Cập nhật mới

Dịch Full Vương Quốc Những Kẻ Lạ Mặt

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Vương Quốc Những Kẻ Lạ Mặt

Vương Quốc Những Kẻ Lạ Mặt
Tác giả: Zoe Ferraris
Tình trạng: Đã hoàn thành




Dịch giả: Vũ Ngọc Quyên

Tàn bạo nhưng lôi cuốn, xâm chiếm bởi những khoảnh khắc của lòng từ bi và sự can đảm, cuốn tiểu thuyết Vương Quốc Những Kẻ Lạ Mặt đưa đẩy chúng ta đến với sự tàn ác và sức nóng của mảnh đất của những mạng che mặt Ả-rập Xê-út.

Một khách du lịch Bedouin phát hiện ra xác chết bị cắt xén của một phụ nữ bị chôn vùi trong cồn cát ven biển. Mặc dù sa mạc có thể vùi lấp được nhiều thứ, nhưng nó đã không thể che giấu được cơ thể của 18 người phụ nữ khác xung quanh xác chết tìm thấy. Mười chín phụ nữ - đã chết. Ả-rập Xê-út tuyên bố không có giết người hàng loạt trong lịch sử, nhưng các bộ xương đã minh chứng cho sự tồn tại của một kẻ giết người hàng loạt đã và đang ẩn dật tại Jeddah suốt hơn một thập kỉ.

Tuy nhiên, thanh tra trưởng Ibrahim Zahrani, lại bị phân tâm bởi một bí mật cá nhân. Tình nhân của ông đột nhiên biến mất, nhưng ông không thể trình báo việc mất tích của cô, bởi vì việc ngoại tình sẽ bị trừng phạt bằng cái chết. Không còn con đường nào khác, Ibrahim đã giao phó trường hợp này cho Katya, một trong số ít phụ nữ trong lực lượng của ông. Bị lôi kéo vào cả hai cuộc điều tra, Katya đã phải vô cùng thận trọng để giấu kín bí mật cho riêng mình.

Miêu tả cuộc sống của người phụ nữ trong một trong những nền văn hóa khép kín nhất trên thế giới, tác giả từng đoạt giải thưởng Los Angeles Times Award và American Library Associatio Alex Award - Zoë Ferraris - đã dệt một câu chuyện gay cấn, hồi hộp, đi sâu vào những góc tối nhất của thế giới ngầm Ả-rập Xê-út.

Một số nhận xét về Vương Quốc Những Kẻ Lạ Mặt:

“Ferraris đã lấy trực tiếp kiến thức về cuộc sống hôn nhân của mình tại Ả-Rập Xê-út và kĩ năng viết giàu trí tưởng tượng để mở ra một thế giới khép kín và cho phép người đọc bước vào bằng ý chí...” – The Huffington Post

“ Cạnh tranh với Stieg Larsson (tác giả Cô gái có hình xăm rồng) từ một góc độ không ngờ” – The Times

“Thoáng thấy sự quyến rũ nhưng bi thương đằng sau mạng che mặt củanhững phụ nữ hồi giáo Ả-Rập Xê-Út” – USA Today

“Nhờ đôi mắt quan sát tinh tường của Ferraris, chúng ta có thể thấy được sự cô lập của cả đàn ông và phụ nữ trong chính nền văn hóa của họ và sự khắt khe trong hình phạt mà họ phải hứng chịu nếu phá vỡ những quy tắc” - The Oprah Magazine

Đôi nét về tác giả:

Zoë Ferraris đã chuyển đến Ả Rập Xê-út như là một hệ quả của cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (1991) để sống cùng với chồng và gia đình chồng là những người Bedouin gốc Palestine - Ả-rập Xê-út. Hiện tại cô đang sống tại San Francisco.

Năm 2006, cô hoàn thành bằng thạc sĩ về Nghệ thuật tại đại học Columbia. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của bà là Finding Nouf (Đi tìm Nouf) và tiếp đó là City of Veils (Thành phố của những mạng che mặt)được xuất bản trên 30 quốc gia. Cuốn sách thứ 3, Kingdom of strangers - Vươngquốc những kẻ lạ mặt, ra mắt vào tháng 6 năm 2012, bản dịch tiếng Việt sẽ được Nhà xuất bản Hội nhà văn và Công ty Cổ phần sách Văn Việt ấn hành tháng 9 năm 2012.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Mười chín. Đó là số tử thi được phát hiện ngoài sa mạc. Tất cả đều là phụ nữ. Thủ phạm có thể chỉ là một người, và hắn đã giết hại những người phụ nữ này từ mười năm về trước mà cảnh sát không hề hay biết.

Với bối cảnh là Jeddah, thành phố lớn thứ hai của Ả Rập Xê-út và là cửa ngõ tới thánh địa Hồi giáo Mecca, Zoe Ferraris đã dẫn dắt người đọc bước vào vương quốc những kẻ lạ mặt qua những tình tiết chắp nối và đan xen như những mảnh ghép hình của một bức tranh bí ẩn.

Sự hồi hộp và lôi cuốn của cuốn tiểu thuyết đến từ những mâu thuẫn và căng thẳng trong cuộc sống dưới một chế độ thần quyền, với niềm tin tôn giáo gần như tuyệt đối và đặc biệt là nỗi ám ảnh cực đoan về phẩm hạnh của người phụ nữ. Một xã hội bị cách ly về giới tính: có ngân hàng, có khu mua sắm dành cho nữ giới, phụ nữ phải đi cửa riêng, ngồi ở khu vực riêng trong nhà hàng. Một xã hội với luật pháp hà khắc: ăn cắp sẽ bị chặt một bàn tay, ngoại tình có thể bị chặt đầu và phụ nữ bị hiếp dâm cũng phải chịu tội như người hiếp dâm mình vì cô ta đã phạm điều giáo huấn khi tiếp xúc với đàn ông lạ. Vấn đề tình dục cũng được đề cập một cách thẳng thắn thông qua mối quan hệ giữa Thanh tra Ibrahim Zahrani và Sabria, một phụ nữ nhập cư đã từng bị lam dụng như rất nhiều những cô gái trẻ nhập cư khác. Thậm chí Ferraris không ngần ngại khi đề cập đến khía cạnh gai góc qua những trường hợp quan chức cấp cao của chính phủ, của lực lượng cảnh sát có dính líu tới những vụ lạm dụng tình dục và giết người.

Dưới góc nhìn hiện thức của một phụ nữ phương Tây tự do, Ferraris phê phán nhưng đồng thời khắc họa chân dung nhân vật, dù là chính hay phụ, thông qua những quan sát tâm lý chân thực và rất người. Họ có một cuộc sống bên ngoài xã hội và một đời sống nội tâm với những bí mật cần che giấu, dù đó là đàn ông hay đàn bà, là người quyền chức, giàu sang hay người lang thang, nghèo khó. Trên hết, Farraris thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với thân phận của người phụ nữ trong xã hội Ả Rập và Hồi giáo. Đó là Amina al-Fouad, một mẫu phụ nữ nội trợ điển hình nhưng bất hạnh dù có một ông chồng giàu có. Một cô gái trẻ như Saffanah, dám liều mình thách thức mọi điều luật về đức hạnh vì đam mê tình ái nhất thời, và rồi bị bỏ rơi trước khi nhận ra mình đã mang thai. Và những cô gái nhập cư, ngưỡng vọng và tìm mọi cách để đến Ả Rập Xê-út với mong ước đổi đời nhưng đã bị lừa gạt, bị lạm dụng và thậm chí bị giết hại một cách tàn bạo. Sự đồng cảm đó được Ferraris gửi gắm qua nhân vật Katya Hijazi, một nữ nhân viên pháp y với ước mơ trở thành một thám tử điều tra, là người đã chứng kiến số phận của những nhân vật đó trong câu chuyện, và cũng chính là hình tượng của một mẫu phụ nữ dám ước mơ và dám vượt qua định kiến của xã hội để biến ước mơ của mình thành hiện thực.

Am tưởng sâu sắc những phương thức của tội phạm giết người hàng loạt, thấu triệt trong phân tích tâm lý nhân vật và tài năng trong tạo dựng những mâu thuẫn và đẩy xung đột lên cao trào, tuy không phải là mới lạ đối với thể loại này, nhưng tất cả đã được Ferraris khéo léo sắp đặt bằng những kỹ năng của một nhà biên kịch lão luyện.

Sinh trưởng trong một gia đình quân nhân Mỹ, nhưng đã từng sống ở nhiều quốc gia khác nhau nên Ferraris có một sự cảm thụ văn hóa vô cùng nhạy bén và tinh tế. Chín tháng trải nghiệm cuộc sống ở Jeddad cùng gia đình chồng là người Ả Rập Xê-út là nền tảng cho sự thành công của ba cuốn tiểu thuyết về chủ đề xã hội Ả Rập của Zoe Ferraris. Đó cũng là lý do tại sao trong Vương quốc những kẻ lạ mặt, người đọc sẽ có cảm giác chân thực và gần gũi như được dẫn dắt bởi một người trong cuộc. Xin mượn lời đánh giá của trang The Guardian để thay lời kết: “Với những phân tích văn hóa không hề gượng ép, đây là cuốn tiểu thuyết trinh thám thú vị bậc nhất đã phá vỡ những hạn chế vốn có của thế loại tiểu thuyết này.” (1)

(1) Robin Yassin-Kassab, “Kingdom of Strangers by Zoe Ferraris – review”, The Guardian, http://www.guardian.co.uk, Friday 27 July 2012 (Tất cả các chú thích trong cuốn sách này là của Dịch giả).

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách tới quý độc giả.

***

Gió cát bụi mù cuốn lấy chiếc SUV khiến nó trượt dài rồi dừng lại giữa lòng đường. Bốn viên cảnh sát của Đội Trọng án mặc thường phục bước ra khỏi xe, áo sơ mi nhàu nhĩ, mặt nhăn nhó vì nắng. Chỉ một người có mang theo khăn chùm đầu, những người còn lại đều đeo kính râm.

Cảnh sát địa phương tiến lại gần bọn họ. Người đàn ông Bedouin đã phát hiện ra xác chết có thể ngay lập tức nhận ra ai là người chịu trách nhiệm chính qua sự khác biệt khá tinh vi về ngoại hình của những viên cảnh sát. Trung tá Thanh tra Ibrahim Zahrani không tự giới thiệu về mình. Người Bedouin kia tiến về phía ông, với vẻ bất an thuật lại việc chiếc xe tải của mình đã chệch lái khỏi đường như thế nào, khiến một con cừu văng ra khỏi khoang chứa hàng và buộc ông ta phải dừng lại. Khi ông ta đi tìm con cừu thì phát hiện ra cái xác. Mọi người đi theo ông ta trong đám cát bụi tung mù.

Rất khó để ngay lập tức nhận ra cái xác là nam hay nữ. Có năm dấu giày tạo thành hình vòng cung xung quanh khuôn mặt đã bị rạch nát. Cằm và mắt bên trái đã bị mất - có lẽ là vết thương bởi đạn bắn - phần da còn lại đã khô xám ngoét và bị bao quanh bởi một lớp cát. Từ những sợi đen nhỏ li ti nhô ra từ phần cổ áo Ibrahim đoán đây là một phụ nữ.

Ý nghĩ đầu tiên của ông là một gã trai sa mạc nào đó đã bắn vào đầu chị hắn vì một “tội ác” có liên quan đến danh dự gia đình. Còn có thể là kẻ nào khác được khi chôn xác người như thế này chứ? Quá xa về phía nam Jeddah, đây là một dải cát đã bị lãng quên nằm sâu trong lãnh thổ đến tận mười sáu dặm tính từ trục đường chính, mà trục đường đó cũng không thể trở thành xa lộ được. Bọn họ đã bị lạc tới hai lần trên đường đến đây và đã phải chờ cảnh sát địa phương đến hỗ trợ.

Viên thanh tra nhìn lại khuôn mặt đó lần nữa. Không phải gương mặt của một người sinh sống ở vùng sa mạc. Cho dù nó đã bị hủy hoại, người ta vẫn có thể nhận ra nét mặt người châu Á.

Ibrahim liếc nhìn đồng hồ đeo tay: đã một giờ rưỡi chiều. Nếu may mắn, bọn họ có thể xong việc trước khi đến khoảng thời gian kinh khủng nhất trong ngày. Đã đầu thu, thực ra là cuối mùa hè. Cái nóng đã cắt đứt mạch tư duy của ông như một kẻ lắng nghe thiếu kiên nhẫn. Viên cảnh sát địa phương, Hattab al-Anzi, trông không có vẻ gì giống với một nhân viên cảnh sát hoạt động tại khu vực sa mạc cả. Da xanh xao, mắt lác xệch, nhễ nhại mồ hôi. Ông ta bấm còi rồi lái xe đi, có lẽ là để lấy lòng các nhân viên điều tra, hoặc đội pháp y, những người mà chắc hẳn cũng đã lòng vòng cả mấy đoạn đường mà đám người của Ibrahim đã phải nguyền rủa chúng biến xuống địa ngục cho rồi.

Phía sau họ lúc này, lũ cừu đang be be kêu trong khoang chứa của chiếc xe tải. Nửa con đường đã bị cát phủ kín. Chỉ ngay trước điểm đỗ chiếc SUV vài mét, con đường không thể nào đi qua được nữa. Thật đúng là một nơi biệt lập. Gió cát hẳn đã xuất hiện hàng tuần rồi mà không ai để ý.

“Ông có cho rằng việc này mới xảy ra gần đây không?” Ibrahim hỏi người Bedouin. “Vâng, đêm qua có bão. Một cơn bão kinh khủng. Tất nhiên là đủ để thổi tung cả đụn cát phủ đầy con đường.”

Khi nhắc đến đụn cát, ông ta ra hiệu về phía cái xác. Tất cả những gì mà Ibrahim có thể nhìn thấy là khung cảnh cát bụi bị xé thành từng lớp bởi những vỉa đá nhô lên. Ông thấy những làn cát bay tứ tung, một số quấn lại trên đường trước khi ông nhận ra khu vực xung quanh cái xác đã hơi dày cát lên. Hẳn đã có một đụn cát ở đó - không quá cao, có lẽ là hình lưỡi liềm, cong theo hướng gió thổi phía đông.

Ông quan sát thấy nhân viên của mình đi lại trên hiện trường vụ án và nghe tiếng sĩ quan cấp dưới Waseem Daher nhắc nhở họ. “Lùi lại con đường ngay! Các anh đang đạp lên bằng chứng đấy!” Chẳng ai nghe theo, nhưng bọn họ đứng gần anh ta và quay sang khi anh ta nói, lúc nào cũng với vẻ háo hức. Daher không hẳn nhận thức được quyền hạn của mình đối với những người đó.

Ánh nắng gay gắt bao trùm lên họ như những lưỡi lửa liếm ngang từ một bó đuốc. Cuối cùng thì những chiếc xe cũng đã đến với cách thức của một đám tang. Một cuộc diễu hành xe cứu thương của Trăng lưỡi liềm Đỏ, xe cảnh sát điều tra, hai chiếc Yukon của đội pháp y. Viên cảnh sát địa phương, Hattab, đỗ xe ở cuối hàng.

“Tay đần độn.” Ai đó lên tiếng. “Có ai nói với hắn là người ta không thể dẫn đường nếu đi từ phía sau không?”

“Anh ta muốn chắc rằng nếu có bão nữa thì anh ta sẽ là người đầu tiên chạy thoát.” Daher nói.

Chỉ trong vài phút, cảnh tượng đã trở nên hỗn loạn bởi đám người. Mấy tay pháp y cô lập khu vực xung quanh xác chết bằng những chiếc gậy dài và một cuộn băng màu xanh dương. Ibrahim liền can thiệp; ông muốn khoanh vùng toàn bộ đùn cát, để họ có thể mở rộng khu vực và đẩy những người kia lùi ra xa hơn. Hai viên cảnh sát trẻ đến cùng nhân viên điều tra cũng có tên là Ibrahim, nhưng mọi người thường gọi là Abu-Musa, tức “cha của Musa.” Thực ra ông ta là cha của Kareem, nên đáng lẽ phải gọi là Abu-Kareem mới đúng, nhưng một buổi chiều tại một cửa hàng cà phê, ông ta đã ra sức giải thích với Chánh Thanh tra Riyadh rằng musa, tên của nhà tiên tri Moses, cũng là tên của loài cây họ chuối. Chúng được đặt tên như vậy vì mẹ của Moses đã nhét một quả chuối vào miệng con trai trước khi đặt nó vào giỏ sậy rồi đẩy xuống sông Nile. Quả chuối có nhiều chất dinh dưỡng, nhưng chủ yếu là giữ cho đứa trẻ im lặng để người Ai Cập không phát hiện mà giết nó. Chánh Thanh tra Riyadh, vốn không ưa mấy cái chuyện pha nửa lịch sử nửa thần thoại như vậy, chỉ bập bập chiếc tẩu và lầm bầm. “Thế anh thì biết chuyện à, hả cha của Musa?” Vậy là cái tên Abu-Musa có từ đó.

Thanh tra Ibrahim trước đây chưa từng làm việc với Abu-Musa, nhưng bản tính nóng nảy cũng như sự chính trực hống hách của ông ta đã trở thành huyền thoại. Giờ thì Abu-Musa đang đợi các nhân viên pháp y hoàn thành việc khám nghiệm nửa thân trên. Hai nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ tiến vào định giúp các nhân viên pháp y lắp đặt chiếc mày hút bụi sẽ sử dụng để loại bỏ lớp cát, thì Abu-Musa quát họ: “Quay lại đây ngay! Các anh không được đụng đến cô ta!”

“Cô ta chết rồi mà.” Một nhân viên đáp.

“Không ai được động vào cô ta hết! Giờ thì biến ngay khỏi đây đi.” Abu-Musa đẩy người đó sang bên. Ông ta không hề để tâm đến việc có thể phá vỡ mất bằng chứng, ông ta chỉ đang cảnh giác một tội ác đạo đức, đàn ông đụng chạm vào cơ thể phụ nữ, hủy hoại thanh danh của cô ta dù cô ta đã chết.

Tiếng lách cách quen thuộc của bánh xe lăn trên đường nhựa và đám bụi nhỏ cuộn lên đã báo hiệu sự xuất hiện của một chiếc SUV khác, chiếc xe chở Thám tử Osama Ibrahim. Osama bước ra khỏi xe, khảo sát hiện trường, rồi đi thẳng về phía thanh tra Ibrahim. Hai người bắt tay nhau, và Osama cáo lỗi vì đã không đón tiếp ông trước ở Sở được.

Ai nấy đều cư xử rất lễ độ, Ibrahim đã làm việc ở Sở được hai tuần rồi, sau khi thuyên chuyển từ Đội Điệp vụ. Ông được kính trọng không chỉ bởi, ở cái tuổi bốn mươi hai, ông lớn hơn hầu hết các sĩ quan khác, mà còn bởi ông đã làm việc trong lĩnh vực trọng án từ rất nhiều năm trước, và cũng vì ông có quan hệ với hoàng gia. Ông chắc chắn rằng chẳng bao lâu các rạn nứt sẽ xuất hiện.

“Một người Bedouin địa phương đã tìm thấy xác một người phụ nữ vùi trong cát.” Ông nói. “Anh đến xem sao.”

Osama rời bước.

Hai nhân viên Trăng lưỡi liềm Đỏ lúc này đang càu nhàu về Abu-Musa và bàn luận về một sự việc được đưa trong mục tin tức. Có một nữ sinh tại trường Cao đẳng Sư phạm ở Qassim đổ bệnh. Trường đó đã phải gọi cho Trăng lưỡi liềm Đỏ, nhưng khi nhân viên của họ đến nơi thì những người có thẩm quyền đã cấm họ động vào cô ta. Mặc dù họ rất lo ngại cô ta có thể chết nhưng hình như họ còn lo ngại hơn việc để đàn ông lạ mặt đụng chạm vào cô gái và làm cô ta mất phẩm giá. Trong khi bọn họ còn đang tranh cãi thì cô gái đó đã chết. Hai nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ có vẻ kinh hãi trước toàn bộ sự việc này và cảnh giác với những điều tương tự có thể xảy ra với họ.

“Ông ta nghĩ chúng ta là cái quái gì chứ - một đám ma cô dẫn khách à?” Một người lớn tiếng.

Osama quay lại trông có vẻ bàng hoàng. Ibrahim nhận thấy vẻ mặt đó của ông ta. Anh cho rằng mình đã miễn dịch với cái chết, đã chứng kiến cả thảy mọi điều xảy ra với con người - và rồi chỉ một gương mặt phụ nữ đã đánh gục anh lần nữa. “Vụ rắc rối ở địa phương thôi, anh nghĩ vậy không?”

“Chắc vậy.” Ibrahim nghiên cứu hiện trường. “Nhân viên điều tra của anh thường hung hăng như vậy sao?”

“Vâng, nhưng chỉ khi nạn nhân là nữ giới.”

“Điều đó cũng dễ hiểu.”

Bỗng có tiếng vật gì đó gãy. Tiếng kêu rất nhỏ nhưng cũng đủ tạo ra một bầu không khí im lặng đầy tò mò. Một nhân viên của Trăng lưỡi liềm Đỏ đã dẫm lên phần cát mềm, đạp phải thứ gì đó cưng cứng, khiến nó gãy vỡ. Ibrahim tiến lại và quát lớn: “Không ai được cử động!” Ngạc nhiên thay, tất cả mọi người đều tuân lệnh.

Người kia đã nhấc chân ra khỏi đám cát, và qua gương mặt anh ta Ibrahim có thể nhận ra anh ta đã tìm được thứ gì.

“Nghe có vẻ giống xương bị gãy.”

“Chính vậy.” Chỗ đất lún vì dấu giày của anh ta đã bị cát phủ đầy. Ibrahim quan sát xem còn có ai khác không.

Bọn họ đều đứng cách xa cái xác năm mét.

“Mọi người giữ nguyên vị trí hiện tại.” Ibrahim lớn tiếng. “Trừ anh.” Ông chỉ tay về phía người chụp ảnh pháp y. “Chụp ảnh tất cả mọi người tại đúng vị trí hiện giờ của họ.” Người đó nhoài người ra để thực hiện theo. Rồi Ibrahim chỉ sang Daher. “Anh ra chỗ tay cảnh sát địa phương bảo anh ta liên lạc bằng bộ đàm để cử mấy người tìm dấu vết đến đây. Nhóm Murrah ấy, nếu anh có thể liên lạc được với họ, và hãy cố gắng nhanh hết sức vào.” Daher nhảy vào chiếc xe cảnh sát mà Hattab ngồi tận hưởng máy điều hòa.

Ibrahim đứng gác, cái nhìn chăm chú của ông khiến đố ai dám di chuyển chỉ một mi-li-mét. Giống như lũ trẻ đang chơi trò, bọn họ đứng bất động một cách ngượng nghịu, trên khuôn mặt họ lúc này đã biến mất cái vẻ chịu đựng vì cái nóng mà bừng sáng lên sự háo hức, một niềm vui thích kỳ lạ khi được chỉ bảo phải làm gì trong khi thực ra đó là điều bắt buộc.

Đám nhân viên của ông thanh tra đã dẫm đạp lên khu vực này tương đối nhiều, nhưng đến cái xác thứ ba bọn họ vẫn chưa phát hiện được quy luật nào.

Nhóm tìm dấu vết Murrah đã đến - một người ông và đám cháu của ông ta - và phải mất đến hàng giờ đồng hồ đi lại quanh địa điểm để ghi nhớ các dấu giày, loại bỏ từng người bằng những kỹ xảo kỳ diệu. Bọn họ thậm chí không cần tham khảo ảnh nhân viên pháp y đã chụp. Sau đó, bọn họ bắt đầu lại từ đầu, dò tìm những vật gì không nằm trong phạm vi đó. Họ khảo sát kỹ lưỡng mặt đất, hết bò, ngồi xổm, lại quỳ, chăm chú quan sát các điểm giống nhau trên mặt cát đến hàng phút theo những vệt dài rất khó hiểu. Họ đã tìm được sáu cái xác với những cánh tay theo hình chữ Y thần thánh, nhô lên mặt cát như đang cảm nhận không gian hình học thần bí, và chỉ đến khi đó thì dạng như một quy luật mới bắt đầu định hình.

Tất cả những cái xác đều là phụ nữ. Bọn họ bị chôn ở phía lưng của một đụn cát hình lưỡi liềm. Có một nền đá đặt ở dưới để giữ cho vùng cát được ổn định, giúp cho tên sát nhân, giả sử như vậy, nếu muốn có thể quay trở lại mà vẫn tìm được địa điểm chôn cất trong trường hợp bão cát đã thổi tung đụn cát của hắn lên con đường. Một điểm lún nhẹ từ phía con đường trở xuống cho thấy dù có bao nhiêu cơn bão quét qua đây đi chăng nữa thì cát vẫn sẽ tích tụ tại chính điểm này. Trong khoảng vài tháng, cát sẽ tạo thành một đụn khác nhờ gió vẫn đều đều thổi. Nếu gặp bão, nó sẽ bị thổi tung phủ lên mặt đường, giống như chuyển động từ từ của những con sóng xô vào bãi biển. Rồi con đường sẽ lại quang sạch và cát sẽ lại tích tụ thành đụn.

Con số xác chết giờ đã tăng lên khiến Ibrahim không ngừng băn khoăn: tại sao lại là chỗ này?

Họ phải gọi xe tải chở nước, và một nhà hàng địa phương (chỉ cách đó ba mươi hai cây số) chuẩn bị cho họ những đĩa cơm khổng lồ cùng thịt cừu, đúng như một đám cưới, và họ ăn hết sạch, nếu không muốn nói là ăn một cách điên cuồng. Những làn gió nóng như lửa bắt đầu cuộc chơi chết chóc với cơn thèm ăn của những người đàn ông. Hai người đã ngã gục và phải đưa trở về Jeddah bằng xe của Trăng lưỡi liềm Đỏ.

Ibrahim cúi xuống từng cái xác một, cái nóng như lưỡi dao cắt ngang lưng ông. Mồ hôi đầm đìa khiến giày ông ướt nhẹp. Ngay cả nhóm Murrah có vẻ cũng bắt đầu kiệt sức.

Hiện trường mở ra về phía sa mạc như một khu khai quật khảo cổ học, ngôn ngang trên mặt đất nào vải bạt, nào cọc dựng, đèn sáng được mang đến khi mặt trời chuyển sang màu đỏ ối và khuất dần phía chân trời. Mười chín cái xác tất cả. Ibrahim thấy khiếp sợ khi nghe nhân viên điều tra báo cáo lại. Abu-Musa đến nói chuyện với ông, đây là lần đầu tiên trong ngày ông ta làm vậy. Ánh hoàng hôn khiến mái tóc hoa râm của ông ta đẹp lạ lùng.

“Ông có nghe những gì tôi nói không? Mười chín cái xác.” Abu-Musa nói. “Mười chín. Ông hiểu điều đó có nghĩa là gỉ chứ?”

“Và trên cả đó là mười chín?” Ibrahim trích đọc.

Abu-Musa gật đầu với vẻ đồng tình lặng lẽ. Câu thơ đó được trích trong kinh Koran, là một câu thơ huyền bí không ăn nhập gì với những nội dung khác, nhắc nhở con người từ hàng bao thế kỷ nay gợi tưởng đến những hình dung hoang dại về tầm quan trọng của con số mười chín. Những lần nhập thân gần đây nhất ở Mỹ, Tucson, Arizona, một nhà hóa sinh người Ai Cập tên là Rashad Khalifa tuyên bố tổng lãnh thiên sứ Gabriel đã tiết lộ với ông ta rằng trong văn tự kinh Koran có một mã số toán học bí ẩn có thể giải mã bằng cách sử dụng con số mười chín.

Nhưng câu thơ tiếp theo trong kinh Koran đã đưa ra một lời giải thích giản đơn cho con số đó: Và chúng ta không sắp đặt ai khác ngoài các thiên sứ như những người gác lửa, và chúng ta đã ấn định con số của họ.

Điều đó nghĩa là có mười chín thiên sứ canh gác Địa ngục.

“Có thể là trùng hợp thôi.” Ibrahim nói.

“Anh có chắc không?” Abu-Musa cười mỉm, vẻ thờ ơ. “Tôi tin là anh sẽ không tìm thấy thêm thi thể nào nữa đâu. Dù là kẻ nào đã làm chuyện này thì hắn cũng có lý do của mình.”

“Cũng vậy cả thôi.” Ibrahim nói. “Có thể chỉ vô tình là mười chín.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Katya Hijazi đang bê chồng hồ sơ mới nhất xuống văn phòng của Thanh tra Zahrani thì một tràng cười giòn giã vang lên từ phía phòng họp khiến cô chú ý. Cô bước rón rén dọc theo hành lang, tò mò muốn biết có điều gì đáng cười đến vậy tại một cuộc họp của Đội Trọng án.

Đám đông đứng tản mác, và cô quan sát họ qua cửa ra vào, nhưng người đàn ông đang nói chuyện, các cuộc trao đổi ở chỗ này rồi chỗ kia, tiếng cười đùa, những cái gật đầu đồng ý. Không ai nhìn về phía cô cả, họ còn bận theo dõi Waseem Daher, một trong những thám tử trẻ mà Katya đã gặp hai lần và đã gộp vào trong số rất ít người mà cô sẽ lấy làm mừng khi đẩy được vào một cái cối xay thịt công nghiệp. Tuần trước, Daher đã buộc tội cô là một người khôn khéo tự cho mình là trung tâm chú ý của mỗi vụ, do cô trưởng thành cùng với việc quan sát Đội Điều tra hiện trường và cho rằng chính các nhân viên pháp y mới là người thực hiện tất cả việc điều tra. Nếu anh ta phát hiện cô đang thập thò ngoài cửa, hẳn anh ta sẽ chẳng để yên.

Hình ảnh về gương mặt của các nạn nhân đã choán gần hết chiếc bảng trắng ngay trước phòng. Katya quá bận bịu trong phòng thí nghiệm nên vẫn chưa nhìn thấy các thi thể đó. Mỗi khi cô xuống dưới gác là lại thấy phòng khám nghiệm tấp nập nhân viên gạo cội và đặc vụ của Bộ Nội vụ. Chưa bao giờ họ lại có một vụ án nhiều nạn nhân đến thế. Thực tế là họ còn không đủ chỗ trong nhà lạnh dành cho nữ giới, nên phải đưa số nạn nhân còn lại sang khu vực dành cho nam giới của tòa nhà và mong là sẽ không có thêm người nào ở Jeddah chết cho đến khi hoàn tất việc xử lý các bằng chứng.

Phải mất ba ngày để di dời các thi thể khỏi hiện trường. Họ thậm chí đã mời một nhà khảo cổ đến với hy vọng mong manh rằng đó sẽ là một sự việc mang tính lịch sử nào đấy. Nhưng từ những gì mà pháp y thu nhận được thì phần “mang tính lịch sử” nhất của những thi thể đó là họ đã chết từ mười năm trước.

Katya đã mất bốn ngày qua để đóng bao và ghi nhãn cá bộ trang phục của các nạn nhân rồi thử các mẫu máu và mô như một cái máy, hoàn toàn không biết bất cứ thông tin gì khác về việc cô đang làm. Tin tức về vụ sát hại được thu nhặt qua những cuộc hội thoại vội vàng với Majdi, một trong những nhân viên pháp y nam chuyên về nghiên cứu bệnh học, hoặc thông qua cách điều tra cũ rích của chính cô: nghe trộm và “mượn” những bản báo cáo vốn không bao giờ được chuyển đến bàn làm việc của cô. Lúc này cô đang có trong tay vài bản như vậy, nhưng té ra lại là những bản bỏ đi.

Cô không biết rằng các điều tra viên vẫn chưa nhận diện được bất cứ phụ nữ nào. Phần lớn những phụ nữ đó là người nhập cư: người Phillipines, người Sri Lanka, người Indonesia, hầu hết mới ngoài hai mươi tuổi. Khuôn mặt của họ đều bị tàn phá, và không có dấu vân tay nào sót lại. những chuyên gia tạo dựng lại khuôn mặt đã đưa ra vài phác họa, và đó chính là cái Katya không có.

Khi mọi người đi qua cửa, Katya né mình sang bên. Cô không muốn lên phòng thí nghiệm và ngồi trước một cái máy suốt quãng thời gian còn lại trong ngày. Cô muốn được phỏng vấn mọi người, sục sạo khắp các hang cùng ngõ hẻm để tìm ai đó có khả năng là nhân chứng, làm tất cả những việc có thể đóng góp cho cuộc điều tra và cũng là những việc mà những người đàn ông này sắp thực hiện, hoặc thực hiện một cách dễ dàng, mà không phải lo lắng điều đó sẽ ảnh hưởng đến phẩm hạnh. Tuy nhiên, cô không thể phỏng vấn mọi người được. Có thể người ta sẽ thấy việc nói chuyện với một phụ nữ là điều không đứng đắn. Cô phải có một người nam giới tháp tùng. Cô sẽ phải có một quyền hạn nào đó để buộc họ phải nói chuyện. Cô có thể luôn đẩy bật những cánh cửa để đi qua, nhưng còn những trở ngại khó nói hơn một cánh cửa rất nhiều. Đó là những lối vào tâm tưởng, những ngõ ngách tăm tối và những lối đi nhỏ hẹp, những mê cung đã dựng lên toàn bộ thành phố tư duy, toàn bộ cái thế giới mà ở đó người ta không bao giờ tìm thấy lối ra, khi bao quanh họ là những bức tường bằng đá tảng từ thời Rashidun Caliphate (1).

(1) Rashidun Caliphate là hoàng đế Hồi giáo, trị vì khoảng năm 632 - 661

Katya đi về phía cuối hành lang, bỏ tập hồ sơ vào hộp thư của Zahrani rồi đi thẳng xuống tầng dưới vào phòng khám nghiệm y tế. Có hai lối vào tầng dưới tòa nhà, một dành cho nam giới, một dành cho nữ giới. Cô bước qua cánh cửa dành cho mình và đi vòng ra phía trước tòa nhà thì thấy Adara đang ở phòng khám nghiệm tử thi của nữ giới.

“Ồ! Hay quá, cậu đây rồi.” Adara nói. “ Đeo găng vào và lại đây đi.”

Katya làm theo và lấy hết dũng khí để nhìn năm thi thể xếp hàng trên những chiếc cáng cạnh tường.

“Ban đầu họ đánh số các nạn nhân theo thứ tự tìm thấy nhưng hóa ra cách đánh số đó lại rất lộn xộn. Giờ thì họ muốn đánh số các thi thể theo trình tự thời gian bị sát hại, thế nên cái xác này trở thành cái mới nhất.” Adara ra hiệu bằng cái kim đang khâu đóng ngực tử thi đó lại. “Người ta mới đưa cô ta đến sáng nay.”

“Cô ta chết lâu chưa?”

“Rất khó nói, nhưng không quá sáu tháng.”

“Mình không biết gì về chuyện này cả.” Katya nói. “Mình mới chỉ thử máu và xem ảnh chụp gương mặt họ.”

“Thực ra, gương mặt họ đã nói lên toàn bộ sự việc rồi. Người nào cũng bị bắn thủng đầu từ phía sau ở tầm gần và bắn thẳng. Vết thương do đạn nổ đã phá hủy hầu hết khuôn mặt, nhưng vẫn có thể nhìn ra được một số đặc điểm.” Adara ra hiệu về phía người phụ nữ đang nằm trên bàn. “Một điều nữa mà mình có thể nói là cô ta ở độ tuổi từ hai mươi đến hai mươi lăm. Xương ống chân và xương đùi bị vỡ, không thấy dấu hiệu bị hãm hiếp. Và, dĩ nhiên, cả bàn tay cô ta nữa.”

Katya nhìn hai cánh tay của người phụ nữ đó và chút nữa thì ngã quỵ. Bàn tay đã biến mất - cả hai. Điều đó giải thích tại sao không có dấu vân tay nào.

“Tất cả bọn họ đều vậy.” Adara nói.

“Tất cả ư?”

“Ừ. Mỗi bàn tay đều bị chặt bởi một nhát chém sau khi nạn nhân bị giết.” Đôi tay Adara đang thực hiện công đoạn khó khăn của việc khâu tử thi. Cô đặt kim xuống, đi ra bồn rửa, để nôn.

“Xin lỗi nhé.” Cô thì thầm. “Mình mang thai.”

“Ồ. Chúc mừng cậu nhé.”

Adara lau miệng rồi súc bằng ít nước trước khi quay lại bàn mổ.

“Bọn họ có còn bàn chân không” Katya hỏi.

“Vẫn còn.”

“Mình biết các điều tra viên đang có một số phác họa về gương mặt được tạo dựng lại của các nạn nhân này.” Katya nói. “Họ sẽ trình các phác họa đó lên các lãnh sự quán.”

“Và cậu cho rằng…?”

“Rằng việc này sẽ mất vài năm. Các lãnh sự quán sẽ chẳng biết gì đâu. Cứ nhìn bọn họ tệ bạc thế nào với người sống thì biết.”

“Đúng vậy.” Adara nói. “Mình nghĩ họ đã đúng khi cho rằng hầu hết những phụ nữ này là lao động nước ngoài, có lẽ là người giúp việc.”

Chi tiết gây sốc nhất với Sở là có khả năng chỉ một người thực hiện vụ sát hại này, một người duy nhất, trong khoảng thời gian từng ấy năm, đã âm thầm giết những phụ nữ này mà không một ai để ý. Katya đã bắt đầu tập hợp hồ sơ về người mất tích, nhưng có khả năng những phụ nữ này chưa từng được khai báo là mất tích. Chủ của họ có lẽ cho rằng người giúp việc của mình bỏ trốn, giống như rất nhiều người khác đã làm vậy, để tìm một công việc tốt hơn hoặc thoát khỏi cảnh bị ngược đãi. Người giúp việc đó sẽ không muốn bị phát hiện, bởi cô ta có thể bị đi tù.

Cũng có khả năng kẻ giết những phụ nữ này đã thuê họ làm người giúp việc. Có thể hắn đã giữ họ ở một nơi biệt lập, từ từ tra tấn họ, từng người một, trước khi giết họ. Có thể ngay từ khi những phụ nữ này đến đây đã, không ai biết về sự tồn tại của họ ngoại trừ kẻ giết người.

“Cậu có biết gì về những kẻ giết người hàng loạt?” Adara hỏi.

Katya lắc đầu. “Không nhiều lắm.”

“Mình mới nghe họ sẽ mời một người từ FBI Mỹ sang, một chuyên gia về những tên giết người hàng loạt.”

“Nghe có vẻ hơi quá.” Katya nói. “Ý mình là, chúng ta từng mời họ rồi.”

Adara nhìn những thi thể nằm xếp hàng cạnh tường. “Mình đoán là bọn họ thấy vụ án này là một vụ khác thường. Một dạng mới, có lẽ vậy. Hắn ta đã ra tay trong vòng ít nhất mười năm rồi. Chánh Thanh tra Riyadh thấy xấu hổ. Mọi người đều thấy bị sỉ nhục. Họ không hề biết sự việc này diễn ra. Họ chậm mất mười năm. Cảnh sát đã phải mất bốn năm trời để lần theo tên giết người hàng loạt ở Yanbu. Riyadh sẽ không để vụ án này phải kéo dài lâu đến thế.”

Trên đường quay lại phòng thí nghiệm, Katya ghé vào văn phòng của Majdi, nhưng anh ta đang nghe điện thoại, mà các đặc vụ cũng đang quanh quẩn ở đó. Cô cúi đầu rảo bước về phía hành lang rồi rẽ sang đại sảnh. Mới trong tuần này các cơ quan tôn giáo đã đưa ra một sắc lệnh nhằm chống lại các nữ thu ngân, nói rằng những phụ nữ làm việc ở các khu vực công cộng, nơi có thể tiếp xúc vời nam giới, là tội lỗi. Có thể đây lại là một sắc lệnh nữa mà người Ả Rập Xê-út sẽ tự cảm thấy là sai trái nhưng sẽ hoàn toàn lờ nó đi, ngoại trừ ngài đại trưởng giáo chịu trách nhiệm thông qua sắc lệnh đó trên thực tế sẽ mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nó, bằng cách cấm đoán những phụ nữ không chỉ ở vị trí thu ngân mà còn ở tất cả các vị trí có liên quan đến việc tiếp xúc với nam giới. Các vị trí bị cấm hàng đầu sẽ là thực những cơ quan của chính phủ, nhất là khi sắc lệnh này được thi hành. Katya mong rằng các hoàng thân quốc thích hoặc chính nhà vua sẽ làm gì đó để xoay chuyển tình hình, nhưng cho đến khi đó thì tất cả những phụ nữ đang làm ở phòng thí nghiệm chỉ còn biết nín thở chờ đợi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Chỉ còn biết chờ đợi khi thời điểm tồi tệ nhất xảy đến, cuộc sống của con trai Ibrahim sẽ đón nhận một cú sốc lớn. Cuộc hôn nhân của Zaki ngay từ đầu đã là tai họa. Ibrahim đã nhận thấy áp lực đó ngày một nặng nề trong suốt ba tháng trời ròng rã. Ngay cả sự việc kinh hoàng khi phát hiện ra mười chín thi thể kia cũng không đủ để thay đổi chiều hướng không thể tránh khỏi này như một tác động sâu sắc, đen tối và day dứt đối với thất bại gia đình của ông.

Đứa con trai yêu quý nhất của ông là Zaki. Ibrahim ngồi trong phòng xử án và lắng nghe con trai mình ra sức giải trình một lần nữa về bản thân cậu trước tòa. Cậu đã sai lầm. Mọi việc thật quá dễ dàng khi không hề biết gì về vị hôn thê của mình trước khi cưới cô ta. Bọn chúng - cả hai đứa - đều đang đòi ly hôn.

Ông thẩm phán chẳng có vẻ gì là đang lắng nghe nhưng có điều gì đó trong ánh mắt ông ta nói với Ibrahim rằng ông ta không chấp nhận được điều này, rằng lần nào ông ta cũng nghe cánh đàn ông lý sự như vậy. Nhưng Zaki phải nói gì đây? Rằng chưa bao giờ cậu có ý định cưới một người phụ nữ kiểu như Saffanah: ngoan ngoãn, mộ đạo, cầu nguyện năm lần một ngày, rồi mỗi tuần một lần yêu cầu cậu đưa tới Mecca? Vị thẩm phán hẳn sẽ tống cổ cậu ra khỏi phòng xử án vì hành vi bất kính đối với đạo Hồi.

Zaki thuật lại sự việc, rằng hằng sáng mỗi khi thức dậy, cậu đều thấy chiếc áo thụng của mình, tấm khăn trùm đầu và sợi dây buộc nằm gọn ghẽ trên giường. Rồi tất nữa - cô ta luôn để một đôi ngay cạnh chiếc áo thụng, phòng trường hợp cậu sẽ dở hơi mà thật sự dùng đến tất. Vào bếp, cậu sẽ thấy bửa sáng của mình được dọn sẵn trên bàn, cà phê cũng đã được pha và bỏ đường, bánh mì nóng hổi mới nướng. Sau bữa sáng, cậu sẽ thấy chiếc ví và chùm chìa khóa được đặt trên bàn ngay cửa trước. Cậu chỉ nhìn thấy Saffanah đúng một lần khi ngồi vào ô tô và quay đầu lại nhìn về phía căn hộ. Cô ta sẽ đứng phía sau ô cửa sổ với một bên cửa chớp đã khép lại, nhìn ra ngoài phố. Chí ít thì cậu cũng cho rằng phía sau bộ đồ trùm kín đó chính là cô ta, có ai khác nữa trong nhà đâu. Cậu không biết cả ngày cô ta làm gì ở nhà. Cô ta quá sùng đạo đến mức không dùng điện thoại di động. Cô ta nói rằng đó là những công cụ làm băng hoại đạo đức. Buổi tối khi cậu về nhà, bữa tối đã sẵn sàng. Chiếc thảm cầu nguyện của cậu cũng đã được trải bên cạnh bộ đồ sạch sẽ để cậu thay. Cô ta làm công việc chăm sóc cậu quá chu đáo trong khi lần nào cũng từ chối làm cái việc mà một người chồng luôn mong đợi ở vợ. Mỗi đêm khi đi ngủ, cô ta sẽ không đụng đến cậu. cậu còn chưa bao giờ được nhìn thấy cô ta khỏa thân. Cậu hiểu đó là mình có quyền yêu cầu, nhưng cậu không muốn ép buộc cô ta. Thực tế là cậu cũng không chắc mình có muốn chuyện đó hay không nữa.

Chỉ vài ngày sau đám cưới, thậm chí trước cả khi Zaki bắt đầu phàn nàn về việc này, Ibrahim đã nhận ra vấn đề. Mặc dù Saffanah chưa bao giờ làm ông thấy phiền, nhưng sự xa cách, sự im lặng và sự vâng lời tuyệt đối của cô ta đã bắt đầu đưa mọi chuyện theo chiều hướng đó.

“Đây.” Một đêm Zaki lớn tiếng. “Chính là lý do tại sao con căm ghét tôn giáo!”

“Không được nói vậy.” Ibrahim sửng sốt nói. “Con bé không phải người Hồi giáo. Nó thậm chí cũng không phải một trường hợp ngoan đạo của Hồi giáo.”

Cả hai đều nói trước tòa rằng họ chưa qua đêm tân hôn, và vì lẽ đó Saffanah vẫn là trinh nữ. Zaki cũng rất tế nhị khi đề nghị một bác sĩ kiểm chứng điều đó. Cha của Saffanah, Jibril, thì bật dậy khỏi ghế và lớn tiếng phản đối. Ông thẩm phán đã phải xua tay buộc ông ta trật tự và quay sang Zaki với ánh mắt hoài nghi sâu sắc.

“Nhưng đó là sự thật!” Zaki nói.

Jabril ngay lập tức lại phản đối. Ông ta biện luận rằng cho dù đã có chuyện gì xảy ra trong phòng ngủ đi chăng nữa thì đó cũng không phải là vấn đề. Saffanah kết hôn được ba tháng rồi. Không một người đàn ông nào sẽ tin cô còn trinh tiết, ngay cả khi điều đó là sự thật. Ibrahim ghét phải thừa nhận rằng cái lý lẽ khó chịu này có cái lý của nó. Sẽ rất khó để Saffanah tái hôn.

Cô ta đang ngồi phía Ibrahim. Không để hở bất cứ một phần da nào trên cơ thể, chiếc áo dài có khăn trùm đầu của cô ta là một tấm vải đen không thể nhìn qua được, cô ta còn mang cả bít tất và găng tay nữa. Nhưng tư thế của cô ta đã nói lên tất cả. Cô ta thu mình trong ghế, hai cánh tay ôm lấy phần thân trên, đầu cúi xuống. Saffanah - “viên ngọc trai”. Cô ta trông lúng túng, vụng về, e dè một cách khổ hạnh. Khuôn mặt cô ta méo mó, trông lổn nhổn như một cục bột nhào. Chẳng có chút gì le lói hết. Viên ngọc trai - như chỉ giấu mình trong đó cô ta mới có thể trở thành vết thương thầm kín trong nội tâm yếu mềm của Zaki.

Lần duy nhất mà Ibrahim từng thấy hai đứa trao đổi với nhau là khi Saffanah mua bữa tối cho Zaki. Cô ta không ăn với đàn ông vì tin rằng người vợ mà ăn cùng chồng là không phải phép. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô ta ăn nhanh hơn chồng mình? Cô ta sẽ ăn xong trước! Thậm chí cô ta có thể ăn nhiều hơn cả chồng! Như vậy là, theo đúng lời cô ta nói, người vợ đó đã ‘hành động như một người chồng’, và đó là trọng tội. Ibrahim cố gắng giải thích rằng ‘hành động như một người chồng’ là cách nói tránh hợp pháp đối với tội đồng tính luyến ái, nhưng khi ông nhắc đến từ đồng tính luyến ái cô ta đã bịt tai lại và bắt đâu lầm rầm cầu nguyện bởi đó là những ngôn từ tội lỗi. Cô ta còn cầu nguyện cho Ibrahim được che chở nữa, bởi ông đã trở thành tội đồ khi dám thốt ra những ngôn từ xấu xa đến thế, và khi ông nói thôi, đừng có ngớ ngẩn như vậy, cô ta đã dành cả buổi tối còn lại để vẩy nước thánh khắp ngôi nhà - hãy tĩnh tâm - và dâng mình cho Allah.

Cô ta đã khiến cho mẹ của Zaki trở thành mẫu người tiết chế hiếm có.

Ibrahim hiểu rằng sai lầm lớn nhất của ông là không phẩn đối vợ mình, Jamila. Bà ta đã ép buộc Zaki phải cưới Saffanah, một bà cô không chồng hai mươi hai tuổi. Cô ta hoảng hốt vì sợ mình không lấy được chồng bởi nhà tiên tri đã nói rằng tín đồ Hồi giáo chuẩn mực nên kết hôn. Cô ta đã tuyệt vọng, và hẳn sẽ không ai muốn lấy cô ta. Còn Zaki, mới mười chín tuổi, không phải cực kỳ đẹp trai, là con trai thứ với một công việc xoàng xĩnh, hay kiểu như mẹ cậu vẫn hay kêu ca như vậy. Ibrahim đã có thể làm nhiều hơn để ngăn chặn việc này xảy ra. Sao mọi thứ vẫn vội vàng thế? Vì với Jamila, ông đã học được cách lựa chọn những trận chiến cho mình, và trong trận chiến này, bà ta đã khơi mào với một loạt ba-zô-ka và súng phóng lựu chống tăng phản lực, tiếp đến là vũ khí hạt nhân, và ông không có được sức mạnh để chống trả. Giờ đây ông đang phải trả giá vì điều đó, phải dẫn dắt Zaki và Saffanah qua những ngày tháng khổ đau.

Ibrahim nhìn đôi trẻ, cả hai đều đang nhìn về trước, cùng lờ nhau đi. Ông tự hỏi sẽ thế nào nếu Saffanah lên tiếng bênh vực họ. Bênh vực họ. Có lẽ cô ta sẽ làm hỏng chuyện bằng cách nói với ông thẩm phán rằng chồng mình là một kẻ vô tín ngưỡng: anh ta hút thuốc. Anh ta không hề cầu nguyện năm lần một ngày. Thực ra, anh ta chẳng hề cầu nguyện chút nào hết. Và anh ta còn nghe nhạc nữa. Suy nghĩ đó khiến Ibrahim đột nhiên đau đớn bởi phần buồn nhất của cuộc hôn nhân thất bại này là việc Zaki từng có một cây ghi-ta, từng khát khao được chơi đàn, thậm chí đã lập cả một ban nhạc nhỏ, rồi sau đó, chỉ vì sự ngốc của chính mình và người mẹ độc đoán, đã phải cưới một người xa lạ trong khi đáng lẽ cậu sẽ tự do gảy đàn trong gara nhà ai đó và hưởng thụ nốt cuộc sống của một đời trai trẻ.

Từ phía bàn bên kia, Jibril đang vô cùng hả hê. Không khí im lặng càng kéo dài, thì dường như Jibril càng cảm thấy thỏa mãn vời chính mình. Ông ta đã có pháp luật chở che, và cả cái lý lẽ khó chịu kia nữa. Hợp đồng hôn nhân đã quy định rất rõ ràng nếu Zaki quyết định ly hôn, cậu sẽ phải trả cho Saffanah mười lăm triệu riyal - đủ để giúp cô ta có một cuộc sống thoải mái đến hết đời. Do một phụ nữ ly hôn không có người để nương tựa, cô ta sẽ phải cậy nhờ cha mẹ mình mãi mãi. Nhưng tất nhiên không ai trong gia đình có đủ số tiền đó. Ai mà có được số tiền đó cơ chứ? Ông đã thấy rất nhiều người đàn ông ly dị vợ và không bao giờ trả một xu nào, hay ít ra là không bao giờ trả đến hàng triệu bạc như đã thề thốt cả. Chính vì vậy mà với ông thẩm phán chuyện thật giản đơn - Zaki và Saffanah muốn ly hôn, và lời huấn đạo của Muhammad đã dạy rằng tất cả những gì cậu cần làm là nói với vợ mình ba lần câu “Tôi ly dị cô!”, chỉ vậy thôi. Thế là xong. Còn có thể nào dễ dàng hơn được chăng? Nhưng cha cô ta lại từ chối không tiếp nhận cô ta trở lại.

Điều này cũng khiến ông thẩm phán khó chịu. Ông ta ngồi đó, đưa mắt ngán ngẩm nhìn Ibrahim, gãi gãi bộ râu thưa thớt, nhìn chăm chăm vào cốc nước, nhìn lên những chiếc quạt trần, rồi lại nhìn xuống những viên gạch lát sàn đã sứt mẻ, tất cả chỉ để cố tỏ ra mình đang suy nghĩ trong khi rõ ràng là đang vô cùng bối rối. Ibrahim có thể hiểu tâm trí ông đang rối bời. Phần tốt của ông ta thì nói: hãy để bọn trẻ ly hôn! Nhưng phần tự cao tự đại thì đang phải đấu tranh với tính pháp lý của việc phá vỡ hợp đồng.

Khi đến lượt mình lên tiếng, Jibril đứng lên và nói với các thẩm phán rằng Zaki đã hủy hoại con gái ông ta và rằng khi cậu chưa trả được mức tiền bồi thường mà hợp đồng hôn nhân đã quy định, gia đình ông ta sẽ không tiếp nhận con gái trở lại. Hiển nhiên điều đó đã buộc Zaki phải tự chủ hết mức để không hét lên. Ibrahim cảm thấy sự thôi thúc phải lên tiếng. Ông muốn nói với thẩm phán rằng Jibril là chúa bịp bợm. Rằng ông ta đã ly dị người vợ đầu tiên mà không trả nổi đến một trăm riyal và rốt cuộc là Saffanah và mẹ cô ta đã rơi vào cảnh bần cùng đáng thương. Rằng Jibril từng có bảy bà vợ và hiện tại có bốn bà, người nào cũng đang mang bầu, trong khi bọn họ đã có với nhau mười hai mặt con, và nếu ông ta không quá sung mãn trên giường đến vậy thì hẳn đã có thể đã hào phóng hơn với đứa con đầu tiên, Viên ngọc trai tội nghiệp, và người mẹ khốn khổ của cô ta.

Jibril vẫn đang thao thao bất tuyệt. Mặc dù ông ta rất yêu quý con gái, nhưng không thể đón nhận cô ta trở lại. Saffanah đã hai mươi hai tuổi rồi, cơ may để cô ta tái hôn thực tế là bằng không. Làm sao cô ta có thể tự lo cho mình được đây? Liệu cô ta có trở thành gánh nặng cho bố mẹ suốt quãng đời còn lại không? Bọn họ sẽ phải lo liệu cho cô ta từ việc ăn, ở đến việc thường xuyên thăm viếng Mecca sao? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông ta chết? Con gái ông ta sẽ cô độc, không con gái, không tiền bạc, không chồng, không tương lai. Khi đó thì nhà nước sẽ phải chăm sóc cô ta, lẽ nào lại không? Và ai mà chẳng biết nhà nước chăm sóc những phụ nữ cô độc tuyệt vời đến mức nào! Con bé sẽ trở thành gái mại dâm, ai cũng hiểu như vậy.

Chỉ có điều là ông ta không hẳn dùng từ gái mại dâm, mà dùng từ không đứng đắn. Con bé sẽ trở nên không đứng đắn. Vậy là Saffanah - người phụ nữ đã lôi tờ lịch biểu cầu nguyện nhàu nhĩ ra khỏi thùng rác và là nó phẳng lỳ - Saffanah sẽ bắt đầu đứng đón khách làng chơi ở đường Corniche. Ibrahim nhìn ông thẩm phán đang lặng lẽ khuấy kem. Không đứng đắn. Đó chính xác là từ ông ta cần phải bám vào nhằm đưa ra quyết định. Vấn đề này thật phức tạp cho đến khi cái từ đó bật ra. Giờ thì thật đơn giản: không gì có thể biện minh cho việc đẩy một người phụ nữ vào cảnh đời tan nát, mặc dù cô ấy muốn thoát khỏi những nỗi bất hạnh này thế nào đi chằng nữa.

Nét mặt ông thẩm phán đã nói lên tất cả với Ibrahim: không ly hôn, các bạn trẻ ạ, xin lỗi nhé.

Ibrahim cảm thấy hai bên thái dương giật giật. Chỉ mới tuần trước thôi một người đàn ông đã ly dị vợ tại chính phòng xử án này chỉ vì cô vợ xem một phát thanh viên nam trên truyền hình một mình. Cô ta đã ở một mình trong phòng với một người đàn ông lạ mặt. Chẳng quan trọng khi anh ta chỉ có trên màn hình phẳng. Gã chồng ngơ ngẩn đó đã ly dị vợ, mà Zaki thì lại không thể sao?

Bọn họ đứng ngoài phòng xử án và nhìn Jibril lái xe đi. Zaki giúp Saffanah ngồi vào ở ghế sau ô tô. Cô ta dò dẫm để ngồi vào ghế, va cả đầu vào thành cửa xe. Ibrahim đã thấy cảnh này trước đây rồi. Zaki sẽ nhắc cô ta thắt dây an toàn. Hằng năm số người chết vì không đeo dây an toàn nhiều hơn bất cứ nguyên nhân tử vong nào khác, không hiểu cô ta có biết điều đó không? Cô ta sẽ lắc đầu - không phải ý là Không, em không biết điều đó, mà là Không, em chịu thôi. Cô ta sẽ khoanh tay lại, đó là kiểu thắt dây an toàn Saffanah, và cứ ngồi như vậy đến khi Zaki khởi động xe. Làm sao có thể thắt dây an toàn được khi mà Saffanah luôn e ngại sợi dây an toàn thắt chặt vào người làm lộ rõ thân hình và bất cứ người đàn ông nào lái xe ngang qua cũng nhìn thấy dáng hình của cô ta, và điều đó là không thể chấp nhận được.

Sau khi nhìn cô ta va đầu vào khung cửa xe, Zaki nói: “Cô nên mặc bộ áo choàng nào có khe hở cho mắt chứ.”

Cô ta không đáp.

Ibrahim định ngồi vào băng ghế sau nhưng Zaki đã ngăn ông lại. “Bố, bố làm ơn lái xe giúp con. Con sẽ đi bộ.”

“Gì cơ?” Ibrahim thốt lên. “Không được. Cứ về nhà đã. Đi bộ giờ này nóng lắm.”

Khuôn măt Zaki tái đi vì phải kìm nén cơn giận dữ. “Nếu thấy nóng quá, con sẽ bắt taxi.” Anh nói. Đoạn trừng mắt nhìn Saffanah lần nữa rồi quay bước đi.

Ibrahim ngồi vào xe và nhìn Saffanah trong gương chiếu hậu. Cô ta hướng mặt về phía trước và nghếch lên đầy thách thức. “Thắt dây an toàn của con vào đi.” Ông nói, chỉ để nhắc cô ta rằng thế là đủ lắm rồi.

Ibrahim nổ máy. Ông hiểu rằng thật không phải khi nổi nóng với cô ta, nhưng ông không chịu đựng được. Sự im lặng đầy thù nghịch và theo kiểu đổ dầu vào lửa của cô ta chẳng lạ lẫm gì. Jamila lúc nào chẳng tỏ thái độ như vậy, chỉ là không có ẩn ý tôn giáo nào mà thôi.

Xe chạy cách phòng xử án chừng ba tòa nhà thì Ibrahim nghe thấy tiếng ậm ọe từ phía ghế sau. Ông xoay người lại thì thấy Saffanah đang kéo tay nắm cửa. Ngay lập tức ông dừng xe. Cô ta đẩy cửa mở ra, ngả người ra ngoài, rồi nôn thốc tháo lên mặt đường, nhưng bởi cô ta không vén tấm áo choàng lên nên đám nôn tung tóe khắp mặt vài của chiếc khăn che mặt và chảy xuống tà trước của chiếc áo trùm bên ngoài. Chỉ có một ít bị bắn tóe lên hè đường.

Ibrahim lao ra ngoài và chạy vòng sang phía cô ta, nhưng khi ông đến nơi thì cô ta đã ngồi ngay ngắn trở lại, tấm mạng che mặt dính bết vào cằm. Cô ta sẽ không tháo bỏ nó ở nơi công cộng, ngay cả khi ngồi trong ô tô và ngay cả khi đám nôn mửa dính đầy mình.

“Đợi ở đây.” Ông nói, rồi để mặc chiếc xe đỗ cạnh một chiếc khác, chạy bộ dọc con đường đến khi thấy một cửa hàng rượu vang ở góc phố. Ông mua khăn giấy, nước đóng chai và kẹo cao su. Ơn trời, ông chủ cửa hàng là một người tốt bụng, đã chạy ngay lên tầng trên căn hộ của mình, bắt được chiếc mạng che mặt của vợ và đưa nó cho Ibrahim. Khi Ibrahim trở lại xe, ông để những thứ đó lên băng ghế sau cạnh Saffanah. “Đây.” Ông nói. “Vài thứ để con lau chùi cho sạch sẽ. và cả khăn mới nữa.” Rôi ông vào xe và bắt đầu lái đi.

Ông chạy xe theo đường cao tốc và khi gần về đến nhà ông mới để ý thấy Saffanah đang dùng khăn giấy lau mặt. Cô ta cúi xuống để tránh ai đó lái xe ngang qua trông thấy việc tế nhị đó, rồi tháo bỏ chiếc khăn đã bẩn và đeo khăn che mặt mới vào. Cô ta đưa một thanh kẹo cao su vào miệng. Vài phút sau cô ta mở một chai nước, luồn vào dưới mạng che mặt rồi nhấp một ngụm.

Ibrahim thấy nhẹ lòng và hướng sự tập trung trở lại việc lái xe. Ông rẽ vào đường nhánh chạy qua khu phụ cận rồi thẳng hướng chạy về khu ngoại ô phía nam thành phố. Giao thông ở đây thưa thớt, ông đã thấy sa mạc hiện ra phía trước. Trong phút bốc đồng, ông quyết định lái xe đi thẳng.

Một lát sau, Saffanah bắt đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. Ibrahim không chắc cô ta có nhìn rõ qua tấm mạng che mặt và tấm kính màu hay không, nhưng rõ ràng cô ta đã nhận ra họ đã đi quá điểm dừng mọi khi. Ông quyết định không giải thích gì cả. Không khí trong xe nặng mùi ói mửa nên ông hạ một tấm kính cửa sổ xuống và bật điều hòa lên.

Qua dáng vẻ và cái nghiêng đầu của Saffanah, Ibrahim hiểu cô ta đang chột dạ và lấy làm lạ. Phía bên phải xe hiện ra một cánh đồng rộng mênh mông cùng vài con lạc đà sau hàng rào dây thép. Phía bên kia là một ngôi nhà nhỏ. Ông dừng lại, đỗ xe sát một bên lề đường rồi vòng ra phía cửa sau để giúp cô ta ra khỏi xe.

Ông ngạc nhiên khi cô ta không hề tỏ ra kháng cự. Cô ta không hỏi một câu hay nói một từ nào từ khi vào trong xe. Ông đã cố nghĩ về cô ta như một đứa con gái - ông đã cố nhiều tháng nay rồi - nhưng ông vẫn không thể xua đi cái ý nghĩ rằng ông sẽ không bao giờ để bất kỳ đứa con gái nào của mình có hành xử như vậy cả, ông sẽ không bao giờ khuyến khích sự cô độc mộ đạo và sự phô trương tôn giáo kiều này - một thứ biến thể của tôn giáo, một sự phóng tác của một kẻ nào đó. Nhưng khi ông mở cửa xe và Saffanah bước ra, bước chân nhẹ nhàng của cô ta đã khiến ông thấy thoải mái. Có lẽ trong suốt thời gian này, cô ta chỉ cần được ra khỏi thành phố.

Một người đàn ông Bedouin trung niên bước ra khỏi ngôi nhà nhỏ và bắt đầu trao đổi với Ibrahim. Saffanah đứng sang bên nhìn ngắm những con lạc đà, ba con bước tới chỗ hàng rào và lúc này đang nghiêng mình về trước, rướm cái cổ dài để với tới cô ta. Một cách rụt rè, cô ta tiến về chúng, đưa tay lên gãi nhẹ bên tai một con. Con lạc đà khịt khịt rồi dụi cái mui vào cổ cô ta. Nó có ngửi thấy mùi ói mửa không nhỉ? Ibrahim tự hỏi. Nhưng có vẻ là không, bởi con lạc đà đã ngoạm răng vào phần dưới chiếc khăn trùm đầu của cô ta. Saffanah co rúm người rồi bước lùi lại, chiếc khăn trùm bị xé toạc rồi rơi ra. Cô ta vội cúi đầu quay sang một bên, né khuôn mặt để tránh người đàn ông Bedouin. Nhưng cô ta không phải quá lo lắng, vì người đàn ông kia đã nhanh hơn cô ta. Ông ta ngay lập tức quay về phía con lạc đà, lắc lắc đầu cười phá lên và với lấy chiếc khăn trùm đầu. Nhưng con lạc đà bỏ chạy và ông ta phải đuổi theo nó khắp cả bãi rào.

Phải mất một lúc Ibrahim mới nhận ra Saffanah đang cười. Cô ta chầm chậm quay người lại, nụ cười vẫn ánh lên trong đôi mắt, và khi nhận thấy người Bedouin kia đã lịch sự quay lưng lại phía mình thì quả thực trông cô ta rất vui vẻ.

“Đồ vô duyên kia.” Người đàn ông Bedouin cằn nhằn với con lạc đà. “Mi quả là một tay già xấu thói.”

Hai con lạc đà còn lại vẫn đứng bên hàng rào, khụt khịt cái mũi bên cổ Saffanah một cách hào hứng. Ibrahim vừa quan sát cô ta, vừa lắng nghe người Bedouin quở trách con lạc đà. Đột nhiên Saffanah cọ mũi vào một trong hai con lạc đà. Một cử chỉ nhẹ nhàng đến diệu kỳ đã truyền tải một điều lớn hơn thế: sự thiếu vắng và buồn tủi, niềm khát khao được mang đến sự thoải mái cũng như được nhận nó, và giống như một lời cầu xin: hãy tha thứ cho con.

Có thể do cử chỉ, có thể do việc ói mửa, mà một ý nghĩ đột nhiên lóe lên trong tâm trí Ibrahim. Con bé đã có thai. Không có lý nào. Saffanah sùng đạo đến mức không thề nào lại đẩy mình vào hoàn cảnh như vậy được. Điều này thật phi lý. Nhưng mười lăm năm làm việc trong ngành cảnh sát đã dạy ông biết tin vào trực giác của mỉnh. Có thai? Máu hai bên cánh tay ông như dồn cả lên mặt. Ông giữ chặt hai bàn tay trong túi quần và một tay nắm chiếc điện thoại di động. Da ông như bị hàng ngàn mũi kim châm. Saffanah?

Ông không thấy tức giận, đúng vậy. Ông thấy sững sờ và thất vọng. Con bé đã gặp kẻ cưỡng bức khi nào vậy? Ông có cảm giác chắc chắn đó không phải là Zaki - con trai của ông đã phàn nàn quá mức về sự lãnh cảm của cô ta đủ để khiến ông không nghi ngờ kẻ đó chính là con mình. Zaki thường xuyên ra khỏi nhà càng nhiều càng tốt, Chúa ơi, cô ta có thể gặp gỡ bất cứ gã đàn ông nào!

Cô ta đã nhận thấy thái độ khác lạ của Ibrahim và lúc này đang lo lắng vuốt ve con lạc đà. Ngay khi người Bedouin kia đi đủ xa, Ibrahim tiến về phía cô ta. Ông gạt tay cô ta ra khỏi mặt con lạc đà và nắm chặt lấy nó. Đó là lần đầu tiên ông chạm vào cô ta.

“Saffanah. Nhìn bố đây.” Ông nói một cách đàng hoàng, nhưng cô ta tỏ vẻ như thể ông đang cầm roi da. Ông siết chặt bàn tay cô ta để cô ta cảm thấy vững tâm. “Con đang có thai.”

Cô ta lùi lại, giật tay ra với vẻ sững sờ phủ nhận.

“Đó không phải là câu hỏi.” Ông vừa nói vừa siết tay cô ta chặt hơn. “Đã lâu chưa?”

“Con không…”

“Bố là cảnh sát, Saffanah ạ. Bố biết khi nào người ta nói dối. Hãy nói cho bố biết, bố sẽ không nói với ai. Bố hứa như vậy.”

Cô ta nhìn ông chằm chằm. Cô ta đã thể hiện rất đạt cái vẻ phẫn nộ trên gương mặt. Thực ra cô ta đã thể hiện rất đạt tất cả mọi thứ. Và cô ta còn ương bướng nữa. Sẽ không đời nào cô ta thừa nhận sự thật, và dọa nạt cũng không làm nản sự kháng cự của cô ta. Ông đành thở dài.

“Thôi được rồi.” Ông nói và buông tay cô ta ra. “Bố chỉ nghĩ vậy - khi con bị ói mửa trên xe…”

Cô ta quay lại phía bãi quây nuôi lạc đà. Mấy con lạc đà vẫn dụi mõm vào cô ta, còn cô ta thì tiếp tục vuốt ve chúng, nhưng tay cử động như một cái máy.

Ibrahim nhận ra rằng họ sẽ không bao giờ gửi trả cô ta được nữa. Nếu cha cô ta biết chuyện thì ông ta sẽ buộc Zaki phải chu cấp cho đứa trẻ suốt đời. Nếu biết đó không phải là con của Zaki thì ông ta sẽ buộc con gái mình phải chịu tội thông dâm.

Hai cánh tay Ibrahim vẫn đang tê buốt và ông nhận ra lúc này ông đang lo lắng cho cô ta. “Vậy thì.” Ông nói, “sau những gì xảy ra hôm nay, bố nghĩ ý hay nhất là hãy về nhà và quan hệ với Zaki.” Nghe đến từ quan hệ thì bàn tay cô ta khựng lại trên tai con lạc đà, rồi lại từ từ tiếp tục vuốt ve nó. “Chẳng bao lâu nữa con sẽ mang thai và có con. Nếu con không muốn vậy thì Zaki sẽ nhận ra đứa bé không phải con của nó. Mẹ có biết chuyện này không?”

Cô ta đưa mắt nhìn Ibrahim tỏ rõ sự căm phẫn.

“Tạ ơn Chúa.” Ông lẩm bẩm.

Đúng giây phút ấy có điều gì đó như gắn kết giữa họ, một không gian từ tính của những bí mật được sẻ chia. Cô ta thôi không vuốt ve đám lạc đà nữa, mà vòng tay ôm lấy eo rồi nhìn chăm chú hàng rào. Nếu đây chính là con gái của ông - một trong hai đứa sinh đôi, giả dụ vậy, bởi Farrah quả thực là vô vọng rồi - và nếu như cô ta không phải đang mang bầu, ông sẽ nói với cô ta rằng tốt hơn hết cô ta nên đi học trước khi hủy hoại dáng hình yêu kiều của mình vì chuyện bầu bí hay kiều ăn uống quá đà vì buồn chán và bị mắc kẹt như một bà nội trợ Ả Rập Xê-út chuẩn mực. Ông sẽ nói với cô ta rằng tốt hơn hết nên có một sự nghiệp riêng phòng trường hợp chồng cô ta làm một kẻ bất lương mà bỏ cô ta lại một mình chăm lũ con thơ. Ông sẽ cố gắng để tạo dựng cho cô ta sự mạnh mẽ, một tinh thần quyết liệt, đó là sức mạnh đem lại phẩm giá của một cá nhân, ít nhất là trong gia đình ông, phẩm giá đáng quý trọng nhất của một người phụ nữ. Nhưng ông có cảm tưởng rằng Saffanah sẽ không hưởng ứng những quan điểm ấy.

Người đàn ông Bedouin mang chiếc khăn trùm đầu trở lại, và Ibrahim cảm ơn ông ta. Chiếc khăn ướt nhẹp vì nước bọt của con lạc đà và phần dưới đã rách toạc, nhưng Ibrahim vẫn nói là nó ổn. Saffanah nhận lấy nó một cách lễ phép và ngay lập tức trùm lên đầu mình.

Bọn họ đi bộ trở ra xe ô tô, nhưng Ibrahim buộc Saffanah phải ngồi lên ghế trước, và ông không chịu nổ máy xe cho đến khi cô ta đeo dây an toàn vào. Cô ta chậm rãi thực hiện như một đứa trẻ khó bảo. Họ không nói gì, nhưng Ibrahim hiểu là cô ta muốn nói điều gì đó. Có lẽ là: Bố không thực sự nghĩ con có thai đấy chứ? Ông không cảm thấy muốn nói chuyện một chút nào.

Mặt trời khuất dần khi họ ra đến đường chính. Cả khoảng trời ngập tràn trong ánh hồng rực rỡ và trong khoảnh khắc Ibrahim cảm giác như đang được cuộn mình trong một đám kẹo bông. Nó gợi cho ông nhớ lại thời niên thiếu và mỗi lần được đi hội chợ vào buổi tối. Ông cũng đã trở lại chính những hội chợ đó cùng con cái mình, nhưng lần nào Jamila cũng biến chúng thành kỷ niệm đau buồn. Và bây giờ chuyện gì sẽ xảy đến với Zaki và Saffanah, chúng sẽ đến hội chợ và căm ghét nhau ra mặt cùng với đứa con thậm chí cũng không phải của chúng sao?

Ông với tay vào hốc bên cửa xe và tìm bao thuốc lá, châm một điếu rồi bõ cái gối lên trước tay lái. Ông hơi cảm thấy có lỗi khi hút thuốc cạnh một phụ nữ mang thai, nhưng lạ chưa kìa, ngày hôm đó quả là chưa hết những điều kinh ngạc. Saffanah rút một điếu từ trong bao thuốc. Ông kinh ngạc đến mức không thốt lên được lời nào. Saffanah - hút thuốc lá? Cô ta thậm chí còn không thèm đưa một ánh mắt hối lỗi nào về phía ông trước khi châm điếu thuốc, rít một hơi ngay qua tấm mạng che mặt.

Ngay giây phút đó thì mọi chuyện đã quá rõ ràng. Saffanah ông từng biết là hoàn toàn dối trá. Sự mộ đạo của cô ta giờ đây giống như mọi thứ giả cách, một tấm chắn để cô ta đẩy Zaki ra xa - có lẽ vì cô ta đã yêu người khác chăng? Quỷ sứ, cô ta đã cố tình né tránh cả gia đình. Cô ta mới chân thật làm sao, ông không thể nào tưởng tượng nổi.

“Con không nên hút thuốc.” Ông ngập ngừng nói. “Ngay cả khi con không có thai.”

Cô ta không đáp. Liếc nhìn sang, ông thấy tấm mạng che của cô ta đang dính vào mặt, một dòng nước lăn dài trên hai má. Cô ta đang khóc.

“Ôi, Saffanah.”

Ibrahimđỗ xe tại một góc phố xa nhất trong tầm mắt của ngôi nhà. Ông muốn cho cô ta một cơ hội để bình tâm lại trước khi đối mặt với cả gia đình, phòng trường hợp có ai vô tình ở ngoài nhà. Đường phố vắng hoe. Họ ngồi lặng thinh trong xe, Saffanah quay mặt ra cửa sổ và có lẽ chẳng để nhìn gì hết. Trời đã tối, và theo kinh nghiệm thì ông hiểu một điều rằng đeo mạng che mặt khi trời tối thì chẳng khác gì bị mù. Thực tình có lần ông đã thử đeo nó vào ban đêm - ông và ông anh trai Omar đã đi tới đi lui cả tòa nhà với tấm khăn trùm đầu của hai bà vợ, chỉ để phân giải cho cuộc tranh cãi về việc liệu có phải vợ của Omar, Rahaf, có khả năng vô tình bước vào xe ô tô nhà hàng xóm khiến cho chuông báo động kêu ầm ĩ và làm họ tức điên lên hay không. Omar đã khăng khăng rằng vợ mình làm việc đó có chủ ý, nhưng Ibrahim tranh luận rằng kể cả cái khăn trùm mà có khe nhìn cho mắt đi chăng nữa thì vẫn khó có thể quan sát được mình đang làm gì. Chính vì vậy mà Saffanah tránh nhìn ông như âm thầm cầu xin một sự riêng tư - hay một sự tha thứ, ông không chắc là ý nào mới đúng nữa.

Khi ông hút hết điếu thuốc cuối cùng, cả hai cùng bước ra khỏi xe. Saffanah dò dẫm trong bóng tối. Ông đi vòng sang phía cô ta và nói: “Đi cạnh bố. Bố không muốn con làm chuông báo động của bất cứ chiếc xe nào kêu đâu.” Cô ta nghe lời ông và họ bước chậm rãi xuôi theo con đường. Ibrahim để ý từng bước chân của cô ta để đảm bảo cô ta không bị vấp. Khi ông cùng cô ta về đến nhà, ông nghe tiếng vợ mình bước xuống tầng dưới, lẩm bẩm cằn nhằn không rõ là chuyện gì nhưng ông hoàn toàn hiểu được. Bà ta lại đang phàn nàn về ông, có lẽ là vì việc Ibrahim đã không thể làm gì cho chuyện ly hôn của con trai mình.

Saffanah không tháo khăn trùm đầu cho đến khi họ lên đến tầng hai. (Mấy người hàng xóm ở tầng dưới nhiều khi cư xử không đúng mực). Chính vì vậy ông tiễn cô ta lên tận cửa. Cô ta nhìn ông lần cuối với ánh mắt khiếp hãi trước khi bước vào trong.

Mười phút sau, Ibrahim lái xe trở lại thành phố. Ông đi theo đường Corniche. Những ngã tư và tượng đài sáng lấp lánh ánh đèn - đèn giao thông, đèn đường, đèn pha và đèn từ những tòa nhà chung cư, cả một dòng chảy ánh sáng bên bờ Biển Đỏ tối mịt mùng.

Ông đỗ xe ở chỗ cũ ngay dưới tòa nhà của Sabria, khoảng diện tích được phân bố cho căn hộ của cô mà cô có thể sử dụng nếu được phép lái xe. Giả thử những người hàng xóm có để ý đến Ibrahim thì họ cũng cho rằng ông là bố của cô. Trông ông cũng lớn tuổi chừng ấy. (Mặc dù có lần một phụ nữ hàng xóm tưởng nhầm ông là tài xế và đã xin ông cho đi nhờ xe.) Có những lúc rối trí, ông đã cân nhắc đến việc đỗ xe ở đâu đó trên phố để không ai nghi ngờ Sabria có khách nam giới đến nhà, nhưng khu vực có thể gửi xe ở đây rất hiếm gặp. Thật nhẹ lòng khi có một nơi dành riêng cho mình, bởi càng đến đây, dường như ông càng khẩn khiết muốn được gặp cô. Ban đầu, cô là người cần đến ông nhiều hơn - vì nhu cầu tình dục, vì một nguồn động viên an ủi, và chỉ vì những việc giản đơn như đi khám chẳng hạn. tuy không kết hôn, nhưng thực chất cô đã trở thành người vợ thứ hai của ông. Trong suốt hai năm qua, nhu cầu gặp cô ngày càng nhiều hơn ông tưởng.

Ông thấy một phụ nữ bước vào thang máy, nên ông đi thang bộ. Hàng xóm ở đây chủ yếu là người nước ngoài - một tay bác sĩ người Ấn Độ, vài cặp vợ chồng người Ai Cập, đều không phải là những người quá để ý đến tình trạng hôn nhân của Sabria hay người đàn ông vẫn thường ghé qua nhà cô mỗi tối rồi rời đi trước bình ninh. Cũng vậy cả thôi, ông nghĩ tốt hơn là tránh chuyện trò với họ.

Ông bước liền hai bước một trên cầu thang bộ và không hề mệt khi lên đến tầng bốn. Ông bước thẳng về phía cửa căn hộ của cô. Khi cô không mở cửa, ông bắt đầu cảm thấy ngực mình nghẹt lại. Tim ông đập thình thịch. Đáng lẽ ông nên đi thang máy mới phải. Ông gõ cửa lần nữa. Vẫn không động tĩnh gì.

Lục trong túi, ông tìm thấy chìa khóa. Cô đã đưa nó cho ông từ một năm trước, và ông đã gài nó trong chùm chìa khóa, treo nó lủng lẳng ở đó như thể đó là chìa khóa nhà của chính mình. Ông chưa bao giờ dùng đến nó cả, và không chắc liệu nó có mở được cửa hay không. Nhưng chiếc chìa khóa đã trượt vào ổ, và cửa mở.

Căn hộ tối om. Sự yên lặng khiến ông bồn chồn. Cô luôn mở nhạc, ti vi, đài phát thanh al-Jazeera lặng lẽ nhấp nháy trong phòng. Thức ăn đang nấu trên bếp. Ông đứng im lặng và băn khoăn một điều duy nhất: cô ấy đâu rồi?

Cảm thấy kỳ dị như một kẻ không mời mà đến, ông đặt mình xuống tràng kỷ và cố liên lạc với cô bằng điện thoại di động. Tiếng hòm thư thoại cất lên ngay từ hồi chuông đầu tiên, nghĩa là điện thoại đã tắt.

Ông bước thẳng sang nhà hàng xóm. Iman và Asma rõ ràng là một cặp đồng tính nữ nhưng luôn tự xưng là chị em. Bọn họ chung vách với căn hộ của Sabria, và những đêm hè tĩnh lặng khi tiếng động từ phòng ngủ của họ vọng sang qua vách ngăn tường, Ibrahim nằm đó tự hỏi liệu những người phụ nữ này có bao giờ bị bắt quả tang không và ai sẽ nhớ đến họ nếu họ bị xử tội. Họ dường như tồn tại trong thế giới của riêng mình.

Họ chỉ là những người hàng xóm đến ở đây, thi thoảng có chào hỏi Sabria. Asma mở cửa và chăm chú nhìn ông với vẻ khang khác từ khi Sabria nói với họ ông là cảnh sát.

“Tôi chỉ muốn hỏi thăm hôm nay cô có thấy Sabria không?” Ibrahim nói.

Cô ta lắc đầu. “Tôi không thấy cô ấy từ hôm qua rồi.”

“Cô có nghe thấy tiếng cô ấy đi ra ngoài không?”

“Không. Sao vậy? Cô ấy không ở nhà à?” Ngay cả Asma có vẻ cũng thấy chuyện này kỳ quặc. “Có thể cô ấy đi chợ chăng?”

“Tôi lại nghĩ là cô ấy ở nhà.”

Asma gọi Iman, và cả hai đứng đó nhớ lại xem lần cuối cùng họ gặp Sabria là khi nào. Khi mọi việc ngã ngũ thì thực tế là đã hai hôm nay họ không gặp Sabria. Nhưng Iman chắc chắn đã nghe tiếng gì đó từ căn hộ của Sabria chiều muộn ngày hôm nay.

“Có vẻ cô ấy ở nhà.” Ibrahim nói. “Tôi nghe thấy tiếng ti vi.”

“Vâng, cảm ơn hai cô.” Ibrahim nói. “Nếu thấy cô ấy thì nhắn giúp cô ấy gọi cho tôi nhé.”

Ông quay lại căn hộ. Ông không nói chuyện với Sabria từ đêm trước. Nhưng lẽ ra cô phải ở đây như mọi khi chứ, vui vẻ chào đón ông. Cười tươi. Cho ông ăn gà, cơm và cả một tô halawa (1) trộn với kem. Sà vào vòng tay ông khi ông ngồi mê mẩn ngắm cô trước bữa ăn tối, đánh thức ông bằng đôi tay ấm áp và cặp đùi săn chắc khi cô leo lên người ông.

Ông nhìn quanh căn hộ một lần nữa. Không thấy dấu hiệu nào của việc đột nhập trên khung cửa, hay tay nắm cửa. Cửa sổ vẫn khóa. Không có gì khác thường. Chỉ có chiếc xắc tay, chìa khóa và điện thoại di động là biến mất. Hẳn là cô đã đi đâu đó. Rồi sẽ lại là một lời giải thích ngớ ngẩn. Nhưng ông không thể nghĩ được nó là gì. Mỗi khi một ý nghĩ lóe lên, ông cảm nhận được một nỗi hoảng sợ thoáng qua, những gợn sóng của tâm trạng xáo động trước khi ý nghĩ lắng chìm dần. Ông ngạc nhiên rằng mọi thứ có thể xảy đến dễ dàng như vậy - thứ quan trọng trong cuộc đời người ta có thể vội vàng và âm thầm biến mất.

(1) Một loại đồ tráng miệng bằng nhiều thành phần như bơ, bột, đường… trộn với nhau.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Điều tồi tệ nhất là không có ai để trò chuyện.

Ông nằm trằn trọc, nhìn chăm chăm vào khung cửa sổ bằng gỗ trong phòng khách nam. Bình minh còn chưa ló dạng, thậm chí vẫn chưa đến giờ cầu nguyện đầu tiên trong ngày, nhưng ông đã tỉnh giấc, hoang mang khi nghĩ đến Sabria.

Trong suốt năm năm ông quen biết cô, cô chưa bao giờ đúng giờ hẹn cả. Nhưng hai năm ở bên nhau, cô chưa lỡ hẹn một lần nào. Họ chưa có một cuộc hẹn hò nào đúng nghĩa cả, nhưng họ gặp nhau ba hoặc bốn lần một tuần. Giá như ông có thể nói với Omar chuyện gì đang xảy ra, anh trai ông, trong phạm vi thẩm quyền của mình, sẽ có câu trả lời. Nhưng Ibrahim phải nói gì đây: em đã có người tình hai năm nay và giờ cô ấy đã bỏ đi?

Thật dễ dàng để đổ lỗi cho sự hoang tưởng của ông vì đã phát hiện ra những tử thi đó. Ông vẫn còn nhớ trước đây, khi ông làm việc ở Đội Trọng án lúc mới gần ba mươi tuổi. Mỗi khi có một vụ án mạng nào, ông đều thấy hốt hoảng nếu có chuyện gì đó xảy ra trong gia đình. Lúc này, hơn bao giờ hết, ông cần cả quãng đời còn lại để giữ được cái cấu trúc bí mật và mong manh đó của cuộc đời mình.

Phải có ai đấy biết cô đang ở đâu chứ. Cô không có nhiều bạn bè. Hằng ngày cô làm việc ở một khu mua sắm dành cho phụ nữ. Các đồng nghiệp của cô đối với ông là bí ẩn như bất cứ người lạ mặt nào sau chiếc mạng che. Gia đình cô sống ở Indonesia, hoặc giờ có lẽ đã trở về Philipines. Cô không bao giờ nhắc đến họ, ngoại trừ người mẹ đã khuất.

Tâm trí ông ngổn ngang bởi những khả năng có thể xảy đến. Chúng chạy dọc ngang cắt nát các giao lộ, mặc kệ khách bộ hành, lao đi trên những tuyến đường cao tốc bao quanh khu đô thị của những vấn đề mà chỉ mới đêm trước thôi không hề tồn tại. Cô đã chán ông rồi chăng? Cô bỏ đi vì ai khác chăng? Tại sao không có đến một lời nhắn để lại? Ai đó đã đưa cô đi rồi sao? Cô là người ẩn danh. Có người nào mà lại biết cô ở đó được cơ chứ?

Ông nghĩ đến vài người có thể muốn hại cô. Tên chủ cũ của cô chẳng hạn, tên đê tiện đã hãm hiếp cô khi cô còn là người giúp việc trong nhà hắn. Nhưng tên khốn đó đã trở thành dĩ vãng đau buồn, chẳng bao giờ nhắc đến hắn nữa làm gì. Mà việc gì hắn phải theo dõi cô cơ chứ? Nếu có khả năng nào như thế, hay thậm chí chỉ là dấu hiệu đe dọa thôi, cô hẳn đã nói ngay với ông rồi.

Có thể có kẻ trong vụ nào đấy của cô ở Đội Điệp vụ muốn trả thù chăng. Năm năm về trước, cô đã làm việc cho Đội Điệp vụ, đó cũng là lúc họ gặp nhau. Cô đã thực hiện một số nhiệm vụ cùng Ubayy al-Warra trước khi làm việc với Ibrahim. Ông phụ trách phá một vụ mạng lưới ăn cắp là nữ giới và cần một người thâm nhập nào đó. Rất khó tìm được một phụ nữ phù hợp cho nhiệm vụ này, chứ chưa nói đến việc người đó phải thật tài giỏi. Sabria là một trường hợp xuất sắc.

Sau này cô cho rằng đó là một công việc quá vất vả đối với cô. Ông nắm rõ tất cả các vụ cô cộng tác với ông, nhưng ông không biết mấy về hàng tá những vụ khác mà cô thực hiện trong vòng hai năm làm việc với Warra. Cô không nói gì về những vụ đó ngoại trừ việc chúng chẳng thú vị gì.

Tòa nhà trở nên náo động. Ông tựa đầu vào tường và kiểm tra điện thoại. Không có cuộc gọi nào. Rất ít người có thể hiểu được chuyện ông đanh quan hệ với một phụ nữ mà không cưới xin, và đó lại là những người rất thân với gia đình ông. Ông không tin họ sẽ không nói gì, và ông cũng không thích những người nắm giữ những bí mật bất lợi ở bên cạnh mình. Chỉ Sabria mới có đặc quyền đó.

Họ không cưới hỏi vì Sabria đã kết hôn. Cô bị tên chủ cũ của mình ép buộc, chính cái tên đã hãm hiếp cô, bỏ rơi cô, và chẳng lạ nếu hắn cũng bạo hành với một cô giúp việc mới khác cùng thời điểm ấy, Mahmoud Halifi. Hắn đã biến mất hơn năm năm trước, không lâu sau khi Sabria trốn thoát khỏi nhà hắn. Ibrahim nhận ra nếu cô gặp lại Halifi thì cô có thể hành động thiếu suy nghĩ. Cô mang theo một lọ xịt hơi cay và lại giỏi kungfu nữa, nhưng Halifi to gấp hai lần cô, cơ bắp lực lưỡng, hung bạo và thú tính. Hắn có thể dễ dàng áp đảo cô.

Halifi hãm hiếp Sabria rất nhiều lần, đến khi Sabria có thai thì hắn mới ép cô phải cưới hắn. Họ đã tiến hành một buổi lễ khoảng hai phút trong phòng khách của hắn, và tên khốn đó đã thông báo cho phòng công chứng, để biến buổi hôn lễ đó thành hoàn toàn chính thức. Một tuần sau đó Sabria bị sảy thai. Để ly hôn, cô phải tìm được hắn, và cô không để tâm đến việc đó trong suốt năm năm qua.

Việc cô và Ibrahim không lấy nhau không khiến cô băn khoăn nhiều như chính Ibrahim. Nhưng khi ông suy nghĩ thật kỹ càng, thì chuyện này sẽ dẫn đến một kết cục nào đó, chẳng hạn như việc vợ ông sẽ âm thầm giết hại ông trong khi ông đang ngủ, hoặc tìm cách để gia đình và bè bạn ông lánh xa ông suốt cả quãng đời còn lại.

Ông tỉnh dậy, mặc quần áo, và cố để rời khỏi nhà mà không phải nói chuyện với Jamila, mặc dù điều đó có nghĩa là không thể ăn sáng với cặp song sinh mười tuổi. Ông gửi tin nhắn hai đứa rằng ông sẽ gặp chúng sau bữa tối và hỏi xem liệu chúng có nhớ thứ Năm này họ đã hẹn đi ăn kem không? Cả hai đều nhắn lại với hình mặt cười vui sướng.

Ông đến căn hộ của Sabria và nhìn bao quát một lần nữa. Vẫn trống không. Ông sang hàng xóm thì họ nói đêm qua cô không về nhà. Ông trở lại căn hộ, ngồi bên bàn ăn trong bếp, và bắt đầu gọi điện tới các bệnh viện.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Qua lời bán tán thì rõ ràng là Sở khá tự hào về việc họ không có chuyên gia về tội phạm giết người hàng loạt nào. Thực ra, đó là vấn đề về lòng tự hòa dân tộc, rằng họ không cần đến một người như vậy. Nhưng trên mặt họ vẫn còn có sự khao khát nhất định khi biết rằng một người Mỹ sẽ sắp bước vào phòng để giảng hòa vài điều mà chỉ người Mỹ mới biết. Và họ sẽ, lịch sự hơn bao giờ hết (Ibrahim có thể thấy bọn họ lên kế hoạch khôn khéo đến thế nào), trách móc nước Mỹ vì việc đã mang bạo lực đến một quốc gia trong sáng như thế này, một quốc gia tuy không phải là miễn dịch với bạo lực, nhưng chắc chắn không bao giờ lại đẻ ra một thứ Hannibal Lecter (1) cả. (Ông chắc rằng có nhiều người trong căn phòng này không biết rằng Lecter chỉ là một nhân vật hư cấu). Còn có cả sự háo hức nữa, nó nói lên rằng Rất tốt, chúng tôi có thể sinh ra Osama bin Laden, nhưng các ông đã tạo ra một loại vi – rút Jeffrey Dahmen (2) lây truyền khắp thế giới, và đó là tại sao chỉ có các ông mới có vác- xin.

(1) Nhân vật bác sĩ giết người hàng loạt trong series tiểu thuyết của Thomas Harris, nổi tiếng nhất với bộ phim chuyển thể Sự im lặng của bầy cừu.

(2) Jeffrey Dahmen là tên sát thủ hàng loạt đã giết và ăn thịt 17 người. Hắn bị giết trong tù 1994.

Ibrahim tình cờ nghe được ai đó thì thào: “Anh có nghĩ ông ta sẽ nói về Ed Bundy không?”.

“Ted Bundy (3)!” Daher vừa lớn tiếng chữa lại, vừa đập vào gáy tay sĩ quan kia.

(3) Ted Bundy là tên sát nhân hàng loạt nổi tiếng đã bị tử hình năm 1989. Hắn được coi là đã sát hại ít nhất 100 phụ nữ.

Đó là khoảng thời gian cuối tuần dài dằng dặc. Ibrahim lúc nào cũng lo nghĩ về Sabria, nhưng hiện giờ, khi nhìn thấy cả phòng hợp đông kín người, ông cố gắn cất giữ hình ảnh của cô trong tâm trí mình tập trung vào vụ án.

Một số sĩ quan không có mặt, và một nửa số nhân viên pháp y vẫn còn ở ngoài hiện trường. Bọn họ phải hoàn tất công việc di dời các thi thể để đưa đi khám bệnh, nhưng trong hai mươi tư giờ vừa qua, các nhân viên pháp y đã khám phá thêm một điều: hung thủ đã chôn một bàn tay bị chặt ngay gần thi thể của chính bàn tay đó. Điều này đã gợi ý cho các nhân viên pháp y và đội khai quật hiện trường mở rộng phạm vi ra xung quanh các thi thể để tìm thêm bằng chứng. Bọn họ tìm thấy hai bàn tay nữa được chôn gần một cái xác khác, nhưng chỉ có vậy.

Ibrahim ngạc nhiên rằng ông vẫn là người chịu trách nhiệm về vụ án này. Riyadh chuyển ông ra khu vực sa mạc vì ông đã điều tra ra vụ trọng án mười năm nay rồi. Giờ thì đột nhiên ông thấy mình nắm vị trí cao nhất của một vụ án có thể được gọi là nghiêm trọng nhất trong mười năm trở lại đây. Phía cuối phòng, mấy tay thám tử mới vào nghề của Sở tụ tập thành một nhóm: Osama, Abu-Haitham, chàng kều cục mịch Yasser Mu’tazz, cùng hai người nữa mà ông không thể nhớ tên.

Ngay khi viên cảnh sát người Mỹ xuất hiện, tất cả sự mong đợi đều sụp đổ. Ibrahim gần như có thể nghe thấy tiếng Chết tiệt! đồng thanh vang lên như một dàn hợp xướng trong tâm tưởng, được nổi tiếp bởi một tiếng hít vào thật sâu khi Tiến sĩ Charlie Becker bước vào phòng. Cô có gương mặt trắn sứ mịn màng, chiếc áo sơ-mi cài cúc trễ như một sự chế nhạo lòng can đảm của đàn ông Ả Rập Xê-út: trắng muốt và lỏng lẻo, nhưng bám sát người rất đúng chỗ. Cô thậm chí chẳng đeo khăn trùm đầu, và mái tóc dài mềm mại màu đỏ nâu bồng bềnh đến mức mỗi cử động đều khiến nó dường như sinh động hẳn.

Cô có vẻ bối rối giây lát, như thế bước vào nhầm phòng, tại một đất nước xa lạ nào khác. Cô quay lại nhìn người hướng dẫn của mình, Chánh Thanh tra Riyadh, người đang sải bước lên trước, gật gật đầu với cô trước khi tại vị ngay phía trên đám lính của mình với vẻ cương nghị cẩn trọng.

“Thưa quý vị, tôi xin được giới thiệu tới quý vị chuyên gia FBI của chúng ta về lĩnh vực giết người hàng loạt, Tiến sĩ Charlie Becker, người đã vui lòng bay tới đây từ một hội nghị ở Dubai.” Qua giọng Riyadh, rõ ràng là ông cũng không hề biết Tiến sĩ Becker lại là phụ nữ cho đến khi cô xuất hiện. “Tiến sĩ Becker không nói tiếng Ả Rập, nhưng Sĩ quan Kazaz đã được đề nghị sẽ phiên dịch.” Mọi ánh mắt đều dồn về phía Kazaz như thể anh ta vừa được xức dầu phong vua.

Ibrahim để ý thấy người ông của nhóm Murrah là Talib al-Shafi, người chịu trách nhiệm phần lớn các công việc dò tìm dấu vết tại hiện trường. Ông đứng bên cửa ra vào, gày gò với mái tóc xám dày được tết lại và vấn lên dưới khăn đội đầu. Khi Charlie bước vào phòng, ông soi xét kỹ cách đi của cô, nhìn đôi bàn chân cô, như thể thấy chúng là chấp nhận được, sau đó quay bước bỏ đi.

“Cảm ơn quý vị đã chào đón tôi.” Charlie lên tiếng khiến mọi người ngạc nhiên. Chắc cô không hiểu được âm điệu cao và sặc nét trong giọng cô đã dội vào các bức vách mà từ lâu lắm rồi không được biết đến thanh âm phụ nữ. Cô nhận ra hiệu ứng những lời nói của mình trên nét mặt những người đàn ông và hơi đỏ mặt trước khi tiếp tục. “Tôi được đào tạo thành chuyên gia về tâm thần học nhưng tham gia FBI với tư cách một chuyên gia về hành vi lệch lạc, còn hiện tại tôi đang chuyên tâm đặc biệt vào những tên giết người hàng loạt. Tôi được biết các anh đang có một vụ như vậy.”

Một số gật gật đầu, nhưng toàn bộ số còn lại thì chết lặng bởi cử chỉ của cô, vừa yếu đuổi lại vừa tự tin, nhất là khi mái tóc của cô lấp loáng dưới ánh đèn huỳnh quang. Hầu hết mọi người trong phòng có khả năng nghe tốt để hiểu cô đang nói gì. Việc dịch nói chỉ là hỗ trợ thêm. Ibrahim bước lên trước.

“Tiến sĩ Becker,” ông nói, “cảm ơn cô đã nhận lời đến đây. Tôi là Thanh tra Ibrahim Zahrani và là người phụ trách vụ án này. Đúng là chúng tôi có vẻ đang có một vụ giết người hàng loạt và chúng tôi đánh giá cao bất cứ điều gì cô có thể cho biết.”

“Tôi nên hiểu là các anh chưa từng gặp vụ giết người hàng loạt nào trước đây chăng?”

Khi câu hỏi được chuyển ngữ xong nó đã làm nổ ra một cuộc tranh luận. “Tất nhiên là chúng tôi đã từng gặp những vụ giết người hàng loạt.” Daher nhấn mạnh bằng tiếng Ả Rập. “Cô ta nghĩ chúng ta hoàn toàn chậm tiến hay sao vậy?”

“Nói cho cô ta biết về vụ Yanbu đi.” Ai đó lên tiếng.

“Cô ấy đã biết vụ đó rồi.” Người phiên dịch trả lời. “Cô ấy đang muốn hỏi cụ thể trường hợp của Sở ta kìa. Có ai trong phòng này trước đây đã xử lý một vụ giết người hàng loạt không?”

“Có.” Từ phía cuối phòng Osama lên tiếng. “Tên sát thủ ở nhà chứa.”

Kazaz chuyển ngữ câu trả lời đó.

“Đó là kiểu giết người rải rác.” Charlie lên tiếng, ngay lập tức chấm dứt việc bàn luận. “Giết người rải rác là một loại khác biệt. Kẻ sát nhân thường bị cám dỗ bởi bản tính khát máu. Một tên giết người hàng loạt thì tỉ mỉ hơn thế rất nhiều và thường chúng sẽ cẩn trọng hơn.”

Ibrahim thấy Katya Hijazi lẻn vào phòng. Cô đứng ngay sát cửa và cố tỏ ra như thể mình cũng là một phần của đám đông ở đây. Charlie cũng nhận thấy sự có mặt của Katya, liền mỉm cười với cô, và ngập ngừng điều đang nói khiến mọi người trong phòng quay sang nhìn Katya chằm chằm. Cuối cùng thì Charile lên tiếng: “Xin chào” với vẻ mặt có phần lấy làm tiếc về việc đó. Katya trông như chỉ muốn tát cho Charlie một cái.

“Dù sao thì,” Charlie nói tiếp, “bước quan trọng nhất trong việc điều tra vụ án kiểu này là xác định được vấn đề các anh đang phải đối mặt là gì. Và các anh đã đi được nửa đường rồi. Các anh đã biết được hắn là một tên giết người hàng loạt. Cho đến khi nhận diện được một số nạn nhân, không ai có thể nói một cách cụ thể về tên sát nhân này được – thí dụ như hắn có thể gặp gỡ những phụ nữ này ở đâu, hắn ta sống ở khu dân cư như thế nào, hắn có thể làm nghề gì, gia đình ra sao, hay các mối quan hệ xã hội của hắn như thế nào. Chính vì vậy tôi sẽ nói với các anh những gì chúng tôi biết về tội phạm giết người hàng loạt, sau đó tôi sẽ nói khái quát về vụ án các anh đang có, giả sử là chúng ta đã biết quy luật giết người của hắn.”

Khi người phiên dịch nói xong, trong phòng chỉ nghe thấy tiếng ro ro của không khí lưu chuyển qua lỗ thông hơi của hệ thống điều hòa nhiệt độ.

“Đối với hầu hết những tên giết người hàng loạt, khởi nguyên đều từ sự mộng tưởng.” Charlie nói. Có người đưa mời cô một chai nước, cô mở nó và nhấp một ngụm. “Ai cũng có mộng tưởng của mình, phải không ạ? Có người mộng tưởng được làm sếp, có người lại mong muốn vợ mình yêu mình hơn bất kỳ ai trên thế giới này. Dù đó là điều gì đi nữa, thì hắn cũng là điều bình thường.”

Ibrahim nghe tiếng ai đó bên cạnh thì thào nói khẽ “Ayyyyyyywa” Đúngggggggg. Ông ngờ rằng đó là Daher.

“Hầu hết những tên sát nhân đều có động cơ rõ ràng và dễ hiểu- sự tham lam, sự giận dữ, sự trả thù – nhưng đối với những tên giết người hàng loạt, động cơ chính lại mang tính cá nhân, tính nội tâm, và khó có thể nắm bắt được hoàn toàn. Nó giống như sự cưỡng bách. Những vụ án mạng do chúng gây ra nhằm thỏa mãn nhu cầu nội tại, biến những mộng tưởng mà chúng nuôi dưỡng, thường trong một thời gian dài, trở thành hiện thực. Có khi là từ thời thơ ấu, sự mộng tưởng của chúng rất tàn bạo. Chúng thường liên quan đến những hành vi ác dâm và làm biến dạng cơ thể con người. Ở đây chúng ta nhìn thấy sự biến dạng cơ thể trong vụ án của các anh.” Cô đưa mắt nhìn tấm bảng trắng với những bức hình của mười chín khuôn mặt đã bị biến dạng được treo ngay ngắn theo hàng. “Nhưng điều quan trọng cần biết về những mộng tưởng đó là chúng giống như sự nghiện ngập. Tôi hiểu các anh không có những tệ nạn như đánh bạc hay rượu chè hoặc thậm chí là ma túy ở đây. Nhưng hẳn các anh đều biết về chúng, và chắc đã được thấy chúng.”

“Điển hình nhất, rượu thường đi liền với một vấn đề hoặc một nỗi đau nào đó, và mộng tưởng cũng vậy. Chính vì thế mà kẻ giết người thường bám vào mộng tưởng của hắn để cảm thấy thoải mái hơn. Hắn sẽ nuôi dưỡng nó trong nhiều năm, và giống như chứng nghiệm ngập vậy, nó lớn đến mức mà hắn cần phải mộng tưởng nhiều hơn để duy trì sự hưng phấn. Một vại bia không thể khiến người ta say, nên một kẻ nghiện rượu sẽ phải bắt đầu với mười bại, hoặc có thể là hai mươi. Đối với kẻ sát nhân, hắn đạt đến độ mà hắn cần để biến mộng tưởng của hắn thành hiện thực.”

Charlie đưa mắt nhìn khắp căn phòng. Lúc này cô đã tự tin hơn, không còn vẻ ngượng ngùng nữa. Cô nhận thấy có điều gì đó trên nét mặt Daher, và lên tiếng: “Anh có câu hỏi gì chăng?”

Anh ta lắc đầu.

“Không sao, xin cứ tự nhiên.” Cô nói. “Anh…?”

“Daher.” Anh ta hắng going. “Waseem Daher.” Thật buồn cười khi thấy anh ta tỏ ra không thoải mãi lắm. “Tôi chỉ đang băn khoăn… Hắn điên dại, phải vậy không? Hắn cho rằng chuyện là bình thường khi giết người để thỏa mãn mộng tưởng bệnh hoạn của mình. Tại sao lại như vậy?”

“Câu hỏi rất hay. Các chuyên gia tâm thần học gọi những người này là bệnh nhân tâm thần hay kẻ bệnh thái nhân cách, tùy vào một số yếu tố nhất định. Tuy nhiên ngày nay người ta thường gọi chúng là những kẻ mắc chứng rối lại nhân cách chống xã hội, nói tắt là ASPD (4). Tóm lại, nó có nghĩa là chúng không có lương tri như anh hay tôi. Chúng thường không có khả năng yêu thương, tức là không phát triển các mối quan hệ lâu dài trừ phi có động cơ rõ ràng cho mối quan hệ đó, như tình dục hoặc tiền bạc chẳng hạn. Chúng bốc đồng và hung hăng. Nhưng khía cạnh rõ nét nhất đó là chúng hoàn toàn không có cảm giác tội lỗi.”

(4) ASPD: Antisocial personality disorder.

“Vì vậy nên chúng không hiểu cách hành xử với con người?”

“Thực - ra- là,” Charlie nói, “chúng không cảm nhận được những gì mà người bình thường cảm thấy, nhưng chúng hiểu con người ở một mức độ đáng kinh ngạc. Chúng có khả năng lừa gạt những người thân thiết nhất của mình – như thành viên trong gia đình, đồng nghiệp – và chúng có thể thực hiện điều đó một cách hoàn hảo bởi chúng hiểu những người này. Những đối tượng đó thường là những kẻ nói dối khôn ngoan. Và cực kỳ thông minh.”

Daher gật gật đầu với vẻ không thỏa mãn cho lắm.

“Liệu chúng tôi có nên tra cứu hồ sơ tội phạm để tìm ra tên giết người không?” Ibrahim hỏi.

“Được chứ.” Charlie đáp. “Các anh hoàn toàn có thể kiểm tra, nhưng có khả năng các anh sẽ không tìm được gì. Một số vụ án cho thấy những kẻ giết người hàng loạt có tiền sử về tội bạo hành, nhưng thật ra chúng thường rất, rất giỏi trong việc không để bị bắt. Còn nếu anh định tra cứu hồ sơ tội phạm, hãy tìm những đối tượng mắc chứng cuồng phóng và những kẻ xâm phạm đời tư cá nhân. Đó là những hành vi phạm tội phổ biến nhất trong giai đoạn của loại hình tội phạm này.”

Ibrahim gật đầu.

Các chuyên gia thường đề cập đến sáu giai đoạn của việc giết người.” Charlie nói tiếp. “Đây là các giai đoạn phân theo tâm thần học được xác định vào những năm tám mươi mà hầu hết các tên sát nhân đều trải qua. Tên sát thủ khởi đầu với mộng tưởng của hắn. Đây là giai đoạn một. Hắn thu mình trong thế giới nội tâm và nuôi dưỡng mộng tưởng đó. Giai đoạn hai sẽ là khi hắn bắt đầu tích cực đi tìm nạn nhân cho mình. Hầu hết những tên giết người đều bắt đầu ở một nơi quen thuộc, nơi nào đó mà chúng thấy thực sự thoải mãi. Có thể là con phố chúng hay qua lại hay quán cà phê gần nhà. Giai đoạn này có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng tháng. Nạn nhân của chúng phải đáp ứng được những đặc điểm như trong mộng tưởng.”

“Những giai đoạn tiếp sau có thể diễn biễn rất nhanh. Giai đoạn ba là khi kẻ giết người cố chiếm được lòng tin của nạn nhân. Giai đoạn bốn, hắn bắt giữ nạn nhân và tiết lộ hắn là ai. Năm, hắn giết người đó. Sáu, hắn suy sụp từ cực đỉnh của việc hiện thực hóa mộng tưởng của hắn. Giờ thì chúng ta hãy thử đưa ra một số ví dụ: tên sát nhân ngồi kế bên một phụ nữ trong quán bar.”

Daher nhăn trán lắc lắc đầu.

“Ồ, đúng vậy,” Charlie nói, “không phải quán bar. Các anh không có quán bar. Vậy là một nhà hàng.”

Daher lại lắc đầu lần nữa.

“Vâng, anh Daher?”

“Chuyện đó khó có thể xảy ra ở đây được. Đàn ông và phụ nữ ngồi ở những khu vực riêng biệt của nhà hàng.”

Charlie gật đầu. “Được thôi. Vậy xin cho biết ở đây làm thế nào mà đàn ông có thể tiếp xúc với phụ nữ? Ở nơi công cộng nhé.”

Những người đàn ông quay sang nhìn nhau. Người phụ nữ này có hiểu gì về Ả Rập Xê-út không nhỉ?

“Anh ta có thể nói chuyện với người phụ nữ trên đường phố.” Một giọng nói cất lên. Đó chính là Katya vẫn đứng gần cửa ra vào. Mọi người quay sang nhìn cô. “Những điều đó không có nghĩa là cô ta sẽ đáp chuyện. Nhiều khả năng là không.”

“Vậy trong trường hợp nào cô ta sẽ đáp chuyện?” Charlie hỏi.

“Nếu cô ta biết người đó.”

“Rất nhiều khả năng là cô ta không hề biết hắn. Kẻ sát nhân muốn nạn nhân là người lạ mặt.”

“Thôi được,” Katya nói. “Cô ta sẽ không nói chuyện với người đó, trừ phi, có lẽ vậy, anh ta cần cô ta giúp đỡ.”

Daher, người vẫn đang theo dõi cuộc trao đổi với cái vẻ mơ hồ trên nét mặt, nói xen nào: “Giống như Ted Bundy.”

“Tốt lắm.” Charlie nói, vẫn nhìn Katya. “Vậy có thể hắn sẽ lừa gạt cô ta bằng sự yếu đuối vờ vịt của mình. Hắn còn có thể tìm một phụ nữ ở đâu nữa?”

“Thực ra, cô ta có thể là người giúp việc của hắn.” Daher nói,

“Có lẽ không phải vậy.” Charlie nói. “Chí ít là không phù hợp lắm. Ở giai đoạn hai, khi tên sát nhân cố gắng tìm kiếm một nạn nhân hoàn hảo, hắn thường quan sát từ xa. Hắn tìm hiểu kỹ nạn nhân để tìm những biểu hiện giống với người phụ nữ trong mộng tưởng của hắn – và khi càng hiểu một ai đó, thì lại càng ít khả năng người đó giống với người trong mộng tưởng. Chính vì lẽ đó mà nhũng kẻ giết người tìm kiếm những đặc điểm bên ngoài, thường là về hình thể. Thí dụ như, Ted Bundy thích những phụ nữ có mái tóc rẽ ngôi giữa hơn.”

“Có lẽ,” Daher lên tiếng với điệu cười nhạt, “tên sát nhân của chúng tôi chẳng để ý kiểu tóc cá biệt nào đâu.”

Charlie cười nói với anh ta vẻ mỉa mai rồi quay lại phía Katya. “Được rồi. Vậy hắn có thể để ý những đặc điểm trên khuôn mặt phải không?”

“Có thể lắm.” Katya nói. “Hoặc chỉ là… dáng người chẳng hạn.”

“Rất tốt. Có thể là những phụ nữ có dáng người nhỏ bé. Hoặc mảnh khảnh.”

Riyadh từ nãy vẫn đứng ở một bên lên tiếng: “Tất cả các nạn nhân đều có chiều cao tầm từ mét tám đến mét chín. Và tất cả đều là người nhập cư, hầu hết từ các nước châu Á.”

“Một mét tám là khoảng bao nhiêu?” Charlie hỏi Katya.

“Gần sáu foot (5).” Katya đáp.

(5) Đơn vị đo chiều dài của Anh và Mỹ (1 foot ~ 0.3048m)

“Ồ, ra vậy. Như vậy là khá cao lớn.” Charlie quay về phía khán phòng sau khi tặng Katya một nụ cười bí hiểm. “Việc tìm kiếm những phụ nữ cao lớn trong các nhóm chủng tộc không phải hiện tượng phổ biến cho lắm, như vậy các anh đã biết một số điều về hắn: hắn thích những phụ nữ cao lớn người châu Á. Mục tiêu của hắn rất khác thường. Một trong những vấn đề chính của các anh là phải xác định xem tên sát nhân đã tìm và bắt nạn nhân như thế nào. Làm thế nào hắn chiếm được lòng tin của họ.”

“Có một cách phân loại quan trọng nữa đối với những tên giết người hàng loạt mà các anh sẽ muốn cân nhắc, đo là cách thức tổ chức. Hắn có tính tổ chức đến mức độ nào? Hay nói cách khác, hắn bày tính và thực hiện mộng tưởng của mình công phu đến mức nào? Lên kế hoạch cho một cụ giết người cần có thời gian và sức lực. Một số kẻ giết người sát hại nạn nhân ngay lập tức. Đó là loại vô tổ chức. Chúng có khuynh hướng hành động tùy tiện. Chúng cũng có khuynh hướng vô cùng khát máu và tàn bạo. Loại có tính tổ chức thì khác hắn. Chúng phân chia giai đoạn giết người – bao gồm năm giai đoạn tất cả - kéo dài trong vòng vài ngày thậm chí vài tuần. Thông thường chúng không giết nạn nhân ngay lập tức, và thậm chí nếu làm vậy, chúng không vứt bỏ xác của họ ngay. Chúng muốn duy trì việc tận hưởng cảm giác rùng rợn khi được nhìn ngắm nạn nhân bị hành hạ. Chúng muốn sự mộng tưởng đó kéo dài càng lâu càng tốt. Chuyện chỉ dừng lại khi chúng thấy chán ngấy. Bộ phim khoa học Hành vi của chúng tôi đã nghiên cứu cách phân loại này và nó còn mở rộng ra cả hiện trường vụ án. Loại giết người vô tổ chức thường để lại một hiện trường lộn xộn. Nhưng một kẻ có tính tổ chức thì lại tỉ mỉ và thường lập kế hoạch chính xác để che đậy mọi dấu vết của hiện trường. Ngoại trừ một thứ: vật tế.”

“Đó là cái gì vậy?” Kazaz, người phiên dịch, hỏi lại.

“Vật tế là một thứ tên sát nhân giữ lại sau khi giết người thông thường là một phần xác chết, nhưng nó cũng có thể là bất cứ thứ gì. Nó giống như một thứ chiến lợi phẩm, nhắc hắn về một trải nghiệm, và hắn có thể trở lại đó với khoái lạc hay niềm kiêu hãnh.”

“Những bàn tay.” Ibrahim lên tiếng.

Charlie nhìn ông, sự chú ý của cô như thể một chiếc đèn pha. “Vâng, hắn đã chặt tay của nạn nhân. Cả hai tay, phải vậy không thưa ông?”

“Đúng vậy.” Ibrahim đáp. “Hắn đã chặt đôi tay của những người phụ nữ đó, nhưng hôm qua chúng tôi đã tìm được ba bàn tay chôn gần những cái xác.”

“Chỉ có ba bàn tay thôi sao?”

“Vâng.”

Charlie trầm ngâm giây lát. “Những bàn tay đó có khả năng chính là chiến lợi phẩm của hắn. Hoàn toàn xác đáng khi đặt ra câu hỏi tại sao hắn chỉ chôn có ba bàn tay mà thôi. Có thể có những chứng cứ nào đó trên ba bàn tay kia sẽ giúp các anh hiểu được vì sao hắn lại lựa chọn việc chặt tay nạn nhân từ đầu. Các anh có thể sẽ không tìm ra được câu trả lời cho đến khi bắt được hắn, nhưng nếu nắm được vấn đề này, nó sẽ là một manh mối rất đáng giá.”

“Tất nhiên các anh nên tìm hiểu kỹ hơn, nhưng từ những gì mà các anh biết được về tên hung thủ này, tôi cho rằng các anh đang đương đầu với một kẻ rất có tính tổ chức. Hắn cần thời gian trước khi vứt bỏ những cái xác. Và theo tình trạng của những cái xác đó - mất tay, khuôn mặt bị biến dạng - và địa điểm chôn cất là khu vực biệt lập, thì có thể thấy hắn rõ ràng đang thực hiện mọi việc một cách có hệ thống. Nạn nhân mới nhất có phải đã chết cách đây ba tháng không?”

“Không lâu hơn sáu tháng.” Ibrahim nói.

“Vậy thì dù không muốn tôi vẫn phải nói rằng rất có khả năng hắn sẽ lại sớm ra tay. Ngay lúc này đây có lẽ hắn đang lên kế hoạch cho vụ sát hại tiếp theo. Vấn đề thực sự là làm thế nào hắn tiếp cận được những người phụ nữ này? Hắn tìm họ ở đâu và họ có điểm gì chung? Các anh có rất nhiều việc để làm nhằm xác định được những đối tượng này. Hắn sẽ nhận ra các anh đã phát hiện ra nơi hắn chôn giấu nạn nhân, và hắn sẽ điều chỉnh cách thức thực hiện. Có khả năng hắn sẽ không đến chỗ cũ để tìm kiếm nạn nhân nữa, nhưng có lẽ hắn không sẵn sàng thay đổi “tip” nạn nhân của mình.”

Một bầu không khí im lặng nặng nề bao trùm căn phòng.

“Vậy thì,” Daher nhấn mạnh bằng tiếng Ả Rập, “có lẽ chúng ta nên bắt đầu nói với những người phụ nữ của chúng ta rằng họ nên ở nhà.”

Charlie nhìn Kazaz chờ được dịch, nhưng anh ta nhíu mày tư lự.

Cả căn phòng im ắng, thỏa dạ vì bữa ăn kiến thức. Ibrahim nhận ra có đôi chút dao động: rất nhiều sĩ quan không quen với việc bị phụ nữ chỉ huy.

“Tôi nghĩ hiện thời thế là tạm đủ.” Chánh thanh tra Riyadh lên tiếng. “Tiến sĩ Becker đã vui lòng nhận lời giải đáp bất cứ câu hỏi nào trong vòng một tháng tới, nên chúng ta có thể trao đổi với Tiến sĩ sâu hơn khi nhân viên giám định y tế hoàn tất báo cáo và chúng ta đã nghe từ đội pháp y.”

Mọi người tản dần. Charlie và Riyadh đứng nói chuyện phía trên khán phòng, còn Daher tụ tập với mấy người bạn. Katya lén rời khỏi phòng họp.

Ở hành lang, Ibrahim đâm sầm vào Talib, người của nhóm tìm dấu vết Murrah.

“Ông đi sớm thế.” Ibrahim lên tiếng.

“Thực ra, tôi đã biết hung thủ không phải phụ nữ.” Ông hất cằm về phía Tiến sĩ Becker.

“Cảm ơn Chúa vì điều đó. Nhưng ông đã nói là không tìm được dấu chân nào của hung thủ cơ mà.”

“Ồ, tôi có thứ gì đó.” Talib nói. “Nó không đủ rõ để chụp ảnh lại, nhưng đủ để phục vụ cho mục đích của chúng ta. Đủ để có thể phán đoán về hắn.”

“Sao ông không cho tôi biết khi ở hiện trường vụ án?”

“Rất mất thời gian để loại trừ những người đã ở hiện trường.”

“Thôi được.” Ibrahim nói. “Vậy chắc chắn hung thủ là một người đàn ông?”

“Đúng vậy.”

“Và hắn sống ở đâu vậy, tên sát nhân ấy?”

Talib mỉm cười. “Câu hỏi hay nhỉ. Điều gì khiến anh nghĩ tôi có thể trả lời?”

Ibrahim nhún vai.

“Hắn sống trong thành phố. Lưng không có dị biệt gì. Hắn cao lớn hơn tôi rất nhiều, nặng cân hơn.” Bằng đôi tay nhỏ bé, Talib khum tay làm điệu bộ quanh cái bụng cỡ chuột nhảy của mình.

“Và ông sẽ cho tôi biết làm thế nào ông tìm hiểu được những điều đó chứ?” Ibrahim hỏi.

“Hắn sử dụng chân phải khác hoàn toàn với chân trái. Và cách đi khác biệt đó cho thấy hắn bị thương hoặc là hắn lái ô-tô. Chân phải linh hoạt hơn, trong mọi cử động của gan bàn chân và thậm chí là mắt cá chân. Khi bước đi bàn chân hắn hơi đảo một chút từ bên này sang bên kia. Cẳng chân phải cũng khỏe hơn. Có lẽ hắn là người thuận tay phải.”

“Thế vì sao hắn lại là đàn ông?”

“Chỉ đàn ông mới lái ô-tô.”

Ibrahim cười mỉm rồi cười phá lên thành tiếng. “Đúng rồi, xin lỗi nhé. Mừng vì có người đã dùng tư duy lô-gíc.”

Người đàn ông Bedouin vẩy tay một cách lịch sự ý nói: tôi khá chắc là anh còn giỏi tư duy lô-gíc hơn cả tôi ấy chứ.

Ibrahim mở cửa văn phòng của mình và tạm biệt Talib. Ông chỉ kịp bật đèn lên thì một toán người đã bước vào phòng: một người của đội sĩ quan trẻ, Shaya, rồi Daher và đám bậu sậu của anh ta. Ông nhìn thấy thấp thoáng một bóng đen ở hành lang và tự hỏi có phải Katya cũng muốn nói chuyện với ông không.

Căn phòng khá nhỏ - hai bàn tiếp khách và một bàn làm việc, đó là trang bị tốt nhất mà hiện thời Sở có thể lo liệu được. Hoàn toàn không phù hợp để họp hành gì. Người thì ngồi trên ghế đầu, người ngồi ghế trên bàn ông. Ông nhận ra họ muốn có sự chỉ đạo. Ông ngồi xuống.

“Thực ra, cái cô người Mỹ đó cũng có ích đấy chứ.” Daher nói. “Không gì giống với một gương mặt phụ nữ khiến ta phải để tâm.”

“Cái tâm của cậu đâu để ý đến đó.” Một người khác nói.

“Không, không.” Daher đáp lại. “Giờ thì tôi đã nhận thức được rất rõ việc chúng ta cần phải làm. Chúng ta nên ngồi trong phòng họp quan sát một cái áo sơ-mi trắng.”

Những anh chàng này đi quá nhiều giới hạn từ khi Ibrahim bắt đầu làm việc ở Đội Trọng án. Họ nhận ra ông không phản đối những câu bông đùa của họ. Lần trước khi ở trong xe ra ngoài sa mạc, trước khi họ phát hiện ra những tử thi đó, Daher đã đọc được thứ gì đó trên điện thoại di động, liền oang oang: “Các quý ông thân mến, đã đến lúc chúng ta phải đên Malaysia thôi!”

“Ôi không.” Shaya đảo mắt.

“Ôi có đây! Và các cậu biết vì sao không? Vì Malaysia vừa có bước tiến đáng kể là cấm mặc áo ngực. Đúng thế đây. Họ gọi chúng là - tôi trích nguyên văn lời của người đứng đầu đã ban hành quyết định này nhé - “những cái độn của quỷ sứ.” Và không một phụ nữ Hồi giáo ngoan đạo nào nên mặc nó, bởi nó đẩy ngực lên quá mức và tạo độ cong cho bầu ngực.” Anh ta ném chiếc điện thoại vào lòng với cảm giác thỏa mãn. “Thử tưởng tượng mà xem, cả một đất nước không có áo ngực!”

Chuyện đó khiến Ibrahim khi ấy phải cười, nhưng giờ thì ông bắt đầu thấy ngán ngẩm.

“Chúng ta phải thấy xấu hổ.” Ông nói. “Gã này đã giết người suốt mười năm nay rồi mà chúng ta không hề biết gì cho đến nay.”

Căn phòng trở nên im lặng.

“Tôi chắc rằng có ai đó đã nhận thấy sự mất tích của những phụ nữ này.” Ông nói tiếp. “Nhưng dù họ có là ai đi nữa, thì họ cũng không thể trách chúng ta được. Không một ai đến trình báo tại Sở trong suốt mười năm liền. Có thể là vì họ sống ở phía bên kia của thế giới và họ không thể trình báo. Họ không có phương tiện để làm vậy.”

Ông hi vọng mình đã không đi quá xa - hoặc thể hiện quá nhiều những suy tư của cá nhân mình. Họ phải tìm ra hung thủ; ông sẽ phải phối hợp với những cậu trai to xác mà trí tuệ và hiểu biết của họ là những thứ ông không hẳn nắm được. Trong khi đó điều duy nhất ông có thể nghĩ đến lúc này là Sabria. Không gì giống với một người phụ nữ khiến ta phải để tâm.

“Như vậy về cơ bản nhiệm vụ là tìm ra mọi vấn đề có thế, bởi một ngày nào đó chúng ta sẽ gặp những người để ý đến vấn đề này và sẽ phải nói vói họ chuyện gì đã xảy ra.”

Ibrahim nhìn quanh. Bọn họ đều hiểu vấn đề: Đội Trọng án xưa nay luôn đạt tỷ lệ chín mươi phần trăm trong việc bắt giữ và truy tố tội phạm. Chẳng phải vấn đề gì lắm nếu con số đó có bị thổi phổng lên chút ít bởi những cán bộ tâm huyết đó luôn “khuyến khích” việc thú tội bằng tất cả những phương thức có thể. Thực tế là Cục còn rất nhiều việc để tiếp tục. Và hiện tại, Ibrahim đã mười năm không phụ trách những vụ án như thế này rồi.

“Ông có nghĩ là họ sẽ giao vụ này cho chúng ta không?” Daher hỏi.

“Cho đến khi tôi nghe được điều ngược lại, thì nhiệm vụ của chúng ta vẫn là phải tìm cho ra kẻ nào đã làm vụ này.”

Ông cố gợi nhớ lại những giao thức từ rất lâu rồi, nhưng mười năm trôi qua đã xói mòn phần lớn trí nhớ của ông, và dù sao thì những quy tắc đã thay đổi. Hiện giờ họ có những nhân viên pháp y tốt hơn. Họ có máy vi tính để phục vụ mọi công việc. Và công việc của một thanh tra là phải giám sát kế hoạch phức tạp của mọi thứ đó. Nhưng có một thứ vẫn không thay đổi: nỗi khiếp sợ.

“Tại sao lại luôn là những người giúp việc nhỉ?” Shaya hỏi. Anh ta có cùng độ tuổi với những người khác nhưng không có đến một chút sức vóc nào của tuổi trẻ trong khi có thừa sự ngây ngô.

“Nhìn quanh mình đi, anh chàng ơi.” Daher nói. “Chúng ta có quá nhiều người ngoại quốc. Nào là người Pakistan, người Ấn Độ, người Châu Phi. Và với từng ấy người, hẳn phải có người xấu chứ.”

“Bọn họ tất yếu phải chịu trách nhiệm cho những tội ác của mình.” Shaya đáp lại.

“Đó là vì họ nghèo.” Daher nói. “Có bao giờ cậu thấy người ngoại quốc nào to béo không? Không. Phần lớn họ còn không kiếm đủ tiền để nuôi miệng mình nữa ấy chứ. Lẽ dĩ nhiên họ sẽ bắt đầu trộm cắp và giết lẫn nhau..”

“Bọn họ có phạm tội.” Ibrahim cắt lời. “Nhưng trộm cắp và giết người là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Trong hầu hết các trường hợp chính những kẻ thuê họ mới là tội phạm. Và những kẻ đó lại là người Ả Rập Xê-út.”

Không ai nói gì thêm.

“Giờ thì cho tôi biết tin mới nhất bên pháp y là gì?”

“Vẫn không có gì đáng chú ý ạ.” Daher nói.

Ibrahim nhìn những đồng sự của mình và nghĩ đến mái tóc của Sabria, còn dày và óng ả hơn mái tóc của Charlie Becker nhiều. Nó có sức nặng. Khi cô leo lên người ông và xòa mái tóc trùm lên mặt ông, ông có thể cảm nhận được mùi dầu gội và mùi khêu gợi của xác thịt.

“Chúng ta đã biết chiều cao, cân nặng, và độ tuổi giả định của các nạn nhân. Chúng ta cũng có những chân dung phác họa từ họa sĩ, vậy hãy bắt đầu với những thứ đó. Daher và Ahmad, tôi muốn hai anh ngày hôm nay đến các lãnh sự quán Philippiness và Indonesia. Tự mình xem lại các hồ sơ của họ nếu buộc phải vậy. Shaya, anh chịu trách nhiệm liên lạc với cơ quan Người mất tích. Công việc tương tự: tự mình làm nếu thấy cần. Còn lại mọi người xuống phòng hồ sơ và bắt đầu xem qua các tài liệu trên máy vi tính về những người mất tích. Cơ sở dữ liệu cấp quốc gia nhé.”

“Thế còn việc lập hồ sơ về hung thủ thì sao ạ?” Shaya hỏi.

Ibrahim xoa mặt và tự hỏi không biết anh chàng này có hiểu một chút nào về những gì mà Tiến sĩ Becker vừa nói hay không nữa. “Đó chính là việc chúng ta đang làm đấy.” Ông trả lời.

Lầm rầm, thở dài, mấy cái vỗ vai và đẩy người một cách thân thiện, Ibrahim giải tán đám đông khỏi phòng. Ông đóng cửa phòng, tắt đèn, rồi ngồi xuống bên bàn làm việc. Có lẽ Riyadh không gạt ông ra khỏi vụ này bởi ông ta quá bận rộn đối phó với cấp trên của mình. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi Cơ quan Điều tra đặc biệt của Bộ nhảy vào cuộc. Đến khi đó sẽ không thể nói trước chuyện gì sẽ xảy ra. Có thể mọi việc sẽ hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của cảnh sát.

Điều quan trọng hơn cả lúc này với ông là việc tìm Sabria. Ông cần có kế hoạch của riêng mình. Sẽ không có cả một tiểu đoàn cảnh sát nào sẽ lao đi tìm cô đâu. Cô không có ở bất cứ bệnh viện nào ông gọi đến, mặc dù có khả năng là cô đã được họ chấp nhận giấu danh tính. Cách duy nhất để tìm ra cô là đến các phòng khám và cho họ xem ảnh của cô, nhưng bác sĩ cũng có thể chỉ nhìn thấy một bệnh nhân nữ mà không hề biết mặt cô ta. Đi hết được các phòng khám là cả một công việc đồ sộ.

Ibrahim nhìn điện thoại, nghĩ đến việc sẽ tự mình gọi đến cơ quan. Người mất tích và báo tin về cô, nhưng ông biết họ sẽ làm gì tiếp đó: các công việc ngoại giao. Một khi họ phát hiện ra cô từng làm việc ở Đội Đặc vụ, thì Omar – phụ tá chính của Đội Đặc vụ – sẽ được thông báo, và chắc chắn anh sẽ mở một cuộc điều tra. Điều đó có nghĩa là họ sẽ lục soát căn hộ của Sabria bằng một số công nghệ pháp y tốt nhất trên thế giới. Họ sẽ phát hiện ra Ibrahim. Ông sẽ trở thành một kẻ ngoại tình, cho đến khi bọn họ lấy đầu ông. Đội Đặc vụ sẽ khép lại cuộc điều tra. Chẳng cần thiết phải tốn công sức để tìm kiếm những chứng mại dâm làm gì. Và trong suốt khoảng thời gian những việc đó diễn ra, thì hóa ra Sabria lại bị hôn mê trong một bệnh viện nào đó. Hoặc có thể cô đã chạy trốn. Không đáng mạo hiểm thông báo trường hợp mất tích của cô vội. Ông phải tự tìm cô trước đã.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Nắm chặt chiếc điện thoại di động trong tay, Amina al-Fouad bước ra ban công tầng ba nhìn xuống phố. Trời còn sáng, và theo thói quen bà quấn chiếc khăn trùm đầu che ngang mũi và miệng. Bà nhìn lướt cả con phố xem có thấy dấu hiệu gì của chiếc GM của Jamal không, nhưng chỉ có đám trẻ con hàng xóm đang ùa vào ngõ và mấy con mèo đi hoang. Bà nhắm mắt, lắng nghe tiếng ì ầm của chiếc SUV mới tinh mà ông chồng đã ngớ ngẩn mua cho Jamal, con trai họ. Cuối cùng thì bà cũng nghe được một âm thanh quen thuộc và liếc mắt chờ đợi khi một chiếc xe tải rẽ vào khu phố. Không phải nó.

Bà bật mở điện thoại và cố gọi cho con trai lần thứ hai. Không nhấc máy. Giá mà bà chịu để ý nghe những hướng dẫn của con gái, thì có phải bà đã nhắn tin được cho nó rồi không, nhưng việc đó phức tạp quá. Đã mười giờ bốn mươi phút sáng. Bà phải đi mua rau quả, mua hoa, rồi ghé cửa hàng văn phòng phẩm nữa, và chọn quà sinh nhật cho đứa cháu gái. Bữa tiệc sẽ được tổ chức lúc một giờ chiều. Bà đã nhận lời mua sô-đa, khăn ăn, biểu ngữ, và cả bóng bay nữa. Bà cố gọi cho Jamal lần nữa nhưng vẫn không thấy nhấc máy.

Trong lúc rất bực bội, bà thấy hai phụ nữ đang đi xuống phố. Họ vừa bước ra khỏi một chiếc taxi. Nếu nhanh chân có thể bà sẽ kịp bắt chiếc xe đó. Bà vơ vội chiếc xắc tay và áo trùm treo trên móc sau cửa ra vào và chạy ào xuống cầu thang.

Chiếc taxi chờ ở đó. Nó đỗ ở góc đưòng như một con thú đang thở hổn hển sau khi chạy. Người lái xe vừa ra khỏi xe để mua thuốc lá ở cửa hiệu ngay góc phố. Khi trông thấy Amina chạy về phía mình, anh ta mở toang cửa sau và mời bà vào. Bà cảm ơn anh ta và nói bà muốn tới Trung tâm Jamjoom, rồi họ khởi hành.

Rashid không hề thích bà đi taxi. Không an toàn chút nào khi ở trong ô-tô với một người đàn ông lạ mặt, nhất là người nước ngoài. Sẽ không tệ lắm nếu bà đi cùng bạn bè, nhưng đáng lẽ bà không bao giờ được phép đi taxi một mình mới phải. Và giờ thì bà lúng túng ở băng ghế sau trong khi tay tài xế nhả khói thuốc ngập trong xe và không đồng ý hạ kính cửa sổ vì không muốn hơi nóng bên ngoài ập vào. Điều hòa nhiệt độ không hoạt động tốt lắm, nên Amina mướt mát mồ hôi, và mỗi khi bà cố hạ tấm kính cửa sổ xuống chỉ một phân thôi, ngay lập tức tay tài xế lại nâng nó lên trở lại. Bà nghĩ đến việc Rashid sẽ phát hiện ra chuyện này nhưng rồi lại nghĩ ông ấy làm sao mà biết được. Bà cố liên lạc với Jamal lần nữa và lần này để lại lời nhắn: “Mẹ đang trên xe taxi đến Trung tâm Jamjoom, và tốt hơn hết là con nên đến đó trong vòng hai giờ tới hoặc mẹ sẽ nói với bố con và ông ấy sẽ lấy lại cái xe đó ngay đấy.” Rashid sẽ chẳng lấy lại chiếc xe làm gì. Ồng còn chưa bao giờ phạt gì thằng bé nữa là. Tuy nhiên, Jamal có thể muốn giúp bà tránh cơn giận của bố nên ông phát hiện bà đi taxi một mình. Hai giờ sau, bà đứng trên hè phố ngoài Trung tâm Jamjoom, dưới chân là ba chiếc túi đựng hàng khổng lồ. Bà vẫn chưa mua được sô-đa, nhưng đã mua đủ những thứ khác, còn có cả ba món quà dành cho cô cháu gái đã được bọc giấy in hoa có thắt dải ruy-băng màu vàng chang kim. Bà cũng tìm mua được rất nhiều thứ mà bà không định mua và định làm nốt những việc lặt vặt sau. Vẫn không thấy bóng dáng Jamal. Bà đã gọi điện thoại hai lần rồi và vẫn không thấy cậu con trả lời.

Thằng bé không biết điều chút nào, bà nghĩ trong khi liếc nhìn hàng xe taxi. Bà muốn bắt một chiếc cho rồi - bà đã để riêng một khoản phòng trường hợp này - nhưng Rashid sẽ có mặt ở bữa tiệc, và bà không chắc liệu ông có thấy bà bước ra khỏi taxi hay không, hoặc bà bước vào nhà với tất cả những túi hàng mua sắm này mà không đi cùng Jamal. Bà cô gọi cho đứa cháu trai. Việc này gấp lắm rồi. Bà phải có mặt ở nhà em gái trong vòng mười phút nữa, mà phải mất ba mươi phút để đến được đó. Cháu trai bà không nhấc máy. Có chuyện gì với mấy đứa thanh niên này thế nhỉ? Chúng thuộc thế hệ của điện thoại di động. Chúng sử dụng điện thoại như thể bàn tay thứ ba của mình. Nhưng cứ mỗi khi cần đến, chúng thì chúng chẳng bao giờ nhấc máy cả.

Bà thử lại hết lần này đến lần khác. Bà không định gọi cho em gái mình. Johara chắc đang bận lên vì chuẩn bị cho bữa tiệc nên sẽ nhờ ai đó xử lý vấn để này và việc sẽ lại đến tai Rashid.

Rốt cuộc, giận đến mức không thể tưởng được, Amina nhét điện thoại vào xắc tay, xách mấy chiếc túi đựng hàng lên và bước thẳng về phía dãy taxi
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Katya ngồi trong một chiếc ghế bành khổng lồ, cố để không bị trượt vào sâu bên trong, chờ bà quản lý ngân hàng trò chuyện xong, rồi nghe điện thoại, rồi lại chăm chú đánh máy. Katya đã ngồi nhìn bà ta từ ngoài tấm kính chắn đến hai mươi phút rồi. Bà quản lý rõ ràng biết đến sự có mặt của sáu vị khách đang ngồi chờ đợi mỏi mệt trong khu vực của mình. Khi một vị khách đứng lên và nói mình đã ở đây bốn mươi phút rồi và sẽ lấy làm biết ơn khi được gặp một lát thôi, thì bà quản lý đưa mắt nhìn như thể chưa ai từng dám đưa ra cái yêu cầu trơ tráo đến vậy.

“Làm sao tôi biết được chị ngồi đây bao lâu rồi?” Bà ta quát lại. “Tôi không chịu trách nhiệm về mấy cái việc đó. Chị phải ngồi đợi đến lượt chị thôi!”

Ở quầy thu ngân, các khách hàng đang tranh cãi về các khoản tiền gửi, tín dụng, thanh toán chậm. Vách ngăn không đủ cách âm nên Katya nghe được hết mọi việc - ngay cả tiếng cô nhân viên ngân hàng ngồi trong góc ậm ừ gọi tên Nancy Ajam mỗi khi cô ta đếm hóa đơn. Cửa trước bật mở, một luồng không khí nóng ùa vào, làm lao xao đám lá của mấy chậu cây cảnh và cuốn tung tà áo trùm của những người xung quanh. Một phụ nữ bước vào, đế giày cao gót nện trên nền đá cẩm thạch láng bóng. Bà ta tiến thẳng về phía bà quản lý phòng giao dịch và được chào đón với thái độ xun xoe ngọt ngào. Vị khách mới đến khinh khỉnh ném phịch chiếc xắc tay cỡ lớn hiệu Dior lên mặt bàn. Mấy phụ nữ trong khu vực chờ bắt đầu cằn nhằn, và có người thở hắt ra thành tiếng trong sự tức giận.

Ngân hàng dành cho nam giới có chậm chạp và quan liêu vậy không nhỉ? Katya từng một lần đến ngân hàng dành cho nam giới, khi mẹ cô (cầu Chúa phù hộ cho bà), bực tức vì thái độ phục vụ của ngân hàng dành cho phụ nữ, đã phăm phăm băng qua đường và gạt phăng đám nhân viên bảo vệ vói ý định nói chuyện với “vị quản lý nam” khét tiếng, người mà nêu vắng mặt thì chẳng có việc gì ở khu vực dịch vụ dành cho phụ nữ được quyết cả. Bà đã trùm lên khắp ngân hàng đó một sự im lặng nặng nề. Năm mươi người đàn ông quay sang nhìn bà chằm chặp, mặt lạnh lùng khó chịu. Katya rụt rè theo sau mẹ, tóm chặt cánh tay bà và kéo bà ra ngoài, nhưng mẹ cô, người sau đó phải chịu đau đớn vì căn bệnh ung thư đã giết chết bà, đã không chịu nhúc nhích cho đến khi nói chuyện được với tay quản lý đó.

Ngay cả khi họ muốn làm việc, ngay cả khi chồng và cha cho phép họ giao tiếp với đàn ông lạ mặt, ngay cả khi họ có bằng lái xe, thẻ căn cước, người giữ trẻ, thì phụ nữ Ả Rập Xê-Út vẫn phải gian nan để tìm việc làm. Quốc gia vĩ đại này, một quốc gia có thể nhập khẩu bất cứ thứ gì họ cần, thì cũng có thể nhập khẩu đến chín mươi phần trăm nhân công cho khu vực tư nhân chứ. Katya đã được nghe về sự hô hào chống nhập cư từ những quốc gia khác - Châu Âu muốn gửi trả người Hồi giáo về nước; nước Mỹ kiên quyết đóng cửa trước người Mexico - nhưng Ả Rập Xê-Út thì mặc nhiên trở thành một vương quốc của những người lạ mặt. Quốc gia này chào đón người nhập cư bởi những người đó đã dựng lên ảo tưởng rằng tất cả những người Ả Rập đều có thể thuê người giúp việc, bởi những người nhập cư đã làm các công việc mà hầu hết những ngưòi Ả Rập sẽ không bao giờ màng tới - giúp việc, thu nhặt rác, lái taxi - và bởi vì không có những người nhập cư, chắc chắn không có việc gì được hoàn tất cả.

Nhưng những ngân hàng này là của Ả Rập Xê-Út, một phần phong trào của các công ty cải cách hơn là để tạo công ăn việc làm cho phụ nữ Ả Rập Xê-út (mặc dù chỉ trong những ngân hàng dành cho phụ nữ đi chăng nữa). Nếu đây là cách Ả Rập Xê-Út hóa lực lượng lao động, theo như Katya hiểu, thì đất nước này quả thực đang hướng tới những rắc rối.

Katya ngồi tựa vào ghế bành và nhắm mắt lại. Cô nên từ bỏ việc chờ đợi và về nhà thôi, nhưng đây là lần đầu tiên trong cá tháng cô mới được ở một mình mà không phải chịu trách nhiệm gì. Cô không muốn phải đối diện với thực tại bởi điều đang chờ đợi cô là một lời cầu hôn và người đàn ông mà cô hy vọng là cô yêu đang kiên nhẫn đứng bên cuộc đời cô. Mất việc cũng là nỗi khiếp sợ làm cô tê liệt tâm trí.

Nếu ngươi không lấy chồng, cô tự nhủ, ngươi sẽ mất việc. Cô đã gian dối và nói với họ rằng cô đã lập gia đình để được làm việc ở Cục, cô buộc phải làm vậy. Chỉ có Osama phát hiện ra sự thật. Ông chưa sa thải cô, nhưng nỗi đe dọa đó đeo đuổi cô mỗi ngày. Nó đã tạo nên sự đối kháng ngày càng tăng của cô đối với Daher, người từng thấy cô một buổi tối làm việc muộn và nói: “Cô không hành xử giống phụ nữ đã có chồng.”

Cô hiểu anh ta có ý nói Cô đang hành xử giống đàn ông, nhưng nó vẫn khiến cô thấy ớn lạnh, và cô nhận ra mình luôn luôn lo lắng về anh ta. Liệu anh ta có phát hiện ra cô chưa kết hôn không nhỉ? Việc đó thật dễ dàng nên bước thẳng vào phòng lưu trữ hồ sơ và tìm hiểu thông tin.

Nhưng một cuộc hôn nhân có thể sẽ chỉ là một đại lộ đẹp đẽ rợp bóng cây xanh dẫn đến cái kết chấm hết những giấc mơ của cô mà thôi. Cô nghĩ về Nayir và cô nhớ đến niềm mong mỏi da diết mà cô dành cho anh, nhưng nỗi sợ hãi đã dập tắt lòng khao khát đó. Nayir không phải típ người sẽ bằng lòng với việc vợ mình phải làm việc chừng ấy thời gian trong ngày. Và điều gì sẽ xảy ra nếu họ có con? Làm sao cô có thể vừa làm việc, vừa chăm sóc lũ trẻ, vừa dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn và chiều chuộng yêu thương chồng mình được đây? Anh đã cầu hôn cô từ một tháng trước. Nó là khoảng thời gian dài day dứt khi bắt một người đàn ông phải chờ đợi, và cô vẫn chưa cho anh câu trả lời.

Cô không có câu trả lời.

Cô mất thêm một giờ đồng hồ nữa chỉ ngồi nhìn, rồi thêm mười lăm phút nữa để tranh luận. Họ đã vô tình đóng tài khoản tiền gửi thanh toán của cô, trong khi cô lại gửi ngân phiếu trả tiền lương của mình vào đó. Bà quản lý không hề có dữ liệu nào về việc Katya từng là khách hàng giao dịch với ngân hàng. Ngay cả khi Katya đưa tờ phiếu gửi tiền lấy từ trong ví của mình ra cũng không giúp ích gì. Bà ta dò xét nhìn Katya, rõ ràng là tự hỏi cô đang có mưu đồ gì bất chính. Với cách làm việc hiệu quả đặc trưng của mình, bà ta uống thêm một tách cà phê và chắm chúi vào máy tính thêm mười phút vô ích nữa, rồi đứng dậy đi nói chuyện với sếp, người có vẻ là quản lý thực sự của ngân hàng. Nửa tiếng sau, bà ta quay lại, mở lại tài khoản của Katya và đoán chắc một lần nữa với cô là tất cả mọi việc đều ổn. Nhưng chẳng có gì ổn cả, nhất là khi sinh kế của một người được lưu trữ một cách bất cẩn đến vậy trong bộ nhớ của một cái máy, như thể nó chưa từng phải đối mặt với cả tá những đối tượng quyền lực hơn thế cứ nhất nhất đòi xóa sạch nó đi.

Anh đang nói chuyện vói một người hàng xóm. Khi anh kéo mạnh sợi dây từ dưới nước - cúi người xuống, một bên gối tỳ trên mặt đất, và đầu nghiêng ở một góc kỳ quặc, như thể đang kiểm tra bụng dưới của một con lạc đà – lớp vải áo sơ-mi của anh căng ra ôm sát lấy tấm lưng. Dù có đứng xa tận năm mét thì cô vẫn trông thấy những cơ bắp đó - một quang cảnh của những đụn cát nhấp nhô, duyên dáng, mênh mông. Thường thì cô sẽ cố ngoảnh mặt làm ngơ, nhưng lần này cô mặc cho ánh mắt mình dán chặt vào tấm lưng anh trong giây lát. Mình có thể chạm vào đó, cô thầm nghĩ, nếu cả hai kết hôn. Mình sẽ chìm vào giấc ngủ trong vòng tay tuyệt vời đó. Phom người đó, giống như một ảo giác vậy. Vững chãi đến mức chẳng gió cát nào lay chuyển được.

Điều khiến cô bất ngờ là cảm giác thanh thản khi anh đứng lên và nhìn thấy cô, nét mặt anh rạng ngời một cách nhẹ nhàng với niềm vui mà đến cả người hàng xóm cũng nhận thấy và tự cáo lui. Nayir buộc lại đoạn dây cuối cùng rồi vứt nó lại trên mặt đất, một cử chỉ tuyên bố chắc chắn rằng anh sẽ vứt bỏ bất cứ thứ gì chỉ vì cô, và trong giây lát, hàng triệu những nghi hoặc trong cô như tan biến hết.

Rồi cô tự nhủ mình đừng trở thành kẻ ngốc.

“Sabah al-khayr.” Cô lên tiếng. Chúc buổi sáng tốt lành.

Anh kiềm chế ánh nhìn da diết của mình và giản dị chào đáp cô “Chúc buổi sáng tốt lành.” Cô không đeo khăn che mặt. Cô không đeo nó ở chỗ làm, vậy thì sao cô phải tỏ vẻ mộ đạo ở đây chứ?

Hai người vẫn nói chuyện qua điện thoại, nhưng đây là lần đầu tiên cô gặp anh kể từ buổi tối anh ngỏ lời cầu hôn. Anh đang mặc chiếc áo choàng xanh dương yêu thích quen thuộc của mình. Anh đã cởi bỏ chiếc khăn đội đầu, và mái tóc quăn đen ngắn của anh ánh lên trong nắng. Đôi gò má anh ửng hổng, bụi đất bám dính trên đôi xăng-đan, sự tự tin trên đôi vai anh, tất cả đã nói với cô rằng gần đây anh đã ra ngoài sa mạc. Anh đưa các gia đình đi du ngoạn sa mạc để giúp họ nối lại cội nguồn Bedouin của mình hoặc đơn thuần chỉ để họ có những trải nghiệm ở vùng đất hoang vu. Khi cần, anh làm công việc cứu hộ.

“Em hy vọng là mình không đến không đúng lúc.” Cô nói.

“Tất nhiên là không rồi.” Anh liếc nhìn qua vai cô, một cử chỉ mà cô hiểu ngay rằng Ai đã đưa em đến đây? Và liệu anh ta có ổn không khi chúng ta nói chuyện?

“Ayman, em họ em, cho em đi nhờ.” Cô nói. “Cậu ấy vừa đi mua thuốc lá rồi.”

Nayir gật đầu, có lẽ tốt hơn hết là chấp nhận việc cả hai người lúc này đang ở một mình với nhau là không thích hợp khi lời cầu hôn vẫn còn đó. Anh bắt đầu bước về phía chiếc thuyền của mình. Trời quá nóng khi đứng trong nắng.

“Em xin lỗi đã không gọi cho anh.” Cô nói. “Em phải làm việc ngoài giờ vì một vụ nghiêm trọng.”

“Ồ.” Anh đáp. Nếu quả có lo nghĩ về việc cô không nhiệt tình đáp lại lời cầu hôn, thì anh cùng không thể hiện ra điều ấy. Thay vì đó, anh có vẻ thoải mái, và có thái độ bình thản mà cô cho là quãng thời gian ở sa mạc vừa rồi đã thúc đẩy cảm hứng tôn giáo của anh.

Anh đưa cô lên thuyền và, một chút ngạc nhiên, cô thấy anh đã đặt sẵn một chiếc ô rất lớn ngay phía trên băng ghế gỗ ở boong trên. Cô nghĩ anh đã tính sẵn việc này: đón cô lên thuyên và không đưa cô xuống khoang dưới, nơi họ có thể một mình bên nhau và khuất khỏi tầm nhìn. Hàng xóm có thể để ý và bàn tán. Cô ngồi dưới chiếc ô,cảm thấy vui sướng kỳ lạ, trong khi Nayir lom khom ở góc và tạo thêm một bất ngờ nữa: một chiếc quạt chạy bằng pin bé xíu. Anh bật nó lên và không khí mát dịu lướt qua đôi chân cô. Cô mỉm cười.

“Anh thật chu đáo.”

Anh xin lỗi và trèo xuống thang, rồi một lát sau quay trở lại với một chiếc thùng làm lạnh nhỏ xinh chứa đầy đá, nước đóng chai, và sô-đa. Cô uống Pepsi. Anh ngồi đối diện cô và hơi chếch sang bên để không nhìn thẳng vào mặt cô. Cô nhấp một ngụm nước.

“Có vẻ em đang bận bịu với công việc.” Anh nói.

Vâng, cô muốn đáp lời anh, và em không biết làm thế nào có thể kết hôn và có con, làm mẹ và làm vợ khi phải làm việc mười hai tiếng một ngày, và đôi khi còn nhiều hơn thế. Ngoài điều đó ra, làm sao cô có thể giải thích rằng công việc tẻ ngắt ở phòng thí nghiệm không còn thú vị nữa? Rằng cô đang phải nỗ lực để hối thức chính mình bằng cách tham gia trực tiếp vào công việc điều tra? Rằng thậm chí tuần trước cô đã mạnh dạn nộp đơn lên học viện cảnh sát nữ? Anh sẽ nói gì trước những việc đó đây?

“Em xin lỗi.” Cô nói. “Em đã muốn đến sớm hơn, nhưng đúng vậy, công việc của em bận quá mức.”

Anh gật đầu. “Thực ra, em đến rất đúng lúc.” Anh nói. “Anh đã ra ngoài sa mạc. Anh vừa mới về đêm qua.”

“Anh đi làm sao?”

“Ừ. Anh đã đưa một gia đình đi Empty Quarter (1).”

(1) Tức Rubai Khali, sa mạc rộng khoảng 650.000 km2

“Em chưa từng bao giờ ra đó.” Cô nói.

“Ở đó đẹp lắm. Và đủ an toàn, nếu em chuẩn bị chu đáo.” Anh đưa mắt nhìn cô, cái nhìn khá táo bạo. Rồi anh quay lại nhìn đăm đăm về phía biển. Cô nhận ra có điều gì đó đã thay đổi ở anh, như thể một sự bất ổn sâu sắc đã quẫy đạp và rốt cuộc đã trở lại đúng vị trí.

Bỗng nhiên cô giật mình hoảng hốt. Cô đã hai mươi chín rồi và cô nên thấy phải gấp gáp kết hôn, nhưng thay vào đó cô lại thấy sợ hãi. Cô có thể hình dung khuôn mặt thất vọng nặng nề của bố mình như thể ông đang đứng trước mặt cô. Nếu mẹ cô còn sống, chắc bà sẽ khóc khi thấy cô ở tuổi này rồi mà vẫn chưa lấy chồng.

“Em đã suy nghĩ thêm về lời cầu hôn của anh chưa?” Anh hỏi.

“Rồi.” Họ chuyển sang chủ đề này nhanh quá. Cô cảm giác như họ đang trượt bánh trong một vụ va chạm.

“Ừ.” Anh nói.

Cô hoàn toàn không suy nghĩ được gì nữa. Chỉ có một điều duy nhất mà cô ý thức được là nếu cô nói không, cô sẽ làm anh tổn thương không thể nào khỏa lấp hết được.

“Em đã nộp đơn lên học viện cảnh sát.” Cô buột miệng.

Anh nhìn cô dò xét một lúc khiến cô thây bối rối. Rồi anh nhìn xuống đôi tay mình, và cô bắt gặp nụ cười thoáng hiện trên gương mặt anh. “Đó là một bước tiến dài đấy.” Anh nói.

“Vâng.”

Anh bước đến ngồi cạnh cô. Trong giây lát tưởng như anh sẽ nắm tay cô, nhưng anh đã kiềm chế được. “Em có chắc về việc đó không?

“Có.” Cô vội vàng đáp. “Em chắc.”

“Em không muốn làm việc ở phòng thí nghiệm nữa sao?”

“Vâng.”

“Nhưng làm thế nào em trở thành cảnh sát đây?” Anh hỏi.

“Em không biết nữa. Em muốn được làm việc ở Đội Trọng án. Em muốn trở thành thám tử.”

Anh nhìn vào mắt cô, cái nhìn với vẻ hoảng loạn dữ dội. “Trước đây anh đã nói điều này rồi, nhưng anh vẫn muốn em biết rằng dù có chuyện gì đi chăng nữa, chúng ta sẽ tìm cách tháo gỡ.”

Cô nắm lấy tay anh, và nhận ra rằng tay cô đang run rẩy. Anh cũng nhận ra điều đó, và anh siết chặt đôi tay cô trong tay mình. Đôi mắt anh không rời gương mặt cô, và ánh nhìn đó nói rằng Hãy nói đồng ý, đồng ý...

“Em đồng ý.” Cô nói.

“Đồng ý, em sẽ cưới anh chứ?”

Cô gật đầu. “Đó là câu trả lời của em - Em đồng ý.”

Anh cười theo cách cô chưa từng thấy bao giờ, một nụ cười rạng ngời hạnh phúc. Anh đưa một tay lên mặt cô xoa dịu nó, nhưng nụ cười vẫn nở rộng. Cô mỉm cười vói anh.

Đúng lúc đó thì người hàng xóm bước ra khỏi thuyền của ông ta. Nayir buông tay cô và vội vàng đứng dậy. Ông ta chắc là không để ý họ ngồi ở đây, nhưng với Nayir thì có thể ông ta giống như Chúa trời ngồi trong đó đánh giá hành động không chính đáng của họ ở nơi công cộng.

Ỉu xìu, Katya đứng dậy. “Có lẽ,” cô nói, “tốt hơn hết là em quay về làm việc đây.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Giờ thì việc này lại trở thành cứu cánh, ngồi bên máy tính, sắp xếp lại các thư mục. Cô quyết tâm gạt bỏ suy nghĩ về việc mình vừa làm. Cô sẽ không thừa nhận rằng cô bắt đầu cảm thấy nghẹt thở, cát đang phủ đầy lên xung quanh cô trong khi cô không hề cố gắng thoát ra.

Cô nhận ra Thanh tra Zahrani ngay khi ông bước vào phòng thí nghiệm. Phía sau cô, ba phụ nữ ngay lập tức che mặt lại, một đàn gà mái hốt hoảng dưới bước chân khổng lổ của con người. Nhưng Katya quyết định không nhượng bộ sự bốc đồng đó thêm nữa.

Cô không biết gì nhiều về Zahrani, chỉ đủ để nhận thấy ông không thèm để ý nếu một phụ nữ để lộ mặt. Lần đầu tiên cô gặp ông, ông thậm chí còn chìa tay bắt tay cô và cảm ơn cô vì đã xử lý các bằng chứng nhanh chóng đến vậy. Ngữ âm nhẹ nhàng trong giọng nói của ông cho biết ông là người vùng cận đông - có lẽ là người Palestine. Nhưng gương mặt của ông lại đặc trưng Bedouin: da sậm, mũi dài, đôi mắt to hình quả hạnh nhân. Ông là nhân sự bổ sung gần đây cho Đội Trọng án, thuyên chuyển từ Đội Điệp vụ với lý do gì thì không ai biết. Trong mấy tuần vừa rồi, ông đã tham gia điều tra hai vụ án, mà cả hai đều nằm trong số những vụ chưa được giải quyết của Cục. Ông vẫn chưa tìm ra cách để giải quyết cả hai vụ đó. Giờ thì ông lại chịu trách nhiệm cho vụ giết người hàng loạt. Chánh Thanh tra Riyadh rõ ràng là sẵn lòng để mặc Ibrahim làm bất cứ gì ông muốn.

Ông không hay vào phòng thí nghiệm lắm, đó là vì Katya muốn mang các kết quả xét nghiệm của mình xuống tâdng dưới. Đó là một phần trong kế hoạch của cô để được xuất hiện và được tham gia vào công việc nhiều hơn.

“Cô Hijazi.” Ông lên tiếng. Trong tay ông đang cầm mấy tập tài liệu.

“Chào Thanh tra Zahrani.” Cô đáp. “Tôi thấy là ông đã nhận được các tài liệu rồi.”

“Vâng.” Ông nói và để số tài liệu đó trên bàn cô. “Và xin cứ gọi tôi là Ibrahim. Có một điểm trong báo cáo của cô tôi không hiểu lắm...”

Ở cuối phòng, mấy người phụ nữ trở nên im lặng hơn.

“Tôi rất sẵn lòng xem lại chúng.” Cô nói.

“Cô biết đây...” Ông lướt qua các thư mục tài liệu. “Có vẻ như tôi đã để sót một tập ở dưới nhà rồi. Xin lỗi. Cô không phiền chứ?”

“Không, tất nhiên là không rồi.” Katya đã khóa máy tính và đứng dậy. “Tôi sẽ xuống dưới đó cùng ông.”

“Tốt quá.” Nói rồi ông vơ lấy tập hồ sơ.

Ngay khi cánh cửa phòng thí nghiệm đóng lại phía sau lưng họ, Ibrahim dừng lại và quay sang cô. Hành lang không một bóng người, nhưng sẽ không được lâu. “Tôi muốn đề nghị cô giúp một việc.” Ông nói. “Việc này rất quan trọng.”

Sự thay đổi trong cách hành xử của ông khiến cô hoảng hốt. “Xin ông cứ nói.” Cô đáp.

“Giữ kín nhé.” Ồng vừa nói vừa nhìn quanh. “Nếu cô không phiền.”

Ông ra hiệu cho cô đi vào phòng vệ sinh nữ. Cô hơi chần chừ. Ông có thể đang dựng chuyện với cô, nhưng rõ ràng là ông đang rất lo lắng. Cô đi theo ông vào trong, và ông khóa trái cửa lại.

“Một người bạn của tôi đã mất tích.” Ông nói. “Tôi đang rất lo cho cô ấy.”

Katya chờ đợi câu trả lời cho một câu hỏi tất yếu: tại sao ông lại nói chuyện này với cô chứ?

“Tôi không biết nhiều phụ nữ cho lắm.” Ông nói. “Và chắc chắn không ai tôi có thể tin tưởng để tiết lộ thông tin này. Hầu hết mọi người không hề biết tôi vẫn còn liên hệ với người phụ nữ đó.”

Vậy ra là thế. Ông ấy có bạn gái. Cô hơi bất ngờ một chút nhưng cho rằng có lẽ đó cũng là chuyện phố biến hơn cô nghĩ. “Vậy là ông vẫn chưa thông báo việc cô ây mất tích.”

“Chưa. Nó chỉ là một khả năng - có thế cô ấy đã bỏ đi.”

“Tôi hiểu.” Katya nói. “Vậy ông cần gì?”

“Cô ấy làm việc ở một cửa hàng quần áo ở trung tâm Chamelle. Cô có biết chỗ đó không? Nó là khu mua sắm dành cho phụ nữ.”

“Có, có, nó ở al-Hamra.”

“Tôi không thể vào đó được, dĩ nhiên là vậy rỗi, và tôi cần biết gần đây cô ấy có đến đó làm việc hay không.”

“Ồng đã thử gọi cho họ chưa?”

“Tôi đã thử gọi mấy ngày nay rồi. Phải để lại lời nhắn và đôi khi người ta chỉ gọi lại cho cô nếu cô giàu có và đang định tiêu một khoản tiền khổng lồ, chứ thông thường thì không đâu. Mà bọn họ cũng không biết tôi là ai, và tôi cũng muốn như vậy.”

“Tôi hiểu.” Katya cố không nhìn vào hình ảnh của họ trong gương. Khóa trái cửa trong phòng vệ sinh cùng một người đàn ông ở nơi làm việc là quá đủ để cô bị sa thải ngay lập tức. Cô chỉ tự hỏi họ sẽ kết thúc chuyện này như thế nào. “Vậy là ông muốn tôi đến trung Chamelle và hỏi thăm xem cô ấy có đi làm không.”

“Đúng vậy, nhưng phải khéo léo một chút. Tôi chưa bao giờ gặp các đồng nghiệp của cô ấy, nhưng cô ấy nói vói tôi bọn họ là những kẻ hợm hĩnh. Hơn nữa, thị thực của cô ấy đã hết hạn, trong khi người chủ cửa hàng vẫn chưa chính thức ký các giấy tờ để gia hạn, chính vì vậy mà cô phải vô cùng cẩn trọng để không ai nghĩ rằng cô đang kiểm tra việc vi phạm thị thực. Tốt nhất là không nên đến đó với tư cách là một cảnh sát. Chỉ là cô đang tìm một người bạn thôi.”

“Được rồi.” Cô nói. “Tôi vui lòng làm việc này, nhưng sẽ phải vào tối muộn hôm nay. Đến sáu giờ tôi mới rời chỗ làm.”

“Thế là quá ổn.” Ông nói. Trong tâm trạng hoảng loạn ông đã ghé sát người vào cô. Giờ thì ông đã đứng lùi lại và thở hắt ra. “Có lẽ không có chuyện gì đâu.” Ông nói. “Nhưng tôi có linh cảm xấu.”

Katya gật đầu. Cô muốn hỏi ông đã thử gọi cho bạn bè, bệnh viện hay chưa, nhưng tự thấy nói thế thì ra vẻ bảo ban quá. “Sau giờ làm tôi sẽ đến đó ngay.”

“Tôi sẽ lái xe đưa cô đi.” Ông nói. “Cô thấy thế có được không?”

“Không, em họ tôi sẽ đưa tôi đi. Cậu ấy sẽ thấy lạ nếu tôi về muộn, và tôi không muốn chuyện đó đến tai bố tôi. Em họ tôi sẽ vui lòng đưa tôi đến khu đó thôi.”

Họ trao đổi số điện thoại và cô hứa sẽ gọi cho ông ngay khi tìm hiểu được điều gì.

“Tôi sẽ ra trước.” Ông vừa nói vừa tiến về phía trước cửa. “Nếu thấy an toàn để cô ra, tôi sẽ gõ cửa một lần. Nếu không, tôi sẽ đánh lạc hướng họ. Cô cứ giữ cửa khóa nhé.” Ông lẻn ra ngoài trước khi cô kịp lên tiếng. Một giây sau đó, ông gõ cửa.

Cách ông nhanh chóng xử lý việc giải thoát cho cả hai người vừa khiến cô ngưỡng mộ vừa làm cô khó chịu. Đàn ông không bị mất việc vì sự bất cẩn của mình nhiều như phụ nữ. Và cô không tin rằng, với nỗi sợ hãi bị bắt quả tang vì việc này hay việc khác, mà phụ nữ sẽ bớt bất cẩn một nửa so với họ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Nạn nhân đầu tiên tên là Amelia Cortez. Cô ta là một trong hai phụ nữ có tay được tìm thấy ở hiện trường. Các khám nghiệm y tế cho thấy cô ta là nạn nhân đầu tiên của tên sát nhân, đã chết khoảng chừng mười năm. Pháp y đã nhận dạng được cô qua dấu vân tay.

Amelia hai mươi tư tuổi, và tấm ảnh hộ chiếu được gửi đến từ Đại sứ quán Philippiness cho thấy cô rất dễ thương - hai gò má cao, nước da sáng, trông ngây thơ và đôi mắt màu nâu nhạt. Cô đã được tuyển chọn ở Manila và được đảm bảo một công việc là trợ lý riêng cho một nhà báo nữ quyền cao chức trọng. Amelia có tham vọng trở thành nhà văn. Nhưng khi cô đến Jeddah, người bảo trợ của cô, một người đàn ông có tên Sonny Esposa, nói với cô rằng công việc duy nhất hiện có là giữ trẻ. Cô không có lựa chọn nào khác. Để được phép rời khỏi đất nước này, cô cần sự cho phép của Sonny, và ông ta đã giữ hộ chiếu của cô rồi.

Cô cũng đã ký một hợp đồng bảo đảm sẽ trả phí dịch vụ cho ông ta. Và mức phí dành cho người tuyển mộ vượt quá khả năng cô có thể chi trả. Cô sẽ phải trả ông ta mỗi tháng một ít và sẽ trả hết theo cách này. Thay vì làm việc với mức lương sáu trăm riyal một tháng, Amelia đã phải chịu nhận mức lương mỗi tháng là hai trăm riyal để chăm sóc năm đứa trẻ, tất cả đều dưới mười tuổi. Cô phải mất sáu năm để trả hết tiền cho người tuyển mộ. Cô không thể báo cảnh sát; họ sẽ chỉ buộc cô phải tuân theo hợp đồng. Chính vì vậy mà Amelia bỏ trốn. Những người thuê cô phàn nàn – bọn họ đã trả tiền trước hẳn một năm – còn Sonny thì biến mất. Không một ai biết chuyện gì xảy ra với Amelia và không ai đủ quan tâm để đi tìm cô. Gia đình cô ở Philippiness đã gửi rất nhiều thư đến lãnh sự quán, nhưng chẳng ích gì.

Ibrahim đã tự mình đến hỏi chuyện gia đình đã thuê Amelia. Ông đưa Daher và Shaya đi theo. Bọn họ cũng đã hỏi các nhân viên của lãnh sự quán, những người đã ghi chép lại sự việc nhưng không lập hồ sơ báo với cảnh sát. Câu chuyện vẫn vậy: người phụ nữ đó đã trốn. Cho dù người sử dụng lao động có nói với bạn điều gì đi chăng nữa, khi một người giúp việc biến mất, thường là cô ta sẽ tìm kiếm một công việc tốt hơn ở đâu đó hoặc cố gắng để thoát khỏi tình trạng bị ngược đãi. Đó là chuyện bình thường, và đến khi tìm được một thi thể, cảnh sát không có cách nào để chứng minh được đó có phải một trò xấu xa không. Bọn họ đã không gặp may khi lần theo kẻ đã tuyển mộ cô Cortez, Sonny Esposa. Hắn đã biến mất từ rất lâu rồi. Ibrahim xem xét tỉ mỉ những diễn biến của sự việc - những cuộc hỏi chuyện, những lần đi xe, những cuộc trao đổi ngoài lề với đồng sự của ông - trong phân nửa trạng thái hoang mang. Ông thấy hình ảnh Sabria ở khắp mọi nơi ở phòng khách, ở văn phòng lãnh sự, trong phòng họp cảnh sát. Ông hình dung rõ hình ảnh Amelia đang đi bộ dọc con phố có lẽ đang chạy việc lặt vặt cho chủ thuê mình - Cô có thể ra tiệm bánh mua ít bánh mỳ, và ra cửa hàng ở góc phố mua ít sữa được không? - và rồi Sabria chen ngang vào khung cảnh đó, mặc áo trùm và đeo mạng che mặt, và chính Sabria vào nhầm chiếc taxi, bị chĩa súng và tê liệt vì khiếp sợ. Chính Sabria đã bị đưa đến rìa sa mặc, bị đánh thuốc mê, sau đó bị đánh đập và bị bắn vào đầu rồi bị chặt tay.

Ông không biết làm thế nào tên sát nhân bắt được các nạn nhân của hắn, và ông vẫn còn chút khiếp sợ mơ hồ trước những người phụ nữ bị sát hại. Nhưng trong tâm trí Ibrahim, sự thực đã rõ như ban ngày. Thuốc mê. Dây trói bằng nhựa bền chắc. Một khẩu súng bán tự động có bộ phận giảm thanh. Một thanh kiếm nhỏ để chặt tay. Ông ý thức được rằng việc dựng lên những hình dung trong tâm tưởng có xen lẫn các giả định và nỗi sợ hãi cá nhân là không đúng nguyên tắc, nên ông để mặc những hình ảnh lướt qua như một bộ phim câm và tự nhắc mình mình rằng điều đó là không hợp lý khi Sabria, một phụ nữ với thiên hướng bất tín đối với đàn ông, lại bị ai đó bắt, kể cả khi hắn ta có súng. Tương tự với kẻ sát nhân, sẽ không hợp lý nếu hắn ta nhận ra Ibrahim ngay sau khi ông phát hiện ra các tử thi - và tìm ra thi thể và người tình của ông. Đó chính là niềm vui mơ hồ nhất của cái tôi nếu giả định nó chính là trung tâm của vũ trụ.

Chamelle Plaza là một trung tâm mua sắm dành cho phụ nữ bao gồm các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của các nhà thiết kế và các cửa hiệu chăm sóc sắc đẹp. Nó khiến Katya có cảm giác mình là một người quét đường Indonesia nghèo khổ đang thu lượm những chiếc chai rỗng bên cạnh một cung điện hoàng gia. Mười lăm phút nữa là tới giờ cầu nguyện cuối cùng trong ngày, cả trung tâm nhộn nhịp bởi những nhân viên phục vụ người Sri Lanka đang chăm sóc đám trẻ con trong khi mẹ chúng đi thăm thú các cửa hiệu chăm sóc sắc đẹp và các tiệm làm móng, hối hả cho xong việc trước khi lời gọi cầu nguyện báo hiệu các cửa hiệu sẽ đóng cửa. Không khí mát mẻ và sạch sẽ. Katya đứng ở khoảng sân trung tâm chờ cho những giọt mồ hôi lăn dài trên mặt khô ráo và chiếc áo trùm không bám dính vào quần áo của cô nữa. Suy nghĩ đầu tiên của cô là nếu bạn gái của Ibrahim làm việc ở đây thật, thì có khả năng cô ta đã chạy trốn với một doanh nhân giàu có nào đó hoặc thậm chí là một hoàng tử cũng nên. Không hẳn vì cô ta đã gặp anh chàng ấy ở trung tâm mua sắm này; chỉ đơn giản cô ta có lẽ là kiểu người khi đến sẽ sẵn sàng vứt bỏ một cái ví cũ sờn vì những thứ hào nhoáng hơn. Dạo qua những cửa tiệm đắt đỏ với những cô nhân viên trông kiêu kỳ trong bộ đồ Armani chẳng ảnh hưởng gì đến hình ảnh cả.

Trước khi rời phòng thí nghiệm, cô đã thử tìm thông tin về những phụ nữ mất tích. Điều đó có lẽ là thừa - Ibrahim hẳn đã kiểm tra rồi - nhưng cô chỉ muốn chắc chắn về điều đó. Cô phát hiện ra thị thực của cô Sabria Gampon quả thực đã hết hạn. Cô ta vẫn chưa bị trục xuất ít nhất là về mặt chính thức; đôi khi phải mất vài tuần cho các công việc giấy tờ. Cô cũng phát hiện Sabria từng làm việc ở Đội Điệp vụ.

Katya tìm được cửa hàng cần tìm: La Mode Internationale. Nó nằm giữa một tiệm trang sức và một quán café nhộn nhịp. Cô đẩy tấm cửa kính bước vào và đi trên nền đá cẩm thạch trắng muốt rộng thênh thang với những sải chân kiêu kỳ mà cô hy vọng phù hợp với những thứ thời trang cao cấp xung quanh mình. Những ngóc ngách nhỏ trên tường đều được thắp sáng bằng ánh đèn đỏ, mỗi góc lại treo một chiếc túi xách tay trông giống một chiếc địu trẻ em có phần nôi cứng hơn là túi xách. Một phụ nữ bước tới và chào cô với một nụ cười gắn chặt trên khuôn mặt vênh váo mà Katya đã được hân hạnh gặp ở ngân hàng, nhưng ở đây cô thấy nó thật khó chịu.

“Xin chào quý khách.” Người phụ nữ lên tiếng. Bà ta là một phụ nữ Philippiness trung niên với giọng nói cao vút của một cô gái, nghe không tự nhiên cho lắm, màu son môi thì đỏ chót đến mức người ta khó lòng mà rời mắt được. Tấm biển ghi tên của bà ta là CHONA. “Chúng tôi có thể phục vụ gì cho quý khách hôm nay đây?”

“Tôi đang tìm một người bạn.” Katya nói. “Cô ấy đã kể với tôi về cửa hàng này từ lâu. Tôi sống cùng khu phố và nghĩ nên ghé qua sắm thứ gì đó.”

“Ồ, thật tuyệt.” Chona nói. “Vậy bạn của chị tên gì vậy?”

“Cô ấy tên là Sabria Gampon.”

Nét mặt Chona trở nên lạnh lùng, và bà ta không hề tỏ ra giấu giếm sự khinh ghét. “Sabria không còn làm việc ở đây nữa, tôi e là vậy.”

“Ổ?” Katya tỏ vẻ thất vọng. “Tôi tưởng mới tuần trước cô ấy còn làm việc ở đây.”

Chona lắc đầu. Bà ta len lén nhìn hai vị khách nữ khác phía sau máy tính tiền rồi thì thầm: “Chủ cửa hàng đã yêu cầu Sabria thôi việc từ ba tháng trước. Chúng tôi không hề gặp cô ta từ đó.”

“Ôi, trời.” Katya thốt lên. “Tôi tiếc khi nghe chuyện này.”

“Vâng.” Chona nói. “Nhưng chị đã đên đây rồi, vậy có gì khác chúng tôi có thể giúp chị không?”

“Không, không.” Katya nói. “Liệu Sabria...? Tôi hy vọng là không phải...?”

“Tôi lấy làm tiếc, tôi nhận ra cô ta là bạn chị...”

“Chúng tôi không biết nhau nhiều đến mức ấy đâu.” Katya nói. “Mà thực ra tôi không biết rõ cô ấy một chút nào.”

Chona mím môi. “Chúng tôi phát hiện ra cô ta đang lấy trộm túi xách ở kho sau.”

“Ổ không!”

“Đúng vậy đấy.” Bà ta lắc đầu. “Tôi đã biết ngay từ đầu là sẽ có vấn đề mà. Cô ta luôn đi làm muộn, và thỉnh thoảng còn nghỉ nữa chứ. Cô ta dành rất nhiều thời gian ở trong phòng vệ sinh, kêu ca rằng bị ốm. Cô ta làm việc ở đây được sáu tuần trước khi chúng tôi phát hiện ra sự việc. Người ta thực sự có thể lừa gạt chị.” Một trong hai người khách kia đang tiến về phía họ và Chona vội vàng nói: “Liệu tôi có thể giới thiệu với chị một mẫu túi xách của chúng tôi không?”

“Thôi.” Katya nói. “Nhưng cảm ơn chị nhé.”

Cô rời cửa hàng và liếc nhìn vài chiếc túi xách trông còn lố bịch hơn nữa đặt gần cửa trước. Một trong số đó đáng giá nửa tháng lương của cô.

Cô không thể gọi cho Ibrahim ở trong ô-tô hay ở nhà mà không bị em họ hay bố cô nghe được, vì thế cô ngồi lại trên chiếc ghế băng ở khoảng sân nhộn nhịp, vừa đúng lúc lời gọi cầu nguyện cất lên. Một số phụ nữ bước chậm rãi về phía khu vực cầu nguyện, nhưng hầu hết khách đều ngồi trên ghế băng và uống cà phê, quên luôn việc mặc tưởng bắt buộc của giờ cầu nguyện buổi tốỉ. Ibrahim bắt máy ngay từ tiếng chuông đầu tiên. “Katya.” Ông nín thở nói. “Cảm ơn cô đã gọi.” Cô nghe tiếng xe cộ trên đường qua điện thoại. “Cô phát hiện được gì vậy?” Ông hỏi

.“Tôi không chắc là ông muốn nghe điều này, nhưng theo mấy người phụ nữ ở cửa hàng, Sabria đã không làm việc ở đó ba tháng nay rồi.”

Đáp lại chỉ có sự im lặng và tiếng còi xe ô-tô phía xa.

“Cô có nói với họ rằng cô không đến đó vì vấn đề thị thực không?” Ông hỏi.

“Không hẳn vậy. Tôi nói tôi là một người bạn.”

“Tôi đã biết là cách này sẽ không hiệu quả.” Ông nói gần như với chính mình. “Bạn bè sẽ che chở cho cô ấy.”

“Có vẻ bọn họ không phải bạn bè thân thiết gì.” Katya nói. “Bọn họ nói với tôi là không ưa gì cô ấy ngay từ đầu. Cô ấy luôn đi làm muộn và không làm việc. Làm việc được sáu tuần thì cô ây bị bắt quả tang lấy trộm túi xách trong kho. Họ dường như không vui vẻ chút nào khi nhắc đến cô ây. Trực giác của tôi mách bảo rằng người phụ nữ tôi đã gặp ở đó không hề dựng chuyện.”

“Không thể.” Ông nói. “Chính tôi vẫn thường đưa cô ấy đi làm mà. Cô ấy đã vào khu mua sắm đó.”

“Có thể cô ấy không kể cho ông nghe về những gì đã xảy ra ở cửa hàng và cô ấy đến chỗ nào đó trong khu mua sắm thì sao? Một cửa hàng khác chẳng hạn?”

“Không thể.” Giọng ông càng kiên quyết hơn. “Cô ấy không nói dối đâu. Cô ấy đã nói là cửa hàng đó mà.”

Katya cảm thấy tiếc cho ông và tự hỏi làm thế nào mà Sabria có thể hoàn toàn đánh lừa ông đến vậy. Không quá khó khi nói dối về nghề nghiệp của cô ta, nhưng để có được lòng tin của ông, lừa dối ông một cách chủ ý - điều này dường như còn khó hơn rất nhiều. Cô nhớ người bảo trợ gần đây nhất của Sabria là sở cảnh sát Jeddah. Cô ta đã làm việc với Ibrahim ở Đội Điệp vụ. Có lẽ cô ta đủ biết làm thế nào để qua mặt người khác, nhưng nếu cô ta thuyết phục được Ibrahim tin vào những lời dối trá của mình, hẳn là ông đã phát điên vì cô ta, sẵn sàng bỏ qua những gì trực giác của ông cảnh báo.

“Tôi biết cô nghĩ tôi đã bị lừa.” Ông nói. “Nhưng tôi hiểu cô ấy. Tôi hiểu cô ấy hơn bất cứ ai. Và cô đúng. Có khả năng cô ấy làm việc gì đó khác trong khu mua sắm đó. Tôi không thể nghĩ được đó là việc gì. Nó có thể là bất cứ việc gì. Nhưng lẽ ra cô ấy có thể nói vói tôi về việc lấy trộm. Tôi hiểu điều này không có lý, nhưng cô phải tin tôi. Cô ấy tin tôi. Và tôi biết một sự thực là hằng ngày cô ấy vẫn đến khu mua sắm đó.”

“Thôi được rồi.” Katya nói. “Ông có bức ảnh nào của cô ấy không? Tôi không thể lấy được tấm ảnh nào trong hồ sơ thị thực”

“Cô đã kiểm tra thị thực rồi à?”

“Vâng.”

“Được rồi. Cảm ơn cô. Và có, tôi sẽ đưa cho cô một bức ảnh.”

Katya ra ngoài tìm Ayman trong bãi đỗ xe. Cô thấy run rẩy, và nó khiến cô bất ngờ. Chẳng có lý do gì phải choáng váng khi một người phụ nữ nói dối người tình. Chuyện có lẽ lúc nào chẳng vậy. Nhưng có điều gì đó trong giọng nói của Ibrahim rất kiên định và chắc chắn. Ông không đổ vỡ trước cú sốc Sabria biến mất; ông đang lo lắng. Ông biết có chuyện không hay đã xảy ra.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Jamila đứng trước cửa phòng khách. Người bà ta ngấn từng lớp mỡ chắc nịch, phần bụng, phần hông to lớn, tất cả đều lộ ra khá rõ dưới trang phục bó sát. Ở mặt trước chiếc váy mặc ở nhà với những đường thêu tinh tế, chưng hẳn một tấm vải hình vuông rất lớn với đám lông thú nhân tạo mọc ra ở những điểm kỳ quặc và tự dưng ở một góc lại dài một cách bất thường. Ibrahim gọi chiếc váy đó của bà ta là váy khỉ đột.

Trời vẫn còn quá sớm để chưng diện kiểu như thế. Nhưng rõ ràng bà ta đã ra ngoài. Bà ta vẫn đang mặc chiếc áo trùm đen bên ngoài chiếc váy. Chiếc áo phanh ra. Chiếc khăn trùm đầu cũng ở trạng thái luộm thuộm như vậy. Chiếc khăn lửng lơ ở nửa dưới sau gáy bà ta, để lộ toàn bộ mái tóc mỏng thưa thớt với màu tím ánh đỏ. Một sự kết hợp tham lam giữa cây lá móng và thuốc nhuộm màu đỏ tía từ cây hoa râm bụt. Ông tự hỏi không hiểu bà ta đã đi đâu vào một buổi sáng thứ Hai từ sớm tinh mơ đến vậy.

“Cho bố con biết đi. Cho bố con biết vị thầy tu đó đã làm gì đi.” Bà ta kéo đứa con gái lớn nhất, Farrah vào phòng và đẩy con bé về phía ông Jamila. Ông muốn đưa Farrah đến Cairo để được điều trị tốt hơn, nhưng Jamila khăng khăng rằng họ đã thử hết các phương pháp điều trị y khoa rồi và đã đến lúc phải tìm cách thức tâm linh. Một trăm nghìn riyal chỉ cho bác sĩ đã đủ để chứng thực việc Farrah không chỉ đơn giản là bị ốm, con bé đã bị ma ám. Chừng nào con ma đó còn chưa được đuổi đi, thì Farrah vẫn còn khổ sở.

“Con có thể cử động được rồi.” Farrah vừa nói vừa vung tay, xoay người.

“Vậy chuyện là thế nào con?” Farrah quay lưng lại và vén đuôi áo lên. Ông giữ phần đuôi áo trong khi cô tháo dải băng quấn, để lộ ra một thứ kỳ dị khiến ông chỉ muốn ói. Làn da mềm mại trên lưng cô đã bị tàn phá bởi một tấm thép nung. Một dường lằn sưng tấy sâu đến cả phân, bên ngoài đỏ ửng lên, ở chính giữa thì thâm tím, đang bị nhiễm trùng chỉ ngay trên phần xương hông của cô.

“Bọn họ đã làm cái quái quỷ gì thế này?” Ông hỏi.

“Đây là cách họ đuổi hồn ma đó đi.” Farrah vừa trả lời vừa quấn lại dải băng. “Bằng cách tạo thêm sự đau đớn bên ngoài, nó sẽ giúp xua tan cái đau ở bên trong. Bố có hiểu những gì con nói không ạ?”

“Con có hiểu những gì con đang nói không hả?”

“Nó có hiệu quả ạ.” Cô nhẹ nhàng đáp. Rồi cô quay qua với mẹ mình với vầng hào quang chở che của bà ta.

Ông cố chống lại cơn thịnh nộ đang phun trào, đang nhỏ từng giọi dung nham màu đen vào mắt ông khiến tất cả những gì ông có thể thấy chỉ là đống hỗn độn trong phòng.

“Đó mới chính là thuốc thực sự.” Jamila vừa nói vừa chỉ vào lưng của Farrah khi bà ta đưa con gái ra khỏi phòng.

Ibrahim không muốn phản ứng. Ông bước vào phòng vệ sinh để tắm rửa. Nước lạnh. Sàn gạch ấm. Đôi tay nóng ran vì tức giận. Tấm thảm cầu nguyện của ông gần như đã mòn trụi vì nhiều năm quỳ gối. Ông quay mặt về phía cửa ban công. Những lời nguyện cầu như tuôn trào vì vô thức, tâm trí ông trống rỗng, cố kìm nén những lời nguyện cầu thật lòng đang dấy lên trong mình, đau đớn tột cùng khi nghĩ đến điều đó. Lạy Chúa, làm ơn trả lại Sabria cho con, hãy trả lại cô ấy cho con.

Trước khi ông cầu nguyện xong, Jamila đã chờ sẵn ngoài cửa phòng khách. Bà ta đang rất tức giận vì sự im lặng của ông. Bà ta bắt đầu quét cầu thang. Và những lời nhiếc móc bắt đầu. Chuyện gì đó về việc cặp song sinh đã phải tự làm bài tập về nhà và đáng ra chúng không nên đi cùng bà đến gặp thầy đuổi ma bởi rất có thể chính chúng sẽ bị ma nhập hồn, nhưng bố chúng chẳng bao giờ có mặt ở nhà, nên còn cách lựa chọn nào nữa đâu? Nhưng chuyện đó cũng chẳng hề làm bà ta ngạc nhiên. Ông rõ ràng là một kiểu người luôn trốn tránh. Ông thậm chí còn không nhìn vào sự thực rằng con trai mình đã phải ly dị - một thứ đáng lý chỉ mất có vài giây. Phải nói câu “Tôi ly dị cô” ba lần trước mặt hai nhân chứng thì mất bao lâu chứ? Nếu có mỗi việc đó mà ông còn không làm được, thì không hiểu ông còn làm được việc gì khác?

Những lời chì chiết đó chỉ ngừng khi ông phải ngăn nó lại.

Ông đi qua ngay trước mặt bà ta rồi bước xuống nhà, ra khỏi cửa, rồi hòa vào đường phố ngột ngạt.

Khoảng hai mươi năm về trước, và vì lý do gì cho đến giờ vẫn hoàn toàn mơ hồ, anh trai Omar của ông đã vứt bỏ toàn bộ khoản tiết kiệm của mình ra bằng tiền mặt. Ibrahim vẫn còn nhớ ngân hàng đó. Nó nằm trong một khu thương mại sầm uất có bãi đỗ xe rộng lớn, thường chật cứng vì một nhà hàng gần đấy nổi tiếng với món cà ri thượng hạng. Anh trai ông đã bỏ quên ba mươi nghìn riyal trong chiếc túi nhựa đặt ở ghế trước ô-tô rồi đi vào nhà hàng. Nửa tiếng sau ông quay lại thì thấy mình đã quên không kéo kính cửa sổ xe và còn để xe không khóa nữa. Số tiền vẫn còn nguyên trên băng ghế trong khi hóa đơn lủng lẳng bên ngoài một cách mời gọi. Không một riyal nào bị mất. Thỉnh thoàng Omar lại nhắc lại chuyện đó như một minh chứng cho hình phạt chặt một bàn tay của Ả Rập Xê-út là có hiệu quả ngăn chặn nạn trộm cắp. Nhưng Ibrahim không đồng tình. Ông cho rằng sự trung thực là do sự bốc đồng muốn làm hài lòng người khác. Không may thay, sự dối trá cũng vậy. Và ngày hôm đó anh trai ông đã may mắn.

Tòa nhà của Omar nằm ngay cạnh tòa nhà của Ibrahim, trông y hệt những tòa nhà khác cùng phía đó của con đường: mặt trước bằng bê tông phẳng lỳ, bạn công thụt vào trong, những bức tường cao ở trên bao quanh một cái vòm mở. Có câu chuyện vui - tuy ngớ ngẩn, nhưng ngạc nhiên thay lại rất phổ biến - rằng hai anh em đã mua hai ngôi nhà giống nhau vì cả hai làm ở Đội Điệp vụ, nên nếu ai theo dõi một trong hai người này, thì gần như không thể phân biệt một trong hai ngôi nhà ấy.

Omar bước vào phòng khách tóc tai rồi bời.

“Vẫn nhớ lần anh bỏ quên túi tiền trong ô-tô chứ?” Ibrahim hỏi.

“Tất nhiên là anh nhớ, sao thế?”

“Lúc đó anh may mắn thôi, nhưng anh trai…”

“Đừng lại thế với anh. Anh không muốn nghe đâu. Anh chán rồi.”

“Vận may của anh sắp tận rồi.” Ibrahim nói.

“Ồ, thế à?” Omar nhướn mày.

Ibrahim nhận thấy vẻ chán ngán trên gương mặt anh trai mình. “Có chuyện gì thế?”

“Tại sao vận may của anh lại sắp tận vậy?”

“Em sẽ chuyển đến căn phòng trống của anh.”

“Lại là Jamila à?”

Ibrahim gật đầu.

Omar gầm gừ từ sâu trong miệng, nửa như cười thầm, nửa gầm ghè phẫn nộ, rồi ngồi xuống cạnh em trai. “Thành thực mà nói nhé: vận may của em với phụ nữ đã tận từ hai mươi lăm năm trước rồi.”

“Anh đâu có phàn nàn gì.”

“Anh nên phàn nàn thì hơn.” Omar lắc đầu. Hai người trở lên im lặng. Họ sắp sửa quay trở lại chủ đề quen thuộc, chủ đề trước đây từng đưa họ đến bế tắc mà những dư âm dường như đã nguội lạnh - cuộc tranh luận về những người vợ hai. Cụ thể hơn là: liệu họ có nên phá vỡ truyền thống lâu dài của gia đình là không lấy nhiều hơn một vợ hay không? Ibrahim từng thiên về việc phải bỏ truyền thống đó và đã đi tìm kiếm (Internet đã giúp cho việc này càng thêm dễ dàng). Omar thì hoàn toàn phản đối ý kiến đó, không chỉ bởi truyền thống gia đình mà còn bởi nó không hợp khuôn phép chút nào, và đó cũng là điều khủng khiếp đối với vợ của ông dù ông có ghét bà ta tới mức nào đi chăng nữa. Cuộc tranh luận của họ đã đi tới một kết cục tồi tệ, khi Ibrahim đổ lỗi cho anh trai mình đã hoàn toàn đứng về phía bà vợ đành hanh của ông - một sự buộc tội mà Omar đã đáp trả ngay. Cả hai không hề nói với nhau lời nào suốt một tuần sau đó - một khoảng thời gian không thể quên được của cả hai anh em.

Chuyện đó đưa tới một vấn đề sâu xa hơn mà họ đã ý thức được từ lâu và chưa bao giờ bàn luận; cả hai đều có cuộc hôn nhân bất hạnh và mặc dù có thể giấu giếm bên ngoài xã hội, nhưng trong gia đình điều đó lại gần như không thể.

“Em có việc muốn hỏi.” Ibrahim lên tiếng.

“Anh hy vọng không phải về Jamila.”

“Về công việc.”

Điều đó khiến Omar ngạc nhiên. Mặc dù họ đã làm việc cùng bộ phận, nhưng họ thận trọng không để công việc ảnh hưởng đến gia đình của mình. Omar chuyển đến Đội Điệp vụ khi Ibrahim vẫn còn nửa chặng đường phấn đấu để lên cấp chánh, và trong thời gian ba năm, Omar đã vượt lên trên em mình. Hiện giờ ông đã là phó chánh.

“Không phải em muốn rời Đội Trọng án đấy chứ?.” Omar hỏi.

“Không, không, em thích ở đó. Chỉ là em đnag phải lo một vụ mà em nghĩ có lẽ liên quan đến một vụ trước đây Warra đã phụ trách ở Đội Điệp vụ. Em đang băn khoăn liệu anh có thể cho em xem các hồ sơ những vụ án trước đây của Warra được không?”

“Sao em không đến bộ phận lưu trữ hồ sơ?”

“Em không thể nâng mức độ nghiêm trọng của vụ án này. Việc đó có thể gây trở ngại cho việc điều tra của bọn em.”

Omar lầm bẩm và ngồi thẳng lại. Ibrahim biết ông sắp sửa nói: Em nói dối, chuyện gì thực sự đang xảy ra vậy? Nhưng hẳn ông đã nhận ra sự hoang mang của Ibrahim, vì ông không nói gì cả.

“Em nghĩ một trong số những hồ sơ đó đã được xếp vào loại hồ sơ mật” Ibrahim nói.

Giờ thì Omar lại ngả mình về trước, mắt nhìn xuống tay. “Chuyện này là thế nào?”

“Em ước gì mình có thể nói nhưng em không thể” Ibrahim ngồi thẳng người. “Em thực sự không thể. Anh phải tin em.”

Omar nhìn Ibrahim dò xét.

“Em chưa bao giờ nhờ anh một việc như thế này.”

“Chính vậy nên mới khó hiểu…”

“Và nếu việc đó không quan trọng thì em đã không nhờ anh rồi”

Omar thở hắt ra. “Thôi được. Để xem anh làm được gì.”

Chiều hôm đó khi Ibrahim bước ra khỏi bãi đỗ xe của cơ quan thì điện thoại đổ chuông. Đó là Katya.

“Tôi đã mang bức ảnh ông gửi tôi đến khu mua sắm đó trong giờ ăn trưa hôm nay.” Cô nói.

“Tôi rất cảm kích”

“Thực ra,” cô nói, “tôi mong là mình có được tin tốt lành cho ông. Tôi đã đưa bức ảnh ra cho cả tá những người bán hàng và không một ai nhận ra cô ấy, nên tôi đã đánh liều quay lại cửa hàng cô ấy đã làm việc. Người ở đó cũng không nhận ra cô ấy.”

“Sao cơ?”

“Người phụ nữ họ biết có tên là Sabria Gampon không hề giống với người trong ảnh. Không một chút nào. Cả ba người phụ nữ ở đây đều nói đó không phải cô ấy. Thậm chí trông còn không giống cô ấy.”

“Tôi không thể tin được điều này.”

“Tôi rất lấy làm tiếc. Họ còn cho tôi xem hồ sơ xin việc của cô ấy nữa.”

“Cô có nói với họ cô là cảnh sát không?” Ibrahim hỏi.

“Không, tôi nói với họ tôi là thám tử tư đang điều tra vấn đề trộm cắp mà cô ta từng thực hiện ở một doanh nghiệp khác. Tôi xin lỗi, có lẽ tôi không nên nói như vậy, nhưng cách đó khiến họ rất nhiệt tình. Dù sao thì họ cũng cho tôi một bản sao đơn xin việc của cô ấy và tôi nghĩ chắc ông muốn xem qua nó. Có lẽ ông sẽ nhận ra chữ viết tay của cô ấy - hoặc là không.”

“Đúng rồi, tốt lắm. Cô mang nó lên phòng làm việc của tôi được không?”

“Tôi để nó trong hộp thư của ông rồi.” Katya nói.

“Cảm ơn cô” Ông đáp. “Tôi đánh giá cao sự thận trọng của cô trong việc này.”

“Tất nhiên là tôi phải thận trọng.” Cô nói. “Và còn một điều nữa. Tôi đã đối chiếu đơn xin việc với thông tin thị thực của cô ấy, và dù ai đã điền lá đơn đó thì cũng biết chính xác số thẻ căn cước trong hồ sơ xin thị thực.”

“Tôi hiểu.” Ông nói với giọng cố gắng để tập trung. “Vậy là người tự nhận là Sabria đã có quyền truy cập các thông tin nhập cư của cô ấy.”

“Đúng vậy.”

Ông ngồi trong ô-tô khoảng hai mươi phút chỉ nhìn chăm chăm vào vô lăng. Sabria không phải là Sabria sao? Có, cô ấy có chứ. Cô ấy luôn luôn là Sabria. Bọn họ đã điều tra kỹ lý lịch ở Đội Điệp vụ trước khi thuê cô ấy làm việc cơ mà. Tất nhiên cô ấy tự nhận mình là một người khác khi thực hiện nhiệm vụ, nhưng theo những gì ông được biết thì cô chưa bao giờ thuê ai đóng giả mình cả - và chắc chắn vậy. Bởi vì Sabria của ông không đời nào lại nhận công việc ở cửa hàng rồi lại lấy trộm túi xách và khiến mình bị đuổi việc trong vòng có sáu tuần, mà sau đó lại không nói gì với ông hết. Hơn nữa bằng chứng mới thu được của Katya đã củng cố giả định này; không ai ở cửa hàng đó nhận ra bức ảnh của cô. Rõ ràng Sabria đã biết người phụ nữ đó sẽ nhận công việc mà cô phải nhận, làm công việc mà cô phải làm.

Đột nhiên có vẻ Sabria không hề bỏ trốn, có thể cô tham gia hoạt động điệp viên nào đó của chính mình - bí mật đến mức cô phải lẩn tránh ngay cả Ibrahim - và nhiệm vụ đó, vì lý do nào đấy, đã xảy ra vấn đề bất trắc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Bọn họ xem xét kỹ lưỡng cơ sở dữ liệu quốc gia về những người mất tích và tìm được trường hợp phù hợp với một trong những phác họa của mười tám nạn nhân còn lại. Một trường hợp không tệ. Maria Reyes. Cô này đã mất tích ở Jeddah. Ba năm trước, cô ta nhập cảnh theo thị thực hành hương tới thánh địa Mecca, và hình như đã ở quá hai tuần so với thời gian cho phép. Họ không có bất cứ lưu trữ nào về việc cô ta xuất cảnh. Cô ta đã theo một chuyến du lịch hành hương toàn phụ nữ đến từ Philippiness, có người dẫn đường. Đối với hầu hết những phụ nữ Hồi giáo ngoại quốc và đi xa một mình, những chuyến du lịch hành hương như vậy là cách duy nhất để họ đến Mecca. Theo người dẫn đường cho biết, Reyes đã biến mất hai ngày trước khi chuyến đi kết thúc. Công ty tổ chức chuyến đi ngờ rằng cô ta chạy trốn để tìm việc làm bất hợp pháp. Không ai nghe nhắc đến cô ta thêm lần nào nữa.

Ba năm là một khoảng thời gian dài để có thể lần lại dấu vết. Ibrahim ngờ rằng công ty tổ chức chuyến đi đến thời điểm này đã thay đổi nhân viên. Tuy nhiên, người đàn ông phụ trách các chuyến hành hương tới Mecca, Bengino Dimzon, vẫn nhớ Reyes. Việc một người phụ nữ biến mất khỏi chuyến đi của ông ta là một việc bất thường. Công ty đó, tên là Dar el Hijaz, đã rất cẩn thận để mắt đến những người phụ nữ độc thân: buổi đêm, các nhân viên đều đưa từng người trong số bọn họ đến tận phòng khách sạn và một bảo vệ gác bên ngoài lối vào khách sạn để đảm bảo không ai rời khỏi đó.

“Vậy làm thế nào mà cô ta trốn thoát được?” Ibrahim hỏi.

Bọn họ đang ngồi trong văn phòng của Dimzon, một căn phòng nhỏ, sáng sủa, có mùi như chất khử mùi trong ô-tô. Đó là sáng ngày thứ ba, ngay sau lễ cầu nguyện thứ hai trong ngày. Những tia nắng chói xiên qua rèm cửa hắt lên trên mặt Dimzon. “Tôi vẫn không chắc chuyện xảy ra thế nào.” Ông ta nói. “Có một điểm dừng trong chuyến đi mà chúng tôi cho phép những phụ nữ đó mua sắm những thứ cần thiết - tất nhiên là để phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Chúng tôi tháp tùng họ vào trung tâm mua sắm và ở bên cạnh họ suốt thời gian đó. Chúng tôi chưa bao giờ để xảy ra vấn đề gì trong suốt bảy năm thực hiện chuyến đi này - ngoại trừ trường hợp của cô Reyes. Phần lớn những người phụ nữ tham gia chuyến đi đều không phải người nghèo. Họ không đến đây để tìm việc làm. Họ là những tín đồ Hồi giáo ngoan đạo và họ đến đây để hành hương tới thánh địa Mecca rồi trở về nhà. Chúng tôi tính phí rất cao và còn yêu cầu đặt cọc một khoản tiền lớn mà họ sẽ được trả lại khi trở về Philippines. Chính vì vậy mà ông thấy đấy, chúng tôi thường không gặp phải vấn đề gì.”

“Tôi chắc ông đã có danh tiếng rất tuyệt vời.” Ibrahim nói. “Tôi chỉ muốn biết chắc chuyện gì đã xảy ra khi cô Reyes biến mất thôi”

“À, thực ra.” Dimzon ngồi thẳng lên. Ông ta là một người có thân hình gọn gàng, nét mặt tươi vui và đôi mắt sáng lúc này đnag ánh lên vẻ ưu tư xa xăm. “Những người phụ nữ ở trung tâm mua sắm đều che khăn kín ngoại trừ khuôn mặt. Ông thấy đấy, chúng tôi muốn nhận diện họ ở nơi công cộng nên đề nghị họ để lộ khuôn mặt. Nếu bất cứ ai trong số họ có khó khăn gì với việc đó, chúng tôi đưa cho họ một dải băng nhỏ để gắn vào vai bên này.” Ông ta chỉ tay vào vai trái. “Nhờ đó chúng tôi nhận ra ai là người trong nhóm của mình và ai không. Maria cũng đeo một rải băng đó. Chính tôi là người để ý đến cô ấy, và hơn thế, cô ấy còn đứng rất gần tôi nữa. Tôi quay sang nói chuyện với một nhân viên thu ngân và khi quay lại, cô ấy đã biến mất.”

“Và ông đã ngay lập tức nhận ra điều đó?”

“Vâng. Tôi nghĩ là cô ấy lẫn vào đám phụ nữ đó. Tất cả đều đang xếp hàng chờ tính tiền. Nhưng khi tôi đi xuống cuối hàng thì không thấy cô ấy ở đó. Cô ấy chắc chắn đã tháo bỏ dải băng và lẻn đi mất. Hẳn là cô ấy đã dự tính trước việc này.”

Ibrahim có cảm giác người đàn ông này nói thật.

Dimzon tiếp tục. “Ngay lập tức tôi hỏi mọi người; chị có thấy Maria không? Không ai để ý đến việc cô ấy đi khỏi đó. Một người phụ nữ nói hình như bà ta đã thấy cô ấy đi xuống phía cuối hàng, nhưng có thể đó là một ai khác, vì Maria vẫn che mặt. Tuy nhiên bọn họ vẫn mải chuyện trò, ngắm nghía mọi thứ khi đứng xếp hàng chờ thanh toán. Liệu có nên mua cái này không? Trông cái kia có dễ thương không? Ông cũng biết chuyện thế nào rồi đấy. Chẳng ai thực sự để ý cả.”

“Không có ai khác quanh đó sao? Ý tôi là có những người lạ nào gần đó không? Có ai mà ông nhớ là không thuộc nhóm đó chẳng hạn?”

“Không có ai đặc biệt cả. Có rất nhiều người trong khu mua sắm đó. Rất đông.”

Chuyện đã xảy ra dễ dàng như vậy. Tất cả những gì cô ta phải làm là che mặt, che tay lại; chiếc áo choàng và khăn chùm đầu sẽ che kín những phần còn lại. Một phụ nữ trong chiếc áo trùm đen có thể biền mất như một cái bóng hòa vào bóng tối của ngõ hẻm. Cho dù Dimzon có phát hiện ra cô ta đi chăng nữa, thì vẫn rất khó đuổi theo. Ông ta rất dễ nhầm cô ta với ai đó, và nếu mọi người hiểu lầm ông ta quấy rối phụ nữ lạ mặt ở nơi công cộng thì sẽ có hỗn loạn.

Kể từ phút giây Maria Reyes rời khỏi khu mua sắm đó, cô ta đã trở nên ẩn danh và tự do. Phải chăng đó là một sự giải phóng? Liệu có phải cô ta đã khao khát giành lấy nó? Cô ta có thể trở thành bất cứ lao động ngoại quốc người Philippines nào, cho dù là lao động bất hợp pháp đi chăng nữa; những lao động ngoại quốc người Philippines rất được ưa chuộng. Hay sự trốn thoát bất ngờ đó chỉ đầy sợ hãi và tuyệt vọng? Theo thẩm tra y tế, Reyes đã chết gần sáu tháng sau khi mất tích. Có vẻ cô ta không bị bắt cóc vào chính cái ngày mất tích, nhưng cũng có khả năng như vậy lắm chứ. Tên sát nhân có thể bắt và giam giữ cô ta hàng tháng trời trước khi giết. Khu mua sắm đó không hề gần khu vực mà cô Cortez, nạn nhân đã được nhận diện khác, bị mất tích. Ibrahim hiểu hằng rất khó tìm ra mối liên hệ giữa hai trường hợp này. Điều duy nhất rõ ràng là họ cần nhiều thông tin hơn nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Có lẽ là do vừa nhận lời cầu hôn của Nayir nên Katya thấy vô cùng hoang mang khi ngồi vào chiếc SUV cùng với Ibrahim. Nỗi sợ hãi có vẻ gì đó khác biệt so với trước đây, khi cô đi taxi hay trong trường hợp hãn hữu là ngồi cùng xe tuần tra với Osama. Không chỉ đơn giản là câu hỏi Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bố mình biết việc này? Mà bây giờ còn là Chuyện gì sẽ xảy ra nếu vị hôn phu của mình biết việc này? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh ấy tức giận hay nghi ngờ rồi hủy đám cưới? Và có cả tá các câu hỏi khác nữa rằng Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Irbrahim phát hiện ra rằng mình thực sự chưa kết hôn? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu ông ấy báo cáo với Chánh Riyadh? Liệu mình có mất việc như Faiza tháng trước không?

Cô hạ tấm khăn che mặt xuống và ngồi vào băng ghế sau trước khi Ibrahim kịp phản ứng. Hẳn là cô đã cân nhắc hành động làm màu này một tuần trước đó, nhất là cô đang hạ mình xuống một bậc thấp kém hơn và chấp nhận một sự phân biệt. Nhưng giờ thì điều đó là cần thiết. Nếu ai đó bắt gặp cô, ít ra cô có thể nói rằng mình đã ngồi ở băng ghế sau và che chắn đàng hoàng.

Ibrahim có vẻ ngạc nhiên khi vào xe. Ông quay xuống và chăm chú nhìn cô. “Tôi không ngại đâu nếu cô ngồi ghế trước.” Ông nói.

“Tôi thấy ổn, cảm ơn ông.”

Ông ra hiệu về khu vực đỗ xe ở chung quanh họ. “Không có ai đang nhìn đâu.”

“Tôi ổn mà”

Cô có thể nhận thấy điều đó khiến ông bối rối. Cũng dễ hiểu thôi bởi người mà cô đang tỏ thái độ làm màu lại chính là người đàn ông có tư tưởng tự do nhất ở Cục. Ibrahim nổ máy và lái xe ra khỏi khu vực bãi đỗ.

“Tôi đã làm việc với nhiều phụ nữ ở Đội Điệp vụ.” Ông nói. “Rất khó thuê phụ nữ. Họ phải có kinh nghiệm nghiệp vụ cảnh sát, và hầu hết những phụ nữ như vậy lại đã có chồng và chồng họ không thích ý tưởng vợ mình giả làm đó trong vài tháng và tự đặt mình vào vòng nguy nan. Thêm nữa, các ông chồng sẽ phải chăm sóc đám trẻ. Thực tế là chúng tôi đã một lần phải đưa một phụ nữ ra khỏi nhiệm vụ bởi chồng cô ta không làm thế nào đưa con đi bác sĩ được.”

Katya khịt khịt mũi. “Có phải ông đã gặp Sabria như vậy không - khi ở Đội Điệp vụ ấy?”

“Đúng vậy.” Ông nhìn Katya dò xét qua gương chiếu hậu, chăm chú nhìn vào đôi mắt cô. “Chúng tôi đã làm việc cùng nhau, quan hệ của chúng tôi sau đó mới tiến triển, sau khi cô ấy thôi việc.”

Ibrahim đã gọi điện cho Katya từ sáng sớm hôm đó để hỏi cô liệu có sẵn lòng tìm bằng chứng pháp lý ở căn hộ của Sabria không. Hôm đó là thứ Tư và ông mong là việc này sẽ được thực hiện trước thứ Năm, ngày bắt đầu của kỳ nghỉ cuối tuần, khi đó phần lớn hàng xóm của Sabria sẽ ở nhà.

Cô tự nhủ rằng cô sẽ tiếp tục công việc này bởi lẽ nếu có chuyện gì không hay xảy ra với Sabria, cô sẽ cảm thấy khó xử khi biết mình đã không giúp gì cả. Tuy vậy, cô thực sự tham gia vào vụ này là vì Ibrahim phụ trách vụ giết người hàng loạt đó, và nếu đây là việc cô phải làm để tham gia điều tra thì cô sẽ làm.

Bên cạnh cô trên băng ghế sau là một chiếc túi vải len thô đựng bộ dụng cụ lưu động dùng tìm kiếm bằng chứng. Cô đã nâng niu cái túi màu đen này hàng tuần nay rồi, nhét đầy trong đó nào những chiếc hộp nhựa nhiều lớp mới tinh, nào túi, ống tiêm, tất cả những dụng cụ cô có thể lấy được ở phòng thí nghiệm. Cô đã tính là sẽ sử dụng nó trong một tình huống khẩn cấp khi Cục có lệnh gọi cô ra hiện trường. Nhưng rốt cuộc thì sáng nay lại là lần đầu tiên nó được dùng.

“Ông đã xem qua đơn xin việc của Sabria chưa? Tài liệu tôi để lại trong hộp thư của ông ấy?” Cô hỏi.

“Có.” Ông đáp. “Nó có vẻ giống chữ viết tay của cô ấy.”

“Như vậy là cô ấy đã điền vào mẫu đơn.” Katya nói. “Nhưng người khác đã nhận công việc ấy?”

“Đó là phán đoán hợp lý nhất của tôi.” Ông trả lời. “Tuy tôi không thể nói với cô là tại sao.”

Qua cách mà ông đánh xe vào khu đỗ dưới tòa nhà của Sabria. Katya có cảm giác là ông đã làm việc này tới hàng nghìn lần rồi. Ông ngỏ ý muốn mang giúp cô bộ đồ nghề nhưng cô muốn tự mang, và họ vào thang máy để lên tầng tư.

“Tôi vẫn cho rằng ông nên khai báo về trường hợp mất tích của cô ấy.” Katya nói. “Nhưng ẩn danh, thế là ổn.”

“Cảnh sát sẽ không làm được việc gì mà tôi không thể làm đâu.”

“Vậy thì sao không tìm sự giúp đỡ chứ?”

“Tôi đang xin giúp đỡ đấy thôi.” Ông đáp.

Ibrahim mở cửa bằng chìa khóa của mình. Căn hộ của Sabria nhỏ nhắn, được trải thảm trắng sáng với những đồ đạc giản đơn. Điều đầu tiên Katya nhận thấy đó là việc gần như thiếu vắng những thứ mang dấu ấn cá nhân hay nỗi hoài hương. Không có bức ảnh gia đình hay bạn bè nào. Không có sách hoặc đồ trang trí lặt vặt. Không có gì khác ngoài hai chiếc sô-pha đôi và một chiếc ti vi trên chiếc tủ có ngăn kéo. Một vài chiếc cốc rỗng bày bừa trên bàn cà phê. Katya tha thẩn bước vào bếp, phòng ngủ và phòng tắm. Căn hộ có phạm vi dành cho một hộ gia đình, và ngoài vài thứ đồ trong nhà vệ sinh và quần áo trong tủ, chẳng có gì đặc biệt về căn hộ này cả. Bất cứ ai cũng có thể sống ở đây.

“Cô ấy không có bức ảnh nào hoặc vật dụng cá nhân nào sao?” Katya hỏi.

Bọn họ đang đứng trong bếp. Ibrahim nhìn quanh như thể với ông sự thiếu vắng của những đồ vật này mới xảy ra thôi. “Cô ấy không có nhiều đồ đạc lắm.” Ông nói. “Cô ấy lưu tất cả ảnh trên máy tính của mình.”

“Vậy nó đâu?”

Ông đưa Katya quay ra phòng khách và mở cửa tủ dưới ti-vi. Có một tấm thảm gập để cầu nguyện, một lọ nước hoa, và vài băng video cũ kỹ.

“Nó biến mất rồi.”

“Máy tính xách tay ấy à?”

“Đúng vậy.” Ông đứng dậy với vẻ run rẩy.

Katya ngồi xuống ghế sô-pha và bắt đầu phủi bụi chiếc bàn cà phê để lấy dấu vân tay.

“Sabria không mang theo nhiều đồ đạc khi đến Jeddah.” Ibrahim nói. “Và mọi thứ cô ấy có đã mất khi cô ấy rời bỏ tay chủ đầu tiên.”

“Ông ta là ai vậy?”

“Cô ấy đã làm giúp việc trong một năm, đó là công việc bị ngược đãi nên cô ấy đã bỏ trốn.”

“Nhưng đã vài năm rồi, phải vậy không?”

“Khoảng năm năm trước.”

“Vậy cô ấy phải có cả núi thời gian để tích nhiều đồ đạc hơn thế này chứ” Katya nói.

“Cô ấy không hẳn là người hay mua sắm.”

“Làm thế nào cô ấy trả được tiền thuê căn hộ này?”

“Tôi là người trả.” Ibrahim nói. “Tôi trả tiền cho tất cả mọi thứ, bao gồm tiền điện thoại, tiền ăn, và…bất cứ gì cô ấy cần, cũng không nhiều tiền lắm.”

Katya gật đầu.

“Cô đang nghĩ gì vậy?” Ông hỏi. “Tại sao cô ấy lại đi làm trong khi tôi lo cho cô ấy mọi thứ phải không?”

“Đại loại là như vậy. Vấn đề là, cô ấy không hề làm việc. Ít ra là ở nơi cô ấy đã nói. Nhưng giả định là điều đó đúng đi nữa, thì ông nghĩ cô ấy làm gì với số tiền kiếm được. Cô ấy không tiêu gì cả. Điều đó không khiến ông lấy làm lạ sao?”

Ông nhún vai. “Tôi chỉ cho rằng cô ấy đang tiết kiệm tiền.”

“Đã bao giờ ông hỏi cô ấy chưa?”

“Không hẳn.” Ông bước trở vào bếp. Katya đã làm sạch bụi những chiếc cốc trên bàn cà phê để tìm dấu vân tay và nghĩ đến bố mình, người cũng có phản ứng tương tự khi phải đối mặt với những câu hỏi khó bằng cách rút vào trong bếp và tìm thứ gì đó ăn.

“Vẫn còn sữa trong tủ lạnh.” Ông nói khi trở ra phòng khách.

Cô ngẩng lên.

“Nguyên một lít. Ngày nào cô ấy cũng uống sữa. Nếu có ý định rời đi thì cô ấy đã không mua sữa.”

“Không ai trong gia đình ông biết chút nào về việc ông gặp gỡ cô ấy sao?” Katya hỏi.

Cô nhận ra một chút đắn đo. “Phải”

“Ông hoàn toàn chắc chứ?”

“Chắc.” Giờ thì ông lại làm ra vẻ bối rối của một người cha. “Cứ tin tôi đi, nếu có bất cứ ai biết chuyện này, thì hẳn quãng đời còn lại của tôi lúc này đã tan nát rồi.”

“Thế còn bạn bè hay đồng nghiệp của ông?”

“Chúng tôi vô cùng thận trọng giấu kín chuyện này trước mắt mọi người.” Ông nhìn cô với ánh mắt khổ sở. “Nó không hoàn toàn hợp pháp, cô cũng biết đấy.”

“Thế còn hàng xóm?” Katya hỏi.

“Họ hoàn toàn không quan tâm”

“Ông gặp gỡ cô ấy lâu chưa?”

“Được hai năm rồi.”

“Tại sao ông không cưới cô ấy?”

“Vì cô ấy đã kết hôn, với cái tên đã cưỡng hiếp cô ấy và kẻ mà cô ấy không bao giờ muốn gặp lại.”

Katya chậm rãi gật đầu.

Ibrahim ngồi xuống ghế sô-pha. “Tôi hiểu cô đang nghĩ gì, Điều gì sẽ xảy ra nếu chỉ là cô ấy bỏ đi?”

“Ông phải chấp nhận, có thể là vậy, kể cả với phần sữa còn lại trong tủ kia đi chăng nữa. Đôi khi con người ta có những quyết định bột phát.”

“Hẳn rồi.” Có vẻ như ông không thể thấy thoải mái trên chiếc trường kỷ nên ông đứng lên và bước về phía cửa sổ trước nhà. Ông đứng ở sát cạnh và nhòm qua khe mà tấm chắn gồ không hoàn toàn khít với khung cửa. “Chúng tôi thậm chí còn không mở cửa sổ.” Ông vừa nói vừa ra hiệu về phía tấm chắn đó. “Chúng tôi đã nhờ người lắp nó và lúc nào cũng đóng nó lại. Chúng tôi hầu như không bao giờ ra ngoài ăn uống, nhưng thỉnh thoảng có đi đến những bãi biển tư nhân. Chúng tôi cố gắng không gọi cho nhau quá nhiều, và dùng bí danh khi gọi điện. Trong điện thoại của tôi, tôi lưu tên cô ấy là Muhammed. Thậm chí còn không có họ. Chúng tôi rất cẩn trọng.”

Đối với Katya như thế khác nào bị cầm tù.

“Đúng vậy” Ông nói tiếp. “Có lẽ cô ấy đã chán ngán chuyện này rồi. Dù sao đi nữa cô ấy chưa bao giờ giống người Ả rập cả. Cô ấy không thể hiểu sao mọi người ở đây lại hành động như vậy. Cô ấy được nuôi dạy như một tín đồ Hồi giáo. Cô ấy cho rằng mình là một phụ nữ Hồi giáo ngoan đạo, cho đến khi cô ấy đặt chân lên thành phố nào. “Nơi này có thánh dịa Mecca.” Cô ấy vẫn nói thế. “Nhưng con người ta không hành xử giống với tôn giáo của em.” Điều đó đã khiến cô ấy thất vọng.”

Katya đã làm sạch bụi và đứng dậy. “Tôi sẽ kiểm tra phòng ngủ.”

Ibrahim bước tới và đứng chắn đường cô. “Tôi đã nghĩ về tất cả những điều này. Tôi đã nghĩ đi nghĩ lại biết bao nhiêu lần rồi. Tôi chắc chắn đã có chuyện không hay xảy ra. Linh cảm của tôi mách bảo tôi như vậy, và khi nào linh cảm nói với tôi điều gì đó thì thường là đúng. Tôi tin như vậy. Nhưng lúc này thì… Tôi không biết nữa.”

“Vẫn còn một khả năng mà ông chưa tính đến.” Katya nói.

“Hãy tin tôi, tôi đã tính hết tất cả rồi.”

“Vậy ông đã nghĩ đến có thể việc này liên quan đến vụ án đó?”

“Vụ án giết người hàng loạt sao?”

“Đúng vậy.”

Ibrahim hắng giọng. “Thôi được, có, nó có lướt qua trong suy nghĩ của tôi.” Ông lắc đầu. Katya có thể thấy ông đang chán nản, một nửa tâm trí ông vẫn băn khoăn. Nếu cô ấy đã bỏ đi thì sao?

Cô kiểm tra phòng ngủ, nhưng nó cũng được trang trí đơn điệu như những căn phòng khác.

Quay ra, cô nhận thấy có vật gì đó lấp lánh ánh lên trên tấm thảm trải hành lang bên ngoài cửa căn hộ. Trông nó như một cái đinh. Cô cúi người xem xét kỹ nó và thấy vết bẩn của thứ gì đấy. Cô vội vàng mở hộp dụng cụ, lấy một miếng gạc.

“Có máu.” Cô nói. Ibrahim quỳ xuống để xem. Chiếc đinh bị kẹt dưới sàn nhà. Ai đó đã đạp chân lên nó. Katya xem xét kỹ phần mũ nhựa bé xíu phía dưới chiếc đinh. Có vẻ nó bị rơi ra từ một đôi dép xỏ ngón hoặc một loại xăng-đan rẻ tiền. “Chắc chắn nó là của người nào đấy đã đến căn hộ này.” Cô nói. Họ đang ở cuối hành lang, không có nhà hàng xóm nào gần đây.

“Có thể là máu của cô ấy.” Ibrahim nói.

“Cô ấy có đi xăng đan không?”

“Có. Lúc nào cũng vậy.”

Họ đứng dậy. “Chỉ là đề phòng.” Katya nói. “tôi sẽ phải thử DNA của ông nữa.”

Ibrahim gật đầu và há miệng để thấm ướt tấm gạc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Ibrahim lái xe đưa cả hai người hướng về phía nam tới khu ngoại vi Kandara. Ông đỗ xe gần khu gầm cầu đường Sitteen, một cây cầu vượt trên con đường cao tốc khổng lồ. Khu vực gầm cầu chính là một bến xe bus nhộn nhịp.

Phía dưới cây cầu, trên con đường dành cho người đi bộ bằng bê-tông khá rộng là khu nhà ổ chuột mà Katya chỉ có thể thấy trên những cảnh quay của bản tin thời sự - và ngay cả như vậy đi nữa, thì chỉ có trong những đoạn phim về khu vực nghèo khổ, tuyệt vọng giống những khu ổ chuột ở Brazil hay những vùng phi luật pháp ở châu Phi, nơi mà con người bị đối xử tàn tệ còn hơn cả con vật. Vậy mà nó có ở đây sao, tại một trong những thành phố giàu nhất của nước Ả Rập Xê-út này?

Phần lớn người dân Kandara là phụ nữ, và nhận xét qua gương mặt - hầu hết họ không che mặt - bọn họ chủ yếu là người Indonesia và Philippiness, tuy cũng có người châu Phi, người Ấn Độ và người từ các nước châu Á khác. Có ít nhất một nghìn, có lẽ nhiều hơn, những khu nhà nằm trải dài thành khối, phần lớn dựa lưng vào những bức tường bê tông nằm trong những khu vực râm mát. Những tấm kim loại lượn sóng tạo thành những mái nhà ở chỗ này chỗ kia. Một số người dừng lên nơi trú ẩn bằng những chiếc hộp cũ, chủ yếu chỉ để che chắn khỏi cái nắng. Các bà mẹ ngồi ôm con trong lòng, trong khi những người đàn ông nằm ngay trước họ trên những tấm bìa các-tông hoặc những tấm chăn cũ rách. Cảnh sát không có thống kê về tội phạm ở những khu vực ngoại vi khác nhau, nhưng đây là một trong những khu khét tiếng tồi tệ nhất. Nhờ sự có mặt của lãnh quán Philippiness mà vài khu nhà phía dưới gầm cầu, tất cả đã được tập trung ở khu vực này nhiều năm nay, đang chờ đợi được cho phép rời đi.

“Họ nói phần lớn những người ở đây đã ở lại quá thời hạn thị thực hành hương.” Katya nói.

“Chắc vậy, đó là cách mà một số người vào được đát nước này, nhưng hãy quan sát họ như là một nhóm người. Cô nhận thấy điều gì trước tiên?”

“Bọn họ phần lớn là phụ nữ.” Katya nói.

“Đúng…”

“Và đối với phụ nữ khó có thể hành hương khi chỉ có một mình.”

“Chính xác. Phần lớn những phụ nữ này là người giúp việc bỏ trốn.” Ibrahim nói.

Ông im lặng một lúc lâu khiến cho Katya thấy cần phải hỏi: “Làm sao ông biết họ là những ngưới giúp việc?”

“Đây chính là nơi chúng tôi tìm được Sabria.”

“Khu vực này đã có ở đây từ năm năm trước sao?” Katya hỏi.

“Đúng vậy, nhưng không tệ đến thế này.” Họ chăm chú nhín những con người phía trước đám đông, những người phụ nữ chạy loanh quanh trong những tấm áo choàng đen nhếch nhác, cách ăn mặc của họ rõ ràng đã thể hiện điều đó.

Sẽ không mất nhiều thời gian để đi đến kết cục lang thang trên đường phố. Những người giúp việc, quét đường, làm vườn, nhiều người trong số đó đã đến đây với hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn chứ không phải một hệ thống nô dịch nó giao kèo. Một kẻ môi giới có thể đưa người lao động vào đất nước này với một khoản phí - mười nghìn riyal hoặc hơn thế. Một cái giá đủ cao, và cứ cho là người lao động được trả lương, thì cũng phải mất đến mười năm họ mới trả hết số tiền đó. Chính vì vậy mà người sử dụng lao động sẽ trả khoản phí này, và người lao động phải thực hiện nghĩa vụ cho đến khi khoản nợ đó được thanh toán.

Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu họ không thích công việc? Điều gì sẽ xảy ra nếu chủ không cho họ ăn? Điều gì sẽ xảy ra nếu chủ của họ không cho phép họ dời khỏi nhà hoặc gọi điện cho gia đình hay thậm chí là nói chuyện với người môi giới đã đưa họ đến đây? Điều gì sẽ xảy ra nếu họ bị cưỡng hiếp hoặc bị bóc lột? Có rất ít điều luật bảo vệ quyền lợi của họ - hầu hết các điều luật bảo vệ quyền lợi cho người chủ, tránh để khoản đầu tư của người đó bị thua thiệt, vì đã mua họ. Lựa chọn duy nhất của những người lao động đó là bỏ trốn, và kết cục là họ ở đường Sitteen này, khẩn cầu lãnh sự quán cấp cho hộ chiếu mới, thậm chí là một chứng nhận tạm thời, và một chiếc vé máy bay để về nhà. Họ đứng xếp hàng để chờ ba chiếc xe bus ít ỏi chỉ đỗ ở Sitteen vài lần một tuần và đưa họ đến Phòng Hộ chiếu do Ả Rập Xê-út bảo trợ để cố giải quyết tình trạng vất vưởng này.

Họ đánh nhau để được lên xe bus, và thậm chí nếu họ không thể lên được xe bus họ vẫn đánh nhau, bởi nếu cảnh sát cho rằng họ gây rắc rối, họ sẽ bị gửi trả về quê nhà trước tiên. Nếu không đủ rắc rối thì họ chỉ đơn giản là phải nộp phạt vì đã ở quá thời hạn thị thực và bị tống vào một buồng giam mà ở đó họ sẽ khó có thể ngóc đầu lên được nếu không có sự can thiệp của hoàng gia. Và họ cầu Chúa để cuộc đời mình không chấm hết trong một khu giam giữ của lãnh sự quán, nơi họ có thể bị đẩy vào một căn phòng và bị bỏ mặc đến khi thối rữa ra. Chỉ mới vài tuần trước năm người Ethiopia đã bị khóa trong buồng vệ sinh không có cửa sổ, và đến sáng thì chết ngạt.

Tạ ơn Chúa vì những nhà thờ Hồi giáo hằng ngày đều mang thực phẩm và nước đến khu Kandara. Người ta không thể tự an ủi mình bằng sự thật rằng sau vài ngày nữa những chiếc xe bus đó xẽ quay trở lại. Số người đổ về khu vực cây cầu này như nước chảy từ cái vòi không thể khóa. Anh có hứng đến bao nhiêu xô thùng thì nước vẫn tuôn đều. Chỉ ngay sau khi những chiếc xe bus đó lăn bánh khu vực này lại đầy ắp người như cũ.

“Ông nghĩ cô ấy có thể ở đây sao?”Katya hỏi.

“Không. Nơi này là một cái hang chuột. Tháng vừa rồi đã hai lần cảnh sát phá tan một mạng lưới mại dâm. Nhưng vấn đề mà chúng ta quan tâm là khoảng năm mươi phần trăm những người mất tích ở Jeddah hoặc đến đây hoặc bị mất tích ở đây.” Ông nhấc cặp tài liệu ở dưới sàn ghế lên và lướt qua một tập giấy rồi đưa nó cho Katya. Đó là những bản phác họa về các nạn nhân tìm được ở sa mạc. “Tôi nghĩ đây sẽ là nơi lý tưởng nhất để nhận diện các nạn nhân còn lại. Việc này với cô ổn chứ?”

“Vâng. Tất nhiên rồi.”

Ibrahim ra khỏi xe và Katya theo ông băng qua đường. Điều đầu tiên cô nhận thấy là mùi hôi thối, một mùi xú uế nồng nặc của những cơ thể dơ bẩn, của thực phẩm thối rữa, và những đống phân người dọc theo một cía rãnh nhỏ chạy dưới đường hầm, tất cả đều bốc mùi dưới cái nắng oi ả. Cô kéo chiếc mạng che mặt che ngang mũi và cố gắng hít thở thật nhẹ, nhưng mùi hôi thối vẫn nồng nặc, đủ khiến cô ứa nước mắt. Dưới chân cầu vượt không khí có mát mẻ hơn một chút nhưng hôm đó là một ngày lặng gió và mùi xú uế kẹt tắc ở khắp nơi.

Bọn họ đi quẩn quanh trong đám đông suốt hai giờ đồng hồ, cái nóng, mồ hôi và nỗi thất vọng như vô cùng tận. Ibrahim đứng trong tầm nhìn của Katya, nhưng cô không bao giờ để nhìn vào ánh mắt ông. Bọn họ đã đi sâu vào trong khu vực lều tạm khi cô đến gần người phụ nữ đang khom người bế đứa con nhỏ.

“Xin lỗi, tôi đang tìm những người này.”

Người phụ nữ liếc nhìn những bức hình. “Chưa bao giờ thấy họ. Thử hỏi Aunie xem.” Bà ta ra hiệu về phía một phụ nữ ở bên rìa đường. Aunie là một phụ nữ nhỏ bé, người Châu Á, mái tóc đen cắt theo hình cái bát. Bà ta đang nằm nghiêng trên một chiếc ghế bằng cây liễu gai màu nâu sắp gãy, nhưng lại đẹp nhất trong cả khu này. Bà ta mặc áo sơ-mi ngắn tay vẻ thức thách và quần ống rộng cắt ngang gối. Dưới chân bà ta là đôi dép xỏ ngón bằng nhựa.

Bà ta không ngồi dậy khi Katya đến gần.

“Xin lỗi.” Katya lên tiếng. “Tôi đang tìm những người phụ nữ này.”

Cô chìa ra những bức ảnh phác họa, và một cách chậm rãi Aunie ngồi dậy.

“Cô là cảnh sát à?”

“Đội Trọng án.”

Người phụ nữ gật đầu. “Vậy là bọn họ đã chết?”

“Bà có biết họ không?”

Người phụ nữ không nói gì. Bà ta thò tay vào cái bao nhựa cũ sờn ở dưới chân và bắt đầu lục lọi. Katya thấy bà ta lôi ra một mảnh vải cáu bẩn, dùng nó lau mồ hôi trên mặt và cổ.

“Cô sẽ bắt tôi chứ?” Bà ta hỏi.

“Không nếu bà không muốn vậy.”

Aunie mỉm cười với vẻ chua chát hơn là thích thú. “Tôi chưa từng thấy bọn họ.” Bà ta nói rồi lại nằm xuống.

“Có lẽ một ly cà phê sẽ giúp bà tỉnh táo hơn chăng?”

Người phụ nữ đó nhìn cô.

“Hay bữa ăn trưa?”

Sau một chút đắn đo, Auine ngồi dậy. “Không.” Bà ta nói. “Hôm nay tôi ăn rồi. Nhưng tôi cần tiền cho bữa trưa ngày mai.”

Katya gật đầu. “Cho tôi biết tên của họ.”

Người phụ nữ liếc nhìn và với tay về bức phác họa. Bà ta chau mày trong khi nhìn kỹ nó. “Có vẻ giống Mahal.”

“Mahal có họ không?”

Aunie lắc đầu. “Không nhớ. Cô ta là người Philippiness.” Bà ta gạt bức phác họa về phía Katya nhưng cô không cầm nó lại ngay.

“Bà có biết cô ta làm việc gì không?”

“Không.” Auine khịt khịt mũi tỏ vẻ mỉa mai. “Không có công việc gì cả. Ở đây sao? Cô nghĩ đây là đâu? Một khách sạn chăng?”

“Trước khi cô ta đến chỗ cầu này.” Katya nói có phần nôn nóng. “Bà có biết cô ta làm gì không?”

“Không.”

“Thế còn tiền ăn trưa cho ngày kia thì sao?”

Aunie khịt khịt mũi lần nữa. “Được rồi, hình như cô ta làm giúp việc thì phải. Tôi không nhớ nữa. Một gia đình tàn bạo.” Bà ta vẩy vẩy tay.

“Và tại sao cô ta lại ở khu vực cầu này? Bọn họ có ngược đãi cô ta không?”

“Dĩ nhiên là bọn họ có ngược đãi cô ta rồi.” Bà ta nói, và lần đầu tiên những lời bà ta nói nghe có vẻ dối trá. “Cô ta đã trốn chạy khỏi bọn họ. Tất cả bọn họ!”

Katya gật đầu và cầm lại bức phác họa. “Vậy còn bà?” Cô hỏi. “Sao bà lại ở đây?”

Aunie nhắm mắt lại và ngồi lại ghế. Chiếc ghế lảo đảo lắc lư. “Phần lớn những người ở đây có chung vấn đề.”

“Không có hộ chiếu?” Katya hỏi.

“Không!” Aunie ngồi thẳng dậy và mở mắt. “Họ có hộ chiếu chứ. Nhưng bọn chủ không cho phép họ ra đi. Họ cần sự cho phép. Và nếu họ bỏ trốn thì không lấy lại được hộ chiếu. Do đó chính người Ả Rập Xê-út đã gây ra rắc rối! Cô không thể mua vé máy bay mà không có thư giới thiệu của ông chủ. Cô cần sự cho phép của ông chủ mới được ra đi sao? Cái kiểu quốc gia gì mà lại quái đản như thế chứ?”

“Vậy là Mahal không được chủ cho phép ra đi?”

“Không, cô ta không được phép. Nếu có ai giết cô ta thì chính là tay chủ ấy. Tôi đảm bảo vậy.”

“Và bà không biết người chủ đó là ai sao?”

“Không nhớ. Có quá nhiều cái tên. Mà sao tôi phải nhớ chứ?”

Katya mở xắc tay và lấy ra tờ hai mươi riyal. Cô gập nó và nhét vào chiếc túi của Aunie.

Katya thấy kiệt sức. Ibrahim đã không gặp may trong việc nhận diện bất kì nạn nhân nào, và với cái tên Mahal họ cũng không thể làm gì nhiều ngoại trừ việc thông báo cho các sĩ quan cấp dưới chịu trách nhiệm lấy thông tin căn cước từ các lãnh sự quán.

Khi gần về tới văn phòng, họ dừng lại để uống nước trái cây tại một ki-ốt bát giác được trang trí bằng những tấm logo màu xanh dương của Pepsi. Ibrahim đi mua đồ uống trong khi Katya chờ trong xe, vẫn cực kỳ hoang mang vì sợ ai đó bắt gặp. Cô ngồi gần sát lỗ thông khí của hệ thống điều hòa nhiệt độ ở băng ghế sau hết mức có thể và để cho khí mát thổi thẳng qua khăn trùm đầu. Khi Ibrahim quay lại, ông mang theo hai chai nước quả và hai hộp nhựa nhỏ đựng trái cây xắt miếng; ông đưa cho cô mỗi loại một thứ.

“Cảm ơn.” Bố, cô đã muốn thêm vào từ đó. Ông bắt đầu khiến cho cô cảm thấy ông giống những người bạn của bố mình - hai hay ba người mà cô đã chuyện trò và thực tế có quý mến. Bọn họ có cách để xoa dịu những căng thẳng gây ra do giới tính theo lối gia trưởng thường gặp luôn khiến cô cảm thấy hình thức và kỳ quặc.

Thay vì về văn phòng, ông đi thẳng về hướng Corniche. Cô nghĩ có thể họ đang trở lại căn hộ của Sabria, nhưng ông lái về phía nam cho đến khi gặp một bãi đỗ xe bên bở biển gần như vắng tanh. Ông đánh xe vào bãi và hướng quay ra biển, vẫn để động cơ nổ để điều hòa tiếp tục làm dịu bớt cái nóng. Ông mở hộp trái cây và bắt đầu ăn.

Katya mở hộp của cô và đưa một miếng dưa hấu qua tấm khăn trùm đầu.

“Có lẽ cô nói đúng.” Ibrahim nói. “Tôi nên thông báo về trường hợp mất tích của cô ấy.”

“Tôi nghĩ ông nên làm vậy.”

“Nhưng trước hết tôi phải xóa sạch mọi dấu vết của chính tôi ở căn hộ của cô ấy đã.” Ông nói. “Cô nghĩ sao về cơ hội làm việc đó?”

“Ông phải thuê một người. Ý tôi là một người chuyên nghiệp. Sẽ có rất nhiều việc phải làm.”

Bọn họ tiếp tục ăn, cô hiểu là cả hai đang suy nghĩ về một việc. Nếu thông báo vụ mất tích của Sabria thì bọn họ sẽ buộc Ibrahim vào tội ngoại tình. Sẽ là vậy, nếu cảnh sát đánh giá vấn đề đủ nghiêm trọng để đưa một đội pháp y đến căn hộ của cô ấy. Sabria từng làm việc cho cảnh sát nên khả năng họ xem xét tỉ mỉ căn hộ đó là rất lớn.

“Tôi sẽ tìm thuê một tay dọn dấu vết.” Ông nói. Ông thu dọn mấy chiếc hộp nhựa và chai rỗng lại rồi ném qua cửa sổ. Ông vào số xe.

“Cám ơn ông đã để tôi hỗ trợ trong vụ này.” Cô nói. “Ý tôi là vụ giết người hàng loạt. Tôi mong được tham gia vụ đó.” Cô hy vọng là mình đã lên tiếng đúng thời điểm, chứ không phải một sự ngỏ lời liều lĩnh.

Ông gật đầu. “Tôi sẽ giao thêm việc cho cô nếu có thể, nhưng hiện giờ tôi có trách nhiệm theo dõi các diễn biến ở sở. Tôi phải đảm bảo đội của mình hoạt động có tổ chức - ít nhất cho đến khi Chánh Thanh tra gạt tôi ra khỏi vụ này, mà tôi nghĩ rất có khả năng đấy. Tất nhiên là tôi đã bị quẩn trí về toàn bộ việc với Sabria. Và đó thực sự mới là mối quan tâm của tôi lúc này. Để bắt được hung thủ cần có thời gian. Việc tìm kiếm một người mất tích gấp gáp hơn thế nhiều. Tôi không thể thổ lộ điều này với bất cứ ai, và có thể là ích kỷ nhưng đó là sự thật.” Ông nhắm mắt lại một lúc rồi mở ra nhìn cô. “Tôi xin lỗi, tôi hiểu cô muốn tham gia vụ đó, và tôi nghĩ cô cũng nên làm vậy. Nhưng còn rất nhiều việc phải cân nhắc nữa.”

“Chắc chắn rồi.” Cô vừa nói vừa mong là giọng mình nghe có vẻ bình thường. “Tôi hiểu mà.”

“Tôi thực sự cảm kích sự giúp đỡ của cô.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Kỳ nghỉ cuối tuần thứ Năm và thứ Sáu trôi qua đằng đẵng khổ đau. Ibrahim đến chỗ làm vào sáng thứ Bảy, ngay sau lễ cầu nguyện Fajr, khi tòa nhà hầu như vẫn còn vắng vẻ. Ông định sẽ giải quyết đống hồ sơ trên bàn mình. Ông nhận thấy Omar đã gửi đến các hồ sơ của Warra ở Đội Điệp vụ. Chắc hẳn chúng đã được chuyển đến sau khi ông rời văn phòng ngày thứ Tư. Tất cả đều được bọc giấy và nhét trong túi nhựa chuyển hàng có để nhãn CÁC VỤ ÁN ĐÃ ĐÓNG và ĐỘI TRỌNG ÁN nhằm tránh sự chú ý. Ibrahim xé mở túi thư và dành cả buổi sáng để đọc các túi hồ sơ.

Có một câu chuyện vui ở Đội Điệp vụ rằng nếu bạn điều tra một vụ án và không tình cờ gặp ai đó có họ hàng xa nhận ra bạn trong đám cưới ông chú người hàng xóm của bạn, thì chắc là bạn đã dành hết thời gian thủ dâm ở tận ngoài sa mạc. Đội có quá nhiều nhân viên giả trang bị lật mặt đến mức đã có lúc họ chỉ có thể thuê người ở các thành phố khác, và thậm chí sau đó phải tuyển người từ phía nam bởi dù Jeddah có trở nên rộng lớn đến mức nào đi nữa, thì những chàng trai của đội dường như không thể nào đụng mặt với người quen.

Ibrahim chỉ định xem qua những thứ này, và ông ngờ phần lớn các trường hợp đều chỉ là không may. Nhưng ý thức về sự đàn áp đi cùng với một loạt vận rủi đã khiến ông quay cuồng mất một lúc, đủ để đi đến một ý tưởng xuẩn ngốc cho một hành động mà, như ông nghi ngờ, sẽ không bao giờ thành công cho dù có được sự đồng thuận của Chánh Thanh tra phụ trách Đội Điệp vụ. Họ nên thâm nhập vào mạng lưới những kẻ cắp là nữ giới.

Ibrahim và hai sĩ quan cấp dưới của Đội Điệp vụ hiển nhiên là đã gặp rắc rối khi trình bày ý tưởng đó với Chánh Thanh tra. Ngay cả khi họ đã thuyết phục được ông ta rằng thực chất có một mạng lưới những phụ nữ giàu có hành động cùng nhau để lấy cắp hàng xa xỉ phẩm tại các cửa hàng cao cấp (vòng tay kim cương là một mặt hàng được ưa thích), họ đã phải mất hàng tuần liền để tìm ra đâu là một phương thức hành động khả thi. Họ sẽ thâm nhập vào mạng lưới đó, thu thập đủ bằng chứng, và rồi - sao chứ? Tống giam một loạt phụ nữ giàu có hay sao? Quá nửa trong bọn họ sẽ mang thai bất cứ lúc nào. Không một người nào có ít hơn bốn đứa con. Phần lớn đã kết hôn với những gã ngu đần thuộc tầng lớp thượng - trung lưu, vốn luôn cho rằng tất cả áo quần và đồ trang sức mà vợ họ đang chưng diện lẽ dĩ nhiên là được chi trả nhờ khả năng kiếm tiền của chính bọn họ, những kẻ có mức lương cấp cao sẵn sàng trải thảm ở Milan. Bọn họ không nhận ra rằng các bà vợ không ăn cắp vì nghèo, các bà đó ăn cắp vì họ tức giận, họ không có quyền lực và có lẽ họ bị đàn áp.

Khi Ibrahim mới đưa ra gợi ý này cho Chánh Thanh tra, ông ta đã rất trầm ngâm. Rồi ông ta nhìn Ibrahim như thể ông ta vừa đặt một cục phân ngựa khổng lồ lên bàn làm việc của ông ta và cố gắng đẩy nó cho ông ta như một nghi lễ chào đón của người Bedouin. Và ngay lập tức Ibrahim nhận ra ông ta đang nghĩ: không đời nào chúng ta lại bắt một đoàn những bà mẹ giàu có đó.

Người ta nhanh chóng chỉ ra rằng họ luôn luôn có thể bắt giữ mấy ông chồng thay vì các bà vợ. Chẳng có ai ngạc nhiên nếu họ bắt những người chồng đó phải chịu trách nhiệm về hành vi của vợ mình. Sự căng thẳng trong căn phòng có bớt đi chút ít. Ai đó đã tếu rằng bọn họ sẽ có thể cứu được những bà mẹ nghèo khó này từ tay những gã chồng ngu ngốc. Đội của bọn họ sẽ giống như những đơn vị chống bạo hành gia đình ở những quốc gia khác, một kiểu cơ quan mà Jeddah đang nỗ lực để thiết lập và có phần vờ như là đã có, nếu các chính trị gia là những người có thể tin được.

Ban đầu ông Chánh Thanh tra đã không muốn động chạm gì đến mạng lưới này. “Quay trở lại với mấy cái vụ ma túy của các anh đi.” Nhưng họ đã tiếp tục tác động đến ông ta, chọn những thời điểm dễ thuyết phục nhất, bởi họ đã ngán ngẩm ma túy lắm rồi. Và có thể họ sẽ không bao giờ thừa nhận điều này, nhưng họ thích thử thách đó. Xâm nhập một mạng lưới phụ nữ khép kín.

Cuối cùng thì ông Chánh Thanh tra cũng đã ưng thuận. Thậm chí ông ta còn bị ấn tượng bởi vụ đánh cắp kim cương trị giá ba trăm nghìn riyal giữa ban ngày ban mặt tại trung tâm Vàng bạc al-Tahlia. Những người phụ nữ này rõ ràng đã theo dõi hệ thống an ninh của cửa hàng đó. Bọn họ biết cách để đánh lạc hướng các nữ bảo vệ và cách vào được khu trưng bày. Và bọn họ đã thực hiện vụ đánh cắp mà không màng gì đến sự hiện diện của cả tiểu đoàn máy quay phim liên tục hoạt động ngay cả khi cửa hàng đóng cửa. Tại sao? Bởi vì họ che mặt, cơ thể thì giấu kín trong những chiếc áo trùm màu đen bùng nhùng.

Một trong những kỹ thuật viên đã gợi ý họ thử một loại chương trình phần mềm mới - Lột trần - có thể tước bỏ quần áo trên cơ thể người theo phương thức kỹ thuật số và đôi khi có khả năng đặt một khuôn mặt dưới dạng không có khăn trùm đầu. Nhưng không lâu sau khi anh chàng đưa ra gợi ý đó thì chương trình này bị cấm bởi một sỹ quan cấp trên, người đã tá hỏa về việc đàn ông lột bỏ trang phục của phụ nữ bằng máy vi tính và kêu gọi luật pháp chống lại điều đó.

Có vẻ như nhóm trộm cắp này gồm sáu phụ nữ, nhưng rất khó nói bởi họ luôn luôn mang khăn trùm đầu. Và dường như bất khả thi để bắt giữ một phụ nữ nếu chồng của cô ta không xuất hiện và không sẵn lòng giúp truy tìm cô ta. Cách duy nhất mà họ có thể kết tội những phụ nữ này là thu thập các chứng cứ phạm tội từ những phụ nữ khác - bạn bè hoặc thành viên gia đình. Điều họ cần là phải vào được nhà của những phụ nữ đó, xâm nhập vào đời sống và những bí mật của bọn họ, và cách duy nhất để thực hiện được điều này là cài vào gia đình đó một người giúp việc. Họ có lực lượng nữ quân nhân, nhưng rất ít người châu Á và người nhập cư - những nhóm tộc người có thể được chấp nhận vào vị trí người giúp việc. Người duy nhất phù hợp lúc bấy giờ chính là Sabria.

Những hồ sơ Omar gửi là vào khoảng thời gian Sabria hoạt động trong Đội Điệp vụ trước khi cô phá được mạng lưới trộm cắp đó. Và tất cả những gì cô đã nói về các vụ án đó đều đúng, không có gì bất bình thường hết. Và rõ ràng là cũng không có gì Ibrahim liên hệ được với sự mất tích của cô cả.

Với vụ trộm cắp tại các cửa hiệu đó, Sabria đã làm tay trong trong vòng bốn tháng, và cô đã thực hiện vai trò của một người giúp việc xuất sắc rồi trở thành bạn tốt của gia đình đó đến mức ngay cả khi người mẹ trong gia đình đó, Salima, bị bắt giam và được cho biết bà ta đã bị gài bẫy như thế nào, bà ta vẫn từ chối không nói điều gì xấu về Sabria. Cô Gampon, bà ta nói bằng sự đối đáp sắc sảo với vẻ tôn trọng miễn cưỡng, là người hết sức chuyên nghiệp. Tại thời điểm đó Ibrahim không chắc liệu đó có phải là điều tốt hay không. Ông cho Sabria nghỉ ba tháng. Một tuần sau đó cô quay lại hỏi họ có nhiệm vụ mới nào cho cô không. Ông nói không, cô cần nghỉ ngơi một thời gian và quay trở lại với cuộc sống của cô. Cô ngoan ngoãn rời văn phòng của ông, nhưng ba tháng sau cô quay lại, sẵn sàng cho nhiệm vụ mới và trông hoàn toàn vẫn như trước. Chính vì vậy ông giao cho cô một nhiệm vụ mới, và một nhiệm vụ khác sau đó nữa. Dường như với nhiệm vụ nào cô cũng bình an vô sự. Cô hoàn thành công việc với một sự trọn vẹn mà đến giờ vẫn khiến ông phải khiếp sợ. Cô đặt tất cả con người mình vào công việc đó. Mọi người đều tin tưởng cô. Cô có thể thuyết phục bất cứ ai rằng những mục đích của cô là hoàn toàn chân thành.

Ông gạt những hồ sơ đó trở lại chiếc túi nhựa và bắt gặp tờ đơn xin việc của Sabria cho cửa hàng quần áo ở Chamelle plaza. Nó vẫn nằm trên bàn làm việc của ông, đầy kín nét chữ phản trắc đó. Trong suốt khoảng thời gian họ làm việc cùng nhau, ông không hề biết gì về cô. Ông đối xử với cô theo một cung cách máy móc của một ông sếp có thể bị mất việc nếu không hành xử đúng mực với đồng nghiệp nữ. Chỉ là cho đến sau này, khi cô đã bỏ việc, ông mới bắt đầu hiểu cô thực sự là ai. Và lúc này ông suy nghĩ về con người đó một cách cương quyết. Sabria thật sẽ chỉ cử một người nào đó đóng giả là cô nếu việc đó phục vụ cho lợi ích chung. Nếu việc đó có nghĩa là giúp đỡ một ai đấy. Nhưng ông vẫn không thể giải thích được tai sao Sabria thật không nói gì với ông về chuyện này hết.

Khi Ibrahim dừng xe ở cuối con hẻm, đã là sau lễ cầu nguyện buổi chiều. Ông và Daher bước ra. Có sáu chiếc se cảnh sát đã vây kín hiện trường. Các nhân viên nghiệp vụ chặn đường hai tòa nhà ở cả hai hướng và đã giải tán những người khách bộ hành cuối cùng trên hai bên hè phố.

Ibrahim cố ép mình bước chậm lại một chút. Ông chỉ muốn bỏ chạy. Ông đi qua người quét đường, người đã phát hiện ra sự việc và nghe Daher báo cáo. “Thưa sếp, đây chính là gã…” trước khi vòng qua thùng chứa rác vả nhìn thấy dải băng ngăn cách hiện trường vụ án. Ông luồn qua dải băng đó rồi đi thẳng về phía đống vải nằm ngổn ngang trên hè phố. Đó là một tấm áo trùm phụ nữ. Trống không. Và ngay bên cạnh là một bàn tay bị chặt.

Nhân danh đức Alla nhân từ và độ lượng. Tâm trí ông quay cuồng với những lời cầu nguyện, ông nhắm nghiền mắt. Sự giảm nhẹ này quá ghê tởm đến mức đau đớn.

Ông luồn trở lại qua dải băng. “Anh nói đây là cái xác sao?”

“Nó không phải là một cái xác sao ạ?” Daher áy náy đứng bên cạnh ông, cố tỏ ra vẻ hữu dụng và nói với các nhân viên nghiệp vụ đứng gọn sang một bên của dải băng khoanh vùng hiện trường.

“Không, chỉ là một bàn tay.” Đáng lẽ không bao giờ nên rời khỏi Đội Điệp vụ mới phải. Ông bước vào dưới bóng râm của tấm bạt che trước một cửa hàng và ngồi xổm trên mặt đất, tựa đầu trên hai bàn tay.

“Bọn họ tìm thấy vật này ngay bên cạnh nó.” Daher đang đứng phía trên, chìa ra một chiếc xắc tay phụ nữ. Ibrahim cầm lấy nó và kiểm tra bên trong. Có một thẻ căn cước trong ví. Amina al-Fouad.

“Đảm bảo là đội pháp y có được vật này.” Ibrahim nói. Ông dường như không có tâm trí nào để xem xét việc giữa ban ngày mà phố Falasteen không hề có ô-tô hay khách mua sắm thì quá là kỳ quái. Ngoài cảnh sát mặc sắc phục và một vài chủ tiệm ra, người duy nhất đang ở khu vực này là một người quét đường gầy khẳng khiu. Ông ta tựa vào thùng rác với vẻ lo lắng và rối trí, không giống một người vừa phát hiện ra một bàn tay bị chặt đứt chút nào.

Ibrahim đứng lên tiến về phía người đàn ông đó. “Có phải nó đã ở trong thùng rác không?” Ông hỏi.

“Không phải.” Người quét đường đáp. “Nó ở đó. Chính nơi ông đang thấy lúc này ấy. Bàn tay của tên tội phạm nào đấy…” Ông ta vẩy tay và nhìn lên trời.

“Ông có thấy ai gần đó không?”

“Không thấy.”

Mất mười lăm phút để dựng lên cái mà nói thoáng ra là hiện trường vụ án. Hơn hai mươi sỹ quan cảnh sát đi đi lại lại. Khách mua sắm ào ra từ các cửa hàng và há hốc miệng nhìn. Abu-Musa đã đến và thông báo về bàn tay bị chặt. Vài phút sau đội pháp y đến với một vài ngạc nhiên: Katya bước xuống khỏi xe cùng bộ dụng cụ của mình và theo sau là Majdi tiến về phía hiện trường. Daher nhìn thấy cô và khựng lại vì sự ngạc nhiên nhưng không nói gì.

Tâm trí Irbrahim dần dần tỉnh táo hơn. Ông đã tưởng Sabria đang nằm đó.

Katya trông thất kinh khi cô quỳ gối xuống gần bàn tay.

“Gì vậy, cô Hijazi?” Ibrahim hỏi.

“Tôi đang phát hoảng khi hình dung đến việc có kẻ vứt bỏ thứ này ở đây.” Cô nói. “Sao không ai để ý nhỉ?”

Daher thở phì ra, như thể câu trả lời rõ ràng thế còn gì.

“Khu vực này không quá xa con đường.” Katya nói tiếp. “Và con đường này thường rất nhộn nhịp. Kẻ nào vứt bỏ nó ở đây thì hẳn chỉ mới đây thôi. Tôi chắc là không lâu sau nó đã bị phát hiện.”

Daher khịt khịt rồi quay đi, hoàn toàn không để ý đến nhận xét của Katya.

“Tôi không rõ.” Ibrahim nói. “Cô sẽ bất ngờ về những gì mà người ta thường không để ý. Chúng tôi đã cho người hỏi chuyện những chủ cửa hàng gần đây. Có lẽ có người đã thấy điều gì đấy.”

“Sẽ rất tốt nếu có được một mô tả về tên sát nhân.” Daher nói.

“Anh đã cho rằng vụ này có liên quan đến vụ giết người hàng loạt rồi sao?” Katya hỏi.

Daher trừng mắt nhìn cô. Sự chọc ngoáy khi trước của cô ta, tuy có khó chịu, song ít ra, còn hiểu được. Nhưng sao cô ta dám chỉ trích anh cơ chứ?

Katya không thèm để mắt đến anh ta, một kiểu giăng bẫy có tính toán. “Tên hung thủ giết người hàng loạt của chúng ta chưa bao giờ để lại một bàn tay trên phố cả.” Cô nói. “Hắn chôn những bàn tay ở một địa điểm bí mật.”

“Hiển nhiên đó chính là hắn ta!” Daher nói. “Hắn đang nói rằng chúng ta hãy biến đi! Đây chính là tiếng hét giận dữ từ gã đó.” Anh ta ra hiệu về phía bàn tay. “Hắn nói rằng hắn đang kiểm soát tình hình và hắn có thể làm bất cứ điều gì hắn muốn, và chúng ta sẽ chẳng làm gì ngăn hắn được. Tôi bất ngờ đấy. Thông điệp đấy quá là rõ rồi.”

Katya mở khóa chiếc túi vải len thô của mình bằng một cú kéo mạnh giận dữ. “Đây có thể là bàn tay của kẻ nào đó bị trừng phạt vì tội ăn trộm.”

Daher thở phì ra.

“Nó cũng có thể là một kiểu tội phạm bắt chước.” Katya nói.

“Hẳn rồi.” Daher nói. “Ngoại trừ việc không ai biết những cái xác được chôn ở sa mạc ngoại trừ chúng ta ra.”

“Tại sao lại không phải là một trong số chúng ta?” Katya hỏi.

Daher ha hả cười. “Đúng, tất nhiên rồi! Và tôi sẽ bầu chọn cô người Mỹ đó nhé. Cô ta đến đây cùng với đám thiên thần gác địa ngục của mình để trả thù những kẻ khủng bố.” Một sỹ quan cấp dưới nãy giờ lắng nghe mỉm cười uể oải.

“Sao vậy?” Daher hỏi.

“Không có gì.

“Cậu hiểu điều tôi sắp nói, phải vậy không?” Daher hỏi.

“Điều gì đó về Những thiên thần của Charlie (1) ấy à?” Viên sỹ quan cấp dưới nói.

(1) Loạt phim truyền hình nổi tiếng của Mỹ về ba nữ thám tử xinh đẹp làm việc cho nhà triệu phú Charlie. Ở đây nữ chuyên gia người Mỹ cùng tên là Charlie.

Daher cứng giọng. “Trời đất, sao cậu có thể đùa như vậy vào lúc này được nhỉ?”

“Đó không phải là đùa. Chỉ là những gì người ta đang bàn tán.”

“Tôi đã định nói rằng quy luật đầu tiên về những tên giết người hàng loạt - chính là điều Tiến sỹ Charlie đã đề cập - chúng là người Mỹ. Đàn ông da trắng ở độ tuổi ba mươi. Những gã có ngoại hình bình thường.”

“Có thể hắn không phải là người Mỹ chứ.” Katya vừa nói vừa đứng dậy.

“Ồ?”

“Người ta sẽ dễ dàng để ý đến một người Mỹ chứ.”

“Sẽ không đâu nếu hắn mặc áo trùm.” Daher phản kích.

Katya còn kịp nguýt anh ta một cái trước khi theo Majdi ra khỏi con hẻm. Ibrahim ra hiệu cho Daher ra ngoài. Anh ta đã bị làm bẽ mặt nhưng ít ra anh ta cũng cố nói được câu cuối cùng.

Dừng lại bên chiếc xe tải nhỏ, Katya quay sang Ibrahim. “Để tìm được mối liên hệ với vụ giết người hàng loạt,” cô nói, “chúng tôi sẽ phải tìm ra một số điều. Trước hết, liệu bàn tay này có phải bị chặt sau khi chết hay không. Tất cả bàn tay ở địa điểm chôn cất đều được cắt dời sau khi nạn nhân đã chết. Bàn tay này có vẻ là của một phụ nữ, nhưng chúng tôi cần phải chắc chắn. Hơn nữa, chúng tôi sẽ phải tìm ra thời điểm người phụ nữ này” - cô lục trong chiếc ví tìm tấm thẻ căn cước - “Amina al-Fouad bị mất tích. Hoặc liệu có phải cô ta đang mất tích hay không. Có thể đó là tay cô ta, nhưng điều này cũng cần phải kiểm chứng đã.”

Ibrahim định đáp lời thì Daher đã chen ngang với vẻ mà ông cảm giác như một cố gắng không đúng lúc để thu hút sự chú ý của ông.

“Sếp.” Anh ta nói. “Chúng tôi đã xem xét ở lãnh sự quán cái tên mà sếp yêu cầu. Tên người phụ nữ đó là gì nhỉ?”

“Mahal.” Katya nói.

Daher chột dạ và nhìn Ibrahim như thể muốn hỏi Làm sao cô ta biết nhỉ?

“Cô ấy đã đến khu Sitteen với tôi.” Ibrahim nói.

Daher không nói gì, nhưng Ibrahim thấy ánh nhìn của người bị phản bội ở anh ta. Tại sao ông lại đưa Katya mà không phải Daher tới Sitteen chứ?

“Không có phụ nữ nào mất tích tên là Mahal cả.” Daher nói với giọng cáu kỉnh.

Ibrahim không hề nhận thấy vẻ hả hê trên nét mặt Katya khi cô quay bước đi, nhưng dù sao ông cũng lo lắng về những cảm nghĩ giữa cô và Daher, và không biết những tổn thương cá nhân này sẽ đưa chuyện đi đến đâu.

“Chỉ đơn giản là ông ta không đủ năng lực.” Tiếng của Yasser Mu’tazz.

Ibrahim đang đứng ở ngoài hành lang bên ngoài cửa văn phòng của Chánh Riyadh, định sẽ báo cáo ngắn gọn với ông ta về hiện trường vụ án. Ông vừa vào thì nghe thấy giọng nói gay gắt và cảm giác bực tức của Mu’tazz khi nói về mình.

“Thanh tra Zahrani là một cán bộ có thâm niên hơn mười năm kinh nghiệm tại một trong những đơn vị hoạt động cam go nhất ở Jeddah này.” Riyadh đang bảo vệ ông. Quả là một bất ngờ. “Tôi biết là ông ấy chưa từng bao giờ nắm một vụ án giết người hàng loạt cả, nhưng tất cả những người khác ở cục này cũng vậy cả.”

“Tôi chỉ cho rằng ông ta chưa sẵn sàng cho vụ này.” Mu’tazz không hề nhẹ giọng chút nào hay thậm chí còn thêm vào từ thưa sếp một cách lịch sự theo phép xã giao. Rõ ràng ông ta đang vô cùng tức giận. Ibrahim hiểu vì sao. Mu’tazz có thâm niên hoạt động nhất ở Đội Trọng án và ông ta giàu kinh nghiệm hơn bất cứ ai, nhưng lại không hề có sự kết giao nào. Bố của ông ta là dân lao động nghèo ở Yemen đã dành dụm được chút tiền để mở cơ sở dệt may ở Jeddah - nhưng không nhiều đến mức được mời đến ở khu nahf của tầng lớp thượng lưu. Gia đình của Ibrahim, tuy không giàu có, nhưng là một gia đình Bedouin có quan hệ bạn bè ở các bộ ngành và đặc biệt là quan hệ thân tình với Hoàng thân Maddawi, một trong những người anh họ của nhà vua. Khi ông quyết định chuyển khỏi Đội Điệp vụ, ông lẽ ra phải làm một công việc phải đi lại rất nhiều nhưng chính Maddawi đã đảm bảo ông có được vị trí này.

“Tôi sẽ để mắt tới ông ấy.” Riyadh nói.

“Tôi đã thấy ông ta rời bãi đỗ xe hôm qua với một nữ kỹ thuật viên ở phòng thí nghiệm.” Ibrahim thấy ngực mình thắt lại.

“Tôi biết.” Riyadh nhẹ nhàng nói. Ngay từ lúc trước ông ta đã không thích cái ý tưởng đó rồi, và có vẻ lúc này còn không thích nó hơn. “Tôi cho phép việc đó vì cần thiết.”

“Bọn họ đi đâu vậy?”

“Lần theo một số đầu mối của vụ án mà buộc phải có mặt của phụ nữ.”

“Và ông ta không thể mang theo một nữ sỹ quan hay sao?”

“Không ai có mặt lúc đó cả.”

“Vậy thì một trong những nam sỹ quan?”

“Tôi cố tránh việc đưa nam sỹ quan đến phỏng vấn một phụ nữ.” Riyadh lạnh nhạt nói, “nhằm tránh những rắc rối với chính sách đạo đức của chúng ta.”

Có tiếng soạt soạt vì Riyadh đứng lên, chắc là mong muốn có thể chấm dứt cuộc hội thoại này. Ibrahim quay bước đi về phía cuối hành lang.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Dấu vân tay và phân tích DNA đã cho thấy bàn tay bị chặt đó là của Amina al-Fouad, người phụ nữ sở hữu chiếc xắc tay tìm được ở hiện trường. Họ cũng xác định bàn tay đó bị chặt khi bà còn sống.

Amina không phù hợp với các đặc điểm của những nạn nhân đã tìm được. Bà là một người nội trợ người Ả Rập Xê-út, ba mươi chín tuổi, sống ở quận Corniche với chồng và sáu đứa con. Bà chưa từng làm công việc gì bên ngoài gia đình, và mặc dù gia đình bà đủ giàu để có thể thuê hai người giúp việc nhưng Amina không hẳn là một người thích mua sắm, một thú vui mà hầu hết các phụ nữ kiểu như bà ưa thích. Bà chỉ rời nhà khi được sự cho phép rõ ràng của chồng mình.

“Bà ấy đáng ra không được phép tới trung tâm Jamjoom một mình.” Chồng bà giận giữ nhắc lại đến lần thứ năm.

Ibrahim ngồi đối diện với ông al-Fouad trong phòng khách của gia đình ông ta. Chiếc ghế sô pha trông như thể chưa được ai ngồi lên bao giờ. Mọi thứ mà ông thấy trong căn nhà này cho đến giờ khiến ông có cảm giác nó là gian triển lãm của Pottery Barn. Ông nghĩ về nhà mình, với những đồ đạc cũ rích và lối trang trí đã tồn tại cả thập kỉ nay, rồi tự thấy rằng ông thích như vậy hơn.

Al-Fouad dĩ nhiên là rất buồn. Ông ta đã thông báo vợ mình mất tích từ bảy ngày trước, vào đúng ngày bà vợ biến mất. Hiện tại ông ta đang phải day dứt với cú sốc và sự sửng sốt đến mức khó có thể giả tạo được. Ibrahim không đề cập gì tới vụ giết người hàng loạt. Bọn họ vẫn chưa tìm được mối liên hệ chắc chắn nào cả, nên cớ gì lại khiến ông chồng phải thêm lo lắng chứ? Điều khiến Ibrahim bận tâm là ý thức kiên tâm về danh dự của al-Fouad đang mỗi lúc một thêm khoa trương. Cậu con trai có tên Jamal kể với Daher rằng mẹ cậu ta đã tự bắt một chiếc tắc xi đến Jamjoon. Cậu ta nói đã nhận được thư thoại của mẹ, nhưng đã xóa nó. Jamal phải đến đón mẹ ở Jamjoon, nhưng không đến đúng giờ. Cậu ta ngờ là mẹ mình cũng đã rời Jamjoon bằng xe tắc xi.

“Ông al-Fouad.” Ibrahim nói. “Nhằm giúp chúng tôi hết khả năng có thể để tìm vợ ông, ông cần cho chúng tôi biết chính xác bà ấy đã ở đâu và làm gì. Trong những trường hợp tương tự thế này, cái chính là phải gạt bỏ vấn đề danh dự của ai đó sang bên, bởi số phận người thân yêu của ông đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc. Ông phải tin tưởng rằng chúng tôi sẽ hết sức kín đáo, và chúng tôi cũng sẽ phải tin tưởng là ông sẽ hoàn toàn nói sự thật.”

Al-Fouad vẫn không hiểu được vấn đề. Ông ta lắc đầu một cách ngoan cố và nhắc lại một lần nữa, “Đáng lẽ bà ấy không được đi…”

Để đảm bảo mình không phát điên lên, Ibrahim đành vờ ghi chép vào tập giấy của mình. Ông viết: Ông chồng là một con lừa khoa trương đần độn.

“Thôi được.” Ibrahim nói. Ông tức giận hơn mức đáng có và ông hiểu là mình đang mất dần đi tác phong chuyên nghiệp, nhưng ông không quan tâm. “Chúng tôi cần một bức ảnh của vợ ông.”

“Tôi sẽ nói với các ông những gì đã nói với cảnh sát: tôi không muốn mặt bà ấy chi chít trên các bản tin buổi tối.” al-Fouad lớn tiềng bằng giọng ngày càng chói tai.

Người đàn ông này là kiểu người gì vậy, một thứ lai giống của tộc người man dợ hay sao vậy? Làm sao ông ta có thể không làm bất cứ điều gì trong khả năng để đảm bảo người vợ đang mất tích được trở về nhà an toàn? Ibrahim thấy giận sôi người. Một kẻ xấu xa dơ dáy sẵn sàng để danh dự của mình lên trên mạng sống của vợ mình hay sao chứ?

“Đáng tiếc thay,” Ibrahim ngắt lời, “khả năng lớn nhất chúng tôi có thể tìm được vợ ông lúc này đòi hỏi việc công khai khuôn mặt của bà ấy đến càng nhiều người càng tốt. Sẽ có ai đó đã thấy bà ấy. Và người đó sẽ gọi cho chúng tôi. Và nhờ vào lòng tốt của những người dân Hồi giáo của chúng ta, có khả năng đưa bà ấy sống sót về nhà. Nhưng chỉ với điều kiện chúng tôi có được ảnh của bà ấy.”

Al-Fouad trông như thể ông ta sắp nhảy chồm qua chiếc ghế sô pha.

Những lời tiếp theo của Ibrahim còn được nói bằng sự giận giữ còn điên cuồng hơn cả sự tức giận của al-Fouad. “Chúng tôi cũng cần một bức ảnh chụp toàn thân của vợ ông nữa.”

“Sao kia?”

“Chúng tôi cần thấy toàn bộ dáng người của bà ấy, tốt nhất là trong chiếc áo trùm, bởi đôi khi phụ nữ ở những nơi công cộng, không để lộ mặt, chính vì vậy người ta thường để ý dáng người của họ. Tôi sẽ cho ông năm phút để quyết định về việc những bức ảnh đó hoặc chính tôi sẽ bắt giữ ông.”

Al-Fouad tái mặt và run lẩy bẩy. Ông ta nhổm dậy khỏi ghế sô pha và bước ra khỏi phòng.

Năm phút sau, Ibrahim đứng bên ngoài cửa nhà ai-Fouad đưa lại bức ảnh cho Daher.

“Chuyển chúng tới các cơ quan truyền thông.” Ông nói. “Không nhắc gì tới vụ giết người hàng loạt hết, chỉ nói rằng người phụ nữ này đang mất tích.”

“Ông không định làm rõ việc này với Riyadh sao?” Daher hỏi.

“Cứ làm đi.”

Daher trông có vẻ sợ sệt khi bước đi. Ibrahim cảm thấy run rẩy. Ông ngồi xuống bậc thềm cao nhất và cố gằng một cách tuyệt vọng để không nghĩ về Sabria và tất cả những gì đáng lý ra phải làm lúc này để tìm được cô, nhưng vô ích khi né tránh sự thật rằng sự giận dữ của ông không hoàn toàn vì al-Fouad.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Những ngày tiếp sau đó thật khó nhọc. Vụ giết người hàng loạt - hay vụ Thiên sứ, cái tên đã được dùng để nhắc đến nó - là ưu tiên hàng đầu. Điều này có nghĩa là mỗi một bằng chứng đáng kể nào, mỗi một cuộc phỏng vấn hay gặp mặt quan trọng nào, đều được những người đàn ông thực hiện. Và cũng có nghĩa là Katya, với nhiệm vụ tại phòng thí nghiệm ở tầng trên, phải làm những thứ việc lặt vặt nhất, mà một lần nữa không hề được biết chúng có liên quan gì tới vụ án đó. Nó chỉ hiểu như là “Cho tôi kết quả kiểm tra DNA của mẫu máu này” và “Cho tôi biết loại sợi vải này là loại nào” trong khi quần áo vẫn ở trong phòng thí nghiệm của Majdi ở tầng dưới, và những thi thể có mẫu máu cần kiểm tra lại vẫn nằm trong khu nhà lạnh chật cứng.

Cô có cảm giác mình là một người lính xây kim tự tháp vậy, một nô lệ đang đây hòn đá tảng khổng lổ băng qua sa mạc, không bao giờ được nhìn thấy công trình vĩ đại được dự định xây là như thế nào. Không ai có thời gian để đứng lại và giải thích mọi việc, nhất là những phụ nữ làm việc trong đội pháp y. Cô được nghe lại, không trục tiếp từ Majdi, người đã kiệt sức vì khối lượng công việc, rằng các sĩ quan đang điều tra tất cả các công ty taxi trong thành phố. Bọn họ đã nghĩ đến khả năng hung thủ là lái xe, nhưng lý do tại sao thì cô chỉ có thể phỏng đoán. Mối liên hệ mong manh duy nhất của cô tới những diễn tiến của vụ án chính là Ibrahim, nhưng ông lại quá bận bịu.

Hằng ngày cô dành ra một ít thời gian để xử lý những bằng chứng có được từ căn hộ của Sabria. Việc này khó hơn cô tưởng bởi cô phải ngụy tạo nó như thể một vụ án hư cấu. Trong khi đó cô vẫn phải làm việc một cách mẫn cán cho vụ Thiên sứ, vụ duy nhất tại thời điểm này mà bọn họ được phép tham gia, và chính vì vậy cô buộc phải dùng mánh khóe để che mắt về những hồ sơ không được ghi tên, cảnh giác để mắt tới máy móc trong phòng, và thậm chí trắng trợn nói dối các kỹ thuật viên khác trong phòng thí nghiệm đang có vẻ cảm thấy cô che giấu điểu gì đó. Qua những bằng chứng thu thập được ở căn hộ của Sabria, thì không có phát hiện gì đáng kể. Cô vẫn đang chờ các kết quả kiểm tra DNA mẫu máu cô lấy từ chiếc đinh ở hành lang.

Cô sẽ đánh đổi bất cứ điều gì để có lý do xuống phòng làm việc của Ibrahim, và đã có một hoặc hai lần cô đi qua, hy vọng sẽ tình cờ gặp ông nhưng chưa lần nào ông có ở đó. Cô không muốn gọi cho ông cho đến khi có được tin gì đấy. Katya trước đây có thể sẽ lấy hết dũng khí và bất kể thế nào cũng xuống tầng dưới, nhưng bây giờ có đến hai chướng ngại vật cản bước, đó là Daher, ngưòi luôn có phản ứng mỗi khi trông thấy cô và vụ án này là một vụ vô cùng quan trọng vẫn thu hút các đại diện của văn phòng thị trưởng và của bộ nữa. Trên hết, việc đính hôn với Nayir đã bắt đầu khiến cô hoảng hốt vì những thứ nhỏ nhặt nhất. Cô không chắc đó chỉ đơn giản là việc cô lo sợ Nayir sẽ phát hiện ra cô đã tiếp xúc với đàn ông lạ mặt nhiều đến mức nào, hay là sự lo lắng ngày càng lớn dần trong cô, một nỗi sợ hãi tự thân đối với toàn bộ tình huống này, kết hôn với một người đàn ông vẫn có gì đó bí hiểm, lại trong một hoàn cảnh không tốt chút nào.

Bố cô đã vui mừng khôn xiết khi cô nói đã chấp nhận lời cầu hôn. Ông ngay lập tức đi khoe với bạn bè, và không lâu sau thì cô nhận được các món quà. Ông mang chúng về nhà sau những đêm dài ở quán café. Một chiếc vòng vàng đeo tay tính tế từ Qasim. Một túi trà Ấn Độ loại ngon và một chiếc ầm pha trà của Anh chính hiệu từ Awad Mawjid. Một bản kinh Koran bọc da trang nhã từ Imam Munif. Những món quà khiên bố cô vui hơn bất cứ ai khác, và ông đi đâu cũng rạng ngời niềm tự hào và rộng lòng với thằng cháu Ayman hơn qua việc cho phép cậu ta được lấy xe ô-tô bất cứ lúc nào muốn. Thật thích khi được ở bên Abu khi ông đang ở trong tâm trạng như vậy, nhưng nó cũng khiến cô ngày càng lo lắng về hôn nhân của mình khi ở chỗ làm. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô và Nayir không thể dung hòa được những điểm khác biệt? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Nayir, chỉ vì quá yêu cô nên mới nói họ sẽ cùng nhau tìm cách tháo gõ mọi chuyện không? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh trở thành một vị thủ lĩnh Hổi giáo già nua rậm râu nào đó, một người sẽ không bao giờ thực sự thay đổi những suy nghĩ khắt khe về việc hành xử đúng mực của phụ nữ? Và tất cả những chuyện đó sẽ ảnh hưởng thế nào tới người cha già của cô đây?

Giữa chừng những lo lắng đó, cô đột nhiên bật ra một ý tưởng cho tình thế tiến thoái lưỡng nan của cô với Ibrahim. Cô gọi điện thoại đi động cho ông nhưng ông không nghe máy, vì vậy cô để lại lời nhắn giải thích tại sao cô cần một bức ảnh toàn thân của Sabria, tốt nhất là trong áo trùm. Ông có thể gửi thư điện tử cho cô hoặc để ảnh trên bàn làm việc của cô. Điện thoại của ông cắt phụt trước khi cô có thể giải thích tại sao cô cần bức ảnh, và cô ngại không gọi lại vì sợ ông nghĩ cô làm phiền mình.

Bực mình, cô nhét điện thoại trở lại túi xách.

Có chút khuây khỏa khi Charlie Becker bước vào phòng thí nghiệm, mái tóc đỏ nâu đung đưa như tiếng cười lả lơi. Những phụ nữ khác chằm chằm nhìn Charlie, nhưng Katya đứng dậy và lên tiếng chào, vì chỗ làm việc của cô gần cửa nhất.

Charlie chào đáp lại và bước đến bên bàn làm việc của cô, rồi ghé người vào gần để thì thẩm nói. “Tôi ở đây gần như cả ngày để giải đáp các câu hỏi, nhưng đến giờ ăn trưa rồi và tôi đang tự hỏi liệu cô có thể chỉ cho tôi chỗ an toàn để dùng bữa không.”

“Một chỗ an toàn?” Katya hỏi lại. Tiêng Anh của cô là nhờ những khóa học ở trường đại học và gần đây hơn là nhờ kho lưu trữ phim cấm của em họ. Cô hiểu Charlie nói gì, mặc dù cô có xu hướng hiểu tất cả các từ theo nghĩa đen.

“Cô biết đây,” Charlie nói, “một chỗ mà cánh đàn ông không thể dòm ngó khi tôi ăn.”

“À.” Katya gật đầu và đứng lên, vơ vội chiếc túi xách trên quầy rồi ra hiệu cho Charlie ra ngoài. “Tôi biết một chỗ an toàn đây.”

Vẫn có cảm giác run run khi rời khỏi toàn nhà, tuy là đi cùng một người Mỹ vụng về, ngưòi đã khiến cho Katya vừa phải rín nhịn một cách khổ sở vừa ngượng ngùng bày tỏ mình khi lần đầu tiên họ chạm mặt trong phòng họp. Giờ thì Katya lại thấy lo lắng là tiếng Anh của mình nghe có vẻ như trong phim hạng B.

Bọn họ dừng lại ở quán Cilantro's gần cửa hàng thời trang Le Château. Charlie thấy bối rối khi cả hai phải đi vào quán bằng lối cửa sau dành riêng cho phụ nữ, rồi lại phải chen chúc trong chiếc thang máy bé xíu để lên tầng hai là khu vực dành cho gia đình, nơi phụ nữ được phép dùng bữa mà không có đàn ông. Khi bọn họ chọn được chỗ ngồi trong góc yên tĩnh gần một bức tường bằng đá phiên xấu xí nhưng trông có vẻ hiện đại, Charlie thở dài với vẻ bàng hoàng rồi ngồi xuống. Katya hơi bất ngờ khi thấy cô có vẻ buồn rầu.

“Tôi lấy làm tiếc là không nói được tiếng Ả Rập” Charlie nói. “Có nhiều điều tôi ước gì mình nói được ngay với cô lúc này.”

“Cô cứ nói bằng tiếng Anh là được mà.” Katya lóng ngóng nói.

“Được, vậy thì, tôi mong là điều này không khiến cô thấy bị xúc phạm, nhưng làm sao cô chịu đựng được công việc ở một nơi như vậy nhỉ? Cánh đàn ông y như những con thú vậy!”

Katya lịch sự mỉm cười. “Đó là vì cô không đeo mạng che mặt.”

“Tôi hiểu chứ!” Charlie ngồi ngả về trước. “Đồ chính là điều khiến tôi bận tâm, thực lòng đấy. Ở đây tôi đã thấy vài phụ nữ phương Tây trên phố, và họ không đeo mạng che.”

“Cánh đàn ông ở văn phòng lúc nào cũng mời tôi ra ngoài.” Charlie nói. “Ý tôi là, tôi tưởng đây là một quốc gia luôn để tâm đến vấn đề phẩm giá kia. Những kiểu mồi chài trắng trợn đó khiến tôi ngạc nhiên. Thật khó làm được việc gì khi mà bất cứ lúc chết tiệt nào cô cũng phải đề phòng những vấn đề tình dục. Tôi xin lỗi, tôi không có ý chỉ trích. Chỉ là - tôi ngán ngẩm điều này lắm rồi.”

Người phục vụ đến và họ gọi bánh mỳ kẹp Reuben. Katya bắt đầu băn khoăn liệu cô có chịu đựng nổi việc người phụ nữ này phàn nàn bằng tiếng Anh suốt cả bữa ăn hay không. Cô cảm thấy mình đang ở thế phòng thủ mất rồi.

“Hãy nói không.” Katya nói. “Họ sẽ để cô được yên.”

“Đúng vậy.” Charlie vừa nói vừa thở dài. “Ơn Chúa là bọn họ quá bận bịu với việc truy tìm tay lái xe taxi.”

“Lái xe taxi?”

“Một tài xế taxi – chắc cô cũng biết việc họ đang điều tra các công ty taxi chứ?”

Katya ngập ngừng gật đầu.

“Bọn họ không cho cô biết sao? Trời đất ơi.” Charlie nháp một ngụm nước. “Chuyện là thế này, trước tiên, người Bedouin tìm dấu vết đã nói với Thanh tra Zahrani từ hai tuần trước rằng tên sát nhân sử dụng chân phải nhiều hơn chân trái và có khả năng hắn lái ô-tô, có thể là để kiếm sống. Ý tôi là, hầu hết đàn ông lái xe, nhưng có vẻ đặc điểm này khá khác biệt. Do đó bọn họ cho rằng hung thủ có thể là tài xế taxi, và bắt đầu điều tra. Sau đó thì phát hiện ra việc Amina al- Fouad đã lên taxi khi bà ta mat tích. Giờ thì bọn họ đang rất hào hứng điều tra các tài xế taxi.”

Katya rất vui. Cô nhận thấy mình hiểu được hầu hết những gì Charlie nói, và tất nhiên Charlie biết mọi tình tiết của vụ án. Mà lại chỉ có cô ở đây cùng Charlie ít nhất một giờ nữa.

“Nhiều khả năng hung thủ là tài xế taxi.” Charlie nói. “Ở đây thì dường như đó là cách duy nhất đàn ông có thể tiếp cận phụ nữ.”

Katya gật đầu. “Chuyện vẫn thường xảy ra như vậy.” Cô nói.

“Ý cô là sao?”

“Phụ nữ vào taxi bị bắt cóc.” Katya đáp. Cô muôn kể cho Charlie nghe về người đàn ông đã đến Sở tháng trước vì vợ anh ta bị bắt cóc. Anh ta và vợ vào taxi còn tay tài xế thì kêu ca là không chạy được. Tay tài xế đó đề nghị anh ta ra ngoài và đẩy xe giúp hắn, và khi anh ta làm vậy thì hắn nhảy lại vào trong xe rồi lái người vợ đi mất giống như một tay cướp người Bedouin dạo trước đã trôi vào quên lãng.

Charlie trông khiếp đảm. “Làm thế nào mà cô đi chỗ này chỗ kia nếu không tin được cánh tài xế taxi chứ?”

“Em họ tôi đưa tôi đi.” Katya nói. “Và thỉnh thoảng một người bạn của bố tôi cũng chở giúp.”

Họ im lặng một lúc.

“Tôi có thể hỏi cô về vụ án đó được không?” Katya nói.

“Được chứ!” Charlie đáp.

“Cô đã nói về thứ vật tế. Chúng tôi nghĩ đó chính là những bàn tay “

“Đúng rồi. Những bàn tay bị chặt.”

“Cô nghĩ điều đó có nghĩa gì?” Katya hỏi. “Hắn chỉ giữ vài bàn tay trong số đó thôi sao?”

Charlie có vẻ bớt căng thẳng hơn và mỉm cười với cô một cách ranh mãnh. “Cô biết không, chưa ai đặt cho tôi câu hỏi đó cả. Ý tôi là, bọn họ hỏi đủ thứ về những vật tế, nhưng không muốn hỏi ý kiến của tôi. Tôi đã nghĩ về vân đề này. Nói chung thì vật tế là một thứ gợi nhớ hữu hình về vụ giết người. Nó giống như một vật lưu niệm, ngoài trừ việc tên sát nhân có thể chọn bất cứ vật lưu niệm nào. Tôi không rõ tại sao hắn ta chi chôn có ba bàn tay ở khu mộ đó. Câu hỏi thực sự, theo tôi nghĩ, phải là tại sao hắn ta lại chặt những bàn tay đó? Bàn tay có ý nghĩa gì?”

Katya nhún vai, không chắc cô phải trình bày ý kiến bằng tiếng Anh thế nào.

“Dựa vào kinh nghiệm đã có,” Charlie nói tiếp, “tôi sẽ phỏng đoán là bàn tay vì lý do nào đây có mối liên quan tới một tổn thương. Một trong những lý thuyết tâm thần học về mộng tưởng là tất cả những mộng tưởng - nhưng nhất là những loại có liên quan đến tình dục - thực chất là cách mà con người ta đối mặt với những ảnh hưởng của một tổn thương. Cô có theo kịp những gì tôi nói không?”

“Có.”

“Thí dụ như, tôi từng có một bệnh nhân tâm thần khi còn nhỏ đã rất ghét mẹ người bạn thân. Bà ta lúc nào cũng nghiệt ngã với anh ta và có vẻ nghĩ rằng anh ta quá nghèo và ngốc nghếch đến mức không thể chơi với con trai bà ta được. Rốt cuộc là bà ta buộc họ phải chấm dứt tình bạn đó. Thời điểm đó đối với bệnh nhân của tôi là một nỗi đau khổ khôn cùng. Nhiều năm sau, anh ta trở nên bị ám ảnh - hiện thời mắc chứng rối loạn lâm sàng như vậy là hơi cực đoan - anh ta bị ám ảnh bởi một mộng tưởng tinh dục là anh ta ngủ với một người đàn ông có vẻ ngoài và hành động rất giống với ngưòi cha của bạn anh ta thuở niên thiếu. Và mộng tưởng đó luôn có sự xuất hiện của bà mẹ xô cửa vào và phát hiện ra chồng mình là đồng tính nam rổi bà ta tức giận, hoặc bị cuôn vào cuộc chơi đó như một kẻ phục tùng. Tôi xin lỗi, tôi có thể thấy là cô không hoàn toàn theo kịp câu chuyện.”

“Không, tôi hiểu được.” Katya nói. “Mộng tưởng là để nhằm hàn gắn những nỗi đau của một điều rất tệ, có thể là từ thời thơ ấu của người ta.”

“Chính xác. Như vậy là một phần mộng tưởng của tên sát nhân này có liên quan đến việc lấy đi những đôi tay của phụ nữ. Những đôi tay đó cực kỳ quan trọng đối với hắn, như vậy, nó chính là lý do. Có thể hắn bị mất một bàn tay. Có thể ai đó bị thương tật ở bàn tay đã bức hại hắn. Có thể là bất cứ lý do nào tương tự thế. Tôi đã gợi ý cho Thanh tra Zahrani tìm những tội phạm có thương tật ở bàn tay trong hồ sơ y tế. Còn phải nỗ lực nhiều nữa, nhưng theo kinh nghiệm của tôi, để bắt được một tên giết người hàng loạt có thể mất đến hàng tháng, hàng năm. Cô càng có nhiều thời gian thì cơ hội để bắt được hắn ta càng lớn. Tôi thấy cô có điều gì muốn nói.”

“Vâng” Katya nói. Bánh kẹp đã được mang tới, và họ bắt đầu ăn. “Ở Ả Rập Xê-út, khi ai đó bị chặt một bàn tay có nghĩa đó là kẻ trộm.”

Charlie đang nhai bỗng có phần chững lại, vẻ sửng sốt hiện rõ trên nét mặt cô. “Cô biết đây, tôi biết điều đó, tôi chỉ không... Chúa ơi, tôi thật ngu ngốc. Dĩ nhiên rồi. Đó chính là hình phạt đối với kẻ trộm. Vậy có thế tên giết người cảm thấy phải trừng phạt các nạn nhân. Có thể hắn nghĩ họ là những tên trộm.”

“Và còn hơn thế?” Katya nói.

“Ý cô là sao?”

“Ở Ả Rập Xê-út, khi hành hình một phụ nữ, người ta không chặt đầu cô ta. Họ sẽ bắn cô ta từ sau gáy.”

“Thật vậy sao?”

“Vâng. Nếu họ chặt đầu, cái đầu có thể lăn ra và áo trùm bị tụt xuống, và người ta sẽ trông thấy mặt cô ta. Chính vì vậy họ sẽ bắn. Đôi khi họ cho người phụ nữ đó quyền lựa chọn.”

“Lạy Chúa tôi.” Charlie đặt chiếc bánh kẹp xuống. “Như vậy là tất cả chuyện này có thể liên quan tới mộng tưởng của một tên đao phủ.”

“Có lẽ vậy.” Katya nói. “Tên giết người nghĩ rằng hắn giống như một tên đao phủ. Nhưng làm thế nào mà điều đó giúp chúng tôi tìm ra hắn được?”

“Thực ra thì,” Charlie nói, “có thế một người thân của hắn hoặc người nào đó hắn yêu quý đã bị hành hình một cách bất công. Có thể sẽ hữu ích nếu xem xét các hồ sơ hành quyết. Cô có giữ chúng không?”

“Chúng ta có thể mượn được.” Katya vui vẻ nói. “Nhưng còn bàn tay trên phố Falasteen, của Amina al-Fouad. Nó không giống với những nạn nhân khác. Cô có cho rằng hung thủ cũng chính là tên sát nhân Thiên sứ đó không?”

“Cô gọi hắn là gì cơ?”

“Tên sát nhân Thiên sứ.” Giờ thì đến lượt Katya ngạc nhiên. Tại sao Charlie biết hết mọi chuyện mà lại không biết chuyện này nhỉ? Cô giải thích bằng khả năng cô có thể về mười chín cái xác và tầm quan trọng của con số mười chín trong kinh Koran.

Charlie ngừng ăn và lắng nghe một cách chăm chú. “Như vậy chỉ dựa trên thực tế là có mười chín cái xác, cô cho rằng tên sát nhân hình dung hắn là thiên sứ của sự báo thù - một trong những thiên sứ gác cửa Địa ngục. Và hắn đang trừng phạt những ai đáng phải xuống Địa ngục?”

“Đúng vậy.” Katya nói. “Đại loại như thế”

“Như vậy là, nó phù hợp với mộng tưởng về sự hành hình. Những ý niệm tôn giáo cũng là động cơ của một số tên giết người hàng loạt Có lẽ cô nên tìm những kẻ theo đạo giáo chính thông.”

“Điều đó sẽ giúp khoanh vùng đối tượng.” Katya nói. Charlie cười phá lên, nhưng Katya không cho rằng chuyện đó có gì là buồn cười. Charlie dường như nhận ra và không cười nữa.

“Hầu hết những tên giết người hàng loạt nhìn bên ngoài không có vẻ gì điên rồ cả.” Charlie nói. “Thực ra, chúng trông như những người bình thường khác, thậm chí dễ nhìn hơn. Chúng dành khá nhiều thời gian đế cố gắng trà trộn với mọi người.” Cô lại cầm chiếc bánh kẹp lên. “Đúng như cô hỏi, tôi có cho rằng bàn tay bị chặt đó có liên quan đến tên sát nhân Thiên sứ.”

“Nhưng hắn chưa bao giờ chặt tay phụ nữ khi người đó còn sống cả. Và trước đó hắn cũng chưa bao giờ vứt bỏ bàn tay nào trong thành phố hết. Và rõ ràng hắn bỏ lại cả chiếc xắc tay ở đó để chúng tôi nhận diện được bà ta.”

“Đúng vậy. Vụ này có khác biệt. Có lẽ có điều gì đó đã châm ngòi nó, và theo hình dung của tôi đó chính là việc các cô đã phát hiện ra và di dời những cái xác đó khỏi địa điểm chôn cât. Nói cách khác, thì những cái xác cũng chính là chiến lợi phẩm của hắn.”

“Nếu cô nghĩ về vụ này theo cách mộng tưởng,” Charlie nói tiếp, “thì bàn tay trên phố Falasteen có thể là bước tiên về kỹ thuật của hắn. Hầu hết kỹ thuật của những tên giết người hàng loạt có sự tiến hóa. Chúng trở nên thành thục đến mức có thể áp dụng các kỹ thuật đó một cách hoàn hảo. Chúng biết làm thế nào để bắt người, làm thế nào để họ sống sót, làm thế nào để kéo dài nhục hình. Chúng biết cách để không bị bắt. Đó chính là điều khiến chúng trở nên vô cùng nguy hiểm. Nhưng chúng cũng có thể chán ngay việc làm quá tốt, và muốn thứ gì đó khơi dậy sự chú ý hơn. Do đó chúng đổi cách làm.”

“Cô có nghĩ hắn sẽ giết Amina không?” Katya hỏi.

Nét mặt Charlie căng thẳng. “Có. Hắn đã trở nên liều lĩnh đến mức vứt bỏ bàn tay của bà ta ở nơi công cộng và mạo hiểm thu hút sự chú ý. Nhưng hiện tại các cô có một lợi thế. Đối với những tên giết người hàng loạt có tính tổ chức như hắn, nó chính là sự cẩu thả để khai thác. Hắn có thể đã để lại vài bằng chứng. Cô tìm được gì chưa?”

“Tôi không biết nữa.” Katya nói. “Tôi chi chạy các mẫu. Bọn họ không cho tôi biết nó có ý nghĩa gì.”

Charlie nhìn cô dò xét. “Tôi sẽ cố tìm hiểu xem sao.”

Katya mỉm cười.

“Trong khi chờ đợi,” Charlie nói, “với một kẻ có tổ chức như tên này, hẳn sẽ có các quy luật.”

Trên đường trở lại văn phòng, Katya kiểm tra điện thoại và hài lòng khi thấy Ibrahim đã gửi ba bức ảnh toàn thân của Sabria mặc áo trùm, cùng lời nhắn Cảm ơn cô. Cô chào tạm biệt Charlie ở lối vào tòa nhà và ngay lập tức bắt taxi đến trung tâm thương mại. Trước khi lên xe, cô xem xét tài xế một cách cẩn thận và người đàn ông mà cô thấy chắc chắn là một người Pakistan trung niên vui vẻ, có cái bụng phệ, đã ân cần mở cửa xe cho cô và vặn nhỏ tiếng nhạc khi cô vào xe.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


“Chúng tôi không chạm vào phụ nữ.” Đó là tiếng Abu-Musa, kiểm soát viên trưởng về y tế, người đang đứng trong khư vực nhà xác cùng Sĩ quan Chỉ huy Mu'tazz. Abu-Musa có đôi mắt nâu như đầm lầy và sự im lặng lạnh lùng. Chiếc quần kiểu du kích thời chiến với túi hộp xệ xuống xộc xệch do nhiều năm đựng cuốn kinh Koran bỏ túi. Đôi vai và hai bàn tay thì vĩ đại, thuộc loại có thể siết chặt bất cứ thứ gì.

“Vậy ông chỉ có một phụ nữ lo việc cho mười chín cái xác sao?” Ibrahim hỏi với giọng cố ý khiêu khích và cố gắng lớn tiếng để dọa nạt họ thoát khỏi cái ảo tưởng tự cho mình là đoan chính.

“Cô ấy đang thực hiện phận sự.” Abu-Musa nói với vẻ dọa dẫm, như một người đàn ông đang bảo vệ vợ mình.

“Tên này đang giết phụ nữ.” Ibrahim lớn tiếng lại. “Ông không thể đòi chúng tôi bắt hắn mà không biết gì về các sự việc được. Và chúng tôi càng sớm có được các thông tin đó thì càng có khả năng ngăn chặn hắn tiếp tục ra tay.”

“Vậy hãy bắt đầu tìm kiếm những người ngoại quốc xem, đó là những kẻ có khả năng giết những phụ nữ đó.”

Ibrahim phẫn nộ.

“Ông vẫn chưa thử khả năng đó, đúng không?” Abu-Musa nói. “Nhưng có trời mới biết tại sao một tên ngoại quốc lại giết người ở đấy chứ? Có thể đó là vì cả ba tên giết người hàng loạt trước đấy đều là người ngoại quốc chăng?”

“Chúng tôi phải nhận dạng các thi thể.” Ibrahim lạnh lùng nói. “Đó là cơ hội tốt nhất để tìm được kẻ đó.”

“Ông đã có những bản phác họa khuôn mặt của họ rồi.”

“Chúng tôi cần tất cả những bằng chứng pháp y lấy từ các thi thể đó. Và chúng tôi cần ngay bấy giờ.”

“Ông sẽ có khi nào nó được hoàn chỉnh.”

Và giờ là thái độ vênh váo nữa, Ibrahim nghĩ.

“Nếu những giá trị đạo đức không đứng vững trong lúc khó khăn,” Abu-Musa nói, “thì chúng không đáng là rác rưởi”

Có thể thế lắm, Ibrahim muốn đáp lời, nhưng ông thấy rõ mình đang phải đối mặt với cái gì. Đã có hai người đàn ông bắt đầu nghi ngờ ông về sự không đứng đắn, và cuộc hội thoại này sẽ chỉ làm mọi việc tồi tệ hơn mà thôi.

Ông quay trở lại phòng họp. Căn phòng không một bóng người, đã cuối ngày rồi. Một buổi tối thứ Tư mát dịu. Ngày mai là cuối tuần. Mọi người sẽ ra ngoài cùng bạn bè, đi cắm trại với gia đình trên phố Comiche, có lẽ sẽ vờ như không có tên sát nhân nào đang lẩn quất trong mê cung đó. Ông đến bên chiếc bảng trắng và bắt đầu gỡ từng bức ảnh xuống, không phải là giận cá chém thớt đối với Abu-Musa mà vì ông không muốn nhìn chằm chằm vào họ nữa. Những khuôn mặt bị tàn phá một cách tàn bạo đó có ẩn chứa những dấu vết của Sabria. Một con mắt. Một gò má. Lý trí của ông hiểu rằng đó chỉ là do góc nhìn, nhưng adrenaline (1) lại chứng minh với ông rằng cơ thể ông không hiểu như vậy.

(1) Hormone của tuyến thượng thận, có nhiệm vụ điều hòa hoạt động thần kinh, tăng sức mạnh cơ bắp, tiết ra nhiều khi hoảng sợ. Căng thẳng.

Ông trở lại căn hộ của cô, như hằng đêm ông vẫn làm từ khi cô mất tích, gần như điên cuồng mong chờ rằng cô đã về nhà. Trước khi nỗi thất vọng thực sự làm tan nát cõi lòng, ông lại vội vã bỏ đi và lái xe quẩn quanh trong thành phố, hòa vào dòng xe kẹt tắc buổi chiều tối và cố không nhìn chằm chằm vào những phụ nữ bên hè đường.

Ông thường nhớ những kỷ niệm với Sabria khi ông đưa cô tới nơi nào đó mà ông quen thuộc và cố gắng sẻ chia những hiểu biết của mình về nơi đó, cô thường trở nên căng thẳng và dè dặt. Có những lúc dường như cô cảm thấy bị đe dọa bởi sự hiểu biết về thành phố này của ông. Phải mất một thời gian khá dài cô mới chịu thừa nhận rằng cô tức giận vì điều này. Không phải vì ông, mà vì tình cảnh đó. Lý do duy nhất cô không có được sự hiểu biết như vậy chỉ là vì cô không được tự do đi lại như ông. Ngay cả khi thực hiện những công việc bí mật, cô dành hầu hết thời gian để hoàn thành vai trò của một người giúp việc, cố gắng hết sức để hòa hợp một cách nhuần nhuyễn với thế giới xung quanh cô, điều đó nghĩa là phải hành xử như hầu hết những phụ nữ khác.

Ông bắt đầu chỉ đưa cô lui tới một số ít nơi nhiều lần. Những nơi an toàn, như nhà thờ nổi và bãi biển tư nhân xuôi theo bờ biển nơi không ai có thể thấy họ. Ông đã mong muốn biết bao nhiêu được đưa cô tới những nơi khác nữa trong thành phố! Bảo tàng Thành phố al-Tayibat và phố Rayhanat al-Jazeera để thấy lịch sử trải dài của thành phố được sắp đặt trong ba trăm căn phòng. Hoặc tới Khayyam al-Rabie để thỏa mãn tính hảo ngọt của cô. Hay tới Yildilar để tận hưởng một bữa tối lãng mạn mà ông luôn mong muốn một cách vô vọng được mời cô. Nhưng sự sợ hãi bị phát hiện còn lớn hơn khát khao đó.

Đó cũng chính là ý định phía sau lời yêu cầu của Katya về một bức ảnh toàn thân của Sabria trong chiếc áo trùm và khăn quàng, ông đã ngẫm ra điều này. Có thể không ai ở khu mua sắm dành cho phụ nữ đó nhận ra bức ảnh của Sabria bởi họ không để ý nhiều lắm đến khuôn mặt cô. Nhưng họ có thể nhận ra dáng người cô.

Ông rất muốn nói với Katya rằng ông hiểu chính xác điều cô đang làm. Đó là điều ông đã trải qua nhiều lần từ khi còn là một đứa trẻ, nhỏ bé, sợ hãi khi chạy qua các khu chợ và khu mua sắm, lúc nào cũng hoảng hốt sợ bị lạc mẹ, người mẹ luôn mặc áo trùm và không mấy trìu mến của ông. Bà có dáng người giống với nhiều phụ nữ khác, ông đã sớm nhận ra điều đò, và bà lúc nào cũng che kín toàn bộ khuôn mặt, còn trên người là chiếc áo trùm che kín cả mắt cá chân lẫn đôi giày, khiến ông trở nên bé nhỏ khi lẽo đẽo theo sau. Bà di chuyển qua đám đông rất nhanh, như thể sợ bị người ta trông thấy, sợ bị kẹt lại ở nơi nào đó. Omar thì luôn thấy thoải mái chạy nhảy lung tung. Nếu cậu không tìm thấy mẹ thì cậu cũng chẳng hốt hoảng làm gì. Cậu tự lập và nhanh nhẹn giống bà. Còn Ibrahim thì bao năm trời đều gặp ác mộng bị lạc mẹ ở chợ. Ông bắt đẩu đế ý đến những thứ nhỏ nhặt nhất. Đến lần thứ bảy thì ông nhận ra được đường cong của bờ vai mẹ khác với những phụ nữ khác thế nào - bà có dáng lưng nghiêng nghiêng và đôi vai tròn đến buồn cười mà lại hơi gầy nữa. Có lẽ đó là lý do Farrah có vấn đề với cái lưng của mình. Ông để ý đến hình dáng đầu của mẹ, từng chi tiết của những chiếc kẹp trên khăn choàng đầu của bà - lúc nào cũng được quấn theo cách ấy, những chiếc kẹp an toàn màu đen giản dị xung quanh đỉnh đầu của bà. Ông hiểu cách đi của bà: những bước chân thoăn thoắt, dứt khoát. Ông bắt đầu quen thuộc với dáng người của mẹ đến mức thỉnh thoảng bà đến đón ông sau giờ học, ông nhận ra mẹ trong đám đông từ cách đó năm mươi mét.

Khi Katya gọi thì cũng là lúc ông đang trên đường về nhà.

“Tôi mừng vì cô đã gọi.” Ông nói. “Muộn rồi nên tôi không chắc có thích hợp khi phiền cô hay không.”

“Tôi đã phát hiện ra một điều rất thú vị.” Cô nói. “Mặc dù tôi không chắc nó có ích gì không.”

“Cô cứ nói.”

“Một phụ nữ làm việc tại quán café ở khu mua sắm đã nhận ra cô ấy ngay tức thì qua bức ảnh. Cô ta nói Sabria thường ngồi ở quán đó và gặp gỡ những phụ nữ khác. Bọn họ hay nói chuyện một lúc, rồi người bạn kia sẽ đi.”

“Lúc nào cũng là người bạn đó à?”

“Không, một số ít người khác nhau. Cô ta cũng nói Sabria luôn vào buồng vệ sinh. Lúc đầu thì cô ta cứ nghĩ vì cô ấy uống nhiều cà phê quá, nhưng sau một hổi thì cô ta để ý thấy những người bạn này cũng đi cùng cô ấy và họ ở trong đó rất lâu - dù sao cũng lâu hơn mức bình thường.”

“Cô ta có biết họ nói chuyện gì với nhau không?” Ông hỏi.

“Không, nhưng cô ta nói có vẻ như chuyện rất quan trọng. Trông họ chẳng bao giờ vui vẻ cả. Và ngoài cà phê thì Sabria không bao giờ mua sắm gì hết.”

“Như vậy rõ ràng là có điều gì đó kỳ lạ đang xảy ra.” Ông nói. “Khi nào thì cô nhân viên của quán đó để ý đến những việc ấy?”

“Cô ta nói cũng phải một thời gian. Sabria thường che mặt, và cô nhân viên chỉ nhận ra cô ấy qua dáng người. Cô ta cũng lờ mờ thấy mặt Sabria một hai lần gì đó. Sabria để khăn trùm mặt, có vẻ là người vô cùng e lệ, không muốn ai nhìn, nên cô nhân viên đó không chăm chăm để ý đến cô ấy.”

“Và cô ta chắc đó chính là cô ấy chứ?”

“Tôi cho cô ta xem bức ảnh chụp gương mặt Sabria, và cô ta có vẻ khá chắc chắn hai người đó là một.”

“Được rồi.” Ibrahim vừa nói vừa nghĩ. “Như vậy là cô ấy có đến khu mua sắm đó.”

“Vâng, có vẻ là vậy.”

“Và gặp gỡ một số phụ nữ nữa.”

“Một vài người là người Philippines. Cô nhân viên nói trông họ nghèo khổ hơn những người mua sắm hạng trung, và Sabria luôn trả tiền cà phê cho họ.”

“Những người giúp việc.”

“Ông có biết ai trong số bạn của cô ấy à?”

“Không.” Ông đáp. “Ngoại trừ những người láng giềng. Cô ấy không...” Nói bất cứ gì về chuyện này với tôi cả.

Như vậy là Sabria đã nói dối về việc làm ở khu mua sắm, nhưng dù sao thì cô ấy cũng có đến đó, gặp gỡ những người bạn mà không bao giờ nhắc gì về họ cả. Có vẻ không có gì là bất chính như chuyện kể lại. Có thể cô ấy chỉ giúp đỡ họ thôi.

“Còn chuyện này nữa.” Katya nói. “Nhưng không phải về Sabria, mà là về vụ Thiên sứ.”

“Cô nói tiếp đi.”

Cô bắt đầu giải thích về tầm quan trọng của những đôi tay bị chặt đứt và những phát bắn từ phía gáy nạn nhân, và suy nghĩ về một thiên sứ của sự trả thù. Mười chín. Đấy chính là điều chắc chắn đã khiến ông khiếp sợ ngay từ cái ngày họ phát hiện ra những thi thể đó. Cái điệu cười thỏa mãn Abu-Musa hiện lên trong tâm trí ông rõ ràng như hiện thực.

“Đó là sự liên hệ rất sắc sảo.” Ông nói. “Chắc chắn chúng tôi sẽ tiếp tục theo hướng này”

“Ông sẽ kiểm tra các hồ sơ hành quyết của những người bị trừng phạt vì tội ăn cắp, phải vậy không?”

“Thực ra, đúng vậy, tôi nghĩ đó là điểm để bắt đầu.”

“Tôi hiểu là không phải phận sự của mình khi nói điều này,” Katya nói, “nhưng có thể sẽ hữu ích nếu ông kiểm tra các hồ sơ hành quyết ở Jeddah trong vòng ba mươi năm qua nữa.”

“Cô cho rằng tên giết người có thể là người hành quyết ư?”

“Không. Thực ra là Tiến sĩ Becker đã gợi ý cho tôi điều này, nhưng có khả năng tên sát nhân đã mất người thân hoặc ai đó thân thiết với hắn, và người đó đã bị hành quyết.”

“Cô đang suy đoán rằng các hồ sơ hành quyết có chứa các thông tin về thành viên gia đình đấy” Ông nói. “Tôi thì không cho là vậy.”

Katya thở dài. “Vậy chúng ta sẽ phải tự tìm các gia đình đó thôi. Tôi chỉ nghĩ là chúng ta cần thu thập nhiều thông tin hết mức có thể để dựng được hồ sơ về tên giết người này.”

“Quả vậy, cô nói rất đúng. Nhưng sẽ có vô khối công việc phải làm.”

“Tôi sẽ vui lòng tự kiểm tra các hồ sơ vụ án. Công việc ở phòng thí nghiệm không nhất thiết cần tôi lúc nào cũng phải trực máy.”

“Tôi sẽ cân nhắc mình có thể làm gì. Và tôi mừng vì cô đã cho rằng nói về tất cả những điều này là phận sự, cô Hijazi ạ.” Ông nói. “Cô làm việc rất tốt.”

Katya im lặng ở đầu dây bên kia. Ibrahim không thể hình dung lúc này cô đang cảm thấy thế nào. Cô đủ táo bạo để gọi cho ông vào lúc đêm khuya ngày thứ Tư thế này và nói với ông làm thế nào để điểu tra, nhưng lại rất chừng mực khi ngồi ở băng ghế sau và che mặt như cô con dâu Saffanah khép nép đó. Có lẽ, chỉ là giống Saffanah thôi, cô ấy không phải là một Saffanah.

“Tôi sẽ thu xếp để rút được các hồ sơ đó.” Ông nói. “Còn có ai trong phòng thí nghiệm có thể giúp cô kiểm tra chúng không?”

“Có, tôi chắc sẽ nhờ được ai đó.”

“Tốt.”

Ông cảm ơn Katya và ngắt máy nhưng bỗng nhiên cảm thấy kiệt sức. Mỗi khi ông buộc mình phải tập trung vào tên giết người này là ông lại cảm thấy nỗi khiếp sợ đó. Toàn bộ vụ án đang mở rộng một cách nhanh chóng giống như tế bào bị nhiễm vi-rút vậy. Giờ đây bất cứ giây phút nào nó cũng có thể nổ tung và nhân bản nhiễm thể của nó đến toàn bộ hệ thống.

Khi gần về đến nhà, ông dừng xe lại và chăm chú quan sát những khách bộ hành nữ, băn khoăn tự hỏi về tất cả những nơi nào Sabria có thể đến mà không có ông.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Khu chôn cất ngoài sa mạc bị bỏ không. Hai sĩ quan cảnh sát ngồi gác tại ngã rẽ nơi con đường chính lộ của hạt tạo thành một vệt rõ nét chạy dọc bên phải khu vực họ tìm được các xác chết. Con đường thậm chí bị cát tàn phá còn nặng nề hơn cả trước đó. Dải băng của hiện trường vụ án vây quanh khu mộ chôn, và hai cảnh sát đi tuần trên lôi mòn mới hình thành xung quanh khu mộ đó.

Katya chìa tấm thẻ tên cho hai sĩ quan cảnh sát và họ để cô qua. Nayir lái xe. Cô ngồi ở ghế trước và cảm nhận rõ nắng nóng trên hai má mặc dù hệ thống điều hòa trong chiếc Land Rover đang hoạt động. Phía sau họ là đội tìm dấu vết Murrah, Talib al-Shafi và hai ngưòi cháu của ông, chen chúc trong chiếc taxi tải sàn phẳng hiệu Toyota trông có vẻ còn lớn tuổi hơn cả cô.

Cô đã rất bối rối khi đề nghị Ibrahim cho phép cô làm việc này. Trong suốt cuộc trao đổi trên điện thoại, cô cảm thấy mình đã đủ trơ tráo khi đưa ra gợi ý kiểm tra các hồ sơ hành quyết. Sau đấy cô thấy nhạt hết hứng thú - hoặc có cảm giác là ông cảm thấy như vậy. Cô coi chuyến đi này dù sao cũng là một hệ quả nhẹ hơn, và cô đã thu xếp nó với sự giúp đỡ của Majdi thay vì ông. Ông đã cho cô số điện thoại của nhóm Murrah, và thật tốt là Nayir đã thay mặt cô gọi cho họ.

Hôm đó là ngày thứ Năm, ngày đầu tiên của kỳ nghỉ cuối tuần. Nayir rất hào hứng vì có lý do để lên kế hoạch cho chuyến đi sa mạc cùng với cô, nhưng cô đã làm anh mất hứng trên đường đi khi nói về vụ Thiên sứ. Anh lắng nghe chăm chú, và phản ứng duy nhất là sự bàng hoàng khó tả. Nó vẫn còn hiện hữu trên gương mặt anh khi họ lái lên phía khu vực hiện trường.

Họ không quan tâm đến những điếm chôn cất mà chú ý đến các khu vực xung quanh chứng. Đó là khu vực đủ xa để tên giết ngưòi có thể, thí dụ như, đến đấy mà không bị cảnh sát bảo vệ phát giác chẳng hạn. Bởi vì hắn đã trở lại đấy. Hắn biết những cái xác đã được di dời.

Họ lái xe lên phía dải băng của hiện trường vụ án đang lấp lánh như những dải ruy-băng màu nhạt dưới ánh nắng chói chang. Tất cả bước ra khỏi xe để đi quan sát một vòng. Sau khi dò xét kỹ càng, nhóm tìm dấu vết cho rằng tốt nhất là đi về phía tây, ở đó địa hình dốc hơn nên sẽ dễ dàng hơn cho tên sát nhân quan sát khu vực này mà không bị phát hiện.

Họ lái xe trở lại con đường của hạt rồi tiến thẳng về phía tây với tốc độ có cảm giác còn chậm hơn cả tốc độ sụp đổ của một nền văn minh. Chiếc xe của nhóm Murrah ở phía trước, hai người cháu lúc này đã tỳ gối trên sàn xe, mỗi người một bên, chăm chú quan sát các dâu vết để lại trên con đường. Họ thậm chí còn để ý cả các vệt lốp xe, như những chú chó săn. Nayir và Katya hồi hộp quan sát họ.

Cuối cùng, họ dừng lại, rồi một người nhảy qua tấm chắn bùn và khẽ ghếch một bên vai. Họ đã thấy cái gì đó. Anh ta ra hiệu cho Nayir lùi xe lại và rẽ sang bên phải.

Nayir lái chiếc Land Rover lăn qua lớp cát và hạ kính cửa sổ xe xuống.

“Có vệt bánh xe ở đấy.” Người cháu trong nhóm Murrah vừa nói vừa chỉ vào điểm đỗ của chiếc Toyota. “Có ai đã đã xóa nó nhưng những dấu vết đó vẫn còn đấy.”

“Bọn chúng đã xóa dấu vết sao?” Nayir hỏi. “Bằng cái gì được nhỉ?”

“Một tấm bìa các-tông. Chúng tôi sẽ để xe lại đấy và đi bộ dẫn đường cho anh để chúng ta có thể để ý tới con đường.” Anh ta nhìn lướt qua Katya, ý nói rằng Chúng tôi sẽ không làm phiền sự riêng tư của vợ anh đâu. Nayir gật đầu với vẻ cảm kích. Katya cảm thấy mình trôi theo cái gật đầu đó, tuột vào một thế giới mà người ta mong là sẽ bị bỏ lại một mình trong ô-tô. Rồi cô tự nhắc mình rằng toàn bộ chuyến đi này là ý tưởng của cô - một phần là nhờ vào một phụ nữ Mỹ thậm chí còn không có che mặt - và rằng chỉ trong giây lát cô sẽ ra ngoài nắng cát đó và đầm đìa mồ hôi như những người đàn ông kia.

Họ đi theo nhóm Murrah khoảng hơn một cây số. Lốp xe của chiếc Rover phát ra tiếng lốp bốp khi chèn phải những hòn sỏi nằm rải rác chỗ này chỗ kia. Cuổi cùng, người trong nhóm Murrah giơ tay lên và Nayir dừng xe lại.

Katya ra khỏi xe và kéo tâm khăn lên che qua mũi và miệng, gài nó vào khăn trùm đầu. Cô làm vậy một phần là để nhóm Murrah được thoải mái, nhưng chủ yếu là vì ánh nắng bỏng rẫy làm rát khuôn mặt cô, nghĩa là sẽ làm các mô mềm trên mặt cô bị chảy nhão. Cô đeo cặp kính râm vào và theo bước Nayir, theo đúng nghĩa, khi cô bước lên các dấu chân của anh. Một người trong nhóm Murrah nhận thấy điều đó và nói với Nayir: “Cô ấy không phải làm vậy đâu. Chúng tôi biết dấu chân của cô ấy thế nào mà.”

“Cẩn thận cũng tốt mà.” Nayir đáp.

Bọn họ đứng ở đó, chờ đợi người ông, Talib, đang nghiền ngẫm các vệt lốp xe dẫn về phía con đường. Khi ông trở lại chỗ mọi người, ông nói: “Hắn lái một chiếc GMC và chiếc lốp phải phía trước bị non hơi. Chúng ta còn có gì nữa nào?”

Không lâu sau họ tìm thấy các dấu chân.

Talib không hề nói gì một lúc lâu; ông chỉ nghiền ngẫm mặt đất, loanh quanh đi lại và gật gật đầu như thể đang nghe gió kể chuyện vậy.

Ông ra hiệu cho Nayir lại gần rồi chỉ vào một chỗ mờ mờ dấu vết trên mặt đất, và bắt đầu giải thích. “Chiếc xe đã đỗ ở chỗ này. Hắn bước ra ngoài rồi đi đến chỗ đó, rồi quay trở lại chỗ chiếc xe tải ấy. Có lẽ hắn đã tức giận; những dấu chân giận dữ khi quay trở lại.”

Đó có thể là khi hắn phát hiện những cái xác đã biến mất. Katya nghĩ.

Mọi người đi theo dấu chân đến sát một đụn cát hơi uốn lượn. Từ chỗ này có thể dễ dàng thấy khu mộ chôn. “Hắn đã dừng lại ở đây.”

Talib nói. “Đây chính là địa điểm quan sát.”

Katya chụp một loạt ảnh. “Ông có biết vào khoảng thời gian nào hắn đến đây không?” Cô hỏi.

“Tôi có thể nói những dấu chân này đã có khoảng năm hoặc sáu ngày gì đó.” Ông nói.

“Lúc ấy cảnh sát vẫn còn ở đây.” Katya nói. “Và cả đội pháp y nữa. Hẳn là rất nhiều người.”

“Nếu hắn đến vào giữa buổi sáng,” Nayir nói, “mọi người sẽ không thể nhận ra hắn có mặt ở đây. Mặt trời lúc đó ở phía sau hắn.”

Talib gật đầu.

“Nhưng làm thế nào hắn qua mặt được xe cảnh sát trên đường nhỉ?”

“Từ phía nam.” Talib chỉ tay. “Có một con đường khác chạy quanh khu vực đó, và vết bánh xe của hắn rẽ vào từ hướng đối diện giống như chúng ta.”

“Có thể hắn có thói quen đến đây.” Katya nói. “Có lẽ lúc nào hắn cũng kiểm tra khu vực trước khi lại gần.” Cô nhớ lại năm hoặc sáu ngày trước. Đó chính là thời điểm họ tìm được bàn tay của Amina trên phố Falasteen. Có khả năng tên sát nhân đã đến đây kiểm tra khu vực của mình. Việc khám phá ra những cái xác đã bị phát hiện khiến hắn nổi khùng và thúc đẩy việc hắn chặt đứt bàn tay của Amina trước khi hắn chủ định làm vậy. Nhưng nếu Amina thực sự là một nạn nhân của hắn, thì câu hỏi đặt ra là tại sao bà ta không giống những nạn nhân trước đấy.

Katya tiếp tục chụp ảnh. Những người đàn ông khác đã bước ra chỗ khác, ngoại trừ Talib. Ông đứng đó nhìn về phía khu mộ chôn, cố ý lảng tránh cái nhìn chăm chú của Katya.

“Cô không phải làm vậy đâu.” Ông nói. “Tôi nhớ các dấu chân đó.” Khi quay đi, ông nói với qua vai. “Và đừng lo, nó sẽ được đưa ra trước tòa.”

Đã từ lâu bạn bè không còn hỏi khi nào thì cô sẽ cưới. Giờ cô đã hai mươi chín tuổi, cái tuổi quá lớn để có được một người chồng tử tế. Và việc hỏi thăm trở thành một điều khiếm nhã. Vài người bạn thân đã cố gắng tìm cho cô một anh chàng từ nhiều năm rồi. Cô luôn luôn nằm trong danh sách khách mời cưới đầu tiên của họ, bởi đám cưới là nơi mà chuyện mai mối diễn ra nhiều nhất. Nhưng sau khi việc đính hôn với Othoman không thành, ngay cả những người bạn đó của cô cũng thôi không bàn về chuyện hôn nhân nữa. Có lẽ họ nghĩ cô cần thời gian để lấy lại thăng bằng, hoặc có thể họ tin rằng cô sẽ chẳng thể nào bình thường trở lại được. Và khi sự im lặng đó mê hoặc cô, cô trở nên hoài nghi về những viễn tượng của chính mình mà thậm chí không hề nghĩ đến việc thực hiện nó.

Lời cầu hôn của Nayir đã hóa giải sự mê hoặc ấy. Thay vào đó, chính nó lại đặt một bùa chú khác lên cô.

Chặng đường về thật căng thẳng. Cô so sánh Nayir với em họ của mình. Ayman lớn lên ở Li-băng và dành một khoảng thời gian nhiều đến bất thường để xem truyền hình vệ tinh, chính vì vậy mà cậu hiểu biết rất rộng về thế giới. Cậu biết chính xác một tên giết người hàng loạt là thế nào và thậm chí còn ngay lập tức nhớ lại những mẩu tin nhỏ nhặt. Liệu cô có biết John Gacy đã hãm hiếp ba mươi nạn nhân nam giới và chôn họ dưới tầng hầm nhà hắn không? Và chuyện Jeffrey Dahmer đã cố biến các nạn nhân thành thây ma sống? (Kể cả việc các nhà khoa học đã giữ lại bộ não của Dahmer để phục vụ cho nghiên cứu nữa?) Những gợi nhớ đó của Ayman đã khiến cô lo lắng, nhưng còn không bằng sự trang trọng của Nayir.

“Chúng ta chưa từng có vụ nào như thế này cả.” Anh nói. “Loại quỷ sa tăng đó. Hắn ta chỉ tồn tại ở một quốc gia nào khác, chứ không phải ở đấy.”

“Có thể” Cô nói. “Hoặc có thể chỉ vì chúng ta chưa bao giờ để ý. Phải mất nhiều năm họ mới phát hiện ra vụ này”

Điều này có vẻ khiến anh tức giận. “Sao bao nhiêu người mất tích như thế mà không có ai để ý được nhỉ?”

“Bọn họ đều là những lao động ngoại quốc.” Katya nói. “Có lẽ họ đã chạy trốn, không ai biết họ đã bắt đầu từ đâu nữa.”

“Và giờ thì tên giết người đã biết việc cảnh sát phát hiện ra những cái xác đó.” Anh nói. “Em nghĩ hắn ta sẽ làm gì tiếp theo nữa?”

“Em nghĩ hắn ta đã có nạn nhân kế tiếp rồi.” Cô thấy mệt mỏi. Cái nóng đã làm cô kiệt sức, và những phát hiện của ngày hôm nay chỉ khiến toàn bộ tình hình trở nên phức tạp hơn. Cô muốn anh nói với cô rằng cô thật mạnh mẽ, thật can trường.

“Có khả năng hắn sẽ phát hiện ra em.” Anh nói. “Về những người tham gia vào vụ án này.”

“Luôn có khả năng đó.”

Cô có thể thấy anh đang cố gắng thận trọng để đáp lại điều đó, nhưng cuối cùng thì anh không nói gì và trên suốt cả quãng đường còn lại để về nhà, họ im lặng trong nỗi bứt rứt khôn nguôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,981
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Buổi sáng thứ Năm, ngày đầu tiên của kỳ nghỉ cuối tuần, Ibrahim vẫn đi làm. Ông không thể đối diện với việc cả ngày trời ngồi ở nhà, lo lắng một cách vô vọng về Sabria.

Ông ngạc nhiên khi thấy Majdi và Daher trong phòng khám nghiệm pháp y. Daher mặc quần jeans và áo phông chứ không phải bộ vét thường ngày. Anh ta đang ngồi bên chiếc bàn cạnh Majdi nhắn tin cho ai đó.

Điện thoại của Ibrahim rung và ông lấy máy ra khỏi túi quần. Daher đã nhắn tin cho ông. Anh ta nhắn là: Majdi đã phát hiện ra điều gì đó.

“Sao nhanh thế!” Daher nói khi anh ta nhìn thấy Ibrahim. Anh ta đứng dậy, trông có vẻ hơi ngượng ngùng khi bị bắt gặp trong bộ quần áo thường nhật. Nó gợi cho Ibrahim nhớ rằng anh ta vẫn còn trẻ biết bao.

“Anh phát hiện được điều gì vậy?” Ông hỏi.

Majdi đứng lên và ra hiệu về phía màn hình máy tính. “Chúng tôi đã nhận diện được các nạn nhân khác, những người có bàn tay được chôn ở khu mộ.” Anh ta nói. “Tên cô ta là May Lozano. Cô ta hai mươi lăm tuổi. Cô ta mất tích khoảng một năm trước.”

“Rất tốt.” Ibrahim nói. “Tại sao việc nhận diện người này lại lâu hơn so với Cortez đến vậy?”

“Tôi đã phải thực hiện bằng một phương pháp lạc hậu hơn, so sánh dấu vân tay của cô ta với một đống hồ sơ những người giúp việc mất tích nhận được từ lãnh sự quán bằng cách thủ công.”

“Thế thì phải mất nhiều công sức lắm.” Daher nói.

“Tôi đã thu hẹp được phạm vi tìm kiếm dựa vào báo cáo của Adara về việc May Lozano đã chết khoảng một năm trước. Cô ta là nạn nhân áp chót, và là nạn nhân duy nhất chúng ta tìm được cả hai bàn tay.”

“Rất tốt.” Ibrahim nói. “Có phải cô ta làm giúp việc ở đây không?”

“Vâng. Cô ta sống trong một gia đình ở Jeddah. Đó là thông tin trong báo cáo.”

Ibrahim đến nói chuyện với chủ nhà của Lozano. Cũng như Cortez, Lozano được thuê ở Manila, nhưng cô làm giúp việc ở Jeddah được năm năm rồi. Khi cô mất tích, chủ nhà đã có tường trình về người mất tích và cảnh sát đã theo sát vấn đề này. Theo như bản tường trình đó, các bạn của cô cho biết rằng mặc dù Lozano rất nhớ gia đình ở Philippines nhưng cô rất hạnh phúc khi sống ở Jeddah. Gia đình thuê cô đã trả đủ phí môi giới và cô được nhận một mức lương thỏa đáng. Họ đối xử tốt với cô.

Còn theo phía gia đình đó, cô không chạy trốn; cô yêu quý họ như chính gia đình của mình. Bọn họ đã quẫn trí khi cô biến mất. Chuyện xảy ra vào sinh nhật của cô - họ đã dự định đưa cô đến Jollibee, nhà hàng mà cô ưa thích - và họ nghi ngờ có trò xấu xa nào đó, mặc dù họ không biết ai đã bắt cóc Lozano. Cô không có kẻ thù nào, ngay cả ở Philippines cũng không. Họ thông báo với cảnh sát và đại sứ quán về việc cô biến mất, nhưng không ai tìm được cô.

Ibrahim phát hiện ra rằng họ nhận ra Lozano bị mất tích gần như ngay lập tức. Cô đã rời nhà lúc 5h15 chiều để tới Jollibee gặp một người bạn. Quãng đường đi bộ từ nhà đến nhà hàng đó chỉ qua sáu tòa nhà trên phố al-Khalidiya. Đáng lẽ cô phải gặp người bạn Mary của mình vào lúc 5h30. Bọn họ định sẽ nói chuyện một lúc trước khi gia đình chủ nhà đến lúc sáu giờ. Nhưng khi gia đình đó đến nhà hàng, họ nhận ra Lozano không có ở đó. Bạn cô vẫn đang ngồi chờ.

Ibrahim và Daher tự mình đi bộ qua sáu tòa nhà này.

“Tôi đoán là cô ta không đi taxi.” Daher nói.

Nhà hàng đó được sơn màu sặc sỡ, một kiểu biến thể của McDonald's, với một chú ong và một hũ mật ong rất lớn bằng nhựa ngay trước cửa.

Không có nhân viên nào trong tòa nhà này làm việc nhiều hơn vài tháng, ngoại trừ người quản lý tên là Arnel, người vẫn nhớ vụ mất tích của May. Anh ta là một người châu Á ngoài ba mươi tuổi có ngoại hình sáng sủa, mặc áo màu xanh dương nhạt và quần Âu màu đen. Sợi dây đỏ quanh cổ anh ta treo tấm thẻ tên. Nếu anh ta bỏ chiếc mũ lưỡi trai kiểu bóng chày màu xanh dương, có vẻ như là một phần của bộ đồng phục đó ra thì có lẽ sẽ bị nhầm tưởng là bác sĩ thực tập hoặc một chuyên gia nào đấy.

“Vâng.” Anh ta nói với vẻ buồn bã vì kỷ niệm đó. “Gia đình đó đã đến tìm cô ấy. Bạn cô ấy đã ở đây chờ. Chúng tôi có biết May. Cô ấy nhiều lần đến đây cùng với gia đình chủ nhà. Chuyện thật kinh khủng. Cô ấy không phải kiểu người giúp việc bỏ trốn đâu.”

“Anh nghĩ là cô ấy đã bỏ trốn sao?” Ibrahim hỏi.

“Đó là những gì người ta vẫn đồn đoán. Những phụ nữ này đôi khi bị ngược đãi.”

“Trông cô ấy có vẻ gì là bị ngược đãi không?”

Anh ta lắc đầu.

“Anh có thể cho tôi biết tối hôm đó anh thấy điều gì khác thường không? Bất cứ điều gì ngoài kia, hoặc trên phố? Có ai đó trông kỳ quặc không?”

“Có, có một việc. Sau đấy tôi có kể với cảnh sát, nhưng họ không cho đó là điều quan trọng. Có một phụ nữ khi băng qua đường thì bị ngất. Cô ta đã được đội Trăng lưỡi liềm Đỏ đưa đi. Cảnh sát nói họ sẽ kiểm tra lại nhưng tôi không bao giờ nghe gì về chuyện đó nữa.”

“Có khả năng người phụ nữ đó chính là May không?”

Arnel nhún vai. “Thường rất khó nhìn ra ngoài qua cửa sổ đằng trước, và chuyện xảy ra ở ngay phía dưới tòa nhà. Một nhân viên của tôi ở ngoài và anh ta đã chứng kiến việc đó. Tôi không nhìn rõ người phụ nữ đó. Tôi chạy ra ngoài và trông thấy người đàn ông kia đưa cô ta vào băng sau xe. Sau đó chiếc xe lao đi rất nhanh.”

Họ cảm ơn anh ta và bưóc ra phố.

“Sẽ mất thời gian để tìm lại người bạn của cô ta.” Daher vừa nói vừa lật mở tập giấy ghi chép của mình. “Họ nói cô ta đã rời khỏi nước mình rồi.”

Ibrahim nhìn dọc con phố, cố hình dung một chiếc xe cấp cứu ở đó. Nó hẳn phải đỗ sát một chiếc xe khác khiến một chiều giao thông phải ngừng lại.

“Ông đang nghĩ gì vậy?” Daher hỏi.

“Hung thủ có thể đã dùng taxi để bắt cóc các nạn nhân của hắn, nhưng hắn cũng có thể dùng xe cứu thương chứ.”

Daher phùng má. “Vâng, tôi cho là vậy. Nhưng như vậy thì hắn là người duy nhất đưa các nạn nhân bị thương lên xe hay sao?”

“Có thể chính hắn làm họ bị thương.” Ibrahim nói. “Việc này không thể không có khả năng xảy ra. Hắn đến từ phía sau họ, kiểu như một tên cướp. Dí súng vào lưng họ, nói rằng nếu kêu thì hắn sẽ bắn. Hắn tiêm vào người họ thứ gì đó khiến họ không thể phản kháng. Họ gục ngã vào vòng tay hắn, và hắn đưa họ vào xe. Đến khi mọi người nhận ra - tức là khi người phụ nữ đó bị ngã - họ không nghĩ có gì không ổn khi nhân viên y tế bế một người phụ nữ vào xe cứu thương. Có thể họ lo lắng cho cô ta, nhưng họ sẽ chỉ nhìn cô ta chứ không để ý đến hung thủ.”

Daher gật đầu. “Vâng, điều đó có lý.”

“Nhưng anh không có vẻ bị thuyết phục lắm.”

“Thực ra thì...”

“Cứ nói.”

Tôi chỉ cho rằng sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu hắn giả làm lái xe taxi. Hắn sẽ không phải mạo hiểm với việc một phụ nữ la hét cầu cứu hoặc ai đó chú ý đến hắn.”

Ibrahim gật đầu. “Có thể anh đúng, nhưng tôi nghĩ chúng ta nên lưu tâm đến giả thuyết về nhân viên y tế.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom