Cập nhật mới

Dịch Full Vị Bắc Xuân Thiên Thụ

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ

Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
Tác giả: Hưu Đồ Thành
Tình trạng: Đã hoàn thành




Bạn đang đọc truyện Vị Bắc Xuân Thiên Thụ của tác giả Hưu Đồ Thành. Tiếng gọi mềm nhẹ vang lên,

"Lý Vị."

Nữ tử nằm gọn trong tấm thảm, đẩu ngẩng lên, chiếc cằm nho nhỏ đang ở trong lòng hắn, một chút bông trắng dính trên sợi mi cong dài làm hắn muốn thổi đi, nhưng vẫn kiềm lại vì sợ kinh động nàng.

"Lý Vị."

Nàng lại gọi hắn, tay ôm lấy hắn, khuôn mặt vùi hẳn vào ngực hắn, hai má cọ cọ, như một bé mèo con làm nũng.

Đúng là hết hồn mà, Lý Vị nhìn nàng đăm đắm, khe khẽ hỏi: "Muốn uống nước hả?"

Nàng bật cười khúc khích: "Lý Vị."

Lý Vị dịu dàng trả lời: "Ừ."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: 1: Ngọc Môn Quan


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Tảng sáng.

Nền trời âm u chuyển dần sang một màu trắng bạc như bụng cá, làn gió mang hơi lạnh chợt ngừng thổi, bốn bề tĩnh lặng.

Có ánh lửa lập lòe cách đó không xa dần tắt, tòa thành sừng sững cao ngất hiện lên với những đường nét mờ ảo giữa chốn hoang vu bạt ngàn.

Những vì tinh tú ảm đạm hẳn đi, chỉ còn sót lại vài ông sao lưu luyến vẫn còn treo lơ lửng sáng ngời một góc nhỏ trên không trung, tựa như chỉ cần vươn tay là có thể với tới.

Tầng sương mỏng phủ lên chiếc mũ sắt của người lính thành bóng loáng.

Sương muối tháng chín, đêm ở đây rét vô cùng.
Đang giờ Mẹo, cả biên thành chìm trong giấc ngủ say, hỏa trường* canh gác vội vàng lau qua mặt rồi chạy vượt qua tường thành đổi ca trực.

Trong số các binh lính đứng gác có mấy người là tân binh từ Lưỡng Quảng đến, nửa đêm đông giá buốt, môi tím tái, tay chân cứng đờ không thể nhúc nhích, hỏa trường cầm cây giáo sắt đập lên mũ giáp từng người: "Mẹ mày, mới nửa đêm đã như con gà bệnh sắp chết thế hả, tất cả thẳng lưng lên cho ông!"
(*Hỏa trường: chức thủ lĩnh nhỏ trong quân đội thời xưa)
Hỏa trường tên Nghiêm Tụng, dáng người gầy đét, xuất thân ở núi Minh Sa huyện Đôn Hoàng, đã lăn lộn trong quân đội biên cương hai mươi năm có lẻ.

Tuy chỉ mới bốn mươi tuổi nhưng gương mặt đã nhuốm đầy vị gió sương gian khổ.

Trước kia Nghiêm Tụng vẫn luôn trấn thủ Hợp Hà, vài năm gần đây triều đình thống nhất quân trấn thủ Hợp Hà và quân Ngọc Môn làm một, thế nên Nghiêm Tụng mới đến nơi này.

Sắc trời dần sáng, gió thổi quét qua cánh đồng bát ngát, đất cát sỏi cũng bị cuốn theo.

Trên đỉnh đầu rợp một màu trong vắt như hòn ngọc bích, ráng mây phía chân trời nối thành đoàn, uốn lượn như ngọn lửa, lại như dải lụa dài vô tận.

Nghiêm Tụng tuần tra từ trên xuống dưới một lượt, anh ta dựa vào tường giũ lớp bụi vàng bám trên ủng, cỏ dại chỗ góc tường xám xịt bị gió cát vùi lấp đi hết nửa.

Sa mạc mênh mông chỉ có cát vàng và những mô đá gập ghềnh cứng nhắc, không mang theo chút sức sống nào.

Tia sáng lờ mờ chiếu rọi vào chỗ xa nhất, một làn mưa bụi vàng lất phất hứng lấy ánh cam hồng từ Tây Bắc thổi đến.

Nghiêm hỏa trường quan sát hồi lâu, lấy từ trong ngực ra chiếc ống dòm cũ kỹ rồi chăm chú quan sát.

Gương mặt khô quắt hiện lên ý cười, tay vẫy vẫy với đám binh lính đang đóng giữ dưới thành, sau đó đủng đỉnh bước xuống: "Mẹ kiếp, đúng là nhóm người của Tôn lão Bì Tử kia rồi!"
Có lẽ do đồi cát bao la quá đơn điệu, nên đã phóng cực đại vẻ xinh đẹp của vầng thái dương lên.

Mây trôi lững lờ đùn mấy cụm đỏ rực, nhuộm đẫm cồn cát dưới chân một màu đỏ tươi như máu.


Trong nắng ban mai chói rọi, những bóng đen dần dần hiện rõ hình hài, tiếng lục lạc vang lên đều đặn len lỏi trong đội ngũ đều tăm tắp.

Tốp đàn ông khoác những bộ phục sức khác nhau, trên lưng cõng bọc hành lý, dẫn theo lừa, lạc đà, trâu ngựa, thong thả tiến về quan ải cuối cùng của sa mạc cát vàng - Ngọc Môn Quan.

Mấy người đàn ông đi trước cưỡi toàn ngựa cao to, có cả người Hồ lẫn người Hán, trên đùi cột túi mũi tên.

Tiếp theo đó là lão già cưỡi lạc đà, miệng ngậm tẩu thuốc.

Đằng sau là cả đoàn lữ nhân chắc mẩm phải hơn trăm người, mặt mũi ai nấy cũng toát lên vẻ mỏi mệt uể oải, quần áo là những tấm vải nỉ lông cừu.

Trong đó chiếm số đông là những con buôn người Hán da vàng tóc đen, cũng có người Đại Thực mũi cao đầu trọc, hay người Ba Tư với mũ da và áo khoác dài, người Lật Đặc áo trắng râu rậm, và còn vài vị hòa thượng mặc áo cà sa đeo chuỗi châu ngọc, đàn con la với những chiếc túi mềm lớn chất trên lưng.

Đi phía vòng ngoài đoàn lữ hành là mấy người đàn ông mang theo mũi tên, ngẩng đẩu thúc ngựa tiến thẳng về phía trước.

Sương trắng phủ lấp mái đầu của lão già ngậm tẩu thuốc, nom tinh thần lão quắc thước lắm, đúng thật là Tôn lão Bì Tử mà hỏa trường nhắc tới rồi.

Lão Bì Tử là biệt danh người ta hay gọi vui cho người cưỡi ngựa trên sa mạc.

Tên thật của lão là Tôn Hành Ông, người Cam Châu, nay đã ngoài sáu mươi, kinh nghiệm hơn bốn mươi năm bôn ba trên con đường buôn bán ở Tây Vực, là người dẫn đường vô cùng có tiếng.

Bấy giờ, lão xoay người nhảy khỏi lưng lạc đà, miệng cắn tẩu thuốc lá, chắp tay thi lễ với Nghiêm Tụng, cười hết sức niềm nở: "Quân gia, già này lại tới quấy rầy rồi."
"Đi đã hơn năm tháng, nếu không về thì cũng thật là đáng lo đấy!" Nghiêm Tụng cười bảo: "Cổng thành vừa mở thôi, hôm nay lão là người đến đầu tiên."
"Đều nhờ phúc của triều đình cả.

Ngọc Môn mở lại, đường sá cũng được hanh thông, chúng tiểu nhân vì thế mà đẩy nhanh tốc độ, nhân cơ hội cửa hông vừa mở bèn vào thành nghỉ chân một chốc, bổ sung ít nước và lương thực." Tôn lão nói, "Hiện nay thương đội đều đổi từ Đôn Hoàng sang hành tẩu ở Ngọc Môn, ngựa thồ tấp nập, nếu đến muộn thì có lẽ phải mất hơn nửa ngày mới có thể vượt qua vòng kiểm tra."
Nghiêm Tụng gật đầu nói phải.

Vài năm trước triều đình đại chiến với Đột Quyết, khai thông đường cũ Y Ngô mà Đột Quyết chiếm cứ.

Ngọc Môn quan bị bỏ hoang của tiền triều được dời trăm dặm từ Đôn Hoàng đến thượng lưu sông Hồ Lô ở huyện Hà Thương, là nơi đóng quân của năm nghìn quân Ngọc Môn, tám trăm quân mã.

Trước khi đường Y Ngô được mở, sứ giả thương đội từ Đôn Hoàng chủ yếu chọn con đường đi qua Tây Vực.

Đường Đôn Hoàng nhiều sa mạc, thường bị gió cát vùi lấp, chỉ có thể dựa vào hài cốt của người ngựa hay phân ngựa ven đường để phân biệt, dọc đường đi khả năng lại gặp phải nhiều chuyện ly kỳ cổ quái, nói chung gian nan khổ cực trăm bề.

Nay đường Y Ngô đã về tay triều đình, bố trí thêm mười trạm dịch, từ đó đội buôn bắt đầu kéo đến nườm nượp, sứ giả lui tới không dứt, quả thực rất bận rộn.


Cổng thành vừa mở là nhóm lữ hành đã đứng dậy hoạt động gân cốt, chuẩn bị kiểm tra giấy tờ công văn.

Lẫn trong đám đông náo nhiệt, có con ngựa to khỏe với bộ lông nâu óng mượt nổi bần bật.

Mà tâm điểm thu hút sự chú ý của mọi người lại chính là chủ nhân của nó - một chàng trai trẻ tuổi, người khoác áo gấm, chân xỏ giày nhung, mặt mày sáng láng phong thái tự nhiên, và bãi cát vàng ruộm phía sau lưng như làm nền cho bức tranh diễm lễ chói mắt ấy.

Vị công tử cẩm y quay sang nói vài câu với người đàn ông trung niên râu ngắn mặt mày sáng sủa bên cạnh mình.

Cả hai xoay người xuống ngựa rồi cùng tiến đến đàn lạc đà xem xét hành lý, lại lệnh người dắt mấy con la chở lương thực ra.

Đôi mắt Nghiêm Tụng hằn lên vẻ nguy hiểm, cất giọng hỏi người trong đoàn: "Cẩm y công tử kia là ai thế? Nhìn chẳng giống thương gia chút nào."
Tôn lão bật cười thành tiếng: "Đó là Nhị công tử Đoàn gia ở Lũng Tây."
Nghiêm Tụng ồ lên: "Đoàn gia Lương Châu?"
"Chính thế." Tôn lão hút ngụm thuốc, "Từ sau khi chi trưởng của Đoàn gia chuyển tới phía đông thì công việc mua bán ở Hà Tây được giao cho chi thứ hai xử lý.

Thế nhưng lần này chẳng biết xảy ra chuyện gì mà người Đoàn gia ở Trường An lại xuất hiện." Tôn lão vân vê lá thuốc, "Nhị công tử lễ nghĩa đàng hoàng, tính tình khiêm tốn, là người tử tế."
Vùng Hà Tây không ai không biết Đoàn gia Lũng Tây.

Đoàn gia xuất thân là thương nhân nhưng lại không buôn bán ở Trung Nguyên.

Tơ lụa Thanh Châu Sơn Đông, lụa thêu Giang Tô Chiết Giang, gấm Tứ Xuyên, gốm sứ Việt Châu Hình Diêu, lá trà Giang Nam, phàm tất cả những thứ độc nhất của một vùng, đều được chất hết lên lưng lạc đà, băng qua Lũng Tây Hoàng Hà, xuyên tới thung lũng Hà Hoàng, dọc theo dãy núi Kỳ Liên.

Ngựa thồ đi xa Tây Vực, vận chuyển những món vô giá như nhũ hương, một dược, xạ hương, huyết kiệt, ngựa, trân châu dị bảo, đổ vào tám mươi mốt châu trong thiên hạ, chảy vào tay vương tôn quý tộc.

Từ bao đời nay, Đoàn gia lấy được bao nhiêu bảo vật, giấu đi bao nhiêu kỳ trân, không ai biết rõ, chỉ biết Đoàn gia vàng bạc chất đống, giàu nứt đố đổ vách.

Hơn ba mươi năm trước, con trưởng Đoàn gia là Đoàn Chi Đình thi đậu làm quan, việc làm ăn kinh doanh giao lại cho con thứ Đoàn Ngạo Minh xử lý.

Đích tôn cởi áo thương nhân dời đến Trường An, mang theo túi kim ngư* và đai bạch ngọc*, đặt chân vào lầu son thâm viện.

Nghiêm Tụng giữ chức vụ nho nhỏ trong quân, nhưng mấy tin đồn bên triều đình lại nắm rất rõ, lúc này giơ tay vuốt vuốt cằm: "Nghe nói phi tử mà hoàng thượng mới nạp tới từ Lũng Tây, là dòng bên của Đoàn gia..."
Đang nói chuyện thì bỗng bên cửa thành xảy ra tranh chấp.

Tên người Ba Tư đội chiếc mũ chóp, mũi cao râu dài, mày rậm mắt thâm đang cãi nhau quang quác với tên người Hán nón lụa áo xanh.

Tên người Hán có dáng người trung bình, áng chừng thấp hơn tên người Ba Tư một cái đầu hơn, giờ phút này mặt đỏ phừng phừng, ngửa đầu mắng: "Thằng ranh nhà mi vô lý nó vừa, lạc đà của mi không đi thì nhường đường hộ để người đằng sau còn đi lên.


Đứng chiếm hết đường lối thế thì ai đi được?"
Một con lạc đà lông xám thong dong gặm đám cỏ gai cạnh cổng thành, nó nằm chắn gần nửa đường.

Tên buôn Ba Tư không sõi tiếng Hán lắm, giọng địa phương cũng nặng, thấy đoàn người phía sau nhăn nhó phàn nàn nên hơi cuống, giải thích cả tràng vẫn chẳng hiểu là đang nói gì.

Đằng sau có cậu thiếu niên nom mười bảy mười tám tuổi thật thà dắt con la to màu đen tiến lên đuổi lạc đà đi.

Con lạc đà kia cũng lạ, càng đuổi thì nó càng ì ra đấy, bốn chân khuỵu xuống đất chặn kín cửa thành.

Mọi người chung quanh vừa tức vừa buồn cười, lạc đà ấy da dày thịt béo, lấy roi ngựa quất cũng chẳng xi nhê.

Tên buôn Ba Tư bó tay, trừng mắt thổi râu liên hồi, bất lực nhìn lạc đà của mình bị mọi người đá đuổi đến nỗi bẩn hết cả người.

Nghiêm Tụng chỉ vào cậu thiếu niên chất phác, hỏi: "Kia có phải con của Chu gia không?"
"Ừ." Tôn lão hút tẩu thuốc, "Sau khi Hổ Tử mất, đứa nhỏ này nháo nhào bảo muốn đi cưỡi ngựa.

Nương tử Chu gia sống chết không chịu, nhưng một nhà bảy tám miệng ăn, cuối cùng không thể không cho nó đi."
Tôn lão gọi thiếu niên kia lại: "Hoài Viễn, đến chào chú Nghiêm của mi đi này."
Thiếu niên từ xa chạy tới cười hì hì: "Chú Nghiêm ạ!"
"Đứa nhỏ này, trông rất có phong thái của Hổ Tử."
Lại phải nói, Chu Hổ Tử bôn ba sa mạc hai mươi năm rồi bỏ mạng trong bão cát.

Lúc chết ngay cả hài cốt cũng không tìm thấy, chẳng biết trên đường đâu là xương ai chất đống, đâu là cô hồn cố nhân.

"Số cả thôi." Tôn lão chậm rãi phả ra làn khói trắng, "Chúng ta dẫn đứa nhỏ này theo, coi như có thể ăn nói với Hồ Tử."
Kỳ Liên núi bắc, Hợp Lê núi nam, Ô Sao Lĩnh núi tây, giữa ba núi là Hà Tây, bắc dựa Mạc Bắc; nam thông Hà Hoàng; tây tiến vào Lương Châu, Cam Châu, Túc Châu, Sa Châu.

Hà Tây vốn là quê hương của người Hồ.

Từ thời nhà Hán, triều đình đã đóng quân đồn điền ở nơi đây, người Hán đa số là dân nghèo và tội nhân được tổ tiên chuyển tới, nhà không tiền của ruộng đồng.

Vì để sống, trong đó không thiếu những người như Nghiêm Tụng, hai mươi tuổi đã đi lính, đến sáu mươi sẽ có đất có vườn, thoát khỏi cảnh lăn lộn trong quân mà địa vị thấp kém cùng mấy đồng quân lương bạc lẻ.

Khác cũng có Tôn Hành Ông và cha con Chu gia, dắt theo đội ngựa thồ, dẫn ngàn dặm thương khách kiếm lời, đi qua sa mạc mịt mùng, tới phương trời xa nhất bọn họ có thể tới, đổi lấy cuộc đời đủ đầy sung túc.

Giấy má đã kiểm tra được chừng hơn tiếng, trong đội buôn có đến mười hồ cơ* da trắng như tuyết mắt xanh như ngọc bị ngăn lại.

Binh lính giữ thành toàn là mấy tên trai đầu gỗ giương mắt nhìn chòng chọc cả buổi.

Có người đằng trước lục lọi trong ngực áo hồi lâu, thở hồng hộc lấy ra xấp sách lụa: "Binh gia, đây đều là vũ cơ tôi mua, sách ghi đây, mời xem thử."
(*Hồ cơ: chỉ thiếu nữ ngoại tộc đến từ phương bắc hoặc phương tây)
Đoàn Cẩn Kha kiểm tra thồ hàng xong, phủi phủi bụi đất bám trên người mình vào đàn lừa, dắt ngựa đi qua thì thấy Nghiêm Tụng chừa một lối đi bên cạnh hồ cơ, nói giọng đong đầy ý cười: "Công tử đi bên này."
Đoàn Cẩn Kha chắp tay: "Đa tạ hỏa trường."

Nghiêm Tụng báo tên họ, sau đó quay sang hàn huyên cùng đám người, anh ta gọi một ấm trà nóng: "Trà lâu năm, mong công tử đừng chê."
Đoàn Cẩn Kha cũng không từ chối, lập tức nói cảm ơn rồi uống một hơi cạn sạch.

Hành tẩu suốt đêm nên mặt mũi giờ đây đã dính đầy bụi cát, bụng dạ lạnh buốt.

Cuối thương đội, một người đàn ông trẻ tuổi mặc áo choàng xám và dắt con ngựa xám, xách theo bao đựng tên, vai khiêng bao lương thực, theo sau là phu xe đuổi con trâu con la cũng vào Ngọc Môn Quan.

Khóe mắt Nghiêm Tụng nhác thấy bóng dáng người đàn ông, lớn giọng gọi hắn: "Lý Vị."
Người đàn ông xoay người lại, hàng mày rậm sắc, gương mặt dính bụi, sáng sớm rét như thế mà bên thái dương lấm tấm mồ hôi.

Một người một ngựa nóng như muốn bốc cả hơi.

"Nghiêm đại ca."
"Trở về sắp xếp ổn thỏa rồi đến nhà uống chén rượu."
"Khi nào rảnh chắc chắn sẽ đến."
Đoàn Cẩn Kha ngồi uống trà bên này, nghe cuộc đối thoại của hai người thì ngẩng đầu lén nhìn sang.

Y có biết Lý Vị, mỗi lần Tào Đắc Ninh ra Tây Vực đều nhờ Lý lão dẫn đường, đoàn người của Lý Vị đi cùng luôn.

Hành trình ngàn dặm nguy cơ đầy rẫy, ngoại trừ mấy thanh - tráng niên tự mở hiệu buôn thì ít ai thuê thêm hộ vệ quen đường quen lối theo trông coi.

Trong đoàn người này, Lý Vị tuy kiệm lời, nhưng tài bắn cung cực kỳ đỉnh.

Đầu xuân theo Tào Đắc Ninh xuất phát từ Cam Châu qua Ngọc Môn, An Tây tứ trấn, thẳng đến nước Đại Uyên.

Đi được khoảng năm tháng, mang bao nhiêu là tơ tằm vượt hàng ngàn dặm, rốt cuộc cũng về tới Ngọc Môn Quan.

Vào Ngọc Môn Quan, lòng người thấp thỏm cũng an tâm hẳn.

Đi thêm mấy ngày ra Túc Châu, nghỉ chân ở Túc Châu một ngày, ba bốn ngày là có thể vào Bạch Mã Thú.

Sau Bạch Mã Thú chính là ranh giới Cam Châu.

Uống hớp rượu cuối cùng trong túi nước, mắt quan sát đoàn người hàng lên tiếp tục lên đường, Tôn lão dụi người vào con lạc đà, thoải mái chợp mắt.

(còn tiếp)
>>Chương 2: Một khuôn mặt nhỏ nhắn trầy xước phảng phất nét mỏi mệt dần hiện ra dưới tấm khăn, da dẻ trắng xám như tờ giấy.

Nom khuôn mặt này, cùng lắm cũng chỉ độ thiếu nữ mười bốn mười lăm tuổi thôi.

*Chú thích
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: 2: Hồng Nhai Câu


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Nguyên Túc Châu tên Tửu Tuyền, nổi tiếng nhất với cốc linh lung dạ quang, là cống phẩm triều đình hằng năm.

Ngoài ra còn có rượu trắng Tửu Tuyền thuộc loại hảo hạng đậm đà men say, và cả những thức quả ngọt lịm ăn mát vào tận gan ruột.
Ngày đến Túc Châu, ông trời bỗng giở tính tai ngược đổ rào một trận mưa buốt.

Mọi người ngồi vây chung quanh quán trọ thưởng thức mấy vò rượu trắng trong niềm sung sướng.

Nghỉ hết một ngày rồi lại lên đường đi theo hướng đông đến Cam Châu.

Túc Châu cách Cam Châu bốn trăm dặm hơn.

Đi về phía đông dọc ven chân dãy Kỳ Liên Sơn, cảnh vật dần dần biến khác so với vẻ hoang dã của tắc ngoại*.

Trời xanh như gột rửa, mây trắng nở bồng bềnh, núi non đồ sộ làm bật lên đỉnh núi tuyết đọng quanh năm, xa xa đồng cỏ nhấp nhô trải dài tựa bức họa cuộn tròn.

Mọi người đi trọn một đường, vốn đã quen với cát vàng mênh mông, giờ nhìn xa là núi xuyên hồ, lòng tràn niềm vui khoan khoái.

(*Tắc ngoại: Phía bắc Trường Thành)
Trạm Hắc Tuyền là một trạm dịch nhỏ đổ nát bên đường, mọi người ở đây bổ sung đồ ăn thức uống, Tào Đắc Ninh đi sang nói với Đoàn Cẩn Kha: "Cậu Kha, trưa trời trưa trật rồi, hay là nghỉ chân một lát đi."
Đoàn Cẩn Kha dán mắt vào con ngựa đỏ thẫm của mình đang uống nước cạnh giếng, gật gật đầu: "Mọi việc cứ theo ý chú Tào."
Dọc đường, nếu không có làng hay trạm dịch để bắc nồi nấu cơm, thì mọi người có thể lấy lương khô làm thức ăn.

Lương khô chủ yếu là bánh vừng* và thịt khô, các trạm dịch và quán trọ ven đường đều có bán.

Bánh vừng dày độ một hai tấc, đem nướng trên lửa than, vậy là đã cho ra lò một chiếc bánh thơm, dày và mặn, dùng dây thừng xâu lại thành chuỗi, khi ăn chấm chút nước cho mềm, ăn kèm cùng thịt khô.

Đoàn Cẩn Kha sinh ra ở Trường An, mẹ xuất thân từ quan lại Giang Nam.

Đầu bếp trong nhà toàn là người miền nam, sở trường chế biến những món đòi hỏi sự tỉ mỉ như xắt mỏng hay làm trà bánh.

Trong vòng nửa năm trở lại đây, nói một cách hoa mỹ thì, trên phương diện ăn uống quả thực là khổ mà chẳng thể nói.

Vỏ bánh vừng thô ráp, Đoàn Cẩn Kha nhai nuốt từng miếng nhỏ.

Gã sai vặt lanh lợi Ngụy Lâm bên cạnh lấy từ trong tay áo ra một chiếc hũ nhỏ, nhón mấy miếng hoa quả đưa cho y: "Đây, công tử."
Đó là loại mơ tía tô có tiếng nhất của cửa hàng Thôi gia ở Trường An, được đựng trong chiếc hũ nhỏ bằng ngọc lưu ly*.

Quả nào quả nấy trơn bóng mượt mà, vỏ khoác ngoài như được phết lớp son hồng, ngậm vào miệng là lập tức tan ra, lẫn trong vị chua chua là cái ngọt lành thanh mát cả khoang miệng.


Con người Đoàn Cẩn Kha, tuy trông vào thì phú quý nho nhã, ăn mặc ngủ nghỉ cũng không quá kén chọn, chỉ có điều thích nhất là ăn đồ ngọt.

Có lẽ năm ấy lúc phu nhân mang bầu đã ăn khá nhiều mơ, từ bé đến lớn chung quanh y chẳng thiếu sơn hào hải vị, nhưng chỉ một chén mơ trộn cơm cũng đủ khiến y thỏa thuê sung sướng.

Đoàn Cẩn Kha nhai hạt mơ, đứng lên ngắm nhìn dãy núi cách đó ít xa.

Đằng trước là đỉnh nam Dã Mã, chỉ thấy từng cụm núi che mắt, nối liền lấy nhau, trập trùng nhấp nhô không biết mấy tầng, uốn lượn quanh đường núi như ẩn như hiện.

Vương triều phong Lương Châu làm quân trấn Hà Tây, có sáu Chiết Trùng Phủ*, bốn vạn quân Xích Thủy đóng giữ.

Nơi giao dịch đặt ở Cam Châu, bố trí nơi giao dịch để giám sát, khuyến khích việc mua bán của Trung Nguyên và Tây Vực.

Khi thương đội tiến vào Cam Châu dỡ hàng, thì đó đã là cuộc hành trình vạn dặm để cuối cùng trở về quê nhà.

(*Chiết Trùng Phủ: tên chế độ binh phủ, tổ chức cơ sở quân sự thời Đường)
"Này, đợi đến Cam Châu rồi..." Không biết người nào trong thương đội cất tiếng khởi xướng, "Đợi đến Cam Châu rồi, thể nào cũng phải ăn ba ngày ba đêm cho đã.

Thịt bướu lạc đà, phô mai, rùa móng ngựa, đuôi gấu mèo om lê*, có đem thần tiên đổi cũng xin từ chối!"
"Rượu nho là tốt nhất, rượu Dương Cao uống vào sướng hết người, rượu Trường An mua trăm tám mươi hũ, uống ba ngày ba đêm cũng không hết!"
"Thế thì cô nương thành Cam Châu phải ôm ngủ ba ngày ba đêm mới đủ!"
Mọi người phá lên cười sảng khoái.

Trên trời, cánh chim sải chao nghiêng đang đọ cao thấp với đỉnh núi.

Thương đội phía dưới kéo theo đoàn lữ hành tít tắp chẳng thấy đầu cuối đi trên con đường quanh co khúc khuỷu, tiếng lục lạc leng keng chậm chạp dội sâu vào đường núi.

Núi Dã Mã nhiều cát đá, là loại đá vụn bị băng tuyết mưa gió quanh năm suốt tháng ăn mòn.

Thương đội vượt qua các vách núi trùng điệp, đập vào mắt cơ man là gờ núi dốc ngược, mỏm đá lởm chởm nằm cao chót vót.

Đi được vài dặm thì trước mặt hiện ra một chỗ đá trũng.

Đây là một khu đất hoang bị gió nạo vét tứ phía, cỏ cây rất thưa thớt, đâu đâu cũng thấy có khe rãnh nông sâu, đất đá ngổn ngang, vô số tảng đá và gờ hình thù quái đản.

Đá đỏ như máu, màu vàng bơ, màu đất đỏ, đỏ thẫm, hay tím đậm,..

hệt như lò hỏa luyện đông đặc lại trong nháy mắt, lắm hang nhiều lỗ, như trụ như rừng, thường dễ bị lạc giữa không gian ấy.

Do đá và đất có màu sẫm đỏ, nên dân bản xứ gọi nơi đây là Hồng Nhai Câu*.


(*红崖沟 - Hồng Nhai Câu: Hồng là đỏ, Nhai là vách đá, Câu là khe rãnh)
Gió khúc khích nô đùa mài trên đá, rít qua tai mọi người, nghe quả thực có phần bực dọc.

Đi nửa đường, Hách Liên Quảng dẫn đầu bỗng nhướng mày, vỗ ngựa lùi ra đằng xa.

Hắn quay đầu làm dấu tay, ngăn thương đội tiến lên trước, nghiêm mặt nói: "Dấu chân dưới đất kỳ lạ quá."
Mọi người vốn đã có hơi hoang mang, giờ phút này ai nấy cũng giữ rịt lấy chiếc túi lớn đeo bên người, bối rối hỏi: "Xảy ra chuyện gì thế?"
Hách Liên Quảng đá văng đám đá lăn lóc bên đường.

Dưới đất là những vết hằn sâu hết sức lộn xộn, cách đó không xa thấp thoáng thấy có mảnh lụa trắng nằm ở rìa tảng đá dị dạng.

Đoàn Cẩn Kha cẩn thận quan sát dấu vết, Tôn lão bên cạnh cất tiếng: "Có dấu xe, dấu chân ngựa lừa, và cả dấu chân người."
"Còn có dấu móng ngựa đóng sắt nữa." Đoàn Cẩn Kha nhíu mày.

"Là mã tặc ư?"
Núi Dã Mã là con đường dân buôn bán buộc phải đi qua ở Cam Châu - Túc Châu.

Núi đá của khu vực Hồng Nhai Câu phải nói vô cùng hiểm trở, khe rãnh khắp nơi, có nhiều băng nhóm lẻn lên tận đây rồi ẩn náu trong núi, chuyên gia cướp bóc thương khách qua đường.

Mọi người nghe nói tới mã tặc, lòng ai nấy cũng dâng nỗi lo âu.

Tào Đắc Ninh lại chẳng hề hoang mang: "Chưa biết thực hư, tạm thời mọi người cứ bình tĩnh.

Huống chi chúng ta người đông thế mạnh, tên cung đầy đủ, không hẳn là không đối phó được."
Hách Liên Quảng, Thẩm Văn đi lên trước dò xét kỹ hơn, chỉ chốc lát sau đã thúc ngựa trở về, cả hai đều lắc đầu: "Chỗ rãnh đằng trước có càng xe gãy rụng mỗi thứ một nơi, tường đổ vỡ, với cả vài món dụng cụ hằng ngày.

Xem ra trước đó đã có một đoàn người đi qua gặp cướp.

Tuy nhiên không thấy vết máu hay thi thể gì, chắc là gặt lúa thôi."
Gặt lúa, giải thích theo kiểu biệt ngữ thì là, hoa màu để lại gốc, sinh trưởng hết vụ này đến vụ khác, người không giết hại, chỉ vơ của*.

(*Tức là giết người rồi thì lần sau còn gì để cướp nữa)
Mọi người vội vàng đi trước, chưa được bao lâu, sau lưng tự dưng trở nên rối loạn, có người bỗng giơ tay lên chỉ: "Chỗ rãnh kia...!là gì thế? Hình như có người nằm đấy!"
Dọc theo đường là khe rãnh dốc ngược, sâu mấy chục thước.

Bên trong là những đá mấp mô, mỏm đá ngầm dữ tợn, đất đá đỏ rực như lửa cháy, càng làm nổi bật lên miếng vải mỏng tanh.

"Dù có là người, nơi vách đá dựng đứng thế này, chỉ sợ cũng chết mất xác rồi." Có người nói, "Vẫn nên mau đi thôi."

Không biết từ lúc nào, nàng tỉnh lại từ cơn hỗn độn vô biên.

Chắc là chịu đau một khoảng thời gian khá dài nên tạm thời đã mất đi cảm giác.

Cả người như nhánh tơ liễu bị gió thổi phất phơ, mềm oặt vô lực, lắc lư liên tục, chừng như giây lát sẽ tan tác theo luồng gió.

Lạnh quá, sao lại lạnh vậy chứ, lạnh đến độ cơ thể hóa bông tuyết, mỏng giòn buốt giá tan ra trên mặt đất.

Đầu óc hoa hoa váng vất, tai chỉ nghe toàn tiếng ong ong, nỗi sợ hãi không tên cứ dâng lên dần, nàng run rẩy muốn bắt lấy thứ gì đó.

Những ngón tay tô bóng nước hướng về phía nàng, nàng cố gắng chạm tới những đầu ngón tay đẹp đẽ ấy, nhưng cách xa quá, bất luận cố gắng kiểu gì cũng chẳng với được.

Không một gì hết.

Bất thình lình, nàng rơi xuống từ giữa không trung.

Phút chốc, cảm giác đau thấu như tim bị đục thủng, xương bị bóp nát, tràn lan khắp các dây thần kinh.

Có tiếng ầm ầm vang bên tai, phần ngực, cổ họng và khoang mũi nhức nhối, như hàng ngàn nhũ băng đâm vào người.

Lần nữa nàng đau đớn tỉnh dậy khỏi ảo ảnh hư vô, mơ hồ nghĩ: "Nếu bị sói hoang ăn thịt...!Liệu có phải sẽ rất đau..." Chốc lát sau, nàng nghĩ, "Chắc chắn rồi, dáng vẻ nhất định là xấu xí lắm..."
Hồi lâu, nàng hốt hoảng khi trông thấy gương mặt hư ảo, một cặp mắt đen nhánh.

Nàng không nhớ mình đã gặp đôi mắt đó hay chưa, bụng cứ ngỡ đây là tưởng tượng của mình, rồi lại nghĩ, chả nhẽ quỷ soa đến dẫn mình đi?
Lý Vị ngồi xổm bên người nàng, hàng mày chau lại, khẽ mơn trớn tứ chi mềm mại của nàng, sau đó vỗ nhè nhẹ vào người nàng.

Nàng lặng lẽ rên lên tiếng đau đớn, thân thể như bị xé toạc thành lỗ thủng to đùng, cơn đau xộc lên tận não tưởng chết, khí huyết cứ cuộn trào nơi lồng ngực.

Đột nhiên đầu óc tỉnh táo lại: "Chẳng lẽ quay lại bắt mình ư?" Nàng nhớ rõ có một tên đàn ông nắm lấy bả vai nàng, chiếc ủng sắt pha chì đạp vào ngực nàng, ném thẳng nàng ra ngoài.

Nàng không nghe rõ tên đó nói gì, bụng nhủ thầm: "Kẻ sĩ thà chết chứ không chịu nhục!"
Lý Vị cẩn thận bế nàng đứng lên, nàng đau mà mất hết thần trí, gắng gượng ngẩng đầu dậy từ khuỷu tay hắn, thở hổn hển khó nhọc.

Trước mắt là một mảng đen sì sì, nàng nghiêng đầu, nghển cổ, há miệng cắn phập xuống cánh tay kề sát mặt mình.

Vải thô xếp nếp, răng nanh sắc nhọn xuyên qua lớp áo cắn vào thịt hắn chẳng khác nào con thú con bị thương, Lý Vị không thấy đau, mà lại hơi ngạc nhiên, nhíu mi nhìn chằm chằm người trong lòng.

Khuôn mặt to bằng bàn tay đầy máu trộn lẫn với đất cát, lông mày đen cau tít, trên hàng mi dài vương máu và bụi, thoáng gây cho đối phương một cảm giác cô độc trơ trọi.

Dòng máu tanh ngọt trào ra từ cổ họng, thân thể yếu ớt của nàng khẽ co rúm, máu phun hết lên áo của hắn, bắn cả lên mặt hắn hai ba chỗ ấm nóng.

Nàng lần nữa rơi vào hôn mê.

"Người còn sống không?" Nhóm thương nhân gọi.

Người trong lòng nhẹ bẫng tựa lông hồng, lớp quần áo sau lưng đẫm máu, ướt đầm nhớp nháp dính vào đầu ngón tay hắn.


"Còn sống."
Bấy giờ, đám đông lo lắng ló đầu mới thở phào nhẹ nhõm.

Hoài Viễn rút một tấm ván gỗ trên xe bò ra, nhảy xuống con rãnh sâu, động tác nhanh gọn dứt khoát, lúc thấy cảnh tượng trước mắt thì bất giác giật mình: "Chảy nhiều máu thế này..."
Lý Vị đặt người bị thương lên tấm ván, khẽ ừ, dang hai tay nhuốm đầy máu: "Xương ngực bị gãy, có vết thương do dao."
Mọi người ném sợi dây thừng ráp nhám xuống kéo hai người lên.

Vừa trông thấy người bị thương có thân hình nhỏ gầy, là một chàng thiếu niên trẻ tuổi mặc chiếc áo choàng cổ tròn xoàng xĩnh, bọc ngoài là chiếc áo lông cừu trắng đậm màu đỏ của máu, ai ai cũng nhẹ nhàng thở hắt ra: "Ối, con cái nhà ai kia, cả người mặc đồ trắng mà lại lang bạt chốn đây, không sợ bẩn hay sao."
"Nhưng cũng may nhờ bộ đồ trắng dễ gây chú ý, mới nhặt được mạng về đấy."
"Cũng đúng."
Lý Vị lôi mấy tấm thảm nỉ bọc người cho người ta, hỏi: "Có vị huynh đài nào biết khám chữa không?"
Trong thương đội vốn có một vị hòa thượng am hiểu y thuật, tuy nhiên đã từ biệt mọi người ở Ngọc Môn quan đi về Đôn Hoàng mất rồi.

Đoàn Cẩn Kha bước tới kiểm tra, thấy không ai đáp, chỉ đành nói: "Mỗ có biết dược lý sơ sơ, có thể xem thử coi sao."
Mới ghé mắt vào, Đoàn Cẩn Kha đã hãi hùng suýt nhảy dựng, thiếu niên suy nhược được bọc gọn trong thảm nỉ, mặt bê bết máu và cát bùn, chẳng nhìn rõ diện mạo.

Ngụy Lâm giúp Lý Vị và Hoài Viễn khiêng người bị thương lên xe ngựa, thấy máu cứ tí tách rơi trên ván gỗ, nhịn không được thốt lên: "Vẫn còn chảy máu này."
"Trước tiên cởi quần áo ra xem vết thương." Đoàn Cẩn Kha vươn tay định cởi áo ngực, lại bất ngờ bị một bàn tay khác ngăn cản, Lý Vị do dự chốc lát, biểu cảm dị thường, thấp giọng bảo: "Hình như...!là con gái."
"Hả..." Ngón tay Đoàn Cẩn Kha hãy còn chạm vào vạt áo, nghe thế thì rút về ngay tắp lự: "Nữ lang?"
Lý Vị ngập ngừng gật đầu, đứng dậy nói với tên Hồ thương ục ịch đứng cách đó không xa.

Thương nhân đó tươi cười gật gật, quay đầu thì thà thì thầm, sau đó một nàng hồ cơ dáng uyển chuyển bước xuống xe ngựa, đi theo Lý Vị tới chỗ Đoàn Cẩn Kha.

Tấm khăn che khuất nửa khuôn mặt hồ cơ, để lộ nửa khuôn mặt như tuyết trắng, cặp mắt biếc chất chứa nét hờn giận, mi dài như có nỗi ưu tư.

Thình lình Ngụy Lâm "a" lên một tiếng, gáy bị Đoàn Cẩn Kha vỗ cái: "Đi lấy chậu nước lại đây."
Lý Vị biết tiếng Hồ, khẽ nói với hồ cơ vài câu.

Hồ cơ ngẩng đầu nhìn qua, đôi mắt tĩnh mịch như hồ nước thình lình chạm phải mắt của Đoàn Cẩn Kha, rồi bỗng chốc dời đi, cúi đầu cất bước đi vào trong xe.

Không bao lâu sau, hồ cơ thò đầu ra, sắc mặt hơi tái, lắp bắp nói gì đó.

"...!Là một cô gái." Lý Vị thuật lại lời hồ cơ, "Người vẫn còn chảy máu."
Trên chiếc hộp nhỏ cài mặt dây chuyền ngọc óng ánh, bên trong có bộ nội y dính máu, vải bông quấn chặt quanh ngực, máu đỏ đậm gần như nhuộm đẫm mảnh vải.

Ngụy Lâm bưng một bát nước sạch đến, hồ cơ lấy khăn dấp nước lau máu bẩn trên mặt người bị thường, lau đi cả lớp bụi vàng nhem nhuốc.

Một khuôn mặt nhỏ nhắn trầy xước phảng phất nét mỏi mệt dần hiện ra, da dẻ trắng xám như tờ giấy.

Nom khuôn mặt này, cùng lắm cũng chỉ độ thiếu nữ mười bốn mười lăm tuổi thôi.

(còn tiếp)
*Chú thích:
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: 3: Hỏa Thiêu Hiệp





Nhóm thương nhân thấy người đã được cứu về, liền thúc giục lên đường.

Nhóm hộ vệ đeo tên cầm đao không dám sơ suất, bám sát thương đội tiến về phía trước: "Mọi người nhớ cẩn thận, trông coi kỹ đồ hàng bên cạnh mình.

Nếu phát hiện mã phỉ, tuyệt không được hoang mang."
Rèm xe ngựa buông xuống, hồ cơ không dám tùy tiện di dời cơ thể thiếu nữ, cầm cây kéo nhỏ mảnh cắt quần áo dính máu đi, dùng vải sạch cẩn thận lau vết máu trên người thiếu nữ.

Đoàn Cẩn Kha đứng ngoài trông chừng, nhất thời gạt bỏ nguyên tắc "nam nữ khác biệt" sang một bên, hồ cơ vén chỗ bị thương của thiếu nữ lên cho Đoàn Cẩn Kha xem xét.

Thân thể thiếu nữ mềm mại yếu ớt, da thịt trên người không được mấy chỗ nguyên vẹn, tất cả đều là những vết thương nông sâu chằng chịt do cạo vào đá mà ra.

Máu vón từng cục trên làn da trắng nõn, trông cực kỳ xấu xí.

Ngoại trừ vết thương vì rơi từ trên cao xuống, bên đầu vai còn có vết chém kéo thẳng ra sau sống lưng, đầu xương trắng ởn lộ ra trong máu thịt.

"Trước tiên quan trọng là phải cầm máu vết thương đã." Đoàn Cẩn Kha nói, "Trong xe có thuốc trị thương, sử dụng được đấy."
Lý Vị đeo túi tên trên lưng, bảo với Đoàn Cẩn Kha, "Phiền Đoàn công tử tạm thời chăm sóc, đợi tối đến nhà trọ, tôi sẽ tìm thầy thuốc tới xem."
Đoàn Cẩn Kha sai Ngụy Lâm đi lấy hộp thuốc: "Lý đại ca yên tâm."
Lông mày thiếu nữ nhíu chặt lại, sắc môi bợt bạt, hơi thở mong manh.

Đoàn Cẩn Kha thấy hô hấp của nàng có dấu hiệu đứt quãng, liền đặt dưới cổ nàng một chiếc gối mềm.

Hồ cơ bên cạnh chậm rãi xoa ấn đường cho nàng, miệng thì thào như đang niệm gì đó, chất giọng trầm trầm tựa giai điệu du dương.

Đoàn Cẩn Kha đổ thuốc trị thương ra đưa cho hồ cơ, nói: "Rắc đều bột thuốc lên miệng vết thương." Y sợ cô ấy không hiểu tiếng Hán, bèn làm động tác tay để miêu tả.

Đôi con ngươi ngọc bích của hồ cơ lẳng lặng nhìn y, gật gật đầu, rắc bột thuốc lên miệng vết thương của thiếu nữ.

Trong thuốc trị thương có mùi khoai nưa, dược tính mạnh, vừa tiếp xúc với da thịt, thiếu nữ đang hôn mê bỗng phát ra tiếng rên rỉ đau đớn mơ hồ, toàn thân co giật.

Hồ cơ giật nảy, ấn đầu vai thiếu nữ, cặp mắt xanh thất kinh nhìn Đoàn Cẩn Kha.

"Đây là thuốc trị thương dùng cho đàn ông, hiệu lực có hơi mạnh." Đoàn Cẩn Kha bấm tay thiếu nữ, nghiêm mặt nói: "Tôi không còn loại thuốc nào cầm máu tốt hơn thế này, cô ấy đang đau, mau rắc hết thuốc đi."
Hồ cơ run rẩy làm theo lời Đoàn Cẩn Kha.


Thiếu nữ hấp hối, mặt như tờ giấy vàng, lồng ngực phập phồng kịch liệt, mồ hôi lạnh túa đầy đầu, hơi thở càng lúc càng yếu.

Cả hai người cũng ướt rượt mồ hôi.

Tuy Đoàn Cẩn Kha từng theo một lão ngự y của Cô gia học dược lý vài năm, nhưng đây mới là lần đầu tiên ứng phó với người bị thương.

Y xé một mảnh lụa mềm dài đưa cho Hồ cơ, dùng chính cánh tay của mình dạy hồ cơ băng bó vết thương.

Hoài Viễn đánh ngựa đến, nói với Ngụy Lâm ngoài rèm: "Sao rồi?" Đoàn Cẩn Kha vén rèm nhảy ra, "Vết thương ngoài đã băng bó, còn phần ngực thì vẫn nên tìm thầy thuốc tới kiểm tra."
"Mấy ngôi làng đằng trước không có thầy nào cả, cách không xa đây là Hỏa Thiêu Hiệp, có vị thầy thuốc chu du bốn phương." Hoài Viễn nói, "Đã bàn bạc trước rồi, tiểu tử qua đây để hỏi công tử, đêm nay ở lại Hỏa Thiêu Hiệp được không?"
Đoàn Cẩn Kha gật đầu: "Được."
Ngụy Lâm đi đổ chậu máu loãng, nói thầm: "Bọn giặc này đúng là dã man, giật tiền xong còn đả thương người ta, chẳng có quy tắc tí gì.

Cô nương ấy cũng xui quá thể, không biết thân nhân ở đâu, cứ thế bỏ đi tuốt."
Bỗng trong xe có tiếng người la lên, Đoàn Cẩn Kha ngoảnh đầu, trông thấy hồ cơ đang cầm một thanh chủy thủ nhỏ trong tay.

Hóa ra là lúc hồ cơ tháo ủng cho thiếu nữ, thì chủy thủ cũng rớt ra ngoài.

Chủy thủ nặng trình trịch, độc một màu đen thùi, không chút hoa văn nào, vỏ quấn một tấm lụa lem nhem bẩn, rút ra nhìn, là một thanh chủy thủ chất lượng được tẩm trong giá lạnh.

Thiếu nữ cải trang nam giới, trong ủng cất giấu chủy thủ, thực có hơi lạ kỳ.

Đoàn Cẩn Kha nhét chủy thủ xuống dưới gối thiếu nữ, lắc đầu.

Hỏa Thiêu Hiệp có hơn trăm hộ nhà, là ngôi làng lớn nhất Hồng Nhai Câu, chỉ có một cửa hàng tư.

Tốp người dẫn đầu bước vào, chủ tiệm tay chân lanh lẹ nấu nước mổ thịt dê, nhào mì làm canh.

Trong sân nổi lửa lớn, đun một chiếc nồi to đen sì.

Tiết chảy ra từ cổ con dê béo ục ịch, xong thì đến khâu vặt lông, làm sạch đầu và móng, mổ bụng lấy bộ lòng.

Dao nhọn rọc dọc theo gai xương, dễ dàng tháo các khớp xương ra, nhét táo đỏ vào bụng dê, bỏ cả con vào nồi nấu chín.


Cho tới khi trời tối đen như mực, canh trong nồi đã bốc khói nghi ngút như sương, xương mềm thịt nhừ.

Chủ tiệm thoăn thoắt đổ tiết dê, lòng dê, ngò gai băm nhuyễn, và một nắm muối ăn vào nồi, hơi trắng ngập tràn khoảng sân, hương thơm trôi xa mười dặm.

Ngửi mùi ấy, bụng người nào người nấy sôi sùng sục.

Mở nồi múc một chén canh thịt dê, vớt miếng thịt mềm tan, kèm với món rượu trắng chủ tiệm tự tay ủ, men cay thấm đẫm vào bụng.

Rượu mạnh, thịt dê, lửa cháy bập bùng thiêu đốt tứ chi bách hài.

Mọi người vùi đầu ăn, mặt mũi đỏ bừng, thái dương chảy mồ hôi, nóng hôi hổi.

Vị thầy thuốc đi khắp bốn bể kia ở tại phía Đông ngôi làng, là một ông lão râu bạc, lúc này, hai con mắt lão híp lại, ngồi lựa thảo dược dưới ánh đèn.

Nghe thấy có tiếng ngựa hí dài ngoài cửa, tiểu dược đồng béo lùn mở tròn mắt, chạy huỳnh huỵch vào: "Ông ơi, có người đến ạ."
Trình Bạch Thạch đứng dậy ra ngoài, thấy người đi vào, không khỏi thốt câu cảm thán: "Ôi chao, Lý Vị, sao cậu tới đây?"
Lý Vị nhảy xuống ngựa, bước lại chắp tay thi lễ, cười nói: "Thầy Trình, lâu rồi không gặp, thầy vẫn khỏe chứ?"
"Xương cốt lão hủ còn chắc lắm, người khỏe như vâm!" Trình Bạch Thạch cười tủm tỉm, vuốt râu, "Lâu rồi chẳng gặp cậu, dạo này khỏe không?"
"Nhờ phúc thầy, mọi thứ đều tốt." Lý Vị nói, "Đang từ Đại Uyên về, tối nay tá túc trong nhà trọ, muốn mời thầy đi qua xem bệnh cho một người."
Vào cửa hàng, Trình đại phu ngửi thấy mùi thịt, cầm lòng không đặng mà khụt khịt mũi, cười bảo: "Mùi này quả hớp hồn đấy!"
Phòng cho khách trên lầu đơn sơ, Đoàn Cẩn Kha ngồi dưới đèn, tay cầm cái chén lớn, khuấy đều thứ nước thuốc đen tuyền trong chén.

Thiếu nữ trên giường hãy chưa tỉnh, hồ cơ bưng chén nước ấm, dùng chiếc thìa bé thấm nước vào bờ môi khô nứt của thiếu nữ.

Trên đường đi, Lý Vị đã thuật lại chuyện từ đầu đến cuối.

Trình Bạch Thạch bảo Lý Vị đốt sáng đèn, nhìn kỹ vết thương trên người thiếu nữ.

Cơ thể thiếu nữ mảnh mai gầy yếu, khuôn cằm hình cung tinh tế, xinh xắn cực kỳ.

Dưới ánh đèn vàng rực, cả người tỏa ra nét dịu dàng xa cách, mỏng manh mà lại liêu xiêu lòng người.


Ngón tay Trình Bạch Thạch lần sờ xương đầu nàng, thở hắt ra một hơi: "Thực là vô cùng may mắn, lăn xuống rãnh sâu nhưng không hề tổn thương đến phần đầu."
"Chỗ bị thương dùng thuốc gì đây?"
Đoàn Cẩn Kha đưa bình thuốc qua, nói: "Chỉ là thuốc cầm máu vết thương do dao gây ra bình thường thôi."
Trình Bạch Thạch dí vào chóp mũi ngửi, gật đầu: "Một lạng bạch phụ tử, thiên ma, cây khương hoạt, khoai nưa, đem nghiền thành bột mịn rồi đắp lên." Ông lão vểnh râu: "Đây là thuốc trị thương trong quân, dược tính hơi mạnh, cho người bình thường dùng thì hơi quá sức chịu, nhất là nữ tử, người yếu khó mà gượng được.

Nếu có thể dùng rượu vàng điều hòa là tốt nhất, tính nhẹ, dược tính cũng tốt hơn một chút."
Đoàn Cẩn Kha nghe lời ấy thì không khỏi giật mình.

Ở ngôi làng nhỏ nơi núi non hoang dã này, một vị thầy thuốc phiêu du tứ phương tướng mạo tầm thường, vậy mà lại nhận ra được dược phẩm trong quân, đúng là hiếm có.

Trình Bạch Thạch rửa sạch tay, cách lớp quần áo nắn nắn xương cốt thiếu nữ.

Tới khi nắn đến phần mềm mại ở chỗ tường ngực, thiếu nữ khẽ rên lên tiếng đau nhói, vầng trán rịn mồ hôi lạnh, hô hấp vừa yếu vừa dồn dập, còn trộn cùng tạp âm nhè nhẹ.

Hồ cơ và Lý Vị thì thầm, Lý Vị nhíu mày, nói: "Bên trong có máu bầm, hay là nội tạng bị thương rồi...!Lúc tôi tìm thấy, cô ấy còn ói ra ngụm máu."
Trình Bạch Thạch xắn tay áo lên: "Trước tiên kê phương thuốc chắc xương, chườm nóng một đêm.

Nếu sau một đêm mà bình an, tính mạng ắt không phải lo.

Nếu có khác thường gì, lập tức tới tìm ta."
Lý Vị gật đầu: "Tôi tiễn thầy về."
Đoàn Cần Kha cầm phương thuốc của Trình Bạch Thạch nhìn nửa buổi trời, tay gãi gãi trán.

Thuốc rất đơn giản, đều là những món có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi, một cân sinh địa hoàng, bốn lạng sinh khương, giã ra, sao lên, chườm nóng.

Thành Trường An đắt đỏ, thầy thuốc dùng thuốc luôn đặt quý hiếm là hàng đầu.

Đoàn Cẩn Kha nắm phương thuốc ngắn gọn như vậy mà lòng bán tín bán nghi.

Trong phòng, nồi dê hầm đã thấy đáy, thương đội ăn no nê, chủ tiệm bận rộn cả ngày cũng kiệt sức.

Rơm củi trong sân chất đống cao, mọi người ngồi vây chung quanh đống lửa khoác lác chuyện trò, tiếng cười vang trời hòa cùng tiếng sáo dân tộc Khương vi vu truyền đến nơi xa.

"Nương tử nhà cậu, sức khỏe gần đây ổn chứ hả?"
"Vẫn ổn." Lý Vị xách hòm thuốc của Trình Bạch Thạch, "Đường khó đi, thầy chậm thôi."
"Đổi phương thuốc gì uống rồi?"
"Hai năm trước có nhà sư từ Quy Từ quốc đến, tôi dẫn Vân tỷ đi cầu bái, đại sư kê một phương thuốc, uống từ đó tới giờ."
Trình Bạch Thạch muốn nói gì, nhưng rồi lại lắc đầu.


Hai người về phòng thuốc, Trình Bạch Thạch cười ha hả, nói: "Về nhà thay ta hỏi thăm Lý nương tử.

Hôm nào rỗi rãi, ta sẽ đến thành Cam Châu thăm cô ấy."
"Nàng ấy cũng nhớ ân tình của thầy."
Cầm thuốc từ phòng thuốc, Lý Vị đi trên con đường trở về, bóng lưng người đàn ông bước trong lùm cây cỏ um tùm héo rụi.

Gió lạnh đong đưa, giữa trời đất chỉ còn là một hình bóng hư hư ảo ảo, mọi thứ đều hóa mơ hồ, như lạc vào cõi chiêm bao.

Tiếng hát tục tằn vang khắp quán trọ.

Đứng lặng ở cửa một lúc, máu trên áo đã cô lại thành các vết nhỏ xíu khô cứng, chẳng hiểu tại sao, hắn bỗng thở dài một hơi.

Mùi thuốc thoang thoảng quanh phòng, Ngụy Lâm ngồi chồm hổm sao thuốc trong cái vạc, thấy Lý Vị đến, cất tiếng hỏi: "Lý, chú ăn chưa? Công tử nhà tôi đi ăn cơm với hồ cơ rồi, thịt dê hôm nay thơm lắm đấy!"
Lý Vị cười cười, con ngươi hắn đen nhánh, khi cười lại có cảm giác mát lành của người thiếu niên, chẳng hề giống tên hộ vệ thô kệch của đoàn ngựa lừa chút nào.

"Đợi lúc đến thành Cam Châu, tôi sẽ mời cậu ăn dê nướng nguyên con."
"Được quá! Cả đường này đi theo thiếu gia nhà tôi ăn gió nằm sương, thiếu gia nhà tôi không thích ăn những món ấy, làm tôi chả được hưởng lộc ăn gì cả." Ngụy Lâm mười sáu mười bảy tuổi, như một tiểu thư đồng nho nhã yếu ớt, "Tôi cũng muốn bắt chước mọi người, uống rượu ăn thịt cho ngập miệng."
Hách Liên Quảng và mọi người trong đoàn ngựa thồ ngồi bên đống lửa uống rượu, Thẩm Văn huých huých vai hắn, bĩu môi với hắn: "Hách Liên, nhìn thương nhân Khang quốc áo tím kia đi, trên người hắn có túi mã não Lạt Ma hảo hạng kìa.

Anh xem thử xem, có lẽ có thứ anh muốn đấy."
Hách Liên Quảng lạnh lùng liếc mắt qua, Thẩm Văn cười khà khà: "Nãy đi vệ sinh, tôi thấy hắn lén nói chuyện với người khác ở đó, bảo tìm được một số hạt châu chất lượng lắm, đoán là anh sẽ có hứng thú."
Hách Liên Quảng trầm ngâm một lúc, quẳng thịt dê trong tay cho Thẩm Văn, đi đến chỗ thương nhân Khang quốc đứng trong đám người.

Sau lưng hắn, Thẩm Văn mỉm cười: "Nào xong việc thì nhớ đừng quên công tôi nhé!"
Thương nhân Khang quốc thấy có người lại hỏi hạt mã não Lạt Ma, ngập ngừng không nói, vốn dĩ chưa muốn bán ra sớm như thế.

Nhưng trông mặt mũi Hách Liên Quảng ác liệt, không giống người dễ tiễn bước, lại biết hắn là hộ vệ của đội lạc đà, vất vả gian lao đi theo thương đội.

Hồ thương chẳng đành từ chối, bèn kéo Hách Liên Quảng vào một góc vắng vẻ, lấy từ trong tay áo một cái túi mềm, mở ra hết sức cẩn thận, lẩm bẩm: "Đống hạt châu này của tôi ấy mà, viên nào viên nấy cũng là cực phẩm, độc nhất vô nhị.

Chẳng hay huynh đài đây muốn loại nào?"
Hách Liên Quảng vốn thuộc người Bạch Lan Khương của hồ Thanh Hải, thân hình cao lớn, nét mặt cục mịch, giờ phút này đang híp vào đôi đồng tử nhạt màu, thấp giọng nói: "Khoảng tầm đầu ngón tay, màu xanh trong."
"Có viên châu này tương đối đấy." Hồ thương lấy một viên, đầu ngón tay vê vê, giơ ra ánh sáng cho hắn xem: "Viên này mà làm thoa cài đầu hay vòng bồ đề thì còn gì bằng!"
Hách Liên Quãng quan sát tỉ mỉ: "Nhỏ quá."
Hồ thương giấu hạt châu trong lòng bàn tay, nheo mắt cười: "Có thì thực ra cũng có, chỉ là chẳng hay huynh đài có bao tiền đổi."
Hách Liên Quảng ôm ngực dựa tường, suy tư chốc lát: "Hai trăm phiếu trà, đủ không?"
"Huynh đài đúng là người thẳng thắn." Hồ thương nói, "Tôi cũng thích buôn bán với người thẳng thắn." Đúng là một hạt châu kích thước phù hợp, "Vào thành Cam Châu ít nhất cũng phải năm trăm phiếu trà, huynh đài quả thực được hời to rồi đấy."
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: 4: Hẻm Người Mù





Chẳng rõ tên cũ của hẻm Người Mù là gì.

Cách đây vài thập niên trước, ngay chỗ đầu hẻm có một người mù xem bói cực chuẩn sinh sống, lúc bấy giờ, mỗi khi người ta nhắc đến con hẻm này, thì chỉ gọi là hẻm Người Mù.
Đi thẳng, dọc theo những đá phiến xanh, là tới cuối hẻm.

Ở đó có cánh cửa gỗ nâu và chiếc khóa đồng thau.

Một chạc cây táo tàu thật lớn ló ra khỏi bờ tường, nơi đầu cành treo lủng lẳng mấy quả táo khô quắt và những chiếc lá úa màu.

Mặt trời ban trưa ươm vàng xuyên qua song cửa sổ, hắt vào trong phòng.

Chái nhà Tây không lớn, là gian phòng mà chủ nhà dùng tiếp khách, nền gạch xanh, chiếc tủ to đen như mực dựng ở góc tường, tản ra mùi hương của chất gỗ lâu năm.

Bộ bàn ghế cũ kỹ, nhưng lại được tạo từ loại chất liệu rất tốt và vững chắc.

Giường nhỏ được bọc toàn bộ bằng vải dày, dưới giường có một bếp lò bé bằng đất sét, lửa than cháy rực, ở trên là chén thuốc đen ngòm đắng nghét.

Xuân Thiên tỉnh dậy, mơ màng mất một lúc.

Ngực đau kịch liệt, cơ thể như bị đóng đinh vào đá, không động đậy nổi, chỉ có thể cảm nhận được chút xúc cảm ít ỏi ở đầu ngón tay.

Lớp bụi li ti cỡ đầu cây kim chậm chạp chuyển động, như nhiễm cả ánh vàng sáng của mặt trời, lười biếng phiêu lãng trong không khí.

Xà ngang gỗ trên đỉnh đầu đã cũ, một mảng sơn đỏ bong ra.

Nàng vẫn không nhúc nhích, mê man nhìn chằm chằm lúc lâu.

Cuối cùng, đầu ngón tay dè dặt thò ra ngoài, vuốt ve lớp thảm nỉ lót dưới người, mềm mại như nhung, vô cùng ấm áp.

Ở ngoài thoáng truyền tới tràng cười vui vẻ như chuông bạc.


Ngay sau đó có người đẩy cửa, có tiếng bước chân tung tăng chạy vào, lục lọi trong cái tủ ngăn kéo cạnh giường tìm đồ gì đó.

Nén cơn đau ở ngực, Xuân Thiên chậm rãi nghiêng đầu sang coi, thì thấy đó là một cô bé mới bảy tám tuổi, hai búi tóc được buộc bằng hai sợi chỉ đỏ, cặp má hây hây hồng, cái mũi và đôi mắt nhỏ nhắn, trong tay cầm cây kéo, đang xới tung mấy mảnh vải rách, miệng lẩm bẩm: "Mảnh này lớn hơn, trông còn đẹp hơn mảnh của mẹ nữa!"
Nàng muốn cất tiếng, nhưng lại nhận ra cổ họng mình đắng rát, chỉ phát ra được vài tiếng ú ớ khó nhọc.

Cô bé quay đầu nhìn qua giường, rồi lại xoay đi tìm vải.

Nửa buổi sau, nó bất thình lình dừng động tác trên tay, giật mình quay đầu lần nữa, cho tới khi nhìn thẳng vào Xuân Thiên, nghệt mặt hỏi: "Chị ơi, chị tỉnh rồi ạ?"
Xuân Thiên cau mày, cổ họng lên xuống, suy yếu gật đầu.

Cô bé gái nhe răng nở nụ cười tươi roi rói, cả người bổ nhào đến cạnh giường: "Chị ơi, cuối cùng chị cũng tỉnh rồi, thật là tốt quá!"
"Mẹ, mẹ..." Nó cao giọng gọi í a í ới, nhìn Xuân Thiên cười ngọt: "Em đi gọi mẹ đây!"
Xuân Thiên biết, nàng đã sống lại.

Nhưng nàng không biết giờ là giờ nào, đang ở chốn nào, chỉ thấy đầu óc choáng váng, sức cùng lực kiệt.

Nghe có tiếng bước chân ngoài cửa, nhổm người toan đứng dậy chào hỏi chủ nhà.

Một phụ nhân trạc tứ tuần mặc bộ đồ bằng vải thô lau đôi bàn tay, sải bước qua ngưỡng cửa, cuống quýt tiến lên: "Nằm yên đấy, nằm yên đấy!" Thím đè người Xuân Thiên xuống, "Thầy thuốc dặn rồi, mấy tháng này phải nằm yên một chỗ, không được lộn xộn đâu."
Khắp nơi trên người nàng đều băng bó vải, giỏi lắm cũng chỉ gượng được đầu.

Nàng thở hổn hển, lồng ngực đau như bị cái dùi đục một lỗ, quả tim sắp rơi ra ngoài đến nơi, dòng máu ngai ngái ứ lên cổ, chát như gang: "Nương tử vạn phúc."
"Con ngoan, không cần khách sáo thế, con cứ nằm yên, đừng động đậy." Thím trấn an nàng, "Người có chỗ nào khó chịu không? Để thím bảo Tiên Tiên đi mời thầy thuốc đến xem xem."
Cô bé gái đứng cạnh đáp tiếng giòn giã, cười hì hì chạy ra ngoài.

Xuân Thiên ngửa khuôn mặt nhợt nhạt lên, ho khù khụ liên tục: "Đạ ta ơn cứu mạng của nương tử."
"Gọi Triệu đại nương là được rồi." Thím vuốt ngực cho Xuân Thiên xuôi khí, dịu dàng cười nói: "Chủ nhà họ Lý, thím là người làm thuê cho nhà cậu ấy.

Lý nương tử giờ hẵng còn đang nghỉ, đợi khi nào cô ấy thức, thím sẽ báo cho cô ấy tin tốt này."
"Xin hỏi đại nương, đây là...!giờ nào chỗ nào...!con hoàn toàn...!không nhớ rõ..." Xuân Thiên quan sát cách bày biện trong phòng, đôi mắt chứa đầy nghi hoặc.


"Đây là hẻm Người Mù của phường An Thuận thành Cam Châu.

Hôm nay đã là hai mươi nhăm tháng chín, con ngủ li bì ba hôm, Lý nương tử suốt ngày ngóng con tỉnh, giờ thì tốt quá rồi!"
Xuân Thiên hoảng hốt, có phần lơ đễnh, như nằm trong giấc chiêm bao, nói giọng khàn khàn: "Con không nhớ rõ, sao con lại tới thành Cam Châu ạ?"
Triệu đại nương nói một chập: "Bữa ấy Hoài Viễn về báo tin mừng, bảo thương đội đã trở về, nương tử khấp khởi đi đón đại gia.

Vừa gặp mặt nhau thì trong xe đằng sau có người quýnh quáng la toáng lên, nói con ho ra máu, đại gia quay qua sai người đi mời thầy lang rồi đưa con vào nhà."
Xuân Thiên im lặng chốc lát, mấp máy bờ môi khô nứt, nói: "Con...!không nhớ..."
"Trời nhìn xuống còn xót xa, con ngoan, con tên gì?" Triệu đại nương rót chén trà cho Xuân Thiên uống trơn họng: "Nghe giọng con hình như là người miền Nam, nhà con ở đâu?"
Xuân Thiên báo tên họ, chỉ nói mình từ trấn Tân Phong quận Trường An đến.

Triệu đại nương nghe nàng ở nơi thủ đô ngoài xa ngàn dặm, lại thấy nàng ho khan không dứt, thím xuýt xoa lia lịa, động viên nàng: "Con ngoan, tạm thời cứ nằm chờ thầy thuốc đến, đừng bận tâm gì nữa."
Thầy Hồ vội vã đi vào với hòm thuốc trên lưng, bắt mạch kiểm tra vết thương, rồi sau đó thở phào nhẹ nhõm, nói: "Tỉnh là tốt rồi, mấy ngày nay cần chăm kỹ, nếu không ho ra máu thì không quá đáng ngại."
"Xương gãy đâm vào ngực làm chảy máu, lão phu châm cứu hai canh giờ, thấy cô đột nhiên ngưng thở nên mới tạm dừng." Thầy kê đơn thuốc, "Người tốt ắt có trời phù hộ, nói không bao giờ sai."
Mùi thuốc cay nồng, Tiên Tiên dịch cái ghế đẩu ra ngồi trước bếp lò sắc thuốc.

Xuân Thiên tựa người lên gối, mặt mũi bơ phờ, ngẩn ngơ dán mắt vào làn hơi thuốc bốc nghi ngút.

Từ sau khi từ Hồng Nhai Câu lăn xuống rãnh sâu, giữa cơn đau quằn quại nàng có tỉnh vài lần.

Mùi thuốc trong nhà trọ cũ nát hun cả người, có nữ tử ngoại tộc xinh đẹp mỹ lệ đút nước nóng cho nàng.

Người trong xe ngựa giã thuốc đều đều, họ hỏi nàng đến từ nơi nào, nàng nói được dăm câu thì lại thiếp mất, sau đó, nghe có người nói vào bên tai, quay về Trường An đi.

Tức khắc, nàng trở nên tỉnh táo, chống người muốn đứng lên, nỗi đau tưởng chừng như nuốt chửng lý trí, bất giác cũng quên đi sạch.

Thay một bộ quần áo xa lạ mà sạch sẽ, Xuân Thiên thấy sam bào* của mình đã được giặt sạch, gấp gọn đặt trên kỷ án, bèn năn nỉ Tiên Tiên cầm lại đây, lật coi từng cái.

"Chị Xuân Thiên, mẹ em thu dọn hết đồ đạc của chị vào đây rồi." Tiên Tiên chồm tới cạnh nàng, "Chị tìm gì thế ạ?"

Nàng lật qua lật lại quần áo của mình, đống giấy tờ, phí đi đường, còn cả bản đồ công văn hao hết tâm huyết mấy năm chuẩn bị giờ chẳng biết đã rơi rớt ở đâu, ngay cả chủy thủ quan trọng nhất cũng không thấy nữa.

Nhất thời, tim nàng như bị dao cắt, mờ mịt ngước mi, cảm giác khóc không ra nước mắt.

Ngửi mùi thuốc ngập khắp phòng, có được may mắn sống sót sau tai nạn, nhưng càng nhiều hơn là nỗi mông lung về con đường vô định phía trước.

Đến khi mặt trời ngả về Tây, một phụ nhân trẻ tuổi ốm yếu khoác chiếc áo lông ấm áp, được Triệu đại nương dìu vào.

"Nương tử, bước khéo đấy."
Xuân Thiên chưa nhìn được dung mạo của Lý nương tử, đập vào mắt đầu tiên là bàn tay gầy gò xanh xao run rẩy, có giọng nữ nhẹ nhàng vang lên: "Cô nương, đừng cử động, cứ nằm đó đi."
Là một phụ nhân độ ba mươi tuổi, tuy còn trẻ, nhưng nom bề ngoài hệt người bệnh kinh niên, sắc mặt vàng vọt như nến, hai vệt đỏ ửng nổi trên đôi xương gò má cao ngất, cả người sực mùi thuốc.

Phụ nhân từ từ ngồi xuống chỗ mép giường, tỉ mỉ quan sát Xuân Thiên, giọng nói yếu ớt: "Thật là đứa nhỏ đáng thương."
"Nương tử vạn phúc." Hốc mắt Xuân Thiên ươn ướt, cúi đầu chào: "Ơn cứu mạng này, Xuân Thiên suốt đời khó quên."
"Tôi nghe đại gia kể chuyện xảy ra trên đường, thương em tuổi còn nhỏ quá, vậy mà lại gặp phải tai bay vạ gió thế này." Lý nương tử thuật lại tình hình ngày ấy cho Xuân Thiên nghe.

Ban đầu thương đội bàn bạc, mấy người Lý Vị và Đoàn Cẩn Kha lên đường đi đến Lương Châu, tới Lương Châu sẽ đưa Xuân Thiên tới Đoàn gia để chăm sóc.

Lúc ngang qua hẻm Người Mù, Lý Vị thấp thỏm nhớ nhà nên định bụng về thăm một chốc, vừa quay người thì Xuân Thiên đang hôn mê bỗng ngồi bật dậy, ho ra một ngụm máu đen.

Lý Vị thấy vậy, lập tức ôm Xuân Thiên xuống xe ngựa, mời thầy thuốc tới nhà kiểm tra.

Lý nương tử che khăn ho nhẹ: "Quy tắc khi đi đường rằng gặp gỡ chính là duyên phận, một cái nhấc tay mà thôi, nào có to tát cỡ ân cứu mạng chứ.

Em đừng lo nữa, cứ coi nơi đây như nhà mình, an tâm dưỡng bệnh là được."
Cô ấy sờ tấm thảm nỉ, quay đầu nói với Triệu đại nương: "Trời lạnh lên rồi, thím trải thêm đệm, bếp lò cũng nên đốt, người bệnh không chịu nổi lạnh đâu."
Triệu đại nương gật đầu: "Đệm chăn trong tủ thím đều đem hong nắng ngoài sân, khi nào hết ẩm mốc sẽ mang vào trải cho con."
"Làm phiền nương tử quá ạ." Xuân Thiên nghẹn ngào, chung quy tuổi nàng còn nhỏ, tha hương mắc nạn được người cứu giúp, chỉ thấy sống mũi cay cay, nước mắt chực trào.

"Đại gia đi gấp, trước khi đi còn dặn trong nhà coi sóc em." Gương mặt Lý nương tử hiện lên nét cười nhàn nhạt, "Sức khỏe tôi không tốt, một ngày thì hơn nửa buổi đã dành nằm ở trên giường, trừ tới thăm em thì chẳng làm được gì khác nữa.

Thím Triệu ở đây, em hãy coi là đại nương nhà mình mà đối đãi, muốn gì cứ việc mở miệng nói, nếu có chỗ nào chưa chu toàn, nhất định phải bảo với tôi."
Lý nương tử thấy Xuân Thiên hoảng hốt thất thần, dịu dàng trấn an nàng: "Ra ngoài khó tránh phát sinh vài việc ngoài ý muốn, trước mắt sức khỏe là quan trọng nhất, chớ hoài buồn rầu."
Cô ấy nhìn Xuân Thiên mặt ủ mày chau, liên tục dỗ dành: "...!Nếu em lo thất lạc người thân bạn bè, hẵng yên chí, chờ đại gia trở về, tôi sẽ bảo chàng đi tìm thân hữu cho em, chàng quen biết khắp tứ phương, muốn tìm người cũng không phải khó khăn gì."
Gương mặt Xuân Thiên thoáng vẻ chán nản: "Không dám giấu giếm nương tử, em từ Trường An đến, muốn đến Bắc Đình tìm họ hàng.


Vốn dĩ có một người tôi tớ đi theo, đáng tiếc nửa đường lạc mất nhau, giờ đây đã thành lẻ loi một mình, không có thân thích..." Nàng nghẹn đắng, cả buổi trời không thốt lên lời.

"Vậy..." Lý nương tử hỏi, "Nhà em còn thân hữu gì không, có thể gửi tin báo bình an cũng được."
Xuân Thiên mím môi lắc đầu.

Hóa ra là phận gái nhỏ mồ côi lặn lội đường xa tìm người thân.

Lý nương tử đành xoa dịu, "Thôi, tạm thời em cứ an tâm dưỡng thương, chờ khỏe lên rồi tính sau."
Hai người chỉ nói dăm câu, Lý nương tử đã thấy nhọc người.

Ccô ấy mắc chứng huyết hư khí nhược, da dẻ khô rát đỏ, tinh thần uể oải.

Triệu đại nương đứng sau lưng Lý nương tử, nhẹ nhàng nói: "Nương tử, thuốc chiều vẫn đun trên bếp, tôi đỡ cô đi uống nhé."
Đầu mày Lý nương tử nhíu vào, nắm tay Xuân Thiện: "Để cô nương chê cười rồi, sức khỏe tôi là thế đấy, không thể ngồi lâu với em được.

Em đừng khách sáo, trong nhà ít người thanh tịnh, khó tránh khỏi hơi buồn tẻ, tuy Tiên Tiên tuổi còn bé, nhưng được cái lanh lợi hiểu chuyện, mai mốt cứ gọi con bé tới tâm sự pha trò với em."
Cô ấy lại nói: "Tôi có một đứa con trai, sắp mười một tuổi rồi, đợi sau khi nó tan học, cũng bảo nó đến nói chuyện với em luôn."
"Không dám làm phiền nương tử."
Lý nương tử không thể ngồi lâu, nhìn Xuân Thiên uống thuốc xong, an ủi thêm vài câu rồi vịn tay Triệu đại nương quay về phòng.

Tới lúc trong phòng không còn ai, Xuân Thiên nheo chặt hai mắt, hàng mày cau lại đau đớn, nặng nề thở ra một hơi dài.

Vừa uống hết thuốc, đầu óc mỏi mệt, ánh mặt trời hắt vào khuôn mặt trắng bệch của nàng, nàng mơ màng tiếp tục chìm vào giấc ngủ.

Cơn mơ này chẳng biết kéo dài bao lâu, khi bỗng dưng choàng tỉnh, chung quanh đã ngập trong màn đêm tối om om.

Mặt trời lặn rồi.

Ngoài phòng có tiếng chó sủa vang, tiếng cái ròng rọc giếng kêu kẽo kẹt, loáng thoáng còn xen cả tiếng nói cười của đám trẻ.

Xuân Thiên buông tấm thảm nỉ trong tay ra, ngồi giữa gian phòng lạ lẫm vắng lạnh mà tim đập loạn nhịp.

Từ Cam Châu đi theo hướng Tây tới Đình Châu là hai ngàn dặm, đi theo hướng Đông về Trường An là hai ngàn năm trăm dặm, con đường phía trước đây, nên đi nơi nào?
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: 5: Tết Hàn Y


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




(*Tết Hàn Y: vào ngày mồng 1 tháng 10 âm lịch, đây là ngày mà khí hậu ngày càng lạnh, đồng thời cũng là tiết nhật tế tổ truyền thống của Trung Quốc, người ta đốt áo giấy cho tổ tiên, dâng lên tổ tiên y phục chống lạnh.

Tiết này bắt đầu từ đời Chu, có lịch sử tương đối lâu dài - theo Huỳnh Chương Hưng)
Lúc Xuân Thiên phát hiện trong phòng có người, thì chẳng biết đứa nhỏ này đã ngồi cạnh bàn bao lâu.

Cậu nhóc ấy mặt mũi xinh xắn, mặc tấm áo giao lĩnh màu xanh thẫm mới tinh, hai tay nắm hai đầu gối, dáng ngồi ngay ngắn thẳng thớm, đôi mắt trắng đen rõ ràng dán xuống nền gạch đen, trông hết sức ngoan ngoãn hiểu chuyện.

Xuân Thiên mới tỉnh lại từ giấc mộng, nỗi ưu tư trong lòng như dòng nước tuôn ra, bỗng dưng trông thấy cậu, cũng không biết nên mở miệng thế nào.

Khuôn mặt Trường Lưu có đôi nét tương tự Lý nương tử.

Đẹp nhất là cặp mắt kia, con ngươi tựa làn suối trong vắt, đột nhiên ném hòn đá nhỏ xuống, còn có thể bắt gặp những gợn sóng lăn tăn bị bọt nước đẩy đi.

Xuân Thiên nhìn cậu hồi lâu, Trường Lưu hơi xấu hổ, giũ áo choàng đứng dậy, cúi đầu đi tới gần: "Chị tỉnh rồi."
Cậu nhóc đứng cọ cọ vào cạnh giường, tay nắm chặt cái hà bao nhỏ bên hông, hàng lông mi cong vút run nhẹ: "Triệu đại nương nấu cơm trong bếp, Tiên Tiên đang nhóm lửa, mẹ sợ chị một mình ở trong phòng buồn nên bảo Trường Lưu vào nói chuyện với chị."
Đám nhỏ độ mười một mười hai tuổi thường phá phách khó bảo làm người ta không vừa ý, nhưng đứa nhỏ này thì lại khác hoàn toàn, tính tình dễ chịu, biết vâng lời, đúng là người gặp người thích.

Nàng nhẹ nhàng "ừ" một tiếng: "Hóa ra em tên là Trường Lưu à, tên rất hay."
Trường Lưu vùi đầu, đáp: "Mẹ đặt cho em đấy." Cậu ngước lên, thoáng nhìn sắc mặt Xuân Thiên, lấy từ trong tay áo ra một thứ quả có múi màu vàng óng thơm ngào ngạt đưa cho Xuân Thiên: "Chị để cạnh gối đầu, nó có tác dụng xua đi mùi thuốc, giúp ngưng thần dưỡng khí."
"Đây là quả quýt à?" Xuân Thiên cầm quả trong tay, dí sát vào mũi hít sâu một hơi: "Thơm quá!"
"Không ăn được đâu, đây là quả đắng, chúng em gọi nó là Tước Bất Trạm*, vị cực đắng, đến chim cũng không chịu ăn, nhưng mùi thì rất thơm, sau khi phơi nắng có thể làm dược liệu." Mũi chân Trường Lưu di di dưới đất, ngập ngừng nói: "Em hay đi hái với Gia Ngôn rồi hun trên bếp cho mẹ dùng, mẹ em thích mùi này lắm."
Chao ôi, ngoan thế cơ mà.

Ở Tiết phủ, Xuân Thiên có đứa em trai tuổi xấp xỉ Trường Lưu, tính nết thì bướng bỉnh như Hỗn Thế Ma Vương, người trong nhà ai ai cũng đau đầu.

Trường Lưu nói không nhiều, Xuân Thiên ôm cả bụng sầu lo cũng lười nói.

Hai người lặng ngồi ngẩn ngơ hết nửa canh giờ, cho tới khi Tiên Tiên bưng thuốc tiến vào, toét miệng cười hì hì: "Anh Trường Lưu, nương tử đang tìm anh kìa!"
Cậu nhóc kính cẩn chắp tay chào: "Trường Lưu đi dùng bữa với mẹ, ngày mai tan học sẽ lại đến nói chuyện với chị."

Đứa nhỏ này là của báu mệnh căn của Lý nương tử.

Lý nương tử người suy nhược nhiều bệnh, Trường Lưu nằm trong bụng mẹ bị ảnh hưởng, khi ra đời kéo theo chút chứng hư, từ nhỏ tới lớn phải uống thuốc liên tục.

Lý nương tử xót con, không thích cậu va chạm lung tung, nên khó tránh khỏi việc che chở kỹ hơn bình thường, khóa trường mệnh rồi bùa hộ mệnh xin được ở chùa miếu hằng năm cũng chả biết đã gom được bao nhiêu.

Trời trở lạnh, quả táo tàu khô cuối cùng trên cành bị gió thổi rớt, chạc cây trụi lủi cuộn mình trong kẽ hở của bức tường xám.

Buổi ban mai, mái hiên lợp ngói phủ một lớp sương giá, bầu trời cứ âm u, như cục bông gòn dày sụ đè xuống giường.

Giữa khuya hôm sau, gió thổi ào ào kéo căng màn trời, thỏa thích đổ một trận mưa buốt.

Dưới giường bếp lò đốt nóng bừng, trên giường trải tấm thảm dày, chỉ là mưa cứ tạt vào ô cửa sổ cũ kỹ kêu kèn kẹt.

Nương thân trong cám cảnh gió thảm mưa sầu đây, cũng thấy lòng thoáng nỗi rối bời hoảng hốt.

Lần đầu tiên nàng chứng kiến một mùa đông thế này, mùa đông ở Trường An đượm cái chất thi vị mềm mại.

Người nào cũng chuộng thơm nên trong phòng luôn đốt lư hương, lò sưởi tay bọc trong tay áo đều có nhét viên thơm với đủ kiểu đủ loại, khiến ngày đông hanh hao nhuốm cả hương thơm nồng nàn.

Xuân Thiên cố gắng nhấc người dậy, nhìn mưa buốt ngoài phòng, gương mặt nàng gầy xọp thiếu sức sống, chẳng chút cảm xúc.

Nàng khẽ nhăn đôi mày dài, nhẹ nhàng thở hắt ra một hơi.

Lý nương tử rất sợ lạnh, tường lửa* của chủ nhà đã cháy vào ngày cuối thu tháng chín, trượng phu của Triệu đại nương từ điền trang đi vào thành buôn bán hàng mây tre, tiện thể chở giúp cho Lý gia một xe than gỗ chống chọi qua mùa đông giá rét.

(*Tường lửa: Thiết bị dùng để tăng nhiệt độ cho ngôi nhà thông qua bếp lò)
Tết Hàn Y mồng một tháng mười, Triệu đại nương theo chồng về quê đốt hàn y.


Trường học của Trường Lưu cho nghỉ, trong nhà còn lại mẹ con hai người, cộng thêm Xuân Thiên dưỡng thương ở chái nhà Tây nữa là ba.

Triệu đại nương vừa đi chưa lâu, đã có một phụ nhân dáng người thướt tha ôm giỏ trúc bước vào cửa.

Lục Minh Nguyên mặc đồ trắng toát, trang điểm theo kiểu của góa phụ, chị có hàng mày mảnh và bờ môi sắc anh đào, eo thon lả lướt, toát lên nét thanh tao đặc trưng của nữ tử Giang Nam.

Con chó vàng cạnh bếp than ngước đầu, sủa hai tiếng ra ngoài.

Lý nương tử dựa vào ghế xếp* uống thuốc, chống người lên đón khách: "Sao tới sớm thế, Gia Ngôn đâu?"
"Con chào cô ạ." Trường Lưu đang viết chữ trong phòng, thấy người lớn đến nhà, lễ phép dừng bút chắp tay chào.

"Ôi, tâm can của tôi!" Lục Minh Nguyệt rất thương Trường Lưu, chị âu yếm vuốt ve đầu cậu, lấy một gói bánh từ trong giỏ trúc ra ân cần đưa cho Trường Lưu, "Thôi đừng nhắc, thằng nhóc Gia Ngôn kia vẫn còn làm ổ trong chăn ngủ tít mù đấy!"
Lý nương tử định đi xuống pha trà thì bị Lục Minh Nguyệt ngăn lại: "Ngồi yên đấy, cứ kệ chị, chị muốn ăn gì thì tự lấy là được."
"Không sao, phiền chị quá, sáng sớm đã tới đây." Lý nương tử nhẹ giọng nói: "Để chị chê cười rồi, bao lần chị đến mà chả lần nào tiếp đãi đàng hoàng được."
Lục Minh Nguyệt cẩn thận quan sát mặt Lý nương tử: "Dạo này trông khởi sắc hơn hẳn, đêm ngủ thế nào, ăn uống thế nào?"
"Vẫn thế mà, uống thuốc mỗi ngày, thầy thuốc cũng hay lại." Lý nương tử lắc đầu, "Đã ngần ấy năm, chống cự cho qua ngày vậy."
"Chỉ là chút chứng bệnh lặt vặt thôi mà." Lục Minh Nguyệt vỗ vỗ tay cô ấy, "Đừng sầu não nữa, cứ dưỡng cho thật tốt là ổn rồi."
"Sức khỏe của em mà em còn không hiểu được à, bệnh lớn bệnh nhỏ gì đều biết rõ, mọi người cứ khuyên giải an ủi em, những chỉ sợ là có muốn cũng không dùng được." Cô ấy nói xong thì nước mắt trào ra, không muốn để Trường Lưu thấy mình như vậy, bèn lấy khăn che mắt lại, không nói chuyện nữa.

Lục Minh Nguyệt sốt ruột nhìn cô ấy, vội nói: "Là chị không đúng, đang yên đang lành lại nói mấy câu làm cô đau lòng." Chị trấn an Lý nương tử, "Nghĩ nhiều chuyện thế làm gì, tự hành hạ bản thân hoài.

Suy nghĩ tích cực lên, về những cái tốt ấy, nhà này trong ngoài đều có người trông nom, cô chỉ cần ăn ngon ngủ ngon, cái khác không cần để ý.

Cô cứ nghĩ tới Trường Lưu đây này, vâng lời ngoan ngoãn, học hành đến nơi đến chốn, mai sau chắc chắn sẽ đăng khoa trúng cử, cô còn phải nhìn thằng bé cưới vợ sinh con, con cháu đầy nhà!"
Lý nương tử ấp úng lau nước mắt: "Chị dỗ người ta thành quen rồi nhỉ."
Lục Minh Nguyệt cười nói: "Chúng ta cứ chờ xem, xem lời chị nói có thành sự thật hay không." Chị thân thiết kéo Lý nương tử lên ghế xếp ngồi: "Tháng trước rảnh rỗi, ở nhà làm mấy đôi giày hàng mã, cô coi cái nào ổn thì chọn."
"Lại phiền hà chị rồi." Lý nương tử ôm lấy cái giỏ trúc của Lục Minh Nguyệt, bên trong đựng toàn quần áo tiền giấy đủ màu, nào mũ nào thắt lưng, nào áo quần ngũ sắc, nào nhà cửa rồi xe ngựa, tất cả đều hoàn mỹ.


"Trong thành Cam Châu này không ai là khéo tay bằng chị." Lý nương tử tán thưởng, "Rõ ràng là giấy, mà trông còn thật hơn cả đồ thật."
"Chắp vá lại là dùng được ấy mà." Lục Minh Nguyệt mỉm cười, cúi đầu uống trà: "Tay nghề của mẹ chị, chị giỏi lắm cũng chỉ học được bảy tám phần."
Lục Minh Nguyệt chuyển đề tài: "Tết Lý Vị có về không?"
"Chàng ấy nói sẽ về." Lý nương tử châm trà, "Chú hai của Gia Ngôn cũng đi cùng, có nói khi nào về không?"
"Không về càng tốt..." Lục Minh Nguyệt cau mày, thấp giọng lẩm bẩm, "Người gì mà chẳng ưa nổi điểm nào!"
"Chú ấy luôn đối xử với Gia Ngôn như con ruột." Lý nương tử nói, "Một mình chị nuôi đứa nhỏ, khó tránh vất vả cực nhọc, có chú nó giúp đỡ thì nhẹ nhàng hơn đôi chút."
Lục Minh Nguyệt hừ lạnh: "Gia Ngôn học kém, tự dưng lại có thêm người chú không biết chui ra từ xó xỉnh nào, ở nhà ầm ĩ gà bay chó sủa, mỗi ngày nhìn thấy nó là chị hãi hùng."
Hai người nói chuyện một lúc lâu, ngoài phòng trời u ám như muốn mưa tiếp, Lục Minh Nguyệt tạm biệt Lý nương tử đi về nhà.

Con chó nằm dưới chân Lý nương tử, Lý nương tử hơi váng đầu, cầm mảnh khăn vải chậm rãi chà lau linh vị, đó là của cha mẹ cô ấy, thần bài của Lý phụ và Kim thị.

Trường Lưu gọi "mẹ" mấy tiếng mới kéo được tâm trí của cô ấy trở về.

"Mẹ, mẹ sao thế ạ?"
Cô ấy cười, lắc đầu: "Cha vắng nhà, năm nay con đốt hàn y nhé?"
Mưa lần lữa chưa đổ, chập tối tuyết rơi mịt mùng, hạt tuyết rơi trên mái ngói căn phòng, quét qua song cửa sổ, bám vào đầu vai ống tay áo của người đi đường.

Tuyết càng ngày càng dày, trời đất hóa một mảng trắng xóa.

Đây là thời điểm đốt hàn y.

Giấy, quần áo, tiền âm phủ dồn đống dưới mái hiên, Trường Lưu thắp đuốc, ngọn lửa dần lan khắp những tờ giấy màu, khói nhẹ lượn lờ lập tức tan biến giữa trời tuyết.

Trước người lẫn sau lưng Xuân Thiên đều được quấn bằng vải thuốc, không biết có bao nhiêu chỗ đau.

Thương thế này quả thực là khó trị, trước ngực thì gãy xương, sau lưng bị dao đâm, nằm ngửa không được, nằm nghiêng cũng chẳng xong, xoay người thay thuốc cũng là vấn đề hóc búa.

Nàng cử động bất tiện mà không chịu uống thêm nhiều thuốc, thời tiết ngày nào cũng lạnh, một ngày thì hết nửa buổi là nằm mê man.

May mà trời rét, miệng vết thương khôi phục chậm, chưa đến nỗi lở loét mưng mủ.

Mỗi lần thay thuốc là Triệu đại nương đều thở dài thườn thượt, nom da dẻ non nớt thế này, cũng chả biết có để lại nhiều sẹo không.

"Tiệm của Khang nương tử ở chợ Tây có cao Ngọc Tiết, nghe nói bôi lên là có thể xóa sẹo, chợ ngày mai bảo Triệu đại nương đi mua một hộp về." Lý nương tử ngồi bên giường an ủi Xuân Thiên, "Đừng lo, sẽ tốt lên thôi."

Xuân Thiên vừa thay thuốc xong, người đau nhức, mồ hôi lạnh đầy đầu, đôi môi xám trắng không chút huyết sắc, gượng cười bảo: "Không sao, em không thích bôi mấy cái đó, hồi nhỏ ham chơi ngã chảy máu, cha mẹ cũng không để ý, giờ ở đầu gối vẫn còn mấy vết sẹo cơ."
"Tội nghiệp...!em còn nhỏ mà đã phải chịu khổ thế này rồi..." Lý nương tử che miệng ho khù khụ, "Lại không quen biết ai, làm sao bây giờ đây."
Xuân Thiên nhịn đau, cầm tay Lý nương tử, cười nói: "Gặp nương tử như gặp được người thân, cũng không thấy buồn nữa."
Bỗng, có cô nương thanh tú bưng chậu nước vào, một đôi mắt phượng, hai lúm đồng tiền, trông tầm mười lăm mười sáu tuổi, lớn hơn Xuân Thiên chút xíu, giọng nói giòn giã như tuyết lê: "Nước đến đây!"
Cô nương tên Phương Thục Nhi, ông nội cũng là người dẫn đường cho đội ngựa thồ, thường hành tẩu trên con đường Lũng Hải, có quen biết với mấy người Lý Vị.

Sau khi thương đội tới Cam Châu, đám Hách Liên Quảng và Đoàn Cẩn Kha đi về phía Đông đến Trường An, Hoài Viễn ở nhà rảnh rang nên rất hay chạy sang Lý gia.

Lý Vị đi vắng, sức khỏe Lý nương tử không được tốt, việc chân tay nặng nhọc trong nhà đều gửi gắm cho các anh em trong đội hộ vệ và hàng xóm láng giềng.

Thục Nhi và Hoài Viễn là thanh mai trúc mã, hôm đó hẹn nhau tới thăm Lý nương tử, Hoài Viễn ngồi trong sân miệt mài chẻ cùi, Thục Nhi xắn tay áo giúp Triệu đại nương thay thuốc cho Xuân Thiên.

"Ổn hơn không?" Thục Nhi dấp nước cái khăn lau thái dương cho Xuân Thiên, đối xử với nàng như em gái ruột: "Trên bếp còn thuốc sắc, lát nữa uống tiếp."
Má Xuân Thiên rịn đầy mồ hôi: "Uống xong thì không còn đau, giờ đã đỡ hơn nhiều rồi."
Thục Nhi bao lấy bàn tay lạnh buốt của Xuân Thiên: "Em mau khỏe lên đi, chị dẫn em ra ngoài chơi, chắc em chưa thấy cảnh vật ở thành Cam Châu bọn chị, tuyệt đối không hề kém Trường An đâu!"
Thục Nhi là trưởng nữ trong gia đình, từ nhỏ đã quen chăm nom em trai em gái, con người hào phóng nhiệt tình, rất thích tính tình thùy mị của Xuân Thiên, cộng thêm tuổi tác hai người gần bằng nhau, vừa gặp đã thân.

Hoài Viễn bước nhanh vào, bảo: "Muốn đi đâu chơi, anh đưa các em đi!" Cậu mỉm cười, đứng bên cạnh Thục Nhi khom lưng nhìn Xuân Thiên: "Xuân Thiên, em còn nhớ anh không?"
Xuân Thiên thấy cậu cười nhẹ nhàng nhìn mình chằm chằm, cố gắng nhớ lại, cuối cùng lắc đầu.

Hoài Viễn cào tóc, tràn trề hăng hái kể về tình cảnh lúc mới gặp nàng ở Hồng Nhai Câu, người xung quanh nghe xong đều tặc lưỡi liên tục: "Vạn hạnh, lăn xuống rãnh khô rồi được cứu lên, đúng là người hiền có trời phù hộ..."
Hồi tưởng ngày hôm đó mà Xuân Thiên khiếp vía, lúc ngã từ lưng ngựa rồi lăn xuống dưới, nàng đã ngất đi trong cơn đau đớn, nào còn nhớ mình lại rơi tiếp vào rãnh khô ngàn thước mà không bị đá vụn đập trúng, thực sự vạn hạnh.

Hoài Viễn cười nói: "Cũng đúng, hôm đó lúc anh thấy em thì em đã hôn mê, sau đó không thấy tỉnh lại..."
Hai người ngồi ở Lý gia cả buổi, thấy Lý nương tử hơi mệt, tự giác đứng dậy cáo từ.

Vì chứng khí hư, ban ngày tinh thần Lý nương tử dễ uể oải biếng nhác, người ngoài không tiện quấy rầy.

"Em gái ngoan, hai ngày nữa chị sẽ đến thăm em." Thục Nhi nhướng mày nắm tay Xuân Thiên: "Em phải mau khỏe lại đấy!"
(còn tiếp)
*Chú thích
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: 6: Thành Lương Châu


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Hóa ra vào ngày thương đội tới Cam Châu, Đoàn Cẩn Kha đã nhận được bức thư do tôi tớ nhà chú hai đưa đến.

Trong thư viết, một là anh cả của y - Đoàn Cẩn Ngọc - đã quay về Trường An báo cáo công tác, ra Tết phải chuyển đến Thanh Châu Sơn Đông, hai là về lễ đại thọ sáu mươi vào tháng chạp của lão vương phi Tĩnh vương phủ, nhắn y và Tào Đắc Ninh về Trường An càng sớm càng tốt.
Tào Đắc Ninh thấy Đoàn Cẩn Kha nhìn chằm chằm bức thư mà thần hồn treo ngược cành cây, nhẹ giọng hỏi y: "Cậu Kha, lão gia dặn phải đi à?" Đoàn Cẩn Kha nhét thư nhà vào tay áo, cất tiếng: "Chú đi thu xếp, chúng ta khởi hành quay về Trường An."
Nửa số hàng mang theo trong đội ngựa thồ là phong lan, xạ hương, nhũ hương, có cả Hãn Huyết bảo mã mua từ Đại Uyên.

Tào Đắc Ninh kiểm kê một lượt, dẫn khoảng chừng bảy tám mươi con la chở hàng đồng hành.

Ngoài phu xe tùy tùng nhà mình thì còn mời đám người Lý Vị đi cùng, vì họ đều là những tay có kinh nghiệm, cùng đi với nhau để phòng tránh sự cố chưa chuẩn bị phát sinh trên đường.

Đi cùng còn có hơn mười nàng hồ cơ, nhóm hồ cơ này do một vị Hồ thương mua lại, cũng đi luôn đến Trường An.

Mọi người không thấy nàng hồ cơ tuyệt sắc từng chăm sóc Xuân Thiên đâu, hỏi Hồ thương, mới biết hóa ra hồ cơ ấy là vương nữ Áp Đát.

Quốc thổ Áp Đát cách Trường An hai vạn dặm hơn, sống nhờ du mục, nhiều đời kết thông gia với người Nhu Nhiên.

Vài thập niên trước, Áp Đát bị Đột Quyết tiêu diệt, bộ tộc Áp Đát lưu lạc khắp nơi, một số trong đó di dời đến Thổ Hỏa La quốc.

Thái độ của người Thổ Hỏa La với người Áp Đát chẳng thân thiện gì cho cam, thường bắt cóc phụ nữ và trẻ con ở bộ tộc Áp Đát.

Vương nữ đây thuộc sở hữu của người Thổ Hỏa La, rồi sau đó qua tay nhiều người khác, bị bán tới Trung Nguyên.

Vừa vào thành Cam Châu, nàng vương nữ đã lọt vào mắt xanh của một ông lớn, ban đầu Hồ thương định bán cô ấy vào Trường An, lúc đó giá nô lệ cần phải tăng gấp đôi.

Nhưng hồ cơ thề sống chết không chịu đi về phía đông, Hồ thương chỉ đành chuyển bán cô ấy ở thành Cam Châu.

Nàng hồ cơ tóc vàng mắt biếc, da trắng diễm lệ, là hàng lạ hàng hiếm trên đất Trung Nguyên, mang ra chợ bán giá trị ngàn vàng, giới phú thương thường rất ưa chuộng, nếu hồ cơ có tí thân phận, tức khắc sẽ có người nâng đỡ.


"Nước mất nhà tan, con cưng của giời một khi làm nô, thực là thảm thương!" Cũng không biết, là ai đã nói câu này.

Đoàn Cẩn Kha im lặng, bỗng nhiên nhớ tới cặp mắt bích chất sầu chứa oán kia, cứ luẩn quẩn mãi trong đầu không tài nào xóa bỏ.

Trên đường, mọi người bàn luận viển vông, phóng mắt nhìn xa là núi Yên Chi, cánh rừng ngút ngàn và tuyết trắng tôn nhau lên, dưới chân núi cỏ khô nối liền, tuấn mã hí vang.

Đầm cỏ Đại Mã Doanh là trại nuôi ngựa lớn nhất của triều đình, có năm vạn con ngựa, vô số bò dê, mọi trại lính cùng ngựa chiến Hà Tây đều do nơi đây cung cấp.

Lương Châu cách Cam Châu năm trăm dặm đi đường, người đi đông đúc, quán rượu hàng trà tưng bừng náo nhiệt, thương đội cứ đi rồi lại dừng.

Khi còn hai ba ngày nữa là đến Lương Châu, sắc trời bỗng tối tăm, mây đen chồng chất, cuối cùng đổ một trận mưa buốt liên miên.

Mưa đông dày đặc, khí lạnh như kim châm đâm vào xương cốt, gió rét khiến cả người run bần bật, hương liệu dược liệu trong bao hàng cũng không chịu nổi mưa.

Ngày hôm đó mưa to, mọi người buộc phải chọn một ngôi tiệm tạm lánh.

Chậu than lớn đặt giữa tiệm đốt một đoạn cọc gỗ, cành khô nổ đôm đốp trong lửa, đốm lửa nhỏ bắn tung tóe, người đi đường tránh mưa ngồi thành vòng chung quanh, chả biết người nào cởi giày, quay chiếc giày âm ẩm trên lửa, thứ mùi vừa chua vừa hôi lan tỏa trong không trung, xộc vào mũi khiến ai nấy đều ngạt thở.

Dọc đường đi mưa xối gió lạnh, mặc đồ nỉ áo da càng cảm giác khí lạnh xâm nhập thấu vào tận xương, đám Đoàn Cẩn Kha chiếm mấy cái bàn ngồi hong đồ ướt, chủ tiệm nhanh nhẹn bước ra khom người lau bàn pha trà.

Đồ ăn trong tiệm chỉ có mấy món xoàng, nhiều thì có bánh bột ngô thịt nướng nhét răng, rượu ở đây khá tuyệt, rượu nho rượu trắng rượu trái cây đầy đủ các loại.

Mấy người đàn ông vạm vỡ ở bên lười biếng ngẩng đầu liếc mắt nhìn người bước tới, trong đó có một gã đàn ông râu ria mặt thẹo híp hai con mắt tinh tường, đuổi vội tiểu đồng xách cái giỏ bán gà quay bên cạnh: "Biến biến biến, đừng có chắn trước mặt đại gia!"
Mấy người Đoàn Cẩn Kha, Hách Liên Quảng, Thẩm Văn ngồi một bàn, người nào người nấy vùi đầu, yên lặng uống rượu chẳng nói năng gì, Ngụy Lâm lại nói mãi không dứt, lẩm bẩm liên thiên xin trà xin nước.

Tào Đắc Ninh bảo chủ tiệm bưng mấy bình trà nóng ra cho hộ vệ trông đàn la và hàng hóa, vừa quay mình thì thấy có một gã mặt vàng đeo túi hai đầu* ướt sũng trên lưng, tiến tới gần hỏi: "Xin hỏi huynh đài, đội thồ đi về Lương Châu phải không?"
*Túi hai đầu:

[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ

Tào Đắc Ninh gật đầu: "Đúng vậy."
Gương mặt gã hiện lên nét cay đắng và bất lực, thở dài một hơi rồi khó xử nói: "Không dối gạt gì huynh đài, tiểu nhân họ Triệu, nhà đi ba người, nhà dưới cầu Thạch Đôn phường Bình An phủ Lương Châu, mấy ngày nay bôn ba về, hôm qua đi trên đường không khéo bị trộm mất con la.

Tiểu nhân thấy đội của huynh đài người nhiều xe nhiều, có yêu cầu hơi quá đáng, chẳng biết có sẵn lòng cho tiểu nhân nhờ xe, theo về Lương Châu không?"
Tào Đắc Ninh quan sát gã một lúc, nói: "Có thể, chỉ là chúng tôi đi gấp, sợ là sẽ cực khổ đấy."
"Không sao không sao." Gã mặt vàng sờ sờ thái dương, cười bảo: "Thế thì, đa tạ..."
Hách Liên Quảng ngừng uống rượu, chậm chạp ngước lên, chả biết là nói với ai: "Đi cùng người trong nhà, tính đeo vỏ phỉnh phờ đấy à."
Bên này, gã mặt thẹo thẳng vai lên, nhìn chòng chọc Hách Liên Quảng, nhưng chỉ trong nháy mắt đã thay đổi sắc mặt, nhoẻn miệng cười xòa: "Vị huynh đài này nói gì, mỗ thực sự nghe không hiểu."
Hách Liên Quảng úp chung rượu xuống bàn, đứng dậy lạnh giọng nói: "Thịt làm hơi quá lửa, cơm này nuốt không vô."
Gã mặt vàng tái mét mặt, lập tức cất bước ra ngoài, Thẩm Văn nhanh tay rút thanh trường đao ra, ngăn gã lại: "Huynh đài đừng vội, ngoài kia mưa to gió lớn, chi bằng nghỉ trong tiệm cho đủ sức rồi hẵng lên đường tiếp."
"Không cần, không cần." Giọng điệu gã hơi khẩn trương, liên tục xua tay, "Tôi vừa nhớ ra có chút việc gấp, đi trước một bước, cảm tạ các vị huynh đài!" Dứt lời xoay người lủi khỏi ngôi tiệm.

Hay cái là, gã mặt thẹo trong tiệm cũng biến mất chẳng thấy tăm hơi.

Tào Đặc Ninh đã từng gặp những trường hợp như vậy, nhỏ giọng giải thích với Đoàn Cẩn Kha: "Lũ cường đạo tính cướp giật tiền, nào ngờ đụng phải tay lão luyện, co cẳng chạy mất dép rồi."
Đoàn Cẩn Kha bật cười, trên con đường này không biết đã gặp bao nhiêu đạo chích đạo tặc, ngay cả nơi như phủ Lương Châu cũng có đám ruồi nhặng trắng trợn tiếp tay làm việc xấu, như giòi bám trên xương, đuổi mãi chả hết.

Gió bắc xé vun vút, mây đen mỗi lúc một dày, càng thổi càng nhiều.

Thẩm Văn quấn roi ngựa giữa cánh tay, tháo túi rượu bên hông xuống, dốc thẳng một hơi rượu mạnh vào bụng, rồi ném cho Lý Vị cạnh mình: "Sợ là đổ tuyết rồi."
Lý Vị chụp lấy túi rượu: "Đằng trước chính là Lương Châu."
Không biết là ai vung roi ngựa, tức thì túi rượu đã rơi vào tay người khác: "Mẹ kiếp, thời tiết quái quỷ!" Người nói là Tiền Thanh, từ lúc mười mấy tuổi đã đi từ nước Thục vào Hà Tây, đến nay đã hai mươi nhưng vẫn không chịu nổi mùa đông Tây Bắc.

Túi rượu đã truyền đến tay Đoàn Cẩn Kha từ lúc nào, Đoàn Cẩn Kha quen uống rượu nhẹ vừa phải nên khi uống ngụm rượu này vào, cổ họng sặc nghẹn, lồng ngực như thiêu như đốt, ngón tay cứng ngắc cũng cử động được, không nhịn được hớp thêm hớp nữa: "Rượu ngon!"
Tuyết rơi nhiều, trắng tựa lông ngỗng, phủ khắp mặt đất, gió gào ác liệt, cứa vào người đau rát.


Có người đã đợi sẵn ở thành Lương Châu, tiểu nhị trông thấy Đoàn Cẩn Kha, cười hì hì lên dắt ngựa: "Cuối cùng công tử cũng tới, tiểu nhân đứng đây hơn nửa ngày, cổ sắp gãy làm đôi, nhưng tiểu nhân vẫn cố chờ."
Nhà trọ ở nội thành Lương Châu, trong nhà đốt chậu than ấm, thức ăn nước rượu chuẩn bị đầy đủ.

Chủ trọ là một người đàn bà mặc đồ lụa, dáng vóc đẫy đà, tủm tỉm đón Đoàn Cẩn Kha vào phòng chính: "Trịnh đại nhân đặc biệt căn dặn chúng tiểu nhân chiêu đãi công tử và thương đội thật chu đáo, ăn gì dùng gì, công tử cứ việc nói."
Đoàn Cẩn Kha bình tĩnh, cười nói: "Làm phiền."
Những mẩu băng tuyết lạnh cứng đọng dưới mép của chiếc áo khoác rơm, mọi người dàn xếp đàn la chở hàng xong xuôi thì đều tự đi tìm một chỗ thoải mái.

Đoàn Cẩn Kha rửa mặt chải đầu, thay quần áo, dẫn Ngụy Lâm ra khỏi nhà trọ.

Người gác cổng chuyển bái thiếp, thứ sử Lương Châu là Trịnh Thái Hưng đã nấu trà thơm trong thư phòng.

Mấy năm rồi Đoàn Cẩn Kha không gặp Trịnh Thái Hưng, thấy mặt mũi ông vẫn trẻ trung và bộ râu đầy lịch lãm, không một nếp nhăn, không có gì thay đổi so với lần gặp trước, bèn vội vã bước đến chắp tay thi lễ: "Bác ạ."
Đoàn Chi Đình - cha Đoàn Cẩn Kha - và Trịnh Thái Hưng là bạn bè cùng trường, sau khi làm quan tuy có doanh đảng riêng, nhưng quan hệ cá nhân chẳng hề xa cách.

Hai người hỏi han một bận, Trịnh Thái Hưng vẫy tay ra hiệu nữ tỳ xinh đẹp lui ra, gọi Đoàn Cẩn Kha ngồi xuống: "Chuyến này đi thuận lợi chứ?"
"Tính tình cha con hơn mười năm vẫn vậy, sai con đi mà cũng chẳng đánh tiếng gì với lão phu, đây là không thèm để Trịnh ta vào mắt rồi còn gì!"
"Đâu có ạ." Đoàn Cẩn Kha cười nói, "Ở nhà suốt ngày chơi bời lêu lổng làm cha không hài lòng, mới tống cổ con tới đây, chỉ là không ngờ con lại được các bác các chú chiếu cố."
Đoàn Cẩn Kha nhắc về việc thuyên chuyển công tác của anh Cả Đoàn Cẩn Ngọc, Trịnh Thái Hưng mỉm cười bảo: "Từ sau khi Cẩn Ngọc bước ra Hàn Lâm uyển, càng ngày càng được thánh nhân coi trọng, lần này nó ra làm quan, cha con cũng nở mày nở mặt." Ông lại nói, "Khéo là đầu năm sau ta phải cùng mấy vị tướng quân Chiết Trùng phủ trở về yết kiến thánh nhân và Đông cung, đến lúc ấy có thể tụ họp với nhau."
"Bác tới Trường An sao ạ?" Đoàn Cẩn Kha mừng rỡ, "Con sẽ báo tin này với cha, ông ấy mà biết có khi hưng phấn mất ngủ mấy ngày!"
Trịnh Thái Hưng nói giọng đầy ẩn ý: "Ừ, lương thực trong quân đã bị cắt vài tháng, sợ rằng là các tướng quân Chiết Trùng phủ muốn phá cổng hoàng thành đây."
Nói ra thì, chung quy cũng chỉ bởi một chữ "nghèo".

Vài năm trước triều đình đại chiến với Đột Quyết, khai thông đường Y Ngô, mở lại Ngọc Môn Quan, lập Bắc Đình đô hộ phủ.

Lũ lụt Đông Nam triền miên, sông Hoàng Hà đổi dòng, quốc khố nghèo nàn đến độ cả cỏ rễ cũng không nhổ lên được, Hộ bộ thượng thư sốt ruột đỏ mắt, nghiến răng nghiến lợi muốn thanh toán nội khố của hoàng đế.

Dẫu quốc khố nghèo, nhưng vàng bạc trong kho riêng thì không thiếu, mà hoàng đế đương triều đã quen than nghèo, còn phải nuôi cả hoàng thân quốc thích như rễ dưới nước, trong hậu cung thì có bảy tám hoàng tử công chúa đã đến đuổi thành gia lập thất, rồi son phấn xiêm y của nhóm phi tần, đều cần tiêu tiền.

Thái tử kiêm đại tổng quản Hà Tây, nhọc lòng lo nghĩ mấy chục vạn quân đội Hà Tây, cũng đang tính toán về số tiền trong túi hoàng đế.

Thế nhưng hoàng đế không chịu nhả ra, nhà ngoại thái tử lại là gián thần* chẳng giàu sang gì cho cam, thái tử bó tay, đành cho vài vị quan lớn Hà Tây về kinh báo cáo công tác, cùng nhau nghĩ cách giải quyết.


*Gián Thần: Gián (谏) nghĩa là khuyên can, gián thần là những người trung quân báo quốc, cương trực công chính.

Tào Đắc Ninh đang ở trong nhà trọ chờ Đoàn Cẩn Kha, thấy công tử và Ngụy Lâm trở về, bước lên đón: "Công tử về rồi."
Nhà trọ đã chuẩn bị cỏ khô lương thảo, đổi ngựa khỏe lừa ngoan, mọi người nghỉ ngơi tại Lương Châu một ngày, định ngày hôm sau khởi hành, băng qua Ô Sáo Lĩnh, chọn tuyến đường đi Lan Châu, về phía đông vượt qua sông Hoàng Hà.

Ô Sáo Lĩnh mây sương che phủ, cụm núi quanh co khúc khuỷu nối tiếp, đỉnh núi tuyết đọng đồ sộ, cực tây núi cao ngất cắt ngang trời.

Tất cả mọi người quấn chặt kín trong bộ đồ nỉ, chiếc mũ lông, và đôi ủng da, mà vẫn còn cảm giác khí lạnh luồn vào người, cơ thể run lập cập.

Vốn là núi lạnh, lại thêm gió tuyết, đưa mắt trông bốn bề đều trắng xóa.

Mọi người ruổi ngựa chạy sâu vào núi, chỉ thấy viên tuyết tràn ngập, gió mạnh thấu xương, đoàn người thầm gắng sức, bước được nửa bước cũng khó khăn cực kỳ.

Đường trong núi lạnh lẽo, tuyết kết thành cột băng, phải giảm tốc độ đi, một ngày ước chừng mới đi được năm mươi dặm hơn.

Tuyết đổ càng ngày càng nặng, gió lay bông tuyết đáp xuống người, người thổi hết hơi, bông tuyết dính trên áo, ban đầu mọi người còn đưa tay ra gạt tuyết, đi được một đoạn thì rụt tay về hẳn, mặc cho áo quần cứng lại vì rét.

Ngược gió đi mấy dặm qua đỉnh tuyết, ai nấy cũng mệt không chịu nổi, tiếng gió quét vào tảng băng phần phật bên tai, như đang nô đùa muốn cào rách màng nhĩ, cách đó ít xa, chợt nghe thấy một tràng ngựa hí.

"Là thiên mã Kỳ Liên Sơn đấy!" Mọi người than thở.

Lý Vị cưỡi một con ngựa xám hết sức bình thường, bấy giờ nó đung đưa cái đuôi, hí lên một tiếng trầm trầm.

"Suỵt." Lý Vị vỗ về nó, "Truy Lôi, khi nào về nhà sẽ thả mày vào núi chạy."
Mấy ngày trong núi thực sự vô cùng gay go, khi tới dịch trạm của thành ở phía nam Ô Sáo Lĩnh, mọi người mới thoáng thở phào nhẹ nhõm.

Tại trạm dịch gặp một chiếc xe ngựa chạy từ phía đông đến, trên xe chở quân phục mà cung đình ban thưởng cho chư quân trấn Hà Tây dịp tiết Hàn Y.

Lúc này mọi người đã kiểm tra giấy tờ, tiếp tục hành trình đến Lan Châu.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: 7: Quân Mặc Ly


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Mùa đông Trường An cũng thường có tuyết, nhưng không quá dữ dội như tuyết ở Hà Tây.

Tuyết rơi chẳng biết mệt mỏi, nhỏ như hạt muối thô, lớn như muốn phủ kín cả rơm cỏ, bị gió đông giá buốt cuốn bay, thân bất do kỷ, rít gào thảm thiết.

Tuyết đổ rào rào, nặng nề khuất lấp những nẻo đường, con sông, những căn nhà, và cả bóng dáng người đi đường cũng hóa mờ ảo.

Trời đất thênh thang, ngoại trừ sắc trắng mịt mùng, thì chẳng thấy có lấy màu sắc nào khác.

Trong nhà Lý nương tử, chạc cây táo tàu gầy đét ở góc sân chôn mình vào tuyết.

Lều củi đè sụp nửa bức tường đất, cột băng dài treo ngược dưới góc mái hiên, giếng nước trong sân bốc hơi hừng hực giữa trời rét căm căm.

Ngày tuyết không có việc gì làm, Triệu đại nương rảnh rỗi, bèn đốt tường lửa lên cho ấm, dọn dẹp chiếc giường lò ở nhĩ phòng, trải một cái đệm ấm bằng nỉ cừu, bày chút trà bánh trái cây cho người trong nhà ngồi nói chuyện xơi nước.

Người của hẻm Người Mù đều là đồng hương, hiểu nhau rất rõ, các thế hệ trước về đây sinh sống rồi để lại con cháu, quan hệ vô cùng khăng khít.

Ngày lễ ngày tết, anh đến tôi đi, tẩu tử nhà Đông xin trà muối, bà cụ nhà Tây làm đại thọ tám mươi tặng miếng bánh đường*, tới lui chuyện trò là không thiếu được.

Ngày tuyết không tiện ra ngoài, mọi người nhàn hạ trong nhà, thừa dịp này, người sang Lý gia thăm Lý nương tử, phụ giúp việc lặt vặt nhiều hẳn.

Xuân Thiên ở Lý gia hơn một tháng, thương thế dần dần tốt lên.

Ngày Lý Vị đưa nàng về, các bà các thím đều trông thấy cả, mấy ngày nay có qua nom Xuân Thiên vài lần, biết ngọn nguồn hoàn cảnh của nàng, thấy nàng gầy yếu đứng trước buồng, cũng sẽ sốt sắng tới gần, nắm tay hỏi han: "Vết thương đỡ hơn chưa con?"
Xuân Thiên lễ nghi chu toàn, nói không nhiều lắm, tính tình lại hiền lành nhút nhát, mọi người ai nấy đều thương nàng bơ vơ chẳng nơi nương tựa.

Thím Hoàng ở đầu ngõ vừa tiễn đứa con gái duy nhất về nhà chồng, nhà chỉ còn lại hai vợ chồng già, rất vừa ý các thiếu niên nữ lang trong hẻm, thường xuyên đến Lý gia nắm tay Xuân Thiên bảo: "Con gái xinh xắn như vậy, trông mà xót ruột!"

Các thím trêu ghẹo: "Nếu thím thích thì được dịp nhận con bé làm con gái nuôi luôn đi cho thỏa lòng!"
"Tôi nào có may mắn ấy." Thím Hoàng cười tủm tỉm, "Vừa nhìn là biết con bé xuất thân trong sạch đàng hoàng, xứng có phúc báo."
Đến khi trời quang mây tạnh, tuyết đọng ở góc tường đã sâu ba thước, mây đen tan hết, bầu trời xanh như một khối đá thạch anh khổng lồ.

Không khí lạnh vô cùng, Trường Lưu xỏ ủng da, mặc áo dày, đội mũ nồi làm từ da dê, ôm lò sưởi tay trong ngực, người quấn kín mít đứng dưới mái hiên.

"Con Vàng mày trốn đi đâu, lại đây chơi với anh!" Hách Liên Gia Ngôn kéo hai chân sau của con chó vàng, "Trường Lưu, cậu xuống đây bắt con Vàng cho tôi." Gia Ngôn cùng tuổi với Trường Lưu, nhưng lại cao hơn Trường Lưu nửa cái đầu, tóc hoe hoe vàng, mắt hẹp dài, con ngươi màu nâu nhạt, nhìn cái biết ngay là con lai mang hai dòng máu Hồ - Hán.

"Cậu đừng bắt con Vàng, coi chừng nó cắn cậu đấy." Trường Lưu nhăn mũi, nói: "Vàng, mày chạy mau!"
Con Vàng chẳng còn chỗ nào để trốn, nó nằm nhoài xuống tuyết, dáng vẻ tội nghiệp, sủa hừ hừ về phía cậu chủ nhỏ.

Hai chân trước nó vẫy vùng đào thành cái hố, làm tuyết văng hết lên đầu Gia Ngôn.

"Chà, con Vàng biết đào hố kìa!"
Chu Hoài Viễn đang quét sạch tuyết cạnh giếng, Thục Nhi khoác bộ váy đỏ thẫm, bưng chậu gỗ đứng sau lưng Hoài Viễn, ống tay áo xắn lên để lộ đoạn cổ tay trắng như tuyết, giọng trong vắt: "Hoài Viễn, anh nghỉ một lát đi."
Hoài Viễn dùng xẻng gạt lớp tuyết cứng ngắc, quay đầu quệt mồ hôi trên trán, cười bảo: "Anh không mệt."
"Không mệt thật không?"
"Thật mà."
"Thế có lạnh không anh?"
"Anh không."
Đằng sau vang lên tiếng cười nhạo của Gia Ngôn: "Chị Thục Nhi, trán anh Hoài Viễn ướt rượt mồ hôi kia thây, mà chị còn hỏi anh ấy có lạnh không?" Cậu cười tít mắt, "Chị hỏi bao nhiêu lần rồi, em nghe đến nỗi tai mọc kén luôn đây này."
"Trẻ con như em biết cái gì." Thục Nhi dọa cậu, "Em còn bắt nạt con Vàng nữa thì chị vào nhà mách mẹ em đấy."
"Em không thèm sợ mẹ em nhé!" Gia Ngôn nháy nháy mắt, nhè giọng nhại lại, "Hoài Viễn, lạnh không anh, nhọc không anh..."
"Thằng nhóc này, mày bắt nạt con Vàng chưa đủ, giờ còn lại đây chọc chị à!" Thục Nhi chống nạnh nghiến răng, nhào tới tóm lấy Gia Ngôn, "Đứng lại cho chị, mày đừng có chạy!"
Tiếng cười hi hi ha ha vang khắp khoảng sân, nhà bếp nổi lửa bừng bừng, khói nhẹ lượn lờ tỏa ra từ ống khói phủ đầy tuyết.

Thịt dê béo ngậy hầm trong nồi, mùi thịt đậm đà thoang thoảng khiến người ta thèm nhỏ dãi.


Lý nương tử ngồi bên mép giường lò, đang khâu một đôi đế giày đàn ông.

Tiên Tiên ngồi ở ghế đẩu vặn vẹo mông, từ đầu năm đã bắt đầu học nữ công, học đến cuối năm vẫn cứ là tàm tạm.

Tâm tính mấy đứa nhỏ, hễ nghe thấy động tĩnh bên ngoài, đi được hai đường chỉ là y như rằng lại quẳng kim vứt khung thêu đấy chạy ra ngoài chơi.

Xuân Thiên dời mắt về, nhặt khung thêu của Tiên Tiên lên, nghe Lý nương tử ở cạnh cười bảo: "Đứa nhỏ này, thêu mấy ngày mà trông kim chỉ lộn xộn hết thế kia."
"Em ấy vẫn là con nít."
"Nói là con nít thôi, nhưng năm sau đã chín tuổi rồi, chẳng được bao năm nữa là lập gia đình, nữ công các thứ phải học sơm sớm mới tốt."
Lục Minh Nguyệt cúi xuống vẽ mẫu thêu trên bàn, lắc đầu: "Lúc chị học nữ công, mẹ chị đứng ở đằng sau, thêu sai một bước là bà ấy lại lấy cái bảng đánh vào lòng bàn tay, đánh tới nỗi tay sưng phù không cầm nổi kim, bà ấy vẫn không chịu dừng."
Lục Minh Nguyệt là thợ thêu có tiếng ở Cam Châu, chị thường thêu tranh cho các cửa hàng may vá, ở nhà cũng nhận thêu đồ cho tiểu thư phu nhân trong phủ, "Khi đó chị ghét cay ghét đắng mẹ chị, một hai ép chị học này học nọ.

Thợ thêu có gì tốt chứ, làm đến mắt mù đầu bạc cũng có làm cho mình được bộ quần áo tử tế đâu, hà tất phải thế."
Lý nương tử ho khụ, nhếch môi cười: "Ở Nam cũng thiệt cho tay nghề của chị, em mà so với chị à, thì đúng là khác biệt một trời một vực."
Lục Minh Nguyệt thở dài: "Mấy hôm trước chị nhận việc từ nữ quyến của gia đình thương nhân nọ, chủ mẫu trong nhà chỉ lo bàn tính, từ trên xuống dưới nào áo quần nào khăn đều tìm người ngoài làm.

Thế có phải tốt không, ai bảo phụ nữ nhất định phải ở nhà may vá lo liệu chuyện nhà, phụ nữ đi kinh doanh buôn bán, đâu có kém đàn ông chút nào."
Xuân Thiên cầm khung thêu đi hai mũi, bỗng dừng lại nói: "Lúc em còn nhỏ, mẹ cũng thường làm xiêm y cho những nhà giàu có, đỡ đần chi tiêu trong nhà..."
Hai người ít khi thấy Xuân Thiên nhắc đến người nhà, nghe vậy liền nói: "Vậy tài nữ công của mẹ em chắc chắn là khéo lắm đây."
Xuân Thiên gật đầu, đáp: "Phải."
Tràng cười lanh lảnh của Tiên Tiên từ ngoài dội vào, Gia Ngôn đuổi con Vàng chạy vòng quanh sân, mọi người trong sân cười đùa: "Con Vàng con Vàng, chạy mau lên, đừng để Gia Ngôn bắt được!" Con chó vàng cắm đầu chuồn vào nhà chính, quẫy đuôi hoảng loạn chui xuống gầm bàn, Lục Minh Nguyệt quay mặt sang, cau mày la: "Nhóc quỷ này, đi tới đâu cũng quậy gà chó không yên với nó!"
Gia Ngôn vọt vào phòng, cái đầu tròn nhỏ ló ra khỏi cửa, hai má đỏ bừng, trán lấm tấm hạt tuyết, ngó người trong phòng cười nịnh: "Mẹ, cô Lý, chị Xuân Thiên..."
"Con Vàng thấy con là lại trốn xa tít tắp, con không thấy nó không thích chơi với con à?" Lục Minh Nguyệt xụ mặt, "Cứ bắt nạt nó đi, cô Lý ghét con cho mà xem, lần sau con tới coi cô có đuổi cổ về không."
Gia Ngôn cười hì hì, lắc lắc tay mẹ mình, rồi lại nhìn Lý nương tử, bám lấy cô ấy gọi: "Cô ơi, cô đừng đuổi con nhé."

Từ trước đến nay Lý nương tử luôn bao che cho Gia Ngôn, lấy chiếc bánh đường trên bàn nhét vào túi của cậu nhóc, từ ái cười bảo: "Cô thương Gia Ngôn nhất, đừng có nghe mẹ con nói, cứ thoải mái chơi đi." Cô ấy nắn nắn tay Gia Ngôn: "Trời ngoài kia có lạnh không, nếu lạnh thì lên giường ngồi cho ấm."
"Không lạnh ạ." Gia Ngôn đáp: "Con đi xúc tuyết với anh Hoài Viễn, chảy đầy mồ hôi." Cậu nhóc ngồi sát bên Lý nương tử, ngửi mùi thuốc trên người cô ấy, hỏi: "Cô ơi, dạo này sức khỏe của cô có tốt lên không ạ?"
"Tốt hơn nhiều rồi, trông thấy Gia Ngôn là cô lại thấy khỏe cả người."
Gia Ngôn cười khúc khích, rồi quay sang nhìn gương mặt đầy bất mãn của mẹ mình, lẻo mồm lẻo mép nói bao nhiêu lời êm tai.

Tiên Tiên đứng ở ngoài gọi với vào, cậu nhóc lại chạy bình bịch ra ngoài sân chơi.

Lục Minh Nguyệt quát khẽ: "Chơi cho nó tử tế vào đấy, đừng có nghịch ngợm bắt nạt người ta.

Nếu con dám làm chuyện xấu gì, coi chừng về nhà ăn đòn nghe chưa."
Gia Ngôn lè lưỡi ranh mãnh: "Con biết rồi!"
"Thằng nhóc Gia Ngôn này, em thực sự rất thích nó." Lý nương tử thở dài, "Mạnh khỏe lanh lợi, đúng là thương không để đâu cho hết."
"Ông giời con ấy chỉ giỏi làm chị đau đầu nhức óc, ngày nào cũng thấp tha thấp thỏm, chỉ sợ nó chuốc tội chuốc vạ vào người thôi." Lý Minh Nguyệt cười nói, "Chị lại thích Trường Lưu hơn, thông minh ngoan ngoãn, không để ai phải nhọc lòng, ngay cả thầy giáo ở thư viện cũng khen suốt."
"Gì mà không nhọc lòng chứ." Lý nương tử âu sầu, "Từ nhỏ nó đã khiến người ta chẳng yên tâm nổi."
"Từ sau khi Trường Lưu chào đời, nó chưa hề uống được một giọt sữa nào của em, con người ta bú sữa mẹ, thằng bé lại thuốc thang không sót bữa nào.

Có dạo kia nó quấy khóc cả đêm lẫn ngày, mặt mũi tái xanh như tàu lá, lúc đó em cũng bệnh, ban đêm đổ tuyết, đại gia bồng nó đi gặp thầy thuốc.

Em nghĩ, nếu đứa nhỏ xảy ra bất trắc gì, em cũng chẳng thiết sống nữa.

Mừng là hôm sau đại gia bồng nó về, nói không sao hết, cả người em mới được thả lỏng."
"Cô coi cô kìa, đang êm đang đẹp tự dưng nhớ chuyện cũ làm cái gì." Lục Minh Nguyệt nhíu mày, "Chị thấy mấy năm nay Trường Lưu cũng bớt sinh bệnh, càng ngày càng khỏe đấy chứ."
"Nghe các trưởng bối nói, lúc bé bệnh nhiều, lớn lên là mạnh khỏe bình thường ngay, bảo đó là xui rủi bên người, từ nhỏ đã bị mang đi."
"Chính thế." Lục Minh Nguyệt nói, "Trường Lưu ấy à, không sao đâu."
Lý nương tử thở dài một hơi, cũng nở nụ cười: "Mọi người nói cũng phải."
Lục Minh Nguyệt đứng dậy khỏi chiếc ghế đôn*, nhìn đế giày mà Lý nương tử khâu, bảo: "Nói ra thì hồi đó tuổi Lý Vị hẵng còn trẻ, hai mẹ con cô đều bệnh, chú ấy bình tĩnh lắm chứ."
"Hồi đó cha em chưa mất, đại gia nghỉ việc quân một tuần gấp gáp trở về, thậm chí không kịp nói một câu đã bồng đứa nhỏ ra ngoài luôn." Đôi mắt Lý nương tử đong đầy tình cảm: "Chàng vẫn luôn như vậy...!vô cùng tốt."
"Vợ chồng hai người tình nghĩa sâu đậm, tính ra cũng hiếm có."
"Đại gia, trước kia...!từng vào quân sao ạ?" Mắt Xuân Thiên sáng ngời, ngẩng đầu hỏi.

"Khi đó quân Qua Châu xuất chinh đánh giặc, cha tôi để Vị Nhi vào trại lính báo danh.


Chàng ra núi Bách Trượng, Hà Hợp, trấn thủ ở biên giới, sau đó lại đánh giặc, ở trong quân năm sáu năm mới trở về." Khuôn mặt Lý nương tử thấp thoáng ý cười, "Hồi ấy chúng tôi mới thành thân chưa bao lâu, đại gia cũng chỉ chớm mười bảy mười tám.

Nhoáng cái mà đã mười năm trôi qua rồi."
Ngực Xuân Thiên phập phồng, cơn đau buốt kéo đến căng trướng lồng ngực, nàng khẽ nói: "Lúc đó đại gia thuộc trướng của tướng quân nào, đơn vị quân đội nào ạ?"
Lý nương tử ngẩn ra, suy tư rồi trả lời: "Là quân doanh Qua Châu, hơn nửa số tướng sĩ đều là người Thổ Dục Hồn từ phương Tây trở về.

Hình như lúc đó có mấy vị tướng quân đấy, ta không nhớ rõ lắm..." Cô ấy hỏi, "Em có thân nhân trong quân sao?"
Xuân Thiên lắc đầu: "Nghe nói đại gia từng vào quân nên em hơi tò mò thôi."
Lý nương tử chỉ nói bâng quơ đôi câu, mà đã khiến Xuân Thiên thẫn thờ cả ngày.

Nếu như là quân doanh Qua Châu, còn có nửa là dân tộc Thổ Dục Hồn, vậy nhất định quân Mặc Ly, quân Mặc Ly...!quân Mặc Ly mười năm trước...!
Tiên Tiên bên cạnh ôm góc chăn kề vào người nàng, miệng chép chép mấy cái, lật người ngủ say sưa.

Gian buồng đốt than ấm cúng, nằm trong ổ chăn cũng rất ấm, Xuân Thiên lại trằn trọc khó ngủ, vết thương trên người đã đóng vảy, cứ đêm xuống là ngứa râm ran khó chịu.

Loáng thoáng có tiếng ho khù khụ của Lý nương tử, tập trung lắng nghe, gió tuyết thổi qua biến mọi âm thanh trở nên mơ hồ.

Trẻ con ấy à, luôn vô ưu vô lo...!Còn nàng, dường như chưa từng có lúc nào vô ưu vô lo như thế.

Lý nương tử bị ho nửa đêm, Triệu đại nương trông ở gian ngoài mơ màng thức, lồm cồm bò dậy hỏi: "Nương tử, có cần uống thuốc không?" Cổ họng Lý nương tử có vị ngai ngái, giọng khàn khàn: "Miệng hơi khô, thím rót cho tôi chén nước với."
Triệu đại nương khêu bấc cái đèn dầu, ngáp dài đi rót trà, nói: "Ngày mai mời thầy thuốc tới kiểm tra xem sao, mấy ngày nay nương tử lại ho nặng hơn rồi."
Lý nương tử không đáp lời, nắm chặt chiếc khăn tay.

Dưới ánh đèn lập lòe, hai mắt cô ấy nheo lại, nét mặt chẳng rõ buồn vui, lặng lẽ nhét khăn tay vào tay áo, hồi lâu sau mới ngả người gối lên gối, uể oải trả lời: "Bệnh này vẫn cứ vậy thôi, ngày nào cũng uống thuốc đều đều, còn gì để mà khám nữa chứ."
"Cô đừng nói thế..." Triệu đại nương bảo: "Phương thuốc của đại sư Quy Từ mấy năm trước tuy là hơi phức tạp, nhưng hiệu quả rất tốt, sao năm nay lại thế này nhỉ."
Lý nương tử súc miệng bằng trà nóng, nằm xuống bảo: "Ngủ thôi."
(còn tiếp)
*Chú thích
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: 8: Người Trở Về


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Cửa phòng chính còn đóng, Lý nương tử vẫn chưa dậy.

Phan nương tử nhà hàng xóm đến đưa hũ rau muối, thấy ngoài nhà không có ai, phòng chính đóng cửa, bèn đi vào bếp tìm.
Trong bếp, Triệu đại nương đang xắn tay áo nấu bánh canh, thím nhào bột mì, mắt ngó vào nồi, nghe có người tới cũng không quay đầu hỏi, chỉ cất giọng gọi: "Tới đây tới đây, khêu lửa trong lò hộ tôi với."
"Mới sáng sớm đã bận bịu thế à." Phan nương tử là láng giềng thân thiết, cô ấy ngồi xuống cạnh bếp nhét củi vào lò, "Dạo này cực nhọc quá nhỉ, cả nhà người lớn lẫn trẻ con phải chăm sóc, thím có kham nổi không đấy."
"Vẫn ổn cô ạ, quanh đi quẩn lại chỉ có cơm canh rồi giặt ngâm quần áo thế thôi." Triệu đại nương dẫn Tiên Tiên vào Lý gia ở, chi phí áo quần đều dùng tiền của Lý gia, tiền công mỗi tháng cũng nhiều, trong ngoài có người giúp đỡ, cuộc sống tốt hơn gấp bội so với việc mưu sinh ở thôn trang, vì vậy nên chả có gì phải phàn nàn.

Phan nương tử mỉm cười gật gù.

Người của Lý gia xưa nay rộng lượng hào phóng, mọi người ai nấy đều thích qua lại tiếp xúc.

Phan nương tử khẽ giọng hỏi: "Gần đây Lý nương tử dậy muộn hơn hẳn nhỉ?"
Triệu đại nương không nói nhiều, chỉ giải thích qua loa vài câu: "Vào đêm là nương tử hay bị ho, đến rạng sáng mới ngủ yên được."
Phan nương tử gật đầu: "Tôi thấy ban ngày tinh thần cô ấy hơi kém, nghĩ bụng chắc do ngày đông rét sợ lạnh, dễ bị mệt.

Chờ đầu xuân sang năm trời ấm lên, có lẽ sẽ tốt hơn thôi."
Triệu đại nương dừng tay, chẳng hiểu sao lại thở dài: "Chả biết khi nào đại gia về nhà."
"Còn hơn tháng nữa là đến Tết, Lý Vị cũng nên về rồi." Phan nương tử gom bó củi, cười nói: "Tháng chạp năm nào cũng không thể thiếu Lý Vị, công phu cầm dao của chú ấy là nhất cái khu này, lợn năm mới của phường hẵng đang chờ chú ấy về mổ đấy."
Cứ thế, cuộc nói chuyện của hai người phụ nữ lại xoay quanh đề tài ấy.

Phan nương tử than phiền: "Mấy nay giá thịt lợn ngoài hàng thịt tăng, một cân thêm mấy văn tiền, bình thường vẫn bán rẻ, mà cứ tăng giá như thế thì có khi đắt bằng cả thịt dê."
"Chưa nói tới dê bò lợn gà, năm rồi cha Tiên Tiên vào núi bắt được con hoẵng con nai, mang xuống núi bán hết, chỉ có năm nay là người ở quan phủ vào tận núi mua.

Giờ một chân của con nai đã bằng nửa con dê con rồi."
Xuân Thiên đứng ngoài cửa nghe họ tán dóc chuyện thường ngày, nàng lặng im đứng một lúc rồi xoay gót đi vào nhà chính.

Nhà chính quanh năm đượm mùi thuốc, ngay cả cánh cửa mái hiên cũng nhuốm hơi thuốc nồng nồng, hương đăng đắng thoảng qua gian nhà, không dễ ngửi gì cho cam.

Nén hương trước bài vị trong nhà chính đang cháy, con Vàng cuộn tròn dưới chân bàn ngủ say.

Hai đứa nhỏ ở trong nhĩ phòng, Trường Lưu lưng thẳng tắp ngồi ngay ngắn trên giường lò, Tiên Tiên nằm bò cạnh giường, tập trung nghe Trường Lưu kể chuyện.

Giọng Trường Lưu non nớt nhưng lại rất nghiêm túc rõ ràng: "...!Người thư sinh nghèo kia mơ thấy mình làm đại quan nhất phẩm, người khoác áo mãng bào đỏ chói, bên hông giắt bảo kiếm, oai phong lẫm liệt, đắc ý muôn phần.

Bỗng lúc này, trời đột giáng một tiếng sét, choàng tỉnh khỏi cơn mộng..."

Xuân Thiên vịn tay trên cửa, lắng nghe rất chuyên chú, khóe môi bất giác nhếch lên thành nụ cười nhẹ.

Bấy giờ Trường Lưu nhác thấy Xuân Thiên bước vào nên dừng lại giọng đọc, ngượng nghịu mím miệng.

"Sau đó sao nữa ạ, chuyện gì đã xảy ra khi người thư sinh nghèo thức dậy?" Tiên Tiên gặng hỏi.

"Không gì hết." Trường Lưu cúi đầu, lí nhí nói.

"Tả quần áo sai rồi." Xuân Thiên chậm rãi đi qua, "Nếu là đại quan nhất phẩm, vậy thì quan phục người đó mặc không phải áo mãng bào màu đỏ, mà là lan bào họa tiết hoa tròn* màu tím, cũng không giắt bảo kiếm, nhóm quan nhân thích đeo túi kim ngư hơn."
Trường Lưu trả lời: "Em nghe lời kịch hát thế..."
"Sau đó thì sao?" Xuân Thiên cười hỏi, "Chị chưa từng nghe vở diễn này, sau đó người thư sinh nghèo thế nào?"
Lúc đang nói chuyện, Lý nương tử run run bước đến.

Cô ấy chưa lau mặt chải đầu, thần sắc tiều tụy, ánh mắt lia tới chỗ của Trường Lưu trước, rồi cười với mấy người: "Hôm nay tôi lại là người dậy muộn nhất."
Tiên Tiên bưng nước ấm vào hầu Lý nương tử rửa ráy trang điểm.

Xuân Thiên ngồi cạnh rảnh tay, bèn với cái lược chải đầu cho cô ấy.

Búi tóc lên xong, Xuân Thiên thấy trên bàn có chiếc lọ bạch ngọc nhỏ, phía ngoài vẽ đóa mẫu đơn xinh đẹp, sườn lọ có in dấu đỏ, nhận ra đây là phấn trang điểm, liền chuyển cho Lý nương tử: "Nương tử thoa cái này đi."
Lý nương tử vuốt nhè nhẹ lọ phấn trang điểm trong tay mà Xuân Thiên vừa đưa, rồi lại đóng vào, mỉm cười bảo: "Cứ giữ về sau thoa." Cô ấy cầm hộp bột gạo bên cạnh, không thoa phấn mà lại thoa bột.

Những điểm tô son sắc hồng hào tươi tắn, đều chỉ muốn để dành cho người trở về.

Hôm đó Trường Lưu đang ngồi ở bàn viết chữ, con Vàng rên ư ử hai tiếng, co người rúc vào trong.

Ngoài cửa vang lên tiếng bước chân huỳnh huỵch, Hách Liên Gia Ngôn ló đầu vào gọi: "Trường Lưu, Trường Lưu."
"Gì thế?" Trường Lưu dừng bút, ngẩng đầu nhìn bạn: "Đã hẹn là cùng nhau học bài, sao cậu đến muộn vậy hả?"
"Làm gì mà quần áo bẩn hết thế kia." Trường Lưu cau mày, "Cậu lăn lộn trong xó xỉnh nào đấy."
"Ở Tây thành có ông phú thương cưới vợ, trước cửa rải tiền mừng, tôi giành được nhiều nhất!" Cậu nhóc trút mớ tiền nặng trĩu cả ống tay áo ra, "Này, chả phải cậu bảo thích con chim tước kia à, tôi đi mua với cậu."
"Ngày mai thầy khảo bài, tôi vẫn chưa học thuộc." Trường Lưu hỏi, "Cậu thuộc chưa?"
"Dù sao thầy cũng không ngó đến tôi đâu." Hách Liên Gia Ngôn bĩu môi, "Đi đi đi, tôi đi mua chim tước với cậu."
Trường Lưu không lay chuyển được Gia Ngôn, hai đứa nhóc dắt tay nhau ra cửa chơi.

Không bao lâu sau, Lục Minh Nguyệt tới tìm Gia Ngôn, biết hai cậu đi chơi rồi, thở dài bảo: "Đứa nhỏ này, chẳng có ngày nào là ở nhà."
Chị ngồi với Lý nương tử chốc lát rồi đứng dậy tạm biệt, chợt Xuân Thiên lên tiếng gọi lại: "Nương tử không phiền thì dời bước qua Tây sương phòng nói chuyện nhé."
Lục Minh Nguyên ngoái đầu cười: "Xuân Thiên cô nương có chuyện gì sao?"

Xuân Thiên rút tấm khăn dưới gối ra, đưa cho Lục Minh Nguyệt: "Muốn nhờ Lục nương tử xem giúp em cái này."
Lục Minh Nguyệt nhận lấy khăn của Xuân Thiên, "ồ" lên một tiếng.

Nhìn xa, nó trông như con côn trùng nhút nhát trốn trong lùm cỏ ở góc tường, ẩn hiện giữa đám cỏ dại là đôi mắt tròn xoe cùng nửa cánh xanh biếc, cặp râu dài và cái chân thanh mảnh.

Quả là bức tranh thêu bắt mắt sống động như vẩy nét mực tàu.

Lý Minh Nguyệt nhìn thật kỹ: "Thêu đẹp lắm."
Xuân Thiên mím môi: "Đây là khung thêu lần trước của Tiên Tiên, em cầm về tự thêu thêm..."
Lục Minh Nguyệt nhớ lại chuyện này, cẩn thận giũ tấm khăn, kinh ngạc nói: "Em sửa thực sự đẹp hơn nhiều đấy."
Mặt Xuân Thiên hơi ửng hồng, bảo: "Lấy tay nghề của nương tử, nếu đã mở miệng khen đẹp, vậy thì em cũng tin...!Hôm bữa nghe nương tử nói trời sang đông, mấy gia đình giàu có phải chuẩn bị nhiều quần áo, trong thành thiếu thợ thêu, em bèn mặt dày tự tiến cử mình.

Nếu nương tử thấy được, có thể cho em thử một lần không?"
Lục Minh Nguyệt vuốt khăn, trầm ngâm nửa buổi trời, nói: "Khoan bàn cái khác, việc này hao sức hại mắt, vết thương của em chưa lành, làm chỉ phí công tốn lực.

Hay thôi, bỏ đi em ạ."
"Cảm ơn nương tử đã lo lắng cho em, cái khác em làm không tốt, nhưng thêu mấy cái khăn tay thì không thành vấn đề." Xuân Thiên đỏ bừng mặt, ngữ khí nhẹ nhàng, như thể có nỗi niềm khó tỏ bày: "Còn hơn là chẳng làm gì, suốt ngày ăn không ngồi rồi.

Quãng thời gian em ăn cơm uống thuốc ở đây, đâu thể phí phạm tiền bạc của Lý nương tử..."
Lục Minh Nguyệt thấy nàng hơi cúi đầu, trông có phần khó xử, cân nhắc một hồi rồi cuối cùng gật đầu: "Vậy được, tôi có ít mẫu thêu, hôm khác sẽ mang cho em xem."
Xuân Thiên hành lễ đa tạ, lại ngập ngừng nói: "Mong nương tử giữ bí mật cho em, đừng để Lý nương tử biết."
Từ đó, Xuân Thiên nhận một số mối thêu, giúp Lục Minh Nguyệt thêu vài bức với các kiểu hoa văn phong phú.

Vết thương của nàng đã dần lành và bắt đầu tróc vảy, trả về làn da trắng trẻo nõn nà như lúc ban đầu.

Tháng chạp trường học cho nghỉ mười ngày, Trường Lưu không phải đến trường, tuy vậy vẫn ôn tập viết chữ hằng ngày.

Lục Minh Nguyệt không chịu nổi Gia Ngôn nghịch như quỷ, ra lệnh bắt cậu nhóc mỗi sáng dậy sớm đi qua với Trường Lưu, nhất định phải đọc sách mấy lần mới được ra ngoài chơi.

Chỉ tội cho con Vàng.

Mồng tám tháng chạp, ngày thứ bảy của tháng, Triệu đại nương rửa bếp lò, lấy từ trong vại ra ít gạo cũ, đậu đỏ, quả khô, gia vị, kết hợp với hạt thông, nấm sữa, quả hồng, hầm lửa nhỏ một đêm là đã có một nồi cháo Lạp Bát thơm phức*.

*Tết Lạp Bát là ngày Tết đầu tiên trong tháng Chạp âm lịch và là ngày khởi đầu Tết tại Trung Quốc.


Trong ngày này phần lớn mọi gia đình đều ăn cháo Lạp Bát.

Lý nương tử vừa uống thuốc xong, cơm ăn được hai miếng lại thôi, đôi mắt chan chứa dịu dàng nhìn Trường Lưu ăn cháo: "Khi nào học thuộc bài rồi thì con đi theo Triệu đại nương biếu ít cháo Lạp Bát cho hàng xóm, hỏi thăm các thím các bác các chú."
Trường Lưu gật gật: "Vâng ạ."
Lý nương tử tiếp tục dặn dò: "Hôm nay là lễ tắm Phật, anh Hoài Viễn của con bảo sẽ dẫn con với Gia Ngôn ra chùa chơi, đến mấy chỗ có xiếc ảo thuật, con nhớ nắm tay Gia Ngôn, đừng có chen chúc vào nơi đông người, rồi lại xô xô đẩy đẩy nhau.

Buổi chiều nhà sư phát cháo Phật, mỗi đứa ăn một bát, ăn xong thì đi về, mẹ ở nhà chờ con."
Trường Lưu đáp "dạ", cậu nhìn Lý nương tử, hơi dừng rồi bảo: "Để con xin một bát cháo Phật về cho mẹ nhé."
Lý nương tử lắc đầu, đưa khăn che miệng ho: "Mẹ không thích ăn, con ăn là được rồi."
Trường Lưu ngồi trên ghế vặn vẹo người, ngẩng đầu hơi lo lắng gọi: "Mẹ."
"Hả?"
"Mẹ...!con nghe thấy...!ban đêm mẹ ho."
Lý nương tử ngẩn người, dịu dàng cười: "Mẹ không sao."
Trường Lưu bẻ tay, nhìn cái bàn chằm chằm hồi lâu không lên tiếng, sau đó lại cất giọng: "Mẹ..."
"Thằng bé ngốc, mẹ vẫn khỏe lắm." Lý nương tử ôm Trường Lưu vào lòng, khẽ vỗ về cậu: "Mẹ không sao mà."
Tháng chạp, người người nhà nhà bận trước bận sau, người lớn trẻ con ai cũng vui sướng hoan hỉ.

Chợ tháng chạp năm nay so với năm rồi có vẻ náo nhiệt hơn hẳn, thức ăn hoa quả đồ sấy, áo quần trang sức bột màu, pháo hoa pháo đốt đèn lồng, múa rối Hồ ca nhạc vũ.

Trong ngõ ngoài đường tưng bừng sôi nổi, nhóm Hồ thương lấy kỳ trân dị bảo quý giá ra chào hàng.

Vì là cuối năm nên đàn bà con gái phải sắm sửa phụ kiện tô điểm đầu tóc, nha môn quân đội cũng nhiều người chuẩn bị đồ lễ đi biếu cho bên trên.

Đội ngựa lạc đà cho thịt nửa con hoẵng, mấy ngày liền Triệu đại nương làm việc không lúc nào ngơi tay.

Chẳng biết Hoài Viễn tìm được một ổ thỏ ở đâu mang tới Lý gia chơi, Tiên Tiên ghét nhất là Gia Ngôn suốt ngày kêu gào bên tai mình: "Có thịt thỏ ăn rồi! Có thịt thỏ ăn rồi!" Thế rồi cậu nhóc bắt thỏ giấu luôn vào sương phòng.

Qua mồng mười, ngoài chợ bắt đầu bày bán tranh thần giữ cửa, giấy cầu an, giấy dát vàng bạc, vàng mã, khung cửa sổ, vạn vật trong đất trời,...!hương vị ngày Tết càng ngày càng đậm.

Cách hẻm Người Mù không xa có một ngôi miếu nhỏ tên là Tế Quang Tự, tượng Phật đã cũ nát, hương khói tiêu điều, có mấy hòa thượng tuổi già sức yếu sống ở trong.

Phía sau miếu có con hẻm hẹp thanh tịnh, được gọi là hẻm Công Đức.

Hẻm Công Đức là sản nghiệp của Tế Quang Tự, các lão hòa thượng cho thuê phòng, một nửa thuê làm trường tư thục, nửa khác thì cho nhà bình thường mướn.

Lục Minh Nguyệt đã sống ở hẻm Công Đức nhiều năm, góa phụ nuôi con nhỏ, muốn ở nơi yên tĩnh tránh bị người ta nói vào nói ra.

Lại vừa ý ngôi trường tư thục gần đó, ngẫm về hiệu quả sau ba lần chuyển nhà của mẹ Mạnh Tử, chị cũng kỳ vọng Gia Ngôn được hưởng bầu không khí cần cù tiến bộ của trường học, bớt tính ham chơi.

Lúc Hách Liên Quảng về đến nhà, cổng sân đóng chặt, im lìm vắng lặng.


Người đàn ông không gõ cửa, vươn hai tay bám lên bức tường đất cao ngất, lộn người vững vàng hạ cánh xuống sân trong, tự mở cổng dắt ngựa đi vào.

Sáng sớm Gia Ngôn đã ra ngoài chơi, chỉ còn mỗi Lục Minh Nguyệt ở nhà.

Bấy giờ chị đang ngồi xếp bằng dưới cửa sổ làm quần áo, nghe ngoài sân có tiếng, tưởng Gia Ngôn về, bèn gọi: "Gia Ngôn?"
Không ai trả lời.

Thay vào đó là một tràng ngựa hí thật dài, tiếng móng ngựa nện xuống phiến đá, sau đó là tiếng bước chân vững vàng của người đàn ông, dẫu chẳng quá nặng nề nhưng lại cứ như chuông gõ vọng vào trong tai.

Không biết tại sao, tim chị bỗng dưng nhảy dựng lên, hoảng loạn đập thình thịch.

Trong sân, Hách Liên Quảng khoác tấm áo dài nỉ lấm bẩn, ngồi xổm tháo móng ngựa.

Nghe thấy có người đi ra, hắn ngẩng đầu, híp mắt nhìn chị từ trên xuống dưới.

Dáng người hắn rất cao lớn, mắt sâu mày rậm, đồng tử nhạt màu phớt xanh, đôi con ngươi chiếu vào ai là lại làm đối phương có cảm giác bị nhìn chòng chọc không chút e dè, khiến Lục Minh Nguyệt cảm thấy cả người khó chịu, xen lẫn cùng sự xấu hổ muốn chui vào xó nào đấy cho xong.

"Trong nhà còn gì ăn không?" Giọng Hách Liên Quảng ồm ồm thô ráp, hẳn là đã thúc ngựa suốt đêm để mau chóng trở về.

Lục Minh Nguyệt cụp mắt nhíu mày, hồi lâu sau mới trả lời lạnh tanh: "Trong nồi còn ít đồ ăn nguội."
Hách Liên Quảng đáp một tiếng, vỗ vỗ bàn tay bẩn, chuyển bước đi vào phòng bếp.

Trong nồi chỉ có mấy cái bánh bao khô cứng mà Gia Ngôn ăn còn thừa, Hách Liên Quảng uống miếng nước lạnh, khoanh chân ngồi ở chiếc ghế đẩu chỗ nhóm lửa, ôm cái xửng ăn ngốn nga ngốn nghiến.

Lục Minh Nguyệt đứng ngoài, cách khoảng khá xa, nhìn hắn ăn.

Một người đàn ông lớn như thế, giờ phút này lại khom người vòng chân chen trên chiếc ghế đẩu nhỏ xíu.

Chị là người Hán, sinh ở thành Cô Tô của miền Giang Nam nước xuân liên miên, lúc còn trẻ vì gia đình mang tội nên phải khăn gói chuyển hết đến Hà Tây.

Mặc dù đã sống ở vùng biên tái hơn mười năm, nhưng sâu trong xương cốt vẫn còn cái tính kén chọn đặc trưng của người Nam, gạo cần phải mịn, thịt cần phải mỏng, trà thơm vị thấm, đàn ông phải giỏi cầm kỳ thi họa, cưỡi ngựa tựa cầu nghiêng, đầy lầu áo hồng gọi*.

*Gạo cần phải mịn, thịt cẩn phải mỏng: Một trong những nguyên tắc ăn uống của Khổng Tử.

*Cưỡi ngựa tựa cầu nghiêng, đầy lầu áo hồng gọi: Trích từ "Bồ tát man kỳ 4" (Vi Trang) - Kỵ mã ỷ tà kiều, mãn lâu hồng tụ chiêu.

(còn tiếp)
*Chú thích:
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: 9: Trải Nỗi Lòng


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Thương đội băng qua Lũng Sơn, xuôi theo bờ Vị Thủy, bôn ba tám trăm dặm Tần Xuyên Xa xa trông thấy núi Long Thủ của Trường An, thành quách lộng lẫy, đã hiện ra ngay trước mắt.
Quản sự Đoàn gia dẫn theo tôi tớ ra cổng Khai Nguyên ngoài thành Trường An đứng đón từ sớm.

Vừa thấy Đoàn Cẩn Kha trở về, bên thì rối rít sai người về báo tin mừng, bên lại dẫn mọi người tiến vào thành Trường An.

Qua một phen tiếp đãi nồng nhiệt, mấy người Lý Vị không nán lại ở Trường An lâu, bèn từ biệt Đoàn Cẩn Kha.

Đoàn Cẩn Kha biết họ phải về Cam Châu ăn Tết, liền dặn Tào Đắc Ninh lấy tiền bạc tơ lụa làm quà tặng, rồi hai bên cứ thế chia tay.

Mấy người mang theo lương khô rượu nước, ngày đi trăm dặm, vội về Hà Tây cho kịp tháng chạp.

Về tới Cam Châu chính vào ngày mười lăm, là ngày dân gian thờ phượng Ngọc Hoàng đại đế.

Mấy người tạm biệt nhau ở cổng phường, ai ở nhà nào thì về nhà nấy.

Vương tú tài sống ở đầu hẻm Người Mù mặc một chiếc áo bào màu xanh mới tinh, đầu đội khăn chít, ngồi trong vòng vây xúm xít của đồng hương láng giềng viết công văn bình an.

Không biết thím nào tinh mắt trông thấy Lý Vị, đứng từ xa vỗ tay hô: "Cháu trai ông ấy về rồi kìa!"
Vì tiếng gọi đó, nét bút của Vương tú tài nguệch hẳn một đường cong queo, mực tàu làm lem cả lạc khoản, lão tú tài cau mày gác bút sang bên: "Đang yên đang lành mà la lối cái gì, tự dưng đi tong một tờ giấy đẹp!"
Hàng xóm chung quanh có người thấy Lý Vị, ai nấy đều bước đến niềm nở chào hỏi: "Hôm trước tới nhà tìm anh, Lý nương tử bảo chưa về, hôm nay cuối cùng cũng về rồi đấy."
"Đi bao nhiêu lâu, trên đường không sinh chuyện gì chứ?"
Lý Vị bụi đất đầy người, sắc mặt mỏi mệt, nhưng ý cười chẳng hề suy giảm, chắp tay chào từng người một: "Đường đi thuận lợi, ra ngoài đã lâu, trong nhà làm phiền các chú bác các thím chiếu cố, Lý Vị cảm kích vô cùng."
Vương tú tài cằn nhằn quở trách thím Xuân, nhìn thấy Lý Vị thì hân hoan khôn xiết: "Vị Nhi, Vị Nhi, lại đây xem thiếp của thầy này!"
Xuân Thiên ngồi trong phòng thêu thùa may vá, năm hết Tết đến, mấy hộ nhà giàu lũ lượt đặt mua quần áo trang sức.

Lục Minh Nguyệt bận tối mặt tối mày, bèn gửi gắm cho tay nghề của Xuân Thiên, giao chút việc đến để Xuân Thiên hỗ trợ.

Triệu đại nương dậy sớm dẫn Tiên Tiên ra ngoài mua đồ gia dụng, cửa phòng Lý nương tử khép chặt, chắc vẫn đang ngủ, Trường Lưu đã đi ôn tập bài vở với Gia Ngôn, trong nhà còn mỗi hai người, một người còn nghỉ, một người lặng lẽ làm việc.

Xuân Thiên bận bịu nửa ngày trời, cả căn nhà im lìm không tiếng động, tìm một vòng quanh phòng chính, cũng chỉ có con Vàng lười biếng co người, lim dim gà gật bên cạnh bếp than.

Xương ngực của nàng chưa lành, không thể khom người, đành dùng mũi hài đá đá chân con Vàng: "Vàng, Vàng."
Con Vàng nhấc cặp móng vuốt đang che hai mắt ra, uể oải liếc nhìn nàng, cổ họng nó hừ hừ vài tiếng, đồng thời khép chân cuộn sát hơn vào bếp than.

"Nương tử chưa dậy, mày không trông cửa phòng mà lại nằm bẹp ở đây làm biếng hả."
Con Vàng ghét nhất là bị người khác quấy rầy, nó nhích người vào trong góc tối.

"Con chó ghẻ này." Xuân Thiên nghiêng đầu nhìn con Vàng hồi lâu, thở dài than: "Nếu mày sống ở nhà chị thì đã bị người làm đánh đuổi tơi bời rồi."
Con Vàng ngửa đầu, hơi bất mãn sủa một tiếng với nàng, rồi nó trở mình lật úp chiếc bụng mềm mại, hiện ra một mảng lông bị bếp than hơ cháy sém.


Hài của nàng đụng vào vuốt con Vàng, "Ngày nào mày cũng ngủ quanh bếp than, có phải rất sợ lạnh không."
Con Vàng xụi lơ dưới đất, mắt ti hí, lăn vòng vòng không buồn để ý đến nàng.

Xuân Thiên nhìn nó cả lúc lâu, tự dưng lại thở hắt ra, cuối cùng khóe miệng nhếch lên: "Đồ chó ghẻ."
Tuyết ngoài sân đã được dọn sạch, mặt đất ẩm ướt, chỉ còn sót bãi tuyết đọng đông cứng dưới tàng cây táo tàu già.

Không khí lành lạnh, bầu trời trong veo, xanh mướt như ngọc.

Nàng đi vòng trong sân, đứng dưới cây táo tàu, cúi người vốc tuyết vào tay, nặn thành một quả cầu tuyết.

Cho tới độ ngón tay tê rần không nặn nổi nữa, nàng mới giơ tay lên, lấy đà rồi ném thẳng quả cầu tuyết xuống đất.

Tuyết vỡ tan, văng tung tóe trên nền gạch đất xám.

Ngay tức thì, cánh cổng bất thình lình bị đẩy ra, kêu thành tiếng "kẽo kẹt".

Bước vào là một người đàn ông xỏ đôi ủng da đen, người quấn tấm áo nỉ màu xám, tay trái đeo bọc đồ bằng lụa xanh, tay phải dắt con ngựa xám đang thở hồng hộc, đứng ngay ở cổng.

Thiếu nữ từ từ giấu đi thần sắc trên gương mặt, cặp mắt trắng đen rõ ràng chăm chú nhìn người tới.

Nàng không biết hắn.

Lý Vị thấy Xuân Thiên mặc chiếc váy hoa xanh lam nửa cũ nửa mới, mặt mày tái nhợt, hai gò má gầy yếu, mắt hạnh nhìn hắn với vẻ cảnh giác.

Hắn rảo bước vào đứng trong sân, giọng nói vừa trầm vừa dày, mang chút khàn khàn như mắc sỏi cát, hay như cơn gió của đồng cỏ bao la: "Vết thương đã lành chưa?"
Xuân Thiên buông lỏng ngón tay cứng ngắc, khẽ rũ mi, nhẹ nhàng gật đầu, môi mấp máy: "Đỡ hơn nhiều rồi ạ."
Người đàn ông dỡ hàng trên lưng ngựa xuống, dắt ngựa vào chuồng rồi ôm thảm nỉ bước đến.

Hắn có hàng mày kiếm rậm và cực kỳ sắc nét, bấy giờ đây đang nhướng mày cười nói với nàng: "Ta là Lý Vị."
Lý Vị, nghe bao lần, nàng đã nằm lòng cái tên ấy.

Bất thình lình trong phòng truyền tới tiếng chó sủa vang, con Vàng phi ra khỏi nhà chính như cơn gió, cái đuôi lông lá vẫy tít mù, nhảy tưng tưng nhào vào người Lý Vị.

Lý Vị vỗ đầu con Vàng, bật cười sang sảng: "Được rồi được rồi, Vàng, đừng quậy nữa."
Xuân Thiên đứng cách Lý Vị một khoảng, như có điều muốn nói, Lý Vị quay đầu hỏi: "Ở đây có quen không?"
Nàng gật đầu: "Tốt lắm." Nàng nhìn người đàn ông trẻ tuổi, vuốt ve đầu con Vàng, tiếp lời, "Nương tử còn đang nằm trong phòng, Triệu đại nương và Trường Lưu ra ngoài cả rồi."
Lý Vị gật đầu, đáp: "Ta biết rồi." Trước tiên hắn chuyển đống đồ vào nhĩ phòng, sau đó đi đến nhà chính, đứng dưới bài vị của Lý phụ và Lý phu nhân, đốt nhang bằng lửa bếp than rồi vái lạy.

Con Vàng như mở cờ trong bụng, liên tục lắc đuôi, nom tinh thần nó hưng phấn sợ, cứ chăm chăm đuổi theo bước chân của Lý Vị.


Lý nương tử ở phòng chính ho mấy tiếng, hỏi: "Ngoài có ai đến thế?"
Xuân Thiên đi tới chỗ cửa sổ: "Đại gia về rồi ạ."
"Đại gia về rồi?" Lý nương tử vừa ngạc nhiên vừa vui mừng.

"Vân tỷ, là ta."
"Đại gia ngôi đi, để ta đi thu dọn rồi rót trà."
Triệu đại nương đi vắng, Xuân Thiên giúp Lý nương tử soi gương chải tóc, chọn bộ xiêm y sáng sủa.

Phụ nhân sửa sang xong xuôi, đầu bới kiểu uy đọa kế*, má thoa phấn hồng, mặc chiếc áo ngắn ở trong cùng áo đối khâm khoác ngoài*, áo ngắn và váy dài mang sắc vàng rơm, màu sắc tươi tắn càng tôn lên nét kiều diễm đằm thắm, xóa sạch vẻ ốm yếu xanh xao vì bệnh tật giày vò.

*Áo ngắn và áo đối khâm hay Đối khâm nhu (对襟襦), nhu (襦) là áo ngắn, đây là trang phục truyền thống thời Hán của người Trung Quốc.

Lý nương tử được Xuân Thiên dìu bước ra khỏi phòng, nhìn thấy Lý Vị thì mừng rỡ vô cùng: "Hôm qua Trường Lưu đi hỏi thăm đội lạc đà, còn bảo chậm mấy ngày nữa mới về được, ai ngờ nhanh như thế đã về đến nhà rồi."
Lý Vị cẩn thận quan sát Lý nương tử, thấy khí sắc cô ấy hồng hào, mỉm cười trả lời: "Đường đi suôn sẻ, không nấn ná thêm, cố ý về nhà sớm một chút."
Trong hẻm Công Đức, Gia Ngôn kéo Trường Lưu, cười trêu: "Đi thôi, đừng dỗi nữa, về nhà bảo mẹ tôi vá cho cậu, chắc chắn sẽ không bị lộ hàng đâu."
"Nếu cậu nghe lời tôi thì cũng đâu có kéo rách quần áo của tôi." Trường Lưu cau mày nói, "Tí nữa cô Lục lại không vui cho xem."
"Khà khà." Gia Ngôn gãi gãi đầu, "Sợ gì, mẹ tôi chỉ là con hổ giấy thôi!"
Cậu nhóc đẩy Trường Lưu vào cửa, đập ngay vào mắt là con ngựa đen được buộc đứng dưới mái hiên.

Đột nhiên, cậu la toáng lên, thả Trường Lưu ra lao
vào trong phòng: "Chú Quảng! Chú Quảng! Chú Quảng----"
Hách Liên Quảng đi ra khỏi phòng mình, nắm lấy áo sau gáy Gia Ngôn như xách con gà, cười nói: "Thằng khỉ con này!"
Gia Ngôn cười hì hì, hai tay hai chân cậu nhóc bám lên người Hách Liên Quảng, dính rịt vào hắn như bôi keo con chó, mừng rỡ như điên: "Chú Quảng, cuối cùng chú cũng về!"
Trường Lưu thấy Hách Liên Quảng thì cũng giậm chân vội vàng chạy tới: "Chú Quảng, cha con, cha con...!về rồi ạ?"
Hách Liên Quảng nhếch miệng cười, vuốt mái đầu nhỏ của Trường Lưu: "Về rồi."
Trường Lưu phất tay áo, xoay người chạy như chớp về nhà mình.

Lục Minh Nguyệt đi từ phòng thêu ra, gọi với theo: "Trường Lưu, cẩn thận đấy, coi chừng té!" Dứt lời, chị quay sang nhìn Gia Ngôn, bỗng chốc mặt đen hẳn đi, "Gia Ngôn, con đi xuống."
Triệu đại nương cắp giỏ thức ăn vừa mua, trên đường có mấy người hàng xóm quen biết báo với thím rằng Lý Vị đã trở lại.

Lúc về đến nhà, quả nhiên trên chiếc bàn thấp* xếp đầy là mạch nha trái cây.

Lý Vị ôm Trường Lưu ngồi ở giường lò nói cười, Lý nương tử ngồi bên thu dọn bọc hành lý, cả căn phòng ngập tràn tiếng cười đùa, không khí hòa thuận ấm cúng.

Tiên Tiên bện tóc hai chùm, cười khúc khích chạy lại chào Lý Vị: "Con chào đại gia!" Cô bé đã ở Lý gia từ khi còn rất nhỏ, có thể coi như là em gái Trường Lưu, Lý Vị cũng đối xử với cô bé như một nửa con gái của mình.

Cô gái nhỏ thoáng nhìn Trường Lưu cúi đầu nghịch món đồ chơi mới tinh trong tay, rồi cặp mắt bừng sáng long lanh chuyển qua nhìn Lý Vị.


Lý Vị biết tỏng suy nghĩ của cô bé, cười bảo: "Thích gì cứ ra chỗ nương tử chọn."
Lý nương tử cầm chiếc khăn tay, đều là những thứ đồ mới hiện nay, Lý Vị nhớ mấy đứa nhỏ trong đội lạc đà, mỗi lần đi đâu về là chắc chắn sẽ có quà.

Triệu đại nương cũng không nén được niềm vui: "Ngày ngóng đêm mong, mừng là đại gia đã về nhà bình an.

Ngày nào nương tử chẳng nhớ đại gia, giờ cũng đã yên tâm được rồi."
Lý Vị đáp: "Có lỗi quá, một mình tôi ở ngoài không ý thức được, lại khiến cả nhà bận tâm lo nghĩ."
Lý nương tử ở bên mím môi cười: "Quen cả rồi, hồi cha còn thì cũng đã như thế, có gì mà lo nghĩ với không lo nghĩ chứ."
"Hai năm nay ít nhiều có thím giúp đỡ, tôi thường đi vắng, mọi vất vả trong nhà đều nhờ cậy vào thím." Lý Vị đẩy một bao tiền đồng cho thím Triệu, "Coi như là tiền tôi biếu, xin kính thím mấy chén rượu nhạt."
"Dào ôi, không được." Triệu đại nương bước xuống giường lò, "Chẳng qua tôi chỉ làm tí việc giặt đồ nấu cơm thôi, còn dẫn theo đứa nhỏ ăn nhờ ở nhờ, nương tử lại săn sóc chu đáo.

Thành Cam Châu này đi chỗ nào để tìm được chủ nhà tốt vậy chứ!"
"Thím cứ nhận đi."
Từ chối đến lần thứ ba, Triệu đại nương đành nhét tiền đồng vào tay áo, thầm áng chừng trọng lượng, không khỏi vui vẻ ra mặt: "Tôi sẽ nấu thật nhiều món, chuẩn bị rượu ngon, đón gió tẩy trần cho đại gia!"
Triệu đại nương tay chân lanh lẹ, nấu nước nhào mì, mổ gà thịt cừu, nấu mấy món rau và thức ăn dân dã cho buổi tối, bánh bơ rán, thịt cừu, bánh cuộn thừng, bánh chiên* có tất.

Lại hâm một hũ rượu ngon, chung chén tròn tròn, làm bữa cơm đoàn viên phong phú thịnh soạn.

Trường Lưu xưa nay ngoan ngoãn ít nói, nhưng ngày này là ngày đặc biệt, chung quy vẫn là trẻ con, cứ quấn lấy Lý Vị nói từ đầu bữa đến cuối bữa, lúc ăn cơm vừa muốn cha gắp rau, vừa muốn mẹ lau tay cho.

Xuân Thiên biết một nhà sum họp, cốt nhục tình thân hạnh phúc thắm thiết, nào còn tâm tư tiếp đãi người ngoài.

Nàng sớm đã quen với việc ấy, nên bèn nhanh nhanh chóng chóng về chái Tây thêu đồ.

Ngồi dưới ánh đèn se kim luồn chỉ, tầng tầng lớp lớp, lật qua lật lại, thêu một bụi mẫu đơn là mắt đã cay xè, càng dụi càng thêm đau.

Hằng năm Lý Vị ra ngoài, sau khi về nhà thì hơn nửa thời gian là bầu bạn cạnh thê tử bệnh liên miên cùng đứa con trai yếu người.

Đêm xuống là hắn sẽ kiểm tra bài vở của Trường Lưu trước, rồi dỗ thằng bé đi ngủ.

"Cha, thành Trường An xa lắm sao, có vui không ạ, có phải có rất nhiều người không cha?" Trường Lưu nắm tay Lý Vị, "Chị Xuân Thiên từ Trường An đến, thầy giáo cũng từ Trường An đến, đó là một nơi rất tốt rất tốt..."
"Trường An là thủ đô, hoàng đế đại thần hay sứ giả ngoại quốc đều ở đó, đâu đâu cũng có chợ, vô cùng náo nhiệt." Lý Vị sờ đầu Trường Lưu, "Khi nào con lớn hơn một chút, cha sẽ đưa con đi ngắm nhìn Trường An, được chứ?"
"Vâng ạ." Trường Lưu níu góc tay áo Lý Vị, "Cha, sắp đến Tết rồi, cha đừng đi nhé."
Lý Vị gật đầu: "Không đi, lần này cha ở nhà."
Hắn trông Trường Lưu ngủ, nhìn lông mi dài của cậu khép lại rồi dém góc chăn cho cậu.

Lúc ra ngoài thì gặp Triệu đại nương bưng chén thuốc định đưa qua cho Lý nương tử uống, hắn nhận lấy chén: "Để tôi."
Lý nương tử cầm hòm tiền, ngồi dưới đèn cẩn thận tính toán.

Tào Đắc Ninh cho đội ngựa thồ lạc đà tổng cộng sáu ngàn vé trà làm thù lao phí tổn, khác thì có ít bạc vụn.

Cả đội phân chia, cuối cùng tới Lý Vị là được khoảng tầm hơn bốn trăm vé trà và một túi hạt mây của dân tộc Hồi Hột, nhưng đã nhờ người chuyển ra chợ bán, cũng thu về được trăm vé trà.

Tổng là năm trăm vé trà có lẻ, đều giao hết vào tay Lý nương tử.


Lúc bấy giờ, triều đình siết chặt, quan phủ thu thuế trà, vùng Quan Trung Hà Tây mua bán không dùng bạc trắng làm tiền mà dùng vé trà để trao đổi, mỗi vé trà có thể sử dụng tương đương một số tiền nhất định, đường lưu thông của thương nghiệp quốc doanh cũng không bị cản trở.

Lý Vị nhìn tú nương vuốt tấm vé trà trong tay, nói: "Ra Tết phải rút ra một ít, ta sẽ đi một chuyến đến hồ Cư Diên ở Nhược Thủy."
Lý nương tử gật đầu: "Cũng được, năm rồi chàng đều đi vào tháng chạp, năm nay về hơi muộn, ta cũng không để ý mấy, khi nào ra Tết thì mang ít đồ qua...!Cũng không biết tình hình mấy nhà kia sao rồi..."
Lý Vị chậm rãi "ừ" một tiếng.

Lý nương tử thầm trù tính trong lòng, nhẹ nhàng nói: "Kết luận bên triều đình, thực sự không đổi được sao?"
Lý Vị im lặng, gương mặt hắn tranh tối tranh sáng trong ánh nến vàng vọt, sườn mặt rắn rỏi mơ hồ hắt bóng lên tường.

Lý nương tử giật mình, chợt cảm giác như trượng phu lớn lên cùng mình từ nhỏ có phần xa lạ, cô ấy thở dài: "Thôi, chỉ là mấy lạng bạc thương hại, có tác dụng gì đâu."
Lý nương tử lại chuyển đề tài: "Thực ra ta có chuyện này, hiện giờ Trường Lưu đã lớn, cũng phải lo liệu cho nó, về sau đi học thử công danh, cưới vợ sinh con đều là chuyện trọng đại.

Mấy hôm trước trượng phu Vương Thành của Triệu đại nương từ quê lên, bảo là có người đang bán điền trang ở ngoài đấy, giá cả phải chăng.

Ta thấy cũng hay, nếu chàng thấy được, ngày mai tìm người môi giới thương lượng, nếu bàn bạc ổn thỏa, ngày sau cũng có thêm chỗ nương thân."
Lý Vị nói: "Nàng coi ổn thì cứ tự quyết, ta thường không ở nhà, việc này cũng chẳng xử lý được." Vẻ mặt hắn bỗng ảm đạm hẳn đi, "Sức khỏe nàng trước giờ yếu ớt, vốn nên bớt lo bớt nghĩ...!Nhưng giờ đây nhà cửa có mỗi mình nàng cáng đáng, Vân tỷ, bao nhiêu năm qua vất vả cho nàng rồi..."
Hắn gọi Lý nương tử một tiếng "Vân tỷ", vì cô ấy vốn là con gái của cha mẹ nuôi hắn.

Bản thân Lý Vị không phải họ Lý.

Hai mươi tám năm trước, Lý phụ theo thương đội đi xuống phía Nam đến Quan Trung, trên đường về thì vô tình nhặt được một đứa bé trai nằm thoi thóp bên sông Vị.

Theo lời người qua đường, hôm bữa có hành thương* dẫn gia đình đi ngang qua đây, sơ ý để lộ tài sản, bị hãn phỉ nhòm ngó.

Hãn phỉ sát hại cả nhà rồi quẳng xác xuống sông, còn lại đứa nhỏ mới sinh nằm trong tã lót, chẳng biết kẻ nào động lòng trắc ẩn, không dìm đứa nhỏ chết mà chỉ vứt bên bờ sông Vị để nó tự sinh tự diệt.

(*Hành thương: Chỉ những tiểu thương kinh doanh lưu động)
Ở nhà Lý phụ chỉ có đứa con gái nhỏ suy nhược, thế nên bèn đưa đứa nhỏ này về nhà cho thê tử nuôi nấng, đặt tên là Lý Vị.

Lý phụ là người cưỡi ngựa nổi tiếng thành Cam Châu, Lý Vị mười hai tuổi đã theo chân Lý phụ lặn lội núi tuyết, băng qua sa mạc.

Cho tới khi Lý nương tử đến tuổi cưới, vì cơ thể bệnh tật khó lấy chồng, Lý phụ đành nhận Lý Vị làm con rể, gả Lý nương tử cho Lý Vị, vậy là buông bỏ được nỗi âu lo luôn canh cánh trong lòng.

"Chàng nói thế thì ta tổn thọ mất." Lý nương tử che khăn ho khù khụ, "Vị Nhi, rõ ràng là ta có lỗi với chàng."
Hai người bộc bạch nỗi lòng với nhau, nhẹ nhàng lịch sự.

Triệu đại nương đứng ngoài cửa sổ nhìn cái bóng của họ dưới ngọn đèn, lại cảm thấy đôi vợ chồng này đúng là nâng khay ngang mày, tương kính như tân.

Lý nương tử kể về những chuyện cũ một hồi lâu, cầm lòng chẳng đặng ứa giọt nước mắt, nhìn trời đã khuya, bèn bảo: "Ta đã dặn thím Triệu quét dọn chái Đông, trải đệm chăn sạch sẽ như thường lệ.

Phòng của ta nồng nặc mùi thuốc, người khác không ở được."
Lý Vị ở chái Đông bảy tám năm, từ lâu đã tập thành thói quen, gật gật đầu: "Nàng nghỉ ngơi cho khỏe, có gì ngày mai nói sau."
(còn tiếp)
*Chú thích:
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: 10: Nhớ Chuyện Cũ


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Chái Đông và chái Tây nằm đối diện nhau, ngày xưa là phòng của Lý phụ, sau khi Lý phụ qua đời thì thành phòng riêng của Lý Vị.
Nội thất giản dị bình thường, vách tường màu phấn trắng, trên tường treo mấy món đồ như cung tên, chuôi đao.

Trong phòng bày một cái bàn, một cái ghế đẩu, một cái giường, và một cái rương lớn đặt cạnh tường.

Sáng sớm Lý Vị đẩy cửa sổ ra, trời mờ mờ ảo ảo, gió rét buốt, sương giá kết lại thành mảng ở khung cửa sổ.

Bốn bề tĩnh mịch, chỉ có nơi cửa phòng bếp hắt ra vài tia sáng vụn, làn khói mỏng mạnh nhẹ lượn lờ bay lên, là Triệu đại nương đang nhóm lửa chuẩn bị cơm sáng.

Tôi luyện bao nhiêu năm, cuộc sống của hắn đơn giản chừng mực, ngủ ít lại còn dậy sớm.

Truy Lôi trong chuồng nhìn chủ nhân ôm cỏ khô đến, hai vó trước giơ cao, khẽ hí một tràng, nặng lượng tràn trề, hơi nóng phả ồ ồ vào lòng bàn tay chủ nhân.

Lý Vị vỗ con ngựa quý của mình: "Hôm nay ở nhà, ngày mai sẽ dẫn mày ra ngoài chạy."
Truy Lôi như nghe hiểu tiếng người, nó vừa hí vừa lúc lắc cái đầu, rồi nhoài người nằm về chuồng.

Triệu đại nương bước ra khỏi phòng, thấy Lý Vị mới tinh mơ đã dậy, không khỏi cười bảo: "Trời lạnh thế này, đại gia cũng nên ngủ nhiều hơn đi.

Tôi đang sắc thuốc cho nương tử, cơm cũng chưa nấu, nếu đại gia đói thì tôi làm bát bánh canh thịt dê cho đại gia lót dạ nhé?"
"Không cần đâu." Lý Vị thuộc kiểu vai rộng eo hẹp, vóc người cao lớn, đứng trong căn bếp nhỏ trông hơi chật chội.

Thế là hắn dứt khoát ngồi xuống, thò tay sâu vào trong phần bụng tối đen của hũ thuốc miệng bé gảy gảy, mùi hương kỳ lạ của dược liệu xộc vào mũi, đích xác là thứ mùi thâm nhập ruột gan, dai dẳng hoài chẳng dứt trong phòng Lý nương tử.

Bệnh của Lý nương tử đã có khi còn nằm trong bụng mẹ, từ nhỏ đã không được khỏe mạnh lắm, hồi bé thường sinh bệnh tật, thầy thuốc hay nói sống không quá hai mươi mấy tuổi.

Nhưng từ khi Lý Vị hiểu chuyện, biết thể trạng chị cả ốm yếu, bèn dốc lòng kiếm tìm dược liệu quý giá vùng Tây Vực, cuối cùng cũng giúp sức khỏe Lý nương tử từ từ khởi sắc.

Tuy nhiên ngày vui ngắn chẳng tày gang, sau khi sinh Trường Lưu, Lý nương tử mắc chứng huyết hư, rối loạn kinh nguyệt, âm dương băng huyết, dần dà xuất hiện triệu chứng khí huyết kiệt quệ, dược thạch cũng vô tác dụng.

Mấy năm trước có vị Đạt Ma Bạt Đà cao tăng của Quy Từ tu hành ở chùa Mộc Tháp thành Cam Châu, Lý Vị nghe vị đại sư này có thuật kỳ hoàng rất cao siêu, bèn xin đại sư kê bài thuốc.

Có điều bài thuốc ấy vô cùng phức tạp, lấy tứ mùa làm nguồn dẫn, dược thạch và tứ mùa có khả năng san giảm, tổng cộng hơn chín mươi loại dược liệu, trong đó rất nhiều kỳ dược Tây Vực, không phải thứ mà gia đình bình thường có được.

Lý Vị trải trăm cay nghìn đắng tìm thuốc về nhà cho Lý nương tử dùng, quả thực tình hình bắt đầu khả quan hơn.


Từ đó trở đi, Lý nương tử vẫn luôn dùng bài thuốc ấy, cho tới tận bây giờ.

Bài thuốc này cực kỳ quý báu, Đạt Ma Bạt Đà xuất thân từ hoàng thất Quy Từ, những loại nhũ hương hay một dược đều dùng thoải mái như dược thiệu thông thường.

Ngoài ra còn cả mấy thứ hiếm gặp như nấm A Ngụy, la bố ma, kha tử, mật lạc đà.

Thảo nào hôm ấy đại sư tự dưng nói tiếng xin lỗi, bởi lẽ nếu không phải nhà quyền thế giàu sang, thì cho dù là có bài thuốc trong tay đi chăng nữa cũng chả làm nên được chuyện gì đâu.

"Đại gia về rồi, nương tử phấn chấn hẳn, chịu uống thuốc, cơm cũng ăn nhiều hơn nữa." Triệu đại nương nói, "Lần trước nương tử cứ chê thuốc đắng, nhiều bữa thấy tinh thần khá hơn là lại nghỉ uống, người ngoài khuyên không thèm nghe.

Có khi trong người bứt rứt, cũng chả chịu đi khám bệnh, giấu không cho ai biết, dẫu không vì mình thì cũng nhất quyết phải vì đại gia và Trường Lưu."
Lý Vị hơi cau mày, bất đắc dĩ nói: "Lúc tôi vắng nhà không giải quyết được nhiều việc, mà lúc ở nhà nàng ấy cũng chẳng nói với tôi." Hắn thở dài, hồi lâu sau mới bảo: "Vẫn phải nhờ thím trông nom trong nhà nhiều."
"Đấy là đương nhiên."
Trường Lưu dậy, thấy chàng hồ đào hôm qua Lý Vị tặng đặt bên gối, cậu xốc chăn xuống thay quần áo, xỏ giày ra khỏi phòng, lòng vui rạo rực đi tới chái Đông của cha.

Cha cậu đang ngồi xếp bằng dưới mái che trước phòng, cầm đá mài tên.

Trường Lưu bước đến trước mặt, để cha cậu vuốt ve mái đầu nho nhỏ: "Trường học cho nghỉ, sao con dậy sớm thế?"
"Thầy đã dặn sáng đọc tối luyện, không được trì hoãn." Cậu ngồi xổm cạnh Lý Vị, chỉ vào mũi tên dài như lưỡi đao, loáng bóng phản chiếu mảnh góc áo của cậu, "Cha, mũi tên này sắc quá."
Mũi tên để giết người, sao có thể không sắc cho được.

Lý Vị cười, sờ đầu cậu, "Ngoan ngoãn ngồi nhìn, cách xa một chút."
"Kẻ xấu trông thấy mũi tên của cha chắc chắn sẽ sợ mất mật cho xem."
"Ra trận đánh giặc, quan trọng nhất chính là vũ khí, nó có thể dùng để diệt địch, cũng có thể bảo vệ tính mạng." Lý Vị thong thả mài mũi tên.

Trường Lưu nghĩ nghĩ, nghiêng đầu nói: "Công dục thiện kỳ sự, tất tiên lợi hà khí*.

Đầu tiên phải chuẩn bị vũ khí kỹ càng, lúc đánh trận mới không bị nao núng."
(*Dịch nghĩa: Người thợ muốn hoàn thành tốt công việc, thì trước tiên phải mài công cụ sắc bén - Luận ngữ Vệ Linh Công)
Lý Vị mỉm cười, xoa xoa tóc con trai: "Chính xác."
Cánh cửa chái Tây kẽo kẹt mở ra, bóng hình nhỏ yếu lọt vào tầm mắt của hai cha con.

Xuân Thiên xách chiếc váy nửa cũ nửa mới, run run bước xuống.

Quần áo trên người nàng vốn được làm từ khi Lý nương tử còn là thiếu nữ, màu sắc quá sáng nên ít mặc ra ngoài, cứ gấp gọn để trong tủ, nay lấy cho Xuân Thiên mặc tạm.


Bộ váy xinh xắn càng bật lên khuôn mặt như sương như tuyết của Xuân Thiên, điểm thêm là cặp mắt đen nhánh tựa nét sơn mài.

Xuân Thiên đứng trong sân chào hỏi hai người, thân người gầy yếu khựng lại trong cơn gió buổi sớm rét mướt.

Bỗng nàng hơi quay sang hướng Lý Vị, cúi đầu chào: "Đại gia." Thái độ của nàng cực kỳ trịnh trọng: "Lúc tôi bệnh không biết chuyện gì xảy ra, suốt đường đi chưa có cơ hội nói với ân nhân lời cảm ơn." Nàng khom người, cúi đầu trước hắn, "Ơn cứu mạng của đại gia, Xuân Thiên khắc ghi trong lòng, suốt đời khó quên."
"Cô nương quá lời rồi." Lý Vị chỉ đáp, "May có vị thương khách kia phát hiện ra cô, sau đó Đoàn công tử cũng túc trực bên cạnh chăm sóc không ngơi.

Ta cùng lắm chỉ nhấc tay một cái mà thôi."
"Ân tình của các ân công, Xuân Thiên mãi mãi ghi tạc, thề không dám quên."
Lý Vị sực nhớ ra một chuyện, rũ áo đứng dậy đi vào trong buồng, nói với nàng: "Đoàn công tử nhờ ta mang đồ của cô về."
Xuân Thiên thắc mắc, bước nhanh vào thì thấy phòng Lý Vị có cuộn vải sa tanh.

Lý Vị cười, đưa cho nàng: "Hôm đó tìm được cái này trên người cô, Đoàn công tử giữ lại.

Lúc rời Cam Châu đi gấp quá, đến Trường An mới nhớ là phải trả cho cô."
Nàng cầm cuộn vải nặng trịch, vội vàng lật ra.

Thốt nhiên, nàng "a" lên một tiếng ngắn ngủi mà sốt sắng, tấm lưng run nhè nhẹ.

Đây là thanh chủy thủ nàng để thất lạc, trĩu nặng, đen như mực, lạnh băng, có dải băng lụa đã phai màu quấn quanh vỏ dao, thoạt trông như vật cũ luôn theo sát bên mình.

"Đa tạ." Giọng nàng có phần nghẹn ngào, hốc mắt ươn ướt, mặt nghiêng sang, nhẹ nhàng áp thanh chủy thủ lên má, chạm vào là nhiệt độ lạnh lẽo vô cùng quen thuộc.

Trường Lưu chớp chớp mi, ngửa đầu hỏi cha mình bằng ánh mắt.

Lý Vị sờ đầu cậu, khẽ giọng nói: "Đó là đồ cũ của chị Xuân Thiên con." Trường Lưu gật gù, lén xê dịch chân, vuốt ve góc ống tay áo của nàng như đang an ủi.

Lý Vị nhìn khuôn mặt tái nhợt ấy, chợt nhớ về dáng vẻ lần đầu tiên thấy nàng.

Người mặc đồ nam, khoác áo lông trắng, vốn rất có phong thái của thiếu niên trẻ tuổi, tuy nhiên lại thoáng phần lẻ loi yếu đuối, khoảnh khắc đôi mắt mở to, hệt như gió phất bụi trần, sáng rỡ như ngọc.

Con nhà ai mà lại bị bỏ quên ở chốn hoang vắng hiu quạnh này? - Hắn nghĩ như vậy.


Lý nương tử kể về cảnh ngộ của Xuân Thiên, thật đúng là câu chuyện gây bao bùi ngùi thổn thức cho hàng xóm láng giềng khắp con hẻm.

Nàng thiếu nữ đến từ Trường An, vì cha ruột bỏ mạng, bơ vơ chẳng nơi nương tựa, bèn dẫn lão bộc trong nhà lặn lội tìm tới người chú ở Bắc Đình xa xôi hòng cậy nhờ.

Hiềm nỗi đi được nửa đường thì lạc mất lão bộc.

Một mình nàng theo thương đội ra khỏi Ngọc Môn, hướng đến Bắc Đình, ngờ đâu đụng phải mã phỉ ở Hồng Nhai Câu, suýt nữa đã toi đời.

Cả nhà ngồi trong nhĩ phòng chuyện trò, Lý nương tử nắm tay Xuân Thiên, hỏi trượng phu mình: "Đại gia có quen bạn bè nào ở Bắc Đình không, có thì nghe ngóng giúp Xuân Thiên cô nương."
"Nhiều năm trước gia đình chú em sống ở Luân Đài Bắc Đình.

Nhưng về sau lại dời sang phía Tây, chắc là đến vùng Tây Châu rồi." Xuân Thiên nói chậm rãi, "Em ở quý phủ quấy rầy thế này, thực sự áy náy, không dám làm phiền nương tử và đại gia nhiều.

Khi nào thường thế lành lặn, em sẽ tới Luân Đài tìm người thân tiếp."
"Em con gái con đứa, lang thang ngoài kia đâu phải chuyện đơn giản.

Lại còn là đất Hồ, đường sá gập ghềnh, tuyệt đối không được đi một mình." Lý nương tử ôn tồn khuyên, "Tết nhất đến nơi rồi, việc gì cứ phải sốt hết cả ruột lên, để đại gia hỏi thăm kỹ cho em xem sao.

Em yên tâm đi, lo dưỡng thương cho khỏe kìa."
Lý Vị pha trà ở bếp lò gần đó: "Bắc Đình cai quản ba châu là Y, Tây, Đình, lại rất nhiều quân trấn, thường có sĩ phu và thương khách lui tới.

Quân dân sống chung với nhau, tìm một người có lẽ không dễ, nhưng nếu tìm một gia đình người Hán thì cũng không gọi là khó."
Xuân Thiên gật đầu đáp "phải", Lý Vị cười nhẹ, hỏi nàng: "Không biết chú ruột cô nương làm nghề gì, nhà buôn hay là tòng quân?"
Nàng ngập ngừng giây lát, trả lời: "Chú tôi tên Trần Trung Tín, mười mấy năm trước từng nhậm chức Bồi Nhung phó úy* của quân phòng thủ Cam Lộ Xuyên, sau đó được điều công tác về Luân Đài.

Hiện giờ...!hiện giờ không biết đã thuyên chuyển đến đâu..."
(*Bồi Nhung phó úy hay quan võ tán: chỉ quan viên không có chức vụ cố định)
"Hóa ra là trưởng quan trong quân.

Vậy thì dễ rồi, trước kia ở trong quân ta có mấy người bạn cũ, có thể tìm hiểu giúp cô."
Nàng luôn miệng nói cảm ơn, lòng dâng lên niềm vui sướng mơ hồ, lại có hơi u sầu.

Lý nương tử dịu dàng an ủi: "Đừng lo lắng, rồi sẽ tìm được thôi."
Lý Vị đứng dậy, đổi cho nàng một chén nước trà, chậm giọng nói: "Không chỉ có chúng ta giữ cô lại, mà Đoàn công tử cũng có ý giữ cô.

Cô còn nhớ cậu ấy không, cậu ấy vốn muốn chăm sóc cho cô, chờ cô tỉnh lại mới quay về Trường An."
Xuân Thiên nhớ mang máng có vị công tử cẩm y, nhưng hoàn toàn đã quên mất khuôn mặt của người nọ.

Ngón tay nàng vuốt miệng chén: "Cũng chưa kịp nói một tiếng cảm ơn với Đoàn công tử, không biết Đoàn công tử có chuyện gì muốn hỏi tôi?"
"Tình hình ngày cô bị thương, và đám mã phỉ kia, cô còn nhớ chứ?"
Xuân Thiên hít sâu một hơi: "Nhớ ạ."

"Hôm đó gió rất lớn, đá sỏi trong Hồng Nhai Câu đập vào mặt.

Tôi đi theo sau thương đội, vừa tiến vào một khe núi, bỗng nhiên nghe thấy âm thanh cực bén xé gió lao đến, hình như là tiếng phát ra từ loại còi nhỏ mảnh.

Rồi chung quanh bất ngờ có cả đám người ngựa tuôn ra ào ào, có kẻ vung trường đao xông lên, roi ngựa quất vùn vụt, ai nấy cũng cuống cuồng.

Tôi đứng phía dưới cùng của đội ngũ, ban đầu bỏ chạy theo mọi người, lúc này có người đàn ông trong thương đội nhét dây cương của thồ hàng vào tay tôi, bảo tôi chạy về." Mặt nàng trắng bệch, lông mày cau tít, nhớ lại cảm giác đau điếng sau lưng do dao của đám mã phỉ gây ra, "Bọn chúng cướp hàng của thương đội."
Lý Vị suy tính một hồi: "Cô có nhớ tướng tá của đám mã phỉ không?"
Nàng lắc đầu: "Bọn chúng che kín mặt bằng vải đen, nói tiếng Hồ, ánh mắt hung ác như con dao vậy.

Nhưng...!nhưng quần áo chúng mặc giống hệt áo choàng của dân du mục, khoác áo nỉ da bên ngoài, đai lưng treo dao nhíp và lưỡi rìu lửa*.

Tôi thấy một gã trong bọn chúng còn buộc răng thú và hộp thuốc hít* màu chàm ngang hông nữa."
Dân du mục của thảo nguyên hồ nước trú trên những ngọn núi tuyết phủ kín.

Mùa đông nhốt bò dê trong chuồng rồi xuống núi đóng giả thành cường đạo cướp giật hành thương.

"Bao hàng của thương đội có những gì?"
"Thương đội có mấy chục thồ hàng, bao hàng nhẹ lắm, mùi trà rất nồng."
Lý Vị khẽ lắc đầu: "Hàng hóa của thương đội bị cướp mà không ai đến quan phủ đệ đơn kiện.

Người bị thương lăn xuống rãnh khô, thương đội cũng chỉ chăm chăm gom đồ rồi chạy trốn."
Xuân Thiên im lặng không nói, Lý Vị hỏi: "Cô gặp thương đội này ở chỗ nào, thương nhân trong đó cô có còn nhớ không?"
"Gặp ở Lương Châu, nghe khẩu âm có lẽ là thương nhân vùng Quan Trung.

Nhưng đi đường cấp bách, trời tối mịt cũng không vào dịch trạm nghỉ chân.

Tôi chỉ đi theo sau xe bò của họ, nói chuyện chẳng được mấy câu."
Lý Vị thầm cân nhắc một phen, mày hơi nhíu vào, lại lắc đầu.

Xuân Thiên thử hỏi: "Đoàn công tử là người Trường An sao?"
"Nguyên quán của cậu ấy là Lương Châu, về sau gia tộc chuyển tới Trường An làm quan, Đoàn lão gia là lang quan lễ bộ ti."
Lang quan của lễ bộ đồn điền chỉ là chức quan cấp tòng tam phẩm, đứng giữa chốn kinh đô quan lại tụ hợp nghiễm nhiên không tính là nổi bật.

Nhưng với Đoàn gia mà nói, gia đình thương nhân đi từ giang hồ đến tiểu thương, một ngày kia thay da đổi thịt, trở thành dòng dõi phủ cao son vàng, thơ lễ trâm anh theo hầu loan giá, nào đâu phải chuyện dễ dàng.

(còn tiếp)
*Chú thích:
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: 11: Thanh Bình Lạc


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Lý Vị mới chỉ về một ngày, mà tiếng kẽo cà kẽo kẹt của cánh cửa chính đã vang lên không biết bao nhiêu lần.
Bà con làng xóm kéo đến hỏi thăm, mời rượu mở tiệc, uống trà ngồi chơi, cưỡi ngựa dạo chơi, hết sức chu đáo nồng nhiệt.

Vì mấy gốc mai vàng nhà mình nở tưng bừng, Vương tú tài bèn làm vẻ nho nhã, đặt bút viết dăm bài thơ, sai đứa cháu Mặc Khanh gửi thiếp tới nhà Lý Vị, chuẩn bị bếp than nhỏ bằng bùn đỏ, mời Lý Vị qua nấu trà Tuyết Tiên, thầy trò cùng ngắm hoa trổ bông.

Lý Vị nhận thiếp, trán toát mồ hôi lạnh.

Vương tú tài công danh có hạn, tính tình gàn dở, mấy năm liền mở trường tư thục tại nhà.

Những năm tháng Lý Vị học ở nhà ông ấy, vì thông minh lanh lợi nên rất được thầy ưu ái, dạy hắn suốt từ thuở vỡ lòng cho tới khi hoàn tất khóa vị thành niên.

Tình yêu thương của tú tài dành cho Lý Vị dạt dào vô bờ bến, mỗi lần gặp là cứ phải ân cần dạy bảo một phen.

Lý Vị tự nhận bản thân là kẻ cục mịch, hễ gặp người thầy thanh cao kiêu ngạo, ăn nói văn vẻ ấy của mình là thấy đầu đau óc nhức.

Sau khi uống đẫy bụng trà, Lý Vị về nhà, rồi lại có thêm ba bốn người hàng xóm nhiệt tình mời hắn đi uống rượu.

Qua mấy ngày như thế, trong nhà mới được yên tĩnh đôi chút.

Hai mươi tư tháng chạp, ông trời vẫn chưa chịu nghỉ ngơi.

Tuyết rơi như bướm tung tăng vờn bay, nhà cửa phố xá, sông núi thảo nguyên, đều hóa thành cung Quảng Hàn rợp màu trắng xóa.

Nhà nhà làm thịt dê nướng, cúng ông Táo quét bụi.

Lục Minh Nguyệt ngồi trong phòng, cắt ra xấp giấy đỏ trải lên bàn, bày biện nghiên mực bút lông, liên miệng gọi Gia Ngôn vào nhà.

Gia Ngôn đang ở cùng Hách Liên Quảng huấn luyện một con ngựa hung bạo ngoài sân, nghe mẹ gọi thì bất đắc dĩ chạy vào: "Mẹ gọi con gì thế ạ?"
Lục Minh Nguyệt day day thái dương, chỉ tấm giấy đỏ trên bàn: "Câu đối Tết năm nay giao cho con viết."
Thấy mẹ lại bảo viết chữ, tinh thần huấn luyện ngựa cháy hừng hực trong trời đông tuyết phủ tức khắc vơi đi một nửa, Gia Ngôn tiu nghỉu bắt tay vào làm, miệng lẩm bẩm: "Mẹ ơi, năm rồi toàn là ra ngoài mua, sao năm nay phải tự viết vậy ạ?"
"Lúc trước con còn nhỏ không biết chữ, mẹ chỉ đành ra ngoài mua.

Giờ con lớn rồi, đã đi học được mấy năm, thế thì cần gì mua ngoài nữa."

"Mẹ...!chữ con viết xấu lắm, hay là...!hay là mẹ viết đi?"
Lục Minh Nguyệt nhướng mày, đôi mắt đẹp liếc nhìn: "Mẹ đâu có rảnh mà viết."
"Vậy...!vậy kêu chú Quảng viết cũng được."
Lục Minh Nguyệt sa sầm mặt: "Con là nam đinh trong nhà, sao lại để người khác làm hộ được?"
"Chú Quảng cũng là đàn ông, còn làm trưởng bối, nên để chú Quảng viết chứ ạ."
Một giọng nam trầm trầm vang lên cách song cửa sổ: "Gia Ngôn, chú chưa từng đọc sách, không nhận được bao mặt chữ, sợ là không giúp con được rồi."
Gia Ngôn ấp úng, nói quanh co cả ngày nhưng nhất quyết là không chịu viết.

Cậu nhóc vốn chẳng mặn mà gì với chuyện múa văn nghịch mực, tự ý thức được khả năng của mình tới đâu, giờ mà viết chắc chắn sẽ bị Lục Minh Nguyệt quở mắng nữa cho xem.

Lục Minh Nguyệt nào hiểu tâm tư đó của con mình, chị giận mà không biết làm sao: "Chữ viết đẹp xấu gì cứ kệ nó, chỉ cần con nghiêm túc viết cho nắn nót, không để người ta chê cười là được rồi."
"Vâng vâng vâng." Gia Ngôn thở ngắn than dài, ngoan ngoãn đứng bên cạnh bàn, chán nản cầm bút, vò đầu bứt tai, vắt hết óc, mặt ủ mày ê, đặt bút viết.

Ngoài cửa sổ là tiếng Hách Liên Quảng mài dao, Gia Ngôn đứng bần thần nửa buổi trời, viết ngoáy ngoáy cho hết xấp giấy, giao cho Lục Minh Nguyệt rồi chuồn mất.

Lục Minh Nguyệt kiểm tra câu đối con trai viết, phòng bếp viết "Gạo mì như núi cao, dầu muối tựa biển sâu", trong viện viết "Tiền vào chật sân", tấm biển treo ngoài cửa nhà viết "Ngẩng đầu thấy hỷ", trên cây viết "Rễ sâu lá tốt", không có gì đặc biệt, coi như là tạm được.

Tới khi thấy cậu nhóc viết lều củi là "Củi lửa đắp đống", ổ gà viết "Trứng gà đầy ắp", thì vừa bực vừa tức cười, nghĩ tới tính nết khó bảo của Gia Ngôn, lại bất giác lo âu.

Đang nghĩ ngợi miên man, bỗng ngoài cửa có tiếng Gia Ngôn cười hì hì gọi Trường Lưu.

Trường Lưu mặc tấm áo tơi dính toàn tuyết, trông như một tiểu tiên đồng thoăn thoắt giữa trời đông.

Cậu bước tới gọi một tiếng "chú Quảng", Hách Liên Quảng khẽ "ừ", cởi áo tơi xuống cho cậu: "Vào nhà ngồi đi."
Lục Minh Nguyệt đã đi ra, trìu mến thắt chặt cổ áo của cậu: "Vẫn còn tuyết đấy, sao lại chạy qua đây, lạnh không con?"
"Không lạnh ạ, mẹ con bảo ôm theo lò sưởi tay rồi.

Cô ơi, cha mẹ con mời cô và chú Quảng, với cả Gia Ngôn tối nay sang nhà con ăn cơm." Hàng mi dài của Trường Lưu vương hạt tuyết, ướt đẫm run run.

Lục Minh Nguyệt đau lòng kéo cậu vào lòng: "Cô biết rồi, cô dọn dẹp xong rồi đi với con nhé."
Đã bao năm rồi, từ lúc chị chuyển khỏi Sa Liễu doanh của núi Tam Nguy Đôn Hoàng đến Cam Châu, cái Tết đầu tiên ăn ở chùa Tế Quang, món mà Gia Ngôn ăn là cơm lá đậu que.

Khi đó Lỵ phụ còn tại thế, lúc vào chùa thắp hương bắt gặp Gia Ngôn mặc bộ đồ phong phanh chơi đùa trong tuyết, thế là bèn dẫn hai mẹ con Lục Minh Nguyệt về nhà, nói với chị rằng: sau này hãy cứ coi chúng ta là nhà mẹ đẻ của con.


Rồi dần dần tình hình trong nhà tốt lên, đêm tết ông Táo hằng năm chị đều sang Lý gia.

Lý Vị và Hách Liên Quảng gặp nhau, gật đầu chào hỏi, hai người một trước một sau chui vào nhĩ phòng.

Lý nương tử vừa chải đầu xong, tóc dài xõa trên vai, tấm áo lông cừu trắng muốt bao nửa cánh tay, dưới mặc váy dài họa tiết vạn thọ như ý, đang ngồi ở đầu giường lò cùng Xuân Thiên và Tiên Tiên viết viết vẽ vẽ.

Lục Minh Nguyệt đi vào, nở nụ cười dịu dàng: "Làm gì đấy?"
Hóa ra mấy người đang cắt giấy dán cửa sổ*.

Bàn tay trắng nõn của Xuân Thiên cầm cây bút lông nhỏ đồ hoa văn trên bàn, Tiên Tiên di chuyển cái kéo, Lý nương tử cười nói: "Hôm nay tinh thần tươi tỉnh, nghĩ bụng lấy hoa văn năm rồi ra đồ mấy bức dán cửa sổ.

Thế mà chẳng ai chịu để em động tay vào, chỉ cho em ngồi một bên nhìn."
"Đây đều là chuyện con gái trong nhà làm, sao để chủ mẫu nhọc công được." Chị bó mái tóc dài của Lý nương tử lại, bỗng cảm giác mái tóc chẳng dày bằng một vòng ngón tay: "Vừa khéo, chị búi cho cô kiểu cao kế*, đón năm mới thuận lợi." Lý nương tử lắc đầu: "Tóc em càng ngày càng ít, sợ không búi được cao kế đâu."
"Cô không tin tay nghề của chị à?"
"Vâng, trước giờ chị sáng dạ khéo tay, cái gì vào tay chị là sẽ biến ra nghìn hình nghìn mẫu ngay!"
Tức khắc Lục Minh Nguyệt hứng khởi, sai Gia Ngôn vào bếp xả chậu nước ấm, gọi Trường Lưu bê hộp gương lược nữ trang của mẹ cậu qua.

Chị kéo Lý nương tử ngồi xuống đệm mềm, bày nào là dầu hoa quế bôi tóc, son phấn nước, son mỡ thoa môi*, trông "hoành tráng" quá thể.

"Ôi trời, không được, chị coi em là bình hoa đấy à."
"Được hay không là do mọi người quyết.

Tí nữa mời Lý Vị ra xem coi có bị choáng váng mặt mày luôn không."
"Đại gia không phải người như thế." Lý nương tử cười tới nỗi chẳng còn sức thở, đành mặc Lý Minh Nguyệt muốn làm gì thì làm.

Trang điểm một hồi, sắc mặt vàng như nến của Lý nương tử đã bị giấu nhẹm dưới lớp son phấn rạng rỡ, bờ môi trắng bợt nay có sắc đỏ bừng thay thế, nếp nhăn quanh khóe mắt được che đi, búi tóc cao vót, trâm vòng đinh đang, còn đâu dáng vẻ hốc hác tiều tụy.

"Cô đấy, bình thường giản dị quá, trang điểm thế này chả xinh hơn nhiều à."
"Chị nói thế em tổn thọ bây giờ, bản thân trông như nào mà em còn không biết chắc."
Mấy đứa con nít bên cạnh đều cười khen đẹp.


Lý nương tử cầm gương soi, cũng thấy hợp mắt hơn ngày thường gấp trăm lần.

Lại nhìn Xuân Thiên bên cạnh đang cài bông hoa vào tóc mai cho mình, dung nhan nàng tựa ngọc, mi mắt như tạc, càng có hơi thở thanh xuân đáng ngưỡng mộ.

Thời gian vô tình, ngẫm lại nửa đời này của mình, thân bất do kỷ, khổ cực đeo bám, cũng không biết còn bao nhiêu ngày tháng.

Càng nghĩ càng chạnh lòng.

Lý Vị và Hách Liên Quảng nghe thấy tiếng cười ầm ĩ từ phòng bên, đứng dậy đi ra khỏi nhĩ phòng.

Hai người đàn ông, một người xa cách lạnh lùng, một người đoan chính ôn hòa, cất tiếng hỏi đầy thắc mắc: "Nói chuyện gì mà vui thế?"
"Đẹp không?" Lục Minh Nguyệt mỉm cười đáp.

Hách Liên Quảng thoáng ngẩn người trước nụ cười nhẹ nhàng của chị.

Lý Vị chưa kịp phản ứng, nhưng như có một cảm giác vô hình nào đó buộc hắn gật đầu: "Đẹp." Rồi sau đó thấy mọi người vây vòng quanh Lý nương tử, bấy giờ mới nhận ra thê tử của mình có hơi khang khác, hắn buông câu chân thành: "Lâu lắm rồi không được nhìn Vân tỷ thế này, rất đẹp." Từ lúc hắn còn nhỏ cho tới giờ, Vân tỷ luôn bị bệnh tật hành hạ dai dẳng, phờ phạc uể oải, hiếm khi nào khí sắc hồng hào khỏe mạnh như người bình thường.

Phòng trong sáng sủa ấm cúng, mùi rượu thịt đậm đà.

Lúc nam nữ già trẻ ngồi vào chỗ, con Vàng dán người ở cửa sổ sủa oang oang.

Hóa ra gió tuyết lại đến, gió ào ào đập lên cửa sổ, ngọn đèn dầu be bé leo lét của vạn nhà dường như đều nằm gọn trong vòng ôm của tuyết.

Mọi người nhất loạt bưng chén rượu nồng trao nhau lời chúc.

"Mỗi ngày là hôm nay, năm nào cũng thế này!"
"Cả nhà đoàn viên!"
"Mạnh khỏe an khang!"
"Học hành tiến bộ!"
"Rượu đủ cơm no!"
Mọi người cười vang, gắp rau uống rượu, đẩy chung đổi chén, mừng vui hạnh phúc.

Cơm nước xong xuôi, phụ nữ dọn dẹp phòng, đàn ông uống mấy chén rượu, con nít ăn kẹo mạch nha, nghe tiếng gió tuyết ngoài kia một lúc mỗi thấp.

Lục Minh Nguyệt khép sát quần áo, tạm biệt Lý gia dẫn Gia Ngôn ra về.

Hẻm phố heo hút vắng bóng người, thế giới chìm trong tuyết, bốn bề im lìm không một âm thanh.


Lục Minh Nguyệt cũng có nhấp vài chén, người ngợm nóng hổi, nắm tay Gia Ngôn đi bước nông bước sâu trên tuyết.

Gió đông lùa qua, hương rượu lan tỏa, mông lung như khung cảnh năm ấy cha mẹ dắt chị đi xem kịch về, dưới đêm trăng rọi vằng vặc, gió mát thoang thoảng, gợn nước lóng lánh.

Giờ khắc này, cảnh như chợt hiện ra trước mắt.

Đột nhiên hồi phục tinh thần, còn đâu gió xuân mềm mại thổi khắp thành Cô Tô.

Chị dắt Gia Ngôn đi trong hẻm Công Đức, gió dừng tuyết nghỉ, giá rét thấu xương.

Hách Liên Quảng ở đằng sau, trong tay là chiếc đèn lồng da, rọi sáng con đường phía trước cho Gia Ngôn và chị.

"Ối!"
Bất thình lình Lục Minh Nguyệt la lên, chân lảo đảo.

Lúc sắp sửa kéo luôn cả Gia Ngôn ngã xuống đường thì bỗng, có cánh tay vững như bàn thạch đỡ lấy eo chị, kịp thời tránh được một tai nạn "khủng khiếp" trông thấy.

"Mẹ!"
"Cẩn thận!" Hách Liên Quảng dán người vào lưng chị, thấp giọng nói, "Kẻo có ngã."
Tay hắn siết bên hông chị không buông.

Cách lớp áo quần dày, chị có thể cảm nhận rõ rệt sức lực của bàn tay giữ chặt eo mình, hệt đôi mắt của hắn, không bao giờ giấu đi sắc bén và suồng sã.

Cả người chị được bàn tay hắn đỡ, cảm giác như vùng da ở eo đang run lên và bắt đầu lan tràn, nháy mắt đã bao trùm toàn bộ cơ thể.

Lục Minh Nguyệt bối rối đứng ngay ngắn lại, giãy khỏi tay Hách Liên Quảng, nắm chặt tay Gia Ngôn bước về trước: "Đi đứng đàng hoàng, coi chừng trượt chân đấy."
"Mẹ, mẹ, mẹ đi chậm tí..."
Ánh mắt Hách Liên Quảng dán vào tấm lưng chị, gió thổi không di, tuyết phất không dời.

Lục Minh Nguyệt chỉ cảm thấy lưng mình như có con kiến bò tới bò lui, nóng râm ran, hoảng loạn bước vào nhà đóng cửa lại.

"Mẹ, chú Quảng còn ở đằng sau mà..."
Chị vỗ mấy cái qua loa vào gương mặt bừng bừng hơi rượu, thở hắt ra một hơi.

(còn tiếp)
*Chú thích:
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: 12: Mổ Lợn Tết





Hết tết ông Táo, mọi việc hanh thông, không có gì kiêng kỵ, từ dựng vợ gả chồng cho đến làm ăn mua bán, rồi các buổi lễ nghi cúng bái hai bên Phật - Đạo, đều được diễn ra trong những ngày này.

Bầu không khí tưng bừng náo nhiệt, niềm vui ngập tràn, đây cũng là thời điểm rộn ràng nhất trong năm.
Con rể Tôn Hành Ông mở trại ngựa ở núi Lang Tâm.

Mấy bữa trước có lấy xe cao chở một con lợn rừng qua nhà cha vợ, chả biết đi đứng va vấp kiểu gì mà đâm hỏng nửa bức tường viện của Tôn gia.

Hôm đó nhân lúc trời quang mây tạnh, tuyết ngừng gió nghỉ, tốp đàn ông của đoàn ngựa thồ hô hào nhau tới nhà mổ lợn Tết.

Gia Ngôn cực kỳ phấn khích, có lẽ do hồi nhỏ cậu nhóc cảm thấy, tên đồ tể tay cầm đao nhọn là nhân vật vô cùng ghê gớm.

Khi đuổi theo Hách Liên Quảng ra cửa, Lục Minh Nguyệt ngăn cậu lại.

"Chỗ toàn máu me không, có gì tốt lành đâu, coi chừng buổi tối gặp ác mộng đấy."
"Mẹ cho con đi xem đi mà." Gia Ngôn kéo tay áo Lục Minh Nguyệt.

Lục Minh Nguyệt không chịu nhượng bộ, nghiêm mặt nói: "Về phòng học thuộc rồi viết chữ đi, không thuộc thì đừng hòng ra ngoài."
"Mẹ, mẹ, con hứa khi nào xem xong sẽ về học thuộc mà." Gia Ngôn giơ tay, "Con chỉ đi xem nửa tiếng thôi, con thề."
"Tôi sẽ trông Gia Ngôn, chỉ cho nó chơi trong nhà, không dính đến máu tanh đâu." Hách Liên Quảng cố ý bênh vực cháu, thế nhưng mặt mày Lục Minh Nguyệt vẫn cứ lạnh tanh, chẳng thèm đoái hoài gì đến hắn.

Lục Minh Nguyệt mắt điếc tai ngơ, chú tâm khuyên Gia Ngôn: "Mấy ngày nay mẹ cho con chơi chưa đủ phải không? Suốt ngày mải mê nhong nhong ngoài đường, có còn muốn học nữa không đây? Bớt xem mấy thứ mổ mổ giết giết đi, khéo lại hỏng cả người đi đấy, cứ ngoan như Trường Lưu kia kìa thì ai nói năng gì con?"
Gia Ngôn không lay chuyển được mẹ, nghẹn ứ một bụng tức, đành quay sang năn nỉ chú ruột của mình.

Hách Liên Quảng không chịu đựng nổi đứa nhỏ làm nũng, bèn tìm Lục Minh Nguyệt: "Người Bạch Lan Khương chúng tôi từ nhỏ trưởng thành trên lưng ngựa.

Con trai lớn lên sẽ phải học thuần phục ngựa săn chim ưng, mổ dê giết sói, lăn lộn trong máu.

Hôm nay cùng lắm là đi coi vui thôi, có gì mà không được."
Lục Minh Nguyệt không nhìn hắn, chỉ lo cúi đầu thêu đồ: "Các người làm gì tôi kệ, ngày nào cũng đi xem giết mổ, máu me đầm đìa thì bổ béo chỗ nào.

Còn nữa, Gia Ngôn là do tôi sinh dưỡng dạy dỗ, nó không biết người Khương gì cả, nó là người Hán."
"Ồ?" Cặp mắt nhạt màu của Hách Liên Quảng nheo lại, nhếch môi cười gằn: "Sao thằng bé lại là người Hán được, nó không mang họ Hách Liên à? Trông nó giống người Hán? Người không chảy dòng máu của người Khương?"
Những lời ấy đâm thẳng vào sâu trong lòng Lục Minh Nguyệt.

Mặt mũi Gia Ngôn giống cha, vóc người cao ráo, khuôn mặt sắc nét và đôi đồng tử nhạt màu, nhìn kỹ cũng giống Hách Liên Quảng.

Vì ngoại hình khác biệt của mình, nên từ bé Gia Ngôn thường hay bị mấy đứa con nít khác đuổi theo đánh chửi.

"Ha!" Lục Minh Nguyệt trỏ ngón tay vào Hách Liên Quảng, nói: "Gì mà người Bạch Lan Khương, bộ lạc Bạch Lan diệt vong từ lâu rồi! Mấy chục năm trước các người làm nô lệ cho dân tộc Thổ Dục Hồn, giờ lại trở thành nô lệ của dân tộc Thổ Phiên, hồ Thanh Hải mà các người cho là tự hào cũng đã thuộc về thổ địa của dân tộc Thổ Phiên.

Hiện tại các người chẳng có gì trong tay, không là cái thá gì hết!"
Sắc mặt Hách Liên Quảng phút chốc lạnh đến cùng cực.

Hắn nhìn chằm chằm khuôn mặt đỏ bừng vì giận của Lục Minh Nguyệt, nhíu đầu mày, cất giọng thờ ơ: "Người Bạch Lan Khương chúng tôi là nô lệ, nhưng chị cũng vẫn lấy đấy thôi, thủ tiết cho đàn ông Bạch Lan nữa còn gì?"
Lục Minh Nguyệt đứng phắt dậy, mày liễu dựng đứng, lạnh lùng nhìn hắn.

Hách Liên Quảng chẳng ừ chẳng hử, quay đầu bỏ đi.


"Mẹ...!mẹ đừng giận." Lúc này Gia Ngôn mới biết sợ, rụt rè nom vẻ mặt mẹ mình, "Con không đi nữa, mẹ đừng cãi nhau với chú Quảng."
Ngực Lục Minh Nguyệt phập phồng, mặt đỏ gay, tức tối quát lên: "Quay về phòng ngay, đừng có suốt ngày bám theo tên chú không biết chui từ xó xỉnh nào ra nữa!"
Bên kia, Lý Vị quấn khăn chít đầu, thay chiếc sam cũ chuẩn bị đi.

Trường Lưu thấy cha mình sắp ra ngoài, khăng khăng muốn theo chơi cùng.

Lý nương tử hết cách, đành mặc quần áo chỉnh tề cho cậu.

Trước khi đi, Lý Vị thoáng nhìn qua Xuân Thiên một mình ngồi dưới khung cửa sổ chái Tây thêu đồ, biết vết thương nàng đã lành, đi đứng thoải mái, thêm việc nàng đã ở trong nhà suốt ba tháng trời, bèn hỏi: "Vết thương cũ lành rồi, có muốn ra ngoài hít thở không khí không?"
Nơi xa nhất Xuân Thiên đi cũng chỉ loanh quanh trong hẻm Người Mù, đang muốn dạo đây đó cho khuây khỏa, nghe vậy bất giác gật đầu.

Lý Vị cất giọng gọi, dẫn luôn cả Tiên Tiên theo, bốn người lớn nhỏ cùng nhau ra ngoài.

Mấy đứa nhỏ chưa từng thấy mổ lợn Tết lần nào, Xuân Thiên thì lại càng không cần nói, đích xác là mới nghe lần đầu tiên.

Đến nhà Tôn Ông lão, đàn ông đứng hết ngoài phòng, trong phòng có hơn mười người toàn nữ quyến và con nít, hết sức sôi nổi.

Thục Nhi cũng có mặt, vẫy tay gọi mấy người Xuân Thiên: "Lại đây ngồi này!"
Phụ nữ ở đây đều là gia quyến của đội lạc đà, bình thường rất hay qua lại, nàng nhận ra khá nhiều người.

Lập tức, Xuân Thiên, Trường Lưu, và cả Tiên Tiên, lễ phép chào từng nương tử một, rồi được các cô các dì cho bao nhiêu là kẹo.

Trong đó có vị Quách nương tử to giọng, cười tủm tỉm kéo đám nhỏ lên giường lò ngồi.

Nương tử Tôn gia bưng ấm trà đồng ra đãi khách đến, cười bảo: "Ngoài kia bẩn lắm, để mấy ông đàn ông tự xử đi.

Mình ngồi trong phòng uống trà được rồi."
Có người nhìn qua chuồng lợn, la lên một tiếng: "Cừ thật!" Đó là một con lợn rừng da lông bóng nhẫy, răng nanh loang loáng, thở phì phò, thân mình to uỵch, cường tráng như con bò, nặng khoảng chừng hai ba trăm ký.

Nó giương mắt nhìn đám người vây xem, có vẻ bất an nằm lết xuống bùn, cọng dây chão cột móng sau đã lơi lỏng, dưới đất đào một cái hố thật lớn.

Trong số tám chín người đàn ông tráng niên, Tiền Thanh là người Thục, ưa sạch sẽ, cau mày nhìn đầu lợn, tự đi mài dao.

Đáp Na Đề là người Hồ, chê thịt lợn có mùi khai của đất nên không chịu ăn, đương nhiên chẳng thèm động tay vào.

Thẩm Văn và Hách Liên Quảng xắn tay áo nhảy vào giữa đám.

Lợn rừng nghe tiếng dao mài roèn roẹt bên cạnh, mắt đỏ ngầu long sòng sọc, rướn cổ rú lên từng tràng dài liên tiếp.

Nó nằm trong vòng tròn lăn đụng khắp nơi, ý đồ lao ra ngoài, thấy có người nhảy vọt vào, nó cong lưng đâm đầu tới chỗ hai người.

"Chà, lợn rừng này dữ đấy." Nhóm nữ quyến cắn hạt dưa, rõ ràng đã tiến đến trạng thái bắt đầu xem trò vui.

Hách Liên Quảng chờ lợn rừng chạy lại, người lóe lên, nhào sang bên cạnh, hai tay vươn ra trước nắm lấy hai cái răng nanh lợn rừng ấn xuống dưới.

Thẩm Văn phối hợp kéo hai chân sau thô chắc của nó về đằng sau, kìm hãm con súc sinh đang lên cơn điên.

Lợn rừng gào rít thảm thiết, bị hai người dồn sức đè xuống đất, nó vùng vẫy dữ tợn.


Con lợn này khỏe kinh người, khiến hai tên đàn ông không tài nào ghìm chặt nổi, hô: "Mang dây thừng tới đây!"
Lý Vị cầm dây thừng bước lên, trói chặt hai chân sau của lợn rừng.

Nào ngờ con lợn càng vật càng hăng, nó bạt mạng hòng thoát khỏi những bàn tay và sợi dây như xiềng xích.

Hách Liên Quảng lẫn Thẩm Văn quần quật bở hơi tai, tay rã rời đến nơi.

Hông Lý Vị giắt chủy thủ, vai và khuỷu tay hướng về trước, khống chế cái tai to như quạt hương bồ của lợn rừng.

Thanh chủy thủ làm bằng gang, bổ phát thẳng xuống cổ con lợn.

Lợn rừng tru tréo lên một tiếng, biên độ giãy giụa giảm đi, bấy giờ mới cho người ở ngoài thừa cơ trói bốn chân lại.

Trong phòng có đứa nhỏ bạo gan chạy ra ngó nghiêng.

Từ nhỏ Trường Lưu đã sùng bái uy phong của cha mình, lại chưa bao giờ chứng kiến cảnh tượng thế này, cậu nghiêng đầu nhìn cha, kéo góc tay áo Xuân Thiên đi ra theo.

Ngoài sân đã chuẩn bị sẵn nồi lớn đun nước tuyết tan.

Bốn chân lợn rừng bị trói chặt, nhưng nó vẫn liều chết nhe cặp răng nanh, đấu tranh giành sự sống, kêu rên liên hồi, xới tung hết cả bùn đất.

Nước nóng xối qua thanh chủy thủ, hai người ấn xác con lợn, Lý Vị quỳ xuống đất, con dao sắc bén lóe lên tia sáng lạnh lẽo, chọc một nhát vào cổ lợn rừng.

Bọn nhỏ đứng nhìn tròn mắt ố á.

Trường Lưu co rụt người, Xuân Thiên ôm vai cậu, nâng tay áo che mắt và tai Trường Lưu lại: "Đừng nhìn."
Trường Lưu ngửi thấy luồng hương thơm ngát xộc lên mũi, bụng dạ bối rối, không khỏi nắm chặt tay áo Xuân Thiên.

Máu tươi bắn tung tóe, lợn rừng kêu re ré, tiếng kêu thấu tận trời xanh, mắt nó trợn ngược, bốn chân giãy đành đạch, tiếng rú của nó khiến da đầu những người chung quanh tê rần.

Mùi máu tanh ngòm quyện trong gió rét, làm ai nấy cũng có cảm giác cổ họng lợn cợn.

Máu nóng đỏ tươi tuôn ồ ạt, thấm vào bùn vào đất, tạo dòng chảy xuôi theo chỗ người đứng.

Mấy người cuộn tay thành nắm đấm, đè nghiến con lợn vật vã sắp chết.

Bên cạnh có người vội vàng đưa chậu gỗ qua, máu chảy đầy vào chậu, sóng sa sóng sánh, rồi từ từ đông thành hình.

Cảnh máu đầy đất thế kia thực sự không đành lòng nhìn thẳng.

Xuân Thiên mới thấy lần đầu, toàn thân run run, sống lưng lạnh toát, muốn mở mắt ra nhưng màu máu như đóng đinh vào mắt nàng.

Lợn rừng còn đang rên những tiếng đứt quãng, nghe thôi cũng thấy tàn nhẫn rợn người.

Buổi mổ lợn ồn ào bỗng chốc trở nên nhạt nhẽo hẳn.


Trường Lưu hơi lo, giật tay áo Xuân Thiên: "Chị ổn chứ?"
Lợn rừng dần từ bỏ đấu tranh, tiếng khàn đặc, nhưng tứ chi nó còn đang co giật.

Tất cả mọi người thở phào nhẹ nhõm, yên tâm chờ tiết chảy hết.

Xuân Thiên buông tay áo, ôm Trường Lưu lẳng lặng nhìn.

Mấy người Lý Vị thả tay, đợi lợn rừng tắt thở, bình tĩnh chuẩn bị dụng cụ giết mổ.

Lông mày họ không nhăn lấy một cái, đứng trong chuồng lợn bẩn thỉu, mặc bộ quần áo đàn ông bình thường.

Chợt Xuân Thiên nghĩ, hằng năm bọn họ bôn ba nơi đại mạc hoang dã, vậy đã từng giết người chưa, họ sẽ dùng cách gì để kết thúc sinh mệnh của một người, nhìn máu tràn khắp đất, có thấy sợ hãi chăng?
Nàng nhớ lại ngày mình gặp mã phỉ, mắt chúng hung tợn, trường đao vô tình, cứ thế nhắm vào nàng mà tấn công.

Đó là một thế giới khác xa so với quá khứ của nàng.

Chuyện mổ bụng moi lòng thật không có gì hay ho để coi, mùi từ bụng lợn rừng cũng chẳng thơm tho lắm cho cam, nhóm nữ quyến đã vào nhà, tốp đàn ông phân công làm việc.

Đến khi xong xuôi, mấy người mới lại chỗ mái hiên rửa tay.

Xuân Thiên đứng ngoài nửa buổi trời, hai má thấm hơi lạnh đỏ ran, ngón tay tê tê.

Lý Vị ngẩng đầu, thấy chóp mũi nàng ửng hồng, ngẩn ngơ nhìn chăm chăm bàn tay mình, hắn bèn hỏi.

"Thấy rồi à?"
Nàng gật gật.

"Không sợ?"
Nàng lắc đầu, khuôn mặt nhợt nhạt hơi khựng, rồi lại gật.

Lý Vị nở nụ cười.

Hắn cười rất đẹp.

Nụ cười của một người đàn ông trẻ tuổi, mà cũng không tính là quá trẻ, giống như ngày đông giá rét này, mang theo cảm giác lành lạnh mà tươi sáng, cởi bỏ lớp vỏ che giấu của thân phận địa vị và thời vận tính cách, để lộ nét thuần túy rực rỡ như hòn ngọc lúc nguyên sơ.

Hắn cúi đầu rửa tay, đôi bàn tay đàn ông dính bột xà phòng, nhẹ nhàng chà xát, cọ rửa vết máu, trả lại dáng vẻ vốn có của nó.

Bàn tay hắn rộng như lá hương bồ đan lại với nhau, ngón tay thẳng tắp, khớp xương rõ ràng, bụng ngón tay và lòng bàn tay có những vết chai với độ dày không đồng nhất.

Thoạt nhìn, cho dù là đao kiếm hay roi ngựa, được bàn tay ấy cầm xem chừng đều thực thích mắt.

Nàng duỗi ngón tay chỉa chỉa vào một bên má mình, nói với hắn: "Chỗ này."
Hắn giơ ống tay áo lau vết máu trên mặt, đáp: "Cảm ơn."
Thu dọn sạch sẽ, Tôn đại nương dùng lá hương bồ khô gói thịt lợn rừng, dán giấy đỏ lên rồi biếu cho mọi người.

Lý Vị xách túi lá, dẫn mấy đứa nhỏ về nhà, ven đường có người đưa hàng rong cắp giỏ trúc bán xâu mứt quả, hắn dừng lại, lấy ví tiền ra mua mỗi người một xâu.

Xuân Thiên nhìn mứt quả đỏ au Lý Vị đưa cho nàng, cổ bỗng đầy ứ, cắn môi lắc đầu: "Tôi không ăn đâu."
"Bị dọa rồi hả?" Lý Vị trông sắc mặt nàng xám trắng, "Là lỗi của tôi."
Trướng Lưu cầm xâu mứt, cũng thấy hơi khó xử: "Cha, con cũng không muốn ăn lắm." Nhìn mứt quả màu đỏ thế này, khó tránh lại nghĩ tới cái chết bi thảm vừa rồi của con lợn rừng.

Chỉ có Tiên Tiên, vừa thấy mứt quả là quên hết sạch sành sanh.

"Cha, chúng ta khỏi cần ăn thịt."

"Không ăn thịt thì ăn cái gì?" Miền Bắc không so được với phương Nam, rau dưa rất ít, vào đông băng tuyết lấp kín đất, còn mỗi mấy loại củ cải dưa muối.

Trường Lưu suy tư một hồi, không ăn thịt, thế chắc chỉ có nước chết đói, cho nên sách vở mới ghi, quân tử xa nhà bếp.

Nhưng nói đi cũng phải nói lại, nếu mọi người đều xa nhà bếp, há chẳng phải ngày đó ai ai cũng đói chết ư?
Đêm khuya.

Lục Minh Nguyệt nghe thấy tiếng mở cổng ngoài sân cùng tiếng bước chân quen thuộc của người đàn ông, biết Hách Liên Quảng đã về, trái tim chị thả lỏng, thở hắt ra một hơi.

Sau khi Hách Liên Quảng ra ngoài, Gia Ngôn sụt sùi lên xuống, mà thằng bé này trước giờ có mấy khi khóc nhè, khiến lòng người mẹ là chị nhức nhối khôn nguôi.

Hồi chị mười hai tuổi, vì cha viết bài báo làm mích lòng trưởng quan địa phương, cả nhà lưu vong biên tái, chưa tới Hà Tây mẹ đã nhắm mắt xuôi tay, từ đó cha con chị định cư ở Sa Liễu doanh.

Người ở Sa Liễu doanh đều là tội nhân của các châu các phủ, đi đày ở đồn điền nơi đây.

Cha con hai người, một già một trẻ, phải chịu biết bao khổ cực.

Trong doanh đủ loại đàn ông, chúng thể hiện vẻ thèm muốn một cách lộ liễu, chị bị chúng chòng ghẹo đủ đường.

Ở chốn ấy, khó mà giữ gìn được trinh tiết.

Trong Sa Liễu doanh có nô lệ chuyên gánh phân bón phân tên Hách Liên Bá, là một tội phạm người Bạch Lan Khương.

Trên mặt Hách Liên Bá có vài vết sẹo do đao chém, trông cực kỳ dữ tợn.

Nhưng thân hình hắn cao lớn, lực mạnh vô cùng, lại còn độc lai độc vãng, lưu dân cả doanh ai cũng có phần e ngại hắn.

Tuy thân phận của Hách Liên Bá thấp kém, nhưng hắn luôn âm thầm giúp đỡ chị, còn hơn đám lưu dân răng vàng tanh hôi trong doanh luôn lăm le ý đồ xấu với chị.

Sau khi cha ngã bệnh qua đời, một mình chị ở Sa Liễu doanh như dê vào miệng hùm.

Lòng trăm mố, lo âu, chị bèn nương thân vào Hách Liên Bá, quyết định lấy hắn.

Đương thời, Hán quý Hồ tiện, Hách Liên Bá còn là nô lệ của người Hồ, xuất thân lại càng rẻ mạt.

Đàn ông cả doanh đều coi khinh chị vì đã lấy một tên nô lệ gánh phân, mỗi lần đi ngang qua đều nhổ nước bọt vào chị, sỉ nhục không chút kiêng dè.

Hách Liên Bá chết, cơ hội đã đến, chị dẫn Gia Ngôn mới hai tuổi đi đến Cam Châu.

Ở Cam Châu có khu thành người Hồ - Hán sống lẫn lộn tạp nham, cuộc sống của Gia Ngôn khá hơn rất nhiều.

Vài năm sau Hách Liên Quảng tới Sa Liễu doanh tìm anh cả của mình, cuối cùng đã tìm được cháu trai và chị dâu ở hẻm Công Đức.

Ban đầu, người Bách Lan Khương sinh sống bên hồ Thanh Hải linh thiêng, họ tự xưng mình là con của trời, dê bò béo mập, sở hữu những cánh đồng muối dài rộng thênh thang và những bao hàng khan hiếm ở khắp nơi.

Nhưng chẳng được bao lâu, mọi thứ đã bị dân tộc Thổ Dục Hồn và dân tộc Thổ Phiên chiếm giữ.

Người Bạch Lan Khương bị lăng nhục và tàn sát, kết cục sau cùng là không thể thoát khỏi kiếp nô lệ cho cường Hồ.

Con cái của người Bạch Lan Khương là giống người yếu kém nhất, bị gán với những xưng hô như tạp chủng, cẩu nô.

Chị chỉ muốn Gia Ngôn được sống tốt hơn, giống người Hán hơn một chút thôi.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: 13: Đêm Ba Mươi


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Gia Ngôn thức dậy, mẹ cậu đang làm giày vớ cho cậu.

Nắng trời ngày vào đông ấm áp chiếu vào người Lục Minh Nguyệt, toát lên nét hiền thục dịu dàng.

Gia Ngôn nghĩ, phụ nữ khắp thiên hạ này, không một ai là đẹp bằng mẹ cậu.

Lửa giận hôm qua đã vơi đi ít nhiều, cho đến khi ngửi thấy mùi thịt thơm ngọt thoảng trong không khí, mẹ cậu mới mở nắp lò sưởi tay, hiện ra trước mắt là hai cái bụng chén tròn ủng, trắng như tuyết.

Gia Ngôn sáng bừng hai mắt, lòng hân hoan, đâu còn bực dọc chỗ nào nữa, mẹ cậu bảo: "Bưng lấy mà ăn, đừng có ăn tham đấy nhé."
Món thịt Cái Oản* của Lục Minh Nguyệt được làm theo cách nấu miền Nam, dùng chén có bụng to bằng bàn tay, thái thịt ba chỉ thành miếng nhỏ, đổ thêm rượu ngọt và dầu thu*, đặt vào lò sưởi tay ninh từ từ trên bếp than.

Ninh tới lúc bì mềm thịt nhừ, mùi thịt nức mũi, thịt mỡ đũa gắp không lên, phần bì đâm cái là thủng.

Cắn một miếng, mỡ chảy ra miệng hóa thành nước, quả thực là ngon ngất ngây.

(*Thịt Cái Oản - 盖碗肉: Là món ăn đãi khách đặc sắc của người Lục Trai tộc Miêu, lấy miếng thịt mỡ lợn thật to lấp miệng chén lại, ở dưới xếp tám miếng thịt gà.

Miếng thịt càng to càng thể hiện sự giàu có và nhiệt tình của gia chủ)
(*Dầu thu - 秋油: Chai nước tương đầu tiên được chiết vào cuối mùa thu, có thể dùng làm chao cao cấp)
"Mẹ, mẹ thương con nhất mà!"
"Không được tham ăn đâu đấy." Lục Minh Nguyệt cúi đầu, luồn kim khâu đế giày, "Ăn nhiều kẻo buổi trưa lại không ăn được cơm."
"Con lấy một chén cho chú Quảng...!Chú Quảng chưa bao giờ ăn thịt Cái Oản mẹ làm cả."
Lục Minh Nguyệt chẳng ừ hử gì, chỉ nói: "Khéo bỏng tay, coi chừng đổ."
Ngày Tết đã đến rất gần, phiên chợ đua nhau bày bán các loại lịch mới sặc sỡ, Môn Thần lớn bé, câu đối tết, thần Chung Quỳ, nào con nghê, đầu hổ, đồ dán trang trí Tết*.

Các nhà bắt đầu mua những món như pháo, rượu Đồ Tô, kẹo kéo, hoa quả, cổng thần tài*, chờ đón giao thừa.

Lý nương tử vui vẻ với mọi người mấy hôm, ra gió lại trở khục khặc, đành phải nằm trên giường nghỉ ngơi.

(*Đồ dán trang trí, gốc là 金彩缕花 - kim thải lũ hoa: "Kim thải" là dùng tơ và giấy màu cắt thành đồ trang trí, treo ở giữa cửa lớn và phòng khách vào đêm giao thừa.

"Lũ hoa" là cắt lụa màu rồi kết thành hình đóa hoa, gài trên đầu như trang sức)
(*Cổng thần tài/mở cổng thần tài: Năm hết Tết đến, người ta gọi cổng nhà là cổng thần tài.

Mở cổng thần tài là tập tục phổ biến ở Vân Nam, như ở mình là xông nhà đầu năm lấy may rước lộc, nhưng nghi thức nhiều và rườm rà hơn)

Ngày ba mươi, cả nhà dậy sớm.

Thịt hươu ninh trong nồi suốt một đêm, làn khói bếp đưa hương thơm ngào ngạt nức lòng người.

Tiên Tiên mặc chiếc áo ngắn đỏ thắm, đầu buộc dây đỏ, từ sáng tinh mơ đã ra ngồi quanh nồi bếp.

Trong phường có nhà tổ chức tiệc cưới, Xuân Thiên và Trường Lưu ra ngoài góp vui.

Trên lầu Mộc Độc có người rải hoa quả kẹo mừng, Trường Lưu dẫn Xuân Thiên leo lên lầu ngắm phong cảnh.

Lầu Mộc Độc được xây bởi một thương nhân Ngô Huyền chuyển nhà đến Cam Châu, là nơi có thể ngắm toàn cảnh thành Cam Châu.

Núi xa tít tắp, sông băng uốn lượn, nơi xa nhất kia đã bị băng tuyết ngăn trở.

"Chị Xuân Thiên, chị nhìn gì thế?"
"Đằng kia có rất nhiều núi." Nàng giơ tay chỉ về một hướng, "Chị đến từ chỗ kia."
"Đó là Kỳ Liên Sơn." Trường Lưu đáp, "Có Kỳ Liên Sơn, mới có đất Hà Tây màu mỡ."
Cậu chỉ tới phía Đông Nam: "Chị từ Trường An đến, Trường An ở nơi đó.

Chị, chị có nhớ nhà không?"
"Chị không có nhà." Xuân Thiên trả lời cậu, phóng mắt trông về phía xa.

Rời nhà hơn nửa năm, chẳng biết tình hình trong nhà thế nào, có lẽ đã nghiêng trời lệch đất, hoặc có lẽ việc này đã được âm thầm che đậy, có lẽ tất cả mọi người đều nghĩ nàng đã chết, trong lòng đang trách nàng, oán nàng cũng nên.

Nàng lại ngước mắt nhìn sang hướng Tây, chỗ ấy cát vàng vô ngần, nàng biết xương cốt chí thân đã mất của mình bị chôn vùi ở đó.

"Chị cứ coi nhà em như là nhà chị." Trường Lưu nắm góc tay áo nàng, nói nhỏ.

Trượng phu của Triệu đại nương là Vương Thành gấp gáp kéo xe la tới đón mẹ con thím về quê đón năm mới.

Lý Vị gửi một phong bì tiền cho hai vợ chồng, đồng ý để Triệu đại nương qua mồng bốn hẵng quay lại Lý gia.

Triệu đại nương vừa đi, Lý Vị liền xắn tay áo vào phòng bếp làm việc, hắn bôn ba ở ngoài nhiều năm, cũng vì thế mà rèn được tay nấu nướng không chê vào đâu được.

Đến giờ lên đèn, nhà nhà thành Cam Châu đèn đuốc sáng rỡ, trừ tà nổi pháo, rước ông Táo cúng Môn thần.


Năm cũ qua năm mới đến, Lý Vị hạ linh vị của Lý phụ và Lý phu nhân xuống dưới bàn, chuẩn bị thịt khô thái lát mỏng, bánh đậu đường làm đồ cúng.

Ba người vái tổ tiên xong, phát hiện Xuân Thiên không ở trong phòng, ngoảnh đầu tìm thì thấy thiếu nữ một mình ngồi dưới mái hiên nhà, bóng lưng cô tịch, lắng tai nghe tiếng pháo vạn nhà nổ.

Lý nương tử đoán trước được rằng Xuân Thiên tha hương nơi đất khách quê người không thân không thích, sợ nàng buồn bã thương tâm, bèn bảo Trường Lưu ra đùa cho nàng vui.

Chiếc bàn trong nhĩ phòng bày đầy món khuya cho đêm ba mươi, nào trái cây, rượu trà, bánh ngọt, Trường Lưu kéo Xuân Thiên lên giường lò: "Chị Xuân Thiên, em chơi với chị nhé."
Lý Vị vào bếp nấu bánh bột*.

Bánh bột là loại canh đặc biệt ăn vào đêm ba mươi, sợi bánh dài hai tấc, rộng bằng bụng ngón tay, bột được nhào cực mỏng, trắng trẻo mềm nhẵn.

Đầu bếp ở Tiết phủ thích luộc cá chình hay lươn để làm nước lèo, nguyên liệu gồm có đậu hũ, nấm, giăm bông, cải ngựa, mùi rất thơm và đậm đà.

Vùng Hà Tây ít ăn cá lươn, nên Lý Vị dùng nước cốt dê làm thành phần chính cho món ăn, thêm gân nai, rễ dương xỉ, dưa muối, hương nồng ngập khoang mũi, cực kỳ có phong vị phương Bắc.

Ăn bánh bột xong, Lý Vị lôi một bộ bài giấy* ra, bảo: "Chơi ván bài giấy cho tiêu cơm." Trong tay hắn cầm bộ bài giấy in hình Anh hùng phong thần bảng, Vũ vương phạt Trụ.

Thiên bài là Vũ vương Cơ Phát, địa bài là Trụ vương Đế Tân, hai nước Thương - Chu cùng bốn mươi sáu tiên tướng.

Bốn người ngồi vây quanh bếp, thay phiên rút ra mươi hai lá bài.

"Tuy chơi bài nhưng lấy rượu làm bạc nhé." Lý Vị cười nói, lấy trên bếp xuống một chung rượu Đồ Tô Cửu Thần, "Uống rượu này vào, mạnh khỏe an khang, sống lâu trăm tuổi."
Xuân Thiên chưa chơi kiểu bài này bao giờ, Lý Vị ngồi bên tay trái nàng, nói đại khái: "Không cần kỹ xảo gì, chơi đại là được rồi."
Thế là nhất thời, Khương Tử Nha áp đảo Tỷ Can, Đát Kỷ giết Lôi Chấn Tử, Na Tra - Dương Tiễn đánh với Triệu Công Minh và Vô Đương thánh mẫu.

Thiên bài nằm trong tay Trường Lưu, địa bài dưới cùi chỏ Xuân Thiên, cuối cùng Trụ Vương đánh bại Cơ Phát, bảo vệ Đại Thương.

Qua vài bận chối từ, chén rượu Đồ Tô thứ nhất vẫn nhường cho Xuân Thiên.

Nàng bưng chén rượu, Trường Lưu cười hì hì nói: "Hoa nở mỗi năm vui, năm mới càng may mắn." Lý nương tử cũng tiếp lời: "Mây tan trăng tỏ, thân hữu tương phùng." Lý Vị ngẫm nghĩ, nói: "Sở nguyện trong lòng, hóa kiếp thành duyên." Trong rượu Đồ Tô có bỏ thêm hoa tiêu, dốc cạn một chén cay cay vào vụng, Xuân Thiên bị sặc, mặt mũi đỏ phừng, khóe mắt hơi ướt, đáp: "Đa tạ."
Mấy người đều uống vài hớp rượu Đồ Tô, tinh thần Lý nương tử vốn uể oải, gượng được một hồi, ngụm rượu trong miệng chưa xuống bụng đã che khăn ho khù khụ.

Trường Lưu ngồi trên giường lò bỗng đứng bật dậy: "Mẹ."
"Không sao." Lý nương tử thở dốc, cười nói: "Chắc tôi không cố được nữa đâu, nhọc lắm rồi, phải về nằm nghỉ thôi."

Lý Vị nhíu mày đỡ thê tử của mình, nhẹ nhàng nói: "Ta dìu nàng về uống thuốc, uống xong thì ngủ một giấc, đêm nay bọn ta sẽ trông cho nàng."
Lần này Lý Vị đã mời thầy Hồ đến một hai chuyến, một là kiểm tra thương thế cho Xuân Thiên, hai là bắt mạch xem bệnh cho Lý nương tử.

Thầy Hồ chỉ lắc đầu ngao ngán, có câu nói "Người như đốt đèn, tới khi dầu hết đèn tắt, cho dù có lấy ngàn vàng nối mệnh, cũng chẳng thể chống lại ý trời".

Trường Lưu thấy cha mẹ mình rời đi, bụng dạ hết sức lo lắng.

Xuân Thiên rót chén rượu Đồ Tô nhỏ đưa cho cậu: "Uống thay mẹ em một ngụm đi, uống hết thì nương tử sẽ sống lâu trăm tuổi, hết mọi bệnh tật."
Trường Lưu gật gật đầu, ngửa cổ uống cạn: "Em sẽ đón giao thừa thay mẹ."
Lúc lâu sau Lý Vị mới quay về, thấy vẻ sốt ruột của Trường Lưu, mỉm cười bảo: "Mẹ con uống thuốc xong là ngủ rồi, ngủ giấc thật ngon, qua ngày mai là ổn thôi."
Ba người bày món khuya lên bàn, pha thêm ấm trà.

Trường Lưu ngồi xơi bánh bơ xoắn ốc, cành đậu, bơ mật, bạch quả, con Vàng được một bát toàn xương, đang ngồi dưới giường lo gặm ngon lành.

Không biết Lý Vị lấy ở đâu ra mấy quả quýt, hắn vo quýt trên lò sưởi tay, cho đến khi lửa than hơ quýt tỏa mùi thơm dìu dịu, mới đưa qua cho Trường Lưu và Xuân Thiên.

Quả quýt vàng óng, hương thấm vào ruột gan, Xuân Thiên cầm trong tay nắn nắn, nghĩ vẩn nghĩ vơ.

Trường Lưu tựa vào người Lý Vị ăn quýt, mắt mở mắt híp, Lý Vị cười xoa đầu cậu, đưa chén nước trà tới bên môi con trai: "Trường Lưu, uống miếng nước hẵng ngủ."
"Con không ngủ đâu." Đứa nhỏ giương đôi mắt lờ đờ, "Con muốn đón giao thừa thay mẹ."
Thế mà mới hết nửa nén hương, Trường Lưu đã nằm ngủ say sưa trong lòng Lý Vị, hai người trong phòng ngẩng đầu liếc mắt nhìn nhau, cười hiểu ý.

Xuân Thiên vào phòng Trường Lưu ôm gối đầu chăn mền ra, Lý Vị đặt cậu ngủ trên giường lò.

Phút chốc, cả căn phòng trở nên im lìm.

Hai người đều không có chuyện gì để nói, nhiệt độ trong phòng ấm áp, chậu than đốt cây thương truật có tác dụng diệt khuẩn trừ bệnh, khói thuốc đăng đắng bốc lên không ngớt.

Con Vàng biếng nhác nằm quanh chậu than, thấy được cả mảng lông cháy sém, Lý Vị ném nắm hạt dẻ vào chậu than, Xuân Thiên thất thần nhìn chăm chăm giấy cắt hoa dán trên khung cửa sổ.

Không biết đã qua bao lâu, Xuân Thiên quay đầu, chớp chớp mắt, nói nhỏ: "Ngoài kia tuyết rơi rồi."
Lý Vị lắng tai nghe, một thoáng tĩnh lặng ngắn ngủi giữa tiếng ồn ào, tuyết bay đến từ phương xa, ập lên cửa sổ kêu lộp bộp, hạt tuyết nhỏ vụn, xa xôi chẳng biết đâu là bến bờ.

"Đây là trận tuyết thứ ba mươi bảy của mùa đông năm nay." Nàng khẽ thở dài, "Mùa đông ở Hà Tây, tuyết rơi đúng là nhiều."
Lý Vị uống cạn chén rượu, thoải mái nói: "Cũng là trận cuối cùng."
Đêm dài đằng đẵng biết bao, có lẽ đây chính là đêm nhộn nhịp nhất trong năm, ai nấy cũng rạo rực vui sướng.

C
hỉ vài giờ nữa thôi là một năm mới sẽ lại ghé đến, tuổi tác đổi thay, vòng đi vòng lại, kéo dài không nghỉ.

Bụi vàng nước biếc dưới ba núi, thay đổi ngàn năm như ngựa bay, thời gian ấy mà nhanh đến thế, người này chỉ nhỏ bé vậy thôi.


Hình như nàng hơi mệt, vẻ mặt có phần ngơ ngác, nhìn gương mặt say ngủ của Trường Lưu, muốn ngả người dựa vào góc bàn, nhưng cuối cùng lại ưỡn lưng thẳng tắp.

Lý Vị khoanh chân ngồi ngay ngắn trên giường, trước mặt đặt một chén rượu Đồ Tô, thần trí đã bay xa tận đâu, lặng lẽ uống rượu.

Hai con người tâm hồn treo ngược cành cây bị mấy tiếng nổ đồm độp rất nhỏ làm giật mình, hóa ra là hạt dẻ trong chậu than đã được nướng chín, vỏ nứt trong lửa kêu tanh tách.

Hai người dán mắt nhìn chậu than, Lý Vị đi nhặt hạt dẻ, đợi nguội thì bóc vỏ, hạt dẻ chín vàng thơm phức, hắn đưa cho Xuân Thiên, chậm giọng hỏi nàng: "Nhớ nhà sao?"
Ánh nhìn của Xuân Thiên chạm vào hạt dẻ, lông mi rũ xuống, mím môi không nói lời nào, gật gật đầu.

Hắn giương mắt nhìn nàng, lòng thoáng dao động, thầm thở dài một hơi: "Giờ này người nhà của cô chắc cũng đang nhớ cô."
Tiếng mõ lanh canh từ xa vọng lại.

Bấy giờ, tiếng pháo ngoài kia đã bắt đầu vang lên, pháo nổ đùng đùng khuấy động cả cánh đồng tuyết tịch mịch.

Giờ Tý đang sang, năm cũ qua, năm mới đến.

Lý Vị đứng dậy, nói: "Đi, đốt pháo thôi."
Ngoài cửa tuyết rơi dày đặc, hắn ôm một chiếc áo khoác đỏ, bước trên nền tuyết trắng xóa không tỳ vết đi vào trong sân, quay đầu cười nói với Xuân Thiên đứng ôm vai dựa cửa: "Đi lấy nhang ra đây cho ta."
Xuân Thiên về phòng lấy một cây nhang rồi châm bằng nến, tuyết bao la phủ kín, nàng bọc nhang lại trong ngực mình, đưa cho Lý Vị.

"Đứng xa một chút, cẩn thận pháo bắn lên người." Lý Vị bảo nàng ra đứng dưới nhà, hắn đốt dây pháo, pháo nổ ầm ầm như sấm vang trong gió tuyết, cả tai đều là tiếng pháo đốt chỗ xa chỗ gần, to lớn đến mức như có thể làm thức tỉnh kẻ mê muội.

Xuân Thiên che lỗ tai lại, cảm giác chỗ ánh lửa bập bùng như âm thanh của suy nghĩ trong tim, phập phồng căng trướng.

Lý Vị đứng cách đó không xa, khoanh ta quay qua nhìn nàng nói gì đó.

Nàng nghiêng tai nghe, nhưng giọng hắn đã bị tiếng pháo rung trời nuốt chửng.

Đốt hết pháo, Lý Vị đi vào phòng lớn vái linh vị sau đó cầm nhang ra ngoài, bóng hình cao lớn đĩnh đạc quỳ xuống đất hướng mặt về phía Đông Nam, thành kính vái lạy.

Hắn lạy cha mẹ thân sinh không biết tên họ lẫn giọng nói dáng điệu của mình, mong ông trời phù hộ hồn chết oan, sớm về miền cực lạc.

Tuyết khiến đôi mắt Xuân Thiên trở nên mơ hồ, hắn đưa nhang cho nàng: "Cô cũng vái đi."
Xuân Thiên nhận nén nhang, do dự chốc lát, cắm nhang xuống nền tuyết, xoay người theo hướng Tây Bắc quỳ lạy.

Lý Vị nhìn dáng người mỏng manh quỳ phủ phục trong tuyết, nhớ tới lá thư nhận được từ người bạn cũ trong quân hai ngày trước.

(còn tiếp)
*Chú thích:
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: 14: Chúc Năm Mới


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.




Năm trước cô ấy đã xuất hiện triệu chứng ho ra máu, ban đêm ngủ được có tí, ban ngày tinh thần cứ mơ mơ màng màng.

Gắng gượng càng lâu, dần dà cô ấy cảm giác cơ thể mình như mảnh vải gai đơn bạc, qua bao nhiêu lần giặt, vò chà, vắt khô, sợi ngang đã lỏng lẻo, từ từ mất đi sự mềm mại và màu sắc vốn có, lỗ thủng chi chít, trông chẳng ra cái gì.
Trong phòng mùi thuốc nặng nề, đắng nồng không xua đi được.

Có người đốt đèn, có tiếng nước trà rót vào chén, người đàn ông đỡ cô ấy ngồi dậy, thấm nước trà âm ấm lên môi Lý nương tử, giọng nói thấp mà trong: "Uống miếng nước cho trơn họng."
Lý nương tử ho đến độ hoa mắt, nhất thời không nhìn rõ khuôn mặt hắn, thở hổn hà hổn hển, mơ hồ hỏi: "Năm cũ đã qua chưa?"
"Sắp canh ba rồi, nàng nghe xem, tiếng pháo đốt vẫn chưa dừng."
Lý nương tử nuốt vị tanh ngọt trong cổ họng xuống, tập trung lắng nghe, xa xa loáng thoáng có tiếng vang liên hồi, cô ấy gật đầu: "Trường Lưu đâu?"
"Buồn ngủ quá nên ngủ mất rồi." Lý Vị đỡ cô ấy, "Ta sắc cho nàng chén thuốc, rạng sáng sẽ mời thầy Hồ tới xem."
Lý nương tử níu lấy tay áo Lý Vị, giọng suy yếu: "Giao thừa Tết nhất, đại gia để ta yên tĩnh đi, phòng này đầy mùi thuốc chưa đủ nữa à?"
"Thuốc lúc nào cũng phải uống." Lý Vị nói, "Mấy vị thuốc lần trước Khang Toại Thành gửi còn dư ít nhiều, nếu không đủ thì ta sẽ bảo cậu ấy gửi một ít đến tiếp."
"Đại gia tha cho ta đi, giờ uống bài thuốc này, một lạng thuốc hai lạng tiền.

Ta uống ngụm thuốc là trong lòng sẽ phải niệm một câu tạ lỗi, Trường Lưu cũng đã lớn rồi, ta không thể không tích góp chút tiền của cho nó.

Nhà này, sao có thể để ta tiêu xài hoang phí thế được chứ."
Nét mặt Lý nương tử ảm đạm, thở dài thườn thượt: "Vị Nhi, sợ rằng ta không cố được nữa."
Hắn an ủi hết lời: "Chỉ là lao lực lâu ngày thành bệnh thôi, tí bệnh khí huyết mất cân bằng, nàng nghỉ ngơi là khỏe lại ngay, làm gì cứ phải ủ rũ như thế.

Nếu nàng thấy thuốc hiện giờ uống không có hiệu quả, vị ngán, thì chúng ta đổi bài thuốc khác.

Bên Lương Châu có bao nhiêu là kỳ nhân dị sĩ, ta sẽ dẫn nàng đi gặp."
"Mọi người lúc nào cũng có lý do để lảng tránh, chỉ toàn khuyên ta...!Ta nghe chán rồi, dù không nói thật, vậy nhưng tới sức khỏe của bản thân mà ta còn không tự biết được ư? Như giọt sương trên lá cây đó, mặt trời vừa lên là lập tức tiêu tan.

Mấy năm nay ta cắn răng chịu đựng, tuy nhiên rồi cũng sẽ đến lúc dầu hết đèn tắt thôi."
Lý nương tử hiểu rõ, chỉ hận con trai chưa trưởng thành, cô ấy sợ rằng không thể nhìn thấy tương lai ngày sau của thằng bé.


"Từ bao giờ mà nàng trở nên nản chí tới vậy." Lý Vị mỉm cười, "Bao nhiêu năm qua chẳng phải vẫn tốt sao, có ta, có Trường Lưu ở đây, nàng có gì phải lo lắng chứ..."
"Vị Nhi, ta mệt mỏi quá..." Lòng bàn tay cô ấy phiếm lạnh, nắm tay Lý Vị, bộc bạch cõi lòng mình giữa đêm sâu thăm thẳm: "Ngần ấy năm nay là ta đã liên lụy tới chàng...!Lúc bé ta là chị cả, luôn đối xử với chàng như em trai ruột thịt.

Ta cũng biết, nếu như ta không bệnh tật triền miên, thì cha cũng sẽ không xin chàng lấy ta, chàng cũng sẽ không ở lại nhà này...!Dù nói thế nào đi chăng nữa, đều tại ta...!Ta đã hại chàng..."
Vài giọt lệ tuôn ra từ hốc mắt Lý nương tử, rơi xuống tay áo Lý Vị, lăn dài chẳng thấy dấu tích: "Ta biết chàng chỉ là thân bất do kỷ."
Lý Vị nhớ lại ngày Lý nương tử xuất giá, người chị xanh xao tiều tụy, luôn nở nụ cười dịu dàng mà yếu ớt với hắn, khoác trên mình bộ áo cưới đỏ thẫm rực rỡ, gương mặt ánh lên nét tươi tắn rạng ngời.

Ngày hôm đó, từ thâm tâm hắn thực sự vui thay cho Lý nương tử.

Trưởng Lưu choàng tỉnh khỏi cơn mơ.

Cậu mơ thấy mình nắm tay cha mẹ, đứng trong sân đốt pháo đập tro*.

Tiếng pháo đùng đoàng ầm trời, ngay cả tiếng nói chuyện của cha mẹ bên tai cũng không nghe rõ.

Đảo mắt cái lại thấy con Vàng bổ nhào tới, thè cái lưỡi ấm nóng liếm mặt mình.

Thình lình mở bừng mắt, quả nhiên con Vàng đang bám vào mép giường lò liếm cậu.

Trường Lưu dụi hai mắt, nhìn quanh bốn phía, không ngờ mình lại ngủ trên giường lò, trên người còn đắp tấm chăn.

Mặt trời ngoài cửa sổ đã treo tít trên cao, Xuân Thiên ngồi bên cạnh trông cậu, mỉm cười bảo: "Dậy rồi đấy à, đứng lên mặc đồ đi."
(*Đập tro: một trong những phong tục dân gian cổ xưa của Trung quốc, thực hiện vào mồng một tháng Giêng âm lịch khi gà gáy, nhằm để buôn may bán đắt)
Cậu nghệt mặt, gãi gãi gáy, ngơ ngác hỏi: "Em...!em ngủ bao lâu rồi ạ?"
"Không lâu, mới có tí thôi." Xuân Thiên đưa bộ đồ mới qua cho Trường Lưu, thấy cậu nhóc còn ngái ngủ, bớt đi vẻ chín chắn rụt rè của bình thường, cặp mặt tròn mở to không biết chuyện gì đang xảy ra, nàng lại cười nói: "Vào phòng chúc Tết nương tử và đại gia đi."
"Rõ ràng em..." Trường Lưu mím chặt môi, nắm góc chăn hồi tưởng cảnh tượng vô cùng chân thật của giấc mơ, trộm nhìn qua khóe mắt thì bắt gặp bàn tay mảnh mai của Xuân Thiên vén chăn lên.

Như có thứ gì bùng nổ trong lòng, mặt cậu nhóc lộ nét xấu hổ thấy rõ: "Chị Xuân Thiên...!để em tự làm."

Xuân Thiên cười cười, thu tay về: "Được rồi."
Trường Lưu mặc quần áo chỉnh tề, thấy mẹ mình nằm giữa giường mặt mũi uể oải, cha bưng chén thuốc ngồi một bên, ý thức bản thân đã ham ngủ mà bỏ lỡ mất thời khắc giao thừa, bụng dạ cậu hết sức phiền muộn.

Bấy giờ, cậu nhóc chắp tay bái tân niên, Lý nương tử yêu thương kéo cậu đến gần: "Con mẹ lại lớn thêm một tuổi rồi."
"Mẹ." Trưởng Lưu ngả vào lòng Lý nương tử, hết sức tự trách: "Con không để ý nên ngủ quên mất rồi, không đón giao thừa cho mẹ được."
Lý Vị xoa đỉnh đầu Trường Lưu: "Cha đã đón cho mẹ con con rồi, sang năm sẽ để Trường Lưu đón."
Lý nương tử lấy từ gối đầu ra sợi dây trường mệnh, buộc vào cổ tay Trường Lưu: "Năm nay không tính, sang năm mẹ đón giao thừa với Trường Lưu nhé, được không?"
Vợ chồng hai người dỗ dành con trai một phen, Trường Lưu chào đời vào một ngày đầu mùa xuân, tính tới nay tuổi mụ đã là mười hai.

Mười hai là thời điểm quan trọng, cho dù không làm lớn thì cũng phải biếu hàng xóm mấy món trứng hỷ* mạch nha.

Thêm nữa là cậu đã hoàn thành khóa vỡ lòng trong tư thục, bắt đầu từ năm sau phải chọn thư viện cho Trường Lưu vào học.

Phủ Cam Châu có ba thư viện lớn là Cam Tuyền, Nam Hoa, Thiên Sơn.

Hai thư viện trước là cho quan học, xây ngay trong thành, là nơi nhận các con em nhà làm quan và những người có kết quả sát hạch nổi bật.

Thư viện sau cùng nằm ở núi Cam Cốc ngoài thành, chủ trì là một vị Phục Sơn tiên sinh đại nho Hà Tây - Trương Bỉnh Văn.

Thư viện không chỉ giảng luận Kinh Thư, mà còn biện luận thời sự, dạy cả săn bắn, đệ tử theo học cũng nhiều.

Hai người hỏi Trường Lưu nghĩ thế nào, Trường Lưu lắp bắp trả lời: "Nghe nói Phục Sơn tiên sinh học rộng hiểu nhiều, thông kim bác cổ, lòng con vô cùng ngưỡng mộ...!Thầy cũng nói với con, thư viện Thiên Sơn là nơi học tập tốt hơn nhiều so với nơi khác, dặn con ở nhà chăm đọc bài, ôn tập cho tốt, chuẩn bị cho cuộc thi vào thư viện Thiên Sơn năm sau."
Lý nương tử vui mừng, thầy ở tư thục quý mến Trường Lưu thông minh bẩm sinh, chăm chỉ hiếu học, Vương tú tài trong hẻm dù mắt cao hơn đầu nhưng cũng rất coi trọng Trường Lưu, ưu ái có thừa.

Nếu về sau được đích thân Phục Sơn tiên sinh truyền dạy tri thức, với Trường Lưu mà nói đã là không thể tốt hơn.

"Thư viện Thiên Sơn yêu cầu nghiêm khắc, trăm dặm mới tìm được một, con phải chuẩn bị kỹ càng, nếu không thi đậu thì cũng không được khóc nhè đâu đấy."
"Trường Lưu biết." Cậu gật gật đầu, rồi trịnh trọng nói, "Ngày mai con sẽ đi hỏi Gia Ngôn xem cậu ấy có muốn cùng con thi vào thư viện không."

Lý nương tử run rẩy vươn tay vuốt ve hai má cậu, "Nếu Gia Ngôn có thể thi vào với con, hai đứa ở chung thì mẹ cũng yên tâm hơn, không chừng cô Lục của con cũng mừng lắm đấy."
Lý Vị đưa chén thuốc đã ủ ấm cho Lý nương tử, cười nói: "Thằng bé đã có chí hướng thế rồi, nàng cũng phải uống thuốc đi."
Trường Lưu vội vàng nhận lấy chén thuốc: "Để con đút thuốc cho mẹ."
Một nhà ba người ngồi trong phòng nói chuyện, Xuân Thiên và con Vàng ngồi ngoài bậc thềm.

Con Vàng vừa lười vừa tham ăn, chẳng buồn quan tâm có ăn được hay không, thứ gì cũng gặm thử cho bằng được.

Sáng sớm không có ai cho ăn, thế là nó bèn cắn góc váy của Xuân Thiên nhai đi nhai lại.

Xuân Thiên cười khúc khích, mi mày cong cong, mắt sáng như ngọc, kéo hai lỗ tai con Vàng: "Đồ chó ghẻ, váy đang yên đang lành tự dưng bị mày cắn rách cả rồi đấy." Con Vàng kêu hừ hừ mấy tiếng, giục nàng vào phòng bếp kiếm đồ ăn cho nó.

Ăn sáng xong, Lý Vị dẫn Trường Lưu ra ngoài chúc Tết.

Lý nương tử ban đêm ngủ không tròn giấc, Lý Vị ép cô ấy uống thuốc rồi để cô ấy nằm trên giường nghỉ ngơi.

Nói cho cùng Xuân Thiên vẫn là người ngoài, không muốn đi thăm viếng chúc Tết với cha con hai người, đành ngồi trong nhà với con Vàng, lấy giỏ may vá ra thêu đồ.

Nàng nhớ khi bé, bổng lộc của cha rất ít, một tháng chỉ được mười quan tiền, trong nhà ngoài ba miệng ăn ra còn nuôi cả thị nữ Lan Hương.

Vì vậy, mẹ nàng không thể không nhận đồ thêu để kiếm thêm tiền, một tấm khăn đổi được năm trăm đồng, mỗi tháng nếu bỏ qua phí ăn phí mặc, thì vẫn có thể mua mạch nha mứt quả và mấy món đồ chơi xinh xắn cho nàng.

Nhớ lại những ngày tháng vui vẻ nhất ấy, cha mẹ còn sống, yêu thương nàng như châu như ngọc, cuộc sống chỉ có vô ưu vô lự.

Tài may vá của nàng là do mẹ dạy, tuy không quá xuất sắc nhưng cũng gọi là đủ tầm.

Lục Minh Nguyệt giao việc cho nàng, một tấm khăn lụa một trăm văn tiền.

Tận một trăm văn tiền lận đấy! Ở Trường An là mua được một quả vải Quảng Đông tươi mọng mới vận chuyển đến, ở tiệm rượu là mua được một hũ rượu Túy Tiên của Lý Thái Bạch, ở quán rượu nông thôn ven đường là ăn được chút món xoàng, cũng đã đủ cho phàm phu sai dịch một ngày ấm no.

Có đôi khi nàng không ngủ được, ban đêm nằm trằn trọc đếm lại số tiền mà mình tiết kiệm, bấy giờ mới thông suốt đạo lý "phú quý dẫu phỏng tay, nhưng không ai buông bỏ nổi".

Phòng Lý nương tử vang lên tiếng sột soạt, Xuân Thiên thả kim chỉ, đi vào thì bắt gặp Lý nương tử đang chật vật đứng dậy.


"Nương tử mới ngủ có một lúc, sao lại dậy sớm thế." Xuân Thiên thấy Lý nương tử muốn mở hộp trang điểm, "Đại gia bảo cô phải nghỉ ngơi cho khỏe."
"Mùng một năm mới mà làm biếng thế này, chốc có người đến chúc Tết trông vào thì ra thế thống gì nữa." Lý nương tử thấy phòng ngột ngạt bức bối, bèn vươn tay mở cửa sổ cho thoáng.

"Cẩn thận---" Ngoài phòng tuyết tạnh trời quang, không khí rét buốt, gió thổi vù vù.

Xuân Thiên sợ cô ấy trúng gió nhiễm lạnh, vội đi qua đóng cửa: "Trời lạnh lắm, nương tử coi chừng bị cảm."
Lý nương tử lắc đầu cười khổ.

"Nếu nương tử không thích ở trong phòng thì chúng ta sang nhĩ phòng ngồi, giường lò ấm, cửa sổ có thể nhìn ra ngoài." Xuân Thiên chải đầu cho Lý nương tử, "Dưới bếp có canh hoành thánh, em đi múc một chén cho nương tử ăn."
Lý nương tử cười bảo: "Em bận tới bận lui, tôi thấy áy náy lắm, ai lại để khách quý giúp đỡ việc nhà bao giờ đâu.

Em chỉ cần ăn ở tự nhiên, cái khác không cần động vào, cứ mặc đấy." Cô ấy nắm mười ngón tay thuôn thuôn của Xuân Thiên, "Em da mỏng thịt mềm, nói vậy chắc lúc trước trong nhà cũng có người hầu hạ đúng không, tiếc rằng giờ..."
Xuân Thiên cười cười: "Trong nhà em toàn việc lặt vặt thôi, cũng hay giúp mẹ làm này nọ, chẳng có gì to tát đâu."
Lý nương tử ngắm kỹ nàng qua tấm gương, thiếu nữ ngoan ngoãn dễ bảo, lông mi dài chớp chớp tựa cánh bướm, sắc môi là sắc hoa đào, trải qua trận ốm như thay đổi diện mạo mới.

Cô ấy thầm nghĩ dung nhan Xuân Thiên quả là không tầm thường, mang nét trong sáng khiến người đối diện không thốt lên lời.

Lý nương tử nở nụ cười, khen: "Mẹ em chắc hẳn là một người cực kỳ đẹp."
Xuân Thiên sửng sốt, gật gật đầu, cười dịu dàng: "Phải."
Lý nương tử nói: "Em bảo em sinh vào mùa xuân, ta quên chẳng hỏi, cụ thể là sinh vào giờ nào ngày nào tháng nào?"
Xuân Thiên đáp: "Một ngày sau tiết Cốc Vũ, vừa qua giờ Thìn.

Khi đó đương độ phồn xuân, cảnh sắc phơi phới, hoa thi đua trổ, cha mẹ em không biết nên lấy tên gì cho hay nên mới đặt là Xuân Thiên."
"Ngày sinh muộn hơn hai tháng so với ngày sinh của Trường Lưu, tính ra em lớn hơn Trường Lưu bốn tuổi."
Xuân Thiên không đi sâu nghiền ngẫm ý trong lời nói của Lý nương tử, gật đầu nói phải.

Lý nương tử thoáng nhìn nàng, lòng âm thầm tính toán.

(còn tiếp)
*Chú thích
[Diendantruyen.Com] Vị Bắc Xuân Thiên Thụ
.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: 15: Tĩnh Vương Phủ





Tĩnh vương phủ nằm trong phường Vĩnh Hưng ở Trường An, gần sát cổng Cảnh Phong.

Dọc theo tường hoàng thành về phía Bắc, ngang qua cổng Diên Hỉ và cổng Trọng Minh chính là nội cung, Tĩnh vương thái phi rất hay đi con đường này vào cung.
Tĩnh vương thái phi được gả vào tôn thất, là thím họ của thiên tử, lại là em gái ruột của đương kim thái hậu.

Thái hậu ở Thái Cực cung, lão vương phi thường vào cung nói chuyện phiếm giải sầu với thái hậu, chỗ ở cũ của Tĩnh vương phủ gần với cửa cung hơn.

Năm trước lão vương phi tổ chức đại thọ sáu mươi, thái hậu hoàng đế lên loan giá đích thân đến chúc mừng.

Người trong người ngoài Tĩnh vương phủ bận bù đầu bù cổ, Tĩnh vương chưa được ngơi nghỉ thì ngày Tết lại tới.

Chiều ba mươi, Tĩnh vương vẫn còn trong cung, người cả phủ đều bận bịu, vương phi và mấy tiểu thiếp cùng lão vương phi ở ngoài thu xếp.

Nội viện giăng đèn kết hoa, đèn đóm sáng trưng, thế nhưng một bóng người cũng khó trông thấy.

Bấy giờ, Tiết phu nhân ở Lệ Gia các đang bị cơn đau bụng quằn quại hành hạ.

Tình trạng thai nhi của Tiết phu nhân không được ổn định, luôn ở trong vườn tĩnh dưỡng.

Lúc này trong vườn không có ai, may mắn là mấy ma ma hành sự thận trọng do Tĩnh vương bố trí đến đều có mặt.

Phòng sinh sớm đã chuẩn bị đâu vào đấy, ma ma đỡ đẻ thò tay vào trong váy thăm dò, nước ối đã vỡ, biết thai khí đã động, e là sắp sinh, lập tức lên tinh thần, đóng cửa đốt đèn, thêm than nấu nước.

Ma ma hộ sinh kéo thị nữ Thu Quỳ của Tiết phu nhân: "Đi, đi bẩm báo với chủ tử, phu nhân sắp sinh rồi!"
Vương gia chưa về, Thu Quỳ thở hổn hền tìm kiếm hơn nửa phủ đệ, giữa đường bị thị nữ Lưu Ly của vương phi chặn đứng: "Làm cái gì mà hùng hục đâm hết cái nọ đến cái kia thế!" Thu Quỳ túm lấy Lưu Ly như tìm được cọng rơm cứu mạng, lắp bắp nói: "Phu nhân...!phu nhân sắp sinh."
"Chả phải chưa đủ tháng à?" Lưu Ly nhướng mày, hỏi: "Các ma ma đều ở đó sao?"
Thu Quỳ gật đầu, lòng bàn tay đổ đầy mồ hôi: "Ma ma...!bảo nô tỳ đi thông báo."
"Nếu các ma ma đều ở đó thì cô cuống lên làm gì." Lưu Ly nói, "Vương phi đang trong phòng nói chuyện với thái phi, để ta vào báo cho."
Tĩnh vương phi Quý thị đang ngồi trong noãn các cười khúc khích hầu mẹ chồng, cùng chờ vương gia rời cung về phủ.

Nghe Lưu Ly tới thông báo, chỉ biết nuốt ngược vào bụng câu bông đùa đã tới bên mép, khóe miệng cứng đờ.

Lão vương phi thấy con dâu bỗng dưng ngớ ra, hỏi: "Có chuyện gì?"
Lưu Ly đáp ngay: "Lệ Gia các sai người đến báo, Tiết phu nhân hình như sắp sinh rồi ạ."
"Ôi chao, sao lại sinh vào giờ này chứ." Lão vương phi vội đứng dậy, "Vương gia vẫn chưa về, đi đi đi, đi xem sao."
Tiết phu nhân khó sinh, tới tận lúc lên đèn mà đứa nhỏ chưa chịu ra.

Người hầu thân cận của vương gia tiến cung truyền tin tức, Tĩnh vương gia hay tin thì gấp gáp trở về nhà.

Trong phủ không thấy bóng dáng chủ nhân đâu, cả tốp nữ quyến tụ tập hết bên ngoài Lệ Gia các.


Tính tình Tiết phu nhân vốn điềm đạm, nói chuyện lúc nào cũng nhỏ nhẹ, mà giờ đây tiếng kêu la trong phòng có thể hình dung là tiếng sau còn khàn hơn tiếng trước.

Tim Tĩnh vương gia co thắt, biết tình hình không ổn.

Lão vương phi đợi nửa ngày trời, nước nóng bưng hai lượt nhưng đứa nhỏ vẫn chưa có dấu hiệu chui ra, ruột gan loạn cào cào.

Pháo hoa trong ngoài cung bắn thẳng lên trời nổ đùng đùng, lão vương phi không nhịn được niệm một câu A Di Đà Phật.

Con nối dòng của Tĩnh vương phủ ít ỏi, năm nay Tĩnh vương đã bên bờ tứ tuần, dưới gối hiện chỉ có hai quận chúa nhỏ.

Bật luận là ai, chỉ cần có thể sinh thêm con trai cho vương phủ, lão vương phi chắc chắn sẽ cầu xin ông trời phù hộ.

Căn phòng nóng hầm hập không ngồi nổi, nghe tiếng kêu khàn cả cổ của Tiết phu nhân ở trong, Tĩnh vương quýnh đến độ vòng tới vòng lui.

Trước kia Tiết phu nhân xuất hiện triệu chứng động thai, lúc mang bầu tâm trạng u uất, khi nào cũng lo âu dự đoán ngày mình lâm bồn.

Đã thế, thằng nhóc này còn đá chân, cũng có phải thai đầu đâu mà khó sinh vậy chứ?
"Chấp Gia." Lão vương phi nhìn con mình mà hoa mắt chóng mắt, quở trách: "Con không ngồi yên được thì ra ngoài đứng đi, đừng có đứng trước mặt người ta cho thêm phiền phức nữa."
"Mẫu thân!"
"Ai sinh con đều phải bước qua quỷ môn quan này, con cũng đâu phải lần đầu làm cha, sốt sắng cái gì!"
Tĩnh vương thở dài một hơi, đứng lên bước ra ngoài, dẫu lòng nóng như đốt chậu than, nhưng vẫn chỉ đành đứng ngoài phòng hứng gió rét.

Vương phi Quý thị thấy vương gia cởi áo lông cáo, bèn ôm lấy đuổi ra theo thì chứng kiến hình ảnh vương gia dáng thẳng như ngọc, khoác tấm áo mỏng đứng trong gió mà chẳng hề thấy lạnh, hai bàn tay chắp vào nhau cầu nguyện với trời: "Ông trời ơi, xin ông hãy phù hộ mẫu tử bình an, mẫu tử bình an, mẫu tử bình an..."
Quý thị ôm áo lông cáo, lặng lẽ xoay gót trở về.

Giọng sản phụ đã khản đặc, khí lực càng ngày càng yếu, ánh nhìn dần tan rã.

Ma ma cuống cuồng, đổ nửa bát tổ yến của Tiết phu nhân, thúc giục liên hồi: "Phu nhân, dùng sức rặn, nếu đứa nhỏ không ra thì rất nguy hiểm!"
Tiết phu nhân siết chặt khăn trong tay, thét lên tiếng đau đớn thật dài, rồi chợt cảm thấy thân dưới có luồng nhiệt mãnh liệt tuột khỏi người mình, cơ thể nhẹ tênh, hôn mê bất tỉnh.

Ma ma kéo đứa trẻ sơ sinh hơi thở mong manh ra từ dòng máu loãng, vỗ nhẹ vào mông nó, nghe thấy tiếng đứa nhỏ òa lên khóc, kiểm tra tỉ mỉ một phen mới thở phào nhẹ nhõm.

"Chúc mừng vương gia, chúc mừng vương gia, là một tiểu công tử!" Giọng ma ma xúc động và ngập tràn vui sướng.

Vương phủ đã nhiều năm không ai sinh con, hiện giờ có tiểu công tử để bồng bế, ma ma hộ sinh cũng lấy làm vẻ vang.

Tiết phu nhân bên cạnh được đút mấy chén thuốc, dần dần tỉnh lại, ma ma tiếp lời, "Mẫu tử bình an."
Ngoài phòng tiếng reo vui vỡ òa, Tĩnh vương hạnh phúc khôn xiết, liên tục cười nói: "Thưởng!"
Lão vương phi nôn nao ngóng cháu trai vừa chào đời của mình, đợi ma ma bọc đứa nhỏ ôm nó ra ngoài.

Đứa nhỏ mới sinh, hai mắt díu dít lại, khuôn mặt bé xíu nhăn rúm ró, nhưng vẫn có thể nhận ra nét xinh xắn khả ái.


"Có điều em bé gầy quá...!Chọn thêm mấy bà vú nữa, chăm bẵm bồi bổ cho công tử." Lão thái phi cười chuyển đứa nhỏ cho Tĩnh vương, "Chấp Gia, con lại bế đi này."
Tĩnh vương thấy Tiết phu nhân tạm thời không có gì quá đáng ngại, lòng đầy hân hoan ôm đứa nhỏ vào lòng.

Đứa nhỏ mới lọt lòng cùng lắm cũng chỉ vừa tầm một vòng tay, nằm gọn lỏn trong tã lót, cặp mắt tròn vo đen nhánh ngây thơ nhìn ông.

Trái tim Tĩnh vương lấp đầy niềm sung sướng lẫn sự chua xót, đây là trưởng tử của ông, đối với một người làm cha mà nói thì điều đó có ý nghĩa rất phi thường.

Giờ khắc này, bầu trời kinh thành rợp pháo hoa muôn sắc, thiên hạ cát tường.

Cuối năm ba mươi Tết, sắp sửa bước sang một năm mới, Tĩnh vương nắm bàn tay bé tí của đứa nhỏ, nhất thời có cảm giác lệ nóng quanh tròng.

Hôm sau là mồng một Tết, hoàng đế dẫn bách quan đi tế trời, lão Vương phi vào cung yết kiến thái hậu.

Quan văn quan võ cả triều, trong ngoài cấm cung đều biết Tĩnh vương mới có quý tử, trong cung thưởng tiền cho lễ ra đời và lễ tắm rửa* của đứa nhỏ.

Hoàng đế hứng khởi, ban tên cho con trai cả của Tĩnh vương, nhũ danh là Tuế Quan.

(*Chú thích ở cuối chương)
Tin tức truyền đến tai chủ quản Hình bộ là Tiết gia.

Tiết Quảng Hiếu nghe tin đêm qua em gái mình đã sinh hạ trưởng tử cho vương gia, tảng đá lớn trong lòng rốt cuộc cũng rơi xuống, niềm vui lan tràn lên tận chân mày.

Vừa kể với Tào thị ở hậu viện, Tào thị luôn miệng niệm Phật, kể khổ không ngừng: "Lão gia, lỗi lầm của thiếp giảm được một nửa rồi."
Tiết Quảng Hiếu trợn mắt thổi râu: "Đi chuẩn bị ít quà cáp cho tử tế vào, chọn ngày đẹp rồi tới Tĩnh vương phủ thăm phu nhân."
Sau sinh sức khỏe Tiết phu nhân suy yếu, lão vương phi tạm thời đưa Tuế Quan về cạnh mình chăm.

Vương phi Quý thị bận mấy ngày liền đâm ra bị ho, hôm đó sang thỉnh an lão vương phi, thấy nhũ mẫu dỗ Tuế Quan ngủ, trộm vía đứa nhỏ đã bụ bẫm hơn, trên người thoang thoảng mùi sữa, mở to hai con mắt đen láy ngơ ngác nhìn người khác, cực kỳ đáng yêu.

Vương phi xuất thân từ nhà Quý thái phó, mọi thứ cả về tính cách lẫn gia thế đều vượt trội.

Chỉ tiếc vào vương phủ nhiều năm mà chưa có mụn con nào, giờ nhìn Tuế Quan thì lòng dạ xót xa khôn cùng.

Lão vương phi dẫu chẳng nỡ nhưng vẫn phải giao đứa nhỏ cho nhũ mẫu bồng đi bón sữa, miễn cưỡng xoay người nói: "Mấy ngày nay phủ ta bận quá, làm con lao lực sinh bệnh rồi."
"Đây đều là bổn phận của con dâu ạ." Tính Quý thị hiếu thắng, sau khi lấy Tĩnh vương, các việc trong ngoài phủ đều xử lý hết sức ổn thỏa.

Tuy nhiên gần đây đã bắt đầu thấy uể oải.

Sống chung nhiều năm, chung quy lão vương phi vẫn thương con dâu, mẹ chồng nàng dâu hai người tán gẫu một hồi, lão vương phi vỗ tay Quý thị an ủi: "Trước giờ con là đứa trẻ ngoan thông suốt lý lẽ, mấy năm nay ta cũng biết nỗi khổ tâm của con.


Nhưng con cũng phải nhớ rằng--- con là do hoàng thượng ban, Chấp Gia lấy con làm Tĩnh vương phi, đứa nhỏ con sinh ra về sau chính là đích tử của vương phủ.

Thế tử Tĩnh vương, không một ai giành được."
Hốc mắt Quý thị ươn ướt, gật đầu vâng dạ.

lão vương phi nói tiếp: "Con còn trẻ, bình thường nên nghỉ ngơi điều độ chứ đừng cậy mạnh, muốn an dưỡng thì phải nghe theo lời thầy thuốc căn dặn.

Nếu vương gia làm con giận chuyện gì, ta sẽ dạy dỗ nó cho con."
Hễ có thời gian là Tĩnh vương nhất định sẽ lại qua Lệ Gia các thăm Tiết phu nhân.

Phu nhân tĩnh dưỡng trên giường thường hay lén khóc, có lúc nhìn Tuế Quan nắm bàn tay nhỏ bé nằm trong lòng nhũ mẫu uống sữa, hiếm hoi lắm mới thấy nụ cười xuất hiện trên môi bà.

Tĩnh vương trông bà như thế, nghiễm nhiên là có phần hụt hẫng: "Anh cả của nàng chuyển thiếp xuân, bảo muốn tới phủ thăm nàng, ta từ chối rồi."
Tiết phu nhân sụt sùi: "Vương gia cần gì phải làm thế, đây đâu phải lỗi của anh trai chị dâu, chỉ trách thiếp thôi."
Tĩnh vương tiếp lời: "Nàng nhìn xem, hôm nay Tuế Quan lớn hơn một chút rồi, trông càng ngày càng giống nàng."
Tiết phu nhân vô cùng đau khổ: "Đáng tiếc là thằng bé lại có người mẹ xấu xí như thiếp, đến lúc nó trưởng thành thể nào cũng căm hận thiếp.

Vương gia, chẳng bằng để thiếp chết quách cho xong!"
Tĩnh vương bất lực, thở dài một hơi: "Con cũng có rồi, nàng nói mê sảng gì thế, đứa nào không là máu mủ nàng sinh ra, nàng đâu thể bên trọng bên khinh vậy được."
Tiết phu nhân chưa thôi khóc, nước mắt tuôn đầm dung nhan kiều diễm: "Tuế Quan là con thiếp, Nữu Nữu cũng là con thiếp, Tuế Quan luôn nằm cạnh thiếp, nhưng Nữu Nữu bây giờ biết đang ở đâu chứ.

Vương gia...!có tin tức của Nữu Nữu không?"
Tĩnh vương ôm Tiết phu nhân vào lòng, lau đi dòng lệ trong suốt lăn dài trên hai gò má phấn, dịu dàng vỗ về: "Đừng khóc đừng khóc, ta sẽ tìm cho nàng, dù có lên trời xuống biển, đào ba tấc đất, ta cũng sẽ tìm ra con gái của nàng."
Tĩnh vương dỗ dành một hồi, giật nhẹ tấm áo choàng nhăn nhíu, đi tìm lão vương phi.

Thấy Quý thị đang ngồi trong phòng mẹ mình chép Kinh Thư, Tĩnh vương nghĩ, cũng được, đỡ phải chạy ngược xuôi hai nơi nói hai lần.

Thế rồi, ông lập tức bày tỏ suy nghĩ của bản thân với mẫu thân và thê tử.

Tiết phu nhân bước vào vương phủ không danh không phận, đội cái danh thê thiếp ở Lệ Gia các ba năm, hiện tại lại sinh hạ Tuế Quan, Tĩnh vương thấy có phần áy náy, định cất nhắc bà lên làm trắc phi.

Quý thị cắn môi chẳng nói chẳng rằng, lão vương phi tức đến độ mặt xanh mét, thốt ra hai chữ: "Không ổn."
Tĩnh vương biết chuyện nan giải, hỏi: "Mẫu thân thấy chuyện này có gì không ổn? Anh cả nhà mẹ đẻ của Miểu Miểu là Tiết gia, chủ quản Hình bộ, gia thế vô cùng trong sạch.

Còn nữa, tính tình Miểu Miểu mẫu thân cũng biết mà, dịu dàng hiền thục, không tranh giành thế sự, già trẻ trong phủ có ai không ca ngợi.

Mà nay đã có đứa nhỏ, chung quy rằng là có ai biết trước mặt người ta thế này, nhưng sau lưng lại thế nọ thế kia, sao có thể để mẹ ruột trưởng tử của Tĩnh vương lại là thị thiếp của vương phủ!"
Lão vương phi đã liệu trước được lý do luồn lách ấy của con trai mình: "Câu nào vương gia nói cũng hợp lý, đổi lại người khác, chẳng cần vương gia lên tiếng, ta ắt sẽ dặn dò như vậy.

Nhưng thân phận của Tiết phu nhân ra sao...!lâu nay mọi người giả đui giả điếc cùng vương gia, nên vương gia tưởng rằng chúng ta đã mù điếc hết thật rồi ư?"
Tĩnh vương cau mày, tuy nhiên nếu không để ý thì sẽ không thể nhận ra.

Thân phận của Tiết phu nhân, quả thực là khó xử.

Năm đó Tĩnh vương phụng chỉ khám xét Vi gia.

Đang ngồi trong đại sảnh kiểm kê tài sản của Vi gia, bất thình lình nghe thấy tiếng người ồn ào ở hậu viện, nói là có nữ quyến không chịu vào dịch đình làm nô, bèn nhảy xuống hồ nước tự vẫn.


Nhất thời ông nổi hứng đánh mắt qua nhìn, người đã được cứu lên bờ, vẫn chưa chết ngạt.

Tấm vải trắng che đi khuôn mặt người phụ nữ, nửa mình dưới là chiếc váy lụa Khinh La màu san hô đính hạt châu.

Váy lụa thấm nước ướt sũng sĩnh dán vào da thịt, cặp đùi ngọc thon dài thẳng tắp, hài và tất đã rớt chỗ nào, phô bày đôi bàn chân không bó mềm mại, khung xương như ngọc, nõn nà trong suốt, vừa đủ nắm tay, ngón chân tròn tròn tựa viên ngọc vỏ sò ánh hồng.

Sau khi âm thầm nghe ngóng, mới biết bà là em gái ruột của một quan viên họ Tiết trong kinh, mấy năm trước đã thành góa phụ, sống nương nhờ vào anh trai ở nhà mẹ đẻ.

Sau đó, không hiểu vì sao lại lọt vào mắt xanh của Vi Thiếu Tông, bị ép vào phủ làm thiếp, vụng trộm ở hậu viện hai năm, nghe nói rất được yêu chiều.

Kể cũng lạ, Vi Thiếu Tông phong lưu trụy lạc, trăng hoa thành thói, vậy mà lại ham mê hương sắc của một góa phụ đã qua thời son rỗi.

Tâm tư Tĩnh vương xao động, thủ đoạn cũng có phần xấu xa, đến sau khi nếm thử mùi vị đêm xuân trên ban công Tương Vương, mới hiểu được chỗ hay của người đàn bà này.

Quả là quốc sắc thiên hương, quyến rũ thiên thành*.

(*Thiên thành ở đây nghĩa là cái tự nhiên sẵn có, mình để thiên thành cho nó thành cặp với "thiên hương")
Vốn chỉ là tham lam chút sắc đẹp, ban đầu Tĩnh vương nghĩ sẽ nuôi ở ngoài một thời gian, ấy là để đỡ thèm thôi.

Nào ngờ từ đó lại không bỏ được, quen ăn bén mùi, cuối cùng là đưa hẳn vào vương phủ, cho tới thư phòng hầu mài mực.

Lúc Tiết phu nhân vào Tĩnh vương phủ, vương phi Quý thị và Tĩnh vương đã ầm ĩ một trận.

Tĩnh vương coi trọng một góa phụ, việc đó đã khiến Tĩnh vương phi phải cắn răng hứng chịu không biết bao nhiêu là châm chọc khiêu khích trước mặt các phu nhân thế gia, dâng lòng quyết tâm bằng mọi cách phải đuổi người phụ nữ này ra ngoài.

Quý thị sinh ra từ gia đình dòng dõi, khinh thường những mánh khóe nham hiểm, chỉ chờ moi ra được lỗi của Tiết thị là đuổi bà ra khỏi phủ ngay.

Có điều, ngoại trừ sự khuyết thiếu về đức hạnh của một người đàn bà, ở những mặt khác Tiết phu nhân không hề mắc sai lầm, như hồ lô bị cưa mất miệng, tảng đá không nở hoa, không kiêu ngạo gắt gỏng, tầm thường giản dị, tiến lùi có lễ.

Cộng thêm việc được Tĩnh vương cưng chiều, đã trải ra con đường cho Tiết phu nhân bước đến hiện tại.

*Lễ ra đời: Nghi lễ sinh đẻ truyền thống của Trung Quốc, thường được cử hành 3 ngày sau khi đứa trẻ sinh, hình thức tổ chức có sự khác biệt giữa các vùng miền và dân tộc.

Nhà có con mới sinh tặng quà bánh mừng cho bạn bè thân thích được mời, bạn bè thân thích cũng sẽ tặng cho mẹ và em bé những sản phẩm dinh dưỡng.

*Lễ tắm rửa: Trẻ sinh đủ ba mươi ngày sẽ tiến hành làm mâm cúng đầy tháng, tục xưng "sang tháng".

Lúc này phải làm ba việc, trong đó có tắm rửa, gọi theo cách cũ là đỡ đẻ, trẻ con phải chờ sang tháng mới cho tắm.

Khi tắm, trước tiên cử hành nghi thức, chuẩn bị lễ vật tạ ơn thần linh và báo với tổ tiên, sau đó dùng "cỏ giờ Ngọ" (thủy xương bồ, bụi gai để khô còn sót lại trong tết Đoan Ngọ) đốt lên cho em bé tắm.

Thả tiền đồng đỏ vào bồn tắm, mời cụ bà (vì người ta cho rằng cụ bà thì mệnh tốt) tắm cho em bé.

Ngoài ra còn hai việc nữa là cạo đầu trái đào và chia trứng gà đỏ cho trẻ con nhà hàng xóm.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: 16: Hôn Sự Thành





Nếu luận về nhậu nhẹt, đàn ông của đội lạc đà có thể nói đều là những "nhân tài kiệt xuất".

Cuộc sống sinh hoạt trên con đường cưỡi ngựa muôn vàn gian khổ, hoang mạc khô cằn và đỉnh núi dốc đứng, muối kiềm cùng cánh đồng tuyết trắng, bôn ba từ ngày hè nóng bức cho tới trời rét căm căm, nấu một hũ rượu trắng là quan trọng hơn bất kỳ điều gì khác.
Hoài Viễn năm nay mười tám, làm gì đã bì được với các bác các chú của mình, tửu lượng có hạn, một ly đã gục.

Tết nhất đi gặp mặt thăm hỏi người trong đội lạc đà, sao thiếu được rượu chè một phen, uống đến độ mặt mày đỏ phừng, suốt mười ngày nửa tháng ấy, nhìn người hay nhìn vật cũng hóa những chiếc bóng chồng chéo lên nhau.

Mồng sáu tháng giêng mọi sự đâu vào đấy, nương tử Chu gia lên đồ mới tinh, chải đầu dặm phấn, mời bà mai về nhà, hai người chuẩn bị sẵn sàng, giờ lành điểm mới đi ra cửa.

Tim Hoài Viễn đập như đánh trống, tay chân luống cuống lẽo đẽo sau lưng mẹ mình, gương mặt ửng đỏ: "Mẹ, mẹ gặp Thục Nhi rồi..."
"Biết rồi biết rồi...!anh cứ ngồi ở nhà chờ tin tức của mẹ." Chu nương tử cất thiếp canh của Hoài Viễn vào, mang theo mấy món sính lễ, dặn dò đám nhỏ trong nhà, "Các con cũng ở nhà, không được đi theo quậy."
Hoài Viễn và Thục Nhi là thanh mai trúc mã, sớm đã tâm đầu ý hợp.

Mắt thấy hai đứa nhỏ đã đến tuổi, Chu nương tử tính tỏ niềm băn khoăn, để Hoài Viễn cưới Thục Nhi về làm dâu nhà mình.

Phương gia cách Chu gia không xa, là chỗ quen thân từ lâu, tình cảm của hai đứa nhỏ cũng đã rõ như ban ngày.

Phương nương tử thấy Chu nương tử dẫn bà mai vào, lòng dạ sáng tỏ, nhoẻn cười nói với Thục Nhi: "Thục Nhi, gọi cha con ra ngoài đi, có khách quý đến nhà này."
Thục Nhi xinh xắn hoạt bát, nghe mẹ kêu thế thì nhảy phắt xuống giường lò, gắt giọng hờn mắt: "Mẹ!" Vừa dứt lời đã uốn éo người trốn vào trong phòng.

"Nha đầu kia!" Phương nương tử cười nói, "Không biết lớn nhỏ lễ nghĩa gì hết, để các thím chê cười rồi."
"Trẻ con hay xấu hổ ấy mà, sợ là trông thấy bà già này nên khiếp vía đấy." Bà mai mỉm cười.

Phương nương tử nấu nước pha trà, người hai nhà an vị trên giường lò.

Thời trẻ Phương Định Khôn cũng đi theo đội lạc đà, là bạn chí cốt của Chu Hổ Tử cha của Hoài Viễn, sau đó theo chân con buôn muối đến Hoàng Thủy buôn bán, khi dần dần xây dựng được gia nghiệp thì dứt khoát rút tay, mở hai cửa hàng trong thành Cam Châu, làm vài công việc khác.

Hai bên đều hiểu biết lẫn nhau, đã ngầm thừa nhận chuyện cưới hỏi, bà mai cũng đỡ phải thi triển công phu võ mồm.

Dẫu vậy, tâm tư người làm cha làm mẹ, con gái ở nhà chẳng sợ nó nói năng hoang đường, hành sự bốc đồng, nhưng bước vào nhà chồng, ông bà Phương gia sợ con gái giải quyết nội trợ, sợ con gái bị nhà chồng bắt nạt, thế nên lo lắng âu cũng là thường tình, ngữ khí bất giác cao thêm mấy phần.

"Tôi cũng là người đã chứng kiến Hoài Viễn trưởng thành, trong dàn tiểu bối, mọi người thương nhất là thằng bé.


Hổ Tử ra đi đột ngột quá, nếu ông ấy trên trời có linh thiêng, có thể nhìn thấy con mình thành gia lập nghiệp, hẳn là sẽ sung sướng lắm." Phương Định Khôn nói chậm rãi, "Nhưng nhà tôi chỉ có mỗi một đứa là Thục Nhi, từ bé đã được cưng chiều, con gái tri kỷ ngoan ngoãn, chu đáo biết quan tâm.

Bà cố nội sống thọ mà quý đứa cháu gái này nhất, vốn muốn giữ trong nhà nuôi vài năm nữa, cho các cụ thêm niềm vui..."
"Đại gia nói phải, bọn nhỏ lớn hết cả rồi, làm cha mẹ tất nhiên là vừa mừng vừa lo..."
Thục Nhi nghe tiếng nói chuyện loáng thoáng bên ngoài, thẹn tới nỗi hai lỗ tai hồng rực, vùi đầu vào trong chăn thất thần.

Bỗng nghe thấy có tiếng gõ khe khẽ vào cửa sổ, đẩy cửa thì thấy hóa ra là hai đứa em trai Đại Bảo và Tiểu Bảo của Hoài Viễn đang núp dưới cửa sổ, nhe hàm răng thiếu mất cái răng cửa cười toe toét: "Chị dâu!"
Thục Nhi ngượng chín mặt, vỗ vào đầu mỗi đứa một phát: "Hai đứa mày...!nói linh tinh gì đó!"
"Thì chị dâu đấy chứ còn gì hả chị, mẹ em đã mời bà mai đến cầu hôn rồi thây." Đại Bảo cười, "Anh em sốt ruột đầu toát cả mồ hôi, đang ngồi ở đầu hẻm chờ mẹ em về kìa."
"Anh ấy kêu hai đứa tới à?" Mắt Thục Nhi bừng sáng lấp lánh, cắn môi hỏi: "Anh ấy có nói gì không?"
"Anh em bảo, đến hỏi chị Thục Nhi xem, chị ý ngủ có ngon không, buổi sáng ăn mấy bát cơm, muốn ăn món vặt gì, anh em mua cho."
Thục Nhi cười khúc khích: "Được rồi được rồi, chị thế nào cũng được.

Nói lại với anh em là mua loại phật thủ sấy khô bọc đường ấy nhé."
"Đã rõ!"
Việc cưới xin hai nhà đã ấn định, ngày hôm sau Chu nương tử đưa mấy hòm xiểng qua làm sính lễ, Phương gia cũng trao văn định.

Nhưng Phương gia không nỡ xa con gái, muốn giữ Thục Nhi ở nhà thêm vài ngày, do đó lại dời ngày rước dâu xuống cuối năm.

Phương Định Khôn thấy chuyện trọng đại của con gái đã xong xuôi, tâm trạng phấn chấn, bèn mời các anh em trong đội lạc đà tới uống chén rượu, Hoài Viễn bị mọi người đẩy đến ra mắt cha mẹ vợ luôn.

Có điều Thục Nhi nhất quyết không chịu ra ngoài gặp khách, Hoài Viễn cũng sống chết không chịu gặp Thục Nhi, ngày xưa hai người ở chung cười đùa vui vẻ, giờ thì cứ trốn cho bằng được, vừa ngại ngùng vừa dễ thương.

Tốp đàn ông tập trung hết trong phòng bếp làm này kia.

Phương nương tử ra sân nhóm than, mua thịt nửa con nai, đặt một bàn đồ nhắm và một vò rượu trắng ở quán rượu, để đàn ông ngồi vây chung quanh lửa nướng thịt nai, tự tạo thú tiêu khiển.

Nhóm phụ nữ ngại tiếng uống rượu ồn ào bên ngoài của cánh đàn ông, nên đóng cửa ngồi trên giường lò tám chuyện.

Bấy giờ Thục Nhi mới thẹn thò bước ra, thấy người nào người nấy đều cười tít mắt chúc mừng mình, khuôn mặt thanh tú sắp vùi vào cổ áo đến nơi.

Hôm bữa Lý nương tử không đi đâu được, mà hôm nay cũng đã theo Lý Vị tới ngồi chơi uống nước, nói chuyện cùng các chị em bạn dâu, hưởng bầu không khí mừng vui náo nức.

Vì cô ấy ít khi ra ngoài, nên mọi người gặp là lại xúm vào hỏi han ân cần, hỏi bệnh hỏi thuốc, hỏi đủ mọi thứ.


Phương đại nương cũng nhờ Hách Liên Quảng mời Lục Minh Nguyệt đến nhà ăn cỗ, Lục Minh Nguyệt là thợ thêu, Phương đại nương có mời chị dạy Thục Nhi làm áo cưới.

Miền Bắc không đòi hỏi về phương diện nữ công như phương Nam, bình thường may khâu chắp vá được là đủ rồi.

Tuy nhiên, áo cưới thì vẫn cần bàn tay tân nương đưa từng đường kim mũi chỉ, hơn nữa còn cả các đồ như giày, tất, khăn hỉ, làm từ từ tỉ mỉ cũng ngốn tận một năm rưỡi.

Ngày về nhà chồng, nếu tấm áo cưới đỏ chói thêm ánh vàng rực của tân nương nhận được những lời tán thưởng đầy ao ước của nhóm phụ nữ, thì đó cũng là một chuyện đáng để tự hào.

"May áo cưới cho khéo, cất trong rương giữ gìn cẩn thận, đợi đến lúc con gái mình lớn rồi giao lại cho nó mặc đi lấy chồng." Lục Minh Nguyệt cười nói, "Có thể coi là bảo bối luôn đấy."
"Năm ấy tôi thành thân, nhà mẹ đẻ lẫn nhà chồng đều nghèo, đầu đội mỗi khăn hỉ, cha đứa nhỏ kéo con la tới là rước tôi đi luôn rồi." Phụ nhân kể, "Giờ ngẫm lại, coi bộ đáng tiếc thật."
Người khác cười bảo: "Nhà tôi bên huyện San Đan, phong tục bên đấy là cho chị em nhà mẹ làm áo cưới."
Ngoài phòng, Lý Vị lấy chủy thủ cắt mấy đĩa thịt chân nai, nhướng mày cười đưa cho Hoài Viễn, tay chỉ chỉ phòng trong: "Bưng vào cho các nương tử đi."
Hoài Viễn gãi đầu, xoắn xuýt bảo: "Cháu...!cháu không dám đi."
Đáp Na Đề ngồi bên kia đẩy cậu chàng: "Đi nhanh lên xem nào, nam tử hán đại trượng phu, không sợ trời không sợ đất, sợ gì đàn bà."
Phụ nhân trong phòng thấy Hoài Viễn bưng thịt nai đến, cũng kêu Thục Nhi ra mở cửa.

Vừa chạm mặt, cả hai đều có phần ngượng nghịu, Thục Nhi nhận lấy đĩa thức ăn, len lén nhếch miệng cười.

Thịt nai trước đó đã được ướp bằng hoa tiêu, muối, thì là, rồi quay trên than lửa.

Lớp ngoài giòn giòn, cắn một miếng là cảm nhận được ngay được vị tươi non và nhiều nước, hương thơm hớp hồn, thịt nai không có mùi tanh như loài gia súc khác, tươi hơn thịt hoẵng trong núi hay thịt lừa.

Miệng người nào người nấy bóng nhoáng, Lý nương tử thích, cũng cầm lòng không đậu mà ăn mấy miếng.

Cho đến khi tan cỗ về nhà, Lý nương tử mời Lý Vị vào phòng ngồi một chốc, thương lượng về một chuyện.

Trường Lưu sắp sửa mười hai tuổi, lớn thì không lớn, nhưng nhỏ thì cũng chẳng phải, tóm lại là đã tới lúc nên tìm xem có cô con gái nhà nào hợp ý không, xác định chuyện cưới hỏi.

Hiếm khi nào Lý Vị phản đối chủ ý của Lý nương tử, nhưng nghe xong việc ấy, hắn cau mày: "Tuổi Trường Lưu còn nhỏ, giờ vẫn chưa cần nói làm là làm ngay.

Đợi nó lớn rồi thì để nó tự quyết thôi."

Lý nương tử kiệt quệ, ngả người dựa vào giường, nói: "Hôm trước Triệu đại nương ở quê lên, nói đã sắp xếp chuyện cưới hỏi cho Tiên Tiên.

Nhà trai của cải nhiều, lại là con trai độc nhất trong nhà, vừa nhìn đã ưng tính cách lanh lợi cứng cáp của Tiên Tiên, giữ ở đây bốn năm rồi tiễn qua bên đó làm dâu.

Người làm mẹ khắp thiên hạ này có ai không lao tâm khổ trí vì con mình, ta cũng có khổ tâm như thế.

Hơn nữa phong tục đương thời, trỏ bụng là cưới*, gia đình đặt lễ đính hôn từ bé đâu ít gì, lúc nhỏ vì Trường Lưu ốm yếu nhiều bệnh nên mới trì hoãn việc đó.

Thêm thân bệnh là ta, nếu có một ngày nhắm mắt xuôi tay, chàng ra ngoài, Trường Lưu có thông gia để gửi gắm, duyên phận đã định, ta đi cũng thấy yên tâm."
(*Trỏ bụng là cưới: Tục cưới gả thời xưa.

Hai gia đình có bà có thai, chỉ bụng hứa gả con trai hay gái cho nhau, theo thivien)
"Chuyện này..." Lý Vị lắc đầu cười khổ, không biết trả lời thế nào, "Ta biết nàng lo lắng cho Trường Lưu, nhưng...!cần gì phải gấp gáp, hôn nhân đại sự, hẵng nghe tâm nguyện của con nữa.

Nàng chắc chắn sẽ sống lâu thật lâu, nhìn thằng bé trưởng thành, cưới vợ sinh con."
Lý nương tử mệt mỏi không nói năng gì, Lý Vị đưa cho cô ấy một ly trà ấm, nói sang chuyện khác: "Bên đội lạc đà ta đã nói với Tôn Ông lão.

Năm sau ta sẽ không đi với đội ngựa thồ, từ nay về sau yên tâm ở nhà chăm sóc nàng và Trường Lưu, tìm mấy nghề khác làm, được không?"
"Ta làm gì mà sống lâu được đến thế." Nước mắt Lý nương tử rơi lã chã, "Qua một ngày tính một ngày, qua được hai ngày thì ta nên vui mừng, đại gia, chàng thông cảm cho lòng người làm mẹ đi."
Lý Vị hơi đau đầu, hồi lâu sau hắn mới nói: "Nếu nàng nghĩ vậy thì từ từ hỏi thăm xem sao, xem có phù hợp không.

Chỉ là hôn nhân đại sự, tất thảy tùy duyên, không thể cưỡng cầu."
"Đó là lẽ đương nhiên, phải chọn một nhà xứng đôi kết duyên cũng không dễ dàng." Lý nương tử ra vẻ tư lự, "Đầu tiên là dáng dấp tính tình phải tốt một chút, một cô gái được mọi người quý mến, biết lo cho đại cục, không yếu ớt, có thể học tập cùng Trường Lưu.

Những điều khác chỉ là thứ yếu."
Lý nương tử muốn nói lại thôi, thả chậm giọng: "Ta chợt nhớ ra, chẳng phải bên cạnh mình có một cô gái y như thế à? Mọi mặt đều tốt, thoạt trông như là con cái nhà phú quý, có điều lớn hơn Trường Lưu mấy tuổi thôi."
Nhất thời Lý Vị không hiểu nổi, Lý nương tử đưa mắt thoáng nhìn qua chái Tây, Lý Vị như đã sáng tỏ ý của cô ấy, bỗng dưng bật cười, cảm thấy thật là hoang đường.

"Cô nương này, sợ là không phải xuất thân từ gia đình bình thường." Lý Vị lắc đầu nói.

Lý nương tử cân nhắc: "Tính tình cô nương ấy nhu hòa, dung mạo xuất sắc, lại là đứa nhỏ số khổ, không nơi nương tựa.

Thử hỏi xem ý của cô nương ấy thế nào, hẳn là cũng bằng lòng thôi."
"Thế thì chưa chắc." Lý Vị lắc đầu, "Nếu nàng thích cô ấy, có lẽ nên từ bỏ đi.

Bây giờ ngồi bàn tới chuyện cưới hỏi của Trường Lưu thực sự là còn sớm quá, để nó lớn hơn một chút rồi ta lo liệu vẫn chưa muộn."
Lý nương tử mím môi nhìn trượng phu của mình, ánh mắt của hắn nhìn Xuân Thiên, không rõ ý vị.

Trái tim cô ấy run lên mãnh liệt.


Tiên Tiên và Xuân Thiên đang ở ngoài sân múc nước giếng rửa chén trà, chính là bộ trà dùng hằng ngày trong nhĩ phòng, chiếc chén sứ Thanh Hoa nằm trong tay nàng trông hết sức xù xì.

Lý Vị đứng dưới cửa sổ, nhìn ngón tay mảnh khảnh trắng nõn cầm chén trà, rửa sạch vết ố bám trong thành chén bằng dòng nước giếng buốt giá.

Qua màn đêm mù mịt, chỉ cảm giác đó như đóa hoa lan, lặng lẽ nở rộ trong đêm sâu hun hút.

"Đại gia." Nàng hơi ngửa đầu nói với hắn, "Ngài muốn uống trà sao? Xong ngay đây."
Hắn lắc đầu, suy đi nghĩ lại mấy hồi, cuối cùng đáp: "Có tin tức của chú cô ở Bắc Đình."
Nàng nhẹ nhàng "a" lên một tiếng.

Cách Qua Châu mười dặm về phía Tây Bắc có quân Mặc Ly đóng giữ, quân doanh bố trí tại đất cũ của dân tộc Thổ Dục Hồn, triều đình sắp xếp năm nghìn binh mã tại đây.

Trong quân đội hơn nửa là dân tộc Thổ Dục Hồn sát nhập Trung Nguyên, những quân binh khác là được chiêu mộ từ các quận huyện Lũng Tây.

Thuở thiếu thời Lý Vị cũng ôm chí lớn đền ơn triều đình, lăn lộn trong quân Mặc Ly suốt năm năm ròng.

Vài năm sau, quân binh trong quân thay đổi nhiều lần, nhưng vẫn có mấy người bạn cũ ở lại quân, trong đó có văn sĩ tên Hoàng Nhữ Vân, hiện đã được điều vào phủ nha Đình Châu công tác trên cương vị chưởng quản giấy tờ công văn.

Lý Vị nhờ anh ta điều tra thân thích họ hàng của Xuân Thiên, rồi lại nhờ bạn bè ở Luân Đài thăm hỏi ở huyện có người nào là Trần Trung Tín hay không.

Theo tin tức, sau khi Trần Trung Tín trở thành Bồi Nhung phó úy của quân phòng thủ Y Ngô, đã được chuyển tới huyện Luân Đài làm quan thuế phủ nha, sau đó nữa thì chuyển đến Tây Châu làm trướng sử*.

Thế nhưng mấy năm trước đã từ quan về Tây, trước mắt không biết tung tích.

(*Trướng sử: quan lại quản lý về hộ tịch tài vụ)
Xuân Thiên biết chú Trần của nàng mấy năm nay tòng quân nơi biên tái, sau đã đón vợ con tới Tây Bắc, từ đây cắt đứt liên lạc với dòng họ.

Hơn nữa chức quan nhỏ bé, nàng tìm trong bản danh sách mà cậu chép như mò kim đáy bể, cực kỳ khó khăn.

"Việc này không phải nóng vội, từ từ tìm, ắt sẽ có tin." Lý Vị trấn an, "Muốn tìm quan lại trong quân thì không tính là khó, nhưng Bắc Đình người Hán người Hồ sống lẫn lộn, đất rộng dân thưa, cần ít thời gian."
Xuân Thiên lắc đầu như đã hạ quyết tâm: "Nếu tìm được thì càng tốt, tìm không được thì thôi vậy.

Cứ tìm từng châu một, chắc chắn sẽ có tin tức."
Lý Vị nhìn nàng, nhiều lần đắn đo: "Nhất định phải tìm người ư? Cô lẻ loi một mình, ở đất Bắc thực sự nguy hiểm, phải suy nghĩ cho kỹ..."
Xuân Thiên kiên định gật đầu: "Tôi nhất định phải tìm được chú Trần."
(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: 17: Yến Trong Lồng





Trần Trung Tín là bạn đồng môn của cha Xuân Thiên, tình nghĩa của hai người không thể đem so với những người bình thường.

Nhưng thời trẻ chú Trần đã tòng quân đến biên tái, số lần gặp mặt rất ít ỏi, Xuân Thiên hoàn toàn không nhớ rõ mặt mũi ông, chỉ nhớ mang máng có đôi bàn tay dịu dàng xoa đầu nàng, bật cười sang sảng: "Ta đưa cha của con đi rồi, Nữu Nữu không được khóc nhè đâu đấy nhé."
Cha nàng tên Xuân Việt, tự là Trọng Phủ, vốn là người phụ trách văn thư ở Trường An, rất có phong phạm thiếu niên hiệp khách.

Đến độ hai mươi cưới thứ nữ Tiết gia sống bên cạnh về nhà, hai người là thanh mai trúc mã, tình cảm sâu đậm, sau khi thành thân một năm thì Xuân Thiên cất tiếng khóc chào đời.

Xuân gia là người xứ khác, ông nội Xuân Thiên hồi trẻ đưa gia đình chuyển đến Tân Phong Trường An, sản nghiệp nhỏ bé, chẳng bì được với những nhà giàu sang quyền quý.

Bổng lộc của cha không nhiều, đối nhân xử thế rộng rãi hào phóng, nỗi khổ về cái nghèo và cuộc sống giật gấu vá vai luôn canh cánh trong thâm tâm ông.

Xuân thiên nhớ trong nhà chỉ có một tỳ nữ nhỏ là Lan Hương, mọi công việc nhà đều do mẹ quán xuyến.

Nhưng cha mẹ nàng luôn tôn trọng lẫn nhau, sắt cầm hòa hợp, nâng niu Xuân Thiên như vàng bạc châu báu, che chở bằng mọi cách.

Khi đó gia đình nàng còn ở nhà thuê, phòng ở chật chội, ngoài bậc thềm dựng một giàn nho, ở hành lang trồng cây bóng nước.

Xuân Thiên cùng cha ngồi dưới giàn nho học bài, chi hồ giả dã*, gật gù đắc chí, mẹ ngồi ở hành lang thêu hoa, móng tay vừa tô sắc hồng đưa qua đưa lại như con thoi trên tấm lụa Vân Cẩm.

Ba người ngẩng đầu nhìn nhắn, mỉm cười rạng rỡ, chẳng còn cảm giác của một cuộc sống vất vả, củi gạo dầu muối và hoa xuân trăng thu, cũng là một loại lý thú.

(*Chi, hồ, giả, dã: Theo từ điển Hán Nôm đây là bốn tiếng hư tự dùng trong cổ văn Trung Hoa, người học chữ Hán là phải học cách dùng những tiếng này)
Mẹ nàng còn một người anh ruột, dưới gối có hai gái một trai, hai nhà vốn ở gần nhau, mấy chị em họ thường hay chơi đùa với Xuân Thiên.

Cậu mới vào Hình bộ, tuy chức quan thấp, nhưng luôn có cách luồn cúi, thuận lợi bước đi trên con đường làm quan.

Nhiều lần cậu muốn dẫn dắt cha nàng, nhưng đều bị cha khéo léo từ chối.

Sau đó cậu mua phủ đệ trong thành Trường An.

Có tết Trung Nguyên năm kia cha đưa cả nhà sang nhà cậu ăn cỗ, ăn được nửa bữa thì cậu và cha cãi nhau một trận to.

Cậu giận dữ vỗ bàn, quở mắng cha rằng "không biết điều, tự cho mình là thanh cao", vân vân.

Ngược lại thái độ của cha rất lạnh lùng, phất tay áo bỏ đi.

Từ đó trở về sau hai nhà không còn lui tới nữa.

Xuân Thiên hỏi mẹ: "Sao cha lại cãi nhau với cậu vậy ạ? Từ lần đó...!các chị nghỉ chơi với con luôn.


Hôm qua con gặp chị Oánh Ngọc, chị ấy ngồi tít trên xe ngựa cao, con gọi mà chị chả thèm đáp."
Mẹ nhíu mi, nói giọng nhỏ nhẹ: "Cha con quang minh lỗi lạc, chí hướng cao cả, có một số việc cậu hiểu lầm cha con.

Các chị không phải là làm lơ Nữu Nữu đâu, chắc là không nghe thấy đó thôi."
Xuân Thiên cũng chẳng bận tâm việc các chị họ không chơi với mình, so với hoạt động đùa hoa bắt bướm cùng các chị, thì nàng càng thích chơi với cha hơn, cha sẽ dẫn nàng đi cưỡi ngựa ngắm hoa, tới quán trà nghe kịch.

Nhưng từ đó mẹ nàng thường hay suy nghĩ ưu sầu, vì anh ruột và trượng phu có khoảng cách, mà anh bà lại còn chê nghèo yêu giàu.

Chú Trần quay về Trường An một lần cuối cùng, ngồi cùng cha dưới giàn nho nâng cốc vui vẻ, hai người say mèm, gõ vò rượu cất vang giọng hát, rồi lại bá vai nhau cười ầm ầm.

Nửa đêm Xuân Thiên đi tiểu, dụi hai con mắt nhập nhèm, phát hiện cha mẹ mình đang thủ thỉ với nhau bên ngọn nến lập lòe, đôi mắt mẹ đỏ au, khóc thút thít, cha ôm lấy bờ vai gầy gò của bà, nhẹ nhàng an ủi.

Bắt đầu từ đêm ấy, cha xếp bút nghiên lên đường chiến đấu, đi theo chú Trần gia nhập quân đội.

Một lần nữa, cha đưa mẹ và nàng đến gõ cửa nhà cậu, lúc này cậu đã có hoạn lộ hanh thông, đâu thể so với bần cùng năm xưa.

Xuân gia không có tôn trưởng, cũng không có họ hàng cùng thế hệ, cha lo mẹ nàng yếu đuối không lèo lái nhà cửa được, nên đã gửi gắm vợ con cho nhà cậu chăm sóc.

Mặc dù cậu có đôi chút hờn giận với cha, nhưng dù sao cũng là em gái ruột của mình, cuối cùng gật đầu đồng ý.

Sau khi cha đi, Xuân Thiên và mẹ chuyển tới Tiết gia, vào căn phòng ở cửa hông, nương tựa nhau sống qua ngày.

Tuy nhiên ngày tháng ở nhà cậu chẳng khấm khá hơn được là bao.

Trong phủ cậu bận chính vụ, mợ cầm quyền việc bếp núc, mợ hà khắc với người khác, dẫu ngoài miệng không nói, nhưng ở chung lâu rồi dần dà thấy hai mẹ con nàng ở trong nhà này là một gánh nặng.

Ví dụ như mẹ con hai người có chỗ nào phải tiêu nhiều tiền trong phủ, sắc mặt của mợ tức khắc trở nên mất kiên nhẫn.

Thỉnh thoảng đám con nít lục đục, mợ sẽ mắng cây dâu chỉ cây hòe với mấy đứa nhỏ, làm mẹ nàng thường xuyên khóc, chỉ biết cúi đầu khuất phục, lén tìm các mối thêu để đỡ đần chi phí.

Tài thêu của mẹ rất khéo, khi đó Lan Hương hay cắp cái giỏ đi ra khỏi cửa hông, bán quần áo và khăn mẹ làm cho hiệu may ở ngoài, đổi về ít đồ gia dụng.

Tất cả thư của cha phải thông qua dịch trạm rồi gửi đến chỗ cậu, cậu sẽ chuyển cho mẹ.

Hôm nhận được thư, hai mẹ con vui như thể là ngày hội, mẹ nàng vội vàng mở thư ra, cha sẽ kể về phong tục tập quán ở biên tái, rồi thì những chuyện vụn vặt ngày thường.

Ông ở một nơi gọi là Cam Lộ Xuyên của miền Tây Bắc, đó là một ốc đảo trong hoang mạc thênh thang, cỏ cây um tùm, trâu ngựa hợp đàn, xảy ra rất nhiều chuyện thú vị.

Thư hồi âm đều do Xuân Thiên chấp bút, mẹ ngồi bên cạnh vừa thêu hoa vừa nói chuyện, phần cuối Xuân Thiên còn thêm vào vài câu: "Cỏ rễ đào lên ăn có ngon không cha, nó có vị gì ạ? Lần trước cha kể cha đỡ đẻ cho ngựa, sinh được mấy con vậy cha?"
Ngày đơn điệu nhưng có chờ mong, sau đó chiến tranh dần nổ ra, thư từ giảm bớt, rồi sau nữa, hoàn toàn bặt vô âm tín.


Cuối cùng, có người đưa di vật của cha trở về.

Cậu nói cha tham công danh, tự ý quyết định dẫn binh đánh úp quân Đột Quyết, rơi vào bẫy của địch, chết trận trong bụng địch.

Quân đội không đòi hài cốt của vong tướng, chỉ mang di vật của cha về, trong đó còn có một thanh chủy thủ của cha.

Khi đó nàng còn chưa đến mười tuổi thì đã hiểu được rất chuyện.

Dưới sự giúp đỡ của cậu, mẹ lập mộ chôn quần áo và di vật, nhưng nàng vẫn tin chắc rằng cha còn sống trên cõi đời này.

Có lẽ đã được người cứu, có lẽ là lạc đường, nhưng nhất định sẽ có một ngày ý chí phấn chấn trở lại Trường An, để nàng và mẹ được sống những tháng ngày vui vẻ hạnh phúc, để người cậu chê nghèo yêu giàu của nàng càng thêm coi trọng.

Nửa năm sau khi cha mất, Tam phu nhân Vi gia tổ chức một bữa tiệc hoa cúc, người mợ chẳng bao giờ qua lại gì với Vi gia vậy mà lại nhận lời mời.

Điều lạ lùng là mợ còn kéo cả mẹ nàng theo, bà cũng không tài nào hiểu, từ chối đủ đường, nhưng mợ đã ân cần đưa tới bộ xiêm y và trang sức thịnh hành thời đó.

Rốt cuộc mẹ nàng phải miễn cưỡng đi theo, nhưng hôm đó chỉ có một mình mợ về nhà.

Mợ bước vào nhà, sắc mặt tối tăm, thở hổn hển chạy vào thư phòng cậu, liên miệng mắng mỏ: "Cái ngữ tầm mắt hạn hẹp, không biết sống chết!"
Mợ bảo trong bữa tiệc, mẹ nàng đã trộm một cây trâm vàng của Tam phu nhân Vi gia, bị người Vi gia âm thầm bắt quả tang, giam vào phòng chứa củi, không cho gặp bất kì ai.

Xuân Thiên nghe tin, tranh cãi với cậu mợ, mợ nổi cơn tam bành ra tay đẩy nàng, làm nàng ngã ra hành lang, đầu va đập sưng xanh đen.

Vi gia là nhà giàu có đương thời, quyền thế rất mạnh, không ai đụng chạm vào nổi, nhưng mẹ nàng đâu thể là người như vậy được.

Trước mắt không rõ tình hình mẹ ra sao, Xuân Thiên khóc mà ruột gan đứt từng khúc.

Cậu bận trước bận sau vật vã hai ngày, rồi bỗng dưng lại thảnh thơi hẳn.

Từ giọng điệu lời nói giấu giấu giếm giếm của người lớn, nàng biết ở bữa tiệc hoa kia mẹ mình bị Vi Thiếu Tông để ý, bức hiếp bắt vào trong phủ.

Hóa ra, vụ cây trâm vàng chẳng qua chỉ là vật ngụy trang.

Sau đó mẹ có về một lần, áo quần rực rỡ, thần sắc thê lương, ăn bữa cơm với nàng, thu dọn ít quần áo rồi dẫn Lan Hương vội vã rời đi.

Hôm sau, Vi gia đưa mấy rương hòm đến, mợ mừng khấp khởi cho vào sương phòng.

Kể từ đó, mợ đối xử với nàng hết sức nhã nhặn thân thiết.


Vi gia của khi đó thịnh sủng một thời, Vi Thiếu Tông là con trai thứ ba của Vi gia, có thể bấu víu vào mối quan hệ như thế, xác thực là có nhiều lợi ích cho con đường làm quan của cậu.

Sự ngây ngô của nàng, có lẽ đã dừng lại từ ngày cha lên đường hành quân.

Sau khi mẹ bước vào Vi gia, Xuân Thiên biến thành một tiểu thiếu nữ ảm đạm và ít nói hẳn.

Mẹ đã vào Vi gia, ngày sau khó mà gặp lại, thỉnh thoảng mợ sẽ đưa nàng ra ngoài, đứng ở phía xa xa nhìn, có thể trông thấy khuôn mặt mẹ chất chứa u sầu, gầy yếu không mặc nổi áo.

Năm Xuân Thiên mười hai tuổi, Vi gia làm vua phật lòng, cả nhà chịu tội, cả vợ lẫn con gái đi làm kỹ làm nô.

Nàng xin cậu đưa mẹ ra khỏi Vi phủ, nhưng vì trước đó cậu đã bám váy Vi phủ, nên bị quan trên chèn ép, sống nơm nớp lo sợ, ốc còn không mang nổi mình ốc.

Sau đó tìm quan hệ hỏi thăm, nghe nói ngày Vi gia xét nhà, mẹ nhảy cầu tự vẫn, tuy nhiên đã được người cứu lên, sau chẳng biết tung tích.

Xuân Thiên bệnh nặng một trận.

Nhưng một năm sau, nàng theo cậu mợ vào chùa dâng hương thì bị một người hầu ngăn bước ở thiên điện, rồi bàng hoàng khi gặp lại người mẹ đã lâu không gặp của mình châu ngọc đầy người, bên cạnh là một người đàn ông trung niên hào hoa cao quý.

Đó là đương kim Tĩnh vương, cũng là đại thần hôm ấy khám xét Vi gia đã dẫn mẹ ra khỏi Vi phủ.

Cậu mợ kéo tay nàng, đưa nàng đến yết kiến Tĩnh vương, ngay sau đó chỉ vào Xuân Thiên rồi quay qua cười nói với Tĩnh vương, nói đây là ấu nữ Tiết gia, tên là Xuân Thiên, người trong nhà đều gọi nàng là Nữu Nữu.

Mẹ ở bên ôm nàng khóc không thành tiếng, giống như ngầm thừa nhận những lời này.

Từ đó, mẹ thành cô của nàng, nàng thành con gái của cậu mợ.

Sau đó nữa, mẹ chuyển vào Tĩnh vương phủ, quý phủ tịch mịch đã lâu của cậu lần nữa tưng bừng trở lại.

Cứ cách mấy tháng là mẹ sẽ mượn cớ đến thăm nàng, kéo tay nàng, dịu dàng đủ kiểu với nàng.

Về sau nàng tìm được một phong thư đã mở trong thư phòng cậu.

Là thư của mấy năm trước, sau khi cha qua đời, Trần Trung Tín đã viết cho mẹ.

Thư viết, năm đó là ông khuyên Trọng Phủ vứt bút tòng quân, nào ngờ Trọng Phủ chết trận ngoài chiến trường, ông vô cùng hổ thẹn với chị dâu và cháu gái.

Có điều việc này rất kỳ lạ, đáng tiếc ông thấp cổ bé họng, muốn điều tra lại rõ nhưng bị quấy rối liên tiếp.

Ông vốn định vào Cam Lộ Xuyên gom lấy di cốt Trọng Phủ, mà lại nhận chỉ cách chức tới Tây Châu, hỏi mẹ có thể đi tới phía Nam trước, giúp ông mang di cốt của cha từ chiến trường về, hồi hương an táng.

Phong thư này, cậu đọc rồi, tuy nhiên chưa từng tiết lộ dù chỉ một chút.

Bởi vì mẹ nàng lúc ấy đã vào Vi gia, làm thị thiếp của Vi Thiếu Tông.

Sau khi đọc thư, Xuân Thiên òa khóc thảm thiết.

Tiếc là Xuân gia không có đến một gã tôi tớ hay người bà con xa, mẹ lấy người khác, để lại mình nàng cô nhi không ai giúp, ngay cả việc mang di cốt vong phụ về cũng đành bất lực.


Nàng lại đưa phong thư cho cậu, năn nỉ cậu hỗ trợ điều tra rõ cái chết của cha.

Mặc dù lúc bấy giờ chức quan của cậu nàng không coi là quá cao, nhưng người ở Hình bộ chung quy vẫn nói được một hai câu, những người cùng vai vế hằng ngày lui tới xã giao, có các quan viên các bộ khác nhau có thể kiếm chứng.

Nhưng cậu nhiều lần thoái thác, liên tục lảng tránh, nhiều lần nuốt lời khiến nàng thất vọng.

Xuân Thiên đã nghĩ sẽ giao thư cho mẹ, xin mẹ, cũng là xin Tĩnh vương giúp thu gom di cốt của cha, trả lại trong sạch cho cha.

Ngờ đâu cậu lại cản nàng, nói Tĩnh vương phủ là dòng dõi quý tộc, mẹ được Tĩnh vương sủng ái, sống ở Tĩnh vương phủ luôn phải thận trọng dè dặt.

Nếu để chuyện duyên phận ngày xưa nổi lên, chọc giận Tĩnh vương, thì sau này mẹ nàng biết sống thế nào.

Vả lại cha nàng đã mất nhiều năm, tình hình chiến đấu ở biên thùy biến đổi thường xuyên, không dễ gì đi qua đó, nàng chỉ được phép vào miếu làm mấy buổi cúng bái hành lễ cho cha thôi.

Cái chết của cha, người đau buồn thống khổ, hiện giờ còn mỗi một mình nàng.

Tiết phu nhân mẹ nàng, hệt như đóa tóc tiên nhỏ bé, luôn đơn thuần, nhu nhược, lẻ loi.

Tạo hóa trêu ngươi hoặc ý trời là thế, thân bất do kỷ, càng lúc càng đi xa nàng.

Xuân Thiên nghĩ, nếu mẹ ta chỉ có thể sống dựa vào người khác, vậy thì cuộc đời của ta phải nuôi chí làm một cây tùng xanh sừng sững, làm chim én thuộc về bầu trời, không ai trói buộc được ta, chiếm giữ ta, cản trở ta.

Một thiếu nữ khuê phòng mười ba tuổi sẽ có suy nghĩ và dũng khí như thế nào, không một ai biết được.

Nàng thông minh sáng dạ, nghe rộng biết nhiều, vì cha tòng quân nên nàng vô cùng khát khao hướng tới cuộc sống nơi Tây Bắc tái ngoại.

Mấy năm nay mẹ và Tĩnh vương hay cho nàng rất nhiều vàng bạc trân bảo, nàng đem bán đi một phần để đổi lấy ngân lượng, nhân duyên trùng hợp, nàng bỏ ra một số tiền lớn mua được tờ giấy thông hành trắng tinh.

Kế tiếp là cải trang thành nam giới, rốt cuộc thời cơ cũng đến, nàng theo chân một nhà quan lại thân thích đi về phía Tây, tới Lũng Tây.

Cha chết uổng nơi sa trường, dù kẻ thù đã bỏ mạng, nhưng vong hồn còn ở ngoài không được ngủ yên.

Nàng muốn mang di cốt cha về Trường An, giả như bất hạnh chết trên đường, nàng cũng không thấy sợ hãi.

Nàng của giờ đây gần như là đơn độc một mình, chẳng lưu luyến gì ở nhân sinh, chết thì có sao.

Vì thế mà nàng đã trù tính rất lâu, đọc hết tất cả những cuốn sách liên quan đến lộ trình hành Tây, thậm chí công báo trong thư phòng cậu cũng không bỏ qua.

Sau đó cẩn thận hết mức, từ Trường An đến Lương Châu, ước chừng đi hơn ba tháng.

Rồi lại tiếp tục từ Lương Châu đi về Tây, cho tới lúc gặp nạn ở Hồng Nhai Câu.

Nếu người khác biết được những gập ghềnh trong suốt quá trình đó, hẳn là chỉ biết tặc lưỡi trợn mắt, nói một câu bội phục.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: 18: Không Bằng Lòng





Những chuyện Xuân Thiên trải qua mà nàng kể với Lý nương tử, Lý Vị đương nhiên không tin, hắn cũng có suy tính của mình.
Đương thời, phong tục dân gian được khai hóa, mặc dù phụ nữ thường ra ngoài chơi, có người kinh doanh buôn bán làm chủ gia đình, tuy nhiên phần nhiều là sống ỷ lại vào phụ huynh.

Một cô gái vượt ngàn dặm xa xôi từ Trường An tới Bắc Đình chỉ để tìm người họ hàng xa, đường dài năm ngàn dặm, lộ trình đầy rẫy hung hiểm, lòng người khó đường, rốt cuộc đã đi một mình bằng cách nào.

Trước giờ hắn chưa từng hỏi kỹ về những chuyện nàng gặp phải trên đường, nàng kể mơ hồ, hắn cũng không đi sâu vào dò hỏi.

Lý Vị làm người rất trung dung, mặc dù có nhiều chuyện hắn tự đoán ra, nhưng người khác không nói, hắn cũng sẽ giả vờ như không biết.

Dẫu vậy, hắn có thể nhận ra sự khác lạ, có thể đoán được nỗi băn khoăn của nàng, thậm chí có đôi lúc sẽ vô tình thay nàng che giấu trước mặt người khác.

Đây mới chính là điều khiến ý nghĩ kia nảy ra trong đầu Lý nương tử.

Hôm sau, Lục Minh Nguyệt đến thăm Lý nương tử, hai người phụ nữ ngồi với nhau, đều mang cùng tâm trạng bực bội không vui.

Lục Minh Nguyệt thấy Lý nương tử có vẻ bất thường, lên tiếng hỏi: "Hôm qua ở Phương gia trông cô vẫn khỏe mà, sao nay tinh thần lại sa sút thế kia."
Lý nương tử thở dài, chẳng biết nên bắt đầu nói từ đâu, thấy trong phòng không có ai khác, hồi lâu sau mới cất giọng: "Nói ra không sợ chị chê cười, hễ có tâm sự gì là em kể với chị hết, giờ xem cũng muốn xin chị cho ý kiến này."
Lục Minh Nguyệt cười hỏi: "Quái nhỉ, chuyện gì mà làm cô lo khiếp thế."
Lý nương tử chau mày: "Mấy năm trước, em từng nghĩ sẽ lấy thêm vợ cho đại gia."
Quan hệ giữa Lục Minh Nguyệt và Lý gia vô cùng thân thiết, chị nghe Lý nương tử nói thì "a" lên một tiếng: "Cô đúng thật là tốt quá đấy, chị có nhớ chuyện ấy, nhưng chả phải là Lý Vị không chịu à?"
"Quả thực đại gia không chịu." Lý nương tử hiểu rất rõ, "Sau khi mang thai Trường Lưu, chàng ấy liền ra ngủ ở gian ngoài, cha em qua đời, chàng lại dọn vào chái Đông.

Ròng rã bao nhiêu năm...!bảo hai chúng em là vợ chồng, chi bằng nói là chị em còn hơn.

Chàng còn trẻ, hoặc sớm hoặc muộn, kiểu gì cũng phải tái hôn.


Mấy năm trước sức khỏe em không tốt, chỉ sợ nhất thời nhắm mắt xuôi tay, nên lòng em suy tính ổn thỏa cả rồi.

Chọn một người hiền lành, hai bên hiểu rõ lẫn nhau, rước vào nhà mình, em thấy yên tâm hơn.

Dù cho mai sau có ra đi, cũng không sợ Trường Lưu bị mẹ kế ức hiếp..."
"Cô thật...!bảo chị khuyên cô kiểu gì đây chứ.

Bệnh của cô nó bám rễ vào người là do sinh Trường Lưu, có lẽ Lý Vị thấy thẹn với cô, nên không chịu tái hôn."
Lý nương tử thở dài thườn thượt: "Khi đó có mời cô em nhà bà con xa nọ đến nhà làm khách, có ngờ đâu cô gái kia trông bề ngoài thì hiền lành mà trong lòng không biết đã rung rinh từ lúc nào.

Biết mỗi ngày Vị Nhi sẽ ra ngoài thành thuần phục Truy Lôi nên lén học cưỡi ngựa theo.

Hồi ấy tính Truy Lôi còn hung hãn, ngay cả Vị Nhi cũng chẳng bảo được, thì sao có thể cho cô ấy cưỡi chơi.

Mà cô ấy làm nũng suốt, Vị Nhi chả buồn đoái hoài, liếc mắt nhìn em, thái độ mất kiên nhẫn, phất tay áo bỏ đi."
Nói về chuyện cũ, Lý nương tử dở khóc dở cười: "Sau đó lại xảy ra mấy chuyện lạ lùng, cả ngày ầm ĩ chàng ấy cũng đau cả đầu.

Cuối cùng là sức chịu đựng có hạn, mới nhịn không được nói với em một câu, bảo mọi chuyện em cứ yên tâm, đừng nghĩ ngợi lung tung tổn hại sức khỏe mình."
Lục Minh Nguyệt cười bảo, "Cô nói thì dễ nghe quá, chị còn hiểu cô quá đi ấy chứ, có lúc nào chịu để đầu óc thảnh thơi chưa.

Nếu Lý Vị thực sự rước người ta vào nhà, buổi tối có khi cô lại mất ngủ trắng đêm đấy.

Thôi, cô cứ quan tâm mấy cái xa xôi ấy làm gì, người có số của người, cô phải sống cho mình là tốt nhất."
Lý nương tử lại buông tiếng thở dài: "Là nhà em nợ chàng ấy, ban đầu cha em đuổi chàng đi nhập ngũ, vất vả mấy năm, sau đó tướng lĩnh trong quân dìu dắt chàng, chàng vì già trẻ một nhà mà rời quân quay về đội lạc đà.


Mấy năm nay chuyện trong nhà đều do một tay chàng chèo chống, không chỗ nào là chàng làm không tốt cả."
"Nếu cô thấy áy náy thì mau dưỡng bệnh cho thật tốt đi, một nhà ba người lại sống ngày tháng an lành vui vẻ." Lục Minh Nguyệt cười nói, "Cô đấy, chỉ thích lo nghĩ, chẳng lẽ không biết tới đạo lý âu sầu thành bệnh à."
"Em biết chị không thích nghe những chuyện này, nhưng chị cũng không được nói với người khác đâu nhé." Lý nương tử bất đắc dĩ bảo, "Đại gia thực sự không chịu nghe em, em chả còn cách nào khác, em không quản được chàng, chỉ đành lo liệu thay chàng.

Hiện giờ lòng dạ em đã trói buộc vào Trường Lưu, cũng phải tính toán cho Trường Lưu nữa."
Lại kể cho Lục Minh Nguyệt nghe về chuyện hứa hôn của Trường Lưu hôm qua vừa nói với lý Vị, Lục Minh Nguyệt nghe xong thì phì cười, bảo: "Dạo này cô sao thế hả? Nghĩ gì mà xa xôi, đừng trách Lý Vị không đồng ý, chị nghe cũng nhận ra có phần không ổn.

Cô muốn sắp xếp thay Trường Lưu, cứ phải đợi qua hai năm đã, đợi thằng bé mười ba mười bốn, hiểu biết nhiều hơn rồi tính sau, giờ còn sớm lắm."
"Em nghĩ sau khi em đi, nếu đại gia tái hôn, lỡ như gặp mẹ kế lòng dạ xấu xa, Trường Lưu làm sao bây giờ...!Nếu có một cô vợ, thì còn phó thác cho nhà thông gia được."
"Cô nghĩ như thế, vậy chị hỏi cô đặt nỗi khổ tâm của Lý Vị ở đâu.

Dù cho là người ngoài, chú ấy cũng luôn tận tâm tận lực, huống chi là con trai của mình, cô còn sợ chú ấy không che chở được ư?" Lục Minh Nguyệt bật lực nói, "Bà trẻ của tôi à, đừng suốt ngày nghĩ đi hay là không đi nữa, chị xin Bồ Tát phù hộ cô sống lâu trăm tuổi, không vì điều gì khác, mà là vì giúp Lý Vị và Tường Lưu giảm bớt mớ chuyện này."
"Em sẽ không bao giờ nói những lời này với đại gia, là em lòng dạ hẹp hòi thôi, nhưng làm mẹ, có mấy người không canh cánh về chuyện đó chứ.

Em vốn nghĩ là, hiện giờ có cô nương hoàn cảnh đáng thương sống nhờ trong nhà mình, thấy cô nương ấy dịu dàng nết na, mặt mũi xinh xắn, lại còn biết chữ biết văn, vừa vặn lớn hơn Trường Lưu vài tuổi, kết duyên cho hai đứa cũng rất tốt mà."
Lục Minh Nguyệt chẳng biết khóc hay cười, kinh ngạc nói: "Hóa ra cô vẫn còn suy nghĩ đấy cơ à..."
"Đại gia không đồng ý, em không đoán ra vì sao chàng lại không đồng ý..." Lý nương tử không rõ cảm xúc của mình là gì, cô ấy suy tư một lúc, khó khăn hạ quyết tâm, bấy giờ mới dời mắt sang nhìn Lục Minh Nguyệt: "Không nói nữa, em thấy hôm nay tâm trạng chị cũng không tốt lắm nhỉ, Gia Ngôn nó lại chọc tức chị nữa sao?"
"Không phải." Lục Minh Nguyệt nhíu mày, "Kỳ thực là không có gì cả, tự dưng thấy lòng dạ khó chịu thôi."
Chị không thể nói với Lý nương tử, tên chú ở nhà chị kia, gần đây càng lúc càng càn rỡ rồi.

"Hôm nay Hách Liên Quảng có đến tìm Lý Vị không?" Lục Minh Nguyệt cắn môi hỏi Lý nương tử.

Lý nương tử lắc đầu.


Lục Minh Nguyệt rũ mi mắt, Lý nương tử quan sát nét mặt chị: "Chú Hai làm gì để chị không vui à?"
"Cũng chả phải." Lục Minh Nguyệt đáp, cảm giác mờ mịt nói không lên lời, im lặng một hồi lâu sau mới lên tiếng, "Chị vẫn luôn nghĩ sẽ đưa Gia Ngôn về miền Nam, đưa tro cốt của cha mẹ chị về quê chôn cất.

Nơi đó...!dù sao cũng là nhà chị, ở Cam Châu này, ngoài bọn em ra, chị coi như là không thân không thích.

Hai năm nay sống dựa cả vào chút tiền thêu đồ cho người ta, tính ra thì đã đủ phí đi đường rồi."
Lý nương tử cả kinh, lòng dâng lên nỗi niềm hoảng hốt bịn rịn, cầm lấy tay Lục Minh Nguyệt: "Minh Nguyệt, chị nghiêm túc đấy à? Phải về đó sao? Gia Ngôn với chú Hai có biết không?"
Lục Minh Nguyệt lắc đầu, chị chưa từng đề cập chuyện ấy với Gia Ngôn, nếu như trở về thành Cô Tô, Gia Ngôn có quen không? Thằng bé sẽ chịu đi ư? Người của thành Cô Tô, sẽ đón nhận đứa trẻ có tướng mạo thế này sao?
Lý nương tử thở dài, lẩm bẩm: "Sợ là chú Hai không đồng ý đâu, em nhớ lúc tìm thấy mẹ con chị, chẳng phải vì chú Hai muốn dẫn Gia Ngôn đi mà chị không chịu, nên chú ấy mới ở lại à.

Hơn nữa...!tình cảm bao năm của hai nhà chúng ta, nếu thực sự chị đi, em biết làm sao bây giờ đây...!Em không nỡ..."
"Bát tự vẫn chưa bỏ, chỉ là đang suy nghĩ thôi." Lục Minh Nguyệt thấy Lý nương tử buồn bã gạt lệ, liền trấn an: "Chờ mấy năm nữa bọn nhỏ trưởng thành, sức khỏe cô khá hơn, cả nhà ta ra ngoài du sơn ngoạn thủy đi.

Chị sẽ dẫn cô đi ngắm nhìn phong cảnh vùng Giang Nam sông nước."
"Nào có dễ dàng như vậy, cả đời này của em e là không thể bước ra khỏi Cam Châu rồi." Lý nương tử thôi khóc, "Nếu chị muốn đi, thế thì đừng để em biết được đấy."
"Không đi không đi, chị thuận miệng nói thế thôi."
Hai người tâm sự đủ chuyện, lo lắng xoay vòng cũng phải cố mà dằn xuống, thay đổi đề tài.

Buổi tối, giờ đã khá muộn, Xuân Thiên ngồi trong phòng hoàn thành công việc may vá, đang chuẩn bị đi nghỉ thì Tiên Tiên đến gõ cửa: "Chị Xuân Thiên ơi, nương tử gọi chị có chuyện, giờ chị có rảnh không ạ?"
Xuân Thiên gật đầu, cười nói: "Tới ngay đây."
Lý nương tử trông bếp đun nước trà, che khăn lên miệng ho khe khẽ, Xuân Thiên vội vàng tiến lên hỏi: "Nương tử muốn uống trà ạ?"
Lý nương tử ngẩng khuôn mặt đỏ bừng, nghỉ ngơi chốc lát, thở hổn hển nói: "Ấm trà trong phòng đại gia đã cạn sạch mấy ngày rồi, ban nãy vừa qua đây uống chén trà nhỏ xong mới về.

Tôi sợ đêm khuya chàng khát nước, nên đun ấm trà chuẩn bị sẵn cho chàng."
"Cô cứ nghỉ đi, để em đun cho." Xuân Thiên bước nhanh tới, nhận lấy cái phễu trà trong tay Lý nương tử.

"Người tôi hơi không thoải mái, nhưng Triệu đại nương lại đang bận việc trong bếp mất rồi.

Tiên Tiên còn nhỏ, tôi sợ con bé đi đường vấp ngã làm bể ấm, nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng đành gọi em đến đưa ấm trà qua phòng của đại gia.


Nếu đại gia đã ngủ thì đánh thức chàng dậy, uống chén trà hẵng ngủ tiếp."
Xuân Thiên vô thức gật đầu, rồi bỗng dưng nàng giật mình, sau đó lại gật đầu nói với Lý nương tử: "Được ạ."
Lý Vị chỉ mặc trung y, ngồi dưới đèn đọc cuốn địa đồ Bắc Đình cũ kỹ tàn tạ, chợt có tiếng đập cửa vang lên, hắn nghe giọng Xuân Thiên ở phía ngoài bảo: "Đại gia, nương tử bảo tôi đưa ấm trà qua."
Lý Vị thấy lạ, Lý nương tử rất hiểu đạo đãi khách, mấy việc lặt vặt trong nhà trước nay đều giao cho Tiên Tiên làm, chưa khi nào nhờ tới Xuân Thiên.

Khoác chiếc áo đi ra mở cửa, nhìn búi tóc lỏng lẻo của Xuân Thiên, lọn tóc dài đèn nhánh vén hết ra sau vành tai trắng tuyết, sau lưng là màn đêm thăm thẳm, chẳng hiểu vì sao, hắn giật mình sửng sốt.

Ánh đèn vàng vọt trong phòng hắt lên khuôn mặt Xuân Thiên, nàng cúi đầu, không trông rõ vẻ mặt.

Lý Vị đứng ở cửa nhận ấm trà, đột nhiên cau mày.

Hai người chẳng ai nói một lời, dứt khoát xoay người.

Từ đấy trở đi, chỉ cần Lý Vị ở nhà, hơn nửa thì giờ là Xuân Thiên khép cửa không ra, đắm chìm trong việc may vá ở chái Tây.

Tài thêu của nàng rất khá, lại thường có sự khéo léo, tới nay đã dành dụm được vài đồng tiền bạc, tuy nhiên muốn gom đủ chi phí cho cả hành trình về phía Tây, thì vẫn còn xa lắm.

Suy đi nghĩ lại, mỗi viên ngọc bích trên cổ đây, mới có khả năng mang đi cầm cố đổi lấy tiền mặt.

Vết thương trên người đã gần khép miệng hết, bình thường đi đứng vô tư, nếu chủ ý đã quyết, chỉ còn chờ đến lúc hết Tết, tìm cách ra khỏi Ngọc Môn, đi đến Y Ngô trước để thám thính tin tức của chú Trần.

Trước những thăm dò của Lý nương tử với mình, Lý Vị có hơi đau đầu, Lý nương tử ưu tư quá nặng, hắn chỉ đành dành nhiều thời gian bầu bạn cạnh cô ấy.

Tính ra, năm hắn mười hai tuổi ra ngoài với cha, từ đó về sau mười mấy năm, hoặc ở thương đội, hoặc ở trong quân, còn thời gian ở nhà một năm chẳng bao giờ nhiều hơn hai ba tháng, nợ nần với người nhà mình nhiều lắm.

Tuổi hắn đúng vào độ lập nghiệp, trong nhà toàn phụ nữ con nít nhỏ yếu, vậy nên đang có ý định dừng lại, ra Tết sẽ bắt đầu với một công việc khác.

(còn tiếp).

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
594,592
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: 19: Đói Bụng Không





Lục Minh Nguyệt đã từng chứng kiến rất nhiều người chết, từ Cô Tô đến Hà Tây, cứ cách mấy ngày là lại có người không chịu nổi cuộc sống rày đây mai đó mà xuôi tay.

Sau khi đến Sa Liễu doanh, dưới bức thành chiến tranh được đắp từ đất nện, xương trắng chất thành đống, toàn bộ đều là dân vùng ven kiệt sức bỏ mạng chỉ được chôn cất qua loa.
Nhưng, người chết cuối cùng chị thấy, lại do chính tay Hách Liên Quảng giết.

Lúc chị nhìn thấy cảnh hắn giết người, chủy thủ như lưỡi hái vút qua cổ họng của gã đàn ông, lưu loát hệt như đang cắt cỏ cắt lúa.

Dòng màu nóng đỏ tươi tóe ra dưới lưỡi dao, chị còn nhớ rất rõ cảm giác giọt máu bắn lên mặt mình, dính dớp, tanh nồng, ghê tởm.

Một đêm nọ đang bước trên đường, bất thình lình có tay ăn chơi nhảy ra chặn đường rồi lôi chị vào con hẻm tăm tối.

Khi Hách Liên Quảng xuất hiện, chị quả thực phải cảm ơn con người lãnh đạm quái gở này, hắn từng vào rừng làm cướp, giờ đây lại đã cải tà quy chính.

Mà khoảnh khắc gã đàn ông kia ngã xuống khỏi người chị, chị bắt gặp cặp mắt nhạt màu của Hách Liên Quảng, đầy chán ghét, lạnh lùng, nhìn đống máu thịt bấy nhầy dưới đất với vẻ thờ ơ.

Chị không hề ghét Hách Liên Quảng, tuy nhiên người Hán và người Hồ, dẫu sao vẫn tồn tại bất đồng.

Hai người ăn ý không nhắc lại sự kiện ấy.

Hách Liên Quảng đến để tìm Gia Ngôn, đó là con trai của anh cả hắn, cũng là thân nhân duy nhất của Hách Liên Quảng.

Hiện tại hồ Thanh Hải đã thành đất của dân tộc Thổ Phiên, có một nhánh người Bạch Lan Khương tới Tây lánh nạn tìm được nơi dung thân ở cực Tây, Hách Liên Quảng muốn đi theo bộ tộc.

Có điều Lục Minh Nguyệt không chịu giao đứa nhỏ cho hắn, cuối cùng ba người đều ở lại hẻm Công Đức.

Tuy Lục Minh Nguyệt không quá ưa hắn, nhưng dù gì đó cũng là chú của Gia Ngôn, còn từng cứu chị một lần.

Hôm qua đi xe la đưa Gia Ngôn ra ngoài, lúc về đến nhà thì thấy dưới đất là một vũng tuyết bùn, Hách Liên Quảng ôm ngang người Gia Ngôn lên đi vào trong viện, làm Gia Ngôn cười khanh khách không ngừng.

Lục Minh Nguyệt xỏ đôi giày mới thêu định xuống xe, Hách Liên Quảng quay đầu đi lại giữ chặt một chân chị vừa thò ra khỏi, hắn nhìn chị bằng ánh mắt lạnh lẽo, một lúc sau dứt khoát ôm lấy chị bước qua chỗ đất bùn.

Bờ vai đàn ông dày rộng vô cùng, cánh tay như gông khóa siết eo chị, mùi đàn ông bao trùm khiến mặt chị ửng hồng nóng ran, cộng thêm cơn tức tối vì bị đụng chạm, sau khi được thả xuống đất, lập tức chị tát Hách Liên Quảng một cái vang dội.

Hách Liên Quảng cau mày, đôi đồng tử nhạt màu co chặt nhìn chằm chằm Lục Minh Nguyệt một hồi.

Rồi hắn xoay người bỏ đi, cả đêm không về.

Lúc chị vung tay, Gia Ngôn đứng bên cạnh thấp giọng thì thầm với chị: "Con bảo với chú Quảng là mẹ thích đôi giày này nhất, nếu giẫm xuống đất thì bẩn lắm, nên con nói chú Quảng ôm mẹ vào.


Mẹ, sao mẹ lại đánh chú Quảng thế?"
Chị mặt đỏ tía tai, biết phải nói thế nào với Gia Ngôn chuyện nam nữ phòng nhau, thúc tẩu tị hiềm?
Đã một ngày một đêm Hách Liên Quảng không về nhà, chị nghĩ, nếu hôm nay vẫn không về, vậy thì mình cứ thế sinh hoạt như bình thường, hay nên làm điều gì đó đây?
Ngoài phòng gió lặng đêm đen, im phăng phắc không một âm vang, ngày gió thổi thành băng thế này, hắn đi đâu được chứ? Trong phòng đèn heo hắt rọi chiếc bóng đơn độc, chị chẳng còn lòng dạ nào mà thêu với thùa.

Tâm tư rối bời, chả nhẽ chị phải nói một tiếng xin lỗi vì đã làm mích lòng hắn, vì chị nhất thời phải gió, mới có thể xoa dịu cơn bực dọc của hắn ư?
Mặc dù tửu lượng của Hách Liên Quảng cao kinh người, nhưng hôm nay lại uống tới độ say bí tỉ.

Phía Tây thành có một quán rượu nhỏ, bán loại rượu trắng lạnh buốt.

Hách Liên Quảng dốc hết từ vò này đến vò khác vào bụng, vô cùng sảng khoái, hắn kiệm lời ít nói, uống một vò rượu, coi như tượng trưng cho một câu nói.

Hẻm Công Đức tối om om, vốn dĩ hắn không muốn về, đi đâu thì đi, tự mua vui cho mình, dứt khoát quẳng cô nhi góa phụ kia ra sau đầu.

Thế nhưng rồi dường như có sự ép buộc vô hình hiện hữu, khiến hắn không thể không trở về.

Hắn cũng lưu luyến mùi của nhà.

Bắt đầu từ khi chui ra khỏi bụng mẹ, hắn đã phải đối mặt với vận mệnh thảm thương của người Bạch Lan Khương.

Bị giết hại, bị truy đuổi, bị nô lệ, bị ngược đãi, thậm chí cuộc sống của người Bạch Lan Khương còn chẳng bằng bò Tây Tạng hay một con chó.

Từ nhỏ hắn và anh trai lớn lên trong chuồng bò, sau đó lại đâm đầu vào những cuộc chạy trốn cầu sinh, trước nay chưa bao giờ biết nhà là thứ gì.

Cho tới tận khi hắn gặp chị.

Hách Liên Quảng nhảy xuống khỏi bức tường, trong nhà chỉ có một ngọn đèn nhỏ leo lét, nhưng hắn vẫn cứ đứng ở chỗ tối, đăm đăm nhìn khuôn mặt dịu dàng dưới ánh đèn dẫu thực tế là chẳng thấy gì.

Hắn ở đây, vừa lạnh, vừa khát, vừa đói.

Lục Minh Nguyệt nghe có động tĩnh, trông thấy ngọn đèn dầu khác từ từ sáng lên thì thở phào nhẹ nhõm, đắn đo một lát rồi đi ra ngoài.

Đứng trước phòng Hách Liên Quảng, chị cất giọng hỏi hắn sao lại về muộn thế, có đói bụng không, đã ăn cơm hay chưa, hắn muốn ăn gì, chị sẽ đi làm cho hắn.

Đại khái là chị chưa từng nói nhiều với Hách Liên Quảng thế này.

Cửa phòng mở kêu tiếng "kẽo kẹt", Hách Liên Quảng nghiêng người dựa vào cạnh cửa, người sực mùi rượu, hai tay khoanh trước ngực, mặt lạnh nhìn chị, chẳng ừ chẳng hử.

Chị gắng gượng hé môi mỉm cười: "Về muộn vậy..."
Chị thấy trong phòng hắn ngoại trừ một cái giường, một cái bàn, một ngọn đèn dầu, thì không còn đồ gì khác nữa, không có giường sưởi, không có bếp than, không có ấm trà, trống huơ trống hoác, lạnh hệt hầm băng.


Nụ cười của Lục Minh Nguyệt cứng đơ, cổ họng nghẹn lại như mắc xương cá.

Chị chưa bao giờ quan tâm đến việc hắn ngủ kiểu gì, ăn uống kiểu gì, sinh hoạt kiểu gì, căn phòng lạnh run thế này, hắn ngủ bằng cách nào chứ?
Ánh nhìn của Hách Liên Quảng như mũi kim, chị ngẩn người, rồi hơi ngẩng đầu đối mặt với hắn, mắt lập lòe: "Chú có đói bụng không..."
Hỏi một con kền kền có đói bụng không, trước khi rút xương cho vào bụng, chắc chắn là không đói được rồi.

Hách Liên Quảng cúi người, phả vào mặt Lục Minh Nguyệt hơi rượu nồng nặc, đôi con ngươi nhạt màu nhìn thẳng vào chị, chậm rãi nói: "Tôi đói."
Hắn siết chặt cổ tay chị, chỉ nhẹ nhàng kéo, Lục Minh Nguyệt "ối" một tiếng rồi ngã vào vòng tay hắn, và ngay sau đó là tiếng cánh cửa đóng sầm lại.

Gian phòng này lạnh lẽo y như bên ngoài.

"Hách Liên Quảng!" Chị thét lên kinh hãi, mất hết cả hồn vía, "Chú muốn làm gì?"
Hắn hít sâu một hơi, ôm vào lòng hòn ngọc âm ấm thơm ngát, mùi hương thoang thoảng đầu mũi chẳng khác nào mồi lửa, "phụt" một phát và bắt đầu bùng cháy thành ngọn rừng rực.

Hắn ôm ngang người chị, vác chị lên vai, bước đến chỗ chiếc giường.

Bấy giờ Lục Minh Nguyệt mới sợ hãi, chị nằm trên vai Hách Liên Quảng tay đấm chân đá, la lối không ngừng: "Hách Liên Quảng, chú bỏ tôi xuống, chú mau bỏ tôi xuống, chú điên rồi sao, tôi là chị dâu của chú!"
Mặc dù đồng thời tấn công bằng cả tay lẫn chân, nhưng vẫn chẳng khác đang gãi ngứa là mấy.

Hắn cảm tưởng như bụng dạ mình như sôi sùng sục, thiêu đốt tim gan nóng rẫy, hai con mắt nhuốm đỏ ngầu.

Tinh lực căng tràn, chỉ thiếu mỗi một con dao đâm vào nơi máu nóng đầy ngập không có chỗ phát tiết kia, để những ý nghĩ trong lòng tuôn trào ra hết.

Hách Liên Quảng ném chị lên giường, lần đầu tiên kề sát khuôn mặt chị đến mức đó.

Ánh lửa phừng phừng bung nở giữa cơn bủa vây của băng giác lạnh lẽo trong con ngươi hắn, giờ phút này, hắn nhếch miệng cười với chị: "Theo phong tục của người Khương chúng tôi, sau khi huynh trưởng chết, dê bò tiền của, vợ và con trai con gái của hắn đều sẽ thuộc sở hữu của em trai.

Tôi không có chị dâu, chỉ có đàn bà."
Toàn thân Lục Minh Nguyệt run bần bật, nhìn mày cao mắt sâu của hắn, ánh mắt hắn hệt dã thú, tức thì chị giơ tay tát vào má hắn, nói giọng hung tợn: "Tôi là người Hán, nơi này là Cam Châu, là đất đai của người Hán chúng tôi.

Theo phong tục của người Hán, chị dâu cả là mẹ, cho dù chú có uống say rồi, cũng phải có sự tôn trọng đối với tôi."
Người đàn ông bị tát đầu lệch sang một bên, hắc lắc đầu, tựa hồ muốn lấy lại một chút tỉnh táo cho mình.

Bờ môi nồng nặc mùi rượu đột nhiên áp xuống trong lúc chị còn đang nói, rồi dừng lại trên môi chị như chuồn chuồn lướt nước, Hách Liên Quảng cúi người ôm chị lăn một vòng trên giường.

Từ trước tới nay chị luôn nghiêm ngặt giữ đúng bổn phận, chưa từng có giây phút nào nhục nhã như vậy.


Hách Liên Quảng vươn cánh tay trói lấy cơ thể run rẩy của chị, ghì cứng vào lồng ngực mình, môi lần theo cánh môi chị hôn quay cuồng trời đất, thân mật cháy bỏng.

Ngón tay chị ra sức cào cánh tay và hai má hắn cho đến khi hình thành những vết xước rỉ máu, hắn cũng chả buồn đoái hoài, đầu vùi vào gáy chị, hít thật sâu làn hương và đặt lên đó những cái hôn khẽ.

"Hách Liên Quảng, Hách Liên Quảng..." Chị gọi tên như niệm chú, từng tiếng khóa chặt hắn, "Tôi sắp gọi người rồi đấy, Gia Ngôn ở ngoài kia, mọi người đều ở ngoài kia, chú thả tôi ra."
Hắn không quan tâm, có mấy khi hắn được say thế này, có mấy khi hắn được gần gũi với chị, ôm thân thể mềm mại của chị, xích lấy hai tay hai chân chị, ghé vào tai chị cất giọng khàn khàn trầm thấp gọi tên chị: "Minh Nguyệt...!Minh Nguyệt..."
"Ta thích nàng..." Môi hắn di động nơi vành tai nhạy cảm của chị, hôn từng chút một.

Lục Minh Nguyệt bị đè đến độ khí huyết cuồn cuộn, tóc tai quần áo xộc xệch rối tung, một bên hài chả biết đã rơi ở xó nào, hận bàn tay không thể biến thành hai lưỡi dao giết chết người đàn ông đáng chết này.

"Tôi sẽ giết chú."
Tiếng xiêm y bị xé rách suýt nữa khiến chị lên cơn co giật, nằm trong căn phòng lạnh như băng người chị sắp cóng thành băng đến nơi, sợ là không khá lên nổi nữa rồi.

Tấm lưng trắng tuyết run lên, hắn thấy có sợi dây thắt lại sau lưng chị, đỏ chói, tựa đóa mai đỏ động lòng người.

Khoái cảm khát máu dâng cao, hắn dán xuống lưng chị, giống lửa đã làm tan đi lớp tuyết, hóa băng thành mưa xuân.

Chị sợ mình sống không được nữa: "Hách Liên Quảng, tôi sẽ giết chú."
Khuôn mặt hắn đỏ gay hiếm thấy, ngẩng đầu nghiêm túc đáp lời chị: "Được."
Chị nghiến răng, mặt cười vò nát cánh hoa rơi, há miệng cắn phập xuống cánh tay hắn, ước mong sao cắn cho hắn chết quách đi.

Thế mà hắn chẳng sợ, chỉ chăm chăm đâm đầu vào cơn điên rồ của bản thân.

Áo đã rớt vai, hồn bay xao xuyến, loan phượng đảo điên.

Rượu đương lúc nồng, ý xuân vừa khéo, tay hư hỏng nhà ai chèo thuyền hái sen, vào chốn đào nguyên hoa vừa hé nụ, vượt qua xuân triều mưa gió, băng hà ba tháng đông gặp xuân ấm, đường hoa đôi bờ e ấp sắc đỏ, bao nhiêu mộng xưa mê đắm, cùng hòa quyện ngất ngây lòng người.

Rượu càng nồng, càng điên cuồng, đập nồi chỉ đơn giản như đập vỡ một cái chén.

Vốn là nam nữ trưởng thành, người độc thân, người ở góa, lại chả phải đứa con nít, tách cánh đào ra, giọt tinh túy nhất của bông hoa nhỏ xuống, lại là một cảnh mất hồn.

Lục Minh Nguyệt người nhẹ xương yếu, không chịu được giày vò suốt đêm, chỉ thấy nhân sinh ảm đạm, qua một phút là một phút, qua nhất thời là nhất thời.

Đến khi Hách Liên Quảng đã tận niềm sung sướng, cạn kiệt tinh thần, nặng nề chìm vào giấc ngủ.

Chỉ là ổ chăn ấm áp.

da thịt nhẵn bóng quấn quýt nhau, phòng lạnh thế này, chị náu thân vào chỗ ấm nhất.

Hôm sau thức dậy, Lục Minh Nguyệt có một thoáng hoảng hốt, chị bị bọc trong luồng hơi thở dày đậm của người đàn ông, lưng dán vào khuôn ngực trơn loáng nong nóng, eo bị cánh tay đàn ông tập võ mạnh mẽ ôm chặt, và cả tiếng hít thở vững vàng của người đàn ông.

Có lẽ người đàn ông cũng đã dậy, trong ổ chăn phát ra tiếng rất nhỏ, thân thể bủn rủn mỏi nhừ nhắc nhở chị từng li từng tí về chuyện đêm qua.

Tư thế của Lục Minh Nguyệt cứng ngắc, tỉnh khỏi giấc mộng, không biết nên quay đầu lại thế nào, đối mặt với tình cảnh này kiểu gì.


Chị chỉ cảm thấy một nỗi ô nhục khôn tả cùng những uất ức của bao năm tháng một mình kiên cường chống đỡ bỗng ập đến, giáo dưỡng và luân lý đã giúp chị tiếp tục tồn tại phút chốc sụp đổ.

Như thể một lần nữa nếm trải cơn đau của thuở niên thiếu, cửa nát nhà tan, bị đuổi ra khỏi các lầu gấm vóc, bị ném vào lao ngục ẩm thấp lạnh lẽo, cả cuộc đời chôn vùi ở nơi biên tái đồng hoang giá rét.

Còn sống, chẳng qua là do tham sống sợ chết thôi.

"Minh Nguyệt." Hách Liên Quảng sau lưng khẽ giọng gọi chị.

Có lẽ chị muốn nhảy dựng lên, giống ả đàn bà chanh chua đanh đá mắng hắn đánh hắn, nguyền rủa hắn, khiến hắn chết đi, lên núi đao xuống chảo dầu, sống dưới mười tám tầng địa ngục.

Nhưng Lục Minh Nguyệt vẫn không nhúc nhích, ngoại trừ tấm chăn trên người này, chị chẳng còn thứ gì để che đậy cơ thể mình nữa.

Dưới chăn Hách Liên Quảng vuốt ve một hồi, có tiếng sột soạt, hắn lấy ra món đồ gì đó lành lạnh nhét vào tay chị.

Lần đầu tiên hắn nói nhiều như vậy: "Trước kia nghe nàng nói với Lý nương tử...!mẹ nàng vốn có một món trang sức hiếm, là chiếc thoa cài Bát Bảo, lúc đầu định để dành làm của hồi môn cho nàng...!Ta đã chọn toàn là Bát Bảo, cũng đã khảm lên thoa cài tóc cho nàng rồi.

Nàng xem xem, có thích không?"
Đó là một chiếc thoa cài tóc Bát Bảo mạ vàng, sợi vàng được uốn theo hoa văn, điểm xuyết ngọc thạch tám màu, tia sáng khuếch ra như hào quang long lanh, rực rỡ tựa pha lê, có phần lóa mắt, sắc nước làm lòng người rung động.

Toàn bộ chỗ này là Hách Liên Quảng vơ vét được từ chỗ đám thương nhân buôn châu báu trong thương đội, rồi còn tìm thợ làm nữ trang khảm nạm thành.

Mắt Lục Minh Nguyệt không chút gợn sóng, cầm trong tay thờ ơ: "Tôi sẽ giết chú."
Giết hắn, chị cũng không sống được, chị cũng chỉ là một người phụ nữ yếu đuối tay không tấc sắt, một góa phụ dễ dính vào tin đồn nhảm nhí.

Con chị phải làm sao đây, con chị sẽ trở thành đứa trẻ mồ côi, bơ vơ không nơi nương tự, bị người khác bắt nạt chăng?
Hách Liên Quảng nắm tay kia của chị, nhét vào tay chị thứ gì đó nặng trịch: "Dao của ta, từ cổ hoặc từ ngực vào, phải chết không nghi ngờ."
"Ta biết nàng coi thường ta, cho rằng người Khương chúng ta uống máu ăn thịt, dã man thô lỗ, chúng ta là nô lệ, là cường đạo, là man di.

Nhưng người Hồ cũng giống người Hán, có máu có thịt, có nước mắt có nụ cười, chúng ta cũng sẽ thích đàn bà, yêu thương con cái."
"Lấy ta.

Nàng và Gia Ngôn, ta sẽ nuôi."
Lục Minh Nguyệt cắn nhẹ môi, phát ra tiếng rên như bị bóp nghẹt, cầm thoa cài Bát Bảo trong tay, như phát điên đâm vào ngực Hách Liên Quảng: "Tên dã man, khốn nạn, cầm thú!"
Chị đâm hơn mười phát liên tiếp, mày Hách Liên Quảng chẳng nhăn lấy một cái, mặc cho máu tươi đầm đìa ngực mình.

Lục Minh Nguyệt không kiềm chế được bản thân, gào khóc nức nở, chị sẽ mãi mãi không trở về được với trăng thanh gió mát, với giấc chiêm bao mơ hồ bên khung cửa sổ nhỏ, thể diện ở điểm này mà chị giữ gìn đều mất cả rồi, nát tan cả rồi.

Hách Liên Quảng ôm chị, lau đi những giọt nước mắt lăn dài trên mặt chị.

Dùng cách thức trực tiếp nhất để thỏa mãn chị, vỗ về chị.

Vùng đất này không hề dịu dàng, cũng không cởi mở như vậy, không có chỗ cho những giấc mộng đẹp đẽ mà dễ vỡ, cũng không cần ràng buộc gì, con người như cái kiến, tham sống sợ chết, còn sống là quan trọng nhất.

(còn tiếp).

 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com

Có thể bạn cũng thích?

Top Bottom