quân đội cộng sản Miến Điện đã bị gục hẳn không thể đứng dậy nổi nữa, vũ khí đạn dược của bộ đội cũng bắt đầu phải giật gấu vá vai. Và giờ đây, hội bốn người Tư Mã Khôi ngoại trừ khẩu súng ngắn phòng thân ra thì chỉ còn lại hai khẩu súng trường kiểu cũ do Anh chế tạo, với số lượng đạn dược ít ỏi, còn bên mình hầu như không còn lương thực và thuốc men gì nữa. Cả đoàn tiến vào rừng rậm nguyên sinh trong núi Dã Nhân, tứ bề cây cối mênh mông ngút tầm mắt, mà không hề có bản đồ và người dẫn đường.



Ngày hôm đó, sau khi vượt qua được hai mỏm núi, địa hình dần dần thấp xuống, hệ thực vật trong rừng sâu cũng um tùm rậm rạp hơn, gần như không tìm được chỗ đặt chân xuống. Người đi vào trong đó, ngẩng đầu lên chẳng nhìn thấy bầu trời, nếu không nhờ vào kim chỉ nam và chiếc la bàn, thì chắc chắn không thể phân biệt được phường hướng.



Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Cả hội có cảm giác đang lạc vào một mê cung tự nhiên âm u và kín mít, bốn người đành phải liên tục dùng dao phát quang cây cỏ xung quanh để mở lối, tốc độ di chuyển vì thế mà chậm đi rất nhiều.



Cánh rừng rậm nguyên sinh rộng lớn này có lịch sử tồn tại hơn một trăm hai mươi mấy triệu năm. Nó nằm ở giữa khe cốc trũng, xung quanh có nhiều dãy núi cao vây kín, nơi này lúc nào cũng tĩnh mịch, yên ắng lạ thường. Hàng trăm khe suối chằng chịt tạo thành một mạng lưới che phủ tứ bề, khiến khí hậu luôn luôn ẩm ướt, oi bức, không có mưa, cũng chẳng có nắng. Trong cánh rừng bí ẩn này có rất nhiều thực vật nhiệt đới sinh trưởng. Chúng muôn màu muôn vẻ, một số loài có thể tưởng tượng ra nhưng đa số chúng thì không thể tưởng tượng nổi. Chủng loại của chúng cũng dễ lên đến con số hàng chục triệu, trong phạm vi tầm nhìn của hai con mắt, nên dường như bạn không thể tìm thấy hai loài thực vật nào hoàn toàn giống nhau.



Cành lá của các cây cổ thụ đan cài vào nhau che kín vòm trời, có những thân cây cao đến tám chín mét, tán lá dày và rộng khiến bầu không khí trong khu rừng trở nên âm u khác thường. Từng lớp sương mù nhàn nhạt mịt mùng giăng mắc khắp nơi, thỉnh thoảng lại nhìn thấy những con mãng xà khổng lồ ẩn mình trong cây cổ thụ chờ săn mồi. Những loại rắn độc, côn trùng độc, chẳng rõ tên gọi quanh quất suốt cả dải rừng. Cá sấu cũng luôn bất thình lình xuất hiện trong bụi rậm um tùm hoặc bên bờ sông. Ở dưới nước, từng đàn nòng nọc thân hình to lớn dị thường bơi lội nhung nhúc thành từng bầy từng đàn, chẳng rõ sau khi biến thành ếch, bọn chúng phải lớn đến cỡ nào. Hội Tư Mã Khôi từng lăn lộn nhiều năm ở chốn sa trường, tinh thần cũng chẳng phải hạng vừa, vậy mà khi ngụp lặn giữa không gian tự nhiên xanh thẫm này, thì trong lòng ai nấy đều không tránh khỏi cảm giác rợn tóc gáy.



Bốn người luôn đề cao tinh thần cảnh giác, chẳng phút nào dám lơ là. Họ vừa đi vừa cố gắng né tránh mọi hiểm nguy có khả năng gặp phải. Có điều, mọi vật trước mắt dường như đều được nhuộm kín bởi một màu xanh quái dị, làm đầu óc họ cũng bị nhiễu loạn, mơ hồ theo. Nhìn rừng cây cổ thụ kềnh càng đan cài xoắn xuýt vào nhau, người ta rất dễ nảy sinh cảm giác bàng hoàng như vừa choàng tỉnh khỏi cơn u mê, rồi bất chợt cảm nhận một cách rõ ràng và sâu sắc, về sự khác biệt to lớn giữa cái vĩnh hằng vô biên của tự nhiên bao la và cái ngắn ngủi mờ mịt của sinh mệnh con người. Sự cảm khái bất ngờ đến từ nơi sâu thẳm trong linh hồn này đã át chế cả chủ thể, nó khiến người ta cảm thấy ngộp thở, đầu óc cũng mụ mị đi ít nhiều. Cả hội đành phải liên tục dừng bước, cẩn thận xác định lại vị trí.



Theo kinh nghiệm từ trước đến nay của Tư Mã Khôi, nếu tiếp tục đi trong tình trạng này sẽ rất dễ bị lạc đường, có lẽ tìm một con suối hoặc một dòng chảy nhỏ nào đó làm vật tham chiếu thì sẽ tốt hơn. Khi bọn họ tiến sâu thêm một đoạn nữa thì chợt nhìn thấy một con suối rộng rãi khoáng đạt nằm sâu trong rừng rậm, bề ngang lên tới mấy mét, dòng nước chảy lững lờ, có vẻ rất êm ả, hiền hòa.



Dòng nước suối trong suốt đến tận đáy, có thể nhìn rõ những viên đá ngũ sắc tròn tròn nằm dưới đáy sâu. Cả con suối ánh lên vẻ mềm mại thướt tha như một dải lụa đào; lòng suối thoai thoải, từng vòng sóng nước lấp la lấp lánh như những vẩy lân tinh.




Tư Mã Khôi quan sát địa hình cạnh đó rồi nói: "Nơi nước nông sẽ tương đối an toàn, chúng ta cứ đi men theo con suối mà lên thượng nguồn, đợi khi cơn bão đến thì sẽ trèo lên chỗ cao hơn."



Đi trong rừng rậm, không khí ẩm ướt nóng bức suốt cả thời gian dài, đã khiến vết thương trên vai anh cứ ngâm ngẩm đau, nhìn lại thì thấy nó đã tấy mủ và bốc mùi hôi, nhưng giờ đây lại chẳng có thuốc men gì, nên cho dù nó có nát mủn ra thì cũng đành mặc kệ. Nhìn thấy dòng nước suối trong lành, mát lạnh, anh bèn đi đến đó, định bụng sẽ tháo vết thương ra rửa cho sạch sẽ.



Nhưng anh chưa kịp đến gần con suối thì Karaweik đột nhiên nhào tới, ôm cứng lấy thắt lưng anh, rồi xông ra trước mặt, cố sức lắc đầu, trên mặt còn đọng nguyên vẹn thần sắc sợ hãi kinh hoàng, miệng không ngừng "líu ríu" điều gì nghe không rõ.



La Đại Hải tóm lấy Karaweik như tóm một chú khỉ rồi giằng cậu ta ra khỏi người Tư Mã Khôi. Anh lớn giọng quát mắng: "Chủ Nhật! Làm gì mà la hét nhặng xị lên thế hử? Anh thấy chú mày đi theo chỉ tổ làm vướng chân vướng cẳng bọn anh mà thôi. Nhân lúc còn chưa muộn, hãy mau quay đầu mà trở về. Nói không chừng, bọn lính nhìn thấy chú mày còn ít tuổi, ngay cả lông trên người còn chưa mọc hết, chúng sẽ coi chú mày như quả rắm, đánh một cái là xong đấy."



Tuyệt đứng bên cạnh nhìn thấy phản ứng của Karaweik, trong lòng thầm nghi chắc có chuyện gì đó không lành, cô vội vàng ngăn Hải ngọng lại rồi dùng tiếng thổ ngữ hỏi Karaweik sự tình, hai người trao đổi một hồi. Tuyệt nghe xong, dường như cảm thấy rất khó lý giải, nhưng cô vẫn nói lại với Tư Mã Khôi và La Đại Hải: "Chủ Nhật nói, trong núi Dã Nhân có ma nước, người nào uống phải nước ở đây đều không sống nổi."



La Đại Hải cho rằng chắc ý của Karaweik là trong nước có độc, nghe xong bèn chẳng buồn để tâm, quay ra nói: "Toàn nói linh tinh, không nhìn thấy cá đang bơi dưới nước mà vẫn sống ngoe nguẩy kia sao?"



Trái với La Đại Hải, Tư Mã Khôi cũng có vài phần tin lời Karaweik, bởi anh từng học được rất nhiều bản lĩnh từ "Văn Võ tiên sinh", ngoại trừ các bí kíp lục lâm ra, còn có bộ "Kim điển mật truyền", tục gọi là "Kim bất hoán", mà từ đầu chí cuối đều học bằng khẩu quyết, do sư phụ truyền miệng lại cho học trò, còn học trò phải nhập tâm ghi nhớ, tuyệt đối không được chép ra giấy dù chỉ một chữ. "Kim bất hoán" chia ra làm ba chương, lần lượt là "Thiên, địa, nhân". Thiên, tức chỉ bát quái trong Tiên thiên tốc chưởng, địa là địa lý sông núi, nhân là mọi sự tương tác giữa vật và vật.



Những điều này đều là gốc rễ khởi nghiệp của tổ tiên họ Trương để lại, nội dung vô cùng thâm thúy ảo diệu, có phạm vi bao hàm rất rộng lớn, còn được người đời ca tụng là thiên hạ độc môn. Vì chịu ảnh hưởng từ di huấn của dòng họ: "Thà mất mạng cũng không để lộ nửa chữ vàng" nên từ trước đến nay bí kíp này chỉ truyền thụ cho con trai chứ không truyền thụ cho con gái, chỉ truyền cho người trong gia tộc chứ không truyền cho người ngoài. Câu cuối cùng trong bộ khẩu quyết đã khái quát tất cả tinh hoa chủ yếu của toàn tập: "Phải nhìn điểm đầu mà suy đoán điểm cuối, gặp một việc mà hiểu ba việc, lấy nhất biến ứng vạn biến, biết giới hạn chừng mực mà dừng lại, am hiểu thông tỏ mọi trò trên đời, như vậy có thể mặc sức tung hoành, thần quỷ khó lường, lừng danh bốn bể". Do vậy, người ta có thể từ một chi tiết nhỏ mà suy đoán toàn bộ chân tướng sự việc.



Năm đó, khi Tư Mã Khôi được truyền thụ bí pháp "Kim điển mật truyền" thì tuổi hãy còn nhỏ, khó lòng lĩnh hội hết cái ảo diệu ẩn chứa bên trong, mà chỉ gắng học vẹt để cố khắc vào não. Mãi cho đến khi anh gặp được Triệu Lão Biệt nơi Hắc Ốc hoang phế, thì mới biết bí thuật cổ xưa có cội nguồn từ rất lâu đời này quả thực là rất hữu dụng, từ đó mới dần dần bắt đầu mày mò nghiên cứu. Hơn nữa, mấy năm trở lại đây, Tư Mã Khôi cũng chứng kiến rất nhiều chuyện vượt ngoài sức tưởng tượng ở Miến Điện. Mảnh đất hoang vu, vắng vẻ này bị yểm rất nhiều loại tà pháp như phù chú, bùa ngải hại người, bởi thế thường xảy ra những hiện tượng thần bí khó có thể dùng lý lẽ thông thường để giải thích.



Có câu: "Cây có gốc, suối có nguồn", ở nơi đầm rộng núi sâu này, tất phải tồn tại rất nhiều quái thú, Tư Mã Khôi nghe Karaweik - một người bản địa nói, nước ở trong núi Dã Nhân không được uống, liền lập tức liên tưởng đến thời khắc tan rã của đội quân du kích. Khi đó, hầu hết mọi người thà tự chĩa họng súng vào đầu cũng không dám đến gần khu rừng rậm nguyên sinh nửa bước, thì bên trong chắc hẳn phải có nguyên nhân của nó, chỉ sợ nguyên nhân đó không chỉ đơn thuần dừng lại ở vấn đề "nguồn nước", nhưng rốt cục cội nguồn gốc rễ của nó là gì thì chẳng ai được rõ. Tư Mã Khôi không hiểu nhiều lắm về núi Dã Nhân bèn nhờ Tuyệt hỏi kỹ Karaweik, bảo cậu ta kể lại thật cụ thể chi tiết.



Nhưng hỏi ra mới hay, ngay cả Karaweik cũng ù ù cạc cạc, chỉ nghe người Bắc Miến tương truyền từ xưa rằng cánh rừng bí ẩn trong lòng núi sâu có sương mù bủa vây, đó là vùng đất vô cùng nguy hiểm, có đi mà không có về, nó khiến những người bỏ mạng ở đây đã không thể đầu thai luân hồi, lại không được trở thành Phật, thậm chí còn chẳng thể xuống nổi âm tào địa phủ, cái đợi chờ họ chỉ có hư vô vĩnh hằng.




Hàng trăm dòng nước chảy qua hoặc khởi nguồn từ núi Dã Nhân, cuối cùng đều đổ về vùng đầm lầy rộng lớn, cho dù nước ở đầm trong xanh đến đâu đi nữa, thì từ trước đến nay cũng chẳng có người nào dám uống. Bởi vì những con suối chảy ra từ khe núi từ hàng ngàn năm trước đã sớm bị thổ dân yểm bùa, nên ai chạm vào chắc chắn sẽ bỏ mạng bất thình lình, hơn nữa sau khi chết đi, hồn phách cũng không được siêu thoát. Chỉ có nước sương đêm còn đọng lại vào buổi sáng sớm, hoặc nước tù trong hồ nước mới được phép uống.



Tư Mã Khôi cảm thấy thà tin là chuyện đó có thật mà tránh đi cho lành còn hơn không tin, vì giờ đây chỉ còn cách thật cẩn trọng họ mới mong sống lâu thêm vài giờ. Nghĩ vậy, anh bèn vỗ vỗ vào vai Karaweik tỏ ý đã hiểu ý cậu ta. Xem ra núi Dã Nhân quả đúng là chốn hung hiểm, ngoài khí hậu khắc nghiệt sắp sửa giáng xuống đầu ra thì ngay cả khe suối bờ sông cũng không thể đến gần được nữa.



Kế sách duy nhất lúc này là phải đi ở nơi cao, không thể đi ở chỗ thấp, bởi vậy cả đoàn đành tìm đường lên trên các mỏm núi. Tư Mã Khôi vác súng trường, đang chuẩn bị đứng dậy khởi hành thì lại bị Karaweik níu lại, cậu chỉ tay vào một khe núi ở bên cạnh, miệng nói liên thanh như súng bắn, dường như muốn bảo Tư Mã Khôi nên đi theo hướng ấy.



Miền bắc Miến Điện có một câu truyền miệng đại ý là "Trong quân đội nhân dân không có nhân dân". Sự thực quả đúng như vậy, đội ngũ tác chiến quân đội nhân dân Miến Điện thực ra chẳng có mấy người gốc Miến Điện mà phần đông đều là người Trung Quốc. Điều này nói ra cũng khá kỳ lạ, tuy nhiên vẫn có một số người bản địa gốc. Tư Mã Khôi sống cùng những chiến hữu Miến Điện trong đội du kích lâu ngày, ít nhiều cũng hiểu được một vài câu thổ ngữ và tiếng Anh thông dụng nhất.



Lúc nãy dường như nghe thấy Karaweik nhắc đến "con đường" gì đó, đầu óc anh tự nhiên quay mòng khó hiểu: "Này Chủ Nhật! Chú mày nói trong khe núi có đường hả? Không phải đang nói nhăng cuội đấy chứ? Nơi rừng già núi sâu hiếm dấu chân người qua lại đào đâu ra đường mà đi?"



Tuyệt dịch lại cho Tư Mã Khôi: "Ý của Chủ Nhật muốn nói... trong khe núi đằng kia có một con đường tên là: đường U Linh."



Thông tin này khiến ba người đều cảm thấy rất đỗi mơ hồ, đường U Linh nghĩa là gì? Nó là con đường cho người đi hay a đi?



Khả năng biểu đạt của Karaweik rất kém, không thể giải thích rõ ý nghĩ của mình. Cậu vò đầu bứt tai liên tục, rồi dường như chợt nhớ ra điều gì, cậu bèn dốc ngược túi xách, lật tìm một hồi lâu, cuối cùng cũng lôi được một cuốn nhật ký rách nát, đưa cho hội Tư Mã Khôi xem.



Tư Mã Khôi đón lấy cuốn sách, cảm thấy hình như trong cuốn nhật ký có kẹp một vật gì đó, anh liền lật ra xem thì thấy một chiếc cầu vai của bộ quân phục, trên đó thêu hình một chiếc đầu hổ, nền màu xanh thẫm, như để tượng trưng cho rừng rậm nhiệt đới, bên dưới có mấy hàng chữ cái tiếng Anh, nhưng đã bị sờn rách từ lâu, khó có thể phân biệt đó là chữ gì. Dưới chiếc huy hiệu còn kẹp một bức ảnh đen trắng đã ngả vàng, hình ảnh không rõ nét, có lẽ là bức ảnh chụp tập thể của cả doanh trại bộ đội hơn mấy trăm người. Do số người quá đông nên trông toàn cảnh chi chít, không nhìn rõ được từng chi tiết cụ thể.



Giở mấy trang tiếp, đọc nội dung được ghi chép bên trong cuốn nhật ký, không ngờ văn tự toàn bộ lại là chữ Hán, Tư Mã Khôi chỉ giở vài trang, càng đọc trong lòng càng cảm thấy kinh ngạc. Cùng lúc đó, anh cũng suy đoán được câu chuyện mà Karaweik muốn nói: Ở góc ngọn núi hoang vu hiểm yếu nhất của núi Dã Nhân, quả thực tồn tại một con đường vừa ẩn khuất vừa thần bí, tên là U Linh. Con đường đó vốn có tên là Stilwell, được bộ đội công binh hai nước Trung - Mỹ liên kết xây dựng nên trong thời kỳ thế chiến thứ hai. Cuốn nhật ký cũng nhắc đến dải khu vực có liên quan đến đường U Linh, với rất nhiều sự kiện đặc biệt thần bí khác.


 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,332
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: hồi thứ tư: a - b


Mê Tông Chi Quốc I - Chăm Pa Ẩn Sương



Hồi thứ tư: A - B



Thỉnh thoảng Tư Mã Khôi lại có suy nghĩ: "Vận may, cái thứ ấy đôi lúc lại có vài phần giống với tính cách con gái, bạn càng muốn có cô ấy thì cô ấy lại càng tránh xa bạn, đến khi bạn chẳng còn ôm chút vọng tưởng nào nữa, thì cô ấy lại tự mình mò đến tìm".



Tình thế bây giờ vừa vặn ứng với suy nghĩ ấy, sau khi đội du kích cộng sản Miến Điện tan rã, những kẻ sống sót trong hội Tư Mã Khôi quyết định mạo hiểm xuyên qua núi Dã Nhân trở về Trung Quốc. Tuy biết chắc rằng con đường họ đang đi là con đường tử thần không có chút cơ may sống sót, nhưng họ vẫn không thể không gắng hết sức tiến lên phía trước. Đúng lúc gần như mọi hy vọng đều bị dập tắt thì Karaweik lại chỉ ra một "con đường quân sự" bí ẩn dị thường.



Tư Mã Khôi biết việc này liên quan rất hệ trọng đến nhiều việc khác nên không dám nhẹ dạ tin ngay, mà nhờ Tuyệt hỏi lại Karaweik xem cuốn nhật ký và chiếc cầu vai hình đầu hổ xuất xứ từ đâu, còn anh và La Đại Hải cắm cúi đọc tiếp cuốn nhật ký để xem có thể tìm thấy đáp án từ đó không.



Khoảng hơn nửa tiếng sau, Tư Mã Khôi cuối cùng cũng hiểu rõ mọi mạch nguồn sự việc. Thì ra trong lòng núi Dã Nhân che giấu một con đường chiến lược. Các tư liệu lịch sử gọi nó là đường Stilwell.




Con đường Stilwell kéo dài từ vùng Đông Bắc Ấn Độ ngang qua Miến Điện tới tận vùng Tây Nam Trung Quốc. Con đường được Mỹ và Trung Quốc hợp tác xây dựng từ thế chiến thứ II, có tổng chiều dài 1.726 km. Đây là con đường xuyên rừng, băng qua nhiều núi trong dãy Himalaya và hơn 100 con sông. Hầu hết các đoạn đường đều bị rừng che phủ và không thể sử dụng được. Con đường này đã được các lực lượng Anh và Mỹ sử dụng nhằm cung cấp vũ khí, quân binh cho Trung Quốc để chống lại Nhật Bản trong đại chiến II. Con đường cũng đã được Tưởng Giới Thạch đặt theo tên của nhà chỉ huy quân sự Mỹ tại Trung Quốc thời thế chiến thứ II: Joseph Warren Stilwell.



Đây là khu vực có địa hình gồ ghề, khúc khuỷu và phức tạp nhất trên trái đất. Lớp vỏ địa cầu dường như đến đây thì đột nhiên đội lên vô số nếp gấp, một số nơi có độ cao chênh lệch lên tới ba bốn ngàn mét.



Năm đó có một bức ảnh thời sự chiến tranh nổi tiếng khắp thế giới, tấm hình chụp cảnh một đoàn xe tải Mỹ nối đuôi nhau chạy chầm chậm loanh quanh con đường núi ngoằn ngoèo. Con đường đó nhỏ hẹp dị thường, nhưng chỉ trong khoảng cách vài cây số ngắn ngủi, đã liên tiếp xuất hiện mấy chục đoạn cua gấp, còn một bức khác thì không nhìn thấy đoàn xe tải, mà chỉ thấy con đường núi quanh co, lượn vòng. Hai bức ảnh đó đều có chung một phông nền - đó là đoạn đường lừng danh có tên: "Con đường hai mươi bốn khúc cua", nó chính là một phần của tuyến đường Stilwell.



Khi tiến hành xây dựng con đường này, chiến tranh đang bước vào giai đoạn ác liệt. Máy bay vận tải của không quân Mỹ viện trợ cho Trung Quốc, liên tục đi đi về về phía trên những đỉnh núi nhấp nhô, nhưng do khi đó máy bay đa phần là loại nhỏ, thêm vào đó điều kiện phi hành trên khu vực này vô cùng khắc nghiệt, nên thường xuyên xảy ra tình trạng máy bay rơi tan xác, tổn thất về người và của quả không thể tính đếm. Nếu chỉ dựa vào đường hàng không thì khó lòng có thể viện trợ một cách đầy đủ cho nhu cầu vật chất ngày một phình to khổng lồ của cả chiến trường Trung Quốc, bởi vậy phía quân đội quyết định mở con đường đi xuyên qua khu rừng nguyên sinh này.



Miến Điện lúc đó đang bị quân Nhật chiếm đóng, bộ đội công binh Trung Quốc và Mỹ đã phải trả giá rất đắt để xây dựng con đường này. Họ đào núi thông đường, bắc cầu qua sông. Trong lúc xây dựng cầu đường, cuộc chiến tranh với quân Nhật vẫn diễn ra ngày một khốc liệt hơn, mỗi một mét đường đều được đắp bởi sự hi sinh của bao mạng người. Có thể nói, người ta đã dùng tính mạng quý báu của không biết bao nhiêu quân nhân để đổi lấy con đường khúc khuỷu gồ ghề đó.



Điều hiển nhiên mà ai cũng biết là, con đường Stilwell không phải tuyến đường duy nhất, ngoài hai trục đường chủ đạo, mà lúc đó gọi là "trục bắc" và "trục nam" ra thì ở giữa còn có rất nhiều đường nhánh, nguyên nhân chính là do kết cấu địa chất ở đây quá phức tạp, môi trường tự nhiên vô cùng khắc nghiệt, khiến con đường đang xây dựng dở dang thì bị bỏ dở và chuyển sang nơi khác. Vì vậy, men theo con đường Stilwell ngoằn ngoèo như rắn lượn cũng xuất hiện rất nhiều đoạn đường rẽ ngang bị bỏ hoang phế.



Tuyến đường bị bỏ hoang dài nhất trong đó nằm trong lòng núi Dã Nhân, thuộc miền bắc Miến Điện. Năm đó, bộ đội công binh hai nước Trung - Mỹ đã tìm thấy một con đường xưa cũ hoang tàn, có từ thời kỳ chiến tranh giữa Anh và Miến Điện còn để lại trong cánh rừng bí ẩn nơi núi sâu.



Từ những năm chủ nghĩa thực dân bành trướng ở phương Tây, người Pháp đặt hệ thống cai trị của mình dọc suốt ba nước Việt Nam, Campuchia, Lào và gọi chung là Đông Dương. Miến Điện lúc bấy giờ là thuộc địa của thực dân Anh. Trong cánh rừng nguyên sinh giữa lòng sơn cốc có một dải đất từ đầu chí cuối không thuộc địa phận của bất kỳ quốc gia nào, nên hai nước Anh, Pháp đều đã bỏ rất nhiều công sức và tiền bạc để xây dựng các tuyến đường bộ và đường sắt, với ý đồ mưu chiếm khu vực này về tay mình. Nhưng những khó khăn và nguy hiểm mà họ gặp phải ở núi Dã Nhân quả thực đã vượt xa khỏi sức tưởng tượng của họ. Rất nhiều người phải bỏ mạng nơi đây, bởi vậy cuối cùng công trình đã không thể hoàn thành.



N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Tuy vậy, những sự việc khủng khiếp mà mỗi bên gặp phải trong núi Dã Nhân từ trước đến nay đều được giữ bí mật, chẳng bên nào dám tiết lộ công khai.



Trong một ngôi chùa ở Miến Điện còn cất giấu một tấm bản đồ cổ với lai lịch bất minh. Tấm bản đồ mô tả về "Tượng Môn" của núi Dã Nhân. Địa danh có tên Tượng Môn ấy kỳ thực là một sơn cốc rất sâu. Môi trường tự nhiên trong cốc âm u, ẩm ướt, vô cùng thích hợp để các loài mãng xà khổng lồ ở Miến Điện ẩn thân. Nghe nói, sơn cốc chính là lãnh địa vùi xương của đàn voi rừng. Tuy rằng di tích thời xưa đã sớm tiêu tan không còn dấu vết, nhưng khi xây dựng con đường Stilwell, quân đội công binh Mỹ đã tham khảo bức bản đồ cổ, rồi căn cứ vào địa hình của dãy núi để sửa chữa con đường thành hình quanh co lượn sóng, đồng thời hi vọng có thể tận dụng đoạn đường bị bỏ phế mà quân Anh để lại. Như vậy, họ vừa có thể tiết kiệm được rất nhiều công sức, vừa có thể làm đường đi xuyên qua lòng núi. Tuy nhiên, cuối cùng sự việc lại không như mong muốn, nên đoạn đường chìm lặng nơi góc chết khu vực miền núi Bắc Miến này dần dần bị người đời cho vào quên lãng, và trở thành "Con đường U Linh" hữu danh vô thực, vất vưởng bao linh hồn oan khuất. Từ đó trở đi, chẳng ai biết đích xác vị trí của nó nữa.



Khi đó, để nhanh chóng đạt được hiệp ước hành động quân sự song phương giữa Trung Quốc và Mỹ, quân đội Trung Quốc đã điều động rất nhiều sĩ quan quân đội biết tiếng Anh, từng được huấn luyện qua lớp đào tạo sĩ quan Mỹ ở Ấn Độ, gia nhập quân đội Mỹ. Trong số đó có thiếu úy Từ, tên đầy đủ là Từ Bình An, ông được đặc phái đến "Quân đoàn công trình tác chiến độc lập thứ sáu của quân đội Mỹ", đồng thời theo binh đoàn này gánh vác trọng trách cực kỳ gian khổ, đó là xây dựng cầu đường ở núi Dã Nhân. Trong một lần chiến đấu với quân Nhật, ông không may bị thương nặng, cả gương mặt cháy bỏng nghiêm trọng, dung nhan bị hủy hoại hoàn toàn, trên thân thể cũng để lại những di chứng tàn phế. Sau khi lành vết thương, ông không muốn trở về tổ quốc mà chọn cách lưu lại Bắc Miến, lấy một cô gái bản địa làm vợ.



Từ Bình An chính là cố nội của Karaweik, ông đã ghi chép tất cả những điều mắt thấy tai nghe ở núi Dã Nhân vào cuốn sổ nhật ký. Có điều, ông từ giã cõi đời khá sớm nên hậu duệ đều nhập gia tùy tục, hơn nữa họ lại được sinh ra và lớn lên trong núi sâu nên tuy là Hoa kiều, nhưng chẳng ai biết nói tiếng Trung Quốc cả.




Vì Karaweik là Hoa kiều, hơn nữa lại từng được Hạ Thiết Đông cứu mạng, nên cậu luôn tỏ ra gần gũi với người Trung Quốc trong đội du kích cộng sản Miến Điện, và thường cảm thấy bản thân như có quan hệ họ hàng với những người này. Tuy cậu không hiểu hội ba người Tư Mã Khôi đang bàn bạc vấn đề gì, nhưng không khó nhận ra những người này đang muốn tiến vào núi Dã Nhân - nơi hiểm trở không gì sánh nổi.



Ở Miến Điện có một loại hương liệu rất đặc biệt, đó là những rễ cây cổ thụ được đào trong rừng, sau đó đem đốt thành than rồi nghiền vụn mà thành. Núi Dã Nhân có rất nhiều cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi, ông Từ Bình An lại rất thông thạo địa hình của dải núi, hơn thế nữa còn nắm rõ tình hình phân bố từng đoạn đường, bởi vậy ông thường vào núi đào rễ cây chế thành hương liệu, hoặc hái thuốc nơi núi cao vực thẳm, để duy trì cuộc sống hàng ngày.



Karaweik từng được người nhà nhiều lần dẫn vào núi hái thuốc, nên cũng khá quen đường. Tuy qua nhiều năm, con đường vận tải quân dụng được xây dựng ngày xưa đã sớm bị bùn đất và thảm thực vật che lấp, lại có những đoạn dài bị chôn vùi do lở núi, nhưng ngoài Karaweik ra thì những người còn lại khó có thể tìm thấy dấu vết con đường cũ bị che khuất dưới lòng đất.



Ghi chép của ông Từ Bình An tuy không vẽ bản đồ, nhưng thông qua con chữ, ông đã mô tả địa hình núi Dã Nhân rất chi tiết. Dải núi này chiều đông tây khá rộng nhưng chiều nam bắc lại rất hẹp, địa thế từ tây bắc thấp dần xuống đông nam. Địa hình của nó vô cùng gồ ghề, phức tạp, thực vật rậm rạp, um tùm, dưới lòng đất có vô số huyệt động rỗng, sương mù dày đặc, tích tụ từ năm này qua năm khác, chẳng bao giờ tiêu tan. Con đường Stilwell từ nam chí bắc, chạy quanh co khúc khuỷu đến núi Dã Nhân thì chẽ ra thành hình chữ Y, ở giữa là ngã ba, bên phải đánh dấu là tuyến đường 719A, bên trái là tuyến đường 206B, được quân Mỹ gọi chung bằng cái tên "Đường U Linh".



Tuyến đường A cuốn quanh dải đất men theo sườn phải của núi Dã Nhân, tuy đường dài và phải đi vòng vèo nhưng lại tương đối an toàn. Tuyến đường B tận dụng rất nhiều huyệt động tự nhiên, để đâm xuyên qua núi. Đó chính là con đường ngắn nhất tới biên giới Trung Quốc.



Nhưng khu vực mà tuyến đường B - con đường U Linh - đi qua lại là khu vực đáng sợ nhất trong cả dải núi Dã Nhân. Lúc xây dựng đường hầm này, người ta phát hiện hầu hết các khe đá huyệt động trong lòng núi Dã Nhân đều có màn sương dày đặc trắng xóa phun trào, những người vào trong trinh thám không một ai trở về. Con đường càng tiến vào sâu càng khiến nhiều thành viên của "Quân đoàn công trình tác chiến độc lập thứ sáu của quân đội Mỹ" mất tích, đến nay vẫn chẳng rõ tung tích.



Về việc sương mù xuất hiện dưới lòng đất, người ta đặt ra ba giả thuyết. Thời kỳ thực dân sơ khai, có một nhà thám hiểm người Anh từng nêu quan điểm: đây là "chướng khí". Ông ta suy đoán trong sương có chứa một chất kịch độc, chỉ cần hít vào là tim gan liền bị tê liệt, nhưng sau đó qua nhiều lần thử nghiệm, giả thuyết thứ nhất hoàn toàn bị loại trừ. Người ta lại đưa ra một cách giải thích khác: truyền thuyết kể rằng ở nơi sâu trong Tượng Môn có một con mãng xà khổng lồ màu đen cư ngụ, người bản địa gọi nó là "Trường xà", dân gian nhiều kẻ còn thờ phụng nó như thần tiên. Nó dài đến hàng mét, có thể phun sương nhả mây, chỉ cần người hoặc gia súc đi ngang gần đó lập tức bị nó hút thẳng vào bụng. Đồng thời, họ còn đồn đại nước suối chảy ra từ đám mây mù đó đều lọc qua hàng đống xương trắng chất cao như núi, trong đó còn ngấm cả dịch độc do mãng xà tiết ra, bởi vậy tuyệt đối không được uống.



Giả thuyết có mãng xà phun sương nhả mây dưới lòng đất được rất nhiều người tin là thật. Có điều, nếu hỏi đã ai tận mắt nhìn thấy chưa, thì tất cả đều lắc đầu quầy quậy, nhưng sau đó đều giơ tay thề với Phật tổ rằng quả thực có người từng nhìn thấy nó ở núi Dã Nhân. Nói đi nói lại, cuối cùng cũng khó lòng phân biệt nổi thực hư, vì vậy không thể kỳ vọng lấy được tin tức gì đó đáng giá từ miệng người bản địa.



Thậm chí, có người còn nói, các thổ dân thời cổ đại để bảo vệ bí mật được ẩn giấu trong núi Dã Nhân, đã yểm bùa vào nguồn nước, kẻ trúng tà rất khó giải cứu, gần như không còn đường sống.



Tóm lại, nhắc đến ngọn núi Dã Nhân, thực sự chỉ khiến người ta "không lạnh mà sởn gai ốc, nghe nói mà mặt biến sắc", nó dường như là con ác quỷ có thể nuốt chửng mọi sinh mệnh trên đời. Bao trùm lên tất cả các truyền thuyết ly kỳ là màn sương mù dày đặc vẫn giăng mắc khắp quần thể núi, trông mờ mờ ảo ảo đến quái dị, khiến người ta nhìn mà khiếp sợ, khó mà nắm bắt.



Tuyến đường B do quân đoàn bộ đội công binh Mỹ xây dựng, do gặp phải trở ngại quá lớn nên rốt cục đành đứt gánh giữa đường. Từ sườn tây núi Dã Nhân, họ lại quay về tuyến đường A. Tuy cuối cùng tuyến đường này không thể thông suốt nhưng vẫn có thể đi vòng qua núi Dã Nhân, song cũng phải mất mười mấy ngày.



Karaweik lo rằng hội Tư Mã Khôi có thể bị lạc đường trong rừng rậm nguyên sinh, rồi đi nhầm vào đám sương mù trong núi sâu mà dâng tặng cả tính mạng cho quỷ dữ. Hơn nữa, trong thời kỳ đại chiến thế giới thứ hai, quân Nhật từng dùng máy bay ném bom thả một lượng lớn bom đạn từ trên không xuống lòng núi, sau này mưa to gió lớn khiến đất đá và thảm thực vật che phủ phần địa bì bên trên, nên căn bản không thể nhìn thấy dấu vết của bom mìn. Karaweik từng theo cố nội vào núi nhiều lần, nên cậu biết rõ khu vực bom mìn dày đặc chi chít đó, vì thế mới nhất quyết đòi đi theo. Cậu muốn chỉ cho họ thấy tuyến đường A của con đường U Linh, rồi dẫn mọi người đến gần khu vực tam giác Bắc Miến, nơi đó cách biên giới Trung Quốc chẳng còn bao xa.




Tư Mã Khôi thấy cảm động trong lòng, thầm nghĩ: bao nhiêu năm cách biệt với tin tức nơi quê nhà, chỉ phong phanh nghe được vài thông tin vỉa hè, cũng chẳng rõ tình hình trong nước cụ thể ra sao nữa. Năm đó, mấy người bọn ta lẻn trốn khỏi tổ quốc, giờ lại trở về với tình cảnh của kẻ bại trận, chẳng có chút anh hùng khí khái nào, cũng không thể viện ra nổi bất kỳ lý do gì để biện hộ cho hành động năm xưa. Nếu như may mắn giữ được mạng sống trở về, nếu không bị quy vào tội danh hàng địch phản quốc thì cũng đã là kỳ tích không dám tham lam mơ tưởng rồi; chỉ e cho dù không bị xử bắn, thì cũng phải ngồi tù mọt gông. Còn về cái cậu Karaweik, nếu đưa vào Trung Quốc là bất hợp pháp, nên kết cục tốt nhất dành cho cậu bé đó là sau khi rời khỏi núi Dã Nhân, sẽ dẫn cậu đến một ngôi chùa, xuất gia làm hòa thượng rồi yên ổn sống hết kiếp này mà thôi. Thế nhưng anh cũng hiểu, nếu để Karaweik ở lại Miến Điện, chắc chắn cậu sẽ không tránh khỏi cảnh bị truy bắt và chỉ có con đường chết chờ đợi. Có điều kết cục này quá tàn khốc, anh quả thực không dám nghĩ đến.



Tuyệt thương xót sờ sờ vào cái đầu trọc lốc của Karaweik, giọng nghèn nghẹn: "Đứa bé này thật tốt bụng!" Cô vừa nói vừa trừng mắt nhìn La Đại Hải, như tỏ ý trách móc anh lúc đầu hay nổi cáu với Karaweik.



Hải ngọng cảm thấy hơi ngượng ngùng, anh thường đối xử với mọi người khá thiếu tế nhị, lại không giỏi thể hiện tình cảm thật. Thường ngày anh hay lắm lời, nhưng đến lúc cần phải nói thì lại chẳng nói được câu nào tử tế, đành phải giả bộ "quan tâm đến sự trưởng thành của đàn em", nói tía lia với Karaweik: "Không ngờ thằng giặc nhỏ này lại là Hoa kiều, hôm nay... mẹ kiếp! Cứ coi như La Đại Hải anh đây nợ chú một ân!"



Tư Mã Khôi hiểu rất rõ tuy La Đại Hải chỉ nói một câu đơn sơ như vậy, nhưng sâu bên trong chứa đựng ý chí sẵn sàng chết thay cho Karaweik một mạng. Có điều không hiểu sao, sau khi đứng bên cạnh nghe mấy lời này, trong lòng Tư Mã Khôi đột nhiên dội lên cảm giác sợ hãi khó tả, anh linh cảm chuyến đi này lành ít dữ nhiều. Anh cũng không hiểu nguyên nhân gì lại khiến mình có dự cảm xấu đến thế, nên thầm nghĩ hay là cứ ở lại trong rừng rậm nguyên sinh làm người rừng quách cho xong, về mà phải chết thì thà cứ trốn trong rừng sâu mai danh ẩn tích chẳng phải tốt hơn sao?



Nhưng Tuyệt và La Đại Hải lại một lòng nhớ cố hương, hai người họ cứ thúc giục Tư Mã Khôi mau lên đường, hiện giờ càng hướng về phía bắc càng an toàn, nếu không cơn bão nhiệt đới "Buddha" mà tới thì có muốn đi cũng chẳng thể đi nổi.



Tư Mã Khôi đành lấy lại tinh thần, đi theo ba người vào khe núi phía tây. Nếu tính theo đường chim bay thì khoảng cách trong rừng rậm núi sâu trông có vẻ khá gần nhưng do địa hình gồ ghề, độ cao chênh lệch rõ rệt, nên khi đi thì lại vô cùng xa xôi và gian nan. Họ vượt núi băng rừng, mải miết đi cho đến khi hoàng hôn buông xuống mà vẫn chưa đến được chân tuyến đường A của con đường U Linh.



Bên mình bốn người bọn họ chẳng còn chút lương thực nào. Đi nhiều giờ trong núi, bụng đói cồn cào, không thể chịu nổi, họ đành bắt hai con rắn cỏ chia nhau ăn tạm. Ăn được chút ít còn hơn phải chết đói. La Đại Hải vô tình ngẩng đầu lên nhìn, chợt phát hiện trong lùm cây cổ thụ có một con chim rừng chẳng biết thuộc họ gì. Con chim đó có bộ lông vũ xanh biếc, rất sặc sỡ, sống động, trông nó khá lớn, tiếng kêu nghe như tiếng người ta gõ tay vào ống trúc rỗng.



Các loài chim trong rừng rậm nguyên sinh nhiều không kể xiết, và đại bộ phận đều có hình dáng rất kỳ quái. Bọn chúng thường tỏ ra không sợ người, có lẽ từ trước đến nay chúng chưa từng nhìn thấy con người, nên cứ cho rằng loài người chẳng khác loài khỉ là mấy. Nhìn thấy có người đi qua, chúng cứ ngơ ngác đứng ngẩn tò te nhằm về phía người mà kêu quang quác.



Hải ngọng thầm nghĩ, chỗ này chắc đã vào rất sâu trong núi, cho dù tiếng súng có to hơn nữa thì cũng chẳng lo đánh động kẻ địch. Anh cố gắng nuốt ngụm nước bọt, giơ khẩu súng do Anh chế tạo, ngắm chuẩn mục tiêu, ba viên đạn tạo thành một đường thẳng. Tiếng súng vừa vang lên, tiếng chim rơi "bịch" từ cây cổ thụ xuống cũng vang lên một giây sau đó. Tiếng súng đồng thời cũng làm kinh động đến bầy chim cư ngụ trong khu rừng, chúng xáo xác lượn vòng giữa không trung và cất tiếng kêu thê thiết mãi một lúc lâu.



Karaweik và Tuyệt không thể chờ thêm liền chạy về phía trước để nhặt con mồi. La Đại Hải cũng đắc chí chạy theo, chỉ có Tư Mã Khôi bị thương khá nặng trên vai, đầu óc hỗn loạn, vác mỗi khẩu súng trường nặng chừng bảy tám cân mà đã cảm thấy bước đi không vững, nên đành tụt lại phía sau. Đột nhiên Tư Mã Khôi cảm thấy sau lưng có chút khác lạ, liền lập tức đề cao tinh thần cảnh giác theo phản xạ, đang định ngoái đầu lại nhìn xem rốt cục là cái gì, thì một khẩu súng lạnh như băng đã kề ngay sau gáy.


 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom