Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] 5 Giờ 25 Phút

5 Giờ 25 Phút
Tác giả: Agatha Christie
Tình trạng: Đã hoàn thành

--- oOo ---


Agatha Christie, nữ văn sĩ Anh có số bản sách đựợc tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới. Tuy viết nhiều thể loại, nhưng bà được biết đến nhiều hơn cả qua những chuyện vụ án, trong đó nhiều cuốn đã trở thành kinh điển thế giới về thể loại này.

5 giờ 25 phút: tại một làng hẻo lánh trên miền núi, giữa mùa đông, tuyết phủ dày hàng mét, không biết làm gì cho hết buổi tối, chủ và khách toà nhà này giở trò bàn ma ra chơi. Họ gọi hồn người chết lên để trò chuyện. Một trò vui mà không ai coi là hệ trọng lại đâm thành chuyện khủng khiếp. Hồn xưng tên một người trong làng báo tin ông ta vừa bị giết. Mọi người kinh hoàng, bán tín bán nghi. Lúc đó là 5 giờ 25 phút. Sau đó cảnh sát có vụ án mạng thật, nạn nhân chính là người xưng tên trong cuộc gọi hồn kia... Những diễn biến tiếp theo bộc lộ một cách giết người cực kỳ tinh vi....
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Làng sittaford


Xỏ chân vào đôi ủng cao su xong, thiếu tá Brunaby cài thêm khuy áo cổ chiếc măng tô dày. Xách ngọn đèn bão, ông thận trọng hé mở cửa ngó ra ngoài quan sát.

Phong cảnh bên ngoài khiến ông thấy sao giống hệt hình vẽ trên những tấm bưu thiếp chúc mừng lễ Noel. Đã bốn ngày nay trên toàn nước Anh tuyết rơi mảng lớn, riêng trong quận Dartmoor này, tuyết dày đến vài mét. Dân nước Anh đâu đâu cũng than phiền nạn nước đóng băng làm vỡ ống dẫn, và thợ chữa đường nước bỗng nhiên được quý như vàng.

Trong ngôi làng Sittaford hẻo lánh trên vùng núi, như tách rời khỏi thế giới bên ngoài này, thời tiết mùa đông càng khắc nghiệt hơn gấp bội.

Viên thiếu tá hưu trí dũng cảm mở cửa, hít đầy khí lạnh vào hai lá phổi, lấy tinh thần. Thốt lên một câu văng tục, ông kiên quyết bước lên lớp tuyết dày. Chặng đường đi không dài. Chỉ mấy phút sau ông Burnaby đã đến một cổng sắt. Bước qua cổng, ông đi thẳng lên bậc thềm một tòa nhà đồ sộ xây bằng đá hoa cương.

Một cô hầu ra mở cửa, rất niềm nở chào khách rồi giúp ông tháo tấm khăn quàng dày đã cũ, quấn kín cổ và nửa mặt.

Sau đó, cô hầu dẫn ông thiếu tá vào phòng khách. Thiếu tá Burnaby bỗng có cảm giác như ông là diễn viên sân khấu và người ta vừa thay đổi phông màn bài trí.

Tuy lúc này chưa đến ba giờ chiều, nhưng các rèm cửa sổ đã buông xuống, ánh đèn điện tỏa sáng khiến mọi đồ đạc lấp lánh, và ngọn lửa đang cháy lách tách trong lò sưởi. Hai phụ nữ quý phái, một già một trẻ, trong hai bộ váy áo dạ tiệc đứng lên tiếp đón người cựu sĩ quan.

Người phụ nữ có tuổi nói:

- Chào thiếu tá Burnaby, thời tiết thế này mà ông vẫn đến đây với chúng tôi, quý hóa quá.

- Còn tôi, cũng xin cảm ơn bà đã có nhã ý mời tôi, thưa phu nhân Willett.

Viên thiếu tá bắt tay bà chủ và cô con gái bà.

- Tôi mời cả anh Garfield và ông Duke. Cụ Rycroft cũng hứa sẽ đến dự buổi tiếp khách tối nay của tôi, nhưng tôi e thời tiết này chưa chắc ông cụ đã tới được. Chúng ta phải thông cảm với tuổi tác của ông cụ. Thời tiết quả là tồi tệ quá sức. Nếu không tìm ra cách tiêu khiển, khéo chúng ta đều phát điên lên mất. Violette, con bỏ thêm một khúc củi nữa vào lò sưởi đi.

- Tiểu thư để tôi làm cho - thiếu tá Burnaby lịch sự đứng lên.

Dáng điệu thành thạo, ông đưa khúc gỗ vào đúng vị trí cần thiết rồi lại ngồi xuống ghế xa lông bà chủ nhà vừa đưa tay mời.

Thiếu tá Burnaby kín đáo liếc nhìn xung quanh, ngạc nhiên thấy phòng khách này đã lại đổi cách bày biện, khác hẳn hôm trước, nhưng ông không nhớ được là những thứ gì đã được chuyển chỗ.

Mười năm trước đây, đại úy hải quân Trevelyan, sau khi về hưu, đã quyết định về sống ở nơi thôn dã. Từ lâu ông vẫn ao ước có ngày được đến sống ở vùng Dartmoor, và lần này ông nhằm Sittaford, một làng nhỏ nằm trên sườn núi, giữa một vùng hoang vu chỉ toàn đất cằn với những bụi cây dại, cách xa các làng và nông trại xung quanh. Viên đại úy hải quân tậu một khu đất lớn, xây một tòa nhà đồ sộ, đầy đủ tiện nghi, và gọi nó một cách to tát là "lâu đài”. Ông lắp cả một máy phát điện để lắp đèn và chạy máy bơm nước. Rồi nhằm mục đích kinh doanh, ông xây thêm bên cạnh con đường dẫn đến cổng sắt của lâu đài sáu ngôi nhà nhỏ, mà ông gọi là biệt thự.

Ngôi biệt thự gần lâu đài nhất ông nhường cho người bạn chiến đấu cũ, thiếu tá Burnaby. Dần dần năm ngôi biệt thự kia cũng bán được, bởi bao giờ cũng có những người, vì lý do này khác, muốn tìm nơi hẻo lánh để sống.

Làng nhỏ Sittaford có một phố lèo tèo, gồm ba ngôi nhà rách nát, một lò rèn, một hiệu bánh kẹo kiêm trạm bưu điện xã. Từ đây ra thị trấn Exhampton phải đi theo một con đường núi dài mười cây số, nhiều đoạn rất dốc khiến người ta phải dựng biển ghi chú bên đường: "Xe gắn máy cẩn thận! Đường dốc nguy hiểm”.

Như chúng ta đã thấy, đại úy về hưu Trevelyan như thế là khá giàu. Tuy vậy ông ta vẫn không bỏ được thói say mê cố hữu, là kiếm tiền. Hồi cuối tháng Mười vừa rồi, một hãng môi giới nhà đất ngoài thị trấn Exhampton gửi thư đến hỏi xem ông đại úy có bằng lòng cho thuê tòa "lâu đài' của ông không? Một bà khách hàng của hãng muốn nghỉ mùa đông năm nay ở đó.

Phản ứng đầu tiên của đại úy Trevelyan là từ chối thẳng thừng. Nhưng rồi suy nghĩ lại, ông viết thư trả lời hãng môi giới nhà đất kia, yêu cầu cho biết thêm chi tiết. Hãng trả lời rằng người muốn thuê tòa nhà của ông là một phụ nữ góa chồng, tên là phu nhân Willett. Bà cùng cô con gái mới từ châu Phi về, muốn nghỉ mùa đông năm nay tại vùng Dartmoor.

- Đúng là điên! - đại úy Trevelyan kêu lên với ông bạn thiếu tá - Ông đồng ý với tôi không, Burnaby?

Thiếu tá Burnaby đồng ý, nói thêm:

- Nếu ông không muốn cho thuê tòa nhà này thì mặc xác bà ta. Bà ta muốn đi đâu thì đi, cho bà điên khùng ấy chết rét ở một nơi nào đó! Đúng là bà ta có ý nghĩ quái đản? Mới ở châu Phi nóng như lò lửa mà về đây lại định nghỉ mùa đông ở cái làng Sittaford lạnh buốt này?

Nhưng cuộc bàn luận chỉ dừng lại ở mức đó. Thói tham tiền đã thắng. Đại úy Trevelyan tính, trường hợp cho thuê tòa "lâu đài” này giữa mùa đông có lẽ sẽ không bao giờ có, tội gì không kiếm thêm một món. Ông bèn viết thư hỏi xem bà khách kia có thể trả ông bao nhiêu.

Cuối cùng ngã giá là mỗi tuần mười hai ghi-nê. Viên đại úy bèn thuê một ngôi nhà nhỏ bên rìa thị trấn Exhampton để ở tạm, nhường tòa "lâu đài" đồ sộ cho phu nhân Willett.

- Bà ta đúng là loại vứt tiền qua cửa sổ! - đại úy Trevelyan nói.

Đã sửa bởi Mưa Thiên Kiều lúc 16.06.2014, 17:59.

Buổi chiều tháng Mười hai đó, thiếu tá Burnaby nhìn người phụ nữ thuê nhà, thầm nghĩ bà ta hoàn toàn không có vẻ "điên" chút nào. Trái lại, phu nhân Willett, vóc cao, điệu bộ hơi kiểu cách quá mức, nhưng nét mặt rất thông minh, hóm hỉnh. Có vẻ bà ta thích ăn mặc lòe loẹt và tiếng Anh bà ta nói có mang âm sắc của tiếng Anh các thuộc địa, nhưng bà ta tỏ ra hoàn toàn mãn nguyện về cuộc sống ở nơi heo hút này. Thêm nữa, bà ta có vẻ rất giàu và không hề thích cô đơn. Những chi tiết đó làm thiếu tá Burnaby rất khó giải thích.

Mới đến đây, phu nhân Willett lập tức tỏ ra là con người phóng khoáng, thích giao du. Bà ta liên tiếp tổ chức tiệc tùng mời khách, và mời nhiệt tình nhiều khi đến mức nài ép. Đặc biệt, bà luôn nhắc thiếu tá Burnaby thường xuyên đến đây "coi như ông vẫn ở tòa nhà này”. Khốn nỗi, viên thiếu tá có tính không thích phụ nữ. Nghe đâu hồi trẻ ông đã một lần bị thất tình đau đớn, cho nên bây giờ ông kiên quyết từ chối thái độ kết thân của bà khách thuê nhà.

Phu nhân Willett đã ở đây được hai tháng, và nỗi ngạc nhiên của mọi người xung quanh cũng tan dần.

Bản chất thiếu tá Burnaby ít nói, ông lặng lẽ quan sát bà chủ nhà, không mặn mà tiếp chuyện lắm. Nhìn bà mẹ xong, ông đưa mắt nhìn cô con gái bà, tiểu thư Violette Willett - một thiếu nữ xinh đẹp, nhưng hơi gầy. "Có lẽ mốt bây giờ là như thế chăng?" ông thiếu tá thầm nghĩ.

Cuối cùng, phu nhân Willett nói:

- Hai mẹ con tôi bàn nhau, chưa chắc ông đã đến. Hẳn ông đã định không đi chứ gì, thưa ông thiếu tá?

- Hôm nay là Thứ sáu, xin phu nhân hiểu cho.

- Thứ sáu thì sao? - phu nhân Willett ngạc nhiên hỏi.

- Bởi Thứ sáu là ngày tôi đến nhà ông bạn Trevelyan, còn ông ấy đến tôi vào Thứ ba... Hai chúng tôi đã thành lệ như thế từ rất nhiều năm rồi.

- Ra thế. Nhưng từ ngày ông thiếu tá ra ở ngoài thị trấn Exhampton, hai ông vẫn giữ lệ đó sao?

- Đúng thế. Vì đó là những buổi tối hai chúng tôi được hưởng cái thú ngồi với nhau, và cả hai đều không muốn bỏ cái thú đó, dù chỉ một lần.

- Hình như hai ông có cách giải trí là giải các bài điền ô chữ vào bài thơ hồi văn thì phải? - Cô Violette hỏi.

- Tôi giải thích ô chữ, còn đại úy Trevelyan thì giải bài hồi văn. Mỗi người say mê một thứ. Tháng trước tôi được giải thưởng về giải ô chữ đấy, ba cuốn sách dày.

- Tuyệt vời! Vậy thì ông giỏi quá đấy! Sách hay chứ thưa ông?

- Tôi chưa đọc.

Phu nhân Willett nói:

- Cái chính là ông được giải.

Cô Violette hỏi:

- Nhưng ông thường ra thị trấn bằng cách nào? Ông có ôtô chứ?

- Không. Tôi cuốc bộ.

- Thật không? Từ đây ra thị trấn Exhampton đến mười cây số kia mà?

- Đó là một thứ thể dục rất tốt. Cả đi cả về chỉ hai chục cây số, thấm vào đâu? Vừa khỏe người lại chống được béo bệu.

- Chà, hai mươi cây số! Hai ông quả là hai nhà thể thao cừ khôi đấy, đúng vậy không, thưa thiếu tá Burnaby?

- Thời trẻ, mùa đông nào hai chúng tôi cũng sang Thụy Sĩ chơi các môn thể thao mùa đông, còn mùa hè chúng tôi chơi môn thể thao leo núi. Bà và cô chưa nhìn thấy đại úy Trevelyan trượt băng đấy! Bây giờ hai chúng tôi đã già, không chơi những môn thể thao đó được nữa.

Cô Violette hỏi:

- Cháu nghe nói thời trẻ ông là vô địch môn đánh cầu trong quân đội, phải không ạ?

Mặt viên thiếu tá đỏ ửng lên như con gái:

- Cô nghe ai nói?

- Đại úy Trevelyan.

- Ông ấy nói lăng nhăng đấy mà. Ngoài trời lúc này ra sao nhỉ?

Biết viên thiếu tá đang ngượng, cô Violette tế nhị lảng ra của sổ. Hai mẹ con vén rèm lên, nhìn ra quang cảnh u ám bên ngoài.

Phu nhân Willett nói:

- Hình như sắp có một trận mưa tuyết lớn. Trời âm u lắm. Tôi đoán trận mưa tuyết này sẽ dữ dội lắm đây.

Cô Violette reo lên thích thú:

- Nếu vậy thì tuyệt. Cảnh tuyết rơi có thứ gì đó hết sức lãng mạn. Bây giờ con mới được nhìn thấy tuyết đấy.

- Dở hơi! - Bà mẹ mắng yêu cô con gái - Các ống dẫn nước đều bị vỡ thì còn lãng mạn nỗi gì?

Thiếu tá Burnaby hỏi:

- Vậy ra từ nhỏ cô toàn sống ở châu Phi, thưa tiểu thư Violette?

Vẻ hớn hở trên mặt cô gái trẻ đột nhiên biến mất. Cô buồn rầu đáp.

- Vâng. Đây là lần đầu tiên cháu được về Anh. Và cháu thấy nước Anh thật tuyệt vời.

Vậy mà mới trở về tổ quốc đã chui và cái nơi heo hút này? Quả thiếu tá Burnaby không sao hiểu nổi hai mẹ con bà Willett này.

Cửa phòng khách mở, một đầy tớ gái vào báo tin:

- Thưa bà chủ, cụ Rycroft và ông Garfield đã đến.

Một cụ già da mặt nhăn nheo bước vào, theo sau là một chàng trai trẻ trung, tươi tắn, da mặt hồng hào.

Anh ta nói:

- Tôi phải khó khăn lắm mới kéo được ông cụ sang đây đấy. Tôi phải cam đoan với cụ là sẽ không để cụ bị ngập trong tuyết. Chà! Trong nhà này ấm cúng quá! Chào phu nhân và tiểu thư! Gỗ để dùng đốt đêm Noel mà phu nhân đem cho vào lò sưởi chiều nay đấy phải không?

- Quả là nếu không có anh bạn trẻ này, tôi không sang được đây - Cụ Rycroft gạt đầu nói rồi kính cẩn bắt tay phu nhân Willett - Chào tiểu thư Violette! Cô thấy đã đúng mùa đông thật chưa? Phải công nhận mùa đông năm nay có dữ dội hơn mọi năm.

Cụ bước đến gần lò sưởi đang cháy bùng bùng trò chuyện với bà chủ nhà, còn chàng trai Garfield thì bám lấy cô Violette.

- Cô có nghĩ chúng tôi nên tổ chức một cuộc trượt tuyết không?

- Môn thể thao tốt nhất đối với anh là quét đống tuyết trước cửa nhà ấy.

- Thì sáng nào tôi chẳng phải quét nó? Cô nhìn hai bàn tay tôi chai sạn lên đây này.

- Bà cô anh thế nào rồi?

- Vẫn thế... Thỉnh thoảng tỉnh táo được vài phút, nhưng rồi đâu lại vào đấy. Tôi đành chịu kiên nhẫn thôi! Năm nào trước khi quyết định về đây thăm bà cụ tôi cũng rất ngại. Nếu không vì chuyện thừa kế thì tôi chẳng phải khổ thân thế này. Nhưng cô biết không, chỉ cần một lần lễ Noel tôi không về với bà cụ là rất có thể bà cụ sẽ gạt tên tôi trong bản chúc thư và điền vào đấy tên một bệnh viện chuyên chữa bệnh cho mèo. Bà cụ nuôi những năm con, hôi rình. Vậy mà tôi cứ phải bấm bụng vuốt ve chúng để lấy lòng bà cụ.

- Tôi thích nuôi chó hơn nuôi mèo.

- Tôi cũng thế.

Cô hầu bước vào, báo tin:

- Thưa bà chủ, ông Duke đã đến!

Duke là người tậu ngôi "biệt thự” cuối cùng trong sáu ngôi biệt thự kia. Ông mới dọn đến đây trong tháng Chín vừa rồi. Con người to béo nhưng lành hiền này dồn toàn bộ thời gian vào công việc làm vườn. Láng giềng của ông, cụ Rycroft lại mê nuôi chim, cho nên hai người hợp nhau, rất thân thiết với nhau. Cụ Rycroft luôn kể với mọi người rằng ông láng giềng Duke của cụ rất đáng yêu, không hề có tham vọng cao xa nào. Thật ra, khó ai biết ông Duke là người ra sao, biết đâu ông chẳng là một nhà kinh doanh lớn, nay rút về ẩn dật?

Chưa ai dám hỏi thẳng ông, vả lại biết cũng chẳng để làm gì. Trong cái làng nhỏ heo hút này, rất cần giữ mối quan hệ tốt với nhau.

Ông Duke hỏi thiếu tá Burnaby:

- Chắc thời tiết xấu quá, nên hôm nay là Thứ Sáu ông cũng đành nhịn không ra thị trấn Exhampton?

- Vâng. Tôi chắc đại úy Trevelyan cũng biết như thế nên không mong tôi.

Phu nhân Willett rùng mình nói.

- Mùa đông nào ở đây cũng bị cầm chân thế này kể cũng buồn.

Thiếu tá Burnaby lại tò mò nhìn bà chủ.

Vừa lúc đó, cô hầu bưng khay trà và bánh vào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: Bàn ma


Dùng bữa trà xong, phu nhân Willett đề nghị mọi người chơi bài bridge.

- Hiện ta có sáu người. Hai người phải chờ ván sau vậy.

Mắt anh chàng Garfield sáng lên:

- Đúng rồi. Mời bốn vị chơi trước, tôi và cô Violette xin chờ.

Nhưng ông Duke bảo ông không biết đánh bài bridge.

Garfield thất vọng nhìn ông.

Phu nhân Willett bèn nói ngay:

- Vậy thì ta nghĩ cách giải trí khác.

Garfleld nói:

- Hay chơi trò "bàn ma". Lúc nãy, trên đường đi đến đây, tôi và cụ Rycroft chợt nhớ đến trò chơi ấy. Một buổi chiều u ám như thế này, không trò gì thích hợp hơn là trò chơi ấy.

Cụ Rycroft nói:

- Tôi là hội viên hội Khoa học huyền bí, cho nên tôi có phân tích cho cậu trai trẻ này hiểu rằng đấy không phải là thứ trò tiêu khiển đơn giản, và hoàn toàn không phải là mê tín dị đoan.

- Tôi thì cho là trò nhảm nhí - thiếu tá Burnaby khẳng định.

Cô Violette vội nói:

- Nhưng là một trò chơi hết sức thú vị. Không ai buộc phải tin... Chơi cho vui ấy mà. Còn ông thì thế nào, thưa ông Duke?

- Tôi thì sao cũng được.

- Vậy ta tắt hết đèn đi, rồi khiêng một cài bàn ra đây. Không phải bàn ấy đâu, thưa mẹ... Bàn ấy nặng quá, không thích hợp.

Người ta khiêng ở phòng bên cạnh sang một chiếc bàn nhỏ đánh véc ni bóng loáng, đặt trước lò sưởi. Mọi người ngồi vào xung quanh. Phòng khách tối om, chỉ còn ánh lửa trong lò sưởi hắt lên.

Thiếu tá Burnaby ngồi giữa phu nhân Willett và cô Violette. Đối diện với cô gái là anh chàng Garfield.

Trên môi viên thiếu tá nở một nụ cười giễu cợt. "Thời mình còn trẻ, người ta chơi trò đoán vật trao tay", ông thầm nghĩ và nhớ lại cô gái tóc vàng ông đã nhân lúc chơi, nắm bàn tay cô dưới gầm bàn. Trò chơi đoán vật trao tay kia thú vị hơn trò chơi này nhiều.

Mọi người im lặng lắng nghe. Chỉ có những tiếng cười khúc khích rất khẽ.

- Xem chừng không có hồn nào đang đi ngang qua đây.

- Im, rồi sẽ có!

- Đề nghị không ai nói gì nữa.

- Sao lâu thế này?

- Suỵt!

Chiếc bàn bắt đầu động đậy. Mọi người rùng mình, cảm thấy như có một luồng khí lạnh chạy xuyên qua thân thể.

- Hồn nhập rồi đấy. Anh hỏi trước đi, Garfield.

- Được thôi, nhưng hỏi gì?

- Hỏi có phải hồn đấy không? - Violette gợi ý.

- Có phải hồn đấy không? - Garfield hỏi.

Bàn lắc một cái.

- Nghĩa là "có" - Violette giải thích - Nếu lắc hai lần tức là "không”.

- Hồn là ai?

- Không có trả lời.

- Anh bảo hồn xưng danh đi.

- Nhưng làm sao biết được?

- Đếm số lần bàn gõ.

- A, tôi hiểu. Vậy hồn tên là gì?

Bàn lắc rất mạnh.

- A,B,C,D,Đ,E, G, H,I... "I" hay "J"?

- Hỏi lại hồn xem. "I" phải không?

Bàn lắc mạnh.

- Vậy là "I” rồi. Bây giờ hồn nói tiếp đi.

Tên hồn là "IDA".

- Hồn muốn nói với ai ở đây không?

- “Có”.

- Ai? Tiểu thư Violette phải không?

- "Không”.

- Hay phu nhân Willett?

- "Không”.

- Cụ Rycroft?

- "Không”.

- Hay tôi?

- "Đúng”.

- Còn hồn tên là gì?

Chiếc bàn lắc, thành chữ "D.I.A.N.A”.

- "Diana" là ai? Anh biết “Diana” là ai không?

- Không, mà hay là...

- Đấy, anh ta biết đấy.

Mọi người cười rộ lên.

Thiếu tá Burnaby đang nghĩ đến trận mưa tuyết dữ dội sắp rơi đêm nay. Chưa bao giờ ông thấy một mùa đông tuyết rơi nhiều như thế này.

Ông Duke thì chăm chú nhìn chiếc bàn. Các hồn đều không quan tâm đến ông, chỉ toàn nói với hết Violette lại Garfield.

Hồn cho biết cô Violette sẽ sang ltalia, cùng với một thanh niên. Không phải phụ nữ mà là thanh niên. Tên anh ta là gì? - "Leonard"!

Tiếng cười lại rộ lên.

- Chính cô đẩy cài bàn - Anh chàng Garfield tố cáo.

- Thề là không. Anh nhìn đây, tôi giơ hai tay lên, vậy mà bàn vẫn động đậy đấy thôi.

- Không phải cô Violette đâu - Cụ Rycroft nói - Không khí trang nghiêm thế này, ai dám làm thế.

Mọi người im lặng, chiếc bàn không nhúc nhích.

Đột nhiên bàn lại động đậy.

- Một hồn khác chăng?

- Hồn vừa mới đến phải không?

Chiếc bàn lắc mạnh:

- "Phải".

- Hồn muốn nói chuyện với ai phải không?

- "Phải".

- Với tôi? - Garfield hỏi.

- "Không'.

- Vậy với ai? Với thiếu tá Burnaby?

- "Đúng”.

- Hồn muốn nói với ông đấy, thưa ông Burnaby. Hồn cho biết tên hồn được không?

Chiếc bàn lắc lư liên tiếp.

- “T”, “R”, “E”, “V”…

- Thế nghĩa là sao? "TREV" không có nghĩa gì hết.

- Có đấy - phu nhân Willett nói - Nghĩa là ông Trevelyan.

- Đại úy Trevelyan?

- "Đúng”.

- Hồn muốn gì về ông đại úy?

- “C”, “H”, Ế”, “T”

- Chết?

Nhưng lần này hồn không chỉ gõ một hay hai tiếng mà gõ thành chữ “T”.

- "T" nghĩa là sao? Là ông Trevelyan phải không?

- "Phải".

- Hồn bảo ông Trevelyan đã chết?

Bàn lắc mạnh:

- "Đúng”.

Một người nào đó thét lên, và tất cả đều rùng mình.

Garfield lại hỏi, lần này giọng anh ta run rẩy.

- Có đúng là hồn muốn nói rằng ông Trevelyan đã chết?

- "Đúng”.

Mọi người im lặng. Không ai biết phải có thái độ thế nào trước sự kiện này.

Trong lúc đó chiếc bàn vẫn tiếp tục lắc:

- “B”, “Ị”, “Á”, “M”, “S”, Á”, “T”.

Phu nhân Willett thét lên một tiếng kinh hoàng, rồi rụt tay ra khỏi mặt bàn.

- Trò chơi này khủng khiếp quá. Tôi không tham dự nữa.

Ông Duke lên tiếng, ông hỏi "hồn” rất rành rọt.

- Hồn nói chính xác là ông đại úy Trevelyan đã chết, và bị ám sát?

- "Đúng”.

Garfield cũng rút tay ra khỏi mặt bàn.

- Chuyện vớ vẩn ấy mà.

Nhưng giọng anh ta run rẩy.

- Ai làm ơn bật đèn lên hộ - Cụ Rycroft nói to.

Thiếu tá Burnaby đứng dậy, bật công tắc. Đèn sáng lên, soi rõ những khuôn mặt tái nhợt. Mọi người nhìn nhau, chưa hiểu thế nghĩa là sao.

Garfield lên tiếng trước, anh ta cố làm ra vẻ bình tĩnh.

- Một trò đùa ấy mà!

Bà Willett nói:

- Nhưng là thứ đùa quá khủng khiếp.

Garfield vội thanh minh:

- Không phải tôi. Xin thề không phải tôi.

Thấy mọi người đưa mắt nhìn mình, cô Violette vội nói:

- Đời nào tôi dám đùa với chuyện chết chóc!

Thiếu tá Burnaby cười khẩy:

- Chắc có người nghĩ là tôi? Tôi không bao giờ có kiểu đùa ác hiểm như thế.

Mọi người bối rối nhìn nhau.

Thiếu tá Burnaby đứng dậy, bước ra cửa sổ, vén rèm ngó ra ngoài.

- Năm giờ hai mươi nhăm - Cụ Rycroft nhìn lên đồng hồ treo tường, trịnh trọng nói.

Cụ đưa cánh tay lên, điều chỉnh lại giờ trên đồng hồ đeo tay của mình, như thể cụ cho rằng chuyện vừa qua là một sự kiện hệ trọng.

Phu nhân Willett nói, giọng ngượng nghịu:

- Ta dùng một chút rượu chứ, thưa các vị? Cậu Garfield, cậu bấm chuông gọi đày tớ hộ tôi.

Garrleld bấm chuông.

Cô hầu bưng khay rượu và cốc vào. Không khí dịu đi một chút.

Garfield giơ cao ly rượu:

- Xin chúc sức khỏe!

Mọi người chạm cốc, trừ một người vẫn đăm chiêu nhìn ra ngoài cửa sổ.

- Thiếu tá Burnaby, ly của ông đây!

Viên thiếu tá như thể giật mình, từ từ quay mặt lại.

- Cảm ơn, thưa phu nhân. Tôi không uống.

Rồi ông ta lại nhìn ra cửa sổ một lúc lâu. Cuối cùng ông bước đến chỗ mọi người đang tụ tập gần lò sưởi.

- Tôi phải về thôi, thưa phu nhân Willett.

- Nhưng ông không định ra thị trấn Exhampton đấy chứ?

- Tôi phải ra.

- Nếu ra thì cũng để mai, chứ đêm nay mưa tuyết thế này, đường xá ngập tuyết đi sao được?

- Bà tha lỗi, thưa phu nhân Willett, nhưng nhất định tôi phải ra đấy ngay đêm nay. Giá như có điện thoại...

- Ông muốn gọi điện thoai?

- Đúng thế... Thú thật, tôi muốn... tôi muốn xem ông bạn của tôi có bình yên không? Chuyện vừa rồi tôi cho chỉ là mê tín vớ vẩn... tôi không tin, nhưng dù sao...

- Trong khắp cái làng Sittaford này làm gì có ai mắc điện thoại đâu?

- Đúng thế. Chính vì không gọi điện thoại được nên tôi buộc phải đi.

Mà cũng không ai chịu chở ôtô ông đâu, tuyết dày như thế này…

Trong làng Sittaford chỉ có một chiếc ôtô duy nhất của bác Elmer thợ rèn, một chiếc Ford tàng, và mỗi khi ai thuê bác ta chở đều phải trả bằng giá cắt cổ.

- Tôi không tính đi ôtô. Hai chân tôi đủ khỏe để đưa tôi ra đến thị trấn Exhampton. Bà yên tâm, thưa phu nhân Willett.

Tất cả mọi người đều lên tiếng can.

- Không được đâu, thiếu tá Burnaby! Tuyết sắp bắt đầu rơi từng mảng lớn đấy, ông không nhìn thấy sao?

- Tôi biết, nhưng phải sau đây ít ra là một tiếng đồng hồ. Tôi sẽ ra đến đó trước khi trời đổ mưa tuyết lớn.

Phu nhân Willett nghiêm giọng nói.

- Tôi không cho ông đi ra thị trấn đâu, ông Burnaby!

Quả là hà Willett hoảng hốt thấy ông khách quyết định làm một điều liều lĩnh như vậy. Nhưng không ai can nổi. Thiếu tá Burnaby nhất quyết cuốc bộ ra thị trấn Exhampton để xem người bạn cựu chiến binh già kia có làm sao không.

Burnaby mặc tấm áo măng tô dày, thắp ngọn đèn bão rồi bước ra ngoài trời tối đen.

- Tôi sẽ ghé qua nhà lấy chai whisky - ông nói lúc ra đến cửa - Tối nay tôi sẽ ngủ ở nhà đại úy Trevelyan. Tôi biết tôi làm thế này là dở hơi, nhưng xin phu nhân và các vị thông cảm, đừng lo gì cho tôi hết. Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ nữa là cùng, tôi sẽ có mặt ở ngoài thị trấn Exhampton. Tôi hy vọng ông Trevelyan bạn tôi vẫn bình yên.

Ông Duke cau mày:

- Tôi cũng về thôi.

- Thế là hỏng mất một buổi tối - Phu nhân Willett thở dài - - Violette, con bảo cất cái bàn ấy đi, mẹ không muốn chơi cái trò khủng khiếp ấy nữa. Mà tôi rất sợ thiếu tá Burnaby làm sao giữa đường. Thời tiết xấu như thế này! Mà việc gì ông ấy phải lo kia chứ, tất nhiên đại úy Trevelyan không làm sao rồi.

Mọi người đều phụ họa theo, tán thành. Tuy nhiên, không ai cảm thấy thật sự yên tâm. Nếu chẳng may đại úy Trevelyan gặp phải tai họa đó thì sao?...

Và nếu như...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: 5 giờ 25 phút


Hai tiếng rưỡi sau, nghĩa là khoảng gần tám giờ tối, cây đèn bão cầm tay, khom người để tránh những mảng tuyết quất vào mặt, thiếu tá Burnaby loạng choạng lê chân trên lối đi dẫn vào ngôi biệt thự "Hazelmoor", nơi đại úy Trevelyan thuê ở tạm.

Đã một tiếng đồng hồ rồi, mưa tuyết dữ dội. Viên thiếu tá kiệt sức, thở hổn hển. Toàn thân run rẩy, ông giậm chân, thổi phù phù vào hai bàn tay lạnh cóng, đưa lên ấn nút chuông điện.

Đợi một lúc không thấy gì. Vài phút sau, ông ấn chuông lần nữa.

Vẫn không thấy động tĩnh.

Bấm chuông lần thứ ba, ông giữ nguyên ngón tay trên núm một lúc lâu. Tiếng chuông trong nhà reo vang một lúc lâu, nhưng trong nhà vẫn im ắng, không có một biểu hiện nào là có người.

Bối rối, thiếu tá Burnaby đứng thẫn thờ một lát, rồi quyết định quay ra, đi về phía trung tâm thị trấn Exhampton. Đi được khoảng một trăm mét, ông đến một đồn cảnh sát.

Thiếu tá Burnaby ngập ngừng một lát rồi đẩy cửa bước vào. Thấy người thiếu tá cựu chiến binh, đồn trưởng Graves đứng lên, ngạc nhiên:

- Chào thiếu tá Burnaby? Trời mưa tuyết thế này mà ông đi đâu vậy?

- Anh Graves này, tôi bấm chuông nhà đại úy Trevelyan mấy lần mà không thấy ai trả lời.

- Phải rồi, bây giờ tôi mới nhớ ra, hôm nay là Thứ sáu. Vậy là thiếu tá cuốc bộ từ làng Sittaford xuống đây ư? Hẳn đại úy Trevelyan không nghĩ là ông thiếu tá lại ra đây được.

- Nhưng tôi vẫn ra đấy thôi. Như tôi vừa kể, tôi bấm chuông mấy lần mà không thấy ai ra mở cửa.

- Lạ đấy nhỉ - viên đồn trưởng cảnh sát chau mày - Tôi không tin ông đại úy đi đâu vắng giữa lúc thời tiết tệ hại thế này.

- Đúng thế, không thể có chuyện đại úy Trevelyan đi đâu.

- Chà, thế thì lạ đấy...

Thiếu tá Burnaby có vẻ bực mình thấy viên đồn cảnh sát lề mề:

- Anh định làm thế nào bây giờ, Graves?

- Làm thế nào à?

- Chứ còn gì nữa? Ta phải tiến hành biện pháp nào chứ?

Viên cảnh sát suy nghĩ.

- Thiếu tá nghi là ông đại úy có chuyện gì à? Để tôi thử gọi điện cho ông ấy xem sao.

Graves nhấc máy điện thoại xin số. Nhưng đầu dây bên kia vẫn im lặng, không ai nhấc máy. Đợi một lát vẫn không thấy gì, đồn trưởng Graves gác máy, nói:

- Chắc ông đại úy bị ốm nặng. Chỉ có một mình ở nhà. Có lẽ ta sang rủ ông bác sĩ đến đó xem sao.

Nhà ông bác sĩ ngay gần đó. Hai vợ chồng bác sĩ Warren vừa bắt đầu ngồi vào bàn ăn bữa tối. Nghe viên cảnh sát trưởng nói, ông ta thầm khó chịu, nhưng vẫn nhận lời đi. Bác sĩ khoác tấm áo măng tô rất dày, xỏ chân vào đôi ủng cao su, quàng khăn len lên trùm nửa mặt. Bên ngoài tuyết vẫn rơi dồn dập từng mảng lớn.

Bác sĩ càu nhàu:

- Trời với đất! Tôi hy vọng các ông không lôi tôi đi một cách vô ích. Đại úy Trevelyan khỏe như vâm, không ốm đau bao giờ.

Thiếu tá Burnaby không đáp.

Đến trước cửa biệt thự "Hazelmoor”, họ đập cửa. Không thấy gì.

Bác sĩ Warren bèn gợi ý, thử đi vòng ra phía sau, vào lối cửa sổ:

- Cửa sổ dễ phá hơn cửa chính.

Viên cảnh sát Graves đồng ý, thế là ba người đi vòng ra phía sau nhà. Bên sườn nhà còn một cửa ra vào nữa, nhưng cũng rất kiên cố, không phá được. Họ bèn giẫm lên bãi cỏ đi về phía sau.

Đột nhiên bác sĩ Warren kêu lên:

- Cửa sổ kia mở toang!

Đúng thế, một ô của sổ mở toang. Một đêm lạnh giá như thế này, có họa điên mới mở cửa sổ. Một chút ánh sáng trong nhà tỏa ra.

Ba người đến chỗ cửa sổ cùng một lúc. Thiếu tá Burnaby leo lên, chui vào trước, tiếp đến cảnh sát trưởng Graves.

Vào đến trong nhà, hai người không ai nói với ai một lời nào. Lát sau, viên thiếu tá rú lên kinh hoàng. Bác sĩ Warren vội chạy đến.

Họ nhìn thấy đại úy Trevelyan nằm dưới đất, úp mặt xuống sàn nhà, hai tay bắt chéo. Đồ đạc trong nhà bừa bộn: các ngăn kéo đều bị lôi ra, giấy tờ tung tóe khắp nơi. Họ xem xét cửa sổ lúc nãy chui vào, thấy cửa sổ có vết phá. Bên cạnh thi thể viên đại úy là một túi bằng vải xanh lá cây, đựng đầy cát, đường kính khoảng năm centimét.

Bác sĩ Warren quỳ xuống bên cạnh thi thể đại úy Trevelyan. Một phút sau, ông đứng lên, mặt tái xanh.

- Chết rồi sao? - thiếu tá Burnaby hỏi.

Bác sĩ gật đầu, rồi quay sang viên cảnh sát:

- Bây giờ tôi làm theo lệnh ông. Tôi cứ khám nghiệm tử thi hay phải chờ thanh tra đến? Ngay bây giờ tôi có thể khẳng định rằng nạn nhân chết do vỡ xương sọ.

Bác sĩ trỏ túi cát.

Thiếu tá Burnaby nói khẽ:

- Đại úy Trevelyan dùng túi cát ấy để chẹn bên dưới cánh cửa cho khỏi gió lùa.

- Xem chừng - cảnh sát trưởng nói - đây là một vụ án mạng.

Ông ta bước đến bàn, nhấc máy điện thoại.

Thiếu tá Burnaby đến gần bác sĩ:

- Đại úy Trevelyan chết được bao lâu rồi? Liệu ông có đoán được chưa?

- Khoảng hai tiếng... cũng có thể ba...

Thiếu tá Burnaby liếm cặp môi khô khốc:

- Theo ông thì có thể đại úy Trevelyan chết vào lúc năm giờ hai mươi nhăm phút được không?

Bác sĩ sửng sốt nhìn người cựu thiếu tá.

- Nếu phải xác định cho đúng giờ nạn nhân chết, thì tôi đoán có thể vào khoảng thời gian đó.

Rồi ông ta nhìn viên thiếu tá, chưa hiểu tại sao ông này lại hỏi câu lúc nãy.

Thiếu tá Burnaby lê bước đến chiếc ghế tựa, ngồi xuống. Vẻ kinh hoàng hiện lên trên vẻ mặt, ông ta lẩm bẩm:

- Năm giờ hai mươi nhăm? Lạy Chúa tôi! Vậy ra là đúng sao?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Thanh tra Narracott


Sáng hôm sau, có hai người đứng trong ngôi biệt thự "Hazelmoor".

Thanh tra cảnh sát Narracott đưa mắt nhìn xung quanh, cau mày suy nghĩ, nói:

- Chà, đúng là như thế.

Thanh tra Narracott đem sử dụng vào trong nghề điều tra của ông tính lô gích và óc quan sát nhạy bén. Ông không bỏ qua một chi tiết nào, và đã khám phá ra nhiều vụ án mà người khác phải bó tay. Người ta bảo viên thanh tra này có cái mũi thính của loài chó săn. Vóc cao lớn, vẻ mặt điềm đạm, giọng nói nhẹ nhàng và kéo dài của dân miền Devonshire, với cặp mắt màu tro như thể lúc nào cũng nhìn ra nơi xa lắc.

Được giao điều tra vụ án này, thanh tra Narracott đã đáp chuyến tầu đầu tiên buổi sáng sớm, chạy từ thị xã Exeter đến đây. Nếu đường xá không đến nỗi nào, ông đã lên ôtô đi từ trước khi trời sáng.

Bây giờ, thanh tra Narracott đang đứng trong phòng giấy của nạn nhân, đại úy Trevelyan, cùng với trung sĩ cảnh sát Pollock, nhân viên đồn cảnh sát thị trấn Exhampton.

Một tia nắng mùa đông yếu ớt rọi vào gian phòng. Cách cửa sổ chừng một trăm mét là hàng rào, bên ngoài hàng rào là sườn đồi thoai thoải phủ tuyết rất dày.

Thanh tra Narracott lại cúi xuống nhìn thi thể nạn nhân một lần nữa. Bản thân tập luyện điền kinh, thanh tra Narracott đánh giá cao những bắp thịt cuồn cuộn của đại úy Trevelyan. Đầu nhỏ, chòm râu cắt thành nhọn bên dưới, đại úy Trevelyan có vẻ chưa đến năm mươi tuổi, mặc dù thật ra ông đã sáu mươi.

Viên thanh tra nói:

- Vụ án mạng này khá phức tạp đây.

- Thế ạ? - viên trung sĩ kêu lên.

Thanh tra Narracott quay sang anh ta:

- Theo anh thì thế nào, trung sĩ?

- Quả thật, tôi...

Trung sĩ Pollock gãi gáy. Bản chất thận trọng, anh ta chưa đưa ra nhận định nào.

- Theo thiển ý của tôi, thì thủ phạm đã phá cửa sổ chui vào, lục lọi gian phòng này. Đại úy Trevelyan lúc đó ở trên gác, nhưng tên gian không biết, tưởng trong nhà không có ai...

- Phòng ngủ của nạn nhân ở đâu?

- Trên gác. Ngay trên đầu gian phòng này.

- Vào mùa này, bốn giờ chiều trời đã tối, trung sĩ ạ. Nếu nạn nhân đang ở trên gác, tất ông ta phải bật đèn, và tên gian lúc chui vào qua của sổ, ắt phải nhìn thấy ánh đèn chứ?

- Vậy ông thanh tra cho rằng nạn nhân đợi hắn?

- Trừ phi là kẻ mất trí, còn không ai đột nhập vào một ngôi nhà có đèn sáng. Nếu kẻ gian phá cửa sổ để đột nhập, hắn phải tin rằng trong nhà không có ai.

Trung sĩ Pollock lại gãi gáy:

- Kể ra cũng vô lý, nhưng...

- Trung sĩ nói tiếp suy nghĩ của cậu đi.

- Theo tôi phỏng đoán thì khi nghe thấy tiếng động dưới nhà, nạn nhân chạy xuống xem chuyện gì. Tên gian nghe thấy tiếng chân bước trên cầu thang bèn vớ túi cát, nấp sau cánh cửa. Đúng lúc đại úy Trevelyan bước vào, tên gian liền quật túi cát lên đầu ông ta, từ phía sau…

- Cách giải thích của cậu phần nào có lý. Đúng là nạn nhân bị đánh từ phía sau, lúc ông ta nhìn ô cửa sổ. Nhưng giả thuyết của trung sĩ chưa làm tôi thỏa mãn chút nào.

- Vậy ạ?

- Tôi không tin có kẻ gian phi nào đột nhập vào nhà người ta ăn trộm vào năm giờ chiều.

- Hẳn y ngẫu nhiên thấy có cơ hội thuận lợi...

- Đây không phải là chuyện ngẫu nhiên. Thấy rõ thủ phạm đã cố tình tạo ra khung cảnh một vụ đột nhập ăn trộm. Nhưng nếu là trộm, đầu tiên hắn phải mò đến chỗ nào? Tất nhiên đến tủ đựng thìa nĩa bằng bạc.

- Nhưng ở đây cũng đúng là như thế.

- Nhưng tại sao hắn lật tung mọi thứ lên: các ngăn kéo, giấy tờ tung tóe? Rõ ràng có một sự bố trí nhằm đánh lừa chúng ta.

- Đánh lừa?

- Trung sĩ ạ, cậu thử nhìn cửa sổ kia xem. Không phải bị phá, mà... chỉ bị hung thủ cạo nhẹ mặt gỗ bên ngoài để giả như hắn phá cửa sổ chui vào.

Trung sĩ Pollock xem xét kỹ cửa sổ rồi thốt lên một tiếng bực tức.

- Thanh tra nói đúng - anh ta nói bằng giọng kính phục - Ai ngờ được hắn hiểm độc đến thế.

- Một kẻ muốn đánh lạc hướng chúng ta: nhưng hắn đã không thành công.

Viên trung sĩ rất biết ơn viên thanh tra về hai chữ "chúng ta". Chính nhờ thái độ tế nhị đó mà thanh tra Narracott luôn chinh phục được cảm tình của cấp dưới.

- Vậy theo ông thanh tra thì hung thủ rất thông thuộc nơi này?

- Hoàn toàn thông thuộc - viên thanh tra nói - Chỉ có một điều lạ duy nhất, là đúng hắn vào theo lối cửa sổ thật. Theo báo cáo của đồn trưởng Graves thì trên sàn nhà trong gian phòng này có những vết giầy, và đến giờ vẫn còn những chỗ ướt, do tuyết dính vào giầy tan ta thành nước. Đồn trưởng Graves nhìn thấy những vết giầy ngay khi ông ta mới bước vào đây, và ông ta còn khẳng định, trên sàn nhà chỗ cửa chính không có vết chân ấy. Có nghĩa đại úy Trevelyan đã mở cửa sổ cho hung thủ vào theo lối đó. Ta có thể kết luận hung thủ là người quen của nạn nhân. Trung sĩ, cậu là người ở đây, liệu cậu có biết, đại úy Trevelyan có ai hằn thù không?

- Thưa ông thanh tra, tôi không biết. Tôi chỉ biết đại úy Trevelyan là người keo kiệt, hám tiền. Người ta có thể không ưa ông ta, nhưng thù thì tôi đoán không có ai.

- Không có kẻ thù - thanh tra Narracott chậm rãi nhắc lại, dáng suy nghĩ.

- Ít ra thì cũng trong vùng này.

- Cậu nói đúng... Hiện chúng ta còn chưa biết hồi làm sĩ quan hải quân, đại úy Trevelyan có gây thù gây oán với ai không? Theo kinh nghiệm của tôi thì một người đã gây thù gây oán ở một nơi, sau này đến nơi khác cũng vẫn gây tiếp những thù oán mới. Nhưng ta không nên coi đó là quy luật. Bây giờ ta thử xem xét loại động cơ thứ hai, thường hay gây ra án mạng: động cơ tiền. Đại úy Trevelyan giàu phải không nhỉ?

- Vâng, ông ta rất nhiều tiền, nhưng keo kiệt. Mỗi khi có chuyện quyên góp, là rất khó moi được tiền trong túi ông ta.

- Ra thế!

Trung sĩ Pollock nói thêm:

- Giá không có trận mưa tuyết tai hại này, chúng ta có thể tìm dấu chân giầy của hung thủ, có phải dễ dàng hơn nhiều không?

- Trong nhà này, ngoài đại úy Trevelyan có còn ai nữa không?

- Không. Trong vòng năm năm gần đây, ông ta chỉ giữ có một người giúp việc, một cựu binh sĩ hải quân. Hồi ông ta còn ở trên làng Sittaford, vẫn có thêm một phụ nữ hàng ngày đến dọn dẹp nhà cửa, còn cậu cựu binh sĩ hải quân kia, cậu ta tên là Evans, thì đảm nhiệm phần bếp núc. Nhưng cách đây chừng một tháng, cậu ta cưới vợ. Chuyện này làm ông đại úy rất khó chịu. Tôi đoán đấy cũng là một trong những nguyên nhân khiến ông ta cho thuê tòa lâu đài trên làng Sittaford của ông ta. Đại úy Trevelyan rất không muốn có người phụ nữ nào trong nhà. Vì nhà cậu Evans kia chỉ cách đấy vài chục bước chân trên phố Fore, cho nên cậu ta có thể hàng ngày đến hầu hạ ông chủ. Cậu ta hiện đang có mặt tại đây, ở phòng bên cạnh. Thanh tra muốn gặp cậu ta không? Câu ta khai là hôm qua, cậu ta ra khỏi nhà này từ lúc hai giờ rưỡi, vì ông chủ bảo không cần đến cậu ta trong ngày nữa.

- Tôi sẽ thẩm vấn anh ta. Chắc anh ta sẽ cung cấp cho chúng ta được một số thông tin bổ ích.

Trung sĩ Pollock ngạc nhiên nhìn cấp trên. Anh ta ngạc nhiên về giọng nói của thanh tra Narracott.

- Ông thanh tra cho rằng...? - trung sĩ vừa bắt đầu nói.

- Tôi cho rằng vụ án này phức tạp hơn chúng ta tưởng lúc ban đầu nhiều.

- Sao vậy, thưa thanh tra?

Nhưng thanh tra Narracott từ chối nói rõ hơn.

- Cậu bảo anh người làm hiện có mặt ở đây?

- Vâng. Cậu ta đang ngồi chờ bên phòng ăn.

- Tốt. Anh ta là loại người thế nào?

Trung sĩ Pollock thấy nên kể các sự kiện hơn là miêu tả con người.

- Cậu Evans này đã từng phục vụ trong hải quân, nhưng lành hiền, không cãi cọ với ai bao giờ.

- Có rượu chè không?

- Có uống nhưng chỉ ở mức độ bình thường.

- Vợ anh ta ra sao? Liệu ông đại úy này có quá vồn vã với cô vợ người làm công không?

- Chuyện đó thì hoàn toàn không! Đại úy Trevelyan không thuộc loại đàn ông hám gái. Thậm chí ông ta còn ghét phụ nữ nữa kia.

- Anh chàng Evans này trung thành với ông chủ cậu ta chứ?

- Mọi người ở đây đều cho là như vậy. Vả lại nếu cậu ta có gì xấu thì mọi người biết ngay. Thị trấn Exhampton này chỉ có ít dân, mọi người đều biết rõ nhau.

- Hãy tạm thế - thanh tra Narracott nói - Bây giờ tôi sang thẩm vấn sơ qua anh người làm Evans rồi xem xét nốt các chỗ khác trong ngôi nhà này. Sau đấy chúng ta sẽ đến gặp thiếu tá Burnaby ở khách sạn Ba Vương miện. Câu ông ta nhận xét về thời điểm xảy ra vụ án làm tôi chú ý. Năm giờ hai mươi nhăm... Tại sao ông ta biết được chính xác giờ xảy ra án mạng? Hẳn còn có điều gì đó ông ta chưa nói cho chúng ta biết.

Hai người đi ra phía cửa.

Trung sĩ Pollock vẫn vừa đi vừa nhìn số giấy tờ tung tóe dưới sàn nhà, nói:

- Tôi không sao hiểu nổi hung thủ tạo hiện trường giả này để làm gì?

- Điều tôi băn khoăn lại là thứ khác, trung sĩ ạ. Đó là cái của sổ kia kìa.

- Cửa sổ?

- Đúng thế. Tại sao hung thủ lại vào theo lối cửa sổ? Nếu là người quen của đại úy Trevelyan, và ông vui vẻ tiếp, thì sao hắn không gõ cửa chính và đi vào bằng của ấy? Ngoài ra sân tuyết phủ dày như thế, tại sao hắn đi vòng ra lối sau nhà để vào theo đường cửa sổ cho khó khăn? Hẳn phải có một động cơ nào đó.

- Hay hắn không muốn ai nhìn thấy hắn vào nhà? - trung sĩ Pollock gợi ý.

- Chiều tối hôm qua, mấy ai ra đường làm gì? Trừ phi có chuyện cấp thiết lắm, còn người ta ngồi ru rú trong nhà bên cạnh lò sưởi chứ. Hẳn hung thủ có một động cơ nào đó mà chúng ta chưa biết... Nhưng rồi chúng ta vẫn sẽ biết thôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: Evans


Thấy hai quan chức cảnh sát vào phòng ăn, Evans kính cẩn đứng lên. Vóc thấp, to ngang, anh ta có hai cánh tay rất dài, và theo thói quen, hơi nắm lại. Anh ta cạo râu ria sạch sẽ, và cặp mắt anh ta giống như mắt lợn con. Tuy nhiên toàn thân anh ta toát ra một vẻ lành hiền và thông minh, làm lu mờ hình dạng xấu xí của anh ta.

Thanh tra Narracott thầm tóm tắt ấn tượng về Evans như sau: "Thông minh, ranh ma, thực tế. Có vẻ hơi buồn".

- Anh tên là Evans? - Thanh tra bắt đầu hỏi.

- Vâng, thưa ông.

- Tên đầy đủ?

- Robert Henry Evans.

- Tốt. Anh biết những gì về vụ án này?

- Tôi hoàn toàn không biết gì, thưa ông thanh tra. Đến giờ tôi vẫn không làm sao hiểu nổi: ông đại úy bị giết ngay trong nhà ông ấy!

- Anh nhìn thấy ông Trevelyan lần cuối cùng là khi nào?

- Hôm qua, tôi ra khỏi nhà này vào khoảng hai giờ trưa. Tôi đã thu dọn xong bát đĩa bữa ăn trưa của ông chủ, và chuẩn bị thức ăn bữa tối, như hai ông thấy đấy. Đại úy bảo không cần tôi đến trong ngày nữa.

- Và khi ông chủ của anh nói như vậy anh có thấy ngạc nhiên không?

- Bình thường, tôi đến đây làm từ bảy giờ sáng, đến hai giờ chiều thì về. Không phải hôm vào cũng vậy, nhưng rất nhiều hôm ông chủ bảo tôi không phải đến đây buổi chiều.

- Nghĩa là khi thấy đại úy Trevelyan bảo không cần đến đây vào buổi chiều, anh không ngạc nhiên chút nào?

- Vâng, đúng thế, thưa ông thanh tra. Tôi không đến đây thêm lần nào cũng vì thời tiết quá xấu. Đại úy Trevelyan là một ông chủ rất tốt, miễn là người làm công chịu khó thực hiện mọi công việc ông sai. Tôi rất biết ơn tính nết đó của ông chủ tôi.

- Đại úy Trevelyan cụ thể đã nói với anh như thế nào?

- Đại úy nhìn ra cửa sổ nói: "Hẳn ông Burnaby chiều nay sẽ không đến. Mưa tuyết thế này, chắc chắn làng Sittaford ngập trong tuyết, không thể đi đâu ra ngoài làng được. Từ nhỏ, chưa bao giờ tôi thấy một mùa đông như thế này".

Burnaby là bạn thân thiết của ông chủ tôi, ông ấy xưa kia là thiếu tá, nhà hiện nay ở trên làng Sittaford. Hai người đã thành lệ, cứ chiều thứ Sáu, ông Burnaby đến nhà ông chủ tôi đánh cờ bạc rồi chơi giải các câu đố về thơ hồi văn. Chiều Thứ Ba thì ông chủ tôi đến nhà ông Burnaby. Chưa bao giờ hai ông bỏ cái lệ ấy. Lúc nhìn ra cửa sổ và nói câu ấy, ông chủ tôi nói thêm: "Cậu về đi, sáng mai mới cần đến đây".

- Đại úy không nói là đang đợi ai khác ngoài thiếu tá Burnaby nữa?

- Không. Ông chủ tôi không nói gì về chuyện ấy.

- Anh không nhận thấy chiều hôm qua ông chủ anh có vẻ gì khác mọi ngày sao?

- Tôi không nhận thấy, thưa ông.

- Hình như anh mới cưới vợ phải không, Evans?

- Vâng được hai tháng... cô ấy là cháu bà Belling, chủ khách sạn Ba Vương miện.

- Và đại úy Trevelyan không tán thành việc anh lấy vợ?

- Thậm chí ông chủ tôi còn nổi cáu. Được cái cô Rebecca vợ tôi hiền lành, lại nấu bếp rất giỏi. Trước kia, tôi đã hy vọng ông chủ nhận cả cô ấy cùng vào làm ở đây, nhưng ông chủ tôi dứt khoát từ chối, bảo rằng ông không chịu nổi thấy một người phụ nữ trong cái nhà này. Đang trong tình trạng ấy thì cái bà ở châu Phi mới về nước kia ngỏ ý xin thuê tòa lâu đài của ông chủ tôi trên làng Sittaford để nghỉ vụ đông này. Từ khi ông chủ tôi thuê ngôi biệt thự ngoài thị trấn này để ở, ngày nào tôi cũng đến làm, hy vọng ông chủ thay đổi ý kiến, và sau này khi quay lên làng Sittaford, sẽ nhận vợ tôi cùng vào hầu hạ.

- Anh có biết tại sao ông đại úy lại ghét phụ nữ đến thế không?

- Không, thưa ông. Tôi cho rằng do ông chủ tôi e thẹn. Nhưng cũng có thể do ông chủ tôi đã vấp phải một chuyện thất tình đau xót thuở trẻ.

- Đại úy Trevelyan chưa hề kết hôn bao giờ?

- Chưa, thưa ông.

- Ông ấy có họ hàng chứ?

- Vâng. Một bà chị hiện ở thị xã Exeter, và hình như có một hoặc vài người cháu.

- Có người nào trong số đó đến đây thăm đại úy không?

- Không, thưa ông thanh tra. Theo tôi biết thì hình như ông chủ tôi có chuyện bất hòa với bà chị ông ấy ở thị xã Exeter.

- Bà chị ấy tên gì?

- Phu nhân Gardner, nếu tôi nhớ không sai.

- Anh biết địa chỉ bà ấy không?

- Không, thưa ông.

- Có lẽ chúng tôi sẽ tìm thấy địa chỉ đó trong đống giấy tờ của đại úy Trevelyan. Anh Evans này, hôm qua từ bốn giờ chiều trở đi, anh ở đâu và làm những gì?

- Tôi ở nhà thưa ông.

- Nhà anh ở đâu?

- Cuối phố này, số nhà 85 phố Fore.

- Anh hoàn toàn không ra khỏi nhà?

- Không, thưa ông. Chiều tối qua trận mưa tuyết dữ dội quá.

- Tôi biết. Ai có thể xác nhận lời khai vừa rồi của anh?

- Vợ tôi, thưa ông.

- Nhà chỉ có hai anh chị thôi à?

- Vâng, thưa ông.

- Thôi được, hãy tạm thế.

Anh chàng cựu chiến binh hải quân ngập ngừng một chút rồi hỏi:

- Tôi có thể thu dọn sơ qua ở đây được không?

- Không. Cần phải để nguyên như thế này.

- Vâng, tôi hiểu, thưa ông thanh tra.

- Và anh cũng đừng ra khỏi đây vội, trong khi tôi chưa xem xét xong ngôi nhà này. Rất có thể tôi cần hỏi thêm anh điều gì đó.

- Vâng, thưa ông.

Thanh tra Narracott đưa mắt quan sát phòng ăn. Trên bàn vẫn còn số thức ăn Evans chuẩn bị cho chủ ăn bữa tối. Một đĩa lưỡi lạnh giá, món dưa ngâm dấm, pho mát, bánh quy, và một xoong canh. Trên tủ ăn có ngăn đựng vài chai rượu, một bình nước khoáng Seltz, và hai chai bia. Có cả nhiều chiếc cúp thể thao, và ba cuốn sách dày mới toanh.

Thanh tra Narracott xem xét vài chiếc cúp, cúi xuống đọc những dòng chữ ghi trên lớp kim loại.

- Qua đây thì thấy đại úy Trevelyan đã từng là vận động viên thể thao xuất sắc - ông nói.

- Đúng thế, thưa ông. Chủ tôi là một nhà thể thao cừ khôi đấy.

Thanh tra Narracott đọc tiếp tên các cuốn sách. Đó là những tiểu thuyết. Tình ái quyết định, Những chàng trai vui tính ở Lincoln, và Những tù binh của ái tình.

- Xem chừng thẩm mỹ của ông đại úy không cao gì mấy.

Evans bật cười, nói.

- Thưa ông thanh tra, những cuốn sách đó đâu phải ông chủ tôi mua để đọc? Đấy là phần thưởng trong cuộc thi đố vui của một tờ báo. Đại úy Trevelyan đã gửi mười câu trả lời, dưới mười cái tên khác nhau, trong đó có cả tên tôi, bởi vì ông chủ tôi cho rằng địa chỉ của tôi, 85 phố Fore, là một địa chỉ tốt để tờ báo kia chọn tặng giải. Tên và địa chỉ nghe càng quen thuộc bao nhiêu, người dự thi càng có nhiều khả năng nhận giải thưởng bấy nhiêu. Quả đúng như vậy, vì một lần tôi đã được giải... nhưng không phải là hai ngàn bảng, mà chỉ ba cuốn sách... thứ sách họ bán ế... và các hiệu sách giữ tiếng đều không nhận bày bán.

Đã sửa bởi Mưa Thiên Kiều lúc 16.06.2014, 22:18.

Thanh tra Narracott cười rồi dặn lại Evans đừng đi đâu vội, ông tiếp tục quan sát ngôi nhà. Góc phòng kê một tủ lớn, ông mở ra, thấy trong đựng đủ loại vật dụng chẳng ăn nhập gì với nhau: hai đôi giày trượt tuyết, hai mái chèo, khoảng một chục cặp ngà hà mã, bó cần câu, hộp lưỡi câu, cây gậy đánh gôn, một chiếc vợt ten-nít, mảnh da hổ. Điều này chứng tỏ trước khi giao nhà cho khách thuê, đại úy Trevelyan sợ tính bép xép của phụ nữ, đã khuân tất cả những gì ông quý về nơi ở tạm này.

Thanh tra Narracott nói.

- Khuân đến đây những thứ chợ trời này làm gì kia chứ? Bởi ông đại úy chỉ cho thuê tòa lâu đài kia có mấy tháng mùa đông, có phải thể không nhỉ?

- Vâng đúng thế, thưa ông.

- Sao ông ấy không cất các thứ này vào cái tủnào đó ở Sittaford rồi khóa lại?

Đây là lần thứ hai Evans lại nhăn mặt:

- Tính ông chủ tôi như thế đấy. Lâu đài Sittaford thiếu gì tủ kia chứ, nhưng ông đại úy chỉ lo ai lấy mất những thứ này.

Thanh tra Narracott thấy đây là một cơ hội tốt để ông hỏi một câu ông muốn hỏi từ lâu:

- Bà Willett thuê lâu đài đó là người quen biết lâu năm của đại úy Trevelyan phải không?

- Không phải đâu, thưa ông. Hai người hoàn toàn không biết nhau.

- Anh biết chắc như thế không?

- Chủ tôi không nói... nhưng tôi tin là tôi biết rõ.

- Tôi hỏi anh câu đó vì tôi lấy làm lạ, ai lại chọn cái làng hẻo lánh trên vùng núi lạnh giá này để nghỉ mấy tháng mùa đông? Hơn nữa, do đâu bà Willett kia biết có tòa lâu đài ấy?

- Chỉ là do hàng môi giới nhà đất Williamson giới thiệu.

Thanh tra Narracott cau mày. Việc thuê tòa nhà ở làng Sittaford vào mùa đông vẫn làm ông thấy khó hiểu.

- Bà Willett có đến gặp ông đại úy?

- Vâng. Bà ấy đến gặp để ông chủ tôi đưa bà ấy đi xem tòa lâu đài.

- Thế là... - Viên thanh tra cảnh sát ngưng lại một chút. - Họ thấy mến nhau chứ gì?

- Bà khách có vẻ rất hài lòng, xem xét rất kỹ cả tòa lâu đài lẫn các đồ đạc bên trong.

- Còn ông đại úy?

Evans cười toác miệng:

- Bà khách có niềm nở đến mấy thì cũng vẫn không làm ông chủ tôi tươi lên chút nào. Chủ tôi giữ thái độ lịch sự, chỉ có vậy thôi. Và sau đấy bà Willett bao nhiêu lần mời ông chủ tôi đến chơi, ông chủ tôi đều từ chối thẳng thừng.

- Nghĩa là bà ấy có mời?

- Thậm chí bà Willett còn dặn ông chủ tôi, bất cứ lúc nào tiện đường cũng cứ ghé vào chơi, không cần câu nệ, báo trước gì hết.

- Nghĩa là bà ấy rất muốn gặp đại úy Trevelyan?

Thanh tra Narracott vẫn tự hỏi, tại sao bà Willett lại muốn thuê tòa nhà ở Sittaford? Liệu có phải để gặp gỡ đại úy Trevelyan không? Và hẳn bà ta không ngờ sau đấy ông đại úy lại dọn ra ở tạm ngoài thị trấn Exhampton. Hẳn bà ta đinh ninh ông đại úy sẽ giữ lại một phòng để tạm ở, hoặc sang ở chung một thời gian với ông bạn, thiếu tá Burnaby, nhà ngay gần đấy.

Câu trả lời của Evans không giúp gì thêm trong việc ông thanh tra muốn biết về mối quan hệ giữa bà Willett với ông đại úy.

Evans vẫn nói tiếp:

- Bà Willett có tính thích tiếp khách. Không ngày nào bà ta không mời khách đến ăn uống, chơi bời.

Thanh tra Narracott tính sẽ phải gặp người phụ nữ kỳ lạ kia trong thời gian gần nhất. Việc bà ta đột nhiên đến vùng này là điều cần nghiên cứu thấu đáo.

- Pollock - ông nói với trung sĩ cảnh sát - Ta lên xem trên gác đi.

Ra khỏi phòng ăn, đợi cánh cửa khép lại, trung sĩ Pollock khẽ hỏi thanh tra Narracott:

- Ông thanh tra thấy cậu ta thế nào?

- Có vẻ chân thật... nhưng chưa thể kết luận ngay được. Có điều đã rõ, anh ta không hề khờ dại chút nào.

- Tôi còn cho là cậu ta rất khôn ngoan ấy chứ.

- Lời khai của anh ta khá minh bạch và tôi cảm thấy anh ta nói thật. Nhưng chúng ta chưa nên đánh giá vội, trung sĩ ạ.

° ° °

Tầng hai có ba phòng ngủ và một buồng tắm. Hai phòng trống rỗng, có vẻ đã lâu không ai ở. Phòng thứ ba, đại úy Trevelyan dùng làm phòng ngủ. Hết sức sạch sẽ, ngăn nắp. Thanh tra Narracott mở các tủ và ngăn kéo. Chỗ nào cũng trật tự đến mức khó có thể chê. Rõ ràng đại úy Trevelyan là người cẩn thận, tỉ mỉ. Thanh tra vào phòng tắm, cũng ngăn nắp, sạch sẽ đến mức lý tưởng.

- Không có gì đặc biệt.

- Vâng, đúng thế.

- Pollock, cậu thử ngó xem các giấy tờ dưới phòng làm việc một cái. Có thể cho Evans về. Nếu cần hỏi gì cậu ta tôi sẽ đến nhà sau.

- Vâng, thưa ông thanh tra.

- Cho họ đem thi thể nạn nhân đi được rồi đấy. Trên đường về tôi sẽ ghé vào gặp bác sĩ Warren. Nhà ông ta ngay gần đây, phải không nhỉ?

- Vâng.

- Bên này khách sạn Ba Vương miện phải không?

- Không, bên kia.

- Thôi được. Tôi về khách sạn đã. Cậu tiếp tục công việc của cậu đi, Pollock.

Trung sĩ Pollock ghé vào phòng ăn báo cho Evans về. Thanh tra Narracott đi nhanh ra khỏi nhà, hướng về phía khách sạn Ba Vương miện.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: Tại khách sản Ba Vương Mạn


Trước khi gặp thiếu tá Burnaby, thanh tra Narracott phải chịu đựng một loạt những câu kể lể dài dòng vô bổ của Belling, chủ khách sạn Ba Vương Miện. Người phụ nữ to béo này có kiểu nói một mạch, bắt người nghe phải nghe cho hết những chuyện con cà con kê của bà ta rồi bà ta mới chịu để yên.

- Chào ông! Thật không thể ngờ ông Trevelyan lại gặp phải một nỗi bất hạnh tàn bạo như thế. Cái bọn trộm cắp đáng nguyền rủa kia là cứ phải bỏ tù hết. Tôi không sao chịu nổi cái giống ấy. Bọn chúng rất sợ chó, vậy mà ông Trevelyan lại không chịu khó nuôi lấy một con để trông nhà và bảo vệ chủ. Mà hôm qua mưa tuyết dữ dằn quá, thành thử chỉ cách nhà hai chục mét cũng không ai nghe thấy gì hết...

- Thiếu tá Burnaby hiện có ở đây không? Tôi gặp ông ấy được chứ?

- Có đấy, thưa ông Narracott - bà chủ khách sạn đáp - Thiếu tá Burnaby hiện đang ăn điểm tâm bên phòng ăn. Tội nghiệp ông ấy quá. Đêm qua phải ngủ mà không được mặc đồ ngủ. Tôi là phụ nữ, lại góa chồng, làm gì có quần áo ngủ của đàn ông mà cho ông ấy mượn kia chứ? Cái chết của người bạn thân thiết làm ông ấy thành như người mất hồn. Cả hai ông đều tốt, duy ông đại úy lại quá keo kiệt. Tôi vẫn cứ bảo sống trên làng Sittaford heo hút ấy rất nguy hiểm, vậy mà bây giờ ông lại gặp tai họa sau khi xuống dưới thị trấn này. Đúng là định mệnh. Sống trên nơi hẻo lánh thì không sao, vậy mà xuống nơi có người này người nọ thì lại chết...

- Đúng thế, thưa bà Belling - thanh tra Narracott đành phải ngắt lời bà quả phụ thích nói kia - Khách hôm qua nghỉ ở khách sạn của bà là những ai? Có người nào không phải trong vùng này không?

- Khoan đã… Phải rồi, có hai ông nhà buôn, kiểu chào hàng ấy mà, tên là Moresby và Jones, và một ông khách trẻ người London. Có vậy thôi. Chẳng là mùa này ở đây yên tĩnh mà... Ôi, tôi suýt quên, còn một ông khách trẻ đến đây bằng chuyến tàu hỏa cuối cùng, hiện ông ta còn đang ngủ.

- Chuyến tàu cuối cùng?... Chuyến đến ga lúc mười giờ đêm phải không, thưa bà... Nếu vậy cứ để ông ta ngủ. Nhưng ông khách từ London đến? Bà biết ông ta không?

- Không. Hôm qua tôi gặp ông ta là lần đầu tiên. Không phải dân buôn đâu, trông dáng điệu cử chỉ là biết ngay. Tôi quên mất tên ông ta rồi. Nhưng có ghi trong sổ đấy. Sáng nay ông ấy đã rời khỏi đây từ sớm, đáp chuyến tàu đi Exter lúc sáu giờ mười. Chính tôi cũng thắc mắc, ông ta đến đây để làm gì không biết?

- Bà không hỏi ông ta làm nghề gì à?

- Không.

- Thời gian nghỉ ở đây, ông ta có đi đâu không?

- Có. Đến đây lúc giờ ăn trưa, thì khoảng bốn giờ chiều ông ta đi đâu đó, mãi sáu giờ rưỡi mới về.

- Bà không biết ông ta đi đâu à?

- Không. Chắc đi dạo thôi. Lúc đó trời chưa đổ trận mưa tuyết lớn, nhưng cũng không phải thích hợp cho việc đi dạo.

- Bà vừa bảo ông ta đi khỏi khách sạn lúc bốn giờ và về lúc sáu giờ rưỡi! Chà, nếu vậy tôi thấy lạ đấy. Bà có thấy ông ta nói gì đến đại úy Trevelyan không?

Bà chủ khách sạn lắc đầu mạnh mẽ:

- Không, thưa ông Narracott. Một là ông ta lầm lì chẳng nói chẳng rằng, như thể muốn tránh gặp mọi người... và trong nét mặt ông ta như đang băn khoăn điều gì...

Thanh tra Narracott lấy cuốn sổ ghi khách vãng lai, lật ra xem.

- James Pearson, London. Chỉ có vậy thôi. Chúng tôi đành phải tiến hành một cuộc điều tra nhỏ về ông James Pearson này vậy.

Rồi viên thanh tra sang phòng ăn. Thiếu tá Burnaby ngồi một mình, ngoài ra không có ai khác, và đang uống tách cà phê đen, trước mặt là tờ Thời báo mở rộng.

- Xin lỗi, ông là thiếu tá Burnaby?

- Vâng.

- Tôi là thanh tra Narracott, ở sở cảnh sát Exter.

- Chào ông thanh tra. Cuộc điều tra tiến triển tốt chứ?

- Vâng, tôi có thể khẳng định điều đó.

- Tốt lắm - viên thiếu tá lạnh nhạt nói, thậm chí giọng còn có vẻ hoài nghi.

- Xin ông cho hỏi vài câu, được không thưa thiếu tá Burnaby?

- Được chứ. Tôi sẽ cố trả lời đầy đủ nhất.

- Theo ông biết thì đại úy Trevelyan có ai thù hằn không.

- Hoàn toàn không có.

- Theo ông, người làm công cho ông ấy, Evans, có phải là người lương thiện không?

- Rất lương thiện, và ông đại úy rất tin tưởng cậu ta.

- Liệu có mối bất hòa nào giữa hai người xung quanh việc anh ta lấy vợ không?

- Hoàn toàn không. Chỉ là đại úy Trevelyan lo cô vợ Evans phá rối cuộc sống độc thân của ông ấy.

- Nhân đây xin hỏi, đại úy Trevelyan chưa hề kết hôn lần nào hay sao? Xin ông thiếu tá cho biết, đại úy có để lại chúc thư, nói tài sản của ông ấy sẽ để lại cho ai hưởng không?

Thiếu tá Burnaby vội vã đáp:

- Trevelyan có để lại chúc thư.

- Vậy là ông biết?

- Tất nhiên rồi, vì Trevelyan ủy thác cho tôi làm công việc thực hiện chúc thư đó.

- Ai là người được hưởng quyền thừa kế?

- Tôi không thể nói rõ được.

- Đại úy Trevelyan có nhiều tài sản không?

- Ông ấy giàu hơn người ta tưởng rất nhiều.

- Đại úy có họ hàng không?

- Có. Một bà chị, và theo tôi biết thì mấy đứa cháu cả trai lẫn gái. Trevelyan rất ít khi gặp họ, nhưng giữa ông ấy và gia đình bà chị không có xích mích gì.

- Hiện bản chúc thư ai giữ?

- Văn phòng hai công chứng viên ở thị trấn Exhampton, tên là Walter và Kirkwood.

- Thưa thiếu tá Burnaby, vì ông là người thực hiện chúc thư, ông có thể cùng đi với tôi đến gặp hai viên công chứng ấy không? Tôi muốn biết càng sớm càng tốt nội dung bản chúc thư ấy.

Thiếu tá Burnaby ngước mắt nhìn viên thanh tra:

- Có chuyện gì vậy? Bản chúc thư có tầm quan trọng trọng vụ án này hay sao?

Thanh tra Narracott chưa vội ngả bài ngay:

- Vụ án phức tạp hơn chúng tôi phỏng đoán lúc ban đầu. Tôi muốn hỏi thêm một câu nữa. Thưa thiếu tá Burnaby, hình như tối hôm qua, ông có hỏi bác sĩ Warren là phải chăng vụ án mạng xảy ra lúc năm giờ hai mươi nhăm, có chuyện đó không?

- Nhưng như thế thì sao? - thiếu tá Burnaby đột nhiên vặn lại.

- Do đâu thiếu tá đoán vụ án mạng xẩy ra vào giờ đó mà không phải vào giờ khác?

- Nghĩa là sao, tôi chưa hiểu?

- Căn cứ vào đâu thiếu tá đoán vụ án mạng xảy ra vào một giờ chính xác đến như vậy?

- Tôi rất có thể đoán là sáu giờ kém hai mươi nhăm, hoặc bốn rưỡi lắm chứ.

- Tất nhiên rồi - viên thanh tra công nhận.

Thanh tra Narracott nghĩ không nên tranh luận với thiếu tá Burnaby lúc này.

- Việc đại úy Trevelyan cho thuê tòa lâu đài ở Sittaford làm tôi rất khó hiểu.

- Xin nói ngay là tôi cũng không hiểu.

- Ra thế!

- Và không phải chỉ tôi, mà mọi người khác cũng không ai hiểu.

- Những người ở làng Sittaford?

- Làng Sittaford và thị trấn Exhampton. Bà ta đúng là điên khùng.

- Cả về cách sống và cách ăn mặc?

- Đúng thế.

- Thiếu tá rất quen biết bà ấy?

- Đúng thế. Tôi ngồi ở nhà bà ấy đúng vào lúc...

- Lúc làm sao? - Thấy viên thiếu tá ngưng câu nói lại giữa chừng, thanh tra Narracott liền hỏi.

- Không làm sao cả.

Thanh tra Narracott chăm chú nhìn thiếu tá Burnaby một lúc lâu, do thấy viên thiếu tá lúng túng, có vẻ sắp lộ ra điều gì đó. Một điều mà ông rất muốn biết.

"Rồi sẽ đến lúc mình biết" - thanh tra Narracott thầm nghĩ.

Làm ra vẻ thản nhiên, ông nói to.

- Nghĩa là chiều hôm qua thiếu tá ngồi trong lâu đài Sittaford. Bà khách thuê kia đã ở đó được bao lâu rồi?

- Khoảng hai tháng.

Có vẻ muốn xóa đi những câu bất cẩn của mình, viên thiếu tá tỏ ra mau miệng hơn trước.

- Bà ta ở đó cùng với cô con gái, đúng vậy không?

- Đúng thế. Bà ta góa chồng.

- Bà ta có nói tại sao bà ta chọn thuê toà lâu đài đó trong mùa đông này không?

Thiếu tá Burnaby gãi mũi:

- Bà ta nói rất nhiều... về phong cảnh thiên nhiên hiếm có ở đây... về tính thích sự cô đơn của bà ta... về đủ thứ khác. Tuy nhiên...

Viên thiếu tá cựu chiến binh dừng lại tìm chữ.

Thanh tra gợi ý:

- Thiếu tá cũng cảm thấy việc bà ta về nghỉ đông tại Sittaford là không bình thường?

- Đúng thế. Một phụ nữ giàu có, mặc theo mốtthời trang mới nhất, lại có một cô con gái xinh đẹp, giá như nghỉ ở khách sạn Ritz hoặc khách sạn Claridge thì hợp hơn nhiều.

- Nhưng bà ta không sống cô độc, đúng vậy không? Bà ta không có vẻ cần... lẩn trốn?

- Đúng thế. Trái lại là đằng khác. Bà ta liên tục mời chúng tôi đến nhà. Mà ở cái làng Sittaford nhỏ xíu, đâu có đông đúc để có thể viện cớ người này mời người khác mời để khước từ lời mời của bà ta? Cho nên nhiều khi láng giềng rất khó xử.

- Chắc bà ta có thói quen từ hồi sống ở thuộc địa?

- Tôi cũng đoán thế.

- Thiếu tá có nghĩ rằng có thể bà ta quen biết viên đại úy Trevelyan từ trước không?

- Trước đó bà ta không hề quen biết Trevelyan.

- Nghe ông nói có vẻ quả quyết.

- Trevelyan có kể với tôi nghe khi bà ta đến Sittaford.

- Rất có thể bà ta đến đây cốt để nối lại mối quan hệ trước kia với ông đại úy?

Cách đặt vấn đề của thanh tra Narracott quá mới mẻ và đột ngột, khiến thiếu tá Burnaby phải suy nghĩ một lát.

- Thú thật chưa bao giờ tôi nghĩ đến khả năng đó. Nhưng tôi không tin là có chuyện ấy. Tôi thấy bà ta xởi lởi, thích mở rộng giao du chỉ là do thói quen của những người đã sống lâu năm ở các nước thuộc địa.

- Tôi hiểu. Đại úy Trevelyan tự thuê xây tòa biệt thự Sittaford?

- Đúng thế.

- Ngoài ông ấy ra, không có ai khác đến ở đấy? Tôi muốn nói là ông đại úy chưa cho ai thuê nó bao giờ.

- Chưa.

- Có nghĩa không phải do ông đại úy rao cho thuê? Quả là điều khó hiểu! Nhưng theo tôi thì tòa lâu đài đó không liên quan gì đến vụ án mạng, mà đó chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên... khiến tôi chú ý. Còn ngôi biệt thự đại úy Trevelyan thuê ở thị trấn này là của ai?

- Biệt thự "Hazelmoor" là của bà Larpent, một phụ nữ đứng tuổi, không chồng, mùa đông thường ra thành phố Cheltenham, thuê một ngôi nhà tại đó để ở. Thông thường bà ta khóa cửa để đấy, rất ít năm có người thuê.

Vậy là cuộc gặp thiếu tá Burnaby không giúp gì thêm cho thanh tra Narracott. Ông chán nản, hỏi thêm câu cuối cùng:

- Việc thuê đó là do hãng Williamson môi giới, đúng vậy không?

- Đúng.

- Hãng môi giới nhà đất này đóng tại thị trấn Exhampton này?

- Đúng thế. Văn phòng của hãng này ngay gần văn phòng ông công chứng.

- Thế thì, nếu ông không phiền, xin thiếu tá đi với tôi đến văn phòng công chứng, và tiện đường, ta ghé vào văn phòng hãng Williamson, được không?

- Ông muốn đi ngay bây giờ?

Thiếu tá Burnaby đã ăn xong bữa điểm tâm từ lâu, bèn đứng lên đi theo thanh tra Narracott.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: Bản chúc thư


Tại văn phòng hãng môi giới nhà đất Williamson, một người đàn ông trẻ tuổi, vẻ mặt lanh lợi đứng lên đón khách.

- Chào thiếu tá Burnaby.

- Chào anh.

- Vụ án mạng thật khủng khiếp, phải không thưa thiếu tá? - anh ta kêu lên, có vẻ muốn trò chuyện - Đã bao nhiêu năm, ở thị trấn Exhampton này chưa xảy ra vụ nào ghê rợn đến như vậy...

Thiếu tá chặn dòng thác lời lẽ kia lại:

- Xin giới thiệu với ông, thanh tra Narracott.

- Rất hân hạnh...

Viên thanh tra nói:

- Ông có thể cung cấp cho tôi một số thông tin được không? Chính ông đã môi giới việc thuê tòa lâu đài ở làng Sittaford?

- Cho bà khách của chúng tôi, phu nhân Willett? Vâng đúng thế.

- Xin ông cho biết một số chi tiết xung quanh việc thuê nhà đó. Bà khách đến nhờ ông giới thiệu hay trước đó bà ta đã biết có tòa lâu đài đó?

- Bà ấy gửi thư hỏi chúng tôi... Xin ông chờ cho một chút... - Anh ta mở ngăn kéo, lấy ra một hồ sơ - Thư gửi từ khách sạn Carlton, London.

- Trong thư, bà khách có nói cụ thể đến lâu đài Sittaford không?

- Không. Bà ấy chỉ ngỏ ý muốn nghỉ vụ đông năm nay trong vùng núi Dartenson, và đề nghị tôi giới thiệu cho một tòa nhà có tối thiểu tám phòng ngủ. Gần ga xe lửa hay gần một thành thị nào không quan trọng.

- Lâu đài Sittaford có được đăng ký cho thuê ở hãng của ông không?

- Không. Nhưng đấy là tòa nhà duy nhất trong khắp vùng này đáp ứng đúng những yêu cầu của bà khách hàng. Bà ấy còn nói rõ với hãng chúng tôi là sẵn sàng trả tiền thuê tới mười hai ghi-nê một tuần. Do thấy như vậy chúng tôi bèn liên hệ với đại úy Trevelyan. Đại úy đồng ý và công việc được thu xếp ổn thỏa.

- Bà Willett chưa cần xem tòa nhà?

- Bà ấy không cần. Nhận được thư trả lời là bà ấy ký ngay vào bản hợp đồng. Rồi hôm đó, bà thuê ôtô đến đây, thỏa thuận trước với ông đại úy về vấn đề những tấm khăn trải và những bộ thìa nĩa bằng bạc, đồng thời thăm tòa nhà.

- Bà khách tỏ vẻ hài lòng?

- Lúc quay lại hãng chúng tôi, bà ấy cho biết là bà ấy rất hài lòng về tòa lâu đài Sittaford.

- Ông có nhận xét gì về bà khách đó không? - viên thanh tra hỏi, chăm chú nhìn người đàn ông trẻ tuổi.

- Trong nghề chúng tôi, chúng tôi đã quen không ngạc nhiên về chuyện gì bao giờ.

Sau câu trả lời mang tính triết lý ấy, thanh tra Narracott cùng thiếu tá Burnaby cáo từ.

° ° °

Lát sau họ bước vào văn phòng hai công chứng viên Walter và Kirkwood. Người bảo vệ cho biết ông Kirkwood vừa đến, và mời hai vị khách vào phòng giấy.

Kirkwood đã đứng tuổi, vẻ mặt hiền lành. Sinh trưởng ở thị trấn Exhampton, ông ta đã nối nghiệp ông nội và cha trong nghề công chứng này. Ông ta đứng dậy, lấy vẻ mặt đau buồn, đưa tay bắt tay thiếu tá Burnaby:

- Chào ông thiếu tá Burnaby. Quả thật là một câu chuyện thương tâm. Tội nghiệp đại úy Trevelyan!

Ông ta nhìn thanh tra Narracott vẻ dò hỏi, thiếu tá Burnaby bèn giới thiệu thanh tra Narracott.

- Vậy ra ông được giao điều tra vụ án?

- Vâng, thưa ông Kirkwood. Và tôi đến đây để hỏi vài điều cần làm rõ.

- Rất hân hạnh nếu có thể giúp ích ông thanh tra được điều gì - viên công chứng nói.

- Tôi muốn biết chi tiết về bản chúc thư của đại úy Trevelyan. Hình như bản chúc thư đó được cất giữ tại văn phòng của ông?

- Vâng.

- Đã lâu chưa?

- Khoảng năm hoặc sáu năm trước đây. Lúc này tôi chưa thể nói chính xác.

- Thưa ông Kirkwood, tôi muốn biết càng sớm càng tốt tên những người được đại úy cho hưởng thừa kế. Điều này rất quan trọng đối với chúng tôi.

- Thật vậy sao? Tôi lại không nghĩ như vậy. Nhưng ông thanh tra biết rõ vấn đề ấy hơn tôi.

Ông ta đưa mắt nhìn thiếu tá Burnaby.

- Thiếu tá Burnaby và tôi là hai người nhận trách nhiệm thi hành bản chúc thư. Nếu ông thiếu tá thấy không có gì trở ngại...

- Tôi không có gì trở ngại.

- Nếu vậy, tôi xin thỏa mãn yêu cầu của ông thanh tra.

Nhấc máy điện thoại trên bàn giấy, Kirkwood nói câu gì đó. Hai phút sau, nhân viên đem vào một chiếc phong bì to, dày, đưa chủ. Khi nhân viên đã đi ra, Kirkwood mở phong bì bằng con dao dọc giấy, lôi ra một văn bản, rồi hắng giọng, đọc rành rọt:

“Tôi, Joseph-Arthur Trevelyan, cư trú tại lâu đài trong làng Sittaford, quận Devon, ngày 13 tháng Tám 1926, có nguyện vọng sau khi chết như sau:

1. Tôi chỉ định ông John Edward Burnaby, cư trú tại xóm "biệt thự” trong làng Sittaford, và ông Frederic Kirkwood, công chứng viên tại thị trấn Exhampton, là hai người chịu trách nhiệm thi hành bản chúc thư này.

2. Tôi cho Robert Henry Evans, đầy tớ trung thành của tôi, khoản tiền là một trăm (100) bảng, nếu cho đến ngày tôi qua đời anh ta vẫn còn làm việc cho tôi.

3. Biếu ông John Edward Burnaby, để tỏ lòng quý mến tình bạn với ông, toàn bộ số giải thưởng thể thao của tôi, kể cả những bộ đầu và da thú, những chiếc "cúp" và các giải thưởng khác.

4. Tôi trao toàn bộ các bất động sản nào không trái với các điều khác trong bản chúc thư này cho hai người thi hành bản chúc thư, để hai người đó đem bán.

5. Khoản tiền bán được, hai người thi hành chúc thư sẽ dùng để trả phí tổn cho tang lễ, phí tổn trong việc thi hành chúc thư, và thanh toán các món nợ nếu lúc đó tôi còn mắc. Aau đó chia thừa kế theo lời ghi trong bản chúc thư này.

6. Toàn bộ số tiền còn lại được chia làm bốn phần.

7. Một phần trao cho chị ruột tôi, Jennifer Gardner.

Ba phần còn lại dành cho ba người con của bà chị quá cố của tôi. Mary Pearson.

Tôi, Joseph Arthur xác nhận bản chúc thư này là ý nguyện cuối cùng của tôi.

CHỮ KÝ CỦA NGƯƠI LÀM CHÚC THƯ VÀ CỦA HAI NGƯỜI LÀM CHỨNG

Ông Kirkwood đưa bản chúc thư cho thanh tra Narracott.

- Hai trong số các nhân viên của tôi đã có mặt, chứng kiến việc ký lên bản chúc thư này.

Viên thanh tra đọc lại bằng mắt bản chúc thư.

- … Bà chị đã quá cố, Mary Pearson. Thưa ông Kirkwood, ông vui lòng cho biết thêm một số chi tiết về bà Pearson này.

- Bà ta đã mất cách đây khoảng một chục năm, còn ông chồng của bà, một nhân viên ngân hàng, đã mất trước cả vợ. Theo tôi biết, chưa bao giờ bà đến đây gặp ông Trevelyan...

- Pearson... - viên thanh tra lẩm bẩm - Còn một điều nữa, trong bản chúc thư không thấy nói cụ thể trị giá tài sản của đại úy Trevelyan là bao nhiêu. Theo ông thì số tài sản, toàn bộ khoảng bao nhiêu?

- Câu hỏi của ông rất khó trả lời...

Giống như mọi người làm nghề pháp lý khác, ông Kirkwood này chuyên biến những vấn đề đơn giản nhất cũng thành phức tạp. Ông nói:

- Ngoài lâu đài ở Sittaford, ông đại úy còn sở hữu một dinh cơ trong vùng Plymouth. Chưa kể khi thi hành bản chúc thư, sẽ còn nảy sinh nhiều diễn biến khác.

- Tôi chỉ cần con số gần đúng.

- Tôi không dám liều lĩnh đưa ra một con số nào hết...

- Thí dụ hai chục ngàn bảng chẳng hạn. Liệu có đến thế không?

- Hai chục ngàn? Thưa ông thanh tra kính mến. Trị giá toàn bộ tài sản của đại úy Trevelyan phải gấp bốn lần con số đó là ít. Nếu ông nói tám chục hoặc chín chục ngàn nghe còn tạm được.

Thiếu tá Burnaby nói chen vào:

- Tôi đã nói với ông ấy rồi: đại úy Trevelyan giàu hơn nhiều so với người ta tưởng.

Thanh tra Narracott đứng dậy:

- Thưa ông Kirkwood, vô cùng cảm ơn ông đã bỏ công giúp dỡ chúng tôi.

- Nhưng ông tin rằng những thông tin này giúp ích được ông trong việc tìm ra hung thủ? - Công chứng viên Kirkwood hỏi.

Nhưng thanh tra Narracott hoàn toàn không muốn thỏa mãn trí tò mò của ông công chứng.

- Trong những vụ án như thế này, chúng tôikhông được quyền bỏ qua một chi tiết nào. Nhân đây, xin hỏi thêm, ông biết địa chỉ của bà Jennifer Gardner và của gia đình Pearson không?

- Tôi hoàn toàn không biết gì về gia đình Pearson, còn địa chỉ bà Jennifer Gardner thì tôi có đây: Biệt thự "Hoa hồng", đường Waldon, thị xã Exter.

Viên thanh tra cảnh sát ghi địa chỉ đó vào cuốn sổ tay.

- Chà, lại thêm một loạt công việc nữa đây. Bà Mary Pearson đã quá cố có mấy con, thưa ông Kirkwood?

- Theo tôi biết thì ba: hai gái một trai, hoặc hai trai một gái, tôi không nhớ chính xác.

Thanh tra Narracott nhét cuốn sổ vào túi, xin cáo từ.

° ° °

Ra đến đường, đột nhiên ông quay sang viên thiếu tá, nhìn thẳng vào mắt ông này.

- Bây giờ chỉ có hai chúng ta. Ông có thể cho tôi biết sự thật về cái "năm giờ hai mươi nhăm" kia chứ?

Viên thiếu tá đỏ mặt.

- Tôi đã nói với ông mấy lần rồi...

- Nhưng tôi chưa thỏa mãn. Ông còn giấu tôi một sự thật nào đó. Thiếu tá Burnaby, việc ông nói đến cái giờ đó với ông bác sĩ không thể không có lý do... Tôi tin rằng tôi đã đoán được đằng sau câu nói đó là cái gì rồi.

- Nếu đã biết, sao ông còn phải hỏi tôi?

- Một người nào đó đã đến gặp đại úy Trevelyan vào giờ đó... và ông biết có chuyện đó, đúng thế không?

Viên thiếu tá im lặng. Rồi ông ta lầu bầu:

- Tôi phản đối. Tôi không biết gì cả.

- Ông cẩn thận đấy, thiếu tá Burnaby! Ông biết anh chàng tên là James Pearson chứ?

- James Pearson? Là ai vậy? Một người cháu của đại úy Trevelyan chăng?

- Tất nhiên rồi. Đại úy Trevelyan có một người cháu trai tên là James Pearson.

- Điều ấy tôi không biết. Tôi biết Trevelyan có mấy người cháu, nhưng tôi không biết tên.

- James Pearson đã nghỉ trong khách sạn Ba Vương Miện đêm qua. Rất có thể ông đã nhận ra anh ta.

- Tôi không nhận ra ai cả. Mà tôi cũng chưa bao giờ gặp một đứa cháu nào của đại úy Trevelyan.

- Nhưng ông biết là chiều hôm qua ông đại úy có chờ một trong mấy người cháu ấy đến đây thăm ông ta?

- Tôi đã bảo tôi hoàn toàn không biết kia mà - viên thiếu tá giận dữ quát lên.

Mấy người đi đường quay mặt lại nhìn họ.

- Tại sao ông không chịu tin tôi, ông thanh tra? Tôi hoàn toàn không biết chuyện một người cháu Trevelyan đến đây gặp ông ấy. Tôi chỉ biết mấy người cháu ấy hiện đang sống tại Tombouctou!

Thanh tra Narracott sửng sốt. Thái độ giận dữ của viên thiếu tá khiến ông thấy rõ ông ta không nói dối.

- Nếu vậy "năm giờ hai mươi nhăm' nghĩa là sao?

- Tốt nhất là tôi đành kể toàn bộ câu chuyện với ông vậy.

Thiếu tá Burnaby tỏ ra ngượng ngừng, ông khẽ ho thông cổ họng rồi nói:

- Thật ra tôi không tin những chuyện nhảm nhí ấy. Mình là người hiểu biết, đâu có thể tin chuyện mê tín ấy được…

Rồi thái độ mỗi lúc một ngượng ngùng, ông kể:

- Chẳng là để chiều ý thích của bà ấy, nhiều khi con người ta phải chơi cái trò ngu xuẩn ấy.

- Trò gì chẳng hạn, thưa thiếu tá?

- Chúng tôi đã chơi trò "bàn ma".

- Ra thế!

Thế là thiếu tá Burnaby, vừa luôn miệng thanh minh là mình không tin, vừa kể lại hiện tượng kỳ lạ diễn ra chiều hôm qua tại lâu đài Sittaford, trong phòng khách bà phu nhân thuê lâu đài của đại úy Trevelyan.

Thanh tra Narracott kinh ngạc.

- Cái bàn đánh vần tên "Trevelyan" và chính do đấy mà ông tìm đến nhà ông ta và phát hiện vụ án mạng?

Thiếu tá Burnaby lấy khăn tay lau mồ hôi trán.

- Tất nhiên rồi... Lúc đó tôi vẫn chưa tin. Nhưng hôm qua là Thứ sáu, cho nên tôi quyết định cứ thử ra thị trấn Exhampton để gặp ông bạn xem sao.

Tuy viên thiếu tá ra sức thanh minh là ông ta không tin nhưng thanh tra Narracott thấy rõ là ông ta bị ấn tượng rất mạnh về điều "hồn ma" cho biết. Chẳng thế, ông ta lại quyết định cuốc bộ mười cây số giữa lúc trời mưa tuyết rất lớn, và đường xá thị ngập tuyết, để "xem" ông bạn thân thiết ra sao? Nghĩ như vậy, nhưng chính bản thân thanh tra Narracott cũng không biết nên cắt nghĩa hiện tượng kia thế nào. Chẳng lẽ trò chơi "bàn ma" kia lại chứa đựng phần nào sự thật? Dù sao thì đây cũng là lần đầu tiên ông chứng kiến một trường hợp có thật. Nếu sự phát hiện của "hồn ma" kia xác nhận nguyên nhân khiến ông thiếu tá ra thị trấn Exhampton, thì nó cũng không liên quan gì đến vụ án mạng. Thanh tra Narracott đã lý luận như vậy, bởi đối với ông thế giới trần gian quan trọng hơn thế giới ma quỷ.

Nghề của ông là khám phá các vụ án.

Mà công việc đó không thể dựa vào các sức mạnh siêu nhiên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: Charles enderby


Liếc nhìn đồng hồ đeo tay, thanh tra Narracott thấy ông cần phải đi ngay cho kịp chuyến tàu đến Exter, bèn cáo lỗi với thiếu tá Burnaby, rồi chạy ra ga.

Viên thiếu tá cựu chiến binh quay về khách sạn Ba Vương Miện. Vừa bước vào cửa, ông đã thấy một chàng trai tóc chải bóng loáng, mặt tròn trĩnh trông như đứa trẻ, chạy ra niềm nở đón ông.

- Ông là thiếu tá Burnaby?

- Vâng, chính tôi.

- Nhà số 1, khu biệt thự Sittaford?

- Đúng thế.

- Tôi là người của báo Tin Điện, tôi...

Không để chàng nhà báo nói thêm lời nào, ông thiếu tá đã nổi cơn thịnh nộ, quát tháo như ở ban chỉ huy xưa:

- Im ngay! Tôi thừa biết các anh cùng bè lũ các anh rồi! Không một chút kín đáo nào hết! Không một chút tế nhị nào hết! Các anh thấy đâu có xác chết là lao đến không khác gì đàn kền kền. Nhưng tôi báo trước, các anh đừng hòng moi được ở tôi bất kỳ một thông tin nào hết! Nếu cần biết gì, mời các anh đến gặp cảnh sát. Và ít nhất cũng phải biết lịch sự, là đừng quấy rối bè bạn của nạn nhân.

Không hề tự ái, chàng trai nở một nụ cười hết sức niềm nở:

- Ông lầm rồi, thưa ông thiếu tá. Tôi hoàn toàn chưa biết gì về vụ án mạng ông vừa nói đến.

Anh ta nói chưa hoàn toàn thật. Không ai hiện có mặt trong thị trấn Exhampton nhỏ bé này dám bảo chưa hề biết gì về vụ án mạng.

- Tôi được tòa soạn báo Tin Điện cử đến đây để trao cho thiếu tá tấm ngân phiếu năm ngàn bảng, đồng thời tỏ lời khen ngợi thiếu tá là người duy nhất giải đáp chính xác câu đố của báo chúng tôi.

Thiếu tá Burnaby sửng sốt.

- Chúng tôi hy vọng thiếu tá đã nhận được bức điện chúng tôi báo tin mừng này?

- Điện à? Anh bạn trẻ thân mến, làng Sittaford chúng tôi bị ngập trong tuyết dày tới hai mét. Đã bao nhiêu ngày nay chúng tôi không nhận được một thư từ, điện báo nào từ bên ngoài.

- Nhưng ít ra thiếu tá cũng đọc được tin này trên số báo Tin Điện sáng nay chứ?

- Chưa. Hôm nay tôi chưa đọc báo.

- Tôi hiểu... Vụ án mạng đã làm thiếu tá choáng váng. Nạn nhân là bạn thân thiết của thiếu tá, hình như thế?

- Đúng. Đó là một ông bạn thân nhất của tôi.

- Một cái chết đau đớn! - chàng trai nói vẻ thông cảm.

Sau đó anh ta lấy trong túi áo ra một tờ giấy màu da bò gấp tư, kính cẩn trao thiếu tá Burnaby.

- Xin thiếu tá nhận cho, kèm theo lời khen ngợi của báo Tin Điện chúng tôi.

Thiếu tá Burnaby nhận tấm ngân phiếu, nói câu duy nhất thích hợp trong hoàn cảnh này:

- Tôi muốn mời ông uống một cốc gì đó, thưa ông...

- Enderby. Tôi là Enderby Charles. Tôi đến đây từ chiều hôm qua, với ý định trao tận tay người đoạt giải. Và báo chúng tôi muốn đăng một bài phỏng vấn nhỏ. Độc giả của chúng tôi đang quan tâm đến ý kiến người đoạt giải. Nhưng mọi người đều can tôi đến làng Sittaford. May mà ông thiếu tá có mặt ở thị trấn này, và tôi được tin ông thiếu tá nghỉ tại khách sạn Ba Vương Miện. Tìm ông thiếu tá không khó khăn gì, ở đây ai cũng biết thiếu tá.

- Ông muốn dùng gì, ông Enderby?

- Bia.

Thiếu tá Burnaby gọi hai cốc bia.

- Ai cũng bàn tán về vụ án mạng này - Enderby nói - Một vụ án mạng hết sức bí hiểm.

Thiếu tá Burnaby có vẻ rất lúng túng. Ông khó chịu với thằng cha nhà báo ba hoa này, nhưng anh ta đem đến cho ông năm ngàn bảng, cũng phải lịch sự với anh ta đôi chút.

- Nạn nhân có ai thù ghét ông ta không, thưa thiếu tá?

- Không.

- Nhưng cảnh sát không tin hung thủ chỉ là một tên kẻ trộm.

- Sao anh biết?

Anh chàng nhà báo không trả lời câu hỏi.

- Nghe bảo chính thiếu tá là người phát hiện ra việc nạn nhân bị giết.

- Đúng thế.

- Khi nhìn thấy ông bạn đã chết, hẳn thiếu tá kinh hoàng chứ?

Câu chuyện cứ diễn ra theo cái điệu ấy. Không muốn cung cấp thông tin nào cho anh chàng nhà báo, thiếu tá Burnaby chỉ trả lời bằng hai từ đơn giản "Có" hoặc "Không" những câu hỏi rất khôn khéo của anh ta. Thái độ lịch sự của Enderby lát sau làm Burnaby dần dần thấy mến. Cuối cùng, ông ta đứng lên, cáo lỗi, bảo cần ra bưu điện.

- Xin thiếu tá vui lòng ký nhận cho tôi về tấm ngân phiếu.

Thiếu tá Burnaby ngồi xuống bên cạnh bàn, ký vào tờ biên nhận, đưa cho anh chàng nhà báo.

- Thế là xong, cảm ơn thiếu tát - Enderby nói, nhét tờ giấy vào túi áo.

Thiếu tá Burnaby hỏi:

- Bây giờ ông về London chứ?

- Chưa đâu, thưa thiếu tá. Tôi muốn chụp vài tấm ảnh ngôi biệt thự của thiếu tá tại làng Sittaford, trong đó có hình thiếu tá đang cho lợn ăn hoặc xén tỉa cây hoa, hoặc làm một việc gì đó mà thiếu tá thích làm. Độc giả sẽ rất vui được biết người đoạt giải nhất cuộc thi này hình dạng ra sao. Tôi còn muốn hỏi xem thiếu tá định dùng số tiền năm ngàn bảng kia vào việc gì? Cách sử dụng càng độc đáo bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nếu thiếu tá từ chối trả lời, độc giả chúng tôi sẽ thất vọng lắm đấy.

- Đồng ý thôi, nhưng thời tiết này ông chưa thể lên làng Sittaford được đâu. Mưa tuyết quá dữ dội, khiến con đường ngập tuyết dày, không xe ôtô nào đi được, ít nhất trong vòng ba ngày nữa.

- Tiếc quá! - chàng nhà báo nói - Vậy tôi đành lưu lại ở thị trấn này thêm vài ngày nữa vậy. Dù sao thì món ăn ở khách sạn Ba Vương Miện cũng không đến nỗi nào. Hẹn gặp lại, thưa thiếu tá!

Enderby ra phố, đi về phía nhà bưu điện đánh điện về tòa soạn, báo tin là anh sẽ gửi tin và bài chi tiết về vụ án mạng ở Exhampton.

Suy nghĩ một chút, nhà báo Enderby quyết định tìm gặp người đầy tớ của đại úy Trevelyan để phỏng vấn. Sau khi hỏi được địa chỉ của Evans, anh chàng phóng viên đến số nhà 85 phố Fore. Bây giờ Evans trở thành nhân vật quan trọng, mọi người đều thi nhau trỏ nhà anh ta.

Enderby gõ cửa. Người mở cửa cho anh trông có vẻ lính hải quân đến nỗi Enderby nhận ra ngay.

- Anh là Evans? Tôi được thiếu tá Burnaby giới thiệu đến.

- Thế ạ?... - Evans ngập ngừng một giây rồi nói.

- Mời ông vào.

Enderby vào. Một phụ nữ trẻ, tóc đen, má hồng, nhanh nhẹn đi đi lại lại trong nhà. Enderby đoán là vợ Evans.

- Ông chủ anh chết một cách đau đớn quá - Enderby nói.

- Vâng, quả là ghê tởm.

- Anh đoán hung thủ là ai?

- Theo tôi, là một tên trộm tầm thường.

- Nhưng người ta đã loại khả năng ấy rồi.

- Vậy à?

- Đúng thế. Ngay từ đầu, cảnh sát đã khẳng định những dấu vết của một cuộc đột nhập kiểu ăn trộm là do hung thủ cố tình tạo ra để đánh lạc hướng điều tra.

- Ai nói với ông như thế?

Thật ra chàng nhà báo Enderby biết được điều này do cô hầu phòng trong khách sạn Ba Vương Miện là em vợ của ông cảnh sát trưởng Graves, nhưng anh đáp:

- Thanh tra cảnh sát. Ông ta không bị lừa một cách dễ dàng như thế đâu.

- Vậy họ nghi cho ai? - Cô vợ Evans lo lắng bước lên hỏi.

- Rebecca, em đừng hoảng hốt lên như thế - chồng cô nói.

Cô vợ nói tiếp:

- Mấy ông cảnh sát bao giờ cũng độc ác và ngu xuẩn.

Rồi cô liếc nhìn Enderby:

- Ông là cảnh sát à?

- Không đâu! Tôi là nhà báo, làm ở báo Tin Điện. Tôi đến đây để trao thiếu tá năm ngàn tiền thưởng giải nhất cuộc thi của báo chúng tôi vừa rồi.

- Vô lý! - Evans kêu lên - Báo có chấm thưởng công bằng không đấy?

- Anh nghi ngờ à?

- Đại úy Trevelyan chủ tôi luôn bảo, chẳng bao giờ phần thưởng được chấm cho người đoán trúng nhất. Vì vậy ông chủ tôi thường dùng địa chỉ của tôi để tham dự các cuộc thi của báo chí.

Enderby khích để Evans nói. Thế là anh chàng cựu binh sĩ hải quân ngây thơ kia kể luôn chuyện ông chủ anh ta được giải ba cuốn truyện. Enderby thích thú thầm nghĩ, thế là trên các cột báo sẽ đăng đầy những bài tường thuật của anh ta do người đầy tớ của nạn nhân cung cấp chất liệu. Nhưng đồng thời Enderby cũng thầm nghĩ, tại sao cô vợ của Evans có vẻ lo lắng như vậy. Liệu có phải do tính đa nghi của loại người thiển cận giống như kiểu cô ta không?

Evans nói:

- Ông là nhà báo, mong ông tìm giúp cho ra kẻ đã giết ông chủ tôi, bởi tôi nghe nói các nhà báo thường giúp được cảnh sát rất nhiều trong việc tìm ra thủ phạm các vụ án.

Cô vợ nói thêm:

- Chắc chắn là một tên trộm, chứ còn ai nữa? Khắp thị trấn này không ai muốn làm hại ông chủ chúng tôi.

Enderby đứng dậy.

- Tôi phải đi đây. Nếu anh chị cho phép, thỉnh thoảng tôi sẽ ghé vào gặp anh chị, trao đổi về tất cả những chuyện này. Nếu ông đại úy là người đã giật được giải thưởng ba cuốn tiểu thuyết của báo Tin Điện, thì báo tất phải có bổn phận góp phần vào việc điều tra hung thủ đã giết ông đại úy.

Enderby chào hai vợ chồng Evans rồi đi ra.

“Vậy thủ phạm là ai”? - chàng nhà báo vừa đi vừa lẩm bẩm một mình - “Mình không tin là Evans. Rất có thể chỉ là một tên trộm! Nhưng như thế thì vụ án tầm thường quá. Trong vụ án không có bóng dáng một người đàn bà nào! Thật đáng tiếc! Mình phải tìm cho ra một chi tiết nào "giật gân” mới được! Đây là cơ hội ngàn năm có một để mình thăng tiến, không được bỏ qua! Thiếu tá Burnaby sẽ kể cho mình nghe mọi thứ, chỉ cần mình ra vẻ kính trọng ông ta là được. Hay mình gợi chuyện về trận thủy chiến trên biển Transvaal? Mấy ông sĩ quan hải quân già ấy thích người ta nhắc lại chiến tích của họ lắm. Hay đấy, mình dùng cách đó sẽ tha hồ có rất nhiều chất liệu để viết bài”.

Mang đầy dự tính trong đầu, chàng trai Enderby chậm rãi bước về phía khách sạn Ba Vương Miện.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: Biệt thự "Hoa hồng"


Tàu hỏa chạy từ thị trấn Exhampton đến thị xã Exter mất khoảng nửa giờ. Lúc mười hai giờ kém năm, thanh tra Narracott gõ cửa biệt thự "Hoa hồng”.

Ngôi biệt thự vẻ hoang tàn, cỏ mọc lấn mọi nơi, trông tiêu điều. Thanh tra Narracott thầm nghĩ: "Xem chừng cuộc sống ở đây không lấy gì làm sung túc”.

Cho đến lúc này, chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ đại úy Trevelyan bị giết bởi một kẻ nào thù hằn. Trong khi đó, phần gia tài thừa kế, dù chia ra bốn phần đi nữa thì cũng khá lớn. Tên người khách ở khách sạn Ba Vương Miện họ Pearson có vẻ khả nghi, nhưng đó là một họ rất phổ biến trên khắpnước Anh. Thanh tra Narracott có tính luôn hoài nghi những kết luận vội vã, và ông muốn tạo chomình một cách suy nghĩ thoải mái trong việc điều tra.

Một chị đầy tớ vẻ lạnh nhạt ra mở cửa.

- Chào chị - thanh tra Narracott nói - Tôi muốn gặp phu nhân Gardner về vụ ông em bà là đại úy Trevelyan bị chết.

Viên thanh tra thận trọng chưa để lộ ra ý đồ nào của mình cho chị đầy tớ. Thấy khách là người của cảnh sát, chị ta hơi giật mình.

- Phu nhân Gardner đã biết tin ông em bà chết chưa? - viên thanh tra bình thản hỏi.

- Có, bà chủ nhận được điện của ông công chứng Kirkwood.

Chị đầy tớ dẫn Narracott vào phòng khách.

Trong nhà cũng thảm hại không kém gì bên ngoài,rõ ràng là phải bỏ ra một số tiến lớn để sửa sang lại ngôi nhà. Tuy nhiên không hiểu do đâu, thanh tra Narracott cảm thấy những đồ đạc cũ kỹ kia toát ra một vẻ gì dễ mến.

- Hẳn bà chủ chị choáng váng lắm?

Chị đầy tớ lạnh nhạt nói:

- Hai chị em bà chủ tôi có mấy khi gặp nhau đâu?

- Bức điện của ông công chứng có nói ông em phu nhân bị giết không?

- Bi giết? - chị đầy tớ tròn xoe mắt kinh hoàng.

- Nghĩa là ở đây chưa ai biết gì hết. Xin lỗi, tên chị là gì?

- Beatrice, thưa ông.

- Chị Beatrice, tôi rất cần gặp bà chủ, bởi chỉ chiều nay thôi, báo chí sẽ đưa tin về vụ án mạng ấy. Bà chủ chị chiều hôm qua có đến Exhampton không đấy? - Viên thanh tra hỏi bằng giọng hết sức thản nhiên.

- Tôi không nghe nói. Bà chủ tôi có lệ, chiều nào cũng đi dạo phố, mua sắm, rồi vào rạp xem phim.

- Bà về nhà lúc mấy giờ?

- Khoảng sáu giờ.

Vậy là bà Gardner có bằng chứng ngoại phạm.

- Tôi không được biết mấy về hoàn cảnh gia đình nhà ta. Phu nhân Gardner góa chồng phải không nhỉ?

- Không phải đâu, thưa ông.

- Vậy ông Gardner làm gì?

- Không làm gì cả. Vì ông chủ tôi là thương binh nặng.

- Thật thế sao?

- Suốt ngày, ông chủ tôi không đi đâu, chỉ nằm trên giường. Chúng tôi thuê một y tá chăm sóc ông chủ.

- Ra thế. Bây giờ chị báo bà chủ biết ông công chứng Kirkwood ở Exhampton cử tôi đến đây gặp bà.

Chị đầy tớ ra. Lát sau một người phụ nữ cao lớn, cử chỉ đường bệ, tóc hoa râm bước vào. Bà ta nhìn khách vẻ dò hỏi.

- Ông công chứng Kirkwood ở Exhampton cử ông đến đây?

- Không hẳn là như thế, thưa bà. Tôi nói thế với chị đầy tớ thôi. Em trai bà, đại úy Trevelyan bị ám sát chiều hôm qua. Còn tôi là thanh tra Narracott, chịu trách nhiệm điều tra vụ án mạng này.

Bà Gardner này hẳn phải có dây thần kinh bằng sắt. Bà ta chỉ nheo mắt, hơi thở mạnh hơn bình thường, rồi trỏ ghế mời khách ngồi.

- Bị ám sát? Khó mà tin được! Kẻ nào có thể giết cậu ấy được?

- Đó chính là điều tôi đang cần làm sáng tỏ, thưa bà.

- Tất nhiên rồi. Tôi hy vọng có thể giúp được ông, nhưng chắc gì. Trong mười năm qua, hai chị em chúng tôi quá ít gặp nhau. Tôi lại không biết các bạn bè của cậu ấy, và những người cậu ấy tiếp xúc.

- Xin bà tha lỗi, nhưng giữa bà với ông đại úy có xích mích gì không?

- Nói xích mích thì không. Đúng hơn, đó là sự lạnh nhạt. Cậu em tôi không tán thành cuộc hôn nhân của tôi. Chắc ông đã biết, cậu em tôi được một bà cô cho thừa kế một gia tài rất lớn. Trong khi đó chị tôi và tôi lại lấy chồng nghèo. Hồi chồng tôi bị tai nạn, liệt, tôi rất cần một khoản tiền để chữa chạy. Tôi bèn hỏi vay cậu ấy, nhưng cậu ấy từ chối. Tất nhiên đấy là quyền của cậu ấy. Nhưng từ ngày đó hai chị em rất ít khi gặp nhau, thậm chí không viết thư cho nhau nữa.

Lời khai của bà Gardner rất rõ ràng và cô đọng.

Thanh tra Narracott thầm nghĩ: "Một phụ nữ khác thường”. Khác thường ở chỗ nào thì ông không cắt nghĩa được. Bà Gardner bình thản kể về các sự kiện, nhưng không hề hỏi chi tiết về cái chết của ông em.

- Bà muốn biết vài chi tiết về cái chết của đại úy Trevelyan không?

Bà Gardner chau mày.

- Có cần thiết không? Tôi hy vọng cậu ấy chết không đến nỗi đau đớn lắm, có phải thế không?

- Đúng thế. Ông ấy chết ngay lập tức.

- Thế là đủ. Ông không cần kể gì thêm nữa.

"Lạ lùng! Quả là lạ lùng!" Thanh tra Narracott thầm nghĩ.

Dường như bà Gardner đọc được ý nghĩ trong óc viên thanh tra, bà nói:

- Chắc nghe tôi nói ông thấy lạ lùng, thưa ông thanh tra? Nhưng nếu ông biết tất cả những nỗi ghê tởm mà chồng tôi phải chứng kiến... và kể lại cho tôi nghe, hẳn ông sẽ hiểu tôi hơn.

- Tất nhiên rồi, thưa bà Gardner. Tôi đến đây chỉ cốt thu thập thêm một số thông tin về bà và gia đình bà. Bà có thể cho tôi biết về những họ hàng khác còn sống của ông em bà không?

- Họ hàng gần thì chỉ có gia đình Pearson, mấy đứa con của bà chị tôi, bà Mary Pearson.

- Bà Pearson có mấy người con?

- Ba: hai con trai James và Brian, một con gái là Sylvia.

- James?

- Nó lớn nhất, hiện đang làm cho một công ty bảo hiểm.

- Anh ấy bao nhiêu tuổi?

- Hai mươi tám.

- Có vợ chưa?

- Chưa, nhưng có người yêu... nghe nói là một cô gái rất đáng yêu nhưng tôi chưa gặp.

- Địa chỉ James Pearson?

- 21, phố Cromwell, quận Tây-Nam, London.

Thanh tra Narracott ghi vào sổ tay.

- Người con thứ hai?

- Sylvia, chồng là Martin Dering, một cây bút viết tiểu thuyết khá nổi tiếng.

- Địa chỉ?

- Biệt thự "Tổ ấm", đường Surray, thành phố Wimbledon.

- Người con thứ ba?

- Brian, hiện sống ở Australia, tôi không biết địa chỉ nó, nhưng ông hỏi anh và chị nó chắc chắn biết.

- Vô cùng cảm ơn bà, thưa bà Gardner. Để cho đúng thủ tục, xin bà cho biết chiều và tối hôm qua bà làm những gì ở đâu?

Bà Gardner tỏ vẻ ngạc nhiên.

- Để tôi nhớ lại. Chiều qua, tôi đi mua sắm vài thứ lặt vặt, rồi đi xem phim. Khoảng sáu giờ chiều tôi về nhà. Thấy váng đầu, tôi đi nằm cho đến bữa ăn tối.

- Cảm ơn bà.

- Ông cần hỏi thêm gì nữa không?

- Hiện thế là đủ. Bây giờ tôi đi tìm gặp mấy người cháu của bà. Tôi không biết ông công chứng Kirkwood đã thông báo với bà chưa, là bà và ba người cháu của đại úy Trevelyan được hưởng thừa kế của ông ấy.

- Vậy là tôi sắp đổi đời! Cho đến nay, tôi phải tính toán từng xu, và phải bó mồm bó miệng đến khổ.

Bà nhổm dậy khi nghe thấy giọng đàn ông gọi trên gác.

- Mình đâu rồi?

- Ông tha lỗi - Bà Gardner nói với viên thanh tra.

Lúc bà mở cửa, tiếng gọi vang to và khẩn thiết:

- Mình đâu rồi? Lên đây mau!

Thanh tra Narracott đi theo bà Gardner ra đến cửa phòng khách, dừng lại nhìn theo người phụ nữ hấp tấp chạy lên thang gác.

- Em đây, em đây!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: Gia đình Pearson


Rời khỏi biệt thự "Hoa hồng", thanh tra Narracott đến gặp cấp trên, chánh thanh tra cảnh sát Maxwell. Ông này nghe thanh tra báo cáo chi tiết về việc điều tra.

- Vụ án mạng này chắc chắn sắp gây dư luận ầm ĩ. Báo chí sẽ đưa tin với những lời lẽ to tát đấy - Viên Chánh thanh tra trầm ngâm nói.

- Tôi cũng nghĩ thế, thưa sếp.

- Chúng ta phải hết sức thận trọng. Tránh cho được mọi sơ suất. Tôi cho rằng ông đang đi theo hướng đúng đấy. Hãy đến gặp ngay James Pearson... tìm hiểu xem anh ta làm những gì chiều hôm qua. Việc anh ta khai tên thật ở khách sạn khiến ta thấy anh ta không có chủ định từ trước. Rất có thể trong cuộc cãi cọ với ông cậu, anh ta nổi nóng. Nếu đúng là Pearson ấy thì hẳn ngay tối hôm đó anh ta đã nghe được những bình luận xung quanh cái chết của ông cậu. Vậy tại sao anh ta vội vã bỏ đi từ sáng sớm như vậy? Có chuyện gì đó không đàng hoàng. Ông làm rõ chuyện này ngay, càng sớm càng tốt.

- Vâng. Trưa nay tôi sẽ đáp chuyến tàu một giờ bốn mười nhăm đi London. Sau đấy tôi còn phải gặp bà Willett, người thuê lâu đài của đại úy Trevelyan ở Sittaford. Lúc này tuyết dày quá chưa thể lên đó được. Xem chừng bà ta không liên quan gì đến vụ án. Hai mẹ con tổ chức chơi trò "bàn ma" đúng vào lúc xảy ra vụ án. Có một chuyện rất lạ...

Thanh tra Narracott thuật lại câu chuyện của thiếu tá Burnaby cho sếp nghe.

- Chuyện vớ vẩn. Loại chuyện như thế đều do những kẻ mê tín bịa ra. Nhưng ông thấy thiếu tá Burnaby có vẻ chân thật chứ?

- Vâng. Tôi phải gặng hỏi mãi, ông ta mới chịu kể ra câu chuyện kia. Ông ta không tin vào ma quỷ. Dân hải quân mà. Nhưng thôi, tôi phải ra ga ngay kẻo lỡ chuyến tàu.

- Đúng thế. Đi ngay đi.

Đến London, thanh tra Narracott tìm số nhà 21 phố Cromwell. Người ta cho biết ông James Pearson đang làm ở công ty bảo hiểm, khoảng bảy giờ tối mới về.

Thanh tra Narracott thản nhiên chào, làm như không có gì quan trọng.

- Nếu tiện tôi sẽ quay lại.

Ông nghĩ không nên đến văn phòng, và thấy lúc này nên tranh thủ đến gặp cô cháu của đại úy Trevelyan, Sylvia Pearson, bây giờ chị ta lấy tên chồng là phu nhân Martin Dering.

Biệt thự "Tổ ấm" khá sang trọng. Bà Dering có nhà.

Một gia nhân mặc lễ phục màu vàng đất dẫn thanh tra Narracott vào phòng khách choáng lộn. Anh ta đi ra và liền sau đấy, phu nhân Dering bước vào.

- Chào ông, hẳn ông đến đây về chuyện cái chết của cậu tôi. Thật quá khủng khiếp. Bản thân tôi cũng rất sợ bọn gian phi. Tuần trước, tôi phải lắp thêm hai ổ khóa vào cánh cửa sau nhà đấy.

Phu nhân Dering mới hai mươi nhăm tuổi, nhưng trông như ngoài ba mươi. Vóc thấp bé, tóc vàng, da mặt xanh lướt, dáng vẻ mệt mỏi, lo lắng, và giọng nói của chị ta có một kiểu kéo dài nghe rất khó chịu. Không để viên thanh tra nói chen vào, chị ta liến thoắng:

- Tôi rất muốn giúp được ông, nhưng chúng tôi biết quá ít về cậu tôi. Tính cậu keo kiệt, các cháu có cần gì, không bao giờ cậu giúp. Đã thế lại chuyên chê trách. Cậu tôi không hiểu biết tý gì về công việc của một nhà văn. Bởi thành công, đây tôi nói thành công đích thực, không phải bao giờ cũng thể hiện qua tiền bạc.

Rồi chị ta ngưng nói. Lợi dụng cơ hội này, thanh tra Narracott hỏi ngay:

- Hẳn bà biết tin ngay sau khi vụ án mạng xảy ra?

- Vâng, dì Gardner đánh điện cho tôi ngay. Chắc chiều nay báo chí sẽ đưa tin thôi.

- Đã bao lâu rồi bà chưa gặp đại úy Trevelyan?

- Từ ngày lấy chồng, tôi mới chỉ gặp cậu tôi có hai lần. Lần thứ hai, cậu tôi có thái độ thô lỗ với chồng tôi, ông Martin Dering. Cậu tôi không hiểu gì về văn chương, chỉ quan tâm đến một một thứ là thể thao thôi.

Viên thanh tra thầm nghĩ "Chồng chị ta hỏi vay tiền và bị ông đại úy từ chối, chắc thế chứ gì".

- Theo thủ tục xin bà cho biết chiều hôm qua bà ở đâu và làm gì, thưa bà Dering?

- Chiều hôm qua à? Tôi đánh bài, và vì chồng tôi đi vắng, tôi rủ một chị bạn về nhà chơi suốt cả buổi tối.

- Ông nhà đi đâu? Đi công cán?

- Không, nhà tôi dự một buổi chiêu đãi trong giới nhà văn - chị ta nói giọng hãnh diện - Trưa hôm qua nhà tôi ăn hiệu với một chủ xuất bản Hoa Kỳ.

- Hình như bà có một người em trai hiện ở Australia?

- Đúng thế.

- Bà biết địa chỉ ông ấy chứ?

- Nếu ông cần, tôi sẽ tìm... tên thành phố ấy rất khó nhớ.

- Còn anh của bà?

- James?

- Vâng. Tôi muốn gặp ông ấy.

Chị ta vội vã nói địa chỉ, đúng địa chỉ Narracott đã biết.

Liếc nhìn đồng hồ, thanh tra Narracott thầm nghĩ, phải về London ngay, giờ này hẳn James đã có nhà.

Vẫn người phụ nữ đứng tuổi ra mở của sổ nhà 21, cho biết ông James đã về, đang ở trên tầng hai, và bà ta mời viên thanh tra lên đó.

Bà ta chạy lên trước, gõ một cánh cửa, nói to:

- Một ông khách muốn gặp cậu.

Rồi bà mở cửa, đưa tay mời viên thanh tra vào.

Một chàng trai mặc âu phục đang đứng giữa phòng. Vóc người cân đối, lực lưỡng, khuôn mặt khá đẹp trai, tuy nhiên cái miệng trễ xuống của một con người nhu nhược. Cặp mắt thâm quầng chứng tỏ anh ta luôn bị mất ngủ.

Thanh tra Narracott tiến lên, tự giới thiệu:

- Tôi là thanh tra Narracott...

Ông chỉ nói có thế.

Chàng trai kêu lên một tiếng rồi ngã phịch xuống ghế, hai tay duỗi về phía trước, đầu gục xuống.

- Lạy Chúa tôi! Tôi biết mà! - Anh ta rên rỉ.

Lát sau anh ta ngẩng đầu lên:

- Nào, ông cần gì tôi nào, ông thanh tra?

Thanh tra Narracott làm ra vẻ thản nhiên đáp:

- Tôi đang điều tra về vụ án mạng ông đại úy Trevelyan. Ông có thể cho tôi biết những gì ông biết xung quanh cái chết đó không?

James chậm chạp đứng lên, buồn bã nói:

- Ông đến đây để bắt tôi?

- Nếu thế, tôi đã nói câu đúng như thể thức. Nhưng tôi chỉ đơn giản muốn nếu có thể, ông cho tôi biết chiều hôm qua ông ở đâu và đã làm những gì?

- Nếu tôi không trả lời thì sao? Sự im lặng sẽ chống lại tôi chứ? Thấy ông đến đây là tôi đã hiểu rằng ông biết việc hôm qua tôi đến thị trấn Exhampton.

- Thưa ông James Pearson, ông đã ghi họ tên ông trong cuốn sổ của khách sạn.

- Tôi biết có chối cũng vô ích. Thì tôi đã đến đấy... Mà sao tôi lại không được đến đấy nhỉ?

- Đúng thế, ông có quyền đến đấy.

- Tôi đến Exhampton để gặp cậu tôi.

- Hai người có hẹn nhau trước?

- Ông nói "hẹn" nghĩa là sao?

- Là đại úy Trevelyan có biết trước việc ông đến gặp?

- Cậu tôi không biết. Tôi đến gặp ông ấy chỉ là trong một lúc đột nhiên nảy ra ý định đó.

- Không nhằm một mục đích gì đặc biệt?

- Không. Tôi đến để thăm ông cậu tôi, chỉ có vậy thôi.

- Và ông đã gặp?

James im lặng. Im lặng rất lâu. Vẻ do dự hiện trên nét mặt anh ta. Bỗng viên thanh tra thấy thương hại con người trẻ tuổi kia, anh ta không biết trong trường hợp này, im lặng có nghĩa là thú nhận.

Cuối cùng, James thở một hơi rất dài.

- Đơn giản nhất là tôi kể hết ra với ông. Đúng, tôi đã gặp cậu tôi. Lúc xuống sân ga, tôi đang lo tuyết rơi dày thế này làm sao mò được làng Sittaford, nhưng may thay tôi hỏi thăm một người qua đường thì được biết cậu tôi hiện đang ở ngay trong thị trấn Exhampton.

- Lúc đó khoảng mấy giờ?

- Khoảng một giờ trưa. Tôi bèn đến khách sạn Ba Vương Miện, thuê phòng, xuống ăn bữa trưa, rồi đi gặp cậu tôi.

- Ngay sau bữa ăn?

- Không, sau đó một chút.

- Mấy giờ ông ra khỏi khách sạn?

- Quả thật tôi không biết lúc đó là mấy giờ.

- Ba rưỡi? Bốn giờ? Hay bốn rưỡi?

- Tôi có cảm giác hình như sớm hơn thế.

- Bà Belling chủ khách sạn Ba Vương Miện nói bốn rưỡi ông mới ra khỏi khách sạn.

- Có lẽ bà ấy lầm. Tôi đến nhà cậu tôi sớm hơn.

- Sau đó thì thế nào?

- Tôi tìm đến nhà cậu tôi, trò chuyện với ông rồi quay về khách sạn.

- Ông vào nhà đại úy Trevelyan theo lối nào?

- Tôi bấm chuông, và cậu tôi đích thân ra mở cửa.

- Nhìn thấy ông, đại úy Trevelyan có ngạc nhiên không?

- Có. Cậu không ngờ tôi đến.

- Ông ngồi đấy trong bao lâu?

- Khoảng mười lăm phút... Hai mươi phút là cùng - James ngập ngừng đáp - Tôi không nhớ nữa.

- Không, ông nhớ đấy, ông James!

Câu nói nghiêm khắc của viên thanh tra cảnh sát làm James hoảng hốt. Anh ta lí nhí đáp.

- Tôi ra khỏi nhà cậu tôi lúc năm giờ kém mười lăm.

- Ông về đến khách sạn Ba Vương Miện lúc sáu giờ kém mười lăm. Mà đi từ nhà đại úy Trevelyan đến khách sạn, nhiều lắm cũng chỉ mất bảy tám phút là cùng.

- Trên đường về, tôi có dạo phố một chút.

- Giữa lúc thời tiết giá lạnh này sao?

- Lúc đó chưa bắt đầu trận mưa tuyết lớn.

- Ông nói chuyện gì với ông đại úy?

- Không có gì đặc biệt... Tôi chỉ hỏi tin tức về sức khỏe của cậu tôi thôi…

"Anh ta nói dối quá vụng” - Viên thanh tra thầm nghĩ.

- Thôi được. Nhưng tại sao khi thấy người ta bàn tán về cái chết của đại úy Trevelyan, ông lại rời khỏi thị trấn Exhampton và giấu mối quan hệ thân tình giữa ông và nạn nhân?

- Tại tôi sợ - chàng trai thật thà đáp - Tôi thấy người ta nói thời gian cậu tội bị giết lại gần khớp với thời gian tôi rời khỏi nhà cậu tôi, tôi hoảng quá. Thế là sáng sớm hôm sau, tôi đáp ngay chuyến tàu đầu tiên rời khỏi thị trấn Exhampton. Trong lúc hoảng sợ người ta làm mà không suy nghĩ.

- Đó là tất cả những gì ông muốn nói với tôi?

- Vâng.

- Nếu vậy, mời ông đi theo tôi. Chúng tôi sẽ ghi lại toàn bộ lời khai của ông, rồi đọc lại cho ông nghe, và ông ký vào đó.

- Chỉ có vậy thôi?

- Có thể chỉ có vậy, nếu như người ta không thấy cần phải tạm giữ ông lại cho đến khi kết thúc cuộc điều tra.

- Lạy Chúa tôi! - James thở dài - Không có ai đến cứu tôi sao?

Vừa lúc đó cửa mở, một cô gái bước vào.

Thanh tra Narracott lập tức công nhận cô gái trước mặt ông không thuộc loại tầm thường. Không đẹp lắm nhưng duyên dáng và đáng mến vô cùng. Khuôn mặt cũng như toàn bộ con người cô toát ra một vẻ tháo vát, nghị lực và thông minh.

- James! - Cô kêu lên - Có chuyện gì thế?

- Vậy là hết, Emily! Người ta cho là anh giết cậu Trevelyan.

- Ai nói thế?

James trỏ người khách:

- Ông ấy là thanh tra Narracott.

Rồi anh nói thêm, như thể giới thiệu:

- Cô Emily Trefusis.

Cặp mắt đen láy của cô gái chĩa về phía viên thanh tra. Narracott không đáp lại.

Thấy vậy Emily bèn quay sang James:

- Hẳn anh lại nói năng vụng dại rồi. Nếu anh chịu chăm đọc báo một chút, anh sẽ hiểu rằng không nên nói gì với cảnh sát nếu không có một luật sư hẳn hoi bên cạnh. Ông bắt anh James à, ông thanh tra?

Thanh tra Narracott trình bày chức trách của mình.

James kêu lên:

- Emily! Em vẫn tin là anh vô tội chứ?

- Em hoàn toàn tin, anh yêu! Tất nhiên là em tin! - Rồi cô nói thêm vẻ suy nghĩ - Anh làm gì có đủ gan giết người!

- Tôi cảm thấy trên cõi đời này, tôi không còn ai là bạn nữa!

- Có em đây thôi, James. Anh nhìn chiếc nhẫn đính hôn trên bàn tay em đây này. Vị hôn thê của anh sẽ chung thủy với anh mãi mãi. Bây giờ anh hãy cứ đi theo ông thanh tra, mọi việc khác để em lo. Hãy tin ở em.

James đứng lên, vẻ mặt vẫn còn hoang mang.

Anh ta lấy tấm áo măng tô vắt trên lưng ghế, mặc vào người. Viên thanh tra lấy chiếc mũ trên bàn gần đấy đưa anh. Họ ra cửa. Lúc ra đến ngoài, thanh tra Narracott lịch sự nói:

- Tạm biệt tiểu thư Emily Trefusis.

- Tạm biệt, thưa ông thanh tra.

Nếu thanh tra biết rõ Emily hơn, hẳn ông ta đã thấy trong chữ "tạm biệt” của cô chứa đựng một lời thách thức.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: Emily vào cuộc


Cuộc mổ xác đại úy Trevelyan được tiến hành vào sáng thứ hai. Vụ án mạng "Biệt thự Hazelmoor" lập tức trở thành sự việc gây dư luận sôi nổi. Thị trấn Exhampton đâm thành nổi tiếng. Tin kẻ bị nghi là hung thủ chính là cháu ruột nạn nhân, gọi đại úy bằng cậu, thu hút mối quan tâm của công chúng khắp nước. Nếu như các vụ án khác chỉ chiếm một cột nhỏ trong trang cuối cùng các tờ báo, thì vụ "Biệt thự Hazelmoor” ngày nay chiếm nhiều cột dày đặc với hàng chữ "tít" cỡ lớn ngay trên trang đầu.

Các nhà báo đổ xô về thị trấn Exhampton. Lại một lần nữa chàng phóng viên Enderby thấy việc được tòa soạn giao cho chuyển tấm séc năm ngàn bảng cho người đoạt giải nhất cuộc thi của báo Tin Điện là một may mắn hiếm có. Chàng nhà báo bèn bám chặt viên thiếu tá như đỉa, quyết định phải lên làng Sittaford lấy cớ chụp mấy tấm hình ngôi biệt thự của người đoạt giải, nhưng thật ra để thăm dò dân trong xóm ông ta, lấy tư liệu viết bài.

Lúc ngồi ăn trưa, Enderby không thể không chú ý đến một cô gái trẻ xinh đẹp, ăn mặc cầu kỳ, ngồi chiếc bàn bên cạnh cửa phòng ăn. Chàng phóng viên thầm tự hỏi: "Cô gái xinh đẹp kia đến Exhampton làm gì nhỉ?” Cô ta không phải người trong gia đình nạn nhân, và càng không phải trong số người đông đúc do vô công rồi nghề, đến đây chỉ vì tò mò.

Enderby thầm nghĩ. "Không biết cô ta còn ở đây lâu nữa không? Nếu cô ta đi ngay thì tiếc quá. Mình sắp phải lên làng Sittaford bây giờ. Đành phải bỏ cơ hội hiếm có này."

Nhưng Enderby vừa ăn xong thì xảy ra một chuyện bất ngờ. Trong lúc anh ta đứng ngoài cửa ngắm cảnh tuyết đang tan dần và ánh nắng mặt trời mùa đông yếu ớt tràn xuống phố xá, thì một giọng phụ nữ du dương vẳng đến tai anh ta:

- Xin ông tha lỗi? Ông có thể cho tôi biết vùng này có thắng cảnh nào để đi xem không?

Chàng nhà báo Enderby liền lấy cơ hội hiếm hoi này để làm quen với cô gái vô cùng xinh đẹp và đáng mến này.

- Có đấy, thưa tiểu thư. Có một tòa lâu đài cổ hoang tàn. Nếu cô cho phép, tôi xin chở cô đến đó.

- Ôi, ông tốt bụng quá. Nhưng ông có thời gian chứ?

Enderby giải thích rằng anh rảnh cả buổi chiều nay và hai người có thể cùng đi xem tòa lâu đài cổ kia.

- Ông là nhà báo Enderby phải không? - Cô gái hỏi.

- Vâng, đúng thế. Nhưng sao cô biết?

- Tôi hỏi thăm bà Belling, chủ khách sạn.

- Tôi hiểu.

- Tôi là Emily Trefusis. Thưa ông Enderby, ông có muốn giúp tôi không?

- Giúp cô? Tất nhiên rồi... nhưng...

- Vậy tôi xin tự giới thiệu, tôi là vị hôn thê của James Pearson.

- Thật ạ? - Enderby reo lên mừng rỡ.

Anh đã như nhìn trước thấy những bài tường thuật ký tên anh chiếm nhiều cột trên báo Tin Điện, những bài chắc chắn thu hút công chúng đông đảo.

- Cảnh sát đã bắt anh ấy - Emily Trefusis nói - Nhưng, thưa ông Enderby, tôi cam đoan với ông là vị hôn phu của tôi vô tội. Tôi đến đây để chứng minh anh ấy vô tội. Nhưng một người phụ nữ đơn độc rất khó lọt vào được mọi nơi...

- Cô nói có lẽ đúng - chàng nhà báo gật đầu thông cảm.

- Vì vậy, thưa ông Enderby, tôi đề nghị ông với tôi ta lập thành một liên minh hỗ trợ lẫn nhau, tôi tin làm như thế sẽ có lợi cho cả ông lẫn tôi. Với tư cách nhà báo, ông có thể giúp tôi tiến hành một cuộc điều tra nhỏ. Tôi muốn...

Emily ngừng lại. Điều cô muốn thật ra là biến anh chàng nhà báo này thành một điệp viên phục vụ cô hoặc một tên nô lệ để cô tha hồ sai khiến. Nhưng Emily hiểu rằng điều cô muốn ấy cần phải được nói ra bằng những lời lẽ tâng bốc để dễ dàng lọt vào tai anh ta. Dù sao, điều quan trọng là cô phải nắm quyền chỉ huy, tuy nhiên cần chỉ huy một cách hết sức tế nhị.

- Tôi muốn trước hết được tin cậy hoàn toàn vào ông, thưa ông Enderby.

Emily nói câu đó bằng giọng nhỏ nhẹ, ngọt ngào khiến Enderby cảm thấy sẵn sàng nhảy vào lửa vì cô ta. Anh ta nắm bàn tay nhỏ nhắn của cô gái, bóp nhẹ.

- Đồng ý - anh nói.

Nhưng anh ta vội nói thêm:

- Chỉ có điều cô nên biết rằng tôi không được hoàn toàn sử dụng thời gian. Tôi còn phải đi những nơi tòa soạn cử tôi đến.

- Đúng thế, tôi đã nghĩ đến điều đó. Nhưng bất cứ ông đi đâu, tôi đi cùng cũng sẽ có ích cho ông. Mỗi ngày tôi sẽ cung cấp cho ông chất liệu để ông viết những bài tường thuật, với tiêu đề đại loại như Vị hôn thê của James tin rằng anh ta vô tội.... Kỷ niệm thuở nhỏ theo ký ức của vị hôn thê... Thú thật là tôi hoàn toàn không biết gì về tuổi thơ của James, nhưng điều đó có gì hệ trọng đâu?

- Cô là một phụ nữ hết sức quý giá, thưa tiểu thư Emily Trefusis!

Emily nói thêm để nêu lên các lợi thế của mình với chàng nhà báo.

- Ngoài ra, tư thế vợ chưa cưới của James cho phép tôi dễ dàng tiếp cận với những người trong gia đình anh ấy, và tôi sẽ giới thiệu ông với họ rằng ông là bạn tôi. Bởi nếu không, họ sẽ không chịu tiếp ông đâu.

- Tôi hiểu điều ấy chứ - Enderby thầm nghĩ đến những lần anh bị người ta tống cổ ra ngoài rồi đóng sập cửa lại.

Một triển vọng huy hoàng mở ra trước mắt chàng nhà báo. "Ra số mình đi đến đâu cũng gặp may!"

- Vậy là ta ký kết xong bản giao ước! - Enderby kết luận.

- Đúng thế. Vậy công việc đầu tiên của "Liên Minh" là gì đây?

- Tôi phải lên làng Sittaford bây giờ.

Anh kể cho Emily nghe điều thuận lợi khiến anh đã quen được với thiếu tá Burnaby.

- Ông ta là loại người đa nghi, khó ai bắt chuyện được với ông ta, nhưng chẳng lẽ ông ta từ chối tôi, người đã trao tấm séc năm ngàn bảng tiền giải thưởng cho ông ta?

- Rất đúng. Nếu ông đi Sittaford, tôi sẽ tháp tùng ông.

- Tuyệt vời! - Enderby reo lên. - Nhưng tôi chưa biết trên ấy có quán trọ nào không. Theo tôi biết, ở đấy chỉ có một tòa lâu đài và một xóm nhỏ có vài ngôi biệt thự, của những người kiểu như thiếu tá Burnaby.

- Đến đó ta sẽ liệu. Tôi được cái khá tháo vát.

Enderby rất tin vào lời tự nhận xét của cô gái. Emily thuộc loại phụ nữ chiến thắng mọi trở ngại.

Họ vừa đến chỗ tòa lâu đài cổ hoang tàn, dừng lại nghỉ, ngồi trên một khúc tường thành đổ nát, dưới ánh nắng nhạt của mặt trời mùa đông.

Emily tâm sự:

- Thưa ông Enderby, tôi làm việc này hoàn toàn không phải do cảm tính, mà vì tôi tin chắc chắn chồng chưa cưới của tôi bị nghi oan. Ít ai biết anh ấy không có gan giết người. Ngay từ năm mười sáu tuổi, tôi đã phải tự lo cho cuộc sống của mình, không dựa được vào ai. Tôi ít giao du với phụ nữ cho nên ít hiểu về họ, nhưng tôi lại hiểu rất rõ tâm lý nam giới, mà điều này tôi cho là hết sức quan trọng nếu tôi muốn tự chọn con đường mình đi. Hiện nay tôi làm người mẫu thời trang cho hãng Lucie, và xin cam đoan với ông rằng tôi đã phải phấn đấu rất nhiều mới đạt được vị trí đó. Như tôi đã kể ông nghe, tôi rất hiểu tâm lý nam giới. James thuộc loại đàn ông nhu nhược. Có lẽ chính vì thế mà tôi yêu anh ấy. (Lúc này cô quên mối cảm phục của cô với những nam giới có bản lĩnh vững vàng.) Với James, tôi có thể chỉ huy và dắt dẫn anh ấy đi trên đường đời. James không có khả năng giết người. Tính anh ấy ngại đụng đến ai. Nếu thấy một con ong bò vẽ bay vào phòng, anh ấy không giết mà chỉ lùa khéo để nó bay ra ngoài cửa sổ. Và tất nhiên chính con ong ấy lại đốt James. Tôi nói thế đủ để ông hiểu rằng James không có tội.

- Cô cho rằng hung thủ tìm cách đổ tội lên đầu vị hôn phu của cô? - Enderby hỏi.

- Tôi không cho là như thế. Vì không ai biết chuyện James đến gặp cậu anh ấy. Theo tôi, đây chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Bây giờ ta thử xét xem những người nào có khả năng là hung thủ giết ông đại úy? Cảnh sát đã loại ra ngoài những tên trộm, và xác định vết phá trên cửa sổ chỉ là hiện trường giả do hung thủ cố tình tạo nên để đánh lạc hướng điều tra.

- Do đâu cô có được những thông tin ấy? Do một người trong cơ quan cảnh sát chăng?

- Nói thế cũng gần đúng?

- Nghĩa là sao?

- Chị hầu phòng ở khách sạn kể cho tôi. Chị ta là em vợ ông Graves, cảnh sát trưởng thị trấn Exhampton, cho nên mọi điều bí mật trong cơ quan cảnh sát chị ta đều biết ngay.

- Hay lắm! Nếu hung thủ không phải người bên ngoài thì tất trong số những người quen biết của đại úy Trevelyan, đúng vậy không?

- Hoàn toàn đúng. Cảnh sát, cụ thể thanh tra Narracott, rất giỏi. Ông đang điều tra xem những ai có lợi trong cái chết của ông đại úy. James rơi đúng vào trong diện ấy, và cảnh sát tin rằng đã bắt đúng thủ phạm. Họ thôi không tiến hành điều tra nữa. Cho nên bây giờ tôi và anh phải tiến hành thay họ.

- Ôi, nếu hai chúng ta tìm ra được thủ phạm thì tuyệt vời biết chừng nào. Tôi sẽ trở thành "phóng viên hình sự” xuất sắc của báo Tin Điện... Nhưng tôi e điều đó quá viển vông, vượt ra ngoài khả năng của hai chúng ta.

- Không đâu, tôi lại thấy tôi có thể thực hiện được!

- Chà, cô quả là một phụ nữ phi thường, cô Emily Trefusis! - chàng nhà báo kêu lên thán phục.

Emily lấy ra cuốn sổ tay:

- Chúng ta phải tiến hành theo đúng phương pháp, thưa ông Enderby. Trong số những người được chia tài sản sau khi đại úy Trevelyan qua đời có James, chị và em trai anh ấy, và một bà dì, tên là bà Gardner. Sylvia, chị anh ấy, thì không có khả năng giết người rồi. Chị ấy không giết cả đến một con ruồi. Tuy nhiên chồng chị ấy lại là một kẻ thô lỗ, cũng là nhà văn đấy, nhưng ty tiện... và hám gái. Anh ta lúc nào cũng thiếu tiền. Tuy thừa kế là của vợ, nhưng anh ta sẵn sàng đoạt lấy.

- Con người kinh tởm! - Enderby thốt lên, tỏ ra tán thành nhận định của cô gái. Anh ta cũng ghi vào sổ tay - Vậy đó là đối tượng số 1. Tôi sẽ kiểm tra ông nhà văn đó sử dụng chiều thứ sáu như thế nào... Chuyện này rất dễ: tôi đến phỏng vấn anh ta, với tư cách là cháu rể của nạn nhân.

- Hay lắm! Tiếp đến Brian, em trai của James. Ai cũng nghĩ anh ta đang ở Australia, nhưng rất có thể hiện anh ta đang ở Anh.

- Chúng ta sẽ đánh một bức điện sang Australia cho anh ta là biết ngay.

- Tôi cũng nghĩ đúng như thế. Dì Gardner, theo tôi không thuộc diện nghi vấn.

- Nếu cô tin chắc như vậy thì tôi tin, vì cô biết rõ bà ta hơn tôi.

- Tất nhiên ta vẫn không nên bỏ qua hoàn toàn. Còn người đầy tớ của đại úy Trevelyan, anh ta cũng được lợi trong cái chết này. Vợ anh ta là cháu bà Belling chủ khách sạn Ba Vương Miện. Lúc mới đến đây tôi đã gục xuống vai bà khóc. Bà già có vẻ giàu tình cảm, tỏ ra rất xúc động. Bà ta kể tôi nghe khá nhiều chuyện về tòa lâu đài của đại úy Trevelyan trên làng Sittaford. O6ng có biết một chi tiết đã làm tôi rất chú ý không?

- Không.

- Là hai mẹ con phu nhân Willett tại sao lại chọn nơi hẻo lánh và lạnh giá này để nghỉ vụ đông?

- Cô nói đúng. Chắc phải có chuyện gì bí mật đằng sau việc đó, và rất có thể điều đó có liên quan đến đại úy Trevelyan. Thêm nữa, câu chuyện về "bàn ma" cũng làm tôi rất băn khoăn. Tôi đang tính viết một bài về chuyện đó và xin ý kiến các chuyên gia về khoa học tâm linh.

- Chuyện đó tôi chưa biết đấy...

Chàng phóng viên thích thú được kể cho cô gái xinh đẹp và đáng yêu kia nghe.

Enderby nói tiếp:

- Lần đầu tiên tôi được nghe một chuyện "ma" cụ thể đến như thế. Dù sao cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ.

Emily rùng mình.

- Tôi rất ghét nghe chuyện ma quỷ. Nhưng theo ông kể thì có thể có hồn ma thật. Nhưng… nghe ghê rợn quá...

- Có điều nếu hồn đại úy Trevelyan hiện về báo tin mình bị giết thì sao không vạch ra luôn tên kẻ hung thủ?

- Chúng ta nhất định sẽ tìm ra điều bí mật trong câu chuyện "hồn ma" ấy - Emily đăm chiêu nói.

- Tôi cũng tin như thế. Bây giờ tôi đi thuê ôtô, và sau đây nửa giờ chúng ta sẽ đi. Tôi đã hỏi và biết rằng con đường từ đây lên làng Sittaford đi được rồi.

- Còn tôi ghé về khách sạn thu xếp hành lý.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: Vụ bắt giam


Vào đến gian tiền sảnh của khách sạn Ba Vương Miện, Emily may mắn gặp ngay bà chủ Belling.

- Bà Belling - Emily kêu lên - Trưa nay tôi phải đi.

- Tiểu thư đáp chuyến tàu bốn giờ đi Exter à?

- Không, tôi lên làng Sittaford.

- Lên Sittaford? - Bà chủ khách sạn trợn mắt ngạc nhiên.

- Nhân đây tôi muốn hỏi bà, trên ấy có quán trọ nào không?

- Tiểu thư định lưu lại trên đấy lâu à?

- Vâng... nghĩa là... nhưng tôi muốn nói câu chuyện riêng này với bà, được không?

Bà Belling niềm nở dẫn cô gái vào một phòng khách nhỏ, lửa trong lò sưởi đang cháy tỏa hơi ấm.

- Câu chuyện tối sắp nói, xin bà đừng lộ cho ai biết, được không ạ?

- Cô yên tâm - Bà Belling nói, mắt sáng lên vì tò mò.

- Bà biết anh James Pearson chứ?

- Người đến đây thuê phòng hôm thứ sáu, và vừa bị cảnh sát bắt giam chứ gì?

- Bà bảo anh ấy bị bắt giam?

- Đúng thế. Mới cách đây chưa đầy nửa giờ.

Emily tái mặt:

- Bà biết chính xác chứ, thưa bà Belling?

- Chị Amy làm cho tôi, nghe ông anh rể nói mà lại.

- Khủng khiếp!

Emily biết trước người ta sẽ bắt giam James, nhưng việc này khi xảy ra vẫn làm cô choáng váng.

- Thưa bà Belling, tôi đã đính hôn với anh ấy. Tôi biết chắc chắn anh ấy không phải hung thủ. Tôi thề với bà, James vô tội! Anh ấy không phải kẻ giết người!

Không ghìm được, cô gục xuống vai bà Belling khóc nức nở.

- Nín đi, cô bé yêu quí của tôi! - Bà Belling quàng tay ôm cô gái vào lòng, an ủi - Tôi cũng vẫn bảo không phải ông James Pearson là thủ phạm. Con người lành hiền, đáng yêu như thế! Đám cảnh sát ngu xuẩn lắm. Tôi bảo kẻ giết ông đại úy chỉ là một trong số lưu manh chuyên trộm cắp nhà người ta. Đừng khóc nữa, cô em! Rồi đâu khác vào đấy thôi.

- Bà Belling! Cháu rất yêu anh ấy! Sao sự ngẫu nhiên lại xui khiến James đến đây đúng vào cái ngày định mệnh ấy? Anh ấy làm sao cãi được với con người ngoan cố như thanh tra Narracott? Bà với cháu phải làm thế nào cứu anh ấy!

- Tất nhiên rồi, nhưng cháu nín đi, bình tĩnh lại đi cô bé yêu quí của tôi.

Emily lau khô nước mắt. Cô sụt sịt thêm một lần cuối cùng, rồi ngẩng đầu lên, trấn tĩnh hỏi:

- Trên làng Sittaford, có chỗ nào cho cháu nghỉ được không?

- Cô vẫn nhất định lên đó à?

- Vâng. Cháu phải lên.

- Nếu vậy, tôi chỉ biết một chỗ có thể nghỉ nhờ. Làng Sittaford không lớn, có lâu đài của ông đại úy hiện đang cho một phu nhân mới ở châu Phi về thuê, và sáu biệt thự cũng do ông đại úy xây. Biệt thự số 5 hiện bà Curtis ở. Chồng bà ấy làm vườn cho đại úy Trevelyan. Bà ấy có vài phòng có thể cho thuê. Ngoài ra tôi không biết có chỗ nào khác không, nhưng theo tôi thì không có. Nhưng cô lên đó bằng gì?

- Cháu đi ôtô của ông nhà báo Enderby thuê.

- Thế ông ta định nghỉ chỗ nào trên đó?

- Nếu như bà nói, bà Curtis có vài phòng nhỏ có thể cho thuê...

- Không tiện đâu, cô em. Cô là gái chưa chồng...

- Cháu quên chưa nói với bà, Enderby là anh họ của cháu.

- Thế thì được. Mà rất có thể bà Curtis sẽ bố trí để hai anh em cô nghỉ trong tòa lâu đài đấy. Tôi sẽ viết thư giới thiệu cô với bà Curtis, và nhờ bà ta chăm sóc cô giùm tôi.

- Bà tốt với cháu quá, thưa bà Belling.

- Cô lên phòng sửa soạn đồ đạc đi. Tôi sẽ cho người đem trà nóng lên cô uống cho tỉnh táo trước khi lên đó.

Lên đến phòng, đóng gói số hành lý gọn nhẹ xong, Emily trang điểm lại khuôn mặt bị nước mắt làm nhòe nhoẹt.

"Khóc được một chút, người cũng nhẹ đi ít nhiều" cô thầm nghĩ.

Lúc ngồi vào ôtô, cô nói với Enderby:

- Để thuận tiện cho công việc, ông Enderby ạ, ông phải đóng vai là anh họ của tôi đấy.

- Tại sao phải như thế?

- Để khỏi ai dị nghị. Vì người nông thôn còn có cách suy nghĩ cổ lỗ lắm.

- Sẵn lòng thôi. Vậy từ giờ tôi có thể gọi cô là "Emily".

- Đúng thế, và tôi gọi anh đơn giản là "anh Enderby”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: Xóm nhỏ Sittaford


Emily thán phục ngắm phong cảnh vùng núi, bốn bề tuyết phủ trắng xóa. Ra khỏi thị trấn Exhampton khoảng ba cây số, xe ngoặt vào một con đường chạy giữa đồng cỏ hoang vắng. Đã đến làng Sittaford.

Cô thấy một con phố nhỏ có xưởng rèn và một cửa hiệu tạp hóa kiêm bưu điện. Xe ôtô rẽ sang một con đường nhỏ hơn, đến một xóm có sáu ngôi nhà giống hệt nhau, được gọi là sáu "biệt thự”. Lái xe đỗ lại trước ngôi biệt thự thứ hai, báo tin đây là nhà bà Curtis.

Bà Curtis, bé nhỏ, gầy gò, có vẻ đang rất xúc động. Tin đại úy Trevelyan bị giết vừa mới lan đến đây sáng nay.

- Tất nhiên tôi có thể để hai anh em tiểu thư nghỉ tại đây, và hy vọng hai người ăn được những món ăn tôi nấu. Ôi! Ai mà ngờ được đại úy Trevelyan bị giết? Nghe tin mà tôi suýt ngất đi đấy. Ấy chết, mời ông và tiểu thư vào nhà. Đang có nước sôi trên bếp, tôi pha ấm trà hai vị uống cho ấm. Đi đường chắc lạnh lắm.

Emily và "ông anh họ" mỗi người ở một phòng bên cạnh nhau.

- Vậy là chúng ta đã có mặt tại chỗ - Enderby phấn khởi nói - Tôi cam đoan chỉ chưa đầy nửa giờ nữa là chúng ta sẽ biết tất cả những người trong xóm nhỏ này.

Lát sau, bà Curtis mời khách xuống gian bếp.

Tại đây, bà giới thiệu hai "anh em" với chồng, ông Curtis, một ông già tóc hoa râm, vẻ mặt như thể giận dữ với ai không biết. Họ uống trà nóng, ăn bánh phết bơ và trứng luộc. Vừa ăn, hai "anh em" vừa nghe bà Curtis thao thao kể đủ mọi chuyện. Và đúng như Enderby nói, chỉ sau nửa giờ, họ đã biết họ tên và nét lớn về mọi người trong cái xóm nhỏ này.

Đầu tiên là bà Percehouse, ở biệt thự số 4, không chồng, tuổi trung niên và tính nết hâm hâm. Bà ta đã đến đây được sáu năm và bảo sẽ chết tại nơi này.

Bà Curtis kể.

- Khí hậu ở đây rất tốt, từ ngày lên đây ở, bà Percehouse khỏe khoắn hẳn lên. Bà ta có một người cháu, anh ta thỉnh thoảng đến đây thăm cô. Lúc này anh ta đang ở đây. Theo tôi, anh ta lên đây không phải để thăm bà ta, mà chỉ để canh giữ cho gia tài của bà cô khỏi lọt ra ngoài. Tên anh là Garfield.

Hai anh em đưa mắt nhìn nhau, họ đã nghe nói đến cái tên này trong số những người chơi trò "bàn ma".

Bà Curtis nói tiếp:

- Ngôi biệt thự số 6, đối diện với nhà tôi ở bên kia đường là của ông Duke. Thoạt đầu tôi tưởng ông ta là cựu quân nhân, nhưng không thấy ông ta có dáng dấp nhà binh tý nào. Không như thiếu tá Burnaby, nhìn từ xa đã biết ông ta là người nhà binh rồi.

- Biệt thự số 3 là của cụ Rycroft độc thân. Nghe đâu cụ thỉnh thoảng đi đến những vùng đất xa lắc kiếm những giống chim lạ cho Bảo tàng British. Nhà ông cụ toàn sách là sách chẳng có đồ đạc gì khác.

- Biệt thự số 2 là của đại úy Wyat, thương binh, có một tên đầy tớ Châu Phi. Anh này rất kém chịu lạnh, cho nên trong nhà lúc nào cũng nóng như lò lửa.

- Thiếu tá Burnaby ở biệt thự số 1, chỉ có mỗi một mình. Sáng sáng tôi sang đó dọn dẹp giúp ông ấy. Thiếu tá thân với đại úy Trevelyan như anh em ruột. Họ kết bạn với nhau từ thuở xa xưa, hồi cùng phục vụ trong hải quân.

- Còn thuê tòa lâu đài là hai mẹ con phu nhân Willett. Không ai biết lai lịch họ. Có vẻ họ giàu lắm. Đến đây, họ đem theo cả một lũ đầy tớ gái. Để đám đầy tớ khỏi buồn chán ở nơi heo hút này, phu nhân Willett mỗi tuần hai lần chở họ bằng ôtô dạo chơi đến tận thị xã Exter.

- Tôi phải dọn cái bàn này thôi! - Bà Curtis thở dài tiếc rẻ phải ngừng câu chuyện.

Hai “anh em” phải vất vả lắm mới ngốn được số thông tin phong phú bà chủ nhà vừa cung cấp. Chàng nhà báo Enderby hỏi:

- Thiếu tá Burnaby đã về đây chưa, thưa bà Curtis?

Đang bưng chiếc khay, bà ta đứng lại nói:

- Ông ấy cuốc bộ, giống như mọi khi, và về đến đây trước hai người nửa giờ rồi. Tôi bảo ông ta: "Thiếu tá Burnaby, làm sao ông cuốc bộ từ thị trấn Exhampton về đến đây được?". Ông ta trả lời: "Sao không được? Khi ta có hai chân thì việc gì cần bốn bánh xe kia chứ? Bà không thấy à, tuần nào tôi chẳng cuốc bộ một chuyến như vậy cho khỏe người?". Hôm nay còn đỡ, chứ như chiều thứ sáu vừa rồi mà ông ấy cuốc bộ từ đây ra thị trấn được thì quá giỏi. Hẳn là do lo lắng cho bạn mà ông ta cố gắng, bởi hôm ấy tuyết dày phủ kín trên đường, sau lại thêm một trận mưa tuyết dữ dội nữa. Thế mới biết tình bạn ghê gớm thật.

Nói xong, bà Curtis quay đi, bưng khay thức ăn ra ngoài.

Chồng bà nhìn theo vợ, nói:

- Bà ấy thích nói? Nói mà chẳng biết mình nói những gì.

Enderby nói khẽ:

- Ông nhận xét đúng đấy, ông Curtis.

Rồi anh đứng lên:

- Tôi phải sang gặp thiếu tá Burnaby, báo ông ấy biết sáng mai sẽ có nhiếp ảnh đến chụp ông ấy.

- Anh đợi tôi cùng đi với - Emily nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: Phu nhân Willett


Trong lúc Enderby và Emily sang gặp thiếu tá Burnaby, thanh tra Narracott đang ngồi trong phòng khách tòa lâu đài Sittaford, thử tìm hiểu xem phu nhân Willett là loại phụ nữ thế nào.

Khi tiếp xúc, ông thấy bà ta khác hẳn ông phỏng đoán từ trước đó. Đó là một phụ nữ cao lớn, đẹp, có cặp mắt sắc sảo, mặc bộ váy áo đắt tiền, giầy cao gót. Viên thanh tra nhìn thấy trên các ngón tay bà ta những chiếc nhẫn rất quý, chưa kể cổ bà ta đeo một chuỗi ngọc trai, chắc chắn rất đắt tiền.

Không để viên thanh tra kịp nói, phu nhân Willett nói ngay:

- Ông là thanh tra Narracott? Hẳn ông cần lục soát tòa nhà này? Vụ án quả là khủng khiếp! Không ai có thể ngờ. Sáng nay chúng tôi mới nhận được tin. Mời ông ngồi, thưa ông thanh tra. Xin giới thiệu với ông, con gái tôi, Violette.

Thanh tra Narracott không nhìn rõ cô gái lắm, bởi cô nép sau lưng bà mẹ, chỉ thấy đó là một cô gái tóc vàng, cặp mắt xanh biếc.

Phu nhân Willett ngồi xuống.

- Tôi có giúp ích gì được cho ông thanh tra không? Tôi không biết nhiều về ông đại úy bất hạnh, nhưng nếu ông thanh tra thấy rằng…

- Cảm ơn phu nhân. Tôi chưa biết nên hỏi phu nhân điều gì trước...

- Tôi hiểu. Có thể ông thanh tra sẽ tìm thấy được trong tòa nhà này một thứ gì có ích cho việc điều tra, nhưng thú thật, tôi chưa tin. Đại úy Trevelyan không để lại ở đây thứ gì thuộc về cá nhân ông ta.

Bà Willett cười nói thêm.

- Ông ấy sợ tôi đụng vào mấy cái cần câu của ông ấy.

- Trước khi đến đây, phu nhân không hề quen ông đại úy?

- Không. Mà từ khi đến đây, bao nhiêu lần tôi mời ông ấy lại chơi, nhưng ông ấy không hề đến, chắc do bản tính nhút nhát với phụ nữ. Tôi biết hàng chục đàn ông có cái tính ấy. Người khác bảo họ kỳ thị phụ nữ, thật ra họ nhát, có vậy thôi. Giá như ông ấy chịu đến đây, hẳn chúng tôi sẽ là những người bạn tốt của nhau.

Đến bây giờ thị thái độ của viên đại úy đối với người thuê nhà không còn làm thanh tra Narracott ngạc nhiên nữa.

- Tôi muốn biết một vài chi tiết về…

- Về gì, thưa ông thanh tra?

- Về một chuyện xảy ra trong nhà phu nhân. Như phu nhân đã biết, thiếu tá Burnaby là người đầu tiên phát hiện cái chết của đại úy Trevelyan. Mà ông đại úy ra thị trấn Exhampton chiều hôm đó là do sau khi chơi trò "bàn ma" ở đây...

Thanh tra Narracott đột nhiên quay đầu lại: cô gái Violette vừa thét lên một tiếng.

Phu nhân Willett lắc đầu nói:

- Tội nghiệp con gái tôi! Từ lúc đó nó cứ như người mất hồn... Kể ra tất cả chúng tôi đều kinh sợ không kém gì nó! Tôi không có thói tin vào những chuyện ma quái, nhưng sự việc kia quả là không sao cắt nghĩa nổi!

- Vậy là chuyện ấy có thật?

- Bây giờ mà ông thanh tra vẫn cho là chuyện bịa hay sao? Thú thật, lúc đầu tôi tưởng đó là do có người đùa... và tôi đã nghi cho cậu Garfield...

- Ôi, mẹ! Con cam đoan là anh ấy không làm như thế đâu.

- Violette! Là mẹ kể ý nghĩ của mẹ lúc đó ấy chứ. Bây giờ mẹ nghĩ khác rồi.

- Chuyện ấy làm phu nhân kinh hoàng?

- Không phải mình tôi, mà tất cả mọi người có mặt. Trước đó, mọi người đang vui vẻ, đinh ninh sẽ được hưởng một buổi tối lý thú... vậy mà đột nhiên... thông tin của hồn ma... Tôi rất tiếc bị mất một tối đáng lẽ rất vui...

- Bà không nghi là một người nào đó đùa?

- Thú thật, bây giờ tôi chẳng còn biết thế là sao nữa.

- Còn cô, tiểu thư Violette?

Cô gái trẻ giật mình:

- Ông hỏi tôi?... Tôi không biết... Nhưng từ nay không bao giờ tôi chơi cái trò rùng rợn ấy nữa!

- Cụ Rycroft thì khẳng định đấy là một hiện tượng siêu nhiên, đâm tôi cũng ngờ ngợ. Nếu những câu chữ ấy không do một linh hồn nào đó từ cõi âm thì ông còn cắt nghĩa bằng cách nào khác được?

Tuy chưa tin, nhưng thanh tra Narracott cũng gật đầu. Rồi ông lảng sang câu chuyện khác:

- Mùa đông ở đây thật buồn, phu nhân có thấy như vậy không?

- Hai mẹ con tôi thích sự thay đổi. Chắc ông chưa biết chúng tôi mới ở Nam Phi về?

Bà ta nói giọng hoàn toàn tự nhiên.

- Thật ạ? Phu nhân ở vùng nào của Nam Phi?

- Vùng Mũi Cao. Con gái tôi từ nhỏ chưa về Anh lần nào, cho nên lần đầu tiên thấy tuyết, nó lạ và thích lắm. Hơn nữa tòa lâu đài này rất đầy đủ tiện nghi.

- Nhưng do đâu phu nhân biết ở đây có một lâu đài cho thuê? - thanh tra Narracott hỏi bằng giọng tò mò một cách thân tình.

- Hai mẹ con chúng tôi đã đọc vô số cuốn sách nói đến xứ Devonshire này, và từ lâu tôi đã mơ ước đến thăm vùng Dartmoor.

- Tại sao phu nhân chọn thị trấn Exhampton, một thị trấn quá vắng vẻ, heo hút thế này?

- Chẳng là lúc ngồi trên tàu về nước, có một cậu trai trẻ say sưa kể chúng tôi nghe về thị trấn Exhampton.

- Anh ta tên là gì? Có phải người quê ở đây không?

- Thú thật tôi quên mất tên cậu ta rồi. Quả là vô tâm, phải không thưa ông? Nhưng chắc ông đã biết kiểu quên nhau trên tàu biển rồi. Dễ quen nhưng cũng lại dễ quên.

Bà ta nói rồi cười vui vẻ.

- Tuy nhiên cậu ta rất đáng mến... không đẹp trai lắm và có một cái đuôi tóc mầu hung đỏ, nhưng cậu ta có nụ cười rất dễ mến.

- Thế là do anh ta giới thiệu mà phu nhân chọn nơi nghỉ đông trong vùng này?

- Ông thấy quá đơn giản phải không, thưa ông thanh tra?

- Và thế là phu nhân gửi thư cho hãng môi giới nhà đất ở Exhampton?

- Vâng. Hãng đã giới thiệu tòa lâu đài này.

- Làm sao phu nhân có được địa chỉ của hãng môi giới đó tại thị trấn Exhampton?

Lần đầu tiên bà Willett không trả lời ngay câu hỏi, thậm chí thanh tra Narracott nhận thấy trong cặp mắt bà ánh lên một vẻ khó chịu, có phần giận dữ nữa. Hẳn câu hỏi vừa rồi của ông hơi quá thóc mách.

Bà Willett quay sang con gái:

- Violette, con có nhớ do đâu mẹ con ta biết địa chỉ của hãng môi giới nhà đất ấy ở thị trấn Exhampton không?

Cô gái tròn xoe đôi mắt hoảng hốt.

- Tôi nhớ ra rồi - bà Willett nói tiếp - Tôi hỏi văn phòng giao dịch Selfridges xem tại thị trấn Exhampton có hãng môi giới nhà đất nào không...

Thanh tra Narracott thầm nghĩ: "Bà thường ứng đối nhanh, nhưng vừa rồi bà đã phải nghĩ câu đáp. Vậy là có chuyện chưa minh bạch ở đây”.

Viên thanh tra đi nhanh một vòng khắp tòa lâu đài. Bà Willett cùng đi, huyên thuyên kể đủ thứ. Thanh tra Narracott chỉ trả lời cho qua quít, trong lòng vẫn còn suy nghĩ về dáng vẻ sững sờ của cô Violette khi nghe mẹ nói. Bà Willett tỏ ra rất cao tay, nhưng không lọt qua mắt thanh tra Narracott. Lúc quay ra, ông miên man suy nghĩ.

“Nếu hai mẹ con bà Willett không liên quan gì đến cái chết của đại úy Trevelyan thì cô Violette sợ cái gì?”. Ông quyết định đánh một quân bài thăm dò. Lúc ra đến cửa, thanh tra Narracott đột nhiên hỏi:

- Phu nhân có quen một thanh niên họ Pearson phải không?

Lần này bà Willett lúng túng lộ ra nét mặt. Lát sau bà ta hỏi:

- Pearson ạ? Hình như không.

Một tiếng kêu trong phòng khách vọng ra, và một tiếng vỡ thứ gì đó.

Thanh tra Narracott bước nhanh vào gian tiền sảnh: Violette bị ngất.

- Tội nghiệp con bé. Từ hôm chơi trò "bàn ma", nhất là chuyện án mạng ông đại úy, con bé luôn hốt hoảng thế nào ấy. Xin ông giúp cho một tay đỡ nó lên đi văng. Cảm ơn.

James Pearson thì là vị hôn phu của cô gái ông đã gặp ở London hôm trước, vậy tại sao khi nói đến tên cậu ta ở đây, hai mẹ con bà Willett lại lúng túng làm vậy? Có mối liên quan nào giữa James Pearson và hai mẹ con bà Willett không?

Ra đến đường, thanh tra Narracott lấy sổ tay ra xem danh sách những người trong xóm "biệt thự" bên ngoài lâu đài. Ông nhắm một người. Đến biệt thự số 6 của ông Duke, ông gõ mạnh cánh cửa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15: Viếng thăm thiếu tá Burnaby


hàng phóng viên Enderby gõ cửa biệt thự của thiếu tá Burnaby. Ngay lập tức cửa mở, chủ nhà hiện ra, vẻ mặt khó chịu.

- Ông lại đến đấy à? - giọng Burnaby khó chịu, nhưng thái độ thay đổi ngay, khi nhìn thấy cô gái Emily đứng sau lưng Enderby.

- Đây là cô Emily Trefusis - anh ta trịnh trọng giới thiệu - Cô ấy rất muốn được gặp ông thiếu tá.

- Tôi vào được không? - Emily hỏi bằng giọng lịch sự duyên dáng.

- Tất nhiên là được. Mời tiểu thư.

Vào đến phòng khách, theo thói quen, Emily đi thẳng ngay vào vấn đề:

- Thưa ông thiếu tá, tôi là vị hôn thê của James Pearson, hẳn ông thiếu tá đoán được nỗi lo lắng của tôi?

Đang cúi xuống đẩy chiếc bàn ra, thiếu tá Burnaby ngước mắt lên sửng sốt.

- Tôi thật lòng thông cảm với nỗi lo lắng của tiểu thư.

- Tôi muốn ông thiếu tá nói thẳng cho tôi biết ý kiến của ông. Ông có tin là vị hôn phu của tôi vô tội không?

- Không. Tôi không tin - Burnaby nói giọng quả quyết. Vừa nói ông vừa đập mạnh tay xuống chiếc gối rồi ngồi xuống đối diện với cô gái, ông ta nói:

- Tôi nhận thấy cậu James là loại người nhu nhược. Nói thế này có thể cô không bằng lòng, nhưng tôi cho rằng James thuộc loại người dại dột, có thể bị kẻ xấu lôi kéo, nhưng giết người thì cậu ấy không thể...

- Vô cùng cảm ơn về câu ông nhận xét. Vậy theo ông, ai có thể là thủ phạm vụ án mạng này?

- Thú thật là tôi không hề nghi cho ai. Thoạt đầu tôi cho rằng đó là một tên trộm, nhưng cảnh sát đã bác bỏ khả năng ấy. Dù sao họ cũng nhìn rõ vấn đề hơn chúng ta, thưa tiểu thư Emily. Theo tôi biết thì đại úy Trevelyan không có ai là kẻ thù.

- Ông thì biết rõ ông đại úy hơn mọi người khác.

- Đúng thế, hơn cả họ hàng thân thích của ông ấy.

- Vậy ông không thấy điều gì có thể giúp cho cuộc điều tra?

- Rất tiếc là không. Sinh thời, đại úy Trevelyan sống thầm lặng, rất ít khi nhận được thư, và viết thư còn ít hơn. Không có những rắc rối vào trong đời sống tâm tình...

Ba người ngồi im lặng một lúc lâu.

- Ông nhận xét thế nào về người đầy tớ của ông đại úy? - Enderby hỏi.

- Cậu ta đã phục vụ đại úy Trevelyan nhiều năm và là người đầy tớ trung thành.

- Nhưng gần đây anh ta lấy vợ… - Enderby nói thêm.

- Đúng thế, một cô gái ngay thẳng, đáng trọng.

- Thưa ông thiếu tá - Emily hỏi tiếp - xin ông tha lỗi nếu tôi không được tế nhị lắm, hình như ông có linh cảm trước về cái chết của đại úy Trevelyan?

Viên thiếu tá xoa đầu mũi, cử chỉ ông thường có mỗi khi nghe ai nhắc đến chuyện cái "bàn ma".

- Biết nói thế nào được nhỉ? Quả là tôi có một chút linh cảm, nhưng rất yếu ớt, và bản thân tôi tự gạt đi cái linh cảm ấy vì cho là chuyện vớ vẩn, thế rồi sự thật lại xảy ra đúng như thế... khiến tôi chẳng còn biết như vậy là thế nào nữa.

Emily nhìn thẳng vào mắt thiếu tá Burnaby, nói:

- Ông không thử cắt nghĩa chuyện đó?

- Tôi cho rằng có một sự thần giao cách cảm nào đó mà tôi chưa hiểu chăng? Bởi tôi đã thấy một số phụ nữ bảo rằng họ "linh cảm" thấy nhiều thứ rất chính xác. Trước kia tôi không tin, nhưng từ hôm đó tôi đâm hồ nghi. Tóm lại, tôi không còn hiểu ra sao nữa...

- Nhân ông nói đến phụ nữ ... ông thấy hai mẹ con phu nhân Willett thế nào?

- Tôi chỉ thấy họ phúc hậu và hiếu khách...

- Ông không thấy việc họ thuê tòa lâu đài của ông đại úy, ở tận nơi hẻo lánh này giữa mùa đông tuyết phủ, là chuyện không bình thường hay sao?

- Tôi có lấy làm lạ. Nhưng như thanh tra Narracott đã nói, mỗi người một ý thích, ta khó có thể đánh giá này nọ được.

- Họ có quen biết đại úy Trevelyan từ trước đó không?

- Không. Điều này tôi biết chắc chắn. Thanh tra Narracott nghi bà Willett về đây là để tiếp cận với đại úy Trevelyan; nhưng tôi không cho là như thế.

Emily cảm thấy khó chịu với viên thanh tra, đã nghĩ đến khả năng kia trước cô.

- Cảm ơn ông thiếu tá đã cho tôi biết một số nhận định của ông.

- Không có gì. Mà sau đây, bất cứ lúc nào cần đến tôi, tiểu thư cứ gõ cửa, tôi xin hết lòng giúp tiểu thư.

- Cảm ơn ông - Enderby nói.

Lúc quay về nhà bà Curtis, Emily cởi dây buộc mũ, quăng mũ xuống giường, nói:

- Rất có thể trong số người ngồi chơi "bàn ma" lúc đó có một người đã biết việc đại úy Trevelyan bị giết. Và trong lúc chơi cái trò đó, người ấy đã không giấu được việc mình biết.

- Tôi không tin là như thế - Enderby nói.

- Dù sao đó cũng là một khả năng. Vậy ta thử điểm từng người có mặt lúc đó. Thiếu tá Burnaby và ông Rycroft thì không thể rồi. Còn ông Duke... Chà, hiện nay chúng ta chưa biết tí gì về ông này. Rồi hai mẹ con bà Willett cũng có điều gì đó chưa sáng tỏ.

- Hai người phụ nữ đó thì được lợi gì do cái chết của đại úy Trevelyan kia chứ?

- Biết đâu có mối liên quan nào đó mà chúng ta chưa biết.

Enderby chưa kịp trả lời thì đột nhiên đứng phắt dậy, chạy ra mở cửa sổ. Tiếng chuông reo từ rất xa vọng lại. Tiếng bà Curtis ở dưới nhà hỏi vọng lên.

- Cô có nghe thấy gì không, tiểu thư Emily?

Emily mở cửa hỏi vọng xuống:

- Bà định nói tiếng chuông ấy ạ, thưa bà Curtis?

- Đúng thế. Chuông ở nhà tù Princetown, cách đây hai chục cây số kia, nhưng hôm nay thuận gió nên nghe khá rõ.

- Nhưng là chuông gì đấy, thưa bà?

Bà Curtis đáp:

- Họ báo tin vừa có một người tù vượt ngục.

Enderby đóng cửa lại, nói:

- Giá tên tù này vượt ngục ra cách đây ba ngày thì vụ án rất dễ nhận định. Chắc chắn hắn là thủ phạm rồi. Đói không có gì ăn, đột nhập vào biệt thự "Hazelmoor" và khi bị lộ, thủ tiêu luôn chủ nhà...

- Ôi, nếu như thế thì vụ án đơn giản biết bao nhiêu!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16: Ông rycroft


Sáng hôm sau, Emily thức dậy từ rất sớm. Cô không đánh thức "ông anh họ” mà mặc quần áo bước ra ngoài đi dạo.

Làng Sittaford nằm trên cao, đứng đây có thể nhìn bao quát cả một vùng rộng lớn. Emily cảm thấy mình còn biết quá ít về những con người ở đây. Cô ôn lại những lời bình phẩm về họ của bà Curtis, của thiếu tá Burnaby, cô hình dung ra những con người đó. Mãi suy nghĩ, cô giật nảy người khi nhìn thấy một ông già bé nhỏ đứng chỉ cách cô vài bước chân, tay ôm chiếc mũ trên ngực, đang nhìn cô.

- Xin lỗi, cô là tiểu thư Emily Trefusis phải không?

- Vâng, thưa cụ.

- Tôi là Rycroft. Xóm này nhỏ cho nên hễ có chuyện gì mới là mọi người đều biết ngay. Tôi biết cô đến đây hôm qua cùng với ông anh họ. Biết cô là vị hôn thê của James Pearson, người vừa bị bắt vì tình nghi là thủ phạm đã giết đại úy Trevelyan. Còn anh họ cô là nhà báo...

- Vâng, đúng thế, thưa cụ Rycroft.

- Cô biết hôm qua ở nhà tù Princeton có một tên tù vượt ngục chưa?

- Cháu biết rồi, thưa cụ.

- Princetown cách đây hai mươi cây số đường chim bay, còn đi đường thì mất hai mươi nhăm cây số. Nhà tù này giam toàn nhà nghiên cứu về loài chim, nhưng đồng thời tôi cũng là nhà nghiên cứu nghiệp dư về tội phạm học. Cho nên, nếu cô muốn, tôi có thể giúp cô.

- Vâng, nếu được thế thì tốt quá. Cháu đang rất đau khổ...

- Vậy thì tôi với cô hãy thử phân tích. Hiện nay vị hôn phu của cô đã bị cảnh sát bắt tạm giam. Họ tin rằng anh ấy là thủ phạm vụ án mạng. Nhưng tôi không cho là như thế.

- Cụ cũng tin là chồng chưa cưới của cháu vô tội?

- Tôi thấy có hai khả năng. Một là vụ hôn phu của cô cần tiền quá, đến gặp ông cậu cầu cứu, nhưng bị ông ta từ chối. nên trong một lúc uất giận, không ghìm được, đã vớ bao cát quật lên đầu ông ta. Khả năng thứ hai là vị hôn phu của cô không vay được tiền của ông cậu, thất vọng ra khỏi nhà ông đại úy, một kẻ khác đã đến và giết ông ấy. Tôi thiên về khả năng thứ hai. Và như vậy hung thủ phải là kẻ bắt gặp, thấy được cuộc to tiếng giữa hai cậu cháu. Hắn đã khai thác cơ hội này để thực hiện ý định gây án từ trước, và đổ tội lên đầu anh chàng James của cô.

Emily suy nghĩ một chút, hỏi:

- Rồi sao nữa, thưa cụ?

- Nếu như thế, hung thủ phải là người gần gũi với ông đại úy, một người sinh sống trong thị trấn Exhampton. Rất có thể y có mặt trong nhà ông đại úy lúc hai cậu cháu to tiếng. Tôi nghĩ đến Evans, gã đầy tớ của đại úy Trevelyan. Bây giờ ta thử xem y có lợi gì trong cái chết của ông chủ y không?

- Anh ta được hưởng một phần trong số tài sản thừa kế của ông đại úy - Emily nói.

- Đó có thể là động cơ. Bây giờ cần điều tra xem Evans hiện nay có đang cần tiền một cách cấp bách không? Trong chuyện này không được bỏ qua việc anh ta vừa lấy vợ cách đây không lâu.

- Cụ nghĩ sao về chuyện chiếc "bàn ma", thưa cụ Rycroft?

- Thú thật là chuyện đó làm tôi đặc biệt chú ý. Tôi rất thích nghiên cứu các môn Khoa học Huyền bí London. Trong số năm người xung quanh bàn, không một ai ngờ được về cái chết của ông đại úy...

- Cụ có tin rằng...

Emily định nói về khả năng một trong số người ngồi đó có một người biết được về cái chết của ông đại úy nhưng cô chợt nhớ trong số năm người đó có cụ Rycroft này.

- Đúng như cụ nói, chuyện hồn ma báo tin kia quả là bí ẩn. Cụ có tin rằng ngoài cụ ra, trong bốn người kia, một người có khả năng thần giao cách cảm không?

- Tiểu thư thân mến, tôi không có khả năng đó, và tôi nghiên cứu các vấn đề thần bí chỉ thông qua quan sát.

- Hay ông Garfield chăng?

- Đó là một thanh niên đáng yêu, nhưng hoàn toàn không có khả năng đó. Cậu ta đến đây chỉ cốt để lấy lòng bà cô, hy vọng bà cô cho hưởng thừa kế. Nhưng cậu ta không biết rằng bà cô cậu ta không ngu đần chút nào, bà ta khai thác và hành hạ thằng cháu.

- Cháu đang định đến gặp bà ấy.

- Thế thì bà ta mừng lắm đấy. Bà ta thích nói nên nếu được gặp ai chịu nghe thì còn gì bằng. Và bà ta còn tò mò nữa, thứ gì cũng muốn thọc mũi vào.

- Cụ nhận xét về hai mẹ con phu nhân Willett thế nào ạ?

- Tôi cho đó là những người rất đáng mến, và giống như những người quen sống ở thuộc địa nói chung, họ làm cái gì cũng quá mức. Còn cô gái Violette thì là một cô gái hết sức dễ thương.

- Cháu lấy làm lạ sao họ lại chọn nơi heo hút và lạnh giá này để nghỉ mùa đông?

- Có gì lạ đâu? Chúng ta ở xứ lạnh thì thèm nắng, nhưng người Australia và Nam Phi lại thèm được ăn Noel tại nơi nào tuyết phủ.

Emily thầm nghĩ ông già này quá yêu phong cảnh Sittaford nên không thấy có gì lạ trong việc ai đó chọn đây làm nơi nghỉ ngơi. Hai người chậm chạp đi về phía xóm Sittaford .

- Ngôi biệt thự kia là của ai ạ? - Đột nhiên Emily hỏi.

- Đại úy Wyat... một thương binh bị liệt hai chân và không thích gặp ai.

- Ông ấy có thân với đại úy Trevelyan không ạ?

- Không thân lắm, nhưng Trevelyan thỉnh thoảng có đến chơi với Wyat.

Emily đang nghĩ cách tiếp cận với ông này. Cô cảm thấy chưa thể rời khỏi xóm Sittaford nếu chưa tìm hiểu sâu về những con người ở đây. Đột nhiên cố nhớ đến người thứ năm trong số ngồi xung quanh "bàn ma" hôm đó:

- Còn ông Duke là người thế nào ạ?

- Đấy là một người mà không ai biết gì về ông ta. Không ai biết ông ta chui ở đâu ra, nhưng nói chung là con người tốt... Nhà tôi đây, mời cô vào chơi.

Họ vào nhà. Trong nhà hầu như không có đồ đạc, chỉ toàn sách xếp ngăn nắp trên các giá, trông như ở thư viện. Emily đến gần xem. Sách được xếp thứ tự theo từng chuyên đề: sinh vật học loài chim, tội phạm học, khoa học huyền bí...

Khoảng mười lăm phút sau, Emily đứng dậy.

- Cháu phải về thôi. Xin cảm ơn cụ.

- Nhưng cô nhớ cho rằng tôi sẵn sàng làm mọi thứ để giúp cô. Bất cứ cần gì, cô cứ đến gặp tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17: Bà percehouse


Về đến nhà bà Curtis, Emily thấy Enderby đang ngồi đợi cô về ăn điểm tâm.

Chuyện người tù vượt ngục có vẻ gây ấn tượng rất mạnh cho bà chủ nhà.

- Lần tù vượt ngục gần đây nhất xảy ra cách đây hai năm, nhưng chỉ sau ba ngày là bị tóm lại, ỏ gần làng Moretonhamsptead.

- Liệu tên tù vượt ngục lần này có đi về phía chúng ta không, thưa bà Curtis? - Enderby hỏi.

- Không đời nào tù vượt ngục dám liều lĩnh đi về phía này, vì phía này xa các thành thị. Bọn họ thường tìm cách đến Plymouth, nhưng chưa đến được đó thì đã bị bắt lại.

- Tôi tưởng ở khu vực này có nhiều hang hốc có thể ẩn náu được?

- Cô nói rất đúng. Thậm chí gần đây có một cái hàng tên là "Động Pixie", cửa vào rất hẹp, nhưng bên trong rộng lắm. Nghe đồn là xưa kia có một vị quan của Vua Charles đã ẩn náu trong đó suốt nửa tháng trời. Một cô gái dưới làng hàng ngày lên tiếp tế thức ăn cho ông ta.

Chàng nhà báo Enderby nói:

- Tôi rất muốn xem cái động ấy.

- Tìm nó không dễ đâu. Mùa hè thường có những đám người nghỉ mát tổ chức đi tìm cái động ấy, nhưng nhiều khi mất cả một buổi sáng mà không tìm ra. Còn nếu cậu tìm thấy được, thì bỏ lại trong ấy một cái trâm, nghe đồn là sẽ được phù hộ và gặp may mắn đấy.

Xong bữa điểm tâm, chàng nhà báo và cô gái ra vườn trao đổi.

Enderby nói:

- Có lẽ sáng nay tôi phải đi Princetown. Tôi là người hay gặp may. Hôm đến đây, chỉ để trao tấm séc giải thưởng của báo Tin Điện, vậy mà gặp được đúng vụ án mạng ly kỳ này.

- Thế sáng nay anh không chụp ảnh thiếu tá Burnaby à?

- Tôi đang tính lấy cớ thời tiết chưa tốt, để có lý do nán lại làng Sittaford thêm. Cô Emily ạ, tôi vừa gửi về tòa soạn một bài nói về cô đấy.

- Thật à? Anh nói những gì trong đó?

- Nói những điều độc giả đang quan tâm. Đầu đề bài báo là: Phóng viên đặc biệt của báo Tin Điện kể về cuộc gặp gỡ của ông ta với vị hôn thê của James Pearson, người bị tình nghi là hung thủ giết đại úy Trevelyan... Trong bài báo, tôi viết rằng Emily Trefusis rất xinh đẹp và dũng cảm.

- Cảm ơn anh, Enderby.

- Rằng cô có làn tóc mềm mại, quăn tự nhiên.

- Cái gì?

- Thì đúng như thế còn gì?

- Nhưng anh kể thứ đó ra làm gì kia chứ?

- Độc giả rất thích những chi tiết kiểu đó. Khi ấy họ sẽ chăm chú đọc bài báo hơn. Tôi đặt vào miệng cô những lời tha thiết, đầy quyết tâm, phải cứu bằng được người yêu thoát khỏi nỗi oan ức. Mục đích để lôi kéo dư luận công chúng về phía cô.

- Nhưng tôi có nói những câu ấy thật không?

- Sao? Cô không thích à?

- Không? Nhưng thôi, anh nói tiếp đi. Anh còn viết những gì nữa?

- Tôi bịa ra những chi tiết về quá khứ phục vụ trong hải quân của đại úy Trevelyan. Phải có những thứ ấy mới đáp ứng được lòng hiếu kỳ của công chúng.

- Vậy ra sáng nay anh đã làm được khối việc.

- Còn cô, Emily? Cô dậy sớm, đã đi những đâu và thu lượm thêm được gì?

Emily thuật lại tóm tắt cuộc trò chuyện với ông già Rycroft. Bỗng nhiên cô gái ngừng lại. Chàng nhà báo nhìn theo hướng mắt của Emily, thấy một thanh niên đứng ngoài hàng rào đang vẫy tay gọi họ.

- Xin lỗi làm đứt quãng câu chuyện của hai vị. Nhưng bà cô tôi sai tôi sang gặp hai vị.

- Có chuyện gì vậy?

- Cô tôi có tính đã muốn gì là bắt người khác phải thực hiện cho bằng được. Xung quanh đây ai cũng phải sợ bà ấy...

- Có phải bà Percehouse không?

- Đúng. Vậy là tiểu thư đã biết cô tôi. Hẳn do nghe bà Curtis kể về tiểu thư, nên cô tôi rất tha thiết muốn gặp cô. Cô tôi sai tôi ra đây, nói với cô rằng, cô tôi bị liệt, không đi được, rất muốn mời cô sang nhà... Nhưng nếu cô không muốn sang, thì cô cứ viện một cớ nào đó, thí dụ váng đầu hay mệt mỏi gì đấy, tôi sẽ nói lại với cô tôi.

- Không. Tôi lại đang muốn gặp bà Percehouse - Emily nói - Tôi sẽ theo ông về nhà ngay bây giờ. Anh Enderby anh họ tôi phải sang gặp thiếu tá Burnaby.

Enderby phản đối rất khẽ.

- Sao không cho tôi cùng sang đó?

- Tôi sang một mình, bà ta dễ nói chuyện hơn - Emily kiên quyết đáp.

Nói xong cô ra cổng, đi theo anh chàng trẻ tuổi.

- Hẳn ông là Garfield?

- Vâng. đúng thế. Lẽ ra tôi phải tự giới thiệu trước.

- Ông không sống ở đây phải không, ông Garfield?

- Tôi làm sao chịu nổi cái làng heo hút này, không có thứ gì giải trí, đến một rạp chiếu bóng hạng bét cũng không có.

Vào đến nhà, Emily thấy một bà già gầy dộc, xanh xao, mặt nhăn nhúm, nằm trên đi văng. Thấy khách vào, bà cố nhấc người lên đôi chút để chào.

- Chào tiểu thư? Cảm ơn cô đã đến đây. Tôi được nghe nói đến cô, rất muốn gặp. Cô hiểu cho, người bị liệt như tôi, bao giờ cũng rất thèm nghe chuyện bên ngoài. Garfield, cháu ra sơn nốt chiếc bàn và hai cái ghế băng ngoài vườn đi.

- Vâng, thưa cô.

- Cô ngồi xuống đi, tiểu thư Emily.

Lạ một điều, không hiểu tại sao Emily lại thấy mến bà già mà mọi người đều ghét này. Tình trạng đau ốm và cô đơn của bà già làm cô mủi lòng.

- Tôi nghe nói cô là vị hôn thê của người cháu ông Trevelyan. Hẳn cô đến đây để tìm chứng cứ giải oan cho cậu ấy? Tôi xin chúc cô thành công.

- Cảm ơn bà.

- Tôi đoán cô đến đây để tìm hiểu những người trong cái xóm nhỏ này. Tôi có thể giúp cô khá nhiều đấy.

- Ôi, nếu vậy cháu biết ơn bà bao nhiêu!

- Có gì đâu. Tôi nghe chuyện về cô, rất mến cô và muốn giúp được cô phần nào.

- Vậy à? Thế ta bắt đầu từ thiếu tá Burnaby, được không ạ?

- Đó là điển hình của một sĩ quan quân đội về nghỉ, thiển cận, keo kiệt, và đố kỵ. Ông ta nhìn không xa hơn cái chỏm mũi ông ta và tuy đã rất giàu nhưng vẫn chi li từng xu một.

- Còn cụ Rycroft ạ?

- Một ông già gàn dở, kiêu căng là cái gì cũng biết, nhưng thật ra ngoài các giống chim ông cụ không biết thứ gì hết. Ông cụ khoe là rất giỏi môn tội phạm học, nhưng toàn nhận định sai.

Emily thấy bà già nhận xét đúng như cô dự đoán nên rất thích thú.

- Còn ông Duke ạ?

- Ôi, ông ấy thì quả là tôi không biết chút nào. Chỉ thấy ông ta rất khác đời. Tôi cảm thấy ông ta có một quá khứ bí mật và tôi rất muốn biết, nhưng chưa dò được ra.

- Bà nhận xét thế nào về hai mẹ con phu nhân Willett?

Nghe đến tên vị phu nhân thuê tòa lâu đài, bà Percehouse cố nhổm dậy, nhưng không được, lại nằm xuống:

- Chà, hai mẹ con bà ấy? Biết nói thế nào với cô đây? À, có thông tin này tôi có thể cung cấp cho cô. Cô ra chiếc bàn kia, mở ngăn kéo bên trái. Đúng đấy. Lấy chiếc phong bì trắng đem lại đây.

Emily đưa chiếc phong bì cho bà già nhăn nheo.

- Không biết thứ này có quan trọng gì không? Ai cũng có điều bí mật riêng, giấu người khác. Bà Willett cũng có quyền giữ điều bí mật riêng của bà ấy chứ.

Bà già cho tay vào phong bì nhưng chưa lấy ra thứ gì đó.

- Hôm phu nhân Willett chở đồ đạc đến lâu đài, rất nhiều hòm xiểng cồng kềnh. Đám đầy tớ gái thì hì hục khuân từ xe tải vào nhà... Tôi nằm trong này qua cửa sổ nhìn ra. Bỗng tôi thấy một mảnh giấy mầu vàng rơi trong đống đồ đạc ra mà không ai để ý. Tính tôi không thích thấy giấy tờ vương vãi tôi bèn bảo thằng cháu tôi ra nhặt đem vào đây để lúc nào trả lại cho phu nhân. Thấy chỉ là cái nhãn, nên tôi định vứt vào sọt rác, nhưng vì tờ nhãn đẹp, nên tôi giữ lại, bỏ vào chiếc phong bì này. Một lần giở ra xem, tôi nhận thấy có một điều lạ. Phu nhân Willett kể rằng cô con gái bà phu nhân cũng chỉ biết Nam Phi, nước Anh và vùng bờ biển Địa Trung Hải bên Pháp...

- Nhưng không đúng như thế ạ? - Emily hỏi.

- Cô nhìn mảnh nhãn này xem - Bà già Percehouse lấy trong phong bì ra một mảnh giấy màu vàng đưa Emily.

Đó là nhãn dán trên hành lý, mang tên một khách sạn: Khách sạn Mendel, Melbourne, Australia.

Bà Percehouse nói tiếp:

- Australia không phải đất Nam Phi! Vậy là hai mẹ con phu nhân Willett đã qua thành phố Melbourne thuộc Australia! Chi tiết này không biết có giúp ích gì cô chút nào không? Tại sao bà ta phải giấu chuyện hai mẹ con đã từng sang Australia? Giấu để làm gì?

- Chà, chuyện này cũng lạ như chuyện họ tìm nơi nghỉ mùa đông tại nơi heo hút, lạnh giá này...

- Cô nói đúng. Mà tiểu thư đã gặp hai mẹ con phu nhân Willett chưa?

- Cháu rất muốn gặp, nhưng chưa tìm được cớ nào để vào gặp.

- Tôi có thể tạo cho cô một cái cớ. Cô ra bàn lấy cho tôi cái bút, mảnh giấy và phong bì. Mà khoan đã…

Bà già thét lên, giọng the thé, đanh ác:

- Garfield! Garfield! Thằng này điếc chắc? Garfield!

- Thưa cô gọi cháu ạ?

- Hôm qua ở nhà phu nhân Willett, họ tiếp khách những thứ gì? Bánh ga tô có không?

- Ga tô ạ?

- Ga tô hoặc thứ bánh gì khác họ tự làm ấy? Thế trà uống kèm với thứ gì?

Garfield ngơ ngác đáp:

- Bánh mô-ka ạ.

Bà Percehouse bèn cặm cụi viết.

“Phu nhân Willett thân mến.

Tôi được biết hôm qua bà thết khách thứ bánh mô-ka rất ngon. Tôi muốn xin bà công thức làm thứ bánh ấy, được không, thưa phu nhân thân mến?

Xin lỗi phải làm phiền phu nhân, nhưng tôi rất muốn thử làm thứ bánh ấy để dùng tráng miệng. Garfield đang bận. nên tiểu thư Emily Trefusis nhận chuyển là thư này thay nó.

Câu chuyện về tên tù vượt ngục thật khủng khiếp. phải không thưa phu nhân?

Xin thành thật cảm ơn trước.

CAROLINE PERCEHOUSE”

Bà già gấp tờ giấy, cho vào phong bì, ghi địa chỉ người nhận, rồi đưa Emily.

- Lúc này hẳn tòa lâu đài chật ních các phóng viên nhà báo. Vừa rồi thấy cả một chiếc xe tải chở đầy người đến. Nhưng cô chỉ cần bảo do tôi nhờ chuyển một lá thư, chắc chắn họ sẽ tiếp cô ngay.

- Cảm ơn bà thưa bà Percehouse - Emily nói.

- "Hãy giúp người khác thì trời sẽ giúp ta". Cô còn chưa hỏi tôi về thằng Garfield, cháu tôi đấy. Nó hiền lành, to61t bụng, nhưng không có chút bản lĩnh nào hết. Vì tiền, nó có thể làm bất cứ thứ gì. Cô thấy nó cam chịu để tôi hành hạ như thế, chỉ cốt để tôi cho nó hưởng thừa kế. Nó đâu biết rằng nếu có cưỡng lại tôi, tôi lại yêu nó hơn gấp hàng trăm lần! Đồ ngu xuẩn!

Ngưng lại một chút, bà già Percehouse nói tiếp:

- Còn một người nữa trong xóm nhỏ Sittaford này ta chưa nói đến, là đại úy Wyat. Ông ta lén lút dùng thuốc phiện, hình như là thế, và người xấu tính có lẽ nhất nước Anh. Cô còn muốn biết thêm gì về ai nữa không?

- Hôm nay hãy tạm như thế. Nếu cần hỏi thêm, cháu sẽ sang gặp bà sau, thưa bà Percehouse.

Những điều bà kể hết sức bổ ích cho cháu. Xin cảm ơn bà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18: Thăm lâu đài Sittaford


Emily đang bước vội lên sườn núi thoai thoải về phía lâu đài Sittaford, trong làn sương mù dầy đặc đang tan dần, thì có tiếng gọi.

- Xin lỗi, cô có nhìn thấy con chó nào quanh đây không?

Emily giật nảy người, ngoái đầu lại. Một người đàn ông cao lênh khênh, gầy nhẳng, đứng bên trong hàng rào một ngôi biệt thự, da rám nắng, mắt đỏ ngầu, tóc hoa râm nhìn cô. Emily đoán được ngay ông ta la đại úy Wyat, chủ ngôi biệt thự số 3.

- Không, tôi không nhìn thấy - Emily đáp.

- Con chó ấy dễ bị xe ôtô cán đấy. Tôi vừa nhìn thấy một xe tải chở đầy người, chắc là nhà báo. Họ tìm tài liệu về Trevelyan.

- Ông có quen với đại úy Trevelyan không? - Emily hỏi.

Cô biết chuyện con chó chỉ là ông ta viện cớ để bắt chuyện với mình, lúc này đang là nhân vật được cả xóm này quan tâm.

- Tất nhiên. Tôi mua ngôi biệt thự này của ông ta.

- Ông thấy đại úy thế nào?

- Keo kiệt. Theo hợp đồng nhà, ông ta phải sơn màu, nhưng ông ta vẫn giữ nguyên một màu như trước.

- Ông không ưa đại úy Trevelyan?

- Tôi thường xuyên cãi nhau với ông ta đấy... Tôi tự nhận là khó tính và hay gây gổ với xung quanh, nhưng Trevelyan quá quắt lắm kia. Đã thế, ông ta lại tự coi là kẻ có quyền hành, bất cứ lúc nào cũng gõ cửa nhà người ta, không kể giờ giấc nào hết. Bây giờ thì xóm này nhẹ đi được rồi - Đại úy Wyat nói giọng mãn nguyện.

- Vậy à?

- Tôi có tên đầy tớ da đen - ông ta hét - Abdul!

Một thanh niên da đen, cao lớn, quấn trên đầu tấm khăn rằn, chạy đến.

- Mời cô vào chơi - Đại úy Wyat nói.

- Xin ông đại úy tha lỗi, để lúc khác. Lúc này tôi đang có việc bận.

- Cô bận à? Chà, con người thời nay lúc nào cũng tất bật. Như thế thì sống để làm gì kia chứ? Sống là một nghệ thuật, cô biết không? Tôi sẵn sàng dạy cho ai muốn học cái nghệ thuật ấy.

Emily thầm cười, chạy đi.

Cửa tòa lâu đài to và bằng gỗ sồi rất dày. Dây kéo chuông bằng đồng sáng loáng. Một cô hầu mặc sạch sẽ, dáng người xinh xắn ra mở của.

- Thưa tiểu thư, bà chủ hôm nay không tiếp khách.

Emily hiểu rằng đã có nhiều nhà báo đến đây trước cô.

- Tôi chỉ chuyển một lá thư của bà Percehouse gửi phu nhân Willett.

Mặt cô hầu dịu xuống, cô nói:

- Nếu vậy, xin mời tiểu thư vào nhà.

Emily bước vào gian tiền sảnh rộng thênh thang, trải thảm sang trọng. Lát sau cửa bên trong mở. Một cô gái trạc tuổi Emily bước ra, vẻ mặt lo lắng.

- Chào tiểu thư - Cô gái chìa tay bắt - Mẹ tôi xin lỗi, vì trong người không được khỏe.

- Có lẽ tôi đến vào giờ này không thích hợp?

- Không đâu. Chị nấu bếp đang ghi ra giấy công thức làm thứ bánh bà Percehouse yêu cầu. Tiểu thư là người nhà bà Percehouse và mới đến đây thăm bà ấy phải không?

Emily thầm cười. Chỉ những người trong lâu đài này mới không biết cô là ai, và đến đây có việc gì.

- Không đâu. Tôi nghỉ ở nhà bà Curtis, chỉ nhân sang chơi bà Percehouse...

- Tôi hiểu.

Emily ngắm nghía tòa lâu đài:

- Có phải đây là lâu đài của đại úy Trevelyan vừa qua đời không, thưa tiểu thư?

- Vâng, đúng thế. Ông đại úy chết một cách khủng khiếp quá!

- Tôi nghe nói về chuyện hồn ma của ông ấy báo tin. Tiểu thư có thể kể lại cho tôi nghe về câu chuyện chơi trò "bàn ma" chiều hôm trước được không?

- Ôi, có lẽ suốt đời không bao giờ tôi quên được cái buổi chiều hôm ấy. Tôi còn nhớ lúc bật đèn lên, vẻ mặt mọi người đều hoảng hốt một cách đến sợ, chỉ trừ ông Duke và thiếu tá Burnaby. Nhất là anh Garfield thì mặt xanh không còn một giọt máu.

- Rất tiếc là tôi không được dự trò chơi hôm ấy ở đây.

- Tôi thì lại tiếc là đã tham dự nó. Sau đấy, thiếu tá Burnaby kiên quyết xuống thị trấn thăm ông bạn. Ai can cũng không được. Từ lúc đó mọi người chúng tôi hồi hộp chờ, cho đến sáng hôm qua, khi nghe tin về vụ án mạng, tất cả chúng tôi đều kinh hoàng... Không ai có thể nghĩ "hồn ma" đâm ra là chuyện có thật.

Cô hầu ra, bưng chiếc khay trên đặt một tờ giấy đến trước mặt cô chủ. Violette cầm tờ giấy, đọc lướt qua rồi gấp lại, đưa Emily.

- Tiểu thư đến thật đúng lúc. Vụ án mạng vừa qua đám người làm cho chúng tôi hốt hoảng, họ đòi thôi việc để về nhà. Tối hôm qua mẹ tôi nổi cáu, bảo tất cả bọn họ hãy chuẩn bị hành lý để về. Chỉ trưa nay là nhà không còn đầy tớ nào nữa. Chúng tôi sẽ chỉ thuê một người hầu phòng và một người nấu bếp thôi.

- Tôi xin mạo muội hỏi tiểu thư một câu được không? Tại sao phu nhân và tiểu thư lại chọn nơi nghỉ mùa đông là cái xóm heo hút và lạnh giá này?

- Hai mẹ con tôi thích phong cảnh nơi đây - Nhưng khi nói câu đó, Violette cúi đầu, cố tránh không gặp luồng mắt của Emily.

- Thôi, cảm ơn tiểu thư, tôi xin phép.

Trước khi ra khỏi nhà, Emily kín đáo ném đôi găng tay lên chiếc bàn nhỏ ở góc tường gần đó.

Tiễn khách ra ngoài cửa, Violette quay vào, khép cửa lại, nhưng Emily để ý thấy cô ta không vặn chìa khóa. Ra đến cổng sắt, cô bèn rón rén quay trở lại. Cô xoay nhẹ đấm cửa, rón rén đi vào nhà. Ngoài gian tiền sảnh không có ai.

Emily nhẹ chân bước đến chân cầu thang gác, lắng nghe động tĩnh trên gác. Không thấy gì, cô rón rén bước lên từng bậc, vừa đi vừa hồi hộp lắng nghe. Tim cô đập thình thịch. Emily không thể viện cớ để quên đôi găng tay trên tầng hai được. Vẫn chưa nghe thấy gì, cô lên thêm bậc nữa. Có tiếng phụ nữ trò chuyện. Tiếng trò chuyện ngừng lại.

Emily vội vã chạy thật nhẹ xuống thang gác.

Liền sau đó, Violette xuống. Thấy Emily đang tìm kiếm thứ gì, cô hỏi:

- Tiểu thư để quên thứ gì à?

- Vâng, đôi găng tay! May quá, đây rồi? Thôi, xin phép tiểu thư - Emily nói rồi bước nhanh ra cửa.

Nhưng lúc nãy cô đã nghe thấy câu nói cuối cùng của Violette nói với mẹ: "Lạy Chúa! Bao giờ mới đến tối đây!"
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
559,032
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19: Những giả thiết


Emily quay về biệt thự bà Curtis, nhưng không thấy Enderby đâu. Bà Curtis cho biết "anh họ" cô đã đi với một tốp thanh niên, và cô có hai bức điện tín, đề tên gửi Emily Trefusis. Cô bóc ra xem, rồi nhét vào túi, trước mặt bà chủ nhà.

- Tôi hy vọng không có tin gì xấu chứ? - Bà ta hỏi.

- Không, thưa bà Curtis.

- Điện là bao giờ cũng làm người ta hồi hộp.

Cần tập trung suy nghĩ, Emily lên phòng. Cô hệ thống hóa các thông tin lên một tờ giấy. Đang làm thì Enderby về.

- Cô đây rồi, Emily! Đám nhà báo tìm cô khiếp quá! Nhưng không sao, tôi có cách trấn an họ rồi.

Anh ta ngồi xuống ghế, nói tiếp:

- Không nói khoe đâu, nhưng bây giờ tôi đâm thành nhân vật nổi tiếng trong làng báo chí. Chưa bao giờ các đồng nghiệp đối xử với tôi lịch sự như hôm nay. Emily, cô có thấy đám sương mù kia không?

- Thấy, nhưng tôi vẫn phải đi Exter.

- Để làm gì?

- Tôi cần gặp ông Dacres, luật sư của James. Ông ta đánh điện báo muốn gặp tôi. Nhân tiện tôi tính ghé thăm luôn bà Dering, dì của James. Vả lại Exter chỉ cách thị trấn Exhampton nửa giờ xe lửa.

- Cô cho rằng bà Dering có khả năng đến Exhampton, quật cái bao cát lên đầu ông em rồi chạy về Exter không?

- Tôi không nghi bà ấy, mà tôi nghĩ đến khả năng ông chồng bà ta, lão Martin Dering. Lão ta là nhà văn nhưng hoàn toàn là một tên côn đồ, dám quật chết người khác lắm, nếu việc ấy có lợi cho lão. Ông luật sự Dacres bảo rằng lão chú dượng của James ấy có chứng cứ ngoại phạm. Chiều hôm ấy lão ta dự chiêu đãi ở câu lạc bộ văn học.

- Cuộc chiêu đãi ở câu lạc bộ văn học chiều thứ sáu… Martin Dering... Martin Dering... Thôi, tôi nhớ ra rồi. Để chắc chắn, tôi sẽ đánh điện hỏi lại Carruters.

- Nghĩa là sao?

- Chiều thứ sáu tôi đáp xe lửa đi Exhampton. Một người bạn tên là Carruters hẹn đến gặp tôi trước khi tôi ra ga, nhưng anh ta không đến được, gọi điện cho tôi, báo là bận dự buổi chiêu đãi ở câu lạc bộ văn học. Do không gặp được nên sau đấy anh ta viết thư cho tôi, nói điều anh ta muốn nói. Trong thư, nhân tiện anh ta kể rằng trong bữa chiêu đãi đó ghế hai bên cạnh anh ta bỏ trống, nghe đâu của một nhà văn chuyên viết truyện tình ái, tên là Martin Dering. Rất tiếc tôi lại xé lá thư ấy mất rồi.

- Anh nhớ chính xác là Martin Dering chứ?

- Tôi không dám chắc lắm, nhưng tôi sẽ đánh điện hỏi lại Carruters.

- Chà, vậy mà lão ta dám quả quyết lão ta dự buổi chiêu đãi hôm ấy. Lão ta còn bảo trưa hôm ấy lão tiếp chủ một nhà xuất bản Hoa Kỳ. Tôi đã ngờ ngợ. Nhưng bây giờ thì thấy rõ lão ta bịa. Việc này chúng tôi phải báo cho thanh tra Narracott biết để ông ấy sử dụng lực lượng cảnh sát thẩm tra.

- Chà, nếu vậy tôi lại có một bài lý thú nữa cho báo Tin Điện rồi!

- Còn tôi sẽ đi Exter, có lẽ phải mai mới quay về Exhampton được.

Rồi Emily thuật lại việc cô đến lâu đài Sittaford, và nghe lỏm được câu nói lạ lùng của Violette với bà mẹ cô ta.

- Nghĩa là chúng ta phải điều tra xem đêm nay có chuyện gì. Tôi cũng đã cảm thấy có chuyện không bình thường, khi bà Willett đuổi tất cả đám hầu gái ra khỏi lâu đài trưa hôm nay.

- Tốt nhất tối nay anh chịu khó rình bên ngoài hàng rào lâu đài Sittaford? - Emily nói.

- Cô bắt tôi phải chết rét hay sao?

- Sao tôi nghe nói giới phóng viên các anh sẵn sàng chịu mọi khổ cực chỉ cốt để kiếm một thông tin quý giá?

Sau đó, Emily đưa "liên minh” xem tờ nhãn khách sạn ở Australia.

Enderby ngắm nghía tờ nhãn, nói:

- Cậu em trai của James, cũng là cháu gọi đại úy Trevelyan bằng cậu, hiện đang ở Australia. Liệu có sự trùng hợp ngẫu nhiên nào không đấy?

Chàng nhà báo nhìn thẳng vào mắt cô bạn gái xinh đẹp:

- Cô đã kiểm tra chính xác về các hành vi của người yêu cô rồi chứ?

- Nghĩa là anh vẫn chưa tin James vô tội?

- Không phải thế. Mà tôi nghĩ đến khả năng, lúc James đến biệt thự "Hazelmoor", anh ta đã thấy đại úy Trevelyan bị giết rồi. Và do sợ bị nghi ngờ, anh ta giấu biệt chuyện đó.

Emily suy nghĩ:

- Điều anh đoán có thể lắm. Bởi James không có khả năng giết người, nhưng có khả năng nói dối một cách ngu ngốc.

- Khốn nỗi họ lại không cho cô vào gặp anh ta.

- Tôi sẽ nhờ luật sư Dacres vào gặp, hỏi rõ thêm chuyện đó. Chà, từ trước tới nay chúng ta chỉ nhằm tìm kẻ nào đến đấy sau James, nhưng bây giờ chúng ta phải tìm cả kẻ nào đến trước anh ấy... Nếu vậy tôi phải gặp ông bác sĩ xem nạn nhân bị giết lúc mấy giờ...

- Đúng thế - Enderby nói - Nếu bác sĩ nói nạn nhân bị giết lúc bốn giờ thì James có bằng chứng ngoại phạm rõ ràng.

- Tôi phải gặp bác sĩ trước lúc đi Exter, nghĩa là trước ba giờ chiều. Nghe nói bác thợ rèn ở đây có chiếc ôtô tàng chuyên chở thuê. Bây giờ là mấy giờ, anh Enderby?

Chàng nhà báo xem đồng hồ đeo tay:

- Mười hai rưỡi.

- Hai chúng ta có thể ra gặp bác thợ rèn. Trước khi rời Sittaford, tôi muốn gặp ông Duke, đấy là người duy nhất tôi chưa gặp.

- Vậy ta gặp ông ấy rồi đến nhà bác thợ rèn.

Biệt thự của ông Duke nằm cuối cùng trong dãy. Emily và Enderby vừa đẩy cổng bước vào sân, đã thấy cửa biệt thự mở, thanh tra Narracott đang bước ra.

Bản thân viên thanh tra cũng ngạc nhiên nhìn thấy hai người.

Emily bèn bỏ ngay ý định gặp ông Duke, cô vui vẻ nói với viên thanh tra:

- Rất sung sướng được gặp ông ở đây, thưa thanh tra Narracott! Tôi đang có chuyện muốn nói với ông.

- Tôi cũng rất vui được gặp cô, thưa tiểu thư Emily Trefusis - ông lấy trong túi áo ra chiếc đồng hồ quả quít, xem rồi nói - Rất tiếc là tôi đang vội. Vậy có gì cô nói ngay đi. Tôi đang phải thuê ôtô để về Exhampton có việc gấp.

- Vậy thì càng quý. Ông cho tôi đi nhờ xe với. Được không?

Viên thanh tra vì lịch sự, đành đáp:

- Rất được ấy chứ!

Emily quay sang chàng nhà báo:

- Enderby! Anh chạy về lấy cho em chiếc va li đi, em đã xếp các thứ và khóa cẩn thận rồi.

Chàng nhà báo lập tức chạy đi.

- Tôi không ngờ gặp cô ở đây, thưa tiểu thư Emily Trefusis.

- Ông có nhớ hôm ấy tôi chào ông "Tạm biệt" không? Chỉ là "tạm" thôi mà.

- Hôm đó tôi không chú ý đến hàm ý ấy của cô.

- Ông sẽ còn phải gặp tôi, bởi James vô tội.

- Có thể là như thế.

- Tôi cam đoan trong thâm tâm, ông cũng nghĩ như tôi.

- Căn cứ vào đâu cô nghĩ như thế?

- Ông gặp ông Duke làm gì vậy?

Thấy viên thanh tra ngần ngại, Emily nói luôn.

- Ông đang có nhiều hồ nghi trong lòng, thưa ông thanh tra. Hôm trước ông tin là ông đã bắt đúng thủ phạm, nhưng hôm nay ông không còn tin chắc như thế nữa, cho nên ông mới tiếp tục điều tra. Lát nữa tôi sẽ cung cấp cho ông một số phát hiện của tôi, chắc chắn sẽ có ích cho việc điều tra của ông. Để lúc lên ôtô.

Đúng lúc ấy có tiếng chân người chạy lại: anh chàng Garfield.

- Cô Emily Trefusis! Cô có thể dạo chơi một chút với tôi được không? Cô tôi đang ngủ.

- Rất tiếc là không được. Tôi phải đi Exhampton bây giờ.

- Vậy à? Thế cô có trở lại đây không?

- Có. Nhân tiện nhờ anh một việc - Emily lấy trong túi áo ra một tờ giấy gấp tư - Đây là công thức làm bánh mô-ka, nhờ anh chuyển giúp cho bà Percehouse. Và anh nói giúp là, bà rất may đấy, bởi lúc tôi đến, chị nấu ăn đang chuẩn bị rời khỏi lâu đài Sittaford. Anh đừng quên câu tôi nhắn ấy nhé.

Tiếng vọng từ phía xa: "Garfield? Garfield!."

- Cô tôi thức dậy rồi - Garfield sầu não nói - Tôi phải về thôi.

- Đúng thế. Và nhớ lau vết sơn giây trên má anh đấy.

Garfield đã vào khuất sau hàng rào biệt thự của bà Percehouse.

- Ông anh họ tôi đem va li của tôi ra rồi kìa. Ta đi thôi, thưa ông thanh tra. Lúc ngồi trong ôtô, tôi sẽ kể ông nghe tất cả những gì tôi đã dò biết được.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom