Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Việc bí mật ở Dannow vẫn làm sôi nổi dư luận.

Kẻ bị nạn, sau cuộc thẩm xét, đã được chôn cất và trên các báo đều đăng những bức ảnh chụp lúc tang lễ cử hành. Vào khoảng cuối tuần ấy, sự chú ý của mọi người lên đến độ cùng của sự nhiệt liệt: kể từ hồi lâu lắm đến nay, nhà thờ Dannow mới phải đóng cửa lần này là một. Vì ngôi mộ của cụ Warlockbị những người cướp nhặt kỷ vật làm hư hại, mà dưới đấy thì bừa bãi những mẫu thuốc lá, những mẩu diêm cháy dở, những mảnh giấy xé và các thứ vụn vặt khác làm chứng rằng bao nhiêu khách tò mò đã qua chốn này.

Về phần Swanhild, môi ngày nàng phải qua hai lần hồi hộp dữ là buổi sáng, từ lúc nàng ngủ dậy tới cái phút nàng trông thấy mặt anh, rồi đến lượt dự cuộc thôi miên nàng phấp phỏng sợ những điều báo thốt lên miệng Oliver do những câu Luna hỏi.

Nhưng tinh thần Oliver vẫn vững mạnh. Mà sáng nào lúc anh em gặp nhau, chàng vẫn không hề có gì khác lạ, và vẫn có một câu nói: “Này cô em, bao giờ tôi nhớ được các điều đã quên tôi sẽ bảo cho cô em biết, nhưng không phải hôm nay đâu!” Chỉ khi nào nghĩ đến cô Kate và lúc ra khỏi nhà bà Yorke và miss Bartendale là chàng rầu rầu mặt xuống. Ngoài ra, những giờ khác dùng để lục lọi khắp lâu đài Dannow để mong tìm thấy những giấy má quan hệ.

Trong phiên thôi miên ngày Thứ Năm, Luna khiến Oliver tập trung tư tưởng dồn cả vào thanh gươm cổ. Nàng có ý mong chàng nhớ được những chữ khắc trên cái mảnh vàng đã long mất, nàng đưa các bức ảnh chụp nhiều câu cổ tự cho chàng đọc, nhưng không ích gì.

Ngày Thư Sáu, Luna thiết lập cuộc thí nghiệm trong căn phòng bí mật. Nàng dần dà dẫn Oliver trở lại thời cụ Warlock và đưa cho chàng cái Bàn Tay Danh Vọng và thanh gươm. Hốt nhiên chàng nói đến cái miếng đồng đã long mất, chỉ rõ nó dài được bao nhiêu phân và lại biết được rằng nó cắt theo hình một chiếc lá. Luna không bàn thêm lời nào, nhưng đôi mắt nàng long lanh, lộ ra sự chăm chú ráo riết: Swanhild ngầm hiểu sau cái bề ngoài thản nhiên kia vẫn ẩn một ý chí mạnh tới bực nào. Người thiếu nữ đặt hết lòng tin cậy ở Luna: người thiếu nữ này đã tạo nên được chung quanh nàng một không khí vững lòng của công việc và của đời sinh hoạt yên lành. Vắng mặt Luna, nàng lại để tâm nhận thức sự khủng khiếp đè nặng xuống Dannow với những con cháu cuối cùng trong dòng họ.

Oliver lại không thế. Chàng được hưởng những giờ êm ái nhất trong đời mình. Mọi người gần gũi chàng đều tránh không đả động đến Kate, người thiếu nữ thiệt mạng, vả chăng để cả tâm trí vào tình yêu mới nhóm, không còn thì giờ đâu mà ân hận về việc kia. Còn về phần Gođard thì bao giờ chàng cũng vẫn giữ gìn, ngờ vực. Sự bình yên nhất thời kia, chàng xem ra không phải là điềm tốt: đó chẳng qua chỉ là như hồi lặng gió trước cơn phong ba thôi.

Ngày Thứ Bảy, từ sáng sớm Swanhild với Oliver đã đến Chelseạ Thấy Swanhild có vẻ sốt sắng nóng nảy. Luna hỏi:

- Việc gì thế, cô?

Swanhild liền lấy một chiếc phong bì hai mảnh giấy dầy, năm, tháng làm cho cũ nát và ố vàng. Nàng nói:

- Chúng tôi đã tìm được mấy mảnh này trong tập tường thuật của Culpeper đây.

Miss Bartenbdale cố dò dẫm mãi mới đọc nổi được những hàng chữ nhòa mất đến nửa phần:

“… rằng nhà Hammond là dòng giống những thần trùng hút máu, và nếu một người trong dòng họ ấy chết sớm thì linh hồn không lên trời cũng không xuống địa ngục, nhưng cứ sống mãi trong mồ một cách phi thường…”

Nàng nói tiếp:

- Mảnh giấy này quan trọng lắm đó, miss Hammond ạ.

Mảnh giấy thứ hai chỉ có một hàng chữ:

“Người bạn quý mến ngài, Nicholas Culpepar”.

- Cô tìm thấy giấy này ở đâu vậy?

- Trong lần đệm nhồi ở một cái ghế bành cũ. Mép giấy thòi ra ngoài một lỗ thủng.

Oliver cũng nói:

- Chúng tôi thấy ba cái ghế bành với một cái ghế dài, lần trong đó có nhét đầy những giấy má cũ như thế. Nhưng uổng quá! Mấy cái ghế lại xếp dưới một chỗ mái nhà bị nứt, thành thử một phần giấy má kia chỉ còn là một mớ nát bét. Lần chọn lọc đầu tiên, Gođard với được cái tên ký của Culpeper. Sau anh em tôi mới tìm thấy mảnh thứ hai.

Swanhild nói:

- Chúng tôi định sau phiên thôi miên sẽ tức khắc về nhà tìm nữa.

Nhưng Oliver ngắt lời:

- Không, có về thì Swan về một mình thôi. Vì tôi, tôi còn những công việc khác.

- Sao, những công việc khác?

- Phải lạ. Chắc cô Swan của tôi cũng chẳng lạ gì những lần thôi miên kia rất mệt nhọc cho những người hành sự chính yếu. Tôi tưởng được nửa ngày nghỉ ngơi giải trí hẳn là có ích cho miss Bartendale cũng như cho tôi. Bởi thế, tôi đã giữ trước hai chỗ xem buổi biểu diễn Chu-Chin-Chow buổi chiền nay rồi, (chàng ngoảnh lại nói với Luna) vì cô vẫn ưa xem loại đó. Tôi biết trước rằng có mời bà Yorke cũng chẳng đi vì bà còn phải đến chỗ hòa nhạc.

Luna giở sổ thời giờ hằng ngày ra coi. Bà Yorke thì lạnh nhạt đáp:

- Vâng, tôi nhớ ra rằng hôm qua ông đã hỏi thử tôi trước xem rồi tôi có được rảnh không…

Chàng dịu mắt nhìn bà ta và mỉm cười một nụ cười đon đả. Bà Yorke cố giữ nét mặt nhìn cô cháu gái và thấy nàng cúi đầu hoài. Swanhild thì có vẻ bực dọc:

- Thế nào? Anh đã lấy vé giữ chỗ đặt trước rồi ư?

- Phải, anh gọi điện thoại giữ trước rồi. Này Swan ạ, em thử nghĩ lại xem mới được chứ. Chẳng lẽ em cứ coi sóc anh được suốt đời hay sao! Đành rằng, em làm thế để giữ gìn cho anh, nhưng chán rồi anh cũng phải lấy làm khó chịu chớ. Vả lại đã có miss Bartendale đi với anh thì còn lo gì, rồi đến chiều miss Bartendale sẽ đưa anh ra ga Victoria để về chuyến xe lửa sáu giờ rưỡi kia mà. (Chàng nói thêm). Ấy là còn phải xem miss Bartendale có nhận lời mời không đã.

Luna nói:

- Xin vui lòng.

Bà Yorke có vẻ ngạc nhiên và không bằng lòng. Còn Swanhild thì không nói gì hết. Nàng đã quen thấy bọn đàn ông trong gia đình nàng làm gì cũng theo ý muốn của họ.

Buổi thôi miên ấy kết thúc nhanh chóng. Oliver nói lại lần nữa hình thế đồng rơi mất và cho biết thêm rằng những cổ tự xếp thành một hàng cong queo.

Swanhild trở về Dannow có một mình.

Chiều tối, sau khi tan buổi hát, Luna thấy một bức thư của Dublin đợi nàng ở nhà.

Bà Yorke hỏi:

- Sao cháu lại nhận lời đi với ông Hammond thế?

- Cháu không muốn tỏ ra xa tránh ông ta.

- Cháu xa tránh mới phải. Cái người trẻ tuổi ấy tuy bề ngoài cương quyết, nhưng thực ra là hạng người làm thêm bi đát những chuyện thông thường.

- Cháu biết rồi. Ông ta rất lấy làm buồn cho cái chết của cô Kate; cái chết ấy vẫn ám ảnh mãi phần tiềm thức của ông ta đó.

Trong thoáng giây lát, nàng tưởng lại bao nhiêu việc ban chiều: chiếc xe hơi đưa hai người qua khắp thành phố mịt mù, đôi mắt anh chàng sáng lên trong khi nói những câu gần như cảm tạ con quái vật đã khiến hai người gần nhau, rồi vẻ mặt buồn tối vì lòng thương hại của chàng, vì sự kinh tởm và vì hối hận nữa. Chàng luôn luôn nhắc lại:

- Ồ! Giá không có cô Kate trong việc này…

Bà Yorke không nương nhẹ, bảo Luna:

- Rồi thế nào một ngày kia cháu cũng phải cho ông ta biết sự thực mới được.

- Cháu sẽ nói ngay khi nào thấy những buổi thôi miên không cho cháu biết thêm điều gì nữa.

- Mà, dễ thường cô tưởng tôi không biết ý anh chàng vẫn ưa tránh mọi người để trò chuyện với cô đấy hẳn? Cô tưởng miss Hammond không có mắt hay sao? Cô nghĩ đến người anh thế nào thì cũng phải nghĩ đến cô em như thế chứ!

Luna:

- Thế này này! Các báo hôm nay đã tìm được một vụ án mạng ghê gớm để đăng, nhờ thế ta khỏi bị quấy rầy được trong ít bữa. Cháu muốn nhân cơ hội ấy làm nốt công việc tra cứu ngay từ ngày mai, là ngày chủ nhật.

- Luna!

- Cháu sẽ đánh điện cho khách hàng của cháu đừng đến London nữa và tìm sẵn một bọn thợ đào đất để giúp việc ngày thứ Hai. Là vì cháu định tâm đào tìm cái GÒ Thunder Barrow và lại muốn có mặt ở đó để xem từ lúc đào mảng thứ nhất. Cô cùng đi với cháu nhé. Mấy người kia thường vẫn nài cháu mời cho được cô cùng đến Dannow. (Thấy bà Yorke ngạc nhiên, nàng vội tiếp). Không! Không phải là một ý định bất thình lình đâu. Nhà bác học ở Dulbin cháu nhờ xem đã dò được nghĩa những lời cổ tự: cháu tin chắc rằng dưới cái Gò Sét thế nào cũng có gửi một manh mối quan trọng lạ lùng, kia.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Sáng thứ Hai, bà Yorke, Luna và con chó Roska đi chuyến xe lửa thứ nhất tới ga Hassocks. Oliver với Swanhild đã ở đó đón hai người. Bà Yorke hỏi:

- Cháu tôi báo tin cho ông với miss Hammond biết trước rồi chứ? Luna tính ra công việc tìm đào cũng phải mất ít ra cả một ngày: cô cháu tôi cứ sợ làm phiền cho anh em ông.

Oliver quả quyết nói:

- Nếu tìm xét cẩn thận thì hết ngày cũng chưa xong được. Gođard thì đang xem tiếp những giấy má cổ ở nhà. (Chàng lại nói với Luna). Cái ý định đào Gò Sét thực bất ngờ, miss Bartendale nhỉ.

Nàng đáp:

- Là vì tôi muốn thừa dịp tốt chứ có gì đâu.

Trong mấy ngày vừa qua, tuyết đã rơi lác đác, rồi đến hồi mứa đá, sau cùng thì đổ thành trận tọ Sáng hôm đó tiết trời lại êm và hơi ẩm. Một màn sương mù mỏng nhẹ trùm phủ dưới lòng thung lũng và lướt bay bên cạnh chiếc xe hơi, xé tơi qua các cành cây trụi lá và điểm thêm vẻ đẹp huyền bí cho con đường về.

Sanhild cầm lái, Oliver ngồi đằng sau với bà Yorke, chốc chốc lại đưa mình về phía trước để góp chuyện, vì Luna ngồi ngay cạnh em gái chàng. Bà Yorke thì thản nhiên: bà chú ý đến lời bàn bạc của mấy người kia chỉ là giữ lễ độ.

Miss Bartendale hỏi:

- Ông có tìm được thêm đoạn nào trong tập thư của Culpeper không?

- Có. Nhưng những đoạn ấy gần bị hư hỏng vì nhiều lần thí nghiệm hóa học. Gođard đem cả về nhà để tìm cách cố dò xem. Anh ấy tài lắm kia.

- Ở đây bọn tò mò có đến nhiều không?

Oliver:

- Hừm! Ngày hôm qua là ngày đáng ghét lạ! Họ tổ chức thành một đoàn từ Brigton đến, nhà chúng tôi bị những người ồn ào nhất xông vào. Cũng may, hôm nay xấu trời, ta không bị quấy rối nữa.

Luna đáp:

- Càng haỵ Người ngoài họ sẽ làm bận cho công việc của tạ Ta thử tìm xem những vật cụ Warlock chôn dưới Thunder s Barrow có những gì. (Nàng đưa mắt dò ý mọi người trong lúc nói). Theo tục Đan Mạch, vị tổ tiên nhà ông, tức là người con trai cụ Magnus Hammond, táng trong Gò kia cùng với phần lớn những đồ vật mà cụ không muốn rời bỏ. Bảy thế kỷ về sau, một người con trai nối dõi nhà cụ là Magnus Pháp sư rắp tâm muốn lấy lại những bảo vật đó. Cụ Pháp sư này bèn chế luyện Bàn Tay Danh Vọng rồi khai mộ tổ nhà mình lên và chiếm lấy những của xem ra có đôi chút giá trị. Tôi mong rằng cụ Pháp sư để sót lại trong đó cái vật quý nhất đối với tôi bây giờ, nghĩa là cái mảnh đồng khắc bản cổ tự thứ hai.

Oliver hỏi:

- Cô vịn vào những chứng cớ nào mà đoán những điều đó?

- Thoạt tiên tôi nhận thấy rằng Gò Thunder với Bàn tay có liên lạc với nhau từ hôm mà ông Gođard kể cho ta nghe câu chuyện con Bò Vàng với thằng quỷ canh giữ nó. Cụ Pháp sư là một thầy luyện thuốc trường sinh và tìm vàng bằng những lời thần chú: ông cụ chắc có thể dùng Bàn Tay kia trấn áp để làm tê liệt được thằng quỷ giữ của trong mồ.

Oliver:

- Cô đoán có lý lắm.

Swanhild:

- Tôi thì cứ vẫn tưởng Gò Thunder là thứ mộ phần thượng cổ dành riêng cho những vị Thầy Cả và có vị thần của họ là Con Người Quái dị coi giữ.

- Khoa học khảo cổ hễ không giải thích được điều gì thì lại đem gán cho các Thầy Cả ngày xưa. Nhưng ở đây, tên vị thần ta thấy rõ lắm. Thunder là biến thể của tiếng Thor. Vị tổ tiên nhà ông thời xưa là người chưa theo đạo Thiên Chúa, cụ thờ kính thần Thor, và Con Người quái dị là hình tượng của vị thần này, chính cụ Magnus Hammond.

- Hai bím tóc ấy, phải không?

- Phải đó. Ông tưởng đến một người đàn bà, chính những người Vikings (Bắc Hải khấu) ngày xưa để tóc dài và tết thành bím, còn cái dấu fylfot (chữ thập ngoặc) kia là biểu hiện của thần Thor.

Oliver chỉ kêu một tiếng:

- Trời!

Nhưng Swanhild còn vặn:

- Tôi vẫn chưa thấy liên lạc gì với tổ tiên nhà chúng tôi.

- Chậc! (Lời trách móc của Oliver). Thì em cứ để cho miss Bartendale nói nốt có được không?

Luna:

- Đây, tôi xin nói đến câu dịch nghĩa mà ông bác học ở Dulbin đã dò được ở những chữ cổ tự khắc vào dọc thanh gươm, câu ấy tôi mới nhận được hôm qua: “Tên ta là Helin Biter(#1) . Chủ nhân của ta là con trai Magnus Fairlocks”. Những chữ sau vì mòn quá không thể nào đọc được. Tôi mong rằng những chữ khắc trên mảnh đồng chôn dưới mộ đọc được rõ hơn.

Oliver lộ ra hết lòng khen phục Luna, Swanhild lại hỏi:

- Nhưng cô có tin chắc rằng những chữ kia có giá trị và quan trọng thực không?

- Tôi tin chắc thế, vì đến đời ông anh cô đây mà vẫn nhớ đến kia mà!

Bấy giờ xe hơi đang nhằm nẻo Thuder s Barrow mà tiến. Trên đồi cao, gió thổi mạnh, cảnh vật quang đãng; nhưng bên dưới thì mù mịt, người ta không trông rõ thung lũng với những nguồn suối con. Những vệt đá vôi nổi lên khắp chỗ. Hình Người Khổng lồ trong sương, nhờ sự biến hóa dị kỳ của ánh sáng, trông khác nào một bóng ma nhuốm hồng.

Họ gặp Gođard từ phía làng xóm ra đón họ. Chàng bước lên xe và bảo mọi người:

- Tôi tìm mãi chỉ một bọn ít quá. Hornblower đem cả bản lịch của hắn đến cùng với cái đồng hồ của Đức mà con hắn bắt được hồi rút binh. Bọn họ đi từ lúc chưa sáng để làm cho sớm xong việc, vì không người nào muốn qua rừng sau lúc trời tối.

Luna hỏi:

- Ông Covert, ông kiếm được bao nhiêu người?

- Được bốn người. Hornblower là một; cái anh chàng báng bổ thần thánh nhất làng, là hai; người làm vườn mới ở cho chúng tôi, là ba, hắn ta trước đã là hướng đạo sinh; và một người thợ cuốc còn trẻ tuổi mới ra khỏi nhà trừng giới, anh chàng này thì từ thần đến quỷ chẳng còn biết sợ ai. Tôi hứa trả công thực hậu để dụ họ. Ngoài ra, ta lại còn anh Wareen, vị hôn phu của cô Kate; anh nầu chẳng cần gì hết, muốn bảo sao cũng ừ.

Oliver hỏi:

- Việc ta nhờ họ làm họ có biết là việc gì không?

- Có, tôi đã bảo cho họ biết cả. Cũng may, bốn người đều khỏe cả. Sức lực tôi đây cũng khá, còn Swanhild cũng quen với công việc cuốc vườn. Thế là được sáu tay cuốc xẻng. Bây giờ Swanhild định liệu thế nào xin bảo chúng tôi.

Trong khi Swanhild cẩn thận cầm lái xe chạy qua miền thung lũng, Luna giảng giài lại một lần nữa cho Gođard nghe. Chàng nói:

- Có một vài chỗ tôi thấy còn lờ mờ lắm. Nếu cụ Magnus Pháp sư có ý tìm vàng thì sao cụ chỉ giấu có thanh gươm thôi? Còn việc này nữa: công việc khai cái Gò Sét không ăn khớp với những lời di ngôn cuối cùng của ông cụ về chuyện căn phòng bí mật, mà cũng không là một lẽ để ông cụ phải xin ân xá tội bằng những lời tạc trên tấm bia mộ. Tôi chắc những thầy dòng ngày xưa không cho việc xâm phạm lăng mộ là một tội ác không thể chuộc được.

Luna đáp:

- Những điều ông bẻ đó, chính tôi cũng chưa kịp phân giải ra sao. Duy có điều chắc chắn bây giờ là, may lại đến lượt tôi xâm phạm vào ngôi mộ đó. Ồ! Tôi biết, ông Gođard ạ, tôi biết ý ông nghĩ rồi kia: phải có giấy phép hẳn hoi mới được khai mộ, chứ gì?

Gođard gật đầu, Oliver cương quyết nói:

- Đây là tổ ấm của tôi, trong địa hạt của tôi, mà ma quái cũng là của tôi, không ai nói vào đâu được.

Ít khi chàng dùng cái giọng nghiêm khắc đến thế.

Đến đầu con đường nhỏ, mọi người xuống xe đi bộ về phía Gò Sét. Giữa màu cảnh vật xám mờ, hai mái tóc của Luna và Swanhild in lên một điểm sáng.

Luna lấy một cuộc dây gai buộc một đầu vào một gốc thông, căng thẳng và vạch chung quanh cây đó một vòng tròn đường bán kính dài chừng trăm thước; vây lấy bốn cái cây nhỏ và chỗ trung tâm điểm của mặt Gò.

Lúc đó bọn thợ của Gođard tìm cũng vừa tới.

Hornblower đặt chiếc đồng gồ quả quít với bản lịch chỉ dẫn(#2) lên một tảng đá rồi cả bọn khởi công đào khoảng đất ở trong cái vòng đã vạch. Đến trưa họ đã đào bật được mấy gốc cây con.

Trong lúc bọn thợ nghỉ tay ăn uống thì Swanhild với Gođard lấy cuôc xẻng đào tiếp theo. Luna, bà Yorke và Oliver về dùng bữa trưa ở lâu đài Dannow. Lúc trở lại Gò, họ đem cho đôi bạn mấy món đồ ăn lạnh.

Bây giờ khoảng ba giờ chiều, Hornblower đang đào ở chỗ mấy cây thông lúc trước, đứng thẳng người lên để hất một xẻng đất ra một bên. Hắn bảo Oliver:

- Đất chỗ này lạ lắm, ông ạ.

Thì ra lớp phấn chỗ ấy bị vỡ và bên trên phủ một lượt dầy thứ đất thịt đen thẫm và tốt mầu. Warren xem kỹ một lát rồi quả quyết nói rằng khắp miền này không có chỗ nào đất được tốt như thế. Anh ta nói thêm:

- Mà đây không phải một chỗ tụ đất thiên nhiên. Thứ đất này lấy ở một khu vườn nào đến hẳn thôi.

Đứng trên mép hố, Oliver ngẫm nghĩ hoài. Rồi chàng thấp tiếng nói:

- Đây là đất mùn đây.

Chàng đưa tay sờ bên thái dương, dưới đám tóc gọt là chỗ vết thương còn hơi hơi rõ.

- Hình như tôi nhận ra được kia… Không biết tôi đã trông thấy thứ đất này ở đâu rồi nhỉ… À, phải rồi: ở một buổi hạ huyệt! Phải, thứ đất này là đất nghĩa địa đây. Nhưng thứ đất thánh ấy, giống quái quỷ quái nào đã mang được đến thế?

Chú thích:

(1-) Helin Biter: Thanh gươm tự xưng.

(2-) bản lịch chỉ dẫn: Khí cụ của người Âu châu dùng để dò tìm một vài vật dưới đất
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Tất cả bọn thợ đều rụt rè, không dám làm nốt, trừ có một mình Warren. Anh ta hích khuỷu tay rẽ Hornblower sang một bên rồi đào nữa. Không mấy chốc lớp đá phần hiện ra dưới lượt đất thịt phủ nông. Bây giờ những người kia lại bắt tay vào việc.

Oliver xem chừng bị kích thích dữ. Luna thì không rời mắt xem xét chàng. Nàng bảo:

- Ông Hammond ạ, ở mãi đây thì ta đến bị cảm nhiễm lạnh mất. Tôi muốn đi thăm miền Beacon hơn, và tiện thể xem cái hình Người Khổng lồ.

Vừa để tâm nghĩ ngợi, Oliver vừa dẫn hai cô cháu bà Yorke lên chỗ rồi dốc, trụi hết cây cối rằng, trên đó chân trái Người Khổng lồ gác lên. Bỗng nhiên chàng hỏi Luna:

- Lúc nãy tại sao tôi lại nói đến đất nghĩa địa nhỉ? Tôi không hiểu tại sao đấy. Dễ thường tôi hóa điên cũng nên.

- Đâu nào! Ông vẫn bình thường đấy chứ. Có lẽ mấy hôm nay tôi gợi cái ký ức tổ truyền của ông nhiều quá nên bỗng nhiên một kỷ niệm lại hiện đến trí ông đó thôi.

- Thế ai đem chỗ đất kia đến đó?

- Đối với những người nhập môn thần học thì đất thiêng là một của có phép từ trà. Cụ Pháp sư có lẽ vẫn chuyên tâm tìm tòi những thứ khác hơn là vàng kia!… Trong cái Gò kia hẳn còn giấu một sự bí mật thảm khốc nào đó.

Ba người lẳng lặng bước lên tận đỉnh đồi, một nơi kỳ thú vì còn những dấu vết cổ La Mã với ao ước nhỏ và dải cây viền bọc bao quanh. Họ tiến lên một chỗ phẳng rộng chừng năm mươi bộ: đó là khoảng đầu Người Khổng lồ. Đứng đó trông ra, phong cảnh thực kỳ diệu! Ngay dưới chân họ, ngay phía dưới ụ đất, nóc nhà làng xóm lẫn với vầng lá cây. Đằng xa, từng đoàn mây lóng lánh màu bạc trôi dưới bầu trời xanh rộng mênh mông. Một con đường vắt vẻo như một dải băng trắng chạy dần vào bóng tối đang xuống chiều.

Luna lặng ngắm bức phong cảnh ngoạn mục một vẻ não lòng đó mãi.

Oliver thì nhìn xa về phía khu rừng. Gò Thunder đặt mình trong một vòng cung những cây ủ dột. Chàng có thể trông thấy được những huyệt mà bọn thợ đã đào được và cái điểm sáng chiếc áo nịt trên mình Swanhild. Chàng ngoảnh đi, không muốn nhìn thấy cảnh quen thuộc kia nữa. Chàng liền gặp đôi mắt Luna, đôi mắt chói lòa, thăm thẳm mênh mông như cõi vô cùng bát ngát.

Lòng chàng bị đè nén. Chàng cất tiếng nói:

- Tôi đã từng sống những giây phút này rồi! Cũng dưới bầu trời này, cũng thành đá biển kia, cũng mô Gò trên có bao nhiêu thợ đất… Nhưng bọn thợ xưa kia xây đắp chứ không phá ra như bây giờ.

Luna đáp:

- Ký ức tổ truyền đấy!

- Muốn gọi là tên gì cũng được! Nhưng tôi biết rằng cách đây lâu lắm rồi, tôi đã ở đây, ở đây cũng như bây giờ, bên cạnh một người đàn bà có mớ tóc vàng ánh.

Ngượng vì những lời bồng bột hăng hái quá, chàng bỗng dịu giọng xuống khi nói câu sau cùng. Rồi, lại trân trân nhìn Luna, chàng lai say xưa nói tiếp:

- Ở đây là của tôi hết, cho đến khu rừng của miền ấp này! Địa hạt này dựng nên cho người hưởng hạnh phúc, tổ tiên tôi đã là cho nhân từ trên một ngàn năm trời này! Các cụ đã chiến đấu vì nó: đã vì nó mà hy sinh tính mệnh; cả đến cụ Pháp sư cũng vậy, cụ đã dự hồi vào chiến tranh Lưỡng Hồng. Cha tôi với anh tôi cũng đã hiến mình cho đất nước, đến chính tôi cũng đã là chiến sĩ rồi! Thế thì dù đời tôi có bị cái bóng ghê gớm của bọn quái vật kia phủ lên, tôi cũng vẫn có quyền được vui sống!

Chàng thốt những lời ấy ra với một vẻ sợ sệt dị kỳ, đôi mắt màu xanh xám của chàng lóe lên những ánh lửa đỏ.

Bấy giờ bà Yorke mới cất tiếng nói. Bà ôn tồn bảo chàng:

- Mọi người chúng ta, ai cũng có quyền được sung sướng hết, hay cũng được sung sướng theo cái độ mà oan trái tổ tiên ta, tội lỗi của chúng ta, những trường hợp hoàn cảnh và các người quanh ta vẫn để cho ta hưởng.

- Người quanh ta ử… (Chàng kêu thé lên). Thế ra bà nghĩ đến cô Kate phải không?

- Trời ơi! Không đâu, ông ạ! Luna đã bảo ông rằng về chuyện ấy ông chẳng có gì phải ân hận tự trách kia mà!

Chàng lẩm bẩm:

- Nếu tôi mà không chống cự thì…

Bỗng nghi ngờ, chàng ngưng bặt. Rồi lại nói:

- Miss Bartendale! Có phải cô đã bảo con quái vật kia có lẽ là sự quả báo của một tội tổ tiên đó chăng, có phải đó là di tích của một quá khứ đã chết?

Luna buồn rầu đáp:

- Không còn gì sinh tồn linh hoạt bằng sự chết cả. Tôi tưởng tượng thế giới nhân loại ra một địa cầu vô cùng to lớn, mà ở khắp mặt có một ngàn năm trăm triệu người sống đang sinh hoạt bên trên; còn ở dưới là đoàn lũ âm u huyền bí của hằng hà sa số người chết. Bọn ấy nay chỉ còn là tro bụi nhưng họ vẫn ấp ghì cả những người sống mà họ đã sinh đẻ ra trên đời, họ bao bọc lấy để mà din dủi cho phải đi theo đến đường chính hay đến đường tà. Phải đó! Tôi như trông thấy được họ, trông thấy cả mộ thế giới bên kia, những ngưởi mà tâm hồn, mà tư tưởng với lời nói việc làm đều còn trường cửu truyền dõi lại ở chúng ta là bọn người sống.

Nàng chợt rùng mình lên. Oliver hỏi:

- Thế ra ta chỉ là những phản ảnh của tổ tiên ta thôi sao?

- Không phải thế đâu, ông Hammond ạ. Cái bản lĩnh riêng, tức là thứ ánh sáng mà Trời phú riêng cho mọi người chúng ta kia, khiến cho ta có thể chống cưỡng lại được sự di truyền mà vượt hẳn lên. Nếu tôi không cầm chắc được rằng Thunder s Barrow giấu chìa khóa, cái bí quyết một thế lực ma quái ám ảnh các con cháu nối dõi cụ Magnus., thì tôi đã chẳng khai bới gò Thunder làm gì.

Oliver đáp một cách vô tâm:

- Cái đó cố nhiên.

Rồi bỗng nhiên chàng nói:

- Miss Bartendale ạ, cô cho rằng cụ thủy tổ nhà Hammond, cái người Đan Mạch tên là Magnus ấy, cô cho rằng đã tàn sát cả gia đình người vợ là Edith, phải không. Nếu cô tưởng thế thì tôi dám chắc cô đã lầm đó.

- Vậy ư? Tôi thì tôi không thể tưởng tượng được rằng một tay hải khấu lại xin cưới một người đàn bà hồng mau mà không biết hại phụ huynh của người ấy trước.

- Sao vậy? Người đàn ông kia vì tình yêu mà có thể quý mến họ hàng người đàn bà được chứ?

- Tôi càng không thể tưởng rằng một tay ngược Bắc Âu lại bỏ cuộc đời tung hoành của mình để được lòng một người đàn bà.

Thế mà hai bên tâm đầu ý hợp được đấy. Mà cũng chỉ trong dăm bảy ngày là đủ cho họ hiểu nhau, chỉ từ ngày thứ hai tuần trước đến thứ hai tuần sau thôi. Tôi biết chắc như thế đó.

Màu da trắng xanh của Luna bỗng thành ửng đỏ Oliver vội vàng nhìn đi. Chàng nói tiếp:

- Tôi ăn nói như đứa trẻ nhỏ vậy, cô nhỉ. Tôi không biết đối với tôi cô nghĩ thế nào… Tôi thì trong mấy ngày gần đây, sao mà tôi sung sướng thế! Cứ được như thế mãi chẳng đẹp đẽ quá sao? Tôi biết tình thế ác nghiệt của đời, cũng như cụ Magnus đã hiểu hết tình đời một bữa cụ trầm ngâm ở đây trước vị thần của giống Đan Mạch. Hẳn cô cho tôi là người điên rồ nhỉ, phải không miss Bartendale?

Luna ngập ngừng một lát rồi mới cố tĩnh sẵng tiếng đáp:

- Ông Hammond ạ, ông vừa mới đau dậy. Tính tình ông dễ bị xúc động mà tôi lại gợi những ký ức của tổ tiên ông trong tâm trí, làm ông bị kích động thêm…

Giữa lúc đó, ba người trông thấy Swanhild vừa leo ra khỏi cái hố. Swanhild lớn tiếng gọi:

- Xuống đây mau lên! Chúng tôi tìm thấy con Bò Vàng rồi!

Luna ngạc nhiên hỏi:

- Thế nào? Tìm thấy con Bò Vàng?

Bọn đàn ông đang đừng quây lại trên mép hố sâu và rộng. Gođard hì hục cố lấy lên khỏi đáy một vật nặng, lớn bằng một người và trông chẳng ra hình thù gì. Toàn thể đều một màu, lác đác có mấy điểm vàng ở những chỗ bị cạo sứt.

Warren nậy ra một miếng, xát mạnh lên áo để làm rơi ra lượt đất bám ngoài. Cái miếng ấy to và dầy bằng cái nắp hộp đựng mũ. Có những đinh rỉ xanh dóng ở hai đầu.

Hốt nhiên, không ai bảo ai mà cả bọn thợ cùng lặng người nhìn thấy chân trời đỏ hồng lửa mặt trời lặn. Rồi Hornblower tách ra khỏi bọn để tra bản lịch và xem những dấu chỉ trên chiếc đồng hồ của hắn ta.

Warren bàn:

- Có lẽ đây là một tượng thần chăng?

Gođard:

- Gỗ thông bọc vàng đây mà, bọc vàng lá đồng lại bằng những đinh đồng.

Oliver nhảy xuống huyệt xem và nói ngay:

- Không phải Bò Vàng mà tượng thần cũng không phải nốt.

Rồi ngửng nhìn lên qua lớp cây thông cái thân hình vừng núi Beacon nổi đen trên nền trời bầm tím, chàng thấp tiếng nói tiếp:

- Vậy thì là cái gì được? Gỗ thông vẫn riêng dùng để tạc tượng thần kia mà? Với lại… À mà! Gỗ có phủ sơn và thép vàng, đây! Một vật vươn lên… Phải rồi! (Chàng bát ngát mê man, reo lớn tiếng). Một hình mũi hải thuyền! (#1) phải, một hình tượng ở đầu một chiếc chiến thuyền cổ. Ta đang đứng phía trên sân tàu một chiếc tàu buồm của tổ tiên ta đó, em Swanhild ạ! Chỉ một đôi thước đất nữa là đến nơi rồi. Em có nhớ ra không. Anh thì anh nhớ: chính trên con tàu này cụ Magnus đã ngược sông Adur đó. Rồi về sau, khi ông cụ mất, người ta đã táng ông cụ cùng với cả chiếc tàu. Chỗ thành tàu phía trước kia kìa. Còn chỗ này… (chàng đạo mạo trỏ xuống hai bên pho tượng nằm dưới đất) chính cụ Magnus ở chỗ này, ở phía dưới sân tàu của cụ đó. Cái miếng đồng màu xanh và hình lá chính ở dưới chân cụ.

Luna cũng cất tiếng nói:

- Một chiếc tàu lấy làm quan tài, với một hình tượng mũi tàu! Ồ! Sao tôi không nghĩ tới điều đó nhỉ?

Trong lúc Oliver mãi nói, Hornblower đi mặc áo cùng với các thợ đất; bấy giờ hắn trở vào và bảo:

- Thưa ông Hammond, nửa giờ nữa mặt trời đã lặn. Chúng tôi xin về đây.

Vẻ ngây ngô lo sợ hiện rõ trên từng nét mặt mỗi người trong bọn họ. Nói đến thế nào với họ cũng không ích gì.

Luna hỏi:

- Thế này thì làm thế nào mà đào xong được? Mà không xong ngay bây giờ thì một nửa phóng viên nhà báo ở London nghe tin đồn, thế nào sáng mai cũng kéo cả đến đây.

Oliver:

- Ba người mà cùng làm thì một giờ có thể xong được.

Swanhild lại cầm thuổng và bảo:

- Nếu vậy thì anh về nhà đi, em cùng với anh Gođard đào nốt cũng được.

Oliver:

- Không. Tôi ở lại kia. Chưa đến đêm tối thì tôi chưa có gì phải lo sợ, miss Bartendale bảo thế đấy.

Luna nói thêm:

- Mà dẫu ban đêm nữa, khi có tôi đó thì ông cũng chẳng phải lo sợ gì. Tôi đã có cách báo trước cho ông tránh.

Gođard lấy làm lạ hỏi:

- Thế sao cô không bảo cho chúng tôi biết cách ấy với?

Nàng phân giải:

- Là vì có những phép phải luyện tập quen tay dùng đến mới không nguy hiểm.

Bà Yorke bảo chung mọi người:

- Tôi cuốc đất một lúc cũng chẳng sao. Tôi muốn có mặt đây trong lúc quan trọng hơn là về nghỉ. Nhưng muốn đào tìm đến nơi đến chốn hẳn phải có thêm những khí cụ nữa.

Miss Bartendale và Oliver liền quyết định cùng về lâu đài Dannow tìm những đồ chưa có. Oliver xin hứa lúc qua rừng sẽ theo con đường không có cây lá um tùm.

Chú thích:

(1-) Hình mũi hải thuyền: Thuyền bể cổ thời Âu châu thường có những hình người hoặc một vài giống thú tạc ở đằng mũi
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Lúc hai người ở Dannow trở lại cạnh khu rừng thì trời chưa tối hẳn. Dẫy thành đá biển sừng sững xa trông thấy rõ một cách dị thường dưới một mầu trời bất định, phơn phớt vàng úa ở phía sau Thunder s Barrow. Một khuôn trắng rụt rè ló ra trên phía làng xóm, một vài cửa sổ kính ở đó phản chiếu một thứ sáng mầu đồng. Sương mù đã tan hết, để lại một không khí rét khan.

Không có gió thổi hoài từ bờ bể về đây, thứ gió luồng mạnh làm uốn mình cây cối, thì sự im lặng thực hoàn toàn. Oliver với Luna đương bước trên một lối quang bóng lá bỗng nghe thấy tiếng kêu thé lên.

Oliver bảo:

- Tiếng thỏ đấy. Lại có một thằng khốn nạn đặt bẫy trong rừng rồi!

Đôi mắt chàng long lanh một tia lửa giận. Luna nói:

- Gần đây thôi! Roska! Vào với tao!

Oliver nắm cổ tay nàng giữ lại.

- Tôi không việc gì đâu, ông đừng sợ.

Nàng vừa nói thế thì một tiếng kêu tội nghiệp nữa đưa ra. Chàng lớn tiếng bảo Luna lại:

- Cô đừng vào!

Nhưng nàng không đáp, cứ chạy lên, con Roska theo liền gót. Chàng vừa lưỡng lự vừa bước trên nệm lá khô và trông thấy nàng thấp thoáng đằng xa tìm lục các bụi cây theo tiếng kêu của con vật. Chàng cất tiếng gọi, nhưng gió thổi át đi.

Không khí được mùi nhựa thông, trong đầu óc chàng thanh niên, một sự hình như đang quay cuồng, khiến chàng sôi nổi hẳn, và trái tim bị vấp động. Một luồng nhiệt độ chạy tràn lan khắp thân thể to lớn của chàng. Chàng thấy hớn hở trong người, rành rẽ một cách huyền dịu chàng cảm biết tất cả các bộ bắp thịt hòa đối với mình, chàng nhận thấy rằng chân mình dầy xéo trên lớp dải lá thông, chàng tưởng thấy được nguồn máu chạy trong gân mạch. Hơn nữa, chàng hưởng một cảm giác say xưa là đã từng sống những khoảnh khắc như thế. Tất cả mọi cái chàng đều quen thuộc hết, những cây thông kia, thứ bóng rừng mập mờ âm tối ấy, và cả chính chàng đây nữa, chàng khác nào một vị thần tiên trai trẻ đang rượt theo một người thiếu phụ chạy trốn trước mặt mình. Chàng đã quên hẳn con quái vật với cuộc săn đuổi bấy giờ. Lòng sợ hãi không còn, lòng thương hại cũng mất và nếu không nghĩ một chút thì đến tên chàng chàng cũng không biết gọi là gì. Lúc này chàng chỉ còn là một chàng trai được mặc sức tự do, oai vệ giữa khoảng rừng âm u trong đó lang thang một người đàn bà có mớ tóc vàng ánh. Phải, bao nhiêu sự đó đã từng diễn ra thuở trước, mà cái giây phút bấy giờ thu gồm tất cả hạnh phúc của trần gian, một hạnh phúc thêm quý giá hoàn toàn vì chàng chưa tới chỗ tột cùng, tới cái điểm chỉ cách chàng có một bươc tiến.

Một bóng đen thoáng qua gần chàng. Chàng tiến đến với Luna lúc đó lom khom quý ở đầu một ngõ toàn thông đứng. Roska thì ngồi cạnh cô chủ như một bóng ma tối đen.

Luna giơ cho chàng xem một cái bẫy trống không. Nàng bảo:

Tôi nghiệp, nhưng con vật chỉ bị gẫy què có một chân. Đối với con vật bị què, sự sống cũng vẫn còn đáng quý.

Mắt nàng gặp mắt Oliver. Nàng liền đứng lên. Chàng không cử động chút nào, sợ phá huỷ mất cái cảm giác tuyệt dịu mà chàng được hưởng. Trong giây lâu, đôi bên cứ nhìn nhau như thế mãi. Sau cùng Luna cố tình ngoảnh đi và liệng cái bẫy ra xạ Thế là phút thần tiên biến mất.

Bỗng nhiên, Oliver lẩm bẩm:

- Rừng thông đây?… Trời rét và có sao… (chàng thét lên) chạy đi! Trốn đi! Con quái vật đến đấy!

Chàng cảm thấy một tử khí, cùng với một sự ghê tởm lấn tới tâm hồn; hình như có một vật gì hư ảo quay vòng quanh chàng, một hình bóng không chạm thấy được và có một sức đè ám nặng nề, một sự đau xót quá đỗi mà lại vừa không động đến được giác quan phàm trần của chàng. Không có định tâm, bất ngờ chàng hét lên một tiếng, vang bên tai chàng như một tiếng hầm hè cáu giận cất lên ở miệng kẻ kia:

- Hây sa…a a!…

Chàng nâng bổng Luna lên trong cánh tay còn mạnh của chàng, ngoắt quay mình rồi nhằm đường cắm cổ chạy. Con chó êm lặng theo sau.

Bây giờ Luna lấy trong túi ra ngọn đèn bấm nàng đem theo sẵn để soi dưới huyệt lúc trước, dọi ánh sáng vào các vừng và xuống mặt đất rồi sau cùng chĩa lên mặt Oliver.

- Chẳng có chi ở đây hết. (Nàng bình tĩnh nói)

Câu nói ấy làm tan hẳn cái ma lực kinh khủng vừa rồi. Oliver chỉ còn thấy quanh mình những cây cối lù đen trên cánh tay mình ôm chặt một người đàn bà, với trước mặt mình, con chó đang chạy. Tuy vậy, lúc ra khỏi rừng chàng mới thực yên tâm. Chàng nói bằng một vẻ đắc thắng dữ dội với Luna:

- Tôi thoát khỏi tay nó rồi!

Nàng đáp gọn một câu:

- Tôi bắt nó phải chịu phép đó.

Chàng cãi:

- Chính tôi, tôi đã thắng được nó đấy. Trời đã cho tôi đủ sức đánh bại nó để cứu cô đấy.

Luna lo ngại, khẽ kêu lên:

- Không, tôi mới thực đã có phép khuất phục được nó kia.

Chàng đắc ý phá lên cười, rồi đành nhận:

- Thế thì cứ bảo là cả hai người cùng đánh nó thua vậy.

Bỗng Luna bảo:

- Ông để tôi đứng xuống đất thôi.

Thì ra cả hai đều không nghĩ đến cái dáng điệu kỳ dị của mình. Đối với Oliver, trong khi cái phần minh mẫn của chàng cãi vả với Luna, thì cái phần thấy rất tự nhiên việc ôm sát lấy nàng ở trước cảnh trời cao rộng. Chùm sao – những điểm sáng nhỏ dịu, hình bóng của những ngôi sao lấp lánh ngàn năm về trước, là hồi chàng đã từng ôm một người đàn bà trong tay và từng hưởng vị hạnh phúc say sưa tới đau đớn. mà những quả cây thủy tùng kia ở ngay gần đó, phải chăng là cặp môi đỏ thắm của Luna, hay là cái miệng của nàng chỉ là hình nhắc lại những quỷ thủy tùng chín đỏ trên cây ngàn năm thuở trước?

Câu nói lúc nãy của người thiếu phụ đánh thức Oliver tỉnh các giấc mơ màng vừa mờ ảo vừa rõ rệt: vang bóng phai lợt của một thời trong đó tổ tiên chàng đã tự mình chiếm đoạt lấy người bạn trăm năm.

Chàng đặt Luna xuống đất, không có lấy một lời xin lỗi hay phân trần nào. Một sự cảm động kì dị còn vương trong trí chàng. Rồi những hình ảnh của tâm tưởng biến đi dần dần, chàng trở lại sáng suốt.

Luna hỏi:

- Này ông kêu lên câu gì vậy?

- Tôi cũng chẳng biết nữa, tôi cứ tự nhiên kêu lên thôi. Hay là tôi chợt nhớ lại được câu thần chú có thể xua đuổi con quái vật, nhỉ?

- Không phải. Tôi đã nhận ra tiếng kêu ấy, mà tôi lại biết cả nghĩa tiếng ấy rồi. Nếu ta tìm thấy được câu cổ tự nào trên miếng đồng thứ hai thì… nào ta đi, đi ông.

Hai người lại thẳng đường trước mà đi. Oliver mỉm cười. Cái thời kỳ giao thiệp của nhà chủ đối với bà thầy nay đã mãn rồi: bây giờ đôi bên cư xử với nhau đã được như ý chàng mong ước. Chàng chẳng cần phải nói, Luna cũng không còn là gì cái tình quyến luyến mà nàng gây ra trong lòng chàng: nàng đã đọc thấy tình cảm đó ở đôi mắt người trai trẻ. Chàng ngẩn nhìn khu rừng âm tối và lại mỉm cười. Chàng sung sướng vì đã gặp con quái vật và đã thắng được nó. Nó là giống gì mặc dầu, con quái vật kia cũng không hại được nàng, mà đến chàng nó cũng không làm gì được khi mà hai người cứ ở gần nhau.

Luna dò hết những ý nghĩ kia trên mặt chàng. Trong giây lát nàng đã toan đem cả sự thực nói ngay cho chàng biết để đánh đổ những mộng tưởng hão huyền kia đi và để cắt nhẹ cho lòng nàng cái ách nặng nề vẫn đè nén. Nàng nên chống cự với sự chiều hướng của lòng mình đối với chàng ngay từ lúc chưa quá mới phải. Nhưng nói hết với chàng những điều mà nàng biết tức là tự tay phá hủy mất bao đường dây che chở mà tài năng và thông minh của nàng đã chằng mắc ở quanh bản mệnh Oliver Hammond.

Nàng sẵng tiếng nói:

- Con quái vật không thể làm gì tôi nổi đâu. Nhưng ông phải nhớ rằng ông đã hứa tránh mặt nó.

Chàng cãi:

- Không có cô ở gần thì không có xông pha liều lĩnh bao giờ. Này, miss Bartendale ạ, tôi thấy một cảm tưởng ngộ nghĩnh lạ: tôi thấy hình như tôi vừa là tôi lại vừa là những người sống những đời trên tôi. Điều đó tuy có hại cho sức khỏe của tôi đôi chút thực, nhưng thực là một chứng bệnh dễ chịu.

Luna bị dầy vò bởi cuộc chiến đấu trong thâm tâm, nàng gượng gạo đáp:

- Khi nào ông biết rõ sự thực thì ông không còn có một chút bệnh nào gì nữa hết.

Hai người đã đi hết con đường. Swanhild chạy lên đón họ. Nàng reo to:

- Chúng tôi đã đào tới mặt sàn tàu rồi đấy!

Cạnh mép huyệt, Warren đang ngồi nghỉ trên một đống vừa đá vừa các thứ gỗ đất, gỗ, xúc ở dưới mồ lên. Gođard gõ cái xẻng ở tay xuống một khoảng mặt gỗ đen sạm và nói:

- Mục nát lắm rồi! Vôi đổ dưới này làm ruỗng mất cả. Bây giờ chừng phải nậy bật mặt gỗ lên, phải không?

Trước khi quyết định hẳn, Luna rờn rợn khắp người. Lập những giả thuyết trong suy luận là một chuyện, mà khai quật một người chết, dù là bao thế kỷ trước, lại là một chuyện khác. Warren muốn xuống nhưng Oliver ngăn lại. Chàng đoán biết những ý nghĩ trong trí miss Bartendale.

Nghiêm giọng, chàng nói:

- Không việc gì phải động đến giấc ngủ của cụ Magnus. Cứ để tôi xuống xem.

Chàng nhảy xuống mặt sân tàu rồi xem xét một hồi rất kỹ lưỡng, chàng bảo:

- Mũ đội đầu ông cụ Ở ngay chỗ anh đứng đó, Gođard ạ. Hai mớ tóc tết bím thì ở phía dưới chỗ tôi, còn mảnh đồng mà ta cần tìm thì ở dưới chân ông cụ, vậy chắc hẳn ở vào khoảng này đây. Cứ chỗ này mà đào, nhưng phải cẩn thận đấy!

Nửa giờ sau – lúc ấy mặt trăng chưa lên hẳn - Warren với Gođard theo lời Oliver chỉ, lấy lên được một chiếc giầy da đã nát, một cái mớ tóc vàng cài ở lỗ khuỵ Chiếc giầy như một lớp mỏng bụi vàng trước kia đã là một khẩu xương của ông cụ; họ đem lại vùi xuống chỗ cũ. Tìm nữa, họ lấy được ba mảnh đồng, đem ghép lại thì thành cái miếng đồng mà Luna đã đặt bao hy vọng lên.

Không khí khô ráo trong đó giữ được khỏi hoen ố, nhưng mấy mảnh đồng đã bị vôi ăn mòn. Oliver và Luna dùng bao tay bằng da chùi nhẵn cái mảnh lớn nhất nhưng sự hư hỏng không sao vớt lại được nữa: những chữ cổ tự đã bị xóa hết mọi nét rồi.

Trong lúc Gođard với Warren tạm đậy cửa mộ lại để hôm sau bưng nốt, thì Luna với anh em Oliver xem xét mấy mảnh đồng. Một lúc lâu, Swanhild khẽ rùng mình và hỏi:

- Thế nào?

Luna lưỡng lự rồi đáp:

- Không được việc gì nữa rồi.

Oliver:

- Không còn cách nào nữa sao?

- Không. Về mặt này thế là hết nước, xin đành chịu. Nhưng tôi sẽ dùng cách khác vậy, sẽ dùng một cách tôi rất ghét dùng.

Giọng nàng được một vẻ buồn chán kỳ dị.

Nàng bực dọc ngoắt đi và trở ra chỗ xe hơi với Swanhild. Cảnh đồng núi đẫm trong màu sương lam mờ. Trên khu rừng đầy âm khí. Con Người Quái gở hình như phá lên một trận cười mênh mông.

Swanhild lấy chăn khoác cho Luna và đánh bạo hỏi một câu mà nàng rất nóng biết:

- Miss Bartendale ạ, cái cách mà cô nói lúc nãy là cách nào vậy?

Luna:

- Tôi muốn bắt con quái vật phải xuất đầu lộ diện đêm nay trong căn phòng bí mật, rồi tôi sẽ nói nguyên do nó ở đâu mà ra.

- Cô có phép làm được thế kia ư?

Câu hỏi của nàng khẽ thốt lên và mắt nàng sợ sệt đưa về phía rừng, tưởng đâu con quái vật sẵn sàng đáp lại được. Luna nói:

- Phải, tôi có phép làm được, mà cô cũng sẽ được xem.

- Thế tôi sẽ trông thấy con quái vật sao?

- Nhưng nó không làm gì hại đến cô được đâu, vì tôi trị được nó. Cô không chết vì gặp nó đâu, song từ lúc đó trở đi thì cuộc đời của cô không còn giống như từ trước đến nay nữa. Muốn cứu thoát anh cô, cô cần phải biết rõ sự thực. Vậy cô có sợ không?

- Sợ, nhưng tôi cũng cứ đến. Vả lại, sau điều chúng tôi đã thấy trong hồi chiến tranh thì…

- Chưa có điều ghê gớm nào làm nhẹ bớt được cái điều mà tôi sẽ cho cô biết đâu. Mà cô đừng có nói gì qua với hai ông kia đó, việc này chỉ ta biết với nhau thôi.

Swanhild hứa sẽ giữ miệng. Xét cho cùng thì trông thấy con quái vật cũng không ghê gớm quá đến thế, khi đã biết trước giờ nào sẽ thấy, và thấy ở chỗ nào!

Nàng thấp tiếng nhắc lại:

- Trong phòng bí mật, đêm nay…

Hốt nhiên Luna khẽ nhắc im: phía sau hai người, Gođard đã tiến đến. Chàng kiếu bữa cơm tối mà anh em Oliver mời, và xin thẳng về nhà.

Cái việc xông xáo ngôi mộ vừa rồi đã khiến mấy người giá lạnh, cho cả Luna xem chừng cũng phải sờn lòng. Vả lại chàng còn nóng muốn được cặm cụi ngay trong việc xem xét những giấy má cũ. Không ai kịp hỏi han đến công việc của chàng, vậy mà chàng đã dò đọc được ba đoạn trên đó có tên Warlock và nhiều điều có thể dẫn lối cho công cuộc điều tra chung. Trên bản giấy má đó, một người được mục kích việc xưa đã thuật lại những sự rủi ro của cụ Warlock trong khi cụ đào tìm trong ngôi mộ. Gođard muốn chép hết tập cảo rồi mới nói cho mọi người biết, nhưng vì cả ngày làm việc giữa trời chàng đã nhọc mệt quá, chàng đành thôi.

Tuy thế, tin chắc rằng dù chưa đầy đủ những điều tìm ra kia cũng làm nhẹ bớt được việc cho Luna, chàng mới nhất định để chậm hơn, sẽ đưa ngay cho Luna biết: chàng liền lại đi lên lầu Dannow. Thực ra, trong thâm tâm chàng cũng có áy náy muốn được gặp Swanhild, mà ban nãy, lúc bước lên xe, chàng bắt gặp thấy có cử chỉ khác lạ.

Gođard theo lối tắt qua rừng rồi dọc theo bờ hào phía tây khu ấp. Lầu Dannow cũng theo phần nhiều nhà cửa miền Sussex, ngoảnh mặt ra phía Bắc: thành thử chàng phải đi quanh một vòng. Những vừng cây lá lẫn sắc với vòm trời trong một màu xám mờ không phân biệt được. Duy chỉ có cái hình kỳ quái ngàn năm là sừng sững nổi lên trên đỉnh đồi.

Đi tới chỗ cầu hào, Gođard đứng dừng lại kinh ngạc; chàng thấy trong phòng bí mật có ánh sáng! Thế là ngay lúc ấy cử chỉ Swanhild thì thầm với Luna lúc trước lại hiện đến trí chàng. Chàng thấy rõ được ý nghĩa câu nói của nàng: “trong phòng bí mật, đêm nay…”.

Câu ấy quay lên trong đầu óc chàng trong khi chàng lại đưa chân bước. Thiếu chút nữa, vì đãng trí chàng bị ngã xuống đám nước tù váng dưới hào; chàng víu chặt lấy một cành thông mà chàng vừa kịp nắm được. Trên đầu chàng, cách chừng hơn một chục thước Anh, là cái lỗ cửa sổ căn phòng kín. Một luồng sáng kỳ dị mờ mờ xanh một màu bí mật, tự đó soi ra. Nếu trong ấy có người thì tại sao họ để trống, không đóng cánh gỗ lại?

Một nỗi lo sợ không suy nghĩ làm sôi nổi cuống quýt lòng anh chàng nặng tình. Sau bức tường này có những chuyện gì đây? Chàng cũng chẳng nghĩ đâu đến lối tọc mạch không lịch sự của mình nữa: nếu có những điều thảm khốc đang sắp xảy ra thì chỉ có một mình chàng là có thể ngăn được thôi. Vậy thì, mặc thây cả lễ độ! Chàng đi vắt áo phủ ngoài lên thành cầu rồi trở lại dưới cửa sổ. Chàng bám lấy những cây leo, có những thân già to như dây chão và trèo lên dọc tường, chàng luồn lách trong cành lá như một con rắn, mặc cho gió thổi từng cơn lay lắc mạnh. Trèo tới gần cửa sổ, chàng níu lấy những song sắt và đứng vững chân lên chỗ đường gạch xây nhô trên mặt tường.

Từ chỗ nấp đó, chàng chỉ thấy được lần song sắt bên trong. Những tiếng nói – tiếng của Luna – đưa tới tai chàng. Chàng đã từng nhận thấy cái mãnh lực huyền bí của giọng nói kia. Đêm nay giọng nói đưa lên, sắc nhọn, nhẹ nhàng, âm thầm hoặc đanh thép. Bỗng nhiên ánh sáng vụt tắt.

- Ngươi đang ở trong rừng thông đây. Sao long lanh. Trời giá rét. Có sao sáng, có gió lạnh, có mùi thông… Ngươi không thể qua những nét vạch dưới đất. Bên ngoài nét vạch ấy có một nhân mạng làm vật hy sinh cho ngươi. Ta có quyền lực để chiêu hồn ngươi về đây hỡi Hammond muôn kiếp! Giữa rừng thông, trong giá rét dươi ánh sao sáng, ta truyền cho ngươi hiện về, hỡi linh hồn thoát thể! Nhân danh quý thần Ases, nhân danh Odin cha cả muôn loài, nhân danh Vingi Thor, nhân danh Asa Lok, hỡi Hammond linh hồn thoát thể! Hãy mặc lấy lốt cũ mà hiện về!

Thứ văn chầu siêu phàm và buồn buồn một điệu kia ngừng lại. Trong những giây phút im lặng ấy, gió vù vù thổi mạnh bên tai Gođard. Rồi, thốt nhiên, át cả tiếng bão táp, một tiếng rú kinh khủng vang lên làm rựng tóc gáy người thanh niên. Tiếng rú quái gở tiếp nối thành một tràng tiếng, the thé lại gầm gừ, lại vang chìm rồi nổ ròn, khi như hơi thú, khi như giọng người, vừa ngạo nghễ vừa chán chường, vừa reo mừng vừa cay đắng. Bao nhiêu căm hờn, bao nhiêu dậm dật, tất cả bao nhiêu dục vọng bỉ ổi của một linh hồn hư hỏng vì tà khúc đều thốt ra trong tiếng rú phi thường kia.

Gođard hiểu ngay: chàng vừa nghe thấy tiếng con quái vật. Nó rống đến ba lượt. Rồi một tiếng khác nức nở đưa lên. Đó là tiếng Swanhild, nàng kêu van:

- Luna! Trời ơi!…

Những tiếng gầm rống lại nổi lên. Swanhild giọng chua xót lại cất tiếng:

- Luna, Luna! Tôi không còn sức nào chịu được như thế nữa đâu!

Ánh sáng lại bật lên, tức khắc tiếng gầm im bặt.

Kinh dị hết sức, Gođard vẫn bám mãi ở lưng chừng đám cây leo. Cánh cửa gỗ bên trong đã đóng lại rồi và Luna hẳn lại tiếp theo việc thí nghiệm nguy hiểm. Thế ra cái gương cụ Warlock không để nàng thấy điều tai hại nào ư? Mà Swanhild lại ở trong kia, đang ở ngay trên mép bờ hoảng hốt – Xưa nay Swanhild dù ở trong cảnh rủi ro oan khổ nào nhất, có hề kêu khóc hay khiếp nhược như thế bao giờ đâu!

Cái tai nạn nàng đang mắc phải kia đem trả lại chí quả quyết và lòng can đảm cho chàng: chàng phải mau mau giằng kéo nàng ra khỏi căn phòng kín mới được! Chàng không thể vào đó do đường lối trong nhà vì Swanhild vẫn quen khóa cửa lại, trừ cánh cửa văn phòng. Còn những lượt song kia thì không thể lay chuyển được. Trông thấy những gợn nhỏ dưới mặt nước hào đen ngòm. Gođard chợt nghĩ đến cái căn hầm có bể trữ nước. Chàng đã từng đùa nghịch trong lầu nhiều lần với Reggie và Oliver, nên biết được các đường ngang lối ngách. Chàng nhớ ra rằng các hào đều ăn thông với bể trữ bên trong do một mạch nước hẹp vừa đủ cho một người mảnh dẻ để lách qua.

Thực là vất vả! Ngay giữa ban ngày mà trước kia ba cậu con trai phải dắt đỡ nhau mới cố mà qua được bước ấy. Nhưng cái ý tưởng đi cấp cứu Swanhild thêm sức cho anh chàng. Hai lần Gođard hụt taỵ Phải lặn đến lượt thứ ba chàng mới nắm được một chỗ sù sì trong kẽ đá. Sức nước chảy mạnh đến nỗi ấn đầu chàng vào giữa vai mà buồng phổi thì hình như muốn vỡ. Mặc dầu, chàng vẫn cứ lách trong cái mạch nhỏ hẹp mà tiến dần. Bỗng sức đè nán bớt đi. Gắng một hơi cuối cùng nữa để cưỡng với cái sức hút nó miết chàng vào trong thành bể, thế là chàng nhô được lên khỏi mặt nước.

Trông chung quanh im ắng và tối mò, một vệt sáng xẻ mặt trần hầm và cho Gođard biết chàng đã đoán không sai: cửa phòng bí mật còn mở. Nhảy hai bước, chàng đã đến cái đường ngạch trước cửa phòng.

Chàng đứng lặng một hồi, trống ngực đập mạnh. Lát nữa chàng sẽ khám phá những điều gì đây? Cái im lặng như chết kia khiến chàng không lo sợ; chàng tiến bước và mạnh bạo vào phòng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Swanhild ngồi có một mình. Thoại nhìn, chàng đã tưởng nàng chết mất rồi. Sự phân tách khác thường của ý thức do khi gặp những xúc động mạnh gây nên, khiến chàng lấy làm lạ sao mình bình tĩnh được đến thế.

Cái bàn của cụ Pháp sư đã kéo dẹp vào một góc ở phía dưới chân thang. Ngọn đèn soi rõ ba bề bốn bên trong căn phòng và nhất là chỗ Swanhild đang chống khuỷu tay lên bàn, mặt úp vùi trong hai cánh tay khoanh lại. Bụi rác cùng những tảng đá đều đầy dồn về rẻo chân tường và trên khảong mặt đất dọn quang một hình vạch phấn vẽ thành một ngôi sao năm cạnh gọi là hình ngũ giác. Ở giữa nằm một chiếc ghế dựa đổ. Chung quanh đặt cái Bàn Tay Danh Vọng, thanh gươm gẫy và những mảnh nậyt ra ở cái tượng mũi tàu.

Trong một giây đồng hồ, Gođard ghi hận được đủ bằng thứ ấy. Bậc thang kêu cọt kẹt dưới bước nặng nhọc của chàng. Swanhild ngẩng đầu lên rồi đứng dậy. Thong thả, chàng bước lại gần nàng. Người thiếu nữ cất tiếng nói:

- Anh Gođard! Em biết mà! Em chắc thế nào anh cũng đến, giữa cái lúc… Ồ! Mà!… (Giọng nàng nghe thiểu não quá) mà sao anh không đến từ trước đây mười phút?

Nàng ấp hai bàn tay che lấy m,ặt: sự lkhuây lkhỏa chàng đem tới chốc lát lúc mới vào, nay đã biến rồi, nhường chỗ lại cho lòng kinh tởm. Gođard nắm lấy cổ tay Swanhild:

- Thôi, ta ra đi! Tôi biết lúc nãy con quái vật ở trong này, có cả miss Bartendale nữa.

- Phải rồi. Nó huiện về đấy, Gođard ạ. Nhưng anh làm thế nào vào được đây thế? Mà sao quần áo anh ướt thế này?

- Tôi lội qua hào. Nhưng các chuey65n vừa rồi là thế nào?

Nàng dần dần đã định được vị trí:

- Em vừa trông thấy con quái vật. Em khiếp sợ quá, nhưng có miss Bartendale đó thì không lo nguy hiểm gì, hay là không nguy đến thân thể.

- Là vì lúc đó nó ở trong hình ngũ giác phải không?

Chàng cũng đã giữ lại bình tĩnh. Bao nhiêu điều chàng nghe biết về cái hình vẽ linh nghiệm trở đến trí nhớ chàng: không một giống ma quái nào vượt qua được những nét vẽ.

Swanhild lo ngại hỏi chàng:

- Thế anh đã biết được những điều gì rồi?

- Tôi mới biết những cái đã nghe thấy lúc cánh cửa sổ chưa đóng lại. Sau lúc ấy thì tôi tìm cách vào đây với Swanhild.

Nàng âu yếm nhìn chàng:

- Thế ư? Anh Gođard!

Rồi bỗng gương mặt sầm buồn, nàng nhắc lại:

- Sớm mười phút trước thì… Anh không nghe thấy gì khác nữa chứ?

- Không. Nhưng còn Swanhild thì Swanhild thấy những gì?

- Tôi không thể nói cho anh biết được.

Nàng không giữ được bình tĩnh nữa và sụt sùi khóc:

- Khổ quá đi thôi! Trời kia cho Oliver được sống làm gì, để phải đi đến bước ấy? Thà trời cứ để cho anh ấy chết vinh hiển ở mặt trận có hơn không!

- Đừng! Swan! Em nói thế nhưng em đâu lại nghĩ thế!

- Em nghĩ như thế đấy, thế có khổ không! Bây giờ thì em biết cụ Pháp sư và ông em tại sao lại quyên sinh sau khi…

- Swanhild!

Chàng hấp tấp chạy sang phía bàn bên kia, giữ người thiếu nữ trong tay mình, sợ nàng đến mất trí. Nàng vội nói ngay, vừa tránh xa chàng, đôi mắt long ra vì kinh hoảng:

- Không! Anh Gođard, anh đừng sợ gì hết. Phần em, thì lại không thế được nữa. Luna đã báo trước cho em biết, nhưng em phải thấy rõ sự thực em mới tin. Đến bây giờ thì thôi, không còn sự gì giữ em ở đời này nữa.

- Còn chứ. Bổn phận của cộ Cô còn phải trông nom cho một người, người ấy cũng sẽ phải biết sự thực.

Để cả tâm trí áy áy về Swanhild, Gođard đã quên mất người thiếu phụ. Trong thân áo chùng rộng màu xám buông những nếp trang nghiêm, nàng khoan thai tiến lại trông chẳng khác một đạo sĩ của những lễ giáo cổ đã mất đi.

Chàng càu nhàu nói một giọng thiếu phần nhã nhặn:

- Ấy thế mà chính tôi, tôi đã xui người ta mời bà đến đây!

Luna mỉm cười lạnh ngắt, đáp lại:

- Rồi một ngày kia ông sẽ hiểu rằng vì thế mà ông đã làm ơn cho họ đến chừng nào.

- Thì Swanhild vừa phải một phen nguy hiểm ghê gớm đấy thôi!

- Chẳng có nguy hiểm nào hết! Tôi chỉ tìm cách khôn khéo cẩn thận hết sức bảo cho cô ấy biết những điều cần phải biết đó thôi.

- Thế thì cô cũng bảo cho tôi biết với, có được không?

- Không, bây giờ thì không thể được. Nhưng sao ông lại có thể cho rằng tôi lấy làm vui trong những việc kia, mới được chứ?

Câu nói ấy của nàng đầy chua chát và mỉa mai. Swanhild quàng lấy hai vai mảnh dẻ của Luna và trách chàng:

- Gođrad, anh đừng nên làm phiền lòng Luna mới phải. Luna còn đau khổ hơn tôi nữa kia.

Luna gỡ vai rồi đi qua cái hình ngũ giác, lượm lấy cái Bàn Tay Danh Vọng và hỏi Gođard theo giọng tự nhiên lúc bình thường:

- Sao ông lai vào được đây thế, ông Covert?

Swanhild nói hộ chàng:

- Anh ấy nghe thấy tiếng tôi kêu lên, rồi lội qua hào mà đến. Ồ, giá anh ấy đến sớm được mười phút…

Luna gật đầu:

- Thì cố nhiên là hay hơn.

Nàng gói cái bàn tay vào cái túi vải rồi bỏ nó vào phiến đá rỗng lòng. Gođard chăm chú nhìn theo các cử chỉ của nàng. Bỗng chàng nói:

- Miss Bartendale ạ, lần đầu tiên cô vào trong phòng này, mới gần động chạm đến cái bàn tay kia cô cũng đã rùng mình kinh tởm. Thế mà bây giờ chính tay cô lại cầm lấy nó mà vẫn không thấy gì, cũng nên nhận rằng điều đó lạ lùng thật.

Nàng đỏ mặt đến tận chân tóc, rồi mới đáp:

- Đó là một bí quyết nữa của tôi. Ông cho là lần trước tôi giả vờ cảm động như thế, chứ gì?

Sewanhild cũng phải gắt lên:

- Gođard! Anh mà còn ngờ vực Luna nữa thì tôi không nhìn mặt anh(#1) nữa đó.

Luna:

- Ông Covert ạ, rồi sau này ông sẽ hiểu tại sao tôi có những thái độ đó. Phải vậy chăng, Swanhild?

- Tôi cũng bảo anh ấy như thế rồi. Chị mà chưa thành công hay chưa thất bại hoàn toàn, thì chỉ có mình tôi là được biết việc phải giữ kín. Anh Gođard ạ, dù anh thấy thế nào mặc lòng, anh cũng nên tin rằng không ai gặp phải một sự gì rủi ro hết, như thế anh có chịu không?

Chàng do dự đáp:

- Để anh thử hỏi ý kiến Oliver xem đã.

Nhưng Luan cực lực can:

- Không! Không vì một cớ gì được hỏi. Ông ấy không được biết một tý gì hết, đến lúc tiện nói sẽ hay.

Swanhild căn dặn thêm:

- Nếu anh mà ngỏ cho Oliver bất cứ một điều nào thì anh sẽ phải ân hận suốt đời đó. Chỉ trong vài ba hôm nữa là cùng, chúng tôi sẽ cho cả hai biết sự thực.

Gođard vẫn chưa chịu hẳn:

- Đành rằng các cô không muốn bảo gì Oliver để khỏi làm rối trí anh ấy, ừ thì cũng được. Nhưng tại sao lại giấu giếm cả tôi? Swanhild cũng thừa biết rằng hơi một chút gì lo sợ về phần em là cũng làm cho tôi phát điên lên được kia mà.

Luna lại nói:

- Chúng tôi không thể nói cho ông biết gì hết. Nhưng từ nay chúng tôi không bao giờ lại vào căn phòng này, không bao giờ lại phụ con quái vật lên mà không có ông với cả ông Hammond nữa. Chúng tôi không tìm lấy cái nguy hiểm đâu, ông nên tin cho như vậy, mà hôm nay, chúng tôi chỉ làm những điều không dừng được đó thôi.

Gođard vẫn một mực; chàng khẽ nói:

- Cô thực bí mật lạ lùng!

- Tôi cần phải như vậy đó. Bao nhiêu việc xảy ra kia chỉ phân giải trong một câu mà thôi, có lẽ chỉ trong một tiếng nhỏ.

Bất giác nàng đưa một thoáng mắt nhìn lên những chữ khắc trên phiến đá. Gođard bắt chợt được, vội hỏi ngay:

- Có phải là một tiếng cổ ngữ Anh không?

Nàng mỉm cười, bí mật:

- Có lẽ…

Chàng hỏi nữa:

- Tự tôi liệu có tìm ra tiếng ấy được không?

Câu ấy làm Swanhild kêu lên một tiếng ngạc nhiên. Nhưng Luna cũng không rời đôi mắt thấu suốt nhìn chàng. Nàng hạ giọng đáp:

- Tùy ông đấy, ông tìm, tôi cũng không thể giữ ông nổi.

- Nhưng cô chắc tôi có phần nào tìm ra được không?

- Điều đó thì tôi ngờ lắm. Tuy thế, bao nhiêu luận đề của bài tính đố ông đã biết đủ rồi đó. Vậy bây giờ ông hứa sẽ không nói gì với ông Hammond rồi chứ?

Chàng đăm đăm nhìn Luna, không ngờ vực gì những ý định của nàng, nhưng lại e rằng cái câu nói “bao nhiêu việc chỉ khám phá trong một tiếng” kia là một mưu mẹo đánh lừa chàng. Thế mà lúc đưa mắt nhìn mặt phiến đá khắc chữ quả là một cử chỉ thực, không tự ngăn kịp, và thực kỳ dị Ở một người thường vẫn thản nhiên được như nàng.

- Anh Gođard, chết nỗi, chúng tôi quên rằng anh bị ướt đẫm cả thế kia kìa!

- Không hề gì hết!

Chàng sẵng tiếng đáp lại, bực mình vì thấy những việc vừa quan trọng như thế mà nàng lại để tâm đên cái điều nhỏ nhặt này. Nhưng chàng lại hối hận ngay và nói:

- Các cô đừng giận tôi nhé.

Luna hỏi:

- Thế nào ông Covert? Ông có ưng thuận nghe theo chúng tôi không, thì ông nói dứt lời cho chúng tôi biết đi.

Swanhild cũng nói:

- Anh Gođard của em ạ, không ai việc gì đâu mà sợ, không việc gì đến ai hết, chỉ trừ có Oliver thôi, trừ có anh Oliver đáng thương và hiền lành của ta thôi. Chỉ có anh ấy mới bị con quái vật hãm hại, mà nếu miss Bartendale không thành công được thì…

Nàng nói không thành tiếng nữa.

Luna lạnh lùng hỏi:

- Thế ta đã đồng ý với nhau rồi chứ?

- Vâng, cái đó cố nhiên rồi.

Chàng yên trí rằng tai nạn đã tránh khỏi được lúc nãy và tự cho rằng mình biết được nhiều điều hơn, chứ không như miss Bartendale tưởng.

Trên lối đi chung giữa lầu, Swanhild đứng lại bảo chàng:

- Anh vào với Oliver đi! Oliver ở trong gian Holbein, đang nói chuyện với bà Yorke đấy. Rồi anh thay quần áo đi.

- Không, tôi không muốn gặp ai lúc này hết. Tôi ra lối cửa sau rồi về nhà đây.

Đối với chàng, bây giờ, mọi sự đều có vẻ huyền hồ khó tin cả. Nhưng những tiếng rú của con quái vật lại vẫn vẳng bên tai chàng. Chàng ôn tồn bảo Swanhild:

- Anh chắc ở lời hứa của em đấy, Swanhild ạ. Thôi, anh không muốn để quá lỡ bị cảm, thêm một mối lo nữa cho em.

Nàng hỏi:

- À quên, lúc nãy anh định lên lại đây để làm gì thế?

Chàng không muốn dài lời, chỉ đáp:

- Anh định đem một phần những điều dò xét được đến. Em mệt lắm rồi em ạ.

Luna:

- Cô ấy đã biết mình hết sức ngay từ lúc ông vào rồi kia! Thôi, ông Covert, xin ông về đi! Tôi van ông đó.

Chính nàng xem ra cũng đã suy nhược. Gođard không dùng dằng thêm nữa, chàng ra về ngaỵ Swanhild theo chàng ra tới sân. Nàng tha thiết nói:

- Anh nên vững tâm tin Luna và em. Rồi Luna phân giải cho anh nghe, anh sẽ hiểu hết. Nhưng em không muốn để anh về mà không… không…

- Không nghe anh nói rằng anh vẫn vững tâm tin em chứ gì? Thì anh tin em lắm, em ạ.

- Bây giờ thì anh về mau mau lên!

Nàng trở vào rồi chàng đi về phía cầu hào lấy chiếc áo choàng còn để đó. Những ý nghĩ trong đầu chàng không được rõ rệt. Chàng chỉ biết chắc được rằng Swanhild không việc gì nữa và chìa khóa sự bí mật thì ở trong một tiếng khắc trên phiến đá kia.

Chú thích:

(1-) tôi không nhìn mặt anh: nguyên văn “tôi sẽ thù anh đó”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Về đến nhà rồi, Gođard vừa thay quần áo khô xong và ngồi trong phòng sách dưới ánh đèn thân mật, là chàng đâm ra nghĩ ngợi và ngạc nhiên với nghi hoặc hoài, chỉ có tiếng gầm quái gở với tiếng kêu khóc tuyệt vọng của Swanhild mà chàng còn nhớ cho chàng tin rằng lúc nãy không phải là chuyện chiêm bao.

Cả thái độ cư xử của chàng cũng thấy không thể hiểu được. Đáng lẽ chàng bảo ngay cho Oliver biết và bắt buộc hai người đàn bà đem việc giữ kín ra nói với chàng mới phải chứ? Đáng lẽ chàng có trăm ngàn điều làm mà chàng đã bỏ qua.

Đến lúc chàng bình tĩnh dẹp được sự bối rối suy xét, nhận ra rằng thái độ của chàng như thế là phải. Swanhild và Luna không việc gì, hai người hứa với chàng sẽ không làm lại việc kia một mình nữa, vậy thì chàng phải yên lòng mà tin lời hai người.

Chàng lại nghĩ: ở trần gian này liệu có giống nào đã rú lên được những tiếng mà chàng nghe thấy chăng? Những truyền ngôn cũ lại hiện đến trí chàng: nào ông tổ truyền kiếp, nào giống vật nửa người nửa thú cách ít lâu lại thác sinh trong dòng họ nhà Hammond và bị nhốt vào căn phòng kín, nào những người chết, sống lại, thành những giống trùng hút máu người… Chính miss Bartendale cũng nói đến một sự thực đáng ghê sợ không xa những chuyện phao đồn kia lắm. Còn về việc vong hồn hiển hiện thì chàng là người rất thiết thực, không hề tin.

Một điều khiến chàng để tâm là Luna với con quái vật đều ra khỏi phòng trong cái thì giờ chàng phải qua cái ngạch nước thông dưới trường. Con quái vật biến đi hay sao? Cái tiếng “xuất ngoại tinh chất” lướt đến ý nghĩ chàng. Miss Bartendale liệu có phải dùng đến cách này để làm xuất hiện vật hư ảo chăng? Chàng không nghe tiếng Luna trong lúc có tiếng rú: hay lúc ấy nàng đã ra ngoài phòng rồi?

Sau nữa, chàng lại không biết thế nào mà đoán về cái câu Swanhild reo lên: “Gía anh đến sớm được 10 phút nhỉ!” Mà Luna cũng đồng ý mong mỏi này.

Bấy nhiêu điều có vẻ trái ngược nhau. Nhưng rút lại chỉ có điều sau này, chàng thấy quan hệ hơn cả: hai người đàn bà liệu có được vô sự trong lâu đài Dannow không? Một sự nhầm lẫn của miss Bartendale hay bất cứ một sự rủi ro nào cũng vẫn có thể xảy ra được.

Gođard gọi điện cho Oliver xin lỗi đã làm phiền chàng và hỏi chàng về những công việc ngày hôm sau. Trong lúc nói chuyện, Gođard cho len vào câu hỏi mà chàng vẫn băn khoăn nghĩ ngợi mãi, thì Oliver cho chàng biết rằng Swanhild với Luna mệt nhoài vì cả một ngày làm việc vất vả. Sau bữa cơm tối, trong chàng ngồi nói chuyện với bà Yorke, thì em gái chàng rủ Luna vào nhà kho, rồi lúc trở ra thì nàng mặt mày xanh như sắp ngất.

Gođard không lấy làm lạ. Người thiếu nữ bị khuynh động dữ dội và sự hoảng loạn của nàng đủ để cho chàng hiểu cái lẽ quyên sinh của những người đã trông thấy con quái vật. Nhưng đã thế, thì sao nàng lại tiếc ra rằng Gođard không được gặp thấy nó? Dù sao, trong vài ba hôm nữa chàng sẽ biết rõ. Vài ba hôm nữa! Từ nay tới đó biết bao nhiêu chuyện có thể xảy ra được! Cả cái tiếng mà miss Bartendale nhắc đến cũng khiến chàng nghĩ ngợi hoài: có phải nàng tưởng đến cái tiếng thiếu mất ở đầu câu thứ ba trong bài hát chăng ?

Gođard định tâm tìm trong tự điển tất cả các tiếng sáu chữ bắt đầu bằng chữ C, G, O, Q và chữ cuối cùng là L hay là Z. chàng chắc hẳn sẽ không buồn ngủ được và tức khắc khởi công tìm. Nhưng chàng là một gã trai trẻ, người khỏe mạnh, không phải lo lắng về phần Swanhild lắm nữa, mà một quyển tự điển thì không còn gì làm đờ đẫn người hơn. Dần dần, đầu chàng gục lên tập sách dầy. Chờ mãi đến sáng ngày, nghe thấy con chó cào mãi cửa phòng sách, chàng mới thức dậy.

Trống ngực đập rõ, chàng tức khắc gọi điện thoại đến lâu đài Dannow. Tiếng nói bình tĩnh rõ ràng của Oliver cho chàng biết không có gì đáng ngại hết, duy có Swanhild là thấy bối rối một cách lạ lùng. Bốn người ở đằng ấy đang lại khởi công lục lọi các bản cảo cũ và chàng rủ Gođard đến giúp một taỵ Nhưng Gođard chối từ, chàng muốn soát lại một vài điều trước khi đem những điều chàng dò tìm được cho mọi người biết.

Được những tin vững tâm kia, sau lúc tắm gội và ăn điểm tâm rồi, chàng thấy khoan khoái, phấn khởi: chàng không áy náy như trước nữa,. Miss Bartendale mà bình tĩnh được đến thế trong căn phòng kín cả trong lúc cầm cái bàn tay ướp kho, tất hẳn là vì nàng có thể trấn áp được những tà lực hung ác đó. Nhưng cứ phải ngồi mà chờ đợi những điều người ta sẽ nói cho chàng biết thì không thể giải thích lấy một mình.

Qúa trưa, gặp một đoạn khó khăn khá lớn bắt chàng ngừng lại., Gođard đi dạo bên ngoài một lát và gặp Swanhikd cũng muốn hưởng một lúc trời quang. Nàng giật mình khi chàng tiến gần lại. Swanhild gượng gạo hỏi:

- Hullo(#1) , Gođard!

Giọng đổi khác của nàng nhận thấy cũng dễ dù ở trong tiếng chào vồn vã. Trông nàng như già đi, nhọc nhằn hết cả hơi sức.

- Ồ, Swanhild! Rõ may mắn chưa! Anh chắc hai ta cùng muốn chuyện trò với nhau một lúc trước khi gặp mặt bọn kia.

- Em… ấy, … À anh… anh tưởng…

Nàng liếc mắt, không dám nhìn thẳng chàng:

- Em nghĩ rằng ta tránh gặp nhau trong ít lâu thì hơn.

- Được, cái đó anh xin tùy em. Có lẽ như thế tốt hơn thực.

- Anh Gođard! (Nàng vừa nói vừa âu yếm cầm lấy tay chàng). Anh bao giờ cũng hiểu lòng em!

Không có gì khác thường trong vẻ người của nàng, duy chỉ thấy đôi mắt quầng thâm, trong đó lộ ra một sự thất vọng ghê gớm. Song mới từ hôm trước đến hôm nay mà nàng già hẳn đi đến mười năm trời!

Chàng xót thương bảo nàng:

- Em ạ, anh hiểu em là vì anh yêu em. Nhưng anh chắc rằng cái điều miss Bartendale, giữ kín là một sự nguy hiểm.

- Không bao giờ xảy ra việc gì được, nếu Oliver cứ giữ đúng lời hứa tránh xa khu rừng và căn phòng kín.

- Nhưng cứ cấm đoán như thế suốt đời được sao!

- Đàng thế. Dẫu sao Luna với em đợi vài ba hôm nữa đã, còn thì nhất định không nói một điều gì cho anh ấy biết vội. Về phần anh, anh cũng đừng nói gì hết nhé!

- Được, anh nghe rồi. Nhưng em cũng nên biết anh áy náy đến chừng nào!

Nàng ngượng ngùng nhìn bạn:

- Gođard ơi, về việc nhân duyên của đôi ta em muốn nói cho anh biết trước điều này: nếu có ai bị buộc vào tội ám sát cô Kate, nếu Oliver với em phải nói rõ sự thực, thì…

Nàng ngưng bặt, đuối nhược quá, đôi mắt chứa đầy vẻ kinh hoảng. Chàng tái hẳn người đi, đón hỏi:

- Thì em trả lại lời giao ước cho anh sao? Thế ra cớ sự kia ghê gớm đến thế kia ư?

- Vâng ghê tởm hết sức! Các báo sẽ gây thành một vụ vỡ lở nhục nhã vô cùng!

- Thôi, em đừng nói nữa. Về phần em, anh không muốn em sẽ phải theo một cuộc sum vầy vội vã, nhưng nếu tình thế bắt buộc thì anh sẽ xin một phép giá thú đặc biệt. Anh muốn có quyền được công nhiên chia sẻ nỗi lo buồn với em: anh lại cho rằng Luna mà bỏ Oliver giữa đường thì thực là hèn lắm.

Swanhild ngửng phắt đầu lên:

- Gođard, em cấm anh không được nói thế đấy! Hai người ấy không thể còn mong gì với nhau được nữa.

- Sao vậy? Đôi bên vẫn mến nhau kia mà…

- Từ đêm vừa rồi thì tình thế đổi khác hẳn.

Chàng khẽ nói:

- Trừ có em với anh.

Hai người đã bỏ đường rộng đi tới một chỗ có bóng cây tọ Swanhild gieo người ngồi lên một thân cây để úp mặt vào hai bàn taỵ Gođard đến ngồi bên cạnh nàng. Một lúc lâu, nhờ có sự âu yếm thầm lặng kia phấn khởi lòng, nàng mới nói:

- Giá em mà có thể nói được hết mọi điều với anh thì cũng cam.

- Thôi, không nhắc đến chuyện đó nữa. Anh đố em biết em đã tìm được gì rồi nào.

Nàng khẽ reo lên:

- Lập cảo của Culpeper!

Chàng lắc đầu:

- Phải, nhưng ta không nên mừng vội. Bản thuật lại việc cụ Pháp sư khai ngôi mộ cổ với các việc do đó mà xảy ra, nhưng bản ấy không cho thấy một tia sáng nào về con quái vật cả.

- Thế thì Luna nói đúng đấy. Đi, ta về nói chuyện này cho chị ấy biết đi!

- Thì anh đến cũng để nói việc ấy. Nhưng anh chỉ sợ rằng chúng ta lại bị những “bím tóc vàng ánh” kia đánh lừa thôi.

Chú thích:

(1-) Hullo: Tiếng chào hỏi thân mật lúc gặp nhau.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Vào tới gian Holbein, trong đó Oliver, bà Yorke với cô cháu gái của bà đang nói chuyện, việc thứ nhất của Gođard là đưa mắt nhìn bức chân dung của Warlock treo trên tường.

Luna vẫn giữ thái độ thường ngày; dịu dàng và vô tư lự. Tuy thế, chàng cũng nhận thấy một vết nhăn sâu vừa xuất hiện ăn ngang trên vùng trán nàng.

Oliver bảo chàng:

- Buổi sáng nay chúng tôi không tìm được cái gì đáng để ý cả, Swan chắc cũng chẳng nói chuyện cho anh biết rồi.

Gođard:

- Tôi thì may mắn hơn đôi chút. Tôi đã dò được một bài thuật sự dài (chàng ngoảnh nói với Luna) mà có lẽ cô thấy có ẩn một nghĩa kín: đó là bài kể thuật lại việc cụ Magnus khai ngôi mộ.

Ồ! Thế à?

Bà Yorke với Oliver đồng thanh kêu lên, trong khi đôi mắt của miss Bartendale lóng lánh sáng. Nàng nói:

- Hay lắm đó. Ông đem tập cảo tới đó phải không?

- Tôi đã chắp, dán từng đoạn ở nguyên bản lên một tờ giấy bóng, nhưng khó đọc lắm. Vì thế tôi mới biên thành một bản tóm tắt để đọc cho cô nghe. Rồi sau cô dò xét ở nguyên bản cũng được.

Oliver cố gắng hết sức, đem kéo ghế quây quần lấy chung quanh chàng. Gođard nói:

- Culpeper thoạt tiên trình bày cái việc nó đã khiến ông ta để công tra xét. Hình như nhà quý phái ở Dannow, là Sir Gilbert Hammond, một đêm kia đã cùng người con trai nhỏ tuổi nhất, đi từ Dannow hạ thôn trở về nhà. Nhưng chỉ có một trong hai con ngựa trở về lâu đài cổ và bị cào xéo rất kinh khủng, mà trên lưng không có người cưỡi. Tức thì người ta chia các ngả đi tìm và thấy trong khu rừng cậu Hammond, một cậu con trai mười ba tuổi nằm chết và bị ăn mất nhiều chỗ ở mình. Thi thể Sir Gilbert Hammond với xác con ngựa thì nằm ở đường cái, ngay chỗ núi Beacon thoải xuống. Theo các điều nhận thấy thì biết rằng người ngựa đều bị hại vì chống nhau với con quái vật, vì cạnh sườn con ngựa bị cào nát. Ông Culpeper mới đến Dannow xem vì có lời mời của bạn ông là Reginald, con trưởng cụ Gilbert; Reginald hồi ấy có tư tưởng bảo hoàng nên phải ẩn một nơi, không dám ra mặt. Đây, tôi đọc cho mấy người nghe những đoạn rút ở một “bức thư của Nicholas Culpeper, viết ở nhà hàng Sư Tử đỏ, Spitafield Lenden, gửi cho ông Reginald Hammond, không rõ địa chỉ, ngày tháng mười hai năm 1651. dòng đầu thư bị cụt mất, đây tôi đọc những hàng tiếp theo:

“… câu chuyện người ta kể lại rằng họ Hammond là một dòng giống trùng hút máu. Và nếu một người trong chi họ chết non thì thuở sinh thời y đã đúng tuần cữ, hút được máu người sống nhiều chừng nào là y có thể sống mãi trong mộ được lâu chừng nấy. Đó là những lời mọi người kể lại ngụ ý chỉ đại huynh của ngài là ông Oliver,(#1) bỏ mình trong trận Wecester và an táng ở đấy hai tháng về trước.

“Tôi khởi cuộc điều tra vào hồi trăng tròn, xét rằng như thế hợp ích cho công việc. Tôi chủ tâm ghi lấy đúng những ngày nào giờ nào con quái vật xuất hiện từ xưa đến ngày nay, để có thể nhờ phương pháp thần bí của khoa chiêm tinh mà tìm ra được một phép linh nghiệm ngõ hầu đời gìn giữ được ngài, hỡi Reginald quý hữu, rồi những ngài chủ nhân sau này của đất Dannow khỏi gặp những tà ma, vong linh, hiện hồn, yêu tinh quỷ quái và các linh hồn khác”

Gođard phải ngừng lại để thở. Chàng giảng giải:

- Đến chỗ này có một khoảng lớn bị rách mất. Mà cái đoạn mở đầu vừa rồi tôi cũng không được rõ nghĩa lắm.

Luna…

- Rõ đấy chứ. Culpeper là một nhà chiêm tinh học có tiếng, ông trông ở khoa học ấy để định rõ được căn nguyên con quái vật, cũng như tôi vẫn nhờ đến khoa khảo cổ học và thôi miên học ấy mà. Ông đọc tiếp đi.

- Từ đoạn này, tôi chép thành lối văn mới cho tiện.

“Tôi đã điều tra các trường hợp khi cụ tổ ba đời nhà ông gặp thầy con quái vật. Theo những cảo cũ nhà ông thì cụ gặp nó ngày mười tháng Mười Một năm 1556. Ông cụ thân sinh ra cụ đã gặp nó từ ngày tám tháng hai năm 1526, còn giờ nào thì không thấy nói đến, ở lần trước cũng như lần sau. Sau khi được nghe một câu của thân mẫu ông nói cho biết mọi điều, tôi đi hỏi các người lân cận nhà ông ở Dannow, ở Danny và ở Newtimber và sau cùng tôi biết rằng ở Steying vẫn còn sống một người tên là Jos Blount, lão khoe rằng ngày còn trẻ đã quen thân với John Slinfold là con đồng của Magnus Pháp sự Người tên là Blount này, làm nghề thầy lang, vẫn nhất định không bao giờ chịu nói gì về những điều Slinfold đã kể lại với lão. Nhưng tôi cũng cứ đến Steying tìm lão và được Mr. Willian Blount, một người đàn ông trạc tuổi tôi, đón tiếp nhã nhặn, Willian Blount cũng làm nghề thầy lang.

Willian dẫn tôi đến nhà cụ tổ ba đời của ông ta, một cụ già sọm, bé choắt, nhưng đôi mắt còn giữ được vẻ tinh anh trẻ trung lạ thường. Người cháu nói tên tôi với cái mục đích tôi đến thăm cho ông cụ biết, rồi ra.

- Chính phải đó, ông Culpeper ạ (đó là lời ông cụ Jos Blount bảo tôi) chính tôi đã học tập ở nhà ông John Slinfold trước đây chín mươi năm rồi đó. Đến lễ Dâng (mồng hai tháng Hai) sang năm tôi sẽ đúng một trăm linh chín tuổi, con trai tôi thì lại chết già từ ngày lễ Saint Martin rồi.

Tôi nói:

- Cụ Blount ạ, tôi chỉ sợ làm phiền vô ích. Vì cái việc tôi muốn biết đây đã lâu quá mất rồi.

- Không, ông đừng tưởng thế. Đời người như một vở kích khéo đóng mà người ta chỉ nhớ có đoạn mở đầu với lúc hạ màn thôi. Đến nay lão vẫn nhớ được cái mùi kẹo ngậm với bánh bột hạnh nhân hồi còn bé vậy mà lão ăn những gì hôm qua lão đã quên mất rồi! Lão có thể kể lại cho ông nghe đúng từng lời mà ông Slinfold đã nói với lão năm 1559. Hồi ấy Slinfold bắt được lão đang đọc trộm một cuốn sách Ảo thuật, ông ấy nổi giận và cấm lão không được đọc nữa. Ông ấy bảo lão thế này… “Từ bảo thạch tràng sinh người ta bị lôi kéo dần đến tà thuật, tôi có thể lấy ngay cái gương mẫu của ông cố chủ tôi là Sir Magnus Hammond kể cho anh coi. Sir Magnus là một vị quý tộc can đảm và đức hạnh đã làm danh dự cho nước Anh và xứ Sussex; vậy mà tên của người chỉ vì những sự dại dột của người mà thành nguyên do bao nhiêu khủng khiếp cho con cháu về sau”. Lão năn nỉ ông Slinfold kể chuyện cho lão nghe. Ông ta kể:

“Sir Magnus không chè rượu, không bao giờ nhìn một người đàn bà nào khác ngoài vợ mình, ngài coi rẻ vinh hoa, phú quí. Làm tướng có ra trận, ngài chiến đấu oanh liệt ở Beswerth. Vua Harry Richmond ý rất muốn với ngài thủ chứa trong triều nhưng Sir Magnus ưa sống ở Dannow hơn và chuyên tâm đọc sách khảo cứu.

“Hồi ấy tôi mồ côi, nên Sir Magnus đem tôi về nuôi nấng, rồi trong bao năm trời tôi làm con đồng đọc những trang triệu hung cát trong thiên lý kinh cho ngài. Ban đầu, công việc của ngài thực vô hại: ngài chỉ tìm đá luyện trường sinh cho vua Harry thôi, riêng phần ngài, ngài mong tìm được trường sinh dược tửu. Suốt năm suốt tháng ngài sống giữa những dược cao, bình cất, những gà nuôi bằng rắn độc và cho uống dấm, với bao nhiêu cái dị kỳ. Khi tôi không ở với ngài nữa thì hình như ngài đang chuyên học hắc thuật và cúng tế ma quỷ cũng như giáo chủ Retz bên Pháp, nhưng ta không có gì làm bằng. Tôi biết là biết những việc ngài làm trong mộ các đạo sĩ Chủ tế ngày xưa kia!

“Theo lời đồn từ xưa, trong mồ này có một kho củalớn, kẻ thì bảo là có Bò Vàng của Aaron, kẻ thì bảo là những bình tế lễ của các Đao sĩ. Khi Sir Magnus gọi tôi, đến bàn việc ngài muốn khai mồ thì tôi có nhắc ngài nhớ rằng con quỷ giữ ở trong mồ xưa nay vẫn không để ai phạm được tới. Nhưng Sir Magnus liền cười mà bảo tôi rằng: “- Này Jack, ta tìm được bao nhiêu vàng ở trong đó đều cho mi hết để đền công mị Phần ta, ta chỉ tìm cái bảo bối với câu bùa để khiến những tâm linh hiện lên hay biến đi theo ý muốn của ta thôi”. Rồi hai mắt lóng lánh lên, ngài lại nói: “Thế nào ta cũng thành công Jack ạ, mà ta sẽ dùng những quỷ thần ấy một cách khôn ngoan hơn thầy Faust nữa(#2) kia! Ta sẽ sai khiến họ lấy dâng ta luyện thạch bảo bối và thuốc trường sinh. Đến lúc ấy thì không một vị đế vương nào là không sẵn lòng đem hết của cải để đổi lấy phép bất tử. Mà ta thì sẽ làm hoàng đế cả thế giới. Rồi biết đâu đấy, độ vài ba thế kỷ nữa, đến năm 1800 chẳng hạn hay sang năm 1900, những sứ thần các nước chư hầu có lẽ sẽ đến bái chúc ta trong những căn phòng hèn hạ Ở lâu đài Dannow này. Thế rồi họ ban tước lộc không biết bao nhiêu mà

Gođard ngừng lại lần nữa và bao nhiêu con mắt đều bất giác nhìn về bức chân dung của Magnus. Oliver tấm tắc nói:

- Sống muôn đời… Làm chúa tể Trái Đất! Có quyền kiểm sát thế gian và quỷ thần! Ồ! Chỉ vì lòng ham muốn đáng sợ kia xúi giục ông cụ khai tìm trong ngôi mộ!

Luna gắt đáp:

- Phải! Thế rồi ông cụ phải đến nước van xin hậu thế cầu nguyện cho linh hồn mình. Ông đọc nữa đi, ông Corvert.

- “Nhưng dám bẩm cụ lớn (tôi dịu lời thưa với Sir Magnus thế) làm thế nào mà cụ lớn lại biết rằng câu thần chú ấy giấu ở trong Thunder s Barrow? Được, để ta giảng giải cho mi biết. Nhờ có cuộc đời hãm mình trong kham khổ, cụ Ẩn tu, cụ tổ nhà ta, đã luyện được phép giam giữ con quái vật trong mồ. Vì thế, từ ngày cụ mất, con quái vật không còn quấy nhiễu dòng họ nhà ta nữa. Một linh vật lâu đời như nó và cái quyền hư nó thì làm cách nào mà xích lại được nếu không nhờ có phép yểm thế của Salomon là đấng đã cai quản được các thần linh về bên chính cũng như bên tà? Vì thế ta mới muốn tìm trong mộ những dấu hiệu và cái câu thần chú giữ ở đó.

- Nhưng lỡ đánh xổng con quái vật thì sao?

- Không sợ, vì ta sẽ không thay đổi động chạm đến vật gì trong đó. Ta chỉ vẽ lấy một bức họa rất cẩn thận để đem về nhà bình tĩnh dò xét thôi.

- Tôi chưa chịu ngay, hỏi thêm nữa.

- Bẩm, trước kia người ta cũng đã tìm tòi trong mồ nhiều lần rồi. Con quỷ kia không để người ta thấy có gì trong ấy hết.

- Sir Magnus cười:

- Ta có những thứ bảo vệ giỏi hơn các tiền bối của ta: ta sẽ mang theo một bàn tay danh vọng.

- Thế ra là tà thuật rồi sao?

- Jack! Ta là chủ nhân, ta sẽ chịu trách nhiệm về mọi sự.

“Đến đêm, Sir Magnus đến chỗ cột hành hình dựng ở trên núi người khổng lồ và cắt một bàn tay của Will Stredwick là người bị xử giảo ba hôm trước vì tội giết người…”

Gođard nói:

- Đoạn này ngừng lại chỗ này, còn đoạn sau bắt đầu ở giữa câu:

“… và ở đầu những ngón tay thầy trò chúng tôi gắn những mồi nến làm bằng mỡ nấu ở cái xác của Will. Xong đâu đấy, thầy trò chúng tôi đến Thunder s Barrow đêm đầu tháng Hai, mang theo cái bàn tay, một cái xẻng và một cái cuốc. Ông chủ tôi nhận lấy việc xách đèn và vác một bao lớn đầy những đất đã làm phép lấy ở nghĩa trang. Mỗi người đeo một vòng kết bằng cỏ hái ngày lễ Saint Jean để ma quỷ sợ, với những nhánh tỏi giắt ở thắt lưng. Con chó săn lớn của Sir Magnus cũng đi theo. Tới mộ, thầy trò chúng tôi rải đất thành ra một bên rồi Sir Magnus lấy túi gươm vạch xuống đó một hình sao ngũ giác. Ngài bảo tôi rằng đứng trong những vạch ấy thì ta không lo tai nạn gì. Nhổ bật được mấy thân cây thì thấy đến một lần đá phấn, rồi đến một phiến đá lát. Ngài không thấy trên mặt đá có ấn hiệu của Salomon nên lại để vào nguyên chỗ rồi lại đào thêm. Giữa lúc đó, những mồi nến cháy gắn trên bàn tay danh vọng tất cả, làm thầy trò chúng tôi phải ngừng taỵ Hai người đến gần sáng mới trở về nhà để nghỉ ngơi và đúc những mồi nến khác.

“Đêm thứ ba, gió thổi mạnh. Thời tiết đóng giá và trên trời lấp lánh đầy sao. Phải đào một lỗ hỏm ở trong vạch huyệt để cho ngọn lửa khỏi bị tắt. Vào khoảng nửa đêm hai thầy trò chúng tôi đào thấy một hình tượng lớn mà thoạt trông tưởng ngay là Bò Vàng…”.

Oliver vỗ tay nói:

- Ồ! Miss Bartendale! Cô thực đã đoán được hết tất cả!

Bà Yorke bảo:

- Ông Covert, ông đọc nốt đi. Cái nhà ông cụ người cổ kia, cũng lạ lùng lắm đó.

Chú thích:

(1-) Oliver: Trùng tên với Oliver, anh Swanhild bây giờ

(2-) Thầy Faust: Một nhân vật kỳ dị, người Đức, bán linh hồn cho quỷ Mephisteles để đổi lấy phú quí và hạnh phúc, kể cho Jack Slinfold, vị thủ tướng bất tử của đức Magnus Hammond, hoàng đế bất tử của Trái đất, của Cuộc đời và Thời Gian vĩnh viễn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


“Rồi sau thầy trò chúng tôi đào thấy một mặt ván, Sir Magnus thấy không có dấu hiệu gì trên đó mới sai tôi bẩy ván lên. Tôi kinh sợ lắm nhưng Sir Magnus nói cho tôi vững tâm rằng không việc gì mà sợ, vì con chó không tỏ vẻ gì là lo sợ cả.

“Ngài tìm một khe ván ghép, lách mũi cuốc vào đó rồi hết sức ấn xuống. Để có rộng chỗ, ngài bảo tôi lên khỏi huyệt. Mấy mồi lửa nến được kín gió nên cháy thẳng ngọn, trong khi ấy gió bao vây quấn lấy người tôi dồn lăn những tiếng cành gẫy và bụi cây xào xạc. Sau cùng Sir Magnus nậy lên được một tấm ván. Một hơi gió tù hãm hôi thối ở dưới hố xông ùa lên khiến tôi quay đầu đi và làm tắt những mồi nến.

“Tôi mê mẩn tâm thần đi mất một lát. Bỗng nhiên tiếng hét lên của Sir Magnus làm tôi tỉnh lại:

- Nó đến đấy! Nó đến đấy! Cút ngay, Satan nhân danh Cha và Con Thánh Thần! Phải coi cừng đấy, Jack! Đứng vào chỗ đất thánh kia, mau!

“Tiếng thét lớn của ngài đưa từ dưới huyệt lên, the thé chẳng kém gì tiếng kêu của đàn bà. Con chó bắt đầu rền rít. Thốt nhiên thoát ra một thứ tiếng kêu không phải là cười, không phải là khóc, không phải tiếng người, không phải là thú, hay tiếng quỷ quái mà là có đủ thứ các thứ tiếng kia. Thoắt một bước, tôi nhảy vào giữa chỗ đất phép, nắm lấy quai đèn và đứng lặng ở đó, mấy nhánh tỏi lăm lẳm trong taỵ Tiếng gầm quái gở kia vẫn từ dưới huyệt đưa lên, lẫn với tiếng con chó cứ rít. Rồi tôi thấy Sir Magnus lên khỏi huyệt trước một tia sáng của ngọn đèn., ngài quay mình lại vung cái gậy lớn cứ nhè nhè phía sau mà phang. Ngài đứng được một lúc thì quỵ xuống, ngã gục trên đám đất thánh, ngay bên cạnh tôi, tôi lại vạch một hình ngũ giác nữa quanh hai thầy trò tôi; trong khi ấy thì ngài thở cho lại sức. Rồi hai thầy trò mỗi người ngồi cạnh một phía đèn, ánh sáng chiếu lên hai bộ mặt kỳ dị và kinh khiếp. Sir Magnus thì nước mắt tầm tã, quần áo rách mướp, máu me nhễ nhại, bàn tay với cánh tay đầy những vết thương. Ngài hầm hầm lẩm bẩm nói:

- Nó chạy mất rồi! Ta không biết nó hình thù thế nào, cũng không biết nó đến như thế nào. Chỉ thấy như sự gì tiến lại gần ngay khi mồi nến vụt tắt, rồi trong vừng tối tăm hung đỏ, ta cứ như người nhắm mắt mà chống cự, cào cấu vung lên. Thế rồi ta trông thấy ánh sáng đèn.

- Bẩm, thế còn con chó thì sao?

- Thì nó cũng chống cự như ta.

“Tôi nhìn ra thì thấy con chó tội nghiệp ấy nằm ở phíc trước mặt tôi; nó chết rồi, mình bị xé nát trông rất kinh sợ. Đầu con chó gần như bị rứt đứt. Thấy cảnh tượng ấy, Sir Magnus thở ngắn than dài mãi rằng con chó bị hại chỉ vì đã trung thành với chủ. Ngài kéo con vật lại chỗ hai người chúng tôi để thi thể của nó không bị phạm đến nữa. Rồi ngài lại vẽ lại cái hình ngũ giác mà nét vạch hơi bị xóa nhòa…”

- Hay đấy! (Lời Oliver) cử chỉ kia đủ để chứng rằng Magnus chưa hẳn đã quá hư hỏng. Phải thế không, miss Bartendale?

Luna nhìn chàng một vẻ lạnh lùng. Swanhild thì cau mày. Gođard lại đọc tiếp:

- Bẩm, bây giờ thì ta làm gì ạ? (Tôi vừa hỏi vừa soi mói nhìn vừng đêm đen tối trong đó kẻ thù có lẽ đang ngồi rình)

- Đợi cho trời sáng.

Ngài trả lời rồi đưa ngọn đèn cẩn thận chiếu sáng chung quanh. Đèn vẫn sáng mãi đến lúc giải trời ban mai lờ mờ hiện sau vừng cây cối. Thầy trò tôi tưởng chừng như ngồi đó chờ đợi đã cả một đời người. Ngài bảo tôi:

- Jack ạ, thầy trò ta đi vào huyệt xem xét xem có những gì đi. Cái vật xổng mất đêm vừa rồi không thể tác hại được khi có ánh sáng ban ngày nữa. Nội hôm nay ta phải xong việc mới được.

“Thầy trò chúng tôi khai một ngôi mộ ra xem: dưới một tấm ván, một bộ xương nằm an giấc trong bộ áo giáp, đầu quay về hướng tây. Bộ giáp bằng da gò có đeo những khuy bằng sắt hay bằng sừng đập dẹt. Sir Magnus lúc đánh nhau với con quái vật đã dẫm gẫy một xương đùi và đã rải rác ra chung quanh những mảnh giáp chân và đôi giầy. Phía trên bộ giáp có một cái mũ trụ bằng đồng dát vàng, trong mũ thò ra hai bím tóc lớn màu hung nâu. Một cái khiên tròn mang dấu thập tự của tướng hiệu đậy lên bím tóc tay trái, một thanh gươm lớn và to bản, đã hoen rỉ hết, thì đặt chéo đè lên bím tóc tay phải. Ngang trên đùi, một cái búa chiến; giữa hai chân, một cái cán tay gươm mạ vàng và chạm trổ, với một miếng đồng lớn đúc theo hình một chiếc lá gẫy làm ba đoạn.

Sir Magnus mơ màng khẽ nói:

- Ta biết rằng ngày xưa đã có một thời các vị quí tộc vẫn mang bím tóc. Tiếc thay! Con quái vật từ nay đã xổng, mà sự tai hại đã gây nên mất rồi! Vậy ta có thể mang được thanh kiếm vàng rất đẹp này về, vì có những chữ khắc trên đó xem chừng ta đã biết quạ Phải đó là nhờ vong linh vị tổ tiên của ta ở đây mách bảo ta chăng? Mà ta biết chắc chắn rằng ta đang đứng trên sàn một chiếc hải thuyền, ta lai biết rằng cái hình tượng kia là một thứ hình ở đầu mũi. Jack ạ, tại sao ta lại biết được những điều ấy nhỉ?

Oliver vội ngắt lời:

- Tôi cũng đã biết như thế.

Luna bảo chàng:

- Những ký ức tổ truyền ở ông cũng là những ký ức ở cụ Pháp sư đó.

Gođard nói:

- Bản đại lược của tôi đến đây là hết. Đoạn tiếp theo, tôi chỉ dò xét qua loa thôi. Sir Magnus với Slinfold về sau lấy đất nghĩa trang phủ lên bộ xương khô rồi trả lên mặt ván sau khi đã đậy lại nguyên chỗ, rồi sau cùng lấp kín huyệt lại. Cụ Warlock nói cam quyết với người thợ giúp cụ rằng cụ không trông thấy con quái vật một lúc nào, mà nhờ có điều ấy, cụ mới khỏi chết. Ngay sau việc này, Slinfold mất hẳn cái khiếu xem thiên lý kinh và xin vào học nghề ở nhà một thầy lang. Hắn chắc rằng cụ Pháp sư lấy con trai cụ làm con đồng và trong một phiên phụ đồng con quái vật thình lình hiện đến. Lòng hối hận đã để nó xổng đẩy Sir Magnus đến sự quyên sinh. Bản cảo từ đây trở đi không thể nào đọc được nữa, thành thử ta không biết Cukpeper kết luận ra sao. Đáng bực mình thực (vừa nói chàng vừa xếp lại tập giấy)vì ông Culpeper này cũng chẳng cho ta biết được điều gì lạ lắm.

Luna đáp:

- Không, ông lầm. Những tài liệu không được việc cho ông Culpeper ba trăm năm về trước lại rất có ích cho tôi ngày nay đó. Thôi, bây giờ tối rồi, chắc những bọn tò mò đã không còn trên gò nữa. Vậy ai muốn đến Thunder s Barrow tìm cho tôi phiến đá trên có khắc những cổ tự nào?

Gođard hỏi:

- Thế nào? Lấy đem về…

- Phải, lấy phiến đá mà lúc tìm thấy cụ Pháp sư đã bỏ quạ Ông không nhớ những lời cụ nói sao?

- Ông cụ nói rằng cái dấu Salomon không có trên phiến đá…

Nhưng vừa nói thế Gođard đã ngừng bặt: chàng chợt hiểu hết ý nghĩa của câu vừa rồi.

- Ừ nhỉ, tại sao ông cụ không nói ngay là phiến đá nhẵn mặt, mà lại nói thế nhỉ?

- Ấy đó! Là vì tuy không có cái dấu yểm phép nhưng mặt đá có khắc chữ. Phiến đá hẳn có trong khoảng ta tìm tòi. Ông với Swanhild có thể tìm thấy dễ lắm; còn ông Hammond sẽ giúp hai người mang về.

Mọi người liền lên xe hơi đi cùng với hai cái xẻng và một giờ sau phiến đá đã đặt nằm trên mặt cỏ trên gò. Phiến đá bề dài cũng bằng một tấm bia mộ thường, nhưng dầy gấp đôi và bề ngang chỉ bằng một nửa. Luna đã đem theo hai cái chổi quét sơn và một bản sao chép những chữ cổ trên thanh gươm. Nàng quỳ xuống, chải sạch đất ở những chữ đục sâu trên mặt phiến đá. Rồi nàng bắt đầu ra hiệu cho Swanhild và đưa mắt cho nàng ra vẻ đắc thắng. Những chữ khắc kia thấy đúng in như những chữ trên đốc gươm.

Oliver hỏi:

- Có phải chính là cái cô vẫn ước ao tìm được đó không?

- Tôi chưa thể nói gì chắc chắn bây giờ được, ông Hammond ạ. Phiến đá này ta không thể giao cho sở hỏa xa được. Vậy tôi lấy máy ảnh chụp rồi gửi một bản cho giáo sư Meikellin theo chuyến xe lửa thứ nhất vào sáng mai.

Oliver trách:

- Ô! Nhưng mà cô hứa ở lại đến chiều mai kia mà!

Nàng cười.

Thấy Gođard có vẻ hoài nghi, nàng hỏi:

- Ông thấy tôi cho việc tìm ra được phiến đá này quan trọng sao? Không có một sự gắng công nào là vô ích hết, ông ạ. (Nàng nói thêm, vì thấy đôi mắt Swanhild lóng lánh vẻ mừng rỡ) nhưng ta cũng nên coi chừng, chớ nên hy vọng sớm quá. Ta còn có cả một ngàn năm bí mật nữa để khám phá cho ra.

Đêm hôm đó, Gođard lại tìm trong tự điển đủ các tiếng bắt đầu có những chữ C, G, O, Q, và S, thầm mong rằng lần trước đã bỏ sót mất cái tiếng ở câu vè. Nhưng công toi. Mà câu chuyện do Slinfold thuật lại thì càng làm cho chàng không biết đường nào mà suy nghĩ nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Sáng hôm sau Luna và bà Yorke ra ga từ sớm. Gođard đưa họ đến Hassock rồi ở lại nói chuyện với Oliver và Swanhild đến hết ngày. Cái tin đồn về việc khai thác ngôi mộ ại quyến thêm một làn sóng: những phóng viên nhà báo và những người hiếu sự lại ùa đến ám Dannow.

Oliver đưa ra cho bạn một bức ảnh chụp những câu vè khắc trong căn phòng kín. Gođard vừa xem đến đã thấy mình được đền công lại sự cố gắng ban đêm: chàng tưởng nhớ lại lúc Luna xem xét những câu khắc trên đá. Nàng đọc tới giữa chừng câu: “Under satrs sans…” thì ngừng ngay lại. Cái tiếng “sans” Pháp Lan này chàng vẫn thường thấy dùng trong Anh ngữ hồi trung cổ, cũng như bao nhiêu tiếng mượn ở Pháp ngữ khác. Vậy cái tiếng mất ở đầu câu vè kia có phải cũng là một tiếng Pháp chăng?

Chàng về nhà tra tìm trong quyển tự điển dùng hồi đi học, nhưng không ăn thua gì, chàng mới rắp tâm hôm sau sẽ đi London mua một quyển khác đầy đủ hơn, lại có cả những tiếng cổ ngữ.

Ngày thứ năm, bọn phóng viên lại đổ đến nhiều thêm. Trưa hôm ấy, một bức điện tín của Luna đánh về: chữ trên phiến đá đêm vừa rồi đã dò được, nàng muốn mời cả nhà chiều nay đến nhà nàng ở London để dự một buổi thôi miên nữa.

Gođard để ý ngay đến sự đổi khác ở Luna trong hai hôm nay: một đường nhăn lớn ăn sâu ngang trán nàng, và hai tay nàng luôn luôn run rẩy. Xem chừng nàng khó tự chủ được tâm thần, cả đến bà Yorke – bà ra chiều không muốn có những buổi thôi miên – hình như cũng không được bình tĩnh.

Miss Bartendale không chịu cho xem bản dịch những chữ cổ tự. Nàng chỉ giở ra hai tờ giấy đánh máy và bảo Oliver:

- Lúc nào ông bị giấc thôi miên, ông Covert sẽ đọc cho ông nghe một tờ và ghi lấy những tiếng nào hoặc câu nào mà ông nhận ra. Lúc tỉnh dậy, ta sẽ cùng thử làm theo cách ấy với tờ giấy thứ hai rồi ta sẽ đem hai lần trả lời của ông ra so sánh.

- Thế sao cô không đọc lấy?

- Vì lỡ vô tình dằn giọng ở một tiếng có thể là một dấu chỉ dẫn cho ông biết trước mất. Chúng tôi lại đi ra cả, để một mình ông lại với ông Covert để tránh sự truyền giao tư tưởng bất cứ của người nào trong lúc vô tâm, vì bà cô tôi và cô Swanhild đều biết chuyện như tôi cả.

Bây giờ thì Luna chỉ đưa tay qua một cái cũng khiến Oliver bị thôi miên được. Ở lại một mình với chàng, Gođrad lấy thế làm khó chịu hết sức. Vừa xong việc, chàng gọi ngay bọn đàn bà vào.

Tay run, mắt lấp lánh, Luna xem xét những câu hỏi. Nàng đưa một liếc mắt đầy ngụ ý cho Swanhild lúc đó đứng đọc sau vai mình. Nàng khẽ nói:

- Cũng khá đó chứ!

Rồi đánh thức Oliver dậy. Nàng bảo chàng:

- Ông Hammond, ông đọc mảnh giấy này đi trong lúc chúng tôi xếp đặt chỗ ngồi.

Mọi người ngồi quây quần lai trước lò sưởi, thì Oliver đọc những câu hỏi trên:

- Những cái sau này ông có biết là gì không: Salvator, Rosa, Rattoska, Hvareno, Vishnu Siranguan… (chàng lẩm bẩm nói tiếp) lạ chưa! Những tên hỗn độn kì dị quá!

Luna:

- Là vì tôi để những tên chính lẫn vào những tên vu vơ đó.

- Tôi hiểu ra rồi: cô muốn xem tôi có phân biệt được những tên nào là tên đúng không, chứ gì? Thế thì đây: Salvator Rosa là một nghệ sĩ Vishnu là một vị thần Ấn Độ. Những tên khác thì tôi không biết. À mà có, có một tên tôi quen biết đã lâu, biên ở dưới những cái tên ấy, là :Odin.

- Odin nhắc ông nhớ đến chuyện gì?

- Tôi tưởng tượng thấy tôi ngồi bên chân giường Swanhild hồi chúng tôi mới lên sởi vừa khỏi và đang đọc những truyện cổ tích Bắc Âu cho em tôi nghe.

Chàng lại nhận thêm được mấy tên cổ điển nữa và giải thích một vài tên:

- Thor là một vị thần khác của xứ Bắc Âu, Baldur cũng vậy. Teste David cum Sybilla là một bài hát mà tôi không thuộc lời, nhưng điệu thì thế này:

Chàng đâp tay lên đùi đánh nhịp điệu Dies Iroe(#1).

Ngẫm nghĩ một lát, chàng lại nói:

- Assir Lok cũng giống như Loki: tôi chắc đó là thằng gian tặc trong truyện cổ tích tôi đọc hồi lên sởi. Sigmund là tên trong bản tuồng Wagner, Miolner thì tôi nhớ lờ mờ thôi…

Chàng đã xem hết tờ giấy. Luna bảo cho chàng biết:

- Ông vừa tìm ra được năm tiếng đáng chú ý đó. Lúc nãy, trong giấc thôi miên, ông đã nhận được năm tiếng khác: Rattotskar, Ygdrasil, Jormunđgander, Einheirar và Fimbulveter.

- Nhưng tôi không biết gì về những tên ấy.

- Những tên ấy là do ký ức tổ truyền của ông nhắc cho ông nói ra đó. Những tên ấy đều là tên trong điển chế tôn giáo cổ miền Bắc Âu đó. Dòng dõi nhà ông mới theo đạo Cơ Đốc được nghìn năm trở lại đây, nhưng trước kia, hàng bao nhiêu thế kỷ, tổ tiên nhà ông còn thờ những thần thánh khác. Nhưng hoài niệm phảng phất về các điều tin tưởng của các cụ vẫn còn sót lại trong trí não ông và vẫn có thể nổi lên khi ông bị thôi miên đó.

Nàng xem lại những chỗ Gođard ghi trên giấy.

- Ông chỉ nhớ lờ mờ rằng Sigmund là một vị anh hùng oai vệ, nhưng ông mô tả Odin như vị chúa cả muôn vật; Thor ông coi là vị chủ nhân cái búa thần Miolner. Baldur là thần Mùa xuân, Lok là yêu quái, Ygdrasil là cây thiêng. Einheirars là những anh hùng hiển thánh, Yormundgander nhắc tưởng đến một vật dài và tròn, còn Fimbulveter là cuộc tranh đấu cùng tận.

Oliver ngẩn người ra vì ngạc nhiên. Chàng nói:

- Ồ! Thế ư? Nhưng tôi đã bảo rằng tôi không hề biết những chuyện đó kia mà!

Luna giảng giải vắn tắt cho chàng hiểu rằng Jormunđgander là con rắn lớn giữ nước bể lại chung quanh trái đất. Dưới bóng cây ô-liu thần, hồn bọn Einheirars ăn mừng để đợi cuộc tranh đấu vô cùng tận. Họ đi qua cầu Vồng hay Băng kiều để giúp sức Odin và các thần khác thắng được lũ quỷ Helmein. Nàng nói tiếp:

- Ta đi lên xa quá những việc đang tra xét hiện nay nhỉ, có phải không? Nhưng rồi ông sẽ thấy cái đoạn đường trường từ con quái vật truyền kiếp nhà ông đến cái ngày Phán đoán sau cùng của dân Đan Mạch cổ, không phải là xa cách đến thế đâu.

Khi trở về nhà, Gođard lại cắm cúi vào việc tra quyển tự điển chữ Pháp. Gần nửa đêm chàng mới thấy được cái tiếng chàng có ý tìm và đến gần sáng chàng vẫn mải mê xem xét các ý nghĩa của tiếng ấy. Một vài nghĩa giải thích chàng không hiểu tới được, nhưng cái nghĩa ghê gớm phũ phàng thì rõ rệt. Luna nói phải: chỉ sáu chữ cái là đủ cắt nghĩa được hết mọi điều, là đủ cho biết vì sao cụ Reginald Hammond và cụ Pháp sư quyên sinh, vì sao mà những người khác phải chết vì buồn phiền và vì sao mà Swanhild không thể nói với chàng một điều nào được.

Hàng mấy ngàn năm đã cách biệt Oliver và Swanhild với tay hải khấu torng mồ mà hai ngày trước đây họ đã quấy rối giấc an nghỉ vĩnh viễn. Cái mảnh đồng kia lại hình như chứng minh rằng thời dĩ vãng ấy đã bắt đầu từ thời đại kim khí. Không biết bao nhiêu thế hệ của dòng họ Hammond đã kế tiếp nhau và vẫn đời đời bị con quái vật truyền kiếp theo dõi.

Theo dõi truyền kiếp! Nhờ trời, chỉ có Oliver phải chịu tai ương đó thôi. Nhưng nếu cuộc điều tra các nhà chuyên trách lập ở cái quán trong làng kia mà buộc tội lầm hai anh em tên đánh bẫy nọ thì cái nhục nhã kỳ quái của nghìn đời kia tất sẽ phơi bày trên khắp các mặt báo. Trước mặt cả toàn cầu.

Chú thích:

(1-) Nhịp điệu Dies Iroe: điệu hát lễ cầu cho linh hồn kẻ vừa chết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Hôm ấy thứ sáu: Gođard dậy sớm. Sau hai ngày sụt sùi mưa, buổi sáng đó trời tạnh ráo và gió thổi mạnh. Giá băng đóng lại trên các miền cao, có ánh mặt trời chiếu nhẹ.

Càng bước gần tới lâu đài chàng thấy cái sự thực kinh khiếp như càng thêm hà khắc. Một ý muốn chợt đến dun dủi bước chàng vào xem bức hình nổi trong nhà thờ. Thiếu chút nữa chàng vấp phải Oliver: cử chỉ đầu tiên của chàng là trốn chạy, chàng lùi ngay lại trước hiện thân linh hoạt của cái tiếng ghê gớm mà từ nãy chàng đã biết rồi.

- Ồ này! Gođ! (lời Oliver). Sao giật thót mình lên như thế! Không khí nhà thờ làm anh dễ hoảng lắm nhỉ.

Gođard lảng chuyện:

- Tôi định vào xem bức hình…

Chàng không tìm được câu nào khác. Chàng sợ không giữ kín được vì cái cử chỉ không tự chủ được vừa rồi, hoặc sợ không thể chịu nổi đôi mắt nhìn thẳng thắn của bạn. Trong một thoáng chàng tưởng lại cái anh chàng nhã nhặn mà mình vẫn quen biết xưa nay, cái anh chàng bao giờ cũng đáng mến. Sao chiến tranh để chàng còn sống lại làm gì!

Oliver hỏi:

- Anh có tìm ra điều gì mới nữa không?

- Không.

Miss Bartendale đã nhận được thư trả lời những điều cô ấy hỏi: cô ấy không ngờ sớm được đến thế và đã mời Swanhild đến Chelsea từ sáng sớm. Hai người tối nay sẽ cùng về đây với bà Yorke để thiết lập một buổi phụ đồng trong phòng bí mật. Cô ấy muốn rằng anh cũng dự vào buổi đó. Vậy anh ăn cơm tối với chúng tôi nhé.

- Xin vui lòng.

- Tôi phải đến Steying có việc đây, độ bốn giờ tôi trở về qua nhà sẽ rủ anh cùng đi nhé.

- Càng hay.

Lúc đó một chiếc xe chở khách chạy qua phủ lên hai người trong một vừng mây bụi trắng và khói dầu xăng. Những tiến chỉ dẫn oi ói đưa đến tai hai người. Người lái xe lắng nhắng hét:

- Kia kìa, chính trong khu rừng các ngài trông thấy kia đó! Hắn ta không ăn thịt con bé tội nghiệp đâu. Các ngài không đọc báo Daily Post với lời khai của mấy ông bác sĩ sao? Thực đáng thương quá! Tôi thì tôi cứ nghĩ bụng: hai người làm gì trong ấy, giữa lúc đêmkhuya…

Những câu sau nghe không rõ. Oliver hầm hầm mắng:

- Đồ ngu!

Chiều hôm ấy, trời rét thêm lên. Từng khối mây lớn phủ trên từng không, dồn lai bởi những hơi gió buốt da thịt. Mới sáu giờ mà trời đã gần tối sẫm. Miền thung lũng lẫn biến trong sương mù, còn khu rừng, úa đỏ và um đen, trông có vẻ nộ nạt hơn bao giờ hết. Lúc chui vào xe hơi của Oliver đến rủ, Gođard lo ngay ngáy sẽ gặp một đêm thuận tiện cho con quái vật hiện về.

Ngồi xe trên đường Dannow, hai người im tiếng. Tới chỗ quặt thẳng đến trước lâu đài, Oliver bỗng nói:

- Ta về muộn quá, mấy người đàn bà hẳn về trước tạ (Không thấy tiếng trả lời, chàng hỏi) kìa, Gođ! Ngủ đấy à?

Đang trầm ngâm trong suy nghĩ, Gođard giật mình: chàng vừa nghĩ bụng rằng sự thực lại còn kinh khủng hơn hết cả bao nhiêu chuyện hoang đường đặt ra về con quái vật.

- Ê! Này! Ai đi kìa! (Oliver lớn tiếng hỏi).

Người chàng vừa trông thấy là Will Cadorole, lúc ấy đang trở về nhà, lưng cúi gò xuống ghi đông xe đạp. Mặt tái xanh vẻ khiếp sợ, hắn ta đạp hối hả một tay giữ lấy mũ trên đầu. Oliver hãm xe lại. Hắn he hé lên mách Oliver:

- Ông Hammond ơi! Họ giết chết bà ta mất, thực thế nếu không có ai can thiệp ngaỵ Ở trong rừng ấy ông ạ. Chính tôi nghe thấy bà ta kêu…

Oliver:

- Thế nào? Anh nói cái gì?

- Người đàn bà đi vào rừng với cái ông vẫn chụp ảnh đăng nhật báo ấy! Bọn họ nhiều người cùng ngồi một chiếc xe hơi lớn. Tôi đã theo hút họ mãi, nhưng bà ta kêu lên dữ quá, tôi đành phải quay ngay về.

Hắn bị ngắt hơi, ngừng lại. Oliver hỏi:

- Anh đừng cuống lên thế. Anh vừa bảo rằng một người đàn bà sắp bị hại, phải không?

- Thưa ông vâng. Đứng đây cũng trông thấy được ánh đèn xe hơi của họ.

Ở chỗ ấy một hàng dậu cây ăn khuất khu rừng, Oliver với Gođard trên xe nhảy xuống rồi chạy đến một chỗ trống. Bên kia miền thung lũng, ở cuối đường ngang, họ thấy một ánh lửa đỏ ở ven rừng. Oliver cáu kỉnh vừa bước lên xe vừa nói:

- Giờ này không ai còn việc gì được vào trong rừng hết.

Gođard giữ tay chàng lại:

- Anh đừng vào! Anh phải nhớ lời anh đã hứa mới được.

Oliver sẵng tiếng đáp:

- Một người đàn bà bị nạn phải có người cứu giúp mới được. Miss Bartendale cũng sẽ đồng ý với tôi.

Gođard cũng trèo lên xe:

- Thế thì anh cứ ở đây. Để tôi đi cho.

- Không anh ạ. Việc ấy chỉ liên quan đến tôi thôi.

- Oliver! Anh không hiểu! Chỉ có anh là có thể gặp tai nạn được… Chỉ có…

Chàng ngưng bặt, thấy Will đứng bên đường đang tò mò nghe chuyện. Xe mở máy, Gođard vội kêu lên:

- Đừng đi! Trời ơi, anh đừng đi!

Chàng ôm chặt lấy người Oliver, nhưng bạn chàng đẩy được dễ dàng như gỡ một đứa trẻ, Gođard bị hất xuống bên kia mép đường, ngã lăn xuống chân bờ dậu. Chàng khó nhọc gỡ được những gai góc chằng chịt thì thấy ánh đèn sau xe biến xa vào bên ngoài phía xóm làng. Không nói nửa lời, chàng chộp lấy cái xe đạp của Will, nhảy lên rồi cắm cổ đạp. Nhưng ánh đèn chàng đuổi theo mỗi lúc một thêm nhỏ, rồi biến hẳn lúc chiếc xe rẽ vào đường dãy phố chính, đến chỗ rẽ ngang cứ tự nhiên rẽ về một nẻo, rồi xông bừa vào đám sương thung lũng mịt mù. Trước mắt chàng nhảy chập chờn những chữ mà chàng đã tìm ra được.

Gođard trên xe đạp nhảy xuống phía sau chiếc xe hơi nhỏ của Oluver lúc đó đỗ cạnh một chiếc xe lớn năm chỗ ngồi, rồi đưa mắt nhìn thoáng chung quanh. Chàng trông thấy lấp ló một ngọn lửa trong khoảng âm u của cây lá và nghe thấy gió đưa vang lại một thứ giọng đàn bà. Vâng theo một ý tưởng mơ hồ chàng lấy khoác lên vai tấm chăn của Oliver để lại trên xe, rồi bước về phía ánh lửa chiếu ra hình như từ khoảng rừng quang rộng. Trong khi tiến lên, chàng nhận thấy có những câu nói chen lẫn với những tiếng than vãn và tiếng kêu giật giọng. Hốt nhiên chàng đứng dừng lại để tránh một vật gì đang bò phía trước chàng. Chàng nhận ra bạn chàng lúc đó ẩn sau một bụi cây.

- Oliver! May quá!

- À Gođard đấy ư?

- Thôi, đi về với tôi đi! Anh cũng biết rằng anh không nên ở đây mới phải.

Oliver càu nhàu:

- Chính bọn kia mới không được ở trong này. Chính cái thằng quấy rầy nói giọng Oxford đầu bù lối nghệ sĩ kia, cái thằng quỷ quái mà miss Bartendale đã…

Chàng uất lên vì cơn giận cố nén. Gođard năn nỉ:

- Anh đã hứa với cô ấy rằng sẽ không vào rừng ban đêm rồi. Thôi anh về đi, để mình tôi đối phó với họ.

- Không, anh ạ, đây là đất của tôi.

Một thứ cung điệu chầu hát đưa đến tai chàng. Gođard kiễng chân lên nhìn: một cái đèn xe hơi đặt trên một thân cây để soi vào người Curtiss, phóng viên tờ báo Post đang đứng dựa lưng vào một gốc cây, tay cầm sổ và bút chì, mắt nhìn cây thông sét đánh. Cái hôm cây đã bị những người tích kỷ vật đục khoét vơ vét hết nhẵn. Một người đàn bà đứng ngay giữa hõm, chung quanh có ba người đàn bà nữa cầm tay nhau quây thành vòng. Cả bọn đàn bà cùng cất tiếng cầu: “Hỡi ánh sáng tốt lành hãy dẫn đường chúng ta!” Oliver bảo bạn:

- Thì ra chỉ là một buổi phụ đồng. Cứ nghe mà xem.

Người đàn bà trong hốc cây liền nói lên một giọng trầm trầm nghe ghê rợn:

- Hỡi vong hồn Katherine Stringer, hồn có đây chăng?

Im một lát rồi một người đàn bà trong bọn the thé kêu: đó là cô hồn lên tiếng, cô hồn lấy giọng mũi bắt chước giọng nói của người bị nạn và rền rĩ:

- Katherine Stringer đang ở chốn này.

Oliver lớn tiếng nói:

- Anh buông tôi ra, tôi không muốn nghe thêm nữa. Thằng nói láo ấy lại dám đến tận chỗ cô Kate bị giết mà lôi thôi à! Đàn bà hay chẳng đàn bà, cũng không cần nhã nhặn với họ nữa.

Chàng từ chỗ ẩn nhảy xổ ra. Gođard ra theo không nghĩ ngợi. Chàng khổ tâm hết sức, cảm thấy tai họa sắp đến, nhưng lại sợ một sự can ngăn vụng chỉ khiến cho nó đến mau thêm. Chưa hiểu thấu đầy đủ được các điều, chàng chẳng biết xử sự ra sao. Chàng đành phải đợi xem và thầm mong một thế lực bất ngờ nào đến làm cho con quái vật phải gờm sợ.

Oliver tiến vào khoảng ánh sáng đèn và đứng lại trước mặt Curtiss. Chàng sừng sộ hỏi:

- Ông làm gì ở đây?

Người phóng viên ngạc nhiên quá, chưa tìm được lời phân giải, chỉ đáp:

- Làm phóng sự.

Vừa nói Curtiss vừa lùi lại cái bóng hiển hiện bất thình lình kia. Oliver lại nói:

- Đây là đất nhà tôi, ông biết không?

Rồi túm lấy da cổ anh chàng trong nắm tay dữ tợn, Oliver lắc rất mạnh người phóng viên. Cô hồn lúc đó há miệng ngừng bặt nửa chừng câu, còn những người đàn bà khác thì đờ người ra vì kinh dị. Họ cùng kêu lên:

- Con quái vật đấy!

Thì Oliver ôn tồn bảo ngay:

- Không phải đâu, các bà ạ, tôi không phải là con quái vật, mà chỉ là chủ nhân của khu rừng này thôi. Xin các bà làm ơn ra khỏi rừng này cho.

Chàng buông Curtiss ra để cúi nhặt cái khăn quàng của một người đàn bà đánh rơi và nhã nhặn đưa cho người ấy. Chàng mỉm cười bảo người đàn bà:

- Con đường rặng thông kia là lối ngắn nhất để các bà trở về chỗ đỗ xe đó.

Curtiss chững chạc nói:

- Tôi rất lấy làm ân hận vì đã phiền ông, ông Hammond ạ, nhưng tôi không thể hiểu được tại sao ông đối xử với tôi một cách thô bạo thế! Chúng tôi đến đây chỉ cốt khám phá ra sự bí mật của những việc xảy ra ở đây thôi, mà bà Robinson đây, ông hẳn cũng đã biết tiếng bà…

Oliver ghìm giọng bục tức, ngắt lời:

- Ông bước ngay đi! Đừng để tôi phải nổi giận. Cũng chỉ vì có các bà kia ở đây nên tôi mới tha cho ông một trận đấy!

Gođard cũng nói vào:

- Phải đấy, ông ạ, tôi van ông, ông đi đi! Ông không biết được ông đang nhúng tay vào việc nguy hiểm đến bực nào đâu, mà rồi có xảy ra chuyện gì đều là tại ông cả đấy.

Curtiss vẫn nói cứng:

- Xin lỗi ông. Tự tôi, tôi không nghĩ ra việc xét nghiệm này làm gì, đây là tôi chỉ theo lệnh của nhà báo phải làm thôi.

Oliver càu nhàu:

- Này, ông đừng có cãi cọ lôi thôi, chỉ thêm trái lè ra thôi!

Chàng đặt cái đèn chiếu vào tận tay người phóng viên: thế là anh chàng liền hết bướng. Người cô hồn cũng vừa kéo tay Curtiss rồi cùng mọi người lảng xạ Gođard luôn tay khoác cánh tay bạn, định dìu chàng theo bọn kia, nhưng Oliver nói:

- Khoan đã. Để họ đi khỏi hãy hay.

Mặc dầu trời rét, Gođard cũng toát mồ hôi lo sợ, lòng bị dầy vò khổ sở bởi sự hiểu biết bỡ ngỡ của mình.

- Chả nhẽ ta cứ đứng mãi đây cho đến lúc bọn ngốc kia ra khỏi rừng sao?

Oliver mỉm cười trong ánh sáng cuối cùng của ngọn đèn xe và đáp:

- Tôi không muốn lại phải mắng vào mặt họ một trận nữa. Kìa sao anh lại run lên thế này?

Ánh sáng đã khuất hẳn, hai người chìm trong vừng bóng tối dày đặc. Gođard nghe ngóng một lát rồi lại kêu:

- Trời ơi, tôi van anh! Đừng ở đây nữa! Tôi, tôi thấy kinh sợ quá.

- Thì nào có việc gì đâu mà sợ! Mà sao anh lại khoác tấm chăn kia thế?

- Tôi… À, cứ khoác bừa, thế thôi. Anh ạ, tôi nói thực đấy, tôi sợ lắm.

- Rõ khéo cái thằng cha Gođard này! Lại Swanhild giao cho anh phải coi giữ tôi, chứ gì? Nhưng tôi đã bảo rằng không việc gì hết kia mà. Chỉ có tôi là gặp nạn được thôi, mà tôi cũng biết nhiều điều kia!

Gođard kinh dị hỏi:

- Anh biết con qúai vật là ai rồi ư?

- Không, nhưng tôi biết phải nói lời gì để xua đuổi được con quái vật, cái ký ức tổ truyền của tôi đã mách tôi điều ấy. Vậy nếu nó đến thì phải hét lên Heysaa!… Heysaa!… Tại sao mà… Gì thế này… (chàng quát lên), Gođard nó đến đấy!!!

Lời nói chàng rú lên ở tiếng sau rốt.

Chạy đi! Trốn ngay đi, chạy, chạy mau lên, Gođard. Đã bảo nó đến đấy mà!…, Heysaa… a… a!!!

Tiếng thét thoạt cất bằng giọng người, sau phá lên chuyển thành tiếng trống quái gở dị kỳ mà Gođard đã nghe thấy đưa ra từ trong phòng bí mật.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Chiếc xe bọn Luna về tới lâu đài giữa lúc Will ra tới đường cái.

Swanhild hỏi thì lão Walton thưa rằng cậu Hammond chưa về. Bất giác nàng đưa mắt nhìn bao quanh: sao trời lấp láy, gió thổi lạnh và khan – một đêm thuận tiện cho con quái vật. Luna đoán được ý nàng, khe khẽ nói:

- Ông ấy đã hứa với ta rồi, lo gì.

Bà Yorke lên phòng riêng của bà, Luna đứng trong đại sảnh để ngắm kỷ vật săn bắn mà Swanhild nói cho nàng thấy cái đẹp. Bỗng chuông điện thoại kêu ran. Hai người giật mình. Swanhild vội vàng đến trả lời. Nàng lại nghe những câu đúng như hai tuần lễ trước.

Tiếng Will hỏi:

- Allo! Lâu đài Dannow phải không. Đi gọi hộ miss Hammond, mau lên!

- Tôi đây. Việc gì thế?

- Con quái vật đấy, thưa Miss. Mà ông Hammond thì đang ở trong rừng, trong ấy đang có người bị giết. Tôi nghe thấy tiếng kêu… Tôi liền chạy về và kể đầu đuôi cho ông Hammond biết. Ông Hammond gạt ông Covert đi rồi đi một mình.

- Còn ông Covert sau đó làm gì không?

- Ông Covert lấy xe đạp của tôi đuổi theo xe hơi. Lúc trước ông Covert toan giữ ông Hammond không cho vào rừng nhưng ông anh cô đẩy ông ấy vào bờ rào.

- Được anh mở cổng ngoài ấy ra.

Nàng chạy đến nhà xe. May quá, Stredwick chưa cất chiếc Mercédès vào, mà xăng vừa đổ đầy sẵn. Nàng ra lệnh:

- Đánh xe đến cửa ngay tức khắc cho tôi.

Nàng trở về thì thấy Luna mặt tái ngắt, nhưng rất bình tĩnh. Duy chỉ có đôi mày cau lại và đôi mắt lóng lánh tỏ ra tinh thần nàng đang căng.

Luna hỏi:

- Liệu ta có thể theo kịp ông Covert không?

Swanhild đáp:

- Ta đi tắt phải qua lối “borstal” mới được.

- Họ cũng có những ba người… (nhưng Luna chữa lại). À không! Tôi quên rằng người đàn bà đã ở trong ấy; thế nào cũng phải đến cho kịp mới được. Lối “borstal” là thế nào?

Trong khi nói, hai người vô tình cùng cài cúc áo măng tô lại. Swanhild đáp:

- Đó là một đường nhỏ ven đồi dẫn đến khu rừng. Lối này khó đi và không được chắc chắn anh Reggie độ trước đã bị lăn xuống cả người lẫn xe, nhưng tôi cứ đi, rồi có bị gãy cổ ra nữa cũng không cần. Theo đường cái thì không mong gì kịp anh Gođard được. Theo lối nhỏ này thì một là tôi bị chết, hai là năm phút nữa đã đến.

Lão Walton vẫn bước theo Luna, lúc đó nói:

- Nhưng thưa miss Bartendale, mấy trận mưa vừa rồi đã làm nước dưới suối dâng to, thế thì cầu hẳn không đi được.

Không đáp, nàng chạy ra ngay cửa xe, vì xe hơi đã ghé đến ngoài thềm.

Chiếc Mercédès như nhảy vượt qua cái cầu treo rồi rầm rầm leo lên đường cái. Chạy trên đó một lát, rồi xe rẽ vào một khoảng đường cỏ rộng lớn, có một lối nhỏ ăn thành một đường mờ trắng vắt quạ Hình núi Beacon nổi lên trước mặt hai người. Phía dưới cảnh thôn quê phủ sương nằm soài trong bóng tối mù mịt. Mây bay từng lúc che khuất ánh sao. Luna ngồi trong một góc xe, hít hơi vào như một con chó săn. Swanhild mắt dán lên cái vệt sáng mờ của con đường hết sức chăm chú và người giá ngắt. Đường bỗng thêm dốc xuống làm thiếu nữ chao đầu vào kính chắn gió. Nàng ngã người về phía sau, dò cái vệt đường bắt ven theo chỗ lên dốc phía tay phải. Tiếng nàng quát trong máy ầm ầm để bảo Luna:

- Cô nhận rõ chỗ cái cầu đấy!

Cô bạn nàng nghển người lên, tay bíu lấy chỗ ngồi cho khỏi ngã. Nàng trông thấy cách đó một độ có khoảng nước sủi ngầu cắt đứt quãng đường. Ngay lúc đó, cái tiếng rống kinh tởm của con quái vật vang đến tai hai người lần thứ nhất.

Swanhild nóng nảy hỏi:

- Đến cầu, hả? Có bị ngập không?

- Tôi chỉ thấy như có nước cuồn cuộn với một chỗ ngắt quãng giữa nguồn suối, thế thôi.

Swanhild bảo:

- Ngồi xuống. Tôi cố vượt. Ta đến ngụp xuống nước nữa là cùng.

Đường dốc đã thoải hơn. Nàng cho xe đi gần sát hẳn trên mặt cỏ, tăng thêm tốc lực và lạng nhanh tay lái sang bên phải khi chiếc đèn xe lao xuống nước với một tiếng kêu bưng. Một bánh xe thụt, rồi lại nhô, rồi, vừa hộc vừa phì, chiếc xe qua trên cái cầu không trông thấy. Chỉ có thân xe là ở trên mặt nước. Một lúc, xe đã đứng hẳn lại và như chỉ chực lùi. Rồi sau, khác nào một con ngựa lấy đà xe rướn lên và tới bờ bên kia trong những tiếng gầm rú. Chiếc cầu kêu lắc rắc sau xe tưởng như gãy đổ.

Bây giờ đã gần tới rừng rồi.

Hai người đàn bà nghe thấy một loạt tiếng kỳ quái.

Luna bỗng kêu:

- Ô kìa! Có chiếc xe hơi chạy biến về phía làng kìa. Không hiểu sao lại…

Nàng ngừng lại, kinh dị, trong lúc chiếc Mercédès đỗ ngay sau xe hơi của Oliver.

Từ khu rừng chốc chốc lại đưa ra những tiếng rống quái gở. Luna, cằm ngược lên, cố tìm xem những tiếng ấy ở đâu mà đến, rồi, cái đèn bấm trong tay, nàng bước vào. Swanhild theo sau. Nàng đi lên như người mơ ngủ, lần theo những lối gốc cây bụi rậm quanh cọ Tiếng kêu mỗi lúc một nghe rõ thêm. Khi hai người bước tới chỗ rừng quang thì tiếng gầm ma quái dữ dội kia lại vang lên, lẫn với tiếng kêu của Gođard.

Luna chĩa ngọn đèn thẳng trước mặt và bước lên một bước: một bầu im lặng như chết ám khắp khu rừng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Ngay từ lúc Oliver cất tiếng rống đầu tiên. Gođard đã lùi lại một bước. Mắt đã quen tối. Chàng nhận được các cử chỉ của bạn chàng, Oliver chồm hỗm ngồi, bộ điệu hung hăng, khiến chàng nhớ ngay đến những câu của Kate nói trong lúc mê sảng: “Cái gì trông y như một cái nhà vậy”. Mắt Oliver sáng lên một cách dị kỳ.

Hai người cứ thế dò xét nhau một hồi, Gođard đờ người không nhúc nhích. Hai con mắt trân trân kia sau lóe lên, đỏ lừ lừ. Ngay lúc đó chàng kín đáo nhích ngang sang một bước rồi vung sang phía trước cái chăn dạ, hai tay thì nắm chắc lấy hai góc. Tức khắc cái chăn bị xé rách bươm, trong lúc tiếng gầm rống lại nổi và cái thân hình to hơn lăn xả đến chàng.

Gođard lại tránh sang bên cạnh một bước nữa, vừa kịp thì giờ quấn một mảnh chăn quanh cánh tay giả của mình. Hai con mắt đổ lửa dồn mãi lại. Chàng che chở cổ họng mình bằng cánh tay mạnh, còn tay gỗ thì đưa ra phía trước giữa lúc chàng bị vấp mạnh không thể cưỡng được đẩy ngã bẹp về phía sau.

Nằm ngửa dưới đất, chàng đem hết sức tuyệt vọng chống lại, lòng vẫn biết rằng như thế chỉ làm chậm lại được một lúc sau cùng của bước rủi rọ Chàng cứ đưa hoài cánh tay lắp của chàng vào hai hàm răng nghiến ngấu kia cứ nhè cổ họng chàng mà húc và sau cùng nó cũng tìm được cánh tay mạnh của chàng mà ngoạm và dầy xé một cách ghê gớm. Hết sức bình sinh, Gođard lấy bàn chân đạp, lấy đầu gối đẩy, cố đẩy ra cái thân hình ngồi đè lên chàng. Cái chăn, dù rách mướp, lúc ấy cũng được việc, nhưng sau cùng những ngón tay thèm khát tìm được một chỗ: áo của chàng bị giằng xé, rồi những móng sắc lẩn vào ngực chàng mà cào bới, trong lúc một tiếng rống đắc thắng vang dậy làm rung động mặt đất dưới đầu chàng. Ráng một sức cuối cùng chàng gỡ được cánh tay bị thương ra. Tiếng rống chợt ngưng bặt ngay và trong lúc im lìm – quả tin Gođard tưởng chỉ chực vỡ – chàng nghe răng rắc tiếng cánh tay gỗ chàng gẫy trong sức nghiến của hai hàm răng khỏe dị thường. Một luồng ánh sáng làm chàng lóa mắt. Chàng nhắm mắt lại và ngất lịm đi.

Nhưng chàng tỉnh lại ngaỵ Từ cánh tay còn nguyên nhỏ xuống cằm chàng những giọt nước nóng. Cánh tay giả bị gãy và nghiến nát, chỉ giữ lại được nhờ có những mảnh chăn rách buông thõng xuống tận ngực chàng. Nhìn lên, chàng thấy trước mặt chàng cái nét trắng muốt hàm răng của Oliver với sự biến hóa quái quỷ trên mặt bạn.

Oliver lúc ấy vẫn quỳ khom, hai bàn tay úp xuống đất, mười ngón máu me quào sâu. Luna tay áp trên trán con người tội nghiệp ấy đang cố lôi chàng ra phía sau. Không thấy chuyển, nàng bèn lấy đèn bấm soi một luồng sáng lên bộ mặt con quái vật.

Không đời nào Gođard quên được cái hình ảnh lúc bấy giờ.

Bạn chàng khác nào bị quỷ nhập tràng và hóa thành một giống hằn học và độc dữ. Mớ tóc thì dựng ngược lên, hai tai vểnh dài ra và kéo về sau đầu, môi trên biến thành một cái mõm hung ác. Mồm Oliver ngầu những máu và nhớt dãi, căn rộng và nhách toạc đến tận mang tai. Hai hàm nổi lên răng nhe ra chỉ chực cắn, còn phần trên mặt co ngắn và quắt hẹp lại, chỉ thấy có đôi mắt đỏ lừ. Trông chàng y như một con chó sói quái dị có thêm sức khỏe của một người trai tráng và uy lực của một giống quỷ quái và hùa vào với sự hung ác bản nhiên.

Thế rồi mặt Oliver dần dần đổi nét. Hai mắt biến hết ánh lửa và chứa đầy vẻ kinh hoàng. Hàm răng thu cả vào vừng trán, và hai tai trở lại như thường và mái tóc lại giữ nguyên nếp cũ. Sự biến đổi ấy chỉ trong giây phút là hoàn thành.

Swanhild theo sau. Luna khi bước tới chỗ ba người thì dáng người Oliver đã lại được như thường ngày rồi mặc dầu miệng chàng và ngón tay chàng bê bết những máu. Tuy vậy chàng vẫn còn lại một vẻ đờ đẫn kinh hoàng.

Swanhild quỳ gối xuống bên mình Gođard:

Oliver chậm chạp đứng lên, mắt không rời khỏi mắt Luna đang chăm chú nhìn đầu tóc mình. Chàng đến cạnh người bạn trai và nói một giọng không thành tiếng:

- Tôi… tôi hóa điên rồi! Không, tôi không mê đâu, tôi giết mất Gođard rồi!

- Không đâu, anh ạ (Gođard nói to có ý cho bạn vững tâm). Không! Tôi chỉ bị đánh đo ván thôi.

Swanhild ôm lấy anh nàng, ép chàng buông thấp hai bàn tay nắm chặt xuống.

- Không, anh không điên đâu anh ạ, mà rồi cũng không bao giờ anh hóa điên hết.

Nàng áp mình khăng khít lấy anh và kiễng chân lên để hôn anh trên má. Máu dính bên má nàng. Oliver nhìn nàng đôi mắt sầm tối. Chàng nói:

- Swan, máu bết trên mặt em đây này.

Chàng gỡ một cánh tay mình ra, ngắm nghía những ngón đỏ lòm, đưa lên miệng xem và bỏ ra tay lại càng nhuốm thêm máu. Chàng lẩm bẩm:

- Một là tôi hóa điên, hai là tôi mơ ngủ. Tôi thấy con quái vật nó đến, nó ám quanh người tôi, nó nhập vào tôi. Rồi tôi muốn giết chết anh Gođard ạ, giết anh và cắn cổ anh mà xé. Ồ, làm phúc bảo cho tôi biết là tôi hóa điên rồi, đi!

Gođard thân mật vừa cầm lắc tay chàng vừa nói.

- Cái đó chẳng có gì đáng quan tâm hết. Anh không phải chịu một trách nhiệm nào, mà việc kia rồi sẽ không xảy ra nữa đâu.

Oliver ngạc nhiên:

- Nhưng sao anh biết? Mà anh đã biết rõ được những gì rồi? Trước đã xảy ra rồi sao?

- Xảy ra đến mươi mười lăm lần, rồi mà không ai đáng khép tội cả. Anh đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa mà cũng đừng làm to chuyện ra làm gì.

Oliver đưa tay lên trán và nhìn Lunạ Một lát chàng yên lặng nói.

- Không mấy nỗi nữa tôi đến hóa điên mất thôi.

Luna đến bên chàng, nhìn thẳng vào mặt chàng rồi chậm rãi:

- Ông Hammond, tôi tưởng cứ nói cho ông biết hết còn hơn. Ông không điên đâu, mặc dầu ông đã xông đến bắt ông Gođard như một sài lang đói, đúng như ông đã hại Kate Stringer cách đây mười lăm hôm…

Swanhild ngắt lời van:

- Ồ! Luna!

Nhưng Luna vẫn không chuyển lòng. Nàng cứ nói:

- Cứ nói tất cả ngay thế này lại hay hơn và đỡ khổ cho ông ấy hơn. Con quái vật kia không bao giờ có hết. Nó chỉ là một vật do trí não ông tạo nên đó thôi.

Swanhild vẫn ôm anh nàng trong vòng tay và Gođard vẫn nắm bàn tay bạn. Nói lời gì bây giờ vẫn đều vô ích. Chỉ nên làm thế nào cho Oliver hiểu rằng tình cảm của mọi người đối với chàng không hề đổi thay.

Tiếng nàng thuật sĩ lại cất lên, dõng dạc như tiếng nói của định mệnh:

- Ông là nạn nhân của chứng bệnh điên ma sói đó, ông Hammond ạ. Đó là một chứng điên thất thường nó xui khiến người mắc bệnh tưởng mình là chó sói và hành động như chó sói thực. Bệnh đó thường hay lan truyền rất mau, như một bệnh thiên thời. Trong dòng họ Ông bệnh đó là bệnh gia truyền và bệnh nổi phát lên khi nào người bệnh ở giữa rừng thông, một đêm trời rét và sao sáng và chỉ có trọi một người nữa đi bên cạnh.

Gođard khẽ reo lên:

- À ra thế! Thì chính điều ấy là điều tôi biết đó.

Oliver đăm đăm suy nghĩ, chàng lẩm bẩm:

- Tôi tưởng mình là chó sói… ừ, bây giờ tôi nhớ ra rồi. Người ta gọi những hạng này là Wehrwolves, có phải không?

Luna đáp:

- Đó là theo tiếng Đức. Theo tiếng cổ ngữ Ăngle thì đó là Turnskins, mà theo tiếng Pháp là loups-garoụ Cổ ngữ Pháp thì gọi là “garoul”: đúng như những chữ khắc trên phiến đá ở phòng bí mật đó.

Oliver êm lặng nói:

- Giờ thì tôi bắt đầu hiểu ra rồi. Thế các người biết việc này từ bao giờ?

Swanhild:

- Từ hôm thứ Hai.

Gođard:

- Từ đêm vừa rồi.

Luna thú thực:

- Tôi thì tôi đoán biết được hết từ khi xem thấy bức hình nổi trong nhà thờ, kia.

Oliver:

- Vậy ra, ngay từ hôm cô mới đến đây sao?

Chàng hỏi câu đó một cách bình tĩnh lắm và như thế càng làm cho gớm ghiếc thêm vẻ hỗn loạn kệnh cỡm trên bộ mặt bết máu của chàng cùng với cái vết toạc lớn do Gođard để lại trên đó trông lúc vùng vẫy để thoát thân.

Chàng nói tiếp:

- Ngay từ hôm đó, cô đã biết rằng tôi vẫn có những cơn điên muốn giết người, biết rằng tổ tiên nhà tôi là những giống ăn thịt đồng loại, biết rằng nếu tôi có con thì sau này con cái cũng sẽ như tôi, cô biết cả như thế rồi chứ gì. Cô biết rằng tôi đã tàn hại và đã gần ăn thịt một người đàn bà ngay ở đây…

- Mà tôi cũng biết rằng đó là một việc làm vô tâm gây nên chỉ do tội lỗi của một người trong tổ tiên nhà ông bà ngàn năm về trước.

- Cô tìm cớ che tội ác cho tôi như thế thực tế quá… Hừm! Giờ thì tôi thấy rõ được mỗi lần xảy ra như thế nào rồi kia: chính ông thân sinh ra cha tôi đã giết chết người đàn bà mà ông đưa vào rừng; còn cụ Pháp sư ngày trước đã bắt đầu ăn thịt đứa con ông cụ. Tôi, tôi sẽ quen dần dần đi với những điều thảm khốc này, tôi chắc thế… Thôi, ở đây lạnh lắm, ta về đi thôi. Phải gọi diện cho bác sĩ và chữa ngay cánh tay của anh đi, Gođard ạ.

Chàng nói rồi bước vào đường thông. Swanhild chạy theo và luồn một tay dưới tay chàng. Oliver nhìn em một lúc lâu; chàng nhỏ tiếng nói:

- Thì ra hai người đã biết từ một tuần lễ nay rồi. Dẫu sao, thì anh cũng là người cuối cùng trong dòng họ.

Không đáp. Nàng ôm sát chặt lấy người chàng.

Luna với Gođard, mỗi người một ngọn đèn, bước theo sau họ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


- Hãy chờ một lát đã! Phải tìm duyên cớ cho những vết thương của ta để có ai hỏi thì đem ra mà nói mới được. Swanhild, em lấy cái xe đạp kia mà quăng thật mạnh xuống đường, ở đầu xe hơi này. Mọi người hiểu ra cái kế của tôi đấy chứ? Tôi bị một tai nạn nhẹ mà! Xe tôi đâm phải xe hơi của Oliver, vì thế mới có cái cánh tay bị gẫy này và những vết máu này trên mặt. Cứ thế, nghe chưa?

Swanhild làm theo lời chàng.

- Oliver thì ngồi chiếc xe Mercédès với Swanhild nhé. Còn miss Bartendale thì lái cái xe Maxwell, được không?

Trong khi hai chiếc xe qua miền thung lũng, Gođard nói cho Luna nghe những điều mình biết. Ngồi trên chiếc xe khác, Oliver lẳng lặng nhìn mặt hai bàn tay máu me của chàng úp trên đùi. Đến chỗ đường rẽ, Swanhild đưa tay nắm chặt tay anh. Chàng ngoảnh nhìn em, đôi mắt tha thiết và nói:

- Bây giờ thì mọi việc đều đã rõ rệt cả. Điều cần thiết nhất là em đối với anh trước thế nào sau vẫn thế.

Nàng đáp:

- Mà cả mọi người cũng vậy, không ai thay đổi đâu, anh ạ.

Chàng mỉm một nụ cười chán chường:

- Không thế nào lại thế được, Swan ạ. Thà anh cứ đành tâm chịu lấy điều đó từ bây giờ còn hơn.

Trên đường làng, từng đám người hình như ở cùng một chỗ nào vừa trở về. Tâm trí còn bận về các mối lo riêng, bọn Oliver không nhận thấy có gì khác thường hết.

Ở lâu đài Dannow, từ ngoài sân cho tới đại sảnh mọi người nhốn nháo cả lên. Khắp mặt gia nhân xúm lại quanh bà Yorkẹ Bà thì một mực nài Sredwick làm thế nào cho bà có được cái xe để đi tìm cháu gái.

Trông thấy bọn kia về cả nhà đều im tiếng. Oliver cất tiếng nói tự nhiên để đánh lừa bọn đầy tớ:

- Mọi sự hoàn hảo cả, bà Yorkẹ Chỉ có mấy người cô đồng đến phu hồn trong rừng thông, Gođard với tôi đi đuổi họ ra thành thử ngã bị thương chút đỉnh thôi. Nếu có cần phải đi mời bác sĩ hay có bất cứ chuyện gì thì độ mươi phút nữa em cứ trong phòng Holbein mà tìm anh nhé.

Luna đưa mắt cho mấy người hiểu ý. Nàng nói nhỏ:

- Cứ để mặc một mình ông ấy thì hơn.

Sau đó một lúc, nàng theo vào phòng Holbein. Oliver đang đứng dựa bên lò sưởi trên đó chỉ thắp một ngọn đèn. Khuôn mặt chàng hình như phẳng dẹt và mờ xám - một kiểu kì dị đối lại khuôn mặt cụ Warlock treo phía trên đầu chàng. Mặt chàng bây giờ đã đờ đẫn mất hết mọi nét linh hoạt. Hẳn trước kia, ông cụ Pháp sư cũng đã có một vẻ y như thế mà nhìn trân trân bà vợ mình khiếp sợ điếng người đi trong căn phòng bí mật. Oliver cố tình lấy giọng bình tĩnh hỏi nàng:

- Thế nào?

- Thương tích ông Covert chẳng có gì là nặng hết. Swanhild cùng với cô tôi băng buộc cho ông ấy sắp xong rồi. Mời bác sĩ vô ích.

- Cô vào an ủi tôi đóphải không? Luna ơi, cô đã rõ lòng tôi mơ ước thế nào rồi đó? Thế mà nay tôi biết ra cái cớ sự này…

Chàng nói gần như khóc, hai tay đưa ra.

Nàng toan cầm lấy tay thì chàng rút ngay lại, lẩm bẩm:

- Tay tôi đầy những máu.

- Nhưng lương tâm ông vẫn trong trắng!

Nàng nói lớn tiếng, chực nắm lấy tay chàng lần nữa nhưng Oliver giấu ra sau lưng. Nàng thôi ngay và đặt tay nàng lên hai vai chàng, nói một giọng chua xót:

- Oliver của em! Em cũng đau khổ chẳng kém gì anh đâu.

Nét mặt se lại, đôi mắt chan chứa nỗi lo âu, nàng bỗng nhiên giống như một con trẻ sắp sụt sùi khóc. Oliver chỉ nghĩ đến một điều: là an ủi vỗ về nàng. Nhưng chính cái lúc chàng đưa tay toan dìu nàng sát mình thì cái ý niệm về sự thật kia đâm vào lòng chàng một nhát. Cánh tay muốn ôm khăng khít ngừng ngay lại để gỡ hai bàn tay kia ra khỏi vai chàng.

Chàng dịu dàng nói:

- Tôi biết. Tôi biết rằng mặc dầu bao nhiêu điều cô đã biết rõ, cô vẫn chung với tôi một mộng ước. Nhưng từ khi tôi đã hiểu rõ các chuyện, cái mộng đó không thể nào thành được nữa và tôi tưởng cô nên tránh xa tôi thì hơn.

Nàng lùi lại, trấn tĩnh được như trước rồi yên lặng đến ngồi cạnh lò sưởi. Chàng cũng ngồi xuống đối diện với nàng và nói chuyện với nàng bằng một giọng đều đều.

Oliver:

- Kể cũng lạ thực: tôi cứ thấy tôi rất bình tĩnh thôi. Cũng gần như khi ở ngoài trận ấy: sau một phen tai họa lớn người ta mụ hẳn đi, không có sức phản động nào cả. Tôi đã sống trong một giấc mộng đẹp trong cái khoảng thời gian từ cái thực cảnh gớm ghiếc của phen tàn sát lớn lao cho đến lúc thực hiện các chứng điên gia truyền này.

Luna:

- Không phải là một chứng điên! Nhưng là một thứ hoang tưởng đó!

- Muốn gọi là gì thì cũng vẫn thế.

- Nhưng hoang tưởng thì cả đến trí não rất lành mạnh cũng có khi mắc được.

- Có lẽ. Nhưng thứ hoang tưởng này lại đưa người ta đến tội giết người kia! Thế mà tôi là mấu chốt để cho dứt tuyệt được. Tôi sẽ là cái vòng cuối cùng của sợi dây chuyền đó.

Nàng lặng im.

- Vậy mà Luna đã biết rõ cả trong lúc tôi vẫn mù tịt không biết gì!

- Là vì tôi vẫn mong ngăn ngừa được, không để cho một lần nào chứng bệnh phát hiện ra. Tôi vẫn tin chắc ở lời anh hứa.

- Tôi nghĩ không việc gì phải tự trách mình rằng đã sai lời. Nào ai biết trước câu chuyện xảy ra đến thế được?

- Mà tình thế lúc đó đã như vậy, nếu giữ lời hứa mà không can thiệp thì mới thực là điều tôi phải lấy làm lạ.

Chàng khẽ nói:

- Hai ta tâm đầu ý hợp đến thế đấy! Mà như thế mới càng thêm cay độc!

Chàng nhìn lên bức chân dung cụ Pháp sư, giọng nói bỗng thành cay đắng:

- Bất công thực! Về phần ông cụ, ít ra ông cụ cũng đã được hưởng hạnh phúc rồi, đã có gia đình con cái để mà yêu dấu! Trời! Thà đừng sinh ra tôi làm gì còn hơn!

Luna úp mặt giấu trong taỵ Chàng mạnh mẽ nói tiếp:

- Dẫu sao, tôi cũng sẽ làm trọn bổn phận của tôi. Ồ! Giá bổn phận ấy cứ dễ dàng như trong hồi chiến tranh thôi nhỉ. Đằng này còn phải chịu mất em kia! Kìa, em khóc đó sao?

Giọng chàng ân cần âu yếm. Nàng đáp. Lời nói qua mấy ngón tay che:

- Không đâu. Mà dẫu cho em có khóc nữa, cũng chỉ vì lòng em cảm tạ trời đã cho em được lòng yêu ở một người như anh.

- Tình thế bắt phải như thế, chứ anh thì chẳng có gì đáng khen. Cố nhiên là anh sẽ vẫn cứ để mình sống, sống để mà chống giữ lấy cái danh dự nhà cho đến ngày dòng dõi anh sẽ cùng với anh tiêu diệt hẳn.

Chàng bỗng ngừng lại, kinh ngạc:

- Trời ạ! Tôi quên bẵng mất bọn đánh bẫy trong rừng cấm đấy. Nếu bọn ấy bị bắt thì…

Miss Bartendale ngẩng lên nhìn chàng.

- Nếu tôi bắt buộc phải ra trước công chúng thu hết cái nhục nhã của tổ tiên và của chính tôi thì thực là tai họa đến nước! Thực là ngàn năm nhơ nhuốc.

Chàng không nói hết, vùi mặt vào lòng bàn taỵ Rồi chàng thấp giọng tiếp:

- Có em, tôi sẽ đương đầu được với hết mọi điều…

Nàng quỳ xuống trước mặt chàng:

- Anh Oliver, thế này thì khổ anh quá. Không, em sẽ là của anh, không còn chi chia rẽ đôi ta ra được hết! Số trời đã định cho ta sống với nhau rồi mà trời không thể bắt ta chịu hình phạt vì một quá khứ xấu xa tội lỗi được đâu.

- Nhưng em ạ, tương lai lại chịu quả báo của ta…

- Cần chi phải nghĩ đến tương lai? Tổ tiên của anh cũng đã từng khinh thường cái nghiệp chướng nó ám mãi các cụ đó thì sao?

- Là vì các cụ không biết mới thế. Còn ta mà cứ thế thì ta lại chủ tâm mà làm ngơ: đốii với con cái ta, ta sẽ phải mang trách nhiệm rất nặng.

- Vâng, thế đã sao? Ta chỉ sống được có một lần.

- Hiện giờ, em hy sinh cả tâm hồn em cùng với mọi của báu khác ở đời để cho anh được hạnh phúc, nhưng không đành nhận sự hy sinh kia được vì lòng anh đã quá yêu em rồi.

Nàng ngả đầu ra phía sau và nói:

- Tôi lại biết người tôi yêu lại có tấm lòng cao quý hơn tôi: như thế lại góp thêm phần đau khổ tôi phải chịu.

Chàng buồn rầu đáp:

- Anh không phải là người siêu việt được như em tưởng đâu. Đáng lẽ anh phải giấu kín lòng anh yêu em mới phải.

Nàng ra vẻ đắc thắng:

- Nhưng em đã đoán biết được kia! Em có ý hứa sẽ kết duyên với anh nếu em tìm thấy cái vòng nó khuyết mất trong chuỗi dây chuyền luận đoán của em. Em vẫn mong tìm được phương pháp trừ sức quỷ ám kia cho anh.

- Thế à? Anh cũng nghe nói có những nhà giải phẫu có những phương chữa rất thần diệu, trả lại ký ức cho những người mắc bệnh quên và ban thông minh cho những người ngu đần mà chỉ có việc giải phẫu một chút ở óc là được.

Nàng bật buồn cười:

- Đó là những chuyện ngớ ngẩn trên báo chí tuốt! Một chứng bệnh tâm thần có thể chữa được nếu người ta tìm ra được nguyên nhân. Nguyên nhân bệnh của ngài em chắc đã tìm ra được rồi đó! Ồ, nhưng xin ngài đừng có mừng vội. Đó chỉ là điều phỏng đoán ấy mà sai thì ngài là người sau cùng của dòng dõi Hammond. Nhưng nếu điều ấy mà đúng, thì ngài với em sẽ sánh vai nhau mà đi trên đường đời đó ngài ạ.

Bên ngoài có ai bước tới, Oliver vội vàng đỡ Luna đứng lên. Swanhild vào, theo sau là Gođard, một tay quấn băng và một cánh tay áo rỗng thõng buông xuống và sau cùng, bà Yorke, Swanhild gọi:

- Anh Oliver! Bọn nhàAdes vừa bị bắt trước đây một giờ. Vì thế lúc ta ở bên rừng về mọi người trong làng mới đổ ra cả ngoài phố. Anh Will anh ấy bảo là bọn Ades bị khép vào tội giết chết cô Kate.

Oliver ngoảnh về phía Luna, mỉm một nụ cười thất vọng:

- Thế là đi đứt: cái nhơ nhuốc của họ Hammond sắp đến lúc phải công khai.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,467
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Mấy người sững sờ nhìn nhau. Sau cùng Oliver nói:

- Tôi phải gọi điện thoại cho nhà chức trách mới được. Không nên để cho bọn kia phải chịu tù ngục như thế.

- Không! Luna khăng khăng nói. Hãy nghĩ cho kỹ đã rồi hãy quyết định, để cho họ phải giam một vài giờ cũng chẳng có hại gì.

Oliver với Swanhild cùng nói:

- Thế nhưng vợ con người ta…

Luna đáp:

- Này nhé: thử nghĩ lại mà coi họ phải chịu như thế kể cũng đáng kia đó. Ba giờ nữa Swanhild sẽ đến thăm người nhà họ và nói cho họ vững tâm. Lấy lý mà xét thì họ bị bắt như thế chính là tại tôi đó, trong việc này tôi đã đem nghề nghiệp với tên tuổi của tôi ra mà thử thách đó.

Oliver băn khoăn hỏi:

- Sao vậy?

- Nói vắn tắt thì thế này: đáng lẽ chính tôi phải ngồi trên ghế bị cáo mới phải.

- Ồ! Luna!

Bà Yorke chua chát phân giải hộ nàng:

- Qủa thực như vậy đó. Đáng lẽ Luna phải thú thực cái duyên cớ nó xui khiến mình đã phải phi tang mấy vật làm chứng và để cho những người vô tội bị ngờ oan thế mà ngay từ hôm đầu Luna đã tìm được mọi chứng cớ.

Oliver ngạc nhiên nhìn người thiếu phụ. Nàng ôn tồn nói:

- Chính đó. Trong mõm con chó có một mảnh khăn phu là của ông với những thương tích con chó có dính những sợi râu của ông, nếu thấy những thứ đó thì bất cứ người nào của sở liêm phóng cũng có thể đoán được ông là thủ phạm ngaỵ Tôi mới đánh cắp những tang chứng đó và liệng qua cửa sổ trên xe lửa rồi.

Sắc mặt nàng bừng lên và đôi mắt nàng lấp lánh ánh sao nhìn mọi người vẻ khiêu khích. Nàng lại nói:

- Nếu tôi không tìm được cách cố bịt đi, để cho cớ sự vỡ lở, thì tôi không bao giờ hết hối hận và nếu tôi xao lãng bỏ lỡ mất cái cơ hội mong có thể chữa khỏi được ông thì tôi đến hóa điên mất. Vậy tôi phải có hạn ba giờ kia để làm xong cuộc thí nghiệm sau cùng.

Oliver hỏi:

- Cuộc thí nghiệm sau cùng?

- Phải, mà làm trong căn phòng kín. Những cố tật lưu truyền kia có một căn nguyên và một duyên cớ. Có khi chỉ có trời mới làm mất được những cố tật kia do một phép lạ. Lại có khi trời để cho một người trong hạng người có khiếu riêng làm được phép diệu kì đó. Tôi đây mong có thể trừ được con quái vật cho ông.

- Nếu thế, xin cô làm phúc thí nghiệm ngay tức khắc đi.

Luna giữ thái độ bình tĩnh như trước. Cái công việc khó khăn nàng sắp phải làm nốt kia cần phải có đủ hết đảm lực ở nàng.

- Tôi hãy nói qua cho ông biết đại thể cái đã, rồi sau sẽ sửa soạn buổi thí nghiệm. Đại khái lai lịch con quái vật dòng họ Hammond kể từ thời đại tuổi đồng cho đến ngày tận thế theo tín ngưỡng dân Bắc Âu như thế này.

Lúc đó Oliver ngồi trong bóng tối, bên phải lò sưởi, và đối diện miss Bartendalẹ Swanhild ngồi bên cạnh và cầm tay chàng. Bà Yorke và Gođard vừa quây thành một vòng.

Luna:

- Về hồi cuối tuổi đồng trong lịch sử Bắc Âu nghĩa là vào khoảng bảy trăm năm trước Tây lịch Sigmund Volsung, vị tổ tiên của ông, là một bực vua chúa rất có quyền thế. Người chỉ có một cô em gái tên là Signỵ Nàng bị một con chó sói cắn chết mặc dầu Sigmund đã đem hết sức bình sinh ra chống cự để cứu nàng. Trong cuộc vật lộn ấy người sinh cuồng dại, phần vì phiền não, phần vì đau đớn, tâm lực không giữ được. Người đâm ra nguyền rủa vị thần thánh vẫn tôn thờ. Người nguyền rủa rằng đến ngày Phán xét tuổi đồng sau này, khi các đấng anh hùng sống lại để cùng thần Ases chiến đấu với những hung thần các loài yêu quái, thì một mình Sigmund sẽ biến thành chó sói mà đứng về phía quân thù. Một câu nguyền rủa như thế ta khó lòng mà lượng được sự quả báo đến chừng nào chỉ biết về thời đó phép giải tội chưa có và khi cụ Sigmund hồi tâm lại thì người bị ám ảnh hoài bởi những lời người đã thốt ra. Việc thảm khốc kia xảy ra trong một khu rừng thông một đêm đông sao điểm vằng vặc. Về sau, bao nhiêu năm đã qua rồi, bỗng tình cờ một đêm người ở trong rừng thông với một người con trai của người. Sự liên tưởng diễn ra trong trí, người nghĩ ngay là thần Odin giáng họa xuống cho mình; thế là người nổi cơn điên ma sói. Con trai cụ về sau, phần thì do sự di truyền, phần do ám thịt, cũng chết vì chứng điên đó, rồi lại đến lượt những con cháu còn mang trong tiềm thức dấu vết những mối kích động dữ dội của ông chạ Bao giờ cơn điên cũng nổi lên trong những trường hợp trùng nhau: đi với một người trong rừng thông, một đêm có sao và có rét.

Swanhidl nói:

- Những điều nhớ lại khi ngửi thấy mùi hắc ín cũng thuộc vào hiện tượng này đấy nhỉ.

Luna:

- Chính vậy đó. Khi nhắc tới chuyện Covert, tôi gây ra được những kỷ niệm ấy thì biết ngay là mình đi không lầm đường… cụ Sigmund chắc thế nào cũng đem việc mình thỉnh giáo các thầy cả trong đạo mình và chắc bọn họ nói quyết với cụ rằng câu nguyền rủa kia sẽ đời đời trói buộc vào dòng dõi nhà cụ. Một người trong bọn con trai cũng tên là Hammond có một thanh gươm đồng tuyệt quý. Thanh gươm ấy, cha truyền con nối cho nhau giữ rồi thuộc về cái người làm hải tặc sang cướp phá bên Anh. Hồi bấy giờ người ta đã dùng khí giới bằng sắt, nhưng Magnus tha thiết với thanh gươm lắm, đến đỗi sai làm thêm mảnh vàng khắc lên đó và để chôn theo với mình. Trên ngôi mộ có đặt một phiến đá ghi tên họ mình và tổ tiên mình; về sau phiến đá ấy người ta chôn xuống đất, coi như một kỷ niệm thiêng liêng của những đạo sĩ đời thượng cổ.

“Lời thề độc hóa làm chó sói kia vẫn cứ theo ám ảnh hoài những con cháu nối dõi cụ Magnus, mà họ thì không biết rõ nguyên dọ Bệnh ma sói, là một bệnh rất thường về đời trung cổ, không làm cho người ta ghê sợ như ngày nay.

Oliver:

- Hãy khoan, thế chứng bệnh kia không truyền ra các chi họ bọn con cháu Magnus sao?

- Không. Người ta công nhận rằng con quái vật chỉ theo dõi những chủ nhân trại ấp này thôi. Người nào trong chi này cũng vô tình mà chờ đợi con quái vật hiển hiện, mà tổ tiên nhà ông với những chủ ý tốt nhất đời đã lập ra một thói tục tồi tệ nhất: các cụ đặt ra một bài hát kể những điều kiện cần thiết cho con quái vật hiện hình.

- Sao lại thế?

- Vì có những cây thông mọc gần cửa sổ. Cánh cửa mở để ánh sao sáng bên ngoài soi vào, các điều kiện gồm có đủ cả, thế là người chủ động không thể thoát được cơn điên, con cháu sinh ra không những đã sẵn tật di truyền huyết thống, mà người ta còn dàn xếp cho họ nổi diên lên. Điều đó rất quan trọng. Những người hành sự biết cách làm tắt cơn bằng cách chiếu ra một luồng ánh sáng.

- Oliver nghĩ ra một ý:

- Tại sao tổ tiên tôi lại không nhổ hết mọi cây thông trong ấy đi thế nhỉ?

Luna cười:

- Tránh trên địa hat mình thì lại gặp bất cứ ở đâu cũng có. Cụ Ẩn tu tìm cả được cách cho mọi người tưởng rằng cụ đã giam xích nó trong mồ Thunder. Số trời cũng giúp cụ vì bao nhiêu người tế lễ tục lưu truyền kia đều chết trong hồi phân tranh Lưỡng Hồng. Ấp Dannow vào tay một người dòng họ Hammond không biết gì về những việc làm trong phòng bí mật, người ấy lại tin rằng con quái vật đã bị nhốt trong mồ. Điều tin tưởng ấy hợp với điều tin tưởng trên, giá cứ thế thì chỉ mấy đời nữa dòng họ Hammond khỏi dứt được cái ác bệnh nếu không có cụ Magnus Pháp sự Lúc trông thấy trước mắt cái tượng mũi thuyền ký ức cổ truyền của ông cụ thức dậy trong tâm não Oliver, thế rồi khi ngọn nến tắt sự kích thích não cân của ông cụ làm cho cơn điên dễ nổi lên, làm cho sự hoảng hốt lúc đó. Và từ đó biết rằng chính mình đã gây ra vạ. Về sau, lấy ngay con trai ông cụ làm người giúp việc thí nghiệm, ông cụ giết con chết trong một hồi lên cơn điên, bà vợ giữa lúc tàn sát kia, cầm đèn bước vào: bà chết ngay tại trận, còn cụ hồi tỉnh dần, và đủ bình tĩnh để giấu giếm mọi sự việc. Sức ám ảnh theo dõi mãi con cháu cụ sau này. Sự thực không thể nào tả ra được vì lần nào người tá độc nhất trông rõ cơn điên cũng đều bị giết cả.

Oliver trầm tiếng nói:

- Bây giờ thì tôi hiểu tại sao con Holder lại không báo hiệu gì để mách tôi… Tội nghiệp con chó, giá nó chạy trốn đi có hơn không. Trời, thực là ghê tởm! Nhưng mà sao hôm ấy tôi lại bị một chỗ sưng u trên đầu thế nhỉ?

- Ông tất bị ngã lúc quật con chó vào thân cây, mà chính việc đó đã tạm giữ được cho ông không quyên sinh đó. Nhưng lúc nãy, khi tôi tới nơi, ông đã bắt đầu lờ mờ hiểu ra những việc xảy ra những phút trước.

Gođard vừa cười vừa nói:

- Anh làm hỏng cả cái cánh tay chắp rất đẹp của tôi rồi đấy. Giờ thì tôi xin thú thực rằng lúc đó tôi bối rối quá, vì tôi chưa biết làm cách nào để tránh cho anh nổi cơn điên. Tôi chắc rằng miss Bartendale đã đoán biết cả.

Luna mỉm cười nói Oliver:

- Cho đến bây giờ tôi vẫn còn bàng hoàng với tất cả những điều “đoán biết” đó.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom