Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Chín giờ mười chín phút tối, chuyến tàu 376 dừng tại ga Bình Quảng.

Từ ga tàu đi ra, An Tâm nhìn phố xá thân quen một thời, trong lòng lại cảm thấy trống vắng và chua xót.

Từ lúc học đại học, em đã sống ở Bình Quảng, tự đáy lòng em đã nghĩ mình là một phần của thành phố đó, chính vì thế, khi quay trở lại, em mới có cảm giác xót xa vì bị ruồng bỏ. Tất cả những thứ quen thuộc của thành phố đều đã rời bỏ em. An Tâm xách va ly, men theo con đường lớn trước cổng ga, đi một đoạn dài mà không thấy bến xe quen thuộc đâu. Mới xa Bình Quảng hơn nửa tháng, sao mọi thứ đã trở nên xa cách với em đến vậy!

Mãi một lúc sau, An Tâm mới tìm thấy bến xe. Lúc mua vé em mới phát hiện mình mua nhầm vé xe về nhà Thiết Quân, thay vì đến bệnh viện Nhân Dân. Trước kia, nơi đó là nhà của em, nhưng từ thời khắc Thiết Quân chết đi, nó đã không còn là nhà nữa.

Nhớ đến ngôi nhà đó, em bất giác rơm rớm nước mắt, từng chiếc bàn, chiếc ghế, vật dụng, góc nhà hiện lên rõ ràng trong đầu em, nhưng bến xe đông người quá, em không thể đứng đó mà khóc được. Do dự một hồi, An Tâm vẫn quyết định lên xe đi về nhà Thiết Quân. Từ bến xe buýt về nhà phải đi qua một con đường rợp bóng cây xanh, hai bên đường hoa đỏ xen lá xanh tạo nên khung cảnh thơ mộng đầy lãng mạn. Tối đến, những cặp tình nhân thường đến đó ngồi tâm sự hoặc đi dạo, giống như những đôi uyên ương quấn quýt dưới gió mát trăng thanh,

Lúc An Tâm đi qua đó cũng chính là khoảng thời gian lãng mạn dành cho những đôi tình nhân. Em xách va ly, nhìn họ thì thầm nhỏ to với nhau mà không khỏi cảm thấy tủi thân. Những người con gái kia, đa phần đều nhiều tuổi hơn em, nhưng nhìn họ cứ như mới được nếm thứ vị ngọt của tình yêu, còn em, chưa đầy hai mươi hai tuổi đã phải chịu đựng bao sóng gió của cuộc đời.

Về đến trước cổng, An Tâm nhìn lên một căn hộ ở tầng năm, cửa sổ phòng em và Thiết Quân trước đây tối om om. Em đứng trong góc khuất nhìn một lúc rồi mới xách va ly lên, một lần nữa đi qua con đường rợp bóng cây, hướng về bến xe buýt.

Hơn mười giờ tối, An Tâm mới tới được bệnh viện Nhân Dân Bình Quảng.

Bệnh viện đó đối với em không có gì xa lạ, vì hai năm trước, em đã từng đến đó chăm sóc Hiệu trưởng trường mình cho tới lúc ông ta lâm chung. Hai năm trước, cũng chính tại nơi đó, em đã có mối tình đầu với Thiết Quân. Rồi sau hai năm mặn nồng, vào một đêm thanh vắng cô tịnh, em lại đến đó để gặp mặt chồng, cũng là mối tình đầu của mình lần cuối và nói với anh ta lời vĩnh biệt.

An Tâm bước vào cổng, đi qua khu cấp cứu và một khoảng sân rộng, cuối cùng nhìn thấy một khu nhà nhỏ biệt lập, không có đền cũng không có người gác. Em đi theo lối thoát hiểm xuống tầng hầm. Hai năm trước, em đã từng đến nơi này, đó chính là nhà xác của bệnh viện.

Xuống tới nơi, em thấy một bảo vệ đang ngủ gật trên ghế, liền lay người đó dậy, hỏi bác Lý, người trông coi nhà xác có ở đó không. Anh chàng bảo vệ giật thót mình, miệng há hốc không nói nên lời. Hình như anh ta tưởng An Tâm là ma. Hai năm trước, An Tâm quen bác Lý, người trông coi nhà xác của bệnh viện suốt ba mươi năm và tự nhận rằng mình không sợ ma quỷ. Có lần, An Tâm ăn cơm cùng bác Lý ở nhà ăn bệnh viện, bác ta đã nói với em rằng thực ra ma quỷ không hề đáng sợ, chúng rất lương thiện, ban đêm vì buồn quá nên mới ra ngoài chơi, cứ kệ chúng thì không sao cả.

Anh bảo vệ trẻ tuổi có lẽ là người mới, còn chưa quen với không khí trong nhà xác, kinh hãi một lúc, anh ta mới run rẩy hít một hơi, hỏi: “Cô...cô là ai?”

An Tâm hỏi lại: “Bác lý có ở đây không? Tôi tìm bác ấy có việc.”

Bảo vệ run run đáp: “Bác ấy...không có ở đây, sáng mai bác ấy mới tới.”

“Mấy giờ?” An Tâm hỏi tiếp.

Lúc ấy, anh chàng bảo vệ đã trấn tỉnh lại được đôi phần, giọng nói cũng rõ ràng hơn: “Cô làm tôi sợ chết đi được. Cô đến đây có việc gì? Sáu giờ sáng mai bác Lý mới tới, bảy giờ người nhà mới được vào thay quân áo, trang điểm cho người quá cố.”

An Tâm gật đầu, cảm ơn bảo vệ rồi quay lại khu cấp cứu. Em nhìn đồng hồ, đã mười một giờ đêm, còn bảy tiếng nữa mới tới sáu giờ, không biết có nhà trọ nào gần đó không. Nghĩ ngợi một lát, em quyết định tìm một chiếc ghế trống nào đó trên hành lang để ngả lưng chờ trời sáng. Xung quanh đa số là bệnh nhân, bác sĩ và y tá chỉ có mấy người, An Tâm mơ màng nhắm mắt lại, không ai nhận ra em cả.

Bảy tiếng sau, An Tâm thức dậy, lại tới khu nhà xác, em nhìn thấy bác Lý ở ngay cổng. Nhìn một lúc bác Lý mới nhận ra em. Bác ta cũng biết Thiết Quân chính là con trai ông Hiệu trưởng Học viện Cảnh sát mà An Tâm đã từng chăm sóc. Bác lý có vẻ ngạc nhiên khi biết em và Thiết Quân đã kết hôn, sau đó nói với vẻ cảm thông: “Hôm nay làm lễ tang cho cậu ấy đúng không, cháu đến sớm nhỉ, có một mình cháu thôi à?”

“Hôm nay cháu có việc gấp, không ở lại dự tang lễ được. Trước khi đi, cháu muốn nhìn mặt anh ấy lần cuối, nói lời tạm biệt anh ấy, có được không ạ?” An Tâm nói

Khi nói tới hai chữ “tạm biệt”, mắt An Tâm bỗng chốc đỏ hoe. Bác Lý làm công việc này đã nhiều năm, lương tâm được đặt lên hàng đầu. Bác nhìn chiếc va ly trên tay An Tâm, vội đồng ý, sau đó rút chìa khóa mở cửa phòng lạnh. Thế là cuối cùng An Tâm cũng đã nhìn thấy Thiết Quân, cơ thể anh ta đã hơi bị biến dạng. Em ôm chầm lấy di hài của anh ta, những giọt nước mắt nóng hổi lăn dài trên má em rồi rơi xuống khuôn mặt lạnh băng của anh ta. Em biết những giọt nước mắt đó không thể nào đánh thức anh ta dậy, nó chỉ có thể chứng minh sự hối hận của em. Thiết Quân chết vì sai lầm của em, vì chuyện này mà em sẽ hối hận cả đời.

Ngoài sự hối hận, nước mắt còn nói lên sự cô đơn của em. Em biết, sau khi vĩnh biệt Thiết Quân, em sẽ trở thành một người cô độc, không thân thích, không nhà để về. Em sẽ phải đến một nơi xa lạ, hòa vào dòng người xa lạ, không bao giờ nhận được sự quan tâm, chăm sóc của Thiết Quân nữa.

Em nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt của Thiết Quân thì thầm vào tai anh ta: “Thiết Quân, em đi đây, giờ em chỉ có một mình, em rất sợ. Anh có thể chúc phúc cho em không?” Dứt lời, em yên lặng lắng nghe, dường như trái tim em đã nghe thấy tiếng nói của Thiết Quân.

An Tâm bật khóc, nói: “Em nghe thấy rồi, em cũng chúc phúc cho anh, Thiết Quân.”

Rồi An Tâm cởi sợi dây chuyền có mặt ngọc Quan Âm ra, để bên cạnh gối của Thiết Quân. Đó là vật may mắn mẹ đã tặng cho em, giờ em trao lại cho Thiết Quân, để nó thay mặt em vĩnh viễn ở cạnh anh ta, theo linh hồn anh ta bay lên trời. An tâm hôn nhẹ lên bờ môi mím chặt của Thiết Quân, cảm nhận hơi lạnh như băng giá. Cảm giác lạnh đó theo em đến tận sau này.

Cuối cùng, An Tâm đứng lên, bắt gặp ánh mắt ngạc nhiên và cảm động của bác Lý. Bác ta làm việc ở nhà xác đã ba mươi năm, hình như chưa bao giờ thấy cảnh ly biệt nào giống như thế này, nên ngẩn ra mãi, đến lúc An Tâm nói lời cám ơn, bác ta mới choàng tỉnh. Bác Lý giúp An Tâm đẩy Thiết Quân trở lại khăn lạnh, lúc đó mới nhìn thấy bên cạnh gối của Thiết Quân có một sợi dây chuyền có mặt ngọc Quan Âm.

“Bác Lý, cháu muốn nhờ bác một việc. Lát nữa, khi họ thay quần áo cho Thiết Quân xong, bác đặt mặt ngọc Quan Âm này vào trong áo anh ấy, có được không ạ?” An Tâm hỏi.

Bác Lý nhìn viên ngọc rồi quay sang nhìn An Tâm, gật đầu đáp: “Cháu cứ yên tâm.”

An Tâm cúi đầu cám ơn bác.

Trời đã sáng rõ. An Tâm xách va ly rời khỏi bệnh viện, từ khoảnh khắc đó, em đã không còn thuộc về thành phố này nữa. Em đi thẳng ra ga tàu, mua vé đi Bắc Khâu. Khi đoàn tàu đưa em rời khỏi Bình Quảng cũng là lúc mặt trời ló dạng sau những tòa nhà cao tầng.

Chưa đầy mười phút sau khi An Tâm rời khỏi bệnh viện, đồng nghiệp và người nhà của Thiết Quân đã dìu mẹ anh ta tới. Đi theo họ có một chuyên gia trang điểm nữa. Me Thiết Quân mang theo một bộ vest và áo sơ mi mới, nói muốn tự tay mặc quần áo cho con trai như khi anh ta còn nhỏ.

Tang lễ của Trương Thiết Quân bắt đầu từ lúc chín giờ sáng. Nghe nói người đến đưa tang rất đông, không kém gì tang lễ của một cục trưởng. Hôm đó, mẹ Thiết Quân đã có gắng kìm nén nỗi đau mất con để tiếp đón khách viếng rất chu đáo, khiến họ đều cảm thấy ngạc nhiên và xót xa.

Làm lễ xong, thi thể của Thiết Quân được đưa về nghĩa trang Cách mạng thành phố để hỏa thiêu. Mẹ Thiết Quân không nghe lời khuyên nên về nhà sớm của mọi người, mà ở đó cho đến khi việc hoả táng kết thúc. Chỉ khi đã nhìn tận mắt, sờ tận tay tro cốt của con trai, bà ta mới chịu về nhà. Về đến nhà, bà ta nói muốn ngủ một lát, thế là họ hàng thân thích ra về hết. Khi chỉ còn lại một mình trong nhà, bà ta đi vào phòng, đóng cửa lại rồi nằm lên giường khóc nức nở. Cùng lúc đó, chắc An Tâm cũng sắp đến thành phố Bắc Khâu.

Cuối cùng thì tôi cũng chứng thực được những suy đoán của mình về cuộc đời An Tâm, thông qua lời kể của chính em. Sau này, tôi cũng có dịp đi cùng em tới Bắc Khâu và Nam Đức, tận mắt thấy nơi em đã từng sống, từng chiến đấu nên có một cảm nhận rất chân thực và gần gũi. Chỉ có duy nhất một nơi tôi chưa từng đến, đó là Thanh Miên. Thanh Miên tuy không phải là nơi xảy ra nhiều biến cố nhưng nó là nơi khơi nguồn của linh hồn chủ nhân câu chuyện, đồng thời cũng là nơi mà An Tâm hay nhắc đến nhất.

An Tâm sống và làm việc ở Bắc Khâu không quá một trăm ngày. Em ở trong ký túc xá với mấy chị em công nhân của công ty vật liệu xây dựng. Họ chỉ biết cô gái xinh đẹp này mới từ quê lên, là con của bạn sếp. Họ nghĩ em là một cô bé ngây thơ, chưa trải đời, giống như tôi khi lần đầu tiên nhìn thấy em ở trường dạy võ. Nhưng em khác với những cô gái cùng trang lứa ở chỗ, em không thích nói cười, không thích hòa mình vào tập thể. Hằng ngày, em chỉ lặng lẽ đến chỗ làm rồi lại về nhà, cuộc sống tẻ nhạc và đơn điệu. Một cô gái sống khép kín như vậy sẽ không dễ gây ra điều tiếng thị phi.

Công ty của em cách ký túc xá khoảng một trăm mét, em làm nhân viên kiểm kê của bộ phận bán hàng. Đúng như lời đồng nghiệp ở Sở Cảnh sát Nam Đức nói, đãi ngộ ở công ty đó rất tốt, lương cao, cuối năm đều có thưởng, cộng lại nhiều hơn lương ở đội Phòng chống ma túy đến cả trăm tệ.

Công việc đơn giản, cuộc sống ổn định, thu nhập không tồi, mặc dù hơi tẻ nhạt, nhưng An Tâm lúc bấy giờ đã khác xa so với An Tâm của một năm trước, khi mới đến Nam Đức thực tập. Em mới trải qua một cuộc sinh ly tử biệt, chết chóc đau thương, nên em cần sự bình lặng và cô độc. Em không muốn thân thiết với bất kỳ ai, cũng không cần ai lắng nghe mình cả. Em chỉ muốn sống trong yên lặng. Nhưng cuộc sống bình lặng đó không kéo dài được lâu, ba tháng sau khi đi làm. An Tâm đã nộp đơn xin thôi việc và lặng lẽ rời khỏi Bắc Khâu ngay trong đêm.

Vội vàng ra đi như thế, tất nhiên là phải có nguyên nhân. Nguyên nhân đó hơi đặc biệt nhưng cũng thường thấy trong thời đại này. Sự thế là thế này, giám đốc mới của công ty vật liệu xây dựng, cũng là con trai của vị giám đốc cũ sau được thăng chức chủ tịch hội đồng quản trị, đã nhiều lần công khai cũng như bóng gió cầu hôn em.

Trong mắt An Tâm, tay giám đốc đó cũng là loại công tử đào hoa, cả ngày gái đẹp vây quanh. Sau khi thấy An Tâm, hắn ta liền thể tránh xa nữ sắc, chỉ một lòng một dạ với em. Hắn đã hơn ba mươi tuổi, tuy mạnh miệng tuyên bố thế nhưng cũng chẳng kiên trì được bao lâu. Chiến lược theo đuổi An Tâm của hắn cũng giống như của tôi, nào là mời đi ăn cơm, tặng quà, lại còn hỏi han quan tâm đến cuộc sống của em nữa. Tuy nhiên hắn ta hơn tôi ở chỗ, khi bị từ chối, hắn thường ỷ thế là giám đốc để gọi em lên văn phòng “bàn chuyện công việc”. An Tâm không có cách nào để né trách, biện pháp duy nhất em có thể nghĩ ra được là gọi điện thoại cho sếp Phan. Nhưng sếp Phan thì có thể làm gì, ngoài dặn dò em mấy cách từ chối khéo.

Cách mà sếp Phan bày cho An Tâm quá tầm thường, chẳng là gì với một tên lão luyện tình trường, ỷ có tiền là có tất cả như tay giám đốc kia. Chỉ còn duy nhất một cách, đó là nói thẳng với hắn ta, em là một cảnh sát phòn chống ma túy, hiện đang mai danh ẩn tích để trốn chạy sự trả thù của tội phạm, em đã có chồng con, không phải dạng thôn nữ mới lên thành phố. Chỉ có cách đó, may ra mới khiến hắn ta sợ mà rút lui. Tuy nhiên, sếp Phan lại cực lực phản đối, không cho phép em nói ra thân phận thật.

Sở dĩ tay giám đốc đó có tiền có quyền là nhờ thừa kế từ dòng họ. Loại người đó thường thích ba hoa, lạm dụng chức quyền, đặc biệt là về mặt nhân sự. Một câu nói của hắn ta có thể đưa An Tâm từ vị trí nhân viên quèn lên thành thư ký giám đốc ngay. Thế là, ngay khi hắn ta nói với em về ý định đó và trao ch em chìa khóa căn hộ hắn mới mua tặng em thì An Tâm đã ngay lập tức quyết định nghỉ việc và rời khỏi Bắc Khâu.

Em trở về Thanh Miên. Lúc đó, trong lòng em chỉ có ý muốn về nhà, bố mẹ và con em đang chờ em ở đó.

Được đoàn tụ với bố mẹ, đặc biệt là được gặp con trai sau ba tháng xa cách là một cảm giác xúc động khó lòng diễn tả đối với An Tâm. Nếu không có thằng bé, có lẽ em sẽ không đau khổ và xót xa đến vậy. Em thương nó không có bố, tự đáy lòng em chưa từng coi Mao Kiệt là bố của đứa bé. Chỉ có em mới là người giữ trách nhiệm nuôi dưỡng, che chở nó.

An Tâm đã đặt một cái tên khác cho thằng bé, theo gợi ý của mẹ em, là An Hùng. Em rất thích cái tên này, vừa đơn giản vừa mạnh mẽ. Ở nhà, em thường gọi thằng bé là Tiểu Hùng. Mỗi lần nhìn thấy con trai, An Tâm lại phải cố gắng kìm nén để không nhớ về Trương Thiết Quân. Anh ta và thằng bé đã chẳng còn bất kỳ mối liên hệ nào nữa rồi. Điều đó khiến em vô cùng đau khổ. Sau những biến cố và mất mát mới xảy ra, An Tâm gần như đã kiệt sức, nỗi đau khi nhớ về Thiết Quân khiến An Tâm không thể chịu đựng được.

Cũng may mà được ở cùng bố mẹ tại quê nhà bình yên và tươi đẹp nên An Tâm mới có thể dần bình tâm lại. Đã có lần, An Tâm tả cho tôi nghe về ngôi nhà xinh đẹp, mang đậm phong cách kiến trúc dân tộc thiểu số phương Bắc của gia đình em. Tường xám ngói xanh, hiên trước hè sau, xà nhà được trang trí bằng những hoa văn lạ mắt... Sở dĩ ngôi nhà được thiết kế như vậy là vì mẹ em là người phương Bắc. Một ngôi nhà đẹp đẽ nhường ấy, cộng thêm khung cảnh sơn thủy hữu tình, quả thật giống như chốn bồng lai tiên cảnh mà ai cũng muốn một lần được đặt chân tới. Căn nhà đó là công sức và tài sản một đời của bố mẹ em. Chỉ tiếc là khi nó được xây xong thì cũng là lúc em bắt đầu học xa nhà, từ đó về sau ít có dịp quay về. Lần này về nhà, An Tâm không khỏi cảm thấy có chút lạ lẫm. Ngày nào em cũng ở nhà, ngắm nhìn thật kĩ từng góc sân, khoảnh vườn, chạm vào từng vật dụng trong nhà, nhằm tìm lại cảm giác thân thuộc.

Em dành nhiều thời gian để chơi với con, ngồi canh giấc ngủ cho nó. Nhìn cặp chân mày hơi nhíu lại mỗi khi ngủ của thằng bé, thật sự rất giống Thiết Quân, nhưng ngũ quan thì lại giống Mao Kiệt, đặc biệt là cái miệng.

Thực ra, trong trí nhớ của An Tâm, hình tượng của Mao Kiệt đã thay đổi rất nhiều. Em chỉ còn nhớ được khuôn mặt lạnh lùng, vô cảm của anh ta khi ở phiên tòa. Khuôn mặt vô cảm đó, cộng thêm việc anh ta dẫn anh trai nửa đêm xông vào nhà em, giết chết Thiết Quân đã tạo cho em ấn tượng không bao giờ phai nhạt của sự tàn ác.

Ở nhà được hơn nửa tháng, An Tâm bắt đầu suy tính cho tương lai của mình. Tuy xưởng sản xuất thuốc đông y của bố mẹ em đã đóng của, lương của mẹ em cũng không cao, nhưng gia đình em vẫn có cuộc sống đầm ấm, thân thiết. Nhưng càng hưởng tình yêu thương của bố mẹ bao nhiêu, em lại càng lo lắng cho tương lai mờ mịt của bản thân bấy nhiêu.

Từ nhỏ, An tâm đã không chịu được sự nhàn rỗi, chỉ ngồi không hưởng lạc. Bố em khuyên nên ở lại quê để học nghề y của gia đình. Ông nói nghề thầy thuốc không bao giờ sợ hết thời cả, cho dù thế giới có phát triển đến đâu thì đông y vẫn được người ta tin tưởng, sớm muộn cũng có ngày người nước ngoài sang Trung Quốc để học bắt mạch kê đơn.

Nhưng mẹ An Tâm lại không muốn em theo nghề thuốc gia truyền. Trong suy nghĩ của bà, con gái học y rất vất vả, người bệnh cũng không mấy tin tưởng. Mẹ An Tâm là người có học vấn, lý tưởng của bà là muốn con gái thoát khỏi miền quê hoang vắng đó để bước ra ngoài xã hội. Bà cho rằng, khi còn trẻ nên ra ngoài xã hội học hỏi, dù sự nghiệp không thành thì cũng được rèn luyện. Ngoài ra, bà cũng có phần sợ hàng xóm dị nghị. Con gái bà rồi cũng phải tính chuyện lập gia đình. Ở vùng thôn quê, nếu có mối nào tốt mà người ta thấy mình thân gái nuôi con thì cũng khó chấp nhận.

Cho nên, bà đã nói với An Tâm: “Mẹ không nỡ để con đi, con ở nhà cả đời mẹ cũng có thể nuôi con. Nhưng con là sinh viên đại học, ở nhà mãi thế có được không? Con còn muốn đến Bình Quảng nữa không?”

Khi nghe mẹ hỏi câu này, An Tâm chỉ im lặng không đáp. Mẹ em lại nói: “Còn Tiểu Hùng, con cứ yên tâm, mẹ sẽ trông cháu.” An Tâm vẫn không nói gì. Đến khi đi ngủ, em mới nói với mẹ: “Mẹ, nếu con phải đi, con sẽ rời xa Vân Nam, đến một nơi xa hơn nữa. Con sẽ mang Tiểu Hùng đi cùng.”

Thế là bảy ngày sau, An Tâm xách một túi hành lý nhỏ, cầm theo số tiền vỏn vẹn ba nghìn năm trăm tệ mà bố mẹ em gom góp được, bế đứa con đang ngủ say, lên chuyến tàu đêm từ Thanh Miên đến Bình Quảng. Sáng hôm sau, hai mẹ con em đã đến nơi, khi thành phố chìm trong sương mù.

An Tâm xuống tàu liền đi thẳng đến nghĩa trang Cách mạng. Em không biết sau này mình có dịp quay lại đây nữa không, chính vì vậy, em muốn đến thăm Thiết Quân lần cuối.

Theo chỉ dẫn của người quản trang, An Tâm nhanh chóng tìm thấy phần mộ của Thiết Quân. Em mua hai bó hoa tươi, đặt lên mộ, thầm nói lời từ biệt. Em không khóc, mặc dù Thiết Quân là người đầu tiên mang đến cho em một gia đình hạnh phúc, trong khi chính em đã làm nó tan vỡ; mặc dù sự ra đi của anh ta khiến em trở nên cô độc, không nơi nương tựa, tiền đồ mù mịt nhưng em chỉ có thể kiên cường bước tiếp, vì đứa con của mình.

Khi em rời khỏi nghĩa trang, nhân viên đã hỏi tên tuổi của em, sau đó đưa cho em một số điện thoại, nói có người nhờ anh ta đưa giúp, hi vọng em sẽ liên lạc với người đó.

An Tâm nhìn số điện thoại và cái tên viết bên dưới, Lý Toàn Phúc. Một cái tên hoàn toàn xa lạ.

Một tiếng sau, tại một quán ăn nhỏ, em và Lý Toàn Phúc đã gặp nhau. Vừa gặp em đã nhận ra đó chính là bác Lý làm việc ở nhà xác của bệnh viện Nhân Dân.

Hai người ngồi đối diện nhau. Không hỏi han dông dài, bác Lý lấy một vật từ trong túi ra, để lên bàn. An Tâm vừa nhìn thấy đã nhận ra vật đó. Lúc trước, khi đến từ biệt Thiết Quân, em không hề khóc, nhưng vừa nhìn thấy vật đó, nước mắt em bỗng trào ra.

Đó chính là sợi dây chuyền ngọc Quan Âm.

Bác Lý nhấp một ngụm trà, nói: “Người nhà của Thiết Quân không đồng ý để cậu ấy mang vật này đi cùng.”

An Tâm cầm miếng ngọc lên, vuốt nhẹ rồi nói: “Bác Lý, cháu làm phiền bác rồi.”

Bác Lý nhìn đứa bé trong lòng An Tâm và túi hành lý để dưới đất, hỏi: “Cháu phải đi xa à?”

“Vâng, cháu sẽ đến một nơi rất xa, không quay lại đây nữa.” An Tâm nói thật lòng mình.

Chiều hôm đó, sau khi chia tay người trông coi nhà xác có tâm hồn lương thiện đó, An Tâm lại lên tàu hoả, bắt đầu chuyến đi thực sự của đời mình. Sau ba ngày ba đêm chen chúc mệt mỏi trên tàu, vào một buổi sáng trời mưa lất phất, em chính thức đặt chân xuống thành phố Bắc Kinh.

Bắc Kinh, thành phố đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng em. Ở đây, em đã có một tuần trăng mật đáng nhớ. Em không kỳ vọng Bắc Kinh sẽ mang đến cho em một sự nghiệp lẫy lừng, vì một cô gái có số phận bất hạnh, lai lịch không rõ ràng, lại mang theo con nhỏ như em, để có thể tồn tại được ở vùng đất này thì quả không phải là chuyện dễ dàng. Em lựa chọn đến Bắc Kinh vì trên mọi phương diện, nó đều rất xa lạ với em. Chỉ cần tìm được chỗ ở, có việc để làm và kiếm tiền thì em tin là mình có thể quên được quá khứ, sẽ biến thành một con người khác. Chính vì vậy, đối với An Tâm, Bắc Kinh có một ý nghĩa vô cùng sâu xa, đó là nơi để em trốn chạy khỏi đau thương, mang đến cho em hi vọng về một cuộc sống khác. Ngoài ra, em đến Bắc Kinh còn vì ở đây có người quen của em. Người đó trước đây từng làm thầy dạy Taekwondo cho em. Lần đến Bắc Kinh nghỉ tuần trăng mật, em cũng có ghé thăm ông ta.

An Tâm thuê một căn phòng rộng sáu, bảy mét vuông của một gia đình nông dân để ở, tiền thuê phòng mỗi tháng tám trăm tệ, bao gồm cả tiền thuê chủ nhà trông con hộ. Sau khi ổn định chỗ ở, em mới đi tìm nhà của người thầy dạy võ. Nhưng đến nơi em mới biết ông ta đã dọn nhà đi chỗ khác, không rõ là đi đâu. Em lại đi khắp nơi hỏi thăm thêm ba ngày nữa mới hay tin, thầy bị bệnh ung thư, con trai thầy đã đón thầy về ở cùng, hiện tại thầy đang ở bệnh viện An Hiền.

Nếu ngồi taxi thì rất dễ tìm, vì tài xế nào cũng biết địa chỉ bệnh viện, nhưng An Tâm lại không có tiền đi taxi, nên em hỏi đường, vừa đi bộ vừa đi xe buýt, mất hai tiếng đồng hồ mới đến được bệnh viện An Hiền. Trong một căn phòng nhỏ tại tầng ba của bệnh viện, em đã gặp lại người thấy dạy võ đang trong tình trạng gần đất xa trời của mình. Không thể xin sự giúp đỡ, em đến chỉ để thăm thầy lần cuối cho trọn nghĩa thầy trò. Cũng may mà thầy của An Tâm còn tỉnh táo, có thể viết một bức thư gửi cho một học trò của mình, ngờ người đó tìm giúp An Tâm một công việc. Khi thầy giáo trao cho An Tâm bức thư, An Tâm đã bật khóc, em cảm thấy mình còn rất may mắn, cuộc đời em gặp được quá nhiều người tốt.

Ra khỏi bệnh viện, An Tâm đứng trên vỉa hè, nhìn địa chỉ ghi trên góc phong bì, thầy giáo còn viết chỉ dẫn bắt xe buýt thế nào nữa. Em tìm đến địa chỉ được ghi, đó là một tòa nhà lớn có cổng sắt kiên cố, trên tấm biển trước cổng ghi “Trường dạy võ Kinh Sư”.

Hai tháng sau, vào một buổi chiều nắng vàng rực rỡ, An Tâm một tay cầm giẻ lau, tay kia xách xô nước, bước đi dọc hành lang. Trong phòng tập, những ánh mắt hiếu kỳ và thích thúc đang dõi theo từng bước đi của em, trong đó có ánh mắt của tôi và Lưu Minh Hạo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Một năm sau khi gặp An Tâm ở trường dạy võ, một tuần sau khi chúng tôi và Chung Ninh đường ai nấy đi, tôi đã đón An Tâm và Tiểu Hùng về nhà mình, bắt đầu cuộc sống của một gia đình.

Lần sống chung này không giống với lần tôi bị thương ở chân và An Tâm phải ở lại chăm sóc, vì lần này là sống cùng nhau. Đó giống như lời tuyên ngôn, là sự lựa chọn sau khi suy nghĩ kĩ, là sự đồng thuận của đôi bên và sự an ủi mà chúng tôi nhận được từ nhau. Cuộc sống này khiến tôi ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình và dường như tôi đã trở thành một người chín chắn.

Sáng nào An Tâm cũng dậy sớm, nấu cơm cho tôi và đứa bé ăn, trong khi tôi giúp Tiểu Hùng thay quần áo, nói chuyện và chơi đùa với nó. Sau đó, chúng tôi ăn cơm, rồi An Tâm vội vàng đến trung tâm thương mại bán hàng. Tôi đưa Tiểu Hùng tới một khu tập thể cũ gần trung tâm thương mại để gửi. Người trông trẻ là một bà lão rất hiền từ, nhận trông trẻ chủ yếu là để cho vui cửa vui nhà nên tiền công rất rẻ.

Đưa Tiểu Hùng đến nhà trẻ xong là tôi đi tìm việc. Tôi rất cần một công việc, bởi tôi phải nuôi An Tâm và con của cô ấy. Khi người bạn yêu cần đến bạn, bạn sẽ thấy mình mạnh mẽ và hăng hái khác thường. Đồng thời, tôi cũng thay đổi yêu cầu của mình đối với công việc. Trước kia, tôi làm việc gì cũng được, nhưng từ khi sống cùng mẹ con An Tâm, tôi cần một công việc có thu nhập ổn định.

Ban đầu, tôi không ngờ chuyện đi xin việc lại gây tổn thương đến lòng tự tôn đến thế. Với ngoại hình ưa nhìn, tấm bằng đại học, tài ăn nói lưu loát và chút ít kinh nghiệm, tôi đã nghĩ dù mình không phải nhân tài kiệt xuất thì cũng không đến nỗi thất nghiệp. Vậy mà đi hết mấy công ty, tôi chỉ được coi là một cử nhân quèn, mà cử nhân quèn thì không hề thiếu trong xã hội này. Nếu không có người quen cất nhắc, giới thiệu thì với chút ưu điểm và kinh nghiệm ít ỏi đó, tôi chắc chắn không cạnh tranh nổi.

Thậm chí, tôi còn đến một công ty máy tính xin làm chân bốc vác. Nói một cách văn vẻ thì tôi làm nhân viên quản lý cung ứng cho họ, nhưng công việc hằng ngày chủ yếu là việc tay chân. Sau đó, tôi nhận thấy khuân vác máy tính cũng chẳng khác gì khuân vác gạo hay gỗ nên làm được ba ngày thì tôi xin nghỉ.

Tôi đành phải nhờ đến mấy mối quen biết khi còn làm ở công ty Quốc Ninh, nhưng cũng chỉ được hai chỗ là thôi ngay. Vì họ đều là khách hàng thân thiết của Quốc Ninh nên cũng biết chuyện tình tay ba giữa tôi, Chung Ninh và An Tâm. Trong mắt họ, tôi là một gã Sở Khanh đáng ghét, không được thông cảm. Cho dù tôi có đeo tấm biển làm không công trước ngực, chắc họ cũng chẳng cần.

Không ai có thể giúp được tôi, kể cả Lưu Minh Hạo và bố tôi. Tôi nhắn tin cho Lưu Minh Hạo mấy lần nhưng cậu ta không trả lời, gọi điện thì thấy một cô gái nói giọng địa phương nghe máy. Vừa nghe tôi đã biết đó là thư ký của Lưu Minh Hạo, cô ta bắt tôi xưng danh, sau đó nói rằng Lưu Minh Hạo đi công tác rồi, không có ở công ty. Tôi biết cậu ta đang ở đó, vốn định nhờ thư ký chuyển lời giúp nhưng nghĩ lại thôi, hà tất phải cầu cạnh người ta như thế.

Tôi về nhà tìm bố, nhưng nhìn dáng vẻ tiều tụy của ông, tôi không biết phải mở miệng thế nào. Không lâu sau khi tôi từ chức, bố tôi cũng bị công ty Quốc Ninh đuổi việc, lý do là ông để cho công nhân đánh nhau. Thực tế thì đó không phải là lỗi của bố tôi nhưng Chung Quốc Khánh nói vì bố tôi quản lý không nghiêm nên mới xảy ra chuyện đó rồi đuổi việc bố tôi. Ông không thèm kiện công ty, vì họ đã có ý định đuổi mình thì họ nói gì mà chẳng được. Bố tôi không hận Chung Ninh và Chung Quốc Khánh, người ông hận nhất là tôi.

Mỗi tháng, tiền lương cơ bản của An Tâm cũng chỉ có hai trăm tệ, ngoài ra đều là phần trăm doanh thu bán hàng. Tháng nào bán được nhiều thì hưởng được tám, chín trăm tệ, có tháng nhiều nhất là hai nghìn sáu, tháng nào bán được ít thì chỉ được bốn, năm trăm tệ. Tháng được hai nghìn sáu trăm tệ, em đã trích ra một nghìn năm trăm tệ trả cho sếp Phan. Lần Tiểu Hùng bị sốt cao, đúng lúc sếp Phan đến Bắc Kinh công tác nên đã cho em mượn hết số tiền một nghìn tệ mang theo phòng thân, đó cũng chính là lần tôi nhìn thấy An Tâm khóc lóc trước mặt sếp Phan ở cổng trường dạy võ. Sau đó, ông ta lại gửi cho An Tâm năm nghìn tệ để trả nợ cho tôi nữa.

Ngay từ ngày đầu tiên chính thức sống chung dưới một mái nhà, tôi và An Tâm đã gặp phải biết bao khó khăn, gian khổ, nhưng đó cũng là thời gian vui vẻ và hạnh phúc nhất. Trong những ngày tháng đó, chúng tôi đã có được sức mạnh từ tình yêu mà đối phương dành cho mình. Dù có cực khổ đến mấy, chúng tôi cũng không hề oán trách nhau. Mỗi buổi sáng khi tạm biệt, chúng tôi đều khích lệ lẫn nhau, tâm niệm sống là vì nhau, nỗ lực vì nhau. Chính vì vậy, tinh thần luôn rất thoải mái. Ban ngày, dù có những chuyện không vui nhưng chúng tôi đều biết mình có một gia đình và mong chờ trời tối để quay về tổ ấm của mình. Tối đến, chúng tôi thường ngồi dựa vào vai nhau trên tấm thảm đối diện sô pha, ngắm nhìn Tiểu Hùng đang say ngủ. Vì muốn tiết kiệm tiền điện, chúng tôi thường tắt hết đèn, không bật ti vi mà cứ ngồi nói chuyện với nhau như vậy, thậm chí có hôm chỉ lặng lẽ ngồi cạnh nhau cũng đủ thấy hạnh phúc.

Nếu không tính chi phí nuôi con thì một tháng, chúng tôi chỉ tiêu chưa đến hai trăm tệ. An Tâm nói rau cháo qua ngày cũng được, em chịu khổ quen rồi, chỉ ngại cho tôi đã quen ăn sơn hào hải vị, giờ phải ăn những món thiếu dinh dưỡng, làm sao chịu được. Tôi bảo không sao cả, sức khỏe của tôi rất tốt, chỉ là từ trước tới nay luôn gầy gò thôi. Tất nhiên là tôi không hề phiền muộn vì chuyện cơm canh đạm bạc, vì tôi đã có một liều thuốc bổ cực tốt, chính là tình yêu của An Tâm.

Một thời gian sau, do không tìm được công việc thích hợp, tôi đành phải làm công việc chân tay, từ bê sách ở nhà xuất bản, bưng bê ở quán giải khát đến chuyển dây cáp ở sở điện… Tóm lại là việc gì kiếm ra tiền, tôi đều không chối từ.

Lúc đó, nếu tôi không yêu thương An Tâm và không nhận được sự yêu thương của em thì chắc chắn không thể kiên trì chịu khổ như vậy được. Có lần, khi tôi đi giao bia cho một nhà hàng sang trọng thì gặp ngay một trong những cô gái trước đây từng theo đuổi tôi ở cửa. Cô ta đi cùng một đám bạn sành điệu đến đó ăn cơm, nhìn thấy tôi, dường như cô ta không nhận ra, ngạc nhiên hỏi: “Ồ, Dương Thụy phải không? Sao trông anh thê thảm vậy? Nghe nói anh thôi việc ở Quốc Ninh rồi đúng không? Sao, giờ chuyển sang bán bia hả? Hay là anh đang trải nghiệm cuộc sống?” Tôi không biết là cô ta hỏi thật lòng hay đang chế giễu tôi nữa, bèn cười, nhìn thẳng vào mặt cô ta, đáp: “Không, là cuộc sống đang thử thách tôi mới đúng.”

Không sai, cuộc sống đang thử thách tôi, xem còn điều gì mà tôi không thể chịu đựng nổi. Nếu là mệt mỏi, đói khát, thất vọng hay mất thể diện thì tôi đều đã nếm trải rồi. Tôi tin rằng tất cả những khó khăn trước mắt đều là thử thách mà Thượng Đế sắp đặt cho tình yêu của chúng tôi, nhất định sẽ có một ngày tôi lại được nở mày nở mặt với thiên hạ.

Trong những tháng ngày gian khổ khắc cốt ghi tâm đó, cửa ải khó khăn nhất chính là việc Tiểu Hùng bị ốm. Thằng bé cứ sốt cao không hạ, đang đêm chúng tôi phải đưa nó đến bệnh viện khám, nguyên nhân cũng giống như lần trước, là bệnh viêm màng não.

Bác sỹ nói Tiểu Hùng phải nhập viện, viện phí ít nhất là ba nghìn tệ, nếu thiếu bệnh viện sẽ không nhận. Chúng tôi bó tay, không thể xoay đâu ra ngần ấy tiền. Trong lúc cấp bách, tôi đã đưa An Tâm và đứa bé đến tìm bố tôi.

Vào lần về nhà sau khi chia tay Chung Ninh, tôi và bố đã cãi nhau một trận kịch liệt. Hôm đó, bố tôi uống rượu, hơi men bốc lên, ông đã chửi bới tôi thậm tệ, thậm chí còn chửi cả An Tâm. Tôi không nhịn được, cãi lại rồi tức giận bỏ đi, suýt nữa đã nói là sẽ không bao giờ gặp lại ông nữa. Nhưng đến khi nhìn thấy Tiểu Hùng ốm, còn An Tâm thì lo lắng khóc lóc, với tư cách là người đàn ông trụ cột của gia đình, tôi chỉ còn cách dẹp sĩ diện sang một bên và quỳ gối xin sự giúp đỡ của bố.

Chúng tôi đi xe buýt đến hồ Đoàn Kết. Tôi vốn định để An Tâm và con đứng ngoài đợi nhưng hôm đó trời mưa, xung quanh không có chỗ trú. Hơn nữa, tôi sợ ngay cả đến nhìn mặt bố tôi cũng không muốn, chứ đừng nói đến chuyện vay tiền, thế là bảo An Tâm bế Tiểu Hùng đi cùng, biết đâu bố tôi nhìn thấy thằng bé ốm nặng như vậy lại mủi lòng thì sao.

Nhưng cửa vừa mở ra, tôi đã thấy ớn lạnh sống lưng. Bố tôi lại uống rượu, lúc đó đã ngà ngà say rồi. Đó là lần đầu tiên ông gặp An Tâm nên không tránh khỏi ngạc nhiên. Tôi vội lên tiếng: “Bố, đây là An Tâm. Con cô ấy ốm nặng lắm, bố có thể giúp chúng con không?”

Mặt bố tôi đỏ lừ, không biết là do uống nhiều hay đang tức giận. Ông lè nhè nói từng chữ nhưng rất lớn tiếng, dường như đang trút nỗi uất ức bấy lâu.

“Tôi giúp các người thì ai giúp tôi? Dương Thụy, mày có còn là con tao không hả? Bố mày đang thất nghiệp, không có cơm ăn mà mày còn không lo! Tao chỉ có chút tiền lương hưu, còn mày thanh niên sức dài vai rộng, lại đến nhờ vả ông già này nữa hả? Nếu để hàng xóm biết, người ta không cười vào mặt mày mới là lạ.”

Tôi nén giận, nói: “Bố, thằng bé bị viêm màng não, nếu không chữa ngay sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Thôi thì bố giúp chúng con đi, con cầu xin bố.”

Bố tôi không thèm nhìn đứa bé và An Tâm nhưng lại chỉ vào họ, nói với tôi: “Đây là con của ai, của mày hả? Là con cháu nhà họ Dương này hả? À, mà giờ mày cũng không giống con cháu nhà họ Dương nữa rồi. Người nhà họ Dương không làm nổi những chuyện mất mặt như thế.”

Cuối cùng, tôi điên tiết, lớn tiếng cãi: “Con đã làm gì chứ? Con chẳng làm gì khiến bản thân phải hổ thẹn cả!”

“Mày không cảm thấy hổ thẹn à? Mày không thấy hổ thẹn nhưng tao thì xấu hổ muốn chết đây này! Ai cũng nói con đàn bà này chẳng ra gì, thế mà mày lại không tin, nếu nó tử tế thì sao lại có đứa bé này? Mày nói đây không phải là con mày, thế sao mày cứ phải ôm nó chạy vạy khắp nơi thế? Mày còn mặt mũi đưa nó về cái nhà này nữa, mày không cảm thấy xấu hổ thì tao xấu hổ thay cho mày! Mày mang chúng nó cút đi cho tao nhờ!”

Tôi tức điên lên, xông tới túm lấy cổ áo ông, dáng vẻ như muốn một mất một còn, nhưng ngoài việc hét lên câu: “Bố nói cái gì?” ra thì không thể làm gì được. An Tâm một tay bế đứa bé, một tay kéo tôi lại, hét lên: “Dương Thụy, anh buông tay ra! Đây là bố anh đấy, anh buông tay ra mau, Dương Thụy.” Tôi buông tay ra, bố liền tát tôi một cái rất mạnh, đồng thời quát lớn: “Mày không phải con tao. Mày vì con đàn bà này mà dám đánh cả bố mày. Mày đúng là đồ súc sinh!”

Nước mắt tôi trào ra, toàn thân tôi run lên, tôi quay người bỏ chạy khỏi căn nhà nơi tôi đã từng lớn lên.

An Tâm vội vã chạy theo tôi. Chúng tôi còn nghe thấy tiếng bố tôi chửi với theo: “Mày có giởi thì đừng quay về đây nữa, tao không có đứa con như mày, mày cũng đừng nhận tao là bố. Coi như tao tốn công nuôi mày hai mươi năm nay.”

Tôi chạy ra đường lớn, nước mưa hòa cùng nước mắt, khiến mắt tôi nhòa đi. Tất cả đường phố, xe cộ lẫn người đi đường đều như bị che phủ bởi một lớp kính dày mờ ảo. An Tâm một tay cầm ô, một tay ôm Tiểu Hùng, khó khăn lắm mới đuổi kịp tôi. Tôi đứng ở bên xe buýt, toàn thân ướt sũng, một mực cúi đầu vì không muốn em thấy tôi đang khóc. An Tâm đi đến, che chiếc ô lên đầu tôi, nói: “Dương Thụy, anh và bố giận nhau là vì em, em cảm thấy rất đau khổ. Dù sao ông ấy cũng là bố anh, đã sinh ra và nuôi nấng anh hai mươi năm nay, còn em và Tiểu Hùng chẳng là gì cả…”

Tôi quay sang ôm lấy An Tâm và cả Tiểu Hùng đang sốt hầm hập, chiếc ô trên đầu nghiêng ngả rồi rơi xuống đất, chúng tôi cũng mặc kệ không nhặt. Tôi ôm chặt lấy hai mẹ con em, không thốt nên lời. Xe buýt vào bến, có mấy người bước xuống, sau đó tài xế đóng cửa lại và chạy tiếp. Tôi vẫn ôm chặt An Tâm và đứa bé, mặt tôi chạm vào má em, tôi có thể cảm nhận được bờ vai em đang run rẩy. Em nói: “Em đã nói rồi mà, em là hồ ly tinh, bất kỳ người đàn ông nào ở gần em đều gặp xui xẻo cả.”

Tôi càng ôm em chặt hơn, giọng nói của tôi hòa cùng tiếng mưa đang ngày càng nặng hạt. “Anh cần em, cũng cần cả Tiểu Hùng nữa. Anh sẽ không gặp xui xẻo đâu. Sau này, chúng ta nhất định sẽ hạnh phúc!”

Một tiếng sau, tại bệnh viện tôi đã nói với bác sĩ rằng thằng bé chính là con tôi. Tôi đưa chứng minh thư của mình và của An Tâm cho bác sĩ, nói: “Thằng bé cũng là một công dân của đất nước này, các chị không thể thấy chết mà không cứu được. Tôi để giấy tờ tùy thân ở đây, các chị cho nó nhập viện trước, tôi sẽ mang tiền đến sau.”

Nữ bác sĩ đó mới ngoài ba mươi tuổi. Chị ta nhìn tôi rồi lại nhìn An Tâm, chắc là thấy dáng vẻ chúng tôi không giống người làm cha mẹ lắm, liền nghi ngờ hỏi: “Cậu là bố thằng bé sao? Sao cậu họ Dương thằng bé lại mang họ An?... À, theo họ mẹ.”

Nói rồi, bác sĩ nhìn chằm chằm vào An Tâm, cũng may Tiểu Hùng rất giống em. Sau đó, bác sĩ nói: “Theo luật, chúng tôi không có quyền giữ giấy tờ của hai người. Thế này đi, tôi sẽ hỏi bộ phận nội trú của bệnh viện, hai người bế thằng bé đến phòng điều trị truyền nước trước, có nhập viện được hay không, lát nữa hãy nói. Hai người nộp trước phí truyền nước đi.”

Tôi và An Tầm quay sang nhìn nhau. Tôi bảo An Tâm đưa Tiểu Hùng đi truyền nước trước, còn mình sẽ đi lấy tiền. Khi tôi vừa quay người dợm bước thì An Tâm gọi tôi lại. Trước mặt bác sĩ, em không tiện nói to, chỉ thì thầm hỏi: “Dương Thụy, anh lấy đâu ra tiền?”

Tôi cũng không biết sẽ lấy tiền ở đâu ra, đành trả lời qua quýt: “Tìm ai đó vay tạm.”

Sau đó, bác sĩ kê đơn rồi dẫn An Tâm đến phòng điều trị, nói với y tá để Tiểu Hùng được truyền nước trước.

Tôi rời khỏi bệnh viện, che chiếc ô hồng đã bạc màu, đứng ngây ra trong mưa, không biết nên đi đâu. Suy đi tính lại, vẫn chỉ có Lưu Minh Hạo là có thể nhờ cậy được. Tôi không gọi điện mà đi thẳng tới nhà cậu ta, nếu cậu ta không có ở nhà, tôi sẽ ngồi đợi cho kì được mới thôi. Tôi thầm mong ước tối hôm trước, cậu ta đi quán bar chơi bời mệt quá nên vẫn còn ngủ nướng ở nhà. Có lần cậu ta đã nói, khi mưa to gió lớn, thích nhất là được ở nhà trùm chăn ngủ mà, nếu ngoài trời đang có tuyết rơi thì càng tuyệt.

Đến nhà Lưu Minh Hạo, tôi gõ cửa, không thấy cậu ta ra mở, không biết là chưa ngủ dậy hay là lười không muốn dậy, mà có khi cậu ta nhìn thấy tôi qua mắt thần ở cửa nên giả vờ không có nhà cũng nên. Tôi nhẫn nại gõ cửa suốt mười phút, đến mức hàng xóm đều mở cửa ra nhìn và bản thân cũng cảm thấy xấu hổ, đang thất vọng định đi xuống lầu thì cửa mở.

Lưu Minh Hạo quần áo xộc xệch, hai mắt lim dim, thấy tôi đứng ở cửa trong tình trạng ướt nhẹp từ đầu đến chân thì ngây ra, có vẻ vừa ngại ngùng vừa ngạc nhiên.

“Dương Thụy? Sớm thế này cậu đến nhà tôi làm gì? Ồ, đã mười một giờ rồi cơ à… Nào, mau vào nhà đi! Dạo này cậu làm ở đâu vậy, chẳng ai tìm thấy cậu cả.”

Tôi bước vào nhà. Sàn nhà vừa được trải thảm mới nên tôi chỉ đứng ở cửa chứ không dám bước tiếp, dáng vẻ thật chẳng khác gì một anh nhà quê sợ làm bẩn thảm của nhà chủ. Lưu Minh Hạo đưa dép cho tôi, hỏi: “Bên ngoài mưa to quá nhỉ, có muốn thay quần áo không?” Tôi vẫn đứng yên tại chỗ, cởi bộ quần áo ướt ra rồi mặc chiếc quần vừa rộng vừa ngắn cùng chiếc áo thun Lưu Minh Hạo vứt cho vào người, xong xuôi bước vào phòng khách.

Lưu Mình Hạo cũng thay quần áo chỉnh tề rồi ngồi xuống sô pha đối diện với tôi, hỏi: “Dạo này thế nào, cậu sống một mình hay là…?”

“Sống cùng An Tâm.” Tôi đáp.

Lưu Minh Hạo tỏ ra kinh ngạc, nhưng tôi biết cậu ta chỉ giả bộ, chắc chắn trong lòng cậu ta đang nghĩ: “Cái thằng này được lắm, cuối năm chia tay Chung Ninh, qua Tết đã có “bồ” mới ngay rồi.”

Tôi nói với Lưu Minh Hạo: “Hiện giờ tôi đang rất khó khăn, cậu có thể cho tôi mượn ít tiền không?”

Hình như Lưu Minh Hạo đã sớm đoán ra mục đích tôi đến tìm cậu ta, suốt ngày lê la ở quán bar với nhà hàng, ai có chuyện gì cậu ta đều biết cả.

Cậu ta đáp: “Cậu có cần gấp không? Gần đây tôi đang có một vụ làm ăn, tiền bạc đều đầu tư vào đó cả rồi, giờ còn nợ người ta đây này.”

Tôi cuối đầu, nói: “Cần ngay bây giờ, con trai An Tâm bị ốm.”

Lưu Minh Hạo nghĩ ngợi một lúc mới nói: “Cậu nói thật xem nào, rốt cục đứa bé đó có phải là con của cậu không? Ai cũng nói nó là con cậu nhưng tôi không tin. An Tâm là người tôi giới thiệu cho cậu, thời gian hai người quen nhau không lâu, làm sao có con lớn thế được.”

“Không phải là con tôi.” Tôi thẳng thắn đáp.

“Vậy việc gì cậu phải lo cho nó?” Lưu Minh Hạo vội hỏi.

Ngập ngừng một lúc lâu tôi mới đáp: “Vì tôi yêu hai mẹ con cô ấy.”

Lưu Minh Hạo há hốc mồm vì kinh ngạc. Quả thực lúc đó tôi không giống một Dương Thụy tán gái chỉ để tìm vui mà cậu ta từng quen biết. Cậu ta nhìn tôi một hồi rồi hỏi: “Thằng bé bị bệnh gì, cậu cần bao nhiêu tiền?”

“Tiền đặt cọc để nhập viện là ba nghìn tệ…”

“Giờ cậu đang làm việc ở đâu? Công ty cậu chẳng lẽ không thể tạm ứng lương cho nhân viên à?”

“Giờ tìm việc khó khăn, tạm thời tôi đang làm công theo ca…”

Lưu Minh Hạo thở dài, nói: “Tôi đã bảo rồi mà. Dương Thụy cậu đừng tưởng cậu đẹp trai thì có thể dễ dàng kiếm được tiền, người như Chung Ninh không nhiều đâu. Làm người không thể được voi đòi tiên. Cậu đã có tiền, có sự nghiệp thì đừng mong có được tình yêu. An Tâm đẹp thật đấy, đến tôi cũng thích, nhưng có rất nhiều thứ không phải cứ thích là có được. Cậu biết Công nương Diana không, có danh vọng, địa vị, tiền bạc rồi, cô ta còn muốn cả tình yêu nữa, kết quả là…”

Tôi không đợi cậu ta nói hết đã đứng dậy, tức giận bỏ đi, Lưu Minh Hạo gọi với theo, tôi không thèm thưa. Cậu ta thấy tôi mặt nặng mày nhẹ thay quần áo ở cửa, liền đi tới, cười nói: “Mẹ kiếp, cậu định làm giấy rách phải giữ lấy lề đến cùng à…”

Tôi mở cửa, bước ra. Lưu Minh Hạo vội hỏi: “Bệnh viện nào thế? Lát nữa tôi đến.”

Ba giờ chiều hôm đó, Lưu Minh Hạo đã đến bệnh viện, trả ba nghìn tệ tiền phí nhập viện cho Tiểu Hùng, còn nhét vào tay tôi một nghìn tệ nữa. Sau đó, cậu ta quay sang nói với tôi: “Nói cho cậu biết nhé, vì cậu mà tôi đã vứt hết đống cổ phiếu đáng giá tám nghìn đi đây. Sau này nhớ trả đấy.”

Tôi cầm tiền, cảm thấy mình thật thấp hèn.

Lưu Minh Hạo liếc nhìn An Tâm trong phòng bệnh của Tiểu Hùng rồi vỗ vai tôi, nói: “Tôi về đây, mấy hôm nữa tới tìm cậu.”

Mấy ngày sau Lưu Minh Hạo gọi điện hẹn tôi ra một nhà hàng ven hồ Đoàn Kết ăn hải sản. Tôi đồng ý.

Trước đây, tôi thường đến nhà hàng này, khung cảnh đẹp, đồ ăn cũng khá ngon. Lúc tôi đến, Lưu Minh Hạo vẫn chưa đến, tôi tìm một chỗ khá kín đáo gần cửa, đứng đợi cậu ta. Chờ nửa tiếng, tôi mới thấy cậu ta lái chiếc xe đắt tiền tới. Lưu Minh Hạo nhìn thấy tôi đứng tần ngần ở cửa thì trách: “Sao cậu không vào gọi món trước, đứng đây làm gì?” Tôi không trả lời, đi theo cậu ta vào nhà hàng. Chắc cậu ta không biết trong người tôi chỉ còn hai mươi tệ, sao dám một mình gọi món, lỡ cậu ta không đến thì tôi biết làm thế nào.

Sau khi ngồi xuống bàn, Lưu Minh Hạo đưa cuốn thực đơn cho tôi, nói: “Tôi ghét nhất là gọi món đấy.”

Tôi đưa lại thực đơn cho cậu ta, nói: “Hay là cậu chọn đi.” Lâu rồi tôi không ăn ở nhà hàng nên cũng không thấy tự nhiên khi gọi món nữa.

Nhân viên phục vụ thấy chúng tôi cứ đùn đẩy nhau, bèn nhân cơ hội giới thiệu hai món đắt tiền nhất. Lưu Minh Hạo nói đã ăn thử, không ngon rồi chọn đại mấy món.

“Hôm nay tôi tìm cậu là vì có một việc. Cậu còn chỗ nào khác để ở không?” Lưu Minh Hạo hỏi.

Tôi nhất thời không hiểu ý của cậu ta, chỉ đáp: “Không có, tôi vẫn đang sống ở nhà mà.”

Lưu Minh Hạo ngập ngừng một hồi mới nói thẳng: “Là thế này, bố cậu đến tìm tôi, bảo tôi nói với cậu dọn đi chỗ khác ở. Đó là nhà bố cậu được phân, giờ ông định cho thuê, đã tìm được khách thuê rồi.”

Tôi lập tức sững sờ, người ngây ra như khúc gỗ, không phải vì oán trách bố tôi quá nhẫn tâm mà vì tôi cảm thấy mình đã mất hết cả lòng tự tôn rồi. Ngay cả bố đẻ còn đuổi tôi ra khỏi nhà thì tôi còn mặt mũi nào gặp người khác nữa.

Đã thế, Lưu Minh Hạo còn nói đỡ cho bố tôi: “Bố cậu cũng khó khăn lắm, đi tìm việc còn khó hơn cậu nữa đấy. Giờ không phải việc kén ông ấy mà là ông ấy kén việc. Mấy việc như xưởng trưởng, phó tổng giám đốc, ông ấy làm nổi không? Có chân trông xe, gác cửa thì cứ chê ỏng chê eo, nói là chưa mất giá tới mức ấy. Sống nhờ mấy đồng lương hưu ít ỏi cũng khổ lắm, nếu có căn nhà cho thuê, ít ra cũng có đồng ra đồng vào. Bố cậu thì cậu còn lạ gì nữa, người giúp việc nghỉ rồi, không có ai chăm sóc cho ông ấy, thường ngày lại hay uống rượu, số tiền đó chắc không đủ tiêu đâu.”

Tôi cố gắng kìm nén sự giận dữ và nỗi xót xa trong lòng. Đó là bố của tôi, tôi không thể nói xấu ông trước mặt người ngoài được. Tôi bèn hỏi Lưu Minh Hạo: “Thế cậu bảo tôi phải đi đâu bây giờ?”

Lưu Minh Hạo gõ ngón tay lên mặt bàn một hồi rồi lắc đầu, thở dài, nói: “Cũng phải, cậu còn nơi nào để đi nữa đâu, lại còn cả An Tâm và đứa bé nữa chứ. Nhưng tôi biết ăn nói thế nào với bố cậu bây giờ? Nói tạm thời cậu chưa biết dọn đi đâu à?”

Tôi uống một ngụm bia, đáp: “Tùy cậu thôi, nói thế nào chả được. Hay cậu bảo với ông ấy, ngày trước, ông ấy mượn danh nghĩa xin cho tôi để được phân căn nhà đó, nếu không cho tôi ở thì ông ấy phải trả lại cho nhà nước.”

“Bây giờ các cơ quan nhà nước đã dừng việc phân nhà cho nhân viên rồi, ai muốn ở thì phải bỏ tiền ra mua lại. Nếu bố cậu đã bỏ tiền ra mua thì nó là tài sản của ông ấy, ông ấy có quyền cho cậu ở và cũng có quyền đuổi cậu đi. Cậu cũng chẳng còn là trẻ vị thành niên được pháp luật bảo hộ nữa rồi. Tôi thấy hay là cậu về nhà, nịnh bố cậu vài câu xem sao, người già thường hay mủi lòng mà.”

“Cậu về nói với ông ấy rằng, ông ấy có quyền của mình, muốn lấy lại nhà thì cứ việc kiện tôi ra tòa. Tôi và mẹ con An Tâm không ở đó thì cũng không chết được. Mà dù có phải sống bờ sống bụi thì tôi cũng không thèm về cầu xin ông ấy!”

Lưu Minh Hạo thấy tôi có phần kích động, liền hùa theo: “Đúng, chúng ta vẫn sống…” Cậu ta chỉ nói thế rồi im bặt. Tôi đoán vế sau chắc là: “Người chết trước là ông ấy cơ mà.” May mà cậu ta kịp phanh lại.

Nói thế nào thì nói, tôi vẫn là con trai của ông, dù ông có đối xử với tôi thế nào thì vẫn là bố tôi. Sau này, nếu có tiền, tôi sẽ phụng dưỡng ông thật chu đáo, An Tâm cũng sẽ chăm sóc ông, thử xem đến lúc đó, ông có thấy khó xử không!

Lưu Minh Hạo cụng ly với tôi, nói: “Bố cậu chắc chắn vẫn còn thương cậu lắm, chủ yếu là không chấp nhận An Tâm và đứa bé thôi. Haizz...” Sau đó, cậu ta chuyển sang chủ đề khác: “Này, giờ cậu đang không có việc làm đúng không, tôi có một ông anh kết nghĩa là trưởng bộ phận giặt là của khách sạn Long Đô, họ đang tuyển thợ sửa máy giặt đấy. Chẳng phải cậu học ngành Cơ khí khai khoáng sao, có muốn đến đó làm không?”

Thế là chúng tôi không nhắc đến chuyện của bố tôi nữa, Lưu Minh Hạo cũng không hỏi một câu về An Tâm và đứa bé. Hôm đó, tôi ăn một bữa no căng bụng. Khi trả tiền, tôi nói muốn đem thức ăn thừa về. Nói thực, đã lâu tôi chưa được ăn bữa nào ngon như vậy, cũng rất muốn An Tâm và Tiểu Hùng được ăn. Vào những lúc khốn cùng, người ta thường chỉ nghĩ đến những thứ đơn giản và thực tế vậy đấy. Lưu Minh Hạo nói không sao, còn nhân viên phục vụ mang hộp đến và hỏi xem có cần gọi thêm mấy món nữa không. Tôi nói không cần.

Tối hôm đó, tôi hớn hở mang thức ăn về nhà, hi vọng An Tâm vẫn chưa ăn cơm. An Tâm đã về nhà trước tôi, em nói trên đường từ bệnh viện về đã mua bánh bao ăn rồi. Tôi xuống bếp, thấy còn nửa chiếc bánh bao trong chạn, liền hâm nóng thức ăn lên cho em ăn. Ngồi nhìn em ăn từng miếng ngon lành, tôi thấy rất vui. Bất chợt, tôi hỏi An Tâm: “Em còn nhớ, trước đây anh mời em đi ăn cơm, em còn làm kiêu không chịu đi không?”

An Tâm nuốt vội một miếng rổi ngẩng đầu lên, nói: “Em làm kiêu khi nào chứ?”

“Khi đó, em chẳng làm bộ không thèm để ý đến đàn ông còn gì. Em quên rồi sao?”

Không biết An Tâm quên thật hay giả ngây, em nói: “Em nhớ lúc em vay tiền anh, anh còn không muốn cho vay nữa kia mà. Anh có biết lời anh nói khi đó khiến em muốn nhảy sông tự tử quách cho xong không?”

Tôi cười, hỏi: “Thế sao em không nhảy?”

An Tâm bỗng trở nên nghiêm túc, nói: “Em mà nhảy, Tiểu Hùng sẽ ra sao đây?”

Tôi trầm tư một lúc mới nói lảng sang chuyện khác: “Chỗ thức ăn này nhiều quá, em có ăn hết được không? Hay là mai mang một ít đến bệnh viện cho Tiểu Hùng?”

Vừa dứt lời, tôi đã thấy An Tâm buông đũa xuống, bèn vội vàng nói: “Thôi, em cứ ăn đi, Tiểu Hùng còn nhỏ có ăn được là bao đâu.”

An Tâm vẫn gom thức ăn lại, bỏ vào một cái hộp inox. Để tiết kiệm điện, chúng tôi không dùng tủ lạnh nữa. An Tâm để chiếc hộp đó vào chậu nước lạnh, nói: “Đời này dù có tốt với Tiểu Hùng đến đâu, em vẫn cảm thấy có lỗi với thằng bé, em mãi mãi nợ nó.”

“Em không nợ con gì cả. Em chẳng cứu thằng bé mấy lần rồi còn gì.” Tôi nói.

An Tâm im lặng một hồi rồi đột nhiên hỏi: “Thằng bé còn nhỏ vậy mà đã mất bố. Sau này, nếu con hỏi, em biết trả lời thế nào đây?”

“Thì em cứ nói sự thật, có sao đâu.”

An Tâm thở dài, trên gương mặt không khác gì thiếu nữ của em phảng phất những nếp nhăn ưu phiền. Em nói: “Chắc chắn con sẽ hận em!”

Tôi đi vào bếp, đứng sau lưng An Tâm, không hiểu sao lại buột miệng nói một câu: “Chúng ta kết hôn đi, anh sẽ làm bố của thằng bé.”

Đó là lần đầu tiên, chúng tôi nhắc đến hai chữ “kết hôn”. An Tâm cắm cúi rửa bát, không có phản ứng gì.

“Em không muốn nói chuyện này ư?” Tôi hỏi.

An Tâm vẫn cúi đầu rửa bát.

“Thế thì coi như anh chưa nói gì.”

An Tâm dừng tay, đột nhiên quay người lại, ôm chầm lấy tôi, toàn thân run rẩy. Em vừa khóc vừa nói: “Dương Thụy... em còn mặt mũi nào nói chuyện kết hôn với anh nữa. Em là phụ nữ đã có con, không xứng với anh đâu. Anh đối xử tốt với em thế này, em có dùng cả đời để báo đáp cũng không đủ... Em đã hại chết Thiết Quân, em không thể lại bắt anh chịu thiệt thòi mà lấy em được. Từ trước tới nay, em chưa bao giờ dám mơ tưởng đến việc kết hôn với anh. Em luôn nghĩ, khi nào anh gặp được người con gái thích hợp thì em sẽ ra đi.”

Tôi cũng ôm chặt lấy An Tâm, an ủi em “Em nghĩ lung tung cái gì vậy, em là người con gái thích hợp nhất với anh. Trong mắt anh, em là một người con gái tuyệt vời, từ tâm hồn cho đến hình thức của em, anh đều thích. Anh còn cảm thấy mình không xứng với em nữa kìa. Anh chưa nói với em chuyện kết hôn là vì anh sợ em chưa quên được những chuyện quá khứ, anh đang đợi, dù sao chúng ta vẫn còn trẻ mà.”

An Tâm nín khóc nhưng vẫn ôm tôi. Cứ thế, chúng tôi ôm nhau rất lâu trong căn bếp chật chội đến mức không quay nổi người đó. Sau đó, An Tâm sụt sịt nói: “Dương Thụy, em không nói dối anh đâu, sau khi Thiết Quân mất, em chưa từng nghĩ sẽ kết hôn với ai nữa. Em định chờ con trưởng thành rồi sẽ xin quay lại ngành cảnh sát. Em không muốn sống cảnh cô độc, không đồng nghiệp, không tập thể như hiện tại. Em trốn chạy vì em không còn cách nào khác, em sợ mình chết rồi thì Tiểu Hùng không biết sẽ ra sao. Nếu không vì con thì có chết em cũng không sợ. Thật đấy, Dương Thụy, anh đừng đối xử tốt với em nữa, em không báo đáp nổi anh đâu.”

Tôi chỉ biết ôm em để bày tỏ lời cảm ơn và tình yêu đối với người con gái đã thay đổi cả con người tôi. Rồi tôi thì thầm vào tai em: “Anh tốt với em vì anh cần em, muốn sống với em. Em cứ đợi đấy, sớm muộn gì anh cũng lấy được em.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Những ngày sau đó, tôi thường xuyên mơ thấy cảnh mình và An Tâm kết hôn. Chúng tôi ngồi trong xe hoa vừa to vừa đẹp, đi qua đường Trường An. Theo sau xe của chúng tôi là rất nhiều người thân và bạn bè, trong đó có bố mẹ tôi. Mẹ tôi vẫn trẻ trung như xưa, hình bóng cùa bà khiến tôi cảm thấy ấm áp và quyến luyến không nỡ rời. Trong đoàn rước dâu còn có cả bố mẹ An Tâm nữa, có lần An Tâm cho tôi xem ảnh của họ nên tôi có thể tưởng tượng ra dáng vẻ của hai người. Ngoài ra còn có những người bạn đã lớn lên cùng tôi và tất nhiên là không thể thiếu Lưu Minh Hạo. Tuy nhiên, không hiểu sao tôi còn nhìn thấy cả Chung Ninh và Chung Quốc Khánh nữa, họ cũng đến chúc mừng tôi. Dường như tôi đã kéo toàn bộ những người từng đối xử tốt với tôi vào trong giấc mơ đó. Họ xuất hiện trong giấc mơ của tôi, mang đến cho tôi niềm vui và cả nỗi buổn khó tả. Sau đó, một thầy bói mù ven đường đã xem quẻ cho tôi, ông ta nói tôi là một người lương thiện, có lòng bao dung với mọi người, luôn hướng đến một kết thúc có hậu cho tất cả mọi người… Ông ta dùng giấc mơ để đánh giá nhân cách và phẩm chất con người tôi, khiến tôi rất vui, mặc dù không biết bản thân có tốt như ông ta nói không. Nhưng có một điều khiến tôi không sao hiểu được, đó là tôi luôn nhìn thấy một vài cảnh sát mặc đồng phục xuất hiện trong giấc mơ đó. Hình ảnh của họ rất mông lung, mờ ảo khiến tôi không nhận ra được đó là ai. Ngay cả thầy bói cũng cảm thấy hoảng hốt khi thấy sự xuất hiện của cảnh sát, ông ta nghi hoặc hỏi tôi đã phạm tội gì.

Tôi kể cho An Tâm nghe về giấc mơ ấy. Em cười, nói: “Cảnh sát thì có gì đáng sợ chứ, em cũng là cảnh sát mà.”

“Nhưng hiện giờ em có còn là cảnh sát nữa đâu.” Tôi sửa lại lời em.

“Chắc đồng nghiệp trong đội Phòng chống ma túy đấy. Nếu em kết hôn, nhất định sẽ mời họ tới dự. Có điều chắc em không kết hôn nữa đâu, nếu kết hôn, tại sao em chưa bao giờ mơ thấy giấc mơ này nhỉ?” An Tâm lém lỉnh nói.

Thực ra, đó chỉ là một giấc mơ thôi, khi đó chúng tôi không thể kết hôn được, bởi cả hai đều tay trắng, lại còn vướng một đứa con đau ốm nữa chứ. Vấn đề quan trọng nhất chúng tôi phải giải quyết chính là làm thế nào để sinh tồn.

Để chữa bệnh cho Tiểu Hùng, tôi đã giấu An Tâm bán chiếc ti vi hai mươi chín inch của mình cho người quen của một người bạn học cũ. Lúc tôi mua, nó có giá hơn năm nghìn tệ, vậy mà chỉ sau một năm, nó chỉ đáng giá có một nghìn hai trăm tệ, tôi tức muốn ói máu. Ban đầu, ông ta chỉ trả có một nghìn, sau một hồi kì kèo của bạn tôi cộng thêm một chiếc bình pha cà phê, ông ta mới đồng ý với giá một nghìn hai trăm tệ. Đã thế ông ta còn nói: “Một nghìn hai thì một nghìn hai, có điều tôi già rồi, không quen uống cà phê, hay cậu đổi sang cái máy xay đi.” Tôi biết ông ta muốn lấy cái máy xay của nhà tôi, vì từ lúc bước và bếp, ông ta đã “nhắm trúng” nói rồi. Thế là tôi dứt khoát nói: “Cái bình cà phê lẫn máy xay, một nghìn tư, thế nào?” Ông ta cười gian xảo, một nghìn tư? Chú em, còn sớm lắm, cậu đi rửa mặt đi. Nếu được giá như thế thì cậu cứ giữ lại cả đi, biết đâu sau này còn bán được nhiều tiền hơn ấy chứ.” Tôi tức muốn xịt khói nhưng vẫn phải nhẫn nhịn, nói: “Thế ông cho một cái giá đi.” Ông ta nói: “Một nghìn hai là một nghìn hai, nếu không thì máy xay tôi cũng không cần, chỉ trả một nghìn cho cái tivi thôi.” Bạn tôi thấy tình hình có vẻ căng, bèn ra mặt chốt lại cuộc mua bán. “Thế này đi, cái bình pha cà phê để cháu mua cho.” Thế là tôi bán.

Hôm ấy vào đúng ngày rằm tháng Giêng, An Tâm mua mấy bát bánh trôi, còn mua cả vỏ bánh về làm há cảo nữa. Em tìm cái máy xay để làm nhân nhưng không thấy, bèn hỏi tôi có thấy đâu không.

Tôi nói: “Anh bán rồi.”

An Tâm ngẩn ra mấy giây rồi hỏi: “Sao lại bán?”

“Mấy hôm nữa, Tiểu Hùng xuất viện, có thêm ít tiền cũng tốt, đỡ phải đi vay Lưu Minh Hạo.”

An Tâm đứng thẫn thờ hồi lâu, mặt buồn rười rượi.

Tôi vội hỏi: “Em sao vậy?”

“Dương Thụy, anh vì mẹ con em mà phải bán đồ trong nhà đi, em buồn lắm.”

“Haizz... cũng có phải là bán con bán cái đi đâu. Tại anh thấy em sức khỏe dồi dào, thân thể cường tráng muốn em tự băm nhân há cảo để tiêu hao bớt năng lượng chứ dùng máy xay thì tốn điện lắm.” Tôi nói đùa.

Đến lúc đó, An Tâm mới gượng gạo mỉm cười hỏi: “Anh bán được bao nhiêu tiền?”

“Một nghìn tư.”

An Tâm giật mình. “Một nghìn tư, sao lại nhiều thế được?”

“Còn kèm cả bình pha cà phê nữa, dù sao chúng ta cũng không uống cà phê mà.”

“Thế thì cũng chưa đến ngần ấy tiền?”

“Còn kèm cả chiếc ti vi nữa.”

An Tâm lập tức quay người nhìn, quả nhiên không thấy đâu. Sau đó, em bước tới, ôm lấy tôi và khóc. Em úp mặt vào ngực tôi, khóc không thành tiếng, nước mắt thấm ướt cả áo tôi. “Dương Thụy, em không nỡ làm khổ anh.”

Sau đó, tôi còn bán thêm một số đồ gia dụng, đồ trang trí, rồi thảm, đèn... Thứ gì đáng tiền hoặc có người muốn mua là tôi bán. Lưu Minh Hạo mua bộ sưu tập tem đắt tiền của tôi. Dạo đó, cậu ta đang theo đuổi Lý Giai, chị họ của Bội Bội. Cô ta có sở thích sưu tầm tem, thế là cậu ta liền mua tặng ngay. Tôi cũng nhân cơ hội đó mà kiếm của Lưu Minh Hạo tám trăm tệ. Lưu Minh Hạo không hề mặc cả một câu, rút tiền ra trả ngav. Sau này, nghe nói bộ tem đó ít nhất cũng đáng giá nghìn tệ thì tôi chỉ biết thở dài, xét khả năng buôn bán, đương nhiên tôi không phải là đối thủ của Lưu Minh Hạo.

Lưu Minh Hạo vớ bở lại còn ra vẻ với tôi, nói: “Cậu không biết đấy thôi, tem cổ giờ đứng giá lắm, người ta còn nói tôi trả giá quá cao nữa đấy. Bọn mình là chiến hữu bấy lâu, thuận mua vừa án thì thôi, cậu để ý lời thiên hạ nói làm gì.”

Lưu Minh Hạo thấy tôi im lặng liền đánh trống lảng: “Cậu phải tìm việc đi, cứ bán đồ thế này không được đâu. Cậu xem nhà cậu còn lại những gì? Cứ thế này thì sớm muộn cũng bán cả cậu luôn đấy.”

Tôi thấy Lưu Minh Hạo nói cũng đúng, liền nhờ cậu ta giới thiệu cho mình công việc sửa máy giặt ở khách sạn Long Đô, lương tháng khoáng một nghìn tệ, bao ăn sáng ăn trưa, cảm cúm nhức đầu có thể đến xin thuốc của xưởng, cũng khá ổn.

Tôi háo hức kể cho An Tâm nghe chuyện đó. An Tâm nói công việc đó rất vất vả, nếu tôi muốn là tạm thời thì cũng được, nhưng tôi đường đường là cử nhân đại học, sớm muộn cũng sẽ có sự nghiệp hơn người. Tôi cười xòa, nói con người phải sống thực tế một chút, trước hết phải có tiền nuôi em và Tiểu Hùng đã.

Lưu Minh Hạo đồng ý giới thiệu và bảo tôi đợi. Không còn máy nhắn tin nữa, cả ngày tôi không dám rời nhà, sợ cậu ta đến tìm đúng lúc tôi không có ở nhà. Thấp thỏm mong ngóng gần một tuần thì có một chuyện xảy ra khiến tôi bực hết cả mình.

Sáng hôm đó, An Tấm vừa mới đi làm, còn tôi vẫn ngủ thì có người gõ cửa. Tôi tưởng An Tâm quên khoá nên quay về lấy, vội tung chăn dậy mở cửa. Cửa vừa mở ra, tôi thấy một đôi nam nữ lạ mặt bèn vội chạy vào nhà thay quần áo, xong đâu đấy quay ra, tôi mới để ý họ đội mũ cảnh sát có gắn quốc huy màu đỏ. Tôi lập tức chột dạ, nhớ tới giấc mơ và lời nói của lão thầy bói, cảm thấy sáng ra mới mở mắt đã gặp cảnh sát, thật là xúi quẩy. Nhưng nhìn kĩ thì thấy họ không phải là cảnh sát, không biết là nhân viên bảo vệ hay người của Cục Thuế vụ, Công thương nữa. Mãi đến khi họ giới thiệu, tôi mới biết họ là người của Viện Kiểm sát.

Người phụ nữ đó khoảng hơn bốn mươi tuổi, trông già hơn người đàn ông đi cùng. Bà ta lên tiếng trước. “Hôm nay, chúng tôi đến đây là muốn gặp cậu để tìm hiểu một việc. Hi vọng cậu sẽ nói thật.”

Mấy lời này nghe như cảnh sát hỏi cung nghi phạm, chỉ khác ở chỗ ngữ điệu mềm mỏng hơn nên tôi cũng không thấy sợ, liền nói: “Được thôi, bà muốn hỏi chuyện gì?”

Kiểm sát viên nam lấy ra một cuốn sổ để ghi chép thông tin. Kiểm sát viên nữ hỏi tôi: “Trước đây, khi còn làm việc cho công ty Quốc Ninh, cậu đã phụ trách một công trình xây dựng, chính là công trình xây dựng nhà thi đấu Quốc Ninh đúng không?”

“Vâng, tôi làm chỉ huy phó của công trình, tổng chỉ huy là Biên Hiểu Quân."

“Thế công việc của cậu là gì?” Bà ta hỏi tiếp.

“Tôi và anh ta cũng không phân công công việc rõ ràng, nói chung có việc gì thì làm việc đó thôi. Biên Hiểu Quân là người chịu trách nhiệm chính, anh ta kêu tôi làm gì thì tôi làm cái đó. Trước đây, tôi chưa làm việc xây dựng bao giờ nên cũng không rõ lắm.”

“Công ty nào bao thầu công trình đó?”

“Công ty Kiến trúc và vật liệu xây dựng Long Hoa.”

“Có đấu thầu không?”

“Không, công ty Quốc Ninh không phải là doanh nghiệp nhà nước nên không cần đấu thầu công khai. Nội bộ Quốc Ninh tự đề xuất, so sánh giá cả, chất lượng của các công ty rồi quyết định thôi.”

“Do ai quyết định?”

“Do Chủ tịch Hội đồng quản trị Chung Quốc Khánh quyết định. Đương nhiên dự án này có liên quan đến trường dạy võ Kinh Sư nên phải thông qua Hội đồng quản trị của trường nữa, nhưng thực ra, chỉ cần báo với Hiệu phó của trường là được.”

“Thế Chung Quốc Khánh căn cứ vào đâu để đưa ra quyết định này? Công ty Long Hoa đã từng hợp tác với Quốc Ninh chưa?”

“Chưa từng. Long Hoa là do bộ phận chỉ huy công trình chúng tôi đề xuất, sau đó báo số liệu cho Chung Quốc Khánh so sánh.”

“Vậy tức là hợp tác với công ty nào là do các cậu quyết định?”

“Người quyết định là Chung Quốc Khánh, chúng tôi chi báo số liệu thôi.”

“Cậu nói “chúng tôi” là gồm những ai, cậu và Biên Hiểu Quân à?”

“Chủ yếu là Biên Hiểu Quân. Sao vậy, anh ta có chuyện gì sao?”

“Cậu thấy quá trình tuyển chọn nhà thầu có vấn đề gì không? Ví dụ như nhận hối lộ chẳng hạn.”

Tôi trầm tư suy nghĩ nhưng nhất thời không nghĩ ra, liền nói: “Công trình nhà thi đấu nói chung là tốt. Giờ chắc đã làm xong phần móng rồi, nghe nói chất lượng không tồi. Nếu có chuyện nhận hối lộ thì chắc chỉ có Biên Hiểu Quân thôi chứ không phải Chung Quốc Khánh, công ty Quốc Ninh là của anh ta mà.”

Hai kiểm sát viên nhìn nhau, sau đó hỏi tôi: “Sao cậu lại nghĩ ngoài Chung Quốc Khánh ra thì chỉ có Biên Hiểu Quân là có thể nhận hối lộ, còn những người khác thì sao?”

Tôi cười, đáp: “Ngưừi khác muốn nhận hối lộ cũng chưa đến lượt. Người ta muốn nhận hối lộ thì chí ít cũng phải có quyền trong tay chứ.”

Kiểm sát viên nữ cũng cười. “Thế cậu có muốn nhận hối lộ không?”

Tôi lặng người, biết là bà ta nói đùa nhưng nhân viên tư pháp nói đùa thì vẫn có ẩn ý, không thể lơ mơ được. Thế là tôi đáp: “Tôi thì nhận hối lộ làm sao được chứ.”

“Vì sao? Cậu và Biên Hiểu Quân có gì khác nhau?”

“Đương nhiên là khác nhau rồi.”

“Khác như thế nào?”

Tôi nhất thời cứng họng, không biết có nên nói khi đó mình còn là em rể tương lại của Chung Quốc Khánh, còn Biên Hiểu Quân chỉ là một kẻ làm thuê, không thể coi là sếp của tôi được.

Không hiểu sao bà ta lại xoáy vào chuyện đó. Tôi không muốn nhắc lại chuyện cũ với Chung Ninh nữa bèn chuyển đề tài: “Có chuyện nhận hối lộ hay không cũng đừng tìm tôi. Tôi không phải là đối tưọng cần điều tra.”

Họ im lặng một lát rồi kiểm sát viên nữ nói: “Được hôm nay chúng ta nói đến đây thôi. Cậu cứ suy nghĩ kĩ về vấn đề tôi vừa hỏi nhé, nếu nhớ ra điều gì thì hãy nói cho chúng tôi biết. Tôi sẽ cho cậu số điện thoại.”

Tôi nhận thấy trong câu nói đó ẩn chứa sự khó chịu, cứ như thể tôi che giấu chuyện tiêu cực thật vậy. Chắc hai kiểm sát viên đó mắc bệnh nghề nghiệp mất rồi, nhìn ai cũng hóa ra tội phạm. Tôi lẳng lặng nhìn người phụ nữ viết số điện thoại để trên bàn trà rồi lạnh nhạt tiễn họ ra cửa.

Hai ngày sau khi kiểm sát viên đến nhà tìm tôi, tôi và An Tâm đón Tiểu Hùng về nhà. Tiểu Hùng thậm chí còn quấn tôi hơn cả quấn An Tâm, nó cười tươi rói, vuốt nhẹ lên mặt tôi, lại còn thơm vào má tôi nữa. Trước kia, tôi chẳng bao giờ thích trẻ con, nhưng Tiểu Hùng là một ngoại lệ.

Tiểu Hùng về rồi, căn nhà trở nên náo nhiệt và tràn đầy sức sống. Tâm trạng của tôi cũng tốt hơn, không còn quá lo lắng quá về chuyện công việc nữa, được hay không đành nghe theo mệnh trời vậy. Không ngờ, chỉ hai ngày sau, Lưu Minh Hạo đã có tin cho tôi. Cậu ta đi ngang qua trung tâm thương mại nên tiện thể ghé vào nói với An Tâm, bảo tôi thứ Hai tuần sau đó mang chứng minh thư và bằng tốt nghiệp đến bộ phận nhân sự của Long Đô để phỏng vấn.

Tám giờ sáng thứ Hai, tôi đã có mặt ở phòng Nhân sự của khách sạn. Cuộc phỏng vấn rất đơn giản, họ hỏi mấy câu rồi xem qua bằng tốt nghiệp của tôi, sau đó bảo tôi điền vào một tờ giấy. Hai ngày sau, tôi nhận được thông báo trúng tuyển. Trưởng bộ phận giặt là rất có thiện cảm với tôi, sau khi hỏi han một hồi, ông ta không để tôi làm thợ sửa chữa máy giặt nữa mà chuyển sang bộ phận bán hàng. Xưởng giặt là của khách sạn rất lớn, có tới gần trăm nhân viên. Đơn hàng trong khách sạn vốn không ít, vậy mà họ còn nhận thêm đơn hàng ở ngoài nữa, nào là đại sứ quán, công ty nước ngoài... đều mang quần áo, rèm thảm tới đó giặt. Trước đó, xưởng cũng có một nhân viên kinh doanh nhưng ngoại hình người đó không sáng sủa lắm, lại không nói được tiếng Anh nên không kiếm được nhiều mối làm ăn cho xưởng.

Thế là tôi được nhận vào Long Đô làm việc, lương tháng hơn một nghìn tệ, bao ăn hai bữa, tắm giặt tại xưởng, có xe đưa đón. Hơn nữa, vì làm ở bộ phận kinh doanh nên tôi được cấp thêm một chiếc máy nhắn tin và một bộ vest, chỉ tiếc là nó hơi ngắn nên tôi không mặc. Khi đi làm, tôi vẫn mặc quần áo của mình, xưởng trưởng còn đồng ý để tôi giặt quần áo miễn phí nữa. Mới đi làm được một tháng, tôi đã kiếm được bốn khách hàng cho xưởng, trong đó có một khách sạn không có bộ phận giặt là riêng. Chỉ trong một thời gian ngắn, tôi đã tăng mức doanh thu của khách sạn thêm năm mươi nghìn tệ.

Theo quy định của khách sạn, tôi được thưởng hơn chín trăm tệ, nhờ vậy cuộc sống của tôi và An Tâm trở nên thoải mái hơn. Lương của hai người cộng vào được khoảng hơn ba nghìn tệ. Chúng tôi định sẽ dùng số tiền đó để mua đồ cho Tiểu Hùng và trả nợ cho Lưu Minh Hạo cùng sếp Phan.

Đáng tiếc, cuộc sống tốt đẹp đó không kéo dài được bao lâu. Trong khi tôi vẫn hăng say và hết mình cho công việc thì lại bất ngờ bị đuổi việc.

Hôm đó, do phải đợi một nhân viên ngoại giao của đại sứ quán tới lấy quần áo nên tôi không ra ngoài tìm khách hàng. Vị khách hàng đó vô cùng khó tính, tôi sợ người khác không quen việc nên ở lại xưởng chờ, tiện thể giúp đồng nghiệp một số việc. Khi đi qua phòng ăn, một quản lý của khách sạn đột nhiên bước đến hỏi tôi: “Cậu là Dương Thụy?” Tôi không biết người đó thuộc bộ phận nào nhưng trong mặt rất quen hình như đã từng nhìn thấy anh ta ở phòng ăn, bèn nói: “Vâng.” Người đó lại nói: “Cậu đi theo tôi.”

Thế là tôi đi theo ông ta, đến tiệm cà phê, giải khát cạnh phòng ăn, lúc này không phải giờ phục vụ nhưng hình như bên trong có người. Tiệm cà phê được trang trí theo phong cách cổ điển với gam màu trầm, ánh đèn vàng mờ ảo, ấm áp. Bất chợ, tôi trông thấy hai bảo vệ khách sạn đứng cùng hai viên cảnh sát. Tôi nhận ra một trong hai người cảnh sát đó chính là kiểm sát viên nam đã đến nhà tôi hơn một tháng trước.

Bảo vệ trông thấy tôi, liền ra hiệu với kiểm sát rằng ông ta đã gặp tôi rồi nhưng vẫn hỏi: “Anh là Dương Thụy phải không?” Ngữ điệu lạnh lùng và nghiêm nghị hơn lần gặp trước.

Tôi nhíu mày, đáp: “Đúng.”

Ông ta nói tiếp: “Căn cứ vào luật hình sự và về tội tham ô nhận hối lộ, anh bị buộc tội nhận hối lộ. Theo luật, chúng tôi có quyền bắt anh!”

Tôi như bị sét đánh ngang tai, đứng chết trân một chỗ. Kiểm sát viên còn lại bước đến còng tay tôi lại. Thời khắc đó, tôi rất muốn hét lên rằng: “Các người bắt nhầm người rồi!” nhưng lại không thể thốt nên lời. Đến lúc trấn tĩnh được rồi thì tôi lại im lặng, nghĩ bụng có nói bây giờ cũng vô dụng, đó không phải là nơi để tôi kêu oan.

Họ bảo tôi ký tên vào lệnh bắt giữ. Khi bị dẫn đi, sực nhớ tới An Tâm, tôi dừng lại và nói với kiểm sát viên: “Tôi muốn nói với người nhà một tiếng.”

Kiểm sát viên nói: “Chúng tôi sẽ thông báo cho người nhà của anh” rồi lôi tôi đi.

Khi họ dẫn tôi ra khỏi khách sạn, rất nhiều nhân viên khác cũng trông thấy, trong đó có mấy cô bạn đồng nghiệp thường ngày vẫn hay chuyện phiếm với tôi, họ đều sợ chết khiếp. Mấy đồng nghiệp nam thầm thì hỏi tôi là ai và làm ở bộ phận nào, tôi nhìn họ mà thấy vô cùng khó chịu. Tôi bị áp giải lên xe, đến đồn cảnh sát và bị nhốt vào phòng tạm giam.

Hôm đầu tiên bị tạm giam, không có ai đến thăm tôi. Ngồi thu lu ở góc phòng, tôi cứ lo lắng không yên, không phải tôi lo cho mình mà là lo cho An Tâm. Nhỡ tôi bị bắt giam luôn thì An Tâm và Tiểu Hùng sẽ sống thế nào đây không biết bố tôi có đòi lại nhà và đuổi mẹ con em ra đường không, không biết em có nghĩ tôi nhận hối lộ thật và thất vọng về tôi không... Nghĩ đến đó, tôi không kìm được nỗi đau đớn trong lòng mà bật khóc.

Trong phòng giam có mấy phạm nhân cũ, thấy tôi vào mà chẳng để ý đến ai, liền dằn mặt tôi. Bọn chúng hỏi tôi phạm tội gì mà bị bắt, có thuốc lá không... Tôi chẳng còn tâm trí đâu mà trả lời, nước mắt cứ chảy dài trên má. Nhìn bộ dạng đó của tôi, bọn chúng nghĩ tôi là một thằng bụi đời nên ra sức cười nhạo, thậm chí còn tát tôi, lục túi tôi xem có gì đáng tiền không. Tôi đứng lên tránh, chúng liền xúm lại dồn tôi vào góc tường, đấm đá túi bụi. Thế là tôi tức điên lên, liều mạng đánh trả.

Bọn đầu gấu đó thấy tôi gầy gò nên coi thường, không nhận ra tôi là dân chơi thể thao chính hiệu, lại còn học cả Taekwondo nữa. Tôi đẩy bọn chúng ra rồi không chờ chúng kịp phản ứng, liền tung ra một loạt quyền cước, khiến bọn chúng ngã dúi dụi, máu mồm máu mũi chảy be bét. Chỉ đến khi cảnh sát nghe thấy tiếng ồn, chạy đến kéo tôi ra thì trận ẩu đả mới kết thúc.

Sau đó, tôi bị nhốt riêng trong một căn phòng tối tăm và bị còng tay suốt ba tiếng đồng hồ, đến lúc ăn cơm tối, cảnh sát mới mở còng tay cho tôi. Ăn cơm xong, tôi thấy cảnh sát trực ban cầm còng tay đến, liền nói: “Cổ tay tôi tê hết cả rồi, đừng bắt tôi đeo còng nữa có được không?”

Viên cảnh sát đó hỏi: “Thế sao lúc nãy cậu lại bị còng tay?”

“Mấy tên lưu manh kia bắt nạt tôi.”

Cảnh sát lại hỏi: “Họ bắt nạt cậu, sao lại không bị còng tay?”

Tôi đáp: “Bọn họ đánh tôi, tôi phản kháng lại.”

“Nghe nói cậu là cử nhân đại học sao lại bị bắt vào đây?”

“Tôi bị oan.”

“Ai vào đây mà không nói vậy, phạm pháp rồi còn kêu oan.” Viên cảnh sát mỉa mai.

Tôi biết có tranh cãi với anh ta cũng vô dụng, không khéo lại chọc giận anh ta nên không nói nữa. Viên cảnh sát đó lại hỏi: “Cậu nói xem, có cần còng lại không?”

“Không.” Tôi vội đáp

“Thế nhỡ cậu lại đánh người thì sao?”

“Thế thì các anh cứ việc nhốt tôi lại.”

Viên cảnh sát đó cười khẩy. “Nằm mơ đi, thôi, cậu ngoan ngoãn ở đấy đi.”

“Ở một mình thì đánh được ai chứ? Anh đừng còng tay tôi nữa được không?”

Viên cảnh sát ngẩn ra một lát rồi nói: “Nói cho cậu biết, vào đây thì phải biết điều một chút, còn gây chuyện nữa, tôi sẽ còng tay cậu lại.”

Tôi cúi đầu không nói, viên cảnh sát đóng cửa lại và bỏ đi.

Hôm sau, có người của Viện Kiểm sát đến thẩm vấn tôi. Vẫn là hai kiểm sát viên đến nhà tôi lần trước. Đến tận lúc đó tôi mới biết, tôi bị bắt là vì hai mươi nghìn tệ của Lưu Minh Hạo và gã giám đốc công ty Long Hoa.

Lần này, họ chỉ thẩm vấn để xác thực lại những chi tiết nhỏ, như chúng tôi đi ăn cơm ở đâu, tiền là do ai đưa, nói những chuyện gì, sau đó tôi dùng tiền vào những việc gì…Mỗi lần tôi muốn giải thích thì họ đều ngắt lời tôi, chỉ để tôi trả lời đúng vào câu hỏi của họ, có hoặc không, không được quanh co phân trần.

Từ lời nói của họ, tôi đoán gã giám đốc công ty Long Hoa đã gặp phải chuyện gì đó, hình như cũng đã bị bắt, chuyện tôi nhận hối lộ cũng là do gã ta khai ra. Nhưng cũng có một số tình tiết khiến tôi nghĩ là người của công ty Quốc Ninh tố giác. Cả hai khả năng đều có thể lắm. Chẳng phải Chung Quốc Khánh đã nói sẽ xử lý tôi sao? Nếu không ngồi trong trại giam, trước mặt kiểm sát viên thì tôi đã quên bẵng lời đe dọa của anh ta rồi.

Thẩm vấn xong, cảnh sát dẫn tôi đến văn phòng lĩnh chăn gối, nói là người nhà tôi mang đến. Vừa nhìn tôi đã biết là An Tâm tới, vội hói cảnh sát: “Người nhà tôi có nói gì không?” Viên cảnh sát trợn mắt, quát: “Nói cái gì mà nói? Đợi sau này gặp nhau rổi muốn nói gì thì tha hồ nói!”

Cảnh sát ở đó nói chuyện rất cục cằn, thô lỗ, xem phạm nhân chẳng khác gì súc vật để chà đạp. Tôi ôm chăn gối, đầu óc rối tinh rối mù cả lên. Tôi bị dẫn về phòng tạm giam lúc đầu, mấy tên hôm qua bị tôi đánh không dám ho he lấy một câu. Tôi vênh mặt lên, lườm nguýt tứ phía để uy hiếp bọn chúng, nhưng thực ra trong lòng cũng thấp thỏm lo sợ bị trả thù. Sau đó, tôi thấy chúng chẳng qua chỉ là lũ ỷ đông hiếp ít, dần dần chúng tôi thân thiện với nhau hơn, bọn chúng ai cũng nể sợ tôi.

Mấy ngày sau, tâm trạng của tôi đã dần khá hơn, không còn sợ hãi như lúc mới bị bắt nữa. Người của Kiểm sát còn đến gặp tôi một lần nữa, chủ yếu hỏi sau khi nhận tiền từ công ty Long Hoa, tôi đã làm gì để giúp họ trúng thầu và cũng là để nghe tôi giải thích. Khi tôi nói xong, ông ta không có bất kỳ phản ứng gì, chỉ ghi lại vào một quyển sổ màu đen rổi bỏ đi.

Lại qua mấy ngày không có tin tức gì. Hằng ngày tôi chỉ biết ăn rồi ngủ, không giống như lúc đầu ăn không ngon ngủ không yên. Tôi nhớ An Tâm da diết và thỉnh thoảng cũng nhớ đến bố tôi. Tôi nghĩ bố tôi làm lãnh đạo bao nhiều năm, chắc chắn có quen biết giới cảnh sát, nếu ông thực sự thương yêu tôi, chắc sẽ không ngồi yên nhìn tôi bị bắt giam thế này. Nhưng từ lúc hai bố con cãi nhau, tôi không về thăm ông lần nào. Tôi biết tính bố tôi chỉ thích ngọt không thích nhạt, tôi càng không về thăm ông, ông càng tức giận, nếu không ông đã không nói với Lưu Minh Hạo là muốn đòi lại nhà. Ông phải tức giận lắm mới làm như vậy, chứ không phải vì căn nhà đó. Mà có khi biết tôi bị giam ở đây, ông lại vui mừng cũng nên, chắc chắn ông sẽ nói với Lưu Minh Hạo rằng: “Bác đã bảo rồi mà nó không nghe, dính vào đứa con gái đó sớm muộn cũng có ngày rước họa vào thân...”

Một buổi sáng nọ, tôi lại bị dẫn đến phòng thẩm vấn, nhưng tôi không thấy nhân viên của Viện Kiểm sát mà chỉ thấy một cô gái khoảng ba mươi tuổi đang chờ mình. Chị ta bảo tôi ngồi xuống phía đối diện, thái độ của chị ta rất nghiêm túc nhưng cũng không hề gây phản cảm. Sau đó, chị ta đưa danh thiếp cho tôi, không đợi tôi đọc đã tự giới thiệu: “Tôi là luật sư của văn phòng luật Hồng Quang, được bạn của cậu là cô An Tâm mời đến để làm luật sư biện hộ cho cậu trong vụ nhận hối lộ của công ty Long Hoa, cậu có ý kiến gì về việc đó không?”

Tôi ngẩn người vì ngạc nhiên, mãi mới hỏi được một câu: “An Tâm mời chị làm luật sư cho tôi, phải trả bao nhiêu tiền vậy?”

Luật sư có phần ngạc nhiên trước câu hỏi của tôi nhưng vẫn nghiêm túc đáp: “Văn phòng chúng tôi thu tiền theo quy định của Bộ Tư pháp, còn cậu hỏi phí tổn cho vụ án này là bao nhiêu thì còn phải xem mức độ khó dễ thế nào, thời gian xử án là bao lâu và có kháng án hay không rồi mới quyết định được.”

Câu hỏi tiếp theo quan trọng không kém, tôi biết không nên hỏi luật sư nhưng vẫn buột miệng: “An Tâm lấy đâu ra tiền để trả?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Một chuyện tôi vẫn chưa làm rõ được, đó là ai đã tố giác tôi. Trước khi phiên tòa được mở, tôi và luật sư biện hộ đã thảo luận ba lần, tôi kể toàn bộ sự thật cho chị ta nghe và thông qua những nhận định của luật sư, cuối cùng tôi cũng đoán ra kẻ đã tố cáo mình.

Tôi luôn cho rằng mình bị oan, có thể Chung Ninh và Chung Quốc Khánh đã hãm hại tôi. Tôi cũng luôn tin rằng pháp luật sẽ rửa sạch nỗi oan và đòi lại danh dự cho mình, nhưng sau mấy lần nói chuyện với luật sư, tôi lại có một dự cảm chẳng lành.

Luật sư nói: “Trước hết, căn cứ theo luật định, số tiền hai mươi nghìn tệ đó hoàn toàn có thể coi là tiền hoa hồng mà Long Hoa tặng cậu do được trúng thầu. Quan trọng hơn là theo luật chống tham ô nhận hối lộ, nhận tiền hoa hồng có được coi là hành vi nhận hối lộ hay không phụ thuộc vào hai yếu tố: một là có công khai hay không, hai là khoản tiền đó có được ghi chép rõ ràng hay không. Nếu hai mươi nghìn tệ kia là trao nhận công khai, đồng thời lãnh đạo công ty đã đồng ý và được ghi vào sổ sách của công ty thì sẽ không bị cấu thành hành vi nhận hối lộ mà là khoản hoa hồng hợp pháp.”

Về điểm này, tôi dám chắc với luật sư rằng tôi nhận số tiền đó một cách công khai, đã thông qua sự đồng ý của Chung Ninh và Biên Hiểu Quân. Trên thực tế, ngay ngày hôm sau, tôi đã nộp tiền cho Biên Hiểu Quân và nói với Chung Ninh, chính họ khăng khăng bảo tôi nhận thì tôi mới dám nhận. Tuy nhiên, số tiền đó lại không được ghi vào sổ sách của công ty, sai sót này là do tôi quá chủ quan, cho rằng Chung Ninh là sếp của tôi, Biên Hiểu Quân là cấp trên trực tiếp của tôi, chỉ cần họ biết chuyện là được. Nghe luật sư nói tôi mới hiểu, nếu khi đó tôi nộp tiền vào quỹ của công ty rồi lại rút từ quỹ ấy ra thì không vấn đề gì cả. Luật sư còn nói, Viện Kiểm sát không tìm thấy chứng cứ chứng minh tôi đã báo cáo việc nhận hoa hồng của công ty Long Hoa cho cấp trên biết, trong khi sổ sách của công ty Long Hoa lại ghi việc chi cho tôi số tiền đó. Vậy là tất cả đã rõ như ban ngày, anh em nhà họ Chung muốn đẩy tôi vào chỗ chết! Nhưng tôi không có cách nào tự cứu mình cả. Ngoài kinh ngạc và oán hận ra thì tôi chỉ biết có hối hận. Tôi không muốn nhận hối lộ, cũng không biết thế nào là nhận hối lộ, vậy mà vẫn tin tưởng kẻ đưa tiền cho mình. Tôi đã quá chủ quan và thiếu kinh nghiệm khi phải đối phó với xã hội phức tạp này.

Tôi chợt nhớ đến anh em nhà họ Chung. Tôi khá hiểu tính cách của Chung Ninh, cô ta là loại người yêu ghét phân minh nhưng cũng rất cực đoan. Trước kia, cô ta đã không trừ thủ đoạn nào để cướp bát cơm của An Tâm, giờ lại hại tôi phải vào tù. Còn anh trai cô ta thì khỏi phải nói, từ một thằng lưu manh đầu đường xó chợ trở thành đại gia giàu có, lòng dạ và thủ đoạn liệu có thể không tàn độc?

Hi vọng duy nhất của tôi chỉ có thể đặt vào một người chỉ có người đó mới có thế chứng minh tôi bị oan. Tôi nói vói luật sư tên của cậu ta rồi nhờ luật sư đi tìm giúp tôi còn nói An Tâm cũng biết cậu ta, luật sư có thể nhờ An Tâm dẫn đi. Người đó chính là Lưu Minh Hạo.

Một ngày trước khi phiên tòa được mở, luật sư lại đến. Mỗi lần chị ta đến, ngoài việc tìm hiểu tình tiết vụ án, đa phần là để trả lời những câu hỏi của tôi về An Tâm. Từ câu trả lời của luật sư, tôi biết An Tâm vẫn khỏe, dù lo lắng cho tôi nhưng em rất kiên cường, đã giúp luật sư đi tìm chứng cứ cứu tôi. Mãi đến hôm đó, luật sư mới nói cho tôi biết, để giúp tôi An Tâm đã chạy vạy khắp nơi, thậm chí còn xin nghỉ việc ở trung tâm thương mại. Việc này khiên tôi rất bất ngờ và buồn bã, áy náy. Nghỉ việc rồi, em và Tiểu Hùng sẽ sống ra sao?

Tôi vội hỏi luật sư: “An Tâm còn sống ở nhà của tôi không?”

Luật sư đáp: “Vẫn ở đó, hôm qua tôi còn gặp cô ấy mà.”

Tôi cúi đầu im lặng. Tai họa đến quá nhanh đến mức tôi không kịp đề phòng, vẫn luôn hoài nghi phải chăng đó chỉ là một cơn ác mộng.

Luật sư biện hộ của tôi tuy là phái yếu nhưng thói quen nghề nghiệp và kiến thức chuyên môn đã giúp chị ta có được sự bình tĩnh và khôn ngoan mà ngay cả đàn ông chúng tôi cũng khó mà có được trong hoàn cảnh đó. Nỗi oan ức, tức giận, lo lắng của tôi qua lời nói của chị ta, dường như chỉ là những chuyện hết sức nhỏ nhặt. Chị ta nói: “Dương Thụy, chúng ta đã thảo luận nhiều về tính tiết vụ án của cậu rồi. Hôm nay, tôi đến đây là để lấy ý kiến của cậu trước khi phiên tòa chính thức mở, cậu muốn tôi làm thế nào?”

“Làm thế nào?”, tôi nghe mà ù ù cạc cạc, không biết luật sự đang ám chỉ điều gì. “Chẳng phải giới luật sư có câu: “Sự thật là căn cứ, pháp luật là sợi dây” sao? Sự thật thế nào chị cũng biết cả rồi, còn việc vận dụng pháp luật thế nào, chắc chị phải hiểu rõ hơn tôi chứ.”

Luật sư trầm ngâm một lúc, dường như có điều gì muốn nói nhưng không biết mở lời thế nào. “Dương Thụy, giờ cậu có hai sự lựa chọn. Một là thừa nhận mình có nhận hối lộ, khi đó trọng tâm biện hộ của tôi sẽ là việc cậu thành khẩn khai báo cộng với tình huống nhận hối lộ đặc biệt để mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật. Trường hợp của cậu trăm phần trăm sẽ được khoan hồng, vậy là cậu chỉ nộp phạt rồi sẽ được thả. Cậu có muốn được thả không?”

Tôi lạnh lùng đáp: “Đương nhiên.”

Luật sư gật đầu, vẻ mặt vẫn thản nhiên như cũ, sau đó chị ta nói tiếp: “Còn một sự lựa chọn nữa là bào chữa vô tội. Nếu thành công, cậu có thể gột sạch cáo buộc và ra khỏi đây, tuy nhiên phần thắng không cao lắm. Giờ chỉ có bạn cậu là Lưu Minh Hạo nhận lời ra tòa làm chứng khi nhận tiền, cậu đã có ý đưa cho Biên Hiểu Quân nhưng cả Biên Hiểu Quân và Chung Ninh đều muốn cậu giữ số tiền đó. Nếu tòa chấp nhận lời khai của anh ta thì coi như số tiền đó đã được nhận một cách công khai, còn việc có ghi vào sổ sách của công ty hay không thì lại là việc của Biên Hiểu Quân và Chung Ninh, cậu không có trách nhiệm gì cả.

Có điều, bào chữa như vậy có tỉ lệ rủi ro rất cao hơn nữa phải xem chứng cứ đối phương đưa ra có mạnh không, có tình huống mới phát sinh hay không... nên tôi không dám chắc phần thắng sẽ thuộc về mình. Ngộ nhỡ thất bại, tòa sẽ xử cậu có tội, và một khi có tội, cậu sẽ không được nhận sự khoan hồng. Một khi phán quyết được đưa ra, cậu có khả năng sẽ phải ngồi tù vài năm.

Chính vì vậy, tôi mới hỏi cậu rốt cuộc muốn nhận tội để được giảm án hay bào chữa vô tội để thử vận may. Cậu phải chọn một trong hai phương án và tôi sẽ theo đó mà làm. Chúng ta thống nhất ý kiến để mai ra tòa còn tiện phối hợp.”

Tôi nhất thời không suy nghĩ được điều gì, đầu óc u mê lẫn lộn, chỉ biết cầu cứu chị luật sư trẻ tuổi nhưng đầy nghiêm túc đó.

“Nếu nhận tội thì khả năng nhận được khoan hồng là bao nhiêu phần trăm?” Tôi hỏi.

“Chín mươi phần trăm.”

“Nếu không nhận tội thì khả năng thắng kiện là bao nhiêu phần trăm?”

Luật sư không trà lời ngay, dường như còn bận tính toán. Im lặng một lát, chị ta mới nói: “Hai mươi phần trăm.”

Tôi cũng im lặng, ngước mắt nhìn luật sư, cảm thấy ánh mắt của chị ta nặng như một tảng đá đè lên người tôi, khiến tôi không sao thở nổi.

“Chị nói xem tôi nên chọn phương án nào?” Tôi lại hỏi.

“Phương án nào cũng có hai mặt tốt xấu.”

Câu trả lời đơn giản và dứt khoát đến không ngờ. Tôi buồn bã nói: “Chị đã hỏi An Tâm chưa, cô ấy muốn thế nào?”

“Hỏi rồi, hôm qua tôi đã nói chuyện rất kĩ với cô ấy.”

“Vậy cô ấy nói thế nào?” Tôi vội vàng hỏi.

“Cô ấy nói để cho cậu quyết định.”

“Cô ấy không thiên về phương án nào sao?”

Luật sư nghĩ một lát rồi nói: “Không. Cô ấy hi vọng cậu nhanh chóng được thả ra nhưng cũng sợ cậu mà nhận tội rồi thì trong lòng cậu sẽ thấy khó chịu, sợ cả đời cậu sẽ không vui, sợ tiền đồ của cậu bị ảnh hưởng, cả đời phải sống trong tăm tối.”

Luật sư nói đến đó thì dừng lại, chờ đợi phản ứng của tôi nhưng tôi vẫn cúi đầu không nói. Chị ta không giục tôi nhưng vẫn nói tiếp: “Thực ra, cho dù cậu không nhận tội, Viện Kiểm sát vẫn có thể chứng minh cậu có tội, tội danh đó vẫn sẽ theo cậu cả đời này. Chính vì vậy, tôi nghĩ thà cậu nhận tội để đổi lấy sự khoan hồng mà được thả ra sớm còn hơn. Nhưng dù sao đó cũng chỉ là ý kiến cá nhân của tôi, quyết định cuối cùng vẫn là ở cậu.”

Cuối cùng, luật sư cũng nói ra ý kiến của mình. Chị ta chăm chú nhìn tôi, xem tôi sẽ quyết định đi nước nào trong ván cờ này.

Tôi ra lệnh cho mình phải dừng những suy mông lung lại, không run rẩy sợ hãi nữa mà phải ngẩng đầu, dõng dạc nói ra quyết định cùa mình. Đến giờ vẫn không hiểu vì sao khi đó mình phải giả vờ như vậy. Tôi nói: “Tôi muốn vô tội!”

Luật sư nhìn tôi rất lâu mới gật đầu và không nói thêm gì nữa.

Hôm sau, phiên tòa diễn ra như đã định. Đây là vụ án nhỏ, người đến xem không đông nên khi bị dẫn vào phòng xử án, tôi dễ dàng tìm thấy An Tâm trong đám người, dù em không ngồi hàng đầu tiên. Đôi mắt em chăm chú dõi theo tôi, em truyền cho tôi sự ấm áp bằng nụ cười mỉm quen thuộc.

Ngoài An Tâm, không có ai thân quen với tôi đến dự phiên tòa cả. Cho đến tận bây giờ, thứ mà tôi nhớ rõ nhất về phiên tòa đó cũng chỉ có nụ cười của em. Chung Ninh và Biên Hiểu Quân cũng đến nhưng là để làm nhân chứng cho vụ án. Luật sư biện hộ đã làm hết sức mình để giúp đỡ tôi. Chị ta nhấn mạnh vào tình tiết sau khi nhận số tiền hai mươi nghìn tệ, tôi đã giao lại cho công ty, cụ thể là Biên Hiểu Quân. Khi cấp trên đồng ý rồi, tôi mới nhận như phần thưởng mà công ty dành cho tôi chứ không phải là tôi nhận hối lộ. Tôi cũng trình bày toàn bộ sự thật cho thẩm phán nghe. Sau phần trình bày của tôi, đầu tiên là Biên Hiểu Quân đứng lên làm chứng. Anh ta thản nhiên nói không nhớ việc tôi đưa hai mươi nghìn tệ cho anh ta. Sau đó đến lượt Chung Ninh, cô ta dứt khoát phủ nhận việc tôi nói với cô ta về số tiền đó trên đường đi ra sân bay. Từ lúc bước vào phòng xử án cho đến lúc đi ra, Biên Hiểu Quân không dám nhìn thẳng vào tôi dù chỉ một giây, còn Chung Ninh thì vừa vào đã hậm hực lườm tôi, trong ánh mắt của cô ta hiện lên sự đắc ý và tàn ác. Khi Chung Ninh bước lên trả lời câu hỏi của tòa, tôi nhìn cô ta với ánh mắt bình thản, cố gắng tỏ ra hòa nhã nhưng cô ta lại đáp trả tôi bằng ánh mắt thù hằn. Tôi sớm đã biết rằng tính cách, tuổi tác, nền giáo dục và địa vị của Chung Ninh không cho phép cô ta học được cách khoan dung với người khác.

Sau đó, luật sư biện hộ phản kích bằng việc nói ra mối quan hệ trước đây giữa tôi và Chung Ninh. Khi đó, tôi gần như đã là một thành viên của nhà họ Chung, không lý gì lại tham lam số tiền hai mươi nghìn tệ ít ỏi đó. Ngoài ra, chị ta còn nhấn mạnh với thẩm phán về động cơ trả thù của Chung Ninh. Chính vì chuyện tình cảm với tôi bị rạn nứt và tôi đem lòng yêu người khác mà Chung Ninh mới muốn hãm hại tôi. Thực ra, tôi chẳng muốn công khai chuyện đó trước bàn dân thiên hạ một chút nào nhưng luật sư lại cho rằng đó là tình tiết quan trọng, có thể khiến Chung Ninh bị tước quyền làm chứng.

Cuối cùng, luật sư dẫn ra nhân chứng đồng thời là người bạn thân thiết của tôi, Lưu Minh Hạo. Tôi tin Lưu Minh Hạo sẽ đứng về phía mình nên vừa trông thấy cậu ta bước vào phòng xử án, tôi liền mỉm cười chào, tuy nhiên cậu ta lại giống Biên Hiểu Quân, né tránh ánh mắt của tôi, không biết là vô ý hay cố tình.

Lưu Minh Hạo ngồi trên ghế nhân chứng, ánh mắt lấm la lấm lét, giọng nói ngập ngừng, gương mặt tái xanh. Bộ dạng đó của cậu ta khiến tôi cảm thấy là lạ. Tôi không nhớ thẩm phán đã hỏi cậu ta những gì và cậu ta trả lời như thế nào nhưng để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho tôi chỉ có một câu: “Khi nhận số tiền đó, cậu ta không nói là sẽ đưa lại cho Biên Hiểu Quân… Không, cậu ta cũng không nói với tôi là công ty đồng ý cho cậu ta nhận số tiền đó…” Đó chính là lời khai của Lưu Minh Hạo. Lời khai đó đã biến cậu ta trở thành người của Chung Ninh.

Trong cả quá trình xử án, chỉ có thời khắc Lưu Minh Hạo đột nhiên thay đổi lời khai mới khiến luật sư biện hộ ngớ người ra. Nhưng tôi còn kinh ngạc hơn chị ta gấp trăm lần. Một thời gian rất dài sau đó, tôi mới có thể tha thứ cho Lưu Minh Hạo, và nơi đầu tiên tôi đặt chân đến khi từ Mỹ trở về cũng chính là nhà của cậu ta. Lúc tôi nói muốn đi Vân Nam tìm An Tâm, Lưu Minh Hạo đã nhét vào tay tôi hai mươi nghìn tệ, đúng bằng số tiền hoa hồng trong vụ án. Số tiền đó, đương nhiên tôi không nhận.

Tôi tha thứ cho Lưu Minh Hạo vì cậu ta là một thương nhân, mà nguyên tắc làm việc của thương nhân là đặt lợi ích lên hàng đầu. Sau này tôi mới biết, không hiểu sao Chung Ninh và Chung Quốc Khánh lại biết tin Lưu Minh Hạo sẽ ra làm chứng trong vụ án đó, thế là một ngày trước ngày xét xử, cũng chính là lúc tôi yêu cầu luật sư bào chữa cho mình vô tội, công ty Quốc Ninh đã cử người tới mua chuộc Lưu Minh Hạo bằng hợp đồng cung ứng điều hòa, nghe nói tổng số tiền giao dịch lên đến bốn triệu tệ.

Kết quả, tôi bị xử có tội, phải ngồi tù hai năm. Luật sư đã giúp tôi kháng án nhưng không thay đổi được phán quyết. Trước khi bị áp giải đến nhà tù, luật sư biện hộ đã giúp tôi gặp được An Tâm. Lúc gặp nhau, không ai bảo ai, chúng tôi đều cố tỏ ra lạc quan nhằm an ủi đối phương nhưng thực ra trong lòng vô cùng buồn bã. Chúng tôi chỉ nói đến chuyện giữ gìn sức khỏe, ăn ngủ điều độ, tìm việc… Cuộc gặp chỉ diễn ra vẻn vẹn trong mười phút, khi sắp hết giờ, An Tâm đột nhiên tháo sợi dây chuyền ngọc Quan Âm trên cổ ra đưa cho tôi, nhân cơ hội đó nắm lấy tay tôi. Bàn tay của An Tâm rất lạnh, từ trước đến giờ đều như vậy, tôi từng nói là chờ đến khi có tiền rồi, tôi sẽ đưa em đến bệnh viện khám.

An Tâm nói: “Anh đeo sợi dây này, sẽ thấy như luôn có em ở bên cạnh. Em sẽ luôn cầu phúc cho anh.”

Cảnh sát thấy chúng tôi nắm tay nhau, nghi ngờ chúng tôi đang trao cho nhau đồ vật bí mật gì đó, liền đi đến, hỏi: “Này, cầm cái gì đấy?”

Luật sư cũng đi tới xem. Tôi xòe tay ra, trong tay là một mặt dây chuyền bằng ngọc. Luật sư năn nỉ cảnh sát: “Chắc không sao đâu, chỉ là sợi dây chuyền thôi mà.”

Cảnh sát cầm sợi dây lên, săm soi một hồi rồi hỏi: “Cái này bao nhiêu tiền? Nếu có giá trị lớn thì không được mang vào trại giam, dù có mang vào rồi cũng phải giao cho cán bộ quản giáo giữ.”

Nói rồi, anh ta trả sợi dây cho An Tâm. “Đừng đưa cho anh ta thứ này, vào tù anh ta đổi lấy thuốc hút, cô không chuộc lại được đâu.”

Sau đó, không để tôi kịp lên tiếng, anh ta liếc nhìn đồng hồ ám chỉ thời gian gặp mặt đã hết.

“Thế nào, xong chưa?” Cảnh sát hỏi.

Tôi đứng dậy, nói: “Xong rồi.”

An Tâm cũng đứng dậy, hai mắt đỏ hoe.

Tôi gượng cười, nói: “Sau này em đừng đến thăm anh nữa. Hãy tìm việc trước, sau đó dẫn Tiểu Hùng đi tìm một người tử tế để gửi gắm cuộc đời.”

Cuối cùng, An Tâm không giữ được bình tĩnh nữa, nước mắt em tuôn rơi. Nhìn em lau vội nước mắt rồi quay người rời đi, nước mắt tôi cũng chực trào ra nhưng tôi đã cố gắng kìm nén lại.

Hai ngày sau, tôi được đưa đến trại giam Bắc Kinh để thực hiện phán quyết của tòa án. Cuộc sống trong tù thật tẻ nhạt và vô vị, ngày ngày ngoài việc đi học nội quy trại giam và lao động ra, tôi gần như chỉ có một việc là viết đơn khiếu nại. Việc đó chỉ cốt giúp tôi bình ổn tinh thần và vớt vát sĩ diện thôi chứ không hề có tia hi vọng nào. Tôi rất hối hận vì đã không nghe lời luật sư biện hộ, nhận tội để được hưởng khoan hồng, chí ít cũng sớm được đoàn tụ với An Tâm. Nếu em không chê tôi là một gã tù nhân thì chúng tôi lại có thể sống với nhau như trước.

Đối với tôi, hai năm ngồi tù là cả một quãng thời gian dài, bởi trong hai năm đó, chuyện gì cũng có thể xảy ra. Biết đâu khi tôi bước ra khỏi cánh cổng sắt của nhà tù thì An Tâm đã thay lòng đổi dạ, gặp người đàn ông khác thích hợp và có một cuộc sống mới rồi. Cuộc sống thay đổí từng ngày, không có ai là không thay đổi cả, đặc biệt là người có hoàn cảnh như An Tâm, đã không có việc làm lại phải nuôi một đứa con, thứ quan trọng nhất với em hiện giờ không phải là một tình yêu chân thành mà là khả năng sinh tồn, không vì em thì cũng là vì con. Chính vì thế khi chia tay, tôi đã nói với em câu đó, mặc dù nó không phải là ý muốn thật lòng của tôi, thậm chí còn là điều tôi sợ nhất. Tôi không thể yêu cầu em chờ đợi tôi. Huống hồ sau này ra tù, tôi rất khó tìm được công việc tốt để có tiền nuôi mẹ con em. Sẽ chẳng có công ty nào muốn nhận một kẻ từng vào tù vì nhận hối lộ như tôi cả.

An Tâm không giống tôi, tuy em từng phải chịu đau thương, lại có một đứa con phải nuôi dưỡng nhưng tất cả rồi sẽ ổn. Em vẫn trẻ đẹp và có sức hút với phái mạnh như thế cơ mà. Quan trọng hơn là em có một nhân cách tốt, lý lịch tuy phức tạp nhưng chí ít cũng trong sạch. Hai chữ “trong sạch” mới thật đáng quý biết bao.

Từ hôm đó, An Tâm quả nhiên không đến thăm tôi nữa. Bố tôi cũng đến trại giam một lần nhưng không muốn gặp tôi, chỉ tiếp tế vài túi thực phẩm bổ dưỡng và mấy quyển sách. Ông nhờ quản giáo chuyển lời đến tôi rằng, cố mà cải tạo cho tốt, ngoan ngoãn nghe lời cán bộ, ra tù rồi sẽ làm lại từ đầu.

Bố tôi mang gì vào cho tôi, nói gì không quan trọng. Ông đến tiếp tế cho tôi nghĩa là ông vẫn nhớ tới đứa con trai này, việc đó khiến tôi vô cùng cảm động, tôi biết trên đời này mình vẫn còn một người thân. Có lẽ do lúc đó An Tâm bỗng bặt vô âm tín nên trong lòng tôi luôn canh cánh nỗi sợ hãi bị bỏ rơi.

Rất lâu sau tôi mới biết, ngay sau buổi gặp mặt cuối cùng của chúng tôi ở trại giam, An Tâm đã cùng Tiểu Hùng về Thanh Miên. Rất lâu sau tôi mới biết, vừa về tới nhà, nhìn thấy bố mẹ, An Tâm đã quỳ xuống, nước mắt ngắn nước mắt dài cầu xin bố mẹ cứu giúp tôi. Rất lâu sau nữa tôi mới biết, bố mẹ An Tâm đã bán gần hết tài sản của mình, kể cả ngôi nhà ngói xanh xinh đẹp đó để có tiền đưa cho An Tâm đi cứu tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Đối với một kẻ với một kẻ đã quen đứng núi này trông núi nọ như tôi thì việc toàn tâm toàn ý yêu một người con gái đến nỗi thay đổi cả bản thân mình đúng là một kỳ tích. Kỳ tích đó có thể xảy ra trước hết là nhờ vào nhân cách của An Tâm, chính nhân cách đó đã khiến tôi cảm động và trở nên bao dung hơn. Thứ nữa nhưng quan trọng không kém là trong thời gian tôi và em bên nhau, An Tâm đã mang đến cho tôi hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, khiến tôi luôn cảm thấy tò mò. Ví dụ như ngoại hình và vốn sống của em, ngay cả tính cách và vẻ bề ngoài của em cũng có sự đối lập không tưởng tượng được. Chính điều đó đã tạo cho An Tâm một sức hấp dẫn đặc biệt.

Tôi không ngờ một cô gái thoạt nhìn có vẻ yếu đuối, dịu dàng như nước như An Tâm mà lại có thể vạch ra một kế hoạch đầy đủ và hoàn hảo đến như vậy. Tôi cũng không thể nào ngờ được ẩn sau khuôn mặt ngây thơ và thuần khiết ấy lại là sự dũng cảm và mưu trí hơn người.

Tôi chỉ có thể kết luận rằng, em đã từng học qua trường lớp bài bản và có kinh nghiệm thực tế khi ở Nam Đức, cũng từng trải qua thử thách sống và chết nên mới có thể làm được như thế.

Sauk hi tôi bị ngồi tù, An Tâm đã một mình chạy đôn chạy đáo khắp nơi tìm cách minh oan cho tôi, vậy mà thậm chí tôi còn không biết em đi đâu, làm gì. Nếu lúc đó tôi biết em đang phải khổ sở vì tôi như vậy thì nhất định tôi sẽ khuyên em dừng lại, tôi sợ bao công sức của em rồi sẽ thành công dã tràng xe cát mà thôi.Vào thời điểm đó, tiền bạc đối với An Tâm và Tiểu Hùng cũng giống như thứ bảo tồn sinh mạng vậy. Hơn nữa em lấy đâu ra tiền chứ. Thời buổi này, không có tiền thì chẳng thể làm gì cả.

Trong khi tôi đang chìm trong hố sâu tuyệt vọng vì nhiều lần khiếu nại bị bác bỏ thì An Tâm đã mang theo hai trăm tám mươi nghìn tệ tiền bố mẹ cho từ Thanh Miên quay về Bắc Kinh, tìm đến vị luật sư biện hộ cho tôi, trước là trả công đầy đủ cho chị ta, sau là cùng bàn tính kế hoạch lật lại phán quyết của tòa. Trước tiên họ tìm đến Lưu Minh Hạo, nói tình nói lý không được thì đánh vào tâm lý cậu ta. Thực ra, Lưu Minh Hạo là kẻ có nghĩa khí, đồng thời cũng rất tham tiền, tình và lý, danh và lợi, đối với cậu ta đều có sức hấp dẫn như nhau. Cậu ta đồng ý làm chứng lại một lần nữa, kể lại thái độ và quá trình nhận khoản tiền hoa hồng của tôi. Đồng thời, cậu ta cũng tiết lộ một thông tin quan trọng, đó là giữa Biên Hiểu Quân và công ty Quốc Ninh có mâu thuẫn, không biết Biên Hiểu Quân xin nghỉ việc hay là bị đuổi việc rồi, dù sao thì cũng không làm việc cho Quốc Ninh nữa. Chuyện này khiến An Tâm vô cùng ngạc nhiên và vui mừng, vậy là cuối cùng cũng có một tia hi vọng.

Hai người lập tức đi tìm Biên Hiểu Quân. Quá trình tìm kiếm rất gian nan vì Biên Hiểu Quân có hành tung rất khó đoán. Luật sư rất bận, không cáng đáng nổi việc này, thế là một mình An Tâm hỏi thăm thông tin từ Lưu Minh Hạo rồi tìm từng nơi một, hơn một tuần thì tìm thấy anh ta. Em đứng trước cửa một hộp đêm đợi Biên Hiểu Quân và nói có việc cần tìm anh ta. Biên Hiểu Quân chưa gặp An Tâm bao giờ, thấy một cô gái xinh đẹp như vậy đứng đợi mình, trái tim có phần loạn nhịp. Anh ta hớn hở đi cùng em đến một quán cà phê nhỏ và yên tĩnh. Anh ta nóng lòng muốn biết em muốn nói chuyện gì, không ngờ An Tâm lại rút ngay ra ba mươi nghìn tệ đặt xuống trước mặt anh ta, khiến anh ta trợn tròn mắt, không hiểu mô tê gì.

Tối hôm đó, sau khi rời khỏi quán cà phê, An Tâm đến gặp luật sư và báo với chị ta kết quả cuộc nói chuyện với Biên Hiểu Quân. Sau khi biết mối quan hệ giữa An Tâm và tôi, cùng với mục đích em đến tìm mình, Biên Hiểu Quân đưong nhiên đã gạt bỏ hoàn toàn ý đồ bất chính, dứt khoát chỉ bàn chuyện làm ăn với em. Anh ta ra giá sáu mươi nghìn tệ thì mới nói, không thì miễn bàn. An Tâm không do dự, lập tức trả tiền. Thế là Biên Hiểu Quân đồng ý đến gặp luật sư.

Những việc còn lại chủ yếu thuộc về chuyên môn của luật sư, đó là liên kết lời khai mới của Lưu Minh Hạo và Biên Hiểu Quân. Lưu Minh Hạo không muốn đắc tội với công ty Quốc Ninh, không muốn để luật sư phanh phui vụ Quốc Ninh mua chuộc cậu ta đứng ra làm chứng giả, cho dù hợp đồng cung cấp điều hòa cho tòa cao ốc Quốc Ninh giữa hai bên vẫn chưa được thực hiện, sau đó công ty Quốc Ninh đã đền bù cho Lưu Minh Hạo bằng hợp đồng in ấn tài liệu cho thuê văn phòng của cao ốc, nhưng số tiền cậu ta kiếm được cũng chỉ có mấy nghìn tệ. Nói cho cùng thì Chung Quốc Khánh cũng là kẻ làm ăn buôn bán, chắc hắn cho rằng vài câu trước tòa của Lưu Minh Hạo cũng chỉ có giá đến thế thôi.

Nhưng Biên Hiểu Quân thì khác, anh ta chủ động bày tỏ ỷ muốn vạch trần chuyện Chung Quốc Khánh yêu cầu vu cáo tôi. Hôm đó, Chung Quốc Khánh đã đích thân tìm anh ta để đàm phán, yêu cầu anh ta phủ nhận việc tôi đã từng báo cáo việc nhận hai mươi nghìn tệ tiền hoa hồng, phủ nhận chuyện đã đồng ý để tôi nhận khoản tiền đó, nhằm hãm hại tôi. Đương nhiên Biên Hiểu Quân tích cực chủ động giúp đỡ tôi như vậy không hẳn vì sáu mươi nghìn tệ mà là vì ân oán giữa anh ta và công ty Quổc Ninh. Dù sao anh ta cũng đã nghỉ việc ở Quốc Ninh rồi, lúc nói chuyện với luật sư, anh ta còn tỏ vẻ “vì nghĩa diệt thân” nữa chứ.

Ngoài ra, Biên Hiểu Quân còn cung cấp thêm tên và cách thức liên lạc của vài người có thể làm chứng cho việc đó nữa. Họ đều là nhân viên của Quốc Ninh, cũng biết chuyện hai mươi nghìn tệ hoa hồng và từng phản đối việc Chung Ninh cho phép tôi nhận số tiền đó. Mấy người đó cơ bản đều đã nghỉ việc hoặc bị công ty sa thải, chỉ cần đưa cho họ ít tiền là có thể bảo họ ra làm chứng.

Mùa xuân năm 2000, luật sư đã đệ đơn yêu cầu tòa án điều tra lại vụ án của tôi. Ngày hai mươi tám tháng tư, sỡ dĩ tôi nhớ rõ như vậy vì đó là ngày mở phiên tòa phúc thẩm vụ án, thẩm phán kiểm tra chứng cứ mà luật sư của tôi cung cấp, xét hỏi nhân chứng, sau đó tuyên án: “Nguyên cáo đưa ra bằng chứng buộc tội không đầy đủ, không thể cấu thành tội trạng, cần phải sửa chữa phán quyết trước đấy. Tòa án phúc thẩm tuyên bố bị cáo Dương Thụy vô tội.”

Cuối cũng, tôi đã được trả tự do. Bước ra khỏi tòa án, ngẩng mặt lên nhìn trời xanh cùng ánh nắng vàng lấp lánh, tôi thấy chúng quả thực đẹp hơn bầu trời và ánh nắng mà tôi nhìn thấy qua song sắt nhà tù rất nhiều. Và trên bậc thềm của tòa án, tôi đã trông thấy em. Chúng tôi cứ thế đứng yên rất lâu, trông thấy dáng hình gầy gò nhỏ bé của em mà tim tôi nhói đau. Sau đó, tôi chậm rãi bước xuống từng bậc thang và dừng lại ngay trước mặt em. Tôi thấy nước mắt em đang lăn dài, tỏa sáng lấp lánh trong nắng, em giơ tay vuốt nhẹ lên má tôi, tôi cũng từ từ kéo em vào lòng. Tôi ngày nhớ đêm mong giờ phút này, và cuối cùng, nó đã trở thành hiện thực.

Luật sư cũng đi về phía chúng tôi và nói: “Chúc mừng hai người.” Chúng tôi cùng quay lại nhìn cho đến khi chị ta đi đến bên đường, bước vào trong xe taxi rồi quay đầu mỉm cười với chúng tôi. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy chị luật sư đó cười. Thế rồi chiếc xe lăn bánh, hòa vào dòng xe đông đúc giống như một giọt nước hòa vào dòng sông vậy, rất nhanh đã biến mất.

Tôi cảm ơn luật sư, cảm ơn tất cả những người đã đứng ra làm chứng cho tôi, cho dù bọn họ làm thế vì tiền hay vì bất kì mục đích cá nhân nào khác nhưng họ đã nói ra sự thật. Lời nói thật của họ không chỉ kết thúc chuỗi ngày ngồi tù khổ cực của tôi mà quan trọng hơn là đã giúp tôi rửa sạch nỗi oan ức.

Tôi cảm ơn em. Để tôi lại có ngày được nhìn thấy ánh mặt trời rực rỡ, em đã phải tán gia bại sản.

Và tôi cảm ơn cả bố mẹ em. Từ khi biết sự trong sạch của mình được đổi bằng tiền bán nhà của họ, tôi luôn muốn đi Thanh Miên để gặp bố mẹ em, quỳ xuống cảm tạ ân đức của họ. Tôi không thể mang đến cho con gái họ một cuộc sống đầy đủ, sung sướng, ngược lại còn khiến gia đình em mất hết tài sản. Tôi muốn quỳ xuống trước mặt bố mẹ em mà thề rằng nhất định sẽ dùng cả đời mình để báo đáp ân tình này.

Và giờ đây, sau những tháng ngày rong ruổi, cuối cùng tôi đã đến gần ngôi nhà cũ của An Tâm. Gần một năm sau khi bước ra khỏi tòa án, tôi đã đến một ngôi làng nhỏ ở vùng núi Thanh Miên, nhìn thấy ngôi nhà tường xám ngói xanh, thấp thoáng núi rừng bên hồ, bất chợt cảm thấy nơi này thật thân thiết. Tôi biết đây không còn là nhà của em nữa nhưng chỉ thoáng thấy bóng dáng của nó thôi mà tim tôi đã đập dồn dập, không tự chủ được mà rảo bước đi tới.

Tôi dừng lại trước cửa nhà, ngôi nhà giản dị và yên ắng hơn nhiều so với tưởng tượng của tôi. Tôi nhìn chăm chú vào hai cái cổng sắt loang lỗ màu sơn, lộ ra mấy chỗ gỉ sét rồi gõ cửa, lớn tiếng hỏi: “Có ai ở nhà không?”

Lập tức có những âm thanh lộn xộn vang lên, kết thúc rất nhanh rồi tiếp theo là tiếng bước chân, sau đó cánh cửa sắt được đẩy ra, vang lên tiếng ken két. Người mở cửa là đàn ông, có vẻ hơn tôi một vài tuổi. Tôi hơi cúi người xuống chào, hỏi anh ta có biết gia đình họ An trước kia sống ở đây đã chuyển nhà đi đâu không. Người đàn ông đó hỏi lại: “Họ An sao?” rồi suy nghĩ rất lâu. Đúng lúc này, một ông lão tóc hoa râm đi từ trong sân ra, nói: “Anh tìm thầy thuốc An, chủ cũ của ngôi nhà này hả, nhà họ đã chuyển đi từ mùa xuân năm ngoái rồi.”

Tôi nói: “Cháu biết, thế bác có biết họ chuyển đi đâu không ạ?”

“Họ chuyển đến trung tâm văn hóa cộng đồng huyện, nhưng nghe nói giờ họ cũng không ở đó nữa rồi.”

Tôi hỏi đường đến trung tâm văn hóa cộng đồng và cảm ơn họ. Trước khi đi, tôi tranh thủ liếc nhìn khoảng sân rộng giữa ngôi nhà thông qua cánh cổng sắt được mở nửa chừng. Cái sân này đã từng là gia đình của em, đây là nơi em đã sinh ra và lớn lên, từng viên gạch, viên ngói, từng ngọn cỏ, từng cái cây của ngôi nhà này đều để lại ấn tượng sâu đậm trong trái tim tôi.

Lúc tôi tìm đến trung tâm văn hóa cộng đồng Thanh Miên cũng là lúc bắt đầu giờ cơm trưa, nhân viên của trung tâm đều đã về nhà, chỉ còn lại vài người. Đó là một tòa nhà hai tầng không lớn lắm, trước cửa treo đầy thông báo tuyển dụng với đủ kích cỡ. Nào là thư viện, hội nghiên cứu, lớp phụ đạo… hình như đều là cơ quan trực thuộc trung tâm. Hầu hết các phòng trong trung tâm đều khóa cửa, phòng nào không khóa thì để trống, thỉnh thoảng mới thấy bóng người vội vàng đi lại. Tôi hỏi nhà thầy thuốc An, tất cả đều nói không biết. Quanh quẩn trong trung tâm một lúc lâu mà không có thông tin gì, tôi liền đi ra phố ăn cơm. Đối diện trung tâm văn hóa có một cửa tiệm trông giản dị nhưng sạch sẽ, tôi liền vào đó. Ăn xong, nhìn đồng hồ thấy cũng đã được một lúc lâu, tôi liền quay lại trung tâm văn hóa. Lần này, tôi đến thẳng văn phòng của trung tâm, may thay lại gặp một nữ cán bộ đang có mặt ở đó.

Chị cán bộ nghe nói tôi muốn tìm người thì nhìn tôi với vẻ cảnh giác. Tôi vội đưa chứng minh thư của mình cho chị ta, nói mình là bạn học của con gái ông An, đến từ Bắc Kinh, đi tìm em có việc.

Chị ta kiểm tra chứng minh thư của tôi, vẫn có vẻ bán tín bán nghi, nhưng câu trả lời của chị ta còn khiến tôi thất vọng hơn. “Cậu tìm nhà thầy thuốc An đúng không, họ chuyển đi rồi. Vợ ông ấy không làm việc ở trung tâm nữa.”

“Họ đi từ lúc nào vậy?”

“… Cũng được vài tháng rồi.”

“Chị có biết họ chuyển đi đâu không?”

“Cái đó thì tôi không biết. Hình như họ rời khỏi Thanh Miên rồi.”

Chị cán bộ trả lại chứng minh thư cho tôi rồi vội vàng bỏ đi. Tôi uể oải đứng dựa vào tường, trong lòng cảm thấy trống trải vô cùng. Cha mẹ em là manh mối duy nhất có thể giúp tôi tìm thấy em, tôi nghĩ dù em không về quê thì họ cũng sẽ biết nơi ở của con gái.

Ra khỏi trung tâm văn hóa, tôi cứ đứng ngây ra giữa đường, hoàn toàn mất phương hướng. Sau một hồi suy nghĩ, tôi lại lần tìm đến nhà cũ của An Tâm, nhưng lần này, tôi không vào nhà mà men theo tường ra phía sau nhà, nơi có một sườn núi đầy những cây sam cao vút, đi dọc con đường mòn dài dằng dặc, tìm đến cái hồ phẳng lặng nằm giữa những dãy núi mà tôi hay nhìn thấy trong những giấc mơ. Đến nơi, tôi nhìn xa xăm qua bãi cỏ bên kia bờ. Ánh nắng chiếu vào những ngọn cỏ xanh tươi mơn mởn, nếu lại gần chắc chắn sẽ phát hiện ra hẳn một khu rừng nguyên sinh nhỏ bé và đáng yêu nằm sâu trong đó.

Mãi đến khi mặt trời đã xuống núi, tôi mới về đến trung tâm thị trấn Thanh Miên. Giở tờ lịch trình tàu hỏa ra, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu tôi, ngoài bố mẹ An Tâm ra, chỉ còn một người có thể biết tung tích của em, đó chính là sếp Phan, đội trưởng đội Phòng chống ma túy Nam Đức.

Vẫn còn lâu mới đến giờ tàu chạy, tôi đứng trước cửa hàng tạp hóa, trên tay cầm một gói bánh quy nhưng chưa muốn ăn, trong lòng tràn ngập sự chán chường và mơ hồ. Tôi bước vào phòng đợi của nhà ga, chiếc ba lô trên lưng như muốn ghìm cả người tôi xuống, nhưng tôi lười không muốn bỏ nó ra. Tôi cứ ngồi ở đó cho đến khi màn đêm dần buông xuống, đến gần nửa đêm mới bỏ bánh quy ra ăn, chờ đợi chuyến tàu đêm duy nhất đến Nam Đức.

Tôi đã từng đến Nam Đức một lần, khoảng mùa hè năm ngoái, khi tôi và An Tâm cùng đến Vân Nam chơi. Ngoài Nam Đức, chúng tôi còn đi cả Côn Minh và Bắc Khâu. Lúc đó, chúng tôi đang rất háo hức chuẩn bị cho hôn lễ.

Ngay sau khi ra tù, tôi và An Tâm đã quyết định kết hôn. Chúng tôi đã suy nghĩ kĩ và trao đổi rất nghiêm túc về việc này, dù bố mẹ hai bên, mà chủ yếu là bố tôi, có đồng ý hay không; dù em từng kết hôn một lần và đã có con; dù chúng tôi có tiền hay không, chúng tôi vẫn sẽ lấy nhau. Chúng tôi nhất định phải kết hôn. Ngay lập tức.

Số tiền hai trăm tám mươi nghìn tệ mà An Tâm mang từ Thanh Miên về để cứu tôi đã dùng gần hết, chỉ còn lại chưa đến ba mươi nghìn tệ. Em đã gọi điện cho bố mẹ, thông báo việc chúng tôi sắp kết hôn, cũng nói giờ chỉ còn lại ngần ấy tiền. Bố mẹ An Tâm chúc mừng chúng tôi, mẹ em còn đòi nói chuyện với tôi nữa. Lời của bà khiến tôi vô cùng cảm động. Bà hỏi: “Cháu là Dương Thụy à? Cháu biết không, An Tâm rất yêu cháu, thậm chỉ còn hơn cả yêu bản thân mình nữa. Trên thế gian này, người nó yêu nhất ngoài Tiểu Hùng ra thì chính là cháu đó.”

“Cháu biết ạ.” Tôi nói.

“Cháu có thể yêu nó giống như nó yêu cháu không?”

“Có thể ạ.”

“Thế cháu có thể yêu thương Tiểu Hùng không?”

“Có thể.”

Đầu dây bên kia im lặng một lúc nhưng tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng khóc bị kìm nén. Mẹ em nghẹn ngào nói: “Con gái bác đã khổ lắm rồi… Bác biết cháu cũng rất khổ, hãy nương tựa vào nhau mà sống… Bác thật lòng chúc các con hạnh phúc.”

Rồi bà òa lên khóc. Tôi đưa điện thoại cho An Tâm, lắng nghe mẹ con họ an ủi nhau, tự nhủ nhất định phải đối xử tốt với em, cả đời này không thay đổi.

Bố mẹ An Tâm cho chúng tôi số tiền còn lại để chi trả cho hôn lễ nhưng tôi không đồng ý, kiên quyết bảo em gửi trả cho họ. Em nói chuyện với bố mẹ hết lần này đến lần khác, cuối cùng chúng tôi thỏa hiệp sẽ giữ lại mười nghìn tệ, còn gần hai mươi nghìn tệ thì gửi về cho bố mẹ An Tâm.

Một hôm, An Tâm khuyên tôi về thăm bố. Một là để nói với ông tôi đã ra tù, đã rửa sạch oan ức, không làm cho ông và nhà họ Dương bị mất mặt; hai là thông báo việc chúng tôi kết hôn, hy vọng ông sẽ đồng ý. Tôi nghe lời em. May là hôm tôi về, bố tôi không uống rượu, đầu óc hoàn toàn tỉnh táo, nhưng nghe giọng nói của ông, tôi có thể nhận ra hậu quả sau một thời gian dài chìm trong men rượu. Ông mới năm mươi tuổi, vậy mà nói năng lộn xộn chẳng khác gì ông lão bảy, tám mươi tuổi. Biết chuyện tôi được thả, ông thở dài rồi mắng thẩm phán, công tố viên là một lũ hồ đồ, còn bảo tôi kiện lại bọn họ. Còn về chuyện tôi muốn lấy An Tâm, bố tôi không tỏ thái độ rõ ràng nhưng nghe giọng thì cũng không phản đối.

“Con đã đủ tuổi kết hôn chưa?” Bố tôi đột nhiên hỏi.

“Con đủ tuổi rồi. Nam giới hai mươi tuổi là có thể kết hôn, con sắp hai mươi tư rồi, còn An Tâm cũng sắp hai mươi ba.”

Bố tôi trầm mặc hồi lâu, cuối cùng nói: “Sắp hai mươi tư rồi cơ à, từ khi con mười bảy, mười tám tuổi, bố đã không quản nổi con rồi. Mà có khi nào con chịu nghe lời bố đâu, lúc mẹ con còn sống thì con nghe lời mẹ con, mẹ con đi rồi thì toàn tự con quyết định. Hồi nhỏ dù sợ bố nhưng chẳng bao giờ nghe lời bố cả. Rớt cuộc giờ con cũng chẳng biết sợ bố nữa rồi.”

Nghe bố nói vậy, tôi cũng chỉ biết im lặng, chúng tôi đã trở nên xa lạ tới mức ngại chia sẻ cả tình cảm thực lòng với đối phương. Không chịu nổi bầu không khí gượng gạo đó, tôi đứng dậy, nói: “Bố, bố nghỉ ngơi đi nhé, con về đây, khi nào rảnh con lại đến thăm bố. Khi nào chọn được ngày cưới, con sẽ nói với bố.” Nói rồi, tôi để hai bình rượu trắng và giỏ hoa quả An Tâm bảo tôi mang đến biếu ông lên bàn rồi đi về. Bố tiễn tôi ra cửa, sau đó nói: “Các con kết hôn, bố chẳng có gì cho, tiền thì cũng không có là bao. Vỗn dĩ bố định lấy lại căn nhà các con đang ở để gộp với căn nhà này, đổi lấy căn khác to hơn. Nếu các con kết hôn thì tạm thời bố không đổi nữa, các con cứ ở đó đi.”

“Con cảm ơn bố.” Tôi nói.

Bố tôi mỉm cười, nói: “Vẫn biết cảm ơn bố cơ đấy, trưởng thành thật rồi. Con không cần cảm ơn bố, chỉ cần không giận bố là được.”

Bố tôi nói câu đó tức là đã đồng ý chuyện tôi và An Tâm. Sau đó, ông có gọi điện đến hỏi tôi định tổ chức hôn lễ ở đâu, đặt bao nhiêu bàn tiệc, mời những ai. Tôi nói rằng hôn lễ chỉ làm đơn giản thôi, không mời tiệc mà kết hợp đi du lịch, khi về chỉ cần chia kẹo cưới cho người thân, bạn bè là được.

Bố tôi nói: “Ừ, thế cũng được, An Tâm tái hôn, lại phải nuôi con nhỏ, không cần bày vẽ làm gì. Các con tự lo đi, người ta có hỏi thì bố sẽ nói các con kết hôn lâu rồi.”

Tôi mừng đến nỗi không biết phải nói gì, chỉ âm thầm tận hưởng niềm vui sướng trong lòng. Đúng, tôi và An Tâm đã quyết định rồi, không ai có thể ngăn cản cả.

Tuy thế, chúng tôi cũng mời chị luật sư đã giúp mình thắng kiện ăn một bữa cơm. An Tâm có vẻ rất hào hứng, hình như giữa hai người họ đã hình thành một tình bạn sâu sắc.

Tôi nói đùa với An Tâm: “Muốn thể hiện tấm lòng thì phải mời người ta đi ăn vi cá, bào ngư, chứ mấy món thông thường hằng ngày thì chả có gì đặc biệt cả. Có khi người ta ăn chán rồi cũng nên.”

An Tâm ngẩn ra một hồi rồi hỏi: “Vi cá, bào ngư? Thế mấy món ấy có đắt không?”

Tôi cười cười, đáp: “Ba người, ít nhất cũng khoảng hai nghìn tệ.”

An Tâm giật mình, kêu lên: “Hai nghìn tệ? Ăn vàng chắc!”

“Hai nghìn tệ vẫn chỉ là mấy món đơn giản thôi, chưa phải là sơn hào hải vị đâu, ngay cả vi cá cũng chỉ là vây rụng, vây nhỏ phía đầu thôi; bào ngư cũng chỉ là loại nhỏ…”

An Tâm ngập ngừng nói: “Thế… ăn thứ khác nhé… cũng không nhất định phải ăn bào ngư, vi cá mà.”

Thế là chúng tôi chọn nhà hàng hợp túi tiền nhưng có không gian rất đẹp. Bữa cơm hôm đó chi hết có hơn ba trăm tệ một chút, ba người chúng tôi ăn rất vui vẻ. Luật sư chỉ hơn chúng tôi có sáu tuổi, về cơ bản cũng là những người trẻ nên chúng tôi nói chuyện rất cởi mở và ăn ý. Ăn cơm xong, luật sự đột nhiên nói với tôi: “Dương Thụy, xét trên phương diện pháp luật, việc làm của Chung Quốc Khánh và Chung Ninh chính là vu cáo hãm hại người vô tội, đồng thời ngụy tạo chứng cứ. Cậu có muốn tố cáo bọn họ không?”

Tôi ngẩn ra một lúc rồi nói: “Muốn.”

Chị ta lại nói tiếp: “Lời khai của Lưu Minh Hạo, Biên Hiểu Quân và các nhân chứng khác đã đủ để cấu thành tội danh của bọn họ rồi. Chỉ cần người bị hại kiện ra tòa là được.”

Tôi nhìn sang An Tâm. Em cuối đầu như có điều cần suy nghĩ, không tỏ thái độ gì. Tôi liền nói với luật sư: “Được, tôi sẽ kiện bọn họ.”

“Cậu có thể gửi đơn kiện đến Viện Kiểm sát, yêu cầu họ khởi tố. Tôi có thể giúp hai người thảo đơn kiện và liên hệ với nhân chứng.”

Nói rồi, luật sư liếc mắt nhìn An Tâm. Em vẫn im lặng từ đầu đến cuối. Thế là luật sư quay sang tôi, nói: “Hay hai người cứ bàn bạc kĩ đi, quyết định rồi thì tìm tôi.”

“Được, chắc vẫn phải nhờ chị đấy.” Tôi khách khí nói.

Sau đó, chúng tôi chia tay luật sư tại cửa nhà hàng. Vì cũng đã muộn nên chúng tôi không đi đón Tiểu Hùng nữa, An Tâm gọi điện cho người giữ trẻ để nói chuyện với Tiểu Hùng rồi cùng tôi đi xe buýt về nhà.

Về đến nhà, An Tâm đi trải giường còn tôi ngồi xem ti vi ở phòng khách. Lát sau, chúng tôi đi ngủ. Nằm trên giường, An Tâm đột nhiên hỏi: “Dương Thụy, anh thực sự muốn kiện Chung Ninh à?”

Tôi im lặng một lúc mới đáp: “Ừ, cũng nên cho cô ta thử làm bị cáo một lần chứ.”

An Tâm lại im lặng một lúc lâu rồi mới nói: “Anh muốn kiện cô ta, em không có ý kiến gì, em cũng ghét cô ta lắm. Nhưng anh và em không giống nhau, dù sao em và Chung Ninh cũng không quen biết nhau, còn anh và cô ta đã từng là người yêu.”

Tôi lập tức nổi cáu. “Ai là người yêu của cô ta chứ! Em nghĩ anh vẫn còn tình cảm với Chung Ninh sao?”

Một lúc sau, An Tâm mới nói: “Con người là động vật có tình cảm, chuyện tình cảm vốn rất khó nói rõ ràng. Em không nói anh và Chung Ninh đến giờ vẫn còn tình cảm, ý em là dù sao hai người cũng đã cùng nhau trải qua một khoảng thời gian tốt đẹp, từng yêu thương nhau, những thứ đó tuy đều là chuyện quá khứ nhưng khó mà nói quên là quên ngay được, đúng không?”

“Không phải em nghi ngờ anh vẫn lưu luyến cuộc sống cũ, vẫn nhớ nhung Chung Ninh đấy chứ?”

“Không, em nói thế vì em cũng từng ở vào hoàn cảnh của anh. Mặc dù em không yêu Mao Kiệt và căm ghét chuyện anh ta buôn bán ma túy nhưng khi phải làm chứng chống lại anh ta, đẩy anh ta vào chỗ chết, thực sự trong lòng em cũng không nhẫn tâm. Em nhớ đến những kỷ niệm đẹp đẽ giữa em và anh ta, nhớ đến việc anh ta đã từng chăm sóc em, đối xử tốt với em… Rất nhiều chuyện bình thường không nhớ đến nhưng không hiểu sao khi nhìn thấy Mao Kiệt, những kỷ niệm đó lại hiện về…”

Tôi mỉm cười, quay sang nhìn An Tâm, đưa tay vuốt ve khuôn mặt em, nói: “Đó là vì em là phụ nữ, tất cả phụ nữ đều đa cảm và mềm yếu. Còn đàn ông bọn anh thì không như thế.”

An Tâm nằm im nghe tôi nói. Ánh đèn ngoài cửa chiếu vào phòng, làm đôi mắt em sáng lấp lánh. Em quay sang nhìn tôi, nói: “Được, nếu anh đã nghĩ kĩ, không thấy thẹn với lòng mình thì cứ kiện đi, em không sao đâu.”

“Thật chứ? Thế sao lúc luật sư nói chuyện này, em lại thở dài?”

“Nếu anh thật sự căm hận cô ta, muốn trả thù cô ta thì em không phản đối việc anh kiện cô ta. Nhưng em sẽ không khuyên anh hay ép anh làm việc đó. Vì em biết cô ta là bạn gái cũ của anh, em không muốn bắt anh phải làm việc mà sau này, có thể anh sẽ thấy hối hận.”

Tôi nằm xuống, không nói gì nữa đối diện với người yêu cũ của mình, tố cáo để cô ta phải ngồi tù, phải chịu khổ giống như tôi đã từng chịu, liệu tôi có thấy vui vẻ? Dường như tôi cũng không. Tôi sẽ hối hận sao? Tôi không dám khẳng định. Nhưng nếu tôi đến tòa án, dám chắc chắn về điều đó.

Nhớ lại ánh mắt hận thù của Chung Ninh khi ở tòa án, nhớ lại cảnh cô ta làm chứng giả, kiên quyết ép tôi vào đường cùng, biểu cảm sung sướng và đắc ý xen lẫn độc ác đó, tôi đột nhiên giật mình, tự cảnh báo mình không được tàn nhẫn và mất hết lương tâm giống như cô ta.

Hôm sau, tôi gọi điện cho luật sự, nói không kiện Chung Ninh và Chung Quốc Khánh nữa. Hình như luật sư đã sớm đoán được quyết định của tôi nên cũng không ngạc nhiên, chị nói: “Cũng được, dù sao đó cũng là ý muốn của cậu.” Dừng lại mấy giây, đột nhiên chị ta lại nói tiếp: “Dương Thụy, cậu đúng là một người tốt!” Tôi cười, hỏi sao chị ta lại nói thế. Luật sư trả lời: “Từ lúc cậu nói muốn tôi biện hộ vô tội, tôi đã rất khâm phục cậu rồi. Để giữ sự trong sạch, cậu thà ngồi tù chứ không chịu nhận tội, người bình thường sẽ không lựa chọn như vậy. Cả việc cậu từ chối kiện Chung Ninh nữa, rất có tình người. Dù không tán thành nhưng tôi có thể hiểu được. Giờ tôi cũng hiểu tại sao An Tâm lại bất chấp tất cả để cứu cậu ra tù rồi, tôi nghĩ cậu rất xứng đáng với sự hi sinh của cô ấy.”

Dập máy, trong lòng tôi bỗng có một cảm giác hạnh phúc rất khó tả. Khi tôi nói chuyện đó với An Tâm, em chỉ bình thản “ừ” một tiếng.

Mấy ngày sau, chúng tôi đi ăn cơm cùng Lưu Minh Hạo. Vốn dĩ tôi không muốn đi, vụ làm chứng giả gần như đặt dấu chấm hết cho tình bạn giữa chúng tôi. Nhưng vì Lưu Minh Hạo cứ mời lên mời xuống mãi, thêm vào đó An Tâm cũng nói đỡ cho cậu ta: “Lưu Minh Hạo là dân buôn bán, anh ta sao dám đắc tội với công ty Quốc Ninh. Chúng ta không thể đòi hỏi quá nhiều ở anh ta, cũng không cần phải để bụng chuyện đó làm gì. Huống hồ chẳng phải cuối cùng anh ta cũng giúp chúng ta còn gì, với cả ngày trước anh ta cũng giúp hai bố con anh không ít việc. Lần này coi như hai người hòa nhau, nếu không anh lại phải nhớ ơn anh ta mãi” nên tôi đành gật đầu.

Kể ra thì Lưu Minh Hạo cũng có lòng, mời chúng tôi đến hẳn nhà hàng Đông Phương Hoa Viên còn đắt đỏ hơn cả khách sạn năm sao nữa. Cậu ta gọi hết tất cả các món ngon nhất của nhà hàng. Mới đầu gặp nhau, hai bên đều có chút ngại ngùng nhưng cảm giác đó trôi qua rất nhanh. Ly rượu đầu tiên, Lưu Minh Hạo chủ động tạ tội: “Người anh em, tôi đã không phải với cậu, uống trước một ly tự phạt.” Cậu ta ngẩng đầu uống cạn ly rượu, lau miệng rồi nói: “Tôi ấy à…có một ưu điểm, đó là biết sai là sửa. Tôi không ngờ chỉ một câu nói của mình đã đẩy anh em chí cốt vào chỗ chết, cứ tưởng luật pháp sẽ giải oan cho cậu. Kết quả cậu vừa bị bắt, tôi đã lo cuống cả lên, nghĩ đủ cách để cứu cậu ra ngoài. Đúng lúc đó thì An Tâm đến tìm tôi, thế là chúng tôi cùng hợp sức. Dương Thụy này, tôi đã khiến cậu phải vào tù thì cũng phải giúp cậu ra tù. Nào, ly thứ hai là cho cậu đấy, uống đi.”

Lưu Minh Hạo mời hết ly này đến ly khác, khiến tôi chẳng có thời gian nói chuyện với An Tâm, còn cậu ta thì cứ thao thao bất tuyệt. “Dương Thụy, chẳng phải người ta thường nói: “Đàn ông chưa lấy vợ, chưa vào tù thì chưa phải đàn ông chân chính” đó sao. Mấy tháng ngồi tù của cậu không uổng phí đâu! Trước đây, nhìn cậu chẳng khác gì thằng choai choai mới lớn, hôm nay… nhìn vào mắt cậu, tôi thất cậu đã trưởng thành lên nhiều rồi.”

Tôi cười, trêu cậu ta: “Thế lúc nào đó cậu cũng ngồi tù đi, để được làm đàn ông chân chính.”

Lưu Minh Hạo ngẩn ra giây lát rồi phá lên cười. “Tôi á, tôi phải làm thằng đàn ông bình thường, lấy vợ sinh con trước đã.”

Nói đi nói lại một hồi lại vòng về chuyện kiện cáo. Lưu Minh Hạo chửi anh em nhà họ Chung không tiếc lời, nói có nhiều người đang muốn kiện bọn họ. Công ty Quốc Ninh đã dính đến mấy vụ kiện rồi, Viện Kiểm sát cũng đang điều tra lại vụ án của tôi nhằm khởi tố họ tội vu cáo. Dù Chung Quốc Khánh có nhiều tiền để chạy án thì cũng không biết kết quả sẽ thế nào, đổi trắng thay đen rồi sớm muộn cũng ác giả ác báo.

Ăn cơm xong, An Tâm lấy ra ba nghìn tệ trả cho Lưu Minh Hạo. Lúc Tiểu Hùng bị ốm, chúng tôi có vay cậu ta bốn nghìn tệ, sau này khi làm việc ở Long Đô, tôi đã trích lương tháng trả cậu ta một nghìn tệ. Lưu Minh Hạo mặt đỏ lựng vì rượu, đẩy tiền ngược lại, lớn tiếng nói: “Này này, hai người làm gì thế? Làm thế này khác gì chửi vào mặt tôi.”

An Tâm thành tâm thành ý nói: “Thật xin lỗi anh, anh bán cổ phiếu cho chúng em vay tiền là phải chịu lỗ rồi, lãi chúng em cũng không trả nổi, đây coi như là tiền gốc.”

Lưu Minh Hạo nói: “Em xem anh là người ngoài sao? Anh và Dương Thụy là chiến hữu tốt, khoản tiền vay này coi như anh tạ lỗi với cậu ta, nếu không trong lòng anh sẽ rất khó nghĩ.”

Lưu Minh Hạo nhất định không nhận tiền, An Tâm không biết làm thế nào liền quay sang cầu cứu tôi. Tôi cầm cọc tiền dúi vào lòng Lưu Minh Hạo, nói: “Cậu để chúng tôi thoải mái một chút được không, nợ tiền người khác ăn ngủ không yên.”

Lưu Minh hạo thấy tôi kiên quyết quá, bèn đổi chiến lược thuyết phục, nói: “Không phải hai người sắp kết hôn sao, khoản tiền này coi như quà mừng cưới của tôi, đỡ phải đi mua đồ tặng.”

Tôi vẫn từ chối: “Việc nào ra việc đó chứ. Cậu cũng sắp kết hôn rồi, giờ cậu tặng quà cho bọn tôi, sau này chúng tôi lại phải tặng quà cho cậu, tặng đi tặng lại mệt quá, tình nghĩa là chính quà cáp là phụ, thôi miễn đi nhé.”

Lưu Minh Hạo biết nói không lại tôi, đành bỏ tiền vào ví, gượng cười, nói: “Các cậu kết hôn, tôi nhất định phải tặng quà, dù cậu có không thích thì tôi vẫn tặng.”

Nói thực, tôi không muốn nhận quà của Lưu Minh Hạo cũng như của bất kỳ ai cả. Thời gian ngồi trong tù và vất vả tìm việc trước kia đã giúp tôi phần nào hiểu được về nhân tình thế thái, lòng người ấm lạnh. Mỗi quan hệ giữa người với người nếu có sự gắn kết bởi máu mủ ruột rà thì còn có thể khăng khít, số còn lại chắc chắn đều vì lợi ích, tình cảm thuẩn khiết rất hiếm có.

Xét về điểm này, An Tâm khoan dung và lương thiện hơn tôi rất nhiều. Em nói: “Anh đừng nghĩ ai cũng nhỏ nhen như thế, chẳng lẽ ai giúp anh cũng là vì lợi ích riêng sao? Ngày trước, lúc còn làm việc trong đội Phòng chống ma túy Nam Đức, sếp Phan, anh Tiền và tất cả mọi người đều giúp đỡ em rất nhiều, chẳng lẽ họ đều muốn kiếm lợi từ em?” Tôi chưa bao giờ tiếp xúc với người của đội Phòng chống ma túy nên chỉ biết nói cứng: “Người ở Nam Đức thế nào anh không biết, anh đang nói người Bắc Kinh kìa. Dân sống ở thành phố lớn, ai cũng hám tiền hết.”

An Tâm vẫn giữ vững lập trường của mình. “Nam Đức và Thanh Miên tuy không hiện đại bằng Bắc Kinh nhưng em tin tấm lòng con người đều có mặt lương thiện như nhau cả. Tình yêu là phải vô tư, nếu không vô tư thì không phải tình yêu.”

Tôi không tranh luận với An Tâm nữa, mọi người đều có quan điểm sống của riêng mình. Tôi thừa nhận mình không lương thiện được như em, nhưng tôi thích sự lương thiện, muốn được sống và làm việc với những người lương thiện. Tôi nghĩ nếu sống với nhau đủ lâu, chưa biết chừng tôi cũng có thể trở nên lương thiện như em vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Trái ngược với khung cảnh náo nhiệt và hoành tráng trong giấc mơ của tôi, hôn lễ của tôi và An Tâm rất đơn giản và kín đáo, không có bất kỳ vị quan khách nào. Hôn lễ đó chỉ gồm có ba người: An Tâm, tôi và Tiểu Hùng.

Tuy nhiên, chúng tôi mãi vẫn chưa thống nhất được địa điểm tổ chức. Tôi thì muốn tổ chức ở Bắc Kinh, ngay tại căn nhà chúng tôi đang ở. Đó là nơi chúng tôi đã sống những tháng ngày hạnh phúc. Còn An Tâm thì phân vân giữa Thanh Miên và Nam Đức, nhưng cả hai địa điểm đó đều không phù hợp. Nếu tổ chức ở Thanh Miên thì không thể giữ được bí mật, vì ở đó An Tâm còn có bạn bè và người thân. Bố mẹ em đương nhiên cũng không muốn con gái dắt theo một đứa bé trong ngày làm đám cưới, họ vẫn còn khá trọng thể diện. Đi Nam Đức thì lại càng phi thực tế, vì An Tâm đã thay tên đổi họ để rời xa Nam Đức, giờ quay lại tổ chức hôn lễ thì chẳng phải bao công sức của đội Phòng chống ma túy đều đổ xuống sông xuống bể ư? Cấp trên chắc chắn sẽ không đồng ý. Trong lúc tạm thời chưa biết quyết định thế nào, chúng tôi cùng nhau quay về Vân Nam một chuyến. Thực ra, việc đến Vân Nam là không thể tránh được, vì muốn kết hôn, An Tâm phải về quê để xin giấy chứng nhận độc thân.

Thế là, vào một ngày đầu tháng Sáu rực rỡ đầy nắng vàng, tôi và An Tâm dắt theo Tiểu Hùng, đi tàu hỏa đến Côn Minh. Chuyến đi đó đối với chúng tôi giống như một chuyến du lịch hưởng tuần trăng mật hạnh phúc và vui vẻ.

Hành trình từ Bắc Kinh đến Côn Minh đầy nắng và gió, chúng tôi như đôi uyên ương ríu rít cười nói suốt đường đi. Nhất là Tiểu Hùng, thằng bé đã nói được nhiều và rõ chữ hơn trước, không biết có ai dạy không mà nó cứ gọi tôi là “bố”. Lần đầu tiên thằng bé gọi tôi như thế, tôi giật cả mình, quay sang nhìn An Tâm phấn khích hỏi: “Ấy, em có nghe con vừa gọi anh là gì không?”

An Tâm giả vờ hỏi lại: “Gọi là gì?”

Tôi thấy hơi nghi nghi, liền hỏi: “Có phải em dạy con không?”

Em lập tức phủ nhận: “Từ trước đến giờ em chưa bao giờ có ý ép anh làm bố Tiểu Hùng, sao em phải dạy con gọi anh là “bố” chứ?”

“Chẳng phải em nói không nghe thấy sao?”

An Tâm ngẩn ra một lúc rồi cười. Tôi và Tiểu Hùng cũng cười.

Kỳ thực, trong mối quan hệ giữa tôi và An Tâm có một nút thắt nhạy cảm và quan trọng nhất, đó chính là Tiểu Hùng. Đây chính là vấn đề mà An Tâm lo lắng nhất, cũng là điều tôi phải chú ý cẩn thận nhất. Nói thực lòng, Tiểu Hùng là một đứa trẻ đáng yêu, tôi rất muốn sống cùng thằng bé, chơi đùa với nó, nhưng chịu trách nhiệm với nó như một người cha thì lại là một việc hoàn toàn khác. Lúc tình cảm mặn nồng, đứa con sẽ làm cho bầu không khí gia đình thêm vui vẻ nhưng khi tình cảm phai nhạt, nhất là những lúc tôi bực bội mà Tiểu Hùng lại không nghe lời, tôi sợ mình sẽ không kìm nổi mà ghét bỏ nó. Càng khó hơn nữa là tôi phải che giấu cảm xúc thật của mình, ví dụ lúc Tiểu Hùng gào khóc, không nghe lời, tôi cũng phải nhẫn nhịn, không được đánh mắng nó, thậm chí đến to tiếng dạy bảo nó cũng không được, vì một lý do duy nhất: tôi không phải là bố đẻ của thằng bé. Cho dù An Tâm có nói nếu Tiểu Hùng không nghe lời, cần mắng cần đánh thì tôi cứ làm, nhưng nếu tôi mắng thật, đánh thật, chắc chắn em sẽ đau lòng, mà còn có khi nghĩ tôi không thương thằng bé nữa cũng nên. Lại nói về chuyện thương yêu con cái, An Tâm yêu con theo một cách đơn giản là nuông chiều nó, và tôi vốn không tán thành cách làm đó. Nhưng tôi không phải là bố đẻ của thằng bé nên không thể công khai biểu lộ sự bất đồng trong phương pháp dạy con được.

Tôi luôn luôn tự nhủ với mình rằng quan trọng không phải là cách tôi dạy dỗ Tiểu Hùng mà trước tiên là làm cho thằng bé chấp nhận tôi đã. Chính vì thế, khi Tiểu Hùng bất ngờ gọi tôi là “bố”, ít nhiều tôi cũng thấy cảm động, đó là một tín hiệu tốt. Thế là suốt chuyến đi, tôi đã cố gắng thể hiện vai trò của một người cha để chăm sóc Tiểu Hùng. Những lúc mệt mỏi, chỉ cần Tiểu Hùng nói muốn chơi với bố là bao nhiêu mệt mỏi cũng tan biến hết, ngược lại tôi còn cảm thấy hạnh phúc. Đối diện với Tiểu Hùng, tôi mới phát hiện bản thân đã thực sự trưởng thành rồi, đã hiểu được thế nào trách nhiệm, không giống như trước đây, vui buồn đều thể hiện ra mặt.

Chúng tôi chơi ở Côn Minh một ngày rưỡi. Tôi cố gắng chiều theo mọi yêu cầu của An Tâm và Tiểu Hùng. Nói thật là từ bé đến lớn, tôi chưa thấy mình tốt với ai như vậy. Ngoại trừ lúc đi chơi ở Thạch Lâm tôi và An Tâm có xích mích nhỏ ra thì trong suốt quãng đường, tôi đều cảm thấy mình là một người chồng, người cha tốt hiếm có trên thế giới này.

Nguyên nhân vụ xích mích ở Thạch Lâm là một gã tên Trần Hiểu Đông mới ra mắt một ca khúc nổi tiếng khắp Đài Loan và Hồng Kông. Tôi không nghĩ An Tâm cũng mê mệt loại đàn ông ưa chải chuốt và giả tạo như vậy. Lúc em nhìn thấy bang nhạc mới của Trần Hiểu Đông, hình như có tên là Hạnh phúc hơn anh thì phải, liền khăng khăng đòi mua. Tôi không đồng ý, đó là lần duy nhất tôi không tán thành việc em mua thứ gì đó kể từ khi chúng tôi yêu nhau. Tôi ghét cái bản mặt cứ cố tỏ ra gợi cảm và khiêu khích trên bìa cuốn băng, cũng ghét luôn cái tên của bài hát, cái gì mà “hạnh phúc hơn anh” chứ, đúng là vớ vẩn.

Tôi nói với An Tâm: “Mua thứ đó làm gì, chỉ tổ phí tiền!”

Em nhìn tôi một lúc rồi nói: “Mua đi, em thích nghe anh ta hát.”

“Em mê mẩn anh ta đến thế cơ à? Thích giọng hát của anh ta sao? Em thích khuôn mặt anh ta thì có!”

An Tâm mân mê bìa cuộn băng rồi nói: “Anh nói đúng đấy, anh ta rất đẹp trai.”

Tôi cười khấy, lấy Tiểu Hùng làm vũ khí, nói: “Ờ… Anh hỏi em nhé, bỏ tiền ra mua một cuốn băng chỉ vì cái bìa bên ngoài thì có đáng không? Chúng ta còn phải nuôi Tiểu Hùng nữa chứ.”

An Tâm ngây người nhìn tôi, chưa hiểu thực ra là tôi đang ghen với gã Trần Hiểu Đông trên bìa tập băng, hỏi: “Ý anh là gì vậy?”

Tôi bế Tiểu Hùng lên, quay người bỏ đi, cố ý nói to để em nghe thấy: “Tiểu Hùng, khổ thân con quá!”

Cuối cùng, An Tâm không mua cuốn băng đó nhưng nét mặt cũng không được vui. Chắc em nghĩ tôi keo kiệt đến cả mười tệ. Nhìn thấy nét mặt buồn bã của em, tôi chợt nghĩ: “Mình vừa thua Trương Thiết Quân một ván rồi, có tí tiền mà cũng chi li, chắc chắn An Tâm sẽ càng nhớ anh ta hơn.”

Đến chỗ bán đồ trang sức, tôi muốn vỗ về An Tâm, liền chủ động dừng lại xem. Quả nhiên An Tâm bị những món trang sức đó thu hút còn hơn cả Trần Hiểu Đông nữa. Chắc con gái đều thích những thứ này. Tôi nói với An Tâm: “Anh muốn tặng em một chiếc nhẫn nhưng giờ không có tiền, phải làm sao đây?”

An Tâm cười, nét mặt quả nhiên đã dịu lại, em nói: “Thế anh tặng em một vật làm tin đi, chỉ cần có thể đại diện cho tình cảm của anh là được.”

Trong suy nghĩ của tôi, tín vật tình yêu tuy chỉ mang tính tượng trưng nhưng cũng phải cao cấp một chút, không cần đắt tiền nhưng cũng không thể quá rẻ được. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi vẫn không biết nên tặng An Tâm vật gì, liền hỏi ngược lại An Tâm: “Đã là tín vật thì em cũng phải tặng anh chứ. Em định tặng anh thứ gì đây?”

An Tâm tháo sợi dây chuyền ngọc Quan Âm đang đeo trên cổ ra, nói: “Đây là thứ em trân trọng nhất, Quan Âm Bồ Tát vẫn luôn phù hộ cho em, sau này Người cũng sẽ phù hộ cho anh.”

Tôi giật mình, nói: “Đây là vật mẹ em tặng em, anh không dám nhận đâu. Mẹ em muốn Bồ Tát phù hộ cho em cả đời này luôn được bình an.”

Em mỉm cười. “Chỉ cần anh bình an, em cũng sẽ bình an. Anh bình an rồi thì sẽ bảo vệ em. Anh sẽ bảo vệ em chứ?”

Tôi liền ôm chặt lấy em, ghé vào tai em thì thầm: “Đương nhiên, anh sẽ mãi mãi bảo vệ em, chăm sóc em, để em cả đời này luôn được bình an, hạnh phúc. Em có tin anh không?”

An Tâm gật đầu.

Tóm lại, chuyến đi đó rất vui. Sau khi rời Côn Minh, chúng tôi tiếp tục đi Bắc Khâu. Sau khi đến Bắc Khâu, chúng tôi tới nơi quản lý hộ khẩu của An Tâm. Mặc dù em chỉ sống ở Bắc Khâu có vài tháng nhưng nó cũng là một trang trong cuộc đời em. Chúng tôi đi qua công ty vật liệu xây dựng nơi An Tâm đã từng làm việc, An Tâm chỉ cho tôi chỗ em làm việc và nơi ở, sau đó chúng tôi đến ủy ban.

Ủy ban là một ngôi nhà cũ hơi xập xệ, nơi tiếp đón công dân chỉ là một căn phòng nhỏ hơn chục mét, được ngăn cách với văn phòng bởi một cánh cửa. Tôi và An Tâm đứng đợi ngoài cửa rất lâu, phía trong có một cảnh sát đang trực ban, dáng vẻ mệt mỏi. An Tâm túm tay một cảnh sát đi ra ngoài uống nước, hỏi cách làm thủ tục thì bỗng nhiên có một đám người gây sự đánh nhau. Tôi bế Tiểu Hùng đứng chờ ngoài cửa, thấy thật phiền phức nhưng cũng chẳng còn cách nào khác.

Gần một tiếng đồng hồ sau, căn phòng mới trở lại yên tĩnh một chút, cuối cùng cũng đến lượt An Tâm, em đưa chứng minh thư có tên Hà Yến Hồng cho ảnh sát, xin được cấp giấy chứng nhận độc thân để kết hôn. Cảnh sát hỏi mấy câu qua loa rồi kiểm tra sổ hộ khẩu. Anh ta xem đi xem lại rồi chau mày, hỏi: “Cô chuyển đến đây lúc nào?”

“Từ tháng Năm năm ngoái.” An Tâm đáp.

“Từ đâu chuyển đến?”

“Từ Nam Đức.”

Cảnh sát lại nghi hoặc hỏi: “Tại sao cô lại chuyển đến đây?”

“Để làm việc.”

“Cô làm việc ở đâu?”

“Công ty vật liệu xây dựng A.”

“Vậy sao cô lại không làm ở đó nữa?”

“Tôi chuyển đến Bắc Kinh.”

“Đối tượng kết hôn của cô sống ở Bắc Kinh à?”

“Vâng.”

Cảnh sát quay sang nhìn tôi, thấy tôi ôm Tiểu Hùng, anh ta liền hỏi: “Đã có con rồi sao?” Chúng tôi đều không trả lời. Cảnh sát không hỏi thêm gì nữa, cúi đầu nhìn sổ hộ khẩu rồi lại nói: “Hộ khẩu của cô có vấn đề, tại sao lại có nhiều mục để trống thế này?”

An Tâm cũng sớm đoán được sẽ có chuyện này nhưng vẫn giả vờ ngây ngô nói: “Không phải chứ, chắc là khi tôi chuyển đến các anh chưa ghi vào sổ.”

Cảnh sát nói: “Hai ngày nữa các vị quay lại nhé! Cảnh sát làm giấy tờ cho cô lúc đó bị điều đi nơi khác rồi, chúng tôi phải tìm hiểu lại đã.”

Tôi vội lên tiếng: “Chúng tôi chỉ kết hôn thôi mà, phiền anh làm giấy chứng nhận độc thân giúp, chúng tôi còn phải quay về Bắc Kinh để kịp ngày tổ chức hôn lế.”

Cảnh sát lắc đầu, nghiêm nghị nói: “Không được, số hộ khẩu của cô ấy không rõ ràng, chúng tôi bắt buộc phải chứng thực, đó là trách nhiệm của chúng tôi. Sắp tới sẽ quản lý hộ khẩu trên máy tính, thông tin của cô ấy không rõ ràng thì nhập vào máy tính thế nào được.”

Mất nửa ngày mà chẳng thu được kết quả gì, tôi và An Tâm bế con, buồn bã bước ra khỏi ủy ban, không ai nói với ai một lời.

Chúng tôi đứng ở cổng ủy ban một lúc rồi tôi lên tiếng trước: “Có cần tìm người quen nhờ giúp đỡ không? Không nhờ được thì đút ít tiền. Thời buổi này, đừng nói là kết hôn, ngay cả hỏa táng cũng phải có tiền lót tay, nếu không thì còn lâu mới xong việc.”

An Tâm ái ngại nói: “Em không có người quen ở đây.”

Cả hai cũng thở dài, im lặng một lúc lâu. Rồi tôi bỗng nhớ ra một chuyện, nói: “Sao em không đến Nam Đức tìm đơn vị cũ của em, dùng tên cũ làm giấy tờ? Chẳng phải em nói không thích cái tên Hà Yến Hồng sao, anh nghe cũng chẳng thấy hay, tên gì mà quê một cục.”

Em thở dài, nói: “Em vốn không muốn đồng đội cũ biết chuyện kết hôn, họ mà biết thì cũng sẽ không đồng ý cho em dùng cái tên An Tâm để làm thủ tục đâu. Lần trước sếp Phan đến Bắc Kinh công tác, biết em dùng tên thật liền mắng cho em một trận.”

Tôi chán nản hỏi: “Thế bây giờ phải làm thế nào?”

An Tâm trầm ngâm một lúc lâu rồi mới ngập ngừng nói: “Hay là… hay là chúng ta cứ quay về Nam Đức!”

Tôi thấy em đã ngả theo phương án của mình, liền mừng rỡ gật đầu, thơm vào má em một cái rồi nói: “Hay quá, vậy chúng ta đi Nam Đức!”

Tối hôm đó, chúng tôi nghỉ lại Bắc Khâu, sáng sớm hôm sau lên tàu hỏa đi Nam Đức. So với tưởng tượng của tôi, Nam Đức rộng lớn và hiện đại hơn nhiều. Bước xuống tàu hỏa, đập ngay vào mắt tôi là một dãy nhà gạch thấp tầng nhưng phóng tầm mắt ra xa một chút, có thể nhìn thấy rất nhiều nhà cao tầng, cao ốc văn phòng mới được xây. Tòa thị chính, Ủy ban nhân dân thành phố, Sở cảnh sát… đều là những khu nhà hiện đại nhưng tôi không thích kiểu khiến trúc hiện đại này bằng những căn nhà cổ.

Chúng tôi còn thấy tất cả đường phố đều được trao đèn kết hoa, tràn ngập không khí hội hè náo nhiệt, nghe nói sắp đến lễ té nước của dân tộc Thái. Lễ té nước mừng năm mới là ngày lễ quan trọng nhất của dân tộc Thái. Ở Nam Đức chủ yếu là người Hán, Thái và Đức Ngang, ngoài ra còn có dân tộc La Hô, Ha Ni và Bố Lãng… nên có rất nhiều ngày lễ tết.

Tôi và An Tâm không tiêu tốn thời gian vào việc dạo phố, chơi hội mà nhanh chóng tìm chỗ dừng chân. Cách nhà ga không xa có môt dãy nhà cổ được sửa sang thành nhà nghỉ, hai mặt đều trông ra phố lớn. Hai bên đường đều là nhà gỗ mang phong cách kiến trúc của thập niên năm, sáu mươi. Nhà thấp khiến cho tầm nhìn được rộng và thoáng đãng hơn.

Trước cửa nhà nghỉ có trồng mấy cây chuối rừng và mấy loại cây tôi không biết tên, thấp thoáng mấy bông hoa dại. Đám cây cỏ đó không những không có tác dụng làm đẹp cảnh quan mà còn khiến khu nhà trông tồi tàn hơn. May mà nó được đặt trên phông nền là dãy núi Nam Mãng cây cối xanh tươi nên xét về tổng thể, tôi thấy cũng không đến nỗi nào.

Bước vào nhà nghỉ rồi tôi mới nhận ra khu nhà này được xây dựng và bảo tồn từ tận thời nhà Thanh. Tôi và An Tâm thuê một phòng, căn phòng nhỏ chỉ đủ kê một chiếc giường đôi và một cái bàn. Vừa vào phòng, mở cửa sổ ra, chúng tôi đã được chiêm ngưỡng cảnh hoàng hôn trên dãy núi Nam Mãnh. Nhận phòng xong cũng đến giờ cơm tối, lạ là nhà nghỉ này còn có cả dịch vụ trông trẻ nữa. Người trông trẻ là một người phụ nữ trung niên rất nhiệt tình. Nhìn thấy Tiểu Hùng, bà ta liền vui vẻ hỏi chuyện thằng bé. Phí trông trẻ tính theo giờ, mỗi tiếng ba tệ, nếu kèm việc cho ăn thì thêm ba tệ nữa, so với ở Bắc Kinh thì mức gái này rẻ hơn nhiều.

Thế là tôi và An Tâm giao con cho người giữ trẻ. Nhìn thấy Tiểu Hùng vui vẻ chơi đồ chơi đến mức quên cả vẫy tay tạm biệt mẹ, chúng tôi cũng thấy yên tâm, vậy là có thể thoải mái ra phố đi dạo, ăn cơm rồi. Sau khi ăn cơm, tôi bảo An Tâm dắt đi tham quan ký túc xá bên hồ, trụ sở Đội phòng chống ma túy và căn nhà của em và Thiết Quân…

An Tâm có vẻ do dự, nói là cấp trên chưa cho phép em quay lại Nam Đức, nếu đến những nơi đó biết đâu lại gặp phải người quen, cấp trên mà biết thế nào cũng phê bình em, hay là gọi điện báo cho sếp Phan trước rồi hẵng tính tiếp.

Tôi nghĩ em đã lo lắng quá rồi, mệnh lệnh từ một năm trước mà vẫn thực hiện nghiêm túc, lẽ nào làm cảnh sát có mấy ngày mà bị quản lý cả đời luôn? Tôi ra sức năn nỉ: “Em sợ cái gì chứ, trời cũng tối rồi, em cứ cuối đầu mà đi, ai nhận ra được? Anh đi sau một đoạn, coi như không quen biết em.”

Chúng tôi tranh luận một lúc lâu, cuối cùng cũng thỏa hiệp: Gọi điện cho sếp Phan, nếu gặp thì nghe theo lời ông ấy, nếu không gặp thì An Tâm sẽ dẫn tôi đến những nơi đó. Tìm thấy bốt điện thoại công cộng, An Tâm gọi đến số của đội Phòng chống ma túy, người nhấc máy là người em không quen, nói đội trưởng Phan không có ở đó. Gọi đến nhà sếp Phan cũng không có người nghe máy, gọi vào di động thì ngoài vùng phủ sóng. Tôi hỏi An Tâm có cần hỏi người khác không, ví dụ đội phó Tiền chẳng hạn. Em nói không cần, đội phó Tiền tính khí nóng nảy, biết em tự ý quay về chắc chắn sẽ mắng em.

Không liên lạc được với sếp Phan, An Tâm đành phải dẫn tôi đi, nhưng vì không có nhiều thời gian nên chúng tôi chỉ đến được ngôi nhà của em và Thiết Quân. Khi chúng tôi quay về nhà nghỉ, Tiểu Hùng đã ngủ rồi.

Sáng hôm sau, An Tâm vẫn không liên lạc được với sếp Phan, chúng tôi bỗng cảm thấy có chút lo lắng. Chốc chốc An Tâm lại bắt tôi gọi điện đến trụ sở một lần vì sợ người trong đội nhận ra giọng của em. Đến gần tối, đột nhiên điện thoại của sếp Phan lại liên lạc được, chúng tôi đều vui mừng, An Tâm có phần kích động, nói: “Chú Phan, là cháu, An Tâm đây. Giờ cháu đang ở Nam Đức, cháu có việc muốn nói với chú.”

Sếp Phan vô cùng ngạc nhiên, có thể nhận ra ông ta không tán thành việc An Tâm đột nhiên quay về Nam Đức một chút nào. An Tâm vội giải thích rằng em muốn tái hôn, cần phải xin giấy chứng nhận độc thân tại Sở cảnh sát Nam Đức.

An Tâm trình bày xong, sếp Phan im lặng một lúc lâu rồi bảo em đến trụ sở gặp ông ta, và phải đi một mình.

Dập máy, An Tâm có vẻ lo lắng bất an. Sau đó, em bảo tôi trông Tiểu Hùng, nếu muốn đi dạo thì chỉ được đi gần thôi đừng đi xa, em phải đi có việc, sẽ quay về nhanh thôi.

An Tâm đi rồi, tôi bế Tiểu Hùng đi dạo loanh quanh. Thằng bé cứ thút thít khóc, chắc là nó nhớ cô trông trẻ và mấy người bạn nhỏ mới quen. Tôi dỗ mãi nhưng thằng bé còn khóc to hơn. Tôi đành đưa nó về nhà nghỉ, Tiểu Hùng lập tức òa khóc. Cô trông trẻ thấy thế liền dỗ thằng bé, nói cho nó ăn thịt, thế là Tiểu Hùng nín khóc ngay.

Chín giờ An Tâm mới về, nét mặt trầm tư, thấy tôi đứng ở cửa nhà nghỉ hút thuốc còn Tiểu Hùng đang chơi với cô trông trẻ thì có vẻ khó hiểu. Chúng tôi đi đón con rồi trả tiền cho cô trông trẻ. Khi về phòng, tôi nói với An Tâm rằng Tiểu Hùng cứ đòi chơi ở chỗ cô trông trẻ, không ngờ An Tâm lại có phần tức giận, nói: “Sao lại thế được, hay là mấy ngày qua anh phải trông con nên thấy phiền phức? Cũng phải, anh có phải bố đẻ của Tiểu Hùng đâu.”

Tôi biết tâm trạng của em đang không tốt lắm nên mới nói như vậy nhưng trong lòng cũng khó tránh khỏi bực bội. “Em nói cái gì thế? Anh và em sống với nhau lâu như vậy, có khi nào anh nói thấy Tiểu Hùng phiền phức không?”

“Dương Thụy, mấy hôm nay Tiểu Hùng làm phiền anh, trong lòng em cũng không dễ chịu gì. Nó không phải là con anh, anh thấy phiền thì em cũng hiểu được, không trách anh. Em cảm ơn tình cảm anh dành cho mẹ con em bấy lâu nay. Giờ anh thay đổi vẫn còn kịp đấy.”

Tôi tức điên lên, lớn tiếng nói: “Sao anh có thể ghét bỏ Tiểu Hùng được chứ? Em nói đi, rớt cục anh phải làm thế nào mới là đối xử tốt với Tiểu Hùng, mới giống bố đẻ của nó? Nói thực lòng, nếu Tiểu Hùng là con đẻ của anh thì anh tuyệt đối không chiều nó như thế đâu. Anh chiều con là vì em, em có biết không? Anh biết em hi vọng anh sẽ đối xử thật tốt với Tiểu Hùng. Dù em có yêu anh hay không cũng không quan trọng, điều em quan tâm nhất là anh có yêu thương Tiểu Hùng hay không.”

Mặt An Tâm biến sắc, em nói: “Tiểu Hùng là con của em, em yêu nó, còn anh có yêu thương nó hay không là quyền tự do của anh, em không bắt ép anh được. Ngay cả việc anh có yêu em hay không, em cũng không ép buộc.”

Tôi và An Tâm không phải là chưa từng cãi nhau, nhưng trước đây đều là vì những chuyện nhỏ nhặt, nói xong thì thôi. Đó là lần đầu tiên chúng tôi tức giận tới mức nói ra những lời làm tổn thương đối phương. Tôi thấy tình hình hơi căng thẳng nên cố gắng kiềm chế cảm xúc của mình, hơn nữa hình như Tiểu Hùng cũng nhận ra chúng tôi cãi nhau vì nó nên cứ ngồi ngây ra trên giường nhìn chúng tôi. Nhìn thấy thằng bé như vậy, tôi không khỏi xót xa. Tiểu Hùng sắp được hai tuổi rồi, nó đã hiểu được phần nào những lời người lớn nói, chúng tôi không nên cãi nhau trước mặt nó vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến tính cách và tâm lý của thằng bé. Thế nên tôi phải kiềm chế, thực ra chỉ cần mỗi người bớt đi một câu thì mọi giận hờn đều có thể tan biến nhưng tôi cũng hiểu được một điều, giữa chúng tôi đã có một đám mây đen bao phủ, và khởi nguồn của đám mây đó chính là Tiểu Hùng.

Thấy tôi không nói nữa, An Tâm cũng im lặng. Tôi vốn định hỏi em lúc nãy đi tìm sếp Phan nói chuyện thế nào nhưng vừa cãi nhau xong, mặt ai cũng sa sầm nên không tiện hỏi.

Sáng hôm sau, Tiến Hùng tỉnh dậy trước, nó bò từ chỗ mẹ sang chỗ tôi, muốn tôi mặc quần áo cho. Thường ngày đều là tôi mặc quần áo cho Tiểu Hùng nên nó đã quen rồi. Đúng lúc đó, An Tâm cũng dậy, còn giúp tôi thay quần áo cho con. Nhìn mặt em thì biết cơn tức giận hôm trước đã giảm đi nhiều.

Tôi chưa kịp hỏi An Tâm cuộc trò chuyện với sếp Phan thế nào thì ông ta đã tới, trông ông ta vẫn chẳng khác gì một năm trước, khi tôi nhìn thấy ở cổng trường dạy võ. Ông ta bắt tay tôi và cũng không nói gì nhiều. An Tâm bảo tôi bế Tiểu Hùng ra ngoài đi dạo. Khi ra đến cửa, tôi nghe thấy sếp Phan hỏi An Tâm: “Cậu ta bao nhiêu tuổi rồi?”

Tôi biết ông ta đang hỏi về tôi, thầm nghĩ cấp trên của An Tâm quản lý hơi chặt rồi, An Tâm không phải là trẻ con, chắc ông ta chê tôi còn trẻ, không muốn An Tâm lấy tôi.

Tôi cõng Tiểu Hùng đi dạo trong sân, còn An Tâm và sếp Phan ngồi nói chuyện trong phòng. Chắc sợ người khác nghe thấy nên họ cố tình nói rất nhỏ, khiến tôi có cảm giác họ đang bàn chuyện đại sự.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


An Tâm và sếp Phan có quan điểm sống rất khác nhau, một phần là do thời đại thay đổi, một phần là do cách biệt tuổi tác, hai người thuộc hai thế hệ khác nhau. Chính vì thế, cuộc trò chuyện hôm đó đã biến thành một cuộc tranh luận.

Sếp Phan không đồng ý để Sở Cảnh sát Nam Đức cấp giấy chứng nhận độc thân cho An Tâm vì cho rằng dù có là đơn vị công tác trước đây của em nhưng họ không có chức năng cấp giấy tờ liên quan đến việc kết hôn. Mặt khác, dù vụ án của Mao Kiệt cũng qua hơn một năm rồi, trên thực tế cũng không có gì nguy hiểm nhưng An Tâm đã trở thành nhân chứng được bảo vệ, nếu không được cấp trên phê duyệt thì không ai dám công khai thân phận của em. Ngoài ra, sếp Phan vẫn nghiêm cấm em tiếp tục sử dụng tên thật. Ông ta nói: “Ở Bắc Kinh, cháu vẫn dùng cái tên đó đã là không đúng rồi, lại còn đòi viết lên giấy tờ kết hôn thì càng không được. Sao cháu không giao lại chứng minh thư cho Ủy ban niêm phong bảo quản hả? Nếu chú đồng ý cho cháu kết hôn với cái tên đó thì tức là đã vi phạm nguyên tắc, hơn nữa muốn xin giấy chứng nhận độc thân thì phải đến Tòa thị chính thành phố, có phải chỉ cần chú gật đầu một cái là xong đâu.”

An Tâm nói: “Chẳng phải chú rất thân với Chủ nhiệm Phương sao, chú đi gặp ông ấy nói giúp cháu một câu cũng chẳng phải việc gì khó khăn, cũng không vi phạm nguyên tắc. Sau khi kết hôn, cháu sẽ tự lực cánh sinh quyết không làm phiền đến tổ chức cũng không được sao? Cháu không muốn phải mai danh ẩn tích cả đời.”

“Chủ nhiệm Phương cũng không có cái quyền ấy. Chương trình bảo vệ nhân chứng của cháu đã được Đảng ủy thông qua, Chủ nhiệm Phương đương nhiên nắm rõ và tôn trọng nguyên tắc hơn cả chú, sao có thể vì một cá nhân mà phá luật được. Trừ phi Đảng ủy hủy bỏ chương trình bảo vệ và thân phận người được bảo vệ của cháu, lúc đó chú sẽ cấp giấy chứng nhận.”

Theo ý sếp Phan, An Tâm vẫn nên đến Bắc Khâu xin giấy chứng nhận, Đảng ủy thành phố Nam Đức sẽ liên hệ với cảnh sát Bắc Khâu giúp em. Trên giấy tờ vẫn sử dụng cái tên Hà Yến Hồng. ngoài việc phê bình An Tâm không dùng tên giả ra, sếp Phan còn phê bình em vì chưa được cấp trên đồng ý đã tự ý về Nam Đức. Ông ta nói: “Bây giời cháu không phải là người của đội Phòng chống ma túy cũng không phải là cảnh sát đang làm nhiệm vụ nên chú không tiện trách mắng cháu nhiều, nếu cháu còn ở đội thì chú đã giáo huấn cháu một trận rồi đuổi đi rồi, đi Bắc Khâu, Bắc Kinh, đâu cũng được hết!”

An Tâm có phần tủi thân và tức giận, cúi đầu nói:

“Chẳng phải từ hôm qua đến giờ chú vẫn mắng cháu đấy còn gì. Cháu vẫn tưởng chú rất yêu quý cháu, không ngờ chú lại ghét cháu như vậy. Cháu phải làm gì thì chú mới hài lòng đây?”

Sếp Phan trầm tư một lúc rồi thở dài, nói: “Trước đây, chú có một người đồng nghiệp, hình như chú đã kể chuyện của anh ta cho cháu nghe một lần rồi thì phải. Lúc chú còn làm việc ở Sở Cảnh sát thành phố Sa Mâu, có quen một đồng nghiệp làm cảnh sát phòng chống ma túy ở Côn Minh. Anh ta đã trà trộn vào một đường dây buôn bán ma túy để khai thác thông tin của bọn chúng. Bọn chúng rủ anh ta đi buôn ma túy, anh ta cũng phải làm cùng chúng. Sau này, ngay cả tập đoàn buôn bán ma túy nước ngoài cũng tín nhiệm anh ta. Sở cảnh sát tỉnh sắp xếp cho anh ta mở một trạm xăng dầu bên đường quốc lộ Sa Tây để trao đổi tin tức, tổ chức buôn bán ma túy cũng dùng trạm xăng đó làm điểm trung chuyển. Chính chú là người phụ trách liên lạc với anh ta, nhờ anh ta mà tỉnh phá được rất nhiều vụ án. An Tâm, cháu có biết đồng chí ấy đã che giấu thân phận, nằm vùng bao nhiêu năm không? Tám năm đấy. Tám năm không yêu đương, không kết hôn, tám năm mai danh ẩn tích, không gặp gỡ bạn bè. Suốt tám năm, anh ta chỉ về Côn Minh thăm bố mẹ có ba lần, đến nỗi bố mẹ anh ta cũng nghĩ anh ta đã đi làm ăn xa, không về nhà nữa. Sau khi anh ta hi sinh rồi, mọi người mới biết có một anh hùng vô danh như vậy. An Tâm, không phải chú ngăn cấm cháu yêu đương hay kết hôn mà chú muốn nhấn mạnh vào tố chất của con người. Lúc hi sinh, đồng nghiệp của chú mới ba mươi tuổi nhưng anh ta đã có một cuộc đời vô cùng vĩ đại và cao cả. Anh ta trẻ hơn chú nhưng chú vô cùng khâm phục anh ta. Đời này người chú thực sự kính phục không nhiều, và anh ta là một trong số đó.”

Tuy nhiên, không như sự kỳ vọng của sếp Phan, An Tâm không bị câu chuyện về người cảnh sát mai danh ẩn tích sau đó hi sinh kia làm cho cảm động. Em bình tĩnh nói: “Đội trưởng, người như vậy cháu cũng kính phục, nhưng cháu không thể học theo anh ta, sống cuộc đời giống như anh ta được. Cháu là phụ nữ, cháu cần phải kết hôn, sinh con, cần có một gia đình, cần thường xuyên về nhà thăm nom, chăm sóc bố mẹ. Cháu chỉ muốn có một cuộc sống bình thường như những người khác. Chú đừng kỳ vọng ở cháu quá nhiều, cháu sinh ra không phải để làm một người vĩ đại và cao cả. Cháu muốn có một cuộc sống bình anh và vui vẻ, chỉ thế cháu cũng hài lòng rồi.”

Sếp Phan chỉ im lặng nghe em nói, trên gương mặt thất thần hiện rõ nét cô độc. Cuối cùng, ông gật đầu chỉ nói một câu: “Được, chú hiểu rồi.”

Khuôn mặt già nua và nặng trĩu tâm sự của ông ta khiến An Tâm chạnh lòng. Em không muốn làm ông ta buồn bã, thất vọng. Em hỏi: “Đội trưởng, có phải chú cảm thấy cháu đã thay đổi, đã trở nên ích kỷ không?”

Sếp Phan lắc đầu, nói: “Chú hiểu cách nghĩ của cháu.”

Dứt lời, ông ta cúi xuống xem đồng hồ, tỏ ý phải đi ngay. “Hôm nay, chú sẽ đến Ủy ban nhờ họ gọi điện cho cảnh sát Bắc Khâu. Cháu định lúc nào đến đó?”

An Tâm đáp: “Tám rưỡi sáng mai sẽ có một chuyến tàu đi Bắc Khâu, cháu sẽ đi chuyến đó.”

Sếp Phan liền lấy một gói giấy màu đỏ từ trong túi ra đặt lên giường, nói: “Cho cháu mượn vật này một ngày. Mai là lễ té nước, mẹ vợ chú là người dân tộc Thái, chú đã xin nghỉ hai ngày để về Đại Lý một chuyến. Trưa mai chú đi nhưng sẽ phái người đến tiễn hai người ra ga. Trước khi lên tàu, cháu trả lại vật này cho anh ta là được.”

An Tâm cầm cái gói đó lên, mở ra xem, dường như em đã đoán ra đó là vật gì. Quả nhiên đó là một khẩu sung ngắn, em nhanh chóng nhận ra đó là khẩu súng trước đây mình từng sử dụng.

Sau đó, An Tâm gói khẩu súng lại, thực ra em muốn nói là không cần nhưng lại sợ làm mất lòng sếp Phan. Có lẽ sếp Phan nói cũng đúng, vì sống ở Bắc Kinh lâu quá rồi nên em đã trở nên xa lạ với không khí cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu khi làm cảnh sát ở Nam Đức. An Tâm tiễn sếp Phan về, vừa đi vừa nói: “Đội trưởng, cháu biết mình đã làm chú tức giận, cháu không thể trở thành người ưu tú như chú mong muốn, hi vọng chú sẽ không ghét bỏ cháu.”

Sếp Phan dừng lại, cúi đầu trầm tư một lúc rồi quay sang nhìn An Tâm bằng ánh mắt hiền từ hiếm có, nói: “Cháu rất ưu tú đấy chứ. Mong muốn có một cuộc sống bình thường, một gia đình hạnh phúc chẳng có gì sai trái cả, cháu đừng nghĩ đó là việc xấu, đừng cảm thấy áy náy. Người đồng nghiệp đó của chú chỉ là một ví dụ thôi, cháu cũng đừng để bụng quá, mấy ông già như chú thường như vậy đó. Hôm nay, cháu nói cháu cũng kính phục anh ta, khen anh ta là người vĩ đại, cao cả, chú rất mừng. Thực lòng mà nói, cháu còn hiểu chuyện hơn cả con trai chú đấy. Nó nghe chú kể chuyện xong, lại nói đồng nghiệp của chú có vấn đề về nhận thức mới chết chứ….”

Những lời nói của sếp Phan khiến cho An Tâm vô cùng cảm động. Hóa ra ông ta vẫn quý mến em như trước đây. Sếp Phan cười khổ, nói: “Chú đã hết lòng dạy bảo con trai những điều hay lẽ phải ngay từ khi nó còn nhỏ, vậy mà xem ra đều không có tác dụng.”

Sếp Phan đi rồi, An Tâm còn đứng ngây ra trước cửa nhà nghỉ, nhìn theo bóng ông ta một lúc lâu. Tôi cũng nhìn theo bóng dáng của sếp Phan, hôm đó ông ta mặc một chiếc áo cũ màu ghi sẫm, mái tóc lòa xòa trước trán, trông chẳng khác gì một lão nông khắc khổ và mệt mỏi.

Sau đó, tôi và An Tâm quay về phòng. Em chủ động thông báo kết quả cuộc trò chuyện của mình và sếp Phan cho tôi nghe. Tôi chỉ im lặng ngồi ôm Tiểu Hùng. An Tâm thấy tôi như vậy, liền nghĩ tôi vẫn để bụng vụ cãi nhau hôm trước, liền tiến đến đón Tiểu Hùng từ tay tôi, nhẹ nhàng hỏi: “Anh cảm thấy phiền phức lắm phải không? Em cũng không còn cách nào khác, những người làm cảnh sát đều cứng nhắc như vậy đấy….”

Tôi nói: “Không sao, chẳng phải đã nói là đi du lịch sao? Nếu anh không đi Côn Minh thì sao thấy được Thạch Lâm, nếu không đến Nam Đức thì cũng chẳng thể tận mắt xem lễ té nước. Thế ở đây người ta có té nước thật không? Hay chúng mình ra phố xem đi!”

An Tâm suy nghĩ một lúc rồi nói: “Lễ té nước ở Nam Đức không tổ chức ở trong thành phố mà là ở Ô Tuyền. Năm ngoái, em lại về Bình Quảng đúng dịp lễ hội nên không đi Ô Tuyền xem được. Nghe nói họ còn đua thuyền rồng nữa cơ.”

Ô Tuyền! Tôi đã quen với cái tên này nhờ câu chuyện cuộc đời của An Tâm. Tôi luôn muốn đến thăm nơi đó, bất kể có lễ té nước hay cuộc đua thuyền rồng hay không.

An Tâm cũng không muốn làm tôi mất hứng, thế là chúng tôi gửi Tiểu Hùng cho người trông trẻ. Hôm đó không có nhiều người gửi con ở đó lắm, hai cô trông trẻ đang ngồi nói chuyện phiếm, nhìn thấy Tiểu Hùng liền lập tức ra đón. An Tâm hỏi cô trông trẻ sao vắng vẻ thế, cô ta đáp: “Bố mẹ bọn trẻ đưa chúng đi chơi hội rồi, nhà nghỉ không có nhiều khách lắm, người ta đều thuê phòng ở gần khu vực Ô Tuyền để tiện xem hội, chỉ còn lại anh chị thôi. Thế hai người không đi Ô Tuyền, không đi hội chợ à?” An Tâm nói: “Đi chứ, nhưng chiều nay chúng tôi phải về để sáng mai đi sớm.”

Gửi Tiểu Hùng xong, vẫn còn một vấn đề khiến An Tâm đau đầu, đó là khẩu súng ngắn sếp Phan cho em mượn để phòng thân. Em không dám để lại trong phòng nhưng mang theo bên mình thì lại có phần kì cục. Hơn nữa, nếu đến Ô Tuyền thì khả năng bị ướt áo rất cao, mang súng rất dễ bị lộ. Ngược lại, tôi rất có hứng thú với khẩu súng đó, đề nghị được giữ hộ em nhưng An Tâm thẳng thừng từ chối. “Anh không biết cách dùng, nhỡ súng cướp cò thì sao.” Sau một hồi do dự, An Tâm quyết định giấu súng vào túi xách. Cái túi đó có ngăn ngoài, chỉ cần khéo một cái là có thể mở khóa. Sau khi cất súng cẩn thận rồi, An Tâm đẩy cái túi đó vào tận sâu trong gầm giường rồi nhìn tôi, cười nói: “Được rồi, đi thôi.” Thế là chúng tôi vui vẻ lên đường.

An Tâm mới đến Ô Tuyền một lần nhưng nó đã để lại ấn tượng quá sâu đậm cho em, thế nên vừa ra khỏi nhà nghỉ, em liền dắt tay tôi đi, có vể quen đường thuộc lối như một hướng dẫn viên du lịch vậy. Chúng tôi cũng đi tàu hỏa đến Ô Tuyền giống như năm đó An Tâm đi, cũng nhìn thấy đồi núi nhấp nhô và những thửa ruộng bậc thang không một bóng người.

Không có Tiểu Hùng bên cạnh, chuyến đi đó lại càng có dư vị của tuần trăng mật, từ phong cảnh nên thơ hai bên đường đến những câu chuyện mà chúng tôi thì thầm nói với nhau, thật là hạnh phúc. An Tâm kể cho tôi nghe câu chuyện của người cảnh sát đã che giấu thân phận suốt tám năm để lấy tin tức của bọn tội phạm. Tôi cũng có chung cảm xúc với em, cũng khâm phục anh ta, không hiểu sao con trai sếp Phan lại không cảm động vì câu chuyện đó. Nhưng tôi thực tế hơn An Tâm ở chỗ, tôi thừa nhận trong mỗi con người đều tồn tại bản tính ích kỷ và tham sống sợ chết. Anh hùng thực sự có tồn tại nhưng không nhiều, hơn nữa còn tùy từng trường hợp cụ thể nữa. Nếu bắt một người không sống, không được rèn luyện trong môi trường đó phải học tập anh ta để trở thành một anh hùng thì đúng là một truyện nực cười và bất khả thi.

Đi tàu từ Nam Đức đến Ô Tuyền chưa mất đến nửa tiếng đồng hồ nên cuộc thảo luận về anh hùng và sự vĩ đại cũng nhanh chóng kết thúc. Vừa bước ra khỏi nhà ga, tôi và An Tâm đã bị choáng ngợp bởi không khí lễ hội tưng bừng. Đường phố đông nghịt người qua lại, các sạp hàng nối tiếp nhau không ngừng, những cô gái Thái trang điểm lộng lẫy và xinh đẹp trong những bộ trang phục sặc sỡ… Chúng tôi xuôi theo dòng người, hướng về phía sông Ô Tuyền. Lúc đến nơi, chúng tôi nhìn thấy hàng dài người đến xem đua thuyền, không sao chen lên được, đứng phía sau chỉ nhìn thấy đầu và lưng người khác, cũng không rõ cuộc đua đã bắt đầu hay chưa.

Tôi và An Tâm men theo bức tường người đi được một đoạn thì thấy một sạp hàng nhỏ bán túi hoa khô, bèn mua hai túi. Tôi bắt chước người ta vừa đi vừa quay sợi dây buộc túi hoa khô vài vòng rồi ném về phía mấy cô gái dân tộc Thái đang đứng nói chuyện. An Tâm trợn mắt lườm tôi, nói: “Đó là ám hiệu tìm người yêu đó, anh đừng có ném lung tung.”

“Thế thì em cũng ném đi, đã “chấm” được anh nào chưa?” Tôi trêu em.

“Em không thèm. Em sẽ mang túi khoa khô này về cho Tiểu Hùng chơi.”

“Ôi trời, nói qua nói lại, hóa ra em vẫn yêu con trai hơn cả chứ gì.”

Đúng lúc đó, chúng tôi nghe thấy tiếng đàn hát cách đấy không xa, tuy không rõ tiếng nhưng rất cuốn hút. Tiếp đó, tôi nìn thấy một ống trúc bay vút lên trời, kèm theo một dải khói trắng và một tiếng nổ lớn. An Tâm bỗng hét lên: “Bắn pháo rồi!” Tôi vội hỏi An Tâm đó là cái gì, em đáp đó là một loại pháo, cũng tương tự như pháo mà người Hán bắn trong dịp Tết. Đến một bãi đất trống chúng tôi thấy một đám người đang nhảy múa hát hò, còn có cả trò chọi gà và đâm trâu nữa. Sau cùng, chúng tôi đi thẳng đến một ngôi chùa có tên là Man Long, nghe nói rất nổi tiếng. Nhìn vào bảng giới thiệu chùa tôi mới biết, sau chùa có một tòa tháp tên Man Long, chân tháp được thếp vàng, còn thân tháp được thếp bạc, quả thực rất đẹp. Trước chùa Man Long có một bãi đất trống, ngay phía sau là một thôn làng nhỏ, vào trong rồi mới coi như đến đúng nơi diễn ra lễ té nước.

Ở trong thôn, người chơi trò té nước rất đông, già trẻ gái trai đều có nhưng chủ yếu là thanh niên. Tôi và An Tâm nép vào bên đường, phân vân không biết có nên hòa vào dòng người đang té nước rất nhộn nhịp kia không, nếu không chơi thì chẳng phải đã đi một chuyến vô ích hay sao, còn nếu chơi thì cả tôi và em đều không mang theo quần áo, không biết phải đợi đến khi nào quần áo mới khô để đi về. Đang lưỡng lự không biết quyết định thế nào thì đột nhiên có một cô gái chạy đến hắt cả một chậu nước vào người tôi, thế là tôi ướt như chuột lột. An Tâm đứng bên cạnh cười phá lên, vỗ tay lia lịa. Tiếng cười chưa dứt, em cũng bị té nước ướt từ đầu đến chân. Chúng tôi quay sang nhìn nhau rồi cùng xông vào đám người đó, tìm được hai cái chậu nhựa, cũng múc nước hắt tới tấp lên người bọn họ.

Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy An Tâm cười một cách vui vẻ và thoải mái như một đứa trẻ. Từ khi quen em, tôi luôn thấy em kìm nén cảm xúc của mình, đến hôm đó tôi mới được nhìn thấy nụ cười thực sự của em.

Rất lâu sau đó, khi đến Hawaii, tôi lại mơ thấy tiếng cười đó của em, thì ra lúc đó chúng tôi đang ở chùa Man Long, cạnh sông Ô Tuyền, trong một lễ hội té nước. Đó là thời khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời chúng tôi.

Té nước một hồi, ai nấy đều chạy tán loạn, tôi nhận thấy An Tâm chạy về phía một đám đông. Chậu nước cuối cùng của em hắt trúng một thanh niên cao to đang đi về phiá chân tháp Man Long, khiến cả người anh ta ướt sũng. Người đó từ từ quay mặt lại, đứng ở bậc thềm dưới chân tháp, nhìn An Tâm và nhếch miệng cười gian ác.

Đột nhiên, tôi thấy An Tâm đứng sững lại như hóa đá, rất lâu sau em mới run rẩy lùi lại hai bước, cái chậu trên tay rơi xuống đất. Người đó quay người đi về phía sau tòa tháp. An Tâm bỗng nhiên hét lên một tiếng, to đến mức khản cả giọng. Tôi không nghe rõ là em hét cái gì nhưng thấy em đi về phía người đó, tuy nhiên vừa đi được vài bước thì có một đám đông cầm chậu không ào đến cuốn em đi, sau lưng đám người đó là một đám đông khác với những cái chậu đầy nước. ..

Sau khi đám người đó đi rồi, tôi thấy An Tâm toàn thân ướt sũng đứng dưới chân tháp Man Long, ngoài em ra thì không thấy bóng dáng ai nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Nhà ga Thanh Miên nửa đem vắng vẻ đến khôn cùng, một mình tôi ngồi trên cái ghế băng dài, nhẫn nại chờ chuyến tàu đêm đi Nam Đức. Ngoài tôi ra chỉ có vài ngọn đèn đường hắt ánh sáng vàng hiu hắt vào nhà ga và cả một bầu trời sao trên đầu.

Trong lúc chờ đợi tiếng tàu hỏa chạy trên đường ray, tôi ngước nhìn những ngôi sao trên trời và nhớ lại những kỷ niệm đã có với An Tâm. Từng mảnh ký ức hiện lên dưới bầu trời sao đẹp như một bức tranh, từ buổi gặp gỡ ở câu lạc bộ Taekwondo cho đến nụ hôn trong mưa ở trạm xe buýt, từ bữa cơm ở nhà tôi đến bàn ăn ở nhà hàng Gia Lăng Các… rất nhiều việc tưởng như bình thường khi đó lại trở thành những ký ức xúc động bây giờ.

Tôi vẫn còn nhớ như in lễ hội té nước ở Ô Tuyền, những khoảnh khắc vui vẻ và náo nhiệt, và cả cái giật mình kinh hãi của An Tâm.

Trong lễ hội té nước đó, em đã nhìn thấy Mao Kiệt.

Khi An Tâm nói với tôi em nhìn thấy Mao Kiệt, tôi nghĩ rằng em đã nhìn nhầm vì lúc chạy đến chân tháp, tôi đã đưa mắt tìm kiếm khắp nơi trên bậc thềm rộng lớn mà không thấy bóng người nào cả. Ngay cả khi đi ra sau tháp, chúng tôi cũng chỉ thấy có hai nhóm thiếu nữ đang té nước chứ không thấy Mao Kiệt đâu cả.

Tôi lau những giọt nước trên tóc em, hỏi: “Mao Kiệt? Có khi nào em nhìn nhầm không?”

Mặc dù khung cảnh lúc đó khá lộn xộn nhưng An Tâm vẫn kiên quyết khẳng định mình không nhìn nhầm. “Đúng là em đã nhìn thấy anh ta mà. Anh ta đang ở đây!”

Chúng tôi cùng nhìn ngó xung quanh, tôi hỏi: “Ở đâu?”

Bốn phía đều là người với người, trông ai cũng hạnh phúc, vui vẻ. Nếu đúng là Mao Kiệt đã xuất hiện thì trong hàng ngàn người cũng khó mà tìm thấy dấu vết của anh ta.

Thế rồi An Tâm kéo tôi chạy xuống chân tháp, xuyên qua đám đông và sương mù, ngược trở lại bờ sông. Tôi vội hỏi: “Không chơi nữa sao?”

Em dừng lại, nhìn quanh quất, vừa thở hổn hển vừa nói: “Mau…. Đi tìm điện thoại!”

Sau đó, chúng tôi chạy về phía ga tàu. Ở đó, chúng tôi đột nhiên nhìn thấy một chiếc xe cảnh sát tuần tra dừng ở phía đối diện với cổng ga, không hẹn mà gặp cùng chạy sang đó.

Hai cảnh sát đang uống nước và nói chuyện phiếm trên xe, nghe An Tâm trình bày thì cứ ngẩn người ra, không biết phải xử lý thế nào. An Tâm nói trong hơi thở đứt quãng: “Nhanh…bên kia… bên kia có kẻ giết người… Các anh mau đi bắt hắn đi! Ở chuà Man Long…nếu không hắn chạy mất…”

Tôi đứng bên cạnh, cố gắng thể hiện sự bình tĩnh mà một người đàn ông nên có, bổ sung thêm: “Hắn ta tên là Mao Kiệt, khoảng hai ba, hai tư tuổi, cao gần bằng tôi….”

Cảnh sát nói với chúng tôi cứ như người lớn xoa dịu trẻ con bị dọa ma: “Đừng hoảng sợ, hai người nói chầm chậm thôi. Rốt cuộc là có việc gì? Ai giết ai cơ?”

“Cuối cùng thì có việc gì, ai giết ai”, không biết phải kể từ đâu thì hai cảnh sát này mới hiểu ra đây? Tôi nhìn An Tâm, em cũng á khẩu, nói không nên lời. Một lúc sau, An Tâm mới hỏi: “Các anh có điện thoại không?”

Một cảnh sát đáp: “Đây là điện thoại chuyên dùng cho cảnh sát, không thể tùy tiện cho người ngoài mượn. Cô muốn gọi đi đâu?”

“Tôi muốn báo án.” An Tâm dõng dạc đáp.

“Báo án? Cô báo với chúng tôi là được rồi. Trước tiên nói rõ ràng tình hình đã, ai là kẻ giết người?”

“Tôi là người trong đội Phòng chống ma túy của thành phố, làm ơn cho tôi mượn điện thoại một chút, tôi cần gọi cho đội trưởng.”

Hai người cảnh sát nhìn nhau, có vẻ không tin lắm. “Cô là người của đội Phòng chống ma túy à? Có thẻ cảnh sát không?”

An Tâm tìm rất lâu mới rút tờ chứng minh thư ra, đưa cho cảnh sát. Cảnh sát đọc: “Hà Yến Hồng?” rồi cười cười, nói: “Đây là chứng minh thư mà, không được, cô có thẻ cảnh sát không?”

An Tâm ngập ngừng một lát mới nói: “Hiện giờ tôi đã ra khỏi ngành rồi, không còn thuộc biên chế đội Phòng chống ma túy nữa. Nhưng tên tội phạm kia vẫn đang bị truy nã, tôi phải lập tức báo cho họ.”

Hai cảnh sát nghi hoặc nhìn An Tâm rồi nói: “Cô chờ chút.” Dứt lời, một người ngồi vào xe, gọi điện thoại. Tôi và An Tâm đứng chờ ngoài xe, cũng không biết anh ta gọi điện thoại cho ai, không lâu sau anh ta bước ra, cầm chứng minh thư của An Tâm trên tay, hỏi: “Rốt cuộc thì cô muốn làm trò gì đây? Đội Phòng chống ma túy trước giờ làm gì có ai tên Hà Yến Hồng.”

An Tâm vội nói: “Anh nói với họ tôi tên là An Tâm.”

Cảnh sát lại nhìn chứng minh thư của em rồi hỏi: “Chẳng phải cô tên là Hà Yến Hồng sao? Sao lại tên là An Tâm nữa?”

Em sốt ruột nói: “Anh cứ hỏi họ trong đội có người tên An Tâm không là biết ngay ý mà.”

Người cảnh sát đó bảo đồng nghiệp: “Cậu gọi lại hỏi họ xem có ai tên là An Tâm không?”

Anh cảnh sát trẻ nhẫn nại ngồi vào xe, một lúc sau thì ra báo cáo: “Thưa, có ạ!”

Thế rồi người cảnh sát ban nãy lại chui vào xe, không biết anh ta nói chuyện với ai ở đội Phòng chống ma túy, lát sau anh ta mời An Tâm lên xe.

Chỉ còn một mình tôi đứng ngoài xe với anh cảnh sát trẻ tuổi. Bỗng anh ta lên tiếng hỏi: “Ai nhìn thấy kẻ giết người đó vậy? Là cô ấy hay là anh?”

Tôi chỉ vào trong xe, ý nói An Tâm nhìn thấy.

Cảnh sát lại hỏi: “Cô ấy có nhìn rõ không?”

“Cô ấy nói nhìn thấy rõ ràng.” Tôi đáp.

“Thế nào gọi là rõ ràng?”

Tôi không biết phải trả lời thế nào.

Một lúc sau, An Tâm và người cảnh sát cùng xuống xe. Anh ta nói: “Thế nhé, chờ một lúc nữa là có chuyền tàu về thành phố thôi.”

Nét mặt An Tâm vẫn không bớt phần lo lắng, em cảm ơn hai người cảnh sát rồi kéo tôi đi vào nhà ga.

Tuy đầu tóc đã khô nhưng quần áo, giày tất trên người chúng tôi vẫn còn ướt nhẹp, tôi thấy cực kỳ khó chịu. An Tâm vừa đi vừa nói: “Đội trưởng Phan nghỉ phép đi Đại Lý rồi, đội phó Ngô đến từ Lệ Giang vừa mới thay vị trí của đội phó Tiền được nửa tháng, tình hình thế nào anh ta cũng không rõ, bảo em quay về trụ sở đội báo cáo cho rõ.”

Ngồi trên tàu hỏa, cả tôi và An Tâm cùng trầm mặc hướng ra ngoài cửa. Lúc đi thì háo hức vui vẻ biết bao, lúc về thì ai nấy cùng nặng trĩu tâm sự. Về đến trung tâm thành phố Nam Đức, đang trên đường đến trụ sở đội Phòng chống ma túy thì An Tâm bỗng bảo tôi quay về nhà nghỉ trông coi Tiểu Hùng, em không yên tâm về thằng bé. Tôi nghe lời em, quay về nhà nghỉ trước.

Đến nơi, tôi vào phòng trông trẻ đón Tiểu Hùng, thấy thằng bé đang ngồi ở góc phòng, nước mắt lã chã, khóc thút thít. Tôi vội hỏi người trông trẻ thằng bé bị làm sao, cô ta liền đáp: “Haizz… may quá, anh về đây rồi. Ăn cơm xong, thằng bé cứ khóc đòi đi tìm bố mẹ bằng được. Chắc nó chán chơi ở đây rồi, chúng tôi dỗ thế nào cũng không được. Tôi nghĩ nó tưởng anh chị bỏ nó lại, không cần nó nữa nên mới khóc thảm thiết như thế…”

Tôi vội ôm Tiểu Hùng vào lòng, hỏi: “Đúng không con, con tưởng bố mẹ bỏ con lại hả?”

Tiểu Hùng chưa biết nói, chỉ có thể gật đầu, nấc lên hai tiếng. Hai bàn tay nhỏ xíu của nó ôm chặt lấy cổ tôi, khiến tự đáy lòng tôi dâng trào một cảm giác xúc động nghẹn ngào. Thằng bé mới gần hai tuổi mà đã rất tình cảm, biết cách yêu thương người khác và khiến cho người khác yêu thương nó, điểm này cũng giống An Tâm đấy chứ. Người ta nói, con người từ lúc sinh ra đã có thể cảm nhận thế giới, những sự việc kích thích thần kinh và cảm xúc sẽ để lại dấu ấn rất sâu và đều ảnh hưởng tới tính cách và xu hướng tình cảm sau này. Chắc Tiểu Hùng đã phải chịu nhiều vất vả và thiệt thòi rồi.

Trời chưa tối tôi đã thấy An Tâm quay về. Tôi kể chuyện Tiểu Hùng nhớ mẹ cho em nghe, vốn tưởng em sẽ ngạc nhiên và cảm động lắm, không ngờ em chỉ nghiêm túc nói: “Dương Thụy, hôm nay chúng ta ăn cơm sớm một chút nhé. Sáng mai, chúng ta sẽ đi chuyến tàu sớm hơn.”

Tôi ngạc nhiên hỏi: “Em đến đội Phòng chống ma túy báo cáo chưa, họ nói thế nào?”

An Tâm lắc đầu chán nản, đáp: “Đội trưởng Phan không có ở đây, anh Tiền cũng đi nơi khác rồi, đội phó Ngô mới đến nên không nắm rõ tình hình, hỏi em có khi nào nhìn nhầm không, có phải do ảnh hưởng tâm lý không, khiến em đến giờ cũng không sao xác định nổi có phải mình nhìn nhầm không nữa. Có lẽ đúng là em đã nhìn nhầm rồi.”

“Những việc thế này, dù em có đi báo cáo thì cảnh sát cũng chỉ tin một phần. Thế họ có nói sẽ thực hiện biện pháp gì không?”

Em lại lắc đầu. “Bây giờ còn có thể thực hiện biện pháp gì nữa chứ? Có thể san rừng đạp núi để tìm Mao Kiệt không?”

Tôi nghĩ cũng phải.

Tối hôm đó, chúng tôi chỉ ăn vài món đơn giản. Lúc tôi mua mì xào ở ngoài về thì Tiểu Hùng đã ngủ say rồi. Tôi và An Tâm liền kê bàn lại gần giường, cùng ăn mì xào. Cả hai cùng im lặng không nói với nhau câu nào. Ăn xong, tôi dọn bàn còn An Tâm ngồi ngây ra trên giường nhìn Tiểu Hùng ngủ. Tôi liền hỏi em: “Vậy bây giờ chúng ta phải làm gì?” Em đáp: “Không làm gì cả.” Thế là tôi cũng không hỏi nữa, tiến đến chỗ cửa sổ nhìn ra ngọn núi Nam Mãnh. Trời đã tối mịt, không nhìn rõ được gì.

Chúng tôi tắt đèn sớm nhưng tôi không buồn ngủ và nghĩ An Tâm cũng vậy. Chúng tôi chỉ mượn bóng tối để thỏa sức theo đuổi những suy nghĩ trong đầu mình. Cả buổi tối An Tâm luôn trầm mặc ít nói, phải chăng sự xuất hiện của Mao Kiệt, hoặc chỉ là ảo giác của em về anh ta, đã khiến cho quá khứ một thời của em được dịp tái hiện, tuy nhiên quá khứ đó chứa quá nhiều mất mát và khổ đau nên em mới có phản ứng như vậy? Tôi nằm cạnh An Tâm, cố gắng trở mình, cũng không chạm vào người em. Vốn tôi cũng muốn an ủi em mấy câu nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi hoàn toàn không có mặt trong đoạn quá khứ đó của em, dù tôi có nói gì cũng vô ích mà thôi. Tôi nghĩ nên để cho em có một khoảng không riêng để nhớ về người chồng đã mất, về cuộc sống họ từng trải qua. Càng sống với An Tâm, tôi càng cảm thấy mình thực sự không phải là đối thủ của Trương Thiết Quân. Tôi không chín chắn, không chung tình, một lòng một dạ vì em bằng anh ta. Quan trọng nhất là Trương Thiết Quân là mối tình đầu của em. Mối tình đầu luôn khó quên và không thể so sánh được.

Đêm khuya thanh vắng, nghe rõ cả tiếng côn trùng lích rích không ngừng dưới cửa sổ, tôi vẫn chưa thể chợp mắt. Tôi không biết lúc đó là mấy giờ, không biết chúng tôi đã chìm trong trạng thái im lặng được bao lâu rồi. Lắng nghe tiếng thở nhẹ nhàng của An Tâm, tôi nghĩ em đã ngủ rồi. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy bên cạnh phát ra những tiếng động rất nhỏ, liền quay lưng về phía em. Sau đó, tôi nghe thấy tiếng em trở mình, nép sát vào lưng tôi. Rồi tôi bỗng cảm nhận được hơi ấm và sự mềm mượt của làn da em, em run rẩy nói: “Dương Thụy, em yêu anh.”

Cả người tôi nóng bừng nhưng tôi vẫn kiên trì không động đậy. An Tâm vòng tay qua người, ôm lấy tôi. Mọi lần, tôi đều là người chủ động, còn em chỉ ngoan ngoãn phục tùng, khiến tôi không biết rốt cuộc em có yêu tôi nhiều như tôi yêu em không hay em chỉ đang nhẫn nại chiều ý để trả ơn tôi. Vậy mà hôm đó, An Tâm đã chủ động đến với tôi. Cuối cùng, tôi quay người lại, ôm ghì lấy em, hôn tới tấp lên mặt em. Bỗng nhiên, tôi phát hiện em đang khóc. Tôi cũng muốn khóc. Chúng tôi đều đã từng chịu ân tình của đối phương và chính ân tình đó đã gắn chặt chúng tôi với nhau hơn cả tình yêu.

Đêm hôm đó, bên cạnh Tiểu Hùng đang ngủ ngon lành, tôi và An Tâm lặng lẽ thổn thức, lặng lẽ hôn nhau, lặng lẽ hòa vào nhau. Một lúc lâu sau, khi tôi định nằm xuống thì An Tâm bỗng ôm tôi chặt hơn, nói: “Em xin anh, cứ để thế này một lúc nữa đi, em thích như vậy.”

Tôi mỉm cười, đồng ý. Chúng tôi cứ thế ôm chặt lấy nhau, tôi nhẹ nhàng hôn lên khuôn mặt nhỏ nhắn diễm lệ của em. Sau đó, những cảm xúc yêu thương lại bùng cháy. Sau cùng, tôi và em cùng nhìn ngắm ánh trăng mỏng manh hắt vào phòng, không biết qua bao lâu, chúng tôi lại quay sang nhìn nhau và mỉm cười.

Tôi khẽ hỏi: “Em còn muốn khóc không?”

An Tâm không trả lời, cúi đầu e thẹn như một thiếu nữ mới biết yêu. Tôi phát hiện biểu cảm e thẹn xấu hổ của An Tâm và Tiểu Hùng rất giống nhau, liền quay sang chỗ thằng bé. Vừa quay sang tôi đã giật thót mình, không biết Tiểu Hùng đã dậy từ lúc nào và đang giương cặp mắt to tròn lên nhìn tôi. Tôi vội lay An Tâm, nói: “Em, Tiểu Hùng….” An Tâm cũng hốt hoảng không kém, vội ôm thằng bé vào lòng nựng nịu.

Tôi xuống giường, mặc quần áo rồi đi vào nhà vệ sinh tắm rửa qua.

Tôi bật công tắc nhưng đèn không sáng, may mà ánh trăng chiếu vào cũng đủ để nhìn rõ mọi thứ. Tôi khẽ vặn vòi nước rồi để mặc cho nước chảy xuống người mình. Bỗng tôi nghe thấy tiếng mở cửa, liền nghiêng đầu dỏng tai nghe ngóng. Không thấy có động tĩnh gì, tôi liền hỏi: “Là em à, An Tâm?” nhưng không có người trả lời. Tôi khóa vòi nước, đi ra chỗ tường ngăn của phòng tắm, không thấy bóng người nào cả, chỉ có ánh trăng chiếu vào phòng như cũ. Chỉ có một thay đổi duy nhất, đó là cánh cửa nối phòng tắm với hành lang, rõ ràng lúc tôi đi vào đã đóng lại, không hiểu sao lúc đó đã bị mở ra.

Tôi sinh nghi, vội lau người, mặc quần áo rồi ra khỏi phòng tắm, kiểm tra xung quanh. Trên lầu rất yên tĩnh, không thấy bóng người. Hành lang cũng vắng lặng. Tôi vội đi về phòng, được nửa đường thì nghe thấy một tiếng động khác lạ vang lên. Tiếng động đó rất nhỏ, phát ra từ phía sau giống như có người đang đi theo tôi vậy.

Tôi quay phắt người lại, vẫn không thấy ai, lại đi tiếp, nghĩ mình thần hồn nát thần tính. Trước khi bước qua cửa tôi lại ngó nhìn hành lang, bỗng giật nẩy mình, tôi trông thấy ở chỗ rẽ của hành lang có một bóng người đen đen, vội chạy vào phòng nói với An Tâm: “Hình như có người đang đi lại ở hành lang.”

An Tâm ngồi dậy, hỏi: “Thật không? Có thể là nhân viên của nhà nghỉ.”

Mặc dù nói thế nhưng An Tâm vẫn mặc quần áo vào và nói: “Em muốn đi tắm một chút.” Tôi tìm cái đèn pin trong ba lô, cố tỏ ra dũng cảm, nói với em: “Anh đưa em đi.” Em nói: “Không cần, em tự đi được.” Tuy vậy, tôi vẫn đi cùng An Tâm. Nhìn ra hành lang, tôi thấy đèn vẫn sáng mờ nhưng bóng người thì không còn nữa, liền đưa em đến phòng tắm, đưa đèn pin cho em rồi đi ra.

Vừa ra khỏi phòng tắm, tôi bỗng nhìn thấy một bóng đen, liền vô thức hét lên nhưng hình như tiếng hét còn chưa kịp phát ra thì đã cảm nhận thấy một vật sắp đập xuống đầu mình. Theo phản xạ nhiều năm tập bóng chuyền và luyện Taekwondo, tôi nghiêng người tránh nhưng vai lại bị trúng đòn. Tôi đau đớn đến tê dại, ngã xuống đất nhưng vẫn còn tỉnh táo. Tôi nhìn thấy bóng đen đó nhảy qua người mình rồi mở cửa phòng tắm đi vào trong. Tôi muốn giữ chân hắn nhưng không thể đành dùng hết sức bình sinh hét lên: “An Tâm!” Vừa hét xong, tôi lại bị bồi thêm một cú vào đầu, đầu tôi nhói lên một cái rồi tất cả chỉ còn lại một mảng tối đen…

Ký ức sau đó chỉ là những mảnh ghép vỡ vụn, tôi có cảm giác An Tâm xông ra khỏi phòng tắm và vật lộn với bóng đen đó, tiếp theo là một thân người nặng nề ngã lên người tôi. Lúc đó, thị lực của tôi đột nhiên hồi phục, tôi thấy người ngã vào mình không phải là An Tâm. Em chạy về phía phòng ngủ, tiếng bước chân dồn dập trên sàn gỗ đánh thức tôi. Tôi bất chấp đau đớn, cố gắng đứng dậy nhưng hai chân vẫn mềm nhũn. Đến lúc tôi đứng lên được thì cái bóng đen kia cũng loạng choạng đổ vào người tôi, thế là cả hai lại cùng ngã xuống trước cửa phòng tắm. Toàn thân không còn sức lực, đầu óc thì quay cuồng hoảng loạn, tôi điên cuồng vùng vẫy nhưng bóng đen kia đã nhanh chóng đứng dậy rồi đạp liền mấy cái vào người tôi, trong đó có một cú vào đầu. Lần này thì tôi hoàn toàn mất hết tri giác. Hai mươi ba tuổi, lần đầu tiên trong đời, tôi bị đánh đến mức hôn mê bất tỉnh.

Sau này tôi mới biết, tôi bị bất tỉnh hơn một phút. Trong hơn một phút, gã lưu manh kia đã đuổi đến tận phòng của chúng tôi, lúc đến cửa thì gặp An Tâm, thế là hai người lại lao vào giằng co nhau. An Tâm giơ chân đạp vào háng của hắn nhưng hắn đã kịp lùi lại tránh, nhân cơ hội đó, em đóng sập cửa lại, khóa trái rồi chạy đến chỗ cửa sổ. Dưới cửa sổ là một vườn chuối rừng, An Tâm vừa chạm tay vào mép cửa sổ thì nghe thấy tiếng đạp cửa rầm rầm. Em không còn thời gian trèo xuống nên đành phải trốn xuống gầm giường, vừa trốn xong thì cửa phòng bật tung ra. Tên lưu manh không thấy ai trong phòng, phản ứng đầu tiên là chạy đến chỗ cửa sổ đang mở, nhìn ra ngoài, không thấy có người. Đúng lúc đó, hắn nghe thấy tiếng động dưới gầm giường.

Hắn lập tức cúi xuống tìm, gầm giường rất tối nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra bóng dáng An Tâm. Ánh mắt của em và hắn chạm nhau trong khoảng hai giây và An Tâm nhìn thấy trên tay hắn là một khẩu súng. Gã lưu manh nhảy phắt lên giường, chĩa súng về phía An Tâm đang trốn. Lúc đó, tôi cũng mơ màng tỉnh lại, bỗng nhiên nghe thấy một loạt tiếng súng nổ đinh tai nhức óc.

“Đoàng… đoàng…” Năm tiếng súng khiến toàn thân tôi rụng rời. Tôi gào khóc nhưng ra nước mắt cũng không thể thốt nên lời. Dường như nỗi đau sâu thẳm tận đáy lòng đã tiếp thêm sức mạnh cho tôi, tôi bám vào tường, lết về phía phát ra tiếng súng. Tôi biết tôi và em đều có thể chết vào ngày hôm đó nhưng tôi vẫn cố lê bước. Tôi muốn ở cùng em, bảo vệ em dù phải liều cái mạng này.

Cuối cùng, tôi cũng đến được cửa phòng. Tôi thấy một người đàn ông nằm sấp trên tấm ga giường nhăn nhúm, máu chảy lênh láng quanh người hắn, thấm ướt cả ga giường. Hóa ra, trong năm tiếng súng nổ thì có tới bốn viên đạn ghim vào ngực hắn. Tôi run rẩy ngã phịch xuống đất, nhìn thấy An Tâm nằm dưới gầm giường, sợ hãi hổn hển, mắt ngấn nước. Tôi đưa tay muốn kéo em ra, em nhìn tôi rất lâu rồi mới run run chìa tay ra. Khi hai bàn tay của chúng tôi chạm vào nhau, dường như cũng tiếp cho nhau chút sức lực cuối cùng. An Tâm bò ra khỏi gầm giường, người em bị mảnh gỗ đâm chảy máu, em run rẩy ôm lấy tôi, lắp bắp nói: “Dương Thụy…. em … em giết người rồi…. Dương Thụy….”

Tôi cũng sợ đến mức không thốt nên lời, chỉ có thể gật đầu, mỉm cười để trấn an em và cũng để nói với em rằng: “An Tâm, em giỏi lắm!”

An Tâm run run sờ lên mặt tôi, hỏi: “Anh không sao chứ? Có bị thương không?”

Tôi lắc đầu, yếu ớt hỏi: “Tiểu Hùng đâu?”

An Tâm ngây người mấy giây, sau đó đứng bật dậy chạy ra cửa nhưng được vài bước em lại quay người lại nhặt khẩu súng dưới sàn lên. Trông em cứ như đã phát điên, tôi nhanh chóng nhận ra Tiểu Hùng không còn trong phòng nữa.

Tôi cứ ngĩ cuộc chém giết đó đã kết thúc nhưng thực ra đó mới là lúc bi kịch ập đến. Kẻ bị bắn chết trên giường là Mao Phóng, anh trai Mao Kiệt. Chắc chắn Mao Kiệt cũng đến, chỉ là chúng tôi không nhìn thấy hắn thôi. Trong lúc tôi, Mao Phóng và An Tâm giằng co với nhau, có lẽ hắn đã lẻn vào phòng và bắt Tiểu Hùng đi rồi. An Tâm bị Mao Phóng đuổi riết quá nên chỉ còn cách trốn xuống gầm giường, nhìn thấy túi xách, em lập tức mở ra, lấy súng bắn một loạt năm viên đạn xuyên qua giường gỗ, giết chết Mao Phóng.

An Tâm cầm súng chạy ra ngoài, không thấy Mao Kiệt và Tiểu Hùng đâu. Mấy người khách khác ở nhà nghỉ nghe thấy tiếng súng, liền trốn tịt trong phòng. Hai nhân viên trực đêm thập thò ở cửa, nhìn thấy An Tâm người đầy máu liền giật mình sợ hãi. Em chạy ra cửa chính, ngoài ánh trăng sáng vằng vặc thì chỉ có đường phố vắng vẻ im lìm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Lúc tôi được xe cảnh sát đưa ra khỏi nhà nghỉ thì trời còn chưa sáng hẳn, đường phố thưa thớt người qua lại. Vụ nổ súng dường như không gây nên sự kinh hãi quá lớn cho dân địa phương. Mặt trời trải những tia nắng thanh khiết và dịu dàng lên nóc nhà, khiến người ta có cảm giác đó chỉ là một buổi sáng yên bình như thường ngày. Tôi chỉ nghe thấy tiếng khóc nghẹn ngào của An Tâm, ngoài ra không có bất cứ âm thanh nào khác.

Tôi nhìn thấy rất nhiều cảnh sát đi lại với nét mặt nghiêm nghị, cũng thấy đội phó Ngô an ủi An Tâm một cách vụng về, sau đó gọi điện báo cáo với cấp trên. Tuy chỉ loáng thoáng mấy câu ngắn gọn nhưng tôi nhận thấy được lần vây bắt này sẽ điều động rất nhiều nhân lực. Cảnh sát xác nhận kẻ bị bắn chết trong nhà nghỉ là anh trai của Mao Kiệt, có thể hắn vẫn có đồng bọn khác, vụ án xảy ra chưa lâu, có lẽ hắn vẫn chưa thể đi xa được.

Mặc dù cảnh sát đã nhiều lần nói với chúng tôi rằng: “Cứ yên tâm, chúng tôi nhất định sẽ cứu được Tiểu Hùng về” nhưng An Tâm vẫn không thể bình tĩnh nổi. Em gần như đã sụp đổ. Em không theo tôi đến bệnh viện mà bị đưa đến Sở Cảnh sát thành phố. Sở đã đặc biệt phân công một đồng chí nữ đến chăm sóc và bảo vệ em. Đồng đội cũ cũng lần lượt đến thăm hỏi, động viên. Trước đây, họ là chiến hữu, là anh em của em nên những lời an ủi cũng có chút hiệu quả. Sở Cảnh sát cũng điều người đến bệnh viện bảo vệ tôi nhưng không phải là người trong đội Phòng chống ma túy Nam Đức.

Bác sĩ kiểm tra và cho tôi biết tôi bị gãy hai cái xương sườn, trong đó có một cái suýt đâm vào tim, phần ngực bị tụ máu, xương vai cũng gãy, đầu thì sưng vù lên, sau đầu cũng có máu tụ. Tôi nghe thấy các bác sĩ nói với nhau rằng tôi đúng là phúc lớn mạng lớn, bị nhiều thương tích thế mà không mất mạng.

Chiều hôm đó, An Tâm đến bệnh viện thăm tôi, tinh thần em đã có vẻ ổn định hơn. Em ôm lấy thân hình quấn đầy băng và thạch cao của tôi, khóc thút thít. Tôi không còn sức để mở miệng nói, ngay đến thở nhẹ cũng đau đớn vô cùng nên không biết làm gì để an ủi em cả.

Bác sĩ gọi An Tâm vào phòng làm việc, hỏi em có quan hệ như thế nào với tôi. Em nói mình là vợ chưa cưới của tôi, bác sĩ liền thông báo tình trạng thương tích của tôi cho em và khuyên em nên chuyển tôi tới bệnh viện Bình Quảng hoặc Côn Minh vì nơi đó có điều kiện y tế tốt hơn Nam Đức.

An Tâm dứt khoát nói: “Vậy đến Côn Minh đi!”

Lúc đó, tôi không hiểu vì sao An Tâm không chọn Bình Quảng cho gần mà lại đến tận Côn Minh. Do bệnh viện ở Côn Minh tốt hơn hay em không muốn đến Bình Quảng nữa? Buổi tối, An Tâm đang trông chừng tôi thì một đồng nghiệp trong đội Phòng chống ma túy gọi em ra ngoài trao đổi gì đó, sau đó anh ta ở lại bảo vệ tôi thay cho An Tâm. Tuy đầu óc tôi vẫn còn mơ màng nhưng vẫn ý thức được có lẽ vụ án đã có manh mối.

Tiếc rằng tôi đã đoán lầm. Cảnh sát gọi An Tâm đi vì chiều hôm đó, họ nhận được điện thoại của Mao Kiệt, hắn muốn gặp An Tâm. Hắn nói: “Tôi là người tình cũ của An Tâm. Anh bảo với cô ta, tôi sẽ gọi đến nữa, rồi hỏi cô ta có muốn lấy lại đứa con không, nếu muốn thì thả anh tôi về.” Cú điện thoại đó cho thấy Mao Kiệt vẫn chưa biết Mao Phong đã chết, đồng thời cũng chứng thực Tiểu Hùng đang ở trong tay hắn.

Giống như lần trước, Mao Kiệt lại ngông cuồng gọi điện đến đội Phòng chống ma túy. Cảnh sát không hề bị sự vênh váo của hắn chọc giận, ngược lại còn cảm thấy kinh ngạc và vui mừng. Cú điện thoại đó đã cung cấp cho cảnh sát một manh mối vô cùng quan trọng. Điện thoại của đội Phòng chống ma túy có chức năng hiển thị số gọi đến, cho thấy Mao Kiệt đã sử dụng một số điện thoại di động. Sở Cảnh sát Nam Đức lập tức hạ lệnh kiểm tra, tìm ra chủ thuê bao của số điện thoại đó tên là Trần Bảo Kim, quản lý của một công ty kiến trúc tư nhân tại Nam Đức. Người của công ty này nói Trần Bảo Kim đã bỏ việc được một thời gian dài rồi. Cảnh sát dùng vệ tinh dò vị trí của số điện thoại này. Tôi đã từng thấy tình tiết này ở trên phim ảnh, không ngờ ở một thành phố nhỏ bé như Nam Đức mà cũng có công nghệ tiên tiến như vậy.

Tất nhiên, trong thời gian đó, tôi vẫn đang nằm trên giường bệnh, nhờ vào thuốc giảm đau để trấn áp những cơn đau đang xâm chiếm cơ thể nên không hề hay biết ngay đêm hôm đó, An Tâm đã tham gia kế hoạch vây bắt Mao Kiệt để giải cứu Tiểu Hùng.

Trong số những cảnh sát ngồi đợi cuộc gọi của Mao Kiệt còn có sếp Phan và cả Phó sở Cảnh sát thành phố cùng rất nhiều cảnh sát vũ trang đầy đủ, sẵn sàng chiến đấu. An Tâm ngồi trong một góc phòng họp, ngây người nhìn chiếc điện thoại.

Sếp Phan là người hiểu tính cách của An Tâm nhất, ông ta dặn đi dặn lại em phải kéo dài cuộc điện thoại với Mao Kiệt ít nhất năm phút thì vệ tinh mới có thể tìm ra vị trí của hắn.

Trên năm phút! An Tâm có phần lung túng, không biết phải làm cách nào để kéo dài thời gian. Nhiệm vụ này đối với An Tâm dường như là bất khả thi. Em và Mao Kiệt có chuyện để nói với nhau quá năm phút sao? Em và hắn đã không còn là người yêu, thậm chí trở thành kẻ thù không đội trời chung rồi, nói một, hai câu với nhau đã khó, huống hồ là năm phút. Quả thực, em không muốn nói gì với hắn ngoài câu: “Xin hãy trả con cho tôi.”

Sếp Phan cũng biết nhiệm vụ này là quá ức với An Tâm nên đã ra chỉ thị cụ thể: “Mao Kiệt đòi nói chuyện với cháu, có hai khả năng: một là hắn sẽ hẹn cháu gặp mặt như lần trước, hai là để trao đổi con tin. Hắn muốn dùng đứa bé để đổi lấy anh trai. Chúng ta đã phong tỏa tin tức về cái chết của anh trai hắn, chắc hắn vẫn chưa biết. Khi nói chuyện, cháu cố gắng kéo dài thời gian, hỏi hắn gặp mặt ở đâu, lúc nào, có ám hiệu gì không. Khi hắn nói thời gian và địa điểm gặp thì cháu cũng đừng vội đồng ý, có thể đề nghị thời gian và địa điểm khác, cụ thể thế nào nào lát nữa chúng ta sẽ bàn bạc. Cố gắng dụ hắn ra ngoại ô để tiện cho người của mình ẩn náu, hành động. Ngoài ra, cháu có thể hỏi tình trạng của Tiểu Hùng thế nào, có thể cầu xin hắn đừng làm gì nó, có thể giả vờ nói anh trai hắn đang bị chúng ta bắt giữ, muốn hắn dùng Tiểu hừng để trao đổi, nói chung là tìm mọi cách để kéo dài cuộc đối thoại. Cũng không loại trừ khả năng hắn đã biết anh trai mình đã chết, không chịu trao đổi với cháu, lúc đó dù hắn có chửi mắng, nguyền rủa cháu thì cháu cũng đừng nổi giận, kích động, không được cãi lại hắn mà hãy nhắc lại những kỷ niệm xưa với hắn, chi tiết một chút, cảm động một chút, xin hắn nể tình nghĩa xưa mà trả Tiểu Hùng về…”

“Đội trưởng, cháu và hắn không có kỷ niệm, không có tình nghĩa gì để ôn lại cả!” An Tâm bất chợt ngắt lời sếp Phan.

Sếp Phan khựng lại, im lặng nhìn thân hình run rẩy của An Tâm rồi chau mày nói: “Rốt cuộc cháu có muốn cứu Tiểu Hùng hay không?”

An Tâm không trả lời nhưng vẫn run rẩy.

Thái độ của sếp Phan càng nghiêm khắc: “Bây giờ chú coi cháu là một chiến sĩ cảnh sát và đang giao nhiệm vụ cho cháu đấy! Nếu không kiềm chế được cảm xúc của bản thân, không hoàn thành được nhiệm vụ này thì cháu cứ nói thẳng với chú, cứ nói rằng cháu đã không còn là cảnh sát nên không làm nổi việc này đi! Rốt cuộc thì cháu có làm được không hả?”

Sếp Phan lớn tiếng mắng An Tâm khiến những cảnh sát ngồi bên cạnh cũng phải giật mình sững sờ, quay sang nhìn bọn họ. An Tâm nước mắt lưng tròng, đáp: “… Làm được! Cháu làm được!”

Sếp Phan nhìn thẳng vào mắt em một lúc lâu mới tiếp tục: “Tốt, vậy thì chúng ta tiếp tục bàn kế hoạch…”

Sếp Phan gọi vài cảnh sát đến bàn bạch xem trong trường hợp Mao Kiệt đòi trao đổi con tin thì nên hẹn gặp ở đâu, sau đó ông ta đến nói chuyện với Sở phó. An Tâm chỉ ậm ừ khi nghe họ phân tích vụ án chứ không có ý kiến gì. Cảnh sát nói Tiểu Hùng có khả năng cao là vẫn còn sống, vì nếu Mao Kiệt muốn giết thằng bé thì đã ra tay ngay khi ở nhà nghỉ rồi, việc gì phải bắt nó đi. Có lẽ hắn sợ An Tâm chạy trốn nên muốn dùng đứa bé để dụ em xuất hiện… Đang nói đến đó thì Sở phó đột nhiên hỏi: “Thế Mao Kiệt có biết đứa trẻ là con của hắn không?” Ông ta đã cố tình nói nhỏ nhưng An Tâm vẫn nghe thấy. Tim em nhói đau như thể bị kim châm, không còn tâm trí nào để nghe phổ biến kế hoạch nữa, bất giác liếc mắt sang chỗ sếp Phan. Nhưng họ đã ngay lập tức chuyển đề tài, than rằng vụ án không có tiến triển, mãi không tìm ra Mao Kiệt, tất cả đều do không có người nằm vùng cung cấp tin tức. Nam Đức nằm sát khu vực Tam giác vàng, những vụ buôn bán ma túy ở Nam Đức đa phần đều do bọn tội phạm có tổ chức thực hiện, rất ít khi do một cá nhân thực hiện nên nếu không có nội gián thì rất khó bắt được bọn chúng. Cứ thế bàn bạc đến tận khuya, ai nấy đều tỏ ra mệt mỏi. Suốt cả buổi tối, điện thoại trong trụ sở reo liên tục, chỉ duy nhất chiếc điện thoại mà An Tâm đang ngồi canh chừng là không. Một vài cảnh sát tìm chỗ ngả lưng tạm, chỉ có An Tâm là vẫn ngồi yên không nhúc nhích, nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại. Em đang suy nghĩ xem mình sẽ nói gì với Mao Kiệt. Sếp Phan và đội phó Ngô cũng không ngủ, hai người ngồi ở một chiếc bàn khác, vừa hút thuốc là vừa nhỏ giọng bàn bạc.

Trời sáng, An Tâm nhìn bầu trời bên ngoài cửa sổ dần chuyển màu, trắng thành đỏ, đỏ lại thành trắng. Vài cảnh sát đã thức dậy, sếp Phan liền phái người đi mua đồ ăn sáng cho cả đội. Đúng lúc đó, chiếc điện thoại vẫn nằm im lìm suốt một đêm bất ngờ đổ chuông. Tiếng chuông chói tai khiến mọi người đều khựng lại, phòng họp phút chốc lặng như tờ.

Sếp Phan ở gần điện thoại nhất, ông ta bước đến bình tĩnh nhấc máy: “A lô, đội Phòng chống ma túy xin nghe.”

Tất cả những người còn lại trong phòng dường như đều nín thở, nhìn chằm chằm vào sếp Phan. Ông ta chậm rãi đưa ống nghe cho An Tâm, nhìn em một cách nghiêm nghị, không nói hay làm bất kỳ một ám hiệu nào. Dù vậy, An Tâm vẫn biết, người ở đầu dây bên kia chính là Mao Kiệt. Em còn biết, bên cạnh Mao kiệt chính là con trai họ, Tiểu Hùng.

An Tâm nói: “A lô.” Chỉ nghe thấy tiếng hơi thở, không có tiếng trả lời, em liền nhắc lại một lần nữa. Đến lúc đó, Mao Kiệt mới lên tiếng: “An Tâm?”

Em nhận ngay ra giọng của Mao Kiệt. Khi mới quen Mao Kiệt, An Tâm thấy chất giọng trầm khàn của hắn mới nam tính và quyến rũ làm sao, lúc này nghe lại, em chỉ thấy ghê sợ và căm hận.

Mao Kiệt hỏi lại: “An Tâm phải không?”

An Tâm lập tức hỏi: “Con tôi đâu?”

Mao Kiệt không trả lời mà lại hỏi ngược lại: “Cô có nhớ tôi không?”

An Tâm quát lên: “Con tôi đâu?”

Mao Kiệt dừng lại mấy giây rồi nói: “Anh tôi đâu?”

“Ở chỗ chúng tôi. Chúng tôi có thể trao đổi với anh, hãy trả con cho tôi, tôi sẽ thả anh trai của anh ra.”

“Bảo anh tôi nghe điện thoại.”

“Anh để tôi nghe tiếng con trước đi.”

Bỗng nhiên Mao Kiệt thay đổi ngữ điệu. Hình như hắn không muốn giả vờ bình thản nữa, hắn muốn trút hết sự thù hận và tàn độc lên đầu An Tâm, nghiến răng nói: “Cô là đồ đàn bà thối tha, có tư cách gì mà ra điều kiện với tôi? Cô quên rằng cô còn nợ tôi một mạng người à? Tôi giết chết con cô mới là hòa đấy. Nếu anh tôi chết thì cô lại nợ thêm một mạng người! Cô lúc nào cũng nợ tôi!”

Lời nói của hắn khiến An Tâm mất bình tĩnh, em cuống cuồng nói: “Tôi … chúng tôi chấp nhận trao đổi với anh! Một mình tôi đi, tôi đưa anh trai anh đến trao đổi. Chính anh ta cũng muốn như thế. Anh nói địa điểm đi, tôi sẽ đến!”

Mao Kiệt im lặng một lát mới nói vẻ giễu cợt: “Có muốn đến cổng chợ, chỗ hẹn hò cũ của chúng ta không?”

“Cổng chợ? Được, tôi sẽ đến nói chuyện trực tiếp với anh.”

“Một mình cô?”

“Đúng vậy, một mình tôi.”

“Lần trước cô cũng nói đi một mình, vậy mà lại dẫn theo bao nhiêu cảnh sát mặc thường phục. Cô được lắm, xem ra hôm đó cô thực sự muốn lấy mạng tôi! Đồ khốn kiếp! Tôi sớm đã biết không thể tin cô mà, ngay cả tòa án cũng không tin lời cô nữa.”

“Lần này tôi bảo đảm chỉ đi một mình.”

“Cô lấy gì bảo đảm?”

“Anh muốn lấy gì cũng được, muốn tôi lấy mạng của mình ra bảo đảm cũng được!”

“Mạng của cô, sớm muộn gì tôi cũng sẽ lấy. Cô cứ chờ xem!”

“Anh lấy mạng tôi cũng được nhưng đừng làm hại con tôi. Anh mà động tới một sợi tóc của nó, chúng tôi sẽ lấy mạng anh trai anh! Anh không muốn anh mình quay về sao?”

Mao Kiệt lại im lặng. Sếp Phan và đội phó Ngô đeo tai nghe theo dõi máy dò tìm, Sở phó nhìn đồng hồ, không nói một lời. Họ thấy Mao Kiệt bỗng im lặng thì đều thấp thỏm đứng ngồi không yên, chỉ sợ hắn đột ngột cúp máy.

Một lúc sau, trong điện thoại lại vang lên giọng nói của Mao Kiệt: “Được, các người muốn trao đổi sao, tôi đồng ý. Thả anh tôi ra trước, đợi tôi gặp được anh ấy rồi sẽ tự khắc trả đứa bé cho cô.”

“Chúng tôi đồng ý trao đổi nhưng phải đồng thời tiến hành, anh nói địa điểm đi.”

Mao Kiệt cười khẩy, nói: “Đồ đàn bà hư hỏng, cô tưởng tôi là thằng ngốc sao? Từ ngày đầu tiên quen biết tôi, cô đã coi tôi là một thằng ngốc, muốn lừa tôi thế nào cũng được chứ gì? Tôi biets anh tôi đã chết rồi, có trao đổi với cô thì cũng hỉ nhận lại một cái xác, cô lại còn muốn lừa tôi! Đã thế, tôi phải giết chết con của cô, cô tưởng tôi sẽ nuôi nó cả đời sao?”

An Tâm cuống lên, gần như phát khóc. “Mao Kiệt, tôi xin anh, anh trả con cho tôi đi, tôi xin anh, thằng bé không có tội gì cả! Anh có giỏi thì đến tìm tôi đây này, đừng hành hạ trẻ con như thế!”

Mao Kiệt phá lên cười, nói: “Tôi không có bản lĩnh đó, không tìm được cô, tôi chỉ còn cách lấy con cô ra hành hạ thôi. Sao, cô sợ rồi à? Cô mà cũng có ngày phải sợ hãi thế này sao? Tôi biết đứa trẻ không có tội nhưng nó xui xẻo nên mới làm con của cô. Tội lỗi của cô lớn quá đấy!” Sau đó, hắn đột nhiên lại đổi giọng, nghẹn ngào nói: “Cô hại chết bố mẹ tôi, hại chết anh trai tôi, lại còn muốn hại chết tôi! Cô biết tôi là đứa con có hiếu, nhìn thấy bố mẹ ruột phải chết, tôi chắc chắn không chịu nổi. Tôi vốn tưởng cô lạnh lùng vô cảm đến mức không hiểu được điều đó, nhưng bây giờ, xem ra không phải cô không hiểu, nhìn thấy con mình chết thì cô cũng đau lòng. Vậy nên tôi phải khiến cô nếm thử cảm giác đau đớn đó một lần, chúng ta coi như hòa. Thằng bé này thật đáng thương, ai bảo nó là con của cô chứ…”

An Tâm đột nhiên ngắt lời Mao Kiệt: “Nó cũng là con của anh!... Mao Kiệt, thằng bé là con ruột của anh…”

Nước mắt của An Tâm lăn dài trên má, tất cả ân oán trong đời em đều có thể tập trung trên người đứa con này. Em đã mất tất cả, chỉ còn lại một đứa con. Em khóc không thành tiếng, nghẹn ngào nói: “Nếu anh không tin… có thể đến bệnh viện kiểm tra…. Giám định AND… Nếu anh không tin thì cứ làm đi!”

Mao Kiệt im bặt, An Tâm nghe thấy một tiếng “cạch” vang lên trong ống nghe. Sếp Phan và đội phó Ngô đồng thời thở dài bất lực.

An Tâm vẫn cầm ống nghe trên tay, nước mắt không ngừng tuôn rơi. Một người tiến đến cầm ống nghe đặt xuống rồi dìu em ngồi xuống. Sở phó nhìn đồng hồ, chưa kịp nói thì sếp Phan đã lên tiếng: “Ba phút năm mươi giây.”

Sở phó nhíu mày, nói: “Không đủ năm phút.”

Mọi người nhìn đồng hồ rồi lại quay sang nhìn nhau. Sở phó liếc nhìn An Tâm, nói nhỏ với sếp Phan: “Cho cô ấy đi nghỉ ngơi đi, tìm một đồng chí nữ trông chừng cô ấy.” Sau đó, ông ta lại cùng đội phó Ngô định đi ra ngoài. Còn chưa đến cửa, một cảnh sát trực ban đã phấn khởi chạy vào, thông báo: “Tìm thấy Mao Kiệt rồi! Thị trấn Đông Pha, núi Nam Mãnh!”

Thông báo của anh ta khiến mọi người phấn chấn hẳn lên. Sở phó hỏi: “Vệ tinh đã xác định được sao?”

“Tỉnh trực tiếp gọi điện thoại xuống, thời gian đối thoại quá ngắn, vị trí cụ thể không thể khẳng định nhưng tọa độ đại khái thì có thể xác định, là phía bắc thị trấn Đông Pha.”

Sở phó quay sang phía sếp Phan, ra lệnh ngắn gọn: “Phía bắc thị trấn Đông Pha, trong vòng một giờ đồng hồ, nhất định phải đến được đó!”

Chưa đợi sếp Phan ra lệnh, các thành viên trong đội Phòng chống ma túy đã khẩn trương chuẩn bị vũ khí lần lượt bước ra khỏi phòng họp, bước vào những chiếc xe đã chuẩn bị sẵn trong sân. Phút chốc, cả trụ sở vang rền tiếng khởi động xe.

Xen giữa những âm thanh đó, An Tâm nghe thấy Sở phó đang gọi điện báo cáo tình hình cho Sở trưởng, giọng nói đầy bình tĩnh và tự tin. Sở trưởng ra lệnh không được tùy tiện hành động, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân trong vùng, cố gắng không điều động cảnh sát vũ trang lập trạm kiểm soát trên quốc lộ… An Tâm không nghe hết cuộc điện thoại, cái tin Mao Kiệt đang ở thị trấn Đông Pha khiến máu huyết trong người em sôi sục. Em đi ra khỏi phòng họp, thấy sếp Phan đứng một mình trong sân, trầm ngâm nhìn từng chiếc xe cảnh sát nối đuôi nhau tiến về phía đông….

Em tiến đến phía sau ông ta, dõng dạc nói: “Đội trưởng, cháu cũng đi!”

Sếp Phan quay đầu lại, chăm chú nhìn em, sau đó ôn hòa nói: “Chú đã không còn là đội trưởng của cháu, cháu cũng không phải là cảnh sát nữa rồi, chú không có quyền ra lệnh cho cháu, cũng không có quyền đồng ý để cháu đi với họ.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Thị trấn Đông Pha nằm ở phía đông núi Nam Mãnh, cách thành phố Nam Đức trên dưới bốn mươi cây số. Trừ những người đi công tác và người nghỉ phép dưỡng bệnh, toàn bộ lực lượng của đọi Phòng chống ma túy đã được điều động, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Sở phó Sở cảnh sát Nam Đức. Mười mấy chiếc xe tiến thẳng về phía thị trấn với tốc độ hàng trăm cây số một giờ.

Trước khi xuất phát, Sở phó đã bảo sếp Phan ở lại trụ sở của đội, tiếp tục theo dõi hành tung của Mao Kiệt, đồng thời bố trí cảnh sát tại các thị trấn ở phía đông núi Nam Mãnh lập tức tập hợp lực lượng, nhanh chóng kiểm soát tất cả đường ra vào thị trấn. Trụ sở đội Phòng chống ma túy trong giây lát đã trở nên vắng vẻ im ắng. Sếp Phan chạy về phòng họp gọi điện cho các đồn cảnh sát để phân công nhiệm vụ, An Tâm đi theo ông ta. Em rất muốn làm gì đó nhưng lại không tìm được việc gì để làm. Em đoán cuộc chiến tại thị trấn Đông Pha sẽ diễn ra trong vòng một tiếng đồng hồ nữa, nghĩ đến việc Tiểu Hùng đang gặp nguy hiểm, trong lòng em như có lửa đốt.

Sự việc diễn ra không khác nhiều so với dự đoán của An Tâm, vụ giải cứu Tiểu Hùng bắt đầu vào khoảng chín giờ sáng. Cảnh sát của đội Phòng chống ma túy vừa tiến vào thị trấn Đông Pha đã đến thẳng nhà của Trần Bảo Kim. Lúc cảnh sát xông vào nhà, trong phòng khách đang có một bàn đánh bạc vừa giải tán, Trần Bảo Kim cùng đồng bọn đang ăn sáng. Cảnh sát chặn cả cửa trước lẫn cửa sau, bắt gọn cả đám. Tất cả đều nghe lời cảnh sát, quỳ xuống và đưa tay lên ôm đầu, chỉ duy nhất Trần Bảo Kim là hô hoán kêu oan, đến khi cảnh sát tìm được một khẩu súng giấu dưới chiếc gối trên giường của gã thì gã mới khai thật. Sở phó và đội phó Ngô lần lượt gọi từng người vào thẩm vấn tại chỗ, chủ yếu hỏi về tung tích của Mao Kiệt và Tiểu Hùng, số còn lại chia ra bốn hướng, tìm kiếm khắp nơi trong nhà, kết quả tìm thấy thêm hai khẩu súng và mấy kilôgam thuốc phiện. Tang chứng tìm được đã giúp cho cuộc thẩm vấn tiến triển nhanh chóng, gã trẻ nhất trong bọn nói biết Tiểu Hùng đang ỏ đâu và tình nguyện dẫn cảnh sát đi tìm. Khoảng năm phút sau, gã dẫn cảnh sát đi qua một lối đi hẹp dẫn đến sân sau của căn nhà, dừng lại trước một bức tượng Phật bằng đá.

Mười giờ ba mươi phút, đội phó Ngô gọi điện thoại cho sếp Phan, An Tâm cũng đang ở cùng ông ta, hai người nín thở chờ đợi thông tin từ thị trấn Đông Pha. Sếp Phan nghe báo cáo, chỉ ậm ừ nói: “Được, tôi hiểu rồi.”

Dập máy, ông ta quay sang chỗ An Tâm. Em liền đứng bật dậy, chăm chú nhìn ông ta, chờ đợi tin tức từ đội phó Ngô.

Sếp Phan chậm rãi nói: “Thằng bé… không còn nữa rồi.”

An Tâm đứng như trời trồng, không òa khóc như sếp Phan đã dự đoán, thậm chí em còn không rơi một giọt nước mắt. Rất lâu sau em mới lắc đầu, nói: “Không!”

Hai mắt sếp Phan ướt đẫm, ông ta tiến đến, chậm rãi ôm An Tâm vào lòng như ôm con gái của mình vậy. Ông ta có thể nhận ra cơ thể em đang run rẩy, tiếng nói của em như phát ra từ trong tim, trong xương tủy, lúc đầu còn nhỏ, sau đó lớn dần, cuối cùng em hét lên: “Không! Không! Không! Không phải như vậy! Tôi không muốn như vậy…”

Sau cùng, An Tâm cũng òa khóc trong vòng tay của sếp Phan, đó là nước mắt của sự sụp đổ hoàn toàn. Con trai em, đứa trẻ từ khi sinh ra đã phải chịu nhiều khổ cực, chỉ có thể nương tựa vào em đã không còn nữa. Mỗi khi nhìn con, em lại tưởng tượng ra dáng vẻ của nó khi năm tuổi, tám tuổi, mười tuổi, hai mươi tuổi. Bảo vệ con trai, nuôi dạy nó thật tốt luôn là lý tưởng sống của em. Con của em, đứa trẻ dễ thương nhất, đáng thương nhất, ngoan ngoãn nhất đã chết rồi. Không, em không thể mất đi đứa con này được!

Sếp Phan ôm lấy em, im lặng, ông ta cũng khóc nhưng nước mắt vừa trào ra thì ông ta đã vội lau đi. Ông ta chỉ biết dùng vòng tay và sự ấm áp của mình để trấn an An Tâm. Có lẽ khoảnh khắc đó, sếp Phan đã thực sự coi An Tâm là con gái của mình, một đứa con gái mệnh khổ khiến người làm cha mẹ không khỏi xót xa.

Lúc này, nữ cảnh sát duy nhất còn ở lại trực ban ở trụ sở chạy vào, thấy cảnh tượng đó thì chỉ biết ngơ ngác đứng nhìn, không biết nên đi vào hay lui ra. Sếp Phan quay đầu lại, nữ cảnh sát ngượng ngùng nói: “Báo cáo Sở trưởng gọi điện đến.”

Sếp Phan dìu An Tâm ngồi xuống ghế rồi chạy đến phòng trực ban, trước khi đi còn dặn nữ cảnh sát: “Lấy cho cô ấy một cốc nước.”

Thực ra, ngay sau khi bị bắt cóc về thị trấn Đông Pha, Tiểu Hùng đã bị sát hại. Nguyên nhân là thằng bé cứ khóc mãi khiến cho Trần Bảo Kim và đám bạn cờ bạc của hắn bực bội. Bọn chúng lấy gối đè vào đầu thằng bé, không ngớt miệng chửi Mao Kiệt tự dưng lại rước một cục nợ về. Mao Kiệt vốn muốn dùng Tiểu Hùng làm con tin, cũng không ngờ thằng bé lại khóc dai đến thế. Hắn giằng lấy cái gối trong tay đồng bọn, định dán băng dính vào miệng Tiểu Hùng, nào ngờ thằng bé đã tắt thở rồi. Tảng sáng hôm đó, hắn đã chôn Tiểu Hùng dưới bức tượng Phật phía sau nhà. Lúc đó, Mao Kiệt hoàn toàn không biết đứa bé mà chính tay hắn đang chôn chính là con trai mình.

Nữ cảnh sát nhìn mặt An Tâm cũng đại khái đoán được đã xảy ra chuyện gì, cô ta nhanh chóng chạy đi lấy nước. An Tâm ngồi trên ghế, không ngừng run rẩy, đầu óc hoảng loạn. Từng sợi dây thần kinh và tế bào trong người em đều tập trung vào một suy nghĩ mà em cố gắng xua đuổi: Con trai của em, em vĩnh viễn không được nhìn thấy nó nữa rồi. Con trai của em, thứ quý giá nhất trong đời em đã vĩnh viễn ra đi.

Tôi không biết lúc đó An Tâm có nghĩ đến tôi không. Tôi cũng là người thân quan trọng của em, thậm chí tôi là người yêu em nhất, quan tâm đến em nhất. Tôi cũng yêu thương cả Tiểu Hùng, cũng đau đớn khi nó không còn nữa.

Tâm trạng bi thương của An Tâm bị chen ngang bởi tiếng điện thoại reo. Trong phòng họp, ngoài An Tâm ra không còn ai khác, tiếng điện thoại reo trong căn phòng trống trải càng trở nên chói tai hơn, thậm chí khiến người ta giật mình, sợ hãi. Em nhấc máy một cách cứng nhắc như một cái máy. “A lô?” Giọng nói của em đã trở nên khan đục do khóc quá nhiều.

Giọng một người đàn ông vang lên trong ống nghe: “Tôi muốn gặp An Tâm.”

“Gặp An Tâm?” Em thất thần hồi lâu rồi hỏi lại: “Anh là ai?”

Người đó lại hỏi: “Cô là An Tâm sao?”

“Anh là ai?” An Tâm nhắc lại.

Người đó đột nhiên im lặng. An Tâm đã nhận ra hắn là ai, vội hỏi: “Con trai tôi đang ở đâu?”

Hắn im lặng mấy giây rồi hỏi: “Đứa trẻ đó… là con tôi sao?”

An Tâm cố gắng kiềm chế sự run rẩy trong giọng nói và cả trong tim mình: “Anh đang ở đâu?”

Hắn gần như quát lên: “Đứa bé là con tôi sao?”

“Anh đang ở đâu? Tôi sẽ trực tiếp trả lời anh. Tôi sẽ kể cho anh nghe tất cả.” An Tâm bình tĩnh nói.

“Tôi chỉ muốn biết thằng bé rốt cuộc có phải là con của tôi hay không? Cô nói thật thì tôi sẽ trả nó lại cho cô.”

“Là con của anh, con đẻ của anh!”

Hắn lại im lặng một lúc mới nói: “Còn nhớ quán trà trên núi Nam Mãnh không? Tôi đợi cô ở đó. Nửa tiếng, quá nửa tiếng tôi sẽ đi. Nếu cô mang theo người, đồng nghĩa với việc tự phán án tử cho con trai mình.”

“Được, tôi sẽ đến một mình!” An Tâm nói.

An Tâm vừa dứt lời, đối phương đã dập máy. Em đứng dậy, đi ra khỏi phòng nhưng đến cửa lại đột nhiên quay lại, nhìn chùm chìa khóa xe và khẩu súng sếp Phan vừa tháo ra để trên bàn. Em lập tức cầm lấy khẩu súng và cả chìa khóa, nhanh chóng chạy ra khỏi phòng. Trong sân không có người, chỉ có chiếc xe Jeep Cabrio cũ kĩ của sếp Phan. An Tâm vội vàng lên xe.

Tiếng khởi động xe ầm ĩ vang lên, qua kính chiếu hậu, An Tâm nhìn thấy nữ cảnh sát vừa cầm cốc nước chạy từ phòng họp ra vừa hô hoán gì đó, cuối cùng chỉ biết ngơ ngác đứng trong làn khói bụi do chiếc xe Jeep tạo nên khi lao ra khỏi sân trụ sở.

Lúc đó là khoảng mười giờ bốn mươi phút, ở trong bệnh viện, tôi đang được y tá cho uống nước, bỗng nhiên bị sặc, ho sặc sụa, lồng ngực đau như cắt. Sau đó, tôi đã nôn một bụm máu lên chiếc chăn trắng toát của bệnh viện. Các bác sĩ nháo nhào chạy đến, hỏi tôi sao lại ho ra máu thế, tôi chỉ biết khó nhọc lắc đầu, không hiểu sao lại có một dự cảm chẳng lành. Bác sĩ dặn y tá tiêm thuốc an thần cho tôi. Khi tôi từ từ chìm vào giấc ngủ cũng chính là lúc An Tâm lái chiếc xe Jeep đến quán trà trên núi Nam Mãnh.

Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, tỏa nắng chói chang và làm không khí trở nên nóng rực, ngột ngạt, không có lấy một cơn gió. Rừng cây yên tĩnh vang vọng âm thanh của chiếc xe Jeep, An Tâm dừng xe trước quán trà, cầm súng bước ra từ đám khói bụi do chiếc xe tạo nên.

Trong quán rất tối, chỉ có chủ quán và một nhân viên phục vụ trẻ tuổi, ngoài ra không có một vị khách nào. Chủ quán thấy An Tâm bước vào, liền nhiệt tình đón tiếp, em hỏi bà ta có ai đến đó không. Bà ta đáp cả buổi sáng không có vị khách nào. An Tâm đi đến chiếc bàn gần cửa sổ mà ngày xưa em và Mao Kiệt từng ngồi, trên bàn đã bày sẵn một bình trà và một cái chén. Em đặt súng lên bàn, nói: “Cho tôi một bình trà xanh.” Chủ quán nhìn thấy khẩu súng mới sực nhớ ra em chính là cô gái trẻ bị người yêu đánh năm nào, bỗng chốc trở nên mất bình tĩnh, gượng cười, nói: “Vâng, trà xanh, trà xanh… có tác dụng hạ hỏa đấy…”

An Tâm không thèm nhìn bà ta, em có chút căm ghét vì bà ta đã từng làm nhân chứng cho Mao Kiệt, xác nhận em và anh ta có quan hệ yêu đương. An Tâm nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy vách núi thẳng đứng trông thật đáng sợ.

Em nghĩ nhất cử nhất động của mình lúc này có lẽ đều trong tầm ngắm của Mao Kiệt. Địa hình ở đó rất thuận lợi cho việc ẩn nấp và chạy trốn. Có khi Mao Kiệt đang theo dõi em từ bên kia vách núi hoặc sẽ đột nhiên nhảy ra từ một con đường bí mật nào đó cũng nên.

Đợi rất lâu mà trà vẫn chưa được mang ra, An Tâm quay đầu vào nhìn, mắt hơi nheo lại vì sự chênh lệch ánh sáng giữa trong nhà và ngoài trời. Mấy giây sau, khi mắt đã thích ứng được, em thấy chủ quán đi ra nhưng lại không bưng theo trà. Em ngạc nhiên nhìn bà ta hai giây rồi nhận ra Mao Kiệt đang đứng phái sau bà ta, trên tay hắn là một khẩu súng.

Chủ quán bị Mao Kiệt uy hiếp, bước đi xiêu vẹo, mặt mũi méo mó vì sợ. An Tâm đứng phắt dậy, đưa tay nắm vào khẩu súng trên bàn. Đúng lúc đó, một tiếng “đoàng” vang lên, bả vai em đau nhói, người ngả về phía sau rồi ngã xuống đất, cánh tay trái tê dại. Em thấy Mao Kiệt buông bà chủ quán ra rồi tiến đến chỗ em, ngồi xổm xuống, chĩa súng vào thái dương của em, ngay cả giọng nói cũng lạnh như băng: “Đứa bé đó là con tôi sao?”

Tay trái của An Tâm dần lấy lại cảm giác, em có thể cảm nhận tay áo ướt sũng vì máu chảy. Em bất kể đau đớn nhào về phía trước, muốn bóp cổ Mao Kiệt. Một tay của em đã gần chạm đến cổ hắn thì hắn ngả người về phía sau, lập tức bắn thêm một phát súng vào tay phải của em. An Tâm gục xuống sàn nhà. Tiếp đó, hắn lại gí súng vào đầu An Tâm, lạnh lùng hỏi: “Thằng bé là con tôi sao?”

An Tâm cảm thấy tất cả sức lực trong cơ thể mình đã mất hết, đó là lần đầu tiên em cảm thấy hoang mang và yếu ớt đến tột cùng, đầu óc trống rỗng, tay chân lạnh ngắt… Tính mạng em chỉ như sợi chỉ mỏng manh, thậm chí em còn ngạc nhiên khi thấy tim mình vẫn đập trong lồng ngực.

“Con của anh…. Nó là con của anh!” An Tâm gằn từng tiếng.

Mao Kiệt dùng báng súng đập mạnh vào đầu An Tâm rồi đột nhiên đứng dậy gào thét như điên trong nước mắt: “Cô là đồ ác quỷ! Từ lúc tôi quen biết cô, bố tôi, mẹ tôi đều lần lượt mất mạng, ngay cả anh tôi cũng bị cô bắn chết. Cô đã giết cả nhà tôi, bây giờ lại khiến tôi giết chết con trai mình! Cô là ác quỷ, ác quỷ! Tôi phải giết đồ ác quỷ như cô!”

Mao Kiệt đứng trước mặt An Tâm, chĩa súng về phía em nhưng không bắn. Trên mặt hắn, nước mắt chảy giàn giụa, quanh cái miệng đang méo xệch đi lún phún những cọng râu. Hình như hắn đang suy nghĩ, sau đó đột nhiên lảm nhảm như bị mất trí: “Không, tôi không thể để cô chết như thế được, tôi phải để cô chết dần chết mòn trong đau khổ. Cô cứ đợi đấy!” Hắn quay người, điên cuồng tìm kiếm thứ gì đó trong quán, có lẽ hắn muốn tìm thứ gì đó để hành hạ An Tâm. Ánh mắt của hắn đảo một vòng quanh quán, đột ngột dừng lại trên tấm gỗ lót sàn trước của quán, trên tấm gỗ không biết từ lúc nào đã xuất hiện một bóng đen.

Mao Kiệt sững sờ đến ngây người, nhìn chằm chằm vào chiếc bóng bất động trước cửa quán. Hắn cố mở to mắt như muốn xác định cái bóng đó có phải ảo ảnh hay không. Người đó đứng ngược sáng nên không thể nhìn rõ mặt, thậm chí quần áo trên người cũng không nhìn rõ được. Thứ duy nhất hắn có thể nhìn rõ chính là khẩu súng phản chiếu ánh sáng mờ nhạt trên tay người đó. Họng súng hướng thẳng đến ngực hắn, tiếp theo, hắn nghe thấy một giọng nói lạnh lùng: “Bỏ súng xuống!”

Mao Kiệt nhanh chóng nhận ra đó là đội trưởng đội Phòng chống ma túy hắn đã gặp khi bị bắt lần trước.

Trong ấn tượng của hắn, sếp Phan là một cao thủ trầm mặc ít nói, chính vì thế, hắn đã mất ý thức phản kháng trong giây lát, vô thức thả lỏng tay. Khẩu súng rơi xuống chỗ chân hắn.

“Hai tay ôm đầu, lùi lại sát tường!” Sếp Phan vừa đi vừa lớn tiếng nói.

Có thể nói, không phải khẩu súng của sếp Phan khiến Mao Kiệt buông bỏ vũ khí và lùi lại góc tường mà chính khí thế ngút trời và giọng nói lạnh lùng, cứng rắn của ông ta đã khiến hắn vô thức mất hết ý muốn phản kháng. Giọng nói đó cũng mang đến cho An Tâm một sức mạnh thần kì, em gắng gượng đứng dậy, lao tới chiếc bàn cạnh cửa sổ, nơi có khẩu súng đã lên đạn.

Nhưng trước khi An Tâm lấy được khẩu súng đó thì sếp Phan đã ngăn em lại. Hai cánh tay của An Tâm chảy quá nhiều máu, em không thể thoát khỏi sự kìm kẹp của bàn tay sếp Phan. Em chỉ có thể điên cuồng hết lên: “cháu phải giết hắn! Chú để cho cháu giết hắn!”

Mao Kiệt ôm lấy đầu, sa sầm mặt đứng dựa vào tường, chăm chú nhìn hai người giằng co. Chỉ mấy giây sau, An Tâm đã bị sếp Phan áp đảo, ngã phịch xuống sàn. Mao Kiệt thở phào, đôi tay trên đầu cũng bất giác thả lỏng ra, chắc hắn nghĩ mình đã được an toàn.

Sếp Phan dìu An Tâm ngồi dậy, em khóc không thành tiếng, cả người mềm nhũn, run lẩy bẩy. Sếp Phan kiểm tra vết thương của em rồi xé áo ra băng lại, luôn miệng an ủi em đừng quá lo lắng, đội phó Ngô và mọi người sẽ đến ngay. Tòa sẽ phán Mao Kiệt án tử hình, lần này hắn có muốn chạy cũng không chạy nổi, An Tâm giết hắn chỉ tổ bẩn tay. Sau đó, ông ta quay lại nhìn Mao Kiệt, thấy hắn bỏ tay xuống liền đá mạnh vào ống chân hắn, bắt hắn để tay lên đầu. Mao Kiệt miễn cưỡng làm theo.

“Lần trước anh gặp may, được sống thêm một năm mấy ngày nhưng lần này thì đừng hòng. Anh đã từng hầu tòa, chẳng phải cũng hiểu chút ít pháp luật sao, thử tính xem mình còn sống được bao lâu?”

Mao Kiệt trợn mắt, hung hăng đáp trả: “Rất tiếc, ông không phải quan tòa. Các người nói tôi buôn bán ma túy có chứng cứ không?”

Sếp Phan đang định đỡ An Tâm ngồi lên ghế, không ngờ Mao Kiệt lại dám mạnh mồm cãi trả, bèn quay lại quát: “Tôi không kiện anh tội buôn bán ma túy, tôi kiện anh tội giết người. Anh đã giết Trương Thiết Quân và một đứa trẻ mới tròn hai tuổi!”

“Ông có chứng cứ không? Ông tận mắt thấy tôi giết người à?” Mao Kiệt vẫn ngoan cố nói.

Nhưng câu này lại khiếp sếp Phan á khẩu.

Mao Kiệt cười khẩy tỏ vẻ đắc thắng, nói tiếp: “Ai nói với ông, tôi giết người? Là cô ta sao?” Mao Kiệt nhìn An Tâm bằng ánh mắt đầy căm hận và độc ác. “Ông quên rằng tòa án đã không tin lời cô ta rồi sao? Còn ai có thể làm chứng việc tôi giết người nữa, anh tôi ư?”

Sếp Phan nhận ra ý đồ của hắn, liền nói: “Chắc anh đã biết anh trai mình chết rồi, đúng không? Anh tưởng Mao Phóng chết rồi thì không có ai làm chứng cho chuyện anh đã làm chứ gì? Nhưng lần này anh xui xẻo rồi, chính cái miệng của anh đã hại anh. Anh quên là đã gọi điện thoại cho An Tâm mấy lần sao? Những lời của anh, chúng tôi đã ghi âm lại hết. Nếu không sao biết anh hẹn An Tâm đến đây. Tội của anh lớn quá rồi, đừng hòng chạy thoát!”

Mao Kiệt nhăn mặt, thét lên: “Tôi sẽ không nhận tội! Các người đừng mong hãm hại tôi. Không dễ vậy đâu. Cả nhà tôi đều bị các người giết hại, tôi không để cho các người hại chết nữa đâu!”

Sếp Phan nhìn Mao Kiệt, có lẽ ông ta chưa bao giờ thấy một kẻ điên cuồng và ngoan cố như thế. Rồi ông ta lại nhìn An Tâm, khi ánh mắt của hai người giao nhau, sếp Phan lập tức hiểu được ý định của em. Ông ta khẽ gật đầu.

Sếp Phan kéo Mao Kiệt đến trước chiếc bàn ở gần cửa sổ, ẩn hắn ngồi xuống ghế, đẩy khẩu súng của An Tâm đến trước mặt hắn, sau đó chỉ ra vách đá ngoài cửa sổ, nói: “Nếu muốn thoát thân thì không cần phải đợi đến lúc ra tòa đâu, ngay ở đây cũng có đường thoát. Nếu muốn thì cứ việc nhảy từ trên đỉnh vách đã xuống, còn khẩu súng này nữa, đừng quên cầm theo. Dù sao thì tội của anh cũng không ít, tôi cho anh thêm một tội danh đào tẩu nữa. Cơ hội này, khối người cầu còn không được đấy!”

Mao Kiệt sững sờ, hết nhìn vách núi lại nhìn khẩu súng trên bàn. Dưới ánh nắng, vách núi sâu hun hút, màu trắng của đá đối lập với màu đen của khẩu súng. Hắn ngẩng đầu nhìn sếp Phan, sếp Phan ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn, nhìn lại hắn. Ánh mắt của Mao Kiệt hiện rõ sự căng thẳng và do dự, ánh mắt của sếp Phan lại khoan thai, hờ hững, thậm chí còn chứa vẻ cười nhạo. Họ nhìn nhau như thế trong bao lâu, không ai biết, đến tận khi đường lên núi vang vọng tiếng xe cảnh sát rầm rập đi tới. Âm thanh đó cuối cùng cũng dừng lại ở ngoài quán trà, sếp Phan khẽ liếc nhìn về phía cửa. Đúng lúc đó, Mao Kiệt vụt đứng dậy, tóm lấy khẩu súng trên bàn. An Tâm hét lên, dường như cùng lúc với tiếng hét đó, tiếng súng của sếp Phan vang lên. Viên đạn xuyên qua bình trà bằng gốm trên bàn, làm nó vỡ vụn, vô số mảnh gốm và nước trà bắn tung lên. Xuyên qua màn bụi nước, An Tâm nhìn thấy chính giữa trán của Mao Kiệt có một vết máu nhỏ rỉ ra. Cả người Mao Kiệt như bị một sức mạnh to lớn đẩy về phía sau, giật mạnh một cái rồi đổ rầm xuống sàn nhà.

Tiếng thét của An Tâm ngừng lại, căn nhà im ắng trong vài giây. Em nhìn sếp Phan tiến đến chỗ cái xác của Mao Kiệt, nói: “Tội đào tẩu không lấy, vậy thì thêm tội cướp súng chống người thi hành công vụ!”

Đúng lúc đó, ngoài cửa vọng vào tiếng hô lớn: “Bỏ vũi khí xuống, cảnh sát đây, các người đã bị bao vây!” Đó là tiếng của đội phó Ngô. Trước khi sếp Phan lên núi Nam Mãnh cứu An Tâm, đã kịp thời thông báo cho họ đến chi viện. Đội phó Ngô dẫn theo tám chiếc xe cảnh sát, mới đến cửa quán trà thì đã nghe thấy tiếng súng nổ, mọi người liền xuống xe, đồng loạt chĩa súng về phía quán, chờ lệnh. Cửa quán trà đang mở, đội phó Ngô vừa dứt lời thì nhìn thấy hai bóng người đi ra. Một người chính là sếp Phan, người còn lại toàn thân đẫm máu, đang được ông ta dìu đi chính là người con gái tôi yêu thương suốt đời, An Tâm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Khi tàu hỏa còn chưa đi vào địa phận thành phố Nam Đức, tôi đã nhìn thấy dãy núi Nam Mãnh. Nhìn từ xa, ngọn núi này chẳng có vẻ gì là nguy hiểm cả, thế núi thoai thoải, cây cối xanh tươi. Chắc phải đến tận khi đích thân lên núi thì mới có thể nhìn thấy những vách núi và vực sâu thăm thẳm.

Trời vừa sáng đã đổ mưa rào. Những đám mây đen dày đặc bao trùm một nửa núi Nam Mãnh. Tôi đứng lên, quay đầu nhìn về phía đỉnh núi, màu xanh của cỏ cây đã biến thành màu xám đen bởi mây mù và mưa rào. Nhưng cũng may, nhờ có trận mưa đó mà thành phố nhỏ nơi biên cương này như được gột rửa, trở nên tươi mới và sạch sẽ hẳn. Không khí trong lành không lẫn một chút khói bụi ô nhiễm, những ngọn gió nhẹ mơn man khiến người ta không cưỡng lại được mà muốn hít đầy lồng ngực, dường như từng mạch máu trong cơ thể đều được thanh lọc qua từng nhịp thở.

Tôi chọn một con đường đá ướt nước mưa, mỗi đoạn gập ghềnh đều in dấu ấn tháng năm, hướng về trung tâm thành phố. Những cô gái quê mộc mạc đứng tựa vào cửa sổ trong các cửa tiệm bên đường, lặng lẽ nhìn những người bộ hành bước đi vội vã. Cứ mưa là thành phố này trở nên hiu quạnh, vắng vẻ lạ thường, sự vắng vẻ này cũng là một trong những điểm đặc sắc của Nam Đức. Ở thành phố lớn, dù nắng hay mưa, trên đường đều đông đúc và hỗn tạp, khiến con người dễ có cảm giác bực bội.

Lần trước khi tôi rời khỏi Nam Đức, vẫn đang là mùa hè. Tôi vẫn nhớ hôm đó, vào lúc chập choạng tối, ánh hoàng hôn vẫn chưa tắt hẳn, tôi bị khiêng ra khỏi bệnh viện, đưa lên xe cứu thương. Xe cứu thương hụ còi tiến về phía nhà ga để kịp chuyến tàu tốc hành xuất phát lúc sẩm tối.

Anh cảnh sát trẻ chịu trách nhiệm trông chừng tôi đã ở lại bệnh viện Côn Minh hai ngày rồi mới về, lúc đó tôi vẫn chưa nói chuyện lưu loát được. Trước khi đi, anh ta chúc tôi mau bình phục, còn tôi chỉ có thể gật đầu nhẹ, lí nhí nói lời cảm ơn.

Sau đó, người thay anh ta chăm sóc tôi là bố của An Tâm. Lúc anh cảnh sát dẫn ông đến, nói rằng ông sẽ chăm sóc tôi thì tôi bật khóc, bất chấp cơn đau trong lồng ngực. Tôi đã chịu ơn gia đình An Tâm quá nhiều, không biết đến khi nào mới trả hết được.

Bố An Tâm rất ít nói, thậm chí ông không nói gì để an ủi tôi nhưng vẻ hiền từ trên khuôn mặt lại khiến tôi nhớ đến người mẹ quá cố.

Thông qua ông tôi mới biết chuyện An Tâm bị thương và Tiểu Hùng đã chết, còn Mao Kiệt thì bị cảnh sát bắn chết. Đối với một người từ nhỏ đến lớn chỉ có một cuộc sống yên bình, vô vị ở Bắc Kinh như tôi thì chuyện đó thật sự giống như một cơn ác mộng. Sau khi tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng, tôi chỉ có một mong muốn duy nhất, đó là được gặp An Tâm. Tôi nhớ em đến mức phát điên nhưng không có cách nào đến thăm em được. Còn bây giờ, tôi đã có thể vượt ngàn dặm xa xôi từ Mỹ về đây để gặp em.

Không sai, dù chỉ có thể gặp em một lần thì tôi cũng cam lòng. Từ khi bỏ nhà đi, An Tâm không hề liên lạc với tôi một lần nào. Tôi đã từng tuyệt vọng, cho rằng em thấy chán nản với cuộc sống tương lai mà chúng tôi dự tính với nhau nhưng bây giờ, tôi quyết tâm phải tìm bằng được em. Tôi tin rằng sau khi tìm được em, chúng tôi lại có thể bắt đầu cuộc sống mình hằng mong đợi.

Cơn mưa bụi và không khí se lạnh khiến tôi đột nhiên tỉnh táo, khiến tôi ý thức được rằng có lẽ đó chỉ là mộng tưởng tươi đẹp của tôi, biết đâu An Tâm không muốn ở cạnh tôi.

Có lẽ mầm mống của sự rạn nứt trong mối quan hệ của chúng tôi đã bắt đầu xuất hiện từ mùa hè năm ngoái nhưng tôi vẫn ngu ngơ không nhận ra. Trong khi nằm dưỡng bệnh ở thành phố Côn Minh mát mẻ như mùa xuân, tôi thậm chí còn không biết Bắc Kinh đang trải qua một mùa hè đỏ lửa. Các vết thương của tôi dần dần bình phục. Tiền chữa bệnh đều do bố An Tâm chi trả, cộng thêm chi phí mua thuốc bổ, thức ăn…. Chắc bố mẹ em đã tiêu tốn hết cả gia sản. Tôi cũng từng nhiều lần hỏi họ có thiếu tiền không nhưng lần nào bố An Tâm cũng chỉ lắc đầu, nói: “Không sao, không sao, cháu cứ dưỡng bệnh cho tốt, đừng lo mấy chuyện này.”

Mẹ An Tâm cũng đến Côn Minh thăm tôi một lần, mang theo tin tức của An Tâm. Bà nói vết thương của An Tâm sắp lành nhưng vì mất máu quá nhiều nên cơ thể vẫn còn rất yếu. Ngoài ra, bà cũng nói An Tâm vẫn chưa thoát khỏi nỗi ám ảnh của việc Tiểu Hùng gặp nạn, tinh thần không được ổn định lắm.

“Nó rất ít nói chuyện với bác, chỉ lẳng lặng một mình. Chắc chỉ có cháu mới có thể khuyên bảo được nó. Nó không nhắc đến Tiểu Hùng nhưng có nhắc tới cháu, giục bác đến thăm cháu từ lâu rồi.” Mẹ em nói.

Nghe xong, tôi kiên quyết xin bác sĩ được gọi điện thoại cho An Tâm. Bố mẹ em liền dìu tôi đến một phòng làm việc trong bệnh viện. Lúc đó, An Tâm vẫn chưa thể xuống giường. Tôi gọi vào số di động của sếp Phan, may mà lúc đó ông cũng đang tới thăm An Tâm. Giọng nói khàn đục và yếu ớt trong điện thoại của An Tâm khiến tôi cảm thấy có phần xa lạ. Em chỉ thều thào một câu: “Dương Thụy… em nhớ anh…” Tôi rưng rưng muốn khóc, nói rất nhớ em, yêu em, dặn em dưỡng bệnh cho tốt, còn nói chúng tôi sẽ sớm được gặp nhau thôi, mọi chuyện đã qua rồi, tương lai sẽ tốt đẹp hơn. An Tâm không nói tiếng nào. Một lúc sau, tôi nghe thấy giọng của sếp Phan, ông ta bảo An Tâm có vẻ kích động nên không tiện nghe điện thoại, có gì thì để ông ta chuyển lời giúp. Tôi biết lúc đó An Tâm đang khóc, liền nói: “Không có gì đâu ạ. Nhờ chú nói với An Tâm là cháu sắp bình phục rồi. Khi nào khỏe lại, cháu sẽ đến gặp cô ấy.”

Có lẽ vì còn trẻ nên sau khoảng hai tuần điều trị, tôi đã có thể đi lại được. Ngay sau khi có thể xuống giường, tôi liền đòi xuất viện để đến Nam Đức chăm sóc An Tâm. Tôi rất nhớ em và cũng không đành lòng nhìn bố mẹ em vét cạn gia tài để chăm lo cho tôi. Cuối cùng, bác sĩ và bố mẹ An Tâm cũng đồng ý. Ngay trước hôm tôi xuất viện, khi trời còn chưa sáng, An Tâm đột ngột xuất hiện tại bệnh viện, em vẫn còn rất yếu nên mẹ phải dìu đi. Trông em gầy và xanh xao đến nỗi tôi gần như không nhận ra. Chúng tôi đã ôm nhau rất lâu và nghẹn ngào khóc không thành tiếng.

Chúng tôi về tới Bắc Kinh khi đợt nắng nóng nhất của mùa hè năm đó vừa qua đi. Bố An Tâm phải quay về Thanh Miên vì có việc, còn mẹ An Tâm theo chúng tôi về nhà. Bà ở với chúng tôi một tháng, chăm sóc cơ thể yếu ớt và cả tâm hồn bị tổn thương của chúng tôi.

Như người ta vẫn nói, loại thuốc chữa lành vết thương hữu hiệu nhất chính là thời gian. Sau một tháng, tôi và An Tâm đã khỏe lên nhiều, không ai nhắc đến chuyện cũ, trên tường và tủ đầu giường không còn ảnh của Tiểu Hùng và bất kì đồ đạc nào của thằng bé nữa. Chính An Tâm đã cất chúng đi, thậm chí còn nói với tôi rằng em đang cố tin là mình chưa kết hôn, chưa sinh con, chưa từng làm cảnh sát và chưa từng trải qua bất cứ mất mát nào trong đời. Em cố nghĩ rằng bản thân mình, từ thể chất đến linh hồn, đều là một cô gái thuần khiết, trong trắng.

Tôi biết em đang cố hết sức để thoát khỏi nỗi ám ảnh giống như cái hố đen vô hình đó. Tôi cũng biết em đang cố cứu mình khỏi vực thẳm đau khổ, đang cố lạc quan vào một tương lai tươi đẹp hơn. Thật là tốt, đó mới chính là An Tâm kiên cường của tôi.

Tôi tự hỏi có thể giúp em được gì đây, ngoài sự quan tâm săn sóc hàng ngày, thứ duy nhất tôi có thể cho em chính là tình yêu. Tôi muốn làm cho cuộc sống của hai đứa tràn đầy những sự quan tâm, ân cần nho nhỏ và những lời đường mật ngọt ngào… Nhưng chúng tôi tuyệt nhiên không nhắc đến hai chữ “kết hôn”.

Sau đó, tôi may mắn được nhận vào làm quản lý tại một câu lạc bộ đua ngựa, lương tháng hơn hai nghìn tệ. An Tâm tạm thời chưa đi tìm việc. Tiền lương của tôi đủ để lo cuộc sống no đủ cho hai người.

Chúng tôi quay trở lại cuộc sống bình dị, yên ổn trước kia. Hằng ngày tôi đi làm còn An Tâm dọn dẹp nhà cửa và nấu nướng. Ngày nghỉ, tôi cùng em làm việc nhà hoặc đi chơi loanh quanh. An Tâm vẫn luôn chăm sóc tôi rất chu đáo, ngay cả việc gội đầu, rửa chân, chuẩn bị quần áo đi làm cho tôi em cũng không bỏ qua. Tôi nghĩ em đã coi tôi như Tiểu Hùng vì có những lúc, thái độ và ngữ điệu của em cứ như một người mẹ đối với con trai mình.

Chỉ có duy nhất một điểm không giống như trước, đó là tính cách của An Tâm, em đã thay đổi nhiều đến mức tôi bắt đầu không hiểu nổi em. Em trở nên trầm lặng, ít nói và hay ngồi thẫn thờ một mình. Tôi có thể yêu một người con gái trầm lặng, không thích nói chuyện, chỉ cần biết em yêu tôi là đủ. Nhưng cốt lõi của vấn đề là An Tâm không vui. Tôi có thể nhận ra em không hề cảm thấy hạnh phúc. Em có quá nhiều tâm sự chất chứa trong lòng, những nụ cười, những lời nói và thái độ lạc quan của em đều là giả, em chỉ đang diễn kịch cho tôi xem thôi. Tôi biết em vô cùng khổ tâm nhưng vẫn không muốn tôi phải lo lắng nên cũng không truy hỏi, chất vấn em. Có lần, em đang rửa chân cho tôi thì đột nhiên khóc thút thít. Tôi liền dìu em ngồi dậy và nói: “Cảm ơn em vì đã rửa chân cho anh, anh thấy rất dễ chịu.” Tôi biết vì sao em khóc. Một lần nữa, tôi dẫn em vào tiệm KFC, đúng lúc họ đang phát bài Hạnh phúc hơn anh mà em thích nhất. Lúc tôi đi mua đồ ăn về thí thấy em lại khóc. Tôi không hỏi vì sao em khóc, chỉ nói: “Bài hát này cũng hay đấy chứ, nếu em thích thì mình mua một cuộn băng về nghe nhé.” An Tâm giật mình như vừa tỉnh khỏi giấc mộng, vội vàng cúi đầu, lau nước mắt và nói: “Không cần đâu.” Thôi thì cứ để năm tháng dần dần chữa trị vết thương của em vậy, tôi chỉ còn cách kiên nhẫn chờ đợi thôi.

Tuy nhiên, mọi thứ không đơn giản như tôi tưởng, bây giờ nghĩ lại, trong suốt quá trình đó có rất nhiều điều bất ổn mà tôi không hề nhận ra. Vào một ngày thứ Tư, tôi định hôm sau được nghỉ làm, sẽ đưa An Tâm đến hồ Thủy điện Thanh Long chơi. Một vị khách họ Hạ hay đến câu lạc bộ đua ngựa là chủ một khu nghỉ dưỡng ở đó, có lần ông ta đã bảo tôi đưa bạn gái tới đó chơi, ông ta sẽ tiếp đón chu đáo. Lúc đó, tôi chỉ ậm ừ cho qua chứ chưa có ý định đi, sau khi giám đốc kinh doanh của câu lạc bộ biết chuyện, liền bảo tôi cứ việc đi, sẽ tốt cho việc tạo quan hệ với khách hàng. Chính vì thế, khi ông Hạ một lần nữa mời tôi đến khu nghỉ dưỡng, tôi đã đồng ý.

Hôm đó, tôi vô cùng hào hứng với kế hoạch đi hồ thủy điện. Từ khi trở về từ Vân Nam, chúng tôi chưa đi đâu xa chơi cả, biết đâu đến nơi thiên nhiên tươi đẹp, sơn thủy hữu tình, An Tâm sẽ nguôi ngoai được phần nào nỗi đau mất con. Trên đường về nhà, tôi đã mua đầy đủ thức ăn và nước uống để dùng trên đường đi, còn đặc biệt mua một cuộn băng bài hát Hạnh phúc hơn anh tặng cho An Tâm. Tôi đã mượn đồng nghiệp một cái máy nghe nhạc. Nhớ lại cảnh chúng tôi đấu khẩu vì cái tên Trần Hiểu Đông này, lại nhìn tấm ảnh ngoài bài cuộn băng, tôi không khỏi tự giễu mình, vì An Tâm mà tôi có thể làm tất cả, ngay cả việc mua cho em cuộn băng bài hát của “tình địch trong tưởng tượng.”

Về đến nhà, tôi ngạc nhiên khi thấy cửa mở, trong nhà tối om, không biết An Tâm đã đi ngủ hay ra ngoài rồi. Tôi gọi nhưng không thấy em trả lời, liền bật đèn lên, phát hiện nhà cửa đã được dọn dẹp sạch sẽ, gọn gàng. Tôi thấy là lạ, không hiểu sao hôm nay An Tâm lại dọn dẹp nhà cửa từ trong ra ngoài thế này. Tôi bước vào phòng ngủ, thẫn thờ khi thấy một bức thư đặt trên mặt tủ đầu giường. Là thư của An Tâm.

Bức thư được đựng trong một chiếc phong bì không dán, nhìn bề ngoài tưởng như chỉ là một lời nhắn em tiện tay để ở đó, nhưng tôi thấy trên bức thư còn có chùm chìa khóa nhà nữa. Ngay lập tức, một cảm giác bất an dâng trào trong lòng tôi, không ngờ lần ly biệt đó giữa tôi và em lại là suốt đời.

Dương Thụy, em đi đây, em sẽ không quay lại Bắc Kinh nữa đâu. Anh đừng đi tìm em, vì sẽ không tìm ra đâu.

Thực lòng, ngay từ lần đầu tiên gặp anh, em đã thích anh rồi. Và khi anh hết lần này đến lần khác giúp đỡ em, đối xử tử tế với em thì em lại càng không thể kiềm chế được lòng mình, sao em có thể không động lòng trước một người như anh được? Được anh yêu là may mắn và hạnh phúc của em. Anh đã mang tới cho em một mái ấm mà em không đành lòng xa rời. Em rất muốn được chăm sóc anh cả đời, cứ nghĩ đến việc sau này không thể nhìn thấy anh, chăm sóc cho anh nữa là em lại buồn đến phát khóc. Hôm nay, khi dọn dẹp căn nhà này lần cuối cùng, em đã không cầm được nước mắt. Mọi thứ trong căn nhà đều gắn liền với chúng ta, đều như kêu gào em ở lại. Nhưng mà em nhất định phải đi, Dương Thụy ạ. Số phận đã định cho em không có được tình yêu và một gia đình. Số phận đã định cho em phải sống cảnh mai danh ẩn tích, cô độc đến già rồi.

Anh không biết em yêu anh nhiều đến thế nào đâu. Em yêu anh còn nhiều hơn yêu Thiết Quân nữa, anh đã cho em niềm hạnh phúc mà em không thể có được khi ở cùng Thiết Quân. Nhưng dù sao Thiết Quân cũng là chồng em, em không thể nói chuyện yêu đương ngay sau khi chồng con mình ra đi được. Em cảm thấy mình phải có trách nhiệm với họ, thậm chí có thể chết vì họ. Em không thể hưởng hạnh phúc một mình được, mỗi ngày em đều có cảm giác họ đang nhìn em, đang nói với em rằng họ cũng muốn sống bình yên và vui vẻ như thế. Thiết Quân và Tiểu Hùng chết đều do lỗi của em, em không thể bỏ mặc họ mà sống vui vẻ được.

Em biết rời xa anh sẽ làm anh bị tổn thương, sẽ khiến anh tức giận, đau khổ, thế nên em mới về Bắc Kinh cùng anh. Em muốn thử quên đi quá khứ, làm một người mất trí nhớ để sống với anh cả đời nhưng em đã thất bại. Ngoài bố mẹ em, trong số những người yêu thương em nhất, chỉ còn mình anh sống sót, anh xứng đáng được hạnh phúc. Em tin rằng sẽ có nhiều cô gái lương thiện và xinh đẹp yêu anh, anh chỉ cần quên em đi và đến với họ thôi, rất đơn giản đúng không nào?

Dương Thụy, em xin lỗi vì không thể ở bên chăm sóc anh được nữa. Anh mau quên em đi, càng sớm càng tốt. Nếu như có kiếp sau, nói không chừng chúng ta sẽ gặp lại nhau, vậy thì đợi đến kiếp sau, chúng ta tiếp tục mối duyên tình này nhé. Khi đó, hi vọng anh vẫn sẽ yêu em, tốt với em như bây giờ.

Dương Thụy, anh là người đàn ông tốt nhất trong lòng em! Ôm anh, hôn anh lần cuối.

Chưa đọc hết bức thư, mặt tôi đã đẫm nước mắt, tôi nghẹn ngào nói: “Tại sao em lại làm thế, tại sao…” Sau đó, tôi vô thức chạy ra khỏi nhà, lao ra đường lớn, đi tìm An Tâm một cách vô định, dù biết rõ rằng sẽ không thấy em nhưng tôi vẫn điên cuồng tìm kiếm.

Đêm hôm đó, tôi ngồi thẫn thờ trên sàn nhà, đến tận lúc trời sáng, thực sự chưa thể chấp nhận việc An Tâm đã bỏ đi. Tại ssao em lại bỏ đi đột ngột và không nói với tôi một tiếng nào như vậy? Em không yêu tôi nữa sao? Rõ ràng là em đã viết em yêu tôi mà. Chẳng lẽ em chán cuộc sống của một bà nội trợ chỉ ru rú trong xó nhà? Chẳng phải em nói không đành lòng rời xa ngôi nhà này sao? Lẽ nào vì nỗi ám ảnh đó, em không muốn tái hôn nhưng lại sợ tôi ép em lấy tôi? Nhưng tôi nào có ép buộc, hối thúc gì em đâu. Em bảo tôi đừng đi tìm em, nhưng em không từ mà biệt như thế, sao tôi có thể không đi tìm em được?

Hôm sau, tôi viết thư cho bố mẹ An Tâm, báo chuyện em bỏ đi, đồng thời hỏi họ có biết chuyện đó, có tin tức gì của em không. Tôi cũng nói với họ rằng tôi rất yêu em, không muốn mất em. Vì không biết số điện thoại và địa chỉ nhà của An Tâm nên tôi gửi thư đến trung tâm văn hóa quần chúng huyện Thanh Miên, tỉnh Vân Nam. Tôi cũng gọi điện cho sếp Phan, ông ta nói không hề biết gì về ý định bỏ đi của An Tâm, hứa nếu có tin tức của em sẽ lập tức báo cho tôi.

Tám ngày sau, bố mẹ An Tâm đã viết thư trả lời tôi. Họ nói vài ngày trước cũng nhận được một lá thư của An Tâm, em nói muốn sống một mình một thời gian, báo bố mẹ đừng lo lắng cho em. Bố mẹ em gửi kèm số điện thoại của họ và lá thư mà An Tâm viết. Lá thư ngắn ngủn chưa đầy ba dòng.

Ba ngày liền, tôi xin nghỉ làm, mất ăn mất ngủ, đứng ngồi không yên. Mãi đến ngày thứ tư, khi tâm trạng đã hơi ổn định lại, tôi mới gắng gượng đi làm. Dù sao thì cũng phải kiếm tiền để sống chứ. Vừa đến câu lạc bộ thì một đồng nghiệp nữ mach nhỏ với tôi rằng Giám đốc Lâm rất không hài lòng về tôi, nói tôi ngần này tuổi rồi mà cứ như trẻ con, không biết cách đối nhân xử thế.

Tôi có phần bất ngờ, không biết vì sao ông ta lại ghét tôi, buồn bã hỏi: “Tôi đã phạm lỗi gì chứ?”

Người đồng nghiệp đó vốn cũng quý mến tôi, chị ta hỏi: “Có phải cậu cho ông chủ Hạ hay đến đây đua ngựa leo cây không? Hôm đó, Giám đốc Lâm ngồi uống trà với ông Hạ, hình như ông ta đã nói gì đó về cậu. Lúc Giám đốc Lâm hỏi tôi cậu đang ở đâu thì ông Hạ còn cười, nói: “Không có gì, chỉ là chuyện nhỏ”, bảo chúng tôi đừng phê bình cậu. Này, cậu đã đắc tội với ông chủ Hạ lúc nào vậy?”

Tôi ngây người một lúc lâu mới nhớ ra vụ đi hồ Thanh Long, thầm rủa: “Chết tiệt, tôi ngu quá đi mất!”

Đúng vậy, suốt mấy ngày đó, đầu óc tôi luôn trống rỗng, không hiểu là suy nghĩ cái gì nữa. Nhưng tôi biết phải giải thích với người ta thế nào đây, chẳng lẽ lại nói người yêu tôi bỏ nhà đi, không rõ tung tích nên tôi phải đi tìm? Chắc chắn bọn họ sẽ cười nhạo tôi: “Đúng là thằng ngốc! Bị người yêu bỏ rồi mất hết thần trí, có đáng mặt đàn ông không vậy!”

Sau khi An Tâm đi, tôi thực sự đã mất hết thần trí, ngày nào cũng thẫn thờ, làm việc thì phạm lỗi liên tục, may mà chị đồng nghiệp kia nói đỡ cho tôi, còn giúp tôi giấu giếm và khắc phục hậu quả từ những sai lầm đó. Mỗi tối về đến nhà, tôi đều không dám bật đèn vì sợ phải nhìn thấy căn nhà trống trải không chút sinh khí. Mới vài tháng trước, mỗi khi về nhà, tôi đều nghe thấy tiếng An Tâm nấu cơm dưới bếp, còn Tiểu Hùng thì đang nô đùa ở phòng khách, thế mà lúc này chỉ còn lại một mình tôi đối diện với bốn bức tường. Hầu như đêm nào tôi cũng nằm trên giường, nghe đi nghe lại bài Hạnh phúc hơn anh. Có lẽ vì bài hát được một giọng nam thể hiện nên tôi luôn có cảm giác mình đang hát cho An Tâm nghe, lời bài hát cũng chính là tiếng lòng của tôi:

Giây phút này được ôm lấy em

Đối với anh cũng đủ lắm rồi

Dành tặng em bao lời chúc tốt đẹp

Mà tim đau không thốt lên lời…

Lẽ nào tình yêu cảu chúng tôi lại kết thúc như vậy sao? Lẽ nào người tôi yêu lại để lại một lời chúc đơn giản như thế rồi để tôi cô đơn chờ đợi sự tái ngộ ở kiếp sau ư?

Tuy nhiên, nghe nhiều rồi tôi lại phát hiện bài hát đó giống như lời tâm sự của An Tâm với tôi hơn. Tôi đột nhiên hiểu ra vì sao khi nghe thấy bài hát này ở tiệm KFC, em lại khóc, chắc em đã có ý định bỏ đi từ lúc đó rồi.

Anh nhất định phải hạnh phúc hơn em nhé,

Có như vậy mới không uổng phí sự rút lui của em,

Dù đau đến mấy em cũng không than thở,

Tình yêu không cần bù đắp bằng lời xin lỗi,

Anh nhớ phải hạnh phúc hơn em nhé,

Có như vậy mới xứng với sự tàn nhẫn em dành cho mình…

Đúng vậy, ngay từ hôm đó, An Tâm đã nghĩ đến việc rút lui khỏi cuộc tình này, đã quyết định sẽ tàn nhẫn với chính mình. Nhưng liệu em có biết, làm như vậy cũng là tàn nhẫn với tôi? Trong thư, em mới xin lỗi tôi, nhưng em có biết, tình yêu không thể dùng lời xin lỗi để bù đắp không?

… Cứ yên tâm theo đuổi hạnh phúc của anh,

Đừng để ý đến việc em có muốn hay không, có cô đơn hay không,

Tất cả, xin anh đừng để tâm,

Nhất định phải hạnh phúc hơn em nhé…

Tôi bật khóc. Trong bóng đêm, tôi như nhìn thấy ánh mắt trong veo của An Tâm, ánh mắt đó như nói với tôi rằng: “Anh nhất định phải hạnh phúc hơn em nhé. Đừng tìm em, đừng nhớ đến em, cũng đừng quan tâm việc em có hạnh phúc hay không.” Tôi chăm chú nhìn vào đôi mắt đó, dùng trái tim để cảm nhận tiếng lòng của em, hết lần này đến lần khác, da diết khôn nguôi…

Anh nhất định phải hạnh phúc hơn em nhé!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Mỗi người đều có tiêu chuẩn hạnh phúc riêng, đối với tôi, có thể ở cạnh người mình yêu thương đã là một niềm hạnh phúc to lớn rồi. Chính vì thế, những ngày tháng không có An Tâm đã trở thành sự giày vò mà tôi chưa từng được nếm trải, mỗi phút mỗi giây đều đau đớn vô cùng.

Từng ngày trôi qua, hi vọng của tôi cũng dần tan biến. Tôi đã tự an ủi mình rằng An Tâm chỉ nhất thời bỏ đi do chưa thể bình tâm lại thôi, vài ngày sau, em sẽ nhớ tôi và quay về. Mỗi ngày tan ca, trước khi mở cửa bước vào nhà, tôi đều mong đợi sẽ được nhìn thấy ánh đèn sáng, An Tâm sẽ sà vào lòng tôi, khẽ nói những lời xin lỗi và nhớ thương. Nhưng lần nào cũng vậy, chào đón tôi về nhà chỉ có bóng tối mênh mông và sự im ắng trống trải. Tôi đã thất vọng hết lần này đến lần khác.

Cứ cách vài ngày tôi lại gọi điện đến trung tâm văn hóa quần chúng Thanh Miên và sếp Phan để hỏi thăm tin tức của An Tâm. Mẹ em nói cách đó không lâu, An Tâm đã gọi điện hỏi thăm bố mẹ và nói rằng em vẫn bình an, sau đó thì không có tin tức gì nữa. Sếp Phan thì khăng khăng nói từ khi đến Bắc Kinh, An Tâm không hề liên lạc gì với đội, không ai biết tin tức của em. Đến khoảng giữa thu, tôi gọi vào di động của sếp Phan thì không thấy ai nhấc máy, gọi cho bố mẹ An Tâm thì lúc nào cũng là đường dây bận. Tiếng “tút… tút…” không ngừng vang lên trong ống nghe khiến lòng tôi từ chỗ nóng như lửa đốt đến nguội như tro tàn.

Tôi lại viết thư cho bố mẹ An Tâm, cũng đợi đủ tám ngày, rồi hai tuần mà không thấy hồi âm. Một tháng sau, bưu điện gửi bức thư đó lại cho tôi, vẫn còn nguyên vẹn, cộng thêm một mảnh giấy nhỏ dán trên phong bì, ghi: “Không tìm thấy người nhận.”

Tôi cầm bức thư đó, thẫn thờ đứng nửa tiếng đồng hồ.

Từng ngày trôi qua, tôi không còn hi vọng kì tích sẽ xuất hiện nữa. Tan ca, tôi không buồn về nhà mà chỉ muốn tìm một nơi tối tăm và yên tĩnh nào đó để gặm nhấm sự cô đơn và tuyệt vọng của mình. Tôi thường xuyên ngủ ở câu lạc bộ đua ngựa, hoặc cùng đồng nghiệp đi quán bar thâu đêm suốt sáng, vùi đầu vào men rượu, say rồi lại chửi bới lung tung, để nỗi đau trong tim bị men rượu bào mòn bớt. Đã rất lâu tôi không đến quán bar, ánh đèn xanh đỏ nhấp nháy, tiếng nhạc xập xình chói tai hòa lẫn với mùi rượu bia khiến tôi bất chợt nhớ lại hình ảnh của mình trong quá khứ. Tất cả những biến cố, ân oán tình thù tranh nhau ùa về trước mắt tôi, sau đó, tôi dường như đã trở lại là Dương Thụy của một năm trước. Tôi ngước đôi mắt mơ màng vì men rượu lên nhìn quanh, dường như tôi chưa từng rời khỏi chốn phồn hoa náo nhiệt đó, chưa từng có một cuộc gặp gỡ khắc cốt ghi tâm nào. Điều đó khiến tôi càng lúc càng khát khao buông thả vào những cơn say, vì khi tỉnh dậy, tôi sẽ lại rơi vào hố sâu của sự buồn bã và tuyệt vọng.

Ở quán bar, tôi thường gặp đám bạn chơi bời ngày xưa và cả những cô gái tôi đã từng hẹn hò. Mỗi khi nhìn thấy họ, tôi thường cố tình tránh né và lạnh nhạt vì tôi luôn vô thức so sánh họ với An Tâm. Trong mắt tôi, bọn họ đều dung tục đến mức không thể chịu nổi, khiến tôi mất hết hứng thú. Tôi không muốn ở cạnh bọn họ vì sự trái ngược đó luôn khiến tôi không tự chủ được mà nhớ đến An Tâm. An Tâm của tôi đã đi rồi, em sẽ không quay lại nữa, không còn thuộc về tôi nữa. Cho dù chuyện tình của chúng tôi có lâm ly, cảm động lòng người đến đâu thì cũng đã là chuyện cũ rồi, giống như một trang sách khi đã xem qua thì sẽ không giở lại nữa, nếu tôi cứ cố níu kéo quá khứ thì cũng chỉ giày vò chính mình thôi.

Tôi cũng gặp cả Lưu Minh Hạo. Cậu ta ngồi cùng vài người bạn làm ăn, cả buổi tối chỉ thẫn thờ uống rượu, trông có vẻ già đi nhiều. Cậu ta nói sắp kết hôn với Lý Giai nên không tiện ra ngoài chơi bời, sau đó hỏi tôi đi đâu suốt cả mùa hè. Tôi không kể chuyện mình và An Tâm đi Vân Nam, chỉ nói rằng tôi đang làm việc tại một câu lạc bộ đua ngựa nên rất bận. Lưu Minh Hạo lấy danh thiếp của tôi và nói cậu ta cũng thích trò đua ngựa, có thời gian sẽ đến chỗ tôi chơi. Đột nhiên, cậu ta nhắc đến An Tâm.

“Thế An Tâm thì sao, cô ấy làm ở đâu? Hai người đã kết hôn chưa?” Cậu ta hỏi.

Tôi không biết phải trả lời thế nào.

Cậu ta lại nói: “Không ngờ bản lĩnh của cô ấy lại lớn đến thế, khiến cậu biến thành một người hoàn toàn khác. Cậu bây giờ không thích chơi bời, có chuyện cũng không thèm nói với anh em. Tôi mà kết hôn nhất định sẽ không giống như cậu đâu.”

Tôi chán nản uống một hơi cạn ly rượu rồi cười khổ, nói: “Tôi và An Tâm đã bỏ nhau rồi, thật đấy, tôi mà nói dối cậu thì tôi là thằng khốn nạn.”

Lưu Minh Hạo nửa tin nửa ngờ, hỏi: “Hai người lại cãi nhau à? Sao mà giống như trẻ con thế! Tôi bảo này, bát đũa trên chạn cũng có lúc xô nhau, vợ chồng cãi nhau là chuyện thường tình, đầu giường cãi nhau, cuối giường làm lành ấy mà.”

Tôi ra hiệu cho phục vụ mang thêm rượu rồi nói: “Bọn tôi bỏ nhau thật rồi mà. Cô ấy bỏ đi từ lâu rồi, chắc là về quê.”

Lưu Minh Hạo nhìn mặt tôi, dường như đã tin là thật. “Tại sao vậy? Cậu hay cô ấy nói lời chia tay trước? Có phải vì thằng bé đó không?”

Tôi không đáp lời, chỉ uống rượu. Lưu Minh Hạo thấy tâm trạng tôi không tốt, liền an ủi: “Haizz… không biết tôi và Lý Giai có ở được với nhau không đây, không khéo cũng bị cô ta đá bay đi giống cậu ấy chứ. Khổng Tử nói rất đúng, tiểu nhân và đàn bà là khó nuôi nhất.”

Tôi và Lưu Minh Hạo tuy có khúc mắc nhưng vẫn là bạn thân chí tốt. Tôi không rõ loại người như Lưu Minh Hạo được coi là quân tử hay tiểu nhân, có khó nuôi hay không, có nên kết bạn hay không nhưng dù sao đi nữa, cậu ta cũng có một vai trò đặc biệt trong cuộc đời của tôi. Ba người con gái quan trọng nhất từng xuất hiện trong đời tôi đều do một tay cậu ta mối lái cả.

Tối hôm đó, tôi và Lưu Minh Hạo đều uống đến say mèm, xiêu vẹo đi ra khỏi quán bar, thậm chí còn lao ra đường để gọi xe taxi. Lúc tạm biệt, Lưu Minh Hạo lè nhè hét vào tai tôi: “Này, Dương Thụy… nghĩ thoáng một chút đi, cái cũ không đi cái mới không đến…. Mấy hôm nữa, anh sẽ giới thiệu cho chú mối khác nhé. Thích người quen hay người lạ hả?”

Tôi xua tay, không buồn trả lời. Sau khi ngồi vào taxi, tôi bắt đầu nôn thốc nôn tháo, ra cả ghế sau. Tài xế kéo tôi ra khỏi xe và khăng khăng bắt tôi phải trả tiền cọ xe. Lưu Minh Hào cũng chạy đến bênh vực tôi, hai thằng say và bác tài xế xui xẻo đó dây dưa rất lâu. Sau đó, tôi cũng chẳng nhớ mình có đền tiền không, cũng không biết đã về nhà bằng cách nào, hình như là Lưu Minh Hạo đưa tôi về.

Sau vài lần say không biết trời trăng gì, tâm trạng của tôi dần ổn định lại, không còn cố sống cố chết uống rượu giải sầu nữa. Tôi lại chuyên tâm cho công việc như trước. Trước đó, tôi bị phạt làm công việc hậu cần trong vài tuần, đến khi tâm tình ổn định với được quay lại làm quản lý trực ban. Giám đốc và đồng nghiệp sau này mới biết tôi bị thất tình, thấy tôi đã vượt qua đau khổ, họ cũng mừng cho tôi.

Ba ngày sau khi tôi được “khôi phục chức vị”, có một vị khách lạ đến câu lạc bộ. Đó là một cô gái trẻ. Cô gái đó vừa bước vào sảnh đã đến thẳng bàn quản lý trực ban của tôi, ngồi xuống khi tôi chưa kịp mời. Lúc đó, tôi đang nói chuyện điện thoại với một vị khách nước ngoài muốn đặt tiệc, vừa nói vừa ghi chép thông tin. Tôi ra hiệu cho cô ấy đợi một lát. Nói chuyện điện thoại xong, tôi ngẩng đầu lên và mỉm cười một cách chuyên nghiệp, nhưng nụ cười mang tính nghiệp vụ đó chỉ kéo dài vài giây đã lập tức đông cứng trên khuôn mặt đầy vẻ kinh ngạc của tôi.

Chúng tôi nhìn nhau một lúc lâu rồi tôi mới sực nhớ ra nói: “Ồ, Bội Bội!”

Chính là cô gái tên Bội Bội mà tôi đã dẫn đi tham quan Bắc Kinh hơn một năm trước. Bội Bội cười, chào: “Dương Thụy.”

Tôi có chút ngại ngùng, không biết nên nói gì vì nhìn thấy Bội Bội cũng giống như thấy lại quá khứ của mình vậy. Một lúc sau, tôi nói: “À… Cô đến Bắc Kinh lúc nào vậy, định đi cưỡi ngựa sao?”

Bội Bội mỉm cười nhìn tôi một lúc mới đáp: “Không, tôi không muốn cưỡi ngựa.”

Tôi ngây người, hỏi: “Ồ, vậy… tôi có thể giúp gì cho cô?”

Bội Bội bật cười trước câu hỏi mang đậm tính nghiệp vụ của tôi, nói: “Vậy tôi cũng đặt một bàn tiệc đi.”

Tôi liền lấy đơn đặt hàng và bút ra, không quên khôi phục “nụ cười mỉm nghiệp vụ” kia, ân cần niềm nở hỏi. “Được, xin hỏi cô muốn đặt tiệc với mức giá nào?”

Bội Bội hỏi lại: “Chỗ các anh có những mức giá nào?”

Tôi nhanh nhẹn giới thiệu: “Mức thấp nhất là hai trăm năm mươi tệ một người, cao nhất là một nghìn tệ một người, không gồm rượu bia và phí thuê chỗ, ngoài ra còn cộng thêm mười lăm phần trăm phí phục vụ, hoa tươi trang trí sân khấu chúng tôi tặng miễn phí, nếu cô là hội viên thì sẽ không mất phí phục vụ, phí thuê chỗ cũng sẽ được giảm…”

Bội Bội ngắt lời tôi: “Vậy thì đặt mức cao nhất đi.”

Tôi ghi giá cả vào đơn đặt hàng, lại hỏi: “Vậy cô đặt mấy chỗ?”

“Bốn chỗ.”

“Xin hỏi cô đặt vào thời gian nào?”

“Khi nào anh có thời gian rảnh?” Bỗng nhiên Bội Bội hỏi tôi.

Tôi ngẩng đầu, sững sờ.

Bội Bội nhẹ nhàng nói: “Tôi mời chị họ và bạn trai của chị ấy, cũng mời cả anh. Hi vọng anh có thể đến dự.”

Tối hôm đó, ngồi trong sảnh tiệc sang trọng nhất của câu lạc bộ, lần đầu tiên tôi được tận hưởng các dịch vụ và thưởng thức các món sơn hào hải vị với tư cách một vị khách. Lưu Minh Hạo và Lý Giai cũng đến, ai cũng ăn mặc rất sang trọng. Lưu Minh Hạo kéo tôi ra ngoài, nháy mắt, nói: “Này, đừng quên con cá lớn này là do tôi dắt đến đấy nhé, cậu nhất định phải nắm chặt cơ hội, đừng để sổng mất đấy.”

Bữa cơm hôm đó rất vui vẻ. Bội Bội là một cô gái thẳng thắn và cởi mở, có tư tưởng và quan điểm rất khác với người Trung Quốc đại lục, tuy thế tôi và cô ấy nói chuyện lại rất hợp nhau. Ăn xong, Bội Bội rủ chúng tôi đến quán bar “Con trai con gái”, nơi chúng tôi quen nhau. Tôi và Bội Bội ôm nhau nhảy, vô cùng hào hứng. Đó là lần đầu tiên sau khi An Tâm bỏ đi, tôi có thể cười nói vui vẻ, hơn nữa, suốt cả buổi tối, tôi hoàn toàn không nhớ đến em một lần nào.

Đúng vậy, nếu có thể, tôi nên quên An Tâm đi.

Ba ngày sau, không hiểu tại sao tôi lại chủ động gọi điện thoại đến khách sạn của Bội Bội và hỏi cô ấy có muốn đến một quán ăn bình dân ở Bắc Kinh để ăn cơm không, tôi mời. Bội Bội hỏi tôi sao lại mời cô ấy đi ăn, sợ cô ấy một mình ở Bắc Kinh buồn quá sao. Tôi im lặng một lúc, không hiểu sao lại buột miệng đáp: “Không, vì tôi thấy hơi buồn. Cô có rảnh không? Nếu không thì thôi vậy.”

Bội Bội cũng im lặng một hồi lâu rồi nói: “Đương nhiên là tôi rảnh rồi.”

Những ngày sau đó, hầu như tối nào tôi và Bội Bội cũng đi ăn với nhau ở những quán ăn nhỏ kém sang trọng. Tôi kể cho Bội Bội nghe về Bắc Kinh, còn cô ấy kể chuyện nước Mỹ cho tôi nghe. Đó đều là những điều mới mẻ và lạ lẫm đối với chúng tôi. Một lần, Bội Bội đưa tôi lên căn phòng khách sạn nơi cô ấy đang ở, chúng tôi nói chuyện đến tận khuya. Sau đó, Bội Bội tiễn tôi ra tận cửa, chúng tôi chăm chú nhìn nhau, Bội Bội ngả người dựa vào cánh cừa và nhắm mắt lại. Tôi biết Bội Bội muốn tôi hôn cô ấy, và tôi đã làm như vậy.

Hôm sau, chúng tôi lại đi ăn cùng nhau rồi lại về khách sạn của Bội Bội. Hôm đó, chúng tôi đã ngủ cùng nhau. Sáng hôm sau, khi thức dậy, tôi cảm nhận được sự nhục nhã âm ỉ trong lòng, đó là lần đầu tiên tôi qua đêm với phụ nữ sau khi An Tâm bỏ đi, tôi thấy có lỗi với em.

Bội Bội cùng tôi đến quán cà phê ở tầng ba của khách sạn để ăn sáng. Cô ấy rủ tôi sang Mỹ. Tôi có thể nhận ra được Bội Bội rất nghiêm túc trong mối quan hệ này, cô ấy đã quyết định gắn bó cuộc đời với tôi.

Một tuần sau, Bội Bội quay về Mỹ. Chúng tôi thường xuyên viết thư và gọi điện cho nhau. Cô ấy vô tư thể hiện nỗi nhớ và tình cảm với tôi, trong khi tôi lại có phần kín đáo, ngại ngùng. Cũng vì thế mà Bội Bội hay than phiền tôi quá lạnh nhạt với cô ấy nhưng không hiểu sao cô ấy lại thấy đó là nét cuốn hút ở tôi.

Có lẽ chỉ có bản thân tôi mới biết những lời yêu thương mình dành cho Bội Bội giả tạo và miễn cưỡng đến thế nào. Không phải tôi không thích Bội Bội mà vì tôi luôn băn khoăn một vấn đề: Chẳng phải tôi yêu An Tâm sao? Bây giờ, tôi còn yêu em nữa không? Tuy nhiên, tôi biết tôi nên đi, rời khỏi quê hương càng xa càng tốt. Tôi rất yêu An Tâm nhưng em buộc tôi phải ra đi. Nếu tôi cứ ở lại Bắc Kinh, trong căn nhà của chúng tôi thì sẽ không bao giờ có thể quên được hình bóng em, trong khi tôi thật sự muốn quên em để có một cuộc sống mới. Và Bội Bội đã cho tôi một cơ hội.

Một ngày trước khi rời khỏi Bắc Kinh, tôi đã nhốt mình trong nhà cả ngày, lấy từng món đồ mà tôi và An Tâm đã từng dùng, bao gồm cả quần áo và đồ chơi của Tiểu Hùng ra xem và vuốt ve chúng rất lâu. Vì An Tâm, cũng vì Tiểu Hùng, tôi nhỏ những giọt nước măt cuối cùng. Sau đó, tôi lại cất chúng vào chỗ cũ và dọn dẹp căn nhà. Cuối cùng, tôi viết một lá thư cho An Tâm. Tôi vẫn cố chấp tin rằng sẽ có một ngày em quay về và nhìn thấy căn nhà phủ đầy bụi cùng lá thư trên tủ đầu giường.

An Tâm, cuối cùng em cũng về rồi sao?

Ngày mai, ngày Mười bảy tháng Mười một năm 2000, anh sẽ đáp chuyến bay đi Mỹ, mãi mãi không quay lại Bắc Kinh nữa, trừ phi em muốn anh quay về. Anh vốn định trao trọn cả cuộc đời này cho em, vậy mà em lại không cần anh. Anh muốn em được sống hạnh phúc nhưng em lại không muốn như thế. Em có sự lựa chọn của riêng mình, chỉ tiếc rằng cho đến bây giờ, anh vẫn không biết lựa chọn của em là gì. Em không giống bất kỳ người con gái nào trên thế giới này, vì em đã để lại cho anh vết thương lòng không thể lành lặn và bỏ đi mất. Vì thế, anh nhất định phải đi thật xa, đến một nơi hoàn toàn xa lạ để quên em đi, giống như em đã quên anh vậy.

Thôi, không viết nữa, anh sắp khóc rồi đây này, anh không muốn khóc vì em nữa. Cho đến bây giờ anh vẫn không dám tin chúng ta lại có thể chia đôi hai ngả như thế này. Đây là sự thật sao? Có lẽ chỉ đến giây phút máy bay đưa anh rời khỏi mặt đất thì anh mới tin rằng đây là sự thật.

Liệu chúng ta có gặp lại nhau không? Đến khi già rồi, liệu chúng ta có muốn quay về đây không? Nếu thực sự có ngày đó, anh vẫn sẽ ôm hôn em thật chặt, dù em đã trở thành một bà lão nhăn nhúm. Nếu lúc đó em vẫn muốn bắt đầu lại cuộc sống của chúng ta trong căn nhà nhỏ đơn sơ này thì anh vẫn sẽ đồng ý. Dù đang ở đâu, nghèo khổ hay giàu sang, đã có gia đình hay chưa, anh vẫn sẽ quay về. Anh sẽ nói với con cháu của mình rằng hồi trẻ, anh từng có một mối tình khắc cốt ghi tâm, không thể nào quên. Anh sẽ đối xử tốt với họ, coi như một sự bù đắp để họ cho anh quay về bên em.

Viết xong, tôi đã òa khóc như một đứa trẻ, để những tuyệt vọng và ảo tưởng mà tôi luôn ôm ấp trong những ngày qua theo nước mắt lưu lại trên lá thư. Đêm hôm đó, tôi mang chìa khóa nhà đến nhờ Lưu Minh Hạo giữ hộ, để nếu An Tâm quay về mà không thấy tôi thì vẫn vào nhà được. Trong số bạn bè của tôi, em chỉ quen biết Lưu Minh Hạo.

Lưu Minh Hạo nhận chìa khóa, cười cười nhắc nhở: “Cậu đã theo Bội Bội sang Mỹ rồi thì không được đứng núi này trông núi nọ nữa đấy nhé!”

Tôi không nói gì.

Lưu Minh Hạo thấy vậy cũng thu lại nụ cười cợt nhả, hỏi: “Chào bố chưa?”

Tôi lắc đầu, nói: “Chưa, tôi không muốn để bố tôi biết việc tôi ra nước ngoài, ông mà biết chắc chắn sẽ lấy lại căn nhà này cho bằng được. Đó là tổ ấm của tôi và An Tâm, tôi muốn giữ lại cho cô ấy. Vả lại, biết đâu một ngày nào đó, Bội Bội sẽ chán tôi, khi đó tôi sẽ quay về đây.”

Lưu Minh Hạo gật đầu nhưng lại nói: “Haiza… sao cậu nghĩ nhiều thế.”

“Có lẽ tôi đã thực sự trưởng thành rồi nên không thể chuyện gì cũng làm theo ý mình, bất chấp hậu quả như trước được. Làm gì cũng phải tính sẵn đường lùi. Phụ nữ đều sáng nắng chiều mưa cả.”

Lưu Minh Hạo lại gật đầu, cười, nói: “Tôi nghĩ cậu sắp phát điên thì có. Haizz… đều là họa do An Tâm gây ra cả.”

Hôm sau, Lưu Minh Hạo chở tôi đến sân bay, cả đoạn đường thấy tôi chỉ im lặng, ủ dột nên ra sức khích lệ: “Ra nước ngoài là chuyện tốt, có thể mở mang đầu óc. Hơn nữa, nếu cậu trở thành chồng của Bội Bội thì coi như một bước lên tiên rồi còn gì. Dù làm một nhân viên quèn trong công ty của gia đình Bội Bội cũng được, sau này có chức có quyền thì đừng quên tổ quốc, đừng quên đám chiến hữu nghèo rớt mồng tơi này đấy. Bọn tôi sẽ đợi cậu về nước đầu tư vào công ty, hôm nay tôi cứ nói trước với cậu, lúc về đừng quên đó.”

Thực ra, Lưu Minh Hạo không hề biết tôi đi Mỹ chính là để quên đi tất cả.

Thu qua đông đến, sau đợt tuyết đầu mùa, tôi đã vượt nửa vòng trái đất để đến nước Mỹ. Ngồi trên máy bay, tôi cố nhìn xuống dưới qua khung cửa sổ hình bầu dục, tôi muốn nhìn ngắm vùng đất quê hương bị hoa tuyết bao phủ một lần nữa nhưng mây mù quá dầy đặc nên không thấy gì cả.

Đến Mỹ, tôi ở lại nhà của Bội Bội. Tất cả mọi thứ xung quanh đối với tôi đều xa lạ, nhưng điều đó đã phần nào giúp tôi quên đi những người và việc trong quá khứ, ngoại trừ An Tâm.

Ngay từ đầu, tôi đã có một dự cảm rằng dù có đi Mỹ thì tôi cũng khó lòng quên được An Tâm. Dẫu cho cuộc sống ở Mỹ hoàn toàn khác với cuộc sống ở Bắc Kinh, nhưng mỗi chi tiết từ ăn ở đến chuyện đi lại đều khiến tôi liên tưởng tới An Tâm. Càng ngày tôi càng nhớ những vật dụng của An Tâm để ở nhà cũ, vì không được nhìn thấy chúng nên lúc nào tôi cũng thấy bứt rứt khó chịu.

Một hôm, tôi và Bội Bội cùng đến một cửa hàng trong khu phố người Hoa, bất chợt nhìn thấy trên giá có một chiếc đĩa CD trông rất quen, chính là ca khúc Hạnh phúc hơn anh của Trần Hiểu Đông. Tôi liền mua đĩa CD đó và vội vã kéo Bội Bội về nhà. Sau khi về đến nhà, tôi nghe đi nghe lại bài hát đó suốt mấy ngày liền, khiến Bội Bội không khỏi cảm thấy kì lạ, hỏi: “Bài hát này hay đến mức ấy sao? Em thấy cũng bình thường thôi mà.”

Bội Bội làm sao biết được đó là lời chúc phúc An Tâm dành cho tôi. Mỗi khi nghe nó, tôi lại như nghe thấy giọng nói của An Tâm.

Anh nhất định phải hạnh phúc hơn em nhé,

Có như vậy mới không uổng phí sự rút lui của em,

Dù đau đến mấy em cũng không than thở,

Tình yêu không cần bù đắp bằng lời xin lỗi,

… Cứ yên tâm theo đuổi hạnh phúc của anh,

Đừng để ý đến việc em có muốn hay không, có cô đơn hay không.

…Nhất định phải hạnh phúc hơn em nhé…

Tôi đã đứng trước khung cửa sổ, nhìn ngắm bầu trời âm u của Los Angeles, bên tai văng vẳng từng câu hát, và lần đầu tiên trong đầu tôi lóe lên suy nghĩ phải quay về Bắc Kinh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
589,559
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Tôi đã quay về rồi.

Tôi đứng giữa cơn mưa lạnh của Nam Đức, nhìn thấy mây trôi lơ lửng trên núi Nam Mãnh. Sau đó, tôi vào một tiệm tạp hóa gần nhà ga để gọi điện thoại cho sếp Phan. Không liên lạc được.

Tôi chưa từng đến trụ sở đội Phòng chống ma túy, không biết nơi An Tâm làm việc trước kia nằm ở hướng nào.

Sau nửa tiếng đồng hồ, tôi đứng trước phòng bảo vệ của Sở cảnh sát thành phố Nam Đức, đưa chứng minh thư, xin gặp Chủ nhiệm Phương của phòng Chính trị. Họ hỏi tôi có quen chủ nhiệm Phương không, tôi nói thật rằng tôi không quen mà chỉ muốn nhờ ông ta tìm giúp một người. Cũng may là họ đồng ý cho tôi vào. Ngồi chờ trong phòng đón tiếp một lúc thì có một người đến nói với tôi rằng Chủ nhiệm Phương đi họp rồi, hỏi tôi có chuyện gì không. Tôi nói muốn tìm một người mà chủ nhiệm Phương quen biết, một nữ cảnh sát trẻ tên là An Tâm.

Người đó bảo tôi chờ một chút rội lại lên lầu, không lâu sau, anh ta quay lại cùng với một người khác. Họ hỏi tôi là ai, làm công việc gì, làm sao quen biết An Tâm. Tôi nói mình là chồng chưa cưới của em, nửa năm trước em bỏ nhà đi, tôi đến đây để tìm em. Đội trưởng Phan và đội phó Ngô của đội Phòng chống ma túy và vài người khác đều biết tôi, mùa hè năm ngoái tôi đã từng chữa trị vết thương ở đây, họ có thể làm chứng việc tôi có quen biết với An Tâm.

Hai người đó nhìn nhau rồi dẫn tôi đến một phòng họp nhỏ trong tòa nhà, rót trà mời tôi và bảo tôi ngồi đợi. Lần này tôi phải đợi khá lâu. Khoảng một tiếng sau, có vài người bước vào phòng, tội lập tức nhận ra một trong số họ chính là đội phó Ngô của đội Phòng chống ma túy Nam Đức.

Anh ta cũng nhận ra tôi, nói: “Đúng là Dương Thụy rồi. Đây là Chủ nhiệm Phương của phòng Chính trị.”

Tôi bắt tay Chủ nhiệm Phương và đội phó Ngô. Họ bảo tôi ngồi xuống, nhìn sự niềm nở và nghiêm túc của họ, trong lòng tôi lại bùng lên hi vọng tìm thấy An Tâm.

Chủ nhiệm Phương hỏi tôi: “Năm ngoái, vì sao cậu và An Tâm lại chia tay?”

“Tôi cũng không biết vì sao, cô ấy chỉ để lại một lá thư rồi biến mất.” Tôi đáp.

“Trong thư viết gì?”

“Cô ấy nói chồng con vừa mới mất, không còn lòng dạ nào nói chuyện yêu đương nữa, cô ấy phải chịu trách nhiệm vì cái chết của họ.”

Chủ nhiệm Phương và đội phó Ngô quay sang nhìn nhau rồi cùng im lặng một lúc. Mãi sau Chủ nhiệm Phương mới gật đầu, nói: “Đúng vậy, quả thực An Tâm đã có suy nghĩ đó, nên cô ấy mới về Nam Đức. Cô ấy mong muốn được tiếp tục làm cảnh sát phòng chống ma túy, đó là công việc mà cô ấy thích.”

Nghe được câu này, tôi bất chợt nhẹ cả lòng, cuối cùng cũng có tin tức của An Tâm rồi. Tôi cười, nói: “Tôi cũng nghĩ là An Tâm về đây mà, cô ấy không về quê thì chỉ có ở Nam Đức thôi. Tôi đã gọi điện cho sếp Phan và bố mẹ An Tâm nhiều lần nhưng họ đều không nói cho tôi biết cô ấy đang ở đâu.”

Bỗng nhiên đội phó Ngô lên tiếng: “Đây là theo yêu cầu của chính đồng chí An Tâm. Có lẽ cô ấy không muốn anh đến tìm cô ấy, vì sợ ảnh hưởng đến cuộc sống của anh.”

Tôi bỗng thấy vui mừng, hóa ra An Tâm vẫn quan tâm đến tôi. Sau đó, tôi nói: “Có thể cho tôi gặp An Tâm không?”

Đội phó Ngô nhìn Chủ nhiệm Phương, không nói gì. Chủ nhiệm Phương do dự một lúc mới nói: “Dương Thụy, tôi biết cậu rất yêu An Tâm, tôi tin rằng cậu nhất định sẽ tôn trọng sự lựa chọn của cô ấy. Cô ấy quay lại Nam Đức, lựa chọn việc chiến đấu vì tổ quốc và nhân dân… và không may, trong một cuộc truy bắt tội phạm ma túy vào mùa thu năm ngoái, An Tâm… đã anh dũng hi sinh… Chính quyền thành phố Nam Đức đã phong tặng An Tâm danh hiệu liệt sĩ. Chúng tôi biết cậu và cô ấy đã từng yêu nhau nhưng không báo tin cô ấy hi sinh cho cậu biết, chỉ báo cho bố mẹ cô ấy. Di vật, tiền tử tuất và bằng khen liệt sĩ của An Tâm cũng đã giao cho bố mẹ cô ấy theo đúng quy định…”

Chủ nhiệm Phương nói rất nhiều, rất chậm rãi nhưng lọt được vào tai tôi chỉ có hai chữ “hi sinh”. Tôi chăm chú suy nghĩ liệu hai chữ đó có hàm nghĩa nào khác không. Sau đó, tôi cúi gằm mặt xuống, đưa hai tay lên bịt mắt, tôi không muốn để hai cảnh sát ngồi đối diện nhìn thấy những giọt nước mắt của mình. Dù cố hết sức để kiềm chế nhưng cả người tôi vẫn không ngừng run rẩy. Đầu óc tôi trở nên trống rỗng, tâm trạng giằng xé, đau đớn đến tột cùng. Tôi nghẹn ngào nói: “Không, không, cô ấy không hi sinh. Tôi phải gặp cô ấy! Các anh cho tôi gặp cô ấy đi…”

Buổi chiều, khi trời đã ngớt mưa, họ dẫn tôi đi gặp An Tâm. Theo ý của bố mẹ em, An Tâm cùng với sáu cảnh sát phòng chống ma túy đã hi sinh trong vụ truy quét đó được chôn cất tại nghĩa trang liệt sĩ dưới chân núi Nam Mãnh. Trước mộ của họ có một tấm bia ghi công cao khoảng nửa thân người. Tôi nhìn những bia mộ được xếp thẳng hàng, ở vị trí thứ hai chính là bia mộ của em. Hai chữ “An Tâm” được khắc thanh tú mà rắn rỏi, rất giống hình tượng của em. Tôi đưa tay lên sờ hàng chữ, quỳ gối trước mộ em, dùng đôi môi ấm nóng của mình hôn nhẹ lên tên em. Một cái tên rất lạnh.

Tôi không muốn khóc nữa, cũng không muốn để những người cảnh sát đứng sau lưng và An Tâm nhìn thấy dáng vẻ đau khổ của tôi. Tôi ngàn vạn lần không thể ngờ được, lúc mình chìm trong men rượu ở quán bar cùng Lưu Minh Hạo, lúc mình tay trong tay cùng Bội Bội đi ăn tối thì An Tâm đã lẳng lặng nằm đây. Tôi tin rằng, trong huyệt mộ tĩnh lặng cách Bắc Kinh cả ngàn dặm này, em cũng nghe thấy tiếng cười của tôi và Bội Bội, nhìn thấy chúng tôi ở bên nhau, nhất định em rất đau buồn cho dù em từng chúc tôi sẽ được hạnh phúc hơn em.

Tôi quỳ trước mộ em rất lâu, cúi lạy em một cái và nói: “Xin lỗi em, An Tâm.”

Những điều tôi có thể thốt ra chỉ là một câu xin lỗi. Tôi luôn muốn được cùng em sống hạnh phúc nhưng đã không thể làm được.

Trên đường từ nghĩa trang về, tôi hỏi đội phó Ngô: “Trước khi hi sinh, An Tâm có trăng trối gì không?”

Đội phó Ngô đáp: “Không, họ đều đột ngột hi sinh.”

Tôi vốn còn muốn hỏi em chết có thảm không nhưng lại thôi.

Đội phó Ngô nói tiếp: “Đội trưởng Phan đang điều tra án ở nơi khác, nghe nói anh đến đây, ông ấy cũng khuyên anh đừng quá đau buồn. Ngoài ra, ông ấy hi vọng anh có thể hiểu được quyết định của An Tâm, đó là một lựa chọn cao thượng và vĩ đại. Chúng ta nên tự hào về cô ấy.”

Đúng vây, tôi nhớ lại cuộc trò chuyện về hành động cao thượng trên chuyến tàu đi Ô Tuyền. Câu chuyện về chiến sĩ cảnh sát vô danh mở trạm xăng để làm căn cứ tình báo trên quốc lộ Sa Tây mà sếp Phan từng kể cho An Tâm nghe vẫn khiến chúng tôi cảm phục và tôn kính. Chúng tôi khâm phục nhưng không định noi gương những vị anh hùng đó, ngay cả An Tâm cũng nói như vậy. Khi đó, chúng tôi đang chuẩn bị kết hôn, đang tràn đầy những mộng ước về cuộc sống bình dị mà hạnh phúc trong tương lai. Đừng nói là tôi mà có lẽ cả An Tâm cũng không ngờ được rằng, chỉ vài tháng sau khi thảo luận về sự hi sinh cao cả vì dân vì nước, chính em đã đích thân dấn bước trên con đường oanh liệt đó.

Dù tôi không được tính là người thân của An Tâm vì chúng tôi chưa chính thức là vợ chồng nhưng những người ở Sở Cảnh sát Nam Đức vẫn tiếp đãi tôi rất chu đáo. Họ sắp xếp cho tôi ở lại nhà khách của Sở, đội phó Ngô còn hỏi tôi có yêu cầu gì không. Tôi nói nếu bố mẹ An Tâm đã mang di vật của em đi rồi thì tôi muốn đi xem chỗ em từng làm việc và sinh hoạt, những nơi tôi thường nghe em nhắc đến. Ngoài ra, tôi cũng hỏi thăm địa chỉ của bố mẹ An Tâm để đến thăm họ.

Đội phó Ngô đưa tôi đến trụ sở đội Phòng chống ma túy, xem phòng làm việc của An Tâm, còn dẫn tôi đến kí túc xá của em, xem ngôi nhà sàn được xây bên sông. Căn phòng của em cho đến bây giờ vẫn để trống, chưa cho người khác ở. Tôi đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài, thấy dòng sông Nam Mãnh mưa bụi mịt mù nhưng không thấy hoa gạo đỏ rực như lửa bên kia bờ.

Đội phó Ngô nói không biết bố mẹ An Tâm đang sống ở đâu, tôi liền hỏi sếp Phan có biết không, anh ta đáp: “Đội trưởng Phan không có ở đây, ông ấy đang đi điều tra án ở nơi khác. Tạm thời chưa thể quay về.” Thế là tôi cũng không hỏi nữa.

Tôi ở lại Nam Đức hai ngày, lại đến kí túc xá của An Tâm một lần nữa nhưng là đi một mình, tôi cũng đã đến quán trà trên núi Nam Mãnh và ngôi nhà ngày xưa An Tâm và Trương Thiết Quân từng ở, còn đến cả khu nhà nghỉ mà chúng tôi từng ở khi đi du lịch Nam Đức nữa. Tôi đến tất cả những nơi có thể gợi nhớ đến An Tâm, không phải để cáo biệt mà là tưởng niệm em. Tôi yêu An Tâm và sẽ mãi mãi nhớ đến em, sau này, nhất định tôi sẽ lại đến đây.

Vào buổi sáng rời khỏi Nam Đức, tôi mang theo bó hoa tươi đã mua sẵn từ hôm trước đến nghĩa trang cách mạng dưới núi Nam Mãnh. Những cơn mưa dầm đã ngớt nhưng trên đường và các tấm bia trong nghĩa trang vẫn còn ướt nước. Trong nghĩa trang không có người nào khác, xen giữa những hàng bia mộ là màn sương mù mờ ảo. Tôi tìm rất lâu mới thấy phần mộ của An Tâm. Tôi đặt bó hoa xuống trước bia mộ rồi đứng im lặng rất lâu. Dù xung quanh không có người nhưng tôi vẫn kìm nén không cho nước mắt rơi, chỉ tự nhủ: “Tam biệt em, An Tâm, người vợ yêu thương nhất của anh.”

Vừa dứt lời thì tôi nghe thấy tiếng bước chân rất khẽ ở phía sau lưng, liền quay đầu lại, nhìn thấy sếp Phan đang đứng đó. Không hiểu vì sao vừa nhìn thấy ông ta, nước mắt tôi đã trào ra một cách dữ dội.

Sếp Phan nhìn tôi, chậm rãi đưa bàn tay phải để trong túi áo khoác ra trước mắt tôi. Năm ngón tay ông ta mở ra, một vật gì đó rơi xuống giữa không trung thì dừng lại, tôi nhìn thấy hai sợi dây nhỏ màu đỏ lắc lư trên tay ông ta.

Đầu còn lại của sợi dây chính là một miếng ngọc hình Quan Âm Bồ Tát.

Qua lớp sương mù buổi sớm, tôi nhìn thấy Quan Âm Bồ Tát ngọc diện đoan trang, vẫn sáng lấp lánh, thuần khiết như năm nào.

Giọng nói khàn khàn của sếp Phan vang lên giữa nghĩa trang yên ắng càng trở nên vang vọng. “An Tâm dặn tôi, nếu cậu đến thì đưa vật này cho cậu, cậu nhất định sẽ hiểu.”

Tôi đón lấy miếng ngọc bằng cả hai tay, khuôn mặt Quan Âm Bồ Tát đại từ đại bi khiến lòng tôi tĩnh lại, có cảm giác vừa tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng u ám. Tôi hôn lên miếng ngọc màu xanh nhạt đó, nói: “Vậy mà tôi cứ tưởng An Tâm không để lại lời trăng trối nào…”

Sếp Phan im lặng không nói. Trong nghĩa trang, ngoài tiếng thở dài nuốt nước mắt của tôi thì không còn âm thanh nào khác. Một lúc sau, sếp Phan lại nói: “Lúc lâm chung, An Tâm nói người duy nhất khiến cô ấy không yên lòng và thấy có lỗi, ngoài bố mẹ cô ấy ra thì chính là cậu. Cô ấy chỉ mong Quan Âm Bồ Tát sẽ phù hộ cho cậu, còn nói cậu đừng đợi cô ấy nữa, nhất định phải sống hạnh phúc hơn cô ấy.”

Giọt nước mắt cuối cùng của tôi dừng lại trên mặt, nó cũng giống như cảm xúc của tôi lúc này vậy, ngưng đọng rất lâu. Tôi khó nhọc hỏi một câu: “An Tâm chưa chết có phải không?”

Sếp Phan không trả lời.

Sự im lặng đó đã là một câu trả lời. Tôi mơ màng hỏi lại: “Cô ấy vẫn còn sống phải không?”

Rốt cuộc ông ta cũng mở miệng đáp: “Cô ấy nhờ tôi nói với cậu, An Tâm của ngày xưa đã chết rồi, cậu đừng tìm cô ấy nữa. Bây giờ, cô ấy đã là một người khác, một người mà cậu không quen biết.”

Tôi xông lên nắm lấy cổ áo của ông ta, không rõ là do hồi hộp hay phẫn nộ, tôi hét lớn: “Các ông giấu An Tâm đi đâu rồi, có phải lại bắt cô ấy mai danh ẩn tích không? Cô ấy không thích cuộc sống đó đâu. Mau trả cô ấy cho tôi!”

Dưới sự giằng co của tôi, cơ thể sếp Phan vẫn không hề lay động, ông ta bình thản nói: “Tôi cũng không muốn để cô ấy làm như vậy nhưng đó là ý nguyện của cô ấy, là quyết định của cô ấy.”

Tôi sững sờ, hai bàn tay từ từ buông lỏng. Tôi biết sếp Phan nói thật, từ trước đến giờ ông ta không bao giờ để An Tâm đến gần bất cứ sự nguy hiểm nào, ông ta coi em như con gái vậy. An Tâm có thể bỏ tôi để quay về chiến trường, hiển nhiên em đã quyết tâm hi sinh tất cả.

Sếp Phan nhẹ nhàng chỉnh lại cổ áo, chậm rãi nói: “Trên đời này, những người tôi thật sự khâm phục không nhiều.” Dừng lại vài giây, ông ta lại nói tiếp: “Cô ấy cũng là một trong số đó.”

Tôi quay người, bước đi trong sương mù một cách vô định. Tôi đưa tay lên, ngắm nhìn miếng ngọc Quan Âm một cách chăm chú. Hình ảnh Quan Âm Bồ Tát hiền hậu dường như đại diện cho hình tượng người mẹ lý tưởng nhất trong lòng tôi. Tôi biết tôi nên vui mừng vì dù nói thế nào đi nữa thì An Tâm vẫn còn sống, em đang làm công việc mà em yêu thích và nguyện chết vì nó, chắc chắn em rất hạnh phúc. Trước đây, chúng tôi cũng từng nói với nhau rằng những người anh hùng vĩ đại và cao thượng dù có phải hi sinh chính mình thì trong lòng nhất định vẫn cảm thấy hạnh phúc.

Sếp Phan tiến đến chỗ tôi, ôn hòa nói: “Cậu có khâm phục cô ấy không?”

Tôi không trả lời, chỉ đeo miếng ngọc Quan Âm vào cổ, giấu vào trong áo nơi sát với tim mình rồi nói: “Nhờ ông chuyển lời đến cô ấy, tôi về Bắc Kinh đây. Tôi sẽ trông nom căn nhà của chúng tôi và đợi cô ấy… mãi mãi.”

Tôi lau nước mắt trên mặt rồi lẳng lặng đi ra khỏi nghĩa trang, về nhà khách của Sở cảnh sát, thu dọn đồ đạc. Lúc ra khỏi cổng, một cảnh sát lớn tuổi ở phòng thường trực gọi tôi lại, hỏi: “Này chàng trai, lúc sáng Đội trưởng Phan của Đội Phòng chống ma túy đến tìm cậu đấy, hai người đã gặp nhau chưa?” Tôi chỉ gật đầu.

Về đến Bắc Kinh, tôi lại quay về câu lạc bộ đua ngựa làm việc. Hằng ngày tôi đều chuyên tâm làm việc, buổi tối không đi quán bar, vũ trường và những nhà hàng sang trọng nữa. Để kiếm thêm thu nhập, tôi còn nhận làm gia sư. Tôi tiết kiệm chi tiêu, mỗi tháng đều gửi một nghìn đồng cho sếp Phan, nhờ ông ta gửi cho bố mẹ An Tâm. Bố mẹ em đã được Sở Cảnh sát sắp xếp đến một nơi khác sinh sống, cốt để đảm bảo sự an toàn cho họ. Cảnh sát có quy định của họ, không tiện cho tôi biết địa chỉ của bố mẹ em nhưng sếp Phan đã đồng ý giúp tôi chuyển tiền cho họ. Nếu ông ta vẫn còn liên lạc với An Tâm thì chắc chắn em sẽ biết chuyện. Trong những lần nói chuyện sau, sếp Phan tất nhiên không chịu tiết lộ với tôi bất kì tin tức nào dù là nhỏ nhất của An Tâm nhưng ông ta cũng không còn khuyên tôi đừng chờ đợi một cách vô vọng nữa, chỉ riêng điều này thôi đã khiến ngọn lửa hi vọng bùng cháy mãnh liệt trong lòng tôi.

Đồng nghiệp, bạn bè và cả bố tôi đều hỏi tôi đã tìm thấy bạn gái chưa, tôi đáp đã tìm được rồi. Họ tò mò hỏi sao tôi không đưa bạn gái đến giới thiệu, tôi chỉ cười, nói em đang sống ở nơi khác, đang làm một công việc quan trọng và tuyệt mật, không thể tiết lộ. Tôi nghĩ rồi sẽ một ngày An Tâm giải ngũ, chỉ cần em còn sống thì sớm muộn cũng được hưởng một cuộc sống yên bình, hạnh phúc như bao người bình thường khác, chính vì thế, tôi sẽ đợi em.

Ngoài hai ngày đi dạy thêm ra, những ngày khác tôi đều về nhà ngay sau khi tan ca. Mỗi khi đi ngủ, tôi lại tháo sợi dây chuyền ngọc Quan Âm trên cổ ra, đặt ngay ngắn trên chiếc gối trống bên cạnh, tượng trưng cho việc An Tâm đang nằm ngủ ngay cạnh tôi. Trước khi tắt đèn, tôi không bao giờ quên mở cánh cửa phòng ngủ ra, tôi sợ mình ngủ say quá, sẽ không nghe thấy tiếng gõ cửa vang lên giữa đêm khuya.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom