Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,532
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 22: Cùng phá giải


Chính vào lúc Lỗ Nhất Khí đang âm thầm suy nghĩ, đột nhiên xuất hiện một luồng sát khí cực kỳ sắc bén từ phía tháp trắng chầm chậm tiến lại, mang lại một thứ cảm giác giống như đao sắc cứa vào da thịt. Trong quá trình di chuyển, luồng khí lúc đi lúc dừng, rẽ ngoặt quanh co, có vẻ như đang giải khảm mà tới.Lỗ Nhất Khí không nói gì, chỉ ngoái đầu liếc nhìn Phật sống. Sắc mặt Phật sống hết sức đăm chiêu. Đúng vậy, phía trước có Báo Cơ cản đường, phía sau có Chu Chân Mệnh âm thầm theo dõi, bây giờ lại thình lình mọc ra một luồng sát khí sắc bén rợn người. Trong tình cảnh thế này, Phật sống không những phải tự bảo vệ mình, mà còn phải che chắn cho Lỗ Nhất Khí vừa mới bị thương, dù có Phật Tổ hay thần tiên ở đây, cũng khó tránh khỏi lo lắng.

- Con đường duy nhất chỉ có thể là xông qua chỗ Báo Cơ nương nương, lên Thiên Thê trước khi quân chi viện tới kịp! - Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như tự nhủ với bản thân.

Phật sống đã tin lời Lỗ Nhất Khí. Trong mắt ông ta, Lỗ Nhất Khí là một cao thủ tuyệt đỉnh tinh thông Phật lý, dùng tâm ngự địch, có cậu sát cánh bên ông ta, thì việc xông qua cửa ải của Báo Cơ nương nương hẳn cũng là việc dễ dàng.

Thế là Phật sống xốc Lỗ Nhất Khí lên, đi thẳng về phía trước. Nhìn thấy Phật sống dứt khoát lao lên, Báo Cơ nương nương quát lên như sấm:

- Phật gia, nếu nhất quyết xông lên, chớ trách tôi vô tình!

Lời vừa dứt, trên vách đá bỗng vang lên một tràng những tiếng “lắc rắc”. Lỗ Nhất Khí thoạt nghe đã biết là tiếng chốt lẫy kéo căng. Bức bích hoạ rất rộng, phạm vi của nó bao trùm phần lớn đoạn đường từ hành lang bên ngoài tháp trắng đến phía dưới đám bậc thang đá của dãy núi Thiên Thế. Bởi vậy, phạm vi sát thương của khảm diện này cũng vô cùng rộng lớn. Chỉ cần đặt chân lên con đường phía trước bức bích hoạ, chắc chắn bọn họ sẽ hết đường.

Sau khi phát ra một tràng những âm thanh quái dị, bức bích hoạ sắc màu rực rỡ đã xuất hiện một vài biến hoá rất vi tế, mỗi một biến hoá đều tương đương với sự tồn tại của một loại nút giết hoặc nút vây.

Lỗ Nhất Khí chú ý tới từng mảy may biến hoá. Nguyên lý của “Cơ xảo tập” và “Ban kinh” đã dung hội quán thông trong trí não, tầm hiểu biết về khảm nút của cậu cũng đã đạt đến cảnh giới thượng thừa. Nhìn vào những biến hoá, Lỗ Nhất Khí có thể khẳng định có cả thảy trên mười lăm loại nút lẫy trên tấm bích hoạ. Trong mảng bích hoạ ngay trước mặt cậu có ba loại là Lưới quăng tám chân, Gông khớp nhanh hai hình và Kẹp lông nhím. Sang phía tây lần lượt là các nút Vòng ráng mây, Cắt chữ điền, Mâu xuyên tim chín chín vào một, Chụp máu theo gió...; sang phía đông lần lượt là các nút Cóc trời phun vàng, Toà chạm đất, Bút mộng sinh hoa... Còn có hai chỗ Lỗ Nhất Khí phát hiện ra chốt lẫy, song không biết được là loại nút gì, bởi lẽ chỉ có một đầu ống thò ra, đoán rằng không phải là nước độc, nước ăn mòn, cũng là loại khói hun, sương độc.

Hai người Lỗ Nhất Khí không cần phải suy xét tới đám nút lẫy phía đông, bởi vì bậc đá Thiên Thê nằm ở phía tây nơi họ đang đứng. Số nút ở đoạn này lại nhiều hơn hẳn phía đông, khoảng trên dưới mười loại.

Trong nghề khảm tử từ cổ chí kim, không ai có thể liên tục vượt qua nhiều cơ quan cạm bẫy đến như vậy. Theo ghi chép trong sách vở, người từng liên tục vượt qua được nhiều khảm nút nhất chính là kỳ nhân khảm tử thời Đường Mặc Phi Yên, đây là một kỳ nữ trong Mặc môn, cả đời chuyên nghiên cứu về nguyên lý khảm nút. Khi bà sáu mươi ba tuổi, một mình xông vào luỹ Thính Thiên của An Lộc Sơn, liên tiếp vượt qua sáu khảm trong sảnh Bố Chiến ở tầng thứ hai của luỹ, nhưng cuối cùng vẫn phải bỏ mạng trong khảm Cửa sập hình búa chém mười lần. Còn một người nữa là Cẩm Mao Thử Bạch Ngọc Đường thời Tống, trước khi rơi vào khảm diện “lưới chuông bắt sẻ” ở lầu Tiêu Dao rồi bị mưa tên bắn chết, ông đã liên tiếp vượt qua năm khảm, sau đó lại né qua được nút “đao hoa sen” ở cửa lưới của Lưới chuông bắt sẻ, được tính là vượt qua được năm khảm rưỡi. Hai người này được xem là “Hắc Bạch song thành” trong nghề khảm tử, được khảm tử gia đời sau coi là đỉnh cao không dễ vượt qua.

Mà lúc này, có tới hơn mười nút chết liên tục, việc liều mạng xông qua gần như là không thể. Vì người thiết kế khảm diện đã suy xét tới tính liên tục của khảm nút, lực sát thương của nút lẫy phía sau sẽ nhắm vào những chỗ sơ hở có thể lợi dụng của nút lẫy phía trước nó.

- Phật sống, những khảm nút này ngài có thể tránh được không? - Lỗ Nhất Khí hy vọng có thể nghe được lời khẳng định từ Phật sống.

- Khảm nút nào? - Phật sống có vẻ ngơ ngác.

- Chính là những cạm bẫy, ám khí trên bức bích hoạ kia! - Lỗ Nhất Khí e rằng Phật sống không hiểu ý nghĩa của từ khảm nút.

- Hả? Trên vách kia có ám khí? – Thì ra Phật sống hoàn toàn mù tịt về khảm nút.

Luồng sát khí sắc lạnh như dao cắt đã băng qua tháp trắng. Lỗ Nhất Khí đã nhận ra, làn khí tướng tương tự như thế này từng xuất hiện ở Nam Lĩnh, Viêm Hoá Lôi nói đó là sát thủ với tên gọi người đao mười sáu lưỡi.

Ở đoạn cuối hành lang vòng quanh tháp, thi khí cuồn cuộn, ma khí lan tràn. Hẳn là Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang phải vật lộn quyết liệt với một cao thủ rất đáng gờm. Nhìn vào làn thi khí và ma khí, biết rằng bọn họ đã phải phát huy công lực tới cực điểm.

Phía Chu Chân Mệnh vẫn không có động tĩnh gì. Hắn đang chờ đợi cơ hội thích hợp nhất, hiệu quả nhất.

Khảm nút đã lên sẵn chốt lẫy của Báo Cơ nương nương đều dùng bùa chú ánh sáng “bóng theo hình” để khởi động. Lúc này, dù hai người Lỗ Nhất Khí di chuyển sang phía nào, chỉ cần thân hình dịch chuyển, khiến cho ánh sáng thay đổi, bùa chú sẽ lập tức khởi động. Bùa chú khởi động, sẽ sinh ra lực vô hình, như nảy, rung, lắc, kéo theo chốt lẫy hoạt động.

Không có viện trợ. Phật sống không thể trợ giúp. Đối thủ đã ép sát đến nơi. Chỉ có thể dựa vào bản thân. Không! Cần phải dựa vào sự liên thủ giữa mình và Phật sống. Lỗ Nhất Khí đang cấp tập quét mắt quan sát, trí não xoay chuyển như bay.

Những thứ cần nhìn đều đã nhìn thấy, những thứ cần nhớ đều đã nhớ kỹ, những thứ cần tính toán cũng đã tính toán xong. Biện pháp phá giải đã hình thành trong đầu. Bước tiếp theo chính là cần thực hiện một cách chính xác và chuẩn xác.

- Tôi nói “đi” thì đi, nói “lên” thì nhảy thẳng lên, nói “nhảy” thì nhảy về phía trước, nói “dừng” thì dừng lại, nói “phục” thì chúi người xuống! - Lỗ Nhất Khí nói với Phật sống với nét mặt hết sức nghiêm trọng. Chỉ có thống nhất các khẩu lệnh với Phật sống, mới có thể xông lên phía trước đúng với yêu cầu và mục đích đã định.

Phật sống chỉ khẽ gật đầu, song ánh mắt và nét mặt tràn đầy vẻ kiên định và tin tưởng.

Tín hiệu và hành động đã thống nhất, một vấn đề then chốt nữa chính là phải kiểm soát chính xác vị trí và cự ly hành động. Trong khảm diện với nhiều nút lẫy bố trí liên tiếp, chỉ cần bước chệch nửa bàn chân cũng sẽ mất mạng ngay lập tức. Bởi vậy, cần phải có một phương pháp xác định vị trí cự ly mà Lỗ Nhất Khí và Phật sống đều thông thạo.

Phương pháp xác định vị trí, cự ly thường dùng nhất là phương vị Bát quái. Song Phật sống chuyên nghiên cứu về Phật học Mật Tông Tây Tạng, nên không hiểu gì về lý số Đạo gia của Trung Nguyên. Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới một điển tích của Phật giáo Mật Tông có tên là “Tạng Phật thất luân thích thân”. Trong sách có nói rằng, trong cơ thể con người có bảy luân xa, trong đó có một luân xa nằm ở bên ngoài cơ thể, gọi là luân xa Phạn huyệt. Sáu luân xa còn lại nằm bên trong cơ thể, lần lượt là luân xa đỉnh đầu, luân xa trán, luân xa họng, luân xa tim, luân xa rốn và luân xa hải để. Bảy luân xa được bắt đầu từ luân xa Phạn huyệt bên ngoài cơ thể, khoảng cách giữa các luân xa dài ngắn khác nhau. Có lẽ Phật sống sẽ thông thạo phương pháp xác định vị trí, cự ly kiểu này.

- Bước đi căn cứ theo cự ly giữa bảy luân xa của tượng Phật ngồi chín trượng, trước khi bước đi hãy nghe tôi nói rõ vị trí! - Lỗ Nhất Khí muốn tiến hành xác định vị trí dựa theo cự ly giữa bảy luân xa của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.

Phật sống lại dứt khoát gật đầu. Cách xác định cự ly này đối với ông ta dễ như trở bàn tay.

Lỗ Nhất Khí cảm hấy hơi khó khăn khi rút khẩu pạc-hoọc ra. Bàn tay phải đã đứt cụt, chỉ có thể dùng tay trái bóp cò, song vừa rồi đầu gậy của lão mù đã xuyên thủng bả vai trái của cậu.

Cánh tay trái không thể nhấc lên được nữa, bởi vậy chỉ có thể gập khuỷu tay lại để nâng khẩu pạc-hoọc lên ngang tầm thắt lưng.

- “Pằng!”

Phát súng đầu tiên chỉ là tìm ra điểm định vị. Có được điểm định vị, mới có thể tìm được cảm giác chính xác.

Thở khẽ hít sâu, tụ khí ngưng thần, để thân tâm đều thuận theo tự nhiên. Trong cảm giác của Lỗ Nhất Khí đã không còn cái tôi nữa, xác thịt như đã hoà tan vào trong không khí. Trong khoảnh khắc đó, khí thế của cậu bừng bừng tuôn chảy, như mây toả ngang trời, như nước tràn dưới suối, rực rỡ như ánh nắng phía trời đông. Khí tướng vừa bừng lên, đám cao thủ phía Chu gia thảy đều bàng hoàng sửng sốt. Ngay cả Chu Chân Mệnh đã từng nhìn thấy khí tướng của Lỗ Nhất Khí cũng phải kinh ngạc trong lòng. Mới vài ngày không gặp, nguồn năng lượng tiềm ẩn trong khí tướng của gã thanh niên kia đã lớn mạnh gấp mấy lần, bừng lên một cảm giác choáng ngợp không thể chống cự.

Vị trí của tất cả các chốt lẫy dây bật và hình thức hoạt động của chúng được rà soát lại một lượt trong trí não Lỗ Nhất Khí. Tất cả chúng đã hình thành nên một bức tranh trong ý thức của cậu. Trong cảm giác, bức tranh đó đang được kéo lại gần, rất gần, gần tới mức cậu chỉ cần đưa tay ra là chạm tới.

- Đi! Luân xa tim! - Lỗ Nhất Khí thốt lên khe khẽ.

Lời còn chưa dứt, thân hình Phật sống đã lập tức di chuyển, dẫn theo cậu lao thẳng tới vị trí luân xa tim của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.

Phật sống và Lỗ Nhất Khí vừa di chuyển, chốt lẫy phía bên kia lập tức khởi động. Trước hết là nút Kẹp lông nhím phía trước mặt, song lẫy của nó chỉ bung một nửa rồi mắc kẹp, bởi vì khi vừa bật ra chữ “đi”, Lỗ Nhất Khí đã nổ súng. Viên đạn găm trúng chốt chính của Kẹp lông nhím, khiến tấm chống của chốt chính mắc kẹt vào cần răng, nên nút không thể tiếp tục vận hành.

Phát súng thứ hai bắn trúng dây lẫy treo của Mâu xuyên tim chín chín vào một ẩn trong khe đá. Súng nổ lẫy đứt, dây lẫy của toàn bộ nút khảm đều được nhả hoàn toàn, không một cây mâu xuyên tim nào bay ra.

- Dừng! - Lỗ Nhất Khí lại kêu lớn. Tiếng kêu vừa bật ra khỏi miệng, Lỗ Nhất Khí lại giương súng bắn trúng chốt gạt của Cắt chữ điền. Chốt lẫy của nút này hoạt động theo cách gạt nghiêng sang một bên, từ góc độ và vị trí của Lỗ Nhất Khí, không có cách nào khiến chốt lẫy nhả dây xả lực, nên Lỗ Nhất Khí đã bắn vào chốt gạt, như vậy có thể khiến nút lẫy hoạt động trước. Lỗ Nhất Khí yêu cầu Phật sống dừng lại, chính là muốn lợi dụng khoảng thời gian chênh lệch để né tránh khung cắt hình chữ điền bắn ra đầu tiên.

- Nhảy! Luân xa hải để! - Lỗ Nhất Khí lại hô lên.

Phật sống nghe tiếng mà động, thân hình nhảy vọt đi theo trình tự bắn của khung cắt chữ điền. Khi các khung cắt phóng ra hết, họ cũng vừa tới nơi.

Song vừa tới nơi, thì nút tiếp theo là “vòng ráng mây” được xếp chồng lên nút này vừa hay lại hoạt động. Chớp mắt, vô số vòng thép dẹt với phần lưỡi mài sắc lẹm ào ào phóng ra như mây toả. Mà lần này, hai người họ đang ở chính giữa phạm vi của nút lẫy, không có chỗ né tránh.

- Phục! - Lỗ Nhất Khí nằm sấp xuống tránh, khẩu súng trong tay cũng nhả đạn liên hồi.

Đạn tới tấp bay thẳng tới những vòng thép sắc lẹm, song số đạn trong ổ súng lại ít ỏi hơn rất nhiều so với đám vòng thép đang ào ào lao tới. Mặt khác nếu bắn hết đạn, những nút lẫy tiếp theo sẽ không thể đi qua. Nên Lỗ Nhất Khí chỉ bắn năm phát đạn, mỗi phát đều được bắn theo góc độ vô cùng xảo diệu, vòng bay bị bắn trúng lập tức đổi hướng đâm vào vòng thép liền kề, vòng thép này lại va phải vòng thép khác. Bởi vậy, tuy chỉ có năm phát đạn, song số vòng bay bị bắn đi lại nhiều hơn gấp bốn năm lần. Bởi vậy trong đám vòng tuôn ra ào ạt như mây đã xuất hiện một lỗ hổng, vừa đủ cho Phật sống và Lỗ Nhất Khí cúi lom khom mà băng qua.

Đứng ngoài nhìn vào, có cảm giác như Phật sống và Lỗ Nhất Khí đang biểu diễn một màn kịch múa rối hay kịch đèn chiếu, còn tiếng súng, tiếng chốt bật lẫy bung chính là dàn nhạc đệm cho họ. Động tác của bọn họ trong rất kỳ quặc, lúc đi, lúc dừng, lúc thụp xuống, lúc nhảy lên... Yêu cầu duy nhất là bọn họ cần thực hiện những động tác này một cách liên tục, nhất quán từ đầu tới cuối, cho đến tận vị trí không còn khảm nút nữa mới thôi. Bởi lẽ chỉ cần hơi chậm trễ, hoặc lỡ nhịp mất một thời cơ, thì cái giá phải trả sẽ là hai tính mạng, hai tính mạng cực kỳ đáng giá, không gì có thể thay thế.

Báo Cơ nương nương kinh ngạc đến sững sờ. Đao Thập Lục sửng sốt đến chết lặng. Chu Chân Mệnh đang ẩn nấp cũng vội vã chạy nhào tới. Không phải hắn muốn chớp thời cơ tấn công Lỗ Nhất Khí, mà là không muốn bỏ lỡ màn trình diễn ngoạn mục không tiền khoáng hậu này. Chu Chân Mệnh không giống những người khác, trong lòng hắn phần nhiều là khâm phục và tán thưởng. Khi hai người bọn họ lao tới ba nút lẫy cuối cùng, hắn thậm chí còn âm thầm cổ vũ trong lòng, thực tâm hy vọng Lỗ Nhất Khí có thể thuận lợi vượt qua, hy vọng cậu có thể sáng lập nên kỳ tích. Người ta nói quả thực không sai, “đối thủ chân chính mới là tri kỷ chân chính”.

Tổng cộng mười một khảm nút, tuy trong phép phá giải có khi dùng mánh khoé khôn khéo làm cho nút lẫy vận hành trước, tuy quá trình phá giải được hoàn thành bởi hai người, song đích xác là bọn họ đã vượt qua. Không biết kỳ tích lần này của họ có được tính là vượt qua kỷ lục mà “Hắc Bạch song thành” đã lập nên hay không.

Sau khi đã băng qua trùng khảm, Phật sống không nghĩ ngợi gì thêm, chỉ ổn định lại hơi thở và nhịp tim trong chốc lát, rồi lập tức tiến về phía bậc đá Thiên Thê. Khi đã tới dưới chân bậc thang, bước chân Phật sống đột nhiên chậm lại:

- Quái lạ thật, đám linh thú của Báo Cơ nương nương sao một con cũng không thấy?

Đám linh thú mà Phật sống vừa nhắc tới là tam thú ngao mà Chu gia đã phải đổ ra biết bao tâm lực suốt mấy trăm năm mới lai tạo thành công. Theo khảo chứng, đây có lẽ chính là loài giảo, một giống quái thú từng được nhắc tới trong “Sơn hải kinh”. Trong “Sơn hải kinh – Tây thứ tam kinh” có viết: “Ngọc Sơn... có loài thú, hình dáng giống chó, có đốm như báo, có sừng như trâu, gọi là giảo. Tiếng như chó sủa, nếu gặp được thì vùng đó được mùa lớn”.

Đám linh thú vô cùng ghê gớm đã không canh giữ bên dưới Thiên Thê, vì bọn chúng đang phải đối phó với một người phá khảm rất mực lợi hại, đó là Mạc Thiên Quy. Khi đụng đầu với đám linh thú, Mạc Thiên Quy đã bị thương, bởi vậy chưa kịp ra tay đã bị chúng dồn vào trong hốc tường phía sau một mỏm đá nhô ra.

Trước đó, khi đang chênh vênh trên cuộn vải kẹp trúc, Mạc Thiên Quy đã chuẩn bị sẵn sàng để mạo hiểm đu sang hành lang vòng quanh tháp. Song vừa chuẩn bị tung người lao đi, thì Đao Thập Lục đã tới. Gã Đao đầu đã chọn phương pháp đơn giản nhất để truy kích Mạc Thiên Quy, đó là cắt đứt cuộn vải kẹp trúc dưới chân lão.

Mạc Thiên Quy thình lình cảm thấy đao khí ập đến sau lưng, cơ bắp dọc sống lưng bất giác co thắt lại, gai ốc nổi rùng rùng. Song lúc này đã không thể quay lại ứng phó, chi bằng cứ dứt khoát làm theo kế hoạch cũ, tung người lao đi.

Biện pháp tuy chính xác, song động tác đã hơi chậm. Mà không, có lẽ do đao của Đao Thập Lục quá nhanh. Đao Thập Lục người chính là đao, đao cũng là người. Suy nghĩ vừa loé lên, đao cũng đã tới. Lưỡi đao còn chưa chạm đến, thế đao đã rạch đứt toác cuộn vải kẹp trúc.

Cuộn vải kẹp trúc đứt phăng, khiến cú tung mình nhảy vọt lên của Mạc Thiên Quy chỉ mượn được một nửa kình lực. Dưới chân thình lình hụt hẫng khiến Mạc Thiên Quy bất giác rú lên một tiếng hãi hùng, vội vàng giật mạnh cánh tay. Tuy rằng mượn sức kéo của sợi dây gai trong tay vẫn có thể giúp cơ thể bay về phía trước, song do sức bật chỉ còn một nửa, bởi vậy góc độ lao chếch xuống dưới cũng lớn hơn. Hơn nữa, khi tác động lực vào cột trụ hành lang, đã động chạm vào chốt lẫy, trên cây cột trụ từ trên xuống dưới lập tức bắn ra bốn tầng dùi hoa sen. Tất cả những điều này đã khiến cho điểm hạ chân cuối cùng của Mạc Thiên Quy vẫn nằm trong phạm vi của bãi Vân thú mây trời chín sắc.

Điểm tiếp đất có ván lật. Chỉ hơi giẫm nhẹ, tấm ván lập tức lật nghiêng sang bên, từ phía dưới đâm vọt lên một cây trụ trời bắn ngược. Trụ trời bắn ngược là cây trụ đá hình vuông đỉnh nhọn, cao hơn hai trượng tám, to khoảng cánh cửa bốn ô. Nút lẫy này cực nặng, tốc độ đâm lên cũng không nhanh. Bởi vì tác dụng tấn công của loại nút lẫy này chỉ là thứ yếu, còn tác dụng chủ yếu của nó là sau khi tất cả các trụ trời đều đã khởi động sẽ tạo thành một bức tường chắn, ép người vượt khảm đi vào đường chết.

Sở dĩ Mạc Thiên Quy dám mạo hiểm tại nơi này, vì lão đã có phương pháp đối phó với trụ trời bắn ngược. Khi một chân vừa giẫm xoay ván lật, chân kia lập tức giậm mạnh lên mép hầm bên kia, lấy đà nhảy vọt lên hết cỡ. Hai cây trụ trời bắn ngược lao vụt lên, đuổi theo Mạc Thiên Quy. Do đều là thế vọt lên, hơn nữa Mạc Thiên Quy đã dự đoán được vị trí của đỉnh nhọn trên cây cột trụ, nên lão chỉ bị mặt bên của đỉnh nhọn va phải, đẩy bắn đi. Nhờ vào lực đạo này, lão lập tức điều chỉnh thân hình tiếp tục lao về phía trước.

Khiến Mạc Thiên Quy bị thương chính là vài mũi tên được bắn ra từ tháp trắng lọng vàng.

Hai khảm diện liền nhau, lại có rìa khảm giao nhau, nên dùng nút cuối cùng của khảm phía trước để kích hoạt khảm diện phía sau, đây chính là kỹ pháp thường dùng của khảm tử gia. Khi Mạc Thiên Quy bị cây cột trụ trời bắn ngược đẩy văng đi, thì hai cột trụ đã kích hoạt nút Mưa tên bắn của khảm diện tiếp theo. Mạc Thiên Quy còn chưa kịp đáp xuống đất, đã bị ba mũi tên đuôi trâu bắn trúng.

Vị trí tiếp đất lại ở bên trong khảm diện tháp trắng. Chân Mạc Thiên Quy vừa chạm đất, dưới đất lập tức vọt lên hai gọng kìm tấm móc kẹp chặt lấy đùi trái và cổ chân phải của Mạc Thiên Quy. Gọng kìm tấm móc có hình dạng giống như bẫy kẹp thú, miệng kẹp sắc lẹm, lực kẹp cực mạnh, được nối với phiến đá chôn dưới đất bằng sợi xích sắt. Mạc Thiên Quy bị ám khí kẹp trúng, phần đùi lập tức toạc da nát thịt, xương chày nơi cổ chân bị kẹp gãy rời.

Mạc Thiên Quy quả nhiên xứng danh thủ lĩnh của Mặc gia, tuy bị thương trầm trọng song không hề nao núng. Lão đưa tay rút soạt thanh kiếm sau lưng, một chớt sáng xanh trầm vụt qua, cắt đứt phăng đầu kìm, rồi bất chấp trên người còn găm mấy mũi tên, lão Mạc lăn tròn trên đất, thẳng tới bên cạnh lan can của hành lang vòng quanh tháp. Trong lúc lăn, thân tên đều bị đè gãy, còn đầu mũi tên càng cắm sâu thêm vào da thịt. Có điều cú lăn vẫn là kịp thời. Trong nháy mắt, hai gọng kìm tấm móc đã bị phủ kín bởi vô số mũi tên và phi tiêu lá phong.

Dưới móng hành lang chính là rìa khảm của hành lang quanh tháp và tháp trắng lọng vàng, nên đây cũng là vị trí an toàn. Song dù an toàn tới đâu cũng không thể nấn ná lâu. Vấn đề cấp thiết lúc này đã không còn là tiếp cứu cho Lỗ Nhất Khí, mà là phải bảo vệ tính mạng của bản thân. Kẻ sắc bén như đao ở sau lưng đang giải khảm mà tới, trong khi lão lại bị thương nghiêm trọng, quả thực không đủ khả năng để đối đầu với cao thủ tầm cỡ này.

Mạc Thiên Quy điểm vài huyệt đạo để cầm bớt máu. Sau đó chống kiếm, loạng choạng bước đi, men theo móng hành lang chạy ra khỏi phạm vi của khảm diện tháp trắng lọng vàng. Lão biết, lúc này không thể tiếp tục đi về phía tây. Với bộ dạng hiện giờ, lão đã không thể trợ giúp Lỗ Nhất Khí được nữa, mà ngược lại còn gây thêm rắc rối cho cậu. Vậy lão nên đi về phía đông, hay ở lại đây đợi quân chi viện tới?

Chính vào lúc này, đột nhiên có âm thanh quái lạ vọng đến từ hai bên. Mạc Thiên Quy lông tóc dựng ngược, lưng rịn mồ hôi. Không có đao khí, sát khí, chỉ có âm thanh lạ và mùi dã thú.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,532
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 23: Cùng quyết đấu


Dưới chân núi, phía chính nam là khảm tướng “Quạ vàng đuổi thỏ ngọc”, phía tây là khảm tướng “Lục dương xoay chiếu”, phía đông là khảm tướng “Sao sáng xoay quanh mặt trời”. Mà ở trên núi, có Lỗ Nhất Khí mang theo Thiên bảo cực thuần chính, bảo khí bừng bừng lan toả, rực rỡ hào quang. Thật trùng hợp, tác dụng của các cách cục bốn nơi đã hoà hợp với nhau, tạo nên một đại cục chí dương có thể thay đổi vận đời mệnh nước, được gọi là “Bảo dương điên toả âm hung”. Đại cục này duy nhất chỉ thấy ghi chép trong một cuốn kỳ thư thời thượng cổ có tên “Đế kinh mạch hành trạch”, từ cổ chí kim mới chỉ xuất hiện có một lần, vào lúc Khương Tử Nha dùng hoả công đánh thành Triều Ca, đã dùng cách cục này để lật đổ hoàn toàn vận mệnh của nhà Thương Trụ. Cũng chính vì đã hình thành được cục diện thiên cổ kỳ tuyệt này để cân bằng với Thiên bảo nghìn năm, nên hung huyệt âm mạch ẩn giấu ở chính giữa núi Thiên Thê đã bị chèn ép ra ngoài.

o O o

Tiếng động lạ là tiếng thở phì phò, khí tướng là hơi của thú. Chỉ không rõ đó là loài thú gì, lại càng không rõ chỗ lợi hại của chúng, chỉ nhận rõ một mối nguy hiểm ghê gớm đang xuất hiện cùng với mùi muông thú. Đối diện với tình trạng này, Mạc Thiên Quy chỉ biết tiếp tục trốn chạy.

Tuy chân phải đã bị trọng thương, toàn thân đẫm máu, song tốc độ trốn chạy của lão vẫn rất chóng vánh. Sau lưng là khảm diện, hai bên có thú, chỉ còn cách chạy về phía trước. Song phía trước lại là một hốc lõm vào chân núi, không có đường đi, chỉ có vách núi dốc ngược không thể leo lên. Có điều nơi này vẫn chưa phải là tuyệt lộ, chí ít cũng có thể dựa lưng vào vách núi mà chống trả lại đối thủ. Hơn nữa, ở trong hốc đá, phạm vi tấn công của đối thủ cũng bị thu hẹp, là một vị trí tốt để ứng phó với nhiều đối thủ.

Đám muông thú hai bên cũng bám theo sau Mạc Thiên Quy, tốc độ rất nhanh. Song dường như bọn chúng không vội tiêu diệt lão ngay, nên luôn duy trì một khoảng cách nhất định với lão. Có lẽ Mạc Thiên Quy là đối thủ mà chúng chưa hiểu rõ, nên còn thận trọng dè chừng.

Khi cơ thể sắp chạm vào vách đá, Mạc Thiên Quy đột nhiên lật tay chém ngược một kiếm. Nhát kiếm này để đề phòng đám muông thú lao tới tấn công vào khoảnh khắc lão dừng bước xoay người, đồng thời, lão cũng muốn mượn lực của cú vung kiếm để ổn định cơ thể đứng vững tại chỗ.

Đã xoay được người lại, lúc này lão mới nhìn rõ bầy thú đang đuổi theo mình. Thân hình chúng không lớn, nhỏ hơn loài báo một chút, song đầu lại rất to, quanh cổ có bờm lông dày xù ra, trán nhô cao như thể chiếc sừng bằng thịt. Mắt như chuông đồng, miệng như chậu máu, rất giống sư tử đực. Chiếc đuôi tựa cán roi, móng sắc nhọn hoắt như lưỡi câu bằng thép, rất giống hổ; lưng thon bụng hóp, trên mình thấy thấp thoáng đốm hoa, lại giống như báo đốm. Bầy thú thấy Mạc Thiên Quy dừng lại, cũng không đuổi nữa, chỉ vây kín xung quanh, trong tiếng thở phì phò có xen lẫn tiếng gầm gừ khe khẽ, vừa như tiếng rống, lại giống tiếng chó điên.

Vừa giống sư tử, vừa giống hổ, vừa giống báo, vừa giống chó, đây là loại thú gì? Mạc Thiên Quy trong lòng chấn động, đầu óc hoang mang. Thú có kỳ tướng, ắt có kỳ ác. Bị bao vây giữa bầy thú dữ quái ác, liệu có thể sống sót hay không, hoạ có trời mới biết. Mà có lẽ ông trời cũng không biết, chỉ có bầy thú kia mới biết.

Bầy thú lạ kỳ thực chính là đám linh thú do Báo Cơ nương nương coi sóc – tam thú ngao. Báo Cơ bố trí khảm thú, thường là thả báo hoặc hổ đói ở vòng ngoài cùng, còn nơi quan trọng bên trong mới thả loài tam thú ngao. Tam thú ngao kỳ thực là sản phẩm lai tạo từ bốn loài ác thú sư tử, hổ, báo, chó ngao. Trước hết cho hổ và sư tử giao phối sinh ra thú lai hổ sư tử, sau đó cho báo đốm giao phối với chó ngao Tây Tạng sinh ra thú lai báo đốm chó ngao. Cuối cùng, tiến hành lai giống giữa thú lai hổ sử tử với thú lai báo đốm chó ngao sinh ra tam thú ngao. Đã là thú tạp giao thì thường không có khả năng sinh sản, hàng vạn lần may ra ngẫu nhiên mới có một lần thành công, sinh được ra con. Tuy nhiên cao thủ Chu gia không hiểu từ đâu mà có được phương pháp lai tạo, dùng nội dược kết hợp với thuật kim thạch, cuối cùng vẫn khiến thú lai sư tử hổ với thú lai báo đốm chó ngao giao phối với nhau sinh ra tam thú ngao. Có người dựa vào một số chứng cứ trong sách cổ, nói rằng loài thú có tên là “giảo” trong “Sơn hải kinh” chính là tam thú ngao.

Đám tam thú ngao đang bao vây Mạc Thiên Quy không vội vã tấn công ngay. Một số con thậm chí còn nằm phục xuống đất. Có điều con nào cũng giương cặp mắt xanh lè hung dữ nhìn trừng trừng vào Mạc Thiên Quy, không để lão có mảy may cơ hội đào tẩu.

Một lát sau, trong bầy tam thú ngao bỗng tách ra một số con, lững thững tiến về phía Mạc Thiên Quy. Song nó không đi thẳng, mà hết vẹo sang trái lại nghiêng sang phải, thân hình dán xuống đất, nhích dần từng chút tới sát Mạc Thiên Quy.

Giống thú này rất thông minh, cũng vô cùng thận trọng, về điểm này khá giống với loài sói, song có lẽ chúng còn điềm tĩnh hơn cả loài sói. Nếu là sói, chỉ cần ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc trên khắp cơ thể Mạc Thiên Quy, cả bầy hẳn đã lao tới xâu xé từ lâu. Song tam thú ngao lại không như vậy. Chúng chỉ bao vây, sau đó để một con lên trước dò la bản lĩnh của mục tiêu. Mà con thú đi dò la này lại di chuyển rất chậm rãi với quỹ đạo ngoằn ngoèo. Trạng thái này có lợi cho đột kích, cũng có lợi để né tránh kịp thời, độ xảo quyệt chẳng khác gì loài cáo.

Song thực bất ngờ, tam thú ngao còn thông minh và xảo trá hơn cả tưởng tượng của Mạc Thiên Quy. Nó không bất ngờ đột kích trong quá trình di chuyển, mà dừng lại ở một bên mặt tường đá rất gần chỗ Mạc Thiên Quy đang đứng. Như vậy, dù Mạc Thiên Quy có bất ngờ tấn công, cũng chỉ có thể đánh vào chính diện và một bên sườn, còn nó tiến lui hay tránh né đều thuận tiện, thậm chí còn có thể nương theo vách đá để nhảy vọt lên trên hoặc lạch sang bên cạnh.

Mạc Thiên Quy cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Giống súc vật kỳ quái này lại có thể suy tính kín kẽ không thua kém gì cao thủ giang hồ.

Sau khi con tam thú ngao này dừng lại, trong bầy thú lại có một con nữa bước lên, cũng quanh co lượn lờ trái phải. Không cần nhìn, Mạc Thiên Quy cũng biết, con thú này chắc chắn sẽ chiếm lĩnh lấy vị trí đối diện với con thứ nhất. Sau khi chúng đã chiếm cứ được tất cả những vị trí có lợi, sẽ tiếp tục tiến về phía lão, chiếm cứ các vị trí có lợi gần hơn. Khi đó, chúng chỉ cần vươn cổ há miệng, đã có thể xé xác lão lập tức. Trong toàn bộ quá trình này, chỉ cần lão có bất kỳ hành động nào, những con thú đã chiếm được vị trí có lợi sẽ khống chế lão, để những con thú khác nhân cơ hội ồ ạt tấn công hoặc tiếp tục quan sát.

Nhận rõ tình thế, Mạc Thiên Quy không để con thứ hai kịp chiếm lĩnh vị trí. Lão khó nhọc di chuyển bước chân, thanh kiếm trong tay nhanh như chớp lao vụt về phía con tam thú ngao đầu tiên.

Kiếm của Mạc Thiên Quy lưỡi rộng sống dày, song trong vẻ nặng nề lại không kém phần linh hoạt. Thế kiếm là lật tay chém ngang, nên phạm vi tấn công khá rộng, con thú có giật lùi hay lao về phía trước, vẫn nằm trong phạm vi của đường kiếm.

Song con tam thú ngao vẫn đứng im, không lùi cũng chẳng tiến, chỉ vặn lưng một cái, nhổm thẳng thân trước dậy, đã dễ dàng né được thế kiếm chém ngang của Mạc Thiên Quy. Song Mạc Thiên Quy đã tính sẵn từ trước, chiêu thức mới sử ra một nửa, lập tức biến chiêu, thế chém ngang đổi thành thế đâm ngược, mũi kiếm nhằm vào giữa cổ họng tam thú ngao đâm ngược lên trên.

Song lại xuất hiện một tình thế khiến Mạc Thiên Quy phải kinh hãi. Con thú nhìn thấy kiếm đâm tới, chân trước thình lình tạt mạnh, từ mé bên đập thẳng vào thân kiếm. Không những vị trí chính xác, mà lực đạo cũng cực lớn. Kiếm của Mạc Thiên Quy bị đẩy bật đi, mũi kiếm đâm thẳng vào vách đá, hoa lửa bắn tứ tung. Kinh dị hơn nữa là nhân lúc mũi kiếm đâm vào vách đá, con thú lập tức há miệng ngoạm lấy thân kiếm. Nó muốn cướp kiếm!

Mạc Thiên Quy trong lòng khiếp đảm, song không hề chùn tay. Lão giật thanh kiếm về được nửa chừng, né khỏi miệng thú, rồi lại đột nhiên đâm thẳng tới phía trước, hướng vào cái miệng còn chưa kịp khép lại của con thú.

Tam thú ngao vội cúi đầu lao bổ về phía trước, song vẫn hơi chậm. Kiếm đâm xẹt qua đỉnh đầu nó, phạt bay một mảng lông dài.

Bị trúng đòn, con thú lúc lắc cái đầu to tướng, sau đó vẫn đứng im tại vị trí cũ. Một loạt đòn tấn công của Mạc Thiên Quy vẫn không thể khiến nó lùi lại dù chỉ là một tấc. Khi Mạc Thiên Quy tuyệt vọng lùi vào hốc lõm, thì con tam thú ngao thứ hai đã chiếm được vị trí có lợi ở phía bên kia.

Tiếp đến, con tam thú ngao thứ ba trong bầy thú bước ra, lại uốn éo như bơi mà xáp tới...

Dịch Huyệt Mạch vẫn trong cuộc đối đầu với Cao Bôn Lôi. Cao Bôn Lôi không hề tỏ ra coi thường đối thủ trước mặt, đừng nói là đối thủ đang cầm một chiếc kim mềm và mảnh, mà dù là một cọng cỏ héo khô thì hắn cũng sẽ dốc toàn lực để chiến đấu. Tuy nhiên, hắn không thể ngờ được rằng, khi hắn vừa vung chuỳ nhấc chân lao đi, thì chiêu thức xem ra vô cùng mẫu mực ra dáng của đối thủ bỗng chốc biến thành sụp gối quỳ mọp xuống, hướng về phía hắn mà vái lạy sát đất. Thật khó tin nổi, một kẻ bạc nhược vô dụng đến vậy cũng dám xông vào cứ điểm trọng yếu của Chu môn ư? Nhưng suy nghĩ này chỉ thoáng qua trong lúc bàn chân hắn nhấc lên. Khi bàn chân vừa chạm đất, Cao Bôn Lôi lập tức nhận ra mình đã sai lầm. Cao thủ đối trận, sai lầm cũng chính là thất bại, là mất mạng.

Dịch Huyệt Mạch đã chọn đúng lúc cơ thể Cao Bôn Lôi bắt đầu hơi ngả về phía trước mà quỳ xuống. Cơ thể ngả về phía trước là để bước lên tấn công. Bước lên tấn công, bàn chân sẽ phải đưa về phía trước. Bởi vậy, Dịch Huyệt Mạch không những quỳ sụp xuống, mà còn phải phủ phục sát đất.

Cao Bôn Lôi chỉ ngập ngừng trong một chốc lát, nếu là khoảnh khắc vừa đưa chân ra, hắn vẫn có thể xoay chuyển tình thế; song đến khi bước chân đã lao xuống, hắn sẽ không thể nào thu lại được.

Về điều này, Dịch Huyệt Mạch thông thạo hơn cả Cao Bôn Lôi. Người theo nghề y đương nhiên phải hiểu rõ cấu tạo sinh lý của cơ thể con người, cũng rất thông thuộc những phản ứng vô thức giống như phản xạ của xương bánh chè. Cao Bôn Lôi đã rơi vào trạng thái kiểu này, còn Dịch Huyệt Mạch đang bò rạp dưới đất đã cầm sẵn chiếc kim dài mảnh chờ đợi lòng bàn chân không thể kiểm soát của hắn.

Kim rất dài, không giống với kim châm cứu bình thường, song độ dài như vậy vừa hay có thể đâm tới độ cao mà lòng bàn chân của Cao Bôn Lôi không thể thu về được. Kim rất mảnh, rất mềm, song nhờ kỹ xảo vê xoay của ba đầu ngón tay Dịch Huyệt Mạch, mũi kim đã dễ dàng xuyên qua đáy ủng da bò dày cộm của hắn, tiếp tục đâm xuyên qua lớp chai dày cộm dưới lòng bàn chân, rồi xuyên vào trong huyết quản kinh mạch.

Theo lý mà nói, một mũi kim như vậy dù có đâm xuyên thấu lòng bàn chân, thậm chí đâm trúng một huyệt vị nào đó trên bàn chân, cũng đều không thể gây tổn thương nghiêm trọng cho người bị đâm, huống hồ cây kim không hề đâm trúng huyệt vị. Thực tế cũng đúng như vậy, tuy bị cây kim dài xuyên sâu vào lòng bàn chân, song Cao Bôn Lôi không hề cảm thấy đau đớn hay khó chịu. Bởi vậy, khi bước chân đã có thể kiểm soát được, hắn không đợi cả bàn chạm đất, đã vội đề khí nhấc chân lên. Song thế đánh xuống của chuỳ bôn lôi lại không hề thay đổi, vẫn giáng thẳng xuống lưng Dịch Huyệt Mạch.

Y đạo của Dịch Huyệt Mạch là trái ngược với lẽ thường, bởi vậy ông mới được mệnh danh là “nhổ ngược huyệt”. Thế nào là “nhổ ngược huyệt”? Chính là đảo lộn vị trí huyệt đạo, đau đầu chữa ở chân, bệnh bên trong chưa ở bên ngoài. Kỹ xảo châm cứu của ông cũng là dùng nhổ thay cho đâm, thông khí huyết thay cho tụ khí huyết. Tuy vị trí đâm kim không phải là huyệt vị ở bàn chân, song lại là nơi tụ hợp của kinh mạch huyết khí, tương đương với tiểu khí môn. Người luyện công đều có khí môn, hay còn gọi là tráo môn, là điểm yếu ớt nhất, nếu bị tổn thương sẽ gây tiêu tán công lực. Ngoài ra, trên cơ thể họ còn có rất nhiều điểm hội tụ của tinh huyết, chân khí, những vị trí này cũng rất quan trọng, chúng có liên quan tới trạng thái hoạt động của một số bộ phận khác trên cơ thể. Những điểm hội tụ này được gọi là tiểu khí môn.

Tiểu khí môn thường rất ít người chú ý tới, bởi lẽ đều là nơi da dày nhiều thịt, khó bị tổn thương. Song nếu như bị tổn thương thực sự, thì người luyện võ coi như đã thành tàn phế. Bởi vậy, chỉ có những thầy thuốc trình độ cao siêu mới chú ý tới tiểu khí môn, vì khi chữa trị nội ngoại thương, những vị trí này là nơi thông khí tán ứ rất quan trọng.

Cao Bôn Lôi vừa đề khí nhấc chân, cây kim lập tức bị nhổ bật khỏi lòng bàn chân, huyết khí cũng trào vọt ra ngoài ngay tức khắc, nguyên khí lập tức tán loạn. Huyết khí tại tiểu khí môn này kiểm soát hành động của hai cánh tay, bởi vậy chuỳ bôn lôi tuy đã nâng lên, song hai cánh tay lập tức cứng đờ không thể đập xuống được.

Kim bạc đã được nhổ bật ra, Dịch Huyệt Mạch đang quỳ mọp sát đất cũng nhỏm thân trên dậy, song hai đầu gối vẫn quỳ, tiếp tục đâm nhát kim thứ hai.

Vị trí đâm kim lần này đã khiến Cao Bôn Lôi cảm thấy quả tim tê rần, máu đổ dồn lên mặt, không những không hề cảm thấy khó chịu, ngược lại còn thấy rất sảng khoái. Mũi kim bạc vừa đâm vào giữa đũng quần của Cao Bôn Lôi, chọc trúng vành quy đầu trên dương v*t của hắn. Kim vừa đâm vào trong thịt, cổ tay Dịch Huyệt Mạch đã bẻ cong lại, lập tức nhổ kim ra.

Song lúc này Cao Bôn Lôi đã ý thức được mức độ khủng khiếp của hậu quả, trong lúc khẩn cấp, hắn đã liều mạng đá bàn chân vừa nhấc trở về ra phía trước.

Dịch Huyệt Mạch đã quá sơ suất. Sự đắc ý sau khi một chiêu đắc thủ đã khiến ông liều lĩnh tiếp tục đâm nhát thứ hai, và cái giá phải trả cho sự liều lĩnh này là đã phải hứng trọn cú đá. Một cước của Cao Bôn Lôi đã giáng trúng ngực ông, Dịch Huyệt Mạch thậm chí không kịp kêu lấy một tiếng, cả thân người văng đi là là mặt đất, sau khi rơi xuống còn lăn lông lốc đến năm sáu vòng, tới khi va vào lan can bằng đá mới dừng lại được. Ông nằm sấp mặt trên nền đất, giống như đã chết rồi.

Cũng chính vì trúng phải cú đá trời giáng, nên Dịch Huyệt Mạch chưa kịp nhổ hoàn toàn mũi kim bạc ra. Song chiếc kim đã nhổ ra quá nửa cũng đã rút ra một phần huyết khí, đủ để khiến Cao Bôn Lôi không còn cảm giác thư thái và kích thích như khi bị đâm vào. Hắn cảm thấy máu huyết khắp người đều đổ dồn lên mặt, hộp sọ như muốn nổ tung đến nơi. Cuối cùng, hắn gầm lên một tiếng vô cùng khủng khiếp, cùng lúc đó, phần nhân trung dưới mũi bỗng toác ra một lỗ hổng đỏ lòm, một khối máu rung rinh bắn vọt ra, rơi xuống đất bụi, bắn toé tứ tung.

Nếu như kim bạc được nhổ ra hoàn toàn, thì vị trí nứt toác đáng lẽ phải ở ấn đường. Như vậy Cao Bôn Lôi sẽ bỏ mạng tại chỗ, không còn một cơ may sống sót. Lúc này, tuy vị trí bị nứt toác là nhân trung, song Cao Bôn Lôi vẫn cảm thấy nội khí đan nguyên đang ào ào tuôn ra ngoài qua chỗ nứt, chẳng khác gì nước vỡ đê. Khí đan nguyên ồ ạt tiết ra, sức lực trong cơ thể cũng mau chóng cạn kiệt, hai chân hắn lúc này đứng còn không vững, nói gì tới đánh đá. Cơ thể hắn đổ thẳng cánh về phía sau, nằm nhũn ra như một đống bùn nhão. Cây chuỳ to tướng trong tay cũng rơi đánh rầm trên mặt đất lát đá, nện vỡ liền bốn năm tảng đá, dội lên tiếng va đập vang rền tựa như chuông chùa buổi sớm.

Chuỳ bôn lôi vừa rơi xuống đất, Dịch Huyệt Mạch đã ngồi bật dậy, sắc mặt xanh lét như chàm, hơi thở tắc nghẽn. Ông thuận tay rút ra một chiếc kim châm cứu trên vạt áo, châm vào đốt giữa ngón út trên bàn tay trái rồi rút ra ngay, lập tức từ miệng phun vọt ra ba ngụm máu ứ tím bầm. Máu ứ đã phun ra hết, sắc mặt Dịch Huyệt Mạch tươi tỉnh hẳn lên, sau vài lần thở sâu vận khí, ông đã có thể bám vào lan can đá, từ từ đứng dậy.

Nhìn Cao Bôn Lôi vẫn gắng gượng giãy giụa trên mặt đất, Dịch Huyệt Mạch nhếch miệng cười khẽ. Kết quả này vẫn khiến ông rất mãn nguyện. Cao Bôn Lôi tuy không chết ngay, song giờ đây còn không bằng cả một người bình thường, hơn nữa nếu không được chữa trị kịp thời, e rằng tính mạng cũng khó lòng giữ được.

Sau khi quan sát một lượt tình hình xung quanh, xác nhận không còn mối uy hiếp nào khác, Dịch Huyệt Mạch cũng đi về phía sau toà điện bên trái. Có điều nhìn vào dáng đi của ông, đã không còn vẻ nhanh nhẹn phiêu dật như lúc ban đầu.

Bị đám cao thủ của Chu gia áp sát, lão Lợi và Dương Tiểu Đao phải liên tục thoái lui. Dương Tiểu Đao tuy đao pháp lợi hại, song tốc độ di chuyển và thân thủ lại chưa đạt đến hàng cao thủ, hơn nữa gã đang phải đi giật lùi, dưới chân lại đầy đá vụn, nên càng không thể thi triển thân hình. Bởi vậy trước sự dồn ép của đối thủ, Dương Tiểu Đao mau chóng rơi vào tình thế hết sức nguy ngập.

Trong lúc lùi lại, Dương Tiểu Đao loạng choạng liền hai bước, xém chút nữa đã ngã bật ngửa. Đối thủ chớp lấy cơ hội, đao quang loang loáng ập tới gần như đã bao trùm toàn bộ cơ thể gã. Lúc này, chỉ cần gã sơ sểnh thêm một lần nữa, tính mạng sẽ đi đứt như chơi. Trước những đòn tấn công tối tăm mặt mũi của đối thủ và liên tục phải bước giật lùi, sơ hở lại xuất hiện, gã đã thò một nửa cẳng chân vào trong cửa tử.

Đúng vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, lão Lợi đang nằm bò dưới đất bất ngờ bật phóc người đứng dậy, đao đầu quỷ trong tay vụt biến thành một vệt sáng loà chém xéo tới, tựa như một luồng lốc xoáy. Tay sát thủ đang dùng xác chết làm lá chắn không kịp rú lên một tiếng đã bị phạt đứt đôi cùng với “lá chắn”. Máu tươi phun vọt tựa mưa rào, vuông nhiễu đỏ bay lên lồng lộng như đám mây, bao trọn lấy màn mưa máu.

Sau cú ra đòn, lão Lợi tay phải cầm ngang cán đao, tay trái đỡ lấy đầu quỷ trên thân đao, đứng chắn ngang trước mặt Dương Tiểu Đao.

Dương Tiểu Đao lúc này mới kịp thở lấy một hơi, và cũng phải đến lúc này mới có cơ hội rút lấy thanh đao từ “lá chắn” xác người.

Đám sát thủ đang dàn hình bán nguyệt bao vây lấy họ đương nhiên sẽ không chịu bỏ cuộc. Lại có hai thân hình lao ra từ hai bên trái phải, một tên nhảy vọt lên tấn công phía trên, một tên khom lưng tấn công phía dưới, mục tiêu đều nhắm vào lão Lợi.

Lão Lợi bị thương không nhẹ, sắc mặt đã tái xanh tái xám, lưỡi đao trong tay cũng đã chuyển từ màu trắng loà như tuyết sang màu xanh thẫm như nước hồ. Hai tên sát thủ hợp lực đánh tới, song lão Lợi vẫn đứng im bất động, dường như ngay cả một chút khả năng né tránh cũng không còn.

Dương Tiểu Đao từ phía sau lão Lợi lao vụt lên, vung đao nhằm vào sát thủ tấn công phía dưới. Tay sát thủ dường như đã dự tính từ trước, cơ thể lập tức lướt nghiêng sang bên cạnh, lưỡi đao trong tay Dương Tiểu Đao đánh hụt vào khoảng không. Trong khi tay sát thủ phía trên khí thế tấn công càng thêm dữ dội và nhanh chóng.

Một tên là mồi nhử, một tên là giết thực, đây là sự kết hợp đúc rút từ vô số lần rèn luyện và vô số lần thực chiến. Trong hai tên sát thủ, dù có đánh tên nào, thì tên đó cũng sẽ lập tức né tránh, biến thành mồi nhử, để tên còn lại tung ra đòn sát thương thực sự.

Song phản ứng của Dương Tiểu Đao vẫn hết sức nhanh nhạy. Vừa nhìn thấy tên sát thủ thuận thế né tránh, gã lập tức xoay đao sang hướng bên kia, đứng thẳng người giơ đao nghênh chiến. Song đã muộn rồi, đao của sát thủ đã hạ xuống.

Thanh đao đang xoay ngang của lão Lợi không vung lên đón chiêu, mà lại đâm ngang đi, đây chính là chiêu “lấy công làm thủ”, có thể nhân lúc đối thủ tiếp đất mà đâm thẳng vào bụng dưới và sườn dưới bên phải của hắn. Song chiêu này lại không phải là thượng sách, chỉ cần đối thủ dám chấp nhận bị thương, thì cú hạ đao của đối thủ vẫn có thể dễ dàng tước đi tính mạng của lão Lợi.

Song vấn đề là ở chỗ, dù sát thủ có lợi hại đến đâu, thì tôn chỉ hàng đầu của chúng vẫn là phải bảo vệ bản thân trước, tiếp đó mới là sát thương kẻ địch. Sát thủ đang lao tới cũng không ngoại lệ, bởi vậy trước mũi đao đang phóng tới, cơ thể hắn lập tức lắc sang một bên né tránh theo phản xạ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,532
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 24: Cùng trăm mảnh


Dao của lão Lợi không đâm tới đối thủ, đao của đối thủ cũng không lấy được mạng của lão Lợi.Khi sát thủ tiếp đất, đao đầu quỷ của lão Lợi đã chém sang tới bên kia, nhưng không chạm được tới người sát thủ. Tay sát thủ phải xoay người né tránh, nên đường đao hơi chếch đi, song vẫn chém trúng vai phải lão Lợi, nhát chém thấu xương, đau đớn thấu tim gan.

Đao của Dương Tiểu Đao cũng đã đâm trúng mặt sát thủ. Trong tình trạng này, sát thủ đáng lẽ phải thu đao lùi lại, song hắn chỉ có thể ngửa mặt né tránh, vì khi đao của hắn chém vào vai phải lão Lợi, thì bàn tay trái vốn đang đỡ lấy đầu quỷ của lão Lợi đã bóp chặt lấy cổ tay cầm đao của hắn.

Dương Tiểu Đao một đao không trúng, lập tức biến chiêu, mũi đao đâm xuống, nhắm thẳng yết hầu của đối phương.

- Dừng tay! Để tôi!

Mũi đao vốn đã chạm tới yết hầu của sát thủ, nghe thấy tiếng hét của lão Lợi, Dương Tiểu Đao lập tức dừng ngay thế đao hạ sát. Thanh đao đầu quỷ của lão Lợi đã lại vung lên, từ từ đâm tới trước ngực bụng sát thủ.

Tốc độ của đao không nhanh, nhưng đâm vào da thịt sát thủ lại hết sức nhẹ nhàng, quả là một thanh đao sắc bén. Máu tươi chảy như tắm trên thân đao, có máu của sát thủ, cũng có máu của lão Lợi. Vuông nhiễu đỏ trên cán đao lần này không thể tung lên gom lấy máu tươi của sát thủ, vì đã thấm đẫm máu của lão Lợi đang chảy xuôi xuống theo cánh tay.

Lão Lợi lúc này mới buông cổ tay tên sát thủ ra, thuận thế giật đứt vuông nhiễu đỏ trên cán đao, nhét luôn vào trong tay Dương Tiểu Đao đang đứng bên cạnh, nói vội:

- Đi mau! Nếu có cơ hội, hãy đưa vuông nhiễu đỏ này cho Lỗ môn trưởng.

Dương Tiểu Đao liếc nhìn lão Lợi. Lúc này mắt lão đã đỏ ngầu, sắc mặt cũng đỏ rực như máu. Đao trong tay cũng không còn thấy màu xanh, mà lấp loáng ánh đỏ. Dương Tiểu Đao không hỏi thêm câu nào nữa, từ giọng nói và ánh mắt của lão Lợi, gã hiểu rằng mình cần phải làm theo lời lão.

Vòng vây hình cánh cung chỉ còn thiếu bốn năm vị trí nữa là khép kín, bọn họ sắp bị bao vây thực sự, Dương Tiểu Đao có thể xông ra hay không vẫn chưa dám chắc. Đao Bào Đinh trong tay gã múa lên vun vút như màn chớp giật. Dưới sự yểm trợ của thế đao cuồng dại, gã đã xông ra khỏi vòng vây, chạy về phía chân núi Thiên Thê.

Không ai đuổi theo Dương Tiểu Đao, bởi đám sát thủ đều biết rõ hướng mà Dương Tiểu Đao chạy tới không có đường đi. Ở đó là một vách núi sạt lở đã bị phong hoá nghiêm trọng, đá trên bãi Thần Hô đều do vách núi này vỡ lở mà lăn xuống.

Lão Lợi tuy cơ thể thấp bé, song lúc này lại toát lên một vẻ ngạo nghễ vô song. Lão gác sống đao lên bờ vai phải đang máu tuôn xối xả, xem ra cánh tay phải bị thương đã không còn đủ sức để nhấc nổi đao lên. Còn tay trái vốc lấy một bụm máu chảy ra từ vết thương trên vai phải, rồi vuốt nhẹ lên đỉnh đầu. Mái tóc được thấm ướt lập tức trở nên suôn mượt, không chút rối loạn.

Vòng vây của đám sát thủ đã khép kín, lão Lợi đã không còn cơ hội thoát thân. Đại hộ pháp từ trong đám người bước ra, không phải là gã dám đối mặt với đối thủ, mà là gã đã nắm chắc mười phần sẽ chiến thắng lão Lợi. Khi lão Lợi chưa bị thương đã không phải là đối thủ của gã, bây giờ vừa trúng chưởng nội thương, lại bị trúng đao ngoại thương, gã muốn bắt hay giết lão Lợi đều dễ dàng như trở bàn tay.

Tới sát trước mặt lão Lợi, Đại hộ pháp thủng thẳng giơ bàn tay ra. Gã muốn dùng hành động này để cảnh cáo lão Lợi rằng, gã chỉ cần tung ra Chuyển luân chưởng, lão Lợi sẽ không còn cơ may sống sót.

Lão Lợi đã không cho Đại hộ pháp cơ hội. Bộ mặt luôn mỉm cười của lão đột nhiên sắt lại, thân đao đầu quỷ đang dựng thẳng trên vai đột ngột lật ngang, lưỡi đao sắc lẹm giật mạnh vào trong. Một màn huyết quang bắn vọt lên, chính giữa cần cổ lão Lợi mở ra một đường đỏ máu tựa như một miệng cười toe toét. Từ miệng lão phun ra một vòi máu, hoà lẫn với màn máu vọt ra bên cổ, nhanh chóng phủ kín thân đao. Thanh đao đầu quỷ bỗng chốc đổi màu đỏ rực, như nở ra, như phát sáng.

Đại hộ pháp dừng vội tay chưởng. Nhìn thấy nhát đao tự vẫn của lão Lợi, gã không hề cảm thấy ngạc nhiên. Dù sao kết cục cuối cùng vẫn là cái chết, tự vẫn chí ít cũng có thể giữ được chút danh dự của kẻ giang hồ.

Máu vẫn phun ra thành tia từ cổ lão Lợi, song cơ thể lão cứ đứng trơ trơ, không hề đổ xuống, đôi mắt cũng chưa khép lại. Lão vẫn đang nhìn chằm chằm vào Đại hộ pháp, nhìn chằm chằm vào đám sát thủ kia, trong ánh mắt tràn đầy vẻ khinh miệt và thương hại.

Lúc này, thanh đao đầu quỷ mặt cười lại càng thêm đỏ rực, càng thêm sáng loá. Quá nhiều nhẫn quang và huyết quang hội tụ trong đó đã khiến thanh đao không thể chịu đựng thêm được nữa.

- Không ổn! Chạy mau! - Kỳ thực, Đại hộ pháp không biết bất ổn ở chỗ nào, song trong lòng gã bỗng trỗi dậy một cảm giác nguy hiểm vô cùng khủng khiếp, nên bất giác muốn tháo chạy.

Song đã muộn rồi. Từ thân đao bùng lên một chùm sáng chói lọi, cùng với đó, một khối đỏ rừng rực như máu bắn vọt ra tứ phía. Ánh sáng rực rỡ, huyết quang đỏ loà, song không hề phát ra một mảy âm thanh, đến tiếng mảnh vỡ va đập, tiếng cứa da toác thịt cũng không có, như thể máu tích tụ trên thân đao đã bắn vụt đi.

Đao đầu quỷ, tên gọi chính xác là đao Bách toái. Càng sát hại nhiều tính mạng, nét cười trên khuôn mặt quỷ trông càng ma quái âm trầm. Trước khi giết đủ trăm mạng, cần đưa vào lò đúc lại, nếu không khi chém đến mạng người thứ một trăm, thân đao sẽ nổ tung thành trăm mảnh, giết người cũng giết luôn cả bản thân. Bởi vậy, những người sử dụng loại đao này, khi chém giết cần phải ghi nhớ kỹ số nhân mạng đã bỏ xác dưới đao.

Đao Bách toái của lão Lợi là vũ khí gia truyền, đương nhiên lão biết rõ điều này, bởi vậy mọi thứ đều đã được lão tính toán kỹ lưỡng. Sau khi giết chết sát thủ dùng xác người làm lá chắn, thanh đao toả ánh sáng xanh, đã chứng thực số lượng lão ghi nhớ là chính xác. Bởi vậy, lão mới bảo Dương Tiểu Đao đi trước, còn bản thân ở lại để đi về cõi chết.

Sau khi thanh đao nổ tung, quá nửa cơ thể lão Lợi đã tan nát. Đại hộ pháp đứng gần lão nhất cũng nát bấy non nửa thân người. Đám sát thủ xung quanh thi nhau đổ xuống, đến một tiếng kêu rú trong cơn hấp hối cũng không kịp bật lên. Bởi vì mảnh vỡ vừa lao vào cơ thể, hơi thở đã tuyệt, bước chân chưa kịp di chuyển đã cứng đờ. Cơ thể chúng lập tức co quắp biến dạng, không kịp giãy giụa đã chết cứng, bộ dạng cực kỳ khủng khiếp.

Khi đao Bách toái nổ tung, đã thấm đẫm tinh huyết và oan độc của trăm tính mạng. Mảnh đao vỡ gặp máu liền hoá, theo máu mà đi. Mảnh vỡ đâm vào cơ thể, không phải là đao đang giết người, mà là cả trăm hung hồn ác quỷ đang giết người.

Chỉ có hàng sát thủ thứ hai vừa xông vào qua lỗ hổng, do khoảng cách khá xa nên không bị mảnh đao vỡ đâm trúng. Sau khoảnh khắc kinh tâm táng đởm, chúng lập tức vòng qua đám xác chết hình thù rùng rợn, tiếp tục đuổi theo Dương Tiểu Đao. Đây chính là những sát thủ đã được Chu gia huấn luyện kỹ càng, không sợ không lùi, tâm như tử sĩ.

Dương Tiểu Đao từ xa đã nhìn thấy cảnh tượng lão Lợi nổ đao thảm sát đối thủ, cũng đã ngửi thấy mùi máu tanh lợm bay xộc tới. Không rõ là do cảnh tượng thảm khốc kia, hay do mùi máu tanh hôi quá mức, mà bụng dạ gã bỗng cuộn lên nhộn nhạo, phải gập người oẹ liền mấy cái, song chẳng nôn ra được thứ gì, chỉ khiến hai mắt gã tràn đầy lệ đục, che lấp cả tầm nhìn.

Gã đưa tay gạt màn nước mắt để nhìn cho rõ, song thứ nhìn thấy lại là đám sát thủ đang vùn vụt lao tới. Quay đầu lại nhìn, trước mặt lại là vách đá vỡ lở, đã hết đường tháo chạy...

Lúc này Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang dựa sát vai nhau, trước mặt họ là đám sát thủ lợi hại hơn nhiều so với những kẻ bên mảng tường đổ phía tây. Đa phần trong đó là cao thủ do Chu Chân Mệnh đích thân dẫn tới, bao gồm người đao mười sáu lưỡi và hộ vệ tổng đường, cộng thêm những cao thủ hàng đầu do các đường khẩu điều tới. Trước đó, chúng được Chu Chân Mệnh bố trí canh giữ ở quanh chùa, sau đã trở về chùa qua con đường bí mật. Lại thêm Dương Thiên Vương nãy giờ bám theo Hạ Táo Hoa cũng vào nhập bọn.

Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ biết mình không phải là đối thủ của đám người này, song hai người họ lại nhất quyết tử thủ tại hành lang quanh tháp. Bởi họ hiểu rõ, nếu để đám cao thủ này đuổi tới, Lỗ Nhất Khí coi như đã hết cơ hội. Họ lựa chọn vị trí cố thủ tại đầu hành lang và mật độ dày đặc của khảm nút xung quanh sẽ gây bất lợi cho tấn công ồ ạt. Dù người của đối phương có đông đảo tới đâu, có thông thạo cách bố trí khảm nút xung quanh thế nào, thì nhiều nhất cũng chỉ đủ không gian cho ba, bốn người cùng tấn công mà thôi.

Trên thực tế, cuộc giao chiến giữa hai bên vô cùng ngắn ngủi, Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ vừa triển khai công lực, đối phương đã dừng tấn công. Chúng dừng lại vì đã nhận được một tín hiệu nào đó, một tín hiệu không cho phép phản kháng. Về điểm này, Dưỡng Quỷ Tỳ hiểu rõ hơn Hạ Táo Hoa, dù gì cô cũng lớn lên trong Chu gia, nên đã thông thuộc các quy tắc của bọn họ.

Người phát tín hiệu chắc hẳn ở gần đây, cục diện đối đầu ở bên này hẳn cũng nằm trong phạm vi quan sát của hắn. Tín hiệu phát ra là muốn phe mình vốn đã chiếm được ưu thế tạm ngừng tấn công, cho thấy chắc chắn đã có bố cục và thủ đoạn nguy hiểm gấp bội dành sẵn cho bọn họ. Dưỡng Quỷ Tỳ cảm thấy nếu bọn họ cứ tiếp tục cố thủ tại đây sẽ càng thêm nguy hiểm, khác nào đám cừu chờ sói tới ăn thịt. Cần phải mau chóng thoát khỏi tình thế này.

- Chúng ta phải rời khỏi đây ngay lập tức, trước khi đi phải nghĩ cách cản chân đám sát thủ này lại! - Dưỡng Quỷ Tỳ từ nhỏ ít giao thiệp với người khác, bởi vậy cũng không biết cách nói năng cho khách khí.

Hạ Táo Hoa đã bình tĩnh hơn rất nhiều so với lúc lão mù vừa chết. Cô ta vốn là người thông minh sắc sảo, chỉ cần đầu óc tỉnh táo, sẽ có thể bộc phát một nguồn năng lượng vô cùng khủng khiếp.

- Cô đi trước đi, khoảng bảy chục bước đứng lại chờ tôi! - Hạ Táo Hoa nói.

Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất nhẹ nhàng. Cô vốn ngây thơ tin người, nên chẳng hề thấy lo lắng cho Hạ Táo Hoa. Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất thung dung, hành lang quanh tháp tuy đầy rẫy khảm nút, song những khảm nút mà Chu gia thường xuyên sử dụng đã quá quen thuộc với cô, nên chẳng khác gì đi trên đường về nhà.

Dưỡng Quỷ Tỳ vừa bước đi, Hạ Táo Hoa lập tức đưa tay vào chiếc túi nhỏ bên hông lôi ra một thứ gì đó, đồng thời bước xéo ra phía sau vài bước. Vài bước này vừa hay đã rẽ vào một khúc ngoặt của đường khảm. Như vậy, giữa cô và đám sát thủ đã có thêm hai điểm giẫm trên nút lẫy, cũng giống như cô đã nấp vào sau một góc tường quanh.

Hạ Táo Hoa cũng rất thung dung, không cần để ý xem Dưỡng Quỷ Tỳ đã tới đúng chỗ chưa, cũng không để ý xem đám cao thủ trước mặt có hành động khác lạ nào không, chỉ chú tâm vào chiếc túi vải hoa lam vừa lôi ra từ trong túi đeo. Nâng túi vải trên lòng bàn tay, cô bắt đầu lầm rầm tụng niệm:

- Xanh vàng đỏ trắng đen tuỳ ý, kiếp trước gặp hung kiếp này cát, thu về khí huyết mạch tam kinh, không làm oan hồn nơi âm thế...

Loại thần chú này vừa không phải xuất phát từ phương thuật Đạo giáo, cũng không bắt nguồn từ tà phái vu thuật của dị tộc. Nếu xét về nguồn gốc, nó cũng ít nhiều có liên quan tới Đạo giáo, chính là lời chú tụng niệm khi hành khí của người luyện Khí Môn tông. Người sáng lập ra Khí Môn tông là một thần y thời Đông Hán có tên là Lục Huyền Nguyệt. Tuy ông tinh thông kim thạch dược lý đến độ xuất thần nhập hoá, song còn ngưỡng mộ đạo thần tiên hơn nữa, nên đã theo học một đạo sĩ nổi tiếng thời Đông Hán tên là Nguỵ Bá Dương, khổ luyện theo trước tác thần kỳ “Tham đồng khế” do Nguỵ Bá Dương kết hợp “Kinh Dịch”, “Lão Tử”, “Trang Tử” mà soạn nên. “Tham đồng khế” là thuỷ tổ của hành khí kinh đan, Lục Huyền Nguyệt chuyên tâm nghiên cứu về hành khí, cuối cùng đã có thành tựu xuất sắc, rời khỏi sư môn tự thành lập phái riêng, gọi là Hợp Đức khí tông. Ý nghĩa của nó được lấy từ câu “Âm dương hợp đức mà cương nhu có thể” trong “Kinh Dịch”. Tông phái này đã suy thoái sau triều Đường Tống, chỉ còn sót lại một ít di mạch ở vùng Tây Bắc.

Hạ Táo Hoa đã học được công phu của Hợp Đức khí tông từ trong một cuốn sách cổ mà lão mù lấy trộm về. Song công phu đó đã không còn là chính tông, mà pha tạp rất nhiều kỹ xảo vu thuật của người dị tộc. Như lúc này, công phu hành khí của cô tuy tương hợp với Hợp Đức khí tông, song khí được vận hành lại không phải là chính khí âm dương nội tu, mà là chiếc túi vải hoa lam kia.

Túi vải hoa lam được mở ra, bên trong còn có một gói lụa vàng. Trên tấm lụa thêu đầy kinh văn, còn thấy lờ mờ một ấn phong bằng chu sa.

Hạ Táo Hoa niệm chú mỗi lúc một lớn tiếng, ngón trỏ tay phải vạch vẽ loằng ngoằng trên gói lụa vàng. Dây buộc trên tấm lụa từ từ lỏng ra, bốn góc gói lụa không gió tự mở, lộ ra thứ được bọc kín bên trong.

Đó là năm cục màu xám trắng, có dài có ngắn, có to có nhỏ, đều mang hình thù bất quy tắc. Chúng mang theo những khí tướng có độ mạnh và hướng lan toả hoàn toàn khác nhau.

- Xương! Là xương người! - Kẻ vừa nhận ra là một cao thủ chuyên giải phẫu xác chết của Tam Xuyên đường phía Chu gia.

- Có cốt khí, có thi khí, còn có độc khí! - Lại một cao thủ luyện khí của Tương Tây đã nhận ra khí tướng của mấy cục xương.

Tiếng niệm chú của Hạ Táo Hoa đã trở nên vang vọng, tiết tấu cũng được đẩy nhanh. Khí thế của năm cục xương cũng theo đó mà bốc lên dữ dội.

Năm cục xương, mỗi cục đều đồng thời ẩn chứa cốt khí, thi khí và độc khí. Song khí tướng ẩn chứa trong mỗi cục xương lại khác nhau. Cốt khí có khí xương khô, khí xương non, khí xương vỡ; thi khí có khí xác rữa, khí xác sống, khí xác khô; độc khí lại còn nhiều hơn nữa, mỗi cục xương đều chứa không dưới bốn năm loại.

Do nguồn gốc của khí không giống nhau, nên khí tướng hiện lên cũng rất khác biệt. Khí tuóng vọt lên từ năm cục xương hiện rõ năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen. Khí tướng năm màu này lúc thì hoà quyện vào nhau, lúc lại tản ra bốn phía, bay dật dờ bất định.

- Luật... cấp... hành! - Hạ Táo Hoa vừa hô lớn, cánh tay đã vung lên. Năm cục xương lập tức văng ra, lăn lông lốc trên nền hành lang, tản ra thành cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền.

Năm cục xương vừa rơi xuống đất, khí tướng lập tức nở phình, xoay tròn, lan toả khắp xung quanh. Khí thế và hướng đi của nó ngầm hợp với cách bố trí của cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền, uốn lượn vu hồi, như xúc tu, như rắn trườn, chất độc ngùn ngụt, năm màu rực rỡ, mùi thối rữa nồng nặc, như thể có hồn ma, xác chết đang giãy dụa, đang dật dờ đi lại.

Đám cao thủ Chu gia nhìn thấy cảnh tượng này, đều bất giác lùi lại hai bước.

Hạ Táo Hoa vừa hất năm cục xương đi, lập tức quay người chạy thẳng. Nhìn vào tốc độ di chuyển, có thể thấy cô đang cố gắng né tránh làn khí đang lan toả kia, không muốn để bất kỳ một bộ phận nào trên cơ thể chạm vào luồng khí tướng năm màu đó.

Trong đám cao thủ của Chu gia vẫn có kẻ không rời mắt khỏi Hạ Táo Hoa. Đây chính là kinh nghiệm giang hồ, trước một cục tướng mà bản thân không hay biết, tốt nhất nên quan sát phản ứng của người bố trí cục tướng. Nếu ngay cả bản thân người bố trí cục tướng cũng tỏ ra sợ hãi né tránh, thì những người khác lại càng phải tránh xa. Mấy tên cao thủ này vừa thấy Hạ Táo Hoa phản ứng như vậy, lập tức vội vã thoái lui, chạy dạt đi thật xa. Những cao thủ khác tuy không biết mô tê gì, nhưng thấy đồng bọn lùi lại, cũng cuống quýt lùi theo.

Dưỡng Quỷ Tỳ vừa đứng lại ở khoảng cách bảy chục bước, Hạ Táo Hoa cũng đã kịp lao tới, kéo lấy cô tiếp tục chạy ào đi.

- Từ từ, nhìn kỹ xem phía trước có khảm cục không đã. - Dưỡng Quỷ Tỳ biết rõ sự lợi hại của Chu gia, nên vội vã nhắc nhở Hạ Táo Hoa.

- Anh Nhất Khí đã đi qua, có khảm nút cũng phá giải cả rồi. Tôi vừa rải ra Ngũ cốt hành khí mê, tuy hung dữ, song nhiều nhất cũng chỉ cầm cự được khoảng hai chén trà, sau đó toàn bộ sẽ thành hư tướng!

Hai chén trà, không phải là dài, cũng không phải là ngắn.

Thân thủ của Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đều cực kỳ nhanh nhẹn, hoàn toàn có thể lợi dụng khoảng thời gian này để đuổi kịp Lỗ Nhất Khí, song với điều kiện là không bị ai ngăn cản. Song hai cô gái quả là không may mắn, vừa tới phía dưới bức bích hoạ, từ trên vách đá bỗng bay vụt xuống một thân hình đầy đặn phì nhiêu, chặn ngay trước mặt. Người này chúi đầu mà lao xuống, khi sắp chạm đất lại uyển chuyển lượn vòng mà lên. Dáng vẻ tuyệt đẹp, áo bay như mây, mặt hồng như ráng, da trắng như tuyết, khác nào tiên nữ giáng trần.

- Báo Cơ nương nương! - Dưỡng Quỷ Tỳ kêu lên kinh hãi. Tuy cô chưa một lần gặp Báo Cơ, song đã nhiều lần nghe người khác mô tả về dáng vẻ của Báo Cơ. Dưỡng Quỷ Tỳ quả thực cảm thấy khiếp sợ, bởi lẽ công lực của Báo Cơ không hề thua kém sư phụ của cô. Dù cô và Hạ Táo Hoa liên thủ, cũng khó lòng thoát khỏi tay Báo Cơ.

Hạ Táo Hoa dày dạn kinh nghiệm, từ giọng nói và vẻ mặt của Dưỡng Quỷ Tỳ, cô lập tức hiểu ra rằng mình đã phải đương đầu với một kẻ địch hết sức đáng gờm. Cô nhanh chóng âm thầm tụ lực, chuẩn bị dốc toàn lực lao vào trận quyết tử.

Vậy là ba người dàn thành hình chạc ba, người chưa động, khí thế đã động. Ba luồng khí tướng cuồn cuộn như mây toả, xoắn xuýt vào nhau, va chạm với nhau...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,532
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 25: Cục hung biến


Càng đi lên trên, Lỗ Nhất Khí càng cảm thấy bất ổn. Sau khi leo lên vài trăm bậc đá, thì không còn bậc thang để leo nữa, chỉ còn một lối dốc quanh co. Chẳng phải núi này là núi Thiên Thê ư? Một bậc thang dẫn lên trời không thể chỉ vỏn vẹn vài trăm bậc như vậy!

Tuy trong lòng băn khoăn nghi hoặc, song bàn chân vẫn không dừng bước. Có lẽ tiếp tục đi lên trên sẽ tìm thấy câu trả lời mà mình muốn biết. Hơn nữa, lúc này Lỗ Nhất Khí cũng chỉ có thể tiếp tục đi lên mà thôi. Luồng khí thế đang đuổi sát sau lưng vô cùng dữ dội và hết sức quen thuộc. Đó là Chu Chân Mệnh. Chu Chân Mệnh đã đích thân dẫn người đuổi sát theo sau, khiến Lỗ Nhất Khí không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cách tiến lên phía trước.

Trong lúc này, Phật sống lại tỏ ra rất phấn khích. Không hiểu tại sao, ông cảm thấy việc leo lên núi Thiên Thê cùng chàng thanh niên hệt như thần thánh kia đã mang lại cho ông một cảm giác tự tại chưa từng có, khiến ông thư thái mãn nguyện đến từng kẽ tóc chân tơ. Hẳn là bản thân ông đang được dẫn tới cảnh giới tự tại chí cao của nhà Phật.

Khác hẳn với Phật sống, Lỗ Nhất Khí tỏ ra vô cùng thận trọng, đi được vài bước lại quan sát kỹ lưỡng mọi biến đổi xung quanh. Song nhờ sự nâng đỡ của Phật sống, tốc độ di chuyển của cậu không hề chậm chạp. Chẳng mấy chốc, hai người đã đến lưng chừng núi.

Nhìn từ phía xa, vị trí lưng chừng núi Thiên Thê có lẽ được coi là vị trí thần bí nhất của toàn bộ trái núi. Nơi này quanh năm mây phủ tầng tầng lớp lớp, không biết bên dưới có ẩn giấu điều gì bí hiểm.

Theo như quan sát của Lỗ Nhất Khí, và suy đoán theo cục tướng phong thuỷ của trái núi, lưng chừng núi còn là một vị trí đặc biệt quan trọng, đây chính là nơi hội tụ của âm dương cát hung, là vị trí dùng bảo bối để trấn hung. Suy đoán theo nguyên lý này, vị trí hung huyệt có lẽ cách đây không xa.

Song mối nghi ngờ lớn hơn lại ập đến ngay sau đó. Lỗ Nhất Khí liên tục tụ khí ngưng thần vài lần, đưa thân tâm thuận theo tự nhiên để cảm giác, song lại không thể tìm ra vết tích của hung huyệt hay bảo cấu. Điều này rất quái lạ, cho dù bảo cấu do Mặc gia xây dựng đã bị thay đổi, thì hung huyệt cũng không thể biến mất mà không để lại một mảy may dấu tích.

- Không đi nữa! - Lỗ Nhất Khí nói khẽ một câu, rồi ngồi luôn xuống sườn dốc.

- Phật đi vạn dặm mới là khởi đầu, nơi này còn xa! - Phật sống tuy nói vậy, song cũng dừng bước.

Lỗ Nhất Khí cười gượng:

- Khổ cực mà tới, song nơi đây dường như lại không có thứ tôi cần tìm!

- Tìm kiếm vật ngoài thân, nam bắc do nắng chiếu. Cho dù là cõi phàm hay cõi Phật, trước tiên cần phải đến đúng nơi, sau đó mới có thể tìm được thứ mình cần.

Lời nói của Phật sống khiến Lỗ Nhất Khí đột nhiên bừng tỉnh. Đúng vậy! Trước hết cần phải đến đúng nơi. Đỉnh núi Thiên Thê băng tuyết phủ kín, có lẽ là chỗ cực âm. Mà trên tấm thẻ ngọc cũng có ba chữ "điên chi uyên", phải chăng hung huyệt nằm tận trên đỉnh? Nhưng còn hai chữ "thê khởi" có ý nghĩa gì?

Lỗ Nhất Khí trầm ngâm suy nghĩ, không chú ý tới Phật sống vẫn đang tiếp tục vững chãi tiến bước lên trên.

Chu Chân Mệnh cách Lỗ Nhất Khí không xa. Hắn chỉ dẫn theo Đao đầu Đao Thập Lục. Gã Đao đầu từ chỗ tháp trắng lọng vàng giải khảm mà tới, vừa hay gặp Chu Chân Mệnh đang đi ra từ con đường hẹp bên tường Phật Thị.

Lỗ Nhất Khí đột nhiên dừng lại, ngồi thụp xuống sườn dốc, trong khi Phật sống vẫn tiếp tục leo lên, điều này đã khiến Chu Chân Mệnh cảm thấy khó hiểu.

Chính vào lúc này, Chu Chân Mệnh đột nhiên phát hiện thấy cảnh tượng phía trên có sự biến đổi. Khí mây đang dần dần mờ nhạt, tựa như có một vầng hào quang đang bừng bừng lan toả, xô đẩy vào tầng mây dày đặc, mà trung tâm của vầng hào quang chính là Lỗ Nhất Khí.

- Bảo khí vận hành! - Thức Bảo linh đồng đã nhìn thấy cảnh tượng này. Tuy cách đó rất xa, song chỉ cần nhìn vào sự biến đổi của tầng mây, gã đã có thể nhận ra "bảo khí vận hành". Khi được lệnh lùng sục tìm kiếm ở hồ Tiên Tề, núi Quy Giới, Thức Bảo linh đồng và thầy cúng chỉ tìm qua loa một lượt gọi là. Sau khi nhìn thấy pháo hiệu liên châu, hai người vội vã đi suốt đêm chạy về chùa Kim Đỉnh. Lúc này, bọn họ mới chạy tới ngọn núi đầu tiên ở tận mé đông của dãy Nam Lĩnh, đã nhìn thấy cảnh tượng kỳ lạ này.

Lỗ Nhất Khí vẫn đang đắm chìm trong suy nghĩ, đột nhiên từ phía trên vọng xuống một tiếng kêu rú thảm thiết mang theo nội lực vô cùng thâm hậu khiến cậu giật bắn mình choàng tỉnh. Tiếp đến là tiếng vật thể lăn lông lốc mà xuống, ngoảnh đầu lại nhìn, thứ lăn xuống chính là cơ thể tàn khuyết đến thảm thương của Phật sống.

Thương thế của Phật sống vô cùng khủng khiếp. Ngực phải thủng một lỗ lớn, xuyên thấu từ trước ra sau. Cánh tay phải, vai phải đều bị phạt mất một nửa, chỉ còn một ít da thịt lủng lẳng rũ xuống. Vết thương tuy lớn, nhưng không hề chảy ra một giọt máu.

Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp chạy đến gần, đã ngửi thấy mùi da thịt cháy khét lẹt. Là vết thương do lửa!

- Ngài trúng bẫy phải không? - Lỗ Nhất Khí tâm tư rối loạn. Phật sống bị thương, cậu đã không còn chỗ dựa nào nữa.

- Không được... đi lên, có... Phật quang phổ chiếu... - Phật sống đã mất một nửa lá phổi, hơi thở yếu ớt, chỉ có thể nói vội vài từ trong tiếng thở gấp gáp.

Lỗ Nhất Khí mắt mở trân trân, nhìn trái tim hướng Phật của Phật sống đang từ từ ngừng đập.

Phía trên rốt cục có gì? Phật quang phổ chiếu tại sao lại có thể giết người? Lỗ Nhất Khí quyết định mạo hiểm thám thính một phen.

Phía trên có một chỗ ngoặt. Lỗ Nhất Khí dán người vào vách đá, rồi thò đầu ra quan sát, vừa thò ra đã lập tức rụt ngay lại. Cậu chẳng nhìn thấy gì, chỉ cảm thấy trước mắt chói loà.

Ánh sáng chói gắt đến nhức mắt. Sau khi rụt đầu về, Lỗ Nhất Khí phải nhắm mắt một lúc mới từ từ mở ra được. Vừa mở mắt, cậu phát hiện thấy ánh nắng đã chiếu tràn lên cơ thể.

"Không thể nào! Chẳng phải mình đang ở bên dưới tầng tầng mây phủ nơi lưng chừng núi ư? Làm sao ánh nắngcó thể chiếu tới tận đây được?" - Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp đưa ra phán đoán, dưới chân núi đã dậy lên tiếng la hét vang trời, cùng với đó là ánh lửa táp lên rừng rực.

Tại núi Thiên Thê, hàng ngày cứ vào thời điểm này lại nổi lên một cơn gió thổi vòng quanh núi, bởi vậy Lỗ Nhất Khí mới bảo Viêm Hoá Lôi phóng hoả, dẫn lửa lần lượt theo trình tự. Một trình tự trong đó chính là lợi dụng thế gió này để đưa ngọn lửa từ từ bén tới kho chứa cỏ và chợ gia súc, sau đó tiếp tục mở rộng về hướng đông nam theo hình rẻ quạt. Như vậy có thể ép dân chúng trong thị trấn chạy ra khỏi thị trấn nằm giữa hai dãy núi, đề phòng trong lúc trấn hung huyệt xảy ra biến cố khó lường, làm tổn thương tới người vô tội.

Nhưng tình hình lúc này đã trở nên bất ổn. Chợ gia súc và kho chứa cỏ đều bị đốt cháy, song gió vòng quanh núi vốn thường ngày cố định, hôm nay thổi được nửa chừng bỗng đổi hướng thổi thẳng về phía bắc, trở thành gió trùm núi. Có lẽ là do sức nóng của lửa và cái lạnh của băng tuyết trên núi dẫn đến hiện tượng nóng lạnh đối lưu, khiến gió đổi chiều. Bởi vậy, thế lửa trong thị trấn không những mạnh lên gấp nhiều lần, mà dân chúng và gia súc chưa kịp chạy khỏi thị trấn còn bị ngọn lửa vây kín, chỉ có thể tìm nơi đất trống mà tránh nạn. Hơn nữa, dưới tác dụng của sức gió, một khối lửa lớn đã ập tới ngôi chùa Kim Đỉnh vốn vẫn nằm ngoài phạm vi của đám cháy. Ngôi chùa xưa này chưa nếm mùi hoả hoạn cũng đã có hơn chục nơi lửa bốc ngùn ngụt.

- Không đúng! Không đúng! - Lỗ Nhất Khí bắt đầu hoảng loạn. Cảm giác ban đầu của cậu đã không khớp với kế hoạch, cục tướng của toàn bộ núi Thiên Thê đã xảy ra biến hoá!

Lỗ Nhất Khí nằm nghiêng ngay trên sườn dốc, tụ khí ngưng thần. Bên dưới cơ thể cậu là đá, cảm giác của cậu lập tức theo đá mà đi, tự nhiên hệt như cơ thể.

Mối nghi ngờ như tầng mây che phủ, đã dần dần tản ra. Trong đó, chân tướng đầu tiên mà cậu cảm giác thấy chính là thứ đã sát hại Phật sống. Rất đơn giản, chính là ánh sáng!

Tiến về phía trước, rẽ qua chỗ ngoặt là mặt sau của núi Thiên Thê, đáng lẽ chỉ le lói chút ánh sáng yếu ớt, không thể có ánh nắng chiếu thẳng tới. Song lúc này, vị trí đó không những ngập tràn ánh nắng, mà còn hừng hực bỏng cháy tới mức có thể thiêu trụi mọi thứ.

Ánh sáng tới từ một đỉnh hình vòm, là một đỉnh vòm hình thành từ băng tuyết, trắng loá như gương. Giống hệt như một chiếc chum bằng ngọc úp ngược xuống, cũng giống như một cạm bẫy lơ lửng trên trời. Lẽ nào đây chính là "điên chi uyên"?

Hoá ra núi Thiên Thê không hề cao như ấn tượng ban đầu, phần đỉnh núi nhọn hoắt nhập nhô thực chất đều là do băng tuyết kết thành. Hơn nữa dưới tác dụng của gió quanh núi và tuyết gió tây hàng năm, đã tạo thành một hình vòm nghiêng lệch trên đỉnh núi. Hình vòm này phía nam mỏng, phía bắc dày, bởi lẽ phía nam ấm áp, băng tuyết đã tan chảy phần lớn. Cũng chính vì phía nam mỏng mà ánh mặt trời có thể chiếu xuyên qua tầng băng rất mỏng và gần như trong suốt này, rọi lên mặt băng hình vòm rất dày ở phía bắc, ánh nắng không thể lọt qua, nên nó chẳng khác nào một mặt gương lõm tập trung toàn bộ ánh sáng rồi phản xạ lại thành một chùm sáng hội tụ. Điểm sáng, chùm sáng được phản xạ ra từ khối băng hình vòm với kích cỡ khổng lồ, không nói cũng biết sức thiêu đốt của nó khủng khiếp tới đâu. Hơn nữa, trong các khoảng thời gian khác nhau trong ngày, chùm sáng phản xạ cũng sẽ dịch chuyển theo quy luật nhất định. Năm tháng lâu dần, sẽ hình thành một đường quỹ tích, một đường quỹ tích rất giống đường đi. Song nếu ai bước lên con đường này, chỉ cần tiếp xúc với chùm sáng phản xạ, sẽ bị đốt cháy thành tro trong chốc lát. Sau đó bị gió tuyết thổi bay, đến một vết tích cũng không còn lưu lại. Đây cũng là nguyên nhân vì sao rất nhiều người đã leo lên Thiên Thê song không thấy trở về.

Tuy nhiên tình trạng hôm nay lại khác. Tầng mây ở lưng chừng núi không hiểu tại sao lại tản mát, khiến vị trí của chùm sáng phản xạ dịch chuyển xuống dưới, bởi vậy Phật sống vừa ngoặt sang mặt sau trái núi đã bị thiêu đốt trọng thương.

- Đỉnh vòm kia chính là hung huyệt - Lỗ Nhất Khí tự nhủ với mình, song lại phủ định ngay lập tức – Không phải! Chắc chắn không phải! Đây chỉ là một hiện tượng do hung huyệt gây ra, vị trí cụ thể của hung mạch có lẽ vẫn phải tìm tòi từ hai chữ "thê khởi".

Phủ định một số sự việc, thường sẽ xác định được nhiều sự việc hơn. Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới vài câu nói tuỳ hứng mà cậu từng nói ra bên hồ Tiên Tề: "Trời là trời điên đảo, lên trời không cần thang...". Lời nói ngẫu nhiên dường như lại ngầm hợp với chí lý. Trời không ở phía trên, hai chữ "thê khởi" cũng không liên quan gì tới thang.

Nghĩ vậy, Lỗ Nhất Khí liền thu lại cảm giác đang ở phía trên, rồi di chuyển xuống phía dưới, vòng sang phía tây. Song hai luồng khí thế dữ dội đã ngăn cản cảm giác của cậu. Chu Chân Mệnh và Đao Thập Lục đã lên tới.

Lỗ Nhất Khí bèn khôi phục lại trạng thái bình thường. Cậu biết, đã không thể dùng cảm giác để xem xét tình hình phía dưới, cậu phải đích thân đi xuống.

- Thập địa mười ba la mật, tu luyện đến độ cõi người, cõi trời đều là hư vô, mà quả vị Phật ở ngay bên dưới không xa, ngài có tới được không? - Lỗ Nhất Khí cảm thấy cậu phải làm tròn trách nhiệm với Phật sống.

- Ta... không xuống được nữa. Chỉ e rằng... chưa đạt tới cảnh giới chân thực, đã phải... rơi vào... cõi Tu La... – Hơi thở của Phật sống đã vô cùng yếu ớt.

- Không! Đại sư, ngài có Phật tâm hướng tới chúng sinh, Phật Tổ sẽ phù hộ cho ngài.

- Nhưng... ngươi nhìn... xuống dưới mà xem, chúng sinh... đang thiêu đốt... trong lửa, đều là do ta, là tội của ta. Không phải do ta... nhưng không cứu, cũng là... tội của ta... – Cái tâm từ bi thương xót, cái tâm tự hối cải, trước lúc lâm chung, Phật sống đã thực sự giác ngộ rồi.

Lỗ Nhất Khí biết mình không thể nói thêm gì với Phật sống nữa. Cậu phải mau chóng đi xuống phía dưới, để cứu vớt sinh linh.

- Ngài hãy nhắm một mắt lại! - Lỗ Nhất Khí nói với Phật sống.

- Để làm gì?

- Để nhập Phật cảnh!

Phật sống nghe thấy câu này, nét mặt thoáng chút hân hoan. Phật Tổ quả thực từ bi, đã cử một vị thần là Lỗ Nhất Khí tới đây để dẫn dắt cho ông.

Phật sống nghe lời Lỗ Nhất Khí, nhắm một con mắt lại. Còn một con mắt tuy cũng muốn khép, song vẫn gắng gượng mở ra. Lỗ Nhất Khí bò tới bên cạnh Phật sống, lấy ra một viên đá hướng vào Phật sống, nhằm thẳng vào con mắt còn gắng gượng mở ra, lầm rầm tụng đọc:

- Nhãn đối nhãn, thạch nhãn cũng là tâm nhãn; tâm tới Phật cảnh, nơi tâm tới, xuyên qua trời đất; không có đá, không có băng, không có khí, càng không có vạn vật. Phật cảnh nhập tâm, tâm nhập tự tại... – Sau khi niệm đủ ba lần, Lỗ Nhất Khí mới từ từ di chuyển hòn đá sang bên cạnh.

Phật sống mỉm cười mãn nguyện, một con mắt vẫn mở hờ, song lúc này, hơi thở của ông đã đứt, hồn phách đã theo Phật Tổ về cõi Tây Phương. Lỗ Nhất Khí bất giác trong lòng xúc động, than khẽ một câu:

- Một mắt mở quan sát chúng sinh phù thế, một mắt nhắm lĩnh ngộ thiền ý trong tâm. Đại sư, ông quả thực là Phật sống chốn nhân gian!

Tuy nói như vậy, song niềm than thở đa phần là dành cho chính cậu. Vốn dĩ định đánh cược ba ván để hoàn thành đại sự, song ván thứ ba đã đặt cược xong, thì cục thế lại nảy sinh đột biến. Xem ra bản thân chỉ có thể đặt cược thêm vào ván thứ ba này, thứ đặt cược không chỉ là tính mạng của bản thân, mà còn phải cược toàn bộ những gì cậu có trong tay.

Nghĩ tới đây, Lỗ Nhất Khí từ từ đứng dậy. Cậu liếc nhìn vết thương trên vai, tuy rất đau đớn, song hầu như không chảy máu. Cậu nhặt chiếc túi lưới đựng đá lên, dứt khoát bước xuống dưới núi.

Túi lưới lúc này đã có tác dụng rất quan trọng. Đi xuống con dốc đứng không có bậc thang, rất dễ trượt thẳng xuống không dừng lại được. Đặc biệt Lỗ Nhất Khí chỉ có một tay, vai lại bị thương, lực của bàn chân không đủ vững chãi. Có túi lưới trong tay, nhỡ có chuyện bất trắc, có thể dùng để ghìm cơ thể lại.

Có điều từ đầu tới cuối Lỗ Nhất Khí luôn giữ khư khư chiếc túi lưới đựng viên đá đen trong tay, song lại không dùng tới nó. Đoạn đường này cậu bước đi một cách vững chãi chưa từng có, dường như linh hồn của Phật sống vẫn đang nâng đỡ cậu, khiến cậu vững bước khoan thai, khí thế ngút trời.

Rất nhanh, Lỗ Nhất Khí và Chu Chân Mệnh đã nhìn thấy nhau.

Chu Chân Mệnh thoát chút thất vọng. Khí tướng không hề biến đổi, xem ra vẫn chưa thu hoạch được gì.

Lỗ Nhất Khí nhìn thấy Chu Chân Mệnh lại tỏ ra mừng rỡ, cứ như gặp được bạn bè thân thích. Cũng chính vào thời khắc này, dường như cậu đã nhìn thấy một rãnh sâu trong tâm khảm Chu Chân Mệnh...

Bên dưới vách núi dựng đứng, Mạc Thiên Quy một lần nữa bị dồn vào tận cùng hốc lõm. Đối diện với cục thế này, lão thực sự đã bất lực hoàn toàn. Kinh qua bao trận chiến sinh tử, lão chưa từng gặp phải khảm thú nào lợi hại đến vậy. Mạc Thiên Quy âm thầm hạ quyết tâm, khi tam thú ngao ra đòn tấn công cuối cùng, lão sẽ tự kết liễu đời mình bằng một nhát kiếm.

Đúng vào lúc đó, một bóng đen thù lù hiện ra phía sau bầy thú, rất đột ngột, đến công phu thượng thừa như Mạc Thiên Quy cũng không nhận ra bóng đen chui ra từ hướng nào.

Động tác của bóng đen vô cùng mau lẹ, đề khí tung mình nhảy vọt liền mấy bước, đã xuyên qua bầy thú như một tia chớp xẹt. Bầy tam thú ngao có lẽ cũng bất ngờ trước sự xuất hiện đường đột của vị khách không mời, chỉ kịp lúc lắc đầu vài cái, gầm gừ mấy tiếng suông.

- Sự phụ, để con dẫn người xông ra! - Người mới tới chính là Lưu Chi Thủ.

Mạc Thiên Quy gượng cười mà nói:

- Không được! Ta đã bị thương rất nặng, không ra nổi nữa rồi. Có điều trước khi chết được gặp con, ta cũng thấy được an ủi!

- Không được đâu sư phụ! Nếu người không ra khỏi đây, biết lấy ai giúp Lỗ môn trưởng hoàn thành đại sự? – Lưu Chi Thủ tỏ ra lo lắng.

- Chẳng phải còn có con ư? Việc ta chưa làm xong, con hãy thay ta làm nốt!

- E rằng con không gánh vác nổi. Chân tướng sự việc còn chưa hiểu rõ, lại không có văn tự hướng dẫn, không có vũ khí đáng tin, làm sao có thể thay thế được sư phụ? – Lưu Chi Thủ biết trách nhiệm này quá nặng nề.

Lại có một con tam thú ngao dịch đến vị trí gần hơn, Mạc Thiên Quy đã có thể nhìn rõ bọt trắng sùi ra bên mép và làn hơi như sương mù phun ra từ mũi nó. Bề mặt hốc lõm không rộng, nếu có thêm hai ba con tam thú ngao nữa chiếm lĩnh các vị trí gần kề, thì chúng đã có thể tiến hành đòn tàn sát cuối cùng. Nhưng lúc này, bầy tam thú ngao lại dừng bước, ngó nghiêng tứ phía, hít ngửi liên hồi, dường như đang tìm kiếm thứ gì.

- Ta bảo con làm, đương nhiên sẽ bàn giao lại. Những thứ con cần, ta cũng sẽ giao cả cho con! - Mạc Thiên Quy nói đoạn, cắm phập thanh kiếm xuống đất, thò tay lục tìm trong túi vải mang theo bên mình.

- Đừng tin lời hắn! Hắn là kẻ phản bội! - Từ phía sau đám tam thú ngao, lại có một bóng người nhảy vọt ra, tìm cách băng qua bầy muông thú.  
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,532
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 26: Lộ nguyên hình


Dám tam thú ngao dường như đã rút ra kinh nghiệm từ sự việc trước đó, nên bóng người vừa xuất hiện, lập tức ra đòn tấn công. Con tam thú ngao ở gần nhất phóng vụt lên, chân trước giơ cao, hệt như người đứng, vồ thẳng tới trước mặt bóng người.Bóng người lập tức nghiêng mình né tránh cái miệng rộng ngoác của tam thú ngao, song đã không tránh kịp bộ vuốt bên chân phải, lập tức trước ngực bị cào rách toạc thành bốn vệt dài máu thịt tanh bành. Cũng may người này mặc áo Tạng bằng da lông thú khá dày dặn, nếu không hẳn là tim phổi cũng đã bị móc ngược ra ngoài.

Người này tuy đã bị thương, song bước chân vẫn không hề chậm lại. Con tam thú ngao thứ hai lập tức xông lên, cũng nhảy dựng ngược rồi vồ thẳng tới với khí thế hung hãn y như vậy.

Lần này, cánh tay trái đã bị vuốt thú cào trúng, toàn bộ tay áo trái rách bươm như giẻ, bốn vệt cào chạy dọc từ trên xuống dưới cánh tay, máu tuôn như suối.

Bị trúng thương hai lần liên tiếp, người này đã nhận ra mình không thể xông qua đàn thú, bèn lập tức thay đổi phương thức, thuận thế ngã chúi xuống đất, cuộn tròn người mà lăn đi.

Đây là chiêu thức mà chỉ có những người Tạng phải thường xuyên quần nhau với dã thú mới biết được. Thông thường, những con thú lớn khi tấn công mục tiêu có độ cao nhất định, tốc độ và lực độ đều đạt đến mức lý tưởng. Song đối diện với mục tiêu chuyển động sát đất, chúng lại không biết phải ra đòn thế nào.

- Là Sách Khố Lạt! Mau cứu lấy hắn! - Từ giọng nói và thân hình, Mạc Thiên Quy đã nhận ra Sách Khố Lạt.

- Sư phụ, mặc kệ hắn, không chừng đó là khổ nhục kế. Cả nhà hắn đều bị Chu gia bắt giữ, rất có thể hắn bị cưỡng ép tới lừa gạt chúng ta! – Lưu Chi Thủ ngoái đầu lại nhìn, vẻ mặt đầy trăn trở, song không hề có ý hành động.

- A! Có chuyện như vậy sao? – Trong mắt Mạc Thiên Quy loé lên một tia sáng, khiến người khác rất khó đoán lường.

Lăn với tốc độ nhanh, kỳ thực còn chóng mệt hơn cả chạy, huống hồ trước sau còn có vài bộ vuốt sắc nhọn và hai cái miệng há hoác đuổi sát, cần phải liên tục thay đổi hướng lăn để né tránh. Chẳng mấy chốc, động tác của Sách Khố Lạt đã chậm lại thấy rõ. Tiếp đến là những tiếng rách toạc, những kêu la thảm thiết vang lên không ngớt.

- Xem ra không giống khổ nhục kế, nếu không trợ giúp, e rằng Sách Khố Lạt không sống nổi! - Mạc Thiên Quy vừa nói vừa đưa mắt tìm kiếm thứ gì đó.

- Sư phụ, nhân lúc bầy thú đang xúm lại chỗ đó, để con dẫn người xông ra!

- Con xem ta đầy mình thương tích, sao có thể xông ra nổi! Tốt nhất con hãy chạy một mình, giữ được mạng nào hay mạng đó.

- Nhưng con không thể vứt bỏ sư phụ!

- Con cứ mặc kệ ta! Chỉ cần tới được nơi cần đến, làm được việc cần làm là được rồi! – Ánh mắt của Mạc Thiên Quy không những khó hiểu, ngay cả lời nói cũng trở nên hàm hồ không rõ nghĩa.

- Vậy con xin thề, nếu thoát khỏi nơi đây, con sẽ dốc cả tính mạng trợ giúp Lỗ môn trưởng hoàn thành đại sự!

Lưu Chi Thủ còn chưa nói dứt câu, Mạc Thiên Quy đã đưa tay ra.

Lưu Chi Thủ thoạt tiên sững lại, song khi nhìn thấy cuộn thẻ tre trên tay Mạc Thiên Quy, vẻ mặt bỗng chốc trở nên vô cùng kích động và căng thẳng. Đây là cuộn thẻ tre bí mật do môn trưởng Mặc gia đời đời truyền tay gìn giữ, là món bảo bối trấn môn bí mật. Giao cho hắn, cũng có nghĩa là giao phó toàn bộ Mặc môn cho hắn, bao gồm cả những bí mật trong Mặc môn. Hệ trọng như vậy, bảo sao hắn không kích động, không căng thẳng cho được?

Lưu Chi Thủ cũng đưa tay ra, niềm kích động khó kìm nén trong tâm khảm đã khiến ánh mắt của hắn có phần trôi nổi. Song khi ngón tay hắn vừa chạm lên mép cuộn thẻ, bỗng vài luồng lực đạo dữ dội lao thẳng xuống bụng kèm theo cảm giác nhói buốt đã hất hắn ngã văng ra phía sau.

Lưu Chi Thủ biết mình đã sai. Cơn kích động vừa rồi khiến hắn không nhận ra lớp vải bọc bên ngoài thẻ tre đã không còn nữa, chỉ còn lại cuộn thẻ tre trần trụi.

Trong cuộn thẻ tre có nút lẫy “xiên thép hoa mai vót nhọn”. Nếu kéo xuôi vòng dây trên cuộn thẻ tre, những cây xiên thép mũi dài sẽ bật tung ra, tấn công bàn tay của người cầm thẻ tre. Nếu kéo ngược vòng dây, phía dưới cuộn thẻ tre sẽ có xiên thép mũi ngắn phóng ra, cắm thẳng vào bụng ngực của người cầm thẻ tre.

Nhìn Lưu Chi Thủ bị bắn trúng mà ngã văng xuống đất, đủ biết luồng kình lực của chốt lẫy mạnh tới cỡ nào. Năm cây xiên thép đã găm ngập vào khoảng bụng ngực Lưu Chi Thủ dàn thành hình hoa mai. Nhìn vào phần đuôi xiên thép lộ ra ngoài, biết rằng mũi xiên cắm rất sâu, hẳn là đã vào tới phủ tạng.

Tuy đã bị trúng chiêu, song Lưu Chi Thủ lại không hề tỏ ra kinh hãi hay hoảng loạn, mà lập tức tay chân cùng vận lực, cố gắng lết người lùi lại, cho tới khi đã ở sau lưng con tam thú ngao ở bên trái.

Mạc Thiên Quy rút thanh kiếm cắm trên đất lên, cầm chắc trong tay, song vẫn đứng im tại chỗ, không có ý đuổi theo truy kích.

- Rốt cuộc ta đã để lộ sơ hở ở chỗ nào? – Sau khi đã nấp được sau lưng tam thú ngao, Lưu Chi Thủ cuối cùng mới thở được một hơi mà quát hỏi.

- Nhìn vào tác phong và phẩm chất của ngươi từ trước đến nay, đúng là ngươi không hề để lộ một sơ hở nào. Sai sót chính là ở bầy súc sinh kia! - Mạc Thiên Quy vẻ đầy khinh miệt – Loài thú có thông minh tới đâu cũng không thể giống con người, thứ bộc lộ ra một cách vô thức chính là thú tính tự nhiên.

- Là vì chúng bao vây cắn xé Sách Khố Lạp, mà không bao vây cắn xé ta?

- Không phải! Là ta phát hiện ra sự bất thường trong thần thái của chúng.

- Thần thái của thú?

- Đúng vậy! Ngươi đã bao giờ nhìn thấy thần thái của chó ngao Tây Tạng khi đánh hơi tìm kiếm chưa? Ta đã từng nhìn thấy, hơn nữa còn quan sát rất kỹ. Sau khi chúng phát hiện ra mùi vị khác thường, sẽ nghếch mũi, ngó nghiêng hai bên tìm kiếm. Đám súc vật này tuy ta không biết là giống thú tạp giao nào, song có thể khẳng định trong huyết thống của chúng có thành phần của chó ngao Tây Tạng. Thần thái khi chúng đánh hơi giống hết chó ngao Tây Tạng.

Mạc Thiên Quy vừa nói, vừa kín đáo đưa tay vào trong chiếc túi đeo bên mình.

- Chó ngao Tây Tạng thông thường có thể đánh hơi từ cách xa trăm bước. Song trước khi ngươi xuất hiện, đám súc sinh này không có bất kỳ thần thái gì khác thường. Đến khi Sách Khố Lạt xuất hiện, chúng lại nghếch mũi hít ngửi liên hồi, ngươi nói xem có hợp lý không?

- Quả nhiên không hổ danh là sư phụ của ta, một tiểu tiết nhỏ bé như vậy cũng không qua nổi mắt ông!

- Ta thật hổ thẹn! Lúc nào cũng chăm chăm đề phòng Chu gia mua chuộc người nội bộ làm tai mắt, nhưng lại không bao giờ nghĩ tới ngươi. Ngươi giỏi che đậy quá, đến ta đây là sư phụ ngươi cũng bị che mắt. Than ôi! Đáng hận là ta còn uỷ thác trọng trách cho ngươi. E rằng đại sự đến hôm nay sẽ phải huỷ trong tay lão già hồ đồ này mất rồi! - Mạc Thiên Quy than thở.

- Kẻ thức thời là trang tuấn kiệt. Sư phụ, ông hãy nhìn cho rõ tình hình trước mắt, mau giao cuộn thẻ tre lại cho ta.

- Đừng hoang tưởng! Tình hình trước mắt quả thực bất lợi cho ta, song chưa biết chừng viện thủ của ta đã tới rất gần. Hôm nay chỉ cần ta có thể thoát ra, ngày sau nhất định sẽ bắt đồ nghiệt chướng ngươi phải chịu cảnh sát thân diệt môn!

Mạc Thiên Quy nói ra những lời uất hận này dường như không đúng lúc, khác nào bức bách Lưu Chi Thủ khởi sát tâm, phải tiêu diệt ngay Mạc Thiên Quy mới yên tâm, mới cam lòng.

Lưu Chi Thủ đích xác cũng đang chuẩn bị phát động bầy tam thú ngao xông lên tàn sát. Chỉ cần Mạc Thiên Quy và Sách Khố Lạt chết đi, bí mật của hắn sẽ không có ai hay biết. Có được tín vật của Mạc Thiên Quy, hắn sẽ có thể thống lĩnh Mặc môn. Mà trước mặt Lỗ Nhất Khí, hắn cũng sẽ trở thành người đáng tin cậy nhất của Mặc gia.

Đúng lúc Lưu Chi Thủ chuẩn bị ra hiệu và lên tiếng điều động bầy tam thú ngao, tình thế bỗng đột nhiên biến đổi. Lại có một bóng người xông vào vòng vây của tam thú ngao, lao thẳng về phía Sách Khố Lạt.

Mạc Thiên Quy trước đó đã phát hiện ra trợ thủ của mình đã tới, bởi vậy mới cố tình nói ra những lời căm hận để nhằm thu hút sự chú ý của Lưu Chi Thủ, yểm hộ cho người phe mình.

Rất kỳ lạ, bầy tam thú ngao không hề hít ngửi mùi của người vừa tới, cũng không dốc sức ngăn cản, mà ngược lại còn có vẻ hơi hoảng sợ. Bởi lẽ người này chính là Dịch Huyệt Mạch, trên người ông ta có mang dược liệu có tác dụng xua đuổi, doạ dẫm muông thú.

Dịch Huyệt Mạch nhìn thấy Sách Khố Lạt đầu tiên. Tuy không quen biết người này, song nhìn vào tình thế trước mắt, kẻ bị quái thú phía Chu gia bao vây cắn xé, không phải người Lỗ gia cũng là người Mặc gia. Tiếp đến, ông lại nhìn thấy Mạc Thiên Quy bị vây khốn trong hốc lõm vào của vách núi, thế là chẳng kịp suy nghĩ, vội vã rắc lên người “thuốc bột doạ thú”, rồi tung mình nhảy vào vòng vây của bầy thú.

Thuốc bột của Dịch Huyệt Mạch rất hiệu quả, đám tam thú ngao theo nhau né tránh, mở ra cho ông một lối đi. Khi ông đỡ lấy cơ thể lúc này đã lăn rất chậm của Sách Khố Lạt, đám tam thú ngao lập tức dừng cắn xé, tru lên vài tiếng đầy bất mãn, rồi lúc lắc đuôi mông lùi cả lại.

Song có một người đã bất chấp tính mạng xông ra cản đường. Chính là Lưu Chi Thủ đang bị thương rất nặng.

- Có tin ta chỉ cần một chiêu là lấy mạng ngươi không? – Trong mắt Dịch Huyệt Mạch vằn lên từng tia máu đỏ. Ông hiểu rõ bản thân không nên nấn ná lâu ở nơi này, chỉ cần thuốc bột hết tác dụng, đám tam thú ngao trước sau sẽ hợp lại bao vây giáp kích.

Thực tế cũng đúng như vậy. Đám tam thú ngao phía sau đã bắt đầu lừ lừ tiến lại.

- Ta tin! – Lưu Chi Thủ trả lời rất thành thật.

- Người đừng đóng kịch! - Dịch Huyệt Mạch đột nhiên trừng mắt quát lớn. Dù gì ông cũng là bậc thần y hiếm có, từ trung khí và kình đạo trong lời nói của Lưu Chi Thủ, ông lập tức đoán ra Lưu Chi Thủ chưa hề bị trọng thương.

Quyết đấu sinh tử, đáng sợ nhất là gặp phải kẻ địch nằm ngoài tầm dự đoán. Trạng thái thực tế của Lưu Chi Thủ khiến Dịch Huyệt Mạch bất giác cảm thấy hoang mang trong lòng.

Lưu Chi Thủ dang rộng cánh tay, chỉ thấy cơ bắp, xương cốt kêu răng rắc, tấm áo Tạng mặc trên người lập tức rách toang. Khí vận kình hành, năm cây xiên thép găm trên cơ thể liền bắn vọt ra ngoài.

Dịch Huyệt Mạch không cử động. Ông là thần y, cũng là cao thủ võ học, ông đã nhận ra luồng khí kình mà Lưu Chi Thủ vừa vận ra không đủ mạnh để bắn xiên thép gây tổn thương đến người khác. Sự thực cũng đúng như vậy, xiên thép chỉ bắn đi hơn một thước đã rơi xuống đất.

Song ý đồ của Lưu Chi Thủ không phải muốn bắn xiên thép gây tổn thương cho đối thủ, mà muốn dùng máu tươi diệt địch. Năm cây xiên thép vừa rơi xuống đất, máu tươi từ năm lỗ thủng đã phun vọt ra như tên bắn.

Dịch Huyệt Mạch không nét tránh, cũng không kịp né tránh. Đây là chiêu thức ông không thể ngờ tới.

Năm vòi máu đã phun trúng người Dịch Huyệt Mạch, cũng tản ra như hình hoa mai, rất giống “huyết mai phá” trong vu thuật. Song Lưu Chi Thủ không hề biết tới vu thuật, hắn phun máu ra nhằm một mục đích rất đơn giản, chính là làm mồi dụ. Máu tanh phun ra có thể át đi mùi thuốc trên người Dịch Huyệt Mạch, khiến bầy tam thú ngao khát máu lập tức lấy Dịch Huyệt Mạch làm mục tiêu căn xé.

Máu vừa bắn lên người, bầy tam thú ngao lập tức hoặc phóng thẳng, hoặc nhảy vòng, đồng loạt lao bổ vào Dịch Huyệt Mạch.

Dịch Huyệt Mạch hiểu rõ tình thế bất lợi, vội vã vung một cánh tay lên, vài chiếc kim bạc phóng thẳng vào Lưu Chi Thủ đang cản đường, đồng thời hai chân tăng tốc, chạy vụt lên theo đám kim bạc.

Toàn bộ đám kim bạc đã đâm trúng ngực Lưu Chi Thủ, thật không ngờ lực đạo mà chúng mang theo lại có thể đẩy Lưu Chi Thủ bật văng văng về phía sau. Trong lúc dìu Sách Khố Lạt băng qua bên cạnh Lưu Chi Thủ, Dịch Huyệt Mạch tiện tay phóng thêm hai kim nữa vào lưng hắn.

Từ lúc bầy tam thú ngao ngửi thấy mùi máu tới lúc xông lên tấn công cần có một quá trình. Tuy Dịch Huyệt Mạch phải lôi theo một người, song do hành động trước, nên cuối cùng vẫn thoát khỏi sự truy kích của bầy thú, chạy tới bên cạnh Mạc Thiên Quy.

Lưu Chi Thủ tuy liên tục trúng chiêu, song vẫn không hề gục ngã. Qua tấm áo Tạng rách bươm, có thể nhìn thấy bên trong còn có một lớp áo giáp da bò dày cộp. Thảo nào xiên thép hoa mai có vẻ đã đâm lút cán, song lại không gây nên tổn thương quá nghiêm trọng cho hắn. Dịch Huyệt Mạch lúc này mới cảm thấy hối hận khi nãy đã không phóng kim vào cổ hoặc đầu hắn. Song tất cả đều đã muộn, Lưu Chi Thủ rút ra một cây đơn đao tuyết hoa, thế vung đao chính là tín hiệu phát động toàn bộ bầy thú xông lên tàn sát.

Tam thú ngao lập tức hành động, lao lên đầu tiên chính là ba con thú đã chiếm được vị trí đắc địa. Sau khi con này xông lên, những con phía sau sẽ tự khắc thế chỗ cho chúng.

- Lão Dịch, kim của lão có đối phó được với chúng không? - Mạc Thiên Quy vừa vung kiếm chắn đỡ vừa hét lên với Dịch Huyệt Mạch.

Song kỳ thực kim bạc trong tay Dịch Huyệt Mạch đã liên tục bắn ra, đều găm trúng những vị trí hiểm yếu trên cơ thể con thú, thế nhưng con thú vẫn tiếp tục nhảy nhót vồ tạt như không, chẳng có lấy mảy may phản ứng. Lúc này ông chỉ có thể dùng một chiếc kim dài nhằm đâm vào mắt con thú, để ngăn cản nó tiếp tục lao tới.

- Không được! Lũ súc sinh này quái dị, huyệt vị không nằm đúng vị trí! - Dịch Huyệt Mạch trả lời.

Lời vừa dứt, từ phía chùa Kim Đỉnh bỗng tới tấp bay đến vô số tàn lửa, lao thẳng xuống bầy thú. Đó là do cục tướng của núi Thiên Thê đột ngột biến đổi, thế gió vòng quanh núi biến thành thế gió trùm núi, thổi lửa từ bên ngoài bay dạt vào trong chùa.

Đám lửa rơi rào rào xuống đất, bầy tam thú ngao lập tức trở nên hỗn loạn.

Mạc Thiên Quy đương nhiên không chịu bỏ lỡ cơ hội, lập tức vung kiếm chém mạnh kết liễu con tam thú ngao cản đường, sau đó loạng choạng tiến lên vài bước, dùng mũi kiếm khều hất đám lửa, trong nháy mắt đã bày ra một khảm diện “Ba luỹ hai thành” cháy rừng rực.

Bầy tam thú ngao đã dừng tấn công. Chúng rất sợ lửa, đây cũng là bản tính trời sinh của mọi loài muông thú. Cục tướng Ba luỹ hai thành khiến chúng chỉ cần lao vào trong khảm, sẽ lập tức cảm thấy bị lọt vào vòng lửa, ngọn lửa bao phủ khắp mọi nơi.

Tuy Lưu Chi Thủ biết phá giải khảm diện này, song hắn lại không dám một mình xông lên. Vừa rồi Dịch Huyệt Mạch không lấy được mạng hắn, chỉ vì hắn nhất thời may mắn. Nếu lại để Dịch Huyệt Mạch có cơ hội áp sát, hắn sẽ không thể gặp may thêm lần nữa. Song hắn có thể chờ đợi, chờ đợi viện thủ phía Chu gia, hoặc đợi tới khi đám lửa tàn lụi.

Đám Mạc Thiên Quy cũng biết rõ, lửa cháy rồi cũng sẽ tàn, thời gian hẳn cũng không lâu. Tới lúc đó, liệu bản thân còn có phương cách nào khác?

Ngũ cốt hành khí mê của Hạ Táo Hoa chỉ có thể ngăn cản cao thủ Chu gia trong chốc lát, bởi lẽ thế hung của khảm diện vừa qua đi, một tay cao thủ của Hô Hồn đường tại Phúc Châu đã nhận ra cục tướng biến thành hư giả. Hô Hồn đường chuyên giúp ngư dân gọi những hồn ma tử nạn trên biển trở về, bởi vậy chúng không những có thể nhìn khí nhận hồn, mà còn có thể nhận biết tướng xương, dù là xương cốt ngâm lâu dưới biển. Bởi vậy sau khi thế hung của “Ngũ xương hành khí mê” qua đi, cục tướng tuy không biến đổi bao nhiêu, song cao thủ vẫn nhận ra mánh khoé ẩn giấu bên trong.

Hạ Táo Hoa, Dưỡng Quỷ Tỳ và Báo Cơ nương nương mỗi người đều thủ thế sẵn sàng chuẩn bị quyết đấu. Đám cao thủ Chu gia cũng đã ra khỏi hành lang vòng quanh tháp, tản ra thành hình rẻ quạt, vây quanh ba người.

Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ chỉ có thể đứng im bất động nhìn đám cao thủ vây kín lấy mình. Bởi lẽ đối đầu với một cao thủ tuyệt đỉnh như Báo Cơ nương nương, bất kỳ sơ xuất nào dù là rất nhỏ cũng sẽ mất mạng như chơi, huống hồ cục thế đối quyết giữa ba người lúc này là cục Thiên âm “Song xá đấu Nga Hoàng”[26], khí tướng chí thuần, chí âm lưu chuyển như vòng xoáy, phiêu diêu như gió thổi. Lúc này đừng nói là hành động, mà chỉ một chút sai lầm trong hơi thở cũng sẽ dẫn đến thảm bại.

Chú thích

[26] Có nghĩa là hai cô gái đẹp giao đấu với Nga Hoàng. Nga Hoàng là vợ vua Thuần trong truyền thuyết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,532
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 27: Giặc sau lưng


Viêm Hoá Lôi đã dẫn dắt thế lửa lan toả tới khắp mọi ngóc ngách bên ngoài chùa. Dựa vào thân thủ của ông, trời còn chưa sáng, nơi cần cháy đều đã cháy, nơi cần lan đều đã lan, nơi cần chuẩn bị đều đã chuẩn bị xong xuôi. Bởi vậy Viêm Hoá Lôi bắt đầu lo lắng cho đứa con gái nuôi. Ông biết, chỉ cần Lỗ Nhất Khí vẫn còn ở đây, đứa con gái này nhất quyết sẽ quay lại tìm cậu ta. Nên chỉ cần tìm được Lỗ Nhất Khí, sẽ gặp được Dưỡng Quỷ Tỳ.Viêm Hoá Lôi đã lẻn vào chùa qua cửa chính. Tuy ông ta không phải là cao thủ trong nghề khảm tử, song trước đó đã có mấy lượt người ra vào, toàn bộ khảm nút đều được phá giải. Bởi vậy ông cứ thẳng đường mà đi, cho đến tận phía trước vách đá bích hoạ.

Ông tới thật đúng lúc. Vừa bước lên con đường đá phía trước vách bích hoạ, đã nhìn thấy ba mỹ nữ đang căng thẳng đối đầu, đám cao thủ cũng đã bao vây tới. Thế là Viêm Hoá Lôi đột nhiên lại sa vào giữa cục, một mình đối mặt với vài chục cao thủ.

Đa số cao thủ đều đã chứng kiến bản lĩnh của Viêm Hoá Lôi khi ở bên hồ Tiên Tề. Bởi vậy vừa nhìn thấy Viêm Hoá Lôi xuất hiện, chúng lập tức dừng ngay lại. Cảnh tượng thảm khốc của đồng bọn sau khi bị lửa độc của Viêm Hoá Lôi thiêu đốt, cho tới lúc này vẫn hiện rõ mồn một trong tâm khảm chúng. Một số ít cao thủ chưa gặp Viêm Hoá Lôi thấy đa số đồng bọn đều khựng lại, cũng vội dừng bước. Cục diện đối đầu của ba mỹ nữ trước vách bích hoạ bỗng chốc biến thành cục diện bất động của cả mấy chục người.

Song kỳ thực, Viêm Hoá Lôi đang rất hoang mang. Thuốc pháo chứa độc đã dùng hết ngay từ trận chiến bên hồ Tiên Tề, còn hoả liệu bình thường cũng đã dùng gần hết để phóng hoả bên ngoài chùa, giờ chẳng còn lại bao nhiêu. Tuy trận thế hình rẻ quạt của đám cao thủ tạm thời dừng lại, song tại thời điểm này, tại nơi này, xuất hiện cách cục đối đầu bất động như vậy, sẽ vô cùng bất lợi cho bản thân. Ông cần phải tìm ra một phương pháp đáng tin cậy để kết thúc cục diện này. Nghĩ vậy, ông lập tức quan sát kỹ lưỡng tình hình xung quanh, muốn tìm ra cơ hội có thể lợi dụng.

Song nơi đây lại là cứ địa cực kỳ quan trọng của Chu gia, bố cục thiết kế cực kỳ nghiêm ngặt, muốn tìm ra cơ hội và không gian có thể lợi dụng là rất khó. Chính vào lúc Viêm Hoá Lôi gần như tuyệt vọng, thì thế lửa ngoài chùa đột nhiên biến đổi. Một vầng lửa rừng rực bay dạt theo cơn gió trùm núi táp thẳng vào trong chùa. Lại thêm rất nhiều đốm lửa, tàn lửa bay tới tấp qua chùa, rơi xuống chân núi Thiên Thê.

Viên Hoá Lôi nhìn thấy cảnh tượng này, thầm reo trong dạ: “Lửa này có thể dùng!”.

Dương Tiểu Đao đã không còn đường để chạy, đúng hơn là không còn sức để chạy. Vách núi phía trước vỡ lở đổ xuống, có độ dốc, cũng có đá tảng lổn nhổn làm chỗ giẫm chân mượn lực để trèo lên. Nhưng Dương Tiểu Đao biết đã không kịp nữa rồi. Tiếng bước chân đuổi theo đã nghe rõ mồn một, có lẽ chỉ còn cách khoảng năm bước. Bởi vậy, Dương Tiểu Đao thấy leo lên vách đá chẳng bằng quay lại, trốn chạy chẳng bằng liều mạng quyết chiến. Đây là lựa chọn bất đắc dĩ, song trong tình thế này lại không thể không làm.

Thế là gã xoay người, xuất đao! Phía sau vọng lại tiếng rú thảm thiết.

Đao chém hụt vào khoảng không. Bởi lẽ chính vào lúc Dương Tiểu Đao dừng bước xoay người, thì hai cao thủ đuổi ở trên cùng cũng khựng lại quay ngoắt ra sau.

Tiếng rú thảm thiết phát ra từ cuối đoàn cao thủ truy đuổi. Ở đó có thân rắn dài uốn lượn như gió, có xẻng lưỡi cày múa vùn vụt, phản chiếu ánh nắng rạng rỡ và ánh lửa rừng rực quét thành hào quang kín trời. Hào quang tới đâu, kiếm đao gãy vụn, sắt thép đứt lìa.

Nhìn vào hai món binh khí đặc biệt, đủ để biết kẻ vừa chui từ dưới đất lên là Quỷ Nhãn Tam và Biện Mạc Cập.

Sau khi hai đệ tử của Mặc gia chết một cách bí hiểm, mọi người rã đám, đường ai nấy đi. Quỷ Nhãn Tam và Biện Mạc Cập trước đó chưa từng giao thiệp, cũng chẳng hiểu rõ về nhau, bởi vậy không đi cùng nhau. Hơn nữa kể từ ngày mặt mũi bị huỷ hoại nghiêm trọng, Quỷ Nhãn Tam không muốn đồng hành với bất cứ ai, trừ khi có Lỗ Nhất Khí đi cùng.

Quỷ Nhãn Tam đi theo đường âm minh, tức là tìm mộ mà đi. Trên vùng đất Tạng rộng lớn, có rất nhiều ngôi mộ là nơi chôn cất thi thể của thương nhân chết dọc đường. Loại mộ này thông thường đều ở gần đường qua lại, nên cũng tương tự như những mốc lộ giới. Hơn nữa đi theo đường mộ, có thể tránh được nguy cơ đụng độ với quân phục kích phía Chu gia, nên an toàn hơn hẳn.

Đường Biện Mạc Cập đi là đường người ngựa. Hắn là cao thủ đánh xe ngựa, chỉ cần đường nào có người ngựa đi qua là hắn nhận ra ngay. Trên đường đi, hắn nhặt nhạnh được một số vật liệu phế thải, chế ra một cỗ xe ngựa theo kỹ pháp trong “Ban kinh”. Sau đó lại mượn được một con ngựa cái của một người Tạng gặp trên đường, dùng ngựa cái làm mồi nhử, dụ được hai con ngựa hoang, huấn luyện chúng thành ngựa kéo xe. Và thế là hắn đã có được một cỗ xe ngựa kéo.

Vài ngày trước, nhân lúc đêm tối, Quỷ Nhãn Tam đã lẻn đến chân núi Thiên Thê. Sau đó dùng phương pháp tìm kiếm tung tích của phái Mao Sơn để lần tìm tông tích khác lạ, phát hiện thấy trong chùa Kim Đỉnh có sự bất thường. Là vì trong vườn thú sau chùa, ngoài bầy thú do Báo Cơ nương nương thuần dưỡng, còn có đám người mất hồn mà lão thầy cúng đã dùng xe chở đến. Người mất hồn thì một nửa đã thành xác chết, nên trên mình cũng mang theo tử khí. Thuật tìm tông tích Mao Sơn của Quỷ Nhãn Tam nhận biết được tử khí.

Sau khi tìm ra sự khác thường, Quỷ Nhãn Tam bèn âm thầm đào hang từ đầu tường vây phía tây, men theo chân núi mà chui vào chùa Kim Đỉnh. Hắn muốn lẻn vào trong chùa thám thính tình hình, đồng thời cũng muốn thu lượm tin tức của Lỗ Nhất Khí.

Quỷ Nhãn Tam đào hầm xuyên qua lòng đất vào trong chùa, đây là điều mà người Chu gia không thể ngờ tới. Người Chu gia vốn cho rằng dưới chân núi toàn là đá tảng, không thể đào qua. Bởi vậy, bọn họ đã không bố trí thiết bị cảnh báo và khảm nút ở dưới đất.

Kỳ thực núi Thiên Thê tuy cao lớn hùng vĩ, song chất đá, chất đất lại rất tơi xốp, đặc biệt là ở dưới chân núi. Nguyên nhân của hiện tượng này có lẽ do đỉnh núi là nơi hút âm, nên chân núi sẽ là nơi phân tán âm. Xẻng lưỡi cày của Quỷ Nhãn Tam cứng rắn sắc bén, công lực dời non phá núi của hắn cũng thuộc dạng siêu phàm, chỉ trong vòng hai ngày, hắn đã đào tới sát vườn thú trong chùa.

Biện Mạc Cập cũng xâm nhập vào thị trấn lúc nửa đêm. Hắn từng đánh xe chở hàng qua đây, vì thế tình hình nơi này với hắn không hề lạ lẫm. Thật ngẫu nhiên, hắn đã phát hiện ra Quỷ Nhãn Tam, hơn nữa sau khi Quỷ Nhãn Tam chui vào trong hầm để đào bới, hắn đã kết roi ngựa thành một nút thắt đoạn hồn đặt sẵn ở cửa hang. Quỷ Nhãn Tam vừa thò ra khỏi hang, cần cổ lập tức bị khoá chặt. Đương nhiên, Biện Mạc Cập không giết Quỷ Nhãn Tam, không giết Quỷ Nhãn Tam chứng tỏ hắn không giết đám đệ tử Mặc gia.

Cách làm của Biện Mạc Cập quả nhiên là một chứng cứ hết sức thuyết phục. Quỷ Nhãn Tam đã tin tưởng hắn, và hai người bắt đầu liên thủ, âm thầm theo dõi biến động trong chùa, sẵn sàng tiếp ứng cho Lỗ Nhất Khí.

Đêm này, Quỷ Nhãn Tam một mình xuống hang, chuẩn bị đào nốt chút đất đá cuối cùng nối thông với vườn thú. Biện Mạc Cập giúp hắn canh gác ở cửa hang. Khi trời gần sáng, trong thị trấn đột nhiên có biến, Biện Mạc Cập lập tức chui xuống thông báo cho Quỷ Nhãn Tam biết. Quỷ Nhãn Tam bèn đào thông đất đá, chui vào vườn thú, dùng bùa chú Mao Sơn phong toả đám người mất hồn. Bởi vậy, mặc dù trong chùa náo động như chợ vỡ, song đám người mất hồn lại không hề ra tay sát phạt.

Đào hang dưới chân núi, dù đất đá có tơi xốp đến đâu cũng không thể đào quá sâu, nên trên nóc hang chỉ phủ một lượt đất nổi và đá vụn. Khi hai người luồn qua đoạn hầm bên dưới bãi Thần Hô, nhìn qua khe đá lên trên, họ nhìn thấy Dương Tiểu Đao đang lâm vào cảnh nguy khốn, bèn lập tức phá đất xông lên khác nào xác chết đội mồ.

Xẻng lưỡi cày sắc bén không gì cản nổi, nên đám cao thủ Chu gia liền thay đổi chiến thuật thực hư cùng tồn tại, vài tên dàn hàng cùng giao chiến với Quỷ Nhãn Tam, tên thì xuất dụ chiêu, tên thì xuất hư chiêu, chờ đợi thời cơ để xuất thực chiêu.

Mãnh hổ khó địch bầy chồn. Một cặp mắt, một đôi tay không thể đối chọi với hơn chục cặp mắt, đôi tay, huống hồ Quỷ Nhãn Tam chỉ còn một mắt. Đối đầu với một dãy cao thủ dàn hàng tần công, tốt nhất nên bắt đầu từ điểm đầu mút rồi hạ từng tên một. Do đó Quỷ Nhãn Tam từ từ di chuyển tới một đầu của đội hình. Song đối thủ nhanh chóng nhận ra ý đồ của Quỷ Nhãn Tam, lập tức phản ứng lại.

Dương Tiểu Đao và Biện Mạc Cập cũng gặp phải khó khăn tương tự. Dương Tiểu Đao sử đao nhanh, Biện Mạc Cập đánh roi lợi hại, bởi vậy đối thủ cũng dàn thành hàng ngang đối phó với từng người một. Dương Tiểu Đao, Biện Mạc Cập và Quỷ Nhãn Tam cùng nghĩ ra một phương pháp giống nhau, còn đối thủ cũng ứng phó theo cùng một cách. Bởi vậy, bước chân di chuyển mỗi lúc một nhanh, đều muốn đuổi tới phía đầu đội ngũ.

Cao thủ Chu gia biết rõ, phía mình dàn thành hàng dài, người đông nên tốc độ bước đi không thể thống nhất. Nếu gia tăng tốc độ, nhất định sẽ không thể theo sát nhau. Thế là ba hàng ngang dần dần xoay chuyển áp sát nhau, đầu đuôi nối liền, tạo thành khảm cục Tam giác xoay, tấn công hay phòng thủ đều thuận lợi.

Tam giác xoay xuất hiện sớm nhất trong “Kiến Đường chí”, Đơn Hùng Tín chỉ dẫn theo sáu mươi tráng sĩ mang đao xông vào doanh trại quân Đường, sáu mươi tráng sĩ đã vận dụng trận pháp “Tam giác xoay”.

Hình tam giác là hình dạng kiên cố nhất trong các hình hình học. Tam giác xoay chính là ba hàng tổ hợp thành một hình tam giác, có thể liên tục xoay chuyển, co duỗi tuỳ ý. Ngoài ba cạnh đều có thể hướng đao ra ngoài xoay tròn mà tàn sát, vào lúc cần thiết còn có thể nhốt đối thủ ở bên trong, sau đó ba mặt đồng thời xoáy vào trong mà giết.

Ba người Quỷ Nhãn Tam chưa từng gặp phải khảm trận Tam giác xoay, bởi vậy mới đầu vẫn chưa chú ý tới. Tuy nhiên, rất nhanh sau đó, họ đều cảm giác thấy có điều bất ổn. Bởi lẽ sau khi ba hàng người tụ lại một chỗ, dù họ di chuyển với tốc độ nhanh tới đâu, cũng không thể tìm thấy đầu hàng. Ngược lại, lại thành ra hình tam giác xoay tròn luôn có một cạnh đuổi theo họ, lúc này có muốn dừng cũng không dừng được.

Ba người tìm cách di chuyển ra ngoài, xông ra khỏi cục thế xoay tròn. Tuy nhiên họ vừa di chuyển, các cạnh của hình tam giác lập tức kéo dài ra, khí thế ép tới càng thêm dữ dội. Đôi bên vô hình trung đã hoán đổi vị thế cho nhau, vừa rồi là vội vã đuổi tới đầu hàng, bây giờ lại trở thành cuống cuồng né tránh. Cả ba người đều hiểu rõ, nếu bị một cạnh chạm phải, sẽ lập tức thịt nát xương tan.

Và thế là tại mé tây nam của chân núi Thiên Thê, xuất hiện một cảnh tượng vô cùng kỳ quái. Một hình tam giác người đao kiếm tua tủa đang xoay vùn vụt, trước mỗi cạnh của hình tam giác này đều có một người đang cuống cuồng chạy theo vòng xoay, song trông họ hoảng hốt và thảm hại hơn hẳn những người trong đội hình tam giác.

Trên núi, Chu Chân Mệnh thẳng tay từ chối sự nhiệt tình của Lỗ Nhất Khí. Hắn cảnh giác lùi lại hai bước, không để Lỗ Nhất Khí đang tươi cười hớn hở áp sát.

Lỗ Nhất Khí không để ý tới điều đó, vẫn nói với Chu Chân Mệnh bằng giọng điệu như một kẻ tri giao:

- Tôi đang đợi ông đấy! Đã nói là cùng khai quật Thiên bảo, sao giờ mới tới?

- Vậy hà cớ gì phải lén lút mò vào trong chùa? – Chu Chân Mệnh khinh khỉnh đập lại một câu.

- Ai nói tôi lén lút? Tôi vào đây ồn ào thế kia mà, chắc chắn ông có nghe thấy! - Lỗ Nhất Khí cười mà nói, song ngữ điệu vẫn có chút ngượng ngập.

- Nếu như cùng nhau khai quật Thiên bảo, vậy thì ngươi hãy bày tỏ thành ý giống như ta lần trước, giao bảo bối trong tay ngươi cho ta, được chăng? – Chu Chân Mệnh thẳng thừng áp đảo.

- Đương nhiên là được. Thứ này vốn đã cho Chu gia các người lâu rồi, xưa nay vẫn để nguyên tại viện trong viện ở Bắc Bình, tại các người không cần nên tôi mới mượn tạm dùng trước! - Lỗ Nhất Khí nói đoạn, bèn thò tay vào ngực áo lấy ra tấm thẻ ngọc đánh dấu tám vị trí hung huyệt.

Chu Chân Mệnh nhất thời không kịp phản ứng, còn Đao Thập Lục chỉ biết trợn mắt ra nhìn.

Thẻ ngọc đã được lấy ra, chìa về phía trước, song Chu Chân Mệnh vốn dĩ rất mực thận trọng lại không đưa tay ra cầm. Lỗ Nhất Khí bèn ngồi xuống, đặt tấm thẻ ngọc xuống đất, rồi nói:

- Hãy nhìn xem đây có phải là thứ ông cần không. Nếu còn chưa thoả mãn, chúng ta sẽ thương lượng một điều kiện khác. Tôi qua bên kia thăm dò một chút, nếu ông tin tưởng, có thể đi theo tôi. Quật bảo ở nơi này có lẽ cũng phải nhờ tới ông trợ giúp.

Nói vừa dứt lời, Lỗ Nhất Khí phăm phăm bước về phía một lối rẽ ngang hướng sang phía tây.

Lối rẽ này thực tình mà nói không giống một con đường, mà giống như một bậc thang. Nhìn vào vết tích, có cảm giác đoạn đường này khá giống với đoạn bậc thang phía dưới, là do con người tạo ra. Song con đường này không dài, một loáng đã tới tận cùng. Đi tiếp về phía trước, chính là vách núi sạt lở phía trên bãi Thần Hô.

Lỗ Nhất Khí tiến hành đo đạc bằng mắt và ngón tay, kết hợp với kỹ xảo trong “Ban kinh” và lý luận trong “Cơ xảo tập”, từ đó phán đoán rằng, tại nơi vách núi đổ sập này trước đây có lẽ có một toà kiến trúc trên vách đá.

Phát hiện này khiến Lỗ Nhất Khí phấn chấn hẳn lên, rất nhiều sự việc bỗng chốc đã sáng tỏ. Đoạn bậc thang phía dưới và lối rẽ ngang đi về phía tây rất có thể là lối đi mà Mặc gia năm xưa đã sử dụng khi xây dựng bảo cấu. Bảo cấu vốn được xây dựng trên vách đá, nhưng về sau không hiểu tại sao đã sập xuống theo sườn núi. Những tảng đá có đục lỗ trên bãi Thần Hô rất có thể là nguyên liệu dùng để xây dựng bảo cấu năm xưa.

Lỗ Nhất Khí lại quan sát cẩn thận vách đá lở một lần nữa. Bên trên vách đã cũng có nhiều lỗ thủng, kích cỡ khác nhau, vuông tròn có đủ, có lẽ dùng để bắt xà cột vì kèo.

Trong lúc Lỗ Nhất Khí đang mải quan sát, suy nghĩ thì Chu Chân Mệnh và Đao Thập Lục cũng đã bước tới. Chu Chân Mệnh nắm khư khư tấm thẻ ngọc trên tay, như thể đang nắm lấy tính mạng của chính mình.

Đao đầu đi phía sau Chu Chân Mệnh, ánh mắt rất đỗi âm trầm tán loạn, khiến người khác không thể đoán lường.

- Núi này chí âm trên đỉnh, dương ở dưới chân, vốn là cách cục hung tướng đảo lộn vị trí, song lúc này lại biến thành dương tăng âm giảm, cục tướng hoàn toàn đổi ngược! – Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm trong miệng, song không nhìn Chu Chân Mệnh.

- Cho dù có sự bất thường nào làm rối loạn cân bằng âm dương, cũng phải là cái này tăng cái kia giảm, chứ không thể đảo ngược hoàn toàn như vậy! - Lỗ Nhất Khí vẫn lẩm bẩm một mình.

- Xuất hiện cục tướng như vậy có một khả năng, chính là một trong hai khí âm dương ở trong trạng thái mạch dài, khí còn lại trong trạng thái bao phủ. Khi một trong hai khí tướng đó biến đổi, khí còn lại lập tức xoay ngược. Lý luận này từng được nói sơ qua trong cuốn “Âm dương đạo khí giải” của Phạm Sĩ Đôn thời Nam Đường. – Chu Chân Mệnh tiếp lời Lỗ Nhất Khí.

Lỗ Nhất Khí như ngủ mê chợt tỉnh, ngoảnh đầu nhìn Chu Chân Mệnh, ánh mắt vô cùng quái dị.

Chu Chân Mệnh bất giác rùng mình ớn lạnh, như thể có một đường đao lạnh buốt rạch dọc sống lưng.

Lỗ Nhất Khí đã lập tức hoàn toàn thấu tỏ cách cục phong thuỷ kỳ tuyệt của nơi này. Điểm nghi vấn mà cậu phải vắt óc suy nghĩ suốt bấy lâu vẫn chưa có được lời giải, vậy mà chỉ một câu nói của đối thủ, đã lập tức tìm ra đáp án.

Hình huyệt của hung huyệt nơi đây có hình mạch dài, nên khí trên dưới lưu thông. Nhìn vào nền móng bảo cấu do Mặc gia xây dựng, thì thấy rằng họ đã lựa chọn được nguyên liệu và nền móng cực tốt, hơn nữa còn chọn áp dụng công nghệ đổ móng bằng sắt, theo lý mà nói thì không thể sụp đổ nhanh như vậy được. Nguyên nhân duy nhất chỉ có thể là vị trí của bảo cấu trực xung với mạch hung, trong khi Thiên bảo mới nhập phàm thế, vẫn chưa trải qua chu kỳ ba hưng ba phục, nên không trấn áp nổi hung huyệt. Do đó, khí của mạch hung mới đánh sập bảo cấu.

Chu Chân Mệnh rùng mình ớn lạnh chính là vì đao phong. Khi Chu Chân Mệnh đang giúp Lỗ Nhất Khí phân tích cục tướng, trạng thái cơ thể có phần sơ hở, Đao Thập Lục đã chớp lấy cơ hội đột nhiên giở quẻ. Thế xuất đao của gã vô cùng quái dị, dang hết cả hai tay hai chân, rồi rung lắc liên hồi. Bỗng dưng xuất hiện vô số xoáy khí từ cơ thể gã khuếch tán ra ngoài. Nhưng dù là cơ thể đang mở rộng hay xoáy khí đang khuếch tán, cuối cùng cũng là nhằm bọc kín Chu Chân Mệnh vào trong.

Chu Chân Mệnh đã cảm nhận thấy đao khí, hơn nữa còn nhìn thấy đao quang phản chiếu trong ánh mắt Lỗ Nhất Khí. Thứ đao quang đó ổn định như ráng chiều, chắc chắn như vách núi. Đây là thứ đao được đúc luyện từ cơ thể và tính mệnh.

Người đao mười sáu lưỡi, mười hai lưỡi trên tứ chi, hai lưỡi dưới bàn chân, một lưỡi ngậm trong miệng, tổng cộng mười lăm lưỡi đao. Còn một lưỡi đao nữa ở nơi nào? Lưỡi đao cuối cùng chính là toàn bộ cơ thể, lấy thân làm đao, lấy xương làm mũi. Khi tấn công, xương cốt ở bất cứ vị trí nào trên cơ thể đều có thể dùng nội lực bẻ gãy, lòi ra ngoài da thịt, đâm chết đối thủ. Như vậy, có thể tuỳ theo ý muốn mà tiến hành tấn công đối thủ tại những vị trí kín đáo nhất, khó lường nhất, và cũng gần sát với vị trí hiểm yếu của đối thủ nhất. Đương nhiên, xuất đao kiểu này càng nhiều, sẽ càng gây tổn thương nặng nề cho bản thân. Chiêu lợi hại nhất chính là ôm lấy đối thủ cùng về cõi chết. Thế đao thứ mười sáu, không phải tất cả người đao mười sáu lưỡi đều biết sử dụng. Song Đao Thập Lục là Đao đầu, là thủ lĩnh, đương nhiên phải biết.

- Đưa bảo bối cho ta! – Đao Thập Lục chưa động thủ ngay, tuy rằng lúc này kình lực và nội khí của gã đã tích tụ tới cực điểm.

- Bảo bối nào? – Chu Chân Mệnh trong vẻ điềm tĩnh dấy lên chút nghi hoặc.

- Bảo bối trong tay môn trưởng!

- Ngươi cần nó làm gì? – Chu Chân Mệnh vẫn không thể hiểu nổi. Đao đầu Đao Thập Lục do một tay Chu gia nuôi dưỡng huấn luyện, tại sao lúc này lại có hành động kỳ quặc đến thế?

- Dựa vào bảo bối, sẽ thành bậc chí tôn trong thiên hạ. Việc tốt lành như vậy hôm nay phải thuộc về ta! – Đao Thập Lục đã bị Chu gia yểm bùa chú trùng độc trong người, nhưng lúc này gã dám gây chuyện phản nghịch, chắc hẳn khi ra ngoài đã tìm được cách hoá giải trùng độc.

- Nói cũng phải lắm! Chu gia các người đã từng làm hoàng đế, giờ nhường lại cho người khác cũng là hợp lý. Hơn nữa, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, tình hình của ông lúc này cũng hệt như tôi vừa nãy, chẳng phải tôi đã vui vẻ đưa bảo bối cho ông rồi ư? - Lỗ Nhất Khí đang cổ vũ Đao Thập Lục tiếp tục làm tới, như vậy có thể tranh thủ thêm chút thời gian.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,532
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 28: Cục hoả hành


Chu Chân Mệnh không dám hành động, không phải vì đã bị thế tấn công của Đao Thập Lục khống chế, mà vì bên cạnh còn có Lỗ Nhất Khí. Lúc này, hắn và Đao Thập Lục là “cò nghêu tranh hùng”, còn Lỗ Nhất Khí là “ngư ông đắc lợi”.- Môn trưởng là bậc kỳ tài, hẳn sẽ hiểu rõ nên bỏ bảo bối hay bỏ tính mạng – Đao Thập Lục lạnh lùng nói.

- Không phải không nỡ bỏ, chỉ là thứ này ngươi có lấy cũng vô dụng.

- Thứ này vô dụng, vậy thứ gì mới hữu dụng?

- Vậy thì phải hỏi hắn! Thứ đó có lẽ đang ở trong tay hắn! – Chu Chân Mệnh quả nhiên lợi hại, chỉ dăm ba câu đã đảo ngược tình thế, chuyển mũi nhọn sang phía Lỗ Nhất Khí.

- Chu môn trưởng, hắn không ngốc nghếch đến thế đâu. Nếu ta khăng khăng không đưa bảo bối cho hắn, ông lại trách hắn tội phạm thượng, tới lúc đó, hai bên cùng hợp sức tấn công hắn, thì hắn càng không còn cơ hội. Bởi vậy, dù muốn đòi bảo bối từ ai, cũng phải giải quyết ông trước! - Lỗ Nhất Khí lại gạt mũi nhọn về phía Chu Chân Mệnh, khiến hắn vẫn không thể thay đổi được tình thế bất lợi.

- Nói như vậy là ngươi đã thừa nhận bảo bối đang nằm trong tay ngươi? - Mắt Chu Chân Mệnh sáng rực lên, hắn đã tìm ra sơ hở từ trong lời nói của Lỗ Nhất Khí. Thảo nào khí thế của gã thanh niên này mới có vài ngày đã tăng tiến vượt bậc, vừa rồi vòng hào quang toả ra từ cơ thể hắn đã thổi bạt cả lớp lớp mây mù, thì ra cũng có nguyên nhân.

Nói lắm tất lỡ lời, lúc này, Lỗ Nhất Khí không còn giữ được vẻ điềm tĩnh vốn có nữa. Trước hai luồng ánh mắt rừng rực như lửa, cậu cảm giác như bị vô số mũi đao kề sát.

Mồ hôi đã loáng thoáng rịn trên vầng trán Lỗ Nhất Khí. Thật trùng hợp, lúc này trên núi lại có nước tí tách nhỏ xuống. Thì ra tầng mây tản ra, khiến ánh mặt trời chiếu vào nơi tuyết đọng, băng tuyết đông cứng quanh năm bắt đầu tan chảy.

Mạc Thiên Quy đứng giữa Hoả trận, vừa quan sát, tính toán hình núi thế đất xung quanh, vừa lắng nghe Sách Khố Lạt kể lại toàn bộ sự việc.

- Khi tôi vừa trở về thì thấy đệ tử Mặc môn và họ hàng thân thích đều bị Chu gia bắt bớ, liền cảm thấy nội bộ Mặc gia tất có kẻ nằm vùng. Đệ tử Mặc môn sống ở nơi này qua bao thế hệ đều chưa từng xảy ra sự biến, vậy mà khi tay họ Lưu kia vừa mới xuất hiện, tai hoạ đã lập tức xảy ra. Sau khi hắn tới, việc đầu tiên là nghe ngóng tình hình của toàn bộ đệ tử nơi đây. Hơn nữa, ám hiệu đánh dấu để lùng bắt đệ tử Mặc gia là một bàn tay. Mới đầu tôi cũng không để ý, về sau nhớ lại, hình như bàn tay đó có sáu ngón bởi vậy tôi nghi ngờ ám hiệu đó tượng trưng cho biệt danh giang hồ của hắn là “Sáu cánh tay”. Quả nhiên, sau khi đốt lửa trên núi Nam Lĩnh, hắn đã quay ngược về thị trấn, lẩn vào trong chùa. Vì muốn giải cứu cho chúng đệ tử Mặc môn và gia quyến của họ, tôi bèn bám theo vào, phát hiện ra hắn phóng phi tiêu báo tin cho đối thủ. – Sách Khố Lạt bị thương trầm trọng, cơ thể suy sụp, giọng nói mỗi lúc một yếu, xem chừng có thể ngất lịm hoặc chết bất cứ lúc nào.

- Dịch lão đệ, hãy giúp hắn tỉnh táo một chút, lát nữa còn cần tới sức lực của hắn.

Dịch Huyệt Mạch lập tức lần lượt châm kim vào gáy, hậu tâm và sau thắt lưng Sách Khố Lạt. Sách Khố Lạt như thể choàng tỉnh khỏi giấc mơ, lập tức đứng vụt dậy, chỉ tay vào Lưu Chi Thủ bên ngoài Hoả trận, chửi rống lên:

- Tên súc sinh thối tha vô liêm sỉ, lừa thầy diệt tổ, dù ta có biến thành ma cũng không tha cho ngươi...

Mạc Thiên Quy thở dài:

- Cứ ngỡ rằng đệ tử họ Lưu ở vùng đất tổ của Mạc gia là đáng tin cậy, nhưng ta đã lầm thực rồi. Trên đời có một số kẻ vì vinh hoa phú quý mà sẵn sàng từ bỏ những thứ đáng giá hơn thế, bao gồm cả sự tôn nghiêm và vinh quang của tổ tiên, cả tình thân quê hương bản quán!

- Môn trưởng, lúc ở Nam Lĩnh tôi có nghe ông già họ Viêm kể lại, hai đệ tử Mặc môn đi cùng đám trợ thủ còn lại của Lỗ gia đều đã lần lượt bị giết hại. Trong số họ nhất định cũng có kẻ nằm vùng. – Sách Khố Lạt nói vậy là muốn an ủi Mạc Thiên Quy.

- Chưa chắc! Hành động của kẻ nằm vùng có mục đích rất rõ ràng, mà mục đích lần này là muốn Lỗ môn trưởng quật được bảo bối song không giữ được bảo bối. Bởi vậy, khi hắn một mình đưa Lỗ môn trưởng tới đây, chắc hẳn cũng đồng thời tìm cách ly gián, khiến các trợ thủ của Lỗ gia nghi ngờ lẫn nhau mà chia năm xẻ bảy, mỗi người một nơi. Bởi vậy, kẻ gây ra chuyện này chắc chắn là kẻ được hưởng lợi từ đó, cũng không ai khác ngoài Lưu Chi Thủ! - Dịch Huyệt Mạch phân tích rành mạch như thể đang đoán bệnh – Theo tôi được biết, Đông xưởng của triều Minh từng chế ra một loại thuốc độc có tên là “bột phá huyết canh giờ”. Thuốc độc này không mùi không màu, dích vào cơ thể cũng không có cảm giác. Song tới một thời điểm nhất định, da thịt huyết quản sẽ thình lình nứt toác. Hình dạng vết nứt giống hệt với hình dạng của thuốc dính trên cơ thể, nếu là một vệt thẳng sẽ có hình đao chém, là một khối sẽ có hình lỗ thủng. Hai đệ tử Mặc gia đó có lẽ đã trúng phải thứ thuốc độc này. Lưu Chi Thủ, ta đoán có đúng không?

- Quả nhiên là thần y tuyệt thế, hiểu nhiều mà không nói, suy nghĩ kín kẽ chu toàn. Song cũng vô ích thôi? Lửa sắp tắt rồi, chuyện cần kết thúc cũng sắp kết thúc! – Lưu Chi Thủ đã chỉ ra sự thực.

- Cũng không hẳn! - Mạc Thiên Quy toát lên vẻ ngạo nghễ hiếm thấy của một vị môn trưởng.

Sau khi quan sát kỹ lưỡng không gian xung quanh, một kế hoạch liều lĩnh đã hình thành trong đầu Mạc Thiên Quy. Lão muốn dùng một cách cục thần kỳ cổ kim hiếm có để đánh bại Lưu Chi Thủ và bầy tam thú ngao. Điều này sẽ đem lại cho lão một niềm kiêu hãnh lớn lao, vừa chiến thắng được bản thân, lại vừa đánh bại được đối thủ.

Địa hình hốc núi có hình loa. Từ hình dạng này, Mạc Thiên Quy nhớ tới một trận thế đột phá ra ngoài có tên là “Hoả lân xung huyệt”[27], là cách cục thứ hai mươi ba trong Kỳ môn Độn giáp. Nhưng nếu ba người họ muốn đột phá vòng vây theo thế trận Hoả lân xung huyệt, khả năng thành công sẽ cực thấp. Bởi vậy, điều khiến Mạc Thiên Quy đắc ý không phải là cục thế này, mà là sự biến hoá ngay phía sau Hoả lân xung huyệt. Biến hoá này là một yêu cục, khảm gia chính đạo sẽ không biết sử dụng, song Mạc Thiên Quy đã học được cục diện này trong một cuộc đối đầu với tộc người Ngân Nha tại Quảng Tây năm xưa, yêu cục này có tên là “Ma diệm khúc lưu”[28]. Sử dụng phương thức biến trận này, có thể làm rối loạn đội hình của bầy thú, vây khốn một phần thú dữ. Song khiến Mạc Thiên Quy đắc ý nhất chính là biến hoá thứ ba ngay sau Ma diệm khúc lưu – Tam dương phi tinh[29]. Biến hoá này sẽ quyết định bọn họ có đạt được mục đích cuối cùng hay không.

Mạc Thiên Quy vừa động vào đám lửa, Lưu Chi Thủ đã biết chắc lão muốn dùng cục thế Hoả lân xung huyệt. Bởi vậy hắn đã âm thầm điều động tam thú ngao chia thành năm nhóm, hai trước và ba sau. Như vậy khi “Hoả lân” xông ra, năm nhóm thú sẽ phân trước tụ sau, biến thành cách cục “Ngũ hành thôn nạp”[30], cách cục thứ năm trong Kỳ môn Độn giáp, vẫn có thể vây kín Hoả lân ở bên trong.

Mạc Thiên Quy dường như không nhận ra sự biến đổi của bầy thú, chỉ tập trung vào công việc chuẩn bị. Ba người họ mỗi người thu gom được chút ít cành vụn lá khô, đốt thành một bó đuốc nhỏ. Sau đó Mạc Thiên Quy tập tễnh bước đi vài bước, không ai có thể nhận ra, bằng mấy bước đi này, lão đã âm thầm thay đổi Hoả trận.

Lưu Chi Thủ bắt đầu thấy nghi ngờ. Mạc Thiên Quy không thể mù quáng và khinh suất như vậy được, lẽ nào mình đã phỏng đoán sai ở khâu nào, hay là chưa nhận ra thủ đoạn lợi hại tiếp theo?

Sách Khố Lạt là người đầu tiên xông ra từ giữa đống lửa sắp tàn, phía sau gã là Dịch Huyệt Mạch, tốc độ của hai người khá nhanh chóng. Cuối cùng là Mạc Thiên Quy, do bị thương ở chân nên tốc độ của lão chậm chạp nhất, bị hai người kia bỏ cách một đoạn.

Không ổn rồi! Lưu Chi Thủ than thầm trong dạ. Hoả lân xung huyệt đáng lẽ phải là tất cả mọi người cùng xông ra một lượt, nhưng tại sao ba người này lại chia nhau kẻ trước người sau xông ra?

Vừa xông ra khỏi đống lửa, Sách Khố Lạt lao thẳng tới bầy thú.

Lưu Chi Thủ nhất thời không biết ứng phó ra sao. Ngũ hành thôn nạp chỉ để đối phó với một mình Sách Khố Lạt thì quá lãng phí. Nhưng nếu để bầy thú trực tiếp lao vào cắn xé, thì khi hai người phía sau xông ra, không còn bố cục sẽ không thể vây khốn được toàn bộ bọn họ.

Trong lúc Lưu Chi Thủ còn đang do dự, bó đuốc nhỏ trong tay Sách Khố Lạt đột nhiên cháy bùng lên, biến thành một quả cầu lửa ngoại cỡ, với những ngọn lửa xanh lét tưng bừng nhảy nhót, thế lửa cực hung hãn. Ngay lúc đó, Sách Khố Lạt đột ngột thay đổi hướng chạy, lạng người rẽ ngoặt, dường như muốn xông ra từ khe hở giữa các nhóm thú.

Lưu Chi Thủ lúc này đã kịp phản ứng, lập tức phát tín hiệu điều động bầy thú. Ngay lập tức từ trong bầy xông ra vài con tam thú ngao lao ra vây chặn Sách Khố Lạt.

Sách Khố Lạt chỉ là đổi hướng tạm thời, ý đồ thực sự của gã lại không phải là xông ra từ đó. Sau khi ngoặt sang một hướng khác, gã lao đi hơn chục bước thì lập tức ngoặt lại, tiếp tục xông thẳng vào giữa bầy thú. Đối mặt với tình thế này, Lưu Chi Thủ có muốn sắp xếp lại đội hình cũng không kịp nữa. Bầy thú lập tức rối loạn, tam thú ngao bản tính thông minh nhìn thấy khối lửa ngùn ngụt lao thẳng tới thì đua nhau né tránh.

Dịch Huyệt Mạch lúc này cũng đã xông ra, giống như Sách Khố Lạt, chuyển hướng chạy đi rồi lại ngoặt ngược trở lại. Chỉ khác ở chỗ số bước sau khi chuyển hướng nhiều hơn so với Sách Khố Lạt, diện tích vòng vây khi đổi hướng ngoặt ngược lại cũng lớn hơn. Vậy nên vầy thú né tránh lại càng rối loạn.

Lưu Chi Thủ đã định thần trở lại, liên tục phát tín hiệu. Quá nửa bầy thú liền né tránh về phía tây, một số ít còn lại dàn thành hình vòng cung, tiếp tục chặn đuổi vồ cắn hai người kia. Nhưng không ngờ Sách Khố Lạt lại xông ra lần nữa, tình trạng rối loạn khi nãy tiếp tục lặp lại.

Đây chính là Ma diệm khúc lưu. Muốn hình thành khảm diện này, nhất thiết phải có đủ hai tiền đề. Thứ nhất, phải hiểu rõ đặc tính của đối thủ. Tam thú ngao thông minh, xảo quyệt, biết phán đoán tình thế, nếu đối thủ né tránh, chúng sẽ đuổi sát không rời; nếu đối thủ dồn ép, chúng sẽ vội vã né tránh. Thứ hai, cần có thứ khiến chúng phải khiếp sợ. Muôn thú bẩm sinh sợ lửa, song thú đã qua huấn luyện nghiêm ngặt có thể chịu đựng được ngọn lửa bình thường. Dịch Huyệt Mạch có loại dược liệu chuyên dùng trong giác hơi bằng lửa, khi đốt lên sức nóng không quá dữ dội, song hình lửa và thế cháy trông ngùn ngụt rất đáng sợ. Hơn nữa, trong đó lại được pha thêm một loại hương liệu kỳ lạ, khiến loài tam thú ngao vốn thận trọng giảo hoạt cảm thấy vô cùng sợ hãi.

Sách Khố Lạt bắt đầu vòng xung kích thứ hai, Ma diệm khúc lưu đã thành công như mong đợi. Nhưng đúng lúc này lại xảy ra một sự cố bất ngờ, ngọn đuốc trong tay Sách Khố Lạt đột nhiên bập bùng vài cái, sau đó mau chóng thu nhỏ lại. Ngay lúc đó, bó đuốc trong tay Dịch Huyệt Mạch và Mạc Thiên Quy cùng xuất hiện tình trạng tương tự.

- Lửa sắp tàn rồi! - Dịch Huyệt Mạch hiểu rõ, ngọn lửa được đốt bằng dược liệu dùng cho giác hơi nên thời gian cháy không bền.

Lúc này Sách Khố Lạt đã xông vào bầy thú lần thứ hai, còn Mạc Thiên Quy đang một mình ngăn cản số tam thú ngao còn lại ở lối ra của Hoả trận. Ngọn lửa vừa mới bập bùng, đám súc sinh xảo quyệt kia lập tức phát giác ra, lập tức dừng bước gần như đồng loạt. Khi nhìn thấy lửa đuốc mau chóng thu nhỏ lại, chúng liền lao vụt trở lại.

- Tam dương phi tinh! - Mạc Thiên Quy hét lớn.

- Bay luôn bây giờ? Không chạy vòng nữa à? - Dịch Huyệt Mạch quay đầu lại hỏi.

- Không cần! Bên này chúng tôi bị chặn, chậm tí nữa thì ông cũng không bay nổi đâu! - Mạc Thiên Quy quát lên như muốn đứt hơi.

Tam dương phi tinh chính là khi Ma diệm khúc lưu xoay chuyển tới vòng thứ ba, phần lớn dã thú đều đã bị dồn vào trong Hoả trận, người đầu tiên là Sách Khố Lạt tiếp tục xua đuổi số thú còn lại, người thứ ba là Mạc Thiên Quy chặn giữ ở lối ra của Hoả trận, còn Dịch Huyệt Mạch ở giữa không bị bầy thú quấy rầy sẽ lao thẳng vào Lưu Chi Thủ.

Mạc Thiên Quy bị thương nặng ở chân, Sách Khố Lạt lại không địch nổi Lưu Chi Thủ, bởi vậy ngôi “sao bay” này chỉ có thể là Dịch Huyệt Mạch.

Ma diện khúc lưu mới xoay chuyển được một vòng, bó đuốc trong tay đã sắp lụi tới nơi. Do đó, cách duy nhất có thể tiếp tục duy trì Tam dương phi tinh chính là hành động sớm hơn.

Bầy thú vừa nhìn thấy ngọn đuốc trong tay Sách Khố Lạt yếu đi, lập tức lao ngược trở lại. Sách Khố Lạt không thể né tránh, nếu né tránh thì bầy thú sẽ bao vây Dịch Huyệt Mạch, như vậy ngôi “sao bay” này sẽ không thể bay lên được nữa. Sách Khố Lạt không những không được né tránh, mà còn phải tìm cách khiến ngọn đuốc cháy mạnh hơn, dữ dội hơn nữa, để Dịch Huyệt Mạch tuy buộc phải bay đi sớm hơn vẫn có thể thuận lợi lao tới tấn công Lưu Chi Thủ.

Thế là Sách Khố Lạt nghiến chặt hàm răng, trong lòng sắt lại, bó đuốc trong tay gã lập tức bùng lên dữ dội, trở thành một bó đuốc khổng lồ lao đi vùn vụt.

Gió vòng quanh núi đột nhiên biến thành gió trùm núi. Gió xoáy tung lửa táp, vô số ngọn lửa bị gió cuốn bay rào rào về phía chính nam của núi Thiên Thê.

Viêm Hoá Lôi đang lo lắng vì không đủ hoả liệu ứng phó với vài chục cao thủ phía đối phương, nhìn thấy cảnh tượng này, lập tức phấn chấn hẳn lên.

Tuy trên người ông không có đủ vật liệu gây cháy nổ, song mồi dẫn lửa lại không thiếu. Mồi dẫn lửa là vật dễ cháy có thể bùng cháy trong nháy mắt, song thời gian cháy lại cực ngắn. Thế là Viêm Hoá Lôi đã kết hợp mồi dẫn lửa, hoả liệu còn sót lại với đám tàn lửa đang ào ào rơi xuống. Mồi dẫn lửa sẽ dẫn những đốm lửa rơi rớt bén đến chỗ chính xác, hoả liệu khiến đốm lửa đã lan đến đúng nơi không bị tắt ngay. Ánh sáng rừng rực và cái nóng bỏng rát rùng rùng lan toả, hình thành nên một Hoả cục nhảy nhót giữa không trung và mặt đất, đây là cách cục chín mươi chín trong Kỳ môn Độn giáp – “Phượng vũ cửu thiên”[31]. Cục thế này không những được dùng để ngăn cản vài chục cao thủ Chu gia, mà còn muốn phân tán, đẩy lùi bọn chúng, ép chúng vào trong đám điện gác hành lang đang bốc cháy rừng rực.

Cao thủ Chu gia đều không phải hạng tầm thường. Sau khi Viêm Hoá Lôi phóng đi hơn chục mồi dẫn lửa, chúng đã đoán ngay ra ý đồ của ông, lập tức lao vọt tới trước khi cục thế Phượng vũ cửu thiên được hình thành.

Viêm Hoá Lôi đã ý thức được mối nguy hiểm gần kề, cục Phượng vũ cửu thiên của ông không thể ngăn cản nổi những cao thủ Chu gia lão luyện. Nhìn vào tốc độ di chuyển của chúng, chỉ nháy mắt nữa thôi sẽ xông tới cục diện Song xá đấu Nga Hoàng, tạo nên mối uy hiếp trí mạng cho Dưỡng Quỷ Tỳ và Hạ Táo Hoa.

Song xá đấu Nga Hoàng là khí tướng chí thuần, chí âm. Thế nhưng lúc này, cả một đám nam giới dương cương đạp lửa mà tới, khiến khí tướng chí âm này bắt đầu tán loan, luồng khí lưu, khí thế của nó đã thay đổi trong chớp mắt giống hệt như gió vòng quanh núi.

Viêm Hoá Lôi tập trung toàn bộ số hoả liệu còn lại trên người, bắn vọt ra theo phương pháp nổ dữ phun mạnh, đã ngăn cản được vài cao thủ Chu gia chạy ở trên đầu. Lửa phụt ra thành dòng dữ dội, hoa lửa tung toé tựa sao sa. Nhưng trong lửa không có độc liệu, làm sao đủ sức ngăn cản đám cao thủ phi phàm. Những tên đi đầu tuy bị bén lửa, song không hề giảm tốc độ, vẫn lao phăng phăng về phía cục diện “Song xá đấu Nga Hoàng” như những dòng suối lửa.

Cục tướng Song xá đấu Nga Hoàng đã tan rã. Không ai chịu thiệt, cũng không ai được lợi. Cả ba mỹ nữ đã chủ động tản ra, bởi lẽ dù là Báo Cơ nương nương hay Dưỡng Quỷ Tỳ, Hạ Táo Hoa, chẳng ai muốn chạm phải đám người bốc cháy rừng rực như đuốc sống đang chạy điên cuồng.

Đuổi sát sau lưng đám người này là dòng thác lửa cuồn cuộn đổ ra từ trong khuôn viên của chùa Kim Đỉnh. Trước tình thế đó, cả bọn lập tức tháo chạy tán loạn. Một số người men theo chân núi chạy túa ra hai bên, một số khác bám theo ba cô gái bỏ chạy lên núi. Còn một số ít người giỏi khinh công lập tức bám vào vách bích hoạ thoăn thoắt trèo lên. Toàn bộ cục diện trong nháy mắt đã biến thành “Quạ vàng đuổi thỏ ngọc”, hay “Lửa trời đuổi yêu ma”, là một đại cục, có tác dụng là dùng dương bức âm. Trong “Thế nghiệt bình thu lục” có nhắc tới khảm cục này.

Chính nhờ sự xuất hiện của cục diện “Quạ vàng đuổi thỏ ngọc”, một đại cục thế đã bắt đầu hé lộ.

Trong trận Tam giác xoay, đám Quỷ Nhãn Tam chống đỡ vô cùng vất vả, song đám cao thủ Chu gia cũng vất vả không kém. Vì vất vả, khiến động tác và bộ pháp dần dần chệch choạc, nên Tam giác xoay cũng dần dần biến dạng, từng bước chuyển sang cách cục thứ sáu của Kỳ môn Độn giáp là “Lục minh xoay chiếu”. Ba người phía Lỗ gia là Tam minh, ba đội trưởng tại ba hàng của Chu gia cũng là Tam minh. Do trong trận thế toàn là nam giới, mà xẻng lưỡi cày của Quỷ Nhãn Tam, đao Bào Đinh của Dương Tiểu Đao và rọi ngựa dài của Biện Mạc Cập cũng đều là vật chí dương, bởi vậy “Lục minh xoay chiếu” lúc này chính là một cục tướng chí dương chí cương.

Đặc biệt là sau khi chùa Kim Đỉnh bốc cháy, vô số cụm lửa đáp xuống lả tả như mây, song do cục thế này vẫn vùn vụt xoay tròn, đã cuốn thành một làn gió xoáy, khiến những đám lửa cứ lơ lửng dạt ra mà không rơi xuống. Vô số đốm lửa, tàn lửa, vạt lửa đã dạt cả ra ngoài, kết thành một vòng lửa khổng lồ bên ngoài cục Lục dương, bốc cháy ngút trời, khiến thế lực của cục “Lục dương xoay chiếu” được phát huy tới cực điểm. Bởi đó, đại cục vừa mới manh nha đã có thêm điều kiện thứ hai.

Song đại cục này vẫn cần thêm một điều kiện thứ ba. Liệu sự trùng hợp may mắn đó có xảy ra không?

Chú thích

[27] Có nghĩa là kỳ lân lửa xông ra khỏi hang.

[28] Có nghĩa là ngọn lửa ma chảy quanh co.

[29] Có nghĩa là sao ba dương bay.

[30] Có nghĩa là Ngũ hành thu nuốt.

[31] Có nghĩa là chim phượng múa trên chín tầng trời.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,532
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 29: Mở mạch hung


Sách Khố Lạt cầm bó đuốc đã gần tàn quẹt lên khắp cơ thể. Dân Tạng chủ yếu ăn thịt dê, thịt bò, lại có thói quen ăn bốc, sau khi ăn xong thường lau bàn tay dính đầy mỡ lên quần áo. Lâu dần, quần áo thấm mỡ tầng tầng, lửa chạm là bén, hơn nữa còn bốc cháy rất dữ. Sách Khố Lạt trong nháy mắt đã biến thành một bó đuốc khổng lồ mang hình người, lao thẳng vào đám tam thú ngao.Bó đuốc trong tay Mạc Thiên Quy cũng sắp lụi đến nơi, mấy con tam thú ngao tại lối ra của Hoả trận đã nhấp nhỏm muốn xông ra. Nhìn thấy Sách Khố Lạt tự thiêu mình, Mạc Thiên Quy chẳng kịp nghĩ gì thêm, cũng tự châm lửa đốt mình. Tuy quần áo của lão không dính mỡ, không thể cháy đùng đùng như Sách Khố Lạt, song cũng đã ép được đám tam thú ngao muốn xông ra phải quay trở lại.

Đây là cơ hội được thắp lên từ ngọn đuốc trên hai cơ thể sống, Dịch Huyệt Mạch hiểu rằng ông không được phép để vuột mất. Ông giấu kín một chiếc kim bạc trong lòng bàn tay, cơ thể thình lình xoay chuyển, bay vọt lên như một ngôi sao băng xẹt ngang trời, lao thẳng về phía Lưu Chi Thủ.

Lưu Chi Thủ đột nhiên phát hiện ra mình đã không còn đường tháo chạy. Lửa đã bốc ngùn ngụt trong chùa Kim Đỉnh, thế như sóng dữ ngút trời, con đường rút lui trong dự tính đã chìm trong khói lửa. Dịch Huyệt Mạch lại đang vùn vụt lao tới với đôi mắt rừng rực như lửa cháy, chắc chắn sẽ chỉ mang lại cho hắn con đường chết mà thôi.

Lưu Chi Thủ cố gắng phát tín hiệu điều khiển đám tam thú ngao còn lại, song đám muông thú cũng đang hoảng loạn giống hệt như hắn. Từ phía sau, lửa cuồn cuộn đổ lại như thác lũ, dù là người hay thú, cũng đều không thể trấn tĩnh tấn công địch thủ trong tình cảnh nguy ngập đến nhường này.

Dịch Huyệt Mạch xông thẳng qua bầy thú, không gặp phải bất cứ sự cản trở nào. Khi ông lao tới trước mặt Lưu Chi Thủ, cũng không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể. Lưu Chi Thủ đao chưởng cùng xuất, vô cùng hung tợn, song chỉ được một chiêu. Dịch Huyệt Mạch đã dừng lại bên ngoài phạm vi tấn công của Lưu Chi Thủ, ngay trước khi Lưu Chi Thủ thu chưởng về chuẩn bị đánh ra chiêu thứ hai, ông ta đã khéo léo đâm cây kim bạc vào ngón áp út của hắn.

Tuy chỉ là một nhát kim đâm vào ngón áp út, song đã khiến huyết mạch khắp cơ thể Lưu Chi Thủ chớp mắt đã đông cứng tựa băng, hơi thở tắc nghẽn không thể lưu chuyển. Dịch Huyệt Mạch tung chân đạp thẳng vào giữa bụng Lưu Chi Thủ, cú đạp tuy không mạnh, song cũng đủ để đẩy hắn văng vào biển lửa ngùn ngụt đang cuộn tới sau lưng. Sóng lửa càng bùng lên dữ dội, Lưu Chi Thủ cũng lăn lộn rất hăng, song rất nhanh đã không còn phản ứng.

Dịch Huyệt Mạch nhìn thấy Lưu Chi Thủ đã toàn thân bốc cháy, nằm im không động đậy, bèn quay người trở lại. Lúc này con đường phía trước đã ngập chìm trong lửa, ngôi sao bay trong Tam dương phi tinh đã không còn đường nào để bay, chỉ có thể quay trở lại ứng phó với Tam thú ngao, cứu trợ bằng hữu.

Chính vào lúc Dịch Huyệt Mạch đang quay người lại, Lưu Chi Thủ đang nằm sõng sượt trong biển lửa thình lình tung mình nhảy vọt lên, lao thẳng về phía Dịch Huyệt Mạch.

Dịch Huyệt Mạch cảm thấy gió thốc sau lưng, một luồng nóng bỏng ập thẳng tới, bèn vội vã nghiêng người né tránh. Nhưng đã muộn rồi, hai tay Lưu Chi Thủ đã túm chặt lấy vai Dịch Huyệt Mạch, chớp mắt đã hình thành thế ba ngón tay móc đối khoá chặt lấy xương bả vai của ông. Dịch Huyệt Mạch liếc thấy ngón áp út của Lưu Chi Thủ đã cháy đen, đứt lìa. Đúng là một tay cáo già thủ đoạn tàn độc, sau khi rơi vào lửa, Lưu Chi Thủ đã thọc ngón tay áp út bị kim đâm vào trong lửa để đốt đứt kinh mạch, giải được châm pháp “nhổ ngược huyệt” mà thoát thân nhảy ra.

Tuy Dịch Huyệt Mạch đã bị khoá cứng bả vai, song lập tức dừng bước xoay cổ, lật ngược người lại, khiến hai cánh tay Lưu Chi Thủ thành ra vặn chéo vào nhau, đồng thời giơ hai tay bấm sâu vào huyệt đau phía dưới mạng sườn của Lưu Chi Thủ, hy vọng cơn đau đớn kịch liệt sẽ khiến hắn thả lỏng ngón tay. Nhưng lúc này, Lưu Chi Thủ đã toàn thân bén lửa, hoàn toàn không còn cảm giác đau đớn, hai tay vẫn nhất quyết khoá chặt không buông. Ngọn lửa từ người Lưu Chi Thủ nhanh chóng lan sang Dịch Huyệt Mạch.

Dịch Huyệt Mạch lập tức xoay tròn bước chân, hai cánh tay vận kình hết sức vung mạnh sang một bên, muốn hất văng Lưu Chi Thủ ra. Song Lưu Chi Thủ dường như vẫn rất tỉnh táo, Dịch Huyệt Mạch vừa hành động, hai chân hắn cũng lập tức xoay tròn tiết lực. Thế là hai người cùng xoay tít mù về phía Hoả trận trong hõm núi, giống như đang cùng múa lửa.

Lưu Chi Thủ vừa xoay tròn theo Dịch Huyệt Mạch, vừa gầm rống liên hồi. Hắn đang điên cuồng thúc giục bầy thú.

Tuyệt đại đa số tam thú ngao đã bị vây khốn trong Hoả trận, song nghe thấy tiếng gầm thét của Lưu Chi Thủ, đã bất chấp tính mạng xông bừa ra qua cửa Hoả trận.

Sách Khố Lạt dang rộng chân tay lao thẳng vào cửa Hoả trận. Ngay từ lúc tự châm lửa đốt mình, gã đã quyết tâm liều chết, lúc này còn tiếc gì nửa cái mạng đang bốc cháy rừng rực.

Mạc Thiên Quy chưa kịp quyết định nên làm thế nào, Dịch Huyệt Mạch và Lưu Chi Thủ đã xô tới, đâm sầm vào Hoả trận, khiến Hoả trận vỡ ra một mảng. Một đám tam thú ngao phản ứng mau lẹ, nhấp nhỉnh muốn xông ra qua lỗ hổng. Mạc Thiên Quy không kịp nghĩ ngợi, lập tức lao vào lỗ hổng, bó đuốc sống hình người lại một lần nữa ép đám thú lùi lại.

Nhưng kỳ thực, cuộc tranh giành chí chết giữa bọn họ lúc này đã trở nên vô nghĩa. Đối mặt với cơn bão lửa đang điên cuồng cuộn tới, đáng lẽ họ nên tìm cách trốn chạy mới đúng. Song đằng này, mấy con người và đám muông thú vẫn kiên gan quần thảo, tránh né lẫn nhau, lừa miếng lẫn nhau.

Hoả trận Ba luỹ hai thành đã tan rã hoàn toàn. Dịch Huyệt Mạch và Lưu Chi Thủ vẫn tiếp tục xoay lòng vòng, lửa đã bén khắp người Dịch Huyệt Mạch. Hai người họ bám cứng lấy nhau, không ai giằng được ra khỏi ai, như một con quay lửa đâm tới đâm lui giữa các vách đá.

Lửa cũng đã bén lên đám tam thú ngao, chúng càng bổ nháo bổ nhào tháo chạy. Mạc Thiên Quy và Sách Khố Lạt tuy đều bị thương trầm trọng, song vẫn dốc hết sức tàn mà chạy, giống như đang truy bức, giống như đang trốn tránh, lại càng giống như đang giãy giụa trong lò thiêu.

Hai con người bị thiêu cháy, bầy thú bị thiêu cháy, lao vùn vụt tựa lửa trời, như sao Hoả đổi ngôi, xoay tròn quanh một “con quay lửa”. Mạc Thiên Quy dốc sức bố trí một khảm bốn trận, cuối cùng toàn bộ đã biến thành cục thế “Tinh minh hội nhật lưu”[32]. Đây cũng là một cách cục chí dương, điều kiện thứ ba của đại cục đã được hình thành.

Ở lưng chừng núi, mây mù đã tản ra gần hết. Ánh mặt trời chói chang của vùng đất Tạng rọi thẳng vào ba người Lỗ Nhất Khí, Chu Chân Mệnh và Đao Thập Lục, cái bóng của họ đổ xuống sẫm đen trên vách đá.

- Ta biết rồi! – Trong giọng nói của Chu Chân Mệnh bừng lên một niềm hưng phấn khó lòng kiềm chế, trạng thái rất hiếm khi xuất hiện ở hắn.

- Muộn rồi! - Lỗ Nhất Khí trong lòng căng thẳng, ánh mắt cậu đang gấp rút tìm kiếm sự xuất hiện của một hiện tượng mà cậu hằng chờ đợi.

Đao Thập Lục có phần ngơ ngác, gã không hiểu hai người đang nói gì.

- Cũng hơi muộn một chút! Nếu sớm hơn vài canh giờ, ta đã tự mở cửa mời ngươi vào. Bảo bối khoan dung chính trực, có thể ức chế độc sát tà hành, bởi vậy ngươi mới dám liều lĩnh xông vào con đường chết! – Chu Chân Mệnh tỏ ra khâm phục thực sự.

- Có dám làm hay không, quan trọng nhất là tầm kiến thức. Nhưng ông thiếu thứ này! - Lỗ Nhất Khí cố ý khiêu khích Chu Chân Mệnh. Cậu muốn Chu Chân Mệnh giận dữ mà hành động, như vậy Đao Thập Lục cũng sẽ hành động theo. Nếu hai người bọn họ giằng co, cậu sẽ có thêm thời gian và cơ hội.

Chu Chân Mệnh đương nhiên nhận ra ý đồ của Lỗ Nhất Khí. Hắn hiểu rõ với tình thế hiện tại và mục đích của bản thân, hắn không được phép nôn nóng xốc nổi. Hắn quyết định không nói gì thêm nữa, im lặng chờ đợi thời cơ.

Dưới núi lửa cháy đỏ rực một vùng, toàn bộ chùa Kim Đỉnh và thị trấn đều đã chìm trong biển lửa. Gần xa văng vẳng tiếng khóc mẹ hờ cha, tiếng động vật gầm rú. Trên núi nước bắt đầu chảy xuống thành dòng, băng tuyết quanh năm đã tan chảy nhanh chóng. Ban đầu, khi nước băng mới chỉ nhỏ giọt, Lỗ Nhất Khí và Chu Chân Mệnh đều không để ý tới. Song lúc này, từng dòng nước lạnh đã đổ xuống ào ào. Đỉnh núi tuyết phủ băng phong lúc này đã chảy tràn những nước.

Lỗ Nhất Khí đang căng thẳng tìm kiếm mục tiêu. Kỳ thực ngay từ lúc lên sườn núi Bán Bộ tại Nam Lĩnh, cậu đã nhận ra bảo tướng nơi đây không phải là tướng trang nghiêm[33], mà là tướng tuỳ tính. Điều này khiến cậu vô cùng kinh ngạc, và cũng giúp cậu hiểu ra nơi đây tại sao lại âm dương đảo ngược. Bởi vậy, cậu mới quyết định một mình xông pha, đặt cược ván thứ ba.

Suy đoán của Chu Chân Mệnh vẫn chưa đúng hoàn toàn. Hắn đinh ninh rằng Lỗ Nhất Khí mang theo bảo bối xông vào chùa, nên mới dám nổ tung tường chùa phía tây, xông vào theo đường chết. Trong khi nguyên nhân thực sự khiến Lỗ Nhất Khí quyết định xông vào từ đây, vì cậu nhìn thấy bảo bối “tuỳ tính tướng” trên bãi Thần Hô trong tường bao phía tây. Cũng chính vì phán đoán này, cậu mới dám to gan nổ tường xông vào. Chương “Bảo tính” trong”Cơ xảo tập” có viết rằng: “Khí linh thiêng của bảo bối, trong phạm vi bao trùm của nó, trăm ác không sinh, trăm sát không khởi”, cũng tương tự như câu nói “bảo bối khoan dung chính trực, có thể ức chế độc sát tà hành”, của Chu Chân Mệnh. Có nghĩa là tại nơi cất giấu Thiên bảo, trải qua một thời gian dài, trong phạm vi bảo khí bao phủ, các cạm bẫy ám khí tàn sát sẽ mất đi khả năng giết chóc.

Nhưng bảo bối “tuỳ tính tướng” đồng thời cũng phải chịu sự khống chế cân bằng của hung huyệt chí cực, nên khí thế và bảo tướng của nó vô cùng đặc biệt, ngay cả năng lực bẩm sinh phi phàm của Lỗ Nhất Khí cũng không thể nhận biết chính xác. Bởi vậy, việc cậu liều lĩnh xông vào quả thực là đánh cược.

Sau khi Lỗ Nhất Khí vào được trong chùa, trước tiên đã xác nhận rằng nút lẫy dưới đám đá vụn vẫn chưa vận hành, để khẳng định rằng phán đoán ban đầu là chính xác. Sau đó, cậu đã nhận ra rất nhiều đá lở trên bãi Thần Hô đều là vật liệu dùng trong xây dựng ám cấu, bởi lẽ bề mặt của chúng đều có lỗ thủng để cố định các vật liệu dùng trong kiến trúc. Song không phải tất cả các viên đá có lỗ thủng đều là vật liệu, ví dụ như hai hòn đá mà cậu đã đựng trong túi lưới. Một trong hai hòn đá chính là Thiên bảo dùng để trấn áp hung huyệt phía tây.

Thiên bảo, tên là Tự Tại Thiên. Theo truyền thuyết, hòn đá này không rõ nguồn gốc, từ trong đám mây ráng rực rỡ bảy màu rơi xuống nóc điện Lăng Tiêu, được Vương Mẫu cất giữ làm món đồ chơi. Trong “Đạo tự tông ý” có chép: “Thiên thạch rơi xuống từ áng mây rực rỡ, hình dạng như khối đá tầm thường, trên đá có lỗ. Nhòm vào trong lỗ, thấy cảnh thần tiên lạ kỳ tươi đẹp, thấy cảnh giới hư vô sau khi chết, biết được kiếp sau về đâu, tâm cảnh tự nhiên thanh thản...”.

Về Thiên bảo, còn có một giả thuyết khác, trong “Phật thuyết tiền thế chiêm”[34] bản tiếng Phạn của Niết Hách, ở lời phê bên cạnh có thể tìm thấy một đoạn văn tự đại thể có nghĩa là: Tam giáo ở Tây phương mở đàn luận kinh, lấy chủ đề là một hòn đá. Từ nguồn gốc, quá trình tồn tại và chất liệu bên trong của hòn đá để phân tích thành tinh nghĩa của người đời. Hòn đá nhận được sự hun đúc của kinh văn Tam giáo, đột nhiên giác ngộ, thủng ra một lỗ, tiết đi hết sức nặng mà bay vụt lên cao, biến mất giữa trời mây. Nên Phật mới có câu, đến hòn đá còn khai khiếu, giác ngộ ra một trời Đại Tự Tại ở trong tâm, thì chúng sinh làm gì còn ai ngu độn? Từ đấy, hòn đá trong truyền thuyết được gọi tên là Tự Tại Thiên.

Trước khi Phật sống Kim Đỉnh lâm chung, Lỗ Nhất Khí đã đặt bảo bối trước mặt ông. Nhìn qua lỗ thủng trên hòn đá, Phật sống đã nhìn thấy cảnh giới đại tự tại, nhìn thấy đích đến của cả một cuộc đời hướng Phật, trong lòng tự tại, nên đã ra đi thanh thản.

Sau khi Lỗ Nhất Khí lấy được Thiên bảo, cậu mới bắt đầu đặt cược ván thứ ba, ván cược này càng mạo hiểm gấp bội. Trong chương “Bảo tính” của “Cơ xảo tập” có viết: “Mang bảo bối mà đi, vận thuận lợi, đi đến nơi”, bởi vậy, trong lần đặt cược này, cậu chỉ đánh cược vận may, hy vọng mang theo Thiên bảo bên mình, vận may sẽ được gia tăng. Nhưng nhìn vào tình thế hiện tại, tuy vận thế của cậu vẫn khá tốt đẹp, song không biết có thể duy trì tới thời khắc cuối cùng hay không.

Chu Chân Mệnh tuy im lặng, song suy nghĩ không hề tĩnh lặng. Hắn đang âm thầm xâu chuỗi từng sự việc, và một sự thực khiến hắn phải hối hận suốt đời đã dần dần hiển hiện trong trí não.

Vùng đất quanh chùa Kim Đỉnh, cây cỏ xác xơ, súc vật thưa thớt, thế nhưng phía nam lại có mỏ vàng, phía bắc có mỏ ngọc. Điều kiện nơi đây vốn dĩ không phù hợp với cuộc sống của người dân Tạng, song lại trở thành một thị trấn phồn vinh. Ngôi chùa xây trong một hẻm núi hoang vu, song hương hoả cực vượng. Chu gia chiếm lĩnh chùa Kim Đỉnh, số tiền của cống nạp hàng năm thậm chí đã chiếm phần lớn tổng thu nhập cả năm của Chu gia. Tam thú ngao vốn không thể phối giống ở nơi khác, song lại có thể tạp giao thành công ở trong chùa... Còn vô số sự việc tương tự như vậy nữa, tất cả đều là minh chứng cho một sự thực: bảo cấu cất giấu Thiên bảo có lẽ ở ngay trong phạm vi chùa Kim Đỉnh.

- Ngươi không phải là mang bảo bối vào chùa, mà là vào chùa quật bảo! – Chu Chân Mệnh đã suy nghĩ thông suốt. Cùng với đó, một mối uất hận, ảo não tự đáy lòng hắn xông thẳng lên ngực, khuấy động máu tanh nhộn nhạo, vị ngọt lợ xộc lên tận họng. Lại một lần nữa, hắn đã phải hoài công gối đầu lên bảo bối mà mơ bảo bối suốt bao năm ròng rã.

Lỗ Nhất Khí không thèm đếm xỉa tới Chu Chân Mệnh, lúc này cậu đã chìm trong trạng thái tự nhiên hư huyễn, thần hồn phiêu du. Bởi lẽ trong lúc Chu Chân Mệnh còn mải mê chắp nối, cậu đã phát hiện ra một luồng hung tướng dạng đường thẳng thấp thoáng ẩn hiện trên vách núi bên cạnh. Cậu lập tức tụ khí ngưng thần, thả lỏng thân tâm, để xác định xem liệu hung tướng này có phải chính là hung huyệt dạng mạch hay không.

Chu Chân Mệnh gắng gượng nuốt khối ngọt lợ kia xuống họng, mau chóng vận khí ba vòng. Hắn hiểu rõ, Lỗ Nhất Khí rất đáng gờm, Đao Thập Lục lại đột nhiên tham lam trở mặt, nên hắn nhất định phải duy trì phong độ thật ổn định, mới có thể giành giật lấy một chút cơ hội thành công từ trong cục diện vô cùng bất lợi trước mắt.

Hơi thở đã bình ổn, khối máu huyết nhộn nhạo đã lắng xuống, lực, khí, ý đã hoà nhập vào trong vòng tuần hoàn ổn định. Chu Chân Mệnh bắt đầu dò xét tỉ mỉ Lỗ Nhất Khí. Hắn muốn tìm ra một điểm khiến cậu trở nên khác hẳn với trước đó, tìm ra một thứ cậu đáng lẽ không có song bây giờ lại xuất hiện trên người, đặc biệt là những thứ vốn thuộc về chùa Kim Đỉnh.

Đao Thập Lục lật lọng làm phản vào đúng thời khắc then chốt, cho thấy gã là một kẻ vô cùng xảo trá, quỷ quyệt đa đoan. Một kẻ giang hồ cáo già như vậy hoàn toàn có khả năng nhận ra một số điều từ lời nói và vẻ mặt của Chu Chân Mệnh. Bởi vậy gã khẳng định, gã đã uy hiếp nhầm đối tượng, mục tiêu cướp bóc cũng có thể đã sai lầm.

Đao Thập Lục cũng di chuyển ánh mắt sắc lạnh như lưỡi đao về phía Lỗ Nhất Khí. Khác với Chu Chân Mệnh, gã là một sát thủ tuyệt đỉnh, nên gã chú ý trước tiên tới ý đồ và động tác của người khác. Gã muốn thông qua những ý đồ, động tác vô thức của Lỗ Nhất Khí để tìm ra một thứ thiếu hài hoà trên cơ thể cậu. Rất có thể đó chính là thứ mà người khác và hắn đều muốn có.

- Đá!

- Đá!

Cả Chu Chân Mệnh và Đao đầu đều buột miệng hét lớn, chỉ có điều tiếng hét của Đao đầu có vẻ khủng khiếp, kinh dị hơn nhiều, khiến người nghe lông tóc dựng đứng...

Dưới chân núi, phía chính nam là khảm tướng “Quạ vàng đuổi thỏ ngọc”, phía tây là khảm tướng “Lục dương xoay chiếu”, phía đông là khảm tướng “Sao sáng xoay quanh mặt trời”. Mà ở trên núi, có Lỗ Nhất Khí mang theo Thiên bảo cực thuần chính, bảo khí bừng bừng lan toả, rực rỡ hào quang. Thật trùng hợp, tác dụng của bốn nơi đã hoà hợp với nhau, tạo nên một đại cục chí dương có thể thay đổi vận đời mệnh nước, được gọi là “Bảo dương điên toả âm hung”[35]. Đại cục này duy nhất chỉ thấy ghi chép trong một cuốn kỳ thư thời thượng cổ có tên “Đế kinh mạch hành trạch”, từ cổ chí kim mới chỉ xuất hiện có một lần, chính là lúc Khương Tử Nha dùng hoả công đánh thành Triều Ca, đã dùng cách cục này để lật đổ hoàn toàn vận mệnh của nhà Thương Trụ. Cũng chính vì đã hình thành được cục diện thiên cổ kỳ tuyệt này để cân bằng với Thiên bảo nghìn năm, nên hung huyệt âm mạch ẩn giấu ở chính giữa núi Thiên Thê đã bị chèn ép ra ngoài.

Lục dương cương của đại cục chí dương đã bức ép âm trạch trỗi dậy, hung huyệt chấn động, hung khí muốn vọt ra ngoài. Núi Thiên Thê bắt đầu biến đổi, tốc độ mỗi lúc một nhanh, mỗi lúc một thêm dữ dội.

Tuyết phủ trên núi đã tan chảy gần hết, các lớp băng dày bắt đầu trượt lở. Gió vòng quanh núi đột nhiên chuyển hướng, thổi tan lớp lớp mây mù vốn quanh năm bao phủ lưng chừng núi. Ánh mặt trời sáng loá chiếu thẳng vào vòm băng lõm, khiến chùm sáng khúc xạ thay đổi vị trí. Tầng băng phủ kín ngọn núi Thiên Thê nhanh chóng bị chùm sáng phản xạ hội tụ với sức nóng dữ dội rạch làm đôi, phân thành hai khối băng lớn ở phía nam và phía tây. Lại thêm lớp băng hình vòm trên đỉnh núi do bị tan chảy đã trở nên chênh vênh lỏng lẻo, trông đáng sợ vô cùng, như thể sẵn sàng sập xuống.

Song đáng sợ nhất không chỉ có thế, mà là hung khí của hung huyệt dạng mạch bị đại cục chí dương bức ép, đã sắp sửa phun trào, hung lực phụt ra tán loạn khiến cho bên trong lòng núi âm thầm rạn nứt.

Chu Chân Mệnh chợt choàng tỉnh, hét lên một tiếng “đá”, là vì hắn nhìn thấy hai viên đá tròn treo lủng lẳng bên cổ Lỗ Nhất Khí. Đó là đá trên bãi Thần Hô, cũng chính là đá của chùa Kim Đỉnh. Một người đang đi thực hành đại sự, tay cụt bất tiện, song từ đầu tới cuối vẫn giữ khư khư hai hòn đá vốn chẳng giúp ích gì mấy cho hành động của hắn, vậy hòn đá đó có ý nghĩa gì? Để hiểu ra thực không phải dễ dàng, song vẫn hơi muộn. Lúc này, trên vách núi vốn đã sạt lở bỗng toác ra một khe nứt, âm mạch đã lộ. Khí âm hung phụt thẳng ra ngoài, khiến mọi người tâm thần hốt hoảng, cổ họng nghẹn tắc, đầu váng mắt hoa.

Lỗ Nhất Khí đã phát giác ra đoạn hung huyệt này từ trước, tuy vẫn đang ở trong trạng thái nhập hư, song bàn tay đã cầm lấy Tự Tại Thiên đang đeo trước ngực, sẵn sàng ném thẳng vào hung huyệt. Song vị trí xuất hiện vết nứt lại ở trên vách núi sạt lở, còn cách Lỗ Nhất Khí một khoảng cách khá lớn. Khoảng cách này đối với một người không biết khinh công, lại cụt mất bàn tay phải như Lỗ Nhất Khí, tuyệt đối không thể băng qua.

Chu Chân Mệnh đã ra tay, bất chấp tất cả mà ra tay, bất chấp Đao Thập Lục đang dốc toàn lực đánh tới, bất chấp vách núi rung lắc nứt toác, bất chấp băng trượt tuyết lở. Lúc này, trong tâm trí hắn chỉ còn lại hai hòn đá, bởi trong hòn đá chứa đựng sứ mệnh và ý nghĩa của cả cuộc đời hắn.

Đao đầu sau một thoáng ngập ngừng cũng đã ra tay, song gã không triển khai thế đao thứ mười sáu dùng máu xương đoạt mệnh, mà nhảy vọt lên trên, góc độ tấn công vô cùng quái dị.

Một tia nước lạnh băng vọt xuống trúng người Lỗ Nhất Khí khiến cậu bừng tỉnh. Đúng lúc này, Chu Chân Mệnh đã chụp được một chiếc túi lưới.

Vào khoảnh khắc Chu Chân Mệnh chụp được hòn đá, hắn đã không còn bất chấp tất cả như vừa mới đó. Bởi vì từ giây phút này trở đi, việc hắn phải làm chính là giữ chắc hòn đá, mà tiền đề của việc này chính là phải giữ được tính mạng của mình.

Đao Thập Lục còn chưa kịp hạ xuống đã phải hứng chịu một chưởng khủng khiếp của Chu Chân Mệnh, giáng thẳng vào bắp chân của gã. Cùng với tiếng xương chân nứt gãy, còn có cả tiếng vật sắc nhọn xé gió lao đi. Đó là tiếng mảnh xương vỡ đâm thủng da thịt phóng vụt ra ngoài.

Cùng lúc này, từ phía trên chỗ Đao Thập Lục đang lơ lửng bỗng vọng xuống một âm thanh khủng khiếp đến rợn gáy, là tiếng lưỡi đao sắc nhọn rạch qua vật cứng. Một tảng băng lớn vỡ toác làm đôi trên tỉnh đầu Đao Thập Lục, văng sang hai bên trái phải rồi lao rầm rầm xuống núi. Tiếng “đá” mà Đao Thập Lục vừa rú lên kinh hãi không phải là chỉ hòn đá bảo bối, mà là chỉ tảng đá băng đang rơi thẳng xuống đầu. Cú nhảy vọt lên của gã cũng không nhằm tranh cướp bảo bối hay tấn công ai, mà là tung người lên chém đứt đôi tảng băng rơi, tránh cho ba người khỏi cảnh tan xương nát thịt.

Chu Chân Mệnh ra đòn với Đao đầu là có dụng ý, hắn muốn mượn thế tấn công này để bật về phía sau, cố gắng kéo giãn khoảng cách với Lỗ Nhất Khí, tránh bị phản công. Đồng thời, chưởng này sẽ đẩy bật Đao Thập Lục văng vào Lỗ Nhất Khí, hắn sẽ nhân lúc Lỗ Nhất Khí mải ứng phó với Đao Thập Lục để cướp lấy hòn đá.

Song diễn biến của sự việc lại khác hẳn với dự tính của hắn. Hắn còn chưa kịp dốc hết sức lực để giằng giật chiếc túi lưới từ phía Lỗ Nhất Khí, thì Lỗ Nhất Khí đã đột ngột buông tay. Trước sức kéo giật kịch liệt, chiếc túi lưới còn lại đã bật thẳng lên cao. Đao đầu sau khi trúng chưởng lại không rơi thẳng xuống đỉnh đầu Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ lực đạo của phát chưởng đó đã bị lực đạo rơi xuống của tảng băng lớn hoá giải hoàn toàn, nên Đao đầu vụt một cái đã rơi thẳng xuống đất. Vừa chạm đất, gã đã bật một chân nhảy vọt lên, lao thẳng về phía chiếc túi lưới vừa bị văng lên.

Hai hòn đá, không biết hòn nào mới là bảo bối, Chu Chân Mệnh tuyệt đối không cho phép Đao Thập Lục giành được bất cứ hòn nào. Hắn lập tức vận lực vào cánh tay, quật vòng sợi dây thừng nối liền hai túi lưới xuống phía dưới, xoay thành vòng tròn. Hòn đá đang ở phía dưới thân hình Đao Thập Lục lập tức đổi hướng, vạch thành một đường vòng cong lao ngược về phía vách đá.

Một cơ hội nghìn năm có một, một cơ hội chỉ Lỗ Nhất Khí mới có thể lợi dụng.

Lỗ Nhất Khí đã ra tay. Không cần tụ khí ngưng thần, cậu đã có thể thực hiện việc nhập vào trạng thái tự nhiên một cách hoàn toàn bản năng, vô thức.

Súng đã nổ. Chỉ một tiếng. Tốc độ và thời gian đạn bắn, cùng với thời điểm bắn đứt sợi dây thừng đều cực kỳ chuẩn xác. Chuẩn xác đến cực điểm chính là sau khi súng nổ thừng đứt, Tự Tại Thiên vừa bay lên theo túi lưới đã văng về phía vách đá với một góc độ tuyệt vời, lách gọn gàng vào khe hở trên phần hung huyệt vừa nứt toác...

Tất cả mọi thứ dường như chết lặng, như đóng băng trong khoảnh khắc, tất cả mọi âm thanh đều đột nhiên câm bặt. Chỉ có Lỗ Nhất Khí cảm nhận thấy sự biến hoá của luồng khí đang lưu chuyển, đang cuộn trào. Những luồng khí đang bao trùm xung quanh ngọn núi nhanh chóng được hút về phía khe nứt, cô đặc thành một khối, rồi chui tọt vào trong.

Ngay lập tức, một dải cầu vồng bừng hiện trên dãy núi Thiên Thê. Khi vừa xuất hiện, dải cầu vòng có dạng quanh co uốn lượn hệt như hung mạch vừa lộ ra trên vách núi, sau đó mau chóng vươn dài về phía nam, uốn thành một vòng cung tròn trịa, hệt như một cánh cung kéo căng hết cỡ.

Mọi diễn biến tưởng như khá lâu dài, song kỳ thực, đến lúc này, Đao Thập Lục mới kịp hạ xuống.

Bàn chân gã Đao đầu vừa tiếp đất, núi Thiên Thê đột nhiên rùng rùng chấn động, sau đó toàn bộ trái núi âm thầm phân rã rồi sụp xuống trong lặng lẽ, tựa như một đụn cát khổng lồ đang tan rã. Chỉ có điều những thứ rời rã ra không phải là cát, mà là vô số băng, tuyết và đá tảng.

- Băng lở rồi! Chạy mau!

Xa xăm dưới chân núi vẳng lại tiếng gào thét tới lạc giọng, song vừa kịp cất lên, đã mau chóng chìm nghỉm trong hàng tràng những tiếng lăn trượt động trời.

Chu Chân Mệnh hành động nhanh nhất. Hắn tung người nhảy vọt lên, lao thẳng về phía những khối băng tuyết và đá tảng đang sầm sập trượt xuống. Đối với những cao thủ công lực siêu phàm, cách này có lẽ sẽ khả quan hơn so với bỏ chạy xuống phía dưới. Chỉ cần di chuyển thân hình mau lẹ, né tránh những cú đâm trời giáng của băng tuyết và đá tảng, sẽ hạn chế được thấp nhất khả năng bị chôn vùi dưới băng đá.

Tuy Đao Thập Lục đã bị thương một bên chân, song cả bốn chân tay hợp lực, vừa lăn vừa bò, tốc độ không hề chậm chạp. Gã lao chênh chếch xuống phía dưới, đây là một lựa chọn đầy kinh nghiệm. Nếu phương hướng chính xác, tốc độ đủ nhanh, vẫn có thể thoát ra khỏi phạm vi bao phủ của trận băng lở.

Chỉ còn Lỗ Nhất Khí vẫn đứng im tại chỗ. Không phải cậu không muốn bỏ chạy, mà vì choáng ngợp và sửng sốt quá mức nên không còn biết phải bước đi như thế nào. Chính vào lúc đó, chợt có hai bóng dáng thướt tha lướt băng băng tới bên cậu, là Dưỡng Quỷ Tỳ và Hạ Táo Hoa. Hai người mỗi người một bên, xốc ngay Lỗ Nhất Khí lên, rồi lập tức vòng ngược trở lại.

Lỗ Nhất Khí quả quyết kêu lên:

- Nhảy xuống đây!

Rồi kéo theo hai cô gái, tung người nhảy vụt xuống vách đá sạt lở mà xưa kia vốn là nơi xây dựng bảo cấu...

Băng tuyết và đá lở trút xuống rào rào như mưa mùa hạ, núi Thiên Thê mau chóng thấp xuống, nhỏ lại, cuối cùng chỉ còn là một sườn dốc thấp lè tè chếch về phía nam. Còn chùa Kim Đỉnh và thị trấn đều biến mất không còn tăm tích, đoạn thung lũng kẹp giữa hai trái núi hầu như đã bị đá tảng lấp bằng.

Tất cả đã trở về tĩnh mịch. Một bầu tĩnh mịch chết chóc kéo dài. Không còn ai sống sót. Cũng không nhìn thấy một con vật sống. Chỉ còn một con chim ưng săn mỏ hoa Trường Bạch lông lá xác xơ đang chập choạng lê lết giữa đám đá băng lởm chởm.

Rất lâu, rất lâu sau đó, mặt trời đã rụng xuống trời tây, vạn vật lại chìm vào đêm tối. Lúc này, trong một bầu chết lặng trải dài, mới vang lên vài âm thanh khe khẽ, tựa như xác chết đội đất chui lên, lại tựa như hồn ma lang thang trong đêm tối.

Vào ngày hôm sau, một số dân cư may mắn thoát chết mới dám trở về, đào bới tìm kiếm người thân, chòm xóm. Sau khi cơn hoả hoạn bốc lên, do gió đột ngột đổi hướng, nên đại đa số dân cư đã bị ngọn lửa bủa vây trong trấn, chỉ một số ít thoát được ra ngoài. Núi sập đá lở, sức mạnh huỷ diệt khủng khiếp khó bì, bởi vậy dù đã dốc hết sức bình sinh đào bới, cũng chỉ có thể lôi lên được vài cỗ xác người giập nát. Còn những mẩu tay chân, những mảng thi thể, những bãi máu vương vãi đâu đâu cũng gặp. Tiếng khóc hờ thảm thiết ai oán cứ nối nhau suốt mấy ngày trời không dứt.

Trong đám người đào xới tìm kiếm, ngoài dân Tạng trong vùng, còn có một số người Trung Nguyên phục sức kỳ lạ, chỉ tìm kiếm qua loa nửa ngày, rồi tuần tự bỏ đi.

Nửa tháng sau, băng tuyết lở xuống cùng đá vụn đã tan chảy hết, nước băng tuyết đổ về tích tụ tại vị trí lõm xuống trong đám đá vụn, hình thành một con hồ. Bên hồ còn xuất hiện một vài nguồn suối, trong đó có cả suối nước nóng phun trào, hơi nước toả mù mịt, bay lãng đãng trên mặt hồ xanh biêng biếc, trông chẳng khác gì tiên cảnh.

Trong “Tạng địa lý chính chí” có chép: “Vào ngày dương tiết giữa theo lịch Tạng, hẻm núi hoang vu phía tây xảy ra hiện tượng băng trôi đá lở, vùi lấp một thị trấn lớn. Dân cư, súc vật tử thương nhiều không kể xiết. Khe núi bị đá lấp thành hồ, có suối nước nóng phun ra”.

Trong “Bách niên Tạng Phật thông ký” có đoạn: “Chùa Kim Đỉnh chưa nhập vào Phật tông, Phật sống chùa Kim Đỉnh chưa được chép chính thức trong tăng phả. Tuy truyền thụ Phật lý cực tinh thâm, song không luận giảng cho người. Núi sập, cả chùa và sư đều bị huỷ diệt”.

Trong dân gian vùng đất Tạng truyền rằng, chùa Kim Đỉnh dưới núi Thiên Thê mượn danh nghĩa Phật vơ vét của cải, bị trời Phật trừng phạt, cho núi sập mà san phẳng.

Chú thích

[32] Có nghĩa là sao sáng xoay quanh mặt trời.

[33] Tướng trang nghiêm ý nói nơi tàng bảo cần có đài đỡ, có mái che, có nơi cúng tế để hấp thu tinh hoa nhật nguyệt.

[34] Có nghĩa là Phật giảng giải về việc nhìn thấy kiếp trước.

[35] Có nghĩa là khí dương của bảo bối đảo lộn, khoá kín khí âm hung.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
558,532
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 6 - Chương 30: Phần Kết: Trước Thiên Câu


Khi rời khỏi Thiên Câu mịt mờ sương khói phảng phất máu tanh, Chu Ngộ Tâm liếc nhìn cánh cửa bảo cấu nguỵ tạo bằng bóng đá ngấn nước, lại dõi mắt nhìn dãy núi hùng vĩ trập trùng, sắc biếc ngút ngàn, liên miên bất tận. Tận cùng của chân trời là một dải mây lững lờ trôi nổi. Bảo cấu đang ẩn mình ngay trong dãy núi miên man kia, thế nhưng dưới gầm trời này, duy chỉ hậu duệ của Lỗ gia mới có thể tìm ra bảo cấu. Dưới gầm trời rộng lớn, liệu có ai biết được hậu duệ của Lỗ gia đang ở nơi đâu? Hoặc có lẽ, họ chính là áng mây đang trôi nổi cuối chân trời.

o O o

Lúc phó quan Ngô tới vùng giao giới Xuyên Tạng, thời gian đã quá nửa đêm. Vài chục cây đuốc bằng gỗ thông tẩm mỡ bò Tây Tạng cháy lép bép, chiếu sáng rực một phạm vi vài chục bước chân. Nhưng trước mắt càng sáng sủa, càng khiến cho bóng đêm ở phía xa thêm thẳm sâu đặc quánh, không biết liệu có ác quỷ hung ma nào đang rình rập.

Có điều bận rộn sẽ khiến người ta quên đi sự sợ hãi, đám người do phó quan Ngô dẫn theo, ngoài một vài người vẫn cảnh giác trông chừng bốn phía, những người còn lại đều tất bật luôn tay.

Tuy phó quan Ngô không đích thân tham gia, song luôn miệng hò hét, sai khiến, đốc thúc không ngơi nghỉ lấy một giây. Xem ra, ông ta còn sốt ruột và căng thẳng hơn cả những người đang tay chân bận bịu.

Phó quan Ngô nghe theo lời dặn của Lỗ Nhất Khí, dẫn người tới đất Xuyên trước. Nào ngờ trên đừng gặp một người đồng hương làm quan chấp hành ở phủ đại soái Tứ Xuyên, bị người đồng hương này bán đứng cho đại soái Tứ Xuyên. Thì ra bản thân phó quan Ngô cũng không hay biết, sau khi ông bí mật chuồn khỏi thành Bắc Bình, các lộ quân đều đồn đại rằng ông đã dẫn người đi tìm bảo bối. Đồn thổi lắm, thêu dệt nhiều, cuối cùng ông ta đã bị thổi phồng thành một thần nhân có thể nhìn ra kho tàng sâu trong lòng đất. Bởi vậy, vừa tới phủ đại soái Tứ Xuyên, ông đã được tiếp đón vô cùng long trọng, song bên cạnh đó, cũng bị thủ hạ của đại soái kiểm soát gắt gao. Bởi lẽ đại soái rất muốn có một nhân tài như vậy để giúp ông ta đào trộm mộ cổ, vơ vét tiền của để bổ sung kinh phí cho quân đội.

Phó quan Ngô không còn cách nào khác, đành phải nhận lời đi đào mộ cổ, sau đó đưa người và vật dụng tới vùng giáp ranh đất Tạng. Ý đồ của ông rất rõ ràng, hy vọng có thể gặp Lỗ Nhất Khí ở đây, tới lúc đó muốn đào tìm kho báu hay chạy thoát thân, hẳn cũng không có gì khó.

Nhưng đã nhiều ngày trôi qua, không những không gặp được Lỗ Nhất Khí, mà với cả đống người và trang thiết bị mang theo, ông ta cũng chẳng đào được thứ khỉ mốc gì, khiến đại soái đùng đùng nổi giận, cảm thấy phó quan Ngô đang giỡn mặt mình. Ông ta đã đưa ra lời đe doạ, nếu vẫn không đào được mộ lớn, sẽ chôn sống luôn phó quan Ngô xuống đáy mộ. Bởi vậy phó quan Ngô đã đặt hết tâm huyết vào ngôi mộ nằm dựa vào chân núi trước mặt, hy vọng nó có thể giúp ông thoát khỏi mối nguy kề cổ.

- Trưởng quan Ngô, thuốc nổ đã bố trí xong xuôi, nhìn vào vết tích đường vào huyệt mộ, lát nữa thôi sẽ có thể nổ tung tới vị trí tường kim cương. - Người báo cáo tình hình với phó quan Ngô là một tay trộm mộ tài giỏi mà phủ đại soái chiêu mộ được.

- Thuốc nổ có quá nhiều không đấy, đến lúc đó lại sập tận nóc thì nguy! – Phó quan Ngô lo sợ những món quý giá trong mộ sẽ bị thuốc nổ phá huỷ.

- Không đâu! Nhìn vào chu vi, thì huyệt này chí ít cũng có đến ba tầng mộ thất. Cho dù có nổ sập cả tường kim cương, cũng chỉ tới gian mộ thất ngoài cùng được thôi.

- Vậy thì mau châm lửa đi, trời sắp sáng rồi. Vật quý trong mộ gặp ánh sáng mạnh là hỏng bét!

Tuy đã nghe phó quan Ngô giục giã, song tay trộm mộ vẫn đứng đờ ra không nhúc nhích, chỉ thấy mắt mũi trợn trừng, vành tai giật liên hồi kỳ trận.

- Nghe thấy gì à? – Phó quan Ngô lo lắng hỏi.

Tay trộm mộ không trả lời, sắc mặt xám ngoét đầy sợ hãi. Dưới ánh đuốc chập chờn, trông vẻ mặt hắn ma quái dị thường. Tiếp đến, cơ thịt trên mặt hắn bắt đầu giật lên rùng rùng theo một tiết tấu quái dị, sau đó là cả người rung giật.

Phó quan Ngô cũng rung lắc thân hình với một tiết tấu quái đản y hệt, thân hình đã không thể nào kiểm soát nổi nữa. Bởi vì toàn bộ mặt đất đang rung lên bần bật, biên độ rung lắc mỗi lúc một kịch liệt hơn.

- Là phía dưới! Nắp sắp nứt toác rồi! – Tay trộm mộ chỉ vào ngôi mộ lớn, hét toáng lên, tiếng hét đứt quãng trong cơn rung lắc điên cuồng. Vừa dứt lời, tay trộm mộ lập tức ngã sấp luôn xuống. Trong đám người xung quanh, kẻ nào nhanh nhẹn thì bắt chước ngay tay trộm mộ, nằm sấp xuống cả lượt; kẻ nào chậm chạp vẫn đứng trơ ra tại chỗ, mặt trợn trừng miệng há hốc vì khiếp đảm.

Biên độ rung lắc đã vô cùng dữ dội. Ngay sau đó, từ dưới lòng đất vọng lên một tràng những tiếng gầm rú khủng khiếp vang rền, tựa như một con yêu quái khổng lồ đang lồng lộn trong tầng sâu huyệt mộ chuẩn bị xông ra.

Gần rồi, đã rất gần rồi. Phó quan Ngô phán đoán, nếu luồng sức mạnh quái đản dưới lòng đất kia phá đất chui lên, thì vị trí nó xông ra có lẽ chính là ngay trước mặt ông. Bởi vậy phó quan Ngô không nằm ệp xuống, mà muốn bỏ chạy. Song đất dưới chân chao đảo liên hồi, cố gắng thế nào cũng không thể cất bước.

Chuỗi âm thanh kỳ lạ đột nhiên ngưng bặt, mặt đất chao đảo chốc đã lặng phắc. Những thân hình đang gắng gượng hết sức để đứng vững trong cơn rung lắc nhất thời không phản ứng kịp, theo nhau ngã dúi dụi. Phó quan Ngô không ngã, hai chân ông ta vừa lỏng ra đã quỳ sụp trên đất, đối diện với tấm bia đá nứt toác.

Tay trộm mộ đang bò lồm cồm trên đất. Hắn xưa này ăn cơm giang hồ, nên phản ứng nhanh nhẹn hơn hẳn đám quân binh. Âm thanh và cơn rung lắc vừa chấm dứt, hắn đã lập tức nhảy phắt dậy. Nhìn thấy phó quan Ngô đang quỳ trước bia mộ, lập tức lao vụt tới, chụp lấy hai tay phó quan Ngô kéo giật về phía sau, miệng bật ra vài chữ run rẩy:

- Ma cứng gối! Ma cứng gối!

“Ma cứng gối” là một truyền thuyết lưu truyền trong giới trộm mộ, nói rằng nếu đào nhầm mộ hung huyệt ác, ma quỷ trong mộ sẽ tác oai tác quái, khiến hai đầu gối kẻ trộm mộ cứng đờ mà quỳ sụp phía trước mộ hoặc bên trong mộ. Nếu không được giải cứu kịp thời, cuối cùng máu đông người cứng mà chết, khi chết không có thương tích, chỉ có khuôn mặt là tím bầm biến dạng. Nếu giải thích một cách khoa học, là do trong kiến trúc bảo vệ mộ có chứa chất độc, hoặc xác chết đã được ngâm trong chất độc đề phòng thối rữa, sau một thời gian dài, độc tố sẽ bốc hơi thành thể khí. Khí độc sẽ hoà lẫn với các chất khí khác trong hầm mộ, tạo thành một hỗn hợp khí khá nặng, chìm lắng dưới nền của mộ thất. Nếu chui vào trong hầm mộ kiểu này mà không thông gió kịp thời, khí độc sẽ xâm nhập vào chân trước tiên, khiến tế bào và hệ thống thần kinh ở chân tê liệt, hoại tử. Hai chân cứng đờ không đứng vững, cơ thể tự nhiên sẽ quỳ sụp xuống. Lúc này, nếu khí độc dâng lên mũi miệng, sẽ lập tức tắc thở mà chết.

Tay trộm mộ mới lôi phó quan Ngô đi được ba, bốn bước, phó quan Ngô đã đứng bật dậy bước đi theo hắn. Tay trộm mộ sững lại, lập bập hỏi:

- Không phải là ma cứng gối ư?

- Không phải! Trời ơi! Chuyện gì thế này?

Chính vào lúc này, đất đá dưới chân họ bỗng âm thầm nhúc nhích, rồi một khoảng đất to cỡ cỗ xe hai ngựa từ từ trồi lên trên.

- Chạy mau, quanh mộ có nút lẫy! – Tay trộm mộ cuống cuồng kéo phó quan Ngô chạy tới một tảng đá nhô ra ở bên cạnh, còn chưa tới nơi đã tung mình nhảy vụt đi, lăn lông lốc đến phía sau tảng đá.

“Rầm... Rầm... Rầm!”

Ba tiếng nổ xé trời dội lên liên tiếp nghe muốn rụng tim vỡ mật. Đá vụn bắn tung toé, bụi đất bốc mịt mù. Một khối đá vuông vức to tướng bật nhào khỏi mặt đất, rồi nện xuống “uỳnh” một tiếng như trời giáng.

Xung quanh đã yên tĩnh trở lại, bụi đất tung mù cũng dần tản bớt. Đám người trộm mộ vẫn nằm bò toài trên đất, hoặc cuộn mình chui rúc trong các khe rãnh xó xỉnh, đến thở mạnh cũng không dám. Đuốc rơi vãi tứ tung trên đất, ánh lửa phập phù chập choạng như sắp tắt đến nơi.

Một hồi lâu sau, tay trộm mộ và phó quan Ngô cuối cùng cũng đã lấy hết dũng khí bước ra từ phía sau mỏm đá, nem nép tiến về phía khối đá to lớn vừa bật ngược lên.

Khối đá bật lên để lộ ra một con đường dốc. Nhìn vào mặt đường và vách tường hai bên, đoán rằng có lẽ đây là đường thông ra ngoài của ngôi mộ lớn.

Tay trộm mộ nhặt một hòn cuội tròn nhẵn ném xuống con đường, hòn cuội lập tức lăn đi lông lốc tới tít xa mới dừng lại.

- Không phải rồi, khoảng cách này đã vượt qua mộ thất đầu tiên. Ngôi mộ này tại sao lại không có cửa kim cương nhỉ? – Tay trộm mộ lại lôi ra một vật hình cầu, châm vào một ngọn đuốc gần tàn đang lăn lóc trên mặt đất. Vật này được giới trộm mộ chuyên dùng để dò đường, xua đuổi âm uế, gọi là cầu gai ngâm dầu. Quả cầu kết bằng gai trông không lớn, song lại cháy thành một khối lửa không nhỏ chút nào. Quả cầu lửa lăn dọc theo đường hầm, khi nó lăn được một nửa, tay trộm mộ vội vã bước vào theo.

Phó quan Ngô vội hô gọi những người khác cầm đuốc đi vào trong hầm mộ. Vài chục ngọn đuốc đã chiếu sáng rực đoạn đường hầm. Sau khi bước vào mới thấy, mộ thất cũng có cửa kim cương, song đã được mở ra. Tiếp tục vào trong là gian mộ thất bên ngoài và mộ thất bên cạnh, song nơi nào cũng trống huơ trống hoác, chẳng thấy bóng dáng một món tuỳ táng nào. Chỉ thấy cả đống lưỡi đao, mũi tên hoen gỉ gãy nát la liệt đầy đất.

Con đường hầm thông tới gian mộ thất chính rất khó đi, phải cúi gập lưng hoặc áp sát vách tường mới tiến lên được. Bởi vì trên nóc hầm treo lủng lẳng hơn chục súc gỗ tròn to tướng, dây xích buộc gỗ đã hoen gỉ tới thảm hại. Khi các súc gỗ đung đưa, chúng phát ra những tiếng cọt kẹt vô cùng rùng rợn.

Trong mộ thất chính, ngoài một cỗ quan quách cỡ bự, không có bất kỳ thứ gì khác.

- Thế này là sao? Chẳng có cóc khô gì cả! – Phó quan Ngô vô cùng thất vọng - Bật quan tài ra xem thử, không chừng đồ quý giá đều giấu cả trong đó!

- Không phải là không có, mà đã bị người khác vét sách rồi. – Tay trộm mộ nói – Quái lạ thật, bọn người đó chui vào đây bằng cách nào nhỉ? Lại còn lật ngược nút khảm trong mộ, cứ như cố ý dẫn chúng ta vào đây.

Phó quan Ngô nghe hắn nói vậy, có vẻ không hiểu lắm. Tay trộm mộ bèn giải thích một lượt cho ông ta nghe:

- Toàn bộ cơ quan của ngôi mộ lớn này được bố trí theo hình thức lực chồng nhau. Có nghĩa là khi khảm nút thứ nhất bị phá, lực đạo từ chốt lẫy của nó sẽ tăng cường vào khảm nút tiếp theo, như vậy, lực tác động của khảm nút tiếp theo sẽ càng mạnh mẽ hơn. Cứ tiếp tục tương tác như vậy, càng về sau, thế tấn công của khảm nút càng ghê gớm. Những tiếng động quái dị vọng lên từ trong lòng đất khi nãy là do có người đã phá bỏ toàn bộ các chốt lẫy trong mộ. Khảm diện “tường loạn hợp” trong mộ thất chính, bên ngoài có “gỗ lăn kẹp”, còn có “mưa tên bay”, “đao tròn mây cuốn”. Chúng ta dù có liều mạng xông vào, cũng chưa chắc đã tới được đây. Kẻ giải khảm trong mộ hẳn là cao thủ cực kỳ lợi hại, hơn nữa vừa mới đi khỏi chưa lâu. Vấn đề là hắn ra vào từ chỗ nào?

Phó quan Ngô như bừng tỉnh, vội vã đảo mắt quan sát khắp một lượt xung quanh, cuối cùng ánh mắt vẫn dừng lại ở cỗ quan tài duy nhất trong một thất.

- Người đâu, mau di chuyển quan tài!

Cỗ quan tài được dịch sang một bên, phía dưới hiện ra một đường hầm dài chật hẹp.

- Trời! Nhập huyệt từ bên dưới! Đây là thủ pháp dời non phá núi. – Tay trộm mộ đã nhận ra.

Nghe được lời này, phó quan Ngô đột nhiên như hiểu ra điều gì, vội nói:

- Bật nắp quan tài ra!

Nắp quan tài được lật sang một bên. Phía trong, ngoài mớ xương cốt khô queo như đất, còn có một phong thư, một phong thư còn thơm mùi mực.

Phó quan Ngô vội chụp lấy phong thư, trong lòng vô cùng rầu rĩ thất vọng. Ông biết mình đã bỏ lỡ mất một thứ quan trọng hơn gấp bội so với những món tuỳ táng trong hầm mộ.

- Người chưa đi xa, hiện tại đuổi theo vẫn kịp! – Có người nhắc nhở.

Song phó quan Ngô còn chưa kịp đưa ra quyết định, bên ngoài bỗng rộn lên tiếng kêu réo ầm ĩ. Âm thanh truyền vào từ cửa mộ, văng vẳng trong gian mộ thất âm u.

Phó quan Ngô vội vã xông ra khỏi đường hầm mộ, chỉ nhìn thấy trên không trung một vầng sáng rực rỡ như vô số đốm sao trời đang dần dần chuyển từ hình tròn sang hình chiếc rìu. Hình dạng này phó quan Ngô đã nhận ra, giống y hệt hình Lộng phủ của Lỗ gia. Vầng sáng hình Lộng phủ chỉ duy trì trên không trung chốc lát, rồi dần dần biến thành hình con chim bồ câu đang dang cánh bay, với phần đuôi như ngọn lửa cháy bùng. Chim bồ câu lấp lánh trên không trung một lúc rồi dần dần tắt lịm.

Phó quan Ngô đứng ngẩn người nhìn lên bầu trời đã tối tăm trở lại, đột nhiên như bừng tỉnh. Thứ quý giá kia ông vẫn chưa vuột mất. Ông bèn đưa phong thư đang cầm trong tay ra xem, bên ngoài phong thư chỉ vỏn vẹn một hàng chứ khải: “Khẩn cấp gửi tới Bán Sơn Lam ở đồng cỏ Tát Nguyệt Ngạch núi Cổ Mã”.

Lá thư của Lỗ gia. “Khẩn cấp”, đây cũng chính là nội dùng mà đợt pháo hoa vừa nhắn nhủ. Phó quan Ngô hiểu rằng, chuyện này mình cần phải thực hiện một cách cấp tốc nhất, trọn vẹn nhất có thể.

- Người đâu, mau chuyển lá thư này theo đường thư tín quân sự, nhất thiết phải đảm bảo tới nơi nguyên vẹn và nhanh chóng! - Ở vùng Xuyên Tạng hoang vu hẻo lánh, có lẽ không còn cách đưa thư nào an toàn và nhanh chóng hơn đường thư tín quân sự.

- Tính mạng của bản thân gia tộc đều trông cả vào nó! – Phó quan Ngô bồi thêm một câu đầy uy hiếp. Những người nghe thấy đều cảm tưởng rằng tình mạng của bọn họ đều trông chờ cả vào bức thư này, nhưng chỉ có phó quan Ngô mới biết, câu nói đó chỉ dành riêng cho ông.

Từ trên đỉnh đồi, Cửu thiên hoả ưng Viêm Hoá Lôi nhanh chóng trượt xuống chân dốc. Dưới chân dốc đã có một cỗ xe ngựa lớn đang chờ sẵn. Trên xe lố nhố năm sáu người, ai nấy sùm sụp áo choàng đen kín mít, đến khuôn mặt cũng che kín quá nửa. Có điều nhìn vào thân hình, có thể đoán ra trong bọn có cả nam và nữ.

- Cậu cả! Thư pháo hiệu đã nổ hết rồi! – Viêm Hoá Lôi nói với một người trong bọn họ.

- Tốt rồi, thư chuyển theo đường quân sự, ba ngày sau có thể tới tay Bán Sơn Lam. Chúng ta ở đây thêm ba ngày nữa, sau đó dẫn theo phó quan Ngô cùng đi! - Giọng nói của người này vô cùng điềm tĩnh, hơi thở hài hoà, song lại mang một uy thế không thể kháng cự.

Viêm Hoá Lôi nhẹ nhàng nhảy lên xe ngựa. Chiếc roi dài trong tay một người ngồi phía trước vút lên âm thầm giữa không trung. Bóng roi vừa lướt qua trước mặt ngựa kéo xe, vó ngựa lập tức lóc cóc khởi hành. Rất nhanh, cỗ xe đã biến mất trong khe núi dưới chân dốc.

Vào tảng sáng ba ngày sau, Bán Sơn Lam ở đồng cỏ Tát Nguyệt Ngạch núi Cổ Mã đã nhận được thư. Sau khi bóc thư, bên trong còn có một phong thư nữa. Trên phong thư đề: “Gửi pháp sư Vô Do chùa Thiên Long”. Ngoài những chữ này, còn có một đường loằng ngoằng trông rất quái lạ. Đường cong này tượng trưng cho thứ gì, chỉ có một số người biết được, trong đó có Bán Sơn Lam. Đó là hình vẽ một chiếc roi ngựa dài độc nhất vô nhị.

Bán Sơn Lam lập tức gọi tới một tay đàn em được việc nhất, dặn dò:

- Chuyển bức thư này tới pháp sư Vô Do chùa Thiên Long tại Đại Lý theo đường la ngựa.

Khi đó, từ đất Xuyên tới Vân Nam, cách nhanh nhất chính là đi theo đường la ngựa. Đường la ngựa đều do các băng nhóm dân gian kiểm soát, cũng giống như băng nhóm Ao Ca kiểm soát đường thuỷ tại đất Xuyên. Hơn nữa, do các băng nhóm trên đường la ngựa đều cần đến ngựa khoẻ và người đánh xe giỏi, bởi vậy rất nể mặt Bán Sơn Lam và Biện Mạc Cập. Bên cạnh đó, đường la ngựa cũng là con đường an toàn nhất.

Song người nhận thư cuối cùng lại không phải là đại sư Vô Do. Vậy bước tiếp theo sẽ phải chuyển thư bằng cách nào? Liệu đại sư Vô Do có thể đưa thư thuận lợi hay không?

Tuy tiết trời đã cuối thu, song ở vùng Hải Nam vẫn chưa cảm nhận được cái giá lạnh. Sa Khẩu đứng trên một tảng đá nhô trên mặt nước, dưới chân là mặt biển biêng biếc xanh trong, nhìn thấu cả rặng san hô và đàn cá bơi lội nhởn nhơ dưới đáy. Nhưng khác với thường ngày là ở chỗ, dưới nước lúc này ngoài san hô và cá lội tung tăng, còn có thêm những người đang bơi lặn như cá.

Sa Khẩu tuy đứng bên bờ, song lại không quan sát tình hình dưới nước. Bởi lẽ chỉ cần nhìn vào những con sóng dập dềnh và hướng lan toả của sóng nước, hắn đã có thể phán đoán về tình hình chiến sự dưới kia. Trận kịch chiến dưới nước sẽ kết thúc rất chóng vánh, tuy là một chọi ba, song giành chiến thắng lại là phe một người.

Cách chỗ Sa Khẩu đứng không xa, có một tảng đá to lớn hơn nữa. Hình dạng của tảng đá rất đặc biệt, giống như một nóc nhà nhô trên mặt nước. Xa xa ở mé phía nam tảng đá đó có một hòn đảo không lớn lắm. Dọc bãi cạn ven đảo có một vạt nhà bè, là chốn quần cư của gia tộc Đản sống trên thuyền chuyên nghề chài lưới. Lúc này đang có vài con thuyền gỗ nhỏ xuất phát từ phía nhà bè chèo về phía này.

Chính vào lúc đó, mặt nước dưới chân Sa Khẩu bỗng gợn lên vài gợn sóng nhọn hoắt rối loạn, ngay sau đó lại xuất hiện vài vòng xoáy nhỏ. Sa Khẩu biết trận chiến đã sắp kết thúc, chiêu thức của đao đâm cá đã hoàn toàn rối loạn, đao phá vỏ đã bắt đầu đòn tàn sát cuối cùng.

Quả đúng như vậy, chỉ chốc lát sau, một khối đỏ ngầu sủi bọt đã loang rộng và nổi lên mặt nước, một vùng nước trong xanh tinh khiết bỗng chốc trở nên vẩn đục. Trong khi những dòng đỏ ối vẫn đang tiếp tục cuộn trào, thì một thân hình mảnh mai xinh đẹp bỗng đột ngột lao vọt lên khỏi mặt nước, hệt như cá heo nhảy sóng. Sau khi vụt lên khỏi mặt nước, thân hình đó còn uyển chuyển xoay lắc vài nhịp trên không trung, lại có thể di chuyển ngang thêm một đoạn nữa, rồi nhẹ nhàng đáp xuống bên cạnh Sa Khẩu. Người vừa lao lên là một cô gái trẻ, mình mặc bộ đồ lặn bó sát người, không những thân hình thon thả yêu kiều, mà khuôn mặt cũng vô cùng xinh đẹp. Khiếm khuyết duy nhất ở cô là nước da ngăm đen. Song bất kể xét từ phương diện nào, cô đều không giống một người vừa hạ gục ba cao thủ trong cuộc hỗn chiến dưới nước.

- Giải quyết xong cả rồi? – Sa Khẩu hỏi.

- Xong rồi! – Cô gái không những dung mạo xinh đẹp, mà giọng nói cũng rất ngọt ngào dễ nghe.

- Nhìn vào chiêu thức, có nhận ra là lộ nào không? – Sa Khẩu lại hỏi.

- Không giống mấy lần trước, lần này dường như là vùng nước phía bắc.

Sa Khẩu không nói gì, chỉ ngoái đầu nhìn tảng đá ngầm giống hệt nóc nhà, vẻ mặt rất đăm chiêu.

- Lần này đã là lần thứ năm rồi. Hai lộ đầu tiên là từ Tiềm Võng đường ở vùng này. Hai lộ tiếp theo là bọn Phúc Kiến ở vùng biển phía đông và đám cao thủ bơi lội vùng sông ngòi Giang Chiết. Lần này, nhìn từ chiêu thức và phương pháp lấy hơi, có vẻ giống như một bang phái nào đó ở vịnh Bột Hải. – Cô gái trả lời.

Sa Khẩu vẫn nhìn chằm chằm vào tảng đá hình nóc nhà, không nói câu gì.

- Xem ra đối thủ đã nhắm tới khu vực này. Anh ơi, người mà anh nói bao giờ mới tới? Nếu không nhanh chóng xử lý đại sự nơi đây, đối thủ lại điều thêm cao thủ hoặc tập trung đông đảo lực lượng kéo tới, thì hai chúng ta sao có thể chống đỡ nổi? - Vẻ mặt cô gái vô cùng lo lắng.

- Đã tới rồi! Chúng ta gấp rút chuẩn bị thôi! – Không rõ Sa Khẩu nói “đã tới rồi” là ám chỉ người kia hay là đối thủ.

Sa Khẩu hướng về phía mấy con thuyền gỗ nhỏ phía xa, hét thật lớn vài câu bằng thứ phương ngữ không ai hiểu nổi. Dứt lời, phần lớn những con thuyền đó đều quay đầu trở lại, chỉ còn một con thuyền vẫn tiếp tục tiến về phía tảng đá ngầm.

- Anh ơi, anh bảo họ lập tức buông lưới móc câu và bẫy nước cuộn quấn mái chèo, nhưng những thứ đó chúng ta vẫn chưa chuẩn bị đủ số lượng cần thiết, nhiều nhất cũng chỉ có thể vây một nửa đài Mộc Triều thôi!

- Không kịp nữa rồi, vây được bao nhiêu biết bấy nhiêu. Bối Nữ, em xem mặt trời lại ngả về tây rồi, thuỷ triều vừa rút, toàn bộ đài Mộc Triều sẽ lộ diện! – Tuy nói như vậy, song vẻ mặt Sa Khẩu lại không tỏ vẻ gì sốt ruột.

Con thuyền nhỏ mau chóng chèo đến sát tảng đá, Sa Khẩu và Bối Nữ bước lên thuyền, di chuyển về phía tảng đá to lớn có hình mái nhà. Xa xa phía vạt nhà bè, rất nhiều thuyền nhỏ chở đầy đồ đạc cũng chèo về phía tảng đá. Một bầu không khí bận rộn và căng thẳng mau chóng lan toả xung quanh tảng đá ngầm to lớn.

Mặt trời lặn xuống rất nhanh, song thuỷ triều rút xuống còn nhanh hơn nữa. Khi chân trời phía tây chỉ còn lại một vệt đỏ lờ mờ, phần lớn tảng đá ngầm đã nhô lên khỏi mặt nước. Lúc này, trông tảng đá ngầm càng giống một toà lầu, một toà lầu phi vân kiểu dáng Đông Chu với phần mái chồng diêm hai tầng tám góc, nổi lên trên mặt nước mênh mông phẳng lặng, trông nổi bật và kỳ dị vô cùng.

Tảng đá ngầm nhỏ hơn mà Sa Khẩu đứng ban nãy cũng đã nhô cao trên mặt nước, tựa như một thanh kiếm sắc nhọn cắm vào sóng biển. Mặt nước vẩn máu đỏ ngầu bên tảng đá đã lại trong veo như cũ. Người dưới nước vẫn còn, có điều đã trở thành ba xác chết với bụng ngực phanh phui. Bầy cá tung tăng bơi lội hồi chiều giờ bắt đầu nhởn nhơ rỉa xác. Bỗng nhiên, không hiểu có chuyện gì, bầy cá chợt hốt hoảng dạt ra tứ phía.

Chỉ cần bước lên phía trước thêm vài bước, sẽ là vách đá dựng đứng. Độ cao mà mắt nhìn thấy được và độ sâu suy đoán được khiến Lỗ Thiên Liễu không đủ dũng khí để tiến về phía bờ mép thêm nửa bước chân.

Thiên Câu rất dài, tựa như có một lưỡi đao khổng lồ sắc ngọt đã chém toạc một đường thẳng tắp trên cao nguyên Vân Quý. Dọc theo Thiên Câu nhìn về phía xa, thấy phía dưới Thiên Câu cỏ cây rậm rạp, xanh tốt um tùm. Tuy rất e sợ độ cao của Thiên Câu, song ngút ngàn sắc biếc dưới khe lại mang tới cho Lỗ Thiên Liễu một cảm giác thân thiết như trở về nhà cũ.

Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, từ sâu thẳm bên dưới Thiên Câu phơ phất bay lên những làn chướng khí nhàn nhạt đủ màu, tích tụ mỗi lúc một dày, khiến một dải Thiên Câu mờ ảo trong những sắc màu rực rỡ. Trong “Tây nam du dị tập” của Thi Thệ Kiệt đời Minh có đoạn viết: “Dưới rãnh vật thối rữa tích tụ, nắng chiếu vào thành sương mù. Sau giờ Ngọ sương mù trong rãnh mới bốc lên, tới nửa đêm thì tan, tuy màu sắc rực rỡ tựa cầu vồng, song cực độc không thể chạm vào... gọi là sương độc”. Nếu giải thích một cách đơn giản, sương độc chính là một dạng sương mù chứa độc tố. Tuy màu sắc vô cùng diễm lệ, song cũng giống như loài nấm, màu càng sặc sỡ lại càng độc.

Vết tích hình ngọn tháp lờ mờ in trên vách phía tây của Thiên Câu lúc này đã bị sương độc che khuất một nửa phía dưới, không còn nhìn thấy hình cửa vào. Vào buổi sáng, khi sương mù chưa toả, chỉ cần căn cứ vào sự phân bố sáng tối của ánh sáng, Lỗ Thiên Liễu đã phát hiện ra hình cánh cửa tuy trông có vẻ giản đơn, song toàn bộ bề mặt có độ lồi lõm nhịp nhàng, đó là một cách bố trí vô cùng tinh xảo.

Ngoài Lỗ Thiên Liễu, một người nữa cũng đã nhận ra nét tinh xảo trong đó. Người này là bạn thân của Lỗ Thịnh Nghĩa, hai người đã kết mối thâm giao khi Lỗ Thịnh Nghĩa tới tây nam tìm kiếm tung tích, chính là cao thủ làm khoá mở khoá Khoái Hoạt Tử. “Khoái” là họ thật, còn Hoạt Tử là biệt hiệu, có nghĩa là khe hở, nguyên do là vì ông ta méo miệng bẩm sinh, nên miệng lúc nào cũng vênh hở không ngậm chặt lại được.

Năm xưa Khoái Hoạt Tử đánh cược với một cao nhân tiền bối, kết quả là bị đối phương nhốt vào trong cửa Linh Lung khoá lạ thiên cổ chín vòng. Ở đây cửa cũng là khoá, khoá cũng là cửa, vận dụng chín vòng số thiên luân tuần hoàn tương khắc, lại thêm một nghìn cặp điểm chết Linh Lung, chỉ cần chạm nhầm một điểm chết, trật tự sắp xếp của toàn bộ số khoá sẽ lập tức đảo lộn hoàn toàn, tức là xoay chuyển sang một vòng thiên luân mới. Cũng có nghĩa là toàn bộ các phương pháp và trình tự mở khoá đều phải tính toán, sắp xếp lại từ đầu, sau đó lại phải lần lượt tiến hành giải chính xác từng điểm chết.

Khoái Hoạt Tử bị giam hãm trong cửa Linh Lung suốt mấy ngày trời vẫn không thể mở khoá thoát ra, cuối cùng nhờ có Lỗ Thịnh Nghĩa bên cạnh trợ giúp, gợi ý cho ông ta xuất phát từ cấu tạo của hình cửa, tháo dỡ bản lề cửa mà thoát thân. Đương nhiên, tháo dỡ bản lề không phải là cách mở khoá đường đường chính chính, nên xét về nguyên tắc thì Khoái Hoạt Tử đã thua. Có điều vị cao nhân tiền bối đã đánh cược thấy ông ta có thể thoát thân qua một lối tắt bất ngờ, một mặt vì yêu quý nhân tài, mặt khác cũng cảm thấy bản thân mới chỉ chú trọng tới kỹ xảo của khoá, mà chưa chú ý tới những chi tiết khác, bởi vậy đã chủ động thừa nhận mình thua Khoái Hoạt Tử. Nhờ đó, Khoái Hoạt Tử mới bảo toàn được danh dự giang hồ. Để biểu thị lòng cảm kích trước Lỗ Thịnh Nghĩa, Khoái Hoạt Tử đã hứa hẹn rằng, nếu đại sự của Lỗ gia tiến hành đến vùng tây nam, ông ta sẵn sàng ra tay tương trợ.

Nhìn vào hình dáng cánh cửa trên vách đá và sự phân bố lồi lõm sáng tối trên bề mặt, có vẻ rất giống với cửa Linh Lung chín vòng mà năm xưa Khoái Hoạt Tử đã phải bó tay không thể hoá giải. Nhưng nơi này tuyệt đối không giống như cửa Linh Lung chín vòng, bởi lẽ ở đây lấy vách đá làm khoá, nên không thể thiết lập chín vòng biến đổi. Do đó, nếu không may chạm lầm chỗ, sẽ khiến điểm chết, điểm khớp của toàn bộ khoá vỡ vụn, trở thành một ổ khoá chết mãi mãi không bao giờ mở được, nên không có cơ hội thử lại lần thứ hai.

Vách đá của Thiên Câu dựng đứng, lại cao vút, sâu hoắm, đến Lỗ Thiên Liễu cũng không dám tới gần. Thế mà lúc này lại có hai gã trung niên đang đứng sát mép đá, hơn thế nữa, còn nhoài cả nửa người dòm ngó xuống phía dưới mà quan sát. Hai người này là anh em ruột, người anh tên là Phong Sơn Tả, người dân nơi đây quen gọi là Toạ Sơn Phong; còn người em là Phong Sơn Hữu, thường gọi là Quá Sơn Phong. Hai anh em cùng là đệ tử gửi mệnh của chùa Thiên Long, đều mang những bản lĩnh độc đáo được rèn luyện nên từ chốn rừng sâu núi thẳm.

Phong Sơn Tả am hiểu về các loại thảo dược kỳ lạ có thể hoá giải trăm thứ độc. Đặc biệt hơn nữa là hắn có thể phân tích thành phần cấu tạo của sương mù chướng khí trong núi, từ đó tìm ra loài thảo dược thích hợp để ứng phó. Còn Phong Sơn Hữu có bản lĩnh đặc biệt là đánh giá hình núi, leo lên vách núi hiểm trở. Dù núi non có cheo leo chót vót đến đâu, cũng không có vị trí nào hắn không thể leo tới.

Quan Ngũ Lang và một lão già gầy gò nhỏ thó cùng ngồi dưới một gốc cây cách mép đá khá xa. Quan Ngũ Lang tay siết chặt cán đao, vẻ căng thẳng hiện rõ trên nét mặt. Cũng khó trách anh ta, trong những ngày qua, anh ta đã phải chịu đựng những cú tổn thương chưa từng có. Lần nào cũng thua liểng xiểng chỉ sau hai ba chiêu, đến một chút cơ hội cầu may cũng không có. Mà điều khiến anh ta không thể chịu đựng nổi chính là đối thủ chỉ đánh bại anh ta, mà không hề gây tổn thương đến cơ thể. Thật chẳng khác gì chơi trò mèo vờn chuột, đã huỷ hoạt dần niềm tin trong Quan Ngũ Lang.

Lão già nhỏ thó ngồi thảnh thơi hút thuốc, ngọn lửa liên tục nhảy nhót trong tẩu. Làn khói thuốc phả ra chẳng khác gì sương mù, cô đọng mà không tản mát. Khói thuốc phả ra mỗi lúc một nhiều, chồng chất lên nhau, tạo nên những hình thù kỳ quái, lạ lùng, tựa như một bức tranh sơn thuỷ lập thể, cũng lại tựa như khung cảnh thần tiên thu nhỏ, khói mây vấn vương, sương mù lãng đãng. Kỹ thuật nhả khói độc đáo này gọi là yên hoạ (tranh khói), ở vùng Vân Quý Xuyên trước kia thường có người chuyên biểu diễn loại hình nghệ thuật này ở quán rượu, quán trà. Nhưng chắc chắn những người biểu diễn chuyên nghiệp kia không sánh được với lão già này, tranh khói của họ không thể ngưng tụ lâu như của lão, bởi vì lão dùng khí để ngưng tụ khói. Lúc này, lão già đã phun ra không dưới mười bức tranh khói giống hệt nhau, hình dạng của chúng chính là dãy núi trập trùng ngút mắt xung quanh bọn họ.

Lão già gầy gò là bạn chí cốt suốt mấy chục năm của đại sư Vô Do, là bậc thầy khí công danh tiếng lừng lẫy trong giang hồ Thôi Vân Phi. Lỗ Thiên Liễu và Quan Ngũ Lang vừa tới vùng Tây Nam, đã bị mấy kẻ áo đen mũ lá sùm sụp bám riết, sau vài lần giao đấu thử, thấy chúng mình cứng như đá, đánh vào trơ trơ không có cảm giác gì, chỉ hai ba chiêu đã dồn ép Quan Ngũ Lang không còn đường đối phó. Bởi vậy, để ứng phó với đám cao thủ này, đại sư Vô Do đã mời Thôi Vân Phi tới giúp đỡ.

Thôi Vân Phi không những là đại sư khí công, mà còn là truyền nhân duy nhất của Kỳ Số các. Kỳ Số các cũng là một môn phái khảm tử tài nghệ cao cường trong giang hồ, đặc điểm nổi bật nhất của phái khảm tử này là lợi dụng địa hình địa mạo để bố trí các loại nút chết. Những kỹ pháp này đa số dùng để sát phạt ở những vùng đất hoang vu và trong quân sự. Nhưng lúc này, Thôi Vân Phi lại thổi ra tranh khói hình núi non, vì lão đã phát hiện ra những vị trí có thể lợi dụng để bố trí khảm nút trên dãy núi đều đã bị người khác chiếm lĩnh trước. Hơn nữa, đối thủ phần lớn dùng kỹ pháp của Kỳ Số các, trong khi kỹ nghệ này vẫn do lão ta nắm giữ, nên lão cảm thấy vô cùng kinh ngạc.

Trong đám Lỗ Thiên Liễu, có hai người đang ở trong trạng thái vô cùng căng thẳng. Một người chính là đại sư Vô Do của chùa Thiên Long, ông đang ngồi ngay ngắn trên một tảng đá vân vuông vắn, tay gõ mõ liên hồi, miệng lầm rầm tụng niệm chú ngữ “Minh huệ giải thoát”. Bên dưới tảng đá vân, có một hình người cứng đờ đờ đang nhảy nhót một vũ điệu vô cùng quái dị. Người này là Ngôn Hành Dạ, người Tương Tây, chuyên làm nghề đuổi xác. Năm xưa, ông đã từng cùng Lỗ Thịnh Hiếu chế tạo ra hòm nhốt xác chết ô chéo âm dương để bắt nhốt mụ ma đêm trên núi Dã Mão. Lúc này, Ngôn Hành Dạ không phải đang nhảy múa, mà là đang thực hiện một phép thuật hết sức kỳ bí, gọi là “Dẫn hồn hành”.

Cả thần chú “Minh huệ giải thoát” của đại sư Vô Do và “Dẫn hồn hành” của Ngôn Hành Dạ đều có tác dụng thu nhiếp hồn phách và trấn an niềm tin của con người. Lúc này, đại sư Vô Do mồ hôi đã rịn đầy trên trán, còn Ngôn Hành Dạ lưng áo ngực áo đều ướt đẫm cả mảng. Xem ra, hai người họ đang phải tiêu hao tâm lực và thể lực một cách nghiêm trọng.

Phía Chu gia ẩn phục ở đây không dưới trăm người, trong đó có không ít cao thủ thượng đẳng trong giang hồ. Hơn nữa, từ chỗ bắt đầu rặng núi tới phía dưới khe núi bên cạnh, còn bố trí dày đặc đủ loại khảm nút. Nút người, nút thú, nút độc, nút binh khí rải rác khắp mọi nơi, thiết kế tinh xảo, hoặc chặn hoặc giết. Nếu muốn xông qua đại cục dài dằng dặc với vài chục nút lẫy hiểm độc và trên trăm cao thủ rình rập ở đây, chỉ dựa vào đám người ít ỏi của Lỗ Thiên Liễu, e rằng còn khó hơn cả lên trời.

Tuy nhiên tất cả những thứ này vẫn chưa phải là những thứ đáng sợ nhất mà đám Lỗ Thiên Liễu buộc phải đối mặt. Đối thủ thực sự của họ chỉ là một người. Một gã thanh niên lặng phắc như đá tảng, sắc mặt như xác chết, cặp mắt xanh biếc như ngọc.

Lỗ Thiên Liễu không biết gã thanh niên này đã bám theo mình từ lúc nào, từ nơi nào, tuy rằng khí chất tao nhã và dung mạo anh tuấn của hắn rất dễ lưu lại cho người khác ấn tượng sâu sắc. Hơn nữa, khi Lỗ Thiên Liễu phát hiện thấy điểm bất thường, thì cô đã tới địa giới tây nam. Ngoài Quan Ngũ Lang, còn có Ngôn Hành Dạ và Khoái Hoạt Tử cùng đi. Thế mà cả bốn vị cao thủ lão luyện giang hồ đều không hề phát giác ra sự tồn tại của gã thanh niên kia. Chỉ tới khi Lỗ Thiên Liễu thi triển ba giác siêu phàm để tìm kiếm lối ra tại khe suối Thuý Hoàn, cô mới phát hiện ra sự xuất hiện của hắn.

Ám cấu cất giấu bảo bối ở vùng tây nam khởi công sớm nhất, tiêu hao nguồn nhân lực vật lực nhiều nhất, thiết kế và bố trí cũng hoàn mỹ toàn thiện nhất. Khi đó, do vùng tây nam địa thế hiểm ác, đệ tử Lỗ gia phải nhờ cậy Mặc gia trợ giúp mới có thể hoàn thành việc xây dựng bảo cấu. Sau khi hoàn thành, để đề phòng hai bên nghi ngại lẫn nhau, tỏ rõ khí độ quân tử, nên cả hai nhà đều không cắt cử đệ tử ở lại bảo vệ bảo bối. Thứ nhất, địa giới nơi này dưới ảnh hưởng của khí hậu và địa chất, nên địa hình, sông ngòi và cây cỏ biến đổi rất chóng vánh, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi đã khó lòng tìm lại được vị trí cũ. Thứ hai, do các bậc tổ tiên rất mực tự tin, vì bảo cấu nơi này hội tụ kỹ nghệ tuyệt đỉnh của hai nhà, nếu không phải cao nhân thượng đẳng, sở hữu kỹ nghệ siêu phàm, tuyệt đối không có khả năng khai quật.

Nơi người Lỗ gia thường xuyên qua lại nhất cũng là vùng tây nam, bởi lẽ trong số bảo bối đã được cất giấu, duy chỉ có bảo bối phía tây nam là có được một chút manh mối do tổ tiên để lại. Đó là một câu truyền miệng: “Thiêu Câu tây nam, tháp nổi nhập vách”. Sau khi Lỗ Thiên Liễu tới tây nam, đương nhiên không chịu bỏ qua bất kỳ một khe núi, rãnh sâu, lòng máng nào. Cô có ba giác quan siêu phàm, lại có khả năng tìm kiếm biện nhận vô cùng nhạy cảm, chính xác. Hơn nữa, càng ở những nơi cây cối rậm rạp, rừng núi um tùm, linh tính của cô lại càng được phát huy đến cảnh giới tự do tuyệt đối.

Ngay từ khi mới phát hiện ra sự bất thường ở khe suối Thuý Hoàn, Lỗ Thiên Liễu đã không hề cảm nhận thấy sự uy hiếp hay công kích, chỉ cảm thấy khí tướng kỳ dị này lúc xa lúc gần, thoắt ẩn thoắt hiện. Song dần dần, dị tướng kia đã thâm nhập và hoà trộn vào trong suy nghĩ và cảm giác của cô, hơn nữa còn mau chóng thuận ứng theo nhịp tim, hơi thở và từng biến đổi vô cùng tinh vi trong cơ thể cô, tựa như là lại có thêm một “Lỗ Thiên Liễu” nữa đang dung hoà trong tâm não. Đối diện với tình trạng này, Lỗ Thiên Liễu không dám có phản ứng gì quyết liệt, vì e sợ gây kinh động tới đối phương, lại càng sợ hãi sẽ gây chấn động và tổn thương cho chính tâm não của mình. Bởi vậy, Lỗ Thiên Liễn vẫn duy trì trạng thái bình thường, chỉ dùng khứu giác siêu phàm hít ngửi, tìm kiếm ở nơi xuất hiện dị tướng.

Đó là một thứ mùi thanh tao nhẹ nhõm, một thứ mùi chỉ có ở một cơ thể nam giới khoẻ mạnh trẻ trung, hơn nữa, trong đó còn phảng phấp một chút hương thơm thoang thoảng. Lỗ Thiên Liễu phán đoán, thứ hương liệu này hẳn có nguồn gốc từ vùng ngoại quốc.

Khi thứ mùi kia vừa xuất hiện trong ý thức của Lỗ Thiên Liễu, làn dị tướng lập tức có phản ứng, thoắt cái đã thoát ra khỏi tâm não của Lỗ Thiên Liễu, biến mất hút không để lại tăm hơi. Song lúc này, khứu giác của Lỗ Thiên Liễu đã lần được đến nơi xuất phát. Vị trí đó chỉ cách cô chưa đầy trăm bước. Cô lập tức triển khai thân thủ, lao vùn vụt về phía đó, lẹ làng như chưa đi được một nửa, đã có người vọt ra chặn đứng. Hai kẻ chặn đường tướng mạo giống người Hán, song lối ăn mặc hết sức kỳ dị, chỉ có giặc Tây thi thoảng mới thấy ăn bận kiểu này.

Đám Quan Ngũ Lang nhìn thấy Lỗ Thiên Liễu bị người khác chặn đánh, bèn vội vã xông lên. Song họ mới chỉ tiến lên được hơn chục bước, cũng đã bị chặn đứng. Vẫn là mấy kẻ mình mặc áo đen, đầu đội mũ lá, thân hình cứng như sắt thép. Không thể hiểu nổi chúng ẩn nấp ở chỗ nào, song đều xuất hiện thình lình như ma quỷ. Đám Quan Ngũ Lang đã nhiều lần chiến bại, lần này vẫn không thể xông qua tấm bình phong này.

Tuy chỉ là chặn đứng, không có ẩu đả kịch liệt hay gây sát thương, song không khí ở hiện trường vẫn khiến người ta phải ngộp thở. Một gã thanh niên bước ra từ phía sau gốc thông lùn lá đen, vẻ anh tuấn thư sinh, nước da trắng trẻo, vóc dáng hiên ngang, song lại toát ra một vẻ lạnh lẽo, trầm tịch và vô cùng ma quái. Tóm lại, trông giống người, song cảm giác lại không giống người.

Lỗ Thiên Liễu và gã thanh niên kia bốn mắt nhìn nhau. Đó là hai cặp mắt xanh biếc chỉ xuất hiện ở những nhân vật nửa thần tiên trong truyền thuyết. Cặp đồng tử của Lỗ Thiên Liễu có màu lục nhạt, giống như chồi liễu vừa nhú buổi đầu xuân. Còn cặp mắt của gã thanh niên kia xanh thăm thẳm như mặt đầm sâu hun hút, lại cuộn xoáy tròn, tựa như muốn nuốt chửng tất cả mọi thứ vào trong.

Cả hai tuy không nói câu nào, song lại đang mau chóng giao lưu với đối phương. Cách giao lưu này quả thực không thể biểu đạt hết bằng ngôn ngữ.

Là “Thấu tam giới”! Lỗ Thiên Liễu không hề che giấu niềm kinh ngạc của bản thân, dẫu rằng cô hiểu rõ đối phương có thể nhìn thấu suy nghĩ của mình. Khi còn ở núi Long Hổ, một vị cao nhân tính thông tu tâm đã từng giảng giải với cô rằng, trong giang hồ có các chiêu số như thuật nhìn tâm, thuật đoán ý muốn, thuật tiên đoán, thuật đoán suy nghĩ, đều là thông qua việc quan sát hành động, vẻ mặt, cùng hơi thở, máu huyết vận hành trên cơ thể đối phương để suy đoán tâm tư. Bên cạnh đó, cũng có người được trời phú cho khả năng dị thường, trong vòng trăm bước có thể trực tiếp cảm nhận được suy nghĩ và tâm lý của người khác. Khả năng dị thường này được gọi là Thấu tam giới. Thấu tam giới có nghĩa là thấu suốt tam gới, tức nhìn thấu vẻ bề ngoài, nội khí và tâm tư của người khác, cũng chính là ba tầng cảnh giới hình, tính, tư.

- Ngươi chính là người duy nhất phát giác ra khả năng Thấu tam giới của ta tính cho tới hôm nay! – Gã thanh niên nói với Lỗ Thiên Liễu trong im lặng. Tuy rằng lần này, không những bị Lỗ Thiên Liễu phát giác ra năng lực cảm tri, mà còn bị tìm đúng nơi ẩn nấp, song hắn không hề tỏ ra rối loạn, hơi thở, tâm mạch và huyết khí vận hành vẫn rất mực ổn định. Bởi lẽ hắn hiểu rõ rằng, tuy cô gái kia phát giác ra hắn lén đọc trộm suy nghĩ của cô ta, song lại không có cách gì ngăn cản. Do đó, dù là đối kháng trong suy nghĩ hay trong giao chiến thực tế, thì gã vẫn nắm chắc mười phần thắng.

Gã thanh niên này là ai? Hắn là môn trưởng mới của Chu gia, con trai độc nhất của Chu Chân Mệnh – Chu Ngộ Tâm. Chu Chân Mệnh bị chôn vùi suốt ba ngày trong ngôi mộ giam hồn dưới ba gò đất, sau khi được bới lên, cảm thấy tâm mạch, khí mạch của bản thân đã tổn thương nghiêm trọng, bèn tức tốc cho người đi gọi Chu Ngộ Tâm đang rèn tập ở hải ngoại trở về.

Chu Ngộ Tâm là một quái thai, thường cả ngày ngồi đờ như đá, ba ngày mới thốt được một câu, tuy câu nào cũng trái khoáy ngỗ ngược, nhưng lại nói đâu trúng đấy. Vì hắn bẩm sinh đã có năng lực khác thường, có thể nhìn thấu suy nghĩ và tâm tư của người khác. Chu Chân Mệnh tuy là bậc kỳ tài, song lại không có cách gì dạy dỗ con trai, nên đã sai vài cao thủ hàng đầu đưa hắn ra hải ngoại, cho chu du khắp thiên hạ, nhằm mục đích rèn luyện và bồi đắp thêm cho hắn.

Thực tế cũng đúng là như vậy. Sau nhiều năm rèn luyện, học tập ở nước ngoài, Chu Ngộ Tâm không những đã phát huy được khả năng Thấu tam giới bẩm sinh đến cảnh giới thượng thừa, mà còn thấu hiểu tường tận mọi khảm diện do Chu gia nghiên cứu thiết kế. Hơn nữa, hắn còn biết vận dụng các loại kỹ thuật tiên tiến đã học được ở nước ngoài vào trong khảm diện, khiến chúng càng được vận hành một cách thần tốc bất ngờ, tàn độc, và ổn định hơn nữa.

Chu Ngộ Tâm nhìn khắp lượt những người trước mặt, ánh mắt điềm nhiên như nước lặng. Song trong lòng hắn hiểu rõ, hành động của lão hoà thượng và tay dị nhân đang nhảy tưng tưng như cỗ xác khô kia đều là nhắm vào năng lực siêu phàm Thấu tam giới của hắn.

Kỳ thực, chiêu số của hai người này thoạt đầu vẫn khiến cho tâm tư của hắn phải rối loạn. Câu thần chú tiếng Phạn của lão hoà thượng nghe như kệ Kim Cương, còn điệu nhảy xác chết kia chẳng khác gì điệu vũ ma quỷ, nghe vào tai, nhìn vào mắt đều xộc thẳng vào tâm não. Bởi vậy, Chu Ngộ Tâm bèn chấm dứt ngay năng lực Thấu tam giới, tạm thời di chuyển sự chú ý tới nơi khác.

Nhìn vào hình thế của núi non xung quanh, thì thấy nơi đây là cục phong thuỷ “Mộc dương bi bảng”[36]. Nếu xây mộ tổ trên vách khe, vận thế phù hợp có thể sinh ra bậc vương hầu khanh tướng. Nhưng vì khe sâu hun hút chạy thẳng tắp, không uốn lượn, không đầu không cuối, trong khe lại đầy rẫy chướng khí, mãnh thú, cỏ cây quái dị, nên lại là một cách cục bại vận cực độ. Trong tổ huấn của Chu gia có viết, nơi có bảo cấu, là nơi thiên bảo trấn hung huyệt, cát hung cùng tồn tại cân bằng. Như vậy, xem ra nơi hắn và cô gái nhà họ Lỗ kia đang tới có lẽ chính là vị trí cất giấu của Mộc bảo phía tây nam.

Quan sát xong hình núi, Chu Ngộ Tâm lại lướt qua cách bố trí của phe mình. Gần ngay trước mặt hắn, có sáu tên y phục đen trũi mũ lá sùm sụp đang đứng lẫn trong đám cây lá lô xô hai bên phải trái. Chúng đều là những cao thủ được đưa về từ Thái Lan, không những tinh thông quyền thuật, mà cơ thể cứng rắn chẳng khác gì sắp thép, giống hệt như công phu hoành luyện của Trung Nguyên. Có sáu tên này làm bình phong chắn lối, đối thủ khó lòng tiếp cận được hắn. Phía sau hắn là bốn cao thủ tuyệt đỉnh đã hộ tống hắn ra nước ngoài học tập. Trong bốn cao thủ này, có ba người là hộ pháp tổng đường của Chu gia, một người nữa vốn là đường chủ Chính Quảng đường phía nam. Dù về mặt võ công, kinh nghiệm giang hồ hay mưu mô trí trá, bọn họ đều thuộc hàng cao thủ thượng đẳng trong giang hồ.

Từ một con đường vắt ngang sườn dốc nghiêng chếch xuống phía dưới, hắn đã lần lượt bố trí các trận Đao trúc, Nghìn dây bắt hồn, Bậc trăm bước động trượt. Men theo con đường ngoặt sang một hướng khác, lần lượt là Phi sơn linh miêu, Dãy ống thổi dịch độc, Đao khoá vặn xuôi ngược, Lực sĩ dời núi. Qua một con đường sạn đạo cheo leo vòng qua vách núi đối diện, lại có các khảm diện Mưa nghìn đao, trận Bát quái đột sát, Đá lăn lên dốc. Cuối cùng, trong rừng Bích Qua, còn cho phục sẵn một tấm lưới sống được bện từ hai con mãng xà “vượt ngọn tùng” (độ dài đủ để quấn vòng từ ngọn cây tùng xuống tận gốc) và mười con mãng xà bẻ cành (có thể vặn đứt chạc cây lớn).

Tạm thời chưa nói đến mức độ tinh vi tàn độc của những khảm nút này, chỉ riêng bộ bố cục toàn diện của nó cũng đã là một tuyệt học hiếm thấy trong nghề khảm tử, gọi là “Hồng đấu hấp thiên”[37]. Bố cục này đã bao trùm toàn bộ ngọn núi và một đoạn khe núi, không cho phép người khác bước xuống dù chỉ là nửa bước.

Nhìn lại một lượt kiệt tác của mình, Chu Ngộ Tâm vô cùng đắc ý. Hắn không chỉ phát huy một cách xuất sắc kỹ nghệ của Chu gia, mà còn đưa thêm vào đó rất nhiều kỹ nghệ tiên tiến của nước ngoài. Kỳ thực, trong thâm tâm hắn rất mong muốn đám nhân tài Lỗ gia dám xông pha vào trong đó, lao mình vào trong “chiếc đấu cầu vòng”, để chứng minh cho hiệu quả của khảm nút sau khi đã được hắn cải tiến. Chu Ngộ Tâm rất mực tự tin, dẫu rằng Chu môn gần đây đã liên tiếp gặp phải những tổn thất chưa từng có, song hắn tin tưởng rằng sau khi mình tiếp quản sự nghiệp, cục diện sẽ thay đổi hoàn toàn.

Tin tưởng bản thân, khẳng định bản thân là một phương pháp tuyệt vời để Chu Ngộ Tâm điều chỉnh tâm tư và tâm lực. Tựa như hắn đang dùng một niềm tự hào và thoả mãn để tiến hành một nghi thức, một nghi thức thông linh với tổ tiên của chính mình. Sau nghi thức này, tâm tư hắn sẽ trở nên thanh khiết không linh, tựa như bầu trời vô tận, có thể thâu nạp toàn bộ nhật nguyệt tinh tú, sấm chớp mây mưa.

Khi ánh mắt xanh biếc của Chu Ngộ Tâm lại nhìn thẳng về phía trước, tâm cảnh như bầu trời lồng lộng của hắn đã khiến cho sức mạnh quấy nhiễu của lão hoà thượng và cỗ “xác khô” kia không biết đã bị đánh bại tới xó xỉnh nào. Trong khi một phần lớn tâm cảnh của hắn đã bắt đầu mau chóng bao vây lấy suy nghĩ của người khác. Suy nghĩ của con người, có lúc bay xa tới tận chân trời, có lúc lại tập trung vào một điểm cực kỳ vi tế. Song lúc này, dù suy nghĩ của người Lỗ gia ở trong trạng thái nào, họ đều bị tâm cảnh tựa bầu trời của hắn vây bủa.

Đã bao vây được suy nghĩ, bước tiếp theo chính là dò đoán tâm tư của đối phương. Phương pháp của Chu Ngộ Tâm hôm nay có phần cuồng ngạo phóng túng, bởi vì đã tới thời khắc quyết đấu, bởi vì bản thân hắn đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho trận đối quyết, và còn bởi vì những đối thủ kia hoàn toàn bất lực trước khả năng Thấu tam giới của hắn.

Đợt tìm kiếm bằng năng lực Thấu tam giới này không gặp phải bất cứ trở ngại nào. Ánh mắt xanh hun hút của hắn dừng lại trước tiên trên cơ thể lão hoà thượng và cỗ “xác khô”. Bọn họ đang rất chuyên chú, tập trung cao độ, hết sức nỗ lực để khuấy đảo tâm cảnh của hắn, khiến hắn không thể thi triển Thấu tam giới. Chuyên tâm đương nhiên rất cần thiết, trong giao đấu bằng tâm lực đã có câu “không si mê không nhập đạo”. Song Chu Ngộ Tâm phát hiện thấy, trong trạng thái chuyên chú của hai người này, đôi khi vẫn xuất hiện sự gián đoạn. Hiện tượng này cho thấy bọn họ đã thấm mệt, và bắt đầu thiếu tự tin vào sự nỗ lực của bản thân.

Phía sau họ còn có một người cũng rất chuyên chú, là một gã trai thân hình vạm vỡ đang cầm ngang thanh phác đao. Suy nghĩ của người này rất đơn giản, chính là muốn xông lên vào một thời điểm thích hợp để kết liễu tính mạng của mình. Song hắn rất căng thẳng, bởi vì hắn hiểu rõ khả năng này là không thể. Những gã cao thủ Thái Lan trước đó đã nhiều lần đập tan chiêu số của hắn, hơn thế nữa, còn phá huỷ hoàn toàn niềm tin của hắn. Chu Ngộ Tâm thường không xem nhẹ bất cứ ai, song lúc này, hắn lại không thèm để ý tới gã tráng niên kia nữa. Một người đã hoàn toàn đánh mất niềm tin, dù ý đồ có quyết liệt đến đâu, cũng chỉ là kẻ đóng vai phụ trong trận quyết đấu.

Bên gã trai là một lão già nhỏ thó đang phun khói mịt mù. Lão ta rất kỳ quái. Suy nghĩ của lão liên tục nhảy nhót qua lại giữa sơn thuỷ thực tế và sương khói thở ra, điều này khiến Chu Ngộ Tâm có hơi khó khăn khi nắm bắt. Song năng lực Thấu tam giới của hắn đã đạt tới cảnh giới phi phàm, bởi vậy Chu Ngộ Tâm mau chóng thích ứng với sự biến động trong tư duy của lão.

Tuy suy nghĩ của Thôi Vân Phi liên tục biến động, song kế hoạch của lão lại rất mạch lạc bài bản. Lão muốn dùng Quan Ngũ Lang bên cạnh làm mồi nhử, khiến một bộ phận cao thủ Thái Lan che chắn phía trước Chu Ngộ Tâm chuyển hướng sang bao vây Ngũ Lang. Còn lão sẽ dựa vào bản lĩnh khí công của mình, xông qua vòng vây của các cao thủ Thái Lan còn lại, lao thẳng tới chỗ Chu Ngộ Tâm. Song đây vẫn là một động tác giả, đại cao thủ phía sau Chu Ngộ Tâm đều lùi về bảo vệ hắn, như vậy, con đường nhỏ “một người giữ cửa, vạn người khó qua” bên rãnh sẽ được mở thông. Lão sẽ chớp lấy cơ hội này để chạy đi theo đó. Đến lúc này, cho dù đám cao thủ kia có sực tỉnh mà đuổi theo, thì đại sư Vô Do và Ngôn Hành Dạ có lẽ cũng đã kịp thời xông tới chặn chúng lại. Đối với lão, các khảm diện như trận Đao trúc, Nghìn dây bắt hồn, Bậc trăm bước động trượt phía dưới nếu muốn phá giải hoàn toàn sẽ cần một chút thời gian, nhưng nếu chỉ cần một mình lão băng qua, thì chẳng tốn bao nhiêu công sức. Tiếp đó tới hai khảm Phi sơn linh miêu và Dãy ống thổi dịch độc. Phi sơn linh miêu có thể nhờ vào khí công hộ thể để xông qua, còn Dãy ống thổi dịch độc cần phải hao tổn chút tinh lực, bởi vì dạng khảm này không phải là sở trường của Kỳ Số các. Song chỉ cần phá được khảm diện này, toàn bộ Hồng đấu hấp thiên coi như đã bị chém ngang lưng. Nếu theo đúng kế hoạch ban đầu, lão chỉ cần xông được đến đây, coi như việc lớn đã thành.

Chu Ngộ Tâm quả thực thấy khâm phục trong lòng. Lão già này quả là một cao thủ tuyệt đỉnh, võ thuật khảm diện đều tinh thông. Thế nhưng mưu kế sách lược và cách phân tích nguyên lý khảm diện cũ rích của lão khiến hắn cảm thấy nực cười. Đương nhiên, người đủ tư cách để cười lão cũng chỉ có một mình Chu Ngộ Tâm mà thôi. Kế hoạch của lão có quá nhiều nhân tố thiếu chắc chắn, như liệu gã trai vạm vỡ kia có dụ được một bộ phận cao thủ Thái Lan đi không? Liệu lão có thể xông qua những cao thủ còn lại không? Còn một nhân tố thiếu chắc chắn hơn nữa, đó là liệu lão có ép được hắn lùi lại hay không? Bởi vì hắn đã được rèn luyện võ học đến nơi đến chốn, không hề thua kém bất cứ cao thủ thượng đẳng nào trong giang hồ. Và còn nữa, sau lưng hắn còn giấu hai khẩu súng ngắn bắn đạn rời sản xuất ở Anh, liệu khí công của lão có thể chống đỡ nổi súng đạn? Với một loạt khảm diện phía dưới, lão ta cũng suy nghĩ quá đơn giản. Phía trên khảm diện Bậc trăm bước động trượt, hắn đã bố trí thêm ba cụm mìn vướng nổ, hai cụm mìn đạp nổ, những thứ này đều là hàng Thuỵ Điển, phản ứng rất nhạy, lực sát thương cực mạnh. Còn trên vuốt mèo của khảm diện Phi sơn linh miêu đều được lắp thêm vuốt hợp kim mangan tẩm nọc rắc độc sông Nile. Trong khảm diện Dãy ống thổi dịch độc, trong dãy ống thổi còn xen lẫn hai mươi khẩu súng trường liên thanh, phía cuối khảm diện còn có một cỗ pháo đón đầu. Những thứ này lão già kia chắc chắn có nằm mơ cũng không thể tưởng tượng ra, và cũng không thể ứng phó nổi.

Hai kẻ đứng trên vách khe trông giống như anh em ruột, suy nghĩ của chúng là phối hợp với lão già nhả khỏi. Bọn họ một kẻ đang tìm đường, một kẻ đang chuẩn bị thuốc, chuẩn bị sẵn sàng để sau khi lão già nhả khói phá ngang được khảm diện Hồng đấu hấp thiên sẽ lập tức lao xuống dưới rãnh trong phạm vi của khảm nút đã bị phá, nhanh chóng khai quật bảo cấu.

Kẻ tìm đường khiến Chu Ngộ Tâm rất kinh ngạc. Lần theo suy nghĩ của hắn, thì thấy hắn ta không cần dùng đến bất cứ dụng cụ nào, chỉ là tay không mà leo thẳng xuống đáy khe. Hơn nữa, trong lúc leo xuống còn đồng thời bố trí một số thiết bị, để đưa những kẻ khác xuống cùng.

Kẻ còn lại là cao thủ về thuốc giải độc, hắn đang phân tích thành phần của sương độc để chuẩn bị thuốc giải độc cho những người chuẩn bị xuống khe. Chu Ngộ Tâm không tìm hiểu thêm về thứ thuốc giải của kẻ đó, bởi vì hắn không cần tới thứ này. Hắn đã chuẩn bị sẵn một loạt mặt nạ phòng độc mang từ nước ngoài về.

Lão già méo miệng đang nhìn chằm chằm vào vách đá trước mặt có tư duy vô cùng lắt léo. Tuy những đường vân mờ nhạt tại vị trí hình cánh cửa đã bị sương độc che lấp, song hình dáng ban đầu đã hoàn toàn dung nhập vào trong tư duy của lão. Trong cửa Linh Lung chín vòng chỉ có một thay đổi duy nhất, không hề có cơ hội làm thử hay lặp lại, chỉ cần một sai lầm cực nhỏ, cũng sẽ biến thành tử cục vĩnh viễn. Bởi vậy, trước hết cần phải phân tích, nắm bắt thật chính xác nguyên lý và quy luật của hình khoá được bố trí đầu tiên, mới có thể suy luận ra kiểu biến hoá duy nhất. Ở đây cất giấu Mộc bảo, nên hình cửa chọn dùng kết cấu nghìn cặp linh lung cũng là đương nhiên. Vấn đề là ở nguyên lý chín vòng tuần hoàn tương khắc, vòng này cần phải vượng Mộc, như vậy, phải chăng nên bắt tay từ Nhật, Thuỷ, Mộc...

Chu Ngộ Tâm đã dừng lại. Lần dò theo lối tư duy rắc rối lắt léo kiểu này là một việc làm vô cùng khó chịu, hơn nữa tính toán suy lý theo kiểu đó rất phức tạp và mất thời gian, trong khi kết quả cuối cùng chưa chắc đã chính xác. Bản thân hắn đã nghĩ tới cách giải quyết đơn giản hơn, chính là đặt mìn định hướng ở bên dưới tất cả những nơi đã bị khoá cố định để phá. Trong số những người hắn đưa từ nước ngoài về có một gã người Bỉ, là cao thủ chế tạo thuốc nổ.

Mục tiêu cuối cùng của Chu Ngộ Tâm là Lỗ Thiên Liễu. Có lẽ do Lỗ Thiên Liễu đang tập trung tinh thần suy nghĩ điều gì đó, nên ba giác của cô không chú ý tới sự xâm nhập của Thấu tam giới. Bởi vậy Chu Ngộ Tâm đã thuận lợi thăm dò vào trong tư duy của cô, song bầu tư duy đó đã khiến hắn phải sửng sốt.

Chu Ngộ Tâm chưa bao giờ gặp một bầu tư duy nào tỉ mỉ, tinh tế, kín kẽ đến vậy. Từng gốc cây ngọn cỏ, từng phiến lá đọt cành, từng đoá hoa búp nụ trong toàn bộ vùng rừng núi này đều là những điểm cấu thành nên bầu tư duy của cô. Đáng sợ hơn nữa, đó là tác dụng của mỗi điểm cấu thành hoàn toàn không phải là sự tưởng tượng hư vô, mà đều là những cảm nhận thực tế.

Chu Ngộ Tâm biết, đó chính là ba giác siêu phàm của Lỗ Thiên Liễu đang phát huy tác dụng. Cô gái thần kỳ này chỉ cần chạm tay lên thân cây bên cạnh, chỉ cần giẫm chân trên thảm cỏ, chỉ cần hít thở bầu không khí trong lành thấm đẫm hương hoa lá, thì tất cả những nơi mà đám cỏ hoa lá có thể chạm tới, luồng tư duy của cô đều có thể cảm nhận được. Cây cỏ hoa lá trong toàn bộ vùng rừng núi cành liền lá sát, gốc rễ giao hoà, bởi vậy tâm hồn và suy nghĩ của cô ta cũng dung hoà với toàn bộ núi rừng.

Trong một không gian cảm nhận bất tận như vậy, tất cả mọi khảm diện mà Chu Ngộ Tâm đã dày công bố trí đều đã hiện diện trong trí não của Lỗ Thiên Liễu. Không chỉ những khảm nút vốn có đều đã phải hiện hình, mà ngay cả nút lẫy cải tiến của Chu Ngộ Tâm cũng lần lượt bị cô phát giác.

Ngay từ triều Minh, Lỗ gia đã nhiều lần giao tranh, quyết đấu với Chu gia, thu hoạch nhiều nhất của họ chính là đã có được những nhận thức mang tính đột phá đối với kỹ nghệ của tổ tiên. Kỹ nghệ của tổ tiên dạy rằng, “dựng” là gốc, “khuôn thước” là nguyên tắc. Song sau vô số lần phải chịu lép vế và đổ máu, họ đã nhận thức được rằng, ngược lại với “dựng” là dỡ, làm rối loạn “khuôn thước” sẽ thành nguyên lý bàng môn. Và sau đó, Lỗ gia đã tập trung cao thủ chuyên nghiên cứu về kỹ thuật giải phá, rồi quy kỹ nghệ này vào trong loại hình kỹ nghệ phụ trợ bên ngoài Lục công của Lỗ gia, được gọi là Tiểu công. Tiểu công vốn dĩ chỉ để hỗ trợ cho sáu công phu chính, gồm các kỹ nghệ như đẵn gỗ, phá đá, trộn vữa, vận chuyển vật liệu. Những thợ mộc bậc thầy của Lỗ gia thường không học kỹ nghệ này, trước kia chỉ truyền cho người ngoài họ. Tuy nhiên sau khi thêm vào kỹ nghệ phá giải, loại hình kỹ nghệ này đã trở nên nguy hiểm, giảo hoạt và có khả năng sát thương cực lớn. Bởi vậy, chỉ được ghi chép trong sách mà không truyền dạy cho đệ tử.

Đến này, am hiểu về kỹ nghệ Tiểu công chỉ có hai người. Một là đứa con độc nhất mà Nhậm Hoả Cuồng uỷ thác lại cho Lỗ Nhất Khí dạy dỗ là Nhậm Tính Lai. Năm xưa cậu ta theo sư phụ của Nhậm Hoả Cuồng xuống phía nam tìm kiếm vật liệu kỳ lạ, đã tình cờ gặp Lỗ Thịnh Hiếu. Lỗ Thịnh Hiếu thấy đứa trẻ này điêu trá khó bảo, rất thích hợp để học kỹ nghệ Tiểu công, nên đã sao chép chương tổng quát về kỹ nghệ Ban môn và kỹ nghệ Tiểu công tặng cho cậu ta. Một người còn lại là Lỗ Thiên Liễu. Lỗ Thiên Liễu sau khi tu luyện kỹ nghệ của Thiên Sư giáo trên núi Long Hổ, mới bắt đầu nghiên cứu kỹ nghệ Tiểu công. Bởi vì trong giáo pháp của Thiên Sư giáo có một lý luận viết rằng “Khéo khống chế tính, có thể thu phục; không am hiểu tính mà đủ sức, thì tiêu diệt; không am hiểu tính cũng không đủ sức, thì bao vây”, đoạn này nói về khả năng phán đoán thời thế, xoay chuyển sách lược, nhìn nhận một sự việc từ nhiều phương diện. Lỗ Thiên Liễu đọc được câu này, cảm thấy lo lắng bất an trước những kỹ nghệ của Lỗ gia mà mình đã được học, thường cảm thấy còn khiếm khuyết ở một số mặt nào đó. Lỗ Thịnh Nghĩa hiểu được tâm tư của cô, bèn nửa vô tình nửa hữu ý chỉ dẫn cho cô xem bản ghi chép về kỹ nghệ Tiểu công.

Lỗ Thiên Liễu tuy nghiên cứu Tiểu công, song chưa từng áp dụng vào thực tế. Kể cả vừa nãy, khi xem xét những khảm nút mà Chu gia bố trí tại nơi đây, trong kế hoạch mà cô và mọi người đã thảo ra cũng không hề tham khảo tới kỹ pháp Tiểu công. Nhưng vừa nãy, trong trí não Lỗ Thiên Liễu đột nhiên loé lên một ánh linh quang, và trong đầu cô bắt đầu thai nghén một phương pháp phá khảm dựa vào kỹ pháp Tiểu công.

Chu Ngộ Tâm đã nhìn trộm được phương pháp phá khảm này. Không chỉ bất ngờ, hắn còn cảm thấy ớn lạnh tận đáy lòng. Nếu như bọn họ hành sự theo phương pháp của cô ta, hoàn toàn có thể phá giải, áp chế hệ thống khảm diện của hắn tới tận hai khảm cuối cùng. Nếu thực sự đến nước đó, không những Chu gia sẽ đánh mất ưu thế về địa lợi đã chiếm cứ được, mà còn bị chế phục trên tất cả mọi hướng.

Ví dụ như những khảm nút cải tiến mà Chu Ngộ Tâm vô cùng tâm đắc, ba cụm mìn vướng nổ, hai cụm mìn đạp nổ được bố trí phía trên khảm diện bậc trăm bước động trượt, Lỗ Thiên Liễu định dùng hai kỹ thuật phá đá và đổ đất trong Tiểu công để phá giải. Trước tiên, đẩy đá ở sườn núi bên cạnh cho lăn xuống, khiến mìn vướng nổ phát nổ. Tiếp đến đổ đất thành đường, rồi di chuyển trên đường đất đắp, như vậy có thể phân tán sức nén, khiến mìn đạp nổ không thể hoạt động. Tuy linh miêu phi sơn có vuốt thép ngâm độc, song Lỗ Thiên Liễu sẽ áp dụng kỹ pháp tôi vôi trong Tiểu công. Dùng vợt lưới và gỗ bật để bắn các túi vôi bột sống vào chỗ phi miêu ẩn nấp, vôi bột sẽ khiến chúng bỏng mắt, lại thêm trong rừng ẩm ướt, vôi bột bay tứ tung sẽ khiến khắp nơi toả nhiệt bỏng giãy, tới lúc đó linh miêu phi sơn sẽ hoàn toàn không còn cơ hội để tấn công. Để đối phó với dàn ống phun dịch độc xen kẽ hai mươi khẩu súng trường liên thanh và pháo đón đầu, Lỗ Thiên Liễu dự định sử dụng kỹ pháp đốn gỗ trong Tiểu công. Trước hết chưa vào khảm vội, mà đốn hạ những cây to bên ngoài khảm cho đổ vào trong khảm. Cây đổ trúng nút lẫy trong khảm khiến chúng hoạt động hoặc hư hỏng là tốt nhất, song cho dù chạm vào mà không huỷ, thì vẫn có thể băng qua phía trên cây đổ mà đi. Đến cây to đổ xuống cũng không thể khiến cho chốt lẫy khởi động, thì bọn họ hoàn toàn có thể băng qua phía trên một cách an toàn.

Kế hoạch đã nhìn thấu, Chu Ngộ Tâm chỉ có thể thừa nhận mình đã thất bại về mặt khảm nút. Bởi vậy, hắn quyết định ra tay trước khi Lỗ Thiên Liễu thực thi kế hoạch, điều động các cao thủ võ thuật xông lên tấn công. Cho dù nơi đây đâu đâu cũng là tuyệt địa hiểm trở, vài người bọn họ cố thủ nơi hiểm yếu, sẽ gây tổn thất nghiêm trọng cho lực lượng bên hắn, nhưng nhìn vào tình thế trước mắt, đây lại là phương pháp đơn giản và chắc chắn nhất.

Quyết định xong, Chu Ngộ Tâm bèn chuẩn bị thu Thấu tam giới về để hạ lệnh cho thuộc hạ tấn công. Nhưng vào khoảnh khắc năng lực Thấu tam giới sắp sửa thu về, hắn đột nhiên phát hiện ra trong tư duy rất mực kín kẽ của Lỗ Thiên Liễu bất ngờ lướt qua một thông tin rất thiếu hài hoà. Lực đạo Thấu tam giới của Chu Ngộ Tâm lại tiếp tục lao lên, muốn bắt lấy thông tin đó.

Lần này, Chu Ngộ Tâm lại càng ngạc nhiên hơn nữa, bởi lẽ thông tin này cho thấy, Lỗ Thiên Liễu muốn đưa người phía cô ta bỏ chạy thoát thân.

Đã có cách phá giải khảm nút, vì sao còn muốn bỏ chạy? Hiện tượng quái dị này khiến Chu Ngộ Tâm càng dốc toàn bộ tinh lực vào Thấu tam giới. Năng lực bẩm sinh thần kỳ của hắn quả thực phi thường, không những bắt được một tia suy nghĩ thoảng qua của Lỗ Thiên Liễu, mà còn túm giữ thật chặt không buông. Năng lực cảm tri của Chu Ngộ Tâm đã theo chân ý niệm này để xâm nhập vào tầng sâu thẳm trong tư duy của Lỗ Thiên Liễu, xuyên qua mạng lưới được hình thành từ các loại thông tin đến từ ba giác siêu phàm của cô, chớp mắt đã lọt vào trong một tầng tư duy khác.

Tư duy trong tầng thứ này là tư duy cố tình tàng ẩn, bởi vậy kết cấu rất đơn giản, chỉ lác đác vài đường nét, hình thù. Song chỉ vài đường nét, hình thù sơ sài này cũng đủ khiến Chu Ngộ Tâm tim gan lạnh toát.

Thực sự là vô cùng đơn giản, những suy nghĩ ở tầng thứ này chỉ là hơi thay đổi khảm diện mà hắn đã bố trí một chút ít. Song chỉ với một chút ít thay đổi, toàn bộ phương pháp phá giải khảm diện của Lỗ Thiên Liễu sẽ bị vô hiệu hoá hoàn toàn.

Hai khảm diện Nghìn dây bắt hồn và Bậc trăm bước động trượt xếp chồng lên nhau, không dùng dây bắt người, mà là dùng dây để khống chế vị trí mìn đạp nổ và tác động để dẫn nổ, như vậy sẽ tiêu diệt được quá nửa số người của Lỗ gia. Hai khảm diện Phi sơn linh miêu và Dãy ống thổi dịch độc kết hợp với nhau, đổ dung dịch độc lên thân linh miêu, dùng Phi sơn linh miêu để tấn công. Tuy móng vuốt của linh miêu không dễ làm tổn thương đến cao thủ, song khi dung dịch độc trên da lông chúng văng đi, sẽ rất khó tránh. Tiếp đến bố trí khảm diện Đao khoá vặn xuôi ngược ở phía dưới Lực sĩ dời núi, sẽ hình thành cục thế tiến thoái lưỡng nan. Muốn né tránh Lực sĩ dời núi, sẽ sa vào Đao khoá vặn xuôi ngược; muốn vượt qua Đao khoá vặn xuôi ngược, sẽ không tránh nổi Lực sĩ dời núi. Lại bố trí Mưa nghìn đao phía sau trận Bát quái đột sát, rồi khởi động ngay sau trận Đột sát, bố trí khảm diện mãng xà phía trước Đá lăn lên dốc, làm nút lẫy khởi động đầu tiên của Đá lăn lên dốc. Tới lúc đó, không cần quan tâm tới sự sống chết của đám người điều khiển và mãng xà trong khảm, chỉ cần bọn chúng ngăn cản được những người xông vào khảm trong chốc lát, mưa đao và đá lăn đồng loạt xuất hiện, sẽ biến thành cục diện “hai bên cùng chết”, không ai có thể vượt qua. Nếu lại bố trí năm vị trí tấn công tầm xa với tên, pháo, súng trên đỉnh vách đá theo lộ số Ngũ hành, thì lực sát thương càng khủng khiếp không gì sánh kịp.

Phương pháp bố trí khảm nút xuất quỷ nhập thần đến vậy, ngay cả Chu Ngộ Tâm cũng không thể tưởng tượng nổi. Hắn bất giác thầm thán phục trong lòng, thảo nào một dòng họ thợ mộc như Ban môn lại có thể đối kháng ngang cơ suốt vài trăm năm với dòng họ Chu vốn là hậu duệ hoàng gia, kỹ pháp của Ban môn quả là tạo hoá khó địch.

Chính vào lúc đó, tầng ý niệm này của Lỗ Thiên Liễu đột nhiên xáo trộn, trở nên nhoà nhạt, rồi mau chóng tản mát. Tất cả đường nét, hình dáng đều tan biến, trở thành một bầu trống rỗng.

Chu Ngộ Tâm mỉm cười. Cô gái họ Lỗ từ bỏ tầng ý niệm này là muốn tiếp tục khẳng định niềm tin phá khảm giải nút của cô ta, tiếp tục xây dựng kế hoạch đã nhen nhóm trong tầng tư duy trước đó. Đồng thời, cũng nhằm đề phòng năng lực Thấu tam giới của hắn phát giác ra tầng suy nghĩ này mà kịp thời điều chỉnh khảm diện. Tới lúc đó, điều duy nhất bọn chúng có thể làm đúng là chỉ còn cách tháo chạy thoát thân.

Song đã muộn rồi! Chu Ngộ Tâm lập tức thu lại Thấu tam giới, vẫy tay ra hiệu. Một cao thủ lướt tới bên hắn như một cái bóng. Hắn hạ giọng căn dặn vài câu. Ngay sau đó, nhân lực mau chóng được điều động, thiết kế bố cục mau chóng được di chuyển. Chẳng mấy chốc, tất cả những khảm diện cần thay đổi đều đã thay đổi, tất cả các điểm cần bố trí đều đã bố trí. Sau đó, Chu Ngộ Tâm bình thản chờ đợi đám người cần rút lui ngoan ngoãn rút lui.

Sắc mặt Lỗ Thiên Liễu đã trắng bệch như sáp, mà không, trong sắc trắng bệch dường như còn lẫn sắc tái xanh. Cô biết, suy nghĩ của mình một lần nữa đã bị Chu Ngộ Tâm nhìn thấu, hơn nữa, đó lại là tầng suy nghĩ mà cô đã cực lực cố gắng che giấu. Khả năng siêu phàm tới mức xuất quỷ nhập thần của đối phương khiến cô kinh hãi tột độ.

Song Lỗ Thiên Liễu không vội rút lui ngay, mà đưa ánh mắt nhìn khắp lượt những người xung quanh. Có thể thấy, cô đang hy vọng có ai đó nghĩ ra cách giúp mình.

Lão già nhả khói mù mịt đã đứng dậy, ánh mắt cũng mơ hồ như khói vờn, không thể đoán biết. Song Chu Ngộ Tâm không cần dùng tới Thấu tam giới cũng đã đoán ra, lão ta muốn bỏ đi. Đã biết rõ là cầm chắc thất bại, cũng nên hiểu lẽ tiến lui, kịp thời rời khỏi chốn hiểm nguy này càng sớm càng tốt. Quả nhiên, lão già không chút do dự, lập tức ngoắt người đi men theo mép Thiên Câu tiến về phía đông, nơi đó có một con đường đất đắp chênh vênh nối thông ra đường núi.

Kỳ thực con đường đó vốn dĩ cũng chịu sự kiểm soát của cao thủ Chu gia, song vừa rồi, trong lúc điều chỉnh khảm diện, Chu Ngộ Tâm đã cố ý chừa lại lối đó. Mục đích của hắn là đoạt lấy bảo bối, bởi vậy trước mắt không nhất thiết phải dốc sức đuổi cùng giết tận người Lỗ gia, chỉ cần bức bách họ biến đi, không cản trở hắn hành động là được.

Lão già vừa rời đi, những người khác đều hướng ánh nhìn vào Lỗ Thiên Liễu. Lỗ Thiên Liễu do dự một lát. Cuối cùng, hàm răng trắng muốt đã cắn xuống vành môi, rồi mấp máy một câu gì không rõ. Thế là ngoài tay gầy xác ve vừa nhảy nhót tựa cương thi, những người khác đều mau chóng hành động, lục tục rút lui về phía con đường đất đắp.

Còn tay “xác khô” lại nhảy bổ hai bước về phía Chu Ngộ Tâm, hai tay múa lên một động tác vô cùng quái dị. Động tác vừa thi triển, giữa bàn tay hắn lập tức phát ra một tràng âm thanh loảng xoảng chói tai, từ ống tay áo phụt ra một luồng khói lục mịt mờ, ngưng tụ mà không tản mát. Tất cả những người nghe thấy âm thanh quái dị và nhìn thấy luồng sương khói kia đều cảm thấy mắt mờ tai điếc, tâm thần bấn loạn.

Chu Ngộ Tâm không hành động. Phía Chu gia cũng có cao thủ của tộc đuổi xác, bởi vậy hắn biết tay “xác khô” kia đang làm gì. Đây là kỹ xảo độc môn “xác gõ cửa” của họ Ngôn ở Tương Tây. “Xác gõ cửa, khoá tai mắt, loạn tâm tính”. Song kỹ xảo này chỉ dùng trong chiến đấu ở cự ly gần hoặc nghi binh khi trốn chạy. Lúc này không phải là chiến đấu tầm gần, vậy thì chỉ có khả năng là đòn nghi binh để tẩu thoát.

Quả đúng như dự đoán, khi những kẻ hoa mắt ù tai đều đã phục hồi lại trạng thái bình thường, thì tay “xác khô” cũng đã ở trên sạn đạo, vừa khuất dạng sau một khúc quanh bên vách núi.

Kết quả này hoàn toàn phù hợp với mong muốn của Chu Ngộ Tâm. Nhưng không hiểu tại sao, hắn lại cảm thấy một mối bất an âm thầm nhen nhóm trong lòng. Có lẽ đạt được thứ mình muốn quá dễ dàng sẽ khiến con người ta cảm thấy không an tâm. Có câu “quá nhàn ắt có quỷ quái”, ở đây liệu có điều quỷ quái gì không?

Nghi ngờ và bất an cứ liên tục dâng lên trong lòng Chu Ngộ Tâm. Năng lực Thấu tam giới của hắn có thể dò la đến tầng ý niệm sâu xa của cô gái thần kỳ kia, liệu có phải là may mắn? Hay là do cô ta mất cảnh giác? Hay là phía sau tầng ý niệm sâu xa kia còn có cạm bẫy khác chăng?

Chính vào lúc đó, một cao thủ Chu gia tiến lại, cắt ngang bầu tâm tư nghi hoặc bất an của Chu Ngộ Tâm:

- Thưa môn trưởng! Tiềm Võng đường tại Nam Hải cho cú mèo đưa thư tới, nói rằng đã khống chế được đài Mộc Triều của bảo cấu hướng chính nam. Hai ngày nay đang tập hợp thợ khéo, nhân tài và dụng cụ, thiết bị, chỉ đợi thu xếp xong xuôi, lập tức khai quật bảo cấu!

Tin tức tốt đẹp này khiến Chu Ngộ Tâm lập tức dẹp bỏ mọi lo âu sang một bên. Chu gia hao tổn nhân lực vật lực suốt mấy trăm năm qua, song chưa bao giờ có được thu hoạch tốt đẹp như lần này, chỉ trong một ngày đã kiểm soát được hai bảo cấu.

- Đáp thư, lệnh cho Tiềm Võng đường gấp rút khai quật. Lại lệnh cho Lững Quảng đường và Phúc Lâm đường mau chóng điều cao thủ tới Nam Hải trợ giúp! – Chu Ngộ Tâm sắp xếp như vậy là muốn tăng cường chi viện, cũng là để giám sát lẫn nhau.

- Bây giờ trời đã tối, chướng khí chưa tan, lệnh cho khảm diện vòng trong canh phòng nghiêm mật, bên ngoài tuần tra luân phiên. Đợi đến ngày mai, khi sương tan trời sáng, lập tức xuống khe quật bảo! – Nhìn vào cách bố trí, có thể thấy, Chu Ngộ Tâm không những sở hữu khả năng thiên phú dị thường, mà còn rất mực chu toàn thận trọng, quả nhiên di truyền được phong thái nhất quán của nhà họ Chu.

Sáng sớm hôm sau, Chu Ngộ Tâm đột nhiên giật mình bừng tỉnh trên chiếc giường mềm bện từ nan trúc trích huyết kim tuyến. Song cả một vùng rừng núi mênh mông vẫn yên tĩnh tuyệt đối, không có bất cứ âm thanh nào kinh động đến hắn. Quái lạ! Cảm giác từ Thấu tam giới đã trở nên hỗn loạn! Không phải, chính xác hơn là những suy nghĩ mà hắn có thể dò la ở xung quanh vô cùng hỗn loạn. Chuyện gì đã xảy ra? Gần sát chiếc giường đang lọt thỏm trong rừng núi đã xuất hiện một đám khách không mời. Người Lỗ gia đã tìm thêm trợ thủ để quay lại ư? Không phải, trong những suy nghĩ kia, không có suy nghĩ nào hắn đã từng tiếp xúc. Đây là một đám đối thủ mà hắn chưa từng bắt gặp!

Tuy cục thế biến đổi nhanh chóng, song Chu Ngộ Tâm không hề bấn loạn. Hắn bình tĩnh sắp xếp thuộc hạ, khép chặt vòng vây bên trong, trước tiên cần bảo vệ chắc chắn bảo cấu, sau đó đích thân dẫn cao thủ bên ngoài tấn công kẻ địch. Hắn vô cùng tự tin với bản thân, và cũng rất tin tưởng vào người của Chu gia. Đám địch thủ lạ mặt kia hoàn toàn không phải là đối thủ của Chu gia.

Tin tức lan truyền trong giang hồ nhanh đến chóng mặt, tin tức lan truyền trong giang hồ cũng rất dễ bị thổi phồng. Kỳ thực, ngay từ lúc Chu Ngộ Tâm đối mặt với Lỗ Thiên Liễu bên Thiên Câu, đã có người loan tin khắp giang hồ rằng đây là nơi chôn giấu bảo bối của trời, đoạt được bảo bối sẽ có được thiên hạ. Bởi vậy, từ tối hôm qua, trong khi Chu Ngộ Tâm sắp xếp thủ hạ bảo vệ, khai quật bảo cấu, thì các lộ giang hồ từ khắp mọi nẻo đã rầm rập kéo về.

Tình hình ở đài Mộc Triều, Nam Hải cũng giống y như vậy, tin tức về bảo bối lan truyền nhanh chóng, các thế lực giang hồ cũng ùn ùn kéo về. Lực lượng khai quật bảo bối của Chu gia đành phải tạm thời từ bỏ kế hoạch mở bảo cấu, tập trung toàn bộ sức mạnh để đương đầu với kẻ địch khắp ba bề bốn bên, bảo vệ cứ địa. Trong khi tộc người Đản sinh sống trên thuyền vốn dĩ kế thừa di nguyện của tổ tiên Lỗ gia, đời đời bám biển bảo vệ bảo cấu lại lặng lẽ trốn đi biệt tích, chẳng ai rảnh rang để ý cả gia tộc bọn họ đã bỏ đi đâu...

Chu Ngộ Tâm không ngờ được rằng, cuộc chiến ở hai nơi này lại kéo dài tới hơn ba tháng trời ròng rã. Trong thời gian đó, Chu gia đã gần như phải một mình đối chọi với cả giang hồ.

Khi hai cuộc hỗn chiến đẫm máu đã diễn ra được khoảng sáu bảy ngày, trong cơn lo nghĩ đến căng thẳng, Chu Ngộ Tâm đột nhiên phát giác ra một chi tiết. Hắn lập tức rà soát lại một lượt toàn bộ diễn biến trước sau của sự việc, và kết luận là mình đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Ngay lập tức, hắn cho vận dụng tất cả mọi phương pháp truyền tin khẩn cấp của Chu gia, điều động nhân lực của năm đường khẩu phía Bắc để tìm kiếm tung tích của người họ Lỗ. Song đến tận hơn ba tháng sau, khi cuộc chiến dằng dai đã kết thúc, vẫn không thể lần ra chút tăm hơi. Từ đó, người của Ban môn như đã bốc hơi khỏi cõi nhân gian, biệt tích giang hồ không để lại mảy may dấu vết.

Nhưng đám do thám của Nam Hải đường phía Chu gia lại tìm được một bức thư ở chùa Nam Sơn trong địa vực của chúng. Bức thư do đại sư Vô Do chùa Thiên Long, Đại Lý gửi tới bằng chim bồ câu chuyên dùng để trao đổi kinh văn Phật ngữ. Nghe nói phương trượng trong chùa sau khi đọc xong thư, đã một mình tới chỗ quần cư của tộc người Đản, từ đó không thấy trở về. Cho tới ngày nay, trong tập ký sự “Nam sơn tự lục” của ngôi chùa vẫn còn lại ghi chép về việc phương trượng đời thứ mười sáu thoát tục thần du, biệt vô âm tích.

Bức thư không dài, ý tứ đại khái như sau: “Thiên bảo và hung huyệt nghìn năm qua cân bằng lẫn nhau giống như âm dương, người đời thuận theo sự biến đổi của nó mà sinh sống đã thành quen thuộc, hà tất phải cưỡng cầu chuyện cương vực lãnh thổ, mà sự an khang hạnh phúc của sinh linh mới là quan trọng nhất. Thiên bảo phía tây trấn hung huyệt, huỷ diệt vô số sinh linh, lại chẳng bằng Địa bảo phía đông, tan vỡ mà tạo phúc một vùng. Theo ý trời chẳng bằng thuận tự nhiên, người đời tự khắc biết tránh hung tìm phúc, bất tất phải phá vỡ hiện trạng. Hậu duệ Lỗ gia nên giấu kín bảo cấu, mai danh ẩn tích không để kẻ tham lam lợi dụng. Có thể dùng cách cục “Vẽ hoa dụ bướm” trong Kỳ môn Độn giáp để thoát thân, thao tác cụ thể cần chu toàn nghiêm mật, chỉ được một người làm chủ, để những người không rõ sự tình trợ giúp”. Cuối thư đề tên môn trưởng Ban môn Lỗ Nhất Khí.

Nhận được thông tin này, Chu Ngộ Tâm mới ngộ ra thứ “trò quỷ” mà hắn lờ mờ cảm giác được trong ngày hôm đó là gì. Đó chính là tầng tư duy thứ ba của cô gái họ Lỗ mà hắn chưa thể động chạm đến. Còn tầng tư duy thứ hai mà hắn đã lần dò được trong mơ hồ ẩn hiện, kỳ thực chính là một khảm diện ngược. Khảm diện này chính là cách cục thoát thân đã được thiết kế cho riêng bọn họ, cũng là cách cục vây khống nhằm giam chân hắn ở đây không thể thoát thân. Bảo cấu hai nơi té ra chỉ là “vẽ hoa” để dụ con bướm là Chu gia. Chỉ vì những bảo cấu không phải là bảo cấu, mà hắn đã phải sát phạt với toàn bộ giang hồ.

Song Chu Ngộ Tâm vẫn không chịu bỏ cuộc. Và cuối cùng, sau khi trả giá bằng sự hy sinh của tuyệt đại đa số thuộc hạ Chu môn, hắn đã có thể an tâm và an toàn khai quật “bảo cấu”. Việc khai quật đơn giản hơn rất nhiều so với chiến đấu, đám thợ kỳ tài của Chu gia chỉ mất hai, ba ngày đã khẳng định chắc chắn cả hai nơi đều là bảo cấu giả. Tuy kết quả này sớm đã nằm trong dự tính của Chu Ngộ Tâm, song hắn vẫn cảm thấy đau đớn, uất hận và thất vọng không sao tả xiết.

Sau cuộc chiến dằng dai với các thế lực giang hồ tại vùng tây nam và chính nam suốt mấy tháng ròng, Chu gia lâm vào cảnh nhân tài cạn kiệt, lòng người phân tán, từ đó lụn bại, không thể phục hưng.

Khi rời khỏi Thiên Câu mịt mờ sương khói, phảng phất máu tanh, Chu Ngộ Tâm liếc nhìn cánh cửa bảo cấu nguỵ tạo bằng bóng đá ngấn nước, lại dõi mắt nhìn dãy núi hùng vĩ trập trùng, sắc biếc ngút ngàn, liên miên bất tận. Tận cùng của dãy núi là chân trời, tận cùng của chân trời là một dải mây lững lờ trôi nổi. Bảo cấu đang ẩn mình ngay trong dãy núi miên man kia, thế nhưng dưới gầm trời này, duy chỉ hậu duệ của Lỗ gia mới có thể tìm ra bảo cấu. Dưới gầm trời rộng lớn, liệu có ai biết được hậu duệ của Lỗ gia đang ở nơi đâu? Hoặc có lẽ, họ chính là áng mây đang trôi nổi cuối chân trời.

HẾT

Chú thích

[36] Có nghĩa là bia, bảng tắm ánh nắng.

[37] Có nghĩa là chiếc đấu cầu vồng hút trời.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom