Cập nhật mới

Dịch Full Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,904
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ --------

Viên tù trưởng già Ha-tim đã giữ lời hứa với ông lão người Hy Lạp và cố gắng chăm sóc bọn trẻ. Con đường lên thượng nguồn sông Nin thật là gian khó.Họ đi qua Kê-tai-na, Et Đu-chim và Ca-na, sau đó vượt qua Áp-ba, một hòn đảo giữa sông Nin phủ đầy rừng, trên đó, hồi trước chiến tranh, Ma-hơ-đi đã từng sống trong một thân cây rỗng lòng với tư cách một thầy tu - ẩn sĩ. Đoàn người thường phải đi vòng quanh những vùng nước ngập rộng lớn mọc đầy cây cói giấy, những vùng nước ngập này thường được gọi là các xu-da, từ đó, gió mang về hơi độc của các thứ lá mục bị dòng nước cuốn đi. Hồi trước, các kĩ sư người Anh đã từng phá bỏ các đập chắn tự nhiên này(1), những con tàu chạy bằng hơi nước có thể chạy từ Khác-tum tới tận Pha-sô-đa và xa hơn nữa. Song giờ đây, dòng sông lại bị tắc nghẽn, không thể chảy tự do, nên tràn ra hai bên bờ. Vùng lân cận bờ tả và hữu ngạn phủ đầy rừng cây cao vút, trong đó nhô lên những chiếc tổ mối và những cây gỗ khổng lồ đứng đơn độc. Nhiều nơi, rừng lan sát tận bờ sông. Những chỗ khô ráo hơn một chút mọc những bụi cây xiêm gai. Trong những tuần lễ đầu tiên, họ thường gặp các làng mạc và thị trấn Ả Rập, gồm những chiếc nhà mái lợp cuộng kê có hình chum khum khum kì lạ, song kể từ sau Áp-ba trở đi, từ làng Gô-dơ A-bu Gu-ma, họ đi vào vùng đất của người da đen. Đó là một vùng đất hoàn toàn hoang vắng, vì các tín đồ Hồi giáo đã bắt gần như cạn sạch cư dân da đen trong vùng đem bán tại các chợ ở Khác-tum, Om-đu-a-man, Đa-ra, Pha-se-rơ, Em O-bai-đơ và những thành phố khác của Xu-đan, Đác-phua và Coóc-đô-phan. Những thổ dân khác kịp trốn tránh kiếp đời nô lệ trong bụi rậm hay trong rừng sâu, bị chết dần chết mòn bởi cái đói và bệnh đậu mùa, bệnh dịch này đang lan tràn với một sức mạnh chưa từng thấy dọc theo sông Nin Trắng và Nin Xanh.

Chính các tín đồ Hồi giáo cũng phải nói rằng, hàng “dân tộc” phải chết rụi vì bệnh dịch này. Những cánh đồng cao lương trước kia, những nương sắn và vườn chuối bị ngập trong rừng. Chỉ có những loài dã thú, không bị ai săn đuổi, là sinh sôi nảy nở rất nhiều.

Nhiều hôm, trong ráng chiều, bọn trẻ nhìn ở phía xa xa những đàn voi, trông giống như những khối đá di động, đang chậm rãi bước về phía những nguồn nước quen thuộc đối với chúng. Nhìn thấy chúng, ông Ha-tim vốn trước là một tay chuyên buôn ngà voi, liền tắc lưỡi, thở dài và tâm sự với Xtas:

- Trời ơi! Bao nhiêu là của cải ở đây. Nhưng bây giờ có săn bắn cũng chẳng ích gì, vì Ma-hơ-đi cấm các thương nhân Ai Cập đi lại Khác-tum nên chẳng biết bán ngà cho ai nữa, ngoài việc bán cho các vị ê-mia làm tù và um-bai.

Ngoài voi, họ cũng gặp cả hươu cao cổ, bọn này khi trông thấy đoàn người liền bỏ chạy bằng một thứ nước kiệu nặng nề, lắc lư những chiếc cổ dài ngoẵng, trông như bị thọt. Từ Gô-đơ A-bu Gu-ma trở đi, ngày càng xuất hiện nhiều trâu rừng và hàng đàn linh dương. Những người trong đoàn, khi bị thiếu thịt tươi, liền săn chúng, song gần như bao giờ cũng không có kết quả gì, vì những con vật cảnh giác và lanh lẹn này chẳng bao giờ cho phép người ta tiến đến gần hay bao vây chúng.

Nói chung lương ăn của họ rất ít ỏi, vì vùng đất này không người nên không thể tìm được kê hay chuối cùng các loại cá, thứ sản vật mà ngày trước những cư dân da đen thuộc các bộ lạc Sin-lúc và Đin-ca thường vui lòng đổi cho các khách thương lấy chuỗi hạt thuỷ tinh và những chiếc vòng đồng. Tuy nhiên, ông Ha-tim không để cho bọn trẻ bị chết đói, hơn nữa, ông còn khống chế Ghe-bơ-rơ rất chặt, và một lần, trong mộ t dịp nghỉ đêm, khi tên này đánh Xtas lúc em tháo yên cương lạc đà, ông đã ra lệnh nọc hắn ra đất, nện vào mỗi gót chân ba mươi hèo bằng roi tre. Tên Xu-đan hung bạo suốt hai ngày liền chỉ có thể đi nhón trên đầu ngón chân mà nguyền rủa cái giây phút hắn rời khỏi Phai-um, đồng thời trút cơn hận lên đầu một người nô lệ trẻ mà người ta tặng cho hắn, tên là Ca-li.

Ban đầu Xtas gần như vui sướng vì được thoát khỏi thành Om-đu-a-man ngạt thở và được trông thấy những vùng đất mà từ lâu em hằng mơ ước. Cho đến nay, cơ thể cường tráng của em chịu đựng nổi mọi nỗi nhọc nhằn trên đường, và việc ăn uống được cải thiện hơn đã trả về cho em nguồn nghị lực. Nhiều lần trên đường đi và tại những chỗ dừng chân tạm nghỉ, em thì thầm vào tai cô em gái rằng ở vùng sông Nin Trắng cũng vẫn có thể chạy trốn, và rằng em hoàn toàn không từ bỏ ý định này. Song em lo ngại về sức khoẻ của cô bé. Ba tuần sau khi rời khỏi Om-đu-a-man, tuy Nen vẫn chưa bị bệnh sốt rét, nhưng mặt cô bé gầy hẳn, và thay vì rám nắng, cô bé mỗi lúc một trong suốt đi, đến nỗi hai bàn tay của cô trông cứ như được nặn bằng sáp. Cô bé không thiếu những cố gắng săn sóc, thậm chí cả những tiện nghi mà Xtas và bà Đi-na - với sự giúp đỡ của ông Ha-tim có thể tạo ra, nhưng cô bé thiếu đi cái khí trời lành mạnh của vùng sa mạc. Khí hậu ẩm ướt và nóng nực cộng với nỗi nhọc nhằn khi đi đường đã khiến cho sức khoẻ của đứa trẻ vốn yếu ớt thêm mòn mỏi.

Kể từ Gô-dơ A-bu Gu-ma trở đi, hàng ngày Xtas cho cô bé uống nửa viên kí ninh, và em rất lo ngại khi nghĩ rằng thứ thuốc này chẳng còn đủ dùng cho em được bao lâu nữa, mà sau đó cũng chẳng biết kiếm thêm ở đâu được. Tuy nhiên, chẳng có cách nào khác, vì trước hết cần phải phòng bệnh sốt rét cái đã. Thỉnh thoảng em lại cảm thấy tuyệt vọng. Em chỉ tự đánh lừa mình bằng hi vọng, rằng Xmai-nơ, nếu muốn đánh đổi hai đứa trẻ lấy con hắn, sẽ phải tìm cho chúng một địa điểm nào khác có khí hậu khá hơn Pha-sô-đa.

Song dường như nỗi bất hạnh cố tình đeo đẳng theo để săn đuổi các nạn nhân của nó. Một ngày trước khi tới Pha-sô-đa, trong khi đang tháo cái gói chứa những thứ đồ dùng của Nen mang theo từ Phai-um, bà Đi-na, vốn ngay từ hồi ở Om-đu-a-man đã cảm thấy người rất yếu, bỗng nhiên bị ngất xỉu và ngã từ trên lưng lạc đà xuống đất. Xtas và Kha-mix khó khăn lắm mới làm cho bà hồi tỉnh lại. Tuy nhiên, bà vẫn không hoàn toàn tỉnh táo, hay nói cho đúng hơn, chỉ tỉnh lại được một lúc vào chiều tối để ứa lệ từ giã cô chủ thân yêu của bà, rồi tắt nghỉ. Sau khi bà qua đời, Ghe-bơ-rơ cứ nằng nặc muốn cắt tai bà để sau này đưa cho Xmai-nơ làm bằng chứng rằng bà đã bị chết dọc đường, hòng đòi thêm tiền về chuyện đã bắt cóc được bà. Người ta vẫn thường làm như vậy đối với những nô lệ bị chết trong khi đi đường. Song ông Ha-tim, thể theo lời khẩn cầu của Xtas và Nen, không đồng ý cho hắn làm việc đó. Do vậy, họ chôn cất bà đầy thương tiếc, rồi dùng đá và gai bảo vệ mộ bà khỏi bị lũ linh cẩu phá. Bọn trẻ càng trở nên cô đơn hơn, vì mất bà, chúng mất đi cái tâm hồn gần gũi và gắn bó duy nhất với chúng.

Đó là một đòn rất tàn khốc đối với Nen, khiến Xtas tuy cố gắng an ủi cô bé suốt đêm hôm ấy và ngày hôm sau nhưng cũng không kết quả.

Đã qua ngày đi đường thứ sáu. Trưa hôm sau cả đoàn tới Pha-sô-đa, song chỉ thấy một nơi bị đốt trụi. Các tín đồ của Ma-hơ-đi sống ngoài trời hay trong những túp lều dựng vội bằng cành cây và cỏ. Ba ngày trước đó cả làng này bị cháy trụi. Chỉ còn lại những bức tường đất sét ám khói của những túp lều hình tròn và một căn lều lớn bằng gỗ dựng sát bờ sông, căn lều từ thời Ai Cập vốn dùng để chứa ngà voi, và hiện là nơi viên thủ lĩnh của đám quân lính của Ma-hơ-đi đang ở. Viên thủ lĩnh đó là ê-mia Xê-ki Ta-ma-la. Đó là một người nổi tiếng trong số quân binh của Ma-hơ-đi, một kẻ thù giấu mình của thống lĩnh Áp-đu-la-hi, ngược lại, là người bạn thân của ông Ha-tim. Y đón tiếp nhiệt tình viên tù trưởng già cùng bọn trẻ, song ngay câu mở đầu đã báo cho họ tin chẳng lành.

Đó là việc họ sẽ không gặp được Xmai-nơ ở Pha-sô-đa. Hai ngày trước đây y đã lên đường đi săn bắt nô lệ về phía Đông và phía Nam sông Nin, và chẳng biết đến bao giờ y mới trở về, vì những vùng lân cận đã sạch người nên cần phải tìm món hàng sống này ở rất xa. Tuy gần Pha-sô-đa là quốc gia A-bi-xi-ni-a, quân Ma-hơ-đi hiện đang có chiến cuộc với nước này, nhưng trong tay chỉ có vẻn vẹn ba trăm người, Xmai-nơ không dám vượt qua biên giới hiện đang bị canh phòng nghiêm ngặt bởi các cư dân thiện chiến trong vùng và quân của vua Giăng.

Vì vậy, Xê-ki Ta-ma-la và Ha-tim bắt đầu suy nghĩ xem phải làm thế nào đối với bọn trẻ. Cuộc bàn bạc diễn ra chủ yếu trong bữa ăn tối mà viên ê-mia mời cả Xtas và Nen cùng tham dự.

- Chẳng bao lâu nữa, - y nói với Ha-tim, - tôi cũng sẽ đưa tất cả mọi người lên đường tiến hành một cuộc tiễu phạt chống lại pa-sa E-min(2), kẻ hiện đang chiếm giữ La-đô, trong tay có cả tàu thuỷ và quân đội. Chính ông đã mang đến cho tôi cái mệnh lệnh ấy đấy, ông bạn Ha-tim ạ... Ông thì phải quay trở lại Om-đu-a-man, nghĩa là chẳng còn mống nào ở lại Pha-sô-đa nữa cả. Ở đây chẳng biết ở vào đâu, chẳng có gì ăn mà bệnh tật lại đang hoành hành. Tôi cũng biết là người da trắng không mắc bệnh đậu mùa, nhưng bệnh sốt rét thì chắc chắn sẽ giết bọn trẻ trong vòng một tháng.

- Người ta ra lệnh cho tôi đưa chúng tới Pha-sô-đa, - ông Ha-tim đáp - tôi đã đưa tới nơi và có thể không cần phải bận tâm về chúng nữa. Nhưng bạn tôi là ông Ka-li-o-pu-li, người Hy Lạp, gửi gắm chúng cho tôi, nên tôi không muốn hai đứa phải chết.

- Thế nhưng chuyện đó chắc chắn sẽ xảy ra đấy.

- Vậy tôi phải làm gì bây giờ?

- Thay vì để chúng ở lại Pha-sô-đa trống rỗng, ông hãy gửi chúng tới chỗ Xmai-nơ cùng với bọn người đã đưa chúng tới Om-đu-a-man. Ngài Xmai-nơ đi về phía núi, tới vùng đất cao và khô ráo hơn, nơi bệnh sốt rét không giết người nhiều như ở vùng sông.

- Nhưng làm sao tìm được Xmai-nơ chứ?

- Cứ theo vết lửa mà tìm. Ông ta sẽ đốt rừng, thứ nhất là để xua thú rừng vào những khu núi đá, nơi có thể dễ dàng bao vây và giết chúng, sau nữ a, để lùa bọn ngoại đạo ra khỏi vùng cây cối rậm rạp, nơi chúng ẩn náu trá nh khỏi bị săn bắt... chẳng khó gì không tìm ra Xmai-nơ đâu.

- Nhưng liệu họ có đuổi kịp ông ta không?

- Thỉnh thoảng ông ta lưu lại các địa phương một tuần liền vì ông ta phải sấy thịt cho khô đi. Cho nên dù hai ba ngày nữa mới lên đường, chắc chắn họ sẽ đuổi kịp ông ta.

- Nhưng sao họ lại phải đuổi theo ông ta làm gì? Thế nào rồi ông ta chẳng phải quay trở lại Pha-sô-đa.

- Không đâu. Nếu như việc săn bắt nô lệ thành công, ông ta sẽ đưa chúng ra chợ bán tại các thành phố chứ...

- Làm gì bây giờ nhỉ?

- Nên nhớ là khi cả hai chúng ta rời khỏi Pha-sô-đa, thì nếu như bệnh sốt rét không giết bọn trẻ, chúng cũng sẽ chết đói tại đây.

- Lạy Đấng tiên tri. Quả có thế thật!

Và quả thực không có cách nào khác ngoài cách đưa bọn trẻ dấn thân vào một cuộc lang bạt mới.Ông Ha-tim, vốn là người rất tốt bụng, chỉ lo lắng về việc liệu Ghe-bơ-rơ, kẻ mà ông đã biết là tàn bạo trong khi đi đường, có hành hạ bọn trẻ hay không. Song Xê-ki Ta-ma-la, người rất hung tợn, khiến cho ngay cả đám lính của y cũng phải kinh sợ, liền cho gọi tên Xu-đan đến và ra lệnh cho hắn phải giao bọn trẻ sống nguyên vẹn đến tận tay Xmai-nơ, đồng thời phải đối xử tốt với chúng, nếu không thì sẽ bị treo cổ. Ông Ha-tim nhân hậu còn yêu cầu viên ê-mia cấp thêm cho Nen một nữ nô lệ để phục vụ và chăm sóc cô bé dọc đường cũng như ở trong trại của Xmai-nơ. Nen rất sung sướng vì món quà này, nhất là khi nô tì lại là một thiếu nữ thuộc bộ tộc Đin-ca, có nét mặt dễ thương và dáng vẻ ngọt ngào.

Xtas biết rằng Pha-sô-đa là đất chết, nên em không yêu cầu ông Ha-tim đừng đưa chúng vào một chuyến đi thứ ba này nữa.

Tận đáy lòng em còn nghĩ rằng, khi tiến về phía Đông và phía Nam, càng ngày em càng tiến dần tới biên giới phía Nam của A-bi-xi-ni-a và có thể sẽ trốn ngay. Em hi vọng rằng, trên những cao nguyên khô ráo, Nen có thể tránh khỏi bệnh sốt rét, và vì tất cả những lí do đó, em vui lòng và nhiệt thành đảm nhiệm việc chuẩn bị lên đường.

Ghe-bơ-rơ, Kha-mix cùng bọn Bê-đu-in cũng không chống lại việc đi tiếp, vì chúng tính rằng, bên cạnh Xmai-nơ, chúng có thể sẽ săn bắt được nhiều nô lệ, rồi đem bán họ với giá hời tại các chợ.

Chúng biết rõ rằng việc buôn bán nô lệ nhiều khi có thể mang lại những tài sản khổng lồ, và dù sao, chúng thà lên đường hơn là ở lại tại đây dưới trướng Ha-tim và Xê-ki Ta-ma-la.

Tuy nhiên việc chuẩn bị cũng mất khá nhiều thời gian, nhất là vì bọn trẻ cần phải nghỉ ngơi. Lũ lạc đà không còn có thể sử dụng làm phương tiện đi đường nữa, nên bọn Ả Rập cùng với Xtas và Nen sẽ đi ngựa, còn Ca-li - nô lệ của Ghe-bơ-rơ - và Mê-a - cô hầu mới của Nen, theo tên gọi mà Xtas đề nghị - sẽ đi bộ theo sau ngựa. Ông Ha-tim còn cố gắng kiếm thêm một con lừa để chở theo cái lều dành cho cô bé Nen và lương ăn cho bọn trẻ trong ba ngày đường. Xê-ki Ta-ma-la không thể chia thêm được gì nữa cho cô bé.

Người ta làm riêng cho Nen một thứ yên theo kiểu dành cho đàn bà bằng vải chăn, chiếu cọ và các thanh tre.

Bọn trẻ được nghỉ ngơi ba ngày tại Pha-sô-đa, song hằng hà sa số muỗi kéo từ sông đến khiến cho chuyện sống ở đây trở nên không thể nào chịu đựng nổi. Ban ngày xuất hiện hàng đàn nhặng xanh to tướng, chúng không đốt, nhưng khó chịu vô cùng, chúng chui vào tai, đậu lên mắt và thậm chí đậu vào miệng. Ngay từ hồi còn ở Port Xai-đơ, Xtas đã từng nghe nói rằng muỗi và ruồi truyền bệnh sốt rét và bệnh dịch đau mắt, nên cuối cù ng em yêu cầu Xê-ki Ta-ma-la cho phép được lên đường càng sớm càng tốt, nhất là khi mùa mưa xuân đang tiến lại gần.

--- ------ ---.

1 Sau khi cuộc khởi loạn bị dẹp, giao thông lại được thông suốt (chú thích của tác giả).

2 Pa-sa Emin, vốn là người Do thái gốc Đức, là thống đốc Equatoria, sau khi Ai Cập chiếm vùng đất nằm cạnh hồ An-be Ni-an-da. Quân Ma-hơ-đi tấn công ông ta vài lần.

Ông được Xtan-lây cứu thoát cùng với phần lớn quân đội và đưa tới Ba-ga-môi-ô nằm trên bờ Ấn Độ dương.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,904
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ----

- Anh Xtas này, tại sao chúng ta cứ đi mãi, đi mãi, mà không thấy ông Xmai-nơ đâu cả?

- Anh không biết. Chắc là ông ta đi nhanh lên phía trước để mau tới vùng có thể bắt được người da đen. Em muốn chúng mình được nhập ngay vào toán quân của ông ấy hay sao?

Cô bé gật mái đầu hoe hoe của mình tỏ vẻ rất mong muốn điều đó.

- Sao em lại muốn thế?

- Bởi vì có thể là ở cạnh ông Xmai-nơ thì Ghe-bơ-rơ sẽ không dám đánh thằng Ca-li tội nghiệp tàn tệ thế kia đâu.

- Xmai-nơ cũng chẳng tốt gì hơn. Tất cả bọn chúng đều không hề biết thương tiếc gì nô lệ đâu em ạ.

- Thế ư anh? Và hai giọt nước mắt lăn trên gò má đã gầy tọp đi của cô bé.

Đã là ngày đi đường thứ mười. Thoạt đầu Ghe-bơ-rơ - bây giờ là thủ lĩnh của cả đoàn - dễ dàng tìm ra những dấu vết của gã Xmai-nơ. Những vệt rừng cháy và những đống tro lửa trại đầy xương xẩu bị gặm nham nhở cùng với các thứ hài cốt khác chỉ ra con đường y đã đi qua. Nhưng sau năm ngày đi đường, họ gặp phải một khoảng đồng cỏ bị cháy rộng mênh mông, trên đó gió mang ngọn lửa đi khắp mọi hướng. Các dấu vết mờ nhạt đi và rối rắm hơn, vì hẳn là Xmai-nơ chia toán quân của y ra thành nhiều đội nhỏ hơn để dễ dàng vây cầm thú và kiếm lương ăn. Ghe-bơ-rơ không biết phải đi theo lối nào, và nhiều lần hình như là, sau khi đi một vòng tròn lớn, cả đoàn quay trở lại chỗ xuất phát ban đầu. Rồi sau đó, họ gặp phải một khu rừng, sau khi vượt qua rừng, họ tiến vào vùng đá sỏi, nơi mặt đất là những phiến đá lớn hay những cục đá nhỏ trải đầy trên một khoảng không gian to lớn, khiến bọn trẻ nhớ lại những con đường lát đá của thành phố. Ở đây rất ít cây cỏ.

Thảng hoặc, trong các khe nứt mới có một vài cây xương khô, trinh nữ, và hiếm hoi hơn nữa là một loại cây thân gỗ mảnh mai màu lục nhạt mà Ca-li gọi theo ngôn ngữ Kix-va-hi-li bằng cái tên m'ti, loại cây này lá có thể dùng cho ngựa ăn. Trong vùng hoàn toàn không có khe hoặc suối, nhưng may thay, thỉnh thoảng trời bắt đầu đổ mưa, nên có thể tìm thấy nước trong các hõm đá.

Những toán quân của Xmai-nơ đã xua sạch bọn thú rừng, và đoàn người cơ hồ có thể chết đói, nếu như không có hàng lũ chim pen-tác-ca, bọn này cứ chốc chốc lại từ dưới chân ngựa bay vụt lên, còn về chiều, chúng đậu kín trên các cây, dày đến nỗi chỉ cần nổ súng về hướng thích hợp là đã có ngay vài con rụng xuống đất.

Thêm vào đó, chúng chẳng nhát người chút nào, chúng để cho người ta đến thật gần rồi mới nặng nề và chậm chạp bay lên, đến nỗi con chó Xa-ba, chạy trước đoàn người, có thể gần như ngày nào cũng tóm được loài chim này.

Mỗi ngày, Kha-mix hạ chừng hơn chục con bằng khẩu súng kíp cũ kĩ mà hắn đã lừa lấy được của một trong những tín đồ Hồi giáo dưới quyền ông Ha-tim trong chuyến đi từ Om-đu-a-man tới Pha-sô-đa. Tuy nhiên, đạn thì hắn chỉ còn chừng hai chục viên, nên hắn lo ngại không hiểu sẽ ra sao khi số đạn đó bị cạn đi hết. Tuy các loài thú bị bạt đi, nhưng thỉnh thoảng sau các khối đá cũng vẫn xuất hiện những bầy linh dương a-ri-en, giống linh dương tuyệt đẹp rất phổ biến trong toàn miền Trung Phi. Nhưng muốn săn linh dương a-ri-en thì phải bắn bằng khẩu súng của Xtas, khẩu súng mà Ghe-bơ-rơ không muốn đưa vào tay thằng bé chút nào.

Tên Xu-đan cũng bắt đầu lo ngại về chặng đường quá dài. Đôi khi hắn đã nghĩ tới việc quay trở về Pha-sô-đa, vì nếu như họ vượt qua Xmai-nơ mà không gặp, thì rất có thể họ sẽ bị lạc lung tung trong những vùng hoàn toàn hoang dã nơi chưa kể tới chuyện đói, mà trước hết là họ sẽ bị đe doạ tấn công bởi các loài dã thú cùng những người dân da đen còn hoang dã hơn nữa, những người đang nghẹn thở vì căm thù những cuộc săn lùng mà người ta đã dành cho họ. Song do không được biết rằng Xê-ki Ta-ma-la đã lên đường đi đánh nhau với pa-sa E-min, nên hắn vô cùng lo sợ nghĩ đến chuyện quay trở về sẽ phải đứng đối diện với viên e-mia hùng mạnh, kẻ đã ra lệnh cho hắn phải mang bọn trẻ tới cho Xmai-nơ, đồng thời còn gửi cho ông ta một bức thư và nói rằng, nếu như hắn không hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ thì sẽ phải lên giá treo cổ. Tất cả những điều đó gộp lại khiến lòng hắn tràn ngập đắng cay và tức tối. Tuy nhiên, hắn không còn dám giận cá chém thớt trút những nỗi hận của mình lên Xtas và Nen nữa, ngược lại, tấm lưng của cậu bé Ca-li tội nghiệp ngày nào cũng phải toé máu dưới làn roi ngựa của hắn.

Người nô lệ trẻ tiến lại gần ông chủ của mình bao giờ cũng run rẩy và sợ hãi. Nhưng chỉ vô ích thôi việc cậu ôm chân và hôn tay chủ, chỉ vô ích thôi việc cậu rập đầu trước mặt chủ. Trái tim sắt đá không hề bị rung động bởi sự quỵ luỵ cùng tiếng rên than, và y quất roi ngựa vì bất cứ chuyện gì, thậm chí ngay cả khi hoàn toàn vô duyên cớ, xuống tấm thân của cậu bé bất hạnh. Đêm đêm y dùng gông gỗ khoét lỗ gông chặt hai chân cậu bé để nó khỏi chạy trốn. Ban ngày cậu phải đi theo bên cạnh ngựa của Ghe-bơ-rơ, bị dắt bằng sợi dây thừng, chuyện này khiến cho gã Kha-mix rất khoái trá. Nen nhỏ lệ khóc than cho nỗi bất hạnh của Ca-li, còn Xtas phẫn nộ trong lòng và đã mấy lần hăng hái bảo vệ nó, nhưng khi nhận thấy rằng điều đó chỉ càng khiến cho Ghe-bơ-rơ bị kích thích hơn mà thôi, em đành nghiến chặt răng yên lặng.

Song cậu bé Ca-li vẫn hiểu được rằng hai thiếu niên nọ ủng hộ mình, và do thế, cậu yêu thương họ sâu sắc bằng trái tim tội nghiệp đầy đau khổ của cậu.

Từ hai ngày nay họ đi theo một khe núi đá có hai bờ cao vút dựng đứng. Cứ trông cảnh những khối đá bị mang đi và vứt hỗn độn cũng có thể dễ dàng đoán rằng, trong mùa mưa, khe này đầy nước, nhưng hiện nay lòng khe hoàn toàn khô khốc. Dưới chân hai bức vách đá có một ít cỏ mọc, nhiều cây gai, thảng hoặc đây đó còn có vài cây thân gỗ. Ghe-bơ-rơ chọn cái họng đá này vì thấy nó cứ dốc lên mãi, nên hắn đồ rằng có lẽ nó sẽ dẫn lên một vùng cao nguyên nào đó, trên ấy hắn sẽ dễ nhận ra vết khói về ban ngày hoặc ánh lửa về ban đêm từ trại Xmai-nơ. Nhiều chỗ, khe núi co thắt lại hẹp đến nỗi chỉ vừa đủ cho hai ngựa đi sóng hàng ngang, nhiều chỗ nó lại phình rộng ra thành những lòng thung nho nhỏ hình tròn, dường như được những bức tường đá vây quanh, trên đó những con vượn ngồi đùa nghịch với nhau, vừa kêu léc chéc vừa nhe răng ra với đoàn người.

Lúc đó là năm giờ chiều. Mặt trời đã gần ngả về Tây.

Ghe-bơ-rơ đã nghĩ tới chỗ trú đêm, tuy nhiên hắn còn muốn đi được tới một lũng núi nào đó để có thể dựng hàng rào bằng cây trinh nữ gai và xiêm gai vây quanh đoàn người và ngựa để chống lại sự tấn công của lũ dã thú . Con chó Xa-ba chạy lên phía trước, sủa theo lũ vượn - bọn này trông thấy nó liền nhộn nhạo hoảng loạn - và chốc chốc lại mất hút sau một chỗ ngoặt của khe núi. Tiếng sủa của nó vọng lại to tướng, được dội đi dội lại.

Bỗng nhiên tiếng nó im bặt, rồi lát sau, nó chạy lao trở lại phía đoàn ngựa, lông cổ dựng ngược cả lên, đuôi cụp sát xuống.

Bọn Bê-đu-in và Ga-rắc Ghe-bơ-rơ hiểu rằng có cái gì đó đã khiến nó hoảng sợ, nhưng sau khi liếc nhìn nhau và muốn biết xem cái đó là cái gì, chúng vẫn tiến lên. Song vừa vượt qua một chỗ ngoặt nhỏ, chúng vội kìm ngay ngựa lại và đứng sững như bị hoá đá trước cảnh tượng vừa đập vào mắt chúng.

Trên một phiến đá không lớn lắm nằm ngay chính giữa lòng khe (chỗ này khe khá rộng) là một con sư tử đang nằm.

Khoảng cách từ chỗ chúng đến con thú nhiều lắm là chừng trăm bước. Nhìn thấy người và ngựa, con thú khổng lồ nhổm dậy trên hai chân trước và bắt đầu đăm đăm nhìn chúng. Mặt trời đã xuống thấp chiếu ánh nắng xuống cái đầu to tướng của nó, xuống vòng ngực xù lông, và trong ráng chiều đỏ rực, trông nó giống như một con nhân sư được dùng để trang trí lối vào các đền đài Ai Cập cổ đại.

Lũ ngựa khuỵu hai chân sau xuống, quay lùi trở lại. Người cưỡi thì kinh hồn và hoảng hốt, không hiểu cần phải làm gì, miệng họ chỉ thốt ra những tiếng kêu kinh hoàng và bất lực: “Ôi A-la! Trời ơi! Lạy đức A-la!” Còn vị chúa tể của rừng từ trên cao nhìn xuống, bất động như được đúc bằng đồng.

Ghe-bơ-rơ và Kha-mix đã từng nghe các khách thương buôn ngà voi và nhựa cây từ Xu-đan đến Ai Cập kể rằng, đôi khi sư tử nằm chắn ngang đường người đi, và đoàn người bắt buộc phải đi đường vòng để tránh. Song ở đây chẳng còn biết tránh đi đường nào. Chỉ còn cách thối lui và bỏ chạy, nhưng nếu vậy thì chắc chắn là con vật dữ tợn này sẽ lao đuổi theo họ.

Vì vậy những câu hỏi cuồng hoảng bật ra:

- Làm gì?

- Làm gì bây giờ?

- Lạy đức A-la! Có thể nó sẽ tránh đường chăng?

- Nó không tránh đâu.Rồi im lặng lại bao trùm. Chỉ nghe thấy tiếng thở hổ n hển củ a lồng ngực người và tiếng phì phò của ngựa mà thôi.

- Thả thằng Ca-li ra! - Kha-mix bỗng nói với Ghe-bơ-rơ. - Chúng ta sẽ chạy trốn bằng ngựa, sư tử sẽ đuổi kịp nó trước tiên và chỉ thịt nó mà thôi.

- Làm đi! - bọn Bê-đu-in phụ hoạ:

Song Ghe-bơ-rơ hiểu rằng, nếu làm như thế thì chỉ trong nháy mắt, Ca-li sẽ trèo ngay lên vách đá, còn sư tử sẽ đuổi theo ngựa, nên trong óc hắn vụt nảy ra một ý định khác, vô cùng tàn bạo. Đó là đâm chết cậu bé rồi quẳng ra trước mặt; khi con thú dữ nhảy tới, nhìn thấy cái thây người đẫm máu, nó sẽ dừng lại để cắn xé đã.

Hắn bèn kéo sợi thừng lôi Ca-li lại sát yên và đã vung dao lên, nhưng chính vào giây phút ấy Xtas đã giật ống tay áo rộng thùng thình của hắn lại.

- Mày làm gì thế, đồ khốn nạn?

Ghe-bơ-rơ cố giằng ra, và giá như cậu bé túm lấy tay hắn thì hắn đã giằng ra được ngay lập tức, nhưng với ống tay áo thì không dễ như thế, cho nên vừa giằng nhau hắn vừa gầm lên bằng giọng đã ngạt đi vì điên cuồng:

- Đồ chó, nếu như thằng kia không đủ, thì tao sẽ chọc tiết cả chúng mày nữa! Ôi A-la! Tao sẽ chọc, sẽ chọc!

Xtas tái người đi, vì nhanh như chớp vụt qua óc em ý nghĩ rằng, sư tử, trước hết đuổi theo ngựa, sẽ có thể bỏ qua cái thây Ca-li, và nếu vậy thì chắc chắn trăm phần trăm là Ghe-bơ-rơ sẽ lần lượt đâm chết ngay cả hai đứa.

Sức lực như tăng gấp đôi, em vừa kéo mạnh tay áo của tên kia vừa thét to:

- Đưa cho tôi khẩu súng!... Tôi sẽ giết chết sư tử!

Bọn Bê-đu-in kinh ngạc khi nghe những lời này, nhưng Kha-mix, ngay từ hồi ở Port Xai-đơ đã được biết Xtas bắn như thế nào, liền kêu lên:

- Đưa súng cho nó! Nó sẽ giết được sư tử!

Ngay lập tức Ghe-bơ-rơ nhớ lại những phát súng trên mặt hồ Ca-rô-un, và vì mối nguy hiểm chết người hiện tại, hắn nhanh chóng bỏ qua ý phản kháng. Hắn vội vã trao súng cho cậu bé, còn Kha-mix mở ngay hộp đựng đạn và Xtas vốc đầy một vốc tay.

Rồi em nhảy xuống ngựa, lắp hai viên đạn vào súng, tiến lên phía trước.

Trong những bước đầu tiên, em bước đi như bị mê, chỉ nhìn thấy trước mắt cảnh tượng em và Nen với cái cổ bị cắt ngang bởi con dao của Ghe-bơ-rơ. Nhưng mối nguy gần hơn và kinh khủng hơn khiến em quên đi những chuyện khác. Trước mặt em là con sư tử.

Trông thấy con thú, em tối sầm cả mắt lại. Em cảm thấy gò má và mũi lạnh buốt đi, chân nặng trịch như chì và ngực ngột thở. Em sợ. Hồi ở Port Xai-đơ em đã từng được đọc - thậm chí ngay trong giờ học - về những cuộc săn sư tử, nhưng xem tranh trong sách là một chuyện, còn đứng đối diện với con quái vật này lại là chuyện khác hẳn, con vật mà giờ đây đang nhìn em dường như ngạc nhiên, cái trán rộng như một chiếc khiên nhíu lại.

Bọn Ả Rập nín thở, vì trong đời chúng chưa bao giờ trông thấy một cảnh tượng như thế này. Một bên là một thiếu niên nhỏ bé đứng giữa những khối đá cao vút trông lại càng nhỏ bé hơn, còn bên kia là một con dã thú khổng lồ , vàng rực trong ánh chiều, dữ tợn và đẹp tuyệt vời - “ông chủ có cái đầu vĩ đại” như dân Xu-đan thường gọi.

Xtas dồn toàn bộ ý chí cưỡng lại sự bất lực của đôi chân để bước tiếp lên phía trước. Tuy vậy có lúc em tưởng như trái tim em vọt lên tận cổ họng, song cảm giác đó chỉ kéo dài cho tới khi em nâng súng lên ngang mặt. Lúc này cần phải nghĩ tới chuyện khác.

Tiến lại gần hơn nữa hay bắn ngay? Nhằm vào đâu? Khoảng cách càng ngắn thì phá t đạn càng chắc chắn... Vậy thì tiến lên, lên nữa!

Bốn mươi bước hãy còn xa quá!... ba mươi! - Hai hai mươi! Hơi gió đã phả tới mùi hôi lộn mửa của con thú...

Cậu bé đứng dừng lại.

“Hoặc là đạn trúng giữa hai mắt hoặc là mình rồi đời! - Em nghĩ thầm. - Nhân danh Cha và Con!...” Con sư tử đứng dậy, vươn cổ và hạ thấp đầu xuống. Cặp môi của nó bắt đầu hé mở, đôi lông mày nhíu xuống sát mắt. Cái sinh linh nhỏ nhoi kia dám tiến lại quá gần, nó chuẩn bị cho bước nhảy, khuỵu hai chân sau xuống, bắp đùi run run.

Song chỉ trong một chớp mắt Xtas thấy đầu ruồi khẩu súng hạ xuống ngang trán con thú, và em kéo cò.

Tiếng súng vang lên. Con sư tử chồm dậy dựng đứng suốt cả chiều cao thân hình trong một giây rồi đổ vật xuống, bốn chân giơ lên trời.

Trong cơn giẫy chết cuối cùng, nó lăn khỏi tảng đá rơi xuống đất.

Xtas còn nhằm thẳng súng vào nó chuẩn bị sẵng sàng nhả đạn thêm mấy phát nữa, nhưng khi thấy những cái giật sững lại và cái thân màu hoe vàng ưỡn ra bất động, em liền mở súng và nạp thêm một viên đạn nữa.

Vách đá còn vang âm tiếng vọng, Ghe-bơ-rơ, Kha-mix và bọn Bê-đu-in không thể thấy ngay được chuyện gì đã xảy ra, vì đêm trước trời mưa, không khí còn ẩm khiến khói che mờ cả khe núi hẹp. Mãi tới khi khói tan đi, bọn chúng mới vui sướng kêu lên và muốn lao tới phía cậu bé, nhưng vô hiệu, vì không sức mạnh nào có thể khiến lũ ngựa tiến thêm một bước lên phía trước.

Còn Xtas quay người lại đưa mắt nhìn bốn tên Ả Rập, rồi chĩa thẳng cái nhìn vào Ghe-bơ-rơ.

- Ôi, đủ rồi! - Cậu rít qua hai hàm răng nghiến chặt. - Mày đã vượt quá mức rồi! Mày sẽ không bao giờ giết nổi Nen, không bao giờ giết thêm một ai nữa!

Và bỗng nhiên em cảm thấy mũi và gò má lại lạnh toát đi, nhưng là một thứ lạnh khác hẳn, cái lạnh không phải nẩy sinh từ nỗi sợ mà từ một quyết định kinh khủng không gì lay chuyển nổi, với quyết định ấy trái tim trong lồng ngực em hiện thời như biến thành sắt thép.

Phải! Đây là bọn khốn nạn, bọn đao phủ, lũ giết người, còn Nen thì đang nằm trong tay chúng!...

- Mày sẽ không thể giết được Nen nữa đâu. - Em nhắc lại. Em tiến lại phía bọn chúng - đứng lại - và đột nhiên, nhanh như chớp, nâng súng lên ngang mặt.

Hai phát súng nối nhau vang động khe núi: Ghe-bơ-rơ nhào xuống đất như bị cát, còn Kha-mix gục đầu xuống yên, đập trán vào cổ ngựa.

Hai tên Bê-đu-in thét lên một tiếng khủng khiếp vì kinh hoàng, chúng nhảy phắt xuống ngựa lao lại phía Xtas. Chỗ ngoặt chỉ cách phía sau chúng không bao xa, và giá như chúng chạy trốn về phía sau - điều mà Xtas thầm mong - thì hẳn là chúng đã có thể tránh được cái chết. Nhưng mù quáng vì hãi hùng và điên giận, chúng tưởng là sẽ tới được chỗ cậu bé trước khi cậu kịp tháo đạn và sẽ dùng dao băm vằm cậu. Bọn ngu xuẩn! Chúng vừa kịp chạy được hơn mười bước chân thì khẩu súng ghê gớm lại khạc đạn, khe núi lại vang âm những tiếng nổ mới, cả hai ngã gục mặt xuống đất, lăn lộn giãy giụa như cá bị vứt lên cạn.

Một tên - bị bắn không được chính xác lắm trong lúc vội vã - còn cố chống tay nhổm dậy, nhưng ngay lúc đó, Xa-ba đã cắn ngập răng vào gáy hắn.

Một sự im lặng đầy chết chóc bao trùm.

Mãi sau, sự im lặng mới bị gián đoạn bởi tiếng thổn thức của Ca-li, nó quỳ sụp xuống đất, đưa hai tay ra trước mặt và kêu lên bằng tiếng Kix-va-hi-li đứt đoạn:

-Bvana kubva (ông lớn) giết sư tử, giết người xấu, đừng giết Ca-li.

Song Xtas chẳng để ý gì tới tiếng kêu van của nó. Cậu bé đứng lặng một lúc, sững sờ, rồi khi nhìn thấy khuôn mặt trắng nhợt ra của Nen và đôi mắt nửa tỉnh nửa mê mở rộng đầy thảng thốt của cô bé, em liền nhảy vọt tới phía Nen:

- Nen! Đừng sợ!... Nen! Chúng ta được tự do rồi...

Quả thực các em đã được tự do, nhưng đang bị lạc trong vùng rừng thẳm hoang vu không một bóng người, trong những vực sâu khôn cùng của “lục địa đen”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,904
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------

Khi Xtas và cậu thiếu niên da đen kéo được thây của những tên Ả Rập cùng cái xác nặng trịch của con sư tử bị giết sang hai bên khe núi thì mặt trời đã hạ xuống thấp hơn và chẳng mấy chốc nữa đã là đêm. Tuy nhiên, khó mà ngủ đêm bên cạnh xác chết, nên mặc dù Ca-li vừa chỉ vào con thú bị giết vừa xoa xoa bộ ngực và tặc lưỡi lặp đi lặp lại: “Msuri nyama” (tốt, thịt tốt), Xtas vẫn không để cho nó lo cái khoản “nyama” ấy mà bảo nó phải đi tóm bọn ngựa đã bị tiếng súng khiến cho hoảng sợ chạy bạt đi. Cậu bé da đen giải quyết chuyện này khéo léo vô cùng, thay vì chạy dọc khe núi đuổi theo chúng (nếu làm theo cách này thì hẳn là ngựa sẽ càng chạy xa hơn), cậu bé đã leo lên núi và rút ngắn đường bằng cách bỏ qua các chỗ quanh co của khe, chắn ngang đường chạy của lũ ngựa. Bằng cách đó, nó lẹ làng tóm ngay được hai con, còn hai con nữa đuổi quay trở lại phía Xtas. Chỉ có những con ngựa của Ghe-bơ-rơ và Kha-mix là không thể bắt được, tuy thế cũng vẫn còn bốn con, chưa kể đến chú lừa đang thồ nặng hàng và cái lều, chú này đã tỏ ra có một sự bình thản hoàn toàn triết học đối với những biến cố kinh khủng vừa xẩy ra. Bọn trẻ tìm được chú ta ngay sau khúc ngoặt, lúc chú đang rứt cỏ mọc trong lòng khe núi một cách rất tỉ mẩn, không chút vội vã.

Nói chung giống lừa ngựa Xu-đan vốn quen thấy các loài dã thú, nhưng lại sợ sư tử, do vậy phải vất vả lắm mới có thể đưa chúng vượt ngang qua cạnh tảng đá nơi hãy còn đọng một vũng máu đỏ. Ngựa vừa thở phì phò, lỗ mũi mở rộng, vừa vươn cổ về phía những tảng đá đẫm máu; tuy nhiên, khi thấy chú lừa chỉ hơi cụp tai một tí, bình thản bước qua,thì chúng cũng bước qua. Đêm đã gần buông xuống, nhưng bọn trẻ còn đi đến gần một cây số mới dừng lại ở khe núi phình rộng thành một cái thung lũng nhỏ, giống như một nhà hát có nhiều bậc hình vòng tròn, mọc đầy cây gai góc và những khóm trinh nữ nhiều gai.

- Ông chủ ơi! - Cậu bé da đen nói. - Ca-li đốt lửa, đốt một đống lửa to.

Rồi lấy thanh gươm Xu-đan rộng bản tước được từ xác Ghe-bơ-rơ, nó bắt đầu chặt gai góc và cả những cây gỗ nhỏ nữa. Sau khi nhóm lửa lên, nó còn chặt tiếp, cho tới khi được một khối lớn, có thể dùng cả đêm.

Sau đó, cùng với Xtas, nó dựng túp lều nhỏ dành cho Nen ngay dưới một vách đá cao dựng đứng của thung lũng, rồi làm một hàng rào gai cao và rộng hình bán nguyệt - gọi là de-ri-ba - vây quanh. Qua chuyện của những nhà thám hiểm Phi châu, Xtas biết rằng khách bộ hành thường dùng cách này để tự vệ chống lại sự tấn công của các loài dã thú. Tuy vậy, ngựa thì không thể nhốt trong hàng rào được, nên bọn trẻ tháo yên cương ra, lấy các tú i hàng và đồ hộp khỏi lưng chúng và buộc giằng hai chân để chúng không đi quá xa khi lần đi kiếm cỏ ăn và nước uống. Mê-a lại tìm được nước ngay gần đấy, trong một khe đá trông giống như một cái bể chứa nhỏ, giữa những tảng đá ở phía bên đối diện. Có nhiều nước, đủ cho ngựa uống, đủ để nấu thịt chim mà Kha-mix bắn được lúc sáng. Trong gùi hàng cùng chỗ với cái lều của Nen do con lừa thồ, bọn trẻ còn tìm thấy gần ba nồi ngô và vài nhúm muối, cùng chùm củ sắn khô nữa.

Ngần ấy quá đủ cho một bữa ăn thịnh soạn. Tuy nhiên, chỉ có Ca-li và Mê-a là ăn nhiều. Cậu bé da đen vốn bị Ghe-bơ-rơ bắt nhịn đói một cách tàn nhẫn, giờ đây ăn một lượng thức ăn bằng cả hai người thường. Song cũng vì vậy nó thành tâm biết ơn cô cậu chủ mới của mình, và ngay sau bữa ăn, nó quỳ sát đất trước mặt Nen và Xtas, ra dấu rằng nó mong muốn được là nô lệ của họ cho tới trọn đời; sau đó, nó cũng bày tỏ lòng thành kính đối với khẩu súng của Xtas, vì hẳn nó nghĩ rằng, tốt hơn hết, hãy lấy lòng một “ông vũ khí” nhiều sức mạnh như vậy là hơn. Sau rốt, nó nói rằng sẽ cùng với Mê-a canh cho lửa khỏi tắt trong khi “ông lớn” và cô bé ngủ, rồi ngồi xếp bằng cạnh đống lửa, nó bắt đầu lẩm nhẩm một bài ca gì đó, lúc lúc lại láy đi láy lại những chữ: “Sim-ba ku-fa!

Sim-ba ku-fa”, mà trong ngôn ngữ Kix-va-hi-li có nghĩa là: sư tử bị giết.

Song cả “ông lớn” lẫn cô bé không có lòng nào nghĩ tới chuyện ngủ. Theo lời yêu cầu khẩn khoản của Xtas, Nen có nuốt vài miếng thịt chim và mấy hạt ngô nấu mềm. Cô bé bảo rằng không muốn ăn cũng không buồn ngủ, mà chỉ khát thôi. Xtas thoạt đầu lo lắng rằng cô bé bị sốt, nhưng em thấy tay cô bé rất lạnh, thậm chí quá lạnh nữa. Tuy nhiên, em cũng nài được Nen vào lều, nơi em đã chuẩn bị sẵn chỗ nằm cho cô bé, trước đó em đã tìm rất kĩ xem trong cỏ có bọ cạp hay không. Xtas ngồi xuống tảng đá với khẩu súng trong tay, bảo vệ cho cô bé khỏi bị dã thú tấn công, nếu như lửa không đủ khiến chúng sợ. Em vô cùng mệt và kiệt sức. Em cứ lặp đi lặp lại trong lòng: “Ta đã giết chết Ghe-bơ-rơ và Kha-mix, ta đã giết bọn Bê-đu-in, đã giết con sư tử và đã được tự do”. Nhưng những lời ấy dường như là của ai đó thì thầm với em, chứ bản thân em không hiểu thật rõ ý nghĩa của chúng. Em chỉ có cảm giác rằng cả hai đã được tự do, nhưng đồng thời cũng đã có một cái gì đó thật kinh khủng xẩy ra, khiến em lo lắng không yên, và đè nặng lên ngực em như một tảng đá. Về sau, những ý nghĩ của em bắt đầu đờ ra.

Em nhìn thẫn thờ một lúc lâu những con thiêu thân đang quay vòng quanh ngọn lửa, rồi bắt đầu ngủ gật và thiếp đi những giấc ngắn. Ca-li cũng ngủ gà ngủ gật, nhưng cứ chốc chốc lại tỉnh giấc để ném thêm cành cây vào đống lửa.

Đêm sâu thẳm và rất tĩnh mịch, điều thật hiếm thấy trong vùng nhiệt đới. Chỉ nghe tiếng lách tách của những cành gai đang cháy và tiếng réo phù phù của ngọn lửa soi sáng những rạn đá vây quanh thành một vòng bán nguyệt. Mặt trăng không chiếu được ánh sáng xuống lòng khe, nhưng trên trời nhấp nhánh những vì sao vô danh dày đặc. Không khí trở nên mát lạnh, khiến Xtas chợt tỉnh, cố rũ bỏ cảm giác nặng nề ngái ngủ và bắt đầu lo lắng, không hiểu Nen có bị lạnh hay không.

Song em lại yên tâm ngay khi nhớ ra rằng em đã đưa cô bé vào lều và cho ngủ trong tấm chăn dạ mà bà Đi-na mang theo từ Phai-um. Em còn nghĩ ra rằng, suốt ngần ấy ngày đi từ sông Nin theo đường dốc lên mãi - mặc dù độ dốc không nhiều - nhưng hẳn giờ đây chúng đã lên đến vùng khá cao, nơi bệnh sốt rét không còn đe dọa như ở vùng lũng sông ẩm thấp nữa. Cái lạnh cảm thấy được trong đêm hình như cũng khẳng định điều này.

Và ý nghĩ ấy khiến em thêm vữ ng lòng. Em tiến đến gần lều để nghe xem Nen ngủ có say không, rồi quay lại, ngồi xuống bên đống lửa và lại bắt đầu thiu thiu ngủ, rồi thiếp đi.

Bỗng nhiên tiếng gầm gừ của Xa-ba - con chó trước đó nằm ngủ ngay dưới chân em - khiến em choàng tỉnh.

Ca-li cũng mở mắt và cả hai lo lắng nhìn con chó đang căng thẳng toàn thân như một sợi dây đàn, tai vểnh lên, mũi phập phồng đánh hơi về phía mà cả bọn vừa đi đến, mắt nhìn đăm đăm vào bóng tối. Lông cổ và lông lưng nó xù lên, ngực phồng không khí mà vừa gầm gừ, nó vừa hít vào.

Chàng nô lệ trẻ tuổi vội vàng ném thêm cành khô vào đống lửa.

- Ông chủ! - Nó thì thào. - Cầm súng đi! Cầm lấy súng đi ông chủ!

Xtas cầm lấy khẩu súng bước ra đứng phía trước lửa để trông rõ hơn khe núi tối mịt. Tiếng gầm gừ của Xa-ba đã chuyển thành tiếng sủa rời rạc. Suốt một hồi lâu không thể nghe được gì hết, rồi tai Xtas và Ca-li nghe vọng lại từ xa tiếng vó trầm đục, dường như có những con thú to lớn nào đó đang phi nhanh về phía ngọn lửa.

Tiếng chân ấy, giữa cái tĩnh mịch của đêm thanh, đập vào đá vọng lại thành những tiếng vang mỗi lúc một to hơn.

Xtas hiểu rằng một nỗi nguy hiểm chết người đang tiến lại.

Nhưng đó là cái gì. Có thể là trâu rừng, cũng có thể là một đôi tê giác đang tìm lối thoát ra khỏi khe núi? Trong trường hợp ấy, nếu như tiếng súng không làm chúng sợ mà quay đi, thì cả bọn không thoát chết, bởi vì những giống vật này, vốn không ít dữ tợn và hăng máu hơn bọn thú ăn thịt, hoàn toàn không sợ lửa, sẽ chà đạp tất thảy mọi thứ chúng gặp trên đường...

Nhưng nếu như đó lại là toán quân của gã Xmai-nơ, sau khi gặp những cái thây người trong khe núi, đang săn tìm kẻ giết người thì sao? Bản thân Xtas cũng không biết giữa cái chết nhanh chóng và một cảnh nô lệ mới - cái nào là tốt hơn. Em thoáng nghĩ, nếu như chính gã Xmai-nơ có mặt trong toán quân này, thì y sẽ không giết chúng, nhưng nếu như không có mặt y thì bọn tín đồ Hồi giáo ấy sẽ giết chúng trong chớp mắt, hoặc tệ hơn, còn hành hạ chúng một cách tàn nhẫn trước khi giết chết nữa kia. “Ôi, - em nghĩ thầm, - lạy Chúa hãy cho đó là thú chứ đừng là người!” Trong khi đó, tiếng vó câu mạnh lên rồi chuyển thành tiếng sầm sập của những móng guốc - và cuối cùng, từ trong bóng tối hiện ra những cặp mắt lấp lánh sáng, những cái mũi dãn rộng, cùng những chiếc bờm rối bời do chạy nhanh.

- Ngựa! - Cali kêu lên.Đó chính là những con ngựa của Ghe-bơ-rơ và Kha-mix. Cả hai lao tới với tốc độ khủng khiếp, rõ ràng chúng bị một nỗi sợ hãi nào đó đuổi theo, nhưng sau khi vào được trong ánh sáng và trông thấy những người bạn của mình, chúng liền nhảy dựng trên hai chân sau, rồi vừa kêu rừ rừ vừa bổ móng xuống mặt đất và đứng yên lặng như thế một lú c lâu. Song Xtas không rời súng khỏi má. Em chắc rằng, ngay sau lũ ngựa sẽ nhô ra cái đầu xù lông của một con sư tử hay cái sọ bẹt của con báo gấm. Nhưng em chỉ hoài công chờ đợi. Lũ ngựa dần dần bình tĩnh trở lại, hơn nữa, một lúc sau Xa-ba cũng thôi không còn đánh hơi, mà khoanh khoanh mấy vòng một chỗ như loài chó thường làm, nằm xuống cuộn mình thành một vòng tròn và nhắm mắt lại. Hẳn là, nếu như có một con dã thú nào đó đuổi theo lũ ngựa, thì khi cảm thấy hơi khói hoặc trông thấy ánh lửa, nó đã rút lui từ xa rồi.

- Chắc phải có gì đó khiến chúng nó sợ lắm, - Xtas nói với Ca-li, - nếu không, chúng nó đã chẳng dám chạy ngang qua xác người và sư tử đâu.

- Ông chủ ơi! - Cậu bé nói. - Ca-li biết chuyện gì xảy ra.

Nhiều, nhiều linh cẩu và lang núi đi vào khe, đến chỗ các xác chết.

Ngựa chạy trốn chúng, nhưng linh cẩu không đuổi theo chúng, vì còn ăn thịt Ghe-bơ-rơ và những tên kia...

- Cũng có thể, nhưng bây giờ cậu hãy đi tháo yên cương ngựa, cởi các bình và túi mang lại đây! Đừng có sợ, có khẩu súng này bảo vệ rồi!

- Ca-li không sợ. - Cậu bé đáp.Rồi xô một ít rào gai ngay sát vách, nó bước ra ngoài hàng rào; trong khi đó, Nen bước ra khỏi lều.

Lập tức Xa-ba nhổm dậy và cọ mũi vào cô bé để đòi được vuốt ve như thường lệ, song cô bé vừa chìa tay ra đã rụt lại ngay như kinh tởm điều đó.

- Anh Xtas, có chuyện gì vậy? - Cô bé hỏi.

- Chẳng có gì. Mấy con ngựa kia quay trở lại thôi. Tiếng chân chúng khiến em thức dậy đấy à?

- Em đã dậy từ trước và muốn ra khỏi lều, nhưng...

- Nhưng sao?

- Em sợ rằng anh sẽ giận.

- Anh? Giận em?

Nen ngước mắt lên nhìn cậu bé bằng một cái nhìn là lạ trước đó chưa hề có bao giờ. Trên nét mặt Xtas thoáng qua một nỗi ngạc nhiên lớn, vì trong lời nói và cái nhìn của cô bé, cậu đọc thấy một nỗi sợ sệt rõ ràng.

“Con bé sợ mình rồi”! - Em thầm nghĩ.

Và trong giây lát đầu tiên, em cảm thấy như thoáng lên một ánh hài lòng. Ý nghĩ rằng sau hành động mà em vừa làm, ngay cả Nen cũng đã xem em không chỉ là người hoàn toàn khôn lớn, mà còn là một chiến sĩ gieo rắc nỗi sợ hãi hùng chung quanh mình - khiến em thấy thu thú. Nhưng cảm giác đó chỉ tồn tại trong chốc lát, vì cảnh sống đau khổ đã khiến cho trí tuệ em phát triển và nẩy nở óc nhận xét. Do vậy, em thấy được rằng, trong cặp mắt đầy lo lắng của cô bé, bên cạnh nỗi sợ hãi, dường như còn có cả sự ghê tởm đối với những gì vừa xảy ra, đối với máu vừa đổ, đối với sự tàn bạo mà hôm nay cô bé được chứng kiến. Em chợt nhớ lại rằng vừa mới rồi cô bé rụt tay lại không muốn vuốt ve Xa-ba, con chó đã cắn chết hẳn một tên Bê-đu-in. Phải! Chính Xtas cũng cảm thấy trên ngực mình đè nặng một cơn ác mộng. Hồi ở Port Xai-đơ, đọc sách về những chàng săn thú người Mỹ ở miền Viễn Tây giết hàng tá người In-đi-an da đỏ là một chuyện, còn tự tay làm việc đó và phải trông thấy cảnh những người vừa mới đây còn sống, giờ đã lăn lộn giữa những cơn co giật trong vũng máu lại là chuyện hoàn toàn khác. Phải! Chắc hẳn Nen đang mang trong tim đầy nỗi sợ hãi, song đồng thời cả sự ghê tởm nữa, sự ghê tởm sẽ còn lại mãi mãi.

“Con bé sợ mình - Xtas nghĩ thầm - nhưng trong đáy lòng, không hề chủ ý, Nen sẽ không bao giờ thôi oán trách mình về chuyện đó, và đó là phần thưởng mà mình được nhận sau khi đã làm tất cả mọi việc vì cô bé”.

Nghĩ thế, một nỗi cay đắng ghê gớm cuồn cuộn dâng lên trong lồng ngực em, em hiểu rất rõ rằng, giá như không có Nen, thì hoặc là em đã bị giết từ lâu, hoặc là đã trốn thoát từ đời nào rồi. Chính vì cô bé, em đã chịu đựng tất cả những gì mà em phải chịu, ấy thế mà tất cả những nỗi khổ hạnh và đói khát đó chỉ để mang lại mỗi một việc là giờ đây đứng trước mặt em hình như không phải là cô em bé bỏng kia nữa, mà là một đứa bé kinh hoàng đang ngước mắt nhìn em, không phải với vẻ tin cậy như xưa mà là với nỗi sợ hãi đáng ngạc nhiên. Đột nhiên, Xtas cảm thấy thấm thía thế nào là nỗi tủi thân. Mặc dù không muốn, lệ vẫn ứa ra mắt và giá như không có chuyện dù thế nào đi nữa, vị “chiến sĩ dữ tợn” này cũng không được khóc - hẳn em đã khóc òa lên rồi.

Song em cố nén và hỏi lại cô bé:

- Em sợ ư, Nen?...

Cô bé khẽ đáp:

- Cứ... sờ sợ thế nào ấy.

Xtas bèn bảo Ca-li mang tấm nệm dưới yên lại, dùng một tấm phủ lên tảng đá lúc nãy em ngồi ngủ gật, chiếc thứ hai trải xuống đất và nói:

- Ngồi xuống đây cạnh anh bên đống lửa... Đêm lạnh quá phải không em? Nếu em buồn ngủ thì tựa đầu vào anh mà ngủ.

Song Nen vẫn nhắc lại:

- Cứ sờ sợ thế nào ấy...

Xtas cẩn thận dùng tấm chăn bọc lấy người cô bé, và một hồi lâu chúng cứ ngồi lặng đi như thế, tựa vào nhau, được ánh lửa hồng chiếu sáng, ánh lửa chập chờn trên các tảng đá và nhóng nhánh phản chiếu từ những mảnh mi-ca trên các hòn đá.

Từ bên ngoài hàng rào vọng lại tiếng thở rừ rừ của ngựa và tiếng cỏ sột soạt trong miệng chúng.

- Nghe anh đây, Nen... - Xtas cất tiếng. - Anh buộc phải làm như thế... Ghe-bơ-rơ dọa là sẽ đâm chết chúng mình nếu như con sư tử không chịu dừ ng ở xác Ca-li mà tiếp tục đuổi theo chúng. Em có nghe không?... Em hãy biết là hắn không những chỉ đe dọa riêng anh, mà cả em nữa. Và hắn sẵn sàng làm chuyện đó. Nói thật với em, nếu như không có lời đe dọa đó, thì dù đã từ lâu anh hằng nghĩ tới chuyện này, anh cũng sẽ không bắn chúng nó đâu. Anh nghĩ là mình không thể... Nhưng hắn đã vượt quá mức rồi! Em thấy trước đó hắn hành hạ Cali tới mức nào rồi chứ? Còn Kha-mix?

Hắn bán đứng chúng mình mới đểu giả làm sao! Thêm nữa, em có biết nếu như không tìm thấy Xmai-nơ thì chúng nó sẽ làm gì không? Ghe-bơ-rơ sẽ hành hạ chúng ta, hành hạ em hệt như đối với Ca-li thôi. Thật kinh khủng khi nghĩ rằng hắn sẽ dùng roi ngựa đánh em, hắn sẽ giày vò cả hai đứa mình, rồi sau khi chúng mình chết, hắn sẽ quay về Pha-sô-đa mà nói rằng chúng mình bị chết vì sốt rét... Nen, không phải anh làm như thế vì tàn bạo đâu, nhưng anh phải nghĩ cách cứu em... Anh chỉ nghĩ đến em mà thôi...

Trong giọng nói của Xtas lộ rõ sự tủi thân đang tràn ngập lòng em. Nen cảm nhận được điều đó, cô bé nép sát vào người em, còn em, sau khi nén nỗi xúc động, bèn nói tiếp:

- Anh nào có thay đổi gì đâu, anh sẽ chăm lo và bảo vệ em như trước kia thôi; khi chúng nó còn sống thì chúng mình không có một chút hi vọng nào thoát thân. Nhưng giờ chúng mình có thể chạy trốn tới A-bi-xi-ni-a, người A-bi-xi-ni-a là người da đen và hoang dã, nhưng họ là tín đồ Thiên chúa và là kẻ thù của bọn phiến loạn.

Chỉ cần em khỏe mạnh thì chắc chắn chúng mình sẽ làm được chuyện đó, vì từ đây tới A-bi-xi-ni-a không bao xa. Thậm chí, nếu như chúng mình không thành công đi nữa, dù cho chúng mình có rơi vào tay Xmai-nơ, thì em cũng đừng sợ là hắn sẽ trả thù chúng mình. Trong đời hắn chưa bao giờ được gặp Ghe-bơ-rơ cũng như bọn Bê-đu-in ấy cả, hắn chỉ biết có mỗi mình Kha-mix nhưng Kha-mix đối với hắn có là gì đâu! Chúng mình cũng không cần phải nói với Xmai-nơ là Kha-mix đi cùng với chúng mình làm gì. Nếu như chúng mình tới được A-bi-xi-ni-a thì chúng mình sẽ thoát, mà dù không thoát đi nữa, thì ít nhất em cũng sẽ không bị khổ hơn, chỉ sướng hơn thôi, so với vừa rồi, vì trên thế giới có lẽ không có ai ác hơn bọn chúng... Đừng sợ anh nhé, Nen!...

Và muốn cô bé thêm tin tưởng, đồng thời cũng muốn cổ vũ thêm, em bắt đầu vuốt tóc cô bé. Nen vừa lắng nghe vừa rụt rè ngước cặp mắt lên nhìn em. Rõ ràng cô bé muốn nói gì đấy, nhưng cô chần chừ, do dự và lo sợ. Mãi sau, cúi thật thấp mái đầu, khiến tóc xõa che mất hoàn toàn khuôn mặt, cô bé mới hỏi bằng giọng còn khẽ hơn lúc trước và hơi run run:

- Anh Xtas...

- Sao hả em?

- Bọn họ có tới đây không?...

- Ai kia? - Xtas ngạc nhiên hỏi lại.

- Bọn kia... Những người bị giết ấy.

- Em nói gì thế, Nen?

- Em sợ, em sợ lắm!...

Và đôi môi nhợt nhạt của cô bé run lên.

Im lặng. Xtas không tin là những người chết có thể trở dậy, nhưng vì đang là đêm, xác chết của bọn chúng lại cách đấy không xa, nên em cũng chợt cảm thấy rờn rợn: một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.

- Em nói gì thế, Nen? - Cậu nhắc lại. - Đấy hẳn là bà Đi-na dạy em sợ ma... Những người chết không...

Em không kịp nói hết câu, vì chính vào giây phút ấy diễn ra một chuyện thật rùng rợn. Giữa đêm trường tĩnh mịch, trong cái thẳm sâu của khe núi, từ phía những cái xác đang nằm, chợt vang lên một tiếng cười kinh rợn, không phải của con người, trong tiếng cười đó rung lên cả nỗi tuyệt vọng lẫn niềm sung sướng, cả sự tàn nhẫn, cả nỗi đớn đau, cả tiếng nức nở và sự giễu cợt, tiếng cười chói tai và bệnh hoạn của những người điên khùng và mất trí.

Nen thét lên, dùng hết sức bấu chặt lấy cánh tay Xtas. Tóc Xtas cũng dựng đứng cả lên. Con chó Xa-ba bật dậy sủa vang.

Song cậu bé Ca-li ngồi cách đấy không xa vẫn bình thản ngẩng đầu lên và nói gần như vui vẻ:

- Đó là linh cẩu đang cười giễu Ghe-bơ-rơ và sư tử đấy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,904
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------

Những sự kiện lớn lao của ngày hôm trước cùng những ấn tượng ban đêm khiến Xtas và Nen mệt đến nỗi, khi đã thiếp đi, cả hai ngủ một giấc say như chết, mãi đến gần trưa hôm sau cô bé mới tỉnh giấc bước ra khỏi lều: Xtas bật dậy sớm hơn một chút trên tấm đệm trải gần đống lửa, và trong khi chờ đợi cô bạn nhỏ, em bảo Ca-li chuẩn bị bữa ăn sáng, bữa ăn vì quá muộn nên đồng thời cũng là bữa trưa.

Ánh sáng chói lọi ban ngày xua tan những nỗi hãi hùng của đêm, cả hai tỉnh dậy không những chỉ được nghỉ ngơi mà còn được củng cố tinh thần. Nen trông khá hơn và cảm thấy người khỏe hơn, và vì cả hai đều muốn đi càng xa chỗ bọn Xu-đan bị bắn chết càng tốt, nên ngay sau khi ăn, cả bọn lên ngựa tiến về phía trước.

Vào giờ này, tất cả những người bộ hành trên đất Phi châu đều dừng lại nghỉ trưa, thậm chí cả những đoàn chỉ gồm toàn người da đen cũng phải nấp dưới bóng các cây to, vì đó là những “giờ trắng” - tức là giờ nóng bức và im ắng - như người ta thường gọi.

Trong những giờ đó, mặt trời thiêu đốt không thương tiếc, và từ trời cao chòng chọc dòm xuống, dường như xoi mói tìm người để giết vậy. Mọi loài thú đều lẩn vào những bụi cây lớn nhất, tiếng chim hót ngừng hẳn, tiếng côn trùng nỉ non cũng vắng bặt, toàn thể thiên nhiên chìm trong im lặng nín hơi lại, dường như muốn ẩn náu thật kín trước cặp mắt của lão trời già dữ tợn. Còn bọn trẻ thì vẫn đi theo khe núi, trong đó, một vách đã ngả bóng mát che kín, nên chúng có thể đi như thế lên phía trước mà không bị cháy nắng. Xtas không muốn rời khe núi dễ tìm thấy nước uống tại các hõm đá lớn, còn ở những nơi lộ thiên, nước bị ngấm vào đất, hoặc bị ánh nắng mặt trời biến thành hơi.

Con đường liên tục dẫn lên cao - mặc dù không nhiều lắm.

Trên vách đá ở nhiều chỗ, có thể trông thấy những vệt lưu huỳnh màu vàng. Nước trong các khe đá cũng nhiễm mùi lưu huỳnh, khiến hai trẻ nhớ lại Om-đu-a-man với các tin đồ của Ma-hơ-đi dùng mỡ trộn với lưu huỳnh để bôi lên đầu. Ngược lại, tại một số chỗ khác lại thoảng mùi mèo xạ, còn những nơi dây leo nhiều tầng rủ xuống từ các rạn đá cao lại ngào ngạt mùi hương va-ni thơm ngát.

Các vị khách bộ hành tí hon rất sẵn lòng dừng chân trong bóng mát của những bức rèm che điểm hoa đỏ thắm và hồng lam ấy; cùng với các loại lá cây, chúng cung cấp thức ăn cho ngựa.

Không thấy bóng dáng một loài vật nào, chỉ thỉnh thoảng, trên các đỉnh đá mới có những con khỉ ngồi chồm chỗm, trên nền trời trông chúng giống như những vị thần linh ngoại đạo huyền thoại mà ở Ấn Độ người ta thường trang trí riềm của các thánh đường. Những con đực, đầu bù xù những lông, nhe răng ra với Xa-ba hoặc chúm môi lại thành hình tròn vo biểu lộ sự kinh ngạc và tức giận đồng thời nhảy nhót không yên, vừa hấp háy mắt vừa gãi sườn. Còn Xa-ba, đã quá quen với hình bóng thường xuyên của chúng, hoàn toàn chẳng thèm để ý tới những điều đe dọa ấy.

Bọn trẻ đi hăng hái. Niềm vui giành lại được tự do trút khỏi lồng ngực Xtas cơn ác mộng thường vẫn khiến em nghẹt thở đêm đêm. Giờ gây, em chỉ nghĩ xem phải làm gì nữa, phải làm gì để đưa Nen và bản thân ra khỏi địa phận, trong đó chúng bị đe dọa phải quay trở lại kiếp sống nô lệ trong tay bọn phiến loạn, làm sao để có thể xoay trở trong chuyến đi dài ngày vượt qua vùng rừng thẳm khỏi bị chết đói chết khát, và sau nữa: đi đâu bây giờ? Nhờ ông Ha-tim, em biết rằng từ Pha-sô-đa đến biên giới A-bi-xi-ni-a tính theo đường thẳng thì không quá năm ngày đường, và em tính rằng khoảng cách đó dài khoảng một trăm dặm Anh(1). Kể từ ngày khởi hành khỏi Pha-sô-đa đến giờ đã gần hai tuần lễ trôi qua, nên hẳn là các em đã không đi theo đường thẳng, mà vì đi tìm Xmai-nơ, chúng đã phải vòng nhiều về phía Nam. Em nhớ lại rằng, ngày đi đường thứ sáu, các em vượt qua một con sông không phải sông Nin, rồi sau đó trước khi miền đất bắt đầu đi lên cao dần, chúng đi ngang qua gần một vùng lầy lội rộng lớn nào đó. Trong trường học ở Port Xai-đơ, người ta dạy địa lí châu Phi rất kĩ, và trong trí nhớ Xtas còn đọng lại cái địa danh Ba-lo-rơ, tên của vùng ngập nước thuộc một con sông ít người biết tên là Xốp-bat, đổ vào sông Nin. Tuy em không hoàn toàn chắc chắn là đã ngang qua chính vùng ngập nước nọ, nhưng em cho rằng có lẽ là như thế. Em nghĩ rằng, muốn bắt nô lệ thì Xmai-nơ không thể tìm ở phía Đông Pha-sô-đa, vì vùng đó đã hoàn toàn bị cạn người bởi quân phiến loạn và dịch đậu mùa, hắn phải tiến về phía Nam, trong vùng cho tới nay chưa có cuộc càn người nào hết. Từ đó, Xtas rút ra kết luận là đoàn em đi theo vết của Xmai-nơ và thoạt đầu ý nghĩ ấy khiến cho em bàng hoàng hoảng sợ.

Em bắt đầu cân nhắc xem có nên bỏ khe núi hay không (bởi khe núi mỗi lúc một vòng về phía Nam) để tiến thẳng về phía Đông. Song sau một lúc suy nghĩ em bỏ ý định đó. Phải, theo em, việc đi theo dấu vết bè lũ Xmai-nơ (nhưng cách chúng chừng hai ba ngày đường) là an toàn nhất, bởi lẽ Xmai-nơ không khi nào lại mang món hàng người đó quay trở lại theo con đường quanh co đã đi mà không hướng thẳng tới sông Nin. Xtas cũng hiểu rằng chỉ có thể tới được A-bi-xi-ni=a từ phía Nam, về phía ấy đất nước này tiếp giáp với rừng hoang, chứ không phải từ biên giới phía Đông, nơi đang bị quân phiến loạn canh phòng nghiêm ngặt.

Suy nghĩ như vậy, em quyết định sẽ đi thật xa về phía Nam.

Rất có thể về phía ấy sẽ chạm trán với người da đen, những người từ bờ sông Nin chạy trốn đến, hoặc là những người bản xứ. Nhưng giữa hai cái dở thì Xtas thà chọn phải đương đầu với người da đen hơn là với các tín đồ của Ma-hơ-đi. Thêm vào đó, em cũng tính đến chuyện nếu gặp những người chạy trốn, hoặc cư dân bản xứ, thì Ca-li và Mê-a sẽ có thể là những người trợ thủ đắc lực. Chỉ cần nhìn thoáng qua cô thiếu nữ da đen cũng có thể đoán được cô thuộc về bộ lạc Đin-ca hoặc Sin-lúc, vì cô có cặp chân rất dài và rất mảnh mai, đôi chân đặc thù cho các bộ lạc này, những bộ lạc sinh sống dọc hai bờ sông Nin và lặn lội như cò sếu trong những vùng ngập nước của dòng sông. Ngược lại, Ca-li mặc dù dưới tay Ghe-bơ-rơ đã trở nên giống như một bộ xương - lại có vóc dáng hoàn toàn khác. Thân hình chắc nịch và lực lưỡng, hai cánh tay khỏe mạnh, còn hai bàn chân thì lại nhỏ so với chân Mê-a.

Vì nó hoàn toàn không nói được tiếng Ả Rập, còn tiếng kix-va-hi-li - thứ tiếng gần như có thể dùng để nói chuyện với toàn bộ Phi châu, thứ tiếng mà Xtas đã học được chút ít nhờ những người Dan-di-ba lao động ở vùng kênh đào - thì nó nói rất kém, nên hẳn là quê nó ở một vùng xa xôi nào đó.

Xtas quyết định tìm hiểu xem nó thuộc địa phương nào.

- Ca-li này, dân tộc của cậu là gì? - Em hỏi.

- Va-hi-ma. - Cậu bé da đen đáp.

- Dân tộc đó có lớn không?

- Dân tộc vĩ đại lắm, đánh nhau với những người Xam-bu-ru xấu bụng và lấy trâu bò của chúng(2).

- Làng của cậu ở đâu?

- Xa, xa lắm!... Ca-li không biết ở đâu.

- Ở đó có giống như vùng này không?

- Không. Ở đó có con nước lớn và nhiều núi lắm.

- Các cậu gọi tên con nước ấy là gì?

- Chúng tôi gọi là “con nước Đen”.

Xtas nghĩ thầm rằng có thể cậu bé quê ở vùng sông An-be Ni-an-da, cho tới nay vẫn nằm trong tay pa-sa E-min, nên muốn kiểm tra xem có đúng thế không, bèn hỏi tiếp:

- Ở vùng đó có phải có thủ lĩnh da trắng, người có những cá i thuyền nhả khói đen và nhiều quân lính hay không?

- Không đâu. Người già ở chỗ chúng tôi nói rằng đã trông thấy người da trắng (nói tới đây Ca-li xòe các ngón tay ra đếm), một, hai,. ba lần!... Đúng thế! Có ba người mặc những cái áo dài trắng. Họ đi tìm ngà... Ca-li không được trông thấy họ, vì chưa có trên đời, nhưng cha Ca-li đã tiếp họ và cho họ nhiều ngà lắm.

- Cha của cậu là ai?

- Là vua của người Va-hi-ma.

Điều này khiến Xtas khoái chí, vì như thế cậu ta có người hầu vốn là một hoàng tử.

- Cậu có muốn gặp cha không?

- Ca-li muốn gặp mẹ.

- Cậu sẽ làm gì khi gặp người Va-hi-ma, và họ sẽ làm gì?

- Người Va-hi-ma sẽ phục xuống lạy Ca-li.

- Thế thì cậu hãy dẫn chúng tớ tới chỗ họ, cậu sẽ ở lại với họ và sẽ trị vì kế vị vua cha, còn chúng tớ sẽ tiếp tục đi thẳng tới biển.

- Ca-li không biết đường đi tới chỗ họ và sẽ không ở lại với họ, vì Ca-li yêu mến ông lớn và con gái của mặt trăng.

Xtas vui vẻ quay lại nói với cô bạn:

- Nen, em được phong là con gái của mặt trăng rồi đấy.

Song nhìn thấy cô bé, em lại buồn xỉu đi, vì em chợt nghĩ rằng, với khuôn mặt tái nhợt và gần như trong suốt của mình, cô bé gầy gò này quả thực có vẻ là một sinh linh từ mặt trăng xuống hơn là người trần thế.

Cậu bé da đen im lặng một lúc rồi nhắc lại:

- Ca-li yêu bvana kubva, vì bvana kubva không giết Ca-li, chỉ giết Ghe-bơ-rơ, lại cho Ca-li ăn nhiều nhiều.

Và bắt đầu vừa xoa xoa bộ ngực, nó vừa lặp lại với vẻ khoái chí lộ rõ trên mặt.

- Nhiều thịt, nhiều nhiều thịt!

Xtas còn muốn biết thêm tại sao cậu bé lại trở thành nô lệ của bọn phiến loạn, nhưng hóa ra, kể từ cái đêm người ta tóm được nó trong cái hố đào dành cho những người mắc bệnh sốt rét, nó đã qua không biết bao nhiêu tay chủ, đến nỗi không thể nào luận ra nổi từ câu chuyện kể của nó xem nó đã phải lang thang qua những nước nào và người ta đã đưa nó qua những chặng đường nào để tới tận Pha-sô-đa. Xtas chỉ lưu ý tới những điều nó nói về “con nước Đen”, bởi vì nếu nó gốc người vùng A-be Ni-an-da, An-be Et-vac Ni-an-da hoặc Victoria Ni-an-da, những vùng thuộc các quốc gia U-ni-ô-rô và U-gan-đa, thì chắc hẳn nó phải nghe nói tới Pa-sa E-min, tới quân đội và các tàu chiến của ông ta, những chiếc tàu chiến làm cho người da đen kinh ngạc và sợ hãi. Tan-ga-nai-ca thì quá xa, nên chỉ còn có giả thuyết rằng dân tộc của Ca-li cư trú ở đâu đó gần hơn. Vì lẽ đó, việc gặp gỡ người Va-hi-ma không phải hoàn toàn là chuyện không thể xảy ra.

Sau mấy giờ đường, mặt trời bắt đầu hạ xuống thấp. Cái nóng giảm đi đáng kể. Bọn trẻ đến được một lòng thung rộng rãi, có nước và hơn chục cây vả dại, chúng bèn dừng lại cho ngựa nghỉ và lấy thêm dự trữ. Vì nơi đây vách đá đã thấp hơn trước, Xtas bảo Ca-li leo lên cao để xem thử chung quanh đây có vết khói nào hay không.

Ca-li thực hiện ngay mệnh lệnh, và trong chớp mắt nó đã leo lên đỉnh vách đá. Sau khi ngắm nhìn kĩ tứ phía nó tuột xuống theo một thân dây leo to tướng và nói rằng không thấy vết khói, nhưng lại thấy có nyama (thịt). Dễ đoán ra rằng nó không nói về loài chim pen-tác-ca mà muốn nói tới loài thú nào đó to hơn, vì nó trỏ vào khẩu súng của Xtas rồi lại đặt hai ngón tay lên đầu ra dấu rằng đấy là súc vật có sừng.

Đến lượt Xtas trèo lên cao, thận trọng nhô đầu lên khỏi đỉnh vách đá, quan sát khu vực trước mắt. Không có vật gì chắn tầm nhìn xa của em, vì rừng rậm cây cao trước kia đã bị cháy, còn rừng non mọc lên từ mặt đất màu tro xám thì mới chỉ cao được vài phân. Nhìn hút tầm mắt chỉ thấy có vài cây gỗ lớn mọc thưa thớt, với những cái thân ám khói. Dưới bóng một trong những cây như thế có một đàn linh dương gơ-nu đang gặm cỏ, loài linh dương này có thân mình giống như ngựa, còn đầu lại giống trâu. Mặt trời chiếu qua những chiếc lá bao báp rải những vệt nắng nhảy nhót linh động trên những cái bờm màu nâu của chúng. Có chín con cả thảy.

Khoảng cách không quá một trăm bước chân, nhưng vì gió đang thổi từ phía chúng vào khe núi nên chúng vẫn gặm cỏ bình thản, không hề ngờ tới nguy hiểm ở gần. Muốn cung cấp thịt cho cả đoàn, Xtas bắn hạ con vật đứng gần nhất, con vật ngã lăn ra đất như bị sét đánh. Những con còn lại chạy túa đi, cùng với chúng là một con trâu rừng đồ sộ mà trước đấy cậu bé không nhận ra, vì nó nằm khuất sau một tảng đá. Không phải vì cần thiết mà chẳng qua chỉ vì má u thợ săn, nên cậu bé nhân lúc con vật giơ sườn ra liền phóng cho nó một phát đạn. Sau tiếng nổ, con trâu loạng choạng rất dữ, kéo lê thân sau, nhưng vẫn chạy tiếp được, và trước khi Xtas kịp thay đạn, nó đã khuất sau những chỗ lồi lõm của địa hình.

Trước khi khói kịp tan hết, Ca-li ngự lên mình con linh dương và dùng lưỡi dao của Ghe-bơ-rơ phanh bụng nó ra. Muốn nhìn kĩ hơn con vật, Xtas tiến lại phía nó - và em kinh ngạc quá đỗi, vì ngay lúc đó, thằng bé da đen đưa cho em lá gan hãy đang còn bốc hơi nóng hổi của con linh dương trong hai bàn tay đẫm máu.

- Sao cậu lại đưa cho tớ? - cậu bé hỏi.

- Msuri, msuri! (Tốt, tốt!). Bvana kubva ăn ngay đi!

- Mày ăn thì có! - Xtas đáp, phẫn nộ vì lời đề nghị ấy.

Ca-li chẳng cần phải đợi nhắc tới lần thứ hai, ngay lập tức nó bắt đầu dùng răng rứt từ ng miếng gan tươi nuốt một cách thèm thuồng, và khi thấy Xtas đang nhìn nó với vẻ kinh tởm, nó liền nhắc đi nhắc lại giữa hai lần nuốt chửng: “Msuri! Msuri!” Nó chén như thế hết già nửa lá gan, sau đó bắt tay vào việc xẻ thịt con linh dương. Nó làm việc đó cực kì thành thạo và nhanh nhẹn, chẳng mấy chốc tấm da đã được lọc ra, các tảng thịt được tách ra khỏi lưng. Khi đó Xtas hơi ngạc nhiên, là tại sao Xa-ba không có mặt bên cạnh cái công việc này, liền huýt sáo miệng gọi nó tham gia bữa tiệc trọng thể gồm thân trước của con vật.

Song Xa-ba hoàn toàn không xuất hiện, ngược lại Ca-li đang cúi mình trên con linh dương lại ngẩng đầu lên nói:

- Con chó lớn chạy theo con trâu rồi.

- Cậu trông thấy à? - Xtas hỏi.

- Ca-li trông thấy.

Nói rồi, nó đặt tảng thịt thăn của con linh dương lên đầu, hai đùi mang trên hai tay, bước về khe núi. Xtas còn huýt sáo thêm vài lần nữa và chờ con chó, song thấy rằng làm chuyện đó chỉ vô ích, em cũng đi trở về theo sau thằng bé. Trong khe, Mê-a đang bận chặt cây gai làm hàng rào, còn Nen đang dùng những ngón tay nhỏ nhắn của mình vặt lông con chim pen-tác-ca cuối cùng.

- Anh huýt gió gọi Xa-ba đấy à? Nó chạy theo các anh à.

- Nó đuổi theo con trâu rừng mà anh bắn trúng, và anh đang rất lo đây. - Xtas đáp. - Đó là một loài vật rất hăng máu, và khỏe đến nỗi sư tử cũng không dám tấn công. Sẽ không lành đối với Xa-ba nếu nó đánh nhau với một đối thủ như thế.

Nghe thấy thế, Nen vô cùng lo lắng, cô bé nói rằng sẽ không đi ngủ, chừng nào Xa-ba chưa quay về. Nhìn thấy nỗi lo phiền của cô bé, Xtas đâm ra tự trách mình đã không biết giấu nỗi nguy hiểm đó và cố tìm cách an ủi Nen.

- Lẽ ra anh đã mang súng đi theo nó, - em nói, - nhưng chắc là cả hai đã đi rất xa, đêm lại sắp đến, sẽ không trông rõ vết đâu. Con trâu đã bị trọng thương, anh tin rằng nó sẽ gục thôi. Mà ít nhất nó cũng bị yếu đi nhiều vì mất máu, nếu nó có lao vào Xa-ba thì Xa-ba cũng còn kịp bỏ chạy... Phải! Có thể phải đến đêm nó mới quay trở về, nhưng thế nào nó cũng sẽ quay về.

Nói thế, song em không hoàn toàn tin vào những điều mình nói, vì em nhớ lại những điều đã đọc được về sự hăng máu vô cùng của giống trâu rừng Phi châu, ngay cả khi đã bị thương rồi, con vật có thể chạy đường vòng quay trở lại phục cạnh đường thợ săn đi, rồi bất ngờ tấn công, chọc sừng vào người anh ta và tung bổng lên không. Với Xa-ba cũng dễ dàng xảy ra chuyện như thế, chưa nói tới những mối nguy hiểm khác đang đe dọa con chó trên đường trở về trong đêm tối.

Chỉ một lát sau, màn đêm buông xuống. Ca-li và Mê-a làm hàng rào, đốt lên một đống lửa và lo bữa tối, Xa-ba vẫn chưa thấy về.

Nen mỗi lúc một thêm buồn phiền, và sau cùng bật khóc.

Xtas phải bắt buộc cô bé đi nằm và hứa sẽ thức chờ Xa-ba, rồi khi trời rạng sáng sẽ thân chinh đi tìm con chó dẫn về. Nen đành đi vào lều, nhưng chốc chốc lại ló đầu ra khỏi cửa lều hỏi xem con chó đã về chưa. Mãi đến quá nửa đêm, khi Mê-a bước ra thay cho Ca-li canh lửa, cô bé mới thiếp đi.

- Tại sao con gái của mặt trăng lại khóc? - Ca-li hỏi Xtas, khi cả hai ngả lưng xuống tấm vải phủ mông ngựa - Ca-li không muốn thế.

- Cô bé thương Xa-ba, con chó chắc là đã bị trâu giết rồi.

- Cũng có thể chưa bị giết chết đâu. - Cậu bé da đen nói.

Rồi cả hai im lặng, và Xtas ngủ thiếp đi, rất say. Song em thức dậy ngay khi trời hãy còn tối, vì cái lạnh bắt đầu hành hạ.

Lửa đã lụi. Mê-a, người có nhiệm vụ canh giữ lửa, đã ngủ quên, và một lúc nào đó đã không tiếp thêm cành khô vào đống lửa nữa.

Tấm đệm nơi Ca-li nằm trống rỗng. Xtas tự mình tiếp thêm củi rồi lay cô gái da đen và hỏi:

- Ca-li đâu rồi?

Cô bé nhìn em một lúc lâu chưa tỉnh hẳn, sau mới bảo:

- Ca-li lấy kiếm của Ghe-bơ-rơ đi ra ngoài hàng rào. Em nghĩ là nó muốn chặt thêm củi, nhưng sau đó nó không quay về.

- Nó đi đã lâu chưa?

- Lâu rồi.

Xtas chờ một lát, nhưng vẫn không thấy cậu bé da đen đâu, em vô tình tự hỏi thầm:

- Nó trốn rồi chăng?

Và trái tim em thắt lại bởi một cảm giác khó chịu, cảm giác mà sự vô ơn của con người thường gây ra. Chính em đã bênh vực và bảo vệ Ca-li khi suốt ngày tên Ghe-bơ-rơ hành hạ thằng bé, rồi sau đó cũng chính em đã cứu thằng bé thoát chết. Bao giờ Nen cũng tốt bụng đối với Ca-li và thường khóc thương cho sự bất hạnh của nó, cả hai đối xử với thằng bé thật hết lòng. Ấy thế mà nó lại bỏ trốn! Chính nó đã nói rằng nó không biết làng mạc của người Va-hi-ma nằm về phương nào, rằng nó không biết đường đi tới đó, thế mà nó vẫn bỏ trốn. Xtas chợt nhớ lại chuyện đọc hồi còn ở Port Xai-đơ về các cuộc hành trình ở Phi châu, cũng như chuyện kể của các lữ khách về sự ngu ngốc của người da đen, những kẻ ném cả hàng hóa và bỏ chạy ngay trong những trường hợp sự chạy trốn mang tới cho họ cái chết cầm chắc. Dĩ nhiên, chỉ với một thanh gươm Xu-đan của tên Ghe-bơ-rơ là thứ vũ khí duy nhất trong tay, Ca-li sẽ phải chết đói, hoặc trở thành một miếng mồi cho các loài dã thú, nếu như không rơi lại vào tay của bọn phiến loạn.

Ôi! Thằng vô ơn và ngốc nghếch!

Xtas bắt đầu suy nghĩ xem cuộc hành trình thiếu Ca-li sẽ khó khăn vất vả hơn bao nhiêu, còn công việc thì lại nặng nhọc hơn bao nhiêu. Cho ngựa uống nước và thả đi ăn buổi tối, căng lều, dựng hàng rào, cảnh giới khi đi đường để lương ăn và đồ đạc không bị rơi mất, lột da và xẻ thịt thú săn - tất cả những công việc ấy, thiếu chàng thiếu niên da đen, sẽ trút lên vai em, và tự trong thâm tâm em phải tự nhận rằng em không có khái niệm gì về một số công việc, thí dụ như việc xẻ thịt thú.

“Ha! Biết làm thế nào được? - Em tự nhủ. - Phải làm thôi!...” Lúc đó, mặt trời đã nhô lên từ sau đường chân trời và ngày bắt đầu ngay trong chớp mắt, như vẫn thường thấy ở vùng nhiệt đới. Một lúc sau, nước rửa mà Mê-a đã chuẩn bị ban đêm cho cô chủ bắt đầu reo lóc bóc dưới mái lều báo hiệu Nen đã dậy và đang mặc quần áo. Lát sau, cô bé bước ra, đã ăn mặc chỉnh tề nhưng hãy còn đang cầm lược trên tay và đầu tóc hãy còn bù xù.

- Xa-ba đâu? - Cô bé hỏi.

- Nó vẫn chưa về.Đôi môi của cô bé bắt đầu run run.

- Có thể nó sẽ về. - Xtas nói. - Em có nhớ là hồi qua sa mạc, đôi khi nó bỏ đi những hai ngày liền, nhưng sau đó bao giờ cũng theo kịp chúng ta chứ?

- Anh bảo là anh sẽ đi tìm nó cơ mà?...

- Anh không thể.

- Vì sao, anh Xtas?

- Vì anh không thể để một mình em với Mê-a ở lại trong khe núi.

- Còn Ca-li?

- Không có Ca-li.

Và em nín lặng, không biết có nên nói cho cô bé biết toàn bộ sự thật hay không. Song vì chuyện đó không thể giấu được, nên em nghĩ rằng tốt hơn hết là nói ngay lập tức.

- Ca-li lấy thanh kiếm của Ghe-bơ-rơ, - em nói, - và bỏ đi mất từ hồi đêm, không hiểu đi đâu. Ai biết được là nó có trốn đi hay không. Người da đen thường làm vậy đấy, nhiều khi để đánh đổi lấy cái chết. Anh tiếc cho nó... Nhưng rất có thể là nó sẽ hiểu rằng nó làm chuyện ngốc nghếch và...

Lời của cậu bé bị gián đoạn bởi tiếng sủa đầy mừng rỡ của Xa-ba, tiếng sủa tràn ngập trong khe núi. Nen vứt ngay cái lược xuống đất chạy ra đón, nhưng gai góc của hàng rào đã giữ cô bé lại.

Xtas vội vàng dỡ tung hàng rào, nhưng trước khi cậu kịp mở thông hẳn thì trước mắt cậu đã hiện ra trước tiên là Xa-ba, rồi sau đó là Ca-li, long lanh ướt đẫm sương như vừa qua một trận mưa to vậy.

Một niềm vui sướng to lớn tràn ngập trong lòng hai trẻ khi Ca-li mệt không kịp thở, vào được bên trong hàng rào, thì Nen đã dang hai vòng tay trắng muốt của mình ôm vòng lấy cái cổ màu đen và dùng hết sức siết chặt lấy nó.

Còn Ca-li thì nói:

- Ca-li không muốn thấy cô bé khóc, nên Ca-li đi tìm được con chó.

- Ca-li tốt quá! - Xtas vừa đáp vừa vỗ vỗ vào vai thằng bé. - Thế cậu không sợ gặp sư tử hay báo ban đêm hay sao?

- Ca-li sợ, nhưng Ca-li cứ đi, - cậu bé đáp lại.

Những lời này càng khiến cho trái tim bọn trẻ yêu mến nó hơn nữa. Theo lời yêu cầu của Nen, Xtas lấy trong bị ra một chuỗi cườm bằng thủy tinh mà ông lão Hy lạp Ca-li-ô-pu-li đã cung cấp cho bọn trẻ khi rời Om-đu-a-man và dùng nó trang điểm cho cái cổ của Ca-li, còn cậu bé da đen, sung sướng vì món quà tặng, rất tự hào nhìn Mê-a và nói:

- Mê-a không có chuỗi hạt cườm, còn Ca-li có, vì Ca-li là “đại thế giới”.

Như thế là sự quên mình của cậu bé da đen đã được tặng thưởng, còn Xa-ba thì lại bị mắng một trận nên thân, trong đó, lần thứ hai kể từ khi phục vụ cô chủ Nen, nó được biết rằng nó là một con chó rất xấu xí và nếu như lần sau nó còn làm một chuyện tương tự thế này thì nó sẽ bị buộc dây dắt đi như một chú chó con.

Vừa nghe những lời mắng mỏ đó, nó vừa ngoe nguẩy đuôi, khiến người ta có thể hiểu theo cách nào cũng được. Tuy nhiên. Nen khẳng định rằng, qua mắt nó, có thể thấy rõ là nó xấu hổ, và rõ ràng là nó đã đỏ mặt, có điều không thấy được vì người nó phủ đầy lông đó thôi.

Sau đó là bữa ăn sáng gồm có những quả vải dại ngon tuyệt và thịt linh dương. Trong bữa ăn sáng, Ca-li thuật lại chuyến phiêu lưu của mình. Xtas thì dịch câu chuyện từ tiếng Kix-va-hi-li mà Nen không hiểu sang tiếng Anh. Hóa ra con trâu còn chạy rất xa. Ca-li khó tìm thấy vết vì đêm qua không trăng. May thay hai hôm trước trời đổ mưa và mặt đất không rắn lắm, nên dấu chân của con vật bị thương in hằn sâu trong đất. Ca-li tìm theo dấu chân bằng cách lần mò bằng ngón chân của mình và đi mãi rất lâu. Mãi sau con trâu ngã xuống và hẳn là nó ngã xuống chết ngay, vì không hề có dấu vết gì nói lên có trận đấu giữa nó với Xa-ba. Khi Ca-li tìm thấy cả hai, Xa-ba đã xơi hết một phần chân trước của con trâu, và mặc dù không thể ăn thêm nữa, nó vẫn không cho phép hai con linh cẩu và mấy con lang núi tiến lại gần miếng mồi, bọn này đành đứng chầu rìa chung quanh, chờ cho con thú ăn thịt khỏe hơn này kết thúc bữa tiệc và bỏ đi.

Cậu bé than phiền rằng, con chó gầm gừ cả với nó nữa, nhưng nó dọa rằng “ông lớn” và cô bé sẽ giận, và nắm lấy cổ dề kéo con chó rời khỏi con trâu, về tới khe núi mới bỏ tay ra.

Câu chuyện về chuyến phiêu lưu ban đêm của Ca-li kết thúc tại đó, cả bọn vui vẻ lên lưng ngựa tiếp tục lên đường.

Chỉ riêng cô Mê-a chân dài, mặc dù lặng lẽ và nhẫn nhục, vẫn ghen tị ngắm nghía chuỗi vòng cổ của chàng da đen trẻ tuổi và buồn bã nghĩ thầm:

“Cả hai người là ”đại thế giới", còn mình chỉ có một cái vòng bằng đồng đeo ở mỗi một chân thôi!"

--- ------ ------

1 Mỗi dặm Anh (đường bộ) bằng 1609,344 mét.

2 Ca-li nói sai ngữ pháp hoàn toàn. Ở đây chúng tôi cố gắng diễn đạt sự thô sơ trong ngôn ngữ cậu bé trong chừng mực có thể (N.D)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,904
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ----

Suốt ba ngày sau đó bọn trẻ toàn đi theo khe núi ngược lên mãi. Ban ngày nói chung là nóng bức, ban đêm hoặc lành lạnh hoặc là oi nồng. Đã gần tới mùa mưa. Phía sau đường chân trời đùn lên đây đó những đám mây trắng ngần như sữa nhưng dầy đặc tầng tầng lớp lớp. Nhiều phía trông thấy những làn mưa và những chiếc cầu vồng xa xa. Gần sáng ngày thứ ba, một đám mây như thế vỡ ra như một chiếc thùng chứa bị tuột mất đai ngay trên đầu chúng, tắm cho cả bọn một trận mưa ào ạt và ấm áp, nhưng may mắn là không kéo dài.

Sau đó thời tiết lại đẹp tuyệt và cả bọn có thể tiếp tục đi... Lũ chim pen-tác-ca xuất hiện với số lượng nhiều đến nỗi, không cần phải xuống ngựa Xtas cũng bắn hạ được năm con, quá đủ cho cả bọn - kể cả Xa-ba - một bữa no nê. Cuộc hành trình trong bầu không khí trong lành hoàn toàn không mệt nhọc chút nào, đồng thời sự phong phú về thú vật và nước uống đẩy xa ám ảnh của nỗi lo đói khát. Nói chung, mọi chuyện đều thuận lợi hơn là chúng mong, vì thế Xtas lúc nào cũng vui vẻ, và đi bên cạnh cô bạn nhỏ, cậu trò chuyện, thỉnh thoảng lại nói đùa:

- Em biết không, Nen, - cậu nói khi cả bọn dừng chân nghỉ dưới một cây mít to tướng, trong lúc Ca-li và Mê-a đang cắt những quả mít trông giống như những quả dưa bở khổng lồ - đôi khi anh cứ ngỡ như mình là một hiệp sĩ giang hồ lang thang vậy.

- Hiệp sĩ lang thang là gì hả anh? - Nen quay mái đầu tuyệt đẹp của mình hỏi lại Xtas.

- Hồi xửa hồi xưa, vào thời trung cổ, có những vị hiệp sĩ như thế. Họ chu du khắp thế giới để tìm kiếm những chuyện mạo hiểm. Họ đánh nhau cả với rồng và bọn khổng lồ, và em biết không, mỗi người đều có một công nương của lòng mình, công nương này được họ chăm lo và bảo vệ.

- Vậy em là một công nương như thế chăng? Xtas suy nghĩ một giây rồi đáp:

- Không - em hãy còn bé quá. Tất cả đám công nương kia đều là người lớn cả.

Cậu hoàn toàn không hề nghĩ rằng, có thể chưa có vị hiệp sĩ nào lại thực hiện nhiều kì công cho công nương của họ hơn là cậu đã thực hiện cho cô em gái bé bỏng của mình. Đối với cậu, những điều cậu làm đều chỉ là tất nhiên phải thế mà thôi.

Nhưng những lời của cậu lại khiến cô bé Nen phật ý, cô bĩu môi đanh đá và nói:

- Thế mà hồi trong sa mạc anh lại nói là em hành động như người mười ba tuổi kia đấy.

- Chỉ một lần thôi. Còn em thì mới có tám tuổi.

- Thế thì mười năm nữa em cũng sẽ mười tám tuổi.

- Ghê nhỉ? Còn anh những hai mươi tư rồi. Vào tuổi đó người ta không nghĩ đến công nương, mà nghĩ tới những chuyện khác để hành động. Hiểu chưa?

- Thế anh sẽ làm gì?

- Anh sẽ là kĩ sư hoặc thủy thủ, còn nếu như ở Ba Lan có chiến tranh, anh sẽ đi đánh nhau như ba anh vậy.

Cô bé hỏi, vẻ lo lắng:

- Thế nhưng rồi anh sẽ trở lại Port Xai-đơ chứ?

- Trước hết cả hai chúng ta phải trở lại cái đã.

- Về với ba! - Cô bé hòa theo.

Và mắt cô nhòa đi bởi nỗi buồn nhớ. May thay, vào lúc ấy, có một đàn vẹt tuyệt đẹp bay tới, thân hình chúng màu xám với cái đầu màu hồng hồng và một mảnh lông màu hồng dưới cánh. Bọn trẻ lập tức quên ngay cuộc nói chuyện vừa rồi để đưa mắt dõi theo chúng.

Đàn chim lượn trên một chòm cây xương khô rồi đậu xuống một cây sung Ai Cập mọc cách đấ y không xa, và ngay lập tức, trong đám lá cành liền vang lên tiếng chim nghe giống như những cuộc bàn bạc lắm lời hay một đám cãi nhau.

- Đây là giống vẹt dễ dạy nói nhất. - Xtas bảo. Giá như chúng mình dừng chân lâu lâu một chút, anh sẽ cố bắt cho em một con.

- Ôi anh Xtas! Cảm ơn anh! - Nen vui sướng đáp.

- Em sẽ đặt tên cho nó là Đa-xi...

Trong lúc đó, Mê-a và Ca-li đã cắt xong mít chất lên lưng ngựa và đoàn bộ hành nhỏ bé lại lên đường. Song sau giờ ngọ, trời lại bắt đầu nhiều mây và chốc chốc lại có một cơn mưa ngắn lướt qua, khiến các hõm đá và khe đá ngập tràn nước. Ca-li báo trước là sẽ có mưa lớn, nên Xtas chợt nghĩ rằng rất có thể cái khe núi đang ngày một hẹp lại sẽ không phải là một chỗ trú đêm đủ an toàn, vì rất có thể nó sẽ biến thành một dòng suối. Do vậy em quyết định sẽ trú đêm trên cao. Quyết định đó khiến Nen rất vui sướng, nhất là khi chàng Ca-li được phái đi thám thính quay trở về báo rằng cách đây không xa có một khu rừng nhỏ gồm nhiều loại cây khác nhau, trong đó có rất nhiều khỉ nhỏ, trông không xấu xí và quằm quặm như những con vượn mà bọn trẻ gặp cho tới nay.

Do vậy, khi đến được một chỗ vách đá thấp và thoai thoải, bọn trẻ bèn đưa ngựa lên khỏi khe, và trước khi trời tối, chúng đã chuẩn bị được chỗ trú đêm. Chiếc lều của Nen được dựng ở một nơi cao ráo, dưới chân một tổ mối lớn, tổ này che kín hoàn toàn một phía, khiến cho việc làm hàng rào trở nên dễ dàng.

Gần đấy có một cây gỗ khổng lồ có những cành cây xòe rộng, với lá cây dày, có thể làm một nơi trú mưa tốt. Phía trước hàng rào chỉ có những bụi cây mọc thưa thớt, còn xa hơn nữa là một khu rừng dày đặc, chằng chịt dây leo, trên đó vút cao những ngọn cây của một giống cọ kì dị nào đó, trông tựa như những đuôi công xòe rộng vậy.

Xtas được Ca-li cho biết rằng trước mùa mưa thứ hai trong năm, nghĩa là vào mùa thu, trú đêm dưới những cây cọ loại ấy là không an toàn, vì những quả cây khổng lồ chín nẫu của chúng sẽ có thể bất ngờ rụng xuống từ một chiều cao đáng kể với một sức va đập mạnh đến nỗi có thể giết chết người, thậm chí cả ngựa nữa.

Tuy nhiên, bây giờ đây các quả ấy còn đang mọc thành chùm, và từ xa trông lại, trước khi mặt trời lặn xuống, có thể thấy rõ những chú khỉ tí xíu đang ẩn hiện dưới những tán cây, đuổi theo nhau bằng những bước nhảy vui vẻ.

Cùng với Ca-li, Xtas chuẩn bị sẵn đống củi lớn có thể đủ dùng cả đêm, và vì rằng, chốc chốc lại nổi lên những cơn gió nóng thổi giật rất mạnh, nên cả hai củng cố thêm hàng rào bằng những chiếc cọc mà cậu bé da đen dùng kiếm của Ghe-bơ-rơ vạt nhọn và đóng xuống đất. Sự thận trọng đó hoàn toàn không thừa chút nào, vì những cơn lốc mạnh rất có thể sẽ phá tung những cành cây gai góc dùng làm hàng rào, giúp cho bọn thú dữ dễ dàng tấn công.

Tuy vậy, ngay sau khi mặt trời lặn, gió lại ngừng, không khí trở nên oi bức nặng nề. Ban đầu, có những vì sao ẩn hiện đây đó trong những kẽ hở giữa các đám mây, nhưng sau đó đêm trở nên đen đặc, đến nỗi cách một bước chân đã không trông thấy gì cả.

Những nhà bộ hành trẻ tuổi quây quần chung quanh đống lửa, lắng nghe tiếng chí chóe cãi cọ của lũ khỉ đang họp chợ trong khu rừng lân cận. Phụ họa theo chúng là tiếng tru của bầy lang núi và vô vàn những thanh âm không quen khác, trong đó có thể nhận thấy vẻ lo sợ và hãi hùng trước những gì đang được bóng tối trong rừng hoang che giấu, đe dọa mỗi một sinh vật.

Bỗng nhiên, mọi vật im bặt đi, từ trong những chốn thẳm sâu tối tăm nào đó chợt vang lên tiếng gầm gào của sư tử.

Lũ ngựa vừa nãy gặm cỏ trong khu rừng cạnh đấy xích lại gần vùng ánh sáng, nhẩy cẫng trên các chân trước bị buộc vào với nhau, còn con Xa-ba ngày thường vốn can trường là thế nay cũng dựng đứng cả lông lên, cụp đuôi lại và nép sát vào con người, rõ ràng nó trông đợi ở họ một sự chở che.

Tiếng gầm lại vang lên một lần nữa, dường như vọng lên từ dưới mặt đất, một tiếng gầm sâu thẳm, nặng nề, gắng sức, dường như con vật phải khó khăn lắm mới ép được tiếng gầm thoát ra khỏi buồng phổi lớn của mình. Tiếng gầm trườn sát mặt đất, lúc thì mạnh lên, lúc lại yếu đi, đôi khi chuyển thành những tiếng rên rỉ ồm ồm, câm lặng và buồn thảm.

- Ca-li! Thêm củi vào đống lửa! - Xtas bảo.

Cậu bé da đen vội vàng ném ngay một ôm cành cây vào đống lửa, làm bắn lên cả hàng chùm tia lửa, sau đó ngọn lửa mới vọt lên cao.

- Anh Xtas này, sư tử không tấn công chúng mình phải không anh...? Nen vừa thì thầm vừa kéo tay áo cậu bé.

- Không. Nó không dám tấn công đâu. Em trông, hàng rào cao thế kia cơ mà...

Nói thế, quả thực em tin rằng nguy hiểm không đe dọa cả bọn nhưng em lạ i lo sợ cho lũ ngựa, bọn này đang mỗi lúc một nép mình vào hàng rào cây và có thể phá vỡ hàng rào như bỡn.

Trong lúc ấy, tiếng gầm gào đã chuyển thành tiếng rống vang động, khiến cho tất thảy mọi loài sinh vật đều kinh hoàng, còn thần kinh của con người - ngay cả những người không biết sợ hãi là gì - rung lên như những khung cửa kính trong tiếng đại bác gầm xa xa.

Xtas nhìn thoáng qua Nen, trông thấy cái cằm đang run run và cặp mắt ẩm nước của cô bé, cậu liền nói:

- Đừng sợ em! Đừng khóc!Cô bé đáp lại như hồi nào trên sa mạc:

- Em không khóc đâu... chỉ có mắt em ra... mồ hôi! Ối!

Tiếng kêu cuối cùng ấy bật ra từ miệng cô bé, bởi chính vào lúc ấy, từ phía rừng vang lên một tiếng rống còn mạnh hơn tiếng rống thứ nhất, vì ở gần hơn. Lũ ngựa bắt đầu gần như xô đẩy hàng rào, và nếu như không có những cái cọc làm bằng cành cây xiêm gai dài và cứng như thép thì hẳn là chúng đã phá đổ hàng rào rồi.

Xaba vừa gầm gừ vừa run như dẽ, còn Ca-li thì lắp bắp:

- Ông chủ! Hai con! Hai con! Hai con!...

Còn hai con sư tử, cảm thấy sự có mặt của nhau, bèn rống lên liên tục, dàn hợp xướng kinh khủng ấy kéo dài triền miên trong bóng tối, khi con này ngừng thì con kia tiếp tục. Một lát sau, Xtas không còn có thể nhận ra tiếng của chúng phát ra từ đâu nữa bởi tiếng vọng cứ dội đi dội lại trong khe núi, vang uôm uôm giữa những khối đá, vang động dưới thấp và trên cao, tràn ngập trong rừng dày rừng thưa, khiến cho bóng đêm đầy ắp tiếng kinh động và sự hãi hùng.

Cậu bé chỉ biết chắc được một điều là mỗi lúc chúng một tiến lại gần. Ca-li cũng hiểu rằng lũ sư tử đang chạy quanh khu trại, mỗi lúc một khép những vòng hẹp hơn, và rằng chỉ có ánh lửa là còn khiến chúng chưa dám tấn công, đành dùng tiếng gầm rống để biểu lộ sự phẫn nộ và e ngại của chúng mà thôi.

Rõ ràng thằng bé cũng nghĩ rằng nguy hiểm đang đe dọa lũ ngựa vì nó vừa xòe ngón tay ra tính toán vừa nói:

- Sư tử giết một, giết hai con - không giết hết cả, không giết hết cả đâu!...

- Thêm củi vào! - Xtas nhắc.

Ngọn lửa lại bùng lên sống động, tiếng rống bỗng ngừng bặt.

Nhưng Ca-li chợt ngẩng đầu nhìn lên trời và lắng tai nghe ngóng.

- Cái gì thế? Xtas hỏi.

- Mưa! - Cậu bé da đen đáp.

Đến lượt Xtas lắng tai nghe. Những tán cây che kín cái lều và toàn bộ hàng rào nên chưa có giọt mưa nào rơi xuống đất, nhưng ở trên cao nghe rõ tiếng lá xạc xào. Vì bầu không khí oi nồng không hề có một hơi gió nhỏ nên dễ dàng hiểu được rằng, đó là tiếng mưa đang bắt đầu lay động lá cành.

Tiếng rì rào mỗi lúc một mạnh thêm và một lát sau bọn trẻ trông thấy những giọt nước chảy từ các lá cây xuống, trong ánh lửa nom chúng giống như những viên ngọc to tướng màu hồng.

Đúng như Ca-li báo trước, cơn mưa rào đã bắt đầu. Tiếng rì rào chuyển thành tiếng rào rào. Mỗi lúc nước rơi xuống một nhiều và một lúc sau những sợi dây nước bắt đầu tuôn xuống từ lá cành.

Đống lửa lụn đi. Ca-li thêm hàng ôm củi cũng chỉ vô ích. Bên trên, những cành cây ướt chỉ nhả khói mù mịt phía dưới than kêu xèo xèo, ngọn lửa khi lóe lên, khi lại lụn đi.

- Nếu mưa có làm tắt lửa thì hẵng còn hàng rào bảo vệ chúng mình. - Xtas nói cho Nen yên lòng.

Rồi em dắt cô bé vào lều, lấy chăn phủ kín người cô bé còn em vội vàng bước ngay ra ngoài, bởi những tiếng rống lại vừa nổi lên. Lần này chúng vang lên gần hơn rất nhiều, trong tiếng gầm rống đó nghe như có niềm sung sướng.

Mưa mỗi lúc một mạnh thêm. Những giọt mưa gõ sầm sập trên lá cây na-băc cứng và dậy lên rào rào. Giá như đống lửa không ở ngay dưới tán cây thì đã tắt ngay lập tức, nhưng lúc này thực ra nó cũng chỉ còn tỏa khói là chính, trong đó leo lét những lưỡi lửa mỏng manh màu xanh biếc. Ca-li đành chịu thua và không tiếp thêm củi vào đống lửa nữa. Ngược lại, nó khoanh một sợi thừng xung quanh thân cây và nhờ đó leo lên mỗi lúc một cao hơn.

- Cậu làm gì thế? - Xtas kêu lên.

- Ca-li leo lên cây.

- Để làm gì? Cậu bé thét lên, bực mình vì sự ích kỉ của thằng bé da đen.

Một tia chớp kinh hoàng sáng lóe rạch nát bóng tối, tiếng trả lời của Ca-li bị chìm trong tiếng sấm bất thần làm rung rinh cả bầu trời và khu rừng.Gió lốc đột ngột nổi lên, làm lay động những cành cây, thổi tung trong nháy mắt đống lửa, túm lấy những cục than hãy còn hồng rực dưới tro và mang nó vào phía rừng, kéo theo hàng bó tia lửa.

Bóng tối dày đặc trùm lên khu trại. Cơn dông tố nhiệt đới kinh khủng hoành hành trên mặt đất và trên bầu trời. Sấm liền theo sấm, chớp nối theo chớp. Những đường sét đỏ bầm rạch nát bầu trời đen như mực. Trên những phiến đá gần đấy xuất hiện một quả cầu sáng xanh kì lạ, nó lăn dọc theo khu núi, rồi sau đó bùng nổ trong một thứ ánh sáng lóa mắt và một tiếng nổ kinh khủng đến nỗi tưởng chừng các khối đá cũng phải nát vụn thành muôn ngàn mảnh do bị chấn động.

Rồi bóng tối lại bao trùm.

Xtas lo sợ cho Nen, mò mẫm lần vào lều. Được tổ mối và cái thân cây khổng lồ che đỡ, túp lều vẫn hãy còn đứng được, nhưng chỉ cần một cơn lốc mạnh đầu tiên nào đó cũng có thể dứt đứt dây chằng và mang chiếc lều đi tới cuối đất cùng trời. Mà gió lốc thì lúc yếu đi, lúc lại giật lên với một sức mạnh cuồng bạo, mang theo những đợt sóng nước mưa cùng hàng thúng lá và cành cây gãy từ khu rừng cạnh đấy. Xtas cảm thấy tuyệt vọng. Em không biết nên để Nen lại trong lều hay đưa cô bé ra ngoài. Nếu để trong lều thì cô bé rất có thể sẽ bị vướng dây nhợ và bị cuốn đi cùng với những cuộn vải bạt, còn nếu đưa ra khỏi lều thì Nen bị ướt, đồng thời,cũng có thể sẽ bị cuốn đi, bởi lẽ bản thân Xtas, người mạnh hơn hẳn Nen, mà cũng phải vất vả lắm mới đứng vững chân nổi.

Chính cơn lốc đã quyết định vấn đề, vì một giây sau đó đã cuốn bay nóc lều đi mất. Vách lều bằng vải không còn có thể che chở ai được nữa. Chẳng còn cách nào khác, phải chờ cho cơn dông tạnh đi, giữa bóng tối mịt mùng, trong đó hai con sư tử đang lởn vởn xung quanh.

Xtas đồ rằng có lẽ cả chúng cũng phải ẩn tránh mưa to trong khu rừng gần đấy, nhưng em chắc khi ngớt mưa chúng sẽ lập tức quay trở lại. Tình thế càng nghiêm trọng hơn vì gió lốc đã phá sạch sành sanh hàng rào gai.

Tất cả những cái đó đe dọa cả bọn sẽ bị chết đến nơi. Khẩu súng của Xtas không thể làm gì được. Nghị lực của em cũng thế.

Trước bão tố, sấm sét, gió mạnh, mưa rào, bóng đêm, trước những con sư tử có thể đang phục sẵn chỉ cách đấy vài bước chân, em cảm thấy hoàn toàn bất lực và không chút vũ khí tự vệ. Bị giằng xé bởi gió lốc, vách lều vải ướt sũng giội nước vào các em từ bốn phía, Xtas quàng vai Nen, dìu Nen ra khỏi lều, rồi cả hai áp sát vào thân cây na-băc chờ đợi cái chết đến hoặc chờ Thượng đế rủ lòng thương.

Chính vào lúc đó, giữa hai cơn gió giật, trong tiếng mưa rơi sầm sập, văng vẳng tới tai hai trẻ tiếng gọi của Ca-li:

- Ông lớn, lên cây, lên cây đi!

Đồng thời một đầu dây thừng ướt lướt thướt dòng từ trên cao xuống chạm vào vai cậu bé.

- Buộc lấ y cô bé, Ca-li sẽ kéo lên! - Cậu bé da đen kêu lên tiếp.

Xtas không ngần ngừ một giây. Em lấy vải đệm quấn cô bé, rồi buộc dây thừng vòng quanh thắt lưng cô bé, dùng hai tay nâng bổng cô lên cao và gọi:

- Kéo!

Những cành đầu tiên của cây mọc khá thấp, nên cuộc hành trình trong không khí của Nen chỉ kéo dài không lâu. Bằng hai cánh tay mạnh mẽ của mình, Ca-li đỡ lấy cô bé, đặt vào giữa thân cây và một cành cây to tướng, nơi có thể đủ chỗ cho nửa tá sinh linh bé như Nen. Không cơn gió nào có thể thổi bay cô bé đi khỏi chỗ ấy nữa. Thêm vào đó, mặc dù nước đang chảy dọc thân cây, nhưng cái thân cây to hơn mươi bộ ít nhất cũng có thể che cho cô bé tránh khỏi những đợt sóng nước mưa mới do gió lốc tạt xiên vào.

Sau khi đã bố trí chỗ ngồi an toàn cho cô bé, cậu bé da đen lại thả dây xuống cho Xtas, nhưng vịt huyền trưởng này, người cuối cùng chịu rời khỏi con tàu đắm, lại ra lệnh cho Mê-a lên trước.

Ca-li hoàn toàn không phải kéo cô bé vì chỉ trong nháy mắt cô bé đã bám dây thừng leo lên thoăn thoắt, thành thạo và khé o léo như chị em ruột của loài vượn vậy. Xtas thì vất vả hơn, nhưng vốn là vận động viên thể thao tốt, em hoàn toàn có thể thắng được trọng lượng bản thân cùng với khẩu súng và hơn chục viên đạn đựng đầy trong túi.

Thế là bộ bốn đã tụ họp đông đủ trên cây.

Dù trong tình thế nào, Xtas cũng đã quen với việc trước tiên phải lo cho Nen, lúc này cũng thế,em kiểm tra xem cô bé có thể bị ngã hay chăng, liệu chỗ ngồi, có đủ rộng không và liệu cô bé có thể ngả lưng được chăng. Yên tâm về chuyện đó rồi, em mới bắt đầu vắt óc nghĩ cách chống mưa cho cô bé. Nhưng không có cách nào cả. Giá là ban ngày thì còn dễ dựng cho cô bé một cái mái gì đó che đầu, nhưng lúc này đây, bóng đêm đang dày đặc đến nỗi bọn trẻ hoàn toàn không trông thấy nhau. Nếu như cơn dông tạnh đi, và có thể đốt lên chút lửa, có thể hong khô quần áo cho Nen thì hay quá.

Xtas bắt đầu nghĩ rằng, bị ướt đến tận da như thế này, hẳn ngày mai cô bé sẽ bị trận sốt rét đầu tiên tấn công cho mà xem.

Cậu e ngại rằng gần sáng, sau cơn dông, trời sẽ trở lạnh như mấy đêm trước. Tuy vậy, cho tới lúc này, gió giật vẫn là gió nóng, và mưa như bị hâm nóng vậy. Xtas chỉ ngạc nhiên về sự dai dẳng của cơn mưa, bởi em biết rằng những cơn dông vùng nhiệt đới càng dữ dội bao nhiêu lại càng chóng qua bấy nhiêu.

Mãi một hồi lâu sau, sấm mới im dần, gió dịu bớt nhưng mưa tuy đã kém phần nặng hạt hơn trước, song vẫn dày đến nỗi tán lá cây na-bắc không còn có thể che chở gì cho bọn trẻ nữa. Từ phía dưới vang lên tiếng nước réo rào rào, dường như cả khu rừng đã biến thành một cái hồ vậy. Xtas nghĩ thầm rằng hẳn là chúng không thể thoát chết nếu còn ở trong khe núi. Em cũng rất đau lòng khi nghĩ tới số phận của Xa-ba, nhưng không dám nói chuyện với Nen. Em vẫn còn hi vọng rằng con chó thông minh sẽ tìm được chỗ trú an toàn trong những khối đá nhấp nhô trên bờ khe núi.

Song em không có cách nào đến cứu con chó cả.

Bọn trẻ đành ngồi bên nhau trên những cành cây xòa ra nhiều phía, chịu ướt chờ đợi bình minh. Mãi vài tiếng đồng hồ sau, không khí mới bắt đầu se lạnh và mưa mới chịu ngừng. Nước hẳn là cũng đã chảy xuôi hết xuống những chỗ trũng vì không còn nghe thấy tiếng nước lõm bõm và lao xao nữa. Từ mấy hôm trước, Xtas đã để ý thấy Ca-li biết nhóm lửa ngay cả bằng những cành củ i ướt, nên em định bảo cậu bé da đen tuột xuống đất và thử xem có nhóm được chăng. Nhưng đúng vào lúc em quay sang phía thằng bé thì xảy ra một chuyện khiến cho máu dường như đông lại trong huyết quản của cả bốn đứa trẻ.

Sự im lặng sâu thẳm của đêm bỗng bị rách toạc ra bởi tiếng ngựa hí kinh hoàng, khủng khiếp, đầy đau đớn, hãi hùng và tuyệt vọng trước cái chết. Trong bóng tối có cái gì đó lăn lộn, tiếng thở khò khè cụt lủn, tiếng rên rỉ câm lặng, tiếng thở hổn hển, tiếng hí lần nữa, còn kinh khủng hơn rồi sau đó tất cả im lặng trở lại.

- Sư tử, ông lớn ơi! Sư tử đang giết ngựa! - Ca-li thì thào.

Có cái gì đó thật kinh khủng trong cuộc tấn công ban đêm, trong sự hoành hành của loài quái vật và trong sự giết chóc bất thần những con vật không chút tự vệ này, khiến cho Xtas thoáng hãi hùng và quên mất khẩu súng. Nhưng nói cho cùng thì bắn trong bóng tối này để được cái gì cơ chứ? Cùng lắm chỉ khiến cho bọn dã thú phải sợ ánh lửa và tiếng súng mà bỏ lại những xác ngựa đã bị giết để đuổi theo những con ngựa còn sống sót đang chạy hoảng loạn đi cách xa trại, nếu như những cặp chân bị trói giằng có thể cho phép chúng chạy xa.

Xtas rùng mình nghĩ đến những gì có thể xảy ra nếu như cả bọn còn ở lại dưới kia. Nép chặt vào người em, Nen đang run lên cầm cập như bị cơn sốt rét đầu tiên; dù sao, cây gỗ cao ít ra cũng đã tránh cho chúng khỏi bị dã thú tấn công. Nói đúng ra, chính Ca-li đã cứu cả bọn thoát chết.

Đó thật là một đêm kinh khủng - kinh khủng nhất trong toàn bộ cuộc hành trình.

Cả bọn ngồi nép như những con chim bị ướt hết lông trên cành cây, lắng nghe những gì đang diễn ra bên dưới. Phía dưới lặng im được một lúc, nhưng chỉ lát sau lại vang lên tiếng gầm gừ, văng vẳng tiếng gì như tiếng nhai tóp tép, tiếng chép lưỡi khi rứt từng miếng thịt, cùng tiếng thở hào hển và tiếng ầm ào của những con quái vật.

Mùi thịt tươi và mùi máu xốc lên đến tận cây, vì lũ sư tử mở tiệc cách hàng rào không quá hai mươi bước chân.

Bọn chúng tiệc tùng lâu đến nỗi cuối cùng khiến Xtas phát khùng lên. Em tóm lấy súng và nổ về hướng những tiếng động đó.

Nhưng đáp lại em chỉ có tiếng rống đứt đoạn đầy giận dữ, sau đó vang lên tiếng xương gãy răng rắc trong những bộ răng khỏe mạnh. Trong đêm thẳm sáng lên những cặp mắt màu xanh lét và đỏ đọc của linh cẩu cùng lang núi đang chờ tới lượt chúng.

Và cứ thế, những giờ phút của cái đêm dài dằng dặc ấy trôi đi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,904
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---------

Mãi rồi mặt trời cũng lên, chiếu sáng rừng hoang, những bụi cây và khu rừng non. Sư tử biến mất trước khi tia sáng đầu tiên bừng lên ở phía chân trời. Xtas bảo Ca-li nhóm lửa, còn Mê-a lấy đồ đạc của Nen trong cái túi da, hong cho khô và thay quần áo cho cô bé ngay. Còn bản thân em cầm súng đi quanh khu trại chứng kiến cái cảnh tan hoang mà bão tố và hai kẻ sát sinh ban đêm đã gây nên.

Ngay bên kia hàng rào - hàng rào chỉ còn lại những chiếc cọc chỏng chơ - là xác con ngựa đầu tiên đã bị ăn tới gần một nửa; khoảng trăm bước xa hơn là con thứ hai, mới bắt đầu bị ăn; ngay sau đó là con thứ ba với cái bụng toang hoác và cái đầu vỡ nát. Cả ba con bày ra một cảnh tượng thật kinh khủng, vì mắt chúng hãy còn mở trừng trừng, chứa đầy nỗi hoảng sợ đã bị đờ dại, răng nhe cả ra. Mặt đất bị xéo nát, trong những hõm sâu đọng lại từng vũng máu, Xtas bực bội ước thầm, mong sao cho từ sau một lùm cây nào đó nhô ra cái đầu xù lông của tên kẻ cướp no nê sau bữa tiệc đêm, để em có thể xỉa cho hắn một phát đạn vào đầu. Song em đành phải để dành cơn tức giận cho một dịp sau nào đó, vì giờ đây còn có việc khác phải làm. Cần phải tìm bắt lại những con ngựa còn sống sót. Cậu bé đồ rằng hẳn chúng phải ẩn vào rừng, cũng như con chó Xa-ba, vì không thấy xác của nó đâu cả. Niềm hi vọng người bạn trong khốn cùng này không bị làm mồi cho thú dữ khiến Xtas vui lên, niềm vui của em càng lớn hơn khi tìm lại được chú lừa. Hóa ra con vật thông minh này không thèm nhọc công chạy trốn đâu cho xa. Nó chui xuyên qua hàng rào vào đúng cái góc bị chắn giữa tổ mối và thân cây, và ở đó, sau khi biết là đầu và hai sườn đã được an toàn, nó cứ đứng chờ xem sự tình sẽ diễn biến ra sao, đồng thời sẵn sàng đẩy lùi cuộc tấn công khi cần bằng những cú đá hậu rất dũng mãnh. Nhưng rõ ràng là lũ sư tử không trông thấy nó, nên khi mặt trời lên và nỗi nguy hiểm qua đi, nó xem là đã tới lúc nên ngả lưng nghỉ ngơi chút đỉnh sau những ấn tượng bi thảm của đêm.

Đi vòng quanh khu trại, Xtas tìm ra được dấu chân ngựa in hằn trên một chỗ đất mềm. Dấu chân đi về phía rừng sau đó ngoặt vào khe núi. Đó là chuyện rất hay, vì trong khe núi việc bắt lại lũ ngựa không phải là chuyện khó. Mươi bước chân nữa, em tìm được trong cỏ sợi dây buộc chân mà một con trong số lũ ngựa đã rứt đứt khi chạy trốn. Con này hẳn là đã chạy rất xa, nên tạm thời có thể coi như bị thất lạc. Còn hai con nữa thì Xtas trông thấy sau một tảng đá, nhưng không phải trong lòng khe đá mà ngay trên bờ khe. Một con đang nằm, còn một con đang rứt những cuộng cỏ non màu lục nhạt. Cả hai nom vô cùng mệt nhọc như vừa trải qua một chặng đường dài. Những ánh sáng ban ngày đã xua tan sự sợ hãi trong tim chúng, chúng đón chào Xtas bằng một tiếng hí ngắn đầy thân ái. Con ngựa đang nằm vùng đứng dậy, và Xtas thấy rằng cả con này nữa cũng đã thoát khỏi dây buộc chân và may thay, hẳn là nó thà ở lại với bạn hơn chạy tháo thân.

Xtas để cả hai dưới chân tảng đá và leo lên bờ khe nhìn xem còn có thể đi tiếp theo lòng khe được hay không. Em thấy rằng, do có độ dốc lớn nên nước đã thoát đi hết và lòng khe gần như khô ráo. Một lát sau, em chợt chú ý tới một vật gì trăng trắng mắc vào một dây leo rủ trên vách đá phía đối diện.Hóa ra đó là cái nóc lều bị gió cuốn tới tận đây và vướng chặt vào cây nên nước không cuốn đi được.Dù sao, mái lều vẫn cho Nen được chỗ trú thân tốt hơn là một túp lều lợp vội bằng cành cây, nên việc tìm thấy cái mái lều bị mất này khiến cho Xtas rất vui sướng.

Niềm vui của cậu bé còn tăng lên hơn nữa, khi từ một tảng đá thấp ẩn kín phía sau và cao hơn các dây leo một ít, con chó Xa-ba nhảy xổ ra, mồm cắn một con thú gì đấy, mõm và đuôi của con thú này vắt vẻo hai bên mõm con chó. Trong nháy mắt con chó khổng lồ đã trèo lên cao và đặt dưới chân Xtas một con linh cẩu lông vằn với cái lưng vỡ nát và một chân bị gặm dở, rồi ve vẩy đuôi và vui vẻ sủa váng lên, như muốn nói: “Tôi xin thừa nhận là đã hèn nhát trước các ông sư tử, quả có như vậy, vì các người cũng phải leo lên cây như lũ chim pen-tác-ca kia mà! Nhưng hãy trông đây, tôi cũng không đến nỗi để đêm qua bị phí hoài đâu!”.

Và nó tự hào đến nỗi Xtas phải vất vả mới bảo nó bỏ con vật hôi thối lại chỗ đó chứ không mang về làm quà cho Nen.

Khi cả hai quay về, một đống lửa lớn đã được đốt lên trong trại, nồi nước đang sôi sùng sục, trong đó đang ninh ngô, hai con chim pen-tac-ca và những miếng thịt thăn linh dương. Nen đã được thay quần áo khô, nhưng trông cô bé nhợt nhạt và thảm thương đến nỗi Xtas lo sợ cầm tay cô để xem xem liệu cô bé có bị sốt hay không rồi hỏi:

- Nen, em làm sao thế?

- Không sao cả, anh Xtas, em chỉ buồn ngủ thôi.

- Hẳn rồi. Sau một đêm như thế kia mà. Ơn Chúa, tay em vẫn mát. Ôi, thật là một đêm ra đêm! Tất nhiên là em buồn ngủ, cả anh cũng thế! Nhưng em có cảm thấy ốm không?

- Đầu em hơi nhức. Xtas đặt tay lên trán cô bé. Trán Nen cũng lạnh như tay, nhưng chính đó lại là biểu hiện của sự kiệt sức và suy yếu, cậu bé thở dài bảo:

- Em hãy ăn một chút gì nong nóng, rồi sau đó đi nằm ngay và phải ngủ cho tới chiều. Hôm nay ít nhất thì thời tiết cũng rất đẹp và sẽ không như hôm qua đâu.

Nen nhìn em vẻ sợ hãi.

- Nhưng ta sẽ không trú đêm lại đây chứ anh?

- Không, vì có mấy cái xác ngựa bị gặm dở nằm đây; chúng ta sẽ chọn một cái cây nào khác, hoặc sẽ đi vào khe núi; ở đó ta sẽ dựng hàng rào, một cái hàng rào mà thế giới chưa từng được biết đến. Em sẽ được ngủ yên giấc như hồi ở Port Xai-đơ vậy.

Nhưng cô bé đã chắp tay và ứa lệ xin hãy đi tiếp, vì ở cái chỗ kinh khủng này, cô không sao chợp mắt nổi và sẽ ốm mất thôi. Và cô bé vừa xin, vừa nhìn vào mắt em mà lặp đi lặp lại: “Được không, anh Xtas, được không anh?” khiến cậu bé có thể đồng ý với tất cả mọi chuyện.

- Thế thì chúng ta hãy đi theo khe núi, - em nói - vì trong khe có bóng mát. Nhưng em phải hứa với anh là nếu như em mệt hay kiệt sức thì phải bảo anh ngay nhé.

- Em sẽ không thiếu sức đâu, không thiếu đâu! Anh cứ buộc em vào yên và dọc đường em có thể ngủ say thôi mà.

- Không. Anh sẽ cưỡi cùng một con ngựa với em và sẽ giữ lấy em. Ca-li và Mê-a sẽ cưỡi con ngựa kia, còn con lừa sẽ chở cái lều.

- Hay lắm! Hay lắm!

- Ngay sau bữa sáng em phải ngủ đi một lát. Dù sao chúng mình cũng không thể lên đường trước buổi trưa, bởi còn nhiều việc lắm. Phải bắt lũ ngựa lại, cuốn lều, làm lại các gùi hàng. Chúng mình phải để bớt lại một số đồ đạc, vì chỉ còn vẻn vẹn có hai con ngựa thôi. Ít ra cũng phải mất vài tiếng đồng hồ đấy, em cứ ngủ đi một chút để thêm sức. Hôm nay trời nóng, nhưng dưới tán cây không thiếu bóng mát đâu.

- Thế còn anh, Mê-a và Ca-li? Em rất buồn là chỉ mỗi mình em được ngủ trong khi tất cả phải lao động mệt nhoài...

- Bọn anh rồi cũng có thì giờ. Đừng lo cho anh. Hồi ở Port Xai-đơ, vào kì thi, anh thường không ngủ hàng đêm liền, thậm chí đến cha anh cũng chẳng biết chuyện đó đâu... Bọn bạn anh cũng không ngủ. Nhưng đó là cánh nam giới, chứ không phải một con ruồi nhỏ bé như em. Em không biết hôm nay trông em ra sao đâu... cứ như bằng thủy tinh ấy! Chỉ còn lại có đôi mắt với mái tóc thôi, còn mặt thì chẳng thấy đâu cả.

Xtas nói đùa, nhưng trong lòng thầm lo sợ, vì trong ánh sáng ban ngày khuôn mặt Nen rõ ràng là mặt của một người ốm, và lần đầu tiên em hiểu rõ, nếu cứ như thế này tiếp diễn mãi thì đứa trẻ tội nghiệp kia không những chỉ có thế mà nhất định phải chết.

Nghĩ tới điều đó hai chân em run lên, vì em bỗng cảm thấy, nếu cô bé chết, thì em cũng chẳng còn thiết sống làm gì nữa, chẳng còn quay về Port Xai-đơ làm gì nữa.

“Vì lúc ấy mình biết làm gì nữa cơ chứ?” - Em nghĩ thầm.

Em quay mặt đi một lúc để Nen không nhận thấy tình thương và sự lo sợ trong ánh mắt em, rồi sau đó em bước tới chỗ những thứ đồ đạc đặt dưới gốc cây, bỏ tấm vải bọc hộp đựng đạn, mở hộp đạn và bắt đầu tìm kiếm cái gì trong đó.

Trong hộp ấy, em cất viên thuốc kí ninh cuối cùng trong một cái lọ thủy tinh nhỏ và giữ gìn viên thuốc như giữ gìn con ngươi mắt, đó là viên thuốc dùng cho “giờ phút đen tối”, nghĩa là trường hợp Nen bị sốt rét. Nhưng giờ đây em gần như chắc chắn rằng, sau một đêm như thế, cơn sốt đầu tiên sẽ tới ngay, nên em quyết định phải phòng ngừa cơn sốt ấy. Lòng em nặng nề khi quyết định như thế, vì nghĩ tới những gì sẽ xảy ra trong tương lai, và giá như không phải là đàn ông đồng thời là thủ lĩnh của cả đoàn - những người không được khóc em đã khóc òa lên vì viên thuốc cuối cùng này rồi.

Muốn che giấu xúc động em bèn lấy vẻ mặt cực kì nghiêm nghị quay lại phía cô bé bảo:

- Nen, trước khi ăn, em hãy uống hết chỗ kí ninh còn lại nhé.

Cô lại hỏi:

- Thế nếu anh bị sốt rét, thì sao?

- Thì anh sẽ run chứ sao? Uống đi, anh bảo phải nghe!

Cô bé uống, không phản đối nữa, vì kể từ khi em giết mấy tên Xu-đan, cô bé đâm ra hơi sờ sợ em, mặc dù em đã hết sức cố gắng chăm sóc cô bé và biểu lộ lòng tốt với cô. Thế rồi bọn trẻ ngồi ăn sáng; sau một đêm mệt mỏi, xúp thịt chim pen-tác-ca nóng khiến chúng rấ t ngon miệng. Ngay sau bữa ăn, Nen thiếp đi và ngủ được mấy tiếng đồng hồ. Trong thời gian đó, Xtas, Ca-li và Mê-a chuẩn bị lên đường, mang tấm nóc lều về và chôn lại dưới gốc cây na-băc những thứ mà chúng không thể mang theo. Trong khi làm việc chúng buồn ngủ díp mắt lại, nhưng Xtas chỉ cho phép mình và hai bạn chợp mắt những giấc ngắn vì sợ rằng mệt quá sẽ ngủ thiếp đi.

Chừng hai giờ chiều chúng lên đường. Xtas giữ Nen ngồi phía trước, Ca-li cùng Mê-a trên con ngựa thứ hai. Nhưng chúng không đi ngay vào khe núi mà đi dọc theo bờ khe và rừng. Rừng non chỉ trong một đêm mưa đã mọc lên tươi tốt trông thấy, song nền đất hãy còn mang màu đen và những dấu vết của lửa. Dễ dàng đoán ra: hoặc là Xmai-nơ cùng với toán quân của y đã đi ngang qua đây, hoặc là đám cháy mà gió mang từ xa lại đã tràn qua khu rừng khô nỏ cho tới lúc gặp khu rừng ẩm ướt này chắn ngang, nó chỉ tạo thành một vệt không rộng lắm giữa rừng và khe núi để lan tiếp. Xtas muốn kiểm tra xem trên vệt chá y này có dấu vết gì của những lần hạ trại của Xmainơ, hoặc vết móng ngựa hay không, và em hài lòng thấy rằng không hề có dấu vết gì cả. Cali, người vốn thành thạo chuyện đó, khẳng định chắc chắn rằng lửa này do gió mang tới và từ đó đến nay đã hơn mươi ngày rồi.

- Điều đó chứng minh là - Xtas nhận xét, - gã Xmai-nơ và quân lính của gã hiện đang ở đâu chẳng ai biết, và dù sao đi nữa mình cũng sẽ không rơi vào tay chúng.

Rồi cùng với Nen, Xtas bắt đầu tò mò ngắm nhìn các loài cây cỏ, từ trước tới nay chúng chưa khi nào được đi sát gần một khu rừng nhiệt đới đến thế.

Lúc này chúng đang đi theo bìa rừng để lấy bóng mát của rừng. Đất ở đây ẩm ướt và mềm mại, mọc đầy cỏ màu xanh đậm, rêu và dương xỉ. Đây đó có những thân cây mục ruỗng màu xám, phủ đầy những cây lan củ, trông giống như một tấm thảm thêu, với những bông hoa sặc sỡ như những cánh bướm và một cái núm cũng sặc sỡ giữa đài hoa. Nơi nào ánh nắng mặt trời chiếu tới, ở đó mặt đất lại vàng rực bởi những loài lan kì lạ khác, nhỏ bé, màu vàng, trong đó hai hoa vươn lên cao, cạnh cánh thứ ba, trông giống như đầu một loài nào đó có những cái tai to dài nhọn hoắt. Một đôi nơi rừng được trang điểm bởi những bụi nhài dại, kết thành những tràng hoa gồm những dây mỏng mảnh nở hoa hồng hồng. Các khe và hõm cạn mọc dày đặc cây dương xỉ thành một búi rậm không thể nào vượt qua nổi: cây thì thấp và xòe rộng, cây lại cao, thân cuốn thành cuộn, vươn mã i tới sát tận những cành cây thấp và xòe ra thành một cái đài màu xanh dịu dàng. Trong sâu, rừng không chỉ thuần một loại cây: có cây chà là, cọ sợi, cọ xòe quạt, sung Ai Cập, mít, xương khô, những loài cây cúc bạc khổng lồ, cây xiêm gai, cây có lá màu sẫm và sáng lóng lánh, cây lá màu nhạt hoặc màu đỏ như máu, mọc cạnh nhau thân sát thân, cành giao cành, trên đó xòe ra những bông hoa vàng và đỏ sậm, trông như những giá cắm nến. Một vài khoảng rừng hoàn toàn không hề có cây gỗ nào mọc, vì từ dưới đất lên trên cao là những loại dây leo phủ dầy, giằng giữa thân cây này với thân khác, tạo nên những đường dích dắc giống chữ M hay chữ W, trở thành những tràng hoa lá, những tấm rèm nhỏ và lớn. Dây cao su họ trúc đào kết thành hàng ngàn vòng hình rắn lượn hầu như bóp chết nghẹt những cây gỗ và biến chúng thành những kim tự tháp phủ đầy hoa trắng như tuyết.

Xung quanh những dây leo lớn lại có các dây leo nhỏ hơn quấn quanh và sự chồng chất này quả thực là kinh khủng, tạo nên những bức tường không một con người hay loài vật nào có thể xuyên qua nổi. Chỉ có những chỗ mà voi đã phá thủng với sức của loài vật này thì không gì cản nổi những “bức tường” đó mới thông với rừng sâu, tạo nên những hành lang sâu thẳm và khuất khúc.

Hoàn toàn không nghe thấy tiếng chim hót, những tiếng chim làm tăng vẻ kiều diễm của những khu rừng thưa châu Âu, ngược lại trên các ngọn cây lại vang lên những tiếng kêu kì lạ nhất, khi thì nghe như tiếng cưa rít, khi như tiếng gõ thùng, khi lại như tiếng cò kêu, như tiếng cọt kẹt của những chiếc cửa cũ kĩ, như tiếng vỗ tay, tiếng mèo kêu meo meo, thậm chí như tiếng trò chuyện to tiếng và khích động của con người nữa. Đôi khi, từ trên ngọn cây bay vụt lên những đàn vẹt xám, vẹt xanh, vẹt trắng và hàng đàn chim tu-can lông sặc sỡ màu sắc, với những dây cao su đôi khi ẩn hiện - giống như những bóng ma rừng - những con khỉ yếm trắng, cả người đen tuyền trừ cái đuôi trắng và những dải màu trắng cạnh sườn, cùng những dải như thế bao quanh khuôn mặt đen như than.

Bọn trẻ kinh ngạc nhìn ngắm khu rừng nguyên sinh này, khu rừng rất có thể chưa từng có cặp mắt người da trắng nào được trông thấy. Chốc chốc, con Xa-ba lại lặn vào rừng, từ trong đó vọng ra tiếng sủa vui vẻ của nó. Liều thuốc kí ninh, bữa ăn sáng và việc nghỉ ngơi đã khiến Nen hồ i phục. Khuôn mặt cô bé sinh động hẳn lên và nhuốm phơn phớt những sắc hồng thoang thoảng, đôi mắt nhìn vui hơn. Lát lát cô bé lại hỏi Xtas về tên những loài cây cối hoặc chim chóc, cậu bé trả lời theo sự hiểu biết của cậu. Cuối cùng cô bé nói rằng muốn xuống ngựa để hái thật nhiều hoa.

Song cậu bé mỉm cười và đáp:

- Thế thì lũ si-a-phu sẽ chén thịt em trong nháy mắt.

- S-ia-phu là giống gì, anh? Nó còn tệ hơn sư tử kia à?

- Vừa tệ hơn vừa không tệ bằng. Đó là một loại kiến bọ nhọt rất to. chúng bò đầy trên các cành cây, từ đó, chúng rơi xuống lưng người như một cơn mưa lửa. Nhưng chúng cũng bò cả trên đất nữa. Em cứ thử tụt xuống ngựa và đi vào rừng một tí mà xem, chắc chắn em sẽ nhảy cẫng lên và kêu la như một con khỉ con vậy.

Thậm chí đối với sư tử còn dễ tự vệ hơn. Đôi khi giống kiến này đi thành những dòng khổng lồ và khi đó mọi vật đều phải nhường đường cho chúng.

- Nhưng anh trị được chúng nó chứ ?

- Anh ấy à? Đương nhiên rồi.

- Trị thế nào cơ?

- Dùng lửa hoặc nước sôi.

- Anh khi nào cũng biết cách đối phó, - cô bé nói đầy tin tưởng.

Những lời đó khiến Xtas rất khoái chí, nó bèn đáp lại vẻ tự kiêu nhưng cũng vừa đùa vui:

- Chỉ cần em khỏe thôi, còn ngoài ra mọi sự có thể tin ở anh.

- Đầu em hết cả đau rồi đây này.

- Ơn Chúa, ơn Chúa!

Vừa trò chuyện như thế, chúng vừa đi hết khu rừng, khu rừng này chỉ giáp với khe núi có một bìa rừng mà thôi. Mặt trời đã lên cao hơn và thiêu đốt gay gắt, vì thời tiết thật là tuyệt diệu và vòm trời không một bóng mây. Lũ ngựa ướt đẫm mồ hôi, còn Nen thì mỗi lúc một phàn nàn về thời tiết nóng nực. Vì thế, Xtas tìm một chỗ thích hợp để rẽ vào khe núi, trong đó, vách đá phía Tây trải bóng mát che kín. Trong khe mát hơn, và nước mưa còn lại trong các chỗ trũng sau cơn mưa rào hôm qua cũng mát mẻ hơn.

Trên đầu những khách bộ hành trẻ tuổi này, những con chim tu-can, với cái đầu đỏ thắm, bộ ngực màu xanh và những chiếc cánh màu vàng rực rỡ cứ bay hoài từ vách đá này sang vách đá khác, nên cậu bé bèn kể cho Nen nghe những điều mình biết về tập quán sinh sống của loài chim này mà cậu đọc được trong sách.

- Em biết không, cậu nói, - có những con tu-can trong kì sinh sản đi tìm những hốc cây, con mái đẻ trứng và nằm ấp, còn con trống thì lấy đất sét bịt kín hốc cây lại, chỉ còn một lỗ đủ trông thấy đầu con mái; cho tới khi những con chim con nở hết, nó mới dùng cái mỏ to tướng của mình phá vỡ lớp đất sét để giải phóng con mái.

- Thế trong thời gian ấy con chim mái ăn gì?

- Con trống sẽ nuôi con mái. Nó cứ bay liên tục xung quanh và mang về cho con mái đủ các thứ quả khác nhau.

- Thế nó có để con mái được ngủ không? - Cô bé hỏi giọng ngái ngủ ? Xtas mỉm cười.

- Nếu quý bà chim tu-can cũng buồn ngủ như em lúc này, đương nhiên là ông chồng cho phép bà ta ngủ thôi.

Quả tình, trong khe núi mát mẻ, cô bé buồn ngủ không cưỡng nổi, vì từ sáng tới giờ cô bé được nghỉ quá ít. Xtas cũng rất muốn được ngủ theo nhưng nó không thể ngủ vì còn phải giữ cô bé, sợ cô bé bị rơi xuống ngựa, thêm vào đó việc ngồi theo kiểu đàn ông trên cái yên vừa phẳng vừa rộng - cái yên mà ông Ha-tim cùng với Xe-ki Ta-ma-la đã làm riêng cho cô bé hồi còn ở Pha-sô-đa khiến em rất khó chịu. Tuy thế, cậu bé không dám nhúc nhích và cho ngựa đi thật chậm để khỏi đánh thức cô bé.

Còn cô bé thì ngả người về phía sau, tựa đầu vào vai Xtas ngủ ngon lành.

Cô bé thở đều đặn và bình thản đến nỗi Xtas thôi không còn tiếc viên kí ninh cuối cùng nữa. Vừa lắng nghe nhịp thở của cô bé em vừa cảm thấy rằng nỗi nguy của cơn bệnh sốt rét tạm thời bị đẩy lùi, nghĩ mông lung: “Khe núi càng ngày càng dẫn lên cao, thậm chí khá dốc lên nữa. Mỗi lúc chúng ta lên một cao và khí hậu càng trở nên khô ráo. Chỉ cần kiếm được một chỗ cao ráo, kín đáo, bên cạnh một con nước xiết để nghỉ ngơi, cho cô bé nghỉ mấy tuần, thậm chí có thể nghỉ qua cả mùa mưa xuân ma-xi-ca cũng được.

Nhiều đứa bé gái hẳn là sẽ không chịu đựng nổi một phần mười những gian khổ như thế, cô bé cần phải được nghỉ ngơi. Sau cái đêm như hôm qua, đứa khác hẳn đã bị lên cơn sốt ngay lập tức, còn cô bé thì lại ngủ say chưa kìa. Ơn Chúa!”.

Những ý nghĩ ấy khiến em rất vui và nhìn xuống mái đầu của Nen đang tựa vào ngực mình, em tự nhủ thầm, vừa vui vui pha đôi chút ngạc nhiên:

“Điều đặc biệt là mình lại yêu mến cái con ruồi nhỏ này đến thế kia chứ! Quả thực là từ trước đến nay bao giờ mình cũng vẫn mến cô bé, nhưng giờ đây thì ngày càng yêu mến nó hơn”.

Và vì không biết lí giải cho bản thân thế nào về những tình cảm ấy, em rơi vào giả thuyết sau:

“Chắc hẳn là vì cả hai đứa đã cùng trải qua biết bao chuyện mà cô bé thì lại thuộc nhiệm vụ mình phải chăm lo”.

Trong lúc ấy, tay phải cậu bé rất thận trọng giữ lấy thắt lưng của “con ruồi nhỏ” để nó khỏi tụt xuống khỏi yên và khỏi bị dập mất mũi. Bọn trẻ nối nhau đi trong yên lặng, chỉ riêng mình Ca-li khe khẽ ngâm nga những lời ca ngợi Xtas:

- Ông lớn giết chết Ghe-bơ-rơ, giết sư tử, giết cả trâu rừng.

Yah! Ông lớn còn sẽ giết nhiều sư tử nữa. Yah! Nhiều nhiều thịt!

Yah! Yah!...

- Này Ca-li, - Xtas khẽ hỏi, - người Va-hi-ma có săn sử tử không?

- Người Va-hi-ma sợ sư tử, nhưng người Va-hi-ma đào những cái hố sâu, và nếu như ban đêm sư tử sụp xuống hố đó, thì người Va-hi-ma bèn cất tiếng cười.

- Khi đó các cậu sẽ làm gì?

- Người Va-hi-ma phóng thật nhiều ngọn lao, đến khi sư tử trông giống như con nhím. Khi đó họ kéo nó lên khỏi hố và ăn thịt.

Thịt sư tử ngon lắm.

Và theo tập quán của mình, nó lại xoa xoa bụng.

Cách săn thú này không thật khiến Xtas thú vị nên em bắt đầu hỏi thêm có những loài thú nào có trên lãnh thổ của người Va-hi-ma, và chúng trò chuyện với nhau về những con linh dương, đà điểu, hươu cao cổ và lũ tê giác cho đến khi chúng thoảng nghe thấy tiếng thác nước reo.

- Cái gì thế? Xtas kêu lên. - Có phải trước mặt chúng ta là một con sông và có thác nước chăng? Ca-li gật đầu ra hiệu rằng chắc là thế đấy. Chúng bước những bước dài hơn và lắng nghe tiếng nước réo, tiếng nước mỗi lúc một rõ hơn.

- Thác thật rồi! - Xtas thú vị thốt lên.

Song, vừa vượt qua một rồi hai chỗ ngoặt thì một chướng ngại vật không thể vượt qua nổi đã chắn ngang đường đi của chúng.

Lúc này, Nen - vốn được bước chân ngựa ru ngủ - cũng tỉnh dậy.

- Ta đã tới chỗ trú đêm rồi ư, anh? - Cô bé hỏi.

- Chưa, nhưng em nhìn này! - Xtas đáp - Một khối đá đã bịt kín khe núi.

- Làm sao bây giờ?

- Không thể đi len qua bên cạnh được vì quá chật, nên có lẽ phải quay ngược lại một đoạn, trèo lên bờ khe mà đi vòng qua thôi.

Song cũng còn chừng hai tiếng đồng hồ nữa mới tối nên chúng ta hẵng còn thời giờ. Cứ để cho lũ ngựa nghỉ xả hơi chút đã. Em có nghe tiếng thác không?

- Có.

- Chúng mình sẽ dừng lại nghỉ đêm bên cái thác này.

Rồi quay sang Ca-li, cậu bé bảo nó leo lên bờ khe núi trông xem ở đoạn tiếp theo đáy khe có bị những chướng ngại vật tương tự chắn ngang hay không, còn tự mình, cậu chăm chú quan sát khối đá, và lát sau reo lên:

- Nó bị tách ra và lăn xuống cách đây chưa lâu đâu. Em thấy không Nen, vệt tách này này? Nhìn này, nó hãy còn mới lắm. Trên mặt đá không hề có một chút rêu cỏ nào. Anh hiểu ra rồi, anh hiểu rồi!

Cậu bé đưa tay trỏ cho Nen thấy một cái cây bao báp mọc trên bờ khe, một cái rễ to tướng của cây này rủ lơ lửng trên vách đá dọc theo vết đứt gãy.

- Chính cái rễ kia kìa đã chọc sâu vào giữa vách đá và tảng đá này cứ lớn lên mãi và cuối cùng khiến cho khối đá tách ra.

Chuyện này thật thú vị, vì đá vốn cứng hơn gỗ, nhưng anh biết rằng, trong núi đấy là chuyện thường tình. Sau đó, chỉ cần bất cứ một cái gì chạm vào tảng đá đang lắt leo ấy là nó liền tách hẳn ra.

- Nhưng cái gì có thể tách hẳn ra.

- Cũng khó mà nói được. Có thể là cơn dông hôm qua.

Chính vào lúc đó, con chó Xa-ba - lúc trước vẫn chạy phía sau bọn trẻ - bỗng chạy tới, đứng dừng lại đột ngột như bị ai cầm lôi lại, đánh hơi, rồi ép người len qua cái lối đi chật hẹp giữa vách đá và tảng đá bị tách ra, nhưng ngay lập tức nó lùi ngay trở lại, lông xù cả lên.

Xtas xuống ngựa để xem cái gì đã khiến con chó sợ hãi đến thế.

- Anh Xtas, đừng đi vào đó, - Nen khẩn khoản, - có thể có sư tử ở trong ấy đấy!

Cậu bé, vừa tự phụ, vừa rất căm bọn sư tử sau đêm hôm trước, bèn nói:

- Sư tử ban ngày thì mùi gì.

Nhưng trước khi nó kịp bước lại gần khe hở thì từ trên cao đã vang lên tiếng kêu của Ca-li:

- Ông lớn! Ông lớn ơi!

- Cái gì thế? - Xtas hỏi.

Trong nháy mắt cậu bé da đen đã tụt theo dây leo xuống. Cứ trông nét mặt cũng có thể đoán ra là nó mang lại một tin gì đó quan trọng.

- Voi! - Nó kêu lên - Voi à?

- Vâng! - Cậu bé da đen vừa đáp vừa vung vung tay chỉ trỏ. - Kia là con nước gầm, còn đây là tảng đá. Voi không thể qua được.

Ông lớn giết voi để Ca-li ăn thịt, ôi, ăn thịt, ăn thịt!

Ý nghĩ ấy khiến nó vui sướng đến nỗi nó bắt đầu nhảy nhót, vỗ tay đen đét vào đầu gối và cười như điên dại, mắt đảo lia lịa, phô hàm răng trắng nhởn.

Xtas không hiểu ngay ra vì sao Ca-li lại bảo rằng voi không thể thoát ra khỏi khe núi, và muốn xem xem có chuyện gì xảy ra, cậu bèn lên ngựa, giao Nen lại cho Mê-a trông, để khi cần có thể nổ súng mà không bận tay, ra lệnh cho Ca-li ngồi sau lưng, rồi cả bọn quay ngược trở lại tìm chỗ có thể leo lên bờ khe. Dọc đường Xtas hỏi lại xem con voi làm sao lại rơi vào chỗ mà nó đang mắc kẹt, và qua những câu trả lời của Ca-li em ít nhiều hiểu được chuyện xảy ra thế nào.

Hẳn là con voi đã chạy theo khe núi trong một vụ cháy rừng nào đó để tránh lửa. Dọc đường nó động mạnh vào một khối đá cheo leo trên lưng chừng khe khiến cho khối đá lăn xuống chặn mất đường lui của nó. Sau đó, nó chạy tới bờ vực thẳm, nơi con sông đổ xuống, và thế là nó bị giam không lối thoát.

Một lát sau, những người bộ hành trẻ tuổi tìm thấy lối lên nhưng khá dốc nên chúng phải xuống ngựa và dắt ngựa theo sau.

Và vì rằng, theo lời cậu bé da đen thì sông rất gần đấy chúng bèn tiếp tục đi bộ tới đấy. Cuối cùng tới một mũi đất, một phía bị giới hạn bởi sông, phía kia bởi khe núi, và trông xuống phía dưới, chúng nhìn thấy một con voi đang ở trong thung lũng.

Con vật khổng lồ đang nằm phủ phục, và Xtas ngạc nhiên xiết bao, vì khi trông thấy chúng, con voi không hề nhổm dậy, chỉ tới khi con Xa-ba len ra sát tận mép vực sủa lên dai dẳng, thì voi ta mới động đậy hai cái tai khổng lồ một chút và giơ vòi lên, nhưng rồi lại thả xuống ngay.

Tay cầm tay, bọn trẻ im lặng ngắm con voi cho đến lúc Ca-li phá vỡ sự im lặng đó:

- Nó đang chết đói đây! - Cậu bé kêu lên.

Quả thực, con voi gầy đến nỗi sống lưng nó nhô cả lên như một chiếc lược, hai sườn nó hõm sâu vào, và mặc dù có da dày, song trông rõ dưới da là những chiếc xương sườn. Dễ dàng có thể đoán ra rằng, nó không đứng dậy vì không còn đủ sức nữa.

Khe núi, vốn khá rộng ở chỗ đổ ra, đã biến thành một cái lòng thung hai đầu bị chặn bởi hai vách đá dựng đứng, lòng thung mọc mấy cây gỗ. Những cây này đều gãy vỏ, vỏ chúng bị lột từng mảng, trên cành không còn một chiếc lá nào. Những dây leo trên vách đá cũng bị lôi tuột xuống và bị chén sạch, trong thung, cỏ bị nhổ đến cuộng cuối cùng.

Nhìn kĩ địa thế, Xtas chia xẻ với Nen những điều nhận định của mình, song dưới ấn tượng về cái chết không thể tránh khỏi của con vật khổng lồ, em nói rất khẽ, dường như sợ làm xáo động những giây sống cuối cùng của con vật.

- Phải, nó đang chết đói. Nó ở đây phải đến hai tuần rồi, nghĩa là kể từ khi đám cháy thiêu trụi khu rừng cũ. Nó đã ăn hết sạch mọi thứ có thể ăn được, còn giờ đây thì nó đang ngắc ngoải, mà đáng buồn hơn vì phía trên này lại có mít mọc, cùng những cây xiêm gai sum xuê, nó trông thấy đấy mà không sao có thể với tới được.

Bọn trẻ nhìn con vật một hồi lâu nữa, con voi cũng đưa mắt - đôi mắt nhỏ bé đang tắt dần - nhìn bọn trẻ, và một thứ tiếng gì đó gần giống như tiếng gừ gừ thoát ra từ cổ họng nó.

- Quả tình - cậu bé nói, - tốt hơn cả là nên rút ngắn cho nó bớt nỗi đau khổ này đi thôi.

Nói thế xong, em nâng khẩu súng lên ngang mặt, nhưng Nen đã túm lấy cái áo ngoài của em và tì chặt hai chân nhỏ bé của mình, cô bé dùng hết sức kéo em ra xa bờ khe núi.

- Anh Xtas, đừng làm thế! Anh Xtas, chúng mình cho nó ăn đi, anh! Trông nó tội nghiệp thế kia cơ mà! Em không muốn anh giết nó, không muốn, không muốn!

Giậm giậm hai bàn chân, cô bé cứ co kéo mãi, còn cậu bé thì kinh ngạc nhìn cô bé, nhưng khi trông thấy đôi mắt đẫm lệ của cô bé, cậu liền bảo:

- Nhưng mà Nen...

- Em không muốn! Không cho giết nó! Em sẽ bị lên cơn sốt ngay lập tức nếu anh giết chết nó!...

Chỉ cần có một lời dọa ấy thôi cũng khiến cho Xtas từ bỏ ý định giết chóc của mình - đối với riêng con voi ở trước mặt bọn trẻ cũng như đối với tất cả những con voi khác trên thế giới. Cậu im lặng một lúc không biết nên nói với cô bé thế nào, sau đó bảo:

- Thôi, được rồi, được rồi!... Anh bảo em, Nen, được rồi! Bỏ anh ra nào!

Nen liền ôm chặt lấy cậu bé và một ánh cười thoáng qua trong đôi mắt rưng rưng của cô. Bây giờ cô bé chỉ lo sao cho con voi có cái ăn thật nhanh. Ca-li và Mê-a ngạc nhiên vô cùng khi được biết rằng, không những “ông lớn” bvana kubva không giết con voi, mà hai đứa còn phải nhanh chóng hái mít và chặt lá cây xiêm gai cùng đủ mọi loại cây cỏ và lá lủng khác, thật nhiều, càng nhiều càng tốt, cho con voi ăn. Thanh gươm Xu-đan của tên Ghe-bơ-rơ thật có ích đối với Ca-li trong công việc ấy, nhưng không muốn chờ cho công việc này kết thúc, mà ngay khi quả mít đầu tiên vừa rơi xuống, cô bé liền ôm lấy trong vòng tay và mang tới bên bờ khe núi, vừa mang vừa lặp đi lặp lại láu táu, dường như sợ ai đó sẽ không chịu giao việc này cho cô:

- Em, em, em làm cơ!

Xtas hoàn toàn không có ý định cướp mất của cô bé niềm sung sướng này, cậu chỉ lo là do quá nhiệt tình cô bé có thể lao cả bản thân mình xuống cùng với quả mít chăng, nên cậu bèn tóm lấy thắt lưng cô bé và kêu lên:

- Ném!

Quả mít to tướng lăn theo sườn dốc rơi xuống chân con voi, chỉ trong nháy mắt, con vật đã vươn vòi túm lấy quả mít, rồi cuộn vòi lại như muốn đặt quả mít xuống dưới cổ - và bọn trẻ chỉ kịp nhìn thấy quả mít đến thế là hết.

- Nó nuốt chửng rồi! - Nen vui sướng kêu lên.

- Anh cũng đoán thế mà ! - Xtas vừa cười vừa đáp.

Còn con voi thì vươn vòi về phía nó như muốn xin thêm và cất giọng trầm hùng kêu lên:

- Hrrum!

- Nó muốn xin nữa đấy!

- Anh cũng đoán thế ! - Xtas lặp lại.

Quả mít thứ hai đi theo vết quả thứ nhất và cũng mất hút trong nháy mắt như quả trước, tiếp đó là quả thứ ba, thứ tư, thứ mười rồi sau đó từng chùm ngọn cây xiêm gai, từng bó cỏ và những bó lá lớn bắt đầu tới tấp bay xuống. Nen không để cho ai thay thế, khi tay đã quá mỏi vì công việc, cô bé dùng chân đẩy xuống mỗi lúc một nhiều thức ăn mới, còn voi ta thì cứ chén tuốt, thỉnh thoảng lại vươn cái vòi lên kêu một tiếng “hrrum” ra dấu đòi nhiều thêm nữa, và theo Nen thì đó là nó nói “cảm ơn” Cuối cùng, Ca-li và Mê-a mệt nhoài vì việc tiếp tế lương thực này, công việc mà chúng làm rất nhiệt tình nhưng với hi vọng rằng “ông lớn” trước tiên muốn vỗ béo cho voi rồi sau đó mới giết thịt.

Mãi sau, “ông lớn” mới ra lệnh cho chú ng ngừng việc vì mặt trời đã xuống quá thấp rồi và đã tới lúc phải dựng hàng rào gai. May thay, việc đó không khó khăn gì lắm, vì hai cạnh của doi đất hình tam giác là những phía không thể tấn công được, chỉ cần chặn hàng rào ở cạnh thứ ba mà thôi. Mà cây xiêm gai với những chiếc gai ác hiểm thì lại không thiếu.

Nen không rời khỏi khe núi một bước. Ngồi xổm trên bờ khe, cô bé thông báo từ xa cho Xtas biết con voi đang làm gì, và chốc chốc giọng thanh thanh của cô bé lại vang lên:

- Nó đang dùng vòi sờ chung quanh mình!

Hoặc là:

- Nó vẫy tai. Cái tai nó to chưa kìa!

Rồi sau nữa:

- Anh Xtas! Anh Xtas! Nó đứng dậy rồi này! Ối!

Xtas nhanh nhẹn lao tới nắm chặt lấy tay Nen. Quả thực con voi đã đứng dậy và mãi tới lúc này bọn trẻ mới có thể thấy hết được sự đồ sộ của nó. Trước kia, chúng nó đã mấy lần được trông thấy những con voi to lớn được chở từ Ấn Độ sang châu Âu qua kênh Xuê, nhưng không có con voi nào có thể sánh được với con vật khổng lồ này, con vật trông như một khối đá màu khó tả đi trên bốn chân. Nó khác những con voi khác bởi cặp ngà phi thường, dài tới năm bộ hoặc hơn nữa, và đôi tai, mà như Nen lưu ý - trông thật là thần thoại. Hai chân trước của nó cao hơn nhưng lại khá mảnh khảnh, hẳn là do nó vừa phải trải qua một cuộc nhịn ăn nhiều ngày ròng rã.

- Trông nhỏ bé chưa kìa! - Xtas kêu lên - Nếu nó vươn người lên và rướn vòi thật lực thì nó có thể tóm được chân em đấy.

Nhưng “chàng” khổng lồ không hề nghĩ tới việc leo lên hay tóm lấy chân ai cả. Bằng bước đi chuệnh choạng nó bước tới gần họng khe núi nhìn một lúc xuống vực, nơi nước đang sủi lên sôi sục rồi quay trở lại vách đá nằm gần thác nước hơn, đưa vòi nhúng xuống nước thật sâu và bắt đầu uống.

- May cho nó - Xtas bảo - là vòi có thể chạm tới nước, nếu không nó đã chết rồi. Con voi uống nước lâu lắm, đến nỗi cô bé phát lo.

- Anh Xtas này, nó uống thế có hại gì không anh? - Cô bé hỏi.

- Anh không rõ, - cậu bé cười cười đáp lại, nhưng nếu em đã cưu mang nó thì em phải bảo nó đi chứ.

Thế là Nen cúi mình xuống bờ vự c gào lên:

- Thôi đi, voi thân yêu ơi, đủ rồi đấy!

Và “chàng” voi thân yêu, dường như hiểu cô bé muốn gì, liền thôi uống và bắt đầu dùng vòi phun nước lên mình, đầu tiên là chân, sau tới lưng rồi hai bên sườn.

Lúc đó trời đã tối hẳn, Xtas bèn đưa cô bé vào trong hàng rào, nơi bữa tối đang chờ hai đứa.

Cả hai rất vui sướng, Nen vui vì đã cứ u con voi thoát khỏi chết, còn Xtas vui vì nhìn thấy đôi mắt long lanh như hai vì sao và khuôn mặt hớn hở của cô bé, khuôn mặt trông tươi tỉnh và khỏe khoắn nhất kể từ khi rời khỏi Khác-tum. Thêm vào đó, cậu bé còn hài lòng vì tự cho phép mình một đêm ngủ thật ngon và thật yên.

Mũi đất có hai phía hoàn toàn khó xâm phạm tới đã tránh cho bọn trẻ khỏi bị tấn công còn phía thứ ba thì Ca-li và Mê-a đã dựng một bức tường cao bằng những cành xiêm gai đầy gai góc và những cây lạc tiên, khiến không một loài thú dữ nào có thể vượt qua nổi.

Thêm vào đó, trời lại rất đẹp, sau lúc mặt trời lặn, bầu trời trải đầy sao. Thật dễ chịu khi được hít thở bầu không khí man mát do có thác nước kề bên, làm không khí thấm đượm hơi rừng và mùi những cành cây tươi vừa bị chặt.

“Con ruồi con này sẽ không bị sốt rét đâu!” -Xtas vui sướng nghĩ thầm.

Rồi bọn trẻ bắt đầu trò chuyện về con voi, vì Nen không thể nói chuyện gì khác cả, cô bé không ngớt lời ca ngợi tầm vóc của nó, cũng như kích thước của cái vòi và cặp ngà, những thứ này quả thực là khổng lồ. Cuối cùng cô bé hỏi:

- Anh Xtas nhỉ, đúng là nó thông minh ghê, phải không anh?

- Như vua Xa-lô-mông vậy! - Xtas đáp. - Nhưng tại sao em lại bảo thế?

- Vì em vừa mới bảo nó đừng uống nước nữa thế là nó vâng lời em ngay.

- Nếu như trước đó nó không học tiếng Anh mà lại hiểu được, thì rõ ràng nó là con vật tuyệt diệu rồi.

Nen hiểu là Xtas muốn đùa liền xì với anh như một chú mèo rồi bảo:

- Anh muốn nói thế nào thì nói, nhưng em tin chắc là nó rất thông minh và sẽ thuần ngay thôi.

- Không biết nó có thuần ngay hay không, nhưng chắc là thuần được. Voi Phi châu hoang dã hơn voi Á châu nhưng anh cho rằng tướng Ha-ni-ban đã từng sử dụng voi Phi châu.

- Ha-ni-ban là ai, anh?Xtas nhìn em vẻ khoan dung nhưng thương hại:

- Dĩ nhiên, - cậu nói, - ở vào tuổi em thì chưa biết tới những chuyện như thế. Ha-ni-ban là một tướng tài của người Các-ta-gin, người đã sử dụng voi trong cuộc chiến đấu chống quân La Mã, và vì xứ Các-ta-gin thuộc Phi châu nên chắc ông ta phải sử dụng voi Phi châu...

Một tiếng voi rống dữ dội làm gián đoạn câu chuyện của chúng, con voi đã ăn uống đẫy bắt đầu rống lên, không rõ vì vui sướng hay vì buồn nhớ đến một sự tự do hoàn toàn hơn. Xa-ba bật dậy và bắt đầu sủa vang còn Xtas nói:

- Em sướng nhé. Bây giờ nó mới gọi bạn bè đến. Chúng ta sẽ sướng tỉnh người nếu như cả đàn cả lũ chúng nó kéo tới!

- Nó sẽ bảo những con voi khác rằng chúng mình đã đối xử tốt với nó! - Nen vội bảo.

Song bản thân Xtas cũng không lo lắng thật sự vì em tính rằng nếu như cả đàn voi có kéo tới thật đi nữa thì ánh lửa cũng sẽ khiến chúng phải sợ. Em bèn mỉm cười ương bướng và bảo:

- Được rồi, được rồi! Nhưng nếu như lũ voi mà xuất hiện thì em chẳng khi nào khóc vì sợ đâu, phải không, có điều là mắt em sẽ lại đổ mồ hôi như hai lần trước cho mà xem!

Rồi cậu bắt đầu nhại cô bé:

“Em có khóc đâu, mắt em đổ mồ hôi đấy thôi...” Nhìn thấy nét mặt vui vẻ của em, Nen đoán ra là không có nỗi nguy hiểm nào đe dọa.

- Khi nào chúng mình thuần được nó, - cô bé nói, - thì mắt em sẽ không đổ mồ hôi nữa đâu, dù cho cả mười con sư tử cùng gầm lên một lúc.

- Tại sao?

- Vì nó sẽ bảo vệ chúng mình.

Xtas bảo con Xa-ba im vì cho tới lúc này con chó vẫn không ngừng đấu khẩu với con voi, sau đó em ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

- Em không nghĩ tới một điều, Nen ạ, chúng mình có dừng lại đây mãi mãi đâu cơ chứ, chúng mình sẽ đi tiếp cơ mà... Anh không bảo là phải đi ngay... Chúng mình sẽ ở lại đây một thời gian: chỗ này đẹp và lành, anh định sẽ ở lại đây... có thể là một tuần, có thể là hai, vì em cũng như tất cả chúng mình còn nuôi nấng con voi, mặc dù đó là một việc nặng nhọc đấy. Nhưng nó bị giam và chúng ta đâu có thể đưa nó đi theo được. Còn sau này thì sao? Chúng mình ra đi, còn nó ở lại, nó sẽ lại bị khổ sở vì đói cho tới khi chết.

Khi đó chúng mình sẽ càng thương tiếc nó nhiều hơn...

Nen rất buồn, cô bé ngồi thừ ra một lúc lâu, không biết nói gì để đáp lại những lời lưu ý rất đúng đắn kia, nhưng một lát sau, cô bé hất mớ tóc xõa xuống mắt, đưa cặp mắt đầy tin cậy nhìn cậu bé:

- Em biết, cô bé nói, nếu anh muốn, anh có thể giải thoát nó ra khỏi khe núi.

- Anh á?

Cô bé chìa một ngón tay ra chạm vào tay Xtas nhắc lại:

- Chính anh!

Người phụ nữ nhỏ xíu và khôn ngoan này hiểu rằng sự tin tưởng của mình khiến cậu bé vui sướng, và từ giây phút ấy trở đi, cậu bắt đầu nghĩ cách giải thoát cho con voi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,904
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ -----

Đêm trôi qua êm ả, mặc dù chân trời phía Nam đầy mây, nhưng buổi sáng lại vẫn đẹp trời. Theo lệnh Xtas, Ca-li và Mê-a sau khi ăn sáng xong liền lo việc thu thập những quả mít, những chùm ngọn xiêm gai, các thứ lá và cỏ tươi cùng những loại thức ăn khác cho con voi rồi mang tới bên bờ khe núi. Vì Nen muốn tự mình cho người bạn mới ăn, nên Xtas bèn đốn cho cô bé một cành vả có chạc như một chiếc nạng gẩy rơm để cô bé dễ đẩy các thứ thức ăn xuống lòng khe hơn. Con voi lên tiếng từ sáng sớm, hẳn là nó đòi ăn, và khi nhìn thấy trên bờ vực hiện ra cái sinh linh màu trắng hôm qua đã cho nó ăn, nó bèn đón chào bằng một thứ tiếng gừ gừ vui sướng và lập tức vươn vòi về phía cô bé. Trong ánh sáng ban mai, bọn trẻ thấy nó càng to lớn hơn so với hôm qua. Nó gầy vô cùng, nhưng trông đã tỉnh táo hơn và đôi mắt nhỏ bé nhanh nhẹn quay về phía Nen trông đã gần như vui vẻ. Thậm chí, Nen còn khẳng định rằng, qua một đêm, cặp chân trước của nó nom đã đầy đặn hơn lên, cô bé bắt đầu hẩy thức ăn một cách nhiệt tình đến nỗi Xtas phải hãm bớt lại, và sau rốt khi cô bé đã thở hổn hển vì mệt, Xtas phải vào thay. Cả hai vui chơi thỏa thuê, đặc biệt, tính khí “đỏng đảnh” của con voi khiến cả hai thú vị hơn cả. Ban đầu nó chén sạch sành sanh mọi thứ gì rơi xuống chân nó, nhưng sau khi đã dịu bớt cơn đói, nó bắt đầu chọn thứ c ăn. Khi vớ phải thứ cỏ không ngon miệng lắm, nó bèn đập vào chân trước rồi dùng vòi tung lên trên cao như muốn bảo: “Các người hãy xơi lấy thứ của ngon này đi xem nào!”. Rồi cuối cùng, sau khi đã hết cơn đói khát, nó bắt đầu ve vẩy đôi tai khổng lồ với vẻ hài lòng.

- Em chắc rằng, - Nen nói. - nếu bây giờ chúng mình có tụt xuống dưới đó nó cũng không làm gì chúng mình đâu.

Và cô bé cất tiếng gọi:

- Voi ơi, voi thân yêu ơi, có phải mày sẽ không làm gì hại chúng tao phải không?

Khi con voi gật gật cái vòi để đáp lại, cô bé bèn quay sang Xtas:

- Anh thấy chưa, nó trả lời ừ rồi đấy!

- Cũng có thể, - Xtas đáp. - Voi là giống vật rất thông minh, và rõ ràng con voi này đã hiểu được là chúng mình cần thiết cho nó. Ai biết đâu đấy, có thể nó còn cảm thấy phần nào biết ơn chúng mình nữa cũng nên. Nhưng tốt nhất là chớ có thử, đặc biệt là Xa-ba đừng nên thử làm gì, nó sẽ giết con chó ngay đấy. Dần dần rồi chúng nó sẽ quen với nhau cũng nên.

Cali ngắt quãng những lời ngợi khen của hai đứa dành cho con voi, cậu bé da đen đã thấy được rằng nó sẽ phải lao động cật lực hàng ngày trong tương lai để nuôi sống con vật khổng lồ, nên tiến lại gần Xtas với nụ cười cầu xin và nói:

- Ông lớn giết con voi đi, Cali ăn thịt nó, thay vì phải kiếm cỏ và lá cây cho nó.

Nhưng “ông lớn” đã ở xa ý định giết voi hàng trăm dặm rồi, thêm vào đó vốn tính sôi nổi bèn đáp lại ngay không cần suy nghĩ:

- Cậu là con lừa!

May thay, cậu bé quên mất tiếng “con lừa” theo ngôn ngữ Kix-va-hi-li là gì nên nói bằng tiếng Anh là donkey. Còn Ca-li, vốn không hiểu tiếng Anh, nghĩ rằng từ này hẳn là một từ khen ngợi hay khuyến khích gì đó, nên một lát sau hai trẻ nghe thấy tiếng cậu bé da đen đang nhiệt tình nói với Mê-a:

- Mê-a có nước da đen và cái óc đen, còn Ca-li là donkey.

Rồi nó nói thêm vẻ tự hào:

- Chính ông lớn bảo rằng Ca-li là donkey đấy!

Xtas dặn dò hai đứa phải trông nom cô chủ như con ngươi trong mắt, nếu có chuyện gì phải gọi cậu ngay lập tức, rồi cầm khẩu súng tiến về phía khối đá bị tách ra đang đóng kín khe núi.

Đến nơi, cậu xem xét tảng đá thật kĩ lưỡng, chăm chú nghiên cứu mọi chỗ nứt vỡ, thọc cây vào cái khe tìm thấy phía dưới khối đá đo cẩn thận độ sâu của nó, rồi thong thả bước về phía trại, vừa đi vừa mở hộp đựng đạn ra đếm.

Cậu vừa tính được tới gần ba trăm thì từ trên cây bao báp mọc cách lều chừng năm mươi thước có tiếng Mê-a gọi to:

- Ông chủ, ông chủ ơi!

Xtas tiến lại gần cái cây khổng lồ mà thân cây ở gần mặt đất đã bị ruỗng, trông như một cái tháp và hỏi:

- Gì thế?

- Cách đây không xa có nhiều ngựa vằn, còn xa hơn nữa là linh dương.

- Được rồi. Tôi sẽ lấy súng đi bây giờ, phải kiếm ít thịt chứ.

Nhưng sao cô lại leo lên cây làm gì trên ấy?

Cô gái bèn đáp lại bằng giọng buồn bã nghe như hát:

- Mê-a trông thấy tổ vẹt xám nên muốn mang về cho cô chủ, nhưng tổ rỗng không, thế là Mê-a không được thưởng chuỗi hạt cườm đeo cổ rồi.

- Cô sẽ được thưởng vì có lòng yêu cô chủ.

Cô bé da đen nhanh như sóc leo xuống dọc thân cây nhiều cành, mắt sáng long lanh lặp đi lặp lại:

- Ôi, đúng, đúng lắm! Mê-a yêu cô chủ, và yêu cả chuỗi hạt nữa mà.

Xtas âu yếm vuốt tóc cô bé, rồi lấy súng, đóng hộp đạn và đi về phía lũ ngựa vằn đang gặm cỏ, Nửa giờ sau, tiếng súng vọng tới trại, và sau một giờ, cậu bé thợ săn quay về với tin là đã bắn được một con ngựa vằn non, và trong vùng lân cận đấy có rất nhiều loài thú ăn cỏ bởi trên một chỗ cao, ngoài ngựa vằn cùng hàng đoàn linh dương ra, cậu còn trông thấy nhiều oa-tơ-búc, tức là những đàn dê nước, đang ăn gần sông.

Rồi Xtas bảo Ca-li lấy ngựa đi chở con thịt săn được về, còn cậu bé thì chăm chú xem xét cái thân khổng lồ của cây bao báp, đi vòng quanh nó và dùng báng súng gõ gõ vào vỏ cây.

- Anh làm gì thế? - Nen hỏi.

Cậu bé trả lời:

- Em trông này, to ghê chưa? Mười lăm người nắm tay nhau cũng không ôm xuể; thân cây này có thể còn chứng kiến cả thời các vua pha-ra-ôn kia đây! Nhưng phần dưới thân cây đã bị ruỗng và trống rỗng cả. Em thấy cái lỗ này không? Qua lỗ này có thể vào được bên trong đây. Chúng mình có thể dùng nó làm một cái nhà lớn để ở. Anh nghĩ ra điều đó khi trông thấy Mê-a đang leo trong đám cành lá, rồi sau đó, trong khi đi săn ngựa vằn, anh cứ nghĩ mãi về chuyện đó.

- Nhưng chúng mình sẽ đi tới A-bi-xi-ni-a kia mà, anh?

- Phải. Nhưng cũng cần phải nghỉ ngơi đã, và như hôm qua anh đã nói với em, anh quyết định sẽ dừng lại đây chừng một hai tuần lễ. Em không muốn rời bỏ con voi còn anh thì lại lo cho em trong mùa mưa này. Mùa mưa đang bắt đầu và chẳng bao lâu nữa thì chuyện sốt rét là cầm chắc. Hôm nay trời đẹp, nhưng em thấy không, mây mỗi lúc một dày hơn, biết đâu trước khi trời tối sẽ mưa cũng nên. Cái lều không đủ che mưa cho em, còn trong thân cây bao báp, nếu như nó không rỗng lòng cho tới tận ngọn, thì chúng mình có thể chấp cả những cơn mưa rào lớn nhất. Ở trong đó cũng sẽ an toàn hơn trong lều vì đến đêm chỉ cần dùng gai bịt kín lỗ hổng và cái cửa sổ mà chúng mình sẽ trổ để lấy thêm ánh sáng, là chúng mình có thể mặc bọn sư tử gào thét xung quanh, bao nhiêu con cũng mặc. Mùa mưa xuân không kéo dài quá một tháng, và càng ngày anh càng nghĩ là chúng ta sẽ phải chờ cho nó qua đã.

Mà nếu thế thì nên ở lại đây hơn là một nơi nào khác và nên ở trong cây bao báp hơn là ở trong lều.

Nen vốn đồng ý với tất cả những gì Xtas muốn, nên bây giờ cô bé cũng đồng ý; thêm nữa, ý nghĩ được ở lại bên cạnh con voi và luôn được sống trong ruột cây bao báp khiến cô bé rất khoái chí.

Cô bé liền nghĩ xem sẽ bầy biện các phòng như thế nào, sẽ sắp đặt chúng ra sao, bọn trẻ sẽ mời nhau ăn bữa chiều và bữa trưa thế nào. Rốt cuộc cả hai đứa trẻ cùng thích thú còn Nen thì muốn xem xét ngay lập tức ngôi nhà mới, nhưng Xtas - người ngày càng thu được nhiều kinh nghiệm sống và càng trở nên từng trải hơn liền ngăn cô bé lại.

- Trước khi chúng ta vào ở trong đó, - em bảo, cần phải mờ i các vị chủ nhân ở trước ra đi đã, nếu như trong đó có các vị chủ nhân như thế.

Nói rồi, cậu bé bảo Mê-a ném vào lòng cây bao báp mấy cành cây đang cháy và tỏa khói mù mịt.

Hóa ra em đã hành động đúng, vì ruột cái cây khổng lồ này vốn đã có các vị chủ nhân khác cư trú từ trước; các vị chủ nhân mà người ta khó chờ đợi ở họ lòng mến khách.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,904
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ -------

Trong cây gỗ có hai lỗ: một lỗ rộng rãi cách mặt đất chừng nửa mét, lỗ thứ hai nhỏ hơn, nằm ở chiều cao của tầng hai các ngôi nhà thành phố. Mê-a vừa ném vào lỗ phía dưới mấy cành cây đang cháy tỏa khói mù mịt thì từ lỗ phía trên liền bay vọt ra những chú dơi to tướng. Bị quáng mắt vì ánh sáng mặt trời, chúng kêu rít lên, bay như điên dại chung quanh thân cây. Lát sau từ lỗ phía dưới vị chủ nhà chính lao ra như một tia chớp, đó là một con trăn khổng lồ. Hình như trong trạng thái nửa thức nửa ngủ nó đang tiêu hóa nốt bữa tiệc vừa xơi thì bị khói xộc vào mũi nên choàng tỉnh dậy và tìm cách tháo thân. Thấy cái thân hình rắn như sắt tựa một thanh lò xo khổng lồ lao vọt ra từ cái hốc cây nghi ngút khói, Xtas liền bế thốc Nen trên tay chạy thục mạng về phía cửa rừng.

Nhưng chính con bò sát ấy cũng kinh hoàng không kém. Chẳng nghĩ tới chuyện đuổi theo lũ trẻ, nó quằn mình trong cỏ và những gói đồ đạc đang mở tung, lao nhanh như chớp về phía khe núi, hẳn là muốn náu mình trong các tảng đá và khe nứt. Bọn trẻ hoàn hồn lại. Xtas đặt Nen xuống đất vọt tới lấy súng chạy theo sau con trăn về phía khe, còn Nen cũng chạy theo sau. Nhưng chỉ được hơn chục bước chân, chúng nhìn thấy một cảnh tượng khiến chúng đứng sững như trời trồng.

Trong chớp mắt thân hình con trăn hiện ra rất cao trên vùng khe, vạch lên một đường loằng ngoằng trong không gian rồi rơi xuống phía dưới. Lát sau nó lại xuất hiện lần thứ hai rồi lại rơi xuống. Bọn trẻ lao tới bờ vực và kinh ngạc nhìn thấy người bạn mới của chúng - con voi nọ - đang bỡn với trăn, và sau khi đã tung cho ông bạn trăn thực hiện hai chuyến du hành trong không trung, giờ đây đang dùng bàn chân to như thớt đá giẫm nát đầu con trăn. Xong việc, nó lại dùng vòi nhấc cái thân hình hãy còn run rẩy lên, ném đi một lần nữa, nhưng lần này không lên cao mà lại ném thẳng xuống thác. Sau đó, gật gù đầu về hai phía, vẫy vẫy đôi tai, nó nhìn thẳng vào Nen rồi đưa vòi về phía cô bé dường như đòi lĩnh phần thưởng sau cái hành động vừa anh hùng vừa thận trọng kia của mình.

Nen lập tức lao về lều và quay trở lại với một bọc đầy quả vả dại, cô bé bắt đầu ném từng vài quả một cho voi, còn nó dùng vòi tìm thật hết những quả rơi trong cỏ cho từng quả vào mồm. Những quả bị rơi xuống các khe sâu hơn, nó thổi bật lên với một sức mạnh khiến cho cả những cục đá to bằng nắm tay người cũng bay lên cùng với quả. Bọn trẻ vỗ tay hoan hô reo cười khen ngợi trò biểu diễn này. Nen mấy lần chạy về lấy thêm thức ăn và cứ mỗi quả vả ném đi cô bé lạ i không quên nhắc lại rằng con voi đã hoàn toàn thuần và ngay lúc này, bọn trẻ cũng đã có thể xuống với nó.

- Anh thấy chưa, anh Xtas, thế là chúng mình sẽ có một người hộ vệ!... Nó chẳng sợ con gì trong sa mạc hết: cả sư tử, rắn rết lẫn cá sấu. Nó lại rất tốt bụng và chắc chắn là rất yêu mến chúng mình.

- Nếu như nó thuần được - Xtas nói, - và nếu như anh có thể để em lại cho nó trông nom thì quả thực anh hoàn toàn yên tâm đi săn bắn, vì trong cả châu Phi này không thể tìm đâu ra cho em một hộ sĩ tốt hơn nó nữa.

Rồi lát sau cậu bé nói thêm:

- Voi ở đây nói chung hoang dã hơn, nhưng anh đã từng đọc thấy rằng voi Á châu rất mềm yếu, mềm yếu một các kì lạ đối với trẻ con. Tại Ấn Độ chưa từng có trường hợp nào voi làm hại trẻ con, và nếu như voi phát khùng, thì những người quản tượng bản xứ thường làm chúng nguôi đi bằng cách mang trẻ con tới.

- Đấy, anh thấy chưa, anh thấy chưa nào?

- Dù sao đi nữa, em cũng hành động đúng khi không cho anh giết chết nó.

Đôi đồng tử của Nen bừng lên ánh vui sướng, giống hệt hai ngọn lửa màu xanh lục. Đứng nhón trên các đầu ngón chân, cô bé đặt cả hai tay lên vai Xtas rồi ngả người ra phía sau cô bé nhìn thẳng vào mắt cậu:

- Thế em đã hành động như người bao nhiêu tuổi? Nào, nói đi anh, như em bao nhiêu tuổi nào? Cậu bé đáp:

- Ít nhất cũng bảy mươi.

- Anh thì lúc nào cũng đùa được.

- Giận đi, cứ giận đi. Thế ai sẽ giải phóng cho con voi nào?

Nghe thấy thế, Nen lập tức trở lại hiền dịu như một con mèo con.

- Anh chứ ai, và em sẽ rất yêu anh, cả con voi cũng thế.

- Anh đang nghĩ cách, - Xtas nói, - nhưng đó là một việc rất khó, anh sẽ không làm ngay bây giờ, mà sẽ làm lúc chúng mình sắp lên đường đi tiếp.

- Sao thế anh?

- Vì rằng, nếu anh giải thoát cho nó trước khi nó thuần và hoàn toàn gắn bó với chúng ta thì nó sẽ bỏ đi mất.

- Ồ, nó sẽ không bỏ em mà đi đâu!- Em nghĩ như thể nó là anh không bằng ấy! -Xtas đáp vẻ hơi bẳn.

Cuộc trò chuyện bị Ca-li làm gián đoạn, cậu bé da đen quay trở về mang theo con ngựa vằn cái săn được và con ngựa con bị Xa-ba gặm một ít. Thật là may cho con chó, vì chạy theo Ca-li, nó không có mặt trong khi giải quyết con trăn, chứ nếu không nó đã lao theo con trăn và chắc sẽ chết trong những vòng cuộn siết của thân mình con vật trước khi Xtas kịp tới cứu. Vì chuyện gặm con ngựa vằn con, nó bị Nen bẹo tai, nhưng thực ra nó cũng chẳng để tâm gì lắm tới hình phạt đó, thậm chí nó cũng không rụt cái lưỡi đang thè ra khi đi săn về nữa.

Xtas nói lại cho Ca-li rằng cậu muốn làm nhà trong thân cây và thuật lại cho nó nghe chuyện đã xảy ra khi dùng khói hun bộng cây, cũng như chuyện con voi đã đối xử với con trăn như thế nào.

Cậu bé da đen rất thích sáng kiến vào ở trong cây bao báp, cái cây không chỉ che mưa mà còn có thể che chở cho bọn trẻ khỏi các loài dã thú, song hành động của con voi lại không được nó tán đồng chút nào. Nó bảo:

- Voi thật ngu ngốc, nên mới vứt con rắn vào cái nước gầm còn Ca-li thì biết rằng con rắn tốt ăn, nên Ca-li sẽ đi tới cái nước gầm để tìm lại, rồi nướng nó lên vì Ca-li thông minh và là donkey.

- Cậu là donkey, đồng ý! - Xtas đáp. - Nhưng cậu sẽ không ăn thịt con rắn chứ hả?

- Con rắn tốt ăn! - Ca-li nhắc lại: Và chỉ vào con ngựa vằn bị giết, nó nói thêm:

- Tốt ăn hơn cái thịt này.

Sau đó cả hai tới bên cây bao báp để bắt tay vào việc sửa soạn chỗ ở. Ca-li tìm bên sông một phiến đá phẳng to bằng mặt sàng lớn đặt vào trong bộng cây, đặt những cục than đang cháy lên trên đó, chú ý sao cho những lớp gỗ mục trong lòng cây không bị bén gây cháy cả cây. Nó nói rằng làm thế nào cho “khỏi có con gì cắn ông lớn và cô bé”. Hóa ra, đó hoàn toàn không phải là một chuyện cẩn thận quá đáng, vì khi khí than tràn ngập trong thân cây thì từ các chỗ nứt nẻ của vỏ cây bắt đầu trườn ra đủ mọi thứ sinh vật khác nhau: những con bọ sừng màu đen tuyền và màu nâu chín, những chú nhện lông lá to như quả mận chín, những con sâu mình đầy gai to bằng ngón tay, và cả những con rết độc kinh tởm và vết cắn có thể làm chết người. Và căn cứ vào những gì diễn ra phía bên ngoài thân cây, để dàng có thể đoán được có biết bao nhiêu loài sinh vật tương tự đã chết ngạt bởi hơi than bên trong ruột cây. Ca-li dùng đá nghiền nát không thương tiếc tất cả những con vật từ vỏ cây và từ những cành thấp rơi ra cỏ, vừa làm nó vừa dòm chừng vào cái hốc dưới và hốc trên dường như e sợ một con gì đó sẽ bất ngờ lao ra.

- Sao cậu cứ dòm chừng thế? - Xtas hỏi - cậu nghĩ rằng một con trăn thứ hai còn đang ẩn náu trong thân cây chăng?

- Không đâu, - Ca-li sợ Mdi-mu.

- Mdi-mu là cái gì?

- Cái ma.

- Cậu đã trông thấy cái ma bao giờ chưa đã?

- Chưa, nhưng Ca-li đã nghe thấy những tiếng kêu kinh khủng của cái ma trong nhà của thầy phù thủy.

- Thế các thầy phù thủy của các cậu không sợ cái ma hay sao?

- Các thầy phù thủy biết cách niệm chú gọi cái ma, rồi đi tới các lều nói rằng cái ma nổi giận, thế là người da đen mang tới cho họ nào chuối, nào mật ong, nào rượu pom-ba, nào trứng, nào thịt để họ cầu xin cái ma cho.

Xtas nhún vai.

- Rõ ràng làm nghề phù thủy ở chỗ các cậu sướng thật đấy.

Nhưng cũng có thể con trăn vừa rồi là cái ma chăng?

Cali lắc đầu quầy quậy.

- Nếu thế thì không phải voi giết chết cái ma mà cái ma giết chết voi ngay. Cái ma là cái chết đấy...

Bỗng nhiên có tiếng động rầm rầm và tiếng ồn ào trong lòng cây gỗ làm gián đoạn lời thằng bé. Từ cái hốc cây phía dưới bùng lên một đám bụi lạ màu hung đỏ, tiếp đó lại vang lên tiếng rầm rầm còn dữ dội hơn lần trước.

Trong nháy mắt, Ca-li quỳ sụp xuống đất và bắt đầu kêu thét lên kinh hoàng:

- Aka! Mdi-mu! Aka! Aka! Aka!

Thoạt tiên, Xtas cũng tự nhiên thụt lùi, nhưng em nhanh chóng định thần lại, và khi Nen cùng Mê-a chạy tới, em bắt đầu giải thích chuyện gì đã xảy ra.

- Có thể là - em nói - những thớ mục trong thân cây bị nóng đã đổ sụp xuống phía dưới, phủ lên than. Thế mà nó lại nghĩ đó là Mdi-mu. Tuy nhiên Mê-a hãy vẩy nước vài lần vào hốc cây đi, nếu không than thiếu không khí sẽ không tắt mà cứ cháy ngún trong đó rồi lại bùng lên đấy.

Rồi trông thấy Ca-li vẫn đang phủ phục, không ngừng lắp bắp kinh hoàng: “Aka! Aka!”, em bèn với lấy khẩu súng kíp vẫn dùng để săn chim pen-tac-ca bắn một phát vào gốc cây và vừa nói vừa dùng báng súng lay thằng bé dậy:

- Này, cái ma của cậu đã bị giết chết rồi! Đừng sợ nữa! Cali nhổm dậy nhưng vẫn ở tư thế quỳ:

- Ôi, ông lớn, ông lớn... Ông không sợ cả cái ma hay sao?

- Aka! Aka! - Xtas kêu lên nhại theo giọng cậu bé da đen.

Và nó bật cười.

Một lát sau Ca-li bình tĩnh lại hoàn toàn và khi ngồi vào ăn những thức mà Mê-a đã sửa soạn thì dường như cơn sợ hãi trong chốc lát hoàn toàn không khiến nó mất ngon miệng chút nào, vì ngoài suất thịt khô nó còn chén hết cả một lá gan tươi của con ngựa vằn con, chưa kể tới những quả dại mà cây sung Ai Cập mọc gần đấy cung cấp với số lượng dồi dào. Sau đó, cùng với Xtas, nó quay trở lại chỗ cây bao báp vì ở đó hãy còn vô khối công việc. Việc vứt bỏ những thớ gỗ mục ruỗng, than củi, hàng trăm con bọ sừng chết thui, những con bọ đất to tướng cùng với hơn chục con dơi bị nướng chín khiến chúng phải mất hơn hai tiếng đồng hồ. Xtas ngạc nhiên tại sao lũ dơi lại có thể sống chung với con trăn, nhưng sau em nghĩ ra rằng hoặc là con trăn khổng lồ không màng tới những miếng mồi quá nhỏ bé này, hoặc là trong bộng cây, không có cái gì tựa để cuộn mình nên nó không thể với tới được lũ dơi.

Hơi nóng của lửa than làm những lớp gỗ mục ruỗng đổ sụp xuống đã khiến cho bên trong thân cây rất sạch sẽ; trông thấy thế, Xtas vô cùng vui sướng, vì bên trong rộng như một căn phòng lớn, có thể làm nơi nương thân không phải chỉ cho bốn mà đủ chỗ cho cả chục người. Cái hốc phía dưới trở thành cửa ra vào, hốc phía trên là cửa sổ, nhờ thế trong ruột cái cây khổng lồ không hề tối tăm hay ngột thở. Xtas nghĩ tới việc dùng vải lều chia toàn bộ bên trong ra làm hai phòng, một dành cho Nen và Mê-a, một cho mình, Ca-li và con Xa-ba. Cây gỗ không bị ruỗng đến tận ngọn nên nước mưa không thể chảy vào bên trong và không cần phải che mưa, chỉ cần lấy vỏ cây chắn bên trên hai cái lỗ làm thành mái che mưa là đủ.

Bọn trẻ quyết định sẽ dùng cát nóng ở bờ sông mang về rải bên trong, còn trên mặt cát thì trải rêu khô.

Công việc quả là nặng nhọc vô cùng, nhất là đối với Ca-li, vì ngoài việc đó ra, nó còn phải sấy thịt, cho ngựa uống nước và lo lương thực cho con voi, chú voi luôn luôn rống lên đòi ăn. Song, cậu bé da đen rất nhiệt tình lao vào việc tạo dựng chỗ ở mới, lí do của sự nhiệt tình này cậu bé đã tuyên bố với Xtas ngay trong ngày hôm đó như sau:

- Nếu ông lớn và cô vào ở trong lòng cây gỗ - nó vừa nói vừa khoanh tay quanh bụng, - thì Ca-li sẽ không phải đêm nào cũng dựng hàng rào lớn và chiều chiều có thể ngồi chơi không.

- Thế cậu muốn ngồi chơi lắm à? - Xtas hỏi.

- Ca-li là đàn ông mà, Ca-li thích ngồi chơi, chỉ có đàn bà là phải làm việc thôi.

- Thế mà cậu thấy đấy, tớ vẫn làm việc phục vụ cho cô bé đấy thôi.

- Thế nhưng khi cô bé lớn lên, sẽ phải làm việc cho ông lớ n, nếu như cô bé không muốn làm, thì chắc chắn ông lớn sẽ đánh cô bé ngay.

Nhưng chỉ riêng cái ý nghĩ đánh cô bé đã khiến Xtas nhảy lên như phải bỏng, cậu kêu lên đầy giận dữ:

- Đồ ngốc, cậu có biết cô bé là ai không đã?

- Không biết ạ - cậu bé da đen sợ hãi đáp.

- Cô bé là... là... Mdi-mu Tốt đấy!

Ca-li sụp xuống đất.

Sau khi công việc xong xuôi, nó rụt rè tiến đến bên Nen, quỳ sụp xuống đất, lặp đi lặp lại với giọng không phải sợ hãi nữa mà là cầu xin:

- Aka! Aka! Aka!...

Nhưng cái cô “Mdi-mu Tốt” này tròn mắt nhìn nó, đôi mắt tuyệt đẹp, có màu lam của nước biển, hoàn toàn không hiểu chuyện gì xảy ra và chàng Ca-li nọ muốn gì?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
590,904
Điểm cảm xúc
33
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ---------

Nơi ở mới, mà Xtas đặt tên là “Cra-cốp”(1), được hình thành trong vòng ba ngày. Nhưng trước đó, bọn trẻ đã đặt những gói đồ đạc chính vào “phòng con trai”, và trong những lúc trời đổ mưa lớn, bộ tứ đã tìm được trong cái thân khổng lồ một chỗ ẩn náu thật tuyệt vời, ngay trước khi hoàn thành nơi ở mới. Mùa mưa đã thật sự bắt đầu, nhưng đó hoàn toàn không giống như những ngày mưa thu dài dằng dặc của chúng ta, khi bầu trời đầy mây đen u ám và những làn mưa buồn tẻ nặng nề kéo dài hàng tuần liền. Còn ở nơi đây, hơn chục lần trong một ngày, gió mang qua bầu trời những đám mây nặng trĩu, tưới nước ào ạt xuống mặt đất, nhưng sau đó mặt trời lại bừng lên rực rỡ, dường như vừa mới được tắm gội tinh tươm và rót ánh vàng xuống những vách đá, dòng sông, cây cối và toàn bộ khu rừng. Cỏ mọc nhanh gần như trông thấy. Cây cối ra lá dày hơn và trước khi những quả già rụng xuống thì những mầm quả non mới đã hình thành. Do có chứa nước nên không khí trở nên trong suốt đến nỗi những vật ở rất xa cũng hiện ra hoàn toàn rõ nét, và tầm mắt có thể vươn xa đến một vùng rộng lớn. Trên bầu trời vắt vẻo những chiếc cầu vồng bảy sắc tuyệt đẹp, còn thác nước thì gần như lúc nào cũng lộng lẫy ánh hào quang của những chiếc cầu vồng được tạo thành. Rạng sáng và ráng chiều ngắn ngủi gieo lung linh ngàn thứ sắc màu, đến nỗi ngay cả hồi ở sa mạc Li-bi bọn trẻ cũng chưa từng được trông thấy phong cảnh kì thú như thế bao giờ. Những đám mây thấp gần mặt đất nhất có màu anh đào, những đám mây phía trên được chiếu sáng nhiều hơn thì tràn ngập ra thành một mặt hồ đẫm sắc đỏ rực và vàng kim, còn những gợn sóng mây nhỏ nhỏ như tơ thì đổi sắc như hồng ngọc, thạch ngọc và bạch ngọc. Ban đêm, khoảng giữa hai làn mưa, mặt trăng biến những giọt nước sương treo trên lá cây xiêm và trinh nữ thành những viên kim cương lóng lánh, và ánh sáng hoàng đạo tỏa sáng rực rỡ hơn bất kì mùa nào khác trong bầu không khí vừa được tẩy cho trong lành.

Từ phía những vùng nước do dòng sông hình thành ở bên dưới thác, vọng về tiếng kêu đầy lo lắng của ếch nhái và tiếng cóc buồn thảm, những chàng đom đóm trông như những vì sao xanh to lớn lang thang cứ bay từ bờ này sang bờ kia, giữa những lùm tre và những bụi cây chân bê.

Song những khi mây đen che kín bầu trời sao và mưa bắt đầu rơi thì trời lại đen sầm, trong ruột cây bao báp cứ tối như dưới hầm vậy. Muốn tránh tình cảnh đó, Xtas bảo Mê-a rán mỡ của những con thú săn được, lấy vỏ đồ hộp làm một chiếc đèn treo dưới cái lỗ thông ở phía trên, vẫn được bọn trẻ gọi là cửa sổ. Trong bóng đêm, ánh sáng rọi từ chiếc cửa sổ này có thể trông thấy được từ rất xa, xua đuổi bớt các loài dã thú, nhưng lại thu hút lũ dơi và cả những con chim, đến nỗi cuối cùng Ca-li phải làm ở đó một tấm rèm gai, giống như cái hàng rào mà đêm đêm nó dùng để bịt kín lỗ thông phía dưới.

Còn ban ngày, trong những phút đẹp trời, bọn trẻ rời “Cra-cốp” tỏa đi khắp mũi đất, Xtas thì đi săn linh dương arien và đà điểu (giống chim này xuất hiện từng đàn lớn ở phía hạ lưu dòng sông), Nen tới với chàng voi của mình. Ban đầu con vật chỉ rống lên đòi ăn, nhưng về sau nó bắt đầu rống lên cả khi thấy thiếu vắng cô bạn bé nhỏ nữa. Và lúc nào nó cũng chào đón cô bé với một niềm sung sướng rõ rệt, thoạt nghe thấy giọng nói hoặc tiếng bước chân của cô bé ở xa xa là nó đã dỏng ngay tai lên rồi.

Một lần, khi Xtas đang đi săn bắn, Ca-li đang câu cá dưới thác, Nen quyết định tới cái khối đá đang bít kín khe núi để xem thử Xtas đã làm được gì với nó hay chưa. Đang bận lo chuẩn bị bữa trưa, Mê-a không để ý đến việc cô bé bỏ đi, còn Nen thì hái trên đường đi những đóa thu hải đường kì lạ mọc đầy trong các rạn đá và tiến lại phía sườn dốc mà dạo trước cả bọn đã đi theo để leo lên bờ khe. Sau khi tụt xuống, Nen đến được chân phiến đá. Phiến đá khổng lồ tách ra từ vách đá mẹ vẫn bịt kín họng khe núi như lúc trước. Song, Nen để ý thấy giữa nó và vách đá có một cái khe rộng đến độ người lớn cũng có thể trườn qua được. Cô bé ngần ngừ một lúc rồi lần sang phía bên kia. Phía đó còn có một chỗ ngoặt nữa mà cô bé phải đi qua trước khi tới được chỗ thoát của khe núi bị thác nước chắn ngang. Nen bắt đầu cân nhắc: “Mình chỉ đi thêm một chút xíu nữa thôi, nấp sau tảng đá mình chỉ ngó con voi một lần thôi, nó không thể trông thấy mình được, rồi mình sẽ quay về ngay”. Nghĩ thế, cô bé hết bước này đến bước khác tiến xa hơn, mãi đến chỗ khe núi đột nhiên phình rộng thành một lòng thung nho nhỏ, thì nhìn thấy con voi. Nó đang đứng quay đuôi về phía cô bé, vòi nhúng xuống nước và đang uống nước. Điều đó khiến cô bé thêm bạo dạn. Nen dán mình vào vách đá, cô bé tiến thêm mấy bước chân nữa, mấy bước nữa, và khi con voi muốn phun nước lên sườn - nó quay đầu lại và trông thấy cô bé, vừa trông thấy nó liền lao tới phía Nen.

Nen sợ lắm, nhưng không kịp quay trở lại nữa, nên áp sát hai đầu gối vào nhau, cô bé nhún mình chào con voi, rồi chìa tay đang cầm những đóa thu hải đường ra cô bé cất tiếng thanh thanh hơi run run nói:

- Xin chào voi, voi thân yêu! Tôi biết là voi không làm gì hại tôi nên tôi đến để chào voi... tôi cũng chỉ có mấy bông hoa này thôi...

Con vật khổng lồ tiến lại gần, vươn vòi ra túm lấy chùm thu hải đường trong tay Nen, nhưng vừa cho vào miệng nó lại thả rơi ngay xuống đất, rõ ràng là những cái lá nhám xì lẫn những bông hoa đều không ngon miệng nó tí nào. Nen trông thấy ngay trước mặt mình cái vòi có hình một con rắn khổng lồ màu đen, cứ cuộn vào rồi lại duỗi ra, chạm vào tay này rồi tay kia của cô bé, chạm vào hai vai, rồi sau rốt nó hạ xuống, bắt đầu ve vẩy nhè nhẹ sang hai bên.

- Tôi biết là voi không làm gì hại tôi, - cô bé nhắc lại, dẫu nỗi sợ hãi vẫn chưa rời cô.

Còn voi thì lật hai cái tai to như trong chuyện cổ tích ra phía sau, cuộn và mở vòi, đồng thời kêu lên những tiếng kêu khe khẽ đầy sung sướng như vẫn kêu mọi lần khi cô bé lại gần mép khe núi.

Và cũng như cái lần Xtas đứng đối diện với sư tử, lúc này cả hai lại đứng đối diện với nhau - con voi thì khổng lồ, to như một căn nhà hay một tảng đá, còn cô bé thì chỉ là một cái mẩu nhỏ nhoi mà nó có thể giẫm bẹp bằng một cử động, thậm chí chỉ một cử động do vô ý chứ cũng không phải vì thù địch gì cả.

Nhưng con vật tốt bụng và tinh khôn không hề làm một cử động nào giận dữ hay vô tình, và rõ ràng là nó vui sướng và hạnh phúc trước cuộc viếng thăm của vị khách nhỏ bé này.

Nen dần dần bạo dạn hơn, cô ngước mắt như nhìn lên mái nhà cao, vừa hỏi vừa rụt rè chìa tay ra:

- Tôi có thể vuốt vòi voi được chứ?

Thực ra con voi không biết tiếng Anh, nhưng do cử chỉ của bàn tay cô, nó cũng đoán ra được, và nó bèn chìa cái mũi dài hai mét của mình lại gần bàn tay cô bé.

Nen bắt đầu vuốt ve vòi con voi, ban đầu chỉ một tay và thận trọng, sau thì cô bé ôm cả hai tay và áp cả người vào đó bằng sự tin cẩn của trẻ thơ.

Con voi nhấc nhổm chân này tiếp chân khác và vẫn tiếp tục kêu lên khe khẽ vì sung sướng.

Rồi lát sau, nó dùng vòi cuộn lấy thân hình nhỏ bé của Nen nhấc lên cao và bắt đầu đánh đu nhẹ nhàng sang bên trái rồi bên phải.

- Nữa nào, nữa nào! - Nen thích thú kêu lên.

Trò chơi kéo dài thật lâu, rồi sau khi đã hoàn toàn bạo dạn, cô bé cố tìm cách leo theo chân trước của con voi như theo một thân cây, hoặc nấp dưới người nó và hỏi xem nó có tìm được không.

Nhưng trong khi đang chơi những trò nghịch ngợm tinh quái như thế, cô bé phát hiện ra rằng ở chân trước và nhất là chân sau voi có nhiều gai cắm vào mà con voi không làm sao rứt ra được, trước hết vì vòi nó không thể thoải mái chạm tới chân sau, và sau nữa, hình như nó sợ làm bị thương cái chỏm vòi, thiếu cái đó thì vòi mất đi hoàn toàn sự khéo léo và lanh lẹ của mình. Nen hoàn toàn không biết rằng những chiếc gai như thế quả thật là tai họa đối với voi Ấn Độ và đặc biệt là voi rừng Phi châu, vì những khu rừng này gồm phần lớn là các loài cây nhiều gai. Nhưng cô bé thương con vật khổng lồ tốt bụng, nên không cần suy nghĩ lâu la gì, đã ngồi xệp ngay xuống gần chân nó và bắt đầu nhẹ nhàng nhổ những chiếc gai ra, đầu tiên là những chiếc gai lớn, sau đó là những cái dằm nhỏ hơn, đồng thời miệng cô bé không ngừng liến thoắng cam đoan với voi là sẽ không để sót một chiếc gai nào. Con vật hiểu rất rõ sự việc, nó khuỵu đầu gối xuống như muốn trỏ rằng trong gan bàn chân, giữa các móng chân cũng có gai cắm vào và chính những chiếc gai này khiến nó đau đớn hơn cả.

Chính vào lúc đó, Xtas đi săn trở về và hỏi Mê-a xem cô chủ đâu. Được trả lời rằng hẳn là cô chủ ở trong bóng cây, em đã định nhìn vào thì vừa lúc ấy hình như em thoáng nghe tiếng cô bé dưới lòng khe núi. Không tin vào tai, em nhảy vội tới mép vực nhìn xuống và sững người ra. Cô bé đang ngồi dưới chân con vật khổng lồ, còn con vật cứ đứng như thế, thật bình thản, không hề cử động cả tai lẫn vòi, đến nỗi ta có thể nghĩ rằng nó được tạc bằng đá vậy.

- Nen! - Xtas kêu lên.

Bận bịu vì công việc của mình, cô bé vui vẻ đáp lại:

- Khoan đã, khoan đã!

Nghe thấy thế, vốn không quen ngần ngừ khi có hiểm nguy, cậu bé liền dùng một tay giơ khẩu súng lên cao, một tay túm lấy thân dây leo khô đã bị tước trụi, quặp cả hai chân vào đó, và trong nháy mắt đã tụt xuống lòng khe.

Con voi lo lắng động đậy hai tai, nhưng chính lúc đó Nen đã đứng dậy ôm lấy vòi nó vội vã kêu lên:

- Đừng sợ nào voi, đó là Xtas đấy!

Xtas nhận ra ngay không hề có mối nguy hiểm nào đe dọa cô bé, nhưng chân em như muốn khuỵu xuống, tim đập gấp, và trước khi kịp bình tâm lại vì ấn tượng vừa qua, em thốt lên bằng giọng nói nghẹn ngào, đầy hờn giận:

- Nen, Nen, sao em lại làm thế?!...

Còn cô bé cố giải thích rằng có làm chuyện gì nên tội, vì con voi tốt bụng và hoàn toàn đã thuần rồi, rằng cô bé chỉ muốn nhìn nó một chút rồi sẽ quay lại ngay, nhưng nó cứ giữ cô bé lại để cùng chơi, rằng nó đã đu đưa cô bé rất thận trọng, và rằng nếu như Xtas muốn thì voi cũng sẽ đu cả Xtas nữa.

Nói thế, cô bé dùng một bàn tay cầm lấy chỏm vòi voi kéo lại phía Xtas, còn tay kia vung vẩy bên trái bên phải mấy lần liền và nói với con voi:

- Voi ơi, hãy đu đưa cả Xtas đi nào!

Con vật thông minh đoán ra được qua những cử chỉ của cô bé điều mà cô bé muốn ở nó, và thế là Xtas - bị tóm ngang thắt lưng quần đùi - một giây sau đã lơ lửng trong không trung. Thật là mâu thuẫn giữa nét mặt hãy còn hậm hực của thằng bé và cái trò đung đưa lơ lửng trên mặt đất, nên cô M-di-mu nhỏ bé cười đến chảy nước mắt, vừa cười vừa vỗ tay, và kêu lên như lần trước:

- Nữa đi, nữa đi!

Khi người ta đang bị lơ lửng trong không khí trên một cái vòi voi và thực hiện chuyển động tương tự như dao động của con lắc dù muốn hay không, thì thực khó mà giữ vẻ mặt nghiêm nghị để lên lớp giáo huấn về đạo đức, thế nên cậu bé rốt cuộc cũng phải bật cười. Nhưng chỉ một lát sau em cảm thấy chuyển động của cái vòi chậm dần lại và rằng con voi muốn đặt em xuống đất, em chợt nảy ra một ý mới: nhân lúc ở gần cái tai to tướng của con voi, em bèn dùng hai tay túm chặt lấy tai và trong chớp mắt đã ngồi chễm chệ trên đầu voi.

- Ha ha! - Cậu bé từ trên cao gọi xuống với Nen.

- Hãy để cho nó hiểu rằng nó phải vâng lời anh.

Em vỗ vỗ tay lên đầu voi với vẻ mặt của một ông chủ và người chỉ huy.

- Hay lắm, - Nen đứng dưới kêu lên, - nhưng bây giờ anh làm thế nào để xuống?

- Chẳng có gì là khó, - Xtas đáp.

Và thõng hai chân xuống trước trán voi, em dùng hai tay ôm lấy cái vòi tụt theo vòi xuống đất như tụt theo cây gỗ vậy.

- Thế, thế là anh xuống!...

Rồi cả hai đứa lại tiếp tục việc nhổ những chiếc gai còn lại ra khỏi chân voi, con vật tỏ ra rất giàu tính chịu đựng trong cuộc “phẫu thuật” này.

Lúc đó, những giọt mưa đầ u tiên bắt đầu rơi, Xtas bèn quyết định phải đưa ngay Nen trở về “Cra-cốp”, nhưng đến lúc này mới nảy ra một trở ngại không ngờ. Con voi không muốn chia tay với Nen bằng bất kì giá nào, và cứ hễ cô bé bước ra xa là nó lại vươn vòi ra kéo lại. Tình thế trở nên nặng nề, trò chơi vui vẻ có thể kết thúc không lành vì sự ương bướng của con vật. Cậu bé không biết nên làm gì vì mưa mỗi lúc một dày hơn và trời có vẻ sắp đổ mưa rào. Cả hai cũng lùi được một tí về phía lối thoát ra, nhưng vẫn chưa được bao nhiêu, còn con voi cũng đi theo sau chúng.

Cuối cùng, Xtas đứng chắn giữa Nen và con voi, nhìn thẳng vào cặp mắt của nó, đồng thời hạ giọng thì thầm bảo Nen:

- Đừng chạy, nhưng cứ lùi dần dần đến chỗ khe hẹp đi.

- Thế còn anh, anh Xtas? - Cô bé hỏi lại.

- Lùi đi, - cậu bé nhấn mạnh đáp lại, - nếu không anh buộc phải bắn chết con voi.

Dưới tác dụng của lời đe dọa này, cô bé đành tuân lệnh, hơn nữa cô bé đã vô cùng tin vào con voi và chắc chắn rằng trong bất kì trường hợp nào nó cũng sẽ không làm điều gì hại tới Xtas cả.

Còn cậu bé đứng cách con vật khổng lồ bốn thước, không rời mắt khỏi nó.

Mấy phút trôi qua. Im lặng đầy đe dọa. Hai tai của con voi ve vẩy vài lần, cặp mắt nhỏ bé sáng lên những ánh lạ và cái vòi bỗng vung lên không trung.

Xtas tái người đi.

“Chết này!” - Em nghĩ thầm.

Nhưng đột nhiên con voi quay trở lại về phía bờ khe núi, nơi nó vẫn thường trông thấy Nen và bắt đầu rống lên thê thảm hơn lúc trước rất nhiều.

Còn Xtas bình tĩnh bước về phía khe hẹp và tìm thấy Nen phía bên kia khối đá, cô bé không muốn đi về nhà khi chưa thấy cậu ra.

Cậu bé muốn nói với Nen - một ý muốn gần như không kìm hãm nổi: “Đấy, em xem, em đã gây nên chuyện gì. Vì em mà một chút nữa anh bỏ mạng”. Nhưng không còn thời giờ để “lên lớp” nữa, bởi cơn mưa đã chuyển thành mưa rào và phải quay về nhà càng nhanh càng tốt. Nen ướt như chuột lột, mặc dù Xtas đã quấn cô bé trong bộ quần áo của mình.

Vào trong cây bao báp, Xtas bảo Mê-a thay quần áo cho Nen, còn em sang phòng con trai cởi dây cho con chó Xaba (trước đó con chó bị buộc dây để đề phòng nó sẽ theo vết Xtas đi săn thú), rồi lục lọi trong đám quần áo và đồ đạc, cố tìm xem với hi vọng rằng có thể sẽ còn lại một chút kí ninh nào để quên ở đâu đó chăng.

Nhưng em không tìm thấy gì cả. Chỉ ở đáy cái lọ mà nhà truyền giáo đưa cho ở Kháctum là còn một ít bột trắng đọng trong kẽ lọ, nhưng ít đến nỗi có lẽ chỉ đủ để làm trắng đầu ngón tay mà thôi. Dù sao, em cũng quyết định sẽ đổ nước sôi vào tráng lọ và đưa cho Nen uống thứ nước vét này.

Sau đó, khi cơn mưa tạnh, mặt trời lại chiếu sáng, em bước ra khỏi cây gỗ để xem những con cá Cali mang về. Cậu bé da đen câu được hơn chục con bằng lưỡi câu làm bằng dây thép nhỏ. Phần lớn là cá bé nhưng cũng có ba con dài chừng một bộ, vẩy bạc, nhẹ một cách lạ lùng. Mêa, vốn sinh trưởng ở vùng sông Nin Xanh và hiểu nhiều về các thứ cá, bảo rằng cá này ăn rất ngon, và rằng cứ chiều chiều chúng lại nhảy lên khỏi mặt nước. Khi mổ cá mới thấy rằng sở dĩ chúng nó nhẹ như thế là vì trong bụng chúng có những chiếc bong bóng to tướng. Xtas cầm lấy một chiếc - to bằng một quả táo lớn mang về cho Nen xem:

- Trông này, - em bảo, - cái này ở trong bụng cá.Có độ mươi cái bong bóng thế này chúng mình có thể làm kính che cửa sổ đấy.

Và em trỏ lên cái lỗ thông phía trên cây. Song nghĩ ngợi một lát em nói thêm:

- Và còn hơn nữa kia.

- Gì nữa kia anh? - Nen thích thú hỏi.

- Làm cả diều nữa.

- Những cái diều như hồi trước anh thả ở Port Xaiđơ ấy à? ôi, hay quá, làm ngay đi anh!

- Anh sẽ làm. Khung anh sẽ làm bằng những thanh tre mỏng, còn bong bóng này anh sẽ dùng thay cho giấy. Thứ này còn tốt hơn giấy kia, vì nhẹ hơn và không bị ngấm nước mưa. Diều này thì có thể lên cao lắm, và gió mạnh có thể đưa nó đi chưa biết đến đâu...

Nói tới đây, nó đập tay vào trán.

- Anh nghĩ ra một ý hay rồi đây.

- Ý gì, anh?

- Em sẽ thấy. Khi nào anh nghĩ thật kĩ anh sẽ bảo em. Còn bây giờ cái con voi này nó gào đến nỗi không thể nào nói chuyện nổi nữa...

Quả thực, vì nhớ Nen, mà cũng có thể là nhớ cả hai đứa, con voi đang rống lên đến nỗi cả khe núi cùng những cây cối xung quanh đều rung động.

- Phải ra cho nó trông thấy thôi, - Nen bảo, - nó sẽ yên ngay.

Bọn trẻ đi ra khe. Nhưng đang tiếp tục dòng suy nghĩ của mình, Xtas bắt đầu tự nói lẩm nhẩ m:

- “Nen-ly Rô-li-xơn và Xta-ni-xoáp Ta-rơ-cốp-ki ở Port Xai-đơ, chạy trốn từ Pha-sô-đa khỏi tay bọn phiến loạn, hiện đang ở tại...” Và đột nhiên em dừng lại hỏi:

- Làm sao để nói là chúng mình đang ở đâu?...

- Gì cơ, anh Xtas?

- À không, không có gì. Anh biết rồi: “Đang ở cách sông Nin Trắng một tháng đường về phía Đông - và yêu cầu nhanh chóng được ứng cứu”... Khi nào gió thổi về phía Bắc hoặc phía Đông, anh sẽ thả những chiếc diều như thế này, hai mươi chiếc, năm mươi chiếc, một trăm chiếc, còn em, Nen, em sẽ giúp anh dán diều.

- Diều ư anh?

- Phải, anh chỉ nói với em rằng những cái diều này có thể sẽ giúp chúng mình nhiều hơn cả chục con voi đấy.

Lúc này, bọn trẻ đã ra tới bờ khe. Con vật khổng lồ bắt đầu nhấp nhổm đổi chân, gật gật đầu, vẫy vẫy tai, kêu khe khẽ rồi lại rống váng lên não nuột khi Nen định bỏ đi. Rốt cuộc Nen phải giải thích cho “voi thân yêu” là không thể ngồi mãi bên cạnh nó được, vì còn phải ăn, ngủ, làm việc và bày biện ở “Cra-cốp”. Nhưng con voi chỉ chịu yên sau khi cô bé đã đẩy xuống cho nó những thứ thức ăn mà Cali đã chuẩn bị; ấy thế nhưng đến đêm nó lại bắt đầu rống lên.

Từ chiều hôm đó, bọn trẻ bắt đầu gọi nó là “King”(2) vì Nen cam đoan rằng trước khi bị hãm vào khe núi chắc chắn nó phải là vua của loài voi trên toàn Phi châu.

--- -----

1 Cra-cốp là thủ đô cũ của Ba Lan.

2 King - tiếng Anh có nghĩa là “vua”.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom